PHẦN V
1152 – 1155
Chương 14
I
Sau bẩy năm Jack đã chấm dứt hai gian ngang – hai cánh tay của nhà thờ hình thánh giá – và đó là điều mà cậu đã chờ mong. Cậu đã cải tiến ý tưởng của nhà thờ Saint-Denis, làm mọi thứ cao hơn và hẹp hơn – cửa sổ, mái vòm nhọn và ngay cả chính khung vòm. Bên trên hành lang, hàng chùm cột vươn cao duyên dáng và tụ họp ở chính giữa mái vòm. Ánh sáng tràn vào trong qua cửa sổ cao với các đầu nhọn. Các đường gờ được làm tinh tế và đẹp, và các phần trang trí chạm khắc là những cánh lá bằng đá.
Nhưng trong phần cửa sổ phía trên hành lang có vết nứt.
Cậu đứng trên hành lang của phần cửa sổ cao, nhìn vào chỗ nứt sâu ở gian ngang phía bắc, suy tư vào một buổi sáng mùa xuân tràn đầy ánh sáng. Cậu bị sốc và bối rối. Theo kiến thức xây dựng, bức tường đã được xây chắc chắn, nhưng vết nứt tỏ ra điểm yếu. Vòm của cậu cao hơn bất cứ vòm nào mà cậu đã thấy, nhưng không quá cao. Cậu không làm lỗi lầm như Alfred là đặt vòm đá lên trên một cấu trúc không chịu được sức nặng: bức tường của cậu được thiết kế cho một vòm đá. Tuy nhiên các vết nứt đã xuất hiện trong phần cửa sổ trên cao, cùng chỗ nơi bức tường của Alfred sụp đổ. Alfred đã tính sai nhưng Jack chắc chắn đã không làm một lỗi lầm tương tự như vậy. Nó phải có nguyên nhân mới nào đó mà Jack chưa khám phá ra.
Nó không nguy hiểm, nhất là trong thời gian tạm thời. Các vết nứt đã được đổ đầy bằng vữa và chúng chưa xuất hiện trở lại. Tòa nhà an toàn, nhưng nó yếu và sự yếu này lấy đi sự hào hứng của cậu. Cậu muốn nhà thờ của cậu tồn tại cho đến ngày tận thế.
Cậu rời phần cửa sổ trên cao và đi xuống theo cầu thang xoắn vào khu hành lang, nơi cậu đã thiết kế một nền để vẽ dự án, trong một góc phòng nơi ánh sáng chiếu qua một cửa sổ ở hành lang phía bắc. Cậu vẽ một hình thoi, rồi một hình vuông trong hình thoi, rồi một vòng tròn trong hình vuông. Các trụ chính của cột đá bắt đầu từ bốn điểm của hình thoi và vươn lên từ đỉnh cột theo hướng bắc, nam, đông và tây để trở thành một vòm hay khung sườn. Các trụ bổ sung bắt đầu từ các góc của hình vuông, vươn lên thành khung sườn vòm, một bên đi xéo qua gian giữa và một bên qua gian phụ bên cạnh. Vòng tròn ở giữa tượng trưng cho cốt lõi của trụ cột.
Tất cả thiết kế của Jack dựa trên hình học đơn giản và một số tỷ lệ không đơn giản, giả sử như tỉ lệ căn số bình phương của hai với căn số bình phương của ba. Jack đã học tính căn số ở Toledo, nhưng hầu hết thợ xây không tính được và thay vào đó họ dùng cấu trúc hình học đơn giản. Họ biết rằng nếu một vòng tròn được vẽ xung quanh bốn góc của một hình vuông, đường kính của vòng tròn dài hơn một cạnh của hình vuông theo tỷ lệ căn số bình phương của hai với một. Tỷ lệ này, căn số của hai với một, là công thức tính toán cổ xưa phổ thông nhất của thợ xây, đối với các công trình xây dựng đơn giản nó là tỷ lệ của chiều rộng bên ngoài với chiều rộng bên trong, và qua đó cho ra độ dầy của bức tường.
Nhiệm vụ của Jack phức tạp hơn vì có liên quan đến ý nghĩa tôn giáo của các con số. Tu viện trưởng Philip dự định cung hiến nhà thờ mới này cho Đức trinh nữ Maria, bởi vì bức tượng Mẹ khóc làm nhiều phép lạ hơn mộ Thánh Adophus; vì thế ông muốn Jack dùng số chín và bẩy là hai con số tiêu biểu cho Mẹ Maria. Cậu đã thiết kế gian chính với chín ô và gian cung thánh, sẽ được xây khi các phần khác đã hoàn thành, với bẩy ô. Nhịp mái vòm ngầm ở hai gian phụ sẽ được nhìn thấy bẩy vòm mỗi ô, và mặt tiền phía tây có chín cửa sổ nhọn. Jack không biết gì về ý nghĩa thần học của các con số, nhưng do bản năng cậu cảm thấy rằng nếu các con số được dùng đều đặn, nó sẽ tăng thêm sự hài hòa cho tòa nhà khi hoàn thành.
Trước khi cậu có thể chấm dứt bản vẽ về chân cột, cậu bị ngưng lại vì người thợ xây dựng mái chính cần sự giúp đỡ của cậu.
Jack theo ông ấy lên thang cuốn, ngang qua khu có cửa sổ và vào phần mái. Họ đi ngang qua mái vòm tròn, trên đỉnh của khung sườn vòm. Bên trên chúng, các thợ uốn tấm chì lớn và đóng đinh chúng vào các xà nhà. Họ làm việc từ dưới lên, để các tấm trên chồng lên các tấm dưới và giữ cho nước mưa chẩy đi.
Jack nhìn thấy vấn đề ngay lập tức. Cậu đặt một tháp nhọn trang trí ở đầu mỗi khe mái, giữa hai mái dốc, nhưng cậu đã để cho thợ xây cả thiết kế, nhưng thợ xây đã không dự phòng cho nước mưa chảy qua dưới tháp nhọn. Thợ xây phải thay đổi nó. Cậu ra lệnh cho thợ cả làm mái truyền chỉ thị này cho thợ xây, rồi cậu trở về với bản vẽ của cậu.
Cậu kinh ngạc vì Alfred chờ cậu ở đó.
Cậu đã không nói chuyện với Alfred trong mười năm qua, mặc dù lâu lâu từ xa cậu vẫn nhìn thấy cậu ấy ở Shiring hay Winchester. Aliena đã không gặp cậu từ chín năm qua, mặc dù theo giáo hội họ vẫn là vợ chồng. Martha đến thăm cậu ở Shiring một năm một lần. Cô luôn luôn đem về cùng những thông tin tương tự: cậu sung túc, cậu xây nhà cho các người bán thịt ở Shiring; cậu vẫn sống độc thân, vẫn giống như xưa.
Nhưng bây giờ Alfred trông không có gì là sung túc. Cậu trông có vẻ mệt mỏi và chán nản. Alfred luôn luôn to lớn và khỏe mạnh, nhưng bây giờ cậu trông gầy gò: mặt cậu hóp lại, và bàn tay đầy đặn ngày trước bây giờ gầy trơ xương.
Cậu nói: “Chào Jack.”
Thái độ của cậu vẫn hiếu chiến, nhưng giọng nói của cậu dường như muốn lấy lòng – một pha trộn khó chịu.
“Chào Alfred,” Jack nói thận trọng. “Lần trước tôi gặp anh, anh mặc một áo lụa dài và dường như mập mạp.”
“Đó là ba năm về trước – trước khi mùa thu hoạch xấu bắt đầu.”
“À thì ra thế.” Ba mùa thu hoạch xấu gây nên một nạn đói. Nhiều nông nô chết đói, người thuê đất cơ cực, và có lẽ không ai ở Shiring còn có thể xây một căn nhà đá nữa. Alfred đã cảm thấy khó khăn. Jack nói: “Điều gì đã đưa anh trở lại Kingsbridge, sau nhiều năm vắng bóng?”
“Tôi đã nghe nói về các gian ngang của cậu và tôi muốn xem.” Giọng cậu có một sự ngưỡng mộ cưỡng bách. “Cậu đã học xây như thế ở đâu?”
“Paris,” Jack trả lời cộc lốc. Cậu không muốn tranh luận khoảng đời đó của cậu với Alfred, người đã gây ra cuộc ly hương cho cậu.
“Tốt.” Alfred trông ngô nghê, rồi nói với sự thờ ơ: “Tôi muốn làm việc ở đây để học hỏi thêm về những thủ đoạn mới này.”
Jack rất kinh ngạc. Thật sự Alfred can đảm để xin cậu việc làm? Để kéo dài thời gian cậu nói: “Còn nhóm làm việc của anh thì sao?”
“Tôi chỉ còn một mình,” Alfred nói, vẫn cố gắng giữ giọng bình thường. “Không còn đủ công việc cho một nhóm thợ.”
“Hiện nay chúng tôi không thuê thêm ai,” Jack nói trong cùng giọng điệu. “Chúng tôi có đủ một đội ngũ làm việc.”
“Nhưng cậu có thể luôn luôn cần một thợ xây tốt.”
Jack nghe thấy giọng van nơn và nhận ra Alfred thất vọng. Cậu quyết định phải trung thực. “Qua tất cả những gì chúng ta đã trải qua, tôi là người cuối cùng mà anh đến xin giúp đỡ, phải không Alfred?”
“Cậu là người cuối cùng,” Alfed thẳng thắn nói. “Tôi đã cố gắng ở khắp nơi. Không chỗ nào mướn người. Nó là một nạn đói.”
Jack nghĩ lại những lần Alfred đã ngược đãi cậu, hành hạ cậu và đánh đập cậu. Alfred đã đẩy cậu vào tu viện và rồi dồn cậu phải ra đi, xa nhà và xa gia đình. Cậu không có lý do để giúp Alfred. Cậu nói: “Tôi sẽ không thuê anh ngay cả khi tôi cần một người thợ.”
“Tôi nghĩ cậu có thể,” Alfred nói với sự ương ngạnh. “Sau tất cả, bố tôi đã dạy cậu mọi thứ cậu biết. Và vì ông mà cậu trở thành thợ xây dựng chính. Cậu không giúp tôi vì ông ấy sao?”
Vì Tom. Bất ngờ Jack cảm thấy lương tâm cắn rứt. Theo cách riêng, Tom đã cố gắng là một bố dượng tốt. Ông không nhẹ nhàng và thông cảm, nhưng ông đã đối xử với con riêng của ông giống như đối với Jack, và ông đã kiên nhẫn và rộng lượng truyền đạt kiến thức và kỹ năng của ông. Ông đã làm cho mẹ Jack hạnh phúc, hầu như mọi lúc. Sau cùng, Jack nghĩ, tôi là một thợ xây dựng chính thành công và sung túc, đang trên đường đạt được tham vọng của mình là xây một nhà thờ đẹp nhất thế giới; và đó là Alfred, nghèo đói và không có việc làm. Đó chưa phải là một cuộc trả thù đủ sao?”
Không, chưa đủ, cậu nghĩ.
Rồi cậu mủi lòng.
“Được,” cậu nói. “Vì Tom, tôi thuê anh.”
“Cảm ơn,” Alfred nói. Nét mặt của cậu không đọc được. “Tôi có thể bắt đầu ngay không?”
Jack gật đầu. “Chúng tôi đang đặt chân móng cho gian giữa. Hãy tham gia vào đó.”
Alfred dơ tay ra. Jack do dự một lúc, rồi lắc nó. Alfred nắm chắc tay Jack như chưa bao giờ cậu nắm.
Alfred đi ra. Jack đứng nhìn xuống bản vẽ của ông về chân cột trụ cho gian giữa. Cậu đã vẽ nó bằng kích thước thật, vì thế mà khi nó hoàn tất, thợ mộc chính có thể làm một mẫu bằng gỗ trực tiếp từ bản vẽ. Các thợ xây sẽ dùng khuôn mẫu để cắt đá.
Cậu có quyết định đúng không? Cậu nhớ lại bức tường của Alfred đã sụp đổ. Tuy nhiên, cậu sẽ không dùng Alfred cho những công việc khó khăn như mái trần hoặc mái vòm. Cậu ấy sẽ thích hợp cho các bức tường thẳng và nền nhà.
Trong lúc Jack vẫn còn suy nghĩ, tiếng chuông trưa báo hiệu giờ cơm. Cậu để dụng cụ vẽ xuống và đi theo cầu thang xoáy xuống tầng trệt.
Các thợ xây có vợ con về nhà ăn cơm trưa và những người độc thân ăn ở trong lều. Một số công trình xây dựng cung cấp bữa ăn trưa để tránh chậm trễ giờ làm buổi chiều, tránh vắng mặt và say xỉn; nhưng đồ ăn của các tu sĩ thường kham khổ và hầu hết các thợ xây dựng muốn tự lo đồ ăn cho mình. Jack vẫn còn sống trong căn nhà cũ của Tom với Martha, em ghẻ của cậu, người lo việc nhà cho cậu. Khi Aliena bận rộn, Martha chăm sóc Tommy và đứa con thứ hai của Jack, một bé gái có tên là Sally. Martha thường nấu cơm cho Jack và các trẻ em, và một đôi khi Aliena cùng ăn với họ.
Cậu rời tu viện và đi bộ nhanh về nhà. Trên đường đi Jack chợt nghĩ không biết Alfred có chờ đợi dọn về ở với Martha không? Dầu sao cô cũng là em gái của cậu ấy. Jack đã không nghĩ về điều đó khi cậu đồng ý thuê Alfred.
Nó là một nỗi sợ ngu xuẩn, sau đó cậu nghĩ lại. Những ngày mà Alfred có thể bắt nạt cậu đã qua đi. Cậu là thợ xây dựng chính ở Kingsbridge, và nếu cậu nói Alfred không thể chuyển về ở chung nhà thì Alfred sẽ không thể.
Cậu dự kiến sẽ thấy Alfred ngồi ở bàn ăn, và thở phào nhẹ nhõm khi không thấy. Aliena đang lo cho các con ăn, trong khi Martha nấu một nồi trên lửa. Mùi của thịt cừu hầm bốc lên thơm phức.
Cậu hôn nhẹ lên trán Aliena. Cô đã ba mươi ba tuổi, nhưng trông cô như trẻ hơn cả mười tuổi: mái tóc nâu đậm của cô vẫn xoăn và dầy, miệng cô vẫn xinh và đôi mắt đen đẹp. Chỉ khi cô trần truồng, những thay đổi vì thời gian và sinh con mới rõ nét: bộ ngực tuyệt vời của cô trễ xuống hơn, hông rộng hơn và bụng không bằng phẳng và căng như trước.
Jack nhìn trìu mến vào kết quả mà Aliena đã mang trong bụng: bé Tommy chín tuổi, một đứa con trai tóc đỏ khỏe mạnh, to lớn so với lứa tuổi của cậu, xúc thịt cừu vào miệng như thể cậu đã nhịn đói nhiều tuần; và Sally bảy tuổi với mói tóc quăn đen như mẹ, cười hạnh phúc và để lộ một lỗ giữa các răng cửa giống như của Martha khi Jack gặp cô mười bảy năm về trước. Mỗi buổi sáng Tommy đến trường trong tu viện học đọc và viết, nhưng các tu sĩ không nhận con gái nên Aliena phải dạy Sally học.
Jack ngồi xuống, và Martha bắc nồi ra khỏi lửa và ngồi xuống bên bàn. Martha là một thiếu nữ kỳ lạ, mặc dù cô đã hai mươi tuổi nhưng cô không quan tâm đến việc lập gia đình. Cô luôn dành nhiều cảm tình cho Jack và bây giờ cô hoàn toàn hài lòng là người người giúp việc cho cậu.
Không nghi ngờ gì, Jack là chủ một gia đình đặc biệt trong quận. Cậu và Aliena là hai cư dân hàng đầu trong thị trấn: cậu là thợ xây dựng chính ở nhà thờ chính tòa và cô là chủ nhà máy vải lớn nhất, ngoại trừ ở Winchester. Mọi người đều coi họ là vợ chồng mặc dù họ bị cấm qua đêm với nhau, và mỗi người sống trong nhà riêng, Aliena với em cô và Jack với em ghẻ của cậu. Mỗi chiều chủ nhật và ngày lễ họ đều biến mất, và mọi người biết họ làm gì, dĩ nhiên, ngoại trừ Tu viện trưởng Philip. Trong khi đó mẹ Jack sống trong một hang động ở rừng, vì bà được coi là một phù thủy.
Jack luôn tức giận vì không được phép cưới Aliena. Cậu nằm thao thức, lắng nghe Martha ngáy trong phòng bên cạnh, và nghĩ: tôi đã hai mươi tám tuổi – tại sao tôi phải ngủ một mình? Ngày hôm sau cậu lại khó chịu với Tu viện trưởng Philip, từ chối tất cả những đề nghị và yêu cầu từ cuộc họp của tu viện vì cho rằng không khả thi hoặc quá mắc, và từ chối thảo luận để tìm kiếm những lựa chọn khác hoặc thỏa hiệp, như thể chỉ có một cách để xây nhà thờ chính tòa và cách đó là của Jack. Trong những trường hợp như vậy, Philip để cậu yên vài ngày và chờ cho cơn bão đi qua.
Aliena cũng không hạnh phúc, và cô đổ lên đầu Jack. Cô trở nên thiếu kiên nhẫn và cố chấp, phê bình mọi chuyện Jack làm, đưa các con đi ngủ khi cậu bước vào, nói cô không đói khi cậu ăn. Một hay hai ngày sau, cô sẽ bật khóc và nói lời xin lỗi, và rồi họ lại hạnh phúc, cho đến khi sự căng thẳng lại đến.
Jack múc một số thịt hầm vào chén và ăn. “Đoán xem ai đến công trường xây dựng hôm nay?” Cậu hỏi. “Alfred.”
Martha đánh rơi nắp nồi xuống bếp. Jack nhìn cô và thấy nỗi sợ hãi trên mặt cô. Cậu quay qua Aliena và thấy cô trắng bệch.
Aliena nói: “Anh ấy làm gì ở Kingsbridge?”
“Đi tìm việc. Các thương gia ở Shiring đã bị ảnh hưởng của nạn đói, tôi đoán thế, và họ không còn xây nhà đá như trước nữa. Anh ấy đã cho nhóm thợ của anh ấy nghỉ việc và anh ấy không có việc làm.”
“Em mong rằng anh đã đuổi anh ấy đi,” Aliena nói.
“Anh ấy nói anh nên cho anh ấy một công việc vì Tom,” Jack lo lắng nói. Cậu đã không dự đoán một phản ứng mạnh mẽ như thế của hai phụ nữ. “Mọi thứ anh đã mắc nợ Tom.”
“Đồ cứt,” Aliena nói, và Jack nghĩ: cô đã học chữ đó từ mẹ mình.
“Dù sao anh cũng đã thuê anh ấy,” cậu nói.
“Jack!” Aliena hét lên. “Tại sao anh làm như thế? Anh không thể để cho anh ấy – con quỷ đó - trở lại Kingsbridge.”
Sally lên tiếng khóc. Tommy mở to mắt nhìn mẹ. Jack nói: “Alfred không phải là con quỷ. Anh ấy đói và không có tiền. Anh cứu anh ấy vì nhớ tới bố anh ấy.”
“Anh không nên thương hại anh ấy, nếu như anh ấy đã ép anh ngủ trên nền đất phía cuối chân giường của anh ấy như một con chó trong chín tháng trời. Anh ấy đã đối xử tồi tệ với em - hãy hỏi Martha.”
Martha nói: “Ngay cả với em.”
Jack nói: “Tình trạng tồi tệ của anh ấy bây giờ đối với anh đã là một trả thù đủ rồi.”
“Nhưng nó chưa đủ đối với em!” Aliena gầm lên. “Trời ơi, anh là một kẻ ngu ngốc, Jack Jackson. Một đôi khi tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi không kết hôn với anh.”
Nó làm cậu đau. Jack nhìn đi chỗ khác. Cậu biết cô không nghĩ thế, nhưng cô không nên nói thế ngay cả trong lúc tức giận. Cậu lấy cái muỗng và tiếp tục ăn. Nó không dễ nuốt.
Aliena vỗ đầu Sally và đặt một miếng cà rốt vào miệng nó. Sally ngừng khóc.
Jack nhìn Tommy. Cậu vẫn nhìn Aliena với bộ mặt sợ hãi. “Ăn đi Tommy,” Jack nói. “Ngon lắm!”
Họ chấm dứt bữa ăn trưa trong im lặng.
Vào mùa xuân năm đó gian ngang của nhà thờ đã hoàn tất, Tu viện trưởng Philip đi một vòng giám sát đất đai của tu viện ở phía nam. Sau ba năm mất mùa ông cần một mùa gặt hái tốt, và ông muốn kiểm soát tình hình các trang trại.
Ông mang Jonathan với ông. Đứa bé mồ côi trong tu viện bây giờ đã mười sáu tuổi, cao lớn, ngượng nghịu và thông minh. Giống Philip vào lứa tuổi đó, cậu đã biết cậu muốn làm gì với cuộc đời cậu: cậu đã xong chương trình tập sinh và đã có lời khấn, và bây giờ cậu là Thầy Jonathan. Cũng giống Philip, cậu quan tâm đến việc phụng sự Thiên Chúa trong những công việc cụ thể. Cậu làm việc như phụ tá cho Cuthbert Whitehead, một quản lý đã lớn tuổi. Philip hãnh diện về cậu: cậu đạo đức, chăm chỉ và được lòng nhiều người.
Người hộ tống của họ là Richard, em trai của Aliena. Sau cùng Richard đã tìm được chỗ đứng của mình ở Kingsbridge. Sau khi họ xây tường thành, Philip đã đề nghị với ban lãnh đạo giáo xứ chỉ định Richard làm trưởng ban canh gác, chịu trách nhiệm cho an ninh của thị trấn. Cậu tổ chức người gác ban đêm, lo duy trì và cải thiện tường thành, và vào những ngày chợ hoặc ngày lễ cậu được quyền bắt kẻ gây rối và say rượu. Nhiệm vụ này là những việc cần thiết khi một ngôi làng lớn mạnh thành thị trấn, là những việc một tu sĩ không nên làm; vì thế ban lãnh đạo giáo xứ mà lúc đầu Philip tưởng như là mối đe dọa cho uy quyền của ông, bây giờ lại thành hữu dụng. Và Richard vui mừng. Cậu đã ba mươi tuổi, nhưng đời sống hoạt động làm cho cậu trông trẻ hơn.
Philip ước muốn chị của Richard cũng được ổn định. Nếu một người nào đó bị giáo hội bỏ quên, người đó phải là Aliena. Jack là người đàn ông cô yêu và là bố của con cô, nhưng giáo hội khẳng định cô đã kết hôn với Alfred, mặc dù cô chẳng có quan hệ xác thịt với cậu ấy; và cô không nhận được sự vô hiệu hóa hôn nhân vì giám mục chống lại. Nó đáng xấu hổ và Philip cảm thấy có lỗi, mặc dù ông không có trách nhiệm gì trong việc này.
Vào cuối chuyến đi, trên đường về xuyên qua khu rừng vào một buổi sáng mùa xuân đẹp, Jonathan nói: “Em tự hỏi làm sao Thiên Chúa lại để con người chết đói.”
Nó là một câu hỏi mà mỗi tu sĩ trẻ sớm hay muộn gì cũng sẽ đặt ra, và có nhiều câu trả lời cho nó. Philip nói: “Đừng đổ lỗi nạn đói này cho Thiên Chúa.”
“Nhưng Thiên Chúa làm nên thời tiết gây ra mất mùa.”
“Nạn đói không phải chỉ là hậu quả của mất mùa,” Philip nói. “Cứ vài ba năm lại có vụ mất mùa, nhưng dân chúng không phải chết đói. Về cuộc khủng hoảng này, hậu quả của nhiều năm nội chiến đóng một vai trò quan trọng.”
“Tại sao nội chiến lại ảnh hưởng đến việc đó?” Jonathan hỏi.
Lần này Richard với kinh nghiệm của một người lính trả lời cậu: “Trong chiến tranh những nông dân gặp nhiều thiệt thòi,” cậu nói. “Các thú vật được dùng nuôi quân đội, cánh đồng lúa bị đốt cháy để ngừa quân địch cướp và các trang trại bị bỏ hoang vì các người trẻ phải tham gia quân đội.”
Philip thêm vào: “Và khi tương lai không chắc chắn, dân chúng không nỗ lực đầu tư thời gian và công sức giải phóng mặt bằng mới, tăng gia đàn gia súc, đào mương và xây dựng nhà kho.”
“Nhưng chúng ta không ngừng làm những công việc đó,” Jonathan nói.
“Tu viện khác. Nhưng hầu hết các nông dân bỏ hoang nông trại của họ trong thời gian chiến tranh, vì thế mà khi thời tiết xấu đến họ không thể chống lại nó. Các tu sĩ nhìn xa hơn. Nhưng chúng ta có vấn đề khác. Giá của len giảm vì nạn đói.”
“Em không nhìn thấy sự liên quan,” Jonathan nói.
“Tôi cho rằng dân chúng đang chết đói nên không mua quần áo nữa.” Đây là lần đầu tiên giá len không tăng lên hàng năm, Philip nhớ lại. Ông phải giảm tốc độ xây dựng nhà thờ, không nhận thêm tập sinh, cắt giảm rượu và thịt trong các bữa ăn của tu sĩ. “Thật không may mắn, chúng ta phải tiết kiệm đúng vào lúc có nhiều người đến Kingsbridge tìm kiếm việc làm.”
Jonathan nói: “Và vì thế họ xếp hàng dài trước cổng tu viện xin bánh và súp.”
Philip gật đầu. Ông đau dớn nhìn thấy những người cường tráng xin cơm bánh vì họ không tìm được việc làm. “Nhưng hãy nhớ rằng nó là hậu quả của chiến tranh, không phải mất mùa,” ông nói.
Với lòng nhiệt thành trẻ trung Jonathan nói: “Em hy vọng có một chỗ đặc biệt trong hỏa ngục cho các vua chúa đã gây nên sự khốn khổ như thế.”
“Tôi cũng hy vọng như vậy.”
Một nhân vật lạ xuất hiện từ lùm cây và chạy về hướng Philip. Quần áo của ông rách nát, tóc ông lù xù và khuôn mặt đầy bụi đất. Philip nghĩ người này chạy trốn trước một con heo điên hay một con gấu.
Rồi người này lao vào Philip. Quá bất ngờ, Philip ngã xuống ngựa.
Kẻ tấn công ngồi trên mình ông. Hắn hôi như một con vật và tiếng rên của ông cũng giống như một con vật nữa. Philip luồn lách và dẫy dụa. Kẻ tấn công dường như muốn lấy túi da mà Philip đeo trên vai. Philip nhận ra hắn muốn cướp của ông. Không có gì trong túi, ngoại trừ một cuốn sách ‘Bài ca của Salomon’. Philip cố thoát thân, không phải ông gắn bó với cuốn sách, nhưng vì tên cướp bẩn quá.
Nhưng dây đeo đã rối và tên cướp không lấy được. Họ lăn lộn trên mặt đất cứng, Philip muốn thoát ra, còn tên cướp muốn cố giữ túi da. Philip mơ hồ nhận ra ngựa ông đã trốn đi.
Bất ngờ tên cướp bị Richard kéo ra. Philip lăn người ra và ngồi lên, nhưng ông chưa đứng lên được. Ông bàng hoàng và hụt hơi. Ông hít không khí trong lành, nhẹ người vì thoát được tên cướp độc hại. Ông cảm thấy nhiều chỗ bị đau nhức, nhưng không bị gẫy gì. Ông chú ý đến người khác.
Richard đã vật tên cướp xuống đất và đứng trên hắn, một chân trên vai hắn và chĩa mũi kiếm vào cổ hắn. Jonathan giữ hai con ngựa còn lại và nhìn ngơ ngác.
Philip thận trọng đứng lên, cảm thấy loạng quạng. Khi tôi bằng tuổi Jonathan, ông nghĩ, tôi có thể ngã ngựa và đứng dậy được ngay.
Richard nói: “Nếu ông trông tên cướp này, tôi sẽ lấy lại con ngựa của ông.” Cậu đưa cho Philip cây kiếm.
“Được,” Philip nói. Ông đẩy thanh kiếm đi. “Tôi không cần nó.”
Richard do dự, rồi cất thanh kiếm đi. Kẻ trộm nằm yên. Chân hắn thò ra khỏi áo ngoài, gầy như que củi và có cùng màu như que củi; và hắn đi chân không. Phlip không ở trong tình trạnh nguy hiểm nghiêm trọng: người đàn ông nghèo khổ này quá yếu để siết cổ con gà. Richard đi tìm ngựa cho Philip.
Khi tên cướp thấy Richard đi, hắn cựa quậy. Philip biết hắn muốn tìm cách trốn. Ông nói: “Ông muốn ăn gì không?”
Tên cướp ngẩng đầu nhìn Philip như thể hắn nghĩ Philip bị điên.
Philip đi đến bên con ngựa của Jonathan và mởi túi đeo bên yên. Ông lấy một ổ bánh, bẻ ra và cho tên cướp một nửa. Bán tín bán nghi hắn cầm lấy và nhét tất cả vào miệng.
Philip ngồi trên mặt đất và theo dõi hắn. Người đàn ông ăn như một con vật, cố nhét vào miệng bao nhiêu có thể vì sợ bữa ăn có thể bị lấy lại. Lúc đầu Philip nghĩ hắn là một ông già, nhưng bây giờ khi nhìn kỹ hơn, ông nhận ra tên cướp còn rất trẻ, chừng hai mươi lăm.
Richard trở về, đem theo con ngựa của Philip. Cậu phẫn nộ khi thấy tên cướp đang ngồi ăn. “Tại sao ông lại cho hắn đồ ăn của chúng ta?” cậu hỏi Philip.
“Bởi vì ông ấy sắp chết đói,” Philip nói.
Richard không trả lời, nhưng thái độ của cậu nói lên rằng, cậu cho các tu sĩ là điên khùng.
Khi tên cướp ăn xong, Philip nói: “Ông tên gì?”
Người đàn ông cảnh giác. Ông ấy do dự. Có lẽ đã từ lâu ông ấy không nói chuyện với người nào, Philip nghĩ. Sau cùng hắn nói: “David.”
Dù sao hắn vẫn còn tỉnh táo, Philip nghĩ. Ông nói: “Chuyện gì đã xẩy ra với ông, David?”
“Tôi đã mất nông trại của tôi sau mùa gặt vừa qua.”
“Ai là chủ ruộng của ông?”
“Bá tước thành Shiring.”
William Hamleigh. Philip không ngạc nhiên.
Sau ba năm mất mùa hàng ngàn người thuê đất đã không có khả năng trả tiền thuê đất. Khi những người thuê đất của Philip không đủ khả năng trả tiền thuê, ông tha cho họ vì ông nghĩ đơn giản là nếu họ nghèo khó, họ cũng lại đến tu viện xin ăn. Các chủ đất khác, đặc biệt là William tận dụng cơ hội của cuộc khủng hoảng để đuổi người thuê và lấy lại trang trại của họ. Hậu quả là số người sống ngoài vòng pháp luật ở trong rừng tăng lên và họ sống bằng của ăn cướp từ khách du hành. Đó là lý do tại sao Philip phải đem Richard theo hộ vệ khắp nơi ông đi.
“Gia đình ông thì sao?” Philip hỏi tên cướp.
“Vợ tôi đem con về ở với mẹ. Nhưng ở đó không có chỗ cho tôi.”
Nó là một câu chuyện quen thuộc. Philip nói: “Ăn cướp của một tu sĩ là một tội, David; và sống bằng trộm cướp là một sai lầm.”
“Nhưng tôi sống thế nào được?” người đàn ông thét lên.
“Nếu ông dự định sống trong rừng, tốt hơn ông nên bắt chim và cá.”
“Tôi không biết cách bắt.”
“Làm người ăn cướp ông cũng không thành công hơn,” Philip nói. “Với hai tay không ông có cơ hội gì chống lại ba chúng tôi, và Richard đây có trang bị đủ vũ khí?”
“Tôi hoàn toàn tuyệt vọng.”
“Được, lần sau khi ông tuyệt vọng, hãy đến một tu viện. Ở đó luôn luôn có cái gì đó cho người nghèo.” Philip đứng lên. Hương vị chua của đạo đức giả trong miệng ông. Ông biết các tu viện không có thể cho tất cả những người sống ngoài vòng pháp luật ăn. Hầu hết họ không làm gì khác ngoài việc trộm cướp. Nhưng vai trò của ông trong đời là để tư vấn đời sống đạo đức, không phải để biện hộ cho tội lỗi.
Ông không thể làm gì nhiều hơn cho người bất hạnh này. Ông cầm lấy sợi dây cương và leo lên yên ngựa. Ông có thể nói rằng những vết thương từ việc ngã ngựa vừa qua sẽ còn làm ông đau nhức nhiều ngày nữa. “Hãy đi và đừng phạm tội nữa,” ông nói theo lời của Chúa Giê Su; rồi ông thúc ngựa đi.
“Ông tốt quá, thực sự tốt,” Richard nói khi họ cưỡi ngựa đi.
Philip lắc đầu buồn bã. “Vấn đề thực sự là: tôi chưa tốt đủ.”
Vào ngày chủ nhật trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, William Hamleigh kết hôn.
Đó là ý tưởng của mẹ cậu.
Đã nhiều năm bà đã thôi thúc cậu tìm một người vợ và có con để nối dõi, nhưng cậu luôn thờ ơ. Phụ nữ làm cậu chán và, trong một cách mà cậu không hiểu và thực sự không muốn nghĩ về, họ làm cậu lo lắng. Cậu luôn luôn nói với mẹ là cậu sẽ kết hôn ngay nhưng cậu không làm gì về chuyện đó.
Sau cùng bà tìm cho cậu một cô dâu.
Tên cô là Elizabeth. Cô là con gái của Harold thành Weymouth, một hiệp sĩ giàu có và là người ủng hộ mạnh mẽ vua Stephen. Bà mẹ đã cắt nghĩa cho cậu rằng, nếu cậu cố gắng một chút cậu có thể có một hôn nhân tốt hơn – giả sử như với con gái một bá tước – nhưng cậu không để tâm trí vào việc đó, nên với Elizabeth là được rồi.
Wiliam đã gặp cô ấy trong cung vua ở Winchester, và bà mẹ đã để ý khi cậu nhìn chằm chằm vào cô. Cô có khuôn mặt đẹp, mái tóc nâu sáng dầy, cặp ngực to và hông bé – một mẫu người William ưa thích.
Cô mười bốn tuổi.
Khi William nhìn cô, cậu đã tưởng tượng gặp cô vào một đêm tối và ép cô vào các con hẻm sau của Winchester: cậu không nghĩ về hôn nhân. Tuy nhiên bà mẹ đã nhanh chóng tìm ra rằng, ông bố là người dễ chịu và cô là đứa con vâng lời nên cô sẽ làm theo lời bố. Sau khi bà chắc chắn với William rằng sẽ không có sự sỉ nhục như Aliena đã gây ra cho gia đình, bà mẹ sắp xếp một cuộc gặp.
William lo âu. Lần trước, khi cậu làm chuyện này, cậu mới là chàng trai hai mươi chưa kinh nghiệm gặp một thiếu nữ kiêu kỳ của một gia đình quý tộc. Nhưng bây giờ cậu đã là một chiến binh cứng rắn, ba mươi bảy tuổi, và cậu đã là bá tước thành Shiring từ mười năm qua. Thật là khờ dại khi cậu lo lắng về cuộc gặp với một cô gái mười bốn tuổi.
Tuy nhiên cô lại hồi hộp hơn. Cô cố gắng làm hài lòng cậu. Cô hăng hái kể về nhà và gia đình cô, về ngựa và chó, về mối quan hệ họ hàng và bạn bè của cô. Cậu ngồi im lặng, ngắm nhìn khuôn mặt cô, tưởng tượng cô sẽ ra sao khi cô trần truồng.
Giám mục Waleran làm phép cưới cho họ trong nhà nguyện của lâu đài lãnh chúa. Sau đó là một buổi tiệc kéo dài tới đêm. Theo phong tục, tất cả những nhân vật quan trọng trong quận phải được mời, và William sẽ xấu hổ nếu không thiết đãi một bữa tiệc hoành tráng. Họ nướng ba con bò, hàng chục con cừu và heo trong khuôn viên lâu đài, và khách khứa uống cạn bia, rượu táo và rượu vang trong hầm rượu của lâu đài. Mẹ của William chủ trì bữa tiệc với một cái nhìn đắc thắng trên khuôn mặt bà. Giám mục Waleran khó chịu về buổi tiệc thô tục, và ông ra về khi cậu của cô dâu bắt đầu kể những câu truyện hài hước về các đôi mới lấy nhau.
Cô dâu và chú rể lui về phòng ngủ của họ khi đêm xuống, và để khách khứa tiếp tục say sưa. William đã có mặt ở nhiều đám cưới đủ để biết những gì các người khách trẻ đang nghĩ, vì thế cậu cắt đặt Walter ở ngoài phòng và chặn cửa để tránh bị làm phiền.
Elizabeth cởi áo ngoài, giày rồi đứng đó trong bộ áo lụa. “Em không biết phải làm gì,” cô nói đơn giản. “Anh phải chỉ cho em biết.”
Điều đó không hoàn toàn như William đã tưởng tượng. Cậu đi về phía cô. Cô ngấc mặt lên, và cậu hôn lên môi mềm mại của cô. Nhưng nó không tạo nên kích thích. Cậu nói: “Cởi áo ra và nằm xuống giường.”
Cô cởi áo qua khỏi đầu. Cô khá đầy đặn. Bộ ngực lớn của cô có núm vú nhỏ. Một đám lông màu nâu sáng bao phủ khu tam giác giữa chân cô. Ngoan ngoãn, cô đến giường và nằm xuống.
William đá chiếc giày của cậu ra. Cậu ngồi trên giường bên cạnh cô và siết chặt ngực cô. Da cô mềm mại. Người con gái ngọt ngào, chiều chuộng và vui vẻ này không giống với tưởng tượng đã làm cậu thèm khát, tưởng tượng về một người phụ nữ đầy đam mê, nằm thở hổn hển và đổ mồ hôi dưới người cậu, và cậu cảm thấy bị lừa.
Cậu đặt tay lên giữa hai đùi cô và cô dạng chân ngay. Cậu cho ngón tay vào cô. Cô kêu lên một tiếng nhỏ vì đau, nhưng vội vàng nói: “Không sao cả.”
Cậu phân vân không biết có phải cậu đã làm sai cách không. Cậu có một tưởng tượng hoàn toàn khác, trong đó hai người nằm bên nhau, vuốt ve, nói chuyện và làm quen dần với nhau. Tuy nhiên tiếng kêu của cô đã kích thích cậu, và cậu bỏ qua sự nghi ngờ và cậu sờ cô thô bạo hơn. Cậu quan sát khuôn mặt cô khi cô phải chống cự lại nỗi đau âm thầm.
Cậu lên giường và quỳ giữa hai chân cô. Cậu không bị kích thích hoàn toàn. Cậu tự cọ sát cho nó cứng hơn nhưng không kết quả. Cậu chắc rằng nụ cười chết tiệt của cô đã làm cậu bất lực. Cậu cho hai ngón tay vào cô và cô kêu lên đau đớn. Như thế tốt hơn. Rồi cô khờ dại này lại cười. Cậu nhận ra cậu phải chấm dứt nụ cười trên mặt cô. Cậu tát mạnh vào cô. Cô kêu lên và môi cô chảy máu. Như thế càng tốt hơn.
Cậu đánh cô thêm.
Cô bắt đầu khóc.
Sau đó mọi chuyện tốt đẹp.
Chủ nhật sau đó rơi vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và một số đông sẽ tham dự ở nhà thờ chính tòa. Giám mục Waleran sẽ chủ sự giờ lễ. Sẽ có nhiều người tham dự hơn mọi khi vì mọi người đều muốn ngắm gian ngang mới vừa được hoàn thành gần đây. Tin đồn rằng nó tuyệt đẹp. Trong giờ lễ này William sẽ giới thiệu vợ cậu cho người dân bình thường trong quận. Từ khi xây tường thành cậu đã không đến đây, nhưng Philip không thể cấm cậu đi nhà thờ.
Hai ngày trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, mẹ cậu qua đời.
Bà ấy chừng sáu mươi tuổi. Nó hoàn toàn bất ngờ. Bà cảm thấy khó thở sau bữa cơm tối vào ngày thứ sáu và lên giường sớm. Cô hầu đánh thức William trước bình minh và cho cậu biết mẹ cậu đang bị nạn. Cậu ra khỏi giường, lấy tay chà lên mặt và đi gấp vào phòng bà. Cậu thấy bà há hốc miệng để thở, không còn nói nên lời và một cái nhìn kinh khủng trong mắt bà.
Hơi thở hổn hển run rẩy của bà và đôi mắt chằm chằm của bà làm William hoảng sợ. Bà tiếp tục nhìn cậu như thể bà chờ đợi cậu sẽ làm gì đó. Cậu quá sợ hãi đến nỗi cậu quyết định rời phòng, và cậu quay đi; rồi cậu thấy người hầu đứng ở cửa, và cậu xấu hổ về sự sợ hãi của cậu. Cậu ép mình nhìn vào mẹ. Khuôn mặt bà dường như thay đổi thường xuyên trong ánh sáng lập lòe của một ngọn nến. Hơi thở khàn, đứt quãng của bà to dần, to dần cho đến khi đổ đầy đầu cậu. Cậu không hiểu tại sao nó không đánh thức cả tòa lâu đài dậy. Cậu bịt tai lại bằng hai bàn tay nhưng cậu vẫn nghe thấy nó. Dường như bà muốn hét lên với cậu, cách mà bà đã làm khi cậu còn là một đứa bé, và khuôn mặt bà cũng giận dữ nữa, miệng mở rộng, đôi mắt chằm chằm, mái tóc rối. Cậu tin chắc rằng bà đòi hỏi một cái gì đó phải lớn lên, và cậu cảm thấy chính mình trẻ đi và nhỏ đi, cho đến khi cậu cảm thấy một sự khiếp sợ mù quáng mà cậu chưa bao giờ có, một sự khiếp sợ đến từ nhận biết rằng người duy nhất cậu yêu lại là một con quái vật giận dữ. Nó thường xẩy ra như thế này: Bà muốn cậu đến bên bà, hay đi ra, hay lên ngựa, hay xuống ngựa; và cậu sẽ chần chừ làm theo, vì thế bà sẽ la lên; và rồi cậu quá sợ hãi đến nỗi không hiểu bà muốn cậu làm gì; và nó sẽ là một bế tắc cuồng loạn, với tiếng la hét lớn hơn và lớn hơn của bà và cậu trở thành mù quáng, điếc và câm trước sự hoảng loạn.
Nhưng lần này khác.
Lần này bà chết.
Trước hết mắt bà nhắm lại. William bắt đầu cảm thấy bình tĩnh hơn. Dần dần hơi thở bà nông hơn. Khuôn mặt bà xám đi dù có nhiều mụn nhọt. Ngay cả ngọn nến dường như cháy yếu đi, và chiếc bóng chuyển động không còn làm cậu sợ. Sau cùng hơi thở bà dừng lại.
“Đây,” William nói, “có phải bây giờ bà tốt hơn không?”
Người giúp việc bật khóc.
Cậu ngồi xuống bên cạnh giường, nhìn vào khuôn mặt bất động của bà. Người giúp việc gọi vị linh mục. Ông giận dữ nói: “Tại sao bà không kêu tôi sớm hơn?” William không chăm chú nghe ông ấy. Cậu vẫn ngồi với bà cho đến bình minh; rồi các phụ nữ giúp việc yêu cầu cậu ra ngoài để họ có thể “lo cho bà”. William đi xuống sảnh đường, nơi cư dân lâu đài – hiệp sĩ, binh lính, giáo sĩ và người giúp việc – đang ăn sáng nhẹ. Họ ngồi ở bàn bên cạnh người vợ trẻ của cậu và uống ít rượu. Một hai người hiệp sĩ và người quản lý nói với cậu, nhưng cậu không trả lời. Sau đó Walter đi vào và ngồi bên cậu. Walter đã ở bên cậu nhiều năm và ông ấy biết khi nào nên im lặng.
Một lúc sau William hỏi: “Những con ngựa đã sẵn sàng chưa?”
Walter nhìn ngạc nhiên. “Để làm gì?”
“Cho cuộc hành trình đến Kingsbridge. Nó cần hai ngày đường – chúng ta phải khởi hành sáng nay.”
“Tôi nghĩ chúng ta không nên đi – trong hoàn cảnh…”
William giận dữ. “Tôi có nói là chúng ta không nên đi sao?”
“Không, thưa ngài.”
“Vậy thì chúng ta đi.”
“Vâng, thưa ngài.” Walter đứng dậy.
Họ lên đường sáng hôm đó, William và Elizabeth cùng với đoàn tùy tùng gồm các hiệp sĩ và người hầu cận. William cảm thấy như cậu ở trong mơ. Phong cảnh dường như di chuyển qua cậu, thay vì ngược lại. Elizabeth cưỡi ngựa bên cạnh cậu, yên lặng và bị thương nhẹ. Khi họ dừng lại Walter lo lắng mọi chuyện. Mỗi bữa ăn William ăn một ít bánh và uống nhiều chén rượu. Trong đêm ông ngủ chập chờn.
Khi họ đến gần Kingsbridge, ngang qua cánh đồng màu xanh họ có thể thấy nhà thờ chính tòa từ xa. Nhà thờ chính tòa cũ là một tòa nhà thấp, bành ra với những cửa sổ nhỏ như con mắt lấp láy dưới lông mày cong tròn. Nhà thờ mới trông hoàn toàn khác, ngay cả nó chưa hoàn thành. Nó cao và mỏng, và các cửa sổ lớn không tưởng được. Khi họ đến gần hơn, William thấy nhà thờ làm cho các tòa nhà tu viện xung quanh nó thành nhỏ xíu.
Con đường đông đúc với người cuỡi ngựa và người đi bộ, tất cả hướng về Kingsbridge: lễ Chúa Thánh thần hiện xuống được phổ biến vì nó rơi vào đầu mùa hè khi thời tiết tốt và những con đường khô ráo. Năm nay có nhiều người đến hơn mọi năm vì bị thu hút bởi sự mới lạ của tòa nhà mới.
Vào chặng đường cuối William và đoàn của cậu phi nước đại, đẩy dạt người đi bộ sang một bên, rồi chạy lên cây cầu gỗ bắc ngang dòng sông. Kingsbridge bây giờ là một trong những thị trấn chắc chắn nhất nước Anh. Nó có một bức tường đá dầy với công sự và lỗ châu mai, và nơi đây, trước kia là cây cầu dẫn thẳng vào con đường chính, bây giờ là một tháp canh bằng đá có cánh cửa sắt to lớn đóng lại vào ban đêm. Tôi không nghĩ tôi có thể đốt cháy thị trấn này lần nữa, William mơ hồ nghĩ.
Dân chúng nhìn chằm chằm khi cậu cưỡi ngựa theo con đường chính vào tu viện. Dân chúng luôn nhìn William, dĩ nhiên, vì cậu là lãnh chúa. Hôm nay họ lại quan tâm tới cô dâu trẻ bên phía trái cậu. Bên phải cậu là Walter, như mọi khi.
Họ cưỡi ngựa vào khu tu viện và xuống ngựa ở chuồng ngựa. William đưa ngựa cho Walter và quay lại nhìn vào nhà thờ. Đầu phía đông, phần đầu của hình thánh giá, ở phía xa nên bị che khuất. Đầu phía tây, phần đuôi của hình thánh giá, chưa được xây dựng, nhưng hình dáng của nó được đánh dấu trên mặt đất bằng cọc và dây, và một vài nền móng đã được đào. Giữa hai phần này là phần mới, hai cánh tay của thánh giá là gian ngang phía bắc và phía nam, với một không gian ở giữa được gọi là khu trung tâm. Các cửa sổ to như có thể. William chưa bao giờ nhìn thấy một tòa nhà như thế trong đời cậu.
“Thật tuyệt vời,” Elizabeth nói, phá vỡ sự im lặng phục tùng của cô.
William ước gì cậu đã để cô lại ở nhà.
Với một chút kính sợ cậu chậm rãi bước lên gian giữa, giữa hàng cọc và dây, với Elizabeth theo sau. Ô thứ nhất của gian giữa đã được xây một phần, nhưng nó trông như đang đỡ mái vòm nhọn to lớn, kéo dài từ cổng phía tây đến khu trung tâm. William đi dưới mái vòm không thể tưởng tượng được này và đến khu trung tâm đầy người.
Tòa nhà mới trông như không thật: nó quá cao, quá mảnh mai, quá duyên dáng và dễ vỡ để đứng thẳng. Nó như không có tường, không có gì đỡ mái nhà nhưng một hàng cột uyển chuyển vươn lên tới trời. Như những người xung quanh, William ngẩng cổ lên nhìn và thấy rằng các cột tiếp tục vươn lên trên mái trần và gặp nhau ở chính giữa mái vòm, giống như các cành cây đu đan chéo với nhau ở trong rừng.
Buổi lễ bắt đầu. bàn thờ được thiết lập ở gần cuối gian cung thánh, với các tu sĩ ở sau nó, vì thế mà khu trung tâm và cả hai gian ngang dành cho cộng đồng. Nhưng mặc dù vậy đám đông vẫn tràn lên cả gian giữa chưa được xây dựng. William tiến lên phía trước, như nó là đặc quyền của cậu, và đứng gần bàn thờ chung với giới quý tộc khác trong vùng, những người gật đầu với cậu và thì thầm với nhau.
Mái trần bằng gỗ của gian cung thánh cũ không thích hợp với mái vòm cao phía đông của khu trung tâm, và nó rõ ràng là nhà xây dựng chính có ý sẽ phá hủy gian cung thánh và xây dựng lại theo kiểu mới.
Vừa khi ý tưởng này đến trong đầu cậu, William đã nhìn thấy người xây dựng chính Jack Jackson. Cậu là chàng đẹp trai với mái tóc đỏ, và cậu mặc một áo dài màu đỏ đậm thêu ở viền tay và cổ áo, giống như một nhà quý tộc. Cậu có vẻ hài lòng với chính mình, không nghi ngờ gì vì cậu xây hai gian ngang quá nhanh và mọi người ngạc nhiên về thiết kế của cậu. Cậu dắt một bé trai chừng chín tuổi giống cậu như đúc. William sửng sốt nhận ra rằng đó phải là con của Aliena, và cậu cảm thấy đau nhói vì ghen tị. Một lúc sau cậu thấy Aliena. Cô đứng một bên phía sau Jack với một nụ cười tự hào trên khuôn mặt. Tâm hồn William rộn ràng: cô vẫn đáng yêu như ngày nào. Elizabeth là một thay thế nghèo nàn, một mô phỏng nhợt nhạt của một Aliena thật sự và sống động. Trong tay Aliena dắt một bé gái chừng bảy tuổi, và Williiam nhớ lại cô đã có một đứa con thứ hai với Jack ngay cả họ chưa kết hôn.
William nhìn kỹ hơn Aliena. Cô không còn hoàn toàn đẹp như trước: xung quanh mắt cô có đường nhăn và đàng sau nụ cười tự hào là một chút buồn bã. Sau nhiều năm cô vẫn chưa có thể lấy Jack, dĩ nhiên, William nghĩ về nó và cảm thấy hài lòng: Giám mục Waleran đã giữ lời hứa và nhiều lần ngăn chặn việc vô hiệu hóa hôn nhân của họ. Ý nghĩ đó thường cho William niềm an ủi.
Đó là Waleran, bây giờ William nhận ra, người đang nâng Mình Thánh Chúa lên cao để mọi người trong cộng đoàn có thể nhìn thấy. Hàng trăm người quỳ xuống. Tấm bánh trở thành Mình Chúa Kitô vào thời điểm đó, một biến đổi làm William kính sợ, mặc dù cậu không hiểu điều gì thực sự xẩy ra.
Cậu tập trung vào buổi lễ, chăm chú theo dõi hành động mầu nhiệm của linh mục, lắng nghe những câu Latin mà không hiểu gì và lẩm bẩm những câu thưa quen thuộc. Cảm giác choáng váng của mấy ngày qua vẫn chưa nguôi ngoai, và ngôi nhà thờ mới huyền diệu, với ánh sáng mặt trời đùa chơi trên các hàng cột không tưởng được, tăng thêm cảm giác như thể trong một giấc mơ.
Buổi lễ sắp kết thúc, Giám mục Waleran nói với cộng đoàn: “Giờ đây chúng ta cầu nguyện cho linh hồn Nữ bá tước Regan Hamleigh, mẹ của bá tước William thành Shiring, người mới qua đời đêm thứ sáu.”
Khi nghe tin, có tiếng xì xèo bàn tán, còn William nhìn chằm chằm vào vị giám mục trong kinh hoàng. Sau cùng cậu nhận ra những gì bà đã cố gắng nói trước khi chết. Bà đã yêu cầu gặp một linh mục – nhưng cậu đã không đi tìm linh mục cho bà. Cậu đã nhìn bà suy yếu dần, cậu đã nhìn mắt bà nhắm lại, cậu đã nghe hơi thở bà ngưng lại và cậu đã để bà chết mà không được xưng tội. Làm sao cậu lại có thể làm như thế? Kể từ đêm thứ sáu linh hồn bà đã ở trong hỏa ngục, chịu nhiều đau khổ mà bà đã nhiều lần mô tả cho cậu, mà không có lời nguyện nào xoa dịu bà. Trái tim cậu trĩu nặng quá nhiều tội lỗi đến nỗi cậu cảm thấy nó đập chậm lại, và có lúc cậu tưởng mình cũng sẽ chết. Làm sao cậu có thể để bà ở nơi sợ hãi đó, để linh hồn bà bị biến dạng như khuôn mặt bà bị những vết ung nhọt, trong khi bà mong mỏi niềm hạnh phúc trên thiên đàng? “Tôi phải làm gì?” cậu nói to, và đám đông xung quanh nhìn cậu ngạc nhiên.
Khi buổi lễ chấm dứt và các tu sĩ theo hàng đi ra, William vẫn còn quỳ đàng trước bàn thờ. Phần còn lại của cộng đoàn cũng bước ra ánh sáng mặt trời, bỏ mặc cậu ngoại trừ duy nhất Walter còn ở lại gần đó, quan sát và chờ đợi. William vẫn cầu nguyện với tất cả sức lực, giữ hình ảnh mẹ trong đầu, trong khi cậu lập lại kinh ‘Lạy Cha’ và những lời kinh khác mà cậu còn nhớ được. Một lúc sau cậu nhận ra còn nhiều việc khác cậu có thể làm. Cậu có thể thắp nến, cậu có thể xin các linh mục và tu sĩ dâng lễ cho linh hồn bà thường xuyên; cậu có thể xây một nhà nguyện đặc biệt vì lợi ích cho linh hồn bà. Nhưng tất cả những gì cậu nghĩ được dường như vẫn chưa đủ. Nó dường như cậu có thể nhìn thấy bà, thấy bà lắc đầu, nhìn cậu đau khổ và thất vọng, rồi nói: “Con còn để mẹ phải đau khổ bao lâu nữa?”
Cậu cảm thấy một bàn tay đặt trên vai cậu và cậu ngẩng lên. Giám mục Waleran đứng trước mặt cậu, vẫn còn mặc chiếc áo đỏ tuyệt đẹp ông vẫn mặc trong dịp lễ Chúa Thánh thần hiện xuống. Đôi mắt đen của ông nhìn sâu vào mắt William, và William cảm thấy như thể cậu không giữ được bí mật nào trước cái nhìn xuyên thấu đó. Waleran nói: “Tại sao ông khóc?”
William nhận ra khuôn mặt cậu đẫm nước mắt. Cậu nói: “Bây giờ mẹ tôi ở đâu?”
“Bà ấy được thanh tẩy bằng lửa.”
“Bà ấy có phải đau khổ không?”
“Đau khổ kinh khủng. Nhưng chúng ta có thể làm cho linh hồn những người thân yêu của chúng ta chóng đi qua nơi sợ hãi đó.”
“Tôi sẽ làm mọi sự!” William nức nở. “Hãy cho tôi biết, tôi phải làm gì!”
Mắt Waleran long lanh với tham vọng. “Hãy xây một nhà thờ,” ông nói. “Giống như nhà thờ này. Nhưng ở Shiring.”
Một cơn giận dữ lạnh lùng luôn nổi lên trong Aliena mỗi khi cô đi qua vùng đất xưa kia thuộc về lãnh địa của bố cô. Tất cả các mương bị ngưng đọng, các hàng rào gẫy đổ và trống rỗng, và các chuồng bò xiêu vẹo làm cô tức giận; những cánh đồng trơ trọi làm cô buồn; và những ngôi làng bỏ hoang phá vỡ tim cô. Nó không phải chỉ vì mất mùa. Lãnh địa có thể nuôi sống cư dân, ngay cả trong năm nay, nếu nó được quản lý đúng. Nhưng William không có ý niệm về quản lý và điều hành mảnh đất của cậu. Đối với cậu, lãnh địa là một kho tàng tư nhân, không phải mảnh đất để nuôi sống dân. Khi nông nô của cậu thiếu đồ ăn, họ chết đói. Khi người thuê đất của cậu không trả được tiền thuê, cậu đuổi họ đi. Từ khi William trở thành bá tước, diện tích đất canh tác đã thu nhỏ lại, vì những mảnh đất của người thuê bị đuổi đã trở lại thành mảnh đất hoang. Và cậu cũng không nhìn thấy được rằng, điều này không thể mang lại lợi ích cho chính cậu về lâu về dài.
Aliena cảm thấy có một phần trách nhiệm trong sự tồi tệ này. Nó là mảnh đất của bố cô, và cô và Richard đã không chiếm lại được cho gia đình. Họ đã bỏ cuộc khi Wiliam trở thành bá tước và Aliena mất hết tài sản; nhưng sự thất bại này vẫn làm cô đau lòng, và cô chưa quên lời thề với bố cô.
Trên con đường từ Winchester tới Shiring, với một xe đầy sợi và một người phu xe khỏe mạnh có thanh kiếm ở thắt lưng, cô nhớ lại đã cùng với bố cô cưỡi ngựa trên con đường này. Ông liên tục mở mang thêm đất canh tác bằng cách phá rừng, thoát nước đầm lầy hay cày xới sườn đồi. Trong những năm mất mùa ông luôn luôn để dành hạt giống cung cấp cho những người không biết lo xa hoặc những người quá đói không có cái để dành. Ông không bao giờ ép người thuê đất phải bán thú vật hoặc máy cày của họ để trả tiền thuê, bởi vì ông biết rằng nếu họ làm thế, họ sẽ không có khả năng để canh tác vào năm sau. Ông bảo trì đất tốt, giữ cho nó mầu mỡ để nó cung cấp nhiều sản phẩm, như một nông dân tốt lo lắng cho con bò sữa của mình.
Bất cứ khi nào cô nghĩ về những ngày xưa, những ngày có người bố thông minh, tự hào và cương trực bên cạnh, cô cảm thấy sự mất mát ông như một vết thương. Cuộc sống đã bắt đầu đi xuống từ khi mất ông. Khi nhìn lại những gì cô đã làm kể từ đó, tất cả đối với cô dường như chỉ là khoảng trống: sống trong lâu đài với Matthew như trong một thế giới ảo tưởng; đến Winchester trong một hy vọng mỏng manh để gặp vua; ngay cả phấn đấu để hỗ trợ cho Richard khi cậu chiến đấu trong cuộc nội chiến. Cô đã đạt được những cái mà người khác nghĩ là thành công: cô đã trở thành một thương gia len giàu có. Nhưng cái đó chỉ đem lại cho cô vẻ hạnh phúc bên ngoài. Cô đã tìm thấy một cách sống và một chỗ đứng trong xã hội cho cô sự bảo đảm và ổn định, nhưng trong trái tim cô vẫn đau và mất mát – cho đến khi Jack xuất hiện trong đời cô.
Kể từ khi cô không thể lấy Jack, mọi chuyện lại thành tồi tệ. Cô trở nên căm ghét Tu viện trưởng Philip, người mà một lần trong đời cô đã coi như ân nhân và cố vấn của cô. Từ nhiều năm nay cô không còn nói chuyện thân thiện với ông. Dĩ nhiên, nó không phải do lỗi ở ông mà họ không nhận được sự vô hiệu hóa hôn nhân; nhưng ông là người đã quyết định họ phải sống xa nhau, và Aliena không thể tha thứ cho ông về điều đó.
Cô yêu con cái của cô, nhưng cô lo âu về chúng khi chúng được nuôi nấng trong một gia đình không tự nhiên như thế, với một người bố ra đi mỗi tối trước khi chúng lên giường ngủ. May mắn là cho đến nay không có hậu quả xấu nào: Tommy là một đứa bé vạm vỡ, đẹp trai, thích bóng đá, chạy đua và chơi quân đội đánh nhau; và Sally là một bé gái dịu dàng, chu đáo, thích kể chuyện cho búp bê của cô và thích nhìn Jack làm việc trên bản vẽ. Nhu cầu thường ngày và tình yêu đơn sơ của chúng là yếu tố bình thường chắc chắn trong cuộc sống lập dị của Aliena.
Cô vẫn còn làm việc, dĩ nhiên. Từ khi trưởng thành cô đã là thương gia của một số ngành nghề. Hiện tại cô có hàng chục công nhân trong các làng rải rác; họ kéo sợi và dệt cho cô trong nhà của họ. Một vài năm trước đây cô có hàng trăm, nhưng cô cũng cảm thấy ảnh hưởng của nạn đói giống như mọi người khác, nên cô không sản xuất nhiều vải hơn số lượng có thể bán ra. Ngay cả nếu cô kết hôn với Jack, cô vẫn muốn có một công việc độc lập của riêng cô.
Tu viện trưởng luôn nói rằng việc vô hiệu hóa hôn nhân có thể được cấp bất cứ lúc nào, nhưng Aliena và Jack đã sống cuộc sống khó chịu này bảy năm nay, ăn chung với nhau, cùng nhau nuôi dạy con cái và ngủ riêng.
Cô cảm thấy niềm bất hạnh của Jack mạnh mẽ hơn cô. Cô ngưỡng mộ cậu. Không ai biết cô yêu cậu nhiều như thế nào, có lẽ ngoại trừ mẹ cậu, Ellen, người thấy mọi sự. Cô yêu cậu vì cậu đã đem cô trở về với đời sống. Cô đã sống giống như con sâu bướm trong cái kén, và cậu đã kéo cô ra và cho cô biết cô là con bướm. Cô sẽ trải qua một cuộc đời mà không biết đến niềm vui và nỗi đau của tình yêu, nếu cậu không bước vào khu vườn bí mật của cô, và chia sẻ truyện thơ của cậu cho cô, và hôn cô nhẹ nhàng, và sau đó từ từ, dịu dàng đánh thức tình yêu ngủ sâu trong trái tim cô. Cậu quá kiên nhẫn, quá khoan dung mặc dù cậu còn trẻ. Vì điều đó cô sẽ mãi mãi yêu thương cậu.
Khi đi ngang khu rừng cô tự hỏi có lẽ nào tình cờ cô gặp mẹ Jack, Ellen, không. Họ thỉnh thoảng gặp bà, ở một hội chợ trong thị trấn nào đó; và chừng một lần trong năm bà lại lẻn vào Kingsbridge vào lúc hoàng hôn và qua đêm với các cháu của bà. Aliena cảm thấy một sự đồng cảm với Ellen: họ, cả hai là phụ nữ khác người, không phù hợp với khuôn mẫu nào. Tuy nhiên, cô ra khỏi khu rừng mà không gặp Ellen.
Khi đi ngang qua đồng lúa cô kiểm tra hoa trái trên cánh đồng. Nó sẽ là một mùa thu hoạch tốt, cô dự đoán. Họ không có mùa hè tốt, bởi vì có mưa và trời lạnh. Nhưng họ không có lũ lụt và bệnh ngũ cốc, một thứ bệnh đã phá hủy mùa gặt trong ba năm vừa qua. Aliena thầm cảm tạ. Hàng ngàn người sắp chết đói và một mùa đông xấu nữa sẽ giết chết hầu hết trong số họ.
Cô dừng lại cho bò uống nước ở một hồ giữa làng được gọi là Monksfield thuộc về tài sản của bá tước. Nó là một ngôi làng đẹp, rộng lớn, được bao bọc bởi những mảnh đất màu mỡ nhất trong vùng, và ngay cả nó một linh mục và một nhà thờ đá. Tuy nhiên năm nay chỉ có nửa cánh đồng xung quanh được gieo trồng. Những mảnh được gieo trồng bây giờ bao phủ với lúa vàng, phần còn lại mọc đầy cỏ dại.
Hai lữ khách khác cũng đã dừng lại ở đó cho ngựa uống nước. Aliena nhìn họ thận trọng. Một đôi khi cùng đi với người khác là điều tốt để bảo vệ lẫn nhau; nhưng nó cũng có thể gây nguy hiểm đối với phụ nữ. Aliena khám phá ra rằng một người đàn ông, như phu xe của cô chẳng hạn, sẽ sẵn sàng làm mọi điều mà cô ra lệnh khi họ ở một mình, nhưng trước mặt các đàn ông khác ông ấy sẽ trở thành bất tuân.
Tuy nhiên một trong hai lữ khách ở ao hồ Monksfield là một phụ nữ. Aliena nhìn kỹ hơn và nhận ra người phụ nữ đúng hơn là một cô gái. Aliena nhận ra cô. Cô đã thấy cô gái này ở nhà thờ chính tòa Kingsbridge vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đây là Nữ bá tước Elizabeth, vợ của William Hamleigh.
Cô trông đáng thương và nhút nhát. Cùng đi với cô là một binh lính, rõ ràng là người hộ vệ của cô. Đó có thể đã là số phận của tôi, Aliena nghĩ, nếu tôi kết hôn với William. Tạ ơn Chúa là tôi đã chống cự lại.
Người lính gật đầu với người phu xe và làm ngơ Aliena. Cô quyết định không cùng đi với họ.
Trong khi họ nghỉ, bầu trời chuyển sang mầu đen và một cơn gió mạnh nổi lên. “Cơn bão mùa hè,” Aliena nói với người phu xe.
Aliena nhìn lo lắng vào bầu trời. Cô không ngại ướt, nhưng cơn bão sẽ làm chậm tốc độ của họ và có thể họ phải qua đêm ngoài trời. Một vài giọt mưa rơi. Họ phải tìm nơi trú ẩn, cô miễn cưỡng quyết định.
Nữ bá tước trẻ nói với cận vệ của cô: “Tốt hơn chúng ta nên lưu lại đây một lúc.”
“Không thể được,” người cận vệ nói cộc cằn. “Đó là lệnh trên.”
Aliena bị xúc phạm khi nghe người đàn ông nói như thế với cô gái. “Đừng ngu ngốc như vậy!” cô nói. “Ông được chỉ định để chăm sóc cho bà chủ của ông.”
Người cận vệ nhìn cô kinh ngạc. “Điều đó liên quan gì đến cô?” ông ấy nói một cách thô lỗ.
“Sẽ có một trận mưa dữ dội, đồ ngốc,” Aliena nói bằng giọng quý tộc nhất. “Ông không thể yêu cầu một phụ nữ đi trong thời tiết như thế này. Chủ của ông sẽ đánh ông vì tội ngu ngốc của ông.” Aliena quay lại phía Nữ bá tước Elizabeth. Cô con gái tò mò nhìn Aliena, thể hiện rõ ràng sự hài lòng vì có người dám chống lại người cận vệ hay bắt nạt này. Trời bắt đầu mưa. Aliena có một quyết định nhanh chóng. “Đi theo tôi,” cô nói với Elizabeth.
Trước khi người cận vệ có thể phản ứng, cô đã nắm tay người con gái và bước đi. Nữ bá tước Elizabeth sẵn sàng đi theo và cười toe toét như đứa trẻ được dắt ra khỏi trường học. Aliena nghi ngờ rằng người cận vệ sẽ theo sau họ và giật cô ấy lại, nhưng vào lúc đó có một tia sét đánh xuống và cơn mưa nhỏ trở thành cơn bão. Aliena bật chạy, kéo Elizabeth theo và họ chạy qua khu nghĩa địa đến một ngôi nhà bằng gỗ bên cạnh nhà thờ.
Cánh cửa mở. Họ chạy vào. Aliena cho rằng đây là nhà của linh mục, và cô đúng. Một người đàn ông cọc cằn trong bộ áo dài đen, đeo một sợi dây có cây thánh giá nhỏ trên cổ, đứng dậy khi họ vào. Aliena biết rằng nhiệm vụ tiếp khách là một gánh nặng đối với nhiều linh mục trong giáo xứ, nhất là trong giai đoạn hiện tại. Dự đoán sẽ bị từ chối, cô nói một cách mạnh mẽ: “Người bạn đồng hành của tôi và tôi cần chỗ trú ẩn.”
“Vui lòng đón tiếp,” vị linh mục nói qua hai hàm răng nghiến chặt.
Nó là một căn nhà hai phòng với một mái che bên ngoài dành cho thú vật. Nó không được sạch, mặc dù thú vật được giữ ở bên ngoài. Có một thùng rượu trên bàn. Một con chó nhỏ sủa ăng ẳng khi họ ngồi xuống.
Elizabeth giữ chặt cánh tay Aliena. “Cảm ơn chị nhiều lắm,” cô nói. Có giọt nước mắt của lòng biết ơn trong đôi mắt cô. “Ranulf sẽ bắt tôi đi tiếp – ông ấy chẳng bao giờ nghe tôi.”
“Không có gì,” Aliena nói. “Những người đàn ông to lớn, mạnh mẽ này thường lại là người hèn nhát trong tái tim.” Cô theo dõi Elizabeth và nhận ra với một cảm giác kinh hoàng rằng, người con gái đáng thương này trông khá giống cô. Làm vợ của William đã đủ tệ hại rồi, huống chi cô lại là sự chọn lựa thứ hai của cậu ấy: nó phải là địa ngục trên trần gian.
Elizabeth nói: “Tôi là Elizabeth thành Shiring. Còn chị là ai?”
“Tên tôi là Aliena. Tôi ở Kingsbridge.” Aliena nín thở, tự hỏi không biết Elizabeth có nhận ra tên cô và biết rằng Aliena là người phụ nữ đã từ chối William Hamleigh không.
Nhưng Eliabeth còn quá trẻ để nhớ lại vụ tai tiếng đó, và cô chỉ nói: “Tên cô thật khác thường.”
Một phụ nữ ăn mặc cẩu thả, với khuôn mặt phẳng và cánh tay đẫy đà từ phòng sau bước vào, nhìn họ ngờ vực và mời họ một ly rượu. Aliena đoán bà là vợ linh mục. Có lẽ ông sẽ gọi bà là người giúp việc, kể từ khi cuộc hôn nhân của các giáo sĩ bị cấm, trong lý thuyết. Vợ các linh mục gây ra nhiều rắc rối. Nó thật tàn nhẫn khi ép người đàn ông bỏ người đàn bà và điều đó thường làm mang tiếng giáo hội. Và mặc dù hầu hết dân chúng nói chung chung rằng, các linh mục phải sống khiết tịnh, nhưng họ vẫn thường chấp nhận trong các trường hợp cụ thể, vì họ quen người đàn bà. Vì thế giáo hội vẫn làm ngơ trước tình trạng như thế này. Aliena nghĩ: Hãy biết ơn, bà ạ - vì ít nhất bà vẫn được sống với người đàn ông của bà.
Người lính và người phu xe đến, cả hai đều ướt. Người cận vệ, Ranulf, đứng trước mặt Elizabeth và nói: “Chúng ta không thể dừng lại ở đây.”
Trước sự ngạc nhiên của Aliena, Elizabeth vội tuân theo ngay. “Được,” cô nói và đứng lên.
“Ngồi xuống,” Aliena nói, kéo cô ấy lại. Cô đứng trước người cận vệ và vẫy ngón tay vào mặt ông ấy. “Nếu tôi nghe thấy lời nào của ông nữa, tôi sẽ gọi dân làng đến cứu nữ bá tước của Shiring. Họ biết cách đối xử với chủ của họ hơn là ông.”
Cô thấy Ranulf cân nhắc cơ hội của ông. Trong trường hợp nghiêm trọng ông phải xử lý với Elizabeth và Aliena, và cả người phu xe và vị linh mục nữa; nhưng ông sẽ gặp rắc rối nếu có một dân làng nào tham gia.
Sau cùng ông nói: “Có lẽ nữ bá tước tốt hơn nên tiếp tục đi.” Ông nhìn Elizabeth một cách hùng hổ.
Người con gái nhìn sợ hãi.
Aliena nói: “Vâng, thưa bà, Ranulf khiêm nhường xin bà cho biết ý kiến.”
Elizabeth nhìn cô.
“Hãy nói cho ông ấy điều cô muốn,” Aliena nói một cách khích lệ. “Nhiệm vụ của ông ấy là theo lệnh cô.”
Thái độ của Aliena cho Elizabeth can đảm. Cô hít một hơi dài và nói: “Chúng ta nghỉ lại đây. Đi ra ngoài và trông coi ngựa, Ranulf.”
Ông càu nhàu và đi ra.
Elizabeth nhìn ông đi với một biểu hiện của thích thú.
Người phu xe nói: “Nó chỉ đi đái.”
Vị linh mục cau mày vì sự thô tục của người phu xe. “Tôi chắc chắn nó chỉ là một cơn mưa bình thường,” ông nói bằng giọng khó chịu. Aliena không nhịn được cười và Elizabeth cười theo. Aliena có cảm giác cô ấy không thường hay cười.
Âm thanh của cơn mưa trở thành tiếng trống lớn. Aliena nhìn qua cửa mở. Nhà thờ chỉ cách đó vài thước Anh nhưng cơn mưa đã che khuất nó. Nó sẽ là một cơn bão mạnh thực sự.
Aliena nói với người phu xe: “Ông đã che kín xe chưa?”
Người đàn ông gật đầu. “Cả thú vật nữa.”
“Được. Tôi không muốn sợi của tôi kết lại với nhau.”
Ranulf vào lại, ướt sũng.
Có một tia chớp, theo sau là một chuỗi sấm sét dài. “Nó sẽ không tốt cho mùa màng,” vị linh mục lo lắng nói.
Ông ấy có lý, Aliena nghĩ. Những gì chúng cần là ba tuần nắng ấm.
Lại có một tia chớp khác và một chuỗi dài sấm sét, và một cơn gió mạnh làm rung chuyển căn nhà gỗ. Nước lạnh nhỏ xuống đầu Aliena, và cô nhìn lên thấy nước nhỏ giọt từ mái nhà tranh. Cô chuyển chỗ ngồi khỏi chỗ nước nhỏ. Mưa thổi qua cửa, nhưng dường như không ai muốn đóng cửa lại: Aliena thích nhìn vào cơn bão hơn và hình như những người khác cũng cảm thấy như thế.
Cô nhìn Elizabeth. Mặt cô gái trắng bệch. Aliena đặt cánh tay xung quanh cô. Cô run rẩy mặc dù trời không lạnh. Aliena ôm cô.
“Tôi sợ,” Elizabeth thì thầm.
“Nó chỉ là một cơn bão,” Aliena nói.
Bên ngoài trời trở nên rất tối. Aliena nghĩ có lẽ nó đã gần đến giờ ăn tối; rồi cô nhận ra cô chưa ăn trưa: trời mới vào giữa trưa. Cô đứng lên và đi ra cửa. Bầu trời màu xám sắt. Cô chưa bao giờ gặp thời tiết đặc biệt như thế này trong mùa hè. Gió giật mạnh. Một ánh chớp chiếu sáng nhiều vật bay qua cửa: một tấm chăn, một bụi cây nhỏ, một bát gỗ, một thùng rỗng.
Cô đi vào lại, cau mày và ngồi xuống. Cô hơi lo. Căn nhà lại lắc lư. Cột giữa chống mái nhà rung chuyển. Đây là một trong những căn nhà xây tốt trong làng, cô ngẫm nghĩ lại: nếu căn nhà này không vững, những căn khác trong khu nghèo sẽ có nguy cơ sụp đổ. Cô nhìn vị linh mục. “Nếu tình trạng tồi tệ hơn chúng ta phải tập hợp dân làng lại và trú ẩn trong nhà thờ,” cô nói.
“Tôi sẽ không ra ngoài làm chuyện đó,” linh mục nói với một nụ cười ngắn.
Aliena nhìn ông không thể tin được. “Họ là đàn chiên của ông,” cô nói. “Ông là chủ chiên của họ.”
Vị linh mục nhìn lại cô với cái nhìn xấc láo. “Tôi chịu trách nhiệm với giám mục ở Kingsbridge, không phải cô, và tôi không làm trò hề như cô nói với tôi.”
Aliena nói: “Ít nhất đem những con bò cày vào nơi trú ẩn.” Tài sản quý báu nhất của ngôi làng này là đội tám con bò kéo cày. Không có những con vật này nông dân không thể canh tác. Không một nông dân nào có thể sở hữu một đội cày – đó là tài sản chung. Vị linh mục chắc chắn biết giá trị của đội cày, bởi vì sự thịnh vượng của ông cũng tùy thuộc vào đó nữa.
Vị linh mục nói: “Chúng tôi không có đội cày.”
Aliena hoang mang. “Tại sao?”
“Chúng tôi đã bán bốn con để trả tiền thuê; rồi chúng tôi giết những con khác để lấy thịt cho mùa đông.”
Điều đó giải thích tại sao nửa cánh đồng bỏ hoang, Aliena nghĩ. Họ chỉ có thể canh tác đất mềm, dùng ngựa hay nhân lực để kéo cày. Việc này làm cô tức giận. Nó thật là sự ngu ngốc cũng như vô tâm của William khi để cho những người này bán đội cày của họ, bởi vì điều đó có nghĩa là họ sẽ gặp khó khăn trong việc trả tiền thuê năm nay, ngay cả khi thời tiết đẹp. Nó làm cô muốn bóp cổ William.
Một cơn gió mạnh khác làm rung chuyển căn nhà. Bất ngờ một bên mái nhà dường như nghiêng đi; rồi nâng lên vài inch, tách ra khỏi tường nhà; và xuyên qua lỗ hổng Aliena nhìn thấy bầu trời đen và ánh chớp lóe ra. Cô nhẩy lên khi cơn gió giảm đi và mái tranh hạ xuống. Bây giờ nó sẽ thành nguy hiểm. Cô đứng lên và hét vào vị linh mục, át đi cả tiếng ồn của thời tiết: “Ít nhất hãy đi và mở cửa nhà thờ!”
Ông bực bội nhưng ông làm theo. Ông lấy một chìa khóa từ ngực, mặc áo choàng vào, đi ra ngoài và biến mất trong mưa. Aliena bắt đầu tổ chức các việc khác. “Người phu xe, đem xe và bò của tôi vào nhà thờ. Ranulf, ông đi lấy ngựa. Elizabeth, đi theo tôi.”
Họ mặc áo choàng và đi ra. Khó có thể đi thẳng bởi vì gió mạnh và họ nắm tay nhau cho vững hơn. Họ đi qua nghĩa trang. Mưa đã chuyển sang mưa đá, và những hạt đá to rớt xuống rồi bật lên khỏi các ngôi mộ. Trong một góc nghĩa trang Aliena nhìn thấy một cây táo trơ trụi như trong mùa đông: cơn lốc đã đem theo lá và quả của nó. Mùa thu năm nay sẽ không có nhiều táo trong vùng, cô nghĩ.
Một lúc sau họ đến nhà thờ và đi vào. Sự yên lặng bất ngờ tạo nên cảm giác như bị điếc. Gió vẫn hú, mưa vẫn gõ trên mái và sấm chớp vẫn đều đặn, nhưng như vọng về từ xa. Một số dân làng đã ở đó, quần áo họ ướt sũng. Họ đem theo tài sản giá trị của họ: gà trong bao tải, lợn bị trói gô, bò được dắt theo. Nhà thờ tối, nhưng cảnh tượng được tia chớp soi sáng. Một lúc sau người phu xe đẩy xe của Aliena vào, và Ranulf dắt ngựa theo sau.
Aliena nói với linh mục: “Hãy để thú vật vào phía tây và dân chúng vào phía đông, trước khi nhà thờ trở thành giống như chuồng ngựa. “Bây giờ dường như mỗi người chấp nhận Aliena là người phụ trách, và vị linh mục đồng tình với một cái gật đầu. Hai người tiếp tục công việc của họ, vị linh mục nói với các ông và Aliena với đàn bà. Dần dần dân chúng tách rời khỏi thú vật. Các bà đem trẻ em đến gian cung thánh nhỏ và các ông cột thú vật vào cột của gian giữa. Những con ngựa hoảng sợ, trợn tròn mắt và chồm lên, trong khi những con bò nằm xuống. Dân làng tụ họp thành từng nhóm gia đình và bắt đầu chuyền đồ ăn và thức uống cho nhau. Họ đã chuẩn bị cho một cuộc ở lại lâu dài.
Cơn bão rất mạnh nên Aliena nghĩ rằng nó sẽ chóng qua, nhưng thay vào đó nó càng tệ hại hơn. Cô đi tới cửa sổ. Cửa sổ dĩ nhiên không được làm bằng kính, nhưng bằng lụa đẹp và trong suốt. Aliena nhoài người qua thành cửa sổ để nhìn ra ngoài, nhưng tất cả những gì cô có thể thấy là mưa.
Gió trở lên mạnh hơn, gào thét xung quanh tường nhà thờ, và cô bắt đầu băn khoăn không biết nhà thờ có an toàn đủ không. Cô đi một vòng kín đáo xung quanh tòa nhà. Cô đã ở với Jack một thời gian dài để biết sự khác biệt giữa công việc xây tốt và dở, và cô cảm thấy nhẹ nhàng khi thấy rằng công trình đá ở đây gọn gàng và cẩn thận. Không có vết nứt. Tòa nhà được làm bằng các phiến đá cắt, không phải đá vụn, và nó dường như chắc chắn như một ngọn núi.
Người giúp việc của linh mục thắp một ngọn nến, và đó là lúc Aliena nhận ra đêm đã xuống ở bên ngoài. Ban ngày đã quá tối nên sự khác biệt thật nhỏ. Các trẻ em mệt mỏi vì chạy lên chạy xuống ở gian bên cạnh nên cuộn tròn trong áo choàng và đi ngủ. Những con gà đút đầu dưới đôi cánh. Elizabeth và Aliena ngồi bên cạnh nhau trên nền nhà và dựa lưng vào tường.
Aliena tò mò về cô gái đáng thương này, người đã nhận vai trò làm vợ của William, một vai trò mà Aliena đã từ chối mười bảy năm về trước. Không còn có thể dừng được, cô nói: “Khi tôi còn trẻ, tôi biết William. Bây giờ cậu ấy ra sao?”
“Tôi ghê tởm cậu ấy,” Elizabeth nhiệt tình nói.
Aliena cảm thấy buồn sâu thẳm cho cô ấy.
Elizabeth nói: “Làm sao cô biết cậu ấy?”
“Sự thật là khi tôi bằng hay ít tuổi hơn cô, đáng lẽ tôi đã lấy cậu ấy.”
“Ồ không! Và làm cách nào cô đã không phải lấy cậu ấy?”
“Tôi từ chối, và bố tôi ủng hộ tôi. Nhưng có nhiều xáo động kinh khủng và gây ra nhiều đổ máu. Tuy nhiên tất cả đã vào trong quá khứ.”
“Cô từ chối cậu ấy!” Elizabeth hồ hởi. “Cô quá can đảm. Tôi mong tôi được giống như cô.” Bất ngờ cô lại chùng xuống. “Nhưng ngay với người phục vụ, tôi cũng không chống lại được.”
“Cô có thể. Cô biết không?” Aliena nói.
“Nhưng bằng cách nào? Họ ngay cả không màng quan tâm tới tôi, bởi vì tôi mới mười bốn.”
Aliena suy nghĩ câu hỏi một cách cẩn thận, rồi trả lời một cách dễ hiểu. “Để bắt đầu, cô phải trở thành người biết lắng nghe các ước muốn của chồng cô. Vào buổi sáng, hỏi xem hôm nay cậu ấy muốn ăn gì, muốn gặp ai, muốn cưỡi con ngựa nào, và tất cả những gì cô nghĩ ra. Sau đó đi đến nhà bếp, quản lý của sảnh đường và người phụ trách ngựa để cho họ lệnh truyền của bá tước. Chồng cô sẽ cảm ơn cô và giận dữ những ai coi thường cô. Vì thế mọi người sẽ quen làm những gì cô nói. Sau đó chú ý đến ai giúp đỡ cô mau mắn và ai từ khước cô. Hãy chắc chắn rằng những người hữu ích phải được ưu tiên – cho họ công việc họ thích làm, và cho những người không giúp được gì những công việc bẩn thỉu. Chẳng bao lâu mọi người sẽ nhận ra rằng vâng lời nữ bá tước sẽ có lợi. Họ sẽ yêu cô hơn William, vì ông ấy cũng không phải là người dễ thương. Sau cùng cô sẽ trở thành một người quyền lực trong vị trí của cô, giống như các nữ bá tước khác.
“Cô nói nghe có vẻ dễ dàng.” Elizabeth nói một cách khao khát.
“Không, nó không dễ, nhưng nếu cô kiên nhẫn, và không dễ dàng bỏ cuộc, cô sẽ làm được điều đó.”
“Tôi nghĩ tôi có thể,” cô nói một cách dứt khoát. “Tôi thực sự nghĩ tôi có thể.”
Sau đó họ bắt đầu ngủ gật. Chỉ có cơn gió lâu lâu hú lên đánh thức Aliena. Nhìn quanh trong ánh nến lập lòe, cô thấy hầu hết người lớn cũng làm như cô, ngồi thẳng lên, ngủ gà ngủ gật, rồi đột ngột giật mình tỉnh dậy.
Có lẽ trời đã vào giữa đêm khi cô giật mình tỉnh dậy và nhận ra rằng lần này cô đã ngủ được hơn một giờ. Hầu hết mọi người xung quanh cô vẫn say ngủ. Cô thay đổi cách nằm, nằm phẳng trên nền nhà, và quấn áo khoác chặt hơn vào mình. Cơn bão vẫn chưa ngưng, nhưng sự cần ngủ của dân chúng đã lướt thắng sự sợ hãi của họ. Âm thanh của cơn mưa thổi vào bức tường nhà thờ giống như tiếng sóng đánh vào bờ biển, và thay vì giữ Aliena thức nó lại ru cô vào giấc ngủ.
Một lần nữa cô lại giật mình thức giấc. Cô tự hỏi điều gì đã quấy rầy cô. Cô lắng nghe: tất cả yên lặng. Cơn bão đã qua. Một ánh sáng màu xám mờ chiếu qua cửa sổ. Tất cả dân làng vẫn còn say ngủ.
Aliena đứng lên. Sự chuyển động của cô đánh thức Elizabeth, cô tỉnh táo ngay.
Cả hai có cùng suy nghĩ. Họ đi ra cửa nhà thờ, mở cửa và đi ra ngoài.
Cơn mưa đã tạnh và gió chỉ còn lướt qua. Mặt trời chưa lên nhưng bầu trời bình minh có màu ngọc trai xám. Aliena và Elizabeth nhìn xung quanh họ vào trong ánh sáng trong, rõ ràng.
Ngôi làng đã biến mất.
Ngoài nhà thờ, không còn một căn nhà nào tồn tại. Toàn khu vực đã bị san phẳng. Một vài thanh gỗ nặng bay đến dựa vào bên cạnh nhà thờ, còn ngoài ra chỉ có các bếp giữa đám bùn lầy tỏ ra rằng, nơi đây ngày trước là một ngôi nhà. Ở một góc của một nơi mà ngày trước là ngôi làng, có năm sáu cây lớn, cây sồi và cây hạt dẻ, vẫn còn đứng, mặc dù đầu nó đã mất hết cành lá. Không còn sót lại cây non nào.
Choáng váng bởi sự tàn phá, Aliena và Elizabeth đi dọc theo nơi trước kia là con đường. Mặt đất rải rác gỗ vụn và chim chết. Họ đến bờ của cánh đồng lúa đầu tiên. Nó trông như một đàn gia súc đã bị nhốt ở đó ban đêm. Các cây lúa mì đã được san phẳng, gẫy đổ, bật gốc và trôi đi. Mặt đất được khuấy lên và ngập nước.
Aliena kinh hoàng. “Ồ, Trời ơi!” cô lẩm bẩm. “Dân chúng sẽ lấy gì mà ăn?”
Họ đi ngang qua cánh đồng. Sự thiệt hại giống nhau ở khắp nơi. Họ trèo lên một ngọn đồi thấp và từ đỉnh đồi quan sát vùng nông thôn xunh quanh. Mọi hướng họ nhìn, họ đều thấy mùa màng bị tàn phá, cừu chết, cây đổ, đồng cỏ ngập nước và nhà cửa bị san bằng. Sự tàn phá thật kinh khủng đến nỗi Aliena cảm thấy sợ hãi về thảm kịch. Nó trông như bàn tay Thiên Chúa đã giáng xuống nước Anh, tàn phá mặt đất, phá hủy mọi thứ con người làm ra chỉ trừ nhà thờ.
Sự tàn phá cũng làm Elizabeth kinh hoàng. “Nó thật kinh khủng,” cô nói. “Tôi không thể tin được. Không có gì còn lại.”
Aliena gật đầu. “Không còn gì,” cô lặp lại. “Không còn mùa thu hoạch trong năm nay.”
“Dân chúng sẽ làm gì?”
“Tôi không biết.” Trong một cảm giác pha trộn giữa lòng trắc ẩn và sợ hãi, Aliena nói: “Nó sẽ là một mùa đông khủng khiếp.”
II
Một buổi sáng, bốn tuần sau cơn bão lớn, Martha xin Jack nhiều tiền hơn. Jack ngạc nhiên. Cậu thường đưa cho cô hàng tuần sáu xu cho việc chi tiêu trong nhà, và cậu biết Aliena cũng đưa cho cô số tiền như vậy. Với số tiền đó cô mua đồ ăn cho bốn người lớn và hai trẻ em, và trả tiền củi cho lò sưởi và lau sậy cho nền ở cả hai nhà; nhưng có nhiều gia đình lớn ở Kingsbridge chỉ có sáu xu một tuần cho mọi thứ, cho đồ ăn và quần áo và cả tiền thuê nhà nữa. Cậu hỏi cô tại sao cô cần thêm.
Cô trông xấu hổ. “Mọi thứ đã lên giá. Người bán bánh đòi một xu cho một ổ bánh mì bốn cân Anh, và –“
“Bốn cân Anh một xu?” Jack nổi giận. “Chúng ta xây một lò và tự làm lấy bánh.”
“Vâng, một đôi khi em làm bánh mì bằng chảo.”
“Anh biết.” Jack nhận ra họ đã có bánh mì làm bằng chảo hai hay ba lần một tuần trong mấy tuần vừa qua.
Martha nói: “Nhưng giá bột mì cũng tăng lên, vì thế mà chúng ta không tiết kiệm được bao nhiêu.”
“Chúng ta sẽ tự mua lấy lúa mì và xay lấy.”
“Nó không được phép. Chúng ta được yêu cầu dùng nhà máy xay của tu viện. Ngoài ra lúa mì cũng lên giá.”
“Dĩ nhiên.” Jack nhận ra cậu thật ngớ ngẩn. Giá bánh tăng vì bột mì tăng, và bột mì tăng vì lúa mì tăng, và lúa mì tăng vì cơn bão đã tàn phá mùa gặt – một vòng luẩn quẩn mà không gì thoát ra được. Cậu thấy Martha bối rối. Cô luôn lo ngại khi cô nghĩ cậu không hài lòng. Cậu mỉm cười để nói cho cô biết mọi chuyện ổn cả, và vỗ nhẹ vào vai cô. “Nó không phải do lỗi của em,” cậu nói.
“Nhưng anh có vẻ như tức giận.”
“Không phải với em.” Cậu cảm thấy có lỗi. Martha thà cắt đứt tay cô chứ không lừa dối cậu, cậu biết. Cậu không thực sự hiểu tại sao cô lại hết lòng với cậu. Nếu đó là tình yêu, cậu nghĩ, chắc chắn cô đã chán cậu từ lâu, bởi vì cô và mọi người đều biết Aliena là tình yêu lớn nhất của đời cậu. Một lần cậu đã dự định gửi cô đi xa, ép cô ra khỏi cuộc sống quen thuộc này để qua đó cô tìm được người đàn ông thích hợp. Nhưng cậu biết từ trong cõi lòng rằng nó không mang lại kết quả và nó chỉ làm cho cô không hạnh phúc một cách tuyệt vọng. Vì thế cậu để yên như vậy.
Cậu thò tay vào trong áo lấy túi tiền, và lấy ra ba xu bạc. “Tốt hơn em có mười hai xu mỗi tuần, và em xem có đủ tiêu không,” cậu nói. Nó dường như một số tiền lớn. Mỗi tuần cậu chỉ nhận được hai mươi bốn xu, mặc dù cậu được nhận thêm nến, áo và giày.
Cậu uống phần bia còn lại và đi ra. Trời lạnh bất ngờ vào đầu mùa thu. Thời tiết vẫn bất thường. Cậu đi dọc theo đường phố vào khu tu viện. Mặt trời chưa lên và chỉ có vài thợ thủ công ở đó. Cậu đi lên theo gian giữa, nhìn vào nền móng. Họ sắp hoàn thành, thật may mắn, vì công việc của thợ xây có lẽ phải ngưng lại sớm trong năm nay vì thời tiết lạnh.
Cậu nhìn lên hai gian ngang mới. Niềm vui về việc sáng tạo của cậu đã vơi đi vì vết nứt trong tường. Nó đã xuất hiện trở lại sau cơn bão lớn. Cậu thất vọng kinh khủng. Dĩ nhiên đó là một cơn bão bất thường, nhưng nhà thờ của cậu được thiết kế để tồn tại qua cả trăm cơn bão như thế. Cậu lắc đầu bối rối, rồi trèo lên cầu thang xoắn. Cậu ước muốn có thể trao đổi với ai đó đã xây một nhà thờ tương tự, nhưng không có ai ở Anh, và ngay cả ở Pháp cũng chưa có ai xây cao như vậy.
Tự nhiên, thay vì đi về phía bản thiết kế trên nền nhà, cậu lại tiếp tục theo cầu thang lên mái nhà. Các tấm chì đã được lợp, và cậu thấy tháp nhỏ trước đây chặn nước mưa bây giờ đã có một rãnh rộng rãi chạy qua chân nó. Gió thổi mạnh trên mái. Mỗi lần khi cậu ra gần cạnh mái, cậu phải tìm chỗ bám: nhiều thợ xây dựng chính đã bị chết vì gió thổi từ trên mái xuống. Gió ở đây dường như mạnh hơn trên mặt đất. Trong thực tế, gió dường như tăng không cân đối với độ cao bạn trèo lên…
Cậu đứng yên, nhìn vào khoảng không. Đó là câu trả lời cho vấn nạn của cậu. Không phải trọng lượng của mái vòm gây ra vết nứt, mà là do độ cao. Cậu đã xây nhà thờ đủ mạnh để chịu đựng trọng lượng, cậu chắc chắn như vậy; nhưng cậu đã không nghĩ về gió. Những bức tường cao như tháp này thường xuyên bị gió đập vào, và bởi vì nó quá cao, gió đủ mạnh để làm nó nứt. Đứng trên mái, cảm nhận sức mạnh của gió, cậu có thể tưởng tượng ảnh hưởng của nó trên cấu trúc cân bằng bên dưới cậu. Cậu biết công trình quá rõ đến nỗi cậu hầu như cảm thấy sự căng thẳng như thể các bức tường là một phần thân thể của cậu. Gió đập mạnh vào nhà thờ, như thể nó đập vào cậu; và bởi vì nhà thờ không thể uốn cong, nó nứt.
Cậu chắc chắn là cậu đã tìm ra lời giải thích; nhưng cậu có thể làm gì chống lại nó? Cậu cần củng cố phần có cửa sổ phía trên để nó chống cự lại sức gió. Nhưng bằng cách nào? Xây thêm những trụ tường chống đỡ bức tường sẽ phá hủy đi ấn tượng nhẹ nhàng và duyên dáng mà cậu đã dày công hoàn thành.
Nhưng nếu điều đó giúp bức tường đứng vững, cậu sẽ phải làm.
Cậu đi xuống cầu thang. Cậu vẫn không phấn chấn hơn mặc dù sau cùng cậu đã hiểu vấn đề, bởi vì dường như cách giải quyết vấn đề sẽ phá hủy giấc mơ của cậu. Có lẽ tôi quá kiêu ngạo, cậu nghĩ. Tôi nghĩ là tôi có thể xây được nhà thờ chính tòa đẹp nhất thế giới. Tại sao tôi lại tưởng tôi có thể làm tốt hơn người khác? Điều gì làm tôi nghĩ tôi đặc biệt hơn? Có lẽ tốt hơn tôi nên sao chép thiết kế của một thợ xây dựng chính khác và hài lòng với nó.
Philip đang đợi cậu ở phòng có thiết kế trên nền. Có một nét lo âu trên trán vị tu viện trưởng, và mái tóc hoa râm chung quanh đỉnh đầu cạo trọc của ông rối bời. Ông trông như mất ngủ cả đêm.
“Chúng ta phải giảm chi tiêu của chúng ta,” ông nói không cần mào đầu. “Chúng ta không có tiền để tiếp tục xây dựng như tốc độ hiện tại.” Jack đã lo sợ về chuyện đó. Cơn bão đã phá hủy mùa màng trong hầu hết miền Nam nước Anh: chắc chắn nó ảnh hưởng đến tài chánh của tu viện. Nói chuyện về cắt giảm chi tiêu luôn luôn làm cậu lo sợ. Trong thâm tâm cậu đã sợ rằng, nếu việc xây dựng quá chậm trễ, có thể cậu chẳng nhìn thấy nhà thờ chính tòa của cậu hoàn thành. Nhưng cậu không tỏ lộ nỗi sợ hãi của cậu. “Mùa đông đang đến,” cậu tình cờ nói, “nên dù sao công việc cũng chậm lại. Và năm nay mùa đông đến sớm.”
“Không sớm đủ,” Philip nói dứt khoát. “Tôi muốn cắt đứt một nửa chi phí ngay lập tức.”
“Một nửa!” Nó nghe như không tưởng.
“Việc sa thải mùa đông bắt đầu ngay hôm nay.”
Nó tệ hơn như Jack dự đoán. Các công nhân mùa hè thường nghỉ vào đầu tháng mười hai. Họ trải qua những tháng mùa đông để làm nhà gỗ hay làm cày và xe bò cho gia đình họ hay làm thuê. Năm nay gia đình họ sẽ không vui khi thấy họ. Jack nói: “Ông có biết ông cho họ về nhà nơi mọi người sắp chết đói không?”
Philip nhìn cậu giận dữ.
“Dĩ nhiên ông biết,” Jack nói. “Xin lỗi vì tôi đã hỏi như vậy.”
Philip nói một cách mạnh mẽ: “Nếu tôi không dứt khoát chuyện này bây giờ, thì vào ngày thứ bẩy giữa mùa đông toàn bộ công nhân sẽ đứng xếp hàng chờ lãnh lương và tôi sẽ chỉ cho họ xem một túi rỗng.”
Jack nhún vai bất lực. “Không có gì cần tranh cãi về chuyện đó.”
“Đó không phải là tất cả,” Philip cảnh báo. “Từ bây giờ sẽ không nhận thêm ai, ngay cả để thay thế cho thợ đã nghỉ.”
“Từ nhiều tháng nay chúng ta không thuê ai.”
“Cậu đã thuê Alfred.”
“Đó là chuyện khác.” Jack bối rối. “Dù sao, sẽ không thuê thêm nữa.”
“Và cũng không tăng lương.”
Jack gật đầu. Thi thoảng một người học việc hay một lao công yêu cầu được thăng lên thành thợ xây hay thợ cắt đá. Nếu các thợ thủ công khác nhận định rằng kỹ năng của người ấy đủ, yêu cầu đó sẽ được chấp nhận và tu viện phải trả lương họ cao hơn. Jack nói: “Thăng cấp là đặc quyền của hiệp hội các thợ xây.”
“Tôi không có ý định thay đổi điều đó,” Philip nói. “Tôi chỉ yêu cầu các thợ xây hoãn tất cả sự thăng cấp cho đến khi nạn đói qua đi.”
“Tôi sẽ truyền lại cho họ,” Jack nói lửng lơ. Cậu có cảm giác điều đó sẽ gây nhiều rắc rối.
Philip tiếp tục. “Từ bây giờ trở đi sẽ không làm việc vào các ngày lễ.”
Có rất nhiều ngày lễ nghỉ. Về nguyên tắc, nó là ngày nghỉ nhưng các công nhân được trả lương cho ngày nghỉ hay không là do đàm phán. Ở Kingsbridge có quy tắc là: nếu trong một tuần có hai hay nhiều ngày lễ, ngày lễ thứ nhất là ngày nghỉ lễ có lương và các ngày lễ sau là ngày nghỉ lễ không lương; và công nhân có thể nghỉ nhưng không bắt buộc. Hầu hết mọi người chọn làm việc vào ngày lễ thứ hai. Bây giờ họ không còn chọn lựa đó. Ngày lễ nghỉ thứ hai là ngày nghỉ không lương bắt buộc.
Jack cảm thấy không thoải mái vì không dễ gì có thể cắt nghĩa cho hiệp hội thợ xây những thay đổi này. Cậu nói: “Tất cả những điều này sẽ diễn ra tốt đẹp hơn nếu tôi đưa chúng ra như một vấn đề để thảo luận, hơn là một việc đã được quyết định.”
Philip lắc đầu. “Như thế họ sẽ nghĩ rằng nó còn có thể đàm phán được. Họ sẽ đề nghị làm nửa ngày lễ nghỉ và cho phép một số nhất định được thăng cấp.”
Ông có lý, dĩ nhiên. “Nhưng nó không hợp lý hơn sao?” Jack nói.
“Dĩ nhiên là nó hợp lý,” Philip cáu kỉnh nói. “Chỉ có vấn đề là tôi không thể làm khác được. Tôi còn lo rằng những biện pháp này chưa đủ - Tôi không có thể có bất cứ nhượng bộ nào.”
“Được rồi,” Jack nói. Philip rõ ràng bây giờ ở trong tâm trạng không thể thỏa hiệp được. “Còn có chuyện gì không?” cậu nói thận trọng.
“Có. Ngưng mua vật liệu. Tạm thời dùng đá, sắt và gỗ dự trữ.”
“Chúng ta được lấy gỗ miễn phí!” Jack phản đối.
“Nhưng chúng ta phải trả tiền chuyên chở về đây.”
“Thật vậy. Được rồi.” Jack đi tới cửa sổ và nhìn xuống đống đá và gỗ xếp trong sân tu viện. Như một phản xạ, cậu biết ngay bao nhiêu vật liệu còn dự trữ. “Đó không phải là vấn đề,” một lúc sau cậu nói. “Với số lượng công nhân giảm, chúng ta còn đủ vật liệu cho đến mùa hè năm sau.”
Philip thở dài mệt mỏi. “Không có gì bảo đảm là mùa hè năm sau chúng ta lại có thể tiếp tục thuê thợ,” ông nói. “Nó tùy thuộc vào giá gỗ. Tốt nhất nên cảnh giác họ.”
Jack gật đầu. “Nó thật sự tồi tệ, phải không?”
“Nó tồi tệ hơn tôi đã trải qua,” Philip nói. “Những gì đất nước chúng ta cần là ba năm được mùa. Và một vị vua mới.”
“Tôi đồng ý với ông,” Jack nói.
Philip về lại nhà. Jack dành buổi sáng hôm đó tự hỏi làm cách nào để xử lý với những thay đổi đó. Có hai cách để xây gian chính: từ ô một, bắt đầu ở khu trung tâm ra hướng tây; hay từng lớp, đặt cơ sở cho toàn bộ gian chính trước, sau đó xây cao lên sau. Cách thứ hai nhanh hơn nhưng đòi hỏi nhiều thợ xây. Đó là phương pháp mà Jack dự tính theo. Bây giờ cậu cân nhắc lại. Xây từng ô thích hợp hơn với việc giảm thiểu nhân công. Nó còn một ưu điểm nữa là bất cứ thay đổi nào cậu đưa vào thiết kế để kháng cự lại sức gió sẽ được thử nghiệm ở một hay hai ô, trước khi được dùng cho toàn bộ công trình.
Cậu cũng suy nghĩ về ảnh hưởng lâu dài của cuộc khủng hoảng tài chính. Công việc sẽ càng ngày càng chậm lại, qua nhiều năm. Một cách chán nản cậu thấy mình già đi, tóc bạc hơn và yếu đi mà không đạt được tham vọng trong đời cậu, và có lẽ sau cùng được chôn trong nghĩa trang tu viện, bên bóng của một ngôi nhà thờ chính tòa chưa hoàn tất.
Khi tiếng chuông ban trưa vang lên, cậu đi đến nhà nghỉ của thợ xây. Các ông đã ngồi xuống bên ly bia và pho mát của họ, và lần đầu tiên cậu chú ý đến nhiều người trong số họ không có bánh. Cậu yêu cầu các thợ xây, những người thường về nhà ăn trưa, ở lại thêm một lúc. “Tu viện sắp hết tiền,” cậu nói.
“Tu viện nào sớm muộn gì cũng thế thôi,” một người già nói.
Jack nhìn ông. Ông được gọi là Erward Twonose bởi vì ông có một mụn cóc trên mặt to gần bằng mũi của ông. Ông là một thợ cắt đá giỏi, có một cái nhìn khéo léo cho những góc chính xác, và Jack luôn dùng ông cho các trụ cột và mái vòm. Jack nói: “Các ông phải thừa nhận rằng tu viện này quản lý tiền bạc tốt hơn hầu hết các nơi khác. Nhưng Tu viện trưởng Philip không thể ngăn chặn cơn bão và mất mùa được, và bây giờ ông phải cắt giảm chi tiêu. Tôi sẽ kể cho các ông trước khi các ông dùng bữa trưa. Trước hết, chúng ta sẽ không mua thêm bất cứ vật liệu đá hay gỗ nào nữa.”
Các thợ thủ công từ các nhà nghỉ khác chạy qua lắng nghe. Một trong các thợ mộc già, Peter, nói: “Gỗ chúng ta đang có không đủ cho mùa đông.”
“Đúng,” Jack nói. “Chúng ta sẽ xây chậm hơn nhiều, bởi vì chúng ta chỉ còn vài thợ thủ công. Thời gian nghỉ mùa đông bắt đầu ngay hôm nay.”
Cậu biết ngay rằng cậu đã thông báo không đúng lúc. Sự phản đối từ nhiều phía, nhiều người lên tiếng cùng lúc. Tôi nên thông tin một cách nhẹ nhàng hơn, cậu nghĩ. Nhưng cậu chưa có kinh nghiệm về việc này. Cậu là thợ xây dựng chính từ bảy năm qua, nhưng trong thời gian đó không có khủng hoảng tài chính.
Một giọng nói áp đảo sự huyên náo là của Piere Paris, một trong số các thợ xây đến từ Saint-Denis. Sau sáu năm sống ở Kigsbridge, tiếng Anh của ông vẫn chưa hoàn hảo, và sự tức giận làm cho giọng ông cứng hơn, nhưng ông vẫn không mất sự can đảm. “Cậu không thể sa thải chúng tôi vào ngày thứ ba,” ông nói.
“Đúng,” Jack Blacksmith nói. “Ít nhất cậu phải để họ làm đến cuối tuần.”
Anh ghẻ của Jack, Alfred, nói vào: “Tôi nhớ khi bố tôi đang xây một căn nhà cho bá tước Shiring, và William Hamleigh đến và sa thải toàn bộ công nhân. Bố tôi đã yêu cầu ông trả cho mỗi người một tuần lương, và ông đã giữ con ngựa lại cho đến khi cậu ấy trả tiền.”
Jack kiên nhẫn nói: “Các ông nên kiên nhẫn nghe hết đã. Từ bây giờ sẽ không còn ngày nghỉ lễ nữa, và cũng không còn thăng cấp.”
Điều đó làm họ giận hơn. “Không thể chấp nhận được,” một người nói, và nhiều người khác lập lại. “Không thể chấp nhận được, không thể chấp nhận được.”
Jack phẫn nộ. “Các ông đang nói gì? Nếu tu viện không có tiền, các ông cũng không nhận được tiền lương. Các ông lập đi lập lại ‘không thể chấp nhận được, không thể chấp nhận được’ có nghĩa gì? Nó chỉ giống như các cậu học trò lập đi lập lại câu Latin.”
Edward Twonose lên tiếng lần nữa. “Chúng tôi không phải là một lớp học, chúng tôi là một hiệp hội thợ xây,” ông nói. “Hiệp hội có quyền thăng cấp và không ai có thể lấy nó đi.”
“Và nếu không có tiền trả thêm lương thì sao?” Jack sôi nổi nói.
Một người trong số thợ trẻ nói: “Tôi không tin điều đó.”
Đó là Dan Bristol, một người thợ được thuê làm việc cho mùa hè. Cậu không giỏi cắt đá nhưng có thể xây nhanh và chính xác. Jack nói với cậu: “Làm sao cậu có thể nói cậu không tin điều đó? Cậu biết gì về tài chính của tu viện?”
“Tôi biết những gì tôi nhìn,” Dan nói. “Các tu sĩ đang chết đói sao? Không. Có nến trong nhà thờ không? Có. Có rượu trong hầm không? Có. Tu viện trưởng có đi chân đất không? Không. Như vậy là có tiền. Ông ấy chỉ không muốn đưa nó cho chúng ta thôi.”
Một số người lớn tiếng đồng ý. Thực ra, có ít nhất một mục sai, và đó là rượu; nhưng bây giờ không ai còn tin Jack – cậu trở thành người đại diện của tu viện. Điều đó không công bằng: cậu không chịu trách nhiệm cho những quyết định của Philip. Cậu nói: “Này, tôi chỉ nói những gì tu viện trưởng nói với tôi. Tôi không bảo đảm nó đúng sự thật. Nhưng nếu ông ấy nói với chúng ta họ không có đủ tiền, và chúng ta không tin ông thì chúng ta có thể làm gì?”
“Chúng ta tất cả ngưng làm việc,” Dan nói. “Ngay lập tức.”
“”Đúng,” một giọng khác hòa theo.
Việc này đã vượt ra khỏi sự kiểm soát, Jack nhận ra với một cảm giác hoảng sợ. “Hãy đợi,” cậu nói. Một cách tuyệt vọng cậu tìm kiếm một điều gì đó để nói cho tình hình bớt căng thẳng. “Hãy trở lại làm việc ngay, và chiều nay tôi sẽ cố thuyết phục Tu viện trưởng Philip điều chỉnh lại kế hoạch của ông ấy.”
“Tôi không nghĩ chúng ta nên làm việc lại,” Dan nói.
Jack không thể tin được những gì đang xẩy ra. Cậu đã dự đoán nhiều mối đe dọa cho việc xây dựng nhà thờ mơ ước của cậu, nhưng cậu không thể lường trước được rằng các thợ thủ công lại là người phá hỏng nó. “Làm sao chúng ta không nên làm việc lại?” cậu hỏi. “Vì lý do gì?”
Dan nói: “Như tình hình hiện nay, một nửa số người chúng tôi ngay cả không chắc chắn có được trả lương cho những ngày còn lại trong tuần không.”
“Điều đó ngược lại với phong tục và thói quen,” Piere Paris nói. Thành ngữ phong tục và thói quen được dùng nhiều trong tòa án.
Jack nói một cách tuyệt vọng. “Vậy thì ít nhất làm việc cho đến khi tôi nói chuyện xong với Philip.”
Erward Twonose nói: “Nếu chúng tôi làm việc, cậu có bảo đảm được rằng mỗi ngưỡi sẽ được trả lương cho cả tuần không?”
Jack biết trong tâm trạng hiện nay của Philip cậu không thể bảo đảm được việc đó. Một cách nào đó cậu muốn nói ‘được’, và nếu nó cần thiết, cậu sẽ dùng tiền túi của mình để trả, nhưng cậu nhận ra ngay rằng toàn bộ tiền tiết kiệm của cậu không đủ chi phí cho một tuần lương ở đây. Vì thế cậu nói: “Tôi sẽ làm hết sức để thuyết phục ông ấy, và tôi nghĩ ông ấy sẽ đồng ý.”
“Như thế chưa đủ đối với tôi,” Dan nói.
“Tôi cũng vậy,” Pierre nói.
Dan nói: “Không bảo đảm, không làm việc.”
Và sự tán thành của mọi người làm Jack mất tinh thần.
Cậu thấy nếu cậu tiếp tục đối đầu với họ, cậu sẽ mất uy quyền nhỏ bé còn lại của cậu. “Hiêp hội phải có chung một tiếng nói,” cậu nói theo một hình thức thường được sử dụng. “Tất cả chúng ta có đồng ý đình công không?”
Lời tán thành đồng loạt vang lên.
“Thôi được,” Jack nói thảm bại. “Tôi sẽ trình với tu viện trưởng.”
Giám mục Waleran cưỡi ngựa vào Shiring, theo sau là một đoàn quân nhỏ. Bá tước William chờ ông nơi cửa nhà thờ trong khu chợ. William cau mày bối rối: cậu không chờ đợi một cuộc viếng thăm chính thức. Vị giám mục thủ đoạn này lại có chuyện gì đây?
Cùng đi với Waleran là một người lạ trên lưng con ngựa thiến màu hạt dẻ. Người đàn ông cao lớn với cặp lông mày đen rậm và một chiếc mũi hếch. Dường như khuôn mặt ông có một nét khinh bỉ trường kỳ. Ông cưỡi ngựa bên cạnh Waleran, như thể họ bình đẳng, nhưng ông không mặc trang phục của một giám mục.
Khi họ xuống ngựa, Waleran giới thiệu người lạ mặt. “Bá tước William, đây là Peter thành Wareham, tổng đại diện đang phục vụ cho tổng giám mục ở Canterbury.”
Không có lời giải thích về việc Peter đến đây làm gì, William nghĩ. Waleran chắc chắn bày mưu tính kế chuyện gì đây.
Tổng đại diện cúi đầu và nói: “Giám mục của ông đã nói với tôi về sự hào phóng của ông dành cho Mẹ Giáo hội, thưa Bá tước William.”
Trước khi William có thể trả lời, Waleran chỉ về phía nhà thờ xứ. “Tòa nhà này sẽ được đập xuống để nhường chỗ cho nhà thờ mới, thưa tổng đại diện,” ông nói.
“Ông đã chỉ định thợ xây dựng chính chưa?” Peter hỏi.
William ngạc nhiên tại sao một tổng đại diện ở Canterbury lại quan tâm đến một nhà thờ xứ ở shiring. Nhưng có lẽ đó chỉ là việc xã giao.
“Chưa, tôi chưa tìm được thợ xây dựng chính,” Waleran nói. “Có rất nhiều thợ xây tìm việc, nhưng tôi không có bất cứ người nào từ Paris. Dường như toàn thể thế giới đều muốn xây nhà thờ giống như ở Saint-Denis, và người thợ biết xây theo kiểu này đang được nhiều nơi thuê.”
“Khả năng xây theo kiến trúc này rất là quan trọng,” Peter nói.
“Một thợ xây, người có thể giúp chúng ta, sẽ gặp chúng ta sau.”
William lại bối rối. Tại sao việc xây theo kiểu ở Saint-Denis lại quan trọng đối với Peter?
Waleran nói: “Dĩ nhiên nhà thờ mới sẽ lớn hơn. Nó sẽ nhô ra vào trong khu chợ ở đây.”
Thái độ của Waleran làm William khó chịu, cậu xen vào: “Tôi không thể để nhà thờ lấn chiếm vào khu chợ.”
Waleran khó chịu. “Tại sao không?” ông nói.
“Mỗi một mét trong khu chợ đem lại tiền trong ngững ngày chợ.Ä
Waleran trông như muốn tranh luận, nhưng Peter nói với một cái mỉm cười: “Chúng ta không ngăn chặn nguồn phun bạc!”
“Đúng như vậy,” William nói. Cậu là người trả tiền xây nhà thờ này. May mắn là bốn năm mất mùa đã qua đi và thu nhập của cậu đã có ít nhiều thay đổi. Những nông dân trả tiền thuê bằng hiện vật, và nhiều người đã trả cho William bằng ngũ cốc hoặc bằng một vài đôi ngỗng của họ, trong khi họ phải ăn cháo. Hơn nữa, ngũ cốc trị giá gấp mười lần so với năm năm về trước, và sự gia tăng về giá cả nhiều hơn là sự thiệt hại do các người thuê đã vỡ nợ và các nông nô đã chết đói. Cậu vẫn có nguồn để tài trợ cho nhà thờ mới.
Họ đi ra phía sau nhà thờ. Đây là khu vực nhà ở cho người thu nhập kém. William nói: “Chúng ta có thể xây rộng ra về phía này, và phá đổ những căn nhà này.”
“Nhưng hầu hết họ là giáo sĩ,” Waleran phản đối.
“Chúng ta sẽ tìm các nhà khác cho giáo sĩ.”
Waleran nhìn cậu không hài lòng, nhưng không nói gì thêm về việc này.
Ở phía bắc nhà thờ, một người đàn ông chừng ba mươi lăm tuổi cúi chào họ. Qua cách ăn mặc của cậu, William có thể đoán cậu là một thợ thủ công. Tổng đại diện Baldwin, người thân cận của giám mục, nói: “Đây là người mà tôi đã kể với ông, thưa giám mục. Tên cậu ấy là Alfred thành Kingsbridge.”
Thoạt nhìn cậu ấy không gây thiện cảm: cậu ấy giống như một con bò to lớn, mạnh mẽ và ngu dốt. Nhưng nhìn kỹ hơn khuôn mặt cậu có một cái nhìn xảo quyệt, đúng hơn giống một con cáo hay một con chó tinh quái.
Tổng đại diện Baldwin nói: “Alfred là con của thợ xây Tom, thợ xây dựng chính đầu tiên ở Kingsbridge; và chính cậu cũng đã là thợ xây dựng chính một thời gian, cho đến khi cậu bị thay thế bởi em ghẻ của cậu.”
Người con của thợ xây Tom. Đây là người đã kết hôn với Aliena, William nhận ra. Nhưng cậu chưa bao giờ làm trọn cuộc hôn nhân. William nhìn cậu chú ý. Cậu chẳng bao giờ đoán được người đàn ông này lại có thể bất lực. Cậu trông khỏe mạnh và bình thường. Nhưng Aliena có thể có một ảnh hưởng kỳ lạ trên người đàn ông này.
Tổng đại diện Peter nói: “Ông có làm việc ở Paris và học kiểu kiến trúc của Saint-Denis không?”
“Không –“
“Nhưng chúng ta phải có một nhà thờ xây theo kiểu mới.”
“Hiện nay tôi đang làm việc ở Kingsbridge, nơi em tôi là thợ xây dựng chính. Cậu ấy đã đem lối kiến trúc mới này từ Paris về và tôi học được từ cậu ấy.”
William băn khoăn làm sao Giám mục Waleran đã mua chuộc được Alfrred mà không gây nên sự nghi ngờ; rồi cậu nhớ rằng Tu viện phó của Kingsbridge, Remigius, là chân tay của Waleran. Remigius phải là người trung gian.
Cậu nhớ lại một biến cố ở Kingsbridge. “Nhưng mái nhà của ông đã sụp đổ.”
“Đó không phải là lỗi của tôi,” Alfred nói. “Tu viện trưởng Philip đã nhất định thay đổi thiết kế.”
“Tôi biết Philip,” Peter nói với giọng độc ác. “Một người bướng bỉnh và kiêu ngạo.”
“Làm sao ông biết ông ấy?” William hỏi.
“Nhiều năm về trước tôi là một tu sĩ trong tu viện Thánh Gioan trong rừng khi Philip phụ trách ở đó, Peter nói với vẻ cay đắng. Tôi phê bình cách lãnh đạo của ông ấy, và ông ấy đã chỉ định tôi phụ trách lo việc bác ái để loại tôi đi.” Sự tức giận của Peter vẫn còn cháy bỏng. Không còn nghi ngờ gì, đây là một yếu tố trong mưu đồ của Waleran.
William nói: “Hãy để việc này lại. Tôi không muốn thuê một thợ xây dựng chính mà mái nhà ông xây đã bị sụp đổ - không cần biết đến lý do.”
Alfred nói: “Ngoài Jack Jackson, tôi là người xây dựng chính duy nhất ở nước Anh đã làm việc ở một nhà thờ kiểu mới này.”
William nói: “Tôi không quan tâm tới Saint-Denis. Tôi tin linh hồn mẹ tôi cũng sẽ được an ủi ngay cả với kiểu kiến trúc truyền thống.”
Giám mục Waleran và Tổng đại diện Peter nhìn nhau. Một lúc sau Waleran nói với William bằng giọng nói nhẹ nhàng. “Một ngày nào đó nhà thờ này sẽ trở thành nhà thờ chính tòa Shiring,” ông nói.
Mọi chuyện trở thành rõ ràng đối với William. Nhiều năm trước đây Waleran đã dự định chuyển tòa giám mục từ Kingsbridge về Shiring, nhưng Tu viện trưởng Philip đã qua mặt ông. Bây giờ Waleran lại tiếp tục kế hoạch. Lần này dường như ông tính toán tinh quái hơn. Lần trước ông chỉ đơn giản xin tổng giám mục ở Canterbury chấp nhận yêu cầu của ông. Lần này ông bắt đầu xây dựng một nhà thờ mới, một nhà thờ lớn, hoành tráng đủ để trở thành nhà thờ chính tòa; cùng lúc ông tìm kiếm những người chân tay như Peter ở xung quanh tổng giám mục, trước khi ông xin tổng giám mục chấp nhận lời yêu cầu của ông. Tất cả đều tốt, nhưng William chỉ muốn xây một nhà thờ để tưởng nhớ đến mẹ, để cho linh hồn bà vượt qua cơn lửa đời đời; và cậu phẫn nộ vì Waleran muốn lợi dụng nó cho mục đích riêng của ông.
Alfred nói: “Còn một chuyện nữa.”
Waleran nói: “Chuyện gì?”
William nhìn vào hai người. Alfred to lớn hơn, khỏe mạnh hơn và trẻ hơn Waleran, và cậu có thể đánh Waleran rơi xuống đất với một cánh tay khỏe mạnh của cậu; nhưng cậu lại hành động như một người nhút nhát trước một đối thủ mạnh hơn. Nhiều năm trước William có thể giận dữ khi thấy một linh mục da trắng thống trị một người đàn ông mạnh mẽ, nhưng cậu không còn khó chịu về những việc như vậy: Đó là bình thường trong đời sống.
Alfred nói nhỏ: “Tôi có thể đem toàn bộ công nhân ở Kingsbridge theo tôi.”
Bất ngờ cả ba người lắng tai nghe.
“Hãy nói lại lần nữa,” Waleran nói.
“Nếu ông thuê tôi làm thợ xây dựng chính, tôi sẽ đem toàn bộ thợ thủ công từ Kingsbridge theo tôi.”
Waleran nói thận trọng: “Làm sao chúng tôi biết ông nói thật?”
“Tôi không yêu cầu các ông tin tôi,” Alfred nói. “Hãy giao cho tôi công việc với điều kiện là phải đưa các công nhân của Kingsbridge theo. Nếu tôi không giữ lời hứa, tôi sẽ ra đi mà không nhận đồng lương nào.”
Vì những lý do khác nhau nhưng cả ba người đều ghét Tu viện trưởng Philip, và họ nhận ra ngay đây là một đòn đánh vào ông.
Alfred thêm vào: “Một số đông đã làm việc ở Saint-Denis.”
Waleran nói: “Nhưng ông sẽ đem họ theo bằng cách nào?”
“Nó là vấn đề ư? Hãy nói như thế này, họ thích làm việc với tôi hơn với Jack.”
William nghĩ Alfred nói dối về điều đó, và Waleran dường như cũng nghĩ như vậy vì ông ngả đầu về phía sau và nhìn Alfred một cách dò xét. Tuy nhiên, trước đó dường như Alfred đã nói sự thật. Dù vì lý do nào, cậu có thể mang các công nhân từ Kingsbridge theo với cậu.
William nói: “Nếu tất cả họ theo ông đến đây, công việc ở Kingsbridge sẽ bị ngưng lại.”
“Đúng,” Alfred nói. “Nó sẽ ngưng lại.”
William nhìn Waleran và Peter. “Chúng ta cần bàn thêm về chuyện này. Tốt hơn ông ấy có thể dùng bữa với chúng ta.”
Waleran gật đầu đồng ý và nói với Alfred: “Hãy theo chúng tôi đến nhà tôi. Nó ở đầu kia của khu chợ.”
“Tôi biết,” Alfred nói. “Tôi đã xây nó.”
Trong hai ngày Tu viện trưởng Philip từ chối đàm phán về cuộc đình công. Ông giận không nói nên lời, và bất cứ khi nào ông nhìn thấy Jack, ông quay lại và đi về hướng khác.
Vào ngày thứ hai, ba xe chở đầy bột đến từ một nhà máy xay xa xôi của tu viện. Xe hàng được binh lính hộ tống: hiện nay bột được quý như vàng. Bột được Thầy Jonathan nhận vào, vì thầy là phụ tá quản lý cho Cuthbert Whitehead đã già. Jack quan sát Jonathan đếm các bao tải. Đối với Jack, khuôn mặt Jonathan có một nét gì đó quen thuộc, như thể cậu giống một người nào đó mà Jack quen biết. Jonathan cao và lêu khêu, với mái tóc nâu nhạt – không giống Philip, người nhỏ, nhanh nhẹn và có tóc đen. Nhưng về tinh thần cậu giống Philip: cậu có tinh thần đạo đức cao, làm việc chăm chỉ, quyết định và tham vọng. Như mọi người đối xử với Philip, dân chúng cũng yêu mến cậu mặc dù thái độ cứng rắn của cậu về luân lý.
Trong khi Philip từ chối đàm phán, một cuộc nói chuyện với Jonathan cũng chẳng thiệt hại gì.
Jack quan sát khi Jonathan trả tiền cho binh lính và người phu xe. Cậu làm việc hoàn toàn có hiệu quả, và khi người phu xe yêu cầu hơn số tiền đã định – như họ thường làm, cậu từ chối một cách bình tĩnh nhưng cương quyết. Jack nhận ra rằng một nền giáo dục trong tu viện là một chuẩn bị tốt để trở thành người lãnh đạo.
Sự thiếu xót của Jack trong lãnh vực lãnh đạo đã thể hiện rõ ràng. Vì xử lý sai lầm với công nhân của mình, cậu đã để cho vấn đề trở thành một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Mỗi lần cậu nghĩ về cuộc họp đó, cậu lại nguyền rủa sự thiếu khả năng của cậu. Cậu quyết tâm tìm cách giải quyết vấn đề.
Khi người phu xe càu nhàu đi khỏi, Jack làm như vô tình đi qua và nói với Jonathan: “Philip rất giận dữ về cuộc đình công.”
Có lúc Jonathan dường như muốn nói điều gì khó chịu – cậu tỏ ra tức giận với chính mình – sau đó khuôn mặt cậu bình thản lại và cậu nói: “Ông ấy tỏ ra tức giận, nhưng bên trong ông ấy bị thương tổn.”
Jack gật đầu. “Ông ấy xem chuyện đó như là sự tấn công vào bản thân ông.”
“Vâng. Ông cảm thấy thợ thủ công đã phản bội ông trong lúc cần thiết.”
“Tôi cho rằng một cách nào đó họ đã phản bội,” Jack nói. “Nhưng Philip đã làm một sai lầm lớn là cố gắng đổi phương thức hoạt động qua các sắc lệnh.”
“Ông ấy có thể làm gì khác?” Jonathan vặn lại.
“Ông ấy có thể thảo luận với họ trước về sự khủng hoảng. Như thế có thể chính họ đề nghị kế hoạch tiết kiệm. Nhưng tôi không có quyền đổ lỗi cho Philip vì chính tôi cũng làm lỗi tương tự như vậy.”
Điều đó gây tò mò cho Jonathan. “Qua cách nào?”
“Tôi báo cáo cho công nhân sự cắt giảm một cách thẳng thừng và không khéo léo như Philip đã loan báo cho tôi.”
Jonatha muốn giận dữ, giống Philip, và đổ lỗi cho sự phản bội của công nhân; nhưng cậu đã miễn cưỡng nhìn thấy mặt kia của đồng tiền. Jack quyết định không nói gì nữa. Cậu đã gieo hạt giống.
Cậu rời Jonathan và trở về phòng vẽ của cậu. Khi nhặt các dụng cụ vẽ, Jack nhận ra rằng người mang lại hòa bình cho thị trấn là Philip. Thông thường ông là người phán quyết sai trái và làm trọng tài trong các vụ tranh chấp. Bây giờ chính Philip lại ở trong cuộc tranh cãi; ông tức giận, cay đắng và không nguôi cơn giận. Lần này phải có một người nào khác làm sứ giả hòa bình. Và người đó, Jack nghĩ, là chính cậu. Với tư cách thợ xây dựng chính cậu có thể nói chuyện với hai bên, và động cơ thúc đẩy cậu, không thể chối cãi, là cậu muốn tiếp tục xây dựng.
Cậu dùng nguyên ngày còn lại để suy nghĩ cách nào cậu có thể chu toàn nhiệm vụ này, và câu hỏi cậu luôn đặt ra cho chính cậu là: Philip sẽ làm gì?
Vào ngày hôm sau cậu cảm thấy sẵn sàng nói chuyện với Philip.
Nó là một ngày lạnh và ẩm thấp. Vào đầu giờ chiều Jack luẩn quẩn xung quanh khu công trường xây dựng hoang vắng, kéo mũ áo choàng lên đầu để giữ cho cậu khỏi ướt, giả vờ như đang nghiên cứu vết nứt trên phần tường khu cửa sổ phía trên (một vấn đề vẫn chưa được giải quyết), và đợi cho đến khi Philip vội vã đi từ tu viện về phía nhà ông. Khi Philip xuất hiện, Jack theo sau.
Cửa nhà Philip luôn luôn mở. Jack gõ cửa và bước vào. Philip đang quỳ trước bàn thờ nhỏ trong góc nhà. Người ta cho rằng, Jack nghĩ, ông đã cầu nguyện đủ hầu như cả ngày và cả nửa đêm trong nhà thờ và ông không cần cầu nguyện ở nhà nữa. Không có lò sưởi: Philip tiết kiệm. Jack yên lặng chờ đợi cho đến khi Philip đứng lên và quay lại. Rồi Jack nói: “Đã đến lúc phải có kết thúc.”
Khuôn mặt bình thường đáng yêu của Philip đanh lại. “Tôi không thấy có gì khó khăn về điều đó,” ông lạnh lùng nói. “Họ có thể trở lại làm việc khi họ muốn.”
“Với điều kiện của ông.”
Philip nhìn cậu.
Jack nói: “Họ sẽ không trở lại với điều kiện ông đưa ra, và họ cũng không đợi ông mãi để xem cái gì là hợp lý.” Cậu vội vàng nói thêm: “hay những gì họ nghĩ là hợp lý.”
“Không đợi mãi?” Philip hỏi. “Họ sẽ đi đâu khi họ mệt mỏi vì chờ đợi? Họ sẽ không tìm được việc làm ở đâu khác. Họ nghĩ rằng đây là nơi duy nhất bị ảnh hưởng bởi nạn đói sao? Nó ảnh hưởng trên cả nước Anh. Mỗi công trường xây dựng đều cắt giảm.”
“Vì thế ông muốn chờ họ bò đến xin lỗi ông,” Jack nói.
Philip nhìn đi chỗ khác. “Không, tôi không muốn điều đó,” ông nói. “Tôi cũng không tin rằng tôi đã gây cho cậu lý do để cậu nghĩ rằng tôi chờ đợi người khác làm chuyện đó.”
“Không, và đó là lý do tại sao tôi đến gặp ông,” Jack nói. “Tôi biết ông thật sự không muốn làm bẽ mặt những người này – nó không phải là bản chất của ông. Ngoài ra nếu họ trở lại với cảm giác bị thua thiệt và bực bội, họ sẽ làm việc không kết quả trong những năm tới. Vì thế, từ quan điểm của tôi cũng như của ông, chúng ta phải giúp họ giữ thể diện. Và điều đó có nghĩa là nhượng bộ.”
Jack nín thở. Đó là bài diễn văn lớn của cậu, và đây là thời điểm thành công hay thất bại. Nếu Philip không thay đổi, tương lai sẽ mù mịt.
Philip nhìn Jack một lúc. Cuộc tranh đấu với cảm xúc nội tâm phản chiếu trên khuôn mặt ông. Sau cùng nét mặt ông thư giãn ra và ông nói: “Tốt hơn chúng ta nên ngồi xuống.”
Jack nén một tiếng thở dài vì nhẹ nhõm khi cậu ngồi xuống. Cậu đã dự định sẽ nói gì tiếp theo: Cậu không muốn lập lại hành động bộc trực, thiếu tính toán mà cậu đã làm với các thợ xây. “Chúng ta không cần bàn cãi về việc mua thêm vật tư,” cậu bắt đầu. “Tương tự như vậy, không ai phản đối việc không nhận thêm người mới. Tôi cũng nghĩ rằng, chúng ta có thể thuyết phục họ chấp nhận không làm việc trong ngày lễ nghỉ, nếu họ đạt được những nhượng bộ trong lãnh vực khác.” Cậu dừng lại cho Philip có giờ suy nghĩ. Cho đến lúc này cậu luôn chiều theo ý Philip và không đòi yêu cầu gì.
Philip gật đầu. “Được. Những nhượng bộ là gì?”
Jack lấy một hơi dài. “Họ bị tổn thương về đề nghị cấm nâng cấp. Họ nghĩ như thế là mất đi đặc quyền cổ xưa của hiệp hội thợ xây.”
“Tôi đã giải thích với cậu đó không phải là ý định của tôi,” Philip nói với giọng tức bực.
“Tôi biết, tôi biết,” Jack vội vàng nói. “Dĩ nhiên ông không muốn lấy đi đặc quyền của họ. Và tôi tin ông, nhưng họ không.” Một nét thương tổn trên mặt ông. Làm sao lại có người không tin ông? Vội vàng Jack nói: “Nhưng đó là quá khứ. Tôi đang định đề nghị một thỏa hiệp mà ông không mất gì.”
Philip nhìn một cách quan tâm.
Jack tiếp tục: “Hãy cho họ tiếp tục được quyền thăng cấp cho công nhân, nhưng trì hoàn việc trả lương vào năm sau.”
“Họ có chấp nhận điều đó không?” Philip hoài nghi nói.
“Chúng ta cứ thử.”
“Và chuyện gì xẩy ra nếu tôi không có khả năng trả lương tăng vào năm tới?”
“Hãy đi qua cây cầu khi ông có nó.”
“Ý cậu là sẽ đàm phán lại vào năm tới?”
Jack nhún vai. “Nếu cần thiết.”
“Tôi hiểu,” Philip nói lửng lơ. “Còn chuyện gì nữa không?”
“Trở ngại lớn nhất là sa thải ngay lập tức những người lao động mùa hè,” Jack nói thẳng thắn. Vấn đề này không thể phớt lờ đi. “Việc sa thải ngay chưa bao giờ được phép trên các công trường xây dựng của thế giới Ki Tô giáo. Cuối tuần là sớm nhất.” Để giúp Philip đỡ cảm thấy ngu ngốc, Jack thêm vào: “Chính ra tôi đã phải cảnh báo ông về việc đó.”
“Vì thế mà tất cả những gì tôi phải làm là thuê họ thêm hai ngày nữa?”
“Tôi nghĩ bây giờ như thế sẽ chưa đủ,” Jack nói. “Nếu lúc đầu chúng ta xử lý một cách khác, có thể chúng ta đạt được điều đó, nhưng bây giờ họ muốn nhiều hơn là một thỏa hiệp.”
“Tôi chắc rằng ông đã có cái gì đó cụ thể trong đầu.”
Jack đã có, và nó là sự nhượng bộ duy nhất mà Jack yêu cầu Philip. “Bây giờ là đầu tháng mười. Chúng ta thường cho thợ mùa hè nghỉ vào đầu tháng mười hai. Chúng ta nhượng bộ họ một nửa, có nghĩa là sẽ sa thải họ vào đầu tháng mười một.
“Điều đó chỉ đáp ứng được một nửa những gì tôi cần.”
“Nó cho ông hơn một nửa. Ông vẫn được lợi từ việc các kho dự trữ được sử dụng hết, tiền tăng lương cho những người được thăng cấp chỉ phải trả vào năm sau và không làm vào ngày lễ nghỉ.”
“Những thứ đó chỉ là điều thêm thắt.”
Jack dựa lưng vào thành ghế, cảm thấy ảm đạm. Cậu đã làm tốt nhất những gì cậu có thể. Cậu không còn lập luận nào để tranh cãi với Philip, không còn nguồn nào để thuyết phục, không còn gì để nói. Cậu đã bắn mũi tên cuối. Và Philip vẫn kháng cự. Jack đã sẵn sàng thừa nhận thất bại. Cậu nhìn khuôn mặt lạnh lùng của Philip và chờ đợi.
Philip nhìn về phía bàn thờ trong góc phòng một lúc lâu trong yên lặng. Sau cùng ông quay lại Jack và nói: “Tôi phải bàn chuyện này trong cuộc họp của nhà dòng.”
Jack như quỵ xuống vì nhẹ người. Nó không phải là một chiến thắng, nhưng nó đã gần tới chiến thắng. Philip không yêu cầu các tu sĩ thảo luận về những điều ông không chấp nhận và trong nhiều trường hợp họ chấp nhận những gì Philip muốn. “Tôi hy vọng họ chấp nhận,” Jack nói một cách yếu ớt.
Philip đứng lên và đặt một tay lên vai Jack. Lần đầu tiên ông mỉm cười. “Nếu tôi đưa vấn đề ra một cách thuyết phục như cậu, họ sẽ chấp nhận,” ông nói.
Jack ngạc nhiên về sự thay đổi tâm trạng đột ngột của ông. Cậu nói: “Việc này càng chóng giải quyết, nó càng có ít hậu quả lâu dài.”
“Tôi biết. Nó làm tôi tức giận, nhưng tôi không muốn cãi nhau với cậu.” Thật bất ngờ ông đưa tay ra.
Jack lắc nó và cảm thấy thoải mái.
Jack nói: “Tôi có thể thông báo cho các thợ xây đến nhà nghỉ vào buổi sáng để nghe phán quyết của cuộc họp nhà dòng không?”
“Được, xin làm như thế.”
“Tôi sẽ làm ngay.” Cậu quay đi.
Philip nói: “Jack!”
“Dạ?”
“Cảm ơn cậu.”
Jack gật đầu và đi ra. Cậu đi trong mưa mà không cần kéo cao chiếc áo mũ. Cậu cảm thấy hạnh phúc.
Buổi chiều hôm đó cậu đi tới nhà các thợ thủ công và loan báo cuộc họp vào sáng mai. Những người không có ở nhà – đa số là người độc thân và thợ mùa hè – cậu gặp họ ở quán bia. Tuy nhiên, họ vẫn tỉnh táo, vì giá bia đã tăng lên theo mọi thứ khác, và không ai có đủ tiền để uống say. Chỉ có một người thợ thủ công không thấy đâu là Alfred, người đã vắng mặt mấy ngày nay. Sau cùng cậu ấy trở về vào lúc mặt trời xuống. Cậu đến quán bia với một cái nhìn đắc thắng trên bộ mặt đần độn của cậu. Cậu không nói cậu đã đi đâu, và Jack cũng không hỏi cậu. Jack để cậu ấy uống với những người khác, còn cậu đi về ăn tối với Aliena và các con.
Sáng hôm sau cậu triệu tập cuộc họp trước khi Tu viện trưởng Philip đến nhà nghỉ. Cậu muốn chuẩn bị tinh thần cho họ. Một lần nữa cậu đã chuẩn bị cho những gì cậu phải nói một cách cẩn thận, không muốn bị hỏng vì sự thiếu khôn khéo. Một lần nữa cậu cố xử lý những việc mà Philip có thể làm.
Các thợ thủ công có mặt sớm. Đời sống của họ bị đe dọa. Một hai người trẻ có mắt đỏ: Jack đoán quán bia đã mở cửa trễ tối qua và một vài người đã quên sự túng thiếu của họ trong vài khoảng khắc. Các thợ trẻ nhất và thợ mùa hè là những người có thể gây ra khó khăn. Các thợ thủ công lớn tuổi có một cái nhìn xa hơn. Thiểu số thợ thủ công phụ nữ thường thận trọng và bảo thủ và sẽ đồng ý với bất cứ thỏa thuận nào.
“Tu viện trưởng Philip dự định yêu cầu chúng ta trở lại làm việc, và sẽ cho chúng ta một vài thỏa thuận,” Jack bắt đầu. “Trước khi ông đến, chúng ta phải thảo luận những điều chúng ta có thể chấp thuận, những gì chúng ta từ chối và điều gì chúng ta không muốn đàm phán. Chúng ta phải tỏ cho Philip thấy sự thống nhất của chúng ta. Tôi hy vọng mọi người đồng ý.”
Nhiều người gật đầu.
Cậu làm cho giọng cậu trở nên tức giận và nói: “Theo quan điểm của tôi chúng ta nhất định từ chối chấp nhận việc sa thải ngay lập tức.” Cậu đập mạnh tay xuống bàn làm việc để nhấn mạnh sự không thể nhân nhượng trong điểm này. Nhiều người tỏ lộ sự đồng ý của họ lớn tiếng. Jack biết rằng đây là một đòi hỏi mà bây giờ chắc chắn Philip sẽ không nhấn mạnh. Cậu muốn khích động những người nóng nẩy để khi Philip thừa nhận nó, họ sẽ nguôi cơn nóng ngay.
“Vì thế, chúng ta phải bảo vệ quyền của hiệp hội là được phép nâng cấp công nhân, bởi vì chỉ có các thợ thủ công mới có thể lượng giá một người có kỹ năng hay không.” Một lần nữa cậu lại không trung thực, cậu làm cho họ không chú ý vào khía cạnh tài chánh để hy vọng rằng khi họ thắng điểm này, họ sẽ dễ dàng thỏa thuận về vấn đề trả tiền lương.
“Về vấn đề làm việc vào ngày lễ nghỉ, tôi có hai suy nghĩ. Những ngày lễ nghỉ thường là một vấn đề của thỏa thuận giữa chủ và người làm – không có một phong tục và thói quen tiêu chuẩn, như tôi được biết.” Cậu quay về phía Erward Twonose và nói: “Quan điểm của ông trong việc này như thế nào, Erward?”
“Thói quen thay đổi tùy theo từng công trình,” Erward nói. Ông hài lòng vì được hỏi ý kiến. Jack gật đầu, khuyến khích ông nói thêm. Erward nhớ lại các cách xử lý khác nhau về ngày lễ nghỉ. Cuộc họp đi theo chiều hướng mà Jack muốn. Một cuộc thảo luận dài dòng về một chủ đề không hấp dẫn sẽ làm người tham dự chán nản và mất hứng thú.
Tuy nhiên sự độc thoại của Edward bị gián đoạn bởi tiếng nói từ phía sau: “Những điều này không có liên quan gì.”
Jack nhìn lên và thấy người nói là Dan Bristol, một công nhân mùa hè. “Từng chuyện một. Xin vui lòng để cho Erward nói hết lời.”
Dan không dễ dàng im lặng. „Đừng quan tâm về điều đó,“ ông ta nói. „Điều chúng ta muốn là tăng lương.“
„Tăng lương?“ Jack tức tối vì ý tưởng này.
Trước sự ngạc nhiên của Jack, Dan được hỗ trợ. Piere nói: „Đúng như vậy, một sự tăng lương. Hãy xem – một ổ bánh bốn cân Anh giá bốn xu. Một con gà mái giá thường là tám xu, bây giờ lên hai mươi bốn xu! Không người nào trong chúng ta có bia nặng từ nhiều tuần nay, tôi cá như vậy. Mọi thứ đã lên giá, nhưng hầu hết chúng ta vẫn giữ giá lương như khi mới được thuê, đó là hai mươi xu một tuần. Và với số tiền đó chúng ta phải nuôi gia đình.“
Jack nản chí. Cho đến lúc này mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, nhưng sự chen ngang này đã phá hủy chiến thuật của cậu. Cậu hạn chế chống lại Dan và Piere, bởi vì cậu biết cậu sẽ có nhiều ảnh hưởng nếu cậu tỏ ra là người cởi mở. „Tôi đồng ý với cả hai ông,“ cậu nói làm cả hai ngạc nhiên. „Vấn đề là chúng ta có cơ hội gì để thuyết phục Philip tăng lương cho chúng ta vào một thời điểm mà tu viện thiếu tiền?“
Không ai trả lời. Thay vào đó Dan nói: „Chúng ta cần hai mươi xu một tuần để sống còn, và ngay cả như thế nó vẫn tồi tệ hơn trước.“
Jack cảm thấy kinh hoàng và bối rối: Tại sao cuộc họp lại trượt ra khỏi bàn tay cậu? Pierre nói: „Hai mươi bốn xu một tuần.“ Và nhiều người khác gật đầu.
Jack nhận ra không phải chỉ có cậu là người đã chuẩn bị chiến thuật khi đến cuộc họp. Nhìn Dan một cách nghiêm khắc, cậu nói: „Các ông đã thảo luận điều này trước đó rồi phải không?“
„Đúng, đêm qua trong quán bia,“ Dan bướng bỉnh nói. „Điều đó có gì sai không?“
„Chắc chắn không. Nhưng vì lợi ích của những người đã không tham dự cuộc họp đó, ông có thể tóm tắt kết luận không?“
„Được.“ Những người đã không ở quán bia nhìn bực bội, nhưng Dan không hối hận. Vừa khi cậu định nói, Tu viện trưởng Philip bước vào. Jack ném một cái nhìn nhanh chóng về phía ông. Tu viện trưởng trông có vẻ vui. Ông bắt gặp ánh mắt Jack và gật đầu nhẹ mà người khác khó nhận thấy. Jack cảm thấy phấn khởi: Các tu sĩ đã chấp thuận sự thỏa hiệp. Ông mở miệng, ngăn lời Dan, nhưng đã quá muộn. „Chúng tôi muốn hai mươi bốn xu một tuần cho thợ thủ công,“ Dan nói to. „Hai mươi xu cho người lao công và bốn mươi tám xu cho thợ thủ công chính.“
Jack lại nhìn Philip. Sự vui vẻ trên khuôn mặt ông biến mất, nhường chỗ cho nét cứng rắn, tức giận để đối đầu.“ Xin dừng lại một chút,“ Jack nói. „Đây không phải là quan điểm của hiệp hội thợ xây. Đó chỉ là một đòi hỏi ngu xuẩn của một số người say trong quán bia.“
„Không, không phải như thế,“ một giọng nói mới cất tiếng. Đó là Alfred. „Tôi nghĩ cậu sẽ thấy hầu hết các thợ thủ công ủng hộ đòi hỏi tăng lương gấp đôi.“
Jack nhìn cậu ấy trong cơn giận. “Một vài tháng trước anh xin tôi một chỗ làm,” cậu nói. “Bây giờ anh đòi tăng lương gấp đôi. Tôi sẽ để anh chết đói.”
Tu viện trưởng Philip nói: “Và điều đó cũng xẩy ra cho tất cả các ông nếu các ông không nhận ra.”
Jack đã muốn tránh phát biểu những lời thách thức như vậy, nhưng bây giờ cậu không còn chọn lựa: chiến thuật của cậu đã sụp đổ.
Dan nói: “Chúng tôi sẽ không trở lại làm việc nếu ít hơn hai mươi bốn xu, và đó là tất cả.”
Tu viện trưởng Philip tức giận nói: “Nó ở ngoài vấn đề. Nó là một giấc mơ ngu xuẩn. Tôi không muốn thảo luận về nó.”
“Chúng tôi không muốn thảo luận chuyện gì khác nữa,” Dan nói. “Ít tiền lương hơn, chúng tôi sẽ không làm.”
Jack nói: “Thật ngu ngốc! Làm sao ông có thể ngồi đây và nói ông không làm nếu ít lương hơn? Ông sẽ không tìm được việc làm! Ông sẽ không còn chỗ nào để đi.”
“Chúng tôi không có chỗ đi sao?” Dan nói.
Cả nhà nghỉ im lặng.
Trời ơi! Jack nghĩ trong tuyệt vọng. Thế là họ đã có một chọn lựa khác.
“Chúng tôi đã có chỗ khác để đi,” Dan nói. Cậu đứng lên. “Và đối với tôi, ngay bây giờ tôi sẽ đi đến đó.”
“Cậu đang nói gì thế?” Jack hỏi.
Dan nhìn đắc thắng. “Chúng tôi được đề nghị làm việc ở một công trường mới, xây một nhà thờ mới ở Shiring. Và thợ thủ công được trả hai mươi bốn xu một tuần.”
Jack nhìn quanh. “Có ai được đề nghị như vậy nữa không?”
Toàn nhà nghỉ nhìn một cách xấu hổ.
Dan nói: “Tất cả chúng tôi.”
Jack hoàn toàn thất vọng. Mọi chuyện đã được chuẩn bị. Cậu đã bị phản bội. Cậu cảm thấy đần độn và bị đối xử bất công. Cậu đã đánh giá sai tình hình. Sự tổn thương trở thành tức giận, và cậu tìm người gây ra trách nhiệm. “Ai là người,” cậu hét lên, “ai trong các ông là người phản bội?” Cậu nhìn họ. Chỉ có vài người nhìn vào mắt cậu. Sự xấu hổ của họ không cho cậu an ủi. Cậu cảm thấy như bị người tình bỏ rơi. “Ai là người đưa đề nghị của Shiring cho các ông?” Cậu la lên. “Ai là thợ xây dựng chính ở Shiring?” Mắt cậu rảo khắp những người hiện diện và dừng lại nơi Alfred. Dĩ nhiên. Cậu cảm thấy ghê tởm. “Alfred?” cậu nói một cách khinh bỉ. “Các ông bỏ tôi để đi làm với Alfred?”
Tất cả im lặng. Sau cùng Dan nói: “Vâng, chúng tôi muốn.“
Jack biết mình thất bại. “Được,” cậu nói một cách cay đắng. “Các ông biết tôi, và các ông biết anh tôi; và các ông chọn Alfred. Các ông biết Tu viện trưởng Philip, và các ông biết Bá tước William; và các ông chọn William. Những gì còn lại tôi có thể nói với các ông là: các ông sẽ nhận được những gì các ông gây ra.”
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.01.2017 23:46:34 bởi Minh Nan >