Paulo Coelho: Alchemist - Nhà Giả Kim

Tác giả Bài
Minh Nan
  • Số bài : 23
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 23.12.2016
Paulo Coelho: Alchemist - Nhà Giả Kim - 30.12.2016 15:22:09
0
Alchemist - Nhà Giả Kim
Tác Giả: Paulo Coelho
Dịch giả: Ngô Nguyễn Minh Nan
Dịch theo bản tiếng Anh: The Alchemist
 

Vào truyện
 
Nhà giả kim (1) cầm lên cuốn sách mà một người trong đoàn lữ hành đã mang theo. Lật qua các trang sách, ông tìm thấy một câu truyện về Narcissus (2).
Nhà giả kim biết huyền thoại về Narcissus, một chàng trai trẻ mỗi ngày cúi mình trên mặt hồ để chiêm ngắm sắc đẹp của mình. Cậu quá say đắm sắc đẹp của mình đến nỗi một buổi sáng kia cậu rơi xuống hồ và chết đuối. Nơi chàng đã rơi xuống lại mọc lên một loài hoa, được gọi là Narcissus.
Nhưng tác giả của cuốn sách đã không dừng lại ở đó.
Ông kể rằng khi Narcissus chết, các nữ thần trong rừng hiện ra và bắt gặp hồ nước, nhưng hồ nước không còn dòng nước trong lành như xưa nữa mà đã thành hồ nước mặn đầy nước mắt.
“Tại sao cô khóc?” các nữ thần hỏi hồ nước.
“Tôi khóc vì Narcissus,” hồ nước trả lời.
“Phải thôi, chuyện cô khóc vì Narcissus chẳng có gì ngạc nhiên,” các nữ thần nói, “vì ai trong rừng cũng theo đuổi anh ta, nhưng chỉ có mình cô là được chiêm ngưỡng sắc đẹp của anh ta gần nhất.”
“Nhưng… Narcissus đẹp lắm sao?” hồ nước hỏi.
“Ai còn biết điều đó rõ hơn cô?” các nữ thần ngạc nhiên nói. “Ngày nào mà anh ấy chẳng cúi mình bên bờ hồ của em mà chiêm ngưỡng sắc đẹp của mình.”
Hồ nước yên lặng hồi lâu, rồi nói:
“Tôi khóc vì Narcissus, nhưng tôi chưa bao giờ để ý là Narcissus đẹp. Tôi khóc, vì mỗi lần anh ấy cúi mình soi bóng trên tôi, tôi có thể nhìn thấy sắc đẹp của chính tôi phản chiếu trong đôi mắt sâu thẳm của anh ấy.”
“Câu truyện thật dễ thương biết bao,” nhà giả kim nói.
 
Phần một
 
 1
Tên của chàng trai là Santiago. Mặt trời vừa sẩm tối khi cậu cùng với đàn cừu đến ngôi nhà thờ hoang phế. Mái nhà thờ đã điêu tàn từ lâu và một cây sung to lớn mọc lên trên mảnh đất của phòng mặc áo lễ xưa.
Chàng trai quyết định ngủ qua đêm ở đó. Cậu cho đàn cừu vào qua cánh cổng hoang tàn và cậu chắn ngang cánh cổng bằng vài tấm ván để tránh đàn cừu có thể đi ra trong đêm. Trong miền này không có sói dữ, nhưng đã có lần một con cừu đi lạc trong đêm và cậu đã mất trọn ngày hôm sau để tìm kiếm nó.
Cậu dùng chiếc áo khoác lau sạch sàn nhà và nằm xuống, cậu dùng cuốn sách vừa đọc xong làm chiếc gối kê đầu. Cậu tự nhủ, lần sau phải đọc cuốn sách dầy hơn để đọc được lâu hơn và làm gối kê đầu thoải mái hơn.
Cậu thức dậy khi trời vẫn tối và nhìn qua mái nhà thờ đã đổ nát hơn nửa, cậu nhìn thấy những vì sao.
„ Tôi mong được ngủ thêm một chút nữa,“ cậu chợt nghĩ. Đêm qua cậu có một giấc mơ giống như giấc mơ một tuần trước đó và lần này cậu cũng tỉnh dậy trước khi giấc mơ kết thúc.
Cậu đứng lên, cầm cây gậy và đánh thức đàn cừu còn đang ngủ. Cậu nhận ra rằng, khi cậu thức dậy, hầu hết các con vật cũng bắt đầu động đậy. Hình như một sợi dây mầu nhiệm đã gắn đời sống của cậu với đàn cừu mà hai năm qua cậu đã gắn bó, hướng dẫn chúng qua các miền quê kiếm đồ ăn và nước uống. Cậu lẩm bẩm: “chúng quá thân thuộc với tôi đến nỗi chúng biết cả thời khóa biểu của tôi”. Nghĩ một lúc về điiều đó, cậu chợt nhận ra điều ngược lại: chính cậu là người đã quen với giờ giấc của đàn cừu.
Nhưng chắc chắn đàn cừu cần nhiều thời gian hơn để có thể tỉnh  thức. Chàng trai thúc dục chúng bằng cây gậy, gọi tên từng con. Cậu luôn luôn tin rằng đàn cừu có thể hiểu những gì cậu nói. Vì thế một đôi khi cậu đọc cho chúng nghe một đoạn của cuốn sách mà cậu say mê hay cậu kể cho chúng nghe về nỗi cô đơn hoặc niềm hạnh phúc của người chăn cừu trên đồng cỏ. Một đôi khi cậu muốn bình luận với chúng về những gì cậu đã nhìn thấy trong các làng mà chúng đi ngang qua.
Nhưng mấy ngày qua cậu chỉ nói với chúng về điều: về một người con gái, con của một nhà buôn đang sống trong ngôi làng mà chúng có thể đi đến đó trong bốn ngày nữa. Cậu chỉ đến ngôi làng đó có một lần vào năm trước. Ông thương gia là chủ tiệm tạp hóa và ông ta luôn luôn đòi hỏi phải cắt lông cừu trước mặt ông để không bị ăn gian. Một người bạn đã kể cho chàng trai về tiệm đó và cậu muốn đưa đàn cừu của cậu đến đó.
 
 
2
“Tôi cần bán một ít lông cừu,” chàng trai nói với chủ tiệm.
Tiệm đang đông khách nên chủ tiệm nói với chàng chăn cừu chờ đến buổi chiều. Vì thế chàng ngồi trên bậc thềm cửa tiệm và lấy từ trong bị ra một cuốn sách.
 “Tôi không biết làm sao một người chăn cừu lại có thể biết đọc,” một giọng nói con gái từ sau lưng.
Người con gái đúng là tiêu biểu của vùng Andalusia (3), có mái tóc đen chảy dài, đôi mắt mơ màng gợi nhớ lại cuộc chinh phục Moorish (4).
“Đúng thế, tôi thường học nhiều từ nơi đàn cừu của tôi hơn là từ sách vở”, chàng trai trả lời. Trong hai tiếng nói chuyện với nhau, người con gái kể cho cậu rằng nàng là con gái của chủ tiệm, rồi nàng kể về đời sống trong làng, nơi ngày này lại giống như những ngày khác. Chàng chăn cừu kể cho nàng nghe về những cánh đồng Andalusian và liên quan đến những tin tức về các thành phố khác mà cậu đã dừng chân. Cậu nhận thấy cuộc nói chuyện đó thú vị hơn là nói chuyện với đàn cừu của mình.
“Làm sao bạn có thể đọc được?” Người con gái hỏi.
“Giống như mọi người khác. Trong trường,” cậu trả lời.
“Nhưng nếu bạn biết đọc, tại sao bạn lại là người chăn cừu?”
Chàng trai lẩm bẩm một câu nói để tránh trả lời trực tiếp câu hỏi của người con gái. Cậu chắc rằng nàng sẽ chẳng hiểu nổi. Cậu tiếp tục kể những câu chuyện về những hành trình của cậu và về nét tươi đẹp của nàng. Đôi mắt Moorish mở rộng kèm theo chút sợ hãi và ngạc nhiên. Khi thời gian trôi qua, chàng trai ước mơ ngày hôm ấy sẽ chẳng qua đi và cha nàng sẽ luôn luôn bận rộn để cậu phải chờ thêm ba ngày nữa. Cậu nhận ra rằng cậu đang có một cảm xúc mà trước đó cậu đã chẳng bao giờ trải qua: nỗi mong ước được sống ở một nơi mãi mãi. Với người con gái có mái tóc đen đó, cuộc sống của cậu sẽ chẳng bao giờ như trước nữa.
Nhưng sau cùng ông thương gia cũng xuất hiện và hỏi mua lông của bốn con cừu. Ông trả tiền cho chàng trai và bảo cậu trở lại vào năm sau.
 
3
Và bây giờ chỉ còn bốn ngày nữa chàng trai sẽ trở lại ngôi làng xưa. Cậu hồi hộp và cũng xen lẫn bồn chồn: có thể người con gái đã quên cậu. Nhiều người chăn cừu đã đi qua đó, đã bán lông cừu.
 “Không sao cả,” cậu nói với đàn cừu. “Tôi biết nhiều người con gái khác nữa, ở những ngôi làng khác.”
Nhưng trong trái tim, cậu biết một vấn đề đang trĩu nặng trong tâm hồn. Cậu biết những người chăn cừu, giống như những thủy thủ và các khách buôn bán rong, luôn luôn tìm một nơi chốn, nơi có người có thể làm họ quên đi thú vui của những tháng ngày lang thang vô tư.
 
4
Bình minh ló dạng và chàng chăn cừu thúc dục đàn cừu đi về hướng mặt trời. Cậu nghĩ, chúng chẳng bao giờ phải có một quyết định nào, có lẽ vì thế mà chúng luôn luôn ở bên cạnh tôi.
Chỉ có một nhu cầu cần thiết đối với đàn cừu là đồ ăn và nước uống. Bao lâu mà chàng trai còn tìm ra được đồng cỏ ở Andalusia đàn cừu vẫn là bạn của cậu. Vâng, ngày tháng của chúng luôn luôn giống nhau, dường như thời khắc vô hạn giữa bình minh và hoàng hôn; và chúng chẳng bao giờ đọc một cuốn sách, chúng cũng chẳng hiểu những gì chàng trai kể cho chúng nghe về những thắng cảnh trong thành phố. Chúng thỏa mãn với đồ ăn và nước uống, và đổi ngược lại, chúng hào phóng cho lông, cho tình hợp đoàn và – một lần duy nhất trong đời – cho thịt của chúng.
Chàng trai nghĩ: Nếu hôm nay tôi trở thành con quái vật và tôi quyết định giết chúng từng con một, thì chúng chỉ nhận ra được điều đó khi hầu như cả đàn đã bị giết. Chúng tin tưởng vào tôi và chúng quên tin tưởng vào bản năng của mình, bởi vì tôi hướng dẫn chúng đến nơi có lương thực.
Chàng trai ngạc nhiên về suy nghĩ của cậu. Có lẽ ngôi nhà thờ, trong đó có một cây sung mọc lên, đã ám ảnh cậu. Ngôi nhà thờ đó đã tạo cho cậu hai lần có cùng một giấc mơ và gây cho cậu cảm giác giận dữ với đàn cừu trung thành của cậu. Cậu uống một chút rượu còn lại từ bữa ăn tối hôm trước, và cậu kéo chiếc áo khoác chặt hơn vào mình. Cậu biết rằng trong vài giờ nữa, khi mặt trời đứng bóng, sức nóng sẽ mãnh liệt đến nỗi cậu không còn có thể đưa đàn cừu băng qua cánh đồng. Đây là thời điểm mà người Tây Ban Nha thường ngủ trưa trong mùa hè. Sức nóng còn kéo dài đến khi mặt trời lặn, và trong suốt thời gian này cậu vẫn phải mặc áo khoác. Nhưng khi cậu muốn than phiền về gánh nặng của chiếc áo cậu mang trên người, cậu chợt nhớ rằng chính chiếc áo khoác này giúp cậu trải qua cơn lạnh khi mặt trời xuống.
Cậu nghĩ, chúng ta phải chuẩn bị cho những thay đổi và cậu biết ơn về chiếc áo dầy cộm và ấm áp này.
Chiếc áo khoác có một ý nghĩa và chàng trai cũng vậy. Mục đích đời sống của cậu là du hành và sau hai năm lang thang trên miền đất Andalusia, cậu biết tất cả thành phố trong miền. Cậu dự định trong cuộc gặp gỡ sắp tới, cậu sẽ phân trần cho cô gái hiểu tại sao một người chăn cừu bình thường lại có thể đọc. Cậu sẽ kể cậu đã học trong một chủng viện cho đến năm 16 tuổi. Cha mẹ cậu muốn cậu trở thành một linh mục, và đó cũng là niềm hãnh diện cho một gia đình nông dân bình dị. Họ đã làm việc cực nhọc để có cơm bánh và nước uống, giống như những con cừu. Cậu đã học tiếng La Tinh, Tây Ban Nha và thần học. Nhưng ngay từ nhỏ cậu đã muốn biết về thế giới và điều này đối với cậu quan trọng hơn là biết về Thiên chúa và học về tội lỗi của con người. Một buổi chiều, trong dịp thăm gia đình, cậu đã thu hết can đảm để nói với bố rằng cậu không muốn trở thành linh mục. Nhưng cậu mong muốn được du hành.
 
5
 “Con ơi, bao nhiêu người trên thế giới đã đến ngôi làng này,” ông bố nói.  “Họ đến đây với mục đích tìm kiếm điều mới lạ, nhưng khi họ ra về, căn bản họ vẫn là người giống như khi họ đến. Họ trèo lên ngọn núi, tham quan các lâu đài, và họ nghĩ rằng quá khứ tốt đẹp hơn những gì chúng ta đang có hiện nay. Họ có mái tóc bạch kim hay làn da đen, nhưng căn bản họ cũng giống như những người sinh sống ở đây.”
“Nhưng con muốn thăm các lâu đài trong thành phố nơi họ sống,” đứa con giải thích.
“Những người này, khi họ đến mảnh đất của chúng ta, họ nói họ muốn sống mãi nơi đây,” người cha tiếp tục.
“Vâng, con muốn tham quan quê hương của họ và muốn thấy họ sống ra sao,” người con nói.
“Những người đến đây, họ có tiền để chi phí, nên họ có thể du hành,” người cha nói. “Còn đối với chúng ta, cách duy nhất để du hành là trở thành người chăn cừu.”
“Vâng, như vậy con sẽ thành người chăn cừu!”
Ông bố không nói gì nữa. Ngày hôm sau, ông đưa cho đứa con một túi chứa ba đồng tiền vàng Tây Ban Nha cổ.
“Bố tìm thấy những đồng tiền này trong một cánh đồng. Bố muốn dùng chúng như một di sản cho con. Nhưng hãy dùng nó để mua đàn cừu. Hãy mang nó ra đồng và một ngày nào đó con sẽ hiểu rằng nông thôn của chúng ta là nhất và những phụ nữ của chúng ta cũng đẹp nhất.”
Rồi ông chúc lành cho cậu con trai. Chàng trai có thể đọc được trong ánh mắt đăm đăm của cha một ý định đã muốn có thể trở thành chính mình, muốn du hành quanh thế giới – một ý định vẫn sống động, mặc dù cha cậu đã phải cố gắng chôn dấu nó qua hàng chục năm, dưới gánh nặng tranh đấu để có nước uống, có thực phẩm để ăn và có cùng một nơi để ngủ mỗi khi đêm về trong cuộc sống của ông.
 
6
Bầu trời nhuộm đỏ và bất ngờ mặt trời xuất hiện. Chàng trai nghĩ lại buổi nói chuyện với bố và cảm thấy hạnh phúc; cậu đã từng thăm nhiều lâu đài và gặp gỡ nhiều phụ nữ (nhưng không người nào giống như người đang đợi cậu từ mấy ngày nay). Cậu đang làm chủ một áo khoác, một cuốn sách mà nó có thể đổi lấy một cuốn khác và một đàn cừu. Nhưng quan trọng hơn, mỗi ngày cậu có thể sống điều mà cậu mơ ước. Nếu cậu chán những cánh đồng Andalusia, cậu có thể bán đàn cừu và ra biển. Khi cậu chán biển, cậu có thể thăm các thành phố khác, quen biết các phụ nữ khác và có những cơ hội mới để hạnh phúc. Cậu nghĩ, đi tìm kiếm Thiên Chúa trong chủng viện khó hơn là tìm kiếm Thiên Chúa khi nhìn ngắm bình minh.
Bất cứ khi nào có thể, cậu luôn luôn tìm con đường mới để du hành. Trước đó cậu đã chẳng bao giờ đến ngôi nhà thờ đổ nát đó, mặc dù cậu đã nhiều lần đi qua vùng này. Thế giới to lớn và vô hạn, cậu chỉ cho phép đàn cừu nghỉ ngang đường một lúc, vì cậu muốn khám phá những điều mới lạ khác nữa. Vấn đề là đàn cừu không nhận ra mỗi ngày chúng đi trên những con đường mới. Chúng không nhìn ra cánh đồng mới và thời tiết thay đổi. Tất cả những gì chúng nghĩ là về đồ ăn và nước uống.
Có lẽ tất cả chúng ta cũng giống như vậy, chàng trai nghĩ. Ngay đối với tôi – từ ngày gặp người con gái của ông thương gia, tôi đã chẳng bao giờ nghĩ về người phụ nữ nào khác nữa. Nhìn ánh mặt trời, cậu áng chừng sẽ có thể đến Tarifa trước khi mặt trời đứng bóng. Ở đó cậu có thể đổi cuốn sách lấy một cuốn dầy hơn, đổ đầy bình rượu, cắt tóc và cạo râu; cậu chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với người con gái, và cậu không muốn nghĩ đến tình trạng có thể một vài người chăn cừu khác, có đàn cừu lớn hơn, đã đến đó và đã hỏi nàng làm vợ.
Chàng trai nghĩ, khả năng có thể biến ước mơ thành hiện thực làm cho đời sống thú vị. Khi nhìn ánh mặt trời một lần nữa, cậu vội vàng cất bước. Bất ngờ cậu nhớ ra ở Tarifa có một bà già có thể giải đoán được các giấc mơ.
 
7
Người đàn bà già dẫn chàng trai vào trong căn phòng đàng sau nhà, được ngăn cách với phòng khách bởi một màn cửa bằng hạt cườm nhiều màu. Vật dụng trong phòng chỉ là một chiếc bàn, một ảnh trái tim Chúa Giê-su và hai chiếc ghế.
Bà lão ngồi xuống, bảo chàng trai ngồi theo. Rồi bà nắm cả hai bàn tay cậu trong tay bà, và bà bắt đầu yên lặng cầu nguyện.
Lời nguyện giống như kinh cầu của dân Di-gan (5). Trên cuộc hành trình chàng trai đã trải qua kinh nghiệm với người Di-gan, họ cũng du hành nhưng không có đàn cừu để chăn. Người ta nói rằng người Di-gan dùng đời sống của họ để lừa đảo người khác. Người ta cũng kể rằng họ có liên minh với quỷ thần, họ bắt cóc trẻ em, đem chúng vào các trại bí mật, huấn luyện chúng thành nô lệ cho họ. Khi còn nhỏ, chàng trai luôn sợ bị người Di-gan bắt cóc, và sự sợ hãi thời thơ ấu này lại trở về khi bà lão nắm tay cậu trong tay bà.
Nhưng bà có hình trái tim Chúa Giêsu ở đây, cậu nghĩ, cố gắng để trấn an mình. Cậu không muốn tay mình run lên, tỏ cho bà già biết nỗi sợ hãi của cậu. Cậu yên lặng đọc kinh ‚Lạy Cha‘.
“Rất thú vị,” bà lão nói và không rời mắt khỏi tay cậu, rồi bà yên lặng.
Dần dần chàng trai cảm thấy lo âu. Tay cậu bắt đầu run, và bà lão cảm thấy điều đó. Cậu vội vàng rút bàn tay ra.
“Cháu đến đây không phải để nhờ bà xem chỉ tay,” cậu nói, một sự hối hận thoáng đến. Cậu chợt nghĩ, mặc dù giấc mơ đối với cậu rất quan trọng, nhưng có lẽ tốt hơn nên trả tiền cho bà ta và ra về dù không biết thêm được gì.
“Cháu đến đây vì muốn hiểu về giấc mơ của cháu,” người đàn bà nói. “Và giấc mơ là ngôn ngữ của Thiên Chúa. Khi Ngài nói bằng ngôn ngữ của chúng ta, bà có thể giải đoán những gì Ngài nói. Nhưng nếu Ngài nói bằng ngôn ngữ của linh hồn, thì điều đó chỉ có mình cháu mới hiểu được. Nhưng dù gì thì bà cũng sẽ thu phí tư vấn.”
Một cách lường gạt khác, chàng trai nghĩ. Nhưng cậu quyết định liều một phen. Một người chăn cừu luôn luôn liều với sói rừng, với hạn hán, và điều đó làm cho cuộc sống chăn cừu thú vị.
“Cháu hai lần có cùng một giấc mơ,” cậu nói. “Cháu mơ rằng cháu ở trong một cánh đồng với đàn cừu của cháu, chợt một đứa bé xuất hiện và chơi với thú vật. Cháu không thích người ta làm điều đó, vì đàn cừu rất sợ người lạ. Nhưng trẻ con dường như luôn luôn có khả năng chơi với thú vật mà không làm chúng sợ. Cháu không biết tại sao. Cháu không biết làm sao thú vật lại biết được tuổi tác của con người.”
“Hãy kể cho bà nghe nhiều hơn về giấc mơ của cháu,” bà lão nói. “Bà còn phải tếp tục nấu ăn, và nếu cháu không có nhiều tiền, bà cũng không thể dành cho cháu nhiều giờ được.”
“Đứa trẻ yên lặng chơi với đàn cừu của cháu một lúc,” chàng chăn cừu tiếp tục kể, một chút ngượng nghịu. “Và bất ngờ đứa trẻ cầm hai tay cháu và dẫn cháu đến Kim Tự Tháp bên Ai Cập.”
Chàng trai ngừng lại một lát để dò xem bà già có biết Kim Tự Tháp ở Ai Cập là gì không. Nhưng bà ta không nói gì.
“Rồi ở Kim Tự Tháp Ai Cập,” – cậu nói những chữ sau cùng chậm rãi để cho bà lão có thể hiểu – “đứa trẻ nói với cháu, ‘Nếu bạn đến đây, bạn sẽ tìm thấy một kho tàng chôn giấu.’ Và vừa khi nó muốn chỉ cho cháu chính xác nơi kho tàng thì cháu thức giấc. Cả hai lần đều như vậy.”
Bà già yên lặng một lúc lâu. Rồi bà lại cầm tay cậu và nghiên cứu nó cẩn thận.
“Bây giờ bà sẽ không thu tiền lệ phí của cháu,” bà nói. “Nhưng bà muốn một phần mười kho tàng, nếu cháu tìm được nó.”
Chàng trai cười to – vì hạnh phúc. Chỉ vì một giấc mơ về một kho tàng chôn giấu, cậu có thể tiết kiệm được số tiền ít ỏi còn lại!
“Vâng, bà hãy giải giấc mơ cho cháu,” cậu bé nói.
“Trước hết hãy thề với tôi. Thề rằng cháu sẽ cho bà một phần mười kho tàng để đổi lại những gì mà bà định nói với cháu.”
Chàng trai thề sẽ làm. Người đàn bà đòi hỏi cậu thề một lần nữa trong khi nhìn vào hình trái tim Chúa Giêsu.
“Đây là một giấc mơ bằng ngôn ngữ của thế giới,” bà ta nói. “Bà có thể giải đoán nó. Nhưng sự giải đoán này rất khó khăn. Vì thế, bà cảm thấy bà xứng đáng nhận được một phần của những gì cháu tìm thấy.”
“Và đây là lời giải đoán của bà: cháu phải đến Kim Tự Tháp bên Ai cập. Bà chẳng bao giờ nghe về chúng, nhưng nếu một đứa trẻ chỉ cho cháu, tháp đó phải có thật. Nơi đó cháu sẽ tìm thấy kho tàng và cháu sẽ giầu có.”
Chàng trai ngạc nhiên và rồi thất vọng. Cậu không cần phải tìm đến bà già này để biết điều đó. Nhưng cậu nhớ lại, cậu chẳng phải trả xu nào.
”Cháu không muốn mất giờ về chuyện đó,” chàng trai nói.
“Bà đã nói giấc mơ của cháu là một giấc mơ khó giải đoán. Một việc đơn giản trong đời sống là chỉ có những người khôn ngoan mới có thể hiểu được những việc phi thường. Vì bà chưa khôn ngoan, bà phải học những nghệ thuật khác, giả xử như việc xem chỉ tay.”
“Vâng, vậy làm sao cháu có thể đến Ai Cập?”
“Bà chỉ có thể giải đoán giấc mơ. Bà không biết cách nào để biến chúng thành hiện thực. Đó là lý do tại sao bà phải hài lòng sống với những gì mà con gái bà cung cấp cho bà.”
Và bà già bảo chàng trai ra về, vì bà đã tốn khá nhiều giờ cho cậu.
 
8
Vì thế cậu ra về, cậu nhất định sẽ chẳng bao giờ tin vào giấc mơ nữa. Cậu chợt nhớ, cậu còn phải làm nhiều việc nữa: cậu ra chợ mua một số đồ ăn, cậu đổi cuốn sách cũ lấy một cuốn dầy hơn, và cậu tìm thấy một ghế băng trong quảng trường để thử rượu mới mua. Trời nóng nực và rượu làm cậu khoan khoái. Đàn cừu ở trước cổng thành phố, trong một chuồng của người bạn. Chàng trai biết nhiều người trong thành phố. Đó là điều làm cho cuộc sống lữ hành hấp dẫn – cậu luôn luôn quen biết bạn mới, và cậu không phải mất trọn thời gian với họ. Khi mỗi ngày lại nhìn thấy cùng những người ấy, như cậu đã trải qua trong chủng viện, những người đó dần dần sẽ trở thành một phần đời sống của mình. Và khi đó họ muốn người khác thay đổi. Và họ sẽ nổi giận khi nguời khác không thay đổi như ý họ muốn. Mỗi người hầu như đều có một ý tưởng rõ ràng về cách người khác phải sống làm sao, nhưng không ai biết mình phải sống thế nào.
Cậu quyết định chờ mặt trời lặn sâu hơn nữa rồi mới cùng với đàn cừu xuyên qua cánh đồng. Còn ba ngày nữa, cậu sẽ gặp lại người con gái ông thương gia.
Cậu bắt đầu đọc cuốn sách cậu mới mua. Những trang đầu tiên tả về một đám tang. Và tên của những người trong truyện rất khó phát âm. Nếu cậu viết sách, cậu nghĩ, cậu sẽ giới thiệu từng nhân vật một, như vậy độc giả không cần phải nhớ quá nhiều tên.
Sau khi cậu có thể tập trung về những gì cậu đọc, cậu bắt đầu thích cuốn sách hơn: đám tang tổ chức vào một ngày có tuyết, và cậu thích cảm giác lạnh. Vừa khi cậu tiếp tục đọc, một ông già ngồi xuống bên cạnh và tìm cách bắt chuyện với cậu.
“Họ đang làm gì vậy?” ông già chỉ tay vào đám người trong quảng trường và hỏi.
“Làm việc,” đứa bé đáp lại khô khan, làm như nó đang muốn tập trung đọc sách.
Nhưng thực tế, cậu đang nghĩ về việc cắt lông cừu trước mặt người con gái của ông thương gia, qua đó nàng sẽ nhìn thấy cậu có khả năng làm những việc khó khăn. Cậu đã tưởng tượng cảnh này nhiều lần: mỗi lần nàng đều thán phục khi cậu cắt nghĩa phải cắt lông cừu từ sau đến trước. Cậu cũng cố gắng nhớ lại những câu truyện hay thích hợp để kể khi cắt lông cừu. Hầu hết các truyện này cậu đã đọc trong sách, nhưng cậu sẽ kể như là chính cậu đã trải qua. Nàng sẽ chẳng bao giờ biết được sự khác biệt, vì nàng không biết đọc sách.
Trong khi đó, ông già vẫn cố tìm cách bắt chuyện. Ông nói rằng ông mệt và khát nước, và ông xin chàng trai một hớp rượu. Cậu đưa chai rượu cho ông và mong ông để cậu yên.
Nhưng ông già muốn nói chuyện, và ông hỏi cậu đang đọc gì. Chàng trai muốn tỏ ra bất lịch sự, muốn di chuyển sang một băng ghế khác, nhưng bố cậu đã dậy phải tôn trọng người lớn tuổi. Vì thế cậu đưa cho ông già cuốn sách – vì hai lí do: trước hết chính cậu cũng không chắc chắn phải phát âm tựa đề như thế nào, và lí do thứ hai là khi ông già không biết đọc, ông sẽ tự cảm thấy xấu hổ và đi qua một băng ghế khác.
“Hmm . . .” ông già nói, nhìn mọi phía cuốn sách như nó là một vật lạ lẫm. “Đây là một cuốn sách quan trọng, nhưng nó thật sự nhàm chán.”
Chàng trai sửng sốt. Ông già biết đọc và ông đã đọc cuốn sách này. Và nếu cuốn sách thật sự nhàm chán như ông già nói, cậu vẫn còn thời gian để đổi cuốn khác.
“Nó là một cuốn sách viết về những điều mà hầu hết các sách khác trên thế giới cũng viết,” ông già tiếp tục. “Nó miêu tả con người không có khả năng chọn lựa 'huyền thoại riêng' cho chính mình. Và nó kết luận rằng ai cũng tin vào sự lừa dối lớn lao nhất của thế giới.”
 
9
 “Sự lừa dối lớn lao nhất của thế giới là gì?” chàng trai hỏi trong sự tò mò.
“Đó là điều này: vào một thời điểm nhất định trong đời sống, chúng ta không còn kiểm soát được những gì đang xẩy ra cho chúng ta, và vì thế đời sống của chúng ta bị số mệnh đưa đẩy. Đó là sự lừa dối lớn lao nhất của thế giới.”
“Điều đó chẳng bao giờ xẩy ra với cháu,” chàng trai nói. “Họ muốn cháu trở thành linh mục, nhưng cháu quyết định thành người chăn cừu.”
“Thế tốt hơn nhiều,” ông già nói. “Bởi vì cháu thực sự thích du hành.”
“Ông ấy biết những gì mình nghĩ,” chàng trai nói với chính mình. Trong khi đó ông già vẫn lần dở cuốn sách, gần như ông ta không muốn trả lại nó. Chàng trai nhận thấy quần áo của ông khác lạ. Ông giống như người Ả Rập, vẫn thường thấy trong vùng này. Phi Châu chỉ cách Tarifa vài giờ, chỉ cần đi ngang qua một eo biển bằng thuyền. Người Ả Rập thường xuất hiện trong thành phố, mua sắm và hát những lời kinh xa lạ của họ nhiều lần trong ngày.
“Ông từ đâu đến?” chàng trai hỏi.
“Từ nhiều nơi.”
“Không ai có thể đến từ nhiều nơi,” chàng trai nói. “Cháu là một người chăn cừu, cháu đã đến nhiều nơi, nhưng cháu chỉ có thể đến từ một nơi – từ một thành phố gần một lâu đài cổ kính. Đó là nơi cháu được sinh ra.”
“Thế thì tốt, có thể nói là tôi sinh ra ở Salem.”
Chàng trai không biết Salem ở đâu, nhưng cậu không muốn hỏi, sợ sẽ bị coi là thiếu hiểu biết. Cậu ngắm người dân trong quảng trường một lúc lâu; họ đến rồi đi, và hầu như tất cả đang bận rộn.
“Vậy thì Salem trông giống cái gì?” cậu hỏi, cố gắng để tìm ra manh mối.
“Nó giống như nó luôn luôn đã là.”
Không ra đầu mối. Nhưng cậu biết Salem không ở Andalusia. Nếu nó ở đây, có thể cậu đã nghe về nơi ấy.
“Và ông làm gì ở Salem?” cậu giằng co.
“Tôi làm gì ở Salem ư?” Người đàn ông cười. “Vâng, tôi là vua ở Salem.”
Người ta nói những điều lạ lẫm, chàng trai nghĩ. Một đôi khi tốt hơn nên ở với đàn cừu, vì chúng không nói gì. Và tốt hơn một mình với cuốn sách. Sách kể những câu chuyện không thể tưởng tượng được vào thời điểm mà bạn muốn nghe. Nhưng khi bạn nói chuyện với người khác, một đôi khi họ nói những điều xa lạ mà bạn không biết phải tiếp tục cuộc nói chuyện thế nào.
“Tôi tên là Melchizedek,” người đàn ông nói. “Cháu có bao nhiêu con cừu?“
 “Đủ,” chàng trai nói. Cậu nhận ra rằng ông già muốn biết thêm về đời sống của cậu.
“Vậy thì chúng ta có vấn đề. Ông không thể giúp cháu nếu cháu cảm thấy đã có đủ cừu rồi.”
Chàng trai bắt đầu bực mình. Cậu chẳng xin ông giúp đỡ. Chính ông là người đã xin rượu và đã bắt đầu câu chuyện.
“Cho cháu xin lại cuốn sách,” chàng trai nói. “Cháu phải đi, phải thu đàn cừu lại và lên đường.”
“Hãy cho ông một phần mười đàn cừu của cháu,” người đàn ông nói, và ông sẽ nói cho cháu cách tìm ra kho tàng chôn giấu.”
Chàng trai nhớ lại giấc mơ, và bất chợt mọi chuyện sáng tỏ đối với cậu. Bà già giải mộng đã chẳng thu của cậu lệ phí gì, nhưng ông già này – có thể ông là chồng của bà già đó – đang tìm cách lấy nhiều tiền để đổi lại những thông tin về những điều chẳng có thật. Ông già này có lẽ cũng là người Di-gan.
Nhưng trước khi chàng trai có thể nói điều gì, người đàn ông đã đứng lên, lấy một cây nhọn và bắt đầu viết trên cát ở quảng trường. Một cái gì đó phản chiếu trên ngực ông ta làm cho chàng trai bị lóe mắt. Với một cử động quá nhanh so với lứa tuổi của ông, ông phủ áo khoác lên che. Khi thị kiến của cậu trở lại bình thường, cậu có thể đọc những gì ông viết trên cát.
Ở đó, trên cát ở quảng trường của thành phố nhỏ đó, chàng trai đọc được tên của bố mẹ cậu, cũng như tên của chủng viện nơi cậu đã theo học. Cậu đọc được tên người con gái ông chủ tiệm mà trước đó cậu không biết, và cậu đọc những điều mà cậu đã chẳng bao giờ nói cho bất cứ ai.
 
10
“Tôi là vua của Salem,” ông già đã nói.
“Tại sao một vị vua lại nói chuyện với người chăn cừu?” chàng trai hỏi, kinh ngạc và hổ thẹn.
“Có nhiều lí do. Nhưng chúng ta hãy nói về lí do quan trọng nhất là cháu đã thành công trong việc khám phá ra 'huyền thoại riêng' (6) của mình.”
Chàng trai không hiểu 'huyền thoại riêng' là gì.
“Đó là cái mà cháu luôn luôn muốn đạt được. Mỗi người, khi họ còn trẻ, họ biết 'huyền thoại riêng' của họ là gì.
“Vào thời điểm đó trong đời sống của họ, mọi việc đều rõ ràng và mọi việc đều có thể. Họ không sợ hãi để mơ mộng và mong mỏi chờ xem những gì sẽ xẩy ra trong đời sống của họ. Nhưng khi thời điểm này qua đi, một sức mạnh huyền bí sẽ thuyết phục họ rằng họ không thể đạt được 'huyền thoại riêng' của mình.”
Những gì người đàn ông nói không thuyết phục cậu cho lắm. Nhưng cậu muốn biết 'sức mạnh huyền bí' là gì; người con gái của ông chủ tiệm sẽ kinh ngạc khi cậu kể cho nàng nghe về chuyện đó.
“Nó là một sức mạnh xuất hiện một cách tiêu cực, nhưng thực sự nó chỉ cho cháu cách nhận ra 'huyền thoại riêng' của cháu. Nó chuẩn bị tinh thần và ý chí của cháu, vì có một sự thật lớn lao trên mặt địa cầu này: cho dù cháu là ai, hay cháu làm bất cứ điều gì, khi cháu thật sự muốn điều gì, điều đó đã được ước muốn trong linh hồn của thế giới (7). Đó là sứ vụ của cháu trên mặt đất.”
“Ngay cả khi muốn du hành? Hay cưới con gái ông chủ tiệm?”
”Đúng thế, ngay cả khi tìm kiếm kho tàng. Linh hồn của thế giới được nuôi dưỡng bởi niềm hạnh phúc của nhân loại, và ngay cả bởi niềm bất hạnh, ghen tỵ và ganh ghét. Để nhận ra số phận của mình là một nhiệm vụ riêng thực sự. Tất cả mọi sự là một.”
“Và, khi cháu muốn một điều gì đó, cả vũ trụ sẽ chung sức giúp cháu đạt được điều đó.”
Cả hai yên lặng, quan sát quảng trường và người dân thành thị. Ông già cất tiếng trước.
“Tại sao cháu lại là người chăn cừu?”
“Bởi vì cháu thích du hành.”
Người đàn ông chỉ vào một thợ bánh mì đứng trong cửa hàng ở một góc trong quảng trường. “Khi ông ta còn trẻ, ông ta cũng muốn du hành. Nhưng ông ta đã quyết định trước hết mua một tiệm bánh mì và dành dụm tiền. Khi ông ta lớn tuổi, ông dự định sẽ sang Phi Châu một tháng. Ông ta chẳng bao giờ nhận ra rằng, ông ta có thể làm những gì ông ta ước mơ ở mọi thời điểm trong đời sống của ông.
"Ông ta cũng đã có thể quyết định trở thành một người chăn cừu," đứa trẻ nói.
"Đúng, ông ta cũng đã nghĩ về điều đó," ông già nói. "Nhưng thợ bánh mì thì quan trọng hơn người chăn cừu. Thợ bánh mì có nhà, trong khi người chăn cừu ngủ ngoài trời. Cha mẹ muốn con gái mình lấy thợ bánh mì hơn là lấy người chăn cừu."
Chàng trai cảm thấy một nỗi đau trong tim khi nghĩ về người con gái của ông chủ tiệm. Chắc chắn trong thành phố của cô cũng có một thợ bánh mì.
Người đàn ông tiếp tục: "về lâu về dài, những gì con người nghĩ về thợ bánh mì và người chăn cừu trở thành quan trọng với họ hơn là 'huyền thoại riêng' của người đó."
Ông già lật qua cuốn sách và đọc một trang sách ông ta vừa mở. Chàng trai chờ đợi và rồi cậu cũng làm gián đoạn ông như chính ông đã làm gián đoạn cậu. "Tại sao ông lại nói với cháu tất cả điều đó?"
"Bởi vì cháu đang ở trong thời điểm để nhận ra 'huyền thoại riêng' của cháu. Và cháu cũng đang ở trong thời điểm để bỏ đi tất cả."
"Và đó là lý do ông luôn xuất hiện đúng lúc sao?"
"Không luôn luôn qua cách này, nhưng ông luôn xuất hiện qua cách này hoặc qua cách khác. Một đôi khi ông xuất hiện trong hình thức một giải pháp hay một sáng kiến tốt. Vào một lúc nguy cấp khác, ông làm cho sự việc diễn ra dễ dàng hơn. Ông cũng làm nhiều việc nữa, nhưng hầu hết mọi người không nhận ra ông đã thực hiện chúng."
Ông già kể về một tuần trước đó, ông bị bắt buộc phải xuất hiện trước người thợ mỏ trong hình dáng một viên đá. Người thợ mỏ bỏ rơi mọi việc để đi tìm ngọc bích. Năm năm trời ròng rã ông đã chỉ làm việc trong một con suối và đã khảo sát trăm nghìn hòn đá để tìm kiếm một viên bích ngọc. Người thợ mỏ muốn bỏ cuộc, đúng vào thời điểm, nếu ông khảo sát chỉ một viên đá nữa – chỉ một viên nữa thôi – ông sẽ tìm thấy viên bích ngọc mà ông tìm kiếm. Từ lâu người thợ mỏ đã hài lòng về 'huyền thoại riêng' của mình, nên ông già quyết định tham gia. Ông hóa thành viên đá và lăn xuống chân ông thợ mỏ. Người thợ mỏ, vì tức giận và thất vọng sau năm năm làm việc không kết quả, đã nhặt hòn đá và ném đi. Nhưng ông đã ném hòn đá quá mạnh đến nỗi nó phá vỡ hòn đá nó rơi vào, và lộ ra trong hòn đá đó viên bích ngọc hầu như đẹp nhất thế giới.
"Người ta học rất sớm trong đời sống về nguyên do sự hiện hữu của họ," người đàn ông nói với một chút cay đắng. "Chính vì thế mà họ cũng bỏ cuộc sớm. Nhưng đó là lẽ thường của đời sống."
Chàng trai nhắc ông rằng họ đang nói chuyện về kho tàng giấu ẩn.
"Sức mạnh của dòng nước làm lộ ra kho tàng, và dòng nước ấy cũng che giấu kho tàng," ông già nói. "Nếu cháu muốn biết về kho tàng riêng của cháu, cháu phải cho ông một phần mười đàn cừu của cháu."
"Ông nghĩ sao về một phần mười kho tàng của cháu?"
Ông già nhìn một cách thất vọng. "Nếu cháu bắt đầu bằng lời hứa cái mà cháu bây giờ không có, cháu sẽ mất đi ước muốn làm việc để đạt được nó."
Chàng trai kể cho ông rằng cậu đã hứa cho một phần mười kho tàng của cậu cho một bà người Di-gan.
"Người Di-gan chờ đợi người khác làm chuyện đó," ông già thở dài. "Trong bất cứ tình trạng nào, nó luôn là cơ hội cho cháu học rằng mỗi việc trong đời sống đều có cái giá của nó. Đó là cái mà người lính của Ánh sáng cố gắng truyền đạt."
Ông già đưa trả cuốn sách lại cho chàng trai.
"Ngày mai, cũng vào giờ này, hãy đem cho ông một phần mười đàn cừu của cháu. Và ông sẽ chỉ cho cháu cách tìm kho tàng chôn giấu. Chào cháu."
Và ông ta biến mất sau khúc quanh của quảng trường.
 
11
Một lần nữa chàng trai lại cố gắng đọc tiếp cuốn sách, nhưng cậu không tập trung được. Cậu khó chịu và căng thẳng, bởi vì cậu biết ông già có lý. Cậu đi ngang đến tiệm bánh mì và mua một ổ bánh, phân vân có nên nói cho ông thợ bánh mì những gì ông già đã nói về anh ta. Một đôi khi tốt hơn nên để nguyên như vậy, cậu tự nghĩ, và quyết định không nói gì. Nếu cậu nói điều gì đó, có thể người thợ bánh mì sẽ mất cả ba ngày trời suy nghĩ xem có nên từ bỏ tất cả hay không, ngay cả khi ông đã quen với cách sống đó. Chàng trai không muốn gây nên sự lo lắng cho người thợ bánh mì. Vì thế cậu đi ngang qua thành phố, đến cổng thành. Ở đó có một ngôi nhà nhỏ có quầy bán vé mà người ta có thể mua vé đến Châu Phi. Và cậu biết Ai Cập nằm ở Châu Phi.
"Tôi có thể giúp gì cho anh?" người đàn ông ngồi sau khung cửa sổ hỏi.
"Có lẽ ngày mai;" chàng trai nói và bước ra. Nếu bây giờ cậu bán một con cừu, cậu có đủ tiền để đến vùng eo biển bên kia. Ý tưởng đó làm cậu sợ.
"Một người mơ nữa," người bán vé dõi mắt theo chàng trai đi khỏi và nói với bạn đồng nghiệp. "Cậu ta không có đủ tiền để du hành."
Lúc đứng bên cánh cửa sổ phòng vé, chàng trai nhớ đàn cừu và quyết định trở lại làm người chăn cừu. Trong hai năm cậu đã học mọi chuyện về việc chăn cừu: cậu biết cách cắt lông cừu, biết cách chăm sóc con cừu đang mang thai, và biết cách bảo vệ đàn cừu trước sói rừng. Cậu biết tất cả cánh đồng và đồng cỏ của vùng Andalusia. Và cậu biết giá của từng con vật của cậu.
Cậu quyết định về lại chuồng thú vật của người bạn bằng con đường xa nhất. Khi qua ngang qua tòa lâu đài của thành phố cổ, cậu không muốn về vội, mà leo lên những bậc thang đá dẫn lên đến đỉnh của bức tường thành. Từ đó, cậu có thể nhìn thấy Châu Phi. Một ai đó đã bảo cậu rằng từ Châu Phi người Moor đã đến và chiếm cứ toàn bộ Tây Ban Nha.
Từ nơi cậu ngồi, cậu có nhìn thấy toàn thành phố, cả quảng trường nơi cậu đã nói chuyện với ông già. Gặp ông già là một điều bất hạnh, cậu nghĩ. Cậu vào thành phố chỉ vì muốn tìm người đàn bà giải đoán giấc mơ cho cậu. Cả bà lão đến ông già đều không nhận ra rằng cậu là chàng chăn cừu. Họ là những người cô đơn, những người không còn tin vào điều gì và không hiểu sự gắn bó của người chăn cừu với đàn cừu như thế nào. Cậu biết mọi chuyện về từng con cừu trong đàn: cậu biết con nào què, con nào sẽ sinh trong hai tháng nữa, con nào lười nhất. Cậu biết cách cắt lông chúng, biết cách làm thịt chúng. Nếu cậu quyết định rời chúng, chúng sẽ đau khổ.
Gió nổi lên. Cậu biết ngọn gió đó: người ta gọi nó là Levanter, bởi vì theo ngọn gió này, người Moor đã từ Levanter nằm ở phía cực đông Địa Trung Hải đến đây.
Ngọn gió Levanter thổi mạnh hơn. “Tôi đang đứng giữa đàn cừu và kho tàng,” chàng trai nghĩ. Cậu phải chọn lựa giữa cái cậu đã gắn bó và cái cậu muốn có. Còn người con gái ông thương gia kia, cô không quan trọng như đàn cừu của cậu, vì cô không tùy thuộc vào cậu. Có thể cô chẳng còn nhớ đến cậu. Cậu chắc chắn rằng ngày cậu xuất hiện đối với cô cũng chẳng có gì khác: đối với cô mọi ngày đều giống nhau, và khi ngày hôm nay cũng giống như ngày mai thì con người không nhận biết được những gì tốt xẩy ra trong đời sống của họ. Họ không nhận ra được rằng mỗi ngày mặt trời lại mọc lên cho họ.
“Tôi đã từ giã cha mẹ và thành phố với tòa lâu đài. Cha mẹ tôi và thành phố đó đã quen với sự vắng mặt của tôi và tôi cũng vậy. Đàn cừu cũng sẽ quen với sự vắng mặt của tôi thôi,” chàng trai nghĩ.
Từ nơi cậu đang ngồi, cậu có thể quan sát quảng trường. Người ta đến tiệm bánh mì rồi lại đi. Một cặp tình nhân trẻ ngồi hôn nhau trên ghế băng, nơi cậu đã nói chuyện với ông già.
"Người bán kem đó . . ." cậu nói với chính mình, không nghĩ hết dòng tư tưởng. Ngọn gió Levanter thổi mạnh hơn và cậu cảm nhận sức mạnh của nó trên mặt. Thật sự, ngọn gió này đã đem người Moor đến, nhưng chúng cũng đem đến hương thơm của sa mạc và của các thiếu nữ đội khăn che mặt. Nó mang theo mồ hôi và giấc mơ của những người để lại tất cả đàng sau lưng, đi tìm kiếm những điều chưa biết, tìm kiếm vàng và mạo hiểm – và cũng tìm kiếm Kim tự tháp. Cậu cảm thấy gang tị với sự tự do của ngọn gió và thấy rằng mình cũng có thể được tự do như gió. Không gì có thể ngăn cản cậu, ngoại trừ chính cậu. Những con cừu, người con gái con ông thương gia cũng như những cánh đồng vùng Andalusia chỉ là những bước trên con đường đến 'huyền thoại riêng' của cậu.
 
12
Ngày hôm sau, chàng trai gặp ông già vào giữa trưa. Cậu mang theo sáu con cừu.
"Cháu rất ngạc nhiên," cậu nói. "Bạn cháu đã mua ngay lập tức tất cả những con cừu còn lại. Anh ta bảo là đã từ lâu anh muốn thành người chăn cừu và đây là một điềm báo tốt cho anh ấy."
"Điều đó luôn luôn xảy ra," ông già nói. "Đó là cái được gọi là nguyên lí thuận lợi. Khi bạn chơi bạc lần đầu, hầu như chắc chắn là bạn thắng. Đó là sự may mắn của người mới bắt đầu.
"Tại sao lại như vậy?"
"Bởi vì đó là một sức mạnh muốn cháu thực hiện 'huyền thoại riêng' của cháu; nó làm cho cháu quen với vị giác của thành công."
Rồi ông quan sát những con cừu, và khám phá ra một con bị què. Chàng trai cắt nghĩa rằng điều đó không quan trọng, bởi vì trong đàn cừu con này thông minh nhất và cho nhiều lông nhất.
"Kho tàng ở đâu hả ông?" Chàng trai hỏi.
"Nó ở bên Ai Cập, gần những Kim tự tháp."
Chàng trai giật mình. Bà già cũng đã nói như vậy. Nhưng bà đã không đòi cậu thù lao gì.
"Để tìm ra kho tàng, cháu phải theo những điềm (8). Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người con đường đi. Cháu phải đọc những điềm mà Ngài để lại cho cháu."
Trước khi chàng trai nói, một co bướm bay lượn giữa chàng và ông già. Cậu nhớ lại một lần cha cậu đã nói với cậu: con bươm bướm là một điềm tốt, cũng giống như con dế và con châu chấu, giống như con thằn lằn và lá cây xa trục thảo bốn cánh.
"Đúng thế," ông già nói như đọc được tư tưởng của chàng trai. "Giống như ông nội cháu đã truyền đạt. Những cái này là những điềm tốt."
Người đàn ông mở áo khoác và chàng trai choáng ngợp về những gì cậu trông thấy. Ông già đeo áo ngực bằng vàng, gắn những viên đá quý. Cậu nhớ lại sự rực rỡ mà cậu đã thấy hôm trước.
Ông phải là vua thật! Ông phải che đậy để tránh chạm trán với bọn cướp.
"Hãy cầm lấy cái này," ông già nói, cầm lên một viên đá trắng và một viên đá đen; hai viên này đã được gắn giữa áo ngực. "Chúng được gọi là  Urim và Thummim. Viên trắng biểu tượng cho 'có' và viên đen cho 'không'. Khi cháu không có khả năng đọc những điềm, chúng sẽ giúp cháu. Hãy luôn luôn đặt những câu hỏi khách quan.
"Nhưng nếu có thể, hãy cố gắng tự quyết định lấy. Như cháu đã biết, kho tàng ở Kim tự tháp. Ông nài nỉ cháu sáu con cừu bởi vì ông đã giúp cháu dám quyết định."
Chàng trai nhét hai viên đá vào bị. Từ bây giờ cậu sẽ tự mình quyết định.
"Đừng bao giờ quên rằng mọi việc cháu làm chỉ là một và ngoài ra không có gì khác. Và đừng quên ngôn ngữ của điềm. Và nhất là đừng quên đi theo 'huyền thoại riêng' của cháu cho đến tận cùng."
"Nhưng trước khi ông đi, ông muốn kể cho cháu nghe một câu truyện nhỏ:
Một ông chủ tiệm gửi con mình đến một người khôn ngoan nhất thế giới để học về bí mật của hạnh phúc. Chàng thanh niên đi ròng rã qua sa mạc bốn mươi ngày và sau cùng đến một lâu đài xinh đẹp trên ngọn núi. Nơi đó người khôn ngoan đang sống.
Chàng thanh niên bước vào trong phòng chính của tòa lâu đài, thay vì gặp một vị thánh, cậu thấy vô số sinh hoạt: thương gia đến rồi đi, một nhóm người nói chuyện trong góc phòng, một dàn nhạc nhỏ chơi nhạc nhẹ và đó là một chiếc bàn với các dĩa đồ ăn cao lương mỹ vị từ khắp nơi trên thế giới. Nhà khôn ngoan nói chuyện với mọi người, và chàng trai phải chờ hai tiếng mới đến luợt được tiếp kiến ông.
Nhà khôn ngoan lắng nghe người thanh niên trình bầy tại sao cậu đến đây, nhưng ông bảo cậu ông không có giờ để cắt nghĩa cho cậu về bí mật của hạnh phúc. Ông đề nghị chàng trai đi tham quan chung quanh lâu đài và hai tiếng sau trở lại.
"Trong khi đó, ông muốn cháu làm một việc này," nhà khôn ngoan nói, đưa cho cậu một muỗng nhỏ trên đó có hai giọt dầu. "Trong khi cháu đi chung quanh, hãy đem theo chiếc muỗng này và đừng để hạt dầu vương vãi."
Chàng trai trèo lên, bước xuống bao nhiêu cầu thang của lâu đài, mắt không rời khỏi chiếc muỗng. Sau hai giờ, chàng trở về căn phòng gặp lại nhà khôn ngoan.
"Tốt," nhà khôn ngoan hỏi, "cháu có nhìn thấy tấm thảm Ba Tư treo ở trong phòng ăn không? Cháu có nhìn khu vườn mà những người làm vườn phải mất mười năm xây dựng không? Cháu có để ý đến cuốn giấy da đẹp trong thư viện không?"
Chàng thanh niên ngượng ngùng và thú nhận rằng cậu đã không quan sát gì cả. Cậu chỉ chú tâm để không làm đổ hai giọt dầu mà nhà khôn ngoan đã giao cho cậu.
"Thế thì cháu đi một lần nữa và quan sát những kỳ công trong thế giới của ông. Cháu không thể tin tưởng một người khi cháu chưa biết nhà họ."
Yên tâm hơn, chàng trai cầm chiếc muỗng và đi lại một vòng khám phá trong lâu đài. Lần này cậu quan sát tất cả công trình nghệ thuật trên trần nhà cũng như trên tường. Cậu ngắm khu vườn, ngọn núi chung quanh, vẻ đẹp của các loài hoa và nét thẩm mỹ đã chọn lựa mọi vật. Khi về gặp nhà khôn ngoan, cậu kể chi tiết những gì cậu đã thấy.
"Nhưng hai giọt dầu mà ông giao cho cháu đâu rồi?" nhà khôn ngoan hỏi.
Nhìn xuống chiếc muỗng trên tay, chàng trai thấy hai giọt dầu đã vương vãi mất.
"Đây là lời khuyên duy nhất mà ông có thể trao cho cháu," nhà khôn ngoan nhất của những người khôn ngoan nói. "Bí mật của hạnh phúc là nhìn ngắm tất cả những kỳ công của thế giới, và chẳng bao giơ quên những giọt dầu trên chiếc muỗng."
Chàng chăn cừu không nói gì. Cậu hiểu câu chuyện mà ông già đã kể cho cậu. Một người chăn cừu có thể thích phiêu du, nhưng anh ấy chẳng bao giờ quên đàn cừu của anh.
Ông già nhìn chàng trai, với hai bàn tay nắm vào nhau, ông làm một vài cử chỉ lạ lùng trên đầu chàng trai. Rồi ông lấy cừu của ông và ra đi.
 
13
Ở một điểm cao nhất của Tarifa có một cổng thành cổ do người Moor xây dựng. Từ đỉnh tường thành có thể nhìn về Châu Phi. Buổi chiều hôm ấy Melchizedek, vị vua của Salem, ngồi trên bức tường pháo đài và cảm nhận gió Laventer thổi trên mặt. Bầy cừu ngọ nguậy gần đó, chưa quen với ông chủ mới và bối rối vì có quá nhiều đổi thay. Tất cả những gì chúng cần là đồ ăn và nước uống.
Melchizedek nhìn con tàu nhỏ vừa rời bến. Ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại chàng trai, cũng như ông đã chẳng bao giờ gặp lại Abraham sau khi đã lấy của cậu một phần mười tiền công. Đó là công việc của ông.
Các thần thánh chẳng bao giờ ước mơ, bởi vì các ngài không có 'huyền thoại riêng'. Nhưng vua Salem hy vọng chàng chăn cừu sẽ thành công.
“Tiếc rằng chắc cậu ấy sẽ sớm quên tên tôi,” ông nghĩ. “Chính ra tôi phải lập lại tên tôi cho cậu. Sau này khi cậu kể về tôi, cậu sẽ nói rằng tôi là Melchizedek, vua xứ Salem.”
Ông ngước nhìn bầu trời, cảm thấy một chút bối rối, rồi nói, "Con biết đó chỉ là hư không của những hư không, như Chúa nói, lạy Chúa. Nhưng một ông vua già đôi khi cũng phải tự hào về chính mình."
 
14
“Châu Phi thật lạ,” chàng trai nghĩ.
Cậu ngồi trong một quán bar giống như những quán bar khác mà cậu đã nhìn thấy dọc theo con đường hẹp của Tangier (9). Một vài người đàn ông hút thuốc từ những ống điếu to lớn, rồi chuyền từ người này qua người khác. Trong một vài giờ cậu đã nhìn thấy những người đàn ông đi tay trong tay, những phụ nữ che mặt và các tư tế trèo lên các đỉnh tháp cao và hát – trong khi đó những người xung quanh quỳ xuống, gập đầu trên đất.
"Một tập tục của người không tôn giáo," cậu nói với chính mình. Trong nhà thờ, khi cậu còn nhỏ, cậu luôn luôn ngước lên ảnh thánh Santiago Matamoros trên con ngựa trắng, gươm rút ra khỏi vỏ và những nhân vật đang quỳ dưới chân ngài giống như những người này. Cậu cảm thấy bất an và cô đơn khủng khiếp. Những người không tôn giáo trông dễ sợ.
Ngoài ra trong lúc vội vã lên đường cậu đã quên một chi tiết, chỉ một chi tiết thôi, nhưng chi tiết ấy có thể cầm hãm chàng còn lâu mới tìm ra kho tàng: ở nước này người ta chỉ nói tiếng Ả Rập.
Chủ quán bar lại gần, chàng trai chỉ vào một thứ nước uống đã được phục vụ trên bàn bên cạnh. Họ mang ra cho cậu trà đắng. Chính ra cậu thích rượu hơn.
Nhưng bây giờ cậu không cần phải lo lắng về chuyện đó. Những gì cậu quan tâm là về kho tàng của cậu và làm sao có thể đến được đó. Tiền bán cừu đầy trong túi cậu, và chàng trai biết trong tiền bạc có ma thuật: ai có tiền sẽ chẳng bao giờ cô đơn. Chẳng bao lâu nữa, có thể chỉ trong vài ngày nữa, cậu sẽ đến Kim tự tháp. Một ông già với áo ngực dát vàng chẳng lẽ lại lừa dối cậu để lấy sáu con cừu?
Ông già đã nói về dấu hiệu và điềm, và khi đi ngang qua eo biển, cậu đã nghĩ về điềm. Vâng, ông già biết những gì ông đang nói: trong thời gian chàng trai du hành trên đồng cỏ ở Andalusia, cậu đã quen chọn đường bằng cách quan sát mặt đất và bầu trời. Cậu khám phá ra rằng nơi đâu một loại chim nhất định xuất hiện, gần đó có rắn, và vùng nào có một loại cây nhỏ nhất định sống, nơi đó có nước. Những con cừu đã truyền đạt cho cậu điều đó.
Nếu Thiên Chúa dẫn dắt đàn cừu, ngài cũng hướng dẫn con người, cậu nghĩ. Ly trà dường như bớt đắng hơn.
"Bạn là ai?" cậu nghe một giọng nói hỏi cậu bằng tiếng Tây Ban Nha.
Chàng trai nhẹ cả người. Cậu vừa nghĩ về điềm và một người đã xuất hiện.
"Làm sao bạn lại nói tiếng Tây Ban Nha?" cậu hỏi. Người mới đến là một thanh niên trẻ, mặc âu phục, nhưng màu da của anh tiết lộ anh là người bản xứ. Anh ta trẻ và cao như chàng trai.
"Hầu như mọi người ở đây đều có thể nói được tiếng Tây Ban Nha. Chúng tôi chỉ cách Tây Ban Nha hai tiếng."
"Hãy ngồi xuống, hãy để tôi chiêu đãi bạn một cái gì đó," chàng trai nói. "Và hãy đặt cho tôi một ly rượu vang. Tôi không thích thứ trà này."
“Trên đất nước này không có rượu," chàng trai trẻ nói. "Tôn giáo ở đây cấm uống rượu."
Chàng trai nói với anh ta là cậu cần đến Kim tự tháp. Cậu muốn kể về kho tàng của cậu, nhưng rồi quyết định không kể nữa. Nếu cậu nói ra, có thể người Ả Rập sẽ đòi một phần kho tàng như là tiền công của họ giúp cậu đến đó. Cậu nhớ lại lời ông già đã nói với cậu là không nên hứa tặng những gì mình chưa có.
"Nếu bạn có thể, tôi muốn bạn dẫn tôi đến đó. Tôi sẽ trả tiền công hướng dẫn cho bạn."
"Bạn đã mường tượng sẽ đi đến đó như thế nào chưa?" chàng trai mới đến hỏi.
Chàng trai để ý thấy ông chủ quán đứng gần và lắng nghe cuộc nói chuyện của họ. Cậu khó chịu về sự có mặt của ông. Nhưng cậu đã tìm thấy một hướng dẫn viên, cậu không thể bỏ lỡ cơ hội.
"Bạn phải băng qua sa mạc Sahara," người thanh niên trẻ nói. "Và muốn thực hiện điều đó, bạn cần tiền. Tôi muốn biết bạn có đủ tiền không."
Chàng trai nghĩ đó là một câu hỏi không bình thường. Nhưng cậu tin ông già, người đã nói rằng khi cháu thật sự muốn một điều gì đó, cả vũ trụ sẽ luôn luôn hợp lại giúp cháu.
Cậu lấy tiền từ trong túi ra và chỉ cho người thanh niên trẻ xem. Chủ quán cũng đến gần nhìn. Hai người nói với nhau bằng tiêng Ả rập, và ông chủ quán tỏ vẻ lo âu.
"Chúng ta hãy ra khỏi đây," chàng thanh niên mới đến nói. "Ông ta muốn chúng ta ra khỏi đây."
Chàng trai nhẹ người. Cậu đứng lên trả tiền, nhưng chủ quán chụp lấy tay cậu, nói một tràng dài đầy giận dữ. Chàng trai tuy khỏe và muốn cãi lại, nhưng cậu đang ở trên một xứ lạ. Người bạn mới đẩy ông chủ bán qua một bên, và kéo chàng trai theo ra ngoài. "Ông ta muốn lấy tiền của bạn," anh ấy nói. "Tangier không giống như những nơi khác ở Châu Phi. Đây là một hải cảng, và mỗi hải cảng đều có cướp."
Chàng trai tin tưởng vào người bạn mới. Anh ta vừa cứu cậu qua khỏi cảnh nguy hiểm. Cậu lấy tiền ra đếm.
"Chúng ta có thể đi đến Kim tự tháp ngày mai." Chàng trai kia nói, cầm lấy tiền. "Nhưng chúng ta phải mua hai con lạc đà."
Họ cùng đi với nhau xuyên qua những con đường hẹp của Tangier. Mỗi nơi đều có tiệm bán đồ. Họ đến một quảng trường rộng, nơi chợ họp. Hàng ngàn người đang ở đó, đang mặc cả, bán và mua; rau cỏ bán bên cạnh gươm đao, và các loại thảm trưng bày bên cạnh thuốc lá. Nhưng chàng trai chẳng bao giờ rời mắt khỏi người bạn mới quen. Anh ta đang cầm trọn số tiền. Chàng trai đã nghĩ đến chuyện đòi lại, nhưng nghĩ rằng như vậy là không thân thiện. Cậu không biết gì về phong tục của đất nước xa lạ cậu đang ở.
"Tôi phải coi chừng anh ta'" cậu nói với chính mình. Cậu biết cậu khỏe hơn người bạn mới quen.
Bất ngờ giữa đám hỗn độn, cậu thấy một thanh kiếm thật đẹp mà cậu chưa bao giờ nhìn thấy. Bao kiếm bằng bạc, chuôi kiếm màu đen và cẩn đá quý. Chàng trai tự hứa sẽ mua thanh kiếm này khi từ Ai cập về.
"Bạn hỏi chủ tiệm dùm xem thanh kiếm này giá bao nhiêu," cậu nói với người bạn. Rồi cậu nhận ra rằng khi cậu nhìn thanh kiếm, cậu đã lơ đãng không để ý đến người bạn mới đó. Tim cậu co lại như ngực cậu bất ngờ đè nén nó. Cậu sợ phải nhìn chung quanh, bởi vì cậu biết cậu sẽ thấy gì. Cậu tiếp tục nhìn vào thanh kiếm đẹp đẽ một lúc lâu, sau đó cậu thu hết can đảm quay nhìn chung quanh mình.
Chung quanh cậu là chợ, với những người đến và đi, la hét và mua bán, cùng với hương vị của đồ ăn lạ . . . nhưng cậu không thấy người bạn mới đâu.
Chàng trai muốn tin rằng bạn cậu đơn giản vì một tai nạn đã phải rời xa cậu. Cậu quyết định đứng nguyên đó và chờ anh ta trở lại. Khi cậu chờ, một tư tế trèo lên chóp của ngọn tháp gần đó và bắt đầu cầu nguyện; mọi người trong chợ quỳ gối xuống, gục mặt trên đất và lập lại lời cầu nguyện. Rồi, giống như một đàn kiến thợ, họ tháo dỡ quầy hàng và rời khỏi chợ.
Mặt trời dần lặn. Chàng trai ngắm nhìn theo cho đến khi nó khuất dần sau khu nhà trắng chung quanh quảng trường. Cậu hồi tưởng lại khi mặt trời mọc vào buổi sáng hôm đó, cậu vẫn ở một châu lục khác, vẫn là một chàng chăn sáu mươi con cừu, và mong chờ được gặp người con gái. Buổi sáng đó cậu biết những gì sẽ xẩy ra cho cậu khi cậu đi xuyên qua cánh đồng quen thuộc. Và bây giờ, vào buổi hoàng hôn, cậu đang ở một đất nước xa lạ; cậu là một người lạ trên một mảnh đất lạ và ngay cả không nói được ngôn ngữ lạ ở đó. Cậu không còn là chàng chăn cừu, không còn gì cả, ngay cả không còn có tiền để trở về và bắt đầu lại.
"Tất cả mọi sự diễn ra trong khoảng mặt trời mọc và mặt trời lặn," chàng trai nghĩ. Cậu cảm thấy tiếc cho chính mình và buồn về đời cậu đã thay đổi nhanh chóng một cách quá bất ngờ và quá nhanh chóng.
Chàng trai xấu hổ vì cậu muốn khóc. Cậu đã chẳng bao giờ khóc, ngay cả trước mặt những con cừu của cậu. Nhưng bây giờ chợ vắng người và cậu ở xa nhà, vì thế cậu khóc. Cậu khóc vì Thiên Chúa bất công, và đây là đường lối Thiên Chúa sửa dạy những người tin vào giấc mơ của mình.
"Khi tôi còn có đàn cừu, tôi hạnh phúc và tôi làm cho những người chung quanh tôi hạnh phúc. Mọi người thấy tôi đến và chào đón tôi," cậu nghĩ. "Nhưng bây giờ tôi buồn và cô đơn. Tôi trở thành chán đời và không còn tin tưởng vào người khác nữa, vì một người đã lừa đảo tôi. Tôi bắt đầu ghét những người đã tìm thấy kho tàng của họ, bởi vì tôi chẳng bao giờ tìm thấy kho tàng của tôi. Và tôi muốn giữ chặt cái ít ỏi tôi có, bởi vì tôi không còn là gì để còn có thể chinh phục thế giới."
Chàng trai mở bị xem có còn gì không; có thể sau khi ăn trên tàu một vài miếng bánh mì còn dư lại. Nhưng tất cả những gì cậu tìm thấy là một cuốn sách dầy, chiếc áo khoác và hai viên đá mà ông già đã cho cậu.
Khi nhìn viên đá, cậu thấy an lòng vì vài lí do. Cậu đã đổi sáu con cừu để lấy hai hòn đá quý giá đã được lấy ra từ áo ngực bằng vàng của ông già. Cậu có thể bán chúng và mua một vé tàu trở về. "Nhưng lần này tôi phải khôn ngoan hơn," chàng trai nghĩ. Cậu lấy hai viên đa ra khỏi bị và cho vào túi áo. Đây là thành phố cảng, và chỉ có một sự đáng tin tưởng mà bạn cậu đã nói với cậu là thành phố cảng luôn đầy trộm cướp.
Bây giờ cậu hiểu tại sao ông chủ quán bar đã can thiệp: ông đã cố gắng cắt nghĩa cho cậu đừng tin vào chàng thanh niên kia. "Tôi cũng giống như mọi người khác – Tôi nhìn thế giới trong giới hạn của cái tôi muốn nhìn, chứ không phải cái thực sự là."
Cậu đưa ngón tay vân vê viên đá, cảm nhận nhiệt độ của nó và bề mặt nhẵn của nó. Chúng là kho tàng của cậu. Cậu cảm thấy thoải mái hơn khi cầm nó trên tay. Chúng gợi cậu nhớ về ông già.
"Khi bạn muốn điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại để giúp bạn đạt được nó," ông già đã nói.
Chàng trai cố gắng hiểu sự thật của những gì ông già đã nói. Cậu đang ở giữa khu chợ vắng, không có tiền và cũng không có cừu để chăn qua đêm. Nhưng những hòn đá này là bằng chứng cậu đã gặp một ông vua – một ông vua biết về quá khứ của cậu.
"Chúng được gọi là Urim và Thummim, và chúng giúp cháu đọc những điềm." Chàng trai cất hai viên đá vào lại trong túi và quyết định làm thử một thí nghiệm. Ông già bảo cậu phải đặt những câu hỏi rõ ràng, và muốn được như thế cậu phải biết cậu muốn gì. Vì thế cậu hỏi xem lời chúc lành của ông già có còn ở với cậu không.
Cậu lấy ra một viên đá. Đó là "có".
"Tôi có tìm thấy kho tàng của tôi không?" cậu hỏi.
Cậu cho tay vào túi, rờ chung quanh hòn đá để lấy ra một viên. Khi cậu làm như vậy, cả hai viên rớt ra từ một lỗ thủng trong túi và rơi xuống đất. Chàng trai chẳng để ý tới một lỗ thủng trong túi. Cậu cúi xuống tìm Urim và Thummim để cất chúng vào túi lại. Nhưng khi thấy chúng nằm trên mặt đất, một câu nói khác lại về trong đầu cậu.
"Hãy học cách nhận ra điềm và theo chúng," ông vua già đã nói.
Một điềm. Chàng trai mỉm cười. Cậu nhặt hai hòn đá và cho lại vào túi. Cậu không quan tâm đến việc vá lại lỗ thủng – viên đá có thể rơi bất cứ khi nào chúng muốn. Cậu học rằng có những việc không nên hỏi để khỏi phải lẩn tránh 'huyền thoại riêng'. "Tôi hứa rắng tôi sẽ tự quyết định," chàng trai tự nhủ.
Nhưng những viên đá nói rằng ông già vẫn ở bên cậu, và điều đó làm cho cậu vững tâm. Cậu nhìn chung quanh ngôi chợ một lần nữa, cảm thấy bớt tuyệt vọng hơn trước. Đây không phải là một nơi xa lạ: đây chỉ là một nơi mới thôi.
Điều mà cậu luôn muốn chính là điều này: biết những nơi mới. Ngay cả nếu cậu không đến được Kim tự tháp, cậu cũng đã du hành xa hơn tất cả những người chăn cừu mà cậu biết. "Ôi, nếu họ biết rằng chỉ cách họ có hai giờ tàu mà nơi đó có bao nhiêu điều mới lạ," cậu nghĩ. Mặc dù thế giới mới của cậu lúc này là một bãi chợ vắng, nhưng cậu đã nhìn thấy nó lúc đông người và cậu sẽ chẳng bao giờ quên. Cậu nhớ đến thanh kiếm. Cậu đau lòng một chút khi nghĩ về nó, nhưng trước đó cậu đã chẳng nhìn thấy một thanh kiếm nào giống như nó. Khi cậu trầm tư về những điều đó, cậu nhận ra rằng cậu phải chọn lựa giữa hai việc: tự cho mình là nạn nhân khốn khổ của kẻ cướp hay cho mình là người mạo hiểm đi tìm kiếm kho tàng.
"Tôi là một người thám hiểm, đang tìm kiếm kho tàng," cậu tự nhủ.
 
15
Một người nào đó lay cậu dậy. Chàng trai đã thiếp ngủ giữa chợ và đời sống đã bắt đầu trở lại.
Nhìn chung quanh, cậu tìm kiếm đàn cừu và nhận ra rằng cậu đang ở trong một thế giới mới. Nhưng thay vì buồn bã, cậu vui vẻ. Cậu không còn phải tìm kiếm đồ ăn và nước uống cho đàn cừu, thay vào đó cậu có thể đi tìm kho tàng. Cậu không có một xu nào trong túi, nhưng cậu có niềm tin. Tối qua cậu đã quyết định là cậu muốn trở thành người mạo hiểm, giống như những người mà cậu ngưỡng mộ trong sách.
Cậu thong thả đi qua khu chợ. Người buôn bán dựng quầy bán hàng, và cậu giúp người bán kẹo dựng quầy. Người bán kẹo có nụ cười trên khuôn mặt: ông hạnh phúc, hài lòng với cuộc sống của mình và sẵn sàng bắt đầu ngày làm việc mới. Nụ cười của ông làm cậu nhớ đến ông già – ông vua già bí ẩn mà cậu đã gặp. "Người bán kẹo này không phải làm bánh kẹo để sau này có thể du hành hay cưới con gái ông chủ tiệm. Ông làm bánh kẹo chỉ vì đó là cái mà ông thích làm," chàng trai nghĩ. Cậu nhận ra rằng cậu có thể nhận ra cùng một việc như ông già đã làm: cảm thấy một người ở gần hay xa 'huyền thoại riêng' của họ. Thật đơn giản, nhưng trước đây cậu đã chẳng bao giờ nhận thấy, cậu nghĩ.
Khi đã dựng quầy xong, người bán kẹo biếu chàng trai chiếc kẹo đầu tiên ông mới làm ngày hôm nay. Cậu cám ơn, ăn nó và tiếp tục con đường của mình. Khi đi một quãng xa, cậu nhận ra rằng khi dựng quầy, một người nói tiếng Ả rập và người kia nói tiếng Tây ban nha.
Và họ hiểu nhau hoàn toàn.
"Phải có một ngôn ngữ không tùy thuộc vào chữ nghĩa," cậu nghĩ. "Trước đây tôi đã cảm thấy như thế với đàn cừu, và bây giờ đối với con người cũng vậy."
Cậu đang học nhiều điều mới. Một vài điều cậu đã trải qua và thực sự không hoàn toàn mới mẻ, nhưng trước đây cậu đã không nhận thức được điều đó. Và cậu đã không nhận thức được, bởi vì cậu quá quen với chúng. Cậu nhận ra: "nếu tôi học để hiểu được ngôn ngữ không lời này, tôi có thể học để hiểu thế giới."
Khoan thai và chậm rãi, cậu quyết định đi xuyên các con đường hẹp của Tangier. Chỉ qua cách này cậu mới có thể đọc được những điềm. Cậu biết điều đó đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, nhưng những người chăn cừu biết kiên nhẫn. Một lần nữa cậu thấy rằng trên mảnh đất xa lạ này cậu đang áp dụng cùng bài học cậu đã học với đàn cừu.
"Tất cả mọi việc chỉ là một," ông già đã nói.
 
16
Người bán pha lê thức dậy và cảm thấy cùng nỗi lo âu như ông đã cảm thấy mỗi ngày. Ông đã ở chỗ này gần ba mươi năm, tiệm của ông nằm trên đỉnh dốc, nơi chỉ có vài khách hàng qua lại. Bây giờ đã quá trễ để thay đổi – cả đời ông đã chỉ học một việc là mua và bán đồ thủy tinh. Đã có một thời tiệm ông được nhiều người biết tới: thương gia Ả rập, các nhà địa chất người Pháp và Anh, những quân nhân Đức; tất cả có đầy tiền. Thời đó nghề bán thủy tinh thật tuyệt vời, và ông đã nghĩ đến cách trở nên giàu có và có những bà vợ đẹp bên cạnh khi về già.
Nhưng khi thời gian trôi qua, Tangier đã thay đổi. Thành phố Ceuta bên cạnh phát triển nhanh hơn và việc buôn bán trở thành ế ẩm. Những người hàng xóm chuyển đi hết, chỉ còn lại vài tiệm nhỏ trên đồi. Và chẳng ai muốn trèo lên đồi để dạo qua vài tiệm nhỏ.
Nhưng người bán pha lê không có chọn lựa. Ba mươi năm qua ông chỉ mua và bán pha lê, và bây giờ đã quá trễ để thay đổi nghề khác.
Suốt cả buổi sáng ông quan sát người đi lại trên đường. Ông đã làm như thế nhiều năm rồi và ông biết thời khóa biểu của từng người đi ngang qua. Nhưng vừa trước giờ ăn trưa, một chàng trai ngừng lại trước tiệm. Cậu ăn mặc bình thường, và đôi mắt từng trải của ông chủ tiệm pha lê có thể nhìn thấy rằng cậu không có tiền để mua. Tuy vậy, ông vẫn quyết định dời bữa ăn lại vài phút cho đến khi chàng trai đi khỏi.
 
17
Tấm biển treo trên cửa loan báo tiệm này có thể nói được nhiều thứ tiếng. Chàng trai nhìn thấy người đàn ông sau quầy.
"Nếu ông muốn, cháu có thể lau chùi những bình thủy tinh trong tủ kính cho ông," chàng trai nói. "Trông như thế này, không ai muốn mua nó."
Người đàn ông nhìn cậu không nói gì.
"Đổi lại, ông có thể cho cháu một ít đồ ăn."
Người đàn ông vẫn lặng thinh, và chàng trai cảm thấy mình phải tự quyết. Trong bị cậu có một áo khoác – chắc chắn cậu không còn cần đến nó trong sa mạc. Lấy áo khoác ra, cậu bắt đầu lau những ly thủy tinh. Chỉ nửa giờ sau, cậu đã lau sạch tất cả các ly trong tủ kính, và trong khi cậu làm việc, hai khách hàng đã vào mua vài đồ pha lê trong tiệm.
Sau khi lau chùi, cậu xin ông chủ cho chút gì để ăn. "Chúng ta hãy đi ăn," ông chủ nói.
Ông treo một tấm biển trước cửa và họ đi sang hàng cà phê bên cạnh. Vừa khi ngồi xuống chiếc bàn duy nhất trong quán, ông chủ tiệm pha lê cười.
"Chính ra cháu không phải lau chùi gì cả," ông nói. "Sách Koran dạy chúng tôi phải cho người đói ăn."
"Thế thì tại sao ông lại để cháu làm việc như thế?" chàng trai hỏi.
"Bởi vì thủy tinh quá dơ bẩn. Và cả hai, tôi và cháu, đều cần phải lau chùi trí óc chúng ta khỏi những tư tưởng tiêu cực."
Sau khi ăn xong, ông quay sang phía chàng trai và nói, "Ông muốn nhận cháu làm việc trong tiệm. Hôm nay, trong lúc cháu làm việc, đã có hai khách hàng vào mua, và đó là một điềm tốt."
"Người ta nói nhiều về điềm," chàng chăn cừu nghĩ. "Nhưng thực sự họ không hiểu những gì họ nói. Cũng như tôi đã chẳng nhận ra rằng trong nhiều năm tôi đã nói ngôn ngữ không lời với đàn cừu của tôi."
"Cháu có muốn làm việc cho ông không?' ông ta hỏi.
"Cháu có thể làm việc suốt ngày hôm nay," chàng trai trả lời. "Cháu sẽ làm qua đêm, đến rạng sáng, và cháu sẽ lau sạch mọi đồ thủy tinh trong tiệm ông. Để đổi lại, cháu cần tiền để đi Ai cập ngày mai."
Ông chủ tiệm cười. "Ngay cả nếu cháu lau đồ thủy tinh của ông cả năm… ngay cả nếu cháu nhận được tiền hoa hồng cao qua việc bán hàng, cháu vẫn phải mượn tiền đi Ai cập. Từ đây đến đó là cả nghìn cây số sa mạc."
Một sự yên lặng sâu thẳm, dường như cả thành phố đang ngủ. Không có âm thanh từ phía chợ, không tiếng qua lại của người buôn, không người nào trèo lên tháp cao cầu nguyện. Không hy vọng, không mạo hiểm, không có ông vua già hay 'huyền thoại riêng', không kho tàng và không Kim tự tháp. Dường như cả thế giới yên lặng vì trái tim chàng trai im lặng. Cậu ngồi đó, nhìn trống vắng qua khung cửa quán cà phê, ước mong có thể chết và mọi vật chấm dứt ngay lúc ấy.
Ông chủ quán băn khoăn nhìn chàng trai. Tất cả niềm vui mới sáng nay ông thấy nơi cậu chợt biến mất.
"Ông có thể cho cháu tiền để về lại quê hương, cháu ạ." Ông nói.
Chàng trai không nói gì. Cậu đứng lên, chỉnh lại quần áo và nhặt chiếc bị.
"Cháu sẽ làm việc cho ông," cậu nói.
Và sau một lúc yên lặng, cậu nói thêm: "cháu cần tiền để mua mấy con cừu."
 
 
 

Phần hai
 
 
1
Chàng trai đã làm việc cho chủ tiệm pha lê được gần một tháng, và cậu thấy rằng đây không phải là công việc cho cậu niềm vui. Ông chủ lẩm bẩm cả ngày đàng sau quầy hàng, luôn nhắc cậu phải cẩn thận với từng đồ vật và không được để vỡ vật gì.
Tuy vậy cậu vẫn tiếp tục làm vì ông chủ, mặc dù hay cằn nhằn, vẫn đối xử tử tế với cậu. Chàng trai nhận được tiền hoa hồng hậu hĩnh cho mỗi món đồ cậu bán được, và cậu đã có thể để dành. Buổi sáng đó cậu tính nhẩm: nếu cậu cứ tiếp tục làm như thế này thì cậu sẽ cần trọn một năm để mua vài con cừu.
"Cháu muốn đóng một kệ trưng bày hàng pha lê," chàng trai nói với ông chủ. "Chúng ta đặt nó bên ngoài để thu hút khách đi lại dưới chân đồi."
"Trước đây tôi đã chẳng bao giờ có nó," ông chủ trả lời. "Người ta đi ngang qua, nếu va phải sẽ làm bể hết đồ trong đó."
"Vâng, khi cháu đưa những con cừu qua đồng cỏ, một vài con có thể bị rắn cắn chết, nhưng đó là con đường mà những con cừu và người chăn cừu phải chấp nhận."
Ông chủ tiệm tiếp ông khách hàng đang mua ba ly thủy tinh. Hàng bán chạy hơn như... trở lại thời ngày xưa, khi con đường còn là một trong những nơi thu hút du khách nhất của Tangier.
"Công việc buôn bán thật sự đã phát triển." Ông nói với chàng trai sau khi khách hàng đã đi. "Tiền của cho ông đời sống tốt hơn, và chẳng bao lâu nữa cháu sẽ có thể trở về với đàn cừu của cháu. Chúng ta đòi hỏi thêm làm gì?"
"Bởi vì chúng ta phải theo điềm," cậu lỡ lời, và cậu hối hận về những gì cậu nói, bởi vì ông chủ tiệm đã chẳng bao giờ gặp gỡ ông vua.
"Đó được gọi là nguyên lí thuận lợi, sự may mắn của người mới bắt đầu. Bởi vì đời sống muốn bạn đạt được 'huyền thoại riêng' của bạn," ông vua già đã nói.
Nhưng ông chủ tiệm hiểu những gì chàng trai nói. Sự hiện diện của chàng trai trong tiệm là một điềm, và, khi thời gian qua đi và tiền vào nhiều trong két, ông đã không hối hận vì đã nhận cậu. Chàng trai được trả nhiều hơn bình thường, bởi vì khi nhận cậu, ông tưởng không bán được nhiều hàng nên đã đề nghị trả cho cậu tiền hoa hồng quá cao. Ông phỏng định chẳng bao lâu nữa cậu sẽ về lại với đàn cừu.
"Tại sao cháu lại muốn đến Kim tự tháp?" ông hỏi để tránh nói về chuyện cái kệ trưng bày.
"Bởi vì cháu luôn nghe về chúng," chàng trai trả lời, không nhắc gì đến giấc mơ. Kho tàng bây giờ không còn là gì cả, chỉ còn là một kỷ niệm đau buồn, và cậu cố gắng tránh nghĩ về nó.
"Ở đây ông không biết có người nào lại muốn vượt sa mạc để chỉ đến xem Kim tự tháp," ông chủ tiệm nói. "Chúng chỉ là một đống đá. Cháu có thể xây nó trong vườn sau nhà."
"Chắc là ông chẳng bao giờ ước mơ được đi du hành," chàng trai nói rồi quay lại tiếp một khách mới vào tiệm.
Hai ngày sau ông chủ nói với chàng trai về kệ trưng bày hàng.
"Ông không thích thay đổi," ông nói. "cháu và ông đều không thích Hassan, người thương gia giầu có kia. Nếu ông mua lầm hàng, nó không ảnh hưởng nhiều đến ông ấy. Nhưng cả hai chúng ta sẽ phải sống với những sai lầm của chúng ta."
"Điều đó đúng," chàng trai nghĩ một cách buồn bã.
"Tại sao cháu nghĩ chúng ta nên có một kệ trưng bầy hàng?"
"Cháu muốn trở về với đàn cừu của cháu sớm hơn. Chúng ta phải tận dụng cơ hội khi sự may mắn đến với chúng ta và làm bao nhiêu có thể để giúp nó như nó giúp chúng ta. Đó được gọi là nguyên lí thuận lợi hay sự may mắn của người mới bắt đầu."
Ông chủ yên lặng một lúc lâu. Rồi ông nói, "vị Tiên tri của chúng tôi cho chúng tôi sách Koran và để lại cho chúng tôi năm nghĩa vụ để hoàn thành trong cuộc đời. Điều quan trọng nhất là chỉ tin vào một Thiên Chúa thật. Những nghĩa vụ khác là cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong mùa Ramadan và bác ái với người nghèo."
Ông ngừng ở đó. Mắt ông đẫm lệ khi ông nói về vị Tiên Tri của ông. Ông ngoan đạo, và, ngay cả với tính nóng nảy, ông muốn sống theo luật lệ Hồi giáo.
"Điều thứ năm là gì?" chàng trai hỏi.
"Hai ngày trước đây, cháu nói là ông chẳng bao giờ ước mơ du hành," ông chủ trả lời. "Nghĩa vụ thứ năm của mỗi người theo Hồi giáo là hành hương. Ít nhất một lần trong đời, chúng tôi phải hành hương thành phố thánh Mecca.
"Mecca xa hơn Kim tự tháp nhiều. Khi ông còn trẻ, tất cả những gì ông muốn là gom góp tiền mua tiệm này. Ông nghĩ tới một ngày ông giầu có và ông sẽ hành hương đến Mecca. Ông đã bắt đầu làm ra tiền, nhưng ông đã chẳng dám nhờ ai trông cửa tiệm dùm, vì đồ thủy tinh rất dễ vỡ. Vào thời gian đó, nhiều người hành hương Mecca đi qua trước cửa tiệm ông. Trong số họ có vài người hành hương giầu có, họ hành hương theo đoàn có người phục vụ và lạc đà, nhưng hầu hết khách hành hương khác còn nghèo hơn ông.
"Tất cả những người đến đó đều hạnh phúc vì họ đã chu toàn nghĩa vụ đó. Họ treo biểu tượng hành hương trên cửa nhà. Một người trong số họ, một thợ vá giầy nói rằng ông đã hành hương gần một năm xuyên qua sa mạc, nhưng ông mệt mỏi hơn khi ông phải đi xuyên qua những con đường chật chội của Tangier để mua da."
"Thế tại sao ông không đi Mecca bây giờ?' chàng trai hỏi.
"Bởi vì sự suy nghĩ về Mecca giúp ông sống. Đó là cái giúp ông đối diện với những ngày tháng đơn điệu, những vật thủy tinh câm lặng trên kệ, và những bữa ăn ở cùng quán cà phê ghê sợ. Ông sợ khi giấc mơ của ông thành hiện thực, ông sẽ không còn lý do để sống.
"Cháu mơ về đàn cừu và Kim tự tháp, nhưng cháu khác ông, bởi vì cháu muốn thực hiện ước mơ của cháu. Còn ông, ông đã muốn mơ về Mecca. Hàng ngàn lần ông đã tưởng tượng mình băng qua sa mạc, đến quảng trường của hòn đá thánh, đi chung quang bẩy lần trước khi ông cho phép ông được sờ vào hòn đá đó. Ông cũng đã tưởng tượng những người ở bên cạnh ông, những người ở trước mặt ông, và những cuộc nói chuyện, những lời cầu nguyện mà mọi người chia sẻ với nhau. Nhưng ông sợ rằng tất cả sẽ chỉ là một sự thất vọng, nên ông thích mơ về nó hơn."
Cùng ngày đó, ông chủ tiệm cho phép chàng trai đóng chiếc kệ trưng bày hàng. Mỗi người có một quan niệm về cách thực hiện giấc mơ của mình.
 
2
Hai tháng nữa trôi qua và chiếc kệ trưng bày hàng thu hút nhiều khách hàng vào trong tiệm hơn. Chàng trai ước tính rằng nếu cậu làm việc thêm sáu tháng nữa, cậu có thể trở về Tây ban nha và mua được sáu mươi con cừu, không chừng thêm sáu mươi con nữa. Chưa đầy một năm cậu đã có thể tăng gấp đôi đàn cừu, và có thể làm ăn với người Ả rập, bởi vì bây giờ cậu có thể nói tiếng của họ. Từ buổi sáng hôm ấy trên chợ, cậu đã chẳng cần dùng đến Urim và Thummim, vì Ai cập bây giờ đối với cậu chỉ còn là một giấc mơ xa xôi, cũng giống như Mecca đối với ông chủ tiệm pha lê. Dầu sao chàng trai cũng tìm được niềm vui trong công việc và luôn nghĩ về ngày cậu trở về Tarifa như một người chiến thắng.
"Cháu phải luôn biết cháu muốn gì," ông vua già đã nói. Chàng trai hiểu và thực hiện nó. Có thể kho tàng của cậu là đến được mảnh đất lạ này, gặp kẻ lừa đảo, tăng đôi đàn cừu mà không phải trả xu nào.
Cậu hãnh diện về mình. Cậu đã học một vài điều quan trọng, như về buôn bán pha lê, như về ngôn ngữ không lời… và về điềm. Một buổi chiều kia, cậu đã gặp một người đàn ông trên đỉnh đồi, ông ta phàn nàn rằng ông không có thể tìm được một chỗ ngồi tử tế để mua chút gì giải khát sau khi trèo con dốc này. Chàng trai đã quen với việc nhận ra điềm, cậu nói chuyện với chủ tiệm.
"Chúng ta hãy bán trà cho những người leo dốc lên đây."
"Chung quanh đây đã có bao nhiêu chỗ bán trà." Chủ quán nói.
"Nhưng chúng ta có thể bán trà trong những ly thủy tinh. Khách hàng sẽ thưởng thức trà và còn muốn mua ly nữa. Cháu được dạy rằng cái đẹp quyến rũ con người nhất."
Ông chủ quán không trả lời, nhưng vào buổi chiều đó, sau khi cầu nguyện và khóa cửa tiệm, ông mời chàng trai cùng ngồi hút thuốc hookah với ông, một loại ống điếu người Ả rập hay dùng.
"Cháu đang muốn điều gì?" ông chủ tiệm hỏi.
"Cháu đã nói với ông. Cháu muốn mua lại đàn cừu, vì thế cháu cần tiền."
Ông chủ tiệm cho thêm vài cục than vào ống điếu rồi rít một hơi dài.
"Ông đã trông coi cửa hàng này ba mươi năm nay. Ông biết pha lê tốt và pha lê xấu, ông cũng biết những việc liên quan đến pha lê. Ông biết kích thước của nó và cách sử dụng. Nếu chúng ta phục vụ trà trong những ly pha lê, ông biết tiệm sẽ phát triển mạnh. Và chúng ta sẽ phải thay đổi cách sống."
"Vâng, thế thì có gì là không tốt?"
"Ông đã quen với cách sống này rồi. Trước khi cháu tới, ông đã nghĩ về việc ông đã phí phạm bao nhiêu thời gian ở đây, trong khi bạn bè của ông đã dọn đi, người thất bại, người thành công hơn trước đây nhiều. Nó làm ông buồn. Bây giờ, ông thấy rằng nó không quá tệ. Tiệm bây giờ có tầm cỡ như ông luôn mong muốn. Ông không muốn thay đổi bất cứ điều gì, bởi vì ông không biết phải thích nghi với thay đổi như thế nào. Ông đã quen với cách sống cũ của ông."
Chàng trai không biết phải nói gì. Ông chủ tiệm tiếp tục, "Cháu đúng là một phước lành cho ông. Hôm nay ông hiểu vài điều mà trước đây ông không nhận thấy: mỗi một phước lành bị từ chối sẽ trở thành mối họa. Ông không còn muốn điều gì nữa trong đời sống. Nhưng cháu thúc dục ông hướng vào sự giầu sang và vào chân trời mà ông chưa bao giờ biết. Bây giờ ông đã nhìn thấy chúng và ông nhìn thấy khả năng bao la của ông, nên ông cảm thấy mình tệ hơn trước đây. Bởi vì ông biết những việc ông có thể hoàn thành nhưng ông lại không muốn thực hiện chúng."
"May là tôi đã không nói gì với anh bán bánh ở Tarifa," chàng trai thầm nghĩ.
Họ tiếp tục hút thuốc cho đến khi mặt trời xuống. Họ nói chuyện bằng tiếng Ả rập, và chàng trai hãnh diện vì có thể làm được chuyện đó. Có một thời cậu nghĩ rằng những con cừu của cậu có thể dạy cậu mọi thứ cậu cần để biết về thế giới. Nhưng chúng chẳng bao giờ có thể dạy cậu tiếng Ả rập.
Có lẽ còn nhiều thứ trên thế giới mà đàn cừu không thể dạy tôi, cậu ngẫm nghĩ khi nhìn ông chủ tiệm. Tất cả những gì chúng có thể làm là tìm kiếm đồ ăn và nước uống. Và có lẽ đó không phải cái chúng dạy tôi nhưng chính tôi đã học nơi chúng.
"Maktub," sau cùng ông chủ tiệm nói.
"Điều đó nghĩ là gì?"
"Cháu phải sinh ra ở Ả rập thì cháu mới hiểu được," ông trả lời. "Nhưng trong ngôn ngữ của cháu, có thể tạm hiểu như 'nó đã được viết'".
Rồi trong khi dập tắt than trong ống điếu, ông bảo chàng trai có thể bán trà trong ly pha lê. Một đôi khi không còn cách nào khác để ngăn lại dòng sông.
 
3
Những người trèo lên ngọn đồi, mệt nhoài khi họ đến đỉnh đồi. Nhưng đến nơi họ thấy tiệm pha lê trong đó có phục vụ trà bạc hà. Họ vào trong uống trà được phục vụ trong những ly thủy tinh đẹp đẽ.
"Thế mà vợ mình không nghĩ ra," một người nói, và ông ta mua vài ly pha lê, vì ông mời khách tối nay và họ sẽ trầm trồ về những chiếc ly đẹp đẽ này. Người khác nhận ra trà ngon hơn khi nó được đựng trong ly pha lê, vì nó giữ được mùi thơm. Người thứ ba nói rằng đó là truyền thống của Phương Đông, dùng trà trong ly pha lê vì nó có năng lượng huyền diệu.
Chẳng bao lâu sau tin đồn loan đi và nhiều người cố gắng trèo đồi để xem cửa tiệm đang có nhiều thay đổi mới lạ trong việc buôn bán. Những tiệm khác cũng phục vụ trà trong ly pha lê, nhưng họ không ở đỉnh đồi nên không có nhiều khách.
Sau cùng, ông chủ tiệm thuê thêm hai nhân viên nữa. Ông bắt đầu nhập thêm một số lượng lớn trà, cùng với các ly pha lê, và các ông các bà tìm đến tiệm với lòng khao khát về những cái mới mẻ.
Và như thế, nhiều tháng ngày lại trôi qua.
 
4
Chàng trai thức dậy trước khi mặt trời lên. Đã mười một tháng chín ngày trôi qua, kể từ khi cậu đặt chân lên lục địa Châu Phi.
Cậu mặc bộ áo Ả rập bằng lụa màu trắng mà cậu đã đặc biệt mua cho ngày hôm nay. Cậu trùm khăn lên đầu và chít sợi dây da lạc đà chung quanh. Cậu xỏ chân vào đôi dép mới rồi đi xuống dưới một cách nhẹ nhàng.
Thành phố vẫn đang ngủ. Cậu chuẩn bị cho cậu một miếng bánh mì và uống một ly trà trong ly pha lê. Rồi cậu ngồi nơi ngưỡng cửa đầy ánh sáng, hút thuốc hookah.
Cậu hút thuốc trong thinh lặng, không nghĩ gì và lắng nghe tiếng gió thổi đem đến mùi hương sa mạc. Sau khi hút thuốc, cậu thò tay vào túi lấy ra một gói nhỏ, cậu ngồi đó một lúc lâu, ngắm những gì cậu lấy ra.
Nó là một nắm tiền, đủ để mua một trăm hai mươi con cừu, một vé máy bay và một giâyy phép nhập hàng từ Châu Phi về quê hương của chàng. Cậu kiên nhẫn chờ ông chủ thức dậy, mở cửa tiệm. Rồi hai người đi uống trà.
"Hôm nay cháu sẽ lên đường," cậu nói. "Cháu có đủ số tiền để mua cừu, và ông có đủ tiền để đi hành hương Mecca."
Ông chủ tiệm không nói gì.
"Ông có thể chúc lành cho cháu không?" cậu hỏi. "Ông đã giúp cháu." Ông chủ tiệm tiếp tục pha trà, không nói gì. Rồi ông quay lại phía chàng trai.
"Ông hãnh diện về cháu," ông nói. "Cháu đã đem đến tiệm pha lê của ông một bầu khí mới. Nhưng cháu biết rằng ông không dự định đi hành hương Mecca. Cũng như cháu biết rằng cháu không dự định mua cừu."
"Ai nói với ông thế?" cậu hốt hoảng hỏi.
"Maktub", ông chủ tiệm nói.
Rồi ông ban phúc lành cho chàng trai.
 
5
Chàng trai lên phòng, thu dọn hành lý. Cậu thu đồ đạc vào ba túi. Khi cậu định ra đi, cậu nhìn thấy trong góc phòng chiếc bị chăn cừu cũ của cậu. Nó đã nhăn nhúm và cậu nghĩ về nó một lúc lâu. Vừa khi cậu lấy chiếc áo khoác ra khỏi bị, dự định cho một ai đó trên đường đi, hai hòn đá từ trong bị rơi trên sàn nhà. Urim và Thummim.
Nó nhắc nhở cậu nhớ về ông vua già và sửng sốt vì đã lâu cậu không nghĩ về ông. Gần một năm qua cậu không ngừng làm việc, chỉ nghĩ đến việc kiếm tiền để dành và chuẩn bị trở về Tây ban nha với sự hãnh diện.
"Đừng bao giờ ngừng ước mơ," ông vua già đã nói. "Hãy theo những điềm."
Chàng trai nhặt hai viên Urim và Thummim, và, một lần nữa cậu lại có cảm giác lạ là ông vua già đang ở gần bên cậu. Cậu đã làm việc vất vả một năm qua, và điềm là đã đến thời điểm để đi.
"Tôi đang dự định về lại và làm những gì tôi đã làm khi xưa," chàng trai nghĩ.
Mặc dù đàn cừu đã không dạy cậu tiếng Ả rập. Nhưng đàn cừu đã dạy cậu những điều quan trọng hơn: có một ngôn ngữ trên thế giới mà mọi người có thể hiểu, một ngôn ngữ mà chàng trai đã dùng trong suốt thời gian chàng cố gắng cải thiện cửa hàng pha lê. Đó là ngôn ngữ của sự phấn khởi, của nỗ lực muốn thực hiện bằng tình yêu và dự định, của sự tìm kiếm những gì mình tin và ước muốn. Tangier không còn là thành phố xa lạ đối với cậu và cậu cảm thấy rằng khi cậu đã có thể chinh phục được mảnh đất này thì cậu cũng có thể chinh phục cả thế giới.
"Khi cháu muốn điều gì, cả vũ trụ sẽ hiệp lực để giúp cháu đạt được điều đó," ông vua già đã nói.
Nhưng ông vua già đã không nói gì về việc có thể bị cướp hay nói về vùng sa mạc mênh mông hay về những người có những ước mơ mà không muốn thực hiện chúng. Ông vua cũng không bảo cậu rằng Kim tự tháp chỉ là một đống đá hoặc ai cũng có thể xây được trong vườn nhà mình. Và ông ta cũng quên nhắc rằng khi bạn có thể mua được một đàn cừu lớn hơn đàn cừu bạn đã có thì cứ nên mua.
Chàng trai cầm chiếc bị chăn cừu và đặt nó chung với những đồ khác. Cậu xuống thang và gặp chủ tiệm đang tiếp hai khách ngoại quốc, hai khách khác đang uống trà trong ly pha lê và đi lại trong tiệm. Buổi sáng, vào giờ này thường có nhiều việc hơn các giờ khác. Từ chỗ đang đứng, cậu thấy tóc ông chủ tiệm giống như tóc của ông vua già. Cậu nhớ lại nụ cười của người bán kẹo vào ngày đàu tiên khi cậu mới đến Tangier, khi đó cậu không có gì ăn và cũng không biết phải đi đâu – nụ cười đó cũng giống nụ cười của ông vua già.
"Hình như ông đã đến đây và để lại dấu vết", cậu nghĩ. Nhưng không một ai ở đây đã gặp ông vua già. Ngoài ra ông còn nói rằng ông luôn luôn xuất hiện để giúp đỡ những người đang cố gắng thực hiện 'huyền thoại riêng' của mình.
Cậu ra đi không nói lời từ giã ông chủ tiệm. Cậu không muốn khóc trước mặt những người khác đang ở đó. Cậu đang nhớ mảnh đất này và những điều tốt đẹp cậu đã học được. Cậu tin tưởng chính mình hơn, nghĩ và cảm thấy như cậu có thể chinh phục cả thế giới.
"Nhưng tôi đang trở về cánh đồng thân quen mà tôi đã biết, để chăm sóc đàn cừu của tôi." Cậu nói như chắc chắn với lòng mình, nhưng cậu biết, cậu chưa hài lòng với quyết định của cậu. Cậu đã làm việc cả năm trời để chuẩn bị cho một giấc mơ thành hiện thực, và giấc mơ đó, mỗi một phút, lại trở thành ít quan trọng hơn. Có lẽ nó không phải là giấc mơ thật sự của cậu.
"Ai biết… có lẽ giống như chủ tiệm pha lê lại tốt hơn: chẳng bao giờ đi Mecca, chỉ tiếp tục đi trong đời và làm ra vẻ muốn thực hiện ước mơ đi Mecca," cậu cố gắng thuyết phục cậu một lần nữa. Nhưng khi cậu cầm hai viên Urim và Thummim trong tay, chúng truyền cho cậu sức mạnh và ý chí của ông vua già. Vì ngẫu nhiên – hay có thể đó là điềm, chàng trai nghĩ – cậu vào trong quán bar ngày xưa cậu đã đến. Gã lừa đảo không có đó, và chủ quán đem cho chàng một ly trà.
"Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể trở lại thành người chăn cừu," chàng trai nghĩ. "Tôi đã học cách chăm sóc đàn cừu và tôi sẽ không quên được. Nhưng có lẽ tôi sẽ chẳng còn cơ hội nào để đến Kim tự tháp Ai cập. Ông già mang một áo ngực bằng vàng và ông biết về quá khứ của tôi. Thực sự ông là một ông vua, một ông vua khôn ngoan."
Cậu chỉ cách ngọn đồi Andalusia có hai giờ đi tàu, nhưng giữa cậu và Kim tự tháp là một vùng sa mạc mênh mông. Chàng trai nhận thấy cậu có thể xem xét thực trạng của cậu qua cái nhìn khác; hiện nay cậu đang ở gần kho tàng hơn hai tiếng… thực tế là gần hơn hai tiếng nhưng cậu đã cần cả năm trời để vượt qua được đoạn đường này.
"Tôi biết tại sao tôi muốn trở lại với đàn cừu của tôi," cậu nghĩ. "Tôi hiểu đàn cừu: chúng không gây vấn đề và chúng là những người bạn tốt. Ngược lại, tôi không biết sa mạc có trở thành bạn của tôi không, nhưng chính sa mạc là nơi tôi phải tìm kiếm kho tàng của mình. Nếu tôi không tìm thấy nó, tôi luôn có thể trở về. Và tôi có đủ tiền và thời giờ. Tại sao không đi?"
Bất ngờ cậu cảm thấy vui. Cậu luôn luôn có thể làm lại nghề chăn cừu. Cậu cũng luôn luôn có thể trở về với nghề pha lê. Có lẽ thế giới còn có những kho tàng giấu ẩn khác, nhưng cậu đã có một giấc mơ và cậu đã gặp ông vua già. Điều đó không phải ai cũng có được.
Khi cậu rời quán bar, cậu dự định kế hoạch trong đầu. Cậu nhớ lại một người cung cấp hàng cho tiệm pha lê chuyên chở hàng pha lê của ông qua sa mạc nhờ phương tiện của đoàn lữ hành. Cậu cầm hai viên đá Urim và Thummim trong tay, bởi vì nhờ hai viên đá này cậu đã trở lại con đường tìm kiếm kho tàng.
"Tôi luôn ở bên cạnh, khi người nào đó muốn thực hiện 'huyền thoại riêng' của mình," ông vua già đã nói với cậu.
Vậy thì mất gì mà không đến nhà kho của người cung cấp hàng hóa và thăm dò xem Kim tự tháp thật sự có xa như thế không.
 
6
Anh chàng người Anh ngồi trên ghế dài trong một khu nhà nồng mùi thú vật, mồ hôi và bụi bặm; một phần nó là nhà kho, phần khác là chuồng nhốt súc vật. "Tôi chẳng bao giờ nghĩ mình lại kết thúc ở một nơi giống như thế này," anh nghĩ trong lúc lần giở tờ báo về hóa học. "Mười năm trong đại học và bây giờ tôi ở trong chuồng súc vật."
Nhưng anh phải tiến về phia trước. Anh phải tin vào điềm. Cả đời và tất cả sự nghiên cứu của anh đều nhắm tới mục đích tìm kiếm một ngôn ngữ thật của vũ trụ. Trước hết anh nghiên cứu tiếng Esperanto, rồi đến các tôn giáo trên thế giới và bây giờ là thuật giả kim. Anh đã biết nói tiếng Esperanto, đã thấu hiểu các tôn giáo chính, nhưng anh vẫn chưa là một nhà giả kim. Anh đã làm sáng tỏ được sự thật đàng sau nhiều vấn nạn quan trọng, nhưng sự nghiên cứu đã đưa anh đến một điểm mà dường như anh không đi thêm được nữa. Anh đã hoài công tìm quan hệ với một nhà giả kim. Nhưng những nhà giả kim là những người lạ lùng, họ chỉ nghĩ về mình và không muốn giúp đỡ anh ta. Ai biết đâu đấy, có lẽ họ đã khám phá ra bí mật của 'công trình chủ', và vì thế họ giữ sự hiểu biết này cho riêng mình.
Anh đã tiêu hầu hết số tài sản cha anh để lại vào việc tìm kiếm vô vọng 'viên đá triết học'. Anh đã dành một số lớn thời gian trong các thư viện lớn của thế giới và đã mua nhiều tác phẩm hiếm và quan trọng về thuật giả kim. Một lần anh đã đọc được rằng nhiều năm trước đây một nhà giả kim nổi tiếng của Ả rập đã thăm viếng châu Âu. Người ta kể rằng ông sống hơn hai trăm tuổi, và đã khám phá ra 'viên đá triết học' và thuốc trường sinh. Chàng người Anh bị cảm kích bởi câu chuyện. Nhưng anh luôn nghĩ nó chỉ là huyền thoại, cho đến khi một người bạn, sau một chuyến khảo cổ trong sa mạc, đã kể cho anh ta về một người Ả rập có khả năng phi thường.
"Ông ta sống ở ốc đảo Al-Fayoum," bạn anh ta kể. "Ông ta đã hai trăm tuổi và có khả năng biến mọi kim loại thành vàng."
Chàng người Anh quá háo hức. Anh bỏ tất cả công việc, thu thập những sách quan trọng nhất, và bây giờ anh ngồi đây, trong một kho chứa đồ bẩn thỉu và hôi hám này. Ngoài kia, một đoàn lữ hành đang chuẩn bị băng qua sa mạc Sahara và theo chương trình sẽ đi qua Al-Fayoum.
"Tôi đang muốn tìm gặp nhà giả kim này," chàng người Anh nghĩ. Và mùi thú vật trở thành dễ chịu hơn.
Một chàng thanh niên Ả rập xếp hành lý xuống, bước vào và chào chàng người Anh.
"Anh đi đâu đấy? chàng trai Ả rập hỏi.
"Tôi đang định vào sa mạc," chàng người Anh trả lời và lại tiếp tục đọc. Lúc đó anh không muốn nói chuyện. Những gì anh cần làm là ôn lại những gì anh đã học, vì nhà giả kim chắc chắn sẽ kiểm tra anh.
Chàng trai Ả rập lấy ra cuốn sách và đọc. Cuốn sách bằng tiếng Tây ban nha. "May phước," chàng người Anh nghĩ. Anh giỏi tiếng Tây ban nha hơn tiếng Ả rập và nếu cậu kia cùng đi tới Al-Fayoum, anh sẽ có người để nói chuyện trong lúc nhàn rỗi.
 
7
"Thật lạ," chàng trai nói khi đọc lại cảnh đám tang được tả trong phần đầu cuốn sách. "Từ hai năm qua tôi đã cố gắng đọc cuốn sách này và tôi chẳng bao giờ đọc xong những trang đầu tiên này." Ngay cả không có ông vua nào cắt ngang, cậu vẫn không tập trung được.
Chàng trai vẫn còn nghi ngờ về quyết định của mình. Nhưng cậu hiểu một điều: quyết định mới chỉ là khởi đầu của sự việc. Khi một người quyết định, họ thật sự nhẩy vào một dòng xoáy mãnh liệt mà nó sẽ đem họ đến một nơi họ chẳng bao giờ nghĩ tới khi họ làm quyết định đó.
"Khi tôi quyết định đi tìm kiếm kho tàng, tôi chẳng bao giờ tưởng tượng rằng tôi sẽ làm việc trong một tiệm pha lê," chàng trai nghĩ. "Và tham gia đoàn lữ hành này là quyết định của tôi, nhưng nó sẽ đưa tôi đi đâu, điều đó vẫn là một bí ẩn đối với tôi."
Gần đó chàng trai người Anh vẫn đọc sách. Dường như anh không thân thiện lắm và đã sửng sốt khi chàng trai bước vào. Lẽ ra họ có thể làm bạn với nhau, nhưng chàng người Anh đã chấm dứt cuộc đối thoại.
Chàng thanh niên đóng sách lại. Cậu cảm thấy cậu không muốn làm bất cứ điều gì, những điều làm cậu giống chàng người Anh kia. Cậu lấy vai viên đá Urim và Thummim trong túi ra chơi.
"Urim và Thummim," chàng người Anh kêu lớn.
Chàng thanh niên vội nhét hai viên đá vào trong túi.
"Không bán đâu," cậu nói.
"Chúng không có giá lắm đâu," chàng người Anh trả lời. "Chúng được kết thành từ đá thủy tinh, và có hàng triệu đá thủy tinh trên mặt đất này. Nhưng những ai biết về chúng, cũng biết chúng là Urim và Thummim. Tôi không biết rằng ở vùng này cũng có chúng.
"Tôi được một ông vua tặng," chàng trai trả lời.
Chàng trai lạ không trả lời, thay vào đó, anh ta thò tay vào túi và móc ra hai viên đá giống hệt như của chàng trai.
"Anh nói về một ông vua?" anh ta hỏi.
"Tôi đoán anh sẽ không tin rằng một ông vua lại nói chuyện với tôi, một chàng chăn cừu," chàng trai nói, muốn chấm dứt câu chuyện.
"Không phải vậy. Chính những nguời chăn cừu là những người đầu tiên nhận ra vị vua mà những người khác trong thế giới từ chối nhận ra ngài. Vì thế không ngạc nhiên gì khi các ông vua nói chuyện với người chăn cừu."
Và anh ta tiếp tục như sợ chàng trai không hiểu những gì anh nói, "điều đó được kể lại ở trong Kinh Thánh. Cuốn sách đó cũng đã dạy tôi về Urim và Thummim. Những viên đá này là hình thức Chúa cho phép để chiêm đoán. Các tư tế mang nó trong chiếc áo ngực bằng vàng."
Bất ngờ chàng trai cảm thấy may mắn vì đã đến nhà kho này.
"Có lẽ đây là một điềm," chàng trai người Anh nói lớn tiếng.
"Ai đã bảo anh về điềm?" càng lúc sự quan tâm của cậu càng lớn hơn.
"Mọi sự trong đời là điềm," chàng trai người Anh nói và bây giờ anh ta mới bắt đầu gấp tờ báo anh đang đọc lại. "Vũ trụ chỉ có một ngôn ngữ, một ngôn ngữ mọi người đều hiểu, nhưng đã bị quên lãng. Tôi đang tìm kiếm ngôn ngữ của vũ trụ này. Đó là lý do tại sao tôi đến đây. Tôi phải tìm ra một người biết ngôn ngữ của vũ trụ đó. Ông ta là một nhà giả kim."
Câu chuyện của họ bị đứt quãng vì ông chủ nhà kho.
"Các anh thật may mắn, cả hai anh," ông Ả rập mập nói. "Một đoàn lữ hành sẽ đi Al-Fayoum hôm nay."
"Nhưng tôi đi Ai cập mà," chàng trai nói.
"Al-Fayoum thuộc về Ai cập," ông nói. "Anh là Ả rập nào?"
"Đó là một điềm tốt," chàng người Anh nói sau khi ông Ả rập béo đã đi. "Nếu có thể, tôi sẽ viết một cuốn bách khoa tự điển dầy chỉ về hai chữ may mắn và trùng hợp ngẫu nhiên. Ngôn ngữ của vũ trụ được viết bằng hai từ này."
Anh nói với chàng trai rằng không phải vì trùng hợp ngẫu nhiên mà anh đã gặp cậu với Urim và Thummim trong tay. Và anh hỏi chàng trai, có phải cả cậu nữa cũng đi tìm nhà giả kim không.
"Tôi đi tìm kho tàng," chàng trai nói, sau đó hối hận vì đã nói ra. Nhưng chàng trai người Anh dường như không để ý đến điều đó.
"Một cách nào đó, tôi cũng vậy," anh ta nói.
"Thật ra tôi chẳng hiểu thuật giả kim là gì," chàng trai nói, và ông chủ nhà kho gọi họ ra bên ngoài.
 
8
"Tôi là trưởng đoàn lữ hành," một ông mắt đen, râu dài nói. "Tôi chịu trách nhiệm về việc sống chết của từng người theo tôi. Sa mạc là một người đàn bà có tính khí thất thường và một đôi khi bà làm chúng ta điên lên được."
Có khoảng hai trăm người có mặt ở đó và bốn trăm thú vật – lạc đà, ngựa, la và gia súc. Trong đám đông có đàn bà, trẻ em, và một số các ông có kiếm dắt lưng và súng khoác trên vai. Chàng trai người Anh mang theo nhiều hòm sách. Tiếng nói quá ồn ào, đến nỗi người trưởng đoàn phải lập lại nhiều lần cho mọi người hiểu ông ta muốn nói gì.
Những người ở đây rất khác nhau, và mỗi người tôn thờ Thiên Chúa của mình. Đối với riêng tôi, tôi chỉ phục vụ một Chúa duy nhất là Allah, và nhân danh ngài tôi thề rằng tôi sẽ làm hết sức để, một lần nữa, chúng ta chiến thắng sa mạc. Nhưng tôi muốn mỗi người và mọi người trong đoàn thề với Chúa của mình rằng mọi người sẽ theo tôi vô điều kiện. Trong sa mạc, không vâng lời là chết."
Tiếng rì rầm cất lên trong đám đông. Mỗi người yên lặng thề với Chúa của mình. Chàng trai thề với Chúa Giê su Ki tô. Chàng người Anh không nói gì. Và tiếng thì thầm kéo dài hơn một lời thề bình thường. Đoàn người cũng cầu xin trời che chở.
Tiếng tù và vang lên, mỗi người trèo lên lưng vật. Chàng trai và chàng người Anh đã mua lạc đà và trèo lên lưng nó một cách ngượng ngập. Chàng trai tội nghiệp cho con lạc đà của chàng người Anh vì những hòm sách chất đầy trên lưng nó.
"Không có gì là trùng hợp ngẫu nhiên," chàng trai người Anh nói như muốn tiếp tục câu chuyện bị đứt quãng trong nhà kho. "Tôi đến đây vì một người bạn của tôi đã nghe về một người Ả rập, ông ta..."
Nhưng đoàn lữ hành đã bắt đầu lên đường, nên chàng trai không còn nghe được những gì chàng trai người Anh nói. Chàng trai biết những gì anh ta muốn diễn tả, dường như là: một chuỗi bí ẩn liên kết sự kiện này với sự kiện khác; chuỗi đó cũng tạo cho cậu trở thành chàng chăn cừu, tạo cho chàng những giấc mơ và đem chàng đến một thành phố gần châu Phi, để gặp một ông vua, để bị lừa đảo và rồi gặp một chủ tiệm pha lê, và...
"Một người càng gần thực hiện được 'huyền thoại riêng' của mình, 'huyền thoại riêng' đó lại trở thành nguyên do thực sự để họ sống," chàng trai nghĩ.
 
9
Đoàn lữ hành tiến về hướng đông. Họ lên đường vào buổi sáng, dừng chân khi mặt trời nóng nhất và lại tiếp tục đi vào buổi chiều. Chàng trai nói rất ít với chàng thanh niên người Anh vì hầu như anh luôn luôn bận rộn với sách vở.
Trong thinh lặng, chàng trai quan sát diễn biến của đoàn người và vật qua sa mạc. Bây giờ mọi sự đã hoàn toàn khác hẳn so với ngày khởi hành: Hôm đó là sự ồn ào và la hét, là tiếng khóc của trẻ thơ và tiếng kêu của thú vật, tất cả hòa với lời ra lệnh hốt hoảng của trưởng đoàn và các thương gia. Nhưng bây giờ trong sa mạc chỉ còn tiếng gió thổi liên tục và tiếng bước chân của thú vật. Ngay cả trưởng đoàn cũng nói rất ít với người khác.
"Tôi đã băng ngang dải cát này nhiều lần," một người phu lạc đà nói. "Nhưng sa mạc quá lớn lao và chân trời xa tắp đến nỗi nó làm con người cảm thấy nhỏ bé và phải nín lặng."
Chàng trai hiểu bằng trực giác những gì người phu lạc đà nói, ngay cả mặc dù cậu chưa bao giờ đặt chân lên sa mạc. Mỗi khi nhìn biển hay nhìn lửa, cậu lặng người vì bị cảm kích bởi sức mạnh nguyên sơ của nó.
"Tôi đã học nhiều điều từ những con cừu và tôi đã học nhiều điều từ pha lê," cậu nghĩ. "Tôi còn có thể học một vài điều từ sa mạc nữa. Sa mạc dường như lão luyện và khôn ngoan."
Gió chẳng bao giờ ngừng. Chàng trai nhớ lại cơn gió này đã thổi trên mặt cậu khi cậu ngồi ở cảng Tarifa. Cậu cũng nhớ về lông cừu... những con cừu của cậu bây giờ đang tìm kiếm đồ ăn và nước uống trong cánh đồng Andalusia như chúng đã luôn luôn làm.
"Chúng không còn là cừu của tôi nữa," chàng tự nghĩ và không thấy nuối tiếc. "Chúng phải quen với chủ mới, và có lẽ đã quên cậu. Thế thì tốt. Những tạo vật giống như đàn cừu, khi đã quen với du hành, phải biết tiếp tục đi.
Cậu nghĩ về người con gái của ông thương gia và hầu như chắc rằng cô ta đã lấy chồng. Có thể cô ta lấy ông thợ bánh mì hay chàng chăn cừu, người biết đọc và có thể kể những câu chuyện hay – có lẽ chàng không phải là người duy nhất có thể làm được việc đó. Nhưng cậu thích thú về khả năng trực giác hiểu biết của người phu lạc đà: có lẽ anh ấy đã học được ngôn ngữ của vũ trụ để có thể giao dịch với quá khứ và hiện tại của tất cả mọi người. "Linh cảm", mẹ cậu đã gọi chúng như thế. Cậu chợt hiểu rằng trực giác thật sự là sự nhận chìm đột ngột của linh hồn vào trong dòng chẩy vũ trụ của đời sống, nơi các lịch sử của tất cả mọi người được liên kết, và chúng ta có khả năng biết mọi sự, bởi vì chúng đã được viết, được định sẵn trong đó.
"Maktub", chàng trai nói, nhớ lại lời của ông chủ tiệm bán pha lê.
Sa mạc đầy cát trong dải này, và lại đầy đá ở chỗ kia. Khi đoàn lữ hành gặp những tảng đá lớn, họ phải đi vòng quanh nó, khi gặp một vùng đầy đá, họ phải rẽ hướng khác. Khi cát quá mịn làm lún chân lạc đà, họ phải tìm một đường đi có cát vững hơn. Một vài nơi, mặt đất là muối của những ao hồ đã khô cạn. Những con vật giở chứng ở những nơi như thế và người phu lạc đà phải rỡ hàng xuống, tự vác hàng hóa đi qua nơi hiểm trở đó rồi mới lại chất hàng lên lưng lạc đà. Nếu trưởng đoàn bị bệnh hay bị chết, các người phu lạc đà sẽ bốc thăm chọn người trưởng đoàn mới.
Nhưng tất cả những điều này xẩy ra chỉ vì một lý do đơn giản: dù bao nhiêu lần phải đi vòng quanh hay phải điều chỉnh hướng đi, đoàn lữ hành vẫn hướng về mục tiêu đã định. Khi những trở ngại đã được vượt qua, đoàn lữ hành lại trở về con đường của mình, nhìn các vì sao lấy hướng đi tìm về ốc đảo. Khi họ thấy những vì sao chiếu trên bầu trời ban sáng, họ biết họ đang đi đúng hướng về phía có nước, cây dừa, nơi trú ẩn và có con người. Chỉ có chàng trai người Anh là không quan tâm về điều đó, một phần lớn anh dành để đọc sách.
Chàng trai cũng vậy, chàng có cuốn sách và cố gắng đọc trong những ngày đầu tiên của cuộc lữ hành. Nhưng cậu thích thú hơn khi quan sát đoàn lữ hành và lắng nghe gió thổi. Khi đã quen con lạc đà và thân thiện với nó, cậu quẳng cuốn sách đi. Mặc dù cậu mê tín rằng mỗi khi mở sách ra một cách tình cờ, cậu sẽ học được một điều quan trọng, nhưng bây giờ cậu xác định nó chỉ là một gánh nặng vô ích.
Chàng trai thân thiện với người phu lạc đà đi bên cạnh cậu. Ban đêm khi họ ngồi bên đống lửa, cậu kể cho phu lạc đà về những cuộc phiêu lưu của cậu khi còn là người chăn cừu.
Trong một cuộc trò chuyện như vậy, phu lạc đà đã kể cho cậu về cuộc đời của ông.
"Tôi đã sống gần El Cairum," ông kể. "Tôi có một vườn trái cây, những đứa con và một đời sống sẽ chẳng thay đổi, trừ khi tôi chết. Một năm nọ, khi mùa gặt hái được mùa trôi qua, tất cả chúng tôi đi Mecca và tôi hài lòng vì đã hoàn thành một nhiệm vụ duy nhất còn lại trong đời. Tôi có thể chết trong hạnh phúc và điều đó làm tôi cảm thấy hạnh phúc.
"Một ngày kia mặt đất chuyển mình và dòng nước sông Nil tràn qua bờ. Đó là điều mà tôi tưởng chỉ xẩy ra cho người khác, chứ không bao giờ cho tôi. Những người láng giềng sợ những cây ô liu thiệt hại trong dòng nước và vợ tôi sợ những đứa con có thể  thiệt mạng. Tôi nghĩ rằng mọi thứ tôi có sẽ bị phá hủy.
"Đất thành trơ trụi và tôi phải tìm cách khác để sống. Vì thế mà bây giờ tôi trở thành phu lạc đà. Nhưng thảm họa dạy tôi hiểu lời của Allah: con người không cần phải lo lắng về những cái chưa đến vì họ có khả năng đạt được những cái họ cần và muốn.
"Chúng ta lo lắng mất đi cái chúng ta có, có thể nó là mạng sống mình hay vật sở hữu hoặc tài sản của chúng ta. Nhưng sự sợ hãi này sẽ qua đi khi chúng ta hiểu rằng câu chuyện đời sống của chúng ta và lịch sử của thế giới đã được viết bởi cùng một bàn tay."
 
10
Một đôi khi đoàn lữ hành gặp một đoàn lữ hành khác. Đoàn này luôn luôn có cái mà đoàn kia cần – như tất cả đã được viết bởi một bàn tay. Khi ngồi chung quanh đống lửa, những người phu lạc đà trao đổi thông tin về bão cát hay kể chuyện về sa mạc. Một lần khác, một cách bí ẩn, những người che mặt xuất hiện: họ là những Bedouins, người quan sát dọc theo lộ trình của đoàn lữ hành. Họ cảnh báo về bọn cướp và các bộ lạc hung dữ. Họ đến trong lặng lẽ và ra đi cũng vậy. Họ mặc y phục màu đen chỉ chừa ra hai con mắt. Một đêm kia, người phu lạc đà đến bên đống lửa chỗ chàng người Anh và chàng thanh niên đang ngồi. "Có tin đồn về chiến tranh giữa các bộ lạc," ông ấy nói.
Ba người yên lặng. Chàng trai cảm thấy một bầu khí lo sợ, ngay cả chẳng ai nói ra điều gì. Một lần nữa cậu cảm nhận ngôn ngữ không lời... ngôn ngữ của vũ trụ.
Chàng thanh niên người Anh hỏi liệu chiến tranh có nguy hiểm không.
"Một khi anh đã vào sa mạc thì không còn con đường quay về." Người phu lạc đà nói. "Và khi anh không còn có thể quay về, anh chỉ còn có thể lo tìm ra cách tốt nhất để tiến về phía trước. Phần còn lại tùy thuộc vào Allah, kể cả sự nguy hiểm."
Và ông ta kết thúc bằng chữ bí ẩn: "Maktub".
"Bạn phải quan sát đoàn lữ hành kỹ hơn," chàng trai nói với chàng người Anh, sau khi người phu lạc đà đã đi. "Chúng nhiều lần đi vòng vòng, nhưng chúng luôn luôn nhắm mục tiêu."
"Và anh phải đọc nhiều về thế giới," chàng người Anh trả lời. "Về phương diện này, sách giống như đoàn lữ hành."
Đoàn đông đảo người và vật đi nhanh hơn. Ban ngày thường im lặng, nhưng bây giờ, ngay cả vào ban đêm – khi những người lữ hành thường ngồi quanh đống lửa -  cũng trở thành lặng thinh. Và một ngày nọ, trưởng đoàn quyết định không còn nhúm lửa để tránh bị chú ý.
Những người lữ hành đồng ý bố trí cho thú vật quây thành vòng tròn vào ban đêm, còn họ ngủ chung với nhau ở giữa chống lại cái lạnh ban đêm. Trưởng đoàn còn đặt người mang vũ khí gác vòng ngoài.
Một đêm khia, chàng người Anh không ngủ được. Anh gọi chàng trai và họ đi dạo dọc theo những cồn cát chung quanh trại. Đêm đó trăng tròn và chàng trai kể cho anh chàng người Anh câu chuyện đời mình.
Anh chàng người Anh thích thú về tiến trình thành công trong tiệm pha lê khi chàng trai làm việc ở đó.
"Đó là nguyên lí điều hành mọi sự," chàng người Anh nói. "Trong thuật giả kim, nó được gọi là linh hồn của thế giới. Khi anh muốn một sự gì với tất cả tấm lòng, khi đó anh gần với linh hồn của thế giới. Nó luôn luôn là một sức mạnh tích cực.
"Anh ta nói rằng không phải chỉ có con người, nhưng mọi sự trên mặt đất này đều có linh hồn, ngay cả khoáng vật, cây cối hay thú vật – hay ngay cả một tư tưởng đơn giản."
"Mọi sự trên mặt đất không ngừng biến hóa, bởi vì địa cầu sống động... và nó có linh hồn. Chúng ta là một phần của linh hồn đó, vì thế hiếm khi chúng ta  nhận ra rằng nó làm việc cho chúng ta. Nhưng trong tiệm pha lê, có lẽ anh cũng nhận thấy rằng ngay cả những ly thủy tinh cũng cộng tác trong sự thành công của anh."
Chàng trai nghĩ về chuyện đó, trong khi chàng ngắm trăng và dải cát trắng. "Tôi đã nhìn đoàn lữ hành vượt qua sa mạc," cậu nói. "Đoàn lữ hành và sa mạc nói cùng một ngôn ngữ, và đó là lý do tại sao sa mạc lại cho đoàn băng ngang nó. Từng bước đi của đòan lữ hành phải được theo dõi, nếu nó đúng giờ, chúng ta sẽ đến được ốc đảo."
Họ đứng đó, ngước nhìn mặt trăng.
"Đó là ma thuật của điềm," chàng trai nói. "Tôi đã nhìn thấy trưởng đoàn nhận ra dấu hiệu của sa mạc như thế nào, và cách linh hồn của đoàn lữ hành nói chuyện với linh hồn của sa mạc."
"Tôi phải quan tâm đến đoàn lữ hành hơn," chàng người Anh nói.
"Và tốt hơn tôi phải đọc sách của anh," chàng trai nói.
11
Chúng là những quyển sách kỳ lạ. Chúng viết về thủy ngân, muối, con rồng và vua chúa, và cậu không hiểu gì cả. Nhưng một tư tưởng dường như lập lại xuyên qua mọi cuốn sách: Tất cả mọi sự đều diễn tả về một tổng thể lớn lao duy nhất.
Trong một cuốn sách, cậu đã đọc rằng bản văn quan trọng nhất trong tài liệu của thuật giả kim chỉ cô đọng trong vài dòng và được khắc trên mặt đá ngọc bích.
"Đó là bảng ngọc bích," chàng người Anh hãnh diện vì đã dạy cho chàng trai được một điều gì đó.
"Thế thì tại sao chúng ta lại cần tất cả những sách này?" chàng trai hỏi.
"Để chúng ta hiểu những dòng này," chàng người Anh trả lời, nhưng tỏ vẻ không tin lắm vào những gì anh ta nói.
Cuốn sách chàng trai thích nhất kể về các nhà giả kim nổi tiếng. Họ là những người đã cống hiến cả đời để thanh lọc kim loại trong phòng thí nghiệm: họ tin rằng nếu kim lọa được nung nóng trong nhiều năm, tính chất riêng của chúng sẽ tự biến đi và những gì còn lại sẽ là linh hồn của thế giới. Linh hồn của thế giới này sẽ cho phép nhà giả kim hiểu mọi sự trên trái đất, bởi vì nó là ngôn ngữ có thể liên kết mọi vật với nhau. Sự khám phá này được gọi là 'công trình chủ' (10) - chúng gồm một phần lỏng và một phần rắn.
"Anh không thể quan sát con người và điềm để hiểu ngôn ngữ này sao?" chàng trai hỏi.
"Anh chỉ đơn giản hóa mọi vấn đề," chàng người Anh bực tức trả lời. "Thuật giả kim là một môn học nghiêm chỉnh. Mỗi một bước phải tuân theo sự hướng dẫn của thầy dạy một cách chính xác."
Chàng trai được học rằng phần lỏng của 'công trình chủ' được gọi là thuốc trường sinh, và nó chữa mọi bệnh tật, nó cũng giúp nhà giả kim không bị già đi. Và phần rắn được gọi là 'viên đá triết học.'
"Không dễ tìm ra 'viên đá triết học'," chàng người Anh nói. "Các nhà giả kim đã kiên trì nhiều năm trong phòng thí nghiệm, quan sát ngọn lửa tinh luyện kim loại. Họ nhìn ngọn lửa một thời gian dài đến nỗi dần dần tính kiêu ngạo của thế giới trong họ tan biến đi. Họ khám phá ra rằng sự tinh luyện kim loại dẫn họ đến sự tinh luyện chính họ."
Chàng trai nghĩ về chủ tiệm pha lê. Ông đã nói rằng việc lau chùi thủy tinh là một việc cần thiết cho cậu, qua đó cậu có thể giải thoát mình khỏi những tư tưởng tiêu cực. Chàng trai càng ngày càng tin chắc rằng thuật giả kim có thể học được trong cuộc sống hàng ngày.
"Như vậy," chàng người Anh nói, "'đá triết học' có một tính chất độc đáo. Một miếng nhỏ của đá có thể biến đổi một số lượng lớn kim loại thành vàng."
Nghe thế, chàng trai lại càng say mê thêm về thuật giả kim. Cậu nghĩ, với một chút kiên nhẫn, cậu có thể biến mọi thứ thành vàng. Cậu đọc về đời sống của nhiều người đã thành công trong việc này: Helvétius, Elias, Fulcanelli và Geber. Đó là những chuyện hấp dẫn: mỗi người trong họ đã sống 'huyền thoại riêng' của họ đến tận cùng. Họ du hành, gặp gỡ những người thông thái, làm phép lạ cho những người hoài nghi, và làm chủ 'đá triết học' và thuốc trường sinh.
Nhưng khi chàng trai thăm dò xem phải học để đạt được 'công trình chủ' bằng cách nào, cậu cảm thấy bất lực. Con đường dẫn đến 'công trình chủ' chỉ  có những bảng vẽ, những chỉ dẫn bằng mật mã và những văn bản bí ẩn.
 
 
12
"Tại sao họ lại làm cho vấn đề trơ nên phức tạp như thế?" một đêm kia chàng trai hỏi chàng trai người Anh. Cậu nhận thấy chàng trai người Anh bối rối.
"Để chỉ những người chịu trách nhiệm về sự hiểu biết mới có thể hiểu nó," anh ta nói. "Hãy tưởng tượng xem nếu mỗi người đi lang thang rồi biến chì thành vàng. Vàng sẽ mất đi gía trị của nó.
"Chỉ người nào kiên gan và muốn nghiên cứu sâu về vấn đề này mới đạt được 'công trình chủ'. Đó là lý do tại sao tôi lại đến đây giữa sa mạc. Tôi đang tìm kiếm một nhà giả kim thật sự giúp tôi giải những mật mã."
"Cuốn sách này được viết khi nào?" chàng trai hỏi.
"Nhiều thế kỷ trước."
"Thời đó chưa có việc in ấn," chàng trai tranh luận. "nên không phương tiện để mọi người biết về thuật giả kim được. Tại sao họ lại dùng ngôn ngữ kỳ lạ này với quá nhiều đồ họa?"
Chàng người Anh không trả lời trực tiếp câu hỏi của chàng trai. Anh ta nói rằng mấy ngày qua anh đã quan sát xem đoàn lữ hành di chuyển ra sao, nhưng anh ta không học thêm được gì mới. Chỉ có một điều mà anh nhận thấy là người ta nói nhiều hơn về chiến tranh.
 
 
13
Rồi một ngày chàng trai trả chàng người Anh cuốn sách. "Anh có học được gì không?" chàng trai người Anh hỏi, háo hức lắng nghe. Anh ta cần nói chuyện với người khác như để tránh phải nghĩ về chiến tranh có thể sắp bùng nổ.
"Tôi học rằng thế giới có một linh hồn và bất cứ ai hiểu linh hồn đó, cũng có thể hiểu ngôn ngữ của mọi sự vật. Tôi học rằng nhiều nhà giả kim đã đạt đến  'huyền thoại riêng' của họ, và đã khám phá ra linh hồn của thế giới, 'đá triết học' và thuốc trường sinh.
"Nhưng trên hết, tôi học rằng tất cả những sự này quá đơn giản đến nỗi chúng có thể được khắc trên bề mặt của viên bích ngọc."
Chàng người Anh thất vọng. Những năm nghiên cứu, những biểu tượng ma thuật, những chữ lạ và những thiết bị của phòng thí nghiệm... không có gì gây ấn tượng cho chàng trai này. Linh hồn cậu quá chất phác để hiểu những điều này, anh ta nghĩ.
Anh ta lấy lại cuốn sách và cất chúng lại trong túi.
"Hãy trở về quan sát đoàn lữ hành đi," anh ta nói. "Điều đó chẳng dậy tôi chút gì cả."
Chàng trai trở lại ngắm nhìn sự yên lặng của sa mạc và bụi cát do thú vật làm tung lên. "Mỗi người có cách học riêng," cậu tự nghĩ. "Cách của anh ta không là cách của tôi, và cách của tôi không giống như cách của anh ấy. Nhưng cả hai chúng tôi đều đi tìm 'huyền thoại riêng', và vì thế tôi tôn trọng anh ta.
 
14
Đoàn lữ hành bắt đầu di chuyển cả ngày lẫn đêm. Người Bedouins che mặt xuất hiện thường hơn, và người phu lạc đà – người đã trở thành bạn thân của chàng trai – giải thích rằng chiến tranh đã bắt đầu xẩy ra giữa các bộ lạc. Nếu đến được ốc đảo sẽ là một may mắn lớn cho đoàn.
Thú vật thở dốc vì mệt mỏi, và người ít nói chuyện với nhau hơn. Sự yên lặng trong đêm đáng sợ hãi, ngay cả tiếng kêu của con lạc đà – trước đây là chuyện bình thường –nhưng bây giờ cũng làm mọi người lo âu, vì nó có thể là biểu hiệu của cuộc đột kích.
Người phu lạc đà dường như chẳng quan tâm gì đến mối đe dọa của chiến tranh.
"Tôi vẫn sống," ông ta nói với chàng trai khi họ cùng ăn một chùm chà là vào một đêm không có lửa và không có trăng. "Khi tôi ăn, tôi chỉ nghĩ về ăn. Khi tôi đi, tôi tập trung vào đi. Nếu tôi phải chiến đấu, thì ngày tôi chết cũng đẹp như những ngày khác.
"Bởi vì tôi không sống trong quá khứ, cũng không sống trong tương lai. Tôi chỉ quan tâm đến hiện tại. Nếu bạn luôn luôn có thể sống trong hiện tại, bạn sẽ là người hạnh phúc. Bạn sẽ nhìn thấy sa mạc sống động, vòm trời đầy sao và các bộ lạc đánh nhau vì họ là một phần của chủng tộc nhân loại. Đới với bạn đời sống sẽ là một ngày hội, một buổi lễ lớn, vì đời sống là giây phút hiện tại chúng ta đang sống."
Hai đêm sau, khi chàng trai chuẩn bị ngủ, cậu ngước nhìn vì sao đã dẫn đường cho họ hàng đêm. Cậu nhận thấy dường như chân trời có vẻ thấp hơn mọi khi, bởi vì cậu có thể nhìn thấy những vì sao trên chính sa mạc.
"Đó là ốc đảo," người phu lạc đà nói.
"Vậy tại sao chúng ta không đi đến đó đêm nay?" chàng trai hỏi.
"Bởi vì chúng ta phải ngủ."
 
15
Chàng trai thức giấc khi mặt trời mọc. Đó, trước mặt chàng, nơi có hàng ngàn vì sao đêm trước, là hàng cây chà là dài vô tận, bao phủ cả vùng sa mạc.
"Chúng ta đã đến nơi," chàng người Anh nói. Anh ta cũng thức dậy sớm.
Nhưng chàng trai im lặng. Cậu đã quen với sự yên lặng của sa mạc và thích ngắm nhìn hàng cây. Cậu vẫn còn một đoạn đường dài để đến Kim tự tháp, và một ngày nào đó buổi sáng hôm nay chỉ còn là một kỷ niệm. Nhưng đây là giây phút hiện tại – ngày hội mà người phu lạc đà đã nhắc đến – và cậu muốn sống giờ phút này, cũng như cậu đã chu toàn trách nhiệm trong quá khứ và ước mơ về tương lai. Mặc dù viễn tượng về cây chà là một ngày kia chỉ còn là kỷ niệm, nhưng bây giờ nó biểu hiệu bóng mát, nước và nơi trú ẩn tránh chiến tranh. Hôm qua, tiếng lạc đà kêu là tín hiệu của nguy hiểm, và bây giờ hàng cây chà là có thể báo hiệu một phép mầu.
"Thế giới nói nhiều ngôn ngữ," chàng trai nghĩ.
 
16
"Thời gian đi qua nhanh, đoàn lữ hành cũng vậy," nhà giả kim nghĩ khi ông ngắm nhìn hàng trăm người và thú vật tiến vào ốc đảo. Dân chúng reo hò về đoàn người mới tới, bụi bay che lấp ánh mặt trời sa mạc và những đứa trẻ của ốc đảo phấn khởi về những người sa lạ mới tới. Nhà giả kim nhìn thấy ông trưởng bộ lạc chào trưởng đoàn lữ hành và hai người trò chuyện hồi lâu với nhau.
Nhưng nhà giả kim không quan tâm lắm đến việc đó. Ông đã thấy nhiều người đến rồi đi, và sa mạc vẫn như xưa. Ông đã thấy vua chúa và người ăn xin đi qua sa mạc cát này. Cồn cát luôn thay đổi vì gió thổi, nhưng hạt cát vẫn là những hạt cát mà ông biết từ thời niên thiếu. Ông lây niềm vui khi nhìn thấy niềm hạnh phúc mà người lữ hành đạt được, ví sau nhiều tuần lễ chỉ thấy cát vàng và trời xanh, nay họ lại nhìn thấy màu xanh của cây chà là. "Có lẽ Thiên Chúa dựng nên sa mạc để cho con người biết quý trọng cây chà là hơn," ông nghĩ.
Ông quyết định chú tâm vào một việc cụ thể hơn. Ông biết trong đoàn lữ hành có một người mà ông có thể truyền đạt một vài bí ẩn của ông. Những điềm đã báo cho ông như vậy. Ông không biết người đó, nhưng đôi mắt thực tiễn của ông sẽ nhận ra khi người đó xuất hiện. Ông hy vọng rằng người này cũng có khả năng như người học việc trước.
"Tôi không hiểu tại sao những việc này lại phải truyền lại cho nhau bằng miệng," ông ta nghĩ. Chúng không thật sự là những bí mật; Thiên chúa mặc khải những điều này cho các tạo vật một cách phong phú.
Ông chỉ có một lý giải duy nhất cho sự việc này: những việc này phải truyền lại theo cách lối này vì chúng được hình thành từ đời sống thuần túy, và cách sống này không thể diễn đạt qua hình ảnh và từ ngữ.
Bởi vì con người dễ bị hình ảnh và ngôn từ lôi cuốn, đến nỗi dễ quên, không còn chú ý đến ngôn ngữ của thế giới.
 
17
Chàng trai không tin được những gì cậu nhìn thấy: Ốc đảo, hơn là một nguồn nước có những cây dừa bao quanh – như chàng đã được nhìn thấy trong một sách địa lý – mà còn lớn hơn nhiều làng mạc ở Tây ban nha. Ở đó có ba trăm giếng nước, năm mươi ngàn cây chà là, và vô số lều nhiều màu.
"Ốc đảo giống như trong truyện Một ngàn lẻ một đêm," chàng người Anh nói, lòng bồn chồn muốn gặp nhà giả kim.
Những đứa trẻ bao quanh họ, tò mò nhìn đoàn người và vật mới đến. Đàn ông trong ốc đảo tò mò hỏi xem đoàn lữ hành có gặp chiến tranh xẩy ra không. Trong khi đó các bà chen lấn nhau vào đám quần áo và đá quý do các thương gia mới đem đến. Sự yên lặng của sa mạc giờ chỉ còn là một giấc mơ xa vời; những người lữ hành nói không ngừng, cười và hò hét như thể họ từ thế giới tâm linh được trở về thế giới của con người. Họ được giải thoát và hạnh phúc.
Mặc dù trước đó họ đã được cảnh báo phải đề phòng trong sa mạc, nhưng người phu lạc đà cắt nghĩa cho chàng trai biết rằng ốc đảo luôn luôn được coi như vùng đất trung lập, bởi vì đa số dân cư trong đó là đàn bà và trẻ em. Xuyên qua sa mạc có nhiều ốc đảo, nhưng các bộ lạc chiến đấu trong sa mạc, để lại ốc đảo như nơi trú ẩn.
Trưởng đoàn phải vất vả lắm mới quy tụ những người lữ hành lại với nhau để loan báo cho họ những chỉ dẫn. Đoàn sẽ lưu trú lại ốc đảo cho đến khi cuộc xung đột giữa các bộ lạc chấm dứt. Vì họ là khách thăm viếng, nên họ phải ở chung với người dân sống ở đó và sẽ được dành cho chỗ ở tốt nhất. Đó là thói quen của lòng hiếu khách. Rồi ông yêu cầu mọi người, kể cả lính gác của ông, trao vũ khí của mình cho người mà trưởng bộ lạc chỉ định.
"Đây là luật của chiến tranh," trưởng đoàn giải thích. "Ốc đảo không được chứa quân đội hay nhóm binh sĩ nào cả."
Chàng trai ngạc nhiên khi thấy chàng người Anh lấy từ túi ra cây súng mạ crom và trao cho người đi thu thập súng đạn.
"Tại sao anh lại cần súng?" chàng trai hỏi.
"Nó giúp tôi tin tưởng vào người khác," chàng người Anh trả lời. Anh ta vui vẻ vì đã đến được đích.
Trong khi đó chàng trai nghĩ về kho tàng. Sự thành tựu của giấc mơ càng gần, sự việc lại trở thành phức tạp hơn. Dường như những gì ông vua già gọi là cái may mắn cho người mới bắt đầu không còn giá trị nữa. Trên đường theo đuổi giấc mơ, cậu sẽ luôn bị thử thách về lòng kiên trì và can đảm. Vì thế cậu không thể vội vàng hay sốt ruột được. Nếu cậu bốc đồng tiến về phía trước, cậu sẽ không nhìn thấy dấu hiệu và điềm của Thiên Chúa trên con đường đi.
"Thiên Chúa đặt chúng dọc con đường tôi đi," cậu ngạc nhiên với ý nghĩ đó. Cho tới nay cậu vẫn coi điềm là cái gì đó thuộc về thế giới tự nhiên, giống như ăn và ngủ, hay giống như việc theo đuổi tình yêu hay tìm kiếm việc làm. Cậu chưa bao giờ nghĩ chúng thuộc về ngôn ngữ được Thiên Chúa dùng để biểu lộ điều ngài muốn thực hiện.
"Đừng nóng nảy!" cậu nhắc nhở lòng mình. "Giống như người phu lạc đà đã nói: 'Ăn khi đến lúc ăn. Và đi khi đến lúc phải đi.'"
Ngày đầu tiên mọi người ngủ ngon vì mệt mỏi, ngay cả chàng người Anh. Chàng thanh niên được chỉ định một chỗ xa bạn cậu, trong một căn lều với năm thanh niên khác bằng tuổi cậu. Họ là những người của sa mạc và thích nghe những câu chuyện về các thành phố lớn.
Chàng trai kể cho họ về đời sống chăn cừu của cậu và vừa khi cậu kể về những kinh nghiệm của cậu ở trong tiệm bán pha lê thì chàng người Anh bước vào trong lều.
"Tôi đã tìm anh cả buổi sáng," anh ta nói khi dẫn chàng trai ra ngoài. "Tôi cần anh giúp đỡ để tìm ra nơi người giả kim đang sống."
Trước hết hai người muốn tự đi tìm lấy. Một nhà giả kim có lẽ phải sống khác với những người dân ở ốc đảo, và lò lửa trong lều của ông sẽ chẳng ngừng cháy. Họ đi tìm khắp nơi và nhận ra rằng ốc đảo lớn hơn họ tưởng tượng: có hàng trăm cái lều.
"Chúng ta đã mất gần hết một ngày rồi," chàng người Anh nói, ngồi xuống cùng chàng trai bên cạnh một cái giếng.
"Có lẽ tốt hơn chúng ta nên hỏi người khác," chàng trai đề nghị.
Chàng người Anh do dự vì anh ta không muốn kể cho người khác về lý do anh ta đến ốc đảo này. Nhưng sau cùng, anh ta cũng đồng ý cho chàng trai, người nói tiếng Ả rập giỏi hơn, hỏi chuyện đó. Cậu đến gần một bà bên giếng nước đang lấy nước cho vào chiếc túi da dê.
"Chào bà. Tôi muốn tìm nhà giả kim đang sống trong ốc đảo này."
Người đàn bà nói, bà chẳng bao giờ nghe về một người như thế và vội vã bỏ đi ngay. Nhưng trước khi bà đi, bà khuyên chàng trai đừng nên nói chuyện với phụ nữ mặc quần áo đen, bởi vì đó là những người đã có chồng. Cậu nên tôn trọng truyền thống đó.
Chàng người Anh thất vọng. Dường như chuyến du hành dài của anh thành vô ích. Chàng trai cũng buồn; dù sao bạn anh cũng đang theo đuổi 'huyền thoại riêng'. Và, khi một người theo đuổi 'huyền thoại riêng', toàn thể vũ trụ sẽ hợp nhau lại giúp họ thành công – ông vua già đã nói như thế. Ông ta không thể sai lầm.
"Trước đây tôi đã chẳng bao giờ nghe nói về nhà giả kim," chàng trai nói. "Có lẽ những người ở đây cũng chưa nghe nói về ông ta."
Mắt chàng người Anh sáng lên. "Phải rồi! Có thể ở đây không ai biết nhà giả kim là gì! Hãy tìm ra ai là người ở đây có thể chữa lành bệnh tật."
Nhiều phụ nữ có trang phục màu đen ra giếng lấy nước, nhưng chàng trai không nói chuyện với người nào trong nhóm họ, mặc dù chàng người Anh hối thúc. Rồi một người đàn ông xuất hiện.
"Ông có biết ở đây ai chữa được các bệnh tật không?" chàng trai hỏi.
"Allah chữa mọi bệnh tật," người đàn ông nói, rõ ràng ông hoảng sợ trước người lạ. "Các anh đang muốn tìm thầy thuốc phù thủy." Ông ta đọc vài câu kinh Koran và bỏ đi.
Một người đàn ông nữa xuất hiện. Ông ta già hơn và chỉ xách một chiếc xô nhỏ. Chàng trai lập lại câu hỏi.
"Tại sao các anh lại tìm người như thế?" ông Ả rập hỏi.
"Bởi vì bạn tôi đã du hành nhiều tháng trời hầu mong gặp ông ấy," chàng trai nói.
"Nếu có một người như thế sống ở ốc đảo này, người đó phải là người rất thế lực," ông già nói sau một lúc suy nghĩ. "Ngay cả trưởng bộ lạc cũng không có thể cho gọi người ấy đến. Ông ta chỉ đến khi nào ông ta tự ý muốn đến thôi. Hãy đợi chiến tranh chấm dứt, rồi cùng đi với đoàn lữ hành. Đừng nên xen vào đời sống của ốc đảo," ông ta kết luận trước khi đi.
Nhưng chàng người Anh lại vui mừng. Họ tìm ra dấu vết rồi.
Sau cùng một phụ nữ trẻ không mặc trang phục màu đen xuất hiện. Cô vác một bình đựng nước trên vai, cô đội khăn trên đầu nhưng không che mặt. Chàng trai đến gần và hỏi về nhà giả kim.
Lúc đó, thời gian đối với cậu dường như ngừng lại và tâm linh vũ trụ nổi sóng trong cậu. Khi cậu nhìn vào đôi mắt đen của người con gái, và nhìn đôi môi của cô ngần ngại giữa mỉm cười và nín lặng, cậu hiểu được phần quan trọng nhất của ngôn ngữ mà tất cả thế giới nói – ngôn ngữ mà mỗi người trên mặt đất có thể hiểu trong tim họ. Đó là tình yêu. Một động lực có trước nhân loại, xưa hơn sa mạc, nhưng luôn luôn chỗi dậy với cùng một sức mạnh ở bất cứ nơi đâu hai đôi mắt gặp nhau, như hai đôi mắt đang gặp nhau ở đây bên bờ giếng. Cô ta mỉm cười, và chắc chắn đó là một điềm – một điềm mà, mặc dù trước đó không biết gì về nó, cậu đã chờ đợi từ lâu trong đời sống. Cái điềm cậu đã tìm kiếm bên đàn cừu, trong sách vở, trong tiệm pha lê và trong yên lặng của sa mạc.
Đó là ngôn ngữ tinh ròng nhất của thế giới. Nó không cần lời giải thích, cũng như vũ trụ không cần gì mà vẫn tiếp tục chuyển động xuyên qua thời gian vô tận. Tất cả những gì chàng trai cảm thấy lúc đó là cậu đang đứng trước người phụ nữ duy nhất trong đời cậu, và sự cảm nhận đó không cần đến ngôn ngữ; cô ta cũng cùng cảm thấy như vậy. Cậu chắc chắn về điều đó hơn bất cứ điều gì khác trong thế giới. Ngay cả cha mẹ và ông bà cậu nói rằng cậu phải yêu một người, và thật sự biết rõ về người đó trước khi lấy họ. Nhưng có lẽ ai nghĩ như vậy, người đó đã chẳng biết về ngôn ngữ của vũ trụ. Bởi vì khi bạn hiểu ngôn ngữ đó, bạn dễ hiểu rằng trong thế giới có một người chờ đợi bạn, có thể giữa sa mạc hay trong một thành phố lớn. Và khi hai người này gặp nhau và mắt họ nhìn nhau thì quá khứ và tương lai không còn quan trọng. Chỉ còn có khoảnh khắc này và niềm tin không thể tưởng tượng được là mọi sự dưới bầu trời đã được viết bởi một bàn tay. Chính bàn tay này đã gợi lên tình yêu và đã tạo nên một linh hồn sinh đôi cho mỗi người trong thế giới. Không có tình yêu này, giấc mơ của con người sẽ không có ý nghĩa.
"Maktub," chàng trai nghĩ.
Chàng trai người Anh lay chàng trai: "Tiếp tục đi chứ, hãy hỏi cô ấy ngay đi!"
Chàng trai bước đến gần cô gái và khi cô mỉm cười, chàng cũng mỉm cười theo.
"Cô tên gì?" chàng trai hỏi.
"Fatima," cô nói, quay mắt đi chỗ khác.
"Một vài phụ nữ trong nước tôi cũng có tên như vậy."
"Đó là tên người con gái của vị Tiên Tri," Fatima nói. "người xâm lược đã mang tên đó đi khắp nơi." Cô gái xinh đẹp nói về người xâm lược với niềm hãnh diện.
Chàng người Anh thúc dục chàng thanh niên. Cậu hỏi cô gái về người đàn ông chữa các bệnh tật.
"Đó là người đàn ông biết mọi bí mật của thế giới," cô nói. "Ông ta giao thiệp với các thần linh của sa mạc."
Thần linh là thần của tốt và xấu. Cô gái chỉ về hướng nam, cho biết người đàn ông lạ đang sống ở đó. Rồi cô lấy đầy bình nước và ra về.
Chàng người Anh cũng biến mất, anh đi tìm người giả kim. Chàng trai ngồi bên giếng nước một hồi lâu, nhớ lại một ngày ở Tarifa, ngọn gió Levanter đã đem đến cho cậu mùi hương của người con gái đó, và nhận ra rằng cậu đã yêu cô trước khi cậu biết cô hiện diện trên trần gian. Cậu biết rằng tình yêu cậu dành cho cô sẽ cho cậu nghị lực để cậu khám phá mọi kho tàng trên thế giới.
 
18
Ngày hôm sau, chàng trai trở lại giếng nước với hy vọng gặp lại cô gái. Chàng ngạc nhiên, vì chàng người Anh đang ngồi ở đó, nhìn vào sa mạc.
"Tôi đã chờ cả buổi chiều rồi suốt buổi tối," chàng người Anh kể. "Ông ta xuất hiện vào lúc những vì sao đêm đầu tiên ló dạng. Tôi nói với ông điều tôi đang tìm và ông ta hỏi tôi đã có bao giờ biến chì thành vàng chưa. Tôi nói rằng đó chính là cái mà tôi muốn đến đây học.
"Hãy thử làm như vậy đi." Đó là tất cả những gì ông ta nói: 'Hãy về và thử đi.'"
Chàng trai không nói gì. Chàng người Anh tội nghiệp này đã du hành cả một đoạn đường dài để được một lời khuyên là hãy lập lại cái mà anh đã nhiều lần làm.
"Vậy, thử đi xem sao," cậu nói với chàng người Anh.
"Tôi đang định làm điều đó," chàng người Anh trả lời. "Tôi sẽ bắt đầu ngay bây giờ."
Khi chàng người Anh đi khỏi thì Fatima đến lấy nước.
"Anh đến đây để muốn nói với em một điều," cậu nói. "Anh muốn cưới em làm vợ. Anh yêu em."
Cô gái đánh rơi chiếc bình, nước đổ tràn ra.
"Anh định chờ em mỗi ngày ở đây. Anh đã vượt qua sa mạc để tìm kiếm một kho tàng nằm giấu ẩn đâu đó gần Kim tự tháp, và đối với anh, chiến tranh đáng nguyền rủa. Nhưng bây giờ nó lại là một phúc lành, vì nó đem em đến với anh."
”Một ngày nào đó chiến tranh sẽ chấm dứt," cô nói.
Chàng trai nhìn hàng cây chà là xung quanh mình. Cậu nhắc lại trong lòng là cậu đã là một chàng chăn cừu và cậu có thể trở lại nghề chăn cừu. Fatima đối với cậu còn quan trọng hơn là kho tàng.
"Các đàn ông trong bộ lạc luôn đi tìm kho tàng," cô nói, như đoán được những gì chàng trai nghĩ. "Và phụ nữ của sa mạc hãnh diện về đàn ông của họ."
Cô ta lại đổ đầy nước vào bình rồi ra về.
Mỗi ngày chàng trai đến giếng để gặp Fatima. Cậu kể cho cô nghe về đời sống chăn cừu của cậu, về ông vua và về tiệm bán pha lê. Họ trở thành thân thiết, và ngoại trừ mười năm phút cậu được ở bên cô, thời gian còn lại trong ngày dường như ngừng trôi. Khi cậu đã ở ốc đảo được gần một tháng, trưởng đoàn lữ hành triệu tập tất cả thành viên trong đoàn lại.
"Chúng ta không biết bao giờ chiến tranh mới chấm dứt, vì thế chúng ta không thể tiếp tục đi được," ông ta thông báo. "Cuộc chiến còn kéo dài, có thể cả năm nữa. Lực lượng hai bên mạnh mẽ, chiến tranh đối với quân đội hai bên đều quan trọng. Đây không phải là cuộc chiến của cái tốt chống lại cái xấu. Nó là một cuộc chiến giữa các lực lượng để tranh dành quyền lực, và khi cuộc chiến này bắt đầu, nó thường kéo dài hơn – vì Allah đứng về cả hai phía."
Mọi người trở về nơi họ sống và chàng trai đi gặp Fatima chiều hôm đó. Cậu kể cho cô về buổi họp ban sáng.
"Một ngày sau khi chúng ta gặp nhau," Fatima nói, "Anh đã nói với em là anh yêu em. Rồi anh dậy cho em một chút về ngôn ngữ của vũ trụ và linh hồn của thế giới. Vì thế, em đã trở thành một phần của anh."
Chàng trai nghe giọng cô nói, và nghĩ giọng nói đó còn đẹp hơn âm thanh của gió thổi giữa hàng cây chà là.
"Em đã chờ anh từ lâu trong ốc đảo này. Em đã quên quá khứ, quên truyền thống và quên cách cư xử mà người đàn ông sa mạc chờ đợi nơi phụ nữ của họ. Ngay cả khi em còn nhỏ, em mơ rằng sa mạc sẽ đêm đến cho em một món quà tuyệt vời. Bây giờ món quà đó đã đến, và món quà đó chính là anh."
Chàng trai muốn cầm lấy tay cô, nhưng tay cô đang giữ quai bình.
"Anh đã kể cho em về những giấc mơ của anh, về ông vua già và về kho tàng. Và anh cũng đã kể về điềm. Vì thế, bây giờ em không sợ gì nữa, bởi vì chính những điềm này đã đem anh đến với em. Và em là một phần giấc mơ của anh, một phần 'huyền thoại riêng' của anh - như anh gọi nó.
"Chính vì thế em muốn anh tiếp tục tiến về mục đích của anh. Nếu anh phải đợi cho đến khi chiến tranh chấm dứt thì anh cứ đợi. Nhưng nếu anh phải đi trước đó, thì anh cứ đi theo đuổi giấc mơ của anh. Các dải cát thay đổi theo từng cơn gió, nhưng sa mạc chẳng bao giờ thay đổi. Tình yêu của chúng ta dành cho nhau cũng giống như vậy.
"Maktub," cô nói. "Nếu em thực sự là một phần giấc mơ của anh, một ngày nào đó anh sẽ trở về."
Hôm đó, sau khi từ giã, chàng trai buồn bã. Cậu nghĩ về những người chăn cừu đã lập gia đình mà cậu quen biết. Họ phải khó khăn lắm mới thuyết phục được vợ của họ là họ phải đi đến các đồng cỏ xa. Tình yêu đòi hỏi họ phải ở lại với người họ yêu. Lần gặp sau, cậu sẽ nói với Fatima điều này.
"Sa mạc đã lấy đi nhiều đàn ông của chúng em và nhiều người đã không trở về," cô nói. "Chúng em biết điều đó và chúng em đã quen. Những người không trở về đã trở thành một phần của mây, một phần của thú vật giấu ẩn trong các khe suối, một phần của nước đến từ mặt đất. Họ trở thành một phần của mọi sự... Họ trở thành tâm linh của vũ trụ.
"Một vài người trở về. Và qua đó những người đàn bà khác cũng vui theo vì họ tin rằng một ngày nào đó chồng họ cũng sẽ trở về như thế. Em thường nhìn họ và ghen tị với niềm vui của họ. Bây giờ em cũng thuộc nhóm đàn bà đó, em sẽ chờ.
"Em là một phụ nữ của sa mạc và em hãnh diện về điều đó. Em muốn chồng em tung hoành tự do như gió làm biến đổi đồi cát. Và nếu em phải, em sẽ chấp nhận sự việc xẩy ra là chồng em trở thành một phần của mây, của thú vật và của nước trong sa mạc."
Chàng trai đi tìm chàng người Anh. Cậu muốn kể cho anh ta về Fatima. Cậu ngạc nhiên nhìn thấy chàng người Anh đã xây cho mình một cái lò bên cạnh lều. Chiếc lò quái dị, đốt bằng lửa, phía trên có một chiếc bình trong suốt. Khi chàng trai người Anh nhìn chằm chằm vào sa mạc, đôi mắt của anh ta dường như sáng hơn là khi anh ta chăm chú đọc sách.
"Đây là bước đầu của công việc," anh ta nói. "Tôi phải tách riêng lưu huỳnh ra. Để được thành công, tôi không được sợ thất bại. Sự sợ hãi bị thất bại này đã cản trở tôi thử nghiệm 'công trình chủ'. Bây giờ tôi có thể bắt đầu với cái mà chính ra tôi đã có thể bắt đầu mười năm về trước. Nhưng tôi vui vì bắt đầu bây giờ còn tốt hơn là phải đợi thêm hai mươi năm nữa."
Anh ta cho thêm than vào lửa. Chàng trai ở lại với anh ta cho đến khi sa mạc rực đỏ vì ánh chiều tà. Rồi cậu cảm thấy phải cấp bách vào sa mạc, xem sự yên tĩnh của sa mạc có thể trả lời câu hỏi của cậu không.
Cậu lang thang một lúc, nhưng luôn luôn giữ hàng cây chà là của ốc đảo trong tầm mắt. Cậu lắng nghe tiếng gió thổi, cảm nhận những viên đá dưới chân mình. Đây đó cậu thấy những vỏ sò và cậu nhận ra rằng sa mạc, trước đây một thời gian xa, đã là biển. Rồi cậu ngồi xuống trên một tảng đá, thả lòng theo chân trời trải dài trước mặt. Cậu cố gắng hiểu khái niệm về tình yêu, một tình yêu không sở hữu người mình yêu nhưng cũng không xa rời người mình yêu. Nhưng Fatima là người con của sa mạc, và, nếu không gì có thể giúp cậu hiểu, chỉ sa mạc mới giúp cậu hiểu.
Khi chàng trai ngồi trầm ngâm, cậu cảm thấy có gì chuyển động trên đầu. Nhìn lên, cậu thấy cặp chim ưng đang bay lượn trên bầu trời xa. Cậu nhìn đôi chim trôi dạt trong gió. Mặc dù đường bay của chúng không theo mô hình nào, nó vẫn tạo nên một xúc cảm nơi cậu. Nó là một cái gì đó mà cậu không lí giải được. Cậu theo dõi đường bay của chúng, cố gắng đọc ra một điều gì đó chứa ẩn trong đó. Có lẽ những cánh chim sa mạc này có thể cắt nghĩa cho cậu ý nghĩa của một thứ tình yêu: yêu mà không sở hữu người mình yêu.
Cậu buồn ngủ. Trái tim nói cậu phải thức tỉnh, nhưng cậu lại muốn ngủ. "Tôi đã học ngôn ngữ của thế giới, và mọi sự trong thế giới đều tạo cho tôi cảm giác… ngay cả đường bay của những chú chim ưng," cậu nói với lòng mình. Và, trong tâm trạng đó, cậu vui vì được yêu. "Khi yêu, thậm chí mọi sự đều ý nghĩa hơn," cậu nghĩ.
Bất ngờ một con chim ưng bổ xuống tấn công con kia. Nhìn cảnh đó, một ảo ảnh thoáng qua đến với chàng trai: một đoàn quân, gươm giáo sẵn sàng, phóng ngựa vào ốc đảo. Thị kiến đó tan nhanh, nhưng nó lay động cậu. Cậu đã nghe kể về ảo ảnh và tự mình cũng đã nhìn thấy: chúng là những điều người ta ước mơ, và bởi vì cường độ của ước mơ này quá mạnh mẽ, chúng trở thành thực trên mặt cát sa mạc. Nhưng cậu chắc chắn rằng cậu không ước mơ một đội quân tấn công vào ốc đảo.
Chàng trai muốn quên đi thị kiến này và trở về với suy tư của cậu. Cậu tập trung vào màu đỏ hồng nhuộm thắm sa mạc và những tảng đá. Nhưng một cái gì đó trong tâm hồn không cho phép cậu làm như vậy.
"Luôn luôn phải quan tâm đến điềm," ông vua già đã nói. Chàng trai nhớ lại những gì cậu đã thấy trong thị kiến, và linh cảm rằng nó sắp xẩy ra.
Cậu đứng lên, đi về hướng cây chà là. Một lần nữa, cậu nhận thức có nhiều ngôn ngữ trong những sự việc xung quanh cậu: thời gian này, sa mạc an toàn, nhưng ốc đảo lại bất ổn.
Người phu lạc đà ngồi dưới gốc cây chà là, ngắm nhìn hoàng hôn. Ông ta nhận ra chàng trai xuất hiện từ phía bên kia dải cát.
"Một đội quân đang đến," chàng trai nói. "Tôi có một thị kiến."
"Sa mạc đổ đầy tâm hồn con người bằng những thị kiến," người phu lạc đà trả lời.
Nhưng chàng trai kể cho ông ta về đôi chim ưng, rằng cậu đã theo dõi đường bay của chúng và bất thình lình cậu cảm thấy mình như được nhúng vào trong 'linh hồn của thế giới'.
Người phu lạc đà hiểu những gì chàng trai nói. Ông ta biết rằng mỗi vật trên mặt đất này có thể mặc khải lịch sử của tất cả mọi việc. Một người có thể tình cờ mở đến một trang nào đó trong cuốn sách, hay đọc bàn tay của người khác; một người có thể lật một con bài hay nhìn đường bay của một con chim… bất cứ vật gì được quan sát, người ta có thể tìm ra sự liên hệ với trải nghiệm của họ vào thời điểm đó. Thực ra không phải chính sự vật tiết lộ điều gì cả, nhưng chính là con người, những người, khi quan  sát những sự việc xẩy ra xung quanh họ, đã có thể tìm ra phương tiện thâm nhập vào trong linh hồn thế giới. Trong sa mạc có nhiều người sống bằng khả năng thâm nhập vào linh hồn thế giới. Họ được biết đến như những thầy bói, được các phụ nữ và ông bà già ủng hộ. Các chiến binh của bộ lạc rất thận trọng khi đến xem bói, bởi vì nếu một người biết mình sẽ bỏ mình trong trận chiến, họ sẽ không dám ra trận. Người chiến binh thích hương vị của chiến tranh, và thích sự hồi hộp không biết kết quả cuộc chiến sẽ ra sao; tương lai thì đã được viết bởi Allah và những gì Allah đã viết thì luôn luôn tốt cho con người. Vì thế người chiến binh chỉ sống cho hiện tại, bởi vì hiện tại đầy bất ngờ và họ phải quan tâm đến bao điều: Đâu là lưỡi gươm của quân thù? Đâu là ngựa của chúng? Phải đánh ra đòn nào để thoát chết? Người phu lạc đà không phải là chiến binh, và ông đã đi coi bói. Nhiều người trong số họ nói đúng, nhiều người nói sai. Rồi một ngày kia, ông thầy bói già nhất và cũng được kính nể nhất đã hỏi tại sao người phu lạc đà lại quan tâm đến tương lai.
"Vâng,... để tôi có thể thực hiện một số việc," ông ta trả lời. "Và để tôi có thể thay đổi những việc mà tôi không muốn chúng xẩy ra."
"Nhưng như thế thì chúng không còn là một phần tương lai của anh nữa," ông thầy bói nói.
"Có thể tôi muốn biết về tương lai, vì qua đó tôi có thể chuẩn bị cho những gì sẽ xẩy ra."
"Nếu những việc tốt sẽ xẩy ra, chúng sẽ là một ngạc nhiên thú vị," ông thầy bói nói. "Nếu những việc xấu xẩy ra và anh biết trước, anh sẽ đau khổ nhiều ngay cả trước khi chúng xẩy ra."
"Tôi muốn biết về tương lai bởi vì tôi là một con người," người phu lạc đà nói với thầy bói. "Và con người luôn luôn sống vì tương lai."
Thầy bói là một chuyên gia trong việc bói que; ông ném que xuống mặt đất và cắt nghĩa dựa vào cách nó rơi. Ngày hôm đó, ông không bói que. Ông bọc nó trong khăn và đặt chúng lại trong bị.
"Tôi kiếm sống qua việc đoán tương lai cho con người," ông ta nói. "Tôi biết khoa bói que và tôi biết dùng chúng để thâm nhập vào nơi tất cả đã được viết. Nơi đó tôi có thể đọc được quá khứ, khám phá những gì đã bị quên lãng và hiểu những điềm ở đây trên mặt đất.
"Khi mọi người xin tôi cố vấn, tôi không đọc được tương lai mà chỉ đoán về tương lai. Tương lai thuộc về Thiên Chúa và chỉ mình Thiên Chúa mới mới mặc khải nó trong những hoàn cảnh khác thường. Tôi đoán tương lai ra sao? Dựa trên điềm của hiện tại. Bí mật nằm ở đây trong hiện tại. Nếu anh chú tâm đến hiện tại, anh có thể cải thiện nó. Và nếu anh cải thiện hiện tại, những gì đến sau sẽ tốt hơn. Hãy quên tương lai và hãy sống mỗi ngày theo lời dạy, tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu con của Ngài. Mỗi ngày, trong chính nó, chứa đựng sự vĩnh cửu."
Người phu lạc đà muốn biết trong hoàn cảnh đặc biệt nào Thiên Chúa mới cho phép ông nhìn thấy tương lai.
"Chỉ khi chính Ngài mặc khải điều đó. Và chỉ có Thiên Chúa mới thực sự có thể mặc khải tương lai. Nếu Ngài làm điều đó, chỉ vì bởi một nguyên do này: Nó là một tương lai đã được viết như là nó còn thay đổi được.
"Thiên Chúa đã chỉ cho chàng trai một phần của tương lai," người phu lạc đà nghĩ. "Tại sao Ngài lại muốn dùng chàng trai như khí cụ của Ngài?"
"Hãy đi nói với trưởng tộc," người phu lạc đà nói. "Nói với họ về đội quân đang đến."
"Họ sẽ cười tôi."
"Họ là những người của sa mạc, và những người của sa mạc quen với việc giải đoán điềm."
"Như thế thì có lẽ họ đã biết rồi."
"Họ không bận tâm đến điều đó đâu. Họ tin rằng nếu Allah muốn cho họ biết điều gì, một người nào đó sẽ nói cho họ về điều đó. Trước đó đã nhiều làn xẩy ra. Nhưng lần này, người đó chính là anh."
Chàng trai nghĩ về Fatima. Và chàng quyết định sẽ đi gặp trưởng tộc.
 
19
Chàng trai gặp người lính gác ở cửa chiếc lều trắng to nằm giữa trung tâm ốc đảo.
"Tôi muốn gặp trưởng tộc. Tôi mang đến một điềm từ sa mạc."
Không trả lời, người lính bước vào lều. Một lúc lâu sau, người lính trở ra với một chàng Ả rập trẻ mặc áo trắng và vàng. Chàng trai nói với chàng Ả rập trẻ kia về những điều chàng đã nhìn thấy, và chàng kia nói cậu đợi rồi lại biến mất vào trong lều.
Đêm xuống, nhiều binh lính và nhiều thương gia ra vào chiếc lều ấy. Dần dần lửa trại tắt dần và ốc đảo lại trở về với yên lặng của sa mạc. Chỉ trong căn lều lớn này là còn ánh lửa. Trong suốt thời gian đó, chàng trai nghĩ về Fatima, và cậu vẫn chưa hiểu được cuộc đối thoại sau cùng với cô.
Sau nhiều giờ chờ đợi, người lính gác bảo cậu vào lều. Cậu kinh ngạc về những điều nhìn thấy bên trong. Chẳng bao giờ cậu có thể tưởng tượng được rằng giữa sa mạc lại có một chiếc lều như thế. Nền nhà được phủ bằng thảm tuyệt đẹp mà chân chàng chưa bao giờ được đặt lên, và từ trên trần treo một chiếc đèn trạm trổ bằng vàng được thắp nến. Các tộc trưởng ngồi vòng cung phía trong lều, trên những chiếc gối lụa thêu. Người hầu ra vào với những khay bằng bạc, đựng đầy đồ ăn và trà. Các người hầu khác tiếp lửa cho những ống điếu hookah. Một mùi thơm ngọt của thuốc lan khắp lều.
Có tám tộc trưởng, nhưng chàng trai có thể nhận ra ngay ai trong số họ là quan trọng: một người Ả rập mặc áo trắng nạm vàng, ngồi ở giữa vòng cung. Bên cạnh ông là chàng trai trẻ mà cậu đã nói chuyện.
"Ai là người lạ muốn kể về điềm?" một người trong các tộc trưởng hỏi, mắt hướng về chàng trai.
"Chính tôi đây!" chàng trai trả lời. Và cậu kể về những gì cậu nhìn thấy.
"Tại sao sa mạc lại tiết lộ những điều như thế cho một người lạ mà không cho chúng tôi là những người đã sống ở đây nhiếu thế hệ?" một trưởng tộc khác nói.
"Bởi vì mắt tôi còn sa lạ với sa mạc," chàng trai đáp. "Tôi có thể nhìn thấy những điều mà những người đã quá quen với sa mạc không còn thấy nữa."
"Và bởi vì tôi cũng biết về 'linh hồn thế giới'," cậu thầm nghĩ.
"Sa mạc là mảnh đất trung lập. Không ai tấn công vào ốc đảo cả," một trưởng tộc nữa nói.
"Tôi chỉ kể những gì tôi thấy. Nếu các ông không muốn tin tôi, thì các ông cũng chẳng cần phải làm gì cả."
Các trưởng tộc tranh luận với nhau sôi nổi. Họ nói bằng thổ ngữ Ả rập mà chàng trai không hiểu. Cậu định đi ra thì người lính gác cửa nói chàng ở lại. Chàng trai sợ hãi; điềm báo cho cậu rằng một điều gì đó không ổn. Cậu hối hận vì đã nói cho người phu lạc đà về những gì cậu thấy trong sa mạc.
Chợt ông già ngồi giữa mỉm miệng cười, khiến cậu cảm thấy an tâm hơn. Ông không tham dự vào cuộc tranh luận, và cho đến thời điểm này, ông chưa nói lời nào. Nhưng chàng trai đã quen với ngôn ngữ của vũ trụ và cậu cảm nhận sự an bình từ ông lan tỏa khắp căn lều. Bây giờ bằng trực giác, cậu biết việc cậu đến đây là đúng.
Cuộc tranh luận kết thúc. Các trưởng tộc im lặng lắng nghe những gì ông già sắp nói. Rồi ông quay sang chàng trai, thái độ của ông lạnh lùng và xa lạ.
"Hai ngàn năm trước trong một đất nước xa xôi, có một người tin vào giấc mơ. Ông bị ném xuống giếng, rồi bị bán làm nô lệ," ông già nói bằng thổ ngữ mà chàng trai có thể hiểu được. "Các thương gia của chúng tôi đã mua người đàn ông đó và bán ông sang Ai Cập. Chúng tôi đều biết những người tin vào giấc mơ thì cũng biết cách giải đoán giấc mơ."
Ông già nói tiếp, "khi vua Pharaô mơ thấy những con bò mộng và những con bò gầy, chính ông này đã giải mộng và cứu dân Ai cập khỏi nạn đói. Tên ông này là Giuse. Ông ta cũng là một người lạ trên mảnh đất xa lạ, và có lẽ ông ta cũng bằng tuổi cậu."
Ông ngừng nói, và đôi mắt ông vẫn lạnh lùng.
"Chúng tôi luôn theo truyền thống. Truyền thống cứu dân Ai cập khỏi nạn đói trong thời gian đó và làm cho họ thành một dân giầu có. Truyền thống dạy con người cách băng qua sa mạc và cách tổ chức hôn lễ cho con cái họ. Truyền thống cũng nói rằng ốc đảo luôn là mảnh đất trung lập, và hai phía đều có ốc đả, nên ốc đảo của cả hai phía cần được bảo vệ.
Không ai xen vào khi ông già nói.
"Nhưng truyền thống cũng dạy là chúng tôi nên tin vào sứ điệp của sa mạc. Mọi điều chúng tôi biết là do sa mạc dạy chúng tôi."
Ông già ra hiệu và mọi người đứng lên. Cuộc họp chấm dứt. Các ống điếu bị dập tắt và người lính gác đứng vào vị trí. Chàng trai chuẩn bị ra về, nhưng ông già tiếp tục:
"Ngày mai chúng ta sẽ xé bỏ lời thỏa thuận rằng không ai trong ốc đảo được phép mang vũ khí. Suốt ngày mai chúng ta sẽ đề phòng quân địch. Khi mặt trời lặn, mọi người lại nộp vũ khí lại cho ta.
"Cứ mười tên địch bị giết, cậu sẽ được thưởng một đồng tiền vàng. Nhưng vũ khí không được phép lấy ra, trừ khi dùng cho chiến tranh. Vũ khí có tánh bất thường như sa mạc, và nếu lấy ra mà không dùng tới, lần sau nó không còn hữu nghiệm. Cho tới tối mai, nếu không có vũ khí nào được sử dụng, thì ít nhất một vũ khí sẽ được dùng cho cậu."
20
Khi chàng trai rời lều, ốc đảo chỉ còn được chiếu sáng bởi ánh sáng của trăng rằm. Lều của cậu cách đó khoảng hai mươi phút và cậu lên đường về.
Những gì đang xẩy ra làm cậu lo sợ. Cậu đã có thể thâm nhập vào linh hồn của vũ trụ và bây giờ có thể sẽ phải trả giá cho việc đó bằng chính mạng sống mình. Đó là một cuộc cá cược khủng khiếp. Nhưng cậu đã làm một cuộc đánh cược may rủi khi cậu bán đàn cừu của cậu để theo đuổi 'huyền thoại riêng' của mình. Và, như người phu lạc đà nói, chết vào ngày mai thì cũng không xấu hơn là chết vào một ngày khác. Mỗi ngày là để sống hay để từ giã trần gian. Tất cả tùy thuộc vào một chữ: "Maktub".
Bước đi trong thinh lặng, lòng cậu không ân hận gì. Nếu ngày mai cậu chết, thì đó là vì Thiên Chúa không muốn thay đổi tương lai. Dù cậu có chết thì cũng là chết sau khi đã vượt qua eo biển, sau khi đã làm việc trong tiệm pha lê và đã biết sự yên lặng của sa mạc và đôi mắt của Fatima. Cậu đã sống mỗi ngày trong đời một cách trọn vẹn từ khi cậu rời khỏi gia đình. Nếu ngày mai cậu có phải chết, cậu cũng đã nhìn thấy nhiều hơn những người chăn cừu khác. Và cậu hãnh diện về điều đó.
Bất thình lình cậu nghe một âm thanh như sấm, và cậu bị hất ngã xuống đất bởi một làn gió mạnh mà cậu chưa bao giờ gặp. Cả vùng phủ đầy bụi mù dầy đến nỗi che cả mặt trăng. Trước mặt là một con ngựa trắng khổng lồ, hai vó trước cất cao và hí vang khủng khiếp.
Khi bụi mù đã bớt, cậu hoảng hốt vì những gì cậu thấy. Ngồi trên lưng ngựa là một kị sĩ mặc toàn đồ đen, với một con chim ưng đậu trên vai trái. Ông ta đội khăn và chỉ trừ hai con mắt, ông che kín mặt bằng khăn trùm đầu màu đen. Ông ta xuất hiện như một sứ giả của sa mạc, nhưng sự hiện diện của ông uy quyền hơn các sứ giả nhiều.
Ông hiệp sĩ lạ rút ra từ yên ngựa một thanh kiếm cong. Ánh thép của thanh gươm lấp lánh dưới ánh trăng.
"Ai là người dám giải đoán đường bay của con chim ưng?" ông lớn tiếng hỏi, lời ông như tiếng vang xuyên qua năm ngàn cây chà là của ốc đảo Al-Fayoum.
"Tôi là người đã làm chuyện đó," chàng trai đáp. Cậu nhớ lại bức hình của Thánh Santiago Matamoros ngồi trên lưng ngựa trắng, dưới chân ngựa là những người không tin. Người đàn ông này trông giống hệt như vậy, ngoại trừ bây giờ vai trò đảo ngược lại.
"Tôi chính là người đã dám làm chuyện đó," cậu lập lại, cúi đầu nhận nhát kiếm. "Nhiều người sẽ được cứu, bởi vì tôi có thể nhìn xuyên qua linh hồn của thế giới."
Lưỡi kiếm không buông xuống. Thay vào đó, người kị binh lạ chầm chậm hạ lưỡi kiếm xuống thấp cho đến khi đụng vào trán cậu. Lưỡi kiếm  làm cậu rỉ máu.
Người kị sĩ bất động, và chàng trai cũng vậy. Chàng trai không nghĩ đến chạy trốn. Trong trái tim, cậu thấy một cảm giác lạ của niềm vui: cậu có thể chết vì theo đuổi 'huyền thoại riêng' của mình. Và vì Fatima. Sau cùng những điềm đã thành sự thật. Cậu đang ở đây, mặt đối mặt với kẻ thù, nhưng chẳng phải lo lắng về cái chết – linh hồn của thế giới đang chờ đợi cậu, và chẳng bao lâu nữa cậu sẽ là một phần của nó. Và ngày mai, kẻ thù của cậu cũng vậy, cũng trở thành một phần của linh hồn đó.
Người lạ tiếp tục dí đầu gươm vào trán chàng trai. "Tại sao anh đọc đường bay của chim?"
"Tôi chỉ đọc cái mà con chim muốn nói với tôi. Chúng muốn cứu ốc đảo. Ngày mai tất cả các ông sẽ chết, bởi vì ở đó có nhiều lính hơn các ông."
Ngọn gươm vẫn dí trên đầu chàng trai. "Anh là ai mà dám thay đổi điều Allah đã muốn?"
"Allah đã dựng nên đội quân và cũng dựng nên chim ưng. Allah dạy tôi ngôn ngữ của chim. Mọi sự đã được viết bởi một bàn tay," chàng trai nói, nhớ lại lời của người phu lạc đà.
Người lạ rút kiếm về và chàng trai thấy như được giải thoát. Nhưng cậu vẫn không có thể trốn chạy.
"Hãy cẩn thận với những gì anh đoán trước," người lạ nói. "Khi một việc đã được viết, không có cách nào thay đổi nó."
"Những gì tôi thấy là một đoàn quân," chàng trai nói. "Tôi không nhìn thấy trận đánh kết thúc ra sao."
Người lạ có vẻ hài lòng với câu trả lời. Nhưng ông vẫn giữ kiếm trong tay. "Một người lạ đến xứ lạ này làm gì?"
"Tôi đang theo 'huyền thoại riêng' của tôi. Nó là cái mà ông không hiểu được."
Người lạ đút kiếm vào bao. Chàng trai cảm thấy nhẹ người.
"Tôi đã thử sự can đảm của anh," người lạ nói. "Sự can đảm là phẩm cách  thiết yếu để hiểu ngôn ngữ của thế giới."
Chàng trai ngạc nhiên. Người lạ đang nói về những điều mà ít người biết.
"Anh không được phép sao nhãng, ngay cả anh đã tiến rất xa," ông nói. "Anh phải yêu sa mạc, nhưng không nên tin tưởng nó hoàn toàn. Bởi vì sa mạc thử thách con người: nó thách thức mỗi bước chân và giết những người nào vô ý."
Những gì ông nói khiến cậu nhớ về ông vua già.
"Nếu đoàn quân đến đây và đầu anh chưa rơi vào lúc mặt trời lặn, hãy đến tìm tôi," người lạ nói.
Bàn tay đã cầm kiếm, bây giờ lại cầm cây roi da. Con ngựa dựng lên, gây nên một đám bụi mù.
"Ông sống ở đâu?" chàng trai la to, khi người kị sĩ phi ngựa đi.
Bàn tay với cây roi da chỉ về hướng nam.
Chàng trai đã gặp người giả kim.
 
21
Buổi sáng hôm sau, hai ngàn người được trang bị vũ khí đóng rải rác dưới rặng cây chà là ở Al-Fayoum. Trước khi mặt trời đứng bóng, năm trăm chiến binh xuất hiện phía chân trời. Đoàn cưỡi ngựa đi vào ốc đảo từ phía bắc; họ xuất hiện như một cuộc thám hiểm hòa bình, nhưng họ mang theo vũ khí dấu trong áo choàng. Khi họ đến căn lều trắng nằm giữa trung tâm ốc đảo Al-Fayorum, họ rút mã tấu và súng trường. Họ tấn công vào một chiếc lều trống.
Đàn ông của sa mạc bao vây các kị binh và trong một tiếng rưỡi tất cả kẻ xâm nhập bị giết, ngoại trừ một người. Trẻ em được giữ ở phía khác của khu rừng chà là, và không biết những gì xẩy ra. Các phụ nữ ở lại trong lều của họ, cầu nguyện cho chồng họ được bình an và cũng không nhìn thấy gì về trận chiến. Nếu mặt đất không có xác chết, ngày đó có thể như là một ngày bình thường trong ốc đảo.
Một kị binh duy nhất được tha là người chỉ huy của tiểu đoàn. Buổi chiều hôm đó ông được đem đến trước mặt các tù trưởng, ông bị hỏi tại sao ông lại vi phạm truyền thống. Người chỉ huy nói rằng thuộc hạ của ông bị đói khát và mệt mỏi sau nhiều cuộc chiến nên đã quyết định chiếm ốc đảo để có khả năng tiếp tục chiến đấu.
Ông tù trưởng nói ông lấy làm tiếc cho người kị binh, nhưng truyền thống bất khả xâm phạm. Ông truyền lệnh tử hình vị chỉ huy. Không bị giết bởi gươm hay đạn, ông sẽ bị treo ở một cây chà là khô. Thân xác ông ta lung lay trong gió sa mạc.
Ông trưởng tộc gọi chàng trai đến và tặng cậu năm mươi miếng vàng. Ông ta nhắc lại câu chuyện về Giuse ở Ai cập, và đặt cậu làm cố vấn cho ốc đảo.
22
Khi mặt trời đã lặn và những ngôi sao đầu tiên xuất hiện, chàng trai bắt đầu đi về hướng nam. Sau cùng cậu nhìn thấy một căn lều duy nhất và một nhóm người Ả rập đi ngang qua nói rằng nơi đây chỉ có thần linh thôi. Nhưng chàng trai ngồi xuống và đợi.
Đến khi mặt trăng đã lên cao, bóng nhà giả kim trên lưng ngựa mới xuất hiện. Ông đeo hai con chim ưng đã chết trên vai.
“Cháu đang ở đây,” chàng trai nói.
“Cháu không nên đến đây,” nhà giả kim trả lời. “Hay ‘huyền thoại riêng’ đã đem cháu đến đây?”
“Chiến tranh xẩy ra giữa các bộ lạc, nên người ta không thể băng qua sa mạc được. Vì thế cháu đã đến đây.”
Nhà giả kim xuống ngựa và ra hiệu cho chàng trai theo ông vào lều. Nó chỉ là một chiếc lều bình thường giống như nhiều lều khác trong ốc đảo. Mắt cậu lướt quanh lều, tìm kiếm lò nấu và những trang bị dùng cho thuật giả kim nhưng không thấy. Chỉ có đống sách, một bếp nấu nhỏ và một tấm thảm đầy những hình vẽ bí ẩn.
“Hãy ngồi xuống. Chúng ta uống một chút và ăn thịt chim ưng này,” nhà giả kim nói.
Chàng trai đoán chừng những con chim này chính là những chim ưng mà cậu thấy hôm trước, nhưng cậu không nói gì. Nhà giả kim bật lửa, và chẳng bao lâu sau một mùi thơm lan tỏa khắp căn lều. Mùi thơm này dễ chịu hơn nhiều so với mùi của thuốc điếu.
“Tại sao ông lại muốn gặp cháu?” chàng trai hỏi.
“Vì điềm,” nhà giả kim trả lời. “Gió đã nói với ông là cháu sẽ đến, và cháu cần sự giúp đỡ.”
“Gió không nói về cháu đâu. Gió nói về chàng ngoại quốc khác, chàng người Anh. Anh ta mới là người đi tìm ông.”
“Trước hết cậu ấy phải làm một số việc đã. Nhưng cậu ấy đang đi đúng đường. Cậu ấy đã cố gắng hiểu sa mạc.”
“Còn cháu thì sao?”
“Khi một người thật sự muốn điều gì thì cả vũ trụ hợp nhau giúp người đó thực hiện giấc mơ của họ,” nhà giả kim nói, lập lại những lời của ông vua già. Chàng trai hiểu. Người khác lại có mặt ở đây để giúp cậu tiến đến gần ‘huyền thoại riêng’ của cậu.
“Vì thế ông sẽ dạy cháu chứ?”
“Không, cháu đã biết tất cả những gì cháu cần phải biết. Ông chỉ muốn chỉ cho cháu hướng đến kho tàng của cháu.”
“Nhưng ở đó có chiến tranh,” cậu phản đối.
“Ông biết những gì đang xẩy ra trong sa mạc.”
“Cháu đã tìm thấy kho tàng của cháu. Cháu có con lạc đà, có tiền dành dụm từ khi làm ở tiệm bán pha lê và năm mươi đồng tiền vàng vừa được thưởng. Trên quê hương cháu, cháu sẽ là người giầu có.”
“Nhưng trong số ấy không có gì là của Kim tự tháp,” người giả kim nói.
“Cháu còn có Fatima. Cô ta là một kho tàng quý giá hơn bất cứ nhứng gì cháu đã có.”
“Cô ta cũng không phải là của Kim tự tháp.”
Cả hai cùng yên lặng. Nhà giả kim mở một chai rượu và rót một loại rượu đỏ vào ly của chàng trai. Nó là một thứ rượu ngon nhất mà cậu đã được thử từ trước tới nay.
“Nhưng ở đây cấm uống rượu mà?” chàng trai hỏi.
“Những gì từ ngoài vào miệng không xấu,” nhà giả kim nói. “Những gì từ miệng ra mới xấu.”
Nhà giả kim có một chút băn khoăn, nhưng khi chàng trai uống rượu, ông thoải mái hơn. Sau khi họ ăn xong, họ ngồi bên ngoài lều dưới ánh trăng, ánh trăng sáng quá đến nỗi làm nhạt nhòa những vì sao.
“Hãy uống và thưởng thức đi,” nhà giả kim nói khi nhận ra chàng trai đang cảm thấy hạnh phúc. “Hãy ngủ yên tối nay như một chiến binh chuẩn bị cho cuộc ra trận. Hãy nhớ rằng trái tim cháu ở đâu, nơi đó cháu sẽ tìm ra kho tàng của cháu. Nhưng cháu phải tìm ra kho tàng để tất cả những gì cháu học được trên đường đời có một ý nghĩa.
“Ngày mai cháu hãy bán con lạc đà đi và mua một con ngựa. Lạc đà dễ phản nghịch: chúng đi cả nghìn bước, chẳng tỏ dấu hiệu gì là mệt mỏi. Bất ngờ chúng quỵ xuống rồi chết. Con ngựa mệt từ từ. Cháu luôn luôn biết được cháu còn dùng chúng được bao lâu và khi nào chúng sẽ chết.”
 
23
Đêm hôm sau chàng trai xuất hiện với một con ngựa bên cạnh lều của nhà giả kim. Nhà giả kim đã sẵn sàng, ông leo lên con ngựa chiến của ông và đặt con chim ưng lên vai trái.
“Hãy chỉ cho ông sự sống trong sa mạc. Chỉ những ai có thể nhìn ra dấu hiệu của sự sống như thế mới có khả năng tìm ra kho tàng,” nhà giả kim nói với chàng trai.
Họ bắt đầu cưỡi ngựa trên những cồn cát, ánh trăng vằng vặc soi đường họ đi. “Tôi không biết tôi có thể tìm ra sự sống trong sa mạc không,” chàng trai nghĩ. “Thực sự tôi chưa biết rõ sa mạc.”
Cậu muốn nói điều đó với nhà giả kim, nhưng cậu lại sợ nhà giả kim. Họ đến nơi đầy đá, nơi cậu đã nhìn thấy chim ưng trên bầu trời, nhưng bây giờ chỉ còn thinh lặng và gió.
“Cháu không biết cách tìm ra sự sống trong sa mạc,” chàng trai nói. “Cháu biết nơi đây có sự sống, nhưng cháu không tìm ra được.”
“Sự sống thu hút sự sống,” nhà luyện kim trả lời.
Và chàng trai chợt hiểu. Cậu buông cương ngựa và con ngựa tự do đi trên đá và cát. Cả nửa tiếng, nhà giả kim đi theo con ngựa của chàng trai. Họ không còn nhìn thấy hàng cây chà là của ốc đảo nữa, chỉ còn ánh trăng trên đầu và bóng trăng bạc phản chiếu từ những phiến đá trong sa mạc. Rồi bất ngờ, không biết vì lý do gì, con ngựa đi chậm lại.
“Nơi đây có sự sống,” chàng trai nói với nhà giả kim. “Cháu không biết ngôn ngữ của sa mạc, nhưng con ngựa của cháu biết ngôn ngữ của sự sống.”
Họ xuống ngựa. Nhà giả kim không nói gì. Tiến bước chậm rãi, họ tìm kiếm giữa những tảng đá. Thình lình ông ngừng lại, thận trọng cúi xuống đất. Giữa những tảng đá là một cái hang. Nhà giả kim thò tay vào hang, rồi cả cánh tay vào hang. Một cái gì động đậy trong đó, và đôi mắt của nhà giả kim – Chàng trai chỉ nhìn thấy mắt ông – nheo lại vì cố gắng. Dường như nhà giả kim đang chiến đấu với cái gì đó trong hang. Rồi ông kéo mạnh tay ra làm chàng trai giật mình và ông đứng thẳng lên. Trong tay ông cầm chặt đuôi con rắn.
Chàng trai lùi lại, tránh xa nhà giả kim. Con rắn chống lại một cách điên cuồng, tạo nên một âm thanh xèo xèo phá vỡ sự yên lặng của sa mạc. Nó là một con rắn hổ mà nọc của nó có thể giết người trong vài phút.
“Hãy coi chừng nọc độc của nó,” chàng trai nói. Nhưng nhà giả kim đã đút tay vào trong hang nên chắc chắn đã bị cắn, nhưng khuôn mặt ông vẫn bình thản.
“Nhà luyện kim đã hai trăm tuổi,” chàng người Anh đã nói như vậy. Ông ta chắc chắn biết cách đối sử với con rắn của sa mạc.
Chàng trai quan sát nhà giả kim đi đến bên con ngựa và rút ra một lưỡi kiếm hình bán nguyệt. Ông dùng đầu kiếm vẽ một vòng tròn trên cát và ông đặt con rắn trong đó. Con rắn thình lình nằm yên.
“Đừng sợ,” nhà giả kim nói. “Nó không thể đi ra khỏi vòng tròn đó. Cháu đã tìm ra được sự sống trong sa mạc. Đó là điềm mà ông cần.”
“Tại sao nó lại quan trọng như thế?”
“Vì Kim tự tháp bị bao vây bởi sa mạc.”
Chàng trai không muốn nói về Kim tự tháp. Trái tim cậu nặng trĩu và từ tối hôm trước cậu đã thấy buồn. Tiếp tục đi tìm kho tàng nghĩa là phải rời xa Fatima.
“Ông sẽ cùng đi với cháu qua sa mạc,” nhà giả kim nói.
“Cháu muốn ở lại ốc đảo,” chàng trai trả lời. “Cháu đã tìm được Fatima và như cháu biết, cô ta còn quý hơn cả kho tàng.”
“Fatima là một phụ nữ của sa mạc,” nhà giả kim nói. “Cô ta biết đàn ông phải ra đi thì mới có ngày trở về. Và cô ta cũng đã có kho tàng của cô: đó chính là cháu. Bây giờ cô ta mong chờ cháu tìm thấy điều mà cháu tìm kiếm.”
“Điều gì sẽ xẩy ra nếu cháu quyết định ở lại ốc đảo?”
“Hãy để ông kể cho cháu nghe những gì có thể xẩy ra. Cháu sẽ là cố vấn của ốc đảo. Cháu sẽ có tiền mua nhiều cừu và lạc đà. Cháu sẽ cưới Fatima và cả hai sẽ hạnh phúc trong một năm. Cháu sẽ học yêu sa mạc và cháu sẽ biết từng cây chà là trong số năm mươi ngàn cây chà là trong ốc đảo. Cháu sẽ nhìn chúng phát triển và hiểu rằng thế giới không ngừng thay đổi. Và mỗi ngày cháu sẽ hiểu điềm hơn, vì sa mạc là thầy dạy giỏi nhất.
“Có thể vào năm thứ hai cháu sẽ nhớ về kho tàng.  Điềm sẽ luôn nhắc nhở cháu, nhưng cháu cố lờ đi. Cháu sẽ đem hết khả năng phục vụ ốc đảo và cư dân ở đó. Các tộc trưởng đánh giá cao sự đóng góp của cháu. Đàn lạc đà của cháu sẽ đem lại cho cháu sự thịnh vượng và quyền lực.
“Sang năm thứ ba, điềm sẽ lại tiếp tục nhắc cháu về kho tàng và ‘huyền thoại riêng’. Hàng đêm cháu sẽ lang thang trong ốc đảo, và Fatima sẽ không hạnh phúc vì cô cho rằng chính cô là người đã cản bước chân cháu. Nhưng cháu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cháu sẽ nhớ lại rằng cô ta chẳng bao giờ đòi hỏi cháu ở lại, bởi vì phụ nữ của sa mạc biết rằng cô phải đợi chồng mình trở về. Vì thế cháu sẽ không trách cứ cô ấy. Nhưng nhiều lần cháu sẽ lang thang trên các cồn cát sa mạc, nghĩ rằng có lẽ tốt hơn nếu như cháu đã lên đường… nếu như cháu đã tin tưởng hơn vào tình yêu của cháu dành cho Fatima. Bởi vì những gì giữ chân cháu lại ở ốc đảo chính là nỗi sợ ra đi mà không có ngày trở về. Vào thời điểm này, điềm sẽ báo cho cháu rằng kho tàng của cháu sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi.
“Và vào năm thứ tư, một đôi khi điềm sẽ xa lánh cháu, bởi vì cháu không còn lắng nghe chúng. Các tộc trưởng nhận biết điều đó và không còn nhận cháu là cố vấn của ốc đảo nữa. Tới ngày đó, cháu sẽ là một thương gia giầu có vơi nhiều lạc đà và hàng hóa. Cháu sẽ sống những ngày còn lại, ân hận vì đã không đạt được ‘huyền thoại riêng’ của  mình. Khi đó mọi sự đã quá trễ.
“Cháu phải hiểu rằng tình yêu chẳng bao giờ ngăn chặn con người đạt được ‘huyền thoại riêng’ của họ. Nếu tình yêu không giúp họ đạt được mục đích thì đó không phải là tình yêu thực sự, không phải tình yêu nói ngôn ngữ của thế giới.”
Nhà giả kim xóa vòng tròn trên mặt cát và con rắn vội vàng lẩn trốn vào giữa các phiến đá. Chàng trai nhớ lại người chủ tiệm pha lê, người đã luôn luôn muốn hành hương Mecca, và anh chàng người Anh, người tìm kiếm nhà giả kim. Cậu nghĩ về những phụ nữ, những người đã tin tưởng vào sa mạc. Và cậu nhìn vào sa mạc, mảnh đất đã mang cậu đến với người phụ nữ mà cậu yêu.
Họ lên ngựa và lần này chàng trai theo nhà giả kim về lại ốc đảo. Gió mang đến âm thanh của ốc đảo và chàng trai cố gắng nghe giọng nói của Fatima.
Nhưng tối nay, trong khi cậu ngắm nhìn con rắn trong vòng tròn, người kỵ binh xa lạ với con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho tàng, về những phụ nữ của sa mạc và về ‘huyền thoại riêng’ của cậu.
“Cháu sẽ đi với ông,” chàng trai nói. Và ngay lập tức, cậu cảm thấy lòng mình bình an.
“Ngày mai trước khi mặt trời lên, chúng ta sẽ lên đường,” ông bình thản nói.
 
24
Chàng trai trải qua một đêm mất ngủ. Hai giờ trước khi mặt trời lên, cậu đánh thức cậu con trai ngủ chung trong lều và hỏi thăm về nơi ở của Fatima. Cả hai cùng đi tới lều của Fatima và chàng trai cho cậu kia đủ tiền để mua một con cừu.
Rồi chàng trai nhờ anh ta vào lều nơi Fatima đang ngủ, đánh thức cô dậy và báo cho cô biết cậu đang chờ ngoài lều. Chàng trai Ả rập làm như vậy và lại nhận được đủ tiền mua một con cừu khác nữa.
“Bây giờ hãy để chúng tôi yên,” chàng trai nói với chàng Ả rập. Anh ta trở về lều ngủ, hãnh diện vì đã giúp được cho cố vấn của ốc đảo và vui vì có đủ tiền mua vài con cừu.
Fatima xuất hiện trước cửa lều. Hai người đi giữa những hàng cây chà là. Cậu biết như vậy là không đúng với phong tục của ốc đảo, nhưng lúc này cậu không muốn quan tâm tới điều đó.
“Anh sẽ đi,” cậu nói. “Và anh muốn cho em biết anh sẽ trở về. Anh yêu em bởi vì…”
“Anh đừng nói gì nữa,” Fatima cắt ngang. “Một người được yêu là bởi vì họ được yêu. Tình yêu không cần lí do.”
Nhưng chàng trai tiếp tục, “anh có một giấc mơ và anh đã gặp một ông vua già. Anh đã bán pha lê, đã vượt qua sa mạc. Và bởi vì các bộ lạc tuyên chiến với nhau nên anh đã đến giếng nước tìm nhà giả kim. Vì thế, anh yêu em bởi vì toàn thể vũ trụ hợp lại giúp anh tìm ra em.”
Cả hai sa vào lòng nhau. Lần đầu tiên thân thể của họ gần nhau.
“Anh sẽ trở lại,” chàng trai nói.
“Trước đây em đã luôn luôn nhìn vào sa mạc với niềm chờ mong,” Fatima nói. “Bây giờ em sẽ nhìn vào sa mạc với niềm hy vọng. Một lần cha em đã đi và cha em đã trở về với mẹ em, từ đó cha em luôn trở về.”
Cả hai không nói gì nữa. Họ đi xa hơn giữa những hàng cây chà là, và rồi chàng trai đưa Fatima về đến cửa lều.
“Anh sẽ trở về, giống như cha em đã trở về với mẹ em,” chàng trai nói.
Cậu thấy đôi mắt của Fatima đẫm lệ.
“Tại sao em khóc?”
“Em là một phụ nữ của sa mạc,” Fatima nói, quay mặt đi. “Nhưng trên hết em vẫn là một phụ nữ.”
Fatima đi vào lều. Và khi mặt trời xuất hiện, cô lại tiếp tục làm công việc mà cô đã làm từ nhiều năm qua. Nhưng mọi sự đã đổi thay. Chàng trai không còn ở trong ốc đảo và ốc đảo chẳng còn giống như ngày hôm qua. Ốc đảo không còn là một mảnh đất với năm mươi nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước, không còn là nơi khách hành hương đến nghỉ ngơi sau cuộc hành trình dài. Kể từ ngày đó, ốc đảo đối với cô là một nơi hoang vắng.
Kể từ ngày đó, sa mạc trở thành quan trọng. Mỗi ngày cô sẽ nhìn vào sa mạc và đoán xem chàng trai sẽ theo bóng ngôi sao nào để đi tìm kho tàng. Cô sẽ gửi những nụ hôn theo gió và hy vọng gió sẽ mơn man khuôn mặt cậu và nói với cậu là cô vẫn sống, vẫn chờ đợi cậu như một người phụ nữ chờ đợi chàng trai can đảm đi tìm kho tàng của mình. Kể từ ngày đó sa mạc đối với cô chỉ mang một ý nghĩa: niềm hy vọng cậu trở về.
 
25
“Đừng nghĩ về những gì cháu đã từ giã,” nhà giả kim nói với chàng trai khi họ bắt đầu băng qua dãi cát sa mạc. “Mọi sự đã được viết trong linh hồn của thế giới và nó sẽ ở đó mãi mãi”
“Con người mơ được về nhà hơn là mơ được ra đi,” chàng trai nói. Cậu đã dần quen với sự yên lặng của sa mạc.
“Nếu những gì người ta tìm thấy là thật, thì chúng sẽ chẳng bị hư hỏng. Và người ta luôn luôn có thể quay về. Nếu những gì cháu đã tìm thấy chỉ là khoảnh khắc của ánh sáng, như ánh sao rơi, khi cháu trở về cháu sẽ không tìm thấy chúng nữa.
Ông dùng ngôn ngữ của thuật giả kim. Nhưng chàng trai hiểu ông muốn nói về Fatima.
Thật khó để không còn nghĩ về những gì cậu bỏ lại đàng sau lưng. Sa mạc với những khung cảnh quen thuộc ru cậu vào giấc mơ. Chàng trai vẫn còn thấy hàng cây chà là, giếng nước và khuôn mặt của người phụ nữ mà cậu yêu. Cậu nhìn thấy chàng trai người Anh bên lò thí nghiệm và người phu lạc đà, một thầy dạy nhưng chẳng bao giờ thực hành nó. "Có lẽ nhà giả kim đã chẳng bao giờ yêu," chàng trai tự nghĩ.
Nhà giả kim cưỡi ngựa đi phía trước, với con chim ưng trên vai. Con chim biết rõ ngôn ngữ của sa mạc, và bất cứ khi nào họ dừng chân, nó đều bay đi tìm mồi. Ngày đầu tiên nó đem về con thỏ, ngày hôm sau hai con chim.
Ban đêm họ chỉ đắp chăn và dấu kín lửa. Đêm sa mạc lạnh và khi mặt trăng càng đi qua, trời càng tối. Một tuần trôi qua, họ chỉ nói chuyện về biện pháp phòng ngừa cần thiết phải theo để tránh cuộc chiến giữa các bộ lạc. Cuộc chiến tiếp diễn, đôi khi gió mang về mùi máu tanh. Cuộc chiến xẩy ra gần đó và gió nhắc nhở cậu rằng có một ngôn ngữ của điềm luôn sẵn sàng chỉ cho cậu những cái mà mắt cậu không thấy.
Vào ngày thứ bẩy, nhà giả kim quyết định cắm lều sớm hơn mọi ngày. Con chim ưng bay đi tìm mồi và nhà giả kim đưa cho chàng trai bình nước.
“Cháu gần như sắp đến đích của cuộc hành trình rồi,” nhà giả kim nói. “Ông chúc mừng cháu đã đạt đến ‘huyền thoại riêng’ của cháu.”
“Nhưng ông không nói với cháu điều gì trên cả cuộc hành trình,” chàng trai nói. “Cháu cứ nghĩ ông sẽ dạy cháu vài điều mà ông biết. Thời gian trước, khi vượt qua sa mạc, cháu có đi chung với một người có nhiều sách về thuật giả kim. Nhưng cháu không học được gì từ chúng.”
“Chỉ có một cách học,” nhà giả kim trả lời, “đó là học qua thực hành. Mọi sự cháu cần phải biết, cháu đã học qua cuộc du hành. Cháu chỉ cần học thêm một điều nữa thôi.”
Chàng trai muốn biết điều ấy là gì, nhưng nhà giả kim nhìn lên bầu trời, tìm kiếm con chim ưng.
“Tại sao người ta lại gọi ông là nhà giả kim?”
“Bởi vì ông là một nhà giả kim.”
“Và tại sao các nhà giả kim khác cũng muốn làm vàng nhưng không thành công?”
“Họ chỉ muốn tìm vàng,” nhà giả kim trả lời. “Họ tìm kiếm kho tàng ‘huyền thoại riêng’ của họ. nhưng không thực sự muốn sống trải nghiệm ‘huyền thoại riêng’ đó.”
“Điều gì cháu cần phải biết thêm?” chàng trai hỏi.
Nhưng nhà giả kim lại nhìn lên bầu trời. Và con chim ưng trở về với bữa ăn. Họ đào một cái hố và đốt lửa trong đó để khỏi bị trông thấy.
“Ông là một nhà giả kim, đơn giản bởi vì ông là một nhà giả kim,” ông ta nói khi ông chuẩn bị bữa ăn. “Ông học khoa học này từ ông nội của ông và ông nội của ông học từ bố của ông ấy, và cứ thế tiếp tục cho đến ngày thế giới được tạo dựng. Trong thời gian đó, ‘công trình chủ’ chỉ được viết đơn giản trên một tấm ngọc thạch. Nhưng con người coi thường những điều đơn giản, họ viết hồi ký, chú giải và nghiên cứu một cách triết lý. Họ cho rằng cách của họ tốt hơn cách của người khác. Nhưng tấm bảng ngọc bích vẫn tồn tại cho đến ngày nay.”
“Trên tấm bảng ngọc bích đó viết điều gì?” chàng trai muốn biết.
Nhà giả kim vẽ trên mặt cát và chưa đầy năm phút sau đã hoàn thành nó. Khi ông ta vẽ, chàng trai nghĩ về về ông vua già, về quảng trường nơi cậu đã gặp ông; cậu thấy khoảng thời gian từ đó đến nay đã như hàng nhiều năm trôi qua.
“Đây là điều đã được viết trên tấm ngọc bích,” nhà giả kim nói khi ông vẽ xong.
Chàng trai cố gắng đọc những gì vẽ trên cát.
“Chúng là những ký hiệu,” chàng trai nói pha lẫn chút thất vọng. “Chúng giống như cái cháu nhìn thấy trong sách của chàng người Anh.”
“Không,” nhà giả kim trả lời. “Nó như đường bay của hai con chim ưng, người ta không thể hiểu nó chỉ bằng lý trí. Tấm ngọc bích là con đường thẳng dẫn vào linh hồn của thế giới.
Người khôn ngoan biết rằng thế giới thiên nhiên này chỉ là một hình ảnh và là một phiên bản của thiên đường. Sự hiện hữu của thế giới này nói lên một điều đơn giản là chắc chắn có một thế giới khác hoàn hảo. Thiên Chúa dựng nên thế giới này để xuyên qua vật có thể nhìn thấy bằng mắt này, con người có thể hiểu những lời dạy tâm linh và những kỳ công khôn ngoan của ngài. Đó là điều mà ông nói ‘bằng thực hành’.
“Cháu có phải hiểu phiến ngọc bích đó không?” chàng trai hỏi.
“Có lẽ, nếu cháu làm việc trong một phòng thí nghiệm của khoa thuật giả kim, thì bây giờ là lúc tốt nhất cháu phải học cách hiểu phiến ngọc bích đó. Nhưng bây giờ cháu đang ở trong sa mạc. Hãy đắm mình trong đó. Sa mạc sẽ dạy cháu cách hiểu về thế giới; thật ra, mọi vật trên mặt đất này đều dạy cháu điều đó. Ngay cả cháu chẳng phải hiểu về sa mạc. Tất cả những gì cháu phải làm là chiêm ngưỡng từng hạt cát đơn sơ và trong đó cháu sẽ nhìn thấy công trình của tạo vật.”
“Làm sao cháu có thể ngâm mình trong sa mạc được?”
“Hãy lắng nghe trái tim cháu. Trái tim cháu biết mọi điều, bởi vì nó đến từ linh hồn của thế giới và một ngày nào đó nó sẽ lại trở về đó.”
 
26
Hai ngày sau đó họ đi lặng lẽ bên nhau. Nhà giả kim thận trọng hơn vì họ đang tiến gần đến vùng có giao tranh ác liệt. Trên đường đi, chàng trai cố gắng nghe tiếng nói trong tim mình. Đó không phải là công việc dễ dàng. Trước đây tim cậu luôn sẵn sàng kể về mình, nhưng sau này nó không còn kể đúng nữa. Có những lúc trái tim cậu kể hàng giờ về nỗi buồn của nó, lúc khác nó lại xúc động trước cảnh bình minh trên sa mạc đến nỗi chàng trai phải dấu những dòng lệ. Trái tim cậu đập nhanh hơn khi nó kể cho chàng trai về kho tàng, và lại chậm dần khi cậu nhìn vào chân trời vô định trong sa mạc. Nhưng trái tim cậu chẳng bao giờ im lặng ngay cả khi chàng trai và nhà giả kim lặng lẽ bên nhau.
“Tại sao chúng ta phải lắng nghe trái tim mình?” chàng trai hỏi trong một buổi tối khi họ dựng lều xong.
“Bởi vì trái tim cháu ở đâu, ở đó cháu sẽ tìm thấy kho tàng.”
“Nhưng trái tim cháu luôn hồi hộp,” chàng trai nói. “Nó có những giấc mơ, nó xúc động và nó say mê một phụ nữ sa mạc. Nó đòi hỏi nhiều nơi cháu, nó làm cháu nhiều đêm mất ngủ khi cháu nghĩ về người phụ nữ đó.”
“Rất tốt. Như vậy là trái tim cháu vẫn sống động. Hãy tiếp tục lắng nghe những gì nó nói.”
Trong ba ngày sau đó, hai người gặp nhiều chiến binh có trang bị vũ khí và một số khác phía chân trời. Trái tim chàng trai bắt đầu nói về sự lo sợ. Nó kể cho cậu những câu chuyện mà nó đã nghe được từ linh hồn của thế giới, những câu truyện về những người đi tìm kho tàng mà chẳng bao giờ đến đích. Một đôi khi nó làm cậu sợ hãi với ý tưởng rằng cậu sẽ chẳng tìm thấy kho tàng hoặc cậu sẽ chết trong sa mạc. Một lúc khác nó nói với cậu là nó hài lòng vì nó đã tìm thấy tình yêu và sự giầu có.
“Trái tim cháu muốn phản bội cháu rồi,” Chàng trai nói với nhà giả kim khi họ cho ngựa nghỉ. “Nó không muốn cháu đi tiếp nữa.”
“Như vậy mới có ý nghĩa,” nhà giả kim trả lời. “Cháu sợ là điều tự nhiên vì cháu muốn theo đuổi một ước mơ mà có thể phải đánh đổi tất cả những gì mình có.”
“Vậy tại sao cháu phải nghe trái tim cháu?”
“Bởi vì cháu không còn có thể làm cho nó im lặng được nữa. Ngay cả khi cháu làm ngơ như không muốn nghe nó, nó vẫn luôn ở trong cháu, vẫn lập lại những gì cháu nghĩ về cuộc sống và về thế giới.”
“Ông muốn nói là cháu phải nghe nó, ngay cả khi nó phản bội cháu?”
“Sự phản bội như một ngọn gió bất ngờ đến. Nếu cháu hiểu rõ trái tim cháu thì trái tim đó chẳng có thể phản bội cháu. Vì cháu sẽ biết ước mơ và ước muốn của nó, và cũng biết cách đối sử với nó.
“Cháu sẽ chẳng bao giờ có thể trốn chạy trái tim cháu. Vì thế tốt hơn nên lắng nghe những gì nó nói. Qua cách đó, cháu sẽ chẳng bao giờ phải sợ những ngọn gió bất ngờ đến.”
Khi băng qua sa mạc, chàng trai tiếp tục lắng nghe tim mình. Dần dần cậu hiểu những mánh khóe và mưu kế của nó, và chấp nhận nó như nó là. Cậu không còn lo sợ và quên đi nhu cầu muốn trở về ốc đảo, bởi vì một chiều nọ, trái tim cậu nói rằng nó hạnh phúc.
“Ngay cả một đôi khi tôi phàn nàn,” trái tim cậu nói, “vì tôi là trái tim của một con người, và trái tim của con người thì luôn luôn như vậy. Con người luôn sợ theo đuổi ước mơ quan trọng nhất của họ, vì họ cảm thấy họ không xứng đáng với nó hay họ không có thể đạt được nó. Chúng tôi, những trái tim của họ, kinh hoàng khi chợt nghĩ rằng những người thân yêu ra đi mà chẳng bao giờ trở về, hay một khoảnh khắc lẽ ra thật đẹp nhưng sự thật lại chẳng như vậy, hay một kho tàng lẽ ra đã được tìm thấy nhưng cuối cùng lại bị chôn vùi mãi mãi trong cát bụi. Bởi vì khi những điều ấy xẩy ra, chúng tôi đau khổ kinh khủng.”
“Trái tim cháu sợ phải đau khổ,” chàng trai nói như thế với nhà giả kim vào một đêm khi hai người ngắm nhìn bầu trời không trăng sao.
“Hãy nói với trái tim cháu rằng sợ hãi đau khổ thì nguy hại hơn là sự đau khổ. Và không một trái tim nào đã phải đau khổ khi nó đi tìm giấc mơ của nó, bởi vì mỗi một giây phút tìm kiếm là một giây phút gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ vĩnh cửu.”
“Mỗi một giây phút tìm kiếm là một giây phút gặp gỡ Thiên Chúa,” chàng trai nói với trái tim mình. “Khi tôi thực sự tìm kiếm kho tàng của tôi, mỗi ngày đều chan hòa ánh sáng, bởi vì tôi biết rằng mỗi một giờ qua đi tôi đến gần kho tàng hơn. Khi tôi thực sự tìm kiếm kho tàng, tôi sẽ khám phá ra nhiều điều trên đường đời. Nếu tôi đã không đủ can đảm thử những điều dường như người chăn cừu không thể đạt được, thì tôi chẳng được thấy những điều tôi chưa từng thấy”
Cả buổi chiều hôm đó trái tim cậu an bình. Đêm đó chàng trai ngủ ngon, và, khi cậu tỉnh giấc trái tim cậu nói với cậu những điều đến từ linh hồn của thế giới. Nó nói rằng những người hạnh phúc là những người có Thiên Chúa trong họ. Và niềm hạnh phúc đó có thể tìm thấy trong từng hạt cát của sa mạc, như nhà giả kim đã nói. Bởi vì mỗi hạt cát là một khoảnh khắc của tạo dựng, và vũ trụ đã cần hàng triệu năm để tạo nên nó.
“Mỗi người trên trái đất đều có một kho tàng chờ đợi họ,” trái tim cậu nói với cậu. “Chúng tôi, những trái tim của con người, ít khi nói về những kho tàng này, vì người ta không còn muốn đi tìm chúng nữa. Chúng tôi chỉ nói về kho tàng này với trẻ em. Sau đó chúng tôi để cho cuộc đời diễn tiến trong hướng đi của riêng nó, theo định mệnh của nó. Nhưng, thật không may, chỉ có ít người đi theo con đường dành sẵn cho họ - con đường dẫn đến ‘huyền thoại riêng’ của họ và đến hạnh phúc. Phần lớn con người nhìn thế giới như một nơi đầy đe dọa, và, bởi vì con người nhìn như thế, thế giới quả nhiên trở thành nơi đe dọa.
“Vì thế chúng tôi, những trái tim con người, càng ngày càng nói nhẹ hơn. Chúng tôi chẳng bao giờ ngừng nói, nhưng chúng tôi mong rằng lời nói của chúng tôi không được nghe thấy: Chúng tôi không muốn con người phải đau khổ vì họ đã không theo trái tim họ.”
“Tại sao trái tim con người không thôi thúc họ tiếp tục theo đuổi ước mơ của họ?” chàng trai hỏi nhà giả kim.
“Bởi vì điều đó làm cho trái tim đau khổ nhất, và trái tim không muốn đau khổ.”
Từ đó chàng trai hiểu trái tim của cậu. Cậu van nài nó đừng bao giờ ngưng nói với cậu. Cậu yêu cầu trái tim cậu rằng khi nào cậu xa rời giấc mơ, nó phải co thắt lại và cảnh báo cậu. Chàng trai thề rẵng mỗi khi cậu nghe thấy lời cảnh báo, cậu sẽ chú ý đến thông điệp của nó.
Buổi tối đó chàng trai kể hết những điều này cho nhà giả kim. Và ông ta hiểu rằng trái tim chàng trai đã hướng về với linh hồn của thế giới.
“Bây giờ cháu phải làm gì?” chàng trai hỏi.
“Hãy tiếp tục hướng về Kim tự tháp,” nhà giả kim nói. “Và tiếp tục lưu ý đến điềm. Trái tim cháu có khả năng chỉ cho cháu biết kho tàng ở đâu.”
“Có phải đó là điều duy nhất mà cháu cần phải biết?”
“Không,” nhà giả kim trả lời. “Điều mà cháu còn cần phải biết là điều này: trước khi một giấc mơ thành hiện thực, linh hồn của thế giới sẽ thử thách mọi điều cháu học trên đường đời. Linh hồn của thế giới làm như vậy không phải vì ác ý, nhưng muốn qua đó, khi chúng ta đạt được giấc mơ, chúng ta cũng làm chủ những bài học chúng ta đã lĩnh hội trên con đường thực hiện giấc mơ. Đó là một thời điểm mà nhiều người bỏ cuộc. Đó là thời điểm mà, nói theo ngôn ngữ sa mạc, ‘người ta chết khát vừa lúc hàng cây chà là xuất hiện phía chân trời.’
“Mỗi cuộc tìm kiếm bắt đầu với cái may mắn của người mới bắt đầu. Và mỗi cuộc tìm kiếm chấm dứt với người chiến thắng sau khi đã vượt qua bao nhiêu thử thách.”
Chàng trai nhớ lại câu châm ngôn cổ của quê hương cậu. Câu ấy nói rằng giờ khắc tối nhất trong đêm lại chính là lúc mặt trời bắt đầu lên.
 
27
Ngày sau đó, dấu hiệu nguy hiểm đầu tiên xuất hiện. Ba chiến binh với súng đạn đến gần hỏi chàng trai và nhà giả kim làm gì ở đấy.
“Tôi đi săn với con chim ưng,” nhà giả kim trả lời.
“Chúng tôi có nhiệm vụ khám xét xem các ông có vũ khí không,” một người trong nhóm chiến binh nói.
Nhà giả kim chậm rãi xuống ngựa và chàng trai cũng xuống theo.
“Tại sao các ông mang tiền theo?” người chiến binh hỏi khi ông ta khám túi xách của chàng trai.
“Tôi cần nó để đến Kim tự tháp,” cậu nói.
Người chiến binh lục soát túi của nhà giả kim, tìm thấy một chai pha lê đựng đầy chất lỏng và một quả bằng thủy tinh màu vàng, to hơn quả trứng gà một chút.
“Những vật này là cái gì?” người chiến binh hỏi.
“Đó là viên' đá triết học' và 'thuốc trường sinh'. Nó là 'công trình chủ' của khoa giả kim. Ai uống thuốc này sẽ chẳng bao giờ bị bệnh, và một mảnh vụn của viên đá này có thể biến mọi thứ kim loại thành vàng.”
Những người Ả rập cười lớn và nhà giả kim cười theo. Họ nghĩ nhà già kim nói đùa và họ cho phép chàng trai và nhà giả kim tiếp tục đi, mang theo mọi đồ đạc của mình.
“Nói như thế có quá dại không?” Chàng trai hỏi nhà giả kim khi họ đã tiếp tục lên đường. “Ông làm như thế nghĩa là làm sao?”
“Để chỉ cho cháu một bài học đơn giản trong đời sống,” nhà giả kim trả lời. “Khi cháu sở hữu một kho tàng lớn và kể cho người khác về nó, có rất ít người tin lời cháu.”
Họ tiếp tục băng qua sa mạc. Mỗi ngày trôi qua, trái tim chàng trai càng im lặng hơn. Trái tim cậu không còn muốn biết về quá khứ hay tương lai. Nó hài lòng khi chiêm ngắm sa mạc và cùng với cậu uống từ linh hồn của thế giới. Bây giờ chàng trai và trái tim cậu trở thành bạn, và không bên nào còn có thể lừa dối bên kia.
Khi trái tim của cậu nói với cậu, nó muốn khích lệ chàng trai, cho chàng thêm sức mạnh, vì những ngày yên lặng trong sa mạc thật buồn chán. Trái tim cậu nói với cậu về phẩm chất mạnh nhất cậu có, đó là sự can đảm dám bỏ đàn cừu để sống ‘huyền thoại riêng’ của mình, và lòng nhiệt thành trong thời gian cậu làm việc tại cửa hàng bán pha lê.
Và trái tim cậu nói với cậu nhiều điều khác mà cậu chẳng bao giờ để ý đến: nó nói với cậu về những nguy hiểm đe dọa cậu mà cậu chẳng nhận thức. Trái tim cậu nói rằng một lần nó đã giấu khẩu súng mà cậu lấy của cha cậu vì nó sợ cậu tự làm mình bị thương. Và nó nhắc lại ngày cậu bị bệnh và ói mửa trong cánh đồng, rồi sau đó cậu rơi vào trong giấc ngủ. Cách đó không xa, hai tên cướp đã dự định chờ cậu đến, ăn cướp đàn cừu của cậu rồi giết cậu. Nhưng bởi vì chàng trai không đi qua đó, nên chúng bỏ đi vì nghĩ rằng cậu đã đi con đường khác.
“Có phải trái tim con người luôn luôn giúp họ?” chàng trai hỏi nhà giả kim.
“Trái tim chỉ giúp những người muốn thực hiện ‘huyền thoại riêng” của mình. Ngoài ra nó cũng giúp trẻ em, người say sưa và già cả.”
“Điều đó có nghĩa là cháu sẽ chẳng bao giờ phải gặp nguy hiểm sao?”
“Nó chỉ có nghĩa là trái tim làm những gì nó có thể làm,” nhà giả kim nói.
Một buổi chiều nọ họ đi ngang qua một khu trại lính. Họ nhìn thấy những người Ả rập cầm súng trong tay, mặc trang phục màu trắng lộng lẫy. Họ hút thuốc điếu và trao đổi chuyện chiến tranh. Không ai để ý đến hai người lữ hành.
“Chẳng có gì nguy hiểm cả,” chàng trai nói khi họ đã đi qua trại lính.
Nhà gỉa kim nói trong giận dữ: “Hãy tin vào trái tim cháu, nhưng đừng quên rằng cháu đang ở trong sa mạc. Khi con người đánh nhau, linh hồn của thế giới có thể nghe được tiếng la hét của chiến trường. Không ai có thể tránh được hết hậu quả của những gì xẩy ra dưới ánh mặt trời.”
“Tất cả mọi sự chỉ là một,” chàng trai nghĩ. Và sau đó, như sa mạc muốn chứng minh điều nhà giả kim nói là đúng, hai kỵ binh xuất hiện đàng sau họ.
“Các ông không thể đi tiếp được,” một người trong bọn nói. “Các ông đang ở trong vùng có giao tranh.”
“Tôi không đi xa,” nhà giả kim trả lời, nhìn thẳng vào mắt người kỵ binh. Họ yên lặng một lúc, rồi đồng ý cho nhà giả kim và chàng trai đi tiếp.
Chàng trai hào hứng quan sát cuộc trao đổi giữa hai người. “Ông đã chế ngự những kỵ binh này bằng cách nhìn vào họ,” cậu nói.
“Mắt cháu cho thấy sức mạnh của tâm hồn cháu,” nhà giả kim trả lời.
“Điều đó đúng,” chàng trai nghĩ. Cậu nhận thấy giữa đám binh lính trong khu trại phía sau có một người nhìn họ chằm chằm. Hắn ở quá xa nên chàng trai không nhìn được mặt hắn, nhưng cậu chắc chắn rằng hắn đang nhìn họ.
Sau khi họ vượt qua rặng núi trải dài cả chân trời, nhà giả kim nói rằng chỉ còn hai ngày nữa là đến Kim tự tháp.
“Nếu mỗi người sắp phải đi con đường riêng của mình,” chàng trai nói, “vậy xin ông hãy dạy cháu thuật giả kim đi.”
“Cháu đã biết về thuật giả kim rồi. Đó là thâm nhập vào linh hồn của thế giới và khám phá ra kho tàng dành sẵn cho cháu.”
“Không, cháu không nói về chuyện ấy. Cháu nói về chuyện biến chì thành vàng.”
Nhà giả kim yên lặng như sa mạc và chỉ trả lời chàng trai sau khi họ ngừng lại ăn.
“Mọi sự trong vũ trụ đều tiến hóa,” nhà giả kim nói. “Và đối với người hiểu biết thì vàng tiến hóa xa nhất. Đừng hỏi ông tại sao; ông không biết tại sao. Ông chỉ biết rằng truyền thống luôn đúng.
“Con người chẳng bao giờ hiểu lời của bậc thông thái. Vì thế vàng, thay vì được coi như biểu tượng của sự tiến hóa, lại trở thành nguyên nhân gây ra xung khắc.”
“Sự vật nói bằng nhiều ngôn ngữ,” chàng trai nói. “Có lúc đối với cháu tiếng lạc đà kêu không có gì khác hơn là tiếng lạc đà kêu. Rồi nó trở thành dấu hiệu của nguy hiểm. Và rồi nó lại chỉ là tiếng lạc đà kêu.”
Chàng trai ngừng nói. Có lẽ nhà giả kim đã biết tất cả điều đó.
“Ông đã gặp các nhà giả kim thực sự,” nhà giả kim tiếp tục. “Họ tự giam mình trong phòng thí nghiệm, cố gắng tiến hóa, giống như vàng đã tiến hóa. Và họ đã tìm thấy 'đá triết học', bởi vì họ hiểu rằng khi một vật nào đó tiến hóa thì mọi vật chung quanh nó cũng tiến hóa theo.
“Những người khác vấp phải đá vì tình cờ. Họ được ban cho những tài năng và tâm hồn họ nhạy cảm với những điều đó hơn tâm hồn những người khác. Số người này ít ỏi, chỉ đếm trên đầu ngón tay.
“Và có những người khác, những người chỉ quan tâm đến vàng. Họ chẳng bao giờ tìm ra bí mật. Họ quên rằng ngay cả chì, đồng hay sắt cũng phải thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của chúng. Và bất cứ ai cản trở ‘huyền thoại riêng’ của sự vật khác sẽ chẳng bao giờ khám phá ra ‘huyền thoại riêng’ của chính họ.”
Lời của nhà giả kim vang lên như một lời nguyền. Ông cúi xuống, nhặt lên từ mặt cát một vỏ sò.
“Một lần sa mạc này đã là biển,” ông nói.
“Cháu cũng nhận thấy điều đó,” chàng trai trả lời.
Nhà giả kim bảo chàng trai úp vỏ sò vào tai. Từ nhỏ cậu đã nhiều lần làm như thế và đã nghe được âm thanh của biển.
“Biển sống trong vỏ sò này, vì đó là ‘huyền thoại riêng’ của nó. Và nó sẽ chẳng bao giờ lìa xa vỏ này cho đến khi sa mạc lại đầy nước.”
Họ lên ngựa và tiến về Kim tự tháp Ai cập.
Khi mặt trời lặn, trái tim chàng trai lên tiếng báo nguy. Họ đang đứng giữa những cồn cát khổng lồ, và chàng trai nhìn nhà giả kim xem ông có cảm thấy gì không. Nhưng ông tỏ ra như không có gì nguy hiểm. Năm phút sau chàng trai thấy hai kị sĩ đón đầu họ. Trước khi cậu có thể nói điều gì với nhà giả kim thì từ hai kị sĩ đã trở thành mười, rồi thành trăm. Và rồi họ xuất hiện khắp nơi trên cồn cát.
Họ là những kị sĩ mặc áo xanh,một vành khăn đen quanh đầu. Khuôn mặt họ ẩn đàng sau khăn màu xanh, chỉ để lộ hai con mắt.
Mặc dù họ ở xa, nhưng đôi mắt họ toát ra sức mạnh của linh hồn họ. Và đôi mắt họ nói về sự chết.
 
28
Hai người bị đem đến một trại lính gần đó. Một người lính dẫn chàng trai và  nhà giả kim vào một căn lều, nơi vị chỉ huy đang họp với ban tham mưu.
“Hai người này là gián điệp,” một người trong họ nói.
“Chúng tôi chỉ là người lữ hành,” nhà giả kim trả lời.
“Chúng tôi nhận ra các ông đã ở trong trại địch ba ngay trước đây. Và các ông đã nói chuyện với một binh sĩ ở đó.”
“Tôi chỉ là người băng qua sa mạc và biết những vì sao,” nhà giả kim trả lời. “Tôi không có thông tin gì về các đoàn quân hay sự chuyển quân của các bộ tộc. Tôi chỉ là một người dẫn đường bình thường cho bạn tôi đây.”
“Người bạn của ông là ai?” vị chỉ huy hỏi.
“Một nhà giả kim,” nhà giả kim nói. “Anh ấy biết sức mạnh của thiên nhiên.Và anh ta muốn chứng tỏ cho các ông năng lực phi thường của anh ấy.”
Chàng trai yên lặng lắng nghe. Và lo sợ.
“Chàng ngoại quốc này làm gì ở đây?” một người khác hỏi.
“Anh ta mang tiền cho bộ tộc của các anh,” nhà giả kim nói, trước khi chàng trai có thể mở miệng. Ông ta giằng lấy cái bị của chàng trai và đưa số tiền vàng cho vị chỉ huy.
Ông Ả rập nhận lấy, không nói một lời. Sơ tiền này đủ để mua nhiều súng đạn.
“Nhà giả kim là gì?” sau đó vị chỉ huy hỏi.
“Đó là một người am hiểu thiên nhiên và thế giới. Nếu anh ta muốn, anh ta có thể dùng sức gió phá hủy doanh trại này.”
Nhóm người phá lên cười. Họ đã quen với sự tàn phá của chiến tranh và biết rằng gió không thể đem đến một cơn gió chết người. Tuy vậy họ cảm thấy tim họ đập nhanh hơn. Họ là người của sa mạc, và họ sợ các thầy phù thủy.
“Tôi muốn thấy anh ta làm điều đó,” viên chỉ huy nói.
“Anh ta cần ba ngày,” nhà giả kim trả lời. “Anh ta sẽ biến mình thành gió để chứng tỏ khả năng của mình. Nếu anh ta không thể làm được, chúng tôi khiêm nhường dâng mạng sống của chúng tôi để làm vinh danh cho bộ tộc của các ông.”
“Các ông không thể dâng hiến cái gì đã thuộc về tôi,”  vị chỉ huy nói một cách ngạo mạn. Nhưng ông cho người lữ hành ba ngày.
Chàng trai run lên vì sợ, nhưng nhà giả kim dìu cậu ra khỏi lều.
“Đừng cho họ biết cậu sợ,” nhà giả kim nói. “Họ là những người dũng cảm nên họ khinh khi người nhát đảm.”
Nhưng chàng trai không nói lên lời. Cậu chỉ mở miệng được sau khi đã đi qua trung tâm doanh trại. Người Ả rập thấy không cần giam giữ hai người lữ hành mà chỉ cần tịch thu ngựa của họ. Vì thế, một lần nữa thế giới lại chứng tỏ sự phong phú của ngôn ngữ: chỉ vài khoảnh khắc trước đây sa mạc còn tự do, mênh mông vô tận, và bây giờ nó là một bức tường không vượt qua được.
“Ông đã đưa cho họ mọi thứ cháu có,” chàng trai nói. “Mọi thứ cháu đã dành dụm suốt cả cuộc đời.”
“Nhưng chúng có nghĩa gì nữa, nếu cháu phải chết?” nhà giả kim trả lời. “Tiền của cháu cứu chúng ta được sống thêm ba ngày. Tiền không luôn luôn cứu được mạng sống con người.”
Nhưng chàng trai quá sợ đến nỗi không còn có thể lắng nghe những lời khôn ngoan. Cậu không biết làm sao để biến mình thành gió. Vì cậu không phải là nhà giả kim.
Nhà giả kim xin một người lính chút trà và đổ lên cổ tay chàng trai. Một làn gió bình yên thổi trên cậu và nhà giả kim lẩm bẩm những chữ mà chàng trai không hiểu gì.
“Đừng để nỗi sợ hãi làm chủ cháu,” nhà giả kim nói bằng một giọng nhẹ nhàng xa lạ. “Nếu cháu để cho sự sợ hãi làm chủ mình, cháu sẽ không có thể nói chuyện với trái tim mình.”
“Nhưng cháu không biết cách biến mình thành gió.”
“Nếu người nào đạt được ‘huyền thoại riêng’ của họ, họ biết mọi chuyện họ cần phải biết. Chỉ có một điều làm người ta không đạt được giấc mơ của mình, đó là nỗi sợ bị thất bại.”
“Cháu không sợ bị thất bại. Cháu chỉ không biết phải biến mình thành gió như thế nào.”
“Vì thế cháu phải học; mạng sống chúng ta tùy thuộc vào đó.”
“Nhưng nếu cháu không làm được?”
“Thì cháu sẽ chết giữa lúc đang cố gắng thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của mình. Chết như thế còn tốt hơn là chết giống như hàng triệu người khác, những người chẳng biết ‘huyền thoại riêng’ của mình là gì.
“Nhưng đừng lo,” nhà giả kim tiếp tục. “Thông thường, mối đe dọa của sự chết làm con người tỉnh thức hơn về đời sống của họ.”
 
29
Ngày đầu tiên qua đi. Một trận đánh lớn xẩy ra gần đó và nhiều người bị thương được đem về trại. Người lính này chết sẽ được người lính khác thay thế, và đời sống tiếp tục trôi.
“Sự chết không thay đổi gì cả,” chàng trai nghĩ.
“Bạn có thể chết trễ hơn,” một người lính nói với người bạn đã chết. “Hãy chờ đến khi hòa bình vãn hồi rồi hãy chết. Nhưng trong mọi trường hợp, bạn cũng sẽ chết.”
Vào cuối ngày, chàng trai đi tìm nhà giả kim. Ông vừa mang con chim ưng vào sa mạc.
“Cháu vẫn chưa biết phải biến thành gió như thế nào,” chàng trai lập lại.
“Hãy nhớ lại những gì ông đã nói với cháu: thế giớ chỉ là một khía cạnh hữu hình của Thiên chúa. Và nhiệm vụ của nhà giả kim là đem sự hoàn hảo của tinh thần vào sự liên hệ với vật chất.”
“Ông đang làm gì?”
“Cho chim ưng ăn.”
“Nếu cháu không thể biến mình thành gió, chúng ta sẽ phải chết,” chàng trai nói. “Vậy ông cho chim ưng ăn làm gì?”
“Chỉ có cháu mới phải chết,” nhà giả kim nói. “Còn ông, ông biết cách biến mình thành gió.”
 
30
Vào ngày thứ hai, chàng trai trèo lên đỉnh ngọn núi cheo leo gần doanh trại. Những người lính gác cho phép cậu đi, vì họ đã nghe nói về những phù thủy, những người có thể biến mình thành gió, và họ không muốn gần cậu. Ngoài ra sa mạc cũng không vượt qua được.
Cả buổi chiều của ngày thứ hai, chàng trai nhìn vào sa mạc và lắng nghe tim mình. Cậu biết sa mạc cảm nhận nỗi sợ hãi của cậu.
Cả hai, sa mạc và cậu, đều nói cùng một ngôn ngữ.
 
31
Vào ngày thứ ba, vị chỉ huy họp với ban lãnh đạo. Ông ta cho gọi nhà giả kim đến và nói: “chúng ta đi xem chàng trai biến mình thành gió như thế nào.”
“Chúng ta cùng đi,” nhà giả kim nói.
Chàng trai đem họ lên ngọn núi cao, nơi cậu đã ngồi hôm trước. Cậu nói mọi người ngồi xuống.
“Phải đợi tôi một lúc,” chàng trai nói.
“Chúng tôi không vội vã gì,” viên chỉ huy đáp. “Chúng tôi là người của sa mạc.”
Chàng trai nhìn về cuối chân trời. Xa kia là rặng núi. Và đó là cồn cát, núi đá và cây cỏ. Ở một nơi dường như không thể tồn tại được mà chúng vẫn đang cố bám vào để sống. Đó là sa mạc, nơi cậu đã băng qua trong nhiều tháng trời, dù thế cậu mới chỉ biết một phần nhỏ về nó. Trong khoảng thời gian ngắn này cậu đã gặp chàng trai người Anh, đoàn lữ hành, cuộc chiến giữa các bộ lạc và một ốc đảo với năm mươi ngàn cây chà là và ba trăm giếng nước.
“Hôm nay bạn muốn gì?” sa mạc hỏi chàng trai. “Hôm qua cậu ngắm nhìn tôi như vậy chưa đủ sao?”
“Ở một nơi nào đó bạn đang giữ người tôi yêu,” chàng trai nói với sa mạc. “Vì thế khi tôi nhìn vào dải cát xa tít của bạn, tôi cũng nhìn thấy người tôi yêu. Tôi muốn trở về với cô ấy, và tôi cần sự trợ giúp của bạn để tôi có thể biến mình thành gió.”
“Tình yêu là gì?” sa mạc hỏi.
“Tình yêu là đường chim ưng bay trên dải cát của bạn. Bởi vì đối với nó, bạn là một cánh đồng xanh mướt mà nó luôn luôn săn được mồi. Nó biết những phiến đá, những dải cát và những rặng núi của bạn, và bạn rộng lượng với nó.”
“Không phải vậy, chính chim ưng đã cướp đoạt của tôi," sa mạc chống lại. “Tôi đã nuôi con mồi của nó nhiều năm trời, cho nó uống từ số nước ít ỏi tôi có và chỉ cho nó chỗ có đồ ăn. Rồi một ngày, khi tôi đang vui sướng nhìn con mồi của nó lớn lên, con chim ưng bổ xuống từ trời cao và lấy đi cái mà tôi đã nuôi nấng nên.”
“Nhưng đó chính là mục đích mà bạn nuôi nấng con mồi,” chàng trai trả lời. “Để nuôi chim ưng. Và chim ưng nuôi sống con người. Và cuối cùng, con người nuôi sống dải cát của bạn, nơi đó con mồi lại được nuôi sống. Đó là cách thế giới chuyển động.”
“Và đó là tình yêu sao?”
“Vâng, đó chính là tình yêu. Nó biến con mồi thành chim ưng, chim ưng thành người, và con người, đến phiên của họ, thành sa mạc. Đó là cách biến chì thành vàng và làm cho vàng trở về với đất.”
“Tôi không hiểu những gì bạn nói,” sa mạc nói.
“Nhưng ít nhất bạn có thể hiểu rằng một nơi nào đó trong dải cát của bạn, một phụ nữ đang đợi tôi. Và đó là lý do tại sao tôi phải biến mình thành gió.”
Sa mạc yên lặng một lúc. Rồi nó nói với cậu, “Tôi sẽ cho cậu cát để giúp gió thổi, nhưng một mình tôi không thể giúp bạn được. Tôi không thể làm được gì. Bạn phải nhờ gió giúp đỡ.”
Một làn gió nhẹ nổi lên. Những chiến binh quay sang nhìn cậu, họ nói với nhau bằng một ngôn ngữ mà cậu không hiểu.
Nhà giả kim mỉm cười.
Làn gió thổi đến, mơn man khuôn mặt cậu. Gió biết câu chuyện chàng trai nói với sa mạc, bởi vì gió biết tất cả. Gió thổi xuyên qua thế giới, nó không có nơi sinh và cũng không có nơi để chết.
“Hãy giúp đỡ tôi,” chàng trai nói. “Một lần bạn đã đem giọng nói của người tôi yêu đến với tôi.”
“Ai đã dạy cậu nói ngôn ngữ của sa mạc và của gió?”
“Trái tim tôi,” chàng trai trả lời.
Gió có nhiều tên gọi. Ở vùng đó của thế giới, gió được gọi là Sirocco, vì nó mang hơi ẩm từ đại dương đến phía đông. Ở vùng đất xa nơi chàng trai đến, gió được gọi là Levanter, bởi vì người ta tin rằng nó mang theo cát của sa mạc và tiếng la hét của quân Moorish. Có lẽ nơi đồng cỏ mà đàn cừu của cậu đang sống, người ta nghĩ rằng gió đến từ Andalusia. Nhưng thật ra, gió không đến từ một chỗ nào và gió cũng không đi đến đâu; và chính vì thế mà gió mạnh hơn sa mạc. Một ngày nào đó có thể con người trồng được cây trong sa mạc và ngay cả nuôi cừu ở đó, nhưng sẽ chẳng bao giờ có thể bắt gió ngừng bay.
“Cậu không thể thành gió được,” gió nói. “Chúng ta khác xa nhau.”
“Điều đó không đúng,” chàng trai nói. “Trên dường lữ hành tôi đã học được bí mật của nhà giả kim. Trong tôi có gió, sa mạc, đại dương, các vì sao và mọi thứ đã được tạo dựng trong vũ trụ. Tất cả chúng ta được dựng nên bởi một bàn tay, và chúng ta có cùng một linh hồn. Tôi muốn được như bạn, muốn có thể đến mọi chân trời của thế giới, xuyên qua biển, thổi bay những hạt cát che phủ kho tàng của tôi và mang đến giọng nói của người con gái tôi yêu.”
“Tôi đã nghe cuộc nói chuyện của cậu với nhà giả kim mấy hôm trước,” gió nói. “Ông ta nói rằng mọi vật đều có ‘huyền thoại riêng’. Nhưng con người không thể tự biến mình thành gió.”
“Hãy chỉ cho tôi thành gió trong một khoảnh khắc thôi,” chàng trai nói. “Vì thế bạn và tôi có thể cùng nhau nói chuyện về khả năng vô hạn của con người và gió.”
Sự hiếu kỳ của gió bị khêu gợi, một điều mà trước đây chưa bao giờ xẩy ra. Gió muốn nói về những chuyện này, nhưng nó không biết cách làm cho người thành gió. Và hãy nhìn xem bao nhiêu chuyện mà gió đã làm. Nó tạo nên sa mạc, làm chìm đắm những con tàu, đốn ngã bao nhiêu khu rừng và thổi qua thành phố với những âm thanh du dương và xa lạ. Gió cảm thấy mình đã làm mọi chuyện, nhưng bây giờ một chàng trai nói còn nhiều chuyện khác mà gió có thể làm.
“Đó là cái mà chúng ta gọi là tình yêu,” chàng trai nói, cảm thấy rằng gió đã gần chấp nhận những gì cậu yêu cầu. “Khi yêu, bạn có thể làm tất cả. Khi yêu, bạn không cần phải hiểu những gì đang xẩy ra, bởi vì mọi chuyện xẩy ra trong bạn và ngay cả con người có thể biến mình thành gió. Dĩ nhiên với sự giúp đỡ của gió.”
Tự bản thân, gió luôn tự hào và nó bị kích thích bởi những gì chàng trai nói. Nó bắt đầu thổi mạnh hơn, làm bay lên những hạt cát sa mạc. Sau cùng nó nhận ra rằng mặc dù đã đi khắp nơi trên thế giới, nó vẫn không biết cách biến một người thành gió. Và nó không biết gì về tình yêu.
“Trong cuộc lữ hành xuyên qua thế giới, tôi đã thường thấy con người nói về tình yêu và nhìn về phía bầu trời,” gió nói trong tức giận vì nhận ra giới hạn của mình. “Có lẽ tốt hơn nên hỏi bầu trời.”
“Tốt lắm, hãy giúp tôi làm chuyện đó,” chàng trai nói. “Hãy biến nơi này thành bão cát khốc liệt đến nỗi có thể che khuất cả mặt trời. Qua đó tôi có thể nhìn trời mà không bị lòe mắt.”
Vì thế gió thổi bằng tất cả sức lực của nó, và bầu trời đầy cát. Mặt trời trở thành một cái đĩa vàng.
Ở doanh trại khó mà quan sát mọi chuyện. Người dân sa mạc đã quen với ngọn gió đó. Họ gọi nó là simum, và nó còn nguy hiểm hơn bão biển. Ngựa của họ hí vang và vũ khí của họ đầy cát.
Trên đồi đá, một sĩ quan quay qua vị chỉ huy và nói, “có lẽ tốt hơn nên chấm dứt ở đây.”
Gần như họ không còn nhìn thấy chàng trai. Mặt họ bị quần áo màu xanh che phủ và mắt họ lộ vẻ sợ hãi.
“Hãy cho ngưng lại,” một sĩ quan khác nói.
“Tôi muốn nhìn thấy sự vĩ đại của Allah,” vị chỉ huy nói với lòng tôn trọng. “Tôi muốn thấy một người biến thành gió như thế nào.”
Nhưng ông đã để ý đến tên của hai người vừa tỏ ra sợ hãi kia. Khi ngọn gió ngừng thổi, ông sẽ cách chức họ, vì người của sa mạc thật sự không được sợ hãi.
“Gió nói với tôi là bạn biết về tình yêu,” chàng trai nói với mặt trời. “Nếu bạn biết về tình yêu, bạn cũng phải biết về linh hồn của thế giới, vì nó được dựng nên từ tình yêu.”
“Từ nơi tôi ở,” mặt trời nói, “tôi có thể nhìn thấy linh hồn của thế giới. Nó giao tiếp với linh hồn của tôi, và chúng tôi cùng nhau làm cho cây lớn lên và cho đàn cừu những bóng mát. Từ nơi tôi ở - và tôi ở xa địa cầu – tôi học yêu. Tôi biết rằng, ngay cả khi tôi chỉ xích lại trái đất gần hơn một chút thôi, mọi vật ở đó có thể chết, và linh hồn của thế giới sẽ không còn tồn tại. Vì thế chúng tôi ngắm nhìn nhau, và chúng tôi cần nhau; tôi cho trái đất sự sống và hơi ấm, còn trái đất cho tôi lý do để sống.”
“Thế thì bạn đã biết về tình yêu,” chàng trai nói.
“Và tôi biết linh hồn của thế giới, vì chúng tôi nói chuyện với nhau rất lâu trong những chuyến hành trình dài vô tận xuyên qua vũ trụ. Linh hồn của thế giới nói với tôi rằng vấn đề lớn nhất là, cho đến bây giờ, chỉ có đất đá và rau cỏ mới hiểu tất cả mọi sự là một. Vì thế sắt không cần phải trở thành đồng, hay đồng cũng giống như vàng. Mỗi vật chu toàn nhiệm vụ của nó trong một tổng thể duy nhất, và tất cả sẽ là một bản giao hưởng hòa bình, nếu như bàn tay đã viết tất cả ngưng lại vào ngày thứ năm của công trình tạo dựng.
“Nhưng còn có ngày thứ sáu,” mặt trời tiếp tục.
“Bạn thật thông thái, vì bạn quan sát mọi sự từ trên cao,” chàng trai nói. “Nhưng bạn không biết về tình yêu. Vì nếu không có ngày thứ sáu trong công trình tạo dựng, con người đã không hiện diện; đồng vẫn là đồng và sắt vẫn là sắt. Đúng là mỗi vật có ‘huyền thoại riêng’ của mình, nhưng một ngày nào đó ‘huyền thoại riêng’ này phải được thành hiện thực. Vì thế mà mỗi vật phải tự biến đổi thành tốt hơn để đạt đến một ‘huyền thoại riêng’ mới, cho đến khi, một ngày nào đó, linh hồn của thế giới trở thành một tổng thể duy nhất.”
Mặt trời nghĩ về những điều đó và quyết định chiếu sáng hơn. Gió thú vị theo dõi cuộc đối thoại và bắt đầu thổi mạnh hơn để mặt trời không làm mù đôi mắt của chàng trai.
“Chính vì thế mà nhà giả kim có mặt,” chàng trai nói. “Vì thế mà mỗi người sẽ tìm kiếm kho tàng của mình, tìm được nó, và rồi muốn trở thành tốt hơn như họ đã sống ở kiếp trước. Chì chu toàn trách nhiệm vủa nó cho đến khi thế giới không còn cần chì nữa; và rồi chì sẽ tự biến đổi thành vàng.
“Đó chính là việc của nhà giả kim. Họ chỉ cho chúng ta biết khi chúng ta ra sức để trở thành tốt hơn như chúng ta đang là, mọi vật chung quanh chúng ta cũng trở thành tốt hơn.”
“Vậy tại sao bạn nói rằng tôi không hiểu về tình yêu?” mặt trời hỏi chàng trai.
“Bởi vì nó không phải là tình yêu tĩnh mịch như sa mạc, hoặc phiêu lãng khắp thế giới như gió. Nó cũng không phải là tình yêu để nhìn mọi sự từ khoảng cách xa, giống như bạn đang làm. Tình yêu là sức mạnh làm biến đổi và hoàn thiện linh hồn của thế giới. Lần đầu tiên khi tôi thâm nhập vào linh hồn thế giới, tôi nghĩ nó hoàn thiện. Nhưng sau đó tôi thấy rằng nó cũng giống như những khía cạnh khác của tạo vật, vẫn mang trong mình đam mê và xung đột. Chính chúng ta là người nuôi dưỡng linh hồn của thế giới, và thế giới mà chúng ta đang sống sẽ tốt hơn hay xấu hơn tùy thuộc vào việc chúng ta tốt hơn hay xấu hơn. Và đây là sức mạnh của tình yêu. Bởi vì khi chúng ta yêu, chúng ta luôn cố gắng trở thành tốt hơn như chúng ta là.
“Bạn muốn gì nơi tôi?” mặt trời hỏi.
“Tôi muốn nhờ bạn giúp để tôi có thể biến mình thành gió,” chàng trai trả lời.
“Thiên nhiên biết tôi thuộc hàng thông thái nhất giữa các tạo vật,” mặt trời nói. “Nhưng tôi không biết cách nào biến bạn thành gió.”
“Nhưng tôi có thể hỏi ai?”
Mặt trời trầm ngâm suy nghĩ. Gió lắng nghe và muốn kể cho mọi ngõ ngách của thế giới biết rằng sự thông thái của mặt trời cũng có giới hạn, rằng ngay cả mặt trời cũng không đủ khả năng để đối đầu với anh chàng nói ngôn ngữ của thế giới này.
“Hãy nói với bàn tay đã viết lên tất cả,” mặt trời nói.
Gió hét lên mừng rỡ và thổi mạnh hơn nó như chưa bao giờ thổi. Những lều trại bị hất bay khỏi mặt đất, giây cột thú vật bị đứt tung. Các đàn ông trên đỉnh đá ôm ghì lấy nhau để không bị gió cuốn bay đi.
Chàng trai hướng về bàn tay đã viết lên tất cả. Khi cậu làm như thế, cậu cảm nhận tất cả vũ trụ như chìm trong yên lặng và cậu quyết định không nói gì.
Một dòng tình yêu tuôn ra từ trái tim cậu, và cậu bắt đầu cầu nguyện. Đó là một lời nguyện mà cậu đã chẳng bao giờ cầu xin, bởi vì đó là một lời nguyện không lời và không có lời cầu xin. Lời cầu nguyện của cậu không chứa đựng lời cám ơn vì đàn cừu của cậu đã tìm ra đồng cỏ mới, không cầu xin cho bán được nhiều hàng pha lê, không van nài cho người con gái mà cậu yêu tiếp tục chờ đợi cậu trở về. Trong yên lặng, chàng trai hiểu rằng sa mạc, gió và mặt trời luôn luôn cố gắng hiểu những dấu hiệu đã được viết lên bởi một bàn tay, tìm kiếm để bước theo con đường của họ và để hiểu những gì đã được khắc ghi giản dị trên phiến đá ngọc bích. Cậu thấy những điềm rải rác khắp trên mặt đất cũng như trong không gian, và sự hiện diện của chúng như không có nguyên do và ý nghĩa; cậu có thể thấy ngay cả sa mạc, gió, mặt trời hay con người cũng không có thể hiểu tại sao chúng lại được tạo dựng. Nhưng bàn tay có một lý giải cho tất cả mọi điều này, và chỉ bàn tay mới có thể làm phép lạ, hay biến biển thành sa mạc… hay biến người thành gió. Bởi vì chỉ có bàn tay mới hiểu rằng một kế hoạch lớn lao đã thúc đẩy vũ trụ chuyển động đến một điểm, nơi sáu ngày tạo dựng được tiến hóa thành một ‘công trình vĩ đại’.
Chàng trai thâm nhập vào linh hồn của thế giới và thấy nó là một phần linh hồn của Thiên Chúa. Và cậu nhận thấy linh hồn của Thiên Chúa là linh hồn của chính cậu. Và vì thế cậu, một chàng trai, có thể làm phép lạ.
 
32
Ngọn gió Simum hôm đó thổi mạnh như chưa bao giờ thổi. Nhiều thế hệ sau người Ả rập còn kể về huyền thoại của một chàng trai, người đã tự biến mình thành gió, phá hủy hầu hết doanh trại và thách đố với vị chỉ huy đầy quyền lực nhất của sa mạc.
Khi ngọn gió Simum ngừng thổi, mọi người nhìn về chỗ chàng trai. Nhưng cậu không còn ở đó, cậu đang đứng gần một người lính gác bị cát bao phủ ở một phía xa doanh trại.
Mọi người hoảng sợ vì trò ảo thuật này. Nhưng có hai người mỉm cười: Nhà giả kim, vì ông đã tìm thấy người đệ tử hoàn hảo, và vị chỉ huy, vì người đệ tử đó đã hiểu sự vinh quang của Thiên Chúa.
Ngày hôm sau vị chỉ huy chia tay chàng trai và nhà giả kim. Ông cho họ một đoàn tháp tùng để cùng đi với họ nơi nào họ muốn.
 
33
Họ cưỡi ngựa suốt ngày. Vào cuối ngày họ đến một tu viện Coptic. Nhà giả kim xuống ngựa và ra lệnh cho đoàn tháp tùng ra về.
“Từ bây giờ trở đi, cháu sẽ đi một mình,” nhà giả kim nói. “Chỉ còn ba giờ nữa, cháu sẽ đến Kim tự tháp.”
“Cháu cám ơn ông,” chàng trai nói. “Ông đã dạy cháu ngôn ngữ của thế giới.”
“Ông chỉ khơi lại những gì cháu đã biết.”
Nhà giả kim gõ cửa tu viện. Một đan sĩ mặc y phục đen đi ra cổng. Họ nói với nhau vài phút bằng tiếng Coptic, rồi nhà giả kim ra lệnh cho chàng trai bước vào.
“Ông đã xin cho ông được sử dụng nhà bếp một lúc.” Nhà giả kim mỉm cười.
Họ đi vào nhà bếp nằm sau khuôn viên tu viện. Nhà giả kim mồi lửa và vị đan sĩ đem đến cho ông vài miếng chì. Nhà giả kim cho miếng chì vào trong chiếc chảo bằng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà giả kim lấy từ trong túi quả trứng vàng lạ lùng. Ông cạo lấy một chút mỏng như sợi tóc, quấn nó trong sáp và cho vào trong chảo chì đã hóa lỏng.
Chất hỗn hợp có màu đỏ giống như máu. Nhà giả kim lấy chảo ra khỏi bếp, để cho nguội. Vừa làm việc, nhà giả kim vừa nói chuyện với vị đan sĩ về chiến tranh giữa các bộ lạc.
“Tôi nghĩ chiến tranh còn kéo dài lâu nữa,” nhà giả kim nói với vị đan sĩ.
Vị đan sĩ sốt ruột. Đoàn lữ hành đã ngừng lại lâu ở Giza, đang chờ chiến tranh kết thúc.
“Nhưng theo ý Chúa,” vị đan sĩ nói.
“Đúng vậy,” nhà giả kim trả lời.
Khi chiếc chảo đã nguội, vị đan sĩ và chàng trai lóe mắt nhìn vào. Chì đã khô trong chảo, nhưng nó không còn là chì. Nó là vàng.
“Cháu có thể học cách làm như vậy không?” chàng trai hỏi.
“Đây là ‘huyền thoại riêng’ của ông, chứ không phải của cháu,” nhà giả kim trả lời. “Nhưng ông muốn tỏ cho cháu biết rằng điều đó có thể làm được.”
Họ trở lại cổng tu viện. Ở đó nhà giả kim chia dĩa vàng thành bốn phần.
“Phần này cho thầy,” ông nói khi đưa một phần cho vị đan sĩ. “Đó là cho lòng rộng lượng của thầy đối với khách hành hương.”
“Nhưng nó quá nhiều so với những gì tôi đã làm,” vị đan sĩ trả lời.
“Đừng nên nói như vậy nữa. Đời nghe được thì lần sau thầy được ít hơn đấy.”
Nhà giả kim quay sang phía chàng trai. “Đây là cho cháu để đền vào chỗ cháu đã nộp cho vị chỉ huy.”
Chàng trai định nói số vàng này quá lớn so với những gì cậu đã đưa cho vị chỉ huy. Nhưng cậu giữ im lặng, vì cậu đã nghe những gì nhà giả kim nói với vị đan sĩ.
“Và phần này cho tôi,” nhà giả kim nói, giữ lại một phần. “Bởi vì tôi phải quay lại sa mạc, nơi chiến tranh giữa các bộ lạc vẫn còn tiếp diễn.”
Ông cầm lấy phần còn lại và đưa cho vị đan sĩ.
“Phần này cho chàng trai này, khi cậu ấy cần đến.”
“Nhưng cháu sắp tìm thấy kho tàng của cháu rồi,” chàng trai nói. “Cháu sắp đến nơi rồi.”
“Ông chắc chắn cháu sẽ tìm thấy nó,” nhà giả kim nói.
“Vậy tại sao cháu cần thêm số vàng này?”
“Vì cháu đã bị mất hai lần: một lần vì bị lừa gạt và một lần đưa cho vị chỉ huy. Ông là một ông già Ả rập mê tín, và  ông tin vào câu châm ngôn nước mình. Câu đó nói rằng ‘Những gì đã xẩy ra một lần có thể sẽ không xẩy ra nữa. Nhưng những gì đã xẩy ra hai lần thì chắc chắn sẽ xẩy ra lần thứ ba.’”
Rồi họ lên ngựa.
 
34
 “Ông muốn kể cho cháu một câu truyện về một giấc mơ,” nhà giả kim nói.
Chàng trai cho ngựa chạy sát bên. Nhà giả kim thong thả kể:
Ở Roma cổ, thời hoàng đế Tiberius, một ông già nhân hậu có hai người con. Một người trong quân đội và phải chuyển đến một vùng xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là một nhà thơ và đã làm cho tất cả dân Roma say mê vì những vần thơ của cậu.
Một đêm kia, người cha có một giấc mơ. Một thiên thần hiện ra, báo cho ông rằng những lời của một trong hai người con của ông sẽ được nhiều người biết đến và truyền tụng trong thế giới qua mọi thời đại mai sau. Người cha tỉnh thức, lòng đầy biết ơn và chẩy nước mắt vì đời sống quá rộng lượng với ông và đã mặc khải cho ông những điều mà bất cứ người cha nào cũng hãnh diện muốn biết.
Chẳng bao lâu sau, người cha đó chết khi muốn cứu một cậu bé sắp bị bánh xe ngựa đè bẹp. Vì cả đời ông đã sống đàng hoàng và tốt, nên ông được lên thẳng thiên đàng, nơi đó ông gặp lại thiên thần đã báo mộng cho ông.
“Ông luôn luôn là một người tốt,” thiên thần nói với ông. “Cả đời ông đã sống yêu thương và chết một cách phẩm cách. Bây giờ tôi có thể cho ông bất cứ điều gì ông mơ ước.”
“Đời sống quá ưu đãi tôi,” người cha nói. “Khi ngài hiện ra với tôi trong giấc mơ, tôi cảm thấy mọi công lao của mình đã được đền bù, vì thơ của con tôi được mọi người đọc trong nhiều thế hệ mai sau. Tôi không muốn bất cứ điều gì cho chính tôi. Nhưng người cha nào mà chẳng hãnh diện về sự nổi tiếng của gười con mà mình đã nuôi nấng khi còn nhỏ, đã giáo dục khi lớn khôn. Một lúc nào đó trong tương lai, tôi muốn được nghe những vần thơ của con tôi.”
Thiên thần sờ vào vai ông và cả hai được đưa vào một tương lai xa. Họ ở trong một quảng trường rộng lớn, chung quanh cả hàng ngàn người đang nói với nhau bằng một ngôn ngữ xa lạ. Người cha khóc vì hạnh phúc.
“Tôi biết thơ của con tôi bất tử,” ông nói với thiên thần qua dòng nước mắt. “Ngài có thể cho tôi biết bài thơ nào của con tôi đang được người ta đọc ở đây?”
Thiên thần đến gần người cha, âu yếm dìu ông đến một băng ghế gần đó rồi ngồi xuống.
“Những vần thơ của con ông rất phổ biến ở Roma,” thiên thần nói. Mọi người đều yêu và thích thưởng thức nó. Nhưng khi triều đại hoàng đế Tiberius chấm dứt, thơ của con ông cũng bị quên lãng. Những lời ông vừa nghe là của người con của ông nơi trận địa.”
Người cha ngạc nhiên nhìn thiên thần.
“Người con của ông đi phục vụ ở một nơi xa và trở thành một sĩ quan. Ông là một người công chính và tử tế. Một buổi chiều kia một người đầy tớ của ông bị bệnh, nằm chờ chết. Con ông nghe nói về một thầy Rabbi, người có thể chữa lành nhiều bệnh tật, và con ông đã đi ngựa nhiều ngày trời đi tìm người đó. Trên đường đi ông biết rằng người mà ông đang tìm kiếm chính là Con Thiên Chúa. Con ông gặp những người đã được người đó chữa lành và học giáo lý của họ. Và mặc dù con ông là một sĩ quan Roma, ông đã theo đạo mới đó. Sau đó con ông đến nơi mà người con ông tìm kiếm đang sống.
Con ông nói với người ấy là một người đầy tớ của con ông bị bệnh nặng, và ông Rabbi sẵn sàng để đi với con ông về nhà. Nhưng vị sĩ quan là một người có niềm tin mạnh mẽ và khi nhìn vào mắt của nhà Rabbi, ông nhận ra rằng người này thực là Con Thiên Chúa.
Và đây là câu mà con ông đã nói, thiên thần nói với người cha. Đây là những lời mà con ông đã nói với nhà Rabbi vào lúc đó, và lời này chẳng bao giờ bị quên lãng: "Lạy Chúa, con không đáng Chúa đến nhà con. Nhưng nếu Chúa nói một lời, đầy tớ của con sẽ được lành bệnh.”
Nhà giả kim nói, “bất cứ người ta làm gì, mỗi một người trên mặt đất đều có một vai trò quan trọng trong lịch sử của thế giới. Và thông thường họ không nhận biết điều đó.”
Chàng trai mỉm cười. Cậu chẳng bao giờ tưởng tượng rằng những vấn đề về đời sống lại liên quan trọng yếu như thế đối với một chàng chăn cừu.
“Tạm biệt cháu,” nhà giả kim nói,
“Tạm biệt ông,” cậu trai trả lời.
 
35
Chàng trai cưỡi ngựa nhiều tiếng trong sa mạc, lắng nghe những gì trái tim cậu nói. Chính trái tim cậu sẽ nói cho cậu biết kho tàng của cậu chôn giấu ở đâu.
“Kho tàng ở đâu, trái tim cháu cũng ở đó,” nhà giả kim đã nói.
Nhưng trái tim cậu lại nói về những chuyện khác. Nó hãnh diện kể câu chuyện về chàng chăn cừu đã bỏ đàn cừu để theo đuổi một giấc mơ. Nó kể về ‘huyền thoại riêng’, về nhiều người đã lang thang tìm kiếm, về những mảnh đất xa xôi và về những phụ nữ xinh đẹp, đương đầu với người cùng thời về những quan điểm riêng. Nó kể về những cuộc hành trình, những khám phá, sách vở và những đổi thay.
Vừa khi cậu định leo lên một cồn cát khác, trái tim cậu mới thổn thức: “Hãy ghi nhớ nơi chốn mà cậu sẽ phải khóc. Tôi ở đó và kho tàng của cậu cũng ở đó.”
Chàng trai chậm rãi trèo lên dải cát. Ánh trăng vằng vặc hiện lên trên bầu trời đầy sao: đã một tháng rồi cậu xa rời khỏi ốc đảo. Vầng trăng tạo nên trên dải cát chỗ sáng chỗ tối nhấp nhô như sóng biển, và chàng trai nhớ lại lần vó ngựa dựng đứng trong sa mạc và chàng trai đã quen biết nhà giả kim. Và trăng chiếu sáng trên sự yên lặng của sa mạc và trên cuộc hành trình tìm kiếm kho tàng của con người.
Khi chàng trai đến đỉnh cồn cát, trái tim cậu nhẩy múa. Đó, được chiếu sáng bởi ánh trăng và sự quang đãng của sa mạc, Kim tự tháp Ai cập đứng trang nghiêm và hùng vĩ.
Chàng trai quỳ xuống khóc. Cậu cảm tạ Thiên Chua đã cho cậu tin vào ‘huyền thoại riêng’ của cậu, và đã hướng dẫn cậu gặp gỡ ông vua già, ông chủ tiệm pha lê, chàng trai người Anh và nhà giả kim. Và trên hết đã cho cậu gặp một phụ nữ sa mạc, người đã nói với cậu rằng tình yêu sẽ không ngăn chặn con người tìm kiếm ‘huyền thoại riêng’ của họ.
Nếu cậu muốn, ngay bây giò cậu có thể trở về ốc đảo, trở lại với Fatima và sống cuộc sống giản dị của một chàng chăn cừu. Bởi vì ngay cả nhà giả kim cũng tiếp tục sống trong sa mạc, mặc dù ông hiểu ngôn ngữ của thế giới và biết cách biến chì thành vàng. Ông không phải chứng tỏ kiến thức và nghệ thuật của mình cho bất cứ ai. Chàng trai nhắc nhở lòng mình rằng trên con đường thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của mình, cậu đã học tất cả những gì cậu cần phải biết và đã sống qua mọi thứ mà cậu mơ ước.
Nhưng cậu đang ở thời điểm tìm ra kho tàng, và cậu nhớ lại rằng không  một dự định nào hoàn thành trừ khi đạt được mục tiêu. Chàng trai nhìn dải cát chung quanh cậu và nhìn thấy con bọ hung đang bới cát nơi giọt nước mắt của cậu đã rơi xuống. Trong thời gian ở sa mạc, cậu đã học được rằng ở Ai cập bọ hung là dấu hiệu của Thiên Chúa.
Một điềm khác! Chàng trai bắt đầu bới trong dải cát. Vừa làm, cậu vừa nghĩ về câu nói của chủ tiệm pha lê: mỗi người có thể tự xây cho mình một Kim tự tháp trong vườn nhà. Bây giờ cậu biết, nếu mỗi ngày cậu xếp hòn đá này trên hòn đá khác trong suốt quãng đời còn lại, cậu cũng không thể thực hiện được.
Suốt đêm chàng trai đào ở một chỗ mà chàng đã chọn, nhưng không tìm thấy gì. Cậu cảm thấy như sức nặng của Kim tự tháp qua hàng thế kỷ đè nặng trên cậu. Nhưng cậu không ngừng lại. Cậu tiếp tục đào và ngăn cơn gió luôn luôn thổi cát vào lại lỗ trũng mới đào lên. Tay cậu trầy da và mỏi nhừ, nhưng cậu lắng nghe tim mình. Trái tim đã nói với chàng là phải đào nơi nước mắt cậu rơi xuống.
Vừa khi cậu thử đẩy mấy hòn đá sang bên cạnh, cậu nghe thấy tiếng bước chân. Nhiều bóng người đến gần. Lưng họ quay lại phía ánh trăng, và chàng trai không thể nhìn thấy mắt họ, cũng không thể nhìn thấy mặt họ.
“Anh làm gì ở đây?” một trong số bóng người hỏi.
Vì chàng trai quá sợ, nên cậu không trả lời. Cậu đã tìm thấy nơi chôn giấu kho tàng của cậu, và sợ những gì có thể xẩy ra.
“Chúng tôi là những người tị nạn, trốn chạy khỏi cuộc xung đột giữa các bộ lạc và chúng tôi cần tiền,” một bóng người khác nói. “Anh đang chôn giấu gì ở đây?”
“Tôi không giấu gì cả,” chàng trai trả lời.
Nhưng một người trong nhóm túm lấy cậu và kéo cậu ra khỏi hố. Một người khác lục trong túi cậu và tìm thấy miếng vàng.
“Vàng đây rồi!” ông ấy nói.
Ánh trăng chiếu trên khuôn mặt người Ả rập đã túm lấy cậu, và trong đôi mắt của ông ấy, chàng trai nhìn thấy sự chết.
“Có lẽ nó còn giấu nhiều vàng nữa trong đất.”
Chúng bắt cậu đào tiếp, nhưng cậu không tìm thấy gì. Khi mặt trời ló dạng, bọn người đó đánh cậu. Cậu bị thương và chảy máu, quần áo của cậu rách bươm và cậu cảm thấy sự chết gần kề.
“Tiền bạc còn ý nghĩa gì nếu bạn phải chết? Không phải tiền luôn luôn có thể cứu được mạng sống,” nhà giả kim đã nói. Cậu cất tiếng cười lớn, “tôi đang đào kho tàng.” Và, mặc dù miệng cậu chẩy máu và môi cậu sưng vù, cậu kể cho bọn tấn công rằng đã hai lần cậu mơ thấy một kho tàng giấu ẩn gần Kim tự tháp Ai cập.
Một người có vẻ là trưởng toán nói với một người trong nhóm: “Tha cho nó. Nó không còn gì khác đâu. Miếng vàng này có lẽ nó đã ăn cắp.”
Chàng trai gục xuống cát, gần như bất tỉnh. Vị trưởng toán lay cậu và nói, “chúng tôi đi đây.”
Nhưng trước khi họ đi, họ quay lại chàng trai và nói, “anh không chết được. Anh phải sống và phải học rằng một người đàn ông không nên quá ngu ngốc. Hai năm trước đây, chính ngay ở chỗ này, hai lần tôi đã mơ. Tôi mơ thấy tôi phải lữ hành đến cánh đồng Tây Ban Nha và tìm một ngôi nhà thờ đổ nát, nơi chàng chăn cừu và đoàn cừu ngủ qua đêm. Trong giấc mơ, có một cây sung mọc lên từ sự đổ nát của phòng thay áo lễ, và tôi được báo rằng nếu tôi đào ở rễ gốc cây sung, tôi sẽ tìm thấy một kho tàng bị giấu ẩn. Nhưng tôi không quá ngu, tôi không băng qua cả sa mạc chỉ vì muốn theo đuổi một giấc mơ.”
Rồi chúng biến mất.
Chàng trai lảo đảo đứng lên, nhìn vào Kim tự tháp một lần nữa. Dường như chúng cười cậu và cậu cười lại. Tim cậu nở tràn niềm vui.
Bởi vì bây giờ cậu biết kho tàng của cậu ở đâu.
 
 
 
Phần kết
 
Chàng trai đến ngôi nhà thờ nhỏ bé và hoang phế khi đêm vừa xuống. Cây sung vẫn còn đó trong phòng mặc áo lễ, và những ánh sao có thể thấy được xuyên qua mái nhà đã bị hư hại hơn nửa. Cậu nhớ lại thời gian cậu đã ở đây với đàn cừu; đó là một đêm bình an… ngoại trừ giấc mơ.
Bây giờ cậu ở đây. Cậu không có đàn cừu, nhưng có trên tay một chiếc xẻng.
Cậu ngồi nhìn bầu trời một lúc lâu. Rồi cậu lấy trong túi ra một chai rượu vang và uống vài ngụm. Cậu nhớ lại đêm trong sa mạc khi cậu ngồi với nhà giả kim, cùng ngồi ngắm sao trời và uống rượu. Cậu nghĩ về nhiều con đường mà Thiên Chúa đã chọn để chỉ cho chàng kho tàng. Nếu cậu không tin vào ý nghĩa của giấc mơ, cậu đã chẳng gặp người đàn bà Di-gan, ông vua, bọn cướp, hay…” Đúng, đó là một bảng liệt kê dài. Nhưng con đường đã được viết trong các điềm và tôi không thể đi lạc được,” cậu tự nói với chính mình.
Cậu ngủ thiếp đi, và khi cậu thức dậy, mặt trời đã lên cao. Cậu bắt đầu đào nơi gốc cây sung.
“Ông đúng là một phù thủy lão luyện,” chàng trai hét lớn vào không trung. “Ông đã biết toàn bộ câu truyện. Ngay cả ông đã để lại một miếng vàng ở đan viện để cháu có thể trở lại ngôi nhà thờ này. Vị đan sĩ đã cười khi cháu trở lại với quần áo rách bươm. Ông đã không có thể giúp cháu tránh khỏi những điều đó sao?”
“Không,” cậu nghe một giọng nói trong gió nói. “Nếu ông đã nói với cháu thì cháu đã chẳng nhìn thấy Kim tự tháp. Có phải chúng đẹp lắm không?”
Chàng trai mỉm cười và tiếp tục đào bới. Sau một tiếng rưỡi, xẻng của cậu gặp một vật cứng. Một giờ sau, trước mặt cậu là một hòm đầy tiền vàng cổ của Tây Ban Nha. Trong đó cũng có đá quý, mặt lạ vàng đính lông đỏ và trắng, và cả tượng cẩn ngọc. Đó là những đồ đã bị cướp bóc trong thời kỳ xâm lược mà quê hương này từ lâu đã không còn nhớ đến, và những kẻ đi xâm lược cũng quên kể cho con cháu mình về kho tàng đó.
Chàng trai lấy từ trong túi ra hai viên Urim và Thummim. Cậu chỉ dùng hai viên đá này một lần vào một buổi sáng khi cậu ở khu chợ. Đời sống của cậu và đường cậu đi luôn luôn có nhiều điềm.
Cậu đặt hai vai viên Urim và Thummim vào trong hòm. Chúng cũng là một phần của kho tàng mới của chàng, bởi vì chúng nhắc nhở về một ông vua già, người mà cậu sẽ chẳng bao giờ gặp lại.
Đúng như vậy, đời sống thật sự rộng lượng với những người theo đuổi ‘huyền thoại riêng’ của họ. Rồi cậu nhớ lại rằng cậu phải đến Tarifa để đưa cho người đàn bà Di-gan một phần mười kho tàng của cậu, như cậu đã hứa. Những người Di-gan này thật khôn, cậu nghĩ. Có lẽ bởi vì họ đã đi quá nhiều.
Gió lại nổi lên. Đó là ngọn gió Levanter, ngọn gió đến từ châu Phi. Nó không mang theo mùi của sa mạc, cũng không mang theo mối đe dọa xâm lược của người Moorish. Thay vào đó, nó mang theo hương thơm mà cậu rất quen và sự mơn man của một nụ hôn – một nụ hôn đến từ rất xa, chậm rãi, chậm rãi cho đến khi nụ hôn đó đặt lên môi cậu.
Chàng trai mỉm cười. Đó là lần đầu tiên người con gái đó hôn cậu.
“Fatima, anh đang đến với em,” cậu nói.
 



Chú thích:

Những chú thích này do dịch giả thêm vào.


(1) Thuật giả kim - Alchemy: là một ngành cổ của triết học tự nhiên. Vào thế kỷ thứ 17 và 18, ngành này được thay thế bằng ngành hóa học và dược học. Mục đích chính của thuật giả kim là biến đổi các kim loại thành vàng bạc. Các nhà giả kim cho rằng thiên nhiên chưa hoàn hảo và chúng luôn luôn biến đổi để trở nên hoàn hảo hơn. Các nhà giả kim tìm ra các hợp chất mới trong vàng, cách cấu tạo vàng, nên việc biến các kim loại bình thường thành vàng là việc có thể. Trong quá trình luyện kim, linh hồn những người giả kim cũng được biến đổi theo. Sự biến đổi kim loại thành vàng cũng là một tiến trình biến đổi nội tâm của mỗi người, trải qua gian nan để thành người, một con người tốt và hoàn hảo hơn, Trong khi đó, thuật giả kim của người Trung Quốc được gọi là luyện đan, chia thành ngoại đan và nội đan. Ngoại đan là dùng lửa luyện các khoáng chất thành một loại vàng, và uống vàng đó sẽ chữa được các bệnh và có thể thành tiên hay trường sinh bất lão.

(2) Narsissus: Theo thần thoại Hy Lạp, Narzissus là một thanh niên đẹp trai, con của Thần sông Kephissos và Leiriope. Chàng quá đẹp trai, nên không yêu ai khác, nà chỉ yêu chính mình. Chàng thích cúi mình bên bờ sông mà chiêm ngắm sắc đệp của mình. Một ngày kia, khi soi bóng mình bên sông, chàng bị chết đuối. Narsissus cũng là tên của loài hoa Thủy Tiên.

(3) Andalusia nằm ở phía nam bán đảo Iberia của Tây Ban Nha, rộng khoảng 87,597 Km2, có 8,44 triệu dân. Vùng này giầu tính văn hóa, trong đó có âm nhạc flamenco, đấu bò và nhiều công trình kiến trúc mang nét văn hóa Moor, Ả rập và Roma.

(4) Người Moors: được dùng để gọi cho nhóm người ở Bắc Phi, có nguồn gốc từ Berber, ngày nay gọi là Tunesia, Algeria và Marocco, và nhóm người Âu châu theo Hồi giáo. Những người này đã tham gia trong đoàn quân chinh phục và thống trị bán đảo Iberia gần 800 năm.

(5) Di-gan: tiếng Anh gọi là Gypsy, chỉ người Romani hay nhóm người có đời sống du mục.

(6) Huyền thoại riêng dịch từ chữ 'Personal Legend'. Trong phần giới thiệu, tác gỉả đã cắt nghĩa rằng mỗi ngưởi trên trần gian có một tiếng gọi riêng, một con đường riêng mà Thiên Chúa ban cho trên mặt đất này. Những ai theo huyền thoại riêng này sẽ thành người, tìm ra ý nghĩa cuộc đời và đạt được mục đích của cuộc đời mình.

(7) Linh hồn của thế giới – The Soul of the World: Trong một cuộc phỏng vấn, tác giả cho rằng mọi vật đều có linh hồn. Mọi vật ở trước mặt chúng ta chính là phần hữu hình của thực tại. Chúng ta còn có phần vô hình của thực tại, thí dụ như cảm xúc, cảm giác.
(8) Điềm dịch từ chữ omen: dấu hiệu, điềm báo. Tác giả cắt nghĩa điềm là một ngôn ngữ cá nhân, qua đó Thiên Chúa nói riêng với từng người, nói trực tiếp qua trái tim để mỗi người theo đuổi và đạt được 'huyền thoại riêng' của họ. Xem thêm phần phỏng vấn.

(9) Tangier: thành phố ở miền bắc Maroc, có khoảng 700.000 dân. Nó nằm bên bờ biển Bắc Phi, ở eo biển nơi Địa Trung Hải gặp Đại Tây Dương.

(10) Mục đích của nhà giả kim là muốn tìm ra 'công trình chủ' gồm hai phần: 'viên đá triết học' là chất xúc tác, giúp biến đổi các kim loại thành vàng và 'thuốc trường sinh'.


 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.01.2017 05:06:25 bởi Minh Nan >

Ct.Ly

Minh Nan
  • Số bài : 23
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 23.12.2016
Re:Paolo Coelho: Alchemist - Nhà Giả Kim - 05.01.2017 04:37:14
0
Cám ơn Ct. Ly nhiều. Tên đúng là Paulo Coelho như Ct. Ly đã sửa dùm.
 
Thân ái