Tam Thể - Lưu Từ Hân (HẾT)
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 36 bài trong đề mục
huytran 30.07.2017 04:48:47 (permalink)
Chương 16 : Tam Thể: Copernicus, Bóng bầu dục vũ trụ, Ba Mặt trời đồng hiện  
 
Sau khi ra khỏi nhà Diệp Văn Khiết, Uông Diểu không sao bình tâm lại được, những chuyện gặp phải trong hai ngày hôm nay cùng câu chuyện về Hồng Ngạn, dù không liên quan nhưng cứ mắc mứu xoắn xuýt vào với nhau, khiến thế giới này sau một đêm đã trở nên lạ lẫm khác thường.
Về tới nhà, để thoát ra khỏi tâm trạng ấy, anh bật máy tính lên, mặc bộ thiết bị V lên người, lần thứ ba đăng nhập vào Tam Thể. Anh đã hoàn toàn điều chỉnh được tâm trạng, khi giao diện đăng nhập
hiện ra, Uông Diểu như biến thành 1 con người khác, lòng ngập tràn cảm giác hưng phấn không thể gọi tên. Khác với hai lần trước, lần này Uông Diểu tiến vào trò chơi với một sứ mệnh, anh cần phải bóc trần bí mật của thế giới Tam Thể, anh đăng ký một ID khác cho tương xứng với sứ mệnh này: Copernicus.
Sau khi đăng nhập vào Tam Thể, Uông Diểu lại đứng trên bình nguyên mênh mông đó, dối diện với buổi bình minh kỳ dị của thế giới Tam Thể. Kim tự tháp khổng lồ xuất hiện ở phương Đông, nhưng Uông Diểu lập tức nhận ra đây không phải là tòa kim tự tháp của Trụ Vương và Mặc Tử nữa mà có đỉnh tháp theo phong cách Gothic, đâm thẳng lên
bầu không buổi sớm, khiến anh nhớ đến nhà thờ phong cách La Mã mình trông thấy lúc sáng sớm hôm qua trên phố Vương Phủ Tỉnh, nhưng nếu đem nhà thờ đó đặt bên cạnh kim tự tháp này, thì chẳng qua chỉ bằng một cánh cửa nhỏ của nó mà thôi. Anh còn thấy ở đằng xa có rất nhiều tòa nhà rõ ràng chính là các kho chứa, nhưng hình dạng cũng đã đều biến thành kiến trúc kiểu Gothic, đỉnh nhọn, giống như trên mặt đất mọc ra rất nhiều mũi gai vậy.
Uông Diểu thấy trên kim tự tháp có một ô cửa hắt ra ánh lửa yếu ớt, liền đi vào trong đó. Trên vách tường trong ô cửa ấy, một hàng các tượng thần Olympus đã bị khói hun đen thui đang
giơ đuốc. Vào bên trong đại điện, anh phát hiện ở đây còn tối tăm hơn cả chỗ ô cửa, chỉ có hai giá nến bằng bạc đặt trên chiếc bàn dài bằng đá cẩm thạch phát ra thứ ánh sáng nhờ nhờ ủ dột, cạnh bàn có mấy người ngồi, ánh sáng mờ mịt khiến Uông Diểu chỉ nhìn được đường nét khuôn mặt của họ, chứ không nhìn thấy những đôi mắt ẩn trong bóng mờ của hốc mắt trũng sâu, nhưng Uông Diểu có thể cảm giác được ánh mắt bấy nhiêu người đều đang đổ dồn vào mình. Những người này dường như đều mặc áo choàng dài thời Trung cổ, nhìn kỹ lại thì thấy có hai người mặc áo dài đơn giản hơn một chút, theo kiểu Hy Lạp cổ đại. Một người đàn ông cao gầy ngồi ở đầu bàn, ngoài những
ngọn nến, chiếc mũ miện vàng trên đầu ông ta là thứ duy nhất sáng lấp lánh trong gian đại điện này, dưới ánh nến, Uông Diểu phải rất khó khăn mới nhận ra được, chiếc áo choàng trên người ông ta không giống với những người khác, mà có màu đỏ.
Đến đây, Uông Diểu đã xác định được phán đoán của mình: trò chơi này mở ra cho mỗi một người chơi một chương trình riêng, lúc này là bản sao của châu Âu thời Trung cổ, phần mềm đã dựa theo ID của anh để lựa chọn.
“Anh đến muộn, hội nghị đã bắt đầu từ lâu rồi.” Người mặc áo choàng đỏ đội mũ miện vàng nói, “Ta là Giáo hoàng
Gregorius.”
Uông Diểu cố gắng nhớ lại lịch sử châu Âu Trung cổ mà mình vốn mù mờ, hòng dựa vào cái tên này để suy đoán mức độ tiến hóa của nền văn minh hiện tại, nhưng nghĩ đến sự hỗn loạn trong lịch sử của thế giới Tam Thể, anh lại thấy sự cố gắng này không có ý nghĩa gì cho lắm.
“Anh đã đổi ID, nhưng chúng tôi đều nhận ra anh, trong hai nền văn minh trước đây, anh hình như đến từ phương Đông. À, tôi là Aristoteles.” Người mặc áo dài kiểu Hy Lạp cổ đại nói, ông ta có chòm râu quai nón bạc trắng.
“Đúng thế,” Uông Diểu gật đầu, “tôi đã mục kích hai nền văn minh hủy diệt, một lần hủy diệt vì giá lạnh, một lần vì Mặt trời nóng bỏng. Tôi còn thấy những học giả phương Đông đã nỗ lực rất nhiều để nắm bắt quy luật vận hành của Mặt trời.”
“Phì!” Một người để râu dê vểnh lên, trông còn gầy hơn giáo hoàng, ngồi trong bóng tối cất tiếng, “Học giả phương Đông muốn dựa vào suy tưởng, đốn ngộ, thậm chí là mộng du để tham thấu bí mật sự vận hành của Mặt trời, thật là nực cười hết sức!”
“Đây là Galileo.” Aristoteles giới thiệu, “Ông ấy chủ trương phải nhận thức thế giới thông qua thực nghiệm và quan
sát, một nhà tư tưởng theo kiểu thợ thủ công, nhưng chúng ta cũng không thể không nhìn nhận những thành tựu mà ông ấy đạt được.”
“Mặc Tử cũng đã tiến hành thực nghiệm và quan sát.” Uông Diểu nói.
Galileo lại “ừm” một tiếng, “Tư tưởng của Mặc Tử vẫn là kiểu phương Đông, ông ta chẳng qua chỉ là một nhà huyền học khoác lên tấm áo choàng khoa học mà thôi, chưa bao giờ đối xử nghiêm túc với kết quả quan sát của mình, chỉ dựa vào ức đoán chủ quan để xây dựng nên mô hình mô phỏng vũ trụ, thật nực cười! Đáng tiếc cho những thiết bị tinh xảo ấy. Chúng tôi thì khác, chúng tôi đã
dựa trên cơ sở rất nhiều quan sát và thực nghiệm, tiến hành suy luận cẩn trọng để xây dựng mô hình vũ trụ, rồi lại thực nghiệm và quan sát lại nhiều lần để kiểm nghiệm nó.”
“Chính xác đấy,” Uông Diểu gật đầu, “đây cũng là phương pháp tư duy của tôi.”
“Có phải anh cũng mang theo một cuốn lịch vạn niên đó không?” Giáo hoàng châm biếm.
“Tôi không có lịch vạn niên, mà chỉ có mô hình vũ trụ được xây dựng dựa trên cơ sở số liệu quan sát, có điều cần phải nói rõ, cho dù mô hình này là chính xác thì cũng chưa chắc đã có thể dựa vào
nó để nắm bắt được chính xác quy luật vận hành của Mặt trời, rồi biên soạn lịch vạn niên. Nhưng đây dẫu sao cũng là bước đầu tiên cần thực hiện.”
Vài tiếng vỗ tay lẻ loi vang lên trong gian đại điện tối tăm lạnh lẽo, phát ra từ Galileo. “Hay lắm, Copernicus, hay lắm, đại đa số các học giả không có suy nghĩ thực tế, phù hợp với khoa học thực nghiệm như anh đâu, chỉ dựa vào điều này thôi, lý thuyết của anh cũng đã đáng để lắng nghe lắm rồi.”
Giáo hoàng gật đầu với Uông Diểu, “Nói thử nghe xem.”
Uông Diểu bước đến đầu bên kia của chiếc bàn dài, để mình bình tĩnh lại phần
nào: “Thực ra rất đơn giản, Mặt trời sở dĩ vận hành không có quy luật, là bởi thế giới của chúng ta có ba Mặt trời, dưới tác dụng của nhiễu loạn hấp dẫn, ba Mặt trời này đã thực hiện chuyển động tam thể mà chúng ta không thể dự đoán. Khi hành tinh của chúng ta quy ổn định xung quanh một trong ba Mặt trời, thì đó là kỷ nguyên Hằng định. Khi một hoặc hai Mặt trời kia di chuyển tới một khoảng cách nhất định, lực hấp dẫn của chúng sẽ giật hành tinh khỏi Mặt trời mà nó đang quay xung quanh, khiến nó chuyển động bất định trong phạm vi lực hấp dẫn của ba Mặt trời, thì đó là kỷ nguyên Hỗn loạn. Sau một khoảng thời gian không xác định, hành tinh của chúng ta sẽ lại bị một
Mặt trời nào đó bắt cóc, tạm thời hình thành nên quỹ đạo ổn định, kỷ nguyên Hằng định lại bắt đầu. Đây là một trận đấu bóng bầu dục vũ trụ, ba Mặt trời là vận động viên, còn thế giới của chúng ta chính là quả bóng!”
Trong đại điện tối tăm vang lên mấy cười khan. “Thiêu chết hắn đi.” Giáo hoàng thản nhiên nói, hai binh sĩ mặc bộ giáp kín người hoen gỉ đứng trước cửa lập tức tiến về phía Uông Diểu, tựa như hai gã người máy vụng về.
“Thiêu đi!” Galileo thở dài xua tay, “Vốn tưởng anh có hy vọng, thì ra cũng chỉ là một gã huyền học hay phù thủy mà thôi.”
“Loại người này đã trở thành mối hại chung rồi.” Aristoteles gật đầu đồng ý.
“Dẫu sao cũng phải để tôi nói hết đã chứ.” Uông Diểu đẩy bàn tay đeo găng sắt của hai binh sĩ đang tóm lấy mình ra.
“Anh đã trông thấy ba Mặt trời chưa? Hoặc đã có người nào khác trông thấy chưa?” Galileo nghiêng đầu hỏi.
“Người nào cũng đều trông thấy rồi.” “Vậy thì, ngoài Mặt trời xuất hiện
trong kỷ nguyên Hỗn loạn và kỷ nguyên
Hằng định, hai Mặt trời khác ở đâu?”
“Trước tiên phải nói rõ, Mặt trời mà chúng ta nhìn thấy ở những thời điểm khác nhau rất có khả năng không phải
cùng một Mặt trời, mà là một trong ba Mặt trời ấy. Hai Mặt trời còn lại chính là sao bay, khi chúng chuyển động đến khoảng cách xa, trông giống như những ngôi sao vậy.”
“Anh bị hổng kiến thức khoa học tối thiểu rồi.” Galileo lắc đầu phản đối, “Mặt trời chuyển động liên tục từ gần ra xa, không thể nào nhảy cóc được, vì vậy theo giả thiết của anh, sẽ phải có tình huống thứ ba: Mặt trời nhỏ hơn trạng thái bình thường, nhưng lớn hơn sao bay, trong khi chuyển động nó sẽ dần dần biến thành kích cỡ giống như sao bay, nhưng chúng tôi chưa từng thấy Mặt trời như vậy bao giờ cả.”
“Nếu ông đã được đào tạo cơ bản về khoa học, trong lúc quan sát, hẳn đã tìm hiểu được phần nào về kết cấu của Mặt trời.”
“Đây chính là phát hiện mà tôi tự hào nhất: Mặt trời gồm có một lớp khí dày nhưng rất loãng ở ngoài cùng bao lấy một lõi đặc nóng bỏng bên trong.”
“Rất đúng, nhưng hiển nhiên là ông chưa phát hiện ra hiệu ứng quang học đặc biệt của lớp khí ngoài cùng Mặt trời lên bầu khí quyển của hành tinh chúng ta. Hiện tượng này tương tự như hiện tượng phân cực, khiến cho khi Mặt trời ra ngoài một khoảng cách nhất định nào đó, nếu quan sát từ bên trong bầu khí quyển
của chúng ta, lớp khí ngoài cùng Mặt trời sẽ đột nhiên trở nên trong suốt không nhìn thấy được, mà chỉ có thể thấy cái lõi phát sáng của nó mà thôi, lúc này, trong tầm mắt của chúng ta, Mặt trời đột nhiên thu nhỏ lại chỉ bằng kích cỡ lõi, biến thành sao bay. Chính hiện tượng này đã khiến các nhà nghiên cứu của những nền văn minh trong lịch sử lầm lẫn, làm cho họ không ý thức đến sự tồn tại của ba Mặt trời. Giờ các ông đã hiểu tại sao khi ba ngôi sao bay cùng xuất hiện lại dự báo một đợt lạnh giá kéo dài rồi đấy, là bởi lúc đó ba Mặt trời đều ở phía xa.”
Một khoản lặng ngắn, mọi người đều đang ngẫm nghĩ. Aristoteles là người lên tiếng trước tiên: “Anh bị hổng kiến thức
logic học tối thiểu rồi. Đúng thế, đôi lúc chúng ta thấy ba ngôi sao bay, đồng thời sự xuất hiện của chúng bao giờ cũng đi kèm với một đợt lạnh giá mang tính hủy diệt. Nhưng nếu theo lý thuyết đó của anh, chúng ta còn phải có khả năng nhìn thấy ba Mặt trời kích cỡ bình thường nữa, chuyện này chưa bao giờ xảy ra cả, trong ghi chép để lại của tất cả các nền văn minh trước đó, cũng chưa từng xảy ra một lần nào!”
“Gượm đã!” Một người đội chiếc mũ kỳ quặc, để râu dài lần đầu tiên đứng dậy lên tiếng, “Trong lịch sử dường như có ghi chép, có một nền văn minh đã trông thấy hai Mặt trời, nền văn minh đó lập tức bị hủy diệt trong sức nóng của hai
vầng Mặt trời, nhưng ghi chép này rất mơ hồ. À, tôi là Da Vinci.”
“Chúng ta đang nói đến ba vầng Mặt trời, chứ không phải hai!” Galileo hét lên, “Theo lý luận của anh ta, ba Mặt trời nhất định sẽ xuất hiện, giống như là ba ngôi sao bay vậy!”
“Ba vầng Mặt trời đã từng xuất hiện,” Uông Diểu vẫn bình thản nói, “cũng có người đã chứng kiến hiện tượng này, nhưng những người nhìn thấy chúng không thể nào truyền thông tin lại được, vì khi họ nhìn thấy cảnh tượng vĩ đại ấy, cùng lắm cũng chỉ sống thêm được vài giây đồng hồ nữa mà thôi, không thể nào kịp thoát nước và tồn trữ được. Ba Mặt
trời cùng xuất hiện là tai họa khủng khiếp nhất trong thế giới Tam Thể, lúc đó, bề mặt hành tinh sẽ biến thành lò luyện kim trong nháy mắt, nhiệt độ cao có thể làm tan chảy cả nham thạch. Thế giới bị hủy diệt trong thảm họa ba Mặt trời cùng xuất hiện phải trải qua một thời gian rất dài mới xuất hiện lại sự sống và văn minh, đây cũng là nguyên nhân khiến trong lịch sử không có ghi chép lại.”
Im lặng, tất cả mọi người đều nhìn về phía Giáo hoàng.
“Thiêu chết hắn.” Giáo hoàng thản nhiên nói, Uông Diểu thấy nụ cười của ông ta quen quen, đó là nụ cười của Trụ Vương.
Trong đại điện lập tức sôi nổi hẳn lên, tất cả dường như gặp được chuyện vui gì đó. Đám người Galileo hào hứng khiêng từ trong góc tối ra một cây thập giá dùng để hỏa thiêu, họ gỡ cái xác đen thui trên giá xuống vứt sang một bên, rồi dựng đứng giá chữ thập ấy lên, một số người khác thì phấn khởi chất củi thành đống. Chỉ có Da Vinci là không mảy may xúc động trước mọi thứ, ông ta vẫn ngồi cạnh bàn suy tư, chốc chốc lại dùng bút tính toán gì đó trên mặt bàn.
“Giordano Bruno(*),” Aristoteles chỉ vào cái xác cháy đen, “từng nói nhảm ở đây giống như anh vậy.”
(*) Giordano Bruno (1548-1600) là người đã mở rộng thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus, cho rằng các ngôi sao chỉ là các Mặt trời bên ngoài Hệ Mặt trời với những hành tinh riêng xoay quanh, hơn nữa có khả năng tại các hành tinh này có thể hình thành sự sống. Ông cũng khẳng định rằng vũ trụ là bao la vô tận và do vậy không có thiên thể nào ở “trung tâm”.
“Dùng lửa nhỏ.” Giáo hoàng mệt mỏi nói.
Hai tên lính dùng dây thừng bằng amiang chịu lửa trói Uông Diểu lên giá hỏa thiêu, Uông Diểu dùng một ngón tay vẫn còn nhúc nhích được chỉ vào Giáo hoàng: “Chắc chắn ông là một chương
trình phần mềm, những người còn lại không phải phần mềm thì cũng là đồ ngu, tôi sẽ đăng nhập trở lại!”
“Ngươi sẽ không quay lại được nữa, ngươi sẽ vĩnh viễn biến mất trong thế giới Tam Thể.” . Galileo cười quái dị.
“Vậy thì ông chắc chắn là một chương trình phần mềm rồi, một người bình thường không thể không biết những thường thức về mạng internet này được, ở đây cùng lắm chỉ ghi nhớ lại địa chỉ MAC của tôi mà thôi, đổi một máy tính mới, dùng ID mới là được rồi, đến lúc đó tôi sẽ tuyên bố mình là ai.”
“Hệ thống đã ghi lại đặc điểm võng mạc của anh thông qua bộ thiết bị V.” Da
Vinci ngẩng đầu lên nhìn Uông Diểu nói, sau đó lại cắm cúi tiếp tục tính toán của mình.
Lòng Uông Diểu đột nhiên trào dâng một nỗi sợ không tên, anh hét lớn: “Các người đừng làm thế! Thả tôi xuống! Những điều tôi nói là chân lý!”
“Nếu những gì ngươi nói là chân lý, thì sẽ không bị thiêu chết đâu, trò chơi luôn bật đèn xanh cho những người đi đúng đường.” Aristoteles cười ghê rợn, móc ra một chiếc bật lửa Zippo màu bạc, biểu diễn một động tác phức tạp, bật lửa lên đánh “xoẹt” một tiếng.
Đúng lúc ông ta vươn tay ra định châm lửa, một luồng sáng mạnh đỏ rực
bắn vào qua ô cửa, kế đó một làn sóng nhiệt mang theo khói bụi tràn vào. Một con ngựa lao vút qua luồng sáng ấy xông vào đại điện, thân thể con ngựa bốc cháy bừng bừng, biến thành một quả cầu lửa, lúc nó chạy, ngọn lửa còn rít lên xèo xèo. Trên lưng ngựa là một kỵ sĩ Trung cổ mặc áo giáp nặng, bộ giáp của anh ta đã bị thiêu đốt đỏ rực, lúc chạy kéo theo cả một làn khói trắng.
“Thế giới vừa bị hủy diệt!! Thế giới vừa bị hủy diệt!! Thoát nước!! Thoát nước!!” Kỵ sĩ gào tướng lên, con ngựa đang bốc cháy bên dưới ngã nhào xuống đất, bến thành một đống lửa lớn. Kỵ sĩ bị hất văng ra xa, lăn lông lốc xuống bên dưới giá hỏa thiêu, nằm bất động trong
bộ giáp bị thiêu đốt đỏ rực, chỉ thấy khói trắng dày đặc không ngừng bốc lên. Mỡ người từ bên trong bộ giáp chảy ra cũng cháy bùng lên lan dài dưới đất, trông như thể bộ giáp mọc ra đôi cánh bằng lửa.
Những người trong đại điện đều chạy ra cửa như bầy ong vỡ tổ, thoáng cái đã biến mất trong ánh sáng đỏ chiếu vào qua ô cửa. Uông Diểu vận hết sức giằng thoát khỏi dây thừng, vòng qua kỵ sĩ và con ngựa đang bốc cháy, đi xuyên qua đại điện trống trải, chạy qua hành lang hừng hực sóng nhiệt ra tới bên ngoài.
Mặt đất đã bị đốt cho đỏ như một tấm sắt trong lò nướng, bên trên chảy tràn những dòng suối dung nham nhỏ sáng
rực, dệt nên một tấm lưới lửa diễm lệ vươn về phía chân trời. Trên mặt đất bị nung đỏ ấy có vô số cột lửa bốc cao, đó là những kho chứa đang cháy, những người thoát nước trong kho khiến cột lửa nhuộm một màu lam lục kỳ dị. Uông Diểu thấy ở cách mình không xa lắm có mười mấy cột lửa nhỏ hơn cũng có màu xanh lam, đấy là những người vừa chạy ra khỏi kim tự tháp: Giáo hoàng, Galileo, Aristoteles, Da Vinci... ngọn lửa màu xanh lam bao bọc quanh họ trong suốt, có thể trông thấy gương mặt và thân thể họ từ từ biến hình bên trong, họ đổ dồn ánh mắt lên người Uông Diểu vừa mới chạy ra, giữ nguyên một tư thế, giơ hai cánh tay bốc cháy hừng hực lên bầu trời,
đồng thanh tụng lên như thể đang ca xướng: “Ba Mặt trời đồng hiện...”
Uông Diểu ngẩng đầu lên, trông thấy ba vầng Mặt trời khổng lồ trên không trung chầm chậm chuyển động xung quanh một tâm điểm vô hình, tựa như một chiếc quạt khổng lồ phả làn gió chết chóc xuống mặt đất. Ba vầng dương cơ hồ chiếm trọn cả bầu trời kia đang dịch về phía Tây, thoáng cái đã chìm một nửa xuống dưới đường chân trời. “Quạt gió” vẫn đang quay, một cánh quạt rực rỡ chốc chốc lại ló lên trên đường chân trời, hết lần này tới lần khác mang đến cho thế giới đã bị hủy diệt này những buổi bình minh và hoàng hôn ngắn ngủi. Sau khi Mặt trời lặn, mặt đất nóng bỏng
phát ra ánh sáng màu đỏ sậm, rồi trong chớp mắt, Mặt trời lại mọc lên, tỏa ra những tia sáng mạnh chiếu theo phương ngang che phủ lên tất cả. Khi cả ba Mặt trời đều đã lặn, những đám mây dày đặc hình thành do hơi nước trên mặt đất bốc lên vẫn còn tán xạ ánh sáng của chúng, bầu trời cháy bùng lên, toát lên một vẻ đẹp địa ngục khiến người ta phát điên phát cuồng. Tới khi ráng chiều hủy diệt này cuối cùng cũng tan biến, trời mây chỉ còn lại một tầng sắc đỏ như máu phủ lên bởi ngọn lửa địa ngục trên mặt đất, mấy hàng chữ lớn xuất hiện:
Nền văn minh số 183 bị hủy diệt bởi Ba Mặt trời đồng hiện,
nền văn minh này tiến hóa đến giai đoạn
Trung cổ.
Sau một thời gian dài, sự sống và văn minh sẽ được khởi động lại,
một lần nữa tiến hóa trong vận mệnh khó lường
của thế giới Tam Thể.
Nhưng trong nền văn minh này, Copernicus đã thành công vạch ra được cấu trúc cơ bản của vũ trụ, văn minh Tam Thể sẽ có một bước nhảy vọt, trò chơi nâng lên cấp độ 2.
Hoan nghênh bạn đăng nhập vào Tam Thể cấp độ 2.

#16
    huytran 30.07.2017 04:54:06 (permalink)
    Chương 17 : Bài toán Ba vật thể  
     
    Uông Diểu vừa thoát khỏi trò chơi, điện thoại đã đổ chuông, Sử Cường gọi tới, nói có việc gấp, bảo anh đến ngay văn phòng của tổ trọng án một chuyến, Uông Diểu nhìn đồng hồ, đã ba giờ sáng rồi.
    Khi đến phòng làm việc bừa bãi của Sử Cường, Uông Diểu thấy nơi đó đã chìm trong khói thuốc Sử Cường phả ra, khiến một nữ cảnh sát trẻ tuổi ngồi cùng phòng phải liên tục dùng cuốn sổ ghi chép phe phẩy trước mũi. Sử Cường giới thiệu cô tên là Từ Băng Băng, chuyên gia máy tính, là người của bộ phận an ninh mạng. Sự có mặt của người thứ ba trong căn phòng này làm Uông Diểu rất kinh ngạc, không ngờ lại là chồng của Thân Ngọc Phi, Ngụy Thành, đầu tóc rối bù, anh ta ngẩng lên nhìn Uông Diểu, dường như đã quên mất họ từng gặp nhau.
    “Làm phiền anh ngại quá, nhưng tôi thấy anh cũng chưa ngủ, đúng không. Ở đây có vài sự vụ, vẫn chưa báo cáo về trung tâm tác chiến, đại khái là muốn nhờ anh tư vấn giúp.” Sử Cường nói với Uông Diểu, sau đó quay sang phía Ngụy Thành: “Nói đi!”
    “Tôi đã bảo rồi, tính mạng của tôi đang bị uy hiếp.” Ngụy Thành nói, nhưng nét mặt lại trơ ra như phỗng.
    “Kể từ đầu đi.”
    “Được rồi, kể từ đầu, đừng chê tôi phiền phức đấy, dạo này tôi thật tình rất muốn tìm người để nói chuyện...” Ngụy Thành vừa nói vừa nhìn Từ Băng Băng, “Không ghi biên bản gì đó hả?”
    “Giờ không cần, lúc trước không có ai nói chuyện với anh hả?” Sử Cường không để lỡ thời cơ vặn hỏi.
    “Cũng không phải. Tôi lười chẳng buồn nói, tôi vốn lười nhác mà.”
    Dưới đây là lời khai của Ngụy Thành:
    Tôi là một kẻ lười biếng, từ nhỏ đã thế rồi, hồi ở trường nội trú, chưa bao giờ tôi rửa bát, gấp chăn, chẳng thấy
    hứng thú với bất cứ cái gì, lười chằng buồn học, thậm chí còn lười chẳng buồn chơi, ngày nào cũng lơ mơ mà sống. Nhưng tôi biết mình có một số tài năng hơn người, ví dụ như anh vẽ một đường thẳng, tôi vạch một đường trên đường thẳng ấy, chắc chắn sẽ chia nó theo tỷ lệ vàng 0,618:1. Các bạn học nói tôi thích hợp làm thợ mộc, nhưng tôi thấy đây là một năng lực cao cấp hơn nhiều, đây là một thứ trực giác đối với số và hình. Thực ra, kết quả học tập môn toán của tôi cũng như các môn khác, tệ hết chỗ nói, tôi lười suy luận, lúc làm bài thi cứ đem đáp án mình đoán bừa ra mà điền thẳng vào, thế mà cũng đoán trúng được 90%, nhưng làm
    vậy không được điểm cao.
    Hồi học lớp 1 , một thầy giáo dạy toán đã chú ý đến tôi, hồi đấy, các thầy giáo dạy trung học toàn là cọp nằm rồng phục, trong Cách mạng văn hóa có rất nhiều người tài hoa đã bị lưu lạc về các trường trung học làm thầy giáo, ông ấy là một trong số đó. Một hôm, sau giờ học ông ấy giữ tôi lại, viết mười mấy dãy số trên bảng, bảo tôi viết ra công thức tính tổng của chúng. Tôi nhanh chóng viết ra một phần trong số đó, về cơ bản đều đúng, những dãy số còn lại chỉ liếc nhìn đã biết là dãy số phân kỳ rồi. Thầy giáo lấy ra một quyển sách, tên là “Sherlock Holmes phá án”, lật tới một trang, hình như là vụ Chiếc nhẫn tình cờ thì phải, có một đoạn đại ý thế này: Watson thấy dưới nhà có một người ăn vận rất bình thường đến đưa thư, liền chỉ cho Holmes, Holmes liền hỏi anh chỉ tay trung sĩ hải quân đã xuất ngũ kia đúng không? Watson lấy làm ngạc nhiên không hiểu sao Holmes suy đoán được thân phận của người đó, bản thân Holmes cũng không rõ lắm, nghĩ một lúc lâu mới sắp xếp xong quá trình suy luận: nào là nhìn tay người đó, rồi dáng đi điệu bộ... vân vân. Ông ấy bảo, chuyện này không có gì là lạ, người khác cũng khó mà nói được tại sao mình suy đoán 2 + 2 = 4 vậy thôi.
    Thầy giáo gấp sách lại nói với tôi:
    em là vậy đấy, suy luận của em quá nhanh, vả lại còn là bản năng nữa, vì vậy bản thân không ý thức được. Kế đó, ông ấy hỏi tôi: khi thấy một dãy số, em có cảm giác gì? Thầy đang hỏi về cảm giác. Tôi nói, bất cứ tổ hợp số nào trong mắt tôi cũng là một hình khối lập thể, tất nhiên tôi không thể nói rõ số nào có hình dạng thế nào, nhưng đúng thực là nó thể hiện ra dưới dạng một hình khối. Thế còn khi nhìn thấy các hình thì sao? Thầy giáo hỏi tiếp. Tôi trả lời là ngược lại với trường hợp trên, trong đầu tôi không hiện ra các hình hình học, mà tất cả đều hóa thành con số, giống như khi gí sát mắt vào nhìn tấm ảnh trên báo, toàn là những chấm nhỏ (tất nhiên ảnh trên báo ngày nay thì không còn như thế nữa rồi).
    Thầy giáo bảo, em đúng là có thiên phú về toán học, nhưng mà, nhưng mà... thầy ấy cứ đi đi lại lại không ngừng nói “nhưng mà”, như thể tôi là một bài toán rất hóc búa, không biết nên xử lý thế nào cho phải vậy. Nhưng mà kiểu người như em lại không biết quý trọng khả năng thiên phú của mình, thầy ấy nói. Nghĩ ngợi hồi lâu, hình như thầy ấy đã bỏ cuộc, bảo rằng: thế em tham gia cuộc thi toán của quận vào tháng sau nhé, tôi cũng không phụ đạo cho em đâu, với loại người như em thì chỉ phí công thôi, có điều, lúc làm bài, em nhất định phải viết cả quá trình suy
    luận vào. Vậy là tôi đi thi, thi từ khu vực cho đến Olympic toán học của Budapest, toàn bộ đều giành giải quán quân. Sau khi trở về, tôi được một trường đại học hàng đầu tuyển thẳng vào khoa toán...
    Tôi nói những chuyện ấy các người không thấy phiền phức chứ? À, được rồi, thực ra, muốn nói cho rõ ràng những chuyện về sau, thì vẫn cần phải nói ra những chuyện ấy đấy. Ông thầy giáo trung học đó nói rất đúng, tôi không biết quý trọng bản thân, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ đều lất pha lất phất, nhưng không ngờ đều qua được hết. Đến khi ra ngoài xã hội, tôi mới phát hiện mình là một thằng vứt đi chính
    hiệu, ngoài môn toán ra thì chẳng biết cái quái gì, lúc nào cũng ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê giữa những mối quan hệ xã hội phức tạp, càng lăn lộn lại càng trượt dốc. Về sau, tôi về trường đại học làm nghề giáo, nhưng cũng không làm nổi, chẳng thể nghiêm túc dạy dỗ gì được. Tôi viết lên bảng một câu “dễ chứng minh”, đám sinh viên ở dưới liền kêu gào la ó, sau này cắt giảm biên chế, cũng chẳng được dạy học nữa luôn. Đến lúc đó, tôi đã chán ghét hết thảy rồi, bèn mang theo một túi hành lý đơn giản tìm đến một ngôi chùa trong núi sâu ở miền Nam.
    À, không phải tôi đi tu đâu, tôi lười chẳng buồn tu ấy chứ, chỉ là muốn kiếm
    nơi nào thanh tịnh thật sự để ở một thời gian thôi. Trưởng lão ở đấy là một người bạn cũ của bố tôi, học vấn rất uyên thâm nhưng về già lại bước vào cửa Không, theo lời bố tôi nói, đến cấp độ như ông ấy rồi thì cũng chỉ còn mỗi con đường đó mà thôi. Vị trưởng lão ấy cho tôi ở lại, tôi nói với ông ấy, muốn tìm ra một lối sống nào thanh tịnh nhẹ nhàng để sống cho hết đời này là được. Trưởng lão bảo, đây không phải nơi thanh tịnh, mà là khu du lịch, khách dâng hương cũng rất đông; kẻ đại ẩn ở ẩn nơi chợ búa, muốn thanh tịnh an bình, thì lòng phải không đã. Tôi nói, cháu “không” đủ rồi, danh lợi đối với cháu thậm chí còn không bằng phù vân,
    mấy ông sư trong chùa của bác còn nhiều phàm tâm hơn cả cháu ấy chứ. Trưởng lão lắc đầu: “không” không phải là trống rỗng, “không” là một dạng tồn tại, cháu phải đong đầy bản thân bằng dạng tồn tại này mới được. Câu nói của ông ấy rất có giá trị dẫn dắt đối với tôi, sau này nghĩ lại, đây hoàn toàn không phải giáo lý nhà Phật, ngược lại giống với lý thuyết vật lý hiện đại nào đó hơn. Trưởng lão cũng đã nói, ông ấy không nói chuyện Phật với tôi, lý do cũng giống hệt như ông thầy giáo hồi trung học: loại người như tôi có nói cũng vô dụng.
    Tối hôm đầu tiên, ở trong căn phòng nhỏ của nhà chùa, tôi bị mất ngủ,
    không ngờ rằng nơi thế ngoại đào nguyên này lại chẳng dễ chịu chút nào, chăn nệm đều bị sương mù trong núi làm cho ẩm hết, giường thì cứng đơ đơ. Vậy là, để cho mình ngủ được, tôi bèn thử làm theo lời trưởng lão, dùng “không” để lấp đầy bản thân mình: cái “không” đầu tiên mà tôi sáng tạo ra trong ý thức là một vũ trụ không có biên giới, bên trong đó không có gì cả, không có cả ánh sáng, trống rỗng. Tôi nhanh chóng cảm thấy vũ trụ trống rỗng này hoàn toàn không thể khiến mình có cảm giác bình yên, đặt mình trong đó ngược lại còn cảm thấy nôn nao bất an khó tả, trong lòng trỗi lên thứ ham muốn tóm bắt lấy bất cứ thứ
    gì, kiểu như một người bị đuối nước vậy.
    Thế là tôi tạo ra cho mình một vật thể hình cầu trong cái không gian vô tận ấy, không lớn, có chất và có lượng. Nhưng cảm giác vẫn không tốt lên chút nào, vật thể hình cầu ấy trôi nổi ở chính giữa “không” (đối với không gian vô tận, chỗ nào cũng là chính giữa), trong vũ trụ đó không có bất cứ thứ gì ảnh hưởng lên nó, nó cũng không có thứ gì để gây ảnh hưởng. Nó lơ lửng ở đó, vĩnh viễn không bao giờ chuyển động, vĩnh viễn không bao giờ có thay đổi, quả thực là một lời định nghĩa xác đáng nhất về cái chết.
    Tôi sáng tạo ra khối cầu thứ hai, có kích cỡ và khối lượng tương đương với khối cầu ban đầu, bề mặt của chúng đều là những mặt gương phản xạ toàn phần, phản chiếu hình ảnh của nhau, soi bóng tồn tại duy nhất ngoài chính bản thân chúng trong cái vũ trụ ấy. Nhưng tình hình cũng chẳng tốt hơn là mấy: Nếu khối cầu không có chuyển động khởi thủy, cũng tức là cú đẩy đầu tiên của tôi, bọn chúng sẽ nhanh chóng bị lực hấp dẫn của nhau hút lại thành một, sau đó hai khối cầu sẽ dính vào nhau lơ lửng ở đó, không nhúc nhích, vẫn là một biểu tượng của sự chết. Nếu có chuyển động khởi thủy, và hai khối cầu không va chạm nhau, bọn chúng sẽ
    chuyển động quay xung quanh lẫn nhau dưới tác đụng của lực hấp dẫn, dù chuyển động khởi thủy có biến đổi như thế nào, sự xoay chuyển ấy cuối cùng cũng sẽ cố định lại, vĩnh viễn không bao giờ biến đổi, một điệu múa của sự chết.
    Tôi lại đưa vào khối cầu thứ ba, tình huống đã nảy sinh sự thay đổi làm tôi sửng sốt. Lúc nãy đã kể rồi đấy, bất cứ hình ảnh nào trong ý thức của tôi cũng được chuyển thành dạng số, vũ trụ không có khối cầu, có một khối cầu và hai khối cầu ở trên đều được thể hiện thành một hoặc vài phương trình miêu tả nó, giống như mấy phiến lá lác đác rụng vào mùa thu vậy. Nhưng khối cầu
    thứ ba này, chính là con rồng được điểm mắt(*), vũ trụ có ba khối cầu lập tức trở nên phức tạp, ba khối cầu được cung cấp chuyển động khởi thủy bắt đầu chuyển động một cách phức tạp, cơ hồ như không bao giờ trùng lặp trong không trung. Những phương trình miêu tả chúng dồn dập xuất hiện như mưa rào, mãi không ngừng lại. Cứ thế, tôi chìm vào giấc ngủ, ba khối cầu vẫn tiếp tục nhảy múa trong giấc mơ, một điệu nhảy không quy luật và không bao giờ lặp lại. Nhưng sâu thẳm trong ý thức của tôi, điệu nhảy này vẫn có tiết tấu, chỉ là chu kỳ lặp lại của nó kéo dài vô hạn mà thôi, điều này khiến tôi mê muội, đắm đuối, tôi cần phải thể hiện
    được một phần hoặc toàn bộ cái chu kỳ này.
    (*) Người ta vẽ rồng luôn vẽ mắt sau cùng, ý muốn nói đến sự hoàn hảo.
    Ngày hôm sau, tôi vẫn luôn nghĩ về khối cầu nhảy múa trong cái “không” đó của mình, đầu óc tôi chưa bao giờ hoạt động hết công suất như vậy cả, đến nỗi có nhà sư còn hỏi trưởng lão phải chăng tâm thần tôi có vấn đề gì, trưởng lão mỉm cười nói: không sao, cậu ấy tìm được “không” rồi. Đúng thế, tôi đã tìm được “không”, giờ tôi có thể ẩn cư ở chốn thị thành được rồi, dù thân ở giữa chốn đông người huyên náo, nội tâm tôi cũng vẫn tĩnh lặng vô
    cùng. Đó là lần đầu tiên tôi hưởng thụ được niềm vui của toán học, nguyên lý vật lý của bài toán Ba vật thể(*) rất đơn thuần, thực ra là một vấn đề toán học. Lúc này, tôi chẳng khác nào một kẻ phóng đãng suốt nửa đời chỉ chơi bời lêu lổng bỗng nhiên cảm nhận được ái tình chân chính vậy.
    (*) Bài toán tính toán chuyển động do lực hấp dẫn tác động lên nhau của ba vật thể có khối lượng giống nhau hoặc gần giống nhau, là một bài toán kinh điển trong vật lý cổ điển, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu chuyển động của các thiên thể, từ thế kỷ 16 đến nay vẫn luôn được chú trọng. Nhà toán học Thụy Sĩ Euler, nhà
    toán học Pháp Joseph Lagrange, và một số học giả gần đây nhờ vào sự giúp đỡ của nghiên cứu khoa học máy tính, đều đã tìm ra một số nghiệm trong các trường hợp đặc biệt của bài toán Tam Thể này. (TG)
    “Anh biết Poincaré(*) không?” Uông Diểu ngắt lời Ngụy Thành.
    (*) Jules Henri Poincaré (1854- 1912), nhà toán học, vật lý lý thuyết và triết gia người Pháp. Khi nghiên cứu bài toán Ba vật thể, ông là người đầu tiên khám phá ra Hệ có tính tất định hỗn độn, sau này là cơ sở cho lý thuyết hỗn độn hiện đại. Ông được coi là một trong những cha đẻ của tô pô học. (TG)
    Lúc đó tôi không biết, học toán mà không biết Poincaré là không đúng, nhưng tôi xưa nay chẳng kính ngưỡng các bậc thầy, mà bản thân cũng không muốn trở thành bậc thầy, nên không biết. Mà kể cả lúc đó đã biết đến Poincaré, tôi cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu bài toán Ba vật thể này. Cả thế giới đều cho rằng ông ấy đã chứng minh được bài toán Ba vật thể không thể giải ra, nhưng tôi có cảm giác đây có thể là một sai lầm, ông ấy chỉ chứng minh tính nhạy cảm đối với các điều kiện khởi thủy, chứng minh hệ thống ba vật thể là một hệ thống không thể tích phân, nhưng tính nhạy cảm không đồng nghĩa với sự bất xác định triệt để, mà
    chỉ là phương pháp xác định chứa một số lượng rất lớn các hình thức khác nhau, điều cần phải làm lúc này là tìm ra một phương pháp tính toán mới. Lúc đó, tôi lập tức nghĩ đến một thứ: anh đã nghe nói đến phương pháp Monte Carlo(*) bao giờ chưa? Đó là thuật toán sử dụng phần mềm máy tính để tính toán diện tích của các hình bất quy tắc, cách làm cụ thể là dùng rất nhiều khối cầu nhỏ bắn vào hình khối bất quy tắc ấy trong phần mềm, những chỗ đã bị bắn trúng sẽ không bị bắn lại nữa, như thế, khi đạt đến một số lượng nhất định, tất cả phần của hình khối đều sẽ bị bắn trúng một lần, lúc này, thống kê số lượng khối cầu bên trong khu vực
    của hình khối là sẽ biết được diện tích, tất nhiên, khối cầu càng nhỏ thì kết quả càng chính xác.
    (*) Các phương pháp Monte Carlo là một lớp các thuật toán để giải quyết nhiều bài toán trên máy tính theo kiểu không tất định, thường bằng cách sử dụng các số ngẫu nhiên (thường là các số giả ngẫu nhiên), ngược lại với thuật toán tất định. Trong toán học, thuật toán Monte Carlo là phương pháp tính bằng số hiệu quả cho nhiều bài toán liên quan đến nhiều biến số mà không dễ dàng giải được bằng các phương pháp khác, chẳng hạn bằng tính tích phân.
    Phương pháp này tuy đơn giản, nhưng lại thể hiện lối tư duy dùng sức mạnh của sự ngẫu nhiên chống lại logic chính xác trong toán học, một phương pháp tính toán dùng số lượng để có được chất lượng. Đây chính là sách lược giải quyết bài toán Ba vật thể của tôi. Tôi nghiên cứu một mặt cắt thời gian bất kỳ trong chuyển động của ba vật thể, trên mặt cắt ấy, vector chuyển động của các khối cầu có vô hạn cách tổ hợp, tôi coi mỗi một tổ họp ấy tương tự như một thứ sinh vật, mấu chốt là cần xác định một quy tắc: tổ hợp các chuyển động nào là “lành mạnh” và “có lợi”, tổ hợp nào là “bất lợi” và “có hại”, để nhóm trước có
    được ưu thế sinh tồn, còn nhóm sau thì gặp phải khó khăn sinh tồn, trong khi tính toán cứ giữ lại cái tốt, đào thải cái xấu, cái tồn tại đến cuối cùng chính là dự đoán chính xác cho trạng thái chuyển động của mặt cắt tiếp theo.
    “Thuật toán tiến hóa.” Uông Diểu nói. “Mời anh đến quả là đúng đắn.” Sử
    Cường gật đầu với Uông Diểu.
    Đúng thế, về sau tôi mới nghe nói đến danh từ này. Đặc điểm của thuật toán này là lượng tính toán cực nhiều, số lượng phép tính cực kỳ lớn, đối với bài toán Ba vật thể, máy tính hiện nay chưa thể giải quyết được. Mà khi đó, tôi đang ở chùa, đến một cái máy tính
    cầm tay cũng không có, chỉ có một cuốn sổ ghi nợ trắng và một cái bút chì ở phòng thu chi: tôi bắt đầu xây dựng mô hình toán học trên giấy, khối lượng công việc rất lớn, chẳng mấy chốc đã dùng hết mười mấy cuốn sổ, khiến vị hòa thượng quản lý thu chi tức điên người lên. Nhưng theo yêu cầu của trưởng lão, họ vẫn kiếm cho tôi thêm nhiều giấy và bút, tôi cất những bản thảo đã viết xong xuống dưới gối, những trang nháp bỏ đi thì vứt vào lò đốt trong chùa.
    Chiều hôm đó, một cô gái trẻ đột nhiên xông vào phòng tôi, đây là lần đầu tiên có phụ nữ bước vào từ khi tôi bắt đầu ở đây, trên tay cô ấy cầm mấy
    tờ giấy đã cháy một ít ở rìa mép, đó là bản nháp mà tôi bỏ đi.
    “Họ nói đây là của anh, anh đang nghiên cứu bài toán Ba vật thể hả?” Cô gái nôn nóng hỏi, đôi mắt phía sau cặp kính to tướng trông như đang bốc lửa vậy.
    Điều này khiến tôi kinh ngạc, tôi sử dụng phương pháp toán học không theo quy tắc thông thường, vả lại trong lúc suy luận đã nhảy cóc qua rất nhiều bước, vậy mà cô ấy chỉ từ mấy tờ giấy nháp bỏ đi lại có thể nhìn ra được đối tượng nghiên cứu, năng lực toán học quả không phải tầm thường. Đồng thời, cũng có thể khẳng định, cô ấy cũng
    giống tôi, rất chú ý đến bài toán Ba vật thể này. Tôi vốn chẳng có ấn tượng gì với những du khác và khách dâng hương đến đây, đám du khách thì chẳng biết mình đến xem cái gì, chỉ chạy hết chỗ nọ đến chỗ kia chụp ảnh; còn khách dâng hương, đa phần trông có vẻ nghèo hơn du khách nhiều, người nào cũng ở trong một trạng thái tê liệt, trí tuệ bị ức chế. Nhưng cô gái này thì khác, cô ấy có khí chất của học giả, về sau tôi mới biết, cô ấy đi cùng với một đoàn du khách người Nhật.
    Không đợi tôi trả lời, cô ấy lại nói: “Cách nghĩ của anh thật cao siêu, chúng tôi bấy lâu nay vẫn luôn tìm kiếm phương pháp tương tự như vậy,
    chuyển độ khó của bài toán Ba vật thể thành lượng phép tính khổng lồ. Nhưng làm vậy cần phải có một máy tính rất lớn mới được.”
    “Dùng tất cả máy tính cỡ lớn trên thế giới này cũng không được.” Tôi thành thực nói với cô ấy.
    “Nhưng anh cũng phải có một môi trường nghiên cứu tạm ổn mới được chứ, chỗ này chẳng có gì cả. Tôi có thể cho anh cơ hội sử dụng máy tính cỡ lớn, còn có thể tặng cho anh một cái máy tính cỡ trung nữa, sáng sớm ngày mai chúng ta cùng xuống núi đi.”
    Cô ấy chính là Thân Ngọc Phi, cô ấy vẫn giống như hiện nay, kiệm lời và
    chuyên chế, nhưng so với hiện nay thì hấp dẫn hơn. Tính tôi vốn lãnh đạm, đối với nữ giới, tôi còn ít hứng thú hơn cả mấy hòa thượng ở xung quanh, nhưng cô ấy thì rất đặc biệt, chính cái vẻ đàn bà không hề đàn bà ấy đã thu hút tôi. Đàng nào thì tôi cũng nhàn rỗi, bèn lập tức nhận lời với Thân Ngọc Phi.
    Buổi đêm, không ngủ được, tôi bèn khoác áo đi ra sân chùa, ở phía xa, dưới ánh đèn tăm tối của nhà chùa, tôi trông thấy bóng Thân Ngọc Phi, cô ấy đang dâng hương trước tượng Phật, động tác có vẻ rất thành kính. Tôi nhẹ nhàng bước tới, lúc đi đến bên ngoài bậu cửa thì nghe thấy cô ấy lầm bầm
    cầu khấn:
    “Phật tổ phù hộ cho Chúa tôi thoát khỏi biển khổ.”
    Tôi tưởng mình nghe nhầm, nhưng cô ấy lại khấn lần nữa:
    “Phật tổ phù hộ cho Chúa tôi thoát khỏi biển khổ.”
    Tôi không hiểu tôn giáo nào, mà cũng không thấy hứng thú gì, nhưng thực tình không tưởng tượng ra được lời cầu khấn nào ly kỳ hơn thế nữa, bất giác buột miệng hỏi: “Cô đang nói gì thế?”
    Thân Ngọc Phi hoàn toàn không để ý đến sự tồn tại của tôi, vẫn khép hờ mắt,
    chắp tay trước ngực, tựa như đang nhìn lời cầu khấn của mình theo khói hương vấn vít bay tới chỗ Phật tổ. Một lúc lâu sau, cô ấy mới mở mắt ra hướng về phía tôi.
    “Đi ngủ đi, ngày mai đi sớm.” Cô ấy nói mà chẳng buồn nhìn tôi.
    “Lúc nãy cô vừa nói ‘Chúa tôi’, là ở trong Phật giáo hả?” Tôi hỏi.
    “Không phải.” “Thế...”
    Thân Ngọc Phi chẳng nói chẳng rằng, ,rảo bước đi khỏi, tôi không kịp hỏi thêm điều gì. Tôi cứ nhẩm lại lời cầu khấn đó trong đầu hết lượt này đến
    lượt khác, càng nhẩm càng cảm thấy quái dị, về sau còn có một thứ cảm giác sợ hãi không tả được thành lời, bèn chạy nhanh đến chỗ trưởng lão, gõ cửa phòng ông.
    “Nếu có người cầu khẩn Phật tổ phù hộ cho một Chúa khác, thế nghĩa là sao ạ?” Tôi hỏi, sau đó tỉ mỉ thuật lại cho ông sự việc vừa xảy ra.
    Trưởng lão im lặng nhìn cuốn sách trên tay, nhưng rõ ràng ông không đọc mà đang suy nghĩ về chuyện tôi mới kể, sau đấy ông nói: “Cháu ra ngoài một lát, để ta nghĩ đã.” Tôi quay người đi ra cửa, lòng thầm biết chuyện này rất không bình thường. Trưởng lão là
    người học thức uyên bác, thông thường những vấn đề về tôn giáo, lịch sử và văn hóa, ông đều trả lời ngay lập tức không cần nghĩ ngợi. Tôi đợi bên ngoài một lúc bằng thời gian hút hết điếu thuốc thì trưởng lão gọi vào.
    “Ta cảm thấy, chỉ có một khả năng thôi.” Ông cẩn trọng nói.
    “Gì ạ? Có thể là gì ạ? Lẽ nào lại có thứ tôn giáo như thế, Chúa của họ lại yêu cầu giáo đồ đi cầu khẩn Chúa của một tôn giáo khác cứu vớt?”
    “Vị Chúa của cô gái ấy, là một tồn tại chân thực.”
    Câu nói này của trưởng lão làm tôi
    hoang mang: “Vậy thì... Phật tổ không tồn tại ạ?” Vừa thốt lên câu ấy, tôi lập tức nhận ra mình đã thất lễ, vội vàng xin lỗi.
    Trưởng lão chầm chậm xua tay: “Ta đã bảo rồi, hai chúng ta không thể nói chuyện Phật học được, sự tồn tại của Phật tổ là tồn tại mà cháu không thể lý giải nổi. Còn Chúa mà cô ấy nói, tồn tại theo một phương thức mà cháu hiểu được... Về chuyện này, ta không có khả năng nói kỹ hơn với cháu, chỉ biết khuyên cháu là đừng đi theo cô gái ấy thôi.”
    “Tại sao?”
    “Cũng chỉ làm cảm giác thôi, ta cảm
    thấy đằng sau cô ấy có thể có một số chuyện mà cả ta lẫn cháu đều không tài nào tưởng tượng nổi.”
    Tôi ra khỏi chỗ trưởng lão, băng qua sân chùa về phòng mình. Hôm đó là đêm trăng tròn, tôi ngẩng đầu lên nhìn mặt trăng, chợt cảm thấy giống như một con mắt quái dị màu bạ đang nhìn chằm chằm vào mình, ánh trăng toát lên một vẻ lạnh lẽo âm u.
    Hôm sau, tôi vẫn đi với Thân Ngọc Phi, dẫu sao cũng không thể ở trong chùa mãi được, nhưng không ngờ, chín năm tiếp theo, tôi sống như trong mơ. Thân Ngọc Phi đã thực hiện lời hứa, tôi có một máy tính cỡ trung cho riêng
    mình, và điều kiện sống rất thoải mái, còn nhiều lần ra nước ngoài sử dụng máy tính cỡ lớn, không phải phân thời gian sử dụng mà chiếm toàn bộ thời gian của CPU. Cô ấy rất giàu, tôi không biết cô ấy kiếm đâu ra nhiều tiền thế. Sau này, chúng tôi kết hôn, cũng không có tình yêu và cảm xúc mãnh liệt gì, chẳng qua để tiện cho cuộc sống của đôi bên mà thôi, mỗi người đều có việc riêng của mình. Đối với tôi, chín năm về sau cũng chỉ như một ngày, cuộc sống trôi qua trong bình lặng. Trong căn biệt thự ấy, tôi không phải lo ăn lo mặc gì hết, chỉ cần chuyên tâm vào nghiên cứu giải bài toán Ba vật thể là được. Thân Ngọc Phi chưa bao giờ
    can thiệp vào cuộc sống của tôi, trong ga ra có một chiếc xe dành riêng cho tôi, tôi có thể lái đi bất cứ đâu, thậm chí tôi dám khẳng định, kể cả mình dẫn gái về nhà cô ấy cũng chẳng để tâm, cô ấy chỉ quan tâm đến nghiên cứu của tôi thôi. Nội dung duy nhất mà chúng tôi trao đổi hằng ngày chính là bài toán Ba vật thể, ngày nào cô ấy cũng tìm hiểu xem nghiên cứu của tôi tiến triển tới đâu.
    “Anh có biết Thân Ngọc Phi còn làm gì nữa không?” Sử Cường hỏi.
    “Thì là cái Biên giới Khoa học đó chứ còn gì, cả ngày cô ấy đều bận bịu việc ở đó, ngày nào cũng có cả đống
    người đến nhà.”
    “Cô ta không rủ anh nhập hội à?” “Chưa bao giờ , thậm chí cố ấy còn
    chưa từng nhắc đến hội đó với tôi, tôi cũng chẳng quan tâm, tính tôi thế đấy, chẳng muốn quan tâm nhiều chuyện. Cô ấy cũng biết rõ điểm này, bảo tôi là loại người lười biếng chẳng có tí tinh thần vì sứ mạng nào cả, hội đó không thích hợp với tôi, ngược lại còn quấy nhiễu việc nghiên cứu.”
    “Thế nghiên cứu về bài toán Ba vật thể có tiến triển không?”
    Xét tình trạng hiện nay của lĩnh vực nghiên cứu này trên thế giới, tiến triển
    có thể nói là mang tính đột phá đấy. Mấy năm trước, Richard Montgomery ở Đại học California tại Santa Cruz, Alain Chenciner ở Đại học Paris 7, còn cả các nghiên cứu viên của Cơ quan nghiên cứu đo lường Pháp, đã dùng một loại phương pháp toán học gọi là “phương pháp Raphson”, tìm được dạng thức ổn định khả dĩ của chuyển động tam thể: với điều kiện khởi thủy thích hợp, quỹ đạo chuyển động của ba vật thể sẽ hình thành nên một hình số 8 khép kín. Sau này, người ta bắt đầu say mê tìm kiếm các dạng thức ổn định đặc thù này, tìm được một cái liền vui sướng như bắt được vàng, đến giờ cũng mới tìm được có ba bốn cái thôi. Kỳ
    thực, tôi dùng thuật toán tiến hóa đã tìm được hơn một trăm dạng thức ổn định rồi, đem những qũy đạo ấy vẽ ra thì cũng đủ làm một buổi triển lãm tranh hậu hiện đại ấy chứ. Nhưng đây không phải mục tiêu của tôi, lời giải thực sự cho bài toán Ba vật thể là xây dựng được một mô hình toán học, khiến cho một khi đã biết được vector chuyển động khởi thủy của ba vật thể tại bất cứ mặt cắt thời gian nào, cũng có thể dự đoán chình xác tất cả các trạng thái chuyển động của cả hệ ba vật thể về sau. Đây cũng là mục tiêu mà Thân Ngọc Phi hằng khao khát.
    Nhưng cuộc sống bình yên của tôi đã kết thúc vào hôm qua, tôi đã gặp phải
    một chuyện phiền phức.
    “Đây là vụ việc mà anh muốn báo án hả?” Sử Cường hỏi.
    “Đúng thế, tối qua một người đàn ông gọi điện tới, bảo rằng nếu tôi không dừng ngay việc nghiên cứu bài toán Ba vật thể, hắn sẽ giết tôi.”
    “Người đó là ai?” “Không biết.”
    “Còn số điện thoại?”
    “Không biết, điện thoại của tôi không hiển thị số gọi đến.”
    “Còn gì khác nữa không?”
    “Không biết.”
    Sử Cường cười cười, vứt bỏ đầu mẩu thuốc, “Lúc trước thì lảm nhảm cả một tràng dài, cuối cùng chỉ báo mỗi một câu ấy với mấy câu không biết thôi hả?”
    “Tôi không lảm nhảm gì cả, anh có hiểu được câu đấy không hả? Với lại, nếu chỉ có mỗi chuyện vặt đó thì tôi cũng chẳng thèm đến, tôi lười mà. Tối hôm nay, ừm, lúc đó là nửa đêm rồi, tôi cũng không biết gọi là hôm qua hay hôm nay nữa, tôi đang ngủ thì mơ hồ cảm thấy trên mặt mình có thứ gì đó man mát đang chuyển động, mở mắt ra liền trông thấy Thân Ngọc Phi, làm tôi sợ chết khiếp luôn.”
    “Nửa đêm trông thấy vợ anh trên giường thì có gì mà đáng sợ chứ?”
    “Cô ấy nhìn tôi bằng cái ánh mắt đó, chưa bao giờ cô ấy có ánh mắt như thế cả, ánh đèn ở vườn hoa bên ngoài chiếu lên gương mặt cô ấy, trông như hồn ma vậy. Trong tay cô ấy đang cầm một khẩu súng! Cô ấy cọ nòng súng lên mặt tôi, nói tôi phải tiếp tục nghiên cứu bài toán Ba vật thể, nếu không, cô ấy sẽ giết tôi.”
    “Ừm, bắt đầu thú vị rồi đây.” Sử Cường lại châm một điếu thuốc, hài lòng gật đầu.
    “Cái gì mà thú vị chứ? Các anh thấy đấy, tôi không còn chỗ nào để đi nữa, mới đến tìm các anh.”
    “Anh nhắc lại nguyên xi những gì cô ta nói với anh xem nào.”
    “Cô ấy nói thế này này: ‘Nếu nghiên cứu thành công, tìm được lời giải cho bài toán Ba vật thể, anh sẽ trở thành Chúa cứu thế; nếu bây giờ dừng lại, anh sẽ là một kẻ tội nhân. Nếu có một người cứu vớt hoặc hủy diệt loài người, vậy thì công trạng anh có thể tạo dựng hoặc tội ác anh có thể gây ra, đều vừa hay gấp đôi người đó.’ ”
    Sử Cường phun ra một hơi khói thuốc nồng nặc, nhìn chằm chằm vào Ngụy Thành một lúc lâu, đến khi anh ta hơi luống cuống, mới lôi từ chiếc bàn bừa bãi ra một cuốn sổ, cầm bút lên. “Chẳng
    phải anh muốn ghi biên bản sao? Lặp lại những lời vừa rồi một lượt đi.”
    Sau khi Ngụy Thành lặp lại một lượt, Uông Diểu nói: “Câu này quả thực rất kỳ lạ, sao lại là vừa hay gấp đôi nhỉ?”
    Ngụy Thành chớp chớp mắt nói với Sử Cường: “Có vẻ chuyện này rất nghiêm trọng? Lúc tôi đến, người trực ban vừa trông thấy tôi liền bảo tôi đi gặp anh, xem chừng tôi đã được ghi danh sẵn ở đây rồi nhỉ.”
    Sử Cường gật đầu, “Hỏi thêm một chuyện nữa: anh cảm thấy khẩu súng của vợ anh có phải hàng thật không?” Thấy Ngụy Thành không biết trả lời thế nào, gã lại hỏi, “Có mùi dầu súng không?”
    “Có, chắc chắn là có mùi dầu!”
    “Vậy thì được.” Sử Cường đang ngồi trên bàn nhảy xuống, “Rốt cuộc cũng tìm được cơ hội, nghi phạm tàng trữ súng phi pháp, đó là một lý do lục soát miễn cưỡng chấp nhận được, thủ tục thì để mai bổ sung, chúng ta lập tức hành động ngay.” Gã quay sang bảo Uông Diểu, “Vụ này vẫn phải phiền anh đi cùng để cố vấn thêm.” Dứt lời, gã lại bảo Từ Băng Băng nãy giờ vẫn không nói năng gì: “Tiểu Từ, giờ chỉ còn hai người trực ban trong tổ chuyên án, không đủ, tôi biết mấy người bên phòng thông tin các cô toàn là lá ngọc cành vàng, nhưng hôm nay chuyên gia như cô cũng đành phải đi ra ngoài
    một chuyến vậy.” Từ Băng Băng nhanh chóng gật đầu, cô cũng chỉ muốn được nhanh chóng rời khỏi cái chỗ nồng nặc khói thuốc này.
    Ngoài Sử Cường và Từ Băng Băng, còn có hai viên cảnh sát hình sự đang trực ban đi chấp hành nhiệm vụ lục soát lần này. Cộng thêm Uông Diểu và Ngụy Thành, một đoàn sáu người chia ra ngồi trên hai xe cảnh sát, băng qua màn đêm tăm tối nhất trước buổi bình minh tiến về khu biệt thự ở ven thành phố.
    Từ Băng Băng và Uông Diểu ngồi ở hàng ghế sau, xe vừa chạy, cô liền thấp giọng nói với Uông Diểu: “Thầy giáo Uông, điểm danh vọng của anh trong trò
    chơi Tam Thể rất cao đấy nhé.”
    Trong thế giới hiện thực lại có người nhắc đến Tam Thể, Uông Diểu không khỏi xúc động, cảm giác khoảng cách giữa mình và cô gái mặc cảnh phục này trong chốc lát đã được kéo gần lại.
    “Cô cũng chơi à?”
    “Tôi phụ trách giám sát và theo dấu nó, việc khổ sai ấy mà.”
    Uông Diểu quan tâm hỏi: “Có thể cho tôi bết một số việc liên quan đến trò chơi ấy được không, tôi thật sự rất muốn biết.”
    Nhờ ánh đèn yếu ớt hắt vào qua cửa sổ xe, Uông Diểu thấy Từ Băng Băng nở
    một nụ cười thần bí.
    “Chúng tôi cũng muốn biết lắm, máy chủ của nó ở nước ngoài, hệ thống và tường lửa đều rất chặt chẽ, không dễ gì xâm nhập được đâu. Hiện nay những gì chúng tôi biết được cũng chẳng nhiều nhặn gì: chắc chắn là nó phi lợi nhuận, phần mềm trò chơi rất cao cấp, thậm chí có thể nói là cao cấp đến bất bình thường, còn cả lượng thông tin trong đó nữa, anh cũng biết rồi còn gì, lại càng bất bình thường hơn, chẳng giống trò chơi gì cả!”
    “Ở trong đó, có...” Uông Diểu cẩn trọng chọn lựa từ ngữ, “Có hiện tượng gì có vẻ là siêu nhiên không?”
    “Việc này thì chúng tôi nghĩ là không, có rất nhiều người tham gia lập trình trò chơi này, rải rác ở khắp mọi nơi trên thế giới, phương thức phát triển rất giống với hệ điều hành LINUX một dạo nổi như cồn mấy năm trước, nhưng lần này, chắc chắn họ đã sử dụng một công cụ phát triển nào đó rất tiên tiến. Còn về những thông tin đó, có trời mới biết ở đâu ra, đúng là có chút... siêu nhiên như anh nói đấy, có điều chúng tôi vẫn tin vào câu danh ngôn của đội trưởng Sử, tất cả mọi chuyện này chắc chắn là do con người làm ra. Việc theo dõi dấu vết của chúng tôi vẫn hiệu quả lắm, chẳng bao lâu sẽ có kết quả thôi.”
    Cô gái này dẫu sao vẫn không phải là
    người từng trải, câu cuối cùng của cô khiến Uông Diểu hiểu rằng cô có rất nhiều chuyện che giấu mình. “Câu đấy của anh ta thành danh ngôn rồi hả?” Uông Diểu liếc nhìn Sử Cường đang lái xe đằng trước nói.
    Lúc họ đến biệt thự, trời vẫn chưa sáng, tầng trên căn biệt thự có một phòng còn sáng đèn, các cửa sổ khác đều tối đen như mực.
    Uông Diểu vừa bước xuống xe, lập tức nghe thấy trên lầu có tiếng động, liên tiếp mấy âm thanh giống như có thứ gì đó đang đập vào tường. Sử Cường vừa xuống xe nghe thấy âm thanh này, lập tức trở nên cảnh giác, gã giơ chân đạp tung
    cánh cổng sân khép hờ, xông thẳng vào trong biệt thự, động tác nhanh nhẹn hoàn toàn tương phản với tấm thân bồ tượng, ba đồng nghiệp của Sử Cường cũng lao theo phía sau. Uông Diểu và Ngụy Thành đi theo vào trong, qua phòng khách lên tầng hai, đi vào căn phòng để cửa mở sáng đèn, gót giày “bẹp” một tiếng giẫm ngay phải vũng máu đang chảy ra ngoài. Đêm đó, cũng tầm này, Uông Diểu đã thấy Thân Ngọc Phi đang chơi Tam Thể... Còn giờ đây, cô ta nằm ngửa giữa phòng, hai lỗ đạn trước ngực vẫn đang phun máu, viên đạn thứ ba xuyên qua giữa hai chân mày, khiến cả gương mặt Thân Ngọc Phi bê bết máu me, cách chỗ cô ta nằm không xa, có một khẩu súng lục
    ngâm trong vũng máu.
    Lúc Uông Diểu đi vào, vừa hay thấy Sử Cường và một đồng nghiệp nam của anh ta xông ra, chạy vào căn phòng đối diện để ngỏ cửa nhưng tắt đèn tối om, cửa sổ mở toang, Uông Diểu nghe thấy có tiếng động cơ xe khởi động bên ngoài. Một cảnh sát nam bắt đầu gọi điện, Từ Băng Băng đứng ở phía xa căng thẳng quan sát, có lẽ cô cũng giống hai người bọn Uông Diểu, lần đầu tiên trông thấy cảnh tượng như vậy. Sử Cường nhanh chóng quay lại, vừa nhét khẩu súng vào bao đeo trước ngực, vừa nói với tay đồng nghiệp đang gọi điện thoại:
    “Xe Santana màu đen, chỉ có một
    người, không nhìn rõ được biển số, bảo bọn họ tập trung phong tỏa lối vào tuyến đường vành đai số 5, tiên sư bà nhà nó, không khéo để hắn thoát mất rồi.” Sử Cường đưa mắt nhìn xung quanh, trông thấy mấy lỗ đạn trên tường, lại liếc nhìn đống vỏ đạn nằm rải rác trên sàn nhà, nói: “Đối phương bắn năm phát, trúng ba phát. Cô ta bắn hai phát, đều trượt cả.” Sau đó gã lại ngồi xổm xuống cùng viên cảnh sát còn lại kiểm tra cái xác. Từ Băng Băng vẫn đứng ở ngoài xa, len lén nhìn Ngụy Thành đứng bên cạnh cô, Sử Cường cũng ngẩng đầu lên nhìn anh ta.
    Gương mặt Ngụy Thành thoáng lộ vẻ kinh hãi và bi thương, nhưng cũng chỉ một thoáng mà thôi, vẻ hờ hững cố hữu
    của anh ta không hề mất đi, so với Uông Diểu, anh ta trấn tĩnh hơn nhiều.
    “Hình như anh chẳng để tâm gì cả, người đó có thể đến để giết anh đấy.” Sử Cường nói với Ngụy Thành.
    Ngụy Thành không ngờ lại bật cười, nụ cười thê lương. “Tôi có thể làm gì đây? Đến bây giờ, thực ra tôi cũng không biết tí gì về cô ấy, tôi không chỉ một lần khuyên cô ấy sống đơn giản một chút, nhưng mà... Chậc, nghĩ lại những lời năm đó trưởng lão khuyên tôi...”
    Sử Cường đứng dậy, đi tới trước mặt Ngụy Thành, lấy thuốc ra châm một điếu, “Nhất định anh vẫn còn chuyện chưa nói với chúng tôi, phải không?”
    “Có một số chuyện, tôi lười chẳng buồn nói.”
    “Vậy thì giờ anh phải chăm chỉ lên một chút rồi.”
    Ngụy Thành ngẫm nghĩ giây lát: “Hôm nay, ừm, là chiều hôm qua, cô ấy cãi nhau với một người đàn ông trong phòng khách, chính là cái tay Phan Hàn, nhà bảo vệ môi trường nổi tiếng gì đó. Hồi trước bọn họ cũng cãi nhau mấy lần rồi, toàn nói tiếng Nhật, hình như sợ tôi nghe thấy, nhưng hôm nay thì họ mặc kệ hết, nói bằng tiếng Trung Quốc, tôi nghe được mấy câu.”
    “Anh cố gắng nhắc lại nguyên văn đi.”
    “Được thôi. Phan Hàn nói: ‘Bề ngoài chúng ta là những người cùng chí hướng, nhưng thực tế lại là kẻ thù ở hai chiến tuyến!’ Thân Ngọc Phi nói: ‘Đúng thế, các người mượn sức mạnh của Chúa để chống lại nhân loại.’ Phan Hàn nói: ‘Cô hiểu như thế cũng không phải hoàn toàn không có lý, chúng tôi cần Chúa giáng xuống thế giới này, trừng phạt những tội ác lẽ ra phải bị trừng phạt từ lâu rồi, còn cô lại ngăn cản sự giáng thế đó, vì vậy chúng ta không thể đứng chung, nếu các người không dừng lại, chúng tôi sẽ khiến các người phải dừng!’ Thân Ngọc Phi nói: ‘Thủ lĩnh đã mù rồi mới để lũ ma quỷ như các người gia nhập tổ chức!’ Phan Hàn nói: ‘Nhắc đến thủ lĩnh, thủ
    lĩnh thuộc phái nào đây? Phái trừng phạt hay phái cứu thế, cô nói chắc được không?’ Những lời này của Phan Hàn khiến Thân Ngọc Phi im lặng một lúc lâu, sau đó hai người họ không lớn tiếng cãi vã nữa, tôi cũng không nghe thấy gì thêm.”
    “Kẻ uy hiếp anh trong điện thoại ấy, giọng của hắn nghe giống ai?”
    “Ý anh hỏi có phải Phan Hàn không chứ gì? Không biết, lúc đó tiếng rất nhỏ, tôi không nghe ra được.”
    Mấy chiếc xe cảnh sát hụ còi ầm ĩ đỗ lại bên ngoài, một đám cảnh sát đeo găng trắng cầm máy ảnh đi lên lầu, tòa biệt thự bắt đầu chộn rộn cả lên. Sử Cường bảo
    Uông Diểu về nghỉ ngơi trước, Uông Diểu vào căn phòng có chiếc máy tính cỡ trung kia, tìm thấy Ngụy Thành ở trong đó.
    “Mô hình thuật toán tiến hóa để giải bài toán Ba vật thể kia, anh có thể cho tôi một bản tóm lược đại cương hay gì đó tương tự được không, tôi muốn... giới thiệu nó ở một nơi, yêu cầu này có phần đường đột, nếu không được thì thôi vậy.”
    Ngụy Thành lấy ra một chiếc đĩa CD đưa cho Uông Diểu. “Đều ở trong này hết, tất cả các mô hình và tài liệu kèm theo. Anh muốn tốt với tôi thì dùng tên mình mà công bố nó, thế là giúp tôi một việc lớn rồi.”
    “Không không, sao lại thế được!”
    Ngụy Thành chỉ vào đĩa CD trên tay Uông Diểu: “Thầy giáo Uông, thực ra khi anh đến lần trước tôi đã chú ý đến anh rồi, anh là người tốt, một người tốt có trách nhiệm, vì vậy, tôi vẫn khuyên anh nên tránh xa cái thứ này ra, thế giới sắp xảy ra thay đổi lớn, mỗi người có thể bình yên sống hết cuộc đời còn lại của mình đã là phúc lớn lắm rồi, đừng nghĩ quá nhiều, đằng nào thì cũng chẳng ích gì đâu.”
    “Hình như anh còn biết nhiều điều khác nữa?”
    “Ngày nào cũng ở bên cô ấy, đâu thể không biết chuyện gì được.”
    “Vậy tại sao anh không nói cho cảnh sát biết?”
    Ngụy Thành cười kinh khỉnh: “Phì, cảnh sát thì làm được cái chó gì chứ, Thượng Đế đến cũng vô dụng, giờ cả nhân loại này đã đến nước ‘gọi trời không đáp, gọi đất chẳng thưa’ rồi.”
    Ngụy Thành đứng bên ô cửa sổ phía Đông, bầu không phía sau đám nhà cao tầng của thành phố có ánh sáng le lói hiện ra, không hiểu tại sao, cảnh tượng ấy làm Uông Diểu nhớ đến buổi bình minh kỳ dị trông thấy mỗi lần đăng nhập vào trò chơi Tam Thể.
    “Thực ra, tôi cũng không lãng đãng
    đến thế đâu, mấy hôm nay toàn mất ngủ cả đêm, buổi sáng trở dậy đứng đây nhìn Mặt trời mọc, cứ có cảm giác là Mặt trời đang lặn.” Anh ta quay sang nhìn Uông Diểu, trầm mặc một lúc lâu mới nói, “Thực ra, tất cả những chuyện này đều bởi, Thượng Đế, hoặc Chúa mà cô ấy nói đến, ngay bản thân mình cũng khó mà giữ được.”

    #17
      huytran 30.07.2017 04:57:50 (permalink)
      Chương 18 : Tam Thể: Newton, John von Neumann, Tần Thủy Hoàng, Ba Mặt trời giao hội  
       
      Cảnh tượng lúc bắt đầu trò chơi “Tam Thể” cấp độ 2 không có thay đổi gì lớn, vẫn là buổi bình minh lạnh giá kỳ dị như cũ, vẫn là tòa kim tự tháp khổng lồ, nhưng lần này, kim tự tháp đã khôi phục lại phong cách phương Đông.
      Uông Diểu nghe thấy tiếng kim loại va chạm nhau chan chát, âm thanh ấy chỉ càng tôn lên sự tĩnh mịch của buổi sớm lạnh lẽo. Anh nhìn về phía đó, trông thấy ở bậc thềm kim tự tháp có hai bóng đen đang chuyển động, trong ánh ban mai mờ
      nhạt, có ánh sáng lạnh của kim loại lấp lóa giữa hai bóng đen, đó là hai người đang đấu kiếm. Khi hai mắt đã thích ứng với ánh sáng yếu ớt nơi đây, Uông Diểu cũng nhìn rõ được bộ dạng của hai đấu sĩ, xét về hình dạng của kim tự tháp thì đây có lẽ là quốc gia phương Đông, nhưng đó lại là hai người châu Âu, cung cách ăn mặc có lẽ là châu Âu thời thế kỷ mười sáu mười bảy. Đấu sĩ có vóc người thấp hơn cúi đầu tránh được một nhát kiếm, bộ tóc giả màu trắng bạc rơi xuống đất. Sau mấy hiệp đấu, lại có một người vòng qua góc kim tự tháp chạy ra, toan dừng trận đấu này lại, nhưng đường kiếm vun vút của cả đôi bên khiến người đó không dám xông tới, chỉ nghe ông ta hét
      lớn: “Dừng lại! Các người là đồ dở hơi! Không cảm thấy có trách nhiệm gì hả? Nếu văn minh thế giới không có tương lai, cái danh dự bé tí của các người có là cái khỉ mốc gì đâu!”
      Hai kiếm sĩ không buồn để tâm đến ông ta, vẫn tập trung tinh thần vào cuộc đấu. Người cao hơn đột nhiên kêu lên đau đớn, thanh kiếm rơi xuống đất đánh “keng” một tiếng. Ông ta lập tức ôm cánh tay bỏ chạy. Người còn lại đuổi theo vài bước, nhìn theo bóng kẻ thua trận “phì” một tiếng.
      “Hừ, đồ vô lại!” Ông ta cúi người nhặt bộ tóc giả, lúc ngẩng lên, trông thấy Uông Diểu liền giơ kiếm chỉ về phía kẻ
      bỏ chạy kia nói, “Hắn lại dám nhận mình là kẻ phát minh ra toán vi tích phân chứ!” Nói đoạn, ông ta đội bộ tóc giả lên, một tay ôm ngực khom mình chào theo kiểu Âu với Uông Diểu, “Isaac Newton.”
      “Vậy cái người bỏ chạy kia là Wilhelm Leibniz rồi?” Uông Diểu hỏi.
      “Đúng hắn đấy, cái tên vô lại! Phì! Thực ra tôi chẳng thèm tranh giành công lao này với hắn làm gì, phát minh ra ba định luật cơ học đã khiến tôi trở thành người chỉ đứng sau Thượng Đế rồi, từ chuyển động của các tinh cầu cho đến sự phân bào, tất thảy đều tuân theo ba định luật vĩ đại này. Giờ có thêm công cụ toán
      học mạnh mẽ như vi tích phân nữa, lấy ba định luật làm nền tảng, việc nắm bắt quy luật chuyển động của ba Mặt trời chỉ là việc trong nay mai thôi.”
      “Không đơn giản vậy đâu.” Người khuyên can kia nói, “Anh đã nghĩ đến số lượng phép tính chưa? Tôi đã xem qua một loạt các phương trình vi phân mà anh liệt kê ra, hình như không thể tìm ra được lời giải dưới dạng công thức mà chỉ tìm được nghiệm số, số lượng phép tính lớn vô cùng, dù tất cả các nhà toán học trên thế giới không ngừng làm việc đến ngày thế giới diệt vong cũng không tính hết. Tất nhiên, nếu không nhanh chóng nắm bắt được quy luật chuyển động của Mặt trời, ngày thế giới diệt
      vong cũng không còn xa xôi nữa đâu.” Ông ta nói xong, cũng quay sang khom người với Uông Diểu, tư thế hiện đại hơn một chút. “John von Neumann(*).”
      (*) John von Neumann (1903-1957), nhà bác học người Mỹ gốc Hungary, là nhà tiên phong của máy tính kỹ thuật số hiện đại và áp dụng lý thuyết toán tử vào cơ học lượng tử, một thành viên của Dự án Manhattan, người sáng lập ra lý thuyết trò chơi.
      “Ngài mang chúng tôi từ nghìn dặm xa xôi đến phương Đông, không phải là để giải quyết vấn đề tính toán những phương trình này hay sao?” Newton nói, sau đó quay sang Uông Diểu, “cùng đi còn có
      Norbert Wiener(*) và tên xấu xa kia nữa, lúc gặp hải tặc ở Madagascar, Wiener đã ở lại chặn đánh bọn hải tặc để yểm hộ cho chúng tôi và hy sinh anh dũng.”
      (*) Norbert Wiener (1894-1964), nhà toán học và triết học Mỹ, người đầu tiên nghiên cứu quá trình ngẫu nhiên và nhiễu, lĩnh vực liên quan đến kỹ thuật điện tử, truyền thông điện tử, hệ thống điều khiển, được coi là người khởi đầu cho điều khiển học, khoa học chuẩn hóa các khái niệm về thông tin phản hồi, liên quan đến kỹ thuật, hệ thống điều khiển, khoa học máy tính, sinh học, khoa học thần kinh, triết học và tổ chức xã hội.
      “Cần phải đến phương Đông để chế tạo máy tính sao?” Uông Diểu thắc mắc với John von Neumann.
      John von Neumann và Newton ngơ ngác nhìn nhau, “Máy tính? Một loại máy biết tính toán ư? Có thứ đó à?”
      “Ông không biết về máy tính à? Vậy, ông định dùng thứ gì để thực hiện số lượng phép tính khổng lồ kia?”
      John von Neumann trợn tròn mắt nhìn Uông Diểu, tựa như không hiểu câu hỏi của anh, “Dùng cái gì? Tất nhiên là dùng người rồi! Thế giới này ngoài con người ra, chẳng lẽ còn có thứ gì khác biết tính toán sao?”
      “Nhưng ông đã nói, tất cả các nhà toán học trên thế giới này hợp lại cũng không đủ dùng mà.”
      “Chúng tôi không dùng nhà toán học, mà dùng người bình thường, lao động phổ thông, nhưng cần số lượng cực lớn, ít nhất cũng phải ba mươi triệu người! Đây là chiến thuật biển người toán học.”
      “Người bình thường? Ba mươi triệu?!” Uông Diểu cực kỳ kinh ngạc, “Nếu tôi không nhầm lẫn, đây là thời đại mà 90% số người đều mù chữ, ông muốn tìm được ba mươi triệu người biết vi tích phân sao?”
      “Có một câu chuyện cười về quân đội Tứ Xuyên, anh nghe bao giờ chưa?” John
      von Neumann móc ra một điếu xì gà to, cắn đứt đầu mẩu rồi châm lửa, “Quân lính tập đi đều, vì trình độ văn hóa thấp quá, sĩ quan hô một hai một cũng không hiểu, vậy là viên sĩ quan nghĩ ra một cách, bảo mỗi tên lính chân trái đi giày cỏ, chân phải đi giày vải, lúc đi thành hàng thì hô: dài cỏ dài vải, dài cỏ dài vải... (giọng Tứ Xuyên), chúng tôi chỉ cần binh lính trình độ như thế là đủ rồi, nhưng phải có ba mươi triệu người.”
      Nghe thấy câu chuyện cười thời cận hiện đại này, Uông Diểu biết người trước mặt mình không phải là phần mềm trò chơi mà là người, vả lại gần như có thể khẳng định ông ta là người Trung Quốc.
      “Quân đội lớn như vậy, thật khó mà tưởng tượng nổi.” Uông Diểu lắc đầu.
      “Vì vậy chúng tôi mới đến tìm Tần Thủy Hoàng.” Newton chỉ vào kim tự tháp nói.
      “Giờ nơi này vẫn do ông ta thống trị hả?” Uông Diểu đưa mắt đánh giá xung quanh, trông thấy binh sĩ canh giữ lối vào kim tự tháp quả đúng là mặc áo giáp mềm giản tiện thời Tần, tay cầm kích dài. Từ lâu Uông Diểu đã quen với sự rối loạn của lịch sử trong trò chơi Tam Thể này rồi.
      “Ông ta sắp thống trị cả thế giới này rồi ấy chứ, ông ta có một cánh quân hơn ba mươi triệu người, đang chuẩn bị đi
      chinh phục châu Âu đấy. Được rồi, chúng đi gặp ông ấy thôi.” Von Neumann chỉ tay vào lối vào kim tự tháp, sau đó lại chỉ Newton nói, “Ném kiếm đi!”
      Newton ném bỏ thanh kiếm đánh “keng”, ba người cùng đi vào, khi tới cuối hành lang, sắp tiến vào đại điện, một vệ sĩ kiên quyết bắt họ cởi hết quần áo ra, Newton kháng nghị nói rằng chúng tôi là các học giả nổi tiếng, trên người không có ám khí! Hai bên đang giằng co, trong đại điện vẳng ra một giọng nam thấp trầm: “Có phải là người Tây đã phát hiện ra ba định luật không? Để bọn họ vào.” Đi vào đại điện, ba người trông thấy Tần Doanh Chính đang bước đi giữa đại điện, vạt sau của chiếc áo dài và
      thanh trường kiếm nổi danh đều kéo lê trên mặt đất. Ông ta quay người lại nhìn ba vị học giả, Uông Diểu lập tức phát hiện, đó là đôi mắt của Trụ Vương và Giáo Hoàng.
      “Ta đã biết ý đồ của các ngươi khi tới đây, các ngươi là người Tây, sao không đi tìm Caesar? Đế quốc của y rộng lớn bao la, chắc hẳn cũng tập hợp đủ quân đội ba mươi triệu người chứ.”
      “Nhưng thưa hoàng đế chí tôn, ngài có biết đó là đội quân như thế nào không? Ngài có biết đế quốc ấy bây giờ như thế nào không? Trong thành Rome hùng vĩ, các dòng sông chảy qua thành phố đều đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, ngài có biết là
      do đâu không?”
      “Các nhà máy quân sự?”
      “Không, không, hoàng đế vĩ đại, là do những thứ nôn ọe ra của người Rome sau khi ăn uống phè phỡn! Đám quý tộc ấy đi ăn tiệc đã để sẵn cáng ở dưới gầm bàn, ăn đến nỗi không đi được nữa thì sai người hầu khiêng về. Cả đế quốc đều chìm đắm trong đầm lầy hoang dâm vô độ không thể tự thoát ra nổi, kể cả có tập hợp được đội quân ba mươi triệu người, thì cũng không đủ tố chất và thể lực để tiến hành công trình tính toán vĩ đại như thế này được.”
      “Điều này thì trẫm biết.” Tần Thủy Hoàng nói, “Nhưng Caesar đang thức
      tỉnh, đang chỉnh đốn lại quân bị, trí tuệ của người phương Tây cũng là thứ rất đáng sợ, các ngươi không thông minh như người phương Đông, nhưng đã suy nghĩ đúng đường, tỷ như hắn có thể nhìn ra được có ba Mặt trời, ngươi có thể phát minh ra ba định luật đó, đều là rất tài giỏi, tạm thời người phương Đông chưa làm được. Mà ta hiện nay cũng không có năng lực viễn chinh phương Tây, thuyền của ta không đủ, đi đường bộ thì tuyến đường cung ứng quá dài, không thể nào duy trì nổi.”
      “Vì vậy, hoàng đế vĩ đại, đế quốc của ngài vẫn cần phát triển!” John von Neumann chớp thời cơ nói, “Nếu nắm được quy luật chuyển động của Mặt trời,
      ngài sẽ có thể tranh thủ trọn vẹn mỗi một kỷ nguyên Hằng định, đồng thời tránh được tổn thất mà kỷ nguyên Hỗn loạn gây ra, như thế tốc độ phát triển sẽ nhanh hơn phương Tây nhiều. Xin ngài tin ở chúng tôi, chúng tôi là các học giả, chỉ cần có thể dùng ba định luật và vi tích phân để dự đoán chuẩn xác chuyển động của Mặt trời, chúng tôi không quan tâm ai chinh phục hay thống trị thế giới này.”
      “Tất nhiên trẫm muốn dự đoán được quy luật chuyển động của Mặt trời, nhưng các ngươi xin trẫm tập kết đại quân ba mươi triệu người, ít nhất cũng phải thể hiện cho trẫm xem trước công trình tính toán này tiến hành như thế nào đã chứ.”
      “Bệ hạ, xin hãy cho tôi ba người lính, tôi sẽ biểu diễn cho ngài xem.” Von Neumann trở nên hưng phấn.
      “Ba người? Chỉ cần ba người thôi sao? Trẫm có thể cấp cho ngươi ba nghìn người.” Tần Thủy Hoàng liếc nhìn John von Neumann với ánh mắt ngờ vực.
      “Bệ hạ vĩ đại, vừa nãy ngài vừa nhắc đến khiếm khuyết trong tư duy khoa học của người phương Đông, đó chính là bởi các vị không ý thức được rằng, vạn vật trong vũ trụ phức tạp này thực ra là do những đơn vị đơn giản nhất cấu thành. Tôi chỉ cần ba người, thưa bệ hạ.”
      Tần Thủy Hoàng vẫy tay gọi đến ba người lính, họ đều rất trẻ, giống như
      những binh sĩ người Tần khác, cử động của họ giống hệt những cỗ máy chỉ biết nghe theo mệnh lệnh.
      “Tôi không biết tên họ.” John von Neumann vỗ lên vai hai người lính đứng phía trước, “Hai người phụ trách đầu vào của tín hiệu, gọi là ‘Nhập 1’ và ‘Nhập 2’ nhé.” Nói rồi, ông ta lại chỉ vào người lính đứng sau. “Anh, phụ trách đầu ra của tín hiệu, gọi là ‘Xuất’ đi.” Ông ta chìa tay điều động ba binh sĩ, “Thế này, đứng thành một hình tam giác, xuất là đỉnh, Nhập 1 và Nhập 2 là cạnh đáy.”
      “Hừ, ngươi bảo chúng xếp thành đội hình tấn công hình cái chêm là xong!”
      Tần Thủy Hoàng khinh miệt nhìn Von Neumann.
      Newton không biết lấy đâu ra sáu lá cờ nhỏ, ba cờ đen, ba cờ trắng, John von Neumann đón lấy chia cho ba người lính, mỗi người một cờ đen một cờ trắng: “Màu trắng là 0, màu đen là 1. Được rồi, giờ nghe tôi nói đây, Xuất, anh quay người lại nhìn Nhập 1 và Nhập 2, nếu họ đều giơ cờ đen, anh hãy giơ cờ đen, còn những tình huống khác thì đều giơ cờ trắng, có ba tình huống khác là: Nhập 1 trắng, Nhập 2 đen; Nhập 1 đen, Nhập 2 trắng; Nhập 1, Nhập 2 đều trắng.”
      “Ta thấy ngươi nên đổi màu khác, cờ trắng có nghĩa là đầu hàng.” Tần Thủy
      Hoàng nói.
      Von Neumann đang hưng phấn chẳng buồn để mắt đến hoàng đế, lớn tiếng ra lệnh cho ba binh sĩ: “Giờ bắt đầu vận hành! Nhập 1, Nhập 2, hai người tùy ý giơ cờ, được, giơ lên! Tốt lắm, giơ lên nữa! Giơ lên!”
      Nhập 1 và Nhập 2 đồng loạt giơ cờ ba lần, lần đầu tiên là đen đen, lần thứ hai là trắng đen, lần thứ ba là đen trắng. Xuất đều thực hiện phản ứng chính xác, lần lượt giơ một lần cờ đen và hai lần cờ trắng.
      “Rất tốt, vận hành chính xác, tâu bệ hạ, binh sĩ của ngài rất thông minh!”
      “Chuyện này lũ ngốc cũng làm được, ngươi có thể nói cho trẫm biết, bọn chúng đang làm gì hay không?” Tần Thủy Hoàng lộ vẻ nghi hoặc hỏi.
      “Ba người này tổ hợp thành một linh kiện trong hệ thống tính toán, một loại cổng, gọi là cổng AND.” Von Neumann nói xong, bèn dừng lại một lúc để cho hoàng đế có thời gian hiểu được.
      Tần Thủy Hoàng không bộc lộ cảm xúc gì: “Trẫm cũng đủ việc đau đầu rồi, được, tiếp tục đi.”
      Von Neumann quay sang ba người lính xếp thành đội ngũ hình tam giác: “Các người tổ hợp thành linh kiện tiếp theo đi, Xuất, chỉ cần thấy một trong hai người
      Nhập 1 và Nhập 2 giơ cờ đen, anh liền giơ cờ đen lên, có ba tổ hợp như vậy: đen đen, trắng đen, đen trắng, tình huống còn lại là... trắng trắng, anh liền giơ cờ trắng lên. Hiểu chưa hả? Tốt lắm, anh rất thông minh, linh kiện có thể vận hành chính xác hay không, anh chính là mấu chốt đấy, làm cho tốt vào, hoàng đế sẽ khen thưởng! Tiếp theo bắt đầu vận hành: Giơ! Tốt, giơ lần nữa! Giơ lên! Tốt quá rồi, vận hành bình thường, bệ hạ, linh kiện này gọi là cổng OR.”
      Sau đó, Von Neumann lại dùng ba người lính tổ hợp thành cổng NAND, cổng NOR, cổng XOR, cổng XNOR, và cổng ba trạng thái, cuối cùng chỉ dùng hai binh sĩ tổ hợp cổng NOT đơn giản
      nhất, Xuất bao giờ cũng giơ cờ màu sắc tương phản với Nhập(*)
      (*) Cổng logic là một mạch điện tử thực hiện hàm Boole tương ứng, từ một hoặc nhiều biến đầu vào có giá trị 0 (sai) hoặc 1 (đúng) cho duy nhất một kết quả đầu ra, là một trong hai trạng thái 0 hoặc 1. Các hàm cơ bản là: AND (đúng khi cả A và B đúng), OR (đúng khi có một trong hai A hoặc B đúng), NAND (sai khi A và B đúng), NOR (sai khi A hoặc B đúng), XOR (đúng khi AB khác nhau), XNOR (đúng khi AB giống nhau), NOT (trái dấu với A). Cổng ba trạng thái ngoài 0, 1 còn có trạng thái trở kháng cao, là đầu ra bị ngắt khỏi mạch, không có kết quả.
      Von Neumann khom người nói với hoàng đế: “Bệ hạ, giờ tất cả các linh kiện đều đã biểu diễn hoàn tất, rất đơn giản phải không ạ? Bất cứ ba binh sĩ nào trải qua huấn luyện trong một giờ cũng có thể nắm bắt được.”
      “Bọn chúng không cần phải học gì thêm nữa hả?” Tần Thủy Hoàng hỏi.
      “Không cần, chúng tôi cần mười triệu cổng như thế, rồi tổ hợp những linh kiện này thành một hệ thống, hệ thống này có thể tiến hành công việc tính toán mà chúng tôi cần, giải được những phương trình vi phân dự đoán chuyển động của Mặt trời. Hệ thống này, chúng tôi gọi là... ừm, gọi là...”
      “Máy tính.” Uông Diểu nói.
      “A... đúng!” Von Neumann giơ ngón tay lên với Uông Diểu, “Máy tính, tên này rất hay, cả hệ thống trên thực tế chính là một cỗ máy khổng lồ, là cỗ máy phức tạp nhất từ xưa đến nay!”
      Thời gian trong trò chơi được tăng nhanh, ba tháng đã trôi qua.
      Tần Thủy Hoàng, Newton, Von Neumann và Uông Diểu đứng trên bình đài ở đỉnh kim tự tháp, bình đài này rất giống với lúc Uông Diểu gặp Mặc Tử, bày rất nhiều dụng cụ quan sát thiên văn, trong đó có một phần là thiết bị cận hiện đại của Châu Âu.
      Bên dưới họ, ba mươi triệu binh sĩ nước Tần xếp thành thế trận hình vuông hùng vĩ trải dài trên mặt đất, đó là một hình vuông mỗi cạnh dài 6 km. Dưới Mặt trời mới mọc, đội ngũ không hề nhúc nhích, tựa như đã bị đông cứng lại, trông như một tấm thảm khổng lồ tạo nên bởi ba mươi triệu bức tượng đất nung, nhưng những đàn chim bay lạc vào phía trên tấm thảm khổng lồ này, lập tức cảm nhận được sát khí nặng nề bên dưới, lũ chim tức khắc tán loạn, kinh hoảng bay túa ra hoặc lượn vòng vòng. Uông Diểu thầm tính toán, nếu toàn nhân loại đứng thành một hình vuông thế này, diện tích chẳng qua cũng chỉ bằng khu Phố Đông ở Thượng Hải, thế trận hình vuông này tuy
      là thể hiện sức mạnh rất lớn, nhưng thực ra còn bộc lộ rõ hơn sự mong manh của nền văn minh.
      “Bệ hạ, quân đội của ngài quả là vô song, trong thời gian ngắn như vậy mà đã hoàn thành được huấn luyện phức tạp nhường ấy.” Von Neumann tán thưởng với Tần Thủy Hoàng.
      “Tuy rằng tổng thể thì phức tạp, nhưng việc của mỗi binh sĩ lại rất đơn giản, so với đội ngũ huấn luyện để đánh tan quân Macedonia hồi trước thì chẳng đáng là gì cả.” Tần Thủy Hoàng chống tay lên đốc kiếm nói.
      “Thượng Đế cũng phù hộ, liên tiếp hai kỷ nguyên Hằng định dài như vậy.”
      Newton nói.
      “Kể cả là kỷ nguyên Hỗn loạn, quân đội của trẫm cũng sẽ huấn luyện như vậy, sau này, bọn họ sẽ hoàn thành công trình tính toán của các ngươi trong kỷ nguyên Hỗn loạn.” Tần Thủy Hoàng ngạo nghễ nhìn lướt qua khắp thế trận.
      “Vậy, xin bệ hạ hãy phát ra mệnh lệnh vĩ đại của ngài!” Von Neumann kích động đến nỗi run run giọng nói.
      Tần Thủy Hoàng gật đầu, một vệ sĩ chạy ra, cầm lấy chuôi kiếm của hoàng đế lùi lại sau mấy bước, rút thanh trường kiếm bằng đồng xanh mà bản thân ông ta không thể rút ra được, sau đó bước lên quỳ xuống dâng kiếm cho hoàng đế, Tần
      Thủy Hoàng giơ kiếm chỉ lên trời, cao giọng quát:
      “Xếp hàng thành đội hình máy tính!”
      Bốn đỉnh đồng điếu lớn ở bốn góc tức khắc cháy bùng lên, những binh sĩ đứng kín kim tự tháp như một bức tường người hướng về phía đội ngũ đồng thanh hô vang, truyền mệnh lệnh của hoàng đế xuống:
      “Xếp hàng thành đội hình máy tính...”
      Trên mặt đất, những khối màu sắc đều đặn trong đội ngũ bắt đầu xao động, kết cấu mạch kín phức tạp và tinh tế hiện ra, dần dần tràn ngập cả đội ngũ, mười phút sau, đã xuất hiện một bo mạch chủ máy
      tính rộng 36 km2.
      Von Neumann chỉ vào mạch kín khổng lồ do con người tạo nên phía dưới bắt đầu giới thiệu: “Bệ hạ, chúng tôi đặt tên cho cỗ máy tính này là ‘Tần 1.0’. Mời ngài xem, ở đó, bộ phận trung tâm là CPU, là phần nhân tính toán của máy tính, do năm quân đoàn tinh nhuệ nhất của ngài tạo thành, đối chiếu với bản vẽ này ngài có thể thấy trong đó có mạch cộng, thanh ghi, ngăn xếp; nhóm quân chỉnh tề phía ngoài là bộ nhớ trong, lúc sắp xếp bộ phận này chúng tôi phát hiện ra không đủ người, cũng may động tác của mỗi đơn nguyên trong bộ phận này là đơn giản nhất, nên chúng tôi đã huấn luyện mỗi binh sĩ cầm nhiều loại cờ màu
      sắc khác nhau, sau khi tổ hợp lại, một người có thể cùng lúc hoàn thành được thao tác của hai mươi người ban đầu, khiến cho dung lượng bộ nhớ trong đạt đến yêu cầu tối thiểu để vận hành hệ thống Tần 1.0; ngài hãy nhìn lối đi xuyên suốt toàn bộ đội ngũ kia, và cả những kỵ binh mặc giáp nhẹ chờ lệnh trên lối đi ấy nữa, đó là bus(*), tổng tuyến của hệ thống, phụ trách việc truyền tải dữ liệu trong toàn hệ thống.”
      (*) Trong kiến trúc máy tính, bus là một hệ thống phụ chuyển dữ liệu giữa các thành phần bên trong máy tính,, hoặc giữa các máy tính với nhau.
      “Kết cấu bus là một phát minh vĩ đại,
      những linh kiện mới, lớn nhất lên đến mười quân đoàn, có thể nhanh chóng ngoắc vào bus để vận hành, khiến cho việc mở rộng và nâng cấp phần cứng của hệ thống Tần 1.0 hết sức tiện lợi. Ngài hãy nhìn chỗ xa nhất đằng kia, có lẽ cần dùng ống nhòm mới nhìn rõ được, đó là bộ nhớ ngoài, chúng tôi lại dùng tên mà Copernicus đã đặt, gọi là ‘ổ cứng’ do ba triệu người có trình độ văn hóa tương đối cao tạo thành, lần trước ngài đốt sách chôn học trò đã giữ bọn họ lại là đúng rồi đó, trên tay mỗi người đều có một cuốn sổ ghi chép và một cây bút, phụ trách ghi lại kết quả tính toán, tất nhiên, phần công việc lớn nhất của họ vẫn là làm bộ nhớ ảo, ghi lại các kết quả tính
      toán trung gian, nếu có nghẽn mạng khi tính toán chính là nằm ở chỗ họ. Còn đây, nơi gần chúng ta nhất, là đội ngũ hiển thị, có thể hiển thị các tham số trạng thái chính khi máy tính vận hành.”
      Von Neumann và Newton khiêng đến một cuộn giấy cao hơn người, trải ra trước mặt Tần Thủy Hoàng, khi cuộn giấy mở hết, da đầu Uông Diểu ngứa ran cả lên, nhưng con dao găm trong tưởng tượng của anh không hề xuất hiện, trước mặt chỉ có một tờ giấy lớn viết đầy các ký hiệu nhỏ như đầu ruồi, chi chít nhằng nhịt, nom mà hoa mắt chóng mặt hệt như đội ngũ máy tính bên dưới kia vậy.
      “Bệ hạ, đây chính là hệ điều hành Tần
      1.0 mà chúng tôi phát triển, phần mềm tính toán sẽ vận hành ở trên đó. bệ hạ, mời ngài xem...” Von Neumann chỉ vào hệ thống máy tính bằng người bên dưới, “Đội ngũ này là phần cứng, còn những thứ viết trên cuộn giấy này là phần mềm, phần cứng và phần mềm, giống như đàn và nhạc phổ vậy.” Nói đoạn, ông ta và Newton lại mở ra một cuộn giấy khác có kích cỡ tương đương, “bệ hạ, đây là phần mềm để giải nhóm phương trình vi phân đó, nhập vào vector chuyển động của ba Mặt trời tại một mặt cắt thời gian nào đấy, sự vận hành của nó có thể dự đoán cho chúng ta trạng thái chuyển động của Mặt trời tại bất cứ thời điểm nào sau này. Lần tính toán này của chúng ta, sẽ
      đưa ra dự đoán hoàn chỉnh đối với chuyển động của Mặt trời trong hai năm sau, thời gian gián cách giữa mỗi nhóm giá trị dự đoán là một trăm hai mươi giờ.”
      Tần Thủy Hoàng gật đầu: “Vậy thì bắt đầu đi.”
      Von Neumann hai tay giơ cao quá đầu, cất giọng trang nghiêm hô vang: “Tần Thánh thượng ngự chỉ, máy tính khởi động! Hệ thống tự kiểm tra!”
      Ở giữa kim tự tháp, một hàng người cầm cờ phất cờ hiệu phát ra chỉ lệnh, nhất thời, bo mạch chủ khổng lồ do ba mươi triệu người tạo thành dưới mặt đất dường như hóa lỏng, lấp lóa ánh sáng, đó
      là mấy chục triệu lá cờ nhỏ đang vung lên. Trong nhóm hiển thị ở gần đế kim tự tháp nhất, một đường hiển thị tiến độ do vô số lá cờ màu xanh lục tạo thành đang vươn dài ra, hiển thị tiến độ tự kiểm tra. Mười phút sau, đường hiển thị tiến độ đã đến điểm cuối.
      “Hoàn tất tự kiểm tra! Vận hành chương trình điều khiển! Tải hệ điều hành!!”
      Bên dưới, các kỵ binh trên bus hệ thống xuyên suốt máy tính tạo thành từ đoàn người nhanh chóng chuyển động, bus lập tức biến thành một dòng chảy xiết, dọc theo đường chảy, dòng sông này lại chia thành vô số nhánh nhỏ, thấm vào
      các module khác nhau. Thoáng chốc, gợn sóng lăn tăn của cờ đen và cờ trắng đã biến thành sóng cồn cuồn cuộn, lan tỏa đi khắp bo mạch chủ. Khu vực CPU ở chính giữa là xáo động nhất, giống như một lớp thuốc nổ đang cháy ngùn ngụt. Đột nhiên, dường như hỏa dược đã cháy hết, những xáo động ở khu vực CPU dần dần lắng xuống, cuối cùng thì hoàn toàn dừng lại. Lấy nó làm trung tâm, sự tĩnh lặng nhanh chóng lan tỏa ra các hướng, như thể mặt biển bị đông cứng với tốc độ rất nhanh, cuối cùng hầu như toàn bộ bo mạch chủ đã dừng lại, chỉ có một vài linh kiện là chớp tắt yếu ớt theo tiết tấu bất biến và lặp đi lặp lại, khu vực hiển thị xuất hiện ánh đỏ chớp động.
      “Hệ thống bị treo!” Một viên quan phụ trách truyền tín hiệu lớn giọng hét. Nguyên nhân của sự cố nhanh chóng được tra xét, là do một cổng trong thanh ghi trạng thái của CPU xảy ra sai sót trong khi vận hành.
      “Hệ thống khởi động lại!” Von Neumann tự tin hạ lệnh.
      “Khoan đã!” Newton xua tay ngăn viên quan phát tín hiệu lại, quay người nói với Tần Thủy Hoàng bằng giọng âm hiểm: “Bệ hạ, để hệ thống có thể vận hành ổn định, cần phải có một số biện pháp duy tu đối với những bộ phận có tỷ lệ xảy ra sự cố tương đối cao.”
      Tần Thủy Hoàng chống kiếm nói:
      “Thay mới bộ phận xảy ra sự cố, tất cả binh sĩ tổ hợp thành bộ phận ấy, chém đầu! Sau này có sự cố thì cứ xử lý như vậy!”
      Von Neumann liếc sang Newton với ánh mắt chán ghét, nhìn một nhóm kỵ binh tuốt kiếm xông vào bo mạch chủ, sau khi “duy tu” bộ phận xảy ra sự cố, anh ta lại phát ra lệnh khởi động lại lần nữa. Lần này khởi động hết sức thuận lợi, hai mươi phút sau, “máy tính người” của thế giới Tam Thể do Von Neumann thiết kế đã tiến vào trạng thái vận hành dùng hệ điều hành Tần 1.0.
      “Khởi động phần mềm tính toán quỹ đạo của Mặt trời ‘Three-body 1.0’!”
      Newton khản giọng hét lên phát lệnh, “Khởi động bộ điều khiển! Tải module sai phân hữu hạn! Tải module phần tử hữu hạn! Tải module phân tích phổ... nhập vào tham số điều kiện khởi thủy! Bắt đầu tính toán!!”
      Bo mạch chủ lấp lánh gợn sóng, các loại cờ hiệu ở khu vực hiển thị dập dềnh lên xuống, máy tính bằng người bắt đầu công trình tính toán dài đằng đẵng.
      “Thật sự rất thú vị.” Tần Thủy Hoàng chỉ tay vào đội ngũ máy tính hùng tráng bên dưới, “Hành vi của mỗi người đều đơn giản như vậy, không ngờ lại sinh ra được thứ to lớn và phức tạp nhường ấy! Người châu Âu thường mắng chửi trẫm
      độc đoán, cai trị tàn bạo, giết chết sức sáng tạo của xã hội, thực ra nhiều người bị ước thúc trong kỷ luật nghiêm khắc khi hợp lại hành một chỉnh thể cũng có thể sinh ra được trí tuệ vĩ đại.”
      “Hoàng đế vĩ đại, đây chỉ là sự vận hành máy móc, không phải trí tuệ, những kẻ tầm thường ti tiện này đều là những con số không tròn trĩnh, chỉ khi phía trước chúng có thêm một số 1 là ngài đây, chỉnh thể của chúng mới có ý nghĩa.” Newton mỉm cười bợ đỡ.
      “Triết lý buồn nôn.” Von Neumann lườm Newton một cái, “Nếu đến lúc đó, kết quả tính toán dựa theo lý thuyết và mô hình toán học của anh mà không phù
      hợp với thực tế, tôi và anh thậm chí còn không bằng số không đâu.”
      “Đúng thế, lúc đó các ngươi sẽ chẳng là gì cả!” Tần Thủy Hoàng nói, rồi phất tay áo bỏ đi.
      Thời gian trôi nhanh, máy tính người đã hoạt động một năm bốn tháng, trừ đi thời gian điều chỉnh chương trình, thời gian tính toán thực tế là một năm hai tháng, trong khoảng thời gian này chỉ bị gián đoạn hai lần do khí hậu quá khắc nghiệt của kỷ nguyên Hỗn loạn, nhưng máy tính đã lưu lại được số liệu hiện trường của những lần gián đoạn đó, đều khôi phục vận hành thành công từ điểm gián đoạn. Khi Tần Thủy Hoàng và các
      học giả châu Âu lên đỉnh kim tự tháp lần nữa, giai đoạn đầu của công trình tính toán đã hoàn thành, những số liệu kết quả này đã miêu tả một cách chính xác quỹ đạo chuyển động của Mặt trời trong hai năm sau đó.
      Đó là một buổi sáng lạnh lẽo, vô số ngọn đuốc chiếu sáng thâu đêm cho cả bo mạch chủ khổng lồ đã tắt lụi, sau khi hoàn thành tính toán, hệ thống Tần 1.0 ở trong trạng thái nghỉ, những lớp sóng cuồn cuộn trên bề mặt bo mạch chủ biến thành gợn sóng lăn tăn bình thản.
      Von Neumann và Newton giơ cuộn giấy dài ghi chép lại kết quả vận hành dâng lên cho Tần Thủy Hoàng, Newton
      nói: “Hoàng đế vĩ đại, lẽ ra việc tính toán đã hoàn thành từ ba ngày trước, sở dĩ hôm nay mới dâng kết quả lên cho ngài, là vì theo kết quả tính toán, đêm dài dằng dẵng này sắp kết thúc, chúng ta sẽ đón buổi bình minh đầu tiên của một kỷ nguyên Hằng định kéo dài, kỷ nguyên Hằng định này sẽ duy trì trong một năm, xét trên tham số quỹ đạo của Mặt trời, khí hậu sẽ rất dễ chịu, xin hãy để vương quốc của ngài hồi sinh từ trạng thái thoát nước đi.”
      “Từ khi khởi sự tính toán, quốc gia của trẫm chưa từng thoát nước lần nào!” Tần Thủy Hoàng chụp lấy cuộn giấy, bực bội nói, “Trẫm đã dốc hết nguồn lực của nước Tần để duy trì cho máy tính vận
      hành, tiêu hao hết mọi dự trữ rồi, đến lúc này, số người chết vì đói, vì mệt, vì lạnh giá, vì nóng bức đã nhiều không đếm xuể.” Tần Thủy Hoàng cầm cuộn giấy chỉ về phía xa, dưới ánh ban mai, có thể thấy ở các rìa mép bo mạch chủ, có mấy chục dải màu trắng tỏa ra các hướng khác nhau rồi biến mất ở chân trời xa tít tắp, đó là những tuyến đường vận chuyển đồ nhu yếu phẩm cung cấp cho bo mạch chủ khổng lồ từ khắp cả nước.
      “Bệ hạ, ngài sẽ nhận ra điều này là xứng đáng, sau khi nắm được quy luật chuyển động của Mặt trời, nước Tần sẽ phát triển nhanh như bay, nhanh chóng lớn mạnh hơn lúc bắt đầu tính toán gấp bội phần.” Von Neumann nói.
      “Theo như tính toán, Mặt trời sắp mọc lên rồi, bệ hạ, xin hãy hưởng thụ vinh quang của ngài đi!”
      Dường như để đáp lại câu nói của Newton, một vầng Mặt trời đỏ ối dâng lên nơi đường chân trời, trùm lên kim tự tháp và toàn bộ máy tính tạo nên bởi đội quân người một quầng sáng vàng. Trên bo mạch chủ, bùng lên một tràng hoan hô vang dội lan đi như nước thủy triều.
      Lúc này, một người hấp tấp chạy tới, có lẽ do chạy gấp gáp quá, lúc quỳ xuống, ông ta thở hổn hển, rạp người trên mặt đất, đó là đại thần thiên văn của nước Tần.
      “Thánh thượng, không xong rồi, máy tính có sai sót! Họa lớn giáng xuống rồi!!” Ông ta gào khóc.
      “Ngươi nói bậy bạ gì vậy?!” Không đợi Tần Thủy Hoàng trả lời, Newton đã đạp cho đại thần thiên văn một cú, “Không thấy thời gian Mặt trời mọc chính xác theo như kết quả tính toán đó sao?”
      “Nhưng...” Viên đại thần vươn thẳng người ngồi dậy, chỉ tay vào Mặt trời: “Ở đó có mấy Mặt trời?”
      Tất cả mọi người nhìn vầng Mặt trời đang dâng lên, đều không hiểu gì cả. “Đại thần, ngươi là tiến sĩ du học ở Cambridge, được tiếp nhận nền giáo dục
      phương Tây chính thống, không ngu đến nỗi không biết đếm đấy chứ, tất nhiên là chỉ có một Mặt trời, vả lại nhiệt độ cũng rất dễ chịu.” Von Neumann nói.
      “Không, là ba Mặt trời đấy!!” Đại thần khóc lóc, “Hai Mặt trời còn lại ở phía sau Mặt trời kia kìa!” Mọi người lại ngẩng lên nhìn về phía vầng dương, ai nấy đều cảm hấy hoang mang trước những gì viên đại thần vừa nói.
      “Quan sát của đài thiên văn đế quốc thể hiện, lúc này đã xuất hiện hiện tượng ba Mặt trời giao hội cực kỳ hiếm thấy từ thuở thái cổ đến giờ, ba Mặt trời tạo thành một đường thẳng, chuyển động xung quanh hành tinh của chúng ta theo
      cùng một tốc độ và góc độ! Như vậy, hành tinh của chúng ta và ba Mặt trời, cả bốn lúc nào cũng nằm trên một đường thẳng! Thế giới của chúng ta lúc nào cũng ở đỉnh của đường thẳng này!”
      “Ngươi khẳng định quan sát này không có sai sót gì chứ?” Newton chụp lấy cổ áo vị đại thần chất vấn.
      “Tất nhiên là không sai sót! Việc quan trắc là do các nhà thiên văn Tây dương của đài thiên văn đế quốc thực hiện, trong đó có cả Johannes Kepler(*) và William Herschel(**), bọn họ sử dụng kính thiên văn lớn nhất thế giới nhập khẩu từ châu Âu về đấy!”
      (*) Johannes Kepler (1571-1630),
      nhà toán học, thiên văn học và chiêm tinh học người Đức, nổi tiếng với các định luật về chuyển động thiên thể mang tên ông.
      (**) Sir Frederick William Herschel (1738-1822), nhà thiên văn học người Anh gốc Đức, nổi tiếng nhờ phát hiện ra sao Thiên Vương với hai mặt trăng Titania và Oberon. Ông cũng phát hiện ra hai mặt trăng của sao Thổ và bức xạ hồng ngoại.
      Newton buông viên đại thần thiên văn ra, đứng thẳng người dậy, Uông Diểu phát hiện sắc mặt ông ta tái nhợt, nhưng vẻ mặt lại hoan hỉ như phát điên, ông ta ôm hai tay trước ngực, nói với Tần Thủy
      Hoàng: “Hoàng đế vĩ đại nhất, đáng tôn kính nhất, đây là điềm lành trong các điềm lành đó! Hiện giờ, ba Mặt trời đều đang chuyển động xung quanh hành tinh của chúng ta, đế quốc của ngài đã trở thành trung tâm của vũ trụ! Đây là phần thưởng của Thượng Đế dành cho nỗ lực của chúng ta! Để tôi tra cứu lại tỉ mỉ kết quả tính toán, rồi sẽ chứng thực điểm này cho các vị!” Nói xong, nhân lúc tất cả đều đang hoang mang, ông ta đã lỉnh mất; thoáng sau, có người báo cáo rằng Newton đã trộm một con ngựa và đi đâu không biết.”
      Sau một khoảng lặng căng thẳng, Uông Diểu đột nhiên nói: “Bệ hạ, hãy rút kiếm của ngài ra.”
      “Làm gì?” Tần Thủy Hoàng thắc mắc, nhưng vẫn vẫy tay ra hiệu cho binh sĩ phụ trách rút kiếm bên cạnh ông ta, gã này lập tức rút kiếm dâng lên cho hoàng đế.
      Uông Diểu nói: “Ngài vung thử xem.”
      Tần Thủy Hoàng nhận lấy thanh kiếm, vung lên mấy cái, lộ vẻ ngạc nhiên: “Ủa, sao lại nhẹ thế?”
      “Bộ thiết bị V của trò chơi không thể mô phỏng cảm giác mất trọng lực, bằng không chúng ta cũng sẽ thấy mình nhẹ đi nhiều.”
      “Nhìn bên dưới kìa! Nhìn lũ ngựa, cả người nữa!” Có người kinh hãi thốt lên,
      mọi người cùng nhìn xuống, thấy một đội kỵ binh đang phi ngựa dưới chân kim tự tháp, tất cả chiến mã dường như đang bay là là trên mặt đất, lướt đi một quãng xa, bốn vó chúng mới chạm đất một lần. Họ lại trông thấy vài người khác đang chạy bộ, mỗi bước chân của họ đều vọt xa được mười mấy mét, nhưng lúc rơi xuống lại rất chậm chạp. Trên kim tự tháp, một vệ binh thử nhảy lên, dậm nhẹ một cái đã dễ dàng đạt độ cao hơn ba mét.
      “Thế là thế nào?” Tần Thủy Hoàng kinh hãi nhìn tên lính vừa nhảy lên không trung đang chầm chậm rơi xuống.
      “Thánh thượng, ba Mặt trời tạo thành
      một đường thẳng hướng về hành tinh của chúng ta, lực hấp dẫn của chúng ta với hành tinh này sẽ chồng lên nhau theo cùng một hướng...” Đại thần thiên văn giải thích, đồng thời phát hiện ra hai chân mình đã rời khỏi mặt đất lơ lửng giữa không trung, những người khác cũng lần lượt nghiêng ngả theo các góc khác nhau, hai chân đều rời khỏi mặt đất trôi lơ lửng, trông như thể một đám người không biết bơi rơi xuống nước, vụng về quẫy đạp chân tay hòng giữ thăng bằng, nhưng cứ chốc chốc lại va đập vào nhau. Lúc này, mặt đất mà họ vừa rời khỏi nứt toác ra như mạng nhện, vết nứt nhanh chóng mở rộng, trong màn bụi dày đặc và tiếng nổ ầm ầm như trời long đất lở, kim
      tự tháp bên dưới vỡ ra thành vô số khối đá lớn đã xây nên nó. Qua khe hở giữa những khối đá khổng lồ đang chầm chậm bay lên, Uông Diểu trông thấy gian đại điện trong quá trình biến hình, chiếc đỉnh lớn từng luộc chín Phục Hy và giá hỏa thiêu anh từng bị trói lên đều đang trôi nổi dập dềnh trong đó.
      Mặt trời đã lên giữa bầu không, mọi thứ đang trôi nổi dập dềnh trong không khí: người, những khối đá lớn, thiết bị thiên văn, đỉnh đồng xanh, bắt đầu chầm chậm bay lên, rồi nhanh chóng tăng tốc. Uông Diểu vô ý liếc mắt nhìn máy tính người trên bình nguyên, bắt gặp một cảnh tượng như ác mộng: ba mươi triệu người xếp thành bo mạch chủ đang nhanh chóng
      bốc khỏi mặt đất bay lên cao, trông như thể một đàn kiến lớn bị máy hút bụi hút lên. Trên mặt đất vẫn còn lưu lại rõ mồn một dấu vết của các mạch điện trên bo mạch chủ khổng lồ. Đồ án phức tạp tinh tế chỉ nhìn được toàn thể từ trên không trung ấy, sẽ trở thành một di tích khiến nền văn minh Tam Thể tiếp theo trong tương lai xa xôi phải băn khoăn. Uông Diểu ngẩng đầu lên, bầu không bị che phủ bởi một tầng mây lốm đốm quái dị, đám mây ấy tạo thành bởi bụi, các khối đá, cơ thể người và vô số các tạp vật khác, Mặt trời sáng rực rỡ phía sau tầng mây. Đằng xa, Uông Diểu trông thấy những dãy núi trải dài trong suốt đang chầm chậm bay lên, sáng óng ánh, biến
      ảo hình dạng trong ánh sáng lấp lóa, đó là nước biển bị hút lên không trung!
      Mọi thứ trên bề mặt thế giới Tam Thể đều bị hút về phía Mặt trời.
      Uông Diểu đưa mắt nhìn xung quanh, trông hấy Von Neumann và Tần Thủy Hoàng, Von Neumann đang trôi nổi, hét lên gì đó với Tần Thủy Hoàng, nhưng không có âm thanh nào phát ra, chỉ xuất hiện một tràng phụ đề nhỏ xíu: “... Tôi nghĩ ra rồi, dùng linh kiện điện tử! Dùng linh kiện điện tử để làm các mạch cổng, ghép thành máy tính! Như vậy tốc độ tính toán sẽ nhanh gấp nhiều lần! Thể tích cũng nhỏ đi nhiều, chỉ cần một tòa nhà nhỏ là chứa được rồi... Bệ hạ, ngài có
      nghe tôi nói không?”
      Tần Thủy Hoàng vung kiếm chém về phía Von Neumann, Von Neumann đạp vào một khối đá lớn đang dập dềnh bên cạnh để né tránh, thanh trường kiếm chém vào khối đá, bắn ra một đám hoa lửa rồi gãy lìa làm đôi. Liền sau đó, khối đá ấy đụng vào một khối khác, kẹp Tần Thủy Hoàng vào giữa, đá vụn và máu thịt bắn tung tóe, cảnh tượng thảm không nỡ nhìn, nhưng Uông Diểu không nghe thấy tiếng động khi va đập, xung quanh đã biến thành một khoảng lặng chết chóc, vì không khí loãng đi, âm thanh cũng không còn tồn tại được nữa. Máu của những người trôi nổi trên không trung sôi lên sùng sục, nội tạng mà họ nôn ra biến
      thành những thứ hình thù quái dị bao bọc bởi những đám mây tinh thể băng hình thành từ chất dịch nhầy trong cơ thể. Khí quyển đã biến mất, bầu trời biến thành đen sẫm, tất cả mọi thứ bị hút lên từ thế giới Tam Thể đều phản xạ ánh sáng từ Mặt trời, tạo thành một màng tinh vân rực rỡ trên không gian vũ trụ, tinh vân này hình thành nên một vòng xoáy khổng lồ, chảy về nơi quy tụ cuối cùng của nó – Mặt trời.
      Lúc này, Uông Diểu phát hiện hình dạng của Mặt trời đang biến đổi, anh lập tức hiểu ra, thực tế mình đã trông thấy hai Mặt trời còn lại, chúng đều ló ra một phần nhỏ phía sau Mặt trời thứ nhất, nhìn từ hướng này, ba Mặt trời chồng lên nhau
      tạo nên một con mắt sáng bừng giữa vũ trụ. Trên nền ba Mặt trời xếp thành hàng, mấy hàng chữ xuất hiện:
      Nền văn minh số 184 bị hủy diệt trong lực hấp dẫn trùng điệp của ba Mặt trời giao hội.
      Nền văn minh này tiến hóa đến thời đại cách mạng khoa học và cách mạng công nghiệp.
      Trong nền văn minh này, Newton đã xây dựng hệ thống cơ học cổ điển ở trạng thái vận tốc thấp, đồng thời, nhờ vi tích phân và phát minh ra máy tính của John von Neumann, đã đặt cơ sở cho việc tiến hành phân tích toán học định lượng đối với chuyển động của ba vật thể.
      Sau một thời gian dài, sự sống và nền văn minh sẽ được khởi động lại, một lần nữa tiến hóa trong vận mệnh khó lường của thế giới Tam Thể.
      Hoan nghênh bạn đăng nhập lần sau.
      Uông Diểu vừa thoát khỏi trò chơi, liền nhận được một cuộc điện thoại lạ, một giọng nam rất cuốn hút cất lên: “Chào anh, trước tiên xin được cảm ơn anh đã để lại số điện thoại thật, tôi là người quản lý hệ thống của trò chơi Tam Thể.”
      Uông Diểu cảm thấy hồi hộp và căng thẳng.
      “Xin cho biết tuổi, trình độ, nơi công tác và chức vụ của anh, những thông tin này anh chưa điền vào lúc đăng ký.” Người quản lý nói.
      “Những thứ này có liên quan đến trò chơi hay sao?”
      “Anh đã chơi đến cấp độ này rồi thì cần phải cung cấp những thông tin nói trên, nếu anh từ chối, trò chơi Tam Thể sẽ đóng cửa với anh vĩnh viễn.”
      Uông Diểu thành thật trả lời câu hỏi của người quản lý.
      “Tốt lắm, thầy giáo Uông, anh đủ điều kiện để tiếp tục chơi Tam Thể.”
      “Cảm ơn, tôi có thể hỏi mấy câu được
      không?” Uông Diểu nóng lòng hỏi.
      “Không được, có điều, tối mai có một buổi gặp gỡ người chơi Tam Thể, rất hoan nghênh anh đến tham gia.” Người quản lý đọc cho Uông Diểu một địa chỉ.

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 05:04:42 bởi huytran >
      #18
        huytran 30.07.2017 05:13:15 (permalink)
        Chương 19 : Buổi gặp mặt  
         
        Địa điểm gặp mặt của nhóm người chơi Tam Thể là một quán cà phê khuất nẻo. Trong ấn tượng của Uông Diểu, các buổi gặp mặt của người chơi game online thời đại này đều là những dịp đông người, ồn ào và náo nhiệt, nhưng lần này thì tính cả anh chỉ có bảy người, mà sáu người kia cũng như anh, nhìn ngang nhìn dọc thế nào cũng không giống mấy con nghiện game online. Chỉ có hai người là tương đối trẻ, năm người còn lại, tính cả một phụ nữ đều là người trung niên, còn có cả một ông già, trông cũng phải sáu mươi bảy mươi tuổi rồi.
        Uông Diểu vốn tưởng mọi người vừa gặp nhau là sẽ thảo luận sôi nổi về Tam Thể, nhưng giờ anh nhận ra mình đã nhầm. Nội hàm sâu xa mà kỳ dị của trò chơi này đã gây nên ảnh hưởng tâm lý rất sâu đối với những người chơi, khiến mỗi người trong số họ, bao gồm cả chính Uông Diểu, đều rất khó lòng nhắc đến nó một cách tùy tiện. Mọi người chỉ giới thiệu bản thân với nhau một cách qua loa. Ông già móc ra một chiếc tẩu tinh xảo, nhồi sợi thuốc vào bắt đầu hút, bước lại gần bức tường thưởng thức tranh sơn dầu treo trên đó. Những ngời khác thì ngồi đợi người tổ chức buổi gặp mặt này tới, bọn họ đều đến trước giờ hẹn.
        Thực ra, trong sáu người này, Uông Diểu đã biết hai người. Ông già tóc bạc da dẻ hồng hào kia là một học giả lừng danh, nổi tiếng nhờ công trình tìm ra nội hàm của khoa học hiện đại trong triết học phương Đông. Người phụ nữ ăn mặc kỳ dị kia, là một nhà văn có tên tuổi, một tiểu thuyết gia thuộc dạng hiếm gặp, phong cách tiền vệ nhưng lại có đông đảo độc giả, sách của bà ta có thể bắt đầu đọc từ trang nào cũng được. Bốn người còn lại, có hai người trung niên, một là phó tổng giám đốc công ty phần mềm lớn nhất trong nước (ăn mặc xuề xoà, lôi thôi, hoàn toàn không thể nhận ra được), một người là lãnh đạo cấp cao của công ty điện lực quốc gia; hai người
        trẻ tuổi, một là phóng viên của cơ quan truyền thông lớn trong nước, người còn lại là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành khoa học tự nhiên. Lúc này, Uông Diểu đã ý thức được, rất có khả năng một bộ phận tương đối đông đảo người chơi của Tam Thể là tinh hoa trong xã hội giống như bọn họ đây.
        Người tổ chức buổi gặp mặt nhanh chóng xuất hiện, Uông Diểu trông thấy y, nhịp tim lập tức đập nhanh hẳn lên, người này không ngờ lại là Phan Hàn, nghi can hàng đầu của vụ sát hại Thân Ngọc Phi. Anh len lén lấy điện thoại di động ra, giấu dưới bàn nhắn tin cho Sử Cường.
        “Ha ha, mọi người đến sớm thật!” Phan Hàn thoải mái chào hỏi, tựa như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Anh ta không ăn mặc kiểu bẩn thỉu giống người vô gia cư như trước nay vẫn xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng mà đổi sang mặc đồ Tây đi giày da, trông phong độ ngời ngời. “Các vị cũng không khác gì nhiều so với tưởng tượng của tôi, đều là nhân vật tinh hoa cả, Tam Thể chính là trò chơi dành cho những người như các vị, người bình thường khó lòng lý giải được nội hàm và ý nghĩa của nó, cũng không thể nào có được tri thức sâu rộng đủ để tham gia trò chơi này.”
        Tin nhắn của Uông Diểu đã được gửi đi: Gặp Phan Hàn, ở quán cà phê Vân
        Hà, khu Tây Thành.
        Phan Hàn nói tiếp: “Các vị ở đây đều là những người chơi xuất sắc trong Tam Thể, thành tích tốt nhất, cũng là những người chơi say mê nhất. Tôi tin chắc, Tam Thể đã trở thành một phần trong cuộc sống của các vị.”
        “Là một phần của sinh mệnh.” Anh chàng nghiên cứu sinh tiến sĩ trẻ tuổi nói.
        “Tôi ngẫu nhiên trông thấy nó trong máy tính của cháu nội,” nhà triết học già vểnh cán tẩu lên, “người trẻ tuổi chơi một lúc là bỏ, bảo là thâm ảo quá. Nhưng tôi lại bị nó thu hút, nội hàm sâu sắc, ý cảnh kỳ dị đáng sợ mà tràn ngập mỹ cảm, những giả định mang tính logic
        chặt chẽ, lượng thông tin đồ sộ ẩn giấu bên dưới cách thể hiện giản đơn ngắn gọn, những chi tiết chính xác… Tất cả đều khiến chúng tôi say mê.” Mấy người chơi, kể cả Uông Diểu, đều gật đầu tán đồng. Lúc này, Uông Diểu nhận được tin nhắn của Sử Cường: chúng tôi cũng trông thấy hắn ta rồi, không sao, cần làm gì thì cứ làm đi. Chú ý, trước mặt bọn họ anh phải thể hiện cực đoan một chút vào, nhưng đừng thái quá nhé, làm vậy lại không giống thật.
        “Đúng thế.” Nhà văn nữ gật đầu tán đồng, “Từ góc độ văn học, Tam Thể là một tác phẩm lỗi lạc, sự trỗi dậy và suy tàn của 203 nền văn minh ấy, thực sự là một pho sử thi diễm lệ.”
        Bà ta nói có 203 nền văn minh, còn Uông Diểu thì mới trải qua 184 lượt, điều này làm anh một lần nữa khẳng định rằng: Đối với mỗi người chơi, Tam Thể là một chương trình độc lập.
        “Tôi đã hơi chán ngán thế giới hiện thực rồi, Tam Thể đã trở thành hiện thực thứ hai của tôi.” Người phóng viên trẻ nói.
        “Vậy sao?” Phan Hàn lấy làm hứng thú chen vào hỏi một câu.
        “Tôi cũng thế, so với Tam Thể, hiện thực thật tầm thường và kém cỏi.” Vị phó tổng giám đốc công ty IT nói.
        “Thật đáng tiếc, đó chỉ là một trò
        chơi.” Vị lãnh đạo công ty điện lực nhà nước nói.
        “Tốt lắm.” Phan Hàn gật đầu, Uông Diểu để ý thấy trong mắt anh ta ánh lên vẻ hưng phấn.
        “Có một vấn đề, tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều rất khát khao được biết.” Uông Diểu nói.
        “Tôi biết đó là gì rồi, nhưng anh cứ hỏi đi.” Phan Hàn nói.
        “Tam Thể chỉ là một trò chơi thôi sao?”
        Những người cùng chơi lần lượt gật đầu, rõ ràng đây cũng là điều mà họ thiết tha muốn hỏi.
        Phan Hàn đứng dậy, trịnh trọng nói: “Thế giới Tam Thể thực sự có tồn tại.”
        “Ở đâu?” Mấy người chơi đồng thanh hỏi.
        Phan Hàn lại ngồi xuống, im lặng một lúc lâu mới cất tiếng: “Có những câu hỏi tôi có thể trả lời, một số tôi không thể, nhưng nếu các vị ở đây có duyên với thế giới Tam Thể, rốt cuộc sẽ có ngày tất cả các câu hỏi đều có được lời giải.”
        “Vậy, có phải trong trò chơi đã thể hiện một phần chân thực nào đó của thế giới Tam Thể hay không?” Anh chàng phóng viên hỏi.
        “Đầu tiên, trong rất nhiều nền văn
        minh, năng lực thoát nước của người Tam Thể là có thực, để đối phó với môi trường tự nhiên biến ảo khó lường, bất cứ lúc nào họ cũng có thể tiết hết nước trong cơ thể mình ra, biến thành vật thể dạng sợi khô để tránh khỏi khí hậu khắc nghiệt hoàn toàn không thích hợp với việc sinh tồn.”
        “Người Tam Thể bộ dạng trông như thế nào?”
        Phan Hàn lắc đầu: “Không biết, thật sự không biết được. Trong mỗi nền văn minh, ngoại hình của người Tam Thể hoàn toàn khác nhau, ngoài ra, trò chơi còn miêu tả một thứ thực sự tồn tại trong thế giới Tam Thể: máy tính bằng người.”
        “Ha, tôi cảm thấy cái đó mới là hư cấu nhất đấy!” Vị phó tổng giám đốc công ty IT nói, “tôi đã sử dụng hơn trăm nhân viên trong công ty để tiến hành một thử nghiệm đơn giản, cho dù cách nghĩ này thật sự có thể thực hiện được, nhưng tốc độ vận hành của máy tính bằng sức người này có lẽ còn chậm hơn một người tính toán bằng tay ấy.”
        Phan Hàn lộ ra một nụ cười thần bí: “Đúng thế, nhưng hãy giả sử ba mươi triệu binh sĩ tổ hợp thành máy tính kia, mỗi người có thể vung cờ đen cờ trắng một trăm nghìn lần trong một giây, tốc độ những kỵ binh chạy trên bus bằng mấy lần vận tốc âm thanh hoặc thậm chí nhanh hơn, kết quả sẽ khác đấy. Vừa nãy, các vị
        đã hỏi về ngoại hình của người Tam Thể, dựa trên một số dấu hiệu mà suy đoán, bề ngoài của những người Tam Thể tổ hợp thành bộ máy tính này có khả năng được phủ một lớp gương phản xạ toàn phần, bề mặt gương này có thể là kết quả tiến hoá để thích nghi với hoàn cảnh ánh sáng Mặt trời chói chang khắc nghiệt. Mặt gương có thể biến đổi các loại hình dạng, bọn họ trao đổi với nhau bằng ánh sáng tụ lại trên mặt gương, vận tốc truyền thông tin của loại ngôn ngữ bằng ánh sáng này cực nhanh, đây chính là cơ sở tồn tại của hệ thống máy tính bằng người. Tất nhiên, đây vẫn chỉ là một bộ máy có hiệu suất cực kỳ thấp, nhưng thực sự là nó có thể hoàn thành những bài toán
        không thể thực hiện được bằng cách tính toán thủ công. Ở thế giới Tam Thể, máy tính đích thực là đã xuất hiện dưới hình thức con người đầu tiên, sau đó mới được thay thế bằng máy móc và linh kiện điện tử.”
        Phan Hàn đứng dậy, bước vòng quanh sau lưng nhóm người chơi: “Giờ tôi chỉ có thể nói với các vị rằng: Là một trò chơi, Tam Thể chỉ mượn cái bối cảnh của nhân loại để mô phỏng sự phát triển của thế giới Tam Thể, hòng giúp người chơi có một môi trường quen thuộc thôi, thế giới Tam Thể thực sự khác thế giới trong trò chơi ấy rất nhiều, nhưng ba Mặt trời trong đó thì thực sự có tồn tại, đây chính là cơ sở cho kết cấu tự nhiên của
        thế giới Tam Thể.”
        “Người phát triển trò chơi này chắc chắn đã bỏ ra rất nhiều công sức, nhưng mục đích của nó hiển nhiên không phải là để kiếm lời.” Vị phó tổng giám đốc công ty IT lên tiếng.
        “Mục đích của trò chơi Tam Thể rất đơn giản, chính là để tụ tập những người cùng lý tưởng như chúng ta lại với nhau.” Phan Hàn nói.
        “Lý tưởng gì chứ?” Uông Diểu hỏi, nhưng rồi ngay lập tức thấy hơi hối hận, phải tự kiểm điểm lại xem câu hỏi của mình phải chăng đã lộ ra ít nhiều thái độ đối địch.
        Câu hỏi này quả nhiên khiến Phan Hàn trầm ngâm mất một lúc, anh ta lần lượt đánh giá, dò xét từng người một bằng ánh mắt đầy ẩn ý, rồi khẽ nói: “Nếu nền văn minh Tam Thể muốn tiến vào thế giới loài người, thái độ của mọi người như thế nào?”
        “Tôi rất vui sướng.” Phóng viên trẻ là người đầu tiên phá vỡ bầu không khí im lặng, “Những sự việc mắt thấy tai nghe mấy năm nay làm tôi quá thất vọng với loài người rồi, xã hội loài người đã đến mức không có khả năng tự mình hoàn thiện nữa, cần phải có một sức mạnh bên ngoài can thiệp vào mới được.”
        “Đồng ý!” Nữ tác giả lớn tiếng nói,
        bà ta có vẻ rất kích động, dường như cuối cùng đã tìm ra được cơ hội để phát tiết thứ gì đó, “Loài người là cái gì chứ? Thật xấu xí và độc ác, trong suốt nửa cuộc đời mình, tôi vẫn luôn dùng văn học làm con dao giải phẫu để bóc trần sự xấu xa này, nhưng giờ thì cũng chán ngấy lên rồi. Tôi rất mong chờ nền văn minh Tam Thể sẽ mang cái đẹp thực sự đến với thế giới này.”
        Phan Hàn không nói năng gì, vẻ hưng phấn lại sáng bừng lên trong cặp mắt anh ta.
        Nhà triết học già vung vẩy cán tẩu đã tắt lửa, vẻ mặt nghiêm nghị nói: “Hãy thử thảo luận sâu một chút về vấn đề này
        nhé: các vị có ấn tượng thế nào về nền văn minh Aztec?”
        “Lạc hậu và đẫm máu, trong rừng sâu, ánh lửa bập bùng chiếu sáng kim tự tháp chảy đầy máu tươi. Đây chính là ấn tượng của tôi đối với nó.” Nữ tác giả khẳng định.
        Nhà triết học già gật đầu: “Rất tốt, vậy thử tưởng tượng mà xem, giả sử sau này không có cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha, nền văn minh này sẽ có ảnh hưởng như thế nào đối với lịch sử nhân loại?”
        “Ông nói thế là điên đảo trắng đen rồi.” Phó tổng công ty IT chỉ tay vào nhà triết học, “Khi ấy, những người Tây Ban
        Nha xâm lược châu Mỹ chẳng qua chỉ là bọn cướp và hung thủ giết người mà thôi!”
        “Kể cả thế, ít nhất họ cũng đã ngăn chặn được sự việc tiếp theo xảy ra: sự phát triển không hạn chế của văn minh Aztec sẽ biến châu Mỹ thành một đế quốc khổng lồ tăm tối và đẫm máu. Khi ấy, thời đại văn minh và dân chủ của châu Mỹ và toàn nhân loại sẽ xuất hiện muộn hơn, thậm chí là hoàn toàn không có cơ hội xuất hiện. Đây chính là mấu chốt của vấn đề - cho dù văn minh Tam Thể như thế nào chăng nữa, rốt lại sự xuất hiện của nó cũng là một tin mừng đối với nền văn minh nhân loại đã bị bệnh ăn sâu vào xương tuỷ này.”
        “Vậy ông đã nghĩ thử hay chưa, nền văn minh Aztec cuối cùng đã bị những kẻ xâm lược Tây Ban Nha huỷ diệt.” Lãnh đạo công ty điện lực nhà nước nói, đồng thời đảo mắt một vòng xung quanh, tựa như mới nhìn thấy những người này lần đầu tiên, “Suy nghĩ đó rất nguy hiểm.”
        “Rất sâu sắc chứ!” Anh chàng nghiên cứu sinh tiến sĩ giơ một ngón tay lên, đồng thời gật đầu lia lịa với nhà triết học. “Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng không biết phải diễn đạt thế nào, ông nói hay quá.”
        Sau một hồi im lặng, Phan Hàn quay sang nhìn Uông Diểu: “Sáu người họ đã bày tỏ thái độ của mình, còn anh thì
        sao?”
        “Tôi đứng về phía họ.” Uông Diểu chỉ anh chàng phóng viên và nhà triết học. Nói nhiều ắt sẽ lỡ lời, anh chỉ đáp một câu đơn giản như thế.
        “Rất tốt.” Phan Hàn nói, quay sang phía vị phó tổng giám đốc công ty IT và lãnh đạo công ty điện lực nhà nước, “Hai vị đã không phù hợp với buổi họp này nữa, cũng không thích hợp để tiếp tục trò chơi Tam Thể. ID của hai vị sẽ bị xoá bỏ, tiếp theo đây xin mời các vị ra về. Cảm ơn đã tham dự, xin mời!”
        Hai người đứng lên nhìn nhau giây lát, rồi lại ngơ ngác nhìn xung quanh, cuối cùng quay người đi ra phía cửa.
        Phan Hàn giơ tay ra với năm người còn lại, lần lượt bắt tay thật chặt từng người một. Cuối cùng, anh ta trang trọng nói:
        “Chúng ta đã là đồng chí rồi.”

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 05:15:32 bởi huytran >
        #19
          huytran 30.07.2017 05:20:54 (permalink)
          Chương 20 : Tam Thể: Einstein, Con lắc đơn, Vụ Vỡ Lớn  
           
          Lần thứ năm Uông Diểu đăng nhập vào Tam Thể, thế giới trong buổi bình minh đã hoàn toàn biến đổi. Toà kim tự tháp lớn xuất hiện bốn lần trước đó đã bị huỷ diệt trong thảm hoạ ba Mặt trời giao hội, trên vị trí đó xuất hiện một kiến trúc hiện đại to lớn. Uông Diểu thấy toà nhà lớn màu đen này rất quen mắt, đó chính là toà nhà của Liên Hiệp Quốc. Xa xa, có rất nhiều kiến trúc lớn nằm rải rác trên mặt đất, hiển nhiên chính là các nhà kho, tất cả đều có bề mặt gương phản xạ toàn phần, dưới ánh ban mai, trông như thể trên mặt đất mọc lên vô số cây cối
          bằng thuỷ tinh khổng lồ.
          Uông Diểu nghe thấy tiếng đàn violon, hình như là một khúc nhạc của Mozart, người chơi đàn không thành thạo cho lắm, nhưng lại có một âm điệu rất đặc biệt, tựa hồ không ngừng giải thích rằng, đây là tôi chơi cho mình nghe, và tôi rất thích nghe. Tiếng đàn phát ra từ chỗ một ông già vô gia cư ở trên bậc cấp dẫn lên cửa chính toà nhà, mái tóc bạc bù xù tung bay trong gió, dưới chân ông ta để một cái mũ dạ rách, trong mũ hình như đã có người bỏ vào mấy đồng tiền lẻ.
          Uông Diểu đột nhiên nhận ra, Mặt trời đã mọc, nhưng Mặt trời lại mọc lên từ bên dưới đường chân trời ở hướng
          ngược với hướng của ánh ban mai, bầu trời phía đó vẫn là một mảng tối đen, trước khi Mặt trời lên, không có chút ánh sáng nào. Mặt trời rất lớn, vầng dương dâng lên một nửa chiếm trọn cả một phần ba đường chân trời. Nhịp tim của Uông Diểu đập nhanh hơn, Mặt trời lớn thế này, chỉ có nghĩa là lại một trận đại thảm hoạ sắp giáng xuống. Nhưng lúc anh ngoảnh đầu lại, chỉ thấy ông già kia vẫn hờ hững như không ngồi ở đó kéo đàn vĩ cầm, dưới ánh Mặt trời, mái tóc bạc của ông ta trông như thể đang cháy bùng lên.
          Mặt trời này có màu bạc, cùng màu với mái tóc của ông lão, nó rải xuống mặt đất một vạt sáng bàng bạc, nhưng Uông Diểu không hề cảm thấy ánh sáng
          này ấm áp chút nào. Anh ngước nhìn Mặt trời đã dâng hẳn lên khỏi đường chân trời, trên cái mâm khổng lồ phát ra ánh sáng bạc đó, anh nhìn thấy rõ mồn một những đường nét dạng vân gỗ, đó là những rặng núi ở trạng thái rắn. Uông Diểu đã hiểu ra, bản thân nó không phát ra ánh sáng, mà chỉ phản chiếu lại ánh sáng của Mặt trời thực sự phát ra từ hướng khác, thứ mọc lên ấy không phải Mặt trời, mà là một mặt trăng khổng lồ! Mặt trăng chuyển động rất nhanh, lướt qua bầu trời với tốc độ mà mắt thường cũng có thể nhận ra được, trong cả quá trình này, nó từ trăng tròn, thu nhỏ dần thành trăng thượng huyền, rồi lại thành trăng lưỡi liềm, tiếng đàn violon chậm
          rãi của ông già dập dềnh bay bổng trong làn gió sớm lạnh lẽo, cảnh tượng tráng lệ trong vũ trụ dường như chính là thứ âm nhạc đó hoá thành thực thể, Uông Diểu ngất ngây trong nỗi kinh sợ trước cái đẹp. Vầng lưỡi liềm khổng lồ lặn xuống trong ánh nắng sớm, lúc này, độ sáng của nó đã tăng lên rất nhiều, khi chỉ còn lại hai chiếc sừng nhọn phát ra ánh sáng bạc chói loá ở phía trên đường chân trời, Uông Diểu đột nhiên tưởng tượng chúng là hai chiếc sừng cong của một con trâu vũ trụ khổng lồ đang lao về phía Mặt trời.
          “Copernicus tôn kính, xin hãy dừng bước chân vội vã của anh lại, anh thưởng thức một khúc nhạc của Mozart còn tôi
          thì cũng có bữa trưa.” Sau khi vầng trăng khổng lồ lặn xuống, ông lão ngẩng đầu lên nói.
          “Nếu tôi không nhận nhầm người…” Uông Diểu nhìn gương mặt đầy nếp nhăn ấy, những nếp nhăn đó đều rất dài, đường nét cũng rất nhẹ nhàng, như thể đang cố gắng tạo ra một cảm giác hài hoà.
          “Anh không nhận nhầm đâu, tôi là Einstein, một người đáng thương một lòng tin vào Thượng Đế nhưng lại bị Ngài bỏ rơi.”
          “Vầng trăng khổng lồ lúc nãy là thế nào vậy? Mấy lần trước tôi không thấy nó.”
          “Nó đã nguội đi rồi.” “Ai cơ?”
          “Mặt trăng ấy, hồi tôi còn nhỏ, nó vẫn còn nóng lắm, lúc lên đến giữa trời có thể trông thấy ánh sáng đỏ trên bình nguyên trung tâm, giờ thì nguội đi rồi… Anh không nghe nói đến Vụ Vỡ Lớn hả?”
          “Không, chuyện là thế nào vậy?”
          Einstein thở dài, lắc đầu: “Không nhắc đến làm gì nữa, chuyện xưa chẳng nên quay đầu, quá khứ của tôi, quá khứ của nền văn minh, quá khứ của vũ trụ, đều chẳng nên quay đầu nhìn lại làm gì!”
          “Sao ngài luân lạc đến nông nỗi này?” Uông Diểu thò tay vào túi, quả là móc ra
          được một ít tiền lẻ, anh khom người bỏ tiền vào trong chiếc mũ.
          “Cảm ơn anh, Copernicus, mong rằng Thượng Đế không ruồng bỏ anh, có điều, tôi chẳng có lòng tin vào điều này. Tôi cảm thấy, cái mô hình mà anh và hội Newton đến phương Đông sử dụng con người để tính toán ấy đã đến rất gần đáp án chính xác rồi, nhưng một chút còn thiếu đó, đối với Newton hoặc bất kỳ ai khác đều là một rãnh sâu không thể nào vượt qua nổi. Trước giờ tôi luôn nghĩ rằng, không có tôi, người khác cũng có thể phát hiện ra Thuyết tương đối hẹp, nhưng Thuyết tương đối rộng thì không phải như thế. Một chút mà Newton còn thiếu đó, chính là sự nhiễu loạn do lực
          hấp dẫn của quỹ đạo hành tinh được miêu tả trong Thuyết tương đối rộng, sai số do nó gây ra tuy rằng rất nhỏ, nhưng lại có ảnh hưởng trí mạng đối với kết quả tính toán. Thêm tham số nhiễu loạn do lực hấp dẫn vào phương trình cổ điển, thì sẽ có được mô hình toán học chính xác. Lượng thuật toán sẽ lớn hơn rất nhiều so với lượng mà các anh đã hoàn thành ở phương Đông, nhưng đối với máy tính hiện đại thì thật sự không phải là vấn đề gì.”
          “Kết quả tính toán có được chứng thực bởi quan trắc thiên văn không?”
          “Nếu được thế thì tôi còn ở đây làm gì? Nhưng từ góc độ mỹ học, tôi không
          hề sai, có sai thì là vũ trụ sai. Thượng Đế đã ruồng bỏ tôi, rồi tất cả mọi người cũng đều ruồng bỏ tôi, không nơi nào cần tôi nữa, Đại học Princeton miễn chức giáo sư của tôi, tổ chức UNESCO thậm chí còn không để cho tôi làm cố vấn khoa học, hồi trước bọn họ có quỳ xuống xin tôi tôi cũng chẳng thèm làm; tôi thậm chí nghĩ đến việc đi Israrel làm tổng thống, nhưng bọn họ nói họ đã đổi ý rồi, bảo tôi chỉ là một tên bịp bợm, chậc…”
          Einstein nói xong lại bắt đầu chơi đàn, bắt đầu lại từ đúng đoạn dở dang lúc nãy. Uông Diểu nghe thêm một lúc, rồi cất bước đi về phía cửa lớn của toà nhà.
          “Bên trong không có người đâu, tất cả mọi người dự hội nghị Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần này đều đang ở đằng sau toà nhà tham gia nghi thức khởi động con lắc đơn.” Einstein vừa kéo đàn vừa nói.
          Uông Diểu đi vòng qua toà nhà, đến khu vực phía sau, lập tức trông thấy một thứ khiến anh không thể nào tin nổi vào mắt mình: một con lắc đơn khổng lồ cao chọc trời. Kỳ thực, ở phía trước toà nhà đã có thể trông thấy đỉnh chóp của nó, nhưng lúc đó Uông Diểu vẫn chưa biết đấy là gì. Đây chính là loại con lắc đơn khổng lồ do Phục Hy kiến tạo để thôi miên thần Mặt trời mà Uông Diểu thấy ở thời đại Chiến Quốc khi đăng nhập vào trò chơi Tam Thể lần đầu tiên. Hình thù
          của con lắc đơn khổng lồ trước mặt anh đã được hiện đại hoá, hai tháp cao chống đỡ thanh ngang được làm hoàn toàn bằng kim loại, mỗi chiếc đều cao như tháp Eiffel, con lắc cũng bằng kim loại, hình giọt nước, bề mặt mạ điện bóng loáng, do đã dùng vật liệu cường độ cao, sợi dây treo con lắc chỉ là một sợi cực mảnh, gần như không nhìn thấy được, khiến cho con lắc trông như thể lơ lửng trong khoảng không giữa hai toà tháp.
          Bên dưới con lắc khổng lồ ấy có một đám người bận đồ Tây, có lẽ là đầu não của các nước tham gia hội nghị Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Họ tụ tập thành nhóm năm ba người thấp giọng rầm rì, hình như đang chờ đợi điều gì đó.
          “Ồ, Copernicus, người đã trải qua năm thời đại!” Có người lớn giọng kêu lên, những người khác lần lượt tỏ ý chào mừng anh.
          “Vả lại, anh còn là người tận mắt trông thấy con lắc đơn ở thời đại Chiến Quốc đó!” Một người da đen mặt mũi thân thiện bắt tay Uông Diểu, nói. Có người giới thiệu, ông ta là Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ này.
          “Đúng thế, tôi từng thấy rồi. Nhưng tại sao bây giờ lại xây thứ này lên?” Uông Diểu hỏi.
          “Nó là bia kỷ niệm Tam Thể, cũng là một tấm bia mộ.” Tổng thư ký ngước
          nhìn con lắc giữa không trung, nhìn từ chỗ này, trông nó to như một chiếc tàu ngầm.
          “Bia mộ? Của ai?”
          “Của một cố gắng, một cố gắng đã kéo dài suốt gần hai trăm nền văn minh, cố gắng để giải quyết bài toán Ba vật thể, cố gắng tìm kiếm quy luật chuyển động của Mặt trời.”
          “Cố gắng này đã kết thúc rồi sao?” “Đến thời điểm này, nó đã kết thúc
          triệt để rồi.”
          Uông Diểu hơi do dự, lấy ra một tập tài liệu, đây là mô hình toán học giải quyết bài toán Ba vật thể của Nguỵ
          Thành: “Tôi… đến đây chính vì chuyện này, tôi mang đến một mô hình toán học có thể giải quyết được vấn đề Tam Thể, tin rằng rất có khả năng thành công.”
          Uông Diểu vừa dứt lời, liền nhận ra những người xung quanh lập tức không còn hứng thú gì với mình nữa, ai nấy đều rời khỏi anh để quay lại với nhóm nhỏ của mình, tiếp tục cuộc nói chuyện dở dang ban nãy, anh để ý thấy có người lúc bỏ đi còn cười cười lắc đầu. Tổng thư ký nhận lấy tập tài liệu, chẳng buồn ghé mắt nhìn đã đưa cho một người cao gầy đeo kính bên cạnh: “Vì sự tôn kính trước danh tiếng cao vời của anh, tôi mới để cố vấn khoa học xem qua đấy. Thực ra, mọi người ở đây đã bày tỏ sự tôn kính ấy
          với anh rồi, nếu đổi lại là người khác, sẽ bị cười nhạo ngay rồi đó.”
          Vị cố vấn khoa học nhận lấy tập tài liệu mở ra xem: “Thuật toán tiến hoá? Copernicus, anh là một thiên tài, người có thể nghĩ ra thuật toán thế này đều là bậc thiên tài, ngoài tài năng toán học cao siêu ra, còn cần phải có cả trí tưởng tượng nữa.”
          “Nghe ông nói vậy, thì đã có người sáng tạo ra mô hình toán học này rồi?”
          “Đúng thế, còn có mười mấy mô hình toán học khác nữa, hơn một nửa trong số đó cao minh hơn mô hình của anh nhiều, tất cả đều đã được sáng tạo ra, đồng thời hoàn thành việc tính toán trên máy tính.
          Trong hai thế kỷ trước, khối lượng thuật toán khổng lồ này là hoạt động trung tâm của thế giới, mọi người đều đợi chờ kết quả như thể đợi chờ Ngày Phán Xét cuối cùng vậy.”
          “Kết quả ra sao?”
          “Đã chứng minh một cách chuẩn xác, bài toán Ba vật thể vô nghiệm.”
          Uông Diểu ngửa mặt nhìn con lắc đơn khổng lồ, dưới ánh sáng lấp loá của nắng mai, nó trở thành một tấm gương biến hình phản chiếu mọi thứ ở xung quanh, như con mắt của thế giới này vậy. Ở thời đại xa xôi đã cách đây rất nhiều nền văn minh, cũng ở trên mảnh đất này, anh và Chu Văn Vương từng đi qua vô số con
          lắc đơn san sát, đến cung điện của Trụ Vương. Cứ thế, lịch sử đã đi một vòng tròn lớn, quay lại điểm ban đầu.
          “Đúng như chúng ta đã dự đoán từ trước, Tam Thể là một hệ thống hỗn độn, nó sẽ phóng to vô hạn những nhiễu loạn nhỏ bé nhất, xét về bản chất toán học, quy luật vận hành của nó là không thể nào dự đoán được.” Vị cố vấn khoa học nói.
          Uông Diểu có cảm giác mọi tri thức khoa học và hệ thống tư tưởng của mình trong nháy mắt đều trở nên mơ hồ không rõ, thay vào đó là sự mờ mịt xưa nay chưa từng có: “Nếu cả hệ thống cực kỳ đơn giản như hệ thống Ba vật thể mà
          cũng ở trạng thái hỗn độn không thể dự đoán, vậy thì chúng ta làm sao có lòng tin khám phá quy luật phức tạp của vũ trụ đây?”
          “Thượng Đế là một con bạc già vô sỉ, lão ta đã ruồng bỏ chúng ta rồi!” Không biết từ lúc nào, Einstein đã đi tới chỗ họ, vung vẩy cây violin nói.
          Tổng thư ký chậm rãi gật đầu: “Đúng thế, Thượng Đế là một con bạc, vậy thì hy vọng duy nhất của văn minh Tam Thể, chính là đánh một ván đi.”
          Lúc này, vầng trăng khổng lồ lại dâng lên ở phương trời tối tăm, hình ảnh to lớn màu bạc của nó phản chiếu trên bề mặt nhẵn bóng của con lắc, ánh sáng đung
          đưa dao động, tựa như con lắc và vầng trăng đã nảy sinh một thứ cảm ứng tâm linh thần bí nào đó.
          “Nhắc đến văn minh, nền văn minh này hình như đã phát triển đến trình độ tương đối cao rồi.” Uông Diểu nói.
          “Đúng thế, nắm giữ được năng lượng hạt nhân, đã đến thời đại Thông tin.” Tổng thư ký nói, nhưng dường như ông ta không hề coi trọng những chuyện này.
          “Vậy thì vẫn còn một hy vọng nữa: văn minh tiếp tục phát triển, đạt đến một độ cao khác, tuy rằng không thể biết được quy luật chuyển động của Mặt trời, nhưng có thể sinh tồn trong kỷ nguyên Hỗn loạn, đồng thời có thể kháng cự lại
          những thảm hoạ mang tính huỷ diệt do Mặt trời chuyển động dị thường gây ra trước đây.”
          “Trước đây tất cả đều nghĩ như thế, đây cũng chính là một trong những động lực khiến văn minh Tam Thể tiếp tục ngoan cường tái sinh hết lượt này đến lượt khác, nhưng làm thế đã khiến chúng ta nhận thức được, suy nghĩ này thật là quá đỗi ngây thơ.” Tổng thư ký chỉ vào vầng trăng đang lên cao, “Có thế đây là lần đầu tiên anh trông thấy mặt trăng lớn như vậy, kỳ thực nó gần như tương đương với một phần tư hành tinh của chúng ta đấy, đã không còn là một mặt trăng, mà là sao con của hành tinh này trong một hệ sao đôi, nó là sản phẩm của Vụ Vỡ Lớn.”
          “Vụ Vỡ Lớn?”
          “Thảm hoạ huỷ diệt nền văn minh trước đó. Kỳ thực, so với những nền văn minh trước, dự báo về thảm hoạ này đã có từ khá lâu. Những ghi chép tàn lưu lại đã chỉ ra, các nhà thiên văn học của nền văn minh 191 đã quan sát thấy ‘Sao bay bất động’ từ rất sớm.”
          Nghe thấy những chữ này, quả tim Uông Diểu thắt lại. “Sao bay bất động” là điềm hung lớn nhất trong thế giới Tam Thể. Sao bay, hay nói cách khác chính là Mặt trời ở phía xa, quan sát từ góc độ dưới mặt đất đã dừng lại trên bức nền vũ trụ, điều này chỉ có nghĩa là Mặt trời và hành tinh đang chuyển động trên một
          đường thẳng. Có ba khả năng có thể xảy ra: thứ nhất, Mặt trời và hành tinh chuyển động với tốc độ bằng nhau về cùng một hướng; thứ hai, Mặt trời đang đi xa khỏi hành tinh; thứ ba, Mặt trời đang lao về phía hành tinh. Trước nền văn minh số 191, đây chỉ là một thảm hoạ trong tưởng tượng, chưa từng thực sự xảy ra lần nào, nhưng nỗi khiếp sợ và cảnh giác đối với nó của mọi người cơ hồ chưa từng lơi lỏng, đến nỗi “Sao bay bất động” đã trở thành một câu nguyền rủa độc địa nhất trong nhiều nền văn minh của thế giới Tam Thể này. Cho dù chỉ có một ngôi sao bay dừng lại, cũng đủ khiến người ta không rét mà run lên rồi.
          “Khi đó, ba ngôi sao bay cùng đồng
          thời dừng lại. Người của nền văn minh số 191 đứng trên mặt đất bất lực nhìn ba ngôi sao bay treo lơ lửng trên không trung, nhìn ba ngôi sao bay đang lao thẳng tới thế giới của họ. Mấy ngày sau, một Mặt trời chuyển động đến khoảng cách có thể nhìn thấy bên ngoài bầu khí quyển, trên bầu trời đêm tĩnh lặng, ngôi sao bay đột nhiên biến ảo thành vầng dương chói loá hào quang, hơn ba mươi tiếng sau, hai Mặt trời còn lại cũng lần lượt hiện hình. Đó không phải hiện tượng Ba Mặt trời đồng hiện bình thường, khi ngôi sao bay cuối cùng biến thành Mặt trời, Mặt trời đầu tiên hiện ra đã lướt qua hành tinh ở cự ly cực gần, liền ngay sau đó, hai Mặt trời còn lại cũng tiếp tục
          lướt qua ở khoảng cách gần hơn! Lực thuỷ triều (*) của ba Mặt trời tác động lên hành tinh đều vượt quá giới hạn Roche (**), Mặt trời đầu tiên đã làm chấn động kết cấu địa chất ở tầng sâu nhất của hành tinh, Mặt trời thứ hai khiến hành tinh toác ra một khe nứt khổng lồ sâu đến tận tâm, Mặt trời thứ ba đã xé rách hành tinh ra làm hai nửa.”
          (*) Lực thuỷ triều: đây là hiệu ứng thứ hai của lực hấp dẫn, góp phần tạo nên hiện tượng thuỷ triều ở Trái đất, ngoài ra trong vũ trụ, lực thuỷ triều còn giữ cho các thiên thể nằm trong vành đai bao quanh các hành tinh không bay khỏi quỹ đạo hay hút lẫn nhau hình thành các mặt trăng mới.
          (**) Giới hạn Roche: là khoảng cách ổn định ngắn nhất giữa hai thiên thể có được, nếu đến gần hơn, thiên thể nhỏ sẽ bị vỡ vụn và có thể gây thiệt hại cho thiên thể lớn. Nhà thiên văn Pháp Edouard Albert Roche (1820-1883) là người đầu tiên tính ra giới hạn này. Thông thường giá trị của giới hạn Roche tương ứng với 2,44 lần bán kính đường xích đạo thiên thể lớn hơn. (TG)
          Tổng thư ký chỉ tay vào vầng trăng đã lên đến giữa trời, “Đây chính là nửa nhỏ hơn, bên trên còn lưu lại dấu tích của nền văn minh số 191, nhưng đó đã là một thế giới hoàn toàn không còn sự sống nữa rồi. Đó là thảm hoạ kinh khủng khiếp
          nhất trong toàn bộ lịch sử thế giới Tam Thể, sau khi hành tinh bị nứt vỡ, hai phần có hình dạng bất quy tắc ấy đã biến thành hình cầu trở lại dưới tác động của lực hấp dẫn tự thân, vật chất nóng bỏng đặc quánh ở tâm hành tinh trào lên mặt đất, nước biển sôi trào trên nham thạch nóng chảy, các đại lục trôi nổi như những núi băng tan chảy, chúng va đụng vào nhau, mặt đất trở nên mềm nhũn như biển cả, rặng núi khổng lồ mấy chục kilômét có thể dâng lên trong một giờ đồng hồ rồi lại biến mất trong thời gian ngắn ngủi tương đương. Trong khoảng thời gian này, hai phần bị tách ra làm đôi của hành tinh như thể ‘dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng’, giữa chúng là một dòng sông dung
          nham vắt ngang vũ trụ. Dung nham này bị đông lạnh trong vũ trụ, hình thành nên một vòng tròn xung quanh hành tinh, nhưng do nhiễu loạn hấp dẫn từ hai nửa hành tinh, cái vòng không ổn định, nham thạch rơi xuống lả tả, khiến thế giới chìm trong trận mưa vẫn thạch kéo dài mấy thế kỷ… Anh có thể tưởng tượng đó là một địa ngục như thế nào không! Đây là thảm hoạ phá hoại môi trường sinh thái nghiêm trọng nhất trong lịch sử, trước nay chưa từng có, sự sống trên sao con đã bị tuyệt diệt, sao mẹ cũng gần như trở thành một thế giới không còn sự sống, nhưng hạt giống sự sống không ngờ vẫn manh nha ở nơi này, khi trạng thái địa chất của sao mẹ dần ổn định, sự tiến hoá
          lại bắt đầu những bước chân loạng choạng của mình ở các đại lục và đại dương hoàn toàn mới, cho đến khi nền văn minh thứ 192 xuất hiện, cả quá trình này, đã tiêu tốn mất 90.000.000 năm.
          “Vùng vũ trụ của thế giới Tam Thể này còn tàn khốc hơn chúng ta tưởng tượng nhiều lắm. Lần ‘Sao bay bất động’ tiếp theo sẽ như thế nào? Có khả năng rất lớn, hành tinh của chúng ta sẽ không lướt qua vùng rìa Mặt trời nữa, mà lao thẳng vào biển lửa ấy. Cùng với thời gian, khả năng này cơ hồ đã trở thành một lẽ tất nhiên.
          “Đây vốn dĩ chỉ là một suy đoán khủng khiếp, nhưng phát hiện thiên văn
          học gần đây nhất đã khiến chúng ta hoàn toàn tuyệt vọng về vận mệnh của thế giới Tam Thể này. Mục đích của nghiên cứu ấy là thông qua một số dấu vết tàn lưu trong thiên hà để suy đoán ra lịch sử hình thành của các sao và hành tinh trong thiên hà. Trong lúc vô tình, họ đã phát hiện ra hệ sao Tam Thể này trong thời gian dài đằng đẵng từng có đến mười hai hành tinh! Mà giờ đây, cả hệ sao chỉ còn lại duy nhất một hành tinh này của chúng ta, chỉ có một cách giải thích duy nhất: qua năm tháng đằng đẵng, mười một hành tinh kia đều đã bị ba Mặt trời nuốt trọn! Thế giới của chúng ta, chẳng qua chỉ là tàn dư còn sót lại của cuộc săn bắt lớn trong vũ trụ này, nền văn minh có thể trải
          qua 192 lần tái sinh chẳng qua chỉ là một sự may mắn mà thôi. Đào sâu nghiên cứu thêm một bước nữa, chúng ta còn phát hiện được hiện tượng hô hấp của ba ngôi sao này.”
          “Ngôi sao hô hấp?”
          “Chỉ là một cách nói ví dụ thôi, anh đã phát hiện ra lớp khí ở vùng ngoài rìa của ngôi sao, nhưng anh không biết rằng, lớp khí này vẫn không ngừng bành trướng và thu nhỏ lại theo một chu kỳ rất dài, như là đang hô hấp vậy. Khi lớp khí bành trướng ra, độ dày của nó có thể tăng lên gấp mười mấy lần, khiến cho đường kính của ngôi sao tăng lên gấp bội, giống như một bàn tay khổng lồ xoè ra, khiến nó dễ
          dàng bắt được hành tinh hơn. Khi một hành tinh lướt qua Mặt trời ở khoảng cách gần, nó sẽ rơi vào lớp khí này, nhanh chóng giảm tốc do ma sát dữ dội, cuối cùng sẽ như một ngôi sao chổi mà kéo theo một cái đuôi dài rơi xuống biển lửa của Mặt trời. Theo khảo cứu, trong lịch sử dài dằng dặc của hệ ba sao Tam Thể này, mỗi lần lớp khí ngoài cùng bành trướng, Mặt trời sẽ nuốt một đến hai hành tinh, mười một hành tinh kia, chính là lần lượt rơi xuống biển lửa khi lớp khí ngoài cùng của Mặt trời phình ra đến độ to nhất. Lúc này, lớp khí ngoài cùng của ba Mặt trời đều đang ở trạng thái thu hẹp, bằng không thì lần trước Mặt trời bay lướt qua, hành tinh chúng ta cũng đã
          rơi vào trong đó rồi. Theo dự đoán của các vị học giả, lần phình to tới đây của Mặt trời sẽ xảy ra vào khoảng một triệu rưỡi cho đến hai triệu năm nữa.”
          “Cái chốn quỷ quái này quả thực không thể ở được nữa.” Einstein ôm đàn violin ngồi xổm dưới đất, bộ dạng hệt như một lão ăn mày già.
          Tổng thư ký gật gật đầu: “Không thể ở được nữa, không thể ở được nữa rồi! Đường thoát duy nhất của văn minh Tam Thể, chính là đánh cược một phen với cái vũ trụ này.”
          “Đánh cược thế nào?” Uông Diểu hỏi. “Bay ra khỏi thiên hà Tam Thể, bay ra
          ngoài vũ trụ mênh mông, tìm thế giới mới có thể di dân đến trong hệ Ngân Hà!”
          Lúc này, Uông Diểu nghe thấy tiếng “két két”, trông thấy con lắc đơn đang được một sợi dây cáp nhỏ của chiếc xe tời cao bên cạnh kéo lên cao, lên đến vị trí mà nó được thả ra, trên nền trời phía sau nó, một vầng trăng tàn khổng lồ đang lặn xuống dưới ánh ban mai.
          Tổng thư ký nghiêm nghị tuyên bố: “Khởi động con lắc đơn!”
          Xe tời nhả sợi dây cáp kéo con lắc lên cao ra, quả lắc khổng lồ lặng lẽ trượt xuống theo một quỹ đạo vòng cung, bắt đầu thì chậm, nhưng nhanh chóng tăng tốc, khi đến điểm thấp nhất thì vận tốc
          cũng đạt cao nhất, phát ra tiếng xe gió ù ù trong không khí, khi âm thanh này tan biến, quả lắc đã lên đến độ cao tương đương lúc đầu theo quỹ đạo hình cong tương tự, thoáng dừng lại rồi bắt đầu một vòng dao động mới. Uông Diểu có cảm giác quả lắc đang dao động này dường như sinh ra một sức mạnh khổng lồ, tưởng chừng như mặt đất cũng bị nó kéo cho lung lay rung chuyển. Khác với con lắc đơn trong thế giới hiện thực, chu kỳ chuyển động của con lắc khổng lồ này không cố định mà luôn biến đổi, nguyên nhân là do sự biến đổi trọng lực mà vầng trăng khổng lồ chuyển động xung quanh hành tinh mẹ gây ra: khi mặt trăng ở bên này hành tinh mẹ, lực hấp dẫn của nó và
          hành tinh mẹ triệt tiêu lẫn nhau, trọng lực giảm xuống; khi nó chuyển động sang phía bên kia, lực hấp dẫn lại chồng lên nhau, trọng lực cơ hồ khôi phục tương đương với giai đoạn trước vụ nứt vỡ.
          Ngước mắt lên nhìn tấm bia kỷ niệm Tam Thể chuyển động với khí thế hừng hực, Uông Diểu tự hỏi chính mình: nó biểu thị khát vọng đối với quy luật hay biểu thị sự khuất phục trước cái hỗn độn? Uông Diểu lại có cảm giác con lắc ấy giống như một nắm đấm bằng kim loại khổng lồ, mãi mãi vung lên trước vũ trụ tàn khốc, lặng lẽ phát ra tiếng gầm bất khuất của nền văn minh Tam Thể… Khi hai mắt Uông Diểu nhoà đi vì nước mắt, anh nhìn thấy trên cảnh nền là con lắc
          khổng lồ ấy xuất hiện hàng chữ:
          Bốn trăm năm mốt năm sau, nền văn minh số 192
          bị huỷ diệt trong ngọn lửa của hai Mặt trời đồng hiện,
          nó tiến hoá đến thời đại nguyên tử và
          thông tin.
          Nền văn minh số 192 là bước ngoặt của văn minh Tam Thể,
          cuối cùng nó đã chứng minh được bài toán Ba vật thể không thể
          tìm ra lời giải, từ bỏ nỗ lực vô ích kéo dài suốt 191 nền văn minh
          trước đó, xác định hướng đi hoàn toàn
          mới cho các nền văn minh
          từ sau trở đi. Từ đây, mục tiêu cuối cùng của trò chơi
          Tam Thể đã thay đổi, mục tiêu mới là: Bay vào vũ trụ, tìm đến nhà mới.
          Hoan nghênh bạn đăng nhập lần sau.
          Sau khi đăng xuất khỏi trò chơi Tam Thể, giống như mọi lần, Uông Diểu cảm thấy hết sức mệt mỏi, đây quả thực là một trò chơi rất tốn sức, nhưng lần này anh chỉ nghỉ ngơi nửa tiếng là đã đăng nhập lại. Sau khi vào Tam Thể, trên nền đen xuất hiện một thông tin hết sức bất ngờ:
          Tình huống khẩn cấp, máy chủ Tam Thể sắp tắt,
          thời gian còn lại đăng nhập tự do,
          Tam Thể sẽ trực tiếp chuyển đến màn
          cuối.

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 05:28:24 bởi huytran >
          #20
            huytran 30.07.2017 05:30:59 (permalink)
            Chương 21 : Tam Thể: Viễn chinh  
             
            Mặt đất mênh mông trong buổi bình minh giá lạnh hoàn toàn trống trải, không có bất cứ thứ gì. Không có kim tự tháp, không có toà nhà Liên Hiệp Quốc, bia kỷ niệm con lắc đơn khổng lồ cũng không biết đã đâu mất, chỉ có sa mạc đen sì vươn dài ra tít tận chân trời, giống như thế giới lúc anh đăng nhập vào lần đầu tiên. Nhưng rồi, Uông Diểu nhanh chóng nhận ra đó chỉ là ảo giác của mình, những tảng đá nhỏ nằm chi chít trên bãi sa mạc ấy, không ngờ đều là đầu người! Thì ra, trên mặt đất toàn là người đang đứng. Uông Diểu đứng trên một quả đồi nhỏ cao hơn một chút nhìn xuống dưới,
            biển người đông nghịt này trải dài ra ngút cả tầm mắt, anh thầm ước tính một con số đại khái, chỉ riêng trong tầm mắt nhìn thấy được cũng đã lên đến mấy trăm triệu người rồi! Anh biết, có thể toàn bộ người trong thế giới Tam Thể đều đã tập trung về đây. Một sự tĩnh lặng bao trùm lên hết thảy, sự tĩnh lặng tạo ra bởi mấy trăm triệu người này toát lên một vẻ kỳ dị khiến người ta tức thở, cả biển người trong buổi tinh mơ này đang đợi chờ một điều gì đó. Uông Diểu nhìn quanh, phát hiện tất cả đều đang ngước lên bầu không.
            Uông Diểu ngẩng đầu nhìn theo, phát hiện bầu trời sao đã xuất hiện một thay đổi không thể tưởng tượng: tinh tú xếp
            thành một hình vuông chằn chặn! Nhưng anh nhanh chóng nhận ra, những ngôi sao xếp thành hình vuông này có thể chỉ là đang nằm trên quỹ đạo đồng bộ với hành tinh, so với biển sao hệ Ngân Hà làm cảnh nền mờ nhạt phía đằng sau, hình vuông này có chuyển động rõ rệt. Trong hình vuông này, các ngôi sao ở mé gần phía ánh nắng là sáng nhất, ánh sáng màu bạc chúng toả ra có thể tạo thành bóng người hắt xuống đất, càng về phía sau, độ sáng càng giảm dần. Uông Diểu đếm thử, trên mỗi cạnh của hình vuông này có khoảng hơn ba mươi ngôi sao, vậy thì tổng số ngôi sao vào khoảng trên dưới một nghìn. Đội ngũ hiển nhiên do con người tạo ra này hình thành một chỉnh
            thể, chầm chậm chuyển động trên nền trời sao, toát lên một cảm giác mạnh mẽ trang nghiêm.
            Lúc này, một người đàn ông đứng bên cạnh khẽ đẩy vào anh, thấp giọng thì thào: “Ồ, Copernicus vĩ đại, sao anh đến muộn thế? Đã qua ba lượt văn minh rồi, anh đã bỏ qua cả một sự nghiệp vĩ đại nhường ấy!”
            “Đó là gì thế?” Uông Diểu chỉ vào nhóm ngôi sao hình vuông trên bầu không vũ trụ.
            “Đó là hạm đội vũ trụ Tam Thể vĩ đại, họ sắp khởi hành lên đường viễn chinh rồi.”
            “Nói như vậy, văn minh Tam Thể đã có khả năng di chuyển giữa các hành tinh rồi?”
            “Đúng thế, những phi thuyền lớn kia đều có thể đạt đến vận tốc 1/10 vận tốc ánh sáng.”
            “1/10 vận tốc ánh sáng, ít nhất trong phạm vi tri thức của tôi, thì đó là một thành tựu vĩ đại, nhưng đối với di chuyển liên hành tinh thì vẫn hơi chậm.”
            “Hành trình vạn dặm bắt đầu từ một bước chân.” Người đó nói, “Mấu chốt là phải tìm đúng mục tiêu.”
            “Đích đến của hạm đội nằm ở đâu?” “Một ngôi sao có hành tinh cách đây
            hơn bốn năm ánh sáng, đó là ngôi sao gần thế giới Tam Thể nhất.”
            Uông Diểu thoáng kinh ngạc: “Ngôi sao gần chúng tôi nhất cũng cách bốn năm ánh sáng.”
            “Các anh?”
            “Địa cầu.”
            “Ồ, chẳng có gì lạ cả, trong một khu vực lớn của hệ Ngân Hà, mật độ ngôi sao rất đều, đây là kết quả điều tiết dài lâu của lực hấp dẫn giữa các ngôi sao. Chiếm tỉ lệ tương đối lớn giữa các sao là khoảng ba đến sáu năm ánh sáng.”
            Lúc này, tiếng hò reo hoan hô bùng nổ trong biển người. Uông Diểu ngẩng đầu
            lên nhìn, độ sáng của mỗi ngôi sao trong thế trận hình vuông trên bầu không đang nhanh chóng tăng lên, hiển nhiên là bản thân chúng đang phát ra ánh sáng. Ánh sáng này nhanh chóng nhấn chìm cả ánh ban mai phía đường chân trời, một nghìn vì sao thoáng cái đã biến thành một nghìn Mặt trời nhỏ, thế giới Tam Thể nghênh đón một buổi ban mai huy hoàng rực rỡ. Những người trên mặt đất đều giơ cao hai tay lên trời, tạo nên một thảo nguyên cánh tay trải dài ngút cả tầm mắt. Hạm đội Tam Thể bắt đầu tăng tốc, trang nghiêm chuyển động băng ngang bầu trời, lướt qua phía trên vầng trăng khổng lồ mới nhú, chiếu lên những rặng núi và dải đồng bằng trên bề mặt mặt trăng một
            quầng sáng màu xanh sẫm. Tiếng hò reo đã dứt, người của thế giới Tam Thể lặng nhìn hy vọng của mình dần dần xa khuất phía trời Tây, đời này họ sẽ không nhìn thấy kết cục, nhưng bốn năm trăm năm sau, con cháu họ sẽ nhận được tin tức từ thế giới mới, đó sẽ là cuộc đời mới của văn minh Tam Thể. Uông Diểu và họ cùng lặng lẽ nhìn về phía xa xăm, cho đến khi hình vuông tạo thành bởi một nghìn vì sao nhấp nháy kia thu lại thành một điểm sáng, cho tới khi điểm sáng ấy biến mất trên bầu trời đêm phía Tây. Hàng chữ xuất hiện:
            Cuộc viễn chinh thế giới mới của văn minh Tam Thể
            đã bắt đầu, hạm đội đang phi hành…
            Trò chơi Tam Thể đã kết thúc, khi trở về hiện thực, nếu
            trung thành với lời hứa của mình, bạn hãy theo địa chỉ
            trong thư điện tử gửi đến ngay sau đây
            để tham gia
            buổi gặp mặt của tổ chức Tam Thể
            Địa Cầu.

            #21
              huytran 30.07.2017 05:35:47 (permalink)
              Chương 22 : Quân phản loạn địa cầu  
               
              Trái ngược với buổi gặp mặt người chơi trên mạng lần trước, đây là một buổi tụ tập đông người, địa điểm là nhà ăn dành cho cán bộ công nhân của một nhà máy hoá chất. Nhà máy đã di dời, bên trong kiến trúc sắp bị phá dỡ này hết sức cũ nát, nhưng rất rộng rãi. Có hơn ba trăm người tụ tập ở đây, Uông Diểu phát hiện ra có rất nhiều gương mặt quen thuộc, đều là nhân vật nổi tiếng trong xã hội và tinh hoa trong các lĩnh vực, có các nhà khoa học, nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng.
              Thứ đầu tiên thu hút sự chú ý của Uông Diểu là một đồ vật lạ lùng bày ở chính giữa đại sảnh, đó là ba khối cầu màu bạc, đường kính hơi nhỏ hơn trái bóng bowling một chút đang bay lượn trên một bệ bằng kim loại, Uông Diểu đoán có khả năng thiết bị này hoạt động dựa trên nguyên lý đệm từ trường. Quỹ đạo chuyển động của ba khối cầu hoàn toàn ngẫu nhiên, đây coi như Uông Diểu đã tận mắt chứng kiến chuyển động Tam Thể thật sự.
              Những người khác không mấy để tâm đến tác phẩm nghệ thuật thể hiện chuyển động ngẫu nhiên của ba vật thể ấy, họ đổ dồn chú ý vào Phan Hàn đang đứng giữa đại sảnh, trên một cái bàn bị thủng.
              “Có phải anh đã giết đồng chí Thân Ngọc Phi?” Có người chất vấn.
              “Là tôi.” Phan Hàn bình thản nói, “Tổ chức rơi vào tình cảnh nguy hiểm như ngày hôm nay, tất cả đều do trong phe ủng hộ đổ bộ có những kẻ phản bội như cô ta bán đứng đồng đội.”
              “Ai cho anh cái quyền giết người đó?”
              “Việc này xuất phát từ trách nhiệm của tôi với tổ chức!”
              “Anh còn có trách nhiệm sao? Bản thân anh đã là loại người nung nấu sẵn ý đồ đen tối thì có!”
              “Anh nói cho rõ xem nào!”
              “Nhóm Môi trường do anh lãnh đạo đã làm được những gì, trách nhiệm của các người là lợi dụng và tạo ra các vấn đề về môi trường để khơi dậy sự chán ghét của con người đối với khoa học và công nghiệp hiện đại. Nhưng anh thì đã làm gì chứ? Chỉ lợi dụng kỹ thuật và dự đoán của Chúa để mưu cầu danh lợi cho mình!”
              “Tôi nổi tiếng là vì bản thân mình hay sao? Trong mắt tôi, toàn bộ nhân loại này đã là một đống rác rồi, tôi còn quan tâm đến danh dự nữa chắc? Nhưng tôi không nổi tiếng thì có được không? Không nổi tiếng thì tôi làm sao dẫn dắt tư tưởng của người khác được?”
              “Anh chỉ toàn lựa việc dễ mà tránh việc khó! Những công việc đó của anh, hoàn toàn có thể để cho đám người bảo vệ môi trường trong xã hội đi làm được! Bọn họ chân thành hơn anh gấp bội, mà cũng nhiệt tình hơn gấp bội, chỉ cần dẫn dắt thêm một chút, chúng ta có thể lợi dụng hành vi của họ rồi. Việc mà nhóm Môi trường các anh cần làm là tạo ra các thảm hoạ môi trường, sau đó lợi dụng chúng. Rải chất độc vào hồ chứa nước, gây rò rỉ ở nhà máy sản xuất hoá chất… những việc này các anh đã làm chưa hả? Không hề làm một việc nào hết!”
              “Chúng tôi đã có rất nhiều phương án và kế hoạch, nhưng đều bị Thủ lĩnh phủ quyết còn gì. Ít nhất thì trong quá khứ
              làm như vậy là rất ngu xuẩn, nhóm Sinh vật và Y học từng tạo ra thảm hoạ lạm dụng thuốc kháng sinh, chẳng phải đã nhanh chóng bị phát hiện đó sao? Cơ sở ở châu Âu suýt chút nữa đã tự rước hoạ vào mình!”
              “Anh đã giết người, vậy là đã tự chuốc hoạ vào thân rồi!”
              “Hãy nghe tôi, các đồng chí, sớm hay muộn cũng thế thôi! Chắc chắn mọi người đã biết cả rồi, chính phủ các nước đều đã nối đuôi nhau bước vào trạng thái chiến tranh, ở châu Âu và Bắc Mỹ, cuộc lùng bắt đối với tổ chức Tam Thể đã bắt đầu. Một khi xảy ra chuyện ở đây, phe cứu thế nhất định sẽ trở dáo đứng về phía chính phủ, vì vậy hiện nay việc đầu tiên chúng ta cần làm, chính là loại bỏ phe cứu thế ra khỏi nội bộ tổ chức!”
              “Việc này không đến lượt anh tính.” “Tất nhiên, phải do Thủ lĩnh suy tính
              rồi, nhưng các đồng chí, tôi có thể lấy
              danh dự ra khẳng định với mọi người rằng, Thủ lĩnh là người theo phe đổ bộ!”
              “Anh đừng có ăn nói lung tung, uy tín của Thủ lĩnh thế nào mọi người đều rõ cả, nếu đúng như anh nói, phe cứu thế đã bị thanh trừ từ lâu rồi!”
              “Có lẽ Thủ lĩnh cũng có suy tính riêng của mình, nói không chừng, buổi họp hôm nay chính là vì chuyện này đó.”
              Sau đó, mọi người không tập trung chú ý vào Phan Hàn nữa, mà chuyển sang nguy cơ trước mắt. Một chuyên gia nổi tiếng từng đoạt giải Turing (*) nhảy lên bàn, vung cánh tay nói:
              (*) Giải thưởng Turing (A. M. Turing Award) là giải thưởng thường niên của Hiệp hội Khoa học Máy tính cho các cá nhân hoặc một tập thể có những đóng góp quan trọng cho cộng đồng khoa học máy tính. Được coi như là giải Nobel cho lĩnh vực khoa học máy tính. Giải thưởng được đặt theo tên của nhà toán học người Anh Alan Turing, người được coi là cha đẻ của lý thuyết khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo.
              “Mọi người nói xem, giờ chúng ta nên làm thế nào?”
              “Khởi nghĩa toàn cầu!”
              “Thế chẳng phải là tự chuốc lấy diệt vong à?”
              “Tinh thần Tam Thể vạn tuế! Chúng ta là những hạt giống ngoan cường, lửa kia không thể thiêu đốt hết được!”
              “Khởi nghĩa có thể bộc lộ sự tồn tại của chúng ta trên vũ đài chính trị thế giới, đây sẽ là cột mốc đánh dấu lần đầu tiên tổ chức Tam Thể công khai bước lên vũ đài lịch sử của nhân loại, chỉ cần có cương lĩnh thích hợp, chúng ta sẽ được hưởng ứng rộng rãi trên toàn thế giới!”
              Câu cuối cùng này do Phan Hàn nói, khiến cả hội xôn xao một chập.
              Có người kêu lên: “Thủ lĩnh đến rồi!” Cả đám người tách ra thành một lối đi, Uông Diểu cũng ngước mắt nhìn, nhất thời choáng váng, thế giới trong mắt anh chỉ còn hai màu đen và trắng, thứ duy nhất có màu sắc chính là người vừa mới xuất hiện kia.
              Được một đám vệ sĩ trẻ tuổi vây quanh, Thủ lĩnh tối cao của quân phản loạn địa cầu Diệp Văn Khiết chậm rãi bước tới.
              Diệp Văn Khiết bước ra chính giữa khoảng đất trống hình tròn để dành riêng cho bà ta, giơ một cánh tay gầy guộc lên,
              dùng sức mạnh và sự kiên định mà Uông Diểu không dám tưởng tượng có thể xuất phát từ bà ta, nói: “Tiêu diệt bạo chính loài người!”
              Đám người phản bội nhân loại này đồng thanh hô lên câu khẩu hiệu rõ ràng đã lặp đi lặp lại vô số lần: “Thế giới thuộc về Tam Thể!”
              “Các đồng chí.” Diệp Văn Khiết nói, giọng bà ta đã khôi phục lại vẻ dịu dàng và chậm rãi mà Uông Diểu quen thuộc, đến nỗi bây giờ anh mới xác định được đó chính xác là bà ta, “Dạo gần đây sức khoẻ không được tốt lắm, không gặp mặt mọi người, giờ tình thế đang căng thẳng, tôi biết mọi người đều phải chịu áp lực
              rất lớn, vậy nên mới đến xem sao.”
              “Thủ lĩnh giữ gìn sức khoẻ…” Cả bọn nhốn nháo nói, Uông Diểu nhận ra, những lời này là chân thành.
              Diệp Văn Khiết nói: “Trước khi thảo luận đến vấn đề quan trọng, chúng ta xử lý một việc nhỏ trước đã. Phan Hàn…” Lúc gọi tên anh ta, mắt bà ta vẫn nhìn về phía mọi người.
              “Thủ lĩnh, tôi ở đây.” Phan Hàn bước ra, trước đó, anh ta đã cố tình lẩn vào sâu trong đám đông, tuy vẫn giữ vẻ trấn tĩnh, nhưng có thể dễ dàng nhận ra được nỗi sợ hãi sâu trong tâm khảm: Thủ lĩnh không gọi anh ta là đồng chí, đây là điềm chẳng lành.
              “Anh đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của tổ chức.” Lúc nói những lời này, Diệp Văn Khiết vẫn không nhìn Phan Hàn, giọng bà ta rất ôn tồn, như người mẹ đứng trước đứa con làm chuyện sai quấy.
              “Thủ lĩnh, giờ tổ chức đang đối mặt với hoạ diệt vong, nếu không có biện pháp quyết đoán, loại bỏ những kẻ đối lập và thù địch nội bộ, chúng ta sẽ mất tất cả!”
              Diệp Văn Khiết ngẩng đầu lên nhìn Phan Hàn, ánh mắt ôn hoà, nhưng lại khiến anh ta phải nín thở mấy giây. “Mục tiêu và lý tưởng cuối cùng của tổ chức Tam Thể Địa Cầu chính là mất hết tất cả,
              mất hết tất cả mọi thứ hiện tại của nhân loại, bao gồm cả chúng ta.”
              “Vậy bà là người thuộc phe đổ bộ rồi! Thủ lĩnh, xin hãy tuyên bố rõ ràng điều này ra, điều này rất quan trọng với chúng tôi, có phải vậy không, các đồng chí? Rất quan trọng!!” Anh ta lớn tiếng hét lên, giơ cao một cánh tay, đưa mắt nhìn xung quanh, thấy tất cả đều im lặng, không một ai hưởng ứng.
              “Anh không phải là người đáng đưa ra yêu cầu này. Anh đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của tổ chức, nếu muốn khiếu nại, giờ có thể làm luôn; bằng không, anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình.” Diệp Văn Khiết nói rất chậm,
              từng chữ từng chữ một, như thể sợ đứa trẻ mà bà ta đang giáo dục nghe không hiểu vậy.
              “Tôi vốn định đi trừ khử tên thiên tài toán học kia, đây là quyết định của đồng chí Evans, đã được toàn thể thông qua trong cuộc họp. Nếu tên thiên tài ấy thật sự tìm ra được mô hình toán học hoàn chỉnh của chuyển động tam thể, Chúa sẽ không giáng xuống, sự nghiệp của Tam Thể ở Trái đất sẽ bị huỷ hoại trong một sớm một chiều. Lúc đó, tôi chỉ muốn tự vệ, là Thân Ngọc Phi nổ súng trước.”
              Diệp Văn Khiết gật đầu nói: “Coi như chúng tôi tin lời anh, dẫu sao đây cũng không phải là việc quan trọng nhất trước
              mắt, hy vọng sau này chúng tôi vẫn có thể tiếp tục tin tưởng ở anh. Anh hãy lặp lại yêu cầu vừa rồi của mình với tôi đi.”
              Phan Hàn thoáng ngẩn người ra giây lát, qua cửa ải vừa rồi dường như không hề khiến anh ta thở phào nhẹ nhõm chút nào: “Tôi… xin bà hãy tuyên bố rõ ràng mình theo phe đổ bộ, xét cho cùng, cương lĩnh của phe đổ bộ cũng chính là lý tưởng của bà.”
              “Anh hãy nhắc lại cương lĩnh đó đi.” “Xã hội loài người đã không thể nào
              dựa vào sức mạnh tự thân để giải quyết
              vấn đề của mình, cũng không thể trông vào sức mạnh tự thân để kìm hãm sự điên cuồng của chính mình; vì vậy, cần
              phải thỉnh cầu Chúa giáng xuống thế giới này, mượn sức mạnh của Chúa, tiến hành cưỡng chế giám sát và cải tạo loài người, nhằm sáng tạo ra một nền văn minh nhân loại hoàn toàn mới, hoàn thiện và sáng sủa.”
              “Phái đổ bộ có trung thành với cương lĩnh này không?”
              “Tất nhiên! Xin Thủ lĩnh chớ nên dễ dàng tin vào những lời đồn nhảm nhí.”
              “Đây không phải lời đồn!” Một người châu Âu lớn tiếng nói, đồng thời chen lên phía trước, “Tôi tên là Raphael, người Israel. Ba năm trước, đứa con trai mười bốn tuổi của tôi gặp tai nạn xe hơi, tôi đã hiến thận của thằng bé cho một cô gái người Palestine mắc chứng nhiễm trùng đường tiết niệu, dùng việc này để biểu đạt nguyện vọng của mình, mong cho hai dân tộc có thể chung sống hoà bình. Vì nguyện vọng này, tôi thậm chí có thể hy sinh cả tính mạng mình, rất nhiều người Israel và Palestine cũng đang nỗ lực một cách chân thành giống như tôi vậy. Nhưng tất cả đều vô ích, quê hương chúng tôi vẫn chìm trong vũng bùn thù hận, càng lúc càng lún sâu. Điều này đã khiến tôi mất đi lòng tin với nhân loại mà gia nhập tổ chức Tam Thể. Tuyệt vọng đã khiến tôi từ một người theo chủ nghĩa hoà bình trở thành phần tử cực đoan, đồng thời, có lẽ cũng do khoản quyên tặng khổng lồ của tôi với tổ chức, đã
              khiến tôi có thể trở thành nòng cốt của phe đổ bộ. Giờ đây, để tôi nói cho các vị biết, phe đổ bộ đã có cương lĩnh bí mật của riêng mình, đó chính là: loài người là giống vật xấu xa, văn minh nhân loại đã phạm tội ác tày trời với Trái đất, cần phải chịu trừng phạt vì việc đó. Mục tiêu cuối cùng của phe đổ bộ chính là cầu xin Chúa thi hành hình phạt thần thánh này: huỷ diệt toàn bộ loài người!”
              “Cương lĩnh thực sự của phe đổ bộ đã là một bí mật công khai!” Có người kêu lên.
              “Nhưng điều mà mọi người không biết là, cương lĩnh này không hề được phát triển từ cương lĩnh ban đầu, mà là mục
              tiêu đã được xác định ngay từ khi phe đổ bộ thành lập, là lý tưởng suốt đời của Evans! Hắn đã lừa gạt tổ chức, lừa gạt tất cả mọi người, kể cả Thủ lĩnh! Ngay từ thuở ban đầu, Evans đã nhắm đến mục tiêu này rồi, hắn ta đã biến phe đổ bộ trở thành một vương quốc khủng bố tạo nên bởi những kẻ theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường cực đoan và những kẻ điên căm thù cả nhân loại!”
              “Mãi về sau này tôi mới biết suy nghĩ chân thực của Evans.” Diệp Văn Khiết nói, “Mặc dù vậy, tôi vẫn cố gắng hàn gắn rạn nứt, để tổ chức Tam Thể Địa Cầu trở thành một chỉnh thể, nhưng phe đổ bộ đã làm ra một số sự việc khác, khiến cho những cố gắng này trở thành điều bất
              khả.”
              Phan Hàn nói: “Thủ lĩnh, phe đổ bộ là lực lượng nòng cốt của tổ chức Tam Thể Địa Cầu, không có chúng tôi thì sẽ không thể có phong trào Tam Thể trên địa cầu!”
              “Nhưng đây không phải lý do để các người lũng đoạn thông tin giữa tổ chức và Chúa!”
              “Căn cứ Hồng Ngạn 2 là do chúng tôi xây dựng, đương nhiên phải do chúng tôi vận hành!”
              “Phe đổ bộ đã lợi dụng điều kiện này để phản bội tổ chức, không thể tha thứ được: các người đã chặn lại thông tin Chúa gửi đến cho tổ chức, những gì các
              người truyền đạt lại cho tổ chức, chỉ là một phần cực nhỏ của thông tin thu nhận được, hơn nữa đã bị xuyên tạc bóp méo. Các người còn thông qua căn cứ Hồng Ngạn 2, chuyển đến Chúa rất nhiều thông tin chưa được tổ chức xét duyệt.”
              Bầu không khí im lặng nặng nề phủ xuống hội trường tựa như một vật thể khủng khiếp, khiến da đầu Uông Diểu ngứa ran. Phan Hàn không trả lời, vẻ mặt anh ta trở nên bình thản, tựa hồ như đang nói: Được rồi, rốt cuộc thì cũng xảy ra rồi.
              “Có rất nhiều chứng cứ về sự phản bội của phe đổ bộ, đồng chí Thân Ngọc Phi là một trong những người cung cấp
              bằng chứng đó, cô ấy từng là nòng cốt của phe đổ bộ, nhưng sâu trong nội tâm cô ấy lại là một phần tử kiên định của phe cứu thế, về sau các người mới phát hiện ra điều này. Cô ấy đã biết quá nhiều nên lần này Evans phái anh đi, là muốn giết hai người chứ không phải chỉ có một.”
              Phan Hàn đưa mắt nhìn xung quanh, rõ ràng đang nhanh chóng đánh giá tình thế, song động tác của anh ta không qua được mắt Diệp Văn Khiết.
              “Anh có thể thấy rõ, hầu hết người tham dự buổi họp này là đồng chí thuộc phe cứu thế, chỉ có một số ít thành viên phe đổ bộ, tôi tin rằng họ sẽ đứng về
              phía tổ chức, nhưng những kẻ như anh và Evans thì đã không thể cứu vãn được nữa. Để duy trì cương lĩnh và lý tưởng của tổ chức Tam Thể Địa Cầu, chúng tôi sẽ triệt để giải quyết vấn đề phe đổ bộ các người.”
              Sự im lặng lại một lần nữa bao trùm tất cả.
              Hai ba phút sau, một trong số vệ sĩ của Diệp Văn Khiết, một thiếu nữ xinh đẹp có thân hình mảnh mai nhoẻn miệng nở một nụ cười khiến người ta mê mẩn, nụ cười ấy thật thu hút, bao ánh mắt đổ dồn về phía cô. Cô gái uyển chuyển đi về phía Phan Hàn.
              Sắc mặt Phan Hàn tái mét, một tay
              thọc vào áo ngoài trước ngực, nhưng cô gái đã xông tới như một tia chớp, người bên cạnh còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, cô đã dùng cánh tay ngọc ngà mềm mại trông như sợi dây leo kẹp chặt cổ Phan Hàn, tay kia đặt lên đỉnh đầu anh ta, dùng sức mạnh tưởng chừng không thể có ở cô, cùng góc độ vận sức cực kỳ khéo léo, thành thạo xoay cái đầu của Phan Hàn đi một trăm tám mươi độ. Trong bầu không khí tĩnh lặng, tiếng xương cổ bị vặn gãy răng rắc nghe rõ mồn một. Hai tay cô gái đồng thời buông ra thật nhanh, như thể cái đầu đó đang nóng giãy lên. Phan Hàn ngã gục xuống đất, khẩu súng lục đã giết chết Thân Ngọc Phi trượt xuống gầm bàn. Thân
              hình anh ta vẫn đang co giật, hai mắt lồi ra, lưỡi thè thật dài, nhưng cái đầu lâu lại không nhúc nhích chút nào, tựa như nó chưa từng thuộc về thân thể ấy. Vài người kéo Phan Hàn đi, máu từ miệng anh ta ộc ra tạo thành một vệt dài trên mặt đất.
              “Ồ, Tiểu Uông cũng đến rồi, chào cậu.” Ánh mắt Diệp Văn Khiết dừng lại ở Uông Diểu, thân thiết mỉm cười và gật gật đầu với anh, sau đó nói với những người khác: “Đây là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học quốc gia, thầy giáo Uông Diểu, bạn của tôi, cậu ấy nghiên cứu vật liệu nano, là kỹ thuật mà Chúa muốn tiêu diệt đầu tiên ở địa cầu.”
              Không ai buồn nhìn Uông Diểu, Uông Diểu cũng không còn sức biểu lộ bất cứ thái độ gì, anh vô thức đưa một tay kéo lấy vạt áo người bên cạnh để có thể đứng vững, nhưng người đó đã nhẹ nhàng hất tay anh ra.
              Diệp Văn Khiết nói: “Tiểu Uông à, tiếp theo lần trước, tôi sẽ kể tiếp cho cậu nghe câu chuyện về Hồng Ngạn nhé, các đồng chí cũng nghe đi, không lãng phí thời gian đâu, vào thời khắc quan trọng này, chúng ta cần nhìn lại quá trình của tổ chức một chút.”
              “Chuyện về Hồng Ngạn… vẫn chưa kể hết sao?” Uông Diểu ngẩn người ra hỏi.
              Diệp Văn Khiết chậm rãi bước tới trước mô hình Tam Thể, mê mẩn nhìn những quả cầu bạc đang bay lượn, ánh tà dương xuyên qua cửa sổ vỡ chiếu lên mô hình ấy, những quả cầu bạc hắt ánh sáng lên khắp người vị thủ lĩnh quân phản loạn khó tin này, trông như một ngọn lửa.
              “Chưa hết, vừa mới bắt đầu.” Diệp Văn Khiết thấp giọng nói.

              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 05:42:05 bởi huytran >
              #22
                huytran 30.07.2017 05:43:52 (permalink)
                Chương 23 : Hồng Ngạn phần 5  
                 
                Từ khi vào căn cứ Hồng Ngạn, Diệp Văn Khiết đã không nghĩ đến việc có thể ra khỏi đó, sau khi biết được mục đích thực sự của công trình Hồng Ngạn (rất nhiều cán bộ trung, cao cấp trong căn cứ đều không biết thông tin tuyệt mật này), cô cũng cắt đứt luôn cả liên hệ về mặt tinh thần với thế giới bên ngoài, chỉ vùi đầu vào công việc. Từ đó trở đi, cô lại càng tiến sâu vào nhóm nòng cốt kỹ thuật của hệ thống Hồng Ngạn, bắt đầu đảm nhiệm những đề tài nghiên cứu tương đối quan trọng. Lôi Chí Thành vẫn luôn canh cánh trong lòng đối với sự tín nhiệm mà Dương Vệ Ninh dành cho Diệp Văn
                Khiết, nhưng anh ta vẫn rất sẵn lòng giao các đề tài nghiên cứu quan trọng cho cô. Bởi với thân phận của Diệp Văn Khiết, cô sẽ không có bất cứ quyền lợi nào đối với thành quả nghiên cứu của mình; mà trong căn cứ, chỉ có Lôi Chí Thành là xuất thân từ chuyên ngành vật lý thiên văn, lại còn là chính uỷ đi lên từ thành phần trí thức hiếm gặp thời bấy giờ; như vậy, thành quả và các luận văn của Diệp Văn Khiết cuối cùng đều bị anh ta chiếm đoạt, khiến anh ta trở thành điển hình vừa hồng vừa chuyên trong những cán bộ công tác chính trị của quân đội.
                Nguyên nhân ban đầu để Diệp Văn Khiết vào căn cứ Hồng Ngạn, là bài báo khoa học muốn thử nghiệm xây dựng mô
                hình toán học của Mặt trời mà cô đăng trên tạp chí Vật lý thiên văn hồi còn làm nghiên cứu sinh. Kỳ thực, Mặt trời là một hệ thống vật lý còn đơn giản hơn Trái đất, chỉ do hai loại nguyên tố rất đơn giản là hydro và heli tạo thành, quá trình vật lý của nó tuy rằng rất dữ dội, nhưng lại hết sức đơn giản, chỉ là phản ứng nhiệt hạch của hydro và heli, vì vậy, có khả năng xây dựng một mô hình toán học để miêu tả một cách tương đối chuẩn xác về Mặt trời. Bài báo khoa học đó vốn là một thứ rất lý thuyết, nhưng Dương Vệ Ninh và Lôi Chí Thành lại nhìn ra ở đó hy vọng giải quyết được một vấn đề khó về mặt kỹ thuật của hệ thống giám thính Hồng Ngạn.
                Vấn đề nhiễu tín hiệu khi giao hội với Mặt trời luôn gây khó khăn cho công tác giám thính của Hồng Ngạn. Danh từ này mượn từ thuật ngữ của ngành thông tấn vệ tinh vừa mới xuất hiện, nghĩa là Trái đất, vệ tinh và Mặt trời nằm trên cùng một đường thẳng, Mặt trời nằm sau làm nền cho vệ tinh khi nhìn từ ăng ten trên mặt đất, mà Mặt trời lại là một nguồn phát xạ điện từ khổng lồ, lúc này vi sóng từ vệ tinh phát xuống mặt đất sẽ bị bức xạ điện từ của Mặt trời gây nhiễu nghiêm trọng, vấn đề này về sau mãi đến thế kỷ 21 cũng không thể giải quyết được. Vấn đề gây nhiễu tín hiệu mà hệ thống Hồng Ngạn gặp phải cũng tương tự, chỉ khác ở chỗ nguồn gây nhiễu (Mặt trời) nằm ở giữa
                nguồn phát xạ (ngoài vũ trụ) và thiết bị tiếp nhận. So với thông tấn vệ tinh, thời gian bị gây nhiễu của Hồng Ngạn nhiều hơn, cũng nghiêm trọng hơn. Trên thực tế, hệ thống Hồng Ngạn lại còn thu nhỏ rất nhiều so với thiết kế, hệ thống giám thính và phát xạ dùng chung một ăng ten, điều này khiến cho thời gian giám thính tương đối quý báu, vấn đề nhiễu tín hiệu vì Mặt trời cũng trở thành một vấn đề nghiêm trọng.
                Suy nghĩ của Dương Vệ Ninh và Lôi Chí Thành rất đơn giản: tìm ra được quy luật và đặc điểm phổ tần số của sóng điện từ do Mặt trời phát xạ thuộc dải sóng mà họ giám sát, rồi dùng bộ lọc kỹ thuật số lọc nó đi là có thể loại trừ nhiễu.
                Hai người họ đều là chuyên gia kỹ thuật, ở cái thời người ngoài ngành lãnh đạo người trong ngành này, đây đã là điều cực kỳ hiếm có và đáng quý. Nhưng Dương Vệ Ninh không nghiên cứu vật lý thiên văn, Lôi Chí Thành thì lại đi theo con đường công tác chính trị, không thể nào am hiểu quá sâu về mặt chuyên môn. Kỳ thực, bức xạ điện từ Mặt trời chỉ ổn định trong dải sóng từ tử ngoại cho đến trung hồng ngoại, bao gồm cả ánh sáng nhìn thấy được, còn trên những dải sóng khác, bức xạ của nó luôn hỗn loạn bất định. Diệp Văn Khiết thoạt đầu đã sáng suốt chỉ rõ điểm này trong báo cáo nghiên cứu đầu tiên: trong thời kỳ Mặt trời hoạt động bùng phát dữ dội như khi
                xuất hiện vết đen, tai lửa, phun trào nhật hoa thì không thể loại trừ tác nhân gây nhiễu. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu chỉ giới hạn trong bức xạ điện từ thuộc dải sóng mà Hồng Ngạn giám sát khi Mặt trời hoạt động bình thường mà thôi.
                Điều kiện nghiên cứu trong căn cứ cũng rất tốt, phòng Tài liệu có thể tuỳ theo nội dung đề tài nghiên cứu mà chuyển đến các tài liệu thiên văn tương đối đầy đủ, còn cả những tập san khoa học Âu Mỹ rất cập nhật nữa, trong thời đại đó, đây là việc không dễ dàng gì. Diệp Văn Khiết còn có thể thông qua mạng lưới của quân đội liên hệ với hai đơn vị nghiên cứu về Mặt trời ở Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc, có được
                số liệu quan trắc thời gian thực của họ qua fax.
                Nghiên cứu của Diệp Văn Khiết kéo dài nửa năm, hầu như không thấy bất cứ hy vọng thành công nào. Cô nhanh chóng nhận ra, trong phạm vi tần số quan trắc của Hồng Ngạn, bức xạ Mặt trời biến ảo khôn lường. Thông qua phân tích một lượng lớn số liệu quan trắc, Diệp Văn Khiết phát hiện ra một điểm thần bí khiến cô hoang mang không hiểu nổi: có lúc, một dải tần bức xạ xảy ra đột biến nhưng hoạt động ở bề mặt Mặt trời lại yên ả như thường, số liệu của hơn 1000 lần quan trắc đều chứng thực điều này. Cô không sao giải thích được. Bức xạ dải tần sóng ngắn và vi sóng không thể nào
                đến từ lõi Mặt trời, xuyên thấu qua lớp ngoài dày mấy trăm nghìn kiômét của nó, mà chỉ có thể sinh ra từ hoạt động bề mặt của Mặt trời, khi xảy ra đột biến, lẽ ra có thể quan trắc được những hoạt động đó. Nếu Mặt trời không có hoạt động tương ứng, vậy thì đột biến của bức xạ trong dải tần hẹp này do thứ gì gây ra? Chuyện này khiến cô càng nghĩ càng cảm thấy thần bí.
                Nghiên cứu đã đi vào ngõ cụt, Diệp Văn Khiết quyết định bỏ cuộc. Trong bản báo cáo cuối cùng, cô thừa nhận mình không thể làm gì hơn. Chuyện này hẳn cũng dễ ăn dễ nói, những nghiên cứu tương tự của mấy đơn vị thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc và trường đại
                học mà phía quân đội uỷ thác đều kết thúc bằng thất bại, Dương Vệ Ninh chẳng qua chỉ muốn tranh thủ tài hoa hơn người của Diệp Văn Khiết thử thêm một lần nữa mà thôi. Suy nghĩ thực sự của Lôi Chí Thành thì còn đơn giản hơn, anh ta chỉ muốn luận văn của Diệp Văn Khiết. Hạng mục nghiên cứu này có tính lý thuyết rất cao, càng có thể bộc lộ trình độ và vị thế của anh ta. Hiện nay, làn sóng điên cuồng trong xã hội đã dần dần lắng xuống, yêu cầu đối với cán bộ cũng có ít nhiều thay đổi, người vững vàng về mặt chính trị, lại có kiến thức học thuật như anh ta cực kỳ hiếm hoi, tất nhiên là tiền đồ thênh thang rồi. Còn về vấn đề tín hiệu bị nhiễu có giải quyết được hay
                không, anh ta cũng chẳng quan tâm là mấy.
                Nhưng Diệp Văn Khiết cuối cùng vẫn không nộp bản báo cáo đó lên, cô nghĩ rằng, nếu nghiên cứu kết thúc, việc thu thập tài liệu và đặt các tập san học thuật tiếng nước ngoài của phòng Tài liệu trong căn cứ sẽ bị đình chỉ, cô sẽ không thể nào tiếp xúc với các tài liệu vật lý thiên văn phong phú như trước nữa. Vì vậy, trên danh nghĩa, cô vẫn tiếp tục thực hiện hạng mục nghiên cứu này, thực tế là âm thầm xây dựng mô hình toán học cho Mặt trời của riêng mình.
                Đêm đó, gian đọc sách lạnh lẽo của phòng Tài liệu như thường lệ chỉ có một
                mình Diệp Văn Khiết, trên chiếc bàn dài trước mặt cô bày ra một đống tập san và tài liệu. Sau khi hoàn thành tính toán một ma trận phức tạp, cô xoa xoa bàn tay lạnh cứng, cầm tờ tạp chí Vật lý thiên văn số mới nhất lên, tuỳ tiện lật giở vài trang để cho đầu óc nghỉ ngơi, một bài báo khoa học về nghiên cứu Mộc tinh đã thu hút sự chú ý của cô, phần tóm tắt trọng điểm của bài báo như sau:
                Trong tin ngắn “Nguồn phát xạ mạnh mới trong Hệ Mặt trời” ở số trước, tiến sĩ Harry Peterson ở Đài thiên văn Núi Wilson đã công bố một loạt số liệu, đó là do trong quá trình quan trắc độ lắc trong chuyển động tự quay của Mộc tinh do lực hấp dẫn của
                hành tinh gây ra vào hai ngày 12 tháng 6 và 2 tháng 7, ông ta đã hai lần tình cờ kiểm tra và đo lường được bản thân Mộc tinh đang phát ra bức xạ điện từ mạnh mẽ, lần lượt kéo dài 81 giây và 76 giây, những số liệu này ghi lại phạm vi tần số và các tham số khác của bức xạ đó. Trong khoảng thời gian sóng vô tuyến bùng phát, quan sát được một số biến đổi của Vết Đỏ Lớn(*) trên bề mặt Mộc tinh, Peterson cũng đã miêu tả lại trong tin ngắn đó. Hiện tượng bùng phát sóng vô tuyến ở Mộc tinh đã gây rất nhiều hứng thú trong giới nghiên cứu hành tinh, bài viết của G. McKenzie số này cho rằng đây là dấu hiệu báo trước phản ứng nhiệt hạch
                trong lõi Mộc tinh khởi động; số sau sẽ đăng bài viết của Inoue Kumoseki, quy kết hiện tượng bùng phát sóng vô tuyến ở Mộc tinh về một cơ chế phức tạp hơn: sự chuyển động của các khối hydro kim loại(**) bên trong, đồng thời còn đưa ra mô hình toán học hoàn chỉnh.
                (*) Vết Đỏ Lớn là một xoáy khí quyển hình bầu dục rất lớn, được quan sát thấy từ thế kỷ 17 và được coi là một đặc trưng cố định trong khí quyển sao Mộc.
                (**) Hydro lỏng nén thành hydro kim loại, có tính dẫn điện và là tác nhân tạo ra từ trường.
                Diệp Văn Khiết nhớ rất rõ hai mốc thời gian này, lúc đó, hệ thống giám thính Hồng Ngạn đã bị nhiễu tín hiệu nghiêm trọng. Cô kiểm tra lại nhật ký vận hành, xác nhận trí nhớ của mình, chỉ là thời gian nhiễu tín hiệu do giao hội với Mặt trời chậm hơn thời gian bức xạ điện từ từ Mộc tinh đến Trái đất 16 phút 40 giây, mấu chốt là ở chỗ 16 phút 40 giây này! Diệp Văn Khiết cố kiềm chế nhịp tim đập dồn dập, nhờ nhân viên phụ trách trong phòng Tài liệu liên lạc với Đài thiên văn quốc gia, lấy được toạ độ vị trí của Mộc tinh và Trái đất vào hai thời điểm đó. Cô vẽ ra một hình tam giác lớn trên bảng đen, ba đỉnh lần lượt là Mặt trời, Trái đất và Mộc tinh. Cô lần lượt
                ghi khoảng cách lên ba cạnh tam giác, ghi hai thời gian lên chỗ đỉnh tam giác biểu thị cho Trái đất. Từ khoảng cách từ Mộc tinh đến Trái đất, có thể tính ra thời gian để bức xạ điện từ trực tiếp phát từ Mộc tinh đến Trái đất, kế đó cô lại tính ra thời gian bức xạ điện từ từ Mộc tinh đến Mặt trời, rồi từ Mặt trời đến Trái đất, hai khoảng thời gian này chênh lệch nhau 16 phút 42 giây!
                Diệp Văn Khiết giở lại mô hình toán học mô tả cấu trúc Mặt trời mà trước đó mình đã thực hiện, thử tìm kiếm chút manh mối trên lý thuyết. Ánh mắt cô nhanh chóng dán chặt vào một thứ gọi là “mặt gương năng lượng” bên trong tầng bức xạ Mặt trời. Năng lượng phát ra từ
                các phản ứng ở lõi Mặt trời thoạt đầu bắn ra dưới dạng tia gamma cao năng lượng, tầng bức xạ hấp thu những hạt năng lượng này, rồi phát xạ tiếp để thực hiện việc truyền năng lượng; trải qua quá trình dài đằng đẵng vô số lần hấp thu rồi lại phát xạ (một photon muốn thoát ra khỏi Mặt trời có thể cần đến 1000 năm), tia gamma năng lượng cao lần lượt giảm thành tia X, tia cực tử ngoại, tia tử ngoại rồi dần dần biến thành ánh sáng nhìn thấy được và các loại bức xạ khác. Trong ngành nghiên cứu về Mặt trời, đây là những nội dung đã được chứng minh từ lâu. Mô hình toán học của Diệp Văn Khiết xuất hiện một kết quả mới, đó là: giữa sự chuyển đổi qua các bức xạ tần số
                khác nhau, có rất nhiều mặt biên rõ rệt, từ trong ra ngoài tầng bức xạ, mỗi lần vượt qua một mặt biên, tần số bức xạ sẽ hạ xuống một cấp, điều này hơi khác với quan điểm truyền thống cho rằng tần số ở tầng bức xạ thay đổi dần dần. Tính toán cho thấy, mặt biên này sẽ phản xạ các tia đến ở bên có tần số thấp, vì vậy cô đã nghĩ ra cái tên “mặt gương năng lượng”.
                Diệp Văn Khiết đã từng nghiên cứu một cách tỉ mỉ những lớp màng mỏng này trôi nổi bất định giữa biển plasma của Mặt trời, cô phát hiện, thứ này chỉ có thể xuất hiện trong lòng biển có mật độ năng lượng cao bên trong các ngôi sao, có rất nhiều tính chất kỳ diệu, khó tin nhất là nó có đặc tính “phản xạ tăng công suất”, mà
                đặc tính này dường như lại có liên quan đến bí ẩn về bức xạ điện từ của Mặt trời. Nhưng đặc tính này quá đỗi ly kỳ, khó lòng chứng thực được, bản thân Diệp Văn Khiết cũng khó mà tin nổi, thậm chí còn có khả năng đây là do một số sai sót trong những tính toán vốn phức tạp đến độ khiến người ta phải xây xẩm mặt mày.
                Lúc này, Diệp Văn Khiết đã sơ bộ chứng thực được những suy đoán của mình về phản xạ tăng công suất của mặt gương năng lượng bên trong Mặt trời: mặt gương năng lượng không chỉ phản xạ lại bức xạ điện từ ở bên có tần số thấp hơn, mà còn khuếch đại nó lên! Những đột biến thần bí ở dải tần hẹp quan trắc được trước đó, kỳ thực là do kết quả của
                việc bức xạ từ vũ trụ bị khuếch đại lên, vì vậy trên bề mặt Mặt trời không quan sát thấy bất cứ hoạt động nào tương ứng.
                Rất có khả năng, lần này, Mặt trời nhận được bức xạ điện từ của Mộc tinh rồi lại phản xạ nó ra, chỉ có điều, cường độ đã tăng lên gần một trăm triệu lần! Trái đất đã lần lượt nhận được hai đợt bức xạ này với độ trễ thời gian là 16 phút 42 giây.
                Mặt trời là một cỗ máy khuếch đại sóng điện từ!
                Ở đây lại xuất hiện một vấn đề: Mặt trời lúc nào cũng nhận bức xạ điện từ từ vũ trụ, kể cả sóng vô tuyến điện từ Trái đất, tại sao nó chỉ khuếch đại một phần
                trong số đó mà thôi? Nguyên nhân rất rõ ràng: ngoài việc bản thân mặt gương năng lượng đã có tính chọn lọc đối với tần số được nó phản xạ, nguyên nhân chủ yếu là do tác dụng che chắn của tầng đối lưu Mặt trời. Tầng đối lưu không ngừng sôi sục nằm bên trên tầng bức xạ, là tầng chất lỏng ở ngoài cùng Mặt trời. Sóng điện từ từ vũ trụ trước tiên phải xuyên qua được tầng đối lưu mới có thể đến với mặt gương năng lượng ở tầng bức xạ, để được khuếch đại, phản xạ ra ngoài. Để đạt được điều đó, công suất của sóng điện từ bắn vào cần phải vượt qua một trị số tuyệt đối, đại đa số sóng vô tuyến điện trên Trái đất đều thấp hơn trị số tuyệt đối này rất nhiều, nhưng bức xạ
                điện từ của Mộc tinh đã vượt qua nó…
                Công suất phát xạ lớn nhất của Hồng Ngạn cũng vượt qua trị số tuyệt đối này!
                Vấn đề nhiễu tín hiệu do giao hội với Mặt trời vẫn chưa được giải quyết, nhưng một khả năng khiến người ta phải kích động đã xuất hiện: loài người có thể coi Mặt trời như một ăng ten siêu cấp, thông qua nó để phát sóng điện từ vào vũ trụ, sóng này sẽ được phát đi với năng lượng cấp ngôi sao, công suất của nó còn cao gấp trăm triệu lần so với toàn bộ công suất phát xạ mà Trái đất có thể sử dụng.
                Văn minh Trái đất có thể tiến hành phát xạ sóng điện từ với cấp độ tương
                đương nền văn minh cấp II.
                Bước tiếp theo, cần phải đối chiếu đồ thị sóng của hai lần Mộc tinh phát ra bức xạ điện từ và đồ thị sóng khi Hồng Ngạn bị nhiễu tín hiệu do giao hội với Mặt trời, nếu khớp nhau, suy đoán này của cô có thể chứng thực thêm một bước nữa.
                Diệp Văn Khiết đề xuất yêu cầu với lãnh đạo, muốn liên lạc với Harry Peterson, lấy được bản ghi đồ thị sóng của hai lần Mộc tinh bùng phát bức xạ điện từ. Đây không phải việc dễ dàng, không có kênh nào để thông qua, lại còn vô số thủ tục phải làm ở các ban các ngành, sai sót một chút là bị nghi ngờ cấu kết tư thông với nước ngoài ngay, Diệp
                Văn Khiết đành phải đợi.
                Nhưng vẫn còn một phương pháp chứng thực trực tiếp hơn: sử dụng hệ thống Hồng Ngạn trực tiếp phát xạ sóng điện từ về phía Mặt trời với công suất cao hơn trị số tuyệt đối đó.
                Diệp Văn Khiết đi tìm lãnh đạo, đề bạt yêu cầu này, nhưng không dám nói thẳng ra suy nghĩ của mình, cách nghĩ ấy quá mơ hồ, chắc chắn sẽ bị phủ quyết, cô chỉ nói đây là một thí nghiệm tiến hành để nghiên cứu Mặt trời, biến hệ thống phát xạ Hồng Ngạn thành radar thám trắc Mặt trời, sử dụng sóng phản xạ lại để phân tích một số thông tin phản ánh bức xạ điện từ của Mặt trời. Lôi Chí Thành
                và Dương Vệ Ninh đều có nền tảng kỹ thuật rất sâu, muốn gạt bọn họ không phải việc dễ, nhưng thí nghiệm mà Diệp Văn Khiết nhắc đến quả thực đã có tiền lệ trong công tác nghiên cứu Mặt trời ở phương Tây. Thực tế, trên phương diện kỹ thuật, việc này so với việc thám trắc bằng radar đối với các hành tinh đất đá(*) mà họ đang tiến hành còn đơn giản hơn.
                (*) Hành tinh đất đá là những hành tinh như Trái đất, sao Kim, sao Hoả… có bề mặt cứng, chắc, chứa nhiều kim loại nặng, phân biệt với hành tinh khí khổng lồ chứa chủ yếu hydro và heli như sao Mộc, sao Thổ, và hành tinh băng khổng lồ chứa chủ yếu ôxy,
                cacbon, nitơ và lưu huỳnh, như sao Thiên vương và Hải vương.
                “Diệp Văn Khiết à, càng lúc cô lại càng đi quá giới hạn rồi đó, đề tài của cô cứ nghiên cứu về mặt lý thuyết là được rồi, có cần thiết phải làm lớn như thế không?” Lôi Chí Thành lắc đầu nói.
                “Thưa chính uỷ, có thể sẽ có phát hiện lớn. Thực nghiệm là điều cần thiết, chỉ một lần này thôi, được không?” Diệp Văn Khiết khổ sở nài xin.
                Dương Vệ Ninh nói: “Chính uỷ Lôi, hay là làm một lần đi? Về mặt thao tác hình như cũng không có khó khăn gì nhiều, sau khi phát xạ, sóng dội cần…”
                “Mười chín phút đúng không?” Lôi Chí Thành nói.
                “Như vậy hệ thống Hồng Ngạn vừa khéo có đủ thời gian để chuyển sang trạng thái thu nhận tín hiệu.”
                Lôi Chí Thành lại lắc đầu, “Tôi biết về mặt kỹ thuật và lượng công việc phải làm đều chẳng đáng là gì cả, nhưng… chậc, kỹ sư trưởng Dương, thứ mà anh thiếu chính là sự nhạy cảm này đấy… phát sóng điện từ siêu mạnh lên Mặt trời, anh đã nghĩ đến hàm nghĩa chính trị của thí nghiệm này chưa hả?”
                Dương Vệ Ninh và Diệp Văn Khiết nhất thời đều trợn mắt há hốc miệng ra, không phải họ cảm thấy lý do này hoang
                đường, mà ngược lại, lại cảm thấy sợ hãi vì mình đã không nghĩ đến nó. Những năm ấy, lý giải về chính trị đối với hết thảy mọi sự vật đều đã đạt đến mức độ cực kỳ hoang đường, sau khi Diệp Văn Khiết nộp lên báo cáo nghiên cứu, Lôi Chí Thành phải đọc duyệt thật cẩn thận, nhiều lần cân nhắc sửa chữa những thuật ngữ liên quan đến Mặt trời, những từ như “vết đen trên Mặt trời” hay tương tự đều không thể xuất hiện(*). Thí nghiệm phát xạ sóng điện từ siêu mạnh về phía Mặt trời tất nhiên có thể đưa ra một nghìn một vạn lời giải thích tích cực, nhưng chỉ cần có một lời giải thích tiêu cực thôi, là có thể sẽ có người bị đại hoạ ập xuống đầu ngay tức khắc. Lý do từ chối thực hiện
                thí nghiệm này của Lôi Chí Thành quả thực không thể nào lay chuyển.
                (*) Trong thời Cách mạng văn hoá, Mao Chủ tịch thường được ví như Mặt trời.
                Song Diệp Văn Khiết không bỏ cuộc, thực ra chỉ cần mạo hiểm một chút là có thể dễ dàng thực hiện việc này. Thiết bị phát xạ của hệ thống Hồng Ngạn có công suất siêu lớn, toàn bộ đều sử dụng linh kiện sản xuất trong nước thời kỳ Cách mạng văn hoá, vì chất lượng không đạt tiêu chuẩn nên tỷ lệ xảy ra sự cố rất cao, không thể không cách mười lăm lần phát xạ lại phải kiểm tra đại tu toàn diện lại một lần, mỗi lần đại tu xong đều phải vận
                hành thử, những người tham gia vào việc phát xạ này rất ít, mục tiêu và các tham số phát xạ khác cũng tương đối tuỳ tiện.
                Trong một lần trực ban, Diệp Văn Khiết được phân cho việc vận hành thử thường lệ sau khi đại tu, vì phát xạ thử đã lược bớt đi rất nhiều thao tác nên ở hiện trường ngoài Diệp Văn Khiết ra chỉ có năm người khác, trong đó có ba người là nhân viên thao tác biết rất ít về nguyên lý của thiết bị, ngoài ra, một kỹ thuật viên và một kỹ sư còn lại đã mệt lử người vì liên tục kiểm tra, đại tu thiết bị suốt hai ngày, tâm trí đều để tận đâu đâu. Trước tiên, Diệp Văn Khiết cài đặt cho công suất phát xạ vừa khéo nằm trên trị số tuyệt đối trong lý thuyết về phản xạ
                tăng công suất của Mặt trời (đây đã là công suất lớn nhất mà hệ thống phát xạ Hồng Ngạn có thể đạt được), tần số được cài đặt trên dải tần có nhiều khả năng được mặt gương năng lượng khuếch đại nhất, rồi lợi dụng danh nghĩa thử nghiệm tính năng cơ khí của ăng ten, nhắm nó vào vầng dương đã ngả về phía Tây, nội dung phát xạ vẫn giống như những lần phát xạ chính quy trước đây.
                Đó là một buổi chiều mùa thu nắng ráo năm 1971, sau này, Diệp Văn Khiết nhiều lần nhớ lại thời khắc đó, cũng không có cảm giác gì đặc biệt, mà chỉ thấy nôn nao lo lắng, mong ngóng việc phát xạ nhanh chóng hoàn thành, một mặt là sợ bị những đồng nghiệp có mặt ở đó
                phát hiện, tuy rằng cô đã nghĩ sẵn lý do để biện bạch, nhưng tiến hành phát xạ thử nghiệm với công suất lớn nhất, tiêu hao thiết bị nhất dẫu sao vẫn là việc không bình thường. Đồng thời, thiết bị định vị của hệ thống phát xạ Hồng Ngạn không thiết kế để nhắm vào Mặt trời, Diệp Văn Khiết dùng tay cũng cảm nhận được kính ngắm quang học đang nóng bừng lên, nếu bị hỏng thì phiền phức rất lớn. Mặt trời từ từ lặn xuống bên trời Tây, Diệp Văn Khiết không thể không dịch chuyển cần điều khiển bám theo, lúc này, cột ăng ten của Hồng Ngạn giống như một đài hoa hướng dương khổng lồ, chầm chậm chuyển động theo vầng dương đang lặn xuống. Khi đèn đỏ báo việc phát xạ đã
                hoàn thành, toàn thân cô đã ướt sũng mồ hôi. Ngoảnh đầu nhìn lại, ba nhân viên thao tác đang ở trên bục điều khiển lần lượt tắt thiết bị đi theo đúng sách hướng dẫn, tay kỹ sư thì ngồi trong góc phòng điều khiển uống nước, kỹ thuật viên thì đã dựa vào chiếc ghế dài ngủ thiếp từ lúc nào. Dẫu cho sau này các nhà sử học và nhà văn miêu tả thế nào thì tình cảnh chân thực lúc đó đúng là chẳng có gì đặc biệt như vậy đấy.
                Vừa hoàn thành phát xạ, Diệp Văn Khiết đã xông ra khỏi phòng điều khiển, chạy vào phòng làm việc của Dương Vệ Ninh, thở hồng hộc nói: “Nhanh lên, để cho điện đài vô tuyến của căn cứ tiếp sóng ở kênh 12.000 megaherzt!”
                “Tiếp cái gì hả?” Kỹ sư trưởng Dương Vệ Ninh kinh ngạc nhìn Diệp Văn Khiết đang mồ hôi rũ rượi, tóc ướt dính bết cả lên mặt, so với hệ thống Hồng Ngạn có khả năng bắt sóng cực nhạy, điện đài quân dụng của căn cứ bình thường dùng để liên lạc với thế giới bên ngoài chỉ là một món đồ chơi mà thôi.
                “Có lẽ sẽ nhận được thứ gì đó, hệ thống Hồng Ngạn không đủ thời gian chuyển sang trạng thái tiếp sóng rồi!” Diệp Văn Khiết nói. Trong tình trạng bình thường, hệ thống Hồng Ngạn chỉ cần hơn 10 phút để làm nóng và chuyển đổi, nhưng lúc này hệ thống tiếp nhận tín hiệu cũng đang kiểm tra tu sửa, rất nhiều
                module bị tháo ra vẫn chưa lắp lại hoàn chỉnh, không thể vận hành trong thời gian ngắn được.
                Dương Vệ Ninh nhìn Diệp Văn Khiết trong mấy giây, cầm điện thoại lên, dặn dò phòng thông tin cơ yếu làm theo lời cô. “Độ chính xác của điện đài ấy, đại khái chỉ nhận được tín hiệu của người ngoài hành tinh trên mặt trăng thôi.”
                “Tín hiện đến từ Mặt trời.” Diệp Văn Khiết nói. Ngoài cửa sổ, phần rìa Mặt trời đã chạm đến đỉnh núi ở đường chân trời, đỏ rực như máu.
                “Cô đã dùng hệ thống Hồng Ngạn phát tín hiệu về phía Mặt trời rồi hả?” Dương Vệ Ninh căng thẳng hỏi.
                Diệp Văn Khiết gật đầu.
                “Chuyện này đừng nói với người nào khác, không có lần sau, tuyệt đối không có lần sau đâu đấy!” Dương Vệ Ninh cảnh giác ngoảnh đầu ra cửa phòng, nói.
                Diệp Văn Khiết lại gật đầu.
                “Làm vậy có ý nghĩa gì đâu chứ, sóng dội lại nhất định là cực kỳ yếu ớt, ở rất xa khả năng tiếp sóng của điện đài loại bình thường này.”
                “Không, nếu suy đoán của tôi là chính xác, chúng ta sẽ nhận được sóng dội cực mạnh, mạnh đến mức… khó lòng tưởng tượng nổi, chỉ cần công suất phát xạ vượt qua một trị số tuyệt đối, Mặt trời… sẽ có
                thể khuếch đại sóng điện từ lên gấp trăm triệu lần!”
                Dương Vệ Ninh lại kinh ngạc tròn mắt nhìn Diệp Văn Khiết, nhưng cô chỉ trầm mặc không nói gì. Hai người lặng lẽ chờ đợi, Dương Vệ Ninh có thể nghe thấy rõ mồn một tiếng thở và tiếng tim Diệp Văn Khiết đang đập, anh không để ý lắm những lời cô vừa nói, chỉ là tình cảm chôn giấu bao nhiêu năm nay bỗng lại trào dâng trong tâm trí. Nhưng anh chỉ có thể kiềm chế bản thân, cùng cô chờ đợi. Hai mươi phút sau, Dương Vệ Ninh cầm điện thoại lên, yêu cầu chuyển máy đến phòng thông tin, hỏi hai ba câu đơn giản.
                “Không nhận được gì cả.” Dương Vệ
                Ninh đặt điện thoại xuống.
                Diệp Văn Khiết thở dài một hơi, hồi lâu sau mới khẽ gật đầu.
                “Nhà thiên văn học người Mỹ kia hồi âm rồi.” Dương Vệ Ninh lấy ra một phong thư dày cộp đưa cho Diệp Văn Khiết, bên trên đóng đầy các loại dấu má của hải quan. Diệp Văn Khiết nôn nóng bóc thư, trước tiên đọc lướt một lượt thư của Harry Peterson, trong thư nói ông ta không ngờ ở Trung Quốc cũng có đồng nghiệp nghiên cứu môn điện từ học hành tinh này, hy vọng có thể liên hệ và hợp tác nhiều hơn. Ông ta gửi đến hai tập tài liệu, trong đó ghi lại hoàn chỉnh đồ thị sóng của hai đợt bức xạ điện từ đến từ
                Mộc tinh. Đồ thị sóng rõ ràng là được sao chụp lại từ dải băng giấy ghi tín hiệu, phải ghép lại mới xem được, mà người Trung Quốc thời đó, hầu hết là chưa từng trông thấy máy photocopy bao giờ. Diệp Văn Khiết đem mấy chục tờ giấy in ghép thành hai hàng dài dưới sàn nhà, xếp được một nửa thì cô đã không còn bất cứ hy vọng nào nữa, cô đã quá quen thuộc với đồ thị sóng của hai lần nhiễu tín hiệu do giao hội với Mặt trời ấy, chắc chắn là không hề khớp với hai đồ thị sóng này.
                Diệp Văn Khiết từ từ thu dọn hai xấp giấy in trên sàn lại. Dương Vệ Ninh ngồi xổm xuống giúp cô một tay, khi anh đưa xấp giấy trong tay cho cô gái mà anh đã thầm yêu sâu sắc, trông thấy cô lắc đầu
                mỉm cười, nụ cười thê lương ấy khiến trái tim anh run lên.
                “Sao vậy?” Dương Vệ Ninh khẽ hỏi, không hề ý thức được rằng mình chưa bao giờ dịu giọng như vậy khi nói chuyện với cô.
                “Chẳng có gì đâu, chỉ là một giấc mơ, vừa tỉnh lại mà thôi.” Diệp Văn Khiết nói xong lại cười cười, ôm lấy chồng giấy và lá thư ra khỏi phòng làm việc. Cô về chỗ ở của mình, lấy hộp cơm đi lên nhà ăn, bấy giờ mới nhận ra chỉ còn lại bánh bao và dưa cải muối. Người ở nhà ăn còn bực dọc bảo cô rằng sắp đóng cửa rồi, cô đành đem hộp cơm đi ra, tới trước vách đá kia, ngồi trên thảm
                cỏ mà gặm bánh bao lạnh ngắt.
                Lúc này, Mặt trời đã xuống núi, cả dãy núi Đại Hưng An trông mù mịt hệt như cuộc sống của Diệp Văn Khiết, giữa sắc màu xám xịt ấy, giấc mơ lại trở nên rực rỡ sáng loà gấp bội. Nhưng giấc mơ rốt cuộc cũng sẽ mau chóng tỉnh lại, giống như vầng Mặt trời kia, dù rằng nó sẽ tiếp tục mọc lên, nhưng đã không còn mang theo niềm hy vọng mới nữa rồi. Lúc này, Diệp Văn Khiết chợt trông thấy nửa cuộc đời về sau của mình cũng chỉ có một màu xám xịt vô biên vô tận như thế. Cô nuốt nước mắt, lại mỉm cười, tiếp tục gặm cái bánh bao nguội ngắt.
                Diệp Văn Khiết không hề biết, đúng
                lúc này, tiếng kêu đầu tiên có thể nghe thấy được mà nền văn minh địa cầu phát ra, đã lấy Mặt trời làm trung tâm, bay đi khắp vũ trụ với vận tốc ánh sáng. Sóng điện từ cực mạnh phát đi với công suất cấp độ ngôi sao tựa như đợt sóng triều cuồn cuộn, lúc này đã vượt qua quỹ đạo của Mộc tinh.
                Lúc này, ở dải tần 12.000 megaherzt, Mặt trời là ngôi sao sáng nhất trong hệ Ngân Hà.

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 05:49:19 bởi huytran >
                #23
                  huytran 30.07.2017 05:55:14 (permalink)
                  Chương 24 : Hồng Ngạn phần 6  
                   
                  Tám năm sau đó là khoảng thời gian bình lặng nhất trong cuộc đời Diệp Văn Khiết. Những hoảng loạn gây ra bởi trải nghiệm trong cuộc Cách mạng văn hoá đã dần dần lắng xuống, rốt cuộc cô cũng có thể phần nào thả lỏng tinh thần. Công trình Hồng Ngạn đã hoàn thành giai đoạn thực nghiệm và chạy rốt đa, tất cả dần dần đi vào quy củ, các vấn đề kỹ thuật cần phải giải quyết càng lúc càng ít đi, công việc và cuộc sống cũng đã trở nên có quy luật.
                  Sau khoảng thời gian bình tĩnh, những ký ức bấy lâu nay vẫn bị sự căng thẳng
                  và nỗi sợ áp chế bắt đầu thức tỉnh, Diệp Văn Khiết phát hiện, nỗi đau thực sự chỉ vừa mới bắt đầu. Ký ức tựa như ác mộng như thể vô số mồi lửa cháy bùng trở lại trong đống tro tàn, càng cháy càng mạnh, thiêu đốt linh hồn cô. Với những người phụ nữ bình thường, có lẽ thời gian có thể làm những vết thương ấy dần khép miệng, xét cho cùng, những phụ nữ gặp cảnh ngộ giống như cô trong Cách mạng văn hoá quá nhiều, so với rất nhiều người trong số họ, cô đã xem như là người may mắn. Nhưng Diệp Văn Khiết là một phụ nữ làm khoa học, cô từ chối quên lãng, hơn nữa còn dùng con mắt lý tính nhìn thẳng vào những cuồng điên và cố chấp đã khiến cô tổn thương ấy.
                  Kỳ thực, những suy xét lý tính về mặt ác của con người của Diệp Văn Khiết đã bắt đầu từ cái ngày mà cô đọc được Mùa xuân tĩnh lặng. Cùng với quan hệ càng lúc càng thân thiết với Dương Vệ Ninh, Diệp Văn Khiết đã thông qua anh, lấy danh nghĩa là thu thập tài liệu kỹ thuật, mua về rất nhiều tác phẩm lịch sử và triết học kinh điển bằng tiếng nước ngoài, lịch sử nhân loại được tô điểm bằng những vệt máu loang lổ khiến cô không rét mà run, đồng thời, tư tưởng trác việt của những nhà tư tưởng đó cũng đã dẫn dắt cô đi vào chốn bí ẩn nhất, cơ bản nhất của nhân tính.
                  Kỳ thực, ngay cả ở núi Radar tựa như một chốn đào nguyên cách biệt với thế
                  giới bên ngoài này, sự phi lý tính và điên cuồng của loài người vẫn ngày ngày hiện lên trước mắt cô. Diệp Văn Khiết nhìn thấy, khu rừng già dưới chân núi mỗi ngày đều bị những đồng đội ngày trước của cô điên cuồng tàn phá, diện tích đất hoang càng ngày càng mở rộng, tựa như một phần của núi Đại Hưng An đã bị lột đi lớp da của nó vậy, khi những khu vực ấy nối liền thành một mảng, mấy khoảnh rừng may mắn còn sót lại bỗng trở thành thứ bất bình thường. Ngọn lửa khai hoang bùng lên trên núi đồi trọc lốc, núi Radar trở thành chốn lánh nạn của lũ chim rừng chạy trốn khỏi biển lửa, khi ngọn lửa bùng lên, tiếng kêu thảm thiết của lũ chim trong căn cứ vang lên không
                  dứt bên tai, lông vũ của chúng đều bị đốt cho cháy đen hết cả.
                  Ở thế giới bên ngoài xa xôi hơn, sự điên cuồng của loài người đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử văn minh. Khoảng thời gian ấy, cũng chính là thời kỳ mà Liên Xô và Mỹ đang tranh hùng kịch liệt, trong những giếng phóng tên lửa nhiều không đếm xuể phân bố trên cả hai đại lục, trên những con tàu ngầm hạt nhân chiến lược ẩn náu dưới lòng biển sâu như những bóng ma, những vũ khí hạt nhân có thể huỷ diệt địa cầu mấy chục lần chỉ cần một cái chạm nhẹ là sẽ bùng phát. Chỉ riêng lượng đầu đạn hạt nhân trên một chiếc tàu ngầm lớp Polaris hay Akula, là đã đủ huỷ diệt hơn trăm thành
                  phố, lấy mạng mấy trăm triệu con người. Nhưng những người bình thường vẫn cười cười cho qua những chuyện này, tựa hồ chẳng hề liên quan gì đến họ vậy.
                  Là một nhà vật lý thiên văn, Diệp Văn Khiết hết sức mẫn cảm với vũ khí hạt nhân. Cô biết, đó là sức mạnh mà chỉ các sao mới có. Cô càng hiểu rõ hơn, trong vũ trụ còn có thứ sức mạnh đáng sợ hơn gấp bội, có lỗ đen, có phản vật chất, so với những sức mạnh ấy, bom nhiệt hạch chẳng qua chỉ là một cây nến dịu dàng. Nếu loài người có được một trong những sức mạnh ấy, thế giới này có thể sẽ bị hoá khí trong nháy mắt. Đối mặt với sự điên cuồng của nhân loại, lý trí chỉ là một thứ mềm yếu và bất lực.
                  Bốn năm sau khi vào căn cứ Hồng Ngạn, Diệp Văn Khiết cùng Dương Vệ Ninh lập gia đình. Dương Vệ Ninh thật lòng yêu thương Diệp Văn Khiết, vì tình yêu, anh đã từ bỏ tiền đồ của mình. Lúc này, thời kỳ dữ dội nhất của Cách mạng văn hoá đã trôi qua, hoàn cảnh chính trị đã tương đối hoà hoãn, Dương Vệ Ninh không đến nỗi vì cuộc hôn nhân của mình mà bị bức hại, nhưng vì đã lấy một người vợ bị chụp mũ phần tử phản cách mạng, anh bị coi là chưa trưởng thành về mặt chính trị, đánh mất chức vị kỹ sư trưởng. Anh và vợ có thể ở lại căn cứ địa như những kỹ thuật viên bình thường, cũng là vì công tác kỹ thuật không thể
                  nào thiếu được bọn họ. Đối với Diệp Văn Khiết, cô đón nhận tình yêu của Dương Vệ Ninh chủ yếu là vì tâm lý muốn báo ân, trong thời khắc nguy nan nhất, nếu không phải anh đưa cô vào chốn tránh nạn cách biệt với thế gian này, có thể cô đã biến mất khỏi cõi đời từ lâu. Dương Vệ Ninh rất tài năng, có cả trình độ lẫn phong độ, không phải là người khiến cô chán ghét, nhưng trái tim cô đã như đống tro tàn, thật sự rất khó bùng lên ngọn lửa tình yêu được nữa.
                  Những suy tư về bản chất loài người, khiến Diệp Văn Khiết rơi vào trạng thái khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Điều đầu tiên mà cô phải đối mặt chính là sự khuyết thiếu một mục tiêu để cống hiến,
                  cô từng là một người theo chủ nghĩa lý tưởng, có nhu cầu đem tài hoa của mình ra cống hiến cho một mục tiêu vĩ đại, nhưng giờ cô lại phát hiện ra, tất cả những điều mình làm trước đây đều hoàn toàn vô nghĩa, sau này cũng chẳng thể nào có ý nghĩa gì để mà theo đuổi. Tâm thái này cứ thế phát triển khiến cô dần dần cảm thấy thế giới này thật xa lạ. Cô không thuộc về nơi này, cảm giác bơ vơ về mặt tinh thần ấy đã giày vò cô một cách tàn khốc, sau khi lập gia đình, tâm hồn cô lại càng không có nơi gửi gắm.
                  Ngày hôm đó, Diệp Văn Khiết trực ca đêm. Đây là thời khắc vắng vẻ tịch liêu nhất, giữa đêm khuya tĩnh lặng, vũ trụ bày ra trước kẻ lắng nghe nó sự hoang vu
                  mênh mang. Điều Diệp Văn Khiết không muốn nhìn thấy nhất, chính là đường gấp khúc chầm chậm chuyển động trên màn hình hiển thị, đó là hình ảnh thể hiện sóng điện từ vũ trụ mà hệ thống Hồng Ngạn thu nhận được, toàn những tạp âm vô nghĩa. Diệp Văn Khiết có cảm giác, đường gấp khúc dài vô hạn này chính là hình ảnh trừu tượng của vũ trụ, một đầu nối với quá khứ vô hạn, đầu kia nối với tương lai vô hạn, ở giữa chỉ có những gợn nhấp nhô ngẫu nhiên, chẳng có quy luật mà cũng chẳng có sự sống, những đỉnh sóng cao thấp xen kẽ nhau giống như vô số hạt cát kích cỡ lớn nhỏ, còn cả đường gấp khúc ấy thì như một sa mạc do tất cả những hạt cát ấy xếp thành hàng
                  mà hình thành nên, hoang vắng cô tịch, dài đến độ khiến người ta không thể chịu đựng nổi. Người ta có thể men theo nó đi về phía trước, xa đến vô cùng vô tận, nhưng mãi mãi cũng không thể nào tìm được một chốn mà mình thuộc về.
                  Nhưng hôm nay, sau khi lướt mắt nhìn màn hình hiển thị sóng tín hiệu, Diệp Văn Khiết phát hiện ra có chút khác thường. Dù là người chuyên nghiệp cũng rất khó mà nhận ra đường đồ thị ấy có mang theo thông tin gì không chỉ bằng mắt thường, nhưng Diệp Văn Khiết đã quá quen thuộc với đường đồ thị thể hiện tạp âm vũ trụ rồi, đường đồ thị đang chuyển động trước mắt cô dường như đã có thêm thứ gì đó không thể tả được bằng lời, đường
                  chỉ mỏng manh đang trồi lên sụt xuống ấy tựa hồ đã có linh hồn, cô dám khẳng định, sóng điện từ mà mình đang thấy đây đã được điều chế bởi một trí tuệ! Diệp Văn Khiết xông tới chỗ thiết bị đầu cuối của một máy chủ khác, xem xét phán đoán của máy tính về mức độ nhận biết được của nội dung đang thu nhận được, phát hiện mức độ nhận biết được này là AAAAA!! Trước đó, sóng điện từ vũ trụ mà Hồng Ngạn bắt được, chưa bao giờ có mức độ nhận biết được quá cấp C, nếu đạt đến cấp A, khả năng bước sóng ấy bao hàm thông tin có trí tuệ đã lên đến trên 90%. Tình huống 5 chữ A liên tục như thế này, có nghĩa là thông tin nhận được sử dụng chính ngôn ngữ của thông
                  tin mà Hồng Ngạn đã phát đi! Diệp Văn Khiết bật hệ thống phiên dịch Hồng Ngạn lên, phần mềm này có thể thực hiện việc giải mã phiên dịch các thông tin có độ nhận biết được trên cấp B, trong toàn bộ quá trình giám thính của hệ thống Hồng Ngạn, nó chưa từng được chính thức sử dụng lần nào. Theo như tình huống lúc vận hành thử nghiệm phần mềm, việc phiên dịch một đoạn mã có khả năng do một nguồn có trí tuệ gửi đến có thể mất chừng mấy ngày thậm chí là mấy tháng tính toán, kết quả cho ra quá nửa là phiên dịch thất bại. Nhưng lần này, văn bản gốc vừa được đưa vào, gần như không có thời gian gián cách, trên màn hình đã hiển thị thông báo phiên dịch hoàn tất.
                  Diệp Văn Khiết bật văn bản kết quả, đây là lần đầu tiên loài người đọc được thông tin đến từ một thế giới khác trong vũ trụ, nội dung của nó nằm ngoài sức tưởng tượng của tất cả mọi người, đó là một lời cảnh báo được lặp đi lặp lại ba lần:
                  “Đừng trả lời!” “Đừng trả lời!!” “Đừng trả lời!!!”
                  Trong cảm giác kích động và mê hoặc đến nỗi khiến cô choáng váng, Diệp Văn Khiết tiếp tục phiên dịch đoạn thông tin thứ hai:
                  Thế giới này đã nhận được thông tin
                  của các người.
                  Ta là một người theo chủ nghĩa hoà bình ở thế giới này, may mắn cho nền văn minh của các người là ta nhận được thông tin này đầu tiên. Cảnh cáo các người: Đừng trả lời! Đừng trả lời!! Đừng trả lời!!!
                  Phương hướng của các người có hàng nghìn vạn ngôi sao, chỉ cần không trả lời, thế giới này sẽ không thể nào định vị được nguồn phát ra thông tin.
                  Nếu trả lời, nguồn phát xạ sẽ bị định vị, hệ hành tinh của các người sẽ bị xâm chiếm, thế giới của các người sẽ bị chiếm lĩnh!
                  Đừng trả lời! Đừng trả lời!! Đừng trả lời!!!
                  Nhìn hàng chữ nhấp nháy màu xanh lục trên màn hình hiển thị, Diệp Văn Khiết đã không thể nào bình tĩnh suy nghĩ được nữa, trí tuệ bị cảm giác kích động và run rẩy chi phối, cô chỉ có thể lý giải sự thực rằng: hiện tại cách thời điểm cô phát đi thông tin về phía Mặt trời chưa đầy chín năm, vậy thì nguồn phát xạ của thông tin này chỉ cách Trái đất chừng bốn năm ánh sáng, nó chỉ có thể đến từ thiên hà cách chúng ta gần nhất: Ba ngôi sao sáng nhất của chòm Centaurus!
                  Vũ trụ không hoang vắng, vũ trụ không trống trải, vũ trụ tràn đầy sự sống! Loài
                  người hướng ánh mắt ra tận cùng vũ trụ, nhưng đâu có thể ngờ, ở ngôi sao gần họ nhất, lại tồn tại sự sống có trí tuệ!
                  Diệp Văn Khiết nhìn màn hình hiển thị đồ thị sóng điện từ, thông tin vẫn ùn ùn từ vũ trụ tràn vào ăng ten của Hồng Ngạn, cô bật một đầu nối khác, khởi động chức năng phiên dịch thời gian thực, thông tin nhận được lập tức hiển thị lên màn hình. Trong bốn tiếng đồng hồ sau đó, Diệp Văn Khiết đã biết đến sự tồn tại của thế giới Tam Thể, biết đến nền văn minh hết lần này đến lần khác tái sinh từ trong biển lửa ấy, cũng biết về ý định muốn di dân trong vũ trụ của bọn họ.
                  Hơn bốn giờ sáng, thông tin đến từ chòm sao Centaurus đã kết thúc, hệ thống giải mã phiên dịch bắt đầu vận hành một cách vô ích, không ngừng phát ra tín hiệu thất bại, mọi thứ mà hệ thống giám thính Hồng Ngạn nghe được, lại chỉ là những tạp âm của vũ trụ hoang vu.
                  Nhưng Diệp Văn Khiết có thể khẳng định, tất cả những gì vừa diễn ra không phải là mơ.
                  Mặt trời đích thực là một chiếc ăng ten siêu cấp, nhưng trong thử nghiệm tám năm trước tại sao lại không nhận được sóng phản xạ, tại sao đồ thị sóng của bức xạ Mộc tinh và bức xạ Mặt trời về sau lại không khớp nhau? Sau đó, Diệp Văn
                  Khiết đã nghĩ ra rất nhiều nguyên nhân, rất có khả năng, điện đài của căn cứ không thể nhận được sóng điện từ trên dải tần số đó, hoặc rất có thể nhận được rồi thấy chỉ là một mớ tạp âm, rồi coi như không nhận được gì cả. Còn câu hỏi thứ hai, rất có thể là vì đồng thời với việc khuếch đại sóng điện từ, Mặt trời còn chồng thêm vào một sóng khác, sóng này có đồ thị tuần hoàn, có thể dễ dàng loại bỏ nhờ hệ thống phiên dịch thông tin từ nền văn minh ngoài Trái đất, nhưng khi nhìn bằng mắt thường, đồ thị sóng của bức xạ từ Mộc tinh và Mặt trời là hoàn toàn khác nhau. Điểm này về sau đã được chứng thực, Mặt trời đã chồng thêm một sóng hình sin lên.
                  Cô cảnh giác đưa mắt nhìn xung quanh. Trong phòng máy chủ còn ba người khác tham gia trực ban, trong đó hai người đang nói chuyện trong góc phòng, một người ngủ gật trước thiết bị đầu cuối, còn ở bộ phận xử lý thông tin của hệ thống giám thính, thiết bị đầu cuối có thể kiểm tra độ nhận biết được của thông tin tiếp nhận và khởi động hệ thống phiên dịch chỉ có hai chiếc ở trước mặt cô. Cô lặng lẽ thao tác thật nhanh, chuyển toàn bộ thông tin nhận được vào một thư mục ẩn được bảo mật nhiều lớp, rồi dùng một đoạn tạp âm thu được năm ngoái thay thế nội dung của năm giờ đồng hồ vừa rồi.
                  Sau đó, thông qua thiết bị đầu cuối, cô
                  nhập một đoạn thông tin ngắn vào bộ nhớ đệm của hệ thống phát xạ Hồng Ngạn.
                  Diệp Văn Khiết đứng dậy bước ra ngoài cửa phòng điều khiển hệ thống giám thính, một cơn gió lạnh thốc vào gương mặt nóng bừng của cô, ánh ban mai ló ra phía trời Đông, cô men theo con đường rải đá lờ mờ sáng dưới ánh dương buổi sớm, đi về phía phòng điều khiển hệ thống phát xạ, phía trên cô, bàn tay khổng lồ của cột ăng ten Hồng Ngạn lặng lẽ xoè ra về phía vũ trụ. Nắng ban mai hắt bóng người lính canh đứng ngoài cửa, giống như mọi lần, lúc Diệp Văn Khiết đi vào, họ chẳng hề để ý. Phòng điều khiển hệ thống phát xạ tối hơn phòng giám thính nhiều, Diệp Văn Khiết
                  đi xuyên qua các dãy tủ máy, thẳng đến bàn điều khiển, thành thạo bật lên mười mấy công tắc, khởi động quá trình làm nóng hệ thống phát xạ. Hai nhân viên trực ban ngồi bên cạnh bàn điều khiển ngẩng đầu lên nhìn cô bằng ánh mắt ngái ngủ, một trong hai người ngoảnh lại nhìn đồng hồ treo trên tường, sau đó một người tiếp tục gật gù, người còn lại thì lật giở tờ báo chắc đã xem đi xem lại rất nhiều lần. Trong căn cứ này, về mặt chính trị dĩ nhiên Diệp Văn Khiết chẳng có bất cứ địa vị gì, nhưng về kỹ thuật thì cô có sự tự do nhất định, cô thường xuyên kiểm tra thiết bị trước mỗi lần phát xạ, tuy rằng hôm nay có hơi quá sớm, còn những ba tiếng nữa mới phải
                  thao tác phát xạ, nhưng làm nóng trước một chút cũng chẳng có gì là lạ.
                  Nửa tiếng dài đằng đẵng trôi qua, trong khoảng thời gian này, Diệp Văn Khiết đã cài đặt lại tần số phát xạ, đặt giá trị tối ưu nhất cho phản xạ của gương năng lượng Mặt trời, chỉnh công suất phát xạ lên mức cao nhất, sau đó, cô gí sát hai mắt vào kính ngắm của hệ thống định vị quang học, trông thấy Mặt trời đang dâng lên trên đường chân trời. Cô khởi động hệ thống định vị của ăng ten, chầm chậm di chuyển cần điều chỉnh phương hướng, để nó nhắm vào Mặt trời. Chấn động ầm ầm khi ăng ten khổng lồ chuyển động truyền vào phòng điều khiển, một nhân viên trực ban lại đưa
                  mắt nhìn Diệp Văn Khiết, nhưng cũng không nói năng gì.
                  Mặt trời đã lên cao khỏi những rặng núi liên miên nơi chân trời, đầu ruồi của thiết bị định vị ăng ten Hồng Ngạn đã hướng về phía mép trên nó, đây là do cô đã tính đến khoảng thời gian chờ hệ thống phát sóng điện từ vận hành, hệ thống phát xạ đã ở trạng thái sẵn sàng. Nút phát sóng hình chữ nhật dài, rất giống phím dấu cách trên bàn phím máy tính, nhưng là màu đỏ. Lúc này, ngón tay Diệp Văn Khiết đang lơ lửng phía trên nó, cách chừng hai xăngtimét.
                  Vận mệnh của văn minh nhân loại, đang treo trên hai ngón tay mảnh khảnh
                  ấy.
                  Không chút do dự, Diệp Văn Khiết ấn
                  vào nút phát xạ.
                  “Làm gì thế?” Một nhân viên trực ban ngái ngủ hỏi.
                  Diệp Văn Khiết nhìn anh ta cười cười, không nói năng gì, lập tức ấn một nút màu vàng khác ngừng việc phát xạ lại, rồi chuyển động cần điều hướng, thay đổi hướng chỉ của ăng ten, sau đó rời khỏi bàn điều khiển đi ra ngoài.
                  Nhân viên trực ban ấy nhìn đồng hồ, thấy đã hết giờ trực bèn cầm quyển nhật ký lên, định ghi lại thao tác Diệp Văn Khiết vừa khởi động hệ thống phát xạ lúc
                  nãy, điều này ít nhiều cũng có chút bất bình thường, nhưng khi liếc nhìn sang dải băng giấy, anh ta phát hiện cô chỉ khởi động hệ thống phát xạ chưa đến ba giây đồng hồ, bèn ném quyển nhật ký về chỗ cũ, ngáp dài một cái, đội mũ lên đi luôn. Thông tin đang bay về phía Mặt trời là:
                  Đến đây đi, tôi sẽ giúp các vị có được thế giới này, văn minh của chúng tôi đã không thể giải quyết được vấn đề của riêng mình, cần sức mạnh của các vị can thiệp.
                  Vầng dương mới lên khiến Diệp Văn Khiết choáng váng xây xẩm mặt mày, ra ngoài cửa chưa đi được bao xa, cô đã ngất xỉu ngã lăn ra thảm cỏ.
                  Tỉnh lại, cô nhận ra mình đang nằm trong phòng y tế, Dương Vệ Ninh ở bên giường nhìn cô với ánh mắt quan tâm lo lắng, hệt như lúc ở trên máy bay nhiều năm về trước. Bác sĩ bảo Diệp Văn Khiết về sau phải chú ý nghỉ ngơi, vì cô đã có thai.

                  #24
                    huytran 30.07.2017 06:02:00 (permalink)
                    Chương 25 : Phiến loạn  
                     
                    Sau khi Diệp Văn Khiết kể hết đoạn lịch sử ấy, cả gian đại sảnh chìm vào yên lặng, rất nhiều người có mặt ở đây rõ ràng cũng lần đầu tiên nghe được câu chuyện hoàn chỉnh như vậy, Uông Diểu bị cuốn theo, tạm thời quên đi sự nguy hiểm và nỗi sợ trước mắt, anh không kìm được buột miệng hỏi:
                    “Thế thì, tổ chức Tam Thể làm sao mà phát triển được đến mức độ này?”
                    Diệp Văn Khiết trả lời: “Chuyện này phải kể từ lúc tôi quen biết Evans… Có điều, đoạn lịch sử này các đồng chí có
                    mặt ở đây đều đã biết rồi, chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa, sau này tôi có thể kể riêng cho cậu, nhưng có cơ hội ấy hay không thì phải xem ở cậu rồi… Tiểu Uông, chúng ta hãy nói về vật liệu nano của cậu đã.”
                    “Chúa… mà các người nói đến, tại sao lại sợ hãi vật liệu nano như thế?” Uông Diểu hỏi.
                    “Vì nó có thể khiến loài người thoát khỏi lực hấp dẫn của Trái đất, tiến vào vũ trụ với quy mô lớn.”
                    “Thang máy vũ trụ?” Uông Diểu lập tức nghĩ ra.
                    “Đúng thế, nếu thứ vật liệu siêu bền
                    ấy có thể sản xuất với quy mô lớn, việc xây dựng thang máy vũ trụ từ bề mặt Trái đất lên đến quỹ đạo đồng bộ coi như đã có được kỹ thuật nền tảng. Đối với Chúa, đây chỉ là một phát minh rất nhỏ, nhưng đối với loài người trên Trái đất, nó lại có ý nghĩa lớn lao. Loài người có thể dựa vào kỹ thuật này để dễ dàng tiến vào không gian ở khoảng cách gần, việc xây dựng hệ thống phòng ngự quy mô lớn trong không gian trở nên khả thi, vì vậy, cần phải dập tắt kỹ thuật này đi.”
                    “Khi bộ đếm giờ chạy hết thì chuyện gì sẽ xảy ra?” Uông Diểu đặt ra câu hỏi bấy lâu nay vẫn khiến anh sợ hãi.
                    Diệp Văn Khiết mỉm cười, “Không
                    biết.”
                    “Các người làm như vậy chẳng có ý nghĩa gì cả! Đây không phải là nghiên cứu lý thuyết, chỉ cần đúng phương hướng đại thể, người khác cũng có thể làm ra được!” Uông Diểu căng thẳng nói lớn.
                    “Đúng là không có ý nghĩa, nếu có thể làm rối loạn tư tưởng của người nghiên cứu thì là hiệu quả nhất, nhưng chúng tôi không làm được như kỳ vọng, như cậu đã nói đấy, đây dẫu sao cũng là nghiên cứu ứng dụng, không hiệu quả như đối với nghiên cứu lý thuyết…”
                    “Nói đến việc nghiên cứu lý thuyết, con gái bà đã chết như thế nào chứ?”
                    Câu hỏi này làm Diệp Văn Khiết im lặng mất mấy giây, Uông Diểu để ý thấy, ánh mắt bà dường như thoáng ảm đạm đi, cơ hồ không thể nhận ra được, nhưng ngay lập tức, bà ta lại trở lại với chủ đề vừa rồi, “Thực ra đối với Chúa có sức mạnh vô song, tất cả những gì chúng ta làm đều không có ý nghĩa gì cả, chúng ta chỉ làm điều mà mình muốn làm thôi.”
                    Diệp Văn Khiết vừa mới dứt lời, chợt có mấy tiếng nổ ầm ầm vang lên, hai cánh cửa lớn của nhà ăn đồng thời bị húc bật ra, một đám binh sĩ cầm súng tiểu liên xông vào trong, Uông Diểu để ý thấy bọn họ không phải cảnh sát vũ trang mà là quân chính quy, những người lính này
                    đi áp sát vào tường, hầu như không gây ra tiếng động, trong một thoáng đã hình thành một vòng vây xung quanh đám quân phiến loạn Tam Thể. Sử Cường là người đi vào sau cùng, áo jacket da mở phanh, tay nắm vào nòng súng, báng súng lộ ra trông như một chiếc búa. Gã vênh váo đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh, đột nhiên xông lên phía trước, cánh tay cầm súng ngược vung lên một cái, tiếng kim loại đập vào xương sọ vang lên trầm đục, một chiến sĩ thuộc phe Tam Thể ngã gục xuống, khẩu súng lục còn chưa kịp rút văng một quãng xa. Mấy binh sĩ giương súng bắn chỉ thiên, bụi trên trần rơi xuống lả tả. Có người kéo tay Uông Diểu, nhanh chóng chạy ra khỏi đám
                    quân phiến loạn, đứng ở phía sau một hàng binh sĩ.
                    “Bỏ vũ khí lên bàn! Kẻ nào giở trò, bắn bỏ luôn!” Sử Cường chỉ vào một dãy súng tiểu liên sau lưng mình: “Biết là các vị đều không cần mạng rồi, bọn tôi đây cũng là nhắm vào những kẻ không muốn sống đấy! Tôi nói trước luôn ở đây cho rõ nhé: quy tắc của cảnh sát và những cấm kỵ của luật pháp không thích hợp để áp dụng với các người, thậm chí cả phép tắc chiến tranh của loài người cũng không thích hợp với các người nốt! Nếu các người đã coi cả nhân loại là kẻ thù, chúng ta cũng chẳng còn phải kiêng kỵ gì sất.”
                    Trong đám quân phiến loạn có tiếng xôn xao, nhưng không hề có hoảng loạn. Diệp Văn Khiết không tỏ thái độ gì. Có ba người đột nhiên xông ra khỏi đám đông, một trong số đó chính là cô gái xinh đẹp đã vặn gãy cổ Phan Hàn, họ chạy thẳng về phía tác phẩm nghệ thuật thể hiện mô hình Tam Thể đang chuyển động, mỗi người chụp lấy một khối cầu kim loại đang bay lượn, ôm chặt ở trước ngực.
                    Cô gái xinh đẹp dùng cả hai tay giơ cao khối cầu kim loại sáng bóng, khiến người ta liên tưởng đến một vận động viên thể dục dụng cụ thân hình yểu điệu, rồi lại nở nụ cười mê người, nói bằng giọng êm ái: “ Các anh cảnh sát, trong
                    tay chúng ta đây là ba quả bom nguyên tử, mỗi quả tương đương một nghìn năm trăm tấn TNT, cũng chẳng lớn lắm, chúng ta thích mấy thứ đồ chơi nho nhỏ thôi, đây là công tắc cho nổ.”
                    Mọi thứ trong đại sảnh lập tức đông cứng lại, duy chỉ có Sử Cường vẫn cử động. Gã nhét khẩu súng cầm ngược trên tay vào bao súng dưới nách trái, thần thái hờ hững như không, xoa xoa tay vào nhau.
                    “Yêu cầu của chúng ta rất đơn giản: để Thủ lĩnh đi, sau đó chúng ta chơi kiểu gì cũng được.” Cô gái nói tiếp, bộ dạng có đôi phần nũng nịu.
                    “Tôi ở bên các đồng chí.” Diệp Văn
                    Khiết bình tĩnh nói.
                    “Có thể chứng thực điều cô ả nói không?” Sử Cường thấp giọng hỏi một sĩ quan đứng bên cạnh, hiển nhiên đây chính là chuyên gia về chất nổ.
                    Người sĩ quan ấy ném một chiếc túi nhựa tới trước mặt ba người cầm ba khối cầu, trong túi đựng một cái cân lò xo. Một chiến sĩ Tam Thể cầm khối cầu kim loại nhặt túi nhựa lên, sau khi lấy cái cân ra, liền cho khối cầu vào túi, treo lên móc cân, giơ lên đung đưa, sau đó lấy khối cầu ra ném xuống đất. Cô gái bật cười khanh khách, chuyên gia chất nổ bên này cũng cười khẩy khinh miệt. Một người khác cũng làm theo, cân thử khối
                    cầu, sau đó cũng vứt đi. Cô gái lại cười lên một tiếng, nhận lấy túi nhựa cho khối cầu vào, treo lên móc cân lò xo, thước đo soạt một cái đã trượt xuống mức thấp nhất.
                    Nụ cười trên gương mặt chuyên gia chất nổ đông cứng lại, anh ta thấp giọng bảo Sử Cường: “Cái này thì đúng rồi.”
                    Sử Cường vẫn không tỏ thái độ gì.
                    “Ít nhất có thể khẳng định bên trong có vật liệu phân hạch nguyên tố nặng, còn hệ thống dẫn nổ có hoạt động hay không thì vẫn chưa rõ.” Chuyên gia chất nổ nói.
                    Những cột sáng từ đèn pin gắn trên
                    súng của các binh sĩ đều tập trung cả vào người cô gái cầm quả bom nguyên tử, đôi tay thanh tú chết chóc đẹp đẽ nâng khối cầu có sức nổ tương đương một nghìn năm trăm tấn TNT, cô nhoẻn miệng cười rạng rỡ, hồ như đang đứng dưới ánh đèn pha trên sân khấu, đón nhận tiếng vỗ tay và hoan hô của khán giả.
                    “Có một cách này: bắn vào khối cầu đó.” Chuyên gia chất nổ thấp giọng nói nhỏ vào tai Sử Cường.
                    “Không làm nổ chứ?”
                    “Chỉ làm nổ thuốc nổ bình thường ở bên ngoài thôi, nhưng sẽ làm thuốc nổ bị bắn tung ra, không thể tạo ra lực nén hướng tâm chính xác đối với chất nổ hạt
                    nhân ở giữa, chắc chắn sẽ không gây nổ.”
                    Sử Cường nhìn chầm chầm vào cô gái cầm quả bom nguyên tử, không nói năng gì.
                    “Có cần bố trí tay súng bắn tỉa không?”
                    Sử Cường khẽ lắc đầu, cơ hồ không để ai nhận ra, “Không có vị trí thích hợp, con bé đó tinh quái như quỷ vậy, tay súng bắn tỉa chỉ cần giơ súng lên ngắm là nó phát giác ngay.”
                    Dứt lời, Sử Cường một mình bước lên trước, gạt đám người ra, đứng ở giữa khoảng đất trống.
                    “Đứng yên.” Cô gái cầm bom nguyên
                    tử ném cho Sử Cường một cái liếc mắt cảnh cáo, ngón tay cái bàn tay bên phải đặt lên nút nhấn kích nổ, sơn móng tay lấp lóa trong ánh đèn pin.
                    “Từ từ thôi, cô bé con, có chuyện này nhất định là cô muốn biết.” Sử Cường đứng cách cô gái chừng bảy tám mét, lấy trong túi ra một chiếc phong bì, “Tìm được mẹ ruột của cô rồi.”
                    Đôi mắt rạng rỡ của cô gái lập tức tối sầm lại, nhưng lúc này, đôi mắt ấy thật sự đã soi đến tâm hồn cô.
                    Sử Cường thừa cơ lại sải chân bước lên hai bước, rút ngắn khoảng cách giữa gã và cô gái xuống còn khoảng năm mét. Cô gái cảnh giác giơ quả bom nguyên tử
                    lên, dùng ánh mắt ngăn gã lại, nhưng sự chú ý của cô đã bị phân tán. Một trong hai người vừa quăng quả bom nguyên tử giả đi lúc nãy bước về phía Sử Cường, đưa tay cầm lấy phong bì gã đang cầm, Sử Cường rút súng lục ra nhanh như chớp, động tác rút súng của gã vừa khéo bị người lấy phong bì chắn mất, cô gái không trông thấy, chỉ thấy bên tai người lấy thư có ánh sáng lóe lên, quả bom nguyên tử đang ôm trong lòng đã bị bắn trúng nổ bùng ra.
                    Sau một tiếng nổ trầm đục, hai mắt Uông Diểu tối sầm lại, không nhìn thấy gì nữa, anh được người ta kéo ra khỏi nhà ăn, khói mù màu vàng từ cửa lớn tràn vào, bên trong, tiếng ho trộn lẫn với
                    tiếng súng vang lên không ngớt, liên tục có người từ trong đám khói dày đặc xông ra ngoài… Uông Diểu đứng dậy, toan xông vào trong đại sảnh, liền bị chuyên gia chất nổ kia ôm ngang hông giữ chặt.
                    “Cẩn thận, có phóng xạ!”
                    Hỗn loạn nhanh chóng lắng xuống, có mười mấy người thuộc tổ chức Tam Thể bị bắn chết tại chỗ, hơn hai trăm người còn lại, kể cả Diệp Văn Khiết đều bị bắt sống. Cô gái cầm bom bị nổ thành một đống máu thịt bầy nhầy, nhưng quả bom nguyên tử bị ép nổ ấy chỉ hại chết một mình cô; người lấy phong bì trước mặt Sử Cường bị trọng thương, vì có người che chắn, Sử Cường chỉ bị vài vết
                    thương nhẹ, nhưng gã cũng giống như những người còn ở lại trong nhà ăn sau khi bom nổ, đã bị nhiễm phóng xạ nghiêm trọng.
                    Uông Diểu nhìn Sử Cường ngồi trong xe qua ô cửa sổ nhỏ của xe cấp cứu, một vết thương trên đầu gã vẫn còn đang chảy máu, người y tá băng bó cho gã mặc một bộ đồ phòng hộ trong suốt, Sử Cường và Uông Diểu chỉ có thể nói chuyện với nhau qua điện thoại di động.
                    “Cô gái đó là ai?” Uông Diểu hỏi.
                    Sử Cường nhe răng cười, “Tôi biết thế quái nào được, đoán bừa thôi, một con bé như thế, quá nửa là chưa từng gặp mẹ ruột mình. Tôi làm cái nghề này hơn
                    hai chục năm, chỉ học được cái phép nhìn người này thôi.”
                    “Anh thắng rồi, đúng thật là có người giở trò quỷ.” Uông Diểu cố gắng rặn ra một nụ cười, hy vọng Sử Cường ngồi trong xe có thể trông thấy.
                    “Chú em, vẫn là chú thắng chứ.” Sử Cường cười cười lắc đầu, “Anh chú đây có nằm mơ cũng không ngờ được, con bà nhà nó, không ngờ lại lôi cả người ngoài hành tinh vào đây!”

                    #25
                      huytran 30.07.2017 06:07:30 (permalink)
                      Chương 26 : Cái chết của Lôi Chí Thành, Dương Vệ Ninh  
                       
                      Người thẩm vấn: Họ tên?
                      Diệp Văn Khiết: Diệp Văn Khiết.
                      Người thẩm vấn: Ngày tháng năm sinh?
                      Diệp Văn Khiết: Tháng Sáu năm 1947.
                      Người thẩm vấn: Nghề nghiệp?
                      Diệp Văn Khiết: Giáo sư ngành Vật lý thiên văn thuộc khoa Vật lý, Đại học Thanh Hoa, nghỉ hưu năm 2004.
                      Người thẩm vấn: Xét tình hình sức khỏe của bà, trong quá trình nói chuyện, bà có thể yêu cầu tạm dừng để nghỉ ngơi.
                      Diệp Văn Khiết: Cảm ơn, không cần.
                      Người thẩm vấn: Hôm nay chúng ta tiến hành điều tra một vụ án hình sự bình thường, không liên quan đến những nội dung cao cấp hơn, đây không phải là phần chính yếu của cuộc điều tra này, chúng tôi hy vọng có thể kết thúc sớm, mong rằng bà có thể hợp tác.
                      Diệp Văn Khiết: Tôi biết anh muốn nói đến chuyện gì, tôi sẽ hợp tác.
                      Người thẩm vấn: Điều tra phát hiện, trong thời gian công tác tại căn cứ Hồng Ngạn, bà bị tình nghi giết người.
                      Diệp Văn Khiết: Tôi đã giết chết hai người.
                      Người thẩm vấn: Thời gian?
                      Diệp Văn Khiết: Buổi chiều ngày 21 tháng 10 năm 1979.
                      Người thẩm vấn: Họ tên người bị hại?
                      Diệp Văn Khiết: Chính ủy của căn cứ Lôi Chí Thành và kỹ sư Dương Vệ Ninh, chồng tôi.
                      Người thẩm vấn: Hãy kể lại động cơ
                      gây án của bà.
                      Diệp Văn Khiết: Tôi… tôi có thể giả thiết rằng anh đã có hiểu biết tương đối về bối cảnh thời đại khi ấy?
                      Người thẩm vấn: Hiểu một cách cơ bản, chỗ nào không rõ tôi sẽ đặt câu hỏi.
                      Diệp Văn Khiết: Được. Sau khi nhận thông tin từ ngoài Trái đất và hồi âm lại ấy, tôi biết được không chỉ có mình mình nhận được thông tin này. Lôi Chí Thành cũng nhận được. Chính ủy Lôi là cán bộ chính trị điển hình của thời đại đó, cực kỳ nhạy cảm về chính trị, theo cách nói của thời bấy giờ, thì là sợi dây đàn đấu tranh giai cấp rất căng.
                      Trong suốt một thời gian dài, anh ta âm thầm che giấu hầu hết cán bộ kỹ thuật của căn cứ Hồng Ngạn, vận hành một chương trình nhỏ trong máy chủ, chương trình này không ngừng đọc lấy thông tin trong bộ nhớ đệm của hệ thống phát xạ và tiếp nhận thông tin, đồng thời lưu trữ các nội dung đọc được vào một tập tin bảo mật được giấu rất sâu, như vậy, các thông tin mà hệ thống Hồng Ngạn phát ra và tiếp nhận có thêm một bản sao lưu mà chỉ có anh ta đọc được, chính từ bản sao lưu này, anh ta phát hiện ra Hồng Ngạn đã nhận được thông tin từ ngoài Trái đất. Buổi chiều hôm tôi phát đi thông tin hồi đáp về phía Mặt trời mới mọc,
                      cũng chính là sau khi tôi vừa biết được mình đã mang thai từ chỗ phòng y tế, Lôi Chí Thành gọi tôi đến phòng làm việc của anh ta. Tôi trông thấy, màn hình trên bàn anh ta không ngờ lại hiển thị thông tin đến từ thế giới Tam Thể mà đêm qua thu nhận được…
                      “Từ khi nhận được đợt thông tin đầu tiên đến nay đã là hơn tám tiếng đồng hồ, cô không báo cáo, ngược lại còn xóa bỏ hoặc giấu giếm thông tin ban đầu đi, đúng không?”
                      Tôi cúi đầu không trả lời.
                      “Ý đồ bước tiếp theo của cô tôi cũng rõ như lòng bàn tay, cô định đánh điện trả lời. Nếu không phải tôi kịp thời phát
                      hiện, cả nền văn minh nhân loại này đều sẽ bị hủy trong tay cô mất. Tất nhiên, đây không có nghĩa là chúng ta sợ hãi bọn ngoại xâm đến từ vũ trụ, mà trong trường hợp xấu nhất, chuyện đó thật sự xảy ra, thì bọn xâm lược ngoài Trái đất đó ắt sẽ bị nhấn chìm trong biển lớn của chiến tranh nhân dân!”
                      Giờ thì tôi đã hiểu, anh ta vẫn chưa biết tôi đã gửi tin hồi đáp, khi đưa thông tin hồi đáp vào bộ nhớ đệm của hệ thống phát xạ, tôi không sử dụng cổng nhập thông thường, vô ý lại vòng tránh được chương trình giám sát của anh ta.
                      “Diệp Văn Khiết, chắc chắn cô sẽ làm những chuyện như vậy, bấy lâu nay cô
                      vẫn ôm mối hận khắc cốt ghi tâm với Đảng và nhân dân, cô sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội trả thù nào. Cô có biết hậu quả của việc làm này hay không?”
                      Tất nhiên là tôi biết, bèn gật gật đầu, Lôi Chí Thành im lặng giây lát, nhưng những lời tiếp theo lại nằm ngoài dự đoán của tôi.
                      “Diệp Văn Khiết, đối với cô, tôi hoàn toàn không có chút lòng trắc ẩn nào cả, bao lâu nay cô vẫn luôn là kẻ thù giai cấp thù địch với nhân dân. Nhưng tôi và Dương Vệ Ninh là chiến hữu nhiều năm, tôi không thể trơ mắt ra nhìn anh ấy cùng bị hủy diệt với cô, lại càng không thể trơ mắt ra nhìn con anh ấy gặp nguy hiểm, cô
                      đã có con rồi, đúng không?”
                      Những lời này của anh ta không phải là tùy tiện mà nói ra, nếu xảy ra chuyện, vào thời đại ấy, với vấn đề có tính chất như vậy, dù chồng tôi có can hệ đến chuyện này hay không, cũng sẽ bị liên lụy rất lớn, tất nhiên, còn cả đứa con chưa ra đời kia nữa.
                      Lôi Chí Thành hạ giọng nói: “Trước mắt, chuyện này vẫn chỉ có tôi với cô biết, giờ việc cần phải làm chính là hạ thấp tầm ảnh hưởng của nó xuống mức thấp nhất, cô không cần nghĩ ngợi gì hết, cứ coi như nó chưa hề xảy ra, đừng nhắc với bất cứ ai, kể cả Dương Vệ Ninh, những việc còn lại để đấy tôi xử lý cho.
                      Tiểu Diệp à, hãy tin tôi, chỉ cần cô hợp tác là sẽ có thể tránh được hậu quả đáng sợ về sau.”
                      Tôi lập tức hiểu được dụng tâm của Lôi Chí Thành, anh ta muốn trở thành người đầu tiên phát hiện ra văn minh ngoài Trái Đất, đây quả thực là một cơ hội tuyệt vời để lưu danh sử sách.
                      Tôi nhận lời anh ta, sau đó rời khỏi phòng làm việc, lúc này, tôi đã quyết định tất cả mọi chuyện.
                      Tôi lấy một cái cờ lê nhỏ, đi vào phòng thiết bị của module xử lý thuộc hệ thống tiếp sóng, mở buồng máy chủ ra, cẩn thận vặn lỏng con ốc của dây nối đất bên dưới cùng. Vì tôi thường xuyên phải
                      kiểm tra thiết bị, nên không ai chú ý thấy tôi đã làm gì. Lúc này, điện trở tiếp đất từ 0,6 ohm tăng một phát lên 5 ohm, độ nhiễu hệ thống tiếp sóng đột nhiên tăng cao.
                      Nhân viên kỹ thuật trực ban biết ngay là dây nối đất gặp sự cố, vì sự cố này trước đây đã xảy ra rất nhiều lần, phán đoán rất dễ dàng, nhưng anh ta không thể ngờ được sự cố lại xảy ra ở đầu mút trên cùng của dây nối đất, vì chỗ đó có kết cấu rất tốt, bình thường chẳng ai đụng chạm đến, huống hồ tôi còn nói là lúc nãy tiện thể đã kiểm tra rồi. Đỉnh núi radar này có kết cấu địa chất không bình thường, bên trên phủ một tầng đất bùn dày đến mười mấy mét. Tính chất dẫn
                      điện của loại đất bùn này rất kém, sau khi chôn dây nối đất xuống, điện trở nối đất không bao giờ đạt được yêu cầu; cách chôn dây nối đất xuống thật sâu cũng không ổn, vì tầng bùn nhão này có khả năng ăn mòn rất lớn, để thời gian dài có thể sẽ làm đứt dây nối đất ở đoạn giữa. Cuối cùng, đành kéo dây nối đất cho thả xuống chỗ vách núi dựng đứng, men theo vách núi buông xuống tận nơi không có tầng đất bùn, chôn điện cực nối đất ở vị trí đó trên vách đá. Kể cả làm như vậy cũng vẫn không ổn định, điện trở thường vượt quá quy định cho phép, vấn đề đều xảy ra ở đoạn dây nối đất vắt trên vách đá kia, mỗi lần như thế, nhân viên sửa chữa đều phải dùng dây thừng leo
                      xuống để sửa. Nhân viên kỹ thuật kia đánh tiếng với ban duy tu vòng ngoài, một chiến sĩ trong ban buộc dây thừng vào cây cột sắt rồi men theo vách đá leo xuống, hì hục trên vách đá hơn nửa tiếng đồng hồ rồi đầm đìa mồ hôi leo lên, báo rằng không tìm được sự cố. Lần này, công tác giám thính sẽ bị ảnh hưởng lớn, họ đành phải báo lên bộ chỉ huy căn cứ. Tôi đứng bên cạnh cái cột sắt buộc dây thừng phía trên vách núi đó chờ đợi, quả nhiên đúng như tôi dự đoán, Lôi Chí Thành đã đến cùng với người chiến sĩ kia.
                      Cần phải nói, Lôi Chí Thành là một cán bộ chính trị hết lòng với công tác, đã thành thực làm theo yêu cầu đối với bọn
                      họ thời bấy giờ: hòa nhập cùng quần chúng, lúc nào cũng ở tuyến đầu, có lẽ cũng là để ra vẻ thôi, nhưng quả thực anh ta làm rất tốt, những công tác cấp cứu, nguy hiểm trong căn cứ đều không thể thiếu bóng dáng anh ta được, mà trước đó việc anh ta làm nhiều nhất, chính là việc sửa chữa dây nối đất, vừa nguy hiểm lại vừa mệt nhọc này. Công việc này mặc dù không có yêu cầu kỹ thuật cao lắm, nhưng cần có kinh nghiệm, vì sự cố có thể là do dây nối đất hoàn toàn lộ thiên nên có những chỗ tiếp xúc không tốt, rất khó nhận ra được, cũng có thể là vì chỗ chôn điện cực nối đất do bị khô quá làm giảm khả năng dẫn điện. Thời điểm đó, quân tình nguyện phụ trách sửa
                      chữa vòng ngoài vừa mới đổi một đợt mới nên không có kinh nghiệm, bởi vậy tôi đoán quá nửa là anh ta sẽ phải tự làm. Anh ta buộc chặt dây an toàn, rồi đu dây thừng leo xuống, như thể tôi không hề tồn tại ở đó vậy. Tôi kiếm cớ đuổi người chiến sĩ kia đi, trên vách đá giờ chỉ còn lại một mình tôi, sau đó lấy trong túi áo ra một món đồ, là một xấp lưỡi cưa sắt ngắn, đây là một lưỡi cưa dài cắt ra làm ba rồi xếp chồng lên nhau, như vậy người ta sẽ không nhận ra chỗ đứt trên dây thừng là do bị cưa.
                      Đúng lúc này, Dương Vệ Ninh chồng tôi cũng đến.
                      Sau khi hỏi rõ nguyên do sự tình, anh
                      ấy nhìn xuống vách đá, bảo nếu muốn kiểm tra điện cực nối đất thì phải đào lỗ, một mình Lôi Chí Thành ở dưới đó tốn sức quá. Anh ấy muốn xuống giúp một tay, bèn đeo sợi dây an toàn mà chiến sĩ kia để lại. Tôi bảo anh ấy lấy thêm một sợi thừng khác, nhưng Dương Vệ Ninh nói không cần, sợi thừng này rất to, rất chắc chắn, chịu tải hai người không thành vấn đề. Tôi kiên quyết đòi lấy thêm, anh ấy bèn bảo tôi đi lấy đi vậy. Đợi tôi chạy vội đi lấy một sợi thừng khác về đến vách đá, Dương Vệ Ninh đã đu sợi thừng kia mà leo xuống rồi. Tôi thò đầu nhìn xuống, thấy anh ấy và Lôi Chí Thành đã kiểm tra xong xuôi, đang bám vào cùng một sợi thừng để leo lên, Lôi Chí Thành
                      leo phía trước.
                      Thật sự là không còn cơ hội nào khác nữa rồi, tôi lấy lưỡi cưa sắt ra, cắt đứt dây thừng.
                      Người thẩm vấn: Tôi hỏi câu này, trả lời không ghi vào biên bản. Cảm giác của bà lúc đó thế nào?
                      Diệp Văn Khiết: Bình tĩnh, tôi làm mà không hề có cảm xúc gì. Tôi đã tìm được sự nghiệp để hiến thân vì nó, cái giá phải trả, cho dù là của chính tôi hay của người khác, đều chẳng đáng quan tâm. Đồng thời, tôi cũng biết, cả nhân loại đều sẽ phải vì sự nghiệp này mà hy sinh lớn lao chưa từng có, đây
                      chẳng qua chỉ là một sự khởi đầu bé nhỏ không đáng để nhắc đến.
                      Người Thẩm vấn: Được rồi, tiếp tục
                      đi.
                      Diệp Văn Khiết: Tôi nghe thấy hai
                      ba tiếng kêu kinh hoảng ngắn ngủi, sau đó là tiếng cơ thể rơi xuống những khối đá bên dưới, đợi một lúc, tôi liền trông thấy dòng suối nhỏ chảy ra từ bên dưới vách đá ấy chuyến sang sắc đỏ… về chuyện này, tôi chỉ có thể nói được đến vậy thôi.
                      Người thẩm vấn: Được rồi, đây là biên bản, bà hãy xem thật kỹ, nếu không có gì sai sót thì ký tên ở đây.

                      #26
                        huytran 30.07.2017 06:12:45 (permalink)
                        Chương 27 : Không người sám hối  
                         
                        Sau khi Lôi Chí Thành và Dương Vệ Ninh gặp nạn, cấp trên nhanh chóng xử lý vụ việc này như một tai nạn nghề nghiệp bình thường, trong mắt của tất cả mọi người ở căn cứ, tình cảm của Diệp Văn Khiết và Dương Vệ Ninh rất tốt, không ai nghi ngờ cô cả.
                        Chính ủy mới của căn cứ mau chóng đến nhậm chức, cuộc sống lại khôi phục sự bình lặng trước đây, sinh mạng nhỏ trong bụng Diệp Văn Khiết ngày một lớn dần, đồng thời, cô cũng cảm nhận được sự thay đổi của thế giới bên ngoài.
                        Hôm ấy, đội trưởng đội cảnh vệ gọi Diệp Văn Khiết ra trạm gác ngoài cổng. Vừa ra đến nơi, cô liền giật mình kinh ngạc: ở đó có ba đứa trẻ, hai nam một nữ, chừng khoảng mười lăm mười sáu tuổi, đều mặc áo bông cũ, đầu đội mũ da chó, nhìn biết ngay là người địa phương. Lính gác nói với cô, bọn chúng là người ở thôn Tề Gia, nghe nói trên núi Radar này toàn là người có học vấn nên muốn đến hỏi vài vấn đề trong học tập. Diệp Văn Khiết thầm nhủ, sao bọn chúng lại dám lên núi Radar? Nơi này là khu vực cấm tuyệt đối của quân đội, các trạm gác chỉ cần cảnh cáo kẻ tự tiện tiếp cận một lần là có thể nổ súng. Tay lính gác nhìn ra sự nghi hoặc của Diệp Văn Khiết, liền
                        cho cô biết, vừa nhận được lệnh, cấp độ bảo mật của căn cứ Hồng Ngạn đã bị hạ thấp, người bản địa chỉ cần không vào trong căn cứ thì có thể lên núi Radar, từ hôm qua đã có mấy nông dân địa phương đến để đưa rau rồi.
                        Một đứa trẻ lấy ra một cuốn sách giáo khoa vật lý cấp II đã rách bươm, tay nó đen sì, nứt nẻ như vỏ cây, hỏi cô một vấn đề vật lý cấp II bằng chất giọng Đông Bắc rất nặng: trong sách nói vật thể rơi tự do thoạt đầu sẽ không ngừng tăng tốc, nhưng cuối cùng sẽ rơi xuống với vận tốc như nhau, bọn chúng đã nghĩ mấy buổi tối mà cũng không hiểu được.
                        “Các cháu chạy cả quãng đường xa
                        như vậy, là để hỏi chuyện này hả?” Diệp Văn Khiết hỏi.
                        “Cô giáo Diệp, cô không biết ạ? Bên ngoài kia sắp thi đại học rồi!” Cô bé gái phấn khích nói.
                        “Thi đại học?”
                        “Thì là vào đại học đó! Ai học tốt, ai được điểm cao thì sẽ được vào đại học! Từ năm ngoái đã thế rồi, cô vẫn không biết ạ?!”
                        “Không giới thiệu nữa à?”
                        “Không, ai cũng được thi, cả con cái thành phần ‘năm loại đen”(*) trong thôn cũng được nữa đó!”
                        (*) Cách gọi chung của năm thành phần: phú nông, địa chủ, phần tử xấu, cánh hữu và phản cách mạng.
                        Diệp Văn Khiết ngẩn người ra một lúc, thầm cảm khái trước sự thay đổi này. Mãi lâu sau, cô mới nhận ra bọn trẻ trước mặt vẫn đang cầm sách đợi mình, vội vàng trả lời câu hỏi của chúng, bảo chúng rằng đó là do lực cản không khí và trọng lực đã cân bằng nhau. Cô còn hứa, nếu sau này học hành có gì khó khăn, chúng có thể đến tìm cô bất cứ lúc nào.
                        Ba ngày sau, lại có bảy đứa trẻ đến tìm Diệp Văn Khiết, ngoài ba đứa lần trước, bốn đứa còn lại đều từ thôn trấn khác xa hơn. Lần thứ ba, có mười lăm
                        đứa trẻ đến tìm cô, cùng đi còn có cả một thầy giáo ở trường trung học của thị trấn, vì thiếu người, ông ta phải dạy cả mấy môn toán, lý, hóa, ông ta đến để hỏi Diệp Văn Khiết một số vấn đề trong dạy học. Người này đã quá ngũ tuần, mặt mũi đượm vẻ phong sương vất vả, đứng trước mặt Diệp Văn Khiết cứ luống ca luống cuống, sách vở rơi bừa bãi dưới đất. Lúc ra khỏi trạm gác, Diệp Văn Khiết nghe ông ta nói với các học sinh: “Các em, nhà khoa học, đây là nhà khoa học thực sự đó!” Từ sau đận ấy, cứ dăm ba ngày lại có lũ trẻ đến hỏi bài, có lúc đến đông quá, trong trạm canh không đủ chỗ đứng, được sự đồng ý của lãnh đạo phụ trách công tác bảo vệ trong căn cứ,
                        lính gác dẫn họ vào cả nhà ăn, Diệp Văn Khiết kê một tấm bảng đen nhỏ ở đó giảng bài cho lũ trẻ.
                        Đêm giao thừa năm 1978, Diệp Văn Khiết tan ca thì trời đã tối mịt, hầu hết người trong căn cứ đều đã xuống núi trong kỳ nghỉ kéo dài ba ngày, khắp nơi đều chìm trong tĩnh lặng. Diệp Văn Khiết về phòng mình, nơi đây từng là nhà của cô và Dương Vệ Ninh, giờ thì đã trống huếch, chỉ còn lại đứa trẻ trong bụng bầu bạn cùng cô. Đêm lạnh, gió của dãy Đại Hưng An ngoài kia rít gào, trong gió loáng thoáng vẳng lại tiếng pháo nổ ở thôn Tề Gia phía xa xa. Nỗi cô đơn tựa như một bàn tay khổng lồ đè lên Diệp Văn Khiết, cô cảm thấy mình càng lúc
                        càng bị đè cho nhỏ hơn, cuối cùng co rút vào một góc nhỏ xíu không ai nhìn thấy của thế giới này… Đúng lúc ấy có tiếng gõ cửa, sau khi mở cửa, người đầu tiên cô trông thấy là lính gác trực, sau lưng anh ta có mấy cây đuốc cành thông đang cháy leo lét trong gió lạnh, cầm đuốc là một lũ trẻ con, mặt đứa nào đứa nấy đều đỏ bừng vì lạnh, trên mũ da chó có cả mạt băng vụn, bước vào nhà mang theo một luồng khí lạnh. Trong bọn có hai thằng bé bị lạnh nhất, chúng nó áo xống mỏng manh, nhưng lại dùng hai chiếc áo bông dày bọc thứ gì đó ôm trong lòng, lúc mở áo bông, hóa ra là cái chậu men sứ lớn, bên trong là dưa chua với bánh chẻo nhân thịt lợn vẫn đang bốc khói
                        trắng nghi ngút.
                        Năm đó, tám tháng sau khi phát tín hiệu về phía Mặt trời, Diệp Văn Khiết sinh nở, vì cái thai không thuận, sức khỏe cô lại rất yếu, phòng y tế của căn cứ không đủ điều kiện đỡ đẻ nên phải chuyển cô đến bệnh viện thị trấn gần nhất.
                        Đây hóa ra lại là một cửa ải sinh tử đối với Diệp Văn Khiết, cô sinh khó, sau khi đau đớn quằn quại và mất máu quá nhiều thì rơi vào hôn mê, trong lúc mơ mơ màng màng chỉ trong thấy ba vầng Mặt trời nóng bỏng chói mắt đang từ từ chuyển động xung quanh, tàn khốc thiêu đốt mình. Cảnh tượng ấy kéo dài rất lâu,
                        trong cơn mộng mị, cô thầm nghĩ đây có lẽ chính là chốn về vĩnh hằng của mình rồi, đây chính là địa ngục của cô, lửa địa ngục tạo nên bởi ba Mặt trời sẽ vĩnh viễn thiêu đốt cô, đây chính là hình phạt cô phải nhận lấy cho tội phản bội. Cô rơi vào nỗi sợ khủng khiếp, không phải vì bản thân, mà là vì đứa nhỏ… đứa nhỏ vẫn ở trong bụng cô chứ? Nó vẫn theo cô đến chốn địa ngục này chịu đựng nỗi thống khổ vĩnh hằng hay sao? Không biết bao lâu đã trôi qua, ba Mặt trời dần dần lùi xa, đến một khoảng cách nhất định thì chúng đột nhiên thu nhỏ lại, biến thành ba ngôi sao bay sáng nhấp nháy, xung quanh trở nên mát lạnh, nỗi đau cũng bớt đi phần nào, rốt cuộc cô đã tỉnh lại.
                        Diệp Văn Khiết nghe thấy bên tai có tiếng khóc oe óe, cô gắng sức ngoảnh mặt lại, liền trông thấy gương mặt nhỏ xíu ẩm ướt, non nớt của em bé mới sinh.
                        Bác sĩ bảo Diệp Văn Khiết, cô chảy mất hơn hai lít máu, thôn Tề Gia có mấy chục nông dân đến đây hiến máu cho cô, trong số họ nhiều người có con được cô phụ đạo cho, nhưng nhiều hơn cả là những người không hề quen biết, chỉ nghe lũ trẻ con và bố mẹ chúng nhắc đến cô mà thôi, nếu không có bọn họ, cô đã chết chắc rồi.
                        Những ngày tháng sau này trở thành một vấn đề nan giải, Diệp Văn Khiết đẻ xong rất yếu ớt, nuôi con trong căn cứ là
                        điều không thể, cô lại không có người thân thích nào cả. Lúc này, một cặp vợ chồng già ở thôn Tề Gia đến tìm lãnh đạo khu căn cứ, nói họ có thể đưa Diệp Văn Khiết và đứa trẻ về nhà chăm sóc. Người chồng vốn là một thợ săn, cũng đi hái cả thuốc, về sau rừng ở xung quanh càng lúc càng ít thì chuyển sang làm nông, nhưng mọi người vẫn gọi ông là thợ săn Tề. Nhà họ được hai trai hai gái, hai cô con gái đều đã đi lấy chồng, một người con trai đi lính ở tỉnh ngoài, người còn lại sau khi lấy vợ thì ở chung với hai ông bà, con dâu cũng vừa mới sinh cháu. Lúc này Diệp Văn Khiết chưa được sửa sai, lãnh đạo căn cứ lấy làm khó xử, nhưng cũng chỉ còn mỗi cách này, bèn
                        cho họ dùng xe trượt tuyết đưa Diệp Văn Khiết từ bệnh viện thị trấn về nhà mình.
                        Diệp Văn Khiết ở nhà người nông dân trong dãy núi Đại Hưng An ấy hơn nửa năm, đẻ xong, sức khỏe cô yếu ớt, không có sữa, thời gian này, Dương Đông lớn lên nhờ sữa của trăm nhà. Người cho Dương Đông bú nhiều nhất là con dâu của thợ săn Tề, tên là Đại Phượng. Cô gái vùng Đông Bắc ấy ngày ngày đều ăn cao lương và ngô, cùng lúc cho hai đứa trẻ bú mà vẫn thừa sữa. Các bà mẹ trong thôn đang trong thời kỳ cho con bú cũng đều đến cho Đông Dương bú nhờ, họ rất thích cô bé, nói rằng nó có vẻ xinh xắn mong manh của mẹ. Dần dần, nhà thợ săn Tề thành chỗ tụ tập của phụ nữ trong
                        thôn, người già người trẻ, người đã có chồng hay chưa chồng, những lúc rảnh rỗi đều thích đến đây chơi, họ vừa ngưỡng mộ lại vừa tò mò đối với Diệp Văn Khiết, còn Diệp Văn Khiết cũng nhận ra giữa mình và họ có rất nhiều chuyện phụ nữ có thể nói với nhau. Cũng không nhớ có bao nhiêu ngày nắng đẹp, Diệp Văn Khiết ôm Dương Đông cùng các bà các cô trong thôn ngồi trong cái sân quây bằng cọc gỗ bạch hoa, bên cạnh có lũ trẻ con đang chơi đùa và con chó đen lười nhác, ánh dương ấm áp ôm trọn lấy tất cả vào lòng. Lần nào cô cũng đặc biệt để ý nhìn mấy bà cầm tẩu thuốc bằng đồng, làn khói lững lờ phả ra từ miệng họ lan vào ánh Mặt trời, phát ra thứ ánh
                        sáng dìu dịu bàng bạc giống như những sợi lông măng trên làn da căng mọng của họ. Có lần, một người trong số họ đưa chiếc tẩu dài bằng thép trắng cho cô, bảo cô “thử một tí”, cô rít vào hai ba hơi, liền bị sặc khói xây xẩm cả người, khiến bọn họ cười suốt mấy ngày.
                        Với đám đàn ông Diệp Văn Khiết lại chẳng có chuyện gì để nói, cô cũng không hiểu được những chuyện hằng ngày họ quan tâm, đại khái là muốn nhân lúc chính sách đang buông lỏng mà trồng ít nhân sâm, nhưng lại không dám mạnh dạn làm. Họ đều rất kính trọng Diệp Văn Khiết, lúc nào cũng lịch sự lễ độ trước mặt cô. Mới đầu cô cũng không để ý chuyện này cho lắm, nhưng lâu dần, khi
                        thấy những người đàn ông đó đánh đập vợ con thô lỗ thế nào, thấy lúc họ trêu đùa những bà quả phụ trong thôn, nói ra những lời thô tục chỉ nghe nửa câu cô đã đỏ bừng mặt lên ra sao, cô mới cảm nhận được sự tôn trọng đó quý báu đến nhường nào. Cứ dăm ba ngày, thế nào cũng có người trong bọn họ mang thỏ hoang, gà rừng bắt được đến nhà thợ săn Tề, lại còn tặng cho Dương Đông rất nhiều món đồ chơi đơn sơ mà đặc biệt do chính họ làm ra nữa.
                        Trong ký ức của Diệp Văn Khiết, khoảng thời gian này dường như không thuộc về cô, mà tựa một mảng trôi dạt nào đó từ cuộc đời người khác rơi vào cuộc đời cô, như thể một chiếc lông vũ
                        vậy. Đoạn ký ức ấy được cô đặt lại trong tâm tưởng thành những bức tranh sơn dầu mang phong cách cổ điển châu Âu, rất kỳ quặc, không phải tranh của Trung Quốc, mà là tranh sơn dầu. Trong tranh Trung Quốc có quá nhiều khoảng trống, mà cuộc sống ở thôn Tề Gia lại không có khoảng trống, tựa như tranh sơn dầu cổ điển vậy, tràn ngập những màu sắc nồng đậm không thể xóa nhòa. Tất cả đều nồng nhiệt và ấm áp: chiếc kháng(*) đất trải lớp cỏ u la thật dày, thuốc lá Mạc Hợp và Quan Đông trong chiếc tẩu bằng đồng, bát cơm cao lương đầy đặn, rượu cao lương nặng đến 65 độ… nhưng tất cả những thứ này đều trôi đi trong tĩnh lặng và bình yên, như con suối nhỏ trong thôn
                        làng ấy.
                        (*) Loại giường đắp bằng đất, mùa đông nằm sẽ rất ấm áp, phổ biến ở các vùng nông thôn phía Bắc Trung Quốc.
                        Diệp Văn Khiết nhớ nhất là những buổi đêm ở đó. Thợ săn Tề và con trai đã vào thành phố bán nấm nương, ông là người đầu tên trong thôn đi ra ngoài kiếm tiền, cô ở chung với Đại Phượng. Lúc bấy giờ, thôn Tề Gia chưa có điện, mỗi tối, hai người họ đều ngồi bên chiếc đèn dầu, Diệp Văn Khiết đọc sách còn Đại Phượng thì khâu vá. Diệp Văn Khiết lần nào cũng vô thức gí sát quyển sách và mắt vào gần đèn dầu, tóc mái thường bị cháy kêu lách cách, những lúc như thế cả
                        hai lại ngẩng đầu lên nhìn nhau mà cười. Đại Phượng chẳng bao giờ gặp phải chuyện như thế, mắt cô rất tốt, dưới ánh sáng lửa than cũng có thể làm những công việc tỉ mỉ. Hai đứa trẻ còn chưa đầy nửa năm tuổi ngủ trên chiếc kháng đất bên cạnh cô, dáng vẻ lúc ngủ của chúng khiến người ta nhìn mà ngây ngất, âm thanh duy nhất nghe được trong phòng chỉ có tiếng thở đều đặn của hai đứa chúng. Ban đầu, Diệp Văn Khiết không quen ngủ trên kháng đất, toàn bị nóng, về sau quen rồi, trong giấc mộng, cô thường cảm thấy mình biến thành trẻ sơ sinh nằm trong vòng tay ấm áp của một người nào đó, cảm giác ấy rất thật, mấy lần tỉnh giấc cô đều đầm đìa nước mắt… Nhưng
                        người đó không phải cha hay mẹ, cũng không phải người chồng đã chết của cô, cô không biết đó là ai.
                        Có một lần, cô buông sách xuống, thấy Đại Phượng đặt cái đế giày đang khâu xuống đùi, ngẩn người ra nhìn ngọn đèn. Nhận ra Diệp Văn Khiết đang nhìn mình, Đại Phượng đột nhiên hỏi:
                        “Chị à, chị nói xem ông sao trên trời kia chắc sẽ không rơi xuống đây chứ?”
                        Diệp Văn Khiết chăm chú nhìn Đại Phượng, ngọn đèn dầu là một họa sĩ tài ba, khắc họa nên một bức tranh sơn dầu cổ điển sắc điệu đậm đà mà lại có vẻ thanh thoát: Đại Phượng khoác áo bông, chiếc yếm đỏ và một cánh tay tròn lẳn lộ
                        ra ngoài, ngọn đèn làm hình ảnh cô nổi bật lên, phủ lên những phần đẹp nhất của cô thứ màu sắc nổi nhất, còn những phần khác thì khéo léo ẩn đi. Cảnh nền cũng bị ẩn đi, tất cả đều bị nhấn chìm trong một mảng tối dịu dàng, nhìn kỹ còn thấy cả một quầng sáng màu đỏ sậm, không phải của ngọn đèn dầu, mà là do than hồng dưới đất chiếu hắt ra, có thể thấy, cái lạnh bên ngoài đã bắt đầu dùng hơi ẩm ấm áp bên trong nhà điêu khắc nên những đường vân băng đẹp đẽ trên ô cửa sổ.
                        “Em sợ sao sẽ rơi xuống hả?” Diệp Văn Khiết khẽ hỏi.
                        Đại Phượng cười cười lắc đầu: “Sợ gì chứ ạ? Chúng nó nhỏ thế kia mà.”
                        Diệp Văn Khiết rốt cuộc vẫn không đưa ra câu trả lời của một nhà vật lý thiên văn mà chỉ nói: “Chúng đều ở rất xa, rất xa, không rơi xuống được đâu.”
                        Đại Phượng rất vừa lòng với câu trả lời này, lại tiếp tục cắm cúi vào công việc may vá của mình. Nhưng Diệp Văn Khiết lại dậy sóng trong lòng, cô buông sách xuống, nằm trên mặt kháng đất ấm áp, khép hờ hai mắt, mường tượng ẩn đi cả vũ trụ xung quanh gian phòng nhỏ này, giống như ngọn đèn dầu kia đã giấu hầu hết không gian bên trong gian phòng nhỏ vào bóng tối vậy. Sau đó, cô thay thế nó bằng vũ trụ trong lòng Đại Phượng. Lúc này, bầu trời đêm kia là một mặt cầu khổng lồ màu đen, kích cỡ vừa khéo bao
                        trọn cái thế giới này, trên mặt cầu ấy khảm vô số ngôi sao lấp lánh ánh bạc, mỗi ngôi sao không lớn hơn chiếc gương tròn trên cái bàn cũ bằng gỗ kê ở đầu giường. Thế giới là một mặt phẳng, vươn ra các hướng khác nhau, thật xa thật xa, nhưng vẫn có giới hạn. Trên mặt phẳng ấy toàn là những dãy núi giống như dãy Đại Hưng An này, cũng phủ kín rừng rậm, giữa những khu rừng điểm xuyết các thôn làng giống như thôn Tề Gia này… Vũ trụ giống như hộp đồ chơi ấy khiến cô cảm thấy dễ chịu vô cùng, dần dần, vũ trụ ấy đã từ tưởng tượng, biến thành giấc mộng của cô.
                        Ở thôn làng nhỏ trong dãy núi Đại Hưng An này, thứ gì đó trong trái tim
                        Diệp Văn Khiết đã từ từ tan chảy, đống băng trong tâm hồn cô dần dần tan thành một hồ nước nhỏ trong vắt.
                        Sau khi Dương Đông ra đời, ở căn cứ Hồng Ngạn, hơn hai năm thời gian lại trôi đi trong căng thẳng và cả bình lặng. Lúc này, Diệp Văn Khiết nhận được thông báo, vụ án của cha cô và cô đều đã được lật lại; không lâu sau, cô nhận được thư của trường đại học, nói cô có thể lập tức quay về làm việc. Cùng với thư còn có một khoản tiền lớn, đây là tiền lương phát bổ sung của cha cô sau khi thực hành chính sách mới. Trong cuộc họp ở căn cứ, lãnh đạo rốt cuộc đã gọi cô là đồng chí Diệp Văn Khiết trở
                        lại.
                        Diệp Văn Khiết đối diện với tất cả những điều này một cách rất bình tĩnh, không hề kích động và hưng phấn. Cô không hứng thú gì với thế giới bên ngoài, tình nguyện ở lại căn cứ Hồng Ngạn hẻo lánh này mãi mãi, nhưng vì việc học hành của con gái, cô vẫn quyết định rời khỏi căn cứ Hồng Ngạn mà cô vốn tưởng sẽ phải ở lại cả đời này, trở về trường đại học.
                        Ra khỏi vùng núi sâu, Diệp Văn Khiết chìm trong không khí mùa xuân, mùa đông lạnh giá của Cách mạng văn hóa đã thực sự kết thúc, tất cả đều đang hồi phục. Tuy rằng tai họa vừa mới kết thúc,
                        dõi mắt nhìn ra chỉ thấy từng đống đổ nát, vô số người vẫn đang lặng lẽ liếm láp vết thương của mình, nhưng trong ánh mắt mọi người, ánh ban mai của cuộc sống mới đã hiển hiện. Trong trường đại học xuất hiện những sinh viên mang theo trẻ con, các danh tác văn học trong hiệu sách được người ta tranh nhau mua hết sạch, trong nhà máy, đổi mới về kỹ thuật trở thành vấn đề được quan tâm nhất, nghiên cứu khoa học lại càng được bao phủ một vầng hào quang thần thánh. Khoa học và kỹ thuật thoắt chốc trở thành chiếc chìa khóa duy nhất mở ra cánh cửa tương lai, mọi người chân thành đến với khoa học như đám trẻ con cấp một, sự cố gắng của họ tuy rằng rất ngây thơ, nhưng cũng
                        rất thực chất. Trong Đại hội khoa học toàn quốc lần thứ nhất, Quách Mạt Nhược tuyên bố mùa xuân của khoa học đã đến rồi.
                        Sự điên cuồng đã kết thúc rồi sao? Khoa học và lý trí bắt đầu trở về rồi sao? Diệp Văn Khiết không chỉ một lần tự hỏi mình như thế.
                        Cho đến khi rời khỏi căn cứ Hồng Ngạn, Diệp Văn Khiết không nhận được tin tức gì từ thế giới Tam Thể nữa. Cô biết, muốn nhận được hồi âm của thế giới ấy cho tin nhắn của cô, ít nhất phải đợi tám năm, huống hồ, sau khi rời khỏi căn cứ, cô đã không còn điều kiện để nhận thông tin hồi đáp đó nữa rồi.
                        Sự việc ấy thực tình quá lớn lao, nhưng lại chỉ do một mình cô lặng lẽ hoàn thành, chính vì thế mà làm nảy sinh ra một thứ cảm giác không chân thực. Thời gian dần trôi, cảm giác hư ảo này càng lúc càng mạnh mẽ, sự kiện đó càng lúc càng giống như ảo giác, như một giấc mộng. Mặt trời thật sự có thể khuếch đại sóng điện từ hay sao? Cô thật sự đã lấy Mặt trời làm ăng ten, phát vào vũ trụ thông tin về nền văn minh của loài người hay sao? Cô thật sự đã nhận được thông tin của một nền văn minh ngoài Trái đất hay sao? Buổi sáng sớm đượm sắc máu mà cô đã phản bội cả loài người đó có thật sự tồn tại hay sao? Còn cả vụ mưu sát ấy nữa…
                        Diệp Văn Khiết thử mượn công việc làm tê liệt bản thân, để quên đi quá khứ… không ngờ cô đã gần như thành công, một thứ bản năng tự vệ kỳ lạ khiến cô không còn nhớ về chuyện xưa nữa, không còn nhớ rằng cô và một nền văn minh ngoài Trái đất từng có liên hệ, ngày tháng cứ thế dần dần trôi qua trong bình lặng.
                        Về trường đại học một thời gian, Diệp Văn Khiết dẫn theo Đông Đông đi thăm Thiệu Lâm, mẹ cô. Sau khi chồng chết thảm, Thiệu Lâm nhanh chóng hồi phục cơn rối loạn tinh thần, tiếp tục lăn lộn cầu sinh trong kẽ hở chính trị. Bà ta dựa theo thời thế mà hô cao khẩu hiệu, cuối
                        cùng cũng nhận được chút đền đáp, trong phong trào “nhập học lại là làm cách mạng” về sau, rốt cuộc đã trở lại được bục giảng. Nhưng lúc này, Thiệu Lâm lại làm một việc nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người, bà ta kết hôn với một cán bộ cấp cao của ngành giáo dục bị bức hại, khi đó vị cán bộ này vẫn còn đang ở chuồng bò cải tạo lao động trong trường dạy cán bộ. Đối với chuyện này, Thiệu Lâm đã có tính toán kỹ càng của riêng mình, bà ta hiểu rõ, sự hỗn loạn trong xã hội không thể kéo dài mãi, phái tạo phản trẻ tuổi đang đoạt quyền trước mắt căn bản không có kinh nghiệm quản lý nhà nước, những cán bộ cũ giờ đang bị gạt ra bên lề hoặc bị bức hại sớm muộn gì cũng
                        vẫn bước lên nắm chính quyền. Sự thực sau này đã chứng minh lần đánh cuộc ấy của bà ta là chính xác, Cách mạng văn hóa còn chưa kết thúc, chồng bà ta đã được hồi phục một phần chức vị, sau hội nghị toàn thể lần thứ 3 khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông ta nhanh chóng được thăng lên cấp thứ trưởng. Nhờ đó, khi các phần tử trí thức được trọng dụng trở lại, Thiệu Lâm nhanh chóng một bước lên mây. Sau khi trở thành ủy viên hội đồng học thuật thuộc Viện hàn lâm khoa học, bà ta đã thông minh xin chuyển khỏi ngôi trường ban đầu, nhanh chóng được thăng chức lên làm hiệu phó của một trường đại học danh tiếng khác.
                        Người mẹ mà Diệp Văn Khiết gặp lại, mang hình tượng của một nữ trí thức gìn giữ rất tốt, hoàn toàn không hề có dấu vết gì chứng tỏ từng bị giày vò khổ sở. Bà ta nhiệt tình tiếp đãi hai mẹ con Diệp Văn Khiết, thân thiết hỏi han những năm vừa qua cô sống thế nào, kinh ngạc khen ngợi Đông Đông thông minh đáng yêu, cẩn thận dặn dò cô bảo mẫu làm các món ăn mà Diệp Văn Khiết thích… tất cả mọi thứ đều rất khéo léo, rất thành thạo, rất chu đáo. Nhưng Diệp Văn Khiết lại cảm nhận được rõ rệt khoảng cách giữa họ, bọn họ cẩn trọng né tránh những chủ đề mẫn cảm, không hề nhắc đến cha của Diệp Văn Khiết.
                        Sau bữa tối, Thiệu Lâm và chồng tiễn
                        Diệp Văn Khiết và con gái đi rất xa, ông thứ trưởng bảo muốn nói với Diệp Văn Khiết mấy lời, Thiệu Lâm bèn quay về trước. Lúc này, sắc mặt ông thứ trưởng trog chớp mắt đã đổi từ nụ cười ấm áp thành lạnh như băng giá, tựa như đã hết kiên nhẫn, thẳng thừng giật phăng tấm mặt nạ đang đeo xuống, ông ta nói: “Sau này, hoan nghênh cháu dẫn con bé đến đây chơi, có điều, đừng truy cứu nợ cũ trong quá khứ. Về cái chết của cha cháu, mẹ cháu không hề có trách nhiệm gì, bà ấy cũng là người bị hại. Ngược lại, con người cha cháu ấy, sự cố chấp đối với những tín niệm của ông ấy có chút hơi biến thái, cứ đi một con đường đến tận cùng, vứt bỏ cả trách nhiệm đối với gia
                        đình, khiến cho mẹ con cháu chịu bao nhiêu khổ sở.”
                        “Ông không có tư cách nói về cha tôi.” Diệp Văn Khiết phẫn nộ nói, “Đây là chuyện giữa hai mẹ con tôi, không liên quan đến người khác.”
                        “Đúng là không liên quan đến bác.” Chồng của Thiệu Lâm lạnh lùng gật đầu, “Bác đang truyền đạt lại ý của mẹ cháu.”
                        Diệp Văn Khiết ngoảnh đầu nhìn, trên lầu căn nhà nhỏ có sân dành cho cán bộ cao cấp kia, Thiệu Lâm đang vén một góc rèm cửa sổ nhìn trộm về phía này. Diệp Văn Khiết lặng lẽ ôm Đông Đông bỏ đi, từ sau không bao giờ quay lại đó nữa.
                        Diệp Văn Khiết đã hỏi han nhiều nơi để tìm kiếm bốn Hồng vệ binh năm xưa đã đánh chết cha mình, cuối cùng tìm được ba trong bốn người bọn họ. Ba người này là thanh niên trí thức trở lại thành phố, giờ họ đều không có việc làm. Diệp Văn Khiết biết được địa chỉ của họ, liền lần lượt gửi cho mỗi người một bức thư đơn giản, hẹn họ đến sân vận động mà năm đó cha cô bị hại để nói chuyện.
                        Cô không hề có ý định trả thù. Vào buổi sớm khi Mặt trời lên ở căn cứ Hồng Ngạn đó, cô đã trả thù toàn nhân loại, bao gồm cả mấy người bọn họ, giờ cô chỉ muốn nghe lời sám hối của những hung thủ này, nhìn thấy dù chỉ là một chút
                        sự hồi phục của tính người.
                        Ngày hôm đó, hết giờ học buổi chiều, Diệp Văn Khiết đợi họ trên sân vận động. Cô không ôm nhiều hy vọng lắm, gần như khẳng định rằng họ sẽ không đến, nhưng đúng giờ hẹn, cả ba Hồng vệ binh năm xưa đều xuất hiện.
                        Từ xa, Diệp Văn Khiết đã nhận ra ba người đó, vì họ đều mặc quân phục màu xanh lục mà hiện nay đã rất hiếm gặp. Khi lại gần, cô phát hiện đây rất có thể chính là bộ đồ họ đã mặc trong buổi đại hội phê đấu năm đó, quần áo đều đã bạc trắng vì giặt giũ, có những vết vá khá rõ. Nhưng ngoài điều đó ra, ba người phụ nữ tầm trên dưới ba mươi này đã không còn bất cứ điểm tương đồng nào với ba Hồng vệ binh hiên ngang oai hùng năm đó nữa, hiển nhiên, ngoài tuổi trẻ ra, còn có nhiều thứ khác đã bị phai nhòa khỏi họ.
                        Ấn tượng đầu tiên của Diệp Văn Khiết là, khác hẳn sự nhịp nhàng ăn ý năm đó, khác biệt giữa ba người họ đã lớn hơn. Một người trở nên rất gầy, bộ đồ năm xưa mặc trên người không ngờ còn hơi rộng, lưng cô ta hơi còng xuống, mái tóc ngả vàng, đã thấp thoáng vẻ già nua; một người khác lại trở nên to béo phốp pháp, bộ đồ khoác trên tấm thân to bè không cài nổi cúc, đầu tóc cô ta bù xù, mặt mày đen đúa, rõ ràng đã bị cuộc sống vất vả mài mòn hết vẻ thanh tú của phái nữ, chỉ còn lại sự thô lỗ và tê dại; người thứ ba
                        thì vẫn còn phảng phất bóng dáng của tuổi trẻ, nhưng một ống tay áo của cô ta đã trống hoác, lúc bước đi cứ nghiêng nghiêng ngả ngả.
                        Ba cựu Hồng vệ binh đi tới trước mặt Diệp Văn Khiết, đứng thành hàng ngang đối diện với cô - năm xưa, họ cũng đứng đối diện với Diệp Triết Thái như vậy – cố thử tái hiện lại sự tôn nghiêm từ lâu đã bị quên lãng ấy, nhưng sức mạnh tinh thần như ma quỷ năm xưa hiển nhiên đã hoàn toàn biến mất. Vẻ mặt người phụ nữ gầy gò trông hệt như con chuột, gương mặt người cao lớn thì chỉ còn sự đờ đẫn, người cụt tay ngước đôi mắt lên nhìn bầu không.
                        “Cô tưởng chúng tôi không dám đến?” Người cao lớn hỏi như thể muốn khiêu khích.
                        “Tôi cảm thấy chúng ta nên gặp mặt nhau, chuyện trong quá khứ rốt cuộc cũng nên có một cái kết.” Diệp Văn Khiết nói.
                        “Đã kết thúc rồi, chắc hẳn là cô đã nghe nói.” Người gầy gò lên tiếng, giọng cô ta the thé, như thể lúc nào cũng có một nỗi kinh sợ không biết từ đâu.
                        “Tôi nói là về mặt tinh thần.”
                        “Vậy tức là cô đang chuẩn bị nghe chúng tôi sám hối chứ gì?” Người cao lớn hỏi.
                        “Các người không nên sám hối hay
                        sao?”
                        “Vậy thì ai sám hối với chúng tôi chứ?” Người cụt tay từ nãy giờ im lặng nói.
                        Người cao lớn nói: “Trong bốn người chúng tôi, có ba người từng ký tên trên báo tường của trường trung học thuộc Đại học Thanh Hoa, từ Nối vòng tay lớn, Đại duyệt binh, cho đến Đấu tranh vũ trang, từ ‘Bộ tư lệnh thứ nhất’, ‘Bộ tư lệnh thứ hai’, ‘Bộ tư lệnh thứ ba’, cho đến ‘Ủy ban liên hợp hành động’, ‘Đội Hồng vệ binh duy trì trật tự khu Tây Thủ Đô’, ‘Đội Hồng vệ binh duy trì trật tự khu Đông Thủ đô’, rồi đến ‘Công xã Bắc Đại mới’, ‘Đội chiến đấu Cờ Đỏ’, và
                        ‘Đông phương hồng’, chúng tôi đã trải qua toàn bộ quá trình từ sinh đến tử của Hồng vệ binh.”
                        Người cụt tay tiếp lời: “Trong trăm ngày Đấu tranh vũ trang ở sân trường Thanh Hoa, bốn người chúng tôi, hai người ở binh đoàn ‘Cảnh Cương Sơn’, hai người ở binh đoàn ‘414’. Tôi giơ lựu đạn xông về phía xe tăng tự chế của ‘Cảnh Cương Sơn’, cánh tay này bị bánh xe tăng nghiền nát, lúc đó máu thịt và xương cốt đều hòa thành bùn lầy dưới đất… năm đó tôi mới có mười lăm tuổi thôi.”
                        “Về sau, chúng tôi đều đi theo phong trào!” Người cao lớn giơ hai tay lên nói,
                        “Bốn người, hai đi Thiểm Tây, hai đi Hà Nam, toàn là những chỗ nghèo đói nhất hẻo lánh nhất. Lúc mới đi thì còn hăm hở lắm, nhưng ngày tháng lâu dần, làm xong công việc của một ngày trên đồng ruộng là mệt đến nỗi quần áo cũng chẳng giặt nổi; nằm trong căn lều cỏ dột dát, nghe tiếng sói tru phía xa xa, dần dần chúng tôi cũng từ trong mộng trở về với hiện thực. Chúng tôi ở chốn quê nghèo hẻo lánh ấy, thật sự là kêu trời không thấu, gọi đất chẳng xong.”
                        Người đàn bà cụt tay ngẩn người ra nhìn xuống đất: “Có lúc, trên con đường nhỏ giữa núi hoang, chạm mặt những chiến hữu Hồng vệ binh ngày trước, hoặc là kẻ địch trong Đấu tranh vũ trang, chỉ
                        thấy quần áo rách rưới như nhau, khắp người toàn bụi đất và cứt trâu như nhau, đành nhìn nhau không nói mà thôi.”
                        “Đường Hồng Tịnh,” người cao lớn nhìn chằm chằm vào Diệp Văn Khiết nói, “chính là con bé đã quất vào đầu bố cô nhát thắt lưng trí mạng đó, bị chết chìm ở sông Hoàng Hà. Nước lũ cuốn trôi mấy con dê trong đội sản xuất, bí thư chi bộ liền hét lên với đám thanh niên trí thức: các tiểu tướng cách mạng, thời điểm khảo nghiệm các cô cậu đến rồi! Thế là, Hồng Tịnh liền cùng ba thanh niên trí thức khác nhảy xuống sông đi vớt dê, lúc đi còn là lũ lớn do băng tan, trên mặt nước còn dập dềnh một lớp băng mỏng nữa! Bốn người đều chết hết, chẳng biết là chết chìm hay chết rét nữa. Lúc trông thấy xác bọn họ… tôi… tôi… mẹ nó không nói được nên lời nữa…” Cô ta bưng mặt khóc òa lên.
                        Người gầy gò cũng thở dài trong nước mắt: “Sau này cũng về được thành phố, nhưng trở về thì thế nào đây? Vẫn là hai bàn tay trắng, các thanh niên trí thức trở về đều chẳng sống tốt, mà những người như chúng tôi thì đến công việc tệ nhất cũng còn chẳng kiếm nổi, không có việc làm không có tiền không có tương lai, chẳng có gì nữa cả.”
                        Diệp Văn Khiết hoàn toàn không nói được gì.
                        Người cụt tay lại nói: “Gần đây có
                        một bộ phim, tên là ‘Phong’, không biết cô có xem chưa? Đoạn kết, một người lớn và một đứa trẻ đứng trước mộ của những Hồng vệ binh chết trong Đấu tranh vũ trang, đứa trẻ đó hỏi người lớn: họ là liệt sĩ phải không ạ? Người lớn nói không phải. Đứa trẻ lại hỏi: thế họ là kẻ thù ạ? Người lớn nói cũng không phải. Đứa trẻ lại hỏi tiếp: thế họ là gì? Người lớn trả lời: là lịch sử.”
                        “Cô nghe thấy chưa? Là lịch sử! Đã là lịch sử rồi!” Người cao lớn hung hăng vung một bàn tay to bè lên, “Giờ đã là thời kỳ mới rồi, ai còn nhớ đến chúng tôi nữa, ai còn coi chúng tôi ra gì nữa? Mọi người sẽ nhanh chóng quên hết sạch mọi thứ thôi!”
                        Ba cựu Hồng vệ binh bỏ đi, để lại một mình Diệp Văn Khiết trên sân vận dộng, buổi chiều mưa lâm thâm của mười mấy năm về trước, cô cũng cô độc đứng một mình nơi đây, nhìn người cha đã chết của mình. Câu nói cuối cùng của người phụ nữ từng là Hồng vệ binh ấy cứ không ngừng dội đi dội lại trong óc cô…
                        Vầng tà dương rọi xuống thân hình gầy yếu của Diệp Văn Khiết, thành một chiếc bóng đổ dài trên đất. Trong tâm trí cô, một chút hy vọng đối với xã hội vừa xuất hiện đã tan biến như giọt sương bốc hơi dưới ánh Mặt trời nóng bỏng, một thoáng hoài nghi đối với hành vi phản bội loài người của mình cũng hoàn toàn biến mất
                        không còn tăm tích, dẫn đường cho một nền văn minh bậc cao hơn trong vũ trụ đến với thế giới loài người, rốt cuộc đã trở thành lý tưởng kiên định không gì lay chuyển nổi của Diệp Văn Khiết.

                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 06:26:10 bởi huytran >
                        #27
                          huytran 30.07.2017 06:27:00 (permalink)
                          Chương 28 : Evans  
                           
                          Sau nửa năm trở về trường đại học, Diệp Văn Khiết đảm nhiệm một đề tài quan trọng: thiết kế một đài quan trắc thiên văn vô tuyến cỡ lớn. Không lâu sau, cô và nhóm nghiên cứu đã phải đi khắp nơi chọn đất để xây dựng đài thiên văn. Những suy xét ban đầu chỉ thuần túy mang tính kỹ thuật, khác với quan trắc thiên văn truyền thống, yêu cầu của thiên văn vô tuyến đối với chất lượng bầu khí quyển và độ gây nhiễu từ ánh sáng nhìn thấy được không cao, nhưng phải cố gắng để ngăn ngừa sự gây nhiễu điện từ từ dải sóng ánh sáng không nhìn thấy được. Họ đi rất nhiều nơi, cuối cùng chọn được
                          một địa điểm có môi trường điện từ tốt nhất, đó là một vùng núi hẻo lánh ở Tây Bắc.
                          Núi đất vàng ở đây hầu như không có thảm thực vật, đất màu bị rửa trôi đi tạo nên những rãnh nứt khiến vùng sơn địa nhìn từ xa trông như gương mặt đầy nếp nhăn nheo của người già. Sau khi chọn sơ được vài điểm xây dựng, nhóm đề tài dừng chân nghỉ ngơi bên một thôn làng mà hầu hết nhà dân đều là kiểu nhà hầm bằng đất, đội trưởng đội sản xuất trong làng hình như nhận định Diệp Văn Khiết là người có học vấn, bèn hỏi cô có biết nói tiếng nước ngoài không… Cô hỏi là tiếng nước nào, viên đội trưởng trả lời không biết, nếu nói được tiếng nước
                          ngoài thì để anh ta kêu người gọi Bethune xuống, đội sản xuất có việc muốn thương lượng với anh ta.
                          “Bethune(*)?” Diệp Văn Khiết lấy làm kinh ngạc.
                          (*) Henry Norman Bethune, đảng viên Đảng Cộng Sản Canada, từng tham gia Bát Lộ Quân trong chiến tranh Trung Nhật lần thứ hai. Bethune đã mang y tế hện đại đến vùng nông thôn Trung Quốc và đối xử với người dân bị ốm bằng thái độ như đối với những người lính bị thương. Cống hiến quên mình của ông dành cho nhân dân Trung Quốc đã gây ấn tượng cho Mao Trạch Đông đến nỗi cả thế hệ sinh viên
                          Trung Quốc thời kỳ đó đều được yêu cầu phải học thuộc lòng bài ca tụng của Mao dành cho Bethune.
                          “Bọn tôi cũng không biết tên của gã ngoại quốc ấy, toàn gọi gã như thế thôi.”
                          “Anh ta chữa bệnh cho mọi người à?” “Không, gã ta trồng cây ở sau núi, đã
                          được gần ba năm nay rồi.”
                          “Trồng cây? Làm gì vậy?”
                          “Gã ta bảo là để nuôi chim, một loài chim mà nghe gã nói là sắp tuyệt chủng rồi.”
                          Diệp Văn Khiết và đồng nghiệp đều lấy làm ngạc nhiên, bèn nhờ đội trưởng
                          dẫn họ đi xem thử. Men theo con đường núi lên đến đỉnh một ngọn núi nhỏ, đội trưởng chỉ cho họ xem, hai mắt Diệp Văn Khiết sáng bừng lên… Giữa những ngọn núi đất vàng cằn cỗi này không ngờ lại có một triền núi được phủ kín rừng xanh, tựa như một mảng màu xanh tươi tắn vô ý rơi xuống tấm toan cũ kỹ ngả vàng vậy.
                          Nhóm của Diệp Văn Khiết nhanh chóng trông thấy người nước ngoài đó, ngoài mái tóc vàng đôi mắt xanh và bộ đồ vải bò đã cũ rích trên người, trông anh ta cũng chẳng khác gì những nông dân đã lao động suốt đời, thậm chí cả da dẻ anh ta cũng bị phơi nắng trở nên đen sạm giống như người dân bản địa. Anh ta dường như không hứng thú lắm với
                          người đến thăm, tự giới thiệu mình là Mike Evans, tuy không nói rõ quốc tịch, nhưng tiếng anh của anh ta có khẩu âm Mỹ rất rõ rệt. Anh ta sống trong căn nhà đất hai gian đơn sơ cạnh khu rừng, trong nhà chất đầy các loại công cụ để trồng cây: cuốc, xẻng sắt, cưa để cắt tỉa cành cây, toàn là loại thô kệch sản xuất ở địa phương. Bụi cát vùng Tây Bắc phủ kín cả chiếc giường sơ sài và mấy món đồ nhà bếp đơn giản, trên giường chất rất nhiều sách vở, hầu hết là sách sinh vật học, Diệp Văn Khiết chú ý thấy có cuốn Giải phóng động vật của Peter Singer. Món đồ hiện đại duy nhất có thể thấy ở đây chính là một chiếc radio nhỏ, pin tiểu bên trong đã dùng kiệt, nối với một
                          cục pin đại ở bên ngoài, còn cả một chiếc ống nhòm cũ nữa. Evans nói, rất xin lỗi vì không thể mời họ uống gì, cà phê đã hết từ lâu, nước thì có nhưng anh ta lại chỉ còn mỗi một cái cốc.
                          “Rốt cuộc anh làm gì ở đây vậy?” Một đồng nghiệp của Diệp Văn Khiết hỏi.
                          “Làm Chúa cứu thế.”
                          “Cứu… cứu người bản địa ư? Hoàn cảnh sinh thái nơi này đúng là…”
                          “Các người sao ai cũng như ai vậy?!” Evans đột nhiên đùng đùng nổi giận, “Chẳng lẽ chỉ cứu vớt con người thì mới được gọi là Chúa cứu thế hay sao, còn
                          cứu vớt các loài khác thì là chuyện nhỏ nhặt? Ai đã ban cho loài người cái địa vị tôn quý ấy? Không, con người không cần Chúa cứu thế, sự thực là hiện nay họ đã sống tốt hơn những gì họ xứng đáng được hưởng nhiều lắm rồi.”
                          “Nghe nói anh đang cứu một loài chim?”
                          “Đúng thế, một loài chim én, là một á chủng của én nâu Tây Bắc, tên khoa học rất dài, tôi không nói ra đây làm gì. Hằng năm, cứ đến mùa xuân, khi bọn chúng men theo tuyến đường cố định đã hình thành từ thời viễn cổ từ phương Nam trở về, chúng chỉ biết coi vùng này làm điểm đến của mình, nhưng thảm thực vật nơi
                          này mỗi năm lại biến mất một phần, lũ chim không tìm đâu được rừng cây để xây tổ và sinh sống nữa. Khi tôi phát hiện ra chúng ở đây, số lượng của loài này chỉ còn chưa đến mười nghìn cá thể, cứ tiếp tục như vậy trong vòng năm năm loài chim én này sẽ bị tuyệt chủng. Hiện tại, khoảnh rừng mà tôi trồng đã cung cấp điểm đặt chân cho một phần của đàn én, số lượng cá thể bắt đầu tăng trở lại, tất nhiên, tôi còn phải trồng thêm nhiều cây nữa, mở rộng diện tích của khu vườn địa đàng này ra.”
                          Evans bảo mấy người nhóm Diệp Văn Khiết cầm ống nhòm, đi theo sự chỉ dẫn của anh ta, mọi người nhìn một hồi lâu mới trông thấy mấy con chim màu đen
                          xám thoắt ẩn thoắt hiện trong rừng cây.
                          “Tầm thường lắm phải không? Bọn chúng tất nhiên không bắt mắt bằng gấu trúc rồi, trên thế giới này, mỗi ngày đều có những giống loài không được người ta chú ý như vậy bị tuyệt chủng.”
                          “Những cây cối ở đây đều do một mình anh trồng à?”
                          “Hầu hết là thế, mới đầu tôi cũng thuê người dân địa phương đến trồng, có điều chẳng mấy đã không còn nhiều tiền nữa, cây giống rồi dẫn nước… đều rất tốn tiền… nhưng các người có biết không? Cha tôi là tỷ phú đấy, ông ấy là tổng giám đốc một công ty dầu mỏ xuyên quốc gia, nhưng ông ấy không cho tôi tiền nữa,
                          tôi cũng không muốn dùng tiền của ông ấy.”
                          Evans như được mở máy nói, thao thao bất tuyệt tiếp lời, “Năm tôi mười hai tuổi, một chiếc tàu chở dầu ba vạn tấn của công ty bố tôi bị đụng phải đá ngầm trong vùng biển ven Đại Tây Dương, hơn hai vạn tấn dầu thô tràn ra biển. Lúc đó, cả nhà chúng tôi đang ở trong biệt thự nghỉ dưỡng cách vùng biển xảy ra sự cố không xa lắm. Chiều hôm đó, tôi đến cái bờ biển như thể một chốn địa ngục ấy, trông thấy biển cả biến thành màu đen, sóng biển bị lớp màng dầu dính nhớp đè ép mà trở nên phẳng lặng yếu ớt; bãi biển cũng bị một lớp dầu đen kịt phủ kín. Tôi và một số tình nguyện viên ở
                          trên bãi biển tìm kiếm những con chim biển còn sống sót, bọn chúng đang vùng vẫy trong dầu bẩn, con nào con nấy trông như bức tượng màu đen làm từ hắc ín, chỉ có đôi mắt là còn có thể chứng minh chúng là vật sống, những đôi mắt trong dầu bẩn ấy bao nhiêu năm sau vẫn thường xuyên xuất hiện trong cơn ác mộng của tôi. Chúng tôi ngâm lũ chim biển ấy vào trong dung dịch tẩy rửa, muốn gột sạch dầu bám trên mình chúng đi, nhưng khó khăn vô cùng, dầu nhớt và lông vũ dính chặt lấy nhau, chỉ cần hơi mạnh tay là lông vũ sẽ cùng với dầu nhớt bong ra từng mảng từng mảng… đến chập tối, hầu hết lũ chim biển đỏ vẫn chết. Khi ấy, tôi mệt mỏi ngồi trên bãi
                          biển màu đen, toàn thân dính đầy dầu nhớt, nhìn vầng dương lặn xuống mặt biển đen kịt, có cảm giác như thể đó là ngày tàn của thế giới này vậy.
                          “Không biết từ lúc nào, cha tôi đã đến sau lưng tôi, ông ấy hỏi tôi có còn nhớ bộ xương khủng long nhỏ nọ hay không. Tất nhiên tôi vẫn nhớ, bộ xương đó được phát hiện khi khảo sát mỏ dầu, rất hoàn chỉnh, cha tôi đã trả một khoản tiền lớn để mua nó về đặt trong trang trại nhà ông ngoại. Cha tôi nói tiếp: ‘Mike, bố từng kể cho con nghe tại sao mà loài khủng long tuyệt chủng, một tiểu hành tinh va phải địa cầu, thế giới trước tiên biến thành biển lửa, sau đó rơi vào bóng đêm và giá lạnh kéo dài… Đêm hôm đó con
                          bị ác mộng làm cho tỉnh giấc, con nói con mơ thấy trở về thời đại đáng sợ đó. Giờ bố nói cho con biết một chuyện khi ấy bố muốn nói nhưng lại không nói ra: nếu thật sự sống ở thời kỳ cuối của kỷ Phấn Trắng thì đó là may mắn của con đấy, vì thời đại mà chúng ta đang sống đây còn đáng sợ hơn nhiều. Hiện nay, tốc độ tuyệt chủng của các giống loài có sinh mệnh trên Trái đất này nhanh hơn thời kỳ cuối của kỷ Phấn Trắng nhiều lắm, hiện tại mới thực sự là thời đại của sự tuyệt chủng! Vì vậy, những thứ mà con nhìn thấy đây chẳng đáng là gì cả đâu, đây chẳng qua chỉ là một khúc nhạc đệm nhỏ nhặt chẳng đáng nhắc tới trong một quá trình lớn mà thôi. Chúng ta có thể không
                          có lũ chim biển, nhưng không thể không có dầu mỏ được, con có thể tưởng tượng nếu không có dầu mỏ thì sẽ như thế nào không? Món quà sinh nhật năm ngoái của con, chiếc Ferrari tuyệt đẹp ấy, bố từng hứa sau mười lăm tuổi con có thể lái nó, nhưng nếu không có dầu mỏ, nó chỉ là một đống sắt vụn thôi, con không bao giờ có thể lái được; giờ con muốn đến nhà ông ngoại, đi máy bay riêng của bố băng qua đại dương cũng chỉ mất mười mấy tiếng đồng hồ, nhưng nếu không có dầu mỏ, con sẽ phải ngồi thuyền buồm tròng trành cả tháng… đây chính là quy tắc của trò chơi văn minh. Trước tiên phải đảm bảo sự sinh tồn của loài người và cuộc sống thoải mái cho họ, những thứ khác
                          đều chỉ xếp hàng thứ hai mà thôi.’
                          “Cha gửi gắm vào tôi hy vọng rất lớn, nhưng cuối cùng ông ấy cũng không thể khiến tôi trở thành người mà ông ấy kỳ vọng. Trong những tháng ngày sau đó, đôi mắt của lũ chim biển sắp chết lúc nào cũng ở sau lưng nhìn chằm chằm vào tôi, quyết định cả cuộc đời tôi. Vào sinh nhật năm tôi mười ba tuổi, cha hỏi tôi sau này có dự định gì, tôi không trả lời, tôi chỉ muốn làm một vị Chúa cứu thế mà thôi. Lý tưởng của tôi thật sự không lớn lao gì cả, chỉ là muốn cứu vớt một giống loài đang ở bên bờ vực tuyệt chủng, có thể là một loài chim không xinh đẹp, một giống bướm xám xịt, hoặc là một thứ bọ cánh cứng chẳng hề nổi bật. Về sau, tôi
                          đi học ngành sinh vật, trở thành học giả về chim và côn trùng. Đối với tôi, lý tưởng của mình rất vĩ đại, cứu vớt một loài chim hoặc côn trùng cũng chẳng khác gì cứu vớt nhân loại cả, sự sống là bình đẳng, đây chính là cương lĩnh cơ bản của chủ nghĩa cộng sản giống loài.”
                          “Gì cơ hả?” Diệp Văn Khiết nhất thời không nghe rõ cụm từ ấy.
                          “Chủ nghĩa cộng sản giống loài, đây là một học thuyết do tôi sáng lập, cũng có thể nói là một tín ngưỡng, lý tưởng trung tâm của nó chính là: mọi giống loài có sự sống trên Trái Đất này đều là bình đẳng.”
                          “Đây chỉ là một lý tưởng, không thực
                          tế. Cây nông nghiệp cũng là một giống loài, chỉ cần con người còn sống, thứ bình đẳng này không thể thành hiện thực được.”
                          “Trong quá khứ xa xôi, các lãnh chúa cũng từng có suy nghĩ như thế đối với nô lệ. Đừng quên khoa học kỹ thuật, rồi sẽ đến một ngày, con người có thể tổng hợp ra lương thực, nhưng trước đó rất lâu, chúng ta đã cần phải chuẩn bị về mặt tư tưởng và lý luận. Thật ra, chủ nghĩa cộng sản giống loài chính là sự tiếp diễn của ‘Tuyên ngôn nhân quyền’, Cách mạng Pháp đã trải qua hai trăm năm rồi, vậy mà chúng ta vẫn chưa bước tiếp được một bước này, có thể thấy loài người ích kỷ và giả dối đến chừng nào.”
                          “Anh định ở lại nơi này bao lâu nữa?”
                          “Không biết, làm một vị Chúa cứu thế, dù có tốn cả cuộc đời cũng là xứng đáng thôi, cảm giác này rất đẹp đẽ, rất kỳ diệu. Tất nhiên, tôi cũng chẳng trông mong gì ở các vị.”
                          Evans nói xong những lời này, đột nhiên lại trở nên lạnh nhạt, chẳng hứng thú nói chuyện nữa, chỉ bảo anh ta phải đi làm việc, rồi cầm một cái cuốc và một cái cưa bỏ đi. Lúc từ biệt, anh ta liếc mắt nhìn Diệp Văn Khiết thêm một lần, tựa như thấy gì đó đặc biệt ở cô.
                          “Một con người cao thượng, một con người thuần khiết, một con người có đạo
                          đức, một con người đã vượt thoát khỏi sự tầm thường.” Trên đường trở về, một đồng nghiệp của Diệp Văn Khiết đọc thuộc lòng một câu trong bài “Kỷ niệm Bethune” của Mao Trạch Đông, “Thì ra còn có thể sống như vậy.” Anh ta thở dài.
                          Những người khác cũng lần lượt bày tỏ sự tán đồng và cảm khái, Diệp Văn Khiết lẩm bẩm như thể nói với chính mình: “Nếu những người như anh ta nhiều hơn một chút, dù chỉ là thêm một chút thôi, sự thể sẽ hoàn toàn khác.”
                          Tất nhiên, không ai hiểu được hàm nghĩa thực sự trong câu nói của cô.
                          Người phụ trách nhóm đề tài chuyển chủ đề câu chuyện trở lại với công việc,
                          “Tôi cảm thấy địa điểm này không ổn, lãnh đạo cũng sẽ không phê chuẩn đâu.”
                          “Tại sao? Trong bốn phương án địa điểm của chúng ta, hoàn cảnh điện từ ở đây là tốt nhất đấy.”
                          “Thế còn hoàn cảnh con người thì sao? Đồng chí, đừng chỉ nghĩ đến phương diện kỹ thuật, vùng này là đất chó ăn đá gà ăn sỏi, biết không hả? Đất nghèo sinh điêu dân, sau này quan hệ với phía địa phương sợ là rất phiền phức, nói không chừng, đài thiên văn sẽ trở thành miếng thịt Đường Tăng ở đây ấy chứ.”
                          Địa điểm này quả nhiên không được phê chuẩn, nguyên nhân đúng như những
                          gì người phụ trách đã nói.
                          Ba năm trôi qua, Diệp Văn Khiết không còn nhận được tin tức gì của Evans nữa.
                          Một ngày mùa xuân năm ấy, Diệp Văn Khiết đột nhiên nhận được một tấm bưu thiếp, không ngờ lại là Evans gửi đến, bên trên chỉ viết một câu đơn giản:
                          Đến đây đi, cho tôi biết phải sống tiếp thế nào.
                          Diệp Văn Khiết ngồi tàu hỏa một ngày một đêm, lại đổi xe ô tô đi thêm mấy tiếng nữa mới đến được ngôi làng vùng núi hẻo lánh miền Đông Bắc ấy.
                          Khi leo lên tới đỉnh ngọn núi nhỏ đó, cô lập tức trông thấy khu rừng, diện tích không khác nhiều so với ba năm trước, nhưng do cây cối sinh trưởng, trông đã rậm rạp hơn rất nhiều. Có điều, Diệp Văn Khiết mau chóng phát hiện ra, diện tích của khu rừng này từng được mở rộng hơn trước nhiều, nhưng lúc này, phần mở rộng ra đó đã bị chặt phá… Việc chặt phá vẫn đang tiến hành hừng hực khí thế, khắp khu rừng đều có cây cối không ngừng đổ xuống, cả khu rừng tựa như một phiến lá xanh bị rất nhiều sâu ăn lá bám vào cắn xé, với tốc độ này thì chẳng mấy nó sẽ biến mất. Những kẻ đang chặt cây là người ở hai thôn làng gần đây, họ dùng rìu và cưa xẻ lần lượt hạ gục những thân
                          cây nhỏ vừa mới trưởng thành xuống, sau đó dùng máy kéo và xe bò chuyển xuống núi. Người đến chặt cây rất nhiều, những cuộc tranh cãi dữ dội liên tục xảy ra.
                          Những thân cây nhỏ đổ xuống không gây ra tiếng động gì lớn, cũng không nghe thấy tiếng ầm ầm của cưa máy nhưng cảnh tượng tựa hồ đã từng gặp đâu đó này vẫn khiến trái tim Diệp Văn Khiết thắt lại.
                          Có người vẫy tay gọi cô, chính là tay đội trưởng đội sản xuất nọ, giờ đã là trưởng thôn, anh ta nhận ra Diệp Văn Khiết. Khi cô hỏi anh ta tại sao lại phá rừng, anh ta đáp: “Cái khu rừng này ấy hả, có được nhà nước bảo hộ đâu.”
                          “Sao lại nói thế được? Chẳng phải là vừa mới ban bố Luật Bảo vệ rừng đấy thôi?”
                          “Nhưng ai đã phê chuẩn cho Bethune trồng cây ở đây chứ? Người nước ngoài tự tiện đến triền núi của Trung Quốc trồng cây, luật nào mà bảo vệ cho chứ?”
                          “Nói thế là không đúng rồi. Anh ta trồng cây trên núi hoang, lại không chiếm đất canh tác, vả lại, mới đầu khi anh ta trồng cây mọi người cũng có nói gì đâu.”
                          “Thì thế, hồi sau trên huyện còn bảo anh ta là kiểu mẫu trồng rừng cơ. Vốn dĩ trong thôn định mấy năm nữa mới thu rừng lại, nuôi lợn thì phải nuôi cho béo rồi mới thịt mà, nhưng đám người bên
                          thôn Nam Khất không đợi được đã đến chặt luôn rồi, bọn tôi mà không ra tay thì cũng chẳng có cháo mà húp.”
                          “Các anh phải dừng lại ngay! Tôi phải đến cơ quan nhà nước để phản ánh chuyện này!”
                          “Khỏi cần.” Trưởng thôn châm một điếu thuốc, chỉ vào chiếc xe hàng lớn đang chất cây gỗ lên, “Nhìn cái xe kia chưa, chính là của phó phòng lâm nghiệp huyện đấy, còn có cả xe của đồn công an thị trấn nữa, họ là người lấy nhiều gỗ nhất đấy! Tôi đã bảo rồi, rừng này không có danh không có phận gì, không được bảo vệ, cô tìm đến đâu cũng vô dụng thôi; với lại, đồng chí Diệp này, cô là
                          giáo sư đại học cơ mà? Chuyện này thì liên quan gì đến cô?”
                          Hai gian nhà đất đó vẫn còn nguyên, nhưng Evans không ở bên trong, Diệp Văn Khiết tìm thấy anh ta trong rừng cây, đang cầm một chiếc rìu chăm chú tỉa tót cành cây, rõ ràng là đã làm rất lâu, bộ dạng mệt mỏi vô cùng.
                          “Dù có ý nghĩa hay không, tôi cũng không thể nào dừng lại được, dừng lại là tôi sẽ suy sụp ngay.” Evans nói trong lúc thành thạo chặt bỏ một cành cây mọc lệch.
                          “Chúng ta cùng lên huyện tìm chính quyền, không được thì lên tỉnh thành, thế nào cũng có người ngăn họ lại.” Diệp
                          Văn Khiết nhìn anh ta đầy vẻ quan tâm.
                          Evans dừng tay, nhìn Diệp Văn Khiết với ánh mắt kinh ngạc, ánh chiều tà xuyên qua tầng tầng cây lá chiếu vào, sáng lên lấp lánh trong con ngươi của anh ta. “Diệp, cô thực sự nghĩ rằng tôi thế này là vì khu rừng hay sao?” Anh ta cười cười lắc đầu, vứt chiếc rìu trên tay đi, ngồi dựa lưng vào một thân cây, “Giờ tôi mà muốn ngăn họ lại thì dễ như trở bàn tay thôi.” Anh ta trải một cái túi dụng cụ rỗng không xuống đất, ra hiệu cho Diệp Văn Khiết ngồi xuống, đoạn nói tiếp, “Tôi vừa từ Mỹ trở lại đây, cha tôi đã qua đời hai tháng trước, tôi được thừa kế hầu hết tài sản của ông ấy. Anh trai và chị gái tôi mỗi người chỉ được
                          năm triệu. Điều này khiến tôi rất bất ngờ, thật sự không thể ngờ được cuối cùng ông ấy lại làm vậy với tôi, có lẽ, sâu thẳm trong lòng ông ấy vẫn coi trọng tôi, hoặc giả, là coi trọng lý tưởng của tôi. Không tính bất động sản, cô biết hiện nay tôi có bao nhiêu tiền trong tay không? Đại khái chừng 4,5 tỷ đô la. Tôi có thể dễ dàng khiến họ ngừng chặt phá cây, sau đó khiến họ trồng cây, khiến mọi ngọn núi đất vàng trong tầm mắt của chúng ta đều được phủ kín những rừng cây mọc nhanh thế này, rất dễ dàng, nhưng thế có ý nghĩa gì đâu chứ? Mọi thứ cô nhìn thấy đây có thể quy kết cho sự nghèo đói, nhưng ở những quốc gia giàu có thì sao đây? Bọn họ tạo ra môi trường trong lành
                          tốt đẹp cho mình, nhưng lại chuyển dịch những ngành công nghiệp nặng gây ô nhiễm đến các nước nghèo, chắc cô đã biết, chính phủ Mỹ vừa mới từ chối ký kết Nghị định thư Kyoto… Bản chất của cả nhân loại này đều như nhau cả, chỉ cần văn minh tiếp tục phát triển thế này, loài chim én mà tôi muốn cứu, còn cả những loài én khác nữa, sớm muộn gì cũng sẽ bị tuyệt chủng, tất cả chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.”
                          Diệp Văn Khiết lẳng lặng ngồi đó, nhìn những tia sáng mà vầng tịch dương rọi vào khu rừng nhỏ, lắng nghe tiếng chặt phá huyên náo đằng xa, tâm trí cô quay lại hơn hai mươi năm về trước, quay lại khu rừng trong dãy núi Đại
                          Hưng An, ở đó, cô cũng từng có một cuộc đối thoại tương tự với một người đàn ông khác.
                          “Có biết tại sao tôi đến đây không?” Evans nói tiếp, “Mầm mống của tư tưởng chủ nghĩa cộng sản giống loài đã xuất hiện ở phương Đông từ thời cổ đại rồi.”
                          “Anh muốn nói đến Phật giáo?” “Đúng thế, Cơ Đốc giáo chỉ coi trọng
                          con người, tuy rằng tất cả các giống loài
                          đều được đưa lên thuyền Noah, nhưng chưa bao giờ cho những sự sống khác có địa vị đồng đẳng với loài người, còn tư tưởng của Phật giáo là phổ độ chúng sinh, vì vậy tôi mới đến phương Đông. Nhưng… giờ xem ra ở đâu cũng thế
                          thôi.”
                          “Đúng vậy, ở đâu cũng thế thôi, loài người đều như nhau cả.”
                          “Giờ tôi có thể làm gì đây? Tôi dựa vào cái gì mà sống tiếp đây? Tôi có 4,5 tỷ đô la, và một công ty dầu mỏ xuyên quốc gia, nhưng thế thì đáng là gì chứ? Số tiền loài người đã bỏ ra để cứu môi trường sinh thái đang ngày một xấu đi cũng vượt quá 4,5 tỷ đô rồi, nhưng có tác dụng gì? Văn minh vẫn cứ theo quỹ đạo của nó mà hủy diệt những giống loài khác trên Trái đất, ngoại trừ con người ra. 4,5 tỷ đô có thể xây dựng một chiếc tàu sân bay, nhưng dù xây dựng một nghìn tàu sân bay thì cũng chẳng thể ngăn sự điên
                          cuồng của loài người lại.”
                          “Mike, đây chính là điều tôi muốn nói với anh, văn minh của nhân loại đã không thể nào dựa vào sức mạnh tự thân để thay đổi tốt hơn nữa rồi.”
                          “Nhưng ngoài nhân loại ra còn lực lượng nào khác nữa không? Nếu Thượng Đế có thật thì cũng đã chết từ lâu rồi.”
                          “Có đấy, có một lực lượng khác.”
                          Lúc này, Mặt trời đã lặn xuống sau rặng núi, đám người chặt cây đã dừng tay, rừng cây và triền núi đất vàng xung quanh chìm trong tĩnh lặng. Diệp Văn Khiết kể lại toàn bộ chuyện về căn cứ Hồng Ngạn và thế giới Tam Thể cho
                          Evans nghe, dường như còn có cả rừng cây trong ánh chiều tà và cao nguyên đất vàng xung quanh nó nữa. Khi Diệp Văn Khiết kể hết câu chuyện, một vầng trăng sáng nhô lên phía trời Đông, chiếu xuống những bóng sáng lốm đốm trong khu rừng.
                          Evans nói: “Giờ tôi vẫn chưa thể tin lời cô nói được, dẫu sao chuyện này cũng quá đỗi thần kỳ, may mắn là tôi có khả năng chứng thực mọi chuyện, nếu nó là sự thật,” anh ta chìa tay ra với Diệp Văn Khiết, nói ra câu nói mà sau này tổ chức Tam Thể Địa Cầu nhất thiết phải nói mỗi khi kết nạp thành viên mới, “chúng ta là đồng chí.”

                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 06:37:14 bởi huytran >
                          #28
                            huytran 30.07.2017 06:38:03 (permalink)
                            Chương 29 : Căn cứ Hồng Ngạn số 2  
                             
                            Lại ba năm nữa trôi qua, Evans hoàn toàn im hơi lặng tiếng, không có tin tức gì. Diệp Văn Khiết không biết anh ta liệu có thực sự đang ở nơi nào đó trên thế giới chứng thực những gì mình đã kể hay không, cũng không biết anh ta chứng thực bằng cách nào. Cho dù trên thang thước đo vũ trụ, bốn năm ánh sáng chỉ là khoảng cách gần trong gang tấc, nhưng đối với những sinh mệnh yếu ớt, đó lại là khoảng cách xa xôi không thể tưởng tượng nổi, ở đầu con sông và cuối con sông không gian, bất cứ liên hệ nào cũng chỉ mong manh như đường tơ sợi chỉ.
                            Mùa đông năm ấy, Diệp Văn Khiết đột nhiên nhận được lời mời của một trường đại học không nổi tiếng lắm ở Tây Âu, mời cô đến đó làm học giả khách mời trong nửa năm. Sau khi đến sân bay Heathrow ở London, một người trẻ tuổi đến đón cô, họ không ra ngoài đại sảnh sân bay mà quay ngược vào bãi đáp máy bay. Ở đó, người thanh niên ấy dẫn cô lên một chiếc trực thăng. Khi chiếc trực thăng ầm ầm bay lên bầu trời sương mù mờ mịt của London, thời gian tựa hồ quay ngược trở lại, Diệp Văn Khiết có cảm giác dường như đã gặp tất cả ở đâu đó vậy. Lần đầu tiên đi máy bay trực thăng nhiều năm trước, cô đã trải qua một khúc ngoặt của vận mệnh, lần
                            này, số phận sẽ lại đưa cô đến nơi nào?
                            “Chúng ta đang đến căn cứ Hồng Ngạn số 2.” Người thanh niên ấy nói.
                            Máy bay trực thăng bay qua đường bờ biển, tiến sâu vào Đại Tây Dương. Sau nửa giờ bay trên mặt biển, trực thăng hạ xuống một con tàu lớn. Vừa mới nhìn thấy con tàu lần đầu tiên, Diệp Văn Khiết đã nhớ ngay đến núi Radar, bấy giờ cô mới nghĩ ra hình dạng ngọn núi đó thật sự rất giống một con tàu khổng lồ, Đại Tây Dương ở xung quanh giống như rừng già ở dãy núi Đại Hưng An, nhưng thứ khiến cô liên tưởng đến căn cứ Hồng Ngạn chính là chiếc ăng ten parabol khổng lồ dựng sừng sững ở phần giữa
                            của con tàu, trông như thể một cánh buồm lớn hình tròn của con tàu lớn này vậy. Con tàu này được cải tạo lại từ một tàu chở dầu 60.000 tấn, trông như thể một hòn đảo nhỏ bằng sắt thép trôi nổi trên mặt biển. Evans xây dựng căn cứ của anh ta trên tàu có lẽ là vì muốn lúc nào cũng có thể ở vị trí giám thính và phát xạ tối ưu, cũng có thể vì muốn né tránh điều gì đó. Sau này, Diệp Văn Khiết biết được, con tàu khổng lồ này được đặt tên là “Ngày Phán Xét”.
                            Diệp Văn Khiết bước xuống trực thăng, nghe thấy những âm thanh rầm rầm quen thuộc, đó là tiếng chiếc ăng ten khổng lồ phát ra trong gió biển, âm thanh ấy lại kéo cảm giác của cô lún sâu thêm
                            vào quá khứ. Trên boong tàu rộng rãi phía dưới ăng ten, có gần hai nghìn con người đang đứng chen chúc. Evans bước lên phía trước, trang trọng nói với Diệp Văn Khiết: “Dựa theo tần số và phương vị cô cung cấp, chúng tôi đã thu được thông tin của thế giới Tam Thể, mọi điều cô nói đều đã được chứng thực rồi.”
                            Diệp Văn Khiết bình tĩnh gật đầu. “Đội tàu Tam Thể vĩ đại đã khởi
                            hành, mục tiêu là hệ Mặt trời, sẽ đến nơi
                            sau 450 năm nữa.”
                            Vẻ mặt Diệp Văn Khiết vẫn bình thản, lúc này, chẳng còn điều gì có thể khiến cô cảm thấy kinh ngạc nữa rồi.
                            Evans chỉ đám người đứng lúc nhúc sau lưng mình: “Trước mắt cô lúc này là những thành viên thuộc nhóm đầu tiên của tổ chức Tam Thể Địa Cầu, lý tưởng của chúng ta là nhờ văn minh Tam Thể cải tạo văn minh nhân loại, kiềm chế sự điên cuồng và ác độc của loài người, để Trái đất của chúng ta một lần nữa trở thành một thế giới hòa bình phồn vinh, không còn tội ác. Số người tán thành lý tưởng của chúng ta càng lúc càng nhiều hơn, tổ chức của chúng ta đang trong giai đoạn mở rộng nhanh chóng, thành viên có mặt trên khắp thế giới này.”
                            “Tôi có thể làm được gì?” Diệp Văn Khiết nhẹ giọng hỏi.
                            “Cô sẽ trở thành thủ lĩnh tối cao của cuộc cách mạng Tam Thể trên Trái Đất, các chiến sĩ của tổ chức Tam Thể Địa Cầu đều công nhận tư cách này của cô!”
                            Diệp Văn Khiết im lặng mấy giây, đoạn chầm chậm gật đầu, “Tôi sẽ cố gắng hết sức.”
                            Evans giơ cao một nắm đấm, hét vang lên với đám người: “Tiêu diệt bạo chính loài người!”
                            Hòa cùng tiếng sóng và tiếng ầm ầm của ăng ten trong gió, các chiến sĩ Tam Thể đồng thanh hô vang: “Thế giới thuộc về Tam Thể!”
                            Ngày hôm đó, được công nhận là ngày
                            ra đời của phong trào Tam Thể trên Trái đất.

                            #29
                              huytran 30.07.2017 06:40:30 (permalink)
                              Chương 30 : Phong trào Tam Thể trên Trái đất  
                               
                              Không ngờ lại có nhiều người cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng đối với nền văn minh nhân loại như vậy, căm hận và bội phản chính giống loài của mình, thậm chí còn coi việc tiêu diệt loài người, bao gồm cả chính bản thân mình và con cháu trở thành lý tưởng tối cao, đây là điểm khiến người ta kinh ngạc nhất của cuộc cách mạng Tam Thể trên Trái đất.
                              Quân phiến loạn Tam Thể trên Trái đất được coi là tổ chức quý tộc tinh thần, thành viên đa phần đến từ giai tầng trí thức cao, cũng có cả một bộ phận không nhỏ là tinh hoa trong giới chính trị và
                              kinh tế. Tổ chức Tam Thể cũng từng thử tìm cách phát triển thành viên trong dân chúng bình thường, nhưng những nỗ lực này đều thất bại. Dân chúng bình thường không có nhận thức sâu sắc toàn diện về mặt trái của loài người như tầng lớp trí thức cao; càng quan trọng hơn, tư tưởng của họ ít bị ảnh hưởng bởi khoa học và triết học hiện đại, cảm giác đồng cảm với giống loài của mình một cách bản năng vẫn chiếm ưu thế, đối với họ, việc phản bội cả loài người là không thể tưởng tượng nổi. Nhưng các tinh hoa trí thức thì khác, trong số họ đó đã có tương đối nhiều người từ lâu đã đặt địa vị của mình bên ngoài nhân loại để suy nghĩ. Văn minh của loài người, rốt cuộc đã
                              hoài thai ra một lực lượng đối lập mạnh mẽ ở trong chính nội bộ của nó.
                              Sự phát triển của quân phiến loạn Tam Thể cố nhiên là rất kinh người, nhưng chỉ dựa vào nhân số thì không thể đo đếm được sức mạnh của tổ chức này, vì hầu hết thành viên tổ chức đều thuộc tầng lớp có địa vị cao trong xã hội, có quyền lực và tầm ảnh hưởng rất lớn.
                              Là thủ lĩnh tối cao của phiến quân Tam Thể trên Trái đất, Diệp Văn Khiết chỉ là một vị lãnh tụ tinh thần, không hề tham dự vào các hoạt động cụ thể của tổ chức, cô không hề biết cái tổ chức về sau trở nên vô cùng lớn mạnh này đã phát triển thế nào, thậm chí còn chẳng biết số
                              người cụ thể trong tổ chức.
                              Đối với tổ chức Tam Thể này, chính phủ các nước bấy lâu nay vẫn không coi trọng đúng mức. Vì muốn nhanh chóng mở rộng, tổ chức này gần như hoạt động một cách bán công khai, bọn họ biết rõ, có một thứ sẽ trở thành màn chắn tự nhiên bảo vệ cho họ, đó chính là sự bảo thủ và trí tưởng tượng nghèo nàn của các chính phủ. Ở các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà nước, không ai tin những gì bọn họ nói, đều chỉ coi họ như một tổ chức cấp tiến hay nói nhăng nói cuội tầm thường mà thôi. Do địa vị cao của các thành viên, chính phủ các nước đối xử với tổ chức này vẫn luôn hết sức dè dặt và cẩn thận. Mãi đến khi tổ chức Tam
                              Thể bắt đầu phát triển lực lượng vũ trang của riêng mình, cơ quan an ninh của một số quốc gia mới bắt đầu chú ý đến họ, tiếp đó phát hiện ra tổ chức này không phải tầm thường; còn như việc bắt đầu tiến hành tấn công hữu hiệu với nó, thì chỉ là chuyện của hai năm trở lại đây.
                              Tổ chức phiến loạn Tam Thể này cũng không phải là một khối sắt bền vững, bên trong nó cũng có những phe phái và hội nhóm phức tạp, chủ yếu chia thành hai phần:
                              Phe đổ bộ: đây là nhóm cơ bản nhất, thuần túy nhất của quân phiến loạn, thành phần chủ yếu là Evans và những người tin theo chủ nghĩa cộng sản giống loài.
                              Họ đều đã hoàn toàn tuyệt vọng với bản tính của loài người, sự tuyệt vọng này thoạt đầu khởi nguyên từ sự tuyệt chủng của các giống loài trên Trái đất mà nền văn minh hiện đại là nguyên nhân chính, Evans chính là đại biểu điển hình. Về sau, sự căm hận của phe đổ bộ đối với loài người bắt đầu có những xuất phát điểm khác nhau, không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ môi trường và chiến tranh nữa, một số đã bắt đầu lên đến độ cao triết học tương đối trừu tượng. Không giống như tưởng tượng của mọi người sau này, hầu hết những kẻ này đều là người thực tế, họ không hề gửi gắm nhiều kỳ vọng vào nền văn minh ngoài Trái đất mà họ ra sức phục vụ, sự phản bội của
                              họ chỉ bắt nguồn từ sự tuyệt vọng và căm hận với loài người. Một câu nói của Mike Evans đã trở thành cách ngôn răn mình của phe đổ bộ: chúng ta không biết văn minh ngoài Trái đất là như thế nào, nhưng chúng ta hiểu loài người.
                              Phe cứu thế: Đây là một phe phái mới sinh ra sau khi tổ chức Tam Thể xuất hiện một thời gian tương đối dài, về bản chất, nó là một đoàn thể tôn giáo, do các giáo đồ của Tam Thể giáo tạo thành.
                              Một nền văn minh khác ngoài văn minh nhân loại, không nghi ngờ là có sức hấp dẫn khủng khiếp đối với tầng lớp trí thức cấp cao, đồng thời khiến họ dễ dàng nảy sinh vô số những ảo tưởng tốt đẹp
                              với nó. Với một nền văn minh ấu trĩ như của loài người, sức hấp dẫn của một nền văn minh dị chủng cao cấp hơn gần như là không thể kháng cự nổi. Có một cách so sánh không được thích đáng lắm thế này: loài người bấy lâu nay là một thiếu niên không biết sự đời một mình lê bước trong sa mạc vũ trụ, lúc này cô ta (hoặc cậu ta) biết đến một tồn tại khác với mình, tuy rằng không nhìn thấy dung mạo hay bóng dáng cậu ta (hoặc cô ta), nhưng biết rằng cậu ta (hoặc cô ta) sẽ như ngọn lửa tràn ra trên cánh đồng. Dần dần, những tưởng tượng về nền văn minh xa xăm kia càng lúc càng thêm phong phú, phe cứu thế đã nảy sinh một thứ tình cảm tôn giáo đối với văn minh Tam Thể, ba
                              ngôi sao ở chòm sao Centaurus trở thành ngọn núi Olympus trong vũ trụ, đó là nơi ở của Thần, Tam Thể giáo từ đó mà sinh ra. Khác với những tôn giáo khác của loài người, Tam Thể giáo thờ phụng một đối tượng thực sự tồn tại; trái ngược hẳn với những tôn giáo khác, Chúa của họ đang ở trong tình thế nguy nan, còn trách nhiệm cứu vớt lại thuộc về các tín đồ.
                              Con đường chủ yếu để tuyên truyền văn hóa Tam Thể vào xã hội loài người là thông qua trò chơi “Tam Thể”. Tổ chức Tam Thể đã tập trung sức mạnh lớn lao của mình để phát triển phần mềm trò chơi quy mô vĩ đại này, mục đích ban đầu, thứ nhất là một thủ đoạn truyền giáo của Tam Thể giáo; thứ hai là tổ chức
                              phiến loạn Tam Thể trước nay vẫn bị giới hạn trong tầng lớp trí thức cấp cao giờ có thể vươn dài xúc tu đến tầng cơ sở nhất của xã hội, chiêu mộ thêm cho tổ chức những thành viên trẻ tuổi hơn thuộc tầng trung và tầng thấp trong xã hội. Trò chơi này thông qua giao diện có vẻ giống như lịch sử và xã hội loài người để diễn lại lịch sử và văn hóa của thế giới Tam Thể, như vậy có thể tránh được cảm giác xa lạ cho những người mới nhập môn. Khi người chơi thâm nhập đến một trình độ nhất định, đồng thời cảm nhận được sức hấp dẫn của văn minh Tam Thể, tổ chức Tam Thể sẽ trực tiếp liên hệ với họ, khảo sát khuynh hướng tư tưởng của những người đó, cuối cùng thì chiêu mộ
                              những người đủ tư cách trở thành thành viên của tổ chức phiến loạn Tam Thể Địa Cầu. Nhưng trò chơi Tam Thể không gây được nhiều chú ý trong xã hội, muốn chơi trò chơi này cần sở hữu nền tảng trí thức rất cao cùng với tư tưởng sâu sắc, những người chơi trẻ tuổi không đủ năng lực và sự kiên nhẫn để nhìn qua tầng ngoài trông có vẻ rất bình thường của nó mà phát hiện nội hàm khiến người ta phải rung động ở bên trong. Những người thực sự bị nó thu hút, đa phần vẫn thuộc tầng lớp trí thức cấp cao.
                              Các thành viên gia nhập phe cứu thế sau này, đại đa số là những người biết đến văn minh Tam Thể thông qua trò chơi, rồi cuối cùng gia nhập vào tổ chức
                              Tam Thể ở Trái Đất, có thể nói, trò chơi Tam Thể này là cái nôi của phe cứu thế.
                              Cùng với thứ tình cảm mang tính chất tôn giáo dành cho văn minh Tam Thể, thái độ của phe cứu thế đối với văn minh nhân loại hoàn toàn không cực đoan như phe đổ bộ, lý tưởng cuối cùng của họ là cứu Chúa. Để Chúa có thể tiếp tục sinh tồn, họ có thể hy sinh thế giới loài người ở một mức độ nhất định. Nhưng đại đa số người trong số họ cho rằng, kết cục lý tưởng, vẹn cả đôi đường chính là có thể giúp Chúa của họ tiếp tục sinh tồn ở chòm sao Centaurus có ba Mặt trời, tránh việc nền văn minh này xâm lược vào Hệ Mặt trời. Bọn họ ngây thơ cho rằng, chỉ cần giải quyết bài toán Ba vật
                              thể trong vật lý là có thể đạt được mục tiêu này, đồng thời cứu cả hai thế giới Tam Thể và Trái đất. Kỳ thực, cách suy nghĩ này chưa chắc đã là ngây thơ, bản thân nền văn minh Tam Thể cũng có suy nghĩ này trong một thời gian khá dài, nỗ lực giải quyết bài toán Ba vật thể đã xuyên suốt cả mấy trăm lần luân hồi của nền văn minh ấy. Trong phe cứu thế có những người có nền tảng vật lý và toán học khá sâu, họ đều đã thử giải quyết bài toán Ba vật thể này, cho dù sau khi biết được bài toán Ba vật thể xét về bản chất toán học là không thể giải, họ vẫn không ngừng cố gắng, nỗ lực giải bài toán Ba vật thể đã trở thành một thứ nghi thức tôn giáo. Mặc dù phe cứu thế không
                              thiếu những nhà vật lý và toán học hàng đầu, nhưng nghiên cứu này từ đó đến giờ vẫn không có thành quả gì lớn, mà ngược lại, một thiên tài không liên quan gì đến tổ chức phiến loạn Tam Thể và Tam Thể giáo như Ngụy Thành trong lúc vô ý lại có được sự đột phá lớn khiến họ nảy sinh một niềm hi vọng lớn lao.
                              Phe đổ bộ và phe cứu thế luôn ở trong trạng thái đối lập gay gắt, phe đổ bộ cho rằng phe cứu thế là mối uy hiếp lớn đối với cuộc cách mạng Tam Thể trên Trái đất. Suy nghĩ này cũng không phải là không có lý, chính nhờ một số nhân sĩ có trách nhiệm trong phe cứu thế, chính phủ các nước mới dần dần biết được bối cảnh kinh người của tổ chức phiến loạn
                              Tam Thể. Thực lực của hai phe phái trong tổ chức là tương đương, lực lượng vũ trang của hai bên đã phát triển đến mức độ có thể tạo thành xung đột vũ trang, Diệp Văn Khiết đã vận dụng uy tín của mình để gắng sức hàn gắn rạn nứt trong tổ chức, nhưng hiệu quả không lớn.
                              Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng Tam Thể, trong tổ chức Tam Thể Địa Cầu xuất hiện một phe phái thứ ba: phe sống sót. Khi sự tồn tại của hạm đội ngoài Trái đất xâm lược Hệ Mặt trời được chứng thực, sống sót trong cuộc chiến cuối cùng ấy là nguyện vọng tự nhiên nhất của con người. Tất nhiên, chiến tranh là chuyện của 450 năm về sau, không liên quan đến đời này, nhưng
                              rất nhiều người hy vọng rằng nếu loài người chiến bại, hậu duệ bốn thế kỷ rưỡi sau của họ có thể sống sót. Hiện tại, phục vụ cho những kẻ xâm lược từ thế giới Tam Thể, rõ ràng là có lợi cho việc thực hiện mục tiêu này. So sánh với hai phe phái chủ lưu còn lại, các thành viên của phe sống sót đều đến từ các giai tầng xã hội tương đối thấp hơn, vả lại trong số đó thì người phương Đông (đặc biệt là người Trung Quốc) chiếm phần đa, trước mắt số lượng của họ vẫn rất ít, nhưng nhân số đang tăng lên rất nhanh, trong tương lai khi văn hóa Tam Thể ngày một phổ cập, bọn họ sẽ trở thành một lực lượng không thể bị coi thường.
                              Lực lượng đối lập sinh ra từ thiếu sót
                              của bản thân nền văn minh nhân loại, sự ngưỡng mộ và sùng bái đối với một nền văn minh cấp cao hơn, tham vọng mãnh liệt muốn hậu duệ mình có thể sống sót sau trận quyết chiến cuối cùng, ba động lực mạnh mẽ này đã phúc đẩy phong trào Tam Thể mau chóng phát triển. Khi bị phát hiện ra, nó đã trở thành một ngọn lửa lớn lan rộng khắp thảo nguyên.
                              Lúc này, nền văn minh ngoài Trái đất kia vẫn còn ở ngoài xa bốn năm ánh sáng, cách thế giới của loài người một hành trình dài bốn thế kỷ rưỡi, thứ mà họ đưa tới Trái đất, chẳng qua chỉ là một chùm sóng điện từ.
                              Lý thuyết “Ký hiệu tiếp xúc” của Bill
                              Mathers đã được chứng thực hoàn mỹ đến mức khiến người ta phải khiếp sợ.

                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2017 06:46:35 bởi huytran >
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 36 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9