Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân 1-31, 32
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 37 trên tổng số 37 bài trong đề mục
Hàn Lệ Nhân 17.07.2006 23:13:32 (permalink)
Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 5

Hàn Lệ Nhân



Xiêng Khoáng & Cánh Đồng Chum

Trên chiếc Yun-12 do Trung Quốc chế tạo có 14 người: Anh phi công người Tàu (hay Lào), cô tiếp viên người Kh'mú, 9 khách da trắng, 2 người Nhật và tôi. Máy bay cất cánh lúc 9 giờ sáng. Lộ trình 35 phút.

Được sự giới thiệu của PK, cô bạn mới người Phou Noi, nhân viên tại phi trường LuangPrabang, nên suốt thời gian ngồi trong máy bay, xong nhiệm vụ là cô tiếp viên xinh đẹp tên KMN đến ngồi cạnh nói chuyện. KMN mới 1 tuổi năm 1975 nên hầu như không có khái niệm gì đặc biệt về cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2, ngoại trừ không kém bài bản khi nhắc tới mấy bác người Lào và nhất là cái bác người Việt mà tôi cũng " quen " từ thuở nảo, thuở nao.

KMN thấy tôi thỉnh thoảng cứ nhìn xuống qua cửa sổ, cô bảo "từ đây nhìn xuống núi rừng chẳng có gì lạ so với Savannakhet của anh đâu, duy tí nữa khi vào địa phận Xiêng Khoáng, em sẽ báo trước để anh coi cảnh lạ".

Cảnh lạ mà KMN muốn chỉ cho tôi là những hồ nước nhân tạo bằng bom, to nhỏ không đều rãi rác cùng khắp các ô ruộng ! Một phần nhỏ thành quả lao động của non 10 năm không quân Mỹ liên tục oanh tạc Xiêng Khoáng, những mong tiêu diệt Pathet Lào và hậu cần của Bắc Việt tiếp tế vào Nam Việt qua đường mòn HCM. Với con số 580.344 phi vụ (1), đổ đồng 8 phút 1 phi vụ, 24giờ / 24, từ 1964-1973, Hoa Kỳ đã tặng cho mỗi cư dân Xiêng Khoáng và vùng phụ cận 350kg bom, nghĩa là xứ Lào là xứ nghèo nhất thế giới trên rất nhiều phương diện vật chất nhưng lại là xứ giàu nhất trần gian ở khoản được ăn bom nổ, chưa tính 1 triệu tấn (2) chưa chịu cất tiếng đòi tự do theo tiêu chuẩn A.W.O.L. Từ 1976, các cơ quan tháo gỡ mìn như U.X.O. (Unexploded Ordnance) và M.A.G. (Mines Advisory Group) ước tính mỗi năm có khoảng 50 người lào thiệt mạng hay trở thành thương tật vì loại bombies (bom chưa nổ) nầy.

Máy bay đáp xuống phi đạo Phonesavanh lúc 9 giờ 40. KMN bảo "rất tiếc em phải bay tiếp về Vientiane ngay và liên tục 3 ngày tới không được nghỉ nên không thể đưa anh đi tham quan vùng nầy". Chúng tôi chấp tay xá nhau, từ giả. Buổi sáng ở đây trời se lạnh, tương tự khí hậu ở Paksong miệt Champassak, nam Lào.

Ở Paris tôi có mấy người bạn gốc Xiêng Khoáng, họ đã liên lạc và ghi cho tôi địa chỉ mấy thổ công ở ngay Phonesavanh, địa phận Cánh Đồng Chum (Thôồng Háy Hín) nhưng tôi ngại phiền, vả lại chỉ tính lưu lại đây hai đêm, cho nên xong thủ tục nhập cảnh, tôi đổi ý, quyết định tự xoay sở với các cô cậu tiếp thị của các khách sạn hay nhà khách đang niềm nở mời chào. Rốt cuộc tôi lại chọn đúng ngay khách sạn mà KhamĐy đã giới thiệu, toạ lạc cách trung tâm thành phố khoảng 1 cs, 20 phút tản bộ.

XIÊNG KHOÁNG

Xiêng Khoáng nằm ở hướng đông bắc xứ lào, cách Vientiane 435 cs, địa thế núi non trùng điệp, cao độ là 1.500 đến 2.000 thước do đó khí hậu mát mẻ quanh năm.

Diện tích: 15.880 cs vuông ;

Dân số (2004): 262.200 người (4.5% tổng số quốc dân),

chia ra trong 6 Mương. Thủ phủ hiện nay là Mương Phonesavanh (57.000 dân số), thay thế Mương Khoune (Xiêng Khoáng) hoàn toàn bị không quân Hoa Kỳ san thành bình địa bằng đủ loại bom, 1964-1973. Cũng giống như mọi miền khác trong xứ, Xiêng Khoáng là nơi sống chung của nhiều phầu (bộ tộc), 2 bộ tộc Phuôn và Hmông-Dao chiếm đa số (70%), người việt còn lại 0,3% sau 1975.

Địa phận Xiêng Khoáng có chung biên giới với Việt Nam và đã từng là nội thuộc Việt Nam (1434) cũng như bị sáp nhập vào Việt Nam dưới cái tên Trấn Ninh (1479) ; sau khi vua Souriya Vongsa băng hà (1694), Lào bị chia ra ba vương triều, Xiêng Khoáng lại nội thuộc Việt Nam lần nữa. Năm 1893, hiệp ước Pháp-Xiêm được ký kết, Xiêng Khoáng mới trở lại của Lào thuộc Pháp.

BỘ TỘC PHUÔN

Theo thống kê năm 2004 của ủy ban bộ tộc CHDCND Lào, bộ tộc Phuôn có 112.800 người, chủ yếu sinh sống ở miệt bắc Lào. Họ tự nhận là hậu duệ của người Thái, qua Lào từ thế kỷ XIII, nói tiếng Phuôn, thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-Kađai. Người Phuôn thích sống trong các làng bản nhỏ, gần lưu vực ; đơn vị xã hội căn bản là gia đình, theo chế độ tộc trưởng nhưng liên hệ vợ chồng rất hoà thuận. Mưu sinh chính yếu của họ là nông nghiệp, không có phân biệt giới tính trong lao động, có tiếng là cần kiệm, ngay thẳng. 96% thứ Phụt (tin Phật). Từ 1827 đến 1890 rất nhiều người Phuôn bị người Xiêm (thái lan) bắt đưa về bên kia sông như tù binh chiến tranh.

Ông chủ khách sạn tên ST, khoảng tuổi tôi, từng sống bên Tây Đức 7 năm, thông thạo tiếng Anh, Đức và cả Pháp (trước học trung học Pháp ở Vientiane). Trong số 9 hành khách da trắng trên máy bay, có bốn người về khách sạn của ST cùng với tôi và ngẫu nhiên làm sao lại nhằm 2 ông Wallons (Bỉ nói tiếng Pháp) và 2 ông Toulousains (tây ở tỉnh Toulouse, nam Pháp). Thế là việc thống nhất ngôn ngữ không mất một giọt nước miếng nào, tự nhiên thành. Ông chủ khoái quá, vì hiếm khi có dịp ôn tiếng Pháp như thế nầy, đích thân làm thổ công cho chúng tôi bằng chiếc 4x4 Toyota, giá cả "très amical" (thân hữu) 6 USD / người / ngày, khách sạn và ẩm thực tính riêng. Hai ông Bỉ già còn kỳ kèo (vì chỉ còn nửa ngày), hai " đồng hương" và tôi bực quá, liên hiệp lên tiếng "hai ông se-rê quá (xiết giá) thì nên đi với nhóm khác, chúng tôi sẳn sàng trả 30 USD cho riêng ba chúng tôi đa". Thế mới yên.

SUỐI NƯỚC NÓNG

Biết rõ mục đích chính chúng tôi tới đây chỉ vì Cánh Đồng Chum nên nửa ngày hôm đó ST đưa chúng tôi đi thẳng tới coi hai nguồn nước nóng (60°C): Bò Nhày (nguồn lớn), Bò Nỏi (nguồn nhỏ), thuộc Mương Kham, cách Phonesavanh khoảng 50 cs về hướng bắc. Cũng thường, chỉ có việc luộc trứng là thực tiển. Ở Bò Nhày có mấy chỗ tắm, có lời quảng cáo "ôn tuyền" trị được bệnh da..., tôi thích cảnh quê hơn nên không để ý giá cả ra sao.

THẶM PIU (động Piu)

Gần Mương Kham có Thặm Piu thuộc Bản Na Mơn, cách Phonesavanh 33 cs. Thặm Piu được thế giới biết đến từ năm 1969, cũng là nhờ không quân Hoa Kỳ đã phóng rocket vào giết cùng một lúc 400 đàn bà, trẻ em, và người già đang trốn bom trong đó. Lượng xương và sọ của 400 nạn nhân vẫn còn nguyên ...

Quay về Phonesavanh lúc 17 giờ, ST thả chúng tôi giữa chợ. Dạo phố xong chúng tôi đi bộ về ăn cơm tối ngay trong khách san. Là một thủ phủ mới được kiến thiết lại nên Phonesavanh hãy còn ngỗn ngang. Ở đây khó mà phân biệt được ai là người Việt, ngoại trừ mấy chú mấy anh đang làm đường (nhờ cái nón cối). Dạo chợ một vòng tôi để ý có rất nhiều quầy bán thịt thú rừng từ hươu, nai, sóc, heo rừng, trĩ, đa đa (gà gô) ...

Trên kia tôi đã nói Cánh Đồng Chum là hấp lực dẫn tôi đến Xiêng Khoáng, nghĩa là trước khi đến vùng đất nầy, tôi đinh ninh chum là đặc sản duy nhất lừng danh thế giới của Xiêng Khoáng. Tản bộ một vòng trong lòng Phonesavanh, tôi phát hiện ra ở đây còn một đặc sản thứ nhì nữa: BOM !

Thật vậy. Không ít thì nhiều, nhà nào cũng có sự hiện diện thứ của nợ nầy. Ở khách sạn ST tôi đã thấy cả chục quả bombies, ổi có, dứa có, lựu có ... dùng làm gạt tàn thuốc. Đương nhiên là thuê vàng tôi cũng không dám gạt tàn thuốc lá vào, biết đâu ... Ngoài sân có dựng nguyên một quả bom cao hơn thước, bự cũng tròn một vòng ôm người lớn, không xa là cái giàn bắn rocket. Bây giờ, quanh tôi, nhà nào có rào y như rằng các trụ chính là vỏ bom, nguyên có, sẻ đôi có, cao cũng phải 2 thước trở lên. Nhà nầy treo bombies tòng teng trên cành cây trông như cây thông mùa giáng sinh. Nhà kia hai cột chính chống cái ban công phía hướng ra đường là hai quả bom tổ chảng, được kê trên hai trụ đá. Tôi chưa sống với chiến tranh 1 giây 1 phút nào nên không biết đó là thứ bom gì, hỏi một ông qua đường, thay vì trả lời ổng lại vuốt vuốt, đập đập hai bàn tay vào nhau như xóc bài cào: B-52 ! (3)

CÁNH ĐỒNG CHUM

Cánh Đồng Chum là tên dịch từ tiếng lào Thôồng Háy Hín, ( tiếng pháp: Plaine des Jarres ; tiếng Anh: Plains of Jars). Điều lạ lùng là Chum chỉ rãi rác khắp địa phận Xiêng Khoáng (nơi khác không có) nhưng cho tới nay, du khách chỉ được phép đến viếng 3 địa điểm quanh Phonesavanh: Địa điểm 1 hay Bản Ang, địa điểm 2 hay Lắt Sén và địa điểm 3 hay Bản Sua, cách Phonesavanh theo thứ tự 12, 23 và 28 cs, tổng cộng diện tích 1.000 cs vuông. Mấy nơi khác chưa bảo đảm được sự an toàn vì chúng ta đừng quên Cánh Đồng Chum vẫn còn là bãi mìn (chưa nổ) khổng lồ.

Chúng tôi ra xe lúc 8 giờ sáng. Trời đất phố xá như sương khói, căm căm lạnh. Xiêng Khoáng là xứ sương mù. Bốn ông khách da trắng trông cứ như các phóng viên chuyên nghiệp của ba bốn đài truyền hình hay năm sáu tờ báo lớn, mỗi ông tay sách, nách mang đủ thứ máy ghi hình loại chiến, chẳng bù tôi chỉ có cái camera DV Panasonic bằng bàn tay, máy chụp hình thì đã tặng bạn ở LuangPrabang rồi. Trên đường đi, ST trổ tài hướng đạo:

"Truyền thuyết lào cho rằng, xưa, thời Xiêng Khoáng còn là lãnh địa tự trị của bộ tộc Phuôn, Chao Angka là lãnh chúa Mường Pa Kăn quá ác độc đến nổi dân Phuôn chịu không thấu phải đi cầu cứu với Khoun Chương là một lãnh chúa hiền về giải phóng họ. Khoun Chương đưa quân về đánh đuổi được Chao Angka và ra lệnh cho quân sĩ đục đá làm chum ủ rượu cần ăn mừng ngày chiến thắng đến 7 tháng, cách nay 1.500 năm".

Sau nầy tôi lục được thêm một truyền thuyết khác ghi rằng " chum đá là các chum rượu của người Kh'mú để uống trong lễ cầu hồn các chiến sĩ trận vong trong chiến tranh...".

ĐỊA ĐIỂM SỐ 1 hay BẢN ANG

Địa điểm số 1 nằm trên một ngọn đồi lộng gió, cao độ là 1.000 m, ít cây cối, quanh là một khu rừng thưa (vì bị bom tàn phá). Xa xa là dãy Trường Sơn chập chùng trong nắng sớm. Có một khoảng đất trống làm chỗ đậu xe, vô tí là cái quán nước đồng thời là trạm bán vé tham quan: 5000Kips/người. Chúng tôi là khách đầu tiên trong ngày. Lối lên đồng chum là những bậc thang thoai thoải được nện đá núi cẩn thận, mưa xuống cầu thang không bị trơn hay lầy lội. Đứng từ quán nhìn lên, qua hàng phi lao, tôi thấy thấp thoáng dăm cái chum khá lớn dáng nghiêng nghiêng: Mộng đã thành !

Bước qua bậc thang cuối cùng phía trên là cả một cánh đồng những chum là chum, rãi rác từng nhóm mươi cái có, 5, 7 cái có, riêng lẻ có, to nhỏ cao thấp không đều, hình dạng khác nhau: Miệng vuông, miệng tròn, miệng lồi ... đứng phơi dưới nắng hay nằm ẩn hiện dưới những tàng cây xanh ; cái đứng hẳn trên mặt đất, cái lún một phần thân dưới đất.

"Hiện nay tổng cộng số chum tìm được là 700 chiếc. Địa điểm Bản Ang nầy có 250 chum, nổi tiếng nhất. Chum được làm từ đá vôi, đá ong, đá cẩm thạch. Đường kính trung bình là 0.8m, cao 2.5m, nặng 6 tấn. Chum cao nhất là 3.25m. Số chum nầy đã được các nhà khảo cổ xác định có niên đại cách nay 3.000 năm, tức số năm gấp đôi truyền thuyết của Lào.

Theo nhà khảo cổ người Pháp, ông Henri Parmentier, người đã từng đến cánh đồng chum năm 1923, thì chính ông Vinet, một quan thuế Pháp, là người phát hiện và cho thế giới tây phương biết tới những chiếc chum khổng lồ nầy từ năm 1909. Nhưng cả hai ông đều không có phát kiến gì về mục đích của các chum nầy.

Năm 1930, bà Madeleine Colani thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Ecole Française d'Extrême-Orient) đến Cánh Đông Chum nghiên cứu tận tường. Trong 2 cuốn Mégalithes du Haut-Laos (Cự Thạch Cổ của Bắc Lào,1935) bà Madeleine Colani (gọi Xiêng Khoáng là Trấn Ninh) khẳng định "những chiếc chum khổng lồ nầy không phải là những chum ủ rượu vì chẳng có dấu vết nào chứng mình điều đó cả". "Chẳng ai lại mất công đục đá tảng làm những cái chum khổng lồ và chỉ để ủ rượu ăn mừng chiến thắng. Làm được ngần nầy chum chắc chắn phải mất vài chục năm. Ai lại ăn mừng chiến thắng sau vài chục năm? ". Bà đưa ra giả thuyết mỗi cái chum là một cái quách chôn người chết. Giả thuyết của bà càng được cũng cố khi bà phát hiện ra những dấu vết xương, răng người ; những vòng tay bằng đồng thau, những hạt chuổi bằng thủy tinh và đá carnelian ... trong những chiếc chum khổng lồ nầy, những nồi đất đựng xương người chôn chung quanh chum, cọng thêm một cái động trong đồi đá vôi gần Bản Ang, lòng động xuyên thẳng lên đỉnh đồi như hai ống khói tự nhiên, vết nám đen trên vách... bà cho đó là một cái lò hoả thiêu người chết. Sau đó bà Colani còn nghiên cứu về bộ tộc Phuôn, cư dân của vùng đất nầy và phát hiện thêm phong tục chôn người chết trong chum (mộ chum) theo truyền thống của người Phuôn trùng hợp với thời kỳ cánh đồng chum hình thành. Có điều, khi nghiên cứu, phân tích carbone những xương trong chum, trong nồi các nhà khoa học ngạc nhiên nhận ra rằng tuổi xương còn cao hơn tuổi chum !"

Tuy nhiên, đến nay giả thuyết Cánh Đồng Chum là một nghĩa trang khổng lồ vẫn được các nhà khảo cổ thừa nhận. Câu hỏi còn bỏ lửng về những cái chum khổng lồ nầy là: Ai làm ra ? Làm thế nào người xưa có thể vận chuyển các chum lên đây khi mà loại đá dùng làm những chum nầy chỉ có ngoài địa phận Xiêng Khoáng đến 40 cs ?

Địa điểm Bản Ang đã được rà soát kỹ, bảo đảm an toàn nên tôi tách ra, lửng thửng đi một mình, xâm xoi coi, ngắm, vuốt ve từng cái một. Áp tai vào chum, lắng nghe, may ra được Chum gửi gắm điều gì.

Chúng tôi có vào một cái hang rộng còn sót lại nhiều dấu vết chứng tỏ từng có người ở, ST cho biết đây là nơi trú ẩn của bộ đội Pathet Lào và bộ đội CSVN trong thời kỳ chiến tranh.

ĐỊA ĐIỂM SỐ 2 và SỐ 3

Địa điểm số 2 hay Lắt Sén có khoảng 100 chum, và địa điểm số 3 hay Bản Sua cũng có ngần ấy chum. 250 chum còn lại nằm rãi rác ở ba địa điểm còn đang được rà dọn mìn. Có lẽ hai địa điểm 2 và 3 do đường xá chưa được nâng cấp, bụi đỏ, ít người đến viếng, nên cảnh quan hơi âm u, cây cối mọc um tùm. Nhưng chính vì thế ta mới thấy rõ sức mạnh của con thú-người văn minh: Những cái chum bị bom đánh trúng hoặc xứt mẻ, bể đôi hoặc bị thủng. Ở giữa những chum bị thủng đáy, theo thời gian, là những rễ, những gốc cây to lớn đâm xuyên qua. Chóng chầy các chum bị thương nầy cũng sẽ bị cây rừng đánh gục. Đá có biết đau không ?

Sáng hôm qua, từ trên máy bay, tôi đã thấy những hố bom cùng khắp cánh đồng chum và các ô ruộng trong vùng. Nay, đứng kề sát bên mỗi cái hố, có cái rộng cả chục thước, cái nào khô tôi bước xuống, thấy thân mình nhỏ nhoi làm sao. Đất đá còn tan như vậy, da thịt nầy, nếu bị, còn gì thịt da.

Điểm tôi chú ý khác là trong cả ba địa điểm, chum nhiều mà nắp chum quá ít. Có thể nắp chum (không quá nặng) đã được người ta đưa về nhà hay đưa ra ngoại quốc bảo lưu ?

HOA ANH TÚC

Trên đường quay trở lại địa điểm Bản Ang để ngắm cảnh hoàng hôn trên Cánh Đồng Chum, ST đưa chúng tôi ghé qua một cái làng người Dao, với một điều kiện: Mọi phương tiện chụp hay ghi hình đều phải bỏ lại trong xe, bảo đảm không mất. Cảnh làng bình thường. Nhà sàn lợp tranh, xập xệ. Nhưng nhiều nhà cột chính lại làm bằng vỏ BOM made in USA ! Ai dám bảo dân lạc hậu không biết tận dụng phế liệu của văn minh tiên tiến ?

Xe rẻ vào đậu trong sân một căn nhà sàn, cột rào cũng được chống giữ bằng vỏ bom. ST theo cầu thang lên nhà, một lúc sau xuống cùng một phụ nữ phục trang theo lối người Dao, áo và váy màu đen thêu hoa văn trắng, đầu vấn khăn màu đỏ, hai vòng bạc tòng teng hai bên tai. ST ra dấu cho chúng tôi đi theo. Đi độ 20 phút, qua một cái cầu khỉ, dưới là con suối nhỏ. Đi sâu vô rừng độ 10 phút nữa, đến một căn nhà sàn còn ọp ẹp hơn những cái trong làng, phía sau nhà là những cây cao, kín mít. Thiếu phụ Dao và ST vô trước. Trong lúc đứng chờ, tôi thoang thoảng ngửi được mùi hăng hăng trong không khí. ST ra một mình, ngoắc tay bảo chúng tôi vào.

Trước mắt tôi là một rừng hoa trắng, hồng nhạt và tím thẩm. Cây Anh Túc cao độ 1 thước. Theo ST, nhựa Anh Túc tím có phẩm chất cao nhất. Có 7, 8 người đang lui cui làm gì đó bên những cây Anh Túc đẹp tuyệt vời. Đẹp đẻ thế ai ngờ lại là lũ quỉ. ST giảng:


" Bây giờ là giữa tháng 2, thời điểm tốt nhất để khai thác loài hoa Anh Túc. Có mấy người đang dùng dao thật bén khứa nhẹ vào mấy củ xanh xanh kia, mấy người khác đang hớt nhựa chảy ra từ những vết khứa hôm qua. Muốn có phẩm chất cao mọi công đoạn phải được tinh tế thực hành đúng lúc, ví dụ việc lấy nhựa, lấy sớm quá thì tinh dịch sẽ chảy xuống đất, trễ quá tinh dịch sẽ bị giảm nồng độ. Các công đoạn chế biến tôi không biết, mà cũng chẳng cần biết làm gì ".

Nói xong, ST bảo chúng tôi cứ coi tiếp, đi vô nhà. Tôi chợt nhớ tới mấy ông tiên nâu có tiếng trong làng văn nghệ việt nam: Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Vũ Hoàng Chương ... và tròn một niên học ở Vientiane, tôi trọ học bên cạnh phòng của Phi Yên Thu Lam Nguyễn Ba. Chuyện bác Ba đi mây về gió cũng thường. Duy có hai điều đáng kể lại, thứ nhất là bác Ba phương phi, bảnh bao và tắm hàng ngày, tắm ào ào, tắm thiệt thụ chứ không phải hoạ hoằn tắm khô như mấy ông tiên khác ; thứ nhì là hai ngày cuối tuần của bác Ba: Bác ba làm việc cho tây, thứ hai đến thứ sáu bác hút ở nhà. Thứ bảy và chủ nhật bác chơi ở tiệm, cho có bạn. Lúc đầu tôi không để ý, sau hỏi ra bác Ba mới cười, cho biết: mấy con thằn lằn rớt xuống đồm độp là tại đến cữ mà thiếu khói thuốc phiện của bác đó !

ST trở ra gọi chúng tôi vào. Chủ nhà đồng ý cho chúng tôi làm khán giả màn phi thiên của ổng (tôi nghĩ ST phải chi tiền vé chút đỉnh). Cái mùi hăng hăng lúc nẩy là từ phòng của ổng bay ra. Căn phòng của tiên ông mờ khói, hư ảo với ngọn đèn dầu le lói. Tiên ông đang nằm trên giường tre lót chiếu. Tiên ông gầy kinh khiếp, không còn khả năng để gầy hơn nữa. Bên cạnh tiên ông có một người đàn bà, tóc tai rối bù, chắc là tiên bà. Không nói không rằng người đàn bà đưa cho chúng tôi coi một cái hộp trong có tiên dược và bộ đồ nghề. Cái ống điếu bằng bạc, chạm trổ đẹp tinh xảo. Tiên ông khoan thai điệu nghệ dùng mủi dao móc chút nhựa đen thui, bỏ lên cái lỗ nhỏ trên ống điếu. Cẩn trọng đưa ống điếu lên ngọn đèn liu riu, nhuần nhuyễn vừa hơ vừa xoay đều chỗ có tiên dược, gặp lửa tiên dược căng lên, nõn nà, mời gọi ... Chúng tôi, khoanh tay, im lặng chiêm ngưỡng... Giữa hai hơi khói, tiên ông chậm rãi tâm sự: Say ả phù dung từ năm 24 tuổi, năm nay tiên ông ĐÃ 47 ( tôi đã lén cho ổng 65). Mỗi ngày tiên ông phải phi 12 điếu, nếu không, không sống nổi. Đó là phần của tiên ông. Còn người đàn bà ? Hồi mới lấy nhau, vợ tiên ông đâu đã được là tiên, chỉ lo têm cữ hầu chồng thôi, ngửi khói riết đắc đạo khi nào không hay. (4)


Qua thời bà Madeleine Colani (1866-1943) việc nghiên cứu về cánh đồng chum bị bỏ quên, rồi chiến tranh, rồi giải phóng, rồi đóng cửa ... mãi đến 1989, cánh đồng chum mới thấy lại bóng người. Và cánh đồng chum đã trở thành khu di tích lịch sử văn hoá của xứ Lào, đồng thời mỗi năm là địa danh kỳ bí thu hút nhiều ngàn lượt khách du lịch trong và ngoài nước. Hiện nay Unesco đã và đang nghiên cứu, khảo sát, đánh số các chum. Việc nâng cấp hạ tầng cơ sở cho Phonesavanh cũng đã và đang được ráo riết thực hành. Trong một thời gian gần cánh đồng chum sẽ được nằm trong danh sách di sản văn hoá của thế giới như cố đô LuangPraBang (1995) và quần thể Wat Phou ở Champassak, nam Lào (2001).

Tôi về lại Pháp được sáu tháng thì xảy ra vụ 11 tháng 9. Trong vô thức tôi thấy những chum đá bị thương ở Thôồng Háy Hín rũ nhau tụ lại trên những đồng ruộng lỗ chỗ, trầm ngâm sắp thành ba con số tiền định... Sự tan hoang ở Xiêng Khoáng cho tôi thấy cái lý và sức mạnh của kẻ mạnh. 911 cho tôi thấy cái lý và sức mạnh của kẻ yếu. Vài năm nữa sẽ mọc lên hai WTC hoành tráng, ngạo nghễ gấp 5, gấp 10 hai cái cũ. Phần Xiêng Khoáng, lòng dặn lòng, kiếp nầy đừng mơ. Hàng năm cả thế giới thắp nến, đốt nhang hoài nguyện 911. Hàng ngày có ai nhớ tới Xiêng Khoáng ?

Nhà nghèo lòi ruột không ai xót
Trọc phú sứt tay lắm kẻ rên.


(Còn tiếp)
kỳ tới: Đoá Hồng Paksane

Chú thích:

(1) Nguồn con số 580.344 phi vụ:

(a)
http://www.ilmanifesto.it/MondeDiplo/LeMonde-archivio/Luglio-1999/9907lm18.02.html

(b)
http://www.grups.pangea.org/pipermail/infomoc/Week-of-Mon-20011112/000390.html

(c)
http://revista.pangea.org/print.php?sid=1646

(2) Nguồn con số những trái bom chưa nổ:

(a)
http://www.siteafefe.com/print.php?sid=31

(b)
http://www.lexpreST.fr/info/monde/doSTier/laos/doSTier.asp?ida=398325

(3) Quả bom khổng lồ tôi nhìn thấy là quả CBU-52. Loại bom nầy cũng đã được USAF sử dụng 17 831 quả trong cuộc chiến vùng vịnh 1, năm 1991.

http://www.fas.org/man/dod-101/sys/dumb/mk82.htm


(4) Ngày 03/06/2005: UNODC (United Nations Office on Drugs and Crime) cho biết CHDCND Lào đã hũy diệt toàn bộ việc trồng cây thuốc phiện trên xứ Lào (tin AVI):

(a)
http://lelaos.free.fr/modules.phpname=News&file=article&sid=2979

(b)
http://www.vnanet.vn/NewsP.asp?LANGUAGE_ID=3&CATEGORY_ID=39&NEWS_ID=153799

Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.07.2006 03:31:26 bởi Hàn Lệ Nhân >
#31
    Hàn Lệ Nhân 25.07.2006 01:36:53 (permalink)
    Xứ lào: Nửa Trái Tim Tôi 6

    Hàn Lệ Nhân


    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/052F825ED5D44168A0CA3A544CFF35B4.jpg[/image]


    PAKSANE

    Quốc lộ 13 là con đường nối liền Vientiane và các khoéng (tỉnh) phía nam xứ Lào, chạy ngang qua sinh quán của tôi, Savannakhet, rồi xuống tận biên giới Lào-Kampuchia. Tôi không nhớ nổi tôi đã đi-về qua chặng đường nầy bao nhiêu lần, kể từ mùa thi 1967, lần đầu tiên tôi được gia đình thưởng cho lên viếng cảnh thủ đô. Kể từ bài nầy tôi sẽ cùng bạn đọc xuyên Lào, qua luôn bên kia biên giới Lào-Kampuchia bằng 2 phương tiện: Xe và thuyền.

    Nhìn trên bản đồ, Borikhamxay là vùng đất nằm ngay trung tâm xứ Lào. Borikhan là tên cũ trước 1975 của Borikhamxay, gồm sáu mường: Tha Phabath, Pakkađing, Borikhan, Khamkeuth, ViêngThong và thủ phủ Paksane (đọc Pạc-Săn), tâm điểm của bài nầy. Borikhamxay nằm ở hướng nam Vientiane, địa hình thuộc vùng trung du, rừng nhiệt đới, thác ghềnh ngoạn mục. Đông giáp Việt Nam, qua biên giới Lào-Việt bằng ngã Lak Sao, đường số 8, cảnh đẹp ; phía Việt Nam là cửa khẩu Cầu Treo (đèo Keo Nứa) gần thành phố Vinh, Nghệ An. Tây giáp Thái Lan, biên giới là sông MêKông, tỉnh Beung Kan.

    Diện tích: 14.863 cs vuông (Borikhamxay = Borikhan (cũ) + 1 phần Vientiane + 1 phần Xiêng Khoáng, sau 1975) ;

    Dân số (2004): 164.900 người (3.41% tổng số quốc dân)

    gồm nhiều bộ tộc (phầu) thuộc nhóm tộc Lào-Thái (77.51%), đặc biệt kể từ đầu thập niên 1970 khi không quân Hoa Kỳ tăng cường độ oanh tạc và san bằng Xiêng Khoáng, người Phuôn ở Xiêng Khoáng lánh nạn về đây, ước tính thời đó là 12.000 người, nay là bộ tộc đông nhất.

    Mương Paksane được thành lập từ năm 1890, cách Vientiane 147 cs về hướng nam, nằm ở ngã ba dòng Nam San và sông Mêkông, cư dân hiện nay là 35.000 người. Paksane vừa là trung tâm hành chính và thương mại của Borikhamxay, vừa là trục thông thương và trạm nghỉ chân cho hầu hết các tuyến xe đò hai chiều (hay các phương tiện đường bộ khác) giữa Vientiane và các tỉnh phía nam, đặc biệt từ thập niên 1980 sau khi quốc lộ 13 được chính phủ Thụy Điển đài thọ việc nâng cấp, tráng nhựa - đoạn Vientiane-Paksane ; Trung quốc : đoạn Paksane-Khammouane ; Nhật bản: đoạn Khammouane-Champassak.

    Là một thủ phủ lại không quá xa thủ đô nhưng đặc điểm của Paksane là sắc thái đậm nét hương thôn trong đời sống và sinh hoạt hàng ngày. Paksane là một thủ phủ đặc thù vì được chia ra thành nhiều bản, nhiều làng, trước hay sau 1975 cũng vậy, do đó khách viếng Paksane sẽ không có cảm tưởng chia cách giữa tỉnh thành và làng quê, ít ra cũng cho tới khi tôi thấy lần cuối (05/04). Phải nói thòng vậy khi mà cái được, cái mất từ đập thủy điện khổng lồ Nam Theun 2 (Nảm Thơn 2)(1), trong tương lai đếm bằng tháng, sẽ ảnh hưởng như thế nào tới con người, cũng như môi trường và cảnh quan hoang sơ tuyệt đẹp của Paksane, không ai lường trước được. Cái được chính hẳn kẻ đầu tư và những người đồng thuận ngồi trên đã tiên kiến, đã nhân chia trừ cọng rạch ròi. Cái mất ra sao dân quê Paksane nói riêng rán chống cày chờ và chịu như đã từng chịu điều phi lý khó tin nhưng có thật : Từ 1996, toàn thể Paksane có điện từ đập thủy điện Nam Theun 1 (Lào) nhưng lại được cung cấp từ ... Thái Lan, nghĩa là Thái Lan " mua sĩ " điện của chính quyền Lào đưa qua bên kia sông Mêkông, phù phép sao đó xong " bán lẻ " ngược lại cho nhân dân Lào, giá cả so le thế nào miễn chiết tính. Chẳng lẽ ghềnh thác Lào sản xuất được loại điện thô như Trung Đông sản xuất vàng đen thô ?

    Không nơi nào ở Lào câu thành ngữ " phép nước, lệ làng " lại khích khao hơn ở đây:

    Bất chấp mọi biến thiên chính trị, Paksane nói riêng vẫn giữ mô hình tổ chức xã hội Bản-Mường (nhiều bản hợp lại thành một mường) được tập hợp theo hai quan hệ: quan hệ huyết thống và quan hệ láng giềng, ở đây vai trò chủ đạo là quan hệ láng giềng mà người Lào gọi chung là Phì Noỏng (bà con). Nai bản ( trưởng làng) hay Phò bản (bố làng) là người đứng đầu bản và lục bản (con làng) là dân ở trong làng, giao tế ứng xử theo quan hệ gia đình mở rộng và điều hành theo hịt bản khong mương (tạm dịch là tập quán pháp) (2). Ví dụ cụ thể: Sau 1975, xứ Lào là Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân (cộng sản) nhưng Borikhamxay nói chung, Paksane nói riêng vẫn là dân chủ công xã, nghĩa là chế độ già làng: Người đứng đầu làng thi hành các quyết định của hội đồng già làng, khi có việc hệ trọng thì mở hội nghị toàn thể thành viên. Ruộng đất thuộc về của công mà ông phò bản là người đại diện, do đó mới có câu " đình a nha, na phò bản " (đất của quan, ruộng của bố làng). Nguyên tắc quyền sở hữu điền địa ở Lào là đất đai có chủ nhưng để hoang không khai khẩn một thời gian sẽ trở thành của công của làng đó và ông phò bản toàn quyền phân phối cho người dân trong làng. Ví dụ cụ thể: Những năm 1977-1980 phong trào qua sông tị nạn " ải nỏng" (anh em = cộng sản) đã làm trống trải Paksane, đến năm 1998, chính chảo mương (thị trưởng) Mương Paksane, với sự đồng ý của các phò bản, lên tiếng mời gọi dân cư vùng LuangPrabang và PhongSaly về đây chia ruộng cho làm kế sinh nhai: Năm 1999 có 48 hộ gồm 344 người đến từ LuangPrabang ; tháng 3 năm 2000 có 700 hộ đến từ Phongsaly.

    Câu cửa miệng của người Lào nói chung là Bò Pền Nhắng (không sao cả), ở Paksane triết lý Bò Pền Nhắng càng rõ nét hơn trong mọi hoàn cảnh giữa người với người: Tương ái (3), Tương dung, tương nhượng, tương kính NHƯNG không qụy lụy và tuyệt đối không chấp nhận tính cách áp đặt. Sự áp đặt nếu vì lý do nào đó trong nhất thời họ phải chấp nhận thì chóng chầy, bằng mọi cách, họ sẽ lật ngược lại hết sức nhẹ nhàng. Ví dụ : 1/ Sau 1975, XHCNVN hay dùng nhóm chữ " Việt và Lào là hai quốc gia anh em". Bò pền nhắng. Dân quê Lào dạy nhau: Việt và Lào là 2 quốc gia láng giềng: Đúng ; hai quốc gia anh em: Không. Sao vậy ? – Láng giềng người ta có quyền lựa chọn, anh em thì không ! 2/ Sau 1975, chính phủ XHCNVN hay cường điệu – cho vui - câu " đảng, nhà nước Việt Nam và Lào xây dựng đất nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ". Bò pền nhắng: Không phản bác, không lý luận, nhưng : Bước thứ nhất, thay hình Búa Liềm bằng hình tháp That Luang trên quốc huy (điều 76, Hiến pháp 1991) ; bước thứ hai, " chủ nghĩa xã hội là một ước mơ xa vời " (Kaysone Phomvihane, diễn văn nhậm chức chủ tịch nước,1991) rồi bất chấp áp lực của ông anh VN, mở toang cửa ra, đặc biệt đối với Thái Lan. Còn chuyện một nhúm người trong bộ tộc chủ thể ở Lào vẫn còn lay hoay tục tác trong ổ độc đảng, độc quyền, tham quyền cố vị thậm chí ngồi trên cả hiến pháp do chính họ soạn thảo ra lại là chuyện khác, sẽ nằm trong một bài khác.

    Lần đầu tôi trở lại Paksane vào tháng tư 1993, lần sau cùng vào tháng năm 2004, tổng cọng qua lại 5 lần. Kỷ niệm thì nhiều, ở đây xin ghi lại một vài ấn tượng đối với cá nhân tôi.

    Ở Vientiane tôi có người bạn. Mỗi lần tôi về, suốt thời gian có mặt ở Vientiane là hắn nhường cho tôi một trong mấy cái xe gắn máy của hắn. Lần đó vì đi công tác thiện nguyện nên tôi lưu lại Vientiane 3 tuần. Sau khi đã "no" cảnh Vientiane tôi quyết định một mình đi Paksane bằng xe gắn máy, bất chấp sự ngăn cản của các bạn. Thời đó, từ tỉnh nầy qua tỉnh khác, bất kỳ cư dân hay ngoại kiều, còn phải có giấy phép đi đường, trên trời hay dưới đất, dưới sông cũng vậy.

    " Trên con đường đê chia đôi phường Khua Đinh và phường Sí Mương có con dốc nhỏ, xuống một đoạn, rẽ phải là vào xóm Salađeng (hay xóm Nguyễn Du, gọi theo tên trường tiểu học việt ngữ). Đối diện trường Nguyễn Du có một căn nhà bằng gỗ, bao quanh là rào hoa giấy màu hồng nhạt, ở ngõ vào nhà phía bên hông tòng teng mươi giò hoa rừng và một người vừa cùng tên vừa như hoa.

    Từ căn nhà nầy đi vào xóm trong, độ 100 thước, có một căn nhà bằng xi-măng và một người khách đến từ phương xa tuổi tên cùng một chữ.

    Khách và hoa quen biết nhau do hai gia đình vốn qua lại thân thiết. Hoa chưa chớm nụ, khách tròn đôi tám. Ba tháng hè trôi qua, khách về hoa ở lại. Hè năm sau, khách lại lên. Ba tháng hè trôi qua, khách trở về, hoa ở lại. Hè năm sau nữa, khách trở lên. Hoa vừa chớm nụ, khách hết vị thành niên và họ ấy nhau ...

    Khách lên trọ học tại Vientiane trọn niên khoá 1973-1974. Giáng sinh 1973 họ đèo nhau đi viếng cảnh chùa Phabat Phonsan bằng chiếc xe gắn máy Yamaha màu huyết dụ.

    VAT PHABAT PHONESANE VÀ DẤU CHÂN ĐỨC PHẬT

    Chùa Phabat Phonsan được sùng tạo năm 1933, cách Vientiane 70 cs, thuộc địa phận Paksane. Cũng như mọi ngôi chùa khác khắp xứ Lào, cảnh quan chùa Phabat Phonsan rất đẹp với lối kiến trúc đặc thù Lào, xa xa điệp điệp núi rừng. Chùa Phabat Phonsan là linh địa hành hương của cư dân Borikhamxay và Vientiane vì nơi đây có dấu tích bàn chân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thực hư thế nào không nằm trong bài nầy, có điều dấu chân Phật đã được phóng đại dài 40 cm, sâu 1.20 cm, móng chân dài 2.40 cm ; có hình bánh xe luân hồi, hoa sen và 108 loài vật dưới lòng bàn chân, hoàn toàn mang tính cách biểu tượng. Ngoài ra, ở đây còn có một bức tượng Phật nằm rất lớn, sơn son thếp vàng, sống động sắc xảo chứng tỏ một tài nghệ đúc khắc cao, dấu vết bể dâu là những đường nứt nhỏ, chẳng khác gì những lớp xếp mờ tỏ trên trán khách, sau 30 năm dâu bể. Ngồi lại chỗ hoa ngồi ngày xưa dưới chân Phật nằm, văng vẳng đâu đây tiếng hoa cười, thoang thoảng mùi hương sứ. Tình học trò sóng nổi, đam mê ... Đã bao lần chạnh lòng hồi tưởng, khách vẫn không có câu trả lời thích đáng cho câu hỏi " lầm lỗi nào để đành chẳng thà chẳng được nhau ? ". Duyên đâu kết trong một sớm một chiều thì chẳng lẽ nợ lại nặng hơn duyên ? Có nợ mà chẳng có duyên đã mấy ai hạnh phúc trong đời. Hoa dang dở, khách long đong trong cảnh đồng sàng dị mộng. Lặng nhìn dáng nằm an nhiên tự tại của Đức Bổn Sư lòng lại bảo lòng "sao ngài không nhín chút thời giờ trả lời giùm con ?". Chỉ biết rằng trong thâm sâu khách hằng mặc niệm "mất em rồi mới biết em là tất cả" ; dường như hoa trả lời " chẳng được nhau mới có nhau trọn kiếp người ".

    CHUNG QUANH PAKSANE

    Mỗi người mỗi sở thích. Đa số đều thích đến những chốn đèn màu, tôi lại tìm đến các nơi " khỉ ho cò gáy ", tìm hiểu những điều chẳng giống ai. Tôi biết sở thích của tôi không được gia đình đồng tình cho lắm nên khi thằng cháu con bà chị đề nghị đưa cậu lên Vientiane bằng xe nhà, để sau đó tôi về lại Pháp, tôi đặt điều kiện ngay: Cậu muốn đi đâu, dừng ở đâu, dừng bao nhiêu lâu phải theo ý cậu, không thì thôi. Nó gãi đầu, chấp thuận. Làm gì nó không hiểu thế là thế nào khi chung quanh là mẹ nó, nhất là bà ngoại hằng lo ngay ngáy vì biết rõ cậu út thuộc diện tọc mạch không đơn giản, có vấn đề lồng trong lời nói, giữa hai dòng chữ. Thiệt tình thân tôi sắp bạc đầu rồi còn gây phiền đến người thân.

    Pak Kađing vừa là tên một trong sáu mường (Mường Pak Kađing) thuộc Borikamxay vừa là tên làng (Bản Kađing) gần Paksane, cách khoảng 50 cs về phía đông. Pak = Miệng, Kađing = tên con suối (hay nhánh sông) chảy ra sông Mêkông, là trạm dừng chân của mọi phương tiện giao thông đường bộ đi-về giữa Vientiane và các tỉnh miền Nam xứ Lào. Nam Kađing (4) nổi tiếng có nhiều loại cá ngon, cách thức chế biến, gia vị cũng đặc trưng. Ngoài ra chung quanh Pak Kađing còn có Bản Nakay-Nam Theun, Bản Nahin và Phou Pha Mane gom lại thành một chu vi núi rừng rộng lớn, kỳ vĩ - 3700 cs vuông - nhất là khoảng thời gian về chiều, được liệt thành Khu Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Quốc Gia ( National Biodiversity Conservation Area, NBCA) và World Wildlife Fund (WWF) bảo trợ, nơi còn khá nhiều loài thú có nguy cơ tuyệt chủng như gấu đen, báo, voi, cọp, mang lớn (5) sao la (6).

    Còn tiếp
    Kỳ tới: BOUN BANG FAY Ở PAKSANE

    Chú thích:

    (1) Nam theun 2 (NTPC) là đập thủy điện khổng lồ, 1.000 MW, lớn nhất Đông Nam Á, với ngân sách liên doanh 1.3 tỉ USD (Công ty điện lực quốc gia Pháp-EDF chiếm đa số cổ phần: 35%, Lào: 25%, Thái: 25% và Liên Doanh Ý-Thái: 15%), dự tính sẽ được khai thác cuối 2006 với một khách hàng duy nhất là EGAT,Thái Lan, tiêu thụ 95% năng xuất. Theo dự kiến 7.000 gia đình (40.000 người) trong 89 làng chung quanh đồng bằng Nakay sẽ bị tái định cư, hàng chục ngàn ngư phủ sẽ bị ảnh hưởng trong việc đánh cá ... Chi tiết dự án xin mời các bạn vào đây:

    · http://www.amisdelaterre.org/rubrique.php3?id_rubrique=152
    · http://www.namtheun2.com
    · http://www.irn.org/programs/mekong/namtheun.html

    (2) Ở Lào có một số quy tắc được gọi là " Hịt bản" (tập quán của làng) và " Khoong mương " (điều lệ của mường): a/ Hịt síp xoóng, b/ khoong síp xì, c/ pa phê ni síp hạ, d/ lắc xa nả síp hôốc:

    a/ Hịt síp xoóng = Mười hai điều quy định về quan hệ nam nữ, cưới hỏi, ma chay, kiêng kỵ ...Hịt rất đa dạng, nhu nhuyễn theo từng làng nên có câu " hịt pháy, hịt măn (tục lệ nào, làng bản nấy).

    b/ Khoong síp xì = Mười bốn điều lệ của mường về quyền sở hữu đất đai, ruộng đồng, núi rừng, sông suối.

    c/ Pa phê ni síp hạ = Mười lăm nguyên tắc về nghi thức tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian như làm bun (lễ hội), cúng phí bản (cúng ma làng), cúng phí mương ( cúng ma mường) ...

    d/ Lắc xa nả síp hôốc = Mười sáu đặc tánh về cách tổ chức hành chính và chính quyền ( mô phỏng các bộ phận trong cơ thể con người), chẳng hạn Húa Mương (đầu mường), Chày Mương (tim), Háng Mương (đuôi), Khén Mương (tay), Khá Mương (chân), Xạy Mương (ruột) ...

    Những điều ghi trên tôi học được từ các bạn Lào, tôi cũng cố truy tìm cho đầy đủ nhưng chịu, do đó nếu bạn đọc biết rõ hơn xin giúp bổ túc cho.

    (3) Tôi dùng chữ Tương ái thay vì hoà ái, bởi hoà ái là hai chữ coi như độc quyền của người việt dùng để tự đánh giá người việt. Nhìn từ ngoài, theo tôi, người việt nói chung – trong đó có tôi - chỉ hoà ái với nhau khi đôi bên " hoà ", chứ khi có chút " nghịch ", người việt với người việt chẳng " hoà " tí nào. Mà theo lẽ " hoà ái " tự thân nó chỉ có giá trị thực thụ trong những hoàn cảnh " nghịch": hoà trong lời nói, hoà trong chữ nghĩa, thậm chí hoà trong câu chửi. Thành ngữ có câu " hoà nhi bất đồng " là vậy. Tuy nhiên người việt chúng ta luôn luôn " hoà ái " với người nước ngoài !

    (4) Các nhánh sông từ bắc Lào (Nam La, Nam Seng, Nam Tha...) xuống tới Borikhamxay, Kađing là nhánh sông cuối cùng có tên gọi bắt đầu bằng chữ Nam (nảm = nước, Nam Kađing), từ đây xuống tận biên giới Lào-Kampuchia mọi nhánh sông đều bắt đầu bằng chữ Sê (Sê = suối, như Sê Băng Hiêng, Sê Băng Fay, Sê Đôn, Sê Kôông).

    Trung Quốc cũng có cách gọi các nhánh sông tương tự: Từ bắc Trường Giang trở lên có tên là Hà, từ nam Trường Giang trở xuống là Giang. Việt Nam không có sự tách biệt nầy.


    (5) Giant Muntjac = Mang lớn = Một loại thú móng guốc có họ hàng rất gần với loại mang thường (muntjac) được phát hiện năm 1994 trong chu vi NBCA. Ở Việt nam cũng phát hiện loại thú nầy trong vùng Nghệ-Tĩnh.

    (6) Sao la = Spindlehorn = Một loài thú họ bò có cặp sừng dài và nhọn được phát hiện lần đầu tiên năm 1992. Sao la còn có tên Pseudoryx và NgheTinhEnsis.


    Hàn Lệ Nhân


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2006 01:39:49 bởi Hàn Lệ Nhân >
    Attached Image(s)
    #32
      Hàn Lệ Nhân 04.08.2006 00:32:06 (permalink)
      Xứ lào: Nửa Trái Tim Tôi 7

      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/D5B811C10B1E49EBA5D105D698344FB8.jpg[/image]


      Boun Bang Fay ở PAKSANE


      Mỗi lần có dịp trở về Lào, tôi thường chọn từ tháng 2 đến cuối tháng 5, giá vé máy bay rất hạ, trời không quá nóng và nhất là chưa vào mùa mưa, qua đến tháng 7 và tháng 8 mưa liên miên: nhà nông cười, du khách mếu. Ở Lào việc trồng lúa nước là sở trường của người Lao Lùm (Lào vùng đồng bằng), nương rẫy và ruộng bậc thang là sở trường của người Lao Thơng hay Lao Cang (Lào vùng giữa) và Lao Xúng (Lào vùng cao) ; giữa ruộng bây giờ hình ảnh con trâu thân thương từ ngàn xưa đã lần lần được thay thế bằng máy cày loại nhỏ hay vừa và từ hơn mười năm nay ở Paksane nói riêng việc trồng lúa một năm hai mùa ở miệt đồng bằng đã có tính cách phổ cập: Vụ trồng lúa mùa khô bắt đầu khoảng tháng 12 qua hệ thống dẫn thủy nhập điền từ sông Mêkông. Tôi để ý, cũng những chiếc máy cày đó đã được dân quê " linh động " thành những chiếc xe, phiá sau gắn một " toa " bằng gỗ, chạy nhông nhông trên quốc lộ 13, việt nam gọi là xe công nông. Đã đành xe công nông rất đa dụng cho vùng nông thôn, kể cả việc dùng để phát điện để xem ... tivi, nhưng nếu cứ để bà con lái nghênh ngang giữa các tuyến đường tấp nập như quốc lộ 13, e rằng không tránh khỏi tai nạn giao thông ... chết người.

      Chúng tôi đến Paksane gần trưa 14 tháng 5 (14 tháng 6 lịch Lào) nhằm ngày Boun Băng Fay và Boun Visakha Bousa, năm nay được tổ chức tại chùa Phabat Phonesane. Boun Băng Fay ở Lào nguyên thủy chỉ mang tính cách tín ngưỡng dân gian (Linh Hồn Giáo): cầu đảo, cầu mưa ; cúng Phí Bản, Phí Mương (ma, thần hộ trì). Cũng như Boun Visakha Bousa vốn là ngày tăng già và tín đồ Phật Giáo tế lễ tưởng niệm ngày đản sanh, chứng ngộ và nhập diệt của Đức Phật. Hai niềm tin nầy trên lý thuyết hoàn toàn khác hẳn nhau, nói thế là vì trong giáo lý nhà Phật mà tôi biết có ghi rõ " không được tin tà ma ngoại đạo, mê tín dị đoan". Chẳng biết tự bao giờ, ở Lào, hai hình thức lễ hội nầy quyện thành Một, tổ chức bởi Một cộng đồng trong Một thời điểm, Một địa điểm. Do đó Boun Bang Phay từ lâu thường ngụ luôn nghĩa Visakha Bousa.

      Phải nhận rằng Lào là xứ sở của Boun Ngan (lễ hội), chính thức cho cả nước mỗi tháng có một lễ hội, chưa tính cơ man lễ hội có tính cách địa phương, phản ánh khít khao câu thành ngữ "khôn Lao mặc muồn" (người Lào thích vui). Và trong các lễ hội ở Lào, Boun Bang Fay là lễ hội trộn trạo nhất, thành kính nhất, vui vẻ nhất, phóng túng nhất. Hồi còn ở Lào tôi đã hồn nhiên tham dự, chứng kiến khá nhiều những buổi Boun Băng Fay nhưng bấy giờ tôi mù tịt phần nội dung hoà lẫn giữa Phật Giáo và Linh Hồn Giáo của nó qua những hình thức ngoạn mục sau đây.

      Trên đường chúng tôi đã thấy vài đoàn rước Băng Fay (hoả pháo) toàn đàn ông con trai từ các làng lân cận, dẫn đầu là một hai mó thiêm (cậu đồng) đang nghênh nganh múa, hát, hò, reo theo tiếng khèn, tiếng trống, tiếng chiêng tiến về chùa Phabat Phonesane nơi sẽ diễn ra lễ hội Boun Băng Fay.

      Mỗi ổ pháo thăng thiên được đặt trên một cái giá nhẹ bằng tre, đầu pháo có đường kính 20/30 phân, dài cả thước, cọng thêm cái đuôi bằng tre 4/5 thước, nặng từ 6 đến 24 kí lô, được trang trí đầu hình Naga (rồng hay rắn thần), có phướn ngũ sắc lộng lẫy, mỗi làng mỗi vẻ. Đám rước ổ pháo của mỗi làng gồm đội múa đàn ông bất luận già trẻ, quan chức đều hoá trang mặt mày, trang phục có hình ảnh những ngành nghề liên quan với sông nước (đeo giỏ, vác chèo, mang lưới ...) ngụ ý cầu mong mưa đúng hạn kỳ hoặc đeo mặt nạ ma quỷ như để đe dọa " thẻn " (trời) ; ngoài ra còn có những hình nộm biểu tượng giao hợp (âm vật, dương vật) mang tính cách phồn thực. Rồi suốt hành trình đến điểm hẹn, đoàn rước của mỗi làng ca múa, reo hò biểu lộ hành vi cọng cảm.

      Không hiểu do đâu mà các câu " xởng " (hò) hầu như đều nhắm thẳng vào các bà "mẹ vợ", bởn cợt:

      " Bà gia ơi
      Con rể tới rồi nè
      Mở cửa cho nó đi
      và mời nó chén rượu ;
      Nếu bà không có rượu
      Thì mời nó vắt xôi ;
      Nếu bà không có xôi
      Mời nó chút Pa-đẹc (mắm cá)
      .................
      Mở cửa đi bà gia ơi
      Nếu bà không mở
      Cầu thang nhà bà sẽ bị bay mất ..." ;

      Còn những câu "xởng" dành cho các cô thì rất "hiện thực", rất suồng sã, kể cả câu "em ơi cho anh ấy tí".

      Những cái chòi cột tre, mái tranh được dựng lên trong khuôn viên chùa, nền được lót chiếu ; cái khang trang nhất coi như khán đài danh dự dành cho chư tăng và chức sắc các làng trong vùng, những cái còn lại dành cho bá tánh, đặc biệt vài cái dành cho các cô cậu còn độc thân ngồi ... tán nhau suốt đêm. Ở giữa là một cái chòi khá lớn (hó chẹc) dành cho việc phong chức trong tăng lữ ngày mai 15 trăng tròn, sau đó tới lễ đốt pháo ven sông Mêkông, nơi đã la liệt các quầy ăn, quán uống tư nhân.

      Trong lúc các phù-bào (con trai Lào) trong các đoàn rước mải mê múa hát trên các nẻo đường tìm về nơi tổ chức thì các Phù-sáo (con gái Lào), cô nào cô nấy y trang thật đẹp, son phấn kỹ càng trên tay mỗi cô đều có ít nhất một cái khánh (ô) gồm thực phẩm, thuốc lá, rượu ... lần lượt đến trước, ngồi hàn huyên, đùa dỡn chờ các cậu trong những cái chòi nói trên. Phần các bà mẹ đi theo canh con gái, trên tay có quà dành cho các sư, đặc biệt cho các vị sẽ được phong hay thăng cấp bậc ngày mai. Khi các đoàn rước ổ pháo tề tựu đầy đủ, đặt để theo thứ tự được định trước trong khuôn viên chùa thì trời cũng đã vào đêm, hội vui bắt đầu.

      Đã là hội thì vui là chính, ở đâu cũng vậy. Điều đáng nói là cảnh trai, gái Lào (trên 16 tuổi) tự do tán tỉnh nhau ngay trong chùa (1) từ khi lên đèn cho đến bình minh. Tán tỉnh thì mỗi người mỗi bí kíp, mỗi chiêu thức khác nhau, tửng tửng nói ra đây vài đường e làm trò cười cho bạn đọc, song ở Lào chắc đôi bên phải hào hứng, ăn khớp lắm mới kéo dài thâu đêm suốt sáng được chứ ! Rất nhiều cô cậu đã nên đôi, nên lứa từ những buổi giao duyên tập thể nầy. Dĩ nhiên tôi cũng có nhảy vào ăn có - tránh sao khỏi - vô ra vài nơi, mỗi nơi vài hiệp nhưng chẳng sơ múi gì, phần nhỏ do quá đát, phần lớn bởi quên tháo cái nhẩn ở ngón vô danh ...

      Khi ánh chiêu dương leo lên quá chóp hàng cây bên kia sông, khoảng 7 giờ sáng, đêm không ngủ coi như chấm dứt, mọi người thức đêm tại chỗ lần lượt đi làm vệ sinh cá nhân, trong khi đó một nhóm phụ nữ khác - của mỗi làng, mỗi chùa có tham dự buổi lễ được phân công từ trước - mang đồ điểm tâm đến và bày biện ra chiếu. Sáng nay các sư không phải nối đuôi nhau đi khất thực như mọi khi. Các sư của mỗi làng được kính cẩn mời trước tiên, sau đó là tín hữu.

      Phần hiến tế mang ý nghĩa tưởng niệm Đức Phật (Visakha Bousa) không nằm trong loạt bài nầy, vả lại, tôi nghĩ, hầu hết ai cũng đã biết, đã hiểu ít nhiều.

      Boun Bang Fay ở Paksane khi chúng tôi đến được tổ chức trong hai ngày, một đêm vì đặc biệt năm nay, lồng trong đó có buổi lễ thăng cấp trong tăng già (sangha) ở Paksane và vùng phụ cận. (2)

      NGHI LỄ THĂNG CẤP TRONG TĂNG GIÀ

      Như chúng ta đã biết, cách sinh hoạt nói chung ở Paksane đến nay vẫn còn đậm nét Dân Chủ Công Xã tức chế độ già làng, do đó buổi lễ thăng cấp được trích lược sau đây cũng khá đặc biệt vì nó không nằm trong hệ thống hàng dọc của tăng già chính thống (nghĩa là theo lẽ phải do tăng thống, hoà thượng, thượng tọa quyết định) mà hoàn toàn do đại đa số tín hữu trong bản, trong mường nói chung đồng ý bình chọn trong giáo khu những vị tăng có thành quả tri hành hợp nhất: Tri đạo, hành đạo và quan trọng nhất, sống đạo. Học đạo rồi hành đạo ai cũng có thể làm được, cái khó là Sống đạo vì sống đạo thường bao gồm luôn giá trị của hai phần kia hay đôi khi khỏi cần hai phần kia. Nói cách khác trong đạo, tri và hành không quí bằng đức và hạnh. Người Lào quan niệm "Hệt bun, Thăm bun" (Làm phước, Ban phước) chứ không nói " Há bun, Khó bun" (Kiếm phước, Cầu phước) như một vài nơi khác, thành thử tăng lữ ở Lào không dạy tín hữu mở trương mục tiết kiệm ảo mua vé lên niết bàn bằng hiện kim cũng như chưa từng nghe hay thấy chuyện người sống đạo nào dám phóng một cái lao trị giá mười triệu Euros để rồi hội ma, hội vệ tinh xuất hiện lia chia, tổ chức nhảy đầm loạn xạ, để rồi "hành đạo" cho tín hữu lè lưỡi ra đuổi theo lao từ non mười năm nay.(3)

      Giáo hội Phật Giáo Lào chia tăng già thành 6 phẩm trật:

      1/ Phra Gnoot Keo (Phrả Nhoọt Kẻo)

      2/ Phra Louk Keo (Phrả Lục Kẻo)

      3/ Phra Lak Kham (Phrả Lặc Khăm)

      4/ Phra Khou (Phrả Khu)

      5/ Phra Sa (Phrả Sa)

      6/ Phra Sam Det (Phrả Sắm Đệt)

      và trong mỗi kỳ có cuộc thăng cấp, tưởng thưởng thành tích công quả, tặng phẩm thường được ấn định như sau:

      1. Bad = Bạt = Bình bát để các sư dùng khi đi khất thực.

      ( Trong chùa Lào không có bếp, không có chuyện nấu nướng do đó không có chuyện chùa tổ chức bán cơm như nhà hàng bán thức ăn)

      2. Keub = Kợp = Dép

      3. Talabat = Ta la bạt = Quạt làm bằng lá kè để các sư che mặt không nhìn vào đàn bà, con gái.

      4. Thôông = Thôống = Túi vải đeo nơi vai.

      5. Hom = Hom = Dù che mưa, che nắng.

      6. Tray Chivon = Tray Si vôông = 3 thứ y phục của nhà sư: Phạ Khun (áo rộng), pha sa nghiệp ( khăn quàng vai và ngực), và phạ sa bôông (vải che phần dưới thân hình).

      7. May Thao = Mảy Thao = Gậy chống để đi đường.

      8. Nam Tao = Nảm Tao = Bầu đựng nước.

      9. Mit the = Mịt Thé = Dao cạo để sư cạo đầu, râu và lông mày (15 ngày một lần).

      10. Phani Sithana = Giường chiếu để nằm, kèm gối, kim, chỉ (để vá quần áo) và một tấm thảm nhỏ để trải ra ngồi (mỗi sư phải ngồi trên thảm của riêng mình).

      11. Lap Kham, Lap Ngeun = Lạp khăm, lạp ngân = những tấm vàng lá (hoặc bạc) để ghi quyết định thăng cấp bậc cho sư.

      Buổi lễ hôm nay dành thăng thưởng 4 vị: 2 vị từ tiểu (chua) chính thức lên tăng (Phrả Nhoọt Kẻo, cấp 1), 2 vị Phrả Nhoọt Kẻo lên Phrả Lục Kẻo (cấp 2). Tất cả mọi chuẩn bị cho buổi lễ đã sẳn sàng, đúng 9 giờ sáng, có tiếng cồng vang lên báo hiệu giờ hành lễ bắt đầu. Mọi rộn rịp trong khuôn viên chùa bổng ngưng lại, mọi người lần lượt vào ngồi xếp bằng trong hó chẹc, chấp tay trước ngực, đàn ông một bên, đàn bà một bên tách biệt nhau. Người chủ trì buổi lễ hôm nay là một lão tăng đã trên 60, cấp bậc hẳn không dưới cấp 4 (Phra Khu), và là trù trì chùa Phabat Phonesne.

      Sau phần tụng kinh, nghi thức thăng thưởng khá nhiêu khê và một buổi thuyết pháp ngắn, gọn, bốn vị được thăng thưởng đến quì mỗi người trên một viên đá đặt dưới lỗ nước chảy ra từ máng xối bằng thân tre. Hai vò "nước phép" được khiêng ra, sư chủ trì khoan thai múc "nước phép" đổ thẳng lên đầu bốn vị mới được thăng cấp, còn các vị sư khác và các tín hữu (thân bằng quyến thuộc) thì múc nước đổ vào "hang hốt" (máng), nước chảy xuống tưới lên đầu 4 sư cho đến khi đầu ướt nhẹp mới ngừng tay. Nước từ trên đầu 4 sư chảy xuống được các tín hữu hứng vào khánh bạc để đem về làm phép hay làm thuốc ... chữa bệnh. Kế đó 4 sư vào sau bình phong thay quần áo mới, trong lúc đó các sư khác ngồi đọc một bài kinh khá dài. Các sư đọc kinh xong, một Chan (sư hoàn tục) đọc một bài văn soạn sẵn, kể lại thành tích công quả, đạo hạnh của 4 sư cùng những đóng góp của tín hữu, nhờ vậy buổi lễ hôm nay đã được mỹ mãn. Mỗi lần vị tu xuất đọc tên một tín hữu đã đóng góp tiền của cho buổi lễ thì cả cử tọa nói to "Mô tha na" (nghĩa là xin cùng một lòng với việc cúng dàng nầy). Vị tu xuất lại đọc vài câu để tỏ lòng biết ơn. Thay quần áo mới xong 4 sư trở ra, ngồi xuống nhận lãnh vật dụng tưởng thưởng kể trên, bao gồm tiền. 4 sư đồng đứng dậy, quay mặt về hướng cử tọa, sụp quì cúi đầu xuống sát đất để tỏ lòng tri ân, tôn kính đối với giáo hữu.

      Buổi lễ thăng chức kết thúc vào khoảng hơn 11 giờ 30, đúng giờ cơm của các sư (quá ngọ các sư không ăn cũng như không ăn buổi tối). Giới luật Theravada không cấm chuyện ăn mặn (Khẩu Mặn Tâm Chay) nên các sư hệ tiểu thừa không cần phải Giả Mặn, các đầu bếp chẳng cần phải nhập nhằng sáng tạo đồ chay (rau quả) trong chùa mà trông y chang đồ mặn: cũng heo quay, gà xé phay, bò lụi, mắm Thái, tôm chiên lăn bột ... Đủ cả. Trong kiếm hiệp có cấp Vô Chiêu, quanh tôi có cấp Giả Mặn, tôi gọi là Khẩu Chay Tâm Mặn ; có người bảo gọi thế còn phiến diện, chính xác phải là Mặn Chay Bất Biệt Tâm Tâm Pháp.

      BOUN BANG FAY

      Băng Fay có nghĩa là pháo lửa, Boun Băng Fay có thể hiểu thêm là lễ đốt pháo (thăng thiên) được tổ chức rầm rộ hằng năm nhất là ở miệt trung Lào, gắn liền với nghi lễ cầu đảo và hội hè đình đám. Phần lễ do các sư sãi phụ trách là lẽ đương nhiên, là chuyện thường tình nhưng điều lý thú là ở phần hội các sư sãi cũng góp phần không nhỏ vì chính các sư của mỗi làng quanh vùng nơi tổ chức là người chỉ đạo, trổ tài chế tạo ra cái pháo tre khổng lồ, để dân trong làng đó đưa rước ổ pháo tới địa điểm có giàn phóng để thi đua, xem pháo làng nào bay xa nhất. Giàn phóng thường được dựng tạm trên bờ sông Mêkông, hướng phóng chỉa về phía bên kia bờ.

      Khoảng 14 giờ, sau bữa cơm trưa, cuộc đốt pháo bắt đầu. Mỗi nhóm của mỗi làng kiểm điểm lại lần cuối ổ pháo của mình. Vị sư chỉ đạo việc làm pháo chuyển giao quyền điều hành cho một vị cư sĩ được xem là kinh nghiệm nhất nơi ông đang trù trì, sau đó ông đến ngồi nơi khán đài danh dự hướng ra sông Mêkông chờ xem kết quả tài nghề của mình.

      Một cái cầu thang bằng tre cao cũng trên chục thước, dựng thẳng lên tận giàn phóng cũng làm bằng tre, được đặt và cột chặt trên tàng cây cỗ thụ. Nhóm nào đã sẵn sàng là có thể khiêng ổ pháo tới chân giàn phóng, thấp thỏm đứng chờ lịnh của trưởng ban tổ chức việc thi đua, họ không quên hô hê tên làng, tên chùa "của mình". Được lịnh của trưởng ban tổ chức, người điều hành việc đốt pháo và 3 thành viên khác từ từ âu yếm, cẩn thận đưa, chuồi ổ pháo lên từng nấc thang một. Ổ pháo được đặt vào giàn phóng, đầu chỉa thẳng lên trời. Dưới đất, hàng vạn con người đang quây quần như tổ ong, bổng dưng như đồng loạt nín thở, im re, mắt ngước lên ... Ông điều hành rút cây cà-boong (đuốc) gài sau lưng quần ra, bật lửa thắp, chờ cho đầu đuốc tròn ngọn lửa và ...châm vào cái ngòi pháo ! Lửa bén, ngòi cháy, chỉ trong tíc tắc, ổ pháo thở phì phì, cái đuôi "rùng mình"... Lửa xẹt ra đằng sau ... nguyên ổ pháo thoát khỏi giàn phóng, như chớp giật, vút thẳng lên mây, càng lúc càng cao, càng lúc càng xa ... Ở dưới cả vạn cái mồm đồng thanh hú lên như điên dại, nhất là các thành viên "chủ nhân" của ổ pháo vừa được giải phóng: Làng và chùa ta đã thành công, chúng ta sẽ đoạt giải đầu năm nay !

      Rồi ổ pháo thứ nhì, thứ ba, thứ tư... Năm đó tôi chứng kiến 17 ổ pháo được đưa lên giàn phóng và dĩ nhiên, trong thi đua cảnh kẻ khóc người cười là lẽ thường tình, vì không phải ổ pháo nào cũng bay lên, bay cao, bay xa: Tôi đếm có 6 ổ "phản động": 3 ổ vừa thoát giàn phóng đã cắm đầu xuống uống nước sông Mêkông đến chết lịm, 2 ổ vừa bay được hai giây đã nổ tan xác trên không trung và 1 ổ tịt ngòi, nằm vạ trên giàn phóng, làm tội 4 pháo binh đành tiu nguỷu hất của nợ văng xuống sông rồi tiu nguỷu xuống đất, lẻn gọn vào đám đông trong tiếng chế diễu, hô hoán của họ.

      Cuộc đua tài chấm dứt, năm đó làng Na May chiếm giải nhất, nhưng cuộc vui vẫn tiếp tục, nhất là giữa các nhóm có pháo bay xa và 6 nhóm có pháo "phản động". Những câu hỏi diễu cợt, vui vẻ được réo lên : Nhà sư nào là tác giả của ổ pháo tịt ngòi vậy ta ? Ờ ha, ai đã khéo sáng chế mấy ổ pháo chết khát kia thế ? Hai ổ pháo "chết" chưa kịp "cười" là của chuyên viên làng nào vậy ? Rồi cứ thế lần lần các nhóm vừa tiếp tục ca hát, reo hò vừa đưa nhau trở về làng mình...chuẩn bị tinh thần để đối diện với công việc nặng nhọc đang chờ họ ngoài đồng, ngoài ruộng và khấp khởi hy vọng mưa thuận gió hoà để được mùa hơn năm qua.

      Còn tiếp
      kỳ tới: Bến khách ở Khammouane

      Chú thích:
      (1) Phật giáo hệ tiểu thừa ở Lào được chia làm hai:

      a/ Thammayut = Phái bảo thủ, chủ trương thi hành nghiêm chỉnh "thamma" (Phật pháp) và cho rằng chùa là nơi cần sự thanh tịnh để tập trung tư tưởng mà thiền định, tu hành do đó không nên cho tổ chức hội hè hát xướng trong khuôn viên của chùa.

      b/ Mahanikai = Phái cởi mở, chủ trương tiếp xúc với bá tánh, thường tổ chức các Bun ở chùa như trong bài nầy. Đa số chùa ở Lào theo Mahanikai.

      (2) Lễ nầy tên chữ là Boun Kong Hod (Bun Koong Hốt) được tùy nghi tổ chức trọng thể nhân một dịp nào đó. Boun = Lễ, Koong = chỉ số nhiều (ngụ ý chỉ nhiều thành tích, công quả), Hốt = tưới nước.

      (3) Cái lao dự kiến từ 2 triệu rồi nay nhảy lên 10 triệu Euros là gì nếu không là sống trong biển lửa, không là cuồng vọng, không là tham-sân-si, trong khi động lực trước hết và sau cùng đưa đến việc xuất gia là để tránh xa biển lửa, để diệt tham-sân-si. Ừ nhỉ, kể cũng có chút khác biệt giữa "nhất tự tam tứ sư" và "nhất sư tam tứ tự". Bao giờ tới giai đoạn "bán tự vi sư" ? Âu cũng là một cái nghề.


      Hàn Lệ Nhân
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.08.2006 00:37:51 bởi Hàn Lệ Nhân >
      Attached Image(s)
      #33
        Hàn Lệ Nhân 12.08.2006 16:29:05 (permalink)
        Xứ lào: Nửa Trái Tim Tôi 8

        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/4653991560804F27850CDB04C66FFF65.jpg[/image]


        Thakhek - Khammouane

        Mãi sau nầy, trong một lần hàn huyên với Mẹ tôi mới biết mình vốn được Mẹ sinh ra tại Thakhek, thuộc Mương Khammouane, trong xóm số 7, năm Nhâm Thìn. Đến khi tôi được hai tháng tuổi hai thân đưa cả gia đình xuống định cư tại Savannakhet. Thế mà trong giấy tờ lại ghi năm Ất Mùi và sinh quán là Savannakhet. Hỏi ra mới vỡ lẽ : Bấy giờ, việt kiều ở Lào phải đóng thuế thân, do đó hai thân trụt cho tôi ba tuổi, ý là muốn trì hoãn việc đóng thuế cho tôi sau nầy, bù lại tôi chỉ được bắt đầu học i tờ từ năm lên 8 (tuổi thật) thay vì lên 5 như quy định.

        Diện tích Mương Khammouane : 16.315 cs vuông, cảnh quan cheo leo hiểm trở nhưng đất đai lại thuộc hạng phì nhiêu nhất trong xứ ;

        chia thành 9 quận : Thakhek ( thủ phủ ), Mahaxay, Nongbok, Hinboun, Nhommalath, Boualapha, Nakaï, Sêbangfay và Xaïbouathong.

        Dân số : 358.800 người (5, 95% tổng số quốc dân, 2004), gồm các bộ tộc Lào-Thái ( Phouthai, Thái Bô, Thái Sô, Thái Men ...) và Môn-khmer ( Phuan, Tahoï, Ngouan, Tri, Katang, Kh'mú, Maling, Sô...). Người việt trong Mương Khammouane có độ 4.950 người (1,38 %, năm 2004).

        Ngược dòng lịch sử, trong một giai đoạn ngắn, Thakhek là một đồn tiền tuyến của các vương quốc họ Môn-Khmer như Phù Nam và Sheng La với cái tên Pali: Sri Gotabura, tên lào cũ là Si Khottabong.

        Địa danh Thakhek là do thực dân Pháp đặt ra, có nghĩa là Bến Khách, thuộc trung Lào. Khách ở đây, bấy giờ ngụ ý gồm các quan chức thực dân Phú Lăng Sa và các thuyền bè ngoại quốc. Hiện nay Thakhek là thủ phủ của Khammouane với 63.000 cư dân ( người việt khá đông nhưng không có thống kê chính xác), nằm trên quốc lộ 13, cách Vientiane khoảng 360 cs, Borikhamxay chừng 110 cs và Savannakhet độ 174 cs theo hướng nam Lào. Bên kia sông Mêkông là tỉnh Nakhon Phanôm của Thái Lan. Khúc sông nầy ngày nay là cửa khẩu quốc tế giữa hai nước Lào và Thái, du khách có thể xin visa lấy liền tại chỗ. Dự án xây một cái cầu bắc ngang đôi bờ đang được nghiên cứu. Thakhek có nhiều điểm tương đồng với Paksane thuộc Mương Borikhamxay trên phương diện văn hoá và dân số ( đa sắc tộc ). Một phần lớn trong chu vi 3.700 cs vuông của Khu Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Quốc Gia ( NBCA = National Biodiversity Conservation Area / WWF ) Nakaï-NamTheun nằm trong địa phận Khammouane-Thakhek, kề biên giới Lào-Việt.

        Trước 1975 tôi đã đến Thakhek rất nhiều lần, khi dăm ngày, lúc nửa tháng vì hầu hết người việt ở đây, cụ thể trong xóm số 7, đều quen biết gia đình chúng tôi. Bà chị dâu thứ 3 của tôi là người việt Xiêng Vang-Thakhek, hiện ở gần nơi tôi tạm dung tại Pháp. Tôi trở lại Thakhek lần đầu năm 2001 nhân đi dự đám hỏi giữa một người bạn việt tại Pháp và cô cháu của người chị dâu nói trên. Đám hỏi khá rình rang nhưng kết quả không thành, theo tôi, 2 nguyên nhân chính là bởi " trâu già, cỏ non " và " Trương Chi, Mỵ Nương ".

        Lần sau cùng tôi về Thakhek vào tháng 04 năm 2004, có cả bà xã, đi chung xe với các anh chị trong Hội Người Việt tại SV nhân cuộc họp quy mô tại Vientiane giữa các ban đại diện người việt trên toàn xứ Lào.

        Phố chính của Thakhek bao gồm những kiến trúc thời thực dân Pháp để lại, nay đã hiện rõ màu thời gian : hư hao, xuống cấp ; đi vào xóm số 7, nhìn đường xá và cảnh cũ tôi càng buồn cho sự dững dưng của các kiều dân có tiếng khá giả đối với nơi họ sinh sống, thành công từ hơn nửa thế kỷ qua. Âu cũng do " cha nuôi nên chẳng ai khóc ". Đâu mất rồi câu tục ngữ " ăn cây nào, rào cây nấy " ?

        Tuy nhiên, đến Thakhek du khách sẽ được đền bù bằng những cảnh quan khá kỳ thú - nhân tạo có, thiên tạo có - rải rác đó đây trong chu vi trên dưới 20/30 cây số :

        1/
        Bên cạnh chùa Wat Nabô là Bảo Tàng Viện Khammouane do thực dân Pháp tạo dựng từ đầu thế kỷ XX, trong đó, ngoài những súng ống và hình ảnh vang bóng một thời của cái gọi là đi " khai hoá ", còn lưu giữ nhiều đồ sành, sứ và mây, có thứ trên 2.000 năm tuổi.

        2/
        Cách Thakhek 8 cs về hướng nam có chùa Wat Si Khottabong do quốc vương Chao Anou sùng tạo từ thế kỷ XVIII mà nền chùa vốn là một đại tháp từ thế kỷ thứ IX dưới triều vua Nanthasen. Chùa Si Khottabong vẫn nguy nga, sừng sửng. Có thể nói, ở Lào sau 1975, chùa là nơi duy nhất được dân chúng thường xuyên lưu tâm bảo quản, trùng tu.

        3/
        Trên quốc lộ số 8, theo hướng đông dẫn qua thành phố Vinh (Việt Nam), trước khi qua cửa khẩu Cầu Treo, có một địa danh khá nổi tiếng, đó là Lak Sao ( cây số 20 ) với khoảng 24.000 dân số. Lak Sao là một thị trấn nhỏ song trù phú vì là gạch giao thương giữa Lào và Việt Nam, quan trọng nhất là hàng gỗ. Lak Sao còn là một cái chợ lạ lùng vì du khách có thể mua nào gấu, nào ó ... nguyên con, kể cả những thú hiếm khác. Quốc lộ số 8 còn nổi danh nhờ vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ, nguyên sơ chập chùng những đỉnh núi đá vôi, những rừng rậm xanh tốt quanh năm, ẩn hiện những làng mạc của các bộ tộc như Hmông trắng, Thái Men ...

        4/
        Địa thế Khammouane, một phiá là sông Mêkông, ba phía còn lại là núi, là rừng nên riêng chung quanh Thakhek, ngoài NBCA đã được nhắc tới trong bài nói về Paksane (phần 7), cũng có nhiều thác, động, suối rất đáng viếng thăm như:

        A. Thác Kham, thác KhengKham ... ;
        B. Động Nang En, động KhongLo, động Xiêng Liệp, động Pha Ban tam...
        C. Suối NamĐon, suối Sêbangfay ...

        và trong bài nầy, chủ ý của tôi là muốn giới thiệu với bạn đọc:

        1/ Thặm Pà Phả ( Động Phật )

        Cảnh quan mới được phát hiện trong năm 2004: Đó là Thặm Pà Phả trong làng Na Kan Sang cách Thakhek chừng 10 cs, trên quốc lộ 12. Bản Na Kan Sang là một làng mới được thành lập non 30 năm nay, ít ai biết cho tới khi có sự phát hiện của nông dân Boun Nôông. Ông kể lại:

        " Một hôm, lang thang đi tìm bắt dơi, tôi để ý thấy trên dốc núi, cách khoảng 15 thước từ mặt đất, có một cái lổ rộng độ 1,5 thước, tò mò tôi quyết định về nhà lấy cái đèn pin rồi trở lại trèo lên xem may ra có tổ dơi trong đó. Thịt dơi vốn là món khoái khẩu của dân làng Na Kan Sang.Vừa chui qua cái lổ, hướng mắt theo ánh đèn pin về phía dưới, tôi thấy một bức tượng Phật cao chừng 1 thước, hồi hộp tôi đến gần quan sát, tôi biết bức tượng được đúc bằng đồng. Sau đó, tôi lần mò đi sâu vào trong động và càng sửng sốt hơn nữa khi phát hiện thêm trên 200 bức tượng Phật khác, to nhỏ từ 15 phân đến 1 thước, tất cả đều bằng đồng.

        Suốt một tuần, tôi chẳng nói với ai vì vẫn chưa tin được những gì đã thấy, tôi cứ cho là ảo ảnh, tưởng tượng. Một tuần sau, tôi quyết định rũ thêm 9 người bạn trong làng cùng trèo lên xem lại. Các bạn tôi cũng hoang mang không kém. Đến đầu tháng 5, chúng tôi quyết định thông báo cho giới chức địa phương và từ đó tin tức được lan truyền ra Thakhek, lên tới Vientiane rồi khắp xứ và xa hơn nữa ".

        Tổng cộng Thặm Pà Phả có 229 bức tượng Phật bằng đồng, theo khảo nghiệm sơ khởi tất cả có trên dưới 300 năm tuổi. Ngoài ra, trong Động Pà Phả còn có một cái hồ khá lớn, nước màu cẩm thạch - có dự kiến sẽ cho du khách viếng cảnh bằng thuyền - và dĩ nhiên những thạch nhủ đá vôi tuyệt kỹ tương tự các thạch nhủ mà tôi đã được may mắn chiêm ngưỡng trong lòng động Phong Nha Kẻ Bàng.

        Từ là một làng yên tỉnh, Bản Na Kan Sang mau chóng trở nên nổi tiếng, nhộn nhịp khách vãng lai và tự nhiên thành một điểm hẹn linh thiêng của tín hữu Phật giáo khắp nước. Cơ quan du lịch ở Thakhek đã tổ chức, sắp xếp cách quản lý, điều hành trước là để bảo vệ quốc bảo 24 giờ/24, sau là thích ứng và khai thác thêm phạm vi dưới chân núi thành dịch vụ du lịch với sự tham vấn của Tổ Chức Phi Chính Phủ về Phát Triển SNV-Hoà Lan ( ONG/NGO Netherlands Development Organization ), có văn phòng chính thức tại Thakhek.

        Lượng khách lui tới xem báu vật đổ đồng 200 người / ngày trong tuần ; cuối tuần còn nhiều hơn nữa.

        Trong bài nói về LuangPrabang ( Phần 3 ), tôi có nhắc tới Thặm Tìng nơi lưu giữ 8.126 tượng Phật do tín hữu Phật Giáo lần hồi mang đến cúng dường, nên có xuất xứ rõ ràng. Còn 229 bức tượng Phật bằng đồng trong Động Pà Phả hiện là một nghi vấn: Ai là người mang giấu các báu vật nầy ở đây, và từ bao giờ ? Có giả thuyết cho rằng, sau khi đảng cộng sản Pathet Lao giải thể nền quân chủ Lào cuối năm 1975, giới chức cựu trào đã lén mang số tượng nầy về cất giấu ở đây.

        Nhưng dù thế nào, nhờ Phật tín cao độ và tinh thần giản phác lương thiện, thượng tôn quyền lợi quốc gia của nông dân Boun Nôông mà xứ Lào lưu giữ được báu vật của đất nước. Ông xứng đáng được lưu danh trong lịch sử Lào.

        Còn tiếp
        kỳ tới : Làng Việt Nam đầu tiên trên đất Lào


        Hàn Lệ Nhân
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.08.2006 16:33:21 bởi Hàn Lệ Nhân >
        Attached Image(s)
        #34
          Hàn Lệ Nhân 19.08.2006 04:10:43 (permalink)
          Xứ lào: Nửa Trái Tim Tôi 9


          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/B901D3FABCBA4013BACF7E695DB2F58C.jpg[/image]

          2/ Làng Xiêng Vang

          Người Việt ở Lào, có thể không phải ai cũng từng có dịp ghé qua làng Xiêng Vang, nhưng tôi dám khẳng định rằng không ai không quen biết dăm ba người việt trước ở trong làng Xiêng Vang.

          Ra khỏi thủ phủ Thakhek để xuống Savannakhet, theo quốc lộ 13 chạy xe theo hướng nam độ 30 cs bạn sẽ gặp một cái làng người Việt di cư đầu tiên trên xứ Lào, đó là làng Xiêng Vang. Làng Xiêng Vang được chia ra năm khu :

          1/ Xiêng Vang Tảy ( hay Bản Tảy = Làng Dưới,
          còn được gọi là Làng Công Giáo vì hầu hết người việt trong khu nầy theo đạo Thiên Chúa ).

          2/ Xiêng Vang Huội ( hay Bản Huội = Làng Suối ).

          3/ Xiêng Vang Kang ( hay Bản Kang = Làng Giữa ).

          4/ Xiêng Vang Nứa ( hay Bản Nứa = Làng Trên ).

          5/ Xiêng Vang Hạt ( hay Bản Hạt = Làng Bãi Cát ).

          Theo các cụ kể lại, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, để lẫn tránh sự bố ráp của thực dân Pháp, một số đảng viên VNQDĐ và gia đình chạy qua Lào và nơi đầu tiên được người bản xứ đón nhận là làng Xiêng Vang. Đợt thứ hai là trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945 ( chiến tranh Đông Dương 1 ) và đợt thứ ba vào năm 1954 ( chiến tranh Đông Dương 2 ), hai đợt sau người việt mới tản mác ra khắp xứ Lào. Cần phải nói thêm, một phần người việt qua Lào là do bấy giờ thực dân Pháp cần nhiều nhân công làm đường, khai thác mỏ xi-măng, mỏ thiếc ..., kể cả trong lãnh vực hành chánh, giáo dục, quân đội và cảnh sát. Riêng những người Việt qua Lào sau 1975 ( tục gọi người việt mới ) - đợt thứ tư - sẽ được nhắc tới trong bài nói về Savannakhet ( phần 10 ).

          Tựu trung người việt trong làng Xiêng Vang đều đến từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị. Không cần phải kể lại hẳn ai cũng thấu hiểu được nỗi khó khăn, cực khổ dường nào trong bước đầu của cuộc tha phương cầu thực. Khởi đầu người Việt ở làng Xiêng Vang hoà vào với người bản xứ để làm ruộng, làm rẫy, một số rất ít mở các sạp may mặc, làm nghề mộc, nghề nề, buôn bán nhỏ. Sau 1945 người việt trong làng Xiêng Vang bắt đầu lên Thakhek làm ăn, rồi từ thập niên 1960 họ mới bung ra, xuống Savannakhet, chủ yếu lên thủ đô Vientiane. Ai đã từng ở Vientiane khoảng thời gian 1960-1975 đều phải công nhận sự kiện nầy : Nghề may mặc là " nghề " của người việt Xiêng Vang. Khắp thủ đô Vientiane, bất cứ phường nào xóm nào có tiệm may thì chí ít 75% là do người việt Xiêng Vang làm chủ. Nội trên con đường chính Samsenthai, đoạn ThatKhao-Simương, Pangkham-SéngLao, hay Đông Pa Lan – Ban Phai, cũng đã có cơ man tiệm may của họ, tôi còn nhớ tên vài cửa tiệm nổi tiếng thời đó như King Style ( anh Tài-Teo ), NewStyle ( anh Tiến-Long ), Champs Elysées ( anh Tiến Đen ), Au Chic ( anh Viên ), Minh Tailleur ( anh Đương), Audit Tailor ( anh Khiêm-Lý ), HandsomeBoy (?)...

          Sau 1975, cộng đồng người Tàu ở Lào bỏ của chạy lấy người, người việt Xiêng Vang, lớp trên dưới 50 tuổi hiện nay, không để lỡ cơ hội, nhảy vào lãnh vực kinh doanh mới, chẳng hạn ở Thakhek, mặt hàng gỗ, xây cất coi như do họ độc quyền làm trung gian giữa Lào-Việt và Lào-Thái. Còn ở Vientiane, việc may mặc vẫn do họ nắm, nhưng qua nhiều lần đi lòng vòng mua sắm lặt vặt trong khu chợ sáng, tôi lưu ý đặc biệt trên lầu hai và có kết luận mà không sợ nhầm lẫn : 90% tiệm nữ trang vàng, bạc, đá quí ..., truy ra, là do người việt Xiêng Vang điều khiển. Nói truy ra là vì trong giao dịch thương mại họ thường sử dụng tiếng Lào, tôi có hậu ý nên gợi chuyện bằng giọng " Nghệ-Tĩnh " lại cố ý dùng vài chữ đặc thù Xiêng Vang, chẳng hạn " ả " ( chị ), " eng " ( anh ), " mềng " ( mình ), " ngái " ( xa ), nỏ ( không ), chộ ( thấy ) ..., rồi qua giọng và cách trả lời của họ tôi biết ngay họ gốc Xiêng Vang-Thakhek. Tôi hay gọi đùa lầu hai trong chợ sáng Vientiane là Xóm Vàng Xiêng Vang.

          Ngoài ra dưới chế độ hiện hành ở Lào, người việt Xiêng Vang được hưởng một quy chế ưu đãi : Mọi việt kiều gốc Xiêng Vang đều tự động được xem là công dân Lào hợp hiến. Nói rõ hơn, ở Lào hiện nay người việt Xiêng Vang đều mang quốc tịch Lào với tên họ bản địa hẳn hòi. Tại sao ? – Đơn giản thôi, vì hầu hết kiều bào làng Xiêng Vang đều có khuynh hướng thân " ải noỏng " ( cộng sản ) Lào cũng như Việt. Do đó, trong thời gian mấy năm đầu của cuộc thay ngôi đổi chủ ở Lào nói chung, ở Thakhek nói riêng, các bi hài kịch đã xảy ra giữa việt kiều với nhau mà người thủ vai chính và thường trực nghênh ngang trong các " chiến dịch " sách nhiễu, o ép đồng hương lại là một ông người việt Xiêng Vang.

          Vở bi hài kịch " Bảo Hoàng Hơn Vua " đã hạ màn trong thập niên 1980, việt kiều ở Thakhek nay kẻ đi kẻ ở, người còn người mất hẳn đã tha thứ cho ông ta, chứng cớ là ngày ngày ông vẫn sống giữa họ nhưng chắc chắn không bao giờ họ quên thời kỳ quá độ " au kày pà ma pềnh kày khoắn " ( mang gà rú về làm gà vía hay gà thiêng ) ; người Miền Nam VN gọi ba thứ nầy là gì nhỉ ? Bà con tha thứ cho ông nhưng lương tâm - nếu còn - của chính ông, kiếp nầy, có tha thứ cho ông không ?

          Và, làng Xiêng Vang đến 2004 chỉ còn sót lại vài gia đình người việt bám trụ sinh nhai bằng nghề sản xuất bánh phở, bánh tráng ..., đặc biệt loại bánh gai lừng danh khắp xứ ; mươi bô lão ở lại để gìn giữ đất đai, đình làng, hương khói mồ mả thân bằng quyến thuộc.

          Tôi vốn dị ứng với hai chữ Đoàn Kết vì tôi quan niệm khi còn phải nhắc đi nhắc lại mãi hai chữ nầy có nghĩa là chưa có mảy may đoàn kết (1). Người việt Xiêng Vang chẳng cần phải hô hào hai chữ nầy, chẳng cần lập hội, lập hè kiểu đồng hương, đồng cảnh, đồng đạo nầy nọ nhưng trong cuộc sống đời thường họ âm thầm lặng lẻ liên kết cụ thể với nhau trong tinh thần tương dung, tương trợ ... keo sơn đến lạ lùng.

          Xin đơn cử một thí dụ cụ thể thể hiện tính keo sơn lạ lùng đó :

          Năm 1993, một vài anh chị rũ tôi lên viếng tỉnh Roubaix, cách Paris 250 cs theo hướng bắc, ( Nord - Pas de Calais ) không xa biên giới Pháp-Bỉ. Roubaix là một tỉnh lỵ gần thủ phủ Lille, bình thường trên mọi mặt. Nhưng từ thập niên 1980 Roubaix là tụ điểm may mặc chủ yếu của người việt tị nạn gốc Xiêng Vang (2). Các bạn rũ tôi lên đây là để " nói chuyện " với vị sư đầu tiên mới được mời về trù trì " ngôi chùa " đang tượng hình gần trung tâm Roubaix. Nội dung buổi gặp gỡ giữa vị đại đức đặc biệt đó và chúng tôi, tôi đã ghi lại thành một bút ký cười ra nước mắt, nên không nhắc lại ở đây.

          Trước kia khuôn viên chùa Roubaix là một công ty sản suất đủ loại cửa sổ và các loại giấy gói quà. Công ty nầy rao bán cơ ngơi trên báo để dọn đi chỗ khác, thế là anh Hoàng Văn Tiến ( Tiến-Long ), một người việt Xiêng Vang, chủ một công ty may mặc tầm cỡ tại Roubaix, đứng ra kêu gọi bạn bè người việt trong giới may mặc quanh vùng, lập ngay một công ty SCI ( Société Civile Immobilière = Công Ty Dân Sự Bất Động Sản ), năm 1992, mua đứt khuôn viên nầy, sùng tạo thành ngôi chùa khang trang ngày nay ( 2005 ) (3). Công ty SCI gồm 17 tư nhân, 4/5 là người việt Xiêng Vang :

          1/ Bác Đạo ; 2/ Bác Hoà ; 3/ Chị Đính ; 4/ Ông Phát ; 5/ Anh Ngà ; 6/ Chị Tíc ; 7/ Anh Thược ; 8/ Anh Bình ; 9/ Anh Ngọ ; 10/ Anh Minh-Mai ; 11/ Anh Thành ; 12/ Anh Phương ; 13/ Anh Thiện ; 14/ Anh Hải ; 15/ Anh Quí ; 16/ Anh Ét và 17/ Anh Tiến-Long.

          Số tiền khá lớn ứng ra mua khuôn viên làm chùa nay đã được toàn bộ cổ đông phát tâm cúng dường cho chùa và đã bàn giao việc điều hành chùa cho một hội đồng quản trị. Sau 13 năm sinh hoạt, chùa Roubaix chính thức có 3 vị trù trì : 1/ ĐĐ Thích GQ ; 2/ ĐĐ Thích MĐ và hiện nay 3/ ĐĐ Thích Viên Minh ( không kể sự hiện diện trong một thời gian ngắn của ni sư ).

          Cũng trong năm 1992, anh chị Tiến-Long trở về chốn cũ, bỏ toàn bộ tài vật ra lập một ngôi tổ đình khá đồ sộ trong Làng Xiêng Vang ( Làng Giữa ).

          Riêng tại Pháp, tôi đã có dịp góp mặt trong vô số đám khóc, đám cười của người việt Xiêng Vang-Thakhek và đã phải công tâm ghi nhận " sức mạnh " của họ : Miễn là nhận được tin, nhận được thiệp mời thì bất cứ xa xôi, cách trở thế nào họ cũng kéo bồ đoàn thê tử về dự, trừ trường hợp thật sự bất khả kháng. Chỉ cần nhắc tới nhóm chữ Xiêng Vang-Thakhek hình như đã là Bổn Phận Ruột Rà giữa họ với nhau.

          Có người nói " Đàng sau một thành công nhỏ của người đàn ông thường ẩn hiện một cái bóng to lớn của người đàn bà ". Vậy, phụ nữ việt làng Xiêng Vang thì sao ? Tôi không dám trả lời, song :

          Ta đã thấy bản Xiêng Vang độ ấy
          Nằm nghiêng mình khuất bóng dưới rặng tre
          Dòng Cửu Long xuôi mái một trưa hè
          O thôn nữ ngẩng nhìn người khách lạ

          Bản Xiêng Vang vài mươi ngôi nhà lá
          Chiếc cầu gòn đưa đón khách qua giang
          Nắng và mưa một lối nhỏ đến làng
          Chia đôi ngả bản trên và bản dưới

          Bản Xiêng Vang bừng lên cơn nắng mới
          Gió rì rào trên vườn thuốc xanh non
          Vài ba o thôn nữ dưới lối mòn
          Tay hái thuốc miệng mĩm cười thắm đẹp

          Bản Xiêng Vang ngôi giáo đường nhỏ hẹp
          Đã in hình bao chứng tá Đức Tin
          Đã vươn lên trong chiến thắng quang vinh
          Bằng tử đạo trổ mừng hoa Chân Phúc

          Xiêng Vang ơi, biết bao đời công sức
          Cho cánh đồng trổ mạ lúa xanh tươi
          Cho cơm no áo ấm tiếng vui cười
          Cho đàn trẻ ê a ngồi tập đọc

          Ôi Xiêng Vang, ôi tâm tình mời mọc
          Khách qua đường lỡ bước tạm dừng chân
          " Có cụ già trước ngõ dáng ân cần
          Vào đây cháu kẻo ngoài tê sương gió ! "

          Lòng ta nhớ Xiêng Vang thôn bản nhỏ
          Những chân tình mộc mạc của dân quê
          " Nhớ cô em buông xoã mái tóc thề "
          Ta nhớ quá Xiêng Vang tình xanh mướt

          Xiêng Vang ơi ! hai mươi năm xuôi ngược
          Giờ có còn thuận dòng Cửu Long Giang ?
          Thuốc còn xanh, vườn cây có thẳng hàng ?
          Tình em gái còn thơm mùi cơm mới ?

          Có những hôm giữa đường đời đứng đợi
          Ta bỗng mừng gặp lại dáng em xưa
          Khói lam lam trên mái rạ chiều mưa
          Vẽ lên một bầu trời ta thương nhớ

          Biết răng chừ được trở về bên nớ
          Ấm nắng hồng trên bãi cát năm xưa
          Uống cạn dòng sông Cửu để cho vừa
          Cơn khát cháy hai mươi năm cách biệt

          Chừ giờ đây bên phương trời giá tuyết
          Ta gói tâm tình, nỗi nhớ vào thơ
          Gửi về Xiêng Vang thôn bản mộng mơ
          Nơi cất giữ hương thơm tình non nước.

          ( XIÊNG VANG TRONG NỖI NHỚ
          Nhật Tảo Phan Tình
          Thung lũng dòng Rhône, 02/02/1996
          Trích giai phẩm Nhịp Cầu Thân Hữu,
          Xuân Đinh Sửu – Villiers Le Bel – Pháp,1997 )

          và ai đó đã hạ bút :

          Kiếp sau trở lại dương gian,
          Chỉ xin cưới được một nàng Xiêng Vang !

          Hàn Lệ Nhân

          ( Còn tiếp )
          kỳ tới : Savannakhet : Nơi chốn tìm về

          Chú thích

          (1) Nhân thể tôi nhớ lại trong thập niên 1980, ở một vài nơi trên thế giới, 2 cặp chữ Yêu Nước - Nhân Dân nhan nhản khắp phố phường, làng xóm, góc cùng hẻm tận ; đâu đâu tối thiểu cũng ghém vào kỳ được 1 cặp : Thứ gì không yêu nước thì là của ( chứ không phải cho, không phải vì ) nhân dân hay ngược lại. Thế rồi, rụp một cái, không đèn không trống, tất cả đều biến mất trên " thị trường ".

          Theo quan điểm đối với hai chữ Đoàn Kết, tôi mừng lây vì đinh ninh từ rày mấy nơi đó tất cả đều yêu nước, tất cả đều là của nhân dân ( nhân dân là ai, thế nào là nhân dân ? lại là chuyện khác). Ai dè, có người nhắc : Không biến mất tuyệt đối 100% đâu vì còn tên tờ báo !

          (2) Thời hoàng kim trong ngành may mặc của cộng đồng Á Châu tại EU nói chung, tại Roubaix - Pháp nói riêng, đã đi qua bởi hai bước ngoặt chí mạng :

          A/ Luật lao động từ 40 giờ / tuần xuống còn 35 giờ / tuần tại Pháp từ năm 2000 ;

          B/ EU và Hoa Kỳ bãi bỏ chính sách Quota trên mặt hàng quần áo nhập từ Trung Quốc từ năm 2004.

          Bước ngoặt A đã đẩy các đại công ty may mặc dời cơ sở sản xuất qua các nước Bắc Phi như Tunisie, Maroc ...hay Turquie, Việt Nam vì nhân công ở đấy vừa rẻ vừa làm nhiều giờ / ngày. Ngoài ra, thợ may người việt ở Pháp đành bó tay chịu trận với việc phá giá của người Tàu gốc Quảng Châu, đã - đang tràn lan và làm mưa làm gió trên đất Pháp, mấy năm trở lại đây.

          Bước ngoặt B đã tạo nên cơn " Hồng Thủy " y phục Made in China trên toàn EU và Hoa Kỳ. Do đó, hàng loạt các cơ sở sản xuất quần áo của người việt Xiêng Vang nói riêng tại Roubaix đã phải đóng cửa, hiện nay ( 08/2005 ) chỉ còn vài tiệm ngo ngoe cầm hơi, chờ thời. EU và Hoa Kỳ đã có phản ứng sơ khởi và tôi mong rằng chóng có giải pháp thích nghi kịp thời trước khi ngành may mặc trên đất nước họ chết chìm trong cơn Hồng Thủy Made in China.

          (3) Chùa Kim Sơn, 113 rue Daubenton, 59100 Roubaix – France : (00-33) 03 20 26 34 24. Từ 1998 chùa Kim Sơn có tên là Chùa Hộ Quốc, tên nầy theo chỗ tôi biết do cố Hoà Thượng Thích Trung Quán ( 09/06/1918-01/04/2003, Chùa Hoa Nghiêm, Villeneuve-le-Roi, Pháp ) trích đặt từ " nhân vương hộ quốc " bát nhã kinh. Nhân Vương là tên ngôi chùa ở Troye, Pháp.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.08.2006 04:11:59 bởi Hàn Lệ Nhân >
          Attached Image(s)
          #35
            Hàn Lệ Nhân 27.08.2006 04:54:50 (permalink)
            Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 10


            [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/55DF98202DBF4DE78CBD52525FBD950A.jpg[/image]


            Savannakhet

            Sau một loạt 9 bài từ miền Bắc xuống đến Khammouane-Thakhek xứ Lào, đến đoạn sẽ viết về Savannkhet, bài số 10 nầy, tự dưng tôi bị khựng lại, lay hoay mãi, trong khi đây là đất và người mà tôi thân thuộc từ thuở còn nằm trong nôi, qua thời vọc đất, tắm sông, đến thời lần đầu vỡ lòng biết tự làm khổ vì người khác phái trong trường lớp cũng như ngoài đời, chí đến bây giờ tóc đã chớm rẻ hai màu. Tôi cũng đã có ý định không dừng lại Savannakhet mà, từ làng Xiêng Vang, theo xe đò ù thẳng xuống Saravane, Paksé, Sékong, Champassack, Attapeu … rồi mới quay trở về Savannakhet, lấy đây làm trạm cuối của cuộc du hành. Thế nhưng, tôi không sao vượt qua Savannakhet được, nói cách khác là tôi vượt chính tôi không nổi, bốn chữ Sa-van-na-khet, Sa-van-na-khet … không ngớt vang vang trong đầu, mỗi lần tôi mở MS Word định gõ bài khác. Rồi, non mười ngày sau, nhân đọc lại một bài tùy bút của mình trên một trang Web, tôi mới tạm hiểu tâm trạng lấn cấn của mình, đó là " không phải vì tình riêng mà khó giải, chỉ vì tình thiêng nên khó bày " cụ Đông Hồ nói vậy.

            Savannakhet cách Vientiane 487 cs hay 140 cs từ Khammouane-Thakhek, là tỉnh lớn thứ nhì của xứ Lào, với :

            Diện tích : 21.774 cs vuông

            Dân số : 824.662 người ( 15,16 % tổng số quốc dân, 2005 ) bao gồm nhiều bộ tộc như :

            * Nhóm Lào-Thái : 72,85 % ( Lào = 52,20 % ; Phou-thay, Thay Đăm = 20,65 % ) ;

            * Nhóm Môn-Khmer : 19,63 % ( Katang = 7,57 % ; Mang-kong = 6,29 % ; Tri = 3,25 % ; Pa-kô = 1,45 % ; Tà-Ôi = 0,66 % ; La-vè = 0,41 % … và La-vi, Suôi, Brou, Ta-liêng, Ka-tou, Ka-lơng ).

            * Người Việt : 2823 người (trong thủ phủ Savannakhet, 2005).

            Trước khi Pháp chiếm xứ Lào, Savannakhet có tên là Souvannaphoum, do hoàng thân Keo Simphali thành lập từ 1642.

            Savannakhet chia ra 15 mương : 1. Khanthabouli ; 2. Atsaphone ; 3.Vilabouli ; 4. Outhoumphone ; 5. Atsaphanthong ; 6. Xê-Pôn ; 7. XayBouli ; 8. Champhone ; 9. Xônbouli ; 10. Phine ; 11. Songkhone ; 12.Tha Pangthong ; 13. Nông ; 14. Tha Phalangxay và 15. Xay Phouthong.

            với tổng số 1.502 làng lớn nhỏ khác nhau.

            Hiện nay Mương Khanthabouli là tên hành chánh chính thức của Savannakhet (còn được gọi tắt là Mương Sà-vắn). Savannakhet vừa là tỉnh, vừa là thủ phủ của vùng. Theo cách hiểu của riêng tôi, Savannakhet gồm hai chữ Sanskrit được Lào hoá: Svarna = trời và Khetta = ranh giới (1), do đó trong một số bài tôi đã thi vị hoá thành Ngưỡng Cửa Thiên Đường, tức nơi đây, theo tôi, chưa phải hay chưa thể là thiên đường dẫu là thiên đường hạ giới theo nghĩa phổ thông, hiểu vội ; ngoại trừ hàm ý của dự phóng, của viễn mơ và với chút cụ thể, của tình người với người.

            Kiến trúc thủ phủ Savannakhet ngày nay được ông Prosper Odend'hal (1867-1904) hoạch định từ năm 1894, dưới thời Pháp thuộc, hiện có độ 125.000 cư dân, chủ yếu là bộ tộc Lao-lùm (người Lào miệt đồng bằng) và bộ tộc Thay-Đăm (Thái đen). Trước 1975, phố chính của Savannakhet nằm trên con đường số 1, kế bờ sông Mêkông, hoàn toàn do người Tàu và một ít người Việt nắm giữ, nơi có 2 rạp ciné mà ai ai cũng biết : rạp Lao Chaleun (chủ người Tàu ) và rạp Nang Lịch (chủ người Việt : Bác Cảm - đã qua đời - và cô con gái là chị Thục hiện tị nạn tại Pháp). 30 năm sau, qua 7 lần về thăm, tôi đã phải lén thêm 1 con số 0 vào con đường số 1 ngày nào (nay là đường Thà Hè) và các nẻo đường bao quanh cũng như nhà cửa trong phố chính, khi chính mắt tôi chứng kiến sự hờ hững của con người trước sự vô tình nhưng rất công bình của bước thời gian. Thêm một lần nữa, tôi trộm tự an ủi " âu cũng bởi cha chung nên không ai chịu khóc trước ".

            Hiện nay trung tâm sinh hoạt ở Savannkahet được dời ra hướng đông, phiá Ban Thôông = phía đồng ruộng, phiá sân bay, đặc biệt các cửa tiệm trên con đường huyết mạch mới Ratsavong, hầu hết do người Lào gốc Việt (cũ) làm chủ. Nền kinh tế của Savannakhet nói riêng, sau 1975, phải công tâm nhìn nhận là do con rồng cháu tiên nắm giữ, ít ra cũng cho tới khi tôi viết những dòng chữ nầy.

            Trong lòng thủ phủ Savannakhet không có thắng tích lừng danh như ở LuangPrabang, Xiêng Khoáng, ngoại trừ :

            1/ cảnh quan trong ngôi chùa cổ nguy nga Vat Sayaphoume ven sông Mêkông, được sùng tạo từ năm 1542, với một tăng đoàn hơn 200 vị. Vat Sayaphoume nổi danh khắp xứ là trường Phật Học Phạn Ngữ đào tạo tăng sĩ đệ nhị cấp. Có thể kể thêm khuôn viên ngôi chùa Rattana hay Vat Thôồng (chùa ngoài ruộng) nằm phía sau lưng căn nhà cũ của tác giả.

            2/ Ngôi nhà thờ Ki Tô giáo khá đồ sộ do thực dân xây cất trong thịnh thời của cái gọi là Đông Dương Thuộc Pháp.

            3/ Ngôi chùa Bảo Quang do người Việt di cư lớp đầu tiên tôn tạo trong đệ nhị thế chiến.

            4/ Ngôi chùa Diệu Giác cũng do người Việt tạo dựng, dành cho ni sư.

            5/ Bảo Tàng Savannakhet vốn là ngôi biệt thự thời Pháp nơi chưng bày một số vũ khí và hình ảnh của vang bóng một thời oanh liệt chống Mỹ cứu nước của Pathet Lao, và còn lưu giữ trọn bộ xương của một giống khủng long (Dinosaure), dài 15 thước nghe nói có tới 90 triệu năm tuổi, do nhà địa dư học người Pháp, Josué Heilmann Hoffet (1903-1945) phát hiện trong địa phận bản TangVay, mương PhaLan thuộc Savannakhet năm 1936, nên mang tên TangVayosauros Hoffeti.

            Song, ngoài chu vi Savannakhet thì lại có khá nhiều cảnh quan đáng bỏ thời giờ viếng thăm :

            1/ That Ing-Hang (Tháp Ing-Hang)

            That Ing-Hang cách Savannakhet đúng 15 cs theo hướng đông bắc đi Séno (sê-nô), đến cs 12 quốc lộ 9, rẻ phải thêm 3 cs nữa là vào Bản Thạt (Làng Tháp). Ing-Hang gồm hai chữ, Ing (đọc ìng) = Dựa , Hang = một loại cây. Truyền thuyết kể rằng xưa trên đường đi thuyết pháp Đức Phật có ghé qua địa phận nầy, ngài có dựa vào gốc cây Hang nghỉ ngơi, do đó tín hữu mới dựng một cái tháp lưu niệm. Tháp Ing-Hang ngày nay được trùng tu, mở rộng thành một quần thể năm 1548 tức cùng thời với quần thể That Luang ở Vientiane, dưới triều vua Say Setthathirath. Mỗi năm đều có một lễ hội (boun) được tổ chức khá rầm rộ suốt 3 ngày trăng tròn tháng Giêng lịch Lào (nhằm tháng Chạp hay tháng Giêng DL).

            Thuở còn bé tí, hàng năm tôi đều được các anh chị đưa đi chơi lễ hội That Ing-Hang. Đến tuổi vỡ lòng yêu cho tới lúc ra đi, năm nào tôi cũng đi dự lễ hội với một người. Nội dung cùng hình thức tổ chức lễ và hội That Ing-Hang tựu trung tương tự lễ hội tại các bản mường nơi khác, nghĩa là phần lễ thể hiện cao độ Phật tín, phần hội gồm các mục ẩm thực, vui chơi, đua tài, văn nghệ lành mạnh, không có sự sổ sàng trong các câu hò, câu lăm hay mục diễn hành các biểu tượng âm-dương hàm ý phồn thực như trong lễ hội Boun Băng Fay đã được lược kể trong bài về Paksane, phần 7.

            Từ thời CHDCND Lào mở cửa, mỗi lần về Savannakhet tôi đều tìm dịp một mình ra Bản Thạt vài lần, dẫu không nhằm mùa boun nào cả, cũng chỉ để vẽ lại bằng tâm tưởng thời vô tư xốc nổi, đẹp và khắc nhớ nhất : nhúng chân xuống hồ Noóng Lôm đầy đỉa đói ngày xưa thường trốn Cậu, Mẹ theo các bạn ra đây lội bắt cá lia thia đem về cho đá nhau chí tử. Một người trên bờ. Một người dưới nước. Một già một trẻ nhìn nhau qua mặt hồ gờn gợn sóng, lặng lẻ không lời, chẳng ai chịu lên tiếng trước vì cả hai - người và bóng - đều thấu hiểu lên tiếng lúc nầy là thừa, cứ mặc kệ con tim chơi trò cút bắt với không và thời gian cũ-mới, mới-cũ : Những thằng bạn thời tiểu học Lạc Hồng từng đánh đáo, bắn bi, chơi tạt ; từng rũ nhau ra hồ nầy vớt cá đá ..., sau 1975, buồn đời, thất chí nên nối đuôi theo rượu đế ra ngủ luôn ngoài nghĩa địa, hầu hết đều ở tuổi 45. Nào Mượn-Cọt, Trâu-Chút, Lượm-Bích, Quang Cận, Sáng-Thọ, Tư-Tương, Cu Lớn, Ký Nọi ... Thơ thẩn những nơi đã bao lần sánh bước, thủ thỉ cùng ai, quỳ mặc niệm ngay chỗ đã từng cùng ai thề non, hẹn biển ; vuốt ve gốc cổ thụ chứng nhân của nụ hôn run rẩy đầu tiên ; quay đi quay lại tiếng ai cười nồng hương hoa sứ : Hương vẫn chưa tan, bạn cũ giờ đâu !

            Vết cắt rồi cũng đã lành
            Mà sao vết sẹo rành rành trong tim !
            ( Chiều Buồn, Trần Thị Hà Thân )

            Hội chợ Ing-Hang sắp tới được dự định tổ chức từ ngày 12 đến ngày 14 tháng Giêng năm 2006 (DL), sẽ có tầm vóc rộng lớn hơn những năm trước vì có sự tham gia của ba lân bang liên quan tới hai đề án vĩ mô đã và đang được ráo riết tiến hành tại Savannakhet từ 2003 : 1/ Đặc Khu Kinh Tế (Special Economic Zone, SEZ) ; 2/ Hành Lang Kinh Tế Đông Tây (East West Economic Corridor, EWEC), sẽ nói thêm ở đoạn sau.

            2/ Hươn Hín (Nhà Đá)

            Từ lớp đệ tam (lớp 10) thời trung học Pháp-Lào tại Savannkahet tôi vốn rất làng xàng trong các môn học trừ môn Pháp văn và môn triết là khả dĩ tàm tạm gọi là do đó được ông thầy môn Pháp văn là René Dubois để ý. Cuối niên học 1972, trước khi về Pháp nghỉ hè, thầy Dubois rũ tôi đi viếng cảnh làng quê quanh Savannakhet, cùng đi có cả thầy sử địa về nước Pháp tên Jossël và một người bạn cùng lớp tên InPeng, đệ tử gạo của thầy. Thầy Jossël chẳng mấy ưa tôi chỉ vì tôi có cái tật cứng đầu không chịu làm bài khảo theo lối " à la lettre " (từ chương, học gạo) mà thích nắm ý chính của các bài học rồi phóng tác như viết tùy bút, đoản văn, nghĩa là hoàn toàn sai nguyên tắc hàn lâm ... của ông, thành thử suốt thời gian học với ông Jossël, đến Terminal (lớp 12), chẳng bao giờ tôi được quá 8 điểm trên 20 cả.

            Cảnh quê hai thầy muốn đến là Bản Đôồng Đoọc Mảy (làng đồng hoa) cách Savannakhet độ 65 cs xuôi theo hướng nam thuộc mương Xay Phouthong là nơi mà theo tôi cho đến ngày nay, không phải cư dân nào ở Savannakhet cũng biết và nhất là tò mò chịu khó đặt chân tới. Thế mà 33 năm trước, hai ông tây lại biết và đã lặn lội tìm đến với cổ vật hiếm hoi nằm trên xứ Lào. Trong Bản Đôồng Đoọc Mảy có một di tích là ngôi nhà (hay chùa) hoàn toàn dựng bằng đá nguyên khối sắp chồng lên nhau chẳng khác gì loại đá và lối kiến trúc chùa Vat Phou (chùa trên núi) miệt Champassack, cực nam Lào. Sau nầy tìm hiểu thêm tôi mới biết Hươn Hín được tạo dựng từ năm 553 trước CN, theo kiến trúc Chàm hay tiền Angkor.

            Trở lại Bản Đôông Đoọc Mảy năm 2001, rồi năm 2004, tôi thấy toàn cảnh làng không còn trầm lặng như xưa nữa. Cung cầu du lịch đã thay da đổi thịt thiên nhiên và con người nơi đây. Khách viếng tuyệt đại đa số là người da trắng. Hươn Hín vẫn nghi ngút nến nhang. Có điều cá nhân tôi không thể tiếp tục gọi Hươn Hín là di tích như các hãng du lịch vẫn cố ý lườn lẹo trong quảng cáo, mà xin thẳng thắn nhận định rằng, trước sự dửng dưng hay vì do chưa ý thức được chân giá trị cổ vật của người dân bản địa, vài năm nữa Hươn Hín sẽ đành phải cam chịu số phận biến thành phế tích như phế tích Mỹ Sơn mà tôi đã có dịp thấy tận mắt và quay phim, cũng vào năm 2004.

            Còn tiếp
            Kỳ tới : Savannakhet 2

            Chú thích:
            (1) Dictionnaire Laotien-Français của Marc Reinhorn, Tập 1 trang 487, CNRS xb & ph 1970, Paris. Một vài tài liệu Pháp-Anh dịch Savannakhet thành Territoire Paradisiaque (Địa đàng) ; The land of fertility suitable for Agriculture (vùng đất phì nhiêu cho canh nông).
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.08.2006 05:04:01 bởi Hàn Lệ Nhân >
            Attached Image(s)
            #36
              Hàn Lệ Nhân 05.09.2006 20:28:28 (permalink)
              Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 11

              Hàn Lệ Nhân

              [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/03D6C50A808140ECA323653D39956FA1.jpg[/image]

              Chung Quanh Savannakhet

              Địa thế Savannakhet nằm thoai thoải theo dòng Mêkông, nhìn chung thuộc dạng đồng bằng, do đó từ thuở nảo thuở nao đã là vựa lúa quan trọng cho cả xứ Lào. Bên kia sông, hướng tây, là tỉnh Moukdahane của Thái Lan ; theo hướng đông qua Mương Phine, Mương Xê-pôn (Tchépone), gặp đèo Lao Bảo là biên giới Lào-Việt. Mấy năm trở lại đây, Savannakhet có hai ngỏ ra vào xứ Lào dễ dàng vì du khách có thể xin visa lấy liền tại cửa khẩu Lao Bảo-Dansavanh hoặc Moukdahane-Savannakhet, 30$ cho 15 ngày/người.

              Quanh địa phận Savannakhet trên dưới 170 cs, có nhiều rừng rậm được liệt thành Khu Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Quốc Gia như Dong Xang Hae National Biodiversity Conservation Area (NBCA), Dong Phu Vieng National Biodiversity Conservation Center (NBCC), Bane Don Muang Primate Conservation Area (PCA), Mai Te Kha Nature Trail (MTKNT) với nhiều thú hiếm như cọp, voi, gấu đen á châu (asian black bear), mèo vàng á châu (asian golden cat), bò tót á châu ( asian bison hay gaur), 15 loài chim lạ, các loại cây thơm quí như Lôồng Lềng ...

              Hành Lang Kinh Tế Đông Tây (EWEC)

              Với lợi thế nằm giữa hai nước Thái Lan và Việt Nam như vậy cho nên sau chiến tranh 1975 Savannakhet đã là trục giao thương tối trọng cho cả 3 nước. Theo đà phát triển đa chiều về giao lưu kinh tế, thương mại, viễn thông, năng lượng càng ngày càng lớn mạnh, đặc biệt trong tiểu khu vực sông Mêkông khuyếch đại (Great Mekong Subregion, GMS), một Hành Lang Kinh Tế Đông Tây (East West Economic Corridor, EWEC), bao gồm cả Miến Điện (Myanmar), dài 1.450 cs đã ra đời từ 2003, dự trù sẽ hoàn tất năm 2006/2007 và Savannakhet là trục quan yếu.

              Đặc Khu Kinh Tế (SSEZ)

              Mục tiêu và tiến triển của tổng thể EWEC không là trọng tâm của loạt bài nầy, tôi chỉ xin sơ lược những gì liên quan tới EWEC mà tôi đã thấy thực hiện tại Savannakhet và Đà Nẵng.

              Một cái cầu Hữu Nghị Lào-Thái dài 1.600 thước, trị giá 75 triệu USD do liên doanh giữa hai quốc gia Lào, Thái và Ngân Hàng Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản (Japan Bank of International Cooperation, JBIC) đã và đang bắc qua sông Mêkông, nối liền Savannakhet và Moukdahane, khởi công từ 2003, dự trù sẽ hoàn tất vào cuối 2006, nhưng chiều ngày 22/07/2005 vừa qua đã xảy ra tai nạn đứt cần trục, một đoạn cầu bị xập, làm 11 người chết hay mất tích gồm 3 người Nhật, 8 người Lào, Thái và 7 người bị thương ; hạn kỳ do đó có thể bị ảnh hưởng.

              Hạ tầng cơ sở nồng cốt phía Savannakhet trên đà được gấp rút sửa sang cho phù hợp với nhu cầu mới, chẳng hạn tuyến đường số 9 tại Savannakhet chạy tới Séno, qua cửa khẩu DanSavanh-Lao Bảo rồi thẳng đến hải cảng Đà Nẵng, xây các tuyến đường nhánh tạo tiện lợi cho các vùng nông thôn gần đó, Lào cũng như Việt ; đóng cửa sân bay nội địa Savannakhet để trùng tu, mở rộng thành sân bay quốc tế...

              Một tuyến đường dài 140 cs từ hầm Hải Vân chạy tới Cam Lộ (Quảng Trị) để nối vào với quốc lộ 9 phía Lào đã làm xong.

              Để khai khác triệt để địa thế trung tâm của mình trong EWEC, chính phủ CHDCND Lào đã quyết định tạo nên một Đặc Khu Kinh Tế Savan-Séno ( Savan-Seno Special Economic Zone, SSEZ). ĐKKT nầy nằm trong địa phận Savannakhet, gồm 2 địa điểm : Savannakhet và Séno.

              * Địa điểm A rộng 305 héc-ta nằm ngay dưới chân cầu Hữu Nghị Lào-Thái, thuộc phường Na-Kè ;

              * Địa điểm B rộng 200 héc-ta nằm trong thị xã Séno, cách Savannakhet 30 cs trên quốc lộ 9.

              Séno là địa danh được ghép lại từ bốn phụ âm đầu trong bốn chữ Pháp : Sud, Est, Nord, Ouest (Nam, Đông, Bắc, Tây). Séno trước kia là căn cứ không quân của thực dân Pháp, chia thành Séno trong và Séno ngoài. Séno là trục chuyển tiếp giữa quốc lộ 9 và quốc 13. Người Việt ở đây khá đông, hầu hết là công nhân viên của Pháp đến từ Việt Nam. Năm 1954, Pháp rút khỏi Đông Dương, một số người Việt ở lại quây quần, sinh hoạt khá trù phú như một làng Việt Nam. Sau 1975, người người ly tán, Séno trở nên xập xệ, thưa vắng. Nay nhờ có dự án EWEC và SSEZ nên Séno đã bắt đầu khởi sắc trở lại.

              Sinh hoạt kinh tế trong SSEZ mà chúng ta có thể thấy ngay là 1/ chế biến vật liệu nông lâm (thô) để xuất khẩu ; 2/ Tự do trao đổi hàng hoá ; 3/ Tự do dịch vụ và vận chuyển (bao gồm du lịch, ngân hàng và các sinh hoạt khác).

              Ai cũng hiểu rằng, để thực hiện những dự án đa chiều, đa dạng, đa văn hoá ... nêu trên, CHDCND Lào phải mời gọi đầu tư từ bốn phương, do đó, đây là cơ hội chính phủ cần khẳng định sự thông thoáng nhiều hơn nữa trong chủ trương, chính sách nói chung (tất nhiên là trừ hai chữ đa nguyên) và đặc biệt một khi bộ máy EWEC và SSEZ đã thực sự chuyển động thì chớ để nảy ra chuyện " trên thông, giữa nghẹt ", " luật vua thua lệ làng " như vẫn thường xuyên diễn ra đó đây.

              Xê-pôn (Tchépone)

              Mỗi lần trở về tôi đều có ý định đi Xê-pôn một chuyến để được tận mắt thấy địa danh lẫy lừng thế giới là đường mòn HCM (1959-1975) nhưng đến nay mộng vẫn chưa thành, tóm lại là do gia đình và bạn bè khuyên cản. Năm 2004, đi Việt Nam qua ngả DanSavanh-Lao Bảo, tôi gợi lại ý muốn trên, anh tôi bảo " chẳng thấy gì đâu, cây cối khuất lấp cả rồi vả lại rất nguy hiểm vì khúc đường nầy còn là bãi mìn chưa nổ ". Nhưng Xê-pôn còn ẩn chứa một thứ khác mà ai cũng mơ : Mỏ vàng !

              Mỏ vàng tại Xê-pôn được khoán cho công ty hữu hạn Oxiana Ltd của Úc Đại Lợi khai thác từ 2002, có 20% cổ phần của đại công ty khoáng chất Rio Tinto (Úc). Oxiana ước tính tổng số vàng tinh lọc được ở Xê-pôn, qua hợp đồng 12 năm, trị giá là 1 tỷ USD, ngoài ra quanh đó còn có mỏ đồng mà Ngân Hàng Đầu Tư Âu Châu (BEI) dự kiến thu hoạch lớn hơn nhiều. Theo tài liệu tôi đọc, 99% tổng lợi nhuận thu được từ các mỏ sẽ theo Oxiana và các công ty có phần hùn chạy về Úc hay ra ngoại quốc, bao nhiêu phần lợi nhuận còn lại sẽ ở lại xứ Lào cọng thêm 36 triệu tấn (36 millions de tonnes) phế vật cực độc hại do dùng hoá chất sulfurie + cyanure trong các công đoạn tinh lọc (lixiviation en tas au cyanure). Ai sẽ giúp tiêu thụ cho tiệt đống di sản khổng lồ nổ chậm thứ nhì nầy khi dân số Lào vỏn vẹn có 6 triệu ?

              Chi tiết có ở đây :

              http://www.foei.org/fr/publications/link/mining/12case.html

              http://www.aidwatch.org.au/index.php?current=68&display=aw00291&display_item=1

              http:// www.foei.org/publications/pdfs/laos.pdf

              http://www.fern.org/pubs/briefs/sapon_FOE.doc

              Còn tiếp
              Kỳ tới : Savannakhet 3
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.09.2006 20:31:17 bởi Hàn Lệ Nhân >
              Attached Image(s)
              #37
                Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 37 trên tổng số 37 bài trong đề mục
                Chuyển nhanh đến:

                Thống kê hiện tại

                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                Kiểu:
                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9