Z.28 NÚI ĐÁ TIÊN TRI 1 -Người Thứ Tám -sưu tầm, đả tự : trandatrau
trandatrau 09.03.2017 19:44:47 (permalink)
Tủ sách Z.28
Người Thứ Tám
NÚI ĐÁ TIÊN TRI
 
đả tự : trandatrau2014
 
Lời lưu ý quan trọng của tác giả.
 
Như mọi lần, tác giả trân trọng nhắc lại rằng mặc dầu dựa vào thực tế địa lý, lịch sử và thời sự, những tình tiết và nhân vật trong cuốn truyện này chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. Vạn nhất có sự gần gặn hoặc trùng hợp với sự việc xảy ra ngoài đời thì đó chỉ là ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của người viết.
 
NGƯỜI THỨ TÁM
 
I
Văn Bình bị bắt
 
Tiếng động cơ phản lực đang kêu rầm rầm bỗng nhiên bớt dần. Chiếc máy bay Boeing 707 khổng lồ của hãng hàng không Liên Mỹ PAA vừa rời phi trường Orly. Văn Bình kéo tấm riềm xanh che ô cửa phi cơ. Bên cạnh chàng, Lily, cô gái tóc vàng người Đức, bắt đầu đeo cặp kính đen lên mắt, tuy trời đã khuya, và ánh đèn gián tiếp trên máy bay không làm nàng chói mắt. Nàng cần ngủ.
Cả hai người vừa ra khỏi một rạp chiếu bóng ở Ba Lê thì gọi xe ra trường bay. Lily muốn trước khi từ giã thủ đô ánh sáng qua Mỹ quay phim uống một ly sâm banh thượng hạng, và coi một cuốn phim tình ai oán. Nàng đã toại nguyện.
Đã là khách quen trên đường Ba Lê - Nữu Ước nên Văn Bình biết rằng chỉ tám giờ nữa chàng sẽ ghé xuống Nữu Ước. Từ Mỹ sang Pháp bao giờ cũng nhanh hơn nửa giờ vì thuận gió, nhưng dẫu sao vì một trớ trêu của tạo hóa, vì sự khác giờ màu nhiệm giữa hai thị trấn khác đến 6 tiếng đồng hồ nên rời Ba Lê sau khi tan chiếu bóng, du khách đã có thể đến Nữu Ước đi ngủ mà trời vẫn chưa khuya.
Nhìn khuôn mặt mỹ miều như nặn của Lily, chàng bất giác lo lắng. Giá cuộc sống bình thường của mọi người cũng đầy nguy hiểm như đời chàng nhỉ ? Giá chiếc phi cơ phản lực tối tân này với một tốc độ khủng khiếp trên 900 cây số một giờ, lao đầu xuống biển nhỉ ? Chàng sẽ mất Lily. Và bực mình nhất là chàng không được hẹn hò thả cửa nữa.
Phía trước chàng một cặp tình nhân trẻ ôm ghì lấy nhau. Chàng tinh nghịch đếm không biết họ hôn môi nhau đến lần thứ mấy mươi nữa. Nếu đôi chim cu gáy này mà đáp máy bay ở nước nhà và cũng da vàng mũi tẹt thì chắc hẳn được mời vào dưỡng trí viện Biên Hòa hoặc ít ra cũng được làm đề tài bình luận và quảng cáo cho nhiều tờ tuần báo tranh ảnh.
Máy bay lên cao tới 12.000 thước nhưng nhờ máy điều hòa không khí nên chàng không cảm thấy lạnh. Tuy nhiên một cô chiêu đãi viên có một phía trước đồ sộ và một phía sau như trái ban lông dừng lại trước ghế chàng ngồi, đắp một cái chăn dạ thơm thơm lên cặp đùi quán quân của Lily. Cô ta ghen chăng ? Không, cô ta trông cũng được đấy chứ ? Văn Bình nhìn thẳng vào chỗ đáng nhìn, cô chiêu đãi viên Ba Lê này không tỏ vẻ giận hay e thẹn, trái lại mỉm cười một cách ý nhị với chàng. Cái cười của nàng không đẹp bằng của Lily nhưng ít ra cũng đủ có sức điện để giật chết hàng ngàn cậu thanh niên chưa vợ. Và Văn Bình cũng chưa vợ.
Nghĩ đến cảnh phòng không của mình, Văn Bình cười phá lên đắc ý. Lily choàng dậy :
-Gì thế anh ?
Văn Bình không đáp vì chàng còn mải nhìn cô bé ngồi phía trước giật mình như bắn trong tay gã tình nhân tham lam.
Lily lại hỏi :
-Gì mà cười một mình thế anh ?
Văn Bình đáp rí rỏm :
-Ấy, anh vừa nghĩ ra một đoạn phim khoái trá.
Vẫn nằm yên trên ghế, Lily nói :
-À, đoạn mà anh chàng kia giết được tình địch phải không anh ?
-Không. Đó là đoạn phim giữa ông Adam và Eva ở tầng lầu chót khách sạn Acton ở Nữu Ước.
Lily buột miệng một câu tiếng Đức :
-Cái anh phải gió này.
Văn Bình véo Lily một cái. Nàng nằm yên không phản đối. Rồi giấc ngủ xâm chiếm cơ thể chàng lúc nào không biết. Suốt mấy tuần nhật bê tha ở Mông Mác với cô đào tóc vàng mà chàng gặp ở Bá Linh sau nhiều năm xa cách, chưa có đêm nào là chàng được ngủ được nư mắt. Vả lại, ngủ thế nào được khi bên mình còn có một ngọn núi lửa nguyên tử, một Lily mà 10 năm vẫn không làm gò má sâu đi, cho lưỡng quyền nhô lên và cho nụ cười kém giết chóc.
Như bị một cây kim đâm nhói vào tim, Văn Bình tỉnh dậy. Mồ hôi toát đầm cả áo. Chung quanh vẫn không có gì đổi khác. Nhưng không, giác quan thứ sáu của chàng ít khi lầm lần. Đâu đây hình như thần chết đương phảng phất.
Chàng mở tung mắt, choàng dậy. Bên cạnh, Lily vẫn ngủ say sưa, bộ ngực phập phồng sau làn vải mỏng. Cặp nhân tình phía trước cũng đương ôm nhau tình tự. Lão triệu phú bụng to như ễnh ương, đôi mắt giấu sau cặp kiếng bạch kim đắt tiền, đã bỏ tờ báo trinh thám xuống sàn máy bay và lim dim ngủ.
Chàng nhìn về phía cửa ăn thông với buồng hoa tiêu. Phía trên, hàng chữ No Smoking – Fasten Your Belt (Cấm hút thuốc - Buộc giây lưng ghế vào người) đã nổi bật trên ánh đèn đỏ. Ngọn đèn này chỉ bật sáng khi máy bay khởi hành và đáp xuống mà thôi. Chàng nhìn đồng hồ. Phi cơ mới rời Ba Lê được 5 tiếng rưỡi đồng hồ. Nếu chàng đoán không lầm thì chiếc Boeing 707 này đương bay trên Đại tây dương rộng mênh mông. Tại sao lại có lệnh cấm hút thuốc và yêu cầu hành khách buộc giây lưng ghế vào mình?
Cánh cửa mở rộng. Đi đầu là hai cô chiêu đãi viên xinh tươi. Nét mặt vẫn xinh nhưng dáng tươi tắn đã mất đâu hết. Thay vào đó một vẻ sờ sợ mà họ cố trấn tĩnh. Tiếp theo là viên chỉ huy phi cơ thương mại cao lớn, lực lưỡng, bộ điệu vững chắc, tin tưởng, của những người đã giầu kinh nghiệm phi hành.
Không, chàng không thể lầm được. Bao năm vật lộn với cái chết, nhưng trong cặp mắt sáng như thép của viên chỉ huy, Văn Bình đã thoáng thấy một tia lo ngại. Văn Bình đã thành thạo về cái nghề mà người ta gọi là tướng diện. Chỉ nhìn sơ một người, chàng đủ biết họ có ý định giết chàng hay không. Lần này, những cặp mắt đã quen với đời sống trên thượng tầng không khí này lại đượm đôi chút hốt hoảng.
Văn Bình đứng lên, nhìn bốn phía. Hành khách trong khoang hình như không biết. Lily và chàng đi hạng du khách nên bạn đồng hành cũng khá đông. Cô chiêu đãi viên lúc nãy tiến lại gần chàng, giọng nhã nhặn :
-Thưa, ông cần gì ?
Có lẽ vừa hỏi xong, cô ta đã cảm thấy sự vô lý. Chiếc Boeing 707 là một trong những máy bay tân tiến, đầy đủ tiện nghi nhất thế giới, trên mỗi ghế ngồi đều có nút vặn đèn, báo hiệu, nút gọi chiêu đãi viên và máy vi âm. Không lẽ Văn Bình không biết xử dụng những tiện nghi đó mà lại đứng lên vẫy chiêu đãi viên như trong chiếc phi cơ chạy bằng chong chóng từ bao năm trước.
Văn Bình đáp :
-Tôi không cần gì cả.
Vừa lúc đó đèn trong khoang sáng rực lên như ban ngày. Tiếng nói của viên chỉ huy oang oang trong máy phóng thanh :
-Kính mời quý ngài tỉnh dậy nghe tôi…Kính mời quý ngài tỉnh dậy nghe…
Mọi người lục đục trở dậy. Lily cũng hất cái chăn che đùi và ấn nút ghế trở lại vị trí ngồi. Văn Bình lắng tai nghe. Người chỉ huy nói chậm rãi, rõ ràng và bình tĩnh :
-Còn một giờ nữa thì đến trường bay Nữu Ước. Đáng lẽ ra tôi không báo tin cho quý ngài hay, nhưng đây là trường hợp bắt buộc, sau khi chúng tôi tìm kiếm hết mọi chỗ. Một nguồn tin cho biết trên máy bay này có một trái bom nổ chậm.
Nói đến đây, viên chỉ huy ngừng lại, đảo mắt nhìn hành khách như muốn dò xét phản ứng của từng người. Ông ta quả là một tay sành khoa tâm lý hay một độc giả trung thành của loại trinh thám hồi hộp, giật gân và gay cấn ! Một  thiếu phụ già bận đan len từ lúc phi cơ rời Orly đến giờ tuột tay đánh rơi cây kim xuống sàn, miệng kêu lên một tiếng sửng sốt :
-Trời ơi !
Ở một góc xa, tiếng kêu thất thanh của một phụ nữ khác nổi lên. Tiếng đàn ông ồn ào :
-Bà ấy ngất đi rồi. Cấp cứu mau.
Hai cô chiêu đãi viên chạy vội về phía đó. Chàng liếc nhìn Lily. Nàng vẫn trầm tĩnh như không có chuyện nguy ngập xảy ra. Những đêm sống trong bóng tối trên đống gạch vụn của thành phố Bá Linh tang tóc dưới bao trận mưa bom của đồng minh đã trui luyện lòng nàng lại. Nàng không còn biết sợ vội vàng, sợ hiện ra trên nét mặt nữa. Lão triệu phú lâm râm cầu nguyện. Một người đàn ông ăn mặc lịch sự ở bên hữu đứng lên chất vấn :
-Nếu ông biết có bom nổ chậm trên máy bay, sao không báo cho mọi người cùng tìm một thể.
Viên chỉ huy lắc đầu :
-Tôi không muốn phiền quý ngài vì biết đâu đó chẳng là một sự đùa bỡn nghịch ngợm. Dạo này, thỉnh thoảng lại có kẻ chơi tinh, gọi giây nói báo tin có bom giấu trên phi cơ. Và lần nào chúng tôi cũng tìm nhưng không thấy. Nhưng lần này…
Tiếng chất vấn mạnh hơn :
-Lần này ông có cảm tưởng rằng trên này có bom nổ chậm phải không ?
Viên chỉ huy rắn rỏi :
-Xin quý ngài cho phép tôi nói tiếp. Thời giờ sắp tới, không cho chúng ta được quyền chất vấn nữa. Vì nếu quả bom có thật, không biết nó sẽ nổ lúc nào : trong lúc này, hay chút nữa, hay lúc đáp xuống Nữu Ước. Một trái bom nổ trên không, phi cơ này sẽ ra sao, quý ngài đã biết. Vậy tôi yêu cầu mỗi quý vị xét lại hành lý và coi lại chỗ ngồi. Nhân viên phi hành đã coi những chỗ khác rồi. Xin hết.
Một quang cảnh hỗn độn xảy ra. Mọi người nhấc hành lý trên giá xuống, hí hoáy mở khóa, lấy đồ trong va li ra từng xấp ngổn ngang. Bàn tay lão triệu phú trắng bủng run lên như sợ chạm phải ngòi bom trong va li. Lily cũng coi lại bọc đồ của nàng. Văn Bình không cần mở va li của chàng nữa vì liếc nhìn sợi tóc mà chàng dán hồi nãy vẫn còn y nguyên trên khóa, chàng biết rõ là chưa ai mở.
Trong khi đó một nhân viên phi hành cầm trong tay một cái máy kỳ dị, hình cái hộp gắn cái ống dài như chiếc máy hút bụi, kêu rè rè. Đó là cái máy tìm chất nổ mà một phòng thí nghiệm vừa chế ra để khám phá những trái bom hoặc tạc đạn giấu trên máy bay. Chiếc máy đi từ ghế này đến ghế khác, lúc hướng vào du khách, lúc chõ xuống sàn, trên giá hành lý.
Tiếng viên chỉ huy lại vang lên :
-Máy bay đã đến không phận Nữu Ước, xin quý ngài cứ bình tĩnh tìm kiếm.
Bây giờ Văn Bình mới cảm thấy sờ sợ. Chàng không hoảng hốt nhưng vì đã trải qua nhiều trường hợp tương tự nên không dám khinh thường. Nếu là lời cảnh cáo đùa nghịch thì hồi nãy nhân viên phi hành già dặn, kinh nghiệm, đâu đến nỗi biến sắc như vậy ? Chắc còn có những nguyên nhân kín đáo nào khác !
Nếu trên máy bay có bom nổ chậm ?
Lệ thường, bọn phá hoại giấu bom vào chỗ khó tìm nhất, đó là giấu vào bộ phận bánh xe đáp xuống . Khi máy bay  sà xuống đường băng, bánh xe tụt ra, và động tác này sẽ làm cho bom nổ. Nổ vào lúc đáp xuống vừa giết chết hành khách, phá phi cơ, vừa làm hư hại cơ sở trường bay Nữu Ước.
Chàng rùng mình gấy lạnh. Nếu là một trái bom nguyên tử ? Trên phi cơ bao giờ cũng có một máy Geiger để tìm phóng xạ nguyên tử, nhưng tại sao chưa thấy họ đem dùng, hay là họ đã dùng từ nãy khi chàng còn ngủ mê mệt ?
Nhìn qua ô cửa phi cơ xuống sân bay, chàng thấy những đoàn xe sơn đỏ, xe chữa lửa. Một chữ thập đỏ to tướng trên một chiếc cam nhông : xe Hồng thập tự. Thì ra dưới đó họ cũng kinh sợ và đã áp dụng những biện pháp cấp cứu.
Tiếng đọc kinh lâm râm trở nên một điệp khúc ồn ào như một buổi sáng xem lễ ở nhà thờ. Sợ chết, con người ai cũng muốn nhờ vào tôn giáo.
Văn Bình lắng nghe tiếng phi cơ giảm ga xăng. Tiếng máy nhẹ dần, nhẹ dần, và rùng mình một cái mạnh, bánh xe đáp xuống vừa chạm sàn xi măng. Chiếc Boeing 707 đến trường bay Nữu Ước thoát nạn.
Cửa phi cơ mở tung, hành khách xô ra lũ lượt và dồn xuống cầu thang cao lêu nghêu. Văn Bình kéo tay Lily ra sau cùng.
Trên sân, tiếng kèn xe cấp cứu inh ỏi. Đội lính nón đồng cao lớn đã chực sẵn bên cạnh một người cao gần hai thước, đeo mặt nạ, bận quần kỵ lửa trắng tinh, lưng đeo bình dưỡng khí cá nhân của đoàn cứu hỏa nguyên tử. Mặt hành khách nào cũng tái như gà cắt tiết dưới ánh đèn sáng như ban ngày.
Thủ tục quan thuế và di trú được rút ngắn lại. Không một bóng phóng viên báo chí nào có mặt để đón hành khách chuyến bay PAA suýt lâm nạn. Văn Bình và Lily tiến về phía Long Island và vẫy một chiếc tắc xi. Chàng ra lệnh cho tài xế:
-Acton Plaza, Fifth Avenue (1).
Chiếc tắc xi mới toanh phóng vào trung tâm Nữu Ước ban đêm, giữa suối ánh sáng nê ông rực rỡ của những tòa lâu đài ngàn lẻ một đêm. Lily ngồi xích lại gần chàng như muốn tìm hơi ấm. Chàng ghé miệng đặt một cái hôn âu yếm lên môi Lily. Toàn thân nàng run lên như mới được hôn môi lần đầu tiên trong đời. Đúng ra nàng được hôn môi từ lâu lắm. Hơn mười năm trước, tại Tây Bá Linh, Văn Bình gặp Lily lúc 15 tuổi, nhân một chuyến hành động trong hàng ngũ do thám OSS (2). Vừa rồi, ông Hoàng phái chàng sang Bá Linh trao trả nhà bác học Bi La Tếp cho nhà đương cuộc Nga Sô nên hai người lại gặp nhau. Lily vẫn chưa chồng và vẫn là con chim sơn ca của các hộp đêm Trung Âu. Văn Bình còn là chàng thanh niên thích đàn bà nhưng ghét có vợ, luôn luôn đắm chìm trong bầu không khí gián điệp quốc tế, với khẩu súng lục kè kè dưới nách, với cây ma trắc kẹp trong tay phải, với lưỡi dao lá liễu giấu trong tất chân, dưới đầu gối. Hai người qua Ba Lê la cà trong mấy tuần lễ. Nàng nghỉ hát. Chàng được Sở cho nghỉ hè. Lily nhận được điện của hãng chiếu bóng RKO qua Hồ ly vọng đóng phim. Chặng thứ nhất hai người trên đường qua Mỹ là Nữu Ước.
Rời Nữu Ước đã lâu, chàng mới có cơ hội quay lại. Nữu Ước mấy năm trước đối với chàng là một mảnh đất quen thuộc, hồi chàng là điệp viên OSS cộng tác với FBI săn bọn buôn lậu đô la và thuốc phiện trắng. Nữu Ước đối với du khách năm châu là tòa nhà chọc trời Empire State Building và quảng trường Times Square. Trong chuyến đi với Mỹ lần này, Nữu Ước là khách sạn Acton, một khách sạn tráng lệ vào bậc nhất thành phố, và ở trên một đại lộ sang trọng không kém. Khách sạn này cao hơn chục tầng, có 6 phòng ăn rộng rãi, trong đó có đủ cây xinh, cỏ lạ. Lúc tắc xi dừng trước khách sạn, thấy một toán bồi ăn mặc đỏm đáng chạy ra mở cửa xe, sách đồ và đon đả chào, Văn Bình sực nhớ đến khách sạn Hóa Bình mà chàng phải ngụ lại, trong chuyến công tác tại Hà Nội. Không một người xách đồ. Không một nụ cười chào hỏi.
Thang máy đưa hai người lên tầng thứ 14, mỗi người thuê một căn phòng lịch sự có máy lạnh điều hòa không khí và có máy vô tuyến truyền hình. Văn Bình hôn lên trán Lily rồi về phòng riêng hẹn với nàng nửa giờ sau sẽ quay lại đón nàng xuống phòng trà của khách sạn. Phòng trà này là một kỳ công trong đó có rất nhiều cây kè lùn tịt lá rộng xanh, những cái bục bằng cẩm thạch man mát, và hàng chục tấm gương to lớn.
Phòng của chàng cách phòng Lily chừng hai chục bước. Vừa đến cửa phòng, chàng vấp phải một thiếu nữ xinh đẹp, đang đi vội vàng. Thiếu nữ suýt ngã nên phải ôm chầm lấy chàng. Một phút sau nàng thả chàng ra, trên mặt lộ vẻ thẹn thùng. Chàng nói :
-Tôi xin lỗi cô.
Thiếu nữ nghiêng mình đáp :
-Thưa ông, không hề gì.
Nàng đi khuất ở cuối hành lang. Cặp chân nàng dài dài, giấu sau lần tất mềm mại, mỗi bước đi uyển chuyển như van lơn, mời mọc. Xiêm áo nàng quá ngắn theo mốt mới trong năm nên cứ mỗi giây đồng hồ lại hất cao lên khiến Văn Bình nhìn không chớp mắt.
Văn Bình mở máy tắm nước nóng trước và lạnh sau cho tỉnh ngủ. Và cần nhất là rũ bỏ hết cái mặc cảm lo âu hồi nãy trên phi cơ. Xong xuôi chàng chọn một bộ quần áo đắt tiền và một cái cà vạt màu nhạt mà Lily ưa thích. Vừa thắt cà vạt xong thì cửa phòng có tiếng gõ. Tưởng Lily, chàng mắng yêu :
-Cứ vào. Anh có ăn thịt đâu mà phải gõ cửa ?
Tiếng gỏ cửa nhanh và mạnh, cánh cửa mở rộng, không phải Lily kiều diễm, khêu gợi mà là hai người đàn ông vạm vỡ. Cái dáng người thoạt trông chàng đã dư biết là ai : công an FBI.
Người vào trước đưa cho chàng  xem một tấm lắc nhân viên công an, sau đó hắn nói :
-Chúng tôi muốn coi căn cước của ông.
Văn Bình mỉm cười :
-Tưởng gì chứ giấy thông hành thì sẵn sàng.
Chàng cho tay vào túi sau. Cái ví cá sấu đắt tiền không còn ở chỗ cũ nữa. Quái lạ, lúc nãy chàng vừa rút ví ra trả tiền xe kia mà !
Văn Bình lục hết áo trong, áo ngoài, trong khi hai người công an thọc tay vào túi quần một cách nghiêm nghị. Lát sau, chàng mở va li ra. Cũng không thấy. Chàng liền nói :
-Lạ nhỉ ? Mới đó mà ? Có lẽ tôi để quên bên phòng cô bạn gái. Các ông bằng lòng cho tôi sang lấy được không ?
Hai công an viên lắc đầu. Người vào trước dõng dạc :
-Nhân danh công an, tôi bắt ông về tội nhập cảnh lậu vào đất Mỹ.
Văn Bình phản đối :
-Ông nói mới lạ lùng chứ ? Vừa lúc nãy tôi đã trình giấy thông hành tại trụ sở quan thuế và di trú ở trường bay kia mà. Các ông thử gọi điện thoại cho phi trường xem ?
Người vào sau nói :
-Chúng tôi không biết. Mời ông đi theo chúng tôi.
Người vào trước thu xếp quần áo của chàng vào va li, đoạn mở cửa đưa chàng ra thang máy. Văn Bình nấn ná :
-Tôi muốn sang chào cô bạn gái một chút.
-Không được.
Văn Bình đi trước. Hành lý của chàng do hai công an viên xách theo. Họ không xuống tầng cuối cùng mà chỉ xuống lầu hai và trèo cầu thang xuống sân sau. Một chiếc xe công an có máy vô tuyến đợi sẵn ở lề đường.
Rrrr ! Rrrr ! Động cơ nổ đều. Xe chạy về trụ sở Công an FBI Nữu Ước .
Văn Bình bị bắt.
 
-----------
(1) lái về khách sạn Acton Plaza ở đại lộ thứ 5.
(2) là Office of Strategic Service, sở Quân báo Mỹ, giải tán năm 1947 và được thay thế bởi Central Intelligence Agency tức CIA, Trung ương Tình báo Mỹ, do ông Allen Dulles, Mc Cone, Raborn và nay là Helms làm giám đốc. Còn FBI tức Federal Bureau of Investigation là Công an, Cảnh sát Mỹ.
 
Tủ sách Z.28
Người Thứ Tám
NÚI ĐÁ TIÊN TRI
 
đả tự : trandatrau2014
 
II
CIA và ông Sì Mít
 
Chiếc xe chạy vào sở cảnh sát và đậu trong sân, bên cạnh một văn phòng đã mở sẵn cửa đợi. Hai công an viên đưa Văn Bình vào rồi ra ngay để chàng ngồi xuống ghế một mình. Trước mắt chàng, sau một bàn làm việc bằng sắt sơn xanh hình bán nguyệt, một người bận thường phục trạc gần 50, đang hút thuốc lá trong yên lặng.
Thấy Văn Bình vào, người đó đứng lên, đợi cho hai công an viên đóng cửa lại, mới nói giọng nhã nhặn :
-Hân hạnh chào ông.
Văn Bình đáp sẵng lại :
-Vâng, chào ông. Các ông dựa vào đạo luật nào để bắt người ngoại quốc có đủ giấy tờ nhập cảnh hẳn hoi ?
Thản nhiên như không nghe giọng nói bực tức của Văn Bình, người kia tiếp :
-Xin giới thiệu với ông, tôi là Hôn nờ, đại diện cho cơ quan CIA ở  Nữu Ước.
Không chịu được nữa, Văn Bình đứng phắt dậy :
-Ông là đại diện cho CIA Nữu Ước hay đại diện cho ông trời con ở đây nữa cũng không có quyền bắt người một cách độc đoán như vậy. Rồi ông coi chừng, tôi sẽ phản kháng với chính phủ Mỹ.
Người kia vẫn cười :
-Ông giận dữ cũng phải. Vạn bất đắc dĩ chúng tôi mới phải bầy ra kế đó.
-À ra các ông lập mưu dể đưa tôi đến đây phải không ?
-Ông nói dúng đấy. Gấp quá chúng tôi thiết nghĩ chỉ còn cách phái công an đến xét giấy tờ và bắt ông mang về đây vì tội nhập cảnh lậu mà thôi.
Văn Bình thở phào một cái. Công việc là công việc, hễ tiện là họ làm, không cần quan tâm đến tự do của người khác.
Người kia nói, điểm thêm nụ cười có duyên :
-Thay mặt anh em CIA tôi thành thật xin ông tha lỗi cho sự lạm dụng hồi nãy. Để tiện nói chuyện, tôi xin đưa ông bức điện văn của ông Hoàng từ Sàigòn gửi sang cho ông.
Người này mở ngăn kéo đưa cho chàng một tấm phong bì nhỏ có dấu si màu đỏ.
Ông Hoàng ! Ông Hoàng ! Cái ông già lù khù ấy ở đâu cũng có, khi nào cũng có. Mà ông ta chỉ xuất hiện vào những lúc mà chàng cần được yên tĩnh nhất. Tại sao ông ta không đợi đến sáng mai, đợi chàng hẹn hò suốt một đêm ở Acton với người đẹp đã rồi hẵng đánh điện có được không ?
Người đại diện CIA rót một ly huýt ky đầy ắp cho chàng. Chàng cạn một hơi hết sạch. Bóc thư ra, chàng thấy bên trong một bức điện bằng mật mã do ông Hoàng đánh cho trung ương CIA ở Hoa thịnh đốn, nhờ chuyển hỏa tốc cho Tống Văn Bình.
Chàng dịch nhẩm bức điện tín ra như sau : 
« HH gởi Z.28,
Yêu cầu cắt đứt nghỉ hè và tạm đặt dưới quyền chỉ huy của CIA trung ương. Stop. Đó là sự khẩn cầu của chính phủ Mỹ để thực hiện một công tác mà kết quả có lợi chung cho toàn khối tự do. Stop. Công tác mà anh sẽ nhận đã được sự tán thành của tôi. Stop hết. »
Văn Bình bật lửa đốt bức điện tín và bỏ tàn vào cái gạt tàn thuốc lá. Hôn nờ nói :
-Giờ đây ông đã hiểu lý do vì sao chúng tôi phải sai nhân viên đánh cắp giấy tờ của ông và bắt ông rồi. Và tôi tin rằng ông đã hết giận từ phút này.
Không hết giận cũng không được vì cái nghề phải gió của chàng là như vậy. Chẳng có giờ giấc nhất định nào cả. Khi người ta ngồi với cô nhân tình bé bỏng trên chiếc xe hơi ấm áp thì mình phải lội bùn dẫm tuyết đi tìm một mảnh giấy li ti, một tài liệu kỳ quặc bên cạnh cái chết luôn luôn rình mò và gớm ghiếc.
Văn Bình buột miệng :
-Có phải cô thiếu nữ có cặp mắt nâu nâu ấy được ông cử tới khách sạn Acton móc cái bóp phơi của tôi không ?
Hôn nờ nhoẻn miệng cười :
-Hê Len đấy. Đừng tưởng có cặp mắt nâu đa tình mà không sành nghề móc túi ? Tôi đứng ở cuối hành lang thấy rõ Hê Len ôm chầm lấy ông. Kể ra Hê Len cũng dễ thương đấy nhỉ ?
Nói xong Hôn nờ ấn một cái nút gọi. Cửa hông xịch mở. Cô gái ngây thơ lúc nãy, có bộ ngực nở nang và cặp đùi quyến rũ, ưỡn ẹo đi vào. Hôn nờ chỉ Văn Bình nói :
-Hê Len xin lỗi ông đi.
Cô gái nhìn Văn Bình một phút, đoạn thản nhiên như vợ với chồng, ôm choàng lấy chàng hôm một cái lên môi thật lâu, thật tình tứ. Hôn xong, nàng còn ban thêm một cái nữa vào má. Bàng hoàng, Văn Bình buông cô gái ra. Túi sau của chàng phồng chiếc ví đựng đầy giấy tờ đánh mất lúc nãy.
Đóng xong màn kịch, Hê Len từ từ bước ra cửa hông. Cứ ngắm cái trái ban lông đú đởn dưới làn vải mỏng, Văn Bình cũng đủ quên được câu chuyện mất giấy thông hành. Chợt nhớ tới Lily, chàng hỏi Hôn nờ :
-À còn cô bạn Đức của tôi nữa ?
Hôn nờ mỉm cười :
-Đã lo liệu xong rồi. Cô ta không biết ông đi đâu, về việc gì cả. Người chủ khách sạn đã nói với cô ta rằng ông bận việc gấp phải về Ba Lê ngay.
-Thế tại sao các ông không đón tôi ở trường bay có đỡ mất thời giờ không ?
-Đúng ra tiếp xúc với ông ở Ba Lê kia, nhưng lại không dè ông đi Nữu Ước. Mãi đến khi ông xuống phi trường, tôi mới biết nên không ra kịp chỉ còn cách đi theo tắc xi của ông mà thôi. Vả lại, có đến kịp nữa cũng khó làm được gì ở trường bay chỉ vì có vụ giấu bom nổ chậm mà lại ?
-À còn vụ đặt bom nữa. Có thật không hay là chuyện nghịch tinh, thưa ông ?
-Có thật trăm phần trăm. Vì một nhà ngoại giao Nga trốn sang Mỹ mà gây ra cả. Tuần lễ trước, một tùy viên quân sự Nga ở Thụy Sì trốn sang Ba Lê rồi đi máy bay PAA qua Mỹ tị nạn. Bọn gián điệp Nga liền báo thù bằng cách giấu bom trong các chuyến phản lực cơ sang Nữu Ước. Tuy nhiên họ mới có dự định thôi chứ chưa thục hiện được vì phi trường Orly canh phòng ngặt lắm. Chuyến bay này cũng được kiểm soát kỹ lưỡng trước khi cất cánh nhưng vì công an Pháp soát lại thấy thiếu một hành khách không đi chuyến này nên đâm nghi và điện gấp cho hoa tiêu lục lọi trên tàu làm cho hành khách một mẻ hú vía !
Hôn nờ vỗ vai Văn Bình :
-Thôi ta đi đi. Đi Hoa thịnh đốn gặp ông Sì Mít (1).
Hai người ra chiếc xe lúc nãy và đi ra trường bay. Thấy Hôn nờ lái xe sát vào một chiếc phi cơ trực thăng, Văn Bình tỏ dấu ngạc nhiên :
-Sao ông không đi máy bay có nhanh không ?
Hôn nờ lắc đầu :
-Đi trực thăng có thể đậu ngay trên nóc Tòa Ngũ Giác vừa tiện vừa bảo vệ được bí mật hơn (2).
Từ Nữu Ước đến Hoa thịnh đốn, thủ phủ của liên bang Hoa Kỳ, đường bộ dài 300 cây số. Bay trực thăng ngắn đường hơn nên mới ba giờ ruỡi sáng Hôn nờ và Văn Bình đã tới. Trên cao ngó xuống, Văn Bình đã thấy ánh đèn điện pha cho trực thăng đáp xuống sáng rực. Sân trực thăng dài rộng như một sân bay thường, trên đó đã có hơn chục trực thăng đậu. Hôn nờ bớt ga cho máy từ từ hạ xuống một chỗ trống. Bánh xe đặt nhẹ trên sân thượng bê tông cốt sắt. Cái chong chóng khổng lồ trên nóc trực thăng quay nốt mấy vòng nữa rồi đứng im.
Hôn nờ nhảy xuống trước, cả hai người tiến tới một cánh cửa sắt cách đó một trăm thước, có một quân nhân bồng tiểu liên đứng gác, bên một cây đèn pha to tướng, chiếu sáng một góc sân thưọng.
Hôn nờ nói mật khẩu và trình giấy căn cước. Người gác gọi điện thoại xuống phía dưới. Ba phút sau thang máy từ tầng dưới chạy lên. Cánh cửa sơn xanh dạt mở sang bên. Bên trong thang máy lại có một người lính khác, võ trang cẩn thận. Thang máy chạy từ từ xuống tầng dưới, cửa mở. Lại trình căn cước, trình thông hành ra vào Tòa Ngũ Giác.
Cứ ra vào thang máy, cứ xuất trình giấy tờ như vậy đến năm lần, hai người mới tới văn phòng thường trực của sở CIA.
Đến khi thang máy dừng lại thì ông Sì Mít ngồi trong văn phòng có ấn nút mới mở ra được. Cửa thang máy làm bằng một thứ kính dầy đặc biệt, đứng trong không nhìn thấy người ngoài, nhưng đứng ngoài nhìn vào lại rõ mồn một. Thành ra ngồi sau bàn buya rô, ông Sì Mít có thể thấy khách tới mà khỏi sợ lầm lẫn.
Ra khỏi thang máy, Hôn nờ và Văn Bình còn phải mở một cửa kính thứ hai nữa, và mới bước vào khu vực bí mật nhất của nước Mỹ, và có thể nói là bí mật nhất thế giới nữa. Ông Sì Mít ngồi sau cái bàn bằng gỗ mun đen rộng như một tấm phản lớn, phía trên có một dãy tê lê phôn và máy móc thâu phát thanh kỳ lạ. Ông còn già hơn ông Hoàng nhiều với một thân hình gầy gầy, dáng điệu rụt rè, nhút nhát y như là tiểu chức về hưu. Tuy vậy, Văn Bình không kinh ngạc. Chàng biết rằng những bộ óc kỳ khôi nhất trên quả đất này bao giờ cũng núp sau bề ngoài tầm thường, nhũn nhặn. Nhưng chàng lại kinh ngạc ở chỗ không biết vì là tiền định hay ngẫu nhiên (một sự ngẫu nhiên thú vị và dí dỏm) mà ông Sì Mít cũng đeo kính cận thị dày cộm, cũng lau da trừu suốt buổi và cũng mặc bộ âu phục may sát người như người không tiền sắm bộ khác như ông Hoàng.
Ông Sì Mít không đứng lên, chỉ đưa tay ra phía trước mời Văn Bình ngồi bằng giọng nhỏ nhẹ, hiền từ. Hôn nờ cúi mở cửa kính thang máy. Ông Sì Mít ấn nút, thang máy lại từ từ tụt xuống.
-Rất hân hạnh được gặp anh. Tôi nghe nhiều anh em ở đây khen ngợi anh hết lời khi anh còn hoạt động trong tổ chức OSS và cũng vì thế nên hôm nay tôi mới cho vời anh đến. Nhân tiện tôi mong anh đừng phật lòng về sự đối xử miễn cưỡng ở Nữu Ước.
Cơn giận nguôi từ lúc nãy lại bừng lên, Văn Bình nói dằn từng tiếng một :
-Tôi không phật lòng nhưng lại ngạc nhiên tại sao ông lại phải dùng một phương pháp bất thường như vậy ? Trước mặt ông, tôi phản đối việc đó.
Ông Sì Mít cười :
-Hồi tôi còn là nhân viên hành động cùng tuổi như anh, tôi cũng hay tức khí như vậy. Thượng cấp của tôi có cái kỳ quặc đáng ghét là cứ mỗi khi tôi sắp vào khách sạn vui thú với một cô gái tuyệt diệu thì họ lại lò dò tới, bắt tôi đi đùa rỡn với cái chết. Hồi đó tôi thường không tuân lệnh vì tôi nghĩ tại sao họ không đợi đến khi tôi thỏa mãn hẵng tới. Có phải lúc nãy anh cũng nghĩ như vậy không ?
Văn Bình không đáp. Ông Sì Mít tiếp :
-Hồi đó, tôi thường oán trách thưọng cấp như vậy nhưng đến khi ngồi vào chỗ này lại sa vào cái kỳ quặc đáng ghét đó. Anh bỏ một đêm vui thú với người đẹp thì được chứ hàng triệu con người bị lỡ một giây đồng hồ, đi chậm một nước cờ là chết hết. Giữa thời đại hỏa tiễn này, cuộc vật lộn trong bóng tối mỗi ngày một thêm quan trọng. Anh đã chọn cái nghề không tên không tuổi ấy. Thắng thì anh cũng không được ai khen mà bại thì một mình anh chết. Đến cái phần thưởng cao quý nhất của con người mà anh còn tự ý chối bỏ thì cái cuộc vui một đêm nào có nghĩa gì ? Phải không Henry ?
Henry là bí danh của chàng trong thời gian ăn lương OSS. Bất giác chàng nhớ lại những năm tung hoành ở Đông Âu, ở Nga Sô, dưới lệnh ông Sì Mít của OSS. Ông Sì Mít đó ngày nay đã mất, nhưng người kế vị ông ở CIA vẫn là ông Sì Mít. Và ông Sì Mít đã có cái nhã ý gợi lại bí danh Henry bách chiến bách thắng của chàng.
Ông Sì Mít không đợi chàng trả lời, nói tiếp :
-Tôi cần nói thật với anh rằng không phải tôi không có người dành sẵn cho công tác này. Đây là một chương trình mà tôi đã sửa soạn từ lâu, sửa soạn từ nhân vật đến chi tiết hành động. Đùng một cái, đến khi tình hình chín mùi thì nhân viên này bị thiệt mạng vì một chuyện vô nghĩa. Tôi đành đi kiếm một người thay thế. Người đó phải là người châu Á. Hiện nay cộng sự viên châu Á của tôi rất nhiều nhưng không ai khả dĩ làm tròn công tác đó được. Tôi đành mở lại xấp hồ sơ OSS và gặp tên anh. May thay anh còn sống, và lại gia nhập tổ chức của nước anh, nước đồng minh của Mỹ. Tôi liền thương lượng với ông Hoàng. Chắc anh không lạ gì việc mượn nhân viên như vậy là thường, và tôi mong anh cũng sẵn lòng cộng tác với tôi cũng như cộng tác với ông Hoàng và OSS khi trước.
Văn Bình đáp :
-Tôi xin sẵn lòng.
Ông Sì Mít liền nhấc ống điện thoại, và trước khi nói còn thêm một câu nữa :
-Như tôi đã bàn trước với ông Hoàng, trước khi vào chuyện, tôi sẽ gọi điện thoại vô tuyến cho ông Hoàng ở Sàigòn để anh nói chuyện.
Đoạn ông Sì Mít ra lệnh vào điện thoại :
-Yêu cầu gọi ngay, ưu tiên tuyệt đối.
Văn Bình không dè tổ chức điện đàm vô tuyến lại chu đáo và nhanh chóng đến mực ấy. Chưa đầy hai phút, tiếng chuông đã reo lên. Ông Sì Mít ra hiệu cho chàng cầm ống nghe. Văn Bình nhận ra giọng nói quen thuộc của ông Hoàng ở tận đầu giây Sàigòn, nghe rõ như tại Hoa thịnh đốn.
Văn Bình nói :
-Ông Hoàng đấy phải không ? Vâng, chào ông. Tôi đây. Văn Bình đây. Vâng không hề gì… Tôi bằng lòng…Vâng, tôi xin cố gắng hết sức … Vâng, tôi xin đưa ống nói cho ông Sì Mít.
Hai thủ lãnh do thám nói chuyện với nhau một hồi. Buông ống nghe xuống, ông Sì Mít mỉm cười :
-Bây giờ chắc anh đã bằng lòng. Nào, chúng ta vào việc. Anh đã công cán ở Tây Tạng lần nào chưa ?
-Thưa đã. Năm 1949 khi quân Mao trạch Đông đến miền sông Dương Tử, tôi được cử đến thủ đô Lát Xa. Năm 1951, khi đức Đạt Lai Lạt Ma trốn khỏi lâu đài, phản đối Trung cộng, tôi lại vào Tây Tạng và nhận nhiệm vụ liên lạc  với dân tộc thiểu số Khăm ba.
Châm xong điếu thuốc xì gà Havan kếch xù, ông Sì Mít hỏi tiếp :
-Thế anh biết giải núi Út tun Tắc không ?
Hít một hơi Salem thơm mùi bạc hà, Văn Bình đáp :
-Thưa có, tuy chưa đến đấy. Có phải rặng núi khá cao ở về phía Bắc Tây Tạng không, thưa ông ?
-Phải đấy.
-Trung cộng đặt nhà máy hỏa tiễn ở đấy ư, thưa ông ?
-Không, không phải đi đánh cắp một tài liệu về hỏa tiễn mà là một việc khác. Anh còn lạ gì, tuy Nga Sô có vệ tinh nhân tạo Sì pút ních nhưng ta có ưu thế không trung. Cuộc so tài về hỏa tiễn ngày nay còn quy vào hai điểm : tìm ra một thứ kim khí không chảy để chế tạo vỏ hỏa tiễn, và tìm ra nhiên liệu. Và chúng ta đã tìm ra. Tuy nhiên nói như vậy không phải là không cần sang phía đối phương.Vì vậy tôi mới cử anh sang Tây Tạng. Nhưng trước hết phải nói tới rặng núi Út tun Tắc một chút nữa. Giải núi này có một đặc tính có một không hai trên thế giới. Đứng trước núi, bất cứ kêu lên một tiếng gì, không cần to hay nhỏ, gần hay xa, và bất cứ ngôn ngữ nào trên trái đất, thì vách đá sẽ vang lại một cách dị kỳ.
-À ra thế ?
-Anh có thấy dị kỳ không ? Chẳng hạn như đứng trước một quả núi thường thì hễ anh kêu a a, vách núi sẽ dội là a a. Nhưng ở núi này, nếu anh kêu a a thì núi lại dội lại khác. Khi người ta kêu lên thì tiếng vang dội của vách núi lại ngân nga, ề à như tiếng Tây Tạng vậy. Kêu tiếng Nga, hay tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Mã Lai thì tiếng ngân cũng hao hao như tiếng Tây Tạng.
-Đứng vào chỗ nào cũng kêu cũng vậy à, thưa ông ?
-Không. Muốn nghe tiếng dội kỳ dị này phải đứng cách núi một khoảng xa bằng một trăm lần bề cao một người, nghĩa là anh cao hơn 1th7 thì đứng xa 170 thước, mặt bao giờ cũng phải hướng về thánh địa Lát Xa.
-Đó là chuyện thật ?
-Sao lại không là chuyện thật ? Từ bao năm nay, các nhà sư theo môn phái Lạt ma hành đạo ở vùng Diên Si và Chi Tân (4) đều cho vùng núi Út tun Tắc này là một chốn thiêng liêng, và họ thường đến hành hương để nghe Thần núi tiên đoán những việc xảy ra.
-Tiếng vang của núi đá là tiếng của Sơn thần tiên đoán vị lai à, thưa ông ?
-Theo các nhà sư lạt ma và dân Tây Tạng là như vậy. Mà không riêng gì nhân dân Tây Tạng, ngay cả các nhà bác học vật cổ trên thế giới đều cho điều đó là đúng. Từ bao năm nay, nhiều người đã tìm cách dịch nghĩa những tiếng dội của núi đá. Có người thành công, nhưng hầu hết đều chịu thua. Trên thế giới hiện chỉ có hai nhà ngữ học nổi tiếng biết cách dịch thứ tiếng vang kỳ dị đó. Nhưng cả hai đều không còn ở Tây Tạng nữa (5).
-Họ trốn sang cộng sản Trung Hoa chứ gì ?
-Không, người thứ nhất là một nhà ngữ học Đức tên là Vôn Liệt. Ông này sang Tây Tạng nghiên cứu trong một thời gian khá dài và hình như biết được đại chiến sẽ bùng nổ do Sơn thần Út tun Tắc tiên đoán nên bỏ Tây Tạng trốn sang Nam Mỹ. Chiến tranh thứ hai xảy ra, toàn thế giới đều bị tàn phá, riêng có Nam Mỹ vững như bàn thạch. Thế rồi một hôm kia, cách đây ba tháng, Vôn Liệt bị bắt cóc một cách bí mật ở kinh đô Á căn Đình.
-Nếu tôi đoán không sai thì là R.U. mang đi ?
-Đúng. Mãi đến một tháng sau ngày Vôn Liệt biến dạng, tôi mới được biết R.U. dúng tay vào nội vụ. Một cộng tác viên của tôi trên đất Nga tình cờ chụp được tấm ảnh một nhân vật bí mật do một máy bay quân sự chở đến Hắc Hải cho Cút Xếp gặp. Nhân vật bí mật đó là Vôn Liệt.
-Thế nghĩa là Vôn Liệt tự ý theo cộng sản ?
-Không đúng. Vôn Liệt là người chống cộng sản dữ dội. Không phải chống hời hợt, chống qua quít mà là chống thật. Tôi có nhiều bằng cớ trong dĩ vãng chứng tỏ Vôn Liệt không phải là đảng viên hoặc cảm tình viên cộng sản. Sở dĩ Vôn Liệt được Cút Xếp tiếp có lẽ vì Cút Xếp cũng cho chuyện núi đá tiên tri là kỳ dị nên muốn gặp tận mắt con người bác học đã biết phiên dịch tiếng nói của Sơn thần.
-Còn nhà bác học thứ hai ?
-Để tôi nói hết đã. Sau khi biết đích xác Vôn Liệt bị R.U. bắt và mang sang Nga (6), tôi liền huy động bộ máy lượm tin của tôi và được biết rõ rằng Vôn Liệt được đưa qua Tây Tạng đến núi Út tun Tắc.
Cùng đi với Vôn Liệt là một phái đoàn bác học Sô Viết với đủ dụng cụ tối tân. Họ không dịch tiếng thần núi mà chỉ phát ra tiếng động, đủ mọi tiếng động, bằng đủ thứ tiếng trên cõi đất, rồi thu vào băng nhựa mang đi. Thu xong rồi, cả đoàn đi đâu không biết, điệp viên của tôi chịu không thể khám phá ra. Nhưng nếu họ chỉ thu thanh và bỏ đi thì cũng chưa trầm trọng, cái trầm trọng là trước khi đi, họ cho đặt mìn phá nổ nơi mà tiếng núi có giọng kỳ dị nhất.
-Tức là họ muốn chiếm độc quyền những tiên đoán mai hậu ?
-Chính thế.
-Nhưng tôi hơi ngạc nhiên vì cộng sản không tin có định mệnh, tại sao họ lại tin tiếng núi đá Tây Tạng ?
-Tuyên truyền bao giờ chả vậy, nhưng bề trong ai mà không tin ở định mệnh. Trở lại Vôn Liệt, tôi đã mất tung tích ông ta từ sau cuộc thâu tiếng ở Tây Tạng. Tuy nhiên Vôn Liệt một mình chưa thể dịch hết tiếng của núi đá tiên tri và bạn đồng nghiệp của ông ta còn thông thạo hơn.
-Đồng nghiệp này là nhà bác học thứ hai phải không, thưa ông ?
-Phải, tên người này là Lý Dĩ, người Cao Ly. Lý Dĩ sinh quán ở Tây Tạng, du học về ngữ học ở ngoại quốc và hồi hương với mục đích khám phá ra tiếng núi đá tiên tri. Công việc của Lý Dĩ sắp hoàn thành thì Trung cộng xâm chiếm Tây Tạng. Ông ta phải bỏ trốn qua Ấn Độ rồi sau đó sang Mỹ. Nhưng khi tới Mỹ, ông ta bỏ ngành ngữ học và trở hành chuyên viên về hỏa tiễn. Tôi tính trước, nếu cộng sản đã hao công tốn của bắt Vôn Liệt thì họ sẽ không ngần ngại bắt luôn Lý Dĩ. Tôi cho rằng núi đá tiên tri phải có một cái gì phi thường.
-Bây giờ ông muốn tôi sang Nga tìm chỗ Vôn Liệt làm việc ư ?
-Cũng gần như thế. Tuy nhiên tôi không thể nói chắc với anh được rằng nơi đó ở đâu. Cũng có thể ở Tân Cương, ở Tây Bá Lợi Á hoặc ở Đông Âu.
Văn Bình tỏ dấu ngạc nhiên :
-Thế thì đi đâu ?
Ông Sì Mít mỉm cười :
-Đợi R.U. đưa anh đi đâu thì đi.
Văn Bình phá lên cười :
-À ra thế, tôi sẽ đóng vai nhà ngữ học Lý Dĩ !
-Đúng. Về dáng người và khổ mặt , không sao, chỉ cần qua một buổi giải phẩu thẩm mỹ (7) là giống như tạc ngay. Anh sẽ thay chân Lý Dĩ ở địa điểm thử bom nguyên tử Lát Vê Gát và đợi cho R.U. tới bắt.
-Lúc nãy ông nói rằng  núi đá tiên tri phải  có một cái gì phi thường, tuy vậy đã biết mang máng cái gì đó chưa ?
Ông Sì Mít cười để lộ hàm răng nhỏ, có hai cái bịt vàng óng ánh :
-Núi này đã tiên tri một vài điều rất đúng. Theo Lý Dĩ thì ông ta đã khám phá ra những tiên đoán về đại chiến, về sự thất trận của phe Trục, về Xít ta Lin chết vì bị căng máu, cả về sự kế chức của Cút Xếp nữa. Lý Dĩ cho biết núi đá linh nhất mỗi năm có một ngày thôi, đó là ngày Phật Đản. Ngày Phật Đản cuối cùng của Lý Dĩ ở Tây Tạng, ông ta nghe được một lời tiên tri vô cùng hệ trọng. Tuy nhiên, Lý Dĩ chưa biết nội dung của bài tiên tri ấy ra sao vì thần đá hẹn đến năm ấy, ngày ấy, giờ ấy mới nói. Nhưng Lý Dĩ phải ra nước ngoài, và đổi nghề. Cái năm, cái ngày mà thần đá hẹn, Vôn Liệt đã được Nga đưa về thâu tiếng. Công tác của anh đại để như vậy. Dầu sao tôi cần nói thêm với anh rằng, anh có thể từ chối thẳng thắn. Còn như…
Văn Bình ngắt lời :
-Tôi ưng thuận.
Trước khi vời chàng tới, ông Sì Mít dư hiểu chàng sẽ ưng thuận. Văn Bình là người thích phiêu lưu, ham chạy theo cái khác thường, cái rối óc và nguy hiểm. Cuộc giả trang làm nhà bác học Lý Dĩ và sang núi đá tiên tri này thật là một chuyến đổi gió nhiều hương vị đối với chàng.
Ông Sì Mít bấm một nút chuông trên bàn giấy. Một thanh niên trạc 40 tuổi bận quân phục đại tá không quân Mỹ mở cửa bước vào, chào Văn Bình. Ông Sì Mít giới thiệu :
-Đây là Pít, phụ trách về kế hoạch hành động. Anh sẽ nói chuyện với Pít.
Và ra lệnh cho viên đại tá :
-Xong xuôi, anh đưa Văn Bình sang bàn giải phẩu thẩm mỹ nghe.
Văn Bình bắt tay đại tá Pít. Hai người từ giã ông Sì Mít ra thang máy đến một khu vực khác cũng thuộc sở CIA bên trong Ngũ Giác Đài.
Ngoài trời, vừng đông vừa bắt đầu hừng sáng. Một đêm Văn Bình thức trắng. Con sông Pôtômắc nước trong veo, uốn khúc dưới chân xa xa. Một chiếc máy bay phản lực cánh tam giác sắc như dao vút bay trên đầu, tiếng kêu như xé nhĩ tai.
 
------------
(1) viên tổng giám đốc Mật Vụ Mỹ bao giờ cũng được gọi là Sì Mít, bất cứ tên thật là gì. Cũng như ông tổng giám đốc Phòng Nhì Pháp được giới do thám gọi là cậu Duyn (Oncle Jules).
(2) tức là bộ Quốc Phòng Mỹ. Đó là một khu rộng mênh mông trong đó là  một tiểu thế giới. Khu nhà này năm mặt nên được gọi là Ngũ Giác Đài.
(3) Oustoun Tagh.
(4) Gyantsé, Tchétang.
(5) câu chuyện núi đá tiên tri này hoàn toàn có thật và từng được tạp chí Pháp Khoa học và Đời sống (Science et Vie) tường thuật. Sven Hedin, nhà thám hiểm nổi tiếng người Thụy Điển, từng viếng thăm Tây Tạng 5 lần khác nhau, trong một thời gian từ năm 1894 đến năm 1935, cho biết rằng tiếng nói đá tiên đoán những biến cố lớn trên hoàn vũ.
(6) R.U. tức là cơ quan tình báo Sô Viết.
(7) giải phẫu thẩm mỹ là Chirurgie esthétique.
 
 
 
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9