Tập truyện ngắn Đá Đỏ

Tác giả Bài
Vuthivietnam
  • Số bài : 35
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.10.2017
Tập truyện ngắn Đá Đỏ - 13.10.2017 10:55:38
LỜI TỰA
 
          Cõi sống là những kiếp người mà thời gian bện chúng ta lại. Sợi dây thừng cõi đời cứ nối dài tưởng chừng như vô tận, có thể là những mùa hoa êm ru sắc lá, có thể là nắng, là mưa, là ngọt nhạt của muôn loài hoa trái. Tất cả dường như kết nối lại mà cất lên bản trường ca cõi đời! Sự giao hòa giữa sự sống với sự sống, bài ca ấy sẽ mãi mãi ngân lên cho từng ngày, từng tháng, từng năm mà chúng ta hằng sống. Những âm ba đổ vỡ hay sinh sôi, khổ đau hay vui sướng, mãn nguyện hay hận thù, song ta không thoát ra khỏi sợi dây thừng cõi sống! Nó như thít lại tất cả trong vòng xoắn hữu hình của nó. Có bao kẻ như được nó kéo lên và bao người bị nó giằn xuống! Dường như chính nó – Cái sợi thòng lọng muôn thuở dành cho loài người và muôn vật, để đến một chiều ta quỳ xuống trong khổ đau! Hỡi Thượng Đế ngài hãy chỉ cho chúng con: “Tình yêu đâu trong cõi sống? Hay chăng là sợi dây thừng đang từ từ thít lại”. Một ngày mới sẽ qua và bình minh đang dậy cả vũ trụ chất chứa trong đó tất cả mọi thứ của ngài! Có máu và nước mắt – Tình yêu và xảo trá, tất cả mọi thứ dường như được phân định! Song lại là không định. Cõi đời! Sự huyễn hoặc đến vô cùng – Cho từng ngày, từng tháng, từng năm mà ta hằng sống. Hãy lặng lẽ mà đi vào chúng! Trong sự kết dính thời gian, có thể ta sẽ giành lại cho mình một mẩu thừng thân phận.
“Thừng bện xong rồi tự trói ta
Tre non chẻ lạt trói tre già
Một dây vô lại tình nhân thế
Gỡ được cho rồi cũng nát da”.
Hà nội, 20 – 3 – 2003
 
Một Suy Ngẫm
 
Người rách việc là người hay nghĩ, mà cũng phải thôi, kẻ khó thường hay ngẫm ngợi, so sánh! Sự đời mỗi ngày mở ra như một trang vở mới, có kẻ nhìn vào đó tối sẫm như bức vách, có người như buổi sáng tinh mơ, nhưng chung quy tất cả chúng ta đều suy ngẫm. Một ngày mới thì chưa tới, chưa qua, song chúng ta đều bắt đầu đặt vào đó biết bao nhiêu hoài niệm, trái phải và tất cả chúng ta đều phải bước tới một ngày. Chỉ có như vậy, một ngày là 24 giờ chẳng kém, nó cứ lững thững đi qua đời kẻ khó và chạy biến qua mọi cuộc vui.
          Người ta so sánh thời gian của nhau để tìm ra khác biệt vui buồn, sướng khổ nên thời gian nhiều khi cứ như kẻ vô loài ác độc, nó như cái thước, như quan tòa cho mọi suy ngẫm trên đời! Người ta mầy mò, dòm dõi nó cứ như là của lạ mà thực sự thì có gì là lạ lắm đâu, thật giản dị, buổi sáng có ánh mặt trời, về chiều có bóng đêm đó là hai cực của một ngày trôi nổi, song con người ta vẫn cứ là suy ngẫm mà tất cả có ai bỏ một giờ nào trong ngày đâu, họ tận dụng thời gian như ăn quả dừa: Nước uống, cùi ăn, vỏ làm gáo, có lẽ cõi đời thật tuyệt diệu nên loài người thường hay kêu ca về nó! Có thể chúng ta là thành tinh của loài khỉ nên hay thường tò mò tinh quái như vậy, chúng ta cứ sống mà dày vò, dằn vặt nhau cho đủ hai bốn giờ trong ngày, chẳng sót phút nào mà ngơi, mà nghỉ, mà suy, mà ngẫm.
          Thời gian cứ căng thẳng như sợi dây đàn, mà tiếng kêu là loài người tri kỷ. Họ sống trong thời gian và kêu ca về nó, có lẽ loài người khổ hơn cây cỏ vì thiên nhiên có than vãn gì đâu, người ta chiêm ngưỡng nó, song không học được điều gì ở nó, có lẽ chỉ có Lão Tử là người duy nhất thoát khỏi muộn phiền, tự hòa mình vào thiên nhiên không thiệt hơn, đừng phải trái. Mà ngẫm cho cùng, chúng ta có làm được điều gì hơn đâu! Tất cả có lẽ đều chỉ là vớ vẩn.
 
2002


Chân Lý
 
          Vào một buổi tối, trong phòng khách sang trọng! Người cha ngồi trầm ngâm trên đi – văng đọc sách. Gần đó, trên nền nhà bóng loáng, hai đứa trẻ một trai, một gái chừng 5 – 6 tuổi đang trò chuyện huyên náo. Thôi thì đủ thứ chuyện trên trời dưới bể, nào là ông trời xuống hạ giới rồi thì hạ giới lộn lên ông trời. Câu chuyện cứ bóng lên niềm vui trong mắt trẻ. Ở đời thật kỳ lạ, sự ầm ĩ luôn là bạn với những trầm tư sâu lắng, có lẽ chúng bổ sung, tương hỗ cho nhau. Người đọc thì cứ đọc, còn người vui thì cứ vui và có lẽ niềm vui hay dắt người khác lại gần. Câu chuyện của lũ trẻ đã ra chiều thách đố! Nào chuyện con ong, cái bướm rồi đến ông voi, ông hổ nhịp phách lúc căng thẳng, lúc giòn giã cười vang, cả phòng khách như thể chẳng còn ai ngoài chúng. Rồi đến một quãng mọi đề tài thách đố có vẻ cạn, hai bộ mặt trẻ thơ lắng xuống, trong suy tư, chúng lặng lẽ nhìn nhau như hỏi đằng ấy còn chuyện gì nữa không? Chợt bé gái hỏi bạn mình:
-         Mẹ là gì?
Thằng bạn trai trả lời chóng vánh:
-         Mẹ đẻ ra chúng ta! Ai bảo bạn thế?
-            ­­­Mẹ tớ (nó kiêu hãnh trả lời, vì điều đó đã được mẹ khẳng định) và nó khiêu khích ra ngay câu hỏi mới.
-         Tớ đố cậu bố là gì?
Đứa bé gái quả cũng không vừa, nó trả lời nhanh chả kém gì bạn nó.
Bố là người lão bộc dắt lừa đưa chúng ta vào đời. Thằng bạn trai lục vấn lại! Ai bảo đằng ấy thế?
Mẹ bảo tớ thế. Chân lý đã được khẳng định.
Ngồi gần đó người cha buông sách lặng lẽ thở dài.
2001
 
Cái Thước
 
          Sự sống trần gian thật là lắm chuyện! Mớ rau, vại cà, chĩnh tương, niêu cá mọi thứ tưởng chừng nhỏ nhoi mà thiết thực ấy! Nhiều khi lại thành mọi chuyện rõ to. Người ta so nồi, đo bếp, so thiệt, đo hơn. Nên nhiều khi cái thước đo cũng phải đành mà tủi phận. Mà mẹ kiếp, đã là thước đo mà không đo được thì mới tức! Mà đo cái gì bây giờ cơ chứ? Nên cái thước nhiều khi đành phải đo chính mình! Từng li, từng lai, từng phân từng tấc mà các cụ đã định, nên cũng đành phải là trân trọng. Ông Lỗ Ban khi xưa chắc phải là đắc ý lắm với những số đo của mình. Mà cũng may, ông Trời đã cho họ Lỗ được quy tiên chứ không sống đến thời ta thì thật tủi. Mà cũng tài! Cuộc đời đẻ ra đủ mọi loại thước. Nào là thước dây, thuớc rút, thước Lỗ Ban, thôi thì đủ các kiểu loại thước. Mà được cái – cái nào trông cũng đẹp, chứ đâu như xưa, nào sào, nào gậy. Ấy thế mà sinh chuyện! Cái tính đa nghi của loài người làm thêm buồn cho thước. Mà đã là thước mà không có niềm tin thì làm phận thước làm chi mà thêm khổ. Người đổ tại thước, thước đổ tại người. Nghĩ ra thì cũng thật khỉ! Như kẻ chợ mua gà, gà chín lạng thì họ cứ cho như là cả cân. Cái giống đời là vậy mà họ chẳng nghĩ còn có cả vạch mang tên ông Lỗ Ban. Ngẫm mà khổ cho cái ông già họ Lỗ, chẳng hiểu chính xác làm cái con mẹ gì cơ chứ, thước thời nay sinh ra chỉ để an ủi cho những kẻ bị lừa! Mà khi về nhà họ chỉ biết nguyền rủa cái ông Lỗ Ban dám in tên mình lên thước. Mọi mất mát chung quy chỉ tại cái thước, mà thước sinh ra là do chính mình, mà ai lại nỡ chửi mình, nên tất cả cứ là im lặng.
Hà Nội 8-2001                       
 


Cặp Kính
 
Cuộc đời khi mắt kém thì thực là buồn, nên hắn cũng đành dành dụm mà mua cho mình cặp kính. Mà khi nói đến kính thôi thì đủ loại: của Mỹ, Nhật đắt lắm thì ai mà dám mua, cứ làm cái kính Tàu 15 nghìn vừa rẻ mà nhìn gì cũng thấy. Rẻ mà nhìn rõ thì mới quý, nhìn đâu được đấy, rõ cứ như ban ngày. Có đọc cuốn sách chữ nhỏ li ti mắt sáng lên như hồi còn trẻ, mà cái giống sáng mắt thì hay thích nhìn, mà đã thích nhìn thì lại thích đi. Thật rõ tác dụng của cặp kính lợi hại biết bao và chính cái kính lôi hắn ra đường phố đi đây đi đó thăm thú bạn bè. Khi ở nhà thì việc gì cũng tỏ! Khi đi toa lét, nhìn một cái đích ngay cái chốt cửa chẳng phải sờ lần trong tối như xưa. Ngẫm cái kính Tàu có 15 nghìn mà thật là đắc lợi. Có hai mảnh lăng kính đeo lên mắt mà nó nối cõi đời dài ra đến mọi nơi, mọi chốn. Khi đã có tuổi mà còn được nhìn ngắm cõi đời óng ả thì thú vị biết bao. Mà các bà vợ cũng thú vị chẳng kém khi các ông chồng mù tịt đi đâu đó cho khuất mắt. Cũng có thể vì lẽ đó hắn được đôi tròng kính chắp cánh cho đôi cẳng lên đường. Ngẫm cho cùng cõi đời thật kì quái! Chỉ có 15 nghìn mà đã thành bước ngoặt. Thôi thì chỗ này chỗ nọ đôi cẳng cứ là lắm việc để làm! Mà lại thú vị cơ chứ! Ngẫm thật cũng đáng! Cái kính muôn năm, cái kính cao quý! Hắn cứ thả bộ trên vỉa hè công viên, bên những hàng cây mà suy, mà nghĩ, mà sờ, mà ngắm cái cõi đời là lạ đã có thời chừng như bỏ rơi hắn. Xa xa dưới gốc cây ven hồ, một cặp tình nhân đang quện vào nhau mà tình tứ! Hắn sững lại! Cặp kính chừng như làm mắt hắn sáng lên! Vợ hắn! Chính vợ hắn đang ôm một thằng cha bỏ mẹ nào đó! Bàn chân hắn không tiến lên nữa. Cái cỗ máy cơ thể ọp ẹp dường như lún xuống, chùn lại. Cặp kính như mờ đi! Trời ơi cái cặp kính 15 nghìn đang làm hại hắn. Cái thứ ánh sáng khổ đau, ảm đạm làm sao! Chính hắn đã nhìn thấy vợ hắn qua cái lăng kính 15 nghìn khốn khổ!
Hắn lặng lẽ ném chiếc kính xuống mặt hồ! Một tiếng “bõm” khô khan vọng lại. Cuộc đời lại như cũ! Mờ ảo và đợi chờ! Hắn thẫn thờ trên con đường tản bộ, trước mắt hắn tất cả đều mờ ảo, khổ đau.
Hà Nội, 8/2001
 
Con Ma
         
          Thuở nhỏ, người lớn thường chỉ vào góc tối mà dọa ma! Tôi thì sợ lắm, thỉnh thoảng mắt cứ len lén nhìn qua chỗ đó xem có thấy ma không. Hình phạt của cha tôi là bắt những đứa con có lỗi phải đi qua cái vùng tối chợ ma ấy. Khu chợ ma trong nhà tôi là phòng bếp, liền cạnh phòng ga-ra ô tô. Ở đó, buổi tối thì thường không bật đèn nên tối lắm, cứ nhìn xuống đó cũng phải sởn gai ốc. Mà hình phạt của cụ thì thật là ghê và dứt khoát, nên nhiều khi tội của một đứa nhưng mấy chị em đành cùng dấn thân chịu đựng cho đỡ sợ, mà nhiều khi còn phải lẩm nhẩm hát cho chóng hoàn hồn. Theo tôi, chắc chắn ở chỗ đó phải có con ma, mà phải là con ma tẩm quất tím hay xanh gì đó. Cái thời đó cứ nghĩ đến là sởn gai ốc. Để bổ xung cho cái hình phạt con ma vô hình ấy, mẹ tôi lại thường kể về các chuyện ma của các cụ ta xưa! Nào là chuyện Liêu Trai, nào là đủ thức. Lời mẹ kể chuyện mới dung dị hấp dẫn làm sao, nó cứ như thấm vào lòng từng đứa. Bọn tôi cứ tròn mắt, há mồm mà quấn lấy mẹ. Mọi chuyện cứ như thấm vào lòng cho đến ngày hôm nay còn chưa hết. Mẹ thường ăn trầu nên bên cạnh người lúc nào cũng có cái âu trầu bằng đồng bóng loáng, nên thỉnh thoảng câu chuyện cứ bị ngừng lại để đợi mẹ têm trầu. Lúc đó anh chị em tôi đứa nào cũng phải háo hức đợi mẹ têm xong để mà nghe tiếp. Lời mẹ kể nhẹ nhàng trầm bổng làm sao, cứ êm êm dìu dịu mà đi vào lòng chúng tôi:
-         “Có một chàng thư sinh đi trọ học! Vào một đêm trăng thanh gió mát, chợt có một người con gái xinh đẹp đến tựa gối tâm tình. Sáng ra nàng biến mất để lại cho chàng nỗi ngẩn ngơ tiếc nhớ…”
          Theo tôi dứt khoát đó phải là con ma vừa đẹp, vừa lành. Mãi cho đến ngày hôm nay tôi đã có vợ, con mà trong lòng cũng thèm muốn được gặp con ma lành hiền như vậy lấy một lần. Cho đến già, tôi vẫn tin ở cái góc tối thời nhỏ ấy dứt khoát là có ma! Được cái,đời tôi sơ sơ cũng được thấy vài loại ma. Ma cà bông, ma cà chớp chẳng hạn, mà cái loại ma lành lành như mẹ kể thì quả thật là chưa từng gặp. Nhiều khi phải đi đâu qua vùng đêm tối là lòng tôi lại có cái cảm giác sờ sợ ngày xưa! Như thể đâu đây rất, gần bỗng hiện lên một con ma như người thật mà nhe nanh hù dọa. Và rồi đến già tôi cũng gặp! Đúng như lời các cụ “Đi đêm mãi có ngày gặp ma”. Mà cái số tôi thật khổ - Mà lại khổ từ tấm bé cơ chứ! Người ta gặp ma đẹp, ma hiền còn cái thân tôi lại gặp ngay phải ma đói. Mà suy cho cùng thì ai mà có thể nhận ra nó được. Mà nó cũng đẹp chẳng khác ma trong chuyện Liêu Trai. Nào là mặt mũi phương phi, thân hình bệ vệ, lại còn đeo cả kính trắng nữa cơ chứ thì bố ai mà chẳng mê! Từ ô tô bóng lộn bước xuống tay xách ca táp thì cứ cả ngàn người cũng phải nể sợ. Mà đã là ma thì phải oách như thế thì mới bõ gặp. Lúc đầu có mấy người rỉ tai nên tôi cứ háo hức để mà làm quen. Nguyên do cũng chỉ tại cái việc đi xin việc làm cho thằng cháu, song cũng đành thất vọng vì chắc ma thời nay cao quý hơn ma thời các cụ, muốn gặp thì khó lắm nên cứ phải xếp hàng thứ tự có kẻ trước người sau. Mà con ma này thật lạ! Chỉ thích gặp từng người. Có kẻ cầm phong bì mỏng gặp ma ra thì mặt mũi hớn hở, có kẻ cầm phong bì thật dày ra về thì mặt mũi héo hon. Tôi nghĩ, chắc con ma này không quen ăn của đút nên trong lòng đỡ ngại nên chen vào hàng. Lá đơn kẹp trong tờ báo trông cũng giống như ai. Thế rồi, trời cũng chẳng phụ kẻ chờ đợi và tôi cũng đến lượt. Qua lần cửa ngoài có một bàn đợi sẵn, chắc nơi nhận đơn từ thủ tục, hắn giở tờ báo và bực tức quát lên rõ lớn:
-       Ông biến đi cho xong! Đơn với chả từ thế này à. – Tôi nghĩ bụng mình làm thủ tục đúng như cơ quan chủ quản đòi hỏi.
Từ nhà trong, con ma to giọng hách dịch vọng ra
-Có chuyện gì thế?
-Dạ thưa anh, cái thằng già này vớ vẩn!
-Đuổi ra đi!
Tôi thất vọng ra về, trong lòng còn nuối tiếc. Nhưng cũng còn được cái khoái: nhà ma mát thật! Cứ như được ướp đá. Ra đến ngoài, tôi cầu chúc cho những người đến sau không lâm vào cảnh như tôi. Và mãi sau này, nhân đọc tờ báo mới vỡ lẽ về cái “con mà” tôi gặp. Nghe nói nó leo lên tận cái chức tổng giám đốc của cái công ty “mếch mếch” gì đó, toàn tên tây mà tôi thì mù chữ ngoại nên chẳng rõ. Nó chuyên ăn tiền mà thích nhất cái loại tiền Mỹ vừa nhẹ vừa dễ tiêu hóa. Còn rượu thì cứ phải là loại cả triệu một be, nó nhậu đến cả mấy trăm tỷ của mọi người nghe đâu Nhà nước sắp mang ra bắn. Nghĩ mà ghê! Cái giống ma đói nó ăn nhiều thật, béo thế mà nó vẫn ăn, mà ăn nhiều đến thế rồi ta mới biết. Cứ nghĩ! Cái bọn ma này thật giỏi! Mà chẳng hiểu bắn ma nó có chết không? Cứ như tôi nghĩ, chắc chỉ có ở ta thì người ta mới đi bắn ma! Nhỡ đâu nó lại biến thành thằng khác thì thật khổ.Có lẽ cũng nên yểm lên mả nó nhiều lá bùa. Mà có lẽ chúng ta cũng nên kể chuyện ma cho con cháu không sau này chúng cứ tin lắm vào khoa học mà chẳng còn biết sợ ma thì tai hại làm sao.
8/2001
 

 
Cái Đầu
Kính tặng bác sĩ Nguyễn Trung Linh
 
     Thật giỏi! Ông trời sinh ra loài người – Một loài động vật hoàn thiện nhất trong muôn loài! Mà niềm kiêu hãnh này cũng thật là xứng đáng. Song tổ tiên ta xưa, cũng tự cho mình thông minh chẳng kém tạo hóa, các cụ đã phân ra chức năng cho mọi bộ phận cơ thể thật là hoàn hảo và các cụ coi đó là niềm tự hào cho nòi giống.
     Cái cỗ máy con người thật là hoàn thiện đến tinh xảo! Phàm một cơ thể sống cứ phải tuân theo một quy củ chính xác như bảng cửu chương của ta thời nay! Mọi trật tự cứ phải hai lần hai là bốn không thể nào khác được. Cái thủ ở nơi cao nhất, các cụ trân trọng đặt lên hàng đầu, và cứ thế mắt mũi, mồm miệng, chân tay, và mọi thứ của nợ sẽ được đặt lần lượt theo thứ tự trên dưới rõ ràng! Quả là tinh xảo, cứ như khoa học thời ta cũng phải là nghiêng mình kính nể! Mà các cụ lại nghĩ ra từ cái thời “đút nút” nào cơ chứ! Có trời mà biết - ấy thế mà cái trật tự ấy tồn tại cho đến tận thời ta. Trong một cơ thể sống, cứ là theo tuần tự cái gì ở trên thì cao quý hơn cái ở dưới, thật rành mạch rõ ràng. Quả thật cái đầu cao quý – Cái đầu to lớn! Nó cứ ngạo nghễ ở trên cùng của một cơ thể sống! Từ cái đỉnh mọc tóc ấy, mọi thông tin được truyền đi, tỏa rộng mà điều hành mọi hành vi bộ phận cơ thể. Con người có thể từ tâm hay độc ác, cướp giật hay nhường cơm sẻ áo cũng từ nó mà ra. Chả hiểu cái cục thịt đặc biệt ấy, cấu thành từ những phân tử, hay lượng tử gì, mà tinh xảo đến thế! Cứ mỗi khi xơi cỗ óc lợn, tôi lại nghĩ đến óc mình chắc phải văn minh đến mấy lần! Có lẽ óc chúng ta là thượng đẳng! Mà thượng đẳng đến ghê người cơ chứ, nó đẻ ra cả ngàn phát minh khoa học, hiền có, dữ có! Mà kiểu gì nó chơi cũng được! Nào bom nào đạn để mà giết nhau, rồi lại thuốc men để mà chữa lành cho họ! Ngẫm ra cứ như là ảo thuật! Suy cho cùng, vui buồn, sướng khổ tất tật từ nó mà ra. Chung quy cái thể xác từ cổ đổ xuống, suy cho cùng chẳng khác chi tên đầy tớ cho cái chòm trên đỉnh, mà cũng có thể nó ở cái nơi cao nhất, gần thượng đế, nên lộng hành như vậy. Quả cái đầu thật lợi hại! Đầu ngu, đầu dại, đầu khôn, đầu bác học chung quy cũng đều là cái đầu mọc lên trên đỉnh từng thân xác! Quả thật nó thực là cao quý. Song có lẽ các cụ ta tính nhầm! Vì tất cả mọi cái đầu ấy chẳng cái nào muốn hòa đồng với nhau cả, nên nỗi khổ cứ lênh láng cả cõi đời! Theo tôi nghĩ, thế mới thật là khổ! Chẳng thà cứ ủn ỉn, đều tăm tắp như óc lợn thì có lẽ đỡ khổ hơn. Không lẽ chúng ta đặt cái đầu xuống đâu đó trên cơ thể cho phải! Mà làm như vậy chắc các cụ giận lắm! Nên chúng ra cũng đành là cứ khổ mãi với nhau. Mà theo tôi nghĩ chỉ còn có thượng đế hay đức phật may ra mới có thể gắn hàn mọi cái đầu hòa đồng với nhau được.
     Ngẫm đời người thật là cùng khổ!
Rằm tháng 8 – 2001
 
 


 
Chiếc Ổ Khóa
 
     Họ đứng giữa căn phòng rộng ánh sáng dịu, trên trần một quầng chấm sáng xanh lốm đốm phản chiếu của bao hạt pha lê đèn chùm. Những giọt ánh sáng được thắp lên trong căn buồng huyền diệu. Hôm nay là ngày cưới, họ quàng vai nhau như hai đứa trẻ trong chuyện cổ Grim. Trước mắt họ là chiếc bàn gỗ lớn bóng loáng, đầy ắp những hộp quà thắp nơ xanh đỏ màu sắc sặc sỡ trông thật vui mắt, tất cả cứ như một mâm cỗ lớn gồm đủ các loại món ăn sơn hào hải vị đặt trước mặt hai đứa trẻ, họ ôm nhau thật nồng ấm hạnh phúc làm sao, hai bộ lễ phục đẹp nhất, hai linh hồn trẻ mới nhất ôm ghì lấy nhau trước bao nhiêu hạnh phúc và lễ vật. Căn phòng vắng vẻ chỉ còn lại họ nhưng tràn đầy vẻ no đủ tình yêu. Người chồng đặt lên môi vợ nụ hôn thật dài, nàng cố lắc mình chừng như nô nghịch, họ cứ quện vào nhau như hai đứa trẻ chẳng bao giờ no chán. Chàng nhẹ nhàng êm ái nâng nàng trên tay tiến về phía giường ngủ, đầu cô dâu ngả trên vai chàng trìu mến:
-         Anh ơi em chưa muốn! Đôi tay nàng mơn chớn trên cổ chàng cưng nựng.
-         Này cô bé – Anh muốn xem trong bộ váy xinh đẹp này mình có những gì! – Nàng nhẹ nhàng rụi môi vào má chồng thì thầm:
-         Tất cả là của anh! Nhưng em muốn biết trong những hộp quà xinh đẹp kia là những thứ gì!
Chàng đặt cô dâu trước bàn, đứng sau lưng ôm vợ trìu mến.
-         Em ạ! Tất cả là của em!
-         Cả là của anh nữa chứ - Nàng ngửa đầu nhìn chồng trong niềm hạnh phúc đằm thắm, trước mắt là bao điều thích thú đang chờ đợi, họ là hai đứa trẻ được đặt trước cả một đại dương niềm vui.
-         Anh ơi! Chúng ta bắt đầu từ hộp nào –Nàng bâng khuâng trong lựa chọn – Ngả đầu vào vai chồng.
-         Cứ lần lượt chúng ra mở tất cả - Chàng với một chiếc hộp lớn màu xanh thắt nơ đỏ đặt trước vợ.
-         Em mở đi! À khoan đã, anh đố em trong hộp này là thứ gì?
-         Cả hai cùng đoán mới công bằng anh ạ!
Nàng ngoái đầu nhìn chàng thách thức và cuối cùng cũng cả mâm quà lớn lần lượt từng thứ đã được mở. Có những thứ nàng đoán đúng, chàng đoán sai hay ngược lại! Nó như nối dài chuỗi cười đùa chừng như bất tận. Bao âm thanh hạnh phúc tràn ngập cả phòng, như thể chả ai trong cõi đời này hạnh phúc bằng họ, cả căn nhà trở nên bộn bề nào đồ, nào hộp, nào nơ. Họ như hai đứa trẻ vung vãi ra quanh mình tất cả những gì họ có mà đùa nghịch mà giằng co cho thỏa thuê với biết bao là hạnh phúc ngập tràn quanh họ.
-         Anh ơi thử tìm xem còn hộp nào nữa không! Họ cố bới trong bao thứ lẫn lộn như hai đứa trẻ đang lần tìm đồ chơi trên bãi cỏ ngoài vườn.
-              Em tìm thấy rồi! Nàng la lên vui sướng! Trên tay nàng chiếc gói nhỏ thắt nơ vàng, trông thật xinh xắn.
-              Bây giờ anh thử đoán xem! - Không hiểu vật gì mànằng nặng anh ạ. Tay nàng nâng nâng thử định lượng rồi ngả vào chồng - Nhỏ mà nặng thì sẽ là vật gì anh nhỉ?
-              Rứt khoát là một lọ nuớc hoa hảo hạng giành cho em! Chàng hổ hởi khẳng định như vậy.
-              Em cho là một cái gạt tàn thuỷ tinh giành cho anh. Nàng băn khoăn, tay cầm đầu dây nơ nhìn chồng.
-              Rứt khoát em đoán sai, đưa anh mở!
-            Không anh đoán sai! Em mở. Nàng hồi hộp rút dây thắt nơ.
-            Ôi chiéc khóa (cả hai vợ chồng cùng đồng thanh thốt lên vui sướng) trước mắt họ một ổ khoá cửa bằng đồng mạ vàng sáng loáng, về hai phía có hai ổ tra chìa trông thất ngộ nghĩnh.
-             Chiếckhoá hạnh phúc anh ạ! Trông thật tuyệt làm sao!
Chàng ôm lấy nàng mãn nguyện.
-            Ngày mai đi làm khỏi lo về chuyện khoá cứa, mà cũng lạ anh chưa nghĩ đến chuyện cái khóa cho gia đình mình.
-            Em ơi anh mệt lắm rồi! - Chàng quàng vai vợ tiến về phía giường cưới trong buồng của họ.
Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc biết bao. Nếu có ông trời ở đâu đó trên cao chắc các ngài cũng cười vui khi thấy hạnh phúc của họ.
Hai vợ chồng đứng trước căn hộ, cánh cửa còn thơm mùi sơn mới. Nàng vui vẻ quàng chiếc khóa mạ vàng sáng bóng vào chốt và khóa lại.
-            Anh khóa nốt chìa của anh đi, chàng vui vẻ lắp chìa khóa rồi ôm hôn vợ nồng thắm. Ánh nắng bình minh chan hoà trên những vòm cây bên đường phố. Hôm nay là ngày đầu tiên sau khi cưới họ lên đường vào công sở.
-            Anh nhỉ! Sao lại có những người thông minh đến thế - Ý tưởng thật tuyệt vời! Có lẽ họ phải yêu nhau lắm. Chàng ôm nàng đồng tình với vợ, nhẹ nhàng hôn lên môi nụ hôn tạm biệt.
Rồi ngày nào cũng thế, buổi sáng hay buổi chiều, giận hờn hay vui vẻ cứ đúng vào hai thời khắc sáng và chiều họ lại chờ nhau trên ngưỡng cửa nhà mình. Hai linh hồn dường như là một.
Năm tháng cứ nhẹ nhõm trôi qua cuộc đời họ. Chiếc ổ khóa thật là tốt vẫn sáng bóng như xưa chẳng hỏng hóc tẹo nào, cứ hai chìa tra vào ổ thì tức khắc nó mở như câu thần trú “Vừng ơi mở cửa”.
Thời gian cứ thấm thoát trôi qua cuộc đời họ dường như không có – Cuộc sống hạnh phúc như xóa đi mọi ý nghĩa thời gian. Cuộc đời họ êm ru như dòng mật ngọt, để rồi một hôm chàng đứng trước của nhà mình sau một buổi tan làm. Chiếc ổ khóa vẫn sáng ngời như buổi ban đầu, lặng lẽ nhưng trịnh trọng làm sao. Chàng nhẹ nhàng tra chìa vào ổ, sự chuyển động của những nấc bi nhẹ nhõm rung lên cho bàn tay chàng cái cảm giác khoan khoái sau một ngày làm việc, cứ để cả chum chìa khóa rung rinh như quả lắc đồng hồ cho thú vị. Chàng lặng lẽ tựa cửa chờ vợ, có lẽ thời gian là hiện sinh của đời người. Nó như độ dài của cái thước giành cho hạnh phúc hay khổ đau. Cõi sống – Khi ta hạnh phúc chừng như nó ngắn, khi khổ đau nó dài như vô kể! Và chờ đợi thời gian của cái thước chừng như dài ra mà đùa cùng thân phận. Người ta bảo chờ đợi là thước đo của tình yêu và tình yêu là con xúc xắc dành cho thân phận. Con người cứ phải chờ đợi, mà chờ đợi là thời gian và lần đầu từ khi lấy vợ chàng hiểu như thế nào là chờ đợi. Một bên là cái ổ khóa, một bên là vợ về, chàng đang bị mắc kẹt giữa cái ổ khóa và vợ mình và sự lo lắng như lợt khói cứ lặng lẽ khơi lên! Giờ này nàng đang ở đâu? Liệu có chuyện gì chẳng lành xảy ra không? Bao câu hỏi rồi lại câu hỏi cứ len nhau mà lấn tới trong đầu chàng, có lẽ từ khi họ lấy nhau đây là lần đầu tiên chàng thực sự thấm thía với thời gian, khoảng cách, cái ổ khóa cứ sáng bóng lên như nụ cười chế nhạo. Chàng chỉ có một nửa câu thần chú “Vừng ơi” và thế là cứ đợi! Rồi cái giá của chờ đợi cũng được hoàn trả! Từ đầu phố bóng nàng đang vội vã trở về, mái tóc bay bồng bềnh trong gió, nàng sà vào vòng tay chàng, mái tóc còn thơm mùi dầu gội.
-            Em đi làm đầu phải chờ lâu quá anh ạ! Anh lo lắng lắm phải không? Chàng lặng lẽ ôm gì lấy vợ, và nàng làm nốt nửa kia của câu thần chú “Vừng ơi mở cửa ra”, họ quàng vai nhau tiến vào nhà sau một ngày làm việc và chờ đợi mệt mỏi.
-            Chờ em anh có buồn không? – Nàng trìu mến hỏi chàng.
-            Này cô bé! Anh xin đánh đổi sự chờ đợi lấy một mái tóc đẹp thế này.
-            Chàng hơi ngả người ngắm khuôn mặt vợ mình như đứa trẻ đắm mình trong ham muốn. Nhưng trong mắt họ như gờn gợn một nỗi ưu tư thoảng buồn, dường như một cái bóng vô hình đang len giữa linh hồn họ. Cả hai người đang cố né tránh cái bóng vô hình ấy đang luẩn khuất đâu đây! Chiếc ổ khóa như vị quan tòa hào nhoáng với nụ cười bỡn cợt họ. Người nọ về muộn để lại trong người kia bao suy nghĩ và cứ thế cả hai người cứ nghĩ hoài về nhau, mà họ thật sự là yêu nhau cơ chứ! Nhưng mỗi lần chờ đợi, đối diện với cái ổ khóa mạ vàng sáng bóng, như diễu cợt họ thì lòng kiên định mờ đi để lại một thoáng lo âu. Lợt sương ấy cứ tích tụ lớn dần lên để làm thành mây mù giông bão. Cứ nhìn thấy cái ổ khóa thì họ lại nhớ tới bao thời khắc chờ đợi mà chờ đợi quả là nặng nề cho sự sống hữu hình – Nhưng họ vẫn phải chờ vì họ thực là yêu nhau. Ở đây chiếc ổ khóa bổng trở thành đa tác dụng – Ngăn giữ kẻ gian và giữ luôn cả kẻ ngay, nó chẳng tin bất cứ ai ở đời, cứ đúng khấc thì nó mở và căn nhà hạnh phúc của họ như biến thành cái lò đúc gang luyện thép trong mỏ không bằng! Thế mới thật khổ! Họ yêu nhau nhưng mà chẳng tin nhau nữa! Cái ổ khóa cứ hiện hữu như một cán cân cho lòng chung thủy, loài người thường huyễn hoặc! Họ làm đẹp cho mình bằng vòng vàng xuyến ngọc, dây thừng dây chão, xiềng xích, khóa ổ, chừng như thiếu nó chúng ta không chịu nổi, nó trở thành một công thức cho cõi đời! Như ta đeo lên cổ một sợi dây vàng thì lòng ta mãn nguyện, họ quàng lên cổ ta cái ách thì bỗng thấy khổ đau! Ta chấp nhận bao thứ vô tri là khuôn vàng thước ngọc cho sự sống hữu hình - Ở đây vợ chồng họ đứng trước cái ổ khóa – Vị quan tòa làm chứng cho nghĩa tình vợ chồng. Ngẫm cũng khổ, khi cứ phải sống cạnh cái ổ khóa chẳng biết nói, khỏi phải nhìn nó cứ lặng lẽ mà thít đời họ lại trong chờ đợi và ngờ vực. Chẳng thể hiểu cha nào nghĩ ra cái loại ổ khóa quái đản đến vậy? Có thể đời hắn bị vợ ngoại tình nhiều bận nên hắn đúc kết thành cái ổ khóa ghê gớm đến vậy. Mà hắn ngụy trang cho sự đê tiện quả là đẹp đẽ! Trông cứ sáng ngời như của quý. Nào khóa hạnh phúc, nào chó giữ nhà mới khổ. Mà loài người cũng dễ bị nó lừa, hễ trông thấy là mê, là thích, khi ngộ ra thì nó đã cắp đi của họ khối thứ chẳng bỡn! Mà ở đây sự ngờ vực thường câm lặng, nó cứ từ từ mà nghiền nát đi tất cả những gì mà tâm hồn ta có! Thế mới bỏ mẹ! Khi người ta nhận biết ra nó thì lại trở thành chuyện khó nói, chẳng ai dám vứt đi cái niềm tin mà họ làm nên! Chừng như nỗi khổ cứ dài ra lê theo cuộc đời họ. Cái ổ khóa hạnh phúc chặn giữ cửa nhà họ như một thông điệp buồn. Họ yêu nhau nhưng vấp phải nó, cái của nợ tê buốt như đồng, cái niềm tin hão huyền tệ hại và thời gian cứ lạnh giá trôi đi.
      Một hôm khi trở về nhà chàng lặng lẽ đứng bên ổ khóa! Tất cả mọi thứ chừng như vẫn thế - Lại là chờ đợi – Cứ đợi đi! Cái ổ khóa như nói với chàng như vậy và thời gian bỗng trở thành vô nghĩa cho những kẻ đợi chờ. Nỗi mệt mỏi cứ khơi lên nhấn chìm đi thần xác, chàng ngẩn ngơ nhìn chùm khóa rung rinh trong ổ khoá như nhạo báng, như đùa cợt với chàng! Nó! Nó chính nó cái của quý đang đè nặng lên thời gian, nhấn chìm đi cõi sống, dường như nó lấy đi tất cả những gì quý giá mà đời chàng có đươc. Lặng lẽ quay đi, chàng không còn muốn nhìn thấy nó, nỗi lo âu chờ đợi như hằn lên trên dáng vẻ, những bước chân ngược xuôi đan hoài trên khoảng lan can bé nhỏ, có lẽ chẳng bao giờ chàng phải chờ lâu đến thế! Sẽ lại là lý do gì đây? Chàng dừng bước chân ở bên cửa sổ, một suy nghĩ lướt qua trong óc, với tay nhặt chiếc que trên nền, chàng thò que qua khe cửa gạt cái chốt và quyết định vào nhà bằng con đường này vậy. Vừng hãy đợi đấy – Chàng nói trong nỗi tức bực chẳng cùng. Chàng gọi điện về nhà ngoại cũng chẳng thấy. Chẳng hiểu tan làm vợ mình đi đâu? Kim đồng hồ trên tường đã chỉ nàng về muộn cả mấy giờ, không hiểu ai phải chờ đợi lâu đến thế này không? Chàng mệt mỏi nhao người xuống đệm và thế là giấc ngủ.
      Nàng bàng hoàng đứng trước cửa nhà mình, chùm chìa khóa của chàng lặng tờ trông ổ! Chàng không chờ mình nữa! Nỗi ân hận như chìm trong mắt. Nàng nhìn mọi phía trong chờ đợi, trên phố tấp nập những người, họ đang vội vã trở về nhà sau một ngày làm việc! Mọi người đều giống nhau nhưng sao trong nhà nàng lại buồn đến vậy. Cả dòng người đăm chiêu đang trôi về đâu bất tận, họ trở về nhà yên nghỉ. Nàng cố tìm chàng đâu đó trong cả dòng người kia. Trên phố hoàng hôn lịm dần trả lại cho đêm những ngọn đèn đường thức dậy. Có thể chàng bực mình đi đâu đó – Đành phải thế thôi, mọi việc cứ tưởng nhanh lại thành chậm – Chờ đợi là khúc hát lẻ loi cho mọi gia đình, nó cứ từng nấc làm mờ đi mọi thứ, ngoảnh lại cái ổ khóa như một nỗi muộn phiền. Nhìn đồng hồ đã 7 giờ, thời gian cứ trôi hoài như một tì vết. Chiếc ổ khóa như gã cai ngục lạnh lùng đang giam giữ hai trái tim đồng cảm, họ yêu nhau nên sợ mất nhau, tình yêu như lấy đi niềm tin trong họ, sự mù lòa đang dắt họ tới đâu trong cõi đời? Mà họ thực sự yêu nhau cơ chứ! Họ cứ phải mò mẫm trong chờ đợi mà tìm nhau như hai kẻ cơ hàn. Đã qua giờ nấu ăn cả tiếng mà chàng vẫn đâu? Nàng lo âu sờ tay lên ổ khóa, trong bóng tối nó còn ánh lên như một niềm tin kì dị, tất cả đã chờ sẵn! Hai chiếc chìa ủ rũ bên nhau! Có nên vào nhà lúc này không? Nỗi day dứt là tiếng thở dài của niềm tin ngay cả khi chính ta hiểu đằng sau bao lời nói, bóng bẩy và những cuộc đời hào nhoáng có thể ẩn chứa biết bao điều xảo trá tồi tệ! Con người ta không dám bước qua chính mình – Như bộ quần áo ông Thiện khoác lên hình hài ông Thiện nhưng có thể chứa chất biết bao điều không thiện. Mọi người ao ước mình có một ổ khóa dành cho tình yêu hạnh phúc. Chúng ta cần khóa để cất giữ một điều gì đó dù nhỏ nhất dành cho riêng mình. Ổ khóa và cuộc đời đã trở thành niềm tin cõi sống. Loài người tồn tại không thể thiếu được cái ổ khóa nên niềm tin trở thành một nỗi thật buồn. Nàng không dám bước qua cánh cửa kia vì vấp phải nó, cái niềm tin của chung nên chẳng ai dám tự mình bước qua và cuối cùng chỉ còn lại họ, hai kẻ yêu nhau đắm mình trong chờ đợi, chẳng còn niềm tin.
      Nàng mở khóa vội vã bước vào nhà mình, bật đèn nhao đến bên điện thoại – Chợt sững lại! Chàng đang nằm kia, nàng bâng khuâng bước lại bên chàng, giấc ngủ yên lành làm sao…! Chẳng muộn phiền, không chờ đợi, vạn vật như lắng xuống chìm sâu trong sự bình yên giấc ngủ. Nàng khẽ khàng quay về với việc nội trợ hàng ngày.
      Cơm nước đã xong nàng đến bên nhưng không dám mà lay chàng dậy. Giấc ngủ êm đềm hạnh phúc làm sao! Nàng cứ lặng lẽ ngắm chàng trong tĩnh lặng, chỉ còn lại hơi thở đều đều. Nàng nhẹ nhang nằm sát bên chồng và chìm vào giấc ngủ. Khi họ thức dậy thì đã muộn giờ làm, tiếng chuông báo thức không lay nổi họ, nỗi thấm mệt còn phảng phất trong từng dáng vẻ. Lặng lẽ nằm bên nhau, người nọ muốn nhường người kia lời chào trách móc.
-            Sao anh chẳng nói gì? Anh vẫn giận em sao!
-            Anh thật buồn về cái ổ khóa! Nếu người ta sinh ra nó để bắt nhau chờ đợi thì gia đình chẳng còn gì để nói.
-            Anh không muốn chờ em nữa sao? – Nàng nhẹ nhàng hỏi chàng.
-            Những lúc ấy anh thấy thời gian là vô vị - Mọi thứ chỉ còn là câu hỏi không bao giờ có đáp số - Em có muốn phải chờ đợi anh không? Nếu cứ kéo dài chuyện này chúng ta sẽ đến đâu? Chàng lạnh lùng quay đi. Trên bàn mâm cơm còn nguyên vẹn, họ đã sống một ngày với bao ấn tượng buồn, giữa hai vợ chồng là một khoảng cách đến ghê sợ! Họ phải đối diện với những thời khắc buồn thảm vô cùng – Mọi thứ chỉ còn là suy nghĩ mà câu hỏi và câu trả lời chẳng còn là điều thuyết phục, niềm tin như trôi tuột đi đâu.
-            Tối qua sao em không ăn cơm?
-            Em chờ anh rồi ngủ mất.
-            Em thấy không! Người ta sinh ra cái ổ khóa để mà chính xác.
-            Làm gì có tuyệt đối chính xác anh ạ
-            Nếu nghĩ thế thì mãi mãi chúng ta cứ chờ. – Chàng hậm hực bước xuống khỏi giường.
-            Chiều qua em đi khám… Em bảo sao – Chàng quay lại bên vợ.
-            Nhà mình có tin vui – Chúng ta sắp có con, chàng bâng khuâng quỳ xuống ôm vợ vào lòng.
-            Sao tối qua em không nói với anh ngay?
-            Thấy anh ngủ ngon quá nên em không dám…! Chàng ân hận nhìn vợ trìu mến – Phải thế chứ - Em thật là giỏi mà anh thì ngốc nghếch làm sao! Chờ có một tí mà đã nghĩ – Em à, anh có cảm tưởng cái ổ khóa nhà mình đang biến nốt chúng ta thành kẻ gian – Hôm qua về sớm anh mua một cái ổ khóa mới.
-            Anh mua rồi sao? – Nàng hồ hởi hỏi chồng – Em cũng nghĩ vậy, còn dùng nó thì có ngày vợ chồng mình sẽ mất đi nhiều thứ…
      Họ đứng trước căn hộ trong một ngày mới, gia đình họ có tin vui! Chàng nhẹ nhàng gỡ chiếc khóa “của nợ” thả trên thềm, treo vào chốt một ổ khóa mới – Chìa khóa mới của em đây! Chàng gỡ chiếc chìa khóa cũ đưa cho vợ - Em vứt nó vào sọt rác giùm anh. Anh đưa nót cho em cả cái ổ!
-            Nàng hồ hở ném mạnh 2 cái chìa khóa xuống đường, còn ổ khóa họ vứt vào thùng rác.
-            Thế là xong anh nhỉ? – Phải làm thế ngộ nhỡ ai nhặt được dùng lại thì khổ thân họ. Hai vợ chồng hôn nhau tạm biệt, một ngày mới thật nhiều niềm vui, thời gian đang dắt họ đi trong bao điều đáng kể.
25-3-2003
 


 
Suy Ngẫm 
 
          Có một thứ triết học dành cho mọi kiếp người đó là chẳng ai muốn mất! Tất cả chúng ta chỉ muốn được. Họ chuẩn bị những khoảng trống quá lớn để mà chứa chấp đủ mọi thứ mà họ nghĩ ra được khi có dịp! Phàm đã là con người chẳng mấy ai đặt câu hỏi cho mình rằng đến một lúc nào đó họ sẽ mất mát ít nhiều, một vài thứ! Có lẽ bởi tại loài người trôi trong thời gian, dòng sông ấy cứ bồi đắp cho họ biết bao là ham muốn. Đến đây tôi chợt ngẫm, đời người như cái bát hứng từng giọt nước trong vòi! Từng giọt ham muốn rơi vào lòng bát và từng giọt nước ấy cứ đều đều dâng lên ngập tràn lòng bát. Mọi ham muốn cứ sôi lên chẳng ngừng vận động, mà nó chỉ ngừng sôi khi không còn hứng chịu thêm giọt nào, khi không được thì không mất, bát nước sẽ phẳng lặng trong veo, nhưng liệu có mấy ai hiểu được điều ấy! Họ muốn bao trùm tất cả cho dù khoảng không là lòng bát cứ sôi lên ngập tràn ước muốn. Họ ước cho họ, cho chồng con họ, bạn bè họ. Có lẽ họ muốn chiếm tất cả cái không gian cuộc đời người khác cho thỏa trí khát thèm.
          Thật rõ hay! Cuộc đời là thế mà mấy ai rõ nổi, mà rõ thì cứ mặc kệ chẳng sao vì tất cả là thế. Nó đã thành giông thành bão, thành một loại triết học cho cả loài người, chúng ta coi đó là tự nhiên, là bất khả kháng.
2003
 


 
Bà Lão Ăn Mày Và Em Bé
Tặng con Vũ Quốc Bảo
 
          Bà lão chống gậy, một tay cầm mảnh gáo dừa đứng trước cửa mọi nhà xin của bố thí. Tiếng con chó nhà chủ rít lên nghe khác thường, quyết liệt hơn mọi khi. Một chú bé chừng năm tuổi đứng gần bà lão, trên tay cầm chiếc kẹo đứng xem bà chăm chú. Có lẽ vì nó không có bà hay cụ, nên bà lão đã khiến nó nhìn bà chăm chú đến thế. Cái tiếng chó sủa như té tát cũng chẳng làm bà lão sợ. Vẫn mảnh gáo dừa chìa ra phía trước. Cái mảnh gáo dừa vỡ tướp, như bóng lên dưới thời gian của đủ loại ngọc thực – Chắc cầm nó khi đói cũng nặng.
          Ở trong sân một tiếng người trung tuổi vọng ra:
-         Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!
Lời nói đấy như một thông điệp quen thuốc. Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh gáo ra đi. Cái lưng còng như gánh trên thân bà bao mảnh áo quần rách tướp sói lở theo thời gian. Đôi tay gầy gò nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.
Thằng bé cũng lặng lẽ ngơ ngác theo bà lão ra đầu ngõ. Chợt rất nhanh nó tiến tới gần bà. Như có lực hút. Nó đưa biếu bà lão chiếc kẹo đang cầm trên tay.
Bà lão cũng ngơ ngác như như chính khi nó ào tới:
-         Ôi! Tôi xin cảm ơn cậu. Và trong mảnh gáo dừa run run kia có một cái kẹo. Thằng bé chạy ào đi như trốn sự nuối tiếc.
Ngày hôm sau, vẫn trên lối ngõ nhỏ ấy, tiếng chó lại cồn lên huyên náo. Và bà lão lại ra đi với mảnh gáo dừa trống rỗng. Tới đầu ngõ, vẫn thằng bé hôm qua ngơ ngác theo bà. Nhưng lần này, nó mạnh dạn hơn, tiến tới bên bà lão, trên tay nhỏ còn lại nửa chiếc quẩy đang ăn dở.
-         Cháu cho bà – Nó nhẹ nhàng đặt vào lòng gáo.
Tấm lưng còng như rung lên:
-         Ôi! Xin cảm ơn cậu. Nó nhẹ nhàng bay đi, trong mắt còn ánh lên niềm vui nhỏ. Và cứ thế, ngày nọ qua ngày kia, hai cực của hai kiếp người nhỏ nhoi ấy như tiến gần lại nhau hơn.
    Tiếng chó vẫn sủa! Song một hôm, trước cái ngõ nhỏ ấy. Thằng bé tần ngần nhìn bà lão, họ đang tiến đến gần nhau, song trong ánh mắt thằng bé, một nỗi ân hận, thiếu vắng như chìm xuống. Trên tay nó trống không, bất lực, đôi mắt buồn bã hướng xuống con đường nhỏ.
-         Cảm ơn cậu! – Tiếng bà lão nói rất khẽ, như chỉ để cho họ nghe thấy. – Bà muốn biếu cháu một thứ! – Trên tay già nua hướng phía thằng bé, một mảnh nhựa đỏ có in hình đức Phật.
-         Bà biếu cháu chút quà.
Trong tay thằng bé vẫn cầm chặt mảnh nhựa, tần ngần nhìn theo bóng bà già khuất dần trên lối xóm. Và mãi những ngày về sau, trong xóm nhỏ, không còn ai nghe tiếng sủa của con chó thường cắn, có lẽ nó đã già và chết.
Nhưng trước ngõ, thằng bé vẫn nô đùa cùng các bạn. Trên cổ nó, cái mảnh nhựa đỏ có in hình đức Phật, như bay theo những nô đùa của lũ trẻ trong không gian.
Hà Nội, ngày 30-11-2000
 
 


 
Lời Trăn Trối Cuối Cùng
Tôi xin kính tặng các bà mẹ mẩu chuyện ngắn này. Đó là
lời trăn trối cuối cùng, trong cô đơn trơ trọi
và đau khổ. Có thể sau cái chết sẽ là một sự hồi sịnh không? Nếu
vậy đó là sự hồi sinh đầy nước mắt.
Tất cả các bà mẹ! Sẽ được lên thiên đường.
 
          Tất cả mọi cái đối với nàng trở nên chậm chạp đều đều chán nản. Những mẩu vụn vặt trôi qua trong mắt vẫn chỉ là những ảo ảnh quen thuộc chán chường. Những tà áo trắng lướt qua, những nụ cười ánh mắt ẩn hiện hư ảo. Tất cả điều giống nhau, nhạt tẻ và rỗng tuếch như chính cuộc đời nàng đang trải! Như nỗi khổ ban đầu cũng giống nỗi khổ cuối cùng, nó lê thê dài vô tận.
-      Tất cả rồi sẽ qua đi! – Nàng luôn tự an ủi mình như vậy. Ngày hôm nay sẽ lại qua đi như ngày hôm qua bỏ lại. Đối với nàng, ngày hôm nay nằm trên giường bệnh, cũng chẳng khác chi ngày hôm qua nằm trên giường đâu đó. Với nàng nỗi khổ chậm chạp đay nghiến làm sao. Nó giống như hai quả lô ép nước mía đang cán một cây mía, róc vỏ. Tất cả bổng trở thành nát vụn! Và ở đâu đó, trong cỗ máy thuần thục kia, một chiếc cốc được hứng ra đón lấy dòng nước, đó là nước ép ra từ cây mía.
Chao ơi! Cái nguyên tắc giản dị mà cay đắng làm sao!
-         Không tất cả rồi sẽ quen thôi như bao lần nó đến. Sự quen thuộc đau khổ đã làm nàng chai sạn, nó giống như muôn lớp bùn nhơ, tầng nọ đè lên lớp kia, bồi dầy thêm nỗi khổ. Đó phải chăng là cái bản năng kì diệu của mỗi con người? Hay thiên bẩm ghép cho từng cuộc sống, cái khả năng chịu đựng khốn khổ.
-         Tất cả rồi sẽ qua thôi. – Nàng cố dứt đi những suy nghĩ muộn phiền day dứt.
-         Ta phải can đảm chứ! Mà can đảm là gì nhỉ? – Nàng nhớ đến câu nói của mụ chủ nhà chứa: “Can đảm là sống cả khi ta không còn muốn sống” – Mà cuộc sống là như vậy mà!
     Từ nhà chứa tới bệnh viện và rồi đến đâu nữa cũng chẳng sao đâu. - Nàng nghĩ như vậy và cảm thấy ổn ổn trong đầu.
-         Trời ơi sao mệt thế! – Từ đâu đó trong cơ thể nàng, một cái gì đang mất đi và thay vào đó một cái gì đang đến. Nàng cố tự tìm tòi nghe ngóng, song cái mệt làm cho nàng phó mặc. Nàng thiếp đi trong cơn mê chập chờn ác mộng.
-         Chết rồi! – Một điều gì đó làm cho nàng cố vùng dậy, đầu rướn lên khỏi gối, đôi mắt bàng hoàng ngây dại. Nàng cố tìm một người quen nào đó, song chỉ có sự lặng lẽ trải dài từ mọi phía. Cái màu trắng huyễn hoặc ru ngủ! Trắng! Trắng quá, trắng ở mọi chỗ, cả nhà đều trắng.
-         Đây là đâu! – Tự hỏi mình đôi mắt nàng mở to đang hướng về một nơi nào đó trong tâm khảm.
-         Mình đang nghĩ gì nhỉ? – Trong óc nàng những mẩu đời đứt đoạn, chập chờn lóe lên rồi lại tắt, như một chuỗi đèn màu hư ảo.
-         Đúng rồi! Con tôi – Ôi đứa con khốn khổ, không biết ông bà lấy gì nuôi nó, nếu như tôi phải nằm đây. Biết gửi ai mang tiền về bây giờ? Nàng cố nâng bàn tay trĩu mỏi, song nó không còn tuân theo ý muốn của nàng nữa, tiền để trong túi áo, nàng không sao sờ mó được – có những lúc trước những khoảng cách cỏn con gang tấc mà không sao vượt qua nổi. Cái khoảng cách khủng khiếp ấy đang thấm dần vào từng đường gân thớ thịt, nó cắt đi trong nàng bao ý nghĩ rã rời đứt đoạn. Nó đánh thức dậy trong nàng cái sự sống mỏng manh đã trở nên gang tấc.
-         Ta chết ư? – Hình ảnh cái chết bỗng hiện lên trong nàng.
-         Không! – Nàng cố bấu víu vào đâu đó. Hình ảnh cha mẹ bỗng hiện ra trong óc! Không! Không thể được! Không một ai trong nhà được biết mình đang làm gì, ở đâu? Nghĩ đến điều ấy nàng thấy rùng mình ghê sợ. Nỗi cô đơn trơ trọi, tưởng rằng đã quên đi, nhưng giờ đây lại hiện lên trong đôi mắt đẫm lệ. Cái mảnh đất bé nhỏ nàng đã vùi sâu nơi đáy lòng! Cái mảnh đất yêu thương mà giờ đây nàng là kẻ lạc loài. Cái mảnh đất mà nàng nghĩ mình vĩnh viễn sẽ không còn chỗ đứng. Ôi! Sự cô đơn ghê sợ. Nàng sẽ tắt ở đây như ngọn nến tàn lụi và không được gặp con. Nó sẽ là đứa trẻ không cha không mẹ. Ôi nỗi khổ! Liệu có còn nỗi khổ nào hơn nỗi khổ này không? Nàng muốn cào, muốn xé, muốn vùng dậy, song tất cả vẫn lặng lẽ đắm chìm. Một sự nặng nhọc đến khó tả đang muốn đè nàng xuống vĩnh viễn. Nàng muốn kêu lên, nàng bấu víu vào ai đó, song chỉ còn lại sự bất lực rã rời.
-         Không! Nàng sẽ phải gặp con! Hà ơi! Mẹ phải về với con.
     Những hình ảnh thân quen lướt qua trong óc nàng như một ảo ảnh bất diệt.
     Con nàng nó sẽ không hiểu gì hết, nó là của nàng. Nàng đã nuôi nó bằng dòng sữa vắt ra từ khổ đau tủi nhục. Nó sẽ không bao giờ biết nỗi nhục nhã mà mẹ mình phải nếm trải. Nó vĩnh viễn là của nàng. Nghĩ đến đây nàng lại khóc và trong lòng vơi đôi chút.
-         Rồi tất cả sẽ qua thôi, có lẽ chả ai khổ mãi. – Nàng tự an ủi mình như vậy. Rồi nàng lại nghĩ đến con. Đã tám tháng mình không gặp nó, thật đáng thương! Đứa trẻ mười tuổi mà không biết ai là cha! Trời ơi! Sự thật sao mà cay đắng thế. Biết bao nhiêu những bộ mặt đàn ông lướt qua trong óc nàng, những bộ mặt đầu tiên và biết bao những gương mặt khác lướt qua đời nàng như những bóng ma chập chờn chao đảo. Kẻ nào trong những bộ mặt kia sẽ là cha nó? Nàng rùng mình kinh sợ! Không! Không ai cả! Nàng bỗng hét lên trong cơn mê sảng. Một tiếng nói xa xôi từ đâu đó: - Buồng cấp cứu, giường số 3.
-         À mình nằm ở buồng cấp cứu.
-         Chị gì ơi! Chị có nhìn thấy tôi không?
     Họ chỉ nghe thấy trên môi nàng những tiếng không phều phào bất định. Mắt nàng đang nhìn về một nơi xa xăm nào đó.
-         Chị gì ơi! Chị có nhìn thấy tôi không?
-         Có! – Nàng thều thào trả lời.
Hôn mê tiếp nước ngay, và những bước chân vội vã.
-         Nào em tiếp nước cho chị nhé! – Tiếng cô y tá nhẹ nhàng gọi.
-         Chị đẹp quá. – Một nụ cười thoáng qua trên môi nàng.
-         Chị để tay ra đây cho em, cô y tá nhẹ nhàng nâng tay nàng đặt ra thành giường, họ nhanh nhẹn buộc ga rô, cắm kim truyền nước, cô ý tá lặng lẽ điều chỉnh chiếc cặp ống truyền cho những giọt nước đều đều chảy. Tất cả mọi việc ấy nàng không còn cảm giác gì nữa, nàng thấy buồn ngủ, buồn ngủ quá. Nàng linh cảm, nếu mình ngủ thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ dậy nữa. Trong mê nàng còn nghe thấy họ nói cô ấy đẹp quá, và nàng cảm thấy chua xót. Nàng nghĩ: đẹp vừa thôi, mà đừng đẹp có lẽ đỡ khổ hơn. Nàng phải cố chống lại cơn buồn ngủ. Trong cơn mê mỏi nàng còn nghe thấy ai đó hỏi nhau: Bệnh nhân cấp cứu lúc nào?
-         Thưa bác sĩ, hai giờ đêm qua, không người nhà, chưa làm thủ tục nhập viện vì chưa có địa chỉ, khi vào viện bệnh nhân trong tình trạng hôn mê sốt cao, chuẩn đoán họ nói bằng danh từ y học gì đó nàng không biết đươc.
-         Chị gì ơi! – Tiếng ai giọng ấm áp vang đến tai nàng. – Chị có cần thông báo cho gia đình đến thăm không? Địa chỉ ở đâu? Tôi sẽ nhắn hộ nào!
     Đầu nàng hơi lắc và tiếng “không” phều phào thoát ra trên môi. Mắt nàng vẫn mở song không còn chi giác, trên làn môi héo những lợt son phai nhạt, tất cả chỉ còn toát lên một vẻ đẹp khốn khổ tuyệt vọng đồng điệu với linh hồn. Nàng nằm đó trên ga giường đệm trắng, giữa mái tóc dày tỏa dài trên gối, một khuôn mặt thiên thần lặng lẽ, mắt mở như hướng về đâu đó. Nàng là ai trong cuộc đời này! Phải chăng nàng là món quà ban cho những kẻ bạo tàn ngự trị? Không! Nàng không phải của bọn họ, nàng là của con nàng. Ở một nơi xa xăm nào đó đang vọng lại tiếng khóc trẻ thơ, tiếng khóc của đứa trẻ bơ vơ đòi mẹ.
-         Không! Nó là của nàng! Hai tay cố bấu lấy ga giường đầu nàng rướn lên trong một cơn co giật khủng khiếp, cô y tá đỡ lấy cổ nàng và cái từ không! Không! ấy cứ yếu dần đi rồi tắt hẳn. Tim nàng ngừng đập, hơi thở đã tàn nhưng mắt nàng vẫn mở! Đôi mắt ấy không muốn nhắm lại! Nó đang hướng về một nơi nào đó trong cuộc đời, như muốn hỏi những ai? Tại sao nàng phải chết, tay nàng còn bíu lấy mảnh ga dường như cố bấu víu lấy cuộc đời này.
     Cô y tá lặng lẽ vuốt mắt cho nàng và chính cô cũng khóc.
-         Chị ơi! Mắt chị ta không nhắm.
     Một sự lặng lẽ đến nghẹt thở. Nàng ở đâu? Ai đưa nàng đến? Ai là người thân của nàng? Nàng nằm kia mắt vẫn mở như một lời thách đố chua xót. Cô y tá phủ lên mặt nàng vuông vải trắng. Cánh cửa đã khép lại với một cuộc đời, niềm sung sướng khổ đau và day dứt.Hà thành trong một buổi chiều mưa nhẹ. Trên đường những chiếc lá thu còn ướt nước mưa. Một chiếc xe tang từ từ tiến đi trên đường phố, vài người mặc áo trắng bệnh viện lặng lẽ đi đưa, dăm ba bó hoa làm phúc đặt trên nóc quan tài, bó hương lớn tỏa khói hồng nghi ngút. Xe đi chầm chậm một đoạn theo đúng nghi thức tang lễ. Họ đưa tiễn một bà mẹ không tên tuổi, không địa chỉ về nơi an nghỉ cuối cùng. Đám tang lặng lẽ không một lời kêu khóc. Nó lặng lẽ đi trong một buổi chiều thu buồn bã. Lơ lửng đâu đó tiếng khóc trẻ thơ đòi mẹ! Tiếng khóc ấy như quấn lấy chúng ta – những người đưa tiễn. Trong chiếc hòm gỗ sơn đỏ kia! Nàng vẫn còn mở mắt như hỏi chúng ta: Con tôi đâu? Vì sao tôi phải chết?
Hà Nội 15/7/1991
 
 


 
Quên Một Lời Dạy 
Tặng em Trần Đình Bảo
nhân ngày bốc mộ ông thân sinh
 
     Thần chết đang đến rất gần, ông lão dường như đang nhìn thấy được. Cái chết – thể xác như chìm xuống, bỏ mặc cho linh hồn ông nổi lên, bồng bềnh như trôi dạt. Như con thuyền không hướng lái trên mặt biển cuộc đời tròng trành trôi. Thứ cảm giác ấy chợt làm cho ông lão tỉnh ra hơn. Những phó mặc, tia sáng vừa lóe lên thì mọi nỗi chua xót cứ chen nhau trào tới, nỗi tròng trành số phận ru đẩy ông lão tới chỗ tận cùng nuối tiếc.
     Ông chua xót cho những đứa con đã mất mẹ nay lại mất cha. Hình ảnh từng đứa một cứ bừng lên trong lão cái thứ ánh sáng sự sống. Lão rất hiểu, dưới mái nhà êm ấm này, giờ đây những đứa con yêu dấu đang cận kề bên lão. Chúng đang từng giờ từng phút cố giằng lão khỏi bàn tay thần chết.
-         Cậu ơi cậu! Cậu ơi! Song lão mỏi lắm, chúng sao hứng được nỗi đau đớn của lão, tật bệnh ai nào chia được cho ai. Ý nghĩ ấy làm cho ông lão lại càng thêm chua xót trước cái bất lực đích thực của đời người.
Nỗi êm ái như ru ông chìm xuống để hồn lặng lẽ bay lên, như những bong bóng khí trồi lên mặt nước rồi tan biến, lão cố ý thức mình để khỏi sự trôi trượt lôi đi. Cái dốc thẳng đứng cuối cùng của nỗi hãi hung lần cuối.
-         Cậu ơi! Cậu tỉnh lại đi – Bàn tay con lay nhè nhẹ trên má ông.
Cái thứ ánh sáng cuối cùng của tình yêu cứ chập chờn lóe lên trong ông lão. Cố bíu lấy tay con – Như níu lấy cái phao trên mặt bể. Mấy cái đầu trẻ tụ về quanh lão:
-         Cậu ơi! Cậu có dặn gì chúng con không? – Cái tiếng nói không chấp nhận đau thương vẳng bên tai ông.
-         Dặn gì chúng nó nhỉ cho đích thực? Mà còn gì để dặn khi mình sắp chẳng còn đích thực. Cả đời lão đâu có ai dặn gì! Mình yêu chúng biết bao. Bàn tay lão nắm chặt lấy tay con và cặp mắt ông bừng sáng hơn trong cái thời khắc ảm đạm ấy. Cái hơi thở mỏng manh cuối cùng bay lên, mắt ông già như quện vào những bóng hình yêu dấu. Những cái đầu trẻ gục xuống, rung lên cùng sự nức nở như tiếng chuông đau xót của một kiếp người, cái tiếng chuông ảo não đau khổ đầy mất mát.
     Chúng đang cùng tiến đến đau khổ! Ở đó trên vầng trán cha họ còn hồng lên hơi ấm của tình phụ tử và trong đôi mắt già nua đã khép còn ẩn chứa một lời khuyên mà chính các con ông đã hiểu.
     Quá khứ đã lôi ông trở về với hư không và cái thực tại đang bắt đầu từ quá khứ. Sự sống không nhờ ai sống hộ đươc, những bước chân không bao giờ đi trùng nhau, nhưng chúng ta vẫn bước! Quá khứ đã dậy họ tất cả - Tương lai thì chưa tới và trong mỗi mái đầu trẻ kia – Những đứa con yêu dấu của ông đều mang một phần thịt xương của cha mình như một lời khuyên đầy thương nhớ.
“Khi có một sự sống đã tắt,
sẽ là lời khuyên cho những người ở lại”
Kỷ niệm ngày giỗ bố
Hà nội 01-12-2000
 
 


 
Tiếng Khóc
 
Cái tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh như xé không gian bay lên, như át đi bao nhiêu điều đang huyên náo nơi khu nhà ổ chuột. Cái tiếng khóc nghe sắc lạnh cao vút, như thẩm thấu qua cả lớp bê tông tường nhà,sói vào lòng người và bay lên cao,tỏa rộng trong cái không gian ngột ngạt xóm nghèo.Trên bao lớn những ngôi biệt thự quanh đấy,những bộ mặt ngơ ngác ngó nghiêng.Ở đó dưới mái nhà lá ọp ẹp,trong cái quầng sáng nhờ nhờ hỗn độn! Có lẽ họa sĩ sẽ chết chìm cảm xúc,nhạc sĩ bỏ đàn,nhà văn quẳng bút.Ở đây mọi kiếp người như quện vào nhau mà che chở.Cái thanh âm như hồi chuông kéo tất cả chúng ta quay về cội nguồn vô thức.Tất cả cuốn hút về một điểm “Nỗi đau xót mỏng manh loài người”.Ở giữa nhà một bà lão ôm ghì đứa bé trước ngực, rung rung và cưng nựng,xung quanh là đám người như nêm,ồn ào huyên náo. Mọi đôi mắt đều hướng về đứa trẻ,cái sinh vật nhỏ nhoi đòi sữa mẹ.
Song chỉ là sự hòa quện bất lực.Những ánh mắt hoảng hốt tìm nhau.Những lời nói,nắm tay vô vọng.Ở đó tình yêu,nhiệt huyết của họ bị đè bẹp bởi cái âm thanh thơ dại nghe xé ruột con người.Cái âm thanh ru đi tất cả,chỉ còn lòng yêu thương sống dậy.Bà lão van vỉ mọi người tránh ra cho dễ thở, nhưng tất cả,ai cũng muốn làm một việc gì cho nó.Thằng bé tím tái trên tay bà lão,cái vũ điệu đong đưa cưng nựng chẳng còn tác dụng. Cái vòng người mỗi lúc như bị giãn ra theo điệu ru đau lòng ấy. Họ đứng bao quanh căn nhà và mang đến cho nó đủ mọi thứ có thể,song cái thứ mà nó muốn thì chẳng ai có.Và cái vòng tròn tấm lòng ấy chỉ còn vang lên một sóng lời nguyền rủa! Ở đây,một tòa án ngoài trời tự nhiên sinh ra. Bao lời thóa mạ điệp trùng không rứt,họ dành cho bị cáo vắng mặt-mẹ nó đủ lời:Nào con đĩ, con quạ, đồ thối thây, thôi thì tất cả các ngôn ngữ xấu nhất cứ vang lê trong cái không gian chật hẹp này. Song ở đây tiếng khóc vẫn là tiếng khóc. Cái tiếng nói ban sơ vô vọng.Cái tiếng hú gọi mẹ nó ở đâu mau về…Và như có phép màu nhiệm, cái phiên tòa nhân ái ấy, tự nhiên rẽ ra nhường lối cho cơn lốc tình mẫu tử ào tới. Người mẹ trẻ áo sống lòe loẹt nát nhầu, phất son phai nhạt đôi măt hãi hùng hướng về phía đứa con mình.Tất cả như chìm xuống chỉ còn lại tiếng khóc mẹ con họ. Chị như giằng lấy con mình khỏi tay bà lão và bầu vú lép như ru đi cái tiếng khóc ghê người! Ánh mắt bàng hoàng, chị thu mình như giấu đứa con trong ngực áo,nỗi vô vọng rã rời như phủ lên linh hồn hai mẹ con họ.Dưới chân chị mấy đồng tiền nhầu nát chưa kịp biến thành dòng sữa.Đây có phải là kết cục của một tháng bỏ con đi bán mình kiếm miếng? Và cái miếng được trả là tiếng con gào xé ruột.Chị muốn lẩn trốn tất cả, song cái vòng người kia như vo tròn lấy chị.Họ không đánh không chửi!Nhưng trong ánh mắt họ, bản án đã được hủy bỏ.Chị ôm con co ro,cố thu mình bé lại,bé mãi,bé mãi trong cõi đời này.
Nỗi trống vắng dần trả lại cho căn nhà cái tĩnh lặng thường ngày trong ngõ nhỏ,song trong lòng mỗi người còn mang nặng bao suy tư về đời họ.
Hỡi vị thần nghệ thuật! Khi tiếng khóc đứa trẻ nín lặng,trả lại cho bóng đêm sự lơ đãng vốn có,thì ngôn ngữ nào tả âm thanh những giọt nước mắt người mẹ,trong đêm rơi trên má con mình,trong sự tĩnh lặng của đêm,có lẽ đó là quy luật tuần hoàn vĩnh cửu.Ông trời sinh ra cây lúa nuôi sống con người,hay người mẹ có hai bầu sữa để nuôi sống con mình.Song cũng không tránh khỏi những năm mất mùa thất bát.Thỉnh thoảng trong đêm,tiếng khóc đứa trẻ ngân lên như đòi mẹ.
Hà nội 29-11-2000


 
 
Ước Mơ Không Thành
Trong cuộc sống chúng ta,
Có những mơ ước nhỏ nhoi
Tưởng chừng như dễ dàng thực hiện
Như những món quà gửi đi không bao giờ đến
Song vẫn còn vĩnh viễn trong ta!
          Tiếng cưa xọc cằn nhằn trong nắng hè oi ả.Cái nắng thiêu phồng lớp giấy dầu trên mái, những cơn gió hiếm hoi chỉ làm tăng thêm cảm giác oi nồng ngột ngạt.Trong lán gỗ lạt ngổn ngang bụi bậm.
          Nó lặng lẽ nhìn cha làm việc.Sự nôn nóng làm chân tay nó ngọ nguậy luôn,lúc sờ cái nọ,lúc hốt cái kia.Những giọt mồ hôi lẫn bụi bết trên vầng trán,bên trên thái dương làm bệt những sợi tóc tơ nguệch ngoạc.Cha nó ngồi nghiêng dọc theo cầu bào đè lên thanh gỗ,lưng hơi cong về phía sau,đôi tay cầm cưa kéo lên giằn xuống đều đều.Những nhịp cưa soàn soạt nghe thật vui tai,mùn cưa phía dưới thanh gỗ phun ra trông thật sướng mắt.Một ý nghĩ lóe lên trong mắt – Nó cũng có thể làm được như bố.Ở trẻ thơ trí tưởng tượng bao giờ cũng vượt xa tầm vóc.
          Cha nó chắc mệt lắm!
          Mồ hôi trên trán tràn vào mắt,nhỏ xuống áo,chiếc áo dính bệt vào lưng.Chắc chắn mình làm được đứt đuôi.Nó tự khẳng định lại một lần nữa dễ dàng như hai lần hai là bốn và sán lại gần chỗ cha vòi vĩnh:
-       Bố cho con làm với,con làm được mà!
-       Khổ lắm!-Bố nó dừng tay quệt mồ hôi trên trán,quay về phía nó:
-       Thôi đừng quấy bố nữa,lên nhà rửa mặt đi con.Bố đã bảo khi nào con cao bằng hai cái cưa thì làm được cơ mà.
          Anh ngồi xổm,ôm nó vào lòng dỗ dành.Nó tần ngần,phụng phịu, vừa đi vừa ấm ức vì bố ngăn cản công việc má chắc chắn nó làm được.Nó đứng nhìn mãi mà chả được giúp bố tẹo nào.Nó vẫn chưa lớn,bố bảo năm nay nó lên năm.Không hiểu lên mấy thì làm được? Câu hỏi ấy đã mấy lần khiến nó phải suy nghĩ.Bố nó thì vẫn phải làm,còn nó thì chưa lớn,nó phải lớn thật nhanh mới được,nó tự quyết định như vậy.
          Chậu nước giúp nó quên đi những ấm ức.Cảm giác mát mẻ qua đôi bàn tay tràn ra khắp cơ thể. Nó thích thú khỏa đôi bàn tay tí xíu làm bắn tung những giọt nước lên người! Óc nó bỗng lóe lên một ý nghĩ mới mẻ. Bỏ chậu nước nó chạy vụt lên nhà vội vàng mở ngăn kéo. Ở trẻ thơ,bất kỳ việc gì cũng có thể gợi cho nó một ý tưởng nào đó,một trò chơi hay một cái gì đó và chúng lao vào với tất cả sự say mê cuồng nhiệt.
          Nó đang còng lưng mở ngăn kéo đồ chơi và cái thế giới mộng mơ hằng ngày đã hiện ra dưới bàn tay nó. Chú vịt mỏ vàng mình trắng nằm bên chị gà hoa mơ mào đỏ. Ông hùm lông vằn bên cạnh bác báo hoa. Một đoàn tàu nhựa màu vàng và mấy chiếc máy bay nhỏ xíu. Tất cả những thứ đóhôm nay không làm nó hứng thú.Điều gì đang thu hút sự chú ý trong nó.Nó lôi cái hộp bìa cát tông phía trong cùng ngăn kéo-Hộp đựng tiền mừng tuổi. Những đồng tiền mà bố mẹ và mọi người tặng nó vào ngày tết và ngày sinh nhật. Nó dành dụm để bố mua nhữngđồ chơi mà nó thường ao ước. Nó trịnh trọng nhấc lấy một đồng kềnh kệch,đậy hộp cẩn thận đặt vào chỗ cũ,rồi chạy vù ra cửa. Ý nghĩ gì đang thôi thúc nó ba chân bốn cẳng chạy về phía ngã tư đầu phố? Má đỏ hây vì nắng,tim trong ngực đập thình thịch vì chạy quá sức,song điều đó không quan trọng bằng dự định của nó đang thực hiện.Nó hớn hở khi thấy bà bán hàng quen thuộc. Nó sẻ mua tặng bố một que kem. Một que kem mát lạnh,ngọt lừ. Dứt khoát bố sẽ thích thú trong khi làm việc mệt nhọc. Nó vừa thở hổn hển vừa nói:
-         Bà bán cho cháu một chiếc.
-         Làm gì mà chạy nghê thế hở cháu? Bà cụ mở phích rút cho nó một chiếc. Làn khói lạnh tỏa ra từ que kem “thần diệu” dưới nắng hè oi ả. Nó đang cầm một chiếc “đũa thần” trên tay.
          Cảm giác lành lạnh ở cán que kém làm nó thích thú. Bố mình vui thích biết bao khi được ăn chiếc kem này. Song những giọt nước nhỏ dần trên tay báo hiệu một sự đe dọa. Nó chợt hiểu và thế là lại ba chân bốn cẳng.
          Cuộc chạy đua với những giọt nước kem tan đang nhỏ dần trên đất. Que kem đã biến dạng trở nên méo mó, gầy còm,làm nó phát hoảng. Niềm hi vọng và nỗi lo âu thôi thúc đôi chân cuống cuồng chạy. Sự mất mát và mệt mỏi làm nó ức phát khóc lên được. Nó chạy ùa vào lán mồm la lớn như bị ma đuổi:
-              Bố ơi! Kem.
          Lúc bố nó hiểu ra thì mảnh kem cuối cùng buột khỏi que rơi bệt trên nền lán. Trên bộ mặt bé nhỏ tủi hờn kia,những giọt mồ hôi mệt mỏi hòa cùng những giọt nước mắt thất vọng. Nó không khóc nổi thành tiếng như khi bị đòn.
          Bố ôm ghì nó vào ngực dỗ dành:
-  Nín đi con.Bố cứ trông thấy kem của con cũng đủ mát rồi,không cần ăn nữa- Mắt anh cũng rưng rưng mấy giọt nước mắt vui sướng.
          Nỗi luyến tiếc làm nó còn tấm tức: Chắc tại mình chưa lớn! Không hiểu bao giờ mình mới lớn.
                                                                                                          21/3/1984
                                                                             Tặng con trai Vũ Tùng Anh
                                    Mẩu chuyện ngắn bố viết như món quà đầu tiên trong đời.
                                    Ông nội là người chỉ bảo và sửa tác phẩm. Mỗi khi đọc con
                                    Hãy nhớ đến ông với tất cả tấm lòng kính yêu.


Căn Nhà Đổ
 
                                      “Gia đình vĩnh viễn là sự lặp lại!
                                                Cũng như bi kịch trong nó
          Có mấy năm mà các phố thay đổi ghê quá! Nhà cửa mới tinh cứ mọc lên san sát, đua nhau như muốn mọc lên tận trời, làm cho những con đường xưa như bé lại.Bà lão vừa đi vừa ngơ ngác như cố tìm nét thân quen xưa. Mới hồi nào tiếng tàu điện chạy leng keng buổi sáng như gọi bà dậy đi bán hàng,những đứa trẻ mua xôi sáng của bà vừa ăn vừa chạy tới trường, người lớn hớt hải mua xôi,đạp xe vào công sở. Chỉ thoáng lúc buổi sáng gánh hàng đã hết,bà lão lại quẩy gánh ra về. Đến đầu ngõ,thằng Hải con bà đứng chờ mẹ và để cất đồ đi chợ,trong mắt nó còn ánh lên câu hỏi đòi quà và vui sướng chạy đi cất quang gánh cho mẹ.Cái thời ấy nghèo thế nhưng sao bà thấy hạnh phúc đến vậy! Vất vả khuya sớm đến đâu bà cũng thấy vui. Giờ đây chắc chẳng còn ai đi ăn xôi gánh! Cứ nghĩ đến chuyện ấy bà lại thấy buồn.
          Thỉnh thoảng những dòng xe máy dưới đường sẹt qua,lại làm bà lão giật mình ngơ ngác! Thanh niên bây giờ thế đấy! Họ lao xe như chẳng muốn nhìn ai! Mà không biết tại sao mà phải đi vội đến thế? Bà lão lủi thủi đi nép vào trong hè,chiếc túi sách quàng vai cẩn thận cắp trong nách. Những suy tư lại kéo bà về trong quá khứ! Thời gian như đẩy bà lão ra khỏi thực tại! Nỗi mệt mỏi đang thấm dần trong mỗi bước đi. Bà nghĩ đến gia đình khi xưa và hôm nay! Giờ đây con bà hơn xưa nhiều lắm, bà những vui sướng xiết bao, cái ăn cái mặc chẳng còn phải lo gì nữa. Con trai bà có vợ rồi có con, bà vui mừng bên đứa cháu, suốt ngày hai bà cháu bên nhau. Song có lẽ trời chẳng cho ai toàn vẹn – Bà luôn an ủi mình như vậy, có lẽ đồng tiền đã làm bà mệt mỏi! Ở đâu trong gia đình bà cũng thấy tiền! Tiền trong bữa ăn! Tiền trong giấc ngủ! Cái lợi cứ len vào tất cả mọi ngóc nghách trong đời. Mọi giá trị dường như bị hạ xuống nhường chỗ nó vươn lên! Nào giường, nào tủ, máy móc, ban thờ cứ là sáng choang mới lạ! Không biết người chết có nhận ra đường về mà hưởng đồ cúng nữa hay không? Những người thân như vắng dần đi! Thay vào đó là bao khách làm ăn huyên náo, tiệc tùng to nhỏ, và rồi họ ra đi…Để rồi lại lặp lại triền miên quanh năm suốt tháng. Hai bà cháu cứ đi lùi dần, lùi dần đến điểm cuối cùng là gian buồng thờ trên gác xép, ở đó có ban thờ tổ tiên và chồng bà. Cái quá khứ như võng xuống che trở cho 2 bà cháu, họ lạc lõng cô đơn trong căn nhà mình ở.
-         Đấy anh xem mẹ anh! Bẩn đến thế là cùng!
-         Đấy anh xem! Mẹ anh sao mà quê thế…
Tiếng nàng dâu đay nghiến chồng cứ vẳng bên tai. Bà ôm ghì đứa cháu như điểm tựa cuối cùng trong đời, thời gian trôi qua sao mà lạnh lẽo buồn tẻ đến vậy.
 Rồi niềm vui bà cháu cũng bị họ lấy đi! Họ sợ nó lẩn thẩn giống bà. Nó thường chạy đến bên bà khi bố mẹ đi vắng. Bà lão cứ luẩn quẩn 1 mình bên ban thờ thăm nom người chết. Dĩ vãng như khói hương tỏa ngát trong căn buông chật hẹp.
Bà lão đi trên hè như kẻ mộng du! Thành phố về chiều người đi lại huyên náo lướt qua như ảo ảnh. Chợt đến ngã tư, giật mình như người tỉnh mộng, cắp chặt túi sách, bà lão len lén qua đường. Bao suy nghĩ cứ trải dài theo vỉa hè các phố! Nào chồng, nào con, nào cháu các hình ảnh người thân cứ chợt đến, chợt đi theo bước chân bà. Thành phố đã lên đèn, gió mùa se sắc lạnh thổi dài theo những con phố cũ. Lá rụng trên đường xào xạc theo những bước chân người qua lại. Bà lão dừng chân bên quầy bánh mỳ trước cổng bệnh viện.
-         Cô ơi! Cho tôi mua 1 cái.
       Chị bán bánh niềm nở đưa cho bà cái bánh:
-         Bà vào thăm người nhà đi viện?
-         Không thưa cô!- Bà lão cầm chiếc bánh tần ngần trước cổng bệnh viện.
       Mình ngồi nghỉ ở đây có lẽ tiện!- Bà lão nghĩ như vậy và lặng lẽ đến bên gốc cây gần cổng viện, giở túi sách lấy áo ni lông quàng vào cổ, rồi lặng lẽ ngồi xuống bên bóng cây.
       Sau 1 ngày đi mỏi, cái lạnh trừng như lạnh hơn trong bà. Hai tay thu trước ngực cố giữ cho gió khỏi lùa vào trong áo. Người qua lại nhìn bà ngỡ ngàng thấy lạ! Chiếc áo mưa quấn quanh người xòe ra hình cái nón, nom giống như túp lều du mục, túp lều được chống lên nương tự bằng chính bộ xương người. Nó vừa như nhà ở vừa như áo quần cho 1 đời người trong gió lạnh và có 1 bà già trong đó, đang sống những ngày tháng cuối cùng của tuổi tác.
 “Phải chăng! Cuộc sống như một con tính trừ buồn thảm”
*
*       *
       Trong một căn nhà lớn trên con phố nhỏ, có tiếng người phụ nữ oang oang đay nghiến chồng:
-         Anh xem! Mẹ anh có xây được nhà tử tế cho anh ở không! Còn tôi xây gác thờ cho mẹ anh ở đấy!
-         Cô im mồm đi! Không có cô mẹ con tôi vẫn có nhà để ở.
-         Gớm nhà với cả cửa! – Chị ta rè bỉu rít lên.
-         Cô thật quá đáng! Bà đi từ sáng mà không đi tìm! Bây giờ biết tìm bà ở đâu? – Anh tần ngần suy nghĩ.
-         Nhà thì đang quét vôi bừa bãi, bà biết đi thì khác biết về!
-         Hùng ơi! – Tiếng chị ta gọi con.
-         Nó vừa đòi tôi đi tìm bà!
-         Chết rồi thằng bé lại chạy lang thang đi tìm! Khổ tôi không! Cái bà già lẩn thẩn! Chị ta rền rĩ chạy theo xuống gác.
       Người con trai nhảy lên xe nổ máy. Trong lòng anh thầm gọi:
Mẹ ơi! Mẹ ở đâu! Chiếc xe lao vào quầng sáng đông đúc, thành phố bỏ lại phía sau tiếng vợ anh! Chờ tôi với! Hùng ơi… Tiếng chị ta gọi con.
                                                                     Sinh nhật tôi 23/12/2000


Canh Bạc  

                                                                          “Khi đồng tiền là tất cả,
                                                                Con người sẽ trở thành nhỏ bé
Căn phòng trở nên lặng lẽ. Ngọn đèn dầu leo lét đặt giữa chiếu,hắt lên tường. Những bóng người trầm mặc bất động, chỉ còn tiếng trang bài xoàn soạt. Bảy tám đôi mắt hướng theo tay nhà cái tạo thành một vòng tròn bí ẩn.
-      Chín nước đây!
Hắn dè dặt đặt những lá bài lên chiếu, mắt nhìn chiếc đồng hồ đặt cửa.
-      Mười ông cụ!
Tiếng nói khô khốc,kèm theo với tiếng kêu đét của những quân bài quật xuống chiếu. Gã trước mặt vơ những đồng tiền trên chiếu về phía mình cả chiếc đồng hồ cuối cùng của hắn cũng nhẹ nhàng lướt về phía gã. Năm sáu đôi mắt thèm thuồng cay cú,ánh mắt hằn học như muốn nặn bóc toàn bộ cơ thể gã được bạc. Ở đây sự mất còn,niềm vui sướng khổ đau,hy vọng và tắt ngấm,tất cả cái mớ hỗn độn ấy đang nháo nhào hòa quện vào nhau,cô đọng lại trên “bãi chiến trường” – chiếc chiếu mỗi bề hai mét. Ở đây tất cảđược nén xuống,dồn ép lại để rồi lại bùng lên trong đôi mắt sung sướng hay hằn học thất vọng. Ở đây tất cả phải tuân theo kỷ cương của cỗ bài! Đó là luật pháp của những người khi đặt chân vào chiếu. Họ tự quan sát lẫn nhau chặt chẽ và tự nguyện,kề vai sát cánh bên nhau mật thiết song giữa họ là một vực thẳm ngăn cách,là những tinh cầu riêng biệt,những linh hồn cô độc.
Cứ thử chơi bẩn xem! Nó sẽ bị bóp chết tức khắc trước sự đoàn kết của những kẻ còn lại.
Ôi! Thứ luật pháp thật là hoàn hảo trong cái xã hội vuông vắn bốn mét vuông! Ở đó tất cả đều riêng biệt,tất cả đều cô lập,giữa họ chỉ cómột mục đích chung là băm chặt lẫn nhau. Họ lạnh lùng,bình tĩnh chờ đợi sự ban phát của may rủi.
Một thoáng suy nghĩ lướt qua trong óc! Ở đây hắn chẳng có gì để mất! Hắnđã để lại trên chiếu bạc đến đồng tiền cuối cùng, cảáo rét đang mặc và chiếc đồng hồ vàng đeo tay. Đối với hắn thua thế cũng là quá! Tặc lưỡi đứng dậy khỏi chiếu, hắn không quên ném về phía mấy ông bạn cái nhìn sắc lạnh. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: “Có kẻ vào cầu thì có kẻ ra cầu!” Trên môi hắn đọng lại nụ cười mai mỉa! Hắn đã chơi đúng luật, “Không cần ai thương hại và cũng chẳng thương hại ai”.
Rời khỏi chiếu với những bước đi mệt mỏi, đối với hắn đâu phải lần đầu! Trong óc hắn một canh bạc mới đang đến! Phải chăng sự ham mê tuổi trẻ đã phú cho hắn cái sức mạnh ghê người đến thế. Trong hắn! Cuộc đời là sự lặp lại bất tận – Hắn như viên bi nằm trong một vòng tròn bi quay tít. Sự đói rách, mách bảo hắn phải giành giật! Chính sự đói rách, đã chỉ cho hắn thấy quyền lực vạn năng của đồng tiền đối với người đời. Hắn đốt cháy giai đoạn, đi đến nắm bắt quyền lực tối cao ấy, đó là:
“ Sấp, ngửa, đỏ, đen”. Với hắn cuộc đời là một canh bạc, sự sống là thắng bại, được ăn cả ngã về không. Ở đâu hắn cũng chỉ thấy sự thắng bại. Trong gia đình, hắn là người kiếm ra tiền. Trong tiệm, ăn hắn là kẻ giàu có. Trước bạn bè hắn là ngôi sao sáng may mắn, nói chung hắn là kẻ không biết lùi bước trong đời.
Đẩy mạnh tấm cửa gỗ, luồng gió lạnh như trăm ngàn mũi kim xuyên suốt cơ thể, hắn rùng mình nghĩ đến chặng đường hai mươi cây số!
-      Này ông bạn! Có khép hộ cái cửa, chết rét cả lũ bây giờ!
Lời nói của kẻ chiến thắng như đẩy hắn ra ngoài mưa gió, không chần chừ, hắn bước vào đêm tối.
Đi được một quãng, hắn ngoái lại, căn nhà chứa bạc chỉ còn là một khối đen sì giữa cánh đồng mờ ảo đầy gió lạnh. Trong chiếu bạc hắn đã trở thành bé nhỏ, giờ đây giữa cánh đồng tối sẫm hun hút gió, hắn càng thêm nhỏ bé.
Đồng vắn hoang vu chỉ còn những bước đi tung hoành của gió. Những tiếng vun vút trong không trung, như những cây roi quất vào bóng đêm giá lạnh, cả không gian trở nên sóng sánh tê buốt, vạn vật như lắng xuống, đắm chìm trong lòng đất, nhường chỗ cho gió mùa tung hoành cắn xé.
Hắn chuyệnh choạng co ro, miệng luôn cằn nhằn số phận. Gió từ mọi phía bủa vây lấy hắn, gió luồn qua tóc qua cổ, qua lần áo mỏng như muôn ngàn mũi kim châm chích vào cơ thể. Gió lạnh làm chùng những sợi gân trong cơ bắp, thân thể hắn rã rời, đầu nóng như lửa, những bước chân trở nên ngắn dài, bồng bềnh không định hướng. Đoạn đường đồng bốn cây số với hắn giờ đây sao dài thế! Tưởng chừng như vô tận. Hắn thấy, cứ tốc độ này thì sức chịu đựng chẳng được mấy chốc! Đường cái chắc còn xa vì hắn chưa thấy đèn pha ôtô qua lại.
Hắn dừng lại cố gắng trấn tĩnh rồi bắt đầu co cẳng chạy!
-         Phải chạy thôi! Óc hắn có vẻ minh mẫn ra đôi chút, nhưng chân hắn thì cứng đơ,nặng trịch và tê dại. Hai bàn chân như đang lội trong bùn nhão nhoẹt. Chạy được một quãng hắn không sao chịu nổi, mặt đất như níu chân hắn lại.
-         Mẹ kiếp! – Câu chửi thề méo mó văng qua cửa miệng. Hắn lại lầm lũi bước thấp, bước cao. Hắn đã thấu hiểu thân phận giữa đêm đông giá lạnh. Đối với hắn sòng bạc, con đường đều đen tối và khủng khiếp như nhau. Hắn thèm khát ngọn lửa, dù ngọn lửa hắn cho là thấp hèn nhất ngọn lửa con hắn đốt rác trong vườn mùi khói khét lẹi bẩn thỉu, mỗi khi nghĩ đến hắn thường lợm giọng:
-         Mẹ kiếp! Số phận hắn giờ đây cũng hẳng khác gì ngọn lửa ấy.
Buổi sáng lúc ra đi, trong bộ quần áo liền mũ ấm áp, cả cơ thể chỉ hở cái mặt, lúc ấy mùa đông thích thú làm sao? Cưỡi xe máy hắn lao vào gió lạnh như một lời thách đố. Giờ đây trong gió lạnh, hắn trở thành méo mó rách nát. Hắn như lão ăn mày khi xưa trên hè phố bị hắn khước từ lời khẩn cầu, lúc ấy vợ hắn hỏi:
-         Sao anh không cho ông lão? Mình chỉ bớt điếu ba số thì người ta đỡ tủi bao nhiêu!
Cả ngày hôm ấy gia đình hắn kém vui, lúc đó cơn lốc đỏ đen như phủ kính linh hồn, những ảo ảnh đang chờ đợi hắn!...
Những vệt sáng trên đường cái, dứt khỏi óc hắn dòng suy nghĩ mông lung, mong ước của hắn giờ đây là con đường và những vệt sáng.
Xa xa tiếng động cơ dội lại, trong ngực hắn trái tim cồn cào thổn thức, hắn muốn chạy muốn thở, hắn muốn gào đến vỡ cổ “Chờ tôi với!”
Con đường đang nằm dưới chân hắn – Một con đường trải nhựa hút vào đêm tối, vài bóng cây ven đường vật vã trong gió thổi, hắn ngồi nép dưới thân cây lớn tránh gió, hắn ngồi xổm co ro hai tay ôm lấy gối, cổ lún sâu trong ngực, hắn cảm thấy đỡ lạnh hơn và dễ lao ra đường khi có xe đi tới. Không hoạt động, hắn càng lạnh hơn, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, tất cả mọi thứ trên cơ thể chừng như chẳng còn cảm giác, người hắn tê dại đau đớn, hắn không còn đủ sức lê thêm bước nào nữa. Những khốn cùng đã giáng xuống đời hắn. Nỗi cô đơn, lạc lõng, sự day dứt muộn màng, tất cả đang dồn ép trái tim hắn. Hắn muốn cào, muốn xé, muốn nguyền rủa tất cả mọi thứ đã đi qua đời hắn. Hắn khao khát một hơi ấm, một đốm lửa, một cuộc sống bình thường như vợ con hắn, những con người bình thản trước những thắng bại của hắn. Những con người hắn tưởng họ không còn ước muốn trong cuộc sống đỏ đen này. Giờ đây hắn đã hiểu! Sự lạc lõng, nỗi cô đơn trong cái thế giới riêng biệt mà hắn đang sống. Hắn ao ước con đường kia ngắn lại, hình ảnh căn nhà hiện lên lung linh trong hắn như nỗi thất vọng muộn màng.
-         Đây rồi! Hắn bật dậy! Rồi ngã lăn quay ra đất, chân hắn không còn cảm giác gì nữa, tất cả mọi chỗ trong cơ thể đều phản lại hắn. Tay bò, chân lết, hắn cố lê ra vệ đường. Từ xa, hai vệt pha đèn lung linh trong đêm tối, tiếng động cơ đều đều mỗi ngày gần, tim hắn muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, hắn nhổm dậy hai tay nhoài về phía trước!
-         Cứu tôi với! – Hắn gào lên với tất cả sức lực còn lại trong cơ thể, khi luồng ánh sáng bỏ lại hắn trong bóng tối. Tiếng động cơ xa dần chỉ còn tiếng gào nam dại của hắn trong đêm trường giá lạnh! Hắn gục xuống và ngất đi trong tê dại!...
Hà Nội 1980


Tự Bạch  

Tôi là gã đàn ông trần trụi! Tôi rất sợ quá khứ! Cái dòng nước sền sệt đã qua, dòng nước người ta gọi là lịch sử hay niên đại của một đời người! Cái dòng nước hãi hùng quên lãng. Tôi yêu ngày mai mơ mộng, vì ở đó đang ấp ủ bao điều! Xong muốn đến đó, đời người phải có nền móng, mà nền móng thì phải va chạm tới thứ kia! Cái lịch sử, niên đại, cái dòng nước này thật quái lạ ở đời. Tuổi thơ sợ ngáo ộp, lớn lên ta sợ chính mình! Mà có lẽ biết sợ là còn tốt! Mà tôi sợ thật sự nên sinh ra nói dối! Như phụ nữ thêm cho mình đôi nịt vú, còn tôi trăn trở nên khoác cho mình thứ gì đó cho hay hay! Một cái khố hay đôi vớ chẳng hạn! Cho cái hình hài này đỡ tủi.
Tương lai thật diệu vợi! Nó cứ bắt tôi trở thành thằng dối trá. Mà càng dối trá tôi lại càng trần trụi. Không hiểu có nên cảm ơn cha mẹ và tạo hóa đã ban phát cho ta cái trần trụi này không, cũng có thể trần trụi là bắt đầu, trần trụi là sinh sôi, trần trụi là trinh bạch và trong trắng, tôi đang thấy một khoái cảm với từ “trần trụi”. Có lẽ trần trụi đời người đỡ đau, chẳng cần mang vác.
Có lẽ đời không phải là sự lặp lại, mà đời bắt đầu từ sự hồi sinh.
2001


Tôi
 
Tôi nham hiểm và có lẽ thật sự nham hiểm!
Vì tôi đang giấu cái thật giả trong tay áo như nhà ảo thuật. Khi xưa thầy giáo dạy về cái tôi! Và mãi cho tới già tôi mới hiểu không có cái tôi thì làm gì có cái chúng tôi. Cái từ chúng ta rộng quá, như cõi đời này chẳng còn cát bụi, bởi lẽ đó, nên nhiều khi tôi tìm chẳng thấy mình! Mà mẹ kiếp! Đến già tôi mới hiểu điều đó! Nên tôi càng thương mình! Mà có lẽ vì thương quá nên sinh ra nham hiểm. Tôi thường dạy các con phải nghĩ đến cái chúng ta (gia đình) và có lẽ đó là điều nham hiểm, khi cái tôi của chúng chưa định hình! Chúng đang khổ sở bám vào cái phao chúng ta – đó là cha mẹ - còn chưa đủ, thì hỏi chúng còn nghĩ được điều chi nữa. Liệu có nên đổcho cái chúng ta của thầy giáo nữa hay không?
Có lẽ tôi đang nham hiểm bao biện cho mình! Trong đời đến một lúc nào đó, ta thấy mình xấu quá! Xấu đến mức ta nhìn ta chẳng nổi, có lẽ lúc đó hơn lúc nào hết ta sẽ nhìn thấy cái tôi nhiều hơn, và ý thức về việc tự sửa cái tôi nhiều hơn, và ý thức về việc tự sửa cái tôi hoàn thiện và cái tôi cát bụi ấy sẽ góp thành cõi đời.
Nói ra được có lẽ lòng tôi đỡ nham hiểm.
2001
 


Đồ Rởm
 
Nhân đến chơi nhà người bạn. Vợ chồng họ vừa tậu được chiếc xe máy “đờ rim” của tàu. Chiếc xe thật lộng lẫy, chợt ngẫm! Son phấn ở đời, nhiều khi cũng đắc đạo, mà có lẽ đời phải thế! Đồ thật đắt khủng khiếp họ chẳng dám mơ, những gần ba mươi triệu, đắt gấp năm lần xe tầu. Song cũng là nỗi khổ cho ông chủ và khách tiêu dùng đồ thật. Chiếc xe mọi phụ tùng đều bị cắt giảm chất lượng xuống nhiều lần, họ chỉ bảo đảm sao cho hình hài giống y thật, cứ đà này các cụ trên nóc tủ sẽ nhân được từ con cháu gửi quà hàng mã chất lượng cao. Mà ngẫm cho cùng người tàu họ giỏi thật sự, thực giả y sì cứ đều tăm tắp như mẹt cháo quẩy, ta mà học mót thì cũng còn mệt! Rởm mà như thật thì mới vui chứ! Nó cứ như hai nửa âm dương quện lại, mà niềm vui thật vui cho cái nghèo của bạn. Mà đời cũng nên thế, có đồ thật đồ rởm mà trang trải buồn vui cho mọi chỗ, kẻ nghèo cũng phải mút mát chút đỉnh mới phải lẽ, ta nên cảm ơn đồ rởm dành cho cõi đời. Mà có lẽ các ông chủ thật rởm cũng hiểu ra điều đó nên chỉ cãi vã qua loa cho phải phép còn phó mặc cho đời nhấm nháp, họ nghèo mà vui thì mới tuyệt chứ, khi thật rởm cứ giống nhau như đúc, như hai chị em sinh đôi, cứ như tôi nhìn thì cũng xin chịu!
Mà người nghèo thì suy ngẫm hay ngắn. Cái giấc mơ triệu phú trong vài năm có nghoẻn thì cũng là đã rồi! Còn trước mắt thì cứ là hoan hỉ cái đã. Cầu trời cái gì cũng rởm như vậy thì đỡ tủi biết bao, đồ rởm cần nhiều hơn đồ thật, có lẽ đồ thật nên nằm trên biển quảng cáo.
2001


Hạt Cơm  

Hắn bị cuốn hút vào cái lỗ tròn khoét trên cánh cửa. Cái quầng sáng nhợt nhạt lùa qua lỗ hổng duy nhất trong phòng, thứ ánh sáng mà ta không thể đoán định được thời khắc nào trong ngày. Nhưng quầng sáng ấy là mặt trời của hắn, cái thứ ánh sáng không còn chi màu sắc, chỉ có hắn mới hiểu như sự hiện hữu của chính mình. Bóng hắn cựa quậy trên nền đá lạnh, đôi cùm lỏng lẻo tận cuối chân thỉnh thoảng lại vang kên trong không gian chật hẹp cái âm thanh khô mòn của thép. Hắn nằm đó đối diện với chính hắn – ít ra cũng là vậy, vì trong những ngày đầu, hắn đã từng kiên định suy ngẫm nhiều lắm, song mọi chuyện cũng chóng qua đi, nhường chỗ cho nỗi tù túng đến cùng cực. Những ê ẩm thể xác dày vò hắn khi nằm bất độn, tiếng giật giật của mạch máu bị siết lại nơi go cùm, luôn khẳng định với hắn sự hiện hữu của nó, và những đau đớn ấy cũng chậm chạp trôi qua khi cơ thể hắn sút cân. Song sự giày vò ấy cũng chẳng khó chịu bằng sự ngột ngạt thiếu dưỡng khí đang đè nặng lên cơ thể hắn. Mùi xú uế phalẫn ẩm mốc trong phòng như chẹn lấy cổ,một thứ không khí sền sệt hữu hình như nước qua lại trong phổi,cái nỗi khổ ấy luôn làm hắn thấm mệt. Trong bóng tối sâu thẳm,mắt mũi hắn như dán vào cái quầng sáng trên cửa,nơi yết hầu của căn buồng và mặt trời của đôi mắt. Thỉnh thoảng hắn cố gắng cựa quậy cho khí huyết lưu thông song lại thấy mệt hơn. Sự hao phí năng lượng trong lúc này thật là nguy hiểm vì lúc nào con ma đói cũng có thể thức dậy, giày vò hắn – hắn lặng lẽ dán mình trên nền đá đối diện với cái đói,trong sự yên lặng tới tột cùng, có lẽ đó là bản năng khôn ngoan nhất của cơ thể mách bảo hắn vào lúc đói kém này. Hắn như loài vật ngủ đông đắm mình trong cô quạnh. Dạ dày,gan,ruột như bé lại trước mọi sự đòi hỏi, cái thể xác ọp ẹp còm cõi cân bằng với những nhu cầu không thể! Hắn lặng lẽ đắm mình trên nền đá,tai hau háu chờ đợi cái âm thanh hiếm hoi trong ngày sẽ vọng qua cái lỗ tròn trên cửa. Thật kỳ lạ! Sự nhẫn nại đến tột cùng của chờ đợi,trong cái tĩnh lặng ghê người, ta có cảm tưởng nơi đây không tồn tại sự sống! Hoặc chốn thinh không của kẻ sắp từ giã cõi đời,hắn vẫn sống,vẫn tỉnh táo đợi chờ trong cái bóng tối đè nặng lên hắn,cuốn hút hắn vào cái quầng sáng nhờ nhờ trên cửa.
  Và cái gì tới cũng sẽ phải tới! Tiếng chìa khóa lách cách ngoài hành lang, một “mùi” không khí thấm qua lỗ cửa, ánh sáng có vẻ sáng hơn,tiếng chân người tiến về phía căn buồng giam chỗ hắn và một ánh mắt nhìn qua lỗ cửa. Hắn thèm nói câu gì đó nhưng lại thôi! Vì có nói cũng chẳng có câu trả lời. Qua lỗ cửa một đĩa cơm chìa về phía hắn. Nỗi phẫn uất tột cùng trào lên trong hắn – Hắn muốn cắn xé cánh tay kia để được nghe vài lời nguyền rủa. Song hắn hiểu nếu làm vậy bàn tay kia sẽ buông rơi đĩa cơm và đó là điều tệ hại nhất. Hắn loạng choạng nhoài người về phía cửa, cẩn thận đỡ đĩa cơm trên bàn tay lạnh lùng đó. Sau vài tiếng động mọi thứ lại trở về tĩnh lặng, nơi đây trong bóng tối sâu thẳm, hắn không phải đối diện với chính mình! Trước mặt là đĩa cơm nhỏ - Một thứ đồng hồ sinh học… Bữa trưa, niềm vui nho nhỏ sẽ theo hắn đến gần chiều. Chậm rãi, không vội vàng vì đĩa cơm đã được khẳng định. Hắn chép miệng cho nước miếng tứa ra chút ít,hắn như nghe thấy “cỗ máy” nội tạng bắt đầu ọc ạch làm việc,bàn tay run run vì không còn chính xác,nhặt từng hạt cơm đưa lên miệng. Ý chí giằn sự đói khát trong hắn lại! Hãy từ tốn nhai từng hạt cơm một cho cẩn thận. Cái chất bột nhỏ nhoi có lẽ không bôi đủ mỗi đầu răng trong miệng hắn, song đó là vấn đề cốt tử! Nó như trò chơi ú tìm giữa ý trí, linh hồn và thể xác. Hắn tự an ủi mình “ăn nhanh có lẽ là không tốt”. Hắn chợt thấy mình thật giống đức Phật, ngồi thiền dưới gốc bồ đề ăn từng hạt cơm. Ngài đã nhìn thấu thế giới muôn loài nhờ sự dày vò đói khát, trên đầu ngài tỏa ánh hào quang muôn sắc. Song cái đó lại thôi thúc tay hắn làm việc nhanh hơn. Có lẽ hắn chẳng thành Phật được! Không biết cái chất tinh bột đã đi đến đâu trong cơ thể hắn?
  Hắn thấy cái đói cồn cào quặn lên trong dạ dày!
-         Đồ khốn kiếp! Hắn tự nguyền rủa mình và lại đắm trong hình ảnh đức Phật. Hắn ngồi ăn trong mê sảng! Nỗi khổ cực của hắn thật giống Ngài, sao đầu óc hắn cứ mê muội vậy. Hình ảnh dĩ vãng chợt lóe lên trong hắn! Những năm tháng ấu thơ trong đòn vọt, mọi người muốn hắn phải giống họ và hắn chống lại theo bản năng tự nhiên. Đòn roi cứ bủa lấy hắn và hắn cứ lạc lõng mãi trong đời, hắn luôn lẩn tránh sự nhào nặn của họ. Và cái khuôn đúc hắn đang nằm đây! Không biết sẽ nhào nặn hắn ra sao? Có lẽ hắn chẳng bao giờ thành Phật! Mà không biết họ có định đúc hắn thành Phật không?
  Tay hắn lại sờ đĩa và tự nhủ! Không biết mình ăn bao nhiêu hạt rồi? Trên đĩa chỉ còn vài hạt cơm thưa thớt. Chẳng lẽ hôm nay lại thiếu như hôm qua? Hắn uất hận về sự đong đếm oan trái này, song hắn lại tự an ủi: “Sự chênh lệch của vài trăm hạt cơm thì lấy cân nào mà đo được”. Và hắn hại thương cho cái thân hắn chưa thành Phật! Mà không hiểu Phật có bị đầy đọa như hắn không? Sau cái sự kiện mồm nhai, óc nghĩ mờ nhạt ấy! Hắn đã vật lộn xong với cái được gọi là bữa ăn của mình. Bàn tay mệt mỏi gạt chiếc đĩa về một bên, mắt hắn lại đắm nhìn vào cái quầng sáng trên cửa đầy tơ tưởng,hắn chập chờn trong giấc ngủ mộng mỵ.
*
*        *
  Một hôm hắn được tha khỏi cái chốn cùng cực này hắn bò lê trên nền đá lạnh! Kia rồi! Ánh sáng mặt trời lóe lên sau cánh cửa sắt, hắn lê lết, bò tới,đôi cẳng xương xẩu cố đỡ lấy cái hình hài còm cõm,cố vươn lên dưới ánh mặt trời. Trong cái đầu xương xẩu nhẵn thín kia, có lẽ những ý tưởng điên rồ lại bắt đầu nảy mầm trong nắng. Hắn rướn mình hít một hơi dài cái của quý mà trời ban phát cho muôn loài tận hưởng. Hắn thấy đói và rùng mình khi nghĩ tới hạt cơm! Cái chấm nhỏ nhưng sắc nhọn như chính sự đọa đầy trong đời, nó cứ lơ lửng và hiện hữu mãi trong mọi kiếp người,như nỗi day dứt khôn cùng! Hình ảnh hạt cơm và đức Phật cứ day dứt hoài trong hắn.
  Tại sao ngài thành phật?
                                                                                                  23-12-2000


Con Nuôi
    
Xóm đặng làng Hồ hôm nay có chuyện! Mọi người đi qua trước cửa nhà cô Lý đều nghiêng ngó nhìn, tò mò ái ngại và mừng cho chị, họ thì thầm chia sẻ cho nhau về cái tin chị ta cho con bé út làm con nuôi.
-         Thôi thế cũng được! Mẹ con họ đỡ khổ! Nhà năm, sáu miệng ăn mà thằng chồng thì nghiện ngập! Mà khổ! Đẻ gì nhiều thế? – Mà ai xin đấy hả cô.
-         Lão Hoạch thôn trên bà ạ.
-         Lão ta đi làm trên Hà Nội có mấy năm mà có vẻ khá ra phết! Nghe đâu cũng có vợ nhưng chẳng đẻ được bà ạ.
-         Rõ chán! Đã què thì còn nuôi nấng gì ai được.
-         Chắc lão muốn nuôi để lấy chỗ nương tựa khi về già – cụ cứ nghĩ nó ở nhà còn khổ hơn đi làm con nuôi – mà lão mang lên Hà Nội, ở đấy họ văn minh chứ đâu như ở ta.
  Trong sân lão Hoạch đang khua hai tay trong không gian mà phân bua với hai mẹ con đứa trẻ.
-          Mới đủ ăn đủ tiêu thì con vợ tôi nó nghĩ ngay đến chuyện con với cái,mà tôi thì chẳng sao làm cho nó đẻ được,mà phụ nữ không có trẻ con thì khác nào như ma ngoài bãi. – Cái mắt còn lại trên bộ mặt nhăn nhúm như chìm xuống trong nuối tiếc.
-         Thôi chị sinh nhiều cháu, nhường cho tôi một đứa lấy chỗ nương tựa tuổi già. – Thân hình hắn vặn vẹo trong lần áo ba đờ xuy phủ kín, như cố che giấu đi cái khuyết tật chân thọt bẩm sinh mà hắn phải đeo mang suốt đời. Chợt tiếng đứa trẻ khóc ré lên như nhắc hắn còn một đoạn trong màn kịch chưa thực hiện, vội thò tay vào túi xách bên sườn hắn rút ra một bầu sữa, chắc không còn nóng, nhanh nhẹn chìa về phía mẹ con đứa trẻ.
-         Đấy cô thấy… con vợ tôi nó háo hức trẻ con làm sao, từ sáng đã chuẩn bị cho tôi đủ thứ nào tã lót, đường, sữa đủ cả! Hắn nhe hàm răng vàng khè cười hề hề sảng khoái.Cái tiếng khóc trẻ thơ cằn nhằn như bị ru đi theo bầu sữa. Sự yên tĩnh được trả lại cho cuộc trao đổi, song ở đây có lẽ trao nhiều hơn đổi,vì lẽ lão ta chẳng có gì để đổi.
-         Cô cứ yên tâm vợ chồng tôi sẽ yêu nó như con! Người cùng làng ta cả chứ đi đâu mà mất, thỉnh thoảng tôi bế nó về thăm nhà có đi mất đâu mà lo. Tiếng mấy người hàng xóm như củng cố thêm niềm tin cho người mẹ đứa trẻ:
-         Đấy cô xem! Con bé bú sữa song ngủ thin thít! Cha này thật có duyên hợp con bé. Cuộc trao đổi ấy qua đi trong một buổi chiều thu ảm đạm. Lão Hoạch thọt tập tễnh địu đứa trẻ ra đi xa dần cái làng Hồ buồn thảm để lại đằng sau nó những giọt nước mắt chứa chan về thân phận nghèo của một người làm mẹ.
  Ở tận cùng của một vườn hoa thành phố vào một buổi sáng,trong một thùng công te nơ bỏ hoang. Giọng lão Hoạch như gầm lên trong cảnh hoang sơ bàng bạc.
-         Thế nào! Mụ đã xong chưa! Chỉ có ăn với nằm mà cũng phải chờ đợi! Đã cho nó bú bầu chưa?
-         Cáu cái đếch gì… Bú rồi… Biến đi cho rảnh. – Mụ khệ nệ cắp đứa trẻ qua bãi cỏ rộng đến ven đường. Lão Hoạch bò lê trên cỏ kéo theo mảnh ván được đóng gờ qua loa bốn cạnh, ở mỗi góc có ổ bi, chiếc xe nhỏ ngoằn nghèo lê theo hắn đến ven đường, mụ ta đặt đứa trẻ kềnh càng trên mảnh ván, mớ tã lót bù xù bẩn thỉu. Đứa bé ngủ thin thít như cục thịt trên phản. Lão quay lại hỏi:
-      Sữa đâu?
-      Trong túi xách ông quàng đấy thôi.
-      Thuốc ngủ pha chưa?
-        Khỏi phải nói! – Mắt mụ đanh ác nguýt gã thật dài và chiếc xe lăn bánh ngoằn ngèo theo những nhịp bò lê của hắn trên con đường công viên, dáng hắn bò trông thật thiểu não khốn cùng, nửa người lết trên mặt đường nhựa, cái chân què lắt lẻo lê theo như món nợ bần hàn. Tay hắn tì xuống đường nhoài lên, đầu hơi ngửa, mồm lải nhải cầu xin.
-        Ông bá ơi! Ông bà ơi!... Cái điệp âm ấy đều thiểu não như một bài kinh dài bất tận, sợi dây quang nơi cổ tay cũng dần dật theo nhịp lê của gã và mỗi lần như vậy đứa trẻ lại giật thót mình rên lên nhè nhẹ. Có lẽ nó chẳng còn khóc được nữa vì thuốc ngủ đã ngấm sâu vào từng đường gân thớ thịt nhỏ nhoi của một kiếp sinh linh khốn khổ. Đứa trẻ mê đi trong cõi đời quên lãng. Chiếc mũ phớt rách để cạnh nó dần đầy lên vì những của bố thí của mọi người. Cái xe cứ lúc lắc ngoằn ngoèo như giễu cợt, như van vỉ cầu xin những người qua lại. Có những lúc họ xúm lại xem đứa trẻ và thằng què như xem những con thú kì lạ trong vườn thú, một loại thú gây đau lòng tất cả. Họ chua xót cho một kiếp người đã được sinh ra.
-        Khổ đứa bé chưa! – Họ ngỡ ngàng thốt lên với tất cả tấm lòng thương xót.
-        Đã què mà lại còn đẻ đái.
-        Có lẽ mẹ nó đã chết! – mà đúng vậy, mẹ nó như đã chết khi trao nó vào tay người khác, rồi nó sẽ chết sau những tháng ngày vật lộn vất vả.
Cái cỗ xe độc mã chở một kiếp người nhỏ bé ấy cứ lưu lạc mãi trên những nẻo đường cuộc đời rồi sẽ về đâu? Thật kì lạ! Trên cõi đời chúng ta, cái nghề ăn mày đã có từ mấy nghìn năm trước, như một lời thách đố những tấm lòng từ thiện và có lẽ sẽ còn mãi mãi cái nghề nghiệp đau lòng này, song lão què làng Hồ đã nâng cấp cái nghề đau lòng này lên đỉnh cao của nỗi đau lòng nhơ bẩn. Nó như thách thức với tất cả mọi tấm lòng trắc ẩn trong đời. Nó là đỉnh cao của mọi đỉnh cao tội ác. Hắn vẫn tồn tại trên đời và kéo theo một kiếp người bé nhỏ. Trên miệng hắn vẫn còn cái lời kinh đều đều bất tận.
-      Ông bà ơi! Ông bà ơi!...
Như một sự đùa cợt cõi đời.
Thật kì lạ trong xã hội loài người lại có một cái nghề kinh khủng đến thế.
 
 


Chân Dung Tự Bạch
 
Hắn như vật thể lạ hiện hữu trên cõi đời… Thân hình tiều tụy và méo mó. Hắn làm ta liên tưởng tới một loài vật nào đó ốm yếu đang cố bấu víu vào cõi sống. Thật kỳ lạ - Ở đời xưa nay vẫn thế, mọi người chẳng muốn rời xa sự sống, dù rằng nó cứ leo lét như phao dầu cạn, hay ánh lửa nếp sắp tàn. Có thể hiện sinh đời hắn là vậy! Cứ lặng lẽ trầm tư đi trên hè phố.
Cái dáng dấp gầy nhẳng rã rời,khuôn mặt mờ tối dưới mái tóc bù xù không chải, dường như ở dưới mái tóc kia,trong cái nhá nhem gương mặt, hiện lên cái tia sáng nhỏ nhoi còn đang thức…đó là đôi mắt hắn – có lẽ phải thế thì hắn mới còn đi được đó đây mà lạc lõng trong cả bể người huyên náo ở đời. Cơ thể vàng ệch, bủng beo như quả cam ủng,móp mép đang thối rữa và có lẽ đời hắn như trái cam kia đã có thời hy vọng...nhưng để rồi bị vứt bỏ. Người ta không ăn quả cam đời hắn,thời gian gạt hắn vào sọt rác như trái cam ủng. Nhưng đời hắn khác quả cam…mà dứt khoát là thế vì hắn là thân phận thằng người có khả năng bấu víu vào cõi sống mà tồn tại. Hắn chẳng khác chi mấy kẻ ăn mày,tay cầm bát, lặng lẽ đứng trước cổng chùa mà chờ đợi lòng hỉ xả của khách thập phương ghé thăm vãn cảnh Phật, chẳng phải làm lụng gì mà nhiều khi được “khối” – vì trò bố thí ở ta bây giờ đang là mốt…Nó như một chiến công nho nhỏ để làm thành câu chuyện cuối ngày, vừa vui vẻ và có lẽ còn làm nhẹ cả cái phần thể xác tham lam của họ. Đã nhiều lần hắn dự định đi ăn mày! Song hắn hiểu – sẽ chẳng ai cho hắn một xu – dù rằng nỗi khốn khó, khổ đau như nhau – nhưng hắn thì không được, sẽ chẳng ai bố thí cho hắn. Không lẽ vì cơ thể hắn bốc mùi như quả cam thối chẳng hạn, có thể là như thế, sự suy ngẫm thối nát, sự hiểu biết thối nát và cả tình yêu thương trong hắn cũng thối nát. Mọi thứ tồn tại trong hắn – cả linh hồn và thể xác đang bốc mùi thối nát trong cõi sống hữu hình. Hắn hiểu được đời hắn đã thấm mệt, đã chấm dứt, chẳng còn tranh đua gì với đời, thời gian băm vằm lên thể xác hắn bao dấu tích già nua. Hắn lạc lõng trong nhà và ngoài đường – nhưng dù sao ngoài đường hắn còn dễ lẩn trốn hơn ở nhà, có thể vì cõi đời rộng lớn nên ít ai nhìn ngắm ai cho tường tận. Ở đấy họ tưởng hắn là kẻ bệnh hoạn hay ăn mày hoặc thằng điên dại nên xa lánh cũng được, và cũng có thể hắn như một tì vết trở ngại trong đời và cũng có thể vẻ đẹp đứng cạnh một cục phân như hắn lại tương phản mà tôn thêm cho vẻ đẹp cũng nên.
“Cũng chẳng sao!” hắn luôn tự an ủi mình như vậy, ta cứ đi đâu đó cho một ngày chóng qua và cứ thế cái thể xác dã rời cứ lay lắt lênh đênh trôi đi như một ảo ảnh trong đời. Chân hắn bước, đầu hắn nghĩ – bởi đời hắn là thằng người bị cõi đời xa thải. Hắn như quả cam bán cả ngày chẳng được, họ bỏ vào kho, ngày hôm sau lại bán mà kém tươi thì đời vứt bỏ. Ở ta có rất nhiều kho như vậy – nếu bề ngoài kém tươi thì họ vứt vào đấy để quên lãng hay để cho chuột tha đi cũng chẳng ai cần quan tâm…
Người ta muốn xây dựng một mô hình con người mới hoàn hảo,trong sạch và khỏe khoắn hơn,với dáng vóc phải như ông Phù Đổng chẳng hạn-đại để phải là một sự đột biến về con người,chung đúc đủ mọi điều mới lạ để có thể giải quyết mọi nỗi bất bình trong xã hội mà ông cha chúng ta không làm nổi. Theo họ nghĩ, đó mới là một mẫu người vẻ vang khủng khiếp-mà muốn xây dựng được típ người như vậy-công việc đầu tiên họ tính đến là phải đoạn tuyệt với những người như hắn hay cũng là đoạn tuyệt với quá khứ - vì quá khứ luôn luôn chứa trong mình một sự bất cân bằng về nhiều mặt. Nó giống như ta đang yêu một cô gái và chợt lại thích cô khác thì chỉ còn cách đoạn tuyệt cắt bỏ cô gái cũ đến mà ủ ấp cô gái sau.
Phải làm như vậy mới là “cải cách”hắn cứ suy nghĩ sự việc nôm na như vậy “thế là họ vứt bỏ-đoạn tuyệt với quá khứ - chỉ để lại vài ông như ông Phù Đổng chẳng hạn-đột biến trong lòng dân tộc, tất cả tinh hoa của mọi thời họ tạm thời vứt bỏ”. Hậu quả là những lớp người cũ có suy nghĩ cứ vào kho mà ngồi cho đỡ nhức đầu xã hội. Đến ngành y họ cũng chẳng cần vì thuốc tây kê đơn quá tốn kém – nên ngành tây y cũng vậy, được san phẳng như nhau – cả xã hội dùng thuốc lá lẩu cổ truyền dân tộc và khốn nạn thay đời hắn một đứa trẻ mười sáu tuổi cũng chịu chung số phận. Hắn cũng lủi thủi như mọi người ngồi xó mà hun đúc một điều gì đó cho cái ngày mai bất tận. Họ phải lao động rèn luyện như người nông dân và được ăn cơm kẻng – họ bị xã hội nguyền rủa vì không biết lao động chân tay. Một năm chưa tốt thì hai năm và cứ thế nhân lên có thể đến hai mươi nhăm năm, cho đến khi nào kỳ tốt như ý họ muốn. Hắn phải giống như một người nông dân thuần túy “con trâu đi trước cái cày theo sau”, đó là mô hình truyền thống mà người nông dân vẫn làm và họ muốn cải tạo mọi người phải được như thế và lạy trời hắn đã thành con trâu – con trâu tự kéo chẳng cần người theo quất roi thúc. Cỗ xe bò như lôi hắn vào cuộc – cỗ xe bò hai bánh, hắn lôi nó trên những nẻo đường Hà Nội nơi gia đình hắn đang ở - hai anh em, một kẻ ở tù về cầm càng và người lính thương binh gò lưng đẩy – nào gạch nào ngói, vật nặng, vật nhẹ, anh em hắn đều làm miễn là ra cơm ra gạo đổ vào nồi. Đối với hắn lao động là sự sống – đời hắn chỉ có thế - đừng suy nghĩ gì nữa – hãy làm việc đi – hãy giống mọi người phải lao động, hắn cố gắng uốn nắn cho mình làm sao giống như mọi người… Có nhiều khi hắn hài lòng vì bản thân giống hệt như ông hàng xóm và hắn luôn thú vị vì mình đã cố gắng làm được như thế. Hắn lấy vợ và có con như mọi người, cái gia đình nhỏ nhoi của hắn ấm cúng làm sao. Hắn thương vợ, thương con và vợ con cũng thương yêu hắn, một cái tổ ấm nghèo khổ đùm bọc lấy nhau mà tồn tại trong cõi sống. Mọi thứ cứ đè nặng lên gia đình hắn – nào ăn, nào mặc, nơi ăn, chốn ở, tất cả dường như được lèn vào một góc nhỏ tù túng, mùa hè thì nóng, mùa đông lạnh giá, giường nằm chẳng có, cả nhà còng queo trên hai phiến giát giường ọp ẹp.
          Hắn lặng lẽ đi trên hè phố, buổi chiều mùa hạ như đốt lửa trên đường, cái nóng ngột ngạt cho hắn thứ cảm giác nghèn nghẹn trong phổi, nỗi mệt mỏi như tràn qua cơ thể hắn, luồng hơi nóng như bốc lên từ đôi chân, bùng cháy trong gan ruột và trào lên đỉnh đầu hắn. Mọi thứ trên đường như mờ đi ảo giác, những vệt pha đèn quét qua, quét lại trong đầu hắn như bao làn roi vút – hắn lại thấy thứ cảm giác bị hành hạ tù đầy – mà nào có ai định bỏ tù hắn nữa đâu – mà bỏ tù hắn làm gì cơ chứ? Khi tất cả mọi thứ trong đời hắn đã bị họ chặt đi tất cả - từ ý nghĩ đến tay chân, mắt nhìn và bao mùi vị ở đời hắn đều mất cả! Hắn đã già, chẳng còn là sự nguy hiểm cho xã hội, người ta đã nói thẳng vào mặt hắn – hỡi thằng tù già – xã hội cho mày được tồn tại là một cơ may, phải thấm nhuần như một người vô sản – và đúng thế - hắn đang là người vô sản như họ muốn.
          Những ngọn đèn đường vụt sáng như bén lửa trong chiều, mặc bóng tối khơi lên từ những vòm cây đứng lặng, nó nhẹ êm như ngọn khói lam chiều rồi dần dần sẫm lại trong những hốc cửa sổ bên đường, như những cửa hang há mồm đón đợi. Đường bờ sông trải dài theo con đê quai mới được làm bằng bê tông cốt sắt, chạy vòng vèo như đang ôm lấy thành phố. Tạo cho ta thứ cảm giác tù túng như đang sống trong một pháo đài cổ thời xưa. Bờ đường bên kia, những căn nhà mới cũ nhấp nhổm chen lấn nhau, tạo nên một sự bập bênh bệnh hoạn đến khó tả.
          Ở ta có cái lệ xây nhà theo phong trào – nhà anh A xây thì anh B cũng lồng lộn vay mượn mà xây cho hả dạ và thời gian sau nếu có mốt mới thì lại đập đi làm lại, họ cóc cần theo công thức nào và họ cảm thấy thú vị về việc xây lên rồi lại đập – mà việc gì cũng thế - ví dụ cả con đường vừa rải nhựa mới toanh được vài hôm họ lại sẻ ngang sẻ dọc để đặt ống nước hay cáp điện. Theo tôi nghĩ dứt khoát đó là kiểu Việt Nam – ta cứ đào lên lấp xuống cho có sự mới lạ - cứ loanh quanh như vậy mà nên chuyện – như đứa trẻ nhỏ ngồi nặn đất sét chẳng hạn, cứ nặn đi nặn lại cho đến khi thành voi thành chuột ở đời, sẽ chẳng ai mà đi bắt tội đứa nhỏ cho thêm mệt.
          Hắn chợt nhớ tới một câu triết lý phương đông “Cõi sống là sự lặp lại và sự ngu dốt cũng vậy” nó cũng lặp lại cho từng tháng năm… Ở thời ta cái gì cũng tuyệt đối, nào là trung thành tuyệt đối, nào là tin tưởng tuyệt đối, hay đổi mới tuyệt đối, hoặc vâng lời tuyệt đối song tất cả đều chỉ là huyễn hoặc trong hai từ tuyệt đối – cái tuyệt đối đã chìm nghỉm trong thuyết tương đối và sau đó còn thuyết bỏ mẹ nào nữa không thì chưa rõ – song hắn tin tưởng sẽ có một học thuyết quái quỷ nào nữa sẽ sinh ra để cho hai thuyết trên nương tựa mà lừa đảo cõi đời – hắn luôn tin tưởng là như thế - sẽ phải có một cái gì đó mà dụ dỗ những kẻ khờ dại trong đời. Chân lý thuộc về vật chất hữu hình, đó là sức mạnh vật chất, nó như ánh mặt trời trơ tráo mà đun nấu kiếp người trong nỗi đói khát khổ đau. Loài người cứ đi tìm một thứ gì đó cho mình và mãi mà không thấy. Cõi sống như câu chuyện Tàu bàn về hai từ “mâu thuẫn” bát sà mâu đâm đâu cũng thủng và cái thuẫn không cái gì đâm thủng.
          Con đường dưới chân hắn như hút vào đêm – bờ đê như con rắn trườn về đâu chẳng rõ, càng xa trung tâm thành phố, ánh đèn thưa dần như trải lại cho đêm tối. Hắn lặng lẽ hòa mình trong nó với nỗi dã rời sảng khoái. Những đợt gió giải nồng hiếm hoi từ dưới sông phả lên, khỏa đi những nung nấu trong hắn, một bóng đêm đen bóng là đêm – thứ cảm giác như từ giã cõi sống trong hắn bỗng trồi lên êm dịu làm sao! Chẳng lệ thuộc vào ai nữa, chỉ có hắn và bóng đêm, chẳng sợ ai dòm dõi, chỉ có hắn trong cái vùng đen sẫm tự do không còn ràng buộc. Những đợt gió sông Hồng căng dần lên thổi tới như xua đi mọi nỗi muộn phiền trên đời, hắn như thấy mùi bãi ngô và tiếng thì thào tỏa ngát cứ lộng lên bao nỗi niềm không tỏ. Trong cô đơn, con người như nghe được tiếng nói của vạn vật cựa mình, tiếng con nước trên sông cuồn cuộn trong đêm và mọi thứ muộn phiền trong hắn được thoát đi theo con nước, chỉ còn lại một khoảng trống mênh mông cõi lòng. Có lẽ đó là sự trống rỗng đầu tiên mà đời hắn thấy được, dù chỉ là khoảnh khắc, cuộc đời hắn như hòa tan trong gió, như thấm vào đất trong nỗi dã rời, hắn như nhìn thấy và nghe thấy sự mênh mông trời đất, đời hắn như vo lại bé nhỏ trong đêm vũ trụ bao la… Vạn vật như cây ngô trên bãi, ngọn cỏ ven sông, con đò trên bến đều có một điểm tựa cho mình trong cõi đất trời, tất cả dường như bỏ lại hắn chênh vênh sống trong bóng tối điệp trùng vô tận. Đời hắn bồng bềnh không chỗ đứng, không bóng dáng, chẳng hình hài bé nhỏ như hạt cát lẩn vào đêm. Hắn cố cưỡng lại cảm giác hụt hẫng ấy, đó là bản năng tồn tại con người – hắn lặng lẽ ngoảng đầu quay lại – xa xa, cái vùng ánh sáng nhờ nhờ như mê sảng trong đêm – là kẻ đứng trong bóng tối nhìn vào chỗ sáng – phải về thôi – hắn tự nhủ lòng như vậy. Loài người thật giống như con thiêu thân lao mình vào lửa – có lẽ hắn cũng vậy – cõi đời như bó đuốc dụ hắn về đây – hắn lặng lẽ trở lại con đường cũ như kẻ thiếu nợ nộp mình. Dưới chân hắn những mảng màu nham nhở, loang lổ sáng tối chập chờn buồn thảm, hắn lặng lẽ quay về, bỏ lại phía sau một vùng đêm cựa mình trăn trở.
          Phải về thôi – hắn cằn nhằn trong miệng – nỗi buồn như món nợ đè nặng trong hắn – có lẽ ai ai cũng thế - nó làm ta trăn trở không sao sống nổi – ta cứ phải sống mà giày vò vì nó – sự đeo đẳng trong ý nghĩ, dưới mỗi bước chân lạc lõng ở đời – phải về thôi – nhà hắn – cái món nợ mà ai ai chẳng thế - mọi thứ như hiện lên – vợ hắn, người phụ nữ đã can đảm lấy hắn là một thằng tù. Ngẫm cũng lạ - đêm tân hôn của đôi vợ chồng hắn kì quái làm sao – quần áo cưới đi mượn, giường ngủ cũng mượn của khách, chăn mượn, màn mượn, ruy đô mượn – mà lạy trời nếu trừ đi những thứ mượn ấy vợ chồng hắn sẽ nằm trơ trên nền đất. Rồi mọi khốn cùng cũng qua đi, đời người có thời giờ đâu mà ngồi ôn lại bao kỉ niệm tủi cực như vậy, sự khốn khó như dìm họ trong thực tại, không quá khứ, chẳng tương lai, mọi suy nghĩ vật lộn chỉ cập nhật từng ngày, mọi người chỉ còn đủ sức nghĩ đến mình là vừa gọn, gia đình hắn phải tựa lưng vào nhau mà sống cho qua ngày. Hắn có con – từ tấm bé thằng bé quặt quẽo làm sao, vợ hắn đi làm nhà nước, còn hắn lặng lẽ làm ngoài, vì sẽ chẳng cơ sở nhà nước nào lại thèm thuê mướn hắn. Cả gia đình, ai ai cũng thèm khát một cái gì đó – nhỏ bé thôi – một bữa ăn có thịt – một giấc ngủ không lo và một ngày được nghỉ.
          Có lẽ, giấc mơ là bài ca sám hối cho mọi kiếp người – có lẽ là vậy trong cái thời cơ khổ ấy. Người ta có thể giành dật nhau với đứa trẻ miếng bã cam đã được vắt hết nước – trời ơi! Con hắn – chính con hắn thèm thuồng miếng bã cam ấy – nỗi đau đớn như hằn vết trong trái tim hắn – miếng bã cam – một sản phẩm thiên nhiên mà cõi đời đã vắt cạn mà vẫn làm đau đớn những kiếp người – hắn vẫn như nhìn thấy thời khắc khổ đau ấy nó buồn bã làm sao… như con đường dưới chân hắn đang đi về đâu?
          Bóng tối dường như vẫn thế - chỉ là một màn đêm trải khắp và chứa đựng, dãy đèn ven đường như khoét vào đêm một vết sâu thẳm. Cái bóng hắn đổ dài lênh đênh trên phố, như chiếc lá hay một loài bò sát đang cựa mình trăn trở. Hắn dừng lại nhìn cái bóng - ảo ảnh đời hắn dán trên hè - một bức chân dung vô hồn vô sắc – phải chăng đó là năm mươi năm hun đúc ở đời – một cái bóng sẽ hiện lên lặng câm trên hè phố.
          Đâu đó nhà ai vọng lại tiếng nhạc Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, lời ca giống như đời hắn được mở ngoặc và đóng ngoặc trong lời hát ru trầm bổng trên hè.
          Hắn đã già – thời gian như trả hắn về cho loài bò sát, cõi đời dường như không còn là của hắn nữa, cuộc chen lấn, sô đẩy đã gạt hắn ra khỏi vòng chơi, hắn như cái bong bóng lặng câm nhìn người trong cuộc. Hắn đã hiểu và nhìn thấy nhiều thứ trong bao năm tháng trôi qua.
          Phố đầu cầu, nhịp sống vào đêm dường như vẫn còn nóng, xe thồ, xe đạp, người gánh, kẻ gồng chen lấn xô đẩy, cãi cọ om sòm. Trong cái khung cảnh nửa sáng nửa tối ở khu chợ đêm như cuốn hút mọi người nhao vào sự sống.
          Những lời nói phỉnh phờ, co kéo, bao bộ mặt sống động điêu ngoa, toan tính, ỡm ờ - có lẽ ở đây đang cô đọng hiện lên một khuôn mặt khắc khổ già nua, một bức tranh hiện sinh toàn xã hội. Bác nông dân mang nông sản về chợ, cánh con buôn tới cất hàng cho buổi sáng bầy bán – hầu như tất cả các chợ nội thành đều tụ tập ở đây trong đêm để lần mò mua bán cho ngày hôm sau buổi chợ. Mọi thứ tệ nạn trong thành phố chung đúc tại đây mà kiếm chác, từ cờ bạc bịp, trộm cắp, trấn lột, cướp giật, mại dâm, cứ nhung nhúc bâu lấy những con người kẻ chợ, chỉ sểnh một tí thôi có thể mất hàng hay mất tiền như bỡn. Hắn lặng lẽ hòa vào trong dòng người không ngủ. Thời bao cấp, nhà nước thu lại từng xã và cung cấp lại một vài thứ ít ỏi cho mọi người, ai tự do buôn bán sản phẩm của mình là phạm pháp và bị cắt đi nhiều quyền lợi cung cấp. Nhưng về sau cả hai thứ cung và cấp đều chẳng có nên nhà nước thây mặc, mọi người phải tự cung tự cấp cho mình và xã hội sau bốn mươi năm thay đổi lại quay về như ngày xưa - trong xã hội có người tài và kẻ bất tài, có lẽ đó là khởi nguồn của bao cảm hứng sướng vui và đau khổ, song dứt khoát là hơn thời bao cấp, mọi người được làm chủ bản thân trong mọi công việc đời mình. Có lẽ đó là động cơ cho cái chợ đêm đầu cầu còn thức và nó sẽ thức thâu đêm cho đến sáng – những bộ mặt tưng bừng mặc cả, cãi lộn, lườm nguýt, đề phòng, do dự như làm cho lòng hắn ấm lại trong đêm – gia đình hắn cũng thế, cãi vã nhau từng ngày từng giờ để mà tồn tại.
          Hắn lặng lẽ đi ra khỏi chợ đêm như kẻ dật dờ say tỉnh, sự huyên náo chợ búa trôi đi trả lại cho hắn một con đường vắng lặng ven đê âm thầm heo hút, cả dãy phố chìm sâu trong giấc ngủ, có lẽ nhà hắn cũng vậy – sự thanh bình tự nhiên sẽ tháo bỏ cho loài người bao nỗi buồn cơ cực, họ được thoát ra khỏi mình chìm vào quên lãng, có thể một vài nơi, niềm an lạc tự nhiên bị bỏ quên như hắn và khu chợ - nhưng chẳng sao, nhân loại là loài vật hữu hình có sức bền cơ học dẻo dai nhất, vượt qua sức bật của muôn loài mà tồn tại – càng cơ cực thì ta càng muốn sống, họ vượt qua mọi lô-gíc ở đời mà tồn tại.
          Xã hội lại tạo ra địa chỉ, cường hào, tư sản, lại đẳng cấp giàu nghèo như xưa thì đã sao? Có thể đó là sự lôi cuốn cho loài người thức dậy – song đời hắn không nằm trong khu chợ kia, người ta đã cướp đi của hắn mọi thứ, hắn khéo tay bà cần cù lao động, họ đã đóng lên đời hắn cái số tù không thể nào xóa được. Ông cha hắn khi xưa là quan lại, địa chủ và tư sản là thành phần bị xã hội loại bỏ, nhưng hôm nay ông cha hắn đã được xã hội chấp nhận vì giai cấp vô sản ngày nay đã trở thành địa chủ và tư sản và còn vượt trội hơn nhiều lần. Còn lại những thằng tù thì chưa được – có thể vì nó còn sống nên xã hội thật khó lí giải – chẳng lẽ xã hội lại bỏ tù nhầm thì bỏ mẹ - nên thây mặc, nó sống mà như chết cũng chẳng sao – mà thực cũng chẳng được như thế. Ra khỏi tù hắn tưởng là hết tội. Hắn lăn lóc lao khổ làm người – thà rằng cơ thể hắn mọc sừng, mọc đuôi như con bò còn đỡ khổ, vì con bò còn được nghỉ - cuộc đời hắn ngơi tay thì phải nghĩ – phải nghĩ cho cái ngày mai phải làm – có lẽ đó là sự khôn khéo nhất mà xã hội đã làm được – hắn phải nghĩ và nghĩ để rồi phải làm, cái vòng tròn ấy như thít lấy đời hắn như cái thòng lọng treo cổ.
          Hắn thật nghèo nhưng đôi bàn tay thì khéo léo nên nhiều công việc nhận làm quả là chẳng khó, nhưng nhiều khi công việc lại là điều tệ hại đối với hắn, người ta tạm ứng cho hắn một phần nhỏ để làm, vài ngày sau cái lý lịch của hắn bị phát giác và thế là hỏng bét – không đủ tiền để làm nên hắn cứ phải vá chỗ nọ vào chỗ kia lấy kinh phí mà làm việc, trẻ con cần ăn và cả vợ chồng hắn cũng thế nên phần lớn công việc thường bị nhỡ hẹn – cái lý lịch đời hắn – cái con dấu đỏ choét “Việt Nam dân chủ cộng hòa” đóng vào bản lí lịch đời hắn như là dấu chấm hết cho mọi chuyện đời người – ai muốn làm hại hắn quả là dễ, chỉ cần một câu nói về quá khứ là hắn đủ khổ.
          Đứng trước xã hội hắn phải vác trên vai cái lý lịch đời ông, đời cha và đời hắn. Ba sức nặng quan lại, tư sản, tù tội dường như đè bẹp gí hắn xuống cõi đời – hắn cố gượng đứng lên – đứng lên mà tự đầy ải đời mình – hắn cố gượng đứng lên – đứng lên mà tự đầy ải đời mình trong cõi sống. Anh em trong gia đình ái ngại thương hắn – người cho cặp lồng thịt, kẻ cho cân đường, manh quần tấm áo – những giọt nước mắt nòi giống nhỏ xuống cho tâm hồn hắn hạn hán sa mạc, nó làm cho trái tim hắn đau hơn nỗi đau của kẻ làm người không vực nổi cho chính mình.
          Nền kinh tế tự lập không đồng đều, có kẻ giàu người nghèo, ông chủ và người làm thuê, tạo ra bao nỗi bập bềnh cho xã hội – người nghèo suy nghĩ như bao năm qua mà họ được chế độ dạy bảo, trong khi đó người giàu thì như thoát ra khỏi một thời quá độ. Họ vừa như tấm gương vừa như một cái mốc cho mọi người thù địch. Vì đã từ lâu, ở ta cái nghèo luôn là người bạn đường cho xã hội, bao nhiêu nỗi khát thèm mới lạ như chảy đến đây cái vùng đất chúng quê hương hắn. Mọi thứ mới lạ cứ như công thức sống và con người vội làm quen học tập. Họ sung sướng đón nhận mọi điều như những món quà mới lạ - đó là những vật phẩm phù du suốt bao năm dân ta quên lãng – ngày hôm nay mọi người đua nhau thèm muốn – nó như chất kích thích cho cả xã hội ganh đua. Phụ nữ đua nhau áo quần,son phấn,đàn ông thích xe cộ,máy móc âm thanh nghe nhìn. Mọi vật dụng, cứ như những cái đích cho con người nhao tới trong cuộc chạy đua cho toàn xã hội.
Gia đình hắn cũng không thoát khỏi cái vòng xoáy đời thường ấy,bao khao khát mà hai đứa con hắn thèm muốn bên sự cơ khổ mà đời hắn không sao thoát ra nổi. Sau khi ra tù người ta lại nhốt hắn vào một nhà tù mới khốc liệt hơn đó chính là quê hương và gia đình,hắn tự giam mình trong đó,vợ con là cánh cửa là những hàng song sắt,hắn như con chó bị xích ngồi canh cái hạnh phúc gia đình,họ đã chặt đi tất cả mọi thứ chi giác,thả đời hắn trong chiếc lồng gia đình bỏ mặc hắn lồng lộn vật vã trong sự khốn cùng uất hận! Đứa con lớn căng thẳng nói với hắn - Bố nuôi con cả đời trong khốn khổ - còn đứa em sau một lần đi chơi đêm về muộn –bố quở mắng –nó đã thẳng thắn nói lại – Sau giờ làm con phải được chơi – Có lẽ hắn đã già cùng cái thời mà hắn đã sống –cái nguyên lý sau ngày làm,con người phải nghỉ ngơi để phục sức cho ngày mai đã trở thành lỗi thời.
Niềm ao ước khi các con lớn, gia đình hắn sẽ đoàn kết làm ăn cùng thoát khổ đã tiêu tan mất cả... “con đường mà hắn đã dẫn dắt gia đình trở thành cổ hủ già nua…’’.
Khi xưa con người bị khuất phục bởi cái đói – hôm nay con người bị khuất phục trước mọi ham muốn đời thường – mọi thứ vẫn chỉ là như thế, nỗi quẩn quanh với bao điều không thể. Người ta không chuẩn bị cho con người chịu đựng đói khát và con người phải sống trong đói khát. Người ta chẳng chuẩn bị cho con người làm quen với nền văn minh và con người phải sống trong nền văn minh hiện đại. Đó là lối dẫn dắt mà người dân Nam ta xưa nay vẫn phải làm – những kiếp sống không có sức chứa nhưng phải đựng – đó là sự quá tải đè lên cõi sống – Họ nhòm ngó và đọa đầy lẫn nhau bởi bao điều không tưởng – Quá khứ và tương lai chỉ còn là những mặc cảm hão huyền…
Hắn cứ lặng lẽ bồng bềnh trôi trên đường phố, dưới những chùm ánh đèn đêm, hắn như cái hồn ma ẩn hiện, chênh vênh không siêu thoát. Đợt gió đêm hè xới lên tiếng lào xào lá rụng. Hắn như kẻ bị cõi đời bỏ rơi trên con đường hoang vu tịch lặng, hắn như giọt dầu loang lênh đênh trên mặt nước cõi đời, vĩnh viễn không hòa vào nhau được. Người ta đã lấy đi mọi thứ thuộc về hắn, bao tình cảm thiết tha và đầm ấm mà đời người ấp ủ. Trên con đường tự dẫn giải, hắn cam phận nộp mình cho bao điều đổ vỡ đang chờ trong căn nhà mà hắn suốt đời tha thiết, những khuôn mặt người thân cứ hiện lên rồi lại nhòa đi trong xa mờ ảo ảnh… Nỗi đau đớn cứ nhói lên trong tim, như tiếng mõ cổ trâu gọi đàn, như tiếng kẻng cơm trong trại, như tiếng chuông chùa thức dậy… Hắn mệt mỏi ngồi xuống ven hồ, một ban mai đang dậy, những tia nắng còn ướt loé lên phía bờ xa Tây Hồ như một bàn tay lửa nâng dần lên cho thế gian một ngày mới – một ngày của đời hắn…
Bên bờ vực cõi đời sao vắng thế?
Chỉ có ta và dưới ấy vực sâu
Ngửng mặt lên, trời bát ngát trên đầu.
Ta ché mé giữa hai bờ thế giới.
2005


 
Tiến Hóa 
 
Thuyết tiến hóa của Đác-uyn đã chỉ ra rằng loài khỉ qua nhiều năm tiến hóa có thể đứng dậy đi bằng hai chân và dần biết suy nghĩ như nhân loại chúng ta ngày nay. Phải cầu kỳ lắm trên hành tinh xung quanh chúng ta ở mới tạo nên loài người biết lao động, yêu ghét và có thể làm thêm biết bao điều oai hùng khác nữa. Tưởng cứ như thế là xong, nguyên lý đã rõ, chúng ta tiến lên từ khỉ chẳng có ông thượng đế nào cả, chúa trời phật pháp đều chỉ là vớ vẩn, chúng ta là khỉ thành tinh qua nhiều nghìn năm tiến hóa. Xong cũng lạ, mọi sự tiến hóa bao giờ cũng để sót lại một cái gì chưa hoàn hảo cho lắm – Chẳng hạn như có người còn sót lại mẩu đuôi, không lẽ chúng ta lại nỡ đổ nghi ngờ cho một học thuyết vĩ đại như vậy… nghĩ thật xao đang – Còng tôi thì tôi mê học thuyết tiến hóa của Đác-uyn tới sái cổ, tôi trân trọng loài khỉ đến mê hoặc, cứ nhìn các cụ khỉ nhảy nhót leo trèo mà kính nể cái dòng tiến hóa bác học, mà đã là mê thì đến rắp tâm, một sự nỗ lực cá nhân nhưng thật là đáng kể.Vì thời ấy đang là thời bao cấp, thóc cao gạo kém, muốn xin được một việc làm thì thật khó, mà lại càng khó khi ta muốn tìm một ngành nghề, mà muốn được việc thì phải có chút gì gọi là nho nhỏ, cái phong bì có chút nhân chẳng hạn… Hồi đó sự đi lại có lẽ còn nhẹ nhàng nhân đạo, chứ như quãng này cứ phải là chai rượu remmi bạc triệu thì bố ai mà theo đuổi nổi,ấy thế mà bây giờ mọi người họ vẫn làm được mà làm vui vẻ là đằng khác,lại một lần nữa thuyết tiến hóa mở mắt cho tôi thêm về cái mãnh lực tiến lên của loài khỉ.
Ta lại phải quay lại câu chuyện của riêng tôi, không lỡ lại đi quá mất sự tiến hóa thời đó thì hỏng- Sự thể gia đình tôi hồi đó kinh tế cũng không được khỏe mạnh gì cho lắm vì là thời bao cấp mà lị - Xong đứng trước một sở thích có lý của con mình –say mê về thuyết tiến hóa –mà cha mẹ tôi đã già có lẽ cũng muốn biết rõ liệu con người có phải là đồ con khỉ hay không? Hay là do chúa trời thần phật tạo ra cõi đời. Chung quy tính tò mò của loài khỉ đã tạo nên cái đột biến mà gia đình quyết định tòi ra ít tiền để chạy cho tôi vào cái phòng thí ngiệm của khỉ.
Tiền có ít nên công việc cũng vừa phải,thật là khiêm tốn không được như ý muốn, nhưng cũng đành,miễn làm sao là được tiếp cận với cái khoa học mê say về tiến hóa loài người. Công việc thì chẳng có gì vất vả cho lắm, mà lại được ở gần loài khỉ hàng ngày thì cũng lý thú biết bao. Không làm thì chẳng bao giờ biết về việc nghiên cứu loài khỉ quả là phức tạp. Đứng đầu cơ quan tôi là một vị giáo sư già có nhiều kinh nghiệm,học thức uyên thâm và có một lòng yêu khỉ đến kính nể. Ông thường coi công việc nghiên cứu như chính việc nhà mình,ông thương yêu lũ khỉ như con và đứng đằng sau ông có cả tá nhân viên kỹ thuật viên sừng sỏ. Nào phòng xét nghiệm,nào phòng tâm lý,nào phòng dinh dưỡng,nào phòng vệ sinh. Tôi được cái vinh dự trưởng phòng mà chẳng cần chạy chọt chút nào,xong có lẽ phòng tôi chỉ cần có một người nên cũng chẳng sợ phải bon chen leo trèo lên ai nên tôi cứ là thả phanh mà hót cứt. Trưởng phòng vệ sinh nghe thì có tủi nhưng lại có cái lợi được gần lũ khỉ nhất,gần đến nỗi nhiều khi tôi bị các cụ đái cả lên đầu. Ở đời ai cũng có cái tính là phải thích cho bằng được mà khi đã được có sao thì thôi cứ là phải chịu nó, như một anh chàng yêu một cô gái hắn ta hãnh diện với bạn bè nhưng khi phát hiện ra người yêu mình hôi nách trầm trọng không thể nào ngửi được thì cũng cứ phải hãnh diện chứ sao. Tôi cũng thế - lúc đầu sau mỗi buổi làm là vội vàng lao vào nhà tắm mà xát xà phòng rồi biến cho nhanh. Nhu cầu xà phòng đối với tôi lúc ấy cần như cơm bữa, khôngđủ tôi lấy sạch của gia đình sau bị nói nhiều thì tôi chẳng cần lấy nữa,tôi kệ mẹ cái mùi hôi thối ấy cho bõ tức,mà có lẽ vì thế tôi đã tăng tiến trên con đường tiến hóa,ngẫm cũng thấy thú vị bầy khỉ cũng đỡ sợ tôi hơn. Nó có vẻ tiến hóa gần đến với con người một bậc còn tôi khi về nhà mệt phờ chẳng muốn giặt giũ gì cho lắm vì chỉ nghỉ được vài tiếng thì đời đâu vẫn thế, mà thời gian đâu để mà suy ngẫm về mấy con khỉ trong chuồng. Ông giáo sư thì cũng khổ chẳng kém gì tôi,có vào nghề thì mới rõ mà thấy thương ông bạn vô hạn,cứ trăn trở về mấy con khỉ xem có phương pháp nào cho nó tiến hóa tăng trưởng được nhanh hơn không. Mà nghĩ cũng phải, sự sốt ruột là có lý nếu cứ phải chờ cả ngàn năm thì đời ông lão đến ra bụi, vì thương ông mà ao ước lũ khỉ chóng thành người nên nhiều đêm trong mơ tôi chợt thấy lũ khỉ như ngộ không biến thành những nàng tiên bằng xương bằng thịt mà ao ước thì cũng thật là tốt cho cả người lẫn khỉ. Ông lão cứ dính vào chúng mà chăm lo, nào ngô khoai, nào hoa, nào quả các cụ cứ là xơi đẫy. Ông thấy chúng ăn được lên càng lo tăng khẩu phần, mà càng tăng thì chúng càng ăn khỏe, nhưng ở đằng sau có một sự thể ông chẳng bao giờ rõ được. Chuyện là như thế này – mấy chị ở tổ chăn nuôi đầu tiên khi cho chúng ăn mấy cụ khỉ chê kém tươi không buồn ngó, các chị cho hoa qủa đó vào cặp lồng mang về cho lũ trẻ nhỏ hoan hỉ vui mừng, lâu lâu rồi trở thành thói quen không bỏ được, vì các cháu nhỏ mà lũ khỉ thiếu ăn nên đâm ra ăn tạp, thôi thì tươi héo chung quy đều là được cả nên cả tổ có một thông điệp ngầm với nhau giành phần cho khỉ nửa già còn lại để mang về cho trẻ vì như vậy nên lũ khỉ thường thì bị đói. Ông lão thỉnh thoảng cho quà là chúng cứ nhao nhao lên mà tranh cướp nên ông lại nghĩ cách tăng thêm khẩu phần, mà càng tăng thì càng mất, các chị suy nghĩ thật chu đáo khóa dần cái dạ dày chúng lại, tôi thì đỡ phải hót cứt nên cũng là ngậm miệng ăn tiền, các chị thì cứ ăn còn tôi thì phó mặc, ở chỗ này thuyết tiến hóa chừng như đã được cân bằng nên lòng tôi ra phần chán nản. Lũ khỉ thì cứ nhởn nhơ nhảy nhót và con người thì nén lòng chờ đợi có lẽ cơ quan tôi phải sống cả ngàn năm mà chờ nó tiến hóa nghe cứ là vô lý làm sao ấy, chả biết ông Đác-uyn sống được bao năm mà tuyên bố hùng hồn đến vậy. Thật khổ đã có lúc tôi định treo ảnh của ông lên đầu giường mà thờ - nhưng còn may là chuyện ấy chưa xảy ra. Cứ ngẫm mà thêm buồn, theo một đời đã mỏi mà còn chưa thấm vào đâu phải cả ngàn năm mới thấy thì tôi là thằng ngu nhất,thằng hót cứt cho học thuyết của ông cũng xin tuyên bố vứt mẹ nốt cả ông đi cho rảnh. Ở đời trẻ con cần hoa quả và tôi cần hít thở. Trong chuồng khỉ tôi cứ vừa hót cứt vừa ăn năn cho cái việc làm khờ dại của mình – có ai lại đi tìm hiểu về người ta ỉa ra sao đâu cơ chứ, thế mà ở trên đời có cái thằng tôi như vậy, thôi thì phân nát, phân rắn khỉ ơi là khỉ, chỉ thiếu chút nữa là tôi đâm đầu vào song sắt mà tự vẫn cho xong – nhưng sĩ diện của một phòng nghiên cứu như ngăn tôi lại, đối với bạn bè tôi đang tự hào làm ở viện nghiên cứu nọ kia nhưng kì thực thối ơi là thối, khỉ ơi là khỉ - thế đấy – cuộc đời vẫn thế, cứ ngoan ngoãn mà hót cứt cho bầy khỉ Đác-uyn.
Đáng lẽ thì cũng chưa đến nỗi, tôi vẫn còn làm cái công việc không mấy trơn tru nhưng vì tối thiểu vẫn giải quyết được cái miệng mình để tiến hóa hay để tiêu hóa thì cũng được. Vì hai cái từ tiến và tiêu nó có vẻ đồng âm như nhau có lẽ vì đói khổ người ta hay nhầm lẫn như vậy và sự thể là như thế này – Một hôm ông xuống thăm bầy khỉ và chợt nảy ra ý mới – thử cho chúng xơi thịt xem sao, và ông ký giấy cho phòng dinh dưỡng đi lĩnh năm kilôgam thịt bò về cho lũ khỉ ăn thử, và ông không quên nhắc chị em nhớ ghi lại những diễn biến trong lúc cho ăn vào sổ trực hàng ngày. Tôi thì chẳng thích thú gì với quyết định kia vì phân của lũ ăn thịt chắc thối tha hơn nhiều, song cũng tặc lưỡi – đằng nào chả hót cứt mà có thối hơn cũng mặc mẹ cái lũ khỉ ghê người. Ngày hôm sau mấy chị đi nhận thịt bò ở kho về, nhìn túi thịt tươi roi rói, loại thịt phải qua kiểm nghiệm kỹ càng khi cho thú ăn. Cái thứ thịt bò hảo hạng, cả phòng ai ai cũng muốn sờ mó thử túi thịt bò cho bõ thèm con mắt, cả tổ ai ai cũng muốn dành chân thái thịt, họ say mê thái nhỏ từng miếng thịt bò mà nhựa dường như dính tay với bao vẻ lưu luyến tiếc rẻ. Chúng ta còn nhớ thời ấy là thời bao cấp, tiêu chuẩn mỗi nhân viên được ba lạng thịt phiếu dành cho cả tháng mà có mấy ai dám mua thịt, họ chỉ mua mỡ nước mà xào nấu vớ vẩn cho đỡ nhớ, ấy thế mà bây giờ trước mắt họ cả súc thịt bò tươi năm ký đang được băm vằm dâng cho khỉ. Mẹ kiếp tiến hóa bỏ mẹ gì! Ngẫm cũng lạ! Nhưng đã là lệnh thì cũng đành mà liếm mép cho xong. Họ xẻ thịt vào máng đưa vào chuồng khỉ, lũ khỉ nhao nhao ào tới trước những đôi mắt tiếc rẻ của mọi người, nhưng chúng ào ào bỏ chạy leo tót lên các gờ giáo sợ hãi. Chờ mãi chúng vẫn chẳng ăn, chị tổ trưởng nghĩ ra cách mới – mang xào thịt lên như người và dâng cho chúng xem sao, kết quả chỉ làm khổ thêm cho bao người nấu nướng, vì cái mùi thịt bò xào nó lại thức dậy trong lương tâm mỗi người. Thịt thì đã bầy trong chuồng nguội lạnh mà các cụ thì chưa buồn xơi, tới giữa chiều thì chị tổ trưởng đành quyết định mang ra cho thanh lý. Và cả tổ trong đó có tôi cũng được mời xơi một bữa thịnh soạn, thịt nguội nhưng sao mà ngon thế, chừng như đến tận bây giờ trong tôi vẫn còn cái dư vị bữa tiệc ngày hôm ấy.Cả tổ cứ là cảm ơn cụ Đác-uyn vì cái thuyết tiến hóa mà cụ để lại, đời họ vừa có việc đi làm, có cơm để ăn, có hoa quả để xơi và hôm nay có cả món thịt bò tiến hóa. Khi đã giải quyết xong năm ký thịt, giờ đây là lúc mọi người sẽ phải lý giải ra sao cho năm ký thịt bò đương được tiêu hóa. Cả tổ cứ nhao nhao mà nghĩ kế và rồi họ đi đến một kết luận đầy vẻ tiến hóa. Chị tổ trưởng ghi vào sổ giao ban: “Có chịu ăn thịt bò nhưng còn chậm’’.
Ngày hôm sau ông lão xuất hiện đầy vẻ sốt ruột vừa gặp mọi người ông đã hỏi thế nào? “Thưa sếp chúng nó chịu ăn nhưng còn chậm”. Ông lão vui mừng ra mặt, mắt ông ánh lên một niềm hy vọng khôn cùng, và ông lão hân hoan ra lệnh cả tổ: “Cứ tiếp tục”. Và cái lệnh quý báu ấy được kéo dài trong mười ngày, cả tổ chừng như ai cũng yêu thương cụ khỉ nhiều hơn nữa vì có ánh sáng của cụ mà họ được xơi thịt bò miễn phí, nhưng rồi đến một hôm vào cái ngày đen tối khi thịt bò đã được xào hành tây đâu vào đó thì ông lão xuất hiện, cả tổ đành nín thở đổ chảo thịt vào máng dâng cụ khỉ. Trước mặt ông lão bầy khỉ rú lên như phải bỏng, còn tôi thì muốn bóp cổ chúng cho câm họng thét gào. Ông lão giận dữ lặng lẽ quay ra, bỗng ông quay lại nhìn thẳng mọi người quát lên trong phẫn nộ:
Các chị đã làm hỏng một công trình khoa học, ngày mai các chị nghỉ việc.
Chợt nhìn thấy tôi lóng ngóng đứng đó ông nói lên như gào:
Cả anh nữa…
Thật vô lý, xong có một cái lý mà tôi không sao cãi được vì tôi là tòng phạm. Ngày hôm sau phòng tổ chức cho gọi cả phòng dinh dưỡng lên gặp và trước mặt mọi người có cả tôi – trưởng phòng vệ sinh – Họ được quyết định nghỉ việc. Tất cả nhao nhao lên mà phân bua, mà khóc lóc, trong tôi một nỗi ê chề chán nản như trào lên, tôi lặng lẽ ra đi không bàn cãi – Xin vĩnh biệt đống cứt thối tha của thuyết tiến hóa, vĩnh biệt ngài Đác-uyn. Tôi không thể chờ được thành quả của ngài, vì đời tôi có hạn, hãy vứt cả ngàn năm của ngài vào sọt rác còn tôi chỉ cần sống và có miếng ăn. Mấy ngày hôm sau, số phân lại bắt tôi trở lại cơ quan, khi đi qua khu chuồng khỉ, bọn nó vẫn thế, cứ nhởn nhơ trên bước đường tiến hóa, chỉ có khác đã xuất hiện một số người mới lại tiếp tục cái sứ mệnh nghiên cứu về cái thuyết tiến hóa, mùi vị bốc lên vẫn vậy, thật khốn khổ khi bụng đói mà phải ngửi cứt. Tôi vội vàng lên phòng tổ chức lấy lại hồ sơ và lặng lẽ ra về không một lời chào hỏi, ra đến cửa tôi gặp ông lão lững thững đi ra tôi bực tức nhìn ông và tôi nhìn thấy sau cặp kính, tận đáy sâu trong đôi mắt ông một nỗi buồn thất vọng, tôi chào ông – ông lặng lẽ cúi đầu. Mãi sau này tôi mới được biết, sau những ngày chúng tôi bị buộc thôi việc chính ông đệ đơn từ chức. Có lẽ ông đã tính lại và nhìn thấy các nhân viên của ông cần tiến hóa trên cõi đời.
2002
 
 
 
Sự Sống Qua Bờ
Kính tặng cố Vũ Thế Hùng và gia đình
 
Cái gói nhỏ trong lòng bàn tay nhớp nháp mồ hôi, ông cố nhoài về phía lỗ tròn thông hơi trên cửa, cái mệt và sự hồi hộp làm trái tim ông muốn vỡ. Bên ngoài chợt tiếng súng nổ và tiếng rơi bịnh nặng nề.
Tất cả về buồng ngay! – Những gót giày vội vã hòa trong lời la thét.
-         Mày leo vào kỷ luật gặp ai? – Tiếng gã quản giáo bừng bừng vang lên hách dịch.
-         Báo cáo ban, nó chết rồi.
-         Khám người! – Tiếng ra lệnh khô khốc, sau một hồi khám xét.
-         Thưa trong người nó không có gì.
-         Mở cửa khám sà lim! – Những tiếng chân người chạy thình thịch và tiếng then chốt cửa rít lên từng hồi ớn lạnh.
-         Khám tất cả các buồng! – Hắn gầm lên ra lệnh. Tiếng ổ khóa và tiếng then cửa tầng trong lại lần nữa rít lên lạnh lẽo như tiếng ma gọi hồn. Ông như người chợt tỉnh cơn ác mộng…
Một thoáng suy nghĩ lướt quá - Ở ngoài kia có người vừa chết muốn ông phải sống… - ngoài cửa sà lim tiếng chìa khóa lạch cạch vang lên - Không chần chừ, ông nhét chiếc gói nhỏ vào miệng cố gắng nuốt, cái vị đắng ngắt của thuốc côlôxít như muốn trồi ra cổ họng, bao nỗi buồn và thù hận như thít lấy ông. Lặng lẽ làm dấu thánh giá – tu sĩ cầu hồn cho người đã khuất được về bên Chúa – Tụi mày cứ chui xuống đất mà tìm Chúa trời! – giọng nói gầm lên như chộp tới mà nhai sống phận người.
-         Khám! – Hắn giằn giọng ra lệnh
Gã trật tự sau một hồi lục soát – Báo cáo ban không thấy gì.
-           Khóa cửa! – Hắn lạnh lùng ra lệnh. Bộ mặt phèn phẹt đểu giả của hắn như muốn nhai sống người tu sĩ – Chúng mày phải nhớ - Tao Đỗ như ý, sẽ tiêu diệt từng đứa có ý thức chống đối. Bàn tay hắn siết chặt chùm chìa khóa như đang bóp cổ ai đó. Những tiếng sập cửa vang lên trong trưa hè oi ả. Cái nắng Lào Cai như lửa đốt trong lò. Sự sống lại yên ắng trong cái nồi hầm xương thịt, ở đó những cuộc đời lặng tờ đang sống, ở đó những bộ xương bọc da gói gém những linh hồn hướng thiện… Có một thứ ánh sáng dẫn dắt họ qua tháng năm mà nhà tù không thể nào dập tắt được. Vạch ranh giới giữa sống và chết thật mỏng manh làm sao, nó nhẹ nhõm như thở lạc qua bờ thế giới. Một đời người đã ra đi để lại ông ngồi lại cùng tinh thần của họ, cái bàn tay thò qua lỗ của sà lim như thít lại gần nhau trong chốn đọa đầy năm tháng. Những đời người chợt còn, chợt mất như ảo ảnh trong đời, như ánh sáng và bóng đêm phủ lên cõi hiện sinh khốn khổ. Đất lại mở cho một người nằm xuống – mảnh đất Lào Cai – ông chợt nhớ những dòng thơ của nhà thơ Chiến Kì:
Đây gươm súng không gầm gừ chém giết
Nhưng đây mồ lặng lẽ khép đời anh
Rất nhẹ nhàng không một chút dư âm
Vang vọng đến với núi rừng cao vút.
1977


Thiếu Đủ  
        
Thời gian như liền mạch, sự đói khát dắt hắn đi từ bữa nọ đến bữa kia – bữa sáng liền bữa trưa thêm bữa chiều bữa tối, nhiều khi đến đêm mà hắn còn nhớ bữa – cái đói như làm óc hắn đặc lại chỉ còn một nhu cầu ăn. Thế rồi thời ấy cũng qua – khi miếng ăn chẳng còn nặng nữa thì hắn lại sinh ra ngớ ngẩn – hắn chợt thấy mình kém người chẳng bằng đời mới khổ - kể cũng lạ, khi đói người ta chỉ còn nghĩ đến ăn – càng ăn được nhiều càng thú – nhưng khi cái đói đã qua thì người ta khác hẳn. Các cụ xưa nói chẳng sai “Ăn no ấm cật, dậm giật mọi nơi”, hắn bỗng trở thành người khác – mà là người khác hẳn – khi thước đo chẳng còn là bát cơm bát gạo thì nó trở thành manh quần tấm áo, mà nghe chừng thời gian như đứt đâu một quãng như vạch rừng trên khuông nhạc – mà khi đã dừng, đã rứt thì cứ là rối tinh rối mù – thôi thì cả đàn sở thích ào đến sau nạn đói,hắn cứ là lạc lõng đê mê… - Nào giày, nào dép, nào xe cộ tấp nập mọi thứ cứ đổ về mà hành hạ hắn. Mà kể cũng thú cho mọi thèm muốn đời người, chưa xong cái nọ đã có cái kia, mà ngẫm cho cùng thì cũng đều cần cả. Để rồi một hôm, hắn thấy đời bề bộn quá, chẳng biết cái nào cần hơn cái nào nữa thì mới khổ, hắn đâm ra u uất muộn phiền, hắn cứ lạc lõng trong chính mình ý nghĩ, cái u tối ngày xưa dường như đang trở lại – nhưng lần này có vẻ khổ hơn, đêm có vẻ đen nhiều trong suy nghĩ, nó không triền mùa cũng vậy – trong đầu hắn chỉ có suy nghĩ về sự sống của gia đình… vợ hắn và hai đứa con – Đời hắn tù đầy nhiều sinh lao miên như nạn đói, như một nỗi chán nản vô bờ đang dâng lên mà nhấn chìm đi hắn. Tất cả… nhiều thứ quá, mà hắn chẳng còn tìm được vật nào mà đời hắn ham thích mọi thứ dường như… tất cả giống nhau – cả loài người như vậy, chúng chung một sở thích – có lẽ của cải làm hắn bực bội, nhưng hắn vẫn phải loay hoay cố tìm cho mình một thứ gì đó trong sự hỗn độn kia…nhưng vô vọng! Tất cả dường như no đủ… hắn đang chìm dần trong nó – cái bóng đêm no đủ thật đầy, thời gian như đặc lại u mê trong hắn! Bỗng từ bờ xa một đêm, chợt giọng hát ai ru thân quen? Mẹ hắn đưa hắn vào giấc ngủ… Hắn tìm lại được mình chừng như quên lãng.
2002


Cái Đít Nồi  

          Đến một hôm hắn chợt thấy mọi thứ quanh mình dường như đang cũ đi, đen đủi, dúm dó như cái đít nồi nhôm Liên Xô. Thời gian nung nấu như phết lên nó một thứ bồ hóng khổ đau đen đúa mà chẳng làm sao gột rửa nổi, thân hình dúm dó tiều tụy làm sao. Tất cả mọi thứ ở đời đều nằm trong thời gian hữu hình của nó, mọi vật thể hữu hình đều có tuổi, tháng, năm mà tồn tại. Cái đít nồi là cái đít nồi, nó có tuổi để mà kho mà nấu. Niềm mơ ước có cái nồi, cái xoong Liên Xô để mà hầm mà ninh cho đã đời – cứ ngẫm mà thú vị, một thứ nhôm dầy dầy bền chắc như chẳng bao giờ hỏng và hắn cảm thấy thú vị về cái nồi nhôm. Người dân Nam ta chẳng mấy ai tin vào đồ nội địa – Vừa mỏng, vừa điêu – cứ phải là đít nồi Liên Xô, vừa giày vò và giữ mình bền chắc.
          Hắn lặng lẽ nhìn cái đít nồi – lạy giời đời hắn cũng chỉ đến thế - Đời hắn như cái đít nồi hầm Liên Xô, đen đủi và méo mó – cái niên hạn cho cái đít nồi giống như đời hắn – hắn tồn tại như cái đít nồi và hắn giống nó – cái đít nồi nhôm Liên Xô. Thời gian đang nung nấu mọi thứ từ đời người cho đến cái đít nồi, tất cả đều chỉ là chất hữu cơ – đó là vật chất. Muôn năm vạn vật như nhau – mọi thứ hữu hình như đời ta hay cái đít nồi cũng vậy – Cái bóng là sự phản chiếu của cõi đời hai thứ chỉ là một. Cái đít nồi méo mó và đời hắn là hai tì vế mà cõi sống không chịu nổi – cũ quá! Khổ đau quá, phải có một thứ gì mơi mới mà dụ dỗ cho loài người muốn sống. Và lạy giờ - thiên hạ sinh thêm cái nồi Inox, đun mãi chẳng đen mà cứ lỳ lợm trắng tinh như còn mới. Niềm sung sướng như tiếp sức cho cõi đời chẳng già – thật thú vị khi ta chẳng già mà bóng loáng như cái đít nồi Inox. Lạy giời ai lại phát minh ra những thứ lạ lẫm như vậy? Hắn chợt thấy mình đen đủi làm sao! Cứ như cái đít nồi nhôm Liên Xô đen đủi và méo mó. Mọi chất hữu cơ dường như luôn đổi – hắn là gì bên cạnh cái đít nồi méo mó. Mọi thứ đều trôi đi trong thời gian và công thức là sự chắc bền tồn tại – mọi thứ cứ phải được nhìn thấy sờ nắn được như củ khoai, củ sắn, bởi nó là hữu hình, có hạn. Hắn cảm thấy nghi hoặc mà ngẫm nghĩ về cái đít nồi Inox – nó là thứ nguyên liệu gì mà lì lợm và bền chắc đến thế? Có lẽ thời này họ phải chuẩn bị những cái nồi chắc bền như vậy để mà chịu đựng cái tuổi thọ của loài người hiện đại. Thật là thú vị khi đời người cứ bóng lên như cái đít nồi trường thọ thì quý hóa làm sao – Dứt khoát phải là như thế - cứ thử ngẫm – các cụ ta xưa dùng nồi đất mà nung nấu nên tuổi thọ chẳng được là bao, rồi là chết non, chết yểu. Cho đến thời nồi đồng, nồi nhôm, có nhỉnh hơn một tý và con người cũng phải bẹp – có lẽ đến thời ta thì khác hẳn, có thể khoa học sẽ kéo dài ra cho mọi thứ - dài đến đâu thì hắn chẳng rõ nhưng dứt khoát phải là thế. Cứ ngẫm ngày xưa người ta đi bộ, sau nữa người ta đi xe đạp đến hôm nay cưỡi hẳn xe máy và ô tô, chẳng phải mất sức gì mấy mà được việc nhanh nhẹn làm sao, có thể cao hơn nữa chúng ta sẽ tự bay như chim trong đời là cái chắc – hắn cảm thấy thương mình vì đến lúc thú vị ấy đời hắn có lẽ sẽ tan ra thành cám, và chắc hẳn câu chuyện sẽ xảy ra như thế.
          Thú vị thật, lớp trẻ ngày nay văn minh hiện đại làm sao, để chuẩn bị cho bữa ăn cứ như là nghi lễ thì mới lạ, xoong chảo sáng ngời lóa cả mắt, họ đặt vào đó những con tôm tảng thịt to bằng cả bàn tay thì mới lạ - có lẽ loài tôm cũng thích nghi với cái thời hiện đại mà lớn nhanh đến thế và họ bật lửa tự động chỉ đánh cách một cái là ngọn lửa xanh biếc chẳng có khói tẹo nào hiện lên – ngọn lửa chắc phải có sức nóng kinh khủng gấp mấy lần cái bếp rạ ngày xưa là cái chắc. Chỉ một loáng con tôm, miếng thịt cứ là vã mồ hôi mà bốc mùi thơm tho sản vật. Mà đi theo con tôm hay miếng thịt đâu phải là dễ, nào gia vị, bột ngọt, hạt tiêu, rau thơm, hành họe… cứ xếp hàng nhao đầu vào lửa mà góp phần cho con tôm, tảng thịt cao quý, mọi thứ cứ quện lại mà tỏa lên mùi thơm thú vị. Người ngày nay họ ăn cả bằng mắt, bằng mũi và bằng tai, cứ thứ tự mà hưởng thụ thì mới khoái. Mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, mồm nhai ngáu nghiến những sản vật mà nền văn minh tân kỳ đã nghĩ ra và làm nên được. Nền văn minh thật lợi hại làm sao, nhiều khi nghĩ đến hắn lại phát thèm rỏ dãi. Đời hắn như cái đít nồi nhôm Liên Xô cứ nghĩ mà thêm khổ, con tôm, con tép, đũa muối thìa tương, chấm chấm, mút mút, ăn nhịn để dành cho cái ngày hôm sau bao lo ngại. Cứ ngẫm mà buồn cười chua xót làm sao, hắn sợ chính cái ngày hôm sau đời mình – có lẽ cũng phải thôi – những đứa con bé nhỏ há hốc mồm chờ miếng - ở đây cái nồi sẽ đứng ở vị trí quan trọng làm sao bên cạch đời hắn – Nó như người bạn song hành trong suốt khoảng đời hắn phải chịu đựng. Đầu tiên nó cũng mới và sung sức như hắn để rồi nó cũng già đi như hắn ngày hôm nay. Tất cả mọi thứ thời ấy đều bị thời gian bào mòn xói lở. Ở đời bao giờ cái cũ cũng đứng cạnh cái mới, họ hằn học nhìn nhau mà suy ngẫm – nó bóng bảy và cứng khỏe lắm, dễ đến cả nghìn năm cũng chẳng mòn.
-         Nó già cỗi quá, bẩn thỉu quá thế mà cũng sống nổi. Có thể đó là những suy ngẫm của hai cõi sống gối nhau trên cùng một dòng thời gian đang chảy, nó như một cái cây rụng lá bên những mầm non vươn lên trào lộng trong trời, nó như cái đít nồi nhôm Liên Xô đen đủi, dúm dó đặt bên một cái nồi Inox của Anh của Mỹ. Giờ đây họ chẳng buồn đánh nhau nữa, bực tức là họ gõ đít nồi hay lấy tay vỗ vào đít vì ở mông đít có cái ví dựng tiền. Quả là nhẹ nhàng và hiệu nghiệm, tiếng đít nồi có thể còn oai hơn cả tiếng trống đồng của các cụ ta xưa. Nhưng cũng còn được cái may cho các cụ, thỉnh thoảng thời nay họ đào bới ở đâu đó được vài thứ mảnh chum, cái trống đồng của tổ tiên thì quý hóa lắm. Họ bảo trọng như kỷ vật thời tiền sử, giá trị đắt hơn cả vàng, họ đặt ở những nơi trân trọng nhất trong nhà, coi đó là niềm tự hào dân tộc. Cái trống mốc xanh mốc đỏ, ngượng ngập trước anh đít nồi bóng loáng trâng tráo cứ ngẫm mà buồn cười làm sao.
 Cũng có thể đến một niên đại xa xôi nào đó, loài người lại móc hắn lên từ dưới đất, bộ xương hắn oai vệ phải biết, đầu đội mũ cối Trung Quốc, tay cầm cái nồi Liên Xô, chân đi dép cao su đúc. Có lẽ lúc ấy đời hắn mới hả sau bao năm vật lộn với đời, con chau phải đặt hắn ngồi trên nóc nhà cho bõ tức. Thật rõ khổ khi mọi thứ trong hắn cứ cũ đi mà hắn không làm sao thay đổi được cho mình nữa, quanh hắn mọi thứ cứ khập khiễng và choáng ngợp, như vùi lấp lên hắn một thứ bụi vàng trĩu nặng của ngày hôm nay, hắn cố nhoai lên xong sức lực tiêu tan đâu mất cả. Có lẽ cái cũ đang qua đi cho một ngày mới đang tới, ánh mặt trời óng ánh như cái đít nồi Inox tỏa sáng hòa tan trong tiếng cười của những kiếp người thức dậy.
Tháng 11 năm 2004


Mất Hồn
 
          Đã từ lâu lắm rồi, khi chiều đến hắn tìm về một chỗ, không phải là nhà mình hay bạn bè, hắn tìm đến hàng bia, thật lặng lẽ ngồi vào chiếc bàn nằm trong góc quán – tính hắn xưa nay vẫn thế - cứ lẵng lẽ nhìn ngắm và suy ngẫm cõi đời. Hắn luôn tự hỏi: “Mình là ai, ở đâu và sẽ về đâu?”, những suy nghĩ ngô nghê tương tự như vậy cứ hiện lên mà giày vò trôi qua đời hắn. Nó như một dòng sông nhơ bẩn cứ lặng lẽ trôi đi, bỏ lại hắn như một cù lao khốn khổ. Để trở thành câu hỏi, có lẽ đời hắn đã tan nát xiết bao, mọi thứ cứ trôi đi, biết bao khổ đau và phiền muộn, có lẽ thời gian trải qua đời hắn là một dòng sông buồn đau, mọi mâu thuẫn cứ nảy mầm mà mọc lên thành hắn, nửa thế kỷ của một mầm cây sinh sôi để trở nên ngày hôm nay đời hắn. Mọi thứ đã trôi qua hắn, những tủi nhục, bao mặn nồng, tràn ngập yêu thương và quên lãng. Sẽ đến một thời người ta không yêu nữa chăng? – Chẳng biết mọi người giống như hắn không? Liệu có ai cứ yêu mãi cho đến chết? Mọi người có đặt câu nói và suy nghĩ như hắn? Sự lặng lẽ như dìu dắt hắn đi trong suy tưởng. Có những lúc trong đời ta ngồi giữa cả đám đông mà như là hoang mạc, chỉ còn lại ta trong tĩnh lặng cô đơn và lạc lõng – hắn tự hỏi: “Ta là ai, ta đang ở đâu rồi sẽ về đâu?”. Có lẽ hắn là cái màng lọc, mọi thứ để lại cho hắn chỉ có vậy bao vụn vowc khổ đau và bên kia màng lọc là hư không, hắn đã sống hết mình trong nửa kia đời hắn, mọi thứ bề bộn quá, cứ chồng chất mãi lên và nhân loại coi đó là sự chắt lọc, đó là dựng xây, đó là kì tích. Lặng lẽ ngồi ngắm tác phẩm cõi đời, bên này là sự huyên náo thác loạn, bao cốc vại nâng lên, đặt xuống, những lời nói méo mó chìm vào quên lãng, những bước chân chệch choạc ra đi, nhường cho những dòng người tràn đến. Đây là chốn nghỉ ngơi sau mỗi ngày dành cho nhân loại, mọi thừa thiếu hụt hẫng đều được san bằng trôi tuột trên màng lọc cõi đời – tối thiểu phải là thế - nếu không có quán bia thì cõi đời sẽ ra sao? Có thể đó là điểm chót của dòng sông trôi qua màng lọc, ở đấy người ta giữ lại mọi thứ cho mình, chỉ còn nước cất trả về cho biển. Mọi thứ quả là hoàn tất làm sao – chỉ còn hắn và mọi người còn lại trong hàng bia đang ngồi đây – kỳ tích của chúng ta là vậy – ta còn sống và trước mặt là những chồng vại không tĩnh lặng – mọi thứ đã được chắt lọc xong xuôi, dòng nước trôi qua đã qua, chỉ còn mọi thứ thân quen vẫn thế, như ngày hôm qua cũng vậy, ta chắt lọc, ngày hôm nay vẫn thế, ta chắt lọc…
          Ta giành giật mọi thứ vật chất ở đời, có lẽ vì vật chất mà hắn còn ngồi lại đây, trong góc quán bia này mà suy ngẫm. Nhân loại hữu hình, bóng dáng hắn oằn mình trong nhân loại, có thể hắn là cái tinh của vật chất đang uyển chuyển điều hành vật chất. Mọi thứ phải tồn tại hữu hình cụ thể: Sờ, nắn, nặn, bóp được, dứt khoát phải là thế và vĩnh viễn là thế, đó là thứ “triết học duy vật” hiện sinh ở đời. Người ta bàn cãi về vật chất, phi vật chất, họ cãi nhau trong trường học, ở ngoài đời và ở khắp mọi nơi, mọi chốn, người ta cãi nhau cả trăm năm không thắng bại, có lẽ cả ngàn năm cũng nên, câu chuyện cứ dằng co hoài chẳng dứt, về con gà và quả trứng con nào có trước, biết bao những vòng vo bàn cãi bất tận về một hiện tượng tự nhiên làm nên và kết quả họ vẫn cứ cãi song gà thì họ thịt, trứng thì cũng xơi – họ chẳng hoài công mà lý giải tại sao lại xơi cả tang chứng lẫn vật chứng ở đời. Họ sẵn sàng thả câu chuyện con gà và quả trứng trôi qua màng lọc ra biển, chỉ còn lại con người sau bao lần chắt lọc. Có một thứ nặng hơn cát bụi ở lại trên sàng có lẽ đó là thằng người. Trong thế giới vật chất có lẽ con người là vàng – là vàng thực sự - loài người là động vật cao quý và thông minh hơn mọi loài bởi trong hắn có lòng tham muốn đến cùng cực, hắn muốn đào sông lấp biển, thay trời làm mưa – chẳng làm được nhưng hắn cứ nghĩ và nói lên như thế tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc người cho bõ nghĩ! Để đến một chiều hắn tìm đến hàng bia mà ngẫm ngợi và quên lãng. Hắn muốn nhìn thấy ở đằng sau cái màng lọc kia là gì? Có thể lần đầu tiên hắn muốn nhìn như thế, mọi thứ hiện hữu trên đời hắn đã thấy – nhưng hôm nay hắn muốn nhìn ở đằng sau mọi vật mà hắn thấy, có lẽ đó là nửa kia vô hình phi vật chất. Cõi đời chẳng còn là thế, không phải chỉ toàn là vật chất xây nên, ở đằng sau nó còn có một thứ mà hắn không nhìn thấy được vẫn sinh sôi mà tạo dựng cõi đời, nó vô hình nên khó mà nắm bắt và chắt lọc. Người ta đã vứt đi tất cả - dường như một nửa thế giới đã trôi ra sông ra biển – cái thế giới bên trong – cái thế giới tinh thần vô hình vô ảnh. Từ đáy cốc những dòng không khi sủi tăm trồi lên và tan biến trong màu nước vàng chanh. Vại bia đang sinh sôi với hai nửa vô hình và hữu hình của nó. Mọi thể xác đều giống nhau đến từng bộ phận, nhưng có kẻ vui người buồn, áo quần màu sắc họ mặc phong phú khác nhau vậy? Điều gì sinh ra sự khác biệt ấy? Có lẽ đó là tinh thần của riêng họ sinh ra như vậy. Có một thứ thật là mong manh yếu đuối cứ lay lắt trong họ.
          Bát cơm nuôi sống con người, áo quần đồ vật, vàng bạc, nhà cửa góp phần nuôi sống con người, nền văn minh hôm nay chỉ dẫn chúng ta đến đấy – chúng ta tranh giành, sàng lọc, vật lộn vì thể xác hữu hình đang tồn tại, đầy ham muốn. Thằng người thứ hai nhỏ bé còm cõi trong ta đang ủ rũ nhìn mình, nó chẳng có tiếng nói trong căn nhà thể xác! Con người sinh ra từ đâu? Có lẽ từ một khoảng vô hình vô ảnh tràn ngập đam mê giữa hồn cha và mẹ hòa đồng mà sinh sôi ra hắn – trong sự giao hòa tâm linh ấy, có một linh hồn nhỏ bé hiện lên hun đúc thành thằng người thể xác hôm nay. Nhân loại nắm bắt lấy hắn và hắn khát thèm nắm bắt nhân loại. Mọi vật chất như tìm đến nhau mà tụ hội – thể xác tìm thể xác, khát thèm tìm khát thèm – một sự giống nhau đến hãi hùng, khủng khiếp, để đến chiều nay – tại quán bia này hắn tự hỏi? – Ta là ai? Trong cả quần thể loài người giống nhau đến vậy! – Cùng chung mục đích, đồng nhất sở cầu, khát thèm vươn tới một cái đích giống nhau. Nếu tất cả đều chỉ là giọt nước thì đời hắn là vô nghĩa – vô nghĩa đến hãi hùng! Vậy hắn là ai? Có một thứ vĩnh viễn không đồng dấu đó là linh hồn – nó như dấu âm dương mà làm nên khác biệt. Có một thời người ta kêu gào uốn nắn mọi người giống nhau – giống nhau như đúc, liền mạch liền khối để tạo thành sức mạnh – một gã khổng lồ con người – nhưng nghe chừng thằng người ấy thật buồn, chẳng bao giờ hoàn thiện, khối óc vĩ đại của hắn cứ tán loạn lên, điên điên, khùng khùng mới lạ… chẳng làm nên chuyện gì đáng giá, gã cứ lủi thủi như cây cần cẩu hay cái máy xúc ở đời, thật rõ vô vị - chỉ có thể xác mới cần đến tiếng nói chung – chính là sự thèm khát, có lẽ đó là nửa giống nhau hòa thành biển cả. Hắn thường suy ngẫm – tại sao những người già khi họ đi gần hết cuộc đời – hạnh phúc chẳng còn là những khát thèm vật chất nữa – họ về với đức Phật mà tìm lại nửa kia đời mình, cả người giàu có cũng vậy. Sau tột đỉnh là gì? Có một sự chống rỗng đến kinh hãi đang chờ đợi họ. Tất cả đều sợ mất của cải hữu hình, vì suốt đời người chúng ta lăn lộn vì nó mà quên đi nửa kia vô hình. Sự vật vã tìm lại nửa kia đã trôi qua màng lọc.
          Trước bàn hắn một đứa trẻ năm, sáu tuổi đứng lặng lẽ chìa tay đợi chờ, nó chẳng dám cất nên lời, một bàn tay non dại, hư không buồn như chiếc lá, sự cầu khẩn thay lời trong mắt nó như nói với gã – Ông ơi cháu đói! – hắn lặng lẽ đặt vào tay nó đồng bạc – nó im lặng cúi đầu cảm ơn – trả lại cho hắn sự thanh thản – hắn hài lòng về ảo ảnh vừa qua, nó như một thứ vô hình nào đó còn mắc lại trong lòng hắn không trôi qua màng lọc, có thể linh hồn hắn vẫn rớt lại đâu đó trong thân xác nhơ nhớp này, đang cựa mình thức dậy sau nhiều năm mê sảng.
2002


Dòng Sông Giun
 
Trong đêm hắn lặng lẽ mò tìm bật lửa, cơn buồn ngủ còn trĩu trên đôi mắt, bóng tối trong đầu và bên ngoài như bện vào nhau muốn đè hắn xuống, tay sờ soạng, đầu lắc lắc trong đêm, cơn buồn ngủ qua đi khi ánh sáng lóe lên từ đầu máy lửa, một tia sáng nhỏ nhoi như bừng thức trong đầu hắn một ngày mới phải sống. Đời hắn bắt đầu từ đấy… Khi ngọn lửa thắp lên trong óc nửa tỉnh nửa mê là hắn phải vùng dậy lần tìm bật lửa mà đốt cháy lên một ngày – một ngày mới không làm sao thoát nổi. Chân đá mớ chăn màn vào góc, hắn mò mẫm lật đật xuống thang, tia sáng run rẩy như bóng hắn chập chờn muốn tắt, tiếng cọt kẹt của những bậc thang khô cằn như mọt gặm, đêm tịch lặng chợt gằn lên những âm ba sự sống, một bức họa nền đen và ánh lửa, có lẽ vạn vật đều bắt đầu như thế… Một ngày chưa đến, nhưng nó sắp đến kia, rất gần, chỉ vài tiếng nữa thôi, trời lại sáng. Ở đây trong bóng đêm là dĩ vãng… Khi ngọn lửa thắp lên là tương lai, một ngày mới hiện sinh đời hắn, ngọn lửa non đầu máy lửa, ánh mặt trời nửa tỉnh nửa mê lay đời người thức dậy. Bật đèn bếp, chiếc xe máy honda màu đỏ cũ kĩ hiện lên như chú ngựa già đứng đợi. Hắn mau lẹ buộc chiếc thùng nhựa vào sau yên xe, cẩn thận cài chiếc vợt may bằng vải màn tuyn Mỹ trên mặt thùng, cán vợt thòi về phía sau như cái đuôi cá mực, hắn hài lòng vì mọi việc chuẩn bị đã hoàn tất, lặng lẽ quay lên gác, hắn bật đèn buồng chính gọi thằng con dậy đi làm.
Thằng bé nằm còng queo ở cuối phòng, bên chiếc bể cá cảnh rõ lớn, dài như cỗ quan tài bằng kính. Lũ cá thần tiên bắt ánh sáng đèn căng vây lượn lờ khoe vẩy, những bộ cánh sọc vằn óng ánh lộng lẫy như bay trong làn nước, chúng nhao đến bên quả cầu giun bồng bềnh đưa đẩy. Những con giun nhỏ bằng cây kim bện vào nhau thành khối, tròn vo, ngoe nguẩy trên đĩa như một thứ đồ trang sức bầy trong bể cá cảnh, đó là sự sống cho bầy cá và là sự sống cho cả làng nghề nuôi cá cảnh. Ở đâu có giun ở đó người ta tìm đến, từng đoàn người nối đuôi nhau lần mò suốt ngày đêm. Loài giun nhỏ này sống và sinh sản ở những vùng nước nhơ bẩn nhất, trong những cống rãnh của những nhà vệ sinh công cộng trong thành phố. Dưới làn nước lờ đờ chảy, những đám giun bện vào nhau thành những lợt thảm đỏ ngoe nguẩy, người ta dùng vợt hớt lấy những đám giun ấy, lắc vợt trong nước cống hôi thối cho bùn tan bớt đi, đọng lại trong đáy vợt là lũ giun lẫn bùn nhão nhoẹt bẩn thỉu, đó là thứ sản phẩm mà làng cá phải làm. Ở đâu càng bẩn - ở đó càng nhiều giun, tất cả mọi cống rãnh bẩn thỉu trong nội ngoại thành phố đều có họ túc trực hàng ngày. Hàng vạn chiếc bể nuôi cá cảnh trong thành phố như những chiếc miệng há hốc đói khát đang chờ họ. Năm nghìn một bơ rồi lên đến cả mười nghìn mà nhu cầu vẫn không đủ. Ở làng hắn bỗng sinh ra hai nghề: Nghề nuôi cá và nghề hớt giun. Đi hớt giun lãi suất bằng nghề nuôi cá, nhưng nghề hớt giun nghe chừng không sạch sẽ và cao quý bằng nghề nuôi cá, nên những người đi hớt gium bao giờ cũng ngụy trang bằng vài ba bể cá cảnh cho đỡ tủi mà nhiều khi sinh lợi đôi đường, nhưng họ vẫn thích nghề hớt giun hơn vì vừa có mồi nuôi cá, còn bán được tiền tươi mà nuôi sống gia đình, nếu không may thất bại về con cá thì có giun để mà sống. Mà khi đã có lợi thì sinh ra giành giật – người dân Nam ta xưa nay bao giờ chẳng thế, những người nghèo tính thời gian bằng ngày, bằng tháng, cứ ngăn ngắn đoạn một mà cộng lại thành đời. Khi tiếng gà chưa gáy, màn đêm còn đang ngủ, họ - những người thợ hớt giun đã len lén mà dậy… phải thật nhẹ nhàng ít tiếng động, phải thật lặng lẽ kẻo ông hàng xóm cùng nghề phát giác thì hỏng, họ lặng lẽ dắt xe máy tới cổng làng và nổ máy chạy như bị ma đuổi.
Hôm nay cũng như mọi ngày, vẫn vậy, hắn lay thằng con dậy – thằng bé độ mười lăm, mười sáu tuổi, cằn nhằn choàng dậy như vừa phải bỏng, đàn cá thần tiên trong bể kề bên chỗ nó nằm nhởn nhơ vẫy lượn, những vằn sọc thanh cao như bay trong làn nước, thằng bé dụi mắt nhìn đàn cá… Lẵng lẹ vùng đứng dậy, nó đã hiểu hai bố con phải làm gì. Ngoài trời cái rét mùa đông còn chưa nguôi, hai bố con mặc vội bộ quần áo lao động lặng lẽ lên đường – Hôm nay hớt đâu bố? – Sấu Giá – nói khẽ đi mày. Thằng bé như tỉnh hẳn, co ro ngồi sau xe, tựa lưng vào thùng nhựa và cứ thế hắn phi thục mạng.
Đối với hắn, dòng sông Hồng chảy từ đâu về qua thành phố? Rồi sẽ qua những đâu? Hắn cóc cần biết! Hãy kệ mẹ dòng sông cho nó thả sức mà chảy, kể cả mưa nắng bốn phổi, hắn coi như bỏ, còn ngày nào hay ngày ấy, đối với hắn cóc cần, hắn luôn tự an ủi mình – ngồi tù còn chẳng chết thì lao động còn lâu mới quật nổi hắn. Hai thằng con, một đứa bỏ học theo bố đi làm, thằng em đang lẽo đẽo học phổ thông, hàng tháng cứ đần đồn vì lo xin tiền học, vợ hắn gầy yếu vừa mổ cắt hai phần ba dạ dày và có lẽ cái nghề cá cảnh, hớt giun sinh ra từ đấy. Hắn muốn vợ nuôi vài ba bể cá, vừa đỡ buồn lại có tiền, nên bố con hắn quyết định vào nghề, vài bể cá khi thay nước hàng ngày đã có ba bố con, vợ hắn lo cho cá ăn và ủ giun. Người không trong nghề thì khỏi phải nghĩ, cứ xỉa năm, mười nghìn là có một bơ giun thả bể, người làm nghề thì khác… Thùng giun nhão nhoẹt thối thá sẽ được sẻ ra làm vài chậu và trên mỗi chậu sẽ được phủ lớp bao tải để ủ, mùi hôi thối sinh nhiệt lũ giun sẽ nhoi lên mặt bùn, kết với nhau thành lớp mỏng, lúc này người hớt giun chính thức được thu hoạch – Họ bóc những lớp giun nổi trên mặt bùn thả vào chậu nước, nếu chậm bóc lũ giun sẽ chết thì hỏng bét – nên cứ nổi đến đâu là phải bóc ngay. Có nhiều khi giun không nổi, người ta phải đặt lên bếp ăn mà đun thì rõ khổ, lũ giun gặp sức nóng của bếp nhoai lên mặt bùn cho bằng hết, nhưng nhược điểm là chúng chỉ sống được vài giờ là phải bỏ, nên nhà nào phải đun là bán tống tháo cho nhanh mà thu về công sức. Đặc diểm chung của những gia đình làm nghề là cái mùi thum thủm, cái mùi thối thum thủm lưu cữu từ năm nọ qua năm kia, người ta phải giấu diếm nhau sản phẩm thu được nên nhiều khi thùng chậu phải ủ vào chỗ kín đáo mùi thối càng bốc lên tợn. Thật rõ khổ - cái lợi ở đời bao giờ cũng vậy, người ta giong duổi, dõi tìm đường đi lối làm của nhau mà xông tới…! Mọi cống rãnh trong thành phố cứ nhan nhản người khai thác, nên kiếm con giun đâu phải dễ - phải nghiên cứu đàng hoàng xem nước cống rãnh sẽ chảy về đâu và đi theo nó mà khai thác. Công việc cứ xa dần – xa mãi đến mười lăm, mười sáu cây số. Ở đó là những dòng sông nhơ bẩn đón nước thải thành phố. Hôm nay hai bố con hắn mò đến đó, trên đường lặng ngắt như tờ, thỉnh thoảng lắm mới thấy người thồ rau trở ngược vào thành phố. Ngồi sau hắn thằng bé co ro nép vào lưng bố.
Lạnh không con? – Không sao bố ạ… - Hắn cố nghiến răng mà dằn cái lạnh trong người.
Chỗ này hôm qua có người hớt được mấy chục bơ – thằng bé nghe phấn chấn hẳn lên – sắp vào chỗ rẽ đấy bố - Biết rồi – Hắn trả lời nhát gừng vì thấm lạnh.
Bố ơi… - Sao? – Con muốn lại đi học. Một thoáng im lặng – Mày nghỉ học năm năm rồi – Xin lại sao được! – Hắn chợt thấy xót xa làm sao, nó như một vết thương không lành lại rỉ máu! – Con sẽ tự học có được không? – Việc đã xong… nhưng chẳng dễ dàng đâu… Một viễn cảnh lờ mờ hiện dần trong tâm chí hắn như mặt nước sông nhờ lấp lánh.
Đến rồi con ạ - Hắn lặng lẽ dừng xe, tháo thùng, hai bố con cởi áo mưa, hắn rút chiếc bánh mì để từ tối hôm trước, bẻ đôi đưa cho thằng bé – ăn đi con cho đỡ lạnh. Thằng bé chừng chạc nuốt mẩu bánh cứng queo không chút thú vị, nhưng nó hiểu trong hoàn cảnh này phải thế, phải ăn – phải ăn thật nhanh mà còn lội nước.
Một dòng sông đen sẫm chảy vắt qua cánh đồng tối sẫm… Hai bố con bắt đầu từ đây, hắn lẩm nhẩm trong miệng như nói với mình. Thằng bé lặng lẽ cởi hết quần áo, gói vào ni lông, cầm thùng vợt lội xuống sông theo bố.
Cái lạnh như cắt vụn từng phần cơ thể, đó là nỗi đau đớn phản về của từng thân xác, người hớt giun hiểu rõ về nỗi buốt giá này, thật nhanh họ đẫm mình ngập cổ và bắt đầu vận động, người còng xuống chỉ để hở cái đầu, toàn thân tì cán vợt, khéo léo hớt lớp bùn trên bề mặt, ở đó có giun ngoi lên kiếm mồi, khi gần đầy vợt, họ nâng miệng lên khỏi mặt nước và lắc cho bùn tan, cho đến khi chỉ còn một cục bùn như quả cam nhão nhoẹt đó là giun mà ta khai thác, họ đổ vào thùng và lại tiếp tục. Cứ thế cái lạnh và nỗi cơ nhục như quấn vào nhau, bố con hắn vật vã trên dòng sông nhơ bẩn, trên cao là bóng đêm và gió, thỉnh thoảng một vài lời trao đổi âm ba méo mó vì giá lạnh. Cái thùng lê theo hắn cứ chìm dần vì sức nặng của bùn giun hớt được. Thằng bé cứ tụt dần lại phía sau nên cứ một quãng hắn lại phải gọi và chờ thằng bé đuổi kịp. Trời dần tảng sáng, trên cánh đồng xơ xác quạnh hưu, xa xa thằng con hắn cố lê thùng lên bờ, nhưng sao thế kia? Thằng bé nằm lăn bên bờ ruộng! Hắn hốt hoảng nhao lên bờ chạy ngược lại – con hắn đang quằn quại trên vũng bùn nhơ nhớp, bụng nó đau từng quặn từng cơn, cứng đờ như gỗ, hắn ôm ghì nó vào ngực, chạy ngược về chỗ để xe, tay hắn run run cầm quần áo khô chà lên người nó như điên dại. Nỗi đau đớn trong trái tim hắn như lửa đốt, mặt thằng bé tái ngắt vì đau đớn, giữa cánh đồng, hai bố con hắn ghì chặt lấy nhau trong cô đơn lạnh giá…! Có một cái nghề luôn chìm sâu tận đáy đó là nghề hớt giun khốn khổ, nó chìm sâu – sâu mãi ở tận đáy cõi đời, họ phải vớt nó lên, vì đó là sự sống ngày mai không thể nào khác được, nỗi trần trụi đến hãi hùng cho từng ngày sống, thời gian của họ như bị mối xông hay mọt gặm mà họ phải lần giở từng ngày trong giá lạnh.
-         Phải về ngay thôi con – hắn thốt lên như gào trong tuyệt vọng, vội vã trùm đúm cho thằng bé đỡ lạnh, dìu nó lên xe – Bố ơi… cái… thùng… - xa xa cái thùng bồng bềnh trôi… Có biết bao dòng sông chảy qua cõi đời nhưng có một dòng sông cơ khổ nhất chảy qua đời người đó là dòng sông giun – vứt bỏ, hắn quả quyết rồ ga như một lời vĩnh biệt.
2005


Cỗ Quan Tài  
 
Căn nhà tôi ở hình dáng như một cỗ quan tài! Quả là một suy nghĩ kỳ lạ - xong thực như vậy, căn phòng đổ bê tông thấp lè tè trông rõ là tù túng – mà tôi đã chết đâu xong rõ là như thế. Hình dáng của căn phòng đúng là như thế. Căn buồng hướng tây nên mỗi khi bạn bè viếng thăm cứ nhoài người ra vì nóng. Căn phòng xây từ thời bao cấp, nó được xây bằng sắt thép và xi măng mua của bọ ăn trộm nên chỉ được đến thế là cùng và tôi đành an phận sống hòa thuận trong nó, cái cỗ quan tài buồng tôi là như thế - mà người Việt Nam trong thời bao cấp ai mà chẳng vậy, nên tôi an phận như mọi người cứ là sống trong cỗ quan tài của mình, lạnh quá cũng chịu và nóng quá thì cũng mặc. Loài người luôn thích nghi trong mọi hoàn cảnh, mà tuổi tôi đã năm ba nên sống trong căn buồng thế này thì cũng tiện. Có nhiều khi suy nghĩ nếu có chết chưa chắc đã được ở đây vì nó còn đắc dụng cho khối kẻ - chết là hết còn làm sao mà cãi cọ nhau được nữa. Cỗ quan tài dành cho người sống vật lộn với nhau tranh giành hơn thiệt, vợ bình đẳng với chồng, con bình đẳng với cha mẹ nên nhiều khi cỗ quan tài của tôi đâm chật chội, đứa nào thắng dành được quan tài – Nên nhiều khi tôi phát sợ – Xã hội bình đẳng gia đình ai cũng như ai cứ già mồm là được thì bỏ mẹ. Nếu cứ thế có lẽ chết chẳng có chỗ mà chôn. Nếu phải lẽ, tôi già cả cỗ quan tài phải là của tôi thì mới đúng… Nhưng cũng có thể vợ tôi sẽ gào lên: Nam nữ bình đẳng, của tôi phải là một nửa, còn các con tôi chắc cũng ấm ức – cõi đời bình đẳng, chẳng lẽ bố mẹ quên phận mình. Một căn phòng thấp lè tè dành cho sống chết, ai giành được nó đây? Trong cõi đời này chỉ có trời mới hiểu – cứ về đi khi chẳng còn đắc dụng, đất sẽ trở che cho loài người muôn thuở. Một thời sống gắn liền với cõi chết như một câu chuyện đùa. Khi mọi thứ là hình khối vật chất, đều được giằng xé, mỗi người một mảnh đều nhau, đó là quy tắc xã hội và tôi không thể chết để được chia phần.
2004
Cơn Ốm
Tặng bác sĩ Nguyễn Trung Linh
 
Tại sao ốm được cơ chứ? – Khi hắn đang còn là cỗ máy vận hành trên cõi đời – Dù rằng là cỗ máy đã cũ xong hắn luôn đinh ninh là hãy còn làm tốt chán, bởi vì hắn vẫn còn bao nỗi đam mê, nào thơ phú, nhạc họa, rượu chè, hút xách, nói chung sở thích cứ phải trồng lên tận nóc nhà có thể còn chưa hết. Sống trong cái thời hiện đại này có ai mà lại không thế? Cho hẳn đến những ông sư hay bà sơ cũng chẳng sao mà thoát khỏi bao sở thích. Thời đại ta như cái bụng đói vừa ăn xong là lại thấy thèm ăn liền, nó cứ như cái véc xi quả bóng, càng thổi càng to mà càng to thì thật là oách, lạy giờ quả bóng thời đại đừng bị châm kim thì thật hoài. Biết bao là hơi sức mới to lớn được đến thế, trông rõ oai vệ và thèm ăn, càng ăn nó càng to lớn… Ước gì nó phải lớn như ông Phù Đổng ở ta thì mới thú… Giặc ngoại xâm cứ nhìn thấy đã đủ sợ… Đối thủ to thế kia thì thật rõ chờn… Mọi người từ già trẻ lớn bé ai ai cũng cảm thấy tự hào vì cái cơ thể khổng lồ thời đại chứa đựng họ, tôi cũng thế - mà tại sao lại không thế cho được – già rồi mà vẫn còn lớn thì sung sướng xiết bao. Tôi cam đoan cùng quý vị thời đại ta có thuốc cải lão hoàn đồng – sở nhà táng cứ đợi đấy chờ mốc mép – Mọi thứ cứ hừng hực vươn lên thì còn lâu loài người mới chết. Có lẽ nghĩa địa bỏ không nên tạo thành cái vườn hoa cho khỏi phí, tôi nghĩ dứt khoát phải là như thế - khi cả nước chẳng ai thèm chết. Có lẽ họ được sống thay cho bao người nằm trên nghĩa địa Trường Sơn cũng nên. Mà nếu là như thế thì bao kẻ chết rồi lại được sống lại trong người khác và họ lại là những kẻ chưa chết… Cứ nghĩ mà thêm thú vị, cả nước chẳng ai chết thì cái nghĩa địa Trường Sơn rồi đây chúng ta cũng nên xóa bỏ. Theo tôi nghĩ, dựng quách một pho tượng ông Thánh Gióng khổng lồ vai khoác ba lô tay cầm cà mèn thì thú vị phải biết. Có thể ai đó sẽ kêu lên phản kháng… Pho tượng Tháng Gióng to như thế phải cầm khẩu lê 40 thì mới hợp. Và tôi xin trả lời ý kiến của họ thật quả là thông minh… Nhưng còn thiếu cái sâu xa của khoa lịch sử nhà nước. Các cụ ta xưa quả là minh mẫn, các cụ nhớ đinh ninh hình ảnh ông Thánh Gióng ở ta tay vác bó mía mà phang quân thù, có thể vừa phang vừa chén cũng nên, vừa đỡ lãng phí mà còn no bụng, cứ thử nghĩ không ăn no thì còn đánh đấm được ai? Khi mọi cuộc chiến tranh trên thế giới đâu đâu cũng chỉ vì ăn mà dầy vò đánh lộn, nên tôi dứt khoát tượng Thánh Gióng ở ta tay phải cầm cái cà mèn thì mới hợp lẽ, ở thời này mọi lẽ phải thích hợp với cái kích cỡ khổng lồ như vậy, mọi thứ không phù hợp là chúng ta bỏ đi liền. Giả dụ như tượng nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa thành đá thì mới khổ, mà chẳng biết ai lại nỡ tô vẽ vớ vẩn đến thế là cùng! Cứ như thời ta không có mày thì tao làm lấy, mà khi đói thì phải có cái ăn là cái chắc – kể cả ăn thịt nốt cả nàng Tô Thị cho bõ bực, và ở ta họ đã làm như thế. Tất cả mọi thứ đều phải thích ứng với cái véc xi thời đại, mọi thứ đều thiết thực như cái dạ dày. Thỉnh thoảng có nốt dò rỉ ở đâu đó cũng chẳng sao đã có miếng vá ngoại quốc hàn gắn tức thì – thật quả là một công nghệ có khác… mọi thứ đã được nghĩ tới trước, những rủi do sẽ được khắc phục tức thì, cả xã hội chỉ việc vươn lên.
Mà tại sao tôi lại ốm được cơ chứ? Khi quanh đây mọi thứ cứ sừng sững vươn lên, có thể ốm đau là chuyện nhỏ, cuộc đời tôi mới là cái lớn, cái đáng kể ở đời. Đang ốm mà vẫn thích thú… mà không sợ ốm, ở thời đại ta ai ai cũng muốn khỏe như nhau và chúng ta hay gọi đó là tầm vóc. Chẳng ai còn dám đáng nhau với ta nữa, mà ta đánh ai cũng thắng. Các bạn thử nghĩ xem niềm tự hào ấy có đáng giá đồng tiền bát gạo không? Mà nếu ta có chết thì hồn ta lại nhập vào thể xác con cái và ta lại sống. Con cái là kiếp sau của cha mẹ, sự oai vệ lại được nhân lên gấp hai gấp ba – quả là thích thú khi đời ta vĩ đại, chẳng còn biết sợ điều gì, cứ lớn mạnh thêm lên từng giờ từng khắc. Lạy giời - quả bóng mỗi ngày mỗi lớn – lớn lên mãi liệu có bị quá sức mà nổ tung ra không? Các nhà bác học có tính đến chuyện này chưa? Nhưng cóc cần quả bóng to lớn xã hội nếu chẳng may có vỡ thì nó lại đầu thai vào thời đại khác – mà đầu thai vào đâu? Điều này cũng làm tôi hơi lo…
Hà Nội, ngày 27 tháng 01 năm 2004


Thời Gian Và Cái Đẹp  

Thời là một quãng thời gian đủ dài dành cho một kiếp. Đại là một khoảng lớn chứa đựng một thời. Và thời đại chỉ đủ lớn dành cho một kiếp người được sống, mọi gói gém là vậy vì khi ta không tồn tại thì mọi thứ cũng qua, mà đã qua thì đó là quá khứ. Thật ít ai buồn nghĩ về quá khứ đó là những điều mà mọi người không còn nếm trải. Chúng ta cần món ăn, cần đủ mọi nhu cầu thăng hoa cõi sống, khi xưa nhợt nhạt, ngày nay son phấn đượm màu, ta làm đẹp mọi thứ khi cõi lòng ta muốn, nào son phấn cho từng khuôn mặt, nào sơn vẽ cho từng ngón chân tay, tựu chung tất cả đều hướng tới một vẻ đẹp cho một thời, một đại. Niềm vui cứ lộng lên cho một cõi tân kỳ, nhưng nhiều khi đẹp quá khiến người ta phát sợ - vẻ đẹp chừng như của ai? Liệu có phải vợ mình không? Hay liệu con nhà ai đấy nhỉ? Quả là đẹp quá đâm phát sợ và người ta chẳng còn biết làm sao nữa khi vẻ đẹp cứ phè phỡ ở trên đời mà lòng người không còn sức chứa. Nước chảy phải có chỗ đựng – cái thùng hay cái vại chẳng hạn – niềm vui như của ai vẻ đẹp như của ai thì rõ buồn cho thân phận. Mọi thứ chừng như cứ khập khiễng chẳng định, nó cứ như đóng đinh không có búa, có gạo chẳng có nồi. Tất cả mọi thứ chẳng cần chứa đựng và tôi chợt ngẫm đến thời đại – “không cần có” và “có cần không”, cả hai thứ đó chứa đựng nhau chúng tự san xẻ mà làm thành cõi sống. Nhưng có nhiều khi có thứ “chẳng cần mà có” và có thứ “chẳng có mà cần” thì mới lạ, có lẽ đó là sự hụt hẫng của một thời. Loài người ao ước đến toàn mĩ – mọi thứ phải là ngô khoai vành vẻ rõ ràng, cõi đời phải là âm dương rành rẽ và tôi chợt thấy mình như trôi tuột đi đâu! Cõi đời trơn tru quá, thật khó bấu víu cho mình tồn tại. Ở đời người ta sống giữa cái mới và cái cũ, quá khứ và tương lai, cái cột mốc nhân loại của ngày hôm nay len luôn vào giữa – một bên đã qua là đã mất – một bên chưa tới là hãy chờ - ở đây chỉ còn cách duy nhất là họ phải tiến lên mà tồn tại, sự sống không phải từ mồm ông hàng xóm nỉ non. Chính ta chỉ có một thời được sống, nên ta là vĩ đại được tồn tại trên đời còn mọi chuyện chỉ là phỉnh phờ hư ảo.
                                                                                                           2004


Nghề Ngớ Ngẩn  
 
Tôi không thích nghề viết văn vì cánh nhà văn chúng ta cứ hay đánh bóng câu chuyện cho đậm đà thêm vẻ. Nó cứ như người phụ nữ mọi vẻ thân xác dường như giống nhau, tất cả đều thế thôi đủ sức hấp dẫn cho cánh đàn ông ngưỡng mộ, nhưng phụ nữ không làm thế - có lẽ nhà văn và phụ nữ hòa đồng giống nhau – phụ nữ sơn phết cho mình rõ đủ thứ nào quần, nào áo, muôn màu muôn vẻ, nên thế giới phụ nữ cứ phúc tạp dần lên làm mờ đi đời họ. Cánh nhà văn thì cũng vậy, họ cũng đánh bóng cho mọi câu chuyện trên đời trong khi sướng khổ cứ thản nhiên tồn tại. Như khi nhậu thì nhà văn cứ hay viết thành ta đi dự tiệc, ta say rượu thì nhà văn nói thành lướt khướt chẳng hạn họ cứ tút tát câu chuyện mịn màng làm sao để dẫn đến những kết cục rõ buồn mới lạ, họ cứ như đưa dần chúng ta về bể khổ không bằng. Chẳng thà cứ vứt quách chúng ta xuống bể khổ có hơn không? Biết bao là chủ đề biểu ngữ, nào là đoàn kết, nào lại đại đồng, nào là tập thể - cứ như thể chưa có những tấm biển ấy loài người chẳng đoàn kết yêu thương nhau không bằng. Tôi cứ lấy ví dụ cách đây mấy năm nhà tôi bị cháy, ngọn lửa cứ bốc lên đùng đùng mới sợ - sợ quá tôi chẳng còn hò hét nổi, cứ hớt hải mà xông vào đống lửa - ở đời có những lúc biến cố kinh khủng đến thế. Chợt ngoảng lại những người hàng xóm quanh tôi đều lặng lẽ dốc lòng xông vào mà dập tan ngọn lửa. Khi đã bình yên tôi tự hỏi mình – tôi với hàng xóm cứ cãi nhau thường xuyên không phân thắng bại, sao lúc hoạn nạn họ không để tôi và nhà cửa cháy trụi cho bõ tức? Chẳng cần biểu ngữ hay văn chương tất cả mọi người đồng tâm xông vào ngọn lửa cứu nhau thì mới quý. Đứng trên đổ vỡ tôi yêu thương mọi người. Bài ca tình người có trước biểu ngữ, có trước văn chương, nó xù xì thô kệch như cỏ cây trong trời – tôi tự hỏi: “Tại sao chúng ta phải thế? Loài người có trước Vua Hùng, Vua Lê… quần chúng tình yêu, khổ đau, công bằng đã có từ lâu. Vạn vật từ ngàn xưa đâu có cần đến nhà văn, nhà thơ mà vẫn tồn tại vĩnh cửu”. Và tội tự hỏi nhà văn, nhà thơ có phải là những nhân vật không thể thiếu trong cõi đời hay không? Theo tôi nghĩ? Đó là những gã rông dài vô tích sự, họ mưu chước mà uốn nắn một cái gì đó ở đời như chậu cây cảnh chẳng hạn – phải sống mà uốn éo theo sở thích kẻ khác – liệu nhà văn, nhà thơ có nên đánh bóng niềm vui hay nỗi buồn nữa không? Họ đang dẫn dắt cõi đời đi đâu khi vạn vật còn đang sống. Thử hỏi – đời họ sống được là bao trên cõi đời vô tận. Thế hệ trước, thế hệ sau đâu là điểm đầu và đâu là điểm chót? Trước sau là lý sự của mấy gã nhà văn cứ đặt ra mà giằn vặt nhau thế thôi – Họ muốn đặt ra một thứ trật tự bóng bảy cho loài người, mà kẻ đắc lợi là họ. Trong khi thiên nhiên vạn vật cứ lặng lẽ trường tồn, mịn màng, xù xì và gai góc. Thiên nhiên chẳng cần dầu nhớt, chẳng cần lịch lãm hay buồn phiền, trong trời có bão có giông nhưng vạn vật có sự cân bằng tình yêu đau khổ. Tôi cứ ngẫm vua Hùng ta xưa vạch ra ranh giới cho muôn đời cháu con thấm khổ. Ranh giới là sự trói buộc khổ đau mà nhà văn là kẻ ru đời thấm khổ. Tôi không thích nghề viết văn là vậy nhưng tôi yêu Đôt-Tôi-Iepki vì ông dùng ngọn bút mà mổ toang hoang cõi đời như con gà, con lợn, mọi thứ cứ tự nhiên làm sao, có lẽ trong đời chỉ có ông là một. Nhân loại hay dựa vào ngày hôm trước mà đoán già đoán non ngày hôm sau vận mệnh. Mọi suy đoán chỉ trói gọn trong vận mệnh con người còn thiên nhiên vẫn sống bình thường hòa thuận, loài người thấm mệt trước bao nhiêu phiền toái khổ đau. Gã con người khổng lồ vật vã với biết bao là thứ văn minh do mình đẻ ra hành hạ. Đỉnh cao của họ là tập thể, họ coi đó là sự liên kết tương hỗ mà làm ra sức mạnh. Tôi lấy một ví dụ về buổi chiều hôm nay, tôi ngồi cùng với anh bạn thân uống cốc bia buổi chiều sau ngày làm mệt mỏi, câu chuyện xoay quanh về cái hố xí tập thể, có lẽ đó là điểm chót của tập thể chúng ta phải làm. Cái hố xí công cộng hai ngăn của khu tập thể. Có một thời cái hố xí là của chung cho mọi người trong khu, bên đầy bịt miệng ủ làm phân bón, bên kia để dùng chung. Cái hố xí bên hỉ, bên xả cứ như hai buồng xi lanh xe máy. Người trong tập thể thì đông mà hố xí thì có hạn, nhưng đời sống phải có trật tự - hàng lối phải cẩn thận – quả thật buồn - ỉa mà có trật tự thì thật khổ, nó không dễ dàng như ta nhổ bãi nước bọt, thải cặn bã phải xếp hàng, tay vần vò nắm giấy thì khổ quá, lạy giời ỉa ngoài đồng rộng rãi và mát mẻ xiết bao. Nhưng cả khu tập thể thì không ai muốn rời bỏ cái mét vuông nhà xí của chung, bởi họ có phần trong cái lỗ tròn tròn nhơ bẩn ấy. Anh bạn tôi là người mới ở nước ngoài về quyết định xây cho gia đình mình một hố xí tại gia, nỗi khổ chung bớt đi một tí và thời gian sau cả khu tập thể đua nhau xây hố xí tại gia cho đỡ khổ. Viết đến đây tôi thấy vui vì nhu cầu xếp hàng đi thải cặn bã không còn nữa, cái hố xí của chung mờ đi trong trí nhớ con người. Họ không đòi phần mình trong mét vuông khổ đau ấy nữa. Mọi người nghĩ sao về chuyện này? Nghe thật nhỏ, xong buồn cười làm vậy nó chẳng cần đến nhà thơ, nhà văn – nhưng mọi thứ cứ nhẹ nhõm mà trở về với trật tự của thiên nhiên vốn có. Liệu những chuyện thế này có nên viết lên không? Người ta cò kè từng lời từng chữ, từng dấu chấm phẩy trong đời, mọi thứ luôn phải chính xác đừng lầm lỡ, cõi đời là chuyện nhỏ, văn phạm là chuyện lớn, nó dường như là cái đỉnh trong nhân gian, nó cứ lẳng lơ mà bay như gió mây trong trời đất. Người ta cắt xén, người ta thêm bớt, cõi đời cứ như tấm vải trước cái kéo của gã thợ may. Hố xí là nơi nhơ bẩn nên thu hẹp mà làm rộng đất cho cộng đồng, đi ỉa xếp hàng, mua thịt xếp hàng, nhưng mọi chịu đựng có lẽ đều chịu thua cái nhu cầu đi thải. Nó giống như câu “Chết mỗi người mỗi mồ”. Nên khi sống – mỗi người mỗi nhà xí thì vô cùng thuận tiện. Tập thể loài người không bằng cái tập thể loài ong, chúng tự nhiên và hòa đồng làm sao, theo tôi nghĩ mọi nhà văn nên viết và ca ngợi về cuộc sống của chúng. Những con ong chăm chỉ hòa mình trong thế giới tự nhiên.
2004
 
Truyện Cười
Tặng anh Nguyễn Huy Thiệp
 
Đã tự lâu lắm rồi người dân Nam ta mới lại có một dịp được cười vui đến thế. Họ cãi vã băm bổ vào mặt nhau chẳng còn thương tiếc chi nữa – mà họ chửi nhau thực sự thì mới vui - ở đâu cũng có chửi, ngoài đường ngoài chợ, trên bến dưới thuyền. Chửi bới như thế thì đời chẳng lạ - đằng này lại là hai nhà văn có học thì mới kinh. Cả thiên hạ đầu tiên ngỡ ngàng, sau trở thành vui thú – mà tại sao lại không chửi được cơ chứ?... Cứ hình dung hai vị như con gà chọi với những cái mỏ sắc rỉa thịt, rỉa lông nhau cho bõ nỗi khát thèm – mà ở đây họ là dân có học, có suy, có nghĩ thì cuộc chiến mới thêm phần long trọng. Bao từ ngữ sắc như dao cứ vùn vụt ra chiêu. Cõi đời thật vui vì đã từ lâu lắm rồi các nhà văn Nam ta chỉ cần cù suy ngẫm mà viết lách, nhà nào biết nhà ấy chứ đâu có chửi nhau bao giờ… Ấy thế mà hôm nay họ chửi nhau mới lạ. Họ phanh thây mổ ruột nhau trên trang báo, giữa ban ngày ban mặt cho cả thiên hạ cùng nhìn, cùng nghe. Và họ chửi mấy ngày liền cho hả - thế rồi có anh chịu chẳng nổi cũng lên tiếng chửi lại cho bõ tức cõi lòng, bao từ ngữ lâu ngày chẳng dùng vào việc gì, nay có dịp tung ra mà báng bổ. Theo tôi nghĩ quả là hay, vì không thế thì cánh làng văn ta êm ả quá, cứ như là đi trên biển thuyền không có sóng, đi trong cõi chẳng có nắng mưa. Rõ thật vui ở đâu có cặp gà chọi người ta sẽ bu đến vòng trong vòng ngoài xem cho bõ thèm đôi mắt, và cải thiện trí tưởng tượng sắp mờ. Hôm nay cầm trang báo không còn cái sự đều đều như mọi khi, ta háo hức như vào sới xem gà chọi. Người ta lách đòn vào những điểm yếu của nhau mà dùi mũi thương chí mạng, loài gà thì có cái mỏ, đôi cựa, nhà văn thì có ngọn bút và sự toan tính. Họ cứ lần lượt thay nhau mà chửi, người nọ chửi xong người kia chửi lại. Dứt khooát hơn hẳn ngoài chợ là họ không xông vào nhau mà chửi lộn xăm xỉa cho bõ thèm căm uất. Người chửi, người nghỉ có thứ tự đàng hoàng – Rõ là dân có học, nên nhiều khi thiên hạ cứ thấp thỏm đợi chờ mà như thế càng thêm phần thú vị. Chẳng hiểu gã chửi sau có chiêu thức gì mới hơn không? Nào là lừa đảo – Nào là bịp bợm, nào là sảo trá và tất cả các kiểu từ ngữ nhất đời họ đều sử dụng mà choang nhau cho bõ cơn thịnh nộ. Mà có lẽ cũng phải – họ chửi từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên – ông bà tổ tiên họ lôi ra mà báng bổ thì mới thú. Mà họ chửi cũng có lý – đến vua Hùng ta xưa còn khai man đến cả ngàn năm tuổi, cụ Nguyễn Trãi viết hịch làm thơ mà dân ta có bớt chinh chiến nữa đâu, vẫn cứ giặc Tàu, giặc Pháp, giặc Mỹ, cụ Nguyễn Du viết Kiều thì dân ta có bớt được lắm nàng Kiều đang lăn lộn trong các lầu xanh cả nước, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có làm bớt đi sự háu gái của cánh đàn ông chúng ta hay không? Theo tôi nghĩ anh ta chửi cũng có cái phải – Nhưng rồi nghĩ lại người ta chửi lại cho thì cũng đúng – đã tồi đã xấu như thế sao không im quách đi cho lòng đỡ khổ có hơn không? Nhưng tựu chung khi đã tức thì chẳng cần phải nghĩ! Người ta mang lờ ra mà gí vào mồm vào mặt nhau thì mới thực là thú vị. Tôi chẳng dám nói sai vì thơ là cao quý thường ở trong đầu trên đỉnh mà người ta gí lờ vào thơ thì có khác chi là gí vào mồm vào mặt nhau nữa? Quả là thú vị, họ đã tạo ra con sóng chập chờn xô vào bờ nọ, rồi lộn lại đập vào bờ kia, cứ như hai anh thợ xẻ đang cò cử mà phanh đôi thỏi gỗ cõi đời, và chúng ta là những độc giả đang lãng phí thời gian mà nhìn ngắm họ, nhưng chẳng sao tối thiếu là họ đã kéo xẻ và có thể đó là bài học mà hai nhà văn dành cho cõi sống chúng ta. Cả hội nhà văn im lặng mà nghe họ chửi nhau thì mới lạ. Chẳng ai còn dám phân định phải trái cho được bề, họ cứ phải vật lộn hoài ngày tháng cho thấu tình đạt lý. Có lẽ kẻ thắng dành về lẽ phải, người thua rước lấy phần sai – Hoan hô gà chọi – cái truyền thống thượng võ xa xưa tiềm ẩn trong lòng dân tộc – Cứ phải chọi cho ra phải trái và nhiều khi người xem đâm sợ! – Nhỡ đâu họ đâm trượt đối thủ, trúng mồm chính mình thì thật gay, tốt hơn hết cứ đứng cho xa nhìn vào trong cuộc sẽ an toàn hơn mà thêm phần thú vị.
          Một chọi một không xong thì hai chọi một, kể cả là ba là bốn miễn rằng cứ phải có kẻ nằm phơi bụng thẳng cẳng đo ván thì mới hả - quả là ngón đòn hội đồng bất khả chiến bại, cứ mỗi người đấm một cái thì ai mà chịu nổi, đối thủ chắc chỉ có mà chết! Nhưng ở đây cuộc chiến là suy ngẫm, là đấu khẩu, là báo chí, tôi tin chắc cũng khó mà đạp chết được nhau. Theo tôi nghĩ cũng lạ, người phán xét phải là độc giả mới phải, nhưng ở đây lại là vở tuồng nhà văn với nàh văn thì mới kỳ quái làm sao. Có thể họ đã chọc vào đâu đó chỗ ngứa của nhau cũng nên. Mà ở ta đã là nhà thơ, nhà văn mà bị diễu cợt thì quả là không thể… Nghề của họ là nghề muốn dẫn dắt mọi người đi đâu đó cho có vẻ - như dẫn dắt trẻ nhỏ qua đường chẳng hạn và họ cảm thấy thích thú vì đã làm như thế. Mà tác dụng ra sao thì họ cóc cần biết. Tất cả cứ phải là đầu sách, niềm tự hào là những cái gáy có chữ găm trên giá trông oai phong lẫm liệt làm sao. Có bán được hay không thì cứ phải hỏi thiên hạ, chả ai dại bỏ tiền mua sách về gói xôi vì họ đã bị nhỡ tàu nhiều chuyến. Mọi thứ dường như đang cũ đi từ lọ mực đến ngòi bút, dân đen làm sao tìm được mình trong họ, tất cả là những chuyện là lạ xa vời… và nhà văn sinh ra ở ta có lẽ là thế.
-         Cứ phải là oai phong lẫm liệt ở đời, nên mặc họ đánh nhau cũng phải, vì họ có đánh thì độc giả mới hả dạ, có đánh nhau thì mọi sự mới được phơi bày cho phải lẽ.
2004
 
Người Về Hưu
Tặng nhà giáo Vương Thị Phương
 
Ngày hôm nay ông cảm thấy mệt nhiều! Cái ánh sáng đầu ngày còn tươi chênh chếch lùa qua ô cửa, căn buồng như bừng thức dậy, vài ba thứ đồ cũ kĩ cũng rõ thêm lên như cựa mình muốn sống. Từ cái giường giẻ quạt đến cái tủ hồ sơ cũ, hai ba cái nồi lỏng chỏng bên cạnh vài cái chai, mọi đồ vật như muốn tỏ rõ cái hồn của nó. Với người già sống hưu trí, mọi thứ dù sơ sài, nhưng rõ thật quý. Mọi vật dụng không thừa mà chỉ vừa đủ, dường như mọi đồ dùng đều có chỗ đứng cần thiết trong đời ông lão, từ cái túi ni lông phòng khi mua lưng canh cũng được rửa ráy sạch sẽ quàng trên song cửa, đến cái chăn rạ từ thời bao cấp cũng có tuổi sống của nó… Cái màu vàng xin xỉn nhão nhoẹt, nhưng gần gũi thân quen làm sao. Có lẽ vì họ ăn chẳng nhiều, mặc không lắm nên mọi nhu cầu chỉ cần vậy, mọi thứ bù đắp vừa đủ cho những lồi lõm đời người.
Căn buồng chín mét vuông, lúc nào cửa ra vào cũng mở cả ngày lẫn đêm. Mất mát ông chẳng sợ - vì có gì đâu mà mất. Nó luôn mở để đón đợi mấy ông bạn cùng tổ hưu tới thăm đỡ phiền hà phải gọi. Có lẽ những người về hưu sống độc thân đều như vậy - cửa luôn mở như đón đợi bao điều… mà chung quy chỉ có họ đón đợi nhau thôi - những kẻ cô đơn sống qua một thời đã mỏi. Họ tụ tập bên bàn cờ, quanh khay nước trà, ngắm nhìn nhau mà sống, bao câu chuyện đời thường sẻ chia mà ngẫm ngợi… họ kể lể cho nhau biết bao điều buồn vui, khốn khó. Con người về hưu là vậy - căn nhà, cái giường và vài thứ vật dụng, những bước chân luẩn quẩn qua ngày - Dường như, vạn sự đời người vo lại trong căn buồng nhỏ bé. Thế hệ trẻ không muốn gần họ nữa, mọi thứ cứ phải đi như quần áo hay tuổi già của họ.
Cái mệt hôm nay nhiều hơn, đầu óc ông váng vất như muốn ngã. Dường như máu trong cơ thể muốn sôi lên dâng tràn lên não làm mắt ông mờ đi, mọi vật nhập nhèm rõ khó chịu. Ông cố gắng đi lại cho có vận động nhưng mấy lần suýt ngã. Cái bệnh huyết áp thật quái ác, chẳng khác gì cái ách gông lấy tuổi già, nó như trói chân, trói tay ông lại. Một thoáng tư lự - thôi cũng đành - cứ nằm xuống nền cho chắc - rải chăn chiếu xuống đất ngả lưng đỡ mỏi - cứ thế này là chắc nhất, chẳng còn ngã vào đâu được. Tuổi già cứ thấp dần đi, cận kề mặt đất! Có lẽ lúc đó họ nhìn thấy thật nhiều và nghĩ ra rõ lắm, cả không gian hiện lên… Như quên khuấy mất họ. Chẳng mấy bận lòng về ai nữa nên cái nhìn của họ thấu suốt làm sao… Cái nhìn không ôm đồm, chẳng bề bộn, bon chen, cái nhìn của kẻ bên lề nhòm vào cõi sống. Căn buồng ông ở bỗng tẻ ngắt làm sao, có thể lần đầu ông cảm thấy thấm thía như vậy… Vẫn tia nắng sáng ra vào cửa sổ, chiếc giường cá nhân có lẽ cũng đang già đi… Trên tường mấy tờ lịch treo cong queo vàng ệch, năm tháng chẳng còn bao ý nghĩa. Thời gian được gạch đít cho từng ngày cần nhớ trong tháng, trong năm - ngày giỗ cha mẹ, ngày lĩnh lương hưu, ngày cháu nội về chơi, còn lại mọi ngày như nhau - ngày tháng của những người hưu trí - nhưng cỗ máy ọc ạch già nua lần mò trong cõi sống. Bài ca của họ đã một thời vang lên trong khốn khổ để hôm nay dần dần lặng tắt trong âm thầm đau đớn.
Yên tĩnh quá, ông nghe thấy cả tiếng bánh xe nghiến trên đường phố, tiếng những bước chân, tiếng chào mời rao bán… Sự sống như bay vút lên tầng tư nơi ông đang nằm trăn trở.
Đã là người phải đứng ở đâu chứ? Một câu tự vấn của người già - một câu tự hỏi không có đáp số. Thời gian tỷ lệ nghịch với đời người, nó cứ dài ra bên đời người đang dần dần co lại. Cả vạn vật đang dần dần co lại trong già nua tuổi tác, như căn phòng, đồ vật và cả ông nữa cũng đang cũ dần, cũ dần chẳng còn hương sắc sự sống. Trong cõi đời này vật chất là đời người, vì thân xác hữu hình nên nó là vật chất, để đến một ngày ta đi ra khỏi nó.
Ông nằm lặng dán mình trên nền đất mơ hồ nghe tiếng đời trôi với nỗi ao ước trước cửa phòng mình sẽ có bước chân ai dừng lại! Niềm ao ước như bài ca sám hối cho tuổi già, những nỗi khổ đau của đời ông như đúc lại thành cây nến mà đốt lên ngọn lửa cháy bừng biết bao điều nghĩ ngợi, với ông sẽ chẳng còn khái niệm vật chất nữa, dòng thời gian trôi qua thấm thía làm sao, họ như thấy được nó trôi qua từng ngày không trở lại, sự sống chỉ còn tiếng vọng rã rời, khi người ta không còn đỡ nổi chính mình thì tuổi già đã đến, tuổi già là gánh nặng đè lên thân xác! Bao suy ngẫm đưa ông vào giấc ngủ…
Trong giấc ngủ chập chờn, bỗng ông có cảm giác một vật gì mềm mại nồng ấm đang lướt trên mặt mình. Ông lão choàng tỉnh giấc, trước mắt ông là con chó Ca phi của nhà ông bạn đang mừng rỡ chồm lên đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp lại vái vái thi lễ với chủ nhà. Trong lòng ông bừng lên một niềm vui mới sau giấc ngủ. – Bác thấy không, chó với má – nó cứ như dắt tôi đến nhà bác không bằng, mình vừa lẩm nhẩm là sang bác nó đã chạy liền, ông Vân bạn cùng tổ hưu tất tưởi bước qua ngưỡng cửa.
-      Sao thế kia? Ai bắt ông nằm đất trông mà thảm hại thế!
-      “Đầu óc cứ choáng váng tôi lê chăn chiếu xuống đất” – Ông đáp.
Họ nhìn nhau lặng lẽ lắc đầu, con chó cào vào tay chủ như nhắc ông chiếc bánh. – À tôi mua biếu bác chiếc bánh giò nóng – mua ngay dưới tầng. Ông lặng lẽ đứng lên tìm bát – ăn đi ông, bọn mình răng kém ăn bánh giò lại hay – Cảm ơn bác, để tôi pha ấm trà cái đã – ông lật đật tìm ấm – bác Khởi ạ - bác Vện cùng tổ chết rồi – chết ngày hôm kia. Ông lão sửng sốt nhìn khách – hôm đó tôi định sang rủ bác ấy sang đây chơi, thấy cửa mở, gọi chẳng có ai, vào nhà bác ấy nằm còng queo dưới chân cầu thang, cũng may con Ca phi nó sủa loạn lên tôi mới vào. Lúc ấy bác ta chưa chết đâu, đau đớn lắm, bác ta còn cố rút cái ví ở túi ngực đưa cho tôi – biếu anh tôi chẳng cần nữa… Đến trưa thì bác ấy mất, có lẽ cố đợi mấy thằng con… Ngẫm bọn chúng cũng đoảng… tôi gọi điện ngay nhưng chúng đang mắc việc cơ quan gì đó… Mãi tới lúc bá ấy sắp mất anh em nó mới về - mà cũng may cả ba đứa cùng có mặt. Cứ nhớ lúc sống bác ấy hay phàn nàn là chẳng bao giờ gặp cả ba đứa một lúc. Nhiều khi tôi cứ ngẫm… Thật rõ cái thời khốn khổ, nhà nào chẳng thế… Đâu đâu cũng chỉ lo lắng chuyện kiếm tiền. Lũ trẻ thời này đứa nào cũng vậy cứ quẳng cho bố mẹ ít tiền rồi chúng biến ngay, chẳng đứa nào thiết ngó xem bố mẹ có còn răng lợi gì không mà gặm mấy đồng tiền ấy. Anh có biết không… tôi phải bế anh ấy lên giường… rồi ngồi chờ cả buổi sáng mới nẫu ruột – cứ như trên đời chẳng còn ai sống nữa không bằng. Tôi trả lại cái ví. Chúng nó cứ nhìn như hỏi mình có lấy trộm hay không mới buồn. Chúng có hiểu đâu rằng, người già ăn sao nổi những đồng tiền đau đớn đến thế… mà chúng là dân có học cơ chứ! Đứa luật sư, thằng nhà báo thì mới ức Bác Khởi ạ… thời này chúng nó là như thế!... Cứ phải kiếm tiền nhiều, thật nhiều tiền thì chúng mới sống nổi. Ông lão xẻ cho con chó tí bánh, nó nằm phủ phục bên cái đĩa, đuôi ngoáy tít, mắt hau háu nhìn chủ - Đấy… có một tẹo mà anh lại còn cho nó. Nằm im… có để cho chúng tao yên không? Bàn tay ông vuốt trên bộ lông trắng đã có chỗ ngả vàng. Nó ư ử như nũng nịu. – Ông ạ… cứ ngẫm loài vật nó còn có tình… con này nó theo tôi mười mấy năm rồi còn gì… Tay ông vuốt ve trên đầu nó – Mỗi khi cứ nhìn lên mái nhà là lại nhớ đến nó… lứa đẻ đầu tiên được bốn con màu trắng toát… Thế là tôi đủ tiền đổ cái mái. Cứ ngẫm có lao động cả đời cũng chẳng đủ tiền mà làm được. Mà nó nuôi con khéo lắm bác ạ… Sáng ra bốn chú chó con như phép lạ trời cho… Nó tự đẻ, tự cắn rau, không kêu rên, liếm láp tinh tươm mới giỏi… Mà đúng là cái vận trời cho ông ạ! Nhà tôi hồi ấy đau khổ lắm… quả từ cái vận chó mà thành người. Xe máy thằng lớn, thằng bé đều từ chó mà ra. Cũng có thể kiếp trước mình là chó cũng nên… sang kiếp này chúng hiện về cứu giúp! Ông lẩm nhẩm như tự nói với mình. Câu chuyện về con chó ông nhắc đi nhắc lại đã bao lần… Ông cứ kể, cứ kể như lần đầu mới nói. Con chó nằm bên cạnh đầu ghếch lên đùi ông, mắt tròn xoe, ra chừng cũng hiểu, thỉnh thoảng nó lại liếm chân tay ông như cổ động cho câu chuyện đậm đà. Bác ạ… thế rồi cái thời chó đẻ cũng qua đi, chẳng mấy ai cần chó nữa, họ chỉ mua chó thịt – mắt ông già long lên vì bực tức – tôi không nuôi chó đẻ nữa… bán cho lũ người ấy thêm hoài chó. Ông ôm gọn con Ca phi trong lòng như thách thức với ai đó… Trong mắt ông, sau cặp kính một nỗi buồn ẩm thấp nhạt nhòa khơi lên – Sau cái thời chó má ông ạ… nhà tôi mất! Hai thằng con xin ra ở riêng… chúng dứt khoát không mang theo con chó… vì vợ nó sợ hôi sợ bẩn, mặc thằng cháu nội tôi với con chó chơi với nhau như đôi bạn… Mà cũng may… không thì tôi chỉ còn có một mình… Ông bỏ kính lén lau nước mắt. Ông Khởi ạ… tôi ăn cùng chó, ngủ cạnh chó, đi chơi cùng chó – Một niềm vui nhỏ nhoi như nhóm lửa trong ông bên nỗi đau hằn vết trong trái tim người già. Buồn vui như hiện hình trong thời gian cháy dở, khi đời họ đang lún xuống trong tháng ngày vô định. Họ! Những người già đã đi qua một thời đang chìm dần trong cái bóng của mình.
-         Tôi phải về thôi – lời ông nói như trĩu xuống, vừa như lời chào chủ nhà vừa như tự nói với mình.
-        Bác đã đi đâu mà vội thế? – Suốt từ sáng đến giờ nhà tôi đâu có ai trông, à… ngày mai bác có đi đưa đám bác Vện được không? Người mệt thế này… để tôi nói với các bác cùng tổ thông cảm – Không sao đâu… tôi thế nào cũng phải đi, tôi với bác ấy có nhiều duyên nợ với nhau lắm.
-        Họ chia tay trong bao điều nghĩ dở… Những bước chân ông bạn và tiếng chó nhấm nhẳng cứ xa dần, nỗi cô đơn âm thầm khép lại…
“Ước gì mình có con chó như bác ấy’’. Một thoáng suy tư lướt qua đầu ông lão.
Tang lễ hôm nay đông lắm, chật ních những người. Ông lão phải nằm đấy cả ba ngày chờ người về thăm viếng. Bao bè bạn của con cái từ mấy miền hay tin nếu không về được cũng gửi điện chia buồn, gửi đồ phúng viếng. Nghe nói các đoàn từ trung ương cũng cử người về dự lễ tang. Mọi người ngạc nhiên vì cháu con ông Vện đông đến thế, cứ nhan nhản toàn những khăn xô. Ba anh con trai và mấy nàng dâu mặc áo xô đầu đội khăn cứ chạy ngược chạy xuôi cảm ơn những đoàn thể và bạn bè đến chia buồn thăm viếng, nào trướng nào hoa cứ nườm nượp người mang tới.
Cỗ quan tài sơn son thếp vàng uy nghi đặt giữa phòng khách. Bên trên là ảnh ông Vện với nụ cười đôn hậu. Mọi người ai cũng bảo bức ảnh tươi quá, có người lại bảo bức ảnh rõ đang vui - mà tươi hay vui thì cũng phải… Ngày đưa đám ông mà đông đủ cháu con bè bạn đến như vậy thì dẫu có xuống mồ cũng còn cảm thấy hơi ấm ở đời. Bức ảnh có cũ nhưng cũng còn tươm chán. Bảy, tám năm nay ông lão có chụp cái ảnh nào đâu… mà nếu có ảnh mới – cũng xin lỗi người chết - ảnh ông sẽ không đẹp bằng… vì từ lâu hai hàm răng ông hầu như rụng cả nên hai má cứ hóp lại trông khắc khổ đến não lòng. Con cháu treo cái ảnh kia người chết trông “hoành tráng” hơn đến mấy phần. Bên dưới bức ảnh là cả dàn huân, huy chương, dễ có đến chục cái nên bức ảnh càng được tôn lên cái vẻ bề thế của người đã khuất. Trên nóc áo quan là hai hàng nến đỏ sáng lung linh ôm lấy bát cơm quả trứng, hương khói lênh đênh hòa quyện với ánh sáng run rẩy của hai hàng nến tạo cho ta thấy cảm giác cỗ quan như con thuyền đang bồng bềnh trôi về đâu đó. Phía trước áo quan là cái bàn phủ khăn trắng, bên trên đặt bát hương và ba cái mâm để tiền phúng viếng. Dọc theo hai bên quan tài, bên phải là phường bát âm, bên trái là con cháu và gia đình đứng đáp lễ mọi người về thăm viếng. Tiếng kèn, trống cất lên khi mọi người tiến vào phúng viếng. Họ đặt lễ thắp hương vĩnh biệt người đã khuất, đi vòng quanh áo quan nhìn mặt người chết lần cuối trong những âm thanh não nề như miết vào lòng người đang sống. Họ siết tay chia buồn với gia đình và những tiếng khóc nhịp nhàng cất lên thay lời cảm tạ bao tấm lòng bè bạn tìm về thăm viếng.
Cõi sống và đời người, rộng lớn như căn nhà chứa đựng hạt cát, khi linh hồn cảm nhận được hơi ấm và sự no đủ của nó thì sự sống của họ đã qua bờ. Sự sống là chân lí bên đời người phi lí làm sao! Tiếng kèn trống cất lên như lời dụ dỗ biết bao ngườ đang sống… Người chết mọi giác quan đã ngủ yên… tiếng mõ ấy tiếng kèn kia như đùa cợt cõi đời ru ngủ - giữa bát ngát thinh không, linh hồn sẽ thoát đi bỏ mặc lại cõi đời khổ đau bề bộn. Khi cõi sống sa thải họ… không muốn nhìn thấy họ nữa… cái đời người “quá đát” – hãy về đi… bao nhan khói, những dòng nước mắt chợt ngưng chợt chảy, bao âm ba lời nói chợt buồn chợt vui. Những gương mặt chợt sáng chợt tối, đó là cõi đời! Hãy đến đây – hãy về đây mà nhìn, mà ngó khi hồn người lìa xác – Cõi thinh không của một đời người – Một bài ca không còn sóng vỗ, tất cả chỉ còn là yên lặng – im lặng và im lặng – hãy về đi – về đi.
Có lẽ đoàn các cụ là cuối cùng của dòng người thăm viếng. Có thể vì đông quá, bề thế quá, nên các cụ cũng đành nán lại vào sau, mà cũng đành… Tuổi già chẳng đi đâu mà vội, nên các cụ cứ lặng lẽ tụ tập đứng chờ - mà chờ một người bạn già thì mọi lẽ cứ nhẹ nhõm làm sao – Các cụ cảm thấy kiêu hãnh, thú vị cho kiếp sống của bạn mình – Đông thế - đông lắm – phải thế chứ… anh ấy sinh thời quan hệ rộng, nên lúc chết mới lồng lộng thế này… cứ dòng dòng toàn người với vòng hoa… Ngẫm có chết thì cũng đáng, vạn sự như nêm lấy một đời người như vậy cũng bõ – cũng bõ đã được sống làm người – Mọi chỗ cứ hầm hập hỉ xả, hòa quện vào nhau trong tình nghĩa mất còn – Cõi sống rạo rực bên cỗ quan tài thắp lửa. Các cụ cứ ngẫm mà thấy thèm… Xác chết như cái thước đo, thập thò, dài ngắn. Sự hữu ích của một đời người có lẽ là thế - khi chẳng còn mưu sinh vẫn dậy mùi cõi sống! Sự lèn bén đâu đây như chừng đang thức dậy, như nhón lửa đầu nén hương lặng thầm gặm nhấm. Cõi sống như chợt say, chợt tỉnh, chợt buồn, chợt vui, nó hiện sinh như mớ rau buộc túm, như còng hoa kết lại nụ cười… Tất cả dường như phó mặc đời người có sinh, có diệt, có đến, có đi, nỗi đau đớn khả ái còn bừng thức trên từng gương mặt, chảy thành lời nói mà khoan, mà vít cõi đời trong tang lễ - Mọi thứ như vón lại, đầy ắp hương hoa, bổng lộc, nghĩa tình, bao bề bộn chất ngất như khoanh lại một sự sống hư vô… đời người có lõi, mấy ai đào sâu mà nhìn thấy được – Ta chợt thấy buồn thấy vui – ta vui vì cuộc đời còn dở… ta buồn vì sự sống đã qua… Có một thứ gì đó ngấp nghé bờ vực trong cái nhìn các cụ - nó dở khóc dở cười như đời người hưu trí. Họ thương yêu đùm bọc một thứ gì đó… và chỉ thế thôi – họ tự thương mình khi cõi đời đang dần dần quên họ. Sự chết đâu phải là cái lõi! Cuộn chỉ cứ quay và cứ nhả, dòng thời gian lúc thít lúc buông. Người già hiểu nó như đường tơ kẽ tóc, có đấy và mất đấy. Chẳng hẹn hò sao lòng họ vẫn thương nhau – Họ tề tựu bên cái chết mà chia tình sẻ nghĩa. Người chết như đang sống lại bên bàn cờ với bao vui buồn một thuở, nhỏ bé thôi… là hàng ngày họ có nhau và họ chỉ còn thế, cả cõi sống dường như thu nhỏ lại khi đời người già cỗi – sự cô đọng lãng quên trong dòng chảy cõi đời. Sự mê muội chảy trong mê muội. Dòng tuần hoàn lặng lẽ buồn trôi… Có một lúc nào đó văn chương như một gã say chạy theo thời gian mà gạ gẫm, vẽ vời về một thứ gì đó đã qua – nhưng cũng chỉ thế thôi… như son phấn điểm tô bờ vực.
Họ túm tụm bên nhau, mỗi người mang đến một hoài niệm về người đã khuất, họ như nói với người chết, vừa như nói với ai đó quanh đây về những tưởng niệm một thời.
-         Bác có thấy không…? Đời người chỉ vèo một cái là biến mất tăm… - ông lão đứng bên buồn bã nói – ông Vân dáng vẻ tần ngần, tay mân mê sợi xích con chó – Cái gì rồi chẳng phải biến hả bác… Ở đời xưa nay vẫn thế. Tôi cứ nhớ hồi bác Vện chưa nghỉ hưu, nhà cửa cứ tấp nập những khách là khách – ông lặng lẽ giật xích con chó như người đang mộng du, con chó lặng lẽ nép vào chân chủ - rồi người đến cứ thưa dần, thưa dần, chẳng còn ai nữa… giọng ông trĩu xuống như kẻ mất hồn – Anh thấy không? – Lời nói như căng ra, sự phẫn nộ như trào lên đâu đó trong ông - Ở đời này là thế, mọi thứ cứ biến dần, biến dần cho đến khi ta chỉ còn trơ trọi ở đời, trụi thùi lụi như con gà vặt lông chỉ còn chờ lên thớt nữa là xong! – Nhà tôi ngay bên cạnh mà… - hiểu trước về sự cô quạnh… nên tôi tìm sang anh ấy… Cuộc đời khi chẳng còn chức quyền thì cũng như ai thôi, cùng chẳng ăn được nhiều, ngủ nghê thì cũng vậy, tiền bạc cũng chẳng màng, không đùm bọc nổi ai nữa… thế là xong, có lẽ đồ vô dụng đều như nhau cả - cõi đời xưa nay là thế... mọi thứ cứ thưa dần thưa dần rồi quên lãnh – anh cứ thử ngẫm… mình cần quái gì cơ chứ… già thì ta lại có kiểu già chứ sao? – ông như tự khẳng định với mình như thế - Tôi quý bác Vện vì anh là người ngay thẳng, chẳng ưa trò ỡm ờ khuất tất – cứ nhớ mãi, có một hôm tôi đến chơi đúng lúc hai bố con anh đang chất vấn nhau về một điều gì đó, cả hai bố con đều là quan chức nhà nước mang trong mình dòng máu của Đảng, tôi nhớ mãi anh con trai lý giải với cha mình: “Ở thời bố Đảng ta khép cửa, vào thời con Đảng mở cửa ra” – “Tao rất ghét ỡm ờ… Mày thử giải thích cho tao thế nào là kép với mở… tao là Đảng viên về hưu chất vấn mày là người đương chức”.
“Anh có biết không? Tôi rất thích sự ngay thẳng, mà có lẽ người già ai ai cũng thế… họ dám nhìn thẳng vào mọi sự tốt xấu ở đời. Dù rằng chẳng còn là ngọn lửa thiêu đốt nữa… nhưng nó là cái nhìn thấu suốt, tinh tế đến làm sao – một cái nhìn không còn tiếng nói, một cái nhìn tự vấn, một cái nhìn bất lực trong cái nhìn… Tuổi già như con tàu đắm. Trong khoảnh khắc chợt chìm nghỉm… chỉ còn họ với họ… thế thôi… rồi lặng tắt! Đời họ như cái bơi chèo đã mỏi và đại dương như cái miệng há mồm. Cõi đời trả lại cho thời gian như tiếng chó cằn nhằn gọi chủ”.
“Tao đã bảo mày ở nhà… cứ đòi đi theo mà lắm chuyện” – ông lão như dỗi dằn cùng con chó – Ông ạ… buồn vui lũ chó nó biết cả đấy. – Ông Vân như được dịp nói về con chó. – Nó chẳng hay sang nhà ông Vện mà… vừa được ăn còn được chạy nhảy. Sáng nay tôi định xích nó ở nhà mà nó không chịu… nó cứ chồm chồm, sủa vang đòi đi đưa đám… Thật đúng là “khuyển mã tri tính”… nhưng mà ông ạ… nó biết từng người trong tổ, chỉ nhắc tên là nó chạy tới liền. Nhiều khi ngồi cứ ngẫm… cũng may về già còn có con chó… nó liếm bàn chân ông như khẳng định cảm tình của nó – Nhiều khi nhìn nó tôi cứ ngẫm… ở đời… mất cái nọ được cái kia, thật rõ ông Trời chẳng tận diệt với ai bao giờ… Mình lủi thủi mà có nó bên cạnh như có thêm người cùng sống. Nó là mình, mình là nó, nhiều khi đỡ buồn bác ạ. Họ lặng lẽ nhìn con chó mà thông cảm cho nỗi buồn của nhau. Loài chó là giống vật hữu hình, nó cứ quanh quẩn bên người mà sinh mà sống, nó bù lấp biết bao chỗ mà đời người chẳng có, những thiếu khuyết muộn phiền… chó học tính người, người học tính chó – Anh có biết không… nhiều sáng tôi mệt không buồn dậy… nó cắn chăn lôi tôi dậy và mình phải dậy theo nó. Nhiều khi mình chẳng muốn ăn nhưng nó đòi ăn làm mình chợt thấy thèm ăn theo nó. Mọi thứ tủn mủn như bay biến đi đâu… thế mới lạ… mình như đang muốn sống để mà dạy dỗ một thứ gì đó cho ra hồn. Anh thử nghĩ xem… nuôi chó nhiều khi thật hữu ích. Loài người không gần động vật, nhiều khi trở nên khô cằn máy móc làm sao… cứ học thuyết nọ, triết học kia như cỗ quan tài chở người về đất, cứ như gần giống chó nhiều khi ta thèm sống vì chúng luôn nhắc nhở ta là người, mà là người thì phải gọt dũa mà nhiều khi gọt dũa còn chẳng đâu vào đâu… đã là người nhiều khi cứ phải làm đi làm lại sao cho giống một cái gì đó mà lòng ta ước muốn và có thể loài chó cũng vậy… Niềm ao ước như giấc mơ đặt trước muôn loài mà dụ dỗ cho đất trời thức dậy.
Giữa đám tang ông chợt cười… tiếng cười như xé rách biết bao điều giả dối mà người đi bỏ lại… Mọi người nhìn ông, ông nhìn mọi người trong tiếng cười nước mắt. Bác có biết không… ngày hôm qua công an phường bắt tôi tường trình về cái chết của bác Vện… vì tôi là người đầu tiên chứng kiến… tôi phát khùng nói thẳng với họ:
“Việc này có pháp y cần quái gì tới tôi”. Họ đấu dịu bảo tôi: “Bác thông cảm… đó là thủ tục nhà nước đối với tính mạng công dân”. Tôi chợt nghĩ: “Người già sống vạ vật có đứa nào buồn ngó đến đâu! Mà cũng có thể chết rồi lại thành có giá – cái giá trị thằng người. – Nghĩ lại cũng khổ… hôm lĩnh lương tôi chạy sang bác Vện báo tin lương tháng này tăng mấy phần trăm thì bác hàng xóm báo anh mới mất hồi sáng… nhiều khi tôi cứ tự nhủ mình… trời chưa cất thì ta cứ bước…” – Ông lão trầm ngâm như người nửa tỉnh nửa say, cặp kính lão nhờ nhờ trên mắt như ánh sáng sự đời chẳng buồn chui qua lối ấy.
-         Chẳng có tăng trưởng gì đâu… anh cứ thử nghĩ mà xem, lương tăng vài ba phần trăm trong khi mọi mặt hàng cứ tăng vọt thử hỏi tăng giảm có nghĩa lí gì? Còn hàng bao nhiêu thứ nữa chứ… nào đóng tiền an ninh, nào đóng tiền người nghèo vượt khó, tiền giúp đồng bào lũ lụt, mà lương người hưu trí được có là bao… miếng ăn cứ nhỏ dần đi thì hỏi lấy gì mà sống! Họ lặng lẽ nhìn nhau mà buồn cho thân phận.
-         Tiếng kèn trống như gọi người đến, như tiễn người đi, đoàn các cụ tề chỉnh giàn hàng ngang đứng trước linh cữu tiễn biệt người quá cố. Ông Khởi đại diện cho tổ các cụ, tay run run đặt chiếc phòng bì lên mâm, nhưng khổ thay… hai lần đặt đều rơi tẹt xuống đất. Không biết vì run tay hay tại phong bì nhẹ quá. Có lẽ vì các mâm đều đầy đặn đến có chóp, nên nhiều khi rõ phiền cho người phúng viếng. Các cụ lặng lẽ vái người đã khuất, trong tiếng kèn nỉ non tiễn biệt – Những cái bóng già nua lặng lẽ trên đời như món nợ không có người nhận trả… họ lặng lẽ bên nhau như một cộng đồng riêng biệt. Sự lãng quên như mặt nước khép lại trong chiều, mọi thứ đã chìm xuống đáy, chỉ còn lại sự quên lãng đâu đây trong lòng những người già sống dở.
Anh trưởng nam trang nghiêm đọc lời vĩnh biệt: “Cha của ba anh em chúng tôi Nguyễn Văn Vện… sinh năm… sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc lòng con cháu và cả gia đình tận tâm cứu chữa, người đã ra đi… vĩnh biệt bè bạn và cháu con… Những người bạn mất đi một bằng hữu… những đứa con mất đi một người cha… đàn cháu con mất đi một người ông… đứng trước tổn thất lớn lao này… tôi xin một phút mặc niệm để tưởng nhớ và vĩnh biệt người”. Trên gò má anh trưởng… hai dòng nước mắt trào ra… trong nỗi nghẹn ngào không thành tiếng.
Người ta mau chóng giải quyết ba cái mâm và cả đàn con cháu xúm xít nâng quan tài trong tiếng khóc ào ào như con thác… ba người con đứng sau xe hai tay vái đáp lễ mọi người. Xe chuyển bánh, ông Vện như hạt lạc củ vùi giữa rừng hoa, trong những tiếng khóc thê thảm kéo lê trên đường phố. Dòng người như con nước đổ về lặng tờ trong nhan khói, đoàn các cụ lẽo đẽo sau cùng, nào người nào chó, lẳng lặng đi trong buổi chiều nhợt nắng. Bóng họ xiêu vẹo trên hè, cứ lớp lớp như những hồn ma xếp hàng chờ đến lượt, thỉnh thoảng ho thì thầm với nhau một vài điều gì đấy: “…Điếu văn gì mà điêu thế… chúng nó có ngó ngàng gì đến ông ấy đâu” – Ông Vân đi bên cạnh lặng lẽ lắc đầu: “Cũng thông cảm ông ạ, điếu văn thời này người ta in sẵn, cứ điền tên điền họ vào là xong” – họ lắc đầu: “Anh con trai là nhà báo cơ đấy, đúng là một lũ vô học”.
2005



Mất Mình  

          Ai cũng khuyên hắn nên nhìn ngắm cõi đời vừa phải thôi, mọi thứ chưa làm gì đến nỗi, viết thương đã chết người đâu mà đã u uất làm vậy! Có thể hắn đang nghĩ về thời gian – thời gian của hắn, một dòng thời gian đóng khuôn trong cái đồng hồ hình tròn có kim có vạch! Hắn như hòn gạch được đóng khuôn… chỉ có thế, sáu cạnh là sáu cạnh không làm sao khác được! Đời người chỉ có vậy không làm thế nào khác được nữa! Có cựa quậy mấy đời hắn cũng chỉ là hòn gạch đóng khuôn… hòn gạch biết nhìn, biết thở, mà còn thở dài được nữa – nhưng dứt khoát hắn chỉ là hòn gạch, vợ hắn cũng là hon gạch, con hắn cũng vậy và tất cả chỉ là những hòn gạch. Mọi người đều giống nhau là phải sống, nên từng hòn một chồng chất lên nhau thành hàng để mà xây cất nên cõi đời thực tại. Từng hàng một liên kết với nhau bằng sự ham muốn khổ đau! Cái thứ vữa bủn xỉn mà cõi đời suy ngẫm ra được. Gắn thằng người nọ dính vào người thằng kia xem ngộ nghĩnh làm sao. Người ta hòa quyện gạch với gạch để mà xây cát nên từng thế hệ. Thế hệ sau đè lên thế hệ trước, từng từng lớp lớp mà hoàn thiện và hoàn thiện ra sao thì khó ai mà biết. Chúng ta tự hào, chúng ta suy ngẫm, rồi ta buồn thảm. Các vị cứ thử nghĩ mà xem, mỗi hòn gạch là một cuộc đời có suy nghĩ thì bức tường kia sẽ ra sao? Cuôc đời đè lên cuộc đời, suy nghĩ đè lên suy nghĩ thì rõ khổ. Vợ tôi thường nói: “Anh phải sống sao cho khuôn khổ” – nhưng tôi xin lỗi, đừng mang hòn gạch đời tôi mà xây vào bức tường ấy mà tốt nhất hãy để tôi là đất, đừng mang đi đóng gạch – tôi sợ mọi loại khuôn vì loại khuôn nào cũng vậy sẽ chỉ đúc ra được một sản phẩm giống nhau đều tăm tắp như ta đẻ ra một đứa con nó phải giống cha từng nét vẻ hình hài, suy tư giống hệt, nó phải là một thằng con tái bản… Để đến một hôm chính ta phải kinh tởm về sự giống nhau đến thế! Mà nếu nó không giống thì cũng thật khổ! Ta sẽ nghi hoặc, lo sợ vì sao nó không giống. Tất cả mọi chuyện tồi tệ này đều sinh ra bởi cái khuôn tù đày khốn khổ… Người ta luôn luôn quên rằng kẻ đứng bên cạnh mình là một người khác, nên học hỏi nhau mà sống thì hay biết bao nhiêu. Họ luồn lạch trong thời gian mà nặn nhào người khác ép vào khuôn khổ, tất cả đều giống nhai đều tăm tắp như cát bụi, những cái tôi nhỏ nhoi tụ họp lại làm thành cái chúng ta khốn khổ. Chính bản thân hắn không định hình nổi cái tôi cho bản thân! Một sự ích kỷ đến bần tiện. Hắn muốn tập thể là cái tôi của riêng hắn, được ngụy trang bằng hai từ “chúng ta”, thật hoa mỹ và rộng lớn, nó dường như là tất cả cái khoảng mênh mong của cõi đời và những cái tôi yếu đuối, bồng bềnh, trôi trên mặt biển chúng ta cuồng sóng. Quả là vĩ đại khi bản giao hưởng chúng ta cất lên với biết bao là tiết tấu thét gào cuồng nọ cả một đại dương âm ba sôi động đến hãi hùng… Chừng như ta bị cuốn trôi đâu mất để rồi như con tàu đắm! Hắn chợt ngẫm – mình là gì nhỉ? Một gã bẩn thỉu bần hàn, thích hòa đồng trong hai từ chúng ta cho đượm vẻ! Mà nếu có ai xẻ hắn ra khỏi tập thế chúng ta, thì hắn chẳng bằng con giun, con dế… Hắn thuộc về tập thể từ trong trứng, hắn lớn lên trong chúng ta và hắn thuộc về tập thể… Hắn phải là giống như bố hắn, vợ hắn là nòi giống của hắn – hắn phải vui khi trong lòng hắn chẳng vui – thời gian dường như là của ai! Cứ hiện hữu trong hắn và cò kè trong hắn. Khi tất cả đều phải giống nhau tại sao hắn phải buồn phiền than vãn? Hắn cứ phải sống mà đi hết thời gian, mà hy vọng… Thời gian như đánh luống trong đời hắn, mỗi một năm hắn phải làm một điều gì đó như ai trên thửa ruộng của đời mình… Hắn thấy mình nhỏ bé và ti tiện dần lên! Ngày hôm sau ti tiện hơn ngày hôm trước. Hắn buồn phiền khi trông thấy ruộng của gã hàng xóm tốt hơn thửa ruộng nhà mình! Ở đây – trong hắn một cái tôi ti tiện làm sao! Nhưng đó là cái tôi của hắn – hắn muốn giằng mình ra khỏi cái chúng ta hòa quyện vì hắn chợt thấy mình chưa bao giờ là mình! Những khát vọng trong nghèo đói như con sóng làm cho người ta bé lại, cái tôi đời hắn mờ đi đầy thèm thuồng ước muốn, nhưng hắn chẳng làm sao xoay sở nổi. Người ta mang hắn ném tới cộng đồng… Khi hắn chưa là hắn. Một thằng già đầu bạc của ngày hôm nay, ngồi đây trong thất vọng! Hắn là kẻ bị người ta đóng khuôn trong thời gian của mình, hắn như cái mặt nạ hiện sinh trong nỗi bất lực cuộc đời, hắn sẽ đi đâu, về đâu trong thời gian của hắn? Loài người không chấp nhận cái chết, dù rằng nó sẽ đến - ở cuối thời gian của hắn là nó, bóng dáng của sự suy sụp cứ hiện lên khi ta đã đi quá bán cuộc đời – song ở hắn không có canh bạc, chẳng có được thua, hắn như toa tàu về ga mệt mỏi, não nề. Dưới chân hắn lặng lẽ hai đường ray có vậy! Hãy nghỉ đi và ngày mai vẫn thế, nhưng có lẽ không phải… Hắn sẽ ti tiện hơn mà chạy trong đời… Toa tàu của hắn sẽ chở lũ buôn lậu cho bõ tức – thế đấy – đó là tư hữu, đó là cái tôi… Hắn phải thấy mình cái đã – hình ảnh của hắn dưới vũng nước hay trong tấm gương có hình dáng của hắn – một sự khoái cảm, xem hắn ra sao khi còn sống! Sự vật vã thấy mình, khẳng định mình thì mới lạ! Giữa một vườn hồng đỏ choét đầy hoa mà hắn chẳng tìm mình trong màu sắc ấy, có lẽ hắn là ngọn cỏ! Hắn hài lòng vì hắn là cỏ, tối thiểu phải là thế, vì hắn hiện sinh là hắn – dẫu rằng đã già… Nhưng hắn phải là hắn – một thằng già tóc bạc đầy mưu mô xảo trá trong chúng ta…Chúng ta bao dung hắn, nhưng chính hắn không sao chịu nổi chính mình – như linh hồn không có chỗ trong thể xác. Tất cả mọi thứ trong hắn cứ yểu đi trong thời gian mà chiếc đồng hồ đã đóng khuôn cho hắn. Hỡi thằng già, chúng ta chỉ cho mi đến thế! Hãy chạy đi, trên hai đường ray mà kiếm miếng. Nhân loại hay tập thể không cho hắn tình yêu! Tình yêu là sự nhân lên từ chính hắn, có một thứ le lói cứ nhân lên hiện hình ra hắn thì mới khoái, hắn phải là mình – muốn là mình thì phải làm lại cho ngay ngắn mới sợ… Làm lại thì quả là lâu và dài, khi đời hắn tiếng chuông đã điểm những hồi thu không trong chiều. Tiếng chuông như thức tỉnh, như dẫn dụ hắn trở về một miền đâu đó xa vời cõi thực, hắn nhìn vào trong hắn, một linh hồn ọp ẹp khổ đau. Hắn chợt ngẫm… - Đức Phật là hiện sinh của cái tôi vĩnh cửu, ngài tự khẳng định được mình trong cõi sống khổ đau không gọi ai đến chẳng đuổi ai đi ngài muốn mọi chúng sinh hãy tự khẳng định cái tôi của mình trong thời gian hữu sinh của họ. Khi tất cả đã giác ngộ thì cõi đời này thật hạnh phúc. Hắn thấm thía về cái tôi “Phật học”. Một cái tôi con người không mờ đi trong chúng ta tập thể. Hắn phải là hắn, độc lập mà sáng tạo và suy ngẫm. Hắn là cỏ cũng được, bén rễ vào lòng đất mà tìm lấy cho mình sự sống dù chỉ là một điểm nhỏ dưới chân, nhưng hắn khoái cảm vì mình đứng dậy. Trước mắt là bao ngả đường mà hắn phải tự quyết định đi vào, hắn là kẻ quay lại cái ban đầu tập đi như đứa trẻ lần mò vào cuộc sống – không thể khác được – đó là cách duy nhất mà mỗi người phải làm… Phải bắt đầu từ cái tôi chính mình – một cái tôi hoàn thiện mà hòa vào cõi sống. Từng cái tôi hoàn thiện hòa đồng sẽ làm ra cái “chúng ta” hoàn thiện. Những kẻ dựa dẫm thì không thể làm ra cái tôi ra hồn. Hắn như hòn gạch mê sảng mà nhìn vào tập thể. Cái tập thể mà có lúc mọi người xô nhau đập chết cái tôi tư hữu mà xây dựng nên, một sự dựa dẫm chung đụng đến hão huyền… để đến hôm nay họ lại thét gào mà xóa đi tập thể. Cuộc hành trình tìm lại chính mình trong đống vụn vỡ khổ đau, trong tiếng hú mê sảng của một thời đã nguội! Đời hắn, vợ con hắn, cái tập thể gia đình hắn sẽ phải bắt đầu từ đâu?
          Cõi sống phải chăng là một lối mòn mà loài người cứ đến mà đi vào? Con người thuộc về ai? Cá thể sống là một sự khẳng định không thể nào khác được… Nòi giống và tự nhiên sẽ dạy hắn cách làm người, hắn vĩnh viễn sẽ là hắn có một thứ tình yêu và thù hận sẽ nảy mầm trong tim hắn, đó là sự giằng xé vĩnh cửu cho từng đời người không nghỉ, để đến một chiều hắn cảm thấy hài lòng ngơi nghỉ mà trở về với đất? Hắn là nhân tố cá thể đi trong loài người, bài ca của hắn có một thời cất lên vui buồn trang trải, nó như nắng mưa, ưu phiền và sa ngã nhưng hắn vĩnh viễn là hắn, là thằng người của hôm nay và ngày mai thức dậy. Hắn sống trong thời gian của hắn, hắn đi trên con đường của hắn không lạc loài và ân hận bởi hắn là hắn. Tất cả dường như chỉ có thế, một thằng người đứng trên đôi chân của mình và suy nghĩ vì mình, đó là cá thể, là hạt cát trong vô vàn hạt cát nhưng hắn là chính hắn, còn mọi thứ tình yêu, hòa đồng, khổ đau và xảo trá chỉ là những phản ứng khi ta muốn. Cõi sống là những nhân tố phân dã hợp thành… Có hòa đồng hay không? Xin hãy hỏi từng người khi mà họ muốn. Mọi đạo nghĩa trên đời sẽ mỉm cười cùng họ khi lẽ sống bắt đầu từ chính mình.
2003


Vết Răng Cắn
Tặng em Nguyễn Chiến Thắng
 
Xe tôi lướt trên đường phố như bị ma đuổi, đằng sau là người bạn gái ôm đứa con nhỏ độ bốn, năm tuổi đang vùng vẫy thét gào. Chị phải ôm ghì nó vào ngực tì chặt nó vào lưng tôi, hai tay chị nắm lấy hai cổ tay nó cho đứa trẻ khỏi vùng vẫy cấu cào. Phố hàng Bột đông nghẹt người qua lại, tôi cứ phải luồn lách phi đến thục mạng. Cái tiếng khóc nhỏ nhoi, khàn khàn vì la hét vùng vẫy cứ ngoằn ngoèo trải dài trên phố.
Không đi đường này – nó cứ vùng vẫy và gào lên như thế.
Được rồi không đi đường này, anh rẽ đi – chị bảo tôi.
Mẹ nó cố dụ dỗ bằng cách rẽ đi lối khác mà nó không biết, nhưng nó vẫn hiểu là mọi con đường đưa nó đến bà ngoại, mà ở đấy thì nó thấy buồn chán biết nhường nào. Ở nhà ngoại không có mẹ, chỉ có mình bà và bao thứ đồ đạc nhếch nhác, hôi hám đến buồn tẻ. Nó cứ phải ngồi trên chiếc giường duy nhất trong căn buồng tối sẫm vì thiếu ánh sáng. Nó cứ phải ngồi như thế đã từ lâu lắm rồi, trên chiếc giường ấy. Mọi thứ trong trái tim nó dường như đã bị héo đi khi còn thơ dại, ở với bà, là ăn đúng bữa và ngồi một chỗ, chỉ được phép nghịch ngợm trong khuôn khổ manh chiếu mà thôi, bọn trẻ cùng lứa, chẳng có đúa nào, nên con bé cứ gầy còm đi trông thấy. Nỗi nhớ đang thiêu đốt trái tim nó từng giờ, từng khắc trong đời, tính tình con bé cứ dần dần trở lên bẳn gắt và hung hãn làm sao, nó sẵn sàng hỗn láo và hằn học với tất cả mọi người khi mới gặp, có thể vì sợ họ sẽ lại lôi mẹ đi xa nó. Cuộc đời nó chỉ có mẹ và nó yêu mẹ biết nhường nào. Bố chết từ khi nó chưa mở mắt, cả cuộc đời nó chỉ có mẹ và mẹ là tất cả những gì nó có trên đời. Nó có một anh, một chị, nhưng cả hai đều không mặn nồng với em, có lẽ vì nó chiếm nhiều tình cảm trong lòng mẹ quá, choán cả chỗ của người khác nên sự lơ là của lũ trẻ cũng có lẽ, mà trẻ con xưa nay thì vẫn vậy, chúng muốn chia mẹ mình thành từng phần đều nhau dù rằng không thể nhưng chúng vẫn ao ước như thế. Một người phụ nữ chồng chết, phải loay hoay với ba đứa con nhỏ mà xoay sở vật lộn trong cõi đời này kiếm miếng ăn cho cả gia đình thì cơ khổ biết bao. Việc gì chị ta cũng làm, từ hầu bàn đến gội đầu, xoa bóp, bấm huyệt việc gì cũng được, miễn là ra tiền, nên thường cả tuần chị mới về ngoại thăm con được. Vừa là tiếp tế lương thực, vừa là trang trải nỗi nhớ mẹ con. Và cứ mỗi tuần như thế mẹ nó cứ như bà tiên hiện về trong tâm tưởng nó, nó ôm ghì lấy mẹ và biết bao là thương nhớ và trách móc như nước chảy cứ tràn vào lòng mẹ, có lẽ đến cả ngày vẫn chưa hết được bao chuyện mà nó tấm tức trong lòng. Nó chẳng rời mẹ lấy nửa bước, trong bữa nó ăn nhiều hẳn lên, nó kêu thèm bánh nọ kẹo kia và chẳng quên nỗi ao ước là hộp bút chì màu và cái váy mới như lũ trẻ thường mặc mà nó nhìn thấy.
Mẹ ạ! Cái váy xòe ra như thế này – tay nó dang ra làm cữ - Phải có cái nơ và nhiều chấm hoa xanh đỏ - những búp bê tay nhỏ xíu như muốn tô vẽ lên một chiếc váy mà nó thường ấp ủ trong lòng.
Được rồi, mẹ sẽ để dành tiền mua váy cho con, nhưng con ở với bà phải thật ngoan - một nỗi trống rỗng trong mắt nó - bên mâm cơm nó nép vào lòng mẹ, thời khắc của sự xa cách như rũ bỏ trong nó bao nỗi ao ước trong lòng.
Thời gian hiện sinh từ buổi đầu của mọi kiếp sống, nó hiện diện từ lúc đứa trẻ chào đời cho đến ngày thấm khổ, và khi đã thấm khổ nó sẽ bắt đầu suy nghĩ về thời gian. Thời gian của đứa trẻ thơ sắp xa mẹ dường như đang hiện dần lên trong nó, nỗi trống vắng mơ hồ tràn ngập nỗi lòng trẻ nhỏ, trào dâng trong đôi mắt ngây thơ. Thời khắc này, hình ảnh ấy, sẽ chứa đựng trong lòng người mẹ khi vật lộn với đời, và cái lẽ bao người mẹ phải sống mãi để trả lại niềm vui và tình yêu cho những đôi mắt ấy.
Tôi nhớ mãi về ngày tết vừa qua, trời rất lạnh, con bé phong phanh trong bộ váy mới - tôi chợt rùng mình vì thấy lạnh, nhưng tôi hiểu dù lạnh nhưng nó sẽ dứt khoát không mặc thêm chút đồ cũ nào - nó muốn khoe trước mọi người về món quà năm mới mà mẹ nó tặng. Nỗi buốt giá của cái nghèo còn thao thức trên từng thân xác, nó chẳng còn là sự hãi sợ nhưng nó là điều thách thức trong trái tim người mẹ.
Tiếng khóc trẻ thơ làm trái tim ta cảm nhận một nỗi bầm dập đâu đó trong tâm hồn, có thể nhỏ bé thôi nhưng tấm lòng người mẹ đớn đau đến thế… Họ phải giằn lòng xuống - giằn cho tới đáy của mọi nỗi khổ đau mà vực lên sự sống. Có lẽ đó là sứ mệnh của tấm lòng người mẹ.
Cái tiếng khóc khản tiếng hôm nay - trên đường phố này, len lỏi giữa muôn dòng xe cộ, cái tiếng khóc như đeo bám lấy đời mà hờn, mà oán. Mẹ cố ôm ghì lấy nó như muốn nhận về mình mọi nỗi khổ đau, nhưng trái tim nó đã sẵn sàng gánh chịu, nó đòi lại tuổi thơ dại đã mất và tình yêu của mẹ trong đời. Tôi hoảng loạn như kẻ bắt cóc trẻ con, tay vít ga rồ máy như cố phóng ra khỏi cõi đời khốn khổ, sau lưng tôi con bé dữ dội thét gào…
-         Phải dừng lại thôi em?
-         Không dừng được đâu, dừng lại thì không ai dỗ nổi nó nữa.
Càng đến gần nhà ngoại, con bé càng trở lên hung dữ, những ngón tay nhỏ xíu cào cấu vào lưng tôi, miệng gào lên đến khản đặc:
Không đi đường này. - Trong điên cuồng nó cắn vào lưng tôi, hai hàm răng thù hận như xiết chặt lấy da thịt, như nỗi đau đớn của loài thú cùng đường.
Xe đến gần nhà ngoại, tôi dừng lại bên hàng nước đứng chờ, ôm ghì lấy nó trong tiếng thét gào hoảng loạn:
-         Mẹ còn phải đi làm, cuối tuần mẹ về - mẹ nó gào lên trong cơ khổ, và lời dỗ dành ấy cứ xa dần khuất sâu trong ngõ nhỏ.
Tôi mệt lả ngồi lặng trong quán nước, tay chân run run rã rời, cả thế giới dường như tan đi trong đau đớn, nhìn đồng hồ điện thoại - chắc giờ đây cháu nội tôi đang hờn khóc tìm người bồng bế và kia rồi cô bạn tôi đang hớt hải chạy ngược ra đầu ngõ, trong mắt chị còn ngập đầy nước mắt, gương mặt nhạt nhòa lặng lẽ quay đi cố chôn dấu biết bao điều đau khổ:
-         Đi đi anh không con cún ở nhà nó khóc.
Nhìn chị tôi chợt nhớ đến câu cửa miệng mà cõi đời hay dùng “Phụ nữ ba đảm đang”. Một câu nói vô nghĩa và đau đớn đến thế, bao bà mẹ phải phó mặc con mình cho tiếng khóc ru quên mà đằm mình trong nỗi đau trần thế. Tại sao họ không cận kề bên lũ trẻ mà vỗ dạy cõi đời vì bổn phận của họ xưa nay là thế, người phụ nữ phải lo toan việc cửa nhà, sinh nở và nuôi con, trong xã hội loài người đó là một công việc lớn lao không hề nhỏ, nó dường như là một nửa gánh nặng gia đình và tại sao họ lại phải “Lo việc nước, đảm việc nhà”, câu nói trên đã cướp đi biết bao nhiêu hạnh phúc trong đời con trẻ. Người phụ nữ phải làm lụng như đàn ông, sinh nở và nuôi con, và tiếng khóc trẻ thơ cất lên từ đấy. Người đàn ông không đùm bọc, nuôi dưỡng nổi gia đình mình! Đó là điều ô nhục cho cánh đàn ông trong xã hội văn minh. Cả xã hội hô hào giải phóng cho phụ nữ và tôi ngẫm: Giải phóng cho phụ nữ đi đâu khi họ có một gia đình và những đứa con thơ? Hãy giải phóng họ về với chính họ tồn tại bên những đứa con, người đàn ông sẽ cố gắng cho bớt nhục vì không bao bọc nổi gia đình. Chiến tranh đã kết thúc từ lâu, câu nói trên nay trở thành sáo rỗng và tàn ác làm sao! Mọi trật tự chẳng lẽ không trở về đúng chỗ cho yên bình trở lại hay sao? Bao tiếng khóc trẻ thơ từ mọi góc đời tăm tối đang cố nhoài tìm về lòng mẹ, cái nôi của nó, tình yêu của nó, tiếng khóc xé lòng vô vọng ngân lên như dấu hỏi một thời.
Xe tôi trở về trong nỗi buồn tơi tả, sự im lặng như đè lên tất cả, tôi sẽ nói gì và bạn tôi sẽ nói gì. Một nỗi buồn mê sảng cứ phảng phất trên con đường trở lại. Cháu tôi sẽ vui và con chị sẽ buồn, một bàn cân luôn luôn thiên về nỗi khổ, ở đó có tiếng khóc con chị và lòng tôi thầm nhủ: Thắng ơi! Nỗi đau của bạn là nỗi đau của tôi.
Khi tiếng khóc trẻ thơ cất lên dằn dỗi thì tôi đèo cô bạn về đến nhà.
2005


Cơn Say
 
Bia rượu là loại dầu nhớt đốt cháy và bôi trơn cho những cuộc đời thấm mệt, họ lại dám nghĩ, dám làm khi mọi thứ dường như chẳng còn là bao ý nghĩa. Loại nguyên liệu thúc đẩy cho cỗ máy con người hoạt động đến thời chót của một đời không nghỉ. Những đoàn người tấp nập bước vào quán tra nạp nhiên liệu! Cứ ngẫm mà thích thú, ở đây có đủ mọi thành phần trên dưới trong xã hội, nào nhà văn, nhà thơ, trí thức, chủ doanh nghiệp, công nhân, lưu manh, già trẻ lớn bé, tất tật đều hun đúc trong một khuôn viên kém vẻ. Họ kề vai sát cánh, chẳng còn tầng thứ trên dưới ở đời, người buồn, kẻ vui, tất tật mọi thứ dường như được san bằng nhất thể, bàn sát bàn, vai sát vai, thân sát thân, cứ như thể thế giới đại đồng có lẽ… Quả là nhiên liệu trời cho có khác… Họ cứ hàn gắn tất cả mọi thứ với nhau cho liền mạch liền khối. Nhà văn thì bàn chuyện cõi đời, doanh nhân bàn về lỗ lãi, con buôn thì bàn về lỗ hở, kẻ nghèo than vãn đói no, lưu manh thì thích thú mầy mò, tất cả tựu chung là lời nói điệp trùng vô kể. Nhưng ở đây có một điều khó ai mà giải thích nổi, tất cả mọi âm thanh hỗn độn ấy cứ hòa quyện vào nhau trong hỉ hả giậm nhời… Thật vô lối – cứ bảo họ say! Các vị cứ im đi và đợi đấy – họ chẳng say đâu. Trong những âm ba hỗn độn kia, họ vẫn chọn cho mình những âm thanh, ý tưởng của bạn ngồi trước vại. Họ cãi cọ nhưng chỉ xoay quanh những chuyện buồn vui lề thói. Tôi xin cam đoan với các vị, thế giới đại đồng lẩn khuất đâu đây có lẽ… Nhà trí thức cảm thông với bác xích lô, gã lưu manh cho đứa trẻ ăn mày hào bạc, tôi chợt ngẫm thế mới đáng là đời chứ lị… Chẳng lẽ cứ nghiệt ngã mãi sao, nếu chẳng tin xin cứ tới hàng bia mà chứng giám, ở đó – thế giới đại đồng… chẳng còn trên dưới, họ thì thầm, họ bàn luận, họ cãi nhau nhưng tất cả đều thông cảm cho nhau mà uống.
Quả là nhiên liêu trời cho có khác, mà phải thế chứ… Trong cơ thể chúng ta chứa đựng bẩy phần là nước, không có nước con người ta quắt đi như con cá mắm có lẽ, vì vậy cái thứ nước sủi bọt của trời ban phát cho từng cơ thể mà sinh lợi, họ thương yêu và tha thứ cho nhau hơn, họ dám quên đi bao thời khắc nhơ bẩn hãi hùng trong tâm tưởng… Quên tháng, quên năm, quên cả cuộc đời đã qua, cả trăm năm, ngàn năm gian dối! Quá khứ không còn đầy đọa được họ nữa… Cứ ngẫm mà thấy lợi xiết bao. Chẳng hiểu thượng đế lại run rủi cho khối óc bàn tay nào phát minh ra thứ nước thần kỳ đến thế… Dù bẩn thỉu đến đâu trong tâm địa, cứ là chơi mấy ly, mọi chuyện đâu lại về đó, sạch sẽ tức thì.
Ban đầu nó là thức nước dành cho quan chức, nhưng về sau cả xã hội ai ai cũng được dùng… Cũng có thể cả xã hội đều phải gột rửa… Vì chúng ta đều là những con người như nhau, đều nhiều thói hư tật xấu – mà đã là tật xấu thì gột rửa là hữu ích làm sao… Nó quả là cấp thiết cho mọi người. Ta cứ thử nghĩ sau mỗi ngày, tật xấu lại bồi lên một ít, qua tháng, qua năm, tuổi càng cao – tật xấu càng lớn… Càng già – càng đểu. Lớp trẻ thời nay hay nói một từ rất chính xác chỉ người già: “Thằng già đểu”. Nghe thật đúng và đau.
Con người ta phải quên đi quá khứ thì mới làm lại nổi… Trẻ phải làm lại cho đừng xấu thêm, già phải làm lại cho tật xấu bớt đi! Quả thật là hữu ích khi ta ngồi mà nốc dăm ba vại, tôi xin cam đoan với các vị là đời ta sẽ khác, chân tay sẽ mệt mỏi rũ rượi chẳng buồn động cựa, thể xác muốn tan đi chẳng thiết làm điều xấu, linh hồn chợt thức dậy mà nhìn ngắm mình cho tường tận chi li… Đã có lúc linh hồn tôi tự hỏi liệu ta có lên trú ngụ trong cái thể xác kinh tởm kia không? Và linh hồn lại chui tọt vào trong cái thể xác ấy khi cơn say đã vợi… mà chẳng chui vào đấy thì con chui vào đâu nữa bây giờ - Quả thật rõ phải – đó là điều bất khả kháng, điều hay cái xấu cứ nháo nhào mà bện vào nhau như bọt bia trong vại. Ta dám nghĩ, dám làm biết bao điều tốt, ta sẽ can đảm hơn mà nói thẳng vào mặt lũ trẻ “Tao già nhưng không đểu hẳn vì tao còn dám nói cho lũ mày hay là hãy đừng đểu cáng như tao”. Có lẽ phải thế - phải uống thật nhiều – Có lẽ đời tốt hơn lên. Bia Hà Nội có khác… mà phải đúng bia Hà Nội thì mới đã… Thượng đế đã ban cho thủ đô ta cái thứ bia quý hóa đến thế - mà phải đến thời đại này nó mới xuất hiện thì mới lạ… Thời các cụ thì lấy đâu ra! Họ là quá khứ đã qua chẳng ai cần nhớ - Càng già – càng đểu – có lẽ các cụ ta xưa phải đểu lắm cũng nên… mà cứ nhìn thấy – các cụ có để lại cho hậu thế được cái gì đâu? Một xã hội phong kiến, vài ba cái cổng thành nham nhở và cái nhà văn miếu xơ xác tiêu điều, cả trăm năm chẳng ai buồn ngó, theo tôi nghĩ: “Chẳng quý bằng cái cửa hàng bia cũng nên, thà biến quách cái nhà Văn Miếu thành cái quán bia có hơn không?” Các vị cứ thử nghĩ, ta ngồi tựa lưng vào bia đá, mồm nốc cho thỏa, tay nhâm nhi xé mực nướng chấm tương ớt nhai cho thỏa khát thèm, may ra một vài cái tên khắc trên bia đá lại lọt vào trong óc con cháu cũng nên… Mà toàn tên chữ Tàu, chữ Nho thì ai mà đọc nổi! Nhưng tôi tin là hồn các cụ sẽ hiện về mà xưng danh trước. Mà nếu thế thì càng quý – chúng ta sẽ mời các cụ một chầu cho thỏa. Ngày nay có câu “Gần mực thì bia”, mà tựa lưng vào bia đá mát lạnh thì uống bia ngon phải biết… cứ tha hồ mà hướng thiện cũng nên… Có hồn các cụ cùng chia xẻ chén chú, chén anh thì ý nghĩa phải biết… trên dưới thuận hòa cho qua ngày tháng.
Quả là thành tự lớn lao khi giữa Thủ đô – trái tim cả nước có cái nhà máy bia Hà Nội… niềm tự hào mà thượng đế ban cho cả nước… Tôi hoàn toàn không có dự định làm quảng cáo cho nhà máy bia vì tôi chẳng cần gì họ sẽ bán khuyến mại cho tôi vài cốc – cứ uống là trả tiền ngay mà trả bằng tiền mặt đàng hoàng, đắt mấy cũng uống chứ đâu có sợ, chỉ cần họ đừng đấu lăng nhăng bia nọ vào bia kia, thì uống vừa đau đầu còn hay nôn mửa. Cứ phải là nhà máy bia Hà Nội đàng hoàng, chất lượng tuyệt hảo và cứ thế chúng ta uống và tha hồ tẩy rửa cõi lòng… Các bạn không tin thì cứ thử xem những bộ mặt phát sình vì nước mà thuần phác làm sao… Họ cứ say sưa mà ban phát cho nhau biết bao là tha thứ mới sợ. Họ thẳng thắn mà bàn vào chuyện phải trái trên đời – lừa lọc nhau ư? Lừa một người ngay thẳng thì chẳng bằng cái bọt trong vại – Ta chưa dám hứa, ở đây ta sẽ hứa – ta chưa dám cho, ở đây ta sẽ cho – ta chưa tha thứ, ở đây ta tha thứ - Ta chưa ngay thẳng ở đây ta ngay thẳng. Tôi cam đoan cùng các vị, quán bia, quán rượu là chốn thiên đường mà ai ai cũng về đến được, nó xâu người nọ với người kia như chuỗi tràng hạt nhà Phật, tất cả đều hòa đồng trong khổ đau và mất mát. Những dòng bia, giọt rượu, thứ nhiên liệu mà trời ban phát cho loài người để bôi trơn và lau lia nỗi buồn giá lạnh. Tất cả mọi cuộc đời lại chạy nốt vòng quay cho trọn một chu kì vận động mà mỗi người được hưởng. Niềm vui là son phấn cho nỗi buồn đời họ và bia rượu ru ta đi trong niềm vui ấy. Thật thú vị khi ta không còn phương hướng thì ở đây ta tìm ra phương hướng – khi ta không còn yêu thì ở đây ta tìm lại tình yêu – Dầu nhớt sẽ thúc đẩy cỗ xe đời ta chạy, có thể tròng trành chao đảo đấy! Nhưng chẳng sao, miễn là xe ta chạy – Nếu có là say quá mà xe ta nằm bệt bên đường… Thì ý nghĩ của ta vẫn chạy, luôn luôn có một cái gì đó trong ta vẫn chạy… Mạch máu trong cơ thể giật giật đến điên cuồng mới lạ, có lẽ nó muốn chạy ra khỏi cơ thể mà chạy trên đường cho bõ bực. Các bạn thử nghĩ xem, khi trong đời biết bao thứ cứ bẹp gí không còn buồn chạy, mọi chỗ cứ im lặng chết tắc chẳng buồn đi lại thì có chán không? Chẳng có cãi cọ, chảng còn chao đảo phỉnh phờ, tất cả cứ yên ắng như trên mặt trăng thì rõ buồn, rõ sự! Có lẽ cứ chửi nhau đánh nhau còn vui hơn là câm lặng, chân lý là vận động, là suy nghĩ. Tôi ngẫm: Thượng đế cứ sinh quách chúng ta trên biển bia rượu ngập tràn thì tốt biết mấy – Có thể chúng ta sẽ là loài cá to hơn cả cá voi nữa… Vì khi cả nhân loại say sưa thì vùng vẫy phải biết. Tác dụng của bia rượu quả là lớn lao, mọi nơi, mọi chỗ hàng quán cứ mọc lên nhấp nhổm chen lấn nhau mà lấp kín thị trường, bia cửa hàng, bia cóc vỉa hè, bia đầu đường xó chợ, ở mọi nơi, mọi chốn đều cứ phải là hàng bia mới quý. Quả là cung cầu chả kém mấy người Mỹ… Mà cái giống bia bán chạy thì thực phẩm cũng nhao theo, cứ như là con nước, cái nọ đẩy cái kia lên mà chạy, nào mực nướng, đậu rán, thịt bò, thịt lợn đủ loại cứ thả cửa mà trôi theo. Thật thú vị khi chiều đến ta đi đổ xăng cho cỗ xe đời ta lúc cạn kiệt, chỉ một chầu thôi độ vài vại là đời ta như mới, chẳng khổ đau, đầy tự tin lại bước chênh vênh đi vào cõi sống.
Khi xưa, thế giới coi rượu bia là ma túy nên thật nhiều cấm đoán – nhưng ngày nay có lẽ khác – mà tại sao lại không là khác nhỉ? Khi tất cả thế giới thấm mệt thì hãy nhấn họ vào thùng bia, hẳn sẽ tỉnh ra mà sống lại với mọi nỗi buồn phiền muôn thuở - Quả là các cụ ta xưa nói đúng “Phi tửu bất thành nhân”.
2003


Truyện Cười  

Cốc bia chiều mát lạnh – con người bị hâm nóng trong cả mùa hạ mùa đông, có lẽ tại trái đất mỗi ngày mỗi nóng, bốn mùa nhập nhèm chẳng định nên loài người cứ nóng lên làm vậy! Nhưng chẳng sao đâu – tối thiểu là tôi nghĩ như thế - con người khả dĩ tích tụ thông minh, đối chọi cùng thiên nhiên cứ như là hai cực. Quả đất có nam cực và bắc cực cộng lại mà đối chọi với con người – Một bên là thiên nhiên, một bên là nhân loại – quả đất không có con người thì thật là vô nghĩa – và con người không có quả đất thì cũng vậy nên hai bên cứ chơi hoài với nhau như hình với bóng. Quả đất thì định hình chẳng làm sao thay đổi nổi, cứ phải định mãi như hòn bi, quả bóng – con người hoan hỉ về muôn vẻ khác mình – tôi khoan khoái mãi vì mình được là con người, hàm ơn thì chẳng mấy… vì có cha mẹ nào lại đi bắt con cái đóng thuế cho mình? Nên sự khoan khoái càng thêm về con người, họ cứ rắn chắc đi lên mà đối chọi – họ là một nửa của tự nhiên, mà còn có phần cao hơn đằng khác. Họ suy ngẫm nhiều nên phát nhiệt, mà phát nhiệt thì có bia – đó là thứ nước mát bình giải cho mọi thứ, xoa dịu, hưng phấn, hoàn hồn – rõ thật gớm, văn minh nhân loại nghĩ ra được một loại nước như vậy – cứ như là điều chỉnh từ khi lòng ta chưa nhiễm bệnh. Thuốc bắc, thuốc tây cứ phải là bắt mạch kê đơn, cứ phải vậy thì quả thật nhiêu khê cho nhân loại – theo tôi nghĩ cứ phải là ngăn chặn trước cho hiệu quả bình thường – bởi tại trước mắt chúng ta biết bao là khó khăn thù hận. Hãy êm ả đi mà suy ngẫm, bởi chúng ta là con người, cái đỉnh của muôn vàn cái đỉnh. Thật thú vị khi đời ta cứ chót vót trên cao – ta lên cung trăng tìm thượng đến – xuống đáy biển thăm địa ngục, loài người quả là kiêu hãnh làm sao – chẳng đâu mà chúng ta không có dự định tìm đến mà chinh phục – nhân loại muôn năm – loài người vạn tuế - ta cổ súy, ta sùng bái con người có lẽ là rất đúng – đức Phật có nghĩ ra bảng cửu chương được không? – chúa Giêsu làm sao mà nghĩ nổi ra toán vi phân cơ chứ? Có lẽ vạn vật cứ câm hết đi cho loài người bình giải – chỉ có người thực vật, việc thực là nên sống hơn cả ở đời. Cứ như tôi – một thằng già ngu nhất, thú vị ngồi uống vại bia, miệng lẩm nhẩm – hai lần hai là bốn – cứ như câu thần chú “vừng ơi mở cửa ra” mới bỏ mẹ. Ngày hôm nay rõ hơn ngày hôm trước, đó là phép số cộng mà toán học tìm được – quả là đúng, tôi uống đến tận năm vại mà còn muốn uống nữa, nhưng để đến ngày mai cho thú vị, bởi cốc thứ sáu là cố gắng, là không văn minh, vì thế tôi để đến hôm sau cho cuộc đời mát mẻ văn minh hơn nữa.
Giõng giạc gọi người phục vụ thanh toán tiến – tay run run cầm tờ giấy cả trăm còn mới – cháu thanh toán cho bác – cô bé phục vụ trẻ măng trông thật bõ với công sức của đồng tiền và tôi hài lòng với con toán sáu nhân ba bằng mười tám, rõ là văn minh – bảng cửu chương có khác – ta đã tĩnh ra khi cô bán hàng chưa tính được.
Cô bé cầm tờ một trăm soi hoài trước ánh sáng – Bác ơi tờ năm chục một trăm bọn cháu rõ sợ, tiền dởm nhiều lắm – cháu nhìn cho kĩ, tiền của bác thật một trăm phần trăm, vừa lĩnh ở cơ quan – của bác sáu cốc là mười tám nghìn – cô lặng lẽ trả lại tiền – tôi lững thững trở về với bao điều hoan hỉ - có thế chứ - sáu cốc là hơn ngày hôm qua một cốc – cứ thế nhân lên cho cuộc đời mát mẻ. Chiều mùa hạ như nguội đi trong cuộc đời tôi, ánh nắng nghiêng nghiêng đẹp đẽ làm sao, vạn vật như thiếu đi một chút vàng của nắng. Mọi thứ bỗng trở nên quý hóa làm sao, khi bóng đêm chưa đến, mặt trời chưa đi và tôi một vật thể con người đang trải nghiệm cõi sống, như thèm nắng, thèm đêm và tôi thèm trở về nhà nạt vợ nạt con kiếm bữa – miệng lẩm nhẩm bảng cửu chương… - con người vạn tuế, hàng bia trường tồn.
Bác ơi… - Sao? – Trước mắt tôi một khuôn mặt nhòe nhòe chắc ẩn – bác quên chưa trả tiền hai điếu thuốc, thật đúng mình có hút thuốc, tôi trả lại tờ một nghìn sòng phẳng với nền văn minh nhân loại, ăn bánh trả tiền, đó là cái đỉnh mà mọi người nên hiểu, Phật Chúa không nên ru ngủ đời người. Tôi trở về nhà, con đường làng thăm thẳm vào đêm, tôi lẩm nhẩm trong miệng: Hai lần hai là bốn, nhân loại văn minh, muôn năm, vạn tuế, sai lầm tương tự như hai điếu thuốc nghìn bạc không đáng kể, cứ thế tôi chìm đắm vào đêm, tất cả mọi thứ như chìm vào quên lãng và giấc ngủ. Về đến nhà, tôi lại như mọi ngày – chẳng ngã trên đường, vẫn còn toàn vẹn. Vợ tôi hoan hỷ: “Nhờ trời mà anh đi đến nơi về đến chốn”. Tôi quắc mắt nhìn nàng bực tức: “Thời đại văn minh, đi đứng sao mà còn ngã”.
21/9/2003


Hai Vòng Bi
 
          Muôn năm hai vòng bi – điểm trơn tuột làm cho cỗ xe vẫn chạy, sướng khổ vui buồn đều phải chạy khi lấy nó làm điểm tựa cho cõi đời. Đó là niềm kiêu hãnh cho bao kẻ chiến thắng và là nỗi khổ đau cho bao người lao đầu xuống vực. Nó đưa con người ta đi nhanh đến đỉnh và cũng có thể lao đầu xuống dốc. Cái điểm chót vót kiêu hãnh và cũng dễ dẫn đến chết người ấy đôi khi làm cho nhân loại phát sợ - trời ơi cao quá! Trời ơi dưới kia sâu quá! Người ta sợ cái đáy mà chính mình họ vừa cố gắng leo lên, vì khi đã lên thì chẳng ai còn muốn nghĩ gì về quá khứ cái đáy mà họ vừa cố gắng nhoi lên, họ cứ muốn mãi mãi mắc đời mình trên đỉnh và ở đây hai vòng bi lại trở thành vật tráo trở cho vinh quang đời người. Thật đúng vậy, người ta sinh ra vòng bi để chạy nên số phận nó dường như không thể dừng lại được, vì cái điểm dừng của nó chỉ nhỏ bằng cái đầu kim, hơi lệch tâm một xíu là nó lại chạy mà có giời mà biết khi nó đã tự chạy sẽ ra sao. Nếu cái đỉnh ở đời có lẽ luôn nhỏ như cái đầu kim thì mới hãi. Thật khỉ - bố ai mà đứng trên cái đỉnh bé nhỏ đến thế được? Thế mà ở đời ai ai mà chả thèm khát leo lên đó cho thỏa chí khát thèm. Niềm ao ước là động lực, cái vòng bi là vật chuyên trở, mọi toan tính thật rõ là hoàn hảo nhưng nghe cứ vướng mắc làm sao! Nó như cái xương nằm trong thân con cá, thịt thật ngon nhưng ăn dễ hóc, nhưng cả nhân loại vẫn cứ phải xơi cho đến thỏa.
2004


Cái Hàm Thiếc
 
Người ta chẹn vào họng hắn một que củi, người ta thọc vào óc hắn một thỏi thép, trong khi hắn vẫn tinh tường còn nhìn thấy, tai hắn minh mẫn còn nghe được, và mũi hắn còn thưởng thức được bao mùi vị ở đời. Thật đau đớn khi ai đó chặt quách một giác quan nào đó trong cơ thể… Có lẽ, ta gần hơn với loài súc vật, mọi phản xạ dường như bỗng trở thành hỗn loạn, điên khùng, hắn chợt như thằng câm, hắn chợt giống thằng điên. Nhìn thấy đấy mà chẳng làm gì được… Hắn muốn gào to lên đấy nhưng cứ ư ử như chó bị giọ mõm… Trong khi ấy, mọi giác quan cứ thả sức phè phỡn tung hoành, nó giống như một con người chẳng có chim và đừng có bướm, hắn cứ lừng lững sống ở đời mà vật vã với biết bao đau khổ. Hắn phải là đàn ông hay đàn bà chứ! Hắn chẳng có âm dương mà ve vãn đùa cợt cùng nhau thì rõ khổ ơi là khổ! Hắn như cái xe máy còn tốt gầm gào muốn chạy mà bị thỏi thép chặn ngay vành, thật rõ khổ… tiên sư cái thỏi thép, thằng bỏ cha, bỏ mẹ nào quái ác mà lại chơi đểu làm vậy. Mọi thứ muốn sống mà đành lặng đứng im, thế mới thật bỏ cha, bỏ mẹ cho cái đời hắn, cứ heo hút lặng lẽ trong trời, chẳng thà như cái lá cứ rụng quách cho xong… và hắn chẳng được như thế mới khổ… cái lá đời hắn vẫn xanh, nhưng lặng ngắt như trong tranh, hay bị bàn tay nào cầm giữ mới tức. Quanh hắn mọi người cũng thế, cứ im phăng phắc mà hắn phải giống họ thì hỏi có buồn không – nếu cứ gào rống lên thì nhận lấy cái nhục chẳng bằng người… Mang cái tiếng là thằng khốn, không chịu đựng giỏi như người khác, và lạy giời hắn im thin thít như người câm, mà đã câm thì luôn kèm theo điếc, mà có lẽ thêm cả mù nữa cho hoàn hảo. Ở thời ta, người ta nuôi chó công nghiệp, cả đàn mấy chục con, họ chọc cho thủng màng nhĩ, chẳng còn nghe ngóng được gì nữa nên chó quên cả tiếng sủa, cứ việc ăn cho béo và họ làm thịt. Họ chẳng cần chó săn bắt, nên con chó thời ta chẳng có mấy tác dụng, mà ngẫm cũng phải, chó má quái gì mà lại đi xơi cả bả, lăn đùng ngã ngửa ra mà chết hỏi có buồn cho loài chó hay không? Thời đại văn minh, loài người săn chó mà thịt – loài vật rõ gần người, ta chẳng phải mò mẫm gì mấy và miệng dễ có thịt xơi, quả là rõ tiện, khi loài chó chẳng còn đáp ứng nhu cần săn bắt mồi trong thời đại văn minh ngày nay, thì chó chết là đáng, chó điếc, chó câm cũng là phải! Cứ câm điếc mà lại được ăn rồi được chết cũng là cái may cho loài chó. Vạn vật hữu tình rồi cũng đều chết cả cơ mà, đó là chân lý của trời! Chó chết trong miệng thằng người rồi thằng người cũng phải chết vùi thân trong đất. Tựu chung, chó người cùng được về với đất cả. Cứ chui về đấy mà quyến luyến bên nhau cho bõ bao bực tức ở đời. Cứ ngẫm cái nọ ăn thịt cái kia có lẽ là cái việc của trời cũng nên. Hắn lại nghĩ câu chuyện xưa các cụ kể lại, có những dân tộc từ thời cổ đại, khi những người già chẳng còn đắc dụng, họ lặng lẽ cầm mẩu thừng vào rừng sâu, tìm tới chỗ âm u tịch lặng, tự tay thắt thòng lọng vào cổ mình, chèo lên cây lớn, buộc đầu dây còn lại lên chạc cành và lặng lẽ buông mình từ giã con cháu mà về với tiên tổ. Thời nay, họ coi hành động trên là tiêu cực, là thủ tiêu cách mạng, nhưng hắn thì nghĩ khác – hắn thấy đó là hành động dũng cảm nên làm – sau khi đã sống hết mình nuôi dạy nòi giống, đời người đã mệt mỏi với bao điều suy ngẫm và họ lặng lẽ mà làm vậy theo tôi nghĩ thì cũng phải! Họ đã nhìn đủ, nói đủ, và làm đủ mọi sự ở đời, thì mẩu dây thừng kia, cái thòng lọng ấy như vòng nguyệt quế tỏa ánh hào quang mà đưa người lìa cõi.
Mà ngẫm cũng lạ, người già thời nay thường ham sống và rất sợ chết. Họ cứ cố mà dai dẳng ở đời thì mới tức – dù khổ mấy, nhục mấy họ vẫn cứ muốn sống… Không lẽ họ ngượng ngập với tổ tiên nhiều điều chi đó mà lúc sinh thời chẳng thời chẳng làm được. Có lẽ là thế, hắn cũng như họ - những người già, chỉ được nhìn, chẳng được nói, và không được nghỉ… và cứ là sống để may ra còn nói lên được đôi điều chi đó cho thỏa cái vận hóc xương… Tôi cho dứt khoát là phải thế thì người già thời ta mới thèm sống dai đến như vậy. Các vị cứ thử nghĩ mà xem, một lão già mắt lòa, răng móm, tai nghễnh ngãng, chân tay lủng lẳng chẳng buồn cựa mà vẫn thèm được sống… mà tôi xin cam đoan họ chẳng khác mấy pho tượng nặn dở bằng sành bày bán ngoài chợ. Quả là ở đây – trong chuyện này – phải có một điều gì đó còn vướng mắc, còn dang dở, mà họ chưa làm cho được… Dứt khoát phải là như thế… chứ ai đã già đến thế mà còn ngồi ăn vạ cõi đời không bõ nhục, mà cũng có thể các cụ cứ ngồi đấy cho cháu con nó nhìn thấy cái nhục đời mình làm người mà mãi còn dang dở. Dẫu có hỏi các cụ sẽ chẳng nói đâu… chỉ nhìn thôi – cái nhìn như bảo: “Mẹ bố chúng mày cứ sống đi rồi khác biết”.
Khi sinh con, cha mẹ nào chẳng muốn dạy nó biết đi, biết cười, biết nói, để rồi biết suy, biết nghĩ, hiểu thế nào là nóng, lạnh và đau đớn, mừng vui, đó là niềm hoan hỉ trong lòng cha mẹ, có ai ở đời mà không muốn thế - con trẻ nó cứ cười, cứ nói bi bô mà nhận biết cõi đời, sự sống cứ chợt hiện, chợt tan trong từng ngày hé mở, họ khoái trá vì con mình khôn ngoan, hiểu biết hơn con người, mắt tinh, tai thính hơn con người khác. Nhưng rồi mỗi lớn nó cứ câm dần, điếc dần, như bao người khác, như hắn hôm nay chẳng hạn, có lẽ vì mọi người hiểu sự sống của họ chỉ hiện có một lần, thật quý hóa làm sao nên cứ lẳng lặng mà sống như ai ở trên đời, chẳng cần nghĩ ngợi bàn cãi chi lắm thêm khổ thêm mệt. Sự sống đã được đúc kết sẵn, chẳng phải lo lắng lằng nhằng và cứ như vậy là xong chuyện. Mà nghĩ cho cùng, mọi giác quan sinh ra chỉ nhằm vào sự tranh giành ngớ ngẩn, có lẽ vứt bớt đi thì đời người đỡ khổ hơn chăng? Cả cõi đời cứ im lặng mà sống có hơn không? Vạn sự đã có trời phật toan định, thế mà hắn thấy ngứa ngáy, muộn phiền thì mới lạ…
Ở ta, phật sống hiện lên thành người, phật ông có, phật bà chẳng ít. Ông ngồi salông, ông ngồi trên sập, có ông gầy còm kham khổ, lắm ông béo phì như ông Di Lặc dáng trần. Vạn sự ở đời các ngài đều toan tính cho cả, non nước cứ đều đều trôi chảy mà hỉ sả mới hên. Ai cũng như ai, có gạo, có rau, có vừng, có lạc mà sinh sống, cứ lặng lẽ xếp hàng, tuần tự mà đong, mà đếm cho qua ngày. Ai cũng như ai, quân bình phẳng lặng, cả nước tu hành trên thịt cá chẳng cần nhiều chi lắm, cứ ít dần, ít dần cái khẩu phần sát sinh, nặng nghiệp nên con người cứ hiền khô, chẳng buồn vật lộn với nhau nữa, cả nước dốc lòng hướng về chính quả. Nhưng thỉnh thoảng trong cả ngàn vạn người cũng có một vài thằng điên, thằng dại mà nhiều khi cứ ngẫm thấy hắn lại buồn cười, mọi người ai ai cũng thế… mọi thứ cứ đều đều từ văn chương, báo chí, nhạc họa, cứ na ná mà tiến lên trên con đường hành đạo, thì hẳn mấy thằng điên lại rước họa muộn phiền, mọi cơ quan truyền thông đều đả phá, lẩn tránh họ. Cả nước chẳng ai giống họ mà cứ làm mới khổ, ở đời có ai lại đi chống phật bao giờ không cơ chứ - rõ bọn hắn là mấy thằng điên đứt đuôi chẳng còn cãi vào đâu được.
Cứ ngẫm trong sử sách, ở ta nào truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, rồi là Nỏ Thần chẳng hạn… Có nhiều khi hắn phát sợ… dứt khoát là phật phải nhiều phép lạ thần thông hơn… Mà nhiều đứt đuôi nữa là đằng khác… Nên hắn sợ. Có lẽ vì hắn sắp điên nên thành phát sợ, thế nào phật cũng biết hắn sắp phát điên. Các ông phật nghìn mắt nghìn tay thì thôi rồi, đời hắn cứ là bỏ mẹ… Hắn sợ hãi nhìn ngắm cõi đời… Có người nào phát bệnh như hắn không? Có đấy – hắn nhìn thấy, nghe thấy bao kẻ đã phát điên phát rồ mà còn nặng bệnh hơn hắn nhiều. Một niềm vui kỳ lạ thổi bùng trong hắn, thứ cảm giác lạ lùng về những thằng điên – những chấm sáng lập lòe đom đóm trong đêm, trên kia là những vì sao, dưới này lập lòe của lửa đời đom đóm, vạn vật, bóng đêm và bóng đêm, hắn cứ thiêm thiếp trong nỗi buồn điên dại.
Đêm đêm, khi cõi đời tắt đèn đi ngủ thì hắn thức dậy, lặng lẽ bật đèn – bật thật nhỏ thôi – hắn nhủ thầm như thế với chiếc máy ghi âm, hắn bật băng nhạc của người điên lên ngồi thưởng thức. Hắn bật chiết áp nhỏ lắm – nhỏ đến nỗi âm thanh chỉ bằng đầu kim mà sâu vào lỗ tai hắn. Bao âm thanh nhen nhóm, như còn, như mất, bồng bềnh nổi trôi, như gió thoảng qua hồn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…”. Hắn khoan khoái về lời ca, giọng hát ấy, nhạc sĩ điên nghĩ về hạt bụi và ca sĩ Khánh Ly hát về hạt bụi ấy. Hạt bụi ban đầu trôi trong không gian lại trở về hạt bụi. Nhưng ở khoảng giữa nó, hạt bụi ban đầu và hạt bụi sau cùng có lẽ bằng không. Hắn hoan hỉ về số không đời hắn vì nếu đã là không thì chẳng cần phật pháp – hắn lẩm nhẩm trong đêm – lạy phật, con cóc cần ngài, khi đời người là không, thì… hắn cảm thấy sợ hãi… liệu phật có nghe thấy hắn vừa nói đấy không? Hắn sờ tay lên miệng… cái hàm thiếc vẫn còn – hắn tự nhủ - có lẽ khoảng không là hỗn mang nên lòng ta hãi sợ. Chẳng thà mình cứ là hạt bụi quách đi có hơn không?
Cõi đời như không như có – lời phật dạy mấy ngàn năm còn đó, để đến hôm nay đời hắn cũng như có như không. Mọi chân lý bỗng trở thành mai mỉa trong khoảng trống rỗng ấy. Cõi đời và những cái hàm thiếc như neo bám vào nhau trong sự trống rỗng, vô hình đến quái đản – cái hàm thiếc ngáng lấy mồm hắn và hắn ngoạm lấy như con cá đớp phải lưỡi câu… nghe thấy đấy… mắt nhìn thấy đấy… khối óc suy nghĩ đấy… nhưng mà không – không nói lên được – đôi tay chẳng làm nên được hắn như con rối trong rạp xiếc, chờ dây giật mà thể hiện hình hài – rõ là thằng người quái đản, hắn đang trôi trong không gian, thời gian và chẳng là gì sất cả! Mọi thứ đang bị thời gian gặm nhấm cho tàn tạ đi, như hắn, mớ giẻ rách ở đời cố trùm đúm mà lau lia đi mọi thứ, nếm chải khổ đau trong một thời đã nguội.
2005


Nhật Ký Về Đêm
 
          Con thân yêu! Thời gian mà bố được gặp con có lẽ ngày sẽ càng thưa dần. Nó chẳng còn như ngày xưa, khi cất tiếng gọi, con vội vã trở về bên bố dù đang vui đùa thích thú ra sao, nhưng con vẫn trở về… Có lẽ vì con luôn cảm thấy bố là người cha luôn luôn yêu thương con hơn cả sự sống. Có lẽ đó là thời gian khốn khổ nhất cho tất cả mọi người trong xã hội, trong đó có nhà mình. Thời bao cấp, cha sẽ cố lý giải ít nhiều về hai từ “bao cấp” mà nhà nước xã hội chủ nghĩa giành cho cõi sống. Đó là nhà nước quản lý toàn bộ xã hội và cấp phát cho mọi người. Tất cả mọi ngành nghề thuộc nhà nước quản lý và trả lương cho mọi người, ai không làm cho nhà nước thì được bán 13 kilôgam gạo một tháng, cán bộ 5 lạng thịt, nhân dân 2 lạng một tháng. Ở nông thôn, ruộng đất người nông dân vừa được cách mạng thu của địa chủ chia cho mọi người, nay tất cả phải vào hợp tác xã, và bắt đầu bình công chấm điểm. Đó là hình thức cướp trắng mọi thứ mà bác nông dân vừa giành lại được, cả xã hội như một trại chăn nuôi khổng lồ. Ngoài chợ, rau của nhà nước, cá của nhà nước, vải của nhà nước và cho đến cả cái tăm cũng có thể là đồ phân phối. Tuyệt nhiên không có hàng ngoài vì đó là tội buôn lậu và cũng chẳng lấy đâu ra mà bán. Mọi của cải vật chất trên đời tự dưng như tan biến đi đâu. Lúc đó, bố vừa là người đi tù về, lấy vợ và có con. Con thân yêu! Bố cứ nhớ mãi cái đêm con khóc, tiếng khóc chào đời ở nhà hộ sinh ngõ Thổ Quan. Ngày hôm ấy, bố bị sốt cao, mẹ rủ bố đi bách bộ trên đường Thanh Niên, có thể mẹ cảm thấy điều gì lớn lao sắp xảy ra. Con có biết không, vào cái thời điểm trọng đại ấy, bố mẹ chẳng có lấy một hào, làm đủ ăn có lẽ chẳng bao giờ dám ước. Bố mẹ ngồi trên ghế đá ven dường nhìn ra mặt hồ Trúc Bạch tối đen thăm thẳm, một nỗi lo âu cho cuộc đời vộ định, một ngày mai sắp đè nặng lên cuộc đời. Vào lúc ấy, mẹ con bắt đầu trở dạ. Bố vội vã đèo mẹ qua nhà ông ngoại, mượn xe xích lô đưa mẹ vào nhà hộ sinh. Bà ngoài đặt vào lòng mẹ một nải chuối tây đang chín dở và thế là bố gò lưng đạp. Lần đầu tiên, bố đạp xích lô mà lại chở vợ chửa, người thì đang sốt, bụng thì buổi tối cả bố lẫn mẹ đều chưa có hột cơm nào, nên khi đưa mẹ tới nơi, làm xong thủ tục, bố gục đầu vào bậu cửa đứng mà thở, trời thì lâm thâm mưa, mẹ bên trong, bố bên ngoài động viên cho nhau mà chờ đợi. Con có hình dung ra không, mẹ tay vịn tường, lưng còng vì cái bụng, tay kia cầm nải chuối và cứ thế, mẹ ăn, mẹ ăn rất nhanh, ăn cho lấy được, chỉ hai miếng có lẽ hết một quả. Gương mặt mẹ nghẹn ngào, nhợt nhạt vì lo sợ vì cứ thế cái bữa ăn khủng khiếp mà bố được nhìn thấy của mẹ con trước lúc lên bàn đẻ, hai bên thái dương mẹ ướt sũng mồ hôi, cái hành lang thăm thẳm, nhạt nhòa, nhơ bẩn. Mẹ đã đến đấy để sinh con lần đầu. Bố cứ chờ bên bậu cửa, miệng lâm giâm cầu phật che chở cho mẹ, cho con. Bố cứ đứng dưới mưa mà chờ đợi. Bố chợt thấy đêm hôm đó giống như đêm nay, bầu trời dài như không còn rạng sáng, thế giới như chẳng còn, bỏ mặc mình bố ngắc ngoải trong đau đớn mà chờ đợi.
          Hai giờ sáng, tiếng con khóc chào đời vang lên. Cái tiếng khóc khàn khàn, nhỏ nhoi như hòa vào trong đêm, tiếng khóc như mầm cây cựa mình len vào cõi sống. Bố sung sướng biết bao. Mọi y tá qua lại, bố cố khẩn khoản hỏi họ và biết con là thằng con trai, mẹ khỏe bình thường. Bố lủi thủi đạp xích lô trở về vì phải lo ngay cho mẹ ăn cái gì ngay sau khi đẻ.
Ngày… tháng… năm 2005
          Có một thời mà miếng ăn cứ đè nặng mãi lên cõi đời, nó như vị quan tòa lạnh lùng truyền bảo, miếng ăn chẳng còn vẻ đẹp tự nhiên của lúa gạo! Nó là sự giằng xé đau thương, báng bổ cõi đời. Vì ăn, con người chẳng còn ra người nữa, họ xâu xé trước cửa hàng gạo, ở đâu bán thực phẩm, ở đó có thét gào, mà ta thì phải sống! Đời người như mầm cây bén lấy đời mà sống, mà dứt khoát phải sống khi ta là con người. Bố chợt ngẫm, hình dáng đời người khổ não siết bao. Cái đói làm cho hình hài biến dạng, và đó là cái đích mà người ta mong muốn, song con người vẫn là con người, sự tuần hoàn trong trời đất – đó là quy luật con người sinh nở ra con người và phải sống. Con đò cơ khổ cõi đời không hiểu bắt đầu từ đâu? Từ đời ông cha, hay từ đời bố và chẳng lẽ từ nhà hộ sinh ngõ Thổ Quan nơi con chào đời. Sự sống mãi mãi tuần hoàn trôi và lớp lớp người bồng bềnh vô định. Con đã ra đời và lớn lên như thế. Từ nhỏ, mẹ luôn vắng nhà vì phải đi làm, chỉ có con và bố, cái nghèo làm mẹ chẳng còn tin ai ngoài nức nở, oán trách nhà chồng như đời mình bị hớ, mọi thứ trong đời cứ sứt mẻ làm sao!.. Đời người chẳng ra đời người thì cõi sống còn cho là cõi sống. Song con ơi vẫn phải sống, đó là điều mãi mãi khẳng định. Loài người luôn lần tìm một điều gì đó mơ hồ và khổ não làm sao! Khi quanh họ, cỏ cây cồn cào sự sống, chẳng hề chen lấn và cứ tuần hoàn sống động. Bao quanh đời người biết bao điều khổ hạnh, là bon chen, là hơn tiệt, là thù hận và ganh tị, và có thể bắt đầu cuộc đời con là thế. Con đói phải ăn… và bố phải làm, con bén vào bố và bố sống vì con – đó là cái lẽ tuần hoàn vô địch. Cái trước nương vào cái sau và cái sau hiện sinh vì cái trước. Cốt lõi của cõi đời là sự sống cứ nối tiếp, cứ sinh ra, con giống bố những bước chân đầu đời chệnh choạng đi vào cõi đời. Bố cố gắng vật lộn mà vực cho đời con lớn dậy, và người cha nào chẳng thế, có thể đó là cái lẽ sinh tồn mà trời đất phú cho cõi đời. Bố luôn cố gắng, ao ước cho đời con mờ đi cái đói… Song vô phương khi cái đói là cốt lõi của đời.
Hết phần I


Hồi Ký “Cây Bút”  

Theo tôi nghĩ phát minh đầu tiên lớn lao nhất của loài người là cây bút. Nó như một thứ vũ khí để tạo khắc trên cõi đời những suy nghĩ, tư tưởng của nhân loại. Nó làm cho cõi sống tuần hoàn và sinh động hơn nhờ vào sự hiểu biết những kinh nghiệm đã qua tôi không thể tưởng tượng thể loại bút nào xuất hiện đầu tiên trên cõi đời? Cây que hay lông thú? Nhưng ở thời tôi đã sống, có lẽ cây bút mà tôi còn nhớ được là cái ngòi “777”. Cái loại ngòi bút được cắm trên quản gỗ tiện. Mỗi khi sử dụng phải chấm vào lọ mưc. Người ta hay nướng ngòi bút trên ngọn lửa để đốt sạch dầu mỡ và làm mềm đầu ngòi bút, khi viết nét chữ sẽ mềm và linh hoạt hơn. Mà ngẫm cũng khổ, giấy má thời ấy sao mà tồi tệ đến thế. Trông cứ thâm xì xì mà lại còn lồi xà lồi sồi không phẳng, tờ giấy cứ cứng đơ đơ nhơ cán bằng gỗ chứ đâu như bây giờ. Ấy thế mà thời đó, mọi thứ quý như vàng. Tôi muốn được mua một cái ngòi bút mới thì cha mẹ phải được nghe tường trình đâu vào đó về nỗi bất hạnh của cái ngòi bút hỏng. Đối với tôi nỗi bất hạnh của cái ngòi bút là vô kể. Tôi bị các cụ mắng thường xuyên về cái ngòi bút và quần áo vở giây mực. Biết là ăn đòn nhưng mà chẳng làm sao sửa nổi. Có lẽ vì trong đầu trẻ thơ chưa có nhiều ký ức nên chẳng có gì để biết, nên tác dụng của cây bút thì ít nhưng tai họa lại nhiều. Cứ ngẫm cậu học trò thời ấy, cắp cái túi đi học, vá vài chục mảng bằng các loại vải tiết kiệm đủ cái loại hình thù: Tam giác, vuông, lục lăng, đỏ, tím, vàng, đủ mọi màu sắc. Tất cả những mảnh vải nghèo đói ấy hòa quyện lại thành cái túi sách học trò. Trong cái túi sách ấy, cây bút phải an phận nằm cạnh đủ mọi loại bát nháo. Nào sách nào vở, nào sỏi chơi ô ăn quan, nào quả bàng xanh trên phố, nào thỏi nam châm. Tất tật các thứ lỉnh kỉnh ấy cứ chen lấn mà đè lên cây bút. Thử hỏi khi đến lớp hay về nhà thì cái đầu hạt gạo nơi ngọn bút còn gì là hồn vía, hôm thì cong tớn, hôm thì mất một bên. Bài vở lem nhem, áo quần tím ngắt, và thế là lại xe điếu. Tôi còn nhớ mông đít tôi đã vằn lên nhiều “con lươn” tím ngắt, để rồi ngày mai vẫn thế. Cha mẹ mong muốn con mình hoàn hảo, nhưng trẻ thơ thì đâu cần. Những bài học đâu có chỗ trong cái dạ dày lép kẹp vì đói khát, có lẽ sự đùa nghịch giúp cho trẻ con quên đi nỗi cào cấu của cái đói. Mẹ tôi thường nhắc: “Hiên ba bát rồi”? Ba bát là chấm hết cho nhu cầu dinh dưỡng của nửa ngày, và cứ thế nhân lên cho một thời thơ trẻ. Tôi đói lắm nên chẳng cần ngòi bút với manh áo nâu mẹ khâu bằng bao đựng đường Cu Ba viện trợ. Tôi cắp túi lên đường có lẽ chẳng đúng! Các cụ xưa có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện” nếu đặt câu nói này vào thời đó thì phù du quá? Mà phải ngẫm nghĩ câu của trẻ con thường nói “Nhân bất “khợp” bất chi lý”. Trẻ em bóp méo câu nói của các cụ thật đúng và tài tình vì thời đó sự sống còn dưới mức để cho chúng suy nghĩ đến việc học. Còn chúng lôi những đứa trẻ con thì cứ đùa nghịch cho quên đói.
          Cái ngòi bút 777 sinh ra vào cái thời đói kém giáp hạt như vậy? Cái loại ngòi bút bất tiện cho lứa tuổi, làm phiền cho đói khát!
          Câu chuyện bắt đầu vào một hôm mẹ xách làn đi chợ, đưa tôi rẽ vào thăm bà bác? Phố Nguyễn Biểu, một khu phố lặng lẽ, thanh bình. Đâu phải do đầu phố có nhà thờ Cửa Bắc. Sự thanh bình có lẽ là tính cách sẵn có của phố Nguyễn Biểu. Thời các cụ thì nó thuộc về tầng lớp quyền quý. Thời ta thì nó thuộc về các vị tai to mặt lớn. Thỉnh thoảng, có xen kẽ vài số nhà bình dân, xong có lẽ nó là những nét tô điểm cho sự bình dị của các nhà sang trọng. Thời ấy quan chức ai cũng muốn tỏ ra hòa mình xong có lẽ hòa chẳng nổi nên cứ lênh đênh trên ngôi cao sự sống.
          Nhà bác tôi số 18 nằm gần đầu phố, trước mặt là nhà thờ Cửa Bắc và chạy song song với phố Đặng Dung, nơi gia đình tôi ở. Hai con phố đều có một nét giống nhau đó là cái tĩnh lặng thanh bình, nhưng phố Đặng Dung thì ít các vị chức sắc vì bản chất nó là nhà ở của các tư sản thời Tây, sang thời ta họ bị đánh bẹp nên im lìm nằm thở và gia đình nhà tôi cũng im lìm như họ, sự tĩnh lặng quả là có nhiều lẽ!
          Tôi theo mẹ tiến vào nhà bác, một khu biệt thự hai tầng trang nhã có ngõ rộng trải sỏi và hiên lớn nhìn ra đường. Những dãy cửa sổ lớn sơn màu nâu giản dị mà sang trọng. Tôi len lén theo mẹ tiến vào phòng khách. Bác tôi thời Tây làm quan tri huyện, không hiểu sao sang thời ta bác tôi lại làm quan chức ở Phủ Thủ tướng. Kể cũng lạ, bác tôi khéo léo làm sao mà tránh khỏi bị đánh bẹp và sướng luôn cả hai thời? Bác tôi là một ông già nghiêm khắc. Khi chúng tôi gặp bác thì đã sang thời ta, nghe đâu Bác Hồ vận động bác tôi ra hoạt động kháng chiến có ít ngày mà gia đình bác tôi thoát khổ. Quả là may mắn! Bố tôi không được cái may như vậy, nên cứ còm cọm với đời từ con địa chủ xuống trung nông rồi bần nông và chấm hết vì có lẽ chẳng còn bậc nào để mà xuống nên gia đình tôi cứ vậy! Mỗi khi sang nhà bác tôi, gặp lại cái không khí quan huyện thời xưa và quan cách mạng thời ta làm cho con cháu chúng tôi cứ rờn rợn mà kinh hãi! Mà kinh hãi thì cũng phải vì trong phòng khách nào sập gụ tủ chạm, đồ sành đồ sứ cổ la liệt trong phòng! Bác tôi là một người quắc thước, rất nghiêm khắc, cho dù giọng nói có hơi lắp song chẳng hề hấn gì tới cái phong cách uy nghi trong gia đình. Hôm ấy có lẽ mẹ tôi sang vay tiền thì phải, vì nhà tôi chẳng còn gì mà bán. Mọi thứ đồ đạc bán được chừng như vô duyên với gia cảnh đói kém nên nó cứ lặng lẽ ra đi theo từng bước thăng trầm. Sự phát mại chỉ được dừng lại trước bàn thờ tổ tiên vì trên bàn có ông nội tôi đội mũ cánh chuồn trông thật nghiêm khắc. Dứt khoát vì lẽ ấy nên mẹ tôi hay phải đi vay mượn đó đây anh chị em trong gia đình họ hàng.
          Tôi len lén nép sau lưng mẹ lí nhí chào bác rồi tiến vào phòng khách. Mẹ tôi ngồi trên ghế sa lông đối diện với bác gái, tôi đứng đằng sau, bác trai lừ lừ một vài câu xã giao rồi lặng lẽ đi vào nhà trong! Có lẽ đó là đặc tính riêng của mọi quan chức thời ấy? Họ không muốn tiếp xúc với tất cả mọi loại thứ dân hay người thân quen đến cầu cạnh? Khi xưa một người làm quan cả họ được nhờ nhưng thời ấy thì có mà đợi? Khi bác quay vào lúc đó tôi mới được hoàn hồn. Là đứa trẻ hiếu động, tôi chạy đến bên chiếc bàn gỗ lớn, trên mặt để nhiều tập sách lớn nhỏ chắc đó là nơi làm việc của bác trai. Trèo lên ghế, với lên mặt bàn và bắt đầu hí hoáy với mọi thứ lạ lẫm trong đời, trên bàn. Nào là những nghiên mực bằng thủy tinh pha lê, những giá cắm giấy tờ bằng gỗ mun đen bóng. Tiện tay tôi với được cây bút bi – Mà quả thực lúc đó tôi không hề biết đó là cây bút, chợt vạch lên giấy thấy có mực và thế là tôi thỏa trí vẽ vời quên cả mẹ và bác gái đang trò chuyện. Đến khi mẹ tôi gọi về thì tôi mới tỉnh cơn nghịch. Về đến nhà tôi vẫn cầm trên tay cây bút bi của bác và lại say mê với cây bút lạ, cứ thế mà vẽ vời cho đến lúc anh trai con bác tôi vỗ vai:
-         “Này cậu em, sao mà gian thế, cho anh xin lại cây bút em cầm nhầm” – Tôi mới tỉnh cơn say trả lại cây bút cho anh mang về!
Có lẽ bác thấy tôi vẽ vời vớ vẩn nên phát hiện ra cây bút tôi cầm nhầm. Đối với đứa trẻ lên sáu tuổi đang học lớp vỡ lòng thì lời nói như vậy là quá nặng, nhưng lúc ấy tôi chưa hiểu. Sau khi anh về, bố cầm xe điếu lôi tôi ra trước bàn sa lông:
“Hiên! Con có biết đó là hành động gì không?”
Tôi lặng lẽ không trả lời vì có biết gì đâu – Đó là ăn cắp? Lấy của người khác không hỏi là ăn cắp. Cha tôi là một con người nhân hậu ngay thẳng, nhưng nếu cha tôi không giải thích tường tận đến vậy thì đời tôi có lẽ không đến nỗi! Ngày hôm ấy hai cái từ “Gian quá” “ăn cắp” cứ lởn vởn trong đầu tôi như một nỗi ám ảnh. Tôi ngượng ngùng với mọi người trong gia đình nên thường lảng tránh những ánh mắt của người thân, cả tâm hồn dường như thu nhỏ lại. Mỗi khi và mãi cho tới những ngày sau khi cầm đến cây bút bi tôi lại có cảm giác hãi hùng như vậy. Tôi luôn luôn có cảm giác mọi người đang nghĩ xấu về mình. Nó như vết gợn đầu tiên và đeo đẳng tôi mãi mãi về sau, như một con bệnh dai dẳng cứ lớn dần lên để trở thành thù hận. Tôi luôn căm thù cây bút, suốt những năm đi học tôi luôn phải dùng duy nhất loại bút quản bằng gỗ, ngòi 777 vì bố mẹ không lo nổi cho con chiếc bút máy. Tôi rơi vào tính trạng vừa căm ghét vừa thèm muốn cây bút. Có lẽ suốt cả đời tôi không có nổi lấy một cây bút nên mỗi khi nhìn thấy các bạn có bút mới tôi đâm ra ganh tị bực tức, đã mấy lần thó thực sự của các bạn về giấu trong thạp gạo. Càng căm ghét cây bút thì tôi lại càng bị nó mê hoặc? Các bạn đi học gọn gàng sạch sẽ bao nhiêu thì tôi luộm thuộm chừng ấy, áo quần luôn nhem nhuốc vì cái lọ mực chết tiệt. Có lẽ cả quãng đời ấu thơ là sự thèm thuồng đói khát – Một sự đói khát chính đáng mà cha mẹ tôi không sao lo nổi và anh chị em tôi thực sự hiểu điều ấy! Tất cả cứ bị nén xuống như những quả cà trong vại. Cha tôi – từ một công chức Nhà nước lương cao, nuôi dưỡng cả một gia đình 14, 15 người sung túc, trong nhà người ăn kẻ ở, vú em cho từng đứa con mà mẹ tôi mỗi tháng còn để ra được mấy lạng vàng. Thế mà lúc ấy mức lương cha tôi chỉ còn bằng 1/20 thì hỏi rằng một gia đình sẽ ra sao? Có lẽ đó là một cú trượt dốc kinh khủng. Con người lúc đói chỉ còn duy nhất kinh hãi. Người ta chỉ còn gặp nhau ở của hàng gạo phân phối hay ở của hàng mua thịt bán theo tem, người ta tranh dành, người ta trò chuyện? Có lẽ các ông bà nông dân muốn hoán vị chỗ đứng của mình cho bọn địa chủ và tư sản nên xã hội bỗng ri vào trạng thái đói kém thế này, họ chẳng muốn chơi với ai hết như ông bác tôi chẳng hạn. Còn tôi, cái đứa trẻ tàn tật vì đói khát. Tôi chẳng cần chi nữa ngoài việc ăn…
Đúng như câu nói của các cụ ta xưa “Dân dĩ thực vi tiên” nên ngọn đòn đầu tiên có lẽ là cái đói! Cứ đói thì mọi chân lý của họ sẽ sáng lên, con người ta mới ngửa mặt lên mà cầu ông trời ban lộc. Có thể vì lúc đó tôi còn nhỏ quá – Cầu cha mẹ thì chẳng có nên cũng đành lăn như hòn bi con quay ngoài phố cho đỡ tủi. Thời ấy cha tôi thật hay đánh con cái? Tất tật mọi lỗi lầm đều cứ là xe điếu. Cha tôi đánh con nhiều lắm, đánh đến nỗi cha tôi còn mệt, vì hồi ấy cha tôi đang đau dạ dày. Mãi về sau này tôi mới hiểu và thương cha, một con người chăm lo sự sống cho mười mấy người thì còn thời gian đâu mà dạy dỗ con mình! Càng thương con cha tôi càng đánh, chân lý thì vẫn thế - Sự đói khát là điều không thể thiếu cho một xã hội đi lên – Mọi thứ Nhà nước lo cả, từ áo, quần, chăn, chiếu, cơm, gạo, tất tật cứ xếp hàng. Tùy theo chỗ đứng, mức lương mà phân phối còn những kẻ không có chỗ đứng thì bình quân, cả xã hội không có tư nhân bán lẻ.
Một mình cha tôi cứ lặng lẽ mà làm, người càng ngày càng ít nói? Chị gái tôi đi học về phải ngồi cột điện mà đan len và ôn bài đến tận nửa đêm. Tôi và thằng em cũng phải học đan mà kiếm miếng, cứ đi học về là lại vào việc, hết đan thì quay tơ. Cả gia đình tôi là một công trường nho nhỏ. Tất cả dành cho cái miệng! Bài học hữu ích vì cái đói hiệu nghiệm làm sao. Sau này tôi còn chuyển qua cả nghề bốc vác, kéo xe bò làm thêm vì nghề này có vẻ hợp hơn với tôi bởi tính thích ngao du nghịch ngợm cùng bạn bè. Thời ấy tôi thực sự sợ hãi khi ở nhà – Vì ở đó trong nhà tôi có một cái gì na ná như địa ngục? Tác dụng cải tạo một xã hội quả là ghê gớm! Cứ đảo lộn cõi đời sẽ thấy cần ai! Sau này lớn lên tôi mới hiểu các bậc đàn anh của ta như Liên Xô hay người Tàu chơi với đàn em Việt Nam cũng thế? Họ cũng trói cái bao tử của nhau để mà sai khiến, còn ta có lẽ tương kế tựu kế định dùng họ để mà đắc lợi? Chúng ta thành công nhưng quả là mệt – Mà mệt thực sự nữa đằng khác! Vì cả một dân tộc đói ăn khi được ăn thì cứ phải là ăn đã – Mà kể cả bội thực cũng ăn thế đấy hãy đặt cái đói trước mặt chúng ta sẽ thấy vâng lời? Như cha tôi phạt cơm thì thằng em lặng lẽ dúi cho anh nửa phần cơm đỡ đói.
Thời ấy gia đình tôi sống trong một biệt thự, về sau này ở phố Châu Long, ngôi nhà thật to nhưng rỗng tuếch. Tôi còn nhớ mãi cái trường Yên Thành hồi cấp một! Các bạn tôi không bị quất ngọn roi thành phần thì có vẻ còn sáng sủa, anh em tôi thì ảo não làm sao – áo sơ mi nhẹ khâu bằng bao bột mì, nhấn nâu còn nguyên cả cái triện như thằng tù “Đường Cu Ba”, anh em tôi rất ngượng? Song để bù vào đấy tôi sẵn sàng đánh tất cả những đứa nào coi thường manh áo khốn khổ mẹ khâu và cứ thế một thời thơ ấu qua đi trong đói khát tủi nhục. Anh chị tôi trầy trật rồi cũng xin được vào một vài trường vớ vẩn nào đó cho có chỗ đứng nhưng mỗi người mỗi nơi, nên cái chỗ đứng ấy dường như chẳng có tác dụng gì mấy cho gia đình nhưng như thế còn hơn vì anh chị em tôi may ra còn có một chỗ đứng, cái nghề tư sản hay địa chủ có vẻ được nương nhẹ đi chút ít. Cả tháng hay cả tuần gia đình tôi may ra mới có dịp đông đủ và hôm ấy có lẽ là ngày luận tội nghịch ngợm của thằng em vì hồi này sau khi đi học về tôi lại theo bạn đi bán nước vối nóng và bán kem ở trên tầu điện, mà tôi rao thật khéo nghe cứ ảo não làm sao “Lào ai lước vối lóng đê, lước vối lóng lào…” lời rao như méo đi nghe thật thú vị vì tôi nói có ngọng đâu nhưng đối với khách hàng cứ như đùa cợt, ấy thế mà bán được. Một đứa trẻ con nhà quyền quý lên tàu đi bán kem kể cũng thật vui! Người ta nặn sao chẳng được – Cải cách sai thì họ làm lại, nghe mới thật ghê? Nhưng theo tôi nghĩ chính những con người trong cõi sống bắt buộc họ phải làm lại. Cứ thử ngẫm một đất nước nhà nào chỉ biết nhà ấy, kèn cựa nhóm ngó, bon chen nhau tất tật chỉ vì miếng cơm manh áo? Tôi tự hỏi: Đồng ruộng xưa nay vẫn thế, khung cửi dệt vải vẫn vậy, sao con người lại đói kém đến thế? Các ông to như bác tôi chẳng hạn, có cửa hàng cung cấp riêng, đi đưa về đón, vẫn kiểu cách như xưa, họ hoán vị chỗ đứng cho nhau nhưng chỉ có khác họ tranh đấu vì họ mà thôi. Họ có thể gửi cha mẹ là thành phần địa chủ lên Hà Nội chơi cờ bạc ở phố Hàng Bạc để ở nhà rảnh tay mà đâm mà chém những gia đình địa chủ khác. Thế đấy? Họ chỉ có thế! Khi mà sức mạnh đã trong tay họ thì chẳng còn gì là khó là không làm được. Họ dùng chính cái đói để làm mâu thuẫn xã hội và khi có mâu thuẫn thì có đấu tranh giai cấp, mọi thứ tất tật họ đổ cho đế quốc sì lang, họ chẳng bận tâm với bất kể vật cản nào trên đường, người lớn thì có trại tập trung, trẻ con thì có trại giáo dưỡng? Ngẫm quả là gớm – Khi có quyền lực thì gớm thật. Họ dựng bác nông dân dậy, cho ở nhà của địa chủ. Bác nông dân rồi cũng thay tâm, đổi tính, ăn lắm, ít làm, thích đè nén dạy bảo người khác cho ra vẻ, khi có chuyện thì họ gào ầm lên mà lao vào san bằng đạp đổ. Mà ngẫm cho cùng thì các ông to bà lớn thời ấy có mấy ai là con nhà bần nông. Tôi cứ ngẫm mãi, có lẽ họ tự đánh vào đít mình trước rồi họ làm thịt thiên hạ sau thì phải? Từ ngày xưa có thằng đế quốc nào giết đến cả triệu người dân Nam bao giờ đâu? Ấy thế mà họ làm được – Mà làm vẻ vang nữa đằng khác cơ chứ.
Ở làng tôi các bác nông dân được chia nhà địa chủ, họ dỡ dần ra mà bán rồi cuối cùng lại bán lại cho con cháu nhà địa chủ thì mới lạ? Thế đấy trò đời thật chớ trêu. Gia đình địa chủ bị đè nén nhưng họ vẫn cần cù làm ăn, học hành vươn lên để giành lại cuộc đời của họ. Quả thật loài người đặt trước cái đói thì khủng khiếp xiết bao, họ đóng cửa, bế quan tỏa cảng để mà nhào mà nặn một lớp người đói khát biết xếp hàng, bon chen và kèn cựa lẫn nhau, chẳng cần biết ông già người lớn hay trẻ nhỏ tất tật đều bằng phẳng như nhau mà hứng chịu.
“Bác ơi, nếu như bác có linh hồn thì thời ấy cháu đói – Cái đứa trẻ lên sáu, cháu của bác đang đói! Sao bác không cho nó yến gạo, manh áo, cái bút hay quyển vở?
Hay chăng bác tôi to quá rồi chưa phải đói bao giờ nên khỏi bàn này nọ? Sau này tôi mới rõ – Bác tôi thời đầu là chánh công an Bắc kỳ (có nghĩa tầm Bộ trưởng Bộ công an thời nay) rồi bác tôi còn làm đến trưởng phòng Lập pháp Phủ thủ tướng. Thật quả là những công việc to lớn nên bác làm gì còn thời gian đâu mà lo đến ai trong họ hàng làng nước nữa. Nhiều khi tôi ngẫm nếu như cách mạng xã hội chủ nghĩa đã san bằng xong mọi bất bằng trong xã hội mọi gia đình cả nước ai cũng như ai thì phản ứng nào sẽ xảy ra nữa đây? Một cõi sống không bất bình, không cao thấp chẳng có tài năng hơn kém thì thật kỳ lạ - Thế mà hồi đó dân ta cứ tin như là kinh Phật đà không bằng?
Họ thành lập hợp tác xã, một hình thức công bằng ai cũng như ai để rồi đồng ruộng chẳng có ai chuyên tâm mà làm. Nào là phong trào năm tấn lúa/ha, nào là ba đảm đang cho chồng vào Nam đánh giặc. Thôi thì đủ thứ, cuối cùng cả xã hội ai cũng chỉ muốn làm cho riêng mình, từ ông to bà lớn cho đến bác nhà nông và cuối cùng thì lại là quyền tư hữu và cái lầm lỡ thì ai chịu đây? “Ta sai ta sửa!” chỉ có thế!
Tất tật chỉ có thế! Theo tôi nghĩ nỗi khổ lớn nhất là nỗi khổ cha mẹ không bao dung nổi những đứa con mình và giờ đây mỗi khi nghĩ đến cha mẹ tôi và một đàn con lít nhít mọi lứa tuổi tôi lại thầm ước: Nếu có thiên đường và địa ngục? Thì trời ơi? Tôi cầu cho ông bác tôi được đứng cạnh vạc dầu mà xem khổ hình của bao kẻ ác độc trên đời đã làm hại cho non cho nước. Cuộc đời tôi cứ mất? Đầu tiên tôi mất mẹ, một năm sau tôi mất cha, rồi tôi mất dần biết bao người bạn thân yêu khác? Cõi sống thật bình dị thiết tha, nhưng sao cuộc đời tôi không cớ, dường như tất cả đều chỉ là huyễn hoặc? Một cõi sống tạm bợ cho những cuộc đời tạm bợ cơ cầu, dường như những nhà chính trị Việt Nam đã ru ngủ non nước này cho bao ý đồ của họ. Tội căm thù hai từ “chính trị”, cứ thấy họ là tôi lại nghĩ Họ đang định làm việc gì bịp bợm ta đây? Mỗi kiếp người là bao điều đáng kể! Nhưng ở tôi chỉ có bao điều sợ hãi? Tôi vào tù khi còn rất trẻ sau bao năm tôi ta tù, nhìn lại gia đình mình buồn bã làm sao. Cha mẹ tôi đã bán ngôi biệt thự lấy tiền lo cho con cái và mua một căn nhà mới thật nhỏ tận cuối làng. Bố tôi vẫn còm cọm đi làm, mẹ tôi vẫn ngồi bên guồng sa quay sợi. Cả nước vẫn giữ lại một nét đặc trưng dường như không đổi là cái nghèo. Chẳng nhẽ cái nghèo là một quốc sách? Bố mẹ tôi con cái đã lớn, nhưng chỗ ở thì hẹp hơn tất cả chen chúc trong một buồng và phải sống – Phải sống để chờ xã hội đi lên. Đả đảo “đế quốc Mỹ sài lang” để rồi đến quan hệ Việt – Mỹ, rồi thì hội nhập kinh tế thế giới – Ngẫm đời cũng hay – Con đĩ chưa tụt váy người ta đã hiểu sau lớp váy kia là cái gì! Thế mới khổ, thế mới lạ - Đài báo vẫn chửi – Tay chính khách thì bắt tay cho quan hệ. Và cái thời ăn no ló mặt! Người ta bực mình vì hợp tác xã không đạt! Thế là rũ bỏ giao giả chúng mày. Đồng ruộng trổ dòng, lúa mọc bội thu, mấy bác nông dân cứ là tha hồ được dịp – Chẳng phải họp hành, đừng phải chấm điểm, nhà cửa, đài đóm, cứ là lũ lượt hiện lên sau khi xã hội thoát khỏi thời bao cấp. Tôi chợt nghĩ, không hiểu con người nào chủ trì trong việc đưa đất nước vào thời bao cấp? Tôi chắc chắn rồi bác nọ lại đổ cho bác kia, mỗi bác gánh tội một ít nên tội to thành tội nhỏ mà tội nhỏ thì chẳng bõ thế là hòa. Chỉ khổ mấy bác nông dân tưởng đời thăng hoa để rồi vẫn thế. Mà cái giống đang bị trói chặt, bỏ đói khi thả ra thì thú vị siết bao? Cứ là ăn, cứ là nhậu, đài thì phải đài xịn, xe thì phải xe sang, toàn những là hàng hóa của tư bản, cái xe đạp có ném về quê chẳng khác gì cho nhau mớ rau mới lạ. Họ chơi với ta quả là hậu hĩnh chứ đâu như anh Nga, anh Tàu cứ là khóa cái bao tử để mà sai bảo. Đất nước cần xóa đói giảm nghèo thì họ cho vay? Tôi còn nhớ có thời người Mỹ cấm vận dân ta thật khổ? Nhưng chẳng hề hấn gì – Dân Việt Nam quen bướng đầu tuân theo kỷ luật sắt, nên họ có cấm nữa thì ta đâu có sợ, chẳng còn gì để mất? Nhưng rồi không hiểu sao họ lại bỏ cấm vấn thì mới lạ? Có lẽ họ chơi đến bài vỗ béo cho ăn, cho vay. Mà cái giống đói lâu dễ bội thực, nằm lâu cuồng cẳng gặp xe máy là cứ muốn phi thẳng lên trời. Tôi chợt nghĩ đến lời mẹ khi xưa: “ Không nên ăn no vì ăn no không muốn làm việc – Không đắp ấm quá vì đắp ấm quá không muốn đứng dậy – Phải nhìn thấy lỗi của mình thì mới sửa được.” Mà sửa thế nào đây? – Khi chúng ta còn gì đâu mà sửa, một lũ trẻ nhuộm da, nhuộm tóc lởn vởn khắp đời. Chúng đã quen ăn không ngồi rồi, thích mình thành ông thần ông thánh, vì chúng luôn tự hào là tương lai của một gia đình, đất nước. Quả thật đằng sau những người đi trước là một thế hệ đi sau. Vòng tuần hoàn cứ trải dài vô tận, người ta kế thừa, người ta cắt bỏ, và bao giờ cái mới cũng khỏe và sắc hơn. Ngẫm đến đây lại nhớ đến ông bác tôi khi về già. Vào một hôm tới thăm, bác đã già và chậm chạp hơn xưa. Căn phòng khách khi xưa, nay thuộc về con cái, bác lui về căn phòng gần gầm cầu thang. Hôm tôi đến các anh đang sửa nhà thật là ầm ĩ. Ngôi biệt thự được chia thành ba bốn chủ. Hợp ý ai người ấy làm, vương quốc này không còn là của bác nữa, nên cái quan trọng uy nghi dường như tan biến đâu mất. Tôi chào bác, xong ông chẳng nhận ra là ai. Theo tôi nghĩ có lẽ bác đã thấm hiểu bọn chúng tôi đều như nhau – Chẳng đứa nào muốn vào cái hợp tác xã của bác cho thêm mệt. Bác gái đã mất lâu trong một tai nạn lúc sang sửa nhà cửa nên bác trai cứ phải lủi thủi một mình trong căn nhà thật rộng, với một thế hệ con cháu không cùng một ý tưởng. Cái bó đũa gia đình đã dỡ tán loạn trên mâm! Nỗi mệt mỏi cứ đến dần mà thấm vào trong bác. Cái niềm tin cõi sống nhạt nhòa dần đi, thời gian trả lại đâu đây nỗi cô đơn khơi dậy, bác là cái bóng của một thời cứ mờ dần trong kỷ niệm. Chú em tôi có mặt khi bác mất. Anh chị thay áo quần lần cuối cho bác, họ tìm thấy trong túi áo ngực một bức ảnh thời trẻ ngày hai bác mới cưới nhau. Đằng sau bức ảnh có dòng chữ bác viết “Bà ơi, cho tôi đi theo bà”. Cả cuộc đời bác là một sự bất thành, không hiểu tại số phận hay con người? Theo tôi nghĩ có lẽ tại cả hai, do vậy bác tôi cứ lui dần về quá khứ. Nhớ đến bác lòng tôi lại ngẫm về cây bút: Cây bút bi! Nếu như ngày hôm nay ai có nhu cầu tôi xin trịnh trọng mang biếu cả tá! Ấy thế mà có lúc đời tôi tan nát đến vậy! Tôi căm thù cây bút.
Nhưng cái nghiệp cuộc đời lại là nhà văn nên mỗi khi hễ cầm đến bút tôi muốn dùng nó mà đâm toang hoang bao nỗi khổ trên đời cho hả một thời thơ trẻ tôi đã từng đau thương vì nó.
“Hỡi cây bút bi mà ta đang dùng để viết những trang hồi ký này, ta trả lại cho người biết bao nhiêu đau khổ mà một đời người phải nếm trải”.
Hà Nội, ngày 20 tháng 02 năm 2003


Thay Lời Kết
 
Trong niềm vui chẳng cần đến nhà văn! Vì niềm vui đã lấp đầy mọi thứ, niềm vui chẳng cần văn chương ca ngợi. Bởi lẽ nó cóc cần ai nhìn ngó vẽ vời.
Cứ thử ngẫm khi ta vui nhất! Ta sẽ chẳng cần đến ai, xin tất cả mọi người hãy để yên cho tôi sống! Câu trả lời là thế đấy. Hỡi tất cả mọi nhà văn có ý định dòm dõi vào họ. Khi cõi sống tràn ngập niềm vui thì nhà văn ơi! Hãy tìm lấy cho mình một chiếc xe bò kéo và hãy làm tròn bổn phận… Đừng lảm nhảm bên những cuộc vui kẻo chừng lại thành nỗi khổ. Họ chẳng nặn bóp được gì khi tất cả đâu đã vào đấy cho từng suy nghĩ, ngôn ngữ sẽ lố bịch làm sao trước vẻ đẹp hài hòa! Bởi ngôn ngữ sinh sau vẻ đẹp. Có biết bao nhà văn dòm ngó vào thiên đường ấy song họ bị coi như những kẻ nhìn trộm phụ nữ ở trần. Thật rõ khổ! Làm nghề mà chẳng rõ nghề! Có phải đâu cứ vục mặt vào là được.
Thân phận của hắn – nhà văn – hãy vục mặt cuống vũng bùn mà vực lên cho từng suy ngẫm. Thế đấy, hãy đánh giá mọi nỗi khổ đau là ngọc, mọi sự mất mát là vàng, thì cỗ xe bò của hắn sẽ chở đầy châu báo.
Sinh nhật vợ 2-5-2003
Tác Giả: Vũ Thi
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.11.2017 22:47:49 bởi Vuthivietnam >