Ken Follett: Những Cột Trụ Của Thế Giới (Chương 1 - Chương 10)
Những Cột Trụ của Thế Giới
Nguyên tác: The Pillars of the Earth
Tác giả: Ken Follett
Dịch giả: Ngô Nguyễn Minh Nan
Vào truyện
1123
Những đứa trẻ là những người đến chỗ tử hình sớm nhất.
Trời vẫn còn tối khi ba bốn người trong bọn chúng rón rén ra khỏi túp lều lụp xụp, bước đi trong đôi giày lông nhẹ nhàng như con mèo. Một lớp tuyết mới bao phủ thành phố nhỏ như một chiếc áo mới và dấu chân của chúng để lại dấu vết trên mặt tuyết trắng. Chúng chọn con đường băng qua những căn lều bằng gỗ, đi dọc con đường bùn lầy đã đóng băng, đến vùng chợ yên tĩnh, nơi các giá treo cổ đang đợi.
Những đứa trẻ xem thường những gì mà người lớn tuổi coi trọng. Chúng coi thường vẻ đẹp và chế giễu điều tốt lành. Khi gặp một người gù, chúng sẽ cười nhạo và khi gặp một con thú bị thương, chúng sẽ ném đá cho đến chết. Chúng tự hào về những thương tích, hãnh diện khi mang những vết sẹo và dành sự ngưỡng mộ đặc biệt cho những nguời có tật: một đứa trẻ mất một ngón tay có thể được coi là lãnh tụ của chúng. Chúng thích bạo lực. Chúng có thể đi hàng nghìn dặm để xem cuộc đổ máu, và chúng sẽ chẳng bao giờ bỏ qua buổi tử hình.
Một chàng đái vào giàn treo cổ. Chàng khác trèo lên, đặt ngón tay cái lên cổ, vặn khuôn mặt mình theo tư thế treo cổ ghê rợn rồi buông mình rơi xuống: những đứa khác hò reo cổ vũ, làm cho hai con chó vừa chạy đến bãi chợ vừa sủa vang. Một chàng rất trẻ vô ý ăn một trái táo, một người lớn tuổi đánh vào mũi cậu và lấy trái táo đi. Tức giận, chàng trai ném hòn đá vào con chó và đuổi nó đi. Sau đó không còn gì để làm, chúng ngồi trên vỉa hè trong mái hiên ngôi nhà thờ lớn, chờ đợi một cái gì đó sẽ xẩy ra.
Ánh nến chập chờn phía sau cửa chớp của những ngôi nhà bằng gỗ và đá chung quanh quảng trường, những ngôi nhà của thợ thủ công và thương gia giầu có. Các các cô giúp việc và các chàng trai học nghề đang thắp lửa nấu nước và cháo. Bầu trời chuyển từ đen qua xám. Cư dân thành thị bước ra khỏi cánh cửa chật hẹp, quấn mình trong chiếc áo choàng bằng len thô, và run rẩy xuống sông lấy nước.
Chẳng bao lâu sau, một nhóm thanh niên trẻ, người coi ngựa, công nhân và thợ học nghề nghêng ngang vào chợ. Bằng những cú đấm cú đá chúng đuổi những đứa trẻ khác ra khỏi cổng nhà thờ, rồi dựa lưng vào vòm đá, tự cào vào mình, nhổ nước miếng xuống đất và kể một cách rành mạch về cái chết của những người bị treo cổ. Nếu họ may mắn, một chàng thanh niên nói, cổ họ sẽ gẫy ngay khi họ rơi xuống, đó là một cái chết nhanh chóng không đau đớn; nếu không, họ sẽ bị treo trên dây, miệng mở ra đóng vào như con cá bị đưa ra khỏi nước, cho đến khi bị nghẹt thở mà chết; một chàng khác nói, thời gian chết như thế kéo dài bằng một người đi một dặm đường; và một người chàng khác nói, nó có thể còn kinh khủng hơn thế nữa, vì cậu đã nhìn thấy một người khi chết cổ họ dài một thước Anh.
Các bà lớn tuổi lập thành một nhóm ở đầu khác của khu chợ, tránh xa đám thanh niên có những lời khiếm nhã đối với các bà, mặc dù các bà bằng tuổi bà của chúng. Các bà lớn tuổi dậy sớm, ngay cả khi họ không có con nhỏ để săn sóc, và họ là những người đầu tiên nhóm lửa và quét dọn lò sưởi. Người lãnh đạo trong nhóm, bà góa Brewster lực lưỡng, cũng tham gia với họ. Bà lăn dễ dàng một thùng bia như một đứa trẻ lăn một bánh xe. Trước khi bà mở nắp thùng, một đám đông khách hàng đã chờ sẵn với bình và xô trong tay.
Cảnh sát trưởng mở cổng thành cho các nông dân vào, họ sống trong những căn nhà chật hẹp bên ngoài tường thành. Một vài người mang trứng, sữa và bơ vào bán; một số khác vào để mua bia và bánh mì; và một số khác đứng lại trong khu chợ chờ giờ tử hình.
Lâu lâu mọi người lại ngẩng đầu lên, cảnh giác như con chim sẻ, nhìn lên tòa lâu đài trên ngọn núi phía trên thị trấn. Họ nhìn thấy khói bốc lên từ bếp lửa, và ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc đàng sau khung cửa sổ bằng đá. Và, vào lúc mặt trời bắt đầu lên đàng sau đám mây mù, cánh cửa hùng vĩ mở ra và một nhóm nhỏ đi ra. Trước tiên viên cảnh sát trưởng cưỡi một con ngựa chiến màu đen tuyền, theo sau là một xe bò chở tù nhân bị trói. Đàng sau xe ba người đàn ông cưỡi ngựa, và mặc dù ở xa không thể thấy rõ mặt họ, nhưng y phục của họ tiết lộ họ là hiệp sĩ, linh mục và tu sĩ. Hai kị binh đi sau đoàn người.
Một ngày trước đó, tất cả họ đã có mặt tại tòa án, được xử trong nhà thờ. Chính vị linh mục đã bắt được tên trộm; vị tu sĩ đã xác định chiếc chén bạc là của nhà dòng; vị hiệp sĩ là chủ của kẻ trộm đã xác định người này là một người bỏ trốn; và cảnh sát trưởng đã tuyên án ông phải chết.
Trong khi họ chậm rãi xuống đồi, phần còn lại của thị trấn đã tụ họp xung quanh giá treo cổ. Những người đến sau cùng là những công dân danh dự: người bán thịt, thợ bánh mì, hai thợ da, hai thợ rèn, thợ làm dao và cung tên. Tất cả có vợ cùng đi.
Đám đông theo dõi cuộc tử hình với cảm xúc lẫn lộn. Bình thường họ rất phấn khởi về các buổi tử hình. Người tử tù thường là một kẻ trộm, và họ ghét kẻ trộm kịch liệt, vì họ ăn cắp tài sản của những người phải vất vả làm ăn. Nhưng kẻ trộm hôm nay khác. Không ai biết ông là ai hay ông từ đâu tới. Ông không ăn cắp của họ, nhưng ăn cắp của một tu viện cách đây hai mươi dặm. Và ông ăn cắp một chén bạc cẩn đá quý, một cái mà giá trị của nó quá lớn đến nỗi nó không có thể bán được. Nó không giống như ăn cắp một miếng thịt nguội hay một con dao mới hay một chiếc thắt lưng tốt mà sự mất mát của nó sẽ làm cho một ai đó đau lòng. Họ không thể ghét một người vì tội ăn trộm một món đồ đối với họ không có giá trị. Có một vài tiếng nhạo báng và huýt sáo khi tù nhân bước vào bãi chợ, nhưng chỉ có một số ít hưởng ứng, và chỉ có đám trẻ nhiệt tình nhạo báng ông.
Hầu hết cư dân thị trấn không có mặt tại tòa án ngày hôm qua, bởi vì ngày xử án không phải là ngày nghỉ lễ và họ phải đi làm kiếm sống, vì thế đây là lần đầu tiên họ được nhìn thấy kẻ trộm. Ông còn quá trẻ, khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi, cao bình thường, khổ người tầm vóc, nhưng bề ngoài của ông kỳ quặc. Da ông trắng như tuyết trên mái nhà, cặp mắt lồi màu xanh sáng và tóc ông có màu giống như củ cà rốt vừa gọt vỏ. Các cô gái giúp việc cho rằng ông xấu xí; các bà lớn tuổi thương hại ông và đám trẻ cười rũ cho đến khi chúng ngã lăn xuống.
Viên cảnh sát trưởng là người quen thuộc, nhưng ba người khác, những người đã quyết định số phận của kẻ trộm, là người lạ. Vị hiệp sĩ, một người đàn ông mập có mái tóc vàng, chắc chắn là người quan trọng, bởi vì ông cưỡi một con ngựa chiến, một con thú khổng lồ mà giá của nó bằng một người thợ mộc làm việc trong mười năm. Vị tu sĩ già hơn, có lẽ năm mươi hay nhiều hơn, một người cao, gầy, ngồi thụt trong yên ngựa như thể đời sống là một gánh nặng đối với ông. Nổi bật nhất là vị linh mục, một người trẻ có chiếc mũi nhọn và mái tóc đen, mặc y phục đen và cưỡi con ngựa màu hạt dẻ. Ông có một cái nhìn cảnh giác và nguy hiểm, giống như một con mèo đen có thể đánh hơi thấy một tổ chuột con.
Một cậu nhỏ nhắm cẩn thận và phun nước miếng vào người tù. Đó là một cú bắn tốt, nó trúng ngay giữa hai mắt của ông ấy. Ông lên tiếng chửi rủa và lao vào người nhổ nước miếng, nhưng hai sợi dây cột vào cạnh xe đã giữ ông lại. Sự việc xảy ra không có gì đáng nói, ngoại trừ ngôn ngữ ông dùng là tiếng Pháp Norman, ngôn ngữ của giới quý tộc. Thế thì ông được sinh ra trong một gia đình quý tộc sao? Hay ông đã xa gia đình từ lâu? Không ai biết.
Cỗ xe bò dừng ngay dưới giá treo cổ. Viên cảnh sát thừa phát lại trèo lên xe, cầm sợi dây thòng lọng trên tay. Tù nhân bắt đầu chống cự. Đám trẻ reo hò – chúng sẽ buồn, nếu tù nhân yên lặng chấp nhận. Sự chống cự của ông có giới hạn, vì cánh tay và chân ông bị cột chặt, nhưng ông lắc đầu từ bên này sang bên kia, tránh không cho sợi dây thòng lọng tròng vào cổ mình. Một lúc sau ông thừa phát lại, một người đàn ông vạm vỡ, lùi lại rồi đấm vào bụng người tù. Ông ấy khom mình xuống và vị thừa phát lại tròng sợi dây vào đầu ông ấy rồi cột nút. Sau đó ông nhẩy xuống đất, kéo căng sợi dây, thử xem đầu dây kia đã được móc chắc chắn vào giá treo chưa.
Thời điểm này là lúc quyết định. Nếu bây giờ tù nhân giẫy dụa, dây sẽ thắt vào cổ ông và ông sẽ chết sớm.
Những người đàn ông bên cạnh tháo dây cột chân tù nhân và để ông đứng một mình trên thùng xe, hai cánh tay ông vẫn bị cột phía sau lưng. Một sự yên lặng bao trùm trên đám đông.
Vào giây phút này thường xảy ra những xáo trộn: mẹ của tù nhân sẽ la hét hoặc bà vợ sẽ rút dao ra, lao về phía trước để cứu tù nhân. Một đôi khi tù nhân kêu gọi lòng thương xót của Chúa hoặc nguyền rủa người xử mình. Hai kỵ binh dàn sang hai bên, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.
Lúc đó, tù nhân cất tiếng hát.
Ông có giọng hát cao, rất trong. Lời của bài hát bằng tiếng Pháp, nhưng ngay cả những người không hiểu ngôn ngữ này, cũng có thể biết qua giai điệu thê lương của nó đó là một bài hát của đau buồn và mất mát.
Một chim sơn ca, bị bắt trong lưới thợ săn
Hát ngọt ngào như chưa bao giờ đã hát
Như giai điệu rơi
Có thể chia cách đôi cánh và chiếc tổ.
Khi ông hát, ông nhìn thẳng vào một người nào đó trong đám đông. Dần dần đám đông hướng mắt về phía đó và nhận ra một cô gái chừng mười lăm tuổi. Khi mọi người nhìn cô, họ ngạc nhiên vì trước đó họ không hề thấy cô. Cô có mái tóc dài màu nâu sẫm, dầy và mạnh khỏe, buông xõa xuống bờ trán rộng. Cô có đường nét bình thường, bờ môi đầy đặn, quyến rũ. Các bà già nhận ra vòng bụng và cặp ngực căng phồng của cô, các bà kết luận là cô đang mang thai và đoán rằng người tù chính là bố của đứa bé chưa sinh. Nhưng những người khác không để ý gì, ngoại trừ đến đôi mắt của cô. Có lẽ cô đẹp, nhưng cô có đôi mắt trũng sâu, tinh anh màu vàng ròng, rất sáng và xuyên thấu đến nỗi khi cô nhìn bạn, bạn sẽ cảm thấy như cô có thể nhìn thấu tâm hồn bạn, và bạn sẽ phải lẩn trốn đôi mắt ấy, vì sợ đôi mắt ấy có thể khám phá ra bí ẩn của bạn. Cô ăn mặc rách rưới và dòng nước mắt chảy xuống trên đôi má mềm mại của cô.
Người phu xe nhìn chờ đợi về phía người thừa phát lại. Người thừa phát lại nhìn viên cảnh sát trưởng, chờ đợi cái gật đầu của ông. Vị linh mục trẻ sốt ruột thúc viên cảnh sát trưởng, nhưng ông không quan tâm. Ông để người tử tù tiếp tục hát. Đó là giây phút chờ đợi kinh hoàng, trong khi giọng hát dễ thương của người đàn ông xấu xí ngăn sự chết lại.
Vào buổi hoàng hôn, thợ săn đến bắt mồi,
Con sơn ca chẳng còn được tự do.
Tất cả chim trời và con người chắc phải chết,
Nhưng những bài ca sẽ sống mãi thiên thu.
Khi bài ca chấm dứt, viên cảnh sát trưởng nhìn người thừa phát lại và gật đầu. Người thừa phát lại la to: "Hup!" và dùng dây thừng dài quất vào lưng bò. Cùng lúc người phu xe quất dây da của mình. Con bò tiến về phía trước, người tù đứng so le trên xe, con bò kéo xe đi và người tử tù treo mình trong không trung. Sợi dây căng thẳng và cổ tù nhân gẫy, kêu lên một tiếng tách.
Một tiếng thét cất lên và mọi người nhìn vào cô gái.
Không phải chính cô hét mà đó là tiếng hét của vợ người bán dao kéo đứng bên cạnh cô. Nhưng cô gái là nguyên nhân gây nên tiếng thét. Đầu gối cô quỳ xuống trước giàn giá treo cổ, hai cánh tay duỗi dài, trong tư thế chuẩn bị thốt lên một lời nguyền. Mọi người thu mình lại vì sợ: ai cũng biết rằng những lời nguyền của người bị oan sẽ mang lại hậu quả rõ rệt, và mọi người đều nghi ngờ rằng trong vụ tử hình này có một điều gì đó không đúng. Đám trẻ đều khiếp sợ.
Cô gái hướng đôi mắt thôi miên của mình về phía ba người lạ: vị hiệp sĩ, tu sĩ và linh mục; rồi cô thốt lên lời nguyền, vang lên như tiếng chuông: "Tôi nguyền các ông phải bệnh hoạn và đau khổ, phải đói khát và đau đớn; nhà các ông sẽ bị lửa thiêu rụi, và con cái các ông sẽ bị treo cổ; kẻ thù của các ông sẽ tiến triển thịnh vượng, và các ông sẽ về già trong buồn bã, ân hận và chết trong quằn quại hôi thối …" Khi cô nói những câu sau cùng, cô thò tay vào trong bị và lôi ra một con gà trống sống. Một con dao đã có sẵn trên tay cô từ bao giờ, và bằng một nhát dao, cô cắt đứt đầu con gà.
Khi máu vẫn còn chẩy, cô ném con gà mất đầu về phía vị linh mục có mái tóc đen. Nó rơi nhanh, nhưng máu nó vương đầy lên ông, lên vị tu sĩ và hiệp sĩ. Ba người sợ hãi tránh xa, nhưng máu gà đã bắn lên họ, tung tóe lên mặt và nhuốm lên quần áo họ.
Cô gái quay lại và chạy đi.
Đám đông mở đường cho cô đi và đóng lại phía sau cô. Một khoảnh khắc của hỗn loạn. Sau cùng viên cảnh sát trưởng nhìn hai kỵ binh và giận dữ ra lệnh cho họ đuổi theo cô. Họ chen lấn qua đám đông, đẩy dạt đàn ông, đàn bà và trẻ em qua hai bên, nhưng cô gái đã vượt xa khỏi tầm mắt, và mặc dù viên cảnh sát rất muốn tìm cô, ông cũng biết rằng ông sẽ chẳng tìm ra cô.
Ông cảnh sát trưởng quay đi trong phẫn nộ. Vị hiệp sĩ, tu sĩ và linh mục không theo dõi cuộc tẩu thoát của cô gái. Họ vẫn chằm chằm nhìn vào giá treo cổ. Viên cảnh sát trưởng dõi mắt theo họ. Kẻ trộm đã chết treo ở đầu dây, khuôn mặt nhợt nhạt của ông đã tái xanh. Trong khi đó, dưới thân xác đong đưa trong gió của ông, con gà trống cụt đầu nhưng chưa chết chạy vòng vòng trên vùng tuyết đầy máu.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.01.2017 23:25:57 bởi Minh Nan >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: