Truyện Ngắn Lã Mộng Thường
lamongthuong 09.12.2016 12:15:09 (permalink)
 
Thiên Đường Ước Mơ
 
Chiếc rổ sút vành méo mó tựa nét cười khinh bỉ quất vào tầm mắt khi tôi cầm ly trà nóng lững thững bước dọc theo đường mòn dẫn ra bến ghe. Ngay bên cạnh, một em bé gái đang vơ lá khô mới rụng hồi đêm rải rác dưới những gốc cây. Tay trái vẫn khư khư cầm ly trà, tôi với tay kia bẻ mấy cành khô nơi bụi dâm bụt, góc đất nhà người bạn sát lề đường, đoạn bỏ vô chiếc rổ ọp ẹp, trong đó chứa chừng phần ba, những chiếc lá vàng úa còn đậm mang màng hơi sương sớm của một ngày mới...
- Con xin cám ơn cô!
- Không có chi!
Đoạn tôi học theo em bé dùng một tay vơ những lá khô rụng từ mấy bụi cây bên đường của ai đó để dành chờ cho lớn dùng làm cột nhà sau này. Ái da! Tôi khẽ kêu vì đụng phải gai... Dăm chiếc gai móc ngoèo khô, nhỏ li ti, thường được gọi là "móc mèo" cắm ngập nơi hai đầu ngón tay trỏ và giữa...
- Cô đừng vơ lá, mấy dây gai sẽ làm sứt bàn tay đẹp của cô. Cứ để con vơ... tay con chai rồi nên chúng không làm gì được...
Lời chân tình ngọt ngào pha lẫn xót thương được thốt lên từ cửa miệng em bé xinh xắn chẳng khác gì nhát dao xuyên thật ngọt vào lồng ngực tôi. Tim tôi nhói đau, nỗi đau tê tái mà cái đau da thịt không thể nào tràn lấp được. Sau khi nhổ gai, tôi cẩn thận vơ mấy cọng lá khô bỏ vào chiếc rổ, hớp ngụm trà ấm mà lòng tiếp tục dội lên niềm nức nở khôn nguôi! Tương lai đất nước tôi, tương lai dân tộc tôi... "Tay con chai rồi nên chúng không làm gì được..." Em bé tuổi đời chưa kịp lớn mà đôi bàn tay đã vội trở thành chai đá hầu chặn đứng tương lai một kiếp người! Tay con chai rồi...
Tiết trời lành lạnh của buổi sáng tạo cho tôi thích thưởng thức hương vị trà tươi. Còn gì thú hơn ngụm trà nóng khi cơ thể cảm thấy hơi gai gai vì lạnh... Thế mà em bé chỉ mặc một chiếc áo nâu bạc, đôi tay áo sờn rách nhiều chỗ có lẽ do vướng phải gai khi vơ lá khô. Dáng người em xinh xắn, tay chân nhậm lẹ chuyển động dưới đôi màu thường thấy chốn dân quê, chiếc quần dài đen và chiếc áo nâu, cả hai thuộc loại vải rẻ tiền nên sớm ngả sang màu bạc. Dẫu em còn nhỏ nhưng đã vội mang hình ảnh bà mẹ quê, bà mẹ bé tí hon chẳng khác gì con búp bê biết cử động... đang vơ lá khô vào buổi sáng sớm trong khi tôi vẫn chưa kịp thưởng thức xong ly nước trà nóng... Còn gì tội hơn cho người dân nước tôi!
Ngồi xổm, đưa tay nhặt từng lá cây gom lại, tôi mượn cơ hội dò hỏi,
- Em vơ lá khô về làm gì mà sớm vậy?
- Con nấu cháo cho thằng cu Ty...
- Lá còn ẩm sao con có thể đun được?
- Mới đầu thì khó cháy nhưng con sẽ kiếm ít cỏ khô trong bụi đàng kia về nhúm... Dễ ấy mà, cứ bỏ vào từ từ, nóng đến đâu nó cháy đến đó...
- Thế sao con không vơ lá chiều qua cho khô?
- Hôm qua thằng cu Ty bịnh, quấy quá con không bỏ đi được...
- Thế bố mẹ con làm gì?
- Buổi chiều bố mẹ con ra ghe chèo sang mãi tận bờ đàng kia, em bé đưa tay chỉ..., soi cá ban đêm. Bố con còn đang ngủ. Mẹ con mang cá đi chợ bán từ sáng sớm...
- Chợ ở gần đây sao phải đi từ sáng sớm?
- Ở đây bán cá không được giá. Chợ đàng kia, cá mắc hơn nhưng cách xa mãi hơn bốn cây số. Đi xe tốn tiền nên mẹ con phải đi bộ.
- Hôm qua được nhiều cá không?
- Thưa cô, khá hơn mấy hôm trước. Con độ chừng được đâu gần ba ký...
- Con có mấy anh chị em?
- Thưa bốn, con là lớn nhất...
- Năm nay con lên mấy?
- Thưa cô chín, con Thoa lên bẩy, thằng Danh lên năm, và cu Ty mới hai tuổi.
- Con có đi học không?
- Thưa cô, ngày xưa còn nhỏ, con đi học được ba năm, trường ở mãi gần chợ mẹ con bán cá. Nhưng bây giờ thì không vì con phải lo cho mấy em...
- Thế bây giờ em Thoa và Danh có đi học không?
- Nhà con nghèo quá... đến củi đun bếp vẫn còn thiếu thốn. Thường thì bố mẹ con lấy củi khi trời còn sáng trước khi soi cá, nhưng mấy bữa trước trời giông gió đi sớm không được... Hôm qua, cu Ty bịnh quá má con phải bồng ra nhà ông lang gần chợ không thể đi sớm lấy củi nên sáng nay con phải vơ vội ít lá về nấu cháo cho nó... Dẫu nói chuyện, đôi tay em vẫn không ngừng làm việc... và chiếc rổ đã được ấn chặt lá khô chận lên trên bằng những cành dâm bụt tôi bẻ lúc nãy...
- Chào cô, con phải về, có lẽ cu Ty cũng sắp dậy rồi...
Em nhỏ đi dọc bờ ruộng khuất lần sau những lùm cây hàng vè. In đậm nơi lòng tôi nỗi tê tái... pha lẫn mặc cảm lỗi lầm... Con dân nước tôi, "Nhà con nghèo quá... đến củi đun bếp vẫn còn thiếu thốn..." Tôi có thể làm gì cho những em nhỏ máu đỏ da vàng nơi đất Việt, được trời ban cho nét mặt rạng rỡ, nhưng sớm phải mang trách nhiệm lo lắng cho gia đình vì bị sinh vào hoàn cảnh nghèo túng? Tôi có thể làm gì? Tôi phải làm gì và thực hiện bằng cách nào?
- Kim Loan, bà làm gì mà ngẩn ngơ mãi ngoài ấy! Chị bạn chủ nhà cầm ly trà xuôi theo con dốc bước dần về phía tôi... Ở Việt Nam, đất trồng cà phê, mà chính nó lại trở thành thứ xa xỉ bởi cần đường, cần sữa... Sự nghèo túng biến mọi vật trở nên mắc mỏ... không cần thiết thì nói chi đến tư tưởng, sách báo, ý thức hệ, hoặc nhân quyền hay dân quyền. Khi cuộc sống thấp kém ở mức tối thiểu, tất cả nỗ lực vẫn chưa đủ bảo vệ sự sinh tồn thân xác, thì miếng cơm manh áo trở nên mục đích trường kỳ dồn ép con người đeo đuổi... từng ngày, lại từng ngày... Con dân đất nước tôi! Ôi, những trẻ em của thế hệ chưa kịp lớn mà đã vội phải khoác lên thân phận loài thú... cố gắng sao cho kiếm được miếng ăn đủ sống qua ngày đã được gọi là may. Còn đâu mơ ước vì ước mơ chưa kịp đến đã trở thành viễn tượng! Tương lai, nơi hoàn cảnh này, ngôn từ tự chứa năng lực biến thành thần thánh khiến chẳng ai dám nghĩ tới phương chi nói đến chuẩn bị hay thực hiện. Tim tôi một lần nữa nhói đau đối diện vẻ vô tư nơi gương mặt người bạn hai mươi hai năm trời đã qua giờ mới có cơ hội gặp lại...
- Mình vừa nói chuyện với em bé gái vơ lá khô không hiểu con nhà ai. Em bé thật xinh xắn, mới chín tuổi mà đã mang dáng dấp của một bà mẹ quê...
- Ở đây thiếu gì trẻ đi vơ lá về đun bếp...
- Mình không đặt vấn đề vơ lá nhưng đang tự hỏi có thể làm gì để giúp những đứa trẻ như thế này...
- Muốn giúp cũng không được vì nhu cầu thì nhiều đến nỗi không thể kể xiết mà sức người có hạn thì làm chi bây giờ... Ngay như vợ chồng mình, chỉ có hai đứa con mà vẫn lắm lúc cùng quẫn không có miếng gạo đổ vô nồi còn nói chi tới những đứa trẻ khác... Nhiều lúc mình nghĩ, có lo lắm cũng chẳng giải quyết được gì; thôi thì đành phó mặc số trời, đời cua cua máy, đời cáy cáy đào...
- Như vậy tương lai sẽ đi về đâu? Những em bé chưa kịp lớn đã phải trần thân làm lụng, không được học hành thì lớn lên sẽ ra sao?
- Trường sở đâu mà học với hành ở chốn khỉ ho cò gáy này? Hơn nữa, ai coi mấy đứa nhỏ cho bố mẹ chúng đi soi cá, lấy củi... Thế rồi khi cái bụng đói meo phỏng có học được không? Bà đang mơ chắc?
- Mình nghĩ, nếu chiều tối hoặc lúc nào đó thuận tiện trong ngày mà có người dạy cho các em nhỏ một tuần vài giờ thì chẳng bao lâu các em cũng biết đọc biết viết... Hay ít ra có vần, có giấy, bút, để cha mẹ dạy cho con cái cũng hơn là mu ti mù tịt không biết chữ nhất là một...
- Biết đọc biết viết để làm gì... chỉ vài năm sau lại quên hết, nào có lợi ích chi đâu! Chẳng nói đâu xa, ngay chính bản thân mình, học xong lớp mười một mà có hơn gì những người khác đâu, có lẽ thua thì chắc hơn...!
- Tiền của, cuộc sống dễ thở hơn hay kém không phải do vấn đề học thức... Bà không nhớ câu "Tốt số hơn bố giầu" sao? Vấn đề mình nghĩ tới là biết đọc để tiếp tục đọc mới có cơ hội hiểu biết hơn, sống ý thức hơn chứ không phải để làm được nhiều tiền hơn. Bà thấy đó, cũng cùng trong một hoàn cảnh, thái độ cũng như cách xử sự của người ý thức khác xa với những người thiếu hiểu biết... Mà muốn nâng cao sự hiểu biết, ít nhất cần phải biết đọc...
- Thôi, vô thay đồ đi chợ... Chẳng cần gì phải nói nhiều, nếu không có mấy đồng bạc trả tiền xe thì cuốc bộ cả tiếng đồng hồ mới tới chợ. Cuộc đời là thế, bị sinh vào hoàn cảnh nào thì đành chấp nhận chứ có muốn thay đổi cách mấy cũng chẳng sao mà thoát ra được. Bà không nhớ câu, "Đã mang lấy kiếp thân tằm, không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ." Rồi tất cả cũng sẽ qua đi; tất cả đang dần chìm vào dĩ vãng... Ôi ngày xưa ấy! Nào ai có thể ngờ được những khúc quanh của cuộc đời. Bao nhiêu người đã qua, và mình rồi cũng sẽ qua... Mỗi lần nghĩ đến giá trị cuộc sống, mình cảm thấy tội cho mình, tội cho người đồng cảnh, tội cho những em bé thơ ngây mà nào có thể làm được gì...
- Nghe bà nói sao có vẻ thất vọng đến độ buông xuôi thế. Bà nên nhớ, làm cho mình cũng là làm cho người, và làm cho người cũng là làm cho mình mà thôi. Mình nghĩ, hãy cứ cố gắng mỗi người một chút. Bà chịu khó bỏ ra một tuần một buổi tối thứ bẩy hay chủ nhật; mình chịu trách nhiệm chi phí giấy bút thì chỉ vài tháng, những trẻ em trong khu vực này sẽ biết đọc biết viết cho coi...
- Trường sở đâu mà bà dám mơ mộng hão huyền vậy?
- Thì nhà bà hay nhà nào đó không được hay sao? Cứ thử trước khi kết luận. Nếu có được vài người sẵn lòng, mình sẽ cố gắng kiếm mấy người quen giúp góp... nội trong vòng một năm sẽ có được vài chục em biết đọc biết viết. Mình nghĩ, vấn đề quan trọng là những người đang sống gần các em. Tiền giấy bút hoặc sách vở nào đáng là bao....
- Nghe bà nói cũng có lý... Được rồi, mình ráng thử. Bao lâu nay mình đâu dám nghĩ tới sẽ có ai giúp đâu, nhất là chuyện được coi là cỏn con này. Nhưng bà phải hứa ủng hộ giấy bút chứ bọn mình ở nhà, đứa nào đứa nấy nghèo xác xơ, chẳng có bột sao gột nên hồ. Đúng là có lòng mà không có tiền cũng chẳng làm nên cơm cháo gì!
- Bà có biết mấy đứa bạn mình giờ thế nào không...
- Rứa rứa hết. Bà hỏi mình mới nghĩ tới; nếu bà có thể, mình đề nghị với chúng nó giúp trẻ được không!
- Mình nghĩ, nhiều thì khó chứ mỗi người vài đô một tháng mua giấy bút cho trẻ ai mà chẳng sẵn lòng, mà có nhiều gì cho cam. Bà cứ hỏi họ, mình hứa chịu trách nhiệm về chi phí giấy bút. Về bên Mỹ, mình sẽ kêu gọi chừng mười người, mỗi người cho mười đồng một tháng là có thể mở mười lớp học tại gia cho cả trăm trẻ em. Vấn đề chỉ là sao kiếm cho ra mười cô giáo hay thày giáo dạy chùa để trẻ biết đọc, biết viết...
- Bà nói gì, một trăm đô một tháng sao bà có thể xin được... Bộ người ta có tiền núi...?
- Bao nhiêu chứ mười đô một tháng vì chuyện nên làm chắc không ai chối từ. Người ta nghèo vì nhiều chứ không vì mười đô một tháng, mình nghĩ như vậy. Cứ yên trí đi, riêng mình, mình sẽ ủng hộ năm mươi đô một tháng. Hãy kiếm sao cho được năm người sẵn lòng giúp các em rồi hãy nói chuyện sau... Vô thay đồ đi chợ không trưa đến nơi rồi!
Trong tuần cuối cùng, tôi cũng đã đi thăm được hai người bạn cũ đang sống nơi vùng hẻo lánh, không trường sở cho con em học hành, và họ cũng đồng ý nhận lời "dạy chùa" với điều kiện tôi phải cung cấp chi phí tối thiểu giấy bút. Mang thân phận làm thuê nơi công sở nên tôi không được dư giả cho lắm do đó chỉ có thể biếu bạn bè mỗi người hai trăm. Cầm tiền cho bạn mà lòng tôi lại quặn đau bởi phần nào mang mặc cảm kẻ "ban ơn" trong khi bạn mình lại là kẻ chịu ơn. Bạn tôi, họ khóc vì hai trăm đối với họ là món tiền quá lớn...
- Mình chịu ơn bà như thế này sao biết lấy gì trả lại... Khốn nỗi, phận số mình tàn tệ quá... Con bạn thân nhất ngày xưa ngậm ngùi than...
- Thôi bà làm ơn im lặng cho tôi nhờ, tôi đang muốn khóc... Và thế là tôi bật lên xụt xùi nhưng cố nén không để khóc thành tiếng...
- Ơ! Cái bà này hay lạ! Tôi mượn bà khóc dùm tôi sao... Nó phải lên tiếng phá ngang sợ khóc theo tôi... Ngày xưa nó hay khóc bởi tủi cho thân phận con nhà nghèo...
- Chẳng biết đứa nào hay khóc, tôi dùng cánh tay quệt ngang nước mắt... Chợt phì cười vì nhớ lại kỷ niệm thời học trò tôi thường phải dỗ nó...
- Bây giờ tôi sân si sỏi đá rồi bà ơi, đâu như ngày xưa nữa...! Dẫu cố ra bộ cứng cỏi mà mắt nó không tránh được sắc đỏ hoe...
Lớp học "dã chiến," bạn tôi gọi thế, hôm đầu tiên qui tụ được mười hai em, tuổi từ sáu đến mười hai... Dẫu hai đứa tôi đã bàn tính cả buổi chiều về phương pháp dạy mà đứa nào cũng luống cuống. Thì đã bao giờ chúng tôi làm cô giáo đâu... chỉ vì lúc biến nên phải tòng quyền... Dù các em chưa hề tới trường lớp nhưng cũng biết "thưa cô" khi hỏi và "vâng ạ" khi trả lời. Chỉ hai tiếng đồng hồ, từng em đã thực sự nhận mặt được mười chữ cái. Chúng tôi chủ trương chậm mà chắc. Bắt đầu với ba chữ a, ă, â, các em đọc theo mấy lần, đoạn tôi dùng cây que chỉ đảo lộn thứ tự ngược, xuôi, nhảy chữ, chừng mười phút để mỗi em có cơ hội tự mình nhận chữ. Tiếp theo chúng tôi thêm ba chữ mới b, c, d, đoạn xào xáo lung tung. Những chữ mới, các em đọc theo cô giáo bất đắc dĩ cỡ năm, bảy lần và sau đó nhào nháo chữ mới, chữ cũ, thứ tự lộn tùng phèo, và lại gọi từng em một đọc lên cho thật quen tên, quen chữ... Càng thêm nhiều chữ mới, thời giờ càng kéo dài cho tăng chất lượng và giúp các em nhớ kỹ... Bạn tôi hung hăng... dạy thêm buổi tối chủ nhật. Hai mươi phút đầu, chúng tôi thay phiên mỗi người mười phút ôn lại mười chữ các em đã học tối hôm trước. Và rồi thêm ba chữ mới được đặc biệt hay nhắc tới tiếp tục xào qua, xáo lại năm phút, từng em xướng tên mười ba chữ theo cây que chỉ... và lại thêm ba chữ mới, lại xáo, lại xào, lại từng em xướng tên chữ... Bạn tôi muốn dạy hết mười chín chữ còn lại tối chủ nhật, nhưng tôi đề nghị chỉ thêm mười chữ mới và dành giờ cho các em có cơ hội nhận mặt chữ đến độ thuộc lòng... Chín chữ cuối, q, r, s, t, u, ư, v, x, y, và năm dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng được ráp với mười hai nguyên âm dành cho tuần tới...
Suốt hành trình đằng đẵng trên phi cơ trở lại Mỹ, tôi mơ đến viễn ảnh ngày nào đó khi trở lại, những em nhỏ mới ê a học vần hôm nay sẽ có thể đọc truyện, đọc sách. Tôi dự tính sẽ cố xin một số tiền gửi về để bạn tôi mua những sách Tục Ngữ Ca Dao, những truyện ngắn cho trẻ em như sách hồng, sách xanh, tuổi hoa, sách viết về những câu truyện ngụ ngôn Đông Tây rồi copy đem phát cho các em tập đọc. Tiền bạc chắc không khó lắm vì có đáng bao nhiêu; dĩ nhiên, nào ai tiếc dăm đồng bỏ ra cho những việc lợi ích như thế... Tôi sẽ nói chuyện với mấy người quen, ráng kiếm cơ hội liên lạc với mấy ông nọ, bà kia xưa nay nghe đâu họ khá rộng rãi khi được mời quyên góp... Họ cho những trăm này đến trăm khác... và được khen tặng danh hiệu nọ kia đăng đầy trên báo... Chị Trạch nghe đâu có lần nói đã cho bà xơ đến quyên tiền giúp giáo dục trẻ những hai trăm, người em chị một trăm, thằng con lớn đi bạn ghe cũng cho một trăm... Nhà ông cụ Chuyên hình như biếu những ba trăm... Thầm nghĩ, tôi chẳng dám xin nhiều, chỉ mơ ước mỗi gia đình cho mười đồng một tháng. Mười đồng, mười trẻ em đủ tiền giấy bút học bốn buổi tối... Sau đó, khi đã biết đọc biết viết, vấn đề còn lại thật đơn giản, chỉ việc copy sách đã có sẵn thành từng tờ phát cho các em... Nếu mỗi em trước sau đọc được một trăm truyện ngắn sẽ trở nên quen đọc... Có quen đọc mới ham đọc và đã ham đọc mới có kiến thức làm căn bản suy tư để phát triển nhận thức, ý thức. Tôi không dám nghĩ tới những chuyện lớn lao, chỉ đơn sơ thế... lòng thầm cầu xin trời phù hộ các em kém may mắn ít nhất có cơ hội cỏn con này, và mở rộng lòng con người thương đến tương lai giống nòi... Tôi thiếp dần theo dự tính đem lại niềm phấn khởi hòa nơi ước mơ...
Tôi đã mơ...
Trong giờ ăn trưa ngày đầu tiên đi làm sau khi trở lại Mỹ, tôi kể chuyện mắt thấy tai nghe nơi chuyến về Việt Nam đồng thời nói lên dự định muốn đạt tới với một người cai Mỹ nơi hãng tôi đang làm nhân khi ông buông câu hỏi có ý nói cho qua thay vì bàn về những chuyện trời mưa, trời nắng theo phép xã giao. Lúc nghe, nét mặt ông lộ vẻ thông cảm cho nỗi thao thức nơi lòng tôi và miệng thốt lên lời am hiểu. Ông nói,
- Tôi có chút ít muốn gửi cô giúp giấy bút cho trẻ em theo chương trình cô dự định. Ông mở bóp, mấy tờ giấy xanh xanh mang số 20 lấp ló theo ngón tay lật lật khiến lòng tôi dâng niềm hy vọng... Sao mà nhiều thế, ông định cho bao nhiêu mà lật hoài..., tôi nghĩ. Cuối cùng, ông lôi ra tờ 10 dollars đưa ngang qua mặt bàn... Lòng tôi chùng xuống nhưng chợt nhớ ông ta là người Mỹ; họ rất ít khi cho ai tiền... nên đành gượng gạo nói lời cám ơn... và ghi tên ông cùng số tiền vào trang cuối cuốn sổ tay mà lòng cảm thấy hơi bực... vì... mừng hụt nên ăn vội, trả lời cho qua những gì ông hỏi kế tiếp để về chỗ làm việc.
Hai tuần sau, tôi nhận được thư của một người bạn viết qua trong đó có đoạn, "Xét chung thì quê nhà có thay đổi. Năm nay mùa khai trường (đầu tháng 9/97) vừa qua có đến hai mươi triệu học sinh đến trường theo báo Thanh Niên cũng như Sàigòn Giải Phóng. Với con số gần tám mươi triệu dân mà hai mươi triệu đi học thì kiếm đâu đủ trường, lớp, và thày cô! Vậy trong khả năng và với điều kiện có thể được, xin bạn giúp một tay hay cả hai cũng được. Mình lây bệnh tham ăn rồi, vì dân ta không còn chết đói nữa, nhưng vẫn đói cho đến chết! Dân nghèo ấy!"
Không hiểu tại cái miệng tôi ngu hay tại tôi thuộc loại bất cần hoặc thiên đường ước mơ cho những trẻ em kém may mắn không đáng được quan tâm mà qua hơn mười lần nói chuyện với bạn bè cùng những người quen, vẫn chưa ai xí bỏ cho được đồng nào, ngoại trừ ông cai nơi sở làm. Chính lúc này tôi mới hiểu được sự bực bội được tạo thành bởi sự mừng hụt của tôi đối với người cai có thể là nguyên nhân thất bại nơi những lần nói chuyện với người quen trong ý định khuyến khích họ tham gia giúp trẻ em kém may mắn cơ hội biết đọc biết viết.
Cái miệng của tôi hình như không có khiếu móc túi thiên hạ... mà coi chừng mang nặng tánh chất bất cần. Tôi không có chủ đích cố sao lấy cho được dăm đồng nơi túi người ta nên không vơ cào vạt tép, không nói "ăn dzô" mà lại cứ ngang ngang, tàng tàng... bởi cho rằng ai cũng nghĩ như mình, ai cũng nhận ra việc giúp trẻ em biết đọc biết viết là vấn đề nâng cao giá trị con người cả cuộc đời... Tôi đã sai... nhưng lại không chịu sửa cái sai này vì tự ái bởi sự nhận thực ra không ai chịu tốn phí dù chỉ vài xu nếu không có lợi... hoặc danh... hay hãnh diện. Bài học hạ cấp này thế mà khá mắc mỏ. Dẫu tôi biết mà vẫn không chấp nhận thực hiện. Tôi tự nghĩ, với mục đích tốt lành phỏng mình có nên trở thành kẻ bốc thơm người khác chỉ vì vài đồng bạc... Tôi không muốn tự biến mình thành kẻ muối mặt. Tôi muốn xin tiền giúp các em hay tôi muốn cổ võ công việc cho tôi? Nếu cổ võ giúp các em thì tôi chỉ nên trình bày nhu cầu thiết yếu của các em; ai giúp chi thì cho, không thì thôi. Nếu tôi muốn dùng sự cổ võ giúp các em vì cái tôi của mình để hy vọng được người khác coi mình là ông nọ, bà kia sau này thì tất nhiên đã tự làm mình muối mặt...
Lắm lúc tôi tự diễu, Kim Loan ơi, lòng chân thành tưởng ai cũng nghĩ như mình biến mi thành đứa láo khoét dám hứa xin tiền giúp các em mà ngu muội không biết những chuyện lẩm cẩm, lỉnh kỉnh, và luẩn quẩn cuộc đời... Sao mà đần thế, cứ mượn ai đó vác máy thâu hình và chõ cái ống kiếng to tổ bố vào người ta lúc đang nói chuyện... nói rằng gửi sang Việt Nam để các em biết mặt mũi ân nhân hòng khi gặp sau này có thể nhận ra... chắc chắn mày sẽ kiếm được tờ ba số... Mày dốt như bò con! Ừ thì dốt, tôi tự nghĩ, nhưng không đê hèn, bịp bợm... hại kẻ khác bằng cách làm cho họ những gì họ ưa thích...
Thế là tôi thất bại. Có người dạy chùa, có trẻ em ham học, nhưng không có cơ hội chỉ vì thiếu mấy miếng giấy, vài cây bút chì... thiếu những bàn tay rộng mở lát đường cho tương lai con em dân tộc... Tôi thất bại là phải bởi thực tại không hất hủi cũng chẳng hộ phù ai. Điều đáng buồn cho con người là chỉ biết hùa theo mà không dám tự nhận định để đến nỗi những sản phẩm của các bậc thiên tài chỉ được nhận ra khi họ đã chết! Cuộc đời cũng lạ, tác giả của bức tranh trị giá mấy chục triệu Mỹ kim mà bị chết đói thì chỉ ở thế giới loài người mới có thể xảy ra. Bởi vậy, ca tụng những vĩ nhân có ích lợi gì vì nào ai có được hoàn cảnh giống như vị vĩ nhân đó đâu! Thế nên, tại sao không sống điều mình nghĩ nên sống mà chỉ ca tụng điều đã sống của kẻ chết. Phỏng con người chỉ mơ vì đâu ai dám thực hiện điều nên sống được gọi là mơ?
Tuy nhiên, lần chót khi nói chuyện với một người bạn mới gặp gỡ vài lần, chị đoan chắc ước mơ nơi tôi sẽ thành công. Chị sẽ góp mười đồng mỗi tháng để giúp các em. Đồng thời chị khuyên tôi nên kiên nhẫn vì cuộc đời có người nọ cũng có người kia, không nên dùng kinh nghiệm đã qua làm mẫu mực đánh giá những gì sẽ tới. Chị còn nói, cứ bình tĩnh, rồi chuyện phải xảy ra, nên xảy ra, tới thời điểm sẽ xảy ra, và có nhiều lúc tôi sẽ bị ngạc nhiên... Đồng thời, chị tiếp, vấn đề quan trọng nhất phải là kiên vững, sống với, và sống cho sự thực hiện niềm mơ của mình. Phỏng tôi đang mơ?
Vâng, tôi đã mơ...
 
 
Nếu có quyền năng làm phép lạ,
Tôi sẽ biến những lá khô nơi chiếc rổ tre xổ vành ọp ẹp thành những trang giấy rẻ tiền,
Những cọng rạ trở nên bút chì,
Và vài cành cây khô em bé nhặt được nên dăm ngọn nến.
 
Buổi tối nơi căn nhà nghèo nàn sẽ biến thành thiên đường...
Có thiên thần ngây thơ ê a tập đánh vần quốc ngữ,
Có thiên thần chăm chỉ dặm theo nét chữ,
Có thiên thần bật cười khúc khích vì trang sách hiện lên nơi tâm trí đơn sơ hình ảnh thích chí.
 
Tôi sẽ biến những tâm hồn tăm tối thành ngọn roi tàn phá sự ngu dốt,
Những lá khô chờ mục nát sẽ trở nên hiến chương, ngạn ngữ,
Những cọng rạ khô thành thanh kiếm điêu khắc nhân quyền,
Những cành khô trở nên đũa thần soi sáng lương tâm cằn cỗi,
Và em bé nghèo nàn vơ lá khô thành thiên thần đánh đuổi bóng tối u mê.
 
Nếu có quyền năng làm phép lạ...
 
 lãmộngthường
#1
    lamongthuong 09.12.2016 12:37:25 (permalink)
     
    Đam Mê
     
    Không hiểu người mang giòng máu đam mê được hưởng những gì nơi thú đam mê của họ, chứ ngữ tôi may mắn có được sự lầm lỡ nơi thú đam mê câu cá nên đã phải trần thân chịu nhiều điều khổ nhục. Nói như vậy nhưng tôi vẫn cảm thấy mình hãy còn may bởi cuộc đời không ưu đãi tôi về phương diện tài chánh do đó cũng đỡ tốn phí, vì có đâu mà tốn hoặc phí. Dĩ nhiên, rờ mòn cả vải, lục rách toang mấy chiếc túi vẫn không thấy tiền sao tôi có thể xài hoang hay tiêu bậy. Thế nên nhiều khi có lẽ cố tự an ủi, tôi cảm thấy lòng phần nào dâng niềm cảm hứng lâng lâng nhờ hơi hướng thân phận ít may mắn nơi một trong ba quyền lực hấp dẫn lòng người để cho rằng mình thuộc loại tốt lành. Thật tình tôi thuộc loại tốt lành như đã tự nghiệm nếu có tiền dư bạc đống nơi trường hợp được đời ưu đãi về phương diện tiền bạc chăng, điều này tôi không dám nghĩ tới nếu không muốn nói là cố tránh ngay nơi khung trời tưởng tượng. Tôi rất thực tế bởi vậy không thích bánh vẽ, dẫu chỉ được vẽ nơi tâm trí. Thử hỏi ai đã không ít là một lần cảm thấy hồ hởi về một chương trình hay mưu đồ nào đó giàn trận nơi ý nghĩ được mường tưởng đem lại thành quả như lòng hằng mong ước? Và thế rồi kết quả của những chiếc bánh vẽ này ra sao? Có người may mắn trở thành anh hùng, tay không tạo dựng cơ đồ. nhưng lại thiếu chi kẻ đổ nợ. Lẽ đương nhiên có rờ phải lửa mới biết lửa nóng, tôi đã ngu ngơ trở thành nạn nhân của mối tham vọng mường tưởng nên “Chưa thấy quan tài cũng đành chấp nhận nhỏ lệ” biến lòng mình thành chân lim móng đá tạm gọi bằng hai tiếng “thực tế.” tránh đeo đuổi những hình bóng mang quyền lực vạn năng hấp dẫn dù chỉ nơi ý nghĩ.
     
    Số là thấy vài người quen có tàu đánh tôm, câu cá, thăm hỏi nhau về nghề nghiệp làm ăn nhắc đến những món tiền khổng lồ, nào vài chục ngàn sau một tháng lênh đênh đã là ít, hoặc trăm ngàn hơn hãy còn chưa ăn thua gì khiến lòng dạ tôi xốn xang. Tôi tự nghĩ, mình có bằng kỹ sư dầu hỏa, sau những năm tháng lê mòn ghế nhà trường, đến khi đi làm thì lương cả năm không bằng một chuyến hốt bạc của dân “Đâm hà bá.” Ấy, cái tham vọng mường tưởng mang quyền lực vạn năng mạnh mẽ làm sao. Cả mấy tháng trời, lòng dạ tôi ngập đầy hình ảnh của những xấp bạc ngay ngắn sau mỗi chuyến tàu vật lộn với biển giã đánh tôm bắt cá. Chưa hết, cũng từ nguồn tưởng tượng đó, tâm trí tôi vẽ ra một chân trời mới nơi viễn ảnh tương lai, thênh thang, tràn đầy thơ mộng. nào một căn nhà xinh xinh nhưng đồ sộ, quí phái, nằm giữa một miếng đất không cần chi lớn lắm, chỉ độ chừng bốn chục mẫu, có giòng suối quanh co róc rách đổ về chiếc ao từng đàn cá xôn xao bơi lội. Trồi lên khỏi mặt cỏ xanh tươi được cắt xén phẳng phiu, những thân cây sồi cổ kính lác đác đây đó vươn tàn che mát dăm bộ bàn ghế chờ đợi khách khứa thưởng lãm nét tĩnh mịch, thanh đạm hòa nhập cảnh thiên nhiên. Và nào những bữa cá nướng vừa câu lên khỏi hồ. nào mấy luống rau thơm, hành, ớt cung cấp gia vị làm tăng thêm sự khoái khẩu khi chiêu ngụm rượu lóng lánh màu cánh gián. Và nếu may mắn kiếm được miếng đất nằm ngay bên cạnh bờ sông tàu có thể vô được thì thật tuyệt vời. Chẳng những thế, cả mớ dự tính kèm theo như máy cày vừa cắt cỏ vừa làm vườn, hòn non bộ đứng cạnh bụi tre vươn cao gợi về hình ảnh cảnh cũ làng xưa, chiếc cầu chênh vênh bắc ngang giòng suối ươm tràn thơ mộng gợi lại những kỷ niệm ngày nào vợ chồng tôi mới quen nhau. Muôn ngàn hình ảnh tràn đầy quyến rũ liên miên ẩn hiện tạo thành chuỗi ước mơ hầu như hiện thực cuốn hút tâm trí tôi từng giây từng phút, dù ngay trong những giấc mộng cũng như tại văn phòng làm việc. Chúng biến công việc tính toán nơi nghề nghiệp trở thành nặng nề, chán ngán; ngược lại chúng thao diễn tạo nguồn năng lực thúc đẩy tôi bàn tính, thuyết phục bà xã. Và tôi đã dấn thân trên con tàu chập chững xông pha theo ước mộng làm giàu hy vọng biến niềm mơ thành sự thật. Và sự thật đã xảy ra! Chỉ một năm sau, con tàu tiếp tục lênh đênh theo ước mộng của người khác. Còn tôi, cháy tay do ngọn lửa mường tưởng thấy đỏ tưởng chín. tạo thành tâm tư đành chấp nhận ngồi văn phòng trước giàn máy, “cày” trả nợ.
     
    Dẫu thế, tật chết vẫn không chừa, tôi vẫn đam mê với thú quanh quẩn những vùng sông nước; tôi mê câu cá. Ai đã từng trải qua mới có thể cảm nhận thực sự ngẫu hứng được diễn đạt qua câu lục bát, “Sướng nhất gặp cặp ngang trâu, thứ nhì con cá cắn câu cong cần.” Nghe kể, ngày xưa quí cụ có thú chọi trâu, khi nào có được hai con trâu chọi ngang sức thì diễn biến gay go khiến người coi thích chí. nhưng mặc dầu thế thú coi chọi trâu vẫn thua ngẫu hứng khi có cá lớn cắn câu. Tôi mê câu cá từ ngày còn nhỏ, mới bảy, tám tuổi đã biết chăm chỉ học tóm lưỡi câu, cuốc đất bắt giun làm mồi, và lẽo đẽo theo chúng bạn nay giòng suối này, mai hũng nước khác, chăm chăm chú chú theo dõi làn giây. trong những buổi chiều sau khi tan học nhiều lần không dám ăn trưa bởi e mẹ sai bảo điều gì. có thể lỡ cơ hội. Mặc dầu tôi thích câu cá nhưng cá chẳng bao giờ thích tôi. Cuộc đời thường lắm nỗi éo le; những gì làm mình mê say cũng thường lại là cội nguồn tạo cho mình lắm nỗi chua cay. Sau này có thày tướng số phán rằng tôi mang mạng hỏa tối kỵ với họ hàng con cái hà bá nên không sát cá. Có lẽ chính vì không sát cá, tôi để tâm theo dõi tính chất loài thủy tộc hầu thỏa mãn thú đam mê của mình. Nghe lóm đâu đó, có người nói mặc áo trắng cá dễ nhìn thấy bóng nên tránh xa. nhưng đối với tôi, dù mặc áo đen, cá vẫn cứ tránh. Tuy nhiên, thất bại là thày dạy tuyệt vời nhất đối với những người mang đầy mình tính chất đam mê. Tôi đã nghiệm được một số đặc tính của loài thở bằng mang. Ai lỡ không có duyên câu cá lại tốt lành không biết thú đam mê làm ơn nhớ kỹ vài ngón trước khi cùng vui bạn bè tạm đưa bước chân thử thời vận. Trước hết, cá ăn mồi theo giờ con nước và lệ thuộc chiều gió. Đứng nơi bờ cuối gió vừa khó quăng câu vừa tốn bia, tốn mồi. Cổ nhân để lại câu nói, “Tôm nha nhá, cá hừng đông” chỉ có thể áp dụng được tại vùng nào đó nơi Việt Nam chẳng khác gì sự xác thực của câu, “Bao giờ sấm trước có mưa.” Hơn nữa, ai đã từng câu sẽ nghiệm chứng tận mắt, vào thời điểm cá không cắn câu thì dù mồi gì chăng nữa, cá bơi đến ngửi mồi và lùng quăng bơi đi, càng cố câu càng nản. Bởi đó, phản ứng tốt nhất chỉ nên nhậu cầm chừng chờ tới thời điểm cá ăn mồi mới nên câu. Có người thích câu với phao để hưởng thú bập bềnh cảm giác khi có cá nhỏ rỉa mồi. Đa số dùng những viên chì nặng dễ quăng câu tới những nơi mình muốn. Tôi không dùng phao cũng không thích buộc chì. Câu với phao khiến mình ỷ y không để ý theo dõi sự hồi hộp với niềm vui của kẻ đứng trên bờ lừa cá bơi dưới nước. Đàng khác, những loại phao của thời văn minh cũng như những viên chì nặng khi rơi xuống mặt nước tạo tiếng động khá lớn khiến cá hoảng bơi đi nơi khác. Thêm vào đó, câu không dùng chì hoặc phao đòi hỏi dây câu mềm mại, cần nghệ thuật quăng câu và phải lựa theo chiều gió. Lẽ đương nhiên, bạn phải để tâm theo dõi sự diễn biến chuyển động của dây câu hầu có phản ứng kịp thời hưởng thú đam mê “cá cắn câu cong cần.” Bạn thử tưởng tượng, khi làn cước đang từ từ chìm, bất ngờ một sức mạnh kéo căng thì phản ứng của bạn sẽ thế nào. Nhiều lần vội vã giật để rồi ngơ ngẩn bởi con cá thổ hồn nào đó khôn hơn mình. mồi mất. và đồng thời những con cá sẩy đều là cá to. Sao thoát khỏi cảm giác tiếc nuối những bao nhiêu lần. thế nên lâu dần thành quen, tôi đành tập cho mình phản ứng lỳ lợm, cố cam tâm chịu đựng, đè nén “cái thú”  phản ứng thường tình. Dĩ nhiên, cá lớn gặp mồi, đớp và lùng quăng bơi đi nơi khác trong khi nuốt. tất nhiên giật sớm hay muộn cũng như nhau. Ngược lại, muốn câu cá lớn, mồi cần phải to. mà người câu bao giờ không ước muốn bắt được những con cá bự kéo cong cần. Thế nhưng, nếu một con cá to lội mà những mấy người buông câu thì hầu như chỉ có những con cá nhỏ hơn lòng tưởng tượng đang chờ miếng mồi mình quăng xuống. Kể ra loài cá cũng khá khôn nhưng lại tham ăn nên dẫu gặp miếng mồi hơi lớn vẫn cứ gặm. và thế là do không kìm hãm được phản ứng bình thường. lại thêm con cá to nữa vuột mất. ăn năn thì đã muộn bởi loài họ hàng, con cháu hà bá chẳng ngu dại gì đùa giỡn với chiếc lưỡi câu nhọn hoắt chỉ lăm le móc ngập vô bất cứ gì, ngay cả mấy ngón tay nõn nà của kẻ đã tậu chúng.
     
    Suy luận như thế, sau khi quăng câu tôi không khóa máy và nếu có thể đặt cần xuống nơi nào đó. vớ lấy ly rượu hoặc kiếm thuốc hút. Đi câu uống bia không thú vị gì mà bị hưởng thêm thú, “nhất. ngoài đồng, nhì lấy chồng quan” nhiều khi bực mình bởi cái thú này đồng thời điểm tranh giành ảnh hưởng với cái thú kia. Vào lúc cá ăn câu mà phải ngưng vì chuyện nào đó thì thà rằng câu cá bằng mồi giấy hợp tình hợp lý hơn. Đàng khác, nhâm nhi rượu thuốc giữa cảnh trời mây lộng gió bên bờ sông nước hoặc dưới bóng mát lùm cây cho lòng lâng lâng định tâm về hạ giới nơi đầu bên kia của làn dây cước mong tưởng tượng thêu dệt một viễn ảnh mập mờ với hy vọng đó là hiện thực nhưng không nghĩ rằng sự thực lại như thế, phỏng còn gì tuyệt hơn. Nói cho đúng, nếu chẳng được hưởng thú “cá cắn câu cong cần” thì chính sự định tâm lâu dần vẫn giúp mình kiến tạo nên lòng tự tại, một năng lực giúp con người chống chọi với mọi diễn biến bất thường nơi cuộc sống, nhất là loại diễn biến âm thầm, vô hình ảnh nhưng mang quyền lực vạn năng luôn luôn quấy động khiến lòng người chao đảo nơi trường hợp con người của tôi, con người hòa nhập trọn vẹn với những gì cần mang tính chất đam mê, mê câu và mê vợ. Tôi biết, cá không thích tôi mà chỉ thích mồi. Khi thấy làn dây cước bị kéo và xả dần, nhiều khi từ từ, nhẹ nhàng. chú cá nhỏ rỉa mồi. hoặc vũ bão xối xả. tôi cố kìm hãm nỗi lòng ngùn ngụt cảm ứng dẫu trong khi vội vàng vơ lấy cần câu. Tay này nhấc câu, tay kia khóa máy và cố lỳ thêm chỉ một hay hai giây nữa để dây câu vừa đủ độ căng. Vút. dẫu mồi to hơn miệng mà chú cá vẫn bướng bỉnh dành giật thì mồi có lẽ cũng đang ở cổ họng nhường khoảng trống cho lưỡi câu ghim vào  mép. Tôi chỉ dám kể lại một nửa kết quả được thăng hoa. phần còn lại, cá vùng vẫy loăng quăng vướng gốc cây, bụi cỏ hay bất cứ gì dưới nước tất nhiên người câu sẽ được hưởng thú khác. Tuy nhiên, dẫu đam mê với thú câu cá để rồi phải học những bài học coi bộ ngớ ngẩn không ai cần học, cái thú đam mê khác dính liền và cắt đứt thú câu cá của tôi mới tàn bạo, gây mê, đau thương, nhưng cũng tuyệt vời làm sao. Đó là thú mê vợ.
     
    Người đàn ông có vợ mà không biết hưởng thú mê vợ thì quả lạ lùng, lạ lùng hơn trường hợp người nơi hành tinh nào đó chẳng may bị rơi xuống trái đất này. Có lẽ bởi giống cái nơi hành tinh của họ chắc chắn mang hình dáng và tâm tính khác với phụ nữ đồng loại với chúng ta khiến họ không thể nào cảm nhận hoặc phát sinh rung cảm chẳng khác gì khi chúng ta thấy những viên đá hoặc gốc cây mục nát nhan nhản quanh mình. Tôi muốn giả sử người rơi từ hành tinh khác xuống đây phải là giống đực vì nếu không vậy, chẳng có gì để nói. Hình như các ông chồng không biết mê vợ đều mang những đặc tính khác với thế giới loài người. có lẽ họ chỉ là những cái vỏ thân xác biết đi và biết thở nhưng trong lòng rỗng tuếch nên bị phong tỏa bằng nỗi cô độc ngàn thu vời vợi, không cách nào khai phá. Và như vậy, họ không thể đam mê bất cứ gì ngoài sự gặm nhấm nỗi cô độc dằng dai cho cuộc đời tàn phai theo năm tháng. Lẽ thường và cũng là điều phải như vậy, không như vậy không được, đó là đàn ông thích đàn bà và đàn bà thích đàn ông. Thích sơ sơ phát sinh tự bản chất. Thích sâu đậm được gọi là mê. Nhiều lần suy nghĩ, tôi nhận thực được lòng đam mê “bà xã” nơi tôi đối nghịch với câu tục ngữ, “Cơm nhà, quà vợ.” Tôi không hiểu tại sao người đàn ông thường dùng ngôn từ “bà xã” để chỉ về vợ mình, nhưng đã quen thành lệ nên cứ tạm chấp nhận như thế. Cũng chính vì mê bà xã nên tôi bị hành hạ đủ chước đủ kiểu. Chẳng những thế, tôi còn phải moi tim, vắt óc suy nghĩ sao cho có được mưu thần chước quỉ hầu đủ năng lực chiến đấu với vợ mình e lỡ uổng mất thú đau thương.
     
    Suy nghĩ về điểm này, hình ảnh vợ chồng chim sẻ lần nào đó tôi theo dõi chợt trở về nơi tâm trí. Nhìn cặp chim tí hon kêu lách chách, dễ thương. mọi người nhận biết chị chim mái bao giờ cũng có thân hình nhỉnh hơn chàng chim đực. Những khi tới mùa. đôi vợ chồng chim ấy đùa giỡn điệu gì kỳ cục. Chị mái nhảy chồm lên, đôi cánh giang rộng sấn tới, mỏ thì mổ, đôi chân tí hon đạp, đá lung tung khiến anh chàng té lăn quay rơi xuôi theo triền dốc mái nhà nhưng vẫn gượng dậy được nhờ đôi cánh bé bỏng quạt gió trong khi kêu la lách chách. Dẫu vùng lên tránh thoát nhưng nào có thể thoát, chị mái lại hùng hổ nhào tới chẳng khác gì chú diều hâu tí hon bay lượn trên trời lấy đà sà xuống táp con mồi. Và chuyện phải xảy đến, anh chồng lại bị đạp chúi xuống mái nhà. và lại lách chách kêu, lại gượng dậy, lại cố tình chạy trốn, và lại bị đạp. Bị đạp lăn tơi tả hãy còn đỡ, nhiều khi chị mái quặp ngay lấy anh chàng cho tiện bề đấm đá để rồi cả hai chiếc mỏ chí chóe kêu la và cùng lăn vòng vòng. Mấy nhà sinh vật học giải thích đây là luật tự nhiên, chú đực chỉ có thể chu toàn nhiệm vụ truyền giống với năng lực dồi dào nhất sau khi bị đấm đá tơi tả. Tất nhiên, giống đực nào không là giống đực, và giống cái nào không là giống cái dù thuộc loại nào. Thú đau thương nơi người chồng có thể nói chính là diễn trình của luật tự nhiên. Mà đã là luật tự nhiên, nó phải vậy, không vậy không được; bất cứ những gì nghịch lại luật tự nhiên, chẳng sớm thì chầy đều bị đào thải.
     
    Luật tự nhiên đã là thế thì tôi phải bày mưu thần chước quỷ vì đam mê vợ nào có chi lạ! Có thể những đức ông chồng oai phong cho tôi là thiếu bề trượng phu bởi đã phải mưu mô tính toán phương cách hoặc thái độ đối xử với vợ con, hay những bậc mày râu nói tôi yếu kém chẳng đáng ngẩng mặt nhìn đời. tôi đành chấp nhận ngậm tăm cam chịu, không một lời ca thán, bào chữa, bởi “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.” Tôi thậm phục Nguyễn Du nơi nhận thức, “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Nguyên tắc căn bản tôi hằng áp dụng lại là câu nói đơn giản có lần nghe bố tôi nói chuyện nơi bàn tiệc với mấy cụ quen biết “Ở đời này nào ai sợ ai nhưng nhịn đi cho êm cửa êm nhà,” khi mấy người thanh niên đang diễu diễu trong lúc rượu ngà ngà bàn về việc sợ vợ hay chiều vợ. Tôi không hiểu bố tôi biết được câu này từ đâu hoặc do chính ngài thức ngộ vì cả đời có bao giờ bố tôi được cơ hội cắp sách đến trường, chỉ có điều tâm tính ông chân thành, thật thà nhưng nóng nảy. Lắm lúc tôi định thẳng thắn và chân thành giãi bày sự thể với bà xã nhưng suy đi tính lại, tật xấu mình thời lắm, lỗi lầm lại cũng nhiều. hơn nữa không hiểu sao nhà tôi có trí nhớ tuyệt vời về những điều chẳng nên tôi đã vấp phạm, chẳng may ngứa mồm ngứa miệng châm ngòi thùng thuốc nổ thì chỉ càng khốn khổ thêm nên cứ lần lữa tìm phương, tính kế.
     
    Cố lục lọi nơi những lời khôn ngoan cổ nhân để lại may ra vớ được chiếc phao truyền thống san sẻ ách thống khổ thân phận đối nghịch ý thích cá nhân, tôi tốn quá nhiều giờ suy tư câu nói, “Khôn nhà dại chợ.” Dù ông nào tai to mặt lớn đến đâu, anh hùng cách mấy, hoặc khôn ngoan đến bực nào cũng đành âm thầm thán phục lời khôn ngoan này. Các đấng mày râu lỡ hứng chí, lên mặt theo thói quen dương oai diệu võ ngoài xã hội nơi thái độ đối với bà xã để rồi bị chỉnh chỉ biết hiếp đáp vợ con hoặc khôn nhà dại chợ. họ chỉ còn cách chọn một trong hai phản ứng, lối thất phu, vô ý thức, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, gang mỏ xổ những lời hàng tôm hàng thịt, biến gia đình thành cảnh cá đối bằng đầu. chín người cũng như một chục, hoặc quặp râu nín nhịn vì lỡ dại, vô ý quăng tàn thuốc vào thùng pháo và kiếm cớ thực hiện diệu kế tam thập lục. Ngược lại, câu khôn ngoan này nói lên sự thực về đặc tính nữ giới ngoại trừ một số trường hợp bất thường. Truyền thống gia đình Việt Nam tuyên xưng các bà là nội tướng không khôn nhà là chi; thái độ đối nghịch với vị thế nội tướng lại chính là vẻ ôn nhu, e thẹn, nhã nhặn, khiêm cung, duyên dáng. của họ hàng nữ phái (ngoại trừ chim sẻ.) nơi công cộng. Kinh nghiệm sống nhan nhản minh chứng, các bà, các chị không bao giờ chấp nhận mình thuộc loại khôn nhà dại chợ mà chỉ âm thầm xử dụng quyền nội tướng. Tất nhiên, đối với nhận xét thô thiển này, những vị mày râu chưa hoặc không có vợ chẳng nên lên tiếng bởi nó thuộc loại nghiệm chứng, “ai có qua cầu mới hay.”
     
    Tôi không bào chữa hoặc bênh vực hay thiên kiến về bất cứ phe nào, nam hoặc nữ. Tôi cũng không bêu riếu ai vì nhận thấy không ai bết bát hơn mình nơi đường tình trăm năm mịt mờ hạnh phúc. Quý vị hiểu sao cũng được, hạnh phúc giăng giăng mờ mịt hoặc hạnh phúc vẫn còn xa xăm mịt mờ, cả hai đều mờ mịt. Nơi lãnh vực gia đình, quý vị cảm nhận tâm tình tôi thổ lộ thế nào thì chính quý vị đang ngoi ngóp nơi trạng thái ấy, nhưng xin chớ dại hô hoán kẻo rơi vào bẫy “Lạy ông tôi ở bụi này” hoặc vô tình biến sự nhận định của mình thành “Gậy ông đập lưng ông” chắc chắn không ai có thể chen vào đỡ đòn dùm; mà kẻ nào ngứa nghề chen vào đều bị lãnh thẹo, “Phải đầu chẳng phải, phải tai.” hoặc rơi vào trường hợp “Tình ngay, lý gian.” Dĩ nhiên, cuộc đời này đâu ai thừa giờ “Ăn cơm nhà vác ngà voi” cho thiên hạ, ngoại trừ những tên ngà voi không vác, vác cả con voi để chuốc lấy thú đau thương. Vị nào lỡ dại, ráng ngậm bồ hòn làm ngọt chờ qua kiếp người. Lời chí tình tôi chỉ có thể nói được bấy nhiêu tạm gọi gá nghĩa tâm tư cùng kẻ đồng thuyền.
     
    Tôi còn nhớ có lần nghe lỏm câu chuyện thật nhưng mang tính chất hài hước của một vị bác sĩ gây mê về vị thế của đấng trượng phu sao cho gia đình êm ấm. Vị bác sĩ có một số học trò cũng đã học xong y khoa chỉ dự thêm giờ thực tập lấy kinh nghiệm gây mê nơi phòng mổ. Hôm ấy trong khi dùng bữa trưa, có người học trò lên tiếng,
    -Theo con được biết, thày đã lập gia đình những 37 năm. Qua mấy lần thăm viếng, con nhận thấy gia đình của thày khá hạnh phúc. Thày có thể chỉ cho tụi con nguyên tắc căn bản cho hạnh phúc gia đình theo kinh nghiệm hôn nhân của thày được không.
    -Các anh nên nhớ, trong gia đình, người đàn ông là chủ, bởi đó chúng ta chỉ nên quyết định những chuyện lớn lao mà thôi. Những chuyện lặt vặt nên để bà xã toàn quyền xử lý cho đỡ phiền tâm tư. Nói cho đúng, sở dĩ tôi có được gia đình hạnh phúc vì qua gần bốn chục năm cưới bà ấy, tôi chưa thấy có chuyện gì lớn lao đáng cho tôi quyết định.
     
    Có một số người quen nhỏ tuổi hơn, tài năng của họ ra sao tôi không biết vì ai dại chi soi mói vào đời tư người khác, họ cũng mang nỗi khổ tâm nhiều khi tôi được nghe chia sẻ may ra có được ý kiến nào giúp họ cải tiến thực trạng tình nghĩa vợ chồng cho khá hơn. Nghe, nêu lên nhận định, đề nghị, và theo dõi sự thể khiến tôi ngỡ ngàng. Họ quả là những đấng mày râu nhẵn nhụi. quả là người chủ gia đình. người chồng dẫu tuổi đời ba mươi mấy gần bốn chục, dăm ba đứa con mà vẫn còn quá non trẻ. Nơi một bữa nhậu bàn dân thiên hạ đang ngon trớn nâng ly, bất chợt tôi vô tình ghé qua.
    -Chào anh Nhất, chị ấy đâu sao hôm nay vắng bóng?
    -Lo gì anh, cái gì nó là của mình thì nó thuộc về mình. Nhất lên tiếng ra vẻ tự đắc, có lẽ mới học lóm được câu khôn ngoan này nơi đâu nên đem áp dụng để bày tỏ quan điểm bất cần.
     
    Sao hôm nay Nhất lại có điệu bộ và lối ăn nói như thế này, bởi chợt cảm thấy thái độ của anh ta mang trọn vẹn ý nghĩa câu nói báo hiệu điềm giông bão “Cơm nhà, quà vợ,” tôi thầm nghĩ, chắc lại có chuyện gì xảy đến! Đã mấy lần anh tâm sự cùng tôi về những khó khăn nơi sự đối xử vợ chồng. Dĩ nhiên, cho dù học thức của một người khá đến đâu thì những lý thuyết kiến thức vẫn chỉ là những chiếc bánh vẽ do thiếu nghiệm chứng. Kiến thức nơi sách vở chẳng khác gì con heo hay con bò. chưa được làm thịt, phân định thành loại thực phẩm tươi để nấu những món ăn. Mà cho dù đã được sửa soạn, phân loại, người nấu bếp vẫn cần những thứ gia vị lẩm cẩm, lỉnh kỉnh pha chế, thêm bớt sao cho mỗi món ăn mang thi vị riêng của chúng. Không cần suy xét nhiều, dẫu chỉ một món thịt luộc cũng cần có nồi, cần nước, cần muối, ấy là chưa nói đến phải có dao để thái sau khi luộc. Nhất làm sở, bà xã coi cửa tiệm bán quần áo. Tôi đề nghị, thứ bẩy Nhất nên ra cửa tiệm phụ giúp công việc cho vợ hoặc ít nhất có mặt ở đó vài tiếng chứng tỏ mình lo lắng cho bà xã., ngày chủ nhật lo chở vợ và con cái đi ăn hoặc đi chơi đâu đó. Nhưng Nhất vẫn bận ngủ vì những sự hấp dẫn nơi TV, nơi internet., thế rồi nghe đâu chàng nào đó cũng có cửa tiệm cách dăm trăm thước nay bưng cơm cho chị Nhất, mai bưng bông mừng ngày sinh nhật, mốt bưng món này, ngày kia bưng quà nọ. và cũng nghe đâu đó chàng ấy muốn bưng chịï Nhất về nhà cho tiện bưng, đỡ tốn giờ đi tới đi lui. Ngày qua tháng lại, tốt dâu, dầy kén, thêm vào đó, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén trong khi xa mặt dễ cách lòng. Tất nhiên, chuyện phải đến sẽ đến, đâu phải những chuyện đổ vỡ bỗng nhiên xảy tới; những gì của mình chưa chắc đã thuộc về mình. mà coi chừng đồ của mình nếu không biết gìn giữ, người khác xài. Lẽ thường, vườn bông nhà mình tốt tươi, bàn dân thiên hạ người người chiêm ngưỡng, nhưng nếu cằn cỗi, mọi lỗi lầm lại do mình chẳng biết chăm lo.
     
    Trông gương người phải nghĩ đến phận mình. Nhờ trời, tôi không thuộc loại ăn trên ngồi trốc nơi hãng xưởng nhưng cũng không bị ràng buộc giờ giấc như mọi kẻ làm thuê. Aên lương năm nơi sở nhà nước, chịu trách nhiệm và làm việc nhiều hơn những người làm công nên thời giờ đi về không hạn định., bởi vậy, mặc dầu mua xe tặng vợ nhân ngày sinh nhật của bà ấy nhưng tôi đành phải dụ khị ngon ngọt để được chở nàng tới sở khi đi làm và đón nàng về vào giờ tan việc với chiếc xe đã lão thành. Chẳng những tội cho miệng lưỡi phải uốn éo thế nào cho những lời phân bua hơn thiệt ngọt tai bà xã mà đầu óc tôi còn phải vận dụng, suy tính, dương đông, kích tây, nên nói lúc nào trong giới hạn và tiến lùi ra sao tùy thuộc thái độ cùng hoàn cảnh cũng như tâm tình của nàng hầu những lời nói của mình phù hợp lý luận đàn bà để nàng thuận ý chiều theo. Điều rõ ràng mọi người đều nhận thấy đó là tôi sớm già trước tuổi. Có những lần gặp người không quen biết, họ vô tình gọi tôi là ông và chào nàng bằng chị khiến lòng tôi càng cảm thấy xót xa âm thầm cảm nhận thú đau thương của người mê vợ. Tất nhiên, nhiều thứ lịch sự rởm của dân phù thủy mắt xanh, dầu không muốn tôi vẫn phải học đòi đến nỗi nhiều khi những chị em quen biết vô tình dùng kiểu cách nịnh đầm của tôi làm mẫu mực so sánh với những đức ông chồng của họ. Và rồi những anh chồng vô tình ấy gán ép cho tôi lắm danh hiệu chẳng hạn cưng vợ, chiều vợ, thanh lịch, anh nhì, dân tây. Họ gọi tôi “anh nhì” bởi có người cố tình đổi câu “Nhất vợ nhì trời” thành “nhất vợ nhì tôi” nơi một bữa tiệc gần tàn khi mọi người đã tới hồi sứa sứa. Còn cách nào hơn, tôi âm thầm không nhận mà cũng chẳng phản đối bởi nghiệm được câu, “Niềm vui của kẻ trí làm người ngu bực mình; trái lại niềm vui của kẻ ngu khiến người trí xót thương.”
     
    Anh Phương, một người sức vóc, mạnh khỏe, nước da hơi ngăm đen, làm tàu đánh tôm đông lạnh, dài chừng gần trăm bộ. Nghề biển của anh rất khấm khá, nghe kể chuyện, bình thường mỗi năm trừ tiền trả ngân hàng anh đem về hơn kém hai trăm ngàn Mỹ kim. Từ khi lập gia đình, anh vay chạy bà con nội ngoại xuất vốn đóng tàu tới nay đã mười mấy năm. Ba cháu đã đang đi học nên năm năm trước anh Phương tậu một khu thương mại để chị coi sóc. Gần hai năm sau khi mua khu thương mại, một hôm bia bung đã sừng sừng, mấy anh em trong đó có tôi tham dự nêu lên những nhận định về tâm tính con người. Bàn qua tán lại, anh Phương lên tiếng,
    -Trai tài, gái sắc, đó là điều ham muốn bình thường của con người như một định luật. Thử hỏi, đàn ông nào không thích đàn bà đẹp. không thế mà các ông chấp nhận cho các bà ấy nay đi căng da mặt, mai sửa mũi, mốt cắt mắt, viền môi, bơm mông, bơm ngực. Và cũng chính vì ham mê cái đẹp, đàn ông chúng ta thích xài của giả. Còn về phía đàn bà, các ông có nhớ câu ngạn ngữ vòng vo không, “Lửa thử vàng, vàng thử đàn bà, đàn bà thử đàn ông, đàn ông thử lửa.” Đàn ông nếu không liều mình thử lửa sao có đủ tiền cho bà xã sửa mắt viền môi, bơm mông, bơm ngực. Các ông có biết người Mỹ có câu gì không, “No money, no honey.” Còn tiền còn vợ, không tiền không vợ! Người ta nói, có tiền mua tiên cũng được. Cuộc đời này, gì cũng tiền và chỉ có tiền mới giải quyết được mọi sự êm đẹp.
     
    Và rồi cũng nghe đâu mới vài tháng trước anh chị đã ra tòa làm giấy ly dị; anh ôm ba đứa con đem về gửi ông bà nội để tiếp tục lênh đênh với khoảng trời mây sóng nước. hầu nghiệm chứng quyền lực đồng tiền. Chị Phương tiếp tục công việc điều hành vì nhà cửa và khu thương mại đã được chuyển sang tên của chị từ hai năm qua. và lại cũng có người đàn ông không đông tài, chẳng lắm bạc, nhưng luôn luôn có mặt bên cạnh phục dịch chị những khi tối lửa tắt đèn.
     
    Những chuyện chồng đi tàu đánh tôm hàng tháng mới về và khi về đến nhà thì vợ đã bồng bế con cái đi đâu không biết, hoặc cho người bạn ghe ở nhờ để rồi không hiểu ma đưa lối hay quỷ đưa đường, sau này bạn ghe ở lại với vợ và mình ôm con ra đi hoặc ra đi bất đắc dĩ trở lại kiếp độc thân buông mình xuôi theo giòng đời cùng với con tàu, hay hận đời đen bạc bán tàu bỏ đi nơi khác đã một thời gây xao động tâm trí họ hàng ngư phủ. Nhưng biết sao hơn, con người thì muôn đời vẫn mang tính chất và những nhu cầu tâm sinh lý của một con người. Nào có ai đã là thánh mà vẫn còn sống nên không bị những tính chất và nhu cầu con người khuất phục. Hơn nữa, cho dù ai đó quyết tâm chịu đựng chống chọi với những đòi hỏi thiết yếu nơi thân phận kiếp người thì sức người cũng chỉ có hạn. Ngày nao, khi trái banh đã bị dồn nén với sức ép quá mức tất nhiên sẽ nổ tung như chiếc pháo. Cổ nhân để lại câu nói, “Con giun xéo lắm nó cũng quằn” đâu phải chỉ được áp dụng nơi sự chèn ép trong sự va chạm cuộc sống mà thôi. Xét thế, con người cần phải được nhận thức một cách chín chắn và thâm trầm hơn. Thêm vào đó, có ai cam bề tự đàn áp, hy sinh chính mình để đem cảnh giới thiên đàng êm ấm cho người khác thì chính họ đã tự bó buộc sống đối nghịch với niềm vui và hạnh phúc họ đang hy sinh tạo dựng. Không ngờ bao năm trước, Pascal đã nhận thức, “Con người không phải là thánh, cũng chẳng phải là thú, nhưng trớ trêu thay, kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú.” Nhận thức như vậy, chính tôi cũng không hiểu mình mê hay bị mê! Dĩ nhiên, dẫu tôi chẳng muốn làm thánh cũng là nạn nhân của thú mê vợ. Phỏng người đàn ông nào có được gia đình êm ấm mà không phải chịu như thế?
     
    Không hiểu giới mày râu nghĩ sao về sự thể khó nói của nam giới! Riêng tôi, tìm kiếm được người để mình cưới làm vợ đã khó, mà sống, đối xử thế nào với vợ mong có được gia đình đầm ấm lại càng khó hơn. Người đời thường nói, “có còn hơn không” nhưng nếu xét về phương diện vợ chồng, chưa chắc có đã sung sướng, thảnh thơi hơn không; chỉ một điều chắc chắn, có vợ sẽ bị phiền hà nhiều hơn không. Ừ thì đàng nào cũng hơn! Có vợ, lo làm lụng sao cho gia đình được sung túc, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm mong sao dư dật chút đỉnh lỡ nếu cần đưa bà xã đi thẩm mỹ viện. nhưng quả là bất công; mình tốn tiền, thiên hạ chiêm ngưỡng, thế mới tức! Thôi thì cũng cam tâm ngậm trái bồ hòn cho mẹ nó vui. Đời thuở nào có thể xảy ra trường hợp, vợ chồng con cái đi chợ tết mà có người không hiểu cố ý hay vô tình hỏi tôi, “Chỉ có anh và mấy cháu gái sắm sửa đồ tết thôi ư? Vậy chị ấy bận việc gì?” À thì ra mình đã lão rồi! Có vợ, thời gian dường như trôi chậm lại trong khi thân xác muốn chạy nhanh tới nấm mồ, và bao mộng ước thời son trẻ đã tự âm thầm tan biến. Tại tôi đã vô tình lãng quên hay giòng đời thúc đẩy chúng ra đi? Nào có lạ gì, lòng người như chiếc bình chứa, khi có một lực lượng mạnh mẽ xông vào thì những gì còn đang được ấp ủ phải bị trào ra nhường chỗ. Con người là thế! Hầu hết những người có vợ đều phải chấp nhận tan vỡ mộng đời của thời son trẻ! Phỏng sự thể này là thực tại không thể tránh khỏi của thân phận đàn ông hay chỉ là nhận thức phiếm diện về cuộc sống? Tôi âm thầm suy tưởng và tự diễu bởi nhận ra mình vẫn còn ham hố muốn bắt cá hai tay, rồi tự nhủ, chuyện phải đến đã đến thì ráng vui với những gì trong tầm tay với. Những gì đã và sẽ không bao giờ đến cho dù ước mơ đến mấy vẫn chỉ là mộng tưởng. dù mộng ấy cao quý hay dễ thương, cuốn hút thế nào!
     
    Trong số những người quen, anh Ban ngày đó ra trường với mảnh bằng kỹ sư điện. Bạn bè gọi anh là kỹ sư điên nặng bởi anh thường bày tỏ nhiều chương trình tương lai mang theo mộng ước lý tưởng. Dĩ nhiên do sự mường tưởng đời chỉ giống như những khuôn viên nhà trường mình vừa đạt thành nơi nấc thang cuối, người trẻ nào biết chấp nhận hài lòng với cuộc sống bởi chưa phải đối diện với những phũ phàng nơi kiếp nhân sinh. Những nhận thức triết lý, những lý tưởng xã hội, hòa với căn bản học thức nơi trường lớp chưa bị vấy bẩn do bụi nhơ thực tế chẳng những đã kiến tạo trong lòng người trẻ đầy nhiệt huyết lắm đỉnh cao mộng ước ngút ngàn, mà đồng thời cũng dàn sẵn muôn vàn triền dốc băng sơn trơn trượt không mốc điểm bám víu. Sau bẩy năm gồng mình đánh thuê nơi một hãng cung cấp điện cho dân chúng ở thành phố, anh không thể nào chấp nhận được những xô bồ tranh sống nhiều khi đến độ bất nhân giữa con người với con người. Anh nghỉ việc, gom góp tất cả tiền bạc đã dành dụm, mua ghe, hướng dẫn con tàu mong thực hiện phần nào ước mộng vẫn còn dang dở. Với kiến thức sẵn có, nghành nghề biển giã đem lại cho anh nhiều thắng lợi về tiền bạc. nhất là không bị lệ thuộc giờ giấc ngoài ý muốn cũng như có tự do quyết định đường đi nước bước giữa khoảng trời nước mênh mông. Dĩ nhiên, nơi cuộc sống mà mọi diễn biến và định ước xã hội lệ thuộc định giá tiền bạc thì khi có tiền, những ước mộng bình thường đều được giải quyết. Tuy nhiên kinh nghiệm đời minh chứng, dẫu mang quyền lực vạn năng nơi xã hội vật chất, vẫn còn nhiều thứ nơi nhiều phương diện và trường hợp, tiền bạc không mang giá trị mảy may. Tiền bạc có thể thay đổi lòng người nhưng không mua được tâm hồn kẻ bị nó khuất phục. Nơi lãnh vực tình nghĩa cũng thế, tiền bạc chỉ mang thân phận tôi đòi hoặc phương tiện chứ không thể biến lòng người thành nô lệ. Anh Ban dẫu có học thức, nghề nghiệp tự do vững chãi, và tiền bạc sung túc nhưng duyên số quá ư lận đận. Mãi mười năm sau ngày ra trường, anh mới cưới vợ.
     
    Theo giòng đời trôi, những lý tưởng thơ mộng ngày nao của thời son trẻ đôi khi được bạn bè nhắc nhở, anh Ban thường lanh trí tảng lờ, lái câu chuyện xoay qua chiều hướng khác và diễn tiến thường được kết luận với vai trò tiền bạc ảnh hưởng nơi cuộc sống lứa đôi. Có lẽ do căn bản học thức thuận chiều vận số nghề nghiệp cùng với lòng vững tin về khả năng mưu sinh trong ngành nghề biển giã, đồng thời nhận thức phần nào ngõ cụt của những mộng ước ngày xưa tạo thành tâm tình bất đắc chí, chúng đã kiến tạo nơi anh ban thái độ tự mãn, chiều lòng chạy theo định giá cuộc đời tùy thuộc thành đạt nơi phương diện tiền bạc. Lẽ thường, điểm tới của ước muốn nơi một người đều là những gì chưa có hoặc có chưa đủ trong khi lại coi thường hay tự mãn với những gì đã đạt được nơi tầm tay. Anh Ban say mê kiếm và chăm giữ tiền bạc mong chẳng những bảo đảm cho những ngày sắp tới mà còn hầu giải quyết những khó khăn, bất trắc có thể xảy đến trong tương lai. Khi cháu nhỏ nhất vừa đủ tuổi được nhận vào lớp mẫu giáo, chị Ban cũng bắt đầu đi làm nơi một hãng cấu đầu tôm. Và những chuyển biến tình nghĩa cũng được bắt đầu không lâu tiếp theo thời gian ấy.
     
    Thuở ban đầu khi mới nghe nói tới chiều hướng hay quan niệm nam nữ bình quyền, có lẽ những dân nhập cư nơi đất Hoa Kỳ đều cảm thấy ngỡ ngàng. Nam giới thường mang ý nghĩ phần nào bị mất bớt quyền hành trong khi thêm phần trách nhiệm. Đại khái vì không am hiểu thực chất của quan niệm bình quyền, người ta đã vội in trí về sự thua thiệt quyền hành hay mất vị thế của người đàn ông đã bao lâu nay được mọi người, nhất là giới mày râu, tự nhận nó phải thế như một định ước bất biến trong thế giới loài người. Hơn nữa, qua truyền thống và văn hóa người Việt, ý thức trách nhiệm của người đàn ông không những đối với gia đình nhỏ hẹp bao gồm vợ chồng, con cái, mà còn liên hệ tới đại gia đình, họ hàng thân thuộc khá nặng nề, quan niệm nam nữ bình quyền đã thẳng tay hạ cấp vai trò của gia trưởng. Vết thương chẳng nên đeo đẳng đã tạo lắm đòn hằn nơi tâm hồn con người chỉ vì quá vội mường tưởng do thiếu ý thức. Trái lại, quan niệm nam nữ bình quyền đã thực sự hạ cấp vai trò nữ tướng nơi gia đình cũng như gia tộc của phụ nữ nhưng lại được hiểu là thăng cấp họ ngang quyền với mọi người, nhất là đối với chồng. Thử hỏi các đấng mày râu, xưa nay có bao giờ các ông dám tự mình quyết định bất cứ chuyện gì nơi gia đình cũng như công việc làm ăn hoặc nơi ăn chốn ở mà không hội ý bà xã? Các ông muốn mua nhà mới, xe mới, muốn đi đâu, giờ giấc thế nào mà bà xã không thuận ý phỏng có gì được thành hình không? Ngược lại, khi bà xã đã quyết định điều gì, không sớm thì chầy, quý vị mày râu chỉ được phép chấp nhận một sự lựa chọn độc nhất và phải như thế, không thế không được đó là làm theo ý bả. Khổ nỗi, người ta chỉ vội hiểu bình quyền mang nghĩa đàn ông phải rửa chén, quét nhà như đàn bà. Ôi thực tế nghịch thường, có bà nào bắt ông chồng rửa chén đâu. hay chẳng bình quyền thì chính ông đã tự xung phong rửa chén. chẳng hạn trường hợp điển hình là chính tôi. Mình rửa chén cho mình, cho vợ mình, và cho con mình chứ có rửa mụ hàng xóm nào đâu mà thiệt. Và nếu có ai đó thay vì rửa chén nhà mình lại xung phong rửa mụ hàng xóm tất nhiên phải là chuyện động trời, bay nồi bay niêu, bay cả đến nóc nhà dù chúng không có cánh. Và chị Ban đã chấp nhận và được anh chàng Xì, tên đổ tôm cho nhân công nơi hãng, rửa, dẫu chị không cần bình quyền, dẫu gia đình chị tiền bạc không thiếu. Thế mới lạ đời!
     
    Trung thực mà nói, sự thể chẳng ngờ nơi cuộc sống hôn nhân dưới mắt người ngoài cuộc chỉ là chuyện phải xảy đến đối với người trong cuộc như thành quả hay sản phẩm bắt nguồn từ sự nhận thức cá nhân được áp dụng nơi sự liên hệ tình nghĩa vợ chồng. Ai không khát khao hạnh phúc, và ai không thiết tha kiếm tìm hạnh phúc. Khổ nỗi, hạnh phúc là gì nếu không là sự thăng hoa mơ ước, cho dù niềm mơ ấy như thế nào, vì khi đã đạt được ước mơ, chính thành quả ước mơ đã giết chết lòng mơ ước. Thế nên, nỗi cô độc lòng người lại chính là thực thể con đẻ của niềm chán ngán không còn gì mơ ước. Có được gia đình êm ấm, vợ chồng con cái đuề huề, nghề nghiệp vững chãi, nhà cửa, xe cộ sẵn có, tiền của dư ăn, dư mặc lại được chuẩn bị phòng hờ cho tương lai, người phụ nữ nào dám mơ ước hơn? Thế nhưng, có lẽ đồng tiền không do công sức chính mình kiếm được sẽ không được nhận định giá trị đúng đắn của nó đối với người xử dụng. Hoặc do mặc cảm ăn bám, vô dụng, hay thứ mua vui cho kẻ đem tiền về tiêu xài, chị Ban thực sự nhận thấy mình mang một thứ giá trị mà đã bao lâu nay chưa bao giờ cảm nhận được. Từ ngày mới cưới, anh Ban, vì quá lo lắng cho tương lai gia đình, thường nhắc nhở cẩn thận về phương diện chi dụng khiến chị mang nỗi tự ty bị tù túng nơi dung cách tiêu pha. Cầm tiền do chính tay mình làm ra dẫu chẳng được bao nhiêu nếu so sánh với sự chi tiêu nơi gia đình và dẫu chị xử dụng một cách dè dặt nhưng nó mang năng lực tạo nguồn cảm ứng tự tin. Chị thực sự là một cái gì. Chị có khả năng tự lập. không cần lệ thuộc. Chị có tự do không ai có thể kiềm chế. Niềm cao vọng phát xuất bởi nhận ra thực thể giá trị con người khuyến khích tâm trí chị đặt lại nhiều vấn đề liên quan đến vị thế của mình nơi giòng đời. Lập gia đình với anh Ban khi mới chân ướt chân ráo đến Mỹ được hai năm, chưa bao giờ chị tự kiếm được dù chỉ vài xu làm của riêng. Nay chị bước vào cơ hội, một chân trời mới rộng mở đón chờ tâm hồn phơi phới dấn tới.
     
    Cũng phải chân thành nói lên sự thiếu sót của phái nam, vấn đề này tôi chỉ có thể trình bày về lầm lỗi của chính mình, cầu mong các ông không ai mắc phải. Dĩ nhiên, phụ nữ thừa cảm nhận nhưng đã nhận định sự thiếu sót này với con mắt thiên kiến khác thành ra phần nào quá bất công với nam giới chúng tôi. Xét về nhân đức kiêu ngạo, bình thường, đa số người cầm bút rơi vào trường hợp văn mình vợ người cho dù mình viết chẳng ra cái quái gì (dĩ nhiên kẻ viết không ngoại lệ). Nơi cuộc sống lứa đôi, dẫu không bao giờ dám nói lên, thực thể cảm nghĩ “không ai xấu bằng vợ mình và chẳng ai đểu bằng chồng mình” luôn luôn mang năng lực thống trị tâm hồn mọi người. Phỏng ai không biết nằm lòng câu, “Đạo phu phụ tương kính như tân?” Cho dù chữ tân ở đây được hiểu theo nghĩa “mới cưới” hoặc “mới quen biết,” thiển nghĩ, áp dụng được một trong hai đã là quý hiếm lắm rồi, phương chi nói đến sự đối xử giữa vợ chồng giống như đối với quý khách đến thăm. Thế nhưng, lại chữ nhưng, thực tế minh chứng, mình càng yêu thương ai bao nhiêu, càng chỉ làm khổ người đó và chính mình bấy nhiêu. Vợ chồng chung sống qua bao ngày tháng, biết về nhau hầu hết đâu cần gì những hình thức rởm. thế nên cho rằng chỉ cần chân thành trao đổi những gì cần nói và nên được nói là quá đủ. Ai không chấp nhận thế! Lòng chân thành đã vô tình giết chết hoặc làm suy sụp tình nghĩa chồng vợ, nghịch lại với lời cổ nhân khuyên nhủ tương kính như tân. Vợ chồng anh chị Ban không thoát khỏi chiếc bẫy bình thường này như nó đã xảy ra nơi bao cặp vợ chồng khác.
     
    Tương đối có dáng dấp khá hấp dẫn, người mình dây, thuộc diện trường túc trường mi và vì có chút nhan sắc thêm sự hấp dẫn nẩy nở của người đàn bà đã có chồng nên chị Ban được tên Xì, nghe đâu trẻ hơn chị hai tuổi với sức vóc mạnh khoẻ và hình dáng tương đối hấp dẫn nữ phái, để ý dành cho sự lưu tâm đặc biệt hơn những người khác. Với công việc làm khoán giá trả được tính theo sức nặng đầu tôm đã ngắt, ai may mắn gặp được những loại tôm lớn sẽ kiếm được nhiều tiền hơn người ngắt đầu tôm loại nhỏ, tên Xì dành ưu tiên cho chị Ban nên chị luôn luôn được cung cấp với những loại tôm lớn nhất. đến nỗi những người làm cùng hãng để ý, tạo nên lời ong, tiếng ve, nửa đùa nửa thật, lại thêm kẻ nói vào, người nói ra, lâu ngày chầy tháng nhập tâm khơi động cảm nhận nơi lòng người phụ nữ trong lứa tuổi sồn sồn. Trung thực nhận định, sự cảm nhận được ưu đãi nơi chị Ban bắt nguồn có lẽ từ cuộc sống nhàm chán nơi sự liên hệ vợ chồng. Anh Ban đã có chút tuổi, tướng tá trở nên phục phịch. lại hơn vợ mười mấy năm. Lẽ tự nhiên với tuổi tác như thế, anh Ban dẫu nhận biết sự chênh lệch nhu cầu thiết yếu vợ chồng thì cũng không thể nào thỏa mãn lòng khát khao nơi người bạn đời chớm bước vào tuổi hồi xuân. Thêm vào đó, tâm tình tự cao phát xuất do nỗi lòng bất đắc chí đã khiến anh ù lỳ mơ tưởng chị vợ nhận thức và chấp nhận thực tại như mình. Và thế là chị Ban đã cuốn gói, bỏ chồng, bỏ con, mang thân xác tới cho tên Xì tha hồ rửa.
     
    Xét người lại nghĩ đến ta. Những gương trước mắt bắt ép tôi phải suy nghĩ, đắn đo, bày mưu, tính kế bảo vệ hạnh phúc gia đình. Có ai cho rằng nhất vợ nhì tôi cũng được hoặc thờ bà cũng chẳng ăn nhằm chi, miễn sao êm cửa êm nhà. Bà ấy không thấy ai tử tế, có tình có nghĩa hơn mình thì hạnh phúc lứa đôi vẫn còn được bảo trì. Nói như thế nhưng đâu đơn giản thế! Những chuyện lẩm cẩm lỉnh kỉnh nhiều khi tôi phải thực hiện chẳng khác gì tên ngố cũng chỉ vì hai tiếng hạnh phúc đâu ai hiểu thấu. Tôi biết uống rượu, có thể nói thích đôi chút, bà ấy không cấm nên không bao giờ nghĩ tới chuyện chừa. Có lẽ bà ấy cũng hiểu. “Thứ nhất chén rượu ngà ngà, thứ nhì anh ở nơi xa mới về” nên cứ lờ đi chăng. Đến chuyện đam mê thú vui câu cá mà nhiều khi bị bả cằn nhằn khiến lòng rầu rĩ lắm phen mặc dầu vẫn cố tình lần lữa, tôi chưa có quyết định dứt khoát nên vẫn cứ dằng dai. Thực lòng không dấu diếm, đâu phải tôi đam mê vợ vì lòng mình không thể rung động với bất cứ ai khác. Quý vị nào lạ chi câu nói, “Sông bao nhiêu nước cho thừa, Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng.” Dẫu tôi cũng chẳng còn trẻ gì nhưng con tim có bao giờ già; hơn nữa, cho dù mỗi con tim mang một tần số cảm ứng riêng thì cũng đâu thiếu chi những con tim khác cùng chung nhịp điệu. Tự cảm nghiệm nơi lòng mình, con người được sinh ra với lòng khát khao tiềm ẩn nào đó đã tạo nên những rung cảm con tim với tần số lạ lùng thường bị nhận định một cách sai lầm. Đâu thiếu gì đàn ông hình dáng bên ngoài không mang vẻ chi hấp dẫn mà có được người vợ duyên dáng cả về nhan sắc lẫn tính tình lại thương chồng tha thiết. Và cũng đâu thiếu gì bà chanh chua, mỗi lời nói thoát khỏi cửa miệng chẳng khác chi những chiếc lông con nhím đang sù lên chực chờ đâm vào cổ họng kẻ đấu khẩu, thế mà lại được đức ông chồng hòa nhã, thanh lịch quả là đối nghịch với vợ như nước cùng lửa và gia đình họ vẫn êm ấm đã bao nhiêu năm giữ trọn tình nghĩa phu thê cho tới già. Con tim  mỗi người quả nhiên bí ẩn nhưng thường đã bị gán ép với lòng ham muốn nhục dục để rồi mỗi khi nghe nói đến tình yêu thì lắm kẻ đã vội liên kết ngôn từ thần thánh này với chiếc giường, một lầm lẫn con đẻ của sự thiếu nhận thức. Dĩ nhiên là một con người, tôi cũng có những rung động cảm ứng như mọi người. Nói như thế có nghĩa lòng tôi cũng chất chứa đầy ham muốn không khác chi bất cứ ai ngoại trừ mức độ tùy thuộc bản chất con người.
     
    Một người bạn rất thông minh, lắm sáng kiến cùng lớp với tôi kể lại, có lần anh ta gặp một thày tu đã 92 tuổi nhân ngày sinh nhật của vị này. Anh bạn tôi giả đò ngớ ngẩn hỏi, “Thưa thày, năm nay thày đã 92 tuổi chắc là đã quá già so với những ngày còn trai trẻ. và như vậy thày có còn bị những ước muốn dục vọng bình thường thế tục ảnh hưởng nữa không?” Vị thày tu với giọng điềm nhiên trả lời kèm theo đôi mắt lộ vẻ tinh nghịch, “Năm nay thì chưa hết đâu, nhưng có lẽ sang năm.” Con người là thế và không như thế không phải là người bình thường. Nhận thức được thực trạng tâm sinh lý chung chung của con người như vậy, tôi rất cảm phục nhận định về vai trò hôn nhân nơi cuốn Những Bí Aån của Cuộc Đời, hôn nhân là môi trường tuyệt vời nhất cho con người hoàn thành những bài học họ phải trải qua để trở nên hoàn thiện. Nhận xét theo quan niệm Ấn học, nếu ai không chấp nhận hoàn thành bài học mình phải trải qua mà chỉ vì thiếu ý thức do ham muốn có cuộc đời theo ý mình, cho dù vùng vẫy, thay đổi cách mấy chỉ càng làm khốn khổ cho mình. Không lạ gì Phúc Âm nêu lên lời dạy đoan chắc, “Sự gì Thiên Chúa đã ràng buộc, loài người không được phân ly.” Quả thực lầm lẫn nếu chấp nhận câu này một cách vô ý thức bởi thiếu hiểu biết và không nghiệm chứng.
     
    Lẽ tất nhiên, bài học tôi phải hoàn thành hoặc đoạn trường tôi phải trải qua nơi cuộc sống hôn nhân sẽ không giống bất cứ trường hợp nào của bất cứ ai do đó không nên đề nghị họ phải thế nào để hoàn thành kinh nghiệm họ cần phải học. Hơn nữa, mọi người đều khác nhau từ thể chất tới tâm tính, thế nên, có thể điều thích thú, ước mơ của người này lại là sự khổ ải đối với người khác. Phương diện nơi cuộc sống lứa đôi tôi muốn tìm hiểu chỉ được tóm gọn đâu là căn bản hoặc phương pháp con người nên thực hiện để hoàn thành kinh nghiệm hoặc bài học mình cần học, nên học, nói cho đúng, phải học chỉ vì chuyện đã được xảy đến tất nhiên có lý do nào đó mà mình chưa hoặc không hề nhận biết. Sự việc xảy đến nơi cuộc đời một người không thể nào coi đó là một lầm lẫn hoặc chẳng may. Chẳng hạn, chúng ta phải ăn để sống thì tất cả mọi sự trốn thoát, tránh ăn uống đều đem lại tai hại cho cuộc sống. Hôn nhân đã xảy đến và được hai người hoan hỉ chấp nhận để rồi cũng hai người đó do thực hiện cuộc sống hôn nhân một cách thiếu ý thức và không muốn tìm hiểu hoặc suy nghiệm để giải quyết vấn đề nên chấp nhận giải thoát bằng cách chạy trốn được gọi là ly dị tất nhiên đã tự đóng gông vào tâm tư mình. Thử hỏi những ai đã thực hiện ly dị phỏng có bao giờ họ xóa bỏ được sự kết án nội tâm không? Kinh nghiệm sống minh chứng, cho dù người khác kết án hoặc nhận định về mình ra sao cũng không thể nào so sánh với bản án lương tri ngàn đời ngự trị nơi mình.
     
    Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân đâu phải chỉ lý thuyết suông, một chiều mà có thể giải quyết mọi vấn đề. Mặc dầu tuổi vợ chồng tôi xấp xỉ ngang nhau, nhưng vào giai đoạn hồi xuân của bà xã cũng khiến tôi khốn khổ không ít. Nào ai lạ chi tâm tính phụ nữ nơi lứa tuổi 45 đến 55. Tuy ở tuổi mà nhiều người đã được gọi bằng bà nội hay bà ngoại nhưng tâm tính họ lại tái diễn tính chất của thời còn măng trẻ. Mích lòng một chút, họ lẫy, họ hờn. Nhu cầu tình cảm của họ không khác chi những ngày hẹn hò, đòi được mơn trớn, vuốt ve chiều chuộng như thời thanh xuân. Dẫu thân xác thay đổi “đã toan về già” theo tuổi đời nhưng nơi phương diện tâm sinh lý, họ quay ngược trở lại. Ngoại trừ trường hợp bất thường, nhu cầu của người đàn bà mênh mông chẳng khác gì biển khơi, sức chứa không bao giờ đầy, lòng khao khát chẳng lúc nào vơi trong khi người đàn ông đã bị giới hạn theo sự tàn phai của năm tháng. Đâu phải chị sẻ mái muốn đạp, đá chàng trống. mà luật tự nhiên phải thế. Tôi âm thầm suy tính, mượn cớ thích nhâm nhi ly rượu thuốc, nay thang Minh Mạng, mai thang Nhất Dạ Lục Giao, rồi nào ngọc dương cách thủy tim sen, hột sen lấy sao cho được nước mẹ bồng con, táo tầu đen, hoài sơn, chi tử, khung phiến. nào thang Tự Đức, v.v. Đọc cuốn Rồng Xanh Ngục Đỏ thấy nói về canh lá Xuyên Điền Thất bồi bổ dương lực bị hao tán, tôi kiếm cho bằng được, nấu nướng đủ kiểu, đủ loại và ráng nuốt hết ngày này qua ngày khác. Nhà tôi không biết, nói qua nói lại sao không chịu thay đổi rau rợ. dẫu miệng lưỡi trơn tru nhưng sao tôi có thể giải thích! Có lần nghe người bạn nói về đặc tính vượng dương của vị Đằng quai, lá hẹ, và tôm tướng quân. Nếu có được cả ba thứ nấu thành món canh thì tuyệt vời. Lá hẹ quá dễ dàng, nơi chợ người Việt nào không bán. tôi cậy cục xin được ít giống về trồng. Trồng hẹ thì dễ mà kiếm loại đất nào, phân nào cho hợp và mang lại lợi ích cho chủ đích của mình thì ôi thôi cả là vấn đề nan giải. Thêm vào đó, tôi nào biết Đằng Quai là gì. Hỏi mấy thày thuốc bắc, thày nào cũng mập mờ phỏng đoán thứ này, thứ khác sao dám hốt về. và thế là lại phải kiếm cho ra người bạn. Nghe anh giải thích tôi mới vỡ lẽ. Đằng Quai, đằng khoai. nhan nhản trước mắt mà chỉ vì cái ngôn từ khốn khổ của người Đài Loan khiến tôi kiếm trợn mắt. Nào có chi đâu xa lạ, nó chính là củ Đương Quy được thái mỏng bán dẫy đầy nơi tiệm thuốc bắc mà các bà các chị nhà ta thường mua về nấu chè sâm bổ lượng. Quả thật rõ ngố. bây giờ tôi mới hiểu tại sao người ta gọi chè sâm bổ lượng. Phiền toái hơn và bổ béo đâu không thấy, nhưng tìm tòi moi móc làm thân với dân thuyền chài để kiếm mấy con tôm tướng quân mới khó khăn. Tôm nào chả là tôm nếu không vậy sao có câu ví “Họ hàng nhà tôm,” sao ông cứ nằng nặc nói về tôm tướng quân. Chẳng lẽ loài tôm cá dưới biển cũng có quân đội hay sao mà có tôm tướng. và đã là tướng sao lại còn gọi là tôm tướng quân. Vậy có con tôm nào đó vừa là tướng vừa là quân lẫn lộn thì sao mà biết. Một ông ngư phủ tay cầm lon bia Budweiser hình như hơi thấm chút ma men lên giọng chỉnh tôi. Cũng may, thế mà vẫn có người biết và tôi được giải thích, tôm tướng quân là con tôm lớn, nơi hai chiếc râu dài của nó có những hột trong khi các con tôm khác không có hột nơi râu như thế. Ông nhận lời để ý kiếm và khi có sẽ gọi lại. Nào đâu đã hết, phương này, cách kia, chạy bộ, tập thể dục thể thao, đi bơi, chạy xe đạp. chỉ có Yoga tôi không dám thử bởi nếu không biết mà dẫn khí chạy lòng vòng qua các kinh mạch trật đường sẽ bị tẩu hỏa nhập ma khiến mới thoạt nghe đã thấy lòng ớn lạnh, lỡ hạnh phúc đâu không thấy lại thấy cái quan tài thì bà nhà tôi để phần cho ai?
     
    Đâu ai lạ gì câu nói, “Chân thành, thiện chí, năng hoạt động nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Thế nên, chịu khó làm ăn, thương yêu vợ, biết lo lắng cho gia đình nhưng thiếu hiểu biết về đặc tính nữ phái cũng như không chịu để ý tìm hiểu tính chất riêng biệt của vợ, người chồng có thể đã mất vợ ngay từ khi mới cưới. Những cố gắng tìm hiểu, tính toán, và thực hiện thuộc về phương diện cá nhân hầu tạo mức độ giao hòa nhịp sống nơi lãnh vực hôn nhân đều tùy thuộc cá tính cũng như tâm tính của người phối ngẫu. Vợ thích ăn cơm canh rau đay với cà ghém muối chua kèm theo món cá khoai lót rau răm kho khô mà chồng có được bữa nào nấu cơm giúp vợ thì chỉ những bê thui, nem thính bắc kỳ cho tiện thì bà nhà sẽ cảm thấy thế nào? Mà đâu phải chỉ một lần vô tình. cả ngàn lần vô tình. dẫu miệng lưỡi trơn tru đến mấy và dẫu những lời dịu ngọt cách nào thì sự in trí bị coi thường sao có thể gột rửa. Cổ nhân để lại nghe tục nhưng quá thâm trầm, “Cơm nhà, quà vợ” nhắc nhở những bậc râu mày để ý xét lại việc gối chăn. chắc có lẽ ít ai đặt vấn đề tại sao đã cơm mà lại còn quà!
     
    Ông nào không mơ ước mình có được một người vợ dịu hiền, biết lo lắng chăm sóc cho gia đình để yên tâm vững chí làm ăn; bà nào không thao thức kiếm được người chồng lý tưởng, thế sao biết bao sự đổ vỡ xảy đến? Những người ở đấng bậc vợ chồng có bao giờ thử so sánh tâm tình của mình đối với người phối ngẫu khi chưa cưới hoặc khi mới cưới với hiện tại để dự đoán những gì có thể xảy đến hay không? Nếu cuộc đời con người là một trường chiến đấu liên lỉ thì hôn nhân tất nhiên phải là bãi sa trường. Ngược lại dân làm chính trị biết chuẩn bị cho thời chiến tranh khi đất nước đang thời thanh bình thịnh trị mà kẻ nơi sa trường hôn nhân ỷ y ngủ mê trong chiến thắng vì đã có được người yêu dấu! Quá non nớt nếu không muốn nói là đã bắt đầu thất bại ngay từ ngày vinh quang được mệnh danh bằng “ngày cưới.” Mọi người biết lo lắng chuẩn bị nghề nghiệp cho cuộc sống tương lai được hạnh phúc bằng cách học hỏi, cố gắng đạt bằng nọ, chức kia phải mất bao ngày tháng cần mẫn chăm chỉ theo đuổi học hành nơi nhà trường. Quả là quá ngây thơ, hạnh phúc gia đình đang được hưởng lại không biết tìm hiểu để bảo vệ. tới khi sự thể cơm không lành, canh không ngọt xảy đến, người này đổ lỗi cho người kia. và mình bao giờ cũng đúng chỉ người kia là sai. đâu ai dám đối diện với thực tại tâm lý, nếu muốn có người bạn đời toàn hảo thì chính mình phải là người toàn hảo trước hết. Nơi thân phận người chồng, tôi nhiều lần nghĩ tới câu chuyện kể về Aristote mà đôi khi cảm thấy lòng mình giao động khó bề áp dụng. Hôm ấy nhà hiền triết có người bạn đến thăm, hai người chuẩn bị thực phẩm và kéo nhau ra ngồi dưới gốc cây vừa nhậu vừa đàm đạo. Không hiểu chuyện gì xảy đến khiến vợ Aristote tức giận bưng luôn cả mâm thức ăn hất xuống đất trong khi hai người đang hứng chí. Người bạn ngỡ ngàng nhưng nhà hiền triết trầm tĩnh nói, giả sử khi chúng ta đang ăn nếu có con gà mái nhảy vô bới tung đồ ăn thức uống thì phản ứng của bạn sẽ thế nào? Đôi khi ý nghĩ đến với chính mình, thì bắt con gà mái đó làm thịt, nhậu tiếp. Chợt nghĩ lại, đến nhà hiền triết còn phải im hơi lặng tiếng chấp nhận thì ai có thể ăn thịt được con gà mái của ông. Cũng bởi có được bà vợ quá đa quá độ, hình như Aristote đã để lại câu khôn ngoan, nếu có được mụ vợ dữ dằn, người chồng sẽ trở nên một hiền nhân. Ai đâu không biết, riêng tôi, bà xã hiền hòa gấp trăm lần người vợ nhà hiền triết mà vẫn đang có ý định ra chợ mua cặp “mút” về đút nút lỗ tai.
     
    Số là từ ngày mấy sòng bài nổi lên, bà xã tôi thấp thỏm nay dạm ra, mai dạm vô đi làm. Tôi phân trần tới lui, viện đủ mọi lý lẽ thế mà đài phát thanh cứ eo éo thông báo về dự án chẳng nên.
    -Bao lâu nay chỉ mình anh đi làm cũng đủ lo cho gia đình. con cái chúng ta bốn đứa ra trường lại có công ăn việc làm vững chắc thì em đâu cần lo lắng chi về tiền bạc.
    -Xưa nay em chưa bao giờ đi làm nên mang mặc cảm ăn bám chồng con.
    -Em nên hiểu, công việc nội trợ, chăm sóc con cái và gầy dựng chúng nên người không thể định giá bằng tiền bạc. Em đã giúp con cái đạt được kết quả lớn lao như thế, chẳng những vậy, sự chăm sóc con cái ảnh hưởng một đời của chúng sao em không thể nhận ra mà lại cứ muốn đi làm cho cực khổ thân xác.
    -Nhưng em muốn mình có thể tự lập, em không muốn đeo đẳng cái cảm nghĩ ăn bám nơi mình.
    -Em thử tính toán về phương diện kinh tế coi. Mặc dầu bằng cấp của anh chỉ là kỹ sư dầu hỏa nhưng vị thế của anh thuộc loại thâm niên công vụ. lương của anh chỉ thua đại diện chủ hãng. Nếu em đi làm chỉ hao tốn thêm chứ không kiếm thêm được đồng nào vì thuế lũy tiến tính theo tỷ lệ lợi tức chứ không tính riêng từng người.
    -Em bằng lòng trả số tiền khác biệt ấy.
    . Và tôi phải đầu hàng, chẳng những chấp nhận ý thích của bà xã mà còn phải xin đơn, điền đơn, mời người quen có vị thế nơi sòng bài tới nhậu, rồi nào gửi gấm, nào dặn dò, năn nỉ. và bà ấy được nhận vào chân đứng coi quầy bánh trái.
    -Em làm ơn nhớ kỹ, đi làm thuê và lương trả theo giờ giấc nên em cứ từ từ làm việc, không cần phải làm cho hết việc vì nếu hết việc hãng xưởng đâu cần thuê ai. miễn sao mình không đứng chơi hoặc trốn việc là được.
     
    Dặn đi dặn lại bao nhiêu lần nhưng tôi vẫn phải banh tai để nghe những lời phàn nàn về thằng xếp này chia giờ không đúng ý muốn của bả, thằng xếp kia có chuyện gì cũng cứ nhè bà ấy mà kêu “help, help” trong khi người làm việc nơi quầy đó đứng giương mắt ngó. rồi nào con mẹ này lười lĩnh, cứ xớ rớ không chịu làm, con mẹ kia chanh chua nói chọc nói chạch. bà kỹ sư mà nay cũng phải dấn thân đi làm; nào cái giọng con mụ khác éo éo trù ẻo, “Bèo khoe bèo nổi trên mây, đến khi nước rút bèo dây với bùn.” Ôi thôi, muôn thứ vớ vẩn làm phiền vợ tôi thì ít mà chống chọi cặp tai tôi thì nhiều! Tôi có muốn làm hiền nhân đâu. Quá đủ, quá đủ nhưng thần thánh không có cặp tai, không phải nghe nên đâu hiểu bao nhiêu mới đủ khiến tôi cứ phải gồng mình chịu trận. được nghe nhưng không có quyền nói, lỡ miệng nói ra sẽ tan cửa nát nhà. Có phải những người thích làm tàu “freezer” cũng chỉ vì sợ chương trình radio sống động nên kiếm cớ chạy trốn để cả tháng mới bị có cơ hội tiếp nhận những lời ngọt ngào thương yêu?
     
    Tôi có ông bạn quen, tuy đã có tuổi và mặc dầu vốn liếng học thức của ông ta chẳng được bao nhiêu nhưng thái độ chịu đựng và nhận định cũng như suy tư của ông quả trỗi vượt khỏi tư cách và lối suy nghĩ thường tình. Oái oăm thay, cuộc đời dẫn dắt ông vào kiếp hiền nhân dù ngày xưa nơi thời trai trẻ, lối sống ăn chơi của ông cũng chẳng kém cạnh gì so với những người đồng thời. Vợ chồng tôi hay ghé thăm và thường xuyên qua lại nên ông bà ta coi chúng tôi như anh em, không bị những hình thức cố hữu ràng buộc. ngay thái độ đón tiếp cũng như lời ăn tiếng nói đều chứng tỏ sự chân thành, bộc trực giữa đôi bên, không cần rào đón, e dè. Một hôm, ông bà mời vợ chồng tôi tới dùng bữa tối. Chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra và thế là bà bù lu bù loa vừa lúc chúng tôi bước chân tới cửa. Âu cũng lỗi tại tôi bởi đã quá quen tự tay mở cửa. Bà vừa khóc vừa la lối; ông ngồi sượng trân. Bí quá tôi làm ra vẻ tự nhiên lên tiếng,
    -Chuyện chi đã xảy ra mà bà đấu tố ông ấy vậy?
    -Nào có chi đâu, bà ấy hấp con cá mú có người mới cho chủ ý làm món đặc biệt để đãi khách, dặn tôi canh chừng tắt lò nướng trước khi ra nương hái rau cải non để cuốn bánh tráng. Tôi mãi đọc sách quên bẵng đi mất. Đây là lỗi tại tôi; tôi đã năm lần bảy lượt nhận lỗi mà bà ấy vẫn chưa tha. Ông bà nhìn xem, đấy kết quả đọc sách của tôi đáng giá chừng ấy. Giọng ông trầm tĩnh, chịu đựng, đưa tay chỉ chiếc lò nướng đang mở toang và trên ngăn song sắt đặt chiếc khay nhôm trong đó một con cá mú to, cháy khô phần ngoài, đen đúa há hốc miệng như muốn kêu trời.
    -Ông nói thì hay lắm, mười voi không được bát nước xáo. chỉ được nước nói, nói, còn ở nhà thì hiếp đáp vợ con.
    Tôi bật cười lấy giọng nửa đùa nửa thật lấp liếm cho qua nơi vị thế chẳng đặng đừng,
    -Như vậy vợ chồng tôi bị làm quan tòa quyết định về phận số con cá. Không sao, tôi xin đại diện nhà tôi phân xét, hôm nay chúng ta sẽ nhậu món cá mú nướng khô. chỗ nào cháy không ăn, ăn chỗ không cháy. Quay lại bà xã, tôi nhắc nhở, nhờ mình thượng con cá lên bàn và xem món rau cải thế nào. Ồ quên, đưa chai rượu thuốc cho anh. Và cứ coi như không có chuyện gì xảy đến, tôi kiếm hai chiếc ly, rót rượu thuốc nhâm nhi cùng ông già.
     
    Kể ra bà xã tôi cũng dễ thương, biết ông bạn già và tôi thích rượu thuốc nên nàng chuẩn bị sẵn cho tôi một chai để ở cốp xe. Không hiểu nàng kiếm đâu được chiếc chai có hình dáng khá đẹp, màu thủy tinh trong vắt, vừa vặn tay cầm. làm nổi bật mầu nâu thẫm của rượu thuốc. Vì quá thân hơn nữa những chuyện lẩm cẩm lỉnh kỉnh này xảy ra thường tình nên tôi cùng ông bạn già không gặp trở ngại chi khi bắt đầu câu chuyện. Ông lên tiếng phá tan bầu không khí còn vương đọng nét căng thẳng pha lẫn chút ngỡ ngàng.
    -Hình như tôi có phận số không may, cứ mỗi lần gặp người thân quen đều bị trở thành cớ cho bà nhà tôi đấu tố.
    Thế là bà nhà đế thêm,
    -Làm ăn thì chẳng bao giờ được việc gì nên hồn lại còn cứ to miệng.
    -Thôi ông ơi, hãy để tôi thưởng thức miếng rượu cho nó thông đồng bến giọt. Ông mà đổ thêm dầu vào lửa coi chừng nóng quá rượu bốc hơi lấy gì mà uống. Tôi cắt ngang và đổi đề tài qua những chuyện mưa nắng thường tình.
     
    Sự xô xát nơi gia đình bình thường khởi đầu bằng những chuyện cỏn con. Tuy nhiên, không hiểu tại sao trời ban cho nữ giới trí nhớ tuyệt vời. mà chỉ nhớ những chuyện chẳng nên nhớ để rồi khi có cớ gì khơi mào. thế là liên miên bất tận. Bao nhiêu chuyện thiếu sót của người phối ngẫu từ thời thủy tổ chưa rụng rốn được các bà trình bày một cách cay cú ráp nối chuyện này với ý kia, thêm mắm thêm muối, thêm cả một kho tàng tưởng tượng tạo thành bản án kết tội chồng mình đáng được hưởng trường hợp khổ sai chung thân thay vì những lời yêu thương ngọt ngào. Khổ nỗi, thà rằng ai đó bới móc mình thì còn dễ tìm đường chống chế cho qua, đàng này chính người thân thiết nhất, đầu ấp tay gối đưa mình lên bàn mổ. Mà lạ kỳ, không hiểu các bà có để ý đến ngôn từ hay thái độ khi tố khổ chồng mình không. và cũng không hiểu những vị hiền nhân sẽ cảm thấy thế nào khi bị bà vợ đay nghiến. Riêng tôi, những lời nói kèm theo kiểu cách của vợ mình lúc ấy chẳng khác gì những mũi tên cùn cụt, ngắc ngứ từng hồi ray rứt dẫu khó khăn nhưng cố tình xuyên cho thủng con tim mình tạo thành sức ép ứ đọng đẩy qua mạch máu trào lên tới óc. Và thế là trời quay, đất cũng quay theo. phỏng vị hiền nhân nào có thể không nổi điên khi đầu óc khủng hoảng như vậy. Khổ nỗi, sao bà ấy nhớ dai và nhớ lắm thế, lại chỉ nhớ những điều chẳng nên nhớ. những chuyện tốt lành, thánh thiện. không dù một chút mảy may hiếng tới. để rồi cứ như chiếc radio tràn ngập nguồn năng lực của giòng điện liên miên bất tận phóng ra muôn ngàn lời cay đắng. Tẩu vi thượng sách. sau vài lần, tôi học được phương pháp hữu hiệu nhất là dọt. Âu đó cũng là cơ hội gặp gỡ và làm quen với ông bạn già.
     
    Nữ thực như miêu, cỡ mười lăm phút sau hai bà đã ăn xong và vì đã quá quen với tính nết kề cà của người uống rượu, họ rủ nhau lái xe ra Walmart gần đó mua vài thứ lặt vặt. Khi tiếng giập cửa vang lên báo hiệu cảnh trời êm gió lặng, tôi lững lờ lặp lại lời của một câu hát nào đó, “Đường thương đau đầy ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người.” Ông bạn già sau đôi phút trầm ngâm. lên tiếng,
    -Nếu nhận thực được rằng kẻ thù độc hại và ghê gớm nhất của mình lại là chính mình thì cũng cần nhận thực một điều đó là kẻ đối địch mang quyền năng vô song của mình phải là người thân thiết nhất của mình. Trời bày lắm cảnh trớ trêu, nhốt con người nơi ngục tù yêu thích nhất và lại cũng khốn khổ nhất. Với 67 tuổi đời, tôi cảm thấy mình đã có cuộc đời đáng sống, lương tâm không hổ thẹn mà ngược lại, tận đáy lòng tôi thành thực cảm ơn trời đã ban cho tôi cuộc đời, ngay cả những lầm lỗi như những cơ hội cho tôi biết sống ý thức hơn. Tuy nhiên, nhiều lúc tôi cũng cảm thấy nản lòng bởi chính những điều tốt lành, chân thành của mình đã trở thành cớ chẳng những khiến người khác mà ngay cả người thân thiết nhất của mình vấp phạm. Tôi không hiểu sao con người lại phải mang nỗi thương tâm này.
    -Ông dùng ngôn từ thương tâm quả đích xác. Thực ra, lòng chân thành thực hiện ý hướng ngay lành cho dù người khác hiểu hay không hiểu thì chính mình đã biết và lẽ tất nhiên mình không bị lương tâm dằn vặt. Nhưng mối thương tâm thì không thể nào tránh thoát được; không phải mình thương hại hay bất mãn cho chính mình mà đó là nỗi đau lòng khi nhìn thấy những sự khổ ải xảy đến cho con người như kết quả của sự thiếu nhận thức. Nhiều khi tôi tự đặt vấn đề, mỗi người có cuộc đời riêng thì phỏng sự phiền hà tâm tư nơi mình khi đối diện với những điều không nên hoặc không đáng xảy đến với người nào đó có phải tại mình đa đoan. Nhưng nghĩ lại, hình như tâm hồn mình mang tần số cảm nhận lạ kỳ nào đó có đặc tính móc nối và liên kết với thực tại diễn biến xung quanh nên bị ảnh hưởng nếu không muốn nói đó là đức độ. Theo tôi nghĩ, mối thương tâm này được gọi là lòng thương xót nơi Phúc Âm hoặc tâm bồ đề nơi Phật học. Còn vấn đề ảnh hưởng sâu đậm hay nông cạn nơi mức độ nào thì lại tùy thuộc tính chất hoặc đức độ nội tại từng cá nhân.
    -Ông nói quá đúng, chẳng nói đâu xa, ngay như vợ chồng tôi, ông với tôi tình thân thiết không khác gì anh em ruột thịt nếu không muốn nói là quá hơn ruột thịt bởi dù anh em ruột thịt cũng khó lòng mà cảm thông với nhau như ông và tôi xưa nay đã từng nói chuyện. Dẫu chung sống với nhau gần năm chục năm trời mà tôi vẫn cảm thấy một khoảng cách biệt vô cùng rộng lớn dẫu tôi đã cố gắng suy tư, tìm hiểu hy vọng có được phương cách nào đó thăng tiến nhận thức ít ra nơi lãnh vực tình nghĩa vợ chồng. Tôi biết bà ấy rất thương tôi, đây là thiên tính đặc biệt trời ban cho người Việt mình. Có thể nói, tình nghĩa vợ chồng hoàn toàn dựa trên tấm lòng rộng rãi, bao la của người đàn bà. Tuy nhiên, lòng rộng rãi này lại lệ thuộc nhịp đập con tim của họ cho nên lắm khi tôi muốn bị điên để khỏi phải nhận biết nhưng không điên được. Tôi nói thế có thể ông cho là quá, nhưng nếu nhìn nhận chín chắn, giới đàn ông chúng ta sống vì nghĩa nhiều hơn vì tình bởi vậy diễn biến cuộc đời mình được đặt trên căn bản suy nghĩ và tính toán chứ không bồng bột theo tình cảm nhất thời, và cũng chính vì thế mình thường mang ước vọng, dự đoán và thực hiện những công việc chuẩn bị cho những ngày sắp tới. Khổ một nỗi, đối nghịch với dự tính và chuẩn bị, cảm ứng nhất thời theo tình cảm, ý thích của người bạn đời nhảy vô khuấy động phá nát tất cả. Yêu ai nên tốt và ghét ai nên xấu đó là cá tính của đại đa số đàn bà. Một khi họ đã thích, đã muốn bất cứ điều gì thì có lẽ đến trời sập họ cũng không cần biết như ông thấy những chuyện xảy ra nhan nhản nơi các gia đình chung quanh. Thực ra, hơn bốn năm nay tôi theo dõi và nhận biết thêm được một điều đó là hình như nơi nào cuộc sống con người tương đối được bảo đảm thì họ chỉ xử dụng lý trí để tìm cách sao cho có được nhiều tiền, tưởng rằng có tiền là có tất cả. Quả thật đáng tội!
    -Ông có nghĩ rằng chỉ tại họ quá tin tưởng nơi sự trường tồn của những gì họ đang nắm giữ?
    -Nói rằng tin tưởng nơi sự trường tồn của những gì đang nắm giữ. Tôi phục ông là người thanh lịch và lễ độ. Tôi dùng tiếng lễ độ có nghĩa ông mang đức độ khiêm nhượng và tôn trọng con người vì họ là người. Xin lỗi ông cho tôi dám thực lòng trình bày cảm nhận của mình. Nói theo kiểu bình dân, ông muốn ám chỉ họ quá ỷ y bởi tưởng rằng cuộc đời chẳng có chi đáng cho mình để ý mà mọi giá trị đều được đặt trên căn bản tiền bạc, cho rằng có tiền là có tất cả. Điều đau lòng tôi muốn nói bắt nguồn từ sự ngây thơ, thiếu suy tư. Có câu nói nào đó tôi chỉ nhớ mang máng, suy nghĩ là kiến tạo, người suy nghĩ là người tạo dựng. Đàng này, họ không đặt vấn đề mà tin tưởng rằng những gì đang có sẽ cứ như thế thì đâu cần chuẩn bị, toan tính cho những gì có thể xảy tới; rõ ràng họ quá non nớt nơi trường hợp bảo vệ hạnh phúc gia đình. Tôi nghĩ, có lẽ tại đã quá thâm nhập với lề lối sống được bảo vệ bởi một nền văn hóa cổ truyền, nơi mà nền luân lý công cộng được mọi người thừa nhận trong khi điều kiện xã hội khắt khe không ngõ ngách dung thân cho những người muốn vượt thoát, tâm tình này đã trở thành căn nguyên cho sự đổ vỡ. Tôi thử hỏi ông, nơi đất Việt ngày xưa, một người đàn bà bỏ chồng rồi sẽ đi đâu? Ai cho trú ngụ và kiếm đâu ra công việc làm thuê mướn. làm lẽ không chấp nhận, làm vợ không ai ngó tới, sống nơi làng xã thì bị khinh khi thì dù muốn bỏ chồng cũng không có cách nào bỏ. Và thế rồi do sự tha hóa, lạm dụng, hoặc ỷ lại, người ta đã bày ra những trò ca tụng nào trinh tiết, nào đức hạnh. để khỏi phải đối đầu với những nhận thức, ý thức. Đùng một cái như tự trời rơi xuống, sang đến đất nước này họ phải đối diện với một nền văn hóa khác biệt tạo thành bước nhảy vọt chất chứa một khoảng trống, không có dù chỉ một vài vết tích của sự biến chuyển. Một chân trời mở rộng cho con người phát triển về mọi mặt nhưng mình không có căn bản để hội nhập thành ra bị hụt hẫng, thế nên điều tốt lành, khôn ngoan của dân bản xứ thì không cần biết bởi muốn biết phải khổ công, nhưng những chuyện chẳng ra gì lại cứ hồ hởi áp dụng tưởng rằng như thế mới hợp thời, hợp cảnh, mới văn minh, tiến bộ. Dĩ nhiên, bất cứ môi trường xã hội nào cũng có những điều hay và đồng thời cũng chất chứa những khổ ải cho con người. mà càng suy nghĩ tôi lại càng cảm thấy đau lòng. không hiểu dân mình gặp may hay dân mình bị đày ải!
    -Bài học nào không phải trả giá và ai nên khôn không khốn một lần. Tuy nhiên có những cái khốn chỉ một lần xảy đến đã làm bại hoại không những cho một mà cả nhiều người liên hệ. Nhiều lần suy nghĩ về trường hợp của chính mình và dẫu đã có cơ hội ngồi nơi trường lớp hơn năm năm trời ráng hội nhập vào lối suy tư cũng như phản ứng đối với những sự việc xảy đến nơi cuộc sống, tôi vẫn còn cảm thấy ngỡ ngàng. Lắm khi sự thể xảy đến khiến mình chới với, bao nhiêu kiến thức học hỏi, suy luận, kinh nghiệm trường đời có thể nói chỉ giống như những bản nhạc thời trang đã đi vào quên lãng, không thể nào giúp ích chi để giải quyết thực tại chẳng ngờ. Tôi cảm thấy mình chẳng khác gì con cá bị bỏ vô thùng dầu bắt buộc phải thở, phải bơi. Con cá Việt Nam bị bỏ vô thùng dầu văn hóa Mỹ thì dẫu cho loại dầu ngon đến mấy, quý đến mấy cũng chỉ chết ngộp thì nói gì đến chuyện bơi lội. Tôi không dám nghĩ tới thế hệ người Việt tiếp nối sẽ ra sao nơi đất nước này, chỉ cảm nhận được những gì đã và đang xảy đến chính là sản phẩm của cuộc giao tranh văn hóa mà kết quả phát sinh thế nào lại tùy thuộc sự nhận thức và phản ứng nơi mỗi người. Ông nói đến nỗi thương tâm về sự bất hạnh không đáng và càng không nên xảy đến nơi những gia đình người Việt. Ai mang giòng máu Việt không cảm thấy đau xót khi chỉ thoạt mới nghe đến gia đình nào đó tan vỡ, và càng cảm thấy thấm thía hơn khi có chút suy tư tìm hiểu lý do tại sao. Thế nên, vấn đề được đặt ra lại là phải làm thế nào để ngăn ngừa những chuyện không nên và không đáng xảy ra. có thể trờ tới. Phỏng những người trong cuộc họ đã nghĩ gì, có đã chuẩn bị và thực hiện những gì để bảo vệ hạnh phúc đã có và đang được hưởng hay không?
    -Nói như vậy thì sự việc chẳng nên xảy đến tùy thuộc nhận thức của những người trong cuộc. Nếu không mở rộng tâm hồn đặt vấn đề về những gì đã và đang xảy ra để dự liệu chuyện có thể xảy tới với mình một ngày nào đó hầu tìm phương cách và chuẩn bị ngăn ngừa, tất cả những chuyện xảy đến đều do thái độ ỷ y của mình. Hèn chi trời không có tai vì nếu có tai chỉ cướp mất cơ hội thăng tiến của con người.
     
    Tiếng xe tiến vào garage. và tiếng mở cửa cắt ngang lời ông bạn. Hai bà bước vô nhà líu lo chuyện mua bán. và cũng tới giờ vợ chồng tôi ra về nhường bầu không khí tĩnh mịch cho đôi vợ chồng già. Tôi ra xe nhưng tâm trí mãi tận đâu đâu không để ý những lời bà xã kể lể về chuyện mua bán. Bỗng có tiếng còi hụ phía sau và ánh đèn xanh đỏ nhấp nháy rối lên. Mãi suy nghĩ mông lung, tôi đã vượt đèn đỏ nơi một ngã tư vắng xe cộ mà không để ý.
    -Lái xe mà không để ý đèn đỏ.
    -Ừ nhỉ, em nhìn thấy đèn đỏ sao không nói anh ngưng lại trước đó vài giây.
    -Chỉ được nước cứ hếch mắt lên lại còn cãi cối.
    Tôi nào dám cãi chi đâu, lòng thầm so sánh luật đi đường với thân phận con người trong thời giao mùa văn hóa. Những đèn đỏ nơi sự liên hệ vợ chồng đã không được nhìn thấy hay cố tình bị lãng quên thì giá phải trả là sự ly dị mang sầu hận cả một đời người. Nhưng khổ nỗi, loại đèn tiên báo tình nghĩa ẩn tàng không hình không sắc thì sao với con mắt bình thường có thể nhận thấy!
     
    lmt
     
    #2
      lamongthuong 11.12.2016 15:51:27 (permalink)
       
      NỖI ĐAU
       
      Tôi gục đầu cho niềm đau lắng xuống, đè nén nỗi thống khổ nơi thân phận con người choán ngập xác thân. Niềm đau mênh mang bị dồn nén không kẽ hở trào thoát đã kéo cơ thể tôi gục xuống nơi tư thế chèn ép, gồng sức chịu đựng. Đôi bàn tay với mười ngón búp măng, thon dài, chất chứa đầy mơ mộng được xếp chồng lên nhau trên mặt bàn làm gối cho vừng trán đam mê của tôi tựa xuống. Những giọt nước mắt thầm lặng đã bao ngày tiếp tục ứa ra thấm ướt đôi bàn tay. Mặc kệ, tôi đã quá quen với sự thể này... Tôi mơ nước mắt có thể rửa sạch hoặc ít nhất pha loãng nỗi thống khổ nơi tôi. Mỗi lần nước mắt rơi, lòng tôi vơi được một chút nhưng niềm đau chẳng khác gì nguồn năng lực vô tận tiếp tục bùng lên xâm chiếm tâm tư, đè nặng thân người. Có ăn năn thì đã quá trễ, tôi tự nhủ, âu cũng là phận số! Tôi muốn dùng bất cứ ý nghĩ hay quan niệm, lời nói nào hy vọng may ra làm phai lạt sự dằn vặt nơi tôi. Tôi là con đàn bà khốn nạn, đốn mạt... Tôi đã giết chết chồng tôi, các con tôi. Không, không đúng, tôi còn tệ hơn thế nữa; thà giết chồng, giết con thì tội của tôi phải mang vẫn còn nhẹ. Tôi đã chà đạp tình yêu chồng vợ, chà đạp lòng yêu thương của các con. Tôi biến chồng con tôi thành những người bạc phước cả cuộc đời mang nặng vết thương lòng. Tôi cũng biết chồng tôi sẵn sàng chấp nhận tôi trở về nhưng tôi không cho phép tôi trở lại. Tôi là con đàn bà khốn nạn, tôi không xứng đáng được hưởng bất cứ lòng thương xót nào. Tôi càng không đáng được nhận cho dù chỉ lòng thương hại của chồng tôi. Tôi bán tình yêu thương chồng vợ cho quỉ. Phải! Tôi là con quỉ mang lốt người! Con quỉ ghê tởm có hình hài mĩ  miều, hấp dẫn, nhưng lòng chứa đầy tham vọng. Mỗi lần nhìn thấy con, lòng tôi tựa muối xát, quặn thắt như có áp lực kinh khủng vô hình nào đó chèn ép từng đường gân, thớ thịt... Tôi đã phải kiếm đủ mọi phương cách tránh né con tôi... Tôi thương các con tôi, thương đứt ruột nhưng tôi phải chạy trốn đối diện lòng thương này! Tôi phải dày đạp chính mình may ra vơi bớt được phần nào niềm đau dấu kín. Tôi phải trừng phạt chính mình mới có đủ can đảm sống qua những tháng ngày đầy thù hận sự ngu dốt của chính mình.
       
      Anh ơi! Mình ơi! Mình tha lỗi cho em nhưng em nào có thể tha. Mình chờ đợi em về nhưng em không cho phép em về. Em muốn tự tử mà tự tử chỉ làm khổ anh thêm, sao anh có thể chịu đựng nổi. Anh ơi! Lỡ rồi... tại em hết! Tại em tất cả nên giờ đây em phải đày đọa chính em... mà càng đày đọa mình, em càng cảm nhận được tình anh cho em. Em thèm nghe những lời mềm ngọt nơi đầu môi các con với tiếng mẹ, mẹ. Ôi! Các con tôi! Niềm hạnh phúc nhất đời của mẹ mà mẹ phải trốn lánh... Mẹ của các con khốn nạn quá. Mẹ của các con đã không ấp ủ các con mà còn đày đọa các con với vết thương lòng muôn đời không thể tẩy rửa. Mẹ của các con đã ngu muội biết thành quỉ để chà đạp các con! Con ơi! Con ơi!
       
      Hình ảnh bé Thuý hiện về, con gái tôi! Ngày ấy mới bốn tuổi, nhõng nhẽo bên mẹ. Con bé chậm biết nói nên hai tiếng mẹ, mẹ... nghe ngọt ngào... và tôi đã phải dứt tình ra đi do mãnh lực ước vọng cao sang... Tôi phải được mọi người để ý, tung hô. Tôi phải là thần tượng của muôn người... tôi phải đạt được niềm hạnh phúc tuyệt vời thay vì trở thành chiếc máy biết cử động bị lãng quên nơi ngõ tối cuộc đời bên trong bốn bức tường. Tôi đáng được nâng niu, chiều chuộng, muốn chi được nấy.... lời nói phát ra phải trở thành mệnh lệnh và những kẻ hầu hạ luôn xum xoe túc trực chờ đợi sai bảo chẳng khác gì con chó ngồi chờ chực miếng ăn nơi bàn rơi xuống, hoặc vội vã xông tới khi miếng xương đã được gặm sạch quăng ra... Tôi phải là cái gì... Tôi không muốn cuộc đời mình bị chìm trong quên lãng... Với bất cứ giá nào, tôi phải hoàn thành ước vọng của mình... Và chưa kịp chạm đến ngõ đài danh vọng, tôi đã phải chạy trốn, trốn chồng, trốn con. Tôi muốn trốn chính tôi nhưng không được. Tôi phải trừng phạt con đàn bà với mơ ước đạt tham vọng khốn nạn này...
       
      Bé Thuý nay đã 9 tuổi... Con bé giống tôi in hệt... duyên dáng, thướt tha... Tôi thèm chảy nước miếng khi đứng xa xa nhìn thấy con. Tôi muốn chạy đến ôm lấy con tôi hôn hít cho thỏa lòng nhưng không dám, mà phải lẫn tránh. Tôi không muốn con tôi phải đối diện với cảnh tàn phá tâm tư như tôi đang phải mang. Tôi không dám khuấy động, làm nhơ bẩn niềm mơ tuổi hồng của con tôi. Tôi không muốn dù chỉ một thoáng con tôi phải đau lòng vì thương mến mẹ. Tôi là con quỉ nhưng đẻ được những vị thánh... Tôi không cho phép tôi biến thánh thành quỉ. Tôi da diết nhớ con tôi... những đứa con yêu quí của mẹ... Thúy ơi! Toàn ơi!
       
      Bình! Có tiếng động mạnh đập vào cửa kiếng... Con chó nhỏ một mình buồn nên kiếm cách đùa dỡn do đó nhiều lần bị con mèo tam thể nổi quạu đưa tay vả... khiến chú ta nhảy cẫng quăng mình tránh né nhiều khi đụng chạm lung tung... Nhưng chứng nào vẫn tật nấy... con chó ham vui... con mèo hay quạu không thích đùa dai, vừa nhảy cẫng quăng mình đập cả vào cửa kính thế mà nó lại đã vội quên, mặt mày hí hửng, xum xoe vờn quanh, chiếc đuôi ngoe nguẩy, mồm ngoác ra gừ gừ như đòi ngoạm, cố tình khuyến khích con mèo nhập cuộc. Cặp bạn bè này coi bộ không xứng đôi vừa lứa. Đúng, chúng không xứng đôi vừa lứa như thân phận của tôi, một kẻ bỏ chồng, phải trốn lánh con chỉ vì tham vọng ngu xuẩn, chỉ vì thiếu ý thức nên đã phải ngụp lặn trong nỗi đau ngàn đời day dứt. Ôi! Cái tham vọng, cái mộng hồng ngây thơ đã giết chết lòng người, biến con người thành nỗi ăn năn muôn đời khó phai, hằng luôn gậm nhấm, dằn vặt tâm tư.
       
      Được sinh ra nơi một gia đình đủ ăn đủ mặc, những ngày cắp sách đến trường đã là thời vàng son của lứa tuổi con gái bởi nhan sắc tôi cũng khá mặn mà. Ngày này qua tháng khác, những sự đùa nghịch, bàn tán của chúng bạn, đặc biệt các bạn khác phái khiến tôi nhận biết mình đẹp, và từ đó niềm kiêu hãnh dâng cao đã tạo cho tôi sự nhận thức sai lầm rằng mình được sinh ra đáng cho người ta ca tụng, để ý, mơ ước, và mình cũng đáng được hưởng những gì mình muốn. Hơn nữa, trời cũng phú cho tôi bản chất thông minh cộng thêm sự cần mẫn, học hành chăm chỉ đã khiến cho những ai quen biết cho rằng tôi được cả nết lẫn người. Tôi cũng tự nhận ra mình đáng được khen, sáng giá. Thì nào có gì lạ đâu, nơi xó rừng của giới bình dân, tôi chẳng khác gì cánh chim sẻ giữa đàn cú. Cộng vào truyền thống, lề thói và đặc tính dân quê, bố mẹ tôi hiền lành, chất phác, chăm chỉ làm lụng nuôi một bầy con sáu đứa và tôi là đầu đàn. Sự cần mẫn được tạo thành bởi thói quen chăm sóc các em nhỏ để ba mẹ đi làm, lâu ngày, chầy tháng thấm nhập và tạo nên cá tính của tôi. Đàng khác bởi là đầu tàu, mọi công việc bếp núc, giặt giũ, coi sóc các em đã khiến tôi không có thời giờ đàn đúm nô đùa với bè bạn do đó lối sống của tôi có phần tách biệt với những người cùng trang lứa. Và chính vì vậy, tôi lại càng được để ý bởi tâm lý bình thường, người ta chỉ muốn kiếm tìm những gì chưa tường tận.
       
      Đồng thời do cuộc sống dân quê thiếu thốn nhưng tự lập, bất cứ những gì mình muốn có hoặc muốn hoàn thành đều phải tự cố gắng xoay xở, cuộc sống gia đình không được gọi là sung túc, dẫu còn nhỏ, tôi đã phải tính toán, châm chế, phân chia những công việc vặt cho các em tạo nên cảnh thuận hòa, đầm ấm trong gia đình. Tôi không than trách phận số mà ngưỡng mộ tính chất tốt lành của hoàn cảnh khó khăn vì nó tạo cho con người biết tự lập, thúc đẩy óc sáng kiến hầu biết tận dụng và phát triển khả năng tiềm ẩn sẵn có như một hồng ân kiếp người. Tuy nhiên, xét theo lối nhìn từng trải hay ít nhất đã vô tình vấp phạm do tham vọng vô ý thức như tôi, sự thông minh, sáng kiến, tính chất tháo vát được phát triển từ hoàn cảnh khó khăn đã chẳng khác gì con giao hai lưỡi, thay vì biết xử dụng để có cuộc đời tươi sáng hơn, nếu chỉ vì tham vọng và ngu ngơ tưởng rằng hành trang non nớt được phát hiện thời thơ ấu đã thừa đủ cho một người làm mây làm gió nơi cuộc đời thì quả thật sẽ lãnh những bài học mắc mỏ, có khi trả giá một đời như nơi trường hợp tôi đang phải gánh chịu, kêu trời, trời không thấu, đổ cho người, người đó chính là tôi. Và tôi chỉ còn một cách đó là phải trừng phạt chính mình. Bài học nào không phải trả giá, và mơ ước nào chẳng ẩn dấu điềm thất bại. Khi mơ ước đã chuyển thành thất bại con người mới biết mình lầm, và khi đã biết mình lầm thì giá phải trả tất nhiên đã trả theo phương diện vật chất; tuy nhiên, nơi phương diện tâm tư, giá phải trả không đường tránh thoát cho dù cố che đậy, giấu diếm vì mình đã tự biết. Ngoại trừ những tâm hồn vô liêm sỉ, dù cố che đậy, dấu diếm cách mấy thì tâm tư con người không thể nào tránh thoát sự dằn vặt do lỗi lầm mình đã tạo nên. Bởi đó, tôi đành chấp nhận thà trừng phạt chính mình còn hơn để lòng dạ luôn mang mặc cảm tự khinh khi.
       
      Chồng tôi quả thực là một người đàn ông gương mẫu, yêu thương vợ con, tận tình chăm sóc gia đình, biết chịu đựng, chấp nhận mọi hoàn cảnh và cần mẫn làm việc. Đôi vợ chồng son những ngày mới định cư nơi đất Mỹ, tôi và anh cùng cố gắng lấy xong cấp bằng đại học. Tôi chỉ làm thêm những ngày cuối tuần, chạy bàn nơi quán rượu cộng thêm tiền “Work Study” trong khi anh vừa học vừa đi làm một ngày tám tiếng. Dẫu sau khi ra trường có công việc làm khá, anh vẫn cố lấy thêm cấp bằng MBA. Nhưng, lại cũng một chữ nhưng khốn nạn, có lẽ tại tôi khá thông minh đồng thời được chồng thương yêu, nhẫn nhịn nên tham vọng nẩy sinh. Chính cái tham vọng được thăng hoa đã khiến tôi mù lòa không nhận ra hạnh phúc trong tầm tay. Lẽ đương nhiên, mơ ước nào không được thăng hoa thành cảm giác hạnh phúc tuyệt vời bởi nó vẫn còn là mơ ước trong khi hạnh phúc nào không là những giây phút ngắn ngủi. Chính vì hạnh phúc đã không được nhận thức đúng đắn, tôi đã nhẫn tâm vứt bỏ hạnh phúc gia đình chạy theo niềm mơ tưởng nắm bắt hạnh phúc huy hoàng của danh vọng, giàu sang... được ngưỡng mộ qua hình ảnh những người mình nhận định một cách sai lầm.
       
      Tôi đã tưởng rằng một người nổi tiếng do tài năng của họ, và người được gọi là anh hùng chính là biết xử dụng thời cơ để phát triển tài năng của mình để rồi tôi quyết định đạt thời cơ bằng chính niềm tự tin phỏng đoán. Có chút nhan sắc, hơn thế nữa, tôi cảm thấy mình có sức hấp dẫn, lại thêm có chút khả năng hát xướng, đồng thời quen thói tháo vát... chắc chắn tôi sẽ bước lên đài danh vọng chớp nhoáng. Và tôi đã bước, nhưng bước hụt bởi chuyện đời không giống như lòng mơ tưởng.
       
      Dàn karaoke được chồng tôi mang vô nhà, nối dây gắn điện ngay khi loại máy có nút chỉnh cung nhạc cho vừa giọng người hát. Hôm ấy anh đi làm về hơi trễ lại phải lụi hụi sắp xếp lại phòng khách cho hai chiếc loa của dàn máy có chỗ đứng. Giờ giấc chồng tôi đi làm thì nhất định nhưng khi về hơi bất thường đã hơn hai năm nay bởi từ khi được lên chức phó giám đốc, lương tính theo năm và thời gian làm không nhất định, miễn sao bảo quản cũng như phân phối nhân viên làm việc đem lại lợi tức tốt nhất cho hãng xưởng. Cũng đã hơn hai năm từ ngày phong trào karaoke lan vào những gia đình Việt, chúng tôi thường được mời đến nhà những người quen biết hát hò, ăn uống. Có giọng hát và thích hát nhưng bị mấy lần những bài hát mang cung nốt cho phái nam làm tôi hát bể do đó đôi khi cứ hậm hực với hãng làm đĩa bởi mấy bài đó tôi thích và đã quen hát ngay từ thời con gái. Đôi khi phân bua với chồng trên đường lái xe về cho đỡ ngượng vì hát bể, chồng tôi chỉ im lặng nghe và cuối cùng thêm câu nói,
      -Bài đó nhạc được soạn cho giọng nam nên cung nhạc hơi cao đối với em.
       
      Có lần anh chỉ cho tôi cách xử dụng program học nhịp nhạc nơi máy điện toán. Dẫu thích hát, có giọng hát nhưng tôi chỉ hát theo, hát sao cho giống giọng trong băng hay CD. Thêm vào đó, những loại nhạc thời trang cũng không khó học theo là mấy lại do có dòng chữ đổi mầu nên tôi hát cũng không đến nỗi tệ. Bởi vậy, khi nghe anh giải thích cách học nhịp nhạc nơi máy điện toán, tôi thờ ơ, ỷ mình đã biết hát khá nhiều những bài hát nơi những đĩa hát ở nhà những người quen biết. Anh nhẹ nhàng giải thích về sự chậm trễ khi hát phải nhìn dòng chữ đổi màu và chính vì không biết nhịp nhạc khiến lòng mình thiếu tin tưởng, mang tâm trạng hồi hộp chờ đợi không chuẩn bị lấy hơi đúng lúc ảnh hưởng đến giọng hát. Nào những bản nhạc được chấm theo nhịp lẻ nhưng vì có những ca sĩ không biết nhịp, chỉ hát với thói quen theo nhạc tour dễ bị tiếng “bass” trùng hợp lời hát ảnh hưởng khiến giọng ca không nổi lên được... Tôi không ngờ chồng tôi biết rành rẽ về âm nhạc như thế mà chẳng bao giờ tôi thấy anh xử dụng bất cứ nhạc cụ nào. Tới nhà những người quen, anh cũng không bao giờ hát karaoke. Rồi chuyện cũng qua sau hơn ba tháng dụ dỗ tôi chịu khó thực hành đập nhịp nhạc...
       
      Điều ngạc nhiên hơn nữa đó là khi tôi đã rành về nhịp nhạc, anh lại ôm về mấy cuốn băng dạy khiêu vũ và cả tháng trời sau đó mỗi tối hơn một tiếng đồng hồ anh kèm cho tôi từng bước chân sao cho phù hợp với điệu nhạc. Tôi không hiểu sao anh biết nhiều đến thế, cả mớ lý thuyết cộng thêm thực hành trong khi tôi còn đang phải để ý về chân bước cho khỏi trật nhịp thì sao nhớ được nào bước trên gót chân, nào đừng uốn người, rồi disco, tango, bebop, valse... Và lại cả chục cuốn video chứa đầy những hình ảnh dạ vũ, thế rồi cứ sau khi ăn tối, anh mở lên và hỏi tôi nhận định về kiểu cách của những cặp dạ vũ nơi màn ảnh TV.
       
      Hôm khác, anh mua về mấy cuốn sách in sẵn nhạc và lời ca cùng với mấy đĩa CD. Và cũng sau bữa tối, anh mở CD để tôi nghe và nhận định đồng thời thực tập hát cho đúng nhịp nhạc đã được in sẵn. Qua từng bản nhạc, anh phân tích sự liên hệ tổng hợp của nhịp điệu với bước chân dạ vũ và những nốt nhạc... để rồi đưa đến kết luận, khi hát, bài hát là phải chính mình, mình phải hòa vào tâm tình của bài hát, biến lời của bài hát thành tâm sự của mình thì mới diễn xuất được nghệ thuật ca hát đến mức cao nhất và mới có thể gieo vào lòng thính giả cảm nhận của thi sĩ và nhạc sĩ  được ghi lại nơi bản nhạc. Từ đó, niềm tự tin bùng lên trong lòng tôi, và cảm nghĩ mình có thể thực hiện bất cứ điều gì nếu mình thực sự muốn càng ngày càng lớn mạnh.
       
      Chẳng bao lâu sau, tôi trở thành đích điểm cho bạn bè trầm trồ khen ngợi. Vâng, tôi có sắc, đầy nét hấp dẫn, lại có tài nên được bạn bè quen biết hâm mộ là lẽ tất nhiên; tôi nghĩ thế. Tôi cũng phải nói thêm một điều mà chính tôi không ngờ về chồng mình đó là anh cũng biết rất rành rẽ về nghệ thuật trang điểm của phái nữ. Nào là người ốm, mập, ra sao thì nên ăn mặc thế nào; lông mày phái nữ phải cong chứ không nên thẳng như lưỡi kiếm hoặc giống con sâu bò nơi trán. Tô chì, kẻ mắt, đánh kem, dùng phấn, cách thức dưỡng da, tai hại của sự dùng kem, phấn quá độ, nét môi, màu má tương hợp ra sao. Tôi có thân hình khá cân đối thế mà anh vẫn bày cho cách hít thở, luyện tập và nên để ý đến dáng điệu thế nào cho thanh lịch. Anh chẳng khác gì ông bầu biến cô bé dân quê thành bà hoàng nơi thành phố chúng tôi đang ở giữa đám bạn bè. Thế nhưng, tư cách, thái độ của anh lại rất kín đáo; ít khi anh nói lớn dẫu ở nhà hay lúc gặp bạn bè, người quen biết nơi những tối hát karaoke, đến nỗi có những người nghĩ rằng anh hiền lành, biết an phận thủ thường, lại may mắn có được người vợ tài sắc. Đôi khi tôi cố ý nói cho bạn bè biết chính anh đã giúp tôi nhưng họ chỉ cho rằng tôi nói lấy hãnh diện cho chồng.
       
      Đầy lòng tự tin, được những người chung quanh hâm mộ, tôi cảm thấy mình là con người hoàn hảo. Chồng tôi rất cưng chiều nên nhiều lần tỏ ý định muốn đi làm giúp góp thêm cho gia đình nhưng anh ấy nói không cần thiết bằng việc ở nhà chăm sóc con cái.
      -Em không muốn là thứ ăn bám vô tích sự...
      -Em thử nghĩ coi, chồng tôi nhẹ nhàng; anh ấy bao giờ không thế, tiền lương của anh sáu mấy ngàn một năm, em đi làm lương cỡ ba chục ngàn cộng vô thành chín mấy ngàn thì tiền thuế tăng lên, lại phải trả thêm tiền coi con còn tốn hơn ở nhà... Mà em thích đi làm chi cho cực xác! Em đi làm con cái bơ vơ, đâu có ai dạy con hơn người mẹ. Thêm vào đó, những đứa trẻ được cha mẹ chăm sóc lúc còn nhỏ về sau có tâm lý quân bình và sự phát triển trí tuệ mới có thể đến mức tối đa. Anh không cần gì hơn, chỉ chờ sao có được một đứa con gái sau này giống như mẹ nó là thỏa mãn cuộc đời... Ước mơ của anh chỉ có thế.
       
      Và hai năm sau tôi sinh bé Thúy. Con bé mũm mĩm, dễ thương... Tôi giống như bà hoàng, muốn gì được nấy; mà tôi đâu cần chi. Không công nợ, tiền bạc sẵn trong nhà băng tên của hai vợ chồng, tôi tự do may sắm, trang trí nhà cửa... chỉ có điều biết hát, thích hát nhưng nhà vẫn chưa có dàn máy karaoke. Nói với chồng, anh ấy bảo nên đợi ít lâu vì mua lúc đó hơi sớm có nhiều thứ bất tiện, nhanh nhất phải là sáu tháng. Tôi chẳng cần hỏi thêm vì hiểu anh biết lắm thứ nhưng không nói, không giải thích nếu không được hỏi. Con người của anh là thế, nghiêm trang nhưng vui tươi, hoạt bát lại kín đáo đồng thời rất ít nói nơi công cộng, ngược lại gặp đúng người, hình như chỉ một hoặc hai người bạn tương đồng kiến thức, anh nói thao thao bất tuyệt khi được hỏi ý kiến về những vấn đề liên quan đến câu chuyện đang bàn luận. Đôi người bạn mà anh nói chuyện với họ nhiều thì lắm lúc lại ăn nói ngang như cua nhưng rất thanh lịch, biết điều. Họ có nhiều tư tưởng ngang ngược mới thoạt phát biểu đã như muốn làm đảo lộn tâm trí người nghe. Thế nhưng chồng tôi lại chuyện trò với họ rất tương đắc... chỉ có thánh mới hiểu được mấy người coi bộ đối nghịch phong cách như thế lại có thể là bạn bè thân thiết với nhau. Một điều hơi lạ đó là thái độ mấy người bạn thân của chồng tôi luôn luôn nhã nhặn, tôn trọng tôi. Chỉ đôi khi họ nói đôi lời khen tặng tôi một cách kín đáo đến độ ngay cả những người đang ngồi chung quanh bàn ăn khó mà hiểu. Tuy thế, đối với những người khác thì trái ngược hẳn, họ nói những lời tế nhị nhưng ý tứ rõ ràng khiến người nghe có cảm ứng thích chí. Dẫu là vợ, tôi chỉ biết chồng tôi cả là một kho tàng bí mật, khó hiểu và càng không cách chi đào bới. Do đó khi anh nói đợi ít lâu hãy mua dàn karaoke, tôi yên lặng đợi chờ chẳng cần hỏi lý do vì dự đoán phải có lý gì anh ấy mới nói đợi. Và dàn karaoke đã làm tôi thêm hứng khởi, thêm tự tin, nhưng cũng là khởi điểm cho nỗi đau dằn vặt suốt đời, nỗi đau do sự ngu dốt ngây ngô của chính mình, nỗi đau của con ếch dưới đáy giếng coi trời bằng vung đến khi nhận biết được thì đã đang nằm trong nồi xào nấu.
       
      Dàn karaoke quả là đặc biệt hơn dàn máy của những người khác vì nó cũng có nút bấm nơi microphone để tăng hay giảm cung nhạc. Thế nên, bất cứ bài hát nào tôi cũng có thể hát được nếu thích.
      -Biết hát càng nhiều nhạc càng tốt vì những sự khác biệt nhịp cũng như cung giọng của các bài hát khác nhau giúp mình phát triển khả năng hát xướng. Em cũng cần để ý cách lấy hơi lúc hát sao cho hợp với độ ngân và nhịp nhạc để kịp thời phát âm lời kế tiếp. Tuy nhiên, đến những nhà bạn bè hát karaoke, em không cần phải biết nhiều bài hát mà chỉ cần chọn lấy cỡ bẩy hay mười bài hát mình thích, ít người hát, và nhớ mang theo đĩa của mình bởi cũng cùng một bản nhạc, hai hãng đĩa sẽ thu âm khác nhau. Hơn nữa, máy của họ không giống máy của mình. Những bản nhạc nào em định hát nơi nhà người ta cần hợp với cung giọng của em mà không phải tăng hay giảm cung nhạc.
      -Sao anh lại nói chỉ cần bẩy bài...
      -Em thử nhớ lại những lần hát karaoke em hát chừng bao nhiêu bản!
      -Ừ hứ, cỡ năm hay sáu bản là tối đa... nhưng tại ngày đó em chưa biết nhiều.
      -Cho dù biết nhiều cũng không nên hát nhiều bởi còn có nhiều người muốn hát. Chẳng hạn buổi tối karaoke nào mà không có ít nhất bốn hay năm cặp vợ chồng tham dự. Trước tiên, gia đình nhà chủ hai người, mỗi người hát năm bản vị chi hơn kém 50 phút. Ba cặp khác 150 phút và mình nữa rồi cộng thêm giờ ăn uống hơn tiếng đồng hồ. Nếu bắt đầu từ 7 giờ tối mà thường thì 12 giờ đêm cần được chấm dứt thì thời giờ đâu để mỗi người hát đủ năm bản. Em để ý những người ngồi nghe chờ hát; họ cũng muốn hát, mà ai đó cứ ôm cái microphone hát hết bài này đến bài khác, những bài mà mọi người đã biết thì còn gì cho người khác hát; mà ai lại không thích hát; đó là tâm lý bình thường. Bởi đó, em chọn tối đa chừng 10 bài ít người biết hát và tập thế nào cho đúng cung giọng cũng như nhịp nhàng. Em đã biết nhịp nhạc nên đừng hát theo ca sĩ  nhưng cần học cho thuộc lòng không những lời hát mà còn cả những cung nốt để khi hát không cần cầm bản hát vẫn có thể biết rõ mình phải ngân hay ngưng như đang nhìn thấy bản nhạc trước mặt. Hát nhạc sống cũng cần biết nguyên tắc này dẫu những nhạc công họ du di khi người hát lỡ nhịp, nhưng dàn máy karaoke không chờ, không thêm, không bớt nhịp nên nếu không thực sự biết bài hát mình ngưng nghỉ thế nào tất nhiên sẽ bể. Bởi vậy, nếu em thực sự thích hát, em cần hát buông, tập nhớ thế nào để chỉ cần nghe nhạc là có thể vô ra bất cứ lúc nào tránh những ngỡ ngàng khi hát cho khỏi bị lỡ nhịp.
      -Em nghĩ không sao đâu, em biết cả trăm bài hát mà...
      -Em nói cũng có lý nhưng giả sử nơi chồng đĩa nhà người ta không có những bản nhạc lúc ấy em muốn hát và những bản nhạc có sẵn lại được phối âm và nhịp điệu khác hẳn em vẫn thường hát thì sao có thể hát trong khi không có bản nhạc cầm nơi tay. Aáy là anh nói nơi trường hợp em biết và quen nhịp nhạc...
       
      Tôi chọn được hơn 20 bài hát như anh nói và cố gắng luyện tập cũng như để ý nhịp của từng bản nhạc. Chồng tôi nói đúng. Quả là khó nhớ, khiến anh phải bày cho tôi cách nhớ theo nhịp chân khiêu vũ. Đến lúc này tôi mới hiểu lý do tại sao anh dạy tôi khiêu vũ... Anh chỉ cho tôi khi hát để ý đến tiếng của dàn trống và bass. Thường những bản nhạc tour hát theo nhịp mạnh của tiếng bass nhưng gặp những bản nhạc chấm lẻ nhịp, lại cần để ý đến tiếng khua của dàn trống. Vì biết nhịp, tôi chọn những bản nhạc hơi khó hát do nhiều nhịp lẻ. Và thế là từ ngày có dàn karaoke, tôi càng cảm thấy mình có giá trị hơn bao giờ. Tôi cũng ma mãnh đủ để chuẩn bị trước khi đi tham dự những buổi tối hát nhạc karaoke. Dẫu biết nhiều, tôi chọn 5 bài và dợt cho nhuyễn, đến độ có thể chen vô hát bất cứ lúc nào khi máy đang phát nhạc. Càng ngày, tôi càng được khen ngợi vì những bài tôi chọn ít người biết hát hoặc có biết cũng chỉ hát theo chứ không thể tự hát. Kể ra tôi diễn xuất rất khá, đôi lần gặp người đồng tâm sự với bản nhạc, đã có người xụt xùi... trong khi niềm hãnh diện vươn lên nơi tôi.
      -Sao bồ không làm ca sĩ, ca sĩ hát cũng chỉ đến thế là cùng mà thường thì tệ hơn...
      -Mình có biết chi đâu, chỉ nghe CD rồi dợt theo sao có thể làm được ca sĩ... Tuy nói thế nhưng mộng làm ca sĩ nơi tôi chợt bùng lên... Thế sao đã bao lâu nay tôi chưa hề nghĩ tới...
      Trên đường về, tôi hỏi ý chồng, anh chỉ im lặng lái xe, không trả lời... đến khi tôi nhắc lại câu hỏi, anh thở dài... vẫn im lặng... khiến tôi cảm thấy hơi bực bội...
      -Em đâu có làm gì sai trái mà hỏi anh không trả lời... Tôi  cố lấy giọng nhẹ nhàng hỏi vì xưa nay anh ấy  chưa bao giờ làm gì phật lòng tôi nên thái độ im lặng khiến tôi có cảm nghĩ bị khinh khi...
      -Nếu em muốn hát một CD thì không có gì đáng phải đặt thành vấn đề bởi em  có giọng hát, biết nhạc, và em diễn xuất âm thanh của em rất khá. Nhưng làm ca sĩ, điều trước tiên em sẽ bị hư da mặt, và rồi ai chăm sóc con cái. Hơn nữa, kinh nghiệm cuộc đời cho thấy, hễ muốn có tiếng thì không có miếng. Nào phải cứ có tài là được nổi tiếng hoặc giữ chức vụ cao. Thực ra, người nào được sinh ra để nổi tiếng thì người ấy sẽ nổi tiếng. Em thử tìm hiểu coi, có nhạc sĩ nào sống bằng nghề viết nhạc của mình đâu hay chỉ tốn thêm tiền bạc và giờ giấc cho ý thích của mình. Có ca sĩ nào sống bằng nghề đi hát đâu vì ca sĩ nào cũng phải đi làm. Những nghệ sĩ phải trả giá mắc mỏ cho ý thích của họ. Vì chấp nhận và làm theo ý thích nên họ trở thành công cụ cho những con buôn. Em có thấy nhà văn nào sống bằng nghề viết văn không; thi sĩ còn tệ hơn; làm thơ, tốn công “layout” thành sách, nếu không biết thì phải nhờ người khác, cho dù quen thân cũng phải “Ông mất cái giò, bà thò chai rượu” vì cuộc đời này đâu có thứ gì “free.” Nhà văn viết được cuốn sách, cuốn truyện lại phải tốn tiền in, rồi ra mắt ra mũi, lại còn phải liên lạc bán sách; mà thời buổi này đâu ai có giờ đọc sách. Nhà văn đã vậy, thi sĩ còn phiền hơn...
      -Nhưng em đâu có viết văn, đâu có làm thơ... hát thì đâu cần vốn liếng gì! Anh không thấy hay sao, mỗi lần cộng đồng thuê ca sĩ về hát phải trả cho mỗi ca sĩ hai ngàn đồng, thêm tiền khách sạn, ăn uống, và vé phi cơ... mà chỉ có tối đa 12 bài hát...
      -Vậy em không thấy ca sĩ ra mắt CD bao giờ sao? Aáy là người đã thành danh ca sĩ rồi... Em có biết họ ra mắt CD để làm gì không?
      -Thì họ bán kiếm lời!
      -Em quên câu, “Có tiếng thì không có miếng.” Một CD bán trên thị trường bẩy đồng thì chỉ có thể bỏ cho tiệm bốn đồng mà thôi. Sách hay truyện hoặc thơ cũng vậy. Một cuốn sách ghi giá hai mươi đồng thì giá bỏ cho tiệm sách tối đa là mười hai đồng. Em thử tính nhẩm xem ra mắt CD lời lỗ ra sao. Hãy tạm gọi khách đến tối đa được hai trăm người, ấy là chưa tính đến chuyện phải có những liên hệ trải qua bao ngày tháng để quen biết người ta mới tham dự. Tiền nhà hàng, tiền ban nhạc, tiền các ca sĩ về hát, tiền thực phẩm, rồi quà cáp biếu xén cho những người giúp mình thực hiện buổi ra mắt... và bán giỏi lắm được 200 chiếc CD bằng giá bán nơi thị trường, vị chi 1400 đồng. Thử hỏi 1400 đồng đã đủ tiền mua quà biếu những người thuộc ban tổ chức và tiếp tân chưa, vậy thì những chi phí khác tiền ở đâu ra sao có thể nói được ra mắt CD để kiếm lời! Nơi trường hợp không ra mắt, không được báo chí quảng cáo thì không ai biết tới, CD bỏ ra tiệm cũng không ai mua. Thử tính làm CD có lời không thì em biết ngay. Một ca sĩ đã dày dạn kinh nghiệm, muốn hát một bài hát nơi phòng thâu âm cũng cần ít nhất hai tiếng đồng hồ; mỗi tiếng giá rẻ nhất là 40 đồng vị chi 80 đồng tiền phòng thâu âm cho mỗi bản nhạc. Một CD gồm có mười bản nhạc, tiền phòng thu âm tất nhiên 800 đồng. Soạn hòa âm cho một bản nhạc giá rẻ cũng 250 đồng ấy là chưa tính đến chuyện đưa bản hòa âm cho chuyên viên chuyển thành âm thanh và ráp nối vào giọng hát. Thế rồi bài hát nào? Oû đâu em có để hát nếu em không biết soạn bản nhạc. Cứ giả sử em có sẵn 10 bản nhạc để hát thành một CD, 800 đồng tiền phòng thâu, 2500 tiền soạn nhạc vị chi 3300. Tiền copy mỗi CD là một đồng và như thế nếu làm 1000 chiếc CD sẽ tốn tối thiểu 4300 đồng. Nếu đem bỏ buôn được bốn đồng một CD tất nhiên lỗ 300 chưa tính tiền người viết nhạc và chuyên viên ráp nối lời hát hòa âm thanh. Bởi đó, nếu em muốn hát một đôi chiếc CD để đời cho vui thì anh đề nghị gửi về Việt Nam, chỉ có một trăm đồng một bản nhạc bao láng hết và cộng thêm tiền copy bên này một ngàn nữa là khoẻ re... không mất thời giờ, không phiền hà đến ai...
      -Nhưng vậy đâu phải giọng hát của mình... mà cái đó chỉ dành cho những nhạc sĩ soạn bài hát nhưng không thể hát...
      -Vậy em thích làm ca sĩ để làm gì? Ca sĩ có nghĩa là người hát chuyên nghiệp; người sống vì nghề ca hát trong khi những người được gọi là ca sĩ như em biết đâu sống vì nghề ca hát. Họ phải đi làm tại hãng xưởng mới có tiền để thanh toán điện, nước, nhà cửa. Họ cũng chỉ như em... được gọi là ca sĩ vì có khiếu hát mà thôi. Có lẽ em chưa gặp những ca sĩ có tên tuổi nhưng không biết nhịp nhạc là gì. Họ được sinh ra để nổi tiếng, được mọi người biết tới, và dù không hát hỏng, họ vẫn được mọi người biết tới về phương diện nào đó. Thực ra, nếu ai đã không được sinh ra để nổi tiếng mà muốn được nổi tiếng, muốn được mọi người biết tới thì chắc chắn phải trả giá rất đắt, cả đời chỉ làm tôi mọi cho cái tiếng và như thế đã quên sống cho chính mình. Anh biết em có khiếu hát nên cố ý dùng mọi cách giúp em phát triển khả năng hát xướng mong em có niềm tự tin mà sống vươn lên, ít nhất thấy rằng cuộc đời mình mang một giá trị nào đó. Em là ca sĩ tại sao còn muốn trở thành ca sĩ... Nói như thế, đã bao lâu nay em vẫn chưa nhận biết em như thế nào, mục đích cuộc đời của em là gì, và thực sự con người mình ra sao. Hãy bình tĩnh... mình chỉ có thể trở nên những gì mình được sinh ra với nó... nghĩa là đã có nó sẵn nơi mình từ lúc mới sinh. Mình cần nhận biết mình thế nào, ra sao và phát triển khả năng sẵn có đến mức tối đa. Mình không cần phải là gì cả vì nếu còn muốn là gì, nếu còn muốn trở nên gì thì mình vẫn còn chưa nhận biết thực sự con người của mình. Đâu phải cứ nuôi con chó hay con mèo lâu năm rồi sau này chúng biến thành con dê hoặc con bò. Con bò ngay khi được sinh ra đã là con bò. Mình cũng vậy, mình đã được sinh ra với những khả năng sẵn có, vấn đề chỉ là mình có biết khả năng nào thuộc về mình hay không. Thí dụ, nếu em không được sinh ra với khả năng hát xướng thì cho đến muôn đời em cũng không thể nào học nhịp nhạc được dù em cố gắng. Người đã không thích hát, lại không có giọng hát, cố gắng học nhạc và vì không hát, không thực hành nhịp, chỉ vài bữa lại quên hết thì những cố gắng muốn hát cho giỏi, cho đúng nhịp cũng chẳng thể nào được. Đâu phải phi lý mà anh mua program cho em học nhịp. Em có nhớ khi mới mang về anh phải năn nỉ, dụ dỗ em như thế nào em mới chịu học nhịp nhạc không. Cũng đâu phải vô lý khi anh mua cả chồng băng video về dạ vũ để em nghe cho quen và quen với những bước chân theo nhịp nhạc... Có lẽ bây giờ em thấy những sự biết về nhịp nhạc, biết dạ vũ đúng tiêu chuẩn, cho đẹp... là chuyện thường. Để hôm nào anh đưa em đi dạ vũ cho em thử nhận định tư thái những cặp khiêu vũ xem thế nào. Đâu phải chỉ thích hát, có giọng hát hay là có thể được người ta hâm mộ, và được nổi tiếng. Ai được sinh ra để nổi tiếng thì sẽ nổi tiếng. Nhưng về phương diện hát xướng, giọng ca, lời hát, âm thanh, tư thái diễn xuất, tất cả đều hòa lẫn với nhau đánh động lòng người phát sinh cảm ứng. Sự mến mộ của khán thính giả phát sinh tự tâm hồn cảm ứng của họ chứ không phải do ca sĩ hoặc bài hát hay âm thanh của dàn nhạc. Em thử nghĩ coi, biết bao bản nhạc nổi tiếng, được nhiều người ưa chuộng mà sao em không thích hoặc không để ý. Cũng biết bao ca sĩ, nghệ sĩ xuất sắc chưa bao giờ anh thấy em có nhận định về họ... Không cần tìm hiểu nhiều, hãy tự đặt vấn đề và nghiệm nơi lòng mình sẽ biết thực hư ra sao... Có lẽ bây giờ em biết được tại sao em hỏi anh những hai lần mà anh không thể trả lời. Chẳng những thế, còn nhiều vấn đề liên hệ không thể nói lên lời vì có nói lên cũng không thể cảm nhận được mà phải chính người trong cuộc mới biết thực hư thế nào...
      -Những chuyện gì mà anh nói không thể nói ra được... đã nghĩ được, biết được thì nói phải được chứ...
      -Em có thương anh không, Mi Mi?
      -Sao anh hỏi em như thế? Bộ anh nghi ngờ em sao!
      -Nghi ngờ là vấn đề em vừa đặt ra chứ anh không hỏi em nghĩ  về anh thế nào. Anh chỉ hỏi em có thương anh không mà thôi. Và câu trả lời chỉ đơn giản giữa có và không, chẳng hơn chẳng kém. Em trả lời đi, em có thương anh không.
      -Không thương anh mà làm vợ anh à!
      -Anh không hỏi tại sao em chấp nhận làm vợ anh, anh cũng không hỏi em là vợ anh hay không phải là vợ anh. Anh chỉ hỏi em có thương anh không mà thôi. Có hay không, đơn giản chỉ có thế.
      -Thưa anh có. Sao anh hỏi ngớ ngẩn thế!
      -Em có thể nói, hay diễn tả lòng thương, tình yêu của em đối với anh cho bất cứ ai để người đó thương anh như em thương anh được không?
      -Anh lại nói vớ vẩn! Làm sao em có thể nói cho người ta thương anh giống như em thương anh được; mỗi người thương yêu một cách khác nhau...
      -Có phải là em nhận biết tình yêu, lòng yêu thương của em đối với anh mà dù em có giải thích đến mấy thì anh cũng không thể nào cảm nhận thực sự lòng yêu thương của em như chính em cảm nhận phương chi là người khác. Đây chính là câu trả lời cho vấn đề em cho rằng đã nghĩ được, biết được thì nói phải được. Aùp dụng nơi trường hợp ca sĩ được mời đi hát mà thường được gọi tắt là đi “show,” lúc trước em nhắc đến sự việc thuê ca sĩ về hát mắc mỏ. Thử hỏi 2000 đồng mua được mấy bộ đồ cho ca sĩ thay đổi trong một show hát; hát tối thứ bẩy thì muộn nhất là buổi chiều phải có mặt và sáng hôm sau chủ nhật lại lên phi cơ bay về. Thử hỏi một ca sĩ một năm được mấy lần người ta mời đi show? Và thử nhìn lại cuộc đời một ca sĩ, họ được thiên hạ chú ý bao nhiêu năm... Giới thương mại thổi phồng một ca sĩ nào đó trong một đôi năm và lại thổi phồng ca sĩ mới vì lý do kinh tế thì khi một ca sĩ không còn gì để được đánh bóng nữa, tất nhiên sẽ bị chìm vào quên lãng. Đồng thời muốn được người ta để ý, người đó lại phải ra CD để quảng bá tên tuổi của mình. Nhưng thời nay CD được coi là quá xưa rồi! Thời nay phải ra DVD, và em có biết muốn ra một DVD phải trả giá thế nào dẫu mình được người ta chú ý tới hay không. Anh không muốn nói tới tiền bạc mà chỉ muốn nói tới sự hư hao tâm tưởng và thân xác bởi muốn được người khác nhận biết. Em đã có bao giờ nghĩ tới màu phấn ăn ảnh hơn màu da và màu kem không? Em có biết tại sao khi ống kính chỉ thâu nét mặt mà làn da trên màn ảnh vẫn mịn màng, không thấy lỗ chân lông thì cần phải có những bùa phép nào không? Em là phái nữ nhưng đã bao giờ để ý những bộ y phục của các nghệ sĩ  lắm lúc coi không ra gì nhưng giá mắc mỏ như thế nào chưa? Em có bao giờ để ý chẳng hạn nơi một bản nhạc, một ca sĩ hát và cả đoàn vũ công trình diễn phụ thì giá phải trả cho những vũ công đó thế nào, dàn nhạc trình diễn cho có vẻ sống động nhưng tiền chết sẽ ra sao không? Rồi phải mấy máy thâu hình, người thâu hình, người ráp nối âm thanh và hình ảnh...
      -Em... em... Chồng tôi thấy tôi muốn nói nên ngưng... chờ đợi! Em nghĩ những phụ diễn do công ty hay hãng sản xuất DVD lo liệu chứ!
      -Nếu nói như vậy thì em muốn được hát, em phải trả tiền cho họ chứ không phải họ thuê em hát... Nhưng nơi trường hợp một ca sĩ mới chưa ai biết đến thì sao? Ai để cho hát vào DVD của họ nếu họ không muốn đánh bóng, nếu họ thấy không thể là phương tiện cho họ làm ra tiền? Và như vậy, giá phải trả trước khi được lên ống kính như thế nào; những sự quen biết, liên lạc ra sao?
       
      Xe đã về đến nhà, anh ngưng nói và từ tối hôm đó dáng điệu của anh có vẻ thâm trần, suy tư hơn. Tôi nhận thấy như thế nhưng nỗi khát khao muốn được người ta biết đến, ca tụng, càng ngày càng hối thúc. Tôi không thể nào chấp nhận chôn cuộc đời mình nơi bốn bức tường êm ả với phận sự một người mẹ, một người vợ... Sao cuộc đời buồn tẻ thế? Chẳng lẽ tôi được sinh ra, lớn lên, có chồng, có con rồi chết và rồi đi vào quên lãng như bao người đã qua đi, như bố mẹ tôi, như những người tôi quen biết. Họ đã sống, đã một đời tranh sống, lo toan từng miếng cơm manh áo, đối diện bao khó khăn cuộc đời và rồi thế là hết. Quả là cuộc đời vô vị! Tại họ không có khả năng hay không có phương tiện, cơ hội phát triển khả năng của họ? Tại phận số của họ không cho phép vì mãi bận lo toan cho cuộc sống nên không còn thì giờ thực hiện những ước mơ! Tôi có khả năng ca hát lại không phải lo lắng về mưu sinh tại sao tôi không phát triển khả năng của mình đến mức tối đa nếu có thể. Tôi có quá nhiều thời giờ để lo cho chuyện này... Tôi phải thử; người ta hát được, tôi cũng hát được mà có thể còn hát hay hơn, tại sao không thử! Và tôi đã thử!
       
      Nghe loáng thoáng về hát hò trên net, tôi dò hỏi vô được PalTalk. Nhà sẵn có dàn karaoke, tôi chỉ cần mua dây nối vào computer là đã có thể tham gia với thiên hạ đưa giọng ca mình gia nhập những phòng hát hò... Nhưng qua PalTalk, giọng bị đổi nghe không được vì bị ảnh hưởng hệ thống điện toán. Tôi loay hoay hỏi đây đó và đã biết cách thâu giọng mình vào máy điện toán hòa với nhạc phát ra nơi đĩa karaoke. Lần đầu tiên, mừng khấp khởi, tôi nghĩ, làm CD với những bản nhạc có sẵn nơi những đĩa hát karaoke thì nào có khó gì... nên lòng mang vẻ coi thường bởi ra một CD nhạc như thế thì ai cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, lý thuyết thì dễ nhưng sao cho giọng hát nổi lên giữa những âm thanh của nhạc thì  lại không đơn giản chi. Về sau được chồng tôi giải thích bởi computer không được chế để dùng vào việc thâu như hệ thống máy thương mại tôi mới hiểu đại khái tại sao giọng của ca sĩ nơi các đĩa hát có thể rõ ràng, nổi bật giữa những dòng âm thanh của nhạc. Bởi thế, nếu muốn thâu giọng hát mình với những bản nhạc đã được ghi sẵn nơi những đĩa hát karaoke lại cần phải tới phòng thâu âm để thâu lời hát và cần đến chuyên viên ráp nối giọng ca vào nhạc cho hợp nhịp điệu.
       
      Biết được như thế, hát những bản nhạc đã được hoà âm sẵn nơi các đĩa nhạc karaoke trở thành quá thường đối với tôi. Ca sĩ mà cứ phải xào đi xào lại những bản nhạc cũ rích nghe đến nhàm tai thì nào có chi đáng được để đời. Vì hát được nhiều bản nhạc, tôi suy nghĩ những sự khác biệt của những bản nhạc được phổ cùng nhịp điệu và nhận ra sự khác biệt chỉ là cung nhạc và sự phân chia nốt nhạc khác nhau tùy theo tâm tình diễn tả của lời. Thế nên, sẵn program học nhịp, tôi dùng để ký âm. Xét ra viết nhạc cũng chẳng khó khăn như tôi tưởng vì sách dạy viết nhạc nơi nào không có bán, chỉ cần đọc qua và để ý mấy luật cân phương, sự chuyển vận cung nhạc tránh bị lập lại khỏi bị nhàm chán là đã có thể thực tập. Hòa âm do không biết gì nên tôi chẳng cần để ý tới do đó tự nghĩ, hãy để cho nhạc sĩ lo việc của họ.
       
      Cỡ sáu tháng sau tôi đã viết được 20 bản nhạc đem đăng lên một website có nhiều nhạc sĩ không chuyên nghiệp phổ thơ của các thi sĩ với chủ ý nếu có ai phổ lời của tôi thành nhạc, tôi có cơ hội so sánh xem cung nhạc mình đã viết cho lời thơ có hợp với cảm ứng của người khác không. Mới đăng lên net được vài ngày, hai bài thơ đã được phổ thành nhạc với cung điệu gần giống như  nhạc của mình đã viết khiến lòng mừng khấp khởi... Hơn hai tuần sau, mười tám bản nhạc đã được phổ giúp lòng tôi tràn đầy niềm tự tin về dự định mình muốn thực hiện. Tôi lấy nhạc từ net xuống copy vào đĩa, tự nghĩ đã đến lúc tôi kiếm đường giây móc nối thực hiện mộng ước của mình.
       
      “Đàn ông quan tắt thì chầy, đàn bà quan tắt một ngày nên quan,” nhan sắc của gái hai con vẫn còn ăn khách chán, tôi phải biết xử dụng chẳng những khả năng mà tất cả những gì có thể để đạt đến mục đích. Dẫu chưa bao giờ nộp đơn xin việc hoặc phải liên hệ giao dịch với những người xa lạ không quen biết, tôi tự tin với phong cách và nhân dáng của mình dễ gây được cảm tình của người đối diện. Hơn nữa, tôi tương đối ít nói và chỉ nói những gì cần thiết do đó tôi dễ được người khác để ý. Và tôi đã có được số phone cũng như địa chỉ của một vài công ty làm CD và DVD. Tôi định bụng sắp xếp sao cho đi một chuyến mà có thể liên lạc được với tất cả những hãng đĩa tôi đã có địa chỉ trong tay. Thế nên, vấn đề còn lại chỉ là kiếm lý do hoặc chờ cơ hội để thực hiện chuyến đi.
       
      Tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều, tự đặt muôn giả thuyết hoặc tưởng tượng những gì có thể xảy đến khi gặp nhân viên hay chủ hãng sản xuất đĩa hát để chuẩn bị cho những phản ứng kịp thời sao cho ước mộng của mình thành đạt. Tôi cũng tưởng tượng đến những giây phút huy hoàng, những tràng pháo tay cổ võ, và trong trường hợp đó tôi phải ăn mặc thế nào cho hợp với vị thế của mình, dáng điệu tôi nên phải thế nào, nên cúi đầu thật sâu cảm tạ lòng mộ mến của khán thính giả như một số các minh tinh màn bạc lên lãnh nhận huy chương, hoặc tay phải kéo váy lúc nhún chân trong khi đưa tay trái khoa nửa vòng bán nguyệt và đầu hơi cúi, hay nên dùng cả hai tay kéo váy và nhún chân như một số nữ minh tinh lão thành đã làm nơi những chương trình phát huy chương trên đài truyền hình. Chồng tôi sẽ hãnh diện vì tôi, vì công lao anh đã bỏ ra để giúp tôi có ngày như thế. Tôi sẽ đương đường nói cho mọi người biết tất cả những gì tôi có được cũng như khả năng ca hát đều do công sức của anh, và nếu không nhờ anh khuyến khích, tôi không thể nào tự phát triển khả năng sẵn có nơi mình. Anh đáng được hưởng những lời ca ngợi như thế; tôi phải chân thành minh bạch.
       
      Ah! Còn danh hiệu, nên dùng tên Mi Mi của mình hay nên lấy danh hiệu nào khác; có danh hiệu nào đẹp hơn hoặc lạ hơn tên của tôi không. Ngày xưa khi còn đi học, bạn bèn tôi cho rằng tên tôi dễ thương và khác lạ hơn các tên của họ. Những danh hiệu ca sĩ thường mang tính chất quá nghiêm trang chẳng hạn những tên đệm như  Ngọc, Hoàng, Anh, Tuấn, Khanh, Khánh, Diễm, Thanh, Mỹ, Linh, v.v... và muốn cho khỏi trùng hợp tôi phải chuẩn bị trước lỡ khi được hỏi thì đã có sẵn để trả lời. Chả lẽ lúc đó lại nhờ người ta chọn cho mình một danh hiệu quả là quê một cục... Kiếm tên các ca sĩ nơi mấy chục đĩa hát để ghi lại, sắp xếp theo vần cho dễ nhận biết, tránh trùng hợp, tôi thấy những tên đẹp, thơ mộng, thì đã được chọn hầu hết khiến lòng ruột rối ren... Aáy, mới chỉ là những danh hiệu tôi biết được, còn bao nhiêu tên ca sĩ mà tôi không biết lỡ chọn trùng hợp thì sao! Chẳng lẽ lấy tên Mỹ ráp vào tên Việt... nghe kỳ cục giống mấy mụ nhà quê lên tỉnh, hoặc chẳng khác gì dân thượng đóng khố đi giầy. Quả là phiền, những sự việc khó khăn cần nhiều công sức để giải quyết thì lại dễ dàng mà chọn danh hiệu đâu cần gì cố gắng sao lại rắc rối, khó quyết định đến thế! Thôi thì lấy quách tên thật của mình, tôi tạm quyết định nếu được hỏi vì trước đến nay chưa bao giờ nghe đến bất cứ ca sĩ nào có danh hiệu như thế.
       
      Đang cơn buồn ngủ lại gặp chiếu manh trãi sẵn, tôi chưa biết phải suy tính thế nào để có cớ đi Cali trong vòng hai tuần thì nhận được tin bác ruột, chị của mẹ tôi bên Cali đau nặng. Nghĩa tử là nghĩa tận, thêm vào đó, ông bà hiếm con, có được hai người, một trai một gái thì đã có gia thất ở bên Việt Nam. Ngày 30 tháng tư lớ quớ nơi bãi trước Vũng Tàu nên hai ông bà theo người ta lên tàu và được định cư tại Mỹ. Tuổi cũng đã cao do đó được cấp an sinh xã hội và housing nên cuộc sống cũng tạm yên ổn. Mấy năm nay bác trai không thể lái xe được nữa vì mắt kém. Bác gái thì mù tịt, tiếng anh tiếng u không biết lại thuộc hàng dân quê thì sao dám đụng đến tay lái chiếc xe. Những ngày đầu mới sang, bác trai phải nhờ hội thiện nguyện cử người dạy luật và tập lái xe, thế mà thi mãi không đậu. Nghe bác kể chuyện thi bằng lái mà cười đến đau cả bụng.
      -Tôi đâu có sợ đụng xe người ta, nhưng tôi cứ sợ người ta đụng tôi nên tay chỉ hơi rung rung vì cứ lo để ý chiếc xe chạy phía sau mình nó có thắng kịp lỡ khi mình thắng hay không...
      -Không hiểu sao, ông Sinh làm hội thiện nguyện ngồi bên để tôi lái thì ngon lành lắm... mà đến khi người cảnh sát, cái mặt chằm bằm, cứ rom rom nhìn chòng chọc vào tay tôi thành ra nó run chứ tay tôi có run đâu!
      -Có lần đang thi lái, được cái chị cảnh sát ngồi bên dễ thương, chị nói với tôi đôi câu xã giao trong lúc xe đang bon bon chạy nơi một đường giong. Tôi vừa lái xe, vừa lo trả lời trong khi mắt chăm chăm nhìn vào vạch vàng giữa đường cố giữ xe chạy cho cân... Bỗng lúc còn đang vừa để ý vạch vàng, vừa lo nhớ tiếng anh để nói, tôi chợt nhìn thấy bảng Stop... Ôi chao, tôi đạp thắng cái rụp; chị cảnh sát lao người về phía trước may đưa tay đỡ được đầu khỏi đụng vào kiếng xe. Chị ta sợ quá, bắt tôi chạy từ từ và đánh rớt; cũng tại tôi quên không nói chị ta chằng dây an toàn.
       
      Sau ba lần thi lái xe không được, hai ông bà nhờ người chở ra phi trường bay về nơi tôi ở chơi hai tuần. Chồng tôi đưa ông đi thi lấy bằng viết và chỉ hơn tuần sau, ông có được bằng lái xe. Ngày ấy, chồng tôi còn đang theo học đại học nên chúng tôi sống tại một vùng quê gần trường do đó việc lấy bằng lái xe dễ dãi gấp mấy lần ở Cali. Bác tôi mừng quá, cảm ơn đứa cháu rể hết lời. Trở về Cali, bởi đã có sẵn phiếu thi viết nơi văn phòng cảnh sát nên chỉ cần đổi bằng lái xe là êm chuyện. Nay bà bịnh nặng, ông lại không lái được xe trong khi người thân không có một mống ngoại trừ tôi. Mượn gió bẻ măng, dẫu đã biết rõ sự khó khăn của hai bác khi bà bị bệnh nặng, tôi nói cho chồng biết để anh gọi điện thoại sang hỏi thăm rồi kiếm cách lựa lời tính chuyện đi Cali một chuyến, cùng công, đôi việc.
       
      Quả là dịp may, tôi thầm nghĩ. Sau khi nói chuyện thăm hỏi với bác tôi, anh có vẻ im lặng, trầm mặc, và ôm chiếc computer suốt buổi tối, trường hợp chưa bao giờ xảy ra từ ngày hai người cưới nhau. Anh quan niệm, công việc ở hãng xưởng cần phải được giải quyết nơi hãng xưởng; thời gian về nhà là thời gian của gia đình. Bởi thế, như một lẽ tất nhiên tôi không bao giờ hỏi han anh về công việc làm cũng như anh không bao giờ đem chuyện khó khăn nơi hãng xưởng về nhà làm phiền vợ con. Hơn nữa, đôi khi thấy thái độ anh có vẻ hơi khác mọi ngày, thường thì trầm mặc hơn bởi có những chuyện cần suy nghĩ nhiều, tôi dạm hỏi may ra có chia bớt được với anh nỗi khổ tâm nào chăng thì anh chỉ trả lời qua loa và lần nào cũng nhắc nhở tôi rằng anh không muốn bất cứ công chuyện nào của hãng xưởng xen vô làm phiền hạnh phúc gia đình. Anh đi ngủ hơi muộn và sáng hôm sau trước khi đi làm, căn dặn,
      -Em lo chuẩn bị sang giúp hai bác vào ngày mốt, anh sẽ đưa em ra phi trường. Vé phi cơ đã mua sẵn, ngày về chưa xác định. Anh sẽ lấy 3 tuần hè ở nhà lo cho con. Sang đó, em đến văn phòng hãng Hertz ký giấy nhận xe, anh đã thuê sẵn cho em một tuần, nếu cần ở lại, em sẽ ký thêm. Nhớ mang credit card và thêm một ít tiền mặt lỡ có chuyện cần phải chi bất thường. Credid card và vé phi cơ anh để ở nơi bàn computer. Anh vô hãng để sắp xếp một số công việc chuẩn bị cho những ngày nghỉ. Sang bên đó, em nhớ gọi điện thoại về nói chuyện với con; chắc chắn chúng nó sẽ nhớ mẹ nhưng không còn cách nào hơn, bởi dầu nghỉ ở nhà nhưng anh vẫn phải “On call” vì ông chủ hãng cũng đi vắng. Em đừng lo về chuyện thực phẩm vì anh biết nấu nướng. Hãy lo sắp những vật dụng cá nhân cần thiết cho chuyến đi nhanh lắm cũng phải là hai tuần.
       
      Tôi như mở cờ trong bụng bởi đã dự tính phải đưa bé Thúy đi theo. Con bé lại nhõng nhẽo không rời mẹ thì sao tôi có thể liên lạc và “bắt mối” với mấy hãng đĩa hát. “Phúc bất trùng lai,” tôi thầm nghĩ, kể như trời giúp mình nên cho cơ hội. Suốt hai đêm kế tiếp, tôi trằn trọc ngủ không được vì lòng mang mang đầy mộng tưởng dựa trên khả năng ca hát và viễn ảnh một ca sĩ duyên dáng, dễ thương, nhã nhặn, và tràn đầy nét hấp dẫn nơi sân khấu, nơi màn ảnh truyền hình phát ra từ đĩa DVD, kèm theo lời tuyên dương chồng tôi. Tôi cảm thấy mình bồng bềnh nơi sự thành công. Chắc chắn tôi thành công vì tôi có khả năng ca hát cộng thêm dáng dấp khá mĩ miều. Chẳng thế mà mấy chị bạn cứ đương đường so sánh họ với tôi nhiều khi phát thẹn. Họ bảo chồng tôi tốt số, có được người vợ ngoan hiền và duyên dáng. Chồng thanh lịch, học thức, nhã nhặn, có vợ nghiêng nước nghiêng thành, còn cặp nào trên đời này xứng đôi vừa lứa hơn. Có người còn nói chồng họ ganh với chồng tôi. Tôi chỉ dám im lặng mỉm cười không dám nói đuôi e sự bỡn cợt đôi khi đi quá lố làm người ta coi thường mình. Thực ra, tôi biết sự im lặng khiến người khác để ý đến mình nhiều hơn nên cố giữ chừng mực, càng nói ít chừng nào càng hay chừng nấy.
       
      Sau khi lấy xe, tôi lái một mạch theo bản đồ chồng tôi đã in sẵn thẳng tới thăm bác gái đang nằm nơi bệnh viện. Nhà bác cũng không xa bệnh viện nên bác trai thường nhờ người quen chở đi chở về, có khi ở lại bệnh viện hai ngày. Cũng may, bệnh tình bác gái đã thuyên giảm khá nhiều và theo y tá nói thì cỡ hơn một tuần nữa sẽ xuất viện. Bác trai ỷ y đã có tôi nên ở lại bệnh viện sau khi tôi chở ông về xem xét nhà cửa cũng như chỉ cho tôi những điều cần thiết như đồ ăn thức uống trong nhà và chở ông lại nhà thương. Tối hôm ấy, tôi nhủ mình phải quên hết, bỏ hết, đi ngủ sớm để có được dáng điệu tươi mát khi gặp chuyên viên hoặc đại diện hay chủ hãng đĩa hát mà tôi đã gọi trước khi bay qua Cali sắp xếp ngày giờ gặp gỡ. Kể ra tôi cũng khá thông minh, có lẽ bởi quen sắp xếp phân chia công việc cho các em thời còn nhỏ nên sự tính toán điều hành trở thành thói quen chăng. Trước khi đi ngủ, tôi gọi về nhà; chồng tôi bắt phone và tôi nghe có tiếng tỉ tê của bé Thúy đang mè nheo đòi mẹ. Tội nghiệp chồng tôi, phải dỗ con bé đã quen nhõng nhẽo, chắc anh cảm thấy khổ sở lắm.
      -Anh hả, con có quấy lắm không, tội quá, biết vậy em cho nó đi theo...
      -Bé Thúy nhớ mẹ khóc cả ngày, anh dỗ thế nào cũng không được. Em nói chuyện với bé Thúy rồi hãy nói với anh sau...
      -Vậy anh cho bé Thúy cầm phone...
      Bé Thúy nhận được tiếng mẹ nên dễ dàng chấp nhận những lời dỗ dành, hứa hẹn, và hết khóc dẫu vẫn mếu máo vì nhớ. Chồng tôi dễ thương và con tôi cũng dễ thương...
       
      Và mọi sự xảy đến đúng như dự đoán thêm phần dễ dàng hơn tôi đã tưởng tượng. Những người đại diện, chủ hãng đĩa hát, hoặc nhân viên và một vài nhạc sĩ đã dành ưu tiên cho tôi nhiều thứ, đầy hứa hẹn, dường như trời dùng họ để trải thảm cho tôi bước lên đài danh vọng. Mặc dầu công việc đa đoan nhưng thời gian hẹn của tôi đối với họ không hạn định. Tôi được hướng dẫn một cách tỉ mỉ về những cách thức và diễn trình của việc thâu hát, những chi tiết cần thiết về tâm lý ảnh hưởng giọng hát nơi phòng thâu cũng như những cách giữ gìn sức khoẻ, chuẩn bị tâm tình sao cho hòa hợp với bản nhạc trước khi thâu âm v.v... Điều thích nhất đó là tôi được đặc biệt ưu đãi tham gia trình diễn nơi một chương trình văn nghệ cuối tuần nên cần phải có hai ngày để tập luyện đặc biệt cho hai bài hát do chính tôi chọn bởi e rằng lần đầu tiên trình diễn trước một số đông đảo quần chúng tôi sẽ bị luống cuống, mất tự nhiên. Chuyện gì chứ bài hát thì tôi biết khá nhiều mà còn có những 20 bài ruột có thể trình diễn bất cứ lúc nào. Đặc biệt dịp may này lại do chính ông bầu của một hãng sản xuất đĩa hát karaoke hướng dẫn tôi vào nghề. Lòng tôi phơi phới; mộng ước gần nắm được nơi tầm tay vì chỉ ít bữa nữa hình ảnh tôi sẽ được trưng bầy nơi các tiệm nhạc với những lời giới thiệu đầy hứa hẹn.
      -Chị cứ yên trí, với dáng dấp và nét tự nhiên nhưng kín đáo, tự nó nói lên chị là một gia tài bí mật khuyến khích mọi người muốn tìm hiểu, đào bới. Chỉ cần để ý một chút, chị sẽ trở thành minh tinh, tôi lỡ nói lộn, minh tinh thì chưa dám nói đến trong lúc này vì hãy còn quá sớm, sự hứa hẹn chỉ giống như ba hoa, dẫn dụ. Tuy nhiên, tôi bảo đảm với chị, mới chỉ gặp chị và đôi phút nói chuyện, tôi có cảm giác chị sẽ trở nên nóng bỏng trước khán thính giả. Ý tôi muốn nói, con người chị mang tính chất thu hút khán thính giả nên sự thành công nơi nghệ thuật không cần phải đặt thành vấn đề. Đâu phải người ta mộ mến ca sĩ  chỉ vì giọng hát mà tự nét hấp dẫn của người ca sĩ. Đâu phải người ta chỉ nghe ca sĩ nào đó hát rồi tự nhiên mê mệt người ca sĩ đó. Người ta mê ca sĩ hay minh tinh màn bạc nào đó vì nhân dáng, vì hình bóng cuốn hút cảm ứng tâm trí của họ được phụ họa thêm bởi thái độ, nét cười, cái háy mắt hoặc cử chỉ, tác động nào đó đã lọt vào tiềm thức tự thuở bao giờ nơi con người họ. Những phong thái ẩn tàng trong ước mơ của họ đã bao lâu nay chợt lộ diện nơi ai thì họ bị cuốn hút theo người đó. Nói cho đúng, người ta khát khao tìm lại chính họ và gặp được cá tính hoặc tính chất của họ được thể hiện nơi mình tất nhiên họ cảm thấy thân thiết, gần gũi, dễ yêu mến mình mà thôi.
       
      Tôi thử nêu lên thí dụ cho chị dễ hiểu mà để ý áp dụng; nói bộc bạch, tôi muốn chị tự nhận định về nét hấp dẫn đặc biệt nơi mình ở điểm nào và xử dụng, thực tập để phát triển nó tới mức tối đa nếu có thể. Tại sao những người trẻ mua những bộ đồ mắc tiền mà người lớn chúng ta thấy chướng tai gai mắt. Thưa rằng vì nghệ sĩ nào đó mà họ thích đã ăn mặc kiểu đó. Tại sao họ cắt tóc theo kiểu nghệ sĩ trứ danh nào đó mà không húi cua như tôi? Có phải người ta bắt chước theo những gì có thể bộc lộ tâm hồn của họ được thể hiện nơi người nào đó không. Họ mặc những bộ đồ giống nghệ sĩ để có cảm tưởng họ là hiện thân của người nghệ sĩ đó, cảm thấy mình là một thứ gì đó. Nói cách khác, họ đang bộc lộ chính họ nhưng vô tình không để ý. Đây mới là mấu chốt cốt cán cho sự thành công nơi nghệ thuật của một người. Đối với những tác giả văn chương hay thi phú, qua những đoạn văn, những câu thơ, độc giả nhận ra tâm sự ẩn kín của mình nên mộ mến tác giả. Tại sao người ta thích thơ buồn, vì nó nhắc đến nỗi buồn muôn thuở nơi tâm hồn con người. Tại sao những thi sĩ không làm thơ vui, vì họ có vui đâu mà làm được thơ vui.
       
      Nguyễn Du nơi truyện Kiều nói lên thực trạng rất chính xác của tâm hồn một người, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Chúng ta dễ cảm nhận thơ buồn vì thực tại cuộc đời này chán chường quá, cuộc đời một người đau khổ quá nhiều, đau khổ chồng chất, đau khổ triền miên, bao nhiêu ước vọng đã trôi vào quên lãng, biết bao niềm mơ được kiến tạo nơi tâm trí như một phản ảnh của tâm trạng chán chường nơi tâm hồn. Thế nên những gì, bất cứ gì nói lên được khía cạnh nào đó nơi tâm hồn con người, họ sẽ phát sinh cảm ứng. Có lẽ chị nhận thấy rõ, chị chỉ có thể thích được một vài minh tinh nào đó trong khi biết bao minh tinh màn bạc chị đã biết, mà có bao giờ thèm để ý đến họ đâu. Bởi vậy, tôi đặc biệt hướng dẫn chị như một ngoại lệ từ ngày bước chân vào nghệ thuật đến nay, cũng chỉ vì mới nhận ra được cảm ứng tâm lý nghệ thuật tiềm ẩn nơi con người. Chị cứ yên chí, hai ngày thực tập trình diễn trước công chúng của lần đầu tiên lên sân khấu cần nhiều cố gắng nơi chị. Nếu chị dồn hết năng lực cho công việc luyện tập này chỉ trong đôi ngày ngắn ngủi, chị sẽ không còn phải e ngại những trắc trở nhỏ nhoi trong cuộc đời nghệ thuật của mình. chị về suy nghĩ cho chín chắn và gọi lại cho tôi nếu chị thực tâm muốn phát triển khả năng thiên phú sẵn có nơi mình.
       
      Ông bầu ăn nói chân thành, thân thiện khiến tôi cảm thấy ấm lòng. Ông chỉ hơn tôi vài tuổi, gọi tôi là chị mà xưng tôi đủ chứng tỏ lòng dạ phân minh không mượn cơ hội gây thiện cảm hầu chờ nước đục thả câu. Ông phân tích tâm lý, đưa lên những nhận định xác thực, và chứng minh một cách rõ ràng bằng những điều rất thường tình ai cũng biết mà không mấy ai để ý, chẳng hạn như chính tôi. Từ xưa tới nay, tôi cứ cho rằng mình thích giọng ca sĩ nào đó thì mình nhái theo bởi mình muốn có giọng hát giống người ấy... Nhớ lại hình ảnh của các ca sĩ karaoke hát những bài hát tôi thích mới chợt nhận ra mình thích nhân dáng và lối diễn xuất của những ca sĩ ấy. Dĩ nhiên, có những bài hát tiền chiến không biết giọng ca của ai thì tôi thích tâm tình chứa đựng nơi bản nhạc. Ông ta lại còn đặc biệt để ý khuyến khích và sẽ giúp phát triển đặc tính sẵn có nơi mình mà tôi chưa để ý nhận biết. Tôi sẽ cố gắng hết sức luyện tập với bất cứ giá nào. Tôi phải trở nên thần tượng nghệ thuật theo như lời ông bầu đã giải thích, thần tượng do hiện thân được nỗi lòng khán thính giả tạo nên cảm ứng nơi tâm hồn họ qua nhân dáng và nghệ thuật trình diễn... Mình phải thành công, tôi tự dặn lòng. Con đường nghệ thuật trước mặt mở rộng, tôi háo hức, hăng say tiến tới dù mới chỉ trong mộng tưởng.
       
       
      Tôi may mắn quá! Quả nhiên, “Khi nên trời cũng chiều người.” Hai tuần nữa về nhà, chỉ hai tuần nữa, tôi nghiễm nhiên đổi lốt, từ một người vô danh tiểu tốt, bao năm tháng ẩn mình thầm lặng nơi góc tối cuộc đời quanh bốn bức tường của một tỉnh lỵ không ai thèm để ý, nay là ca sĩ thực thụ, ca sĩ có giọng ca cho những người thích hát hỏng nhái theo, bắt chước, và từ đó, những liên lạc khế ước sẽ tấp nập bay tới, những bích chương quảng cáo rầm rộ được nghênh ngang dán nơi cửa kính các tiệm băng nhạc, những hàng tít lớn có kèm theo hình ảnh mặn mà, hấp dẫn của tôi đăng ngập tràn trên sách báo, những bài nhận định của giới nghệ sĩ yêu nhạc gán ép, thổi phồng tôi lên, chẳng những thế lại còn thêm nếm pha mùi trách móc giới thương mại đã thiếu cái nhìn xa nên đã không tạo dựng những cơ hội phát triển khả năng của giới yêu nghệ thuật nơi quần chúng.
       
      Ghé vô tiệm thực phẩm trên đường lái xe về nhà thương thăm bà bác, định mua rau, khoai, và miếng thịt bò về nướng ăn lấy sức chuẩn bị cho hai ngày tập luyện lên sâu khấu, tôi cảm thấy phần nào e ngại lỡ ăn nhiều quá phát mập thì ma nào mà hâm mộ được một ca sĩ tròn như hột mít đi tới đâu, dáng dấp chẳng khác gì quả trứng vịt trườn mình, dẫu đã biết tôi mình dây, trường túc. Một bữa ăn thịnh soạn lấy sức đâu có sao, tôi thầm nhủ, nhưng...! Chẳng lẽ lên sân khấu với bộ đồ dân quê tỉnh lẻ, của người thượng lên tỉnh này hay sao? Chợt nhận ra vị thế của mình sắp trở thành kiểu mẫu cho muôn người mơ ước, tôi giật mình tự nghĩ hãy còn may mắn lắm vì đã nhớ tới phải ăn diện thế nào trước công chúng cho hợp với con người nghệ sĩ. Tôi cũng cần thời giờ suy nghĩ nên ăn mặc cách nào. Ừ, chỉ có hai bài hát nên chỉ cần hai bộ đồ cho ra vẻ nghệ sĩ, mà tôi  đâu biết nơi nào đặc biệt chuyên bán quần áo nghệ sĩ, phải hỏi ai, hoặc nơi nào các nghệ sĩ hay đi sắm đồ; những mốt, những kiểu mới ở đâu ra hay chỉ tùy ý thích cá nhân... Hãy còn kịp chán, mình còn ngày mai và sáng ngày mốt bốn giờ chiều mới bắt đầu, lo bồi bổ năng lực trước rồi chuyện đến đâu sẽ tính đến đó, đầy lòng tự tin, tôi thầm nhủ.
       
      Hôm nay bác tôi đã được người ta giữ cho tập đi, như vậy chỉ chừng dăm bữa nữa sẽ xuất viện. Ở lại nói chuyện với hai bác chừng tiếng đồng hồ, tôi lái xe về nhà lo bữa ăn trưa. Thế mà đã hai giờ chiều... trên đoạn đường ngắn và suốt thời gian nấu nướng, ăn uống, lòng dạ tôi không lúc nào không nghĩ đến kiểu cách ăn mặc phải như thế nào khi lên trình diễn. Kiểu váy dài xẻ hơi cao một bên hông thỉnh thoảng để lấp ló cặp đùi mỗi khi di chuyển lúc hát sẽ làm khán thính giả chia trí nên làm giảm bớt nét hấp dẫn của phần thân thể và nét mặt người nghệ sĩ. Mặc áo dài ôm sát phô diễn vòng ngực đẫy đà phát triển thì cái hông eo của gái hai con lại chừng như cứ thích trình bày nét xuân sắp về chiều... Mặc jupe ngắn không được, tôi chưa bao giờ mặc loại cũn cỡn này dẫu biết cặp đùi của mình hãy còn vẻ nước non lắm, chưa đến nỗi tệ nhưng ngại làm sao ấy. Hay mặc robe thời cổ, tay dài vì mới là lần đầu ra mắt quần chúng để khán thính giả dễ có cảm tình bởi nó chứng tỏ mình không se sua mà chân chất với nghệ thuật... nhưng làm sao bày được đường nét hấp dẫn cần được xử dụng như một lợi khí. Hay là loại robe thời năm mươi, phơi bày đường cong bộ ngực với đôi tay trần mũm mĩm, thuôn thuôn, robe hơi cộc khiến dáng dấp mang vẻ mi nhon!... Bây giờ tôi mới nhận ra mình thuộc loại nhà quê lên tỉnh chính hiệu. Chỉ có hai bộ đồ mà không biết phải mặc như thế nào, lại càng không biết phải mua ở đâu. Hậu xét, tôi cần ngủ một giấc lấy sức chuẩn bị cho những ngày sắp tới, chắc chắn sẽ khá mệt nhọc tập luyện bởi nếu không ông bầu đã không cẩn thận dặn dò.
       
      Giấc ngủ trưa thật tuyệt vời bởi tôi đã mơ thấy mộng của mình đạt thành. Tôi thấy hình ảnh cả ngàn khán thính giả vỗ tay đón chào khi bước vô sân khấu khiến lòng chợt rung động, bồi hồi, dẫu đầy tự tin. Vì đã quá quen thuộc với bài hát lại được ban nhạc thiện nghệ kiến tạo những âm thanh tươi sáng, rõ ràng, và nhịp nhàng, giọng hát của tôi uyển chuyển phô diễn tất cả thực thể hiện hữu của mình. Tâm hồn hòa với giòng âm thanh cất lên tiếng hát, tôi cảm thấy mình bềnh bồng quên hẳn thực tại có sự hiện diện của trên dưới ngàn người nơi hàng ghế khán thính giả đang đổ dồn bao cặp mắt chiêm ngưỡng hầu như nín thở để hòa nhập nỗi lòng của họ với giọng hát của tôi. Tôi đã không để ý nhận định cử điệu của đôi tay mình bày tỏ tâm tư  như thế nào; tôi chỉ biết cơ thể mình nhịp nhàng và khoan thai bước tới bước lui; đôi khi thân thể tôi rướn lên theo đà tay với, như muốn nắm bắt cảnh trời tương lai rộng mở nơi cử điệu diễn xuất. Và khi giòng nhạc ngưng, tôi bàng hoàng chợt tỉnh, vội vàng hướng về phía khán thính giả cong người cúi thật sâu để cảm tạ thịnh tình của họ qua cảm ứng được tỏ lộ bằng tràng pháo tay bùng lên phá nát nét thơ mộng, âm hưởng của bản nhạc. Đây đó, một đôi tiếng huýt gió nổi lên do vài khán giả đã không cầm giữ được cảm ứng mến mộ. Tiếng huýt gió biểu hiệu muốn tôi hát thêm, nhưng không, tôi phải tỏ nét kiêu kỳ bằng cách cúi đầu thêm lần nữa, miệng nói “Xin cảm ơn quí vị” nơi micro và chậm dãi, bước lùi lại mấy bước, đoạn yểu điệu bước xiên xiên vào ngang hông sân khấu, tránh quay lưng lại phía khán thính giả. Người ta chỉ mộ mến những gì hiếm quý; tuy nhiên, lại dễ coi thường những giá trị đã có sẵn trong tầm tay, tôi chợt nhận ra ý nghĩa của thực tại rất thường nơi lòng dạ con người nhưng mang sự lạ lùng bất thường này.
       
      Năm giờ chiều, thế ra tôi ngủ một giấc những gần ba tiếng đồng hồ. Tràn trề sinh lực, tôi rửa mặt, pha một ly cà phê và gọi điện thoại về nhà, giờ này nơi miền tôi ở đã bẩy giờ tối, chắc các con tôi đã đi ngủ do trời mùa đông tối sớm. Không biết có nên kể cho chồng tôi nghe về những chuyện mình sắp thực hiện không, lòng tôi hơi xốn xang muốn chia sớt niềm vui ẩn hiện, ngập tràn. Chuyện chưa đến đâu... thôi hãy cố nén lòng... và giữ im lặng để khi về mang tấm bích chương làm quà tặng khiến ngạc nhiên càng tạo thêm niềm hãnh diện cho chồng con, tôi định bụng...
       
      Ba hồi chuông điện thoại reo, quái, sao không ai bắt phone, hay bố con họ đi chơi...
      -Hello, I am listening... Giọng chồng tôi trầm trầm vang lên nơi đầu giây bên kia.
      -Sao giọng anh nhỏ vậy, có chuyện gì...
      -Các con đang ngủ nên anh không để điện thoại reo chỉ canh chừng ánh điện chớp chớp bắt phone do đó không nói to được... Em khỏe không? Bác gái thế nào rồi...
      -Em bình thường, lâu lắm rồi hôm nay em có được giấc ngủ trưa gần ba tiếng đồng hồ từ lúc hơn hai giờ chiều bên đây, vừa mới tỉnh dậy... Trưa nay ghé qua bệnh viện, người ta bắt đầu tập cho bác đi trở lại. Bác bị “Stroke” tưởng liệt nửa người bên trái... nhưng mọi sự rồi cũng qua khỏi; vấn đề chỉ là thời gian... và theo em dự đoán thì cỡ vài ngày nữa bác sẽ được xuất viện nhưng việc đi lại vẫn còn khó khăn, chưa thể bình thường ngay được...
      -Bé Thúy tối ngày cứ nhắc đến mẹ và Toàn lại biết dỗ em gái... Em dạy con giỏi đó, không ngờ thằng con trai ngu ngơ như thế mà biết dỗ em khá như  vậy khiến anh cảm thấy thảnh thơi. Hôm nay anh phải vào hãng những hai lần, cỡ 9 giờ sáng và lúc 3 giờ chiều. Buổi sáng sau khi chở Toàn đi học, anh chở luôn bé Thúy vô sở. Con bé hỏi han lung tung khiến anh không biết đường nào trả lời. Lạ quá, con bé không nhút nhát chút nào mà gặp mấy nhân viên làm việc lại nói tiếng anh với họ như con sáo, nghe thích lắm. Con của em dễ thương như mẹ chúng, chẳng sai. Buổi chiều, anh đưa cả hai đứa vô sở, dặn Toàn trông chừng bé Thúy nơi văn phòng làm việc vì anh phải chỉ dẫn mấy người chạy máy sửa chữa một vài bộ phận trục trặc cỡ hơn tiếng đồng hồ. Lúc về, bố con anh ghé vô một tiệm Việt Nam ăn cơm tấm bì, sườn, chả. Con em quả là dễ thương; ở nhà thì xụt xùi nhớ mẹ, vậy mà đi ra ngoài, cô cậu mang vẻ chững chạc lắm. Ngoan, kháu khỉnh như  đôi chim líu lo...
      -Bé Thúy giống bố đấy chứ... đúng cơ mới chịu hót... bình thường nào ai biết đâu... Con gái giống cha, giàu ba mươi đụn...
      -Em lo giữ gìn sức khoẻ; có chuyện gì cần, nói cho anh biết... Cái xe anh chọn có hợp ý em không?
      -Có lẽ khi về nhà em sẽ đổi xe như  vậy; ngồi cao hơn nhìn đường xá dễ hơn... lại không bị cảm tưởng mấy xe mười tám bánh chồm lên mình...
       
      Sau khi nói chuyện với chồng, vấn đề ăn mặc lại trở về nơi tâm trí... Tôi suy đi, tính lại không biết phải hỏi ai. Con nhà chân chỉ hạt bột, tôi không quen biết một nghệ sĩ nào, cho dù ca sĩ, văn sĩ, hay thi sĩ. Xưa nay đối với tôi, tiếng sĩ dính liền với danh hiệu của họ to lớn quá khiến một người sinh trưởng nơi vùng quê nghèo nàn, khỉ ho cò gáy sao có cơ hội gặp gỡ. Aáy chỉ nói tới gặp mặt phương chi chuyện quen biết. Họ là những người in đậm nơi tâm hồn tôi những hình ảnh cao vời, những niềm mơ thần thánh bởi họ nói chuyện thần thánh, những câu chuyện chẳng bao giờ xảy đến nơi cuộc đời thường dân. Giới gần gũi nhất là ca sĩ vì tôi thích ca hát, tôi cảm nhận thế do thấy được hình ảnh, bóng dáng họ nơi những đĩa nhạc karaoke. Ai cũng đẹp, ai cũng có những nét đặc biệt đáng cho tôi học hỏi. Dáng dấp họ nhẹ nhàng, thanh bai; lúc nói chuyện vui được thâu trên đĩa nhựa, họ ăn nói nhẹ nhàng, dí dỏm, lắm lúc đơn sơ, mộc mạc nhưng rất thanh lịch. Nếu tôi được lọt vào hàng ngũ của họ đã là niềm hạnh phúc thiên đàng hằng bao ngày mơ ước phương chi văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, tâm hồn họ lớn lao, chứa đựng cả bầu trời huyền thoại tôi không bao giờ dám mơ ước, nói chi đến chuyện cả gan làm quen.
       
      Đôi lần nghe chồng tôi nói chuyện với người bạn cũ, lái xe cả hàng chục tiếng ghé nhà tôi dăm ba hôm thăm hỏi, nhắc đến văn sĩ này, thi sĩ kia, có khi họ nhắc đến tên và gọi bằng thằng vì là bạn cũ từ  lâu, tôi chợt có ý nghĩ hơi khó chịu vì cho rằng chồng tôi sao lại dùng những ngôn từ hạ cấp như thế đối với người vắng mặt. Nhưng để ý nghe mới biết họ không khinh thường mấy người được nói đến nhưng gọi bằng thằng bởi họ dùng lại ngôn từ của thời bạn bè thơ ấu. Xem ra mấy người bạn được gọi là thân với chồng tôi rất nể phục anh. Lắm lúc anh nói thao thao bất tuyệt, rất tự nhiên nhưng giọng có vẻ kẻ cả mà lại rất thân thiết, tôn trọng người đối diện, không một chút dù chỉ lộ ý coi thường. Chẳng thể hiểu được thế giới đàn ông, tôi tự nhủ. Gặp những người bạn như thế, chồng tôi khuân rượu về lắm thứ tùy sở thích của khách nhưng anh chỉ uống Crown Royal. Họ tương đắc uống như hũ chìm đôi khi mà lúc vắng họ, tôi chẳng bao giờ thấy chồng tôi đụng đến chai rượu. Quả thật lạ kỳ! Tôi để ý, có những thời gian dài không khách khứa, rượu thứ nào vẫn yên như cũ không hề suy chuyển. Thế mà tôi không muốn gọi điện thoại hỏi anh trong lúc bối rối này. Giả sử nếu hỏi, tôi nghĩ, chắc chắn anh sẽ liên lạc ít nhất vài người đưa tôi đi sắm đồ. Nhưng không, tôi nhất định không hỏi chồng để dành cho anh sự ngạc nhiên chẳng ngờ.
       
      Nghĩ về chồng, tôi chợt tự hỏi, tại sao không hỏi ông bầu. Ah ha! Thế ra tôi hơi chậm hiểu nên vụng tính. Người ta là thổ công ở đây, quen biết nhiều ca sĩ lại trong nghề đĩa hát thì lẽ tất nhiên rành rẽ về vấn đề ăn diện... Và tôi bấm số điện thoại,
      -Hey, đang vội ăn vài miếng để tiếp tục show. Có chuyện chi cần nói lẹ...
      -Dạ xin chào ông, tôi là Mi Mi, muốn hỏi ông chút chuyện nhưng ông đang vội, xin cho biết tôi có thể gọi lại ông vào giờ nào ạ!
      -Chào chị Mi Mi, xin lỗi, xin lỗi, tôi tưởng người bạn nào rủ tôi đi nhậu. Phiền quá, xin lỗi chị nha. Chị định hỏi tôi chuyện gì, có cần gấp lắm không?
      -Dạ thưa không, vì tôi muốn biết phải sắm quần áo ở đâu để mặc hát vào ngày cuối tuần... Khổ quá, tôi chân ướt chân ráo mới đến Cali nên cứ như rợ vào rừng chẳng biết thế nào...
      -Rất tiếc tôi đang mắc thâu hình cho đĩa hát chỉ còn mấy bữa nữa phát hành. Giới thiệu, quảng cáo, bích chương gửi đi dán đầy hàng quán mà vì trục trặc kỹ thuật phải thâu lại hai bản nhạc. Họa vô đơn chí, hỏng đâu không hỏng, sai đâu không sai, lại hỏng ngay nơi “file” giọng hát của người nghệ sĩ  cổ nhạc... mà tối nay phải xong. Nếu không quá kẹt, tôi chở chị đi sắm đồ thì dễ dàng thôi. Chị tới thành phố Hồ Ly Vọng ở Los, tha hồ mà sắm. Tiếng Mỹ nó là thành phố Holly Wood đó. Nhớ đừng dại mua đồ mắc tiền nghe chị, những bộ đồ giá phải chăng cỡ trên dưới một ngàn nhiều khi đẹp hơn loại dăm bảy ngàn. Vấn đề là tùy dáng người... mà dáng dấp của chị thì mặc loại nào cũng được, chẳng nên đặt vấn đề chi cho mệt. Chị chỉ nên để ý một điều đó là làn da chị trắng, cổ cao do đó nên mặc màu hồng ánh lửa cho tăng thêm vẻ nồng nàn lại rực rỡ, hoặc màu lá mạ non để phô bày vẻ nõn nà tươi mát. Thế  chị muốn hỏi thêm chuyện gì nữa không?
      -Dạ xin cảm ơn ông, tôi chỉ cần có thế. Ôi, phiền hà bởi dốt nát mà ra... Quả phiền ông quá. Dạ xin chào ông...
      Kể là quý hóa lắm rồi, đang không biết chọn màu nào thì được cho nhận định màu hồng ánh lửa và màu xanh lá mạ thì đâu còn gì phải suy nghĩ, cứ đến tiệm rồi kiểu nào sẽ biết tôi thầm nghĩ. Muốn ngủ ngay cũng không được bởi gần ba tiếng đồng hồ mơ màng buổi chiều, tôi lái xe đổ xăng nhân tiện mua tấm bản đồ thành phố Hồ Ly Vọng.
       
      Xa lộ ở Mỹ thì nơi đâu cũng thế ngoại trừ những đường giong miền quê nhất là về ban đêm vắng tanh như  hình ảnh được tả trong những truyện liêu trai chí dị. Xa lộ 405 ban đêm cũng gần như ban ngày, tám len hai chiều, ánh đèn xe tạo nên hai dãy sáng đối nghịch. Một bên thì huy hoàng sáng chói và bên kia lại từng dây đỏ lòm ngoằn ngoèo trườn mình như  những ánh vảy loé lên của con khủng long đang thời kỳ thu hút nhiệt lực tỏa ra từ lòng đất địa cầu. Rẽ vô exit, tôi dạo một vòng quanh khu phố chính đã được ghi dấu sẵn nơi bản đồ, để ý một đôi tiệm lối trang trí có vẻ hợp mắt đoạn đậu xe lững thửng bước vô một cửa tiệm khá lớn. Dĩ nhiên, những cửa tiệm khá lớn thường bày bán nhiều mặt hàng nên giá cả tương đối hạ hơn tiệm nhỏ bán những món hàng chuyên biệt. Bởi đã được căn dặn với hình dáng tôi thì kiểu nào, mốt nào cũng không thành vấn đề do đó tôi chỉ kiếm sao cho được hai bộ, một màu xanh lá mạ và hồng ánh lửa. Đỡ mất giờ tốn công chọn lựa, thôi thì lấy đại loại robe thời 50 cho có vẻ Mi Mi, tôi cười thầm vì danh hiệu vừa nghĩ tới cho thời trang của mình.
       
      Suốt cả mấy dãy hàng áo thời trang đủ màu đủ sắc đã chẳng có cái nào hợp với mình, có lẽ mình đặc biệt nên cái tiệm to lớn này chỉ bán thứ mình không cần; thứ mình cần tiệm không bán, lòng tự nhủ, tôi đành ghé qua tiệm nhỏ hơn. Cửa hàng chuyên biệt có khác, chỉ mấy phút sau tôi đã kiếm được hai bộ theo ý muốn. Nhưng còn một chiếc áo không biết tên gọi là gì, chợt nhìn thấy khi mới bước vô nó đã như đập vào mắt tôi khiến lòng rộn ý thích. Màu xanh lá cây hơi đậm làm nổi bật nét sơn hồng nhạt hình nộm; hai vạt bắt từ vai chạy xiên xuống thân hông bên kia đẩy bộ ngực căng lên mà không làm lộ nét thừa thãi của phần eo cần che dấu bởi được thắt bằng một băng vải cùng màu kết thành chiếc nơ ngang hông trái và buông thõng xuống hai tua to bản. Loại thời trang nửa kín nửa hở này tôi thường thấy các minh tinh màn bạc Âu Mỹ  thuộc loại nhỏ người cỡ tôi hay mặc. Hơi ngần ngừ vì cảm thấy không cần thiết nhưng động lực nào đó thúc đẩy tôi chọn size tính tiền... Mới 8 giờ hơn, tôi ra xe thanh thản lái về, lòng nhẹ nhàng, thơ thới vì mọi chuyện kể như  thuận buồm xuôi gió. Tôi chỉ có thêm một cái hẹn kể như không quan trọng nơi một văn phòng làm CD vào sáng mai, như thế, nguyên buổi chiều và sáng hôm sau tôi tha hồ thảnh thơi thăm bác và nghỉ ngơi...
       
      Vì lòng khấp khởi, tôi đã có mặt sớm hơn mười lăm phút e lỡ có điều gì cần được chuẩn bị thêm chăng. Ông bầu karaoke vẫn chưa có mặt tại văn phòng, tôi đành ngồi đợi, tưởng tượng mông lung những cử điệu hoặc phong thái cần được diễn xuất phụ họa cho hai bài hát... Dáng dấp khi bước ra sân khấu phải thế nào, cúi đầu chào khán thính giả ra sao, cách cầm micro, đến câu nào tay trái đưa ra ngang tầm nào, đưa lên tầm nào vào câu nào, co lại để ngang đâu, lúc nào đầu nên hơi cúi hoặc ngước lên, mắt nên nhìn theo kiểu nào... 4giờ 05phút, ông bầu với cách ăn mặc không được gọn ghẽ cho lắm bước ra từ phía cửa sau, dáng điệu vội vã,
      -Xin lỗi chị tôi bị hơi trễ vì bận quá. Mời chị đi theo tôi...
       
      Qua mấy hành lang ngắn, nhỏ hẹp, những dòng âm nhạc nhẹ nhàng hoặc dồn dập vang vọng từ các khung cửa đóng kín, tôi theo sau ông bầu bước vô một phòng tương đối khá rộng, mấy bức tường được chia thành những phần chữ nhật sơn màu khác nhau cỡ những miếng gián ép dựng đứng. Nơi một góc, tấm gương lớn ráp vô tường và một chiếc gương khác cỡ bằng nửa được gắn vào khung treo hơi cao dáng chừng cho người đứng trước tấm gương lớn có thể nhìn thấy ảnh phản chiếu phía sau. Lơ lửng gần sát mặt trần, một tấm màn bằng vải dày màu xám buông thỏng có thể xê dịch tạo thành phòng kín dường như dùng để ngăn chặn sự phản chiếu ánh sáng của gương. Hai dàn máy chụp hình sừng sững, nghênh ngang ở giữa phòng mỗi cái được nối với một “monitor” loại nhỏ đặt ngay phía dưới giữa khung tam giác chân máy cho tiện việc di chuyển; ba chiếc dù to được mở sẵn nằm nghiêng ba góc mà sao chúng lại được sơn màu bạc...
      -Chị bỏ ví xuống chiếc bàn đó và đến trước gương nơi góc kia, lược đó, keo đó, sửa lại mái tóc... Phấn, kem, chì... đủ thứ lẩm cẩm lỉnh kỉnh tùy chị xử dụng. Tôi sẽ trở lại cỡ 10 phút sau để chụp hình; xin chị cứ tự nhiên. Nói xong, ông bước ra khỏi phòng, thuận tay khép cửa lại.
      Tôi đến trước gương, đưa tay bật công tắc, những bóng đèn trắng trong, dọc hai bên gương lớn sáng lên, bóng tôi hiện rõ nơi mặt gương... Trông mình khá hấp dẫn, tôi thầm nghĩ... và sửa soạn qua loa bởi trước khi đi tôi đã tỉ mỉ trang điểm cố ý tạo cho mình thêm vẻ mặn mà. Chẳng biết làm gì, tôi lớ ngớ đứng nhìn những vật dụng trong phòng, mông lung mơ mộng...
       
      Tiếng cửa phòng chợt mở, ông bầu đưa tay bật thêm công tắc đèn, để ý nhìn tôi đoạn lên tiếng,
      -Ồ, tôi quên mất, không nói chị phải dùng thêm kem và phấn thoa lên mặt bởi khi ống kiếng rọi gần hình chụp sẽ hiện lên rõ những lỗ chân lông... trông kỳ lắm...
      -Dạ, xin lỗi ông, em nào có bao giờ để ý chuyện này nên cũng không biết phải làm chi bây giờ...
      -Như vậy tối nay hơi mệt rồi. Bây giờ tôi sẽ trang điểm cho chị, và sau khi chụp hình, chúng ta đi kiếm chút gì ăn trước khi tập luyện cử điệu diễn xuất. Mời chị đến trước gương... Chị muốn hình của chị sẽ giống như chị đã trang điểm phải không...
      -Dạ vâng... vì em cũng chẳng biết cách nào hơn...
      -Chị làm ơn chịu khó nhẫn nại đôi chút, tôi tạm đóng vai Trương Vô Kỵ thử một lần... xem có tình tứ như  giọng văn Kim Dung diễn tả hay không...
      Nào kem, nào phấn, nào màu mè, tôi ngồi như con phỗng bột để ông bầu nhào nặn thành búp bê... Liếc nơi gương... da mặt tôi đổi màu, màu thật của làn da bị che dấu và những nét nổi thì lại quá nổi... Tôi chợt nhớ lại lời chồng mình nói, em sẽ bị hư  da mặt...
      -Chị mang theo mấy bộ đồ? Ông bầu hỏi khi đã ngưng tay sơn phết.
      -Dạ, em chỉ mặc chiếc robe này...
      -Cũng tại tôi quên không dặn chị là tối nay chụp hình lên bích chương quảng cáo... Thôi cũng được, hấp dẫn chán... Ông nói rất tự nhiên như vẻ nắm chắc trong tay sự thành tựu sẽ phải đến.
      -Mời chị đến trước khung màu xanh... Miệng nói, chân ông bước về phía cửa, kéo bộ bàn ghế dính liền đẩy tới nơi tôi đứng...
       
      Tôi thích lắm, phụ nữ ai không thế, dẫu bị uốn nắn như con búp bê, lúc nghiêng đầu, khi liếc mắt cho kiểu này, dáng nọ. Ông bầu dùng những danh từ đâu đâu chưa bao giờ tôi nghe tới nên nhiều lúc phải giải thích hoặc bắt chân, bắt tay, bẻ đầu, nắn cổ con búp bê..., chỉnh dù phản chiếu, rồi chụp, rồi sửa... Mới đầu tôi không để ý... mãi cho tới tấm hình thứ ba tôi mới chợt nhận ra ngay trên phía cửa ra vào, có một màn ảnh dẹp hiện lên hình của tôi được nhận qua ống kiếng... Tôi không ngờ ảnh mình đẹp như thế... nhất là những lúc chụp nghiêng, kiểu cách tôi phải gác tay, nghếch đầu tạo nét hấp dẫn khiến chính tôi cũng phải mê nét ảnh của mình. Kỹ thuật tân tiến biến con bé lọ lem thành hình ảnh mĩ miều hấp dẫn. Vừa xong mấy kiểu nơi khung màu xanh, những khung vàng, trắng, hồng... được lần lược chiếu cố...
      -Thế là tạm xong, chị vô phòng đối diện rửa mặt cho thoải mái, và sau đó chúng ta đi ăn. Mà chị thích ăn món gì, để tôi gọi “order” trước đỡ mất giờ chờ đợi nhà hàng nấu nướng.
      -Gần đây có quán cháo nào không thưa ông, em muốn ăn đồ nhẹ một chút...
      -Nếu ăn cháo thì không cần phải order trước. Chị vô phòng rửa mặt rồi chúng ta đi...
      Giống như một em bé tập vũ lần đầu, chân tay luống cuống, thừa thãi, tôi đứng trước ống kính trông thấy hình ảnh mình nổi lên nơi bức màn lớn trước mặt chợt cảm nhận không biết mình phải làm gì. Ông bầu sau khi bật đèn, lấy đĩa karaoke có bài hát tôi chọn bỏ vào máy trong khi lên tiếng,
      -Lúc nhạc nổi lên, chị cứ tự nhiên hát trong khi nhìn hình dáng, cử điệu của mình nơi màn ảnh. Chị để ý và nhận định vào những câu hát nào cử điệu của chị cần phải ra sao...
       
      Âm nhạc quen thuộc nổi lên... dẫu đã quá rành nhưng lại bị hình dáng mình trên màn ảnh làm tôi luống cuống; tôi nhắm mắt, để ý theo dõi giòng âm nhạc và cất tiếng hát... Bao nhiêu cử điệu dự đoán sẵn có nơi tâm trí biến tan đâu mất, tôi không dám nhìn bóng mình, đành cứ theo phản ứng tự nhiên như đã quen hát karaoke ở nhà... Hát karaoke dẫu chỉ một mình tôi vẫn cảm thấy hơi ngượng bởi những kiểu cách tự tập dợt, được cho là nên có, khi hát một bản nhạc. Đến nhà bạn bè hát karaoke, tôi phải tự giới hạn e bị nói quá lệ thuộc hình thức hay kiểu cách. Thế mà đến lúc cần kiểu cách diễn xuất, tôi lại bí tịt... Nét ngại ngùng nào đó chớm nảy nở nơi tâm trí... Đợi giòng nhạc chấm dứt tôi hỏi đại,
      -Thưa... ông thấy thế nào...
      Ông bầu có vẻ suy nghĩ chừng 30 giây khiến tôi bối rối,
      -Bây giờ, chị nghe tôi nói và làm theo...
      Ông nhận nút, âm thanh nổi lên,
      -Đặt micro ngang cằm theo lối giới thiệu, tay trái ngang bụng, cúi đầu hơi sâu, Mi Mi xin kính chào quý vị..., từ từ đứng thẳng lên, buông xuôi tay trái, Mi Mi xin đến với quý vị qua nhạc bản... Nào, thực tập lại từ đầu...
       
      Giòng nhạc lại trổi lên, tôi như một rô bô điện tử theo mệnh lệnh phát ra từ headphone được gắn nơi tai trái, giơ tay, bước tới, bước lui, cúi đầu, ngước mặt... thực tập từng câu và cứ hai hay ba câu hát tập thêm cử điệu lại phải hát lại từ đầu không khác gì ngày xưa tôi đã tập vũ sinh hoạt cho mấy em nhỏ. Đã có kinh nghiệm như thế sao tôi không để ý áp dụng từ bao lâu nay... Chồng tôi nói đúng, mình chỉ có thể phát triển những gì mình được sinh ra với nó. Quả là lắm kiểu, nhiều cách... dù đã phải dợt đi dợt lại chẳng biết bao nhiêu lần tôi vẫn còn bị ngỡ ngàng, quên sót... thì chiếc đồng hồ điện tử treo phía trên cửa ra vào đã hiện rõ con số 1 giờ sáng. Ông bầu lên tiếng,
      -Quá muộn rồi, chúng ta tạm ngưng tối nay. Chị về nghỉ, trong ngày mai, chị nhớ ôn lại những cử điệu cho thuần thục và trở lại đây tập dợt lại vào lúc 8 giờ tối vì ngày mai tôi khá bận rộn cho công việc chuẩn bị sắp xếp sân khấu nơi vũ trường. Bây giờ tôi phải về phòng làm việc, email hình của chị tới nhà in cho kịp lên khuôn sáng mai...
       
      Thân xác tôi nhừ tử dẫu những cử điệu nhẹ nhàng nhưng phải vừa lấy gân sức hát, vừa cố gắng nhớ liên tục mấy tiếng đồng hồ liền. Dẫu thế, lòng tôi tràn niềm vui và vững tin về sự thành công của mình, hãy còn may mắn chán, tôi lẩm bẩm tự an ủi. Mai tôi sẽ có cả ngày để ôn lại... chợt nhớ tôi đã quên gọi về nhà thăm con trước khi đi dượt hát, đã quá trễ, thôi thì đàng nào chuyện cũng đã xảy ra, đành chịu vậy.
       
      Mặc bộ đồ đã mua ngoài ý định, tôi cảm thấy hơi ngượng vì lần đầu tiên chưng diện loại thời trang chưa bao giờ dám mơ ước. Tôi cảm thấy mình duyên dáng, trẻ trung, và mang sức hấp dẫn hẳn lên nhưng nó cũng tạo cho tôi thêm nhiều cảm giác mới... Vì mãi loay hoay để ý chuyện nọ, lo lắng chuyện kia lúc trang điểm, tôi tới văn phòng ông bầu trễ gần mười phút. Ông đón tôi với nét mặt tươi tắn khi mở cửa nhường lối. Tôi bàng hoàng sửng sốt khi vừa bước qua ngưỡng cửa. Tấm bích chương 16x24 inches in hình tôi đang ưỡn ngực, hai tay giao nhau đỡ lấy phía sau gáy, mắt liếc tình thiết tha, lồ lộ nét mời mọc, khiêu khích... Phía dưới vỏn vẹn hàng chữ in kiểu viết tháu “Ca sĩ Mi Mi” màu xanh dương chạy dài từ bên này qua bên kia nổi bật giữa màu áo lửa hồng tựa lên nền vàng nhạt màu lá khô. Tôi cố nén sự vui mừng bằng cách đứng lặng nhìn tấm bích chương tưởng tượng đến thời điểm sau khi trình diễn vào tối chủ nhật.
      -Chị thấy có gì cần sửa đổi lại không, ông bầu lên tiếng phía sau lưng...
      -Ông chụp hình hay quá, biến con bé lọ lem thành nàng công chúa thơ mộng...
      -Tại tối qua quá vội không đủ thời gian cho tôi điều chỉnh kỹ lưỡng hơn. Thực ra, sau buổi trình diễn tối chủ nhật, cỡ chừng thứ ba, thứ tư, chị trở lại, tôi sẽ lên khuôn cho chị một số bích chương khá hơn tấm này nhiều. Tôi nghĩ, chiếc áo chị đang bận sẽ lên hình nổi hơn vì làn da chị trắng sẽ đối nghịch với màu áo tạo đường nét rõ ràng hơn... mà ai chọn màu này cho chị vậy?
      Tôi chợt cảm thấy niềm vui hơi thẹn...
      -Em vừa bước vô tiệm chợt thấy nó được khoác trên hình nộm như đập vào mắt mình; thế nên sau khi chọn hai chiếc áo màu hồng ánh lửa và mạ non, em lấy đại chiếc này bởi trông thấy nó ngồ ngộ...
      -Thôi mình vô phòng âm thanh, dợt sơ qua cỡ hai tiếng, đi kiếm gì ăn nhẹ và trở về dợt thêm vài lần cho chắc ăn. Mời chị. Ông bầu đưa tay ra hiệu và bước đi, tôi lẽo đẽo theo sau.
       
      Trở về phòng âm thanh sau khi ăn thì đã quá nửa đêm, tôi thầm nghĩ chẳng cần tập tành thêm vì tương đối những cử điệu khi hát của tôi đã quá quen thuộc không ngại ngùng, vấp váp bởi ban ngày tôi đã tập dợt  hơn ba mươi lần; tối nay gần mười lần nữa... Bởi vậy, khi ông bầu tắt máy xe, tôi lên tiếng,
      -Thưa ông, em nghĩ có lẽ chẳng cần tập dợt thêm vì em thấy mình đã quá thuần thục... Ông thấy thế nào?
      -Chị chưa biết áp lực tâm lý người hát phải chịu trước một số đông khán thính giả nên nghĩ như thế. Chị nên rán thêm chừng tiếng đồng hồ nữa sao cho những cử điệu trở thành tự nhiên không cần tính toán, suy nghĩ, hoặc để ý, đến nỗi chị có thể thêm những cử điệu khác tùy cảm ứng của mình phát sinh từ tâm tình hòa nhập với lời hát được thúc đẩy bởi âm thanh giàn nhạc đang trổi lên... và từ đó về sau, những cử điệu diễn tả tâm tình cảm ứng bởi lời ca sẽ tự nhiên phát xuất từ tâm hồn chị. Chị thấy rõ, những bản nhạc có các diễn viên phụ xoay chuyển như điên cuồng mà vẫn nhịp nhàng đồng cử điệu... đều do sự khổ công tập dợt... Đừng vội nản, nào chúng ta tiếp tục...
       
      Và nhạc lại trổi lên từ dàn máy, tôi vì đã quá quen thuộc với sự tập dợt, phóng tâm diễn xuất. Ông bầu nói đúng, chỉ sau bốn, năm lần dợt thêm, lòng tôi hòa tâm tình lời hát quyện với âm thanh giòng nhạc phóng ra như xé màng nhĩ vì được mở lớn. Tôi thấy mình bồng bềnh như trong giấc mơ, càng hát, tâm tư càng phiêu lãng... Trở đi, trở lại cũng chỉ hai bài hát... chẳng biết đã bao lâu, đến khi âm nhạc chấm dứt và tiếng ông bầu vang lên ra lệnh nghỉ, người tôi đầm đìa mồ hôi nhễ nhại... nhưng hình như có năng lực nào đó cuồn cuộn nổi lên trong tôi mang đầy tính chất phóng đãng như muốn được chìm ngập vào những luồng âm nhạc.
      Tôi khát nước nên ghé vô phòng rửa mặt chắn tay vào vòi rửa mặt làm một hơi nước lạnh. Sau đó theo ông bầu bước qua một cánh cửa nhỏ. Bên trong, kê một bộ salon và cuối phòng cả một quầy rượu... đủ thứ. Ông bầu tiến đến quầy rượu với tay lấy một chai rượu nhẹ rót ra hai ly, đưa cho tôi một ly kèm theo lời nói,
      -Chúc mừng chị thành công chẳng ngờ. Tôi chưa bao giờ thấy ai với thời gian kỷ lục như thế mà đã có thể hòa vào giòng âm nhạc được mức độ như chị. Nào mời chị, xin chúc mừng...
      Tôi vẫn còn khát nước nên nâng ly đưa một hơi cạn sạch... Mà tôi có uống bia rượu bao giờ! Thế là chỉ mấy phút sau, trời quay, đất cũng quay... Tôi chỉ nhớ loáng thoáng mình cố loay hoay ngồi xuống salon tựa lưng, ngửa cổ lên thành...
       
      Chợt thức giấc, nghe thấy tiếng ngáy bên cạnh, tôi bàng hoàng, lòng tỉnh táo... nỗi uất hận bỗng dồn lên chặn ngang cổ họng. Đưa tay gạt tấm mền phủ trên thân thể... tôi muốn gục xuống khóc vì giận chính mình. Vâng, tôi giận chính tôi, giận mơ tưởng nghệ sĩ của mình. Quá quen với những chướng ngại bất thường thời còn nhỏ, tôi định thần tính toán những việc cần phải giải quyết cấp thời. Mặc áo vô, mùi áo còn nồng nặc mồ hôi đổ ra tối qua mà tôi cảm thấy nhờm gớm xác thân tôi. Cũng chỉ vì tham vọng ngu xuẩn, tôi đã biến thân xác tôi trở nên nhớp nhơ. Lòng hậm hực với chính mình, cúi xuống nhặt chiếc sắc tay được quăng nơi chân tường cuối giường. Hãy còn may, chìa khóa xe, ít tiền, credit card..., xỏ giầy cao gót, tôi rón rén mở cửa bước ra hành lang... tiến dần về phía văn phòng. Lúc ấy khoảng năm giờ sáng theo thói quen tôi thường thức giấc, cũng may, khóa cửa văn phòng có thể mở được khóa “dead lock” từ bên trong... và chiếc xe thuê vẫn nghênh ngang nơi bãi đậu... Tôi ra xe, đề máy... và cơn giận lại bùng lên... quàng dây sắc tay lên vai, trở lại phòng giơ tay đập một cái như trời giáng ngang mặt ông bầu vẫn còn đang mê mệt ngủ và ba chân bốn cẳng chạy ra xe dọt...
       
      Biết rõ không thể nào trốn chạy vì sự thể đã xảy ra, lòng tôi chùng xuống, phản ứng theo thói quen trở về... tôi thấy lòng mình chai lỳ cảm nhận nỗi đau thấm thía, cố buông lơi tâm tư mặc cho niềm thống hận cắn xé. Cho đáng đời, tôi thầm nghĩ, mộng tưởng chưa thành thì giá đã phải trả do tham vọng ngu xuẩn. Tôi không thể tha thứ cho lòng tham vọng của tôi được và từ nay cũng không bao giờ cho phép tôi chiều theo mộng tưởng lần thứ nhì. Tôi phải trừng phạt chính tôi trong những ngày tháng còn lại của cuộc đời. Tôi đã ngu xuẩn bội phản chồng tôi, trám vết chàm nhơ nhớp lên cuộc đời hai đứa con còn ngây thơ. Tôi không đáng về gặp lại chồng tôi, không xứng đáng làm mẹ các con tôi. Tấm thân nõn nà nhầy nhụa này phải được trừng phạt một cách đích đáng. Những ngày còn lại nơi cuộc đời tôi là sẽ là chuỗi năm tháng của lòng thống hận vì tôi sẽ không thể nào tha thứ cho chính mình... Tôi là con đàn bà khốn nạn, chỉ vì tham vọng ngu xuẩn đã chà đạp lên tình nghĩa vợ chồng và bôi nhọ các con tôi... Tôi thèm được khóc,  nhưng tự nhủ, khóc cũng vô ích, những giọt nước mắt không thể nào tẩy rửa được vết nhơ nơi thân người. Mơ được thì phải trả giá được, vấn đề chỉ là trả giá như thế nào... Tôi lạnh lùng lên án chính mình mà lòng ruột xốn xang cứ chực trào lên thành tiếng khóc. Nghiến chặt hai hàm răng, tôi tự nguyền rủa, con khốn nạn. Phải, tôi khốn nạn, chỉ hai tiếng khốn nạn mới nói lên được thực trạng lòng ruột của tôi...
       
      Không còn gì đớn đau hơn những lần gọi điện thoại về nhà mỗi buổi chiều trong những ngày kế tiếp. Tôi khinh bỉ thái độ lừa chồng, bịp con của mình khi phải cố lấy giọng bình thường và mượn cớ bằng những chuyện trời mưa trời nắng cũng như tình trạng bệnh hoạn của bác gái để kéo dài thời gian suy nghĩ tính toán cho cuộc đời tôi trong những ngày kế tiếp. Cũng may, lại những ngôn từ khốn nạn, bác sĩ giữ bà bác tôi ở lại những ba tuần tính từ ngày tôi tới. Buổi tối một mình, tôi thường tắt hết đèn ngồi nơi phòng khách mặc cho tâm tư gậm nhấm, ray rứt nhưng dứt khoát không cho phép mình khóc. Tôi cố tập cho tâm hồn mình trơ trơ vì lòng rất yêu chồng, thương con ngược lại không thể đem tấm thân hoen ố về lăng mạ, lừa lọc chồng con. Thà rằng chấp nhận trừng phạt chính mình còn hơn nỗi lòng thống khổ vì phải đối diện với tình yêu của chồng, phải dối lòng dạy con cái những điều nên lẽ phải tự thẹn lương tâm. Chẳng những yêu chồng mà còn nhất mực tôn trọng, tôi không thể nào muối lòng lừa dối người yêu thương nhất đời mình; cũng thế tôi chẳng thể che dấu để luôn mang mặc cảm bịp bợm con cái.
       
      Mười ngày trôi qua càng khiến tâm tư tôi nặng nề căng thẳng. Tôi phải có quyết định dứt khoát nội trong mấy ngày sắp tới, sẽ sống ở đâu, kiếm việc làm nơi nào để lất lây cho qua kiếp người. Chính thời điểm này tôi nhận thực được kiếp người rồi cũng chẳng là gì và cũng chẳng gì quý giá hơn. Chẳng gì quý giá hơn đối với mọi người, riêng tôi, lòng dạ kể như đã chết, tệ hơn đã chết mà vẫn phải sống, phải sống vì phải trả giá cho bài học tham vọng mường tưởng. Hay đành chấp nhận mang tiếng phụ bạc, vớ đại một người đàn ông nào để trả thù chính mình, đôi khi tôi nghĩ, để cho anh ấy hận mình mà kiếm người nào khác an ủi cuộc đời. Không được, nhận thức nào đó nổi lên chống nghịch lại tư tưởng tự trả thù quái ác này. Tôi không phụ chồng mà kính yêu; tôi không rẫy con mà nhớ day dứt; tôi chỉ hận mình vì tham vọng ngu muội để bị du vào cảnh dở khóc dở cười đành nghiến răng câm nín, chịu trận với lòng. Tâm tư đau khổ của những chị em quen biết ly dị chồng để rồi vấp phải những người đàn ông khác qua những lần tâm sự hằng gợi lại nơi tâm trí tôi mỗi khi chợt nhìn thấy hay gặp gỡ họ...
      -Chị không thể nào hiểu hoặc cảm thông với nỗi đau đớn, cô đơn, bị khinh thị của em đâu vì chị là vợ. Người vợ mang vị thế tối thượng nơi gia đình và đặc quyền của họ không ai tranh giành nổi. Bây giờ em mới thực sự hiểu được tại sao ông bà mình gọi người vợ là nội tướng. Tướng nơi thành nội có quyền hơn vua bởi vua không có quân sĩ mà chỉ có cái ngai. Nơi vị thế người vợ, chính chị có toàn quyền giải quyết công việc nào đó bằng bất cứ phương cách nào, dù lợi ích hay thiệt thòi cho gia đình cũng đều được tôn trọng. Điểm đặc biệt của người vợ chính là họ là người chủ gia đình dẫu ai ai cũng quan niệm người đàn ông là chủ. Thực ra, người đàn ông chỉ là chiếc bóng cho vợ điều hành gia đình nếu không muốn nói họ là những tấm bia đỡ đạn cho vợ thực thi quyền hành của mình. Đàng khác, người vợ giữ luôn quyền hành trên mọi sự liên hệ cũng như tài sản hoặc chuyện riêng tư của chồng... không thế mà có câu “Lệnh ông thua cồng bà” từ ngàn năm về trước...
      -Thì chị cũng là vợ mà...
      -Không có đâu chị, bởi vậy em mới nói chị không thể nào hiểu cũng như cảm thông được với tâm trạng những người như em. Người ly dị chồng, dẫu có thực lòng yêu ai và được người đó cưới hỏi hoặc gá nghĩa thì cũng tự đã bị khinh thị ít nhất qua quan điểm đã có thể ly dị được với chồng cũ thì mình cũng có thể ly dị họ bất cứ lúc nào. Và như vậy, mình tự động đứng vào vị thế của món đồ chơi rẻ tiền tha hồ cho họ mua vui được ngày nào biết ngày nấy. Nói ra quả thật đau lòng, đối với nữ phái, một người đã vướng vào thân phận dang dở, họ có lấy ai nữa thì họ cũng phải đặt nặng vấn đề cuộc sống. Trước hết, họ đã quá sợ nếu không muốn nói đã sẵn mang mối thương tâm, hận thù. Chị đừng nghĩ họ hận thù người chồng cũ đâu, họ ân hận vì ai chả thế, nơi trường hợp đổ vỡ, họ kết án chính họ bởi đã không cố gắng, chịu đựng đủ khiến sự thể đổ vỡ xảy ra. Nếu có người thân và dám thực tâm chia sẻ chị sẽ thấy em nói rất thật. Bất cứ người ly dị nào cũng đều nặng nề lên án chính họ và tự kết án nghiêm khắc hơn bất cứ ai kết án họ. Thử hỏi chị, với tâm tư này, dẫu người phối ngẫu sau này có tôn trọng họ cách mấy thì mảnh án lương tâm ẩn tàng từ lần ly dị trước vẫn muôn đời dằn vặt tận nơi đáy lòng thẳm sâu của họ. Chị thử nghĩ coi, một tâm hồn nhìn sự thể yêu thương qua lăng kính tự kết án thì sẽ nhận được những gì? Thế nên, những cử chỉ yêu thương của cuộc tình kế tiếp tự động bị biến hóa thành giả dối, lạm dụng bởi đã bị cảm nhận một cách sai lầm. Em ở trong cuộc nên mới có thể biết  được như thế. Ai muốn nói sao thì nói, muốn khoe dấm khoe mẻ thì cứ việc khoe, nhưng khoe với em đến mấy cũng chỉ là lừa dối. Dĩ nhiên, ớt nào là ớt chẳng cay; thế nên dù họ có ướp đường vào ớt thì nó cũng chẳng thể nào mất vị cay của nó được...
       
      Vành trăng thượng tuần cong cong đập vào mắt tôi lúc vô tình ngước nhìn qua cửa sổ... Tôi chợt giật mình vội quay qua ngó lên tấm lịch tam tông miếu treo trên tường... Hai ông bà treo lịch làm cảnh, tôi nghĩ, đứng lên bước tới xé lịch. Mùng sáu âm lịch! Một cảm giác rờn rợn thấm nhập cơ thể tôi... đáng lẽ ra tôi phải có kinh nguyệt từ ngày hôm qua... Nếu thực sự như thế, lòng ruột tôi lùng bùng... Cơ thể tôi từ xưa tới nay khoẻ mạnh, điều hòa như một chiếc máy rất chính xác 28 ngày của vòng kinh. Tôi lặng người ngồi xuống ghế... Sự ăn năn nặng nề lại nổi lên dằn vặt. Cho đáng đời, tôi thầm nguyền rủa! Tham thì thâm. Tôi hận thù chính tôi vì tội ngu xuẩn. Nhưng suốt đêm đó tôi hầu như thức trắng suy nghĩ tìm phương cách giải quyết...
       
      Và tôi đã xin được một chân phụ bếp nơi nhà ăn của nhà thương. Nộp đơn ba việc và tôi được nhận chọn một trong hai phận vụ, phụ bếp hoặc đổ rác các phòng bệnh nhân do đó chọn làm phụ bếp. Sở dĩ tôi chấp nhận phụ bếp dẫu đổ rác phòng bệnh nhân công việc nhàn hơn vì một đôi điều kiện sinh sống ràng buộc. Trước hết, làm việc nơi nhà thương, ba tháng sau tôi sẽ có bảo hiểm, và với chân phụ bếp, tôi không phải lo lắng chi tiêu về ăn uống. Hơn nữa, nào ai muốn làm việc ngày thứ bẩy và chủ nhật thế nên thiếu người, tôi được chấp thuận làm thêm ngày thứ bẩy và chủ nhật. Vấn đề còn lại chỉ là nơi ở. Tôi có thể ở với hai bác nhưng lỡ trường hợp chồng tôi bay qua. Lòng tôi như thắt lại khi nghĩ về chồng con... Đã suy tính trước, bởi vậy chỉ mới hai ngày làm việc, tôi kiếm chuyện làm quen tạo niềm thân thiện với các nhân viên nhà bếp và biết được có ba chị bạn độc thân cùng làm chung. Biết để lỡ phải giải quyết theo hạ sách, thượng sách lại là lá thư tôi phải viết cho chồng. Tôi biết anh tôn trọng tôi và hiểu tính cách dứt khoát của tôi từ xưa tới nay. Đã muốn thực hiện việc gì thì giá nào tôi cũng phải làm cho được, bằng chứng là mối hận lòng...
       
      Ngày... tháng... năm...
      Thăm anh yêu quý của em
      và hai con mến thương của mẹ.
       
      Đây là lần cuối em xin được gọi anh là anh và xưng em. Anh thương, anh biết em yêu kính anh, chẳng những thế anh là người chồng tuyệt vời và người cha toàn hảo. Nếu có thể nhẫn tâm lúc này để chết hòng bày tỏ tình em đối với anh, em vui lòng được chết và em đã định chết. Nhưng em biết, cái chết của em chỉ làm anh đau lòng thêm nên em đã quyết định không chết mà phải sống để trừng phạt chính em vì ngu muội do tham vọng trở thành ca sĩ. Chính vì thế em đã bị rơi vào trường hợp phụ bạc anh nên em phải trừng phạt mình do không thể nào tha thứ cho em được. Em chỉ xin anh quên em đi, coi như em đã bỏ đi và kiếm người con gái nào khác thế em săn sóc cho anh và hai con.
      Xin anh đừng bao giờ gặp em từ rày về sau vì em đã chín chắn suy nghĩ để đi đến quyết định này. Anh thừa biết em quyết định rất cứng rắn. Nếu anh không tôn trọng quyết định của em mà tìm gặp, xin anh đừng ân hận một khi sự việc phải đến sẽ đến.
      Mặc dầu phụ bạc anh, mặc dầu tự hận lòng, mặc dầu phải trừng phạt chính mình vì ngu xuẩn, lòng em vẫn luôn tôn thờ anh.
      Xin anh đừng cho con biết. Em thương con đứt ruột nhưng không muốn tạo nơi tâm hồn thanh bạch của hai con bất cứ vết nhơ nào dẫu em không còn xứng đáng làm mẹ chúng.
      Em gửi lại anh tấm credit card. Em đã kiếm được việc làm sống cho qua những ngày tàn trong ân hận để tự trừng phạt.
      Anh cũng đừng đáp trả lời cầu xin này hoặc gọi điện thoại. Hãy để em học trọn bài học phải trả cho tham vọng ngu muội của mình.
      Kính yêu anh và từ biệt,
      Mi Mi
       
      Ở trọ nhà hai bác được bốn tháng, tôi dời chỗ đến ở chung với chị bạn độc thân nhân viên nhà bếp nơi một “trailler” cách xa nhà thương chừng 5 dặm... vì mỗi ngày bụng một lớn lên, kết quả đáng đời của mộng ca sĩ. Hơn ba tháng kế tiếp sau lần khám, bác sĩ nói bào thai bị lỗ thủng ở tim khó bề cứu chữa và tôi phải được chiếu “Ultrasound” cách hai ngày một lần. Tôi lạnh lùng nhận kết quả vì đàng nào cũng đã ký giấy cho hài nhi và không muốn nhìn thấy kết quả chẳng đặng đừng của tham vọng mộng làm ca sĩ...
       
      Hơn năm sau, người chú ruột của chị bạn cho tôi chia phòng cần một người thư ký đáng tin cậy để phụ tá vị quản lý của ông điều hành một trung tâm thương mại mới mở ở Hartiesburg, Mississippi. Chị ta giới thiệu tôi... và từ ngày đó tôi phải dời về nơi ở mới do chủ mướn gần khu thương mại, cách nơi các con tôi ở chừng hơn tiếng lái xe. Lương cao, việc làm không có chi đáng kể do khả năng và bằng cấp tôi có thừa... nhưng sự trừng phạt chính mình càng ngày càng áp đặt nơi tâm hồn tôi nỗi thống khổ chừng như khó bề chịu đựng. Ngoại trừ giờ giấc nơi văn phòng làm việc, tôi không bước chân đi bất cứ nơi đâu, không cần và không muốn quen biết dù chỉ xã giao với bất cứ ai. Thực phẩm, thức uống, chỉ cần ghi vô mảnh giấy đã có người mang đến tận nhà. Thời gian còn lại, tôi sống như mình đã chết, sống để gậm nhấm nỗi đau ngu muội, sống để trừng phạt, trả giá cho lòng tham vọng nhất thời. Nhiều khi thấy chồng tôi cùng hai con nơi khu thương mại nhưng tôi dứt khoát lánh mặt. Càng thương con, càng yêu kính chồng, tôi càng hận chính tôi... và đã năm năm dần trôi...
       
      Tiếng động do cánh cửa được mở không làm tôi ngạc nhiên bởi chỉ có một người duy nhất ghé qua căn nhà tôi ở là người đàn bà chăm sóc cây cỏ quanh vườn. Căn nhà tôi ở thuộc khu vực được bao bọc bằng một hàng rào an toàn kín mít cao tám feet. Sự ra vào nơi cổng duy nhất phải có ám ký ghi danh bằng bốn số cuối của thẻ an sinh xã hội. Bởi đó tôi không bao giờ khóa cửa... vì thực ra, tôi chẳng có gì đáng giá để e sợ bị mất cắp. Không cần quay lại, tôi tiếp tục chống tay nơi cằm nhìn con chó ngu ngơ ham vui cố đùa với con mèo khó tính. Tiếng nói vang lên sau lưng,
      -Mi Mi...
      Giật mình quay lại, chồng tôi và hai con... Tôi lặng người, lòng bùng thổn thức đẩy hai dòng nước mắt tiếp tục tràn ra. Tôi để mặc chúng rơi, chăm chăm nhìn chồng tôi và hai con qua làn nước mắt. Chỉ mới năm năm, với tuổi đời 42 mà mái tóc anh đã hoa râm... Tôi chợt cảm thấy mình quá độc ác... chẳng những cố tình trừng phạt mình mà còn giết chết tuổi thanh xuân của chồng tôi. Bé Thúy lao tới giang tay ôm mẹ miệng cuống quýt... mẹ... mẹ... Tôi ôm con, mặc dòng nước mắt tiếp tục đổ... chợt con bé ngẩng lên, nước mắt tôi rơi ướt cả mặt con...
      -Mi Mi, chồng tôi lên tiếng, năm năm đã quá đủ. Anh không muốn bất cứ lời nói nào có thể làm vẩn đục tâm hồn hai con lúc này. Vì thế, nhân danh là chồng, anh yêu cầu em lên xe về nhà ngay bây giờ. Mọi chuyện, ngày mai hậu xét...
       
      #3
        lamongthuong 18.12.2016 13:36:10 (permalink)
        .
        NÀNG BÁN HOA
         
        Làn gió lạnh căm căm dẫu chỉ đủ phớt nhẹ khiến hàng dương liễu lã lơi cánh lá, tôi rời xe, bước vội cho kịp chuyến bay bởi chỉ còn 15 phút nữa phi cơ cất cánh. Cũng may không có thói quen ôm đồm, nề nếp, chỉ cần mấy bộ quần áo quăng đại vô chiếc xách tay nhỏ quàng lên vai, tôi đã có thể xa nhà một đôi tuần không chút cảm nghĩ phiền hà. Nhưng chuyến đi này tôi quả đã tự chuốc lấy phiền hà! Ôm điện thoại mãi cho đến hai giờ sáng nói chuyện cùng nàng bán hoa để rồi bốc đồng mua vé bay qua Cali gặp nàng, chuyến bay độc nhất Gulf Port – Atlanta – Orange County. Leo lên giường thì đã ba giờ hơn mà chuyến bay khởi hành đúng sáu giờ rưỡi. Từ nhà tới phi trường nuốt trọn của tôi hơn nửa tiếng ngủ và cái tật nửa khỉ nửa người, lôi thôi luộm thuộm uống cà phê mỗi khi thức giấc cũng rềnh ràng có nhanh cho lắm chắc chắn mười lăm phút. Thế mà sáng nay tôi đã có thể phá lệ, phá lệ bởi giọng nói ngọt ngào đầy hứa hẹn bên kia đầu giây điện thoại; giọng nói của nàng bán hoa.

        Hai chiếc đồng hồ thi đua gào thét. Cứ thường như mọi ngày do thích ngủ nướng, tôi đã phải để đồng hồ báo thức sớm hơn nửa tiếng. Nói rằng tại thích ngủ nướng cũng không đúng vì những kẻ độc thân, lấy đêm làm ngày như tôi nào ai đã có thể vào khuôn phép chồm dậy ngay khi, hoặc sớm hơn, những tiếng kêu ót ót, của loại đồng hồ điện quỷ quái, như muốn chọc thủng màng nhĩ. Lâu dần thành quen nếu không muốn nói thành nghiện, mới đầu quá bực bội vì vẫn đang mê ngủ, tôi đưa tay nhấn nút khóa cái họng nó lại tự nhủ chỉ ngủ thêm năm phút nữa, không hiểu sao những giây phút ngủ nướng tuyệt vời đến thế, lúc giật mình dậy đã trễ hơn tiếng đồng hồ. Aên năn cũng đã muộn, với tay nhấc điện thoại, quay số, lấy giọng lè nhè gọi cai sở kiếm cớ bịnh thì cũng phải lồm cồm bò dậy khoác áo đi làm vì không thông báo trước nên không kiếm được người thế chân thợ máy. Nói rằng tại hãng chế đồng hồ điện tử cũng không sai vì cứ sau khi ấn cái nắp đậy hờ phía trên để cắt tiếng kêu ót ót rộn ràng khó chịu, tiếp tục giấc mộng dở dang... đúng chín phút sau nó lại kiên nhẫn, trung thành khuấy động cơn mê của chủ. Và lại nhấn, lại thêm chín phút nữa, nó vẫn lỳ lợm rêu rao nhiệm vụ cả sáng, hoàn toàn phá tan nỗi lòng tiếc nuối thời giờ vàng ngọc đã bị xâm lấn hồi hôm. Những ba lần ngủ nướng mỗi buổi sáng thì dẫu muốn nướng đến mấy cũng chẳng được. Hơn nữa, bụng đói sao ngủ... muốn ngủ cũng cần phải đi làm kiếm thứ gì bỏ bụng.

        Chiếc đồng hồ kia thuộc loại cổ lổ sĩ từ thời ông bành tổ chưa rụng rốn. Chạy rất đều đặn kèm theo những tiếng kêu tích tắc hơi lớn, nhịp nhàng không khác gì giọng rềng ràng ngái ngủ của người canh xác chết vào nửa đêm về sáng. Oai phong lắm, đeo hai chiếc chuông như cặp vành tai mọc hai bên đỉnh đầu, cứ mỗi lần chúng khua lên thì thánh cũng mất hồn, bạt vía. Bởi những lần lỳ lợm quen thói mê ngủ trong nỗi yên trí chỉ ngủ thêm năm phút sau lần thứ ba bị đánh thức nên đưa tay nhấn nút tắt, tôi đã được hưởng sự khoan khoái thú vị của ngủ nướng thì ít mà càm ràm, đe đuổi sở của lão cai thì nhiều. Tậu món đồ cổ ngoa miệng này từ một tiệm bán đồ phế thải, tôi phải để nó ngự nơi kệ nhỏ đóng dính vào tường cách giường một quãng bằng chiều dài cái giường để rồi ấn định cho nó la lối đúng giờ cần phải chồm dậy bởi khi cặp chuông của nó đã khua tất nhiên chẳng còn cách nào hơn bởi chịu không nổi. Lẽ thường, đã chồm dậy và tắt được chiếc đồng hồ báo thức thì đã gần ngay cửa phòng, bước ra tránh cảnh lò mò trở lại giường ngủ. Aáy vậy mà đã có những lần tôi vẫn mò lại giường ngủ. Nào có lạ chi, ăn, ngủ là điều cần thiết tiếp tục sự sống thì mê ngủ là sự thường.

        Đã biết rõ thời gian rất hạn hẹp nên lúc chiếc đồng hồ cổ kính lên giọng, dẫu xác thân cùng cực nặng nề, tôi cố lấy gân sức chống tay đẩy người ngồi dậy trong khi vẫn níu kéo bằng cách nhắm tịt đôi mắt. Ngày xưa khi theo thợ rừng đốn cây tôi đã tập được thói quen vừa đi vừa ngủ gật. Mở mắt, định hướng, độ khoảng cách, và nhắm mắt nửa mơ nửa tỉnh trong khi chân đều đặn bước, đôi tay níu con dựa trên vai, gật được chút nào cũng cảm thấy đã thêm chút đó. Hình như sự ngủ bù đắp phần nào trạng thái thiếu ăn. Cho đến nay tôi cũng không thể hiểu tại sao mình có thể ngủ gật được khi đang đi như thế dẫu đã có lần đang gật thì đâm sầm vào người đi trước do ông ta dừng lại bất chợt để sửa quai dép. Nhấn nút chiếc đồng hồ cổ tắt báo thức, tôi lao đao bước ra nhà bếp bật điện máy pha cà phê và rềnh rang vô phòng tắm vốc nước đắp lên mặt thầm nghĩ đến niềm vui ước mơ hầu đánh tan cảm giác ngái ngủ.

        Thói quen thưởng thức cà phê cũng được bãi bỏ và dẫu vẫn còn mắt nhắm mắt mở, tôi xếp vội mấy bộ đồ vô xách tay, rót cà phê vô ly nhựa, và leo lên xe lái ra phi trường. Sáu giờ thiếu mười lăm... liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay, tôi tự nhủ phải lái xe cẩn thận, lỡ ra, tiền phạt không chi đáng nói nhưng trễ chuyến bay thì quả là phiền. Trời chớm đông nên xa lộ vắng hoe nhất là vào thời điểm này nơi miền nam nước Mỹ. Ở vùng quê, cuộc sống coi bộ đỡ xô bồ, đua chen với chiếc đồng hồ như thành phố lớn, xa lộ 10 đượm vẻ thê lương trong cảnh sắc mờ tối của buổi sáng sớm. Tôi lái xe theo phản ứng như một cái máy, gài vận tốc tự động, nhấp miếng cà phê, châm điếu thuốc mơ màng tưởng nhớ những gì còn sót lại nơi tâm tưởng.

        Thực tâm, tôi không hiểu rõ nỗi lòng của mình. Được sinh ra trong một gia đình dân quê thuộc tỉnh lẻ xa lắc xa lơ, tôi chẳng khác gì chú mán khi mới bước chân tới Sài Gòn vào kỳ thi tú tài nhất... Cũng may có được nhà ông bác của một người bạn cùng lớp để trọ trong mấy ngày thi nên vấn đề đường xá, đi lại không phải là điều trở ngại. Năm tiếp theo sau khi xem kết quả kỳ thi tú tài hai, vấn đề nơi ăn chốn ở để tiếp tục học đại học nơi Hòn Ngọc Viễn Đông đã khiến tôi bối, may thay, bác của người bạn sẵn lòng cho hai đứa chúng tôi ở trọ. Nhà ông chỉ còn cô con gái út mới lên đệ tứ nên xét ra không có gì trở ngại nhất là đối với quan niệm gia phong người Việt. Chúng tôi, hai tên sinh viên vừa rời ghế trung học, tâm hồn đầy ắp viễn tượng huy hoàng của một tương lai dẫu chưa bao giờ có thể nghĩ tới nhưng lòng chất chứa niềm hãnh diện cao ngất trời, sinh viên mà!

        Tôi vừa theo học Đại Học Khoa Học vừa ghi danh bên Văn Khoa, thoạt nghe có vẻ đối nghịch nhưng mấy ai để ý tính chất lý luận tổng hợp những yếu tố, điều kiện tỉ mỉ của khoa học lại bổ xung cho sự suy tư, mơ tưởng cần nhiều sáng kiến và đòi hỏi nhận định chính xác nơi diễn tiến nhân sinh của khoa nhân văn. Bạn tôi vì theo ban A ở trung học nên ghi danh trường Luật và Văn Khoa. Chỉ hai tuần lễ trôi qua, tôi đã nghiễm nhiên trở thành vú em kèm toán lý hóa cho cô bé con chủ nhà, thông minh nhưng được cưng chiều nên không quen tự lập thành ra lười suy nghĩ. Con gái mà, con gái sống theo ý thích và chỉ để ý nhiều đến nét yểu điệu duyên dáng, e học toán sẽ biến thành khô cằn sỏi đá giống con trai. Thực ra, không ai nhờ tôi kèm toán lý hóa cô bé mà cũng chỉ vì bạn tôi dốt toán không biết giải thích hoặc trả lời sao cho cô bé khi được hỏi. Riêng tôi trong nghề lại vì nể bạn, cố tránh không muốn bị cho rằng lấy điểm hoặc làm mất mặt bạn bè nên ngay lần đầu tiên cô bé nhờ bạn tôi giúp giải bài tập hình học, trong lúc anh ta giải thích quanh quẩn không đâu vào đâu, tôi phải rán nín nhịn giả bộ không để ý mà trong lòng sôi sục, thật khó chịu đựng nổi cảnh phải ngăn chặn kiến thức toán đầy ắp muốn tràn ra khỏi lòng ruột. Tất nhiên, cô bé càng không hiểu gì!
        -Ê Hùng, nghề của mày, tao bí rồi...

        Ai mà không biết toán lý hóa của năm đệ nhị chính là phần mở rộng của toán đệ tứ và thêm môn lượng giác. Tuy nhiên, đã lỡ ra bộ không để ý nên khi được nhắc tới, tôi phải tiếp tục đóng kịch, giả đò chưa biết đề toán thế nào và vờ vĩnh chăm chú đọc. Anh bạn thoát nạn vớ lấy cây ghi ta bật tưng tưng vài nốt đoạn nghêu ngao hát trong lúc tay đệm đàn. Nhân cơ hội này, tôi phát sinh chủ ý, thầm nghĩ sao mình không nhận chân “kèm em,” trước hết cơ hội như được định sẵn, thứ đến để tỏ lòng cảm ơn chủ nhà chấp nhận cho ở trọ... và lẽ đương nhiên, “ông mất cái giò, bà thò chai rượu,” làm công sẽ được trả lương bù đắp tiền trọ, tiền ăn... Đã có chủ đích lại sẵn cơ hội, tôi vội tính toán phải làm thế nào để minh chứng công việc kèm em là cần thiết và có tiến triển. Không thực hiện được sự khác biệt này một cách rõ ràng đâu ai cần đến mình. Thế rồi lại cũng giả đò hỏi cho biết sức học, sự hiểu biết về toán của nàng ra sao, tôi hỏi về mấy định lý, định đề nàng mới học tuần trước. Giảng đến mấy về định lý toán học cũng chẳng khác gì nước đổ đầu vịt, nhất là với những bộ óc ham mơ mộng, thiếu thực tiễn của lứa tuổi mới lớn, đặc biệt đối với con gái. Sở dĩ biết thế vì đó là kinh nghiệm gạo của chính tôi. Hiểu định lý, định đề nhưng áp dụng vào bài tập, nếu không quen xử dụng, lý thuyết trở thành vô bổ.

        Hơn tháng đầu của năm đệ nhị, dẫu học thuộc lòng định nghĩa, định lý, định luật, định đề, công thức, điều kiện ắt có và đủ, nhưng khi rớ tới đề toán, tịt, không biết cách nào mà mò. Vô tình đến nhà người quen đang học tú tài hai thấy có cuốn sách giải bài tập hình học, tôi bày tỏ nỗi khó khăn mình đang gặp nơi môn toán. Được giải thích phải làm bài tập để học cách áp dụng giải toán, tôi kiếm mua cho được tất cả những sách giải của bất cứ môn toán nào. Mới bắt đầu, chịu khó đọc bài giải và để ý lối áp dụng các định lý... học thuộc lòng bằng cách tự ghi lại bài giải và ngôn từ tác giả dùng để lý luận. Như thuyền trôi theo giòng nước, những cuốn sách giải bài tập đã trở thành thày dạy tích cực và thực tiễn. Tôi trở nên một trong ba thợ toán lý hóa của lớp học. Thày dạy và bạn bè cho rằng tôi thông minh, giỏi nhưng nào ai biết tôi đã phải cắm đầu cắm cổ học bài trước khi thày dạy và gạo cho hết phần bài tập đã được giải sẵn.

        Nhẹ nhàng giương bẫy, tôi hỏi cô bé về những định lý đã học tuần qua, cô bé không để ý nên ngớ ra... Gốc gác thành công ở điểm này. Tôi nói cô bé lật sách đọc từng định lý, định nghĩa... và giải thích sơ sơ. Trở về bài toán thay vì giải thích, tôi đặt câu hỏi để cô bé trả lời theo từng giai đoạn giải một bài toán, đến đâu bắt ghi lại đến đó. Tất nhiên, vì phải trả lời, phải lật sách, phải đọc lại một đôi định lý hình học của những ngày đầu niên học chưa có bao nhiêu, cô bé có cảm tưởng tự mình giải được bài toán... Lẽ thường, bị quay như quay dế, lật tới, lật lui và lặp đi lặp lại sẽ nhớ được và nhờ trả lời những câu hỏi, cô bé hiểu cũng như áp dụng được lý thuyết nơi việc giải toán; tôi đương đường trở thành vú em. Và vú em khỏi phải trả tiền trọ, tiền cơm, lại còn được cô bé nhõng nhẽo, sướng rên... Có điều, phải công nhận cô bé thông minh, và cũng chính vì thế mấy năm ở trọ tôi đã nhiều lần bị dồn vào thế bí, bí vì bị cô bé dùng làm bia đỡ đạn. Oái giời! Thanh niên, thân ở trọ mà được con gái chủ nhà nhõng nhẽo gì cũng chú, ỷ y, lười lĩnh cũng bám lấy chú đỡ đòn, thì chú chỉ còn nước xuống địa ngục, may mà chưa mất xác.

        Cô bé cũng khá đẹp, thêm phần dáng dấp hấp dẫn, nhất là thời kỳ trổ mã của những năm lớp đệ tam, đệ nhị, lại con nhà khá giả nên hơi kiêu. Con gái nào không thế! Họ cứ tưởng cuộc đời này là chốn đã được chuẩn bị sẵn cho họ làm vương làm tướng, mọi người phải nâng niu, chiều chuộng, và làm tôi mọi cho họ. Tôi nhận thấy điều đó nhưng không hề nghĩ gì nhiều ngoại trừ coi nàng như đứa em gái bé bỏng bởi thường quá thân cận. Bất cứ chuyện gì nàng cũng tỉ tê, bắt tôi phải nghe dẫu nhiều khi lòng ruột tôi đang nhung nhớ về người khác. Anh chàng nào theo nàng, bố mẹ ngăn cấm những gì, phải ăn nói ra sao, bị la mắng như thế nào về những việc gì... Tôi có cảm nghĩ mình là thứ thùng rác cho nàng quăng tất cả những cặn bã thừa thãi vô ích hầu giải thoát mọi sự rắc rối cho lòng thanh thản... Thì nào có gì lạ đâu! Aên nhờ, ở đậu, nàng lại là con cưng muốn gì được nấy, thế nên tôi đành chịu trận để đổi lấy nơi chốn học hành. Trung thực phân định, tôi quá dốt, nếu không muốn nói là quá chân thành đến độ ngây ngô. Em hơ hớ ra đấy mà lòng dạ tương tư, đuổi bắt hình bóng xa xôi mãi đâu đâu. Em thích đi chơi cũng chỉ chú Hùng đưa đi. Họp bạn, liên hoan, văn nghệ, cũng chú Hùng. Em muốn gì, nên hay không nên, bô mia đều hỏi chú Hùng trước khi quyết định cho hay không. Quả thực, tôi cũng không biết mình đóng cái vai trò nào giữa ông bà chủ nhà và đứa con gái. Mắc mớ gì ông bà phải hỏi ý kiến tôi, mắc mớ gì cứ nhờ vả tôi kè kè con gái của họ.

        Và sắc lệnh đôn quân xảy đến, tôi tối tăm mặt mày do bị trễ một năm. Thôi đành nhập ngũ trước mấy tháng còn hơn bị rớt vào cảnh động viên, tôi từ giã ông bà chủ nhà và cô bé về quê sau khi ghi danh nhập ngũ. Ông bà chủ nhà đưa tôi ra tận bến xe đò. Trong khi chờ đợi nhân viên phụ xe xếp hàng hoá lên mui xe, em bịn rịn kè kè ôm cánh tay tôi như đã thành thói quen ở nhà mỗi khi có chuyện cần tôi làm biện lý... Kể ra hình ảnh này cũng khá tình tứ nhưng lúc ấy tôi nào để ý có lẽ vì quá dốt. Sau khi bắt tay từ giã “hai bác,” và tiến về chiếc xe đò hành khách đã được sắp xếp chỗ ngồi hầu hết, em vẫn kè kè áp tải tôi tới tận cửa xe, mắt đỏ hoe, miệng ấp úng,
        -Anh Hùng, chừng nào về Sài Gòn, nhớ ghé... em... em...
        Lòng dạ tôi lên mây khiến tối tăm mặt mày... Cảm giác tiếc muối tràn ngập tâm hồn lẫn thân xác tôi. Tôi ngu quá... Tôi là thằng khờ... Lúc ấy tôi mới hiểu được tại sao cái gì cũng chú Hùng... Mèn! chú Hùng...
        -Cô bé, xe chạy rồi... ráng ngoan ngoãn cho hai bác vui. Hẹn ngày tái ngộ.
        Tôi gỡ tay cô bé, leo lên xe bước vô số ghế...

        Vô tình trên nét, tôi gặp được danh hiệu, “nanghoa.” Tôi không hiểu tại sao danh hiệu này mới thoạt gặp đã tự mang một hấp lực lạ kỳ đối với mình. Trổ tài giả định tới lui, nàng hoa, nắng họa, nắng hòa, năng hóa, nàng hòa, nang họa... lập chữ tới lui, trước, sau, nhưng cũng không có được một ý niệm nào chắc chắn, tôi gõ đôi chữ làm quen. Nói phét, tôi gõ một khổ thơ làm quen, dân văn khoa mà! Và rồi thơ đối thơ đáp trên mạng lưới điện toán dẫn đến điện thư cho dễ thân dễ thiện, tôi được biết nàng là chủ tiệm hoa, tôi tạm gọi “cô nàng hoa.” Sáu tháng kể từ ngày thư qua tin lại, tối qua tôi mới nhận ra nàng là cô bé út của hai bác chủ nhà ngày xưa đã ở trọ. Tôi phải đi kiếm nàng.

        Cũng may, nơi buổi sáng lạnh lẽo trung tuần tháng chạp, nhóm bạn dân lười lĩnh thi hành nhiệm vụ nên tôi đã an toàn tới phi trường kịp giờ mà không gặp chi rắc rối vì lái xe quá tốc độ. Hãy còn may mắn lắm, tôi thầm nghĩ bởi qua kinh nghiệm nơi cuộc sống, bất cứ khi nào có chuyện gì gấp rút vội vàng, hình như đều có những chuyện tạm gọi là không may xảy đến. Chẳng hạn đang lúc e ngại không kịp giờ giấc cho việc gì thì những người lái xe chạy phía trước cứ tỏ ra đầy vẻ nhàn nhã như không còn hơi sức nhấn chân ga khiến xe hơi cứ chạy như xe bò... Dẫu bực mình nhưng những hình ảnh cô bé ngày cũ đã phần nào giúp bay hơi lòng nóng sốt nơi tôi...
        “Vô duyên đối diện bất tương phùng.” Cái phi trường chỉ lớn hơn bàn tay sao hôm nay có bảng quảng cáo to lớn thế, tôi thầm nghĩ khi tiến tới gần cửa chính. Đập nơi tầm mắt hành khách khi vừa bước vô là tấm giấy lớn ghi rõ ràng hàng chữ,
        “Những chuyến bay chuyển tiếp tới Atlanta và New York bị đình hoãn vô hạn định vì trận bão tuyết. Xin quý khách vui lòng cảm thông. Chúng tôi sẽ thông báo ngay khi điều kiện thời tiết cho phép.”
        Tôi đứng như trời trồng, chợt lẩm bẩm,
        -Quả bất tương phùng.

        Lối làm ăn của bọn phù thủy mắt xanh là thế, đường bay trục trặc, phi cơ thiếu an toàn, thời tiết không cho phép, phi trường cần sửa chữa thì hành khách rán mà kiên nhẫn đợi chờ. Càng chờ lâu càng tốt vì mấy nhà hàng nơi phi trường, đồ ăn thức uống chẳng ra chi nhưng giá mắc cắt cổ; thế nên càng lắm trục trặc càng hốt nhiều tiền. Tuy nhiên, dù xe bạn hỏng hoặc chỉ đến trễ dăm ba phút và chấp nhận đợi bay chuyến kế tiếp, lỗi tại bạn, và phải đóng tiền phạt. Lối ăn nói của bọn phù thủy cũng kỳ cục; mới gặp mình, cái miệng dù xinh xắn đến mấy cũng cứ theo thói quen phát ngôn những câu nói chẳng dễ thương chút nào, “May I help you,” họ cứ làm như mình là thứ bần cố nông đến xin lòng thương xót che chở. Mà nào có help chi đâu! Mình trả tiền đàng hoàng đứng đắn mà! Tệ hơn nữa, “What’s wrong?” gây cho mình mặc cảm lỗi lầm! Cũng tại tôi khi mua vé trên internet đã không để ý về thời tiết. Tiến đến quầy vé, tôi hỏi nhân viên trực số điện thoại riêng về chuyến bay để liên lạc khi có chuyến bay cũng như tin tức dự đoán về thời tiết,
        -Cho dù thời tiết thuận tiện ngay lúc này thì chuyến bay vẫn phải đình lại tới sáng mai theo thường lệ vì phi hành đoàn đã ra về. Xin ông vui lòng gọi lại tối nay nhưng tốt nhất là sáng sớm ngày mai bởi chúng tôi cũng chư a thể biết đích xác về điều kiện thời tiết như thế nào...

        Dù đã uống hết ly cối cà phê, tôi vẫn chưa hoàn toàn tỉnh hẳn, có lẽ do kết quả của những ngày dài thiếu ngủ cộng thêm quá khứ mơ màng đã mấy chục năm chìm vào quên lãng nay có dịp gợi nhớ.
        * * *

        Sự hiện diện của tôi kèm theo mấy thùng sách vở cũng như đồ đạc cá nhân khiến bố mẹ tôi ngạc nhiên. Tôi vội trình bày tóm tắt sự thể thân trai thời loạn và giải thích đàng nào ngày động viên cũng trước kỳ thi cuối năm nên thà rằng nhập ngũ còn có cơ hội chọn lựa sau này hơn là rơi vào thế bị bắt buộc không quyền ưu tiên. Bố tôi lặng người nhìn khoảnh rau thơm đủ loại trước sân. Mẹ tôi thở dài chẳng biết bao nhiêu lần. Tôi hiểu, bao nhiêu hy vọng của gia đình đổ dồn nơi mình giờ trở thành mây khói. Người em gái giáp tôi đã phải nghỉ học năm nay vì kinh tế gia đình dẫu đã có tú tài nhất, giờ đang dạy mấy môn cho lớp nhỏ thuộc một trung học tư thục.
        -Tôi đã bảo với ông hỏi vợ sớm cho nó để gia đình có nề nếp vì thời buổi này ai biết đâu mà lường, nhưng ông còn muốn nhà có ông cử cho hạnh mặt với đời... Đấy, chỉ còn hơn tháng nữa nó ở nhà, ông lo sao thì lo, người ta đã chờ cả mấy năm rồi...

        Như từ trời rớt xuống, điếng lòng! Ngay khi vừa xong kỳ thi tú tài hai về tới nhà, tôi đã nghe loáng thoáng bố mẹ bàn tính với nhau về chuyện gia thất... Thế nên lúc biết mình đã đậu tú tài hai, tôi trình bày với ông bà ý định tiếp tục đại học vì lòng chưa hề nghĩ gì đến chuyện vợ con. Tưởng rằng như thế đã yên, ai ngờ vẫn còn dây dưa nên cảm thấy tội cho người con gái nào đó chưa bao giờ được nghe tôi dù chỉ một đôi lời ỡm ờ tỏ tình ý mà đã chống chèo chờ đợi những mấy năm. Nửa phiền lòng, nửa cảm thấy tội nghiệp cho thân phận người con gái chân quê nhưng vì quá gấp gáp, tôi cần thời giờ suy nghĩ để giải thích với bố mẹ về chuyện gia thất. Lòng tôi còn ở mãi đâu đâu; thích cô bạn gái hợp nhãn học năm thứ hai trường luật, lại mới sững sờ biết cô bé con chủ nhà trọ thương mình, và hai ông bà cũng thuận tình, ưng ý tôi mà đã bao lâu nay ngốc nghếch không nhận biết. Giờ đây thêm một người không tình, không ý, không quen biết chờ đợi. Tôi phải giữ vững lập trường không quen, không biết, nên không thể thương. Nếu không sẽ bị du vào thế “như đôi đũa lệch so sao cho bằng.” Vợ chồng ít nhất phải có học thức tương đương, chứ cái kiểu “ông nói gà, bà nói thóc” thì “khổ anh trăm đường” như người xưa đã dặn dò. Hừ! Không ngờ mình có cái số đào hoa khốn khổ, “lắm mối, tối nằm không,” tôi tự diễu mình, cảm thấy lòng rộn vui giữa tâm trạng giờ khóc giở cười vì quyết định của người lớn, nhất là mẹ tôi. Bố tôi thì còn có thể dùng lý lẽ, bày tỏ, tính toán hơn thiệt. Mẹ tôi thì ý bà là ý trời; bố tôi cũng phải chịu thua. Nói cho đúng, trời cũng phải thua vì ý của bà luôn luôn đúng, bà nghĩ thế. Kính yêu bố mẹ nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy thương hại bố, đồng thời nể phục lòng nhẫn nhịn của ông nơi sự tính toán sao cho gia đình có cuộc sống ấm êm.

        Hai năm trước 54, ông được tuyển chọn vào trường gián điệp do người Pháp đào tạo, và khi cuộc di cư xảy đến, gia đình tôi vào nam lúc ấy tôi mới 3 tuổi, ông phải thay tên đổi họ bởi cái gốc gác gián điệp của Tây đáng được bị kinh khiếp. Ông không bao giờ dám hé môi nói cho mẹ tôi biết cái khả năng quá khứ đáng sợ ấy lỡ bà vô tình hở mồm hở miệng thì chỉ thành góa bụa sớm. Thời kỳ còn trẻ, hai ông bà làm ghe đánh xiệp nơi sông lạch quanh vùng Phước Hòa, Chu Hải, Láng Cát, tương đối khấm khá nên để dành được ít vốn, thế mà ông phải quyết định về làm vườn nơi vùng định cư Gia Kiệm, vui với rãy chuối, vườn rau. Aâu cũng là ý trời bắt mình rơi vào phận số “Đũa lệch,” đôi lúc ông than thở với tôi. Cũng có thể vì muốn chuẩn bị cho tôi ít vốn liếng nhận thức về thực tại hôn nhân nên ông thường nhắc nhở ngôn từ ám định coi bộ kỳ cục này. Sức học của bố tôi chỉ mới hết lớp đệ thất nhưng bản chất suy tư, nhận định lại vượt khỏi tầm hiểu biết bình thường. Có lẽ bởi thế ông được chọn học nghề gián điệp, tôi suy đoán! Mẹ tôi chưa hết tiểu học và con một gia đình dân quê tương đối khấm khá nhưng chuyên đoán.
        -Ngày còn trẻ, mẹ con dễ thương lắm, ông trầm tĩnh, nhẹ nhàng thổ lộ, nhưng càng lớn tuổi, lối nói dân quê ngày xưa đối với những người bình thường thì không sao, mà đối với những người để ý nhận thức thì lại trở thành quá ư độc ác.
        -Sao bố không giải thích với mẹ...
        -Ngày sau, khi có vợ con sẽ hiểu vì muốn nói ra cũng không thể nào nói cho đúng, cho chính xác được phương chi giải thích. Mà khổ nỗi, cứ mỗi lần bố nhắc nhở mẹ con thì bà ấy lại hô hào lên nào là, “Ấy, ông hay, ông giỏi thì sao không ra ngoài mà hơn người ta đi! Ra bên ngoài đi ăn đi hội với người ta thì ai nói sao cũng được, mình thì cứ câm như hến, không dám mở miệng, mà về nhà thì độc đoán, làm khó vợ con. Rõ là thứ khôn nhà dại chợ...” Chỉ được một điều bởi bố đã căn dặn và đe dọa, đó là dứt khoát không được nói những lời bất đồng ý kiến giữa bố mẹ trước mặt các con.
        -Thì bố đợi lúc nào mẹ đang vui thử nhẹ nhàng nói...
        -Bố đã đợi đủ mọi dịp, thử nhiều kiểu cách nhưng không cách nào, kiểu nào có thể giúp mẹ con thay đổi được gì mà bố e chỉ sứt mẻ thêm tình mặn nồng vợ chồng. Con biết, bố rất thương mẹ và các con thế nên chỉ lo lắng lỡ mai này các con vì vô tình hoặc quá chân thật đến độ thiếu khôn ngoan sẽ bị rơi vào những trường hợp chẳng nên xảy đến. Khi còn ở trong trại, bố được huấn luyện chuyên ngành tổ chức nên được học về những phương pháp nhận định cũng như phân định một số đặc tính các hạng người... Mãi sau này khi chuyện xảy đến bố mới nghiệm được câu nói của một chuyên viên, “Các anh nhớ cho rằng, người ta không thể nào bổ đầu một con bò để nhét óc chó vào cho nó khôn lên được.” Thì con người ta cũng thế, nếu không được để ý huấn luyện, dạy bảo, ngăn ngừa trước, sau này khi đã nhập tâm, quá quen với những lề thói hoặc thái độ, lời ăn, tiếng nói thô kệch sẽ không thể nào nhận thức được phương chi thay đổi...
        -Thế bố không tin hoặc không nghĩ được một người có thể thay đổi chỉ trong một tích tắc...
        -Trường hợp này phải trả giá quá nặng, mà ai muốn trả bất cứ giá nào. Chỉ trong những trường hợp thập tử nhất sinh, tâm thức con người bị căng thẳng quá độ mới phát sinh phản ứng chẳng ngờ... Nhưng cũng còn tùy, nếu người nào đã không được sinh ra để thức ngộ thì cho đến muôn đời cũng không hơn chi vì ngay chính họ đã không nhận biết nên không thực lòng khao khát. Con có để ý có những người chưa bao giờ ăn thịt dê chẳng hạn, đến khi được mời, họ đã không dám thử và cho rằng họ không ăn được thịt dê.
        -Vậy nếu gặp trường hợp không thể kiếm được bất cứ thứ gì ăn sống người mà chỉ có thịt dê...
        -Thì đó rơi vào trường hợp trả giá mắc mỏ bởi con vẫn còn chưa thực sự nghiệm đúng thực tại được gọi là thập tử nhất sinh...

        Không thể nào ngờ được bố tôi có nhận thức thâm trầm như thế. Chỉ còn hai tháng nữa tới kỳ thi tú tài hai nhân một buổi chiều chẳng hiểu sự đôi có phát xuất từ đâu khi mẹ tôi bán hai xe chuối mới thồ từ rẫy về tới chợ, thấy bố có vẻ buồn, trầm lặng, tôi rủ ông đi bách bộ nơi một đường giong trước nhà dẫn sâu vô cánh đồng. Xưa nay, bố tôi không nghiêm khắc nhưng rất để ý theo dõi từng đứa con. Nhiều chuyện xảy ra mãi tận đâu đâu về đủ mọi phương diện, ông kiếm cách, bằng cớ này hay lý kia, đem ra phân tích và đặt thành vấn đề, thêm những lời giáo toa trước về những hậu quả nếu chuyện đó có thể xảy đến bất cứ ai trong chúng tôi. Có lẽ mẹ tôi bị nghe quá nhiều nhưng không để ý hoặc không hiểu tại sao bố tôi có thái độ như thế nên coi thường chăng...
        -Mẹ con rất chân thành, tuyệt đối thương con cái... nhưng chỉ tội không để ý nhận định chi hết mà thường chỉ phản ứng theo ý thích, tình cảm cá nhân... Thế nên, nếu bố chết trước thì với tính cách ấy, mẹ con sẽ phải chịu nhiều phiền hà...
        -Vậy trước khi cưới, bố mẹ có biết nhau không...
        -Bố theo đuổi mẹ con những hai năm, ông bà ngoại con đã có lần nhận trầu người khác rồi ấy chứ... Nhưng cũng chẳng qua duyên số. Đâu phải bố thích hay mê mẹ con mà quên nhận định hay phân tích thiệt hơn có thể xảy ra sau này. Ngày xưa mẹ con rất dễ thương đồng thời lại ít nói... Đâu ai ngờ văn hóa địa phương thấm nhập tận xương tủy con người dù có muốn gột tẩy cũng không thể được, phương chi đối với trường hợp không để ý nhận thức. Người nhận thức thay đổi như kết quả của suy tư. Người không nhận thức học theo những hình thức phiến diện bên ngoài. Con thử để ý, cũng hai người mặc hai bộ đồ giống nhau, sống trong cùng một gia đình nhưng tư cách, thái độ hai người đó khác nhau tùy thuộc sự nhận thức của mỗi người. Người không nhận thức giống như con khỉ bắt chước, thấy sao làm vậy, nên người ta đã dùng cái bình có miệng chỉ lọt bàn tay người làm bẫy bắt khỉ. Nơi những bìa rừng sâu, họ cột những bình ấy vào gốc cây, mang đến một rổ trái bắp, đổ xuống đất cho các con khỉ đang leo trèo trên cây nhìn thấy. Đoạn họ nhặt những trái bắp bỏ vào bình, lại thò tay lấy bắp ra đem nhét một vài trái ngang hông và bỏ đi. Mấy con khỉ bắt chước theo, thấy trong bình có những trái bắp thò tay lấy nhưng không sao rút tay ra được vì cứ khư khư nắm chặt trái bắp. Và người ta trở lại bắt khỉ...

        Tôi cười đau cả bụng... Không ngờ bố tôi giải thích nhận thức bằng những sự việc cụ thể rành mạch như vậy mà vẫn phải lặp đi lặp lại “Đôi đũa lệch,” rồi lại còn cái số, cái vận... quả là rắc rối cuộc đời. Dĩ nhiên với cá tính suy tư thâm trầm lại được huấn luyện với một khả năng lãnh đạo chuyên môn về tổ chức như thế, bố tôi có cái nhìn khác hẳn với những người chung quanh nên ước vọng của ông cho con cái lẽ thường không giống như mẹ tôi, ngược lại hoàn cảnh thực tại nào có bao giờ chiều lòng người, chắc lòng ông phiền muộn lắm. Nghĩ như vậy, tôi định bụng sẽ nói chuyện riêng với ông vào buổi tối sau khi cơm nước để dò ý vì dẫu sao tôi cũng không muốn ông phải mang niềm thất vọng quá lớn bởi nỗi thất vọng nào chẳng lớn hơn diễn tiến thực tại do được thăng hoa từ ước mơ. Đàng khác, quan niệm về hôn nhân đối với tôi đã vượt khỏi nề nếp ông cưới vợ cho bố thì bố cưới vợ cho tôi.

        Đồng ý rằng “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống” là điều cần thiết và nên để ít nhất tránh cảnh đũa lệch. Dẫu thời nay quan niệm môn đăng hộ đối không còn được đặt thành vấn đề bởi ngăn cản những hủ tục phát sinh từ nó nhưng xét ra nó được phát xuất từ kinh nghiệm thực tại dẫn đến nhận thức hôn nhân; nó có cái hay của nó chứ nếu không sao đã có thể đứng vững và ngự trị nơi tâm não con người đã bao nhiêu thời đại. Suy xét cho cùng thì căn nguyên cho một gia đình hạnh phúc lại tùy thuộc sự nhận thức của đôi vợ chồng. Cuộc đời, hoàn cảnh thay đổi tất nhiên tâm trí và cuộc sống con người thay đổi. Bởi vậy nếu con người không để tâm nhận định thì chắc chắn sẽ phải đối diện với những khó khăn chẳng nên có. Nơi cuộc sống hôn nhân, một người nhận thức mà người phối ngẫu lại ỳ ra thì quả là điều khổ tâm một đời. Kể ra người xưa khá thâm trầm nên đã để lại câu nói nghịch thường, “Củi mục dễ đun, chồng cùn dễ khiến,” đồng thời lại đưa lên câu, “Tưởng rằng củi mục dễ đun, ai ngờ củi mục khói um cả nhà.” Nhận biết những gì bố tôi đã phải gánh chịu nơi tâm tư, tôi lại thấy càng phải nói chuyện với ông nhiều hơn. Tôi có nên dùng cả cuộc đời mình đánh canh bạc làm hài lòng bố mẹ nhất thời không. Đàng khác, cuộc chiến này rồi sẽ đi về đâu và đời lính tráng nào ai biết sống chết lúc nào, phỏng tôi nhẫn tâm đủ để kéo thêm cuộc đời người con gái nào đó làm con cờ thí cũng chỉ vì muốn làm hài lòng bố mẹ lòng không. Chỉ ít bữa nữa tôi phải lên đường và ngày về lại vô hạn định và cũng có thể chẳng bao giờ về, tôi có đủ can đảm đối diện thực tại để có được quyết định sáng suốt hầu sau này khỏi phải ăn năn hối hận khi sự thể xảy đến ngoài dự đoán. Tôi không gặp trở ngại với thân phận con người giữa thời cuộc chẳng đặng đừng nhưng lại khó nghĩ với tâm trạng khác biệt của người thân. Lòng rối như tơ vò, xách chiếc giỏ đã quá quen thuộc vào những ngày còn ngồi ghế trung học, bước xuống đám ruộng nước phía trước nhà kiếm mớ ốc đem về nham bông chuối uống rượu với bố chiều nay.
        -Con xách giỏ đi đâu vậy, bố tôi lên tiếng.
        -Con định kiếm mớ ốc về khêu ra nham bông chuối bố con mình nhậu tối nay. Dạo này bố còn đặt lờ cua nơi hũng chuối nữa không... Vậy nhà mình còn được mấy chiếc ống lươn? Con định tối mai mình nhậu lẫu lươn, ăn canh cua rốc. Bây giờ hơi trễ, đạp xe vào rẫy cũng hết nửa tiếng thì đâu có giờ mà sửa soạn... Cả mấy năm nay, chỉ những ngày hè mới có cơ hội ăn ốc nham bông chuối... Tiếc quá, vẫn còn thiếu bì...
        -Nhà mới đánh đụng con heo, thiếu gì bì... để tôi đi với anh , hai người bắt ốc cho mau. Quay qua mẹ tôi ông nói,
        -Con Loan sắp dạy học về, bà bảo nó đạp xe đi mua cho tôi lít rượu để tôi pha vào bình rượu thuốc đã ngâm sáu tháng... chất thuốc đặc quá... Bà cũng lạng dùm cho tôi ít bì thái đĩa nem, tối nay bố con tôi thử đối ẩm một bữa...
        -Vậy ông có muốn mời ông bà Thành không...
        -Nếu bà có ý ấy thì bảo con Loan bắt thêm con gà trống thứ nhì mà làm thịt. Gà luộc, lòng nấu miến, nem thính và ốc nham bông chuối... À, đem kho mấy con cá trê tôi đang rộng đó làm đồ mặn ăn cơm. Bố con tôi đi cỡ hơn tiếng sẽ về làm thịt gà; bà nhớ nói con Loan đi mời ông bà Thành...
        Hai bố con tôi kẻ trước người sau ra khỏi cổng băng ngang đường giong bước xuống bờ ruộng.
        -Ông bà Thành là ai vậy bố mà con không biết...
        -Bà ấy là bạn hàng xóm của mẹ con ngày xưa mới nhận ra nhau cách đây hai năm sau khi con đi Sài Gòn học được một năm. Con gái của ông bà ấy nghe đâu năm ngoái học luật ở Sài Gòn. Mẹ con ưng ý con bé đó rồi to nhỏ với bà bạn định hỏi cô ta cho con. Bố ngăn cản không được, con biết tính khí mẹ con mà... Nhưng vì không muốn con xao lãng việc học bố phải ngăn chận đủ mọi cách, viện đủ lý lẽ để mẹ con không được cho con biết. Hơn nữa, bố nghĩ, hôn nhân là việc hệ trọng một đời người, thế nên đợi khi con học xong đi làm rồi tính chuyện cũng không muộn. Đàng khác, qua kinh nghiệm cuộc đời, bố thấy vợ chồng cần phải có một sự học thức tương đương. Cứ bình thường chỉ vài tháng nữa con ra cử nhân thì người vợ ít nhất cũng phải năm thứ hai, thứ ba đại học, tốt nhất là cũng cử nhân. Dẫu con người không được sinh ra để làm công cụ cho học thức nhưng học thức lại là phương tiện giúp con người sống ý thức hơn, sống cho ra con người hơn. Tuy nhiên, cũng chỉ vì không để ý nhận biết, người ta đã coi sự học hành là công cụ kiếm tiền, hoặc danh dự, sao cho vinh thân phì gia. Thế nên, cuộc đời này đã không biết bao người có học nhưng cuộc sống lại vô ý thức. Con thử nghĩ coi, đem bộ quần áo đẹp đẽ, mắc tiền mặc cho con khỉ thì con khỉ có thể biến thành người được không, và nếu đem vàng bạc, châu báu đeo cho con khỉ thì giá trị cuộc đời một con khỉ có thể nào so sánh với một người dốt nát ăn mặc rách rưới không. Nơi phương diện nhân bản, học thức cũng chỉ là bộ quần áo khoác thêm cho con người dẫu giúp cho con người nhận thức để sống ý thức hơn. Bởi vậy nếu đã không ý thức thì bằng cấp đến mấy chưa chắc đã nhận ra giá trị cuộc sống mà chỉ trở thành gánh nặng cho cuộc đời, gây thêm nhiều phiền hà rắc rối cho những người khác mà thôi.
        -Bố nói như thế thì coi chừng sự học thức đâu liên hệ gì đến hôn nhân mà điểm chính yếu lại là đặc tính nhận thức nơi con người...
        -Như vậy là con chưa nghĩ gì về chuyện hôn nhân?
        -Chưa đâu bố. Mặc dầu thích một đôi người con gái thấy hợp nhãn với mình nhưng quả thật con chưa có thời giờ nghĩ tới và cũng chưa muốn nghĩ tới bởi sự nghiệp đã có gì đâu. Làm rẫy cuốc vườn thì chưa có vốn mua đất đai; làm ngành nghề nào lại cũng cần vốn... mà đi làm thuê như dạy học thì đâu đã học xong nhất là lúc này phải nhập ngũ. Cũng may dạy kèm cho con gái chủ nhà, con không phải trả tiền nhà, tiền ăn nên không cần phải đi dạy thêm để dồn hết vào việc học... Ai ngờ...
        -Bố nghe loáng thoáng thì con gái nhà người ta học đệ nhất thì cũng lớn rồi; con có tình ý gì với cô ta không mà chưa nghĩ đến chuyện hôn nhân...
        -Không có đâu bố. Sáng nay trước khi bước lên xe con mới biết người ta để ý con thôi, trong khi con lại để ý một cô bé học năm thứ hai trường luật... Nhưng con thiết nghĩ, chuyện hôn nhân là chuyện một đời... Cứ nhìn vào gia đình mình... Bố biết, con rất thương mẹ nhưng lại hiểu nỗi khổ tâm của bố do đó con đặt rất nặng về việc hôn nhân... Mà con người thì thay đổi làm sao có thể dự đoán được những sự đổi thay nơi một tương lai không có chi làm căn bản suy luận. Bố đâu cấm con quen biết... chả lẽ bố không nhớ đã có lần nói ít nhất phải học năm thứ hai đại học bố mới chấp thuận cho có bồ... Thế nên nếu có thương yêu ai, có gì đâu mà ngại ngùng không cho gia đình biết. Hay có lẽ quan niệm yêu thương của con khác với những người đồng thời chăng... Con biết bố theo dõi con rất kỹ... Nghề của bố mà...
        -Con nói đúng. Qua thái độ, cử chỉ của con, bố biết con chưa để ý gì đến chuyện hôn nhân mà mẹ con lại cứ muốn theo ý riêng lo cho con. Cho tới tuổi này và đã trải qua những thăng trầm trong cuộc sống bố mới thấy người ngày xưa cũng như ngày nay đã quá coi thường về việc giáo dục hôn nhân. Cuộc đời một người ngày nay, tạm tính từ nhỏ đến hết tú tài hai, vị chi bình thường là 12 năm, nếu học hết đại học tất nhiên 16 năm để chuẩn bị cho tương lai. Chỉ vì muốn có cuộc sống khá hơn, nói cách khác, muốn có công việc làm ăn dễ thở hơn mà người ta đã phải chuẩn bị hơn 12 năm trong khi hôn nhân là cuộc sống chung một đời thì chẳng có ai để ý chuẩn bị, không ai nghĩ đến vấn đề nếu muốn có một gia đình như thế nào thì mình cần biết những gì và người bạn đời mình sẽ và cần phải như thế nào... Thật đáng buồn và đáng thương cho con người... chỉ vì thiếu ý thức nên phải chấp nhận hoặc phải trả giá quá mắc mỏ. Aáy là tôi chỉ đưa lên nhận định từ chính cuộc đời mình...
        -Con nghĩ đủ rồi bố. Bằng này khêu ra cũng được một tô, nhậu tuyệt cú mèo...
        Hai bố con tôi vừa lượm ốc vừa nói chuyện. Những con ốc xấp xỉ ngón chân cái, lưng một giỏ. Loại ốc nứa này rất mau lớn, béo ngậy... đem “hấp” với chút muối, mẻ, bỏ vào mấy lá chanh, nhậu đế thì trời đất không biết sẽ lăn quay lúc nào. Nếu đem đập bể trôn ốc, hấp sơ lên cho dễ khêu rồi nham với mẻ xào chín thêm chút mắm tôm, trộn với bì, lá chanh thái nhuyễn cùng các loại lá thơm và bông chuối hột thái mỏng đã được ngâm nước muối cho hết chát thì nhậu chỉ có thiếu chết.
        Thế mà hai tiếng đồng hồ trôi qua thật lẹ. Hai bố con tôi vừa bước tới sân thì có tiếng người con gái nghe khá quen thuộc,
        -Anh Hùng...
        Ngạc nhiên, hướng về phía phát ra tiếng nói thì ra Hà, cô bé học năm thứ hai luật, tôi thích...
        -Uũa, sao em ở đây... Tôi ngớ người, chẳng biết mình nói gì...
        -Thế anh không muốn cho em ăn cơm mời...

        Tôi chợt hiểu Hà là con ông bà Thanh. Tôi thích nàng, để ý nàng nhưng mới chỉ gặp nàng độ năm bảy lần trong thời gian hơn một năm, từ đầu năm thứ ba đại học. Được biết tên nàng do những người khác gọi, và những lần gặp gỡ đều có hơn kém hai chục bạn bè sinh viên quen biết trong những trường hợp tụ họp này nọ nơi một vài gia đình ở Sài Gòn hoặc vùng phụ cận. Tôi nhớ lần gặp gỡ và có cơ hội nói chuyện riêng với nàng chừng mười phút đó là lần về Lái Thiêu cùng với một số bạn khác nơi gia đình một người bạn chung lớp; Hà được mời vì là bạn học với em gái của anh ta. Tướng tá của tôi cũng không đến nỗi tệ, ở lứa tuổi thanh niên ai không thế, nhưng tự thâm tâm tôi biết mình nhát gái. Nhát gái không phải vì không biết tán gái hoặc e ngại điều chi, nhưng điều chắc chắn đó là tôi có tự ái khá cao. Hơn nữa, mặc cảm con nhà nghèo, quần áo chỉ đôi ba bộ thay đổi sinh ra lè phè lúc chưa làm gì ra tiền nên không dám quen thân, quen thân tiền đâu đưa em đi ăn kem, dạo phố, trong khi phương tiện di chuyển chỉ là chiếc xe đạp đã có tuổi. Bởi thế, thích nàng nhưng ngại gặp, ngại thân thiện do đó không dám hỏi nàng quê quán ở đâu hoặc gia đình như thế nào dẫu có dịp. Hỏi về nàng, bị hỏi ngược lại thì sao ăn nói, sao dám khoe khoang tình trạng ăn nhờ ở đậu của mình. Nhiều lần định xin dạy nơi mấy trung học trường tư nhưng suy đi tính lại, tôi tự nhủ hãy rán chịu trận đôi năm bởi muốn lấy cho xong hai cử nhân cùng một lúc. Gặp nàng đột ngột lại phù hợp với ý định của mẹ, tôi chợt có cảm nhận dường như là ý trời...
        -Uũa, hai anh chị biết nhau từ bao giờ... Loan lên tiếng, mà có vẻ thân thiện quá ta...
        Tôi tỉnh hồn, giòng máu văn chương văng ra,
        -“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.”
        Không dấu diếm gì được vì nàng đã đến tận nhà mình, trông thấy đầy đủ gia cảnh thì chỉ còn nước trổ tài đánh đáo miệng để đàn áp mặc cảm thân phận nghèo túng...
        -Em nghĩ anh sẽ bị ngạc nhiên chứ ai ngờ công lao ăn nói, nài nỉ rước được nàng công chúa tới đây kể như công khống...
        -Em dẫn Hà ra sau vườn xem có trái măng cầu hay mít tố nữ nào chín chưa về làm sinh tố để anh nham ốc. Mà em đã thái bông chuối chưa?
        -Em đâu nghe mẹ nói chi, chỉ mới làm thịt xong con gà. Để em làm ốc, anh đi hái bông chuối hột... em sợ rắn lắm...
        -Oác nham như thế nào? Hà lên tiếng.
        -Dễ mà, chẳng cần học cũng biết. Chị muốn biết thì đi làm ốc với em. Loan đón lấy giỏ ốc trong khi nói, đoạn hai người tiến về phía sân hồ cạnh giếng nước...
        Ghé vô nhà bếp tôi lấy con dao phay tiến về hướng mấy bụi chuối góc vườn. Lấp phía sau đám lá có một buồng chuối sứ chín được gần hai nải, hạ thân chuối cắt lấy buồng đoạn kiếm nơi bụi chuối hột... may, có được một buồng mới trổ được 5 nải... ăn càng ngon, tôi cắt bông chuối và xách cùng buồng chuối sứ đem về.
        -Anh kiếm đâu ra buồng chuối chín ngon vậy? Loan lên tiếng khi thấy tôi bước tới gần. Mới chiều hôm qua em để ý khi cắt rau lang cho heo mà đâu thấy chi...
        -Nó ở trên cây chuối mà...
        -Ai không biết nó ở trên cây chuối, chẳng lẽ ở chợ, nhưng em muốn biết nó nằm góc nào mà nhìn hoài không thấy. Nếu không có anh chắc nó chín rũ...
        -Có lẽ đó là duyên! Nếu em thấy nó hôm qua thì sao có được mấy trái chín cho anh...
        -Thì có bao giờ không có phần cho anh đâu nhưng chỉ hơi trễ...
        -Nghĩa là sao? Hà hỏi.
        -Cô em tôi không ăn chuối chín mà lại thích chuối ương ương chát lè... Thế mà không hiểu sao lại rất dễ thương. Vậy đã có anh chàng nào trồng cây si em chưa?
        -Làm sao em biết được lòng người nếu không để ý! Mà nếu có cũng chả có gì đáng nói vì em muốn học Văn Khoa. Năm nay em để dành tiền cho sang năm đi học lại cho xong tú tài hai... Hy vọng sau đó anh có thể giúp em theo học đại học... thì có gì đâu phải để ý đến mấy cây si...
        Hai nàng, mỗi người một chiếc “muỗm tây” đập trôn ốc đã gần xong. Tôi lấy thau nước, hòa muối đoạn bóc vỏ già và thái bông chuối... Rau chuối mới nở này ăn ngọt và dòn, tôi thầm nghĩ, dự định thái xong, vắt thêm vô nước một trái chanh...
        -Loan, em hái dùm anh trái chanh... nhớ bất thêm mấy lá chanh non nữa...
        Loan nhìn tôi háy mắt... có lẽ nàng nghĩ tôi muốn nói chuyện riêng với Hà nên không nói không rằng bỏ muỗm, rửa tay đi về phía sau nhà nơi có vườn cây ăn trái, phần đất trống dưới gốc cây được trồng rau lang cắt ngọn nuôi heo thay vì để cỏ mọc.
        -Anh cần chanh làm gì. Hà lên tiếng.
        -Lúc nãy khi cắt bông chuối tôi quên không hái trái chanh để vắt vào nước muối cho rau chuối khỏi bị nhựa đen.
        -Dùng dấm tiện hơn... lỡ trái mùa chanh lại phải mua mất công.
        -Không có chanh dùng dấm cũng được nhưng dẫu chua, chanh vẫn mang vị ngọt khiến rau chuối ăn ngon hơn...
        -Sao an nói chanh mang vị ngọt.
        -Hà có để ý khi ăn chanh chấm muối ớt... thấy vị ngọt không.
        -Mới nghe đến chanh chấm muối đã thấy ngọt rồi, ngọt vị nước miếng...
        -Chúng ta rất ít khi để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt được coi như quá thường. Tuy nhiên nếu để ý sẽ thấy lắm điều thú vị...
        -Anh thử cho thí dụ.
        -Đã bao giờ Hà thử ăn “cơm không,” chầm chậm nhai để thử cho biết rõ mùi vị của cơm thế nào chưa?
        -Chắc chắn chưa... Quả thật em chưa bao giờ để ý chuyện cỏn con này; thế mới biết cả đời ăn cơm mà đã không biết vị cơm thế nào. Em nghe Loan nói anh mới về trưa nay...
        -Vâng, tôi trở giọng nghiêm trang, tôi đã nộp đơn nhập ngũ và chỉ còn hơn tháng nữa ở nhà.
        -Sao, anh đang học dở dang... Vậy anh không có hoãn dịch học vấn sao?
        -Có chứ nhưng sắc lệnh động viên rơi ngay vào tầm tuổi của tôi. Lệnh động viên có hiệu lực trước kỳ thi ra trường hai tháng. Thế nên tôi ghi danh nhập ngũ để khỏi bị rơi vào tình trạng hiện dịch, sẽ bị hơi khó khăn sau này.
        Hà liếc nhìn tôi, dường như có điều gì muốn nói nhưng vẫn giữ im lặng, tiếp tục đập ốc.
        -Anh chị có chuyện gì bí mật đang nói sao lại im lặng...
        -Anh vừa trả lời cho Hà biết còn hơn tháng nữa anh nhập ngũ...
        -Vậy là thế nào! Hèn chi em thấy mấy giáo sư biệt phái có vẻ xôn xao...
        -Thế còn chuyện của anh chị?
        -Em muốn nói chuyện gì?
        -Anh còn giả bộ nữa ư! Chị Hà, nói cho anh ấy khỏi giả vờ!
        Thế ra Hà và Loan đã biết nhưng chỉ mình tôi mới được biết. Tuy nhiên, để dễ ăn nói sau này, tôi cần phải ra vẻ không biết.
        -Có chuyện chi vậy Hà... Nếu tôi không lầm thì đây là lần thứ tám tôi gặp Hà và cũng là lần đầu tiên gặp Hà tại nhà này...
        -Anh chị hẹn nhau những bẩy lần trước rồi ư? Thế sao anh còn giả bộ không biết...
        Mặt Hà đỏ như gấc chín... nhưng thái độ nàng rất bình tĩnh...
        -Anh nhớ khá giỏi, Hà điềm tĩnh lên tiếng. Lần cuối gặp anh ở Lái Thiêu, em đã hơi ngờ ngợ vì anh có nét khá giống Loan, lại nghe nói anh học hai phân khoa, khoa học và văn khoa... nhưng thấy anh có vẻ kín đáo nên chẳng biết thêm được gì. Bởi vậy chợt gặp anh ở đây vì quá ngạc hiên nên em bật lên tiếng gọi...
        -Nhưng cái Loan nói chuyện gì, anh có biết chi đâu... Em thử nhớ lại coi, gặp nhau mấy lần, anh đâu biết em là ai, chỉ biết tên do người khác gọi. Không bao giờ hỏi con cái nhà ai, địa chỉ chốn nào, ưng gì, muốn gì, hoặc còn độc thân hay đã có chủ...
        Giả đò như đã trúng đài, tôi mở máy phát thanh.
        -Nào bây giờ thử khai lý lịch để tôi kiếm lại hồ sơ xem đã được cất giữ nơi đâu...
        Chẳng có bài học văn chương nào dạy tôi tán gái bậm trợn như thế này. Kể ra cái miệng của tôi cũng khá trơn tru, kịp thời ứng biến.
        -Thế ra anh xúi Loan gọi em đến đây để thẩm vấn...
        -Ơ hay cái bà này, em năn nỉ chị đến khô cả nước bọt mà nào có biết chị ở nhà. Anh ấy có trả công em đâu vì đi dạy học về, có thấy mặt mũi anh ấy dạo này méo, tròn thế nào đâu thì sao mà chi dám bới ra vụ thẩm vấn. Phiền thật, ông bà nói không sai... Ở đời có bốn cái ngu mà lại vấp ngay phải cái ngu thứ nhất...
        -Người ta đang tập sự tại tòa án. Hãy nói cho anh biết chuyện gì mà em bảo Hà nói...
        -Thì chuyện hai anh chị...
        -Hà, chuyện gì vậy. Tôi cố tình tỏ ra như quá vô tư...
        -Em cứ tưởng anh biết và anh chị đã hẹn hò nhau... Quả bé cái lầm... Thế sao nghe má với bác Thành gái hẹn hò xui gia... Loan chêm vô.
        -Thì đó là chuyện của hai bà ấy chứ mắc mớ gì đến anh. Phương chi em chỉ nghe hơi, ngồi chõ rồi gán ép...
        Tôi tỉnh queo cố bới bất cứ gì lấn át để biến chuyện tình cảm thành thường tình, không quan trọng, với ẩn ý dẹp tan tình cảm nếu có nơi Hà trong khi Hà tròn mắt nhìn với nét mặt tỏ lộ sự lạ lùng. Có lẽ nàng ngạc nhiên vì tôi không biết gì thì ít mà vì bỗng nhiên hôm nay cái miệng của tôi linh hoạt khác thường, chẳng bù lại những khi gặp bạn bè... như Hà đã biết...
        -Ngày mai mưa lớn... Hà nói không đâu vào đâu.
        Tôi đã đoán trúng.
        -Chị nói gì... Mưa thì mắc mớ gì tới mình chiều nay...

        Tôi hiểu ý Hà; thật phiêàn, tôi đang kiếm đường cởi trói thì nàng mang chủ ý cột thêm. Nỗi đau nào đó bùng lên nơi tâm tư. Tôi thích nàng ngay từ khi mới gặp nhưng chưa bao giờ nói dù chỉ một câu bóng gió tỏ tình. Tôi biết thân phận cũng như giới hạn của mình thế nên không dám đùa giỡn với tình cảm. Hơn nữa, tự ái tôi to như trái núi nên không dám nổ bậy. Nổ bậy sẽ bị khinh khi. Hà nói sắp mưa ám chỉ cóc nghiến răng. Những lần gặp gỡ cùng với bạn bè, tôi rất ít nói; ít nói vì mặc cảm... Bỗng hôm nay thấy tôi ba hoa chích chòe, nàng nói lên sự ngạc nhiên... nàng đã để ý tôi khá nhiều! Nhận biết được điểm này, lòng tôi tê tái. Tôi thích nàng. Đúng! Nhưng khi biết nàng để ý nhiều đến mình trong trường hợp không biết ngày mai mình sẽ ra sao khiến mối thương cảm nổi lên. Nếu nàng đã không để ý gì đến tôi, dù mang mặc cảm đau xót nhưng tôi sẽ cảm thấy yên lòng bởi sau này mình có mệnh hệ nào thì cũng không làm phiền lòng nàng. Hiện giờ, nàng đã biết ý định của hai bà mẹ lại nghiêng chiều chấp thuận mà tôi thì không thể nhẫn tâm... Phỏng còn nỗi phiền hà nào lớn hơn!
        -Tại em biết nhiều quá... Tôi nói gọn lỏn.
        -Chị trả công năn nỉ cho em đó phải không? Loan chỉa mũi dùi về phía Hà.
        -Oan Thị Kính, tôi nào dám đụng chạm đến chủ nhà khi được mời ăn cơm... Tự dưng tội đổ vào đầu. Rõ quýt làm, cam chịu.
        Hà nói thế ăn vô, cố tình đứng vào phe với tôi; điều này càng khiến tôi bối rối không biết phải giải quyết cách nào. “Quýt làm cam chịu.” Lỗi tại tôi, nàng phải gánh. Hừ, thích người ta, đến lúc biết được người ta thích mình thì lại bối rối như bố vợ bị đấm...
        -Kẻ tung, người hứng hèn chi em bị coi là thứ lắm miệng... Như vậy người đời xưa đã quá sai lầm.
        -Người xưa nói gì mà Loan cho rằng sai lầm... Hà hỏi.
        -Thì cũng chỉ vì thời nay nào có ai coi thứ bà cô là cái quái gì...
        Mặt Hà lại hồng lên. Phiền to rồi, miệng lưỡi con em tôi sao dạo này quá quắt đến thế. Mới đi dạy học mấy lớp nhí được vài tháng mà đã có vẻ sắc sảo... hèn chi muốn học văn chương. Không cảm nhận được nỗi phiền hà nơi tôi, hai người cứ một mực nói ăn vô, tôi đành kiếm cớ rút lui để suy nghĩ, dàn trận. Cũng may, tôi vừa thái xong bông chuối hột và ốc đã chuẩn bị xong. Quăng những phần dư của bông chuối vào đống rác, tôi rửa dao, thớt. Hà và Loan cùng vô bếp xào ốc, tôi rửa rau chuối...

        -Xin chào hai bác, tôi lên tiếng khi vừa bước tới cửa, tay bưng khay thức ăn đặt lên bàn.
        -Anh Hùng mới về chơi! Ba của Hà lên tiếng.
        -Thưa bác cháu về chuẩn bị nhập ngũ...
        -Thế còn việc học hành sẽ ra sao?
        -Thân trai thời loạn mà bác. Cháu đã nghĩ hết nước nhưng không còn cách nào. Bên đại học Khoa Học không đến lớp được kể như xong. Ở Văn Khoa, kỳ thi sẽ rơi vào trúng thời kỳ sáu tháng huấn luyện tại quân trường nên đành phải đợi tới năm sau. Cho đến giờ cháu cũng chưa biết rõ chương trình huấn luyện sĩ quan Thủ Đức được sắp xếp như thế nào vì đợt tổng động viên này sẽ có quá nhiều sinh viên do đó trường Sĩ Quan Thủ Đức không thể nào chứa hết. Nghe đâu những lớp huấn luyện kiến thức điều hành chỉ huy cần được phân phối để giảng dạy nơi các quân trường khác mới có thể kịp thời đáp ứng. Và nếu sự thể diễn tiến đúng như dự đoán, nhanh lắm cũng phải tám tháng sau mới được bổ nhiệm qua đơn vị. Thế nên có muốn suy nghĩ, tính toán cũng không thể được lúc này nên đành phó mặc cho vận trời...

        Lúc ấy Loan và Hà cũng đang sắp xếp mấy đĩa thức ăn và so chén đũa, tôi cố tình buông mấy lời “Tính toán cũng không thể được... nên đành phó mặc cho vận trời” hầu nêu cớ chặn đứng những chuyện toan tính hôn nhân. Cuộc đời chưa biết đi về đâu nhất là trong thời buổi loạn lạc không hiểu sống chết lúc nào thì còn nói chi đến việc cưới hỏi. Thật khó cho tôi chấp nhận cảnh cưới vội cưới vàng trước khi nhập ngũ... Đi lính thời loạn chứ đâu phải đi làm quan thời bình. Cưới vợ rồi nhập ngũ thì tâm trí đâu để học tập, huấn luyện! Không thể hiểu được, cứ như chuyện cưới chạy tang, tệ hơn là đàng khác vì cưới chạy tang thì đôi vợ chồng mới còn có ngày giờ ăn ở với nhau. Đàng này, đã biết rõ sự thể chia ly chỉ mấy ngày nữa sẽ xảy đến thì niềm vui ngày cưới chỉ là gượng gạo, nào vui thú gì. Nghĩ đến cảnh người vợ mới cưới mếu máo, dùng dằng tiễn chồng lên đường nhập ngũ mà đau lòng, tôi không thể nào chấp nhận nỗi thương tâm ấy.
        -Tôi nghe nói còn đâu những gần hai tháng nữa mới tổng động viên mà...
        -Thưa bác, có học thêm hai tháng nữa thì ngày tổng động viên cũng trước kỳ thi hai tháng. Hơn nữa, rơi vào trường hợp tổng động viên sau này sẽ không có ưu tiên chọn binh chủng, ngành nghề, cũng như đơn vị, nghĩa là bị sắp xếp thế nào đành rán chịu, chỉ hơn lao công chiến trường. Bởi thế, nếu tính chuyện sau này thì mình phải đầu đơn nhập ngũ thay vì hiện dịch...
        -Thế những người hiện dịch có giờ để học cho xong không...
        -Nhập ngũ hay hiện dịch cũng vào quân trường cùng một ngày. Nhập ngũ thì chưa đến hạn kỳ đã xung phong ghi danh nên thuộc hàng trừ bị. Hiện dịch thì không cần ghi danh trước. Sự khác biệt chỉ là ghi danh tự nguyện hay chấp nhận bị động viên... và sau này khi ra đơn vị, những người có tên trong danh sách trừ bị được quyền ưu tiên chọn trước.
        -Thế bây giờ anh định ra sao trong hơn tháng ở nhà... Mẹ tôi lên tiếng, giọng bà có vẻ nôn nao.
        -Thì mẹ đã biết, sự thể đã rõ ràng đâu còn gì mà tính với toán nữa. Mấy ngày chờ nhập ngũ, con sẽ coi lại vườn tược xem có thể làm gì cho gia đình để lúc ra đi yên lòng. Khi ra trường, may ra con có thể được chọn đơn vị gần nhà... và đợi đến năm tới thi cho xong bằng cử nhân văn chương rồi sau đó mới tính chuyện xin chuyển sang ngành giáo sư biệt phái nếu thời cuộc sáng sủa hơn. Con định ken thêm cỡ hai chục hom lươn cho bố xài dần, làm thêm mấy lờ bắt cua... Tối mai sẽ ăn canh cua rốc nấu với rau đay, mấy tháng nay chưa ăn con thấy thèm rồi...
        Tôi ba hoa chích choè nói huyên thuyên hy vọng đánh tan được ý định của mẹ. Nhưng bà không tha, ý muốn của bà phải được thực hiện ngay lập tức...
        -Vậy rồi chừng nào tôi mới có cháu bồng. Anh xem nhà người ta đấy, ra có con, vào có cháu an ủi tuổi già. Nhà mình thì bố anh còn mãi mộng ông cử, bà tú, ra vào lủi thủi giống như độc đinh. Anh liệu sao thì liệu, nhà này chỉ có mình anh, thời buổi lính tráng nào ai biết đâu mà lường...
        Bố tôi đành chấp nhận nhịn nhục mẹ tôi cho gia đình êm ấm là phải. Mẹ tôi quá đơn sơ, quá thực tế lại muốn giải quyết vấn đề theo ý riêng, không cần biết người khác nghĩ gì hoặc đang phải đối diện với trường hợp nào. Tôi cảm thấy tội cho bố tôi, tội cho những ông chồng. Những ông nào hiểu biết thì tâm trí luôn bị phiền hà dẫu cố nén lòng chịu đựng để tính toán, dàn xếp cho gia đình yên ấm. Những ông nào không chịu suy nghĩ, nhận định để chấp nhận hoàn cảnh và kiếm cách giải quyết tất nhiên gia đình lục đục. Không hiểu người ta nghĩ gì trước khi lập gia đình! Thực ra, có được một gia đình yên ấm, vợ chồng tất phải gồng mình chịu đựng nhiều nỗi gian truân. Câu “Nhất vợ nhì trời” có lẽ phải được hiểu theo nghĩa khác thường, điều khó khăn nhất đối với người đàn ông là chấp nhận, chịu đựng vợ của mình. Giải quyết những khó khăn cuộc đời, của phận số vẫn chỉ là chuyện nhỏ. Để ý liếc xéo Hà, mặt nàng đỏ tựa gấc chín, có lẽ nàng đang muốn độn thổ, tôi nghĩ, phải làm sao giải quyết cấp kỳ để ăn cơm cho ngon. Tội cho nàng quá! Nhưng có thể cũng là điều may cho nàng vì có cơ hội cảm nhận được nỗi khó xử của người khác đôi khi mình vô tình không chịu để ý tới. Tôi đành liều phá ngang,
        -Mẹ đừng lo, con định cưới hai cô vợ một lúc, một cô ở nhà với mẹ cho vui, một cô theo con ra ngoài chiến trường nâng khăn sửa túi. Nếu mẹ muốn, con cưới thêm một cô chuyên viên đẻ, tha hồ cho mẹ bồng, lúc ấy đừng có kêu trời. Bây giờ ăn thôi, con đói lắm rồi, suốt từ sáng tới giờ chưa có gì vào bụng... Xin mời bố mẹ, mời hai bác, mời hai cô tú... Bố, chai rượu đâu cho con mượn, hôm nay con phải uống giã từ sách vở.

        Tôi đón chai rượu, trịnh trọng chầm chậm rót vì lòng cảm thấy nặng nề chưa biết phải giải quyết chuyện tìm cảm cách nào. Tôi rất thích Hà, thích chợt khi mới gặp nàng, thích đến độ không để ý đến con gái chủ nhà trọ luôn kề cận ngay bên, thích quên cả để ý đến cách đối xử của ông bà chủ trọ ưu tiên cho phép đưa đón cũng như hỏi ý kiến về những gì có liên quan đến con họ, nhưng giờ đây tình thế bất chợt đổi thay. Biết được Hà cũng thương tôi, nàng lại được đôi bên gia đình, ít nhất là mẹ tôi đã chọn nàng cho tôi nên tôi lại càng cảm thấy thương cảm cho nàng. Nàng đang học năm thứ hai luật thì sau khi tôi mãn khóa Thủ Đức và năm sau đó lấy xong cử nhân văn khoa, nàng mới xong năm thứ ba, nào đã vội gì. Tuy nhiên, nơi thời buổi loạn ly, trai thiếu gái thừa thì với lứa tuổi của nàng được kể như muộn màng. Văn hóa và cuộc sống nơi đất nước Việt Nam đào tạo người con gái sớm biết làm vợ và làm mẹ, tuổi 20, 21 thuộc giới bình dân quả là khó lấy chồng. Bởi thế, nói không thương thì dối lòng, nói thương nhưng hãy đợi thì lại càng rắc rối phiền hà bởi dấn thân nơi cuộc chiến, sống chết kề cận chỉ làm khổ kẻ đợi chờ. Tôi phải giải thích sao đây để nàng tự nhận định và quyết định mà ngăn chặn ý trời của mẹ tôi, và chỉ nàng mới giải quyết được. Thà rằng tôi không thích nàng, không thương nàng thì cho dù mẹ tôi có ưng đến mấy cũng dễ dàng đối xử. Cưới vội trước khi nhập quân trường, không thể được; tôi không làm chuyện nực cười ấy được, và coi chừng chỉ làm nàng góa bụa sớm. Có lẽ chỉ còn cách nói thẳng sự thể chẳng đặng đừng rồi muốn đến đâu thì đến...

        Mãi suy nghĩ lại đang lúc đói tôi uống hết ly rượu lúc nào, đến khi lấy chai rượu rót thêm tôi mới chợt nhận ra bữa ăn quá thinh lặng.
        -Hai cô ban nãy hè nhau đấu tôi sao bây giờ im lặng thế... hay tại món nham ốc quá ngon nên lo ăn quên cả nói...
        -Đúng, ốc anh cử mò nên ngon hơn ốc mua ở chợ...
        -Cô giáo đâm nhẹ nhẹ thôi chứ nếu không tôi phải nhờ luật sư đưa ra tòa...
        -Thì ai không biết nhà anh có luật sư.
        -Kể cũng lạ, hình như thời buổi này trẻ thông minh sớm nên mới gõ đầu chúng ít tháng mà em có vẻ thông minh hẳn ra.
        -Vậy xưa nay anh coi tụi con gái chúng em là thứ đần độn lắm hay sao?
        -Em vừa nói chứ anh nào dám nói chi! Suốt cả buổi chiều những ai cứ hè nhau, kẻ tung, người hứng đấu anh tơi tả vậy?
        -Anh nói chi vậy? Anh chỉ có thua con rồng chứ ai mà đấu được anh tơi tả.
        -Em nói đúng, anh chỉ thua con rồng và con rắn, hai con cùng hàng, khác họ.
        Và thế là Loan nhảy quay lên,
        -Anh dám bảo em giống như con rắn, sao ngoa vậy...
        -Bộ em không con rắn thì con gì. Trai nhâm, gái quý; con gái Quý Tỵ mà vẫn không bằng lòng ư?
        -Vậy chị con rồng à chị Hà?
        -Đúng, cháu Hà sinh năm nhâm thìn. Bà Thành nói chen vô.
        -Anh theo dõi người ta kỹ quá nha; biết cả ngày sanh tháng đẻ... thế mà làm bộ như không biết. Không biết mới gặp nhau tám lần... Mẹ, anh Hùng và chị Hà biết nhau từ xa lắc xa lơ thế mà bố cấm con không được nói cho anh Hùng biết về chị Hà... Đó, bây giờ giữa thanh thiên, bạch nhật, anh Hùng và chị Hà thanh minh thanh nga thế nào để chứng tỏ hai người chưa biết nhau cho cả nhà nghe coi. Thế mà cả hơn năm nay làm em cứ ấm ức, tức chết được...
        -Em ấm ức về chuyện gì? Ở nhà mẹ bắt nạt em hay sao?
        -Dấu đầu lòi đuôi! Không thế mà mẹ cưng chị Hà hơn em ư!
        Tránh vỏ dưa, đạp vỏ dừa! Tôi chợt nghĩ, tại sao không xoay câu chuyện cho thêm thân thiện để chút nữa dễ nói chuyện riêng với Hà, và thế là tôi quay mũi dùi về Hà bắt đầu pháo,
        -Có phải mẹ anh cưng em hơn cái Loan không?
        Hà đỏ mặt, chưa kịp lên tiếng thì Loan lại liến láu,
        -Chối làm sao được... Cái gì cũng chị Hà; đi ra cũng chị Hà, đi vô cũng chị Hà. Con gái lượn qua lượn lại cả ngày không nhớ, bà già nhớ chị Hà, nhớ người dưng không hà... Đấy anh xem, nhà có mỗi cây ổi xá lị thế mà mẹ dành trái ngon nhất cho chị Hà thế có tức không...
        -Tiên sư con này nói bậy, mẹ tôi nhìn Loan, mặt tươi rói mắng yêu. Con cái gì mà cứ nói gian cho mẹ. Trái cây cả vườn đấy chị em bay bất hái sao nào tao biết gì mà cái gì cũng đổ cho mẹ.
        -Vậy dạo này mẹ ăn “rỡ” sao! Tôi phá ngang khiến cả nhà cười nghiêng ngửa...
        -Đấy, ông bà coi, con cái nhà tôi, chúng nó vậy đó... Mẹ tôi phân trần, rồi giục Loan,
        -Loan, con xem lấy tráng miệng ra mời ông bà dùng...
        Tôi quay qua Hà,
        -Mẹ anh đông vị tây vị thế nào mà cái Loan tố khổ dữ vậy?
        -Loan nói Loan là bà cô mà! Mặt Hà đỏ bừng...
        -Sao em không mách mẹ anh...
        -Hai người đang tính chuyện đấu bà cô đó phải không. Loan lên tiếng khi mang tô mãng cầu xiêm tráng miệng gần tới...
        -Thôi được, chút nữa mình nói chuyện sau. Phải tính kế hoạch rõ ràng, nếu không sẽ bị pháo tan tác...
        Cỡ năm giờ chiều, Hà phụ với Loan rửa chén bát đã xong, tôi rủ hai nàng đi dạo dọc theo đường giong. Nhà tôi ở cuối đường, phía trước là vùng ruộng thấp được hàng vè phân thành những ô lớn nhỏ khác nhau tựa như chiếc bàn cờ tướng không đều được chặn bởi một giòng suối đêm ngày êm đềm thầm lặng chảy tựa giòng đời chẳng đợi chẳng chờ ai. Quẹo tay phải ngay khi vừa bước ra khỏi cổng, con đường nhỏ dẫn sâu tới mút mắt, nằm chênh vênh phân chia đám ruộng nước và ruộng cao được phân định bằng hai dãy hàng cọc thấp tránh cảnh lấn bờ. Lác đác đây đó những người dân quê quảy đôi thùng “Ô doa” tưới những luống rau xanh mượt. Sát bên bờ suối là những đám ruộng cần nhắc nhở tôi món cần xào thịt bò. Thịt bò xào rau cần phải là những miếng pha gân hoặc tái vì có da, miệng nhai, tai nghe; tiếng dòn của rau cần nghiến giữa hai hàm răng nghe hòa lẫn vị ngọt thức ăn, khiến ăn hoài vẫn còn cảm thấy đói... Một vài đám rau diếp nổi bật màu vàng nhạt như gom tụ ánh nắng mặt trời nơi chiều quê êm ả. Tôi chưa biết phải bắt đầu như thế nào. Đàng nào cũng phải giải quyết nội chiều nay cho cõi lòng khỏi bức xúc. Vẳng từ phía hàng dậu bằng cây trồng, đôi tiếng heo kêu xuyên qua kẽ lá, Loan vội nói,
        -Thôi chết rồi, em quên cho heo ăn. Anh chị đi dạo, em phải về kẻo mẹ lại la “con nỡm,” đoạn quày quả trở lại.
        Tôi đánh bạo, nói những điều cần và phải nói,
        -Tôi không ngờ em lại ở ngay vùng này nhưng đã hơn năm nay từ ngày biết em mà không dám hỏi.
        -Tại sao vậy, hình như anh là hai con người khác biệt. Một ít nói, nghiêm nghị, một đấu hót lia chia khi trúng đài...
        -Tôi ít nói khi có nhiều người chung quanh có lẽ bởi mặc cảm mình con nhà nghèo, không muốn ai để ý tới.
        -Nghèo thì đâu phiền hà gì ai mà không muốn người ta để ý tới. Em thấy những người mang mặc cảm thua kém thường hay mang họ hàng nhà pháo lắm mà...
        -Họ nổ vì ít nhất họ cũng có dăm bảy bộ đồ thay đổi khiến ít người để ý. Tôi cả đời không bao giờ có được đến bốn bộ quần áo thì dễ bị nhận diện, thành ra ngại người ta để ý tới. Có lần một người bạn vô tình nhắc đến chỉ thấy tôi mặc ba màu áo, và từ đó tôi tránh diễu chơi với bạn bè... Thế nên không muốn tham dự những lần tụ họp. Từ khi gặp gỡ Hà lần đầu, mỗi khi được gọi tham gia, tôi phải dò hỏi xem có em ở đó không mới đi. Cũng lạ, em như cục nam châm hút tôi tới mặc dầu chỉ để ý theo dõi không dám đương đường làm quen; lỡ bí lắm, chỉ chào hỏi sơ qua...
        -Hèn chi em thấy anh ít nói nên thỉnh thoảng gặp, em cứ thắc mắc sao trong đám bạn bè trẻ trung, vui đùa ấy anh có thể nghiêm nghị mà lại tham gia với họ.
        -Em biết chuyện mẹ anh muốn hỏi cưới em cho anh bao lâu rồi?
        -Mới đây, trước lần gặp anh ở Lái Thiêu... Và cũng hôm ấy em chợt nhận ra anh có nét giống Loan. Thực ra, nghe Loan nói em không có một chút ý nghĩ nào vì chuyện hôn nhân đối với em chưa thấy cần thiết bởi còn đang học. Thêm vào đó, em có biết anh đâu... trong khi em đang để ý anh chàng khác. Em để ý thôi vì thấy hơi lạ và không hiểu sao em lại muốn biết về chàng ta...
        -Chúc mừng em đã có đối tượng. Em có thể nói chàng là ai không?
        -Tại sao anh chúc mừng khi biết em có đối tượng để theo đuổi...
        -Vì em sẽ không bị phiền hà về ý muốn của mẹ anh...
        -Em sợ bị phiền hơn... vì mẹ anh với má em là bạn hàng xóm xa xưa, xa lắc, xa lơ...
        -Má em ngăn cấm em tìm hiểu anh chàng kia hay sao...
        -Không mà còn nói ăn vun vào...
        -Thế thì sao lai phiền hơn...
        -Vì đó là anh chàng mà em đã để ý...
        -Anh đã gặp anh ta chưa?
        -Rồi, anh biết rõ anh ấy lắm nhưng không để ý đó thôi...
        -Tên anh ta là gì?
        -Anh ta chưa bao giờ giới thiệu tên mình cho em biết.
        -Và em không biết tên...
        -Có chứ, em nghe người ta gọi tên anh ấy nên biết.
        -Hà, em đang nói quanh quẩn vì ngại điều gì phải không?
        -Em đâu có nói quanh quẩn, có lẽ anh quanh quẩn nên nghĩ em quanh quẩn...
        Tôi quay nhìn Hà, nàng hơi ngước lên nhìn tôi. Nét mặt rạng rỡ không son phấn, đôi má hồng lên trong ánh chiều nổi bật giữa làn tóc đen buông thõng ngang lưng. Nàng ăn mặc thật đơn sơn, chiếc áo trắng tay dài, quần đen theo kiểu người miền Nam. Lòng tôi chợt cảm thấy rung động. Nhưng... quay mặt hướng về phía trước, tôi nhẹ nén tiếng thở dài...
        -Có chuyện gì khiến anh thở dài...
        -Tôi rất mến Hà, nói cho đúng, tôi thích Hà nhưng thân trai thời loạn không biết sao hơn. Tôi muốn nhờ Hà bằng cách nào đó xóa dùm ước mơ cưới Hà cho tôi của má tôi. Thực tâm, tôi không hề muốn nhờ giúp chuyện này nhưng không còn cách nào khác. Ít bữa nữa tôi nhập ngũ và chỉ sáu tháng sau ra đơn vị tác chiến, chẳng biết sự sống chết thế nào. Tôi không muốn tin nhảm hoặc nói dại nhưng cứ thắc mắc nguyên nhân nào đã thúc đẩy mẹ tôi muốn tôi cưới vợ sớm. Hà thử nghĩ coi, thà rằng nói chuyện cưới hỏi một hoặc hai năm sau khi tôi ra đơn vị thì còn hợp lý hợp tình. Ngay lúc này, tôi cảm thấy thật nhẫn tâm vì e rằng người vợ mới cưới chẳng bao lâu đã trở thành góa bụa. Lòng tôi chịu đựng sao nỗi, trong khi ý của mẹ tôi chẳng khác gì ý trời. Tôi không muốn nói dù chỉ một câu làm phiền lòng bà. Tôi hiểu lòng đơn sơ, chân thật của mẹ tôi nhưng không hy vọng gì bà nghe những lời giải thích của tôi. Cũng may, Hà đã có đối tượng nên dễ nói hơn...
        -Anh bảo em có đối tượng nào?
        -Người mà em để ý theo dõi nhưng không muốn nói tên...
        -Em để ý người ta thôi, lỡ người ta không để ý đến em thì sao...
        -Cái thằng dốt...
        -Anh nói ai dốt?
        -Cái người được em để ý mà không nhận biết.
        -Tại sao anh nói họ dốt?
        -Tại nó có mắt không tròng nên không biết được em để ý.
        -Em để ý thôi chứ người ta có để ý đến em đâu mà biết... Cũng có thể anh ta cố ý không biết hoặc không muốn biết hay dằn lòng không biết.
        -Anh ta biết hoặc không biết, cố ý hoặc không cố ý hay dằn lòng chi nữa cũng dốt.
        -Anh nói đấy nha. Chưa biết dù chỉ tên người ta mà đã la như thế thì khi gặp mặt anh ăn thịt người ta à?
        -Anh đâu có la, anh chỉ nói dốt.
        -Anh có bảo đảm mình thông minh hơn người ta không?
        -Chắc chắn...
        -Chứng minh...
        -Đã gọi là dốt đâu cần phải chứng minh.
        -Anh nói vì dốt nên không cần chứng minh vậy người dốt không chứng minh hay người bị nói dốt không cần biện minh.
        -Có lẽ anh dốt rồi... dốt nên mới phải nhờ em nói chuyện với mẹ anh.
        -Anh muốn em xúi mẹ anh cưới gấp em cho anh? Sao mà vội thế!
        Tôi trợn mắt nhìn nàng. Nàng vẫn tỉnh bơ, chỉ nhẹ mỉm cười. Đẹp! Dáng dễ thương thiệt, tôi thầm nghĩ và cứ dán mắt nhìn nàng...
        -Em lạ lắm sao? Nàng phì cười, đưa tay bụm miệng.
        -Công nhận em đẹp và dáng dấp dễ thương...
        -Nhưng thương không dễ!
        -Hà, em có nhận lời nói với mẹ anh giúp anh không?
        -Em sẽ nói nên cưới gấp nếu không uổng công xúc tép nuôi cò, cò ăn cho béo cò dò lên cây...
        Sao hôm nay nàng bạo và lỳ như thế này, lại còn cố ý vờn tôi như con mèo vờn chuột, tôi nghĩ...
        -Vậy em có ưng không?
        -Ưng gì! Em phải hỏi cái tên dốt xem hắn có để ý đến em không đã mới có thể trả lời được.
        -Chắc chắn là hắn để ý rồi, khỏi cần hỏi cũng biết.
        -Nhưng nếu hắn chịu cưới em thì em mới có thể nói với bác gái rằng em đã có chỗ chứ.
        Tôi chợt ngơ ngẩn lòng... Dẫu biết nàng đang dùng dằng đùa chuyện gì đó nhưng chỉ vừa nghe mấy tiếng, nếu hắn chịu cưới em, nỗi niềm tiếc nuối mơ màng nào đó vội trào dâng. Tôi đang phải đối diện với một trận bão lòng. Hình như tôi đã đậm thương nàng mà càng thương nàng càng cảm thấy phải chấp nhận cách xa nàng ít nhất hơn một năm bởi nghĩ đến những ngày sắp tới mông lung ngoài tầm tay với. Không nên biết thêm gì hơn về nàng để dễ dàng giải quyết, tôi thầm nghĩ. Một đôi người tưới rau đang sắp xếp quang gánh về làng. Tôi cùng nàng tiếp tục bách bộ tránh phải nhường lối.
        -Sao hôm nay em ở nhà...
        -Thứ hai, thứ ba em không có lớp. Em cũng mới ghi danh thêm bên Văn Khoa đầu niên khóa nhưng hàm thụ. Mai em trở lại nhà trọ. Thôi giỡn với anh bằng ấy đủ rồi. Anh yên trí đi, dù cho là anh hay bất cứ ai, vấn đề hôn nhân đối với em không phải chuyện một sớm một chiều nên không có chi đáng nói phải vội vàng. Em còn đang đi học mà mấy người lớn cứ làm như không gả vội thì sẽ bị ế. Thà rằng em chịu ế chứ không chịu nhắm mắt, nhắm mũi để cho bất cứ ai khác quyết định cuộc đời mình. Thực ra, khi thấy mẹ anh và mẹ em đôi khi nói chuyện về việc anh với em, em không để ý bởi em đã có quyết định rõ ràng. Thêm vào đó em nào có biết chi về anh ngoại trừ nghe loáng thoáng anh học bên Khoa Học và Văn Khoa. Nói cho đúng, được hai bà mẹ dự định, lo lắng cũng tốt thôi nhưng có lẽ tốt với họ. Đàng khác, để ý quan sát về cách đối xử nơi cuộc sống gia đình của những người chung quanh em thấy hình như lối sống hôn nhân của họ bị quá nhiều khiếm khuyết. Thí dụ, em không có chủ đích phê phán ai nhưng chỉ muốn nêu lên trường hợp cụ thể, Bác gái trước bữa ăn đề cập đến vấn đề, “Vậy rồi chừng nào tôi mới có cháu bồng. Anh xem nhà người ta đấy, ra có con, vào có cháu an ủi tuổi già.” Trời ơi, nàng lên giọng, câu nói nghe quá thường lại có vẻ đáng được tôn trọng nhưng khi chuyền đến tai em, em có cảm nghĩ việc lập gia đình hay cuộc sống hôn nhân chỉ là đem hai người ráp lại để kiến tạo một bộ máy đẻ...
        Giọng nàng nhẹ nhàng, du dương, thêm phần ngọt ngào, có lẽ tại tôi thích nàng nên cảm thấy thế vì nghe dễ thương lắm. Không ngờ nàng có lối ăn nói sinh động đến như vậy... và cũng vì mấy lần thấy nàng đỏ mặt nhưng không nói gì, tôi tưởng quá e thẹn nên không nói. Không phải thế, nàng bạo dạn đến độ quá tự nhiên phân tích, nhận định. Với hình dáng ấy, tâm trí ấy, nào tôi dám ước mơ gì hơn; nhưng...
        -Em nói không giỡn với anh nữa nghĩa là sao? Vậy từ lúc nói chuyện đến giờ em cố ý giỡn ư?
        -Hì hì... Tại anh quá lo lắng những chuyện không đáng lo hoặc vì mặc cảm sinh ra cao ngạo nên nghĩ ai cũng như ai nhất là thấy em thuộc loại nhà quê nên đã coi thường...
        -Sao em nói anh coi thường...
        -Anh không coi thường em mà e ngại phải cưới em sớm à! Ai cho phép anh cưới mà lo; bộ trên đời này hết người rồi hay sao mà anh nghĩ em sẽ chấp thuận lấy anh. Hứ, không coi thường nhưng chỉ thiếu thông minh... dốt!
        Nàng ngần ngừ, buông tiếng dốt khá nặng... và thế là tôi ngớ ra. Nàng nhận xét về tôi rõ hơn tôi biết về chính mình. Dĩ nhiên tôi không coi thường nàng nhưng chính sự lo lắng của tôi, chính vì quá cảm thương cho thân phận một người vợ xa vắng chồng nếu chuyện cưới hỏi xảy đến... Nghĩ đến đây, tôi thực sự cảm thấy mình quá ngố tầu... Người ta bảo con gái khôn sớm quả là có lý. Chỉ qua đôi lời nói đơn sơ, vô tình mà nàng lật tẩy chính tôi cũng không ngờ đến. Tôi chợt giật mình... thế ra nàng đã vờn tôi như con mèo vờn chú chuột nhắt mới bắt được. Tôi cảm thấy máu nóng dồn lên mặt vì thẹn... đành giả lã,
        -Thế ra ngay từ lúc đầu em đã có chủ ý chòng anh...
        -Bộ anh còn muốn bị chòng nữa hay sao mà dám nhắc tới.
        -Ai ngu gì, anh chỉ mới nhận ra. Phải công nhận em quá thông minh.
        -Láo lếu, người dám khen kẻ khác thông minh phải là người thông minh hơn... Hì hì... Tội chết không chừa cố ham cùi dừa bánh đa...
        Tôi nói ăn vô,
        -Ham là đúng rồi. Miếng mỡ để ngay miệng mèo mà con mèo không nhận biết phải là con mèo ngu.
        -Nó không ngu đâu nhưng dốt.
        -Sao em nói dốt.
        -Tại vì nó không giống người ta bởi nếu không dốt nó đã ngoạm miếng mỡ rồi. Nhưng có lẽ giờ muốn ngoạm cũng không được.
        -Thế em định học thêm văn chương làm gì?
        -Em muốn viết một cuốn sách hoặc truyện về hôn nhân.
        -Em đã ở trong hôn nhân đâu mà biết...
        -Đâu phải cứ đã ở trong cuộc sống hôn nhân mới biết. Em e rằng người trong cuộc sống hôn nhân không biết và nếu biết chỉ biết trong giới hạn nhỏ qua kinh nghiệm. Người đứng ngoài hôn nhân mới có thể có được cái nhìn trung thực, không thiên vị. Anh thử nghĩ coi, trước khi lập gia đình, người ta biết được những gì về cuộc sống hôn nhân nếu không chịu tìm hiểu, học hỏi. Đọc nơi thơ văn, em không thể tưởng tượng có thể có được muôn ngàn vần thơ, lời văn viết về sự nhung nhớ, tiếc thương người tình cũ. Những bài thơ tình thì buồn da diết, những chuyện tình cảm thì cứ đổ vỡ nhắng lên. Bộ cuộc đời này chưa đủ khổ ải hay sao mà các nhà thơ, nhà văn phải nhồi nhét vào tâm não con người những mảnh tình buồn thương như thế. Vớ vẩn, vì đọc thấy quá nhiều loại thơ văn kỳ cục ấy em thử suy nghĩ, rồi nhận xét, mới nhận ra con người đã không nhận biết bất cứ ý niệm nào về sự thể cũng như ý thức về cuộc sống hôn nhân. Có được mái ấm gia đình nhưng lòng dạ họ đâu cần biết gì đến người phối ngẫu do đó cứ than lên nỗi nhung nhớ, tiếc nuối người tình cũ. Đồng ý rằng những gì đã đi vào quá khứ mang ảnh hưởng tâm trí con người thường được thăng hoa, nhưng nhà thơ, nhà văn, đêm đêm ôm chồng hay ôm vợ mà phát ra những lời thơ, lời văn rên rỉ nhớ thương người tình cũ thì lòng dạ họ thế nào, vậy mà lại lấy làm hãnh diện với những tác phẩm độc ác, làm hư hại tâm hồn con người. Và những độc giả cảm nhận, ngậm ngùi với những thứ thi văn như thế phải là những loại người nào? Phải chăng họ mang đồng tâm trạng. Em cảm thấy mình có bổn phận chống đối, phơi bày lòng dạ những kẻ đang vô tình bơm vào đầu óc con người những điều chẳng nên như thế. Họ có biết đâu đã bao thế hệ bị tiêm nhiễm những điều chẳng ra gì khiến tâm não con người vô tình không để ý nhận định thực trạng hôn nhân của mình, quả là vô ý thức...
        Giọng nói của nàng nhẹ nhàng thanh thoát nhưng chất chứa vẻ hùng hồn, liên tục xổ một hơi, nhịp nhàng đôi tay cử động hùa theo bổ xung để cổ võ tâm tình đang được diễn tả. Mặt nàng đỏ bừng vì bầu nhiệt huyết phát sinh bởi nhận thức trào dâng... Tôi ngắm nàng đã mắt, lòng nghĩ, dáng dấp này, miệng môi này với bộ óc chất chứa suy tư được diễn dịch qua những lời nhận định như thế, sau này nàng làm luật sư có lẽ khối kẻ bị lột mặt nạ... bằng chứng là chính mình vừa vấp phải... Bỗng nàng nghiêng mặt nhìn, chợt thấy tôi im lặng đăm đăm nhìn nàng theo dõi, ngưng ngang, nàng hỏi,
        -Anh nghe em hay anh chỉ nhìn em?
        -Cả hai! Em sẽ là luật sư có tài biện chứng sau này. Không ngờ em để ý nhận định thực thể tâm thức con người qua thi văn kỹ quá...
        -Thôi trở lại nhà đi anh, mình đi quá xa rồi...
        Bóng chiều ngả dần, những làn gió nhẹ vương vương mùi vị đồng quê lẩn quất bay bay tà áo, làn tóc Hà. Tôi hơi chậm bước để lùi lại nhìn phía sau lưng nàng. Kiểu quần ống rộng may hàng vải nhẹ được gió thổi phồng tạo cho nàng có hình dáng của một bức tượng bà mẹ quê với đôi gót chân hồng theo nhịp bước...
        -Sao anh đi chậm vậy?
        -Anh muốn nhìn dáng em phía sau lưng.
        -Có gì đặc biệt không?
        -Thấy bắt mắt, nhưng đừng vội cuống kẻo chân nọ vấp chân kia té lăn kềnh giữa đường thì phiền lắm.
        -Thôi ông ơi, đi lẹ lên, ba má em chắc đang chờ...
        Tôi bước vội, đi ngang nàng.
        -Anh không hiểu hai bác chờ em có cảm thấy xao xuyến như anh đã từng chờ đợi gặp em không. Tôi giở giọng tán. Dĩ nhiên, có lẽ tôi mê nàng rồi mà tâm tư cứ dùng dằng trong khi lý trí lại đối nghịch.
        -Anh tán kiểu đó thiếu thông minh mặc dầu người nghe cảm thấy thích.
        -Vậy phải tán cách nào? Trời! Có lẽ tại em quá thông minh trong khi tôi dốt... quả là dốt.
        Nàng đưa tay,
        -Cầm lấy, không được nắm chặt...
        Lòng tôi run lên khi chạm tay nàng.
        -Anh đúng là nhát gái. Tại sao không nói cám ơn... Oái giời ơi, ngố.
        -Thà chịu mang tiếng ngố mà được cầm tay còn hơn thông minh nhưng nối đuôi.
        Miệng lưỡi tôi nào vừa chi nhưng lòng tôi thực sự cảm mến và tôn trọng nàng. Tôi nuốt nước bọt, muốn ôm lấy nàng hôn rồi thây kệ, đến đâu thì đến nhưng vội dằn lòng, làm như thế chỉ chứng tỏ lạm dụng, khinh khi nàng. Nhưng khốn khổ thay...
        -Anh muốn ôm em phải không... chớ dại làm ẩu! Đừng tưởng em thích anh mà lạm dụng được đâu...
        -Sao em có thể đọc được lòng ruột của anh như thế. Hay cứ để anh ôm em... ôm chút xíu thôi. Tôi giả đò ngớ ngẩn, nghờ nghệch.
        Thực ra, tôi thèm ôm nàng lắm, thèm chảy nước miếng nhưng lý trí tôi không cho phép bởi tận đáy lòng, tôi rất tôn trọng nàng. Bởi tôn trọng nàng, thế nên không muốn bất cứ gì tạo cho nàng có ý nghĩ vẩn đục về tôi. Tôi không muốn mất nàng. Chẳng những thế, tôi e ngại nàng khinh khi tôi là lạm dụng. Một con người biết xử dụng lý trí suy luận như thế, những cử điệu vô tình theo cảm nhận coi chừng sẽ bị kết án thành khinh khi. Tôi phải biết tự trọng để khỏi bị kết án là coi thường nàng; và nếu một khi nàng đã in trí như thế, kể như mất, mất cả chì lẫn chài, tôi lặng tâm tính toán.
        -Em không giỡn đâu nghen! Giọng nàng đanh chắc. Mỗi người có một giới hạn, và em không muốn bị tình cảm chi phối nhận xét để quyết định chuyện phải đến. Em mến anh lắm nhưng không phải vì thế mà để cho anh có những thái độ khinh khi em... Anh làm ơn nhớ một điều, chớ dại làm ẩu rồi xin lỗi. Em không bao giờ chấp nhận lời xin lỗi vì giả sử giết chết người ta rồi, xin lỗi có làm cho người ta sống lại được không. Em nghĩ, anh hiểu em muốn nói gì.

        Nàng nói gì tôi đâu cần biết vì lòng dạ đang bay bổng. Kể cũng lạ, nắm nhẹ bàn tay mềm mại của nàng thì có bổ béo chi hơn đâu nhưng sao nó phê ơi là phê! Có lẽ mình nhát gái thật, tôi tự nhủ, nhưng không sao, được đàng chân, lân đàng đầu mấy hồi. Hai đứa tay nắm tay sánh đôi dạo bước nơi cảnh chiều quê, ai nhìn thấy mà không cho là tình tứ, nhưng họ đâu biết nỗi lòng tôi đang xáo trộn lung tung. Bóng Loan xuất hiện nơi ngõ khiến Hà dụt tay lại nhưng tôi kịp nắm chặt bàn tay thon nhỏ.
        -Để cho Loan nhìn thấy vì chút nữa cần nhờ cô ta mở đầu câu chuyện. Tôi nói nhỏ.
        -Nhưng chỉ làm người lớn hiểu lầm thêm...
        -Bố anh không hiểu lầm đâu. Anh cần em nói giúp cho mẹ anh yên lòng, nếu không, phiền lắm.
        -Tình ghê nơi! Mời anh chị về dùng chè. Loan cất tiếng khi bước đến gần.
        -Chè gì? Ai nấu mà có sẵn vậy?
        -Chè đậu đen ăn cho mát dạ, mau có cháu cho mẹ bồng.
        -Cháu nội hay cháu ngoại? Tôi nhẹ siết tay Loan ra dấu im lặng để tôi khới chuyện.
        -“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô,” sao anh còn giả vờ không hiểu. Chẳng lẽ anh quên câu, “Cháu ngoại vác mai qua mồ...” ư?
        -Hổng chân rồi bà cô ơi!
        -Sao anh nói hổng chân?
        -Hà muốn học cho xong...
        -Thế anh nghĩ sao?
        -Anh đâu có quyền nghĩ. Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó cho trọn đạo hiếu thì nghĩ chi cho mệt, mà có nghĩ cũng chẳng thể thay đổi được gì thì đâu cần phải nói đến nghĩ hay suy.
        -Vậy chừng nào trở lại trường, chị Hà? Loan hỏi Hà khi chúng tôi vừa bước tới hàng hiên, cùng lúc tôi buông tay nàng.
        -Sáng mai mình đi sớm để rộng giờ ôn bài cho ngày mốt đi lớp.
        -Và chuyện của anh chị giờ tính sao đây?
        -Còn nhiều thời gian mà. Hà trả lời. Hãy để anh Hùng yên tâm dự khóa huấn luyện sĩ quan và lấy cho xong cử nhân văn chương, hơn một năm nữa chứ mấy, lúc ấy mình cũng đã xong năm thứ ba luật, rồi tính chuyện đại, tiểu khoa cùng lúc không vui hơn sao. Hơn nữa, dẫu sao mình cũng cần thêm thời gian suy nghĩ, cân nhắc, bởi một cuộc hôn nhân thiếu hiểu biết, thiếu chuẩn bị, chỉ là cùng nhau kiến tạo cuộc đời khốn khổ nếu không muốn nói tiến đến sự đổ vỡ.
        -Nhưng trai thời loạn... Loan ngập ngừng có lẽ bị thấm nhập nặng nề quan điểm của mẹ tôi.
        -Trai thời loạn thì đã sao. Mình nghĩ, nếu có chuyện gì xảy ra, thì thà rằng ở giá chứ không muốn làm gái goá suốt đời ôm mộng hờ. Hãy đặt Loan vào vị thế của mình, Loan sẽ có nhận định chín chắn hơn.
        Dĩ nhiên, người lớn trong nhà nghe rõ ràng đầy đủ. Tạ ơn trời, tôi không phải lo nghĩ chi thêm và mẹ tôi cũng không thể hối thúc được gì trong suốt thời gian gần hai tháng tôi ở nhà lo chăm sóc vườn tược, rẫy chuối... Từ nhỏ tới lớn, cuộc đời tôi được bao bọc, ấp ủ nơi truyền thống và lề lối sinh hoạt hòa với nền văn hóa dân tộc được giới hạn bằng liên hệ với người đồng thời tùy thuộc nơi ăn chốn ở nên thường chỉ sống và suy nghĩ theo thói quen đã được tiêm nhiễm qua kiến thức hay khuôn mẫu sẵn có một cách bất thành văn và rất ít khi tìm hiểu về kho tàng văn hóa thành văn. Từ khi nghe Hà nói lên ước mộng phát sinh từ nhận định về khía cạnh nhận thức được phát hiện nơi phương diện tình cảm chất chứa nơi thi văn , tôi đã suy nghĩ khá nhiều về từng phương diện liên hệ tới cuộc sống, đặc biệt chú ý tới ý nghĩa ẩn tàng nơi khía cạnh nào đó của sự thể được chấp nhận như một sự bình thường. Càng suy nghĩ, tôi càng cảm phục bố tôi. Những câu chuyện, những vấn đề ông đã nói với tôi dường như chia sẻ quả là một gia tài nhận thức mà đã bao lâu nay tôi không để ý, giỏi lắm thì cũng chỉ chấp nhận một cách phiến diện theo lẽ đúng sai, phải trái hầu tránh phải đối diện những phiền hà có thể xảy đến do sự vô ý của mình. Nay Hà chỉa mũi dùi nơi phương diện tiềm thức chất chứa phía sau những lời thi, văn, nhận định này như ngòi nổ thức tỉnh tôi phải đặt lại vấn đề thay vì trạng thái tâm thức ngủ yên nơi khung giường êm ái văn hóa đã được dọn sẵn. Có thể nhận định của Hà phần nào thúc đẩy tự ái của tôi. Tất nhiên, tôi mang niềm hãnh diện của một con người tạm được gọi là có học thức, có sẵn vốn liếng để suy tư nhưng đã không biết xử dụng khả năng nhận thức nơi mình vì còn thiếu kinh nghiệm thực tế. Cũng may, tôi chưa phải trả giá vì chưa phải đối diện với cuộc đời. Thế nên, càng để ý nhận định, tôi càng cảm mến Hà hơn; lòng cảm mến này chẳng khác gì ngọn lửa hồng lan nhanh biến hóa chiếm trọn tâm trí cũng như thúc đẩy tôi phải tự suy tư, nhận định nếu không sẽ tụt hậu, không thể nào tương xứng với nhận thức đang đà phát triển nơi tâm tư Hà.

        Sáu tháng huấn luyện quân sự qua mau, tôi xin được về sư đoàn 18 đóng quân trải dài từ khu vực Long Khánh đến Vũng Tàu nên vẫn có cơ hội về thăm nhà và Hà. Nàng đã xong năm thứ ba luật khi tôi thi năm thứ tư Văn Chương Quốc Aâm, thế nên chúng tôi dự định sẽ cưới nhau sau khi nàng học xong bốn năm luật. Tình hình chiến sự mỗi ngày một gay go nhưng nào ai có thể dự đoán trước những gì sẽ phải đến, nhất là với vị thế sĩ quan tác chiến như tôi. Vừa được gắn lon chuẩn úy về trình diện tiểu đoàn trưởng, tôi bị lãnh trách nhiệm đại đội phó đại đội trinh sát. Ngơ ngơ, ngáo ngáo với kiến thức học đường, nào có bao giờ Khoa Học và Văn Khoa dạy cho tôi những phương pháp tự lực mưu sinh, phải làm sao theo dấu quân địch, khi bị dồn vào thế bí phải như thế nào cho khỏi bị nhận diện, trong khi mình lại là cấp chỉ huy mặt búng ra sữa, ngố nghế nhưng bị du vào thế cùng, tôi chỉ còn nước tìm học kinh nghiệm.
        -Ông thày không có gì phải lo lắng. Ông không có tướng chết non đâu mà e ngại, coi chừng lên lon đến nơi, tôi dám bảo đảm như thế. Nếu nội trong ba tháng, ông thày không lên lon, cứ nọc tôi ra mà oánh, tôi không một lời than trách. Vị thượng sĩ da mặt rắn rõi đoan chắc với tôi. Ông cỡ chừng trên dưới năm mươi.
        -Bác nói quá, cháu chỉ đáng tuổi con lớn của bác mà. Bác đừng gọi cháu bằng ông thầy, cháu mang tội với trời đất.
        -Ông thầy năm nay bao nhiêu, coi chừng chỉ lớn hơn con gái tôi ba hay bốn tuổi là cùng.
        -Thôi mà, nói không nghe, phạt bác hút điếu thuốc. Tôi đưa tay mời bác thượng sĩ điếu thuốc Capstan. Từ ngày vào quân trường tôi sinh thêm tật xấu học đòi hút thuốc. Người thượng sĩ đưa hai tay đón lấy điếu thuốc và tôi bật quẹt trong khi nói,
        -Cháu mới 23, có lẽ thua tuổi con bác.
        -Tôi trông già vì dãi dầu sương gió bởi thích sống với cảm giác mạnh của nghành trinh sát. Năm nay tôi mới 42 tuổi và con gái lớn của tôi mới 20. Chuẩn úy hơn con gái tôi ba tuổi. Sắc diện của chuẩn úy tươi nhuận, nước da sáng lắm, chắc chắn thăng quan tiến chức đến nơi.

        Tôi không nghĩ gì vì mới về nhận đơn vị được mấy ngày. Chuẩn úy Thủ Đức, phải ba năm sau mới lên lon mà thăng quan nỗi gì. Đùng một cái hơn tháng sau, chiến dịch Hạ Lào phát động, đại đội trinh sát tất nhiên đi hàng đầu, tôi chỉ còn biết kiếm vị thượng sĩ bàn hỏi sau khi nhận mệnh lệnh và phân chia công tác với đại đội trưởng. Ông chỉ vẽ mánh mung nhà nghề và hứa sát cánh với tôi. Chưa đầy một tháng, vị thiếu úy đại đội trưởng tử trận vì pháo kích trong khi tôi hướng dẫn tọa độ để đại đội pháo binh giã nát một toán quân địch cấp tiểu đoàn nhờ công lao vị thượng sĩ già chỉ mánh lới kề bên. Nghĩ đến mà ớn da gà nhưng phải công nhận gừng càng già càng cay. Nếu không nhờ vị thượng sĩ, có lẽ tôi đã bị bỏ thây vùng Hạ Lào.
        -Ông thầy, định tọa độ và xin một loạt năm trái khói để chúng án binh binh bất động và nội trong vòng 3 phút điều chỉnh tọa độ cho chính xác tặng cho chúng một trận mưa hồng, nhớ nói cấp tiểu đoàn, đoạn rút thật lẹ tránh lạc đạn.

        Đêm hôm ấy, tôi, vị thượng sĩ, và hai binh sĩ trinh sát chia nhau ngủ trên mấy tàn cây lớn lưng chừng dãy đồi cách một con đường mòn phía dưới cỡ ba trăm thước. Muỗi rừng con nào con nấy đen thui, kềnh càng phụ họa với hàng ngàn con vắt đỏ lòm dường như có thần giao cách cảm đã chầu chực sẵn, xà đến hút máu mỗi khi có hơi người bước qua. Đụng với thực tế tôi mới hiểu được tại sao vị thượng sĩ mới 42 tuổi mà có nước da khắc khổ trên dưới năm mươi. Thuốc thoa muỗi, chống vắt bọc kín đầu tóc, mặt mũi và đôi tay tạo cảm giác thật khó chịu. Chỉ hở chút môi không bôi, con vắt cũng chình ình vắt vẻo. Lần đầu tiên gặp cảnh này tưởng là đọt lá non rơi trúng, tôi đẩy lưỡi định thổi cho bay đi. Giật mình! Và thuốc muỗi được đắp lên, tôi cảm thấy vị đắng ngắt tạo cảm giác buồn nôn nhưng cố nín. Vị thượng sĩ và hai người lính tướng cách như những con sóc luồn lạch trong rừng. Tôi nhớ lời dặn tránh gây tiếng động đến mức tối đa, lẽo đẽo theo họ nhưng lắm lúc vẫn khiến họ giật mình quay lại.

        Khí hậu ẩm thấp của miền rừng núi Hạ Lào khiến tôi trằn trọc, nằm lắng nghe tiếng muỗi vo ve, tưởng tượng đàn vắt bâu kín chờ chực phía dưới chiếc võng toòng teng mắc giữa hai cành cây lớn được che khuất bởi tàn lá. Gần bên cỡ một cánh tay duỗi, tiếng thở đều đều của vị thượng sĩ vọng sang, chắc ông đã ngủ.
        -Ông thầy nên nhớ, lúc ngủ, cái đầu phải lật nghiêng để khỏi ngáy. Nơi rừng cây thinh lặng, tiếng ngáy luồng dưới cành lá vang đi rất xa chẳng khác gì báo cho địch quanh đó đến thộp cổ mình.

        Hình như có chuyện gì quanh đây, tôi chợt thức giấc cảm thấy lòng dạ nao nao lúc trời chưa kịp sáng. Ngóc đầu đưa tay vẹt tấm bạt dù vắt ngang dây cột phía trên tránh sương định ngồi lên cho đỡ mỏi cổ. Một vài đốm sáng nhá lên lọt qua kẽ lá. Tôi đã để ý, tối qua đâu có đom đóm mà sao sáng nay có đốm sáng. Tôi ngồi lên, lựa thế tránh lá che tầm nhìn. Có tiếng ì ì xa xa vẳng tới giống như tiếng máy nổ, vài phút sau tắt hẳn kèm theo tiếng nổ hơi lớn hơn. Với chiếc ống nhòm treo đầu võng, tay trái nắm chặt dây căng ngang phía trên, tôi nghiêng người nhìn qua kẽ lá. Một vài hình ảnh mờ mờ giống như người di động. Đeo ống nhòm vào cổ, đổi tay níu dây, tôi đưa tay trái đập nhẹ nhẹ đánh thức vị thượng sĩ trinh sát. Đoạn đưa ống nhòm cho ông và lấy tay ra hiệu chỉ chỉ về hướng địch quân.
        Vị thượng sĩ trả lại ống nhòm cho tôi khẽ nói,
        -Địch chuyển quân cấp tiểu đoàn, năm chiếc tăng. Xuống lẹ, để tôi kêu hai thằng em và rút ngược về hướng đông. Trong khi đi, ông thày định mốc pháo.
        Tôi dùng ống nhòm nhìn lại, trời mờ sáng, để ý vị trí và đặc tính tàn lá cây cao nhất làm chuẩn căn trái khói, đoạn lẹ làng tháo võng tụt xuống khỏi cây. Ba lô trên vai thì tôi đã nhẩm định được vị trí cho trái khói, nhưng để chắc ăn, tôi nhẩm tính lại. Chuẩn sữa còn nặng hơi học trò nhưng lúc đụng chuyện cũng không đến nỗi tệ. Thì nào khó gì đâu, nghề của tôi là toán học, con đường ngoằn ngoèo ghi rõ trên bản đồ tôi đã để ý chiều qua, và ước lượng địa điểm ngay nơi khúc quanh nhiều cây cổ thụ tàn lá rườm rà. Tối qua tôi ngờ nghệch định ngủ lại khu rừng ấy nhưng vị thượng sĩ nói không nên mà phải lên lưng chừng đồi kiếm lùm cây độc lập giữa vùng cỏ thấp ít ai nghĩ đến vì quá trống trải và ngại tới lui.

        Cỡ mười phút sau, tôi trèo lên ngồi trên nháng cây giữa bụi rậm, lưng đeo máy, tay cầm ống nhòm quặp hai chân nơi một cành nhỏ e lỡ mất thăng bằng. Năm trái khói trúng chóc phía trên đầu dịch, và cơn mưa hồng tràn xuống. Bốn người chúng tôi chạy thục mạng ngược về hướng đông để trực thăng bốc. Bốn chiếc oanh tạc cơ vần vũ sau cơn mưa khi chúng tôi bước lên trực thăng.
        -Ông thầy, chuẩn bị đeo lon mới, vị thượng sĩ nói nhỏ với tôi trong khi tôi còn mãi để ý theo dõi những cụm khói bốc lên cách xa cỡ hơn hai cây số.
        -Đó là công lao của bác, sao lại tôi.

        Lên lon, lên chức đại đội trưởng đại đội trinh sát nhưng tôi vẫn cảm thấy mình ngờ nghệch nên bám riết vị thượng sĩ. Con nhà nghèo do đó vẫn còn mang mặc cảm dẫu nơi vị thế đại đội trưởng trinh sát, thái độ của tôi đối với thượng cấp và binh sĩ tương đối khá nhã nhặn khiến tôi nhận ra cho dù mặc cảm là điều bất lợi nhưng cũng phải nhờ nó tôi mới tránh được những thái độ hống hách làm bực lòng người. Vị thượng sĩ được tôi mời về nhà khi tình thế đã tạm yên để mừng lên lon, tôi gọi thế, lúc đã ngà ngà, bấm mấy đốt ngón tay, miệng lẩm bẩm chi đó tính toán đoạn nói với tôi,
        -Ông thầy chịu khó nhẫn nhịn dùm cho tôi sáu tháng. Tôi nói nhẫn nhịn có nghĩa nếu thái độ của ông thầy trước sau cứ như đã đối xử với anh em trong đại đội những ngày qua, ông thày phải đãi tôi hai bữa nhậu mới đã, và thêm bảy ngày phép về thăm bà xã du dương mối tình già. Ông thầy dám hứa với tôi không?
        -Bác nói hứa chi? Loan chêm vô. Hứa chịu khó nhẫn nhịn hay hứa cho bác nhậu và nghỉ phép thăm bà xã du dương mối tình già?
        -Cô em quí tỵ phải không, cô bằng tuổi con gái lớn của tôi; vị thượng sĩ vừa gật gù vừa nói. Trai nhâm, gái quí. Nếu nhà tôi ở gần đây, tôi xin phép được cho con tôi làm bạn với cô. Cháu không thanh bai như cô vì con nhà nghèo phải làm lụng cực khổ, nhất là có bố đi lính, nhưng cặp rắn đi chung với nhau có ngày thiên hạ đánh lộn bể đầu.
        -Bác quên trả lời rồi...
        -À, à, tôi nói hứa cả ba chứ không phải một trong ba. Ông thầy tôi sáng giá lắm mà. Nhưng cô em này, hà hà, phải xa cách ông thầy tôi dăm năm và tôi không được uống rượu mừng. Đáng tiếc! Ông hướng về hà nhắn nhủ... nhưng nào có ai để ý.

        Hơn sáu tháng sau tôi được gắn lon trung úy và cuối năm 1975 tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Gia đình bảo trợ có hơn năm trăm mẫu đất nuôi bò, trồng bắp. Ngày ngày tôi được chở tới đại học cộng đồng học anh văn và khi ở nhà phụ giúp họ trong những công việc nông trại. Hơn năm sau, nhận thấy cảnh ăn nhờ ở đậu, làm công không lương chẳng bao giờ có thể vươn lên được, tôi nộp đơn xin việc tại một hãng in và cùng với một người bạn thuê chiếc nhà tiền chế sống tạm, ngày đi làm, tối đi học chuẩn bị cho những ngày dài trong tương lai. Sáu năm sau, tôi đã lấy xong cử nhân điện toán. Cắm đầu cắm cổ học trong khi ngày làm tám tiếng kiếm miếng ăn, tôi đã không để ý dò hỏi trước những điều cần thiết nơi cuộc sống ở đất cờ hoa. Đến khi học gần xong đại học, nghe loáng thoáng đây đó về vụ bảo lãnh người nhà đồng thời gửi đơn xin việc, tôi mới vở lẽ mình đã không biết để xin nhập quốc tịch trong thời gian năm năm từ khi định cư. Tôi nộp đơn thi quốc tịch đồng thời làm giấy tờ bảo lãnh gia đình, và chờ bổ túc hồ sơ khi đã có quyền công dân. Rán nhẫn nhịn cày thêm mấy năm để lấy thêm bằng cấp MBA trong khi đợi đoàn tụ, tôi lại gặp phiền hà về liên hệ lý lịch khi nộp đơn làm việc nơi một cơ quan dân sự thuộc ngành hải quân Hoa Kỳ.

        Kể ra bọn phù thủy mắt xanh này cũng giỏi, những liên hệ lý lịch tôi kê khai chỉ độ hai tuần sau, tôi được gọi tới văn phòng và được trao cho một xấp giấy in, hình ảnh kèm theo chi tiết ghi rõ ngày tháng tôi nhập ngũ, nơi nào, ở đâu, mang chức vụ gì. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là có cả hình ảnh bố mẹ, Loan và Hà. Việc bảo lãnh đoàn tụ của tôi bởi không biết nên đã ghép thêm Hà vào danh sách do đó bị đình chỉ chờ cứu xét. Tôi đã phải nộp lại hồ sơ và bảo lãnh Hà theo diện hôn thê. Loan vì đã có gia đình nên lọt sổ. Chồng nàng là bác sĩ quân y còn đang trong trại cải tạo nên sẽ được sang Hoa Kỳ theo diện HO.

        Đi làm được hai năm, tôi đã có thể mua được căn nhà ba phòng coi cũng tạm được. Dân tị nạn mua nhà lớn quá chỉ tổ cho người địa phương nhòm ngó, ghanh tị. Sáu tháng nữa bố mẹ tôi sẽ qua cùng với Hà, thời gian chờ đợi cũng chẳng là bao, tôi phải đi thăm nàng bán hoa. Một đêm nằm bằng năm ở, món nợ ân tình dẫu không ai bắt phải trả, nhưng tôi vẫn phải mang. Cô bé con ông bà chủ ngày xưa nhõng nhẽo gì cũng chú để rồi mơ tưởng chú là anh nay đã chồng con đề huề. Chồng nàng là vị bác sĩ khá nổi tiếng, hốt tiền như nước nhưng cái ngang ngạnh tự lập của cô bé muốn vác ách vào thân mở tiệm hoa. Con cái nàng đã lớn, có lẽ ngồi nhà nấu cơm chờ chồng được coi là đáng chán nên mở tiệm hoa khoe bà con nụ cười duyên dáng. Vợ bác sĩ bán hoa, tôi phải đi thăm nàng, ít nhất một lần tỏ lòng cảm ơn được bố mẹ nàng cho làm khách trọ những ngày còn ngây thơ.
        lmt

        #4
          lamongthuong 23.12.2016 12:54:37 (permalink)
          .
            HẮN
           
          Hắn đến nhà tôi như một tên thất nghiệp, bơ vơ, bị đời bạc đãi. Có thể nói, hắn tứ cố vô thân bởi đã hai tháng nay, từ ngày hắn tới, tôi không thấy hắn hé môi nhắc nhở gì đến gia đình, họ hàng thân quen cũng như vợ con. Hắn âm thầm câm nín dù đã bao lần tôi dò hỏi mà hắn vẫn không, dẫu chỉ một lần, lên tiếng trả lời. Phỏng hắn câm, tôi không nghĩ thế vì ngay buổi đầu gặp gỡ, hắn tỏ ra mừng rỡ, miệng lắp bắp gì không rõ vì tôi đang quá bận rộn. Mời hắn vô nhà, hắn đứng lỳ ngoài cửa nhìn tôi chằm chằm. Tôi hỏi hắn đói không, hắn cũng chẳng thèm nói. Lúc ấy cũng là giờ cơm trưa, vừa quay vô định dùng bữa, tôi nghĩ đến sự tội nghiệp của kẻ đứng chờ nên đành năn nỉ hắn vô ăn trưa. Nhưng không, hắn vẫn lỳ lợm nhìn tôi chằm chằm, chẳng nói chẳng rằng. Tôi quay vô, lấy vội phần ăn đem ra cho hắn. Hắn thờ ơ, nghếch đầu nhìn nơi khác. Vừa cảm thấy khó chịu, vừa bực mình với tên khách bất đắc dĩ kỳ cục này, tôi bỏ đại thực phẩm xuống lối đi bởi mang trở vô thì quê vì đâu ai tiếc những món ăn đã được nấu sẵn với một kẻ chơ vơ, lang thang. Quăng thực phẩm đi thì tiếc bởi sẽ mang mặc cảm phí phạm của trời, tôi đành chấp nhận thế. Vì không có bàn ghế xếp trước cửa nhà nên, đã lỡ bực mình, do đó đành thử bỏ đại xuống lối đi đối với tên khách lạ này một chuyến. Dẫu thế, chưa kịp trở lui vì chỉ mới xoay người quay lại, hắn đã vội vã ngấu nghiến ăn lấy ăn để tô thực phẩm tôi vừa bực mình bỏ xuống hình như e sợ tôi hứng bất tử đổi ý chăng.
           
          Và cũng từ thời điểm đó, hắn ở lỳ tại nhà tôi. Hằng ngày, tôi cung phụng hắn, nấu ăn, lấy nước cho hắn uống; lỡ hắn ham mê quanh quẩn đâu không thấy, tôi lại phải đỏ mắt tìm kiếm. Nhiều khi hắn đi đâu rong chơi cả đêm, đi đâu không biết, sáng về tới nhà, lăn quay ra ngủ, ngủ từ sáng tới trưa, từ trưa tới chiều, dường như nhờ những giấc ngủ này hắn lấy lại năng lực đã tiêu hao suốt đêm qua. Bữa trưa, bữa chiều, tôi sắp đồ ăn cho hắn, sau khi mở cặp mắt mơ mơ màng màng, lờ đờ liếc tôi, hắn uể oải vươn vai, duỗi chân chẳng biết bao nhiêu lần rồi mới thèm lững thững tiến đến cỗ đã dọn sẵn. Nào đâu đã hết, đói thì ăn, dẫu ăn xong lại ngủ, hắn vẫn lờ đờ ngó những món ăn, nghếch đầu ngắm đông, ngắm tây, nhìn trời, xem đất một hồi đoạn mới thèm liếm láp. Ngay sau khi uống nước, hắn lại lăn quay ra ngủ, bạ đâu nằm đó khiến lắm lúc tôi bực điên cái đầu. Và thế là, hai tháng trước, hắn hiện thân như một kẻ ăn nhờ ở đậu, nay đương nhiên là chủ tôi phải cung phụng. Nhiều khi tôi nghĩ hay là tống cổ hắn đi nơi khác cho đỡ phiền. Tuy nhiên, suy đi tính lại, có hắn kè kè bên cạnh cũng đỡ trống vắng nhà cửa. Có điều, bất cứ ai ghé qua, hắn cũng tỏ thái độ niềm  nở đón tiếp dẫu miệng lưỡi lười lĩnh lên tiếng đến độ con ruồi bậu vô cũng không thèm đuổi.
           
          Thế ra tôi thích hắn; khi tự nhận định thái độ của mình đối với hắn. "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang," ông bà mình để lại câu nói như thế. Riêng đối với tôi, hắn vào nhà thì tôi biến thành tên đầy tớ đã không được trả lương thuê mướn mà còn chấp nhận  chịu tổn ải chẳng những tiền bạc mà cả thời giờ hầu hạ hắn.
           
          Đôi khi có cơ hội được mời ăn cơm khách, tôi lại phải lấy phần về cho hắn. Xưa nay, có bao giờ tôi lên tiếng xin xỏ ai bất cứ vật gì, điều gì đâu. Tự nghĩ, những gì người khác đã mua sắm, tất nhiên họ cần hoặc thích mới mua. Lỡ vô tình khen vật gì đó của người ta mà chẳng đặng đừng bị họ nghĩ mình thích nên lên tiếng tặng hay cho, lời khen của mình trở thành thứ dọa nạt để ăn cướp và ép chủ nhân phải vui vẻ tặng. Tôi nghĩ như thế nên lúc gặp trường hợp này đành phải năm lần mười lượt giải thích rằng tôi không cần hoặc không có chỗ để "Chưng" món đồ đẹp đẽ đó, thế mà vẫn khiến chủ nhân món đồ ấm ức, dường như nghĩ rằng có cơ hội tặng tôi món đồ và được tôi chấp nhận tất nhiên quả là quá may mắn. Một đôi lần vì bị nài ép phải nhận món đồ mà tôi đã lỡ miệng khen, tôi đành phải phá ngang trả lời, "Tôi không muốn khen món đồ để ăn cướp nên có thuê tôi cũng không lấy. Thấy đẹp thì khen chứ không muốn khen để ăn xin." Bởi đó, tham dự tiệc mời, dù cho có món ăn nào thích đến mấy, ngon đến mấy, chủ gia muốn tôi đem một ít về, tôi cũng không nhận. Đã ăn chực nhưng được mời mà lại gói ghém của nhà người ta mang về, không ăn cướp thì cũng ăn giật; tôi không cần phải làm những chuyện này. Thế mà từ khi có hắn, cứ mỗi lần được mời đi ăn chực, vì e hắn đói, tôi đành chấp nhận tán tận lương tâm giựt của người ta thêm ít đồ ăn về cho hắn.
           
          Mà nào hắn tử tế gì cho cam! Không bao giờ nấu bất cứ món gì, hắn chỉ chờ ăn sẵn. Ăn xong, không thèm lấy nước uống, tôi lại phải hầu. Chén bát không rửa, và đứa rửa lại là chính tôi. Hắn làm ngang như tôi mang nợ hắn từ tiền kiếp nào đó. Chẳng bao giờ có được lời nói hay thái độ tỏ ra biết ơn, hắn mang bộ dạng của một ông chủ, đương nhiên được hưởng thụ sự hầu hạ của chủ gia đã cho hắn ở nhờ.
           
          Chẳng những thế, bởi lười nấu ăn, tôi mua thực phẩm bán sẵn ở chợ đem về cho hắn. Hắn phớt lờ ra bộ thứ thực phẩm đó không đáng cho hắn ngó ngàng tới, hoặc hắn cao trọng như thế mà bắt hắn phải ăn cơm hàng, cháo chợ! Lắm lúc bực mình, tôi nghĩ bụng, thây kệ, không ăn thì đói, và lúc đói tất sẽ phải ăn nên bỏ đi làm chuyện riêng của mình. Khi rảnh việc ngó lại, à thì ra hắn cũng ăn, nhưng không muốn cho tôi biết hắn chấp nhận làm tôi mọi cái bụng lúc đói. Và bát đĩa vẫn còn bày ra đấy; đương nhiên tôi lại lui cui dọn dẹp!
           
          Nếu có thày dùi nào lên tiếng nói rằng tôi mang nợ tiền kiếp hay truyền kiếp với hắn để kiếp này phải phục dịch hắn như một ông chủ, còn quá ông chủ là đàng khác, tôi không chấp nhận vì hắn không có gì đáng để có thể so sánh với tôi phương chi là chuyện chủ tớ. Phục dịch ông chủ sẽ được trả lương, sẽ được bao ăn ở và phải được nghe những lời cảm ơn khiêm tốn dầu lời cảm ơn phát ra từ miệng lưỡi ông chủ. Đàng này, hắn chỉ là tên tứ cố vô thân, trên răng dưới dế, không có túi để đựng đồng xu thì sao có đồng xu dính túi. Hắn chỉ lười ỳ ra đấy. Đuổi đi không nỡ, giữ lại đành chấp nhận làm của nợ. Có lẽ bởi hắn là của nợ nên không cần nói tiếng cảm ơn. (Không hiểu hắn nghĩ gì.)
           
          Tục ngữ có câu, "Chó vào nhà thì sang." Sang đâu không biết, chỉ biết tôi phải hầu hạ hắn vì hắn là con chó tự dưng đến và ở lại nhà tôi.
           
          lmt
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.12.2016 13:01:22 bởi lamongthuong >
          #5
            lamongthuong 24.12.2016 13:38:20 (permalink)
            .
            Con Bà Sơ


            Cầm xiên vơ gọn những sợi mì lên chiếc muỗm mà mình nghĩ là đang thưởng thức những miếng lòng heo béo ngậy như hình ảnh nào đó còn vương lại nơi cuốn truyện của một nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Sống nội trú nơi đại học, bọn sinh viên "con bà sơ" như mình, mì gói Kungfu, mì Tôm, mì Hành, Gà, Thái kết cấu thành những giọt máu quí báu. Sáng mì, trưa mì, và tối lại cũng mì. Trông thấy mì là thấy ngán đến tận cổ, nhưng thiếu mì lại thấy nhớ nhung. Không phải nhớ vì thèm ăn nhưng nhớ để sợ. Sợ nhưng vẫn phải ăn vào những lúc này. Không ăn thì đói, mà mới trông thấy hay nghĩ về mì đã ngán thì ăn nào có sung sướng gì. Có chăng, lùa đại vô miệng, nuốt cho qua để dằn cơn đói đang hoành hành nơi chiếc dạ dày kêu réo. Bởi thế, muốn cho dễ nuốt, mình đành phải tưởng tượng những sợi mì vàng vàng dưới ánh đèn tròn thành những miếng lòng heo béo ngậy. Nghĩ đến lòng heo, chưa chi nước miếng đã ứa ra. Tuy nhiên, mì vẫn là mì. Có tưởng tượng đến cách mấy thì thứ con bà sơ vẫn chưa mất cảm xúc của cái miệng.

            Có thằng bạn tậu được chiếc tủ lạnh tí hon, muôn ngàn thằng khác chịu khó thăm viếng, thăm viếng thật đúng giờ như một cố tật. Hình như giữa những con người khác biệt, lại có một điểm chung rất hòa đồng và đó là cái dạ dày nơi mỗi người kêu réo cùng thời điểm. Không hiểu điểm chung này có trùng hợp thật hay không, nhưng khi mình đến lấy mấy miếng thịt bò "gửi" nhờ nơi chiếc tủ lạnh tí hon đó, ba bốn thằng khác cũng vừa ập tới nơi; thành ra của mình biến thành của chùa! Vài cọng hành cũng không hơn gì; chúng bị bắt buộc phải ra đi với sự chấp nhận khó chịu của chủ mà chui vào những chiếc dạ dày khác của bọn con bà sơ.

            Có được vài lát thịt bò thái mỏng vừa đủ che khuất đáy chiếc tô sành, những sợi mì bỗng nhiên mang mùi vị lòng heo. Mấy cọng hành lơ phơ càng làm hương vị giả tưởng của mì thêm hấp dẫn. Những tô mì được bồi đắp thêm với mấy lát thịt bò và vài cọng hành tươi hình như được thưởng thức nhanh hơn mặc dầu chủ nhân của chúng cố gắng ăn chầm chậm với hy vọng kéo dài cái hương vị quí báu được giây phút nào hay giây phút ấy. Khi có thịt bò, nghi thức ăn mì cũng được thay đổi. Trên bàn có thêm loong bia bởi chỉ có bia mới đủ khả năng khuyến khích thịt bò thỏa mãn cái khẩu vị đến tuyệt đỉnh của nó. Rượu có lẽ hay hơn nhưng thứ mồ côi làm sao dám nói đến rượu. Có thịt bò, có bia, thịt bò biến nhanh hơn. Nào những thằng ăn ké, nào tốn thêm tiền, tiền mua thịt bò, tiền mua hành, tiền mua bia. Hơn nữa, thứ vô gia đình đào đâu ra tiền; có dành dụm được vài đồng thì thời gian dành dụm lâu hơn thời gian tiêu chúng. Thế cho nên, càng có thịt bò, càng thấy sự đời chóng qua và chỉ càng thêm nuối tiếc...

            Nghĩ đến cái sung sướng của sự khoái khẩu làm cho mình thèm địa vị của mấy thằng có vợ mà còn đi học đại học. Chúng có vợ, chúng không phải lo nấu nướng mà đồ ăn thức uống thay đổi từng bữa; chẳng bù cho tụi vô gia cư, chui vào "dorm." tránh việc bếp núc lủng củng. Ôi sung sướng nhất là có vợ, vừa được đàng nọ lại vừa được cả đàng kia. Nghĩ đến đây, mình mới nhận thấy phục tài tụi sinh viên có vợ. Phục chúng nó sát đất đồng bào ơi! Không hiểu bố chúng cưới vợ cho chúng hay chúng có cái miệng dẻo quẹo thành ra gái mê. Gái mê là có vợ. Nghĩ lại phận mình, cũng thích và muốn có vợ lắm chứ nhưng mình là con bà sơ, mình lại không có cái miệng trơn như mỡ; mình không biết nói dối hoặc gạt gẫm con nhà lành thành ra vẫn phải nấu mì đôi khi ngày vài bữa.

            Mấy bé em trung học, mới chỉ lớp 11, 12, đã mong kiếm chồng MD thì sao mà thứ con bà sơ, BS, dám xớ rớ tới. Mình theo học BS, mấy em mơ MD. Ngày xưa, thiên hạ bảo nhau rằng kiếm lấy cái kỹ sư dán vào mặt bố vợ. Nay mấy em "với" MD thì bố vợ phải dùng "bằng dollar" mới che lấp được. Đàng này, BS không thể nào kiếm tiền bằng MD, cái bằng dollar tất nhiên nhỏ hơn thì sao có thể đặt vấn đề mơ với ước. Chỉ còn cách an ủi chính mình "Hừ, đàng nào thì cũng chỉ đi làm thuê." Dù MD, MA, BA, BS, cũng phải lo cày suốt. Đôi khi, tự trấn an bằng cách tưởng tượng nói với mấy em; "Không sung sướng chi đâu bé em! Dân MD chỉ nhìn mấy em như những thành phần được tổng hợp bởi bộ xương và những miếng thịt bầy nhầy thôi! Con mắt dân MD thấy đâu cũng có vi trùng, làm sao có thể hôn em cho mặn mà; sao họ nói được những câu tình tứ với lớp thịt lổm ngổm vi trùng bao bọc một bộ xương thực nghiệm đầy ma quái! Có phải mấy em trang điểm để che mắt dân MD không? Chẳng đánh lừa được họ đâu! Dù có trát phấn dầy đến đâu chăng nữa thì dân MD vẫn thấy những con vi trùng to tổ bố đang tranh nhau gậm nhấm làn da thịt mặn mà của mấy em thôi! Chớ dại mà tới gần họ; kiếng của họ nhìn thấy hết mọi tế bào của các em đó!"

            Nghĩ vậy, mình cảm thấy an phận hơn. Nếu 99% các em còn chưa nhận ra cái nhìn của dân MD, thì hãy còn 1% các em nhận thức được sự nguy hại đó. Tô mì bỗng trở thành ngon hơn, vị mì hấp dẫn hơn bởi mình không có cặp mắt MD; mình không có cái mũi MD. Thế cũng tạm đủ, con bà sơ thì không nên với cao. BS an ủi chán! Một năm nữa thôi mì ơi; ta sẽ giã từ ngươi. Ta sẽ nhớ ngươi nhưng nhớ để mà sợ. Thế thôi!...
             
            lmt
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2016 13:52:09 bởi lamongthuong >
            #6
              lamongthuong 21.11.2017 13:51:44 (permalink)
               
              LÒNG  TIN
              (Những câu Kinh Thánh trích từ bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn, DCCT.)
               
              Có câu nói, "Bất cứ ý tưởng lớn lao nào thuở ban đầu đều bị coi là phạm thượng." Dĩ nhiên, câu nói này không có nghĩa ngược lại vì những câu nói phạm thượng không thể nào trở thành ý tưởng vĩ đại. Có thể những ý tưởng lớn lao thuở ban đầu được cho là phạm thượng bởi đại đa số con người vào thời điểm ấy chưa thể hiểu nổi do tâm trí hay nhận thức chưa mở rộng đủ để chấp nhận, hoặc ý tưởng đó phần nào đe dọa có thể làm mất vị thế của một số người đang được những quan niệm, những hệ thống luân lý, giáo điều, xưa nay đã và đang ủng hộ. Cũng có thể vì e ngại ý tưởng ấy mở rộng chiều hướng nhận thức giúp con người thay đổi nhãn quan khi đối diện thực tại tạo nên ảnh hưởng làm thiệt hại những mối lợi thế tục của một số thành phần còn đang cố bám víu vào nhãn quan hạn hẹp đầy thành kiến, lỗi thời, nên e rằng sẽ bị thua thiệt, do đó đã lạm dụng vị thế hầu cả vú lấp miệng em mà lên án. Cũng có thể ý tưởng ấy thách đố sự thay đổi tất cả mọi chiều hướng tư duy, đe dọa làm đảo lộn hoặc phá bỏ lề lối suy tư cũ để thay thế vào đó những viễn ảnh mới đòi hỏi con người mở rộng cửa lòng dấn bước vào tiến trình hoàn toàn xa lạ, tạo nơi tâm tưởng mối e ngại mất gốc, chẳng có gì quen thuộc hòng nương tựa nên ngại ngùng đành chấp nhận chối bỏ mong có được nỗi an bình ru ngủ mà lòng thực sự chấp nhận sự trốn chạy đối diện với những thách đố thăng tiến tâm tư. Nếu chân thành nhìn nhận thực tại thẳm sâu nơi cõi lòng, càng ù lỳ không chịu cải thiện, càng trốn tránh đối diện với những phiền hà thao thức cần nhiều cố gắng tư duy, hoặc lạm dụng điều chẳng nên đang được chấp nhận như kết quả của vô minh nơi nhân thế, con người lại càng cảm thấy ray rứt, giẫy dụa vì thèm khát thoát khỏi hiện trạng cố tình che dấu hay cố tình chấp nhận cho qua do áp lực huyền nhiệm nào đó không ngừng nghỉ khuyến khích thức tỉnh, lột bỏ mặt nạ để nhận thực trạng huống bẽ bàng do đối diện sự thấp hèn nơi lòng mình như bước khởi đầu cho tiến trình thăng hóa tâm linh đang mời gọi. Còn lại là phần đông những tâm hồn không dám suy nghĩ, tránh nhận thức vì e ngại bị cho là sai lầm, chỉ miễn sao sống cho qua kiếp người thế nên chấp nhận hùa theo đại đa số một cách hình thức giống kiểu theo đóm ăn tàn, người ta sao mình vậy cho yên thân, nói rằng tin tưởng nơi một Đấng quyền năng nào đó nhưng thực sự vô thần bởi e sợ, kinh khiếp sự luận phạt chứ không cần biết mình là ai và tại sao phải chấp nhận những khuôn mẫu được vạch sẵn để rồi mu mơ cảm thấy mình sống cũng như chết do sự chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống, sống vương vất cho qua ngày đoạn tháng, chấp nhận yêu đời mà sống lâu dần rồi cũng thành quen, một thói quen khổ ải thấm nhập tận xương tủy không có không thể sống nổi.
               
              Con người nhận biết sự vật và sự việc chung quanh qua ngũ quan; sự nhận biết này dẫn đến nhận thức tùy thuộc kinh nghiệm để kiến tạo ý thức đồng thời phát sinh phản ứng trong mỗi trường hợp. Những sự kiện ghi lại nơi tâm trí kinh nghiệm và nhiều kinh nghiệm được tích trữ dần dần chuyển biến thành tiềm thức điều khiển thái độ và phản ứng của con người khi đối diện với những sự kiện xảy ra nơi các trường hợp khác nhau tiếp diễn trong cuộc sống. Như vậy, qua sự giao tiếp với ngoại vật, con người tự thiết lập cho mình hệ thống nhận thức, một phương cách tổng hợp và chọn lựa sự liên hệ của những dữ kiện tùy thuộc trường hợp và điều kiện để phát sinh ý thức, nhận định, quyết định, và phản ứng, v.v... lệ thuộc phần nào vào tiềm thức. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng sự nhận thức của con người, và lẽ đương nhiên, yếu tố đầu tiên dễ nhận biết là ngũ quan. Không ai có thể nhờ các cảm quan giải thích cho một người mù từ thuở sơ sanh cảm nhận và phân biệt được thế nào là màu xanh hay màu đỏ hoặc thông đạt cho người bị câm và điếc lúc mới lọt lòng mẹ cảm nhận được sự hòa hợp và nét quyến rũ tuyệt vời của âm nhạc. Thiếu yếu tố giác quan, con người không thể liên lạc với thế giới chung quanh; đồng thời, thiếu sự liên lạc này, con người không thể có ý niệm tạo nhận thức. Chẳng những thế, nếu ngũ quan nào đó bị sai lệch cũng ảnh hưởng sự cảm nhận về phương diện ấy và có khi gây thêm ảnh hưởng liên hệ đến toàn bộ nhận thức của con người.
               
              Hơn nữa, sự nhận thức còn bị ảnh hưởng bởi bản chất cá nhân, những ý niệm, quan niệm, kinh nghiệm, giáo dục nơi xã hội v.v... Hầu hết ai cũng sợ rắn vì đã nghe về sự độc hại của nọc rắn mặc dầu có những loại rắn không có nọc độc mà chỉ giúp ích cho con người như king snake, màu đen dài thoòng trông thật đáng sợ ở Mississippi chỉ ăn chuột bọ và tiêu diệt các loại rắn khác có nọc độc. Đối với những người đã nếm mùi cay đắng, đau khổ vì tình phụ, thật khó lòng cho họ có lại được tình yêu đơn thuần, trọn vẹn với người khác phái, hay những người sinh trưởng trong một môi trường xã hội chèn ép, vô luân, và man rợ, không dễ chi giúp họ có được lòng tin tưởng nơi sự tốt lành của những người chung quanh. Xét về phương diện tâm lý, sự nhận xét, phán đoán thái độ, ý nghĩ của người khác, thường lại là phản ứng, ý nghĩ nơi chính bản thân mình vì thực ra những nhận xét này là kết quả tổng hợp phản ảnh được tạo nên do ảnh hưởng tâm lý, kinh nghiệm, điều kiện môi trường, của người nhận xét. Lẽ dĩ nhiên, đối tượng mang bản chất khác, có kinh nghiệm, tâm lý khác, được giáo dục, mang những ý niệm khác, nên dẫu bên ngoài có thái độ tương tự theo nhãn quan nhận xét của mình, chắc chắn không mang tâm tình như mình nghĩ.
               
              Ngoài ảnh hưởng của ngũ quan, con người còn bị ảnh hưởng bởi ý niệm, quan niệm, cùng với dữ kiện tạo nên những nhận thức khác nhau; chính vì vậy, không ai lạ gì đã có những chủ thuyết duy tâm, duy vật, duy lý, duy sinh, duy linh, duy tịnh... Những chủ thuyết này đặt yếu tố nào đó làm căn bản, phân tích và biện chứng những ảnh hưởng của yếu tố ấy đến những cơ cấu khác nơi con người để rồi cho rằng con người chỉ lệ thuộc một yếu tố căn bản ấy mà thôi do đó mang nặng tính chất thiên kiến, không đạt tới được sự nhận thức toàn bộ. Con người đâu phải chỉ đơn giản có cuộc sống xác thân và chết là hết như duy vật chủ trương. Dẫu thế, chính ước muốn minh chứng con người thuộc duy vật đã không duy vật chút nào. Nhìn một cách bao quát, con người mang tính chất "duy đủ thứ," và tùy môi trường xã hội ảnh hưởng thể chất, tâm linh nên có khuynh hướng thiên nhiều về một duy nào đó hơn các duy khác. Như vậy, đã duy đủ thứ thì lại chẳng thể nào gọi là duy vì càng duy chỉ càng không thấy tính chất người.
               
              Ảnh hưởng giáo dục, thói quen, phong tục tập quán lề lối của môi trường sống trong xã hội, đóng một vai trò lớn lao không những nơi tiến trình nhận thức của con người mà còn khuôn mẫu lề lối suy tư, cách ăn nết ở, và ngay cả tâm tính, phản ứng, trước một số sự kiện xảy đến theo những mô thức nhất định tùy thuộc thời gian và không gian mà tập đoàn con người tại thời điểm ấy chấp nhận được gọi là quy luật xã hội, sự bó buộc mọi người nơi xã hội ấy phải tuân theo như một định luật của sự sống còn nếu cá nhân muốn được hội nhập và chấp nhận, dẫu những quy luật này bắt nguồn vì bất cứ lý do nào hoặc bị một thiểu số lạm dụng hoặc vì lợi ích chung cho sự sinh hoạt hòa hợp của tất cả. Lý do gì khiến người Do Thái cho rằng heo là con vật nhơ uế? Tại sao một số dân Ấn thờ bò? Quyền lực nào ép buộc dân Việt có quan niệm môn đăng hộ đối nơi vấn đề hôn nhân của con cái, những nghi thức phải thế nọ, phải thế kia trong đình đám, tang ma?
               
              Cuộc sống hữu hình tạo thành thói quen, khuôn mẫu quan niệm, và ảnh hưởng sự nhận thức nơi con người, đồng thời thiết lập những hàng rào ngăn cản nếu không muốn nói là giới hạn sự phát triển tri thức trong khuôn khổ nào đó. Thế nên, bất cứ ai dám nói lên những ý tưởng hoặc sống không phù hợp theo thói quen suy nghĩ và nhận định của đa số sẽ khó được chấp nhận và có thể nhiều khi bị lên án. Một thí dụ đơn giản, đi chân trần làm ruộng, rẫy, nơi đồng quê Việt Nam hoặc nơi buôn làng người Thượng là điều rất bình thường, ngược lại, nơi những tiệm ăn sang trọng, nào ai chấp nhận cho kẻ đi chân không bước vào! Cuộc sống ảnh hưởng sự khuôn mẫu hóa nhận thức, gò ép con người không dám suy nghĩ tự nhiên mà phải chấp nhận những gì mọi người chung quanh chấp nhận làm căn bản. Bởi dựa trên những nhận thức khuôn mẫu, sự suy tư của con người đã bị uốn nắn, ngăn chận, nên làm lệch lạc tiến trình nhận định thực thể sự việc. Chính vì vậy, chẳng lạ gì hầu hết mọi người đều không biết mình sống để làm gì, không thể nhận định rõ ràng mục đích của cuộc sống thân xác đã được sinh ra, và càng không thể hiểu nổi thực sự mình là ai. Nói cách khác, đầu óc con người đã bị khuôn mẫu hóa tạo nên kết quả là những ưu tư, u uất, khắc khoải trong sự chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống mà không biết sống để làm gì nên cố tìm kiếm những niềm vui thế tục như mục đích của đời người. Chẳng lạ gì, con người đích thực đã bị những khuôn mẫu thế tục bao vây, và con đường đi tới đã bị lấp kín nên được tưởng chừng như xa xôi diệu vợi.
               
              Thử đặt vấn đề, thân xác con người gồm đầu óc, tay chân, thân mình, tim, gan, phèo, phổi. Tuy được phân biệt như thế nhưng tất cả chỉ là một; không ai có thể cắt trái tim bỏ lên bàn mà thân xác và trái tim có thể sống tách biệt; tương tự như vậy, bộ óc, gan, phổi v.v... đối với thân xác cũng chỉ là một. Một người ngồi trước bữa ăn thịnh soạn gồm có những đĩa thịt quay, cá nướng, tôm kho, rau xào, mùi vị hấp dẫn. Những món ăn tuyệt hảo ấy được gắp bỏ vô miệng thưởng thức nhưng thay vì nuốt qua cổ họng xuống dạ dày, người ấy nhổ miếng ăn vừa nhai xong vào một chiếc chén khác. Chắc chắn rằng chính người đó không dám ăn lại miếng ăn vừa được nhổ ra vì cho là dơ, bẩn. Tại sao gọi là dơ bẩn, không ai giải thích được lý do. Thế nên nhận thức dơ bẩn này chỉ là kết quả của sự quen thói quan niệm vì miếng ăn dù nuốt xuống hay nhổ ra cũng chỉ là một... nuốt xuống được cho là sạch, tốt lành, mà vừa nhổ ra đã bị coi là dơ. Thời gian được chia thành ngày và đêm theo kinh nghiệm hiển nhiên; nhận thức thực tại này ai cũng có; ban ngày thì sáng bởi có ánh mặt trời; ban đêm thì tối bởi không có ánh mặt trời chiếu sáng. Giả sử một người dùng phi thuyền bay vào không gian cách xa trái đất... Nơi không gian vô tận, mặt trời luôn luôn chiếu sáng; trái đất quay vẫn quay... và sự phân biệt giới hạn ngày đêm không có trong vũ trụ vì lúc nào cũng như thế...
               
              Qua ba mẫu dữ kiện thực tại đơn giản luôn luôn xảy ra trước mắt mọi người bất cứ lúc nào, phỏng ai dám nghĩ rằng những nhận thức về thực tại của mình luôn luôn đúng? Có lẽ phải nghĩ ngược lại! Những dữ kiện trước mắt mà con người đã nhận thức khác biệt với thực thể thực tại thì phỏng nhận thức suy tư lấy giá trị gốc gác nào làm căn bản. Dữ kiện đem đến nhận thức tạo thành và hỗ tương với tri thức để sinh ra ý thức đưa đến quyết định rồi được phản ứng. Nếu sự nhận thức đã không đạt tới thực thể dữ kiện, tất cả hành trình kiến tạo phản ứng, nói cách khác, sự nhận thức hòa hợp liên đới của con người và tạo vật chắc chắn sẽ càng ngày càng chỉ là khoảng cách lớn lao, tách biệt con người với thực thể vạn vật. Có thể nói, đây là cội rễ của nét buồn muôn thuở do lòng khát khao vô tận tìm về bản thể đích thực của con người nơi kiếp sống hữu hình bởi nhận thức về thực tại qua ngũ quan thiếu trung thực. Tất nhiên, nếu sự nhận thức đã thiếu trung thực, ý niệm, ý thức, nhận định, óc sáng tạo, v.v... sẽ bị ảnh hưởng dây chuyền đưa đến những chủ thuyết, quan niệm không đúng đắn dẫn dắt tâm tưởng càng ngày càng đi vào lầm lạc xa dần sự nhận biết bản thể đích thực của mình.
               
              Xưa nay, ai không nghĩ rằng câu nói: "Được chim quên ná, được cá quên nơm..." nơi tục ngữ nói lên tính chất của những kẻ vô ơn đồng thời ám chỉ lời khuyên luân lý mang nghĩa răn dạy người đời nên biết ơn những ai đã giúp mình. Tuy nhiên, nếu qua sông không rời đò để tiếp tục quãng đường còn lại sao một người có thể đi tới điểm định? Nếu đã nhận thức được ý tưởng mà còn lệ thuộc vào ngôn từ, cách diễn giải, để rồi giới hạn ý nghĩa của ngụ ngôn hoặc câu chuyện trong khuôn khổ hạn hẹp, gò bó, con người đã tự đóng tai, bịt mắt không chấp nhận những gì bị cho rằng không phù hợp theo quan điểm của mình, nói cách khác, đã không muốn tìm hiểu để thăng tiến. Bắn được chim, bắt được cá mà vẫn cứ khư khư ôm ấp cái ná, cái nơm thì sao có được bữa ăn hấp dẫn với món chim quay hay cá nướng? Thế nên, người được chim quên ná chưa chắc đã tỏ ra vô ơn với cái ná, và được cá quên nơm lại chính là điều nên không những trong lãnh vực thực tế mà còn được áp dụng trong lãnh vực suy tư.
              Nhìn tổng quát hơn về thân phận con người, ai không thấy câu, "Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro" là thực trạng của mọi sự vật trong tiến trình biến hóa của tạo vật. Dẫu cho bất cứ ai sống bao lâu chăng nữa cũng không thoát khỏi sự chết để rồi thân xác tan rã trở thành bụi đất, hoặc nếu thân xác ấy được đem tẩm liệm cách nào đó để giữ hình hài khỏi bị hư thối thì cũng chỉ là một thân xác vô tri, vô giác, bất động, không cảm nhận. Dẫu sự vật nào đó mang tính chất bền vững cách mấy thì cũng có ngày tan biến thành hư không, chẳng để lại hình hài dưới bất cứ dạng thức nào con mắt trần có thể nhìn thấy. Thế nên, nhận thức thực trạng con người được sinh ra có một thân xác chóng qua, có hình hài trong quãng thời gian giới hạn để rồi lại tan biến vào hư không đã tạo nên câu nói "con người là bụi tro và sẽ trở về tro bụi." Tuy nhiên, nếu chấp nhận đơn giản thực trạng như thế, con người đã thiếu sót hoặc quên không nhận định đầy đủ về con người. Chẳng hạn, con mắt nào được dùng để nhìn trong giấc mơ khi một người ngủ, lúc ấy đôi mắt thịt hoàn toàn ngưng hoạt động và đến ngay cả thân xác con người cũng bị tạm quên, không được nhận thức? Khoa tâm lý học, tâm lý bệnh học, trả lời đó là hiện tượng di ảnh của tiềm thức, gợi lại những sự việc đã qua nơi trí não. Nói như thế câu hỏi được đặt ra qua kinh nghiệm, ai cũng có một vài giấc mơ không lệ thuộc tiềm thức mà mãi một vài năm hoặc cả một thời gian ít chục năm sau sự kiện đã được mơ mới xảy đến khiến người mơ ngạc nhiên cảm thấy hình như đã thực sự gặp sự kiện này trong quá khứ; vậy sự nhìn thấy những hình ảnh trước khi xảy ra do con mắt nào? Hơn nữa, xét theo kinh nghiệm, con người chỉ có thể hiểu được hoặc cảm nhận được những sự kiện đối tượng như hiện tượng phản chiếu những dữ kiện đã trải qua trong quá khứ, nằm sâu nơi tiềm thức. Nói cách khác, những gì con người có thể nhận thức được thì đã được biết sẵn hoặc đã kinh nghiệm; những diễn tiến thực tại, những nhận thức có thể chỉ là sự "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu." Tuy nhiên, có những nhận thức một người chưa bao giờ có kinh nghiệm hoặc được học hỏi làm sao có thể coi được là đồng khí tương cầu? Câu trả lời dẫn con người tới ngưỡng cửa một thế giới lạ lùng vô thức, kho tàng huyền nhiệm chất chứa sẵn những tri thức ít được để ý nếu không muốn nói hầu hết không ai để ý. Từ những nhận định này, câu nói: "Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro" đã chỉ mang ý nghĩa: hỡi người, hãy nhớ thân xác mình là tro bụi và nó sẽ trở về bụi tro. Con người không phải chỉ là xác thân chóng qua mà còn bao gồm một thực thể siêu linh có con mắt nhìn trong giấc mơ mà Phật học gọi là huệ nhãn hay tuệ nhãn; thực thể siêu linh này hàm chứa kho tàng vô thức, sự hiểu biết con người tự có sẵn làm căn bản cho những sự nhận thức nơi cuộc sống hữu hình.
               
              Những nhận định trên minh chứng con người từ bản chất xác thân đến tri thức đã bị giới hạn do sự nhận thức không trung thực qua ngũ quan đối với thực tại hiện hữu, hữu hình và vô hình, cũng như thiếu sự nhận thực về bản thể đích thực của mình. Thực tại hữu hình minh chứng, con người không thể sống dưới nước như loài thủy tộc, không thể di chuyển tự do như loài chim muông trên bầu trời, và cũng chẳng có sức mạnh bản chất chống chọi với sự thay đổi của thời tiết, thiên nhiên bằng thú vật. Sự tự do nơi cuộc sống của con người bị giới hạn như con cá trong hồ, tha hồ vẫy vùng dưới nước, loanh quanh luẩn quẩn giữa sự bao vây của những bức thành không cho nước thoát, và khi nước hết, cá phải chết. Giới hạn thời gian của cuộc sống đã là nguồn gốc cho không biết bao nhiêu cố gắng của nhân sinh chống chọi với thần chết từ tâm tưởng đến hành vi. Bao nhiêu người chấp nhận sự chết như một lẽ thường, đã sinh ra thì phải chết! Bao nhiêu người e sợ cái chết để rồi đã trở thành công cụ của những tội ác làm hại nhân sinh, phải tuân theo những mệnh lệnh chính mình không muốn thực hiện. Tuy nhiên, dù cố gắng cách nào để kéo dài cuộc sống thì cuối cùng mọi người cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết của xác thân. Phỏng con người được sinh ra để rồi chết? Phỏng sự chết là cùng đích của cuộc sống hay chỉ là phương tiện cho con người thăng tiến, phương tiện cho con người bước vào thế giới vô hình? Phỏng những người nghĩ rằng con người có tự do tuyệt đối với thân xác của mình có thể kéo dài thêm cuộc sống để chống đối sự tàn rữa của xác thân sau khi chết? Nếu chưa ai có thể nhân danh tự do tuyệt đối của con người đối với xác thân để có thể kéo dài thêm cuộc đời thì có lẽ sự tự do tuyệt đối nơi thân xác chỉ là sự tự do chấp nhận con người hữu hình giới hạn vì dẫu không chấp nhận, việc đến cũng sẽ đến, không đường tránh thoát.
               
              Xét về giới hạn tư tưởng, tâm linh, tự do tư tưởng nếu chỉ được hiểu muốn nghĩ gì thì nghĩ, mơ ước chi thì mơ, chắc chắn vẫn còn bị lệ thuộc bởi những bản chất, tâm tính, nhận thức cá nhân, quan niệm, học thức do giáo dục đồng thời với sự ảnh hưởng của môi trường và điều kiện sống đã tạo nên thực thể là chính người suy tư. Điều đơn giản nhất ai cũng có thể nhận thấy, đó là ý thích hay lối nhìn đã ảnh hưởng khiến nhận định về cùng một sự kiện của hai người khác nhau. Có đôi vợ chồng xồn xồn thăm sở thú lộ thiên, thấy một chú nai xinh xinh đang ngơ ngác nhìn khách lãng du dạo bước, chị vợ cảm ứng nói với chồng, "Coi kìa anh, con nai vàng ngơ ngác dễ thương quá." Người chồng nhìn thấy con nai chợt buột miệng, "Ồ, con nai đó mà thái tái thì tuyệt" khiến chị vợ đang cảm nhận khung cảnh thơ mộng bị cụt hứng tức cảnh sinh tình...
               
              Khi nhận thức đã bị ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện sống, quan niệm, ý niệm, tư tưởng của con người cũng không tránh khỏi những sự ảnh hưởng này; như thế tư tưởng đã không còn được hoàn toàn tự do. Vì vậy, muốn thực sự có nhận thức, tư tưởng hoàn toàn tự do, mọi đầu mối ảnh hưởng, mọi quan niệm đã được nhồi sọ do giáo dục, do môi trường sống nơi xã hội cũng cần phải được gạt bỏ hầu con người tiếp nhận sự nhận thức thực tại không lệ thuộc bất cứ khuynh hướng, thành kiến, hay ý thích, ý niệm nào đã và đang ảnh hưởng tạo nên những cặp mắt kiếng kinh nghiệm khiến sự nhận thức bị thiên lệch. Lý do gì đã tạo nên hai phản ứng đối nghịch về chỉ một trái ớt. Người này cho rằng có ớt nhậu ngon hơn, món ăn trở thành đậm đà hơn, và kẻ khác lại không hề dám nhúng đũa nếu món ăn nào đó đã được thêm ớt cho cay. Vì đâu cũng cùng một câu truyện, người cho là ý vị, kẻ nói rằng vô duyên. Màu nào không là màu mà kẻ thích áo màu này, người không bao giờ mặc áo màu kia? Vì lý do gì đa số tín đồ tôn giáo đều cùng cho rằng Đấng Tạo Hóa mình tôn thờ là độc nhất mà Đấng Tạo Hóa độc nhất của tôn giáo này lại quan niệm không giống Đấng Tạo Hóa độc nhất của tôn giáo kia? Tại sao lại có những quan niệm cho rằng con người chỉ là duy tâm hoặc duy vật hoặc duy linh? Nhìn tổng quan, những ảnh hưởng do thể chất xác thân hoặc bất cứ quan niệm, ý niệm, chiều hướng, ước muốn nào đến sự nhận thức đều làm sai lệch tiến trình tâm linh, hành trình tìm về bản thể đích thực của con người. Nói cách khác, con người có tự do nhận thức thực sự chỉ khi nào không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào sẵn có dù nội hay ngoại tại của chủ thể suy tư. Một người còn đang đầm mình nơi vũng lầy bùn xình nếu muốn được sạch, chỉ có một phương cách sao cho thoát ra khỏi vũng lầy mới không bị ảnh hưởng vương bùn bẩn thỉu.
               
              Đâu là câu trả lời về con người là gì, như thế nào, có sự liên hệ với thế giới chung quanh, với vũ trụ ra sao? Tôi là ai? Vị thế, liên hệ, bản thể đích thực của tôi là gì? Tại sao tôi được sinh ra, có cuộc sống hữu hình và khi xác thân này chết, tan rã thành bụi đất hoặc được thiêu đốt trở thành làn khí hòa lẫn vào không gian tôi còn lại gì, đi về đâu? Từ những dữ kiện có thể cảm nhận được, tiên vàn, tôi có một thân xác hữu hình, sống động. Hòa hợp với thân xác này, tôi cũng có những khả năng vô hình như lý trí, nhận thức, suy tư, học vấn, kinh nghiệm, ước muốn, v.v... đồng thời có thêm những khả năng chuyển biến suy tư vô hình thành hữu hình chẳng hạn dùng bút để vẽ ý niệm hình sao bẩy cánh không đều nhau có thể nhìn thấy hoặc dùng ngôn ngữ để diễn đạt và truyền thông phần nào tư tưởng, ý nghĩ của mình cho người khác. Như vậy, tôi bao gồm phần hữu hình là xác thân hòa hợp với phần vô hình là tư tưởng có mối liên hệ không thể tách rời ra khỏi cuộc đời trong thời gian hữu hình. Mỗi phần dù hữu hình hay vô hình cũng gồm có nhiều thành phần khác liên kết lại và tất cả tổng hợp thành một thực thể phức tạp có cuộc sống.
               
              Có định luật cao siêu nào đó sắp xếp và điều hành sự hòa hợp toàn bộ con người tôi. Điều lạ lùng nhưng lại xảy ra rất thường, định luật này cũng được áp dụng và điều hành sự hòa hợp nơi những con người khác. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt xảy ra vì lý do nào đó, mọi người đều có cặp mắt, một cái mũi, miệng, trong miệng có răng và lưỡi, phía dưới miệng là cằm... hai tai thì ở hai bên đầu đúng vị trí tương đồng trên mặt, v.v... hòa hợp với cơ thể bao gồm những thành phần khác biệt được cấu tạo quá ư phức tạp, mang những nhiệm vụ khác nhau mà tựu trung tất cả được xếp đặt hợp lý, hợp tình, tạo nên một cơ cấu hữu hình khó lòng hiểu nổi. Quyền lực hay định luật nào đã ảnh hưởng để mỗi phần của cơ thể được xếp đặt đúng vị trí trong sự liên hợp phức tạp tạo thành thân xác con người? Mỗi chi thể mang một nhiệm vụ và có cơ cấu riêng mà những chi thể khác không thể thay thế thay vì bổ túc. Tại sao cặp mắt không mọc ở sau lưng và cái miệng nơi đầu gối hoặc cái mũi nằm trên đỉnh đầu, mà mọi người, dẫu khác biệt màu da, ánh mắt, hoặc cơ thể lớn nhỏ không cùng cỡ, đều có thân xác rập theo một khuôn mẫu mặc dầu được sinh ra từ những người mẹ riêng biệt. Quyền lực này ảnh hưởng mọi thứ tự nơi thân xác trong cả cuộc đời của tôi vì da mặt không trở nên dày như da chân, cặp môi không bao giờ sinh móng như những ngón tay, hoặc cái lưỡi nếu mà mọc tóc thì có lẽ đã tạo nên lắm chuyện rắc rối. Cơ quan nào trong thân thể chu toàn nhiệm vụ ấy theo một thứ tự lạ kỳ khó mà hiểu nổi.
               
              Không phải chỉ ở con người mới có định luật huyền nhiệm bao bọc mà nơi loài chim muông, thú vật, cũng như cây cỏ đều chứng tỏ có một động lực siêu việt nào đó sắp xếp theo mọi thứ tự tùy thuộc mỗi loài, mỗi nơi. Một con chim, con gà, đẻ trứng, và chỉ sau hơn kém hai mươi ngày ấp, chiếc trứng nở ra con chim, con gà, nhỏ bé có đầy đủ bộ phận sinh sống, cùng một khuôn mẫu thuộc loại của nó. Ít bữa sau, nó biết bay, biết hót, biết kêu quang quác... Con chim không kêu giống như con gà nhưng biết hót; nào có ai dạy nó hót đâu, thế mà âm thanh từ cái cổ bé chút xíu phát ra líu lo những cung nhạc của đồng loại. Tiếng chim hót khác biệt hẳn tiếng gà kêu, và con chó sủa lại khác loài bò rống. Điều lạ lùng ai cũng có thể nhận thấy đó là loài chó không bao giờ sinh ra con bò cũng như chưa con bò nào đẻ ra con cọp hay sư tử hoặc ngược lại.
               
              Nhiều thế giới không kém lạ lùng là loài cây cỏ, côn trùng, cơ cấu và sự sống của những sinh vật dưới biển, vi khuẩn, đất đá, nguyên tử, phân tử, v.v... Dĩ nhiên, không thể nào do vô tình hoặc chẳng ngờ mà những cây cối cùng loại có cơ cấu giống nhau và sự sinh trưởng, truyền giống tùy thuộc điều kiện như nhau. Gỗ, da, lá, hoa, quả, của cây bằng lăng không giống gỗ, da, lá, hoa, quả, của cây ổi. Có những loài cá sinh con, không bao giờ đẻ trứng; ngược lại, có những loại cá chỉ đẻ trứng và không bao giờ sinh con. Loại cá hồi cứ tới mùa tự biết bơi ngược dòng sông tìm về nguồn nước ngọt để sinh sản mặc dầu phải vượt qua biết bao ghềnh thác trong khi suốt quãng đời của nó lớn lên ở biển cả. Những nhà nghiên cứu sinh vật còn chứng minh các loại nhệch nước mặn cho dù thuộc Á Châu, Âu Châu, Úc Châu, Phi Châu, hay Mỹ Châu, có tính chất và hình dạng hơi khác nhau đều được sinh sản tại quần đảo Bermuda. Các con nhệch nhỏ bé sinh ra tại đây không biết gì quê quán của cha mẹ chúng thế mà đã có thể bơi một mạch về đúng nơi đúng chỗ, giống nào về danh địa giống đó. Người ta không thể tìm thấy một con nhệch vùng biển, hồ, Việt Nam ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới, và ngược lại, không bao giờ có loại nhệch Pháp lạc loài nơi vùng Đông Nam Á.
               
              Trong thế giới loài vật, côn trùng, loài nào giống ấy có hình thể và cơ cấu riêng, và chỉ những loại cùng giống mới có thể hòa hợp cho lai giống. Những loại động vật hoặc côn trùng sinh sản rất mau lẹ nhưng lại bị một định luật nào đó giới hạn qua cơ cấu thân thể trong khuôn khổ nhất định nên đã không phát triển quá mức đến độ tràn lan khắp  mặt đất. Máu thú vật không thể hòa hợp với máu con người cũng như nhiễm sắc thể nơi con người hoàn toàn khác biệt với con vật nên không thể nào có chuyện pha giống giữa người và thú vật hoặc giữa loài vật này với loài vật kia khác giống.
               
              Các nhà nghiên cứu về vật lý nói rằng cơ cấu của một nguyên tử nhỏ đến độ con mắt trần không sao nhìn thấy bao gồm một dương điện tử ở trung tâm và những âm điện tử chạy chung quanh tương tự như cơ cấu lớn lao của hệ thống mặt trời hoặc cơ cấu của toàn thể vũ trụ bao la con người không sao dò thấu dù với những phương tiện kỹ thuật tân tiến nhất của khoa học ngày nay. Phỏng sự tương đồng cơ cấu này có thể được gọi là ngẫu nhiên? Quyền năng siêu việt nào đã kiến tạo vạn vật và an bài chúng chuyển biến tùy thuộc định luật huyền nhiệm quá sức tưởng tượng của trí óc loài người như thế? Phỏng vũ trụ, thái dương hệ, trái đất, ngẫu nhiên mà có, và rồi lại cũng ngẫu nhiên cây chanh không sinh trái hồng, hoặc cây mít không sinh ra bông mướp? Nếu ngẫu nhiên mà có được những sự cả thể từ nhỏ đến vĩ đại đối với con mắt loài người, chắc chắn sẽ có không biết bao cây chanh sinh trái mướp và những cây mướp cũng ngẫu nhiên sinh những trái chanh; con mắt sẽ ở lỗ tai và những cái mũi mọc nơi đỉnh đầu. Từ sự biến chuyển của nguyên tử hòa hợp thành đất đá, mây mưa, sự sống của vi khuẩn, cây cỏ, chim trời, cá biển, thú vật, con người, những hành tinh, định tinh luân chuyển nơi vũ trụ bao la đến không khí, ánh sáng, ý nghĩ, ý niệm, óc tưởng tượng... minh chứng có một Nguồn Động Lực Siêu Việt chan hòa nơi muôn vật muôn loài hữu hình cũng như vô hình. Nguồn Động Lực Siêu Việt này bao gồm tất cả và hiện thể nơi tất cả, từ sự chuyển động của các âm điện tử tới hành trình vận chuyển của các hành tinh. Động Lực này khiến chim biết hót; loài lươn biển biết tìm về quê quán của cha mẹ chúng; loài cá hồi biết trở về nguồn nước để sanh đẻ; lá cây có năng lực hấp thụ khí carbonic để tổng hợp nhựa sống, nhả khí oxygen và ngược lại; con người biết suy tư, nhận thức, v.v... Như vậy, Nguồn Động Lực Siêu Việt tràn ngập xác thân tôi, từ nơi những nguyên tử tạo thành các tế bào, sự sinh sản, hoạt động của chúng đến sự cấu tạo của các tế bào khác biệt tạo thành tim, óc, xương, thịt, da, tóc, tai, mặt, mũi, những phần hữu hình và cả những thành phần vô hình như tư tưởng, ý nghĩ nơi tôi. Nguồn Động Lực Siêu Việt này khiến con tim đập tự nó mặc dầu nhiều khi chịu ảnh hưởng tùy thuộc tâm tình của tôi không những đối với tâm lý, cảm tình, mà còn ngay nơi những giấc mơ, khiến mọi cơ phận nơi thân thể sinh hoạt hòa hợp và chịu sự sai khiến của bộ óc hay những phản ứng của các trung tâm thần kinh v.v... Nguồn Động Lực Siêu Việt chính là sự sống nơi tôi; sự sống này vĩnh cửu và biến thể. Khi sự sống lìa bỏ thân xác đó là lúc tôi chết và sự sống tiếp tục đi vào cõi vô hình... Vì thế, nỗi thao thức, khát vọng thầm kín nơi tôi, nơi mọi người, chính là lòng ước ao nhận ra bản thể đích thực của mình, nhận ra Sự Sống, Động Lực Siêu Việt, linh hồn, chân ngã, nơi mình. Nói cách khác, sự sống nơi tôi là một với Nguồn Động Lực Siêu Việt. Thế nên, tôi với toàn thể vũ trụ là một không thể tách rời. Thân xác tôi chính là sự sống hiện thể hữu hình ở một giai đoạn thời gian trong diễn tiến biến chuyển của Nguồn Động Lực, Sức Sống Vĩnh Cửu.
               
              Lão học, Trang Tử, gọi Động Lực này là Đạo, Phật học gọi Thực Tại Siêu Việt; Ấn học gọi Đại Ngã, Thượng Đế học gọi là Thượng Đế, Hóa Công, Chủ Tể Vạn Vật, v.v... Thiên Chúa Giáo gọi Động Lực này là Thiên Chúa và thành quả chiêm nghiệm về sự liên lạc của con người với Nguồn Động Lực Siêu Việt được viết thành cuốn Kinh Thánh; phần đặc biệt nhất nói về quyền năng của Thiên Chúa nơi con người là bốn cuốn Phúc Âm. Phúc Âm gọi quyền năng này là lòng tin theo bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn. Người Công Giáo thường gọi là đức tin. Theo Phúc Âm, đức tin, lòng tin, là quyền lực của Thiên Chúa, của Thượng Đế, của Đại Ngã, của Thực Tại Siêu Việt, hiện thể ở con người nơi ý nghĩ, ước muốn. Nhờ có quyền lực, lòng tin này, con người mới có thể thăng tiến trên hành trình tâm linh để trở nên tốt lành, toàn hảo, rồi trở về với cội nguồn bản thể đích thực của mình là Thượng Đế. Chính vì con người ẩn chứa quyền lực của Thượng Đế, Đức Kitô đã mời gọi mọi người: "Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48) và "Các ngươi hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:36). Đối với bản chất yếu hèn của thân xác trong kiếp nhân sinh, con người nhận thức sự vật qua giác quan nên lầm tưởng rằng mình chỉ là thân xác thành ra bị sự sinh sống xác thân, thế tục, lôi cuốn do đó dễ sa ngã, chiều theo những cảm giác chóng qua và tâm tình hòa hợp nơi xác thân, tiền tài, danh vọng, để rồi nhận chúng như những mục đích của cuộc đời. Chẳng những thế, bả vinh hoa, giầu sang, còn khiến con người tranh giành, mưu mô, lừa lọc, vì đối với cuộc sống, luật mạnh được yếu thua là lẽ thường tình. Với tính chất yếu hèn, đam mê, kèm theo sự cổ võ bởi những quan niệm và lối nhìn thế tục, làm sao con người có thể trở nên "như" Thượng Đế nếu không mang phần nào bản thể của Ngài. Nhận thức này ai cũng có thể kinh nghiệm vì dẫu cho người ta có thể tập luyện cho một con khỉ đánh đàn dương cầm tới mức tuyệt vời thì con khỉ cũng không thể nào trở nên một nhạc sĩ. Muốn trở nên trọn lành và biết thương xót như Thượng Đế phải có bản tính của Ngài nơi mình. Lòng tin chính là sự nhận thức thực sự quyền lực của Thượng Đế ở nơi con người.
               
              Có câu nói: "Muốn là đã được một nửa." Tự ý định, ước mơ đã mang một năng lực kiến tạo hữu thể. Không ai lạ gì, những ý nghĩ, ý định ảnh hưởng tâm tưởng cũng như cảm giác của con người; những ý niệm không trung thực về sự vật dẫn suy luận đến những kết quả sai lầm; những ước muốn mạnh mẽ dẫn dắt con người đạt tới thành quả mau hơn. Nơi Phúc Âm Mathêu có viết: "Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi, phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng" (Mt. 5:27-28). Câu này nói lên năng lực của ý nghĩ. Ý nghĩ xấu đã tự kiến tạo một sự hiện hữu được gọi là sự xấu, một hữu thể vô hình, "Vì tự trong lòng thì xuất ra những suy tính xấu xa: những là giết người, ngoại tình, dâm bôn, trộm cắp, chứng dối, gièm pha. Đó là những điều làm người ta ra nhơ uế" (Mt. 15:19-20; Mc. 7:20-23). Tương tự, ý nghĩ tốt lành cũng đã tự kiến tạo hữu thể tốt lành, "Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo, vì nước trời là của họ. Phúc cho những kẻ hiền lành, vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp. Phúc cho những kẻ ưu phiền, vì họ sẽ được an ủi. Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được no đầy. Phúc cho những kẻ biết thương xót, vì họ sẽ được thương xót. Phúc cho những ai tinh sạch trong lòng, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa..." (Mt. 5:3-8; Lc. 6:20-23). Hơn nữa, theo Phúc Âm, ý định của một người cho dù đối với ai đều kiến tạo một thực thể vô hình ảnh hưởng chính mình, "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ những điều các ngươi sai lỗi" (Mt. 6:14-15). Chẳng những thế, ý định của mình còn có năng lực ảnh hưởng tới người khác: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Phúc Âm không nói sự cầm buộc bằng lề luật của một số người đặt ra mà nói "các ngươi," mang ý nghĩa từng người. Xét như trên, ý định, ước mơ, điều mong muốn đã tự có quyền lực tạo thành hữu thể vô hình ảnh hưởng đến con người. Nói cách khác, lòng tin, đức tin, chính là quyền lực của ý định, ước muốn nơi con người.
               
              Quyền lực của lòng tin được Đức Kitô nói rất rõ nơi Phúc Âm trong trường hợp viên bách quản đến gặp Ngài xin cứu chữa người đầy tớ bị bịnh; Ngài nói, "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13). Trường hợp con gái của người phụ nữ xứ Canaan được cứu sống Phúc Âm dùng "ước muốn" đồng nghĩa với lòng tin: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28). Câu trả lời của Đức Kitô mang tính cách xác định nguyên nhân đã tạo nên sự kiện người đầy tớ viên bách quản được khỏi bịnh và con người phụ nữ xứ Canaan được cứu sống, và nguyên nhân này là lòng tin, là ước muốn. Tại sao Phúc Âm không đặt vào miệng Đức Kitô câu nói "Ông đã tin vào tôi hay tin vào Thiên Chúa thì đầy tớ của ông được lành bịnh" hoặc "Vì bà tin nơi quyền năng của Thiên Chúa nên Ngài cứu sống hoặc tôi cứu sống con bà," hay "Hãy cầu xin Chúa chữa con ông, Chúa cứu con bà," mà chỉ ghi "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy," và "Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" Phỏng cho rằng tin sao, muốn sao, thì được như vậy mang tính chất vô thần vì không cần nhờ đến quyền năng của thần thánh nào giúp? Nếu cho rằng lối nói này mang tính chất không cần nhờ thần thánh nào giúp thì đồng thời chấp nhận điều hiển nhiên chính Đức Kitô chứng minh rõ ràng quyền năng tối cao của Thượng Đế đang có sẵn nơi con người nên không cần nhờ cậy đến bất cứ quyền lực nào khác. Phỏng vì thế có thể nói, lòng tin, ước muốn nơi tâm trí tự có quyền lực tạo thành sự việc? Và phỏng đây chính là điều mà Phật học gọi là "tâm sinh vật và vật sinh tâm?" Cho dù đặt ra những nghi vấn nào thì cũng dẫn tới nhận thức về lòng tin, ý định, hay ước muốn của con người tự có quyền lực kiến tạo thành quả, sự kiện nào đó.
               
              Theo Phúc Âm, lòng tin còn mang năng lực chữa lành những bệnh tật thân xác cũng như sự đau khổ tâm hồn. Trong câu truyện người phụ nữ bị bệnh loạn huyết, Phúc Âm ghi rõ, người đàn bà nghĩ nếu chỉ chạm tới được áo của Đức Kitô thì sẽ khỏi bịnh và bà đã được chữa lành. Chẳng những thế, lòng tin của bà còn có tác động khiến Đức Kitô nhận ra đã có người chủ ý đụng đến mình. Khi bà thú nhận, Đức Kitô lại tuyên bố: "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48). Cùng một lối phát biểu ấy, Ngài bảo người mù thành Giêricô: "Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Mc. 10:52). Phúc Âm Luca cũng ghi lại giống như Phúc Âm Marcô trong câu truyện người phung hủi xin chữa lành. Đức Kitô nói cho người được lành bệnh biết chính lòng tin là động lực cứu chữa anh ta, "Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 17:19). Đức Kitô không những tuyên bố cho mọi người biết đức tin có năng lực chữa lành các bệnh tật thân xác mà ngay cả đến nỗi đau khổ tâm hồn của người thống hối, lòng tin cũng là động lực giải thoát con người như trong trường hợp người phụ nữ ăn năn vì đã có cuộc sống chẳng nên, "Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Hãy đi bằng yên!" (Lc. 7:49).
               
              Điều đáng ngạc nhiên, đó là những câu truyện chữa lành này xưa nay thường được gọi là phép lạ Đức Kitô thực hiện thì Phúc Âm lại cứ đặt vào miệng Đức Kitô những lời giải thích rằng đó là kết quả của lòng tin nơi những người được chữa lành. Tại sao những chuyện xảy ra không được nói rõ là chỉ Đức Kitô mới có thể làm được hoặc Đức Kitô xác nhận Ngài làm phép lạ? Ngược lại, tất cả kết quả của mọi trường hợp dù đạt thành hay không, Đức Kitô đều nói tùy thuộc chính lòng tin của con người, và còn rõ ràng hơn, Ngài nói nếu ai tin, có thể thực hiện mọi chuyện Ngài đã làm hoặc làm những chuyện lớn lao hơn (Gioan 14:12). Lòng tin mạnh mẽ, chắc chắn khiến điều muốn xảy ra và khi những việc định thực hiện nhưng không được đều bị Đức Kitô cho là yếu lòng tin chẳng hạn câu truyện Phêrô rớt xuống nước vì nghi ngờ (Mt. 14:28-31). Phỏng như vậy, theo Phúc Âm, Đức Kitô muốn rao giảng cho mọi người nhận ra năng lực của điều mà Ngài gọi là lòng tin nơi bất cứ ai; năng lực này vượt hẳn mọi quyền lực thế tục  mà ít người nhận ra? Phỏng dùng chữ "phép lạ" mang nghĩa những điều con người không thể thực hiện nổi để gán cho Đức Kitô có thể biểu hiệu sự từ chối không tin vào lời Đức Kitô giảng dạy, hoặc cho rằng Đức Kitô không nói đúng sự thật? Bao nhiêu người tuyên xưng tin vào Đức Kitô đã có thể thực hiện câu nói nơi Phúc Âm Gioan: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (14:12). Phúc Âm Gioan đặt nơi miệng Đức Kitô câu nói rõ ràng, minh bạch, ai đọc cũng hiểu; thế nhưng, những ai đã có thể thực hiện được và lý do tại sao? Phỏng thực trạng không ai có thể áp dụng câu nói này nơi cuộc sống chứng minh con người không tin điều Phúc Âm ghi chép, hoặc không tin vào Đức Kitô, hay không hiểu lòng tin mà Ngài rao giảng là gì và phương cách thực tiễn nào để thực hiện? Những ai đặt câu hỏi hoặc dám suy nghĩ tất nhiên đã tự có câu trả lời mình ở trạng thái nào.
               
              Dĩ nhiên, dù một ý niệm đến nơi tâm trí con người đều được nhận thức tùy thuộc những ý niệm, quan niệm mà con người đã sẵn có. Chẳng những thế, ý niệm được thực hiện hay không lại tùy thuộc người mang ý niệm, hoặc muốn biến ý nghĩ, nhận thức, thành kết quả nào đó, hoặc biết chỉ để trau dồi kiến thức, biết để mà biết. Cũng một sự kiện, chẳng hạn có một căn nhà đề bảng bán đối với một người đang cần nhà ở và người khác đang sống ấm êm nơi một tòa lâu đài tiện nghi. Người đang sống nơi lâu đài biết có căn nhà đề bảng bán chỉ để mà biết vì không cần cũng như không có ý định mua thêm. Đàng khác, người đang cần nhà ở sẽ tìm hiểu và có những hành động cân nhắc hơn thiệt về giá cả cũng như điều kiện nơi chốn tùy thuộc nhu cầu sinh sống sao cho đạt được ý định đồng thời giải quyết nhu cầu cần nhà. Tương tự, trạng thái "tin" có một sự kiện nào, tin về chuyện gì, hoặc tin tưởng nơi ai, v.v... cũng có nhiều tâm trạng, mức độ, khác nhau. Tin có một Thượng Đế toàn năng, thông biết mọi sự, để ý đến mình, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, v.v... đồng thời kinh nghiệm những sự kiện xảy ra trong cuộc sống và thấy lắm kẻ "xấu" chẳng những vẫn sống phây phây mà còn có phần khấm khá hơn lối sống theo khuôn phép hòng được thưởng sau này của mình... lâu dần sự tin tưởng trở thành niềm an ủi mỗi khi chẳng may hoặc cảm nghĩ phấn khởi khi gặp chuyện theo ý muốn, thái độ tin này chỉ đem lại niềm hy vọng yêu đời mà sống, lâu dần rồi cũng quen.
               
              Câu nói, "Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm," mang nghĩa đòi hỏi hành động thực hiện sự việc chứ không phải chỉ tin theo nghĩa biết để mà biết hoặc tin để tự trấn an. Kẻ tin vào Đức Kitô, kẻ có lòng tin như Ngài rao giảng, kẻ thực hiện những điều Ngài chỉ dạy sẽ làm được những chuyện Ngài đã làm. Phúc Âm không nói chỉ mình Đức Kitô mới có thể làm được những điều được ghi lại mà bất cứ ai có lòng tin, bất cứ ai thực thi điều Ngài rao giảng sẽ làm được mọi điều người ấy muốn như Ngài đã đoan chắc "Mọi sự đều là có thể cho người tin" (Mc. 9:23). Thế nên, có sự khác biệt rõ ràng giữa lòng tin và điều mà chúng ta thường dùng được gọi là "tin." Chỉ tin rằng Đức Kitô có quyền phép không có nghĩa mình thực hiện được quyền phép đó. Tin rằng ông A, bà B, giầu có không có nghĩa mình giầu có như họ hoặc có tài năng làm tiền như họ. Ngược lại, ai có lòng tin như Đức Kitô nói sẽ thực hiện những sự được coi là phép lạ như Ngài đã làm. Như vậy, lòng tin Đức Kitô nói đến nơi Phúc Âm là quyền lực đạt thành bất cứ gì. Người có lòng tin sẽ thực hiện được những điều lạ lùng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22), và nguyên tắc để quyền lực lòng tin hoạt động chỉ là không nghi ngại mà hãy nghĩ là đã được, "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Có lòng tin là mọi chuyện đều có thể chứ không phải tin nhiều hay ít, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó! nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20). Nếu đức tin chỉ bằng hạt cải nhỏ bé mà đã mang quyền lực như thế thì sự khác biệt để sự việc thành hay không lại chỉ là có lòng tin hay không. Đến đây, vấn đề được đặt ra đó là những điều kiện nào Đức Kitô đã rao giảng phải có để đạt được lòng tin, và lý do tại sao lòng tin có quyền lực?
               
              Ngay lúc bắt đầu thời kỳ rao giảng sau khi Gioan Tẩy Giả bị nộp, Đức Kitô khuyến cáo: "Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc. 1:15). Sau đó khi người Biệt Phái thỉnh vấn, Ngài nói rõ: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay 'Ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20-21). Ngôn ngữ chỉ diễn tả được phần nào ý nghĩa điều muốn nói; chẳng hạn trong trường hợp chữ "hối cải" dùng nơi Mc. 1:15. Bình thường, chữ hối cải muốn nói về hối lỗi và cải thiện sao cho con người sống tốt lành hơn. Tuy nhiên, chữ hối cải ở đây mang nghĩa hoàn toàn khác biệt mà lại phù hợp tương đồng với nghi thức thanh tẩy Gioan đã thực hiện nơi sông Yordan. Hối cải hoặc thanh tẩy chỉ sự xóa bỏ hết những gì không thuộc về mình. Ý nghĩa của hành động này cũng được Đức Kitô mạnh mẽ minh xác về tâm tình và thái độ cần phải dứt khoát với những ý niệm, quan niệm, và những ảnh hưởng tâm tư của con người qua những dụ ngôn nói về bỏ cha mẹ, vợ con, hoặc cầm cày không quay trở lại. Theo Phúc Âm, Đức Kitô quyết đoán con người không được ly dị, "Ai rẫy vợ mình và cưới người khác là phạm tội ngoại tình, và ai cưới người vợ bị chồng rẫy cũng phạm tội ngoại tình" (Lc. 16:18). Thế nên câu Phúc Âm Lc. 14:26, "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta," hoặc Mt. 10:37, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, ắt không xứng đáng với ta. Kẻ Yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng đáng với Ta," hay "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lại sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62)... mang ý nghĩa bất cứ những gì dẫu thân thiết cách mấy nhưng làm cản trở hay ảnh hưởng con người về nhận thức tâm linh đều cần phải được thanh tẩy, cần phải cải thiện hoặc vứt bỏ. Ai cầm cày còn quay trở lại; ai đã nghe theo lời rao giảng của Đức Kitô mà còn vương vấn những ý niệm, quan niệm, sản phẩm của những bộ óc thế tục không thể nào nhận thức được Tin Mừng. Muốn am hiểu Tin Mừng, con người cần có tự do tư tưởng hoàn toàn, không bị lệ thuộc hay ảnh hưởng bởi bất cứ chiều hướng nào làm áp lực bắt con người phải suy nghĩ theo một lề lối riêng vì tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát khỏi ảnh hưởng bởi thành kiến và điều kiện bên ngoài. Nhận định này có thể được dùng làm căn bản để giải thích câu Phúc Âm, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời" (Mt. 18:3), hoặc "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà đã mạc khải ra cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là quyết ý của Cha!" (Mt. 11:25). Trẻ em còn non nớt, bé mọn, chưa có kinh nghiệm sống, chưa được giáo dục theo bất cứ truyền thống đạo đức, văn hóa thế tục nên không bị ảnh hưởng bởi bất cứ thành kiến, điều kiện và lề lối suy tư nào. Vì vậy, con người cần được thanh tẩy khỏi mọi ảnh hưởng tâm trí để có thể nhận thức đúng đắn về tâm linh do Đức Kitô rao giảng.
               
              Không bị ảnh hưởng những quan niệm, ý niệm thế tục, con người mới có thể nhận ra "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21); nói cách khác, "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên" (Mc. 1:15). Nước Thiên Chúa chính là quyền lực của Thượng Đế xưa nay đã không được đích thực nhận ra. Con người có suy nghĩ, nhận thức khác biệt tùy theo ảnh hưởng của môi trường cuộc sống v.v... do đó đã có những quan niệm về Thượng Đế khác nhau. Những quan niệm này lệ thuộc cảm nghiệm liên hệ giữa con người và Thượng Đế. Cựu Ước, qua cảm nghiệm của dân Do Thái đã trình bày một Thiên Chúa mang đầy tính chất nhân sinh như hỉ, nộ, ái, ố... hòa hợp với quan niệm sống của dân Do Thái hơn hai ngàn năm về trước; một Thiên Chúa của riêng người Do Thái, chỉ chấp nhận và bênh vực họ, đứng về phe họ và đối nghịch với tất cả các dân tộc khác, thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ. Cựu Ước, theo lối nhìn của người Do Thái, chấp nhận có một Thiên Chúa tạo dựng muôn loài; mọi loài thoạt mới được tạo dựng đều tốt lành, nhưng con người chỉ vì kiêu ngạo muốn trở thành quyền năng như Thiên Chúa nên đã bị phạt. Hình phạt này được thể hiện nơi cuộc sống trần gian, "Ta sẽ gia tăng đau khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con đẻ cái. Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi" (Kn. 3:16). Và, "Vì ngươi nghe theo tiếng vợ mà ăn cây Ta đã truyền cho ngươi rằng: Ngươi không được ăn, thì đất đai hãy là đồ chúc dữ vì cớ ngươi, có đau khổ ngươi mới nhờ được nó mà ăn mọi ngày đời ngươi" (Kn. 3:17).
               
              Đức Kitô không những rao giảng một Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, cả kẻ lành lẫn người dữ, mà còn dạy nhân thế nên yêu thương hết mọi người, ngay cả kẻ thù của mình hầu trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành: "Các ngươi đã nghe bảo: Hãy mến yêu thân nhân và hãy ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:43-45,48). Tiến xa hơn nữa, Đức Kitô còn dạy không nên xét đoán: "Đừng xét đoán, để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1), hoặc "Các ngươi chỉ bằng vào xác thịt mà xét; phần Ta, Ta không xét xử ai" (Gioan 8:15). Chính ngay thái độ đối xử với con người, Ngài đã chẳng bao giờ lên án ai theo luân lý thế gian ngoại trừ những kẻ cố tình bám víu vào những lề lối thế tục, không chịu mở rộng lòng đón nhận con đường tâm linh (Mt. 23:13,15,25,26,29; Mc. 7:10-15; Lc. 11:42,43,52). Đối với Đức Kitô, kẻ khác luôn trổi vượt và cao quí hơn những gì mà người đương thời gán cho họ. Ngài không nói người phụ nữ Samaritan bên giếng Giacóp là người nhẹ dạ, ngu ngốc mà đến xin một bát nước và nói chuyện với bà ta (Gioan 4:7-9). Ngài không nói người phụ nữ tội lỗi là một loại gái hư đốn mất nết mà nói bà có nhiều may mắn để vào Nước Trời hơn những kẻ huênh hoang về nhân đức và hiểu biết của mình (Mt. 26:7-13; Mc. 14:3-9; Lc. 7:37-50). Ngài không lên án người phụ nữ ngoại tình mà chỉ nói: Ta không lên án con, hãy đi về và đừng phạm tội nữa (Gioan 8:3-11). Ngài không coi khinh các con trẻ ít hiểu biết mà yêu cầu để trẻ đến gần Ngài (Mt. 19:14; Mc. 10:14; Lc. 18:16) đồng thời khuyên mọi người nên bắt chước và trở nên như trẻ nhỏ trong phương diện đón nhận lời Ngài rao giảng (Mt. 11:25; 18:3)...
               
              Thực ra, con người lỗi lầm chưa chắc đã vì lười biếng, có ý xấu, hay luôn hướng chiều về đường tội lỗi, mà vì vô tri về con đường tâm linh nên bất mộ, không nhận biết hoặc hiểu lầm, hoặc được dạy dỗ sai lầm nên bị mù lòa khi nhận thức do đó không nhận ra bản thể đích thực của mình. Do hiểu không đúng, không rõ hoặc được dạy dỗ sai, con người đã làm điều sai một cách vô ý thức, đã bóp méo, làm lệch lạc sự nhận thức thực thể sự việc và biến ý thức, nhận định thành chiếc máy nhai đi nhai lại những quan niệm hoặc nhận thức thế tục được cho rằng tốt lành hoặc đáng được cỗ võ theo đa số từ xưa đến nay. Chính vì vậy người ta đã chỉ chú trọng tới hình thức bên ngoài theo quan niệm xã hội. Hơn nữa, đa số con người hành động không ý thức nên chịu ảnh hưởng ngoại cảnh do đó luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính mình thành thử khó nhận ra con đường phù hợp đáng theo vì vậy đành chấp thuận sống theo một lề lối, khuôn khổ không thích hợp. Hơn nữa, thực hiện những sự tốt lành đều phải chấp nhận thiệt thòi, nên người nói điều ngay chính đều bị chống đối bởi nhiều luận điệu, sản phẩm của những đầu óc vị kỷ. Lâu dần thành quen, con người cổ võ sáng kiến bới móc, vạch lá tìm sâu, và từ đó mang nặng óc chỉ trích. Thực ra, với óc chỉ trích, con người công kích tất cả, họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi người để tưởng rằng mình tốt lành hoặc mong che giấu cá tính kiêu căng, tự phụ, một hình thức mù lòa do không nhận biết chính mình. Thực tế chứng minh, người ta không thể dậy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng tự phụ bởi họ đóng mắt bịt tai khi đối diện với những điều phương hại cho hành trình thăng tiến tâm linh; từ đó họ dần dần tạo nên một tâm hồn chết nơi thân xác biết cử động để rồi chỉ làm gương mù bởi rập theo những khuôn mẫu được thế tục cổ võ. Dĩ nhiên, thái độ, hình thức bên ngoài cũng cần nhưng điều cần hơn lại là bề trong. Đọc kinh, đi nhà thờ, chưa chắc đã thực sự có lòng tin mà có thể vì khiếp sợ sa hỏa ngục, như thế chưa chắc đã chứng tỏ đủ là hữu thần. Theo tôn giáo, giữ những khuôn mẫu đạo hạnh tùy thuộc quan niệm người đời, sống đạo hình thức, có thể chỉ làm ý thức hành đạo lụt dần.
               
              Từ nhận thức trên, không lạ gì khi thấy nơi Phúc Âm Đức Kitô đã minh xác: "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21) đồng thời Ngài lại thường xuyên nhắc nhở: "Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông" (Mt. 3:2; 4:17; 10:17; 12:28; Lc. 10:9,11; 11:20) mà lại còn phải kêu gọi: "Vậy các ngươi chớ lo mà rằng: Ta sẽ ăn gì? ta sẽ uống gì? ta sẽ lấy gì mà mặc? Các điều đó, dân ngoại kiếm tìm. Nhưng Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, biết rõ các ngươi cần các điều ấy. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi" (Mt. 6:31-33). Đoạn Phúc Âm này nói lên điều ít ai để ý đó là có một động lực huyền nhiệm nào đó tự nơi con người liên hệ mật thiết với quyền lực của Thiên Chúa, của Nước Trời, bao trùm tất cả đến nỗi ngay những nhu cầu thiết yếu cho sự sinh sống hữu hình là của ăn và quần áo mặc đều thuộc thành phần thứ yếu. Động lực này chính là quyền lực của lòng tin, "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13), hoặc "Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28). Với sự nhận thức hữu vi của thế nhân, ai có thể chấp nhận ăn mặc là điều thứ yếu nơi cuộc sống hữu hình? Có lẽ chính vì vậy, đoạn Phúc Âm (Mt. 6:31-33) này đã bị nhận thức không được đúng đắn với ý nghĩa thực sự của nó để rồi bị coi thường hay giải nghĩa một cách sai lệch.
               
              Nguyên nhân tạo nên quyền lực của lòng tin chính là quyền lực của Thiên Chúa ở nơi con người, nơi mỗi người được giải thích bằng lối nói: "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" hay "Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông." Có thể danh hiệu Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Mt. 1:23) đã bị hiểu lầm bởi người Thiên Chúa Giáo thường gọi Đức Kitô là Thiên Chúa nên cho rằng danh hiệu này chỉ về sự hiện diện hữu hình của chính Ngài nơi trần thế. Hiểu như vậy có phần nào không phù hợp với thời điểm này, năm 1996, đã gần hai ngàn năm Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như chúng ta. Đức Kitô rao giảng về lòng tin và đó là sự nhận thức thực sự Thiên Chúa, Thượng Đế, ở nơi mọi người, ở trong mọi người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; con người ở trong Thượng Đế; con người, mọi vật đều mang sự sống nên là một trong Thượng Đế bởi tất cả cùng được chia sẻ sự hiện hữu, sự sống, là chính bản thể của Thượng Đế. Chính sự sống, bản thể này là quyền lực của lòng tin nơi con người, quyền lực của ý định, ước muốn, của sự tin tưởng. Con người dùng quyền lực này áp dụng vào ý nghĩ xấu tạo nên tội, áp dụng vào ý nghĩ tốt tạo nên phúc, ảnh hưởng hành trình tâm linh, hành trình trở nên thiện toàn như Thượng Đế của con người.
               
              Con người là một với Thượng Đế, là một với vũ trụ, vạn vật, có cuộc sống bao gồm thân xác hữu hình và những thành phần vô hình phù hợp thân xác cùng với sự sống vĩnh cửu được chia sẻ do chính bản thể của Thượng Đế; từ đó suy ra, cuộc sống hữu hình này là một giai đoạn hiện thể trong sự biến dịch của sự sống vĩnh cửu nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin, lòng tin, để trở nên thiện toàn. Thân xác con người được sinh ra khởi đầu cho cuộc sống hữu hình và sự chết của xác thân là thời điểm để sự sống trở về thế giới vô hình. Như vậy, cuộc sống vô hình tiếp nối cuộc sống hữu hình thường được gọi là trời; cuộc sống hữu hình được gọi là đất... Xét thế, với quan điểm sự sống vĩnh cửu, đất và trời là một; tâm trí con người nơi cuộc sống hữu hình thế nào thì ở cõi vô hình cũng thế; nói cách khác, lòng tin, sức mạnh của tâm trí, ý định, luôn mang quyền lực ảnh hưởng con người, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Sự cầm buộc này là ước muốn, khát vọng, nơi con người bởi sự ao ước của con người ở nơi nào thì lòng dạ đều đặt vào đó. Chính những khát vọng, ước muốn của con người áp đặt chủ thể trở nên đối tượng mình muốn trở thành. Hơn nữa, mọi người là một với Thượng Đế, với vũ trụ không thể phân ly, và như vậy, những ước muốn cho mình cũng là ước muốn cho người do người với ta là một; cái nhìn về người là cái nhìn về chính mình; sự cầm buộc người khác cũng là sự cầm buộc chính mình, tạo hạnh phúc cho người cũng tạo hạnh phúc cho mình. Do đó, câu "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ những điều các ngươi sai lỗi" (Mt. 6:14-15) nói lên ý nghĩa rõ ràng của sự hợp nhất và ảnh hưởng của lòng tin, của quyền lực ý định, ước muốn, nơi mỗi người đối với thế nhân.
               
              Điều hiển nhiên, bản chất con người bao gồm hữu hình và vô hình nhưng sự nhận thức lại bị ảnh hưởng quá nhiều bởi thành phần thân xác hữu hình sinh ra lối nhìn sai biệt đối với thực thể sự kiện. Nhân sinh thường quá quen với sự phân chia sự kiện thành hai phần đối nghịch như đúng với sai, phải với trái, tốt xấu... Thường gì những gì xảy ra phù hợp với lề lối suy tư, kinh nghiệm hoặc giống với quan niệm đại đa số đều được cho là đúng và những gì không giống hay khác thường với thói quen nhận định của con người dẫu chưa được đắn đo nhận thức đã bị vội cho là sai. Thực ra, trong cuộc sống đâu thiếu gì cảnh "thấy đỏ tưởng chín," và nhiều trường hợp, những điều tốt cho mình chưa chắc đã tốt cho người cũng như những việc được mọi người ngưỡng mộ lại chính là điều khổ ải cho mình. Thế nên, sự nhìn nhận thiếu đúng đắn sự việc đã là điều cản trở đầu tiên cho sự nhận thức của con người. Xét về mặt tâm linh, những điều tốt lành con người xưa nay ước mơ chưa chắc đã thực sự đem lại lợi ích cho hành trình thăng tiến nhân sinh. Ai không ngạc nhiên đối với câu Phúc Âm: "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Đàng" (Mc. 10:25; Mc. 19:23-24; Lc. 18:24-25). Cũng có thể vì lý do ngôn ngữ thay đổi ý nghĩa tùy thời và tùy nơi nên câu Phúc Âm này có thể mang ý nghĩa "lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người đam mê giàu có của cải trần gian vào được nước thiên đàng" vì ước muốn của con người ở đâu thì lòng dạ của họ ở đó. Ai không muốn có cuộc đời thảnh thơi, nhàn hạ, hơn là cày sâu cuốc bẫm, tối mặt quần quật suốt ngày làm việc. Lại nữa, sự giàu có là phương tiện cho con người muốn gì được nấy nơi cuộc sống hữu hình, vật chất, mọi chốn mọi thời luôn luôn hiển hiện khiến con người qua sự nhận thức ngũ quan với ước muốn cải tiến cuộc sống nghĩ rằng nhân sinh chỉ bao gồm những sự việc hữu hình nên không để ý đến nhận thức và hành trình tâm linh do đó mọi nỗ lực đều được dành cho sự kiếm tìm hạnh phúc tùy thuộc vật chất đời này. Từ nhận thức hạn hẹp của ngũ quan được giới hạn trong vòng sinh sống thế tục, mọi ước muốn, ý định, đều lệ thuộc lối nhìn hữu vi, vật chất, vì vậy cuộc sống đời sau tiếp nối sẽ không được để ý, đó chính là cội nguồn của chủ thuyết duy vật... và như thế, quyền lực lòng tin, ý định, đã bị đóng kín, không còn cơ hội phát huy dẫn dắt tìm đường thăng tiến tâm linh. Nước thiên đàng đã bị chặn lối bởi lòng ham muốn sự giàu có thế tục qua nhiều hình thức.
               
              Nhãn quan hữu vi chẳng những dẫn con người lầm lạc về giá trị và mục đích đời người mà còn ảnh hưởng sai lệch nhận thức về giá trị và hành động cũng như bản tính của con người do đó lề lối, tập tục, thói quen, giáo dục, v.v... được phát triển hòng khuôn mẫu hóa mọi người cho dễ bề nhận định, dễ phân biệt phải trái, đúng sai, hòa hợp, hay mâu thuẫn, dần dần biến con người thành bộ phận máy móc của xã hội; dẫu thế nào chăng nữa, ai không lệ thuộc vào hệ thống máy móc ấy đều bị lên án hoặc nghiền nát. Những hệ thống luân lý, văn hóa, giáo dục xã hội đã trở nên các lò đúc hoặc tay thợ tài ba chiết cây, ghép cành để có cây chanh sinh trái cam hoặc cây hoa hồng sinh bông huệ không cần biết thân huệ chẳng thể ráp vào cành hồng. Thế nên, thay vì tìm điều thiện nơi mọi người để nhận ra mọi sự phải có lý riêng của nó được điều động do sự thánh thiện và toàn hảo tuyệt đối của Thượng Đế, lối nhìn hữu vi, thế tục, đã rập theo những khuôn mẫu sẵn có để xét xử các thành phần nhân sinh. Bởi đó chẳng lạ gì, câu Phúc Âm "Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1; Lc. 6:37) mang giá trị tuyệt đối nơi hành trình tâm linh. Người với ta là một thì xét đoán người tất nhiên dùng quyền lực của ý định tự trói buộc mình trong vòng luận xử luẩn quẩn theo nhận định thế tục.
              Làm thế nào để có nhận thức chính trực và đâu là khởi điểm cho hành trình tâm linh con người có thể nhận biết? Câu trả lời sơ khởi đương nhiên phải là sự nhận biết chính mình bởi không nhận ra con người mình thế nào sao có thể hiểu thực thể tạo vật chung quanh. Như vậy, tìm lại bản thể đích thực của con người chính là mục đích, là khát vọng vượt không gian và thời gian, âm ỉ nung nấu tâm hồn nhưng ít khi được để ý đến. Khát vọng này cũng chính là nguồn hạnh phúc con người ước mơ, nguồn hạnh phúc tìm về nguồn cội, tìm về Tạo Hóa. Từ đó, lề lối tư duy, hành trình tâm linh kiếm lại bản thể trở thành sự xóa bỏ dần dần những gì không thuộc về thực thể của mình, những ảnh hưởng thế tục vây bọc nhận thức để thoát khỏi sự lệ thuộc, để khỏi bị che khuất. Điểm khởi đầu này được Lão học đề xướng bớt và bớt, càng ngày càng bớt cho tới khi không còn gì để bớt. Không còn gì che khuất hoặc ảnh hưởng nhận thức, bản thể đích thực sẽ lộ ra và đó là sự sống nguyên thủy của Thượng Đế nơi con người, "Và Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh của Thiên Chúa, Người đã dựng nên nó là nam là nữ" (Kn. 1:27). Ước mơ, lòng khát vọng hướng thượng, muốn trở nên toàn hảo, âm ỉ tự đáy tâm tư có thể là nguyên thể của tiếng nói lương tâm, là động lực thúc đẩy con người thăng tiến trên hành trình tâm linh: "Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng, chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn, mỗi người, phải dạy bảo nhau, mỗi người phải nói với anh em mình: 'Hãy biết Yavê!' Vì hết thảy chúng đều biết Ta" (Jer. 31:33-34). Quyền lực của ước muốn trở nên toàn hảo để trở về nguyên cội cũng chính là lòng tin nơi mọi người ở mọi thời. Nói cách khác, sự trở nên toàn hảo chính là mục đích của hành trình tâm linh, hành trình thực hiện lòng tin, là mục đích của cuộc đời con người nhưng ít được nhận ra.
               
              Dĩ nhiên, nơi cuộc sống thế nhân, mỗi người được sinh ra với bản chất riêng biệt, được nuôi dưỡng trong những môi trường không giống nhau, cũng như tùy thuộc ảnh hưởng cơ thể cá nhân nên hấp thụ giáo dục chẳng đồng đều do đó tâm tính, chiều hướng suy tư, nhận thức sự việc lại càng không tương đồng, vì thế mỗi người có khuynh hướng, phương cách, và lề lối riêng biệt nơi hành trình tâm linh để tiến tới sự toàn hảo. Tất nhiên, cá biển không thể sống được nơi nước ngọt, hoặc cây cối không thể mọc trong vùng băng tuyết giá lạnh của bắc cực hay nam cực. Mỗi môi trường gồm có những điều kiện dành cho sự phát triển riêng biệt nào đó thì con người không thể bị đồng hóa theo bất cứ khuôn mẫu nào trên hành trình thăng tiến tâm linh bởi không ai có thể truyền bá cho bất cứ ai nhận thức cảm nghiệm về Thượng Đế cũng như không ai có thể học hỏi từ người khác về bản thể của mình vì sự nhận thức này đòi hỏi cảm nghiệm cá nhân và sự liên hệ tâm linh trực tiếp với Thượng Đế. Sự truyền bá, phổ biến chỉ là kiến thức, sản phẩm của nhận thức, kinh nghiệm, được giãi bày bằng luận lý qua ngôn ngữ trong khi ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý. Sự cảm nghiệm tâm linh phải do chính chủ thể chứ không do sự học hỏi bởi không ai cảm nghiệm về một sự việc giống ai hoặc không ai có thể trung thực diễn giải cảm nghiệm của mình do "Đạo khả đạo phi thường Đạo" (Lão Học), hay "Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Người ta chỉ có thể nói về những gì không phải là Thiên Chúa; còn những gì thuộc về bản thể Ngài, không ai có thể nói lên được" (Thomas Aquinas).
               
              Kiếm tìm về nguồn cội, đạt tới mục đích của hành trình tâm linh, nhận ra mình là ai, đó là sự nhận biết bản thể đích thực của mình; đó cũng là đối diện với Đạo tại tâm, đối diện với Thượng Đế nơi cung lòng mình. Như vậy, cuộc sống hữu hình là cơ hội cho con người thực hiện hành trình tâm linh để trở nên thiện hảo; vì khi đã đối diện với Thượng Đế nơi nhận thức, con người thực sự nhận ra bản thể nhất nguyên, mình là một với Thượng Đế, nhận ra nguồn quyền lực của lòng tin, quyền lực của sự hiện hữu, sự sống. Xét thế, nguồn gốc của tất cả những sự nguy hại cho hành trình tâm linh chính là sự mù lòa của nhận thức do ngũ quan thân xác hoặc tham vọng che lấp nên không nhận biết về bản thể đích thực của con người, không nhận biết Thượng Đế nơi mình để rồi phân biệt mình với người, với Thượng Đế, và với vạn vật là những thực thể riêng biệt. Thế nên, không nhận biết quyền lực của lòng tin, của ước muốn, ý định, v.v... lại do chính sự không nhận ra "Đạo tại tâm," không nhận ra Thượng Đế và quyền lực của Ngài nơi con người.
               
              Đức Kitô rao giảng một Thiên Chúa yêu thương mọi người không phân biệt giai cấp hay thiện ác, "Ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:45,48). Đấng trọn lành Đức Kitô gọi là Cha không xét kẻ này thiện hoặc kẻ kia ác mà làm tốt cho tất cả, yêu thương tất cả. Phỏng như vậy, một người "Đừng xét đoán, để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1) không nhận xét những điều xấu theo con mắt thế nhân, không phân biệt thiện ác như mọi người chung quanh, và không nhận thức theo những quy luật xã hội nơi con người sinh sống, mà coi mọi sự như nhau, mỗi người được sinh ra có hành trình tâm linh riêng để đạt tới sự thiện toàn? Điều hiển nhiên, đã được sinh vào thế giới hữu hình thì sự chết của xác thân cũng là một thực thể không thể thiếu bởi giả sử tỷ năm, triệu năm về trước tới nay nếu không ai chết, phỏng còn khoảng trống nào cho một người đi đứng? Phỏng có thể nói, Thượng Đế cho con người có sự hiện hữu hữu hình thì lại cũng phải cất con người đi để cho hành trình biến dịch tiếp tục? Nhìn theo con mắt thế nhân, phỏng sinh được coi là thiện và chết được coi là ác vì không ai muốn, thì như vậy thiện ác nơi con mắt không xét đoán sẽ như nhau? Phỏng sự đúng, sai, phải, trái, nơi con người cần được đặt vấn đề lại để có nhãn quan phù hợp cho sự thăng tiến hành trình tâm linh? Phỏng nên lên án những con beo, hổ, sư tử, vì chúng giết và ăn thịt các con thú khác dẫu chúng không được sinh ra với những bộ phận tiêu hóa cỏ? Hơn nữa, nếu đặt vấn đề ngược lại, những điều được cho là tốt lành theo nhãn quan nhân thế phỏng đã thực sự tốt lành theo nhận xét tâm linh? Phỏng lửa không nóng thì lấy gì nấu thức ăn, và rượu uống không say liệu ai tốn tiền chuốc lấy? Mỗi sự vật đều có tính chất riêng; có thể nói đó là sự thiện toàn vì nó được sinh ra, được tạo dựng để trở thành tính chất ấy.
               
              Riêng con người, Đức Kitô xác định rõ, "Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48), và "Các ngươi hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:36). Vì có thể chất khác biệt hòa hợp với những ảnh hưởng tâm trí không đồng đều nên không thể có một khuôn mẫu chung để nhận định thực sự tâm hồn một người trên hành trình trở nên thiện toàn, trọn lành, theo hình thức, phong cách, và thái độ, bề ngoài; do đó con người cần chú trọng đến nhận thức tâm linh tùy thuộc bản chất riêng mình. Sự nhận thức tâm linh này ảnh hưởng chứ không bị lệ thuộc hình thức bên ngoài; có thể đó là lý do tại sao câu "Đạo tại tâm" bao gồm hai nghĩa, Thượng Đế ngự nơi chính mình, và hành trình trở nên trọn lành như Ngài phải được xuất phát tự tâm hồn chứ không phải là sự bắt chước hình thức một cách máy móc, "Nhưng giờ sẽ đến, và là ngay bây giờ, những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật" (Gioan 4:23-24). Dẫu phần nào ảnh hưởng, hoặc khơi động tâm tình hướng thượng, hoặc giảm bớt lòng mộ mến, hình thức, cách sống bên ngoài chỉ một phần nào biểu lộ chiều hướng, lòng thành, nội tâm. Nói cách khác, nội tâm kiến tạo hình thức ngoại tại mà nghi thức bên ngoài không thể là nguồn gốc cho lòng mộ mến bên trong. Nội tâm và hình thức được so sánh tựa tình yêu và thể xác; tình yêu phát sinh tự tấm lòng, yêu và muốn được hòa hợp với sự sống nơi con người chứ không ai muốn cưới một xác chết dẫu yêu thương đến cách mấy. Nơi hành trình tâm linh, Đức Kitô rao giảng lòng thành yêu thương tự tâm khảm dẫn dắt mọi thái độ trong sinh hoạt cuộc sống, "Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế: Lề luật và các tiên tri là thế" (Mt. 7:12; Lc. 6:36). Dĩ nhiên, ai không yêu thương chính mình không thể yêu thương bất cứ người nào khác; đồng thời, kẻ nào kinh tởm, hận thù chính họ cũng kinh tởm hận thù mọi người. Mặc dầu thế, xét trên phương diện cuộc sống, những gì tốt cho mình chưa chắc đã tốt cho người; cho nên, những gì mình nghĩ là tốt cho người chưa chắc đã phù hợp với họ, chẳng hạn trong việc ép duyên con cái. Lời mời gọi hãy làm cho người ta mọi điều mình muốn phải được đặt trên căn bản vị thế đối tượng chứ không phải chỉ nghĩ là sự việc nào đó tốt cho họ mà thôi.
               
              Đức Kitô trình bày một Thiên Chúa hiện hữu mọi nơi, mọi lúc, không phân biệt đất, trời, vì đất trời là một, "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21), "Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông" (Mt. 3:2; 4:17; 10:17; 12:28; Lc. 10:9,11; 11:20); đời này và đời sau cũng chỉ là một; sự tha thứ, kết án của con người tự có quyền lực ảnh hưởng chính mình (Mt. 6:14-15; 18:18) nên Ngài đã dạy các môn đồ: "Vậy các ngươi hãy cầu nguyện thế này: Lạy Cha chúng tôi, Đấng ngự trên trời, ước gì danh Cha hiển thánh, nước Cha trị đến, ý Cha thành sự dưới đất cũng như trên trời..." (Mt. 6:9-10). Nước Thiên Chúa đã đến và đang ở nơi con người thì "nước Cha trị đến, ý Cha thành sự dưới đất cũng như trên trời..." lại cũng chỉ tùy thuộc chính ý định, ý muốn, của con người. Như vậy, đời sau là cuộc sống vô hình tiếp nối cuộc sống hữu hình đời này; nói cách khác, đời này có ý định, ước muốn thế nào thì đời sau sẽ được tiếp diễn như vậy vì quyền lực của ý định, ước muốn, vẫn tồn tại và ảnh hưởng toàn bộ sự hiện hữu con người cho dù ở đời nào, "Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Suy rộng hơn, người nào nơi cuộc sống hữu hình chỉ ước mơ của cải vật chất thì sau khi chết, hồn cũng chỉ luẩn quẩn với sự thèm khát vật chất chưa được thỏa mãn nên khó bề giải thoát; ai đặt ý định, ước muốn nơi tiến trình thăng hóa tâm linh, cuộc sống sau này sẽ không bị lệ thuộc vào khát vọng vật chất hữu hình. Phỏng nhận định này có thể diễn giải câu Phúc Âm, "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Đàng" (Mc. 10:25; Mc. 19:23-24; Lc. 18:24-25)?
               
              Xét thế, ý Cha, ý Chúa, ý định của Thượng Đế, trên phương diện lòng tin, là cùng đích, là sự trở nên toàn hảo, toàn thiện, của con người tùy thuộc ý định, ước muốn của chính con người... Phỏng xét theo nghĩa này câu "Ý dân là ý Trời" mang đầy đủ mãnh lực của ước muốn con người xưa nay? Và như vậy, con người có cả một gia tài quyền lực lòng tin nhưng không được nhận biết, không được tìm hiểu phương cách phát triển để xử dụng. Lẽ đương nhiên, ngoại trừ trường hợp bị ép buộc hay có bộ óc bất bình thường, mọi hành động đều tùy thuộc ý định, ước muốn của một người. Thế nên, tâm ý đóng vai trò quan trọng nơi hành trình tâm linh, "Lòng ứa đầy những gì, thì miệng nói ra. Người lành tự kho lành mà kéo ra điều lành; còn kẻ ác tự kho ác mà kéo ra điều ác" (Mt. 12:34-35; 15:19; Mc. 7:19-21; Lc. 6:45). Bởi vậy, Đức Kitô rao giảng về luật yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người cũng chỉ là một, "Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi! Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất. Thứ đến cũng giống như điều ấy: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui vào hai giới răn ấy" (Mt. 22:37; Mc. 12:30; Lc. 10:27). Sự bác ái và tha thứ đối với tha nhân phải tự đáy lòng, "Cũng vậy, Cha Ta, Đấng ngự trên trời sẽ xử với các ngươi, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em" (Mt. 18:35). Vì thực ra, tha thứ cho người là tự giải thoát chính mình khỏi sự ràng buộc bởi ý định không tha thứ, cầm buộc: "Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án; ai mắng anh em là "đồ ngốc' thì can án trước công nghị; và ai mắng là 'đồ khùng' thì can án hỏa ngục lửa thiêu" (Mt. 5:21-22). Đức Kitô nhấn mạnh về tâm ý vì ý định phát sinh quyền lực và hành động; sống lệ thuộc hình thức hay lời nói buông trôi cho qua không mang lại giá trị tâm linh bởi không phát xuất tự tâm hồn nên chỉ là giả dối: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là sẽ vào được nước trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời..." (Mt. 7:21-22). Chính tâm ý con người thế nào thì cuộc sống, hành động của họ sẽ theo chiều hướng ấy. Thế nên kẻ thực hành điều Ngài giảng dạy, mang tâm ý, mang lòng tin trở nên thiện toàn thì mới có thể thăng tiến trong hành trình tâm linh, "Tại sao các ngươi kêu với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa, mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?" (Lc. 6:46). Như vậy, lòng tin Đức Kitô rao giảng đòi hỏi tâm ý hướng chiều toàn thiện để dẫn dắt thái độ, hành động con người chứ không phải lời nói suông rằng tin thế này, tin thế kia cho qua. Nói cách khác, đó là lối sống thực hiện lòng tin, lối sống chứng nhân Thiên Chúa, Thượng Đế đang ngự trị nơi chính mình.
               
              Thực hiện, giữ luật bác ái, yêu thương, không phải cứ làm bừa những gì không cấm nơi Mười Điều Răn nhưng tất cả những gì có hại cho hành trình thăng tiến tâm linh đều cần được tránh; bất cứ thái độ, cử chỉ, lời ăn tiếng nói chất chứa những điều bất lợi cho người khác đều mang quyền lực tự trói buộc mình. Có thể vị luật sĩ và vị tư tế đã làm ngơ đối với người bị cướp đánh gần chết bên đường (Lc. 30-37) vì họ tuân giữ đúng điều đã được dạy bảo và bởi trong Mười Điều Răn đã không có luật nào nói rằng không cứu người là có tội? Đức Kitô xác định rõ Ngài đến để kiện toàn lề luật, "Đừng tưởng Ta đến để bãi bỏ lề luật hay các tiên tri; Ta đến không phải để bãi bỏ, mà là để làm trọn" (Mt. 5:17). Thật ra, giữ không làm điều xấu dễ, giữ tâm không nghĩ điều xấu mới khó, vì đòi hỏi nỗ lực; hơn nữa, thấy điều nên và cố gắng thực hiện lại càng khó hơn. Đây chính là luật bác ái, là sự thực thi hành động giải thích câu Phúc Âm: "Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế: Lề luật và các tiên tri là thế" (Mt. 7:12; Lc. 6:36). Được sinh ra với bản tính con người nhưng sự thăng tiến tâm linh sẽ như thế nào lại tùy thuộc sự thực hiện ý định, ước muốn, lòng tin, nơi chính mình. Như vậy, phỏng nói rằng Chúa định phải chăng chứng tỏ sự thiếu ý thức hoặc không nhận biết quyền năng hay đã chẳng sống lòng tin nơi mình? Tin rằng Đức Kitô cứu mình nhưng không thực thi điều Ngài giảng dạy, Ngài chỉ lối mà không dấn bước thì con đường cứu rỗi có rộng mở, kẻ tin suông cũng chẳng tiến tới đâu!
               
              Nhận thức Thiên Chúa ngự trị nơi mình, từ những thành phần tạo nên tế bào để cấu tạo các bộ phận xác thân cho tới toàn thể con người bao gồm ý định, tư tưởng, và những sự liên hệ trong cuộc sống, đồng thời cũng nhận thực quyền lực huyền nhiệm của Thiên Chúa ở ngay chính mình, con người sẽ nhận ra vai trò của mình trong cuộc sống và mục đích của sự hiện hữu hữu hình nơi trần thế. Nhận thức này dẫn đến ý thức mình với Thiên Chúa là một, với tạo vật là một, và với mọi người là một vì tất cả đều là một trong Thiên Chúa. Quyền lực nơi ý định ước muốn của con người, do đó, chính là quyền lực của Thiên Chúa ẩn tàng dẫn dắt con người trong hành trình tâm linh được gọi là lòng tin để trở nên toàn thiện. Bởi đó, luật yêu thương, bao gồm kính mến Chúa và yêu thương người như chính bản thân mình là lẽ đương nhiên, và dựa trên lẽ tự nhiên này, xét đoán người trở thành trói buộc mình, có ý định cầm buộc hay tha thứ người tức là cầm buộc hay tha thứ mình. Sự cầm buộc hay tha thứ có quyền lực ảnh hưởng không những đời này và đời sau bởi đời sau chỉ là sự kéo dài cuộc sống đời này trong thế giới vô hình. Như vậy, sống và chết thuộc về lẽ biến đổi của sự sống, bản thể đích thực của con người làm một với Thiên Chúa, dưới dạng hữu hình hay vô hình trong diễn tiến của hành trình tâm linh để trở nên thiện toàn.
               
              Đức Kitô không những giải thích về năng lực của lòng tin mà còn chỉ cho mọi người biết phương cách đạt được lòng tin này; những ai có lòng tin đều có thể làm được những điều Ngài đã thực hiện, "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12), và điều kiện đó chính là sự không nghi ngờ về ý muốn, ý định của mình; nói như vậy có nghĩa điều mình mong muốn thực sự cần thiết, không có không được. Điều kiện để có lòng tin đòi hỏi sự tin chắc chắn rằng điều mình muốn sẽ được toại nguyện như trong câu truyện cây vả bị chết khô: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22). Kinh nghiệm sống cho thấy, nếu ai thực sự muốn đạt tới điều gì, họ sẽ dùng mọi năng lực có thể để hoàn thành sự việc chẳng kíp thì chầy. Tuy nhiên, biết bao người muốn giầu có đồng thời lại thích thú tiêu pha hoang phí, hoặc vừa muốn có tiền vừa muốn có danh. Nếu người nào đó thực sự chỉ muốn có nhiều tiền, họ sẽ dùng mọi phương cách để có tiền dẫu rằng chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, ăn chắt để dành, không se sua, ganh đua, thèm khát xe mắc tiền, nhà cao cửa rộng, quần áo cho sang trọng mong được nở mày nở mặt do người khác nghĩ mình cũng thuộc loại tài giỏi, v.v... Và người nào thực sự muốn có danh tất nhiên họ dùng mọi tài cán, tiền bạc, nhiều khi phải bợ đỡ, luồn cúi nếu không có thực tài hầu cho người khác biết đến mình. Dĩ nhiên, có những người nức danh thơm thì cũng có những kẻ nổi tiếng xấu, nhưng thực sự muốn và không nghi ngại ý định trong lòng, họ sẽ đạt được điều ước mơ.
               
              Nơi Phúc Âm Marcô ghi lại, Đức Kitô không những giải thích rõ ràng mà còn nhấn mạnh về tính chất của lòng tin đó là sự không nghi ngại khi mình thực sự muốn điều gì: "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22). Tại sao nói "Tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra" trong khi đã đưa ra điều kiện "Mà trong lòng không nghi ngại"?  Phỏng Đức Kitô biết rõ mọi người đều nghi ngờ những điều Ngài rao giảng? Hai ngàn năm trước đây người ta đã cho rằng Đức Kitô phạm thượng vì nói về quyền lực của Thiên Chúa ở nơi con người; cho tới ngày nay, vẫn chưa thấy ai làm được những điều Ngài đã thực hiện; thực tại này là bằng chứng rõ ràng chẳng ai có lòng tin như lời Ngài đã được ghi chép lại trong Kinh Thánh. Phỏng con người đã hiểu lầm lòng tin, đức tin, Ngài rao giảng? Phỏng nói rằng chỉ cần tin có Thiên Chúa, có Thượng Đế, v.v... thì đã được Ngài nhắc nhở: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là sẽ vào được nước trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời..." (Mt. 7:21-22)? Nếu chỉ cần nói rằng tin là đủ, tại sao Đức Kitô còn phải giải thích: "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24)? Lý do gì Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Kitô câu nói: "Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi, và phải chịu đựng các ngươi?" (Lc. 9:41; Mt. 17:17).
               
              Kitô hữu nào không tuyên xưng tin vào Đức Kitô, tin vào Thiên Chúa? Những người theo Đức Kitô ngày đó sống gần gũi với Ngài, chứng kiến những sự việc Ngài làm, nghe tận môi miệng Ngài những lời rao giảng phỏng họ không tin hoặc phỏng họ tin kém những người sau này trong suốt gần hai ngàn năm? Như vậy, phỏng câu Kinh Thánh "Các ngươi có nghe cho lắm mà cũng không hiểu, các ngươi cố nhìn lấy nhìn để, mà cũng không thấy. Vì lòng dân này đã ra chai lại: chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà trở lại, và Ta lại chữa chúng lành" (Mt. 13:14; Mc. 4:12) ám chỉ sự mù lòa nhận thức của con người đã bao lâu nay? Vì lý do gì câu nói giống như ngớ ngẩn theo sự hiểu biết nơi trí óc loài người: "Ai có tai thì hãy nghe!" (Mt. 11:15; 13:9,44; Mc. 4:9,23; Lc. 8:8; 14:35) lại được Phúc Âm nhiều lần nhắc nhở bằng cách đặt vào miệng Đức Kitô? Ai là người không có tai để nghe mà còn cố tình thêm "thì hãy nghe"! Thử hỏi, ai có thể tin được câu nói: "Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó, nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt.17:20) là sự thật có thể thực hiện? Ai có thể xử dụng được câu nói này trong cuộc đời? Phỏng có lòng tin sẽ không bất lực trước một điều gì chứng tỏ quyền năng siêu việt nào đó nơi con người được gọi là lòng tin? Những ai nói có lòng tin, có đức tin dám thử cảm nghiệm để minh chứng câu Phúc Âm này là sự thật trong cuộc đời mình?
               
              Nơi Phúc Âm, Đức Kitô cũng đã hứa: "Và điều gì các ngươi xin nhân danh Ta, Ta sẽ làm... Và nếu các ngươi xin gì với Ta, nhân danh Ta, Ta sẽ làm" (Gioan 14:13); "Điều gì các ngươi xin cùng Cha, thì Người sẽ ban cho nhân danh Ta" (Gioan 16:23).  Chẳng những thế, Đức Kitô nói rằng lòng tin mang năng lực chiến thắng cả sự chết, "Phục sinh và sự sống chính là Ta. Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; và mọi kẻ đang sống tin vào ta sẽ không phải chết bao giờ" (Gioan 11:25-26). Có lẽ, phải thêm nơi đây, "Ai có tai thì hãy nghe!" Kinh nghiệm chứng minh, ai cũng có tính tò mò muốn biết. Tuy nhiên, thực hành mới quan trọng chứ biết để làm gì!
               
              Lòng tin, đức tin, không phải là vấn đề cho rằng hoặc tin rằng có Chúa hay không vì dù tin hay không tin có Chúa thì Chúa vẫn có. Chúa là thực thể vô hình, thần linh, cội nguồn của mọi năng lực hiện hữu, là chính sự sống nơi mỗi người. Lòng tin cũng không chỉ đơn giản nói lên tin có Đức Kitô thực sự hay không vì theo Phúc Âm, Đức Kitô không đòi hỏi phải nói tin Ngài là Thiên Chúa mà thực hiện những gì Ngài giảng dạy. Lòng tin chính là quyền lực sự sống, quyền lực ý định, ước muốn nơi mỗi người.
               
              "Sao! Nếu có thể!... Mọi sự đều là có thể cho người tin!" (Mc. 9:23).
               
              (Ghi chú: "Lòng Tin" được viết từ cảm nghiệm cá nhân; người viết chờ đợi ngày nào đó trong tương lai quyền lực này sẽ được chứng nghiệm do quí độc giả thức ngộ.)
               
              #7
                Ct.Ly 26.11.2017 00:54:42 (permalink)
                #8
                  Chuyển nhanh đến:

                  Thống kê hiện tại

                  Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                  Kiểu:
                  2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9