Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 5
Hàn Lệ Nhân
Xiêng Khoáng & Cánh Đồng Chum Trên chiếc Yun-12 do Trung Quốc chế tạo có 14 người: Anh phi công người Tàu (hay Lào), cô tiếp viên người Kh'mú, 9 khách da trắng, 2 người Nhật và tôi. Máy bay cất cánh lúc 9 giờ sáng. Lộ trình 35 phút.
Được sự giới thiệu của PK, cô bạn mới người Phou Noi, nhân viên tại phi trường LuangPrabang, nên suốt thời gian ngồi trong máy bay, xong nhiệm vụ là cô tiếp viên xinh đẹp tên KMN đến ngồi cạnh nói chuyện. KMN mới 1 tuổi năm 1975 nên hầu như không có khái niệm gì đặc biệt về cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2, ngoại trừ không kém bài bản khi nhắc tới mấy bác người Lào và nhất là cái bác người Việt mà tôi cũng " quen " từ thuở nảo, thuở nao.
KMN thấy tôi thỉnh thoảng cứ nhìn xuống qua cửa sổ, cô bảo "từ đây nhìn xuống núi rừng chẳng có gì lạ so với Savannakhet của anh đâu, duy tí nữa khi vào địa phận Xiêng Khoáng, em sẽ báo trước để anh coi cảnh lạ".
Cảnh lạ mà KMN muốn chỉ cho tôi là những hồ nước nhân tạo bằng bom, to nhỏ không đều rãi rác cùng khắp các ô ruộng ! Một phần nhỏ thành quả lao động của non 10 năm không quân Mỹ liên tục oanh tạc Xiêng Khoáng, những mong tiêu diệt Pathet Lào và hậu cần của Bắc Việt tiếp tế vào Nam Việt qua đường mòn HCM. Với con số 580.344 phi vụ (1), đổ đồng 8 phút 1 phi vụ, 24giờ / 24, từ 1964-1973, Hoa Kỳ đã tặng cho mỗi cư dân Xiêng Khoáng và vùng phụ cận 350kg bom, nghĩa là xứ Lào là xứ nghèo nhất thế giới trên rất nhiều phương diện vật chất nhưng lại là xứ giàu nhất trần gian ở khoản được ăn bom nổ, chưa tính 1 triệu tấn (2) chưa chịu cất tiếng đòi tự do theo tiêu chuẩn A.W.O.L. Từ 1976, các cơ quan tháo gỡ mìn như U.X.O. (Unexploded Ordnance) và M.A.G. (Mines Advisory Group) ước tính mỗi năm có khoảng 50 người lào thiệt mạng hay trở thành thương tật vì loại bombies (bom chưa nổ) nầy.
Máy bay đáp xuống phi đạo Phonesavanh lúc 9 giờ 40. KMN bảo "rất tiếc em phải bay tiếp về Vientiane ngay và liên tục 3 ngày tới không được nghỉ nên không thể đưa anh đi tham quan vùng nầy". Chúng tôi chấp tay xá nhau, từ giả. Buổi sáng ở đây trời se lạnh, tương tự khí hậu ở Paksong miệt Champassak, nam Lào.
Ở Paris tôi có mấy người bạn gốc Xiêng Khoáng, họ đã liên lạc và ghi cho tôi địa chỉ mấy thổ công ở ngay Phonesavanh, địa phận Cánh Đồng Chum (Thôồng Háy Hín) nhưng tôi ngại phiền, vả lại chỉ tính lưu lại đây hai đêm, cho nên xong thủ tục nhập cảnh, tôi đổi ý, quyết định tự xoay sở với các cô cậu tiếp thị của các khách sạn hay nhà khách đang niềm nở mời chào. Rốt cuộc tôi lại chọn đúng ngay khách sạn mà KhamĐy đã giới thiệu, toạ lạc cách trung tâm thành phố khoảng 1 cs, 20 phút tản bộ.
XIÊNG KHOÁNG Xiêng Khoáng nằm ở hướng đông bắc xứ lào, cách Vientiane 435 cs, địa thế núi non trùng điệp, cao độ là 1.500 đến 2.000 thước do đó khí hậu mát mẻ quanh năm.
Diện tích: 15.880 cs vuông ;
Dân số (2004): 262.200 người (4.5% tổng số quốc dân),
chia ra trong 6 Mương. Thủ phủ hiện nay là Mương Phonesavanh (57.000 dân số), thay thế Mương Khoune (Xiêng Khoáng) hoàn toàn bị không quân Hoa Kỳ san thành bình địa bằng đủ loại bom, 1964-1973. Cũng giống như mọi miền khác trong xứ, Xiêng Khoáng là nơi sống chung của nhiều phầu (bộ tộc), 2 bộ tộc Phuôn và Hmông-Dao chiếm đa số (70%), người việt còn lại 0,3% sau 1975.
Địa phận Xiêng Khoáng có chung biên giới với Việt Nam và đã từng là nội thuộc Việt Nam (1434) cũng như bị sáp nhập vào Việt Nam dưới cái tên Trấn Ninh (1479) ; sau khi vua Souriya Vongsa băng hà (1694), Lào bị chia ra ba vương triều, Xiêng Khoáng lại nội thuộc Việt Nam lần nữa. Năm 1893, hiệp ước Pháp-Xiêm được ký kết, Xiêng Khoáng mới trở lại của Lào thuộc Pháp.
BỘ TỘC PHUÔN Theo thống kê năm 2004 của ủy ban bộ tộc CHDCND Lào, bộ tộc Phuôn có 112.800 người, chủ yếu sinh sống ở miệt bắc Lào. Họ tự nhận là hậu duệ của người Thái, qua Lào từ thế kỷ XIII, nói tiếng Phuôn, thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-Kađai. Người Phuôn thích sống trong các làng bản nhỏ, gần lưu vực ; đơn vị xã hội căn bản là gia đình, theo chế độ tộc trưởng nhưng liên hệ vợ chồng rất hoà thuận. Mưu sinh chính yếu của họ là nông nghiệp, không có phân biệt giới tính trong lao động, có tiếng là cần kiệm, ngay thẳng. 96% thứ Phụt (tin Phật). Từ 1827 đến 1890 rất nhiều người Phuôn bị người Xiêm (thái lan) bắt đưa về bên kia sông như tù binh chiến tranh.
Ông chủ khách sạn tên ST, khoảng tuổi tôi, từng sống bên Tây Đức 7 năm, thông thạo tiếng Anh, Đức và cả Pháp (trước học trung học Pháp ở Vientiane). Trong số 9 hành khách da trắng trên máy bay, có bốn người về khách sạn của ST cùng với tôi và ngẫu nhiên làm sao lại nhằm 2 ông Wallons (Bỉ nói tiếng Pháp) và 2 ông Toulousains (tây ở tỉnh Toulouse, nam Pháp). Thế là việc thống nhất ngôn ngữ không mất một giọt nước miếng nào, tự nhiên thành. Ông chủ khoái quá, vì hiếm khi có dịp ôn tiếng Pháp như thế nầy, đích thân làm thổ công cho chúng tôi bằng chiếc 4x4 Toyota, giá cả "très amical" (thân hữu) 6 USD / người / ngày, khách sạn và ẩm thực tính riêng. Hai ông Bỉ già còn kỳ kèo (vì chỉ còn nửa ngày), hai " đồng hương" và tôi bực quá, liên hiệp lên tiếng "hai ông se-rê quá (xiết giá) thì nên đi với nhóm khác, chúng tôi sẳn sàng trả 30 USD cho riêng ba chúng tôi đa". Thế mới yên.
SUỐI NƯỚC NÓNG Biết rõ mục đích chính chúng tôi tới đây chỉ vì Cánh Đồng Chum nên nửa ngày hôm đó ST đưa chúng tôi đi thẳng tới coi hai nguồn nước nóng (60°C): Bò Nhày (nguồn lớn), Bò Nỏi (nguồn nhỏ), thuộc Mương Kham, cách Phonesavanh khoảng 50 cs về hướng bắc. Cũng thường, chỉ có việc luộc trứng là thực tiển. Ở Bò Nhày có mấy chỗ tắm, có lời quảng cáo "ôn tuyền" trị được bệnh da..., tôi thích cảnh quê hơn nên không để ý giá cả ra sao.
THẶM PIU (động Piu) Gần Mương Kham có Thặm Piu thuộc Bản Na Mơn, cách Phonesavanh 33 cs. Thặm Piu được thế giới biết đến từ năm 1969, cũng là nhờ không quân Hoa Kỳ đã phóng rocket vào giết cùng một lúc 400 đàn bà, trẻ em, và người già đang trốn bom trong đó. Lượng xương và sọ của 400 nạn nhân vẫn còn nguyên ...
Quay về Phonesavanh lúc 17 giờ, ST thả chúng tôi giữa chợ. Dạo phố xong chúng tôi đi bộ về ăn cơm tối ngay trong khách san. Là một thủ phủ mới được kiến thiết lại nên Phonesavanh hãy còn ngỗn ngang. Ở đây khó mà phân biệt được ai là người Việt, ngoại trừ mấy chú mấy anh đang làm đường (nhờ cái nón cối). Dạo chợ một vòng tôi để ý có rất nhiều quầy bán thịt thú rừng từ hươu, nai, sóc, heo rừng, trĩ, đa đa (gà gô) ...
Trên kia tôi đã nói Cánh Đồng Chum là hấp lực dẫn tôi đến Xiêng Khoáng, nghĩa là trước khi đến vùng đất nầy, tôi đinh ninh chum là đặc sản duy nhất lừng danh thế giới của Xiêng Khoáng. Tản bộ một vòng trong lòng Phonesavanh, tôi phát hiện ra ở đây còn một đặc sản thứ nhì nữa: BOM !
Thật vậy. Không ít thì nhiều, nhà nào cũng có sự hiện diện thứ của nợ nầy. Ở khách sạn ST tôi đã thấy cả chục quả bombies, ổi có, dứa có, lựu có ... dùng làm gạt tàn thuốc. Đương nhiên là thuê vàng tôi cũng không dám gạt tàn thuốc lá vào, biết đâu ... Ngoài sân có dựng nguyên một quả bom cao hơn thước, bự cũng tròn một vòng ôm người lớn, không xa là cái giàn bắn rocket. Bây giờ, quanh tôi, nhà nào có rào y như rằng các trụ chính là vỏ bom, nguyên có, sẻ đôi có, cao cũng phải 2 thước trở lên. Nhà nầy treo bombies tòng teng trên cành cây trông như cây thông mùa giáng sinh. Nhà kia hai cột chính chống cái ban công phía hướng ra đường là hai quả bom tổ chảng, được kê trên hai trụ đá. Tôi chưa sống với chiến tranh 1 giây 1 phút nào nên không biết đó là thứ bom gì, hỏi một ông qua đường, thay vì trả lời ổng lại vuốt vuốt, đập đập hai bàn tay vào nhau như xóc bài cào: B-52 ! (3)
CÁNH ĐỒNG CHUM Cánh Đồng Chum là tên dịch từ tiếng lào Thôồng Háy Hín, ( tiếng pháp: Plaine des Jarres ; tiếng Anh: Plains of Jars). Điều lạ lùng là Chum chỉ rãi rác khắp địa phận Xiêng Khoáng (nơi khác không có) nhưng cho tới nay, du khách chỉ được phép đến viếng 3 địa điểm quanh Phonesavanh: Địa điểm 1 hay Bản Ang, địa điểm 2 hay Lắt Sén và địa điểm 3 hay Bản Sua, cách Phonesavanh theo thứ tự 12, 23 và 28 cs, tổng cộng diện tích 1.000 cs vuông. Mấy nơi khác chưa bảo đảm được sự an toàn vì chúng ta đừng quên Cánh Đồng Chum vẫn còn là bãi mìn (chưa nổ) khổng lồ.
Chúng tôi ra xe lúc 8 giờ sáng. Trời đất phố xá như sương khói, căm căm lạnh. Xiêng Khoáng là xứ sương mù. Bốn ông khách da trắng trông cứ như các phóng viên chuyên nghiệp của ba bốn đài truyền hình hay năm sáu tờ báo lớn, mỗi ông tay sách, nách mang đủ thứ máy ghi hình loại chiến, chẳng bù tôi chỉ có cái camera DV Panasonic bằng bàn tay, máy chụp hình thì đã tặng bạn ở LuangPrabang rồi. Trên đường đi, ST trổ tài hướng đạo:
"Truyền thuyết lào cho rằng, xưa, thời Xiêng Khoáng còn là lãnh địa tự trị của bộ tộc Phuôn, Chao Angka là lãnh chúa Mường Pa Kăn quá ác độc đến nổi dân Phuôn chịu không thấu phải đi cầu cứu với Khoun Chương là một lãnh chúa hiền về giải phóng họ. Khoun Chương đưa quân về đánh đuổi được Chao Angka và ra lệnh cho quân sĩ đục đá làm chum ủ rượu cần ăn mừng ngày chiến thắng đến 7 tháng, cách nay 1.500 năm".
Sau nầy tôi lục được thêm một truyền thuyết khác ghi rằng " chum đá là các chum rượu của người Kh'mú để uống trong lễ cầu hồn các chiến sĩ trận vong trong chiến tranh...".
ĐỊA ĐIỂM SỐ 1 hay BẢN ANG Địa điểm số 1 nằm trên một ngọn đồi lộng gió, cao độ là 1.000 m, ít cây cối, quanh là một khu rừng thưa (vì bị bom tàn phá). Xa xa là dãy Trường Sơn chập chùng trong nắng sớm. Có một khoảng đất trống làm chỗ đậu xe, vô tí là cái quán nước đồng thời là trạm bán vé tham quan: 5000Kips/người. Chúng tôi là khách đầu tiên trong ngày. Lối lên đồng chum là những bậc thang thoai thoải được nện đá núi cẩn thận, mưa xuống cầu thang không bị trơn hay lầy lội. Đứng từ quán nhìn lên, qua hàng phi lao, tôi thấy thấp thoáng dăm cái chum khá lớn dáng nghiêng nghiêng: Mộng đã thành !
Bước qua bậc thang cuối cùng phía trên là cả một cánh đồng những chum là chum, rãi rác từng nhóm mươi cái có, 5, 7 cái có, riêng lẻ có, to nhỏ cao thấp không đều, hình dạng khác nhau: Miệng vuông, miệng tròn, miệng lồi ... đứng phơi dưới nắng hay nằm ẩn hiện dưới những tàng cây xanh ; cái đứng hẳn trên mặt đất, cái lún một phần thân dưới đất.
"Hiện nay tổng cộng số chum tìm được là 700 chiếc. Địa điểm Bản Ang nầy có 250 chum, nổi tiếng nhất. Chum được làm từ đá vôi, đá ong, đá cẩm thạch. Đường kính trung bình là 0.8m, cao 2.5m, nặng 6 tấn. Chum cao nhất là 3.25m. Số chum nầy đã được các nhà khảo cổ xác định có niên đại cách nay 3.000 năm, tức số năm gấp đôi truyền thuyết của Lào.
Theo nhà khảo cổ người Pháp, ông Henri Parmentier, người đã từng đến cánh đồng chum năm 1923, thì chính ông Vinet, một quan thuế Pháp, là người phát hiện và cho thế giới tây phương biết tới những chiếc chum khổng lồ nầy từ năm 1909. Nhưng cả hai ông đều không có phát kiến gì về mục đích của các chum nầy.
Năm 1930, bà Madeleine Colani thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Ecole Française d'Extrême-Orient) đến Cánh Đông Chum nghiên cứu tận tường. Trong 2 cuốn Mégalithes du Haut-Laos (Cự Thạch Cổ của Bắc Lào,1935) bà Madeleine Colani (gọi Xiêng Khoáng là Trấn Ninh) khẳng định "những chiếc chum khổng lồ nầy không phải là những chum ủ rượu vì chẳng có dấu vết nào chứng mình điều đó cả". "Chẳng ai lại mất công đục đá tảng làm những cái chum khổng lồ và chỉ để ủ rượu ăn mừng chiến thắng. Làm được ngần nầy chum chắc chắn phải mất vài chục năm. Ai lại ăn mừng chiến thắng sau vài chục năm? ". Bà đưa ra giả thuyết mỗi cái chum là một cái quách chôn người chết. Giả thuyết của bà càng được cũng cố khi bà phát hiện ra những dấu vết xương, răng người ; những vòng tay bằng đồng thau, những hạt chuổi bằng thủy tinh và đá carnelian ... trong những chiếc chum khổng lồ nầy, những nồi đất đựng xương người chôn chung quanh chum, cọng thêm một cái động trong đồi đá vôi gần Bản Ang, lòng động xuyên thẳng lên đỉnh đồi như hai ống khói tự nhiên, vết nám đen trên vách... bà cho đó là một cái lò hoả thiêu người chết. Sau đó bà Colani còn nghiên cứu về bộ tộc Phuôn, cư dân của vùng đất nầy và phát hiện thêm phong tục chôn người chết trong chum (mộ chum) theo truyền thống của người Phuôn trùng hợp với thời kỳ cánh đồng chum hình thành. Có điều, khi nghiên cứu, phân tích carbone những xương trong chum, trong nồi các nhà khoa học ngạc nhiên nhận ra rằng tuổi xương còn cao hơn tuổi chum !"
Tuy nhiên, đến nay giả thuyết Cánh Đồng Chum là một nghĩa trang khổng lồ vẫn được các nhà khảo cổ thừa nhận. Câu hỏi còn bỏ lửng về những cái chum khổng lồ nầy là: Ai làm ra ? Làm thế nào người xưa có thể vận chuyển các chum lên đây khi mà loại đá dùng làm những chum nầy chỉ có ngoài địa phận Xiêng Khoáng đến 40 cs ?
Địa điểm Bản Ang đã được rà soát kỹ, bảo đảm an toàn nên tôi tách ra, lửng thửng đi một mình, xâm xoi coi, ngắm, vuốt ve từng cái một. Áp tai vào chum, lắng nghe, may ra được Chum gửi gắm điều gì.
Chúng tôi có vào một cái hang rộng còn sót lại nhiều dấu vết chứng tỏ từng có người ở, ST cho biết đây là nơi trú ẩn của bộ đội Pathet Lào và bộ đội CSVN trong thời kỳ chiến tranh.
ĐỊA ĐIỂM SỐ 2 và SỐ 3 Địa điểm số 2 hay Lắt Sén có khoảng 100 chum, và địa điểm số 3 hay Bản Sua cũng có ngần ấy chum. 250 chum còn lại nằm rãi rác ở ba địa điểm còn đang được rà dọn mìn. Có lẽ hai địa điểm 2 và 3 do đường xá chưa được nâng cấp, bụi đỏ, ít người đến viếng, nên cảnh quan hơi âm u, cây cối mọc um tùm. Nhưng chính vì thế ta mới thấy rõ sức mạnh của con thú-người văn minh: Những cái chum bị bom đánh trúng hoặc xứt mẻ, bể đôi hoặc bị thủng. Ở giữa những chum bị thủng đáy, theo thời gian, là những rễ, những gốc cây to lớn đâm xuyên qua. Chóng chầy các chum bị thương nầy cũng sẽ bị cây rừng đánh gục. Đá có biết đau không ?
Sáng hôm qua, từ trên máy bay, tôi đã thấy những hố bom cùng khắp cánh đồng chum và các ô ruộng trong vùng. Nay, đứng kề sát bên mỗi cái hố, có cái rộng cả chục thước, cái nào khô tôi bước xuống, thấy thân mình nhỏ nhoi làm sao. Đất đá còn tan như vậy, da thịt nầy, nếu bị, còn gì thịt da.
Điểm tôi chú ý khác là trong cả ba địa điểm, chum nhiều mà nắp chum quá ít. Có thể nắp chum (không quá nặng) đã được người ta đưa về nhà hay đưa ra ngoại quốc bảo lưu ?
HOA ANH TÚC Trên đường quay trở lại địa điểm Bản Ang để ngắm cảnh hoàng hôn trên Cánh Đồng Chum, ST đưa chúng tôi ghé qua một cái làng người Dao, với một điều kiện: Mọi phương tiện chụp hay ghi hình đều phải bỏ lại trong xe, bảo đảm không mất. Cảnh làng bình thường. Nhà sàn lợp tranh, xập xệ. Nhưng nhiều nhà cột chính lại làm bằng vỏ BOM made in USA ! Ai dám bảo dân lạc hậu không biết tận dụng phế liệu của văn minh tiên tiến ?
Xe rẻ vào đậu trong sân một căn nhà sàn, cột rào cũng được chống giữ bằng vỏ bom. ST theo cầu thang lên nhà, một lúc sau xuống cùng một phụ nữ phục trang theo lối người Dao, áo và váy màu đen thêu hoa văn trắng, đầu vấn khăn màu đỏ, hai vòng bạc tòng teng hai bên tai. ST ra dấu cho chúng tôi đi theo. Đi độ 20 phút, qua một cái cầu khỉ, dưới là con suối nhỏ. Đi sâu vô rừng độ 10 phút nữa, đến một căn nhà sàn còn ọp ẹp hơn những cái trong làng, phía sau nhà là những cây cao, kín mít. Thiếu phụ Dao và ST vô trước. Trong lúc đứng chờ, tôi thoang thoảng ngửi được mùi hăng hăng trong không khí. ST ra một mình, ngoắc tay bảo chúng tôi vào.
Trước mắt tôi là một rừng hoa trắng, hồng nhạt và tím thẩm. Cây Anh Túc cao độ 1 thước. Theo ST, nhựa Anh Túc tím có phẩm chất cao nhất. Có 7, 8 người đang lui cui làm gì đó bên những cây Anh Túc đẹp tuyệt vời. Đẹp đẻ thế ai ngờ lại là lũ quỉ. ST giảng:
" Bây giờ là giữa tháng 2, thời điểm tốt nhất để khai thác loài hoa Anh Túc. Có mấy người đang dùng dao thật bén khứa nhẹ vào mấy củ xanh xanh kia, mấy người khác đang hớt nhựa chảy ra từ những vết khứa hôm qua. Muốn có phẩm chất cao mọi công đoạn phải được tinh tế thực hành đúng lúc, ví dụ việc lấy nhựa, lấy sớm quá thì tinh dịch sẽ chảy xuống đất, trễ quá tinh dịch sẽ bị giảm nồng độ. Các công đoạn chế biến tôi không biết, mà cũng chẳng cần biết làm gì ".
Nói xong, ST bảo chúng tôi cứ coi tiếp, đi vô nhà. Tôi chợt nhớ tới mấy ông tiên nâu có tiếng trong làng văn nghệ việt nam: Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Vũ Hoàng Chương ... và tròn một niên học ở Vientiane, tôi trọ học bên cạnh phòng của Phi Yên Thu Lam Nguyễn Ba. Chuyện bác Ba đi mây về gió cũng thường. Duy có hai điều đáng kể lại, thứ nhất là bác Ba phương phi, bảnh bao và tắm hàng ngày, tắm ào ào, tắm thiệt thụ chứ không phải hoạ hoằn tắm khô như mấy ông tiên khác ; thứ nhì là hai ngày cuối tuần của bác Ba: Bác ba làm việc cho tây, thứ hai đến thứ sáu bác hút ở nhà. Thứ bảy và chủ nhật bác chơi ở tiệm, cho có bạn. Lúc đầu tôi không để ý, sau hỏi ra bác Ba mới cười, cho biết: mấy con thằn lằn rớt xuống đồm độp là tại đến cữ mà thiếu khói thuốc phiện của bác đó !
ST trở ra gọi chúng tôi vào. Chủ nhà đồng ý cho chúng tôi làm khán giả màn phi thiên của ổng (tôi nghĩ ST phải chi tiền vé chút đỉnh). Cái mùi hăng hăng lúc nẩy là từ phòng của ổng bay ra. Căn phòng của tiên ông mờ khói, hư ảo với ngọn đèn dầu le lói. Tiên ông đang nằm trên giường tre lót chiếu. Tiên ông gầy kinh khiếp, không còn khả năng để gầy hơn nữa. Bên cạnh tiên ông có một người đàn bà, tóc tai rối bù, chắc là tiên bà. Không nói không rằng người đàn bà đưa cho chúng tôi coi một cái hộp trong có tiên dược và bộ đồ nghề. Cái ống điếu bằng bạc, chạm trổ đẹp tinh xảo. Tiên ông khoan thai điệu nghệ dùng mủi dao móc chút nhựa đen thui, bỏ lên cái lỗ nhỏ trên ống điếu. Cẩn trọng đưa ống điếu lên ngọn đèn liu riu, nhuần nhuyễn vừa hơ vừa xoay đều chỗ có tiên dược, gặp lửa tiên dược căng lên, nõn nà, mời gọi ... Chúng tôi, khoanh tay, im lặng chiêm ngưỡng... Giữa hai hơi khói, tiên ông chậm rãi tâm sự: Say ả phù dung từ năm 24 tuổi, năm nay tiên ông ĐÃ 47 ( tôi đã lén cho ổng 65). Mỗi ngày tiên ông phải phi 12 điếu, nếu không, không sống nổi. Đó là phần của tiên ông. Còn người đàn bà ? Hồi mới lấy nhau, vợ tiên ông đâu đã được là tiên, chỉ lo têm cữ hầu chồng thôi, ngửi khói riết đắc đạo khi nào không hay. (4)
Qua thời bà Madeleine Colani (1866-1943) việc nghiên cứu về cánh đồng chum bị bỏ quên, rồi chiến tranh, rồi giải phóng, rồi đóng cửa ... mãi đến 1989, cánh đồng chum mới thấy lại bóng người. Và cánh đồng chum đã trở thành khu di tích lịch sử văn hoá của xứ Lào, đồng thời mỗi năm là địa danh kỳ bí thu hút nhiều ngàn lượt khách du lịch trong và ngoài nước. Hiện nay Unesco đã và đang nghiên cứu, khảo sát, đánh số các chum. Việc nâng cấp hạ tầng cơ sở cho Phonesavanh cũng đã và đang được ráo riết thực hành. Trong một thời gian gần cánh đồng chum sẽ được nằm trong danh sách di sản văn hoá của thế giới như cố đô LuangPraBang (1995) và quần thể Wat Phou ở Champassak, nam Lào (2001).
Tôi về lại Pháp được sáu tháng thì xảy ra vụ 11 tháng 9. Trong vô thức tôi thấy những chum đá bị thương ở Thôồng Háy Hín rũ nhau tụ lại trên những đồng ruộng lỗ chỗ, trầm ngâm sắp thành ba con số tiền định... Sự tan hoang ở Xiêng Khoáng cho tôi thấy cái lý và sức mạnh của kẻ mạnh. 911 cho tôi thấy cái lý và sức mạnh của kẻ yếu. Vài năm nữa sẽ mọc lên hai WTC hoành tráng, ngạo nghễ gấp 5, gấp 10 hai cái cũ. Phần Xiêng Khoáng, lòng dặn lòng, kiếp nầy đừng mơ. Hàng năm cả thế giới thắp nến, đốt nhang hoài nguyện 911. Hàng ngày có ai nhớ tới Xiêng Khoáng ?
Nhà nghèo lòi ruột không ai xót
Trọc phú sứt tay lắm kẻ rên.
(Còn tiếp)
kỳ tới: Đoá Hồng Paksane
Chú thích:
(1) Nguồn con số 580.344 phi vụ:
(a)
http://www.ilmanifesto.it/MondeDiplo/LeMonde-archivio/Luglio-1999/9907lm18.02.html (b)
http://www.grups.pangea.org/pipermail/infomoc/Week-of-Mon-20011112/000390.html (c)
http://revista.pangea.org/print.php?sid=1646 (2) Nguồn con số những trái bom chưa nổ:
(a)
http://www.siteafefe.com/print.php?sid=31 (b)
http://www.lexpreST.fr/info/monde/doSTier/laos/doSTier.asp?ida=398325 (3) Quả bom khổng lồ tôi nhìn thấy là quả CBU-52. Loại bom nầy cũng đã được USAF sử dụng 17 831 quả trong cuộc chiến vùng vịnh 1, năm 1991.
http://www.fas.org/man/dod-101/sys/dumb/mk82.htm (4) Ngày 03/06/2005: UNODC (United Nations Office on Drugs and Crime) cho biết CHDCND Lào đã hũy diệt toàn bộ việc trồng cây thuốc phiện trên xứ Lào (tin AVI):
(a)
http://lelaos.free.fr/modules.phpname=News&file=article&sid=2979 (b)
http://www.vnanet.vn/NewsP.asp?LANGUAGE_ID=3&CATEGORY_ID=39&NEWS_ID=153799 Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.07.2006 03:31:26 bởi Hàn Lệ Nhân >