Phong tục người Việt Nam hằng năm mỗi khi Tết đến mọi người muốn trở về sum họp dưới mái ấm gia đình. Đầu năm ai cũng muốn được khấn vái trước bàn thờ Ông Bà, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giòng sông, bờ ao, vườn bưởi, vườn rau sau nhà... “Về quê ăn Tết” đã trở thành một thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Tuy là Tết cổ truyền của dân tộc nhưng tuỳ theo mỗi vùng, mỗi miền của Việt Nam hoặc theo những quan niệm về tôn giáo khác nhau nên có thể có nhiều hình thức, nhiều phong tục tập quán từng địa phương khác nhau. Nhưng đều có chung một điểm là có thể phân làm ba khoảng thời gian, mỗi khoảng thời gian ứng với những sự chuẩn bị, ứng với những lễ nghi hay ứng với những hình thức thể hiện khác nhau, đó là: Tất niên, Giao thừa và Tân niên.
1- TẤT NIÊN Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế, ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. Đối với Tết cổ truyền, dịp tất niên là lúc mọi nhà chuẩn bị cho những ngày lễ hội, mua thêm đồ ăn, thức uống. Lý do là đa số hàng quán, chợ búa sẽ nghỉ trong và sau ngày Tết, chừng một vài ngày đến một tuần. Bà con đổ xô mua sắm vào dịp nầy cũng một phần là vì các nhà thường chuẩn bị cho dịp Tết từ năm cũ. Những nhà làm nghề nông cũng để dành hoa màu từ trong năm củ cho dịp Tết.
Bước vào bất cứ nhà nào trong dịp cuối năm cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết rất nhộn nhịp. Từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về…Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quen biết rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng có nhiều thời gian và tất bận hơn.
CÚNG BÁI.
Sắp dọn bàn thờ: Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ. Tùy theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng; hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phiá sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc”, một thứ hàng mã với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giửa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giửa đèn và hưong là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả. Phiá trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Cứ vào khoảng 28 tháng Chạp âm lịch thì nhà nhà đều cho bày biện một mâm ngũ quả kèm với nhiều sản vật khác trên bàn thờ. Mâm ngũ quả thường bày trên một cái mâm bằng gỗ tiện, sơn son, có chân, gọi là mâm bồng. Nếu không có mâm bòng, có thể bày trên một cái đĩa to, nhưng phải đặt trên chồng bánh chưng để tạo dáng cao, uy nghiêm, thành kính. Mâm ngũ quả có 5 loại. Tại sao lại 5? Theo các vị cao niên, am tường về Nho giáo thì xuất xứ của mâm ngũ quả có liên quan đến quan niệm triết lý Khổng giáo của phương Ðông, thế giới được tạo nên từ năm bản nguyên - gọi là “ngũ hành”: Kim - Mộc - Thuỷ - Hỏa - Thổ, nghĩa là 5 yếu tố cấu thành vũ trụ. Còn theo quan niệm của dân gian thì “quả” (trái cây) được xem như biểu tượng cho thành quả lao động một năm. Ông cha ta chọn 5 loại trái cây để cúng đêm giao thừa là ngụ ý rằng: Những sản vật này đựơc kết tinh từ công sức, mồ hôi, nước mắt của con người lao động, kính dâng lên đất trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vũ trụ vạn vật sinh tồn. Tư tưởng, hình ảnh ấy đã ăn sâu và tâm thức của người Việt Nam bao đời nay.
Một mâm Ngũ quả ngày Tết ở miền Bắc Việt Nam gồm: cam, quất, bưởi, chuối, dứa.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm: dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối – “chúi nhủi”, cam – “cam chịu”, lê – “lê lết”, sầu riêng, bom (táo), lựu – “lựu đạn” và không chọn trái có vị đắng, cay.
CÚNG ÔNG TÁO. Theo tích xưa thì “ông Táo” là người ghi chép tất cả những gì con người làm trong năm và lên trình báo với Ngọc Hoàng. Ngoài ra ông Táo còn đại diện cho sự ấm no của một gia đình. Ông Táo được cúng vào ngày 23 tháng chạp Âm Lịch hàng năm. Mỗi nhà đều làm cơm, cúng tiễn Táo quân về trời. Ngoài mâm cơm với các món ăn tươm tất, còn có mũ và áo mã bằng giấy để Táo quân mặc và một hoặc ba con cá chép thả trong chậu nước để Táo quân cưỡi về thiên đình.
Đi thăm mộ tổ tiên: Từ ngày 23 cho đến chiều 30 tháng Chạp, con cháu trong gia tộc tề tựu đông đủ và cùng đi thăm và quét dọn mồ mã tổ tiên. Mỗi gia đình đều đem theo hương đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Khi chưa có nghĩa trang ở nông thôn Việt Nam, ít nhà có ruộng đất lớn để làm mộ phần tổ tiên, nên những điền chủ có nhiều ruộng đất trong làng cho mượn đất chôn nhờ. Vì thế, cuối năm, mỗi gia đình đi thăm mộ đều mang theo quà Tết để biếu điền chủ đã cho mình mượn đất hay người coi sóc nghĩa trang (nếu mộ phần đặt trong nghĩa trang).
CÚNG TẤT NIÊN Lúc đầu được hiểu như là hoàn tất công việc trong năm, tức cúng các Tổ nghề đã phù hộ cho công việc làm ăn, nhưng vì không phải thợ nào cũng có vị tổ nghề rỏ ràng nên dần dà, mọi người đều cúng. Lễ cúng nầy thường vào các ngày từ sau 23 đến 29 hoặc 30 Tết.
TRANG TRÍ. Dựng nêu: Nêu là một cây tre hay cây tầm vông dài khoảng 5-6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ tùy theo từng địa phương như giấy vàng bạc, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu hồ lô rượu, hình cá chép bằng giấy để Táo quân cởi về trời, dãi cờ phướn màu đỏ, đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tạo thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai…Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhìễu…Vào buổi tối, người ta treo một lồng đèn ở cây nêu để tổ tiên biết đường mà về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch, cũng như ngày mùng một Tết, người ta còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng tổ tiên về ăn Tết, mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không may.
Ở miền Bắc, nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp là ngày Táo quân về trời, chính vì từ ngày nầy cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội nầy lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà.
Trưng bày các loại tranh vẽ tết cổ truyền: Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư…có khi là một chữ Nho (chữ Tân, Phúc, Đức…).
Câu đối Tết: Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.
Hoa đào đỏ, Mai vàng, cây Quất: Miền Bắc Việt Nam thường chọn cành đào để cắm trên bàn thờ hoặc cả cây đào trang trí trong nhà. Theo quan niệm người Trung Hoa, cành hoa đào có phép thuật trừ tà ma, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh. Vì vậy, màu đào đỏ thắm như một lời chúc phúc đầu xuân. Miền trung và miền Nam lại hay dùng cành mai hoặc cây hoa mai vàng, theo dân gian từ nghìn xưa màu vàng tượng trưng vương quyền. Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển, thăng tiến. Cây quất thường được trang trí tại phòng khách hay trước cửa nhà. Cây quất với quả chín vàng ươm, tròn trịa, xum xuê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.
Bánh chưng, bánh tét: Với quan niệm món ăn trong ngày Tết là món ăn dâng cúng ông bà tổ tiên, thần linh và sau đó là tiếp khách nên các món ăn được làm rất công phu như gạo để làm bánh phải thật trắng, thơm và bánh luột ra phải thật tinh khiết…Nét truyền thống và linh thiêng trong cách thức làm bánh chưng, bánh tét dâng cúng trong ngày Tết được phản ảnh khá đậm nét ở việc chế biến và công đoạn làm bánh. Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, không ai muốn mắc nợ dây dưa sang năm mới. Xoá bỏ xích mích, tỵ hiềm của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẽ hoà thuận hơn. Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc ViệtNam.
Miền Bắc có bánh chưng, miền Trung và miền Nam có bánh tét. Về nguyên liệu và cách nấu giống nhau, nhưng về hình dáng thì bánh chưng có hình vuôn, bánh tét có hình trụ. Bánh tét được phổ biến rộng và được bán quanh năm như bánh tét có nhân mặn, nhân ngọt, nhân chuối, hay bánh tét chay có nhân đậu…Món ăn chánh yếu trong ba ngày Tết của người Nam là nồi thịt kho, dưa giá, bánh tét, bánh phồng, mứt dừa, mứt bí… Trái cây thì có dưa hấu, quít, bưởi. Những thức ăn và bánh trái chuẩn bị cho ba ngày Tết là mồng một, mồng hai và mồng ba.
2- GIAO THỪA. Lễ rước vong linh ông bà: Chiều 30 tháng Chạp, các thức ăn và trái cây được xếp thành cỗ để dâng lên bàn thờ ông bà, tổ tiên. Đây là dịp cả gia đình quây quần trước vong linh cửu huyền thất tổ, ôn lại những sự việc đã xảy ra trong năm để rút tỉa kinh nghiệm cho năm mới. Gia trưởng (người đứng đầu gia tộc, thường là người cao tuổi nhất) trịnh trọng thắp nén hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới. Theo sau gia trưởng, mọi người trong nhà đều nghiêm trang chắp tay cung thỉnh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.
Cúng Giao thừa, hay lễ Trừ tịch: Theo tục lệ cổ truyền thì “giao thừa” được tổ chức nhằm đón các thiên binh, thiên tướng đi ngang qua nhà. Lúc đó do họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính bái mà Trời đã mang lại phước lành cho một năm. Thường thì một chiếc bàn hương án được kê ra, trên có bát nhang, hai ngọn đèn cầy. Lễ vật gồm: một con gà luộc, vài lát bánh tét hay bánh chưng, kẹo mứt, hoa quả, ruợu trà và vàng mã.
Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc. Bắt đầu vào lúc giao thừa, và cũng kết thúc vào lúc giao thừa. Theo từ điển Hán- Việt của học giả Đào Duy Anh nghiã là củ giao lại, mới đón lấy. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa còn mang tên là lễ Giao thừa.
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giửa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ở miền Nam, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất. sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.
Trước đây, ở Việt Nam đúng vào phút giao thừa, các nhà thường đốt pháo Tết. Theo lời truyền thuyết dân gian, pháo được cho nổ vào dịp năm mới để xua đuổi ma quỷ của năm củ (vì người xưa đã tin rằng ma quỷ sợ tiếng động lớn) chào đón năm mới vui và may mắn. Pháo càng dài càng lớn, nổ càng lâu, kêu càng to, cháy ra nhiều xác phác pháo và cháy hết thì càng được cho là điềm lành của năm mới.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc.
Chữ "lì xì" được phiên âm từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Việt, nguyên là chữ "lợi thị" (tiền bạc, lợi lộc) trong Hán tự. Để mừng tuổi các em, những người lớn trong gia đình, họ hàng, bạn bè của cha mẹ tặng các em những món tiền nho nhỏ (lì xì) và chúc các em chóng lớn, học hành đỗ đạt, v. v. Những món tiền này được cho vào phong bao màu đỏ trơn hoặc có hoa văn vàng. Cũng như màu hồng thắm, màu đỏ hoặc các màu có sắc đỏ được tin là tượng trưng cho sự may mắn. Thuở trước, sau khi nhận những lời chúc thọ, các vị cao niên trong gia đình lì xì tất cả con cháu bất kể tuổi tác với những món tiền nho nhỏ, vừa bạc lẻ vừa tiền chẵn, ngụ ý chúc con cháu làm ăn phát đạt, tiền bạc sinh sôi nảy nở trong năm mới.
3- TÂN NIÊN Chúc Tết: Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng đáng với ''bề trên''. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn...Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Sáng mồng một Tết, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng đễ lễ Tổ Tiên, chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng và mừng tuổi lẫn nhau. Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con, mỗi người tự nhiên tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mùng một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên; và các người lớn thì “mừng tuổi” các trẻ em một cách bằng những đồng tiền mới bỏ trong những “phong bao”, còn gọi là “lì xì”. Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ, ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nẩy nở thêm nhiều. Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thông làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dù người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân. Phong tục trong các lễ hội Tết hiện còn tiếp tục: Múa lân, múa rồng… Các lễ hội cổ truyền đã mất như thi đánh đu, thi leo cột mỡ…các trò chơi dân gian như: Bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, hát chòi và nhiều loại bài bạc cổ truyền. Các trò chơi cộng đồng khác như đua thuyền, đấu vật tùy theo mỗi địa phương các lễ hội nầy có thể được tổ chức hay không.
Xuất hành hái lộc: Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý Thần, Thần tài, hỉ Thần…Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng…là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giử nguyên lộc biếc suốt cả mùa xuân.
Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ… quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ".
Lễ mừng thọ: Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bác tuần, cửu tuần… tính theo tuổi mụ. Ngày tết, ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.
Trong gia đình Việt Nam, người cao tuổi được kính trọng hơn hết vì có nhiều kinh nghiệm. Sự kính trọng quý vị cao niên cho thấy một xã hội biết kiêng nể nguồn gốc và có tinh thần khiêm tốn, chịu khó học hỏi từ những người đi trước vì có ai từng trải bằng các vị ấy. Cho nên, sáng sớm mùng Một Tết là lúc con cháu trong gia tộc tỏ lòng hiếu thảo qua việc chúc tuổi ông bà, cha mẹ. Người Việt quan niệm rằng cứ mỗi độ xuân về là mọi người đều thêm một tuổi, bất kể sanh nhằm ngày nào trong năm. Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Thăm viếng họ hàng: Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đậm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm. Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng, lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài, phát lộc, những người năm củ gặp rủi ro thì chúc mau mau “tai qua nạn khỏi” hay “của đi thay người” nghiã là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa vào dịp nầy.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc, ruợu chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 29, 30; gia đình quay quần bên nồi bánh chưng thì việc đánh bài, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, tổ tôm…ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.
Cúng đưa hạ nêu: Trong những ngày Tết, người Việt cho rằng có sự hiện diện của Ông Bà tổ tiên nên bàn thờ luôn được thấp hương và cúng cơm mỗi ngày. Thường thì chiều mồng ba cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều mồng bảy cúng hạ nêu và xem như hết Tết.
TỤC LỆ KIÊNG CỮ. Theo tục lệ trong ngày đầu năm mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người. Do đó, người dân Việt Nam từ xưa có rất nhiều điều kiêng kỵ như sau:
-
Kỵ mai táng: Nếu nhà ai không may có thân nhân qua đời vào ngày 30 hay mùng một Tết thì phải quàn thi hài trong nhà, đợi qua ngày mùng một và khi nào làng làm lễ động thổ xong mới được làm đám. Nếu làng làm động thổ vào ngày mùng một, mùng hai thì đơn giản; nhưng nếu làm vào mùng sáu, mùng bảy tháng giêng thì tang gia vô cùng khổ sở. Họ cho rằng khởi đầu một năm mà đã có sự lạnh lẽo của đám tang thì làng sẽ gặp nhiều điều không may cho cả năm đó.
- Tục xông đất: Sáng mùng một Tết, người ta rất kiêng vào nhà ai đó mà chưa có người xông nhà. Nguời xông nhà phải có tuổi không được xung khắc với tuổi gia chủ, kỵ những người trong năm bị hoạn nạn (cháy nhà, mất của, tai nạn, nhà có đám…), kỵ những người vợ chồng bất hoà, sinh con một bề, vía dữ.vv… Thường người ta kén một người “nhẹ vía” trong gia đình ra đi từ trước giờ giao thừa, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người nầy sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mùng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người nầy đem lại sự may mắn dể dãi.
Ngày mùng một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa là đỏ. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như: làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió v.v…
Trong ngày nầy, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung Hoa, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất. Vì sao có tục kiêng hốt rác đổ đi trong ba ngày Tết: Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mùng một tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó có tục kiêng không hốt rác ngày Tết.
Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay.
Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác, viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen.
Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.
Tóm lại, phong tục trong ngày Tết là tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt. Giá như phát huy thuần phong mỹ tục đó, từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính già yêu trẻ… thì đất nước quê hương sẽ tươi đẹp, giàu mạnh, người người sống trong bình yên, hạnh phúc.
ĐỖ HỮU PHƯƠNG
(Xuân ĐINH DẬU)2017
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2017 15:17:08 bởi Ct.Ly >