KẺ CHĂN DẮT
Tiểu thuyết của Đăng Chương Ngạn ( facebook.com/DangChuongNgan)
NXB Văn Học - năm 2012
LỜI TỰA CỦA NHẬT CHIÊU
MÊ CUNG DƯỚI ĐÁY
Thế giới trong Chăn Dắt là thế giới ở dưới đáy – nơi ấy người ta còn gọi là mê cung Những đứa trẻ bị ném vào cái đáy khủng khiếp đó mà bắt đầu cuộc sống vô vọng. Mọi thứ bắt đầu từ Không Không cha không mẹ. Bị bỏ rơi. Bị bắt cóc. Thành một thứ hàng cho thuê hay mua bán. Bị đánh đập. Bỏ đói. Bị để mặc cho chết khi thương tích, ốm đau… Rồi xác thân sẽ được vùi sâu ở một nơi hoang vắng mênh mông. Cũng có khi nạn nhân là người lớn – Những người lớn ăn mày lớn lên từ những đứa trẻ ăn xin Những đứa trẻ không có ngày mai. Mặt trời vẫn mọc nhưng không mọc cho các em. Và các em trở thành những nô lệ mới cho bọn chăn dắt. Bọn chăn dắt. Những con thú biết nói. Nhưng có khi chúng cũng là nạn nhân của những kẻ “chăn dắt” khác, trong vòng xoáy nghiệt ngã không có gì phi nhân tính hơn *
* *
Đặng Chương Ngạn trình bày cái thế giới u ám đó. Cuộc sống dưới đáy phơi mở trước mắt ta. Rùng mình. Có cuộc sống như thế sao? Có những đứa trẻ bị đọa đày thế ấy? Có những người lớn bất nhân đến thế? Ta biết rằng cái thế giới ghê sợ ấy có đó. Cái đáy ấy có đó. Cái mê cung ấy vẫn ngang nhiên tồn tại. Dù muốn hay không. Dù ta (bạn) nhìn hay không nhìn. Mà chắc chắn còn dã man hơn những gì tác giả trình bày. Cái dã man không thể dùng lời mà nói hết. Ngòi bút của Đặng Chương Ngạn đã mở ra thế giới dưới đáy ấy như mở ra mê cung của cái khổ và cái ác. Sinh động. Dữ dội. *
* *
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày, hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan
(Văn chiêu hồn) Bốn câu thơ ấy của Nguyễn Du như thể đang chiếu xuống số phận của những: Tý, Châu, Thanh, Sửu què, Khèo, … và hai cha con bé Hy. Tên bé là Hy. Nghe như hi vọng. Nhà bé ở thôn Giáng Trên, bé nghe nói thế. Nhưng quay về đó có thể chỉ là linh hồn rách nát của bé… linh hồn khốn khổ và tuyệt vọng. NHẬT CHIÊU Tôi rất ghét những cơn mưa phùn dai dẳng. Mưa suốt ngày, lê thê, não nề. Không gian đẫm ướt hơi nước, áo quần ẩm mốc, bốc mùi. Và đó cũng là mùa đông ở Miền Bắc, gió mùa tràn về lạnh giá, khiến tôi suốt ngày run cầm cập trong bộ quần áo rách rưới, mỏng tanh. Rét thấu xương, “rét teo cả chim, cụp cả tai” như cha tôi vẫn nói. Tởm nhất là những con đường lầy lội, bẩn thỉu, những lối đi trong các chợ cá, chợ thịt. Tôi cảm thấy da mình sởn ốc khi phải nằm quằn quại hàng giờ trên mặt đường nhoèn nhoẹt, hay lê chân qua các vũng nước bẩn, sền sệt bùn, rác rến, chịu đựng giá rét, chịu đựng bộ quần áo ướt dính bệt vào da, ẩm ướt, nhớp nhúa cả ngày dài. Rồi các vết thương ngứa ngáy,đau rát. Gãi bật cả máu vẫn ngứa
Nhưng cực hình thực sự đối với cha con chúng tôi là khi đêm đến. Tôi thích những đêm hè Hà Nội. Khu phố nào cũng mát mẻ, lộng gió. Đêm có hàng trăm khách sạn ngàn sao mời gọi chúng tôi. Việc ngủ ngoài đường chẳng thành vấn đề. Mái hiên các ngôi nhà trên phố đều là chỗ ngủ qua đêm. Cha con tôi chỉ cần chăng mùng, rải mảnh ni lông rách xuống vỉa hè lát đá, láng xi măng là đã có thể thả mình vào một giấc ngủ ngon lành. Nhiều khi, cha tôi chưa kịp buông mùng, tôi đã nằm lăn ra trên nền đất ngủ mê mệt như chết. Tất cả những mái hiên trước cửa các hàng da, hàng giày, hàng giấy, 36 phố phường đều là nhà của chúng tôi khi đêm đến. Chúng tôi đi ngủ sau khi chủ nhà đóng cửa và tỉnh dậy thu dọn trước khi chủ nhà mở cửa. Chủ nhà không hề biết đêm đêm cha con ăn mày nằm ngủ trước nhà họ. Nhưng mùa đông, các mái hiên đều xua đuổi chúng tôi, gió thổi thốc từ sông Hồng vào lạnh cóng. Những mái hiên Hà Thành qúa ngắn không che nổi mưa, dù cha con chúng tôi có nép sát vào cánh cửa các tiệm hàng thì cũng vẫn bị ướt.
Khó khăn hơn, khốn khổ hơn, nhưng chúng tôi vẫn tìm được mấy chỗ qua đêm khá kín đáo và ấm cúng. Một chỗ là toa xe cũ ngay ga Hàng Cỏ, một chỗ là phòng học của một trường tiểu học, chỗ nữa chính là mái che quán ăn bên bờ hồ… Những hôm nào bị bảo vệ xua đuổi, hoặc không tiện về mấy chỗ cư trú trên, chúng tôi vào nhà ga, ngủ vạ vật một góc nào đó gần chỗ bán vé như hành khách đang chờ tàu. Trong những mùa đông khốn khổ đó, cha con chúng tôi đã có một nơi cứ trú tuyệt vời: ấm cúng, tự do và thoải mái. Đó là một ki ốt bán báo nhỏ như cái chuồng cu, nép bên bức tường gạch block trong khu phố gần ngõ Văn Chương...
Vào buổi chiều thứ 2, kể từ buổi tối bị dựng dậy ở cái chái bán bia hơi trên đường HD, cha tôi sung sướng thông báo ông đã điều nghiên được một chỗ ngủ tuyệt vời. Buổi tối, ông dẫn tôi đến cái ki ốt đó, rồi giao cho tôi nhiệm vụ đứng canh để ông gỡ ngay 2 tấm ván bên nách làm một khe nhỏ chui vào. Ít ngày sau, hai tấm ván nách đã được cha tôi chế thành một cánh cửa bí mật, rất dễ mở ra và đóng lại, mà người chủ khó có thể phát hiện được. Quả là một chỗ lưu trú tuyệt vời. Ông chủ dựng ki ốt bán báo trên một miếng đất thừa sát ngõ phố, một miếng đất vuông vắn bằng tấm chiếu đôi. Ông bù cho nó cao hơn vỉa hè và lát bằng những mảnh gạch vỡ vì vậy nền ki ốt luôn khô ráo, ngay cả khi mưa to cũng không bị ngập. Ông chủ kiếm đâu những tấm ván thông (có lẽ từ những hòm hàng chuyển từ nước ngoài về) đóng kín bốn mặt. Cả mái ông ấy cũng đóng bằng ván và phủ một lớp giấy dầu màu đen. Bốn mặt trong lại được dán kín bằng các tờ báo cũ (có lẽ báo bán ế). Mùa đông, trong quầy, không khí luôn ấm áp, luôn nồng nồng mùi gỗ thông và mùi giấy báo. Mùi ấy rất dễ chịu và hà hít nó quá nhiều tôi cảm thấy như mình bị nghiện. Ngắm nghía căn nhà mới, hai cha con tôi nhìn nhau, rồi cùng gừ lên ử ử như hai con chó hoang tìm thấy thiên đường .
Ki ốt báo trở thành chỗ trú thân yên ấm tuyệt vời nhất mà chúng tôi có được ở Hà Nội. Và trong suốt những tháng năm sau tôi vẫn không ngừng nhớ và mơ về một chốn như vậy. Những ngày đông giá, khi lê chân về đến chốn ấy tôi sung sướng như được trở về ngôi nhà ấm áp của mình, quên đi tất cả mọi nỗi khổ ải của ngày qua. Lót những trang báo cũ xuống nền gạch, rải tấm vải rách lên trên, quấn mình trong chiếc chăn rách nằm xuống bên cha, tôi cảm thấy sung sướng vô cùng. Ngoài kia mưa, ngoài kia gió bấc rít từng đợt, kệ nó. Chúng tôi cứ đánh một giấc no say tới sáng.
Sung sướng với chỗ ở mới. Ít ngày sau, tôi đã tìm cách ghé lại vào ban ngày để gặp chủ nó. Một bác già chừng 60 tuổi, tóc bạc, đeo kính, tác phong chậm rãi, từ tốn, khuôn mặt thân thiện. Có lẽ bác là một công chức đã nghỉ hưu. Quầy báo thường mở khá muộn, sau khoảng 8 giờ sáng, đóng cửa khá sớm khi mới chỉ 2-3 giờ chiều. Bởi vậy, ngủ ở đây vào những ngày mưa rét chúng tôi có thể dậy muộn. Và hôm nào kiếm được món nào kha khá, chúng tôi cũng có thể về nghỉ sớm. Thời gian làm chủ chốn riêng tư của chúng tôi khá dài, khá tự do, an toàn và thoải mái.
Tôi nói vậy, vì những chốn ngủ trọ khác của chúng tôi chẳng an toàn, chẳng thoải mái gì. Nơi thì phải chờ thật khuya, chủ nhà đã ngủ say mới dám mò vào. Nơi thì 3-4 giờ sáng đã phải mò dậy bỏ đi trước khi chủ nhà mở cửa. Nơi thì đêm đêm khốn khổ bởi lủ trẻ con nghịch ngợm, ngứa tay, chúng có thể tương vào chỗ ngủ của chúng tôi cả bịch rác hay cục đá. Chúng tôi từng có một chỗ lưu trú khá tốt phía dưới mái hiên của một căn biệt thự lớn trên đường NN. Chỗ ngủ yên ấm, khuất gió và yên tĩnh. Tại họa là ông chủ nhà có một thói quen đi tiểu đêm kinh người. Chắc căn phòng ở phía trên chúng tôi không có nhà vệ sinh, nên cứ nửa đêm, ông lại bắt chim qua thành cửa sổ xả thẳng xuống. Đêm đầu tiên, khi bị ông ta tương vào mặt, tôi cứ nghĩ là mưa, thè lưỡi ra liếm… rồi nghẹn họng luôn vì cái vị khăm khẳm kinh kinh của nước tiểu mà không dám kêu lên.
Hai bên quầy báo treo rất nhiều sách. Đôi khi tôi cũng lấy ít cuốn xuống, mở từng trang, hít hít mùi giấy và xem những hình vẽ trong đó. Với tôi cuốn sách hay là cuốn sách có nhiều hình vẽ. Mặc dù không biết chữ nhưng với một cuốn sách có nhiều hình tôi vẫn hiểu được phần nào nội dung của nó. Tôi ghét nhất những tờ báo, những cuốn sách chỉ có chữ không là chữ
Chúng tôi ở chốn thiên đường đó qua một mùa đông giá rét và qua hai tháng mùa hè… Một đêm, tôi đang ngủ say thì bị ai đó đá vào hông.
- Dậy!...Dậy ngay!
Tôi đang lơ mơ thì bị kéo tai lôi dậy và bị vả đốp ngay vào mặt. Cú vả làm tôi bừng tỉnh, mở mắt ra. Trước tôi là hai người dân phòng hùng hổ, chếch phía sau là bác bán báo đang nhìn hai kẻ ăn mày với ánh mắt giận dữ .
Hóa ra bác ta vừa có bài thơ đăng báo, tối nay ngồi uống trà với bạn bè nhớ tới vội chạy ra mở quầy để lấy tờ báo về khoe. Nói sao được hết sự ngỡ ngàng, hoảng sợ của bác ấy khi thấy hai kẻ ăn mày rách rưới chiếm cứ trong ki ốt đang ngủ li bì. Bác không dám gọi chúng tôi dậy mà phải nhờ đến hai tay dân phòng.
Tôi lắp bắp :
- Cha con cháu chỉ ngủ nhờ thôi… Cha con cháu không làm hỏng cái gì cả …
- Ngủ hả! Sao bọn mày dám chui vào sạp báo? Bọn mày vào cách nào?
Tôi chỉ miếng ván chúng tôi gỡ ra.
- Đúng là bọn trộm cướp – Gã dân phòng quay sang bác bán báo - Ông kiểm tra xem chúng nó đã ăn cắp những gì?
Bác bán báo nhìn khắp lượt, lật lật từng xấp báo, chồng sách rồi lắc đầu. Tôi cố gắng thoát ra khỏi gã dân phòng đang giữ tay mình, đi lại phía bác già :
- Bác ơi! Cha con cháu không phá gì của bác đâu! Chúng cháu chỉ xin ngủ qua đêm thôi. Chúng cháu không có chỗ nào ngủ cả!
Bác già bán báo lẩm bẩm:
- Các anh tự tiện quá… tự tiện quá…
- Bác ơi!…
Tôi định nói tiếp. Tôi không muốn xa chốn thiên đường mình có. Tôi tin rằng nếu gắng thuyết phục, có thể bác bán báo sẽ đồng ý. Nhưng quay sang tôi thấy cha đã thoát ra khỏi gã dân phòng lùn tịt, đang bỏ chạy về phía cuối con hẻm. Tôi đành cắm đầu chạy theo. Chạy sang ngách phố khác, tôi vẫn còn nghe tiếng quát: “Liệu hồn! …” của tay dân phòng.
* *
*
Mùa hè ở HN có vô vàn khách sạn ngàn sao. Nhưng vào mùa hè, cha con tôi thường chỉ sống một thời gian ngắn ở thành phố, hầu hết thời gian chúng tôi lang thang trên những con đường quê. Kiếm ăn ở quê dễ dàng hơn so với HN rất nhiều. Cha tôi thường nói: dân thành phố nó bố thí cho mình không phải vì thương, mà vì họ giàu, mấy ngàn tiền lẻ với họ có đáng gì, là vì họ muốn đuổi mình đi ngay cho khuất mắt, họ cho tiền để khỏi bị mình quấy rầy. Dân thôn quê thì khác: họ cho vì họ thương mình.
Tôi rất thích những con đường quê trung du, nó cong cong, uốn lượn qua những ngọn đồi. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện. Bên cạnh đường là những ngôi nhà tường xây bằng đá ong, có vườn rộng xanh tốt, có hàng rào đan bằng tre, hay bằng cây bông giấy xén gọn gàng. Nhà nào cũng có một giếng nước sâu hoắm, nước trong vắt và mát rượi. Buổi trưa chúng tôi thường ghé xin một gàu nước và ngửa cổ tu ừng ực, thấy tỉnh cả người. Mãi về sau này, khi đã uống ké một vài chai coca, nước cam, nước suối đóng chai… tôi vẫn không thể nào quên được vị ngọt ngào của nước giếng trung du. Một vị ngọt được vắt từ đá, chảy tràn trong cuống họng đã khô háo bởi bụi đường, làm lịm đi từng tế bào… Khi uống xong một gàu nước no căng bụng, tôi thường ngồi tựa lưng vào giếng, nở một nụ cười sung sướng, mãn nguyện, hai tai vểnh lên lắng nghe tiếng lũ sẻ nhộn nhạo trên mái nhà .
Hai cha con tôi, người trước người sau, đội hình bao nhiêu năm không có gì thay đổi. Cha tôi đi sau, cặp mắt “mù lòa” dấu sau đôi kính râm, tôi đi trước khuôn mặt thiểu não như sắp chết đói, hai tay bê chiếc ca sắt tráng kẽm chìa vào mặt từng người, miệng rên rỉ một câu quen thuộc: “Các cô các bác thương cho cha cháu mù lòa!…”
“ Các cô các bác ơi thương kẻ mù lòa!…”. Chúng tôi sẽ đứng trước cửa bất kỳ một ngôi nhà nào đó bắt gặp trên đường cho đến lúc được chủ nhà bố thí hoặc xua đuổi. Thường thì, bao giờ họ cũng cho cha con chúng tôi một thứ gì đấy. Rất ít khi họ cho tiền như người thành phố. Họ cho chúng tôi gạo, khoai, sắn hay ngô, đậu. Cha tôi đã chuẩn bị sẵn rất nhiều túi nhỏ. Ra khỏi nhà họ, cha tôi sẽ bỏ thứ nào vào túi nấy. Khi các túi nải đã đầy, cha con chúng tôi không còn khênh nổi nữa thì chúng tôi sẽ ghé vào một cái chợ nhỏ nào đấy. Cha tôi nhanh chóng bán mọi thứ, cất tiền vào túi rồi đi tiếp. Trên đường đi nếu mệt, chúng tôi sẽ tìm một bóng cây và ngồi xuống nghỉ. Những lúc đó, cha tôi thường ngồi kiểm tra lại các chiến lợi phẩm thu được. Còn tôi, tôi khoan khoái hưởng các làn gió mát thổi mênh mang qua các khoảng đồi. Tựa lưng vào gốc cây, ngắm nhìn những đồi cọ trung du hoặc thả hồn theo những cánh bướm. Đất trung du rất nhiều bướm. Khi còn bé tôi yêu bướm đến lạ kỳ. Những đôi cánh mỏng tang, hoa văn rất đẹp luôn cuốn hút tôi. Nhìn theo cánh bướm, những con đường đất nhỏ quanh co, đầu óc tôi cứ mơ màng, mơ tưởng đến một nơi xa xôi nào đó.
Vào buổi trưa, cha con tôi sẽ nằm xuống bãi cỏ ven đường, dưới bóng mát tán cây ngủ một giấc nồng. Không có gì hạnh phúc bằng mùa hè, tất cả trở nên quá dễ dàng với những kẻ ăn mày.
Trong những chuyến đi như vậy, tôi sợ nhất là chó. Hình như lũ chó luôn ghét đám hành khất. Cứ thấy chúng tôi là chúng sủa, chúng nhào tới cắn, và đuổi theo. Ở nông thôn, nhà nào cũng nuôi chó. Ít thì một con, nhiều nuôi cả bầy. Cha con chúng tôi nhiều bận chết dở vì lũ chó. Cũng may, cha tôi cũng có chút ít kinh nghiệm. Ông luôn dặn tôi: thấy chó đuổi không được chạy, phải đứng lại và dùng một thanh gỗ dài để bảo vệ mình. Lũ chó thấy người chạy là chúng sẽ đuổi theo cắn bằng được. Nếu nhát gan bỏ chạy sẽ kích thích thêm sự hung hăng của chúng.
Người thành phố thường lạnh lùng, cho chúng tôi tiền xong là họ mong chúng tôi biến đi. Còn với người quê thì chúng tôi lại khổ sở vì họ quá quan tâm. Nhất là các bà già, khi cho chúng tôi cái gì họ cũng hỏi : “Tại sao phải đi ăn xin? Hai cha con phải không? Tại sao không kiếm việc làm? Thằng bé (tức là tôi) có học hành gì không? Tại sao không đến trường?”
Cha tôi bao giờ cũng cúi đầu xuống, giọng ngậm ngùi: “ Khổ lắm cô bác ơi! Nào ai có muốn trở thành người không nhà, không cửa đi ăn xin thế này đâu. Nhà em vì bão lụt mà thê thảm thế này. Vợ chết, em mắt bị mù thế này, xương sống xương sườn gãy hết thế này… Bây giờ có làm được việc gì đâu. Hai cha con đành phải đi ăn xin sống qua ngày thế này...”
Câu nào, ông cũng đệm hai chữ “thế này” nghe rất bi thương.
*
* *
Con đường quê, nhiều đoạn vắng lặng đến buồn. Không thấy nhà dân, không nghe tiếng chó sủa, nhìn ra hai bên chỉ là cánh đồng, ngút ngàn tầm mắt.
Những khi đó, tôi lủi thủi đi sau cha tôi và suy nghĩ về mình. Vào mùa hè rời thiên đường chỗ ki ốt báo ra đi, tôi chỉ mới là đứa bé lên 5, tôi cao cỡ 1.1m, nặng 17 kg, gầy đen, tay chân ghét bẩn bám thành lớp. Cha tôi có lẽ đã hơn 40 tuổi. Đầu tóc bù xù như tổ quạ, thân hình khẳng khiu, gầy không thể gầy hơn, dáng khom khom, vẹo vặt. Cha luôn kể cho tôi hay rằng: mẹ tôi ngày xưa đẹp lắm, đẹp như tiên sa! Thời thiếu nữ, cả đống thanh niên xếp hàng theo mẹ. Nhưng lạ thay mẹ chỉ yêu có cha tôi thôi. Thật bất hạnh mẹ đã mất vì bệnh tim ngay khi tôi mới ra đời. Đôi khi tôi hỏi ông:
- Mẹ cao chừng nào?
Cha tôi đưa tay dứ dứ ra khoảng không:
- Cao chừng này nè, thấp hơn cha một cái đầu.
Đôi khi tôi lại hỏi:
- Da mẹ có trắng không?
Cha tôi chỉ một đám mây:
- Trắng à…Ồ rất trắng. Người ta nói trắng như mây…
Tôi luôn hình dung ra mẹ: dáng thanh mảnh, yểu điệu như mấy cô soát vé xe buýt, da trắng hồng
Mùa hè đó, chúng tôi lại lang thang theo các đường quê. Nhưng việc kiếm sống có vẻ rất khó khăn. Tôi cứ phải dúi cái ca sắt vào từng người mà họ vẫn quay mặt đi. Nhiều người còn chửi chúng tôi: “Đồ lười biếng!”. Có người còn hỏi: “ Mấy ngày trước bọn ngươi đã xin rồi nay còn xin nữa à???”. Hóa ra, mùa hè này, có quá nhiều người kéo về vùng nông thôn kiếm sống như cha con tôi. Sau này, tôi mới biết, ở HN đang có chiến dịch truy quét thu gom ăn mày và những người lang thang không nhà cửa.
Nhiều hôm, đi rã rời cả hai chân mà chỉ được mấy lát sắn khô, vài nhúm gạo… Và, có hôm chúng tôi chẳng kiếm được gì. Cha tôi rên rỉ: sắp chết mất rồi con ơi. Sao bây giờ ít người nhân từ thế. Cả vùng quê cũng sắp quay mặt với dân ăn xin như bọn phố xá. Ông nói với tôi: cha con mình phải thay đổi cách kiếm sống thôi con ạ, cái trò cứ chìa tay vào người ta mà rên rỉ, kể lể không xong rồi, không xong rồi. Phải thay đổi con ạ. Ông cứ lẩm bẩm như đang dự tính một âm mưu gì đấy. Tôi thì cảm thấy quá chán nản, mệt mỏi, chỉ muốn nằm lăn xuống đường ngủ một giấc. Ít ngày sau, khi đi qua một nhà văn hóa, cha tôi biến mất rồi ông xuất hiện và hối thúc tôi đi nhanh lên. Khi ra khỏi làng, ông rút từ trong bao tượng ra một chiếc trống cơm. Ông vỗ bùng bùng lên mặt trống và ông hát bằng cái giọng khê khê chói cả tai. Khó có thể nói là ông hát, nghe cứ như người ta la ré hay đang bị chẹn họng, khi thì khàn khàn như tiếng ngan đực. Rõ ràng cha tôi chẳng biết hát hò gì. Còn tiếng trống của ông thì chẳng ăn nhịp gì vào bài hát cả, nó là một chuỗi âm thanh gõ thùng thùng tùy hứng.
Bây giờ, hai cha con tôi hành nghề theo cách thức sau: tôi vẫn đi trước với chiếc ca sắt, dứ vào mặt mọi người, kéo cha tôi theo sau bằng một sợi dây vải lùng nhùng. Ca sỹ “mù” cha tôi vừa gõ trống vừa hát. Nếu chỗ nào gặp đối tượng lì gan quá, cha tôi sẽ vỗ trống mạnh hơn và giọng ré lên nghe chói tai hơn cho đến khi kẻ kia phải bỏ vào ca sắt trong tay tôi chút gì đó mới được buông tha.
Với sự trợ giúp của trống cơm, cha con tôi kiếm ăn hiệu qủa hơn hẳn. Ngay buổi chiều đầu tiên, chúng tôi đã thu được mấy tay nải căng phồng đủ thứ khoai, ngô, sắn, và đặc biệt còn được một bà già độc thân cho tiền. Đúng là, biết ca hát có khác, cha tôi tự đúc kết sau khi kiểm lại chiến lợi phẩm.
Chúng tôi đi qua một mùa hè oi nực trong bản hợp xướng: lùng thùng tiếng trống và giọng ngan đực.
*
* *
Một hôm, chúng tôi đi qua cánh đồng, bên một ruộng khoai có ba cha con nhà nọ đang thu hoạch. Ông bố rậm râu, trông dữ tợn, hai thằng con trai lớn hơn tôi 3-4 tuổi. Ông bố dồn sức dùng cái cào sắt 4 răng bổ xuống luống khoai, lật tung lên, hai thằng con theo sau gom dây khoai và nhặt củ. Năm nay được mùa, dây khoai nào cũng chi chít củ, củ nào cũng to, cũng mập, nặng cả ký. Cha tôi đứng trên bờ vỗ trống thùng thùng và cất giọng ngan đực. Người đàn ông dừng cuốc, ngẩng đầu lên quát: “Thôi đi! Thôi đi! Trống với chiêng… Hát với hò nghe ngứa cả tai…” Cha tôi cụt hứng, đứng im như phỗng, rồi sau đó kéo tôi đi băng xuống ruộng và ngả nón xin khoai. Người đàn ông trừng mắt, bành hàm râu quai nón như sắp nuốt sống chúng tôi: “ Xin gì mà xin, bọn mày cứ lười biếng quen, tao đang thiếu người nhặt khoai. Bọn mày chịu khó làm … Chiều tao trả công”. Cha tôi định quay lưng đi, nhưng tôi đã hét lên: “ Ông trả công nhé!”. Rồi tôi vứt hết đồ nghề bên bờ ruộng và nhảy xuống nhặt khoai cùng hai anh em nhà kia. Cha tôi nghĩ sao cũng quay lại mò mẫm tìm một chiếc cào rồi mò mẫm tìm luống khoai, lập chập bổ cào xuống. Hai thằng bé cười cười, nhìn tôi thân thiện. Thằng anh hướng dẫn tôi: cầm lấy dây khoai này, kéo từ từ khỏi gãy củ này, nếu có củ nào to ngập trong đất thì phải nhẹ nhàng nhổ củ khoai đó lên trước không sẽ bị gãy. Nếu củ nào lỡ bị gãy, thì dùng tay bươi đất để lấy lên, không được bỏ phí. Thằng em đưa cho tôi một khúc gỗ đầu được đẽo bẹt giống như cái xẻng nhỏ, bày cho tôi cách dùng cái xẻng đó để đào những củ khoai bị gãy. Tôi hết sức thích thú với công việc vầy đất thu hoạch khoai. Những củ khoai thu hút tôi kỳ lạ và tôi vui lây với vẻ hăm hở của hai anh em nọ. Cha tôi sau một hồi bỡ ngỡ với cái cào bây giờ có vẻ đã biết việc. Phải cuốc mạnh và phải áng chừng để răng cào cắm sâu phía dưới chùm củ, rồi bẩy tung chúng lên. Công việc tưởng dễ nhưng cũng phải có kinh nghiệm và khéo tay. Nếu cuốc sát gốc sẽ băm vào củ, cuốc sâu quá thì cào bị đuối không bẩy lên được. Đến trưa, tôi và thằng em bám theo sau ông chủ đất, thằng anh thì theo sau cha tôi. Hai mũi tấn công nuốt gần hết một nửa đám ruộng. Tôi mệt quá, gần như bò lồm cồm trên rãnh khoai và thở phì phò… Mặt trời gần đứng bóng, sau khi chất khoai lên chiếc xe cải tiến, ông rậm râu trả công cho cha con tôi cả một rổ đầy. Hai cha con phải xoay xỏa đủ cách mới bỏ được hết số khoai trên vào mấy cái túi mang theo. Ông rậm râu hẹn chúng tôi ngày mai gặp lại. Hai thằng con thì vẫy vẫy tay chào tôi vẻ quyến luyến lắm.
- Đi thôi con!
Cha tôi giục.
- Cha ơi Hay là mai mình đừng ăn xin nữa, cứ ra đây làm thuê cho họ!
Cha tôi trừng mắt:
- Đi đi! Làm thuê gì! Chúng ta đâu phải người làm thuê!!!.
Sau này, vẫn có đôi dịp cha con tôi làm thuê vài việc nhỏ để được trả công. Nhưng lần nào, cha tôi cũng tỏ ra chẳng mặn mà gì, và lần nào ông cũng bỏ ra đi sau một buổi, hoặc cuối ngày.
Còn tôi, tôi rất thích những công việc đồng quê. Tôi thích cái cảm giác được vùi tay xuống đất. Và tôi thích nhất nơi nào có trẻ con để cùng đùa nghịch. Nhưng cha tôi luôn nhìn những đứa trẻ với cặp mắt cảnh giác. Tôi cảm thấy ông luôn ra đi ngay nếu thấy tôi thân thiện với đứa bé nào.
Rồi dọc đường, ông bắt đầu lầm bầm dạy tôi rằng: tôi và ông sinh ra không phải để đi làm thuê. Hình như trong suy nghĩ của ông, việc đi ăn xin xem chừng còn sang trọng hơn việc đi làm thuê. Và, tôi không được tin người. Con người à, toàn lũ ác độc thôi con ạ. Không được kết thân với họ. Không được tin họ. Bọn ấy có thể lừa chúng ta, có thể vô cớ gây sự đánh đập chúng ta, giết chúng ta để chỉ cướp mấy trăm ngàn... Ông kể rằng: trước đây đã nhiều lần ông định kiếm một việc làm nhưng cuối cùng đều không được. Ông đã từng ở lại một bến cảng xin chân bốc vác. Việc nặng nhọc, tiền công thấp ông chẳng ngại gì. Ông chỉ mong kiếm đủ ăn, đủ mặc. Ông tập tọng vào nghề được mấy hôm thì xảy ra một vụ đánh nhau giữa hai nhóm thợ, bọn đầu gấu từ đâu xông vào chỗ phu khuân vác ở, mã tấu cứ thế chúng xả xuống bất kỳ ai. Ông bị một nhát vào vai, giả đò nằm chết mới thoát nạn… Lần sau, ông bị mê hoặc bởi vùng quê trồng dâu nuôi tằm, ở lại nhà kia xin phụ giúp, chỉ cần họ nuôi ăn. Công việc bận rộn “Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng” nhưng ông thích vì hợp với sức vóc của ông. Đôi ngày lại ghé qua mấy xóm bên mua lá dâu, nghe tiếng các cô hái dâu trêu chọc nhau, ông cảm thấy mình ngẩn ngơ như một kẻ si tình. Rồi lại chuyện không may xảy ra, bà chủ mất tiền. Họ cho rằng ông lấy, họ khăng khăng ở đây toàn người tốt, có chăng chỉ kẻ ăn mày như ông mới có thể làm chuyện xấu xa đó. Ông bị họ trói lại, dần cho một trận đòn, bắt phải khai giấu tiền ăn cắp ở đâu… May đêm đó ông thoát được… Đau đớn, uất ức, ông ngẫm ra phận ông chỉ có đi ăn xin mới yên thân, chứ không thể làm một nghề bình thường khác được. Ừ, những thân phận như ông muốn sống bình thường, làm người bình thường cũng không được. Ông cứ muốn sống khác đi là gặp ngay tai họa ...
Cha tôi, ngâm:
“Ngẫm hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
- Kiều đấy! Ông vỗ vào đùi, đầu gật gật như đang đắc chí.
Một ngày nọ, cha tôi gặp rắc rối với một cụ già. Cụ ở một mình trong vườn cây có một ao cá nhỏ. Khi chúng tôi đi qua, ao cá tát đã gần cạn. Nhìn xuống đã thấy những con cá rô, cá gáy nằm phơi lưng, hay đang cố bươn theo lạch nước để tìm lối thoát. Cha con tôi không ai bảo ai cùng nhào xuống hồ khi cụ già mới mở lời. Hai cha con chúng tôi và ông cụ tát nước, sục bùn, bắt cá trong không khí vô cùng hứng khởi và thích thú. Có lẽ, chưa bao giờ tôi làm một việc mải mê như vậy. Đôi khi, tôi kêu ré lên sung sướng khi chộp được con cá lớn... Buổi tối, cụ giữ hai cha con lại chiêu đãi. Chúng tôi chén cá luộc chấm nước mắm, ăn khoai với cá, ăn cá kẹp với lá vừng. Cụ già đổi cá lấy một chai năm rượu. Chính chai rượu này đã làm cha tôi say bí tỷ và ông ngủ một mạch cho đến giữa buổi sáng hôm sau. Khi ông dậy, mặt trời đã gần lên đến đỉnh ngọn tre rồi. Tôi và ông cụ dậy từ sớm, ngồi ăn khoai sáng với nhau. Rồi cùng làm vài việc vặt. Sau đó, tôi ngồi xem ông vót tre đan những chiếc rá nhỏ. Ông cụ vẫn sống bằng nghề phụ đan lát. Khi cha tôi bước ra sân ông cụ đang nắm tay tôi hướng dẫn tôi đan. Hai ông cháu thân tình như đã sống bên nhau lâu lắm rồi.
- Anh ạ… Hay để thằng bé lại cho tôi nhé. Tôi sẽ nuôi nó ..
Cha tôi trở thành người khác hẳn. Không nói không rằng, ông vơ lấy cái trống, túi đồ rồi kéo tôi đi ra ngõ. Ông cụ lập bập chạy theo ngơ ngác:
- Ô! Sao lại đi vội thế. Để đứa nhỏ tôi nuôi. Tôi coi nó như cháu…
Cha tôi cầm tay tôi chặt hơn, kéo đi mạnh hơn, miệng lẩm bẩm: “Cụ già dở hơi!”
Tôi nhìn lại phía sau, chúng tôi đã đi ra đến giữa cánh đồng, ông cụ vẫn đứng trước ngõ nhìn theo, lưng như còng gập xuống.
Sau lần đó, khi có ai ngỏ ý bảo chúng tôi làm việc là cha tôi vội kéo tôi đi ngay. Hình như ông không muốn tôi tiếp xúc với bất cứ ai. Hình như ông muốn dập tắt cái ý tưởng làm thuê nhen nhúm trong đầu tôi. Muốn tôi không bao giờ nghĩ tới điều đó nữa.
*
* *
Cái xóm nhỏ có rất nhiều mít. Những cây mít thâm thấp, lúc lỉu quả to, quả nhỏ. Trông xa, ngỡ như bầy quả đó bò từ gốc mít bò lên. Không gian cũng thơm thơm mùi mít. Nắng thì rừng rực từ sáng đến tối. Một bà già bé quắt queo như một đứa bé, có đôi mắt giống mắt chim, tóc bạc trắng bắt gặp cha con tôi ngay đầu làng. Và cứ lẵng nhẵng theo chúng tôi mãi. Tôi nghĩ không lẽ bà muốn nghe những bài hát buồn ói của cha tôi. Bà già nhìn tôi với đôi mắt chăm chú và rất trìu mến. Khi tôi chìa cái bơ rỉ sát người thì bà lắc đầu nói không có gì để cho chúng tôi. Bà nói vùng này nhà ai cũng có mít, nhưng chỉ nhà bà có nhãn tiêu. Bà sẽ cho chúng tôi một túi nhãn. Khi cha tôi trèo lên cây nhãn cao vút, đang tham lam truy tìm những chùm nhãn cuối mùa thì ở dưới này bà già ranh mãnh đang cố thì thầm vào tai tôi:
- Ông ta bắt con đi xin phải không?
Tôi lắc đầu :
- Không. Ông ấy là Cha con đó!
Bà già trợn mắt :
- Cha với con gì! Con với ông ta chắc chắn chẳng phải cha con. Ông ấy có nét gì giống con đâu. Nói thật đi! Nếu bị ông ta bắt cóc thì bà sẽ kêu mọi người cứu con, đưa con về nhà.
Hóa ra vậy. Bà già ranh mãnh đầy cảnh giác này khi nhìn thấy hai kẻ ăn mày lạc vào xóm mít thì đã bám theo lập mưu để cứu đứa bé. Nhưng nạn nhân tưởng tượng của bà lại không cần sự cứu giúp gì ngoài mấy ngàn tiền lẻ.
Tôi lắc đầu :
- Không! Ông ấy là cha con. Chẳng ai bắt con cả.
- Ôi thằng bé đáng thương! – Bà già vung tay lên trời, thất vọng ngao ngán - Bị cái lão đê tiện kia bắt đi ăn xin mà không biết. Tội nghiệp! Tội nghiệp! ...
Cha tôi nghe tiếng lào xào phía dưới thì hốt hoảng nhảy xuống.
- Cái gì? Cái gì?
Khi chúng tôi ra khỏi vườn, bà già nháy mắt với tôi đầy bí mật và tinh quái.
Không ngờ buổi trưa mùa hè lạc vào xóm mít thơm nức ấy, lại bắt đầu làm cho tâm trí của tôi rối bời.
Đi khỏi xóm mít, câu nói của bà già bắt đầu đóng đinh vào trí óc non nớt và hành hạ tôi. Và nhiều điều xưa nay tôi không nghĩ tới bây giờ cuồn cuộn trong trí não của đứa bé lên 6 tuổi.
Đúng là cha con tôi chẳng có nét nào giống nhau.
Tôi có khuôn mặt tròn, cha tôi mặt dài như lưỡi cày.
Tôi hơi mập, cha tôi khẳng khiu như một con chẫu chàng.
Da tôi trắng, còn cha tôi đen nhẻm.
Tôi phải kể về cha con tôi một tý :
Cha tôi là một người đàn ông ngoài 40 tuổi không cao nhưng rất gầy, nên có cảm giác ông cao hơn bình thường. Vai ông một bên có vẻ hơi gồ lên, và bước đi có vẻ khập khiểng như một người bị thọt chân. Mắt ông luôn hấp háy và đầy ghèn như một người mù. Thực ra ông chẳng thọt chân mà cũng chẳng hề mù. Khuôn mặt ông không có gì đặc biệt ngoài đôi mắt hấp háy, nó làm cho khuôn mặt ông tối đi, có vẻ gì ngơ ngẩn. Ông luôn mặc chiếu áo xanh bợt bạt, vá víu lung tung và hết sức dơ bẩn. Cái quần của ông trông còn thê thảm hơn, rách tưa tớp tới gối, mông thủng một lỗ to thòi cả quần đùi bên trong, vá đụp 2-3 miếng chồng nhau ở đầu gối. Quần áo tôi cũng màu xanh, ít rách, ít bẩn hơn ông nhưng cũng không khác gì mớ giẻ lau nhà .
Lần đầu tiên, sau khi nhìn nhận về bản thân mình và ông, tôi bắt đầu ngờ rằng tôi không phải con ông. Tôi cố xua đi suy nghĩ của mình nhưng những lời lẽ của bà già mũi cú kia luôn nhói lên trong tôi. Tối đó, sau khi ăn xong mấy củ khoai nướng, hai cha con tôi vào một trường học để ngủ qua đêm (ở các vùng quê, chỗ qua đêm tốt nhất vẫn là trường học, các nhà văn hóa hay kho hợp tác).
Đêm đã khuya mà tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi cứ trăn trở mãi trên hai chiếc ghế dài phòng học ghép lại, quạt phành phạch chiếc mo cau vì thời tiết quá nóng. Tôi không ngủ được chẳng phải bởi thời tiết nóng nực mùa hè mà vì những câu nói của bà già mũi nhọn cứ ám ảnh mãi trong đầu.
Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục băng qua đồi cọ sang làng bên cạnh. Tôi bước đi lầm lũi, lùi lại phía sau. Có lẽ cha tôi cũng nhận ra thái độ lạ lùng của tôi nên khi đến đỉnh đồi ông ngồi bệt xuống đám cỏ ven đường chờ đợi.
- Sao đi đứng chậm thế con. Sao mặt con ỉu xìu vậy?
Ông hỏi tôi mấy lần, nhưng tôi vẫn im lặng. Rồi cuối cùng không kìm nỗi, tôi bật ra câu hỏi dồn nén của lòng mình :
- Cha không phải là cha đẻ của con?
Ông sững lại, nhìn tôi, vì câu hỏi quá bất ngờ :
- Cái gì ??? Sao con nói vậy???
- Cha không phải cha đẻ của con!- Tôi gắng lấy bình tĩnh, nói rõ từng lời.
- Vậy cha là ai với mày? Ai nói mày vậy? Bao nhiêu năm qua, ai nuôi con …
Tôi cố gắng nói tiếp điều mình nghĩ :
- Cha lừa dối con. Cha không phải cha con. Con và cha chẳng có nét nào giống nhau.
Ông gương cặp mắt hấp háy nhìn tôi. Cái nhìn chứng tỏ ông không còn tự tin nữa. Thường thì ông vẫn là người khiếp nhược trước mọi thứ, nhưng trong quan hệ với tôi ông luôn tỏ ra tự tin, mạnh mẽ. Đối diện với một sự thật như vậy quá kinh hoàng với ông. Tôi lấy giọng năn nỉ:
- Cha ơi, cha nói thật đi: con là con ai?
Ông thở dài:
- Cha sống với con khi con còn ẳm ngữa. Cha luôn coi con là con trai của cha. Trước đây cha không nói là vì nói ra sợ con sẽ buồn, có ích gì đâu. Con còn bé quá đâu có hiểu được. Nhưng nay con muốn biết thì thôi cha nói thật. Con thực ra là con của một người phụ nữ ăn mày đã chết. Bà ấy chết vì bệnh tim. Khi mất bà gửi con cho cha nuôi. Thật tội nghiệp mẹ con!
- Thế cha con là ai?
- Cha không biết. Chắc là con không có cha. Mấy người ăn mày mà có chồng. Mẹ con cũng thế.
Nghe vậy tôi bật khóc. Tôi khóc rất lâu. Lần đầu tiên tôi biết mình cô độc giữa đời này: không cha, không mẹ . Nhưng có lẽ tôi khóc nhiều là vì thương mẹ tôi quá. Tôi nghĩ đến nỗi khổ mẹ nuôi tôi và nỗi khổ bệnh tật mẹ phải chịu đựng cho đến chết.
Tôi là con của một người mẹ ăn mày. Tôi cứ luôn tự thì thầm với mình điều đó khi lầm lũi đi trước cha tôi, dí cái ca sắt vào mặt thiên hạ, rồi trong lòng nức nở nỗi xót xa thương mẹ.
*
* *
It lâu sau, quay về Hà Nội, một hôm đi xin một mình trên phố (cha tôi ốm nằm nghỉ trong ghế đá công viên), tôi bị một chuyện bất ngờ. Thường ngày, chúng tôi vẫn hay gặp những người ăn xin khác. Ít khi những người ăn xin biết tên tuổi nhau. Nhưng có một số người ăn xin tôi biết tên do những lần cùng ngủ chung trong toa xe, hay vầy vật ở bến tàu.
Sáng đó, tôi gặp Sửu Què. Thằng bé có mấy lần ngủ chung với tôi trong toa xe hàng. Không có cha tôi hối thúc sau lưng tôi lười biếng chẳng muốn làm gì. Khi gặp Sửu Què tôi bám theo nó và ông già mù nó dắt tay để hỏi chuyện. Mùa hè rồi, nó vẫn ở HN và chỉ quanh quẩn Bờ Hồ, công viên Thống Nhất, nhà ga Hàng Cỏ. Khi nó hỏi sao hôm nay cha không đi cùng thì tôi buột miệng nói :
- Ông ấy không phải cha tao!
- Vậy! Hà, hà ... Thì Lão Sọc đây cũng đâu phải cha tao.
- Tao biết. Nhưng bao năm qua, tao vẫn cứ tưởng ông ấy là cha ruột của tao. Hóa ra tao là con của một bà ăn mày đã chết.
Lão Sọc đang cúi đầu đi, bỗng dừng lại phán một câu:
- Dối trá! Mẹ mày… ăn mày hồi nào! ...
Bị bất ngờ, tôi bám theo lão Sọc:
- Mẹ con không phải là “bà ăn mày”. Mẹ con là ai?...
- À…Ừ … - Lão Sọc như chợt tỉnh, lão cắm đầu bước nhanh
- Ầy, tao biết gì đâu, nói nhăng vậy thôi!
Tôi bám theo lão và Sửu Què qua mấy tuyến phố, gặng hỏi về mẹ tôi nhưng lão cứ trả lời ầm ờ: “Nói nhăng vậy thôi!” . Tôi biết lão lỡ lời và bây giờ lão sợ, đừng hòng cạy miệng lão được câu nào nữa.
Tôi muốn chạy ngay về cái ghế đá trong công viên, nơi cha tôi đang nằm để hỏi cho ra lẽ. Nhưng tôi đã không chạy mà ngồi bệt xuống bên hồ Thuyền Quang với nỗi buồn, giận đang ập lên trong lòng. Mẹ tôi không phải là người ăn mày! Ông ta lại nói dối tôi lần nữa! Vậy mẹ tôi là ai? Mẹ tôi là ai?
Khi trời tối, chờ mãi không thấy tôi về, cha gượng dậy đi tìm và gặp tôi vẫn đang ngồi ở đó. Nghe tiếng động sau lưng, quay lại nhìn thấy ông ta, tôi ném cái ca sắt có mấy đồng tiền lẻ về phía ông ta mà không nói một lời. Ông biết chuyện gì ghê gớm đã xảy ra…
- Ông đừng nói dối tôi nữa. Mẹ cha tôi là ai?
Tôi hỏi khi ông ta lại gần vặn hỏi nguyên do.
- Cha đã nói rồi. Mẹ con bị bệnh chết. Cha đã nhận nuôi con.
- Ông dối trá quá!... Ai chẳng biết mẹ tôi không phải dân ăn mày. Ông nói thật đi! Mấy người ăn mày cho tôi biết hết rồi!...
Cha tôi ngồi bệt xuống, hai tay cứ xoắn vào nhau, nhưng mãi không nói gì. Sau này tôi hiểu tại sao ông lại lặng im khi đó. Vì ông đang phân vân không hiểu tôi đã gặp ai và tôi đã biết những chuyện gì. Vì ông ta đang suy nghĩ xem nên tiếp tục nói dối với tôi như thế nào.
Ông gặng hỏi tôi đã gặp ai. Tôi biết rằng tốt nhất không nói thật về cuộc gặp chiều nay, tôi mới có thể biết được sự thật về mình, không ông cũng sẽ ậm ờ như lão Sọc .
- Con đã gặp nhiều người. Nếu cha không nói cho con biết sự thật, con sẽ bỏ đi, con không sống với cha nữa.
Ông ngồi im rất lâu, cách xa tôi. Rồi ông ngồi gần lại, tay đặt nhẹ lên vai tôi. Mãi sau, ông thầm thì: Đúng! Mẹ tôi không phải là dân ăn mày. Mẹ tôi không đi ăn mày. Ông cũng không biết gì nhiều về mẹ tôi. … Vì…là …vì là … Mẹ tôi là một người phụ nữ cho dân ăn mày thuê con. Mẹ tôi ngày nào cũng mang tôi ra công viên cho những người ăn mày thuê, và chiều chiều bà ra nhận lại con và nhận tiền thuê con. Khi đó tôi còn bé lắm chỉ mới bốn- năm tháng tuổi. Mấy bà mẹ hờ ôm tôi trên tay đi hết phố này qua phố khác dưới trời nắng gắt, dưới trời mưa phùn gió rét để gợi lòng thương xót của thiên hạ. Cảnh này thì tôi biết, tôi chứng kiến hàng ngày, tôi luôn thương cảm những đứa bé khốn khổ đó. Mấy bà thuê trẻ em đi ăn mày hết sức độc ác. Họ thường cho trẻ con uống thuốc ngủ để đứa trẻ khỏi khóc, khỏi quấy, để trông chúng như đang bị bệnh nặng. Chúng khi nào cũng ngủ li bì, ẹo oặt trên tay mấy mụ ăn xin, miệng xì nhớt dãi, mắt mũi ruồi bu đầy. Vì phải tha chúng suốt ngày, bế trên tay quá mỏi, nên mấy mụ may một cái địu treo chúng sau lưng hoặc trước ngực. Tội nghiệp cho mấy đứa trẻ hàng ngày phơi tấm thân đỏ hỏn ngoài đường, ngà ngật trên lưng, trước ngực mấy mụ ăn xin. Người ta nói uống nhiều thuốc ngủ não trẻ sẽ bị liệt, trở nên ngu đần. Năm trước, có một đứa trẻ cho thuê bị chết vì uống thuốc ngủ quá liều. Mụ ăn mày này mới nhập hội, tống vào bụng con bé 3 tháng tuổi mấy chục viên stilnox. Con bé chết trên lưng mụ lúc nào không biết. Khi phát hiện ra chân tay nó đã lạnh ngắt. Con mẹ ăn mày ngu đần ấy, thấy con bé nằm im trên lưng mình suốt cả buổi sáng thì nựng: “ Hôm nay, em ngoan quá, em ngoan quá, em không khóc nhè nhé!”
Cha tôi kể : một buổi chiều như thường lệ, mụ ăn mày mang tôi về công viên để trả nhưng chờ mãi đến tối vẫn không thấy mẹ tôi tới nhận. Mụ ăn mày đành giữ tôi qua đêm, hôm sau lại mang ra công viên nhưng mẹ tôi vẫn biệt tăm không đến. Mụ ta không chịu được tiếng khóc của tôi về đêm (khi tôi tỉnh thuốc ngủ) đã bỏ tôi lại trên chiếc ghế đá công viên. Cha nhặt tôi và nuôi tôi từ đấy. Hàng ngày cha tôi vẫn cho người ta thuê tôi, nhưng tối ông gửi tôi cho một người phụ nữ trên phố. Khi tôi đã lớn, ông không cho thuê tôi nữa mà mang tôi đi cùng…
Ông nói tôi đừng buồn. Trên đời này mấy người được sống với cha mẹ. Ông cũng vậy. Khi nhỏ ông cũng là đứa bé được cho thuê. Lớn nên khi bằng tuổi tôi, ông cũng là đứa bé dẫn đường cho một ông mù mà cứ nghĩ là cha mình. Rồi một ngày cũng như tôi nhận ra sự thật mình là một đứa bé mồ côi, không cha mẹ, không gia đình, không quê hương, không bà con thân thích.
Một kẻ không gốc gác cũng có cái hay của nó, ta chẳng bao giờ phải nhớ thương về một vùng đất nào cả, và nơi đâu với ta cũng có thể coi như quê nhà, ta không phải mang ơn ai và chẳng phải trả ơn ai, ta là người hoàn toàn tự do.
Một kẻ không nhà, nơi đâu cũng là nhà của mình.
Tôi cười bâng quơ trước lời ông: Chúng tôi đã tự coi bao nhiêu căn nhà là nhà của chúng tôi rồi và đã vào đó ngủ để nửa đêm bị dựng dậy tống ra khỏi nhà.
*
* *
Sau sự kiện trên, cha tôi hầu như không bao giờ rời mắt khỏi tôi. Có thể ông sợ tôi có thể bỏ đi như tôi đã dọa ông. Ngày xưa với quan hệ cha con, ông không lo sợ điều gì, ông biết tình cảm ruột thịt sẽ luôn giữ chặt tôi bên ông. Bây giờ, khi tôi đã biết sự thật, tôi không phải là con ông nữa, ông hiểu rằng sự ràng buộc đó không còn, và tôi có thể dễ dàng bỏ ông theo bất cứ sự rủ rê nào. Hễ thấy tôi đi cách ông hơi xa là ông đã gọi toáng lên, hễ thấy tôi dừng chân trò chuyện với người nào đó trên đường có vẻ thân thiết là ông tạo cớ lôi tôi đi ngay.
Ông càng hay nói với tôi những điều mà trước đây đôi khi ông vẫn nói về con người: Không đáng tin, giả dối, độc ác và ranh mãnh lắm. Một đứa bé như tôi rất dễ bị họ bắt cóc bán cho bọn buôn người. Thậm chí, họ có thể giết tôi để chỉ lấy chiếc ca sắt rỉ. Tóm lại, ngoài ông ra, tất cả những người khác đều là kẻ thù của tôi.
Tôi hiểu tại sao, trong bao năm qua, ông thường hay kể cho tôi nghe những câu chuyện ly kỳ rùng rợn về những đứa trẻ đứa bẻ bị bắt cóc, bị moi bụng độn bông làm hình nhân, bị bọn ăn trộm chặt tay làm thuốc. Có bọn còn bắt những đứa trẻ cỡ tuổi tôi về làm thịt, rang khô, xay thành món chà bông, đóng bịch bán v.v.
Bọn đó có thể là một bà phù thủy, có thể là một con ma nón, hay ma nhớt, hay là mấy gã đồ tể bán thịt lợn…
*
* *
NHỮNG CÂU CHUYỆN RÙNG RỢN
Kẻ bán cháo thịt Năm nọ, vùng quê nọ mất mùa, cuộc sống quá đói kém. Khắp nơi nhản nhản người ăn xin. Ngoài đường, ngày nào cũng bắt gặp xác người chết đói. Thực phẩm hết sức khan hiếm. Các phiên chợ không còn thấy ai bày bán thịt cá. Nhiều quán hàng đóng cửa nghỉ bán vì không kiếm đâu ra thực phẩm. Riêng tại một chợ quê, có một quán hàng ăn, ông chủ quán vẫn luôn kiếm được thịt lợn và lòng lợn để làm món cháo.
Một hôm, trong làng có ông bố bị bệnh nặng, sáng sớm đã đòi ăn cháo, nên người con phải chạy vội ra hàng cháo nọ, năn nỉ xin mua một tô cháo dù quán vẫn chưa mở cửa. Tay chủ quán từ chối nhưng vì khách hàng quen lại ỉ ôi mãi nên cuối cùng hắn đành phải bán cho ông khách tô cháo chưa thật hầm nhuyễn.
Ông kia mừng lắm, mang cháo về cho người bố. Ông già ăn ngay dù cháo còn rất nóng, húp sì sụp bỏng cả môi. Người con nhìn bố ăn ngon miệng lòng rất vui sướng. Bỗng ông bố hét lên một tiếng, tay chỉ vào tô cháo nói không lên lời, rồi gục xuống sàn nôn ọe ...Trời ơi, dưới đáy bát là một ngón tay người còn nguyên móng. Thì ra tay chủ quán bán cháo thịt người, hắn chuyên chặn bắt những đứa trẻ mồ côi, cha mẹ đã bị chết vì đói, bỏ vào bao tải mang về xẻ thịt. Tất cả mọi thứ hắn đều cho vào nồi hầm đến nát nhừ không ai còn phân biệt được là thịt người nữa. Xui cho hắn hôm đó cháo chưa được hầm nhừ.
Ông con trai kéo theo một đám dân làng xông vào quán, bắt trói hắn và lục tung mọi chỗ lên. Kinh hồn, ngay trong gầm bếp vẫn còn cái chân đứa bé hắn để dành ...
Sau câu chuyện này, cả mấy tháng sau, khi ghé bất cứ quán nào , tôi cũng không dám ăn món cháo, dù là cháo gì.
Ma chết đuối. Có một con ma chuyên nhận trẻ con xuống nước làm trẻ chết đuối. Con ma này biến hình ghê lắm, khi nó là một cô gái ăn mặc rất xinh đẹp đi vào làng bán hàng, khi thì ma nữ biến thành một cô bé xinh xắn 7-8 tuổi bị lạc đường, khi thì biến thành một người đàn ông đi câu cá. Ma chết đuối thường vào các làng và rình cơ hội là dìm chết trẻ con. Thấy trẻ con nó sẽ vờ làm quen, rồi rủ rê ra sông chơi, tại đây con ma dìm chết em bé.
Nhiều lần người ta thấy một đứa bé tự nhiên cứ cắm đầu đi ra phía sông. Thực ra thì phía trước em bé là con ma nhưng những người khác không thấy được. Chỉ có em bé mới thấy nó, và trong mắt em bé nó là một người thợ câu cá đang bước đi và gọi nó đi theo.
Con ma chết đuối thù giai và hay trả thù. Nhà kia, 2 vợ chồng mới cưới nhau, ngày nọ người chồng đi làm về thấy một cô gái mặc áo đỏ đang dẫn đứa con hàng xóm đi ra bến sông. Anh ta biết là ma nữ bèn đuổi theo dùng cái đòn gánh trên tay phang cật lực. Con ma lúc bỏ chạy còn quay lại nguyền rằng: sau này sẽ giết đứa con của vợ chồng anh ta.
Khi người vợ sinh con, nhớ tới lời nguyền xưa, hai vợ chồng đã bán nhà đi đến một vùng núi cao xung quanh chỉ núi là núi, không hề có hồ ao, sông ngòi gì. Khi đứa bé lên 2 tuổi, một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy con mình gục đầu vào bát canh rau đay và đã chết. Con ma nữ đã dìm đứa bé chết đuối trong bát rau đay.
Sau câu chuyện này, ba tôi khuyên không nên nghe lời bất cứ ai, dù họ có dáng vẻ xinh đẹp, hiền lành, hấp dẫn đến đâu. Họ cũng có thể là con ma chết đuối.
Hình nộm của các thầy chú Bây giờ thầy chú chỉ còn ít người và họ không dám công khai làm thầy chú. Ngày xưa thì thầy chú rất nhiều. Họ có khả năng đặc biệt, làm những việc mà người thường không thể làm được.
Khi thân chủ họ muốn hại một người nào đấy, muốn kẻ kia bị liệt chân, bị mù mắt, điếc tai, hay đau đầu. Thầy chú miệng niệm chú, tay dùng kim đâm vào các vị trí trên một hình nộm. Kẻ thù của thân chủ trước sau cũng sẽ bị trời hại như vậy. Công việc của thầy chú sẽ linh nghiệm hơn, nếu ông ta có hình nộm là một đứa bé thật. Khi ấy, lời chú sẽ được thực hiện ngay tắp lự. Thầy vừa phán: cho kẻ thù của con mù mắt, què chân thì ngay đó, dù ở xa ngàn dặm, người kia cũng lập tức bị tai nạn chân gãy, mắt mù .
Để có một hình nộm là một đứa bé thật, các thầy thường lang thang khắp nơi tìm kiếm, bắt cóc, bắt trộm trẻ con, hay mua trẻ con do bọn khác bắt cắp đem bán. Các thầy chú mổ bụng, ướp xác đứa bé trong một dung môi được nấu từ các lá cây đặc biệt, làm cho xác đứa bé khô hết nước, nhưng da vẫn hồng hào và đặc biệt không bị thối rữa. Bụng đứa bé được độn bông, mặt được phủ một lớp sơn bằng nhựa cây chống được sự hủy hoại của thời tiết.
*
* *
Những ngày tiếp theo thật nặng nề, buồn bã. Cha luôn dẫn tôi đi trong các tuyến phố vắng người. Hình như ông chỉ cố tình đi cho hết ngày mà không chăm chú lắm vào việc kiếm ăn. Ông trở nên bẳn tính, không cho tôi tiếp xúc chuyện trò với bất cứ người ăn mày nào. Tôi và ông lặng lẽ như hai cái bóng trôi cầm chậm, uể oải trên đường. Tôi cũng trở nên câm lặng, mắt chỉ nhìn xuống chân mình. Suốt cả tuần, tôi không nhìn thấy một khuôn mặt nào rõ nét, dù tôi luôn chạm chiếc ca sắt vào mọi người.
Tôi luôn nhớ lại những ngày tháng vui vẻ trước đây, khi tôi bắt đầu cầm cái ca sắt đi trước cha tôi. Thời gian đó dù buồn nhiều khi tôi vẫn có tâm trạng vui vẻ, đôi khi vẫn có thể cười ré lên vui sướng. Đôi lần cùng mấy đứa ăn mày khác, tôi cũng có được một cuộc vui chơi nhảy lò cò, hay đuổi bắt.
Tôi nhớ mãi cái nhà ga nhỏ đâu gần Hương Canh, luôn vang tiếng còi tàu, rộn rã tiếng người. Dân ăn mày ở đấy khá đông, nhưng kiếm ăn vẫn dễ dàng. Ngày cuối tuần, đám sinh viên từ mấy trường cao đẳng, kỹ thuật túa ra chật kín cả sân ga, quần áo kiểu cọ đủ màu và cũng thường rất hào phóng. Có một con bé “ca sỹ”, có lẽ còn ít tuổi hơn tôi, kiếm được khá nhiều tiền bằng giọng hát ngọt lịm của nó. Con bé có gương mặt xinh xắn, ăn mặc tươm tất, áo quần khi nào cũng trắng tinh một màu. Nó chẳng bao giờ mở miệng xin tiền, chỉ đặt chiếc nón vải trước mặt rồi đứng hát. Trời, giọng con bé mới hay làm sao. Đám sinh viên đi tàu cứ bu kín lấy nó, và tiền cứ rơi lả tả xuống cái nón vải. Đám khán giả chỉ vơi dần khi tàu rời ga. Và con bé chỉ thôi hát khi cái nón vải đầy tiền.
Hồi đó tôi thực sự mê em “ca sỹ”. Cứ khi nào nó hát mà cha tôi không hối thúc sau lưng là tôi đứng lại há mỏ ra để nuốt lấy từng lời và đứng “chết” trong đám khán giả, quên cả việc xin tiền. Tôi nhẩm thuộc những bài hát của nó. Nhiều buổi tối, trước khi đi ngủ, tôi cũng tập làm ca sỹ nhưng chỉ hát được vài đoạn thì tôi thất vọng. Không làm sao tôi có được một giọng hát trong trẻo, cao vút, nhẹ êm như cô bé kia được.
Một đôi vợ chồng ăn mày thường dẫn nó ra sân ga bỏ nó đấy với một củ khoai hoặc một nắm cơm nguội rồi đi hát dọc theo đoàn tàu, cuối ngày mới quay về đón. Người chồng là một ông xẩm mù, mặt rỗ chằng chịt, xấu không tả hết. Người vợ cố ăn mặc thật rách rưới nhưng nét đẹp lộ lộ của một giai nhân vẫn không che giấu được. Người thanh mảnh, dáng đi uyển chuyển, da trắng, mũi cao và giọng nói hút hồn. Chỉ có đôi mắt rất buồn, buồn thê thảm, ánh mắt sầu thương vô hồn. Hai vợ chồng là hai hình ảnh tương phản, trái ngược nhau.
Hầu như tất cả các sinh viên học ở Phú Thọ, Vĩnh Yên và tất cả khách đi tàu tuyến Lào Cai đều biết chuyện tình nổi tiếng của họ. Cách đây 8-9 năm, nàng cũng là một sinh viên sư phạm. Nàng có một người yêu rất đẹp trai học cùng khóa suốt ngày săn đón. Tuyến đường sắt HN-LC chứng kiến bao nhiều kỷ niệm đẹp của chàng và nàng. Họ từng ngồi bên nhau trên ghế dài tàu chợ, nghe anh xẩm mù gảy ghi ta và hát những bài ca buồn với lòng đầy thương cảm. Nàng đôi khi hào phóng cho gã xẩm mù cả một tờ bạc chẵn.
Rồi một ngày kia, người ta thấy nàng đi tàu có một mình và nàng khóc nức nở suốt tuyến trên tay bạn bè. Ít ngày sau, khách đi tàu thấy nàng trở thành cô hát xẩm, ôm cái loa nhỏ bên nách, đi với ông xẩm mù. Nàng đã có một hành động bất ngờ và quyết liệt: bỏ học, bỏ ngoài tai mọi lời khuyên của gia đình, bạn bè, trao thân cho ông xẩm mù. Nàng làm tất cả để trả thù gã bạn trai đã phản bội nàng. Tự hủy hoại cuộc đời mình, nàng muốn trừng phạt hắn, muốn kẻ phản bội kia phải ân hận và đau khổ đến tột cùng. Không biết gã sở khanh kia đau khổ đến mức nào, nhưng từ đó, đám sinh viên không còn bắt gặp hắn trên tàu. Hình như hắn cùng cô người yêu mới thường đi lại giữa Hương Canh – Vĩnh Yên theo đường bộ.
Gã sở khanh không biết có đau lòng không, nhưng hình ảnh của nàng với đôi mắt to buồn đi bên ông xẩm mù làm tê tái trái tim bao nhiêu kẻ đi tàu. Và, có lẽ, nếu ai đã đi tuyến HN-LC trong những năm đó sẽ không bao giờ quên được giọng hát não nề của nàng, không bao giờ quên được ánh mắt nàng.
Ba năm sau, vợ chồng người hát xẩm sinh một bé gái. Và 6 năm sau, tôi bắt gặp cô bé hát ở sân ga.
*
* *
Đôi khi chúng tôi ngủ trộm trong công viên Thống Nhất, dưới một gốc si um tùm. Thực ra, chỗ đó chẳng đáng để chúng tôi coi là nhà của mình. Nó ẩm thấp, lại gần thùng rác nên rất hôi thối. Ngoài những nơi cư trú bí mật như cái ki ốt báo gần ngõ Văn Chương, những chỗ lưu trú tốt bao giờ cũng có nhiều kẻ để mắt tới và nhiều khi phải tranh giành nhau, đấm đá đến bươu đầu, chảy máu. Cây si chúng tôi chẳng bao giờ phải tranh giành với ai, kể cả dân ăn mày mới. Tôi không hiểu sao cha tôi lại chọn chỗ đó, lạ nữa, thường lâu lâu, ông ghé qua ngủ một đêm rồi lại ra đi dù ngày hôm sau chúng tôi vẫn kiếm ăn ở gần đấy.
Tối nay, chúng tôi quẩn quanh ở ga Hàng Cỏ, hơn 7 giờ, hai cha con quay về trước Cung Lao Động. Đêm nào ở đây cũng có chiếu phim. Xin tiền của các cặp trai gái đang chờ xem phim là dễ nhất, xin 3 người ít nhất cũng có một anh chàng cho mấy đồng tiền lẻ.
9 giờ, chúng tôi quay lại với những người đang chờ đi tàu đêm nằm ngồi la liệt trên sân. Ở ga này, chỗ dễ xin tiền nhất là trước phòng bán vé. Chìa tay đúng lúc người khách vừa nhận vé và tiền lẻ dượm bước ra khỏi quầy. Phải xin ngay đúng vào thời khắc đó, nhanh một chút cũng không được vì họ chưa nhận tiền trả lại, chậm một chút không được vì họ đã bỏ tiền vào ví. Mua được vé, khách đi tàu tâm trạng đang vui nên thường dễ tính hơn, hào phóng hơn.
Cha tôi dạy, không nên xin tiền khi mọi người đang xếp hàng vào ga hay vừa từ ga đi ra. Họ đang vội, đồ đạc lỉnh kỉnh, họ lại sợ bị giật mất ví nên chẳng mấy khi cho tiền đám ăn mày. Cũng không nên xin những người đang ngồi ngủ gật chờ tàu, hay những sinh viên áo quần áo bảnh bao đi có một mình. Những thanh niên đi một mình rất ít khi cho ăn mày tiền nhưng họ sẽ bố thí một cách hào phóng khi đi cùng với người yêu.
Ga Hàng Cỏ, vị trí tại quầy bán vé là tốt nhất nhưng chẳng mấy khi chúng tôi có được vị trí đó vì thường có mấy tay ăn xin có máu mặt án ngữ, lảng vảng quanh đó có khi no đòn.
Khác với mọi hôm, hôm nay, mới 9 giờ , cha tôi đã giục tôi trở về và thật lạ, ông bảo tôi quay lại chỗ cây si. Đêm hôm trước, chúng tôi mới ghé qua đấy.
Chúng tôi còn cách cây si chục mét, cha tôi đã nhào tới. Ông đi một vòng quanh gốc cây, lấy gậy rà rà lên từng đám cỏ, mô đất. Bất ngờ, ông sụp xuống giật nhổ mạnh đám phi lao nhỏ được xén cẩn thận . Tôi nhìn và nhận ra dưới đám cây là một hốc đất sâu. Cha tôi chợt rống lên: “Chúng nó cướp hết rồi! Chúng nó cướp hết rồi!…Công sức hai cha con, con ơi!...” Cha tôi giống như một đứa bé lên năm đang ăn vạ. Ông nằm ấp mặt xuống đất, hai tay cào cấu đám cỏ quanh gốc si và cứ thế khóc hu hu. Tiếng khóc và tiếng rên cứ ào ra, nấc lên từng đợt: “Bọn chó chết kia, chúng mày ăn hết của tao rồi, chúng mày cướp hết của cha con tao rồi!...”, “Hu…hu …hu …Sao bọn mày lại ăn cướp của ông, có giỏi thì bọn mày ra đường mà cướp, vào nhà mấy thằng giàu mà cướp…hu…hu…hu…”. Ông khóc rất to. Người đi chơi công viên bắt đầu xúm lại nhìn ông, bàn tán… Tôi kéo tay ông: “ Cha ơi! Cha ơi!...”
Bây giờ thì tôi đã hiểu ra: Cây si là nơi cha tôi cất giấu tiền. Ông đã gói cẩn thận vào bọc ni lông và chôn xuống dưới đám cây. Để tránh người ta nhìn thấy, ông giả vờ ghé ngủ qua đêm ở gốc si rồi đêm khuya khi xung quanh vắng vẻ thì ông sẽ đào đám phi lao lên, khoét một cái hố sâu và bỏ bọc tiền xuống, lấp đất lại, trồng đám phi lao lên trên. Một cái kho nhỏ, bí mật, chẳng ai có thể ngờ. Sau này, ông kể tôi mới biết, cái kho bí mật đã có từ 4 năm nay. Mỗi năm, ông ghé ngủ mấy lần là để kiểm tra kho, để cất thêm tiền vào đó. Hôm trước, ông vừa cất vào kho tất cả số tiền chúng tôi kiếm được trong dịp hè. Ngày hôm nay, như có điềm báo, cả buổi tối ông thấy người cứ nôn nao, mắt máy liên hồi. Ông quyết định quay lại gốc si .
Chắc một bọn nào đã theo dõi ông và chúng đã phát hiện ra nơi cất giấu. Tối hôm nay, chỉ trong tích tắc, chúng đã cuỗm tất cả số tiền cha con tôi đi ăn mày thiên hạ 4 năm rồi. Ông ngồi đó, như một kẻ mất hồn sau khi đã ngưng gào khóc. Tôi hiểu ông đau, và tiếc đến mức nào món tài sản của mình. Có thể đó là món tiền nhỏ của ai đấy, nhưng với cha con chúng tôi là tất cả công sức của bốn năm qua, là mồ hôi, là nước mắt và cả bao nỗi khổ nhục…
*
* *
Tài sản cha con tôi thật đơn giản. Cha tôi có một cái túi to may bằng vải bố màu đen. Trong cái túi ấy, ông có 4-5 cái ruột tượng dùng để đựng mọi thứ xin được dọc đường. Ông có một chiếc trống cơm ăn cắp được ở nhà văn hóa thôn như tôi đã nói. Một chiếc nón đã mất vành, một đôi dép tông nhưng rất ít khi đi, ông thường gói cất trong túi. Tài sản đặc biệt của ông là một bao tượng màu đen mà ông thường xuyên quấn quanh bụng, cả khi tắm tôi cũng không thấy ông cởi ra bao giờ. Cái bao tượng đã rất cũ, mặt vải sườn, ngấm đủ mồ hôi, dính đủ các thứ bụi đường, ánh lên màu đen bóng, nhờn nhờn. Nó khá nhỏ, khá dài, đủ quấn hai vòng bụng teo tóp của cha tôi. Ông thường gói tiền thành từng cục nhỏ, cẩn thận bỏ vào đấy, buộc chặt hai đầu rồi quấn quanh bụng. Tôi vẫn luôn nghĩ tất cả tiền của chúng tôi ông cất ở đấy, luôn mang theo bên người.
Tài sản của tôi còn nghèo nàn hơn. Tôi không đi dép và cũng không bao giờ đội nón. Tôi chỉ có 2 bộ quần áo rách. Quý nhất và tài sản có giá nhất của tôi chính là cái ca sắt tráng men.
Cái ca sắt của tôi cao khoảng 15cm, rộng 12cm, phía trong được phủ một lớp men trắng, phía ngoài phủ men xanh nhạt và có mấy bông hoa mà đỏ. Trong nghề ăn xin, đồ nghề đáng nói nhất có lẽ chính là cái ca sắt (cái ống nhôm, cái bát, hay cái nón) dùng để xin tiền. Nó phải là một vật dễ gây chú ý, miệng không nên to quá (to quá khó cầm, sớm mỏi tay), nhưng miệng nhỏ quá sẽ khó khăn cho người cho tiền. Họ phải chú ý mới bỏ được đồng tiền vào cái ca của kẻ ăn xin. Nó cũng phải đủ sâu để có thể giữ được tiền. Nông quá chỉ một cơn gió nhẹ cũng có thể thổi bay mất tờ tiền lẻ mỏng tang. Chiếc ca sắt của tôi có đủ tất cả những đặc điểm đó. Cái ca đến với tôi từ lúc nào, tôi chẳng rõ. Khi tôi có thể nhớ mọi chuyện thì tôi đã có cái ca từ lâu rồi. Chỗ tay cầm của nó đã bóng lên, đã có vài chỗ bị bong men lộ ra lớp sắt màu đen, có mấy vết sứt ở trên miệng. Theo cha tôi nói thì cái ca này có từ thời ông nội tôi (tức là ông cụ hành khất đã dẫn dắt cha tôi), nó cũng có thể được coi là của gia bảo. Nhìn một người ăn mày, chỉ cần quan sát cái dụng cụ họ chìa ra nhận tiền là có thể biết độ chuyên nghiệp của họ đến mức nào. Những đứa trẻ con cứ ngửa bàn tay ra gào “Cô bác ơi con đói lắm, cho con mấy đồng tiền lẻ!” là những đứa trẻ mới bỏ nhà ra đi, đói quá, tập tọng ăn xin. Mấy ông bà ăn mặc lành lặn ngửa nón, ngửa mũ trước cổng chùa là những kẻ ăn xin nửa mùa. Đôi khi nông nhàn, giấu con cháu đi hành khất kiếm ít tiền mua trầu thuốc… Ăn xin có đẳng cấp phải có một cái ca, một cái ống nhôm đàng hoàng như cha con tôi.
Cái ca sắt của cha con tôi không biết bao lần bị đá văng lông lốc trên đường nhưng hầu như chẳng móp méo gì ngoài mấy chỗ sứt mẻ như tôi đã mô tả. Có hai ba lần tôi tưởng đã mất nó. Một lần, cha con tôi ngủ chung với đám ăn mày trong ga Hàng Cỏ, sáng ra khi tôi tỉnh dậy những người ăn mày bên cạnh đã ra đi. Tôi cho tay vào túi, lấy cái ca ra, bắt đầu cho một ngày mới thì “vật gia bảo” đã không cánh mà bay. Hôm đó, cha tôi ngẩn ngơ như mất hồn, ông không còn nghĩ gì đến chuyện làm ăn nữa. Ông kéo tôi đi tìm bọn người hành khất hôm qua. Cứ thấy người ăn xin nào đêm qua ngủ ở nhà ga là chúng tôi bám theo quan sát. Sau đó áp sát và cha tôi thô bạo lục lọi đồ đạc của họ. Cuối cùng, chúng tôi bắt gặp hai cha con ăn mày nọ đang khất thực bên vệ đường, thằng bé con đang chìa cái ca của chúng tôi ra xin tiền. Cha tôi nhào tới giật phắt chiếc ca, thằng bé ăn mày khóc thét. Ông không động gì thằng bé mà đá tới tấp mấy đá vào gã đàn ông đi cùng.
Một lần, chính tôi bỏ quên lại trong một nhà hàng.
Thường thì, chẳng bao giờ tôi có thể bỏ quên nó, vì rất ít khi nó rời khỏi tay tôi và luôn luôn cái ca ở tư thế thường trực được tôi chìa ra phía trước. Nhưng hôm đó, cha con tôi kiếm được mấy món rất ngon ở bữa tiệc đình đám. Cha con tôi bê xuống cái bàn cuối nhà hàng, mải mê đánh chén. Khi chủ nhà hàng đuổi ra để đóng cửa, chúng tôi cũng đi về chỗ ngủ ngay vì đã khuya quá rồi không còn đi xin nữa. Nhưng nửa đêm thì tôi nhớ ra. Cha tôi vừa nghe tôi nói tới chiếc ca, ông đã vùng dậy. Dù đêm đã khuya, ông vẫn lôi tôi đi. Nhà hàng đã đóng cửa, chúng tôi không thể vào bên trong được. Chúng tôi cũng không dám gõ cửa. Hai cha con đành ngồi phục ngay bên gốc cây trước nhà hàng. Sáng sớm, họ vừa mở cửa, chúng tôi nhào ngay vào mặc kệ gã bảo vệ chửi bới và đuổi như đuổi tà. Tôi và cha tôi chạy loanh quanh một vòng trong nhà hàng đã được dọn sạch sẽ từ tối qua. Chúng tôi vô cùng thất vọng. Hai cha con cứ loay hoay mãi bên vỉa hè tiếc nuối báu vật của gia đình… Rồi chiếc xe thu gom rác tới (một chiếc xe cải tiến có thùng cơi lên rất cao) bấm chuông keng keng. Người làm thuê nhà hàng khênh ra 2 bao rác to tướng vứt vào thùng xe. Cha tôi như chợt tỉnh lao theo chiếc xe rác. Mặc gã gom rác dữ tợn ngăn lại ông vẫn kịp kéo 2 bao rác xuống đường và đổ tung ra. Tôi chợt hiểu và nhảy vào cùng ông bới tung đám rác. Mắt cha tôi sáng lên khi nhìn thấy cái ca của chúng tôi nằm cạnh mớ xương xẩu, giấy báo, cơm thừa. Tay gom rác xuất ngay một cú đá vào ngực ông. Cha tôi ngã lăn nhào, mặt đập vào vỉa hè, tay vẫn giữ chặt cái ca...
Sau lần đó, không bao giờ tôi rời chiếc ca ra nữa. Khi không dùng đến, tôi bỏ vào túi hay cột nó treo trước ngực. Nó là tài sản đáng giá nhất mà tôi phải giữ.
Tài sản đáng giá nhất tôi giữ thì vẫn còn.
Tài sản đáng giá nhất cha tôi giữ : cái bao tượng cáu bẩn vẫn còn.
Nhưng tài sản bí mật của chúng tôi thì đã mất.
Sau này, tôi mới biết, đây là lần thứ n cha tôi bị mất tiền. Thực ra, ông chưa bao giờ giữ được tiền. Ông cứ dành giụm được kha khá lại bị mất. Hồi đầu, ông luôn mang tiền trong người. Khi gói tiền của ông cuồm cuộm nơi thắt lưng là đêm đêm lại có mấy gã khả nghi lảng vảng, vạ vật gần chỗ ông nằm. Sáng hôm sau, tỉnh dậy, bọn người kia đã ra đi và gói tiền ông buộc rất chặt nơi thắt lưng cũng biến mất. Ông đã khôn ngoan tìm chỗ bí mật để cất tiền nhưng mấy lần cất giấu cuối cùng đều bị bọn người vô lương kia phát hiện được.
*
* *
Cha tôi ốm luôn mấy ngày sau. Ông nằm co quắp trước một cửa hàng bỏ bán đã lâu ngày, cánh cửa xếp đã rỉ sét. Ông không ăn, chỉ uống đôi ngụm nước sai tôi đi mua về. Ông cũng không giục tôi đi xin nên tôi cứ ngồi bên ông nhìn ra khu phố phía trước ngắm người qua lại, hay tiêu khiển bằng cách chặn đường đi của lũ kiến trên vỉa hè. Tôi thường đưa tay lay ông, lo lắng lỡ ông chết mất lúc nào không biết. Ông hiểu nỗi lo của tôi, an ủi: “Cha không chết đâu. Cha cũng chẳng bệnh tật gì cả. Con cứ để cha nằm nghỉ ít ngày.”
Có lẽ đó là khoảng thời gian hiếm hoi tôi không phải cầm cái ca chìa ra trước mặt mọi người. Tôi ngồi bên ông, mắt nhìn ra xung quanh, quan sát khu phố trước mặt và người qua lại.
Ngày đó, tôi đã lên sáu, và trong đầu óc bé nhỏ của đứa bé sáu tuổi, tôi nghiềm ngẫm về cuộc sống của mình. Trước đây, tôi hầu như chẳng nghĩ gì nhiều, sáng tôi ngủ dậy ở một nơi nào đó, ngày tôi đi theo lệnh của cha tôi: phố này, phố nọ, đến chùa, nhà thờ hay chợ. Tôi cứ đi và luôn nhớ chìa cái ca men sắt vào mặt mọi người, cần thiết tôi sẽ thúc cái ca vào người họ. Tôi thường im lặng không nói gì, nhưng nếu cha tôi nhắc nhở, tôi sẽ buông ra mấy câu ngắn ngủn, lúc nào cũng vậy: “Cô bác động lòng thương cho cha con mấy đồng tiền lẻ”, ngắn gọn hơn: “ Cô bác ơi!...”. Tối, tôi sẽ ngủ bất cứ nơi nào cha tôi dừng lại.
Ngày hôm nay, tôi tự hỏi: nếu cha tôi chết đi tôi sẽ sống với ai. Vì tôi chẳng quen biết ai ở trên đời này. Tôi không nhớ gì nhiều ngày tôi còn bé tí. Có lẽ ngày đó tôi bị uống thuốc mê và ngủ gà gật trên tay mấy mụ ăn xin. Tôi chỉ nhớ những sự kiện và kỷ niệm từ ngày tôi dẫn cha tôi đi ăn xin. Có lẽ đó là những gì xảy ra trong khoảng 3 năm qua, từ khi tôi 3 tuổi. Tôi sẽ sống ra sao nếu cha tôi chết - đó là điều tôi boăn khoăn nhất trong những ngày đó. Tôi sẽ đi xin một mình ư?
Khi tôi bắt đầu hiểu, tôi biết cả thế giới này, tôi chỉ có người cha, đó là chỗ dựa của tôi, cho tôi ăn hàng ngày, bảo vệ tôi trước mọi nguy cơ. Thế giới này chia ra làm hai: tôi và cha tôi còn lại là phía bên kia, nơi mà người ta sẵn sàng bắt cóc tôi, lừa tôi, ăn thịt tôi, bán tôi cho bọn đào vàng. Tôi chỉ có thể an toàn khi ở bên cha. Tất cả giao tiếp giữa tôi với thế giới còn lại chỉ là chiếc ca men sắt và những đồng tiền lẻ họ bỏ vào đấy, là những cái khoát tay, hay một câu chửi. Với bọn trẻ con là những trận mưa đá, những trò chơi ác như nhặt sâu hay cóc chết bỏ vào ca men sắt, hay thả chó ra đuổi cắn. Cha với tôi là tất cả. Và tôi luôn nghe lời ông cả những đều nhỏ nhặt nhất. Tôi chưa bao giờ làm trái lời cha điều gì. Khi biết rằng ông không phải là cha đẻ của tôi, tình cảm trong tôi có giảm đi phần nào, nhưng ông với tôi vẫn là tất cả. Rồi khi biết mình có một người mẹ khác và mẹ tôi vẫn còn sống, một niềm hy vọng nhen nhóm trong tôi nhưng rồi cũng tàn lụi rất nhanh khi cha tôi nói rằng: tôi đừng hy vọng gì về bà vì chắc chắn bà đã bỏ rơi tôi. Tôi chỉ có ông. Những câu chuyện ông kể làm cho tôi không hy vọng điều gì tốt đẹp từ thế giới bên ngoài đối với mình.
Cả thế giới ngoài kia luôn trôi qua trước mắt tôi lặng lẽ, vô tâm, như những dòng người trôi qua theo bước chân tôi hàng ngày. Rất ít ai hỏi tôi một vài câu, rất ít ai nhìn cha con tôi thật lâu, họ biết chúng tôi có mặt, bỏ vào cái ca vài đồng rồi quay mặt đi hay chẳng bỏ đồng nào. Những người hỏi tôi nhiều và chú ý đến cha con tôi chính là ở các vùng quê. Họ hỏi vì thương tôi thì ít mà vì tò mò thì nhiều. Nhưng với những gì cha tôi dạy, cả khi họ tỏ ra quan tâm, trìu mến với tôi thì nỗi sợ bị bắt cóc, bị giết thịt làm cho tôi luôn cảnh giác, sợ hãi và tôi hoàn toàn không rung động hay cảm nhận được tình cảm của họ. Ở thành phố thì hầu như cha con chúng tôi chỉ là cái bóng trong mắt mọi người, họ không bận tâm.
Cha tôi luôn dặn tôi lánh xa các ông công an mặc áo vàng, tránh xa những người bảo vệ chợ, các tòa nhà, tránh xa những người mặc đồng phục, tay đeo dải băng đỏ. Nhưng hầu như những người đó chẳng mấy khi bận tâm tới chúng tôi. Cũng có thể do cha con tôi nhát gan nên luôn tránh xa họ vì vậy trong 3 năm qua, chưa lần nào công an, hay mấy người dân phòng đụng sự gì.
Sau này, khi chạy những bước cuối cùng theo đoàn tàu tại ga Bình Triệu để thoát khỏi Mặt sẹo, tôi đã nghĩ: Nếu họ giữ cha con tôi lại và làm đúng chức trách của mình, cuộc đời tôi đã khác đi nhiều.
Còn bây giờ, tôi không biết sẽ sống ra sao nếu cha tôi chết. Có chăng một ý nghĩ mơ hồ, tôi sẽ tìm gặp lão Sọc và xin đi cùng lão. Lão là người ăn mày hiếm hoi tôi biết tên gọi và ít nhiều có quen biết.
*
* *
Tôi ngồi bên cha và nhìn ra con đường trước mặt, mấy cửa hàng thời trang, tiệm gội đầu, quán cà phê . Sáng nào, dãy phố bên cũng nườm nượp người qua lại. Trưa vắng đi một chút, chiều còn đông hơn, tối phải sau 10h đêm mới vãn người. Có một cánh cửa nhỏ mở ra đường mà tôi hay chú ý nhìn. Sáng sáng ở đó có một thằng bé con được mẹ dắt tay ra. Nó chắc cỡ tuổi tôi, mập mạp và trắng hồng, ăn mặc rất đẹp. Nhiều hôm, tôi thấy mẹ nó phải bồng ra sân đưa cho tài xế vì cu cậu không chịu xuống giường. Nó được gửi lên một chiếc xe đưa đón học sinh, trên xe rất nhiều đứa bé cỡ tuổi nó. Thằng bé luôn nũng nịu hôn mẹ từ biệt. Nó đang học lớp 1 chăng ? Nhìn cảnh ấy tôi thấy ngậm ngùi, và tôi tự hỏi: Tại sao mình không được đi học.Tại sao tôi không được đến trường. Rồi tôi tự trả lời: tôi là một đứa bé ăn xin, tôi là đứa bé không nhà cửa, không cha mẹ. Nếu tôi có mẹ, sáng sáng sẽ có người đánh thức tôi dậy, mặc quần áo đẹp cho tôi và đưa tôi đến trường như thằng bé nọ.
Mà cũng chẳng phải vậy. Nếu tôi có mẹ mà mẹ tôi sống bằng nghề ăn xin thì tôi cũng đâu có tới trường. Sáng ra tôi vẫn phải đi ăn xin như bây giờ.
Số kiếp tôi sinh ra là một đưa bé ăn mày. Cha tôi đã bao lần giải thích cho tôi như vậy.
Mỗi con người có số mạng của riêng mình. Có rất nhiều con đường dẫn người ta đến với nghề bị gậy – cha tôi nói vậy. Những người tàn tật, họ không thể làm gì để kiếm sống qua ngày, đành phải sống nhờ vào sự bố thí. Có những người dân quê chẳng may mất mùa, đói không có gì ăn, đành cũng phải tay bị tay gậy đi cầu xin thiên hạ. Còn như cha con tôi là người bình thường khỏe mạnh nhưng ngay khi sinh ra chúng tôi đã là những kẻ ăn xin bẩm sinh rồi. Chúng tôi còn bất hạnh hơn cả những người tàn tật, chúng tôi là những kẻ có lý lịch ăn xin truyền kiếp.
Khi cha tôi bắt đầu nhận biết được mọi thứ trên đời, khi cha tôi bắt đầu biết đi và biết nói, ông đã là một thằng bé hành khất từ khi nào. Rồi ông cứ đi theo cha mình như vậy năm này qua năm khác, không bao giờ băn khoăn, không bao giờ dằn vặt về nghề nghiệp của mình. Mà có băn khoăn có dằn vặt, ông cũng không thể làm gì để thay đổi số phận được. Cứ thế, năm này qua năm khác, ông lầm lũi đi trước cha mình với chiếc ca men sắt. Cho đến một hôm người cha gục chết trên đường.
Tôi sinh ra cũng đã là một kẻ ăn mày. Tôi đã bắt đầu nghề hành khất từ khi nào tôi cũng không biết nữa. Khi ý thức được mọi điều, tôi đã là thằng bé cầm cái ca men sắt đi trước cha mình…Có lẽ số phận tôi đúng như lão Sọc có lần giả vờ xem chỉ tay rồi nhíu mày phán: sinh ra là thằng bé ăn mày, lớn lên sẽ là một kẻ hành khất và chết đi như một ông lão ăn xin…
Qua ngày thứ ba, cha tôi lục tìm các túi và dốc hết tay nải ra chẳng còn đồng xu lẻ nào nữa, ông hỏi tôi: có ai cho tôi đồng nào trong lúc ông nằm ngủ không. Tôi nói với ông chẳng có ai đi qua cho chúng tôi tiền cả. Cha tôi ngồi dậy tựa lưng vào tường:
- Chúng ta lại phải đi thôi con ạ.
- Cha đang bệnh. Hay để con đi một mình!
- Không. Cha khỏe rồi. Hai cha con ta cùng đi.
Ông vùng dậy, bước đi thoăn thoắt như một người khỏe mạnh.
Tôi luyến tiếc rời góc phố mà tôi đã được nghỉ ngơi mấy ngày qua. Đó là kỳ nghỉ hiếm hoi và có thể là duy nhất trong đời hành khất của hai cha con. Tôi nhìn cao lên phía trên mặt trước nhà thấy cái bảng hiệu cũ có vẽ người mẫu mặc comple…à ra cái cửa hàng chúng tôi trú lại mấy ngày qua là một tiệm may.
Cha tôi hình như không chú tâm mấy đến việc ăn xin, ông không còn vỗ vỗ vào cái trống trước ngực và hát à ê nữa. Ông chú ý nhìn qua bên đường, đưa mắt tìm kiếm những người hành khất khác. Đi đến bưu điện Bờ Hồ, hai cha con tôi chỉ xin được hai trăm tiền lẻ trước một quầy bán báo. Cha tôi ngồi rất lâu trên một chiếc ghế đá, nhìn đám trẻ con bán kẹo đang bu lấy những vị khách tây dạo chơi ven hồ hay ra vào nhà bưu điện. Rồi ông chỉ cho tôi và nói :
- Bọn đó cũng là dân ăn mày như cha con mình. Bán hàng gì, chúng bán cho người ta một cây kẹo giá 1000đ lấy 5000đ. Họ mua vì không muốn bị chúng gây phiền. Nếu con nhanh nhẹn con cũng có thể làm như bọn chúng, sẽ kiếm được tiền nhiều hơn. Bây giờ, ít người tốt qúa, đi xin như cha con mình chẳng mấy ai cho.
Rồi ông thở dài:
- Con không thể bám theo người ta như bọn chúng. Mà con ăn xin kiểu bọn chúng thì cha chẳng biết làm gì.
Thì ra, cha tôi sau khi mất tiền, đang tìm một cách kiếm tiền nhanh hơn hiệu quả hơn cách của chúng tôi trước đây.
Gần trưa, ông dẫn tôi đi đến đền Ngọc Sơn, đang ngày rằm người đến thắp hương tấp nập. Trước lối dẫn vào cầu và ngay trên mặt cầu những người ăn mày ngồi xếp một hàng dài. Ông bảo tôi ngồi xuống bên một cụ già và để cái ca sắt ra trước mặt. Ông phải cự cãi mãi với 2 bà ăn mày phía đối diện một lúc, mới đặt được chiếc nón rách ra phía trước mặt và ngồi chen vào giữa hai bà lão lắm mồm, chân ngồi bắt chéo như mấy sư cụ tọa thiền.
Tôi rất thích kiểu ăn xin này, khỏi phải thúc cái ca vào người ta, ai đi qua có lòng hảo tâm thì cứ bỏ tiền xuống. Thực ra thì cũng chẳng ngồi im, thấy người nào đi gần tới phải hướng mắt nhìn họ và miệng lẩm bẩm câu kệ muôn thuở: “Ông bà cho cháu xin vài đồng lẻ!”
Qua trưa, có mấy người đeo băng đỏ tới, đám ăn mày đều đứng dậy bỏ đi. Cha kéo tôi ra một gốc cây bên bờ hồ. Tôi dốc ca ra đếm được 25 ngàn đồng, cha tôi được 30 ngàn đồng. Cha buông một câu: “Cũng khá!”. Thường ngày chúng tôi cũng chỉ kiếm được 40 đến 60 ngàn. Chúng tôi ngồi trên bờ hồ ăn mỗi người một ổ bánh mỳ. Tôi vẫn nghĩ buổi chiều ông sẽ dẫn tôi quay lại đền Ngọc Sơn, nhưng không, ông kéo tôi đi xe buýt ra mạn Hà Tây. Chúng tôi xuống xe dọc đường. Ông dẫn tôi đi lòng vòng qua mấy bến xe buýt, vài cái chợ nhỏ, vườn hoa. Ông luôn chăm chú tìm kiếm. Rồi ông dừng lại ở một vườn hoa nhỏ bên trường đại học. Tôi nhìn theo ánh mắt ông: Một người đàn ông nằm trên tấm ván được gắn bốn bánh nhỏ do một người đàn bà nhỏ thó kéo đi. Người đàn ông bị cùi lở lói, chân và tay đều quấn băng. Máu thấm qua băng đỏ lòm, ruồi bu đầy trên người ông ta, chốc chốc bị động lại bay vù lên. Người phụ nữ để chồng nằm dưới nắng gắt, bụi bặm, kéo lê trên đường trông thật thê thảm. Ai nhìn thấy cũng hết sức ái ngại. Bà ta thì rơm rớm nước mắt, tay chìa cái chậu nhựa ra trước mặt mọi người. Cái chậu lâu lâu lại đầy tiền, người đàn bà gom lại cho vào cái túi vải màu xanh lơ bám đầy bụi đỏ. Cha con tôi đi theo họ. Ở một đoạn đường hơi vắng người, cha tôi bước tới cái phản người đàn ông nằm và cúi xuống thì thầm. Ít phút sau, ông đứng dậy chào người phụ nữ rồi kéo tôi đi.
- Cha quen họ à? – Tôi không nén nổi tò mò.
- Ừ, cha quen. Họ là vợ chồng nhà Phúc. Ngày trước cha và họ cùng đi với nhau. Cũng có thời gian đi với họ về các tỉnh.
- Ông ấy bị cùi gớm quá!
- Cùi gì! Ông ta tắm rửa, mặc áo xống vào còn đẹp trai hơn cả cha mày. Vợ chồng ông ấy đóng kịch thôi. Chỉ cần một ít bông băng, thuốc đỏ là thành cùi. Con thấy họ kiếm được nhiều tiền không? Cha tính cũng bị cùi như ông ta, cho con kéo.
Tôi rùng mình. Hai cha con chúng tôi không nói gì nữa. Chúng tôi đi xe buýt quay về ga Hàng Cỏ. Đêm đó chúng tôi ngủ ở toa tàu hàng trong ga .
*
* *
Cha tôi đang tìm một cách hành nghề mới. Ông đã nghĩ đến phương án dựng kịch như vợ chồng Phúc nhưng rồi ông gạt đi vì biết không thực hiện được: Tôi còn quá bé không thể kéo nổi tấm ván, còn ông, ông cũng không thể chịu đựng được việc phải quấn băng, bôi thuốc lem nhem và nằm phơi dưới nắng .
Những ngày sau, cha con tôi bắt đầu hành khất theo một cách thức mới: Cha tôi ngồi xin trước cổng đền Ngọc Sơn, còn tôi bám theo khách nước ngoài vào đền bán kẹo chewing-gum. Ông ngồi ở cổng và mắt vẫn theo dõi được tôi. Nếu có sự cố gì hai cha con thống nhất sẽ tìm gặp nhau ở ghế đá bờ hồ trước nhà bưu điện.
Hai ba ngày đầu công việc chẳng thuận lợi gì: Cha tôi kiếm được kha khá, còn tôi chẳng bán được bao nhiêu. Vấn đề, tôi không đủ kiên trì bám theo mấy ông khách tây. Cứ họ khoát tay từ chối là tôi dừng lại. Trong khi đám trẻ con kia vẫn bu theo bán bằng được. Thứ hai, bọn trẻ bán hàng không chấp nhận tôi nên chúng thường xuyên tìm cách gây gổ và tranh cướp khách.
Ngày bán hàng thứ 5, tôi đang bám theo một ông tóc vàng hoe, cao lêu nghêu như cây sào thì bị mấy người đeo băng đỏ bắt cùng với 5-6 đứa bé khác.
Sau này, tôi mới biết, HN đang có chiến dịch truy quét nạn ăn xin, ăn mày. Những người có quê quán sẽ được đưa lên xe chở về địa phương giao cho chính quyền, những đứa trẻ mồ côi sẽ được đưa vào trại trẻ mồ côi.
Tôi, mấy đứa bé, thêm mấy ông bà ăn xin bị đẩy lên thùng một chiếc xe tải, chở đi lòng vòng trên phố, sau đó xe chạy vào một cái sân rộng. Tất cả chúng tôi được lùa vào một hội trường lớn. Ở đó, đã có mấy chục người ăn mày khác. Lần lượt, từng người một được dẫn tới ngồi trước mặt một anh thanh niên mặc áo trắng, quần xanh. Anh ta hỏi tên, tuổi, quê quán và chăm chú ghi vào một tờ giấy. Rồi người ăn mày được đưa ra một góc phòng bắt ngồi lên ghế trước một tấm vải màu đen để chụp hình.
Tôi rất sợ. Lần đầu tiên, tôi bị bắt mà không có cha tôi bên cạnh. Tôi chưa khóc thành tiếng, nhưng bắt đầu sụt sịt. Người thanh niên đeo băng đỏ quát tôi “Im đi ! Không được khóc!”. Sau đó, anh ta kéo tôi tới đứng trước cái bàn người đàn ông mặc áo trắng, quần xanh. :
- Tên gì? – Người áo trắng hỏi tôi giọng cộc lốc.
- Hy.
- Tên gì?
- Hy
Anh đeo băng đỏ nhẹ nhàng:
- Chú ấy hỏi cháu tên gì?
- Cháu nói rồi . Cháu tên Hy.
- À ra tên mày Hy. Tên đầy đủ cả họ?
Tôi lắc đầu:
- Cháu không có họ.
- Cha mẹ tên gì?
- Cháu không có cha.
- Nhà ở đâu?
- Không biết. Cháu không có nhà.
- Mày lại nói dối. Nhà ở đâu? Quê đâu?
- Không có nhà. Không có cha mẹ. Không biết quê ở đâu.
Áo trắng liên tiếp quát nạt và tôi thì bắt đầu khóc dữ hơn, miệng lắp bắp: “Không biết! Không biết!”. Ầm ĩ một hồi, không biết làm gì thằng oắt con 6 tuổi, chú băng đỏ kéo tôi đến cuối hội trường, ném vào nhóm đã lập tờ khai xong.
Một anh lớn hơn tôi mấy tuổi, ăn mặc khá tươm tất, thấy tôi khóc vỗ vỗ vào vai an ủi: “Thôi mà...thôi mà...có việc gì đâu!”. Rồi anh hỏi, giọng thân tình:
- Mày bị bắt vào đây lần đầu à?
Tôi gật.
- Vậy mà mày cũng có bản lĩnh đấy. Biết cách khai đấy. Khối đứa họ mới hỏi đã nhè ra đủ thứ tên cha, tên mẹ, quê quán...
- Em không có quê thật mà. Không có cha mẹ thật mà.
Anh nhìn tôi từ đầu đến chân, nheo mắt có vẻ nghĩ ngợi, rồi phán:
- Ừ...ừ...Mày đúng là dân ăn mày thật rồi! Mày khổ thật rồi!
Tôi rất ngạc nhiên trước lời lẽ khó hiểu của anh ta:
- Thế anh có phải dân ăn mày không?
- Có. À mà không. Tao là dân ăn xin. Như mày mới là dân ăn mày. Nói thế nào mày hiểu nhỉ?
Anh nhìn tôi cười bí hiểm.
Tôi hỏi:
- Anh ơi! Họ sẽ làm gì chúng ta?
Anh lại cười:
- Mày đừng sợ. Không sao đâu. Mày bị bắt lần đầu, còn tao cả chục lần rồi. Mà không phải bắt, gọi là thu gom. Cứ mỗi đợt thu gom họ lại đưa về đây. Ai có quê quán thì ngay chiều nay, họ sẽ cho xe đưa về tận địa phương bàn giao cho ủy ban xã. Còn không biết quê quán, cha mẹ ở đâu, họ sẽ đưa qua trại trẻ mồ côi. Mấy ông bà già thì đưa qua trại dưỡng lão. Mấy đứa khờ khờ, cứ khai rõ quê là mấy hôm sau lại mất tiền xe trở lại thành phố. Đừng sợ, chiều qua trại trẻ, anh em mình ở chơi ít ngày, được phát quần áo mới rồi sẽ bùng ra ngoài.
- Liệu trốn được không?
- Tao trốn chục lần rồi. Dễ ợt. Trại mồ côi bốn phía rào kín, có cổng, nhưng trốn ra chẳng khó gì. Có khi họ còn mong chúng ta trốn đi cho khuất mắt.
Đúng như anh nói. Cuối buổi chiều, chúng tôi được xe chở đến bàn giao cho một trại trẻ mồ côi. Tối đó, chúng tôi chén một bữa no nê. Sau bữa ăn, nhân lúc đám trẻ lộn xộn, anh kéo tôi lẩn ra phía sau dãy phòng ngủ xây thấp lè tè, chui qua một lỗ trống dưới chân hàng rào kẽm gai, chúng tôi đã đứng ngay trên vỉa hè đường phố.
Anh chỉ cái lỗ dưới chân hàng rào bây giờ đã được che kín bằng cỏ:
- Chỗ này tao đã trốn ra mấy lần rồi đấy. Có mấy anh lớn hơn chỉ cho. Thường thì tao vẫn ở lại trong đó ít ngày nghỉ ngơi, nhận phát quần áo mới xong mới trốn. Hôm nay, tao trốn sớm vì mày đấy. Mày về gặp người nhà ở đâu?
Tôi nói hai cha con vẫn thường hẹn gặp trên ghế đá Bờ Hồ nhà Bưu điện. Anh hỏi tôi biết đường về không. Khi tôi lắc đầu, anh nói sẽ dẫn tôi về đấy. Hai anh em xuyên qua thành phố, bước đi như chạy trên đường. Lần đầu tiên, tôi đi với một người khác ngoài cha tôi trên một chặng đường dài như vậy. Và, cũng thật ngạc nhiên, tôi không hề thấy lo sợ bị bắt cóc, bị giết thịt hay bị lừa mang đi bán.
Chúng tôi đi đến Bưu điện thì trời đã quá tối. Anh bảo tôi nếu đã hẹn với cha gặp ở đây thì cứ kiên nhẫn ngồi chờ, đừng đi đâu nữa lại bị lạc đường. Rồi anh phân vân: “Chỉ sợ cha mày cũng bị thu gom rồi. Thôi mày ngồi chờ ở đây, cứ ngồi ở đây. Đến nửa đêm, tao sẽ ra đây lần nữa. Nếu khi đó cha mày vẫn chưa tới, mày về chỗ tao ngủ tạm. Mai ra tìm ông ấy.”
Nói xong, anh phẩy tay một cái, ào ào đi qua đường.
Tôi rất tiếc đã chia tay anh như vậy. Cứ như chia tay một người mà ngày mai sẽ còn gặp lại. Cả tên anh, quê anh, tôi đều chưa biết. Nhưng với một đứa bé 6 tuổi thì tôi đâu đã biết cách xử sự nào tốt hơn.
Cha tôi từ đâu bất ngờ nhào tới, trông bộ dạng ông quá khủng khiếp. Tóc tai bờ phờ, áo quần tơi tả (vốn đã rách và tơi tả), hai bên ống tay dính máu. Mặt và tay ông có nhiều vết bị cào rách đã khô máu.
Khi tôi bị bắt ông nhìn thấy, nhưng không có cách nào theo kịp chiếc xe tải. Ông biết điểm tập kết thu gom và đã đến đấy. Ông liều mạng trèo lên cây, đu qua hàng rào kẽm gai và bị dây kẽm gai cào rách da thịt, xé nát cả áo quần. Khi ông vào được bên trong thì xe đã chuyển chúng tôi đi. Trớ trêu, ông lại bị thu gom vào nhóm người ăn mày vô gia cư và cuối buổi chiều cũng bị đưa về trại dưỡng lão. Gần nửa đêm, ông lại bung qua hàng rào thoát ra ngoài để đi tìm tôi.
- Đi thôi con. Đừng lảng vảng ở đây. Lỡ may lại bị thu gom.
Ông kéo tôi đi một mạch về toa tàu bỏ trống trong ga Hàng Cỏ.
*
* *
Lo sợ bị thu gom vì đang có chiến dịch, cha bảo tôi nghỉ ít ngày. Tôi được phép chơi quanh quẩn quanh khu vực nhà ga. Cha tôi mặc bộ quần áo tươm nhất và đi một mình vào phố.
Một hôm ông trở về với tâm trạng hết sức phấn chấn:
- Chúng ta sẽ đi vào Nam con ạ. Trong đó kiếm sống dễ lắm! Hôm nay, cha may mắn gặp một người vừa trong đó ra. Ông ấy nói ở Sài Gòn, đám ăn mày mỗi ngày có thể kiếm được cả 100 ngàn đồng. Dân miền Nam tốt bụng, phóng khoáng lắm, ai xin tiền cũng cho, mà toàn cho tờ 2000đ trở lên... Không ai lại đi bố thí mấy đồng lẻ 200đ, 500đ.
Ông ngồi im mơ màng như đang tận hưởng những đồng 2000đ-5000đ chất đầy cái ca men sắt, như đang thả hồn đến cái xứ xa xôi mà ông chưa bao giờ đặt chân đến nhưng nghe nói nắng ấm quanh năm, hoa trái sum suê. Các cô, các em đều hiền lành, ca cải lương hết sức mùi mẫn... Đàn ông phóng khoáng, tiền bạc vung tay như công tử Bạc Liêu…
- Người cha đã gặp là bác Toàn. Bác ấy nhiệt tình, thương người lắm. Bác ấy hứa sẽ giúp cha con mình vào Nam. Ừ ... Đi Nam bằng tàu hỏa thì tốn kém lắm. Cha con mình hiện nay không có đủ tiền mua vé con ạ. Cha con chúng ta sẽ đi theo đường bộ, cứ vừa đi vừa kiếm tiền mua vé .
Ngày hôm sau, cha tôi lại đi gặp bác Toàn từ sớm. Ông trở về ngay sau đấy:
- Chúng ta không cần đi theo đường bộ nữa con à. Bác Toàn hứa sẽ giúp cha con mình 2 vé tàu hỏa. Bác ấy nói với cha: đi xe từng chặng vừa đi vừa ăn xin làm gì cho mệt mà cũng chẳng kiếm được bao nhiêu. Cứ vào thẳng Sài Gòn mà kiếm tiền. Miền nam Sài Gòn mới là thiên đường. Đám ăn mày Sài Gòn là loại ăn mày quý tộc.
Cha đưa cho tôi một túi ni lông:
- Quần áo mới cho con cha mua ở lề đường đấy. Con mặc thử xem.
Tôi sung sướng mở ra. Trong bịch ni nông màu đen là một bộ quần áo thun màu xanh còn mới nguyên, mùi thuốc tẩy hăng hắc. Đây là lần đầu tiên tôi được mặc một bộ quần áo mới. Một bộ quần áo sạch sẽ.
- Tối nay chúng ta sẽ lên tàu. Bác Toàn bảo hai cha con mình được đi du lịch đấy. Dọc đường thoải mái nhìn cảnh đẹp.
*
* *
Đón chúng tôi ở ga là một gã áo vàng, khuôn mặt trông rất khó ưa nhưng lại cười cười thân thiện một cách giả tạo. Gã chận hai cha con ngay khi chúng tôi vừa bước xuống tàu, giọng ngọt ngào:
- Chào...chào... Có phải bác Quý không a..a..ạ..
Cha tôi mừng rỡ :
- Anh là người nhà Bác Toàn à? – Cha tôi vừa nói vừa thở hổn hển - May cho hai cha con tôi quá. Tôi chưa biết gì đường sá Sài Gòn.
- Không sao!... Không sao ! – Gã vừa kéo tay tôi vừa nói như máy – Có em thổ công đây rồi ạ... Bây giờ em sẽ đưa bác và cháu về nhà cháu bác Toàn nghỉ lấy sức đã. Chà đi tàu mùa này quá mệt mỏi… Ấy, hôm sau, bác muốn đi chơi đâu Sài Gòn chỉ cần gọi em một tiếng. ..
Tôi rất lấy làm lạ: tại sao gã biết ngay cha con tôi để đón mà không cần một dấu hiệu nào cả. Sau này nhìn thấy tấm hình cha con tôi trên điện thoại của mấy kẻ chăn dắt thì tôi hiểu ra tất cả. Lúc ở ga Hà Nội chờ tàu, mấy lần ông Toàn đã dùng điện thoại chụp hình cha con tôi.
Gã chất hai cha con tôi lên xe (tôi ngồi kẹp ở giữa), rồi rồ máy phóng đi. Tôi không thấy gì nhiều về phố xá Sài Gòn. Ấn tượng ban đầu: sao người đâu mà nhiều thế. Người là người, chen chúc, nêm cứng trên đường. Người là người cứ đổ ra như ổ kiến vỡ vậy. Sài Gòn hiện ra trước mắt tôi chỉ là lưng và lưng, đẫm mồ hôi, che chắn mắt tôi... Gã áo vàng chạy như làm xiếc khi thì bò lên vỉa hè, lúc thì nhào vào làn ô tô. Xe hết rẽ phải, rẽ trái, qua không biết bao nhiêu con hẻm. Đang chạy bon bon, gã có thể bất đồ đạp phanh làm cha con tôi suýt lao xuống đường. Gã cười hề hề : “ Không sao… Không sao …Đường Sè Gòong nó thế!”. Gã quay ngoắt xe phóng ra một con đường lớn có giải phân cách ở giữa, sau đó lại lao vào hẻm, mấy con hẻm nữa, cuối cùng đỗ xịt trước một cánh cổng sắt.
Cổng mở, gã xua chúng tôi vào. Trước mắt tôi là dãy nhà trọ khá khang trang có cả mấy chục phòng, quần áo giăng đầy theo lối đi. Một cô gái còn trẻ, có lẽ chỉ hai mấy tuổi, mặc quần áo ngủ màu hồng đầy hoa là hoa đón chúng tôi, dẫn ngay vào căn phòng trọ ngoài cùng. Gã áo vàng thì thầm gì đó với cô áo hồng. Cô ta móc ví đưa cho gã tờ 50 ngàn. Gã quay ra ngay, lướt qua chúng tôi gã chỉ nói vội mấy câu, giọng xuôi xị: “Bác và em nghỉ nhé. Cô Tâm sẽ chăm sóc bác và em…”. Gã nhào lên xe rồ máy phóng đi. Nhanh đến nỗi cha tôi không kịp nói lời cảm ơn.
Cô áo hồng sau khi đưa tiền cho gã áo vàng để mặc chúng tôi đứng lớ ngớ giữa phòng trọ, cô ta liên tục gọi điện thoại cho ai đó. Khi dứt cuộc điện thoại cuối cùng, cô ta quay lại nói như quát với cha con tôi :
- Đứng gì mãi thế. Ngồi xuống đi chứ hai cụ!
Phòng trọ khá rộng rãi, nhưng chỉ có một tấm đệm đặt ở giữa. Cha con tôi khép nép ngồi xuống góc tấm đệm. Cha tôi lắp bắp:
- Quý hóa quá! Anh người nhà bác Toàn nhiệt tình quá!
- Quý hóa gì ! Tay ba trợn đó!... Hắn dân xe ôm cụ ạ. Con vừa trả cho hai cụ 50 ngàn tiền xe đấy.
À ra vậy, thế mà hắn cứ xưng xưng là người nhà bác Toàn mới lạ. Cô ta nhìn hai cha con tôi rồi đột ngột hỏi:
- Thằng bé này dắt ông lâu chưa?
Cha tôi ấp úng :
- Cháu là con tôi. Nó đi với tôi từ bé … Cháu 6 tuổi rồi cô ạ.
- Cha con gì. Cụ tính bịp tôi hả?...
Cha tôi giật mình vì câu nói hỗn của cô ta.
- Cảm ơn cô đã đón tiếp cha con tôi. Cảm ơn bác Toàn nhà cô rất nhiều. Bác Toàn có nói ở trong này dân khất thực thường thuê phòng trọ ở phải không cô. Mong cô chỉ giúp, cha con tôi tới đó…
Lúc này, tình huống xảy ra bất ngờ: hai gã đàn ông từ đâu bên ngoài bước vào, cô ta chỉ vào cha con tôi, hét lên như một con mụ điên :
- Cái gì! Cảm ơn bác Toàn à! Ông điên à!... Thế ông ta không nói với hai cụ: tiền vé, tiền mua quần áo đẹp, tiền ăn trên tàu…- Ả giơ hay tay lên trời tru tréo - Uống coca-cola nhé!... Uống rượu thoải mái nhé!… Là vay của con này hả? Đấy! Tổng cộng 3 chai cụ ạ - Cô ta giơ 3 ngón tay sát vào mặt cha tôi - Lãi suất ngày ba xị cụ ạ!...
Cha tôi đang ngồi, bật dậy sửng sốt:
- Ô! Ô!…Tôi có vay đâu!...
Ngay đó, hai gã bặm trợn mặt cô hồn nhảy xổ vào cha tôi, cứ thế đấm đá túi bụi. Tôi khóc ré lên. Gã Mặt Sẹo quẳng tôi như vứt khúc củi xuống sàn và đá với một cú vào ngực tôi.
- Đồ ngu! Đồ vô ơn! Đánh cho bọn mày biết lễ độ!.
Hai cha con tôi sau trận đòn, hồn xiêu phách lạc, dúm dó vào góc phòng. Bây giờ, ả áo hồng bắt đầu ngọt nhạt:
- Hai thằng này nó đánh hai cụ cho vui thôi. Nó mà đánh thật thì cụ thành con gián rồi, không què chân cũng què tay. Em thì đâu có muốn đánh ai nhưng thấy hai cụ hỗn quá, không biết ơn huệ gì cả. Con nói cụ nghe - Ả thay đổi cách xưng hô - Chi phí kia là tiền con đầu tư vào hai cụ. Có tiền của con hai cụ mới đặt chân được vào chốn hoa lệ này. Đây là thiên đường của dân làm ăn chúng ta các cụ ạ. Cũng không có gì khó khăn, nếu hai cụ giỏi, mỗi ngày gắng kiếm cho con chừng ba mươi xị, trừ chi phí bọn con đưa đón, cơm nước, chỗ ở còn hơn chục xị. Cụ chỉ phải làm cho bọn con khoảng 2 tháng thôi. Sau đó cụ hoàn toàn tự do, thoải mái kiếm ăn nhé. Thời gian đầu, coi như bọn con luyện nghề cho cụ…
Cha tôi mắt ầng ậng nước, quay nhìn qua tôi, rồi nhìn xuống chân mình. Ông vùng dậy một lần nữa nhưng bị hai gã kia ấn mạnh xuống. Ông bật khóc :
- Con ơi, cha dại, cha ngu… Cha con ta bị bọn chúng lừa rồi!...
*
* *
Gã Cao Ngỏng phóng chiếc xe máy trờ tới, Mặt Sẹo kéo tôi ra sân. Cha tôi nhào theo: “Hai cha con tôi cùng đi với nhau!”. Cô áo hồng lắc đầu:
- Không cụ ơi. Cụ sẽ ở đây, ngày mai con dạy cụ ít bài làm nhà sư khất thực một mình cụ ạ. Vừa nhàn, vừa khỏe, thu nhập cao. Chúng tôi không chăn dắt trẻ con nên tạm gửi thằng bé qua nơi khác. Khi nào cụ trả xong nợ, nó lại về với cụ. Hai cụ thoải mái cùng nhau kiếm sống.
Tôi nhào khỏi xe, nhưng tay gã Mặt Sẹo như một gọng kìm nhấc bổng tôi lên yên và gã ngồi ngay sau kẹp chặt lấy tôi. Một tay gã bụm chặt miệng không cho tôi kêu, cũng không cho tôi quay đầu lại nhìn. Và cứ thế chúng phóng xe ra đường.
Tôi khóc, tôi giãy giụa, nước mắt tôi trào ra. Tôi không còn biết chúng chở đi đâu nữa. Lại chen lấn trên phố, lại bao nhiêu con hẻm. Cuối cùng đến một dãy nhà trọ, ẩm thấp, tồi tàn, lợp mái tôn lè tè. Lần này, tôi bị dẫn đi băng qua bao nhiều phòng trọ đóng cửa, tới căn phòng cuối cùng. Phòng hẹp nhưng sâu hun hút. Giống như tất cả các phòng trọ khác mặt trước mở một cửa sổ nhỏ và cửa đi bằng sắt. Trong căn phòng chăng chằng chịt dây mùng, chỉ có một gã đầu húi cua đang nằm ngủ trên chiếc phản gỗ duy nhất giữa nhà. Hai gã kia vứt tôi vào góc phòng. Người đàn ông đầu húi cua nhìn tôi chăm chú, kéo chân, kéo tay, nâng mặt tôi lên, gừ gừ trong cổ rồi quay lại tấm phản giữa phòng.
- Thằng oắt này cào cấu dữ, khóc cũng dữ. - Tên Mặt Sẹo lên tiếng.
- Mấy thằng nhóc ngoài Bắc bị chộp... đều vậy. Ít hôm là ổn hết.
- Sắp có hàng Bắc nữa đấy. Hàng tốt cả, tầm 5-7 tuổi.
- Tao chán mấy đứa còn thò lò mũi xanh rồi đấy nhé! Nói con mẹ Tâm đừng bán bọn nó qua đây nữa.
Gã húi cua phán thêm mấy câu. Ba gã ngồi to nhỏ với nhau khá lâu, rồi hai gã kia đứng dậy ra về.
Vậy là cha tôi hết mộng kiếm ăn ở đất Sài Gòn giàu có như dự định ngày ra đi. Nhớ tới cha, tôi thương ông quá. Ông thật sự là một người ăn xin ngây ngô khờ khạo hiếm hoi. Nhớ tới sự hồ hởi của ông lúc lên đường, tôi lại muốn khóc. Cuối cùng, cái bác Toàn tưởng tốt bụng kia hóa ra là một tên khốn nạn. Khi đó tôi chỉ biết ông ta khốn nạn thôi nhưng chưa biết cái khốn nạn cụ thể của nó như thế nào. Sau này, khi sống với lũ trẻ một thời gian, gặp mấy “món hàng mới” thì tôi hiểu ra tất cả. Ông ta là một đầu mối gom hàng ở phía Bắc. Ông ta suốt ngày lang thang ở các bến xe, chợ búa, gặp dân ăn mày là dụ dỗ vào Nam. Ông ta tỏ vẻ nhiệt tình giúp đỡ mọi người. Nhưng tất cả dân ăn mày với ông ta chỉ là món hàng nóng, cứ mỗi người ăn mày đặt chân vào Sài Gòn là ông ta được những kẻ chăn dắt trả một khoản tiền.
*
* *
Khoảng 10h đêm, đám ăn mày lục đục kéo về đánh thức tôi dậy. Một thằng bé lớn hơn tôi một cái đầu đang cố kéo cái chăn tôi nằm đè lên, miệng tru tréo :
- Chú Mong ơi có thằng mới nằm chỗ con.
Hóa ra tên người đàn ông đầu húi cua là Mong.
- Chỗ mày còn rộng, cho nó nằm ké bên cạnh. Hôm nay nóng thế này nó chẳng cần chăn mền gì đâu.
- Chật chội thế này còn ké gì nữa! - Thằng bé lầu bầu, nhìn tôi đầy ác cảm.
Mấy đứa bé mới về thấy ồn ào, xúm lại nhìn tôi một chút rồi tản ra. Có lẽ với chúng một đứa ăn mày mới đến chẳng có gì lạ.
Bây giờ, tôi mới nhớ ra rằng, tất cả đồ đạc của tôi đều đang nằm trong cái túi đen của cha, cả chiếc ca men sắt cũng cất trong đấy. Tôi tiếc cái chăn mỏng nội vụ ngon lành nhất tôi có. Nó rộng khoảng 1.5m, tôi thường trải một nửa xuống đất thay cho cái chiếu, nửa còn lại tôi quấn lên người làm chăn. Khi ngủ chung cùng cha tôi thì tấm chăn của tôi khá lành lặn nên thường trải xuống dưới, tấm chăn rách tơ tướp của cha tôi sẽ dùng để đắp. Nhưng tiếc nhất với tôi là chiếc ca men sắt. Đồ nghề theo tôi bao năm qua, nó gần như là một vật bất ly thân, một người bạn thân thiết của tôi. Những lúc khó khăn, những lúc vui buồn, tôi thường để nó trước mặt mình và thì thầm cùng nó. Có thể tất cả đồ đạc của cha con tôi đã bị bọn Tâm áo hồng chiếm giữ.
Đám trẻ sau mấy phút nghỉ ngơi, bắt đầu đổ tiền trong túi ra nền nhà, đếm và xếp lại. Chắc đây là quy trình chung của cái nhà này, tối về kiểm tiền và nộp lại cho ông chủ. Trước đây, không khi nào tôi phải kiểm tiền, không quan tâm ngày hôm đó xin được bao nhiêu tiền. Cuối ngày cha tôi lấy hết tiền trong túi ra, xếp lại và cất vào cái bao tượng đen sì. Thằng bé kéo chăn tôi hồi chiều xin được khá nhiều tiền, trong mớ tiền lẻ của nó có cả những đồng năm ngàn (Ở HN rất hiếm khi tôi kiếm được một tờ hai ngàn), còn lại một ngàn, năm trăm vô khối. Nó xếp ra được chín tệp lớn và ba xếp nhỏ. Tôi nhẩm tính ngày hôm nay nó xin được hơn 93 ngàn. Thằng nằm bên trái tôi chỉ xếp được năm xấp và 7 xếp nhỏ. Có lẽ là năm mười bảy ngàn. Khuôn mặt nó hết sức căng thẳng. Trong phòng trọ chỉ có 3 người lớn tuổi, ngoài gã Đầu Cua, có một gã khá lớn tóc rậm lùm xùm (sau này tôi luôn gọi là Đầu Rơm), và một người phụ nữ béo lẳn (mụ Mập). Họ ngồi quanh chiếc bàn đặt ở góc phòng và bọn trẻ con lần lượt đi đến giao tiền. Nam (thằng bé bên phải tôi) đến gặp gã Đầu Cua, giao tiền rất nhanh rồi lui về chỗ. Thằng bé bên trái cứ ngồi im với xấp tiền trên tay. Khi gã Đầu Cua hét lên: “Thằng Tý đâu?” . Thằng bé bên trái tôi mới lý nhí “Dạ con!” rồi rón rén bước đên bên gã chìa xấp tiền ra. Gã đếm rất nhanh, gầm gừ :
- Hôm nay mày lại thiếu ông những 13 củ kia à! Hôm nay mày lại chơi phải không? Phải không?...
Với mỗi tiếng “phải không” là một cú đá gã giáng vào thằng Tý, nó bay ra giữa phòng, nằm bẹp xuống đấy, không kêu lên một tiếng nào. Mãi sau nó mới bò về chỗ mình. Hai mắt nó ráo hoảnh. Việc bị đá với nó không có vẻ gì nghiêm trọng. Ở ba góc nhà đều diễn ra những cảnh tương tự như vậy.
Tôi nhìn thấy hầu hết bọn nó đều sàn sàn tuổi tôi, sau khi bỏ quần áo đi ăn xin hàng ngày, chúng đều mặc quần áo lành lặn, tươm tất. Mỗi đứa được phân một chỗ ngủ, gồm một chiếc chiếu nhỏ trải xuống nền gạch, một tấm mền đắp, một cái gối. Đứa nào cũng có dép hoặc giày. Chúng khá hơn rất nhiều so với những đứa trẻ ăn xin tôi từng gặp.
Sau khi thu xong tiền bọn trẻ, ba người lớn kéo ra chiếc giường kê gần cửa ra vào và họ bắt đầu đánh bài sát phạt nhau. Trong phòng, bọn trẻ đứa thì nằm im ngủ, đứa thì mang những đồ chơi nhặt được ra chơi hoặc túm lại chuyện trò. Tôi quay sang làm quen với Tý:
- Hôm nay mày không xin đủ à?
Nó lắc đầu:
- Không !
- Mỗi ngày mày phải xin được ít nhất bao nhiêu ?
Tý đưa bảy ngón tay lên:
- Bảy xị. Không đủ sẽ bị đánh đòn. Tui không mấy khi đủ. Hôm nay ông ta đánh vậy là nhẹ đấy. .. Có hôm tui bị đánh gãy cả xương sườn.
Nó kéo vạt áo cho tôi nhìn chỗ xương sườn bị lõm vào.
- Mấy người kia là chủ của bọn mình à?
- Chủ? À bọn tui gọi là “Chăn dắt”.
- Chăn dắt…
- Ừ ... Những kẻ chăn dắt, bọn tui gọi vậy!
Tôi nhẩm lại “Kẻ chăn dắt” – đó là một từ hoàn toàn mới mẻ với tôi. Xưa nay tôi chỉ coi những người lớn đi hành khất cùng một đứa trẻ là cha, chú hay ông chủ mà thôi.
- Mày từ Bắc mới vào à?
Tôi gật đầu.
- Mấy ngày nữa mày sẽ biết chăn dắt như thế nào.
Đang đánh bài, gã Đầu Cua quay đầu vào, hét to: “11h giờ rồi, bọn mày về chỗ ngủ đi. Đứa nào còn làm ồn tao bẻ chân”.
Bọn trẻ nhất loạt trở về chỗ và nằm im. Tôi đói quá không thể ngủ được nhưng tôi đành cắn răng im lặng. Đêm đầu tiên, tôi không ngủ bên cạnh cha. Tôi trở mình mãi mà không sao chợp mắt được. Không biết đêm nay cha tôi ngủ ở đâu? Ông có được ăn chút gì không? Liệu bọn kia có làm gì ông không?
*
* *
Những kẻ chăn dắt đánh thức cả phòng dậy rất sớm. Bọn trẻ nhiều đứa vẫn còn ngái ngủ nhưng sau tiếng quát của gã Đầu Rơm thì nhất loạt nhổm dậy đi đánh răng, rửa mặt. Tôi mệt và đói rã người, cố lê lại vòi nước sau khi đám trẻ kia đã vệ sinh xong. Tôi vả nước lên mặt rồi lau bằng ống tay áo. Gã Đầu Cua lúc này mới đưa cho tôi cái khăn mặt cũ và bàn chải đánh răng.
Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ đánh răng bằng bàn chải. Cả cha tôi cũng thế. Cứ sáng mai rửa mặt là xong. Vì vậy, tôi luống cuống một lúc với chiếc bàn chải nhỏ.
Khi tôi quay về chỗ nằm thì mỗi đứa được phát một gói xôi. Tôi đang đói nên chỉ trong mấy phút đã chén sạch gói xôi của mình. Gã Đầu Cua vứt cho tôi một bộ quần áo bằng vải thun, một chiếc nón vải, một cái túi và đôi dép nhựa (sau này, tôi biết đó là đồ của một đứa bé vừa được trả về nhà vì bệnh nặng). Tôi mặc xong quần áo, nhìn quanh thấy bọn trẻ đều trang bị khá giống với mình. Đứa nào cũng quần áo thun, túi đeo vai và đi dép nhựa, khác nhau chỉ là màu áo, màu quần. Tất cả lần lượt rời nhà trọ. Đứa nào đi xa thì mấy gã chăn dắt chở xe máy, mấy đứa làm ăn ở gần thì đi bộ. Đầu Cua kéo tôi, và thằng Thanh, Tý lên một chiếc xe máy cà tàng. Nửa giờ sau, chúng tôi được thả xuống ngay vườn hoa trước một nhà thờ lớn các bức tường xây gạch màu đỏ hồng (sau này, tôi biết đó là Nhà Thờ Đức Bà ).
Hai đứa kia ngay khi xe dừng đã nhảy xuống nhanh nhẹn đi về phía nhà thờ. Đầu Cua chỉ tôi ngồi xuống cái ghế đá bên gốc cây xà cừ:
- Mày ngồi đấy, xem hai đưa kia làm việc mà rút kinh nghiệm. Tý nữa tao sẽ hướng dẫn mày ít bài. Ăn xin trong này không giống như cách cha con mày kiếm ăn ngoài Bắc đâu, phải có nghề, có nghệ thuật. Rồi mày sẽ thấy ở đây chính là thiên đường của dân ăn mày…
Gã nói một làu, giọng đều đều không chút cảm xúc. Rồi cười hi hi và rút điện thoại trong túi ra gọi cho ai đó. Hồi sau gã Đầu Rơm xuất hiện, cả hai ngồi nhậu với nhau trên bãi cỏ với mấy con mực và chai rượu gã Đầu Rơm mang tới. Hai gã uống, chốc chốc đưa mắt nhìn theo mấy đứa bé hành khất gần đấy.
*
* *
Nghệ thuật ăn mày ở Sài Gòn không phải là cách cố gắng hạ nhục mình để nằn nì, xin xỏ hay kêu ca, kể lể sự đói khổ để rủ lòng thương thiên hạ. Cũng vẫn cần phải có bộ dạng đau khổ, rách rưới thảm thương nhưng điều đó không thật sự quan trọng. Thay vào đó, phải biết xin tiền một cách có nghệ thuật. Nghệ thuật ăn xin như thế nào, Đầu Cua, Đầu Rơm, mụ Mập hướng dẫn cho tôi bằng những bài học cụ thể, mà nói như tay Mong là “rất sinh động”. Ăn xin là một nghề đòi hỏi phải sáng tạo, thông minh, nhanh nhẹn và biết biến hóa.
Ngay khi được thả ra tại một địa bàn nào đó, mỗi đứa ăn xin sẽ được những kẻ chăn dắt giao các nhiệm vụ chính, cũng như hướng dẫn những việc phải làm, còn thì phải tự tác chiến.
Lính của Đầu Cua chăn dắt buổi sáng sẽ dượt qua các điểm ăn sáng, thấy thức ăn vừa bưng ra cho khách thì xông tới chìa tay ra. Vào buổi trưa và buổi tối thì đi rảo trong công viên, thấy các đôi đang tình tự khá tình cảm thì xáp vào chìa tay ra xin quyết liệt, chỉ khi họ cho tiền mới chịu đi. Thời gian khác, thì đứng trước các ngã tư, siêu thị. Một vài đứa, khôn lanh nhanh nhẹn, được luyện các vai kịch. Một trong những kịch bản thằng Thanh thường đóng vai là bị kẹt chân để ăn vạ. Nó sẽ chọn một chiếc xe thật đẹp, đắt tiền, chủ xe có mặt hiền, hay nhìn bộ dạng có thể dễ dàng bắt nạt và yêu cầu số 1 là họ đi có một mình. Phụ nữ lái xe là đối tượng thích hợp nhất. Nó sẽ đứng lớ ngớ cạnh xe, khi xe bắt đầu chuyển bánh thì nhanh nhẹn đút bàn chân vào bánh sau. Ngay lúc đó mấy gã chăn dắt sẽ xuất hiện như người qua đường tình cờ, hô hoán lên và chận ngay xe ô tô lại (khi nó mới dịch bánh đi vài chục cm). Chủ xe phải de xe để thằng Thanh rút chân ra, và ngay đấy nó nằm lăn xuống đường quằn quại cứ như bàn chân của nó đã bị dập nát. Mấy gã chăn dắt sẽ ép nạn nhân bồi thường với một giá tiền bằng chúng tôi đi xin cả tháng. Hầu như nạn nhân nhiều ít đều phải bỏ tiền ra. Cũng có người biết trò kịch dứt khoát không bồi thường mà còn lớn tiếng đòi bắt thằng ăn vạ về đồn công an, khi đó bọn chăn dắt sẽ giãn ra và thằng Thanh bất ngờ bùng dậy chạy nhanh như ma đuổi. Cái chân tan nát của nó phăm phăm như vó ngựa. Một đứa tên là Như chuyên đóng kịch bị đụng xe máy. Nó cứ bất ngờ lạng quạng qua đường, va vào một chiếc xe máy nào đấy, ngã lăn ra. Còn thằng Còi thì cứ chiều xuống lại đi bán 5 vé cuối cùng. Gặp ai cũng vậy, năn nỉ bán 5 vé còn lại, nếu không bán được về sẽ bị ăn đón. Nó khóc nức nở, vẻ mặt đau khổ vô cùng...
Tôi bắt đầu đi xin với định mức gã Đầu Cua giao là ít nhất phải kiếm được 50,000 đồng.
Đầu Cua dặn tôi phải nhớ các quy định kỹ luật nghiêm ngặt: Luôn phải tránh xa và ngừng hành nghề ngay nếu thấy có người băng đỏ. Nếu bị thu gom, luôn khai mồ côi cha mẹ, không có nơi ở, ngủ ngoài đường (cứ để họ gom về trại trẻ mồ côi, Đầu Cua sẽ đến cứu sau). Bất cứ ai hỏi gì cũng nói không biết. Nếu gặp người không cho tiền mà bảo ngồi ăn cùng thì không được ăn (sợ mấy đứa ăn xin lại chén tì tì mà không chịu đi kiếm tiền), ngoài phạm vi được phép đi xin không được đi qua các tuyến phố khác. Không được nghe bất cứ ai rủ rê đi đâu. Nếu vi phạm sẽ bị đòn, bị phạt nhịn đói, bị trả về nhà (với những đứa trẻ có nhà).
Mấy ngày đầu tôi luôn đi sau thằng Thanh một quãng ngắn. Nó làm gì thì tôi cứ làm theo nó: Nó nhào vào nhà hàng xin tiền khách đang ngồi nhậu, tôi cũng nhào vào. Bị bảo vệ đuổi, nó đứng ỳ ra tôi cũng đứng ỳ ra. Nó nhảy vào công viên dí cái nón vải vào đôi trai gái đang tâm sự tôi cũng nhảy vào. Nó quỳ trước lối vào nhà thờ, đưa cái nón lên ngang mắt, thì tôi cũng tìm lối vào bên kia làm y vậy. Ngày ngày, tôi nộp đủ số tiền Đầu Cua quy định, có hôm thiếu mấy ngàn, có hôm dư mấy chục ngàn. Đầu Cua có vẻ hài lòng.
Tôi luôn nhớ đến cha. Buổi tối tôi nghĩ về ông nhiều nhất. Một hôm, gã Cao Ngỏng lại chở một đứa bé tới giao cho mụ Mập, tôi nhào tới hỏi:
- Cha cháu thế nào? Ông khỏe không?
Cao Ngỏng lừ lừ nhìn tôi, rồi nói như gắt:
- Cha mày à. Cụ béo mập lên rồi. Ngày ngày đi khất thực được khối tiền.
- Cháu gặp cha được không?
- Gặp hả. Mày phải ở đây làm ăn ngoan vào. Khi nào cha con mày trả hết nợ sẽ thoải mái gặp.
Tôi nhớ bà Tâm từng tính ba tôi phải làm 2 tháng mới trả hết nợ. Tôi đã ở đây gần 2 tháng rồi.
Buổi tối, tôi hỏi gã Đầu Cua:
- Cháu ở đây bao lâu thì trả hết nợ?
Gã Cua ngớ ra một lúc, rồi sầm mặt lại:
- Mày muốn đi hả. Mày biết tao phải thuê mày mỗi tháng bao nhiều không: hơn chai đấy con ạ. Mày muốn biết khi nào ra khỏi đây thì hỏi con mẹ Tâm ấy! Tao thì đéo biết. Thuê mày tháng nào tao trả tiền tháng đó!
Khuôn mặt gã trông rất dữ nên tôi không dám hỏi thêm gì nữa.
Tôi buồn đến phát khóc, cụp tai quay về chỗ nằm. Thằng Tý an ủi và thì thầm cho tôi biết: Con mẹ Tâm nói vậy thôi, ai vô tay bọn nó không bao giờ trả được hết nợ, không bao giờ có ngày ra. Chúng sẽ đưa cho mấy đứa chăn dắt thuê, chẳng có ai được bọn nó thả ra cả, trừ khi trốn thoát hay ốm chết. Thằng Tý hồi đầu cũng tưởng sẽ làm ít tháng trả hết nợ, nhưng nay nó đã ở đây một năm hơn rồi. Nợ mẹ đẻ nợ con, trả mãi không hết. Cứ hỏi tới còn bị mấy đứa quân của mụ Tâm đánh đòn. Chỉ mấy đứa mà cha mẹ nó cho bọn chăn dắt thuê là “sung sướng”. Thường bọn nó ở cùng làng hay có quen biết tụi chăn dắt, lâu lâu có thể được cha mẹ đưa về nhà chơi, nếu ốm đau quá thì được trả về nhà.
Tôi vẫn đi cùng Thanh. Vào ngày lễ 1-5, tôi và nó lập công lớn. Thanh phát hiện một ông Tây chạy xe chiếc Lexus vào nhà thờ đi lễ. Ông Tây này mập kềnh càng và có vẻ mặt trông ngơ ngác lắm. Thanh đưa mắt ra hiệu cho tôi rồi đứng phục ở ngã 3 gần đó. Tôi hiểu ý chạy đi tìm Đầu Cua, Đầu Rơm nhưng không thấy mấy gã chăn dắt đâu cả. Khi tôi quay lại thì ông Tây đã ra xe và đang hướng tới ngã ba trước mặt. Tôi phóng nhanh qua bên kia ngã ba, để từ đó khi đèn vừa bật xanh, chiếc Lexus màu trắng vừa chuyển báng thì tôi đã kịp nhảy ra đầu xe chặn lại. Ông Tây hoảng hốt dừng gấp xe giữa đường, ngơ ngác chẳng biết chuyện gì. Tôi đập vào cửa và chỉ ra phía sau. Thằng Thanh đang ôm chân lăn lộn dưới đất ngay sát gầm xe… cố đưa cái chân tím tái như gà luộc cho mọi người thấy. Có tiếng ai đó la to “xe chẹt nát chân người ta rồi!”. Đúng kịch bản tôi sẽ phải bám lấy ông Tây để ăn vạ nhưng không hiểu sao lúc đó tôi lại chạy tới ôm lấy bàn chân sưng đỏ của thằng Thanh rồi khóc rống lên. Ông Tây vô cùng bối rối, ông vẫy ngay một cái taxi gần đấy rồi ôm hai anh em tôi bỏ vào xe, miệng rối rít “sorry... sorry...” Trước khi đóng cửa xe ông rút ví và đặt vào tay tôi mấy tờ tiền. Gã taxi phóng như điên và khi đã xa đám đông thì phanh két lại, hét lên với hai thằng tôi: “Bọn mày đóng kịch khiếp thật. Trả ngay tao tiền xe rồi biến đi!”. Hóa ra tay tài xế taxi biết rõ chúng tôi đang làm trò gì.
Buổi tối, khi cầm tờ tiền tôi đưa gã Đầu Cua há hốc mồm: “ Sao còn có thằng Tây nào tốt thế, ngu thế, khoai Tây thế!”. Hóa ra, mấy tờ vàng đỏ đó là 500 Mác Đức, bằng nghĩa vụ 10 tháng ăn mày của bọn tôi. Khi nghe thằng Thanh kể lại câu chuyện buổi chiều, mấy gã chăn dắt bắt đầu nhìn tôi với con mắt khác. Thái độ mấy gã từ chỗ đang khó chịu, lạnh lùng do vụ tôi đòi gặp cha bỗng thay đổi sang quan tâm, trìu mến một cách khác thường.
Sau vụ ông Tây, tôi được mấy gã chăn dắt ưu ái, được đi lại tự do hơn, không bị giám sát từng ly, từng tý như trước. Nhưng tôi cũng cố tình không đi sau thằng Thanh nữa để tránh phải tham gia vào việc đóng kịch của nó, phải làm diễn viên phụ cho nó. Nhớ đến vẻ mặt ông Tây lúc đó, tôi vẫn thấy áy náy không yên. Tôi cảm thấy mình đang tham gia trò lừa đảo người khác. Từ nhỏ, cha con tôi chỉ đi xin, chứ chưa khi nào lừa ai để lấy tiền.
*
* *
Tối qua có một con bé ăn mày mới tới. Vì có nhiều đứa trẻ đến rồi đi nên tôi chẳng chú ý gì nhiều. Đứa nào ương bướng, hay quá kém cỏi, không đào tạo được, bọn chăn dắt sẽ kêu chủ nó trả lại. Cũng nhiều đứa hết hạn hợp đồng, cha mẹ đón về.
Sáng nay, lúc vào nhà vệ sinh để rửa mặt nhìn thấy con bé mới tới đang đứng chờ với bàn chải và khăn mặt trên tay thì tôi giật mình sững sờ. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt của nó, không bao giờ quên được hình ảnh của nó đứng trên sân ga với tiếng hát mê hồn hồi nào. Đó là một trong số ít những gương mặt mà tôi có thể nhớ đến từng nét nhỏ của chân mày, ánh mắt, nụ cười.
Tôi nhào tới không cần phép tắc gì:
- Sao em cũng vào đây à? Em vào lâu chưa?
Con bé nhìn tôi ngỡ ngàng một chút, rồi nó cũng nhớ ra một trong những khán giả cũ của nó. Con bé mỉm cười:
- À, ra là anh. Em vào đây hơn một năm rồi. Có phải anh cũng từng ở ga Hương Canh không ?
- Đúng. Anh nghe em hát hoài mà!- Tôi tỏ ra tự hào vì quen em khi thấy mấy đứa khác chú ý đến câu chuyện của hai chúng tôi - Em là ca sỹ nổi tiếng đấy. Bọn mình quen nhau ở ngoài Bắc đấy!
Tôi quay ra hỏi em:
- Em vẫn hát chứ?
Thật bất ngờ, sau câu hỏi của tôi, bé Châu (tên con bé) bỗng trở nên buồn hẳn, mắt ngấn ngấn nước, lắc đầu. Bất ngờ, nó rùng mình, mắt trợn ngược, ngã lăn xuống sàn, bọt mép sùi ra. Tôi hoảng quá la lên;
- Các chú ơi! Con bé...Con bé!...
Mấy đứa quanh tôi bỗng cười ầm. Con bé bất ngờ đứng dậy, lấy ống tay áo quẹt đám bọt phều ra bên mép, cầm ca đi vào toa lét. Thằng Thanh đấm vào bụng tôi:
- Mày ngờ ngệch thật, con bé đóng kịch ấy mà. Nó chuyên đóng vai bị phong giật đó. Trước nó ở đây, đóng kịch hoài cả khu này nhẵn mặt nên mấy ông chuyển nó qua khu vực khác. Nay chắc mấy ông nghĩ thiên hạ quên mặt nó rồi nên lại cho về làm ăn lại.
Mấy ngày sau, tôi mới nghe được chút ít chuyện về bé Châu. Mấy năm trước, cha mẹ em chết trong một vụ tai nạn trên cầu Hương Canh. Công an cho rằng do hai người bất cẩn khi ngồi trên nóc tàu nên khi qua cầu đã bị thanh sắt giằng cầu đập vào đầu. Nhưng em biết cha mẹ em đã tự sát chứ không phải bị tai nạn. Cha mẹ em gần chục năm đi trên tuyến đường này, quen biết từng con ốc, từng điểm nối của đường ray. Người cha mù nhưng thính giác của ông vô cùng nhạy bén, chỉ nghe tiếng tàu chạy ông có thể đoán chính xác, tàu đang ở đâu và ông có thể mô tả cho em cảnh quan xung quanh không khác gì ông đang nhìn thấy tất cả. Cầu Hương Canh là một vị trí quá quen thuộc với ông, những khi em đi cùng nếu ngồi trên nóc toa, cách cầu 100m, là ông đã ấn đầu em xuống sát nóc tàu. Cha mẹ em không thể quên để thành cầu đập ngay trúng đầu, rơi xuống sông, chết thê thảm như vậy. Hôm đó, hai người ra đi, không đưa em đi cùng với lý do: họ xuống HN mấy ngày mới quay về. Họ gửi em cho một ông ăn mày lớn tuổi. Mấy ngày trước đó hai người bỗng quan tâm tới em rất nhiều, dặn dò đủ thứ, và gom tiền bạc đưa hết cho một người bạn ăn mày khác.
Nghe tin cha mẹ mất, em khóc òa lên. Mấy ngày sau em vẫn khóc, chẳng ai dỗ được em nín lại. Em ốm một tuần, sốt nóng, co giật. Khi khỏe lại bình thường thì em không còn hát được nữa. Giọng của em khàn đục như giọng của một bà lão. Bác sỹ bảo chính do khóc nhiều quá, em bị hỏng mất dây thanh.
Mất đi giọng hát em hết sức lo sợ. Em sợ rồi số phận của em sẽ không khác gì người cha đau khổ của mình. Những câu chuyện đám ăn mày kể lại luôn ám ảnh em. Rằng ngày xưa, cha em rất xấu trai, mặt ông bị rỗ chằng chịt do bệnh đầu mùa, chân đi vòng kiềng… nhưng trời vẫn cho ông một đôi mắt sáng. Khi còn bé, vẻ xấu trai khốn khổ, giọng hát trẻ con của ông đã kiếm được khối tiền cho ông chú. Nhưng khi ông lớn lên thì vẻ xấu trai đó không còn gợi được lòng thương cảm của mọi người, ngón đàn ghi ta quá xoàng, và một giọng hát không có hồn dần dần chẳng còn làm cho thiên hạ mủi lòng. Ông chú nhận ra cha em càng lớn càng kiếm được ít tiền và càng lớn càng ít nghe lời ông, càng tỏ ra chán nản khi phải theo ông hành nghề khất thực. Có thể một hôm nào đó cha em sẽ rời bỏ ông ra đi. Một âm mưu độc ác nung nấu trong đầu óc vị kỷ của ông chú ngày này qua ngày khác, rồi được thực hiện vào một đêm mưa gió. Ông chú đã nhẫn tâm đổ axit vào mắt đứa cháu khi đứa bé 12 tuổi đang ngủ say sau một ngày kiếm sống vất vả.
Cha em đã đau khổ, thù hận, đã lao vào đường ray tử tự. Nhưng cuối cùng vẫn không thoát được định mệnh đau đớn của mình. Cha em trở thành một gã xẩm mù. Đúng như sự tính toán độc ác của ông chú. Sau khi bị mù hai mắt, giọng hát và tiếng đàn của cha em thay đổi hẳn. Nó trở nên ai oán, bi thương, uất ức... Người ta nghe cha em đàn hát chỉ muốn bật lên khóc theo nức nở. Tiền lại ào ào rơi xuống cái nón vải của ông chú.
Cha em trở thành một xẩm mù nổi tiếng. Ông chú thu được rất nhiều tiền. Ông chú độc ác luôn tự hào vì đã biến được cha em thành một người hát xẩm có một không hai …Và bằng tội ác ghê tởm ấy, ông đã giữ chân đứa cháu gắn với nghề hành khất mãi mãi.
Khi mất giọng, em luôn lo sợ một thảm kịch như vậy có thể sẽ đến với em. Không bao giờ em muốn mình trở thành một cô xẩm mù. Em đã nghĩ cách sẽ trốn đi…Rồi may, một ngày đông mưa phùn dầm dề, em chứng kiến một người đàn bà động kinh ngã xuống vũng nước trước cổng chợ. Hai người bán rau xúm lại kéo người đàn bà vào quầy hàng cứu chữa. Mọi người không ai bảo ai đều gom tiền lại giúp người bệnh. Hôm đó, em thấy mình tìm ra lối thoát.
Đêm đêm, khi ông chú đã ngủ say, em bắt đầu tập vai diễn của mình. Em chú ý từng chi tiết nhỏ để biến mình thành con bé bị bệnh động kinh như thật. Chỉ sau mấy tuần nhập vai, em đã làm cho ông chú ngạc nhiên, thán phục trước kỹ năng trời phú của mình. Từ đó, em không phải hát nữa, em không còn phải làm là ca sỹ nữa, em thành một cô bé động kinh nổi tiếng khắp vùng trung du. Đám hành khất nhắc đến em như một biểu tượng thành công của nghệ thuật ăn mày.
Sau đêm uống rượu say, nằm ngủ quên trên đường tàu bị cán cụt hai chân, ông chú không thể đi theo em để khất thực. Biết mình không còn sống bao lâu, ông chú quyết định nhận một khoản tiền trọn gói từ em. Ông rao bán em cho đám chăn dắt. Cuối cùng một “tay to” từ Sài Gòn ra đã nhận mua em với một món tiền lớn. Có thể trong cuộc mua bán này, lão Toàn cũng chính là kẻ môi giới.
Ở Sài Gòn, một hai ngày em lại có một màn động kinh ở một địa điểm đông người đã được đám chăn dắt chọn trước. Hàng ngày, em vẫn đi ăn xin như những đứa trẻ khác. Vào thời điểm thuận lợi, tại một đám đông nào đó, em đang đi bình thường bỗng ngã lăn xuống đất, miệng sùi bọt và tay chân co giật như một đứa bé bị động kinh. Vở kịch động kinh tưởng dễ nhưng vô cùng khó, ngã oạch xuống đất, sùi bọt mép thì hầu như đứa bé ăn mày nào được mấy tay chăn dắt bày vẽ cũng có thể làm được. Nhưng co giật giống như thật, đúng kiểu người bị động kinh thì không mấy đứa thực hiện được, nhìn qua người ta dễ nhận ra cái vở kịch vờ vịt giả tạo của đám lừa đảo. Họ không cho một đồng mà còn la ó, xua đuổi với thái độ giận dữ. Nhiều đứa trong đám ăn mày bị mấy gã chăn dắt bắt thử vai này, rồi bể dĩa, đành bỏ. Cái hay của bé Châu là em luôn động kinh như thật, thật đến nỗi cả những kẻ đã từng bị lừa bởi trò động kinh, hết sức cảnh giác thì khi nhìn thấy em ngã xuống đường, tay chân co giật, miệng méo xệch và sùi bọt cũng phải tin là thật…
Nghe Tý kể xong, tôi cảm thấy buồn ghê gớm. Lần đầu tiên, một đứa trẻ như tôi thấy buồn vì gặp lại một người khác. Tôi buồn vì chính cuộc sống của em: một cô bé từng sống hạnh phúc sung sướng bên cha mẹ mà không ngờ bây giờ cũng trở thành một đứa bé mồ côi đơn độc như tôi. Tôi buồn vì hình ảnh của một ca sỹ ngày nào đã biến mất và giờ đây chỉ còn một con bé ăn mày động kinh khốn khổ ở Sài Gòn. Cả một tuần tiếp đó, tôi trở nên buồn nản, và tôi cố tránh không gặp con bé. Trong những ngày đó, đôi khi tôi lại thấy nhớ cha ghê gớm.
*
* *
Sau vụ cùng thằng Thanh chiếm được của gã khoai tây 500 Mac Đức, lại liên tục một tuần, tôi luôn nộp đủ doanh số hàng ngày, bọn chăn dắt trở nên khá dễ dãi với tôi. Chúng cho phép tôi được một mình tự ý đi kiếm khách, được phép đi vào các hẻm sâu, quanh co, những nơi mà tầm mắt của đám chăn dắt bị che khuất.
Vào một buổi sáng, đang đi nép bên tường một trường học, thì tiếng bọn trẻ con đang đánh vần e a làm tôi dừng lại. Tôi nhìn qua hàng rào thưa, thấy một lớp học với hơn 20 đứa bé ăn mặc đẹp, gọn gàng. Đứa nào cũng đeo một cái nơ trên cổ áo. Chúng đang chăm chú nhìn lên bảng đen có viết mấy chữ cái rồi thi nhau đọc theo cô giáo: A (a...a...), B ( bơ ơ huyền bờ), C( cơ ơ cơ huyền cờ ). Thì ra chúng đang học những chữ cái tôi vẫn bắt gặp hàng ngày trên các bảng hiệu ngoài đường phố. Nếu biết những chữ đó, tôi có thể dễ dàng đọc được những dãy chữ loằng ngoằng trước các nhà hàng, cửa hiệu. Biết được người ta viết gì chắc sẽ hết sức thú vị. Cô giáo người thanh mảnh, mặc chiếc áo dài màu hồng, gõ gõ thước vào bảng bảo lớp học im lặng. Rồi lần lượt cô gọi từng đứa đứng lên đọc từng chữ theo thước cô chỉ. Tôi nhìn theo và dễ dàng đọc lại tất cả các chữ cái trên bảng, nhưng thật ngạc nhiên, nhiều đứa bé cứ ngọng líu, ấp a, ấp úng mãi. Tự dưng, tôi cảm thấy phấn khích và tự hào: À học chẳng có gì là khó, tôi có thể đọc được những chữ mà đám trẻ con kia được ngồi học đàng hoàng cứ ấp a, ấp úng mãi.
Ngày hôm sau, đúng 9 giờ, tôi lại đến nép mình bên hàng rào, học với đám trẻ con 4 chữ cái tiếp theo E, F, G, H. Biết được 8 chữ cái, tôi thấy mình như cao lớn hơn, và tôi thầm tự hào với mấy đứa bé ăn xin khác rằng tôi biết chữ. Bây giờ, gặp bảng hiệu nào ngoài đường, tôi cũng nhẩm tìm mấy chữ tôi biết.
Lớp học lớp 1 trở thành nơi cuốn hút tôi những ngày sau đó. Tôi bị hớp hồn bởi cô giáo nhỏ nhắn, xinh tươi. Đặc biệt, tôi mê mẩn với giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào của cô với đám trẻ. Tôi chưa mấy khi được nghe ai nói với mình, giọng ngọt lịm, âu yếm, trìu mến như vậy.
Cũng đã mấy ngày, tôi luôn không mang đủ số tiền về theo quy định. Hôm trước, tôi chỉ được 65 ngàn đồng, hôm qua, tệ hơn, tôi chỉ xin được có 42 ngàn hai trăm đồng. Hôm qua, sau khi kiểm tiền xong, gã Đầu Cua đã trừng mắt nhìn tôi, quát một thôi một hồi và tuyên bố nếu ngày mai tôi không kiếm được hơn 70 ngàn thì sẽ biết tay với hắn. Tôi hiểu rằng, tất cả những ưu đãi Đầu Cua giành cho tôi đã hết, nếu ngày hôm nay, tôi không xin được số tiền theo quy định, tôi sẽ phải chịu các hình phạt như bao nhiêu đứa trẻ khác. Đám chăn dắt sẽ đánh tôi, sẽ đổ suất cơm tối của tôi xuống cống và tệ hơn có thể bắt tôi quỳ gối lên vỏ sầu riêng. Mới tối qua, thằng Nam bị đầu cua đá một cú ngã nhào va vào cạnh bàn gãy 2 răng cửa, máu chảy nhỏ giọt trên sàn. Miệng nó sưng vêu lên, vẩu ra, tái tím như một miếng thịt trâu.
Buổi sáng, tôi đã cố tình đi nhanh lướt qua trường học với quyết tâm sẽ không ghé mắt nhìn qua hàng rào. Nhưng khốn thay, khi tôi sắp bước qua khúc cua cuối cùng thì tiếng đọc bài của lũ trẻ vọng ra ghìm chân tôi lại. Những chữ cái nhảy múa trong đầu tôi và kéo tôi trở lại đứng bên gốc cây cạnh hàng rào. Khi tôi rời lớp học cũng đã gần trưa, mặt trời đã ở trên đỉnh đầu, nắng gay gắt. Tôi cố gắng hết sức mình để trả lại khoản thời gian đã mất. Tôi nhảy vào xin bất cứ ai gặp ở trên đường với điệu bộ hết sức thê thảm. Tôi xông vào cả những tiệm ăn sang trọng, nơi mà đám bảo vệ thường rất dữ, chìa tay ra trước mặt những vị khách đang ăn trưa.
Đến cuối giờ buổi tối, nhẩm tính lại, tôi vẫn thiếu mười hai ngàn năm trăm đồng. 20h, đã đến lúc phải có mặt tại cái ghế đá ba chân, để mấy gã chăn dắt đưa về phòng trọ, tôi vẫn nán lại trước nhà hàng Ngon trong mưa với hy vọng sẽ có ai thương hại ban cho tôi thêm mấy đồng tiền lẻ. Dù van vỉ, nhào xuống ôm chân cả mấy người vừa đi từ trong nhà hàng ra, tôi cũng chỉ kiếm thêm được năm ngàn đồng.
Đang cố bám theo một nhóm khách mới xuống xe, tiếng huýt gió “huýt, huýt...” của Đầu Rơm làm tôi dội ra. Đầu Rơm mặt nhăn nhó, ngoắc ngoắc ngón tay yêu cầu tôi phải đi theo hắn về ngay tắp lự.
Buổi tối nặng nề. Khi thằng Thanh, thằng Nam, bé Châu làm thủ tục với bọn chăn dắt thì tôi ngồi lặng người, lo lắng cho số phận của mình và đợi chờ giây phút mình sẽ bị ăn đòn. Khi đó tôi ao ước mình là “một đứa bé cho thuê”, chứ không phải là một “đứa bé bị bán”. Nếu giống con Hỉ, thằng Thanh, thằng Khèo, Ni mù ... khi tôi làm việc kém thì chỉ sau mấy trận đòn, sau một đống lời chửi rủa thô tục, bọn chăn dắt phát chán sẽ trả tôi về gia đình không thuê nữa. Nhưng với thân phận một đứa bé bị bán, một đứa bé mồ côi, không cha không mẹ, bọn chăn dắt chỉ có liệu pháp duy nhất là hành hạ cho đứa bé kiếm ra tiền, hay hành hạ cho bõ tức giận, bõ ghét, cuối cùng hết sách mới trả lại cho đám chủ buôn người.
Bé Châu làm xong thủ tục quay về thấy bộ dạng của tôi, nó nhìn với ánh mắt ái ngại:
- Anh lại kiếm không đủ?
Tôi gật gật đầu.
- Anh xin ông ta một câu. Đừng lỳ nhé. Ông ấy hôm nay có vẻ dữ lắm.
Thằng Nam quay lại với mắt ngấn nước, đưa ngón tay đỏ bầm ra hua hua trước ngực:
- Tao thiếu có 5 trăm đồng mà lão Đầu Rơm day giày lên - Nó nói nhỏ - Có ngày tao sẽ móc mắt gã khi ngủ!
Gã Đầu Cua, ả Mập sẽ làm gì tôi hôm nay?
- Thằng Hy đâu? Mày còn đợi tao gọi mới vác bản mặt ra hả?
Tôi đứng dậy từ từ từng bước tiến đến cái chõng tre nơi Đầu Cua, Đầu Rơm, mụ Mập đang ngồi, hai tay cầm xấp tiền lẻ đã xếp lại từng mười ngàn một. Mụ Mập giằng ngay xấp tiền trên tay tôi. Mụ đếm rất nhanh và gằn lên :
- Thằng chó! Thiếu hơn sáu ngàn!
Rồi mụ chụp ngay lấy tai tôi và kéo mạnh về phía trước:
- Thiếu này! Lại thiếu này! Chơi nhiều vào! Bọn mày cứ lười biếng thế này thì đến cứt cũng không có mà tọng vào họng đâu
Đầu Cua ngồi trên ghế co chân lên đạp một cú chí mạng vào hông, khiến tôi văng ra nền nhà. Rồi vẫn ngồi trên ghế hắn ngoắc tay gọi tôi lại gần.
Tôi biết điều gì sắp đến với mình. Tôi bật khóc:
- Cô chú ơi… tha cho con! Mai con sẽ xin bù...
Không nói gì, môi gã chỉ hơi nhếch lện và bàn tay to như cái rổ úp của gã chộp ngay lấy tay tôi.
Những gì xảy ra tiếp theo là điều khủng khiếp mà đám ăn mày đều đã bị trừng phạt. Gã đạp chân lên ngón tay tôi và cứ thế day mạnh đế giày, mặc cho tôi kêu thét, đau đớn.
*
* *
Đêm đó tôi không sao ngủ được. Mười ngón tay tê buốt như bị tước sạch da và xát muối. Bây giờ, tôi hiểu sao nhiều lần cuối buổi chiều thằng Nam, thằng Tý lại khóc nấc lên van vỉ mọi người cho nó thêm ít ngàn không tối nó sẽ bị đánh. Tôi hiểu sao chúng có thể lỳ lượm đu bám theo khách dù đã bị xua tay từ chối một cách quyết liệt đến thế. Chúng cố gắng đến cùng để thoát khỏi trận đòn buổi tối.
Trên cơ thể bọn chúng đều hằn đầy những vết tích của những trận đòn khốn nạn: vết sẹo do bị châm bằng tàn thuốc, vết sẹo do bị kẹp bằng kìm, vết sẹo do bỏng nước sôi. Thậm chí, một vài ngón tay bị bẻ gãy...
Đầu Cua đánh đã ác nhưng Đầu Rơm còn khiếp hơn. Khi hắn ra tay thì không biết đứa bé còn sống hay chết. Hắn đánh như một kẻ phát điên, với bất cứ cái gì hắn vớ được. Và khi hắn nguôi cơn điên thì nạn nhân đã bất tỉnh, máu tứa ra miệng, ra mũi. Đã mấy đứa ăn xin gãy tay, gãy chân, dập mũi vì hắn. Nghe nói, năm ngoái một thằng bé mù đã bị hắn đánh chấn thương sọ não, sau đó chỉ ngồi một chỗ đờ đẫn không hay biết gì, nước miếng cứ nhiễu xuống mép. Gã Đầu Rơm đã trả thằng bé mù lại cho mụ Tâm. Sau đó, con mụ Tâm cho một nhóm khác thuê. Bọn này để thằng bé mù lên một tấm ván kéo lê qua các chợ xin tiền.
Tôi cố gắng cắn răng, chịu đau để không rên lên thành tiếng. Lúc này, tôi lại thấy nhớ cha tôi quá. Không biết những ngày qua ông sống ra sao ? Có thật ông đóng vai nhà sư khất thực như mụ Tâm nói không? Và ông có bị chúng hành hạ như tôi không? Thời gian qua, mỗi khi ra đường, cứ thấy áo vàng nhà sư, tôi đều chạy đến gần xem có phải ông không. Thật buồn, tôi luôn thất vọng. Chắc bọn chúng đưa ông đến một khu vực khác, rất xa, để hai cha con tôi không khi nào có cơ hội tìm gặp nhau.
Trong đêm tối, khi vuốt ve hai bàn tay mình để làm giảm cơn đau, tôi cứ nhớ đến những tháng ngày hạnh phúc của hai cha con tôi. Những tháng ngày mùa hè năm nào lang thang qua vùng trung du êm đềm. Những tháng ngày mà tôi chưa bao giờ phải gắng sức để kiếm tiền, chưa bao giờ bị mắng chửi hay đòn roi. Không biết có khi nào cha con tôi còn có thể đoàn tụ và sống bên nhau. Nhớ đến những kỹ niệm cũ nước mắt tự dưng cứ chảy tràn ra trên má tôi.
Bên cạnh tôi, thằng Tý cũng không ngủ được. Nó cũng cứ trở mình hoài. Hồi tối, nó lẳng lặng kiếm đâu cho tôi một ca nước ấm bảo tôi ngâm các ngón tay vào đấy. Nó là đứa bị đánh nhiều nên rất có kinh nghiệm cho việc xử lý vết thương, và cách làm sao để bớt đau hơn.
Bây giờ, nó nằm sát vào tôi và thì thầm.
- Mày đừng rên, đừng khóc nữa. Mày cứ nghĩ đến mẹ là sẽ thấy đỡ hơn.
Rồi nó thở dài :
- Sao bọn mình khốn khổ vậy. Mỗi lần bị đánh đau tao lại thấy nhớ mẹ tao, tao lại thấy ân hận vô cùng. Mày ơi! Tao chỉ mong gặp lại mẹ tao một lần thôi để nói: Mẹ ơi! Con biết lỗi rồi! Con thật dại, thật ngu!…
Tôi cắn răng, gắng không rên nữa. Nhưng tôi chẳng có một hình ảnh người mẹ nào để có thể nghĩ đến như thằng Tý nói. Tôi chỉ có ông Quý là một ông cha hờ. Cả cha tôi, ông cũng không hề có một người mẹ để nhớ tới trong những lúc đau khổ, trong những lúc tuyệt vọng.
Thằng Tý, nó có một người mẹ để nhớ tới…
*
* *
Thằng Thanh là một đứa có cha, có mẹ
Bé Châu là đứa trẻ mồ côi.
Tôi là đứa trẻ không có gia đình.
Còn thằng Tý là đứa trẻ có gia đình, nhưng đã dại dột bỏ gia đình ra đi. Thằng Tý nhiều lần kể cho tôi nghe chuyện của nó, lần nào nó cũng kết thúc bằng một câu tự oán trách mình: Sao tao ngu thế! Dại thế!
Thực ra, nó không phải tên là Tý. Cái tên Tý do bọn chăn dắt đặt cho. Nó có một cái tên rất đẹp, nó còn vẫn nhớ: Nguyễn Trần Bảo Khang.
Nó sống ở một thành phố, không khác gì Sài Gòn. Nhà nó cũng là nhà tầng, rộng lắm, rất nhiều phòng. Nó có thể chơi trốn tìm với ba nó từ phòng này, qua phòng khác. Cạnh nhà nó cũng là những ngôi nhà cao tầng. Đường phố phía trước tập nập xe cộ và cũng san sát nhà cửa. Nó rất được cha mẹ thương yêu. Cha nó mua cho nó rất nhiều đồ chơi, mẹ mua cho nó nhiều quần áo đẹp. Những ngày chủ nhật, nó thường được cha mẹ đưa ra công viên chơi. Tối tối, mẹ ấp nó ngủ. Hàng ngày, nó làm nũng, mẹ nó hoặc chị giúp việc nhà phải đút cho nó ăn từng thìa cơm.
Khi nó 4 tuổi, mẹ nó sinh em bé. Mẹ nó không chăm sóc nó như trước nữa. Nó không ăn mẹ nó cũng để mặc. Đêm mẹ ngủ với em chứ không ấp nó.
Mỗi khi nó chơi với em, thường bị mẹ la mắng. Một hôm nó tranh đồ chơi và làm em ngã xuống giường. Mẹ nó giận lắm, mẹ nó cầm lấy cây thước trên bàn quất vào mông nó.
Mẹ nó quất không đau, nhưng nó lăn xuống sàn gạch ăn vạ. Nó khóc, khóc rất to nhưng mẹ nó không hề đến dỗ nó. Mẹ bồng em bỏ nó đi vào phòng trong.
Nó giận mẹ vô cùng. Nó đứng dậy, đi ra cổng, đi thẳng ra đường. Nó quyết định bỏ đi qua nhà bà Nội. Nó đi theo con hẻm quen thuộc. Nhưng đi đến cuối hẻm nó vẫn không thấy nhà bà Nội. Nó quay ngược tìm đường về. Đi đến cuối đường, nó chẳng thấy nhà mình. Nó nghĩ rằng đã đi nhầm sang con hẻm bên cạnh nên hốt hoảng chạy ngược lại. Khi nó kiệt sức thì trước mặt đã là một bến xe khách đông đúc, ồn ào. Bây giờ, thằng Tý đã sợ hãi quá rồi. Nó bật khóc…
Một người qua đường, an ủi nó: “Lạc đường à …đừng sợ …đừng sợ. Chú sẽ đưa cháu về”
Người đó dẫn nó lên một chiếc xe khách.
Khi nó xuống xe, đã lại thấy những đường phố, hẻm phố giống như khu nhà nó.
Nhưng chẳng ai dẫn nó về nhà để gặp mẹ nữa.
Có mấy người rất hung dữ, chỉ đánh đòn nó khi nó khóc…
Rồi họ đặt cho nó tên Tý, dẫn ra đường bảo nó phải đi xin ăn…
Nó là một thằng bé bỏ nhà ra đi và không bao giờ còn tìm được đường về.
*
* *
Sáng ra, mụ Mập dúi vào tay tôi gói xôi và giả giọng ân cần: “Ăn đi con! Lấy sức hôm nay đi xin cho đủ chỉ tiêu khỏi lại bị các chú đánh tội nghiệp!” Tối qua, tôi bị phạt không được ăn (2 tháng gần đây, họ cho chúng tôi ăn tối bằng cơm hộp và chỉ được ăn sau khi đã nộp tiền xin trong ngày. Luật là vậy, bất cứ đứa nào xin không đủ chỉ tiêu đều bị cắt cơm tối) nên gói xôi sáng chẳng thấm tháp gì. Khi Đầu Cua thả tôi xuống khu nhà thờ Đức Bà, gã không quên để lại lời hăm dọa: “Mày liệu xác nhé! Đừng chọc giận tao tối nay đấy!” .
Tôi gần như muốn xỉu, chỉ muốn nằm vật ra vỉa hè ngủ một giấc. Nhưng nghĩ đến lời đe dọa của Đầu Cua, tôi gắng gượng lê đến một quán cà phê gần khu vực Hồ Con Rùa.
Kiếm được khoảng hai chục ngàn, tôi ra ngồi cạnh Hồ Con Rùa, để cái nón bên cạnh cầu may kiếm thêm được ít tiền của người qua lại. Tôi ngồi đấy bóp bóp những ngón tay vẫn còn tê dại và kiểm tra những vết bầm khác trên cơ thể.
Bé Châu bất ngờ ghé ngang qua chỗ tôi lúc gần trưa. Nó nhìn mười ngón tay của tôi, rơm rớm nước mắt:
- Hôm qua biết anh đau lắm mà em không dám hỏi! Mấy ổng ác quá anh nhỉ? Mà sao số anh em mình khổ quá?
Tôi ngậm ngùi :
- Vì số mình sinh ra … làm kiếp ăn mày !
- Ai nói với anh vậy?
- Cha anh.
- Mợ em luôn nói khi em lớn lên em sẽ được đi học. Số em không phải đi ăn xin như cậu mợ. Chẳng qua là em còn nhỏ nên cậu mợ cho đi theo cùng cho vui. Vậy mà ... nay em lại là một đứa ăn mày chuyên nghiệp ... Chắc suốt đời em cũng chỉ ăn mày như cậu mợ em thôi!
Rồi nó quay sang tôi:
- Em biết tại sao gần đây anh không kiếm đủ tiền rồi. Vì anh cứ ngồi hàng giờ ở ngoài hàng rào cái trường kia .
Hóa ra con bé này theo dõi tôi. Với nó, chẳng việc gì tôi phải giấu. Tôi nhận luôn:
- Ừ… Anh ngồi đó xem bọn trẻ con học chữ. Bọn trẻ con ở đó bằng tuổi anh, tuổi em mà chúng sướng thật. Giá anh được học chữ như chúng.
- Anh đọc được chữ chưa.
- Rồi. Nhưng vẫn chưa hết chữ.
- Anh à. Anh cứ học đi. Học cho đến khi nào đọc được hết các chữ trên những tấm bảng quảng quảng cáo kia kìa… thì đọc cho em nghe nhé.
Bất ngờ bé Châu nhìn thẳng mắt tôi:
- Anh à. Em nói thế này anh đừng phản đối nhé. Hôm nào em cũng còn dư mấy ngàn. Em sẽ ủng hộ anh. Bọn họ sẽ không đánh anh nữa.
Nó dúi vào tay tôi cuộn giấy bạc nhỏ .
- Anh cầm lấy nè!
Tôi giật tay ra như bị bỏng .
- Không. Anh không lấy đâu. Mấy ông biết em sẽ chết.
- Không sao anh cả. Họ không biết đâu. Thôi em đi đây. Anh cũng nên đi đi ... Lão Mong sắp đi tuần rồi đấy.
Bé Châu đi qua bên kia đường. Chắc nó sẽ về canh trước quán thức ăn nhanh. Hơn 10h mỗi sáng, sau khi nhậu cữ một xong, đám chăn dắt sẽ đi rảo một vòng kiểm tra đám cừu. Không may cho con cừu nào đang ngồi hóng mát dưới cây, hay thậm chí ngủ gục chỗ nào đấy.
Sau trận đòn, qua mấy ngày tôi mới quay lại với buổi học tiếng Việt bên hàng rào trường tiểu học.
Và chỗ đó là nơi bé Châu thường ghé qua rất nhanh dúi vào tay tôi cuộn tiền nó xin được vào đầu giờ buổi sáng những ngày tiếp đấy. Nó đến rồi đi với vài lời ngắn ngủi. Cái dáng bé nhỏ khi nào cũng xiêu xiêu.
*
* *
Ngày hôm đó, gần cuối buổi chiều, Phích ếch gặp tôi khi hai đứa cùng vào xin tiền ở quán bia vỉa hè. Nó ái ngại nhìn mười ngón tay còn tím tái của tôi, rồi kéo tôi lại thì thầm:
- Mày phải gắng mà kiếm cho đủ, chúng nó không chỉ đánh mày đâu. Nếu mày kém quá nó trả về cho mụ Tâm. Bọn bên đó có thể biến mày thành một đứa bé tàn tật để có thể có giá hơn …Mày biết anh Khèo rồi…
Lời thì thầm của Phích ếch làm tôi nhớ đến bao nhiều câu chuyện vẫn được mấy đứa bé ăn mày kể lại với nhau. Một trong những câu chuyện đó là về anh Khèo. Lần đầu tiên gặp anh ở phòng trọ, tôi đã phải né người để tránh xa cái hình hài gớm guốc của một sinh vật lê lết dưới sàn nhà không hẳn là hình hài của một con người. Tóc dài lù xù, hai má hóp, mắt trố ra, áo quần bẩn thỉu, một chân vắt bên hông như một dẻ khoai héo, một chân lết trên sàn nhà.
Người ta nói tên của anh là Khánh Hưng. Đó là tên được thêu trên chiếc áo anh mặc khi bọn vô lương cướp anh khỏi gia đình. Một con mụ nào đó đã dụ được anh – đứa bé 4 tuổi- ra khỏi nhà, tống lên một chiếc xe khách đường dài, rồi rao bán mấy trăm ngàn ở bến xe. Anh rơi vào tay của chính mụ Tâm.
Nhóm nào thuê anh rồi chúng cũng trả lại. Mụ Tâm giảm giá cũng chẳng có bọn nào thuê. Anh không có một chút khiếu ăn mày nào. Cái khuôn mặt nước da luôn trắng bong cả khi phơi nắng hàng tháng ngoài đường, cái trán cao thông mình với mái tóc mịn như tơ xõa xuống… Bộ dạng nhìn qua đã thấy thằng bé là công tử con nhà khá giả… Nó có đứng ngoài phố chìa tay ra hàng giờ, cũng chẳng ai thấy nó có vẻ gì khốn khổ để phải bố thí. Thằng bé 4 tuổi, bị đày đọa, bị đánh, bị bỏ đói cũng chẳng chịu học được bài học nào về nghệ thuật ăn xin. Cứ thả ra đường lại nhìn thiên hạ với bộ mặt tươi cười …nên chẳng mấy ai thí cho một đồng…
Khi bị trả lại lần thứ 5, mụ Tâm đã cho gã Mặt Sẹo bẻ gãy chân, và đánh anh gãy luôn 3 xương sườn bên ngực trái. Chính 3 cái xương sườn bị gãy đã làm biến dạng cả hình hài của đứa bé 4 tuổi. Sau một thời gian bò lết bằng một chân, thân hình đứa bé trở nên dị dạng: lưng gù lên, ngực thóp lại. Khi anh được sang tay bọn Đầu Cua thì đã có một bộ dạng của một đứa bé bị khèo, dị dạng như lần đầu tôi thấy. Bây giờ, anh có giá cho thuê cao gần gấp đôi những đứa bé bình thường và đám chăn dắt nào cũng muốn có anh. Thấy cái bộ dạng khốn khổ của anh, người qua đường đã động lòng cho tiền… Chẳng ai còn nhớ đến em bé Khánh Hưng xinh xắn ngày trước nữa, tên anh bây giờ là: thằng Khèo…
Tôi không bao giờ dám lại gần anh, không bao giờ dám nhìn vào mắt anh. Đôi mắt quá buồn, uất hận. Tối về anh lặng lặng bò vào một góc phòng, nằm im ở đó, không chuyện trò, không tham gia bất cứ trò chơi nào của đám trẻ bên cạnh. Nhiều lần, tôi thấy anh lặng lẽ khóc…
Đôi khi chính đám chăn dắt lại đưa anh ra hù dọa bọn tôi: “Chúng mày có muốn trở thành thằng Khèo không?”. Câu dọa đó nhiều khi có tác dụng hơn cả trò đánh đập, hành hạ, bắt nhịn đói. Với những đứa trẻ ăn xin mà thân thể còn lành lặn, có một nỗi sợ hãi luôn ám ảnh trong đầu: nếu không ăn xin đủ tiền, nếu kiếm tiền kém quá, có thể sẽ bị bọn chăn dắt biến thành một đứa bé tàn tật để kiếm được nhiều tiền hơn cho chúng nó… Phải, trong thế giới ăn mày, một đứa bè què cụt, mù, hay bại liệt … sẽ có giá hơn đứa bé bình thường…
Và, tôi đã gặp bao nhiêu đứa bé bình thường đã bị bọn chăn dắt độc ác bẻ gãy chân, bẻ gãy tay, chọc mù mắt…để biến thành những đứa trẻ ăn xin tàn tật.
Có thể một hôm nào đó, tôi cũng sẽ bị như vậy…
*
* *
Thằng Thanh sắp được nhà nó đón về. Lẽ ra nó đã về nhà từ năm ngoái để vào học lớp Một nhưng mẹ nó bận việc gì đó đành cho lũ chăn dắt thuê thêm một năm nữa. Phấn chấn bởi sắp chia tay chúng tôi, sắp được về nhà, nó trở thành thằng bé nhiều chuyện. Lúc rảnh, cứ chỗ nào có mấy đứa tụ tập là nó lại mò tới .
Câu chuyện của nó khi nào cũng gắn với “làng tớ”. Làng nó cũng đình đám lắm, có tên có tiếng lắm, cũng giàu lắm, hầu như đều nhà xây, mái ngói. Điều đặc biệt ông tổ làng nó là một người ăn mày. Làng nó thờ ông tổ ăn mày có miếu mão đàng hoàng, hương khói quanh năm. Dân làng nó hầu hết đều đi ăn xin. Ăn xin với làng nó là một nghề nghiệp đàng hoàng. Nhà nó ở quê cũng mái ngói, nó cũng có cả tủ quần áo và đồ chơi đẹp.
Tý sún nghe nó nói điếc cả tai, mới vặn một câu:
- Nhà mày sướng vậy mày đi xin gì cho khổ?
Thằng Thanh cười bả lả, không thèm chấp:
- Tao đi xin đâu phải vì khổ. Ở làng tao người ta đi xin để làm giàu mờ ...
Rồi nó lại kể :
Làng nó có cả đống tiến sỹ, giáo sư, quan chức lớn làm việc ở thành phố nhé. Mấy người đó về làng đều vận comple, đeo cà vạt, đi xe hơi rất oách. Mà xe lớn chứ không bé bé như ô tô ở Sài Gòn này.
Nghe thằng Thanh nói vậy, Phích ếch lầm bầm: “Rõ ngu. Xe nhỏ mới sang, mới đắt tiền!”
Thằng Thanh vẫn hào hứng: “Giàu là thế, sang là thế, nhưng mỗi năm họ vẫn phải đi ăn mày ít ngày để tưởng nhớ đến cụ tổ. Kẻ nào lỡ quên là bị cụ tổ phạt, không ngóc đầu lên được. Năm trước, có một ông tỷ phú làng nó bị đánh suýt chết. Chuyện là, ông ấy chạy một chiếc xe to đắt tiền vào trung tâm thành phố, thay bộ com lê bằng quần áo rách rưới rồi đóng vai anh khèo bò ra đường phố cạnh đó ngữa tay xin tiền. Không ngờ có kẻ qua đường tình cờ nhìn thấy việc ông ấy thay quần áo và bò từ xe hơi ra liền hô hoán lên. Mọi người nghe có kẻ đi xe hơi giả nghèo, giả khổ đi ăn xin liền nhào tới đuổi đánh. Ông tỷ phú bị đá mấy cú vào người vùng dậy chạy thoát. Nhưng chiếc xe đời mới thì bị đập tan tành…
Họ không biết rằng, làng tớ nhiều người giàu có nhưng họ giàu không phải nhờ đi ăn xin mà vì họ kinh doanh giỏi. Họ kiếm tiền bằng việc khác. Hằng năm, họ đi ăn xin ít ngày là chẳng qua thể hiện sự tưởng nhớ cụ tổ thôi.
Có dịp nào các cậu ghé làng tớ. Các cậu sẽ thấy không ở đâu có nhiều nhà xây như quê tớ, nhiều ô tô sang trọng như quê tớ.
- Thế nhà anh có ô tô không?
Thằng Thanh hơi khựng lại trước câu nói châm chọc của thằng Phích ếch. Nó chớp mắt, khịt mũi rồi vẫn nổ tiếp:
“Nhà tớ chẳng mua ô tô làm gì. Nhà tớ chẳng ai biết lái xe. Nhưng mà ngôi nhà xây nhà tớ cũng có giá trị bằng mấy cái xe!”
Hôm sau, gặp tôi, bé Châu bảo: “Anh Thanh nói vậy mà có đó. Châu từng nghe người ta nói về những làng chuyên nghề ăn mày như vậy rồi. Cả làng coi ăn mày là một nghề, không xấu hổ gì. Ngược lại, họ còn nể phục những người trong làng đi ăn mày kiếm được nhiều tiền”
Bé Châu giọng buồn buồn, ganh tỵ: “Anh Thanh sướng thật. Anh ấy sắp được về nhà, được đi học. Anh và em chẳng có ai đón về cả nhỉ? Chúng mình suốt đời đi xin à?”
Tôi nhớ lại lời mụ Tâm: Cha con tôi chỉ kiếm tiền ít tháng là trả hết nợ của mụ và chúng tôi lại có thể bên nhau làm ăn như ngày nào?
*
* *
Thằng Thanh rời nhà trọ vào một buổi sáng. Một người đàn bà gầy ngẳng, mặt đầy son phấn đến đón nó. Thằng Thanh cho tôi mấy viên bi nó vẫn chơi khi chia tay. Nó đi chỗ ngủ của tôi rộng ra vì chưa có đứa mới tới. Mỗi lần nhìn qua chỗ nó nằm, tôi cũng thấy nhớ nó, thấy mình thêm trống trải.
Thằng Phích ếch mấy bữa trước luôn gây khó cho thằng Thanh bằng những câu xóc họng lại ngồi im sau hè khóc khi thằng Thanh ra đi. Nó khóc không chỉ vì buồn do một đứa trong nhóm về quê, mà còn vì thân phận nó chắc sẽ không có nơi đâu để có thể về và sẽ chẳng bao giờ nó được đón về. Nó là một đứa bé bị bắt, bị bán.
Số phận của nó hoàn toàn do mấy gã chăn dắt định đoạt. Nó vẫn kể cho chúng tôi nghe ngày nó bị bọn bắt cóc mang đi. Khi ấy, nó chừng 3 tuổi, nó đã nhớ được mọi chuyện xảy ra hàng ngày. Nhà nó có lẽ ở một thị trấn nhỏ, bên đường quốc lộ vì hàng ngày có rất nhiều xe chạy qua. Mẹ nó vừa trông nó vừa bán hàng tạp hóa. Nó vẫn hay lê la ra gần mặt đường, đứng mút ngón tay nhìn những chiếc xe ô tô. Nó đói lắm, khi nào cũng đói, ai đi ngang cho nó cái gì nó cũng cầm lấy bỏ ngay vào mồm. Hôm đó, khi mẹ nó vừa quay vào nhà, hai gã đàn ông đi xe máy dừng ngay trước cửa nhà nó. Gã đàn ông ngồi phía sau nhìn nó cười cười với một gói kẹo trên tay, Phích ếch sung sướng chạy tới. Ngay khi nó đến gần chiếc xe, gã kia ôm chặt lấy nó. Chiếc xe rồ máy phóng đi.
Nó bị chở đi rất lâu. Nó khóc cạn cả nước mắt. Cuối cùng bọn bắt cóc đưa nó đến một ngôi nhà có rất nhiều trẻ con. Ít ngày sau, nó bị bắt ra đường đi ăn xin…
Đôi khi không có mặt bọn chăn dắt, Phích ếch lại khóc: “Mẹ ơi! Mẹ ơi …Con làm sao gặp lại được mẹ đây! ..”. Rồi nó dằn vặt mình: “ Tại con xấu tính tham ăn quá mẹ ơi! Tại con xấu tính!…”.
Nó luôn dặn tôi: “ Đừng ăn gì người ta cho ngoài đường nhé ! Bọn nó bỏ thuốc mê, ăn vào xỉu ngay, chúng đem đi làm thịt đấy!”
Nó nói không khác gì cha tôi vẫn dặn tôi ngày trước.
Số phận Phích ếch còn vẫn tốt hơn so với anh Sán Dìu mà bé Châu gặp ở nhóm ăn xin trước. Anh bị bọn buôn người ăn cắp ngay trong trạm xá miền núi ngay khi mới sinh. Chúng bán anh cho đám chăn dắt. Anh chưa bao giờ hình dung ra được khuôn mặt của mẹ mình.
*
* *
Hôm qua, chủ nhật, tôi đang “ngửa tay” trong quán bún bò Huế, một con bé chỉ trỏ tôi rồi thầm thì gì với mẹ nó - một người phụ nữ trông hiền hậu, mặc bộ đồ màu xanh nhạt, thanh mảnh gọn gàng. Người phụ nữ vẫy tay ra hiệu gọi tôi. Khi tôi tới gần, bà nhẹ nhàng bảo:
- Bé Mai con cô nói cháu thường đứng ngoài tường rào xem các bạn học phải không?
Tôi khẽ lý nhí:
- Vâng ạ!
Lúc này, nhìn lại, tôi nhớ ra con bé này ngồi bàn kế bên cửa sổ. Nó luôn tết tóc thành hai bím, và cũng thường quay qua cửa sổ nhìn tôi với đôi mắt tròn vo.
- Con ngồi xuống đây - người phụ nữ chỉ cái ghế bên cạnh – Con ăn cái gì nhé?
Tôi rất muốn ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh bé Mai. Tôi rất muốn ăn bún bò Huế. Nghe hai tiếng “bún bò” nước miếng đã chảy tứa ra trong miệng tôi. Mà tôi đã bao giờ được ăn bún bò, ăn hủ tiếu, ăn mì Quảng đâu. Những món ăn từ ngày vào Sài Gòn tôi biết đến qua tên gọi nhưng chưa bao giờ được nếm thử. Thằng Thanh thì đã được ăn. Chính tôi nhìn thấy nó ăn bún bò Huế trong chính cái quán này. Nó chờ khi khách đứng dậy bỏ đi, nó nhào tới chộp lấy cái bát, đưa lên miệng, húp sột soạt, vội vàng chút nước lèo thừa còn lại dưới đáy. Tối đó về nó thì thầm với tôi cái cảm giác sung sướng được ăn bún bò: ngon tuyệt vời, chỉ tội hơi chua chua, cay cay, sợi bún trơn trơn, mềm mềm. Tôi hỏi nó có giống phở không. Nó bảo giống mà khác, sợi phở dai dai hơn, nước phở ngọt hơn...
Tôi đã đứng im mà không ngồi xuống. Mấy gã chăn dắt quy định: đám cừu chỉ được xin tiền, không được ngồi ăn dù khách mời, không được nói chuyện với bất cứ ai ngoài đường. Thằng Tý sún từng đã bị một trận thừa sống thiếu chết, ọe ra gần như đầy đủ bát cháo lòng một bác già mời nó vào buổi tối bị mưa kẹt lại trong quán hàng. Chúng tôi chỉ được nói những câu xin tiền và chỉ được nhận tiền.
- Cháu không đói. Cô ơi! Cho cháu mấy đồng?
Người phụ nữ nhìn tôi với đôi mắt rất thương cảm, giọng nhẹ nhàng:
- Cô thương con, rất muốn giúp con. Nhưng cô không thể cho tiền. Cô biết các con đi xin cho bọn chăn dắt. Cô cho con bọn chúng thu được nhiều tiền, chúng lại bắt các em khác đi xin...
Cô xoa đầu tôi:
- Con còn ba mẹ không?
Tôi lắc đầu.
- Nếu con muốn đi học. Cô sẽ đưa con tới trại trẻ mồ côi. Ở đó, họ sẽ cho con đi học.
Tôi không nói gì, lặng lẽ lui ra xa cái bàn người phụ nữ và bé Mai ngồi, rồi cắm cúi bỏ quán bún bò Huế đi thật nhanh. Đi xa, tôi cũng không dám ngoái lại nhìn.
Nhiều người cứ nghĩ rằng, nếu không cho chúng tôi tiền. Chúng tôi kiếm được ít tiền bọn chăn dắt sẽ bỏ nghề không chăn dắt các em bé đi ăn xin nữa. Họ không biết rằng, nếu chúng tôi không kiếm đủ tiền, chúng tôi sẽ bị đám chăn dắt hành hạ. Họ không biết rằng, chúng tôi có định mức hàng ngày và bọn chăn dắt chẳng bao giờ thất thu cả.
Ngày thứ 2 tiếp theo, khi nép vào bức tường trường học, nhìn thấy bé Mai, tôi vội quay đi. Có lẽ em kể lại chuyện đó cho mẹ nên hôm sau hai mẹ con em đã đi tìm và gặp tôi ngoài đường.
Người phụ nữ dừng xe máy vừa gọi, vừa vẫy tay:
- Cháu ơi! Cháu bé ơi!...
Một nỗi sợ hãi vì lẽ gì không biết khiến tôi run lên. Tôi đứng lại mấy giây lưỡng lự giữa ý muốn bước đến gặp người phụ nữ và bỏ chạy. Cuối cùng, tôi đã chạy băng qua vườn hoa, để lại vẻ mặt ngơ ngác của người phụ nữ.
Tối đó, tôi thì thầm kể với bé Châu chuyện người phụ nữ. Bé Châu bảo:
- Em cũng đã gặp những trường hợp giống anh. Họ cũng nói với em về trại trẻ mồ côi. Mình vô đó không phải làm gì mà được đi học. Có thật vậy không anh? Hay họ lừa mình?...
Tôi lắc đầu:
- Anh không biết. Từ trước đến nay anh chỉ gặp người lớn xấu, bị họ lừa thôi. Chắc không có nơi nào họ cho mình ăn, đi học mà chẳng phải làm gì đâu em. Cứ như lão Đầu Cua, mụ Mập, mỗi ngày mình không kiếm đủ tiền là phải nhịn đói, là bị đánh đòn.
Bé Châu rầu rĩ:
- Ừ! Chắc họ sẽ bắt mình, bán mình đi nơi khác...Chẳng ai cho mình đi học đâu anh nhỉ? Đến chú em mà cũng nỡ bán em vô Nam… Nhưng anh ơi, em thấy mặt mấy cô chú đó rất hiền...
Hôm sau, khi tôi kể với Tý về người phụ nữ nó trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Có thể người phụ nữ đó tốt đấy mày ạ. Họ muốn mày đi học thật đấy. Nhưng bọn mình không vào đó được đâu. Nhiều đứa vào đó ngày hôm trước hôm sau tụi chăn dắt đã bắt ra rồi. Tao cũng từng gặp một người tốt dẫn tao tới đó khi biết tao bị lạc nhà và hứa tìm lại cha mẹ cho tao. Nhưng buổi sáng tao vào trại mồ côi, buổi trưa, cô nhân viên trại dẫn tao ra cổng để gặp người nhà. Tao ra đã thấy bọn chăn dắt đứng đón ở đấy. Chúng mang tao về cho tao một trận đòn, bắt tao nhịn đói mấy ngày, rồi trả tao lại cho bọn chủ. Ít ngày sau, bọn chủ cho một bọn khác thuê…
Tý lắc đầu, buồn rầu:
- Bọn mình chẳng có nơi nào tốt đẹp nữa đâu!!!...
*
* *
Buổi tối, tôi không ngủ được vì tiếng khóc của Phích ếch. Gã Đầu Rơm cứ quát ầm lên “Câm mồm!” nhưng Phích ếch vẫn khóc rấm rứt. Nửa đêm, hết khóc, nó chuyển sang rên. Chắc nó đau lắm. Hôm nay, nó đánh mất tiền nên thiếu những ba chục ngàn. Gã Đầu Rơm lồng lên như điên, đấm đá nó túi bụi chán, cuối cùng treo ngược nó lên xà ngang bằng sợi dây dù. Khi thằng Phích được thả xuống, hai bàn chân đã bầm máu sưng vù.
Tôi thấy căm giận gã Đầu Rơm, căm giận gã Đầu Cua, mụ Mập. Nếu tôi cao lớn hẳn tôi sẽ xông vào xé xác gã Đầu Rơm tối nay khi hắn hành hạ Phích ếch.
Tiếng rên của nó làm tôi không ngủ được. Nằm trăn trở mãi trên chiếc chiếu rách, tự dưng tôi nhớ đến thân phận bao nhiêu kẻ ăn mày tôi từng gặp trong những năm qua.
Tôi nhớ Sửu què, lão Sọc, Hải mù…
Tôi nhớ Minh axít. Con người khốn khổ đó có tên như vậy vì bị tạt axit bởi một kẻ ghen tuông. Khuôn mặt biến dạng, nham nhở sẹo, trông rất khiếp. Một đứa bé như tôi lần đầu gặp anh không dám nhìn lâu. Nghe nói trước đây anh rất đẹp trai, thông minh, sinh viên một trường cao đẳng. Sau tai nạn, thành người tàn tật, phẫn chí đi ăn xin. Nhiều lần, tôi thấy anh ngồi một mình. Nước mắt chảy tràn trên những vết sẹo đỏ ửng. Phải chăng, anh đang nhớ lại tháng ngày mình còn là sinh viên trường cao đẳng nọ, tháng ngày còn sống trong tình yêu?
Tôi nhớ lão “ruột giòi”. Lão luôn nằm trước cổng chợ lầy bẩn, đầy ruồi muỗi với cái bụng trống hoác, lòi ra một đoạn ruột lúc nhúc giòi. Tôi không biết lão kiếm được nhiều tiền không nhưng cứ nghĩ đến cực hình lão chịu đựng hàng ngày thì quả là kinh khủng. Một lần, cha con tôi cùng ngồi với lão ăn trưa bên hông chợ. Lão đã thu bảo bối của lão khuất vào trong chiếc áo cáu bẩn nhưng tôi vẫn bị lượm giọng không thể nuốt nỗi mẩu bánh mì. Lão biết vậy, cười hề hề: “Cu con này non gan thật. Đoạn ruột của lão có gì mà cu con ghớm ghiếc vậy. Trên đời này cu con sẽ thấy nhiều thứ còn kinh hơn”. Không biết lão có sống qua được mấy mùa đông khắc nghiệt ở cái chợ quê Miền Bắc đó nữa không?
Hình ảnh ám ảnh tôi nhiều năm là người mẹ già kéo tấm ván chở đứa con tàn tật lang thang khắp phố. Đứa con có cái đầu to và bộ xương dị dạng, lổn nhổn một mớ xương ống chân, ống tay trên tấm ván gỗ. Thoáng nhìn qua đã thấy kinh đảm. Phủ một tấm chăn nhỏ chỉ che sơ sài phần ngực người con, hình hài ghê rợn của người con ngày ngày được người mẹ kéo diễu qua hang cùng ngõ hẻm.
Tôi nhớ những đứa trẻ tật nguyền lê tấm thân trên bùn đất, chìa tay van xin bố thí của người qua lại.
Tôi nhớ những đứa trẻ lành lặn phải hóa trang thành kẻ tật nguyền để kiếm sống.
Tôi nhớ cha tôi…
*
* *
Tôi thường xuyên đánh vần các bảng hiệu trên đường. Ngày qua ngày, những tấm bảng trở nên càng dễ đọc, những dòng chữ bớt ngắc ngứ và bí hiểm. Hôm qua, buổi học tiếng Việt cuối cùng ở lớp 1 cũng đã kết thúc. Khi cô giáo gập sách lại cho bọn trẻ ra chơi, tôi cũng chia tay với chỗ học bên hàng rào. Thực ra, tôi có nhiều chỗ học bên hàng rào. Chỗ nào bị bọn trẻ con phát hiện ra, và bắt đầu chú ý là tôi lại bỏ đi tìm một chỗ mới. Nơi tôi bỏ đi gần đây nhất, chính là lớp học của bé Mai.
Vậy là tôi cũng đã học xong lớp 1 tiếng Việt. Tôi đã đọc được gần như hầu hết các bảng hiệu trên các đường phố mà tôi đi ăn xin hàng ngày. Tất nhiên chỉ là những bảng hiệu viết bằng tiếng Việt, các bảng hiệu với chữ loằng ngoằng, hay gạch ngang gạch dọc thì tôi đành chịu.
Buổi sáng, rời tiết học cuối cùng lớp 1, tôi thấy mình như đã tốt nghiệp lớp đọc bảng hiệu. Tôi thấy sung sướng, lâng lâng như bay trên đường.
“ P H Ơ hỏi PHỞ, HA huyền HÀ, NÔI nặng NỘI…PHỞ HÀ NỘI.”
“VI nặng VỊ, QUANG hỏi QUẢNG… QUÁN QUẢNG VỊ”
“ MON mon sắc MÓN, Ă …ĂN là ĂN, NG…ON …MÓN ĂN NGON”
“ TRƯƠNG huyền TRƯỜNG, TIÊU hỏi TIỂU, HOC nặng HỌC …TRƯỜNG TIỂU HỌC…”
Tôi rất vui khi biết tòa nhà đẹp màu vàng, luôn nhộn nhịp người ra vào, rất nhiều khách Tây chụp ảnh là BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM.
Nơi người ta vào mua hàng nhộn nhịp góc đường Nguyễn Đình Chiểu, Nam Kỳ Khởi Nghĩa là SIÊU THỊ.
Tôi cũng sung sướng khi ghép vần được dòng chữ trước xe của ông bán vé số: NGUYÊN CẶP CHIỀU XỔ.
Cái dải băng đỏ căng băng ngang đường là: LỄ KHỞI CÔNG.
Tôi nhớ lời hứa với bé Châu: hôm nào học xong chữ cái, tôi sẽ đọc các bảng hiệu mà em muốn biết. Có thể trong tuần này, tôi sẽ rủ em trốn mấy gã chăn dắt, rồi đi với em loanh quanh trên mấy đoạn đường và như một thầy giáo “biết hết mọi thứ”, tôi sẽ hỏi em cần đọc cái gì, tôi sẽ đọc hết cho em nghe.
Tôi biết bé Châu rất quan tâm đến tấm bảng tối nào cũng trương ra bên đường gần nhà thờ: Cái bảng đó dễ òm: ỐC LEN XÀO DỪA 5,000đ. Có lẽ bé Châu rất muốn biết cái bảng cao gần bằng người nó dựng trước Nhà văn hóa quận mà nhiều lần tôi thấy nó cứ đứng nhìn chăm chăm: LỚP DẠY VÕ THUẬT, DẠY MÚA, CHIÊU SINH HÀNG THÁNG… phía dưới thì quá nhiều chữ nhỏ, tôi cũng đã đánh vần được, không khó lắm, chỉ mất thời gian…
Bé Châu hẳn sẽ nhìn tôi với đôi mắt thán phục. Sẽ bị tôi mê hoặc vì màn đánh vần, đọc chữ như ngày nào đó ở Vĩnh Yên, tôi đã bị mê hoặc vì nghe bé hát.
*
* *
Đêm qua là một đêm đặc biệt với chúng tôi. Nửa đêm, Đầu Rơm bật điện sáng và điểm danh tất cả chúng tôi. Hắn la hét, chửi bưới liên tục khi thiếu mất anh Khèo. Như vậy, tối qua anh Khèo đã trốn đi. Chúng tôi ngơ ngác hỏi nhau không biết anh trốn như thế nào. Tối qua, 15 ngày rằm, thay vì phát cơm hộp, đám chăn dắt kéo chúng tôi vào chùa ăn chay miễn phí. Có lẽ anh đã đi chậm lại, và lẩn ra khỏi hàng khi cả nhóm đi từ chùa về mà Đầu Rơm không biết vì không kiểm tra lại. Còn mọi người thì không ai để ý tới. Cho đến nửa đêm, Đầu Rơm đi vệ sinh nhìn thấy trống chỗ anh Khèo nằm.
Đây là vụ chạy trốn hiếm hoi ở cái nhà trọ này. Một vụ trốn khỏi tay bọn chăn dắt.
Từ trước tới nay, hiếm có con cừu nào trốn được. Thường chú cừu chỉ loanh quanh trong thành phố ít giờ rồi sẽ bị bắt lại.
Các chú cừu thường không thông thạo đường sá, không có nơi để lẩn trốn, không có tiền trong túi, ăn mặc thì rất dễ nhận dạng, nên cứ mò ra đường là bị lũ đầu gấu phát hiện. Lại bị tóm về với một trận đòn thừa sống, thiếu chết.
Mấy anh lớn tuổi vẫn kể lại, trước đây có một cừu đã lập kỷ lục số ngày tự do bên ngoài, gần 20 ngày, mới bị tóm. Anh ấy rất khôn ngoan, trong thời gian đi ăn xin đã dò hỏi đường, cất giấu để giành tiền dưới một tảng đá, ngay hôm trốn ra đã mua quần áo mới thay hình đổi dạng, mua một đống thức ăn khô rồi chui vào trốn trên trần nhà một siêu thị. 20 chục ngày sau tin chắc bọn chăn dắt, đầu gấu không truy tìm nữa mới ra bến xe trốn khỏi thành phố. Trước đây, anh ta làm nghề đánh giày ở một thành phố du lịch vì nghe lời mấy gã cò mồi mà phải làm cừu cho đám chăn dắt. Bây giờ, chỉ cần trốn khỏi Sài Gòn đến một thành phố, một thị trấn nhỏ nào đó là anh sẽ thoát được tay bọn chúng. Chỉ cần lên được một chiếc xe khách, 5-6 giờ đi xe là anh đã được sống tự do. Với số tiền để dành trong túi, anh có thể mua lại được bộ đồ nghề đánh giày và bắt đầu kiếm sống… Nhưng, 20 ngày nằm im vẫn chưa giúp anh thoát khỏi sự truy lùng của đám đầu gấu. Buổi sáng, anh vừa lên xe thì bọn nó đã xuất hiện. Hóa ra, người của bọn chúng có mặt ở tất cả các bên xe, bến tàu.
Chắc anh Khèo với một bàn chân lê trên mặt đất hết sức khó khăn sẽ không ở bên ngoài được đến cuối tuần…
*
* *
Vì vụ anh Khèo, đám chăn dắt rối tinh, rối mù đầu giờ sáng, chạy ngược, chạy xuôi với đám đầu gấu. Họ giam chúng tôi trong nhà trọ, mãi gần 10h mới dẫn cả lũ cừu ra đến bãi. Tất cả vội vàng, cắm cúi đi kiếm tiền để có thể đủ chỉ tiêu trong ngày. Khoảng thời gian thu nhập tốt nhất là đầu giờ sáng đã bị mất nên lũ cừu lo lắng gấp bội. Lại thêm một ngày, tôi chưa thực hiện lời hứa đọc bảng hiệu cho bé Châu được.
Tôi đứng rất lâu trước quán cà phê trên đường Trần Cao Vân nhưng chẳng xin được đồng nào. Khách ra khỏi quán lặng lẽ đi qua chỗ tôi đứng như đi qua trước bức tượng đá, không mảy may nhìn thằng bé tôi đang khom người đưa hai tay khum khum ra trước mặt họ.
Tôi chán nản định đi đến nhà hàng bên đường Nguyễn Đình Chiểu thì nghe ai gọi:
- Cu.
Tôi nhìn xung quanh chẳng thấy ai. Dượm chân đi tiếp lại nghe gọi:
- Cu …kia…
Quay nhìn ngang cuối bãi xe quán cà phê, tôi thấy một anh đánh giày cao cao vừa vẫy tay, vừa gọi tôi:
- Cu …cu …kia …
Tôi đi nhanh lại gần anh.
- Sáng giờ cu kiếm được mấy ngàn rồi. Không nhằm nhò gì phải không? Thời này phải làm việc thôi cu. Đi ăn xin ai thèm cho…Cu có muốn phụ cho anh không?
Rồi không cần tôi trả lời anh ta giải thích :
- Thế này nhé. Anh đánh giày. Mày đi tìm khách đánh giày. Mỗi đôi thu được năm ngàn đồng. Anh chia mày hai ngàn. Được chưa?
Tôi lưỡng lự
- Em không dám đâu. Bọn họ thấy em đi đánh giày là em sẽ bị đòn!
- À, mày là quân của đám chăn dắt à? Thì cũng chẳng sao, mày cứ đi vào quán cà phê như đang đi xin tiền. Họ chẳng biết đâu.
- Em tìm khách sao được?
- Dễ ợt! Mày vào trong kia. Thấy người nào đi giày mà bỏ ra khỏi chân, mày ôm lấy và xin: “ Anh ơi! Em đánh giày cho anh nhé, em đánh có năm ngàn đồng thôi!”. Cứ thế mày ôm giày đi, nếu họ không giật lại xem như họ đồng ý. Nếu họ giật lại, mày xin tiếp: “Anh ơi giúp em, cả sáng nay em chưa có gì ăn!”. Vụ xin mày giỏi hơn tao mà! À… à …tên tao là Nhân nhé!
Tôi đi vào quán. Mới bước đến cửa đã bị chú bảo vệ kéo ngược ra. Tôi chưa biết làm thế nào để thoát khỏi tay chú bảo vệ thì anh đánh giày đã nhảy vào cứu.
- Chú ơi! Chú nhầm! Thằng này là em cháu. Nó không phải đi ăn xin đâu. Nó và cháu cùng đi đánh giày.
Chú bảo vệ quát, nhưng giọng đã dịu xuống :
- Đánh giày hả. Liệu hồn! Không được vào quán của tao ăn xin đâu nhé!
Anh đánh giày cười:
- Đại ca ơi! Hai anh em cháu chỉ đánh giày thôi!
Tôi ôm lấy đôi giày da màu nâu của một anh đang ngồi uống cà phê gần cửa ra vào. Tôi vừa nói câu “Anh ơi, em đánh giày cho anh nhé!”. Anh ta lim dim mắt nghe nhạc, xua tay và không nói gì. Tôi ôm đôi giày đi ra cửa mang đến chỗ anh Nhân.
Nhiều người từ chối. Và cũng có lúc tôi gặp sự cố rắc rối, mới cầm đôi giày trên tay, chủ nó đã nhào tới giật lại: “Ranh con! Mày ăn cắp giày!”. Tôi phải chỉ cho họ thấy anh đánh giày đang ngồi trước quán, thanh minh thanh nga một lúc mới được yên.
Kinh nghiệm là chỉ hỏi đánh giày những người đi giày còn mới, nhưng bị dơ, và họ còn trong trạng thái sẽ ngồi đồng ở quán hàng giờ (phin cà phê đang nhỏ giọt, ly nước cam còn đầy ), hoặc anh chàng nào đó đang ngồi bên một cô em rất xinh đẹp thì hầu như sẽ được đồng ý.
Hai anh em tôi kiếm được khoảng 25 đôi giày trong mấy quán cà phê. Nhân cho tôi mỗi đôi hai ngàn đồng. Tôi được 50 ngàn. So với đi xin, có thể chưa bằng số tiền tôi kiếm được trong ngày, nhưng tôi rất vui vì thấy mình đã có một “công việc mới”, một nghề kiếm sống mới.
Anh Nhân chia tay tôi ở quán cà phê bên đường Hồ Xuân Hương, hẹn mai gặp lại. Tôi vẫn thiếu hai mươi ngàn, nên lại tìm đến mấy cửa hàng trước đường Lê Lợi.
*
* *
- Mày ơi! Cái Châu gay rồi!
Thằng Tý kêu lên hốt hoảng khi tôi vừa lò dò về đến nơi tập kết cuối ngày.
- Sao? Cái Châu có chuyện gì?
- Đầu Rơm đưa nó đi viện rồi. Nó bị ngã, đầu bị toác, máu chảy thành vũng …
Thằng Tý nói với giọng kinh hãi.
Phích ếch thuật lại vụ tai nạn:
Gần cuối buổi chiều, bé Châu lại diễn kịch trên đoạn đường trước cổng nhà thờ (lúc mọi người đi lễ chiều). Kịch bản như mọi khi, nó đang đi sẽ lảo đảo và ngã vật xuống, miệng sùi bọt. Nhưng khốn thay cho nó, hôm qua xe chở đá vào công trường gần đấy đánh rơi xuống mặt đường một cục đá to bằng nắm tay, góc cạnh sắc lẽm. Nó ngã xuống, đầu đập đúng ngay hòn đá, ngất xỉu, máu chảy ra đọng thành vũng trên mặt đường.
Đầu Rơm, mụ Mập mặt tái xanh, chỉ đứng từ xa nhìn. Khi một người khách qua đường xé áo băng đầu bé Châu để cầm máu, đưa lên xe taxi đi cấp cứu thì Đầu Rơm mới chạy tới nhận người nhà.
Mụ Mập dẫn cả đám đi bộ về phòng trọ. Đám Cừu bước đi trong im lặng, cả những đứa hay chọc phá như Phích ếch thì hôm nay cũng trở nên suy tư, bước đi lặng lẽ không nói năng gì.
Khi chúng tôi về phòng đã thấy Đầu Rơm, Đầu Cua ngồi ngay trên tấm phản giữa phòng rít thuốc và chơi trò chẵn lẻ với bộ bài mới. Bé Châu nằm co quắp ở góc phòng.
Hóa ra, gã Đầu Rơm không đưa bé Châu tới bệnh viện cấp cứu mà hắn cho taxi chở thẳng về phòng trọ.
Chúng tôi cùng xúm lại bên bé Châu. Tôi gọi:
- Em Châu? Em Châu? Em đau không?
Bé Châu chỉ quay đầu lại, gật nhẹ nhưng không nói gì. Gã Đầu Rơm đã mua băng và bông quấn thành một vòng tròn to sù trên đầu bé Châu nhưng có lẽ do gã băng không đúng cách nên máu vẫn chảy rỉ ra dưới chân tóc. Mấy đứa nhìn thấy bé Châu bỗng khóc ré lên.
Đầu Cua quát:
- Im đi. Đã chết đâu mà khóc! Chúng mày giải tán ngay! Đứa nào về chỗ đứa ấy.
Chúng tôi lặng lẽ tản ra.
Tôi đi đến chỗ Đầu Cua, Đầu Rơm ngồi :
- Chú ơi! Chú không đưa bé Châu đi bệnh viện à?
Đầu Rơm trừng mắt:
- Sứt cái móng tay đi viện làm gì? Băng lại, không chảy máu. Ngày mai con bé có thể đi làm được rồi!
Gã Đầu Rơm nói chưa xong câu, tôi đã phải quay người chạy nhanh lại chỗi bé Châu nằm vì bé uốn người nôn ói. Nửa chiếc bánh mì buổi trưa mụ Mập phát cho chúng tôi, bé Châu đã nôn ra bằng hết mà cơn ói vẫn chưa dứt. Sau đó, bé chỉ ói ra toàn nước, lởn vởn những gợn màu đen. Gã Đầu Rơm hét mấy đứa khác vào dọn chỗ ói. Gã mang bé Châu sang chiếc chiếu bên cạnh. Bé Châu vẫn ói tiếp, mắt bé dại hẳn đi, người uốn cong như người đàn bà nhặt rác bị bệnh uốn ván mà tôi từng chứng kiến ở HN hai năm trước.
- Châu…Châu …Em có nghe không?
Tôi cúi sát bé Châu gọi nhưng bé chỉ hơi động đậy đôi đồng tử mở to mà không có phản ứng gì .
Thằng Tý nói một câu làm tôi lạnh cả người:
- Bé Châu ói như vậy là sắp chết rồi!…
- Ai bảo mày vậy?
- Người ta nói... bị ngã, bị chấn thương sọ não mà ói, mắt trợn ngược là sắp chết đấy!
Tôi cảm thấy tay chân rụng rời trước lời lẽ có lý của thằng Tý. Cái Xuân lau dọn bãi ói xong, tay vẫn cầm mớ giẻ bẩn, ngồi bệt xuống sàn nhà: “Chị Châu trợn mắt trông ghê quá anh à! không lẽ chị Châu chết …”- Nó mếu máo…
Tôi cầm lấy tay bé Châu lay gọi lần nữa. Em chỉ ú ớ trong miệng, rồi nhắm nghiền mắt như mê ngủ.
Đầu Rơm đuổi tất cả về chỗ. Thấy tôi đang cố lay gọi bé Châu hắn quát:
- Về đi. Để cho con bé nó ngủ. Nó mất máu nên mệt thôi chẳng sao đâu. Rách tý da đầu việc gì !!!
Tôi thẫn thờ đi về chỗ.
Phích ếch thì thầm :
- Mày ạ. Bọn họ chẳng cho bé Châu đi viện đâu. Bọn nó không muốn bỏ tiền ra cứu chữa bé Châu…. Bọn họ sợ ra viện phải khai tên khai tuổi… Chúng sợ công an nữa nên không đưa bé Châu tới bệnh viện đâu!
Thằng Tý cứ chửi lầm bầm:
- Đồ chó má. Bọn họ không coi mạng người là gì cả. Chúng chỉ nghĩ đến tiền mà thôi. Tội cho bé Châu!...
Chúng tôi ngồi bên nhau buồn bã. Chẳng đứa nào nói gì nữa, mà cũng không đứa nào muốn đi ngủ. Ngoài trời thì đang mưa, hình như có giông, chốc chốc chớp lại lóe lên. Đám đi ăn xin mới vào hầu như chưa biết gì, nhưng đứa nào cũng rơm rớm nước mắt, nhìn sang chỗ bé Châu nằm…Hơn 10 giờ, đám chăn dắt sau mấy chai lúa mới đã ngủ say. Mụ Mập kéo bể nghe váng cả nhà … . Tôi mệt mỏi thiếp đi trong giây lát…
- Hy! Dậy đi! Bé Châu sao rồi mày ơi!...
Thằng Tý cầm chân tôi kéo mạnh. Tôi đang mê mệt vội ngồi bật dậy. Tôi dụi hai mắt cay xè, chạy lại bên bé Châu.
Chiếc chăn rách tôi đắp lúc tối đã bị bé Châu đạp sang một bên. Con bé nằm theo một thế lạ lùng, người cong lại như con tôm, đầu chúi xuống chiếu. Tôi và thằng Tý nâng đầu bé Châu lên. Khi vừa quay mặt bé, tôi giật bắn mình. Máu từ tai, khóe miệng bé chảy rỉ ra thành dòng trên má cùng một chất nhờn nhờn màu trắng.
Tôi và thằng Tý cùng kêu lên và bật khóc:
- Bé Châu! Bé Châu nguy rồi các chú ơi!
Phích ếch bật sáng bóng đèn. Bọn trẻ hầu như bật dậy. Nhưng Đầu Rơm, Đầu Cua, mụ Mập vẫn ngủ say như chết. Tôi nhào tới cầm lấy chân gã Đầu Cua kéo mạnh. Gã đạp tôi một cái văng ra, rồi mới bò dậy. Khi nhìn thấy cả đám trẻ sợ hãi khóc lóc thì gã hiểu ra ngay vấn đề. Gã bước lại bên bé Châu đưa tay đặt lên mũi rồi hét lên:
- Bọn mày điên à! Con bé còn sống nhăn chứ có gì đâu mà ầm ĩ lên!
Mụ Mập cũng đã tỉnh giấc. Nặng nề bước tới, miệng lầm bầm chửi đám mất dạy làm mụ mất giấc ngủ.
Thắng Tý chỉ vào mặt bé Châu:
- Chú, cô ơi… máu cái Châu chảy ra cả tai, cả mũi, miệng…
Mụ Mập ừ hử, lấy cái khăn hồi chiều lau máu cho bé Châu để trên chiếu, lau chỗ máu trên má và hai bên miệng. Nhìn bàn tay mụ day mạnh, tôi thót cả tim.
Mụ sai một đứa đứng bên cạnh đi lấy cho mụ ca nước. Mụ nhúng khăn lau sạch mặt bé Châu. Người bé mền nhũn, mắt nhắm nghiền, miệng há ra. Hầu như cơ thể bé không có phản ứng gì trước bàn tay thô bạo của mụ Mập.
Khi mụ Mập lau xong, hất ca nước xuống nền nhà, gã Đầu Cua từ nãy đứng ngáp dài, hét lên một câu.
- Không có việc gì. Bọn mày đừng làm ầm ĩ lên. Tất cả đi ngủ…
Thằng Tý phản ứng yếu ớt:
- Chú ơi, bé Châu bị nặng lắm, cho nó đi viện đi!
Đầu Cua xua tay:
- Viện gì mà viện. Mày không thấy nó đang ngủ à?
Tôi cảm thấy căm phẫn trước thái độ độc ác của mụ Mập, Đầu Cua… Tôi muốn hét thẳng vào bộ mặt bỉ ổi của gã, nhưng tôi kìm lại được:
- Không phải Châu ngủ đâu chú ơi. Con bé đang hôn mê đấy. Chắc não nó bị sao rồi chú ơi. Bọn con xin chú cho Châu đi viện đi…
- À, cái thằng này…- Đầu Rơm trừng mắt. Nhưng khi hắn thấy cả chục đứa bé đang nhìn hắn với thái độ căm giận thì hắn đổi giọng – Thôi mà chúng mày. Cô chú cũng rất thương bé Châu nhưng khuya khoắt thế này có bệnh viện nào nhận người nữa đâu. Bọn mày cứ yên tâm, sáng ra là cô chú sẽ đưa bé Châu đi bệnh viện ngay… Bây giờ, tất cả đi ngủ đi!
Tôi và thằng Tý không đi ngủ. Hai đứa ngồi bên bé Châu cho đến khi trời sáng. Bé Châu hầu như nằm im, thở yếu ớt. Tôi đưa tay sờ vào chân bé thấy vẫn nóng. Tôi nhớ người lớn vẫn nói rằng: khi ai đó chết, hai chân sẽ chết trước, hai chân sẽ lạnh dần. Tôi nhớ mùa đông ở HN, khi một người ăn mày già nằm cạnh tôi trong sân ga bị chết rét, đêm đang ngủ tôi đụng vào chân ông ta, cẳng chân lạnh cóng. Tôi cảm thấy yên tâm vì hai chân bé Châu vẫn ấm nóng…
Buổi sáng, khi bọn trẻ rời phòng trọ, Đầu Cua thấy tôi và Tý vẫn ngồi bên bé Châu hắn bước lại dựng chúng tôi lên và đẩy ra đường. Thấy chúng tôi cứ chựng lại hắn nói:
- Đi đi! Bọn mày đi đi! Tý nữa tao sẽ đón xe đưa bé Châu tới bệnh viện. Con bé không sao đâu.
Tôi đã sai lầm khi một lần nữa tin vào lời của gã, đã bỏ bé Châu ra đi. Mà nếu biết gã nói dối, tôi và thằng Tý cũng chẳng có thể làm gì …Chúng tôi còn quá bé để có thể đối đầu với mấy gã chăn dắt… Chúng tôi còn ngờ ngệch và không có kinh nghiệm …
*
* *
- Cu! Không nhớ hợp đồng anh em mình sao?
Anh Nhân đứng đợi tôi ở chỗ cũ. Tôi xin lỗi anh về việc đến muộn và kể cho anh về chuyện bé Châu. Anh Nhân trầm ngâm.
- Tội nghiệp cu, tội nghiệp con bé! Bị bọn nó chăn dắt là khốn nạn lắm! Rồi anh cúi xuống nói nhỏ vào tai tôi: “Anh cũng không tự do đâu cu. Muốn đánh giày ở đây đều phải đóng tiền cho bọn anh chị đấy. Nếu mình không đóng à? Đừng có mà bén mảng tới chỗ này. Sẽ có thằng đến hỏi thăm, gây sự ngay” .
Tôi lại đi vào quán cà phê tìm giày. Lại chọn những đôi giày mới, đắt tiền mà bị dơ, chọn những anh mặt hiền hiền để hỏi. Nhưng tâm trạng nặng nề, nỗi lo lắng cho bé Châu làm cho tôi không còn nhanh nhẹn với công việc như ngày hôm qua. Đến gần trưa, tôi chỉ mới kiếm được chục đôi giày… Không những thế do lơ đễnh khi cúi xuống gầm bàn lấy một đôi giày, tôi đã làm đổ cốc cà phê của một đôi trai gái ngồi bên cạnh. Anh thanh niên nhảy dựng lên chửi bới tôi thậm tệ, ngay đấy, một chị phục vụ xuất hiện, đuổi tôi ra khỏi nhà hàng.
Anh Nhân cười, thông cảm, bảo tôi phải cẩn thận hơn, rồi cả hai qua nhà hàng bên cạnh.
Tôi nhẩm đánh vần bảng tên:
Quán Gió. Một quán có rất nhiều chậu cây xanh. Rất nhiều xe máy đắt tiền. Tôi chỉ phân biệt được xe máy hạng sang đắt tiền, ít tiền cách đây mấy tháng khi đi xin cùng thằng Thanh. Cái nào đầu xe tròn tròn là xe đời cũ, cái nào đầu xe vuông vuông là xe đời mới hạng sang, đắt tiền đấy, giá trị còn hơn cả toà nhà - thằng Thanh giảng giải vậy. Tại quán Gió đa số xe máy đầu vuông. Người ngồi trong quán đa số gọi ba số hộp dẹt, đa số đàn ông đều đi giày. Tôi cố gắng cẩn thận hơn để khỏi phụ lòng anh Nhân. Có lẽ khuôn mặt đang trĩu nặng nỗi buồn lo của tôi có ấn tượng mạnh với mọi người. Hầu như tôi không phải nài nỉ, kêu xin gì nhiều mà mấy anh uống cà phê vẫn gật đầu khi tôi cầm lấy giày của họ. Cũng có thể bởi thời tiết trở lạnh sáng nay và cũng có thể mùa noen sắp tới. Hôm qua, đi ra đường đã thấy một vài quán chưng cây thông …
Chia tay anh Nhân, tôi vẫn còn thiếu mấy ngàn. Nhưng hôm nay tôi quyết định không xin tiếp nữa. Tôi đi về chỗ hẹn của bọn chăn dắt với ý định khi Đầu Rơm, Đầu Cua đón bằng xe máy, tôi sẽ xin về trước nhất…
Đứng ở bên chiếc ghế đá công viên là mụ Mập. Khi thấy tôi lò dò đến, mụ đã quát ngay: “Gì mà mày đã vác mặt về! Đi xin tiếp đi, 30 phút nữa mới có xe cho mày về!”
- Chú Mong đâu dì? Chú ấy đưa bé Châu đi bệnh viện …
Tôi chưa hỏi hết câu mụ đã mắng xa xả:
- Mày khỏi lo. Ổn hết rồi. Con bé đã có người chăm. Đi đi! Đồ lười biếng…
Tôi quay đầu bước đi. Bọn trẻ ăn xin đứa nào cũng ngán cái giọng điêu ngoa chửi bưới của mụ, giọng cứ xoen xoét, chửi tục như đổ phân vào mặt người khác, đúng là loại “ăn gà cả lông!”. Tôi biết đứng lại chỉ tổ điếc tai nên quay ngược vào mấy nhà hàng gần đấy.
Tôi đi vẩn vơ trước nhà hàng nhưng không bám theo bất cứ khách hàng nào để xin tiền. Tôi đi và nghĩ về bé Châu. Nghĩ về mùa giáng sinh đầu tiên tôi có mặt ở Sài Gòn. Bé Châu đã hơn tôi sống một mùa giáng sinh ở thành phố này. Bé kể tôi nghe giáng sinh ở Sài Gòn rất đẹp, các nhà hàng gần ngày giáng sinh đều được trang trí lại, đều có cây thông noen, có nhà hàng làm cả hang đá, trông đến mê hồn.
Dịp đó, đám ăn mày cũng dễ xin tiền hơn. Người đi nhà thờ đối xử với đám trẻ ăn xin dễ dãi và thân ái hơn. Một buổi tối đứng trước nhà thờ có thể kiếm được gấp mấy ngày trước đó. Năm ngoái bé Châu còn được một người tặng cho bộ áo ấm, may bằng da mềm mại. Chính mụ Mập đã lấy chiếc áo đó về cho con gái mụ sau khi phán một câu: “ Bày đặt! Ăn mày mà còn mặc áo da! Rác mắt! ”
*
* *
Xe mụ Mập vừa chở tôi đến cửa phòng trọ đã nghe tiếng khóc, tiếng thằng Tý vừa khóc vừa nấc dội ra.
Tôi nhảy ào ngay xuống xe, hất ngả cả con bé Ny ngồi phía sau, chạy vào phòng trọ.
Bé Châu nằm đấy bất động. Thằng Tý thấy tôi hét lên: “Nó chết rồi! Chết rồi Hy ơi! Chết rồi!…”.
Tôi ngồi xuống bên cạnh lắc mạnh vai bé Châu:
- Châu ơi! Châu ơi!..
Thân em lạnh cứng, mắt trợn ngược toàn lòng trắng, máu rỉ ra bên miệng đã khô.
Người lạnh chân là đã chết. Bé Châu toàn thân đều đã lạnh. Bé Châu chết rồi.
Thì ra, bọn họ không đưa em đi viện, cả ngày hôm nay đóng cửa để em ở nhà. Chúng chẳng làm gì để cứu em cả mà chỉ gọi điện cho bọn cho chủ em, yêu cầu đám cho thuê xuống đưa em về. Không hiểu sao đám cho thuê đến giờ vẫn chưa có mặt.
Tôi nhìn lên, cả gã Đầu Rơm, Đầu Cua vẫn đang ngồi lạnh băng tại cái bàn góc nhà.
Tôi hét lên và nhào tới gã Đầu Rơm: “Đồ dã man, đồ giết người!”
Gã đạp tôi ngã dập xuống. Nhưng tôi lại nhào tới. Gã lại đạp tôi văng ra. Tôi nhặt ngay lấy ống điếu, nồi, chai lọ trên bàn ném vào người gã. Thằng Tý, và một vài đứa cũng lao tới. Chúng học theo tôi, ném bất cứ vật gì có trong phòng vào Đầu Rơm, Đầu Cua, mụ Mập.
Sau mấy phút hốt hoảng, hai gã đã đá văng mấy đứa tôi xuống sàn nhà. Mụ Mập miệng kêu the thé, vơ vội đám dây thừng, phụ với hai gã trói tôi, thằng Tý lại. Vứt hai đứa tôi vào góc nhà, đá bồi thêm mấy cái… Một cú đập như trời giáng của mụ Mập vào đầu làm tôi gục xuống, bất tỉnh…
Sau này, tôi nghe nói lại rằng: phải gần nửa đêm đám cho thuê bé Châu mới đến. Một cuộc ẩu đả về tiền bạc giữa hai gã đàn ông bặm trợn và đám chăn dắt. Đầu Cua bị dí dao vào cổ mới chịu trả cho đám kia số tiền thuê bé Châu còn thiếu. Hai gã đàn ông cuốn bé Châu vào một tấm vải, bỏ gọn trong một chiếc valy rồi mang đi. Có lẽ, nếu tử tế, chúng sẽ vùi xác bé Châu ở một nơi nào đó mà không ai biết. Nếu không, chúng vứt xác phi tang xuống sông, xuống hồ nào đấy.
Bọn đó đi khoảng 3 tiếng đồng hồ rồi quay lại, mang luôn thằng Tý về không cho bọn Đầu Rơm, Đầu Cua thuê nữa. Thằng Tý bị trói, nhưng không bị đánh đến ngất như tôi. Hai thằng kia mở trói cho nó, xốc nách lên xe máy, biến mất trong đêm.
*
* *
Tôi tỉnh dậy lúc gần sáng, toàn thân nhức nhối. Tôi cựa mình, hai cổ tay đau điếng. Mụ Mập trói tôi bằng cuộn dây nilong, siết chặt khiến cổ tay tôi sưng phồng lên. Bây giờ, khẽ quậy cựa cổ tay là đau nhói.
Lúc này, tôi rất đói. Tối qua, tôi đã ăn gì đâu. Trong phòng tất cả vẫn ngủ say. Tôi nhìn quanh tìm kiếm xác bé Châu, tìm kiếm thằng Tý. Tôi không biết rằng cả hai đều đã được mang đi trong khi tôi nằm ngất xỉu vì cú đánh trời giáng của con mụ Mập.
Tôi biết một ngày mới sẽ rất gay go với mình và tôi sẵn sàng đối đầu với nó. Trong ý nghĩ, tôi đã có một quyết định rất rõ ràng: sẽ không đi ăn xin cho bọn Đầu Rơm, Đầu Cua, mụ Mập nữa. Muốn ra sao thì ra. Chúng có giết tôi, tôi cũng không bao giờ đi ăn xin, làm cừu cho bọn khốn nạn đó chăn dắt.
Bọn trong phòng ngủ dậy, đánh răng, rửa mặt, nhận nửa ổ bánh mì từ con mụ Mập, ăn vội vàng, rồi theo xe ra đi. Cuối cùng, chỉ còn lại mình tôi trong phòng. Tôi nhắm mắt vờ như vẫn đang ngủ. Đầu Cua bước đến thúc mũi giày vào hông tôi. Tôi vẫn nằm im như chết. Hắn đi vào nhà vệ sinh. Rồi tiếng chân hắn quay lại.
Ào…
Thì ra hắn mang cả một thùng nước dội lên đầu tôi. Nước lạnh chảy ào xuống cổ, ngực, tràn ra sàn. Trời đang lạnh, người tôi nổi gai, run lên vì lạnh. Tôi mở mắt ra, hắn đang đứng trước tôi với cái thùng không trên tay, bộ mặt dữ dằn cúi xuống :
- Mày có dậy đi làm không? Hay mày còn muốn đánh nhau với tao?
Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt cú vọ, đang long lên của hắn:
- Tôi không bao giờ đi ăn xin cho các ông nữa. Các ông là đồ dã man, quân giết người. Các ông muốn đánh cứ đánh, muốn giết thì giết… Tôi không bao giờ làm cừu cho các ông!
- Được! Được! Mày có nghĩa khí đấy. Tao chẳng thèm giết mày, đánh mày cho phí sức. Tao sẽ không cho mày ăn. Xem ngày mai mày có xin tao cơm không?
Hắn vứt cái thùng xuống sàn nhà, đi thẳng ra, khóa cửa phòng trọ giam tôi lại trong nhà.
Gã Đầu Cua thực hiện đúng lời của hắn, không đánh tôi, nhưng không cho tôi ăn gì suốt ngày hôm đó.
Buổi tối, Đầu Rơm, mụ Mập trở về biết tôi vẫn không chịu đi làm chúng nổi điên lên. Mụ Mập nhảy bổ vào tôi như một con cọp cái. Mụ véo khắp người tôi bằng móng tay sắc lẻm của mụ. Bàn tay mụ Mập các ngón to như chuối bắp, nần nẫn, và móng để dài, sơn đỏ chóe. Hàng ngày, khi bọn đàn ông uống rượu, thì mụ ngồi im tỉa tót, sơn phết móng tay, móng chân. Mụ quá vụng về nên càng sơn, đám móng của mụ trông càng tệ, không ra hình thù gì. Tôi không sợ hai gã đàn ông đánh bằng mấy cái véo của mụ. Cái véo nào cũng giống như kìm vặn xoắn da thịt, đau thót tận tim.
Mụ vừa véo, vừa chửi: “ Mẹ mày.. thằng lõi con …Mày chống lại bà hả, mày chống lại bọn tao hả. Cái con bé kia nó bị nạn chứ có phải bọn tao giết nó đâu hả? Mai mày có chịu đi làm không hả? Chịu không?”
Gã Đầu Rơm đá tôi mấy cái, rồi hét lên:
- Thằng oắt! Mày định chọc tao hả?
Bình tĩnh, suy nghĩ, tôi hiểu rằng, bọn họ thuê tôi từ con mụ Tâm. Nếu tôi không chịu đi ăn xin nữa, nếu tôi quyết liệt tỏ rõ thái độ đó. Đánh tôi chán chúng sẽ trả tôi lại cho mụ Tâm để thuê một đứa khác. Nếu tôi gây khó khăn cho chúng, có khi chúng sẽ trả tôi sớm hơn…
Tôi bắt đầu kế hoạch của mình khi bọn chúng mệt mỏi lên gường đi ngủ.
“ Này! Hai thằng kia giết tao đi. Tao tuyên bố không bao giờ đi ăn xin cho bọn mày nữa!”.
“ Này, mụ Mập, nghe tao nói đây, không bao giờ tao thèm làm việc cho loại khốn nạn như bọn mày. Đồ giết người! Quân dã man!”
“ Đồ giết người! Chính chúng mày giết bé Châu! ”
Đầu Rơm ném cái ăng gô về phía tôi và gằn giọng:
- Im đi thằng kia. Tao bẻ cổ mày bây giờ!
Tôi im lặng sau khi hắn quát.
Khi Đầu Rơm, Đầu Cua bắt đầu ngáy, tôi lại khóc thét lên:
“ Mẹ ơi! Cha ơi! Cứu con!... Con đau quá! Đau quá! Hừ.. hừ…hừ …”
- Thằng kia. Im cho tao ngủ! Đừng có mà rên nữa!
Bọn trẻ trong phòng không ngủ được. Chúng tỉnh dậy và mấy đứa tự nhiên cũng bật khóc hu hu. Đầu Rơm, Đầu Cua, mụ Mập phải quát mắng một lúc mới dẹp yên được. Tôi thấy mình đã thắng bọn chúng một hiệp.
Tôi gắng ngủ một giấc để lấy sức.
Tôi tỉnh dậy khoảng 2-3 giờ sáng.
Tôi quyết đấu với bọn họ một hiệp nữa. Tôi biết đây sẽ là hiệp cuối cùng. Nhất định bọn họ sẽ mạnh tay với tôi lần này.
“ Ma… ma… ma! Trời ơi! Ma!” - Tôi hét to lên cho đám trẻ con trong phòng đều bật dậy. Tiếng “Ma” làm cho bọn nó khiếp hãi. Ám ảnh bởi cái chết của bé Châu, chúng đều bật khóc…
Tôi bồi thêm “Em ơi đừng nhát anh! Đừng nhát anh em ơi ! Sao đầu em băng trắng thế kia! Sao đầu em chảy máu khiếp thế em ơi! Máu… trời ơi… máu…”
Bây giờ, cả phòng trọ náo loạn. Tất cả bọn chúng khóc như ri mặc cho Đầu Rơm, Đầu Cua, mụ Mập quát mắng ầm ĩ, loạn xạ…Rồi mấy đứa quá sợ lao đến ôm lấy mụ Mập, Đầu Rơm, Đầu Cua. Đầu Rơm xô ngã mấy đứa bé đang bu lấy gã, nhào đến chỗ tôi. Gã đè tôi xuống cố nhét bằng được chiếc khăn vào miệng. Tôi cắn chặt hai hàm răng lại, gã không sao ấn chiếc khăn bông vào mồm tôi được. Hắn cứ đè lấy tôi, thờ phì phì. Mụ Mập từ xa nhìn thấy gã Đầu Rơm vụng về với cái khăn trên tay thì hét lên:
- Bịt chặt mũi nó…
Gã Đầu Rơm thực hiện ngay, tôi ngạt thở phải há mồm ra. Gã bịt miệng tôi bằng chiếc khăn bông cáu bẩn.
Tôi không còn hò hét được.
Nhưng đám trẻ không đứa nào còn dám đi ngủ. Chúng thức đến sáng. Cả bọn Đầu Rơm, Đầu Cua, mụ Mập hình như cũng bắt đầu biết sợ: chúng không dám tắt điện, mụ Mập pha cà phê và chúng ngồi uống với nhau đến sáng. Chúng luôn mồm văng tục, chửi bới tôi. Còn đám trẻ túm lại bên nhau từng nhóm…
Sáng sớm, gã Đầu Rơm bấm điện thoại liên tục. Tôi biết tôi sẽ được trả ngay về cho mụ Tâm.
*
+ +
Tôi đoán không sai. Ngay giữa buổi, Đầu Cua quay về mở cửa, cởi trói cho tôi, rút cái khăn thối ra khỏi miệng tôi, chửi bới một hồi rồi dúi vào tay tôi ổ bánh mì.
Tôi không ăn, nằm im bất động. Tôi biết, chính lúc này Đầu Cua rất muốn tôi tỉnh táo, bình thường để giao trả lại cho bọn kia. Nên tôi cần làm ngược lại, tôi nằm im bất động, mắt nhắm nghiền, giang hai cánh tay sưng vù vì bị trói ra.
Đúng như dự đoán: 15 phút sau, Mặt Sẹo và Cao Ngẳng xuất hiện.
Mặt Sẹo vừa bước vào nhà trọ đã chửi tục:
- Đéo m. bọn ông! Chăn cừu như cứt. Con nào đưa cho các ông chỉ được mấy hôm là toi cả: đứa thì lười biếng, đứa thì ương bướng, đứa thì sứt đầu mẻ tai!...
Đầu Cua chống chế:
- Chúng tôi đâu muốn vậy. Chúng tôi chăm sóc, dạy chúng nó cẩn thận lắm…nhưng chúng nó cứ vậy. Thằng này thì ương bướng quá. Nó chẳng chịu nghe ai…Tôi chưa gặp đứa con nít nào trời ơi như nó!...
Mặt Sẹo chửi tiếp :
- Bọn ông chỉ biết kiếm tiền, chỉ biết hành hạ cừu ... chứ giáo dục, quan tâm đéo gì! Thằng này thì sao? Nó kiếm đủ chỉ tiêu không? Nó nhanh nhẹn không? Nó lười biếng không?
- …
- Ông không mở miệng được hả? Nó không sao cả chứ gì?
Đầu Cua kể tội tôi:
- Nó không chịu đi làm. Tối qua, nó làm cả nhà này không ai ngủ được. Ông chưa biết, thằng ranh này nó ma mãnh như thế nào đâu!
Gầy Ngẳng đi lại chỗ tôi, hắn xoay người tôi ra, kiểm tra như một món hàng, rồi vẫy Mặt Sẹo lại:
- Thằng bé hình như sắp chết. Các ông hành hạ nó gì thế. Các ông trói nó, đánh nó. Người nó hằn đầy vết bầm này. Các ông trói nó thế nào mà tay sưng vù thế này??? Nếu tôi đưa về mà nó chết là các ông phải đền. Còn bây giờ, bọn ông phải ngay tiền thuê tháng này. Phải bồi thường cho bọn tao hai tháng tiền thuê nữa, không thiếu một xu! Chắc chúng tao phải chăm sóc nó ít nhất hai tháng mới có thể cho bọn nào đó thuê được.
Đầu Cua, Mặt Sẹo, Cao Ngẳng cãi nhau như mổ bò. Có lúc, tưởng chúng sắp nhảy vào xé xác nhau. Cuối cùng, Đầu Cua phải chấp nhận chịu phạt thêm một tháng. Cao Ngẵng gom hết đồ đạc rồi xốc nách tôi ra xe. Lại kẹp 3. Lao vun vút trên đường.
*
* *
Những sự việc xảy ra trong những ngày đau thương vừa qua đã dạy cho tôi những bài học mới. Tôi bây giờ là món hàng cho thuê, là nô lệ của mụ Tâm. Chúng có thể đánh, giết tôi nếu chúng muốn. Nhưng tôi cũng có quyền với chính món hàng của chúng. Vấn đề là chúng muốn bán tôi được giá và cái giá bán đó phần nào do tôi quyết định. Chúng chẳng xót thương gì tôi nhưng chúng không bao giờ muốn món hàng mất giá.
Vậy là tôi đã có cách gặp lại cha tôi.
Đã hơn 6 tháng, kể từ ngày cha con chúng tôi chia tay nhau?
Len lỏi qua những con hẻm để tránh công an, cuối cùng chiếc hon đa đưa chúng tôi trở lại chính dãy phòng trọ của mụ Tâm. Mặt Sẹo dừng xe giữa sân, đạp chân chống, hất đầu bảo Cao Ngẳng đưa tôi vào nhà. Cao Ngẳng vừa đứng dậy khỏi yên xe, tôi đã ngã nhào xuống đất. Hắn bắt buộc phải xốc tôi lên, tha vào nhà. Con mụ Tâm mặc một chiếc áo màu sắc kinh dị, đồng bóng: xanh đỏ, tím, vàng đính đầy ren đang ngồi ngay ở bộ ghế sopha giữa phòng.
Cao Ngẳng vừa thò đầu vào, mụ Tâm đã xa xả:
- Toàn đám ăn hại, lười biếng chảy thây lại bị người ta trả về… - Có lẽ bà ta đã chuẩn bị và sắp làm một bài dài cho con cừu bị trả. Bọn đàn em sẽ nhảy vào với màn đấm đá dằn mặt con cừu như mọi lần – nhưng nhìn thấy tôi mắt nhắm nghiền, miệng sùi bọt, người ẹo oặt như cái giẻ khoai, mụ đã ngưng lời.
Cao Ngẳng thả tôi xuống giường, tôi cong người lên ói ngay một bãi trên chiếc nệm vàng khè.
Mặt sẹo thì thầm với mụ Tâm: “Có lẽ chúng ra đòn mạnh quá! Không khéo thằng này tiêu mất! Em đã phạt tụi nó 01 tháng.”
- Thằng Mong nói 2 ngày rồi thằng chó này không chịu ăn! Chắc chỉ đói thôi chứ mấy miếng đòn thì nhằm gì!
Cao Ngẳng tiếp lời .
Mụ Tâm ra hiệu cho cả bọn kéo ra ngoài. Một lúc sau Cao Ngẳng mang vào cho tôi hộp sữa và một tô cháo. Hắn không nói gì, chỉ để cạnh tôi rồi bỏ đi. Chắc chúng nghĩ rằng tôi đang đói, khi không có chúng, tôi sẽ chộp lấy tô cháo mà ngấu nghiến như bao nhiều đứa trẻ khác.
Quả thật tôi rất muốn ăn. Tôi đang đói cồn cào, nước miếng ứa lên ngập cả chân răng. Đói và mệt và đau ê ẩm khắp người. Chỉ cần ăn hết tô cháo kia, uống hộp sữa kia, ngủ một giấc, tôi có thể chạy ra ngoài đường. Nhưng tôi kiên quyết sẽ không ăn, không đụng đến một thìa cháo. Ngay bây giờ tôi sẽ gắng ngủ một giấc.
Qua bữa ăn trưa, mụ Tâm được thông báo tôi vẫn không ăn bất cứ thứ gì. Mụ bước vào phòng khi tôi vừa ngủ dậy với chai dầu nóng trên tay. Mụ đổ dầu ra bàn tay rồi xoa lên chỗ cổ tay tôi đang bị sưng vù. Tôi hất tay mụ ra, nằm lui vào tường.
- Chà! Chà!...– mụ dài giọng, tức giận – Không muốn ăn quà mà muốn ăn đòn đây. Nói nghe nào? Sao cháu không chịu ăn?
Tôi biết rằng đã đến lúc phải nói rõ yêu sách của mình:
- Bà đừng cho tôi phá rối nên bọn ông Mong trả về. Tôi không phá rối, tôi luôn đi xin đủ chỉ tiêu. Nhưng ngày hôm qua, tôi quyết định không làm việc cho bọn họ nữa vì họ ác quá. Họ để cho một em bé ăn xin bị tai nạn chết thảm mà không cấp cứu, không đưa đến bệnh viện.
- À…à… vậy. Cái bọn Mong tệ thật. Cô sẽ không bao giờ cho người sang làm việc cho bọn chúng nữa. Cô thì khác, cô luôn quan tâm, luôn yêu thương bọn cháu. Cháu nào bị bệnh là cô đưa đi bệnh viện ngay…Để cô xức thuốc cho cháu lành vết thương nhé. Rồi cháu ăn cái gì nhé!
- Tôi sẽ không ăn. Tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cô có sai bọn Mặt Sẹo bẻ gãy chân tay, chọc mù mắt tôi thì cũng vậy. Tôi chỉ ăn khi cha tôi có mặt ở đây. Khi tôi được gặp cha tôi!
Gã Mặt Sẹo nãy giờ đứng nhìn từ cửa vào nay không chịu được nữa:
- Chị chiều nó làm gì. Yêu sách cứ như các chí sỹ tuyệt thực trong tù ấy. Cứ để thằng em cho nó một trận. Mà cần bẻ luôn một chân để nó thành thằng què càng có giá!...
Tôi nhìn thẳng Mặt Sẹo thách thức:
- Bọn ông cứ đánh đi. Đánh chết cũng được. Bọn ông Mong đánh tôi mấy ngày qua đâu có bắt được tôi đi ăn xin. Bọn ông thích thì cứ giết tôi đi. Nếu không được gặp cha, tôi không ăn gì hết.
Tôi nằm xuống giường quay mặt vào tường. Gã mặt sẹo lao vào túm lấy tôi kéo ra, nhưng mụ Tâm đã giữ tay gã lại. Hắn hậm hực quay lui. Cả bọn bỏ đi, để lại Cao Ngẳng ngồi ngoài cửa canh tôi.
*
* *
Buổi tối Cao Ngẳng mang tô cháo mới vào và mang tô cháo buổi trưa đi. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn kiệt sức. Cảm giác đói hầu như không còn nữa nhưng đầu nhức buốt và ruột quặn lại buồn nôn, chân tay nhức mỏi. Có lẽ chỉ qua một ngày nữa thôi tôi sẽ hoàn toàn kiệt sức. Nhiều lần tôi đã nghĩ: ăn đi, ăn đi, không thể chịu được nữa, sẽ tìm một cơ hội khác để gặp cha. Rồi tôi lại kiên quyết với mình: tôi sẽ không còn một cơ hội nào nữa. Nếu lần này tôi đầu hàng mụ Tâm thì chẳng bao giờ tôi còn được gặp cha.
Tôi lịm đi trong buổi tối. Tôi cố ngủ để quyên đi cái đói, quên đi sự thèm khát được ăn. Nhưng giấc ngủ qua rất nhanh và tôi tỉnh lại. Trong đêm, tôi chập chờn với hàng chục giấc ngủ ngắn. Có lúc, tỉnh lại, tôi khạc nhổ liên tục vì tự dưng đờm dãi cứ dâng lên trong cổ họng và sau mỗi lần khạc nhổ cổ họng tôi có cảm giác đau nhói.
Sáng hôm sau, Cao Ngẳng lại mang tô cháo gà tới. Thấy tô cháo hôm qua còn nguyên, hắn hết sức khó chịu. Hắn chửi bới một hồi, nhào tới, cầm lấy tai kéo ngược tôi lến như muốn ném xuống đất cho hả giận. Nhưng sau đó, gã thở dài thả tôi xuống.
Mụ Tâm ghé qua khoảng 9h. Mệt mỏi, gần như kiệt sức, tôi không nhìn ra. Nghe tiếng guốc, tôi biết mụ ta đến…
Tôi thiếp đi, một giấc ngủ chập chờn…
Một bàn tay đặt nhẹ lên má tôi. Nghe một tiếng gọi xa xôi đâu đó: “Con! Con ơi!”. Tôi thấy mình và cha đang đi trong một con đường nhỏ trung du hai bên rất nhiều tán cọ xòe ra như những cái ô. Cha đi trước, tôi đi sau vừa đi vừa ăn những củ khoai sống mà tôi bới trộm ở luống khoai cạnh đường. Bỗng nhiên cha tôi bỏ chạy. Tôi nhìn ra phía sau, một chục bà già mũi nhọn (giống y hệt bà già mũi nhọn ở vườn nhãn trung du mà hai cha con tôi ghé qua năm nào) đang vác những cây dao sắc lẻm đuổi theo cha con tôi. Không hiểu sao chân tôi cứ như bị liệt, không thể nhấc lên để chạy nỗi. Cha tôi cứ cắm đầu chạy, không quay lại cứu giúp tôi. Cái bước chạy lập cập, cà giật, cà giật của ông trông thật khốn khổ. Mụ mũi nhọn dẫn đầu đã đuổi gần sát tôi, mũi dao nhọn hoắt như sắp chạm vào lưng. Tôi sợ quá kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi!..” và va vào hòn đá bên đường ngã gục xuống. Bây giờ, cha mới quay lại, thét lên: “Con ơi!’.
Tôi choàng tỉnh mở mắt ra, hình ảnh nhập nhòe rồi rõ nét : Cha đang ngồi trước mặt tôi. Ông mặc bộ quần áo nhà sư màu vàng khè và rộng lùng thùng. Hai tay ông đang xoa nhẹ lên các vết thương trên người tôi. Khuôn mặt ông đen sạm đi và gầy hơn.
- Cha đang đi hành khất thì thằng Mặt Sẹo đến bảo lên xe nó chở về có chuyện gấp…
Nói đến đó, ông đứng lên đi ra cửa. Bọn Tâm, Mặt Sẹo, Cao Ngẳng đang đứng lố nhố nhìn vào phòng. Ông yêu cầu tất cả đi đi để ông chăm sóc tôi. Đám kia tản ra, chỉ còn gã Cao Ngẳng ở lại. Cha tôi nói gì với Cao Ngẳng. Hắn có vẻ khó chịu nhưng sau đó đã kéo ghế lui ra khoảng sân phía trước. Từ đó hắn vẫn có thể nhìn qua cửa giám sát mọi cử động của cha con tôi.
Cha quay lại, cầm hộp sữa tươi vụng về xé tung nắp giấy, bước đến cạnh tôi
- Uống sữa rồi ăn con ạ. Ăn cho tỉnh táo. Hai cha con mình nói chuyện với nhau. Cha đã yêu cầu mụ Tâm cho cha ở lại đây hết buổi chiều này.
Ông đổ sữa vào miệng tôi từng ngụm nhỏ. Điệu bộ ông vẫn chậm chạp, vụng về nhưng cử chỉ của ông có vẻ khác trước rất nhiều. Chỉ việc ông cho tôi uống sữa trước khi ăn cháo chứng tỏ ông cũng đã biết rõ cách chăm sóc một người đã tuyệt thực mấy ngày. Nếu ăn ngay có thể dạ dày tôi sẽ không thích ứng được.
Tôi đã không ăn gì gần 3 ngày. Cha con tôi cũng đã có mấy bận nhịn ăn luôn một ngày khi lang thang qua mấy vùng quê. Nhịn một ngày với tôi có lẽ quá bình thường. Nhưng 3 ngày không ăn thì thật sự là một thử thách lớn với tôi. Ngày thứ 3 là một ngày hết sức khó khăn. Ruột gan tôi cồn cào, tôi chỉ chực muốn ói, đỉnh đầu không hiểu sao nhức buốt. Và cảm giác thèm ăn ghê gớm. Nên ngay khi cha tôi xuất hiện, tôi đã muốn nhào tới tô cháo để đầu giường…
Tôi có cảm giác không phải sữa mà là một cái gì giống như a xít đang được đổ vào miệng, chảy qua cổ họng. Tôi ói ra ngay hết mấy thìa sữa đầu tiên. Cha tôi vỗ vỗ vào lưng, để tôi nằm nghỉ ít phút, cho tôi uống mấy ngụm nước. Những thìa sữa sau đó tôi đã nuốt vào bình thường. Phải mất gần một tiếng đồng hồ, tôi mới ăn hết tô cháo trắng. Mồ hôi túa ra khắp người như tôi vừa bước ra từ một lò hơi …Trong suốt thời gian trên, cha chỉ lo cho tôi ăn mà hầu như không nói gì nhiều.
Cha tỏ ra rất hài lòng khi thấy tôi đã chống tay gượng dậy được:
- Chiều nay con sẽ khỏe thôi. Thằng Lộc đến tìm khi cha đang đi khất thực, hắn nói thời gian vừa rồi ba làm việc rất tốt, nên bà Tâm cho cha nghỉ một ngày, và đặc biệt cho cha về gặp con… Cha nghe nó nói lạ quá. Ngồi sau xe nó cha lo lắng vô cùng: chắc có chuyện gì với con rồi…Đến nơi gặp mụ Tâm mới biết ra là vậy: mụ nói con tuyệt thực, yêu cầu được gặp cha mới chịu ăn…
Rồi cha tôi tự hào:
- Ừ, hóa ra con giỏi. Trò này của con hay. Chỉ có cách như vậy, cha con mình mới gặp nhau được. Bao nhiêu lần cha xin gặp con chúng đều gạt đi…
Hai cha con chúng tôi tranh nhau nói. Bao nhiêu sự kiện đã xảy ra trong sáu tháng qua khi chúng tôi xa nhau. Chở tôi đi rồi, mụ Tâm giữ cha tôi lại mấy ngày. Mặt Sẹo đưa cho ông một bộ quần áo của nhà tu, một cái bình bát, một tập giấy ghi mấy câu kinh, câu kệ. Hắn dùng dao lam cạo đầu ông trọc lóc. Sau đó, hắn dạy ông đóng vai nhà sư đi khất thực. Thì ra, Mặt Sẹo cũng đã có 3-4 năm đi ăn xin bằng bộ áo cà sa nên hắn tỏ ra rất có kinh nghiệm. Huấn luyện xong, mụ Tâm cho một tay ở Hiệp Bình thuê cha tôi. Sáng sáng, một gã đàn ông gọi là Tư Mắm chở cha đến một điểm nào đó thả ông xuống. Chiều tối, chúng lại đến đón ông về. Ông gần như đi bộ mòn hết các tuyến đường gần bến xe Miền Đông, Hiệp Bình Phước, và loanh quanh chợ Gò Vấp. Hai tháng gần đây, đám khất thực chuyển địa bàn về Bình Chánh.
Hằng ngày chúng cho ông ăn ba bữa, tất cả tiền bạc ông xin được, chúng thu sạch vào cuối buổi trưa và cuối ngày. Ông có chỗ ở, ông không đói nhưng ông phải sống thân phận của một kẻ nô lệ. Chúng có thể hành hạ ông bất kỳ lúc nào chúng thấy khó chịu. Những ngày mưa rét, sức yếu, ông không thể đi khất thực được, chúng vẫn bắt ông ra đường. Nhiều lần, ông đã phản kháng lại nhưng kết cuộc bị chúng đối xử tệ hơn, nên gần đây ông đã im lặng giả mù giả điếc, để sống qua ngày. Ông luôn nhớ và mong gặp lại tôi.
Tôi kể ông nghe những gì tôi đã trải qua trong 6 tháng qua. Những lần tôi bị đòn. Cái chết của bé Châu.
Ông khóc khi nghe tôi kể những lần bọn chăn dắt hành hạ tôi.
Ông khóc khi nghe tôi kể về bé Châu.
Hai cha con tôi khóc, nhưng cả hai đều cố gắng không bật thành tiếng. Chúng tôi luôn liếc nhìn ra cửa dè chừng Cao Ngẳng.
Cha tôi kể rằng: Tư Mắm có vẻ rất lơ là khi chăn dắt ông nên có mấy lần ông giả vờ trốn xem sao. Nhưng hóa ra không phải vậy, bọn nó giám sát ông rất chặt. Chỉ cần 30 phút không có mặt ông ngoài đường là Tư Mắm đã thông báo cho tay chân mụ Tâm và bọn chúng đã bổ ra tìm kiếm. Hai lần chúng tìm thấy: ông đều giả vờ nằm ngủ trong một góc kín hay bụi cây nào đó. Tư Mắm chửi bới, đá đít ông, bắt ông nhịn ăn buổi tối …
Mụ Tâm bất ngờ xuất hiện trước cửa, vẫy cha tôi ra.
Khi quay vào, ông nói với tôi: ông chỉ được ở lại 20 phút nữa. Mụ Tâm yêu cầu ông phải khuyên nhủ tôi ngoan ngoãn, chăm chỉ, chấp nhận đi làm lại. Chúng sẽ cho tôi nghỉ ở đây ít ngày rồi chuyển đến địa điểm làm ăn mới (tức là sẽ cho một bọn khác thuê ).
Tôi ra hiệu cho ông cúi sát xuống:
- Cha ạ, cha con mình phải tìm cách trốn về Bắc. Chúng ta không bao giờ trả được hết nợ của chúng đâu! Chúng không bao giờ thả chúng ta ra đâu!
Cha tôi nhìn tôi và nheo mắt lại. Giống như ngày xưa khi ông thưởng cho một sáng kiến nào đó của tôi. Một cái nhìn đồng tình, chia sẻ:
- Cha biết con ạ. Bọn nó là bọn buôn người, chẳng bao giờ chúng buông tha con mồi mà chúng đã săn được. Cha con ta có kiếm cho chúng mấy trăm triệu thì vẫn không hết nợ…Cha đã có kế hoạch trốn đi từ lâu – Ông thì thầm – Một mình cha thì cha đã thực hiện rồi. Nhưng cha chờ con. Hôm nay cha con mình mới có cơ hội.
Rồi ông thì thầm kế hoạch mà ông đã dày công nghiên cứu, ấp ủ:
1- Chúng tôi không thể trốn trong thành phố này được. Cha con tôi có trốn bất kỳ đâu tại Sài Gòn hay vùng lân cận, chúng cũng sẽ tìm ra. Chúng tôi phải đi thật xa. Phải trở về một thị xã, một thị trấn miền Bắc .
2- Chúng tôi không thể rời Sài Gòn bằng xe. Nhìn qua, ngỡ rằng có thể dễ dàng nhảy lên bất cứ một chiếc xe khách nào để chạy trốn. Thực ra, bọn đầu gấu quản lý các bến xe rất chặt. Chúng có thể chận xe khách, xe tải ở bất cứ tuyến đường nào. Hoặc chúng có thể gọi điện thoại thẳng cho tài xế yêu cầu bắt giữ chúng tôi, giao lại cho chúng.
3- Chỉ có một phương án tốt nhất, cha con tôi sẽ trốn ra Bắc bằng chính đường sắt. Cha con tôi sẽ nhảy tàu. Bọn ma cô ít khi canh gác ở các ga, chúng không nghĩ đến việc chúng tôi có thể nhảy tàu. Quan trọng hơn, chúng không có cách nào để bắt một con tàu phải dừng lại. Nếu chúng lùng sục đoàn tàu thì cũng có rất nhiều chỗ để hai cha con chúng tôi trốn, và thoát thân khi nguy cấp.
Trong những lần khất thực trước đây, cha tôi đã đi dọc theo nhiều đoạn đường tàu. Đã điều nghiên kỹ giờ tàu chạy, những vị trí tàu chạy chậm, những đoạn đường chúng tôi có thể nhảy tàu (nhảy tàu đó là một kỹ năng tôi đã được học từ nhỏ, còn cha tôi, ông có kinh nghiệm hơn 20 năm nhảy tàu tuyến Lào Cai- Yên Bái, Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Vinh. Chúng tôi có thể bám theo một con tàu đang chạy với tốc độ 20-30 km/h).
Ngày hôm nay, tôi sẽ đồng ý tiếp tục làm việc. Khi bọn Tâm cho tay chủ mới thuê, tôi sẽ gắng ngoan ngoãn, đóng vai một thằng bé ăn xin đần độn, chịu nghe lời, kiếm được tiền. Tôi sẽ cố gắng tìm ra một địa điểm hàng ngày khoảng 15h00 - 15h30, tôi sẽ có mặt ở đó một cách hợp lý nhất, mà tay chăn dắt không hề để ý đến.
Cha tôi sẽ thuê taxi chở ông qua địa điểm đấy, đón tôi, và chạy thẳng ra chỗ giao nhau giữa QL13 và đường sắt đi HN. Chuyến tàu SE6 sẽ qua đấy lúc 16h10. Cha tôi đã quan sát nhiều lần, trong nửa tháng qua, tàu SE6 hầu như qua đấy đúng 16h10, chỉ sai lệch ít phút và luôn giảm tốc độ, chạy chậm lại chỉ khoảng 10-15 km/h. Tốc độ mà chúng tôi dễ dàng bám được vào bậc lên xuống của đoàn tàu. Cha tôi loại bỏ tất cả những chuyến tàu đêm, hay các chuyến tàu sáng sớm, giữa trưa, chúng tôi không thể thoát khỏi sự kiểm tra của bọn chăn dắt. Hàng ngày, 14h- 16h, thường là khoảng thời gian, bọn chăn dắt nới lỏng sự kiểm soát nhất.
Ông dúi vào tay tôi một miếng giấy đã cuộn tròn lại: “Đây là số điện thoại một người tốt ba đã nhờ được, con gắng học thuộc lòng rồi xé đi. Khi nào tìm được chỗ để cha đón thì gọi báo cho cha ngay qua số máy này.
Cha tin chẳng bao lâu nữa cha con mình sẽ lại được sống với nhau như mấy năm trước.”
Tôi quay nhìn ra cửa, Cao Ngẳng hình như không chú ý gì mà đang chăm chú soi mặt vào kính chiếu hậu của xe máy để nặn trứng cá. Tôi nhét sâu mảnh giấy cha đưa vào viền áo.
Không ngờ cha tôi đã có một kế hoạch rõ ràng như vậy, và cũng đã xếp đặt đâu vào đấy. Những gì ông trao đổi với tôi hôm nay hoàn toàn trái ngược với con người chậm chạp, rù rờ của ông trước đây.
Tôi nhắc lại chuyện trung du, hỏi ông có nhớ cái trống cơm ông lấy cắp trong nhà văn hóa bên đường không? Cha tôi cười lớn, ông nói rằng: trong Nam này, đám ăn xin ma mãnh hơn ở Bắc nhiều! Chúng tôi đang cười vui thì gã Mặt Sẹo đập đánh rầm vào cửa, báo hiệu cha tôi phải đi, hắn sẽ chở trả ông lại chỗ cũ.
*
* *
Mụ Tâm chỉ để tôi lại phòng trọ có một ngày. Sáng hôm sau, mụ đã sai Mặt Sẹo đưa tôi đi. Thái độ mụ Tâm, Mặt Sẹo, Cao Ngẳng với tôi khác hẳn. Chúng không dọa nạt, quát tháo tôi như trước đây. Mụ Tâm ngọt ngào với tôi. Hai gã kia nói năng với tôi tử tế hơn.
Vẫn hai gã kẹp tôi trên xe. Nơi chúng tới có một từ nghe như là “Gõ”, sau này tôi mới biết đó là ngã năm Cây Gõ. Xe chạy khá lâu, dọc một con đường san sát nhà 4-5 tầng, cao đều một cỡ. Mặt Sẹo chạy trốn công an nên xe luôn băng qua các hẻm nhỏ. Có nơi gần như chỉ đủ một chiếc xe qua.
Hình như, đêm qua là đêm giáng sinh, sáng nay trời Sài Gòn khá lạnh, tôi rét run lên trong chiếc áo mỏng. May mà tôi bị kẹp vào giữa nên không bị gió thốc thẳng vào người. Nhiều đoạn phố trang trí thật đẹp, đèn màu giăng đầy trước hiên nhà. Nhiều nhà hàng trưng ông noen trước cửa, sang hơn có cả cỗ xe tam mã và vô khối thùng quà. Trên mái nhà còn phủ tuyết màu trắng. Nhiều người đi trên đường khoác áo da, áo ấm như ở Hà Nội. Cảnh thật đẹp và hút mắt. Tôi cứ muốn được nhảy xuống xe, rảo chơi một vòng, à nếu được có thể chụp mấy tấm hình để kỷ niệm.
Tôi chưa có một tấm hình nào để kỷ niệm.
Bé Châu từng nói với tôi: Cái máy lạ nhỉ, bấm tách một cái nó thu được hình người vào đấy. Bé Châu đã hỏi giá mất tay chụp hình rong trước nhà thờ Đức Bà: 5 ngàn đồng một tấm. Hôm nào, bé sẽ chụp một tấm để sau này khi đã thành bà Châu còn có cái ảnh để nhớ lại hồi nhỏ mặt mũi như thế nào.
Tôi cũng rất muốn chụp hình.
Lấy ra 5 ngàn xin được hàng ngày trả cho mấy tay thợ hình thì dễ nhưng giấu tấm hình đi đâu đó để đám chăn dắt không tìm thấy mới khó.
Nếu đám chăn dắt tìm thấy, tấm hình sẽ là nguyên cớ cho một trận đòn…
Mặt Sẹo lao từ hẻm ra một con đường lớn. Qua một cái cầu đang sửa chữa ngổn ngang cát đá, tới một bùng binh. Hắn đảo mắt tìm kiếm hai bên đường, rồi tấp vào quán cà phê gần một sân đậu ô tô. Hắn đưa tôi tới một gã đàn ông đen thui đen thủi, cũng cao gầy như gã Cao Ngẳng, đang ngồi võng phì phèo điếu thuốc.
- Thằng này tên là Hy. Nó nhanh nhẹn, tháo vát, khá ngoan đấy.
- Bọn mày thì đứa nào chẳng tháo vát, chẳng ngoan. Giá mụ Tâm nói qua điện thọai cao ngất ngưởng. Bọn mày cứ làm như bây giờ kiếm cừu khó lắm!...
- Ừ, mày không cần thì thôi! Không khó mà cái con bé kia nó bỏ đi cả hai tháng nay rồi mày vẫn chưa có cừu mới. Ông ạ, một mình ông chăn một cừu thì phí quá…
Cuối cùng tôi được để lại với gã đen.
Trông mặt ông ta không đến nỗi nào. Có chút gì vẫn dễ chịu hơn Đầu Cua, Đầu Rơm, chỉ nỗi da đen một màu, mặt sần sùi như vỏ cam sành, cái mũi thì dài quá cỡ.
Chờ Mặt Sẹo, Cao Ngẳng biến, ông ta bắt đầu làm việc với tôi:
- Họ tên?
- Quê quán?
- Đi ăn mày được mấy năm?
- Xin những đâu?
- Có kinh nghiệm gì?
- Khả năng ngày kiếm được bao nhiều?
Ông Đen làm việc không khác gì một giám đốc đang tuyển nhân viên. Sau khi nghe tôi trả lời, ông Đen tỏ ra hài lòng :
- Bọn nó không nói ngoa quá về mày. Nhưng còn phải coi thực tế làm việc. Bắt đầu chiều nay …
Ông Đen quản có hai cừu. Tôi và một thằng bé khác cũng đen nhẻm như ông, mặt cũng dài như ông. Hỏi ra thì nó là cháu ông ở dưới quê. Ông Đen không khoán chỉ tiêu cho cừu mà trực tiếp giám sát và thúc ép cừu làm việc. Địa bàn hoạt động của ông rất rộng và thường mỗi ngày ông chuyển đến một địa điểm mới. Lịch làm việc của chúng tôi là: sáng ông Đen chở cả hai đứa bằng chiếc xe tàng đến một địa chỉ nào đấy. Ông thả tôi và thằng Mít xuống, giao nhiệm vụ cụ thể cho 2 đứa phải đi đâu, theo tuyến đường nào, vào nhà hàng, chùa nào, rồi ông vào quán cà phê gọi một ly đen. Lâu lâu, ông sẽ chạy xe đi rảo một vòng kiểm tra hai con cừu, chấn chỉnh và hướng dẫn tác nghiệp, hay gom bớt tiền. Ông sẽ gọi tôi lại la mắng một trận, đưa ra những yêu sách mới nếu số tiền ông gom được quá ít.
- Mày làm gì từ sáng đến giờ chỉ kiếm được có vài ngàn. Mày chơi phải không? Đi đi vào nhà hàng kia! Cứ thấy ai ngồi ăn sáng là phải chìa tay xin, xin đến cùng.. 11h, phải kiếm được cho tao ít nhất hai mươi lăm ngàn. Không đủ số tiền đó nghỉ ăn trưa nhé!…
- Giỏi! Thằng này hôm nay giỏi! Mới sáng sớm mày đã gom được của thiên hạ bảy sọi rồi. Chiều nay, tao cho mày chơi điện tử …
Chẳng có trò chơi điện tử nào vào buổi chiều như ông Đen hứa. Ông gọi cho chúng tôi mỗi đứa một đĩa cơm của quán hàng bên vỉa hè, rồi chở chúng tôi về cái phòng trọ sáu mét vuông ẩm thấp chỉ có 2 mảnh chiếu và tấm ga sờn rách. Khóa trái cửa lại và quát: hai đứa ngủ đi, mai dậy sớm. Ngày mai tao với bọn mày làm việc ở chùa Ông Tế nhé. Chỉ ít phút sau ông Đen đã ngáy như sấm.
Mấy đêm đầu tôi không ngủ được. Tôi nhớ đến bé Châu, thằng Tý . Không biết thằng Tý chủ nó đưa về, nay tiếp tục kiếm sống ở đâu? Liệu tôi có gặp lại nó nữa không? Một đêm tôi mơ thấy em Châu về, ăn mặc rách rưới, đầu toác mất một mảnh. Em lặng lẽ nhìn tôi với đôi mắt buồn thăm thẳm:
- Anh ơi! Nơi em ở vắng quá. Chỉ có mình em chẳng có ai bên cạnh. Em buồn lắm …
- Em đang ở đâu, em ơi?
Em lắc lắc đầu không nói. Tôi vùng dậy, em đã biến mất…
Chắc bọn chó má kia đã vùi xác em ở một bãi đất trống nào đó.
Tôi suy nghĩ rất nhiều về kế hoạch chạy trốn của cha tôi. Hôm qua, ở chỗ vắng người, tôi đã lấy từ gấu áo ra cuộn giấy nhỏ, mở ra xem. Chỉ có một dãy số điện thoại ghi bằng mực đỏ trên đó. Tôi đã học thuộc lòng dãy số ấy và cẩn thận hơn tôi đã lấy gạch vỡ viết nó lên chân tường một ngôi nhà : 0851223…
Tôi lo lắng đến mất ngủ. Với cách chăn cừu của ông Đen, tôi rất khó tìm được một nơi như yêu cầu của cha tôi, để xuất hiện ở đó trong khoảng thời gian từ 15h – 15h30 hàng ngày. Có thể tôi sẽ phải tạo nên một địa điểm như vậy. Tôi sắp xếp một kế hoạch, một âm mưu…
Ông Đen hết sức hài lòng với tôi. Số tiền tôi kiếm được ngoài sự mong đợi của ông ấy, gần như gấp 3 lần của thằng Mít. Tôi luôn tỏ ra ngoan ngoãn, vâng lời. Đến ngày thứ 5, ông Đen không còn theo tôi kiểm tra, hướng dẫn, kèm cặp gì nữa. Ông chỉ chạy xe đón tôi vào giữa buổi để vét sạch tiền trong cái túi tôi đeo trước ngực cho vào cái túi cói của ông, miệng ngoác ra cười: “ Thằng này giỏi! Giỏi! Tối tao đãi một bữa thịt gà lè lưỡi nhé!...”. Trưa ông phát cho tôi và thằng Mít mỗi đứa một ổ bánh mì, rồi chở qua một địa điểm mới. Cứ thế đến chiều ông gom tiền và lại chuyển địa điểm một lần nữa.
Đã có hai buổi chiều, ông thả chúng tôi xuống bến xe Miền Tây vào lúc 14h. Tôi thấy đây là một địa chỉ lý tưởng theo yêu cầu của cha tôi. Và, tôi hiểu, tôi phải có cách để ông Đen sẽ thường xuyên đưa chúng tôi qua bến xe này vào thời gian mong muốn đó…
Bến xe Miền Tây quá rộng. Có mấy lối ra vào. Đặc biệt dân ăn mày, bán vé số quá nhiều. Khách đi xe ít khi cho tiền. Có vài đứa lớn tuổi coi bến xe như là địa bàn của chúng nên luôn tìm cách xua đuổi tôi và thằng Mít. Vì vậy, kiếm được tiền ở bến xe không dễ. Tôi quyết định sẽ cố gắng xin được thật nhiều tiền vào buổi sáng và tôi sẽ giấu bớt số tiền đó để đưa cho ông Đen vào buổi chiều, sao cho số tiền tôi kiếm được tại bến xe sẽ gấp đôi những nơi khác.
Khó khăn nhất là việc giấu tiền. Nếu ông Đen phát hiện ra thì tất cả kế hoạch của tôi bị đổ vỡ. Tôi không thể giấu tiền trong túi quần, áo… Mấy cái quần cái áo mua cho cừu mặc, bọn chăn dắt chọn loại không có túi. May cho tôi, ngay từ khi gặp ông Đen, khi nào tôi cũng đội cái nón lưỡi trai sùm sụp trên đầu, cái nón vải có chữ tourist xanh đỏ tôi lượm được trong sân chùa Ông Tế. Tôi quyết định giấu tiền vào giữa hai lớp mút của nón. Sau ba hôm, ông Đen khi đếm mớ tiền thu được tại bến xe, bỗng phán:
- Này, chỗ chó chết này khá đấy! Hay buổi sáng chúng ta cũng làm ăn ở đây luôn nhỉ?
May thằng Mít lên tiếng:
- Dễ gì, bị bảo vệ đuổi như chó!
Tôi đế theo:
- Buổi sáng không xin được đâu bố! Buổi sáng, bọn bảo vệ đuổi hết đám ăn mày ra ngoài đường.
- Thế hả?
Tôi thở phào.
*
* *
Dù được cha tôi hướng dẫn rất kỷ, tôi vẫn hết sức bối rối khi bước vào đại lý điện thoại công cộng. Từ nhỏ đến giờ tôi đã bao giờ gọi điện thoại đâu. Cả cái máy điện thoại cũng là vật hết sức lạ lẫm với tôi.
Tôi nhớ lời cha dặn: nhấc máy lên, nghe tiếng chuông đổ dài thì bấm dãy số ông đưa, bên kia nhấc máy, xin gặp cô Ngọc.
Có mấy lần, tôi tìm cách vào xin tiền trong các điểm điện thoại công cộng, nhìn xem cách mọi người gọi điện. Tôi thấy họ đi thẳng vào ca bin, nhấc máy bấm số, gọi, lúc đi ra mới gặp chủ đại lý thanh toán tiền.
Tôi đi thẳng vào ca bin điện thoại còn trống.
- Thằng kia, mày vào làm gì?
Người đàn ông ngồi sau quầy thu ngân làm tôi giật nảy người.
- Tui gọi điện.
- Gọi điện hả! – Ông ta nhìn tôi có vẻ ngờ vực, nhưng sau đó khoát mạnh tay- Thế vô đi!
Tôi phải kết thúc nhanh cuộc gọi vì có thể ông Đen bất thình lình hứng chí lên đi kiểm tra. Dù gần đây, đã thành lệ, buổi sáng 11h30, ông mới đến để chuyển tôi và Mít qua địa điểm mới.
Có tiếng tút dài trong ống nghe. Tôi lập bập bấm số: 0851223…. Dãy số hằng ngày tôi lặp lại hàng chục lần, nhớ như in, đêm ngủ còn mơ thấy, lúc này cứ nhảy múa trong đầu tôi.
Có tiếng reng reng rất dài.
Đầu kia có ai đó đã nhắc ống nghe:
- Hé lô! – Trời ơi giọng một thằng oắt con. Có lẽ còn ít tuổi hơn tôi.
- Cho …Cho tui gặp cô Ngọc .
- Ông…gặp…a…i?
- Em ơi! Cho anh gặp cô Ngọc.
- Cô Ngọc à. Chờ chút.
Thằng bé thả ống nghe đánh cạch . Chắc nó bỏ đi. Liệu nó có gọi giúp cô Ngọc không? Hay nó chạy đi chơi luôn!
Có tiếng chân người đi lại gần, tiếng động lạch cạch. Chắc người đó đang nhấc ống nghe.
- Tôi Ngọc đây. Cho hỏi ai đầu dây ạ?
Lâu lắm rồi, tôi mới nghe được một giọng nói nhẹ nhàng, ấm áp như vậy.
- Cô ơi! Cháu là Hy… là Hy. Cha cháu là Quý .
- Chào cháu Hy. Cô nghe đây. Cháu nói đi!
Giọng cô Ngọc giục giã. Chắc cô ấy biết tôi không thể nói nhiều.
- Cô nhắn bố Quý đón cháu trong bến xe buýt bến xe Miền Tây cô nhé!
- Cô nghe!
- Bến xe buýt nằm trong bên xe Miền Tây … Cô ơi, cô nhắn giúp cháu nhé!…
Tôi lập bập đặt máy xuống, quên cả cảm ơn.
Người đàn ông nói năm trăm đồng và nhìn tôi với đôi mắt dò xét (có lẽ tôi đang sợ nên nghĩ như vậy chăng?).
Tôi bước ra khỏi đại lý điện thoại công cộng thở dốc nhẹ nhõm. Tôi đã làm xong một công việc rất khó khăn. Tôi chỉ còn chờ cha tôi đến đón đi và chúng tôi sẽ thoát khỏi Sài Gòn. Tôi sẽ được tự do.
Mong sao trong những ngày tiếp không có lý do gì đặc biệt để ông Đen thay đổi địa điểm làm ăn của chúng tôi vào buổi chiều. Ngày hôm qua, tôi đã làm cho ông Đen ngỡ ngàng khi kiếm được 120 ngàn chỉ trong 3 tiếng đồng hồ loanh quanh trong bến xe. Chỉ tội cho thằng Mít, nó chỉ xin được có hai mươi ngàn hai trăm đồng. Nó nhìn tôi với đôi mắt hồ nghi, pha chút gen tỵ. Cũng may, nó là cháu ruột của ông Đen nên không bị ông đánh đòn hay chửi mắng. Nếu bị ông Đen hành hạ vì tội xin tiền quá kém, có khi nó sẽ sinh ra thù oán với tôi.
Bây giờ, cứ đặt chân vào bên xe Miền Tây là tôi để ý đến tất cả các chiếc taxi chạy qua. Từ 15h trở đi, tôi chỉ quẩn quanh cạnh bến xe buýt giả đò xin tiền nhưng mắt luôn nhìn chằm chằm vào những chiếc taxi. Theo kế hoạch, cha sẽ thuê taxi chạy trốn từ nơi ông đang hành khất, qua đón tôi, và chạy thẳng ra ga Bình Triệu. Cái Ga xép này từ lâu chỉ còn có tàu hàng dừng lại. Nhưng (cha tôi nói), tàu nào khi qua đó cũng giảm tốc độ xuống khoảng 15-20km/giờ. Chúng tôi hoàn toàn có thể bám vào tàu để đi đến ga Biên Hòa. Ở đó cha sẽ mua vé đàng hoàng cho hai cha con ra Hà Nội. Để có thể thực hiện được kế hoạch này, ông đã tìm cách để giành tiền mỗi ngày một ít và cất dưới một viên đá ở công viên. Không biết lần này, có an toàn không, hay viên đá ở công viên sẽ có kẻ phát hiện và lấy mất vào phút cuối. Chúng tôi lại không còn tiền đi đường! Không biết bọn chăn dắt có chuyển địa bàn hành khất của ông không?
Bao nhiêu nỗi lo lắng, hồi hộp.
Và tôi lại thất vọng đến rũ người khi kim phút đồng hồ trong bến xe mỗi chiều lại lướt qua con số 4.
*
* *
Đã qua noen nửa tháng rồi. Hình như chỉ còn mấy chục ngày nữa là tết đến. Sài Gòn không có không khí tết như những bến xe, nhà ga ở Hà Nội. Cứ trước tết khoảng một tháng, đã thấy khách mang theo đào, mứt, hoa quả chuẩn bị đón xuân. Đã thấy một vài ông già ngồi bán hoa giấy, hay câu đối. Ở Sài Gòn không có cái không khí đó. Chỉ còn hai tuần nữa là tết mà khách lên xuống xe vẫn bình thường như những ngày khác trong năm. Cũng chưa thấy ai bày bán hoa, hay kẹo mứt ngoài đường.
Chiều hôm qua mưa to, tôi không dám rời bến xe buýt, khi ông Đen đến đón quần áo tôi vẫn còn ướt rượt. Ông ta rất ngạc nhiên.
Tôi nói rằng tôi phải đứng dưới mưa vì một ông khách nhờ trông đồ để đưa lên xe, và ông ta đã cho 10 ngàn đồng. Ông Đen nghe thích chí lắm, ông cười ngoác ra: “Tối nay, tao sẽ cho mày một bữa …bữa no, no, thoải mái”.
Chiều nay, đã15h20 …Những chiếc taxi chạy vào bến đón khách từ xe buýt xuống, rồi rời đi ngay. Tôi dán mắt vào cửa kính từng chiếc taxi lòng vô cùng thất vọng…
- Hy! Hy!
Có tiếng người gọi sau lưng. Tôi quay qua. Một người đàn ông mặc áo sọc, đội cái mũ phớt màu đen trùm gần như kín mặt bên tay phải tôi.
- Hy! Đi ngay con!
Chính là cha tôi. Đi! Tôi như bị thôi miên bám theo chân ông. Cha tôi vừa đi vừa nói: chiếc taxi lạ, nên bảo vệ không cho vào bến đón khách. Ông phải cho xe chờ trước cổng, chạy vào đón tôi. Cúi sát tai tôi, ông thì thầm: “ Lên xe , không nói gì chuyện đi trốn nhé! Cứ như ta đang đi một cuốc xe bình thường ”
Chúng tôi đi ra cổng. Một chiếc taxi màu đỏ đang chờ ở đó.
- Anh chở tiếp cha con tôi ra ga Bình Triệu! - Cha tôi nói với bác tài ngay khi hai cha con vừa chui vào xe.
Đã hơi muộn rồi. Tôi nhìn đồng hồ trên taxi đã 13h35. 14h15 tàu sẽ qua ga Bình Triệu, liệu cha con tôi có kịp không ?
Rất may bùng binh Cây Gõ không bị kẹt đường. Xe chạy qua đường 3-2. Đấy là tôi đọc thấy bảng tên đường chứ tôi chưa bao giờ đi đường này. Cha tôi nắn tay, nắn chân tôi. Tôi nhìn bộ quần áo ông mặc mà muốn bò ra cười. Thì ra nếu diện vào, cha tôi trông cũng được mã chứ chẳng đến nỗi nào.
- Cha con tôi có hẹn. Ra đến cầu Bình Triệu khoảng bao nhiêu phút nữa anh nhỉ?
Người lái taxi trả lời mà không ngoái lại:
- Khoảng 25 -30 phút. Nhưng kẹt đường thì vô chừng... Qua 4h, thường kẹt ở ngã tư Hàng Xanh, Đài Liệt Sỹ. Bây giờ, vẫn hy vọng xe đi được…
Tôi thấy cha luôn mắt nhìn phía trước và phía sau xe. Hình như ông chưa nói chuyện với tôi nhiều là vì đang giành thời gian cho việc quan sát. Tôi cũng vô cùng hồi hộp. Thường 17h, ông Đen mới vào bến tìm tôi để chuyển qua địa điểm khác và thu tiền. Lúc này, nếu không có gì đặc biệt thì ông Đen vẫn đang nằm trên võng, uống cà phê, chưa hề biết tôi đã bỏ trốn. Không biết khi tôi lên xe thằng Mít có thấy không? Có ai đó để ý đến không? Lúc ấy vội vàng, tôi đã không chú ý gì đến xung quanh.
Nhớ đến việc ông Đen đi thu tiền, tôi mới nhớ tới cái túi đang đeo trước ngực. Không cần đếm, tôi biết rõ có bao nhiều tiền trong đó. Số tiền tôi dấu của ca sáng chuyển qua là 48 ngàn. Chiều nay, tôi xin được khoảng 27 ngàn. Vậy, tôi có 75 ngàn. Tôi đưa chiếc túi cho cha, ông im lặng bỏ vào cái chiếc túi lớn khất thực của nhà sư, mắt vẫn chăm chăm nhìn ra ngoài.
- Thoát rồi!- Người lái taxi lẩm bẩm – Hai cha con hên nhé!
Thì ra, chúng tôi đã chạy qua ngã năm Đài Liệt Sỹ. Đến đoạn này, tôi đã nhận ra các tuyến đường quen thuộc. Tôi đã có gần 2 tháng lê la xin tiền trong bến xe Miền Đông và những tuyến đường khu vực này.
Xe chạy khá nhanh, tôi đã nhìn thấy dốc cầu Bình Triệu. Đồng hồ trên xe đã 16h. Tôi yên tâm vì chưa nghe tiếng còi tàu. Cha tôi gần như ngồi nhổm lên, khuôn mặt lộ vẻ căng thẳng.
Xe leo lên dốc cầu. Bỗng cha tôi ớ lên một cái. Nhìn qua tôi thấy mặt ông gần như tái đi, ông cúi người và đưa tay ấn tôi nằm sát xuống băng ghế.
- Thằng Mặt Sẹo!
Tôi điếng cả người.
Ông vừa nhìn thấy Mặt Sẹo, Cao Ngẳng phóng xe vượt qua chiếc taxi chúng tôi đang đi. Lúc này taxi đã xuống hết dốc cầu. Nó chạy thêm chục mét thì đột ngột thắng gấp, đứng sựng lại. Người lái xe thét lớn: “Trời! Gì thế! ”, rồi bung cửa lao ra. Hai cha con tôi cũng ngồi bật dậy. Mặt Sẹo chặn xe máy ngay đầu chiếc taxi và nhảy chồm lên nắp capo. Cao Ngẳng mặt đỏ bừng như gà chọi gạt tài xế taxi ra một bên, lao tới kéo mạnh cánh cửa sau. Cha tôi đã nhanh tay ấn chốt khóa cửa xuống nên gã không mở được. Gã lui bước, chui vào cửa trước, nhào tới. Khi gã đưa tay để chụp lấy tôi, nhanh như chớp, thật bất ngờ, cha tôi cầm cái túi vải lên đập một cú như trời giáng vào đầu gã. Cái bình bát trong túi đập vào đầu gã phát ra một tiếng “cộc” khô khốc. Cha tôi bồi thêm hai cú đập nữa, Cao Ngẳng gục ngay xuống, lộn nhào nửa người trên ghế tài xế.
- Chạy đi con!
Cha tôi đạp cửa lao ra. Ông quật tiếp cái túi vào hai chân Mặt Sẹo làm gã ngã lăn từ trên nắp capo xuống đường. Trước mặt tôi là ngã tư Bình Triệu. Tàu đã đi qua cầu Sắt, đang kéo còi. Tôi cắm đầu cố chạy thật nhanh. Gã Mặt Sẹo chồm ngay dậy, bằng mấy bước chân dài, gã vượt qua cha tôi. Bây giờ cả ba chúng tôi đang chạy trên đường, ngay sát vào con lươn ở giữa. Mặt Sẹo chỉ còn cách tôi có mấy bước chân. Cha tôi đã vứt túi đồ, vứt cả bộ guốc mộc của nhà sư, đang cố bám sát gã Mặt Sẹo. Một tiếng huỵch làm tôi quay đầu lại. Cha tôi vừa nhào tới, chộp lấy chân của Mặt Sẹo và hắn vừa ngã một cú trời giáng xuống mặt đường.
Mặt Sẹo bò lê trên mặt nhựa, chồm lên phía trước cố thoát khỏi cha tôi. Nhưng ông đã ôm chặt chân phải của gã và đang lấy hết sức mình gìm lại. Mặt Sẹo xoay người, dùng chân trái đạp tới tấp vào mặt ông. Tôi quay lại, luống cuống không biết làm gì…
Cha tôi ngóc cái đầu vừa tránh được cú đạp bồi của Mặt Sẹo, nhìn nhanh về phía tôi, hét lên:
- Chạy đi con! Chạy ngay đi! Cha không thể theo con được! Cha sẽ gặp con sau! Chạy đi con. Tàu đến rồi!…
Tôi vẫn đứng như trời trồng. Tàu đang lao sầm sầm qua cầu sắt. Mặt Sẹo đã ngồi nhỏm dậy và đang dùng hai tay nện tới tấp vào đầu cha tôi.
- Chạy đi con! – Giọng cha tôi bỗng lạc hẳn - Con không phải là đứa trẻ mồ côi. Con là đứa trẻ bị bắt cóc. Quê con chính là thôn Giáng Trên…. Cha đã định lần này ra Bắc sẽ đưa con về đấy!…
Tôi quay đầu và chạy. Tôi cố sải những bước chân dài nhất. Trong đầu tôi ong ong: “Nhà con ở thôn Giáng Trên… Con là một đưa bé bị bắt cóc…”. Hóa ra tôi có nhà, tôi có gia đình. Tôi vẫn có cha mẹ ruột. Tôi không phải là một đứa trẻ mồ côi!… Hóa ra Giáng Trên là nơi tôi sinh ra, có lẽ vì vậy, lang thang ở trung du, một lần ông đã đưa tôi qua đó, đi loanh quanh mà chẳng xin xỏ gì. Tôi nhớ cái thôn nhỏ an bình ấy có rất nhiều bức tường đẹp, xây bằng đá ong. Sân nhà ai cũng nở vàng hoa mướp… Rất nhiều hoa mướp vàng và ong mật. Buổi trưa, cha con tôi ghé qua, không gian thật tĩnh lặng, nghe rõ cả tiếng vo vo của lũ ong mật đang bay…
Chạy một đoạn xa, tôi còn nghe tiếng ông gọi vọng theo:
- Hy … Cha xin lỗi con! Cha xin lỗi con!...
Tôi đã vượt qua đám xe máy đứng chờ đèn đỏ. Tôi đã vượt qua hàng rào chắn. Bây giờ, tôi chạy song song với đoàn tàu. Những toa tàu cuối cùng đang sầm sầm lướt qua. Tôi lấy đà, nhảy bay lên. Tôi nhảy theo đúng kinh nghiệm nhảy tàu của mấy năm trước, phải bay xuôi theo đoàn tàu và nhảy sớm hơn vị trí muốn bám vào một bước chân.
Tôi thấy mình đang trở về với làng nhỏ Giáng Trên.
KẾT II Gã Mặt Sẹo cuối cùng đã rút được cái dao bấm, gã phóng thẳng vào mặt ông Quý. Ông gục xuống, hai bàn tay buông rời ra, máu tuôn xuối xả xuống đường. Gã Mặt Sẹo lao lên đuổi theo Hy. Khi gã chạy đến hàng rào chắn, Hy đã bắt nhịp kịp toa tàu cuối cùng, chuẩn bị nhảy lên. Biết không thể chạy kịp, gã cúi xuống nhặt một cục đá bên vệ đường nghiến răng ném theo. Khi ấy, Hy đang bay theo chiều chuyển động của con tàu. Tay nắm cửa inox màu trắng sáng lên lạ thường trong ánh nắng gắt buổi chiều, bên trái mắt Hy…
An Phú, ngày cuối năm.
Đặng Chương Ngạn
facebook:
https://www.facebook.com/...ref=nf&pnref=story
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.11.2017 09:32:16 bởi Cỏ Răng Cưa >