MÂY BAY VỀ NGÀN
lamongthuong 06.12.2017 13:32:33 (permalink)
 
 
MÂY  BAY  VỀ  NGÀN
 
Cẩn chú: Xin chân thành cảm nhận cảm nghiệm của quý bậc thức ngộ và ghi ơn quý tác giả, dịch giả mà những câu nói được trích từ các tác phẩm:

ACHB: Ai Cập Huyền Bí; nguyên tác: A Search in Secret Egypt; Nguyễn Hữu Kiệt phỏng dịch; Xuân Thu; CA, USA; 1988.
BRTS: Bên Rặng Tuyết Sơn; Nguyên Phong phóng tác từ tác phẩm (?) của Swami Amar Jyoti; Làng Văn; Ontario, Canada; 1998.
CCCTN: Cái Cười của Thánh Nhân; Nguyễn Duy Cần; Đại Nam; CA, USA; (?).
CD: Chu Dịch; Phan Bội Châu; Xuân Thu; CA, USA; (?).
CDHG: Chu Dịch Huyền Giải; Nguyễn Duy Cần; Tủ Sách Thu Giang; (?).
CNCĐ: Chấp Nhận Cuộc Đời; Luise Rinser; Nguyễn Hiến Lê dịch; Sài Gòn, VN; 1971
CTC: Chí Tôn Ca; Bhagavad Gità; Quang Hoa dịch; Center for Cultural Development; Saigon, VN; 1971.
DGLPCN: Du Già Lục Pháp của Naropa; Garma C. C. Chang; Ni sư Trí Hải dịch; Trì Minh Thất ấn tống; TX, USA; 1997.
ĐĐK1&2: Đạo Đức Kinh I&2; Lão Tử; Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch. Xuân Thu; Houston, TX; USA; ?
DKYC: Dịch Kinh Yếu Chỉ; Nguyễn Văn Thọ; Tác giả xuất bản; USA; 1997.
DTCN: Dược Tính Chỉ Nam; Hạnh Lâm Nguyễn Văn Minh; Xuân Thu; (?).
ĐBCT: Đôi Bạn Chân Tình; Hermann Hesse; Vũ Đình Lưu dịch; Ca Dao, SàiGòn, VN; 1969.
ĐMQXT: Đường Mây Qua Xứ Tuyết; Anagarika Govinda; Nguyên Phong dịch; Làng Văn; Ontario, Canada; 1994.
ĐPHB: Đông Phương Huyền Bí; Nguyễn Hữu Kiệt dịch; Xuân Thu; CA, USA; 1988.
ĐPVPP: Đức Phật và Phật Pháp; Narada Maha Thera; bản dịch Phạm Kim Khánh; Xuân Thu; CA, USA; 1971. Viết Tắt: ĐPVPP.
ĐTNN: Đông Tây Ngụ Ngôn; Ôn Như Nguyễn văn Ngọc; Xuân Thu; California, U.S.A; (?).
ĐTPG: Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận; Kimura Taiken; Thích Quảng Độ dịch; Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh; VN; 1969.
EM: Encyclopedia of Mysticism and Mystery Religions; John Ferguson; Crossroad; New York, U.S.A; 1982.
GLTH: Biện Chứng Giải Thoát Trong Giáo Lý Trung Hoa; Nghiêm Xuân Hồng; Xuân Thu; CA, USA; 1991.
GTTLT: Giải Thoát Trong Lòng Tay I & II; Pabongka Rinpoche; Thích Nữ Trí Hải dịch; Xuân Thu; CA, USA; 1998.
HTTT: Huyền Thuật và các Đạo Sĩ Tây Tạng; Mystiques et Magiciens du Thibet; Alexandra David Neel; 1929; Nguyên Phong phỏng dịch; Làng Văn; Toronto, Canada; 1992.
HTVPĐ: Hành Trình về Phương Đông; Nguyên Phong dịch; Người Việt; CA, USA; 1993.
JOL: The Jewel Ornament of Liberation; Sgam.Po.Pa.; Herbert V. Guenther dịch sang Anh ngữ; Shambala Publications, Inc. CA, U.S.A; 1971.
KCGL: Kim Cang Giảng Luận; Thích Thanh Từ; Thành Hội Phật Giáo; TP Hồ Chí Minh, VN; 1993.
KCĐĐ: Kim Cang Đại Định; Nawami; Thuần Tâm dịch; Xuân Thu; CA, USA; 1989.
KLGTÂ: Kinh Lăng Già Tâm Ấn; Thiền Sư Hàm Thị; Thanh Từ dịch; Tu viện Chơn Không; Vũng Tàu; VN; 1975.
KPBĐ: Kinh Pháp Bảo Đàn; Lục Tổ Huệ Năng; Thích Minh Trực dịch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA, USA; 1987.
KPMKD: Những Khám Phá Mới về Kinh Dịch; Đào văn Dương; Microseis Technologies, Inc.; Houston, Texas, U.S.A; 1994.
KT: Kinh Thánh; Nguyễn Thế Thuấn, DCCT dịch; Dòng Chúa Cứu Thế, Việt Nam; 1975.
KTG: Kitô Giáo Dưới Mắt Một Phật Tử; Đại Sư Buddhadàsa; Nguyễn Văn Tùng & Nguyễn Bá Tùng dịch; Định Hướng Tùng Thư; USA; 1996.
KTTP: Kiến Tính Thành Phật; cassette tape; HT Thích Thanh Từ; Pearland, TX, USA; (?).
KVG: Kinh Viên Giác; Thích Thanh Từ; Thiền Viện Trúc Lâm, Đà Lạt, VN; 1997.
LDĐP: Những Ngày và Những Lời Dạy Cuối Cùng của Đức Phật; Thích Minh Châu dịch; Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành 1967; Xuân Thu; CA, USA; 1997.
LĐGLPG: Vài Luận Đề Về Giáo Lý Phật Giáo; Dalai Lama; Nguyên Châu dịch; Xuân Thu; CA, USA; 1997.
LTĐĐK: Lão Tử Đạo đức Kinh; Hạo Nhiên Nghiêm Toản dịch; Đại Nam; (?;?).
MCTĐT I: Ma Chướng Trên Đường Tu I; Nghiêm Xuân Hồng; Xuân Thu; CA, USA; 1998.
MGTT: Cơ Sở Mật Giáo Tây Tạng; Trần Ngọc Anh dịch; Thế Giới; CA, USA; 1995.
NTGG: Nguồn Thiền Giảng Giải; Thích Thanh Từ; Xuân Thu; CA, USA; 1997. 
NHK1&2: Nam Hoa Kinh I&2; Lão Tử; Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch. Xuân Thu; Houston, TX; USA; ?
NTNH: Nguồn Thiền Như Huyễn; Nghiêm Xuân Hồng; (???); U.S.A.
NVTH: Nẻo Vào Thiền Học; Nhất Hạnh; Lá Bối; Sàigòn, VN; 1971.
OM: Oriental Mysticism; Edward Stevens; Paulist Press; New York, Paramus, Toronto; U.S.A; 1973.
PBĐK: Pháp Bảo Đàn Kinh; Mai Hạnh Đức dịch; Hội Phật Giáo BaLamật; Houston; TX, USA; 1989.
PG: Phật Giáo; Tuệ Quang Nguyễn Đăng Long; Trường Sơn; Sài Gòn, VN; 1963.
PHTH: Phật Học Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Đại Nam; CA, USA; (?).
PXH: Phép Xuất Hồn; Đỗ Thuần Hậu; Đại Nam; California, U.S.A; 1994.
SCTT: Sáu Cửa Thiền Thất; Bồ Đề Đạt Ma; Trúc Thiên dịch; Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản; CA, USA; 1987.
TBS: Tâm Bất Sinh; Thiền sư Bankei; Thích Nữ Trí Hải dịch; Thanh Văn; California, U.S.A; 1997.
TCM: The Catholic Myth; Andrew M. Greeley; Collier Books; New York, U.S.A; 1991.
TĐĐT: Thập Đại Đệ Tử; Thích Tinh Vân; Như đức dịch; Ấn Tống; CA, U.S.A; 1997.
THĐHĐP: Tinh Hoa Đạo Học Đông Phương; Nguyễn Duy Cần; Tủ Sách Thu Giang; (?), Việt Nam; 1972.
THTL: Thần Học Thiêng Liêng I & II; Hoành Sơn Hoàng Sỹ Quý, S.J.; Thời Điểm; CA; USA; 1997.
TL: Transformed by the Light; Melvin Morse, M.D.; Ballantine Books; New York; 1994.
TLPTC: Triết Lý Phật Thích Ca; Ngọc Liên; Tri Thức; Xuân Thu; (?).
 TTÂĐ: Biện Chứng Giải Tht trong Tư Tưởng Ấn Độ; Nghiêm Xuân Hồng; Xuân Thu; CA, USA; (?).
TTHB: Tây Tạng Huyền Bí; Lạt Ma Lobsang Rampa; Nguyễn Hữu Kiệt dịch; Xuân Thu; USA; 1988.
TTNHK: Trang Tử Nam Hoa Kinh; Nguyễn Duy Cần; Tập Iⅈ Đại Nam; California, U.S.A; 1994.
TTSC: Tạng Thư Sống Chết; Sogyal Rinpoche; Xuân Thu; CA, USA; 1996..
TTTH: Trang Tử Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Đại Nam; California, U.S.A; (?).
TTTT: Tử Thư Tây Tạng; Padma Sambhava; Hoàng Thái dịch; Xuân Thu; CA, USA; 1997.
TTvNHK: Trang Tử và Nam Hoa Kinh; Nguyễn Hiến Lê; Văn Hóa; (?).
: Tân Ước; Một nhóm dịch giả; Tòa Tổng Giám Mục Giáo Phận TP HCM, Việt Nam; 1994.
VĐLN: Vân Đài Loại Ngữ; Quế Đường Lê Quý Đôn; Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải; Tự Lực; (?).
VNVT: Vô Niệm Viên Thông; Thích Minh Hiền; CA, USA; 1995.
XDNSQ: Xây Dựng Nhân Sinh Quan; Nghiêm Xuân Hồng; Đại Nam; California, U.S.A; (?).

 
- Phật cáo tu bồ đề: chư bồ tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng, ngã giai linh nhập. Vô dư niết bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biến chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu bồ đề, nhược bồ tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi bồ tát... (KCGL; Tr.22-23).

Hưng ngồi ghế đầu dãy bàn dài, lim dim cặp mắt, dường như để tâm trí bay bổng nơi cõi hư vô; chiếc đầu theo thân mình nhẹ nhàng chuyển động hòa cùng lời kinh tiếng Hán pha lẫn Phạn buông lơi từ cửa miệng chẳng khác chi nhà sư đang cầu siêu. Gần nửa tiếng đồng hồ nghe mà chỉ những giọng ngân nga loại ngôn ngữ tối mù, tiếng Việt không ra Việt, Tàu không ra Tàu, nói gì những sắc sắc, vô vô, nhược nhược, phi phi, khiến cái đầu Sỹ quay quay mà vẫn chưa thấy gì về điểm chính yếu của Phật học. Hắn nổi cơn bực:
- Thôi, thôi, thôi! Đủ rồi, đủ rồi, cái giọng ông giống như sư cụ tụng niệm cầu siêu! Kinh sách thì kiếm đâu chẳng có; ai đọc không được, và dẫu có đọc cả đời cũng không hết. Ông làm ơn nói một câu thôi, chỉ cần cho chúng tôi biết mục đích hay ý chính của Phật học là gì. Bộ ông tưởng chúng tôi không biết chữ hay sao nên cần gom tụ về đây nghe ông nhai lại những điều đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen!
- Tôi giảng kinh Kim Cang. Dẫu đang ê a cố lấy giọng tụng kinh, Hưng đã vội phát ngôn thành lời kẻ cả của diễn giả. Bộ ông không biết Lục Tổ Huệ Năng nghe lóm được một câu kinh Kim Cang khi đi ngang nhà một bà già đang tụng niệm mà thành chánh quả sao? (GLTH; Tr.162). Giảng kinh thì phải trình bày kinh cho đúng với lề lối nhà Phật. Giảng kinh mà không tụng kinh thì tụng điều chi? Cầu Trời khấn Phật ai không biết; ngược lại, nào ai nhận ra mình chỉ cầu điều không biết hoặc chẳng nên, ấy là chưa nói đến cầu những điều làm mình luẩn quẩn trong vòng vô minh!
- Không chánh quả, phụ quả chi hết! Chúng tôi chỉ cần ông nói điểm chính yếu của nhà Phật chứ ông đã chánh quả đâu mà đòi giảng kinh. Kinh Phật còn đó, ai tụng không được! Xin ông làm ơn dẹp cái giọng nghênh ngang, lè nhè của ông đi cho chúng tôi nhờ.
Thế là nhóm họp trở nên ồn ào như vỡ chợ bịt cả miệng giảng viên. Kẻ nói câu này, người chêm lời diễu khác chẳng ai để ý vì ai cũng thích nói. Cuối cùng Sỹ hô lên:
- Yêu cầu im lặng, mọi người nên im lặng để nhà con đòi hỏi diễn giả tóm tắt sự khôn ngoan nơi kinh Phật. Đoạn hướng về phía Hưng, Sỹ thao thao ra lệnh. Ông nên nhớ, người ta nói "kinh nhà đạo, gạo nhà chùa," chứ đâu phải kinh nhà Phật mà ông cố ù lì cò cưa mất giờ ăn nhậu. Cho ông một phút, chỉ một phút thôi, vì nếu một phút mà ông không nói được điều muốn nói thì cả đời cũng chẳng nói được. Nếu ông đã biết thì nói toạc móng heo cho đỡ mất giờ, không biết dẫu cho lè nhè cách mấy cũng chẳng nói được gì. Nói lẹ, nói gấp, nếu không yêu cầu hội đồng tuyên án phạt.
Nét mặt Hưng vẫn lộ vẻ nhỡn nhơ, chừng như không để ý đến những lời nói và thái độ hùng hổ do "đến cơn" thèm nhậu của Sỹ "nhà con" được phụ họa bởi sự ồn ào nơi mười mấy cái mỏ bàn ra tán vô, rình cơ hội có người đề nghị tuyên án phạt để vào hùa, cùng cổ võ cho cái công lý nơi tòa án bạn bè tự do phát biểu theo kiểu dân chủ, đa số thắng tiểu số; mặc dầu lý lẽ nhiều khi chẳng đâu vào đâu miễn sao có kẻ lên tiếng yêu cầu hội đồng tuyên án, do biết rõ, cả hai bên bị cáo và nguyên cáo lúc nào cũng sẵn sàng tuyên dương công lý bằng cách cùng bàn nhậu nhoẹt; vì nay anh, mai tôi, dân nhậu là thế, nào có lọt đi đâu mà e ngại thiệt thòi. Biết vậy, Hưng thầm nghĩ cách gài Sỹ bị phạt làm bữa nhậu tới, bèn giơ tay ra hiệu cho mọi người bớt ồn ào đoạn lấy giọng nghiêm trang lên tiếng:
- Tôi có lời yêu cầu chủ tịch hội đồng giải thích về sự luận xử kẻ gây rối lúc diễn giả đang giảng kinh khiến khán thính giả bị đình trệ cơ hội thức ngộ.
- Lúc này không phải là lúc giải thích, giải yêu, hay giải bùa, mà là tuyên án về tội lè nhè uổng phí thời giờ và làm chậm trễ cơ hội thức ngộ của mọi người. Nhà con cực lực yêu cầu hội đồng ra lệnh phạt. Sỹ bất chấp, chỉ nằng nặc kiếm cớ gây án nhậu, lại dùng ngay ngôn từ "thức ngộ" thường được Hưng nhấn mạnh lúc nói kinh Phật với ý đồ dùng gậy ông đậy lưng ông.
 
Sỹ hay dùng tiếng "nhà con" mang đầy vẻ lễ độ, khách sáo, nhưng ý nghĩa ám chỉ ngang bằng phải lứa anh, tôi, vì danh xưng "nhà con" là tiếng người Bắc hay dùng để chỉ người phối ngẫu khi nói chuyện với những bậc trưởng thượng. Trong khi nói chuyện với bạn bè, Sỹ dùng ngôn từ này với ý chỉ chính mình nên có biệt danh là "Sỹ nhà con". Hơn nữa, nơi vùng bờ biển nhỏ bé chẳng được bao nhiêu gia đình Việt Nam cư ngụ mà có những ba người tên Sỹ; bởi vậy, khi nói đến tên, người ta nhắc kèm danh hiệu cho dễ phân biệt. Một Sỹ mang danh hiệu "Trùm" vì ngày xưa, hồi còn trẻ, cụ trùm này nói tục văng mạng nên được gán cho biệt danh "trùm tục." Một Sỹ khác có biệt hiệu "Sỹ gáy." Ngữ này nổ tào lao thiên tướng. Nói chuyện về bất cứ vấn đề gì hắn ta cũng tỏ ra đã thừa biết, dầu chẳng biết gì ngoại trừ tên câu truyện vừa được nhắc tới. Hắn ta hay dùng câu "tớ đã biết thừa" nên cũng được gọi là "Sỹ biết thừa;" sau này mấy người quen đổi thành "Sỹ gáy." Gáy là tiếng lóng có nghĩa như nổ nên biệt hiệu của hắn thay đổi cũng chẳng lạ gì. Sỹ nhà con đã nhiều lần kiếm cớ và thường được mọi người hưởng ứng nên cố nhấn mạnh "lệnh phạt."

Thế là cả bọn khán giả đồng loạt to miệng a-rua, phạt, phạt, phạt, kèm theo những tiếng vỗ tay nhịp nhàng cổ võ ý kiến tuyên án. Nói rằng cổ võ mới đúng, vì nào ai lạ gì, bạn bè lại sắp có thêm cơ hội, hè nhau chia sẻ tiết canh vịt hoặc vịt nấu chao, tái ngan hay nhúng giấm, cá gỏi, cá hấp, đâu dễ chi được họ bỏ lỡ. Thế nên, cứ vung vít hùa theo, kẻ cổ võ lại đứng vào phe nguyên cáo, đàng nào cũng có lợi, bởi đúng, sai, phải, trái, đâu không biết, nhưng bên nào bị phạt họ cũng đều được vinh quang tham dự, ly anh, chén tôi cùng nâng cao tuyên dương công lý của kẻ to miệng.
- Tôi không chống án nhưng tôi chỉ yêu cầu hội đồng xét xử cho công bình, hợp lý, hợp tình, tránh điều oan ức cho bất cứ ai. Tất nhiên, án phạt đã được quyết định; vấn đề chỉ là ai phải thi hành án phạt mà thôi. Hưng lại giơ tay, nói rõ từng tiếng lấy lại trật tự.
- Tuyên án, tuyên án. Mời chủ tịch hội đồng lên tiếng. Dăm cái mỏ thúc giục.
- Hãy khoan, tôi chưa nói xong. Nguyên cáo Sỹ dám thách thức tôi tổng kết sự khôn ngoan của lời kinh Phật trong vòng một phút. Tôi sẽ thực hiện với chỉ một câu. Vậy nếu tôi thi hành chu toàn nhiệm vụ này, phỏng án phạt có được trao cho kẻ to miệng phá đám làm mất thời giờ của hội đồng không? Tôi chỉ muốn được xét xử cho công bằng; kẻ gây rối phải được trị tội và đồng thời cũng là cơ hội nêu cao công lý ngăn ngừa ý đồ nước đục thả câu. Xin ông chủ tịch phát biểu.
- Không cần chủ tịch lên tiếng, nhà con dám thách đố, nếu diễn giả chỉ nói một câu có thể gom tóm sự thức ngộ kinh Phật, nhà con bằng lòng chịu phạt không ý kiến, không kêu nài chống án.
- Ý kiến hay, ý kiến hay. Hoan hô Sỹ nhà con. Chỉ một câu thôi, nếu nói câu thứ hai sẽ bị phạt. Hoan hô, lại những tiếng vỗ tay khuấy vào cảnh ồn ào như vỡ chợ được phụ họa với những nét mặt tươi rói. Bia bung tiếp tục thi nhau lách tách nổ chào mừng công lý sắp sửa hạ màn kiến tạo cơ hội. Thế là chắc như bắp, chẳng Hưng thì Sỹ phải thi hành án phạt; mọi người đều cảm thấy phấn khởi vì sắp có thêm dịp nhậu. Chính lúc ấy, trưởng hội "mới bị ép buộc" chẳng đặng đừng phải nhận lãnh trách nhiệm, đành đứng dậy giơ hai tay đàn áp cảnh ồn ào.
- Nhân danh chủ tịch hội đồng, yêu cầu mọi người im lặng chuẩn bị tuyên bố án lệnh. Trước hết, bị can diễn giả thi hành chức vụ với một câu nói để hội đồng nhận định tùy cơ quyết định. Mời diễn giả lên tiếng.
- Tỳ kheo thân mến, đây là điểm rốt ráo của nhà Phật.
- Hết một câu. Yêu cầu hội đồng tuyên án. Sỹ nhà con vội lên tiếng chụp cơ hội.
- Tôi chưa nói hết câu, đây mới chỉ là phần mở đầu giới thiệu.
- Một câu là một câu, không cần biết giới thiệu, quảng cáo chi hết. Sỹ nhà con lý luận.
- Ngày xưa đức Thích Ca sau bốn mươi chín năm giảng lẽ Phật học mà vẫn chưa nói gì, thì tôi đã nói chi đâu! Yêu cầu chủ tịch cho ý kiến.
- Đã hết phần giới thiệu, bây giờ đến câu nói tổng kết kinh Phật. Bị can diễn giả được phép nói. Ông Thung giơ tay dàn xếp.
- Trong Lâm Tế Lục có câu, phá hết, bỏ hết, "Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ" (NVTH; Tr.63), gặp pháp bỏ pháp, không tin ai nói, không để kẻ nào hay bất cứ sự khôn ngoan hoặc lý thuyết nào đánh lừa, mê dụ.
 
Mọi người đang kiếm cách phá đám, chê trách diễn giả lòng thòng rắc rối làm mất thời giờ thưởng thức món rùa rang muối đã được thông báo trước khi nghe giảng kinh Phật thì lại chợt ngỡ ngàng vì câu nói của cũng anh chàng diễn giả lè nhè khiến những chiếc mũi như bị tịt, quên cả mùi sả cháy lẩn quất lan vào không khí được bốc ra từ lò nướng nơi nhà bếp lan tới.
- Ông nói sao? Gặp Phật giết Phật thì còn gì để nói? Gặp pháp bỏ pháp sao trở thành Phật? Phải phạt! Không thể châm chước! Yêu cầu hội đồng dự thính phạt ông thầy lè nhè này năm két bia vì dám lộng ngôn xúi bậy. Hiểu hay không chẳng cần biết, Sỹ nhà con mượn cớ dùng lẽ cả vú lấp miệng em cố gán ép cho Hưng phải làm bữa nhậu.

Câu nói vừa thoát ra từ cửa miệng Hưng khiến mọi người cảm thấy bàng hoàng vì không ngờ hắn dám bạo miệng như thế. Mới đầu ê a kinh Phật mà đến khi tóm tắt lại phá hết, bỏ hết, giết cả Phật, cả tổ thì còn thói phép nào bậy hơn! Bao nhiêu người xưa nay không dám dẫu chỉ nói diễu về Phật, nhất là đạo Phật, vì nói đụng đến tôn giáo là điều tối kỵ bởi phần nào mang tính cách khinh khi niềm tin của kẻ khác. Đàng này, Hưng nói về kinh Phật mà câu nói còn quá người chống báng, chế diễu, khiến một vài người cảm thấy máu nóng bốc lên tạo thành tâm trạng khó chịu, bực bội với kẻ nói câu ngang ngược. Và mấy cánh tay giơ lên tỏ ý muốn phát biểu. Ông Thung cũng cảm thấy bối rối không kém.
 
Không ngờ Hưng dám bạo mồm miệng đến như thế! Mà nào hắn đã uống bao nhiêu đâu, mới có hai chai Heineken thì làm sao có thể khiến đầu óc cái thùng chứa ấy bị ảnh hưởng sinh sự lộn xộn được. Mấy người giơ tay có vẻ bị đụng chạm tự ái, mặt nào mặt nấy lộ nét căng thẳng. Phải dẹp cái miệng chú này thế nào đây, âu cũng tại mình đưa ra đề nghị khiến giờ bị bối rối; ông thầm nghĩ mà cảm thấy lòng ruột nhộn nhạo, miệng lưỡi luống cuống không biết ăn nói kiểu nào để có thể xoa dịu mấy cánh tay đang giơ cao vì tự ái tôn giáo bị tổn thương.

* * *

Trưởng hội đồng dáng người vừa tầm, hơi có chút da thịt, và dễ thương, độ chừng năm mươi mấy, gần sáu chục. Một người khắc kỷ như ông Thung mà giữ chức quan tòa quyết định việc thưởng phạt của hội đồng nhố nhăng vô trật tự, được phụ họa bằng những cái mỏ coi trời bằng vung, kể cũng là chuyện hiếm có. Mấy năm trước kỳ mới quen những người trong nhóm nhậu, ông Thung rất ít nói, ngược lại, khi nào lên tiếng chỉ luôn luôn đưa ra những nhận định đúng, sai, phải, trái, nên thế này, chẳng nên thế kia liên hệ tới vị thế người phát biểu. Ông ít nói có lẽ vì nhận thấy quá nhiều người nói những điều theo ông nghĩ chẳng nên nói nơi vai trò của họ. Vẻ bên ngoài nghiêm trang, kín đáo, thêm phần chừng mực tạo nơi lòng người đối diện với ông sự kính nể, tôn trọng, đồng thời không tránh thoát nỗi e dè. Tuy nhiên, từ khi quen với Hưng nhân một hôm hai người tham dự đám cưới, dần dà ông bị cuốn hút đàn đúm với nhóm to miệng này. Sự thay đổi bản chất khắc kỷ và nhãn quan eo hẹp đến với ông kể cũng chua cay nhưng đem lại lợi ích cá nhân lớn lao xét về phương diện ý thức. Nguyên nhân gây nên sự thay đổi lại chính là Sỹ nhà con to mồm, ông ổng phát ngôn giữa bàn nhậu về giá trị sự sống nhân lúc mọi người đã ngà ngà.
- Đời đáng sống hay không đáng sống thì nói làm quái gì! Đâu phải tự mình muốn được sinh ra mà đặt vấn đề giá trị hay không! Tôi hỏi các ông, mẹ các ông đâu bao giờ hỏi ý kiến các ông có muốn chui ra khỏi bụng mấy bà ấy hoặc được phép nằm lỳ đến lúc nào chán thì bò ra đâu! Thế nên, mình được sinh ra, nói cho đúng, bị sinh ra để sống thì cứ sống. Hơn nữa, trước khi đặt vấn đề giá trị sự sống thì mình đã và đang sống. Do đó chúng ta chẳng phải trở nên cái quái gì cả! Bộ không làm được ông nọ bà kia chẳng lẽ mình chỉ là những xác chết biết thở? Tôi nghĩ, ai muốn làm ông nọ bà kia hãy coi chừng có ngày lãnh thẹo chứ hay ho gì mà cũng tốn hơi bàn luận.
 
Sỹ nhà con xưa nay ồn ào, náo động ngược lại ít bị phản đối vì hắn có lối lý luận trộn lẫn những ý tưởng đang bàn thảo và thực tại coi bộ ngây ngô nhưng nghe hợp tình, hợp lý, đồng thời lắm lúc đưa lên mặt trái của những vấn đề thường tình khiến người nghe thấy ngạc nhiên, thích thú. Hắn lại thích diễu, dám nhảy xổ vào bất cứ câu chuyện nào dù quan trọng, trang nghiêm hay nhàn đàm, bẻ quặt bẻ quẹo ý nghĩa của lời vừa được nói theo chiều hướng khác với ý định của kẻ phát biểu, khiến đôi khi người nói bị mang vạ chẳng ngờ để rồi đành chấp nhận bị phạt bằng bữa nhậu. Tất nhiên, rượu vào, lời ra, mà khi đã chếnh choáng hơi men giữa đám bạn bè quen biết, mấy ai để ý đến lời nói. Có chăng, giới xồn xồn lúc xỉn xỉn chỉ kiếm cách nói cho vui, càng phá ngang nhiều càng tốt vì càng bới ra lắm chuyện để nói. Khổ nỗi, dẫu đàn đúm với nhóm nhậu, ông Thung lại không biết uống bia. Có lần bị ép quá, ông ráng cầm hơi, nín thở chịu đựng nửa lon bia, và chỉ mấy phút sau nằm lăn ra salông để cho trời đất xoay vần. Sỹ nhà con ngay hôm ấy thêm vào tên ông một chữ thị, "Thị Thung." Đã thế, hắn vẫn không tha, cứ kiếm cách này, lý kia bắt Thị Thung thực tập đức tính "nam nhi tri chí" theo ý riêng biện luận dựa vào câu, "Nam vô tửu như kỳ vô phong." Trước khi nhậu chưa thanh tẩy lòng ruột thì chưa được gắp, hắn tự bày ra luật nhậu bắt Thị Thung phải làm một hớp, mượn cớ không súc miệng bằng hơi men sẽ làm giảm phẩm chất món nhậu, và như vậy là khinh thường, bôi bác công lao nấu nướng của đầu bếp. Thỉnh thoảng trong lúc nhậu, hắn lại kiếm cớ nọ, nguyên nhân khác phạt một hơi bia. Mới chỉ qua mấy lần gặp gỡ ly anh chén tôi, Thị Thung tiến bộ trông thấy, đã đưa cay được một lon "bất oai." Lần tiếp theo nhân có thằng bé vừa đúng năm tuổi, Sỹ nhà con làm tiệc mời nhóm họp mượn cớ khai tâm cháu nhỏ. Chẳng hiểu bị lây hay ngứa miệng thế nào mà Thị Thung hôm ấy, lúc sắp nhập tiệc, lên tiếng hỏi nghi thức khai tâm. Và thế là Sỹ mượn cớ, lôi ngay chai Napoléon ra khui, miệng cười vui vẻ, liến láu bàn về chữ khui cũng có nghĩa là khai để tạo nghi thức. Lấy trong tủ chén chiếc ly nhỏ làm mẫu mực ăn đồng chia đều kèm theo câu "Tửu bất khả ép, mà đã ép thì bất khả từ, và nếu từ tất bị phạt," tướng nào tướng nấy vui vẻ nâng ly mừng khai tâm cháu nhỏ. Thật tội cho Thị Thung, trong khi cháu nhỏ chẳng thấy đâu chỉ thấy người uống rượu vừa khui. Rồi ly rượu vẫn phải cạn, Thị Thung nín hơi nhăn mặt thi hành nhiệm vụ kết quả lỡ ngứa miệng nhắc tới nghi thức khai tâm mà mắt nổ đom đóm. Và cũng từ đó, hình như chất rượu nặng mới thử một lần đã thấy công hiệu giúp con tì con vị Thị Thung làm quen với bia dễ dàng hơn.

Vào thời buổi này ông Thung xóa được tên đệm "thị" vì đã có thể thanh toán những ba lon bia mỗi lần nhậu. Lẽ đương nhiên "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng," đàn đúm với nhóm nhậu lâu dần thành quen; vả lại, khi men bia thấm nhập, người nghiêm chỉnh đến mấy cũng khó mà để ý về lời ăn tiếng nói của mình. Sau mấy lần uống ngà ngà, ông Thung có những câu lỡ lời. Dĩ nhiên, đã lỡ lời, dẫu ăn năn thì cũng quá muộn; sự kiện này giúp ông nhận ra phần lợi ích của lầm lỗi nơi mọi người; chính những gì không nên không phải được gọi là lầm lỗi đã trở thành điều kiện, nói đúng hơn, thày dạy mình chấp nhận lầm lỗi nơi những người chung quanh thay vì phê bình, lên án. Đàng khác, ngoại trừ nố ham mê chè chén say sưa đến độ mất ý thức nhân phẩm, khi chếnh choáng, con người dám sống thật với lòng mình. Có lẽ đây cũng là cơ hội cho ông Thung tự nhận chân nhiều hơn, và cũng có thể bởi có cơ hội nói chuyện nhiều với những người quen biết không cần để ý đến hình thức phát biểu nên ông trở nên cởi mở hơn.
 
Bữa nhậu đã nửa chừng, ông Thung vừa mới thanh toán xong chai bia thứ hai nên hơi sừng sừng, nghe Sỹ nhà con lý luận loanh quanh, lái đàng nọ, quẹo đàng kia bèn đế vô,
- Chú mày nói thế thì cần gì phải sắm nhà lầu, mua xe tốt, và mặc quần áo cho đẹp. Và nếu nói được sinh ra để sống thì cứ sống, tất nhiên chuyện ông nọ bà kia làm sao mà có thể tránh được nơi một xã hội rừng rú, mạnh được yếu thua.
Mọi người nơi bàn nhậu ngỡ ngàng vì không ngờ ông Thung dám đế vô đấu với cái mỏ Sỹ nhà con. Đúng là chuyện khó tin nhưng có thật. Chẳng những thế, ông ta lại dám ngầm hiểu ý nghĩa câu nói theo kiểu truyện Trạng Quỳnh, về chuyện ông nọ bà kia.
- Phép lạ xảy ra, phép lạ xảy ra. Tình lên tiếng, phỏng chốn dương gian mấy ai có thể hiểu.
- Thế mới biết "Gừng càng già càng cay." Xưa nay tôi cứ nghĩ câu "Ao rậm thì lắm cá trê" ít nhất đã có chỗ không áp dụng được. Anh cả coi bộ lầm ngầm coi chừng đấm chết voi lúc nào không biết. Bởi nhiều tuổi nhất trong nhóm, ông Thung được Hưng gán cho biệt danh "Anh cả."
- Ai không có một con heo đang ngủ nơi lòng mình? Sỹ nhà con lại oang oang. Có điều kẻ nào khéo giả hình giả chước ra bộ đạo mạo che mắt thiên hạ thì được coi là đứng đắn. Các ông không nhớ người xưa có câu, "Hơn nhau tấm áo manh quần, nếu đem lột trần ai cũng như ai" sao! (Ca Dao). Nói cho đúng, chiếc áo không làm nên thày tu thì hình thức chỉ có thể đánh lừa được những tâm hồn non dại, ngờ nghệch mà thôi.
 
Miệng Sỹ nhà con đưa ra nhận thức chân thành nhưng khi lọt vào tai anh cả lại chẳng khác gì trái nổ ngầm chứa sức công phá mãnh liệt. Có điều, qua những lần nhậu, ông Thung hiểu được Sỹ nhà con ăn nói không mang ác ý mà thực ra đó là những ý nghĩ hiện thực, lột trần bản chất con người một cách táo bạo, không rào đón hoặc nể nang, thương xót, hay nhường nhịn kẻ nghe. Chẳng thế mà ít ai dám đấu lý với hắn bởi ai cũng ngại nói đến mặt trái thị dục tận đáy lòng mình. Thực ra, qua vài lần ăn năn bởi lỡ miệng lúc hùa theo tán gẫu với những người bạn nhậu trẻ hơn, ông Thung cảm nhận được một điều, và đó là những phiền hà nơi tâm tưởng do sự ăn năn tự mình nhận thức chứ đâu ai để ý gì. Người ta không cố chấp, xét nét mà mình lại cứ như gà chọi, chọi người chán quay lại chọi chính mình. Ông chợt hiểu câu nói ngớ ngẩn đã có lần Tình lè nhè khi say bí tỉ, "Lửa nào có nóng, chỉ tại mình cảm thấy nó nóng mà thôi." Lời chân thành, hiện thực, trở nên xóc óc cho những kẻ không dám đối diện với con người thực của mình do đó cố giả hình, tự dối lòng mong được người đời chiêm ngưỡng một cách tầm thường và thế là thỏa mãn, tưởng mình quan trọng bởi được coi là ông nọ, bà kia. Đúng, lửa không nóng, lời nói của người khác không thưởng không phạt ai mà mình cảm thấy ray rứt, nhột nhạt, chỉ tại mình. Nghĩ như thế, ông mới nhận ra câu dân gian thường quan niệm, "Có tật giật mình" mang ý nghĩa thâm sâu, không ngờ đã bao lâu nay ông coi thường. Ông chợt nhớ có lần cũng tên Sỹ nhà con trong lúc đấu láo oang oang phát biểu khi một người trong nhóm bàn về sự phê bình thất thiệt, "Có gì đâu mà mấy ông để ý đến những lời bình phẩm ba xu cho mệt, kẻ đeo kiếng đen thì nhìn cái gì mà không tối mù. Những nhận định của họ chẳng khác gì các thày bói lòa coi voi mà thôi. Nhà con nghĩ, thế nào cũng có thày bói rờ trúng của ấy bị nó đá cho văng mạng thì lại hùng hồn tuyên truyền rằng đã gặp được voi chúa có quyền lực di sơn, đảo hải khiến mình mới đến gần đã bị tung lên." Đàng khác, dạo mới quen, ông Thung có cảm nghĩ sao mấy người bạn trẻ này họ vô tư, sung sướng đến thế. Nhậu sứa sứa vào rồi thì tha hồ ăn nói bạt mạng, tào lao thiên tướng, mang đủ mọi hạng người làm đề tài diễu trong khi ông phải đắn đo, cố gắng tỏ ra chừng mực. Chẳng hạn một hôm, Hưng chê Tình ốm yếu nên giả tỉnh giả say hỏi,
- Vì đâu chú mày ăn như hổ, uống như rồng cuốn mà ốm nhom ốm nhách, nếu làm thịt không được vài cái gắp vậy?
- Sao ông dốt thế, mập hay ốm tùy lúc còn nhỏ có được chăm nom đầy đủ chất bổ dưỡng để các tế bào phát triển ngay từ đầu hay không chứ đâu phải cứ ăn nhiều uống lắm là có thể mập được!. Dẫu đang ngà ngà mà Tình làm bộ nghiêm trang, tỏ ra thông hiểu, và trả lời phù hợp với lý luận khoa học đoạn bỏ lửng, ngụ ý chê người hỏi là dốt, nâng ly bia làm một hơi.
- Tôi hỏi tại sao chú mày ăn nhiều mà vẫn cứ ốm chứ không cần biết nguyên nhân ốm với mập.
- Thưa ông, tôi còn đang thấm giọng; banh tai ra mà nghe, ngày xửa ngày xưa, thời xưa lắm rồi, lúc mà tôi mới chào đời, bố tôi giành hết phần của tôi rồi còn đâu.
 
Câu trả lời không ai có thể dám nghĩ tới mà Tình lại oang oang vung vít ra bộ đắc chí lắm. Họ là thế, trẻ không tha, già không thương, dám đem chính bản thân ra mà diễu. Tuy vậy, mặc dầu coi bộ ồn ào, ăn nói lộn xộn qua những lời lẽ bông cợt, tào lao, ý tứ lại ngầm chứa sự suy nghĩ thâm trầm, phanh phui, nhạo báng hình thức rởm hoặc bộ mặt trái của con người dựa nơi những điều mắt thấy tai nghe tạo nên cái cười ngỡ ngàng.
Ông Thung còn đang thầm nhận định thái độ và ý tứ câu nói của Tình thì Sỹ nhà con phang tiếp,
- Thế mới là con người, lên án những gì mình thấy thích thú khi thực hiện để gia tăng giá trị của sự vụng trộm.
- Chẳng có gì được gọi là vụng trộm mà thực ra chúng lại là những chiếc gương soi chính mình, Phủ đặt vấn đề, vì dù che giấu cách mấy không cho người khác biết thì mình đã biết. Bởi vậy, sự vụng trộm là điều nghịch với chính lòng mình mà thôi. Phỏng nếu lương tâm mình không giao động khi làm những chuyện chẳng nên tại sao e ngại người khác biết, tại sao phải vụng trộm? Muốn cho người khác không biết nào khó chi, đừng làm thì ai biết, đâu cần che giấu.
- Nói như vậy còn gì thú vị để vụng trộm? Tình nêu câu hỏi.
- Thưa ông, Phủ nhại lối ăn nói ra vẻ quan trọng của Tình, có câu nói "Muốn nếm được niềm hoan lạc thực sự của gian dâm phải là một kẻ kính thành đạo đức" (Anatole France). Ông không thấy rằng người ta lên án những quyển sách vô luân vì chúng lôi ra bộ mặt thật của con người sao? Như vậy, chính những gì được gọi là tội lỗi lại là điều mình thích, và chúng hàm chứa sự hấp dẫn tuyệt vời.
- Thế sao người ta phải che giấu?
- Vì con người không dám đối diện với chính mình, e nhận biết mình chẳng ra gì do đó phải che giấu, chẳng những thế lại đóng thêm bộ mặt mô phạm hầu đánh lừa mọi người chung quanh, đặc biệt những kẻ được coi là xấu miệng.
- Như vậy phải biết ơn kẻ xấu miệng mới đúng, Tình trở giọng ngang.
- Đó là lẽ đương nhiên và cần thiết.
Vừa định nói câu phá đám thì lại được ủng hộ, đồng ý khiến Tình cảm thấy ngỡ ngàng,
- Ông nói chi? Phải biết ơn mấy người xấu miệng dám lôi ông bà ông vải, bới lộn tùng phèo con tẩy bạt của ông lên hay sao mà cho là lẽ đương nhiên và cần thiết?
- Không biết ơn họ thì lấy ai vạch điều chẳng nên cho mình sửa. Cuộc đời thay đổi, con người thay đổi mà mình không thay đổi sao đáng sống. Không có kẻ xấu miệng sao có thể nhận ra điều rởm nơi mình. Ông phải nhớ, phương pháp tuyệt vời nhất để tiêu diệt kẻ thù là để cho nó sống.
- Để cho nó sống và giết mình thay vì tự tử? Ông nói chi lạ!
- Rõ dốt nhưng không biết dựa cột để nghe lại cứ chẩu cái mỏ vô. Để nó sống bới móc mình cho biết đường mà sửa. Đây là tự học khôn, tự thăng tiến dựa trên cái dại của người đối lập. Ông nên biết, kẻ bới móc mình là đứa dại vì trong khi mình biết được mặt trái của mình do nó phanh phui, tất nhiên mình phải sửa đổi, và sửa đổi không ngừng thì càng ngày mình càng thăng tiến hơn; trong khi kẻ bới móc mình chết chìm với cái ngu dại của nó, cái dại chỉ đường cho hươu chạy.
 
Mấy câu nghịch luận của Phủ khiến ông Thung bừng tỉnh. Những cái mỏ bán trời không văn tự này phát thanh lắm điều bổ ích, ông thầm nghĩ. Đã bao lâu nay ông thường phải e dè bởi muốn tránh những lời bình phẩm của thiên hạ, thay vì nhận ra điều kẻ khác nói không ra gì về mình, lại là cơ hội chỉ đường thăng tiến. Sự so sánh về tuổi tác tự động tan biến giúp ông mở rộng lòng hòa đồng cùng những người trẻ tuổi hơn, phá tan chướng ngại tạo nên bởi nhận định nghịch luận, điều mà xưa nay ít khi ông dám tham gia bàn thảo hoặc đã nhiều lần cố tránh hầu tâm tư không phải suy nghĩ hay giao động. Cũng bởi đó, ông hiểu được câu nói ngược, "Kẻ khôn ngoan tự lừa dối; người ngu đần nghịch với cái thuận và thuận với điều nghịch." Thế mới biết, “Cùng tột của thông minh lại chẳng khác gì ngu đần,” ông Thung thầm nghĩ mà lòng dâng dâng niềm cảm khoái.
Từ đó ông nhận ra giá trị của sự nghịch luận dẫu xưa nay ông luôn dè dặt vì biết rõ, dù chỉ lời nói nghi ngờ sự chính đáng của qui ước một tổ chức cũng làm những người trong tổ chức đó phẫn nộ. Lời nói nghịch, những câu hỏi ngược lại, mới thoạt nghe thật chối tai nhưng mang giá trị làm sáng tỏ mặt trái của vấn đề. Bình thường, có nhiều trường hợp những lý thuyết một chiều chợt nghe rất xuôi tai, lại hợp lý, hợp tình, nhưng nếu đặt câu hỏi ngược lại, thực thể vấn đề được phơi bày không đơn giản theo thói quen nhận định mà đòi hỏi suy luận liên hệ tới hoàn cảnh lệ thuộc. Sự kiện tự nó độc lập nhưng tùy môi trường diễn tiến để rồi được coi là đúng sai, phải trái, hoặc nên hay không nên. Điều này khuyến khích tự nhận định, và không thể nào lấy sự suy tư, nhận định của kẻ khác làm căn bản cho suy luận của mình; bởi cùng một sự kiện có thể giải thích nhiều lối khác nhau tùy quan điểm của người nhận định. Ông Thung còn nhớ, có lần Phủ đem mấy câu thơ ra đố,
- Anh cả nghĩ gì về kết luận của đoạn thơ này, "Một chiếc cầu, một chiếc cầu, và một chiếc cầu, chồng lên nhau. Hỏi tại sao?"
- Thì ba cây cầu nối liền ba con đường khác nhau được làm chồng bên trên nhau chứ có gì đặc biệt đâu mà chú mày hỏi.
- Em muốn nói câu kết phải thêm vào thế nào?
- Tôi chịu thôi vì có biết thơ văn là gì mà thêm với nếm!
- Anh thử nghe coi lạ không; tác giả viết tiếp, "Chúng tranh đua xem cái nào cao!"
Mấy câu thơ coi bộ ngớ ngẩn, mới nghe qua tưởng tác giả khùng; thế mà nó đã làm cho ông Thung suy nghĩ loanh quanh luẩn quẩn suốt ba ngày trời mới nhận ra điều ngớ ngẩn tác giả nêu lên ám chỉ lối nhìn phiếm diện của con người, chưa kịp suy tư đã vội chấp nhận hay xét đoán dữ kiện. Cũng chính mấy câu thơ ngớ ngẩn này gợi lại câu nói của một nhà tư tưởng nào đó mà ông không nhớ tên, "Cái ngu nhất của con chuột bị mắc bẫy là không ăn được miếng mỡ đã đánh lừa nó vào cạm." Ông chợt nhận ra sự ngu nhất cho người muốn thăng tiến là tin và làm theo những gì người khác nói mà không tự nghiệm xét. Bởi vậy, những lối nhìn chật hẹp, độc đoán phải là con đẻ của sự dốt nát thiếu suy tư, hành trình vô ý thức chỉ thấy ở những xác chết biết thở. Nghĩ đến đây, ông thầm đùa với chính mình vì chợt nhận ra đã bao lâu nay ông đã trãi qua những ngày tháng như một xác chết còn biết cử động.

Và thế là họ cao hứng đưa ra ý kiến xung phong làm diễn giả, diễn thật nơi một chầu nhậu cuối tuần. Lúc sứa rồi, ông nào cũng hay, tướng nào cũng giỏi, cứ to miệng ba hoa chẳng ai nói ai nghe; do đó cần có người làm trọng tài phân xử. "Trọng tài là cha mẹ," Tình đề nghị khi ông Thung bị ép buộc đưa ra nhận định trong lúc vấn đề ngừa thai đang được bàn cãi, tất nhiên phải xỉn xỉn đấu hót mới hăng. Thực tâm, e ngại mấy cái mỏ bạ đâu phang đó, ông Thung cố chối từ sợ mang họa vì biết chỉ một câu vô tình không hợp tai sẽ bị cả bọn lúc ngà ngà hạ thủ không nương tay mà có chăng lại dùng lý luận quay cho như quay dế bất kể phe phái. Hơn nữa, càng người cùng phe càng bị đấu nặng bởi bị gán cho ý đồ phản thùng, tạo cơ hội để phe bên kia thừa thắng xông lên làm hao hụt vị thế thông thái cao trọng của phe mình.
- Cho tớ đứng ngoài vòng pháp luật, không dám đụng chạm đến mấy cái mỏ của quý ông. Thôi thôi, tớ xin hàng vô điều kiện.
- Tửu bất khả ép, và đã ép bất khả từ. Chuyện gì cũng vậy, phải có đầu có đuôi. Công lý phải có quan tòa xét xử và hội đồng giám định, nhất là ở đất nước tự do dân chủ. Nhà con đề nghị chúng ta đề cử rồi bầu cử, đa số thắng tiểu số. Nhà con xin đề cử ông Thung làm trọng tài.
- Tôi đồng ý.
- Tôi cũng đề cử anh cả.
- Có ai đề cử người khác nữa không?
- Bầu bán gì nữa, bất chiến tự nhiên thành đâu cần phải bầu.
- Phải bầu để mọi người có cơ hội chứng tỏ quyền dân chủ của mình. Ai đồng ý bầu anh cả làm trọng tài xin giơ tay.
Lại có dịp cho những cái mỏ rối lên vào hùa với nhau tạo thành thứ công lý dân chủ ép buộc. Thế mà họ lại ra bộ nghiêm trang giơ những hai tay một lúc.
- Anh cả bị bầu, tôi xin lỗi, anh cả được mọi người trang trọng bầu làm trọng tài. Xin cho một tràng pháo tay. Hưng cổ võ, và tràng pháo tay đã nổ. Xin nâng ly chúc mừng anh cả trọng tài, và những phần bia dang dở trong ly lại được cạn để có phần trống cho những chai bia đang đợi chờ.
 
Đến nước này thì kẻ bị ép buộc cũng đành chấp nhận được bầu. Ông Thung tập tành mãi để tiêm nhiễm thêm thái độ lè phè lại phải đóng bộ mặt trang trọng giơ tay có ý kiến.
- Xin cho tôi nói.
- Im lặng, nghe trọng tài phát biểu. Giọng Tình hô to và kéo dài. Đang nhốn nháo mượn cớ chúc mừng để ngốn thêm bia mà những cái loa phóng thanh vô trật tự ngưng mấp máy kể cũng lạ.
- Nếu lúc đưa ra nhận định phân xử mà anh em không thèm đếm xỉa chi tới quyết định thì có trọng tài mà làm gì. Mấy anh em quen thói ăn nói bạt mạng xưa nay, sao cố làm khó dễ tớ vậy?
- Trọng tài là cha mẹ, ai cãi lại trọng tài là bất hiếu sẽ bị phạt. Tình cướp lời, vung vít đưa ra dự luật.
- Đồng ý, đồng ý! Cãi lại trọng tài sẽ bị phạt.
Bia chúc mừng quyền hành trọng tài tiếp tục cạn. Cứ có cớ để ồn ào chúc mừng và nốc bia là vui rồi, đâu ai cần biết chuyện gì sẽ phải đến. Khổ nỗi, bia chúc mừng dẫu đầy dẫy mà nào trọng tài có sức đâu để uống, ngược lại, niềm vui bị ép buộc chưa kịp triển nở thì khốn khó đã kề cận do mấy cái mỏ không chịu ăn da non.
 
- Công việc cần thiết bầu bán đã xong. Bây giờ xin trọng tài phân xử những ý kiến bất đồng về ngừa thai. Phủ gợi lại cuộc bàn cãi dang dở chưa ngã ngũ lúc nãy.
- Trọng tài ra lệnh, phe quan niệm nên ngừa thai chọn một người đại diện trình bày. Phe cấm ngừa cũng cần có một người biện minh cho lý do tại sao cấm. Ai dám coi thường cử tọa chen vào phá rối lúc người đại diện đang thuyết minh, dù ở phe mình hay phe đối thủ, lập tức bị ghi sổ chờ ngày thực hiện lệnh phạt. Biết sự khốn khó sắp đến, ông Thung đành chấp nhận lên giọng ngăn ngừa những cái mỏ phát ngôn bừa bãi có thể kiếm cớ dồn ông vào nước bí. Đã vậy, Sỹ nhà con vẫn không tha,
- Nhà con xin hỏi trọng tài, có được uống bia lúc nghe không hay cũng phải nín uống.
- Uống thì được nhưng không được làm mất trật tự.
- Uống mà không được nói cho hả hơi bia thì cũng giống như chuyện Trạng Quỳnh, cho làm điều này cấm sự kia.
- Trọng tài đã tuyên bố điều luật rõ ràng. Chú mày nên nhớ, trọng tài là cha mẹ, không vâng lời sẽ bị phạt. Bây giờ, mời đại diện phe cho là nên ngừa thai trình bày lý do.
- Nhà con xin đại diện phe nên. Sỹ nhanh nhẩu giơ tay đứng lên muốn nói, e người khác nói sớm hết phần mình.
- Chưa bầu, chưa có đại diện, ngồi xuống, ngồi xuống. Phủ kéo Sỹ ép ngồi xuống ghế.
- Chỉ có ông với tôi một phe mà tôi không đại diện được hay sao; nếu ông muốn đại diện thì nói đi.
- Tôi xin có ý kiến cho phe nên. Chúng tôi chỉ có hai người không thể bầu được vì ai cũng muốn làm đại diện; do đó, tôi đề nghị xin cho mỗi người nói một nửa. Yêu cầu trọng tài minh định.
- Được, chú biết phép tắc, cho chú nói trước.
- Bầu trọng tài này là bầu búa tạ rồi bà con ơi! Sỹ bép xép.
- Chú Sỹ chưa được phép nói mà đế vô sẽ bị phạt. Kể từ giờ phút này trọng tài sẽ thẳng tay làm việc. Ông Thung ra bộ chủ tọa rành nghề.
 
Cho dù người nào người nấy đã chịu chấp nhận bị phạt hết lượt, ngoại trừ trọng tài, thế mà lắm lúc vẫn đông người nói, chẳng ai nghe. Đại khái, phe nhận định nên ngừa thai nêu lên những trở ngại thực tại, nhất là sống nơi xã hội nhố nhăng không thể nào giáo dục con cái theo truyền thống và bản chất của dân tộc mình. Chẳng những thế, đời sống kinh tế khó khăn khiến con mình chẳng được như con người sẽ tạo nên mặc cảm thua kém phát sinh bất mãn trở thành nguyên nhân dẫn đến lòng ham muốn vật chất kiến tạo tâm thức nô lệ cho quyền lực, tiền bạc. Nhận thức đau lòng nhất của "phe nên" đưa ra là thà rằng ít con mà mình đủ sức lo cho chúng nên người còn hơn nhiều con mà vì thiếu thốn đã khiến chúng trở thành những bộ máy chạy theo vật dục sau này. Đây là lối giết người một cách vô ý thức và quá độc hại, trong khi người bị hại lại chính là những đứa con của mình.
 
Nghe những nhận định rất thực tế nhưng chưa bao giờ nghĩ tới khiến ông Thung bàng hoàng. Tuy đã đứng tuổi và chỉ được bốn người con đã ăn riêng ở tây nên sang đến bên này, ông không phải lo nghĩ về nỗi khó khăn của các bậc cha mẹ đang phải đối diện với thực tế. Ở Việt Nam nào có ai bao giờ nói đến chuyện đàn bà con gái, ngừa hay ngưng; thế mà bên đây người ta đưa lên TV, báo chí, làm nhốn nháo cả lên. Xưa nay, ông chỉ quan niệm sống theo tự nhiên, sống sao cho hòa thuận với mọi người, tránh điều ong tiếng ve và nhất là tránh lời ra ý vô có thể trở nên đề mục cho người đời đàm tiếu. Bởi vậy, nghe sự giãi bày hợp tình, hợp lý của những người coi bộ ăn nói tào lao trong nhóm nhậu, ông lại thấy cần phải có nhận định đứng đắn về thực trạng cuộc sống, và nên có suy tư chín chắn hòa hợp thái độ trực diện vấn đề chứ không thể chỉ nghĩ hoặc cho rằng điều gì hay đường lối nào nên để rồi cứ vậy mà theo là đủ. Lâu nay, nghe người ta kháo láo nhiều về chuyện này nhưng nó không phải là chuyện của ông; do đó ông tránh tham luận hầu khỏi bị đưa ra làm đề tài vì mấy câu nói của mình. Nào ai lạ gì miệng người đời, dù nói hay, nói dở, lối nào cũng bị mổ xẻ bởi ý người nói một đàng trong khi kẻ nghe có quyền nghĩ theo ý họ. Điều khiến ông ngạc nhiên nhất, là những người trong nhóm nhậu coi bộ chẳng có giá trị gì nơi vẻ bên ngoài, sao lại có những ý nghĩ và lối nhìn trung thực đồng thời am hiểu vấn đề như vậy. Tại sao thái độ họ mang đầy vẻ bất cần, nhiều khi đến độ ngạo đời, đôi lúc dám tự ngạo; vì hơi men đã thấm ngà ngà, mà lúc để ý giãi bày vấn đề hóc búa, họ lại có thể trình bày cách thông suốt chứng tỏ đó là kết quả của những suy tư minh mẫn.

Phe chống ngừa thai nhấn mạnh giá trị sự sống. Điểm chính yếu họ đưa lên là sự sống không thuộc quyền lực của con người. Để bổ xung cho lý lẽ, họ đặt vấn đề giả sử những người mẹ ngừa thai, sao có họ đang ngồi nhậu để bàn luận về nên hay chẳng nên ngừa. Bởi thế, những gì không tùy thuộc quyền lực con người, chúng ta không có quyền và cũng không được phép đụng chạm đến. Mang thí dụ nơi sự phát triển và sinh sản của loài vật, chúng không biết ngừa thai nhưng không có loài nào phát triển quá độ, có chăng chỉ đang dần mòn mất đi. Chẳng hạn như loài o­ng, loài kiến. Con o­ng chúa đẻ trứng hàng loạt theo tự nhiên mà có sao đâu. Để kết luận, họ đưa ra nhận định nên tuân theo luật tự nhiên; vì thiên nhiên đã tự có luật điều hòa, và con người không nên nhúng vào làm xáo trộn.

Bên nào cũng có lý và dữ kiện được đem ra chứng minh đều hợp tình. Phe nên có hai cái mỏ chĩa mũi dùi vào giá trị nhân bản. Phe chống biện hộ cho quyền lực hiện hữu, nhiều lúc ồn ào, gay cấn khiến trọng tài tiến thoái lưỡng nan. Suy luận về điểm thiết yếu bên này thì lại phải đối diện thực trạng chẳng đặng đừng bên kia. Cho rằng nên cũng không xong, mà chẳng nên lại kẹt nhiều trường hợp. Ông Thung nhận ra không thể đứng hẳn về một phe, mà giữ vị thế trung lập thì chẳng khác gì kẻ đi giữa hai lằn đạn, không rõ ràng, không làm hài lòng được ai. Xét về thực tế, cái mỏ nào có cuộc sống tương đối khá hơn, muốn có thêm con nhảy vào phe bảo vệ sự sống theo luật tự nhiên. Hai cái mỏ Sỹ nhà con và Phủ, người nào người nấy hơn kém cả tá tất nhiên đứng chung phe điều hòa sinh sản. Hơn nữa, dẫu bàn về vấn đề quan trọng mà thực tại được trình bày đã khiến mọi người cười đau cả bụng; chẳng hạn trường hợp Phủ nêu lên điều được gọi ngoài ý muốn về sự áp dụng ngừa thai tự nhiên,
- Thì tôi cũng để ý lắm chứ, nhất là bà ấy. Thế mà chẳng hiểu sao, đến lúc nó phình ra thì chuyện đã rồi, chỉ còn nước nhìn nhau mà cười chứ làm chi được nữa.
- Thì đừng khều khều nữa. Tình đế vô.
- Tớ đâu có khều, chỉ dại chút xíu à. Ông không nhớ câu, “Khôn ba năm, dại một giờ” sao!
- Làm sao có thể dại được những một giờ?
- Tớ chỉ lặp lại lời tiền nhân. Muốn biết sao có thể dại được những một giờ, đào mồ, lôi mấy ông ấy lên mà hỏi.
 
Và chuyện đến vẫn phải đến, lỡ chấp nhận làm trọng tài sao tránh khỏi màn phân xử, ông Thung thầm nghĩ.
- Trước hết, tôi muốn hỏi quý vị, tất cả chúng ta đang hiện diện nơi đây đã ai mang bầu bao giờ chưa? Trọng tài bất đắc dĩ mở màn hỏi lăng nhăng kiếm lối thoát.
- Tôi làm sao có bầu được mà mang!
- Chẳng riêng gì anh, là đàn ông tất nhiên không thể mang bầu được. Thế thì tại sao chúng ta bàn về chuyện chẳng bao giờ thực hiện nổi?
- Trọng tài đổ bùn sang ao, kiếm đường tránh né giải đáp. Phủ lên tiếng.
- Nhiệm vụ trọng tài là phân xử đúng sai chứ không đưa ra giải đáp vì chỉ người trong cuộc mới có được giải đáp đúng đắn. Nếu đặt vấn đề nên hay không nên thì bên nào cũng có những trường hợp có lý và những trường hợp khó mà chịu đựng nổi. Vấn đề nào cũng đều có ít nhất hai phương diện đối nghịch. Bởi vậy, nói rằng nên ngừa thai thì làm gì có chúng ta ngồi nơi đây bàn chuyện nên hay không. Bảo phải theo luật tự nhiên thì cố theo đấy nhưng mới dại chút xíu nó đã phình ra rồi biết tính sao đây! Như vậy, trước hết, chỉ những người có thể mang bầu mới có quyền nói. Kẻ nào không thể mang bầu, hoặc muốn có bầu mà không được, tốt nhất nên banh tai ra mà nghe vì mọi ý kiến, mọi nhận định phiếm diện đều láo lếu. Đàng khác, những ý kiến láo lếu tạo nên kết quả tai hại không đo lường được. Chẳng hạn, mấy người làm ghe có nên nghe lời đề nghị phải làm thế nào trên biển của kẻ không biết gì về nghành nghề đánh tôm bắt cá không? Bởi vậy, nếu muốn biết rõ thực thể vấn đề nên hay không nên ngừa thai, tại sao không mời mấy bà vợ của các ông trình bày sự việc. Tôi không có bầu nên không có quyền lên tiếng bảo các bà ấy phải thế nào cho có bầu hoặc không có bầu.
- Anh cả nói như thế tức là không thể phân định được nên hay không nên ngừa thai, Hưng nêu ý kiến! Tôi nghĩ, cần có một luật chung làm căn bản để lấy đó làm mẫu mực cho những quyết định.
- Tôi chỉ là trọng tài nêu lên nhận xét của hai phe về thực thể ngừa thai chứ không có quyết định bảo nó là đúng hoặc là sai. Các chú thấy rõ hơn tôi vì các chú đang phải đối diện với vấn đề này. Tôi đồng ý với phe cấm vì sự hiện hữu của con người không tùy thuộc quyền hạn của bất cứ ai. Không ai có quyền giết người; không ai có quyền ngăn cản sự triển nở quyền lực sự sống nơi con người cho dù ở vị thế nào. Tuy nhiên, trong trường hợp con người không đủ khả năng bảo vệ sự sống thì sao có thể nói chi. Chúng ta không có đôi cánh như chim nên không bay được như chim. Do đó, tôi nghĩ, những người có đủ năng lực, tương đối được đời ưu đãi hơn, nên và cần tiếp tay với những người thiếu điều kiện hoặc bị rơi vào trường hợp chẳng đặng đừng. Như vậy, vấn đề cần được nêu ra, đó là phỏng những người chủ trương cấm ngừa thai có thực hiện bất cứ gì để bảo vệ và giúp đỡ những đứa trẻ được sinh ra trong những điều kiện thấp kém hay chưa? Thực ra, khi mình không ở trong trường hợp khốn khó của kẻ khác, mình không có quyền nói nhăng, nói cuội, rống cái mỏ lên mà ba hoa chích choè. Các chú thấy rõ, phét lác thì ai cũng nói được nhưng thực tế chứng minh, phỏng những người có của ăn của để, những người thèm khát có con mà không có được đã thực hiện những gì để giúp ai đó rơi vào tình trạng thiếu điều kiện nuôi dưỡng và giáo dục con cái chưa? Tôi thách đố các chú trong phe cấm ngừa thai tự kiểm thảo về phương diện này. Nếu chưa ai giúp đỡ gì cho người khác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em kém may mắn, làm ơn câm ngay cái họng lại. Cuộc đời này nhiều ý kiến tốt lành quá rồi, và chúng ta đang phải đương đầu với những ý kiến tốt lành nhưng ngu xuẩn bởi cho rằng những gì tốt đối với người này cũng tốt cho người khác. Tôi ăn được ớt và không có ớt nhậu mất phê; tất nhiên ớt tốt và cần thiết đối với tôi. Các chú nhai thử trái ớt hiểm như tôi xem nó có tốt lành không thì biết. Thực tâm tôi nghĩ, vấn đề ngừa thai tùy thuộc từng trường hợp chứ không thể nào có luật cố định được coi như khuôn mẫu cho mọi người cứ đấy mà thi hành. Bởi đó, điều mà chú Hưng đòi hỏi gọi là luật chung làm căn bản thì lại chẳng có gì chung. Tự bản chất của ngừa thai không thể nói đúng hay sai mà khi áp dụng tùy trường hợp mới có thể đưa ra nhận định nên hay không. Giả sử, chú Phủ và chú Sỹ có tiền rừng bạc bể; con cái các chú muốn gì được nấy; phỏng hai chú có thấy cần ngừa, cần chặn gì không? Các chú khác chủ trương không nên ngừa, hãy giúp hai chú Sỹ và Phủ thực hiện chủ trương không nên là điều tốt nhất. Bởi vậy, không cho là đúng, chẳng nói rằng sai mà tự xét hoàn cảnh và lối sống thế nào trong trường hợp của mình mới có thể có câu trả lời đúng đắn nhất và chỉ riêng cho trường hợp đó mà thôi. Ai có ý kiến thực tiễn nào yêu cầu phát biểu. Tuy nhiên, chỉ bàn ra, tán vô cho có chuyện để nói hoặc phê bình theo kiểu thiển cận một chiều, sẽ bị phạt gấp đôi.
- Hoan hô trọng tài! Có lý, có lý, xin mọi người cho một tràng pháo tay. Lẽ dĩ nhiên, tiếp theo tràng pháo tay phải là màn nâng ly chúc mừng. Cũng may, ông Thung mới uống hai chai.
Mấy người cảm thấy thỏa mãn vì lời giải đáp, dù không thể đưa ra được luật chung nhưng ít nhất đã làm sáng tỏ vấn đề để mọi người có nhận định trung thực hơn. Họ tiếp tục bàn luận về ý này hay, câu nói kia trung thực. Lại có người tỏ ý không ngờ trọng tài có nhận xét thâm sâu như thế. Riêng ông Thung, uống một hơi bia để tự trấn an mà lòng vẫn còn run, ảnh hưởng cả đến tay chân. Tim ông đập thình thịch dội lên tới màng tang. Ông cảm thấy quá liều, nhất là trong lúc nói, một áp lực nào đó đè nặng nơi tâm trí khiến ông liều mạng phải để nó thoát ra bằng lời nói văng mạng. Ông còn có thể gợi lại câu nói mà lúc vừa buông ra khỏi miệng chính ông phải giật mình, "Tôi thách đố các chú trong phe cấm ngừa thai tự kiểm thảo về phương diện này. Nếu chưa ai giúp đỡ gì cho người khác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em kém may mắn, làm ơn câm ngay cái họng lại." Ông nhớ rất rõ, lúc ấy ông cảm thấy những đề nghị tốt lành một chiều, vô ý thức, phát xuất từ những đầu óc thiên kiến, hạn hẹp, đầy thị dục, làm ông bực muốn điên lên; đồng thời phát sinh mối thương cảm cho những người đơn sơ, không may bị rơi vào thế chẳng đặng đừng không còn phương cách nào xoay xở. Ông đã gọi những người bạn trẻ là "các chú" bởi phần nào đó, đưa ra ý hướng bảo vệ sự sống ngầm chứa sự lạm dụng lý luận chỉ cố sao chứng minh quan niệm của mình là đúng, là chân lý bất khả di dịch. Ông run vì lần đầu tiên trong đời dám liều, bất chấp tai tiếng có thể xảy tới sau này. Đàng khác, ông run bởi mừng rỡ đã dám nói thực lòng những gì ông cảm nhận được thay vì e ngại lỡ lời. Hơn nữa, đây cũng là lần đầu tiên ông dám suy nghĩ theo ý mình trong khi phải đối diện với thực trạng hóc búa mà nếu đứng về phe nào cũng không ổn thỏa. Ông cảm thấy mình hình như đã lột xác khỏi con người xưa nay nhút nhát, e dè, nói cho đúng, lo ngại bị người khác hiểu lầm. Thuận hay nghịch với ý nghĩ, nhận xét của người khác là điều không thể tránh nhưng dám suy nghĩ theo nhận định trung thực nơi mình mới tạo nên giá trị con người đích thực của mình. Không ngờ, tự nơi lòng trí ông đã tiềm ẩn giá trị mà đây là lần đầu tiên ông nhận ra. Niềm vui chợt đến khiến ông cảm thấy hãnh diện vì mình là chính mình, không phải theo ai khác, và cũng chẳng cần cố gắng trở thành bất cứ gì.
 
- Nhưng sao mấy linh mục giảng nơi nhà thờ nếu ngừa thai thì có tội? Minh lên tiếng hỏi mà lòng cảm thấy bất an. Anh là người Công giáo, đạo gốc, tốt lành, sùng đạo, tuân giữ những lời giảng dạy của các cha một cách cẩn thận. Bởi thế, anh có thái độ hiền hòa, chấp nhận, tránh hơn thua, đôi khi cố nín nhịn về những lời giỡn hơi quá đáng của bạn bè. Anh được bạn bè gán cho danh hiệu Minh bụt. Bụt là tiếng dân quê miền Bắc dùng để chỉ tượng Phật, chẳng hạn bụt ốc, ông bụt, "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy." Anh khoảng chừng bốn mươi tuổi; chị vợ lanh chanh, vui vẻ, hai người thành hôn đã hai mươi năm và có được sáu người con. Đứa lớn nhất, mười tám tuổi, thân xác to hơn bố. Chị Minh sắp cho ra đời cháu thứ bảy khiến hai vợ chồng bối rối vì hoàn cảnh không được sung túc cho lắm. Có lần hai vợ chồng không hiểu nghe ai nói, đã gọi điện thoại xin gặp đức giám mục trình bày tự sự vì bác sĩ đề nghị cột buồng trứng, nhưng giám mục trả lời cần có giấy bác sĩ chứng nhận nếu tiếp tục sinh sản nữa sẽ nguy hại cho sức khỏe người mẹ. Và thế là đôi vợ chồng đành âm thầm chịu đựng gánh nặng được tạo thành bởi hai áp lực, sinh kế khó khăn nơi gia đình nhiều con và lề luật đạo phải giữ mà không biết giải quyết cách nào. Nghe những lời nhận định của ông Thung khiến anh càng thêm bối rối vì nhận ra trách nhiệm và quyết định cuối cùng tùy thuộc chính người đang phải đối diện từng trường hợp. Anh theo đạo, giữ đạo chứ nào có tạo nên đạo đâu do đó làm sao dám phạm luật đạo. Hơn nữa, các cha giảng dạy những điều đúng mà giáo dân nên theo để được phần rỗi. Phạm vào những điều cấm trong đạo khác nào đã tự mình đi vào con đường tội lỗi thì sao được cứu, nhất là quyết định phạm luật lại tự ở nơi mình; trách nhiệm này sao trốn tránh được với một lương tâm luôn luôn dằn vặt. Khổ nỗi, cố gắng ăn ở theo luật đạo cho lương tâm thanh thản thì anh lại phải chịu đựng cảnh khốn khó nơi cuộc sống. Bạn bè, ai cũng có nhà riêng, có người mua căn nhà hơn hai trăm ngàn. Mấy cái xe mới, nước sơn bóng lộn phản chiếu ánh sáng khiến người mới chợt nhìn đã thấy xây xẩm cả mặt mày. Nào người thì than phải đóng tiền cho con đi học nơi trường nọ, trường kia nổi tiếng hết chục ngàn này đến chục ngàn khác, lại có cả xe riêng cho con về thăm nhà cuối tuần. Kẻ khác bàn tán đưa gia đình đi Hawaii, Florida nghỉ hè, nghỉ mát, suốt cả tuần mà chưa đi hết vòng Disney World. Gia đình anh phải chui rúc nơi "housing" muôn ngàn sự phiền hà nói ra không thể xiết. Nhiều khi anh cảm thấy con người được sinh ra đã tự bị tròng vào cổ những gánh nặng quá sức. Mặc dầu thương vợ con và đã cố gắng bội phần để lo cho gia đình nhưng lắm lúc ý nghĩ "biết vậy ngày xưa đừng lấy vợ" tạo nơi anh những tiếng thở dài! Điều này có lẽ phần nào là nguyên nhân thúc đẩy anh tham gia nhóm nhậu hầu tìm được những giây phút tránh phải đối diện với nỗi lòng của một người trưởng gia đình không được đời run rủi ưu đãi. Tương lai các con anh sẽ thế nào? Câu hỏi cứ chập chờn đe dọa mà chưa bao giờ anh dám nghĩ tới phải trả lời ra sao. Có những lúc chán nản vì bắt được ít tôm cá, anh thở dài lẩm bẩm một mình, "Đời cua, cua máy, đời cáy, cáy đào" có lo chi lắm cũng chẳng giải quyết được gì.
- Mấy ông linh mục đặt luật cấm ngừa thai thì mấy ông ấy phải giữ chứ việc gì chú phải lo. Sỹ nhà con vừa nghe thấy Minh hỏi đã tơm tớp lên tiếng bất chấp quy luật vì đàng nào cũng đã bị phạt. Hắn không trả lời câu hỏi mà bẻ quặt câu nói mang ý ám chỉ câu hỏi về linh mục cấm ngừa thai ngầm minh chứng hắn nói có lý, với chủ đích nói cho có nói. Hắn xưa nay vẫn thế, kẻ nào không để ý sẽ bị lôi vào tròng phạt.
Đã quá quen với lối ăn nói của Sỹ nhà con, Minh vẫn điềm đạm,
- Tôi muốn nói các cha bảo nếu ngừa thai thì có tội chứ tôi đâu nói các cha cấm.
- Ông cha nói thì ông cha phải giữ chứ việc chi mình phải giữ. Thế tại sao các mục sư, các đại đức, thượng tọa không nói gì? Thử hỏi, đạo nào không là đạo mà cũng cùng một vấn đề, đạo này cho là tội, đạo khác không bao giờ nói đến! Anh phải có nhận định về trường hợp của anh, không thể nào sống theo người khác bảo mình phải thế nào, Phủ chen vô. Phủ theo đạo Công giáo nhưng tâm tình phóng khoáng hơn và đôi khi nếu gặp người cùng tôn giáo nói về lề luật, anh thường nêu ra những khác biệt khi đem so sánh Phúc Âm với những lời các cha giảng dạy.
- Bộ anh làm ra luật pháp hay sao mà anh vẫn phải giữ và không tuân theo sẽ bị phạt. Anh có giỏi bắt mấy con rùa biển hay cá víc về nhậu thử xem anh dám sống theo ý mình hay theo người khác bảo mình phải thế nào! Minh dùng luật đánh cá để đối lại với Phủ.
- Luật pháp là điều chung cho mọi người tuân theo vì có ảnh hưởng liên hệ đến cuộc sống những người khác. Vấn đề ngừa thai không liên hệ, đụng chạm đến ai nên tùy thuộc quyết định cá nhân; do đó không ai ra luật cho ai được, Hưng lên tiếng. Chúng ta cần biết phân biệt rõ rệt luật pháp và luật tôn giáo vì có những sự phạm pháp bị luật pháp kết án nặng nề; trái lại tôn giáo chỉ đặt vấn đề sám hối; đồng thời có những luật tôn giáo quá khắt khe trong khi luật pháp không nói gì đến. Thế nên, luật pháp sở dĩ được đặt ra vì sự liên hệ cuộc sống giữa con người với con người trong khi luật tôn giáo chỉ nói đến phần tinh thần, khuyến khích con người sống ý thức tâm linh và không có sự trừng phạt theo kiểu luật pháp. Có thể nói, luật tôn giáo đặt nền tảng trên niềm tin của con người trong tổ chức vì ai không thuộc về tổ chức tôn giáo nào đó sẽ không bị luật lệ tôn giáo đó ràng buộc. 
 
- Anh nói như thế thì người vô thần sẽ không phải theo luật tôn giáo nào hết?
- Tôi không hiểu chữ vô thần phát sinh từ đâu ra và có từ bao giờ, Hưng giải thích. Tuy nhiên, tôi không thể nghĩ được có ai thực sự vô thần ngoại trừ những con vật vì chúng không được sinh ra với khả năng tâm linh; chẳng khác gì cây cối không được sinh ra với khả năng di chuyển của con vật nên không đi lại được. Bất cứ ai cũng mang ít nhất ý thức đặt vấn đề về giá trị con người của họ. Dẫu người dám thực hiện mọi điều họ muốn thì cũng kiêng kỵ một số vấn đề nào đó. Sự kiêng kỵ này chứng tỏ họ không vô thần.
- Nhưng họ không theo đạo nào tất nhiên vô thần vì người vô thần không có đạo.
- Ai dám nói người không theo đạo nào thì vô thần. Tôi e rằng chính người có đạo vô thần; mà người không theo đạo nào chưa chắc đã vô thần. Nếu người nào theo đạo mà chỉ có niềm tin vào những ngẫu tượng thì sao có thể nói được là họ hữu thần mà có chăng chỉ là sự thờ phượng ngẫu tượng. Tôi đưa ra thí dụ, một điêu khắc gia nào đó khiêng về nhà hòn đá đã bao năm tháng lăn lóc bên đường, đẽo gọt thành tượng Phật mang ra chợ bán. Và thế là có người mua về đặt lên bệ thờ, đốt nhang đèn, hương khói tùm lum rồi xì xụp lạy. Đó là lý do tại sao dân gian có câu, "Hòn đất cất nên ông bụt." Khi còn là hòn đất, nào ai biết đâu những chuyện gì có thể xảy ra trước đó, nhưng khi cất nên ông bụt thì lắm kẻ lạy sói cả đầu. Biết bao cây gỗ trong rừng sao không ai cúng tế, mà cũng chính phần nào đó của cây gỗ được xẻ ra, ráp nối lại thành hình thập tự, tại sao bao nhiêu người theo đạo Thiên Chúa lại kính nể, tôn thờ? Vậy người hữu thần lạy lục, tôn kính điều gì nơi những hình tượng đó? Đức Thích Ca có ra lệnh cho ai khắc tượng ngài để lạy như tế sao không? Người chết có còn cái miệng để nhai đâu mà người ta cúng nào hoa quả, nào cơm, nào trứng, lại còn tốn tiền mua hương, đốt nhang, đèn cù, đèn giấy. Có điều lạ, người ta mua tiền giấy đốt cúng ông bà ông vải đã chết mà không đốt tiền thật. Phỏng tiền thật không thiêng nơi cõi vô hình, hay vì tiền giấy đánh lừa được các bậc trưởng thượng đáng kính nơi giòng họ mình? Đặt vấn đề như vậy, chưa chắc những người theo tôn giáo đã hữu thần mà coi chừng vô thần cả đám. Cái miệng của Hưng nói trơn như bôi mỡ kèm theo dẫn chứng hợp lý liên quan đến thực tại khiến người nghe cảm thấy tối tăm mắt mũi.
- Vậy đạo Phật dạy gì mà anh nói đức Phật không bắt người ta tạc tượng để trên bệ thờ? Định lên tiếng.
- Anh hỏi câu đó thì nói bao giờ mới xong nên tôi không trả lời. Có điều, sự thực hành tôn giáo là sản phẩm của lý thuyết bắt nguồn từ nhận thức tâm linh phối hợp với những hình thức tỏ bày bên ngoài được phát triển theo thời gian trãi qua các thời đại, và lâu dần tạo nên nghi lễ, nghi thức. Những nghi thức này diễn tả ý định ẩn chứa qua hình thức thờ phượng. Chẳng hạn, một người lạy trước tượng Phật; họ đâu lạy phần đất hoặc gỗ khắc nên bức tượng mà tỏ lòng tôn kính vị nào đó được thể hiện qua hình ảnh của bức tượng. Tuy nhiên, con người vì lười lĩnh hoặc thiếu hiểu biết nên chỉ học theo nghi thức để tưởng rằng cứ làm như thế thì được giải thoát, được cứu rỗi. Hơn nữa, bất cứ thói quen nào khi đã thâm nhập, con người đều bị lệ thuộc và vì quá lệ thuộc những tục lệ, nghi thức nên cảm thấy hài hòa và cho rằng phải và chỉ có thế là đủ, thành ra e sợ không dám đặt vấn đề tại sao mình phải làm vậy. Đàng khác, có những người còn đưa lên quan niệm những nghi thức hoặc luật lệ do thần linh đặt ra cho mình theo, không làm theo thì thần linh không phù hộ. Tôi nghĩ, nếu người nào đó đã chẳng biết họ thờ điều gì ẩn chứa qua nghi thức phụng thờ thì chắc chắn có lạy đến sói trán cũng không được ơn ích gì, có chăng chỉ để tự trấn an mà thôi.
 
Những lời phân tích của Hưng tựa hàng loạt mũi tên bắn vào lòng ruột người nghe khiến những chiếc miệng quen thói huênh hoang, tay sai của những đầu óc chếnh choáng mang nặng chất men phải nín lặng, kèm theo vẻ mặt đượm nét trầm tư. Nói sao đây khi thực tại nội tâm đã bao lâu nay dồn đọng nỗi khắc khoải do lòng khao khát tâm linh tựa những ung nhọt căng đầy máu mủ bị chiếc gai vô tình khêu toạc ra chẳng còn cách nào che đậy khiến ai cũng phải trực diện với lòng mình. Mọi người bỗng im lặng bởi cảm thấy hình như có sự thôi thúc nào đó được truyền qua lời nói của Hưng gây áp lực nhận định tìm cách giải quyết nhu cầu tâm linh. Xưa nay, qua những lần đàn đúm ăn nhậu khi đến độ sừng sừng, đâu ai trong bọn họ biết kiêng nể điều gì. Thế mà giờ đây tất cả im tịt tạo nên bầu không khí nặng nề, dường như khó thở. Chính Hưng cũng không thể ngờ những điều anh nói ra lại gây căng thẳng nơi đầu óc mọi người như thế. Mà cũng không hiểu mình nói với mục đích gì, Hưng thầm nghĩ, chỉ biết vào lúc đó cái miệng cứ trơn tru xổ liên tục, muốn tới đâu thì tới.
- Tôi đề nghị, ông Thung lên tiếng sau mấy phút thinh lặng, chúng ta nên và cần suy nghĩ cùng tìm hiểu nhiều hơn về tôn giáo. Những nhận định của chú Hưng không ngờ đã lột trần lòng ruột của tôi từ bao lâu nay. Thực ra, chính tôi vẫn cảm thấy mù mờ không hiểu tôn giáo dẫn chúng ta đi tới đâu vì đã nhiều lần suy tư về tôn giáo và những sự thực hành tôn giáo, tôi thấy nhiều điểm loanh quanh luẩn quẩn, cố theo chiều này lại phản chiều kia mà chiều nào thì tôn giáo cũng khuyến khích. Theo tôi cảm nhận được, hình như chính những nhà rao giảng tôn giáo họ cũng không thông suốt điều họ đề xướng. Đây là đề nghị thực tình, anh em nghĩ thế nào?
- Anh đề nghị như vậy có lẽ chỉ anh mới thực hiện nổi. Tụi em uống thì được chứ nói về tôn giáo thì nào biết chi. Đến ngay những nhà thuyết giảng tôn giáo mà anh còn thấy nói loanh quanh luẩn quẩn thì ai trong chúng ta ở đây có thể nói được, Hưng đặt vấn đề.
- Thực lòng mà nói, từ ngày hay ăn nhậu với anh em, tôi đổi khác rất nhiều. Đây là chuyện thực tình, anh em đừng chế nhạo tôi mới nói được. Số là tôi rất ngại bị người khác phê bình vì những lần lỡ lời đã cho tôi kinh nghiệm. Người ta phê bình tôi thì ít mà chính tôi dằn vặt, ăn năn thì nhiều nên sinh ra e dè, nhút nhát, phải đóng bộ mặt giả mạo nghiêm trang, không dám theo người đàn đúm hoặc ăn nói bạt mạng. Cũng chính vì thế, tôi đã trở nên giống như con nhím, luôn luôn giương gai châm chọc người khác bằng cách phê bình lời ăn tiếng nói cũng như thái độ của họ. Từ ngày quen biết anh em, tôi dần dần nhận ra, sỡ dĩ phê bình gay gắt những người khác vì tôi đã tự khinh, đã không nhận ra giá trị con người của mình. Chính hôm mà chú Sỹ đặt vấn đề đời đáng sống hay không đáng sống, và thực thể mỗi người có một con heo đang ngủ trong lòng, liên quan đến sự giả hình, tôi mới nhận thức được điều này. Thực ra, nào ai thừa hơi để ý đến mình, có chăng chỉ tại mình đang chiến đấu với con heo nội tâm rồi quay cắn quàng sinh ra muôn sự rắc rối, hết chọi người quay lại chọi mình. Và cũng từ đó tôi nhận ra mỗi người tự đã có giá trị làm người và có sự khát khao hướng thượng, nhưng ít ai dám đặt vấn đề để thăng tiến. Vừa rồi qua những lời của chú Hưng, tôi cảm thấy bị thôi thúc cần phải tìm hiểu, may ra ít nhất phần nào đó thỏa mãn lòng khát vọng nơi tâm hồn mỗi người. Tôi nghĩ, không biết thì hỏi, học thêm nơi người khác, hoặc đọc sách. Vấn đề còn lại chỉ là mình có thực sự muốn để dám làm hay không.
- Anh cả nói như thế cũng có lý nhưng như vậy ai muốn thì tự tìm hiểu, tự đọc sách là đủ đâu có gì cần được đặt thành vấn đề. Hưng đưa ra nhận định.
- Tôi nghĩ, nếu một người mò mẫm tự tìm hiểu thì cuối cùng cũng vẫn loanh quanh luẩn quẩn. Tôi muốn sử dụng cá tính thông thường nhưng đặc biệt của anh em hầu mong có thể giải quyết thắc mắc.
- Anh cả nói cá tính đặc biệt nào mà có thể giải quyết thắc mắc? Tụi tôi chỉ có cá tính xỉn xỉn vào rồi là ăn nói lung tung, trên trời dưới biển, coi ai cũng như ai nhiều khi lại còn đem thần thánh ra mà diễu thì hòng chi tìm hiểu bất cứ gì!.
- Đặc tính ăn nói văng mạng, coi trời bằng vung của anh em khi uống vào dăm chai bia vẫn có giá trị riêng của nó.
- Thế sao! Sỹ nhà con đế vô. Thử hỏi khi những cái loa phát thanh này nổi cơn lên chẳng ai nói ai nghe thì có gì mà hòng giải quyết được?
- Vậy lý do gì mọi người bây giờ đang xỉn mà vẫn còn người nghe, nhất là khi chú Hưng vừa nói xong tại sao mọi người im lặng? Xưa nay có câu "Ông bẩy mươi học ông bẩy mốt," mà tôi lại dám đương đường chấp nhận ông bẩy mốt học ông năm chục thì anh em nghĩ sao? Chính tôi, tuổi lớn hơn hết phải học nơi anh em đức tính ngay thẳng, dám ăn nói thật lòng mà không e ngại bị hiểu lầm hay bị phê bình. Tôi cảm thấy, nếu chuyện gì đã là sự thật thì chẳng cần gì che giấu, cũng chẳng cần bào chữa. Người khác hiểu hay không, và dẫu cho họ phê bình thế nào chăng nữa thì mình vẫn là mình. Người ta có cho rằng mình là ông nọ bà kia mà mình đã tự khinh thì coi chừng còn khốn khổ hơn ăn tục nói phét nhưng lòng chân thành, ngay thẳng.
- Cũng có lý, thế anh định đề nghị phương pháp nào về chuyện đọc và hỏi, anh làm ơn nói nghe coi? Phủ lên tiếng đoạn nâng chai bia tu một hơi, giọng đã có vẻ ngang tàng trở lại.
- Có sao xài vậy, nhưng tôi hy vọng ít nhất chúng ta cũng có thể phần nào đó đặt vấn đề để có cái nhìn rõ ràng hơn, vì một cây làm chẳng nên non.
- Ba chai bia lạnh anh còn than chi. Sỹ đế vô.
- Theo tôi nghĩ, cả bao nhiêu ngàn năm rồi tôn giáo vẫn như thế thì có suy nghĩ thêm cũng chẳng làm được chi. Hưng nói.
- Tôi không đặt vấn đề cứu nhân độ thế nên chẳng có ước muốn làm được chi. Tôi chỉ muốn từng người có nhận định rõ ràng hơn về tôn giáo hầu giải tỏa những khúc mắc, khắc khoải tiềm ẩn nơi mỗi người mà chưa bao giờ có cơ hội nói lên. Anh em thấy rõ, đã bao lâu rồi mình thao thức vì nỗi khát khao nào đó được thể hiện qua lối thực hành tôn giáo mà chưa có cơ hội đặt vấn đề. Đâu phải vô tình chú Hưng nêu lên những điểm liên hệ giữa nghi thức cúng bái, tôn thờ của con người, mà tôi nghĩ, chú đã suy tư về nó và tìm hiểu khá lâu rồi. Thế nên, tôi đề nghị, nếu được, chú Hưng nói về Phật giáo, sau đó người khác nói về đạo của mình. Ai thích thì xung phong, không thích thì thôi. 
Bàn xuôi, tán ngược, cuối cùng, ông Thung bị gán cho nhiệm vụ trọng tài. Chẳng những thế, ông còn được bầu làm trưởng hội nhậu, để rồi người đề nghị gọi ông là hội trưởng; kẻ khác kêu chủ tịch nhóm. Hội chẳng ra hội, nhóm không thành nhóm mà cứ rối lên như bố vợ bị đấm chỉ vì cái danh hiệu nên đặt cho người khác thế nào. Mấy cái mỏ này sinh lắm sự phiền nhưng cũng dám phát biểu nhiều điều mới lạ, ông Thung thầm nghĩ, mặc ai muốn tào lao thế nào tùy ý vì ông hiểu dù nói thêm chi lúc này với đầu óc sửng sửng thì cũng chỉ là cớ cho họ hè nhau ép mình bị phạt.  
 
* * *
 
- Chú Hưng, chú nên nhớ một điều. Đạo Phật là đạo minh triết; tại sao chú lại nói giết Phật, giết tổ, bỏ pháp thì nghĩa lý nằm ở chỗ nào? Bất chợt bị lúng túng trước câu nói ngổ ngáo đến độ chói tai, khó thể chấp nhận đồng thời cảm thấy một vài người chuẩn bị phản ứng vì câu nói xúc phạm tới tôn giáo của họ, ông Thung đành đưa ra câu hỏi lần lữa chờ kiếm đường giải quyết, hy vọng sự căng thẳng vừa bùng lên có đủ thời gian giảm bớt.
- Người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết. Đã không thèm để ý đến lòng tốt của ông Thung khi nêu câu hỏi cũng như sự tức giận của những người đang giơ tay, Hưng phang thêm câu nói mới thoạt nghe mang đầy vẻ xỉ vả con cháu nhà Phật.
Thế là mấy người đang giơ tay nhao nhao lên, và một người không thể nhịn được nữa,
- Ông nói gì kỳ dzậy? Ông muốn bảo rằng người theo đạo Phật đều vô minh hết sao?
Hưng ăn nói quá láo lếu, dám mượn cớ nói về Phật học để đưa ra đề nghị chói tai. Giết Phật, giết tổ, bỏ pháp thì còn gì đạo Phật! Xưa nay, minh triết là niềm hãnh diện của những người thành tâm tìm hiểu Phật pháp. Đâu phải vô lý hoặc cứ cho rằng ta đây minh triết thì mọi người chấp nhận mình giỏi giang, thông suốt; mà sự minh triết nhà Phật đã phải trải qua bao thời gian thử thách. Theo truyền thống nhà Phật, trãi dài từ thời đức Thích Ca qua hai mươi bẩy vị tổ nơi thiền môn ở Ấn Độ, tới đời tổ thứ hai mươi tám là đức Bồ Đề Đạt Ma đã sang Trung Hoa rao giảng Phật pháp tạo thêm năm tổ Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoàng Nhẫn, Huệ Năng. Rồi nào Bắc Tông của Thần Tú, nào các học phái Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, nào tiệm ngộ, đốn ngộ, nào tiểu thừa, đại thừa, nào không luận, hữu luận, trung luận, nào cấp tiến, tự do, khoan đại, nào hơn một ngàn bẩy trăm công án, nào những nhân vật lừng danh tạo dựng nên những tông phái như Tịnh Độ tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm tông, Thành Thực tông, Mật tông, với những nền giáo lý của mỗi tông phái mang các điểm đặc sắc riêng biệt tùy theo căn cơ người tu đạo để dẫn dắt chúng sinh tới chỗ liễu ngộ tâm thể, mang ảnh hưởng sâu rộng và phát sinh những kỹ thuật giảng dạy độc đáo tạo cho thế giới Phật giáo muôn màu muôn vẻ không cách nào có thể kiểm chứng được. Thế mà Hưng vô tình dám phát ngôn bừa bãi, những lời nói vừa thoát ra từ cửa miệng hắn chẳng khác gì ngọn giáo cùn cụt nhỏ bé nơi tay anh hề mãi võ quảng cáo thuốc dán Sơn Đông đòi càn quét thế giới kiên vững nhà Phật, cội rễ sâu rộng thấm nhuần bao ngàn năm nơi cõi nhân sinh. Con người có thể lấp sông, phá núi nhưng không thể nào xóa được Phật pháp nơi tâm hồn chúng sinh. Con nhà này sao hôm nay ăn bậy nói bạ đến thế, ông Thung than thầm vì tâm không an, cứ thấy lòng ruột muốn nhẩy ra khỏi thân mình. Thêm vào đó, lời nói đầy giận dữ của Tùy con càng làm ông hoảng. Phải gỡ cách nào, quân khỉ này đang không ép ông phải đứng vào vị thế trọng tài, phong làm anh cả, chủ tịch, chủ hội, chủ nhóm, chủ cái củ thìu biu, để bây giờ cứ như thằng ngọng tắc cổ, muốn nói không được, cầu hòa không xong. Còn đang xốn lên, Sỹ nhà con đã bất chấp luật lệ lên tiếng,
- Ông phét lác vô căn cứ! Mới giết Phật, giết tổ giờ lại cho rằng mọi người vô minh. Ông biết được những gì về Phật giáo mà dám miệt thị thiên hạ như thế. Nhà Phật có cả trăm ngàn cuốn sách; ông đọc cả đời không hết vài cuốn sao dám coi cả thiên hạ vô minh.

Loạn to, loạn to, ông Thung thầm nghĩ. Đến nước này, không hy vọng gì ai nói ai nghe mà có thể xảy ra ẩu đả vì tự ái tôn giáo. Chú Hưng này ăn với nói, chúa ẩu. Sỹ nhà con đã nhào vô khuấy động. Kiểu này coi chừng khốn khó đến nơi.
 
MBVN 02

- Chẳng những kinh sách nhà Phật, tất cả các kinh sách của các tôn giáo dưới nhãn quan thức ngộ của nhà Phật đều không bằng chỉ một tờ giấy trắng. Ông không biết rằng Đạt Ma Sư Tổ nói, "Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được" (GLTH; Tr.205). Đã không học được tâm Phật thì đâu cần kinh sách. Nơi khác ngài cũng nói, "Có ích gì sự cúng kiến, sự hoằng pháp, nhiệt thành giữ giới, bố thí, cầu kinh, đọc kinh và tất cả những thứ khác? Chỉ có một điều duy nhất là nhìn thấy Phật nơi mình" (GLTH; Tr.202). Hơn nữa, Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ nói "Kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184) chứ đâu phải đọc kinh sách mới có thể trở nên Phật. Như vậy, nếu tất cả các kinh sách nhà Phật hoặc bất cứ kinh sách nào chỉ bằng được một tờ giấy trắng thì công trạng đã lớn lắm rồi. Tuy nhiên, dẫu chỉ như tờ giấy trắng vẫn chưa vô, chưa huyễn; mà chưa vô, chưa huyễn thì vẫn còn dục. Như vậy, còn dục, còn muốn trở thành Phật vẫn chưa là Phật, có chăng chỉ hợp với câu "Kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú" (Pascal). Hưng vẫn mang vẻ điềm tĩnh, thêm phần nào ngang tàng, thách đố, coi cử tọa như không ra gì nên nổi bật nét cao ngạo của kẻ chiếm thượng phong.

Ông Thung nghe vài lời ngông nghênh lý luận, phân tích đưa ra nhận xét chứa đựng tính chất khinh thế ngạo vật, dùng lời nói của Đạt Ma Sư Tổ và Lục Tổ Huệ năng đem tờ giấy trắng so sánh với kho tàng minh triết kinh sách mà bỗng giật mình. À thì ra hắn nắm được nguyên lý nào đó nên dám chọc chơi thiên hạ. Sỹ nhà con coi chừng bị hố to phen này. Lòng ông mừng như mở hội, tự nghĩ, mình có tuổi rồi mà vẫn không điềm đạm bằng Hưng, lại còn nông nổi, chưa kịp suy nghĩ đã rối lên vì lo sợ. Thêm một bài học cho xứng với tuổi trời, ông thầm nhủ.
- Ông nói sao, tờ giấy trắng mà còn chưa vô, chưa huyễn, ngược lại vẫn là thú tính?
Thế mới biết, coi bộ vậy nhưng không phải vậy, Sỹ nhà con bắt được ý, thú tính khiến đám khán thính giả thuộc loại dân nhậu hơi cảm thấy ngỡ ngàng vì còn đang bị hoang mang bởi Hưng dám so sánh kinh sách nhà Phật với tờ giấy trắng; chẳng những thế, hắn dám đưa ra mẫu người được tuyệt đối trọng vọng để ngang bằng với loài thú. Lòng ai nấy nhẹ hẳn! Ý nghĩ bực tức về mấy câu nói của Hưng chợt đổi thành niềm tôn trọng nên họ để ý nghe, để ý chỉ vì hai tiếng thú tính.
- Những sách viết về Phật học chỉ minh chứng tất cả là huyễn. Tôi hỏi anh em, nếu tất cả đã là huyễn cần gì phải nói đến; hãy để nó là huyễn vì nói về cái huyễn vẫn chỉ là huyễn. Thế nên, thay vì để nó là huyễn lại nhận chìm con người nơi ý nghĩ về huyễn, nơi văn tự viết về huyễn, và như vậy đã móc nối khiến ý nghĩ con người không thoát khỏi ranh giới hữu vi. Phỏng như vậy không thua tờ giấy trắng sao. Con người đã tự hàm chứa tâm Phật, nói cho đúng đã là Phật mà cứ bắt Phật nghe, đọc, nuốt những giải thích lòng vòng về cái huyễn thì chẳng khác gì khuyến khích họ biến thành thú bởi những người viết sách chạy theo thú tính muốn giúp mọi người thành Phật trong khi không biết Phật tính là gì!

Hèn chi hắn dám to miệng! Ông thung thầm nghĩ, chỉ một vài câu lý luận loanh quanh luẩn quẩn không những hắn giải tỏa tất cả nóng giận con đẻ bởi thiếu hiểu biết nên không đủ khả năng suy tư đồng thời lấy lại lòng khâm phục của cử tọa. Không hiểu hắn học được ở đâu! Ông Thung nhớ lại hôm đưa ra đề nghị những người trong nhóm nhậu chia nhau nói chuyện về tôn giáo mà cảm thấy hãnh diện, quên bẵng mối lo sốt vó khiến lòng ruột xốn xang mấy phút trước. Lòng hãnh diện khiến ông buột miệng nêu câu hỏi,
- Nếu nói như vậy, theo chú nghĩ kinh sách nhà Phật để làm gì?
- Nếu nói theo Đạt Ma Sư Tổ hoặc Lục Tổ Huệ Năng, kinh sách chẳng những phá kiến tính mà còn là phương tiện cho tổ chức huyễn lạm dụng được gọi là tôn giáo. Dưới con mắt vô vi, qua nhận định của người minh triết, tôn giáo chỉ là tổ chức thế tục, một loại tổ chức bàn về cái huyễn. Chẳng những thế, nếu nói theo Phật học, mọi tôn giáo cũng chỉ là huyễn mà thôi!
- Huyễn là không có thật mà con người vì vô minh cho là thật nên phải diễn giải để dẫn về giác ngộ. Ông Thung muốn làm sáng tỏ vấn đề nên đưa thêm lời giải thích đối nghịch.
- Bàn về huyễn tức là đã chấp nhận sự có được gọi là huyễn để rồi muốn xóa bỏ nó thì vẫn còn là dục. Nguyên tắc thực tiễn của lý thuyết Phật giáo là diệt dục, diệt bất cứ sự ham muốn nào dù tư tưởng, hành động, hay vật thể, và như thế, muốn diệt dục thì đã là dục sao có thể thức ngộ được. Cho nên, tất cả những tổ chức, thuyết minh, kinh sách, hoặc bất cứ gì còn mang bất cứ ý hướng nào cũng đều là dục, vẫn ngăn cản nếu không muốn nói là chận lối không để cho con người thức ngộ. Tôi thử hỏi quý vị, một người được coi là xấu, năm bảy vợ, hút xách, bài bạc. Nếu người đó muốn trở nên tốt phải làm gì?
- Phải tu thân, tích đức, phải làm việc thiện, phải ăn ở ngay lành. Tùy con, tên vừa nóng giận lúc nãy lên tiếng.
- Xin thưa, để trở nên tốt lành ông ta không phải làm gì hết. Chỉ không làm những chuyện được coi là xấu xa, ông ta tự động trở nên tốt lành. Nếu tu thân, tích đức, làm việc thiện, ăn ở ngay lành mà cứ dan díu năm bảy bà, cứ hút xách, bài bạc thì chẳng thể nào gọi là tốt lành được. Bởi vậy, còn muốn trở nên tốt lành thì đã chẳng tốt lành, vẫn là dục.
- Như vậy ý ông muốn nói con người đã tự tốt lành?
- Ông không bao giờ nghe câu "Nhân chi sơ, Tính bản thiện" ở Tam Tự Kinh của đức Khổng Phu Tử sao?
- Chứ lý do gì ông nói giết Phật bỏ pháp? Đã tự thiện rồi sao phải giết, phải bỏ; tính đã bản thiện cần chi minh triết hoặc vô minh!
- Trước khi trả lời câu này, Hưng nhấn mạnh từng lời nói gây sự chú ý của mọi người với chủ đích gài Sỹ nhà con nhận phạt, tôi yêu cầu anh cả và hội đồng tuyên án kẻ phá rối vì tôi đã hoàn thành trình bày sự khôn ngoan kinh Phật bằng một câu nói.
- Ông chưa nói hết. Nếu ông nói hết tất nhiên mọi người đã thức ngộ, đã minh triết, đã thành Phật. Bằng chứng rõ ràng, mọi người vẫn mu ti mù tịt, vẫn vô minh thì dù câu nói của ông có hết cũng chẳng đem lợi ích gì.
- Vấn đề thức ngộ không phải chỉ nghe, hiểu rồi để đó mà đạt tới được. Thử hỏi, tôi ăn ông có no không; tôi uống bia ông say hay tôi say? Thức ngộ không thuộc về lý trí nhưng cần lý trí. Không phải người minh triết chắc chắn có được sự giải thoát mà cần có căn cơ mới đạt đến giải thoát. Ở đây, tôi nói về Phật học chứ không nói về đạo Phật cũng không nói về thức ngộ.
Sỹ nhà con lại nhào vô đấu lý lộn tùng phèo, ông Thung nghĩ, cần phải khóa miệng tên này mới được. Nhưng không để hắn hỏi lung tung sao moi ra được những điều bổ ích bất ngờ, đàng nào cũng hay mà cũng dở. Thôi thì giải quyết lệnh phạt trước, chuyện đến đâu hay đến đó nên ông giơ tay ra hiệu đoạn nói,
- Chú Sỹ đã tự động xung phong đãi anh em một chầu khuyến khích và thưởng công chú Hưng đã có thể gom tóm sự khôn ngoan kinh Phật bằng một câu nói ngay từ đầu. Như thế, sự kiện đã tự nó giải quyết nên không cần tuyên án. Nói cho đúng, đây chỉ là sự trùng hợp giải thích ý nghĩa lời dân gian thường dùng "Gậy ông đập lưng ông."

Những tiếng vỗ tay vang dội hòa với những nét mặt tươi rói khiến người quan sát tưởng cảnh ồn ào chợt nổi dậy sẽ không bao giờ dứt. Bia tiếp tục cạn hầu sẵn sàng cuốn trôi niềm vui vừa lóe, chờ đợi màn ngộ nghĩnh sắp đến. Dẫu được giải thích xung phong hay khuyến khích hoặc thế nào chăng nữa thì cũng bị phạt, Sỹ nhà con đã bị nhiều lần, thêm vào đó, bản tính thích vui nên không tỏ vẻ gì ăn năn hối tiếc nhưng vẫn cố vớt vát.
- Cho ông thắng và tôi bằng lòng chịu phạt; thế tại sao tính đã bản thiện mà còn phải giết Phật, bỏ pháp.
- Phật pháp là pháp vô; vô Phật, vô pháp, vô niệm, vô chủng, vô loại, vô tâm, vô thức, vô thuyết, vô sinh, vô tử, vô ngôn, vô, đủ mọi thứ vì tất cả đều là huyễn. Nếu ai không nhận biết tất cả chỉ là huyễn tất nhiên vẫn theo thị dục.
- Bộ ông nói lặp hay sao mà vô với ra lắm thế. Nếu đã là huyễn thì nói làm gì!
- Bởi đó, Phật đâu mà giết, pháp không có lấy chi bỏ! Đã không giải thích, mở miệng nói ra lại ngang như cua, Hưng lên tiếng một cách tửng tửng khiến Sỹ nhà con sùng máu.
- Ông nói thế nào? Không có Phật thì người ta cúng bái cục gỗ, hòn đá hay sao? Không có pháp thế ông đang nói gì vậy. Tào lao!
- Đã biết tào lao sao còn hỏi! Như vậy ai là người tào lao?
- Bay nói như,
Sỹ nhà con bắt đầu nổi đóa. Trọng tài đành phải nhào vô!
- Khoan, khoan, ông Thung nói lớn tiếng; chú Sỹ, để tôi nói. Việc của chú Hưng nói theo kinh Phật thì hãy để chú Hưng giải thích; đâu phải việc chú bảo đúng hay sai! Nếu chú đã biết là đúng hay sai thì nghe làm chi. Trọng tài là cha mẹ, yêu cầu chú im lặng.

Không còn cách nào giải thích lối trả lời ngang bướng của Hưng, ông Thung phải chỉa mũi dùi vào nhận định Sỹ nhà con vừa mới đề xướng về câu nói ngang tàng nghịch hẳn thực tế, "Phật đâu mà giết, pháp không có lấy chi bỏ!" Ông nghĩ, nếu không có Phật sao có Phật giáo! Những lời dạy nơi kinh sách nhà Phật cả đời người đọc không hết được gọi là pháp mà Hưng đã dám cho rằng không bằng tờ giấy trắng, bây giờ lại nói không có pháp thì quả là quá ẩu dẫu hắn đã biện luận tất cả chỉ là huyễn. Tuy nhiên, ông cũng thấy Hưng có lý ở điểm "Còn muốn trở nên Phật vẫn chưa là Phật." Mà đã ai là Phật đâu nên lại cần pháp để học hỏi. Đàng này, hắn muốn xóa luôn cả pháp, nhưng cái miệng của hắn quá lắm, chắc chắn có điều cốt yếu gì nên cứ tơn tơn chọc chạch thiên hạ bằng lối lý luận nghịch thường được mở đầu với những câu nói bạt mạng, ngang ngược. Nhận xét như vậy, ông lên tiếng ngăn chặn Sỹ đoạn thách thức Hưng giải thích. Thế chú lấy gì minh chứng. không Phật không pháp?
- Phật là mình và pháp nơi mình sao có thể giết, sao có thể bỏ, có gì mà minh, có gì mà chứng, có chăng vô minh. Tất cả Phật học chỉ bao gồm trong hai chữ "kiến tính." Thế nên, gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp có nghĩa trong tiến trình tu chứng, hành giả không theo đuổi bất cứ gì cũng chẳng dựa theo phương pháp nào. Nói nôm na hơn cho có vẻ dư giả văn chương được gọi là yếu ngôn, lục tổ Huệ Năng đã diễn giải bằng bốn câu, "Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184).
- Đã vô Phật, vô pháp, lại còn bày ra giáo ngoại, giáo nội, văn tự, ngôn tự rồi trực tâm, trực lòng, kiến tính, Phật tính. Ông nói gì lung tung! Nếu tất cả đều là vô, đều là huyễn, tâm đâu mà trực, tính đâu để kiến. Vậy thế nào là kiến tính? Kiến là gì, tính là gì vì tất cả đều huyễn! Phủ bất chợt lên tiếng. Từ lúc Hưng nói, Phủ im lặng nghe và nhận thấy hình như Hưng nói về một thực thể nào đó chứ không thèm đá động gì về Phật giáo. Ngược lại, hắn có phần bác bỏ những lề lối cúng kiến, lạy lục, bác luôn lý thuyết nhà Phật, dám to miệng cho rằng tất cả kinh sách không bằng tờ giấy trắng. Phải có lý do gì, Phủ nghĩ. Xưa nay, Hưng ăn nói tương đối chừng mực ngay cả trong lúc say hoặc diễu. Thế sao lúc này hắn mang vẻ ngạo đời đến thế! Bởi vậy, Phủ dùng ngay những lời Hưng vừa nói thách đố hắn phân biệt.
- Nói vậy nghe được. Kiến tính là trạng thái thức ngộ độc nhất vô nhị trong hành trình tu chứng nhà Phật, được gọi là thiền. Thiền bắt nguồn từ đạo Bà La Môn bên Ấn Độ. Thực ra, phản ứng chống lại hệ thống giáo điều và tổ chức quyền hành quá khắt khe cũng như lý thuyết Bà La Môn đã là nguyên nhân phát triển Phật học. Khi Phật học truyền qua Trung Hoa do đức Bồ Đề Đạt Ma, thường được gọi là Đạt Ma sư tổ, hòa lẫn với Lão học, lại truyền qua Nhật tạo nên phương pháp tu chứng gọi là Zen. Căn bản tu chứng nhà Phật chỉ là kiến tính. Kiến là thị kiến, nhận biết, đạt tới. Thế nên, minh triết giúp thị kiến, nhận biết, tức là thức và kiến cũng là ngộ. Tính có nghĩa bổn lai diện mục, thực thể, tâm thể của mình. Nói cách khác, tính là Chân Như, Chơn Như, Cội Nguồn Hiện Hữu, Cội Nguồn Biến Chuyển, Biến Dịch, mà Nguyễn Duy Cần gọi là Thực Tại Siêu Việt ở mọi tạo vật. Theo Phật học, khởi đầu là Chân Như, vẳng lặng, tuyệt đối tĩnh tịch, vô thủy, vô cùng; thế rồi khởi niệm hay vọng niệm phát sinh tạo thành nghiệp. Nghiệp chồng chất biến chuyển thành muôn vật. Như vậy, muôn vật chỉ là sự biến chuyển, tiến trình thay đổi, hay biến dịch của Chân Như. Vì thế, kiến tính là kiếm lại bản thể thực, tự thể của mình, tức là ngộ Chân Như. Bởi vậy, muốn hiểu rõ tính phải minh triết vô thức nhà Phật. Hưng xổ một thôi khiến bà con đầu óc quay cuồng chỉ còn biết ngồi há miệng nghe.
- Ông nói gì đâu lộn tùng phèo. Nếu Chân Như đã tuyệt đối tịnh, vô thủy, vô chung, vẳng lặng, thì sao có vọng niệm. Vậy vọng niệm ở đâu ra chứ nếu vọng niệm tự nhiên phát sinh thì sao Chân Như có thể vô thủy, vô chung.
- Đây là lý thuyết nhà Phật về Chân Như được gọi là Duy Thức hay Vô Thức Luận. Vọng niệm khởi nguyên ở đâu tôi không biết vì thời kỳ đó mẹ tôi chưa có bầu; bố tôi cũng chưa có. Quý ông muốn biết, chỉ còn cách thực hiện tu chứng bởi tôi chỉ nói Phật học chứ không nói được gì về tu chứng. Ông chứng, ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo. Các ông nên nhớ bốn câu yếu ngôn, "Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật." Đã giáo ngoại biệt truyền sao có thể nói. Không thể nào diễn giải do đó bất lập văn tự thì sao có sách đọc. Thế nên, những sách nhà Phật cũng chỉ nói về cảm nghiệm tu chứng, mà người đọc vì không có cảm nghiệm tu chứng đã biến kinh sách trở thành sự ngăn cản đường tu chứng mà thôi. Nếu ông nào lười suy nghĩ, chỉ cần nhớ hai chữ "kiến tính" để tu chứng là đủ. Vì thế, bất cứ câu hỏi nào các ông đưa ra cũng chỉ hỏi lung tung không cần thiết bởi chúng chỉ là huyễn nên càng không cần biết.
- Không biết mới hỏi vì đã biết sao cần hỏi. Tuy nhiên, không biết sao có thể hỏi vì đã hỏi là đã biết điều mình không biết. Biết điều mình không biết tức là đã biết sao gọi là không biết. Và như vậy, hỏi điều mình không biết đâu có thể gọi là hỏi lung tung!
Mọi người vỗ tay hoan nghênh, vỗ tay vì Phủ dùng lý luận ngược xuôi để biến sự không biết thành sự đã biết. Mượn cơ hội, Sỹ nhà con lại chen vô,
- Nói như thế, thực sự biết thì tất cả chỉ là huyễn và nếu đã là huyễn tất nhiên không cần biết. Do đó, biết điều mình không biết mới thực sự là minh triết.
- Sao có thể nói được biết điều mình không biết vì nếu đã là điều mình không biết thì sao biết được. Như vậy, kẻ nào không biết điều mình không biết mới là minh triết và những người cho rằng họ biết điều không biết mới là vô minh.
- Đã vô minh sao có thể biết được điều không biết?.
- Trong cuộc đời này thiếu gì điều mình không biết; thế nên biết mình còn nhiều điều không biết mới thực sự là minh triết!

Và thế là đề tài được chuyển qua biết và không biết để rồi kẻ ý này, người ý kia rối um lên như đám o­ng mất chúa. Không cần biết người khác quan niệm thế nào, những cái mỏ thi đua bày tỏ nhận định của mình. Và ai cũng chỉ thấy lý của mình là đúng đến nỗi có người mặt đỏ tía tai biện minh cho cái biết của mình nhào nháo với bốn ý niệm biết, không biết, minh triết, và vô minh. Họ vậy đó, ăn nhậu đã hăng và bàn luận cũng hăng, hăng tới độ tưởng trở thành gây gỗ đến nơi. Nhiều khi ngôn ngữ phát ra nơi cửa miệng không thuận chiều hoặc diễn tả thiếu chính xác ý muốn nói, tạo thành áp lực đẩy văng cả những lời chẳng nên buông theo ý nghĩ. Bởi vậy, nếu chưa quen với kiểu cách ăn nói của hội nhậu xồn xồn, người dự thính khó có thể phân biệt được họ đang cãi nhau hay đang bàn luận, và cũng không hiểu họ đang bàn luận những điều được cho rằng biết hoặc không biết. Thêm vào đó, hình như cái mỏ nào cũng thích nói ngược. Những lý luận thao thao bất tuyệt chồng chất diễn giải biết là vô minh và không biết là minh triết. Mà có lẽ họ không biết thật! Họ đang uống bia nhưng không biết mình đang uống lại cứ dồn tâm tưởng vào cái biết vô minh và điều không biết minh triết, biết hay không chẳng biết, chỉ thấy bia cứ mở, người cứ uống! Nào ai hiểu người uống bia hay bia đang uống người!

Nhân dịp này, Hưng mở chai bia thứ ba, nhàn hạ nhấm nháp chất đắng Heineken, mặc cho mọi người xôn xao tranh luận bởi biết rõ họ không thoát khỏi vòng luẩn quẩn của mấy công án nhà Phật. Anh thầm nghĩ, những lời nói của Đạt Ma Sư Tổ và Lục Tổ Huệ Năng đâu phải chuyện để người ta bàn tán suông, và nếu cứ lời ra tiếng vô mà có thể thức ngộ được thì ai cũng có thể trở thành sư tổ, cần gì tu chứng. Cứ để họ nói, nói cho đã, nói lung tung sẽ tự nhận ra ngõ bí và lúc đó mới hy vọng họ chấp nhận được phần nào điều nghịch lý nhưng lại là căn bản trong hành trình tu chứng nhà Phật. Những cái mỏ này xưa nay đã quá quen với lối nhìn hữu vi, đối đãi, có người, có ta, lệ thuộc suy tư nhĩ ngã và trở thành nô lệ đến độ không thoát ra được thì sao có thể hiểu thấu những câu nói cảm nghiệm thiền viện. Đã là sư tổ đời thứ hai mươi tám bên Ấn Độ, thế mà khi sang tới Trung Hoa, đối diện với Lão học, Bồ Đề Đạt Ma cần đến những chín năm ngồi quay mặt vô tường tu chứng thì sao kẻ nhân gian chỉ nghĩ suông mà có thể thấu suốt được nét thâm trầm nhưng tinh tế nơi câu nói quá ngắn gọn mang đầy mâu thuẫn với thực tế của ngài. Lối nhìn hữu vi không cách nào giải thích tiến trình tâm linh phương chi những đầu óc quen thói lý luận thị dục đòi am hiểu kết quả tu chứng cửa Phật! Đồng ý rằng hành trình và thời điểm thức ngộ của mỗi người khác nhau; hơn nữa, có kẻ được sinh ra để thức ngộ và đa số con người chẳng bao giờ có thể đạt tới, nhưng phương pháp, nguyên tắc cần phải được phổ biến. Khổ nỗi, nguyên tắc tâm linh thì chẳng thấy đâu mà chỉ những cổ võ tổ chức nhân sinh, hình thức bên ngoài che lấp thao thức, khát vọng tận đáy tâm hồn mỗi người. Tu chứng nhà Phật đâu cần cúng kiến, cầu khẩn, thế mà người ta cứ đua nhau rước Phật Bà, tế Quan Âm! Làm gì có Phật bà, Phật ông. Phật chính là Chân Như nơi mỗi người mà cũng chia ra ông bà, chắc sau này họ sẽ bới thêm Phật con, Phật mẹ. Con người dùng lối nhìn thế tục bày ra lắm chuyện, và không có người tin theo tất nhiên sẽ bị tàn tạ nên càng phải bới bèo ra bọ tạo nền tảng và cơ sở vững chắc sao cho đông tín đồ, lắm thiện nam tín nữ, càng nhiều người cúng kiến thì càng nổi tiếng, càng oai vọng.

Hưng thở dài; nỗi ngậm ngùi nào đó chợt dâng lên. Con đường tu chứng bị bịt kín mà người nào đạt đến thì miệng như ngậm hạt thị và có nói ra, lời nào lời ấy chói tai thiên hạ, còn không, lại mang đầy vẻ ngông cuồng. Hèn chi tổ chức tôn giáo phát triển mạnh, mạnh nhưng luẩn quẩn nơi bến mê! Đến tội cho con người! Đức Thích Ca chẳng viết mà có chăng khuyến dụ môn sinh, "Lời ta nói như chiếc bè," "Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng." Thế mà con người mãi mê với giáo pháp, giáo lý, triết lý, sách này, kinh kia loạn lên, tưởng rằng cứ tụng, cứ chất đầy suy tư triết lý của kẻ khác vào đầu là sẽ được giải thoát. Giải thoát đâu không thấy mà chỉ những nô lệ của những kiến giải được gọi là minh triết. Đã minh nào cần triết, nên càng triết chỉ càng vô minh. Mấy người anh em đây cũng vậy, mới chỉ có chữ “Biết” lại đã thêm vào chữ “Không” cho đủ phần đối đãi và quay cuồng với ý niệm cho có vẻ minh triết. Đúng là chuyện thị dục làm phiền hà hành trình thức ngộ của con người! Minh đâu không thấy chỉ luẩn quẩn. Nghĩ đến đây, Hưng thở dài, tâm trạng mang phần nào chán nản, nâng chai bia làm một hơi, sau đó không cần hiểu thiên hạ bàn luận đến đâu, anh giơ tay yêu cầu mọi người im lặng, buông thêm câu nói,
- Biết hay không biết cũng chỉ là không! Minh triết hay vô minh cũng chỉ là vô. Nào lợi ích gì mà bàn tán, tốn bia, tốn nước bọt.
- Thế sao ông nói người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết?
- Tôi chỉ nói theo kinh Kim Cang mà thôi, "Nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp" (KCGL; Tr.70) thì minh triết hay vô minh cũng chẳng phải là minh triết và cũng chẳng phải là vô minh. Mà vì nó không phải là minh triết nên gọi là minh triết, vì nó không phải là vô minh nên gọi là vô minh.
- Tôi chỉ muốn hỏi tại sao ông lại nói người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết chứ tôi không hỏi tại sao gọi là minh triết hay vô minh.
- Sao ông thông thái thế! Người nào càng nhận thức được sự vật nhiều bao nhiêu, càng nhận ra còn nhiều thứ mình không hiểu bấy nhiêu nên biết mình vô minh. Kẻ nào nhận thức chỉ bằng cái lông con rận nên cho rằng tất cả sự khôn ngoan nơi thiên hạ chỉ có thế, tất nhiên tự cho rằng mình minh triết. Chỉ vậy thôi mà không chịu suy nghĩ, cứ la lối om xòm. Thực ra, câu ấy như thế này, người minh triết cảm thấy mình vô minh, và kẻ vô minh dương dương tự đắc minh triết. Thế mà cũng đòi bàn luận biết với không rối lên!
- Diễn giả lên nước! Ừ thì cho ông hay, ông giỏi. Chúng tôi vô minh ngồi nghe ông minh triết. Phủ lại chọc thêm một câu. Dẫu biết Phủ nói kháy nhưng Hưng tảng lờ bởi có đấu lý thêm cũng chẳng đi tới đâu nên nói tiếp,
- Nguyên tắc căn bản của Phật học là tu chứng chứ không phải học thức. Điểm cuối cùng của Phật học là kiến tính, nhận ra tự thể hay thực thể của mình. Tự thể, thực thể này được gọi là Tâm Phật hay Tâm Chân Như; đó là Chân Như nơi con người. Danh từ nhà Phật gọi là Phật tính hoặc tâm Phật. Thế nên, tu chứng để nhận ra Phật tính hay Chân Như hoặc tự thể, thực thể mới là điểm rốt ráo của nhà Phật. Mọi sự bàn luận, hiểu biết được gọi là minh triết hay vô minh chỉ xoay quanh điểm này. Ai chưa kiến tính, thức ngộ đều là vô minh. Chỉ kẻ nào ngộ rồi mới được gọi minh triết. Đó là lý do tại sao tôi đã nói chỉ cần nhớ hai chữ “Kiến tính.”
- Sao ông bày ra lắm thứ thế! Nào kiến tính, Phật tính, Chân Như, tự thể, thực thể, minh triết, vô minh, lại còn thức với ngủ, mà không thấy nói gì về niết bàn, luân hồi? Bao nhiêu người theo Phật giáo lập công đức để tránh nghiệp luân hồi hầu đạt tới niết bàn, bộ họ sai hết sao? Ông nói về Phật học chỉ thấy kiến với bọ, lại còn cho rằng Phật giáo là tổ chức huyễn. Nếu Phật giáo là huyễn sao có Phật Bà Quan Âm, sao có Phật Di Lặc, sao có Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng, vậy thử hỏi ông đã kiến tính chưa?
- Tôi đã trình bày rõ ràng; tôi không nói về Phật giáo mà chỉ nói về Phật học. Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, tất cả chỉ là tổ chức của con người bày tỏ lòng khát khao tâm linh; đạo học diễn giải cảm nghiệm tâm linh. Dẫu tôn giáo bắt nguồn từ đạo học nhưng tôn giáo bị ham muốn của con người chồng chất quá nặng nề nên có thể nói tôn giáo phần nào ngăn chận tiến trình tâm linh của con người. Căn bản Phật học là kiến tính chứ không cầu khẩn, không thờ phượng, cúng tế, cầu siêu, cầu an, chẳng bái lậy ai vì Phật tính ở nơi mọi người. Tâm là Phật và Phật là tâm. Thân xác con người chỉ như chiếc đò chở tâm, chở Phật trong hành trình thức ngộ, giải thoát. Đời người quá ngắn nên ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá Phật tính nơi mình tức là kiến "bổn lai diện mục" của mình nếu nói theo ngôn từ của lục tổ Huệ Năng. Chính vì tưởng tượng Phật là người nào hay đấng nào mình muốn trở thành nên con người bày ra những kinh sách, phương pháp cúng bái, cầu khẩn nhờ đấng nào đó giúp mình mà quên mất Phật tại tâm, Phật nơi chính mình. Vì vậy, phải nhìn vào tâm mình chứ không nhìn ra ngoài, phải tự tu chứng để nhận ra Phật tính nơi mình. Tự tìm ra mình, tìm ra Phật tánh nơi mình được gọi là kiến tính và chỉ có một điều duy nhất này mà thôi. Đây cũng là phương pháp đạt tới niết bàn, phương pháp phá vòng luân hồi, con đẻ của vô minh tạo thành nghiệp chướng. Bởi vậy, không có kinh sách nào có thể chỉ đàng dẫn lối cho bất cứ ai đạt tới tâm Phật mà phải là chính mình tu chứng, chính mình nghiệm xét, hay cảm nghiệm. Không có lối tu khổ hạnh nào có thể giải thoát con người ra khỏi vòng luân hồi vì kinh sách, sự khổ hạnh không thể nào giúp ta nhận ra bổn lai diện mục. Thế nên, chúng chỉ là điều phù phiếm, chỉ là kiến thức không đem lại lợi ích gì trong hành trình kiến tính. Nơi Phật học, tất cả chỉ là kiến tính mà muốn kiến tính phải tu chứng, và chỉ tu chứng mới thấy Phật nơi tâm. Chỉ kiến tính là điều duy nhất đáng làm và đáng học. Hơn nữa, muốn tu chứng cần định tâm. Sự định tâm có nhiều phương pháp để đạt tới. Do đó kinh sách chỉ viết để giảng giải cho người ta hiểu tất cả đều là huyễn hầu dễ dàng định tâm. Khổ nỗi, họ đã lầm, thay vì biết để đạt tới định tâm, người ta bày ra các nghi thức dẫn tới định tâm khiến kẻ thiếu hiểu biết tưởng những nghi thức này sẽ giải thoát họ hoặc là phương tiện nhờ thần thánh cứu giúp để được giải thoát.
- Ông nói rằng Phật ở nơi mình, Chân Như ở nơi mình thì khi mình phạm tội tất nhiên Phật nơi mình cũng phạm tội sao? Và nếu như thế, mọi người cũng như nhau vì Phật đã ở tâm mọi người nên đâu cần cầu cứu, cúng bái bất cứ thần thánh nào! Hơn nữa, chỉ tu chứng mà có thể kiến tính thì đâu ai có thể giúp ai, đâu vị nào có thể giúp mình được, và dù minh triết hay vô minh thì có chi khác biệt. Phật đã ở nơi tâm mình, Chân Như nơi mình thì làm gì cần đến Phật pháp, đâu cần giữ luật lệ. Và nếu mọi người đã là Phật thì Phật đâu có thể sa ngã nên sao có thể phạm tội được. Phỏng thế có nghĩa tất cả những gì một người làm đều là động tác của tâm Phật, của Chân Như nơi người ấy. Như vậy thì, hà  hà, tha hồ ăn chơi, chẳng gì là tội, chẳng cần cúng kiến, tụng kinh, chỉ xỉn và xỉn sẽ tới niết bàn, khỏi cần diệt dục, cầu siêu, và tất cả mọi người đều là Phật, Phật tôi, Phật anh, Phật bố, Phật mẹ, Phật đẹp, Phật xấu, Phật tứ lung tung. Sỹ nói một hơi.
- Những điều ông vừa nêu lên đức Bồ Đề Đạt Ma đã nói rồi (GLTH; Tr.202-203). Tôi không muốn lặp lại. Và đức Đạt Ma sư tổ cũng nói thêm là chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh nơi mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường (GLTH; Tr.203). Hành hạ thân xác, miệt mài chạy theo ham muốn thị dục để rồi tạo thêm nghiệp chướng chồng chất ngày càng nặng nề thêm nào được ích gì!
- Nếu tâm là Phật, là Chân Như thì tất cả đều từ tâm phát sinh ra đúng không?
- Đúng, đó là thuyết nhà Phật.
- Vậy cứ thử thò tay vô lửa xem cái tâm phát sinh nó nóng thế nào. Ông nói giỡn!
- Thực ra, chữ huyễn nơi nhà Phật có nghĩa chóng qua, sẽ qua đi, nhưng thường bị hiểu lầm là không có thật. Dẫu vô thức luận của nhà Phật nói về diễn trình vô hình, ngược lại không hiểu sao các kinh sách nhà Phật thường dùng chữ "không hiện hữu" hay "vô hiện hữu." Đây là điểm trúc trắc của dịch thuật mà người ta đã không để ý hoặc không dám sửa đổi. Nhà Phật nói tất cả đều là "không," là "hư vô." Nếu đã không có, không hiện hữu sao ai có thể biết. Do đó chữ “Không” cũng như chữ “Vô” trong kinh sách nhà Phật mang nghĩa không nhìn thấy bằng con mắt thịt, tức là vô hình. Đồng thời, chữ “Hiện hữu” phải được hiểu là hình hài. Đàng khác, nhà Phật không nói về hiện tượng luận hữu hình nhưng bàn về kết cục cũng như cứu cánh của mọi sự vật, sự việc. Tất cả được phát sinh từ Chân Như do khởi niệm hay vọng niệm nên tất cả đều nằm trong trạng thái biến chuyển của Chân Như và được gọi bằng nhiều tên khác nhau theo ngôn từ tùy thuộc các nhà trước tác kinh sách. Vì vậy, Chân Như, Phật tính, tâm, Phật, tự thể, thực thể, bản thể, bổn lai diện mục, cũng chỉ là một. Khi dùng tới chữ có và không nơi kinh Phật, chữ không thường mang nghĩa vô hình, chẳng nhìn thấy; chữ "có" mang nghĩa hiện hữu dù hữu hình hay vô hình. Đàng khác, vì tất cả đều là hiện thể của Chân Như, của Phật tính, những chữ có, không, vô, huyễn đều đồng một nghĩa. Cho dẫu dùng cách nào thì cũng chỉ nói về hiện thể của Chân Như, dù vô hình hay hữu hình, dù cho rằng thật hay huyễn. Đọc kinh Phật mà không để ý điểm này, các ông sẽ lạc vào mê hồn trận của ngôn từ. Thí dụ về chữ "thường" nơi kinh Phật. Chữ thường có hai lối dùng mang hai nghĩa thường hằng và biến chuyển, thay đổi, liên tục diễn tiến hàm ý chuyện bình thường phải như vậy. Trong câu nói cuộc đời biến chuyển vô thường thì chữ thường đây có nghĩa biến đổi không thể nói hết được, không đo lường được. Tuy nhiên, nơi Lão học có câu, "Đạo khả Đạo phi thường Đạo" thì chữ thường mang nghĩa chính xác, thực thể. Lục tổ Huệ Năng dùng chữ thường theo nghĩa thường hằng, bất biến. Nếu ai đọc truyện Hạ Xương sau khi gặp lục tổ Huệ Năng nói, "Người chấp vô thường tánh, Phật nói hữu thường tâm (GLTH; Tr.240) sẽ hiểu rõ hơn điểm rắc rối của chữ thường nơi kinh Phật. Thực ra, kinh sách nhà Phật cũng như nhiều kinh sách khác, mỗi vị trước tác đều dùng ngôn từ theo ý nghĩa riêng. Đây cũng là điểm khó khăn chung của mọi người trong tiến trình tìm hiểu các đạo học.
- Ông không trả lời câu tôi hỏi mà nói lung tung về kinh sách. Điều tôi muốn nói là nếu mọi vật, mọi sự từ tâm phát sinh, tại sao ông không dám cho tay vào lửa? Tình cảm thấy đắc ý khi nêu câu hỏi bởi chủ đích dùng kinh nghiệm cảm giác ngũ quan thách đố Hưng giải thích nhận thức tâm linh.
- Hỏi như thế ông đã không hiểu gì về lý thuyết nhà Phật và càng không hiểu câu nói mọi vật từ tâm sinh ra. Theo nhà Phật, chúng ta biết được mọi vật chung quanh nhờ giác quan. Thế nên, nếu không có giác quan, tất cả chỉ là không và như thế chúng ta không thể biết sự vật như chính nó mà qua trung gian của giác quan. Nhà Phật đặt vấn đề tìm hiểu thực thể sự vật chứ không nói về sự phiếm diện của sự hiện hữu nhất thời nơi sự vật. Ông đã bao giờ nghe câu, "Lửa không nóng nhưng vì chúng ta cảm thấy nó nóng chưa?" Ông có hiểu câu này ý nghĩa thế nào không mà cứ nói nhăng nói cuội. Phật học không xét về hiện tượng vật chất mà chỉ đặt vấn đề nguồn gốc mọi hiện tượng dẫn đến sự giải thoát. Mọi sự trong cuộc sống hữu hình rồi cũng qua đi, tất cả chỉ hiện hữu trong giai đoạn thời gian, dù một vài ngày hay cả triệu triệu năm thì cuối cùng vẫn đi vào thế giới vô hình, nhà Phật gọi là hư vô. Cội nguồn của tất cả mọi sự hiện hữu, hữu hình và vô hình chính là Chân Như. Thế nên, Chân Như cũng là tâm Phật nơi mọi người, và cũng là tự thể, thực thể, hay bản thể của con người, bản thể của mọi sự. Đó là lý do tại sao nói mọi vật từ tâm phát sinh. Tâm là Chân Như, lửa cũng như thân xác, mọi vật đều là biến thể của Chân Như. Bởi vậy, khi nói về lửa phải so sánh nó với những sự vật hữu hình chứ không thể ráp nối lộn xộn với tâm vì tâm vô hình. Thân xác là biến thể của tâm Chân Như bị lửa, biến thể của tâm Chân Như đốt. Ừ thì nó đốt vì lửa phải nóng và nó đốt mọi sự hữu hình nhưng không đốt được tâm. Tôi nói vậy thôi, hiểu hay không cũng chẳng lợi ích gì vì kiến thức đâu có đem lại giải thoát. Vấn đề chỉ là ông có nhận ra cái tâm của ông là gì không; ông có kiến tính được hay không mà thôi!
- Ông nói, mọi người là Phật; tôi đã là Phật rồi đâu cần phải kiến tính!
- Kẻ nào còn thấy mình là gì vẫn còn vô minh, và muốn là gì cũng vẫn vô minh!
Hưng phang một câu khiến Sỹ tối tăm mặt mày. Tưởng rằng dùng chính lời nói của Hưng lúc nãy để phá ngang, ai ngờ bị đương đường cho rằng vô minh.
- Chính ông nói mọi người là Phật, và một vị Phật thì không thể phạm tội được. Thế sao thấy mình là Phật vẫn vô minh? Ông ăn nói luẩn quẩn.
- Người nào thấy mình luẩn quẩn mới thực sự dợm bước vào ngưỡng cửa minh triết. Người nào còn cho mình là thế này, không là thế kia, vẫn còn đang luẩn quẩn nơi giới hạn ngôn ngữ. Chẳng có Phật, chẳng có Chân Như, chẳng có pháp, chẳng có gì ráo trọi. Gọi là Phật vì không có Phật nên gọi là Phật. Đàng này cho mình là Phật thì chỉ là dục mà chớ. Bởi vậy, giảng về Phật chẳng những giết chết Phật mà giết luôn người nghe giảng. Không thể giảng về Phật vì Phật là Chân Như. Phật là tính của Chân Như nơi mọi người, mọi vật thì sao còn thấy Phật hoặc cho rằng là Phật. Điều nên nói chỉ là kiến tính hoặc thực hiện cách nào để kiến tính. Đó là hành trình thức ngộ, tu chứng. Mà tu chứng, chính ông phải thực hiện chứ không ai nói cho ông được. Và như vậy, minh triết không phải là gom góp kiến thức cảm nghiệm của người khác đem nhồi nhét vào đầu mình và lặp đi lặp lại mà phải là kết quả của chứng nghiệm, chiêm nghiệm, tu chứng. Ông nên khép cái mỏ lại là tốt nhất và cần suy nghĩ. Nếu sau bẩy ngày suy nghĩ vẫn còn u mê chưa hiểu mới nên hỏi.
- Ông láo khoét, đã suy nghĩ cần gì hỏi! Muốn trở thành Phật phải tu luyện chứ đã là Phật thì tu luyện làm gì!
- Còn muốn là Phật vẫn không thể thành Phật. Vấn đề là thức ngộ Phật nơi chính mình. Đó là kiến tính. Tôi đã phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần mà ông không chịu hiểu. Chỉ muốn, chỉ tu thì ơn ích gì, làm sao có thể giải thoát. Ông làm ơn nhớ cho, muốn tức là dục nên còn muốn, thì còn dục. Chạy theo cái dục sao có thể kiến tính.
- Ông cứ lải nhải mãi hai tiếng kiến tính! Vậy muốn kiến tính phải thế nào? Nói được mà không làm được cũng như cuội!
- Muốn kiến tính phải tu chứng. Muốn tu chứng phải hàng phục tâm. Muốn hàng phục tâm phải định tâm. Muốn định tâm phải diệt dục. Muốn diệt dục phải nhận ra tất cả chỉ là huyễn. Muốn nhận ra huyễn phải minh triết. Muốn minh triết phải biết khép cái mỏ lại, mở rộng tâm hồn để suy tư, nhận định, điều gì hay thì giữ lấy, điều gì không hợp với mình phải suy nghĩ cho tới cùng cái lý của nó. Và điều kiện để suy tư là phải nhận biết sự vật như chính nó. Tất cả mọi vật, mọi sự chung quanh trong cuộc sống đều là cơ hội. Không biết sử dụng cơ hội để tu chứng đó là vô minh.
- Vô minh hay hữu minh không cần biết! Ông nói về Phật học mà không nhắc chi tới đức Phật Thích Ca, chỉ những kiến tính, định tâm, minh triết thì minh triết ở chỗ nào, và lấy gì làm căn bản để kiến tính? Ông nên nhớ câu, "Không thày đố mày làm nên." Không có đức Phật Thích Ca làm sao có đạo Phật, làm sao có Phật học, làm sao kiến tính, định tâm?
- Gọi danh hiệu đức Phật Thích Ca đã phần nào tự ngăn cản hành trình thức ngộ. Phật là người đã thức ngộ, đã kiến tính. Tại sao không gọi đức Phật Bồ Đề Lạt Ma, đức Phật Lục Tổ Huệ Năng, đức Phật Thung, đức Phật Sỹ, đức Phật Phủ, đức Phật Hưng? Phật tính ở mọi người vì tâm là Phật, Phật là tâm, mà chỉ gọi đức Phật Thích Ca, đức Phật Di Lặc? Từ cách dùng ngôn từ, chúng ta đã tự giới hạn hành trình thức ngộ, tự che lấp tâm Phật nơi chính mình. Ông không nhớ nhà Phật có câu, "Buông dao đồ tể là trở thành Phật" sao? Ai cũng có tâm Phật nên ai cũng là Phật; vấn đề còn lại là mình có dứt được khuynh hướng theo đuổi vô thường tánh hay không, hoặc ngược lại, mình có nhận ra tâm Phật nơi mình hay không. Sự nhận ra này gọi là kiến tính. Đó là lý do tại sao tôi chỉ nhấn mạnh về kiến tính mà không nhắc gì tới đức Thích Ca. Gọi đức Phật Thích Ca phần nào tự che lấp tâm Phật nơi mình để rồi chỉ nghĩ đức Thích Ca là Phật và mình thì không thể kiến tính. Ông nên nhớ, "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật," chỉ đơn giản có thế.
- Không có đức Phật Thích Ca sao có đạo Phật?
- Kiến tính không cần đức Thích Ca. Ông không nhớ câu nói của đức Thích Ca sao, "Lời ta nói như chiếc bè." Khi đã hiểu rồi phải bỏ lời nói đó đi mà tiếp tục cảm nghiệm. Trong hành trình thức ngộ chúng ta không làm nô lệ cho bất cứ cuốn sách hay cá nhân nào mà phải hoàn toàn tự do thực hiện ý chí, mở mang kiến thức và phát triển trí tuệ cho đến khi chính mình đắc quả vì tâm Phật ở trong tất cả mọi chúng sanh (ĐPVPP; Tr.286). Đức Thích Ca cũng như các tổ thiền nhà Phật chỉ giải thích về cảm nghiệm trong hành trình kiến tính chứ không bảo phải khất thực, khất ẩm, hoặc ngồi kiết già, kiết non, hay lễ chùa, lạy Phật, mà tất cả chỉ dồn vào hành trình thức ngộ tâm Phật tức là nhận ra Phật tại tâm. Đó là lý do tại sao đạo Phật được gọi là đạo minh triết. Tuy nhiên, trên thực tế, đa số người ta chỉ có triết chứ không minh.
- Thế sao sách vở viết đức Phật Thích Ca vì thấy nhân loại đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên tìm đường giải thoát cho mọi người?
- Nói như vậy ông phải tự hỏi đức Thích Ca đã giải thoát cho ông chưa hay ông vẫn còn phải bấn lên những khi vợ đẻ, con đau, làm lụng cực khổ mà lắm lúc tiền điện, tiền phôn không đủ trả tạo nên ưu tư, phiền não. Đã bao nhiêu năm, bao nhiêu lần ông cầu cùng đức Thích Ca, đức Bà, đức Chúa sao vẫn còn lận đận, luẩn quẩn thì ai đã giải thoát cho ông? Giải thoát không có nghĩa ông đang nghèo hèn, bốc ông bỏ vào cuộc sống vương giả, uy quyền, tiền đầy bạc đống tha hồ ăn chơi đàng điếm, khỏi phải lo nghĩ vật lộn với cuộc đời. Giải thoát là kết quả của kiến tính, tự nhận ra tâm Phật, những trắc trở, lo âu, hay vui sướng, nhàn hạ trong cuộc sống thế nhân đều nhất thời, chóng qua vì tất cả đều là huyễn, và mình với Chân Như thực sự là một; mình đang trong hành trình biến chuyển của Chân Như, quyền lực cội nguồn phát sinh mọi sự hiện hữu, vô hình cũng như hữu hình, nhất thời cũng như vĩnh cửu. Chính sự nhận thức này giúp con người thoát khỏi tham sân si, những ham muốn con đẻ của vô minh.
- Thế sao có những vị bồ tát trở lại giúp con người giải thoát?
- Ông nói vớ vẩn, đã có những vị bồ tát giúp con người giải thoát thì ông đã được giúp chưa? Chẳng có bồ tát thì sao có thể trở lại, sao có thể giúp.
- Ông nói gì láo lếu! Sách vở nhà Phật nói vậy chứ bộ tôi bới ra sao mà nói không có bồ tát?
- Thì ông hãy đợi vị bồ tát nào đó đến giải thoát cho ông, cần gì phải tìm hiểu Phật học, cần gì phải ăn, phải uống, phải làm lụng vất vả, phải lạy Phật, cúng dường! Nói đến giải thoát mà có biết giải thoát là gì và giải thoát khỏi cái gì thì nói làm chi mà vẫn cứ hỏi! Chỉ một điều nên nhớ, ý định cứu giúp người, giải thoát người khỏi những lo âu phiền não vẫn chỉ là dục. Mà đã là bồ tát thì hoàn toàn đã diệt dục theo lý thuyết nhà Phật sao còn có thể giúp ai giải thoát. Vì vậy, nếu nói rằng đức Thích Ca vì thấy con người trầm luân khốn khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, mà kiếm đường giải thoát cho họ, quả là sự bôi nhọ lớn lao tới danh phận của ngài vì còn muốn giải thoát chính mình hay giải thoát cho người vẫn còn là dục. Chạy theo dục, theo ước muốn dù tốt hay xấu cũng không hòng gì kiến tính, sao có thể thức ngộ. Ông nên nhớ, "phàm chỗ có tướng đều là hư vọng" (KCGL; Tr.41); đã không có tướng sao còn ý niệm, ước muốn, nói chi đến trở đi với trở lại.
- Nhưng những vị bồ tát làm việc, giúp đỡ vô cầu, vô công, vô danh sao gọi là dục?
- Thì đó là việc của Phật tính, của Chân Như đang làm nơi mọi sự sao còn gọi bồ tát! Thế Chân Như, Phật tính đang làm việc nơi ông sao ông còn đợi hay muốn đức Phật hoặc bồ tát nào giải thoát?
- Nói như vậy, theo ông đức Phật Thích Ca giảng giải điều gì trong suốt bốn mươi chín năm mà ông dám nói không cần ngài?
- Khi tôi giảng kinh Kim Cang thì quý ông rối lên phá đám. Theo kinh Kim Cang, đức Thích Ca nói như thế này, "Các vị bồ tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tướng hoặc không tướng, ta đều khiến vào vô dư niết bàn mà được diệt độ. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Nầy Tu Bồ Đề, nếu bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải bồ tát" (KCGL; Tr.23). Đại khái những lời kinh này có nghĩa bất cứ một niệm nào dấy lên thì đó là một sự phát sanh dù thuộc loại nào. Ý niệm, ý nghĩ, tư tưởng, ước muốn, ước mơ tự nó là một thực thể trong vô hình. Thế nên, dấy niệm thì phát sanh, và như vậy, ý niệm, ước muốn đều là dục. Chủ điểm của Phật học là diệt dục để trở về nguyên bản với thực thể của mình, trở về với Chân Như được gọi là kiến tính. Bởi vậy, đức Thích Ca dạy rằng, một niệm dấy lên là có một chúng sanh, do đó cần phải hàng phục tâm nghĩa là diệt niệm. Vì vậy, muốn hàng phục tâm thì hãy để tất cả những ý niệm, ý nghĩ, ước muốn vào chỗ không còn sanh diệt được gọi "vô dư niết bàn." Niết bàn chỉ về trạng thái không còn sanh diệt. Vô dư có nghĩa không còn tướng mạo. Bởi vậy, muốn kiến tính phải hàng phục tâm, và sự thực hành để hàng phục tâm là ngưng ý niệm, diệt dục, không mơ ước bất cứ điều gì dù tốt lành hay xấu xa. Như thế, khi đã không có ý niệm tất không sanh, không tạo thành nghiệp, không tạo thành chúng sanh thì có chúng sanh đâu mà chịu khổ ải. Đây là điểm nói ngược của nhà Phật. Không tạo thành chúng sanh tức là độ tất cả chúng sanh. Buông hết vọng tưởng tất nhiên giải thoát những chúng sanh ngay từ khi chưa được tạo lập trong ý niệm. Mà đã là người, chúng ta có vô vàn vô số ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ. Và như thế, khi buông hết vọng niệm đâu cần đức Thích Ca hay đức bồ tát nào giúp giải thoát; tự mình đã giải thoát muôn ngàn chúng sanh thì đó là công đức giải nghiệp. Và tất nhiên, nếu bồ tát mà còn có tướng, còn ý niệm thì không phải bồ tát sao có thể nói giúp giải thoát hay bất cứ điều gì.
- Ông nói gì luẩn quẩn, không có chúng sanh sao giải thoát chúng sanh?
- Nếu ông suy nghĩ tạo ra ý niệm, vọng niệm tức là tạo ra chúng sanh. Kinh Kim Cang có nói, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả" (KCGL; Tr.241). Bởi đó, ngừng suy nghĩ ông sẽ không tạo ra chúng sanh nào để chịu khổ tức là đã độ. Như vậy, còn muốn độ tức vẫn tạo nghiệp, và ngược lại, diệt độ chính là độ.
- Tại sao bồ tát còn tướng, còn ý niệm thì không phải bồ tát? Và diệt độ lại là độ?
- Bồ tát mà còn tướng thì còn chấp giữa tướng và không tướng. Bồ tát còn niệm thì còn tạo thành chúng sanh vì một niệm dấy lên tức là đã có sự chấp ngã trong đó. Đây cũng là ý nghĩa tại sao được gọi là bồ tát vì không có bồ tát nên tạm gọi là bồ tát. Tất cả chỉ là Chân Như nơi tiến trình biến chuyển. Hơn nữa, theo nhà Phật, ước muốn cũng là ý niệm, là dục mà muốn độ tức vẫn là dục. Không muốn độ ai hay diệt độ cũng thế, tất nhiên ý niệm độ chúng sanh phát sinh bởi ước muốn. Tôi chỉ giải thích vậy thôi, dứt khoát không trả lời về hàng phục tâm vì nói cũng bằng thừa bởi chẳng có gì đáng nói, chỉ có một điều nên nói là chẳng nên nói điều gì.
- Thôi ông ơi, ông khinh chúng tôi vừa thôi chứ.
- Có gì mà khinh với chẳng trọng, nói cũng vô ích vì càng nói càng chẳng nói được gì thì khinh ai; chẳng thà câm cái họng lại còn lợi ích hơn. Ông muốn nói, đến đây ngồi mà nói. Rõ thực, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu mà vẫn thích nói.
- Chú nói thế nghe được. Tui tưởng chú ra bộ ta đây chứ không ngờ chú nói không được. Thôi, tui thành thực xin lỗi. Nhưng ít ra, dẫu chú nói không được thì cũng giúp tui sáng ra thêm chút ít chứ không phải nói cũng như không. Chú thấy không, nếu tui không hỏi lăng nhăng thì sao biết được niệm và dục cũng như nhau. Tuy nhiên, chẳng lẽ con người cố gắng sống tốt lành, làm việc thiện để được giải thoát cũng như không hoặc có thể tạo thêm nghiệp thì, thì, thì...
- Thì cái gì?
- Nó kỳ quá, hiểu nhưng muốn nói ra không sao diễn tả.
- Có phải ông muốn nói thà để tiền của ăn chơi cho đã vì đàng nào cũng là dục phải không? Và như vậy càng giúp, càng cố gắng sống tốt lành càng tạo nghiệp?
- Cũng không phải hoàn toàn vậy mà mới có một phần nhỏ; bởi nếu nói như thế chẳng khác gì thiện ác như nhau. Đến đời cũng không chấp nhận được phương chi là đạo.
- Thôi, thôi, tôi hiểu rồi! Đây là cái ngu của tôi làm phiền đến các ông bởi tôi cứ nghĩ các ông cũng hiểu như tôi! Đời là đời, là huyễn trong hành trình biến chuyển của Chân Như do nghiệp tạo thành thì thiện và ác cũng như nhau, chỉ là huyễn, là biến dịch nhưng do vô minh con người cho là thật. Đối với những ai đã kiến tính thì không còn bị trói buộc bởi bất cứ hệ lụy nào nên mọi hành động của thể xác cũng không thể làm ô uế tâm Phật. "Một kẻ phàm tục có gia đình và làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không còn tạo nghiệp nữa, dù làm bất cứ một hành động nào bởi kẻ ấy đã giác ngộ" (GLTH; Tr.206).
- Ông nói mọi hành động của thể xác cũng không thể làm ô uế tâm Phật thì đó là lối khuyến khích con người vô luân sao?
- Dẫu vô luân hay hữu luân thì hỏi cũng vô ích, bởi tôi đã nói là tôi ngu mà ông còn cứ hỏi để tôi phải nói ngu. Đức Đạt Ma sư tổ trong bài giảng thuyết đầu tiên tại Trung Hoa có nói, "Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lai đã và sẽ được tạo thành trong tâm" (KCGL; Tr.201) thì thiện và ác, đúng và sai, cũng bởi tâm mà ra; thế nên vô luân hay hữu luân cũng nơi mình mà chớ. Thôi, thôi, ông làm ơn đừng hỏi nữa và chỉ nên biết rằng mục đích duy nhất mà mỗi người phải đạt tới là sự giác ngộ, kiến tính, vì kẻ nào kiến tính, kẻ nào thấy rằng mình hoàn toàn hòa nhập với Chân Như tất nhiên là một vị Phật dù kẻ ấy không được học hành, nửa chữ nhất không biết. Phật là người thức ngộ, thấy được Phật tánh nơi mình, nơi tâm mình gọi là tâm Phật. Như vậy phải kiến tính chứ đừng muốn kiến tính vì còn muốn thì còn chưa đạt tới mà vẫn chỉ là dục. Trong ngôn ngữ nhà Phật bây giờ gọi là tu chứng.
- Thế sao có nơi đức Phật Thích Ca bảo "Không có chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nếu bồ tát bố thí mà chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường?" (KCGL; Tr.34)
- Ông định mang kinh Kim Cang ra mà lòe tôi sao! Nhưng ít nhất là ông đã đọc và để ý suy nghĩ, đó cũng là một điều hay. Mọi người đều rõ, bố thí tiền bạc, của cải là làm điều thiện chớ không phải tu hành (KCĐĐ; Tr.91). Hơn nữa, đem tiền bạc bố thí cho kẻ nghèo uống rượu, xì ke ma túy thì lại là điều ác chứ thiện sao được. Đức Thích Ca không dạy việc bố thí tài vật bên ngoài mà sự bố thí tài vật bên ngoài chỉ là giúp phương tiện sơ khởi để tu hành. Đức Thích Ca chỉ nói về pháp thí vì bồ tát chỉ có pháp thí chứ mọi sự là huyễn thì sao có thể đặt vấn đề bố thí tài vật. Hơn nữa, nếu chỉ đặt vấn đề bố thí tài vật tất nhiên do bị ý nghĩ cho rằng đức Thích Ca thương xót con người trong cảnh khốn khổ sinh bệnh lão tử, vẫn bị lệ thuộc vào ý dục, trong khi đức Thích Ca chỉ khuyến khích thức ngộ, giải thoát, diệt dục. Đương nhiên, nghĩ như thế đã tự gán cho đức Thích Ca theo đuổi ước muốn, theo đuổi thị dục. Đại khái câu nói "Nếu bồ tát bố thí mà chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường" có nghĩa nơi hành trình kiến tính không trụ vào bất cứ gì. Đây là pháp an trụ tâm, buông hết, bỏ hết không đâu là điểm tựa, chẳng đâu là điểm tới, không dính dáng gì đến lục dục, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (KCGL; Tr.36). Nơi kinh Kim Cang có chỉ rõ, "Không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Ta nói Pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ huống là phi pháp. (KCGL; Tr.52). Vì vậy, Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn dạy rằng, "Không biết tự tâm thì học đạo vô ích. Nếu biết tự tâm, thấy được tự tính, đấy là kẻ đại trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật" (GLTH; Tr.170). Và Lục Tổ Huệ Năng nói rõ hơn: "Không nên ngưng vào chỗ nào mà nẩy ra tâm ấy. Hết thẩy hiện tượng không rời tự tính. (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Nhất thiết vạn pháp bất ly tự tính) (GLTH; Tr.169). Ông thử nhớ lại coi, nơi kinh Kim Cang có đoạn nói đức Thích Ca hỏi Tu Bồ Đề, "Nầy Tu Bồ Đề, nay ta bảo thật với ông, nếu có người thiện nam, thiện nữ đem bẩy châu báu đầy dẫy tam thiên đại thiên thế giới bằng số cát những sông Hằng kia ra bố thí thì được phước nhiều chăng? Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu người thiện nam thiện nữ, đối trong kinh nầy cho đến thọ trì bốn câu kệ vì người khác giảng nói, phước đức nầy nhiều hơn phước đức trước" (KCGL; Tr.98). Ông làm ơn để ý điểm này, Phật học là một trong những đạo học, mà tất cả các đạo học đều không nói về luân lý, tâm lý, xã hội, hay bất cứ gì nơi điều kiện sống liên hệ đến con người nhưng chỉ giãi bày cảm nghiệm tu chứng. Nói theo Lục Tổ Huệ Năng là "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật."
- Ông cứ lải nhải nhắc đi nhắc lại kiến tính, tu chứng, mà không đưa ra được bất cứ đường lối hay phương pháp phải thực hiện cách nào! Ông có giỏi nói cho mọi người biết ông đã kiến được gì, tu bao lâu, và chứng hay tật được những thứ chi!
- Lúc trước tôi đã nói, muốn kiến tính phải tu chứng, muốn tu chứng phải hàng phục tâm, muốn hàng phục tâm phải định tâm, muốn định tâm phải diệt dục, muốn diệt dục phải minh triết, muốn minh triết phải mở rộng tâm hồn để suy tư, muốn suy tư phải nhận biết thực thể sự vật để xóa vô minh. Nói cho gọn chỉ tu chứng mới kiến tính. Do đó, tất cả những điều kiện một người phải trải qua đều thuộc về hành trình tu chứng. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ được gọi là đốn ngộ không thể nói được.
- Tôi muốn hỏi ông tu đến đâu, ông chứng được chỗ nào, mà có thể nói lắm thứ vậy?
- Dạ tôi nghe, nhưng xin ông làm ơn khép cái mỏ lại dùm. Tôi đã nói từ lâu, ai chứng người ấy biết mà ông không thèm hiểu lại cứ để cái mỏ đi trước cái đầu. Vừa rồi, ông hỏi tôi phải thực hiện cách nào để kiến tính nên tôi mới nêu lên những điều kiện trong hành trình tu chứng. Ông không tu chứng thì có nói đến mấy cũng như cuội vì nếu chỉ cố gắng tìm hiểu thì cùng lắm được gọi là minh triết, mà người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết thì chẳng hòng đạt tới cái quái gì cả.
- Tại sao ông không giải thích những điều kiện tu chứng.
- Nói vậy nghe được! Tuy nhiên, các ông muốn tôi nói ngược hay nói xuôi, nói tới hay lui, hoặc nhào nháo lộn tùng phèo, hay hỏi và trả lời?
- Sao ông bày ra lắm kiểu nói kỳ cục, đã ngược lại còn xuôi, thêm cả thứ lộn tùng phèo là thế nào? Chúng tôi chỉ muốn biết đối với hàng dân giả, thoạt tiên phải làm gì? Tại sao đã kiến tính thành Phật mà lại còn phải tu chứng?
- Kiến tính thành Phật tức là nhận chân được Phật tính nơi mình. Nói cách khác, nhận ra bổn lai diện mục của mình, nhận ra mình là Chân Như đang biến chuyển chứ không phải là mình vì chẳng có gì thực sự là mình nhưng tạm gọi là mình vì chẳng phải là mình.
- Hãy... khoan...! Tùy con đột nhiên lên giọng cải lương. Ông nói gì kỳ cục! Thế nào là "Tạm gọi là mình vì chẳng phải là mình?" Không có mình thì lấy mả thánh để tạm gọi là mình hay sao? Tất nhiên, ít nhất ý niệm nào đó phải có trong ý nghĩ mới có thể gọi được là gì vì nếu đã không có thì không thể nghĩ tới được. Như vậy, mình đã có vì đã có thể nghĩ tới một thực thể nào đó thì sao có thể nói chẳng có gì thực sự là mình?
Mọi người vỗ tay reo theo sau câu lý luận của Tùy con. Ít ra phải như thế. Không có mình lấy gì đặt vấn đề suy tư, tu chứng, và căn bản nào đòi kiến tính. Nếu tất cả chỉ là huyễn thì kiến tính cũng là huyễn bởi gốc của kiến tính tức là người suy nghĩ đã là huyễn. Mình cũng huyễn thì suy tư là lấy cái huyễn nghiệm những sự huyễn, tu chứng cũng là hành trình diễn tiến của huyễn tiếp nối chồng chất, và như vậy, sao cái thực có thể nẩy sinh từ cái huyễn.
- Nói vậy nghe được, Hưng lên giọng kẻ cả, vì ít nhất đã dám suy tư, dám đặt vấn đề để giải quyết vấn đề. Đây là hành trình minh triết. Ngôn từ tu chứng nhà Phật thường nhắc tới có, không, huyễn, thực, vô minh, minh triết, kể ra chẳng xiết. Tuy nhiên, các tác giả trước tác kinh sách dùng những văn từ này tùy thuộc ý niệm riêng không dựa trên bất cứ ý niệm căn bản nào vì vào những thời buổi đó chẳng có gì được gọi là mẫu mực ý niệm chung, không nói ngày xưa, ngay thời buổi bây giờ cũng thế, cho nên người đọc kinh sách kiếm đường tu chứng thường hay gặp phải những câu nói rắc rối quanh quẩn do ý nghĩa của mấy chữ có, không, huyễn, khiến sự suy tư và nhận định của họ bị đảo lộn lung tung tạo nên lòng chán nản. Theo thiển kiến qua kinh nghiệm hiểu biết và cảm nghiệm đọc kinh sách nhà Phật, chữ hoặc lời "có" mang nghĩa thấy được bằng mắt. Chữ "không" mang nghĩa không thấy được bằng mắt. Chữ "huyễn" có nghĩa chóng qua. Thường thì tùy theo từng cuốn sách mấy chữ này được hiểu thêm về tính chất hữu hình và vô hình ám định một cách nào đó theo ý tác giả. Chúng ta có thể nhận định như thế này, có những "cái có" hữu hình và cũng có những "cái có" vô hình. Không nhìn thấy chưa chắc đã không có mà có những "cái không" hữu hình đồng thời cũng có những "cái không" vô hình. Thêm vào đó, huyễn là những thoáng qua dù vô hình hay hữu hình, có thể là vật chất, có thể là ý nghĩ.
- Tại sao đã không lại còn không hữu hình và không vô hình?
- Cái có thể nhìn thấy bằng mắt, rờ bằng tay, nhưng được gọi là không vì đối với quan niệm nhà Phật, cái có, cái thực là cái trường cửu. Thế nên, cái có giai đoạn, hữu hình bây giờ mà một triệu năm sau không ai biết đến nữa vẫn là không. Đọc kinh sách nhà Phật cần để ý điểm này, vì bình thường, chúng ta chỉ nhắc tới cái không, cái có giai đoạn, được gọi là huyễn theo nhà Phật mà quên rằng bất cứ gì không trường cửu đều bị nhà Phật gọi là không, cái không khi tận cùng. Và như vậy, bất cứ gì cũng là không, không nhìn thấy cũng không, nhìn thấy cũng không. Chả thế mà trong kinh Kim Cang có những câu, "Vì tướng ngã tức không phải tướng, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không phải tướng. Vì sao? Vì lìa tất cả tướng giả tức gọi là chư Phật" (KCGL; Tr.120); "Phật nói Bát Nhã Ba La Mật tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, ấy gọi là Bát Nhã Ba La Mật" (KCGL; Tr.109); "Như Lai Nói 32 tướng tức không phải 32 tướng, ấy gọi là 32 tướng" (KCGL; Tr.110). Đàng khác, dẫu nhà Phật cho rằng tất cả sự vật, ý niệm đều là không nhưng lại cũng là có vì "cái có" ở đây mang nghĩa đó là những biến chuyển của Chân Như, chẳng khác gì những ngọn sóng nơi đại đương. Bảo rằng có ngọn sóng thì vừa mới nói xong, nó đã biến chuyển khác trước; bảo rằng không có sóng, cứ leo lên ghe chạy ra biển trong cơn giông bão sẽ biết ngay. Quý vị đã bị lộn tùng phèo cái đầu chưa? Coi chừng kẻo chân lên đàng đầu và đầu xuống dưới chân với chỉ hai chữ có và không nơi cửa Phật. Vì vậy, không và có nơi Phật học mang nghĩa như nhau. Một sự vật bảo có cũng đúng, bảo không cũng đúng nhưng đúng theo ý niệm nào. Cũng một chữ đúng nhưng chia ra hai nhận thức nơi hai môi trường ý niệm đối nghịch lẫn nhau.
- Ông nói như thế một sự vật hay ý niệm có thể hiểu bốn trường hợp, hai đúng, hai sai?
- Không những bốn trường hợp mà nhiều hơn bốn nữa.
- Tại sao hơn bốn trường hợp?
- Còn có ý niệm thì còn phát sinh trường hợp. Thí dụ, có, không, đúng, sai, phải, trái, giả, thực, từng cặp đối nghịch và mỗi cặp lại đi kèm với lẽ đúng sai. Chẳng hạn chai bia hoặc ý niệm về chai bia, bảo có cũng đúng, không có cũng đúng; có cũng sai, không có cũng sai; thực cũng đúng, giả cũng đúng; thực cũng sai, giả cũng sai. Thế nào cũng đúng và cũng sai tùy ý niệm của người nói.
- Nếu vậy thà đừng có ý niệm nữa thì chẳng gì phát sanh.
- Đây là lý do tại sao gọi là huyễn. Lẽ đúng, sai, thực, giả, có, không, được phát sanh từ ý niệm nên nếu không có ý niệm thì lại chẳng có gì được nói đến. Gốc nhận thức cần được để ý vì nó phát sinh từ tính chất này.
- Vậy nếu không có mình sao có ý niệm? Và như thế, phải có mình mới có huyễn.
- Ông lạc vào mê hồn trận có không của nhà Phật rồi. Nếu đặt vấn đề có mình hay không có mình thì ông trở lại điểm khởi đầu, vòng luẩn quẩn có không của ý niệm, mà đã có ý niệm tức lại phát sanh.
- Thì phải có mình mới có ý niệm và ý niệm là một thực thể nên mình mới có thể nghĩ tới được. Nếu không có ý niệm sao ông có thể nghĩ tới nó?
- Tôi vừa mới nói ông lạc vào mê hồn trận có không lại vẫn cứ gân cổ ra mà lý luận. Tôi chỉ hỏi ông, những con sóng trên mặt biển có hay không? Nói có cũng đúng và cũng sai, nói không cũng đúng và cũng sai thì ông nói làm sao? Cãi đi, chứng minh coi; đâu phải cứ to miệng mà không có sóng, hoặc có sóng. Nó vậy đó, luẩn quẩn với lẽ có, không nào được ích gì!
- Thì con sóng phát sinh bởi sự luân chuyển của nước hòa hợp với áp lực gió thổi nên được hiện ra và vì thế gọi là có. Con sóng có trong giai đoạn theo những điều kiện thiên nhiên bởi vậy được gọi là có.
- Ông vừa nói con sóng có trong giai đoạn. Biển thì vẫn là biển. Khi nước luân chuyển tùy theo hấp lực của mặt trăng cộng hưởng với áp lực của gió tạo thành sóng. Sự kiện này nói lên những ngọn sóng được tạo thành bởi nước biển và những điều kiện phụ thuộc. Như vậy, nước là gốc của những ngọn sóng. Sự luân chuyển của nước và áp lực gió là những điều kiện. Hãy lấy biển và sóng làm thí dụ điển hình để diễn giải quan điểm nhà Phật. Tất cả mọi sự kiện, sự việc, dù ý niệm hay bất cứ vật gì đều phát sinh từ Chân Như. Chân Như là cội nguồn phát sinh mọi sự kiện hữu hình và vô hình chẳng khác gì biển là gốc của mọi con sóng. Vì mọi sự kiện được phát sinh từ Chân Như chỉ trong giai đoạn ngắn hạn hoặc dài hạn do đó được gọi là huyễn. Đó là những cái có trong giai đoạn mà xét theo thực thể Chân Như, chúng là không như những ngọn sóng so với biển. Thế nên, ngọn sóng được coi là có giai đoạn hữu hình đồng thời cũng được coi là không vô hình trong diễn trình trường cửu của Chân Như.
- Tại sao bỗng nhiên ông lại bày ra Chân Như trong khi đang nói về có không của sóng biển. Lại còn thêm vào hữu hình và vô hình. Chỉ hai tiếng có, không chưa đủ rắc rối sao?
- Chân Như hay Chân Không là ý niệm nhà Phật dùng để chỉ cội nguồn của mọi sự hiện hữu hữu hình và vô hình. Vì không có cách nào để ám chỉ nên tạm gọi là Chân Như hay Chân Không. Tôi muốn dùng ngôn từ Cội Nguồn Hiện Hữu nhưng e chỉ vẽ rắn thêm chân nên tạm dùng ngôn từ nhà Phật để nói. Đồng thời, các ông cũng thấy, cái bàn, cái ghế, chai bia, cũng như thân xác con người là vật thể hữu hình. Ý tưởng, ý niệm, không khí, tất cả những gì không thấy được bằng mắt nhưng chúng ta có thể biết hoặc nhận định được tạm gọi là hiện hữu vô hình. Như vậy, gốc của mọi sự vật, sự kiện hữu hình và vô hình là Chân Như. Gốc của cái có là cái không.
- Nếu ông đã dùng hiện hữu hữu hình và hiện hữu vô hình thì dùng luôn cho dễ phân biệt, việc chi lại bới bèo ra bọ, chêm nếm gốc của cái có là cái không.
- Nói như thế mới ra vẻ Phật học.
- Không cần biết vẽ hay sơn, chúng tôi chỉ cần biết cách nào, và dựa trên nguyên tắc nào để tu chứng đạt tới kiến tính như ông đã nói. Làm ơn dẹp cái hình thức dổm cho đỡ rắc rối.
- Ông đề nghị như thế nghe được. Xin các ông làm ơn nhớ cho mấy tiếng căn bản này là Chân Như hay Chân Không có nghĩa cội nguồn hiện hữu dù vô hình hay hữu hình, và cũng được gọi là Quyền Lực Hiện Hữu, hoặc Thực Tại Siêu Việt, tương đồng với những danh hiệu Tạo Hóa, Hóa Công, hoặc bất cứ ngôn ngữ ám định nào khác để chỉ về cội nguồn hay quyền lực tối cao phát sinh mọi sự. Sự vật, sự kiện tạm chia ra hai phần, hữu hình và vô hình, để dễ nói chuyện.
- Chân không là khoảng không gian không có không khí, không có gì hết.
- Đấy là danh từ vật lý mang ý nghĩa vật chất. Thì thôi, không dùng tiếng chân không nữa, nhưng nếu nghe nói đến nó trong ngôn từ nhà Phật thì quý ông làm ơn hiểu cho đó là Chân Như, Cái Không chân thực, Quyền Lực Hiện Hữu tối cao.
- Qua cầu, bây giờ tiếp tục với Chân Như.
- Tạm gọi Chân Như là Quyền Lực Hiện Hữu vì tất cả mọi sự dù hữu hình hay vô hình, dù được hiện hữu trong bất cứ giai đoạn nào, mang sự hiện hữu, đều phải có quyền lực này. Không có quyền lực hiện hữu ngự trị sẽ không có sự hiện hữu. Quý ông chấp nhận được không?
- Xin thưa chấp nhận. Bất chợt mọi người đồng loạt lấy giọng thưa bẩm chẳng khác gì trẻ em lớp mẫu giáo. Họ là thế, có những cái mỏ bán trời không văn tự lúc rượu bia phát biểu, và đôi khi thái độ giả bộ đơn sơ như trẻ em để diễu giúp bầu khí bớt căng thẳng trong những trường hợp có chuyện rắc rối xảy ra. Có điều, bởi năng gặp gỡ ăn nhậu, bàn luận, điểm chung nơi họ là tấm lòng không xét nét, chấp nhất, mà biết mở rộng tâm hồn tìm hiểu.
- Cái bàn, chiếc ghế, chai bia là sự vật hữu hình tất nhiên hàm chứa hay được hiện hữu bởi quyền lực hiện hữu thể hiện thành hữu hình. Quyền lực hiện hữu hữu hình và vô hình ẩn tàng nơi con người. Thân xác hữu hình. ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ vô hình. Con người còn có thêm quyền lực sáng tạo, biến ý định, ý nghĩ từ vô hình thành hữu hình. Từ nhận thức này, nhà Phật nói "Tâm sinh vật và vật sinh tâm." Như vậy con người, các vật chung quanh, không khí, cây cối là hiện thể của Chân Như. Quyền Lực Hiện Hữu. Tóm lại tất cả vật thể, sự kiện là những biến thể của Chân Như, của Quyền Lực Hiện Hữu.
Chiêu ngụm bia thấm giọng, Hưng tiếp,
- Đây là gốc gác Phật học. Tu chứng là hành trình đạt đến nhận thức này. Kiến tính là thời điểm thực sự đạt đến trạng thái này. Bởi thế, Phật học quan niệm mình không phải là mình mà chính là Chân Như hiện thể trong diễn trình biến chuyển. Nói cách khác, tất cả mọi sự, mọi vật, mọi ý niệm, ước muốn, toan tính chỉ là những biến chuyển của Quyền Lực Hiện Hữu liên tục. Đó cũng là lý do tại sao nhà Phật có những câu nói khó hiểu, chẳng hạn, "Nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp" (KCGL; Tr.70). Tất cả các sự kiện, sự vật được nhà Phật gọi là pháp, và pháp là hiện thể của Chân Như nên Phật pháp không phải là Phật pháp mà chính lại là Chân Như.
- Như vậy, nếu tất cả là Chân Như trong diễn trình hiện thể theo từng giai đoạn thì đâu có chi là tội, đâu có chi là phúc, chẳng gì đúng, chẳng gì sai. Sao mà lôi thôi rắc rối, rồi nào Phật tính, nào kiến tính, nào niết bàn, nào luân hồi, nào chúng sanh, chúng tử lắm thứ vậy?
- Đó là lý do tại sao tôi chỉ nhấn mạnh tới kiến tính. Đạt Ma sư tổ đã nói thế; Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ nói thế. Những vấn đề biến chuyển thế nào của Chân Như, có, không, Phật pháp, bồ tát, tu chứng, niệm Phật, tụng kinh, sách vở, mọi sự chỉ luẩn quẩn trong cõi ta bà ý niệm mà thôi. Hơi ngập ngừng, Hưng tiếp, có điều, khi con người còn chưa nhận chân sự nhất nguyên giữa thực thể và hình tướng thì vẫn còn luẩn quẩn nơi cõi vô minh. Tất cả mọi sự hiện hữu dù vô hình hay hữu hình đều là tướng của thể. Không có tướng ngoài thể và chẳng có thể ngoài tướng. Nói cách khác, vạn pháp là hiện tướng của thực thể Chân Như; ngoài Chân Như không có pháp và ngoài vạn pháp không có Chân Như. Cũng có thể diễn giải rằng mọi sự hiện hữu đều chất chứa Cội Nguồn Hiện Hữu và ngoài Cội Nguồn Hiện Hữu tất nhiên không có gì hiện hữu. Như vậy, tất cả mọi sự biến chuyển của vạn vật chính là sự biến chuyển của Cội Nguồn Hiện Hữu. Nói theo nhà Phật, vạn pháp là sự biến chuyển của Chân Như và tất cả mọi hiện thể đều thuộc về thực thể cũng như biển và sóng chỉ là nước. Sóng là hình tướng; biển cũng là hình tướng giống như vạn pháp, cả hai đều thuộc về hình tướng mà Chân Như là nước. Ngoài nước, không có gì là sóng, chẳng có gì là biển. Bởi vậy, ngoài Chân Như không có vạn pháp mà nếu đã nhận ra vạn pháp lại cần được nhận ra gốc của vạn pháp chính là Chân Như. Tôi chỉ có thể nói được như thế và cũng biết rõ, càng nói thêm càng chẳng nói được gì. Ai có tai thì nghe (Mt. 11:15), ai hiểu sao thì hiểu. Nhưng thực sự, hiểu cũng vô ích vì hiểu biết chẳng giúp ích gì cho hành trình kiến tính; vấn đề chỉ là tu chứng. Những ai không chịu tu chứng mà cứ đòi hiểu thì chẳng thể nào hiểu được, vì dù hiểu biết lợi ích của nước đến mấy, không uống vẫn còn khát, dù hiểu bia ngon ngọt đếu đâu, không uống chẳng thể say. Quả thật, nói với những người không tu chứng chẳng khác gì dạy kẻ yếu đánh vật hoặc bàn luận với kẻ vô minh, sẽ bị họ khinh dể nét tinh tế của lời mình nói (Cn. 23:9). Giọng Hưng trầm buồn, nhỏ dần mang đầy vẻ thao thức tạo nơi lòng người nghe nỗi khát khao đượm phần khắc khoải mông lung. Và thế là mọi người lại nhao nhao lên,
- Ông coi tụi tui ngu xuẩn đâu có được.
- Con nhà này được sinh ra trùng phải giờ vạ miệng.
- Nói vậy không được, quá láo lếu.
- Phạt, Sỹ nhà con oang oang đề nghị. Yêu cầu trưởng hội đồng trừng phạt diễn giả một cách đúng đắn vì dám khinh dễ mọi người.

* * *

Nơi bộ salông, cụ Tài im lặng theo dõi diễn tiến của nhóm nhậu. Cụ là anh bố của Hưng nên được mọi người gọi bằng bác. Là thứ hai nơi một gia đình mười người con mà thân sinh của Hưng đứng vào hàng thứ chín, ngày còn nhỏ, cụ được theo Nho học nhưng vì khoa bảng lận đận lại trúng vào thời kỳ đất nước nhiều biến đổi, chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Hán đồng thời quan niệm vật dục xâm lấn, chuyển biến lòng người khiến những ai còn chút liêm sỉ đều bị dồn vào cảnh bất đắc chí. Khom lưng luồn cúi hoặc mưu mô thủ đoạn tạo dựng danh vọng hay chạy theo tiền tài đã trở thành ngón đòn thù đập thẳng vô lòng ruột những tâm hồn được huấn luyện trong gương mẫu kẻ sĩ. Theo Hán học, tất nhiên những tư tưởng nho phong thấm nhuần đậm đà nơi cách ăn nết ở, chẳng những thế, cụ hâm mộ đạo học nên tha thiết kiếm tìm nơi sách vở về Phật, Lão, Trang, và sau này cụ có cơ may đọc về Ấn học và Kinh Thánh. Chính lòng say mê đạo học đã dẫn dắt cụ đến quyết định sống độc thân mặc dầu khi tới tuổi trưởng thành, quyết định này đã làm khổ cụ không ít nơi môi trường của một gia đình nho phong. Thế rồi thời buổi đẩy đưa, những tháng năm dài lính tráng sắp đặt cụ tới cương vị thiếu tá mấy năm trước khi hưu trí. Sỡ dĩ cụ lận đận trên đường quan hoạn cũng chỉ vì mối sĩ khí do nhận thức về đạo học đã ngăn cản lòng chiều theo bản chất bình thường của một con người khi đối diện với thế quyền và vật dục. Cũng chính vì vậy, những bạn lính hoặc sĩ quan đã gọi cụ là thày tu không chùa.

Dẫu cách sống bề ngoài tốt lành được hướng dẫn bởi một nội tâm công thẳng, và dẫu được người chung quanh nhận định có tâm hồn quang minh chính đại, nhưng tận đáy lòng, cụ Tài phải đối diện với những trận chiến giữa tâm linh và tham vọng thế tục nhiều khi khiến cụ muốn buông tay xuôi chiều hầu có cuộc sống vật chất và những giây phút thoải mái hơn. Nghe bạn bè kể lại những thành công, những hãnh diện đắc thắng trên trường đời do mưu mô, thủ đoạn như sự khôn ngoan thiên bẩm, cụ nhận ra mình đã sẵn dư thừa khả năng nếu không muốn nói có thể hơn để lập mưu chước thế tục, chẳng những đem lại lợi ích trên đường quan hoạn mà còn được thêm tiền tài, danh vọng, được mọi người kính nể, e sợ. Tuy nhiên, khi đối diện với lòng trong những giây phút nghiệm xét tâm linh, cảm nghĩ tựa lời nói vô hình vô sắc nào đó luôn luôn nhắn nhủ cụ xuôi chiều theo đường hướng thiện. Câu nói nơi Lão học, "Không làm gì nhưng không việc gì không làm" giữ một vai trò quan trọng điều hành mọi dự định cũng như đè bẹp muôn ham muốn nội tâm. Chữ "dục" nơi Phật học bao hàm hoàn toàn những phương diện ước ao hữu vi. Dù ý tốt lành cũng là dục vì đó chính là sự ham muốn. Đâu đó ý tưởng "Chẳng làm điều thiện thì không tạo điều ác" nhiều lần đã khiến cụ phải cố gắng dẹp cõi lòng sôi động thực hiện những việc được coi là tốt lành trong tầm tay, dành thời giờ đặt vấn đề hầu có nhận thức tiên kiến về hậu quả điều tốt mình muốn thực hiện. Chữ "Thời" nơi Dịch học mới ghê gớm làm sao! Một đàng Dịch học nêu lên người lãnh đạo phải xử lý cho có đạo đức, dùng phương thức chính trị giải quyết vấn đề nhưng phải có thời. Đàng khác, tạo thời lại chính là chạy theo thị dục nên đã chắc gì tạo thời là điều tốt cho sức sống tâm linh! Hơn nữa, có ở trong chăn mới biết chăn có rận; đã chắc gì những điều mình mơ ước đem lại lợi ích cho giá trị cuộc đời, và nào ai biết hành trình thức ngộ của mình phải trải qua những trường hợp nào, bài học nào cần thiết, bài học nào chỉ là kết quả chạy theo thị dục! Bởi vậy, đã nhiều lần cụ tự nhủ, nếu mình được sinh ra để hoàn thành phận sự nào hầu đạt đến đẳng cấp chi trong hành trình tâm linh, tất nhiên, mọi sự việc đã được chuẩn bị sẵn đúng thời điểm dẫn mình bước tới. Không nhận thức được điều này, chẳng thể am tường câu nói "Không làm gì nhưng không việc gì không làm." Sự việc đáng lý sẽ xảy đến theo lẽ phải xảy ra, cung ứng cơ hội thăng tiến mà mình cố tình xía vô theo ý muốn, vô tình làm trệch dữ kiện, chắc chắn chỉ kéo dài diễn trình cơ hội phát triển tâm linh của mình. Thế nên, tưởng là hay lại hóa nên dở, tưởng là thi thố tài năng, thực hiện điều tốt nơi lối nhìn hạn hẹp, sản phẩm của lòng ham muốn thế tục lại trở thành sự ngăn cản việc phải xảy đến đúng thời đúng lúc. Có thể nói, cụ tự nhủ, coi chừng lòng tốt con đẻ của vô minh là nguồn gốc tạo nên muôn vàn sự khốn khó cho con người. Phỏng chữ dục nơi nhà Phật chỉ về ý muốn được gọi tốt lành đã trở thành vị kỷ. Thế nên, chẳng lạ gì có câu nói, "Bất cứ ai không nhận thức được sự việc mình làm chỉ là cho chính mình, mà chỉ cho rằng làm việc cho người khác, hoặc mang lợi ích cho người khác, hay kiến tạo cơ hội cho người khác, kẻ đó tất nhiên là người bất hạnh, đáng bị chán ghét, và cô độc" (Robert Baldick). Khổ nỗi, càng nhận ra những náo động thực hiện cho chính mình thì lại càng nhận thức rõ đang chạy theo thị dục. Phỏng mấy ai ngờ, cái tĩnh là gốc cái động, và cái tĩnh cũng là sự khôn ngoan ngăn cản những cái động thị dục.
 
Thời điểm này, cụ đã tám mươi bảy tuổi. Hơn hai mươi năm trước lúc đất nước đổi chế độ, một người bạn trung tá an ninh vì hiểu biết tấm lòng vô cầu nơi cụ, nên mấy hôm trước ngày ba mươi tháng tư đã nói dối muốn bàn thảo chuyện cần khi cụ và Hưng, thời đó đã mười sáu tuổi, đang đi dạo vào buổi chiều, dàn xếp cho cả hai bác cháu lên chuyến bay rời bỏ quê hương cùng với gia đình ông ta. Qua mười năm sống trên đất nước người, Hưng đã lấy xong cấp bằng Master xã hội học, cũng một tay cụ lo vợ cho cháu đồng thời một già và đôi vợ chồng trẻ tiếp tục từ ngày đó ở chung cho tới nay. Hưng đã được bốn cháu, hai trai, hai gái, chán cảnh "sáng cắp ô đi tối cắp về" đem thân làm thuê nơi văn phòng như một thông lệ buồn tẻ; hơn nữa, qua gần hơn mười năm làm việc, vợ chồng Hưng do tằn tiện đã để dành được số vốn kha khá, lại nhờ bác có tiền già, chia sẻ điện nước nên Hưng quyết định làm ghe đánh tôm, nửa mùa vật lộn với sóng nước ngoài khơi, nửa mùa thảnh thơi cùng thú điền viên, quanh quẩn vùng sông ngòi hưởng niềm vui câu cá để có nhiều giờ gần gũi dạy dỗ con cái. Nhờ trời, mới hai năm làm ghe, anh đã sắm được căn nhà năm phòng ngủ, không sang lắm nhưng thoải mái vì không phải vay công, mượn nợ. Dĩ nhiên, làm nghề "đâm Hà Bá" thì tôm cá không bao giờ thiếu; do đó, món nhậu đã sẵn, bia bung, rượu chè cũng chẳng đáng là bao, nên Hưng thường mời bạn bè tới nhậu, ít nhất cũng hai tuần một lần. Chị Hưng có lần tỏ vẻ khó chịu vì e ngại con cái học đòi sau này sinh hư, nhưng Hưng lý luận có khách khứa tới lui, mình có cơ hội tập tành cho con cái biết đối xử lễ độ với kẻ trên, người dưới. Vấn đề trẻ hư hay không tùy thuộc sự giáo dục của bố mẹ.

Lòng cụ Tài tương đối thanh thản; mặc dầu có tuổi, nhờ trời cụ vẫn khỏe mạnh nên đôi khi đi ghe với Hưng để thay đổi không khí, và thường hay dẫn các cháu đi câu vào buổi chiều tránh cơ hội chúng đua đòi với những bạn bè chẳng nên cùng lứa. Nhiều lần hai bác cháu bàn luận chuyện đời rất tương đắc. Bác thâm nho, cháu là người được ăn học nên dễ am hiểu và cảm thông, kiến tạo đôi tâm hồn rộng mở chấp nhận cuộc đời; lâu dần, nhận thức đạo học được đem ra chia sẻ. Cụ Tài đã để ý theo dõi và thăm dò tâm thức người cháu độc nhất này, nhưng năm tháng dần trôi, mãi hai năm trước đây, Hưng mới có thể đạt được phần nào lối nhìn về thực thể sự vật. Thế rồi, bỗng một hôm tháng trước, Hưng ôm về cả chồng sách nhà Phật, lại nhân mùa lạnh rảnh rỗi công việc, anh chúi mũi đọc nhiều khi quên ngủ. Cụ Tài cảm thấy hơi lạ, mặc dầu để ý nhưng vẫn âm thầm theo dõi.

Đã nhiều lần cụ được mời tham dự những bữa nhậu của giới thanh niên xồn xồn này tại nhà Hưng; tuy nhiên, dẫu được mọi người cảm mến và tôn trọng, cụ chỉ ngồi ăn uống với họ chừng nửa giờ, đến khi các tướng đã bắt đầu thấm hơi men, cụ lặng lẽ rút lui về phòng ngủ. Thực ra, cụ nghĩ, dẫu mình không chấp nhất hoặc cảm thấy phiền hà vì những lời nói vô tình của nhóm "người trẻ" thuộc hàng con cháu bởi thái độ của họ đối với cụ rất lịch sự, nhưng sự hiện diện của mình có thể khiến họ phải giữ kẽ từng lời ăn tiếng nói tạo nên thái độ mất tự nhiên, lâu dần ảnh hưởng, sẽ biến họ thành những con người không dám sống chân thật. Đàng khác, kiến thức của những người trẻ này được đào luyện để hội nhập và làm việc nơi một xã hội tiên tiến nặng phần kỹ thuật, tuy chất chứa nhiều yếu tố phổ thông, nhưng dẫu sao, sự nhận thức vẫn bị lệ thuộc nguyên tắc đối đãi nhị nguyên, hoặc là đúng, hoặc là sai, hợp hay không hợp, hãy còn quá xa vời với nhận thức đạo học khiến cụ khó bề nói chuyện theo chiều hướng nhận chân thực thể cuộc đời hầu mong giúp họ thêm phần ý thức tâm linh. Lắm khi cụ nghĩ, dẫu muốn giúp họ mà chưa tới thời điểm cho họ thức ngộ, có thể chỉ làm họ thêm phiền. Hơn nữa, còn muốn làm điều gì vẫn chỉ chạy theo thị dục, cụ âm thầm tự nhủ hầu an lòng chờ đợi.

Và dịp may đã đến, đồng thời cụ nhận ra nguyên nhân Hưng chăm chỉ đọc sách mấy tuần nay. Tuy nhiên, cụ kiên nhẫn theo dõi và lắng nghe những điều Hưng trình bày về nhận thức Phật học. Đã đôi lần cụ định lên tiếng xen vô nhưng cố dằn lòng mỗi khi Hưng dồn khán thính giả vào đường cùng do dùng những câu nói của mấy vị tổ thiền. Đồng ý rằng những câu nói này là những công án nhà Phật, tự mang năng lực khuyến khích sự thức ngộ tâm linh hoặc công phá màn chắn vô minh bao trùm nhận thức con người, tuy nhiên, luận đàm cách ấy, chỉ những ai có tâm thức đã đạt đến trình độ nào đó mới có thể chấp nhận hoặc nhận thức nổi. Hưng còn quá hăng hái và ngay thẳng, còn muốn soi sáng cho những đầu óc đã bị ảnh hưởng quá nặng nề chiều hướng hoặc lối nhìn thế tục. Tham vọng chọc thủng màn tối vô minh của con người dẫu sao cũng chỉ là thị dục, và như vậy, còn mang nặng ý hướng được coi là tốt lành mong muốn khai tâm người khác nên đã tự động tạo thành phản ứng bất lợi; còn muốn làm điều thiện theo nhãn quan thế tục thì vẫn còn tạo điều ác cho chính mình mà thôi. Hưng cố gắng cho trẻ sơ sinh ăn tái bò thay vì cho chúng uống sữa, chẳng những hại cho chúng mà lại khốn khổ cho mình do sự áp dụng hoàn toàn đối nghịch với câu Kinh Thánh, "Của thánh đừng cho chó." Hơn nữa, sự diễn giải quá ngắn gọn do dùng những công án nhà Phật, phần nào đó, đòi hỏi người nghe phải có ý nghĩ và nhận thức tương đương với mình. Hưng phạm ngay vào lỗi lầm căn bản ít người để ý, và đó là người ta chỉ bị khốn khổ bởi lòng thành thực hiện những việc tốt lành, và như vậy vẫn còn chạy theo thị dục.
 

MBVN 03
 
Thực ra, chỉ cần đôi phút nhận thức, câu Kinh Thánh được nhắc lại từ cửa miệng Hưng bày tỏ nỗi ăn năn minh chứng sự nhận thức đến với anh một cách bất ngờ sau khi đã tốn công sức giải thích Phật học. Tuy nhiên, thực tại lại ngược ngạo, nào ai đạt được tiềm lực nhận thức này khi chợt nghe câu nói mang đầy vẻ khinh bỉ của người đối diện. Mấy công án nhà Phật đòi hỏi căn bản thức ngộ và nếu ai không đủ trình độ sẽ bị đảo lộn tâm tư không biết đường hướng nào làm căn bản nhận định, không thể hiểu điều gì muốn được nói, và cùng lắm chỉ khiến người nghe cho rằng diễn giả nói cuồng hoặc cố tình lòe thiên hạ. Đàng này, lời Kinh Thánh mới thoạt nghe đượm vẻ khinh thị đối với những tâm hồn thiếu ý thức tâm linh. Lời nói chẳng khác chi đem vũng bùn khổng lồ tạt vào mặt người nghe, bắt phải câm miệng, và lại mang tính chất coi kẻ đối diện thuộc thành phần đốn mạt đáng bị chặn họng không cho phép nói, dù lời nói thuộc loại nào!

Cụ Tài đằng hắng hơi lớn cố tình gây sự chú ý của mọi người, đoạn đứng dậy, từng bước chậm rãi tiến đến đầu bàn đối nghịch với vị trí Hưng đang ngồi.
- Xin phép anh em cho tôi được chen vào câu chuyện. Giọng cụ nhẹ nhàng đượm vẻ nghiêm trọng khiến ai nấy nhận ra có điều gì bất thường.
Đã nhiều lần ngồi đồng bàn, nào ai lạ gì cụ Tài, tuy cao tuổi trời nhưng thái độ đối xử với những người hậu bối luôn luôn nhã nhặn, thông cảm, nếu không muốn nói là am hiểu. Trong những lúc nhậu, đôi khi người nào đó vô tình nói câu quá trớn cụ cũng không chấp nhất, chẳng bao giờ tỏ vẻ khó chịu mà chỉ nhẹ nhàng đưa ra lời giải thích mang ý nghĩa nhắc khéo mọi người tránh sự xét xử khắt khe trong mọi trường hợp vì đã chắc gì những điều không lọt tai luôn luôn mang tính chất không nên, ngược lại coi chừng chính là cơ hội giúp kẻ nghe mở rộng lòng nhìn lại chính mình. Nếu vội xét đoán, tâm trí sẽ bị đóng khung, gò bó trước khi suy nghĩ, và như vậy, đương nhiên đã bỏ lỡ cơ may thăng tiến nhận thức.

Lúc này, một người già cả được ai nấy tôn trọng bao lâu nay lên tiếng xin phép làm họ ngỡ ngàng dẫu hơi men đã đến lúc có tác dụng ảnh hưởng.
- Vâng, vâng, mời bác. Bác dùng tiếng xin phép làm chúng cháu khó ăn khó nói quá. Sỹ nhà con nhanh miệng xí xóa, che lấp cõi lòng sôi động.
- Ngồi nơi salông nghe anh em bàn luận từ đầu tới giờ khiến tôi muốn có đôi ý kiến. Tuy nhiên, lời thật bao giờ cũng mất lòng; vì vậy, nếu anh em chấp thuận cho tôi nói với lòng chân thành và đồng thời chấp nhận nghe mà không xét đoán hoặc chấp nhất, tôi mới có thể nói được.
- Thưa bác, không sao, có bao giờ bác thấy tụi cháu phản đối lời bác nói đâu. Tình chen ngang.
- Anh Tình, hãy để tôi nói hết, cụ Tài đưa tay ra hiệu. Tôi nghĩ, những điều tôi sắp nói có thể đụng chạm mạnh đến tự ái của anh em mặc dầu tôi không có ý như thế. Thực ra, tôi chỉ muốn nói lên nhận định của một người già cả, có thể là lỗi thời, nên mong anh em rộng lòng hiểu cho.
- Vâng, vâng, mời bác; xưa nay chúng cháu hiểu bác quá mà. Mời bác cứ nói, cháu sẵn sàng yêu cầu mọi người lên án phạt nếu người nào lộn xộn làm phiền đến bác.
- Ngoại trừ ông Thung đây, vì mới quen, tôi không được biết rõ mấy. Tuy nhiên, qua những lần nghe chuyện với anh em, tôi cảm phục ông có được một tâm hồn cởi mở và sự nhận thức sâu xa từ những thực tại nhỏ nhặt đang xảy ra nơi cuộc đời. Còn những anh em khác, chẳng hạn anh Hưng, có bằng master, ở Việt Nam người ta gọi là cao học. Anh Sỹ, dù con cái đông mà sang đến đây vẫn cố gắng lấy được bằng chuyên nghiệp hai năm đại học. Anh Phủ, kỹ sư điện ngông nghênh để khoảng trống chiếc răng sất ngạo đời. Đại khái anh em thuộc vào thành phần có học thức; tôi có lời cảm phục. Tuy nhiên, khi đề cập đến một tín ngưỡng tức là đụng vào chiều sâu tâm hồn, tư tưởng của con người, do đó anh em cần phải dùng những ngôn từ nghiêm chỉnh để đàm đạo hay trình bày. Những lời phát biểu của anh em dẫu rất chính xác về sự nhận thức thức ngộ, nhưng đối với những tâm hồn còn quá thiển cận bởi chưa thoát khỏi vòng vô minh, những điều chính đáng phát xuất từ cửa miệng anh em đã trở nên quá ư cao ngạo. Anh em nên nhớ; đối với những trẻ em mới sinh được một hai tháng chỉ nên cho chúng ăn sữa chứ không ai đem những món tái bò hay lòng heo hoặc vịt nấu chao, dẫu tuyệt vời đối với mình, mà ngược lại chỉ làm khốn khổ bộ lòng ruột những trẻ còn thơ ấu ấy. Thế nên, đối với những tâm hồn non nớt nơi hành trình thức ngộ tâm linh của đạo học, lời của các anh đã bị coi như thiếu tư cách, đã tự hạ nhân phẩm và được coi như không biết chút gì về tôn giáo, và còn có thể bị hiểu lầm là cố ý bài bác kinh sách hoặc khinh khi những người có niềm tin. Đồng ý với anh em, nhất là anh Hưng, anh em không bàn về Phật giáo mà là Phật học.
 
Chợt ngưng nói một chút và với giọng hơi đắn đo, cụ tiếp,
- Tôi xin lưu ý, như tôi vừa nhận định, các anh là những người tạm được gọi là có học. Tuy nhiên, đối với những kẻ thiếu hiểu biết, hoặc những người ỷ lại trong phương diện suy tư, những gì các anh bàn luận về Phật học sẽ rất dễ bị ngộ nhận thành sự chỉ trích tôn giáo. Khi ấy, một tai hại đáng tiếc sẽ ập tới, và việc nhỏ sẽ đẻ ra trái núi, lòng chân thành do nhận thức sáng suốt về đạo học hướng dẫn nhưng thiếu khôn ngoan về cách trình bày sẽ tạo nên muôn vàn phiền phức. Dẫu cụ Tài cố lấy giọng chậm rãi và nhẹ nhàng nhưng những lời nói phát xuất từ cửa miệng vẫn mang nặng vẻ nghiêm trọng khiến mọi người cảm thấy căng thẳng.
- Tôi không dám phủ nhận sự hiểu biết sâu rộng của anh Hưng về Phật học, đồng thời tôi cũng nhận rõ những điều anh trình bày lại quá xa lạ với Phật giáo nếu không muốn nói là hầu như chống nghịch với những sự thực hành cúng kiến hay nghi thức của các tôn giáo. Trên thực tế, điều này đúng với mọi đạo học và tôn giáo, vì đạo học trình bày về cảm nghiệm thức ngộ tâm linh trong khi tôn giáo chỉ là tổ chức thế tục được kiến tạo do lòng khao khát tâm linh của đại đa số quần chúng. Xét như thế, có thể nói, tôn giáo là tổ chức của con người mong muốn đạt tới sự thức ngộ hầu giải thoát khỏi màng lưới vô minh, mong chứng ngộ quyền lực siêu hình, quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi mình. Và như vậy, thực ra, nhiệm vụ của các tôn giáo chính thức phải là phương tiện dẫn dắt con người trên hành trình thức ngộ, giải thích cảm nghiệm thức ngộ, và trình bày diễn tiến thức ngộ.

- Tuy nhiên, ba nhiệm vụ chính này đã không được bất cứ tôn giáo nào nhắc tới mà có chăng, chỉ được nói đến nơi đạo học. Cũng có thể thời điểm thức ngộ tâm linh cho đại đa số quần chúng chưa tới; cũng có thể vì con người còn quá chìm sâu trong vô minh nên chưa muốn nhận biết về thức ngộ tâm linh; cũng có thể những người có bổn phận, chức vị nơi tôn giáo chưa đạt đến sự thức ngộ tâm linh nên vẫn còn bị luẩn quẩn nơi nghi thức, thực hành theo lý thuyết sùng bái và chỉ lo phát triển tổ chức tôn giáo. Có điều đáng buồn, không hiểu tại sao những bậc thức ngộ nơi các tôn giáo lại cứ âm thầm thinh lặng. Phỏng vì họ biết dẫu nói ra cũng không giúp ích gì bởi con người chưa đáng được nghe, hoặc vì những đầu óc con người trong tổ chức tôn giáo còn quá non nớt không đáng họ đếm xỉa tới, hoặc vì cảm nghiệm tâm linh khi được phát biểu sẽ có vẻ nghịch lại với tôn giáo nên họ tránh trở nên cớ vấp phạm cho mọi người, hoặc họ không muốn bị phiền hà vì sẽ bị đối diện với những lời kết án như sản phẩm từ những đầu óc thiển cận vô minh chăng.

- Điều tôi muốn nói là, cho dẫu sự hiểu biết cũng như thức ngộ của anh em đến thế nào chăng nữa, nếu có gì đáng bàn tới, xin anh em cứ nêu lên vì đây là quyền tối thượng của con người trong hành trình thức ngộ, nhưng xin anh em đặt vấn đề một cách thẳng thắn, nghiêm túc hơn. Nói thì nói thế, nhưng nếu đứng vào vai trò của anh Hưng, chính tôi cũng không biết phải ăn nói thế nào cho có vẻ nghiêm túc hơn; chỉ một điều chắc chắn tôi cảm nhận được, và đó là những phát biểu về thức ngộ tâm linh nơi Phật học qua những lời dạy của các tổ thiền nhà Phật đã từ lâu và cho đến bây giờ vẫn đối nghịch với tất cả những sự thực hành mọi tôn giáo, không riêng gì Phật giáo. Có lẽ, các nhà thức ngộ tâm linh cảm nghiệm rõ cảnh phiền toái của thực tại thị dục con người cũng như lời khôn ngoan răn dạy nơi Kinh Thánh anh Hưng vừa nhắc tới nên chấp nhận âm thầm nhìn những cảnh nhố nhăng mà đau lòng thương xót vì chuyện phải thế nên đành chấp nhận như thế, chẳng còn cách nào hơn. Thực ra lời Kinh Thánh và đặc biệt nơi Phúc Âm, có những câu khinh thị đầu óc u mê chạy theo thế tục không lý gì đến thực thể tâm linh nơi mình. Chẳng hạn nơi Matthêu có nói, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng dày đạp mất và quay lại chúng cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6). Phỏng các vị thức ngộ của các tôn giáo cũng vì thế mà đã tránh lên tiếng chăng!.. Ngừng một chút, cụ tiếp,
- Tôi rất thành tâm khi nói những lời này với ý định có tính cách báo động và đưa ra một cảnh giác thân tình. Thiển nghĩ chẳng nên nói hơn vì có nói gì thêm chăng nữa sẽ rờm tai anh em. Có điều, tôi mong anh em hiểu cho tôi. Tôi triệt để tôn trọng tín ngưỡng dù chưa bao giờ được vinh dự là một con chiên Công giáo hoặc là một Phật tử. Tôi vốn chỉ dám là một kẻ hết lòng trân quý tổ tiên, ông bà cha mẹ mình thôi. Cái vốn học và hiểu biết của tôi về đạo giáo còn quá kém cỏi. Nếu cho rằng tôi có được chút khả năng nào thì hoàn toàn ở lãnh vực tìm tòi và tự nhận thức mà thôi. Thực ra, nếu có thể nói thêm cho rõ, thì xin thưa với anh em, suốt từ sau 1954 đến 1975, tôi chưa hề có một cơ hội nào bén mảng đến khuôn viên Việt Nam Quốc Tự. Và tôi đã thực sự thấm thía buồn khi quan sát việc người ta rước Phật xuống đường! Tôi đã sống qua những thời buổi ấy, còn đang sống bây giờ và sẽ từ giã cõi đời trong phiền muộn nơi cái lốt "muỗi người" nhỏ bé khốn khổ của mình.

Cụ Tài nói một hơi, giọng chất chứa nỗi buồn man mác và thái độ tỏ rõ lòng chân tình. Ra hiệu cho Hưng lấy ly trà nơi chiếc bàn nhỏ, cụ chiêu ngụm trà cho thấm giọng đoạn tiếp,
- Anh em cũng cần phải để ý nếu không muốn nói là học khôn từ những thái độ nông nổi đó của đa số quần chúng. Thử hỏi, nơi thế giới Phật giáo rộng lớn ấy được bao nhiêu người thực hành tu chứng? Lẽ đương nhiên, đâu phải cứ tu chứng là đã thức ngộ; hơn nữa, cái bã quyền hành, tham vọng thế tục mang quyền lực ảnh hưởng con người kinh khủng như thế nào, chính nó được gọi là quỷ như trong Kinh Thánh đề cập tới; thế nên trong số ít ỏi những người tu chứng ấy, được bao nhiêu người thực sự thức ngộ! Thực trạng này chứng tỏ rõ ràng sự thiếu hiểu biết tâm linh hoặc tham vọng thế tục vẫn còn tràn lấp, che mờ tâm trí con người. Cũng có thể con người không được sinh ra để đạt tới thức ngộ vì còn bị nghiệp chướng nặng nề làm mù quáng, nói theo ngôn từ nhà Phật tức là vô minh.

- Nhưng tôi biết chắc chắn một điều đó là hầu hết mọi người chưa được nghe rao giảng, hoặc được trình bày rõ ràng phải thực hành tu chứng như thế nào. Sự thức ngộ không phải chỉ lòng thành mà có thể đạt tới nhưng cần thực tập. Sự thực tập tu chứng cũng giống như ăn uống, suy nghĩ; không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ, nhận thức, và thực hành tu chứng cho mình. Không thế mà đức Đạt Ma sư tổ cũng như Lục Tổ Huệ Năng của nhà Phật đã có những lời nghe đến chói tai mà anh Hưng nhắc đi nhắc lại và đó chỉ là kiến tính mà thôi. Tuy nhiên, thực tế chứng minh, ngay như trường hợp của tôi, đã bao năm dài kiếm tìm cho rõ hơn, sách vở không nói, những vị thuyết giảng Phật học cũng chỉ giải nghĩa, hoặc phân tích kinh sách theo phương diện nhận thức chứ không ai nói lên được phương pháp thực tiễn nào để định tâm trong hành trình tu chứng. Có thực nghiệm tu chứng mới thấy, nếu không biết cách định tâm, con đường tu chứng sẽ trở thành vô tưởng. Người ta rao giảng về thiền, về các thế ngồi, về những mức độ đạt tới nhưng chúng chỉ là sự thực hành bên ngoài khó áp dụng cho đại đa số quần chúng. Hơn nữa, ngồi kiết già, hoa mai mà trí óc, tâm tưởng suy nghĩ lung tung thì hoàn toàn vô ích và còn có thể trở nên phương tiện cho những kẻ lười lĩnh dùng cửa Phật để ăn bám, tiêu phí cuộc đời một cách nhàm chán; chính tâm trạng này tạo nơi lòng dạ kẻ lạm dụng mặc cảm tội lỗi. Bởi thế, Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn đã nói rằng "Không biết tự tâm thì học đạo vô ích." (GLTH; Tr.170). Đây cũng là lý do tại sao Lục Tổ Huệ Năng khuyến cáo mọi người phải chấp lao tác vụ và thực hành thiền trong công việc. Ngài nói, "Ngồi xếp bằng tròn mà như cái cây khô, thì có ích gì đâu!" (GLTH; Tr.183)… Cụ Tài ngừng nói, chiêu ngụm trà.

- Thưa bác, Tùy con vội lên tiếng, Kinh Thánh là lời Chúa sao lúc nãy bác nói khinh thị con người?
- Bàn luận khơi khơi về đạo học thì dễ mà đâu được ích chi! Vào thời điểm nào đó, nếu có ai trong anh em thăng tiến được một chút nơi hành trình tâm linh, anh em sẽ thấy rõ, sự thức ngộ tâm linh nung đốt con người tạo thành lòng xót thương đối với những ai còn đang mê mãi nơi cõi vô minh. Chẳng thế mà đức Thích Ca đã ví sự mê muội của vô minh giống như cảnh cháy nhà, con người cần gấp rút thoát ra ư! Tuy nhiên, nếu xét theo phương diện giáo hóa, chớ dạy người ta những điều thái quá hay bất cập. Nếu dạy người những điều thái quá thời người không thể tới nơi; nếu dạy người những điều bất cập thời người học không tiến bộ. Do đó, anh em nên nhớ một điều, vào thời điểm chập chững hành trình thức ngộ, nếu ai muốn chỉ dạy cho người, cần phải được nhập tâm chữ "Trung" trong Dịch học. Nếu chỉ dạy chẳng đúng thời, người thụ giáo chẳng vui nghe, mà công dạy cũng uổng (Chu Dịch I; Tr.153). Đàng khác, xét về phương diện tâm linh, những lời nói phát xuất từ cảm nghiệm như chọc vào lỗ tai kẻ nghe vì họ không thực nghiệm tu chứng nên không thể cảm nhận được. Thế nên chẳng trước thì sau, kẻ nào hung hăng theo kiểu ngựa non háu đá, khoe giấm khoe mẽ, chưa dầy công tu chứng đã vội tìm danh vọng thế tục qua danh hiệu tâm linh, chẳng sớm thì chầy sẽ bị lộ tẩy tham sân si. Nhân tiện, tôi cũng xin có lời khuyên anh em và đó là khi bàn luận về đạo học, chẳng nên dùng tự ái tôn giáo, bởi như anh em nhận thấy nơi thực tại, dẫu tôn giáo bắt nguồn từ lòng khát khao tâm linh của con người nhưng tôn giáo chỉ là tổ chức nhân sinh dùng lề luật, nghi thức phần nào đó giúp những tâm hồn còn quá thấp kém xa lánh lối sống nguy hại cho hành trình thăng tiến tâm linh.
Ngưng lại đôi phút dường như cố ý để người nghe có cơ hội thấm nhuần lời mình nói, cụ Tài tiếp,
- Anh em có thể nhận thấy rõ ràng nơi thực tế, dẫu tôn giáo là tổ chức phát sinh từ lòng khao khát tâm linh, nhưng vì áp dụng cho đại đa số quần chúng thiếu thực hành tu chứng, thiếu cơ hội hiểu biết về tâm linh, và thường không muốn bị bận tâm do phải đối diện với nhu cầu sinh sống phiền toái hằng ngày nên thường ỷ lại vào những lời giảng giải của những người có cuộc sống tu trì. Họ cứ tưởng rằng nghe giảng giải là biết hết mọi sự, hoặc hiểu được điều gì là mình đã đạt tới để rồi yên tâm đã được giải thoát hoặc cứu độ. Họ có kinh nghiệm sống, nhưng không bao giờ thử đặt vấn đề đem những kinh nghiệm ấy áp dụng vào hành trình thăng tiến tâm linh. Tôi muốn nêu lên một thí dụ điển hình, anh em đang uống bia, phỏng ai có thể dùng bất cứ ngôn từ hay thái độ hoặc cách nào để giải thích, trình bày cho tôi cảm nhận được thực sự bia ngon ngọt như thế nào không? Ai cũng hiểu rõ, dầu với bất cứ phương cách nào và cho dù thời gian kéo dài bao lâu, một người trong anh em cố gắng đem hết khả năng giải thích hoặc minh chứng thì tôi cũng không bao giờ có thể cảm nhận được miếng bia thực sự ra sao. Chỉ có một cách nhanh nhất, hoàn hảo nhất và thật đơn giản, đó là tôi nâng ly bia uống một ngụm. Ngoài ra, sự cảm nhận về ngụm bia nơi miệng của tôi không thể giống với cảm nhận của bất cứ anh em nào, và chỉ mình tôi biết. Tương tự như thế, sự thức ngộ trong hành trình tu chứng cũng vậy; không ai có thể truyền đạt cho ai, và dẫu có ai đó, với thiện ý, càng cố gắng diễn giải thì cũng chẳng thể nào giúp ích được cho ai mà chỉ càng không nói lên được gì. Tôi e rằng càng nói chỉ càng làm hại người mình muốn giúp mà thôi vì càng giải thích lại càng khiến người nghe lạc vào vòng phiền toái của ý niệm. Bởi vậy, nếu nhận xét kỹ càng, đạo học chính là ý thức dẫn tới minh triết cho người tu chứng. Ai chưa bao giờ thực hành tu chứng sẽ không thể nào cảm nghiệm được những công án nhà Phật, không thể nào hiểu được kinh điển vì công án chỉ là phương tiện các tổ thiền dùng để giúp môn sinh thức ngộ, và kinh điển giãi bày cảm nghiệm tu chứng.

Dẫu thái độ không biểu lộ chút nào mệt mỏi, cụ Tài lại ngưng nói, nhẹ khép đôi mắt chừng vài giây, hình như có điều gì khiến cụ suy nghĩ lung lắm, đoạn lên tiếng.
- Như vậy, muốn thăng tiến tâm linh tất nhiên phải tự mình tu chứng vì không tu chứng sẽ không cảm nghiệm được bất cứ điều gì. Tu chứng là phương pháp thực hành cảm nghiệm tâm linh cũng giống như hành động của con người khi đói ngồi trước các món ăn. Cho dù thực phẩm gồm các món sơn hào hải vị sắp xếp đầy bàn mà cứ ngồi nghe người nào đó giảng thuyết món này bổ béo ra sao; món kia giúp con tì con vị thế nào; món khác làm đẹp da, sáng mắt, bổ óc, bổ thận, thì dẫu nghe đến cả giờ, thực khách vẫn hoàn đói. Nếu kiên nhẫn ngồi nghe cả ngày, có lẽ những món ăn tuyệt vời đó chỉ còn nước đổ đi trong khi dạ dầy rỗng không. Nghe giảng thuyết cũng vậy, nếu không thực hành tu chứng thì dẫu cầu khẩn cách mấy cũng như không. Bởi vậy, vì không tu chứng nên không có cảm nghiệm, nhưng con người tự bẩm sinh luôn luôn thấy thao thức điều gì đó hầu khỏa lấp nỗi khát vọng tâm linh nên dễ chiều theo nghi thức cúng kiến, thờ phượng được gọi bằng ngôn từ đẹp đẽ thực hành tôn giáo. Lẽ đương nhiên, muốn có được mối an tâm do sự thực hành tôn giáo bằng những nghi thức lễ bái, thờ phượng, con người tìm cách kêu gọi sao cho có đông kẻ khác làm theo mình như một trắc nghiệm tâm lý chứng tỏ mình đã thực hiện được gì để thỏa mãn nỗi khát vọng tiềm ẩn này. Thế rồi, thay vì phát triển tâm linh, tham vọng phát triển tổ chức tôn giáo đem lại danh vọng, uy quyền, và muôn sự kèm theo nếu có, và như vậy, thực thể khao khát tâm linh nơi con người đã bị lạm dụng để cổ võ cho những tổ chức tôn giáo đề cao ước muốn giải thoát, cứu độ. Có điều, nếu ai dám suy nghĩ và đặt lại vấn đề sẽ nhận biết rõ ràng, càng ước muốn giải thoát hoặc cứu độ thì càng nhận ra chắc chắn chưa được giải thoát, chưa được cứu độ. Kinh nghiệm sống ai không biết, còn ước muốn khỏi đói bụng thì vẫn đói. Thực ra, con người biết kiếm thực phẩm để ăn khi đói mà vẫn chỉ ước muốn được giải thoát thay vì thực hiện hành trình sao cho đạt tới giải thoát. Nhưng khổ nỗi, nếu đã không biết hành trình thực hiện cách nào, không biết phương thức thực tiễn nào để thăng tiến tâm linh, sao con người dám yên lòng tin tưởng theo đuổi! Những lý thuyết, những sự giảng giải kinh điển không đem lại chứng minh cụ thể điều kinh điển ghi chép. Cũng có thể rằng thực thể tâm linh được nói đến trong kinh điển quá cao, cần cảm nghiệm tu chứng lâu ngày do đó khó ai lĩnh hội được. Cũng có thể chính diễn giả chưa đạt tới mức độ tâm linh thì cho dù luận lý hay giải thích cách mấy vẫn chỉ làm đình trệ trình độ minh triết kẻ nghe. Đã nhiều lần tôi suy nghĩ, đâu phải vô lý kinh sách ghi chép những sự lạ lùng xảy đến như những minh chứng hùng hồn cho lời giảng của những vị sáng lập các xu hướng tâm linh; mà thường khi đọc đến những dữ kiện được ghi chép này, chúng ta đều có cảm nghĩ đó là những chuyện không tưởng hay phép lạ. Thế nên, cho rằng những sự kiện đó không tưởng hay phép lạ thì con người đã tự hạn chế ý định thử nơi mình. Lẽ đương nhiên, hạn chế ý định thử tức là hạn chế sự thực hành tu chứng. Ngừng lại một chút, cụ Tài kết thúc, đến đây, tôi nghĩ, tôi không còn gì để bày tỏ với anh em vì đã nói hết những điều cần phải nói. Tôi nhấn mạnh, đây là những điều tôi phải nói vì đã lỡ được nghe lóm anh em bàn luận mà thôi. Xin cảm ơn anh em đã cho tôi cơ hội tỏ rõ nỗi lòng của mình.

Nói đoạn, cụ Tài xoay người định dời gót. Tình chợt lên tiếng,
- Thưa bác, thế kinh sách nhà Phật nói về những gì sao mà nhiều đến thế, và mục đích của đạo học là gì nếu không phải là cứu nhân độ thế?
- Tôi nghĩ anh em bàn luận đã hơi lâu vì bây giờ đã là chín giờ, cụ đưa tay nhìn đồng hồ. Suốt từ năm giờ chiều, vị chi bốn tiếng bàn luận, hơn nữa, anh em còn phải ăn uống, có lẽ để lúc khác tôi trả lời vì câu hỏi bao hàm quá rộng rãi.
- Xin bác nói mấy phút nữa thôi, được nghe thêm chút nào hay chút ấy. Sỹ nhà con miệng năn nỉ lằng nhằng, kiểu của hắn xưa nay vẫn vậy, trong khi đứng dậy kéo ghế. Mời bác ngồi cho đỡ mỏi, ban thêm cho chúng cháu đôi lời.

Còn gì phấn khởi hơn gặp được người muốn tìm hiểu về tâm linh, cụ Tài cảm thấy nguồn hứng khởi chợt trào dâng. Bao ngày tháng chồng chất kiếm tìm và chiêm nghiệm về đạo học, cụ đã đối diện với nỗi cô độc tuyệt đối; đó là khó có người muốn nghe và có thể chấp nhận được những suy tư tâm linh. Giờ đây, ít nhất những lời nói trung thực từ cảm nghiệm tâm linh của những vị tổ thiền, hoặc từ những công án nhà Phật được Hưng nhắc lại như khởi điểm đã làm đảo lộn lối nhìn nhị nguyên tạo thành khao khát muốn tìm hiểu, một cách nào đó, mở rộng tâm hồn mấy người anh em này hầu chấp nhận mọi khía cạnh của vấn đề được nhận định thay vì thiên kiến.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2017 14:05:18 bởi lamongthuong >
#1
    lamongthuong 06.12.2017 13:37:33 (permalink)
    - Nếu anh em muốn nghe, nói thêm vài phút nữa cũng chẳng nguy hại gì. Có điều, anh em nên để tâm, ý vị thâm trầm nhất của Phật học là tinh thần vô trụ, vô tướng, không lệ thuộc bất cứ một học thuyết nào, không đưa ra con đường nào cho bất cứ ai; mà mỗi người phải tự mình tìm ra đồng thời nhận thức được chính mình trong hành trình kiến tính. Kinh Phật có câu, "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất đắc kiến như lai" (Chu Dịch I; Tr.414). Câu này có nghĩa, Phật lý ở bản tâm, vô thanh sắc. Thế nên, nếu ai lấy thanh âm hoặc hình sắc mà cầu ta ở thanh âm hay hình sắc, người ấy đã đi vào tà đạo, không đạt tới niết bàn. Phật học kêu gọi kẻ muốn tìm giải thoát chẳng nên ỷ lại vào một uy lực nào. Phật học không phải là lý thuyết an ủi con người hay phương thức để cho những tâm hồn nô lệ cầu cạnh thần quyền. Chính đức Thích Ca thường căn dặn những kẻ theo ngài không nên tin vào lời ngài nói mà phải tự mình xét lại đến lúc nào nhận thấy những lời ấy có giá trị chắc chắn, áp dụng được trong hành trình tu chứng thì mới nên theo (PHTH; Tr.56). Như vậy, mỗi người phải tự mình kiến tính chứ không ai có thể giúp ai hoặc kiến tính dùm cho ai. Đàng khác, Phật học mục đích phá trừ kiến chấp nên có thể nói Phật học là một đạo học không học thuyết, không giáo điều, ngược lại khai phóng, giải phóng tất cả những gì con người sùng bái. Có thể nói, đây là nguyên tắc độc nhất và cũng là điểm cao thâm nhất của Phật học. Chả thế mà chính đức Thích Ca đã nói: "Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một lời. Ta từ đêm được chánh giác, đến đêm nhập niết bàn, trong khoảng đó ta chưa từng nói một chữ" (PHTH; Tr.73). Thế nên, vấn đề quan trọng nhất của Phật học chỉ là chuyển mê khải ngộ. Hơn nữa, không phải chuyển mê khải ngộ là mọi sự được giải quyết mà phải sống điều mình đã thức ngộ được. Như vậy, Phật học cũng như các đạo học không phải là lý thuyết cho người ta hiểu biết mà thôi nhưng là một đạo sống. Trong cuốn Phật Học Tinh Hoa, cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần có ghi lại câu truyện được trích từ Truyền Đăng Lục như sau: "Xưa Hương Nham hòa thượng tham học ở Bách Trượng thiền sư. Ông là bậc tuyệt thế thông minh, khôn ngoan lanh lợi, phàm hỏi một, trả lời đến mười. Thế mà khi tổ Huy Sơn hỏi: "Lúc cha mẹ chưa sinh ta ra, vậy thử nói một câu xem sao!" thì tâm thần mờ mệt, chả còn biết trả lời ra sao được cả. Ông ta bèn trở về liêu, đem những sách vở bình nhật đã học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong tìm cho kỳ được câu trả lời, nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy. Chán nản, liền than: "Toàn là bánh vẽ, chẳng thể nào án vô!" Nhiều lần ông khất cầu tổ Huy Sơn nói ra cho biết thì tổ Huy Sơn trả lời, "Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!" Hương Nham tức mình, đem tất cả kinh luận ra mà đốt hết rồi qua đất Nam Dương học nơi Tuệ Trung quốc sư. Ông khổ công nghiên cứu lâu ngày chầy tháng. Một hôm đi phát cỏ chặt cây, vô ý liệng một miếng miểng sành đánh trúng vào thân cây trúc, liền nghe phát ra một tiếng ngân lạ lùng, bỗng liền khoát nhiên tỉnh ngộ! Ông vội vàng trở về tắm gội, đốt hương ngưỡng vọng về nơi tổ Huy Sơn mà rằng: "Hòa thượng thật là bậc Đại Từ, ân ngài còn hơn cha mẹ sinh thành. Nếu lúc trước vì ta mà ngài nói ra thì ngày nay sao ta được sự đắc ngộ này!" (PHTH; Tr.80-81).
    - Thưa bác, hòa thượng Hương Nham đắc ngộ thế nào? Tùy con chợt cắt ngang lên tiếng hỏi.
    - Kể ra anh cũng nóng sốt về đường thức ngộ! Cụ Tài nhẹ nhàng nói. Hòa thượng Hương Nham đã là người thông thái, hỏi một có thể trả lời tới mười, điều này có nghĩa sức học của ngài quá rộng rãi mà còn phải đọc lại tất cả các kinh sách và vẫn phải than lên chỉ là bánh vẽ, cuối cùng đem đốt hết, lại dời qua đất Nam Dương học thêm nơi Tuệ Trung quốc sư cũng chỉ vì một câu hỏi coi bộ tầm thường của tổ thiền Huy Sơn. Thế nên, câu trả lời về việc hòa thượng Hương Nham đắc ngộ thế nào đành phải giống như câu trả lời của tổ thiền Huy Sơn mà thôi. Tôi có trả lời cũng chẳng ơn ích gì cho các anh.
    - Thưa bác, bác đâu phải là tổ thiền Huy Sơn! Sỹ nhà con đế vô.
    - Anh Sỹ, dẫu vô tình nói như vậy cũng đủ chứng tỏ anh đã coi thường tôi quá lắm. Hãy để tôi nói hết, cụ Tài đưa tay làm hiệu ngăn Sỹ nhà con đang định giải thích. Tôi hiểu tấm lòng chân thành của anh em nóng sốt muốn hiểu biết nhưng phải đặt vấn đề như thế hy vọng anh em để ý hơn về lời ăn tiếng nói liên hệ tới địa hạt tâm linh, hay đạo học. Có lẽ anh em chưa biết câu trả lời của lục tổ Huệ Năng khi quan biệt giá Giang Châu tỏ ra ngạc nhiên vì ngài nhờ ông ta viết bài kệ lên vách tường, "Học đạo Vô Thượng Bồ Đề chớ nên khinh thường kẻ sơ học. Người thấp có thể có trí cao; người cao có thể không có trí cao" (GLTH; Tr.168). Thử hỏi, đâu phải phi lý mà câu truyện được ghi lại cho đầy sách; cũng đâu phải tôi cố tình kể lại câu truyện đắc ngộ của hòa thượng Hương Nham làm uổng phí thời giờ của anh em. Thử đặt vấn đề, sau khi nghe câu truyện, anh em đã có được mấy phút suy nghĩ mà vội hỏi. Thử so sánh thời giờ của anh em dành cho sự suy nghĩ về câu truyện với thời gian hòa thượng Hương Nham đọc lại sách vở, năn nỉ xin tổ thiền Huy Sơn trả lời, cộng thêm thời gian học cùng Tuệ Trung quốc sư, anh em chưa kịp để ý suy nghĩ thì đã muốn biết câu trả lời, nào được ích chi. Tôi đề nghị, anh em nên học nơi hòa thượng Hương Nham, trước tiên cần tự suy nghĩ, tìm hiểu. Anh em không để ý câu nói của Hương Nham cho rằng ân nghĩa của tổ thiền Huy Sơn tạo nên bởi không trả lời còn hơn cha mẹ sinh thành sao! Sự thức ngộ giải thoát con người khỏi vòng luân hồi của vô minh mang giá trị tâm linh lớn lao biết chừng nào, làm sao chỉ nghe giải thích mà có thể đạt tới được. Anh Hưng nói rất đúng, không ai có thể thức ngộ cho mình. Đắc ngộ cần tu chứng đồng thời không ai có thể dẫn dắt. Ai tu chứng, người ấy biết, chẳng thể giải thích cũng như học từ kẻ khác.
    - Thưa bác, cháu muốn biết... nhưng... tu chứng... là gì và phương pháp... phải thế nào? Phủ ngập ngừng hỏi vì e ngại bị khiển trách như Sỹ nhà con.
    - Thực ra tu chứng chỉ là tự mình nghiệm xét. Tất nhiên, muốn nghiệm xét đúng đắn lại cần nhiều điều kiện để chuẩn bị tâm trí mà anh Hưng đã nói lúc nãy. Hơn nữa, một trong những điều kiện chuẩn bị cho sự thực hành tu chứng chính là minh triết. Đồng thời sự minh triết đòi hỏi một tâm hồn rộng mở để nhận thức thực thể sự vật và sự việc cũng như ý niệm, quan niệm. Thế nên, tôi nghĩ, trước hết, anh em cần nhận thức về các khuynh hướng đạo học sau đó nếu ai thực sự muốn thực nghiệm tu chứng tôi sẵn sàng nói cho biết cũng không muộn.
    - Thưa bác, nếu như thế sao một người có thể đạt tới trình độ tu chứng đúng đắn bởi đâu có cách nào hiểu biết hết những kinh sách để kiện toàn sự minh triết.
    - Tôi hiểu anh muốn nói gì. Dẫu kinh sách nhà Phật quá nhiều vì ngay đến tên của những tông phái nhà Phật trên thế giới cũng khó có thể nhận định cho chính xác như thành quả của đặc tính phá chấp, con đẻ của tinh thần vô trụ, vô tướng, không lệ thuộc bất cứ học thuyết hoặc đường lối nào; tuy nhiên, minh triết đâu phải là gom góp kiến thức của người khác để rồi nhắc đi nhắc lại như những phương châm mà chính là kết quả của chứng nghiệm, suy tư, nhận định, của một tâm hồn hoàn toàn tự do không bị lệ thuộc hoặc ám ảnh bởi bất cứ chiều hướng nào. Tôi thử nêu một câu hỏi để anh em trả lời, chẳng hạn bia tốt hay xấu?
    Mọi người ngồi im lìm. Những cái mỏ xưa nay vung vít tào lao thế mà giờ này đành chịu im tịt đối với một câu hỏi quá ư bình thường khiến cụ Tài cảm thấy hơi ngỡ ngàng.
    - Tại sao không ai trả lời. Cụ không dùng tiếng anh em mang tính chất thân thiện vẫn thường dùng mà chỉ hỏi với tiếng "ai" ngắn gọn, phần nào chứng tỏ sự khó chịu do thái độ ù lỳ bởi e sợ sai lầm của những kẻ quen thói lắm miệng.
    - Thưa bác, nói rằng tốt cũng không đúng, mà nói rằng xấu cũng không đúng nên tụi cháu đâu biết nói gì!
    - Như vậy phỏng câu trả lời đúng nhất là không trả lời? Tôi nói thế anh em nghĩ sao?
    - Thưa bác, không trả lời chưa chắc đã đúng mà trả lời cũng chưa chắc đã đúng. Cháu nghĩ, không trả lời được thì đúng hơn. Cháu muốn nói đúng hơn chứ cũng chưa chắc đã đúng. Sỹ nhà con bí quá nói đại.
    - Đây là nguyên tắc của minh triết vì suy niệm đến tận cùng của thực thể sự vật cũng như sự việc chứ không lệ thuộc vào luật lệ, quan niệm nào hay chiều hướng, ý thích nào. Có điều, bằng này anh em ở đây, ai cũng mới chỉ dám nghĩ tới phải trả lời thế nào cho đúng, cho hợp, chứ chưa ai dám nghĩ tới thực thể của câu hỏi. Nếu để ý hoặc nhớ lại, con người thường không để ý tới nguyên nhân và thực thể của vấn đề được đặt ra mà thường chỉ lo sao giải quyết một cách vô ý thức miễn sao cho giống người khác hoặc tránh bị chê trách mà thôi. Bây giờ chúng ta thử trả lời câu hỏi và sau đó đặt vấn đề về câu hỏi. Đối với một người không uống bia, bia tốt hay xấu?
    - Thưa bác, có thể nói xấu vì nếu uống vào họ sẽ bị say.
    - Tại sao say bị coi là xấu? Và nếu như vậy, chỉ người say có thể bị coi là xấu chứ sao có thể nói bia xấu! Anh em thấy rõ, ảnh hưởng của bia, nói cách khác, sự áp dụng của bia vào môi trường nào đó tạo nên điều được con người cho là xấu hay tốt chứ không phải tự bia xấu hay tốt. Bởi vậy, cho dù trả lời bia xấu hay tốt cũng đều không đúng với bản chất của bia xét theo lối nhìn luân lý. Nếu nói rằng bia vừa xấu cũng vừa tốt lại càng không chính xác và đồng thời nếu bảo không tốt không xấu thì sẽ bị mọi người cho là ngớ ngẩn; do xưa nay hầu như mọi người đều quá quen và lệ thuộc quan niệm định giá xã hội về sự vật hay sự việc hoặc thế nọ hoặc thế kia cho có nhận định được gọi là rõ ràng chứ thực sự không gì rõ ràng mà chỉ luẩn quẩn theo ý thích hay không, hoặc lợi hại thế nào. Thử đặt vấn đề, nếu đem một chai bia chia đều cho năm người uống đoạn yêu cầu từng người nói lên cảm vị phần bia họ đã uống, chắc chắn không ai nói giống ai và có thể kết luận ai cũng giải thích sai lạc đối với cảm vị của bốn người khác. Thực ra, nếu đem mẫu mực sai hoặc đúng, ai cũng sai và ai cũng đúng vì đúng với chính họ, mà sai vì không có cái miệng chứng nghiệm được cảm vị như của người khác. Tương tự như thế, nếu xét theo lối nhìn tâm linh, chân lý chỉ có một dầu diễn tả bằng cách nào, chẳng khác gì cùng một chất bia mà năm người diễn tả năm cảm vị khác nhau ấy là chưa nói tới đối nghịch. Tạm thông qua ý niệm xấu tốt, bây giờ thử xét tính chất câu hỏi, có ai trong anh em đưa ra nhận định gì về câu hỏi "bia tốt hay xấu" không?
    - Thưa bác, cứ theo như bác vừa dẫn giải thì câu hỏi tự nó phi lý nên đâu cần phải nói gì. Sỹ nhà con nhanh miệng.
    - Tại sao anh lại theo sự suy tư của tôi vừa dẫn giải? Tại sao không sử dụng trí óc của anh làm mẫu mực đưa ra nhận định? Chúng ta xưa nay vẫn thế, đã quá quen với lối cố gắng nhồi nhét vào đầu óc mình những gì người khác tuyên truyền theo quan điểm hạn hẹp cá nhân và cho rằng đó là học thức trong khi chính mình không dám tự sử dụng tâm trí để suy tư bởi e sợ sai lầm. Tôi thử hỏi anh em, nếu tôi đưa ra nhận định bia Heineken cay hơn ớt, có ai dựa trên đó để làm mẫu mực suy tư không? Đồng ý, anh em tôn trọng tôi nhưng không phải bất cứ quan điểm nào tôi đề xướng cũng có thể phù hợp với anh em. Trung thực nhận xét, điều đúng nhất phải nói là những gì tôi có thể chấp nhận nhiều khi đối nghịch với quan điểm của hầu hết anh em ở đây. Nó đúng, nó hay, chỉ với tôi mà thôi chứ chưa chắc gì đem lại lợi ích cho bất cứ ai. Không ai có thể suy tư cũng như chứng ngộ thay cho mình mà phải tự mình. Như tôi đã nói, chân lý là chân lý dù dưới hình thức nào hoặc được diễn giải bằng cách nào. Chân lý không là độc quyền của ai cũng không thể chứa đựng trong một hệ thống hay giáo phái nào hữu hạn, nên cũng không bị chứa đựng trong một danh từ hạn định hoặc cảm nghiệm cá nhân. Thế nên, sự nhận định về giá trị của câu hỏi sẽ tùy thuộc suy tư của mỗi anh em. Tôi muốn nhắc lại, có ai đưa ra được nhận định nào về câu hỏi "bia tốt hay xấu" không?
    - Theo cháu, Tùy con lên tiếng, bác vừa khai phá một lối nhìn rộng mở cần nhiều suy tư hầu đạt tới sự áp dụng nơi nhận định thực thể sự vật và sự việc. Tuy nhiên, vì cảm thấy cần có thời gian ứng dụng nên hiện giờ cháu chưa thể nào có được nhận định gì về câu hỏi.
    - Tôi có lời khen anh Tùy vì đã dám nhận định và nói lên thực trạng nơi lòng mình. Đây cũng là điểm căn bản cho con người bước vào trạng thái minh triết. Tôi dám khẳng định với anh em, kẻ nào không nhận biết chính mình, không dám chấp nhận thực trạng nơi lòng mình, sẽ không bao giờ có thể chạm đến cửa ngõ minh triết. Biết mình thế nào, bết bát ra sao, tốt lành tới mực độ cao thấp bao nhiêu nếu so sánh với ước mơ của mình, mới có được căn bản đi vào suy tư cảm nghiệm thực thể sự vật và sự việc. Ngược lại, kẻ nào hiểu muôn vàn lý thuyết thánh thiện, tốt lành, khoa học, tâm lý, luân lý, ngay cả đến những lý thuyết đạo học. mà chưa nhận biết chính bản thân họ thì muôn đời vẫn vô minh. Đọc kinh sách, các đạo học không bắt ai phải tin tưởng một cách mù quáng, chỉ tôn giáo thực hành như thế để cổ võ tổ chức của con người. Các lời kinh Phật thường nhấn mạnh đến chữ "kiến" hơn là chữ tin. Phật học bài bác lòng tín ngưỡng trước khi đã tự mình nhận thấy và kinh nghiệm, bởi vậy mới nói "Kiến tính thành Phật" (PHTH; Tr.66). Xét như thế, muốn kiến tính phải nhận biết chính mình vì tính là tính Phật, tâm Phật, ở ngay nơi mình. Thế nên, người nào muốn cảm nghiệm Phật học cần điều kiện mở rộng tâm hồn, trí não, hầu có thể thông cảm với tất cả mọi giáo lý khác. Sự cố chấp hẹp hòi và cuồng tín chính là bức tường thành kiên vững ngăn cản sự thức ngộ tâm linh. Chân lý hiện lên muôn mặt, mọi nơi, mọi chốn trong khi mỗi học thuyết chỉ diễn tả theo từng trình độ, căn cơ cảm nghiệm của tác giả trước tác mà thôi. Như vậy, điểm căn bản của Phật học là phá kiến chấp, không lệ thuộc bất cứ gì, và đây là ý nghĩa câu nói nghịch lý trong Lâm Tế Lục, "Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ". Bởi đó, kinh Viên Giác có đoạn nói, "Kinh điển của Phật nói như ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu thấy được mặt trăng thì rõ biết ngón tay chỉ kia không phải cứu kính, không phải là mặt trăng. Tất cả những ngôn thuyết của Như Lai để mở bày cho Bồ tát cũng lại như thế. Đây gọi là Bồ tát đã nhập địa tùy thuận tánh Viên Giác" (KVG; Tr.117). Thực chất của trạng thái chuyển mê khải ngộ nơi Phật học tức là thoát ra khỏi mọi lề lối suy tư thông thường để có nhận thức vượt hẳn lên, chính xác như sự vật, vượt lên trên lý trí và những sự nhận thức thông thường, thoát khỏi mọi thành kiến thế nhân để nhận thực dữ kiện. Có thể nói đây là lối nhận thức ngược lại với tất cả mọi nhận thức thông thường đối với sự vật. Người học Phật cần có một tinh thần tự do, không nên lệ thuộc bất cứ kinh sách hay giáo lý nào vì sự giải thoát được giác ngộ nơi mình chứ không phải ân huệ của bất cứ đấng nào hoặc ai ban cho. Thế nên, muốn hiểu Phật học phải có óc hoài nghi. Chẳng nên tin theo những kẻ lý luận hay, biện bác giỏi, cũng không để lý lẽ hào nhoáng coi như hữu lý cám dỗ hay lừa bịp. Chỉ khi nào tự mình biết rõ việc gì thuận, tốt với mình và có thể chấp nhận được thì hãy nhận và theo. Nếu không, hãy từ chối và xa lánh dẫu nó thế nào! (PHTH; Tr.56). Đàng khác, nhà tư tưởng cao nhất không phải là kẻ ru ngủ chúng ta với những thành kiến muôn đời, mà là những kẻ làm cho ta tỉnh ngộ, vạch ra cho ta thấy những điều mới lạ nơi những sự vật rất tầm thường trong đời sống mà hằng ngày bị thói quen làm cho ta không để ý. Vì thế, muốn tỉnh thức, muốn nhận ra điều mới lạ, phải có óc hoài nghi. Các đạo học đòi hỏi nghiệm chứng nên rất cần sự hoài nghi. Hoài nghi là để cho ta nhìn bằng cặp mắt của ta, nghe theo lỗ tai của ta chứ không nhìn theo cặp mắt kẻ khác, nghe theo lỗ tai người khác. (PHTH; Tr.58). Hơn nữa, chỉ những người thức ngộ mới cảm nhận được điều này, đó là nghi lớn thì giác ngộ lớn; nghi nhỏ thì giác ngộ nhỏ; chẳng nghi thì chẳng bao giờ giác ngộ (PHTH; Tr.59). Vì vậy, người tìm hiểu Phật học không nên để mình bị ràng buộc hoặc vướng mắc vào bất cứ gì, ngay cả đối với chân lý.
    - Thưa bác, nếu như thế đâu cần gì kinh sách cho hành trình chứng ngộ. Tùy con vừa được khen nên cảm thấy hứng khởi nói lên cảm nhận về vai trò kinh sách.
    - Như vậy, phần nào anh đã hiểu được tại sao đức Đạt Ma sư tổ nói, "Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được" (GLTH; Tr.205). Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ nói, "Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184). Kinh điển nhà Phật giảng về thực thể, tâm thể phát sinh từ cảm nghiệm tu chứng, phân tích nhận thức hữu vi dẫn về cảm nghiệm. Dĩ nhiên, kinh sách kiếm đâu chẳng có, ai đọc không được, và dẫu có đọc cả đời mà không tu chứng, không tự nghiệm xét thì nào được ích chi, có chăng chỉ càng bị luẩn quẩn. Hơn nữa, phỏng ai đã bao giờ tìm kiếm kinh sách chưa mà ngược lại, thường thì chỉ hay đâu chầu đó, tưởng rằng ý nghĩ, nhận thức của người khác có thể giải quyết lòng khát khao tâm linh nơi mình.
    - Thưa bác, bác có thể tóm tắt những điểm quan trọng nhà Phật đề cập tới được không. Chẳng hạn, đại thừa, tiểu thừa là thế nào, quan niệm ra sao. Lúc trước, nghe Hưng nói, chỉ mấy chữ có, không, huyễn, ngã, vô minh, minh triết cháu đã thấy rối tùm lum rồi thì còn lòng trí nào mà đặt vấn đề chứng với ngộ.
    - Tựu trung, Tiểu Thừa và Đại Thừa của nhà Phật cùng chung tam pháp ấn đó là chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, và niết bàn tịnh tịch (PHTH; Tr.97) nhưng vì quan niệm về vị thế hành giả khác nhau nên phát sinh tên khác nhau để dễ phân biệt. Đầu tiên, nhà Phật nhìn nhận nơi thực trạng hữu hình đề bạt chân lý vô thường. Nhận thức này nói lên một thực thể đó là tất cả mọi sự, được gọi là vạn pháp hay chư pháp, đều luôn luôn lưu chuyển, biến dịch không ngưng nghỉ, không có gì là thường trụ, bất biến. Sinh tử từng giây phút xảy ra trong cuộc đời; sự sống chết liên tục tiếp diễn bất tận như luân chuyển trên một vòng tròn, không đầu mối, không tận cùng. Cuộc đời một người là tổng cộng những diễn biến sống chết; cả vạn vật cũng thế, hết xuân đến hạ và được tiếp nối qua thu, đông để rồi xuân trở lại. Bất cứ hiện tượng nào trên đời đều trải qua bốn thời kỳ: sanh, trụ, dị, diệt, còn được gọi là thành, trụ, hoại, không. Sanh là sinh ra; trụ là tồn tại và phát triển; dị là biến đổi; và diệt là tiêu tán. Đây là luật vô thường vì không có gì là thường trụ. Tuy nhiên, chết không phải là hết vì chết là điều kiện tất yếu cho sự sinh sắp tới. Chết để mà sống, chẳng hạn tế bào nơi con người, và sống để mà chết nối tiếp nhau không ngừng. Nhà Phật cho rằng trong thời gian một ngày, thân ta đổi thay, thay đổi, chết đi sống lại tới 6.4000.099.980 lần. Người ta sở dĩ đau khổ vì đã nhận thức sai lầm bởi cho rằng sự vật bất biến, thường trụ nên cố bám vào những ảo giác mong thỏa mãn dục vọng, kiếm tìm vĩnh cửu trong những sự vật đổi thay tạo nên thất vọng (PHTH; Tr.98-99). Thứ đến là Chân lý vô ngã; vì mê lầm, con người cho rằng có ta, có người và những sự vật chung quanh. Nhà Phật cho rằng, ý niệm về cái ta và những gì thuộc về ta như vợ, con, nhà, xe, chỉ là giả tưởng, không có thật, và chính vì nghĩ rằng có mình và những liên hệ không có thật này đã là nguồn gốc của tất cả mọi sự mê lầm, vô minh tạo thành ngã chấp, phát sinh đau khổ. Thực ra, cái ta, cái ngã chỉ là hiện thể của Tâm thường trụ bất biến, bao trùm vũ trụ, tâm này đồng bản thể với vũ trụ, liên tục biến chuyển nơi mọi vật được gọi là Phật tánh, tâm Chân Như, tâm bát nhã, tâm đại bình đẳng. Tâm này được coi giống như nước nơi biển, và con người cùng mọi sự vật chẳng khác gì những ngọn sóng. Vì thế, Tâm Chân Như, Tâm Phật, Phật Tánh này ở nơi mọi người, mọi vật. Tuy nhiên, vì vô minh nên con người tưởng lầm mình khác biệt với tha nhân tạo nên huyễn tượng tâm chúng sinh được gọi là tâm chấp ngã, tâm mê loạn (PHTH; Tr.100-101). Niết bàn không phải là nơi chốn theo quan niệm hữu hình thường được tưởng tượng nhưng là trạng thái vô niệm, vô vọng. Chỉ nơi trạng thái này Chân Như, Phật Tính hiển lộ. Tuy nhiên, nghiệm chứng trạng thái niết bàn phần nào đối nghịch lại phần duy thức nhà Phật về nguyên nhân phát khởi các pháp. Duy thức nhà Phật quan niệm rằng khởi đầu, vô thủy Chân Như, tịnh tịch, vẳng lặng. Nhưng khi Chân Như tự nhận thức lại chính mình nên vọng khởi, và càng ngày vọng khởi càng chồng chất kiến tạo chư pháp. Do suy luận này, anh em có thể hiểu tại sao có người gọi tu chứng nhà Phật là hành trình ngược pháp luân.
     
    - Tiểu Thừa của nhà Phật chia con người thành hai phần, tâm trí và sinh lý được gọi là tâm và thân. Thân hay đời sống sinh lý chỉ là sự hỗn hợp của tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong). Tâm lý là sự hội hợp của những hỉ nộ ai lạc ái ố dục chỉ trong phạm vi tri giác, suy tưởng, khái niệm và tình cảm mừng giận vui buồn tạm gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Thế nên, cả tâm và thân đều không có gì gọi là ta mà vì duyên giả hợp lại khiến ta có cảm nghĩ như có. Đây là con đẻ của ngã chấp; thuyết nhân duyên trình bày cho ta rõ cái giả (vọng) để nhìn rõ những gì không thật hầu tìm về cái thật là vô ngã. Như vậy, cái được gọi là ta không có thật nhưng mà có. Mê thì thấy có ta và khi tỉnh ngộ thì lại là chân tánh, chân thể, Chân Như. (PHTH; Tr.103-105). Đại Thừa nhà Phật cho rằng, sự vật luôn luôn biến dịch liên tục; tuy nhiên, con người biết sự vật tùy thuộc nhận thức. Sự nhận thức lại tùy thuộc vào giác quan. Đàng khác, giác quan của con người thì giới hạn nên sự nhận thức qua giác quan không thể nào đúng sự vật. Hơn nữa, nếu không có giác quan, chúng ta sẽ không nhận biết sự vật dù chỉ là phiếm diện. Như vậy, nếu không có nhận thức thì sự vật dù có cũng như không. Thật tướng của vạn sự, vạn vật được gọi là chư pháp luôn luôn trong diễn trình biến dịch nên không thể suy tư hay đo lường hoặc hình dung bằng bất cứ ý niệm nào. Thực thể này hay thật tướng của sự vật tạm được gọi là Chân Như. Những gì ta nhận thấy có biến động, sinh diệt, chỉ thuộc về hiện tượng mà thôi vì đó là biến chuyển của Chân Như. Như vậy, bản thể của mọi sự, mọi vật là Chân Như không sinh diệt, bất biến. Tất cả những biến động đều ở trong Chân Như. Có điều anh em nên để ý, Phật học chỉ có thuyết nhân duyên chứ không có thuyết nhân quả. Thuyết nhân duyên đại khái mang ý nghĩa khi đầy đủ điều kiện và tới thời điểm, Chân Như hiện thể thành pháp tướng. Còn quan niệm nhân quả có nghĩa gieo gió gặt bão, đời cha ăn mặn, đời con khát nước, nhân nào quả nấy, cây ngọt sinh trái ngọt, cây chua sinh trái chua, chỉ là luân lý khuyên đời.
    - Thưa bác, bác làm ơn giải thích rõ hơn về sự khác biệt giữa thuyết nhân duyên của nhà Phật và quan niệm nhân quả như thế nào.
    - Thuyết nhân duyên còn được gọi là duyên sinh. Nhân là nguyên nhân; duyên mang nghĩa cơ hội. Sinh có nghĩa phát khởi, tạo thành. Nhà Phật cũng còn gọi là Nhân Duyên Quả Báo và gọi tắt là Nhân Quả. Thực ra, được gọi là nhân quả vì quan niệm nhân duyên được hiểu theo nghĩa răn đời, còn chấp ý muốn giúp con người làm lành tránh dữ theo lối nhìn luân lý nhân sinh. Kinh nhà Phật dạy rằng: "Nhất thiết Pháp, nhân duyên sinh" nghĩa là tất cả các pháp (vạn sự, vạn vật) đều do nhân duyên mà sinh ra (PHTH; Tr.125). Chúng ta đều nhận thấy, chẳng hạn hột mướp mọc lên cây mướp và cây mướp sinh trái mướp chứ không sinh trái cau; hơn nữa, cây mướp thế nào, mướp hương hay mướp trâu, mùi vị ra sao lại tùy thuộc chất đất, khí hậu vùng nào cây mướp được trồng. Từ thực tại này suy ra có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng và tác thành một sự việc đồng thời cần phải có điều kiện và thời điểm để những thành phần nguyên nhân hòa hợp, tác thành. Vấn đề được đặt ra lại là quyền lực nào khiến cây mướp sinh trái mướp mà không sinh trái cau? Tại sao hột mướp không mọc lên cây cau? Bởi thế, tuy gọi là nhân mà cũng là duyên vì không có một cái nhân nào là nhân đầu tiên, và trước khi có những nguyên nhân và điều kiện tạo nên sự vật, sự việc, còn có những nguyên nhân chưa biết. Nói cách khác, thuyết nhân duyên nhà Phật chỉ sự bao gồm tất cả những nguyên nhân và điều kiện ảnh hưởng lẫn nhau để tạo thành pháp. Hơn nữa, mọi nhân, duyên, pháp tướng, đều là những biến chuyển của Chân Như; nên thuyết nhân duyên chỉ phần nào giải thích về hành trình biến dịch của vạn vật, tác động của Chân Như. Như vậy mới có thể hiểu được câu nói nơi kinh Lăng Nghiêm: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh; nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt" (PHTH; Tr.133). Điều này có nghĩa, nhân duyên hội hợp sinh ra hư vọng, giả tướng, và nếu nhân duyên chia lìa thì không phát sinh hư vọng giả tướng. Con người vì chẳng hiểu (vô minh) chư pháp đều do nhân duyên sinh ra nên cho rằng tất cả các pháp đều có thực hoặc vĩnh cửu do đó khó buông bỏ và bởi thế sinh ra sự thiết tha yêu quý sự vật từ sinh mạng, tài sản, đến sự nghiệp, và cho đó là vui sướng. Tuy nhiên, khi những điều đó bị tiêu diệt hay biến chuyển lòng cảm thấy sầu khổ, bi thảm. Tóm lại, mọi sự vật đều do nhân duyên kết hợp mà sinh ra; nghĩa là không có sự vật nào có tự tánh. Chỉ có một tánh chung là Chân Như hay Phật tánh thế nên sinh và diệt đều là huyễn, đều là biến chuyển của Chân Như; và đồng thời, không có gì là thường diệt mà chỉ là đoạn diệt. Bởi vậy, sau khi diệt lại còn có thể sinh; những gì trước khi diệt trở thành nguyên nhân cho sự phát sinh sau khi diệt tùy thuộc những điều kiện gọi là duyên. Hơn nữa, vật chất tuy bị thấy tiêu diệt mà thực sự diệt đi để sinh ra năng lực, và năng lực bị diệt đi để vật chất sinh ra. Khoa học vật lý đã chứng minh rằng vật chất không phải là thường trụ; nó có thể mất đi trong nháy mắt nhưng sự hủy diệt này cũng chỉ là huyễn diệt mà thôi. Như vậy có thể nói, sinh và diệt chỉ là giả tướng của biến hóa; còn bản thể (Chân Như) thì chưa từng sinh diệt cũng chưa từng động biến. Thuyết nhân duyên phần nào giải thích quan niệm động phát sinh từ tĩnh; tĩnh là gốc của động, và cái động, cái biến trong cái bất biến. Nhà Phật nhận định vạn vật đang trên hành trình biến chuyển của Chân Như. Sự sinh diệt hữu hình của các sự vật chính là Chân Như chuyển biến. Các chủng tử được gọi là tiềm năng tức là những năng lực tiềm tàng nơi Chân Như. Ngôn từ nhà Phật gọi là A-lại-da; tiềm năng này khi đủ nhân duyên thuận lợi mới phát sinh. Tiềm năng A lại da hay tâm thức này vừa hằng vừa chuyển. Hằng vì đó chính là Chân Như; chuyển bởi luôn luôn sinh diệt và biến chuyển vô cùng tùy thuộc nhân duyên. Nhận biết sự hằng và chuyển này đó là nhận thức có mà không, không mà có. Gọi là có, theo nghĩa hiện hữu có thể nhìn thấy được hoặc nhận định được, hoặc là không, khi hiểu theo nghĩa tất cả chỉ là sự chuyển biến của Chân Như.
    - Thưa bác, nếu vạn vật hoặc sự kiện biến dịch phức tạp như thế và đều là diễn biến của Chân Như sao có thể hiểu được thế nào là đúng sai, phải trái? Tùy con lên tiếng.
    - Câu hỏi của anh một nửa thuộc về phạm vi luân lý thị dục và một nửa đòi hỏi sự hiểu biết duy thức luận nơi Phật học. Theo Duy Thức Luận của nhà Phật, vạn vật không có sự vật nào có tự tánh mà nhờ nơi tác dụng của thức mới nhận biết được vạn sự vạn vật. Vạn sự, vạn vật đều là giả tướng của thức biến hiện ra chứ không phải tự nó có thật. Thức là nhận thức, không có tự thể mà lấy sự vật làm tự thể. Nhà Phật chia ra bát thức: Nhãn thức nhận biết sự vật về sắc, hình; nhĩ thức nhận biết về thanh; tỉ thức nhận biết về hương; thiệt thức nhật biết về vị; thân thức nhận biết qua xúc giác; ý thức nhận biết tất cả các pháp; mạt na thức mang nặng chấp ngã; và A lại da thức hay tâm thức bao trùm và phát sinh các pháp (PHTH; Tr.138-141). Tâm thức hay Tâm Phật hoặc Chân Như là nguyên thủy phát sinh tất cả mọi hiện tượng và cũng có năng lực gìn giữ tất cả mọi kinh nghiệm cá nhân không cho lạc mất. Tuy nhiên, tâm thức cá nhân và tâm Phật là một nên tạo thành tự nghiệp và cộng nghiệp đối với con người. Vì thế có thể nói, một ý niệm, một tâm cảm, cũng đủ phát sinh một năng lực làm rung động và biến chuyển vạn sự vạn vật chung quanh. Bởi đó, sự liên lạc giữa cá nhân và tha nhân mật thiết đến nỗi có thể nói rằng người và sự vật chung quanh ta là một. Một ác ý đối với tha nhân đủ gây thành một ý nghiệp bởi nó đã gieo vào tâm thức một hột giống xấu cho ta và cho người. Như vậy, nhà Phật cho rằng thế giới vũ trụ là sản phẩm và biến tướng chung của tâm thức. Tâm và vật biến tướng lẫn nhau nên được quan niệm tâm sinh vật và vật sinh tâm.

    Cụ Tài nói liên tục, giọng đều đều chậm rãi chừng như muốn cho mọi người có đủ thời giờ thâu nhận từng lời nói của mình. Ngưng một chút để chiêu ngụm trà, cụ tiếp,
    - Bởi vì tất cả đang trên hành trình biến chuyển của Chân Như nên những sự thiện và ác cũng chỉ là thành phần của sự biến chuyển này. Tính chất thiện ác của sự việc, sự kiện được phân biệt theo lối nhìn luân lý hữu vi, đúng, sai, phải trái lệ thuộc thị dục của con người nơi trạng thái vô minh, tức là chưa thức ngộ được tận cùng của mọi sự vật, chưa kiến tính, chưa ngộ được thực thể Chân Như hằng chuyển. Thật ra, theo nhà Phật, việc làm không quan trọng bằng ý niệm của người thực hiện. Có những việc bề ngoài thấy lành nhưng tâm mang ác niệm do đó đã có câu "Khẩu Phật tâm xà;" nói theo tục ngữ đó là "Ngoài miệng thơn thớt, trong dạ ớt ngâm;" có khi việc thấy là ác nhưng thật sự vì niệm thiện mà làm. Hình như dân gian có câu, "Hành phán quan, tâm bồ tát" mang nghĩa này. Lý thuyết Nhà Phật luận về thiện ác đều căn cứ vào tâm địa chứ không chú trọng về sự tướng của việc làm. Muốn đoán định thiện ác phải biết cái dụng của tâm người thực hiện như thế nào mới có thể nhận thức được. Thế nên, động lực chính của sự tạo ra nghiệp là ý định tức là tâm ý hay ý thức, nhà Phật thường gọi là niệm. Hiểu như vậy, ý thức mang quyền lực điều hành và chi phối tất cả mọi hành động cũng như tâm tư, ý nghĩ, ý định của con người. Ý thức đồng thời có quyền lực sáng tạo và thay đổi cuộc đời của một người. Con người đang trên hành trình biến chuyển để trở nên thiện hảo nên cuộc đời một người là cơ hội, giai đoạn nơi hành trình của diễn tiến trở về nguyên thủy Chân Như. Bởi vậy nghiệp quá khứ là nguyên động lực của kiếp sống hiện tại và con người giống như bộ máy lệ thuộc tâm thức. Như thế, ý thức bị ảnh hưởng nghiệp tạo nơi tiền kiếp và đồng thời cũng là căn bản cho con người cải tiến tùy theo hoàn cảnh, vị thế, quyết định của mình. Tu chứng là đường lối tốt nhất vượt ra khỏi ảnh hưởng nghiệp lực vì không để cho ước muốn hữu vi ảnh hưởng hành trình đạt tới tâm Chân Như được gọi tóm gọn là kiến tính.
    - Thưa bác, nếu nói thiện ác chỉ căn cứ nơi tâm hay ý định của người thực hiện thì nghiệp nếu có phải phát xuất từ tâm. Và nếu từ tâm phát sinh nghiệp thì đâu cần phải nói đến duyên. Hơn nữa, cho dù gọi như thế nào, nếu đã là duyên làm sao tránh thoát vì đâu khác chi một loại phận số của một người trước khi sinh ra đã bị ấn định như thế.
    - Ý thức có thể thay đổi nhưng nghiệp duyên đã sẵn có ở quá khứ chẳng khác gì môi trường và điều kiện kiến tạo thân xác con người trong bào thai trước khi được sinh ra. Có thể so sánh ý thức với cách sống và nhân duyên hay nghiệp với cơ thể con người. Lối sống giúp cơ thể khoẻ mạnh hay bệnh tật thì ý thức tạo căn bản tâm linh cho con người. Nhà Phật chia ra thập nhị nhân duyên. Đó là mười hai nguyên nhân liên hệ gây ra biến chuyển được gọi là khổ đế và tập đế. Theo nhà Phật, tất cả vạn pháp đều phát sinh do mười hai nhân duyên: 1. vô minh, 2. hành, 3. thức, 4. danh sắc, 5. lục nhập, 6. xúc, 7. thụ, 8. ái, 9. thủ, 10. hữu, 11. sinh, 12. lão tử. Mười hai nhân duyên này là khởi đầu của vô minh, nguồn gốc đau khổ của sinh bệnh lão tử. Theo Phương Bối, "Khổ đế và tập đế là những điều thực nghiệm rộng rãi và đầy đủ làm nền tảng cho phương pháp đạo Phật" (TLPTC; Tr.16). Tôi không muốn giải thích thêm về thập nhị nhân duyên lúc này. Chỉ một điểm anh em nên để ý, đó là dẫu nhận thức và phân chia thế nào thì tất cả đều là biến chuyển của Chân Như, thực thể của chúng vẫn là Chân Như mà pháp tánh thì lại là huyễn nên càng nói đến chỉ càng khó thoát khỏi vòng vô minh.
    - Thưa bác, nếu cháu không lầm thì hình như nhà Phật đặt rất nặng vấn đề vô minh.
    - Vô nghĩa là không hoặc lầm lạc hay chưa đạt tới. Minh nghĩa là nhận thực, hiểu thực, đối diện, kiến, thức, ngộ. Vô minh có nghĩa cho rằng mình là một thực thể, cá nhân, cái "ta" riêng biệt được gọi là ngã chấp sinh ra cái tâm sai biệt. Chính bởi nhận thức sự vật phiếm diện thay vì đó là sự hằng chuyển của Chân Như nên phát sinh vọng động, phân chia, khiến lòng nương theo cảm giác tạo nên khao khát, ham sướng, sợ khổ lệ thuộc sự vật hòng thỏa mãn lòng ước muốn của mình. Chấp ngã có nghĩa tưởng rằng mọi sự, mọi vật, ngay cả chính mình là có thật chứ không phải hiện thể của Chân Như nên sinh ra ước muốn, dục, cố bám víu vào ý nghĩ hay điều gì đó tạo nên đau khổ nơi cuộc sống hữu hình đồng thời cũng tạo nên nghiệp.
    - Thưa bác, hình như bác chưa nói về sự khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tùy con nhắc khéo.
    - Tiểu hay Đại Thừa được phân chia bắt nguồn từ quan niệm về vị thế hành giả trong tu chứng nhà Phật. Theo cụ Nguyễn Duy Cần, sự khác biệt giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa bao gồm ít nhất sáu điểm. Tiểu Thừa chỉ lo độ lấy mình sao thoát khỏi luân hồi đặt trên nền tảng tự giác mà thôi. Đại Thừa tự độ và phổ độ chúng sinh, chẳng những giác ngộ chính mình mà còn muốn mọi người được giác ngộ. Tiểu Thừa lo phá ngã chấp chứ không lo phá pháp chấp. Đại Thừa thì bao gồm luôn phá ngã chấp và phá pháp chấp. Tiểu Thừa tách mình ra khỏi xã hội, thoát ly thế gian tướng. Đại Thừa quan niệm giải thoát, thức ngộ mà không rời thế gian tướng. Tiểu Thừa chán chường cuộc sống sinh tử, khổ não nên mong cầu chứng niết bàn để thoát vòng luân hồi. Như vậy, Tiểu Thừa quan niệm niết bàn tách rời sinh tử. Đại Thừa nhận thức được phiền não chỉ là huyễn, vốn không, nên người theo Đại Thừa không trụ nơi sinh tử, cũng không trụ nơi niết bàn vì sinh tử và niết bàn chỉ là một. Theo lý thuyết nhà Phật, đạt quả của Tiểu Thừa chỉ đạt tới La Hán trong khi Đại Thừa chứng Phật. Bởi vậy, có nhận định, cái ngộ của Tiểu Thừa là La Hán; cái ngộ của Đại Thừa là Phật. Tiểu Thừa và Đại Thừa quan niệm về có và không khác nhau. Tiểu Thừa cho rằng vạn sự, vạn vật (vạn pháp) là thực có còn vạn tượng (hình tướng) thì rất sai biệt. Xét về quan niệm này, Đại Thừa chia ra hai phái, Quyền Đại Thừa và Thực Đại Thừa. Quyền Đại Thừa cho rằng vạn pháp đều do tâm ý, định ý... gọi chung là ý niệm; ngoài tâm ý không có vật gì khác. Thực Đại Thừa chủ trương chẳng có chẳng không mà cũng có cũng không. Nói như vậy, sự vật, ý nghĩ mang nghĩa có trong giai đoạn, cuối cùng vẫn là huyễn. Tiểu Thừa trọng về văn tự, lệ thuộc nghĩa đen nơi văn tự, gò bó theo kinh sách. Đại Thừa phóng khoáng tự do, bất chấp văn tự. Tóm lại, Tiểu Thừa và Đại Thừa tuy có nhiều điểm khác nhau, nhưng thực không có cái nào cao hoặc thấp mà tùy trình độ giai đoạn thức ngộ của mỗi người (PHTH; Tr.108-110). Tuy nhiên, Kinh Đại Niết Bàn có nói: "Thấy tất cả đều là không mà chẳng thấy cái chẳng không chẳng được gọi là trung đạo; thấy hết thảy là vô ngã mà chẳng thấy tất cả là hữu ngã cũng chẳng gọi là trung đạo (PHTH; Tr.73). Thực Đại Thừa phát triển nhận thức này nơi tu chứng.
    - Thưa bác, qua kinh nghiệm tìm hiểu đạo học, bác có nhận định thế nào.
    - Tôi không thể trả lời được câu hỏi này vì nhiều vấn đề. Thứ nhất, đâu phải chỉ Phật học là đạo học duy nhất mà còn Ấn học, Lão học, Trang Tử, Thánh Kinh. Thứ đến, nơi hành trình tu chứng, cảm nghiệm của tôi không giống cảm nghiệm của bất cứ người nào nên dù có nói ra chỉ sinh thêm phiền hà, khó cho kẻ khác chấp nhận. Những gì chúng ta có thể nói được chẳng qua là những nhận thức chứ không phải nhận định về đạo học bởi nếu nhận định tất nhiên phải so sánh. Tuy nhiên, nào lợi ích chi khi đem các đạo học so sánh với nhau! Chúng ta không thể đem so sánh nền văn hóa này với nền văn hóa khác thì đạo học cũng vậy. Và dẫu kinh sách đạo học phần nào diễn tả cảm nghiệm tu chứng, nhưng tôi e rằng, đối với tâm hồn mới đạt tới mức độ tìm hiểu sự học thức thì những cảm nghiệm được diễn tả ở kinh sách đã chẳng soi sáng gì cho họ mà có chăng bị họ coi thường hay dùng làm những đề tài diễu cợt mà thôi. Thêm nữa, kinh nghiệm tu chứng cho tôi cảm nghiệm đơn độc, không chia sẻ được cùng ai, không biết đâu là bờ bến, và cũng không thể hiểu rõ mình ở mức độ nào. Tôi cố gắng tìm tòi nơi kinh sách để tự so sánh hầu biết mình thế nào nhưng càng tìm tòi chỉ càng thấy bể học tâm linh vô cùng diệu vợi. Nhân nói về nhận định đạo học, tôi nhớ lời phát biểu của Krisnamurti, nhà đạo học Ấn Độ. Ông đặt vấn đề về sự cần thiết phải có bậc tôn sư để dẫn ông đi vào chân lý. Nhưng, nếu ông không biết gì về chân lý thì cách nào cho ông biết chắc chắn bậc tôn sư ấy dẫn ông vào trúng chỗ đó? Và nếu ông biết chắc là đúng thì ông cần gì phải cậy ai dẫn dắt cho. Mối nguy hiểm nhất đối với người tìm đạo đâu phải là kẻ đối thủ hay người thù địch của mình mà chính là sư phụ của mình. Học đi mà không bao giờ dám buông tay người tập cho mình, cứ luôn ỷ lại vào sự nâng đỡ, dìu dắt của người ấy thì suốt đời không bao giờ đi được (CCCTN; Tr.250). Đàng khác, sự giúp đỡ của kinh sách hay một vị thầy chẳng khác gì bác nông phu gieo giống trồng lúa. Mình ăn cơm và cơm được tiêu hóa để biến thành máu chứ bác nông phu không tạo thành máu cho mình được. Tu chứng, nghiệm chứng đạo học có thể so sánh với hành động tích cực ăn cơm để biến lúa gạo thành máu huyết. Như vậy, tu chứng, nghiệm chứng chính là điều kiện thiếu yếu của thức ngộ. Có phải anh em càng nghe tôi nói càng cảm thấy chẳng tiến thêm gì không? Vấn đề chính yếu nơi đạo học là tu chứng chứ không phải sự hiểu biết; chỉ may ra có người nào đủ căn cơ đốn ngộ. Nói đến đây, cụ Tài buông nhẹ hơi thở dài.
    - Thưa bác, cháu xin lỗi trước khi nói ý nghĩ vừa chợt đến bởi nghe bác phân tích những quan niệm khác biệt nơi Phật học. Đó là dẫu cho ý nghĩ hay nhận thức dù tuyệt vời đến mấy cũng thua bộ óc đã đạt đến nó. Kinh sách do con người viết ra; đạo học cũng do con người nghĩ tới thì con người mới đáng là chủ đề tư duy cho mọi thời đại. Phủ đắn đo, chậm rãi phát biểu từng lời nói.
    - Ah! Thật là thú vị! Không ngờ đến tuổi này và phải vào thời điểm này tôi mới nghe được câu nói tuyệt vời như vậy. Tôi nghĩ, nhà Phật phải cho anh là người thức ngộ mà tôi vừa nhắc tới. Chủ điểm của đạo học là chính con người, tìm sự liên hệ giữa thực thể con người với thực thể cội nguồn của sự hiện hữu. Nhà Phật gọi bậc thức ngộ là "phật;" Lão học gọi trạng thái "huyền đồng;" Ấn học gọi "chân sư;" Kinh Thánh gọi "kẻ tin," Những tên gọi khác nhau cũng chỉ ám định về trạng thái một người khi giác ngộ, tức là đạt đến thực thể hay tự thể của mình hay của vạn vật dẫu dùng những danh xưng khác nhau. Tôi thực tâm xin lỗi vì đã có những lời với ý định chỉnh đốn kiểu cách ăn nói của anh em lúc trước. Nói đúng với lòng ruột của tôi, tôi e ngại anh em vô tình bị hiểu lầm là chống báng tôn giáo. Tôi từng tuổi này mà vẫn còn quá nóng sốt đến độ nhận ra mình hoảng. Đành vậy, âu cũng vì lòng tốt nên tự mình phiền hà, quấy nhiễu mà thôi.

    Thế là mọi người ngớ ra! Cụ già được họ tôn trọng xưa nay lại tự lên tiếng xin lỗi và thẩm định điều tốt lành mà chính cụ gần nửa tiếng trước cho là nên, bây giờ đã trở thành không nên. Thái độ chân thành, ngay thẳng, dám nhận xét ngay cả ý nghĩ, tư tưởng phát sinh thái độ, và hành động của mình nơi một cụ già đáng tuổi cha chú đã làm mọi người cảm thấy hụt hẫng. Bình thường, nếu chẳng may vô tình hay cố ý hoặc vì lúc men bia xâm nhập đầu óc khiến những cái mỏ trở thành hăng tiết vịt, ăn nói bạt mạng không kiêng nể bất cứ điều gì, dẫu một khi đụng chạm, mất lòng ai thì cùng lắm, lúc bị đặt thành vấn đề, người vấp phạm chỉ dùng một đôi lời xin lỗi cho qua và thường thì mang đầy vẻ bôi bác, nhiều khi cố ý xỏ xiên bào chữa cho điều chẳng nên mình đã gây ra, hoặc lắm lúc do tự ái vặt, cố lờ như không để ý hầu tưởng tượng mình luôn luôn có lý vì lòng tốt lành, ngay thẳng. Cụ Tài đang thao thao giải thích về quan niệm nhà Phật; những kiến thức uyên bác cụ trình bày chứng tỏ một con người thông đạt, thế mà đã không ngần ngại đến độ tự nhiên phanh phui ý niệm tạo thành thái độ không hợp của mình với những người thuộc hàng con cháu. Hình như sự thức ngộ đạo học nâng cao tâm thức để nhận định rõ ràng thực trạng con người của mình không đếm xỉa gì đến tiếng tăm hào nhoáng hoặc danh vọng thế tục nhất thời. Cũng như mọi lần gặp trường hợp khó ăn khó nói, Sỹ nhà con nhanh miệng phá bầu khí ngưng đọng,
    - Bác nói đốn ngộ là thế nào? Đã ngộ mà còn đốn thì chẳng lẽ ngoài những sự thức ngộ, giác ngộ, đốn ngộ còn thêm thứ kỳ ngộ hay loại ngộ nào khác nữa chăng?
    - Ngộ là ngôn từ thiền tông nhà Phật, có nghĩa trạng thái của người kiến tính, trạng thái của một vị phật nhưng vẫn còn mang hình hài và cuộc sống như mọi người. Trong hành trình tu chứng, tâm thức hành giả đã được chuẩn bị đến độ chín mùi nên các vị tổ thiền dùng một vài phương pháp để giúp họ khai ngộ. Tuy nhiên, đâu phải mọi người sinh ra cùng mức độ tâm thức nên thời điểm giác ngộ không ai giống ai. Bởi vậy, vấn đề chính yếu là tu chứng. Tu chứng có nhiều phương cách, hoặc là ngồi thiền hoặc là tụng niệm và có khi vừa thiền vừa tụng niệm gọi là thiền niệm song tu. Đàng khác, dẫu theo phương cách nào, tâm tưởng luôn luôn suy tư về một vấn đề nan giải không thể suy nghĩ theo lý trí, được gọi là quán tưởng. Quán tưởng là phương thức thực hành nhận biết thực thể sự vật hầu diệt trừ vô minh và kết quả thường là đốn ngộ. Trong khi quán tưởng, nếu ý nghĩ nào len lỏi vào cũng không dùng lý trí mà xua đuổi, chỉ cần chuyển tâm trở lại vấn đề đang suy tưởng mà thôi. Các vị tổ thiền thường dùng công án cho môn sinh thực hành quán tưởng. Chẳng hạn, "Tất cả sự vật đều trở về cái Một, vậy cái Một trở về đâu?" (GLTH; Tr.275). Bên Trung Hoa, có hai phái thiền tông Lâm Tế và Tào Động chủ trương chiều hướng khác biệt với các môn phái Phật thiền khác đó là đốn ngộ. Theo khởi xướng của Lục Tổ Huệ Năng, phái Lâm Tế giảm bớt tĩnh tọa trầm tư nhưng thiền trong khi làm việc, dùng nhiều phương pháp và công án hầu thức tỉnh giòng tâm thức vô minh của các môn đệ và thúc đẩy trạng thái được gọi là "satori." Phái Tào Động vẫn chủ trương như phái Lâm Tế đồng thời quan niệm mỗi người có hành trình tu chứng khác nhau tùy thuộc thể chất cá nhân bởi được sinh ra khác trình độ lợi căn nên đưa ra phép tu nhập thất thiền quán. Lối giảng giải của phái Tào Động rành rẽ hơn nên đem lại lợi ích nhiều cho những người ít lợi căn. Đốn ngộ là lối tu của Huệ Năng, "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật." Tiệm ngộ đặt căn bản trên sự suy niệm để am hiểu kinh sách hòa hợp với lối sống theo giới luật nhà Phật. Tuy nhiên, kinh nghiệm tu chứng cho thấy, kết quả đạt thành của tổng số cả triệu tiệm ngộ không bằng chỉ một lần đốn ngộ. Đốn ngộ có thể được ám chỉ chẳng khác gì "cá chép vượt vũ môn hóa rồng," còn tiệm ngộ được coi như "sống lâu lên lão làng." Nói cách khác, bản thể, tự thể mọi người chính là Chân Như thì đốn ngộ có thể được ám định với trường hợp đứa trẻ vừa sinh ra đã hoàn toàn là một con người, có đầy đủ cơ thể như bao kẻ khác nhưng cần thời gian phát triển về tinh thần lẫn thể xác. Đây là trường hợp của các vị thiền sư, nghe một câu đạo lý hay câu kinh liền ngộ, tuy nhiên vẫn còn vọng tưởng, cần thời gian chứng nghiệm để đạt tới triệt ngộ (NTGG; Tr.158). Có thể so sánh tiệm ngộ với hành trình của một nhà thám hiểm. Những cố gắng, lao nhọc trong khi kiếm tìm một vùng đất lạ hoặc một ngọn núi chưa ai đặt chân tới. Hành trình này cung cấp cho nhà thám hiểm nhiều kiến thức chưa ai nói đến. Tuy nhiên, kiếm được đất mới hoặc điều lạ hay không thì cũng giống như tiệm ngộ, người tiệm tu có đạt được gì trong hành trình chứng ngộ hay không. Thực ra, ngộ thì chẳng có tiệm hoặc đốn nhưng tùy căn cơ. Người tu lâu rồi mới ngộ tạm gọi là tiệm. Kẻ có lợi căn đạt ngộ mà không tu chứng cũng vẫn bị vọng tưởng phiền hà chẳng thể triệt ngộ. Bởi đó có thể nói, ngộ trước, tu sau tức là đốn ngộ, đốn tu. Người không biết gì, cứ cố gắng tu chứng rồi đạt ngộ tạm gọi là tiệm ngộ tiệm tu (NTGG; Tr.158).
    - Thưa bác, nếu như thế, sự giác ngộ đâu cần phải vào chùa đi tu mà ở ngoài cũng được vì mức độ đạt thành tâm linh của mỗi người tùy thuộc căn cơ người đó đã được sinh ra.
    - Theo sự nhận định của những bậc chân tu viết nơi sách vở, tu chứng là hành trình tâm linh của mỗi người không lệ thuộc môi trường mà chỉ tùy thuộc tâm hồn, tâm ý, định ý của người ấy. Lục tổ Huệ Năng, phái thiền tông Lâm Tế đã áp dụng từ xưa. Ngay cả Đạt Ma sư tổ cũng nói trong giáo lý của ngài, "Một kẻ phàm tục có gia đình và làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không còn tạo nghiệp nữa, dù làm bất cứ một hành động nào bởi kẻ ấy đã giác ngộ" (GLTH; Tr.206). Cuộc sống tu trì là cho chính mình bởi nếu còn ước muốn độ hoặc cứu hay giúp người khác vẫn theo đuổi dục. Thực ra, con người không dễ chi thoát khỏi ham muốn thị dục. Hơn nữa, vào thời điểm này có thêm nhiều kẻ dùng ngôn từ nhà Phật hầu kiếm chác chút danh vọng rẻ tiền. Nếu để ý theo dõi, anh em thấy rõ, hiện nay đang có phong trào tự ghép nối chữ thiền vào tên hay danh hiệu của khá nhiều người. Nào thiền sư này, thượng sư kia, tạo nên muôn ngàn nghi ngờ nếu không muốn nói đã lạm dụng ngôn xưng của nhà Phật. Nói cho đúng, nếu thực sự là thiền sư, ai biết mình là thiền sư? Nếu người ta biết mình là thiền sư, mình đã không là thiền sư mà đang tìm hay chạy theo điều gì đó nên dùng danh xưng thiền để loè thiên hạ hoặc có ý đồ cầu mong đạt tới mục đích nào đó. Để thời giờ nghiền ngẫm về Phật học hay đọc kinh sách, anh em sẽ nhận ra, tu để được niết bàn vẫn là dục vì niết bàn không phải do công làm ra; niết bàn là sự thức ngộ, nhận ra mình với Chân Như là một, đó là trạng thái kiến tính. Niết bàn chỉ là cái tên huyễn dùng để tạm gọi vì không gọi bằng cách khác. Thế nên, tu không phải để được Phật tánh vì Phật tánh đã sẵn ở nơi mình mà tu để Phật tánh hiển lộ. Tu cũng không phải để dẹp dục, dẹp phiền não vì ý muốn dẹp dục, dẹp phiền não vẫn là dục, và như vậy tu chỉ là trở lại với tự thể của mình. Nói như thế, tôi muốn nhắc lại vấn đề anh Hưng đã nêu lên; đó là người xấu muốn trở thành tốt chỉ cần không làm điều được gọi là xấu, mà chẳng làm thêm gì vì tự thể đã tốt; tự thể của mình là Chân Như. Do đó, tu chứng giống như hành động lau gương; lau bụi cho gương sáng. Tuy nhiên, thực sự, gương không tự sáng mà chỉ phản chiếu, và nhận định này cũng phần nào nhắc nhở chúng ta biết tu chứng chính là tìm lại tự thể của mình. Đàng khác, anh em đôi khi nghe nói Phật học là cái học đi đến chỗ không! Nói theo quan niệm đối đãi kiến thức có và không, thử hỏi, nếu đã không đâu cần đi đến. Điều này càng chứng tỏ nguyên lý căn bản của Phật học phải là kiến tính chứ không độ ai, chẳng giúp ai, chẳng cần đi đến đâu, và cũng không cầu lụy đấng nào. Thế nên, giác ngộ hay không tùy mình chứ không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào bên ngoài. Hiểu như vậy, nếu có ai nói rằng họ không có điều kiện để thực hành tu chứng hay quán tưởng, tất nhiên họ không có dẫu luôn có.
    - Bác nói sao! Vì lý do gì dẫu luôn có mà họ không có?
    - Vì họ cũng như chúng ta!
    Câu trả lời quá ngắn gọn nhưng mang ảnh hưởng mạnh mẽ tới những khối óc vừa chợt rộng mở mong am hiểu thêm kiến thức nhà Phật. Nó được phát xuất từ miệng cụ Tài khiến không ai có ý định bào chữa; ngược lại họ bị biến thành những khối sa mạc khát khao chờ đợi được nguồn nước tâm linh thẩm thấu. Tuy nhiên, nghe thì biết đấy nhưng biết rồi cũng chẳng đạt tới đâu! Hình như sự thách đố nơi lối diễn giải về Phật học của Hưng và những lời giải thích của cụ Tài chống nghịch lại tất cả những hiểu biết mù mờ xưa nay của mọi người về nhà Phật. Đâu ai lạ gì, dẫu nơi nao hay thời đại nào, mỗi khi nhắc tới nhà Phật hay Phật giáo, những ngôn từ luân hồi, niết bàn, diệt dục, cấm sát sinh, tụng niệm, ăn chay, dồn dập tới nơi ý nghĩ đã khiến mọi người mang mặc cảm nặng nề mình không thể nào sống được như thế nên đành chấp nhận sống cho qua, sống trầm luân. Ai không thích ăn ngon, mặc đẹp! Hơn nữa, dẫu con người không sát sinh thì đã tạo nên cơ hội cho kẻ khác sát sinh. Đàng khác, những cảnh tréo cẳng ngỗng, nào cá giả, giò giả, được kiến tạo bởi con buôn nơi những tiệm ăn chay đã là những đề tài cho họ diễu cợt và tưởng nhà Phật hoặc đạo Phật chỉ bao gồm những nghi thức cúng tế hoặc những tập tục kiêng khem hàm chứa sự ép mình ép xác trong cảnh thèm thuồng lối sống thế tục mọi người đang thụ hưởng. Nay, thực thể Phật học không phải vậy mà đục thấu cõi lòng vô minh con người, nghịch hẳn những nghi thức và điều luật tôn giáo. Xét về tôn giáo và đạo học qua những gì họ mới được nghe và hiểu, dẫu chỉ sơ sài, sự so sánh minh chứng tôn giáo chỉ là tổ chức của con người với mục đích hoằng dương đạo học. Tuy nhiên, tôn giáo đã thực sự lạm dụng đạo học. Khốn nỗi, bởi vô minh do ỷ lại, con người vui thích với sự lạm dụng này khiến thị dục thế tục càng ngày càng chồng chất, che kín ngõ ngách tâm linh. Chính vì nhận diện được thực trạng hèn kém con đẻ tham vọng thế nhân, nỗi xốn xang nào đó bùng lớn nơi tâm tưởng mỗi người phát sinh động lực thúc đẩy kiến tạo ước muốn phải làm gì. Hai trạng thái đối nghịch, cảm nhận thiếu sót và ước muốn hành động đảo lộn giằng co chợt nổi lên dằn vặt những bộ óc chếnh choáng hơi men. Một đàng e sợ không còn gì bám víu sẽ mất mối an tâm xưa nay nương tựa hầu tưởng mình có thế đứng qua danh hiệu ấn định niềm tin; đàng khác, những câu nói của các vị Phật tổ tựa muôn vàn sấm sét phá vỡ tất cả lý thuyết được gom tụ bằng những hiểu biết vỡ vụn về Phật học tạo nỗi khắc khoải nơi người nghe. Lời của các ngài như từ cõi vô tận được nhắc lại qua môi miệng con người, không thương xót, nâng đỡ, hoặc xoa dịu bất cứ ai, mà ngược lại, tàn phá những cõi lòng ỷ lại và cấp bách hối thúc như sức nóng nung đốt tâm trạng an tâm giả tạo cần phải thay đổi cấp tốc, phải vùng lên, nhảy ra khỏi màn lửa vô minh đang thiêu đốt. Những câu nói ấy dồn thúc con người bước vào khoảng tăm tối mịt mù của diễn trình tâm linh. Tu chứng, tu chứng! Chỉ hai tiếng nhẹ nhàng nhưng khi vang đến màng nhĩ kẻ nghe đã trở nên động lực tàn phá nỗi an bình vô minh. "Ông chứng ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo. Trong tiến trình tu chứng, hành giả không theo đuổi bất cứ gì cũng chẳng dựa theo phương pháp nào. Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật." Những lời nói của Hưng dường như trở lại mang theo năng lực khuấy động và thúc giục mọi người tự đặt vấn đề.

    Trái ngược với mọi khi, những khuôn mặt hào hứng nơi bữa nhậu kèm theo môi miệng ồn ào tranh nhau phát biểu, giờ đây mang đầy vẻ nghiêm trọng trong thinh lặng áng chừng mọi người suy nghĩ lung lắm. Cụ Tài chậm chạp đứng dậy, xoay người đoạn nhắc nhở,
    - Nói vậy quá đủ, chúng ta cũng cần phải ăn.
    Và mỗi người một tay, kẻ sắp chén bát, người dọn thực phẩm. Hưng đãi mọi người tối nay vì hai tuần trước câu được mấy con rùa nơi ao của một người bạn. Không hiểu học được ở đâu, họ bày ra lắm kiểu ăn thịt rùa, nào tiết canh, uống máu rùa pha với rượu, rùa nướng, rùa cà ri, rùa luộc, rùa rang muối, rùa hấp thủy, cháo rùa, rùa thuốc bắc. Món rùa nướng còn được bày ra mấy cách khác nhau, để nguyên con nướng trên than nóng hay đút lò sau khi đã cắt tiết, hoặc mổ lấy thịt pha trộn gia vị rồi đút lò hay nướng than. Có người lại hấp cho thật chín rồi mới đem nướng, kèm theo nhiều kiểu cách phải giữ cho đúng mùi vị. Có lần chẳng hiểu Phủ đọc được ở đâu, thao thao bất tuyệt nói về đặc tính vị thuốc của thịt rùa, yếm rùa, lại còn nhắc đến nhiều tên chỉ về những thành phần khác biệt của rùa chẳng hạn qui bản, lục tàng, qui đảm trấp, qui niệu, qui nhục, qui nhục tửu, qui huyết, qui giáp. Sau một hồi nói, Phủ kết luận, ai uống nhiều cao qui bản thì ích khí, vui vẻ, khôn ngoan, lắm con lại khoẻ mạnh, và thêm tuổi thọ. Thịt rùa chữa thấp ty, phong ty, chiết thương, gân xương nhức mỏi, ho vì lạnh, tả huyết hay huyết lỵ. Thôi thì lắm thứ lắm kiểu, chẳng khác gì rùa là một loại thuốc thần trị bá bệnh. Đặc biệt, Phủ nhấn mạnh, ngày lục giáp hay những ngày trong tháng mười hai không nên ăn thịt rùa vì vào những ngày đó thịt rùa trở thành món kỵ làm tổn hại tinh thần. Hơn nữa, ăn thịt rùa không được ăn chung với thịt heo, cô mễ, nước dưa, rau sam, nếu không để ý mà ăn lộn với những thứ này sinh tai hại vô kể (DTCN; Tr.872-881). Bởi đó, chỉ cần thông báo cho một người là cả bọn đã hội họp đầy đủ e lỡ cơ hội hưởng thọ. Thực ra, chẳng hiểu công hiệu thịt rùa, cao rùa thế nào hoặc bổ béo ra sao, dân nhậu mà nghe thấy máu rùa pha với Hennessy, hoặc "Bò đi ông," hay "Thánh mờ mờ" thì dẫu có bị liệt giường cũng nhổm dậy được mà mò tới. Ấy chỉ là mới nghe tên đã thấy công hiệu. Có điều lạ, không ai đặt vấn đề sự công hiệu phát xuất từ tên tuổi linh vật có thể sống được cả ngàn năm hay từ hơi hướng của nước thánh vì mới nhấp thử một tợp đã cảm thấy ngây ngất lòng người! Nói rằng từ linh vật thì nó đã sống được bao nhiêu năm đâu mà bị thượng lên bàn cho mọi người xâu xé! Có lẽ sự lạ xảy ra do công đức của Hennessy, hoặc Rémy Martin chăng! Và thế là theo thường lệ của những lần quây quần bên món linh vật này, chủ nhà trịnh trọng khai mạc với nghi thức chia qui huyết. Lần này, Hưng kiếm được chai "Ách Âu" khiến món qui huyết thêm giá trị và êm miệng hơn. Huyết rùa, dẫu ít, cũng đủ làm mầu rượu ách âu đã đỏ càng thêm tươi thắm tăng gia phần đậm đà câu truyện đang bỏ dở. Cụ Tài cũng được một ly; còn đang thưởng thức mùi vị sau khi nhấp một ngụm nhỏ thì thiên hạ ai nấy đã hoàn thành bổn phận khai mạc; có người đã kịp thời gặm đùi rùa nướng còn đang nóng hổi.
    - Nói theo nhà Phật, rùa là giả tướng; rượu cũng là giả tướng; thôi thì đành chấp nhận ăn cái giả cho qua và uống thứ giả cho qua, Sỹ nhà con với giọng khề khà lên tiếng, giả tướng hấp dẫn như thế này thì nhà con thấy đường thức ngộ vẫn còn xa lắc xa lơ. Hơn nữa, giả sử đạt đến thức ngộ mà ăn không còn cảm giác gì, uống rượu uống bia chẳng thèm say, có lẽ nhà con chẳng nên thức ngộ, và như vậy, phỏng còn gì để nói tới tu chứng, nghiệm chứng.
     
    MBVN 04
     
    Lời nói nửa nạc nửa mỡ, mới nghe tưởng hắn diễu cợt cho có chuyện nói, chẳng ngờ câu cuối lại mang nặng phần nhận định. Vẫn biết muốn thức ngộ, con người phải thực hành tu chứng. Tuy nhiên, dẫu tìm tòi qua sách vở hoặc nghe thuyết pháp hay tưởng tượng thì cảm nghiệm tu chứng vẫn như những chiếc bánh vẽ, ngó thấy, ai cũng thèm thuồng nhất là lúc bụng rỗng không trong khi nhu cầu cuộc sống và cảm giác cũng như niềm vui thế tục, gốc rễ đã thấm nhập sâu tận đáy lòng, che lấp mọi bề chẳng dễ chi gạt bỏ dù chỉ để có khoảng trống mỏng manh hầu giúp con người nhận thức rõ hơn nẻo thức ngộ tâm linh. Ăn không cầu no, chẳng mong khoái khẩu, nào ai tốn tiền bạc, giờ giấc dây dưa chuẩn bị cho thêm phiền hà? Uống rượu bia không say, hỏi ai chịu tốn ngân quĩ chi phí cho dòng máu lưu linh! Miếng bia, ngụm rượu, vừa trôi khỏi miệng đã thấy phê, ai có thể từ chối sự mời gọi thực nghiệm nhất là đối với dân nhậu, thích có cảm giác lăn quay cùng đất trời, hoặc giúp phần nào trốn chạy sự ám ảnh của những phiền hà nơi cuộc đời!
    - Con người được sinh ra có bộ lòng ruột thì phải ăn, phải uống. Tôi thử hỏi ông, tại sao những cục đá không ăn, không uống? Cũng phải có lý nào đó mà chúng ta được sinh ra với ngũ quan và bộ phận tiêu hóa. Giả sử ông không có bộ óc thì lấy gì để đặt vấn đề thức ngộ? Tôi nghĩ, có thể còn cảm thấy phiền hà hoặc còn muốn giải thoát khỏi những sự phiền hà cuộc sống vẫn không mong gì bước vào con đường thức ngộ. Con người là thế và phải như thế mới là con người vì không như thế không thuộc về giống người. Mà đã không chấp nhận thân phận con người thì vẫn còn luẩn quẩn trong vòng ước mơ thị dục, vẫn muốn phải là thế này hoặc không là thế khác. Tại sao con hổ không chịu ăn cỏ như những con thú khác? Đâu phải vì nó khỏe hơn hoặc khôn hơn hay thích ăn thịt do đó không chịu ăn cỏ. Thế những con voi đâu yếu kém gì sao cứ cỏ mà gặm, dẫu gặp thịt nai cũng không thèm ăn. Con hổ mà gặm cỏ chắc chắn không phải là con hổ. Con voi mà cứ lùng bắt thú rừng ăn thịt lại cũng chẳng phải voi. Thế nên, dù cho thức ngộ hay không, đã có bộ lòng ruột tất nhiên phải ăn, dẫu không muốn ăn cũng không được. Thôi thì cứ cho là ăn cũng như không ăn, uống cũng như không uống, chẳng muốn cũng chẳng phải, có lẽ thảnh thơi hơn.
    - Theo tôi, còn muốn thảnh thơi thì vẫn còn phiền hà bởi dẫu không muốn ăn vẫn phải ăn, mà đã vẫn phải ăn tất nhiên vẫn phải lăn lộn kiếm miếng ăn. Bởi vậy, vấn đề được đặt ra lại là vấn đề ăn uống thế nào hầu giảm bớt phiền hà để được thảnh thơi hơn chứ không thể nào tẩy sạch được phiền hà hoặc cũng không thể nào có được thứ thảnh thơi tuyệt đối theo con người mơ ước.
    - Nói như thế sao có thể diệt dục? Tùy con chợt lên tiếng.
    - Ngay ý muốn diệt dục đã là dục còn nói chi đến diệt dục. Dẫu không thích ánh nắng mặt trời thiêu đốt thì không có ánh sáng mặt trời làm sao có sự sống. Cuộc sống lệ thuộc vào những điều kiện phức tạp, và ngay sự sống đã phức tạp, nên con người mới mơ ước thảnh thơi. Tuy nhiên, tôi e rằng coi chừng có cuộc sống thảnh thơi lại không biết nó là thảnh thơi nên chính sự thiếu nhận thức đó mới tạo thêm phiền hà. Thảnh thơi hay không tự nơi tâm mình phát sinh thái độ, cách sống, cũng như dục hay không do con người của mình chứ không phải tại hoàn cảnh vì hoàn cảnh tự nó phải như vậy. Con người phải sống thì điều kiện hoàn cảnh và sự sống trở thành môi trường kiến tạo cách sống, ý thức sống. Thế nên dục là mơ ước hoặc tham vọng bắt nguồn từ sự không chấp nhận môi trường hay cách sống hiện tại của mình mà thôi. Nghĩ cho cùng, con người cần có lối nhìn mới, nhận thức mới để sao có thể nhận ra tất cả mọi sự kiện, môi trường, đều là cơ hội thăng tiến trong cuộc đời hầu đem lại sự chấp nhận cuộc đời. Đó có thể là lý do tại sao có câu: "Trí giả tự xử, ngu giả quan phân." Hưng lên tiếng.
    - Anh Hưng nói thế hơi quá, cụ Tài e Hưng phát biểu chạm tự ái người khác nên ngăn chặn. Tôi hiểu phần nào tâm tư anh em lúc này, giọng cụ đắn đo. Có phải anh em đang cảm thấy bao lâu nay mình đã bỏ lỡ cả phần cuộc đời quá khứ và biết bao cơ hội vì không dám sử dụng tâm trí, tự suy nghĩ hầu nâng cao ý thức sống, mà ngược lại nhẹ dạ tin theo những lời tuyên truyền cổ võ của kẻ khác. Những chuyện đã qua không thể sửa đổi được thì hãy để chúng đi vào quá khứ; mỗi người chúng ta hãy còn những ngày đang tới và cả một tâm hồn mở rộng nào lo gì muộn màng. Anh em thử nghĩ coi, có rất nhiều vấn đề dù muốn hiểu biết mình cũng không thể biết vì chưa đến thời điểm để mình được biết. Chẳng hạn vào khoảng năm 1990 hay 1991, một số bác sĩ và những nhà chuyên môn nghiên cứu về ảnh hưởng cơ thể của người mẹ đối với thai nhi trong thời kỳ trứng nước đã đưa ra nhận định; khi người mẹ mang thai mà uống rượu bia, chất men sẽ gây nguy hại phần nào bộ óc của thai nhi. Tôi thử hỏi, bao nhiêu triệu năm rồi con người hiện hữu trên mặt đất này mà mãi cho tới nay mới có thể biết được điều ấy? Phỏng như thế, có ai trong thời đại này được sinh ra với bộ óc toàn hảo tự nhiên không bị ảnh hưởng? Tuy nhiên, nếu không có sự ảnh hưởng của men rượu bia tới bộ não thai nhi phỏng loài người tiến bộ được như ngày nay? Sự việc phải xảy ra và đã xảy ra như thế tất nhiên có lý riêng mà mình không hiểu; điều đó không tùy thuộc thẩm quyền của mình. Tôi đồng ý với anh em, điểm chính yếu là mình có để ý nhận ra cuộc sống và những sự việc chung quanh là cơ hội cho mình thăng tiến hay không! Đàng khác, hiểu biết sự vật và sự kiện để làm gì, để trau dồi kiến thức cho có vẻ trí thức hay để nâng cao ý thức tâm linh? Đặt vấn đề như vậy chúng ta mới có thể nhận ra mình phải sống với ý thức thế nào. Bình thường, con người không muốn chấp nhận thực tại nên sinh ra mơ ước trạng thái đối nghịch. Không những kẻ nghèo mơ ước giàu có mà người giầu có lại mơ ước nghèo khó. Có thể mới chợt nghe, chúng ta thấy nghịch nhĩ nhưng thử hỏi đã bao giờ chúng ta bỏ thời giờ kiếm cơ hội tìm hiểu tâm trạng những người được coi là giầu có chưa? Tôi nghĩ, tâm lý chung, con người thường chỉ lấy chính mình làm mẫu mực tạo ra thiên kiến nên đã tưởng rằng quan niệm hay nhận định của mình phù hợp cho mọi người ở bất cứ môi trường, hoàn cảnh nào mà quên ý nghĩa câu nói "Có ở trong chăn mới biết chăn có rận." Nếu không thế, sao có Phật học, sao có Lão học, Ấn học, Phúc Âm?
    - Thưa bác, Phật học do đức Phật Thích Ca giảng dạy, Phúc Âm do đức Giêsu nói; chẳng lẽ còn phải có lý do nào khác hay sao? Tùy con hỏi.
    - Anh hỏi như thế; cụ Tài nhẹ nhàng nói, đoạn trầm ngâm khiến bầu khí chợt lắng đọng dẫu giữa lúc đang ăn uống. Điều hơi lạ là ai nấy cũng đồng ngừng mọi cử động hướng về cụ già theo dõi. Thực ra, câu hỏi coi bộ rất thường vì xưa nay ai không nghĩ như thế; bất cứ tôn giáo nào cũng đều được phát sinh từ một nhân vật nguyên thủy. Nói đến đạo Phật tất nhiên mọi người đều liên tưởng đến danh hiệu đức Phật Thích Ca; nhắc đến KyTô giáo ai cũng đều hiểu đạo này được bắt nguồn từ đức Giêsu, thế mà thái độ cụ Tài đối với câu hỏi thường tình lại trở nên nghiêm trọng. Chừng hơn một phút sau, cụ tiếp. Thực ra, khi nêu lên câu hỏi, anh đã tự trả lời theo nhận xét thông thường từ xưa tới nay. Tuy nhiên, câu trả lời đúng đắn không đơn giản như mọi người đã quen thói nhận định mập mờ, trốn tránh đối diện chẳng những thực thể sự kiện mà còn cố tình che giấu một tâm hồn ỷ lại, không dám dùng khả năng suy tư để nhận định nếu không muốn nói là lười biếng, thiếu óc cầu tiến. Nói thế, tôi muốn chứng minh bằng cách để quý anh em tự tìm hiểu xem đức Thích Ca đã nói gì, đức Giêsu rao giảng thế nào. Đem so sánh những lời nói này với kinh sách và sự thực hành tôn giáo, chắc chắn anh em sẽ thấy nhiều điều lý thú. Điềm đạm nhấp miếng rượu pha máu rùa, cụ tiếp, có phải anh em vừa nghe tôi đặt vấn đề đã nhận ra đức Thích Ca cũng như đức Giêsu không viết sách bao giờ. Có lẽ nơi Ấn học và Lão học cũng thế! Nói cho đúng, sự khôn ngoan tâm linh đã có sẵn tự nguyên thủy, ở mọi nơi và mọi thời đại; vấn đề chỉ là con người có để ý nghiệm chứng hay không. Đây chính là nguồn gốc phát sinh ngôn từ vô minh và minh triết nơi Phật học. Thế nên, minh triết là điều kiện nghiệm chứng nơi Phật học, và mỗi ngành đạo học đều đòi hỏi điều kiện này nhưng được gọi bằng những ngôn từ khác nhau hoặc vì những người tiếp nối không để ý nên không đặt thành vấn đề. Suốt thời gian nghe anh Hưng nói chuyện, và từ nãy tới giờ, đã nhiều lần tôi muốn nói về vấn đề này với anh em nhưng những câu hỏi liên tục kế tiếp khiến tôi vẫn phải chờ cơ hội. Tuy nhiên, tôi có thể bị lầm do đó muốn biết có phải anh em nghĩ rằng minh triết là sự hiểu biết của những người thông minh, tài cao, học rộng không?

    - Thưa bác, Tùy con nhanh nhẩu, cháu nghe nói Lục Tổ Huệ Năng của nhà Phật không biết chữ. Nơi Kinh Thánh không thấy ghi Chúa Giêsu học trường nào, bao nhiêu năm.
    - Vậy anh có nghĩ các ngài minh triết không?
    - Xin phép bác cho con nói ngang; con không phải là các ngài nên không trả lời được.
    - Không ngang chi hết mà đó chính là thái độ minh triết! Minh triết không tùy thuộc học vấn mà đó là khả năng tự do nhận định tuyệt đối nơi mỗi người. Ngược lại, chúng ta không dám sử dụng khả năng này. Thí dụ, anh em gọi tôi bằng bác. Tên tôi không phải là bác, và tiếng "bác" là ngôn từ anh em chỉ về tôi. Tên của tôi là Tài nhưng Tài lại là tên cha mẹ đặt cho để gọi chứ không phải là tôi. Xưa nay, chúng ta rập theo thói quen như thế, chẳng bao giờ hoặc là không dám đặt vấn đề về những sự việc và sự kiện đã quen thói nên không nhận ra khả năng minh triết nơi mỗi người. Các vị tổ thiền, các vị tổ đạo học chỉ là những người dám đi ngược thói quen ám định nơi lối phát biểu của xã hội chung quanh, và đặt vấn đề theo cảm ứng với sự vật và sự kiện. Từ nhận thức thực tại về sự vật, sự kiện, lòng khát khao tìm mối liên hệ của con người với nguyên thủy phát sinh. Hành trình tìm hiểu này được gọi là nghiệm chứng hay tu chứng theo những phương pháp cảm nghiệm khác nhau tùy tính chất và điều kiện của con người cũng như môi trường sinh sống theo từng thời đại. Và có thể nói, những người kế tiếp muốn phổ biến sự khôn ngoan được gọi là đạo học này lại có ý muốn bổ xung cho rõ ràng hơn, hoặc có ý đồ muốn cho nhiều người nhận biết hơn, hay muốn tất cả mọi người từ hạng thông thái tới kẻ dốt nát nhận chân được sự khôn ngoan tâm linh nên đã viết thành kinh sách trình bày cảm nghiệm; đồng thời cũng có những người thêm nếm sự giải nghĩa ngôn từ. Càng ngày kinh sách càng chồng chất và càng lắm nhân vật giãi bày sự khôn ngoan khiến cho người hậu học bị rối mù như rợ vào rừng. Hơn nữa, kẻ nào càng có tham vọng phổ biến sự thông thái của mình càng chỉ làm cho sự thức ngộ đạo học xuống cấp. Tôi thử hỏi anh em, đa số anh em ở đây làm biển rả; phỏng anh em có thể giải thích cho mấy đứa trẻ năm, bảy tuổi cách đánh tôm ngoài khơi không, hay phải đợi đến ngày nào đó chúng khôn lớn đủ mới có thể nói, và chúng mới có thể lãnh hội được. Tuy thế, nếu một người không thích làm nghề biển, phỏng họ có muốn tìm hiểu cách cào tôm thế nào không? Sự minh triết, nghiệm chứng cũng thế. Vậy mà, thay vì tìm phương pháp khuyến khích lòng khát khao nhận thức sự khôn ngoan tùy theo trình độ và phẩm chất cá nhân, người ta đã đặt ra những khuôn mẫu, lề lối thực hành cũng như những giới hạn điều kiện kiến thức. Lâu dần, sự truyền bá đạo học nghiễm nhiên trở thành tổ chức tôn giáo với mục đích giúp con người có cuộc sống tốt lành theo khuôn mẫu luân lý xã hội, và đạo học bị biến thành điều ước mơ của con người sau khi chết. Điều rõ ràng, đức Thích Ca không thiết lập Phật giáo; đức Giêsu không chủ trương đảng phái Tin Lành hay Công giáo. Anh em không thể tìm thấy danh hiệu Phật giáo nơi kinh sách nhà Phật, cũng như Tin Lành hay Công giáo nơi Kinh Thánh. Thế mà ngày nay chúng ta nghe nhan nhản nào là Tiểu Thừa, Đại Thừa, thiền tông nọ, mật tông kia. Cũng cùng một sự thể, kẻ thì gọi pháp thân, người kêu tâm vương, chân không, chân như, tự thể, phật tánh, tự tánh, tánh giác, vô ngã. Có lẽ những danh xưng trãi qua các thời đại gom lại nhiều hơn số người hiện hữu trên thế giới ngày nay. Tệ hơn nữa, đã có những trường hợp người khác không suy nghĩ giống như mình thì gán cho họ danh hiệu ngoại đạo (KCĐĐ; Tr.22) hay lạc giáo. Ấy, hãy để tôi nói thực lòng, thử rở kinh sách nhà Phật, mới chỉ đọc thoáng qua, anh em sẽ chứng nghiệm sự cả thể này trong khi cuốn kinh nào cũng lặp đi lặp lại những lời chân thật, bất hủ, Phật Tâm, Tâm Phật, Kiến Tính, Kiến Tánh. Phỏng những bậc giác ngộ có can đảm dùng những ngôn từ như thế? Tôi chỉ thấy những bậc thực sự giác ngộ nói nghịch lại; chẳng hạn, chẳng có tâm, chẳng có Phật, chẳng có giáo lý tối thượng, chẳng có cóc rác gì ráo" (GLTH; Tr.190). Cụ Tài đổi giọng nói một hơi chừng như muốn giải tỏa những suy tư chất chứa dồn ép bao lâu nay không cơ hội giải thoát.
    - Thưa bác, Hưng chợt ngắt lời,
    - Có phải anh sợ tôi nói những lời phạm thượng như tôi đã từng sợ anh em bị coi là đả phá tôn giáo không? Chẳng đợi Hưng trình bày điều muốn nói, cụ Tài chận ngang nói tiếp. Tôi đã sợ anh em lầm lỡ như tôi đã lầm lỡ chỉ vì đời anh em còn dài. Tuy nhiên, kẻ không bao giờ lầm lỡ thì suốt đời lầm lỡ vì đã bỏ lỡ những cơ hội sai lầm. Tôi muốn nói với chủ đích giúp anh em dám nhận thực về bản chất con người của mình cũng như của thực tại. Đây là căn bản của minh triết, chuẩn bị cho hành trình tu chứng. Anh em thử bình tâm xét về tâm lý của những người già đối với thế hệ trẻ dưới lăng kính nhận thức qua thực thể tu chứng nơi quan niệm cũ và mới. Người già đã không dám thực nghiệm hoặc thử những gì mới vì bất cứ những gì khác lạ đều đòi hỏi sự liều lĩnh, hy sinh, bất chấp vị thế cũng như cuộc sống. Bầu nhiệt huyết này chỉ có ở những người trẻ vì dẫu sao, đời họ còn dài, lỡ thất bại, họ vẫn còn có cơ hội. Trái lại, người già, qua những thăng trầm cuộc đời đã cảm thấy mệt nhọc, chán chường, cơ hội không còn nên không dám thử. Hơn nữa, có được thế đứng trong xã hội đâu phải chuyện làm chơi ăn thật. Nó đòi hỏi công sức, cố gắng, và cơ hội. Thử hỏi, tuổi trời đã cao, cơ hội không còn, xác thân và tâm trí đã đến hồi mệt mỏi nào ai dám thử bất cứ gì. Cứ lấy tôi làm thí dụ, tôi biết, người già thường có xu hướng bảo thủ, không muốn tiến hóa, và khó chấp nhận giới thanh niên có lối suy tư, nói năng, hay hành động trái với thói quen của họ. Thấy điều gì mới, người già đều nghi ngờ ngược lại không muốn để người trẻ thử xem sao vì nếu để bọn trẻ thử mà thành công tất nhiên họ tự chứng minh đã bị thua và phải nhường vị thế cho bọn trẻ. Cũng có thể người già không chấp nhận sự mới mẻ vì họ làm biếng; bởi muốn hiểu cái mới, cái lạ, phải gắng sức, phải vứt bỏ thành kiến cũ của mình. Thế nên, nếu chấp nhận bọn trẻ có lý tức là tự chấp nhận mình lầm lẫn. Và như vậy, chẳng khác gì tự phá đổ vị thế yên ổn của mình, tự xóa nhòa danh vọng lỗi thời đã được khoác lên mình (CNCĐ; Tr.19-20). Tôi tuy tuổi đã già nhưng thấy còn nhiều điều mình không biết; có thể nói đúng hơn, tôi đã không biết những gì người ta thường cho rằng nên biết. Đó là lý do tại sao bao lâu nay tôi rất ít khi nói chuyện với anh em. Có điều, đã đến lúc chúng ta không còn tự phụ về những phán đoán truyền thống nữa mà bắt buộc phải xét lại hết những chân lý của mình xem có còn hợp với thời đại đầy biến chuyển này hay không. Đây chính là căn bản cho sự minh triết, và sở dĩ tôi phải nói đến vài đặc tính của tuổi già cũng chỉ với ý định nhắc nhở anh em nhận ra con người mình thế nào hầu tránh vướng phải những cố chấp, con đẻ của tham vọng nơi mọi người. Vì thế, khi xét lại những chân lý xưa nay tưởng là vĩnh hằng, chúng ta thấy cần phải bỏ đi hoặc phải được xét lại hay giải thích lại một số chân lý đã từ bao đời đang ngự trị tạo thành thói quen, điểm tựa cho mọi suy tưởng. Hơn nữa, có nhiều nhận định mới mà một người chân thành dám thực sự đối diện với lòng không sao bác bỏ được, chúng ta cũng cần kiên nhẫn và điềm tĩnh nghiệm chứng. Đã có khá nhiều người lên tiếng than, không những giữa quần chúng mà còn nơi sách vở rằng thời đại này là thời mạt pháp, hoặc dựa vào lối nhìn hạn hẹp giải thích Kinh Dịch và cho rằng thời nay là thời văn minh cơ giới của Tây Phương đang làm bá chủ hoàn cầu, tức là ở vào kiếp vận cuối cùng của một chu kỳ sắp đến ngày chấm dứt (CDHG; Tr.43), và còn dựa vào mấy con số, nhắm mắt nói bừa rằng có sách đã tiên tri tận thế sẽ xảy ra trong khoảng năm 2.000 và năm cuối cùng là năm 1999 (CDHG; Tr.48). Nếu thời hiện nay luôn luôn xấu hơn thời đã qua thì, có thể nói theo bà Luise Rinser, một tác giả người đức, nhân loại hiện nay vẫn còn ăn lông ở lỗ, chỉ nghĩ tới việc săn bắn và giết lẫn nhau; mà kẻ nào đầu tiên có ý vẽ hình các con thú lên vách các hang đá phải đáng kể là có tội vì kẻ đó đã tạo ra một cái mới tức nghệ thuật (CNCĐ; Tr.155). Suy như thế, tôi nghĩ thời nay không phải là thời mạt pháp mà có thể nói là thời pháp mạt.
    - Thưa bác, Phủ chen ngang, sao bác lại gọi là pháp mạt?
    - Tôi chưa kịp nói thì anh đã vội hỏi. Thực ra tôi cũng chẳng biết nên gọi là gì do đó tạm gọi là pháp mạt. Đại khái nhân danh tâm bồ đề, người ta muốn giúp con khỉ trở thành nhạc sĩ.
    - Bác nói sao, con khỉ đâu được sinh ra để trở thành nhạc sĩ! Sỹ nhà con chen vô.
    - Người ta đã quên cái duyên nơi nhà Phật do đó cố hạ cấp Phật học để giảng dạy cho những người không duyên kiến tính để rồi khuyến khích ước muốn cầu cho được kiến tính thì chỉ tạo thêm vọng tưởng. Hơn nữa, sự giải thoát theo quan niệm nhà Phật tức là giải thoát khỏi vọng tưởng và khi không còn ý niệm tất không còn vọng tưởng. Đây là ý nghĩa độ chúng sanh, không có dù chỉ ước muốn độ mới thực sự là độ của nhà Phật. Bởi thế, Phật học không mang dù chỉ một chút ước muốn cứu độ vì còn muốn, còn sinh ý niệm tức là vẫn tạo chúng sanh sao có thể nói độ chúng sanh. Anh em có thể hỏi bất cứ ai theo Phật giáo, ngay cả những người thành tâm nhất, họ đều mù mờ giải thích rằng đức Thích Ca vì thấy nhân loại đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả ngai vàng đi tu cứu độ chúng sanh. Anh em nghe tôi nói có giống y chang một Phật tử không? Sự hạ cấp nhận thức về Phật học này chỉ tròng thêm vào cổ con người áp lực vô minh nếu không muốn nói là đả phá Phật học. Tất nhiên, còn trông mong được đạt tới bất cứ gì tức là tự chấp nhận lệ thuộc vào ước muốn ấy. Suy như thế theo nhà Phật, người nào đã kiến tính sẽ không còn ước muốn độ ai vì không còn ý niệm mà họ chỉ sống thành thực với Tâm Phật nơi họ và sẽ không bao giờ rao giảng Phật học. Ngược lại, chỉ những người còn đang u mê mới có tham vọng cứu độ hoặc giải thoát chúng sanh. Mô Phật, họ đang tạo thêm muôn kiếp chúng sanh mà không nhận ra. Dĩ nhiên, cuộc đời là thế, ai cũng tự tạo cho mình một hình ảnh lý tưởng ít khi hợp với sự thực rồi thấy mình “đóng vai trò muốn đóng” cho có vẻ oai một chút với thiên hạ. Anh em có hiểu tôi nói gì không? Giọng cụ Tài như mơ màng nơi một thực tại khác biệt nào đó mang thêm nỗi xót xa.
    - Thưa bác, nếu không có người giảng giải con đường thức ngộ thì đâu ai biết mà đạt tới kiến tính.
    - Có thể đây là lý do phát sinh tâm bồ đề hay tâm từ bi nơi nhà Phật. Tuy nhiên, dẫu lý luận thế nào chăng nữa thì cũng đối nghịch thuyết nhân duyên và chỉ tạo thêm vọng tưởng. Đồng ý rằng, chúng ta là những lữ khách trong cuộc đời tìm về chân lý, nhưng đa số không có can đảm tự nhìn nhận chính mình nên đã tự tạo cho họ một hình ảnh đẹp đẽ, cao thượng, và cố gắng giả hình sống theo. Đây chỉ là kết quả của lòng tự ty, khó tự nhận thấy con người thực của mình. Phật học khuyến khích con người tự nghiệm chứng, không tin bất cứ ai ngay cả những lời dạy của đức Thích Ca nếu chưa nghiệm chứng. Anh em không nhớ câu ngài nói, "Lời ta nói như chiếc bè" sao! Và nếu mọi người tự nghiệm chứng thì giờ giấc nào, tâm trí nào nghe giảng giải. Như vậy, càng cố gắng giảng giải chỉ càng dẫn kẻ không nghiệm chứng chìm sâu trong vòng luẩn quẩn ý niệm.
    - Cháu không muốn và không dám tranh luận, nhưng cháu nghĩ sự giảng giải phần nào cũng đem lại lợi ích cho người nghe, chẳng được đàng nọ, cũng được đàng kia, giọng Hưng ngập ngừng,
    - Tranh luận là để đưa ra chính đề và phản đề, bác bẻ những luận cứ của nhau rồi hai bên cùng tiến thêm một chút trên hành trình tiến tới chân lý. Anh em cứ tự nhiên vì tôi không có chút ý định giảng giải Phật học đâu. Mà thực ra, đâu có gì để nói bởi Tâm Phật, quyền lực hiện hữu, đã tự ở nơi mọi người thì giảng giải cũng vô ích, có chăng chỉ vẽ rắn thêm chân. Nếu ai được sinh ra để thức ngộ thì khi tới thời điểm, chuyện phải đến sẽ đến. Để trả lời ý anh vừa nêu lên, tôi muốn nhắc lại câu nói của đức Đạt Ma Sư Tổ anh đã trình bày lúc trước, "Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được" (GLTH; Tr.205). Nói cách khác, anh đã giảng giải Phật học; ngón đòn gậy ông đập lưng ông này anh thấy thế nào? Phỏng những ai còn có tham vọng giảng giải cho kẻ khác kiến tính, họ thực sự ra sao?
    - Nam mô A Di Đà, Sỹ nhà con đế vô, hèn chi mà hắn làm cái đầu tụi cháu muốn lộn xuống bên dưới cái chân! Cảm ơn bác đã lật tẩy thằng khốn nạn này dám đọa đày các vị Phật biết bao kiếp. Xin mời bác, chúng ta phải dùng nước thánh hòa vị phật rùa này để tẩy trần cho minh triết thêm được chút nào hay chút ấy.
    - Thưa ông, Hưng lên tiếng, nếu cứ áp dụng kiểu theo đóm ăn tàn, ông đáng bị đày muôn đời nơi cõi đọa xứ bởi còn đòi minh triết, thiếu nghiệm chứng thì chẳng thể kiến tính.
    Hưng vừa mở màn đấu hót, chợt thấy cụ Tài nâng cao ly rượu nên im lặng theo dõi.
    - Tôi mời anh em cùng tôi nâng ly chúc mừng tính chất người nơi chúng ta. Để tôi kể cho anh em một câu truyện thần thoại của dân tộc Nga. Số là có một con rồng lần đầu tiên nhìn bóng của nó phản chiếu trên mặt nước, thấy xấu xí quá, nó kinh hoảng chết ngay lập tức (CNCĐ; Tr.102).
    Cụ Tài ngưng ngang, uống cạn phần rượu còn lại trong ly, đoạn đưa tay xé một đùi rùa điềm tĩnh gặm. Các tướng nhậu đang chú ý chờ nghe đoạn kết luận của câu truyện, tưởng rằng sau khi uống rượu cụ sẽ giải thích. Thế nhưng, đã nhai hết cả đùi rùa mà vẫn không thấy cụ nói gì thêm. Ai nấy đều ngớ ra.
    - Thưa bác, Tùy con lên tiếng.
    - Anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi ngắn gọn.
    - Con rồng.
    - Nó vẫn chưa chết. Chẳng đợi Tùy nói hết, cụ chặn ngang; lời cụ nhẹ nhàng tuy mang vẻ lạnh lùng.
    Câu nói nghịch thường càng khiến mọi người không hiểu cụ muốn nói gì. Nơi câu truyện, con rồng thần thoại kinh hoảng chết ngay lập tức mà đến khi Tùy nhắc khéo muốn hỏi thêm cho rõ ngọn ngành thì lại được câu trả lời không đâu vào đâu khiến kẻ nghe cảm thấy như bị dồn vào chốn hỏa mù tạo nên tâm trạng ngỡ ngàng. Cụ Tài hình như cố ý chờ đợi phản ứng của những người trẻ. Tuy nhiên, sau đôi phút vẫn chưa thấy ai lên tiếng, cụ nhỏ nhẹ hỏi,
    - Không ai trong anh em thấy con rồng à?
    - Thưa bác, Sỹ nhà con muốn phá tan bầu không khí nặng nề, bác kể truyện con rồng huyền thoại thì sao có thể thấy!
    - Con rồng trong huyền thoại đã chết vì nhìn thấy hình ảnh của nó phản chiếu trên mặt nước. Nhưng con rồng trong mỗi người chúng ta thì mơ tưởng những hình ảnh không thực về chính mình bởi biết rằng muốn đạt tới mục đích cao đẹp nào đó đều phải chấp nhận những điều kiện hoặc thực hành được gọi hy sinh. Điều này có nghĩa chúng ta không dám soi gương sợ nhận ra bộ mặt thật của mình thì phải đau lòng mà sửa đổi. Thực tế ai cũng có thể cảm nhận được, và đó là dù muốn hay không, đời sống luôn luôn thay đổi. Sự thay đổi đòi hỏi sự từ bỏ những điều sẵn có để chấp nhận những sự vật mới hay những khía cạnh mới của cùng một vấn đề. Tuy nhiên, bình thường chúng ta chỉ ao ước thay đổi mà không dám sử dụng sự tự do tư tưởng tuyệt đối nơi mỗi người để nhận thức và sống theo, mà ngược lại e sợ bị thiên hạ mỉa mai, đả đảo, hay bị chụp mũ với những danh hiệu mang đầy ý nhạo cười.
    - Thưa bác, môi trường sống ảnh hưởng tâm trí con người cũng như lề lối và phương cách sống trên mọi phương diện thì ai có thể có được điều bác gọi là tự do tư tưởng tuyệt đối.
    - Tự do tư tưởng tuyệt đối chỉ có thể có được nơi bất cứ ai dám dùng nghịch luận để đặt lại mọi vấn đề đã được dạy dỗ hay đã quen thói chấp nhận. Bình tâm nhận định, không dám đặt câu hỏi ngược lại những gì mọi người chung quanh, hay cùng tổ chức, hoặc cùng tôn giáo chấp nhận chính là thái độ không dám soi gương. Chúng ta sợ chính chúng ta để rồi tự chạy trốn, kiếm đủ mọi cách để che lấp bộ mặt thật của mình. Thử đặt vấn đề, lý do gì tạo nên cá tính thích ăn nhậu nơi anh em? Có phải vì anh em quen uống rượu bia nên thèm uống? Hoặc vì anh em cần có những cơ hội nhộn nhịp cho vơi bớt nỗi chán chường của cuộc sống hiện tại? Nếu nói rằng thèm bia rượu vì thói quen thì đâu cần nhóm họp để ly anh, chén tôi! Nếu cần có người nọ người kia uống cho vui thì lý do phải là tại không muốn một mình gậm nhấm nỗi buồn khôn nguôi, dẫu anh em có gia đình, nhiều người con cái cả đàn. Suy như thế, mỗi người chúng ta tự tiềm ẩn nỗi khát khao nào đó mà chính mình vẫn chưa nhận ra trong khi cứ miệt mài tìm kiếm cơ hội khỏa lấp!
    - Thưa bác, nói theo nhà Phật, ý niệm tạo vọng tưởng và như thế càng suy luận, càng tạo thêm ý niệm thì lại càng chồng chất vọng tưởng sao có thể đạt tới niết bàn. Hưng đặt vấn đề.
    - Muốn đạt tới trạng thái minh triết chuẩn bị cho tu chứng phải hiểu biết chính mình thế nào. Kinh sách nhà Phật trình bày cảm nghiệm tu chứng, nghiệm chứng chứ không phải là những luận đề giải thích chữ nghĩa hay kiến thức. Bởi vậy, những con mọt sách, những người chỉ dựa trên những kiến thức kinh sách hoặc sự am hiểu duy thức nhà Phật không phải là những bậc thức ngộ mà chỉ là kẻ thông thuộc lý thuyết nhà Phật. Nghiên cứu kinh sách hay đọc kinh sách nhà Phật, nhưng chúng ta thường hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm giữa sự hiểu biết lý thuyết nhà Phật hoặc nhận thức để thức ngộ với hành trình thực nghiệm thức ngộ được gọi là tu chứng hay nghiệm chứng. Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh lại điều kiện căn bản cho sự minh triết là nhận biết chính mình vì lúc trước tôi đang đề cập tới thì anh Tùy hỏi về Tiểu Thừa và Đại Thừa và những tiểu tiết khác tiếp nối làm đứt đoạn. Hơn nữa, hiểu biết chính mình còn liên hệ đến một số nhận thức nhân sinh làm nền tảng bước vào tâm linh. Không đủ điều kiện nhận thức trỗi vượt lên trên nền luân lý nhân sinh, sự thức ngộ tâm linh đương nhiên vẫn còn bị cản trở. Thực tại nơi mỗi người chứng minh, sự nhận biết chính mình đòi hỏi sự can đảm và ý chí dứt khoát với những lề lối, tư tưởng, hoặc thói quen từ những quan niệm nơi cuộc sống đã bao ngày tháng thấm nhập tâm hồn cá nhân; nhà Phật gọi là vọng tưởng hoặc tướng ngôn thuyết. Sự can đảm này nói cách khác chính là sự thành thực tận đáy tâm hồn mà không tự lừa dối để chấp nhận chính mình hầu nhận ra những điều lợi ích nên cổ võ và những tính chất chẳng nên làm hại hành trình thức ngộ. Đàng khác, một người quả thực can đảm thì có thể nhận lỗi lầm của chính mình, nhận thực về mình mà không sợ bị giảm giá trị hoặc thể diện. Không nhận ra mình thực sự như thế nào sẽ phát sinh lòng tự ty tai hại phủ lấp nỗi khát khao hướng thượng tìm về giá trị và mục đích cuộc sống kiếp người. Người nào có can đảm nhận thức nội tại tất nhiên hành động theo lương tâm. Các vị anh hùng, các vị thánh, thường bị một số người không hiểu nổi tầm quan trọng về những hành động liều lĩnh của họ nên cho họ là điên khùng. Tuy nhiên, có một thứ điên khùng rất thông minh đó là can đảm vì điều kiện ắt có và đủ để một người can đảm là sự thông minh. Kẻ ngu ngốc không thể có can đảm mà chỉ hành động liều lĩnh, vô ý thức. (CNCĐ; Tr.30). Thế nên, những người nào không dám suy nghĩ về giá trị và mục đích tối hậu cuộc đời mình mà còn làm bộ ngây thơ cho mình là hiểu biết, giỏi dang, và cho rằng cuộc sống bất đắc dĩ của họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh, có thể họ không được sinh ra để thức ngộ hoặc không muốn thức ngộ. Quý anh em nên nhớ một điều, và đó là khi hy sinh cho một cái gì cao cả, người ta vượt lên khỏi bản ngã nhỏ nhoi của mình, mà hòa đồng với một nguồn sinh lực lớn hơn của ta nhiều lắm. Vì vậy, những người khoẻ mạnh nhất là những người hoài bão một lý tưởng, được sức mạnh của lý tưởng đó nâng đỡ, lôi kéo đi, không còn thì giờ nghĩ tới những nỗi khổ lặt vặt của mình (CNCĐ; Tr.142). Như thế, điều kiện ắt có và đủ cho sự minh triết chuẩn bị cho hành trình thức ngộ phải là lòng chân thành nhận biết chính mình ngoại trừ những người đặc biệt đã được sinh ra với đầy đủ lòng thành nhận thức này. Dĩ nhiên, kẻ dám chấp nhận con người thực của mình để sống theo lương tâm cả là sự ngộ đời đối với mọi người chung quanh vì thái độ cũng như lời ăn tiếng nói, ý tưởng của họ không theo lề lối, thói quen xã hội đương thời. Lẽ đương nhiên, ý tưởng mới mẻ nào mà lớn lao, quan trọng thì mới đầu cũng bị thiên hạ mỉa mai, đả đảo. Tại sao vậy? Có thể vì chúng làm lung lay vị thế của những kẻ bám víu vào những kiến thức lỗi thời như phương tiện hoặc căn bản cho ý thức sống của họ. Tôi nghĩ, những anh em theo Công giáo có lẽ chưa bao giờ được nghe lời Thomas Aquinas tuyên bố: Nếu các giáo phẩm vì không hiểu rõ tình trạng mà buộc một người nào đó phải hành động trái với lương tâm người đó, thì người đó phải thà chịu bị bài xích ra ngoài giáo hội và chết còn hơn là phản lương tâm của mình (CNCĐ; Tr.167).
    - Thưa bác, nếu như thế trong trường hợp một người có lương tâm bệnh hoạn thì sao?
    - Người đã có lương tâm bệnh hoạn đâu có thể biết họ sai lầm cho dù những người đồng thời nhận định về họ thế nào. Tuy nhiên, giả sử chúng ta được sinh ra một trăm năm trước đây, anh em có thể tưởng tượng được chúng ta có cơ hội cùng nhau ăn uống và bàn luận như thế này không? Một trăm năm trước làm sao chúng ta có cơ hội nghĩ đến những điều như ngày nay! Ai có thể chấp nhận già trẻ cùng nhau tranh luận về một vài vấn đề. Như vậy ngày ấy, những ai dám nói lên ý nghĩ của sự tưởng tượng đến một vài thực tại có thể xảy ra bây giờ coi chừng bị kết án là nhận định hoặc lương tâm bệnh hoạn. Tôi thử đưa ra thí dụ, phỏng anh em nào có thể giải thích cho tôi câu nói của Lão học: "Không làm gì là làm tất cả." Có phải chỉ mới vừa nghe, anh em đã thấy câu nói phi lý rồi không? Tôi dùng ngôn từ phi lý để chỉ cảm nghĩ nơi anh em vì câu nói được phát ra từ cửa miệng tôi. Giả sử nếu một người nào đó trong anh em lặp lại câu nói mà không giải thích, thử hỏi chúng ta sẽ nghĩ sao?
    - Thưa bác, khùng, ah, cháu xin lỗi, Sỹ nhà con quá mau miệng lên tiếng trả lời quên cả thái độ lịch sự tối thiểu khi nói với một cụ già.
    - Khùng hay bệnh hoạn nào khác gì. Chúng ta là con người nên mới gặp những lầm lỗi do sự hấp tấp, chưa kịp suy nghĩ đã vội xét đoán. Câu nói nơi Lão học đứng vững đã mấy ngàn năm mà tới giờ vẫn bị cho là khùng thì những người không quan niệm giống mình tất nhiên mình cũng vội kết án mà thôi. Tuy nhiên, đâu phải ai cũng chấp nhận hoặc không dám suy nghĩ đặt vấn đề về cuộc đời. Đâu phải con người được sinh ra một cách phi lý! Con người là động vật duy nhất biết rằng mình không trường cửu (Malraux). Anh em có thể nhớ lại đã bao lần chúng ta phải đối diện với tâm trạng hãi hùng và tuyệt vọng vì nhận ra niềm vui sống của mình đã bị đầu độc bởi sự hiểu biết rằng mình vốn là một thứ động vật không thể vượt ra ngoài cái chết. Chẳng nói gì đâu xa, cho dù có suy nghĩ đến mấy, mình cũng không thể nào kiếm được lối thoát khỏi thực tại bất như ý tạo nên tâm tư chán nản, đã bao lần cố lờ đi mà không được nên đành chấp nhận sống để mà sống, sống cho qua, sống chờ cái chết. Hiểu như thế, anh em thấy tại sao hầu hết các nền triết học và tôn giáo đều đem lại một câu trả lời quá ư bi quan yếm thế. Đối với Phật giáo, đời là bể khổ và con người trầm luân trong vòng sinh, bệnh, lão, tử. Lão học nêu lên trời đất bất nhân, coi vạn vật như loài chó rơm do đó chủ trương vô vi. Thiên Chúa giáo lại quan niệm con người bị khốn khổ vì ngụp lặn trong vòng tội lỗi nên Chúa phải nhập thể cứu chuộc.
    - Thưa bác, không ai thoát được sự chết thì đặt vấn đề để làm gì! Cháu nghĩ, nếu có ai ít nhất sống được hai hoặc ba trăm năm thì đặt vấn đề sao cho sống lâu như họ mới hợp lý. Đàng này, không ai thoát chết thì mình sao tránh khỏi.
    - Nếu mọi người chấp nhận như vậy tất nhiên đã không bao giờ có tôn giáo, triết học, đạo học, và nhất là sẽ chẳng bao giờ có những người mà anh vừa gọi là khùng. Thử đặt vấn đề, chúng ta có tự do không? Chắc chắn ai cũng nghĩ rằng mình có tự do. Chính các triết gia Đông, Tây, kim, cổ, đều quan niệm con người có tự do. Ngay cả tôn giáo dẫu không nêu rõ vấn đề song vẫn ngầm hiểu như thế. Tiến xa hơn nữa, mọi người chúng ta còn được đa số các dân tộc trên thế giới chấp nhận có nhân quyền tối thiểu. Nhưng làm thế nào để thực hiện sự tự do nơi con người? Phỏng khi trái tim chúng ta ngừng đập, chúng ta có thể nhân danh điều được gọi là tự do khiến nó đập thêm vài cái nữa không? Thế thì sự tự do chỉ có nơi con người chưa chết; và như vậy, bất cứ ai suy tư về thân phận con người đều mang khuynh hướng vượt khỏi số phận, và có ước muốn chống đối lại số phận của mình, hoặc tìm cách giải thoát hay chạy trốn bằng quên lãng, hay bất cứ phương cách nào. Ai để giờ suy nghĩ về thân phận làm người đều nghiệm chứng được kiếp sống gắn chặt vào giòng sinh hóa tự nhiên không sao có thể thoát ra được vì trước khi suy nghĩ đến sự sống, thân phận, hay kiếp sống thì con người đã đang sống. Lòng khát khao giải thoát này dẫn con người đến nẻo đường độc nhất là trực diện giòng đời bằng cách nhận thức chính mình để tìm phương pháp giải quyết. Tất nhiên, nhận thức chính mình là bắt đầu quay về nội tâm để nhận ra thực thể nơi mình. Tôi là ai? Tôi có phải chỉ là xác thân này? Tại sao có ý nghĩ? Tôi có tự do không? Tại sao con tim có thể đập, và trí óc có thể suy nghĩ, suy nghĩ ngay cả đến những điều chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao giờ nghe, hoặc nhận xét về tâm cảm yêu thương. Từ đó, con người đạt tới những thực thể khác nơi chính mình mà nhiều khi nói ra không được hoặc cố ý giải thích thì chỉ càng khiến người nghe rối trí. Có phải đây là nguyên nhân để có câu kinh Phật "Bể khổ mênh mông, quay đầu là bến." Quay đầu đây là tác động của nhận thức bản chất, bản thể con người của mình, nhận thực về chính mình.

    - Thưa bác, quay đầu thế nào khi vợ con đùm đề, rồi nào tiền nhà, tiền điện, tiền xe, bill bọng chồng chất khói lên, nhất là trong những trường hợp vợ ốm, con đau. Nhiều khi, ước gì thân này ví xẻ làm đôi làm ba, phần lo cày trả nợ, phần đi chợ nấu cơm, phần còn lại đưa bà xã đi sắm đồ e ra đường không được ai để ý thì sợ ê mặt chồng con, hoặc ốm bớt lỡ gió thổi bay mất lại khổ cái thân chưa già đã mồi côi. Cháu nghĩ mãi vẫn không còn gánh nào nhẹ hơn thì còn đầu đâu mà quay.
    - Thôi, thôi, đủ rồi, nói mãi, nói hoài, nói dai, nói dài, nói dại, nói không để ai nghe mà cũng cứ nói. Sỹ nhà con mượn dịp chêm vô diễu trong lúc mọi người đang để ý nghe cụ Tài nhận định khiến Phủ lên tiếng.
    - Anh Sỹ cũng có lý, nhưng lý một nửa vì ước muốn của con người ở đâu thì lòng dạ của họ ở đó (Mt. 6:21). Bản chất con người không phải hoàn toàn là một cơ cấu sinh lý đã trở nên biết suy tư bởi được thấm nhập, học hỏi, do sự liên hệ với xã hội, nhưng đồng thời cũng không phải hoàn toàn là một thứ tâm linh siêu việt vượt ra ngoài thể xác, mà là cả hai, đồng thời tuy hai mà một. Bình tâm nhận xét, những ý niệm hướng thượng, thiện, ác, trách nhiệm, chân lý, đạo lý, nơi con người đều tượng trưng cho nguyện vọng muốn vượt ra ngoài vũ trụ cảm quan và thể chất để đạt tới những trạng thái hoặc cảnh giới vĩnh cửu, thường hằng. Những ý niệm này dẫu ảnh hưởng từ cuộc sống nhưng không phải bởi ngoại cảnh mà bắt nguồn tự chính con người. Nói rằng không còn cái đầu để quay sao anh có thể ở đây vào lúc này? Và như vậy, nơi con người còn có những sự kiện sinh hoạt nội tâm không bắt nguồn từ cuộc sống, từ vũ trụ ngoại giới hoặc lệ thuộc thể xác. Sinh hoạt nội tâm này chính là những suy tư, ý thức, muốn chống nghịch lại thân phận kiếp người giới hạn, đã tạo nên đau khổ và sợ hãi. Từ sự chối bỏ của con người không muốn chấp nhận hoàn toàn thân phận của mình, ý tưởng Thượng Đế hữu ngã tất nhiên được phát sinh hầu tìm nơi nương tựa cho tâm tưởng hoặc vì lười biếng muốn có một mốc cứ để đổ lỗi, hy vọng cảm thấy nhẹ phần đau khổ do tâm trạng bất mãn không chấp nhận thân phận hầu kéo lê cuộc sống đã lỡ được sinh ra. Có thể đây là sản phẩm của những đầu óc thụ động.

    Cụ Tài nói tới đây đã thấy mấy người đổi thế ngồi; hình như ý niệm Thượng Đế là sản phẩm của suy tư chạy trốn đụng chạm hơi mạnh tới niềm tin tín ngưỡng.
    - Thưa bác, tôn giáo mang mục đích giúp con người sống tốt lành, hiền hòa hơn, làm điều lành, tránh điều xấu, và đồng thời tạo tình thân ái để kiến tạo và đem lại trật tự xã hội. Cháu nghĩ, như thế đã quá đủ.
    - Anh nghĩ như thế, có nhận định như thế hoặc cho rằng mục đích của tôn giáo như thế, hoặc nó đã đạt được đến như thế, hay anh đang lặp lại lời của người khác mà tưởng rằng đó là nhận thức của chính mình?
    - Thưa bác, tôn giáo nào không dạy ăn ngay ở lành, làm điều thiện, tránh điều ác.
    - Đó là lý do tại sao chúng ta cần sử dụng tự do tư tưởng tuyệt đối qua hình thức nghịch luận. Nếu nói rằng mục đích tôn giáo chỉ là dạy con người ăn ngay ở lành, thế sao những sự kiện được gọi là ác vẫn đang xảy ra mỗi ngày một nhiều? Nói rằng tôn giáo đem lại trật tự xã hội tại sao có luật này, luật kia, cả ngàn thứ luật. Chính lòng khát khao tìm đường lối giải thoát thân phận con người đã phát sinh đạo học, tôn giáo. Đâu phải ai cũng chấp nhận kéo lê kiếp sống chờ ngày chết. Giả sử anh em nào đó đang khi đánh tôm vô tình rơi xuống biển, phản ứng sẽ ra sao...
    - Thì bơi, không bơi sẽ xuống gặp Hà Bá!
    - Ê, không được nói leo. Bố tôi là Hà; tôi chưa chết sao ông dám phạm thượng. Cụ Tài vừa nâng ly chiêu ngụm rượu mới được Tùy rót thêm, mục đích để mọi người có vài giây suy nghĩ về lời mình nói thì Sỹ nhà con đã nhảy xổ vô lên tiếng khiến Bá phải ngăn ngừa cái miệng hay nói tào lao.
    - Trường hợp những người tương đối có cuộc sống dễ thở, không phải lo lắng về nơi ăn chốn ở hoặc những nhu yếu bình thường, họ đâu dễ dàng thụ động chấp nhận cuộc đời. Có câu nói của dân tộc nào tôi không nhớ; câu nói như thế này, "Khi những con vật ăn no, chúng ngủ; nhưng khi con người không phải lo lắng về miếng cơm manh áo, họ suy nghĩ." Thực ra, trái ngược với cá tính thụ động, đâu thiếu gì người vì khát vọng vứt bỏ thân phận nô lệ, sợ sệt, yếu đuối của con người đối với giòng đời, đã muốn giành giật địa vị một siêu nhân sáng suốt, quật cường, tự mình nắm giữ lấy vận mệnh đời mình (XDNSQ; Tr.22). Họ đâu chấp nhận điều người khác tuyên truyền mà đã dám suy tư, tìm mọi phương diện thực hiện một cuộc cách mạng tâm linh hầu thoát khỏi ách thống trị của những lý thuyết nô lệ quyền lực vô hình. Họ cho rằng ý niệm một vị Thượng Đế siêu hình ngự trị một cách tuyệt đối trên ý chí, vận mạng, là một sự hèn nhát, ỷ lại, và lười biếng, tự làm mất nhân phẩm, nên muốn vùng dậy để ý thức lấy vị trí và thảm kịch trong thân phận của mình. Dĩ nhiên, điều ai cũng có thể cảm nhận được đó là ý thức con người là một khuynh hướng thường hằng nhưng cũng là một thất bại miên tục nơi hành trình tiến tới khát vọng giải thoát thân phận kiếp người, một hành trình rõ rệt nơi ý chí mà lại khó tìm phương tiện nắm bắt. Con người giống như một giọt nước trên giòng sông sinh hóa. Nó có quyền tự do trôi dọc, trôi ngang theo giòng sinh hóa, nhưng nó không có tự do từ chối không hiện diện ở trong giòng sinh hóa đó (XDNSQ; Tr.178). Tâm thức nơi thân xác chẳng khác gì người chèo đò nơi giòng sông sinh hóa. Người lái đò muốn ra khỏi giòng sông phải chèo đò chứ không thể bỏ con đò của mình khi chưa tới bờ mà có thể bước ra khỏi giòng sông.
    - Dễ mà, đánh chìm đò, kêu "coast guard" đem trực thăng bốc.
    - Thôi ông ơi, làm ơn khóa dùm cái miệng lại để tụi tôi nhờ. Ông cứ nhảy xổ vào cổ họng kẻ khác làm mất phê.
    - Không có trực thăng thì ông chết chìm còn gì mà nói, còn gì mà nghe. Bộ tôi nói không đúng sao!
    - Ông chẳng chết chìm, Bá lên tiếng, thì cũng chẳng nói chẳng nghe được. Rõ là dốt mà thích chen vô phá đám. Tôi thử hỏi ông, muốn ra khỏi giòng sông sinh hóa khi chưa tới bến bờ chỉ còn nước trốn lánh bằng cách tự tử chứ trực thăng, trực giáng đâu cho ông leo lên. Mà có lẽ ông nói cũng đúng phần nào, chỉ có trực giáng. Thế là cả bọn phá lên cười. Suốt mấy tiếng đồng hồ Bá không hề hé miệng đàm luận dẫu những lúc nói diễu hắn đấu hót không ngưng nghỉ. Cụ Tài hơi ngạc nhiên về câu nói của Bá, thầm nghĩ sẽ hỏi thử xem nhận định luân lý của anh chàng này ra sao.
    - Tại sao anh Bá không chấp nhận có đột biến nơi giòng sinh hóa?
    - Thưa bác, nếu có gì được gọi là biến đều phải có diễn tiến cách nào đó tạm gọi là nguyên nhân hay cái lý của sự việc. Đàng này, không có nguyên nhân diễn tiến mà cắt ngang cơ hội sinh hóa tức là phá hủy hành trình thăng tiến của tâm thức. Cháu nghĩ, xét theo phương diện lợi hại, tất cả những điều gì thuận lợi cho sự thăng tiến tâm linh là thiện và bất cứ gì ngăn cản sự thăng tiến tâm linh đều là ác; bởi nơi cuộc sinh tồn nhân loại, sống chết là lẽ thường vì đã có sinh ắt phải có tử và chỉ những gì không sinh mới không tử. Nhìn về diễn tiến nơi giòng sinh hóa, thân xác được coi như con đò, mà hồn hay tâm thức nhờ vào đó xuôi theo hay ngược giòng, thì những gì con đẻ của vọng tưởng làm phương hại tới hành trình kiến tính đều phản nghịch lại quyền lực hiện hữu tối thượng phải được coi là ác.
    - Thế anh nghĩ gì về những chiều hướng đúng, sai, đối đãi nơi luân lý?
    - Cháu chỉ nói quan niệm cá nhân, thực ra, chẳng có gì làm điểm tựa chung ngoài tâm linh để xét về luân lý, và cháu cũng không chấp nhận đa số thắng tiểu số nên không thích lên tiếng những khi có người luận đàm. Nhìn vào thực tại cuộc đời, biết bao những vấn đề tốt lành, cả thể, nào có bao giờ chúng ta để ý hoặc có những hành động nào đó thực hiện hay cổ võ. Lý do rất dễ hiểu; vì những vấn đề tốt lành đó chẳng có gì liên hệ đến cuộc đời mình. Tuy nhiên, lắm thứ xã hội cấm cách này, ngăn cách khác mà ai nấy cứ chờ cơ hội hở ra là hí hửng vi phạm, miễn sao không bị bắt quả tang. Rõ ràng chúng ta phạm pháp nhưng lương tâm không cắn rứt; thực hiện điều được gọi là sai theo luân lý mà lòng ruột thực sự thanh thản thì nghĩa là sao? Thế mà, chỉ một câu nói mất lòng người khác, cả tuần, có khi cả tháng ăn năn vẫn không quên lòng ân hận. Như vậy, cháu thấy luật lương tâm nơi mỗi người mang giá trị tuyệt đối nơi người đó, trong khi lương tâm mỗi người hình như cũng có phần nào khác biệt với những người sống đồng thời.
    - Tôi hiểu điều anh muốn giãi bày. Luật lương tâm mà anh nhắc tới chính là quan tòa tối thượng xét xử thiện ác nơi mỗi người. Theo nhà Phật, con người bao gồm hai thành phần cực độ: một thể xác hữu hình, ô trọc và vô thường tiêu biểu cho cái mực độ cuối cùng trong sự đi sâu vào lịch trình hiện tượng hóa; một thành phần tâm linh huyền diệu, thường tịch và thuần nhất, bắt nguồn thẳng nơi thực thể tuyệt đối. Ở giữa hai cực độ đó, là cả một hệ thống những cảm giác dục vọng, tình tự, tư tưởng mà ta thường gọi là cá tính của mỗi người (XDNSQ; Tr.36-37). Đời người là một giai đoạn cho thực thể tâm linh tiếp tục trong hành trình thăng tiến của nó. Nói như vậy, cuộc sống hữu hình là một cơ hội lớn lao bao gồm những cơ hội nhỏ; đó là những sự kiện, sự việc xảy ra trong đời người. Biết sử dụng những cơ hội này hay không tùy thuộc sự thức ngộ tâm linh của cá thể trong giòng sinh hóa vĩnh cửu này. Và như vậy, bất cứ hành động, ý nghĩ, tư tưởng nào ngăn cản hoặc làm hại đến hành trình thăng tiến tâm linh đều được coi là ác; sự ác nặng nề nhất vì chúng cầm buộc tâm hồn con người nơi cõi vô minh. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta cần mở rộng tâm hồn để học hỏi. Tôi hơi lấy làm lạ khi anh Bá phân tích về mấy chữ trực thăng, trực giáng; đến khi anh nói về luật lương tâm, tôi lại thấy rõ hơn sự vi diệu của diễn trình tâm linh con người. Chính tôi đã bao năm bị suy tư luân lý làm khốn khổ; bởi suy nghĩ thì hợp lý hợp tình nhưng khi đem áp dụng nơi cuộc sống không thể được. Thế mới biết con người là một thực thể chẳng những khá phức tạp; đồng thời giòng sinh hóa hay cuộc sống con người ngụp lặn trong ấy lại còn phức tạp hơn. Tuy nhiên, không muốn sống thì chúng ta đã đang sống, ngược lại, trốn chạy cuộc sống dù bằng cách nào cũng đều là hèn nhát và chắc chắn đang thực hiện điều ác tối thượng; chỉ còn một giải pháp duy nhất là trực diện.
    - Thưa bác, dẫu sao, con người mang đầy tính chất giới hạn trong khi thực tại lại quá phức tạp, cháu nghĩ, cho dù vùng vẫy cách mấy chân con người cũng không bước bên trên mặt đất dẫu chỉ nửa phân. Như vậy, phỏng ước vọng giải thoát chỉ là mộng tưởng? Đàng khác, nói theo nhà Phật, ý niệm cũng chỉ là vọng tưởng, phương chi ước vọng giải thoát. Thêm vào đó, con đường tâm linh, như bác nói, lại quá mịt mờ. Chẳng lẽ đành phải quay lại chấp nhận buông xuôi cho qua kiếp người.
    - Tôi muốn dùng quan niệm hành xử sự việc của cụ Lê Quý Đôn; may ra phần nào có thể trả lời về phương diện kiếm tìm đường lối trực diện thực tại. Trong cuốn Vân Đài Loại Ngữ, cụ viết, "Cái khéo của thánh nhân xưa là biết dựa theo vào cái sẵn có của con người mà uốn nắn, thêm bớt, cắt xén để xếp đặt cho mọi việc đều đi đến thành tựu. Bậc quân tử trước làm, bậc quân tử sau theo, cách vật và trí tri là thế, góp mọi lý lại để ứng phó với muôn việc và muôn vật là thế. Như vậy, không phải là vu vơ theo ngọn ở ngoài mà không tìm đến gốc ở trong. Nếu vật gì, việc gì cũng đòi xét cho đến cùng đến đủ thì chẳng khác vì đường nhiều lối thành nỗi mất dê vậy" (VĐLN; Tr.30). Anh em nghĩ thế nào?
    - Tuyệt, Bá lên tiếng, cổ nhân nói gừng càng già càng cay, cay nhưng có lý.
    - Có lẽ anh Bá bắt được điểm giao hợp giữa tâm linh và cuộc sống.
    - Thưa bác, bác nhắc lại mấy câu nói của cụ Lê Quý Đôn khiến cháu chợt nhớ tới lời giải thích quẻ Bỉ về thái độ người quân tử nơi thời buổi nhiễu nhương do những kẻ tiểu nhân nắm quyền bính. Bá ngưng ngang trong lúc mọi người đang để ý nghe.
    - Tiếp tục, Sỹ nhà con lên tiếng. Câu Bá trả lời mang tính chất thách đố suy tư vì chưa ai bắt được đầu mối liên hệ giữa câu nói của cụ Lê Quý Đôn và câu trả lời của Bá khiến miệng lưỡi nhanh nhẩu như Sỹ nhà con cũng không mò ra gút mắc nào hầu phá ngang do đó hắn kéo dài hai tiếng "tiếp tục" và chờ đợi. Thế mà Bá vẫn chưa chịu nói, hình như có điều gì khiến hắn bận tâm suy nghĩ không để ý đến những người chung quanh.
    Đưa tay ra hiệu mọi người nên im lặng, độ chừng ít chục giây sau, cụ Tài lên tiếng,
    - Có phải anh Bá đang liên kết lời khuyên nơi quẻ Bỉ, với ý tổng kết quan niệm đức lý của kinh Dịch, nhận định của Trang Tử, và nếu tôi không lầm, thêm vào đó lời Kinh Thánh?
    - Thưa bác đúng vậy nhưng cháu chưa nghĩ được tới lời Kinh Thánh.
    Sự đối đáp giữa một già, một trẻ qua vài câu nói bâng quơ có mãnh lực thu hút những người hiện diện khiến ai cũng để tâm chú ý nghe. Họ ngạc nhiên vì xưa nay Bá không thích bàn luận về những vấn đề được mọi người coi là trọng đại mà có chăng chỉ tham dự vào những câu chuyện diễu vô thưởng vô phạt. Hắn không phê bình, chẳng nhận xét, chẳng cho bất cứ gì là đúng, mà cũng chẳng chấp nhất những gì bị mọi người kết án là sai. Vô tình lỡ nói câu gì bị anh em hùa nhau lên án phải quấy, hắn nhẹ nhàng đưa lời xí xóa chấp nhận, "Thì cuộc đời mình sai đã nhiều rồi, có sai thêm chút nữa đã đụng đến lông chân ai đâu." Hoặc, "Là người lẽ đương nhiên luôn luôn sai lầm. Không sai, ắt không phải là người." Đôi khi, hắn còn có lối nói quá quắt nhưng không ai bắt bẻ được bởi giọng điệu thật nghịch thường, "Tôi còn không biết tôi nói gì thì làm cách nào ông có thể biết được tôi nói gì. Cứ coi nó là sai, dẫu không sao thì đã có trăng." Xưa nay hắn hiền hòa, diễu cợt, ấy vậy, chỉ mới vài câu nói qua lại với cụ Tài đã khiến thiên hạ rối mù.
    Nghe Bá trả lời thế, cụ Tài tiếp,
    - Nơi Kinh Thánh có câu, "Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói; hãy ở khôn như con rắn, và chân thực như chim cu" (Mt. 10:16).
    - Thưa bác, sao lại chim cu? Tùy con chợt chen vô, phải là chim câu chứ, Kinh Thánh viết như thế mà.!
    - Anh nói đúng. Tuy nhiên, đó là nơi bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn được viết như vậy. Rõ ràng hơn, cuốn Tân Ước mới phát hành năm 1994 tại Việt Nam chép rằng, "Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu." Nơi phần phụ chú của cuốn này giải thích vì "Rắn có tài tránh nguy hiểm và luôn luôn giữ cái đầu cho khỏi bị đánh. Người môn đệ đừng để mình bị lọt vào tròng của những ông tiến sĩ giả, nếu cần thì phải tránh đụng độ với họ. Tuy nhiên, vẫn phải giữ tâm hồn và thái độ đơn sơ hiền hậu như bồ câu, loài chim hơi nghe tiếng động là bay và vẫn được coi là vô hại" (TƯ; Tr.90). Đàng khác, nếu anh em lật những cuốn Kinh Thánh bản dịch tiếng Mỹ đều được dùng chữ "Doves," một loại chim giống như cu đất nơi Việt Nam chứ không phải chữ "pigeon" dẫu "pigeon-hearted" có nghĩa là nhút nhát. Anh em thấy chim bồ câu nhát nhưng đâu hiền lành gì mà chim cu mới hiền lành. Tôi không theo Thiên Chúa giáo, sở dĩ tìm tòi chỉ vì thấy câu Kinh Thánh không hợp với thực tế nên phải tìm cho ra. Tôi nghĩ, anh em nên đặt vấn đề tự tìm hiểu cho mình vì đó là khởi đầu cho sự minh triết. Đâu phải đơn giản mà nhà Phật đặt vào miệng đức Thích Ca lời khuyên không nên tin những gì ngài nói.
    - Thưa bác, phải như vậy mới hợp lý. Đã lâu, cháu không thể nào hiểu được câu Phúc Âm này vì cháu không thể nào dung hòa được con rắn và chim câu trong cùng một người. Con rắn độc hại thì được gọi là khôn ngoan; chim câu nhút nhát, không phải, chim cu mới đúng, đôi khi bị mấy con sẻ tranh ăn mà không dám mổ lại còn tránh đi nơi khác thế mà cho là chân thực. Cháu không thể ngờ, sự khôn ngoan hình như đã được trãi rộng nơi mọi dân tộc. Như thế thì, giọng Bá ngập ngừng, có thể nói kinh sách đạo học dùng mọi hình thức, mọi sự việc làm phương tiện trình bày nghiệm chứng tâm linh được gọi là sự khôn ngoan để rao truyền diễn trình thức ngộ hay tu chứng. Như vậy, có thể câu nói nơi Kinh Thánh, "Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!" (Gioan 9:39) mang nghĩa ám chỉ về nhận định cảm nghiệm tu chứng, nếu cháu không lầm.
    - Tôi không ngờ anh đã đạt tới trình độ tổng hợp bao nhiêu năm suy tư của tôi trong sự so sánh các đạo học dẫu tuổi đời anh còn quá trẻ. Thế năm nay anh bao nhiêu tuổi?
    - Thưa bác, cháu cũng có tí tuổi rồi ạ, những bốn mươi mốt rồi đấy.
    - Anh còn trẻ chán. Tuổi đời mới chỉ bằng hai phần ba thời gian tôi suy tư mà anh đã đạt tới sự tổng hợp ấy tất nhiên tôi đã quá lỗi thời. Để tôi nhắc thêm một câu nói cũng của cụ Lê Quý Đôn thử xem anh em nghĩ thế nào. Cụ hắng giọng, đoạn chậm rãi từng tiếng, "Trước nghĩ thế này là không phải, sau nghĩ thế khác là phải thì bỏ điều trước mà theo điều sau. Kiến thức của mình sai, lời nói của người ta phải thì bỏ cái của mình mà theo ý người. Không cố chấp thành kiến, không che giấu lỗi mình; cứ phải thì theo, như lăn hòn tròn thế gọi là chuyển viên" (VĐLN; Tr.410).
    - Thưa bác, mới nghe thì giống như dạy người ta trở nên ba phải, thuận gió phất cờ. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là thái độ của kẻ thông đạt, không lập giới hạn, không bào chữa, che giấu, lấp liếm, mà minh triết, sáng suốt. Như vậy, tất nhiên hàm chứa đức liêm chính và một ý chí cũng như lòng tự tin sắt đá. Có thể nói, đối với người như vậy, điều đã được nghiệm chứng là phải thì dù muôn người cũng không lay chuyển nổi với bất cứ điều kiện nào.
    - Giải thích như thế có lẽ anh hiểu được lý do tại sao đức Thích Ca khuyên đệ tử không nên vội tin những gì ngài nói mà cần suy nghĩ, thực chứng đến khi nào thấy đúng thấy hợp mới nên theo. Tuy nhiên, để tóm tắt những gì bàn luận nãy giờ, chúng ta thử tổng kết vài nhận định đã được đề cập tới. Anh Sỹ, anh thích nói dai, nói dài, vậy anh thử nói xem sao, đừng nói dại là được. Cụ Tài lây lối nói diễu của nhóm người trẻ, đưa ra đề nghị.
    - Thưa bác, Sỹ đằng hắng lấy giọng ra bộ trịnh trọng, điểm chính yếu bác nói là sử dụng tự do tuyệt đối bằng cách nghịch luận để có được nhận định đúng đắn về mọi phương diện. Thêm vào đó, sự nhận thức chân thành phải được áp dụng nơi chính con người của mình, nhận ra mình thế nào, tìm hiểu cho đến tận cùng thực thể mình là ai. Từ đó, bản chất thực của một con người được phô diễn. Con người không phải chỉ là xác thân rắc rối hiện hữu trong một giai đoạn thời gian mà còn có phần tâm linh huyền diệu; cả hai quấn quyện không thể phân tách dù chỉ bằng ý niệm. Dầu thế vẫn có thể nói, thân xác chỉ là phương tiện hay cơ hội cho hồn tiếp tục hành trình tâm linh nơi giòng sinh hóa vĩnh cửu. Như vậy, sự nhận thức của con người đóng vai trò tối quan trọng trong hành trình thăng tiến tâm linh giữa thực tại cuộc đời quá ư phức tạp. Vì thế, con người cần biết mở rộng lòng đón nhận và nghiệm xét sự vật và sự việc một cách rốt ráo chứ không theo thói quen chấp nhận dựa trên lối nhìn phiếm diện đối đãi. Sự nhận định phải được đặt trên căn bản lương tâm chân thành và một tâm hồn khát khao lẽ phải. Và như vậy, đối với bất kỳ vấn đề gì, không nên vội tin hay vội cho là đúng cho tới khi sự khôn ngoan được chính mình nghiệm chứng. Có điều, nếu ai đồng hoặc bất đồng ý kiến với những gì tôi vừa tổng kết, nên dành giờ nghiệm chứng trước khi phát biểu.
    - Đúng là nói dai, nói dài, nói dại. Phủ lên tiếng ngay khi Sỹ ngưng nói.
    - Ông chưa nghiệm chứng sao đã dám vội nói, Sỹ đặt vấn đề.
    - Nói dại đâu cần nghiệm chứng. Nếu đã nghiệm chứng sao có thể nói dại.
    Thế là Sỹ hùng hổ thách thức,
    - Ông thử tổng kết xem có dại hơn không?
    - Nếu đã không nên vội tin hay vội cho là đúng bất cứ điều gì mà cần tự nghiệm chứng thì chỉ cần nói, nghiệm chứng mọi sự (1Thes. 5:19), là đủ. Xét như vậy, không nói dại, nói dai, nói dài, nói thừa, nói thãi, nói vãi ra những điều không cần nói thì nói chi?
    - Ơ! Chú nói có lý. Không ngờ tớ nói dại mà không biết mình nói dại. Sỹ nhà con thái độ bỗng điềm nhiên chấp nhận mình nói dại khiến Phủ cụt hứng và làm cho mọi người ngạc nhiên. Ngữ này có bao giờ để lỡ cơ hội đấu hót tạo niềm vui, thế mà dám tự nhận nói dại.
    - Ngày mai tôi phải lo chống nhà. Bá nói bâng quơ, lạc đề.
    - Chú nói sao? Sỹ chụp cơ hội hỏi không kịp để Bá nói hết câu.
    - Dạ thưa, với điệu bộ giả nghiêm trọng, Bá chậm rãi, vì ngày mai sẽ có cơn giông rất lớn, chào mừng kẻ đạt tới trình độ thức ngộ biết mình nói dại.
    - Biết mình dại tức là minh triết. Dĩ nhiên, sự hiểu biết này làm rúng động muôn cõi, thì cơn giông phát sinh là lẽ thường. Sỹ nhà con học theo ngôn từ nhà Phật cố vớt vát thế yếu của mình.
    - Khi đã biết mình dại dẫu khóc lóc nghiến răng thì cũng chẳng còn răng để mà nghiến sao có thể rúng động muôn cõi. Cuộc đời nhiều lúc oái oăm, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu.
    - Thì tớ đã nhận mình nói dại sao chú mày vẫn cố tình tấn công.
    - Ai mượn ông dám lạm dụng danh từ nhà Phật để bào chữa cái dại, cái dốt. Nói như ông, chẳng lẽ kẻ nào lỡ dại một giờ cũng rúng động muôn cõi?
    - Chú nói gì? Sao có thể dại được tới những một giờ!
    - Một giờ thì ăn nhằm gì! Cổ nhân đã nói dại quanh năm là đàng khác!
    Sỹ nhà con chợt như ngồi phải lửa.
    - Chú mày ăn nói láo lếu, dám ví tớ với loài chó!
    - Chính ông vừa nói! Thôi, thôi, ông làm ơn khép cái mỏ lại kẻo chẳng khảo cũng xưng; bởi chỉ những ai có tật mới giật mình. Không nói nào ai biết mình thế nào. Ngược lại, càng nói chỉ càng lạy ông con ở bụi này, hoặc vạch áo cho người xem lưng thì dẫu cố bào chữa hoặc che giấu đến mấy vẫn bị lòi đuôi.
    Không hiểu sao miệng lưỡi Bá lúc này quá quắt dồn Sỹ vào đường cùng. Chỉ có một chữ dại, hắn dùng tục ngữ bắt qua, bẻ lại ám chỉ so sánh sự dại dột do nói nhiều với loại có đuôi.
    - Yêu cầu trọng tài ra lệnh đình chỉ bàn chuyện riêng tư giữa chốn công cộng. Phủ lên tiếng.
    - Hai chú tạm thời bỏ qua để nghe cụ nói về nhà Phật.
    - Thời giờ kể cũng đã muộn, anh em làm ơn để tôi tóm tắt một vài điểm cần thiết trước khi tổng kết nghiệm chứng nhà Phật.
    - Thưa bác, lúc trước Hưng nhắc tới… hư vô.
    - Những người phiên dịch kinh sách nhà Phật bị khuyết điểm là dùng quá nhiều Hán tự; đồng thời ý nghĩa văn từ được dùng lại lệ thuộc sự hiểu biết hoặc ám định riêng của tác giả trước tác nên khiến kẻ hậu học cảm thấy như rợ vào rừng. Có thể chúng ta phải đợi cho tới khi nào có người phân định, so sánh, và tổng hợp kinh sách nhà Phật để trình bày những căn bản cũng như đường hướng thiết yếu giúp đa số quần chúng ít lợi căn tu chứng chăng. Chẳng hạn như anh Tùy vừa hỏi về "hư vô." Ngôn từ này dĩ nhiên nơi tiếng Hán, và nhà Phật hay dùng. Thực ra, Hư Vô, Vô Cực được dùng bởi đạo gia Á châu. Đó là một quan niệm trọng đại về thực thể tuyệt đối bất khả tư nghị. Chữ "vô" được dùng trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử từ thế kỷ thứ V trước Công Nguyên (DKYC. Tr.139). Hư vô không có nghĩa là hư không, hư ảo mà là quan niệm cao siêu nhất về Tuyệt Đối Thể, về Thượng Đế. Hư Vô trong Phật học cũng có nghĩa là Chân Như, Phật tánh. Xét thế, đạo gia gọi là Hư thì Phật gia gọi là Không. Hư Vô không thể đặt tên được vì con người không thể nào hiểu biết bằng lý trí về Thực Thể Tuyệt Đối hay Quyền Lực Cội Nguồn Hiện Hữu phát sinh mọi sự. Đó là lý do tại sao kinh Kim Cang có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm." Câu này có nghĩa: tìm nơi không nương dựa mà sinh tâm. Lão học gọi là Tào hoặc là Vô Vi hoặc là Đơn, được dịch là Đạo tức Bản Thể của trời đất muôn vật. Còn nhiều danh xưng khác nữa, nhưng mỗi danh xưng đều chứa đựng quan điểm chỉ về Tuyệt Đối, Chân Như, hoặc Thượng Đế, hoặc Cội Nguồn Hiện Hữu. Thần Hội, một Phật gia, tìm ra Tuyệt Đối trong thâm tâm nhờ nhận định rằng có tư tưởng tức là đã nhập vòng sinh diệt, sắc tướng, nhưng tư tưởng là ứng thân do Pháp thân, tuyệt đối thể nơi mọi người, phát sinh. Tuy nhiên, Tuyệt Đối Thể thì tịnh tịch dẫu cho ta hoạt động, suy nghĩ thế nào, và như vậy, vô niệm là căn nguyên cho hữu niệm. Tìm ra được vô niệm tức là thấy được Pháp thân, Phật tánh, Tuyệt Đối, Vô Cực, Hư Vô. Anh em nhớ kỹ điều này và đó là khi nghe nói về Phật học hay đạo học, những ngôn từ được dùng mang ý nghĩa đặc biệt. Nếu anh em nghe thấy vô lý hay hơi chướng tai cũng đừng vội nhận định mà nên cố gắng tìm hiểu hay hỏi cho rành rẽ nhất là đối với những công án. Luận về đạo học, những phát biểu đều từ nghiệm chứng hay cảm nghiệm mà ngôn từ chỉ là tạm dùng nên thường đối nghịch với những nhận thức lý trí. Và như vậy, những ai chưa có căn bản nghiệm chứng mà đã vội phán đoán thì chẳng khác gì xẩm rờ voi.
    - Thưa bác, Tùy con lòng dạ dường như có vẻ xốn xang nên ngắt ngang lời cụ Tài, như vậy sao có thể giúp mọi người thức ngộ?
    - Các bậc đạo gia tối kỵ truyền bá cảm nghiệm bởi có thể những kinh nghiệm qua hành trình nghiệm chứng đã giúp họ nhận thức được rằng đối với những kẻ còn đang mê muội trong vòng vô minh thế tục thì dẫu có giảng giải thế nào chăng nữa cũng vô ích, có chăng chỉ giống như dạy thằng yếu đánh vật. Xét về phương diện này, khuynh hướng chính của Phật học không vụ vào việc tổ chức cuộc nhân sinh trước mắt, và tương tự như Lão, chỉ coi kiếp người như một giai đoạn bất đắc dĩ phải chấp nhận trong hành trình mênh mang của sự vật. Trọng tâm của Phật học đặt vào sự giải thoát tâm linh con người, coi nhẹ phần tổ chức nhân sinh, thu gọn vào một mực độ tối thiểu khiến con người có thể dễ dàng giải thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề tham vọng thế tục mà đạt tới sự thức ngộ tâm linh. Giáo lý uyên nguyên của đức Thích ca chỉ gồm có tứ diệu đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo và thập nhị nhân duyên. Nền giáo lý đó chỉ giảng giải về căn nguyên sự khổ, về cách thức cấu tạo nên sự phiền não để dạy mỗi người nên dùng nghị lực của mình tu luyện nơi nội tâm mưu cầu giải thoát (XDNSQ; Tr.33).
    - Thưa bác, đã mưu cầu sao có thể giải thoát, Hưng im lặng đã lâu giờ mới lên tiếng.
    - Nơi đây tôi nói theo lối thông thường vì ai làm việc gì mà không có chủ đích. Thực ra, tu chứng hay nghiệm chứng nhà Phật thực sự không có chủ đích vì nếu có chủ đích vẫn còn lệ thuộc ý niệm, vọng tưởng bởi vậy được gọi là chứng Cái Không. Chính câu nói nghiệm chứng này đã sinh muôn vàn hiểu lầm cho những người muốn tìm hiểu Phật học bằng kiến thức.
    - Thưa bác, nếu không có chủ đích thì đâu cần cố gắng mà chỉ sống cho qua, được sinh ra để sống thì cứ sống.
    - Tôi vừa nhắc tới, anh đã bị ngôn từ nghiệm chứng nhà Phật làm đảo điên. Chứng cái không thường bị hiểu lầm là không cần chứng mà chứng lại cần cố gắng, vẫn quanh quẩn với vọng tưởng hay ước muốn. Nhà Phật dùng ngôn từ chứng cái không có nghĩa nghiệm chứng Thực Thể Tuyệt Đối, Hư Vô bất khả tư nghị nơi mỗi người. Thực thể này không thể nghĩ bàn, nên được gọi là "Không." Không ở đây chính là không thể dùng lý trí suy luận, không thể đem sự hiểu biết diễn giải, chẳng khác gì câu nói của Thomas Aquinas, "Thượng Đế mà có thể hiểu được, nghĩ tới được thì không phải là Thượng Đế." Trong Lão học cũng có nói, "Tào khả Tào phi thường Tào." Đây là mục đích cho nghiệm chứng vì nghiệm chứng là hành trình đạt tới hòa hợp với Thực Thể Tuyệt Đối. Thực thể không thể nghĩ tới hay bàn luận, chỉ có thể nói được những gì không phải chứ không thể nào nói gì về thực thể đó được. Một số Phật gia muốn dùng ngôn từ đơn giản giảng giãi cho giới bình dân nên gọi tắt là "Cái Không." Anh em nên để ý, hai tiếng “Cái Không” nếu được viết trong sách phải được viết hoa vì đó là Thực Thể Tối Thượng, chẳng phải là không có gì.

    Từ lúc cụ Tài nhập cuộc, ông Thung để ý ghi nhận từng câu cụ giải thích hoặc đối đáp với mọi người. Càng nghe, ông càng ngạc nhiên về thái độ hiền hòa, cởi mở cũng như nhận thức rộng rãi có thứ lớp của cụ. Những lời cụ nói hình như được sắp xếp để chuẩn bị cho vấn đề nào đó vẫn chưa lộ diện. Đang trả lời về những đặc điểm tông phái nhà Phật, cụ lái câu chuyện qua nhận thức bản chất và vị thế con người trong giòng sinh hóa, khởi nguồn từ sự khuyến khích dùng nghịch luận để phát triển tự do suy tưởng, dẫn tới trạng thái không chấp nhận, không vội tin tất cả những gì chưa được nghiệm chứng. Thái độ nhận thức này đòi hỏi sự dứt khoát với tất cả các lề lối suy tư, không lệ thuộc những quan niệm, chiều hướng tư tưởng đã sẵn có, không dựa trên bất cứ căn bản nào mà hình như chỉ cần lao mình vào nghiệm chứng. Như vậy khi thực hành nghiệm chứng, con người dĩ nhiên đơn độc. Nhưng phương pháp, đường lối nào? Đâu là mốc khởi đầu? Hưng nói về điều kiện rốt ráo nhà Phật là kiến tính nhưng không thể nói phương pháp thực hiện. Nghĩ thế, ông quyết định hỏi cho rõ ngọn ngành. Vì ngồi gần bên, ông quay sang cụ Tài, giọng nhỏ nhẹ,
    - Thưa cụ, ông Thung không gọi cụ Tài bằng bác mà dùng danh xưng "cụ" mang đậm nét tôn trọng, nếu không nên vội tin hoặc vội cho là đúng những điều kinh sách ghi lại, ngay cả lời dạy của đức Thích Ca, mà cần nghiệm chứng thì đâu khác chi Lục Tổ Huệ Năng đã nói, "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự!" Đàng khác, nói như cụ và anh Hưng thì nghiệm chứng sao có thể giải thích mà đã không giải thích được thì sao có văn tự nào diễn tả bởi "Ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý." Theo thiển kiến, qua nhận định về Phật học cụ và quý anh em đàm luận, nghiệm chứng được phát triển trong hành trình tu chứng. Tuy nhiên, tu chứng cần căn bản thực nghiệm nào đó hình như kinh sách nhà Phật không nói tới trong khi sự bàn luận chỉ loanh quanh luẩn quẩn ở những kết quả thực chứng của các tổ thiền hoặc suy luận giải thích của các nhà trước tác, biên khảo, mang đầy tính chất duy lý. Như vậy, còn cố gắng suy gẫm, giải thích thì vẫn còn lệ thuộc ý niệm. Kinh sách nhà Phật và những sự giảng giải chỉ nói về nghiệm chứng, tu chứng mà không nói tu chứng như thế nào để có thực chứng. Thế nên vấn đề bế tắc vẫn là phải làm gì để gạt bỏ được ý niệm; đâu là phương pháp thực tiễn áp dụng khởi đầu tu chứng thì chưa thấy ngong ngách nào tạm gọi ứng dụng được. Ngồi trước bữa ăn thịnh soạn mà không biết làm sao để đụng tới món ăn nào đâu khác chi tốn giờ đi xem hàng mẫu chẳng được phép mua. Tu chứng mà ý niệm, vọng khởi vẫn ngập tràn nơi tâm trí phỏng ích gì. Làm sao cho con ngựa chứng tâm trí khỏi chứng, khỏi xoay mòng mòng hoặc phiêu diêu nơi thế giới ý nghĩ? Sao không thấy tổ nào nói tới mà chỉ lặp đi lặp lại biệt truyền, nghiệm chứng, kiến tính, Phật tính, chẳng khác gì các món ăn hấp dẫn nhưng vô bổ, giả tướng. Ai không lặp lại được câu kiến tính thành Phật! Ai không biết điều kiện muốn kiến tính phải nghiệm chứng, tu chứng! Ai không biết kinh sách trình bày thực chứng của sự thức ngộ! Vậy điểm khởi đầu cho tu chứng phải thực hành ra sao, cụ có thể nói cho anh em biết được không?
    - Nhận xét của ông rất đúng. Chính điểm này đã làm tôi lần mò hơn hai mươi năm trời. Đọc sách nhà Phật, cùng lắm thì chỉ được giải thích về hành trình quán tưởng theo phương pháp chứng nghiệm điều người khác đã nghiệm chứng. Nói theo Lê Quý Đôn có nghĩa tránh mất dê bởi cố gắng tìm đầu mối. Tuy nhiên, còn quán vẫn còn phiền vì quán tức là suy niệm đến tận cùng của sự vật hay sự việc cũng như ý niệm. Thực ra, kiến tính không cần phải quán. Cho dù quán không, quán vô thì vẫn còn lệ thuộc quán bởi Chân Như, Thực Thể Tuyệt Đối không thể hiểu, không thể biết, không thể cảm được vì biết được, cảm được, hiểu được tức không phải Tính mà chỉ là pháp. Trạng thái này Lão học diễn tả nơi câu nói bất cứ ai mới chợt nghe cũng đều cho là không tưởng, "Không làm gì là làm tất cả." Trải qua thời gian khá lâu tìm tòi, tôi mới biết điểm khởi đầu của tu chứng thực nghiệm được gọi là định tâm. Những kinh sách nhà Phật mà tôi có cơ may đọc qua được viết rất mù mờ hoặc giải thích tầm quan trọng của định tâm được gọi với những văn từ khác chẳng hạn hàng phục tâm, diệt niệm, diệt dục, an trụ tâm nhưng không chỉ cách định tâm thế nào, hoặc có chăng lại khuyến khích quán tưởng; tuy nhiên, thường thì ý chính lại nói về niết bàn, trạng thái ý niệm vô sanh vô diệt, gọi tắt là vô niệm. Có thể nơi kinh điển cổ có nói mà tôi không duyên để đọc chăng.
    - Thưa bác, bộ óc dùng để suy nghĩ, nghiệm chứng mà định tâm thì sao có thể nghiệm.
    - Anh em nên biết thêm điều này, đó là Phật học bắt nguồn từ mảnh đất phát triển Ấn học chứ không phải tự nhiên mà có đức Thích Ca giác ngộ nơi gốc cây bồ đề. Đàng khác, khi Phật học không thể phát triển được ở Ấn Độ vì hệ thống tổ chức quá vững mạnh của Ấn giáo nên Trung Hoa mới là mảnh đất mầu mỡ cho Phật học phát triển. Thêm vào đó, trong tiến trình phát triển tại Trung Hoa, Phật học du nhập thêm một số quan niệm tâm linh từ Lão, Trang. Như thế có thể nói, người nào thiếu nhận thức Ấn học và Lão học, không thể nào hiểu nổi Phật học. Đã có người cho rằng Phật học vốn là một cuộc cách mạng muốn cải tổ lại chế độ xã hội thời bấy giờ tại Ấn Độ đang bị áp đặt nặng nề của tổ chức Ấn giáo. Khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước dương lịch, nền Ấn giáo truyền thống đã đào tạo xã hội thành một chế độ chỉ đạo chặt chẽ bởi đẳng cấp Bà La Môn. Những lễ nghi được đặt ra càng ngày càng thêm phiền toái và nghiêm ngặt vì quá vụ về hình thức; các giáo điều được áp dụng theo nghĩa đen một cách cứng nhắc tạo nên hố phân chia giữa các đẳng cấp ngày thêm rõ rệt, cách biệt. Vì thế đức Thích Ca đã đứng lên đề xướng một phong trào cách mạng trong tôn giáo và xã hội. Có thể nói cuộc cách mạng đó là một cuộc cách mạng nhân bản và nhân chủ. Nhân bản ở chỗ đã tuyên bố tất cả mọi người đều chung một bản chất, cùng hàm chứa một tâm thể và như thế cùng có giá trị ngang nhau. Sự chấp nhận bình đẳng này là một sự chống đối chế độ xã hội đẳng cấp của Ấn giáo (XDNSQ; Tr.34). Sự định tâm tôi muốn nói mang tính chất thực hành, bước đầu của nghiệm chứng chứ không lệ thuộc ý nghĩa của ngôn từ. Đây là kinh nghiệm thực hành rút tỉa từ Yoga nơi Ấn học.
    - Thưa bác, nếu không được giải thích sao có thể thực hành.
    - Sự thực hành định tâm không giống như hành động ráp nối bộ phận chiếc máy xe hoặc cái bàn, chiếc ghế, mà mang thêm tính chất thực nghiệm. Nếu anh em muốn thử, hãy thử, chỉ thử mới biết vì dẫu giải thích đến mấy cũng vô ích.
    - Thưa bác phải làm gì để thử? Cần những điều kiện gì? Ngay bây giờ hay phải đợi đến khi nào?
    - Không cần điều kiện gì, và ngay bây giờ cũng được. Vấn đề chỉ là anh em muốn thử cho biết hay không mà thôi.
    - Ai không đồng ý yêu cầu giơ tay! Tùy con nhanh miệng. Tụi cháu hoàn toàn đồng ý, xin bác ban lời. Chưa ai kịp quyết định giơ tay hay không, hắn đã vội lên tiếng e có người bất đồng ý kiến.
    - Anh Tùy hơi ép buộc anh em nhưng chuyện cũng đơn giản thôi; anh em chỉ cần theo đúng những gì tôi nói là được. Nào, chúng ta bắt đầu! Anh em sửa thế ngồi cho thật thoải mái, ngồi thế nào cũng được, đoạn nhắm mắt lại. Kể từ giờ phút này, anh em giữ nguyên thế ngồi, không động đậy. Hãy để ý đến ngón cái chân phải, anh em cảm thấy nơi đó ra sao; tiếp tục tới ngón giáp ngón cái bên phải, ngón giữa, ngón thứ tư, ngón út, gan bàn chân phải, mu bàn chân, bắp chuối phải, đầu gối, đùi phía sau, phía trước. Giọng cụ Tài trầm trầm, cách quãng, dẫn tâm trí người nghe thực nghiệm cảm giác từng phần của cơ thể, tai bên trái. Chúng ta nghiệm lại từ đầu, ngón cái chân phải, ngón kế tiếp, ngón giữa, tai bên trái. Bây giờ chúng ta để ý nghe những tiếng động đang xảy ra chung quanh. Chỉ nghe mà thôi, không cần biết tiếng gì và do đâu phát ra. Tiếng vù vù, tích tắc, réc réc, ào ào, lẹt quẹt, Ngưng nghe, để ý tới cảm giác nơi ngón chân cái bên phải, ngón kế tiếp, ngón giữa. Cụ Tài dẫn tâm trí họ qua tất cả ba vòng cảm giác và hai lần nghe âm thanh chung quanh. Thôi, ngưng, mọi người mở mắt.
    - Có ai ngủ quên không? Cụ Tài hỏi nhẹ.
    - Thưa bác không, nhưng phê.
    - Ai có thể nói lên được mình cảm thấy thế nào làm ơn nói cho mọi người biết.
    - Thưa bác, cháu thấy đang lúc ấy cháu không để ý đến những gì xảy ra chung quanh. Hình như cháu cũng không để ý đến có nhiều người đang hiện diện mà chỉ chú tâm vào những điểm bác nhắc tới.
    - Nghĩa là anh chỉ nói lên được những gì không phải là cảm nghiệm của anh?
    - Bác nói đúng! Cháu không diễn tả được thực trạng xảy ra.
    - Cháu nghe, gọi là nghe chứ không phải nghe, có âm thanh nào đó không phải là âm thanh nổi lên trong đầu mình lúc để ý nghe những âm thanh chung quanh.
    - Anh vừa nói tương tự lối phát biểu nhà Phật, "gọi là nghe chứ không phải nghe, hoặc âm thanh nào đó không phải là âm thanh." Anh có biết anh nói gì không?
    - Cháu biết cháu nói gì nhưng cháu không biết phải nói thế nào.
    - Như vậy, cách nói chính xác nhất phải là chẳng nói gì vì càng nói càng chẳng nói được gì.
    - Thưa bác, đúng như thế, vì cháu suy nghĩ thì thấy nói thế nào cũng không đúng.
    - Không thể nào nói một cách chính xác tâm trạng cảm nghiệm được. Trường hợp này, Lão học diễn tả qua câu nói, "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Đây là kinh nghiệm thực tiễn hy vọng anh em để ý nghiệm chứng những câu nói của đạo học tận tình hơn. Hơi cao giọng, cụ tiếp, chúng ta vừa thực tập định tâm. Định tâm không có nghĩa không nghĩ gì nhưng dồn tâm trí vào một điểm. Định tâm chỉ là bước khởi đầu cho nghiệm chứng hay tu chứng, quán tưởng; vì chứng hay quán mà tâm không định thì không thể nào nghiệm được. Bởi thế, những bậc thực nghiệm tu chứng không tìm ảo giác của đời sống bên kia sau khi chết mà chính là thực chứng thực thể uyên nguyên nơi mình được gọi là Tự Tánh, Phật tánh. Từ cảm nghiệm thực chứng có thể nói, Phật học nhấn mạnh nhất về sự giác ngộ trong tất cả các đạo học. Mục đích của hành trình nghiệm chứng không phải là niết bàn, trạng thái đạt tới tâm tưởng vô cầu, vô niệm. Cũng như các nền đạo học Á Châu khác, kiến thức con người không thể nào phác họa rõ ràng cảnh giới tâm linh của nhà Phật (EM; Tr.34-35). Với lối nhìn qua lăng kính kiến thức hữu ngã, một số người theo những học thuyết Tây Phương cho rằng Phật giáo là một tôn giáo không tin nơi Thượng Đế (EM; Tr.35). Thực ra, về phương diện nhận thức sai biệt này, thái độ tốt nhất đối với chúng ta chỉ là im lặng. Chúng ta có thể nghĩ gì khi đặt mình vào thân phận những con giòi bọ đang sung sướng an hưởng hạnh phúc của chúng nơi xác rữa mục của con chuột chết xình thối. Chắc chắn chúng chê bai những con ruồi mẹ vừa đẻ chúng ra là ngu dốt, không biết nhận thức thiên đường thực tại nên đã vội lao đầu vào cõi không gian vô định chẳng có chi bám víu. Tôi nghĩ, kinh nghiệm cuộc đời minh chứng, nhiều khi chúng ta không biết mình đã nói gì. Phỏng đây có phải là những giây phút của trường hợp ứng thân nơi niết bàn hay không mà bao năm nay tôi vẫn chưa bao giờ đạt được câu trả lời sao cho có thể tạm coi như hợp lý hợp tình. Nói như vậy, anh em đừng để ý gì đến những lời tôi nói. Hãy tự cảm nhận, vì còn nói vẫn còn mê muội nơi ý niệm, ngôn từ. Đối với nhà Phật, thực thể con người không phải chỉ là thể xác được bắt nguồn từ thời điểm sinh vào cõi trần để rồi lúc nào cũng bị đe dọa bởi bệnh, lão, và chết chóc. Nó cũng không phải chỉ bao gồm một hệ thống những cảm giác, dục vọng, tình tự, tư tưởng vẫn thường gây nên cá tính mỗi người. Vượt lên trên hai thành phần vô thường đó, nhà Phật trình bày một thành phần hết sức linh diệu nữa, thường được gọi là Tâm, là một và có đồng những đặc tính của thực thể tuyệt đối, nghĩa là vô trụ, vô biên, thường tịch, thuần nhất. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có giảng cho ông A Nan về cái Tâm to lớn của con người bằng cách so sánh với cõi hư không và các thế giới: "A Nan, ngươi nên biết rằng, cái cõi không gian kia, sinh ra trong tâm ngươi, chỉ nhỏ bé như một đám mây điểm trên trời xanh, huống hồ là những thế giới còn nằm trong không gian thì thấm vào đâu với cái Tâm của ngươi" (XDNSQ; Tr.35-36). Tâm thường trụ hay tâm thể tuyệt đối nơi con người là gốc gác cho mọi sự biến chuyển của cuộc đời, là nguồn phát sinh mọi sự được gọi là pháp. Bởi vậy nhà Phật nói vạn pháp tự Tâm, không có pháp ngoài Tâm. Hai câu tiêu đề làm then chốt nhận thức nhà Phật đó là "Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy thức." Nói như vậy có nghĩa mọi sự vật trên cõi đời này đều phát sinh do nơi tâm thể, song cách thức chuyển hóa của Tâm thành sự vật là do thức quy định nên. Nói cách khác, Tâm thể không biểu hiện, thức là sự biểu hiện của Tâm (XDNSQ; Tr.37). Đây chính là điểm đức Đạt Ma sư tổ đã nói, "Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lại đã và sẽ được tạo thành trong tâm" (KCGL; Tr.201).
    - Thưa bác, tại sao lại gọi là tam giới.
     
    MBVN 05
     
    - Tam giới là ba cõi dục, sắc, và vô sắc. Ba cõi này bao gồm tất cả chúng sinh trong sinh tử (DGLP; Tr.34). Dục mang nghĩa tham ái thô trọng; sắc là những gì có thể nhìn thấy bằng mắt trần hoặc nơi tâm tưởng nghiệm chứng, ít tham ái hơn; vô sắc là cảnh giới thuần duy thức nơi quán tưởng. Tất cả những hiện tượng nơi cuộc đời hay trong hành trình tu chứng đều là phản ảnh của tâm Phật nên những cảnh giới chỉ là hiện thể hay phản ảnh từ nơi tâm Phật. Người tu chứng sẽ gặp những cảnh giới này trong hành trình chứng nghiệm. Như vậy, dẫu giải thích bằng bất cứ cách nào cho quý anh em lúc này cũng không mang lại lợi ích gì. Điểm tối quan trọng tôi muốn trình bày là có một thực thể hằng hữu nơi mọi người gọi là Tâm Bất Sinh mà các kinh sách gọi bằng nhiều tên khác nhau như tâm Phật, Tự Thể, Tự Tánh, Pháp Thân, Hư Vô. Thực thể này không lệ thuộc nơi bất cứ ngôn từ hay văn tự nào chỉ về nó, không lệ thuộc vào phương cách nghiệm chứng hay tu chứng do đó không bị giới hạn nơi tông phái Phật học nào. Vì mỗi tông phái lập thuyết khác nhau để dạy người, mà lý do duy nhất để thiết lập những giáo lý là cốt làm cho người ta nhận ra được tâm họ đã có sẵn ngay từ lúc họ được cha mẹ sinh ra; nói cho đúng, trước khi họ được sinh ra, tâm họ đã hiện hữu, tạm gọi theo ngài Bankei là Tâm Bất Sinh. Tâm này không ai sinh thành mà tự đã có nên bất tử. Như vậy, mọi sinh hoạt của các tông phái đều qui về một mục đích giúp con người nhận ra tâm hằng hữu, bất sinh nơi họ; nên các tông phái, các giáo lý chỉ là những phương tiện mà thôi. Tuy nhiên, anh em có thể nhận rõ nơi lòng mỗi người, đó là chúng ta chỉ muốn hiểu biết để tưởng mình đã đạt đến thực thể nghiệm chứng. Đây là tính chất học giả mà tôi gọi là "thứ ăn không tiêu," nghe, hiểu được luận lý, nhận định thế nào rồi lặp lại như vậy thường được gọi là trí thức, cái học từ chương, mỏ vẹt, thiếu suy tư cảm nghiệm. Tôi nghĩ, có thể đây là lý do ngày xưa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò. Ngày nay, con người đặt ra bằng cấp nọ, tiến sĩ kia. Anh em học hành khá, nhưng những kiến thức trường lớp có đáng giá miếng thịt, bát canh giúp ấm lòng mỗi khi đói bụng không, hay là công sức làm việc mới giải quyết được những thiếu thốn cuộc sống. Có thể nói, những kiến thức khoa bảng, chỉ giúp con người kiếm tiền một cách nhàn hạ hơn nhưng chưa chắc đã nhiều tiền hơn công sức làm việc và sự tính toán. Nói cho đúng, còn có động lực nào đó không dễ chi hiểu nổi vì phải là người được sinh ra để giầu có mới giầu được. Xét về đạo học, kinh sách không viết về những kiến thức khoa bảng này mà chỉ diễn tả kinh nghiệm hay cảm nghiệm thực chứng; ai không nghiệm chứng, dẫu thông thái, hiểu biết cách mấy cũng không thể nào đạt tới được. Đây là lý do chính yếu khiến kinh sách trở nên khó hiểu, mà kinh sách đạo học đâu phải được viết về kiến thức hầu giúp người hiểu biết đạt tới bằng này cấp kia.
    - Thưa bác, có câu nói, "Nói không suy nghĩ cũng như bắn súng không mục tiêu." Nếu không có đủ kiến thức sao có thể truyền bá hoặc giúp người khác hiểu biết. Thêm vào đó, cho dù ai nói hay đến mấy, không có bằng cấp đâu ai tin tưởng.
    - Vấn đề anh nêu lên người ta đã và đang áp dụng nơi tôn giáo từ bao lâu nay. Thử hỏi, sách vở hoặc những sự giảng thuyết kinh sách sao có thể nói lên được cảm nghiệm anh em vừa thực tập định tâm? Có ông tiến sĩ nào giải thích cho anh em cảm được câu nói mà anh Tùy vừa rồi phát biểu, "Gọi là nghe chứ không phải nghe, có âm thanh nào đó không phải là âm thanh nổi lên trong đầu mình lúc để ý nghe những âm thanh chung quanh." Đâu phải vô lý mà đức Đạt Ma sư tổ nói "Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được" (GLTH; Tr.205). Như vậy, đã không học được, không phải kiến thức khoa bảng thì đâu cần bằng cấp. Đem so sánh vấn đề nói năng, giảng giải cần suy nghĩ với mục đích truyền bá kiến thức nhà Phật đâu ăn nhập gì với hành trình nghiệm chứng. Anh em nên để ý, Lục tổ Huệ Năng đã nói, "Tất cả kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ kinh đều do người đặt ra vì có tánh trí huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Nên biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn. Kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy" (PBĐK; Tr.35). Các đạo học chỉ có một mục đích duy nhất, trình bày Thực Thể Tối Thượng đang hoạt động nơi mọi tạo vật mà nhà Phật gọi hành trình này là nghiệm chứng; nói theo lối bình dân tức là tu. Tu có nghĩa trở về với Pháp thân bất diệt của chúng ta chứ không vọng tưởng theo sự sống thân xác tạm bợ (KTTP). Đây cũng là hành trình giải thoát sanh tử, nhận ra Tâm bất sinh, bất diệt đang hoạt động nơi mình, ngộ được Bản Tánh, tâm Phật nơi mình; nhà Phật gọi là kiến tánh.
    - Thưa bác, nếu kiến tánh thành Phật thì trái với giáo lý của Thích Ca vì ngài đã phải trải qua nhiều kiếp và sau khi ngài tịch diệt, mãi lâu sau mới có Phật Di Lặc ra đời (KTTP). Hưng chen lời cắt ngang.
    - Khi anh nói về kiến tính, tôi những tưởng anh không nhận được điểm này! Kể ra thời gian một tháng đọc sách nhà Phật của anh cũng không uổng công. Kiến tánh thành Phật có nghĩa nhận ra Phật nhân, nhưng chưa thành Phật quả vì muốn thành Phật quả phải tu hạnh bồ tát. Chẳng hạn người nông dân có lúa giống nhưng không có gạo ăn ngay mà phải gieo mạ, cấy mạ, chăm sóc lúa, gặt hái. Như vậy, nhận ra Phật nhân vẫn còn phải trải qua nhiều kiếp tu hạnh bồ tát (KTTP). Tuy nhiên, bởi không biết thế nào để thực hành nghiệm chứng, đa số người có niềm tin nơi Phật giáo thường dùng quan niệm luân lý để giải thích các hạnh bồ tát, cố gắng sống tốt lành, thực hiện ăn chay niệm Phật và cho đó là tu hầu mong được giải thoát theo nghĩa tránh bị luân hồi vào cuộc đời khổ cực, đày ải kiếp tới. Đây có thể là lý do khiến những người hiểu mù mờ về Phật học đã quan niệm một cách sai lầm về chân lý giải thoát của đức Thích Ca. Thực ra, giáo lý nơi Phật học thâm trầm lại đòi điều kiện tâm trí minh triết, dẫu cho những bộ óc khoa bảng, danh vọng cao mà không nghiệm chứng vẫn chưa chắc hiểu được ngọn ngành giáo lý này. Theo nhà Phật, dẫu cố ép mình giảm bớt tham sân si để được giải thoát, và dẫu muốn tạo phước để cầu giải thoát thì vẫn còn bị ràng buộc bởi chính ý định muốn được giải thoát. Kiến có nghĩa nhìn thấy, nhưng nơi văn tự hay ngôn từ nhà Phật, kiến tức là nhận ra, nhận thực được. Kiến tính thành phật là nhận thực ra tâm Phật đã ở nơi mọi người. Khi một người nhận thực ra được Bản Tánh, tâm Phật nơi mình không nghi ngờ, không lay chuyển thì được gọi là kiến tánh. Chẳng hạn nếu có ai nói mặt trời đen thì dù cho ai nói thế nào chúng ta cũng không bị lay chuyển bởi đã nhìn thấy rõ ràng, không lệ thuộc vào bất cứ lý luận, hiểu biết nào ám ảnh mình (KTTP). Do đó, chẳng lạ gì đã có quan niệm, cũng như Lão giáo, Phật học cho rằng sự lầm lỡ căn bản và nguyên nhân của tất cả phiền não nằm trong sự xa lìa của nội tâm con người đối với Tâm Thể Tuyệt Đối (XDNSQ; Tr.46).
    - Thưa bác, tâm Phật nơi mọi người và Tâm Thể Tuyệt Đối là một thì sao có thể nói được xa lìa hay không.
    - Anh Sỹ hỏi như vậy chứng tỏ đã có tiến bộ. Tôi dùng ngôn từ "xa lìa" chỉ có nghĩa không nhận ra, hay vô minh.
    - Thưa bác, vậy có phương pháp thực tiễn nào áp dụng trong hành trình tu chứng để đạt tới Tâm Phật không?
    - Chỉ có một phương pháp độc nhất nhưng thường bị những sự thông thái kiến thức nơi mọi người khuất lấp. Nhà Phật giải thích phương pháp qua nhiều biểu tượng ám định, và càng giải thích, kẻ tu chứng càng lọt vào màng lưới luẩn quẩn vô minh. Phương pháp này anh em đã được nghe mấy lần nhưng không ai để ý nghiệm chứng mà có thể lại cho là khùng dẫu không phát biểu thành lời.
    - Thưa bác,
    - Có phải anh muốn nói câu hỏi về phương pháp tu chứng thực tiễn mới được nêu lên mà vẫn chưa có câu trả lời trong khi tôi nói anh em đã được nghe mấy lần, thực là phi lý phải không? Tôi nhắc lại, "Không làm gì là làm tất cả." Có phải tôi đã nói với anh em mấy lần rồi không? Đây là câu nói Lão học. Bất cứ ai nghe tới câu này đều cho rằng người nói là khùng, và chính anh đã nói lúc nãy. Đây là phương pháp không có phương pháp. Tâm Phật, Tâm Bất Sinh đã sẵn có nơi mọi người thì đâu phải làm gì, ước muốn thế nào để đạt tới. Vấn đề chỉ là nhận thực được hay không. Nhận ra chưa đủ mà nghiệm thực mới đúng. Như vậy, anh em hiểu lý do tại sao nhà Phật đặt nặng vấn đề tu chứng hay nghiệm chứng, ngược lại coi thường những hành động tốt lành hữu vi. Bởi thế, định tâm là cửa ngõ thực nghiệm đi vào tu chứng mà tu chứng lại không đòi hỏi phải làm gì, thế nào. Nói như vậy có nghĩa vọng niệm hết sạch tức là tu thành công (NTGG; Tr.25). Anh em nên nhớ nằm lòng, kiến tính nơi nhà Phật là mục đích tối thượng của thiền nhưng kiến tính không phải là công trình của sự khảo cứu, sưu tầm. Kiến tính là trạng thái đạt đến sự chứng đắc Pháp thân. Bởi vậy, bản chất của thiền là tu chứng, nghiệm chứng, hành trình thực hiện kiến tính chứ không phải là suy tư triết học. Bồ Đề Đạt Ma nói: "Thiền do Phật truyền lại, nó không dính líu gì đến kho tàng giáo lý và kinh điển mà các ông đang nghiên cứu" (NVTH; Tr.29). Tiếng Trung Hoa dịch buddha là giác giả, người tỉnh thức, người giác ngộ (NVTH; Tr.31). Vậy Phật học là giáo lý hướng dẫn sự hiểu biết, giác ngộ. Sự hiểu biết này không phải do công trình nghiên cứu, học hỏi và suy luận mà chính là tu chứng, nghiệm chứng. Như vậy, ngồi thiền không phải là để suy tư, phiêu lưu trong thế giới ý niệm phân biệt; vì còn ý niệm, còn phát sinh vọng tưởng đối đãi. Chứng nghiệm không phải sự luẩn quẩn suy đoán ý niệm mà gieo mình vào thực tại. Thực tại ở ngoài vòng khái niệm vì những gì còn trong khái niệm, ý niệm thì không phải thực tại. Ý niệm về bia không phải là bia; ý niệm về ớt không thể khiến mình vội vàng kiếm nước súc miệng vì cay bỏng lưỡi. Nói cho cùng, phương pháp đạt tới tâm Phật tóm lại chẳng có gì đáng nói vì mình chính là tâm Phật.
    - Thưa bác, nếu mình đã là tâm Phật đâu cần phải định tâm, tu chứng, nghiệm chứng,
    - Anh là ai?
    Cụ Tài chợt hỏi một câu thật đơn giản dường như chưa từng quen biết khiến mọi người cảm thấy lạ lùng, không hiểu cụ có ý định gì, nhất là Phủ.
    - Bác biết rõ cháu là Phủ.
    - Phủ chỉ là tên, không phải là anh.
    - Cháu...
    - Dù anh trả lời thế nào chăng nữa cũng không phải là anh. Như vậy chính anh cũng không nhận biết được anh là ai thì sao nói tới tâm Phật nơi anh. Định tâm, tu chứng, nghiệm chứng cũng chỉ là những ngôn từ chỉ về những trạng thái tâm tưởng phải trải qua để nhận ra mình thực sự là gì. Tuy nhiên, ai không biết được, nghiệm được mình là ai mà không ai có thể trả lời được. Có chăng, một người chỉ có thể nói về những gì không phải là họ, và chẳng thể nào nói được chính họ là gì. Kinh sách các đạo học, những hệ thống giáo lý cũng chỉ là phương tiện cho con người thực sự nhận ra họ là ai mà thôi. Bởi thế, dẫu không thể nào diễn tả hay giải thích mình là ai, anh em có cần phải dùng phương pháp, đường lối nào để nhận thực được mình là ai không? Như vậy, những suy tư, nghiệm chứng để nhận thực mình là gì không làm mình thay đổi gì, thêm, bớt, hao mòn chi, vì những hoạt động tâm tưởng ấy chỉ là phương tiện; mà một người không thực hiện những hoạt động tâm tưởng này sẽ không nhận được mình thực sự là gì. Nói cho đúng, chúng có cũng như không; mà không có chúng thì không thể nào kiến tính. Tôi giải thích như thế hy vọng anh em nhờ đó nghiệm được thực thể căn bản nơi nhà Phật, và đó là tất cả chúng sanh đều có tánh giác linh minh không tịch không khác với Phật, chỉ do từ vô thủy kiếp đến nay chưa từng liễu ngộ. Bởi vọng chấp thân là tướng của ta cho nên con người sanh tình yêu ghét, theo tình tạo nghiệp, theo nghiệp thọ báo, sanh, già, bịnh, chết, luân hồi nhiều kiếp. Nhưng giác tánh, tâm Phật trong thân chưa từng sanh tử (NTGG; Tr.17). Nói rằng tu chứng, nghiệm chứng nhưng thực ra không gầy dựng, không tạo lập do đó không tạo tác vọng tưởng. Điều này có nghĩa, tu mà không tu; đó là lý do tại sao nhà Phật có câu nói Tu vô tu tu (NTGG; Tr.28). Ý thức như vậy anh em mới có thể hiểu được câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, "Chẳng nhận được bổn tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bổn tâm, thấy được bổn tánh, tức gọi là trượng phu, thiên nhơn, sư, Phật" (PBĐK; Tr.20).
    - Thưa bác, nếu như thế những kinh sách đều viết những điều vô ích, chẳng những thế lại còn khiến tâm trí con người lệ thuộc bởi đã gieo vào tâm trí con người niềm tin nơi đạo giáo và ước muốn giải thoát?
    - Hỏi như vậy tất nhiên anh tự đã có câu trả lời. Trước hết, nói theo nhà Phật, niềm tin nơi đạo giáo và ước muốn giải thoát đều là vọng tưởng. Bởi vô minh, con người không nhận ra tâm Phật nơi mình chẳng khác gì không biết mình là ai. Sự giảng dạy, các giáo lý nơi kinh sách chỉ có mục đích cố xóa bỏ vô minh. Cũng như mặt trời, mặt trăng lên cao đều soi sáng khắp nơi mà người mù không thấy, chậu úp không biết, như vậy, không phải mặt trời mặt trăng chẳng soi khắp mà tại lỗi che đậy ngăn cách (NTGG; Tr.16). Kinh A Di Đà dạy rằng "Nhứt tâm bất loạn thì Phật hiện liền. Cũng như đi, đứng, ngồi, nằm, tâm hằng thanh tịnh, không chút vọng niệm khởi động thì Phật tánh hiện liền (NTGG; Tr.26). Bởi đó, niệm Phật, tụng kinh, trì chú là dùng phương tiện để đàn áp vọng tưởng. Phương pháp này gọi là tu mật tông. Tu thiền thì ngay nơi vọng tưởng biết vọng tưởng, không theo tức là dùng trí tuệ nhìn (nhận ra) thẳng vọng tưởng, không dùng phương tiện để đàn áp hay kềm chế nên gọi là trực chỉ (NTGG; Tr.24). Chẳng hạn, khi anh em định tâm, tức là dồn hết tâm trí để tìm hiểu mình là ai, nhiều câu trả lời tự đến nơi tâm trí, thí dụ tôi là đàn ông, nhưng đàn ông chỉ là phái tính, không phải là tôi; tôi là kỹ sư, mà kỹ sư lại là mức độ định giá kiến thức hiểu biết, không phải là tôi. Anh em không để tâm tưởng đào sâu nơi những câu trả lời không phải là mình, không để chúng ảnh hưởng nhận định mà nghiệm cho đến tận cùng. Sự tận cùng này dồn tâm trí anh em vào trạng thái bế tắc tâm tưởng không cách nào tránh thoát trong giai đoạn thời gian nào đó tùy thuộc tư chất, căn cơ của mỗi người. Có người chợt đặt vấn đề đã nghiệm chứng được; có người cần đôi ba tháng, dăm bẩy năm; lại có người cả đời cũng không thể nào đạt tới được. Đây là hành trình trực chỉ nhân tâm, đối diện với chính tâm hồn mình để nhận ra mình là ai. Hơn nữa, chẳng hạn khi câu trả lời "Tôi là đàn ông" đến nơi tâm trí, chúng ta thấy vẫn không phải là mình do đó bỏ qua không để ý cũng không dồn tâm trí vào nó. Thái độ này được gọi là "Tâm không trụ," nhưng nếu cứ để ý nơi ý nghĩ mình là đàn ông, không phải phái nữ, hay bất cứ ý niệm nào thì gọi là trụ. Lục Tổ Huệ Năng giải thích rõ về trường hợp này, "Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với đạo có lợi ích gì? Lúc sống thì ngồi chẳng nằm. Lúc chết thì nằm chẳng ngồi. Vốn là đống xương hôi thúi. Đâu thể thành lập công phu" (PBĐK; Tr.117).

    - Thưa bác, như thế thiền đâu cần phải có phương pháp hoặc phải ngồi một chỗ.
    - Anh nói đúng. Thiền chỉ cần định tâm, dồn tâm trí nghiệm chứng chứ không phải theo quy luật, nghi thức nào. Qui luật, nghi thức chỉ có mục đích giúp con người dễ định tâm mà thôi. Tâm Phật mà mọi người bẩm sinh đều có thì anh em muốn đọc kinh cứ việc đọc kinh, muốn ngồi thiền cứ việc ngồi thiền, muốn giữ giới cứ việc thọ giới, muốn niệm Phật cứ việc niệm, muốn trì chú cứ trì chú, hay cứ thi hành phận sự hàng ngày của anh em, dù anh em là, nông dân, thợ thuyền; công việc sẽ là pháp chánh định của mỗi người. Vấn đề chỉ là hãy nhận ra tâm Phật mà mỗi người bẩm thụ từ lúc chưa được sinh ra. Điều cốt yếu là nhận ra và an trú trong tâm ấy với niềm tin tưởng và lòng xác tín (TBS; Tr.110-111), luôn luôn nghĩ đến tâm Phật bất sinh. Không hâm nấu những tư tưởng này nọ trên cái nền bất sinh ấy, nghĩa là không bám lấy những gì tâm trí chúng ta nghĩ tới (TBS; Tr.113) khiến tâm Phật phản ứng tạo thành những ý tưởng. Khi tâm trí không bị lay chuyển thì không tư tưởng nào còn khởi lên dù tốt hay xấu và do đó cũng không cần phải diệt. Như vậy chúng ta không tác tạo cũng không hủy diệt.
    - Thưa bác, đã suy nghĩ tức là đã tác tạo ý niệm, vọng tưởng. Đàng khác, sao có thể nghĩ tới tâm Phật khi tâm Phật không thể tưởng tượng, không thể nghĩ bàn, và như vậy lấy gì để an trú?
    - An trú có nghĩa để nó là chính nó, đừng tìm kiếm, không nhận thức, chẳng cần hiểu biết. Thực ra, càng cố gắng tìm hiểu, nhận biết chỉ càng tạo ra những ý niệm, tư tưởng phù phiếm, và tạo nên nhiều vọng tưởng khiến tâm trí con người không còn được giây phút nào yên ổn, phát sinh thêm lắm phản ảnh nơi tâm Phật. Theo nhà Phật, mong muốn được giác ngộ có vẻ là chuyện hoàn toàn tốt đẹp đáng khen, nhưng kỳ thực là si mê. Sự mong muốn thành Phật của con người trước hết là điều vô ích bởi tâm Phật nơi chúng ta vốn có từ trước lúc sơ sinh, vốn bất sinh nên chưa cần suy nghĩ, mọi sự đã được nhận ra rõ ràng mà không cần đến một thứ khôn lanh nào, cũng không cần đặt trên cơ sở những khái niệm mê hay ngộ. Hãy ở nguyên trong trạng thái đó tức là an trú nơi tâm Phật thì mọi sự đều được nhận ra và phân biệt rõ ràng. Điều này có nghĩa hãy để cho mọi sự tự thu xếp lấy, bất cứ gì xảy ra sẽ được giải quyết trôi chảy dù con người muốn hay không. Đây chính là sự vận hành của tâm Phật và diệu dụng chiếu sáng của nó. Tuy nhiên, vì không hiểu điều này, chúng ta cứ tưởng chính mình dàn xếp mọi sự nhờ tài khôn lanh nên vẫn bị mê mờ. Anh em nên hiểu rằng, khi đối diện với ngoại cảnh mà không tạo nên vọng tưởng, không để ngoại cảnh gây phản ảnh nơi tâm Phật thì đấy chính là căn bản tu chứng, nghiệm chứng (TBS; Tr.158-159). Những ý tưởng, ý niệm chính là si mê, thị dục, chúng giống như rượu. Chúng ta không uống rượu, tất nhiên không thể say; thế nên, hành giả không theo đuổi ý tưởng sẽ không bị nó hành hạ. Hãy để yên cho nó khởi và tự diệt vì còn cố đàn áp, dẹp bỏ vọng tưởng vẫn là mê muội (TBS; Tr.166).
    - Thưa bác, thật khó mà cứ để cho những vọng tưởng khởi và diệt một cách tự nhiên.
    - Sở dĩ chúng ta gặp khó khăn vì đã bị ảnh hưởng quá nặng nề từ kinh nghiệm sống. Mọi người đều biết, muốn có gì, được gì, chúng ta phải làm gì. Từ đó, vì tưởng rằng có một phương pháp đặc biệt nào đó mới có thể để mặc cho những vọng tưởng khởi và diệt nên chúng ta thay vì để chúng tự khởi, tự diệt, lại lo tìm kiếm phương pháp vô tưởng nào đó (TBS; Tr.168). Chẳng hạn những phương pháp tọa thiền và tất cả các pháp đều là những phương tiện của các bậc thầy dùng để đối phó với những tình huống đặc biệt và đáp ứng những nhu cầu của từng cá nhân trong hành trình tu chứng. Thực ra, ngay từ đầu đã không có những quy luật cố định. Thế nên, nếu chúng ta xem những phương tiện tạm thời ấy như những lời dạy bất di dịch thì cũng như tự bịt mắt mình (TBS; Tr.178). Ngay cả việc muốn thành Phật liền bây giờ cũng là một điều giả tạo. Chỉ cần nhận thức rằng mình đang tạo những ước nguyện, rồi cứ sống tự nhiên, đừng vướng mắc bất cứ sự gì, thì bản lai diện mục của chúng ta sẽ được hiển lộ (TBS; Tr.179).
    - Thưa cụ, ông Thung lên tiếng, nói như vậy phỏng có nghĩa không cần cố gắng, phấn đấu hay thực hiện tu chứng?
    - Ông nói đúng, không cần phấn đấu chúng ta vẫn có thể đạt được toàn giác ngay tại chỗ nhưng đã chẳng ai tin hoặc nghĩ thế là đúng bởi họ còn đang muốn đạt tới toàn giác. Sở dĩ các phương thức thiền còn đang được phổ biến ngày nay cũng vì không hiểu nên người ta bắt chước một cách mù quáng với hy vọng sai lầm bởi cho rằng cứ thực hiện cùng một nguyên tắc sẽ phát sinh cùng một hậu quả (TBS; Tr.244). Thực ra, không có hình thức chỉ giáo đặc biệt nào về pháp tu, cũng không có phương pháp đặc biệt nào. Nguyên nhân chính chỉ vì người ta không nhận ra ngay trong chính mình đã sẵn có tâm Phật từ thuở sơ sinh, nói cho đúng, trước khi được sinh ra, nên họ tưởng không có sự tự do giải thoát thành ra kiếm tìm những phương thức giải thoát bên ngoài hoặc tưởng rằng những sự hiểu biết giúp họ đạt tới kiến tính. Như vậy, tâm tưởng cố theo đuổi nhận thức, ước muốn, được gọi là vô minh, do ngoài việc tu tâm chẳng có hạnh môn riêng (NTGG; Tr.14). Bởi thế, gọi là tu chỉ có nghĩa đừng cố gắng thực hiện gì, đừng nghĩ gì, và chỉ để cho Tánh Phật hiển lộ mà thôi. Suy luận cách khác, Phật tính là tâm thanh tịnh trùm khắp, vì vọng tưởng che lấp làm mờ đi. Thế nên, chỉ cần buông vọng tưởng, và khi vọng tưởng sạch hết thì tâm thanh tịnh hiện nên được gọi tạm là thành công chứ thực ra chẳng có gì thành đạt cả. Bởi vậy, khi tu, chúng ta không cần cầu Phật, chẳng theo pháp để được chứng minh hay điểm đạo chi hết; vì nếu người ngồi thiền mà còn mong Phật tới, bồ tát giúp, thì vẫn còn theo đuổi vọng tưởng, do đó vẫn còn mê lầm, vẫn theo dục (NTGG; Tr.25). Anh em nên ngẫm câu nói, “Không làm gì là làm tất cả.”
    - Thưa bác, như vậy chẳng khác gì vô tâm.
    - Vô tâm là không vọng tưởng chứ không có nghĩa không có tâm. Khi hết vọng niệm Chân Như thể hiện, nếu còn vọng niệm tất nhiên còn chướng ngại. Đó là lý do tại sao Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn dạy bảo các môn đồ, "Sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sanh tử. Tự tánh nếu mê, phước làm sao có thể cứu được?" (PBĐK; Tr.13), vì hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được (PBĐK; Tr.13). Suy lường chính là dụng tâm phân biệt do nhận định đối đãi. Thế nên, ngộ được diệu lý của Tâm thì tội phúc đều không, mà còn mê lầm thì thiện ác đều có, bởi tất cả chỉ là hiện thể của tâm (KTTP). Anh em đã thử nhìn những bức tranh người Mỹ gọi là "Magic pictures" chưa? Muốn nhìn thấy hình ảnh thực sự ẩn dấu nơi những bức tranh này, người nhìn phải chỉnh đốn mắt của mình sao cho không để ý đến những nét tiểu tiết của bức tranh mà mắt phải nhòa đi thì mới thấy được. Kiểu nhìn thực nghiệm này có thể so sánh với lối nói vô tâm nơi nhà Phật, không để ý đến những tiểu tiết vọng tưởng, ý niệm mà nghiệm cái gốc, cội nguồn của những ý niệm. Nhà Phật gọi thực thể phát xuất ý niệm là Tâm Hư, Tâm Vô, hay tâm Phật. Hiểu như vậy anh em mới nhận ra câu trả lời của Lục Tổ Huệ Năng, "Truyền thọ thì không, chỉ cần kiến tánh, chẳng cần thiền định giải thoát" (PBĐK; Tr.27) mang nghĩa chi, khi Ấn Tông hỏi ngài đã được Ngũ Tổ truyền thọ gì.
    - Thưa bác, nếu đã là Tâm Hư, Tâm Vô, chẳng cần thiền định giải thoát thì đâu cần định tâm, trụ tâm.
    - Anh lại bị lệ thuộc vào ngôn từ nhà Phật. Tâm Hư, Tâm Vô đâu phải vô tâm mà chính là tâm Phật, không thể nghĩ bàn được. Không thiền định giải thoát tức là không chú tâm, không ước muốn giải thoát vì còn ước muốn vẫn là vọng tưởng. Thế nên, tâm chẳng trụ có nghĩa không đặt tâm trí vào bất cứ pháp nào hay ý niệm nào. Lục tổ có nói, "Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động; tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói. Lại có kẻ dạy người lấy ngồi làm công phu, khán tâm quán tịnh, chẳng khởi chẳng động, kẻ mê chẳng hiểu, bèn chấp ngồi thành bệnh, nhiều người truyền nhau vậy, thật là lầm lỗi lớn (PBĐK; Tr.58). Tu chứng nhà Phật chẳng trụ bất cứ gì, không cầu đạt tới mực độ nào nên gọi là vô trụ, vô niệm. Lý do, tâm Phật, Tâm bất sinh đã sẵn nơi mọi người nên đâu cần chứng, đắc, đâu phải theo phương pháp nào để nhận ra vì dẫu không nhận ra cũng đã sẵn có. Bởi vậy tâm trí nhiều người bị mờ mịt khi suy nghĩ về câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, "Người mê đời sau nếu nhận được chúng sanh, tức Phật tánh. Nếu chẳng nhận được chúng sanh, dẫu cho muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Chẳng phải Phật tánh làm mê chúng sanh, tự tánh nếu ngộ, chúng sanh là Phật, tự tánh nếu mê, Phật là chúng sanh. Tự tánh bình đẳng, chúng sanh là Phật, tự tánh tà hiểm, Phật là chúng sanh. Nếu tâm hạnh quanh co thì Phật ở nơi chúng sanh, nếu được nhất niệm bình đẳng ngay thẳng thì chúng sanh thành Phật. Tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa. Vạn pháp đều tự tâm sanh khởi, chẳng phải vật bên ngoài có thể kiến lập; nên kinh nói, 'Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt'" (PBĐK; Tr.145). Thế nên càng tìm kiếm, càng ước muốn, càng năng động thì lại càng chìm sâu nơi trạng thái nhà Phật gọi là dục. Nói cách khác, những gì chúng ta cố công thực hiện, dẫu chỉ là ước muốn, đều vô ích và ngăn cản sự hiển lộ Tâm Phật. Và như vậy, không ước muốn gì, không thực hiện gì, không làm gì là làm tất cả, và phương pháp nghiệm chứng chỉ cần định tâm chứ không trụ tâm.
    - Thưa bác, nói rằng nhận được chúng sanh tức Phật tánh thì đâu cần gì phải nói, vì ai mà không nhận được mọi người, mọi vật chung quanh.
    - Anh có biết anh nói gì không?
    - Cháu muốn nói nếu Phật là chúng sanh thì đâu cần tu chứng.
    - Nói cái gì? Cái gì nói?
    . . .
    Và thế là Sỹ nhà con im tịt. Mọi người cảm thấy lạ lùng vì câu hỏi bâng quơ, đầy vẻ ngây ngô của cụ Tài. Câu hỏi mang tính chất kỳ cục vì Sỹ vừa mới nói, cụ đã hỏi "Nói cái gì" và lật ngược câu hỏi biến thành "Cái gì nói." Bá mỉm cười, nét mặt lộ vẻ hứng thú, chậm rãi nâng chai bia tu một hơi coi bộ thoải mái lắm, không nói gì nhưng thái độ tỉnh táo ngược lại nét trầm ngâm đang đè nặng trên gương mặt mọi người. Mấy ngón tay hắn tiếp tục xoay nhẹ chai bia sau khi đặt xuống bàn. Cụ Tài nâng ly rượu hớp một ngụm, từ từ đưa mắt nhìn rảo quanh mọi người, bắt gặp đôi mắt Bá đang nhìn mình; cụ cũng mỉm cười chừng như hội ý điều gì. Bá bỗng lên tiếng,
    - Cho chừa nói dại.
    Thế là Sỹ nhà con vội cướp lời,
    - Chú nói dại nghĩa là sao?
    - Tự tánh nếu ngộ, dại là Phật, tự tánh nếu mê, Phật là dại. Bá dùng câu nói của Lục Tổ đổi "chúng sanh" thành "dại" khiến người nghe cảm thấy câu nói trở nên càng ngớ ngẩn.
    - Tôi nghĩ anh Bá nên giải thích câu nói của lục tổ. Cụ Tài đề nghị ngắn gọn có ý thử xem Bá nghĩ gì.
    - Thưa bác, giải thích cũng như không mà không giải thích có lẽ tốt hơn bởi có thể càng giải thích chỉ càng làm câu nói khó cảm nhận. Điểm chính yếu nơi câu nói của lục tổ Huệ Năng chỉ là, "Người mê đời sau nếu nhận được chúng sanh, tức Phật tánh." Đó cũng là câu trả lời cho câu hỏi có vẻ kỳ cục bác nêu lên, "Nói cái gì? Cái gì nói? Theo nhà Phật, "Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt." Tâm nói, Tâm chứng, do đó chẳng có gì để nói, để chứng bởi Tâm bất khả tư nghị. Như vậy, Lục Tổ giải thích thêm, "Nếu chẳng nhận được chúng sanh, dẫu cho muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp" thì có giải thích cũng bằng thừa, nếu đã chẳng nhận được chúng sanh.
    - Anh nói có lý. Điểm khúc mắc người ta thường gặp nơi câu nói của lục tổ chỉ là lời ngắn gọn, "tức Phật tánh." Khi còn thấy người, thấy ta, thấy chúng sanh, thấy tâm Phật thì còn phân chia nhĩ, ngã, vẫn còn mê. Còn nhận ra "Nói cái gì" thì vẫn không nhận ra "Cái gì nói."
    - Ồ, sao bác diễn tả dễ dàng như thế mà đối với cháu thì lại quá khúc mắc.
    - Có lẽ vì anh còn suy nghĩ.
    - Hèn chi bác nói điểm khúc mắc "tức Phật tánh,” Có điều, khi đặt vấn đề về tịnh và động của nhà Phật, cháu cứ bị rối mù lên, mà càng nghe giải thích, càng tìm tòi kinh sách thì lại càng không hiểu gì, nào là thiền cái không, rồi chớ chấp không, nào tịnh, động, nào là chẳng động, lại còn tâm hư không. Ối chào, tịnh cũng chẳng được mà động cũng chẳng được, cháu chẳng biết sao nên cứ luẩn quẩn vì chưa nghiệm ra được thế nào để chẳng tịnh và cũng chẳng động.
    - Ngôn từ nhà Phật được hiểu tùy theo trường hợp. Nếu nói chứng cái Vô, cái Không, thì có nghĩa định tâm chứng tâm Phật. Đàng khác, theo ngôn từ giải thích bình thường, "Vô" là không tâm sai biệt, không phân chia đúng sai, phải trái vì tất cả đều phát sinh tự tâm Phật. Lục tổ nói, "Chớ nghe ta nói không mà liền chấp "không." Trước nhất chớ chấp không, nếu để tâm không tĩnh tọa là lọt vào "vô ký không" (PBĐK; Tr.30). Đồng thời ngài lại cũng nói, "Tâm lượng là việc lớn, miệng chớ trọn ngày nói "Không" mà trong tâm chẳng tu hạnh này giống như thường dân tự xưng là vua thì không được" (PBĐK; Tr.31). "Chấp không" có nghĩa lệ thuộc ý niệm cho rằng không có gì; "Tu hạnh không" là nghiệm chứng mọi vật mọi sự phát sinh từ tâm Phật không phân chia đúng sai. Bởi vậy, chúng ta nên nghiệm cho rõ, trong hành trình tu chứng, "Bên ngoài lìa tướng là thiền. Bên trong chẳng loạn là định. Nếu ngoài chấp tướng, tâm trong liền loạn. Bản tánh tự thanh tịnh mà chỉ vì chấp nên thành loạn. Thấy mọi cảnh mà tâm không loạn gọi là chơn định" (PBĐK; Tr.63). Đó là ý nghĩa thực nghiệm của thiền. "Thiền chẳng chấp tâm, chẳng chấp tịnh, cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói chấp tịnh, tự tánh vốn tịnh, chỉ do vọng niệm che khuất Chơn Như. Khởi tâm chấp tịnh lại sanh vọng tịnh. Vọng chẳng xứ sở; kẻ chấp là vọng; tịnh chẳng hình tướng, lại lập tướng tịnh mà cho là công phu tạo chướng tự bản tánh nên lại bị trói vào ý niệm tịnh" (PBĐK; Tr.62). Bởi vậy lục tổ nói, "Con người ngu mê miệng nói bát nhã mà tâm chấp nhất; miệng nói không mà chẳng biết "Chơn Không" (PBĐK; Tr.32). "Người đời ngoài mê chấp tướng, trong mê chấp không. Nếu được ở nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không, tức là trong ngoài chẳng mê" (PBĐK; Tr.81-82).

    - Ah, cháu đã hiểu được điểm giác ngộ nơi câu chuyện Hương Nham.
    - Hiểu, chưa chắc đem lại lợi ích gì. Anh nên chứng câu nói của Lục Tổ, "Người hễ tâm như hư không, chẳng chấp vào không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ý), thánh phàm đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng như như thì không lúc nào chẳng phải định vậy" (PBĐK; Tr.108).
    - Cháu cảm ơn bác, nhưng cháu chỉ mới hiểu được lý do tại sao bác chỉ cách định tâm lại còn nhấn mạnh thực nghiệm câu nói nơi Lão học. Tuy nhiên, định tâm để nghiệm thì phải quán; mà khi quán nếu không nghi lại sinh chấp, và đã chấp tất nhiên mê, muốn khỏi mê thì phải nghi và đã nghi tâm không định.
    - Câu nói "Nghi lớn thì giác ngộ lớn; nghi nhỏ thì giác ngộ nhỏ; chẳng nghi thì chẳng bao giờ giác ngộ (PHTH; Tr.59) mang nghĩa không chấp để nghiệm chứ không phải chấp nghi. Người ngày nay đặt nặng vấn đề hoài nghi chỉ vì họ học theo bậc thầy ngày xưa. Bởi thế, họ đã tạo ra một thứ hoài nghi bắt chước. Sự hoài nghi này không chân thật nên họ sẽ không có ngày nào giác ngộ (TBS; Tr.185). "Lại có những thiền sư dạy đệ tử rằng họ sẽ không được cái gì nếu không gom thành một khối nghi lớn để phá vỡ. Họ không dạy người ta an trú trong tâm Phật mà cứ bắt người không có hoài nghi cũng phải nặn cho ra một khối nghi, thế là khiến họ đổi cái tâm Phật thành một khối nghi; quả là việc lầm lẫn" (TBS; Tr.125). Thử hỏi, nghi để làm gì nếu không chấp. Đây chính là sự thực hiện câu nói, "Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ" (NVTH; Tr.63) mà anh Hưng nhắc lại lời nơi Lâm Tế Lục. Trong hành trình nghiệm chứng, nếu chấp nghi để rồi cố ráng vạch vòi cho đến tận cùng những cảm nghiệm nơi kinh sách, hiểu được câu này lại tiếp tục thắc mắc về câu khác, cứ thế không bao giờ dứt; phỏng cuộc đời một người đã thấm thía gì với muôn vàn thứ cần phải nghi. Hơn nữa, đọc kinh sách lại quanh quẩn chấp kinh thì những chữ nghĩa ấy có ích gì cho sự học đạo (TBS; Tr.226). Rán sức tu hành, chấp pháp, cố tọa thiền để được giác ngộ đều sai. "Không có gì khác nhau giữa tâm của chư Phật với tâm Phật nơi mỗi người. Mong cầu đạt giác ngộ là tạo ra một sự phân hai, thành ra có người giác ngộ và chân lý được giác ngộ (năng chứng, sở chứng). Khi còn đeo đẳng một chút nào ước muốn giác ngộ thì lập tức đã giã từ tâm bất sinh. Tâm Phật mà con người có từ thuở sơ sinh với Chân Như chỉ là một, không có hai hay ba" (TBS; Tr.145).
    - Bác muốn nói không cần hiểu?.
    - Hiểu tâm Phật bất sinh bằng tri thức thì chỉ là tư duy trống rỗng. Không thể nói người nào hiểu biết về một vấn đề nào là đã thực chứng được một cách triệt để. Nói đúng ra, sự hiểu biết về tâm Phật vô giá trị, dù có đem giảng dạy cho người khác họ cũng không nhận ra được vì thiếu nghiệm chứng chẳng khác gì nghe nói về một món ăn mà không bao giờ được nếm thử. Tự bản thân không thực hành mà chỉ dạy những gì chúng ta biết bằng tri thức thì không cách gì người khác có thể nhận ra được tâm Phật. Hiểu là chuyện dễ, hành mới là khó (TBS; Tr.134).
    - Thưa bác, phỏng thiền là hành hay nghiệm?
    - Anh khá thông minh! Hành nơi nhà Phật chính là nghiệm nhưng thường đã được hiểu làm một việc gì hoặc dụng công sức thực hiện chuyện gì chẳng hạn ngồi bất động, thường được gọi là thiền. Thiền là hành trình kiến tánh, hành trình tu chứng, nghiệm chứng, để nhận ra được tánh giác, linh giác, chân tâm nội tại của mình. Như vậy, làm công việc gì thì cứ làm, nói thì cứ nói miễn không theo vọng tưởng, không có chủ đích, đó là thiền. Chính tâm mình là Phật chứ không phải gì khác, nhưng không phải tâm vọng tưởng, ước muốn. Tâm vọng tưởng gọi là mê, vô minh. Tâm không vọng tưởng là tâm giác. Như vậy, bỏ vọng tưởng tức không còn mê, bỏ mê để sống với giác tức minh triết, tức thiền, tức tu chứng, nghiệm chứng. Lìa vọng tánh phân biệt tất nhiên trở lại Phật tánh linh giác đã có sẵn nơi mình (KTTP).
    - Thưa bác, nếu Phật tánh đã sẵn nơi mình thì sự kiếm tìm, ước muốn đạt tới sao có thể nói là vọng tưởng?
    - Thực ra, những vấn đề chúng ta bàn luận chỉ một phần nào dùng nhận thức tìm hiểu về hành trình chứng ngộ Tâm thể của mình; nhà Phật gọi là tri kiến hay tu chứng, nghiệm chứng. Đàng khác, dù suy tư thế nào, giãi bày ra sao, chúng ta cũng không thể nào nói gì về tâm Phật nơi mình mà ngược lại, chỉ nói những gì không phải tâm Phật bởi tri kiến Phật phải tự nơi tâm. Phật tâm chẳng ở bên ngoài. Do ý niệm, vọng tưởng che khuất tạo thành tham ái nên phát sinh nhiễu loạn tâm tưởng; bởi thế, còn muốn tri kiến Phật vẫn còn tạo vọng tưởng. Suy như vậy, tu chứng, nghiệm chứng không cần phải đi đâu, tìm kiếm nơi nào hoặc thực hành điều gì mà bất cứ ở đâu. Pháp thân không vọng niệm thì đó là tu (KTTP). Việc chính yếu là luôn cẩn thận đừng khuấy động tư tưởng để rồi chuyển tâm Phật thành ra quỷ chiến đấu (TBS; Tr.137). Sự định tâm ngăn ngừa vọng động, ý niệm đã được Lục Tổ nhắc nhở rõ ràng, "Vô niệm, niệm tức chánh; hữu niệm, niệm thành tà. Hữu vô đều chẳng chấp, Tự Tánh luôn luôn hiện" (PBĐK; Tr.84-85).
    - Thưa bác, dẫu sao, bộ óc con người tự mang năng lực tác động ý niệm cho dù định tâm cách nào dẫu ngay cả lúc ngủ.
    - Tôi hiểu anh muốn nói gì. Tuy nhiên, nếu vì mong mỏi nhận cho ra Tâm Phật mà chúng ta rán ngăn chặn những ý tưởng giận dữ hoặc thèm khát bất cứ gì, không cho chúng khởi lên thì khi làm như vậy chúng ta đã phân chia tâm duy nhất nơi mình ra làm hai. Khi ta còn cố ý ngăn tư tưởng khởi lên, cái ý ấy chống lại với những ý khác đang khởi lên liên tục, và như vậy diễn trình đuổi bắt hay ngăn chặn tư tưởng sẽ không bao giờ có sự chấm dứt. Thế nên, đừng bận tâm ngăn chặn hay không ngăn chặn tư tưởng, nhận định, chỉ cần để tự nó thì nó không thể làm gì khác hơn là tan biến. Chúng ta không thể tranh cãi với vách tường nếu chỉ đứng nói một mình. Khi không có ai ở đó để chiến đấu thì mọi việc tự động đi đến chấm dứt (TBS; Tr.111-112). Vấn đề còn lại phải là chúng ta nhận ra mình cảm thấy thế nào, có đang bám víu vào một vấn đề hay tư tưởng nào không. Khi chúng ta không bám víu một tư tưởng nào đặc biệt như vui hay buồn, không nghĩ tới chuyện chấm dứt hay không chấm dứt nó, trạng thái này gọi là an trú trong Tâm bất sinh, tức là giữ tâm duy nhất luôn luôn duy nhất dù cho điều tốt điều xấu gì khởi lên; chúng cũng tự động chấm dứt mà không cần phải cố nghĩ hay không nghĩ. Sự thể mà chúng ta gọi là cơn giận hay niềm vui đều do chúng ta sản xuất với mãnh lực của tính chấp ngã, hậu quả của dục vọng, ích kỷ (TBS; Tr.112). Khi vượt ra ngoài khuynh hướng bám víu thì những tư tưởng kia sẽ tự động tan biến. Sự biến mất ấy hiển lộ tâm bất diệt, và đó là tri kiến tâm Phật.
    - Thưa bác, nói như thế, Sỹ nhà con hăm hở, nếu giữ tâm định, đánh tôm, bắt cá, ăn nhậu, hoặc làm bất cứ việc gì, miễn sao không ý niệm, không ý định, ước muốn, vọng tưởng, tức là đang thiền, đều là tu vì đang an trú nơi tâm Phật?
    - Đúng, chúng ta chỉ cần an trú trong tâm Phật, ngoài ra không cần làm gì khác. An trú nơi tâm Phật không lệ thuộc điều kiện gì hoặc hành động nào nơi cuộc sống mà là tự tâm. Những pháp, hành, bên ngoài, ngay cả niệm Phật hay tụng kinh cũng chỉ là phương tiện giúp tâm định. Bởi vậy, tâm định mới thực sự được gọi là hành còn vấn đề đi chùa thì cứ đi, hành thiền thì cứ hành; mỗi ngày hành thiền, tụng niệm, vái Phật năm, ba giờ, hoặc thời gian đốt hết mười, hay hai mươi que hương cũng không sao, nhưng tâm Phật bất sinh không phải là chuyện những que hương, chùa lớn hay nhỏ, thiêng hay không. Khi chúng ta an trú trong tâm Phật thì không cần tìm giác ngộ ở bên ngoài mà mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chính là sinh hoạt của Tâm Phật (TBS; Tr.124). Bởi đó, Lục Tổ cũng đã dạy, "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật dịch là đại trí huệ đến bờ bên kia. Đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật" (PBĐK; Tr.30). Lìa tánh tức là chấp, theo đuổi những ý niệm, vọng tưởng, hoặc các pháp.
    - Thưa bác, phỏng đây là ý nghĩa của "tự tại" nơi nhà Phật, nhưng sao nó có vẻ..., Hưng chợt lên tiếng hỏi.
    - Anh muốn nói có vẻ ngây ngô, khù khờ, thiếu khôn lanh như người đời thường hâm mộ phải không? Người nào để cho Tâm vận hành một cách tự nhiên để giải quyết mọi sự thì người ấy sẽ mở được con mắt sáng thấy rõ tâm người, và nhận ra một cách rốt ráo rằng mọi người đều là những vị Phật đang sống. Đây chính là tuệ nhãn. Chính vì không nhận ra sự quý báu của tâm Phật nên chúng ta nổi tham sân si vì những chuyện vụn vặt, và do đó vẫn chỉ là những con người mê muội (TBS; Tr.123). Bởi vậy, chưa chứng được Tâm bất sinh thì người ta chỉ đứng trên bình diện kiến văn giác tri (giới hạn trong cái biết của giác quan), đổi tâm Phật thành những khái niệm. Đây gọi là vọng tưởng. Sự giảng dạy về kiến tính cũng thế, người nào chưa thực chứng về tâm Phật nơi mình thì chỉ có thể nhai lại những lý thuyết Phật học, chẳng giúp ích gì được cho ai nếu không muốn nói là chỉ tạo thêm phiền nhiễu nơi tâm tưởng người khác.
    - Như vậy, thưa bác, kinh sách cũng chỉ là mớ kiến thức.
    - Dẫu kinh sách được viết do chứng nghiệm nhưng kết quả đem lại tùy thuộc ý định cũng như nhận thức của người đọc. Hoặc là họ đọc để nhận định những gì họ đã nghiệm nơi hành trình tu chứng, hoặc đọc để biết thêm kiến thức; hai thái độ này khác nhau một trời một vực. Bởi vậy, người nào đọc để nghiệm thì không lệ thuộc nơi kinh sách, nhưng kẻ nào đọc với chủ đích trau dồi kiến thức thì chẳng khác gì con quạ cố bắt chước con còng cọc như trong tục ngữ Nhật có nói. Khi con quạ cố bắt chước con còng cọc thì màu đen của nó có giống, nhưng lúc thả vào nước, quạ lại không lội được như còng cọc (TBS; Tr.135). Người nghiệm chứng, đọc kinh sách chẳng khác gì uống nước, nóng lạnh tự biết. Kẻ đọc kinh sách mà không nghiệm chứng nào khác chi lúc khát khô cổ mà chỉ được nghe giải thích về lợi ích của nước đối với sự sống, càng nghe chỉ càng khát thêm.
    - Thưa bác, an trú nơi tâm Phật tức là sống theo tự nhiên với tâm bất sinh sẵn có, và như vậy có vẻ ngược đời, hoặc nói cho đúng, xin lỗi bác, sẽ bị gọi là điên, Phủ ngập ngừng.
    - Anh em đã bao giờ nghe câu nói, "Bên Tây phương không đủ nhà tù để nhốt kẻ điên; ngược lại bên Đông phương có ai điên thì lại được mọi người kính trọng" (L.N.Đường). Sự nghịch đời, thái độ nhận thức không giống người chung quanh của bậc thức ngộ là cơ hội cho kẻ khác tìm về Chân Thể nơi chính họ dẫu họ nhận ra hay không. Tuy nhiên, vẻ điên của bậc thức ngộ không nghịch mà vượt lên trên luân lý người đời do đó họ bị cho là kỳ dị bởi lòng họ không hợp với người đời mà hợp với thiên lý (TTvNHK; Tr.224). Nói cho đúng, bậc chân nhơn giải thoát là người đã nhận chân được Tâm Thể, Tự Tánh, cái sống thật của mình, cái sống đồng với Trời Đất vô thủy vô chung, tự sinh tự hóa, cho nên không còn cái bụng đèo bồng, tham muốn những gì ngoài tánh phận của mình nữa, và nhờ vậy mà tuyệt được lòng tham dục nên không vướng mắc. Bởi vậy, họ không tự tôn mà cũng chẳng tự ty, cũng không bao giờ có mặc cảm tội lỗi gì cả vì tâm hồn họ đã thoát khỏi những gọng kềm của luân lý, xã hội, tôn giáo, học thuyết, một cách rất sáng suốt (TTTT; Tr.194). Bề ngoài của họ thì có vẻ hòa nhã với mọi người, mà kỳ thực, lòng họ cách xa với thế nhân (TTTT; Tr.195), nghĩa là họ hòa mà không đồng, và như vậy là vừa không đụng chạm với đời mà cũng vừa được thành thực với lòng mình (TTNHK; Tr.404). Người đã thích nghi với Đạo, với Tự Tánh, thì không làm gì, mà thiên tính của họ vẫn được an định. Cho nên bảo "Cá ở trong sông, hồ, vui thích mà quên mình, người ở trong đạo và thuật, vui thích mà quên mình" (TTvNHK; Tr.224). Nghiệm chứng Phật học, không ai tránh thoát đối đầu với câu nói của Trang Tử, "Người ta cho cái hình hài tạm thời của mình là cái ta, nhưng làm sao biết được cái ta đó thực là ta không" (TTvNHK; Tr.225).
    - Thưa bác, Bá nhận định, theo những gì bác giải thích, giác ngộ chỉ là sự nhận thực hay cảm nghiệm một cách rốt ráo rằng tâm Phật ở nơi mình từ trước khi được sinh ra, mọi sự nơi mình, từ tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, ngay cả thân xác mình đều là hiện thể của tâm Phật như một hiện thể. Thế nên, sự thiếu nhận thức thực tại này được gọi là si mê hay vô minh. Nói như vậy, tư tưởng là nguồn gốc của vô minh, và dĩ nhiên, khi hết tư tưởng thì vô minh cũng bị diệt để Tự Tánh, tâm Phật hiển lộ. Tâm Phật, Tự Tánh hiển lộ đó là kiến tính, thành Phật. Nói là thành nhưng không có nghĩa trở thành mà lại là như như, hòa nhập, tự như vậy, thanh tịnh, không vướng mắc. Phỏng đây có phải là ý nghĩa của quán không, quán vô, vô sanh vô diệt, định tâm, an trụ tâm, nói cho cùng, gọi là gì cũng được nhưng tốt nhất chẳng nên gọi là gì vì dẫu dùng ngôn từ nào cũng không diễn tả được mà trở thành ngơ ngơ vì vẫn không biết được cái ta có thực hay không!
    - Anh nói không sai, ngơ ngơ, hay kỳ dị, hoặc điên cũng được vì cái ta vừa có, vừa không. Trạng thái này lục tổ đã giải thích rất rõ nhưng không nghiệm chứng chẳng thể nào hiểu được đó là, "Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phàm phu, niệm sau lìa cảnh tức Bồ Đề" (PBĐK; Tr.31-32). Nơi khác ngài cũng nói, "Ở mọi nơi mà chẳng trụ tướng, nơi mọi tướng chẳng sanh yêu ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích thành bại, trong tâm trống rỗng dung hòa, an nhàn đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam muội. Ở mọi nơi đi đứng nằm ngồi, duy nhất hành theo trực tâm, nơi nào cũng là bất động đạo tràng, như vậy mới thành chơn tịnh độ; đây gọi là nhất hạnh tam muội" (PBĐK; Tr.140). Đó là lý do tại sao nói vô niệm, vô pháp vì kiến tính do tâm ngộ, chẳng tại thực hành theo những cách thức ngoại thiền nào bởi Tự tánh chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt nên gọi là như lai. Như vậy, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc huống chi nằm, ngồi (PBĐK; Tr.128). Thế nên, người kiến tánh lập lý thuyết, lập giới, lập định v.v.. cũng được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại, cần dùng liền làm, cần nói liền đáp chẳng tác ý; khắp hiện hóa thân chẳng lìa tự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội (PBĐK; Tr.120) nào khác gì anh nói ngơ ngơ.
    - Thưa bác, nếu tâm Phật nơi mình tự sống động và nếu để mọi sự vận hành tự nhiên, sử dụng tâm Phật tùy theo hoàn cảnh, vượt thiện ác, tất nhiên cần làm gì thì làm, không cần, không làm, không ước muốn làm thiện, chẳng ghét điều được cho là ác, thì nào khác gì người ngơ ngơ.
    - Anh em nên nhận rõ điều này, thuở ban đầu không có gì được gọi là giác ngộ hoặc mê si. Tất cả lý thuyết đều là ý tưởng lượm lặt vì bẩm sinh nào có chi (TBS; Tr.213). Dùng lý luận chút ít thôi chúng ta sẽ nghiệm được điều nghịch thường, nghe có vẻ kỳ cục, và đó là mọi người đề cao giác ngộ nhưng ai may mắn bỏ chuyện giác ngộ qua một bên thì lại là người hoàn toàn giải thoát. Ai cũng có sẵn tâm Phật; bởi vậy không lý gì bây giờ lần đầu tiên chúng ta mới sống phù hợp với tâm ấy. Làm những công việc cần thiết cho cuộc sống của chúng ta một cách chuyên nhất tâm ý, đó là thực hành tâm Phật, Tâm bất sinh (TBS; Tr.161). Thực tại chứng minh, giác ngộ được đặt thành vấn đề hoặc cần thiết chỉ khi si mê. Mọi người đều sẵn có bản chất giác ngộ hay tâm Phật nên một chút mê lầm cũng không hiện hữu. Bởi vậy, chúng ta không cần phải đạt đến bất cứ gì (TBS; Tr.170). Theo ngôn từ nhà Phật được gọi là vô chứng đắc. Anh em nên nghiệm cho rõ, thường thì chúng ta tưởng rằng điều thiện nghĩa là ghét ác, nhưng chính tâm ghét mới là không lành. Chúng ta thường cho rằng thiện nghĩa là làm lành, nhưng chính điều này mới thật tội lỗi và xấu xa. Sự xấu xa chính là đã lấy ý nghĩ làm phiền cái Tâm (TBS; Tr.212); ngược lại, chúng ta quá bị lệ thuộc chiều hướng luân lý hữu vi, không phân biệt thiện ác thì bị cho là kỳ cục. Có điều, chúng ta ngưỡng mộ những bậc thức ngộ mà rất ít khi nghiệm chứng đến tận cùng những câu nói của các ngài. Chẳng hạn, tôi nêu thử một câu nói của lục tổ trả lời khi Thần Hội hỏi về thấy và biết nơi cảm nghiệm tu chứng, "Ta thấy tự ta biết, chẳng dính dáng cái mê của ngươi. Ngươi nếu tự thấy cũng chẳng dính dáng cái mê của ta. Sao chẳng tự thấy tự biết mà lại hỏi thấy hay chẳng thấy? (PBĐK; Tr.110). Tóm lại, phỏng chúng ta có thể nói được gì đối với những người cố tình không nghiệm chứng vì bất cứ lý do gì!
    - Thưa bác, Tùy con lên tiếng, nếu nói rằng tự nghiệm mà có thể giải thoát nào đâu cần giáo lý, đạo học, tôn giáo. Phỏng như vậy, chính Phật học đã đả phá Phật giáo cũng như các tôn giáo hoặc các đạo học khác? Có thể nói, Tùy ngập ngừng, tâm trạng này được gọi là vô thần?
    - Anh em nên nghiệm cho kỹ, nếu đã là thần và đã nghiệm được, sao có thể gọi là vô thần. Thế nên, kẻ không nghiệm được thần mới là vô thần; nhà Phật dùng ngôn từ "vô minh". Đàng khác, ngay danh hiệu thần tự nó đã không phải là thần, mà vô thần, vì thực thể tạm gọi là thần sao có thể nói ra được. Người hữu thần nghiệm chứ không nói vì nói ra không được và càng nói càng chẳng nói được gì. Người hữu thần chỉ có thể nói được những gì không phải là thần tức là vô thần; nói cho đúng, chỉ nói về sản phẩm của tư duy hay ngẫu tượng. Do đó, những kẻ tự cho mình là hữu thần, tào lao thiên tướng giảng thuyết về vô thần, về ngẫu tượng. Họ đang cổ võ cho điều mà họ không ngờ vì đã chẳng nghiệm chứng. Nhận định như thế, tôi nghĩ anh em cảm nghiệm được những câu nói nghịch thường nơi kinh sách nhà Phật. Chẳng hạn, "Nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp" (KCGL; Tr.70). Đến pháp đạt tới Phật còn không nói gì được thì sao có thể nói về Phật, về thần. Nhà Phật còn nghiệm chứng thâm trầm hơn trong câu nói, "Như Lai nói các tâm đều không phải tâm, ấy gọi là tâm" (KCGL; Tr.188). Chúng ta chỉ có thể nghiệm chứng những thực thể tâm linh chứ không thể nào nói được gì, và những gì tạm dùng như phương tiện để diễn giải thì không phải cảm nghiệm, và lại càng không phải thực thể đó. Thế nên, anh em đừng ngạc nhiên khi nghe ai đó nói, "Người hữu thần vô thần, kẻ vô thần hữu thần." Xét về tâm linh, nghiệm chứng cũng giống như cảm nghiệm uống nước; ai uống người ấy biết. Sự rao giảng đạo học chẳng khác chi giải thích ích lợi của nước cho kẻ đang khát bỏng cổ; dẫu nói rụng cả răng thì kẻ khát cũng không thể cảm được gì. Anh em làm ơn nhận định rõ điều này; đó là chân lý chỉ có một. Đấng thiêng liêng tuyệt đối cũng chỉ có một (PG; Tr.29), nhưng những lối trình bày về cảm nghiệm sự liên hệ của con người với Thực Thể Tuyệt Đối khác nhau tùy quan niệm, thời đại, xứ sở, nên đã phát sinh những tôn giáo khác biệt nhiều khi tạo thành xung khắc, nhất là trong những trường hợp vô tình bị lạm dụng đến nỗi gây nên chiến tranh tôn giáo.
    - Thưa bác, nếu nói rằng mọi sự, mọi vật đều do Tâm Thể phản ảnh thì mọi sự kiện hữu hình hay vô hình xảy ra cũng không ngoài Tâm Thể tuyệt đối này. Như vậy, đâu cần phải đặt vấn đề giảng giải, thiện ác, đúng sai, hoặc kiến tính hay vô minh! Đàng khác, phỏng suy cho cùng thì ngay cả đến tâm bồ đề hoặc bất cứ những điều chi được coi là lợi ích cho con người cũng chẳng có gì đáng nói. Nếu thế, thà đừng suy nghĩ, đừng tu, đừng thiền, đừng biết, đừng ham muốn, vì đã được sinh ra để sống thì cứ sống thì đâu cần lý này, thuyết kia, tôn giáo này, tổ chức nọ, và sao có thể bị bất cứ điều gì làm mù quáng, vô minh.
    - Đó là trạng thái kiến tính, huyền đồng, giác ngộ, thức ngộ, chân sư, như như, minh triết, kỳ dị, điên, bồ tát, nhưng những danh hiệu này phải được hiểu trong giới hạn đạo học hay tâm linh mà thôi. Như tôi đã nói, anh em có cần phải quán, phải định, phải thức, giác hay ngộ hoặc tin, rằng mình là người hay không? Dù có những kẻ cho rằng họ không phải là người thì họ vẫn là người. Xét theo phương diện tâm linh, dù có bị lầm lạc, u tối, vô minh thế nào chăng nữa, chúng ta không phải chỉ là những xác thân này mà còn có một thực thể tâm linh tuyệt đối nơi mỗi người dù nhận ra hay không. Tuy nhiên, nhận ra thực thể tâm linh tuyệt đối nơi mình phải là hành trình quay về nội tâm chứ không thể chạy theo những gì bên ngoài. Điều này trước nhất có nghĩa chúng ta cần biết thinh lặng, cần biết quý trọng những giây phút cô đơn, cần biết định tâm, và cần có một tâm hồn rộng mở không lệ thuộc giới hạn nơi bất cứ thành kiến, kinh nghiệm, hay chủ thuyết nào.
    - Thưa bác, vậy sự thực tập định tâm bác mới trình bày được dùng để làm gì. Tùy con ngập ngừng, cháu muốn nói nhưng không biết sao mà nói.
    Rõ ràng Tùy con đang nói nhưng lại nói "không biết sao mà nói" khiến vài người bật tiếng cười nhẹ. Nét mặt cụ Tài lộ vẻ tươi vui, không muốn anh ta bị cảm nghĩ lúng túng làm phiền hà, cụ lên tiếng,
    - Anh muốn nói đến sự áp dụng định tâm vào sự nghiệm chứng Thực Thể Tuyệt Đối, Cái Không?
    - Thưa bác, vâng, cháu thấy hơi phi lý. Tùy lại ngập ngừng, thế nên cụ Tài nói luôn,
    - Càng nói chuyện với anh em, tôi cảm thấy càng thú vị. Xưa nay tôi rất ngại bàn thảo về đạo học vì đã nhiều lần tôi bị hiểu lầm nhất là trong khoảng thời gian tôi cỡ năm mươi tới sáu mươi tuổi, bởi mình nói một đàng, người nghe hiểu một nẻo. Giọng cụ mang vẻ chậm rãi, đắn đo. Tuy nhiên, tối nay, những nhận xét của anh em đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi nghĩ, đã đến thời điểm cho hành trình tâm linh con người được phát hiện. Bao thế kỷ trôi qua, đâu ai đặt vấn đề chứng cái không thì sao mà chứng! Thường thì câu nói "chứng cái không" được chấp nhận như một công án cho các thiền gia đến nỗi chính lục tổ phải lên tiếng về chấp không. Thực ra, nếu đặt vấn đề Thực Thể Tuyệt Đối, Phật Tánh, Tự Tánh, Tự Thể, không thể nghĩ bàn mà lại đòi chứng thì tất nhiên sẽ rơi vào vô ký không. Thế nên, đặt vấn đề về chứng cái không thì hành trình lại là chứng cái không phải là không để loại bỏ. Bất cứ những gì phát sinh nơi tâm trí, ý thức đều không phải Cái Không. Nói cách khác, chứng Cái Không nơi nhà Phật phải là chứng vọng tưởng và nhận ra đó là vọng tưởng, những gì có thể nghĩ tới, để hòa nhập tâm hồn vào cái không thể nghĩ tới và bởi vậy cần phải định tâm. Như thế, chứng cái không vẫn có nghĩa nghịch lại thành ra chứng cái có để đạt tới cái không. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là sự hiểu biết mà cần điều kiện thực hành. Thực hành lại cũng cần những điều kiện không thể thiếu...
    - Bác muốn nói điều kiện minh triết?...
    - Điều kiện tôi muốn nói cũng là căn bản để đạt tới minh triết. Nhà bác học Marconi đã thú nhận sự bất lực của khoa học trong việc tìm hiểu nguyên nhân cùng tột của vạn vật. Ông nói, "Khoa học hoàn toàn không thể giải đáp những bí quyết của sự sống. Đó là một điều tuyệt vọng đáng sợ nếu người ta không có đức tin. Sự bí mật của đời sống con người và vạn vật là một bài toán khó khăn vĩ đại nhất mà người ta còn phải tìm ra sự giải đáp" (XPHB; Tr.26). Tuy nhiên, người Tây Tạng có thành ngữ, "Kẻ nào ý thức được sự sống sẽ ý thức được cả sự chết." Làm sao ý thức được sự sống? Người Tây Tạng có câu trả lời qua một thành ngữ khác, "Biết cách ý thức sự sống là một công phu và nếu nó là một công phu, người ta có thể tập luyện được." (HTTT; Tr.29). Những nhà nghiên cứu về Đông Phương học thường cho rằng, nền tư tưởng Đông Phương hay có tính chất trừu tượng, siêu hình và ít thực tiễn. Ngược lại, những bậc chân sư hoặc chiêm nghiệm Đông Phương quả quyết con đường siêu thoát của Đông phương không mơ hồ, ảo tưởng, mà là một con đường đã được trắc nghiệm kỹ càng từ nhiều thế hệ. Mỗi chặng đường đều có những cảnh giới thực tại của nó, và một số chân sư đã trải qua để lại những chứng ngôn tương tự đã được xác định thành những phương pháp tu luyện. Tuy nhiên, những bậc hiền giả hoặc cao nhân khi thuật lại những nghiệm chứng đó thường chỉ dùng lối ám chỉ bóng bẩy, khó hiểu đối với những ai không thực nghiệm, mà ngược lại chỉ muốn dùng lý trí suy luận hầu mong đạt tới (TTÂĐ; Tr.238). Tôi nghĩ, sau khi hiểu sơ qua về Tâm Bất sinh, anh em có thể nhận thức rõ hơn về Tâm Phật mà đôi khi được gọi là Tánh Linh Giác. Bản tính này ứng cơ, tiếp vật, thể hiện nơi mọi vật. Sự nháy mắt, giơ tay, cử động chân tay, nói năng, ăn uống, suy nghĩ đều là sự thể hiện của tánh linh giác. Đây là hoạt động ứng hiện của Phật tính hay Pháp Thân. Thường chúng ta ít để ý đến sự thể hiện này của tánh linh giác nhưng chỉ để ý đến sự vật mình đang suy nghĩ. Như vậy, khi mình hoạt động không suy nghĩ, tất nhiên đó là hoạt động của tánh linh giác, của Chân Như nơi mình. Nghịch lại với tánh linh giác, những suy tư, ý niệm được tạo ra chính là vọng tưởng. Do đó, khi mình không suy nghĩ tức là đang sống thuận theo với tánh linh giác; đây là trạng thái niết bàn bởi không suy nghĩ thì không phát sinh vọng tưởng có nghĩa là không sinh nên không diệt. (KTTP).
    - Thưa bác, con người như thế nào khác gì mộng du.
    - Mộng du là một bệnh tật thể xác; sống thuận với tánh linh giác vượt hẳn lối sống ý thức. Nếu để ý, khi ngủ, con người bước vào trạng thái mộng mơ và tâm thức thoát khỏi những giới hạn chật hẹp của phàm ngã thường ngày vẫn trói buộc tâm hồn trong vòng luẩn quẩn xác thân. Trong giấc ngủ, con người phần nào thể hiện trí lực toàn năng của mình. Trong giấc mơ, có thể người ta thấy xuất hiện những bạn bè thân thuộc đã chết từ lâu, hoặc những xứ lạ mãi đâu đâu chưa hề quen biết, hay cảnh tượng của những hồi xa xưa thời ấu thơ tái diễn trở lại. Tâm thức tự do khoáng đạt vô chướng ngại đó, mà tất cả mọi người đôi khi có kinh nghiệm trong giây lát nơi những giấc mộng của mình, vốn là tâm trạng thường xuyên của những vị đạo sư đã có sự giao cảm tâm linh với Thực Thể Tuyệt Đối thường được mệnh danh là Đấng Tạo Hóa. Trạng thái giấc mơ khi ngủ của mọi người tương tự trạng thái hoàn toàn vô dục, vô cầu, và sử dụng ý chí sáng tạo nơi các vị đạo sư. Một vị đạo sĩ khi đã tu luyện để biết cách sử dụng năng lực tự nhiên nơi mình có thể phối hợp những nguyên tử năng lượng của vũ trụ để thỏa mãn mọi lời cầu nguyện thành thật của các tín đồ (XPHB; Tr.30-31). Bởi vậy, con người mang bản thể thực thụ của Thực Thể Tuyệt Đối nên cần vươn mình tiến lên để chinh phục cái bản ngã vô minh, trọng trược vì y cần được nhận biết rằng tự bản thể, y mang quyền năng ngự trị nơi vũ trụ.
    - Thưa bác, đôi khi cháu được nghe nói về những vị đạo sĩ thần kỳ, có tài năng vô biên, hô mây hoán gió và làm những phép lạ chẳng khác gì những đấng linh thiêng. Tuy nhiên, khi hỏi có phải người kể lại được chính mắt trông thấy hay không thì lại vẫn là chuyện nghe những người khác đồn thổi.
    - Những vị đó rất ít xuất hiện nơi công chúng bởi quyền năng họ đạt được không phải để bày tỏ oai phong mua vui cho những kẻ hiếu kỳ. Đàng khác, qua sự hiểu biết của tôi, họ không quan niệm đó là quyền năng mà chỉ là sự hiển nhiên có sẵn nơi mọi người, và ai cũng có thể phát triển được nếu tu luyện đúng phương pháp. Đối với những đạo sĩ Tây Tạng, con người là một linh hồn, có tiềm năng sinh hoạt ở một cõi giới khác hơn cõi trần. Một khi đã giải thoát khỏi sự trói buộc của thể xác, y có thể đi châu du khắp nơi trong vũ trụ càn khôn và giúp đời bằng sức mạnh tư tưởng. Phái Mật Tông Tây Tạng giải thích rõ, tư tưởng là những âm ba rung động của tinh lực. Vật chất chỉ là tinh lực đông đặc lại. Một tư tưởng, nếu biết điều khiển đúng cách và kết tinh lại, có thể làm di chuyển một đồ vật. Nếu áp dụng tư tưởng vào phương pháp thần giao cách cảm, ta có thể làm cho một người khác ở cách xa cảm nhận được ý nghĩ của mình và hành động một cách thích nghi theo ý mình muốn (TTHB; Tr.114). Tất nhiên, những vị đạo sĩ sử dụng được những khả năng này đều phải trải qua thời gian dài nhập thất, và thường thì cả đời, nên rất ít xuất hiện chốn công cộng.
    - Như vậy, thưa bác, giá trả cho sự phát triển quyền năng quá mắc.
    - Cuộc đời nhập thất không phải là khô khan hay vô ích như chúng ta thường tưởng tượng. Bà Alexandra D. Neel ghi lại lời giải thích của một vị đạo sĩ Gomchen, "Trong yên tĩnh, con người mới có thể lắng nghe được những âm thanh huyền diệu vì tất cả mọi âm thanh trên thế gian này đều là những diệu âm của chư Phật, từ âm thanh của những con suối, tiếng gió thổi qua khe núi, tiếng chim kêu từ xa vọng lại, chỉ cần tĩnh tâm lắng nghe thì sẽ hiểu được sự mầu nhiệm của tạo hóa. Tất cả mọi sự xảy ra quanh mình đều nói pháp cho mình nghe, nhưng vì không ý thức được tánh nghe này nên con người có tai mà như điếc, có mắt mà như mù, cứ để cho dục vọng lôi cuốn, chỉ nghe những gì mình muốn nghe, chỉ thấy điều gì mình muốn thấy, và rồi cứ hành động theo quan niệm sai lầm đó. Nếu biết tĩnh tâm quan sát thì màu sắc của núi, của cây cỏ, của đất đá cũng đều là màu sắc của pháp thân chư Phật. Tiếng gió thổi, tiếng rì rào của cây cối cũng đều là tiếng chư Phật thuyết pháp, và chỉ cần hiểu được điều này để sống theo đó thì người ta đã có thể tiến bộ rất xa rồi" (HTTT; Tr.80). Đàng khác, chẳng hạn như ở Tây Tạng, người ta tin tưởng mạnh mẽ nơi sự luân hồi. Họ cho rằng một người đã đạt tới một trình độ tâm linh nào đó, có thể chọn lựa sống trên một cõi giới khác, hoặc trở lại thế gian để học hỏi thêm hay để giúp đỡ nhân loại. Có khi một hiền giả phải thực hiện một sứ mạng nhất định trong đời mình, nhưng lại qua đời trước khi hoàn thành sứ mạng. Trong trường hợp đó, nhà hiền giả có thể tái sinh trở lại thế gian để hoàn tất công việc còn dở dang trong kiếp trước, dưới điều kiện là công việc ấy sẽ hữu ích cho nhân loại (TTHB; Tr.78). Xét như vậy, trả giá một đời cho mục đích siêu việt và từ đó đem lại lợi lạc cho chúng sinh nào có chi mắc mỏ. Là người, ai cũng muốn có cơ may để thực hiện những ước mơ cao cả; tuy nhiên, cơ may lại là những gì bị coi là khốn khổ; ít ai đủ nhận thức dám thử. Hơn nữa, cuộc sống minh chứng, không ai thích trường học thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi. Cuộc đời nơi thế gian là gì nếu không phải là một trường học? Và đó là một trường học rất gian khổ (TTHB; Tr.151). Bởi vậy đối với con người, đã chắc gì thời gian nhập thất trả giá mắc hơn sống cuộc đời bình thường, mà có thể ngược lại bởi chúng ta đã chưa bao giờ dám thử.
    - Thưa bác, sống cuộc đời bình thường nào đâu thiếu những lúc tâm trí thảnh thơi. Hơn nữa, nếu nói cho đúng, cuộc đời nhập thất hoặc xa lánh liên hệ với loài người chỉ phải đối diện với lối sống thiếu tiện nghi chứ đâu phải chịu đựng những điều ngoài ý muốn nhiều khi cố tránh cũng không được. Xét theo khía cạnh khác, hầu hết con người được sinh ra với khuynh hướng cá biệt, đồng thời mang sẵn bản năng sinh tồn thì lối sống tốt nhất là sao cho hợp với tự nhiên. Những người nhập thất được sinh ra với khuynh hướng ấy thì hãy đi theo con đường đơn độc, và như vậy, chỉ một số nhỏ cuộc đời nhập thất mới hợp với họ.
    - Cảm giác an nhiên tự tại có được nơi tâm hồn do hoàn cảnh tĩnh lặng bên ngoài chỉ giúp người ta quên đi hoặc lấy lại sự quân bình do cuộc đời muôn mặt ảnh hưởng khiến con người mất bình tâm mà thôi. Mục đích con đường tu đạo hay nhập thất là làm sao hành giả có thể giữ được tâm trạng ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh, từ chốn cô tịch, vắng lặng cũng như nơi ồn ào náo nhiệt. Đây là thời gian thực tập giúp tâm không rung động trước cảnh vui cũng như buồn, thuận duyên cũng như nghịch duyên; do đó đôi khi người tu phải chấp nhận thử thách, nghĩa là bước chân trở lại sống nơi thế giới đầy phiền toái bên ngoài để xem khả năng chịu đựng và hành trình nhẫn nhục của mình thế nào (HTTT; Tr.81-82). Hơn nữa, sống theo những con đường êm ái dễ dàng không phải luôn luôn là một điều tốt. Những ai tin ở định luật luân hồi cần ý thức rằng; người ta sinh ra nơi cõi trần để học hỏi kinh nghiệm. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ, nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ có một mục đích duy nhất là trui rèn và thử thách để cho ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan và minh triết hơn (TTHB; Tr.140). Nếu cõi đời này chỉ là một niềm vui vô tận thì có bao giờ loài người mong muốn một cõi giới khác? Nếu không có đau khổ, con người sẽ không bao giờ thức tỉnh để tự tìm hiểu mục đích cuộc đời của mình và như thế làm sao tìm được cơ hội tự nhận thức bản thể uyên nguyên. Khổ đau là những cơ hội nhắc nhở con người đừng quên bản thể chính mình và cũng đồng thời kiến tạo nỗi khát khao tâm linh, nhận biết chính mình. Chính những thăng trầm, khốn khổ nơi cuộc đời đẩy con người tới nhận thức rõ ràng, và đó là chỉ có sự minh triết, giác ngộ mới đích thực là con đường giải thoát. Cái chết chỉ là hư ảo; người sợ chết cũng giống như một diễn viên dốt nát hoảng sợ điếng hồn trên sân khấu, khi một tài tử đồng nghiệp bắn y bằng một phát súng giả. Những đứa con của Thượng Đế đều là con của ánh sáng; họ sẽ không mãi ngủ mê trong vòng tối tăm ảo giác (XPHB; Tr.35). Sống nơi trạng thái thinh lặng của tâm hồn, được tương trợ bởi cuộc đời cô lập khỏi sự ồn ào, quấy phá ngoài ý muốn, người tu học được rất nhiều, và quan trọng nhất, họ đã hiểu được chính họ, biết rõ về họ, và biết cách sống thoải mái với chính họ. Điều này không ai có thể giải thích được vì chỉ những người thực hành mới có thể nghiệm chứng mà thôi; bởi vì sự thể nghiệm bản thân thì không thể nào thuyết minh hay luận lý được. No hay đói chỉ có người tự ăn mới biết. Do đó, sự thực tu, thực hành, là điều kiện tiên quyết để thể nghiệm chân lý (ĐTPG; Tr.257). Chẳng những thế, chỉ những ai thực hiện nhập thất để tu chứng mới cảm nhận được ý nghĩa lời khuyên "Hãy tìm kiếm sự phong phú tâm linh thay vì những của cải vật chất nơi trần gian." Khi anh em sở đắc được kho tàng tâm linh, anh em sẽ thấy rằng những lợi lộc vật chất tự nhiên sẽ đến (XPHB; Tr.41). Tôi nghĩ, mấy anh em theo Thiên Chúa giáo thường được nghe câu nói, "Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người rồi mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các ngươi" (Mt. 6:33).
    - Thưa bác, bác muốn nói nước Thiên Chúa có nghĩa sự giác ngộ. Bá ngắt lời cụ Tài.
    - Nếu so sánh Thực Thể Tối Thượng với Phật Tánh, Tự Thể, với Thiên Chúa theo quan niệm nơi Phúc Âm và dành giờ suy nghĩ chín chắn, vô tư, anh em sẽ tự nhận thức được. Xét về Thực Thể Uyên Nguyên của vạn vật, cho tới lúc này nơi ngôn ngữ trình bày suy tư, tôi chỉ có thể giãi bày được rằng bản chất thật sự của vạn vật là năng lượng, đôi khi được quan niệm như ánh sáng nguyên thủy của Thượng Đế. Giải thích sự tổng hợp năng lượng cách nào hay theo nguyên lý, nguyên tắc nào vẫn chưa một nhà bác học hay chuyên khảo nào có thể nói đúng được; mà những lời giải thích vẫn là những giả thuyết. Đó là lý do tại sao nhiều nhà đạo sĩ Ấn Độ cho rằng nguyên thủy của vạn vật là ánh sáng. Điều này cũng được chứng minh nơi những kinh nghiệm của những người trở về từ cõi chết; họ nhìn thấy ánh sáng lạ kỳ cuốn hút họ và trong suốt thời gian sau này còn tiếp tục sống ở dương thế; tất cả tâm thức họ chỉ dồn vào nỗi mong muốn được trở lại với nguồn sáng vĩnh cửu họ đã gặp được nơi kinh nghiệm của lần chết đã qua. Qua những bài phóng sự, biên khảo hay phỏng vấn mà chúng ta có thể đọc được nơi các tạp chí hay sách báo, quan niệm của những người trở về từ cõi sáng, lối nhìn của họ về cuộc đời hoàn toàn đổi thay. Vì họ không thể nào trình bày cảm nghiệm nơi kinh nghiệm chết này nên thật khó cho chúng ta đạt tới cảm nghiệm như họ; hy vọng với lòng khát khao thực sự, may mắn nào đó sẽ dẫn đưa tâm thức chúng ta đạt tới cõi đó. Bởi vậy, khi tôi dùng ngôn từ "ánh sáng" hay "năng lượng," anh em không nên phân biệt vì dẫu sao chúng chỉ là ngôn từ để chỉ về cùng một thực thể. Khoa học nói rằng ánh sáng mang năng lượng. Tại sao họ không nói rằng ánh sáng chính là năng lượng cũng như mọi vật đều là sự tổng hợp kết cấu phức tạp của năng lượng. Bình thường, chúng ta cho rằng năng lượng tạo sức nóng. Chúng ta đã vô ý thức tách biệt năng lượng khỏi sức nóng nên bỏ rơi thực thể năng lượng chính là sức nóng cũng như tách rời năng lượng từ cơ cấu tạo thành vật thể. Khoa học minh chứng rõ ràng điều này, là bất cứ vật thể gì đều có thể biến thành năng lượng. Muốn biến cây củi thành năng lượng, chúng ta dùng lửa để đốt. Đàng khác, cây củi, nơi một sức ép hay ma sát nào đó sẽ bị nổ tung để biến thành năng lượng, một lịch trình đột biến ngược chiều qua phương tiện hay điều kiện thuận lợi. Như vậy, nghiệm chứng, thực chứng chính là hành trình ngược chiều sinh hóa của con người trên phương diện tâm thức. Tuy nhiên, còn dùng ngôn từ, văn tự, chúng ta vẫn còn bị ngôn từ hay văn tự trói buộc. Nói như vậy, tôi chỉ có ý định khuyến khích anh em cảm nghiệm về thực thể, điều được gọi là chính mình, cái ta nơi anh em như thế nào. Suy rộng hơn, đó là  hành trình đi ngược để kiếm về nguyên ủy con người. Nói theo lý thuyết Công giáo tức là tìm về Thiên Chúa, tìm về nước Trời. Bởi vậy, anh em chẳng nên ngạc nhiên khi thấy giới "New Age" ngày nay gọi Thượng Đế là Energy, Năng Lượng. Tóm lại, tôi muốn nhắc nhở anh em hãy biết quý trọng những giây phút cô tịch, vì đó là những cơ hội tuyệt vời nhất để anh em cầu nguyện, suy tư, cũng như cảm nghiệm trực tiếp với Thực Thể Tuyệt Đối chan hòa và bao trùm mọi loài, mọi vật từ những gì anh em có thể tiếp xúc bằng ngũ quan tới những cảm nghiệm thâm kín nhất nơi tâm trí.
    - Bác muốn nói sự suy tư trong cô tịch cần thiết hơn sự hiểu biết, học hỏi? Bá lên tiếng.
    - Anh nói đúng. Tất cả những sự hiểu biết được ghi trong sách vở nói cho cùng chỉ là cơ hội gây cảm ứng nội tâm nơi người đọc dẫu những điều được giãi bày phát xuất từ cảm nghiệm của tác giả. Kinh sách nhà Phật nhắc đi nhắc lại rất nhiều về điểm này; chẳng hạn, ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ngón tay không phải mặt trăng; lời ta nói như chiếc bè; người uống nước nóng lạnh tự biết; pháp ví dụ như chiếc bè; không biết tự tâm thì học đạo vô ích, v.v... Đàng khác, sự hiểu biết nơi kinh sách mang hai ảnh hưởng đối nghịch tùy chiều hướng người đọc. Nếu người đọc chủ đích kiếm tìm kiến thức, trong giới hạn nào đó họ được gọi là học giả, học thức. Nếu người đọc nghĩ rằng chỉ cần hiểu về những điều đã đọc là đủ, những kiến thức sẽ trở thành hàng rào ngăn cản cảm nghiệm. Tôi muốn nhắc lại, những kiến thức nơi kinh sách không khác gì bia rượu trước mặt anh em. Dù có giải thích đến mấy, hiểu biết đến mấy mà không uống, anh em cũng không cảm nhận thực sự bia, rượu như thế nào. Tuy nhiên, uống bia, uống rượu thì lúc nào cũng được nhưng suy tư cảm nghiệm tuyệt đối đòi hỏi sự yên tĩnh tâm hồn. Những ai chưa đạt tới trạng thái này tất nhiên cần sự cô tịch, những thời giờ sống cô đơn.
    - Thưa bác, nếu đã có tâm hồn yên tĩnh thì sao nói đến suy tư?
    - Anh hỏi do kinh nghiệm hay do kiến thức? Sự tĩnh lặng của tâm hồn không có nghĩa là sự bất động của tâm thức hay ngăn giữ nó đứng yên nhưng là một trạng thái tâm thức thực sự tự do không bám víu, ràng buộc hay vướng mắc vào bất cứ điều gì. Sự chuyển vận của tâm thức cũng giống như sự hòa hợp của một cung nhạc giao hòa với những cung nhạc khác. Chỉ khi tâm thức không bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc bất cứ giềng mối nào, tự thể mới hiển lộ. Thế nên, ngay trong giây phút bắt đầu phân tích hoặc sắp đặt dữ kiện nơi tâm thức thành hệ thống kinh nghiệm tâm linh, chúng ta đã bóp méo thực thể nội tâm của chúng ta. Bởi thế, chính trong sự yên lặng mà đầu óc con người trở thành vô cùng mẫn cảm. Chỉ trong sự tĩnh lặng, con người mới có thể cảm nghiệm, phát triển, và đạt được những quyền năng nội tại mà chúng ta vẫn cho là đặc biệt, khác thường. Sự yên lặng của cô tịch loại bỏ những chi phối nơi ngoại cảnh và tạo ra một cơ hội mà tư tưởng có thể tập trung. Khi tinh thần lúc nào cũng tập trung, bất cứ một tư tưởng nào nẩy sinh cũng đều được khuếch đại lên, và với một sự tập luyện cẩn thận, người ta có thể phát triển được nhiều khả năng phi thường. Như vậy, thời giờ sống trong yên lặng vô cùng cần thiết cho những người hoạt động bằng trí óc, và đây cũng là ý nghĩa tích cực của sự nhập thất của các tu sĩ mật tông.
    - Thưa bác, mới chỉ nghe đến sống một mình lẻ loi nơi khung cảnh rừng rú hoang vắng, sao cháu đã cảm thấy nỗi cô đơn nào đó dội lên trong lòng.
    - Sự cô đơn thường được cảm nhận như một điều bất hạnh vì nói chung, con người đã quá quen với cảnh ồn ào náo động; tuy nhiên, nếu ai đã từng để ý những cơ hội sống trong thinh lặng, họ sẽ thấy nó như một ân huệ. Chúng ta cần sống vượt bên trên những cảnh sống bình thường trong đó con người luôn luôn đua đòi, chạy theo muôn ngàn mơ ước; hãy tập quen sống trong cô đơn. Bởi vì nếu muốn tìm thấy sự sống tâm linh giữa đám đông người, phỏng ta sẽ thấy gì? Tâm tư chúng ta đã chắc gì ở đó. Nếu muốn tìm chân lý hay sự thật, ta chỉ thấy có sự hư giả, dối trá được che lấp dưới những bộ mặt hình thức. Điều anh em có thể nhận thấy nơi kinh nghiệm đó là khi những âm thanh ồn ào, những danh từ hào nhoáng của ngôn ngữ chấm dứt, người ta mới có thể cảm thông với hoàn cảnh chung quanh một cách rõ rệt, chính xác hơn. Nếu anh em để ý, cứ mỗi lần suy tư về những chuyện hay lời nói đã xảy ra nơi một vài bữa nhậu, anh em có thể biết thêm được một vài điều bổ ích cho nhận thức. Chẳng hạn anh em có nhận định về một vài trường hợp mình nên thế này hoặc không nên thế kia. Từ đó, thật dễ dàng nhận thấy sự suy tư trầm lặng hằng ngày đem đến những kết quả dồi dào của sự sinh hoạt tâm linh. Và cũng từ đó chúng ta có được sự cương nghị trong những giờ phút quyết định, sự can đảm dám sống một cuộc đời độc lập không tùy thuộc vào dư luận của một số đông người, và sự ổn định tinh thần giữa tất cả những cơn loạn động ồn ào của cuộc đời thế tục.
    - Như vậy, thưa bác, đó chỉ là tự nhận biết để hài hòa với chính mình.
    - Anh còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa! Biết chính mình mới khó vì đó là biết tất cả, biết mục đích sống để làm gì, biết mình là ai, mình từ đâu tới, và mình sẽ đi về đâu. Từ đó anh sẽ tìm thấy nơi anh một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng tôn giáo kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ý thức sâu kính trong nội tâm. Anh sẽ tự tìm thấy mọi câu giải đáp khi ý thức thực chất của chính anh và sự cao cả của Thượng Đế nơi anh. Chỉ khi đó, mọi sự tìm kiếm ở ngoại cảnh tự động sẽ chấm dứt. Anh không nhớ câu "Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ" sao! Sự ấm áp vốn ngự bên trong tâm hồn. Anh em chắc có thừa kinh nghiệm nơi những buổi dạ hội hay văn nghệ, chung quanh mình cả mấy trăm người mà vẫn thấy mình cô độc như ở trên bãi sa mạc hoang vắng. Những thể xác con người có thể ngồi lại gần nhau, nhưng tâm trí chúng ta cách biệt muôn trùng, và mỗi người vẫn thấy mình cô độc.

    Những lời phát biểu từ miệng một cụ già gần chín chục tuổi về Phật học đã khiến nhóm thanh niên xồn xồn tâm phục khẩu phục. Đùng một cái, cũng những lời nói từ cửa miệng ấy vượt hàng rào phân biệt tôn giáo mở rộng tầm nhãn quan cho mọi người. Xưa nay, ai không cảm thấy ngại ngùng khi nói chuyện hoặc bàn cãi về tôn giáo chỉ vì e ngại đụng chạm tới những niềm tin khác biệt của người đối thoại. Chính cụ Tài lúc đầu cũng đã nói lên mối e ngại này; thế mà giờ đây cụ đem quan niệm nhà Phật, Ấn, Thiên Chúa giáo quấy trộn lẫn lộn một cách thuận lý hợp tình làm mọi người ngạc nhiên, chẳng ngờ. Xưa nay ai không nhận thấy cá tính cụ già dễ dãi, cảm thông, ăn nói chừng mực, đắn đo. Cụ không theo một tôn giáo nào; ai dè, mấy tiếng đồng hồ trôi qua, những cảm nghiệm nhận thức về Phật học tuần tự được trình bày nhiều lúc khiến nhóm người trẻ vẫn tự hào đang ở thời điểm sáng suốt cũng phải tối tăm mặt mày. Từ đó, nơi đầu óc họ nổi lên sự khắc khoải thầm kín khó diễn tả. Có sự tương đồng nào đó nơi những nguyên lý đạo học đã bị các nghi thức hay niềm tin tôn giáo che khuất và đã tạo nên những hàng rào ngăn cách được thể hiện qua những danh hiệu khác biệt. Hình như câu nói bình dân "Đạo nào cũng là đạo" mang đầy tính chất hài ước, diễu cợt, thâm trầm nhưng được phổ biến một cách cung kính. Cụ lột trần bộ mặt trái của những kẻ dựa hơi trên danh hiệu niềm tin "mà đã chẳng biết mình tin điều gì," thế nào. Ngược lại, cụ nêu lên động lực khát khao tâm linh tận đáy lòng những người dám vỗ ngực xưng danh vô thần để chứng minh sự thể người ta thường nghĩ vậy nhưng không phải vậy. Người rêu rao điều mà chính họ không cảm nghiệm được thì phỏng ai có thể hiểu họ muốn nói gì. Cuối cùng, cụ nhấn mạnh và khuyến khích sự phát triển sức sống nội tâm bằng cách sử dụng những giây phút cô độc để nhận ra chính mình.

    Bình thường, khi rượu bia thấm vào cơ thể khuyến khích những đài phát thanh ăn nói phóng mạng, nào ai ngăn cản được cảnh ồn ào thường xảy đến nơi nhóm bạn bè quen thuộc. Họ đâu khác chi chốn loạn quân loạn quan, người nào cũng có quyền phát biểu chẳng chút e dè, nhiều lúc lạm dụng tính chất rượu vào lời ra tạo lắm cảnh điếc tai, ngoại trừ những kẻ lòng mang ý đồ thầm kín. Thế mà tối nay, cũng những "cái đài" vô trật tự ấy tự ý ráp vào khuôn phép, và lỡ khi ngựa quen đường cũ, "đài" nào buông lơi những lời nói tào lao, liền bị chặn họng khép vào kỷ cương. Cụ Tài cảm thấy niềm vui dâng dâng. Những e ngại "ngày xưa" đã bao năm tháng dày vò tâm hồn cụ chợt tan biến. Chẳng lẽ con người cứ mãi bị màn vô minh che lấp; chẳng lẽ công đức những bậc hiền nhân rơi vào hư vô bởi nghiệp chướng chúng sinh quá nặng nề bịt kín mọi kẽ hở không còn đường lối cho ánh sáng thức ngộ tràn tới. Cụ thầm nghĩ, cũng có lý khi một số người đã phí bỏ cả cuộc đời kiếm thuốc trường sinh. Thuốc nào có thể giúp thân xác trường sinh vì dẫu là đất đá vẫn bị hao mòn theo năm tháng. Người ta kiếm tìm hóa chất nơi cây cỏ kích thích bộ óc làm việc nâng cao sự nhận diện đích thực bản thể con người. Ý nghĩ này chợt đến nơi tâm trí cụ khi nhận ra men bia đã không gây được phản ứng thường tình nơi đầu óc những người trẻ mà hình như tạo tác dụng ngược lại, khuyến khích họ sử dụng tối đa khả năng suy tư đồng thời gạt bỏ những lề lối quen thói nhận định xưa nay dẫu vẫn còn bị nặng nề ảnh hưởng.

    Đêm đã quá khuya nhưng những con ma men chưa tỏ vẻ gì mệt mỏi khác hẳn mọi bữa nhậu. Nỗi khắc khoải nào đó hiện rõ trên những khuôn mặt nhóm nhậu dẫu khó diễn tả thành lời nói. Thân xác họ ngồi đó, vòng quanh chiếc bàn ngổn ngang những chén đĩa và vỏ bia; kẻ ăn, người uống trong giây phút chợt bặt tiếng người nói. Dường như sự nhận thức về thức ngộ trộn lẫn với ý niệm nước Thiên Chúa dẫn tâm trí họ tới cảnh giới nào đó vượt khỏi thực tại hữu hình được nhận biết qua các quan năng. Cử điệu ăn uống của họ chậm chạp mang vẻ thận trọng, ý thức hơn. Cụ Tài cảm thấy hơi mệt nên đứng dậy định vô phòng nghỉ.
    - Thưa bác, nói như vậy thì các đạo học đều quy về một thực thể tối thượng nhưng sao không thấy có được đường hướng trình bày nguyên tắc căn bản đồng nhất hầu giảm bớt phần nào dị biệt ngăn cách tạo nên những khác biệt quan niệm niềm tin? Phủ lên tiếng một cách đắn đo.
     
    MBVN 06

    - Nói về niềm tin tất nhiên anh đã vô tình chấp nhận sự khác biệt vì những con người thì khác biệt, sống nơi những môi trường và thời đại khác biệt. Bất cứ đạo học nào cũng đều nhấn mạnh đến sự xác tín, một trạng thái tâm thức vượt hẳn niềm tin dẫu không được hoặc rất ít khi nhấn mạnh. Tuy nhiên, đem ý niệm xác tín đặt vào Phật học sẽ bị trở thành vọng tưởng. Dù tùy thuộc khuynh hướng nghiệm chứng khác nhau như Phật học, Mật Tông Tây Tạng, Ấn học, Lão học, huyền môn Ai Cập, và Kinh Thánh, xác tín mang vị thế tuyệt đối. Trãi qua nhiều năm tháng cảm nghiệm, tôi thấy điều hơi lạ đó là quyền lực xác tín và tưởng tượng giữ vị thế căn bản nơi hành trình thực nghiệm phát triển năng lực tối thượng nơi con người, nhưng khi bước qua ngưỡng cửa thức ngộ, năng lực tưởng tượng và xác tín tự động tan biến nhường chỗ cho cảm nghiệm, nhiều khi được nhắc đến để chỉ trạng thái hòa nhập với Tâm Thể Tuyệt Đối không thể diễn tả. Trạng thái này thường xảy đến nơi nhận thức cảm nhận của con người nhưng ít được để ý; chẳng hạn đôi lúc nào đó nơi tâm trạng cô tịch, chúng ta cảm thấy mình là một thực thể nào đó, không phải là những gì có thể nghĩ tới để xác định. Trạng thái này rất ngắn ngủi, chóng qua nên chúng ta dễ lãng quên hay coi thường. Tôi định nói với anh em khi đề cập tới cuộc đời nhập thất của các vị đạo sĩ nhưng thấy chưa đúng lúc. Nhân tiện nhắc tới những giây phút hiếm hoi cảm nhận trạng thái cảm nghiệm thực thể không thể xác định về bản thân nơi mỗi người, tôi muốn đề nghị anh em, từ nay về sau, nên để ý đến tâm trạng cảm nhận quý báu này. Thêm vào đó, tâm trạng này chỉ xuất hiện những khi anh em cảm thấy cô tịch. Như vậy, điều tiên quyết, anh em nên biết coi trọng những giây phút cô đơn, vì trong nỗi cô đơn, vắng lặng, tâm hồn chìm sâu nơi trạng thái cô tịch, mở rộng nhường lối cho Tự Thể phát hiện. Những giây phút này nào khác chi sự nhập thất của các vị đạo sĩ.

    Giọng nói cụ Tài nhẹ nhàng, trầm ấm, truyền tới mọi người lòng cảm nhận sự xác tín vững vàng được phụ họa bởi kinh nghiệm ít được để ý nơi mọi người. Chỉ vài lời đơn sơ, cụ đã chứng minh tầm quan trọng của những thời điểm cô đơn nơi kiếp người mà xưa nay ai nấy đều vô tình không để ý, có chăng ngược lại, luôn luôn tìm cách tránh thoát bằng những hành vi náo động hoặc chiều theo tâm tư hướng ngoại hầu che lấp. Sự giải thích và đề nghị của cụ hình như minh chứng có cả một kho tàng bao gồm nhiều điều bí ẩn chẳng ngờ chất chứa nơi con người lão thành, dẫu nhiều lần mọi người có cơ hội giao tiếp nhưng đã chẳng biết để ý đào bới.
    - Bác giải thích sự xác tín bị đồng hóa với vọng tưởng nhưng sao có được vị thế tối quan trọng nơi hành trình thực nghiệm nhà Phật?
    - Trong giới hạn thực nghiệm được áp dụng từ Phật học, có nhiều phương cách thường được gọi là pháp để đạt tới thực thể giác ngộ dẫu các pháp nơi nhà Phật cũng chỉ là huyễn vì tất cả đều quy về một Phật pháp duy nhất là kiến tính. Trên bình diện chung của các ngành đạo học, có ba đường lối tu trì. Con đường thứ nhất được áp dụng nơi tôn giáo gọi là thờ phượng bao gồm niệm chú, cầu nguyện, tuân giữ nghi thức, giới luật. Con đường thứ hai chính là minh triết được áp dụng bằng cách sử dụng khả năng lý trí nâng cao nhận thức và ý thức để tiến đến trạng thái tâm thức, tự thể hòa nhập thực thể tuyệt đối. Con đường thứ ba gọi là thiền bao gồm quán tưởng và hành định thường được áp dụng nơi các phái mật tông và huyền môn để đạt tới những cảnh giới đại định hay điểm đạo. Trong ba lối tu, phương pháp minh triết là con đường nhanh nhất dẫn tới giác ngộ. Tuy nhiên, mật tông của thiền hay điểm đạo của huyền môn là lối tu luyện để có thể sử dụng năng lực tự nhiên sẵn có nơi con người đòi hỏi ý chí, sự chịu đựng xác thân, và lòng kiên trì cũng như một tâm hồn xả kỷ. Thực ra, nguyên tắc chung để phát huy năng lực nội tại chỉ là biết cách sử dụng định luật thiên nhiên hay định luật phép lạ.
    - Bác nói sao, đã gọi là phép lạ thì sao có định luật?
    - Có lẽ anh em quá quen với cảm nghĩ những gì xảy ra ngoài tầm hiểu biết của mình được gọi là phép lạ nên không bao giờ dám tự đặt vấn đề về lý do hay nguyên nhân tại sao sự việc xảy ra mang đầy tính chất bất ngờ. Sự bất ngờ chỉ xảy đến với những ai không biết nguyên nhân. Giả sử anh em nào đó đem máy truyền hình chạy bằng pin kèm theo đĩa nhận hình (satellite) tới một đám dân chưa bao giờ biết truyền thanh truyền hình là gì thì họ sẽ cho rằng đó là máy làm phép lạ. Anh em đã nghe truyền thuyết đây đó từ lâu về thần giao cách cảm và cho đó là sự lạ. Tôi thử hỏi, vậy điện thoại anh em thường dùng không phải là phương tiện thần giao cách cảm ư? Những gì mình vừa nghĩ tới trong lúc nói truyện, người đầu giây bên kia nhận được ngay lập tức nếu nói cho họ biết, không phải là cách cảm sao? Thế nên, được gọi là phép lạ tất cả những gì xảy ra ngoài tầm hiểu biết của người quan sát. Những sự kiện này dựa trên quyền lực nội tại của người thực hiện, qua ý định, ước muốn, nói chung, đó là quyền lực tư tưởng. Tương tự như thế, định luật phép lạ chỉ có thể thực hiện được bởi bất cứ người nào đã nhận thức rằng tinh hoa của vũ trụ là năng lượng. Một người có thể sử dụng sự hiểu biết siêu đẳng của mình về hiện tượng năng lượng để phóng phát ra trong khoảnh khắc trước mắt người khác những nguyên tử năng lượng vốn tràn ngập khắp nơi trong không gian. Cái hình thức của sự phóng phát ấy, dù đó là một cái cây, một thể xác con người, hay bất cứ một vật gì, đều là kết quả của quyết định bởi ý muốn, mãnh lực ý chí và sức tưởng tượng của con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói nơi nhà Phật, “Ý niệm tạo chúng sanh.” Nơi Phúc Âm dùng danh hiệu Ngôi Lời hoặc ngôn từ Chúa phán cũng đồng ý nghĩa như thế. Tuy nhiên, vì dùng ngôn từ hữu vi theo nhận thức Tây phương nên các dịch giả đã phần nào thiếu tế nhị trong sự diễn tả nhận thức suy nghiệm vì trước khi được phát xuất thành lời nói hay lệnh truyền phải là ý định, ý nghĩ, gọi chung là ý niệm. Ngừng một chút, cụ Tài quyết định, thôi, tối nay nói thế quá đủ, để khi khác vì anh em cần nghỉ lấy sức lo công việc của ngày mai. Nếu anh em muốn hiểu thêm, cho tôi biết khi nào thuận tiện.
    - Tuần tới mời bác quá bộ đến nhà con. Phủ nhanh nhẩu, cháu sẽ đãi bác hai món, tiết canh và vịt nấu chao nhúng cải cay non ăn với bún.

    Đôi lời vừa thoát khỏi cửa miệng Phủ đã khiến những cặp mắt sáng lên chừng như hương vị thịt rùa chưa kịp tiêu tan mà lòng ruột họ đã cảm thấy xốn xang bởi no bụng nhưng đói thói quen tụ tập, đàn đúm. C..ạ..p, c..ạ..p, c..ạ..p,... cuối dãy ghế, Tam, hai cùi chỏ chống lên mặt bàn gom đôi tay làm loa giả giọng loài có cánh, mỏ vàng, biết bơi, nhưng bước đi lạch bạch, được mọi người mệnh danh con vật bắc kỳ vì tiếng kêu nhắc nhở kiểu nói tục nếp miền quê Bắc Việt.
    - Không được, không được, làm như thế là bất kính với bậc trưởng thượng. Bá dõng dạc,
    - Chú nói bất kính như thế nào?
    - Bác đã trọng tuổi, Bá lên giọng có vẻ đứng đắn, mà đãi bằng tiết canh vịt với bia thì bụng dạ chịu sao nổi. Đó là bất kính.
    - Thằng con rể mới biếu tớ một bình Hennessy to tổ bố, sao dám nói tiết canh vịt với bia. Ah, chú dám đánh lừa tớ.
    - Tôi chỉ ngỏ lời với lòng thành ngăn ngừa sự vô tình có thể tạo thành nghiệp chướng tạm gọi là tôn trọng bậc đàn anh vì ông lớn tuổi hơn. Có thể nói đây là chiêu "Kính lão đắc thọ, cho lão vào rọ" mà thôi. Nhân tiện, tôi cũng xin phép được đại diện bác Tài chấp nhận lời mời, quá bộ tới thăm các cháu. Riêng vấn đề đại diện cho tôi và quý bậc trưởng thượng trong nhóm, yêu cầu chủ tịch đáp ứng lời mời.
    - Tửu bất khả ép nhưng đã ép tất nhiên bất khả từ. Chúng ta chẳng lẽ tỏ thái độ khinh chê anh em bằng cách không thèm tới khi đã được trang trọng bày tỏ lời mời. Bởi vậy, nhân danh trọng tài, tôi tuyên bố anh em trong nhóm chấp nhận lời mời, phần nào chứng tỏ lòng tôn trọng và đáp ứng sự quảng đại của chủ gia. Yêu cầu anh em cho ý kiến.
    - Đồng ý, đồng ý, nên chấp thuận.
    Có lẽ không cuộc trưng cầu dân ý nào đem lại kết quả hợp nhất nhanh hơn hương vị mời gọi của thánh Hennessy đối với đám hũ chìm!
     
    * * *

    Đoạn đường 110, băng ngang thành phố D'Iberville, dẫn du khách từ xa lộ 10 vào Biloxi, từ ngày được mở rộng thành bốn hàng lái xe hai chiều, đã trở nên phương tiện thay đổi bộ mặt kiến trúc phố nhỏ, đèo heo hút gió, bao năm buồn chán với tiếng gào thét ghê rợn của những mùa giông bão, đua nhau nổi cơn thịnh nộ đem theo muôn vàn lớp sóng dữ dội, hằn học đập vào bờ biển, chứng tỏ uy quyền và biểu lộ sự thù hận cùng đám dân, chẳng có khu kỹ nghệ nào thuê mướn làm công nhân hoặc những phương tiện khác để mưu sinh, đành liều mạng với ngành nghề "đâm hà bá." Những cơ sở mua bán tôm cá càng chứng tỏ đậm nét tang thương, nhẫn nhục nơi con người chịu đựng nỗi đe dọa, giận dữ phũ phàng của trời đất. Hai hãng mua tôm, cá, ghẹ, sò, ốc, và một hãng có tàu "đánh cá phân" biến chế thành thực phẩm nuôi chó, mèo, cảnh sắc Biloxi dọc theo bờ biển ngày ấy chỉ có thế.

    Được thiết lập lòi hẳn ra ngoài bờ nước, ngự trên những cây cọc gỗ thông nhuộm hắc ín đóng sâu xuống lòng biển, từ xa nhìn tới, hãng mua tôm cá mang hình dáng chẳng khác gì con trâu đen đủi với làn da bẩn thỉu, mốc meo vì bùn đất, đang chực rơi xuống vùng nước mặn bởi đuối sức, cố gượng trườn tới đám cỏ cằn cỗi, nằm dọc con lộ mà phu quét đường quên cắt, mong được gặm mấy miếng cầm hơi, kéo dài ngày tháng tàn tạ được lúc nào hay lúc ấy. Những cây cọc đỡ phía dưới, dẫu cho hà bám hết lớp này tới lớp khác tăng dần theo ngày tháng, đã trở thành chốn bất khả xâm phạm e rằng cột phía trong đã bị ăn mòn gần hết, lỡ phá sạch hà thì hãng cũng phải sập mà trôi theo làn nước chăng. Cầu ván sàn nhà khập khễnh, lồi lõm không thua đồ phế thải, chừng như bị những gót giầy ngư phủ bào mòn theo nhịp chân bước nặng nề quen thói của những người suốt đời trầm mình với công việc cần nhiều sức lực. Để ý nhìn kỹ, nước sơn nhạt màu da trời tươi đẹp bao bọc phần gián ghép chung quanh tường phía ngoài, theo dòng thời gian đã bị nắng mưa, bão tố huấn luyện, tạo thêm sức chai lỳ chịu đựng lâu ngày trở thành màu đen bụi mốc của đám bùn hanh khô nơi vùng hạn hán. Hình như ngư dân mộc mạc Biloxi không cảm thấy phiền hà mỗi lần tấp ghe vô hãng bán tôm cá; có chăng, quát tháo nhân viên hãng mau mau lên tôm, trả tiền, rồi vội vã đậu tầu, giành giật thời giờ nghỉ ngơi kiếm lại sức cho những ngày mệt nhọc sắp tới. Đàng khác, họ đâu cần biết hãng xưởng sang hay hèn. Nó chỉ là một trong những phương tiện cho họ kiếm tiền sinh nhai, kéo dài những ngày tháng đã lỡ được sinh ra thì phải sống.

    Nối dọc theo hai hướng Đông, Tây, trãi dài những bãi cát tiếp nối những bãi cát, trơ trọi và hừng hực dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời vào những mùa nóng bức, cái nóng ẩm thấp nơi lò nấu muối, len lỏi, rít róng, rìn rịt bám vào làn da kẽ tóc, lỳ lợm cố tàn phá nét người của đám ngư nhân gan góc tạo nên màu cháy nắng đen đủi, gân guốc, khiến những ai mới gặp lần đầu mang cảm tưởng dân chài có lẽ từ địa ngục mới được trở về dương thế. Những ngày cuối tuần, đoàn tầu đánh tôm, bắt cá, nối đuôi nhau xông vào các hãng chẳng khác gì đại hội, đại hội hung thần. Tiếng động cơ nổ ầm ỳ phun làn khói đen ngòm từ những ống khói máy dầu, vô trật tự thổi bung vào không khí chừng như cố tạo thêm mây mưa đe dọa. Những chiếc ghe với cặp càng dựng đứng, tủa lên trời, chẳng khác muôn ngàn vũ khí thời tiền sử sẵn sàng thách đố tai họa để chống chọi. Dẫu mới được sơn sửa, chỉ sau một tuần cào tôm cá, thần biển, đã bằng cách nào đó, sai âm binh tàn phá công trình kiến tạo của con người được chừng nào hay chừng nấy khiến những con tàu mang đậm vết tang thương hơn hình dáng chủ của chúng.

    Nói về ngư nhân, không nên đếm xỉa đến những hạng làm biển thày chú theo kiểu dân bản xứ. Họ làm biển cho có làm, làm lấy lệ, sáng bảnh mắt, mặt trời gần đứng bóng mới khệnh khạng nổ máy chạy quanh quẩn trong vùng vịnh để rồi đúng năm giờ chiều, dù đụng nước tôm cũng cất cào trở về đón vợ, đã sẵn sàng đóng bộ, đang chờ tấm ngân phiếu để cùng nhau hú hí đâm đầu vào mấy quán rượu quên bẵng những ngày dài trong tương lai có thể mưa gió bão bùng vì cùng lắm đã có tiền giấy an sinh xã hội. Ngư nhân Việt tay không tạo dựng cơ đồ, cố vay quanh, mượn quẩn làm vốn đặt cọc sao cho có được con ghe. Tất nhiên, đã tay không đành chấp nhận nợ trong nợ ngoài nên ai ai cũng phải miệt mài kiếm tôm hơn kiếm vợ tránh cảnh chủ nợ xỉa xói hoặc nhà băng cọc tàu. Chủ đã quyết, tàu phải theo, thế nên, khi đụng nước tôm, con tàu đành gồng mình nhả khói. Ngành nghề biển rả giữa trời nước bao la, nào ai đoán được lúc nào gặp may hoặc nơi nào hạn xui. Nếu mùa màng bình thường, tương đối chủ tàu nhàn nhã, chẳng may gió chướng đổi thay, dù đau xót cho con ghe nhưng lỡ làm thân chủ mang nợ thì cũng đành chấp nhận cạo máy kiếm tiền. Tuy nhiên, dẫu vậy nào đã được yên, những cơn giông có bao giờ báo trước khiến nhiều khi chủ tớ toát mồ hôi giữa vùng trời nước bao la.

    Ầm ì, chậm chạp, thế mà sự đụng chạm cho dù nhẹ nhàng cách mấy của con tàu cũng đẩy nghiêng bất cứ cây cọc thông to lớn nào được đóng sâu xuống đáy biển để bảo vệ cầu lên tôm hay nơi bến đỗ, ngăn cản sự xông phá quen thói ở ngoài khơi hầu cột thân xác hao mòn theo năm tháng của chúng, kết quả của những ngày tung hoành vật lộn cùng sóng nước giành giật với Hà Bá từng con cá, mớ tôm, bắt chúng phải ngưng hoạt động, cho chủ cũng như thợ bạn có thời gian dưỡng sức, chu toàn bổn phận của con người với con người và với thần thánh.

    Phố xá Biloxi ngày ấy còn tang thương gấp bội. Vỏn vẹn dăm ngôi nhà xây, vách tường loang lở ghi đậm vết hằn tàn phá của năm tháng, chụm lại với nhau phô trương những cửa kính ngục tù, khung gỗ, trơ trẽn trưng bày chẳng biết bao nhiêu lớp sơn chồng chất tự thuở nào. Ánh nắng pha hơi nước muối dường như mang năng lực nhuộm màu, thấm nhập cửa kính, và biến chúng thành mờ mờ tựa ánh mắt đờ đẫn các cụ già gần đất xa trời bởi đã quá mệt mỏi với kiếp làm người. Bên trong những lớp kiếng, nghèo nàn phô diễn vài bộ đồ kiểu thời khai quốc, những chiếc váy thuộc loại cổ xưa, thịnh hành nơi phim ảnh trình chiếu gia cảnh quý tộc Âu Châu. Cái thì quá kín đáo, người ngắm có thể tưởng tượng kẻ mang mặc chúng đoan trang, nề nếp đến độ thừa thãi, quét dăm bẩy đoạn phố vẫn chưa cần phải đụng tới viền gấu. Cái lại thiếu thốn, tỏ lộ đầy đủ đường nét hấp dẫn, khêu gợi của những thân hình nẩy lửa, cố đập thẳng vào ánh mắt kẻ qua lại, rồi níu kéo, sẵn sàng mua vui cho khách làng chơi. Đó là hàng vải, trung tâm trình bày lối ăn mặc thời trang.

    Những cửa tiệm khác phô bày nét khiêm tốn chẳng thua chi. Ở chốn mà mức kinh tế đã xuống đến tận cùng xã hội loài người thì sao có được những quán ăn tương đối hoặc chợ búa đầy đủ hàng hóa cho dân chúng mua bán. Thực ra, gọi là mua bán cho có vẻ thanh lịch, chứ giữa đám dân ít tiền, quê mùa, vài chục nóc nhà, sao có thể thiết lập những cửa hàng sang trọng. Bạn dư chút tiền, muốn đưa vợ đi tiệm kiếm bữa ăn ngon thay vì nấu bếp, mau cũng một tiếng lái xe tới New Orleans hoặc Mobile. Đó là hai nơi gần nhất. Bạn nổi hứng có ý nịnh vợ, muốn đưa bà xã may sắm vài chiếc váy dài, váy ngắn, dăm ba bộ đồ thời trang mặc cho có vẻ đẹp lão không những trong nhà mà cả ngoài đường, hoặc phấn son, quần trong, áo ngoài, hèn cũng phải ba tiếng rưỡi tới Memphis, Tennessee, còn không, sáu tiếng lái xe đến mãi Atlanta, Georgia. Ngoại trừ bà xã của bạn không thích đua đòi, hiền hòa, mẫm cảm, dịu dàng, tất cả lý tưởng cuộc đời của nàng chỉ là cưng chiều chồng và chăm sóc con cái, thân xác cằn cỗi với sóng biển, nước mặn của bạn mới được để ý thương xót, có cơ hội an nhàn những ngày cuối tuần đùa vui với đàn trẻ hoặc say sưa cùng nhóm bạn bè cố quên nỗi cực nhọc đêm hôm lênh đênh ngoài khơi bão tố giữa trời nước mênh mông.

    May mắn biến thành chẳng may, nếu mụ vợ của bạn xinh tươi, mặn mà, hấp dẫn, thêm chút máu văn nghệ, văn gừng, đua đòi, thèm khát gia nhập giới ông nọ, bà kia, thì cuộc đời bạn sống ở Biloxi chẳng khác gì kẻ bị treo án tử bởi có thể mất vợ bất cứ lúc nào. Có người mới đề máy tàu ra khơi buổi tối, sáng hôm sau nghe lõm trên CB mụ vợ lỉnh mất để lại mớ con bơ vơ đang tản mát nơi mấy nhà hàng xóm ăn nhờ. Thế là con tàu bất chấp sự thiệt thòi của thợ đi phần, quay ngược chiều 180 độ trở về bến đỗ nghỉ ngơi dài hạn cho chủ có đủ thời giờ sắp xếp mảnh đời tan hoang còn sót lại, dẫu chẳng muốn, cũng đành cắn răng chịu đựng cho qua vì tương lai đang chờ đợi điểm trên những nét mặt ngây thơ của đàn con trẻ. Cũng có kẻ, sau bao ngày giờ gắng sức tranh đua cùng sóng nước, hí hửng mang tấm ngân phiếu thể hiện công lao sức lực giành giật cùng Hà Bá, mới lái xe về tới ngõ đã chợt nhận ra cảnh vắng lặng điêu tàn của căn nhà thiếu sức sống giống người. Lòng y chùng xuống nhường chỗ cho nỗi đau bất tận. Y đã mồ côi vợ con từ thời điểm ấy. Những lon bia, những chai rượu sao có thể phần nào xóa mờ nét hằn thương đau khi nếp sống rơi vào một trong những cảnh trớ trêu kiếp người: giầu non, trung niên mất vợ, về già phá sản, và cô độc không con cháu giúp đỡ ở thời điểm bóng xế chiều hôm cuộc đời.

    Những nóc nhà lợp thiếc loang lổ màu nâu rỉ sét chênh vênh đây đó hoặc chùm xúm lại từng đám phô bày cảnh thảm não và tiêu điều làm sao! Cũng như con người, điều lạ lùng ít khi được để ý, càng những kẻ có thân hình đẹp đẽ, thanh bai, nét ăn diện của họ càng hấp dẫn, lịch sự hơn đám dân bình thường nhan nhản chung quanh. Cũng có thể bởi họ đã được trời ban cho nét thanh lịch sẵn có nên dẫu những quần áo, giầy dép phụ thuộc, vì lý do nào đó không xứng hợp với món quà thiên phú hấp dẫn tự bản thân, cũng hưởng nhờ nét đẹp tự nhiên hầu được thăng hoa, tăng thêm vẻ quý phái cho chủ nhân mang mặc chúng. Chẳng thế mà giới thanh thiếu niên đã một giai đoạn đua đòi theo mốt thời trang, đeo trên mình những manh quần tấm áo rách rưới gần như tả tơi, đôi khi để lòi cả những phần thân thể cần được che kín, ngược lại, giá bán mắc cắt cổ nơi những tiệm may mặc. Điều trái nghịch mọi người đều dễ cảm nhận, đó là kẻ đã xấu xí thì có mang son phấn sơn phết đầy mình, lồng thêm những bộ vó thời trang mắc mỏ, mới mẻ nhất, cũng chỉ khiến thiên hạ dễ nhận thêm tính chất chẳng ra gì nơi mình. Những mái thiếc loang lổ nơi thành phố nhỏ nhoi cổ lỗ xĩ, Biloxi, ngày ấy phô bày cảnh tượng điêu tàn hết sinh lực chẳng khác gì các cụ già ăn mày gần ngày xuống lỗ, cầu xin được chết mà trời vẫn làm ngơ bắt buộc phải vất vưởng sống trong nỗi khắc khoải hầu xí xóa phần nào nghiệp chướng từ muôn kiếp dồn đọng lại vì may mắn có cơ hội được làm người. Mái che đã tàn tạ chỉ chờ ngày sập xuống mà vẫn không được sửa sang, phỏng những vách gỗ bám hờ chung quanh còn chịu đựng được bao nhiêu năm tháng chống chọi với mưa nắng, bão tố cuồng phong từng đợt theo mùa từ tắp tít mù khơi nơi vùng vịnh tràn tới?

    Nhiều người già lo âu cho số phận của thành phố nhỏ bé hầu như không có tên trên bản đồ tiểu bang. Họ thương tiếc chốn chôn nhau cắt rốn ngày nào đó, khi cuộc đời họ đã qua đi, giới trẻ chẳng còn tìm thấy cơ hội vươn lên cho thế hệ tiếp nối, sẽ rời bỏ quê cũ chọn kế sinh nhai; Biloxi chắc chắn biến thành bãi cát mồ mả, ôm ấp trong lòng những nắm xương khô tàn, hoang phế vô giá trị. Những người trẻ có ý thức lại không nghĩ như vậy. Họ cho rằng, vận số đã xuống đến tận cùng xã hội, xuống không còn chỗ xuống nữa thì chỉ còn một lối duy nhất là phải đi lên. Trời chiều lòng người trẻ. Biloxi đã dợm bước đi lên từ khi dân chúng cho nó quyền hành mời gọi những kẻ tiền nhiều, bạc lắm về mở sòng bài. Thế là từ lúc có mảnh giấy chính thức được ủng hộ bằng những lá phiếu, bộ mặt thành phố nghèo nàn, nhỏ nhoi, thay đổi mau chóng chẳng khác gì đứa bé gái lem luốc con kẻ ăn xin may mắn chạm phải đũa thần bà tiên dịu hiền hữu tình vì lòng thương xót. Dĩ nhiên, bước nhảy vọt nào không để lại lắm tàn tích của những gì đã qua và đồng thời không kiến tạo nhiều cảnh trái ngang tựa phản ứng nhà quê lên tỉnh.

    Ngày nay, chỉ mới mấy năm mà cô bé lem luốc Biloxi đã có thể làm cho du khách sững sờ đến độ ngộp thở. Nàng phát triển ngồn ngộn khiến nhiều kẻ mê đắm gặp lắm cảnh đắng cay. Nàng hấp dẫn không những đối với hầu hết nam giới mà còn cuốn hút chẳng thiếu gì mệnh phụ phu nhân; người nào người nấy đã bao phen cháy túi vì mê đắm. Sự quyến rũ của nàng toát ra bao phủ từng lá cây, ngọn cỏ mọc vương vất chung quanh, cho đến những phòng ốc xa hoa tráng lệ, được phụ họa bởi mùi vị nhiều món thực phẩm nhập cảng từ các vùng xa lạ trên thế giới, nhất là mầu rượu cánh gián sóng sánh nơi những chiếc ly thủy tinh trắng nuốt, đẩy hương vị ma men đong đưa nơi cõi không gian lẻn vào giòng máu, thôi thúc nặng nề giây phút đam mê, tăng áp lực tạo ngây ngất lòng người. Mới hai năm sau khi bé em Biloxi bắt đầu trổ mã, hai người đàn ông nhảy xuống sông tự tử vì nàng; anh thanh niên cỡ 37, 38 tuổi, một vợ bốn con; người khác là một ông thuộc tuổi xồn xồn, gieo mình cố quên tình đời đen bạc làm bạn với Hà Bá.

    Đàn ông đam mê nàng cùng lắm thiệt mạng không mấy phiền hà tới người khác; mà có lẽ lắm kẻ mừng vì bớt đi ít nhất được một đối thủ. Đàn bà mê nàng mới rõ gớm ghê, phũ phàng. Một chị mặn mà dễ thương ở Mobile, ghé qua thăm hỏi và làm bạn với nàng. Không hiểu tình cảm gió trăng mây mưa ra sao, chuyện kín đáo tâm tình nào ai dại dột thố lộ, và chỉ trong một tuần, bẩy tiệm "Nail" đang phát triển, hốt của ngùn ngụt, cũng đã vội vã sang tay người khác để gom thành những tờ giấy màu xanh chứa hình ngôi sao mười ba cánh theo chị nọ dâng hiến cho nàng quên bẵng cả đường tình nghĩa chồng con. Bà khác, mượn cớ chồng có những lời nói thô tục, nặng nề theo thói những kẻ vũ phu, kêu cảnh sát lấy chứng cớ ly dị, chia của, để rồi đem tất cả tài sản có được cung phụng nàng. Thực thể, chồng của bà có xấu xí gì cho cam; ông ta đẹp trai, thanh lịch, chủ nhân hai hãng tôm cá hàng năm hốt bạc triệu. Hai người ăn ở với nhau đã ba mươi hai năm và được bốn người con, ai nấy đã trở thành kỹ sư nọ, bác sĩ kia. Cái tội của ông chồng phải mang chính là nét quyến rũ của nàng Biloxi làm mê đắm lòng bà vợ.

    Sự thật không thể bỏ qua, đó là ngay cả giới tu sĩ đạo này, phái kia, một số cũng không thể đè nén lòng ham mê, mơ ước do nàng Biloxi quyến rũ. Có những vị theo đuổi nàng thâu đêm tới sáng, bốn giờ ban mai hãy còn đang luẩn quẩn chưa thể dứt lòng trở về với bổn phận chăm sóc con chiên. Thế nên đã có những người liệt danh cô bé lọ lem nghèo nàn ngày xưa, nay là con quỷ thu hút lòng người. Nói cho đúng, không hiểu nàng thu hút lòng người hay lòng người thu hút nàng. Tuy nhiên, hầu hết mọi người thuộc mọi giới quy phục nàng, từ lão ông, lão bà, tụt dần xuống vị thành niên, dẫu mới nứt mắt, chỉ vừa đủ tuổi đi bầu. Có lẽ, bởi ghen tức với tuổi trẻ dư thừa nhựa sống, liều lĩnh nên dễ đạt cơ may, mấy cụ già thúc đẩy con cháu làm luật treo những bảng yết thị to tổ bố ngay nơi cổng vào: Cấm vị thành niên dưới 21 tuổi bén mảng, bất tuân sẽ bị nhốt vô khám.

    Nàng hấp dẫn, ăn khách hơn bất cứ ca sĩ, nghệ sĩ tài danh nào. Đã không thiếu danh ca người Việt xưa nay nổi tiếng từ California đi hát, nhân tiện ghé thăm nàng để rồi cùng chung số phận với muôn ngàn kẻ đắm say. Tất nhiên nghệ sĩ nào lỡ bước hứng khởi thăm nàng, rốt cuộc rồi cũng cháy túi do đôi phút thiêu đốt tài năng và công sức vì đâu ai thoát được sức cuốn hút bởi bùa mê, thuốc lú nơi nàng Biloxi, kỹ nữ không hồn, không biết thương xót mà thẳng tay vùi dập những ai rơi vào phận số làm nhân tình hờ dù chỉ trong đôi giờ ngắn ngủi. Có điều lạ, kẻ hận nàng thì ít mà người mê đắm nàng lại nhiều, và cho dù hận thù cách mấy, chỉ thoáng qua đôi giây phút, bởi nếu có tiền nắm sẵn trong tay, chính kẻ hận thù lại hùng hục, cắm đầu cắm cổ kiếm nàng dâng hiến. Cô bé lọ lem mấy năm trước xấu xí khiến bao tâm hồn người già nua tỏ niềm thất vọng, giờ là con ma hấp dẫn, cuốn hút lòng người.

    Du khách từ khắp phương đổ về mong chiếm hữu nàng hoặc ít nhất cũng được đôi phút thoải mái, quên lãng thực tại cuộc đời bon chen ma mãnh. Họ đến rồi đi, người giầu nhiều, kẻ nghèo cũng lắm. Có điều, càng những ai giầu có, tiền rừng bạc bể, càng mê nàng bấy nhiêu. Nhưng nếu để ý, nàng vẫn như ngây ngô, vô tình lúc tiễn chân, mặn nồng đón người đến, đôi khi thân thiết, nhiều lúc hững hờ đúng điệu "mê tình, tình lẫn, trốn tình, tình theo." Trong số những khách giang hồ tứ chiếng rình rập bắn sẻ ấy, không ai có thể dò thấu lòng ruột của nàng Biloxi đối với họ ra sao. Chỉ tội cho đám ngư nhân bao bọc quanh nàng, khát khao từng cơ hội, đặc biệt giới độc thân. Bao nhiêu công sức chịu đựng sương gió nơi ngành nghề biển rả, các ngư phủ trai trẻ, đa số mê say tranh nhau thể hiện tính cách hào hoa vung tay đãi đằng dầu chỉ trong đôi phút mong được may mắn, ánh mắt mê đắm liếc qua, để rồi khi đoàn tầu lao mình vào màn sương vô định của biển khơi, những thân thể cường tráng dẻo dai ấy lại rán sức gồng mình đánh đổi năng lực thiên bẩm lấy món quà nhỏ mọn mua vui người tình Biloxi khi trở lại. Con ma lem luốc ngày nào, giờ cuốn hút công sức ngư nhân. Phỏng có ai run rủi được phần chiếm hữu, hay tất cả chỉ là hy vọng mờ ảo, nghiệp chướng tự muôn đời dán liền nơi số phận con người bắt phải trả.

    Tuy nhiên, đôi trường hợp do tính chất cố hữu khác thường của nàng Biloxi, độc hại, mặn nồng, lạnh lùng, và vô tình vô nghĩa, những kẻ đam mê nàng có cơ may thức tỉnh hầu kiếm được niềm vui an ủi giữa đôi kẻ thất tình đắng cay. Chán chường do mòn mỏi theo đuổi trong vô vọng, có những cặp đã tìm đến nhau chia sẻ nỗi thất bại thương đau để kết thành vợ chồng, cặp vợ chồng rách nát từ thể xác tới tâm hồn, có được tình nghĩa keo sơn phải là do sự chán chường gắn bó, kết quả của đôi lòng đồng bệnh tương lân. Không những thế, nàng Biloxi quyến rũ nhưng cay nghiệt cũng phần nào thức tỉnh một số tâm hồn ù lỳ, ỷ lại xưa nay đã quen thói "ăn cơm mớm" như bản chất bẩm sinh cố hữu của những đầu óc thủ cựu, sợ sai lầm, đã trở thành nô lệ cho những giáo điều một cách ngu si, chỉ biết vô ý thức tuân theo những gì người khác cho là phải với ý đồ gắng sức moi móc tìm kẽ hở lề luật hầu hồ hởi vấp phạm trong niềm vui tâm tưởng có được nỗi an bình giả tạo. Nàng Biloxi đã lột sạch những mặt nạ luân lý giả hình từng người, từng đoàn thể, từng lề luật. Trãi qua các thời đại, biết bao kẻ cao giọng hò hống, tuyên truyền "đánh bạc có tội." Ngày nay, đánh bạc có pháp luật bảo vệ khiến chính những kẻ ngày nao lạm dụng danh xưng tội lỗi đè đầu đè cổ tín đồ cũng phải gang mồm bào chữa cho tính chất đam mê nàng Biloxi nơi mình. Xét theo phương diện này, ít nhất nàng Biloxi đã phần nào điều chỉnh được ảo vọng lạm dụng của một số thày đời lòng ruột trống rỗng mà tham vọng chính là ý đồ sống bám trên lưng những tâm hồn ù lỳ, dốt nát, con đẻ của tính chất lười lĩnh suy tư. Có lẽ đã đến thời điểm lòng người phải được thức tỉnh cho niềm khát vọng tâm linh khơi nguồn phát triển. Vì thế, có thể nàng Biloxi chính là ngọn roi Thượng Đế dùng để công phạt những thành phần vô ý thức, bắt họ phải suy tư, nghiệm chứng, tự quay về với lương tâm chính trực hằng tiềm ẩn nơi tâm thức con người; đồng thời vạch mặt những kẻ thày đời lạm dụng công sức con cái Ngài bằng cách ngu dân, phỉnh gạt những tâm hồn non dại, ngờ nghệch, e sợ suy tư sai lầm.

    Nếu những chim non suốt đời được cha mẹ đùm bọc, công mồi, góp mớm cho ăn, chúng sẽ không bao giờ cảm nhận được nỗi sướng vui tuyệt vời khi giang đôi cánh làm bạn với trời mây, đùa vui muôn làn gió hoặc thách đố của những trận mưa dồn dập đuổi theo hăm dọa thấm ướt đôi cánh khi rán sức thu ngắn khoảnh trời mây tìm về tổ ấm. Nàng Biloxi cung ứng cơ hội chia duyên rẽ thúy nơi những tâm hồn non nớt đã vô tình hay bị ép buộc nhắm mắt đưa chân lao vào cuộc tình mù tối mà không chịu hay chưa kịp thực sự tìm hiểu ý nghĩa và bổn phận làm người. Dẫu hôn nhân là cơ hội tuyệt vời cho đôi lứa phát triển tâm thức, cùng dìu dắt nhau dần tiến đến mức thiện hảo thì đối với những người chưa đủ ý thức nó lại trở thành khung cảnh ngục tù khốn khổ, đau thương bậc nhất chốn trần gian. Phỏng còn hình phạt tâm tưởng nào tàn ác hơn cảnh chung sống coi bộ thơ mộng, uyên ương, mặt đối mặt, vai kề vai, mà lòng chừng như ngàn dặm xa cách? Phỏng có chốn đọa đày nào khổ ải hơn lòng khát khao nỗi an bình tâm tưởng trong khi luôn phải chiến đấu với nỗi dằn vặt nội tâm. Con tim mỗi người vừa kỳ cục, vừa huyền nhiệm. Nó mang tần số riêng và chỉ hòa hợp với tần số đặc biệt nó khao khát kiếm tìm. Nó được sinh ra để kiếm tìm và dường như hoàn cảnh xã hội có bổn phận và là phương tiện cho sự tìm kiếm nhiệm mầu dẫu khó ai hiểu tại sao. Thế nên, nếu gia đình thực sự là tổ ấm, là chốn con người lãnh nhận được niềm vui tâm tưởng, là nơi giúp họ cảm nhận được sự bao bọc, chở che, ươm mát tâm hồn, lời mời gọi nào bên ngoài có thể thôi thúc hay khuyến dụ đôi chân họ cất bước ra đi. Dẫu nàng Biloxi có năng lực mê hoặc cách mấy cũng chỉ có thể gạt gẫm những tâm hồn tự tại hướng ngoại một thời ngắn ngủi; bởi chỉ những kẻ không cảm nhận được niềm hứng khởi hài hòa nội tâm mới để lòng hoang đàng đuổi theo ngoại vật. Bởi vậy, những con thiêu thân dầu còn đang có thể bay vòng vòng, thân xác chưa chết thì cũng như đã chết do tự căn bản hiện hữu, nguồn sinh lực của chúng đã bắt đầu tàn tạ. Mái ấm đầy thơ mộng ấp ủ những tâm hồn vô ý thức trở thành đông lạnh chỉ là vấn đề thời gian. Bé em Biloxi chính là mụ phù thủy biến sự thơ mộng giả hình thành tảng băng giá buốt nơi những mái ấm vô tâm, thiếu ý thức.

    Từ xa lộ 10 bắt xuống hướng Nam nơi ngã rẽ mang số 46, ít nhất người ta có thể thấy hình ảnh nàng Biloxi vượt lên trên mặt biển, tựa lưng chân trời từ đàng xa khi hãy còn bên ngoài cầu 110 nơi lối xuống D'Iberville. Nếu lái xe trên con lộ 90 dọc theo bờ biển từ Mobile về hướng Tây, cũng vừa chạm đầu cầu cuối phần đất Ocean Springs, nàng ngồn ngộn phô bày nét tươi thắm bấp bênh bên bờ nước. Ngược lại, đi từ đàng Tây dọc theo bờ biển nổi tiếng Long Beach, MS, về hướng Đông và khi chạm tới lãnh thổ Biloxi, người ta có cảm tưởng lao vào vùng phù hoa tiên cảnh. Tâm trí họ không thể thoát khỏi sự đam mê cám dỗ toát ra từ khung cảnh thanh lịch, hiển hiện nơi từng ánh đèn chớp nháy cho tới những nét dễ thương mời mọc phô bày rõ rệt ở dáng điệu thanh bai, chúm chím bờ môi mấp máy ngỏ lời đón tiếp kèm theo sóng mắt đong đưa khuyến khích con người trỗi lòng mong ước. Nàng Biloxi thực sự hiện thân tất cả sức lực ham muốn tiềm tàng nơi con người tự thuở ngàn xưa, ẩn trong huyết quản, hòa tan từng thớ thịt, giờ đây gom hết năng lực, dội lên giúp bạn thỏa mãn tính chất đam mê. Thế là du khách mờ mắt, chỉ tỉnh trí khi nào cháy túi, nhưng mắt vẫn mờ. Kẻ nào mê đắm quá nặng, nhà cửa, tầu bè, tiệm này, xưởng nọ, đều bị chủ nhân không cưỡng lại được lòng ham muốn, bán sạch, tiếp tục dâng hiến cho nàng. Vợ đẹp cách mấy, con xinh thế nào, cũng thua nét mơ say đầy hấp dẫn của cô bé lọ lem Biloxi mấy năm xưa, giờ đây biến thành con ma không hồn quyến rũ những ai lòng còn vấn vương nặng nề ham muốn chiếm hữu nàng làm của riêng. Thoát khỏi nét khuyến dụ của nàng phải chăng chỉ những bậc thánh nhân?
     
    * * *

    Nhà Phủ ở thành phố D'Iberville cách Biloxi một con cầu. Trãi dài mười bẩy năm ngoi ngóp dành sống trên đồng đất nước người, vợ chồng con cái tổng cộng mười ba mạng chui rúc nơi căn nhà tồi tàn, cửa long đàng cửa, tường vênh đàng tường, đứa này chẳng chịu hòa hợp với đứa kia khiến hình dáng vốn dĩ đã bệ rạc, bên trong lại càng thêm thảm não. Mười hai năm trước, căn nhà trị giá mười chín ngàn đối với dân tị nạn kể đã khá nặng nề chi phí. Sở dĩ Phủ mua được vì đa số dân chúng ít con, nào ai cần đến căn nhà sáu phòng cửa nẻo luồn lạch rối tung cả lên; rồi nào mùa nóng máy lạnh, mùa rét máy sưởi; tiền của đâu chịu cho thấu chi phí điện đóm, hơi đốt. Cũng may, nhân có người chỉ ngõ ngách để xin chương trình chính phủ cho vay mua nhà không tiền lời, giúp dân nghèo có nơi ăn chốn ở, vợ chồng Phủ bàn tính hơn thiệt cả tuần lễ và quyết định mua căn nhà. Căn nhà ngày ấy kể cũng quá rộng đối với gia đình hai vợ chồng và năm đứa con, đứa lớn nhất mới mười bốn tuổi. Thế nhưng sáu năm sau, dù nhiều phòng, lắm buồng, nó đã chẳng khác gì hộp cá khổng lồ. Số là chị Phủ, không hiểu vì e thiếu người xài, hơi nóng hơi lạnh hao tốn một cách uổng phí chăng, hoặc vì "quen dạ đẻ cách năm đôi" (Tú Xương) mà liền tù tì sáu năm, nhà thêm sáu nhóc. Đứa này chưa biết chạy, đứa kia đã sẵn sàng tham gia cuộc thi đua. Gia đình thêm người, đồng thời dù con nhà nghèo, bố mẹ nào có to lớn gì, mà xấp nhỏ, đứa nào đứa nấy cứ như được uống sữa voi. Bốn thằng con trai cao hơn bố, thân xác coi chừng hùm ăn bẩy ngày không hết thịt. Mấy đứa con gái dẫu dáng dấp thanh bai nhưng chẳng khác gì sếu vông. Ấy, may mà chị Phủ phải luôn miệng hò hét chúng nó bớt ăn bớt uống mới được vậy, còn nếu không, cứ nhìn mấy trẻ nhà hàng xóm thì biết. Vừa đúng mười hai tuổi mà con bé mập rụt đầu rụt cổ, đi đâu cứ như trái trứng lăn.

    Vợ chồng Phủ đã ít lâu bàn luận kiếm công việc gì thêm cặp hầu dành dụm chút tiền đặt cọc làm lại căn nhà thì đùng một cái, nội trong tuần lễ, hết người này đến kẻ khác đòi rước mớ khung gỗ ẩn dưới mái che tồi tàn mà bình thường lên tiếng biếu không vẫn e bị ăn đòn, phương chi đòi bán. Không, viện bảo tàng đâu có chỗ để chứa thứ của nợ ấy, người ta nhăm nhe vì miếng đất lọt vào địa giới mở sòng bài. Tạ ơn trời, thăm giá hơn, dìm giá kém, cuối cùng Phủ bán được một trăm rưỡi ngàn. Thế là vợ chồng, con cái đàn đúm nhau thếch sang D'Iberville ngự hẳn vào căn nhà gạch sáu phòng tươm tất, hai gian đậu xe, rõ tiện bề nấu phở, kho cá những khi cần thiết.

    Cuộc đời nào không thế, mỗi cái may mắn lại hàm chứa bài học mắc mỏ phải trả. Có được nỗi an tâm không phải lo lắng nơi chốn cho con cái chui rúc tránh nắng mưa, Phủ sinh tật mê bé em Biloxi. Gần một năm trời tầu bè được đồng nào, Phủ đem nướng sạch nơi sòng bài. Tất cả gánh nặng chồng lên vai chị Phủ; gia đình đông con, tiền bạc chi phí như đốt hàng mã, đến nỗi nợ nần đã quá nhiều, không còn nơi nào có thể vay chạy. Van lơn kiểu nào Phủ cũng không chịu từ bỏ, y lại còn học được ở đâu câu nói mới thoạt nghe đã muốn lộn ruột: "Bỏ vợ thì được chứ bỏ đánh bài không được." Y chưa dám có ý định bỏ vợ nên hãy còn may thoát được cảnh bị vợ bỏ. Số là đã bao nhiêu lần to nhỏ, nói xa nói gần mà Phủ vẫn cứ chứng nào tật nấy, chị Phủ đành quyết định một mình. Chị hiền lành, nhã nhặn, chịu đựng, và lịch sự nhưng lại rất cương quyết. Đàng khác, sức chịu đựng nơi con người dẫu sao cũng chỉ có hạn; thêm vào đó, người nào lịch sự, tự trọng bao nhiêu thì tự ái lại cao bấy nhiêu. Bởi thế, sự túng bấn đến độ không thể vay chạy vào đâu được thì mặc cảm bị khinh khi do hoàn cảnh dồn ép không lối thoát đã đẩy chị vào đường cùng. Chị đã tính đến chuyện xin việc làm tại các công sở nhưng tiền gửi chăm nom mấy đứa nhỏ còn non dại lại quá cả tiền lương, chỉ còn hãng sò.

    Hai giờ sáng dù trời quang tạnh, ấm áp hay mưa bão, giá lạnh, mấy đứa lớn cũng bị lôi cổ dậy, đứa chở mẹ đi làm, đứa canh chừng các em nếu có chuyện cần thiết, và khi tới giờ, lo nấu nướng ăn sáng, sắp xếp bữa trưa cho xấp nhỏ mang theo, và chở các em đi học. Cũng may, con nhà khó quăng đầu đường không chết, con cái chị ngoan ngoãn, biết vâng lời và chăm sóc nhà cửa. Đúng bẩy giờ sáng, thằng lớn tới hãng chở chị về nhà đoạn lái xe tới trường học.

    Con tàu thân thiết ngày nao là phương tiện cung cấp những giây phút mê đắm em Biloxi, từ khi mùa tôm chấm dứt, cũng đã vội bỏ chủ sang tay người khác, thế là Phủ hết đường đeo đuổi những giây phút đam mê sút mồ hôi hột với mấy hột xúc xắc xanh xanh đỏ đỏ hoặc mặt ngửa mặt úp của những cây bài, đành chấp nhận theo vợ phục vụ hãng sò hầu có đủ ngày giờ thấm thía hương thừa nỗi vui say bài bạc còn sót lại trong thời hạn trắng tay. Cũng may, con tàu ra đi kéo theo mọi sự liên hệ để lại nơi Phủ bộ lòng ruột trống vắng, nhường cả tháng trời cho y có cơ hội ngậm đắng nuốt cay với nỗi tái tê đã lỡ dại dột nên cảm nhận được lòng hy sinh của vợ. Phủ sợ nàng Biloxi từ dạo ấy nên quyết định không lấy dù chỉ một đồng bỏ túi, mà để vợ toàn quyền quyết định tất cả chếch chiếc do công sức đêm hôm khuya khoắt lần mò làm thuê. Bài học mắc mỏ đam mê ấy giờ này trở thành cơ may, vợ chồng Phủ sau những tháng ngày gồng sức chịu đựng đã tậu được gian hàng bán thực phẩm và nhu yếu lặt vặt đem lại nguồn lợi tức tương đối dễ thở. Con cái, đứa lớn dẫn dắt đứa bé học hành, chăm nom nhà cửa, do đó, cái thân "già," Phủ hay nói thế, có quyền đàn đúm, ba hoa trở lại, nhưng vẫn e ngại quyền lực bất bại của "đền thánh casino."

    * * *

    Ba giờ chiều thứ bẩy, nhà Phủ, người đông như mở hội. Xe pháo hơn chục chiếc, đậu ngang, dọc không thứ tự nơi sân cỏ hơn ba mươi mét bề ngang và hai mươi lăm mét từ con đường trước mặt tới mái hiên khiến ông đi qua bà đi lại tưởng nhà có đình đám lớn. Trẻ con không hiểu đâu ra mà lắm thế, gần hai chục em, trai gái tụm năm, tụm ba thảy bóng rổ hoặc tranh nhau đá bóng. Trẻ con ở Mỹ không phân biệt trò chơi nam nữ, lắm đứa con gái thích thể thao hơn con trai khiến chị Phủ đôi khi la lên chói lói răn đe, các tướng coi chừng đá bóng bể kiếng xe. Ấy, nam nữ bình quyền, các bà các chị dân mắt xanh, mũi lõ truyền lại cho con cháu như thế; mà có thể còn hơn vì với mức tiến triển của đà văn minh, người ta đã tạo nên chủ thuyết "Lady first." Không hiểu họ "first" vì nguyên nhân hay lý do nào, nhưng đối với những gia đình Việt ăn nhờ ở đậu, dẫu đã là công dân của đất nước tự do nhất thế giới, truyền thống nội tướng vẫn luôn luôn ngự trị dưới mái ấm mũi tẹt da vàng. Không hiểu Phủ mồi chài thế nào mà chị vợ đồng ý để con coi cửa tiệm nửa ngày cuối tuần, ở nhà chỉ huy công cuộc bếp núc đón tiếp cụ Tài và nhóm nhậu. Chẳng biết y muốn tỏ sự cả sáng căn nhà tọa lạc giữa hơn mẫu đất hay vì ý định tạo cơ hội cho những người quen biết gặp gỡ kết tình thân ái bạn bè, Phủ kêu gọi các tướng đem vợ con theo bởi nhà có phòng lớn cho các cháu dàn quân phá phách, đồng thời cũng hứa cung cấp những thực phẩm đặc biệt theo ý thích của bọn trẻ.

    Nơi phòng khách hai mươi bộ (feet) vuông vức, hai chiếc bàn dài chen giữa bốn hàng ghế trang trọng nâng đỡ bốn chão điện chứa vịt nấu chao tỏa hương vị hấp dẫn kè kè tám đĩa rau cải xanh được xếp đặt ngay ngắn. Những đĩa tiết canh dậy màu đỏ tươi, đĩa nào đĩa nấy vươn cao lên bởi chiếc tô lớn đặt phía dưới, sẵn sàng chờ đợi thực khách san sẻ. Bình Hennessy, lít rưỡi, thấp thoáng ẩn hiện màu cánh gián chất rượu chẳng khác gì vị tướng lãnh đứng sừng sững một đầu bàn, dường như cố nghển cổ canh chừng hai dãy ly thủy tinh nơi bàn bên giữ nghiêm lệnh đợi thời điểm cùng xuất quân dẫn độ các món ăn tranh thủ đua nhau xâm nhập lòng ruột thực khách.

    Mọi sự đã sẵn sàng khi cụ Tài với Hưng tới, và các tướng trong hội coi bộ sẵn sàng hơn. Chạm phải màu sắc điềm đạm của Hennessy như kết quả cộng hưởng do nét đỏ thắm tiết canh với màu rau cải xanh non tươi mát, ánh mắt các tướng dường như chợt lóe lên hòa với ánh đèn điện giúp cho phòng khách thêm rực rỡ. Không đợi ai giục dã, Phủ vào đề tuyên bố lý do,
    - Thưa bác, thưa quý anh, quý chị, chẳng nói giấu gì, hôm nọ lỡ hứng khởi mời bác và mọi người quên chưa xin phép bà xã nên nhà cháu đã phải năn nỉ muốn chết mới có được sự tốt lành của chiều nay để đón tiếp bác và quý anh chị chiếu cố. Vì vậy, để khỏi phụ tấm lòng độ lượng của mợ nó, cũng như bõ công sức tốn nước miếng dụ khị của nhà cháu, xin bác cùng quý anh chị nể tình đưa cay. Đàng khác, đoàn quân Heineken đang sẵn sàng chầu chực giải nhiệt. Ấy là kết quả tu chứng nhà cháu cảm nghiệm được; riêng điều gì thiếu sót do công phu non nớt, nhà cháu xin bác cùng quý anh chị thông qua cho lần này để lần sau vẫn cứ như vậy, amen. Nhà cháu tạm hết lời, và kính mời bác thực nghiệm khai mở bách hội huyệt giải tỏa áp lực nơi vòng luân xa của thánh Hennessy.


    #2
      lamongthuong 06.12.2017 13:41:22 (permalink)
      Cụ Tài với thái độ chừng mực, trang trọng, cụ vẫn thế nơi bất cứ trường hợp nào, mở nắp chai rượu trong khi nhẹ nhàng lên tiếng,
      - Thế còn bách hội huyệt và vòng luân xa của anh?
      - Cháu thì càng biết thêm, càng sinh lắm điều phiền não, và, Phủ ngập ngừng, sự thức ngộ vẫn như còn xa lắc, xa lơ, nhiều khi cảm thấy nản lòng nếu không muốn nói là bực bội với chính mình.
      - Chuyện đó phải xảy ra đối với những ai có lòng khát khao muốn thăng tiến trên đường tâm linh. Cụ nói với giọng điệu bình thường mang rõ tính chất xác quyết khiến người nghe có cảm tưởng cụ đang tâm sự đương khi rót rượu vào ly đoạn chuyền chai rượu cho ông Thung ngồi kế bên tay phải. Điều hiển nhiên theo kinh nghiệm, kẻ nào không dám chấp nhận chính mình mà tự dối lòng hoặc e sợ đối diện với bộ mặt thật của mình sẽ kiếm đủ mọi phương tiện lấp liếm hòng chạy trốn chính họ dưới mọi hình thức, phương diện, được thể hiện ngay nơi thái độ thường thì hướng ngoại. Đàng khác, con người tự bản chất dẫu tuyệt vời huyền nhiệm, nhưng cũng có thể nói, rất khó cho chúng ta có được nhận định chính xác về thực thể nơi mình vì đã được sinh trưởng nơi vòng vô minh quá nặng. Thế nên, bước đầu của hành trình thức ngộ phải là lòng sám hối, một hiện trạng hữu ích để nhận chân và chấp nhận những gì vì vô minh mình đã vô tình vấp phạm. Lòng sám hối này chỉ có thể xảy đến nơi những tâm hồn thao thức kiếm tìm thế giới tâm linh.
      - Bác muốn nói người nào càng cảm thấy mình xấu xa, không ra gì, càng có cơ may thức ngộ?
      - Hỏi như vậy có phải suốt tuần qua anh đã mang nặng mặc cảm mình chẳng ra gì?
      - Bác nói đúng. Cháu thấy mình xưa nay quá tệ và quá ngu, ngu không thể tưởng, mà... Phủ ngập ngừng chừng như khó diễn tả. Không biết bao nhiêu lần đã không nhận ra, ngược lại, phải nói là cố chạy trốn con người của mình. Hèn, cháu nghĩ, phải dùng tiếng "hèn" mới đúng.
      - Tôi có lời chúc mừng anh Phủ, và những anh em nào có đồng tâm trạng. Riêng những ai không cảm thấy thế, tôi muốn nói, tôi không biết tâm trạng anh em ra sao. Những ai chưa nhận thực được những sự hèn mạt nơi mình thì thật đáng thương vì thời điểm vẫn chưa tới với họ. Qua nghiệm chứng, tôi có thể nói với anh em, người nào càng thực sự nhận ra mình hèn hạ, đốn mạt bao nhiêu, thời điểm thức ngộ của họ gần kề bấy nhiêu, ngoại trừ kẻ nào bị tự ty mặc cảm. Cảm nghiệm được tính chất hèn nơi mình chính là thực trạng đối diện vọng tưởng, vô minh. Nói theo nhà Phật, không có cách nào chứng được Chân Như hay Phật Tánh mà chỉ có thể chứng vọng tưởng để nhận ra Tự Tánh bất khả tư nghị nơi mình. Tôi muốn chứng minh điều này bằng câu nói nghịch của anh Hưng, "Người minh triết vô minh, kẻ vô minh, minh triết." Người nào càng nhận ra trạng thái vô minh nơi họ xưa nay bao nhiêu, càng là người minh triết bấy nhiêu.
      - Nhưng thưa bác, dẫu cho minh triết bao nhiêu thì cũng chỉ là sự hiểu biết, chưa phải chứng nghiệm.
      - Chúng ta là những cá nhân khác nhau từ tinh thần đến thể chất do đó có nhiều phương cách để đạt tới giác ngộ cho những con người khác nhau. Nhận định như vậy, tôi muốn nói, còn có nhiều bậc thức ngộ không bao giờ tỏ lộ nên không ai biết tới. Tuy nhiên nếu xét về những phương thức thực nghiệm đạt tới thức ngộ được đại đa số áp dụng như tôi đã nói lần trước, chúng ta có thể chia ra ba đường lối tu trì; đó là thờ phượng, minh triết, và thiền tông. Đa số quần chúng theo con đường thờ phượng. Con đường này đặt nền tảng trên niềm xác tín, dùng niệm chú dẫn tới định tâm. Các tôn giáo là một trong những hình thức của lối thờ phượng nhưng quá chú trọng về tính chất cổ võ, phát triển, cũng như lệ thuộc luật lệ tổ thức thế tục. Dẫu những nghi thức sùng bái mang tính cách lớn lao, đồng nhất cho những nhóm tín đồ cùng niềm tin, phỏng nơi đại đa số quần chúng tham dự, mấy ai ý thức được những hình thức cử hành nơi nghi thức chỉ phần nào diễn tả thực thể tâm linh đang diễn tiến ngay nơi thờ phượng công cộng. Thử nhìn về thực thể nơi sự thờ phượng hay cúng bái anh em có thể nhận định rõ ràng hơn. Chẳng hạn nơi Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, tín đồ bái, lạy, cúng, dâng đồ vật hay tiền tài trong những nghi thức của họ. Anh em đã bao giờ đặt vấn đề đấng nào sẽ nhận lãnh những tài vật ấy? Câu trả lời đúng đắn nhất tất nhiên phải là họ dâng những phẩm vật hoặc tiền tài ấy cho lợi ích của họ chứ không cho đức Phật hay đức Chúa; bởi đức Phật hay đức Chúa nào hưởng được chút gì! Qua lần trước đàm luận, chỉ có một pháp độc nhất là Phật pháp, tức kiến tính, hoặc gọi là gì, phương cách nào, hoặc dưới hình thức chi, miễn sao đạt tới giác ngộ. Đến ngay như nghiệm chứng mà cũng chỉ có thể nghiệm vọng tưởng thì tên gọi đâu quan trọng gì. Như vậy, theo con đường thờ phượng, tài vật chỉ biểu hiệu lòng xác tín, tâm thành. Thực tế cần được nhận định rõ ràng, đó là những tài vật được dùng để bảo trì nơi chốn cho con người tụ họp để có cơ hội bày tỏ lòng thành qua hình thức minh xác với chính mình bằng cử điệu và nghi thức. Đồng thời, những tổ chức tôn giáo cũng cần có ngân quỹ để giúp cho những vị đặc trách hướng dẫn hành trình tâm linh cho tín đồ thuộc tổ chức tôn giáo và đồng thời tiếp tục đào tạo những vị hướng dẫn tâm linh trong tương lai. Sự thực hành đơn giản nhất ai cũng có thể nghiệm được chẳng hạn đốt hương. Không thần thánh nào ăn hay ngửi được hương; mà chúng ta vẫn đốt; chúng ta vẫn xông hương. Đốt hương chỉ chứng tỏ lòng thành; bởi vậy, nếu có tâm ngay thì đốt hương hay không chẳng thành vấn đề, mà không có lòng thành thì đốt cả hãng làm hương coi chừng sẽ bị nhốt vào khám mà thôi. Tụng niệm nơi nghi thức thờ phượng đóng vai trò định hướng tâm thức con người, dồn tâm thành, niềm xác tín để nghiệm chứng. Nếu để ý thái độ, cử điệu của các vị cử hành lễ bái, anh em sẽ cảm nhận được ngay vị đó đang cử hành một nghi thức tâm linh hay đang thông qua những cử điệu hình thức tôn giáo. Cũng như thiền, nếu miệng tụng niệm mà đầu óc bay tít mù khơi nơi đâu nào được ích chi! Cử hành nghi thức thờ phượng, lễ bái mà tâm hồn đang vướng mắc nơi cõi đâu đâu chẳng khác gì những tên bù nhìn giang tay giang chân, bạt bên này, lật bên kia theo gió và để chim đậu trên chính cánh tay đang giang. Bởi vậy, dẫu nơi hành trình tâm linh nào thì động lực cốt cán vẫn là tâm thành với lòng xác tín.
      - Thưa bác, nếu thế đâu cần minh triết, đâu cần thiền tông, mật tông.
      - Thôi! thôi! Ông ơi, để bác nâng ly. Chưa được chút cháo thì đã chết bởi nói khô cả cổ họng trong khi chúng tôi cũng đang ngấp ngoái vì khát. Xin mời bác, mời quý vị. Sỹ nhà con oang oang phân bì.
       
      Những hũ chìm đang thời kỳ khô cạn mà cứ phải chịu trận với mùi nước thánh xông lên ngào ngạt thì còn nỗi khổ chi cay cú hơn. Dẫu ba hoa chích chòe lắm lúc coi trời bằng vung nhưng vẫn chưa ai dám tợp hớp nào khi cụ Tài chưa nâng ly. Quả là điều lạ! Các tướng hãy còn biết chút ít phép tắc.
      - Đã đợi thì đừng kêu, và đã kêu tại sao lại đợi, đúng là vừa đánh trống vừa ăn cướp. Đâu ai mượn quý ông hình thức dổm! Vậy từ xưa tới nay chưa bao giờ được hưởng những giọt cam lồ của vị thánh to lớn này thì các ông đang là những con ma đói khát không hồn hay sao? Ừ thì uống, thế mới biết ẩn sau các khuôn phép lịch sự lại chính là những thèm thuồng thối nát, con đẻ của vô minh; cũng như lòng ruột của một thân xác đẹp đẽ, oai phong, không mang được vẻ hấp dẫn chút nào nếu đem so sánh với lòng ruột loài heo loài bò. Bao năm nay, người ta ca tụng, khâm phục nhà danh họa Picaso, nhưng đã mê muội hùa theo kẻ khác hầu chứng tỏ ta đây hay giỏi mà tâm hồn thực sự trống rỗng, uổng công sức cầm cọ của ông. Bá ngồi cuối góc bàn, nhỏ nhẹ như nói với chính mình nhưng ai nấy để ý nghe khiến sự ồn ào đáng lẽ phải xảy ra khi hoạt cảnh nâng ly đầu tiên của mỗi bữa nhậu lại trở nên im lặng khác thường.
      - Tôi có lời chúc mừng anh Bá và anh Phủ, cụ Tài nâng cao ly rượu, mời anh em.
      Chẳng đợi gì hơn, thế là một phần ba chất rượu của bình lít rưỡi vừa được rót vào những ly thủy tinh vội biến tan nơi các thân xác của thành viên nhóm nhậu như chưa từng bao giờ hiện hữu trên cõi đời này. Rượu vào, lời ra, trong lúc bình Hennessy được tiếp tục chuyền tay san qua các ly. Ông Thung dạo này coi bộ cũng ngon cơ dẫu phải nhắm mắt nhăn mũi chịu đựng những giọt rượu thơm ngon vì mùi cay xốc lên tới óc đến độ muốn bị sặc. Qua bao lần đàn đúm với nhóm nhậu, ông đã tự nghiệm được phương thức đẩy rượu qua cổ họng mà hơi men cay không làm ngộp buồng phổi phát sinh "chết sặc." Mấy lần đầu, màn khai ly đã làm ông khốn khổ, thở không được, ho không xong mà cứ sặc sụa chảy cả nước mắt nước mũi chẳng khác gì kẻ chết đuối. Tệ hơn nữa, ông bị ngộp rượu vì đã hít đầy phổi luồng men cay nồng nặc. Tự đặt câu hỏi tại sao người khác cũng uống như ông nhưng không sao, chợt có lần ông hớp rượu một ngụm nhỏ, nuốt xuống. À thì ra thế, ông thầm nghĩ. Nguyên tắc đơn sơ chỉ là khi uống rượu, bia phải nín hơi, ngưng thở trong khi nuốt, cùng lắm chỉ cảm thấy cay xé cần cổ nhưng không thể bị sặc. Đợi cụ Tài san miếng tiết canh và ăn xong, ông nói,
      - Theo như cụ giải thích về Phật học lần trước nơi nhà anh Hưng, nghiệm chứng mới là hành trình thiết yếu vì kiến thức hay minh triết đâu phải điều thực sự biết!
      - Minh triết không những bao gồm kiến thức, ý thức mà còn đòi hỏi lòng thực sự khát khao thăng tiến tâm linh hầu đạt tới giải thoát, giác ngộ. Bởi vậy, Phật học được gọi đạo minh triết. Dùng tiếng đạo không có nghĩa tôn giáo mà là hành trình, con đường hành giả hay một người thực tâm muốn kiếm tìm để đạt tới Thực Thể Tuyệt Đối. Xét theo phương diện tâm linh, minh triết là hành trình nhanh nhất cho con người giác ngộ, ít bị phiền hà hay lệ thuộc bởi ảnh hưởng thói quen hoặc truyền thống, đồng thời cũng không nguy hiểm như thiền mật tông hay điểm đạo nếu người theo đường này biết mở rộng cõi lòng sử dụng tự do suy tư tuyệt đối.
      - Có phải cụ muốn nói đến nghiệm xét mọi sự?
      - Đúng, điều kiện ắt có và đủ cho một người muốn đạt đạo nơi hành trình minh triết phải là nghiệm chứng bất cứ sự gì ngay cả những vấn đề hoặc sự việc xưa nay được đề cao là tốt lành thánh thiện.
      - Như vậy, thưa cụ, phải giải thích thế nào đối với những sự tốt lành đã được mọi người công nhận xưa nay?
      - Có câu chuyện dụ ngôn về một con khỉ khi lội ngang qua khe suối cạn. Hắn vớt ngay con cá bỏ lên bờ. Hỏi tại sao, con khỉ trả lời vì muốn giúp con cá khỏi bị chết đuối. Con khỉ có lòng tốt và hành động đáng khen nhưng không phù hợp đối với con cá. Nơi trường hợp của một bé gái năm tuổi, bẻ ngay miếng pizza bỏ vào miệng đứa em của nó mới được hai tháng làm đứa nhỏ chết hóc gần ngất xỉu. Như vậy, những sự tốt lành thiếu suy xét hay nghiệm chứng chẳng những đôi khi mà thường thì trở thành độc hại. Hiểu như thế, người minh triết lắm lúc hành động không thể hùa theo quan niệm phiếm diện bởi chẳng thực tại nào có thể làm khuôn mẫu cho mọi trường hợp, và những kinh nghiệm cũng không thể được áp dụng một cách máy móc, thiếu ý thức. Chúng ta tôn trọng đức Thích Ca, đức Giêsu nhưng không chịu suy tư, cảm nghiệm về những lời các ngài để lại mà chỉ cố tình hùa theo sự giải thích hạn hẹp của một số người dám cả gan tuyên dương họ đã nắm được chân lý rồi lấy những điều đó làm khuôn mẫu để tự lừa dối mình nơi cảm nghĩ chỉ cần hiểu được những điều họ giải thích sẽ thành Phật thành thánh. Nếu thực sự đối diện với lòng mình, tôi dám nói, bất cứ ai suy nghĩ về những lời dạy của các bậc đạt đạo, chắc chắn sẽ nhận ra mình là con người bết bát, tệ hại khôn cùng thì sao dám có ước mơ trở thành thế nọ thế kia.
      - Thưa, cụ nói như vậy có ý gì?
      - Thử đem một đôi câu nói của nhà Phật hay nơi Phúc Âm áp dụng vào thực tại ông sẽ thấy. Chẳng hạn lời của Lục tổ, "Tu hành mà chẳng vọng động, nghĩa là lúc thấy cả thảy mọi người mà chẳng thấy các điều phải quấy lành dữ, tội lỗi của người, tức là tánh mình chẳng động" (KPBĐ; Tr.96). Nguyên câu nói tự nó đã minh chứng vọng động vì nếu đã không vọng động sao phải đặt vấn đề vọng động. Nơi Phúc Âm có những câu, "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta, ắt không xứng với ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn ta, ắt không xứng với ta" (Mt. 10:37), hoặc, "Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo ta" (Mt. 19:21). Có phải cứ theo nghĩa từ chương mà không suy nghiệm sao cho hợp tình hợp lý nơi cuộc đời mình, chúng ta tự tạo mặc cảm tội lỗi không cách nào xóa bỏ được. Đối diện với con người thực của mình, suy tư, nghiệm xét mọi sự, dùng nghịch luận, thách đố chính mình sống phù hợp ý nghĩa thực chứng thâm trầm của những lời khôn ngoan đạo học, đó là hành trình minh triết để đạt đạo, và đây là con đường nhanh nhất vì dẫu theo thiền tông hay mật tông, dẫu thờ phượng đấng nào rồi cũng phải trải qua đoạn đường minh triết trước khi khai ngộ. Chẳng hạn Ramakrishna, một tu sĩ mật tông Ấn Độ. Thuở ban đầu ông theo con đường Bhakti, thờ phượng đức thánh mẫu Kali. Tuy nhiên, để vượt qua chặng đường cuối cùng của đại định, ông đã phải nhờ một tu sĩ và một nữ tín đồ thông hiểu kinh sách chỉ điểm cho ông về lối tu bằng trí tuệ.

      - Thưa cụ, nếu thế thì thiền tông hay mật tông chỉ dành riêng cho một số người đặc biệt.
      - Thiền tông đặt căn bản trên nền tảng minh triết và dùng một số phương thức thiền định thúc đẩy hành giả đạt tới sự thức ngộ mau hơn. Bình thường, thiền được hiểu chỉ là định tâm quán tưởng và điểm cuối cùng đưa hành giả vào giai đoạn đại định. Thực ra, thiền tông bao gồm quán tưởng và mật tông. Mật tông dùng định và những phương thức vận chuyển khí huyết phát triển năng lực tự nhiên nơi con người. Nguyên tắc chính của mật tông không khác gì căn bản luyện khí của hiệp khí đạo bắt nguồn từ năng lực của ý chí, tư tưởng, ý định theo lý thuyết ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết được chuyển tới để đả thông kinh mạch. Đó là lý do tại sao người ta nói đến mật tông, huyền thuật Tây Tạng, Zen bên Nhật Bổn, Yoga ở Ấn Độ, Điểm Đạo tại Ai Cập.
       
      Mấy người ngồi gần cụ Tài nghe cụ nhắc tới mật tông, huyền thuật, Yoga, Điểm Đạo, lộ vẻ chú ý. Đối với họ, những danh hiệu này bao hàm muôn sự huyền bí xưa nay loáng thoáng nghe nói đâu đó hoặc đọc nơi sách vở về những quyền năng cả thể cứ như là phép lạ chẳng hạn đi trên lửa, hoặc chôn dưới đất bốn mươi tám ngày không chết, hay chỉ cần một đụng chạm nhẹ của người tu Yoga hay mật tông, huyền thuật đã có thể chữa lành những bệnh bất trị hoặc có những người sau thời gian tu luyện không phải ăn mà vẫn sống. Đầu bàn bên kia, chị Sỹ chợt lên tiếng nói với qua,
      - Thưa bác, con nghe người ta nói tu Yoga sẽ làm được nhiều sự lạ lắm phải không bác?
      - Đâu phải chỉ thực hành Yoga mới đạt được kết quả sử dụng được năng lực thần thông, các bậc giác ngộ đều có thể thực hiện được những điều mà chị gọi là sự lạ. Ngay chính chúng ta, bất cứ ai cũng hàm chứa sẵn năng lực ấy; vấn đề chỉ là làm thế nào để phát huy năng lực nội tại nơi mình theo ý muốn. Tuy nhiên, hành trình phát triển năng lực nội tại này đòi hỏi nhiều điều kiện tâm linh và thể xác đồng thời cũng có nhiều đường lối luyện tập. Đó là lý do tại sao có nhiều cấp bậc cũng như thành quả nơi hành trình thực hành huyền thuật, yoga, mật tông, hay điểm đạo. Ngay cả các pháp sư đều là những người tu luyện một trong những phương pháp phát triển năng lực nội tại nơi con người để sử dụng quyền lực tự nhiên. Có điều, sự khác biệt được phân chia rõ rệt. Những bậc đạt đạo không sử dụng quyền lực này ngoại trừ những trường hợp tối cần thiết. Dẫu họ biết cách và có thể sử dụng nhưng thực ra đó là quyền lực vũ trụ, quyền lực của Thượng Đế không phải để lạm dụng kiếm kế sinh nhai hay khoe khoang tài năng vì bất cứ hành động nào cũng đều mang năng lực ảnh hưởng ngược lại chính bản thân chủ thể thực hiện.
      - Thưa bác, nếu nói theo hành trình thức ngộ nơi nhà Phật thì bất cứ ai cũng có thể theo con đường tiệm ngộ. Và nếu đàng nào cũng ngộ tất nhiên cuối cùng cũng đạt được những quyền năng không sớm thì chầy. Như vậy, ngoài điều kiện minh triết để bước vào mật tông hay Yoga, huyền thuật, người muốn theo con đường này cần có những điều kiện nào khác? Phủ lên tiếng trong khi những câu chuyện riêng tư nơi bữa nhậu chợt ngưng ngang vì mọi người cảm thấy háo hức khi nghe cụ Tài nói ai cũng hàm chứa sẵn năng lực thần thông.
      - Minh triết không phải là điều kiện vì ai cũng có thể đạt tới được nếu họ thực sự muốn; tuy nhiên, điều kiện không thể thiếu nơi mọi hành giả được trình bày qua nhiều nhận định đó là tâm thành rộng mở và lòng khát vọng, có thể gọi sự sám hối, có thể là nhận biết và chấp nhận chính mình. Tôi tạm đưa ra trường hợp điển hình để anh em tự nghiệm. Nếu tôi không lầm, suốt tuần qua sau khi nghe quan điểm về hành trình kiến tính nhà Phật, một số anh em phần nào đó bị nỗi tự ty mặc cảm dày vò. Ít nhất như anh Phủ đã nói, "Quá tệ và quá ngu, ngu không thể tưởng, phải dùng tiếng "hèn" mới đúng." Hoặc anh Bá nhận ra mặt trái của thói quen, "Đã đợi thì đừng kêu và đã kêu tại sao lại đợi." Chỉ những tâm hồn chân thành dám đối diện với lòng, nói theo nhà Phật, dám nhận định đúng đắn về ứng thân, mới thực sự sám hối để dứt khoát với con người cũ và bắt đầu cho cuộc sống ý thức tiến dần đến trạng thái minh triết. Kẻ nào không thực lòng cảm thấy mình đã quá hèn, quá ngu để chết cho con người cũ, không thể nào chạm tới ngưỡng cửa minh triết, lẽ dĩ nhiên, không hòng gì giác ngộ. Anh em nên để ý điều này, đó là tất cả các đạo học không dạy chúng ta bất cứ điều gì mà chỉ nêu lên trạng thái đạt tới Chân Thể nơi con người. Nhận biết hay không tùy cá nhân. Các bậc giác ngộ không nói đến những sự việc bên ngoài mà nội tại. Dành thời gian nghiệm chứng sẽ thấy, đức Thích Ca rao giảng Phật tính bao trùm vũ trụ ở mọi chúng sinh. Một Đạt Ma sư tổ hô lên, "Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lai đã và sẽ được tạo thành trong tâm" (KCGL; Tr.201). Lục tổ Huệ Năng bảo, "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật." Đối với Trang Tử, nhận chân được cái sống thật của mình tức hòa đồng với nguyên lý của vũ trụ được gọi là Tào. Ấn học trình bày Đại Ngã ngay trong chính tiểu ngã của con người (CTC; 13:24). Đức Giêsu công bố chỉ một tin mừng và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn táo bạo hơn bất cứ bậc đạo gia nào khi nói, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24).
       
      Mấy tướng con nhà Công giáo cảm thấy ngạc nhiên đến độ chỉ biết giương mắt ếch ngỡ ngàng nhìn cụ già. Tuần trước thuyết về Tâm Phật, giờ này đang thao thao về năng lực nội tại và đem lời nói của các bậc thức ngộ minh chứng, thế mà cụ nêu ngay câu Kinh Thánh không ông cha nhà thờ nào có thể dùng để giải nghĩa về quyền lực sẵn có nơi con người. Điều khiến các tướng phải dặn lòng từ nay cần thay đổi nhận định đó là ẩn nơi vẻ hiền hòa với thân xác về chiều của cụ, cả một tâm thức xác tín vững vàng minh chứng quyền lực đức tin. Có lẽ từ nay các tướng sẽ nhụt bớt nhuệ khí tự cao hằng ấp ủ. Dẫu mang thân tị nạn nhưng những mảnh bằng BS, BA, M này, M kia, cũng tạm khích lệ các tướng nghểnh mặt nhìn đời nhiều khi coi rẻ dân bản xứ, vác sức vóc làm thuê mướn, thế mà câu Kinh Thánh đã bao nhiêu lần nghe đến độ nhàm tai, không cần để ý, giờ này xuất phát từ cửa miệng cụ Tài chẳng khác gì ngọn roi quất vào mặt, thức tỉnh các tướng nên đặt lại vấn đề nhận thức.
      - Thưa bác, bác muốn nói mọi người đều đã có sẵn quyền lực nội tại? Sỹ nhà con nhào vô hỏi.
      - Tôi đợi anh nói thêm, tại sao chúng ta không thể sử dụng được để yêu cầu mọi người phạt thêm một chầu nhậu. Cụ Tài nhìn hắn chừng vài giây chờ đợi đoạn lên tiếng. Sở dĩ chúng ta không sử dụng được vì không biết cách sử dụng. Những phương pháp thiền tông, mật tông, huyền thuật, yoga, điểm đạo, chỉ là hành trình phát triển các phương thức sử dụng năng lực nơi con người chứ không có gì được gọi là bí mật. Tôi muốn nêu lên bằng chứng hiển nhiên, đã nhiều lần khi ngủ, chúng ta mơ. Vậy con mắt nào để chúng ta nhìn trong giấc mơ mặc dầu khi ngủ chúng ta không nhận biết ngay chính bản thân mình? Sự kiện nhìn thấy trong giấc mơ minh chứng rõ ràng bất cứ ai cũng có khả năng nào đó và đã chẳng bao giờ để ý phát triển. Có những người mù mờ giải thích đó là hiện trạng tâm lý chứa đựng những ảnh hưởng đã được chìm sâu nơi tâm thức bất chợt gợi lại khi hệ thống thần kinh bị kích thích cách nào đó do ảnh hưởng sinh lý, thực phẩm, hoặc trạng thái lưu thông của các mạch máu. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra không đơn giản theo lối nhìn hạn hẹp nhân danh khoa học vì có những giấc mơ mãi sau này mới xảy đến khiến chúng ta ngỡ ngàng, tưởng như đã gặp sự kiện hoặc sự việc bao giờ rồi. Anh em hãy để ý tìm kiếm và sử dụng con mắt nhìn thấy sự việc trong giấc mơ trước khi chúng xảy ra. Đây chính là khởi điểm nhận thức về hành trình tu chứng, nghiệm chứng các quyền lực nội tại. Mỗi người chúng ta mang một thực thể huyền nhiệm nhưng không được để ý tìm hiểu. Các đạo học nói về hành trình phát triển năng lực huyền nhiệm này, và thiền tông, mật tông, yoga, điểm đạo, huyền thuật là các phương pháp thực hành. Tuy nhiên, muốn thực hành lại cần nhiều điều kiện.
      - Thưa bác,
      - Anh Tùy muốn hỏi điều kiện nào phải không?
      - Dạ, thưa bác.
      - Anh em biết hết rồi nhưng không để ý nghiệm chứng mà thôi. Điểm căn bản ai cũng thấy rõ, chúng ta không phải chỉ là những thân xác trôi nổi theo giòng đời mà còn có một thực thể tâm linh, có con mắt nhìn trong giấc mơ. Ai cũng cảm nghiệm được thân xác không đơn giản gì đồng thời cũng là điểm đứng cho bước tới đầu tiên theo bất cứ chiều hướng nào. Hoạt động của tâm thức để tìm kiếm thực thể tâm linh được cấu tạo ra sao, gốc gác ở đâu, làm thế nào liên lạc, đó là hành trình tâm linh, hành trình nhận biết bản thể thực con người của mình. Tuy nhiên, dẫu có nhiều quan niệm về cơ cấu tâm linh của con người, tất cả mọi quan niệm cũng chỉ quy về một mục đích nhận thực ra bản thể chủ thể suy tư vì quan niệm phải nhờ đến ngôn từ mà ngôn từ thì giới hạn. Đây là nguyên nhân khiến chúng ta cảm thấy như rợ vào rừng khi tìm kiếm hành trình thực dụng nơi các kinh sách vì chẳng những văn tự được dùng ám định khác nhau mà quan niệm cũng như chiều hướng khác nhau. Kỳ mới lên lon đại úy được hai năm, tôi bị trường hợp kích ngất và mấy người lính đã vội đưa tôi vào nhà thương cấp cứu. Có điều lạ, tôi không theo đạo nào nhưng đa số những người làm việc với tôi lại là Công giáo hay Phật tử. Ở phòng cấp cứu, tôi thấy mình lơ lửng nơi trần nhà, nhìn rõ ràng các y tá, bác sĩ giật điện đánh thức con tim nơi thân xác tôi đập trở lại. Những anh em Công giáo, người thì cầu nguyện, người lần chuỗi kêu cầu Chúa cứu tôi. Mấy anh em Phật tử cũng niệm Nam Mô A Di Đà cầu cho tôi. Biết họ đang cầu nguyện cho mình, biết lòng họ tha thiết, yêu mến mình trong khi tôi không cảm thấy thiết tha gì đến thân xác đang nằm trên giường. Nói đến đây cụ Tài chợt ngưng, nhắm mắt dường như tưởng nhớ lại cảm nhận đã bao năm trôi qua, đoạn tiếp,
      - Mãi về sau tôi mới để ý đó là khi hồn tôi lơ lửng nơi trần nhà với đầy đủ nhận thức những diễn tiến nơi phòng cấp cứu, bộ óc trong thân xác đang nằm bất tỉnh trước mặt mọi người đã không cảm nhận được bất cứ gì. Sau này coi trên truyền hình, người ta trình chiếu các hoạt động của bộ óc về cảm ứng, tạo lập những sáng kiến, hoặc ban phát các mệnh lệnh truyền qua hệ thống thần kinh nơi băng tần Disovery. Những phim ảnh này đã giúp tôi nhận thức một điều thật trái nghịch với sự nghiên cứu của khoa học. Khoa học gia, bác sĩ cho rằng não bộ là trung tâm điều hành và phát xuất các hoạt động thể xác cũng như tâm linh. Nơi kinh nghiệm kích ngất, hồn lìa khỏi xác, tôi lại thấy bộ óc hay những hệ thống thần kinh chỉ là phương tiện cho linh hồn cảm ứng. Mọi mệnh lệnh, ý nghĩ, suy tư, sáng kiến, nhận thức đều do linh hồn phát xuất. Trong khi hồn tôi vẫn lơ lửng phất phơ phía trên cái thể xác trống rỗng, tôi đã kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng minh chứng hiệu quả nhất đó là nó đã di chuyển thật sự ra khỏi thể xác! Tôi tiếp tục nhìn cái xác phàm còn bỏ sót lại. Phải chăng cái xác bất động kia mà đã bao nhiêu năm tôi vẫn gọi là cái tôi? Một đống nhục thể, vô tri giác, chỉ có thế thôi! Chính lúc ấy tôi mới khám phá, với bằng chứng rõ ràng, cái tôi linh thiêng hoàn toàn khác biệt với thân xác. Cái tôi linh thiêng hay linh hồn mới thực sự là chủ thể con người của tôi. Bởi vậy, gọi là tôi có nghĩa linh hồn chứ không phải thân xác đang nằm bất động nơi đó. Nhìn vào đôi mắt nhắm tịt không còn thấy gì nữa, cơ thể không còn cảm ứng với ngoại cảnh, nào y tá, bác sĩ, ép ngực cho thở trở lại, giật điện tạo hô hấp, tôi mới nhận thấy rõ tất cả sự khác biệt nơi thực thể tâm linh với sự hiểu biết lầm lạc về sự sống của con người bao lâu nay. Cái thể xác vật chất mấy chục năm từ ngày sinh vẫn giam hãm lấy tôi, cái tôi thật, nhưng bây giờ thì tôi đã thoát khỏi ách thống trị của thân xác. Trước kia, tôi vẫn hiện hữu nhưng không biết mà tưởng mình chính là mảnh hình hài được gom góp bằng tứ chi, thân thể nên vẫn lầm lẫn. Cái cơ thể năng động bằng xương thịt chẳng khác gì nhà tù biết di chuyển mà hồn tôi là tù nhân. Sự nhận thức này làm tôi bàng hoàng pha lẫn niềm thư thái an lạc như vừa thoát ách ngục tù.
      Vậy là tôi đang lơ lửng nơi trần căn phòng cấp cứu, linh hồn tôi đã tách rời khỏi xác phàm, và con người tôi gồm có hai phần khác nhau, linh hồn và thân xác. Tôi đã rời bỏ cõi thế gian mà tôi vẫn ở bấy lâu nay. Tôi có cảm giác như trở nên một vật tinh anh thanh nhẹ vô cùng, trong một trạng thái mới kể từ đó. Nhìn chiếc băng ca trên đó xác thể tôi đang nằm, ý nghĩ giản dị thầm lặng đến với tôi; tôi đã bước vào trạng thái của sự chết. Lúc ấy tôi nhận biết rõ ràng tôi là một linh hồn, và tôi có sự hiện hữu vô hình ngoài xác thân.
      - Tôi chỉ còn là một bóng ma, chẳng hiểu sao lúc đó tôi bình tĩnh lặp lại nơi ý nghĩ theo thói quen giống mọi người như thế, một vong linh không thể xác đang vẩn vơ trên không gian. Tôi đã hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những ám tự cổ xưa. Với cảm giác bay lơ lưng trên không chẳng khác nào như tôi có mọc hai cánh và bay lướt trên cái thể xác đã bỏ rơi giống như con chim bay lượn trên một vật gì ở dưới đất (ACHB; Tr.63). Giống như biến cố của bà mẹ sinh một đứa con và hằng ngày nhìn nó lớn lên, sự giác ngộ tâm linh nơi tôi xảy đến do trạng thái kích ngất là một biến cố quan trọng trong đời khiến tôi không bao giờ có thể quên được; vì nó làm cho tôi hoàn toàn thay đổi và trở nên một người mới. Lúc ấy tôi cảm thấy tràn đầy một nguồn hạnh phúc vô biên và an lạc tuyệt vời không thể tả; đồng thời một tình yêu bao la rộng lớn và nồng nàn đối với toàn thể những anh em bạn lính, y tá, bác sĩ, kẻ lo âu, người cấp cứu đang vây quanh thân xác tôi. Họ cũng như tôi, đều nhìn thấy xác thân của tôi dường như đã chết, vì mọi sự sinh hoạt đều ngừng hẳn, hơi thở cũng ngừng luôn. Từ đó tôi mới có được sự nhận định chính xác về con người. Một cá nhân thường được định nghĩa gồm có hai phần tâm lý và sinh lý hay tâm và thân. Thân là phần vật chất được cấu tạo bởi các yếu tố mà khoa học có thể giải thích và chứng minh nhưng vẫn còn nhiều chứng minh đầy dự tưởng. Tâm là linh hồn, chủ thể của những tri giác, suy tưởng, quan niệm và tình cảm của con người mà khoa tâm lý học đang cố gắng giải thích dầu vẫn còn nhiều thiếu sót.
      - Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả những nỗi sung sướng sự giải thoát của tôi lúc ấy. Tôi thực sự là một thực thể tâm linh, một linh thể cấu tạo bằng tư tưởng và tình cảm, không còn bị trói buộc bởi những chướng ngại của ngục tù thân xác vẫn giam hãm tôi, tức là nhục thể nặng nề bằng xương thịt này. Thoát ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác, tôi giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên không hề mất đi cái ý thức của mình. Thời điểm ấy, ý thức về sự hiện hữu của tôi lại còn đậm đà nồng nhiệt hơn trước. Tôi cảm nhận được rằng việc thoát lên một cõi giới thanh cao hơn đem cho tôi cái cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cõi giới thuộc về chiều đo thứ tư các nhà đạo sĩ đôi khi nói đến. Niềm an tịnh vô biên nào đó đã xâm chiếm lấy tôi cũng như đang tràn ngập bầu không khí nơi phòng cấp cứu dẫu mọi người phía dưới lo âu cuống cuồng. Tâm hồn tôi, trí não tôi, từ lâu bị dày vò bởi phiền muộn, căng thẳng do sự độc đoán của tư tưởng, suy tư, biện luận, nhận định hạn hẹp, lúc ấy hoàn toàn đã được giải thoát. Tôi tự thả trôi theo sự nghỉ ngơi và an tịnh một cách tuyệt diệu không đếm xỉa gì đến cái xác thân dưới đó.
      - Đọc nơi sách vở, nhà Phật gọi là bản ngã và thân; Ấn học cho rằng đó là tiểu ngã và xác phàm; Kinh Thánh, đặt tên linh hồn và thể xác; Lão học cũng nói đến bản ngã và con người. Tôi suy nghĩ nhiều về sự liên hệ giữa thực thể vô hình, bản ngã đích thực không ai có thể nhìn thấy của tôi tạm gọi là linh hồn và xác thân trong cuộc sống. Cứ theo cảm nghiệm nhận được, những gì chúng ta gọi là tâm lý, lương tâm, lý trí, trí khôn, nhận thức, ý thức đều thuộc về linh hồn. Những hành động, ý nghĩ, suy tư trong cuộc sống không một chút nào dính bén tới xác thân mà ngược lại; xác thân chỉ là công cụ thể hiện hoạt động của linh hồn. Trong khi linh hồn tôi lơ lửng nơi trần nhà, định luật hấp lực đã không còn ảnh hưởng. Hồn tôi phất phơ trên không trung đồng thời nhận thực được rằng thực thể được gọi là tôi không lệ thuộc bất cứ gì nơi trần gian vì nó bất diệt dẫu không ai nhận ra, ngay cả chính tôi từ bao năm qua. Lúc ấy tôi mới có câu trả lời chính xác cho nỗi thao thức từ lâu vì nội tâm đã cảm thấy thiếu thốn một thứ gì không thể diễn tả được. Tôi là một thực thể tâm linh bất diệt, không thể nào chết. Cũng như mọi người, ai cũng là một thực thể tâm linh mà kinh sách gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau tùy thuộc quan niệm nhận thức. Thực thể này hoàn toàn độc lập và là chủ thể chịu trách nhiệm tất cả mọi hành vi, ý nghĩ nơi con người. Như vậy, phần thân xác không phải là chánh phạm hay chủ động của các hành vi, suy tưởng, ý định, mà linh hồn, tâm vô hình, mới thực sự là chủ phạm. Xác thân, trí óc của tôi không thể khởi niệm nếu nói theo nhà Phật. Nó cũng không thể có vọng niệm vì nó đang bất động, sõng xoài dưới những bàn tay y tá, bác sĩ, và những vật dụng y khoa giữa đám bạn lính của tôi mà chưa có được lấy một phản ứng nào trong khi hồn tôi nhận thức cũng như cảm nhận rõ ràng nỗi lòng, ý muốn từng người phía dưới. Xác thân tôi như thế tuyệt đối yên lặng chẳng khác gì dụng cụ y khoa hay những đồ nghề nơi tay người thợ. Nó chẳng qua chỉ là công cụ cho tâm, linh hồn bất diệt được gọi là "tôi." Một điều không thể chối cãi đó là tâm thức của tôi không hề kết hợp với cái nhục thể được gọi là thân này. Dẫu xác phàm của tôi tăng trưởng và thay đổi theo giòng thời gian nhưng linh hồn tôi trước khi sinh ra đã như thế. Nó dùng thân xác liên hệ với cuộc sống hầu phát triển tâm thức cho trưởng thành hơn mà vẫn biệt lập, hoàn toàn không một chút kết hợp chẳng khác gì những bộ áo quần dẫu đẹp đẽ đến mấy, được ưa thích đến mấy đối với mọi người.

      - Suy rộng hơn, tôi nhận ra thực thể tâm linh, còn được gọi là sự sống, sự hiện hữu, là gốc gác, căn bản, mặc lấy xác phàm. Sự hiện hữu được thể hiện qua mọi hình thức sống động nơi con người, động vật, hay bất động vật nơi cây cối, gỗ đá, cũng như nơi cõi vô hình mà linh hồn tôi hiện hữu. Sự sống, sự hiện hữu hiện diện tràn ngập qua mọi hình thức, trạng thái. Từ hữu thể vô tri giác, bất động đến thực thể tâm linh thức ngộ vì sự hiện hữu không phải là một cái gì bất động. Dẫu sự hiện hữu nơi thế giới hữu hình tuân theo các định luật khoa học nhưng mang tính chất huyền nhiệm sống động và biến chuyển trong thân thể, tư tưởng, tình cảm, ý thức con người. Từ sự nhận thức này, tâm trí tôi đã hoàn toàn thay đổi và trở thành mẫn cảm hơn, cảm nhận được sự mầu nhiệm của sự hiện hữu thường được gọi trong ngôn ngữ hạn hẹp hơn đó là sự sống. Đối với tôi, sự hiện hữu, cội nguồn hiện hữu hay quyền lực hiện hữu hoặc bản thể hiện hữu chính là Thực Thể Tối Thượng đang hiện diện và hoạt động nơi mọi người, mọi vật hữu hình hay vô hình. Như vậy, cõi đời là môi trường, cơ hội, hay phương tiện cho thực thể tâm linh của mỗi người rèn luyện, một trường học hay giai đoạn để cái "ta" đích thực hay linh hồn thăng tiến. Có điều, tôi vẫn chưa cảm nghiệm đích thực được sự liên hệ giữa linh hồn với Thực Thể Tuyệt Đối thế nào dẫu linh hồn cũng như mọi sự mang Thực Thể Hiện Hữu Tuyệt Đối. Thế nên chẳng lạ gì, các kinh sách đều khuyến khích chúng ta nhận thức về điểm quan trọng đầu tiên, phải biết mình là gì và được sinh ra để làm gì.
      - Xét như vậy, sự chết xác thân là một điều hiển nhiên và cần thiết vì nhờ có sự chết người ta mới ý thức được sự sống. Chết là một điều hiển nhiên vì thân thể, hao mòn theo năm tháng, hư hoại do ảnh hưởng của già lão, bệnh hoạn cần phải được thay thế bằng một thân thể khác mới mẻ và tốt đẹp hơn để linh hồn tiếp tục các kinh nghiệm đã được học hỏi hầu phát triển hơn nữa. Đàng khác, sự học hỏi sắp đặt các kinh nghiệm cấu tạo nên trí thông minh. Nhưng thông minh không phải là nấc tiến cuối cùng trong mức tiến hóa như nhiều người lầm tưởng bởi tâm thức còn phải vượt lên từ vô thức đến ý thức và từ ý thức đến trạng thái ý thức tuyệt đối nơi tất cả mọi hành động, lời nói đến tư tưởng của mình. Từ kinh nghiệm kích ngất tôi nhận rõ ràng sự thể và đó là những ý nghĩ, ước muốn, tham vọng cho đến lời nói, hành động đều phát xuất từ thực thể tâm linh, linh hồn, chứ không phải do thân xác. Ngay như bộ óc, hệ thống thần kinh vẫn chỉ là công cụ thì thân xác cũng không hơn được chi. Thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, cái vỏ nhục thể bên ngoài bao bọc nếu không muốn nói là giam hãm linh hồn bất diệt. Một tử thi không có giá trị gì nếu không muốn nói là chỉ làm phiền người sống. Như vậy, trong trường hợp chết tự nhiên, nghĩa là không phải do tai nạn bất đắc kỳ tử, thì đây là diễn biến của sự chết xác thân. Cái thể xác mệt mỏi, già cỗi đã trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không còn có thể giúp cho linh hồn tiến hóa nữa; đó là lúc cần phải loại bỏ lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật chất (TTHB; Tr.181). Ngày nào người ta ý thức được sự sống bao la mầu nhiệm và khi hiểu được giá trị sự sống thì sự chết chỉ là một hiện tượng tự nhiên, một trạng thái cần thiết không có gì đáng phải e ngại nhưng lại là cơ hội không thể thiếu cho hành trình thăng tiến tâm thức của con người. Từ đó, tôi thực sự nhận được rằng tôi không phải chỉ là cái xác thân theo ngày tháng trở nên già lão, sắp qua đi này mà là linh hồn, một thực thể tâm linh bất diệt.
       
      MBVN 07
       
      - Sau này, càng suy luận về thực thể linh hồn, tôi càng nhận ra chúng ta không thể kết luận bừa bãi một cách ngu dốt về ý nghĩa của sự sống qua cái nhìn phiếm diện và giới hạn của một kiếp sống ngắn ngủi mà cần kinh nghiệm nó như một sự tiếp diễn liên tục. Chết không phải là chấm dứt sự sống mà chỉ là một giai đoạn biến chuyển của sự sống cũng như ngày và đêm, sáng và tối. Hơn thế nữa, chết thực sự là cơ hội thăng tiến tâm linh. Xét qua hành trình lịch sử nhân loại hay của vạn vật, sự sống vẫn tồn tại giữa những cơn tàn phá, hủy diệt. Bởi vậy, hẳn là phải có một định luật cao cả hơn định luật hủy hoại trong thiên nhiên. Chỉ có định luật ấy mới đem đến một xã hội có trật tự, điều hòa và mới nói lên được ý nghĩa của cuộc đời. Nếu sự biến chuyển là định luật của đời sống, chúng ta phải thể hiện nó trong cuộc đời hằng ngày. Trong mọi cuộc tranh chấp xung đột, mỗi khi chúng ta phải đương đầu với một địch thủ, hãy chinh phục họ bằng ý thức sự sống vĩnh cửu nơi mình cũng như nơi người. Nhận ra như thế, cuộc đời chính là cơ hội và cũng là ông thầy tâm linh của chúng ta.
      - Dùng kinh nghiệm khi kích ngất để nhận định những tiến triển khảo sát tâm lý, tôi thấy các nhà bác học về tâm lý chưa dám công khai nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng còn nhiều điều mới lạ mà họ chưa thể hiểu nổi, hoặc đã vì thiếu lương tâm nghề nghiệp không dám bỏ giờ nghiệm chứng, hoặc đôi khi vô tình cảm nhận được thì cũng không dám tuyên bố những điều không phù hợp với quan niệm thông thường bởi không cách nào chứng minh, hay do nỗi e ngại bị đồng nghiệp phản đối ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo nên cũng không dám lên tiếng về những điều chưa được đa số quần chúng chấp nhận. Dù tự do tư tưởng được tôn trọng, các khoa học gia vẫn không dám vượt qua bức màn thiên kiến cố hữu con đẻ của tự ti mặc cảm hoặc quá cao ngạo thành ra tự đóng khung trí tuệ chẳng khác gì kẻ mù bẩm sinh cho rằng không có mặt trời. Họ không dám đả phá các thành kiến cố hữu có thể vì e sợ không được chấp nhận thuộc về hàng ngũ nào đó. Họ e sợ dư luận và bám víu một cách lạm dụng lý thuyết cho rằng những gì chưa được kiểm chứng bởi khoa học thì sẽ không xẩy ra. Có lẽ cũng vì thế mà quan niệm của đa số quần chúng với đời sống vẫn còn là một cái gì mù mờ, không rõ rệt, không mục đích, và cũng không biết sống để làm gì. Người ta chỉ chú trọng đến những lợi lộc phù du, những giá trị vụn vặt nhỏ nhen vật chất ngắn hạn trong thế giới đầy rẫy những thay đổi vô thường, bỏ tiền mua đôi giây phút vui vẻ tạm bợ hầu tạo thêm khoảng trống tâm tư để rồi càng ngày càng chịu gánh nặng cô độc lầm lẫn ám ảnh.

      Lời cụ Tài điềm đạm, trầm trầm, mang thêm tính chất xót thương khi nói tới nhận thức của những tâm lý và khoa học gia nhận định về sự sống nhưng mang năng lực cuốn hút và thức động thực thể nào đó nơi lòng trí mọi người.
      - Thưa bác, Tam phá bầu khí nghiêm trọng nặng nề, thế lúc hồn bác lơ lửng trên trần nhà, bác có thấy hình dáng ra sao không?
      - Lúc đó tôi không để ý chuyện này mà chỉ cảm thấy vui sướng đồng thời thâm cảm tâm tình anh em bạn lính đang cầu nguyện cho tôi nơi phòng cấp cứu. Sau này, tôi cố tra cứu sách vở nói về hình dáng của hồn thì hầu hết những sách báo tra cứu về kinh nghiệm này, đặc biệt nơi những cuốn sách tự thuật nơi hành trình thiền định mật tông đều cho rằng hồn có hình dáng như thân xác của một người nhưng mắt trần không thể nhìn thấy. Tôi có biết một người Mỹ, Công giáo, tên là Bob, bị kích ngất bởi đứng tim và ông ta được cứu sống. Tuy nhiên theo như lời vợ ông ta kể, ngay khi được cứu sống lại, ông ta rất bực bội vì cho rằng họ đã cướp mất sự hạnh phúc mà ông ta vừa đạt tới. Hiện giờ, ông ta rất sùng đạo, tham gia các sinh hoạt của nhà thờ Công giáo nhưng đôi khi phàn nàn về những lời giảng của linh mục là không hợp với kinh nghiệm về tâm linh đã xảy đến với ông.
      - Thưa bác, ông ấy phàn nàn thế nào? Tùy con chen vô.
      - Hãy để bác nói tự nhiên! Đang không chen vô mất hứng.
      - Để tôi trả lời anh Tùy rồi nói tiếp về vụ ông Bob. Thêm vào đó, những gì cảm thấy cần được biết, anh em cứ việc hỏi bởi đôi khi vấn đề được đặt ra không quan trọng với người này lại có thể cần thiết cho người khác. Ông Bob nói rằng có lẽ vì không có cảm nghiệm về thực thể linh hồn một cách rõ ràng, hầu hết các linh mục hoặc mục sư đã không có cảm nghiệm thực sự về Thượng Đế thế nào mà có chăng nói đến Thiên Chúa như một thực thể được nhân cách hóa, duy lý theo suy luận nhân sinh, ngự trị nơi cõi xa xăm nào đó cách biệt với con người, và đặc biệt không phù hợp Phúc Âm. Ông Bob nói với tôi, kể từ ngày ông có cảm nghiệm qua kinh nghiệm chết, đọc Phúc Âm, ông ta hiểu hoàn toàn khác với những gì được giảng dạy. Ông có nỗi thao thức rất mạnh mẽ sao cho mọi người nhận thực được thành phần tâm linh nơi họ. Theo ông, Phúc Âm viết về hành trình của thực thể tâm linh được gọi là linh hồn trong khi người ta cứ hiểu Phúc Âm qua nhãn quan luân lý hoặc tâm tưởng đạo đức. Tôi nghĩ, lý do mà ông nói những điều này với tôi vì khi gặp ông lần thứ hai, tôi kể về chuyện được cứu sống nơi lần kích ngất. Hơn nữa, những gì ông kể về kinh nghiệm chết không có gì đối nghịch với kinh nghiệm của tôi; sự thông cảm có lẽ phát xuất từ điểm này...
      - Ông Bob nói rằng ông gặp bố và ông nội của ông ta. Người bố đã chết chín năm trước và ông nội đã chết hai mươi bẩy năm. Lúc ấy, ông cảm thấy nỗi an bình tuyệt vời, một trạng thái chưa từng có trong suốt cuộc sống của thân xác ông. Đồng thời ông nhìn thấy một nguồn sáng lạ kỳ, không thể diễn tả mà ông gọi là ánh sáng của đức Kitô kéo ông tới. Cứ theo sự kể lại này thì linh hồn có hình dáng của một người khi còn sống. Anh em có thể đọc thấy nhiều mẫu truyện hay phỏng vấn ghi lại nơi cuốn sách Bí Ẩn về Tiền Kiếp Hậu Kiếp do Đoàn Văn Thông biên soạn. Điểm khác biệt giữa kinh nghiệm của tôi và của ông Bob đó là tôi đã không gặp hồn những người đã chết mà nhận biết rõ ràng mọi biến chuyển nơi phòng cấp cứu khi bác sĩ và y tá giúp tim tôi đập lại cũng như cảm nhận những tấm thịnh tình của anh em bạn lính nhưng không để ý về hình dáng thực thể vô hình của mình. Ông Bob nhận ra bố và ông nội nhưng không biết gì về hoạt cảnh xảy ra nơi phòng cấp cứu. Dẫu cảm nghiệm khác biệt nhưng tựu trung cả hai trường hợp của tôi và ông Bob đều chứng tỏ chúng ta thực sự là những hữu thể vô hình mà thân xác chỉ là công cụ nơi cơ hội có cuộc sống hữu hình để tiếp tục học hỏi và thăng tiến. Đây chính là lý do tại sao tôi không theo bất cứ một tôn giáo nào mà chỉ tìm hiểu về đạo học. Nói chuyện với khá nhiều người, điều khiến tôi ngạc nhiên là sự hiểu biết của họ rất mù mờ về tôn giáo. hoặc chỉ hiểu đại khái về tôn giáo như tổ chức họ phải tùy thuộc nơi cuộc đời này chẳng khác gì một loại bảo hiểm mà giá phải trả là tuân theo luật lệ tôn giáo để hưởng phúc sau khi chết hoặc vì lo sợ bị luận phạt nên cố gắng ép mình ép xác chấp nhận chịu sự khổ đời này hầu tránh phải chịu nơi cuộc sống kế tiếp. Có thể do không muốn hiểu biết nên ít người chịu tìm hiểu về các đạo học do đó thái độ về tâm linh mang phần nào tính chất khoán trắng sự tìm hiểu cho những vị tu sĩ trong khi nghĩ rằng cứ tuân theo những gì các vị đó nói là đã chu toàn trách nhiệm hay bổn phận. Phỏng thái độ này do bởi không có hoặc không muốn biết cảm nghiệm tâm linh chăng. Hơn nữa, các vị giảng thuyết tôn giáo dẫu hiểu lý thuyết nhưng chưa chắc đã thực sự có được những cảm nghiệm tâm linh thì sao họ có thể rao giảng hoặc chỉ bảo cho tín đồ. Ai không biết muốn hết khát phải uống nước; tuy nhiên, lý thuyết về lợi ích của nước và hành động uống nước là hai sự thể khác biệt. Trãi qua những năm tháng tìm hiểu mà vẫn còn nhiều điểm khúc mắc, tôi tự nhủ đành chấp nhận; chẳng hạn lý do gì đã bao ngàn năm con người vẫn chưa nhận ra hoặc không muốn nhận ra mục đích và thực thể tâm linh của mình nơi cuộc sống. Nơi cơ hội cuộc sống, chúng ta học hỏi được gì và cần học hỏi những vấn đề nào thật khó mà phân tích được. Như anh em đã biết, nguyên tắc cốt yếu nơi nhà Phật để nhận ra thực thể tâm linh nơi mình là kiến tính, nhưng muốn kiến tính nào phải dễ dàng chi, ngược lại, nếu ai đã đạt tới mới nhận ra tất cả những công sức cho tiến trình kiến tính thật là vô giá trị nhưng không có chúng không được. Lão học đưa lên câu nói "Không làm gì mà không việc gì là không làm" (LTĐĐK; Tr.96), hay được nói một cách gọn ghẽ, không làm gì là làm tất cả. Nơi Kinh Thánh, Phúc Âm khuyến khích hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mt. 26:41; Mc. 14:38). Ấn học cho rằng xả kỷ là nhân đức quan yếu nhất (CTC; Tr.164). Anh em nhận thấy, dù lối phát biểu thoạt nghe coi bộ khác biệt nhưng thực ra chỉ khác ngôn từ mà đồng một ý nghĩa. Kiến tính chỉ là trực diện tâm thể. Trực diện tâm thể đâu cần suy nghĩ, hoạt động gì thì đâu cần làm gì vẫn đạt tới mục đích tối thượng là nhận chân thực thể nội tại. Tỉnh thức để nhận ra tâm thể, linh hồn, hoàn toàn khác biệt thân xác nơi dòng đời và trực diện tâm thì những gì thuộc về vị kỷ đâu còn thế đứng hay ảnh hưởng. Thế nên, dù xả kỷ, tỉnh thức, không làm gì, hay kiến tính cũng chỉ là một mà được gọi khác nhau. Điều này cũng giống như cùng một vật thể bằng thủy tinh dùng để uống nước, người miền Bắc gọi cái cốc, người miền Nam gọi cái ly. Ấy thế mà ngày xưa vào thời di cư 1954 đã có khá nhiều chuyện rắc rối phát sinh phiền não bởi người gọi cái cốc thì bảo cái ly sai, người gọi cái ly nói cái cốc không đúng! Tôi nghĩ, gọi là ly hay cốc chẳng thành vấn đề, miễn sao có thứ đựng nước uống là được; đây cũng có thể là một trong những lý do giúp tôi tìm hiểu đạo học.
      - Điểm thực dụng chung các đạo học nêu lên là lòng thương xót, từ bi, bác ái, phục vụ tha nhân. Tuy nhiên, điểm chung này cũng đòi hỏi điều kiện hiểu biết đúng đắn chứ không phải cứ mù mờ nghe sao biết vậy để rồi thực hiện một cách thiếu hiểu biết; coi chừng chẳng những hại người mà hại cả chính mình. Tôi nghĩ, cho dù mục đích của các đạo học chỉ là cố gắng khuyến khích con người nhận thức được thực thể tâm linh mà nơi thực tại cuộc sống rất ít ai đạt tới điểm khởi đầu này. Có lẽ chưa tới thời điểm cho con người nhận ra chăng, hoặc còn có phương cách nào khác mà lúc này vẫn đang là thời gian chuẩn bị.
      - Bác làm ơn giải thích lý do tại sao được gọi là thời gian chuẩn bị.
      - Thực ra, bất cứ nhận xét nào được gọi là lý do thì cũng vẫn là suy tư phỏng đoán bởi ngay quý anh chị đang hiện diện nơi đây vẫn chưa chứng nghiệm được thực thể tâm linh nơi mình mà vẫn không biết lý do thì ai có thể nói được lý do chính xác! Tôi muốn nêu lên một bằng chứng cụ thể, nghiệm được hay không tùy mỗi người, đó là nếu ai cảm nhận thực sự mình là thực thể tâm linh, hay linh hồn, tất nhiên, nhãn quan, thái độ, cách sống sẽ hoàn toàn khác biệt với những người chung quanh, và thường bị người đồng thời có nhận xét qua hai chiều hướng thật đối nghịch, hoặc là thái độ tôn trọng, kính phục nhưng cảm thấy rất khó hiểu, hoặc cho rằng đó là một người dị hợm. Thử hỏi, khi nhận ra mình là một thực thể bất diệt, mọi hành vi, thái độ, ngay cả tư tưởng đều ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống tâm linh, ai dám cả gan có những ý nghĩ hay lời nói dự đoán tới người khác phương chi là thái độ hay hành động. Hơn nữa, người thực sự cảm nghiệm được thực thể tâm linh nơi mình sẽ nhận ra dù chỉ là ý nghĩ, tự nó đã mang quyền lực tác thành một thực thể vô hình; phỏng người đó dám khởi xướng bất cứ ý định nào nữa không? Tôi muốn nói thêm, chỉ ai đã đạt đến sự cảm nghiệm này mới có thể hiểu được tại sao nhà Phật nhấn mạnh về vô niệm và đồng thời cũng mới có thể hiểu được giá trị của những câu thần chú, niệm chú, hoặc lời kinh Kim Cang, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh..." (KCGL; Tr.241).
      Và thế là bàn dân thiên hạ cảm thấy lòng ruột giao động, ngay cả những người không để ý gì đến đạo Phật. Đạo Phật là đạo giải thoát, đức Phật nhập niết bàn để độ chúng sanh thoát khỏi những nỗi khổ ải; xưa nay ai không hiểu như thế! Nếu đức Phật không độ chúng sanh thì ai có thể được giải thoát! Thế mà cụ Tài nêu ngay câu nói nghịch hẳn với quan niệm đạo Phật, chẳng khác gì Hưng. Hình như cảm nhận được điều gì, đôi mắt cụ Tài chợt ánh lên, miệng nhẹ mỉm cười nhưng thái độ vẫn điềm đạm. Đưa mắt rảo qua các gương mặt đang chăm chăm nhìn mình, cụ lên tiếng,
      - Nhắc tới nửa câu nói của đức Thích Ca nơi kinh Kim Cang, nếu tôi không lầm thì hình như mấy anh em Công giáo cũng có vẻ bất đồng ý!
      - Thưa bác, Sỹ nhà con nhanh nhẩu, có lẽ vì bác nói đức Phật không độ chúng sinh.
      - Anh nói rất hợp lý với lối hiểu biết mù mờ về nhà Phật. Câu kinh nói về quyền lực của ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng, tham vọng, thuộc về tâm linh chứ không phải độ trì hay giải thoát con người. Trước hết, kinh sách Phật học không nói đức Thích Ca hay bồ tát giải thoát hoặc cứu độ bất cứ ai mà sự giải thoát phát sinh tự hành giả, do từng người nghiệm chứng phá vòng vô minh đạt tới thức ngộ. Anh em không nhớ tuần trước anh Hưng đã giải thích rồi sao? Tôi nhắc lại câu kinh, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả" (KCGL; Tr.241). Như vậy, còn ý niệm, còn khởi nghĩ thì còn tạo chúng sanh nên không có ý niệm thì không có chúng sanh. Bởi thế, vô niệm tức là không tạo chúng sanh, không tạo nghiệp, nói cách khác tức là độ. Câu kinh thoạt nghe mang nghĩa phiếm diện giải thích cứu độ hoặc giải thoát người khác. Nếu quán tưởng chín chắn hơn, câu kinh nói về quyền lực kiến tạo của ý niệm.
      - Quý anh em Công giáo có lẽ đã được nghe hay đọc nhiều lần về câu Phúc Âm, "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng..." (Mt. 5:28), hoặc "Phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án..." (Mt. 5:22). Có phải thoạt nghe ai cũng đều cho rằng những câu Phúc Âm này dạy về luân lý phải không? Tôi thử đặt vấn đề, mắc mớ gì Phúc Âm phải răn dạy luân lý trong khi dân tộc nào mà không có nền văn hóa, luân lý, đạo đức riêng? Nếu có dịp, quý anh chị thử đếm xem Phúc Âm được bao nhiêu chữ, Lão học bao nhiêu, Trang Tử, kinh Kim Cang, Viên Giác, Pháp Bảo Đàn Kinh, Chí Tôn Ca, xem mỗi kinh dài ngắn ra sao. Các kinh sách đạo học được viết rất ngắn, rất gọn. Thế mà cũng nơi Phúc Âm, đã bao giờ anh em Công giáo tự đặt vấn đề tại sao câu nói kỳ cục "Ai có tai thì hãy nghe" (Mt. 11:15) lại được thêm vào khiến người mới đọc hay nghe đều cảm thấy thừa thãi, không cần để ý; mà đâu chỉ một lần, những tám lần lập đi lập lại đến độ chối tai. Hai ngàn năm trôi qua, tôi nghĩ, chưa ai dám đặt vấn đề về câu nói thừa nhưng quá ư thâm trầm, u mặc này.
      - Qua kinh nghiệm thoát chết, tôi nhận thực được linh hồn con người hàm chứa quyền lực vô song. Ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, phát sinh từ linh hồn nên chúng cũng mang quyền lực tác tạo. Nhà Phật nêu lên ý niệm tạo chúng sanh, Phúc Âm nói tức giận anh em thì bị can án, nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã phạm tội ngoại tình trong lòng. Tôi nghĩ, từ nghiệm chứng quyền lực tâm linh này phát sinh sự thực hành thiền, mật tông, điểm đạo, Zen, và các phương thuật mà chúng ta thường gọi là phép lạ.
      - Thưa bác, Bá lên tiếng, con có mấy câu hỏi cùng một lúc, nếu được, xin bác giải thích thêm.
      - Anh cứ việc hỏi.
      - Có câu nói, chúng ta chỉ có thể biết được những gì đã có, đã được sinh ra với chúng. Theo như kinh nghiệm trở về từ cõi chết của bác, câu Phúc Âm "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63) có thể hiểu theo nghĩa nào vì cũng có câu khác nói, "Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí" (Gioan 3:6). Như vậy, nếu nói rằng xác thịt không ích gì thì phương tiện nào cho con người thức ngộ tâm linh? Thêm vào đó những vấn đề bác vừa nhắc tới, tức là sự liên hệ của quyền lực nơi ý nghĩ với thiền, zen, mật tông, điểm đạo, các phương thuật, và nếu cháu không lầm thì cả về thuốc trường sinh nữa.
      - Sau nhiều ngày tháng suy gẫm về sự thể mà anh gọi là trở về từ cõi chết, tôi nghiệm được một điều đó là linh hồn chịu ảnh hưởng giới hạn chứ không lệ thuộc thân xác. Sự kiện này không khác gì con người chịu ảnh hưởng văn hóa dân tộc, địa dư sinh sống, hoặc nhãn quan tùy thuộc thời điểm tiến hóa. Điển hình hơn, hãy ví thân xác như những dụng cụ thường dùng chẳng hạn chiếc búa đóng đinh. Thay vì đóng đinh chúng ta đập ngay vào ngón tay thì tại búa hay tại người đóng. Đàng khác, tùy đồ vật có thể sử dụng vào nhiều công việc hay ít, người sở hữu đồ vật ấy có nhiều cơ hội hoàn thành những việc theo ý muốn hay không. Tương tự như thế, thân xác chỉ là dụng cụ cho linh hồn trong hành trình tiến hóa tâm linh. Nơi môi trường hay thời điểm thiếu phát triển, tất nhiên hành trình tâm linh bị giới hạn. Ngược lại, anh em thường nghe câu, "Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ." Điều này nói lên thân xác lệ thuộc tâm trạng linh hồn dẫu khi chiếc răng hay bộ phận nào trong cơ thể đau yếu ảnh hưởng sự suy tư của linh hồn. Nói cho đúng, sự ảnh hưởng này chỉ giống như sự trục trặc của thành phần nào đó nơi bộ máy xác thân ngăn cản sự thể hiện hoạt động của linh hồn nơi thế giới hữu hình.
      - Xét về mối liên hệ giữa linh hồn và thân xác, tất nhiên thân xác rất cần thiết cho sự thăng tiến tâm linh, ít nhất trong giới hạn con người có thể cảm nhận và nghiệm chứng được vì không có thân xác sao chúng ta có thể nói tới tâm linh. Tuy nhiên, đem so sánh hai thực thể, vĩnh cửu và giai đoạn, có lẽ không chỉnh. Đàng khác, dùng biểu tượng hữu vi để bắc cầu nhận thức, thân xác chỉ giống như dụng cụ hoặc tôi tớ của linh hồn nên chúng ta không thể đánh giá linh hồn qua giá trị thân xác. Lẽ đương nhiên, người ta không thể lên án một vị giám mục vì ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm vườn ấy sẽ trở nên một vị thánh chỉ vì y làm tôi tớ cho một vị giám mục (TTHB; Tr.82). Nói như vậy tôi hy vọng có thể giải đáp được phần nào câu Phúc Âm "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì." Trong Phúc Âm còn có câu khác nói về sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác nhưng nếu không để ý nhận thức chín chắn, chẳng dễ chi hiểu nổi. Đó là câu, "Điều tự trong lòng người ta phát sinh ra, điều đó làm cho người ta nhơ uế" (Mc. 7:22). Có lẽ vì được viết nơi phần giải đáp về quan niệm nhơ uế nơi xã hội Do Thái ngày xưa nên câu Phúc Âm chỉ được viết gọn như thế. Quyền lực tác sinh ý định, ước muốn, tham vọng, tự bản thể tâm linh đã bị hiểu lầm là sản phẩm của bộ não, quả là thiếu sót và thấp kém. Câu Phúc Âm "Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí" coi bộ rất thường nên không mấy ai để ý nhưng thực ra không đơn giản chi. Nó nói lên thực trạng phân biệt rõ ràng giới hạn liên hệ giữa linh hồn và thân xác. Linh hồn bất tử nên khi nhục thể của chúng ta già yếu, không giúp ích gì cho hồn thăng tiến được nữa phải bị bỏ đi; đó là sự chết để hồn tiếp tục cơ hội mới trong hành trình thăng tiến. Tôi nghĩ, đây là căn bản cho sự luân hồi xưa nay vẫn bị hiểu một cách sai lầm nơi giới bình dân về đạo học Đông Phương. Có điều, qua sự hiểu biết về những phương pháp thực hành áp dụng quyền lực tâm linh nơi thiền, mật tông, điểm đạo, dẫu tôi không thực hành, tôi xác tín rằng, linh hồn cũng mang quyền lực biến thái xác thân nếu người nào biết sử dụng quyền lực này đúng cách. Phỏng đây là một phần tạo nên nguyên tắc cho sự tìm kiếm thuốc trường sinh bất tử hay không, tôi chưa dám xác quyết. Anh em có thể thử nghiệm năng lực hội tụ của chiếc kính lúp. Dùng kính lúp cho hội tụ ánh sáng mặt trời sẽ phát sinh lửa đốt miếng giấy. Các phương pháp mật tông, thiền, điểm đạo, hay phương thuật sử dụng quyền lực ý định, và sự tưởng tượng hội tụ nơi phương diện nào đó, tất nhiên phát động biến chuyển. Nguyên tắc lý thuyết chính yếu chỉ có thế nhưng áp dụng trong thực hành lại cần rất nhiều điều kiện chẳng hạn thể chất xác thân, ý thức, sự hiểu biết, niềm xác tín của hành giả, cũng như sự chỉ dẫn đúng đắn của vị thầy đã dầy công và hoàn thành thực chứng. Nếu không có đầy đủ những yếu tố quan thiết này, người thử nghiệm vô tình tạo nên hậu quả không thể đo lường được. Có lẽ vì những đặc tính nguy hiểm khó lường của sự thực hành mà những vị chân sư hoặc đạo sĩ đạt đạo đã không ai dám viết thành sách chăng. Sau nhiều suy luận, tôi nghĩ, đây không phải vấn đề ích kỷ mà lại là sự bảo vệ những người hiếu kỳ thiếu ý thức tránh khỏi lầm lỡ lớn lao đáng tiếc. Chẳng hạn những câu thần chú, ai cũng có thể đọc mà sao người thì đạt ước nguyện, kẻ lại không cảm thấy gì; đồng thời có những người dùng thần chú để đạt nguyện ước lại phải đối diện với giá trả không muốn chút nào.
      - Thưa bác, nếu người áp dụng quyền lực tâm linh vào thực hành không đúng cách sẽ bị hậu quả thế nào?
      - Nói về hậu quả phát sinh bởi sự thực hành thiền, mật tông, hay điểm đạo, đòi hỏi sự am hiểu quyền lực của ý định, ý nghĩ, ước muốn, nên giới hạn bao gồm nhiều phương diện. Chẳng hạn sự tế lễ hoặc cúng bái, thiền, nếu không có lòng thành, tạm gọi tâm ý, đều trở nên vô ích vì đó chỉ là những hành động của một thân xác vô hồn. Những sự thực hành các phương thức thiền, mật tông, căn bản dựa trên sự sử dụng quyền lực tâm ý. Sự quán tưởng trong mật tông chỉ là dồn mọi năng lực vào sự tưởng tượng. Anh em nên nhớ, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ là hoạt động của linh hồn nên chúng mang quyền lực chứ không phải chúng phát xuất từ bộ óc vì bộ óc hay hệ thống thần kinh chỉ là phương tiện. Hành giả khi thực hành các phương thức phát triển quyền lực nội tại sử dụng chính quyền lực ý nghĩ, ý định hay ước muốn chứ không có gì được gọi là bí mật. Chỉ một điểm khác biệt đó là họ dồn mọi nỗ lực vào một ý định, hoặc một ý niệm thay vì những mơ ước không đích xác như chúng ta thường để tâm trí ao ước mông lung, không rõ rệt. Sự chỉ dẫn thực hành ở cuốn Du Già Lục Pháp của Naropa chứng tỏ rõ điều này nơi những chương quán tính không của thân xác, quán các kinh mạch chính yếu, kiểm soát tinh chất (Tr.40-47). Sự quán tính không, các huyệt đạo trung ương hoặc giọt tinh chất chỉ là dồn mọi năng lực tập trung để tưởng tượng cho tới khi nhìn thấy rõ ràng những hình ảnh được đặt ra nơi mình. Chẳng hạn quán về các huyệt đạo chính, hành giả phải ngồi thiền để tưởng tượng đến khi nào nhìn thấy huyệt đạo trung ương ở trung tâm của cơ thể từ đỉnh đầu nối qua điểm giữa hai lông mày và chạy xuống tới đan điền. Chính sự định tâm tưởng tượng này tạo nên hình ảnh hoàn toàn khác biệt với những gì khoa học phân tích về con người. Tuy nhiên, nói như vậy quá mơ hồ vì chỉ ai thực hành, người ấy mới có thể thực chứng quyền lực tưởng tượng đạt tới kết quả nào.
      - Thưa bác, như thế, quán tưởng chỉ là tưởng tượng.
      - Không phải chỉ là sự tưởng tượng suông mà là sử dụng quyền lực tâm linh áp dụng nơi tưởng tượng. Tôi đề nghị, chúng ta không nên bàn thảo thêm về điểm này vì đây là sự thực hành chứ hiểu biết chẳng đem lại ích lợi gì. Sở dĩ tôi nhắc tới chỉ cốt để chứng minh sự tưởng tượng, ý nghĩ, ý định phát xuất từ linh hồn, thực thể tâm linh nơi mỗi người, và như thế, chúng đều mang sẵn quyền lực tâm ý. Quyền lực này là căn bản cho tất cả các phương pháp thực hành mật tông, thiền đại định, điểm đạo, pháp thuật, phù thủy, cũng như sự xuất hồn chu du nơi các cõi giới vô hình hoặc phát triển khả năng sử dụng thần nhãn.
      Cụ Tài nói một cách xác quyết khiến lòng dạ ai nấy cảm thấy ước muốn biết về phương pháp thực hành để có được quyền năng thần thông nào đó. Tâm lý chung ai không thế, biết chỉ để được gọi là biết chứ không thực biết thành ra muốn biết hết mọi sự.
      - Thưa bác, Sỹ nhà con nhanh nhẩu chừng như e không nói vội, kẻ khác chuyển đề tài, bác nói thực hành thế nào?
      - Anh muốn thực hành hay chỉ muốn biết phương pháp thực hành? Và nếu thực hành, anh muốn biết phương pháp đạt tới tâm thức giải thoát, hoặc phát triển năng lực nội tại, hoặc mật tông hay Yoga, điểm đạo, hoặc muốn biết về phương thuật, phù thủy?
      Thế là chẳng những Sỹ nhà con mà mọi người tham dự bữa tiệc đều cảm thấy bối rối. Họ bối rối vì không biết mình muốn gì dẫu cảm thấy ước ao muốn biết. Đợi ít giây cho mọi người tự cảm nhận, cụ Tài nói tiếp,
      - Nói chung, chúng ta thường không biết mình muốn gì nên không định tâm rõ ràng nơi bất cứ vấn đề nào. Tôi thử nêu lên một thí dụ. Mọi người đều cần tiền bạc làm phương tiện giúp cho cuộc sống, nhưng tâm chúng ta không thực sự định nơi chủ đích kiếm tiền, và có tiền, nên đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội, đồng thời vì ước muốn lung tung do đó đã nhiều khi hoang phí làm tiêu hao biết bao công sức. Có thể nói, chúng ta muốn tất cả mọi sự cùng một lúc. Chẳng hạn vừa có tiền, vừa có danh, lại muốn có xe đẹp, nhà cao cửa rộng, và nhiều thứ phụ thuộc lắm khi đến độ không cần thiết hay mang hại cho chính bản thân. Lấy đặc tính của tấm kiếng hội tụ để so sánh, nếu chúng ta dồn tâm ý và tất cả năng lực vào một mục đích nơi giai đoạn nào đó trong cuộc đời, có thể nói, mọi ý định sẽ được thực hiện một cách hoàn hảo. Tôi đề nghị anh em nên tự nghiệm thử lòng mình bằng nhiều cách, nếu có thể, cho biết rõ thực sự mình ra sao, muốn gì, quyết tâm thực hiện ước muốn nào và nơi phương diện chi. Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo không lạ gì câu Phúc Âm, "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho" (Mt. 7:7-8). Nếu chúng ta không biết mình thực sự muốn gì thì sao có thể đặt tâm trí vào điều mình muốn. Anh em đã bao nhiêu lần nghe câu "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt. 6:21)! Chỉ cần ít phút tự hỏi câu nói mang ý nghĩa gì nơi cuộc đời mỗi người, chúng ta nhận ra ngay kho tàng tức là ước muốn, ý định, và như thế, ước muốn thực sự ở đâu thì lòng dạ chúng ta luôn để ý về vấn đề đó. Chúng ta đã không hiểu giá trị của đời người, không biết và không chịu tìm biết về chính mình, nên không nhận ra năng lực huyền nhiệm nơi mình. Chúng ta đã chưa thực sự sống dẫu đang mang ơn huệ có được cuộc sống hữu hình. Chúng ta phí phạm dịp may hiếm có bằng cách theo đuổi những ý thích nhất thời, thiển cận, nên không tự tìm hiểu về bản thể chính mình. Tôi thử hỏi anh em, lý do gì Kinh Thánh viết câu, "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:23-24). Mỗi lần nghĩ đến câu này tôi vẫn cảm thấy nhột nhạt vì mình vẫn còn quá mê muội dẫu tôi không theo đạo Công giáo.

      - Tôi nói thật lòng từ suy tư dựa trên những điều hiểu biết về đạo học; xin anh em Thiên Chúa giáo đừng chấp nhất; đó là kỳ mới đọc Phúc Âm, tôi thường có ý nghĩ coi thường những người Công giáo bởi họ đã dùng các ngôn từ "người ngoại giáo" hay "kẻ ngoại đạo." Sở dĩ tôi đã có ý nghĩ này vì Phúc Âm của họ nói về quyền lực tâm linh vô song mà khi nói chuyện với họ, tôi thấy họ vẫn mù mờ không chịu hiểu biết, ngược lại chỉ nghe sao chấp nhận như vậy và lập lại chẳng khác gì con vẹt rồi cho rằng những ai không tin tưởng giống họ thì sẽ bị phạt sa hỏa ngục. Tôi thấy điều tin tưởng của họ mang nhiều điểm trái nghịch với Phúc Âm; không những thế, bởi chẳng hiểu gì về thực thể được họ gọi là Thiên Chúa hay linh hồn nơi chính họ, quan niệm tâm linh của họ chứng tỏ họ quá coi thường Thiên Chúa mà vẫn không nhận biết. Thử hỏi, nếu con người chỉ có một kiếp sống duy nhất thì mục đích của cuộc đời là gì? Phải chăng chúng ta sinh ra để rồi chết? Không lẽ kiếp sống ngắn ngủi lại quan trọng đến nỗi chỉ phạm một lầm lỗi thôi cũng bị đầy đọa xuống địa ngục vĩnh viễn? Không lẽ một Thiên Chúa công bình và thương xót lại có thể khắc nghiệt như vậy sao?
      - Đàng khác, nếu con người chỉ có một kiếp sống thì tại sao họ lại không giống nhau, người được sinh ra thông minh; kẻ lại khù khờ; người này may mắn, kẻ khác bất hạnh? Ai đã quyết định về tính nết con người? Ai đã ban cho người này một sức lực khỏe mạnh và kẻ khác một thân thể tật nguyền? Nếu con người chỉ có một kiếp sống duy nhất thì chúng ta giải thích thế nào về hiện tượng thần đồng (ĐMQXT; Tr.129)? Lý do gì giải thích sự kiện văn hào Voltaire thuộc lòng tất cả những bài ngụ ngôn của La Fontaine từ năm lên ba, bắt đầu viết sách khi vừa lên trung học; Pascal chứng minh những bài toán phức tạp khi lên tám, và soạn sách giáo khoa khi chưa đầy mười bốn tuổi (ĐMQXT; Tr.131). Về điểm này, chỉ có một giải đáp duy nhất mà các đạo học Đông Phương gọi là luân hồi, sự thay đổi thân xác qua nhiều kiếp sống của linh hồn mà Phúc Âm gọi là thần khí. Tôi nghĩ chúng ta phải nhận định rõ ràng như thế mới có thể hiểu được ý nghĩa của câu "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì." Thân xác thay đổi và là những cơ hội, môi trường cho linh hồn vĩnh cửu tiếp tục thăng tiến. Đây cũng là điểm mà nhà Phật nói, "Không biết bổn tâm học pháp vô ích," hoặc "Không biết tự thân cũng chẳng thể nào học đạo" (VNVT; Tr.93). Hơn nữa, tất cả các bằng chứng của cuộc sống đều đưa đến kết luận; có một yếu tố nào đó sắp đặt sự cấu tạo nên con người, một yếu tố vượt xa sự suy luận của toán học, ra ngoài tầm phán đoán của lý luận, và không thể giải thích bằng những công thức, định luật của khoa học thực nghiệm (ĐMQXT; Tr.131).
      - Đọc sách báo, anh em thấy được viết về nhiều trường hợp có những người nhớ lại tiền kiếp, hay phục hồi các kinh nghiệm học hỏi từ kiếp trước, vẫn xảy ra khắp nơi, không phân biệt vị trí hay địa dư, phong tục, tập quán. Phật tính, tâm Phật, tâm bất sinh, tánh linh giác, tự tính, tiểu ngã, linh hồn bất tử, Thượng Đế nội tại, hay thần khí đang hoạt động nơi những thân xác con người, và quyền lực nội tại cũng từ đây phát sinh và được thể hiện qua nhiều hình thức. Những sự kiện này, nếu đem so sánh nơi kinh sách đạo học, minh chứng rõ ràng chúng ta thường hiểu lầm về thực thể con người của mình. Nói cho đúng, tôi may mắn trải qua kinh nghiệm kích ngất nên nghiệm chứng được thành phần tâm linh là chủ thể cuộc đời một người.
      - Đến khi tìm hiểu về khoa huyền môn và lễ điểm đạo Ai Cập tôi mới mường tưởng được phần nào. Quả thật, cũng tội nghiệp cho những người không dám suy tư, không dám sử dụng nguồn năng lực sẵn có nơi mình để thăng tiến tâm linh, nên đã trở thành nô lệ cho những giáo điều một chiều không sao thoát ra được. Trước Công Nguyên nơi thời đại cổ Ai Cập, đã có những vị chân sư nghiệm chứng được sự bất diệt và có một đời sống của linh hồn sau khi xác thân chết. Thế nên họ dạy dân chúng, khi con người bắt đầu bước vào cuộc sống mới đó, những đấng thần minh phân xử linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y đã làm trong lúc ở dương gian. Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích đáng, người hiền sẽ được vào cảnh thiên đàng hưởng hạnh phúc và hợp nhứt với Osiris (ACHB; Tr.108), thủy tổ của Huyền môn Ai Cập. Những điều này khá thích hợp với quần chúng, và đem đến cho những tâm hồn chất phác viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng; đồng thời cũng phần nào giúp cho họ có được đời sống luân lý tập thể khá hơn. Theo những gì tôi được biết, ngày xưa, với trình độ dân chúng đơn sơ, người ta không giảng dạy những lý thuyết hoặc tâm lý hay triết lý thâm sâu vì có thể chỉ làm cho những đầu óc đơn sơ thêm bối rối. Nếu tôi không lầm, có lẽ quan niệm hưởng phúc thiên đàng được phổ biến từ đó nên đã phát sinh những câu chuyện huyền thoại, vừa gợi ý cho những tâm hồn muốn hiểu biết, lại vừa ngăn chặn những kẻ chưa đủ tâm đức lạm dụng khoa huyền môn thỏa mãn ý đồ thấp kém. Đây cũng là lý do nhắc nhở chúng ta không nên coi thường những huyền thoại mang đầy tính chất hoang đường hoặc những câu chuyện ngụ ngôn bình dân vì phần nào chúng hàm xúc một ẩn ý hợp lý, và chứa đựng chân lý thâm sâu nào đó.
      - Thưa bác, sở dĩ con người có tự do để quyết định hành động nên phải chịu trách nhiệm của mình. Nếu nói rằng mọi ý định, suy tư, hoặc quyết định đều do linh hồn, tâm Phật, thì thân xác đâu phải chịu trách nhiệm gì!
      - Anh khá thông minh! Anh muốn nói nếu hồn chịu trách nhiệm thì thân xác không bị tù tội hoặc bất cứ ảnh hưởng liên hệ nào phải không? Cùng đồng luận điệu này, bởi con người không thể kiến tạo nhà tù, hay bất cứ sự trừng phạt đối với linh hồn linh thiêng, nên con người tha hồ muốn làm gì thì làm hay sao? Hãy xét về những mối liên hệ nhân sinh, những tình cảm, niềm tin, ảnh hưởng thế nào đến một người khi so sánh với luật lệ nơi cuộc sống anh sẽ thấy. Có những điều không luật lệ nào nói tới nhưng đã trói buộc anh bao nhiêu năm tháng; phỏng anh giải thích ra sao? Suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ nhận thấy, luật lệ được đặt ra vì lợi ích cho con người trong liên hệ cuộc sống đồng thời ngăn cản những sự lạm dụng mà thôi. Anh em thử nhớ lại, chỉ một lời nói vô tình ai đó xúc phạm đến mình đã bao nhiêu năm sao vẫn còn ảnh hưởng tới thái độ hay tâm tình của mình đối với người ấy. Hoặc vì vô ý nói câu nào đó không kịp suy đụng chạm đến người khác, bao nhiêu năm rồi mình vẫn cảm thấy áy náy, ăn năn thì luật lệ nào có quyền trên sự ăn năn này? Luật lệ, luân lý, phong hóa, do con người kiến tạo vì lợi ích của cuộc sống liên hệ nơi xã hội, nhưng vì nhận thức tâm linh còn quá ấu trĩ, nên con người vẫn còn bị trói buộc trong vòng vô minh. Luật lệ, luân lý chẳng khác gì một loại kham đóng hàm và miếng da che phần nào mắt con ngựa cho khỏi bạ đâu gặm đó hoặc xông xáo bất kham. Tôi thử hỏi, nhà tù giam giữ thân xác nhưng lấy gì giam giữ linh hồn bất diệt? Hơn nữa, đặt vấn đề và suy nghĩ chín chắn, chúng ta thấy, ngay như các liên hệ tình cảm vợ chồng, con cái chỉ có tính cách giới hạn trong một kiếp sống. Sợi dây thân ái mà chúng ta tưởng bền vững lâu dài thật ra chỉ có tính cách tương đối; bởi sự chết xóa bỏ những liên hệ tình cảm, kỷ niệm một kiếp người; vì những điều đó chỉ có giá trị giúp hồn con người học hỏi, kinh nghiệm mà thôi. Chúng chỉ đóng vai trò như một cuốn sách giúp học sinh thu tập kiến thức, một cái đò đưa người ta qua sông, và khi hồn đã đạt được mục đích là kinh nghiệm và phát triển những khả năng nào đó nơi cuộc sống, hoặc đã qua thời hạn mà vẫn chưa đạt được gì, những phương tiện này không còn giá trị gì khác và phải được xóa bỏ (ĐMQXT; Tr.128). Nhận định như thế mới có thể giải thích được hiện tượng thần đồng vì thần đồng không phải là người từ trên trời rơi xuống mà chỉ là kết quả của nhiều kiếp sống không ngừng học hỏi (ĐMQXT; Tr.130). Như vậy, dẫu trách nhiệm thuộc về linh hồn, tự tính bất diệt thì những luật lệ, luân lý, nhà tù,  chỉ là những phương tiện giới hạn; chẳng khác gì công cụ được thiết lập giúp những tâm hồn thiếu ý thức tránh làm phương hại không những chính họ mà còn ảnh hưởng tới người khác. Tuy nhiên, suy đi cũng phải nghĩ lại, luân lý, hay luật lệ xã hội thay đổi tùy theo chiều hướng quan niệm tùy thời và tùy nơi. Anh em đã bao giờ nghe câu nói, "Thiết câu giả tru, thiết quốc giả hầu" (TTTH; Tr.93)? Ăn trộm một cái đai lưng thì bị tội tử hình, còn cướp cả nước của người ta thì được làm vua một chư hầu (Trang Tử)! Thực thể cuộc đời minh chứng, biết đâu những lỗi lầm, tai họa, hoặc bị vạ nọ, tật kia, lại là những cơ hội hay bài học phải xảy đến và phải như thế; người trong cuộc mới có thể học được những điều cần phải học nơi kiếp sống! Như vậy, con người chỉ có tự do thăng tiến một cách ý thức mà thôi. Nơi trường hợp vẫn còn luẩn quẩn trong vòng vô minh thì thực thể được gọi là tự do lại chẳng tự do chút nào, mà chính là nô lệ, bởi vẫn còn bị ảnh hưởng quá nặng nề ham muốn thế tục không thể nào vượt thoát được.
      - Thưa bác, tại sao không thoát được?
      - Chúng ta thừa kinh nghiệm để nhận biết rõ ràng khi một người đeo kiếng râm (kiếng mát), tất nhiên họ nhìn thấy mọi sự đều mang màu sắc tối hơn. Cũng đồng một thể như thế, những quan niệm, suy tư giới hạn ảnh hưởng nhận thức của con người tạo nên lối nhìn chật hẹp một chiều nhất là đối với những ai e sợ hoặc lười lĩnh không dám suy tư. Tôi thử đề nghị anh em nhắm mắt lại vài giây xem thế nào.
      - Thưa bác, nhắm mắt lẽ đương nhiên sẽ thấy tối hù.
      - Anh nhận thấy tối hù hay anh nói theo ai đó đã bảo anh rằng nhắm mắt sẽ thấy tối hù? Khi nhắm mắt, bởi không nhìn thấy sự vật chung quanh chúng ta quen thói cho rằng tối hù. Nhưng nếu để ý, đâu phải tối hù mà có những điểm sáng và tối lẫn lộn không phân biệt được. Sự nhận thức hay nhận định thực thể con người cũng bị ảnh hưởng bởi những thói quen in trí tương tự như thế. Ai dám đặt lại mọi vấn đề và tìm hiểu, nghiệm chứng chúng như chưa từng bao giờ nghe nói hay chưa biết thì sẽ nhận thức được nhiều điều mới lạ cả thể. Chẳng hạn, chúng ta nghe các nhà học thức nói giấc mơ là một hiện tượng tâm lý và nô lệ chấp nhận lời giải thích ấy để rồi không bao giờ đặt vấn đề phát triển thực thể khả năng nhìn trong giấc mơ. Thêm vào đó, mượn thành ngữ "nhân danh khoa học," nếu không thể giải thích điều gì, chúng ta thường quen thói phủ nhận ngay rằng điều đó không có thật. Nếu đầu óc lý luận dựa hơi khoa học hoặc không thể chấp nhận hay lười suy tư về một vấn đề gì, chúng ta cũng vội lên án ngay rằng đó chỉ là một sự tưởng tượng, và nhiều khi tệ hơn nữa, dám cả gan chụp mũ người khát khao tìm hiểu bằng những danh hiệu bất xứng, đã chẳng giúp gì cho họ mà chỉ càng chứng tỏ bộ lòng ruột tự khinh khi. Xét về giấc mơ, tôi nhớ rõ mấy câu giải thích của lạt ma Lobsang Rampa nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí, "Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô hình bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hề hay biết; còn các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể xuất hồn đi châu du khắp mọi nơi tùy ý muốn; nhờ đó họ có thể nhớ rõ tất cả những gì họ đã thấy và làm, cùng những nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này đã mất đi ở Phương Tây; bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người tin rằng họ đã trải qua một giấc mộng (TTHB; Tr.171). Tất cả các xứ đều biết về việc đi châu du bằng thể vía. Ở Anh quốc, những nữ phù thủy đã từng nổi tiếng là biết bay. Ở khắp nơi trên thế giới, người ta đã từng biết về những vấn đề này, dẫu rằng sự hiểu biết này đã mai một với thời gian và đã mất đi trong ký ức loài người. Người ta đã tập luyện "cho tôi" có thể xuất hồn đi ngao du trên các cảnh giới vô hình, như vậy thì phép ngao du bằng thể vía cũng ở trong tầm tay của tất cả mọi người" (TTHB; Tr.171-172).
      - Thưa bác, nếu giấc mơ là thực thể của hồn thoát ra khỏi thể xác trong giấc ngủ tại sao cháu chưa bao giờ nhìn thấy thân xác của chính mình trong lúc hồn thoát ra đi chu du hay khi về nhập trở lại.
      - Tôi không thể trả lời chính xác câu hỏi này. Tuy nhiên, có thể bởi hồn chúng ta đã quá quen với thân xác của mình nên không để ý chăng. Vì thực ra, ngoại trừ lần kích ngất, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ thử tưởng tượng hình dáng mình thế nào trong giấc ngủ. Theo lạt ma Lobsang Rampa, thoát hồn chu du nơi cõi vô hình và ý thức được diễn tiến của hành trình là một sự kiện vừa tầm khả năng của hầu hết mọi người với điều kiện phải có một sự luyện tập thích nghi. Tuy nhiên, vào thời điểm mới bắt đầu luyện tập, họ cần phải sống biệt lập ở một nơi vắng vẻ không bị ai làm phiền một cách bất ngờ. Thêm vào đó, họ cũng cần được chỉ dẫn bởi một vị đạo sư lão luyện để tránh những sự hoang mang, sửng sốt. Sở dĩ tôi không luyện tập vì tim tôi bị yếu, lỡ bị xúc động quá trong thời gian đầu hoặc ai đó vô tình náo động làm ngưng trệ lúc tập luyện, tim tôi yếu có thể chết bất đắc kỳ tử. Đàng khác, nếu chết bất đắc kỳ tử theo như những lời dặn bảo nơi sách vở, hồn tôi sẽ bị đầu thai ngay lập tức để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn trước khi bước qua giai đoạn kế tiếp nơi hành trình tiến hóa. Nói về sự chu du của hồn con người khi ngủ, anh em có lẽ đã nghe nói khi một người ngủ mệt mà kẻ khác lấy nhọ nồi bôi vào mặt, lúc thức dậy, người đó sẽ bị ú ớ vài giây trước khi thực sự thức giấc. Có người giải thích đó là tình trạng khi hồn trở về thấy khác lạ nên ngỡ ngàng. Điều này xảy ra nhưng đúng hay không tôi chưa bao giờ để ý. Có điều anh em nên biết, đó là chỉ những ai dành thời giờ tu chứng mới thực sự nghiệm được rõ ràng bản thể mình thế nào, và kết quả của sự nghiệm chứng lại tùy thuộc căn cơ của chính người tu chứng. Tôi không biết dùng cách nào hoặc diễn giải ra sao để có thể tổng hợp tất cả những quan niệm hay nhận định được viết nơi kinh sách vì những cảm nghiệm tu chứng lại lệ thuộc quan niệm của chính người tu chứng về bản thể tối thượng nơi mình. Chẳng hạn, mặc dầu Phật học không quan niệm sự hiện hữu của linh hồn hoặc một thể nào trường tồn bất biến, nhưng đa số người Tây Tạng vẫn tin tưởng rằng có một bản ngã di chuyển từ kiếp sống này qua kiếp sống khác ví như con người cởi bỏ các bộ quần áo cũ để mặc bộ đồ mới. Nếu giải thích giản dị như thế thì tất cả mọi người đều là hóa thân của chính bản ngã của họ, trôi nổi từ kiếp này qua kiếp khác (HTTT; Tr.119-120).
      - Thưa bác, nếu hồn tách biệt với thân xác hoặc là một với thân xác thì cảm nghiệm của bất cứ ai đối với hồn cũng như nhau sao có thể bị lệ thuộc bởi quan niệm cá nhân.
      - Tôi đã giải thích nhưng có lẽ anh em không để ý. Quan niệm ảnh hưởng con người chẳng khác gì tấm kiếng màu ảnh hưởng đôi mắt. Thế nên muốn nhìn rõ ràng màu sắc sự vật, chúng ta không nên dùng kiếng màu. Tuy nhiên, cũng có những người vì lý do vật lý nào đó ảnh hưởng cặp mắt hoặc mắt kém không nhận được màu sắc chính xác như người khác. Có thể đây cũng là lý do đức Thích Ca đã phải lên tiếng không chấp nhận những kẻ tin vào lời ngài nói mà họ cần thực chứng (PHTH; Tr.56). Đâu phải vô lý mà câu "Lời ta nói như chiếc bè" lại có thế giá dẫn đàng nghiệm chứng nơi Phật học. Đọc nơi Phúc Âm, mấy anh em Công giáo gọi là lời Chúa, có những câu, "Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ" (Mt. 9:17), "Không lấy vải mới vá áo cũ" (Mt. 9:16), "Kẻ nào vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62), hoặc, "Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn ta ắt không xứng với ta" (Mt. 10:37-38). Lời Chúa mắc mớ gì tới rượu, áo cũ, áo mới, chiếc cày. Đàng khác, chẳng lẽ đức Giêsu đến để phá bỏ tình yêu thương gia đình, ruột thịt hay sao mà muốn con người yêu ngài hơn? Để ý suy nghiệm, nếu thay thế quan niệm hoặc những lời dẫn giải vào vị trí của chiếc bè, rượu, vải, áo, chiếc cày, hoặc cha mẹ, con cái, chúng ta thấy rõ, các đạo học đều đòi hỏi con người cần bỏ quan niệm cũ để có lối nhận thức chính xác chẳng khác gì bỏ cặp kiếng màu khi mình muốn nhìn màu sắc sự vật rõ ràng hơn. Bởi đó, tôi nghĩ, những nhận định hay các lối giãi bày cảm nghiệm tu chứng vẫn còn bị lệ thuộc nặng nề quan niệm cá nhân hoặc tông phái đạo học. Điều này đòi hỏi chúng ta cần có nhận định phân biệt sao cho khỏi bị vướng mắc nơi ngôn từ hay văn tự của các bậc tu chứng.
      - Xét về phương diện thăng tiến tâm linh, dẫu cho con người noi theo đường tiến hóa, chúng ta cũng phải chịu lệ thuộc những định luật về vật chất hay tinh thần vì chúng ta có thân xác hữu hình. Hơn nữa, hình thái là cần thiết, vì nó là phương tiện nơi cơ hội, chứa đựng, và nối kết các phẩm chất khác nhau. Tình cảm cũng cần thiết, vì nó tạo ra sự hòa hiệp giữa các chiều hướng giống như độ nóng của lửa nung chảy các kim loại khác nhau, trộn lẫn chúng thành một bản vị mới thuần nhất, đồng đều. Trong lúc ấy thì ý niệm là chất liệu, năng lực nguyên sơ bị thức động bởi tất cả các yếu tố trong tâm người khi chúng nó kéo các lực tiềm ẩn ra khỏi vị thế của chúng. Anh em nên hiểu, ý niệm tôi muốn nói đó là ý định, ước muốn thực sự, một động lực sáng tạo hoặc là một kinh nghiệm sống động mang quyền lực hiện hữu rất ít khi chúng ta nhận thực được bản thể quyền lực này dẫu chúng ta đã sẵn có. Chúng ta có hình hài, bản năng, cảm giác, tư tưởng, ý nghĩ. Tất cả lớp thể chất đó đều là những lớp bụi dầy khiến con người khó thể làm sáng tỏ được cái nguồn tinh lực uyên nguyên của mình. Vậy phải làm thế nào để thức giác con người đạt tới chỗ viên giác đại ngộ (TTÂĐ; Tr.240) thì chúng ta sẽ sử dụng được nguồn quyền lực tiềm ẩn này. Nhận định như vậy, anh em mới có thể hiểu, tôi muốn nói hiểu chứ chưa dám nói đến thực hành, đúng mức câu nói của đức Giêsu, "Kẻ nào tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Như vậy, thân xác chúng ta mặc dù dễ hư hoại nhưng lại là thánh điện của các lực và đồng thời là phương tiện cũng như chốn tập trung các sự thành tựu tâm linh cao siêu nhất. Thế nên, một khi chúng ta còn nhàm chán thân thể, tức là chúng ta chưa nhận thức cũng như ngự trị được nó. Nói vậy có nghĩa chúng ta chưa nhận ra được cuộc sống hữu hình là cơ hội thức ngộ độc nhất vô nhị.
      - Thưa bác, tại sao bác nói chúng ta đã có sẵn quyền lực hiện hữu?
      - Hỏi như thế có lẽ anh Tùy vẫn bị ảnh hưởng bởi quan niệm có một Đấng Sáng Tạo hữu thể ban phát tất cả mọi sự hiện hữu, sự sống cho muôn vật, muôn loài. Điều tôi muốn nói đó là trước khi chúng ta có thể nghĩ tới sự hiện hữu thì đã có sự hiện hữu vì nếu chúng ta không hiện hữu sao có thể nhận biết sự hiện hữu. Thứ đến, phỏng ý nghĩ phát sinh câu hỏi của anh do đấng nào ban cho? Ý nghĩ, câu hỏi, là những sự hiện hữu. Từ kinh nghiệm kích ngất, tôi nhận ra được ý nghĩ không phát sinh từ não bộ mà từ bản thể linh thiêng tạm gọi là hồn hay tự tính. Anh em kinh nghiệm thường ngày nhưng không để ý đó là ý nghĩ ảnh hưởng toàn bộ con người. Chẳng hạn, khi nghe tin tức nào đó, chúng ta cảm thấy tâm thần giao động, nhịp tim đập mạnh hơn và có thể khiến chúng ta bối rối, khùng lên. Nhận ra như thế, có thể nói, tất cả những gì có tính năng lực vận chuyển, có động lực, gây ra các sự thay đổi và biến chuyển thì nó hiển lộ thực tính của sinh lực. Tất cả các đặc sắc về phương diện thể chất hay tinh thần, tất cả các vật lực và tâm lực, từ các chức năng hô hấp, tuần hoàn, hay thuộc hệ thần kinh cho đến các chức năng của tâm thức, của tư tưởng, và tất cả các hoạt động cao siêu của tinh thần đều là hình thức biểu lộ của sinh lực (MGTT; Tr.186). Đây là một trong những nguyên tắc chính yếu được áp dụng nơi Yoga Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng. Nguyên tắc lý thuyết rất đơn giản, đó là, cũng một sinh lực nhưng nó không những chỉ chịu sự biến đổi thường xuyên; mà nó cũng có thể dùng nhiều cách lưu chuyển khác nhau, không hề gián đoạn chẳng khác gì giòng điện có thể chạy trong dây dẫn và cũng có thể không dây dẫn như những làn sóng. Giòng tâm lực cũng vậy, nó có thể dùng hơi thở, máu, dây thần kinh, và trong trường hợp có cường độ đủ mạnh, nó có thể không cần các phương tiện ấy, hay thoát qua bên kia các phương tiện ấy lan truyền ra ngoài không gian và tác động qua những khoảng cách vô hạn (MGTT; Tr.196). Phương tiện tâm linh của giòng sinh lực này chính là ý định, ước muốn, ước mơ, hoặc niềm tin, đức tin, tùy trường hợp được sử dụng. Nói cách khác, đó là ý định sử dụng quyền lực tâm linh, quyền lực sáng tạo, quyền lực hiện hữu được áp dụng nơi sự tưởng tượng khi tham thiền hoặc sử dụng phương thuật, huyền môn, mật tông, Yoga, Zen.
      - Thưa bác, Tùy con lên tiếng.
      - Anh để tôi nói hết rồi hãy hỏi. Theo nhận định của những người Tây phương thì não bộ là trung khu duy nhất của tâm thức. Kinh nghiệm Yoga Ấn Độ lại chứng tỏ rằng tri thức thuộc não bộ của chúng ta chỉ là một sự kiện riêng biệt trong số nhiều hình thái tri thức khả hữu. Các hình thái này tùy theo chức năng hay tính cách của chúng có thể được qui tụ hay tập trung tại nhiều cơ quan khác nhau của thân xác. Các cơ quan này ở dọc theo trục thẳng đứng của thân, tập hợp, biến đổi và phân phối các giòng năng lực. Những cơ quan này được gọi là trung khu tâm lực, từ đó tỏa ra nhiều dòng sinh lực phụ, đồng thời lại đem trở về trung khu, giống như các căm bánh xe hay cây kèo dù. Các trung khu tâm lực này là các điểm trong đó năng lực thuộc tâm và năng lực thuộc thân giao hòa và thâm nhập nhau. Nơi các điểm đó, tâm và thân lực biến đổi thành năng lực nội tại. Các đạo sĩ Yoga cho rằng trung khu tâm hồn ở tại nơi mà ngoại giới và nội tâm tiếp xúc nhau. Khi chúng xâm nhập nhau thì có những điểm tương xâm ở mỗi bên. Vậy chúng ta có thể nói rằng: ở mỗi điểm mà chúng ta ý thức được sự tương xâm ấy là trung khu của tâm hồn, và khi chúng ta kêu gọi các trung khu khác nhau trở vào hoạt động, ấy là chúng ta kích thích, linh tính hóa và biến đổi thân ta (MGTT; Tr.181). Bởi vậy, đối với quan niệm Yoga, thân thể là công cụ hay phương tiện và cơ hội thực hiện trọn vẹn định luật chân thực về chơn tính của con người. Anh Tùy, anh muốn hỏi gì?
      - Thưa bác, sao các tôn giáo chỉ dạy con người gồm có thân xác và linh hồn, đại khái bao gồm phần thể chất và linh tính.
      - Anh quên rằng đã mấy lần chúng ta nói tới tôn giáo chỉ là phương thức giãi bày niềm khát vọng tâm linh sao. Nói theo nghĩa bao quát và lấy tôn giáo làm chuẩn thì tôn giáo nào cũng được chia làm hai phần công truyền và bí truyền. Phần công truyền hay hiển giáo được đề cập rõ rệt trong các kinh điển, sách vở, các bộ luật và luận nhưng phần bí truyền hay mật giáo chỉ được truyền dạy cho một thiểu số chọn lọc trong vòng bí mật. Các kinh điển chỉ đề cập đến phần bí truyền một cách hết sức lờ mờ, không rõ rệt nếu không muốn nói là được viết theo ẩn ý nghiệm chứng. Bởi vậy, người ta chỉ có thể học hỏi qua hình thức khẩu truyền với các bậc thực sự tu chứng và nếu không gặp được bậc thầy như thế chỉ còn cách tự nghiệm chứng. Lý do các bậc đạt đạo không truyền dạy công khai vì chân lý không phải điều để mang ra tuyên bố một cách ồn ào, hời hợt trên đầu môi chót lưỡi, nhưng là một thứ mà người ta chỉ có thể chứng nghiệm được mà thôi. Đây chính là thực chứng của câu nói nơi Lão học, "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Ngôn ngữ không thể diễn tả những sự kiện tuyệt đối này, và không phải ai cũng có kinh nghiệm như nhau. Thực ra, tùy căn cơ nhận thức mà người ta nghiệm được một cách khác nhau, đôi lúc điều người ta tưởng như là một chân lý vĩnh cửu lại chỉ là một ảo ảnh, một hư vọng của tâm thức, tưởng như thật nhưng chỉ thật một nửa. Có khi đứng trước một sự thật, người ta đâm ra bàng hoàng sợ hãi mà không dám nhìn thẳng vào đó, không dám đối đầu với nó bởi không dám đặt câu hỏi nghịch luận. Bình thường, chúng ta chỉ thích nghe, thích thấy những gì hợp với điều mong ước của mình hầu được an tâm chứ không muốn nhìn thẳng vào thực thể sự việc. Có phải vừa mới nghe tôi lặp lại câu nói "Người biết không nói, kẻ nói không biết" anh em đã cảm thấy chướng tai rồi không? Đó cũng là lý do các bậc tu chứng ít xuất hiện và chỉ dậy dỗ cho một thiểu số người thiết tha cầu đạo, có căn cơ nhận thức vững chắc, sau khi đã vượt qua các thử thách để xứng đáng nhận lãnh các tinh hoa này (ĐMQXT; Tr.85). Đàng khác, điều khó nhất vẫn là những quan niệm khác biệt ngự trị và chi phối mạnh mẽ nhận thức hành giả tùy từng mức độ nên đã phát sinh nhiều tông phái khác nhau.
      - Thưa bác, tại sao người nói lại không biết.
      - Chịu khó đọc kinh sách và suy nghĩ để nghiệm chứng, anh em sẽ gặp nhan nhản những câu nói nghịch lý tương tự như thế. Để tôi nêu lên kinh nghiệm thực tế anh em đều biết thay vì giải thích. Anh yêu thương vợ con anh nhưng phỏng anh có thể giải thích bằng bất cứ cách nào cho ai đó thực sự thương chị ấy và các cháu như anh được không. Đây chính là ý nghĩa câu "Người biết không nói." Đàng khác, giả sử anh cố ý giải thích, biện luận để minh chứng lòng yêu thương của anh ngay cả đối với chính chị ấy thì càng minh chứng, chỉ càng khiến chị ấy hiểu lầm chẳng khác gì "Kẻ nói không biết." Nơi cảm nghiệm thực chứng đạo học cũng thế. Nếu tôi không lầm thì anh Hưng đã nói, "Ông chứng, ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo" chẳng khác gì anh diễn giải lòng yêu thương vợ con cho bất cứ ai.
      - Thưa bác, tại sao bác nói chúng ta không dám đặt câu hỏi nghịch luận cũng như không dám đối đầu với sự thật. Cháu nghĩ, ...
      - Tôi thử nên lên một trường hợp với điều kiện những anh em theo Thiên Chúa giáo nên bình tĩnh nhận định trước khi có ý kiến. Có phải tất cả những người theo Thiên Chúa giáo, dù Tin Lành, Công giáo, Anh giáo, đều thực sự tin tưởng và tuyên xưng rằng Đức Giêsu xuống thế để chết vì và cho tội lỗi con người không? Và tôi thử hỏi đã anh em nào dám đặt vấn đề về niềm tin tưởng này bao giờ chưa? Có ai tự cho rằng mình cứ thực hiện những điều lỗi lầm rồi người khác có thể lãnh đủ để mình tự do sống khơi khơi là hợp lý hợp tình không? Nếu suy tư đôi chút, nói rằng Đức Giêsu chết cho tội lỗi loài người phỏng có phải là lối khuyến khích con người phạm tội hữu hiệu nhất không? Đàng khác, nếu không có luật có thể phạm luật được không? Anh em thử nghĩ, luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích liên đới xã hội. Chẳng lẽ Đức Giêsu, như anh em tin tưởng, là Thiên Chúa quyền năng mà lý do chính để Ngài nhập thể lại chỉ là chết để xóa bỏ những kết quả do sự vi phạm lề luật được đặt ra bởi cũng chính giòng giống những người vi phạm? Tôi thử hỏi, tại sao bao nhiêu ngàn năm qua, ở những nước chấp nhận đa hôn người ta sống vui vẻ, đề huề, dẫu có những trường hợp ngoài ý muốn, như Trung Hoa và Tây Tạng; mà nơi đất Mỹ này thì lại tuyệt đối cấm? Cũng như các anh em Phật tử, chúng ta thường được nghe nói rằng vì thấy con người đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên đức Thích Ca động lòng thương xót đi tu kiếm đường giải thoát chúng sinh. Đã bao giờ anh em nghiệm chứng câu nói của đức Thích Ca, “Đừng bảo Như Lai độ chúng sanh?” Chúng ta đã bao giờ đặt vấn đề tự nghiệm chứng về những điều mình tin tưởng hay chỉ hùa theo những lời tuyên truyền của người khác để rồi đành chấp nhận hô hoán giống như họ, tạm gọi có lòng tin, mong có nỗi an bình giả tạo? Tất cả các đạo học đều nhắm vào điểm này hầu phá tan những sự tin tưởng mù mờ được gọi là vô minh để dẫn dắt con người nhận chân sự thật. Thêm vào đó, hành trình thức ngộ tâm linh cũng là nguồn gốc phát sinh nhiều phương cách phát triển năng lực nội tại nếu ai đó thực sự muốn và gặp cơ hội.
      - Thưa bác, nếu như vậy thì các tôn giáo đã không thực hiện được điều các nhà sáng lập chủ trương?
      - Tôi vừa mới nói xong mà anh đã vội quên. Tôn giáo thuộc thành phần công truyền của đạo học và được thành lập do lòng khát khao tìm kiếm cũng như bày tỏ ước vọng thăng tiến tâm linh. Đạo học khuyến khích và diễn giải thực thể tối thượng hiện hữu nơi mọi loài mọi vật, hữu hình cũng như vô hình. Nói tóm tắt, đạo học trình bày nghiệm chứng Quyền Lực Hiện Hữu đang hoạt động, biến chuyển nơi mọi hình thái hiện hữu, đồng thời cũng chính là nền tảng của mọi sự hiện hữu từ không khí, nước, đất, đến những trạng thái cao hơn. Quyền lực này thống trị mọi nguyên tố biến chuyển; nó khiến vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các hình thái mới của sự sống như một nhà điêu khắc nhiệm mầu luôn luôn kiến tạo và tô điểm cho vạn vật với muôn ngàn hương sắc khác nhau. Quyền Lực Hiện Hữu là nhạc sĩ dạy cho những con chim biết hót, tạo nên tiếng côn trùng ngân nga, là nhà hóa học bào chế các hương thơm của hoa, chất chua, chất ngọt, chát, đắng nơi quả. Quyền lực hiện hữu tổng hợp thành các loài thảo mộc thu hút thán khí biến đổi thành dưỡng khí cung cấp cho muôn loài (HTVPĐ; Tr.47). Đạo học trình bày nghiệm chứng thực thể Quyền Lực Hiện Hữu nơi chính người tu chứng. Tuy nhiên, tùy trình độ và căn cơ ảnh hưởng tạo nên những quan niệm cũng như những lối giãi bày khác biệt theo nhiều chiều hướng cảm nghiệm, chúng ta thấy có nhiều đạo học khác nhau, và mỗi đạo học lại chia nhiều tông phái. Thực ra, khi ai đó đã thức ngộ, cho dù các chiều hướng cũng như lối trình bày tùy thuộc các tông phái đạo học lệ thuộc những hệ thống ngôn từ khác nhau, họ sẽ dễ dàng nhận ra tất cả các ngành đạo học đều qui về một mối đó là Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi mọi sự, mọi vật.
      - Thưa bác, có cách nào để thực chứng quyền lực nội tại nơi mình hay không? Cháu nghĩ, tất nhiên, nói có sách, mách phải có chứng. Thế nên, cháu xin lỗi bác, ít nhất phải có điểm nào hay phương cách nào căn bản hoặc thô sơ nhất khả dĩ giúp cho người tu chứng nghiệm chứng được hầu tạo niềm tin tưởng cho hành trình thực chứng tiếp theo. Im lặng hướng tâm tư theo dõi những lời giải thích của cụ Tài, chợt Bá lên tiếng.
      - Tôi đã dự đoán không lầm, thế nào anh cũng hỏi câu này. Cụ Tài dường như cảm hứng khá cao lộ nơi nét mặt hướng về phía Bá, nhưng giọng điệu vẫn trầm tĩnh. Câu trả lời bao gồm Yoga Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng, Điểm Đạo Ai Cập, quán tưởng khi tọa thiền, huyền thuật hay phương thuật và thần chú. Tuy nhiên, trước khi nói về những pháp môn thực nghiệm này, điểm thiết yếu cần được nhận định rõ ràng đó là quyền lực nơi ý định, ước muốn, ước mơ mà tôi đã nói sơ qua khi đề cập tới quyền lực ý niệm. Trãi qua những năm tháng suy nghiệm, tôi nhận thấy con người là một thực thể tâm linh mang quyền lực vô song liên hệ mật thiết với quyền lực tuyệt đối được gọi là Tâm Phật, Tào, Đại Ngã, Thiên Chúa. Thực thể này biến chuyển, và thân xác là công cụ nhất thời nơi hành trình thăng tiến tâm linh. Sở dĩ tôi có thể nói như thế, vì so sánh nghiệm chứng cá nhân với những gì được viết nơi một số kinh sách đạo học đã đọc qua, tôi nhận ra điểm khác biệt chung giữa các đạo học đó là mỗi đạo học giãi bày nghiệm chứng hoạt động của thực thể tuyệt đối qua những chiều hướng tâm thức hay quan điểm nhận thức riêng tùy điều kiện nhận thức của con người nơi thời điểm những nền đạo học được phát sinh. Con người có sức mạnh tư tưởng, nhưng vì họ đã không biết sử dụng hoặc để cho nó hao tán. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất nghĩa là dồn mọi ý định, ước muốn vào một sự thể nào, con người sử dụng quyền lực sẵn có nơi mình tiếp xúc với nguồn năng lực của Thượng Đế để vận chuyển hành trình biến đổi sự vật. Thực thể sự kiện này được gọi là hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng, và khi đó chúng ta hợp nhất với mọi quyền năng tâm linh. Như vậy phương pháp duy nhất để hòa hợp với quyền lực thiêng liêng là tiếp xúc với ngài một cách ý thức hay còn được gọi là định tâm, loại bỏ ngoại cảnh để quay về nội giới vì Đấng Thiêng Liêng ẩn tàng toàn diện nơi con người.
      - Thưa bác, cháu xin lỗi đã cắt ngang lời bác nhưng không nói vội cháu quên mất. Sỹ nhà con phá ngang.
      - Anh cứ nói,
      - Nếu nói rằng Đấng Thiêng Liêng ẩn tàng toàn diện nơi con người nào khác gì con người chính là Đấng Thiêng Liêng.
      - Anh nói cũng có lý nhưng lý có một nửa chẳng khác gì một cộng một là hai.
      - Thưa bác,
      - Có phải anh muốn nói chẳng lẽ một cộng một là ba hay là một phải không? Có gì đâu mà vội! Nếu tư tưởng của anh thuộc về vô hình đã được phát sinh từ một thực thể hữu hình là bộ óc hay thân xác anh thì tất nhiên một cộng với một là bao nhiêu mà chẳng được đâu cần gì phải vội biện luận là hai hoặc một. Anh thử xét coi, tư tưởng, thân xác, dẫu là những thực thể hoàn toàn khác biệt nhưng gốc của chúng là gì nếu không phải là những hình thức kết hợp khác nhau của năng lượng. Giới New Age ngày nay gọi Thượng Đế là năng lượng nào có gì sai trái đâu. Xét như vậy, khi tập trung sức mạnh tư tưởng tất nhiên cũng chỉ là sự sử dụng năng lượng tập trung vào một điểm nào đó để biến đổi. Nói theo lối trình bày của tôn giáo hữu thể, kẻ nào đến với Thượng Đế bằng trái tim, sùng kính Ngài với tất cả lòng ước muốn mến mộ trong cô tịch, thinh lặng sẽ nhận biết quyền năng tối thượng qua sự hiện thể các điều mong muốn của họ. Mấy anh em Thiên Chúa giáo từ nay nên để ý lời Kinh Thánh đặt nơi miệng đức Giêsu, "Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi" (Mt. 6:6). Bản Kinh Thánh tiếng Việt hình như dịch chưa được hoàn chỉnh vì nơi cuốn New American Bible câu này được viết, "Go to your inner room." "Inner room" không phải nội tâm, nội tại nơi con người thì là thứ gì. Như vậy, khi cầu nguyện nếu nói theo nhà Phật tất nhiên cần dẹp sang bên tất cả lục căn, ngũ uẩn để hòa nhập làm một với quyền lực tối thượng nơi mình tức Phật tính, Thượng Đế. Đây cũng là điều kiện không thể thiếu nơi tâm thức những người thực hành thiền, yoga, phương thuật, huyền thuật, hay nghi thức lễ bái. Những nghi thức hành lễ phải phát xuất từ nội tâm, từ sự tha thiết của người chủ lễ, từ sự chân thành của những người tham dự thì mới được cảm ứng. Bất cứ nghi lễ nào cũng đòi hỏi một sự chí tâm, chí thành, kính cẩn trang nghiêm vì nghi lễ là sự nối liền tâm thức người hành lễ với những động lực thiêng liêng. Chỉ có sự xác tín và lòng chân thành mới có thể đem lại sự cảm ứng (ĐMQXT; Tr.256). Những động lực thiêng liêng như luồng điện. Lòng xác tín, chân thành không khác gì dây dẫn điện được tạo bởi quyền lực tâm thức phát sinh bởi ý định. Thế nên, tôi đề nghị anh em chịu khó suy nghiệm câu "Vạn vật đồng nhất thể" nơi đạo học Đông Phương chắc chắn sẽ nhận thức thêm được nhiều điều hữu ích.
      - Thưa bác, Sỹ nhà con lại chen vô, sao có thể đồng nhất.
      - Thôi, thôi, ông ơi, khóa dùm cái mỏ lại cho chúng tôi nhờ! Nghiệm thì chẳng chịu nghiệm, chưa chi đã tơm tớp sao với giăng. Vạn vật đồng nhất thể có nghĩa ông và thằng cu thêm, cu nếm cũng như nhau. Bố cũng như con, con như bố, ông nào cũng "you" và thằng nào cũng "you." Bác đang nói mà cứ nhảy xổm vào cổ họng phá đám. Phủ oang oang ngắt lời Sỹ.
      - Tớ không biết thì tớ hỏi!
      - Biết mình không biết tức là đã biết nên càng hỏi chỉ càng làm cho mình không biết. Bá chen giọng, xin bác tiếp tục.
      - Đối với người Tây Tạng, huyền thuật chỉ là một khoa học nghiên cứu sức mạnh của tâm thức để sử dụng vào một mục đích nhất định nào đó. Bí quyết của các môn huyền thuật chỉ là sự tập trung tư tưởng để tạo ra một sức mạnh trong thiên nhiên. Sức mạnh của tư tưởng chính là động năng thúc đẩy, tạo tác ra mọi sự kiện. Vì tư tưởng con người thường bị hao tán, không tập trung nên rất yếu, chỉ hiện diện phất phơ một lúc rồi tan biến đi, không đủ sức mạnh để tạo tác ra chuyện gì. Một người biết cách tập trung và sử dụng tư tưởng, thu góp các sức mạnh khác trong thiên nhiên để hỗ trợ cho tư tưởng của mình gia tăng cường độ, họ có thể tạo ra được các quyền năng vô cùng đặc biệt (HTTT; Tr.274).
      - Bác nói như thế thì phép lạ hay bùa ngãi cũng là quyền lực của sức mạnh tư tưởng?
      - Sách vở huyền môn Tây Tạng nói rõ rằng tất cả mọi quyền năng sẵn có trong mọi người, nhưng vì không biết cách phát triển nên rất ít ai sử dụng một cách chính xác. Tuy nhiên, ít người biết sử dụng không có nghĩa là những điều đó khác thường hay có tính cách trái tự nhiên. Phát triển quyền năng tức là tập sử dụng những giác quan có sẵn của thể xác, thể vía, và tâm thể (HTTT; Tr.108). Anh em thử lật nơi Kinh Thánh phần bốn Phúc Âm xem có câu nào đức Giêsu nói Ngài chữa hay Thiên Chúa chữa không hay Ngài chỉ nói "Lòng tin con chữa con, cứu con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52). Theo quan niệm tu chứng Ấn học anh em nên biết, lòng tin, đức tin hay niềm tin vững chắc và quyền năng chữa bệnh, thường được gọi là sự lạ, liên hệ mật thiết với nhau. Đức tin là khả năng nhận lãnh; quyền năng chữa bệnh là khả năng chuyển vận những luồng thần lực vào người khác để giúp họ điều hòa cơ thể. Người chữa bệnh chỉ là một con đường vận hà, một chất xúc tác, một động cơ để những luồng thần lực thiên nhiên tác động. Họ không phải là người sở hữu quyền năng đó, một tu sĩ đã diệt ngã không bao giờ vỗ ngực xưng là đấng này, đấng nọ hay khoe khoang một quyền năng nào (ĐMQXT; Tr.75). Trong việc chữa bệnh, đức tin đóng vai trò như một chất dẫn điện vì luồng điện chỉ có thể được truyền đi nếu có chất dẫn điện mà thôi. Tóm lại, quyền năng chữa bệnh chỉ hiệu lực khi có đức tin, dù đó là đức tin vào một quyền năng nào, một cá nhân nào hay một lý tưởng trừu tượng nào (ĐMQXT; Tr.76-77). Nói như vậy có nghĩa người đã đạt tới mức độ tâm linh nào đó có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong chân ngã, hồn, hay tâm lực của mình. Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có sẵn tiềm lực hàm xúc một quyền năng vô biên: đó là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng nơi mọi người (XPHB; Tr.77). Anh em nên nhận thức rõ ràng, con người mang năng lực vô biên phát xuất tự linh hồn hay tâm lực được thể hiện bằng quyền lực tư tưởng. Sức mạnh của tư tưởng vốn là một năng lực hết sức lạ lùng và mạnh mẽ. Nếu được đặt trong các điều kiện thuận tiện, nó có thể tạo ra các hình ảnh như thật mà người ta gọi là ảo giác cũng được mà gọi là ma quỷ thì cũng không sai (HTTT; Tr.145). Khi đạt đến trạng thái tâm thức nào đó anh em sẽ chứng thực rõ ràng được ma quỷ vốn chỉ là phần hình thức biến thái của tâm lực nơi tư tưởng. Không những chúng có thể biến hóa thành nhiều hình ảnh lạ lùng mà còn có thể giúp ích hay làm hại những người nào thờ phụng hay sợ hãi chúng. Chúng ta không thể phủ nhận suông qua các lý luận thông thường mà phải thực sự hiểu rõ các trạng thái của tâm thức ở ngay nơi mình.
      - Thưa bác, như vậy phỏng con người có quyền năng như Thượng Đế! Cháu muốn nói, ước muốn, ý định tạo nên số phận của một người?
      - Nói theo nhà Phật thì luật nhân quả nhận định rằng mọi ước vọng của con người rốt cuộc sẽ được thực hiện. Bởi đó, mọi điều ham muốn, dục vọng là sợi dây trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử (XPHB; Tr.74). Như vậy, tùy theo dục vọng, tư tưởng, ước muốn của mình, con người sẽ phải trải qua những hành trình tâm linh tương ứng. Lẽ đương nhiên, nếu nói một cách hết sức khoa học, lý luận, thì con người có toàn quyền định đoạt số phận của họ khi sống cũng như khi chết. Nhận thức như vậy, các dục vọng, tư tưởng của một người khi còn sống tạo ra sẽ bay vẫn vơ tác động vong linh hay hồn của họ sau khi chết cho đến khi sinh lực chúng hao mòn, tan rã mới thoát được. Do đó, vấn đề chuẩn bị tư tưởng cũng như lối sống của một người hết sức cần thiết và quan trọng. Nếu các tư tưởng, ý định chỉ hoàn toàn nhắm về vật chất thì dĩ nhiên hoàn cảnh tâm thức cá nhân sau khi chết sẽ hết sức bi đát vì vong linh không còn thỏa mãn chúng được nữa mà phải đợi cho tới khi ý thức được để có những tâm nguyện hăng hái về tâm linh hơn, chuẩn bị cho hành trình nơi một kiếp sống khác. Lật nơi Phúc Âm, anh em sẽ thấy điều này đã được ghi chép rõ ràng nhưng ít ai để ý suy nghĩ, "Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 16:19). Nếu nhận định cuộc sống hữu hình là dưới đất, cuộc sống vô hình là trời, anh em sẽ nhận ra quyền lực ảnh hưởng tác động của ý định nơi hồn một người sau khi chết.
      - Thưa bác, có cách nào giúp những hồn còn đang vương vấn với ước muốn thế tục không?
      - Hãy cầu nguyện cho họ. Sự cầu nguyện hay cầu siêu cho ai đó đã qua đời là một điều hết sức quan trọng và ích lợi vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh mang âm hưởng vô cùng ở cõi âm nếu người tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả năng lực tinh thần. Đây là bí quyết mật tông Tây Tạng (HTVPĐ; Tr.184). Tuy nhiên, thường thì chúng ta chỉ coi tụng niệm, cầu siêu, cầu nguyện như những việc làm cho qua hoặc theo một hình thức, lặp lại các câu kinh, đoạn sách, nơi đầu môi chót lưỡi mà quên tập trung tâm ý nên đã tiêu phí năng lực một cách vô ích. Với lòng chân thành lồng trong ý định hay ước muốn rõ ràng, sự cầu nguyện mang quyền lực rời núi lấp sông. Đừng bị phiền hà bởi tự ái vặt, tôi nghĩ, mấy anh em Thiên Chúa giáo chẳng hiểu gì lời Kinh Thánh, hoặc có chăng chỉ hiểu theo nghĩa đen và cùng lắm dưới nhãn quan luân lý, và nếu tôi không lầm, có thể nói anh em quá coi thường là đàng khác. Thử đặt vấn đề, lý do gì Phúc Âm viết, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự.” (Mc. 11:23) Tôi nghĩ, hai ngàn năm qua, những người theo Thiên Chúa giáo quá coi rẻ những lời Kinh Thánh. Nói đúng hơn, có thể họ cho rằng Kinh Thánh chép những điều không tưởng.

      Dẫu lời nói nhẹ nhàng, đắn đo từ cửa miệng cụ Tài, nhưng chúng chẳng khác gì những bàn tay gang thép tạt vào mặt mấy tướng, xưa nay vẫn cho rằng mình "có đạo." Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời! Hơn nữa, chẳng những mấy tướng có đạo mà ngay cả nhóm nhậu cùng các bà vợ xồn xồn đang lắng tai nghe, ai nấy đều cảm thấy bàng hoàng. Bàng hoàng vì thực thể không ngờ nơi mọi người được cụ già phanh phui sự thiếu sót to lớn; xưa nay mình đã vô tình không để ý tìm hiểu về chính con người của mình, về thực thể huyền nhiệm nơi mình. Cảm nghĩ này đồng thời tạo nên mối ăn năn hòa lẫn nỗi lòng nuối tiếc những tháng ngày đã qua chỉ vì thiếu ý thức nên bỏ lỡ biết bao lợi ích của tâm ý, hèn chi vẫn còn mù mờ nơi hành trình thăng tiến tâm linh. Mười mấy người im lặng, đượt mặt ngồi một đống, lộ rõ những nét trầm tư ráng chừng suy nghĩ lung lắm. Cụ Tài cẩn trọng nâng ly; vừa cạn miếng rượu thì Sỹ nhà con đã vội xách bình lít rưỡi dốc hết phần còn lại khiến rượu và miệng ly gần hòa thành mặt phẳng. Vẫn chứng nào tật nấy nhưng giọng mang đầy vẻ cảm nhận, hắn phá tan bầu không khí nặng nề,
      - Bác nói phê quá.
      Lòng cụ Tài chợt chùng xuống! Dẫu sao, mấy người anh em này cũng có học thức và cuộc sống tương đối dễ thở nhưng vì đâu suy tư nghiệm chứng tâm linh vẫn còn như xa vời ngoài tầm tay với? Phỏng họ không được sinh ra để chứng ngộ hoặc chưa đến thời điểm. Nếu nói rằng chưa đến thời điểm thì có đi đâu mà đến, có tìm đâu mà gặp! Hành trình nào không khởi đầu bằng một bước chân! Như vậy, điều gì là chướng ngại ngăn chận những bước chân xuất phát bởi lòng khao khát? Đâu đó câu Kinh Thánh gợi về, "Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản" (Lc. 11:52; Mt. 23:13). Cụ không "theo đạo" nhưng những lời Kinh Thánh khiến cụ say mê. Đã nhiều lần cụ tham dự các buổi giảng thuyết của mấy mục sư Tin Lành hay đến nhà thờ "đi lễ" với người Công giáo; nhưng sao mà lời Kinh Thánh bị mấy ông cha nhà thờ hoặc mục sư diễn giải quá nặng mùi thế tục đến nỗi tạo nơi tâm trí cụ nỗi ngỡ ngàng pha lẫn tính chất coi thường. Đôi khi gặp được linh mục hay mục sư nào đó đặt tâm điểm vào "lời Chúa" thì chỉ thao thao lặp lại và giải thích theo nghĩa đen hay áp dụng nơi luân lý khó bề chấp nhận. Với tuổi gần đất xa trời này mình có thể làm được gì, cụ thầm hỏi. Tại sao lòng mình mang mối xốn xang thương cảm. Những người anh em đang hiện diện sẽ có phản ứng nội tâm thế nào khi nghe mình nói về đạo học? Lời Kinh Thánh chừng như giục giã cụ nên tiếp tục. Cụ tự nghĩ, đặt thêm vấn đề nào có ích lợi gì; việc đến sẽ phải đến, thôi thì cứ coi như người gieo hạt giống. Nghĩ đến đây, lời Kinh Thánh lại hiện về nhắc nhở, "Người gieo giống ra đi gieo lúa, có những hạt rơi dọc đường, có hạt rớt vào đất đá, có hạt nơi bụi gai, những hạt khác được gieo nơi đất tốt. Ai có tai thì hãy nghe" (Mt. 13:4-9). Đã lỡ biết thì phải nói! Cụ cảm thấy niềm vui pha lẫn nét diễu cợt nơi ý nghĩ "phải nói." Không nói thì lòng dạ xốn xang; nói lên, tâm tư thanh thản phần nào, nên cho rằng phải nói, hay thích nói, hoặc muốn nói, cũng không đàng nào đúng. Mình nói cho mình hay nói cho họ, cụ tự hỏi! Bởi vậy, khi Sỹ nhà con lên tiếng, cụ chợt buột miệng,
      - Phê cũng vô ích vì cho dù nói cũng chưa chắc hơn gì ai đó biếu cụ Nguyễn Khuyến bình hoa trà.

      Lời cụ Tài điềm đạm nhưng ý tứ cay cú đối với đám thính giả xưa nay ồn ào, "to miệng," đã quen thói coi trời bằng vung. Khổ nỗi, những gì cụ nói đều quá ư tầm thường, ngay nơi lòng ruột mọi người nhưng chứa đầy thách đố nghiệm chứng mà bất cứ ai chưa bao giờ hay ít khi để tâm nghiệm xét đều không thể nào mở miệng. Qua lý luận đặt căn bản nơi nền tảng nghiệm chứng lồng trong lối giải thích tâm tình, cụ muốn khuyến khích những người trẻ dấn bước vào hành trình nghiệm xét tâm linh. Điều rõ ràng, kinh nghiệm tâm linh là một kết quả hiển nhiên qua công phu tu hành chứ không phải một điều trừu tượng dựa trên lý thuyết hay một cái gì cao xa mà không ai có thể đạt đến được (ĐMQXT; Tr.79). Đàng khác, chỉ thông minh mà thôi thì không thể nắm bắt được thực thể siêu linh thế nên hành giả cần thực chứng, nghiệm chứng. Kinh nghiệm bản thân nơi cụ chứng tỏ rõ ràng một điều đó là dù theo con đường nào, khuynh hướng nào, chính cá nhân phải nỗ lực chứ không thể ỷ lại vào một sức mạnh hay sự giúp đỡ của ai khác. Thêm vào đó, sự nhận thức tâm linh lại tùy thuộc căn cơ và thể chất hành giả nên chẳng những không ai có thể giúp ai mà đồng thời không phương pháp hay đường lối nào có thể là mẫu mực chung. Cá nhân phải tìm vị thầy nội tại vì chỉ có vị thầy này mới phù hợp và thấu suốt hành trình nào người đó phải trải qua. Không những thế, khi quay vào bên trong để lắng nghe, người ta sẽ phải đối diện với những sự thật phũ phàng mà trong cuộc sống hàng ngày ít ai dám nghĩ đến (BRTS. Tr.31). Thế nên, dẫu biết rằng cay cú ám chỉ sự thật cần được phanh phui sẽ đem lại cảm nghĩ khó chịu nơi những người trẻ, cụ Tài đành chấp nhận với hy vọng may ra sự nhức nhối do tự ái bị va chạm phần nào khuyến khích tri thức nơi họ thức động. Chủ đích của cụ đạt ngay điểm tới, lời cụ chưa dứt âm vang, Hưng đã lên tiếng,
      - Thưa bác, cứ theo một số kinh sách giải thích sự thực nghiệm, kẻ nào muốn thực tập cần có một vị thầy, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma thay vì đạt tới được phần hỏa hầu nào đó. Cháu nói như thế bác biết cháu muốn nói gì.
      - Câu hỏi của anh phần nào chứng tỏ sự hiểu lầm bao lâu nay của những người nghiên cứu, tu tập, và nghiệm chứng đạo học Đông Phương. Tôi muốn nói riêng về người Việt Nam mà thôi. Trước hết, sự hiểu lẫn lộn ý nghĩa của ngôn từ hay văn từ "thiền" và "Yoga." Thiền hay thiền định của nhà Phật đặt trọng tâm vào định để tiến tới kiến tính. Yoga phát xuất từ Ấn học; đó là phương pháp đào luyện thân xác, phát triển năng lực nội tại tiến dần tới trạng thái đại định, xả kỷ, giúp tâm thức hòa nhập với thực thể tối thượng. Tùy theo những tông phái và các phương pháp thực nghiệm, thiền cũng như yoga được chia thành nhiều giai đoạn hay cấp bậc kể chẳng xiết. Thêm vào đó, có những phương pháp giao thoa giữa thiền định và yoga chẳng hạn như Mật Tông Tây Tạng, phương thuật hay tương tự như thế nơi huyền môn Ai Cập. Khi nào nói đến Ấn học tôi sẽ phân tích các giai đoạn hoặc phương cách thực hành yoga cho quý anh em hiểu rõ. Điều tôi muốn nhấn mạnh trước khi nói về thành quả thực chứng hay tu luyện đó là cho dù ai đó phát triển được năng lực nội tại tới đâu hoặc đạt được khả năng huyền môn nào đó, khi sử dụng chúng tất nhiên đã bị chúng mê hoặc, nói cách khác, đã tự lao mình vào cơn cám dỗ; như tôi đã nói khi nãy, đó là lạm dụng quyền lực thiêng liêng ẩn tàng nơi mọi người.
      - Thưa bác, nếu như thế đâu cần gì phải nghiệm chứng hay tu luyện làm chi, thà rằng cứ chấp nhận đã được sinh ra để sống thì cứ sống, chờ ngày chôn vùi cùng cây cỏ và làm bạn với giun dế. Sỹ nhà con thêm lời xông xáo.
      - Cần gì phải chờ, và chưa bằng bụi đất sao dám đòi làm bạn cùng giun dế. Nói cho đúng, trên răng dưới dế thì có chứ giun chắc chắn không. Xin ông làm ơn hành thiền nín nói cho bà con nhờ. Bá ngắt lời Sỹ đoạn tiếp, thưa bác, nếu thiền và yoga có thể giao thoa, có nguyên tắc hoặc điểm căn bản nào làm đầu mối cho sự hòa hợp các phương thức thực nghiệm này không?

      MBVN 08
       
      - Như tôi đã nói, nguyên tắc căn bản cho mọi sự thực hiện nghiệm chứng tâm linh chỉ là sự sử dụng quyền lực nơi tư tưởng. Tùy sự sử dụng này mà các phương pháp thực nghiệm phát sinh. Nơi thiền định, quán tưởng chính là dồn hết năng lực tư tưởng để chứng những vọng tưởng hay ý niệm hầu nhận thức năng lực hiện hữu hay Tâm Phật, Pháp Thân, hoặc Tự Tính, đang biến chuyển, hoạt động nơi mọi sự. Yoga dùng năng lực nơi ý nghĩ, ý định áp dụng nhận thức ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông các kinh mạch để phát triển năng lực nội tại mà tiếng bình dân gọi là nội lực. Tuy nhiên, muốn sử dụng được năng lực tư tưởng, hành giả cần thực chứng thực thể tuyệt đối nơi mình, tức là hiểu biết và nhận chân chính mình bằng cách trả lời cho đến tận cùng câu hỏi mình là ai. Sự tìm kiếm này sẽ giúp cho hành giả khám phá, xuyên qua những hang ngách của tâm thức những gì ẩn dấu đàng sau tâm trí của con người. Khi một người giải quyết được vấn đề căn bản này, họ sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác. Dĩ nhiên, những ai tu trì theo tông phái đều có những vị đã thực chứng hướng dẫn. Tuy nhiên, các vị tổ hay thầy chỉ là những người đi trước dẫn đường, những người giúp đỡ, hướng dẫn trong một giai đoạn ngắn chứ không phải là người có thể cứu giúp hay đưa ai đến mục đích tối hậu là giải thoát (HTTT; Tr.248). Nhận thực như thế, sự giải thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người. Người tu hành chân chính là kẻ tự biết mình vì trên đường đạo không có vấn đề vinh hay nhục mà chỉ có sự tiến bộ. Nếu chẳng may sa ngã, hãy đứng dậy và tiếp tục và chỉ cần luôn định hướng để khỏi lầm đường lạc lối (HTVPĐ; Tr.143). Tương tự, khí công bên yoga hay mật tông Tây Tạng chỉ là một phương pháp để định tâm và dụng công định tâm mới là hành trình chính yếu dẫn tới đại định. Hơi thở chỉ là một con ngựa tốt, nhưng tâm con người mới là kẻ cưỡi ngựa. Một khi kiểm soát được tâm thì mới có định mà chỉ có định rồi thì trí huệ mới phát sinh (HTTT; Tr.260).
      - Thưa bác, nếu như vậy sao một người đùm đề vợ con phải lo chạy ăn từng bữa có thể tu chứng nghiệm chứng? Chẳng lẽ sự nhận chân thực thể nội tại chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt?
      - Nói rằng chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt may ra đúng được một phần nhưng cho rằng những người nơi cuộc sống gia đình không có cơ hội thức ngộ thì hoàn toàn không có một lý do nào làm căn bản. Anh em nên tự nghiệm, thực thể sâu kín của thiên nhiên và của cuộc đời tức là bí quyết của sự bất diệt không thể nào tiếp nhận được với sự làm việc gian khổ của trí óc, hay với một hướng tâm ích kỷ, mà chính là nhờ vào sự tiếp xúc với cuộc sống trọn vẹn và không ngụy tạo với trực giác tức thời (MGTT; Tr.72). Qua những kinh nghiệm tu chứng được viết nơi kinh sách, tính đồng nhất của muôn vật hiện diện nơi tổng thể đang yên ngủ trong mỗi vật chỉ được nhận thức qua nghiệm chứng chứ không bằng suy luận. Tuy nhiên, nghiệm chứng đâu cần ngồi một chỗ mà chỉ cần định tâm. Định tâm đâu đòi hỏi phải có thời gian hay không gian nào cố định. Dành một thời giờ riêng cho sự tham thiền là việc làm của kẻ sơ cơ. Người đã tiến bộ ít nhiều trên đường tìm chân lý sẽ tìm thấy sự an lạc là điều bình thường dầu cho y đang bận rộn công việc. Trong khi hai tay người ấy đang thực hiện công việc thì trí óc hướng về cõi giới siêu hình. Người nghiệm chứng cố gắng đưa tâm trí của mình tập trung nơi mục đích cũng ví như kẻ điều khiển tay lái khiến xe chạy trên đường thay vì lọt vô lề hay mương rãnh hai bên.

      - Thưa bác, nếu người nào làm việc bằng sự tính toán đầu óc sao có thể định tâm? Sỹ nhà con lại chen vô.

       
       
       
       
       
       
       
      - Anh chưa thử sao dám đặt vấn đề đơn sơ như vậy! Có lẽ anh không biết câu "Ước muốn của ngươi ở đâu, thì lòng dạ ngươi cũng ở đó." Giọng cụ Tài bỗng trở nên thương cảm sau tiếng thở dài. Tôi nói hơi quá vì Kinh Thánh viết, "Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt. 6:21). Khi một người thực sự ước muốn thực hiện việc gì hay điều gì tất nhiên tâm trí của họ luôn luôn suy nghĩ về điều đó bất cứ lúc nào. Cũng một lẽ đó Kinh Thánh viết thêm, "Vậy nếu mắt ngươi đơn thuần, thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi vạy vò thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối" (Mt. 6:22-23). Câu này có nghĩa sự tập trung tinh thần vào nhãn quan tâm linh giúp cho người nghiệm chứng cảm ứng với thực thể tâm linh nơi mình. Tuy nhiên, nếu không thực nghiệm hoặc không biết mà để tâm trí phiêu diêu lơ đãng bất định hoặc trụ vào những ham muốn thế tục thì suốt đời cũng chẳng đạt tới đâu. Thế nên, sống trong bóng tối là những kẻ chỉ hướng về các tri kiến hữu hạn được gọi là những kẻ tôn thờ thế gian.
      - Thưa bác, Hưng ngập ngừng, nhưng dầu sao chúng ta cũng chỉ là người.
      - Lần trước anh đã lặp lại câu nói của Pascal, "Con người không phải là thánh cũng chẳng là thú, nhưng kẻ nào muốn làm thánh lại biến thành thú" mà vẫn chưa thông hiểu ông ta muốn nói gì. Chúng ta chớ nên phân biệt tâm và thân như hai thành phần khác biệt có thể tách rời nhau; mà cần hiểu rằng tâm và thân là một. Nơi ngôn ngữ Việt có hai chữ thân và thần trùng hợp về điểm này ở hành trình tâm linh. Dẫu được kiến tạo do sự vô tình nào đó chúng vẫn đem lại ý nghĩa thật tuyệt vời về sự hợp nhất căn bản của nghiệm chứng mà những ai chối bỏ hay không nhận biết thực tại này đều chỉ đang theo đuổi những sự phù phiếm. Nghiệm chứng đạo học minh chứng, một người muốn thức ngộ, trước hết phải nhận biết mình tức là nhận biết thực thể của thân, đó là thực thể chính họ. Thần mang ý nghĩa người đã thức ngộ. Không một đạo sư hay đấng giáo chủ nào bảo người đi theo con đường tinh thần phải đè nén mọi tình cảm. Con người là một sinh vật hữu tình, nghĩa là có tình cảm, chứ đâu phải trơ trơ như gỗ đá. Không một phương pháp đạo học nào chủ trương con người phải trở thành trơ trơ bất động, không còn tình cảm nữa. Phải chăng đi theo con đường tinh thần thì con người sẽ không còn là người nữa hay sao? Đàng khác, nếu đã không phải là người đâu cần thức ngộ. Tâm chúng ta đầy những bất an, vọng động có thể chỉ vì chúng ta quá chú trọng đến việc đè nén cảm xúc hoặc theo đuổi những ước muốn nhất thời mà không hiểu rằng tâm và thân đâu phải là hai thực thể cách biệt. Thực tế chứng minh, nếu thân bệnh hoạn thì làm sao tâm có thể an được. Nói như vậy có nghĩa muốn thành thần phải có thân, muốn đạt đạo phải là con người đúng với ý nghĩa của nó.
      - Thưa bác, sao trong kinh sách nói gì đâu những sự rèn luyện cần phải từ bỏ hoặc tuân theo nhiều thứ kỷ luật thân xác gắt gao, trong khi cuộc sống lại quá ư phức tạp.
      - Chỉ có những tâm hồn cố chấp và lạm dụng mới dám mở miệng nói rằng đường dẫn đến chân lý chỉ có một. Có hàng trăm ngàn con đường cùng đưa đến một mục đích. Người Tây Phương có câu thường bị hiểu lầm, "Đường nào cũng dẫn tới La Mã." Nói cách khác, có bao nhiêu người, sẽ có bằng ấy phương pháp hay hành trình nâng cao tâm thức con người. Thử xét về những tổ chức mang tính chất truyền bá đạo học, lịch sử cho thấy không một đấng giáo chủ chân chính nào lại lo thiết lập một tôn giáo khi các ngài còn sống cả. Các ngài đến với nhân loại để giảng dạy chân lý chứ không phải thành lập một tổ chức hữu hình nào. Tổ chức chỉ được dựng lên sau khi các ngài từ trần do tín đồ của các ngài mà thôi (BRTS; Tr.180). Xét về cuộc đời, mỗi kiếp sống, mỗi giai đoạn hay sự việc nơi cuộc đời đều là chặng đường, những bài học quan trọng trong hành trình phát triển và tiến hóa của mỗi người. Khi đã học xong một bài học, con người tiếp tục lên đường để học thêm những bài học khác. Thế nên, chẳng có việc gì hoặc sự kiện gì nơi đời người trên thế gian này là tầm thường cả, tất cả mọi việc đều có sự quan trọng riêng của nó. Đừng gán cho công việc những giá trị này nọ mà quên rằng người ta chỉ đạt đến chân lý bằng cách mở rộng trái tim và ý thức hành động của mình qua những công việc dường như tầm thường nhỏ mọn (BRTS; Tr.158). Thực ra, nơi nghiệm chứng, vấn đề được đặt ra không phải là việc làm của chúng ta mà là thái độ của chúng ta đối với những việc làm đó. Chúng ta đến cuộc đời này một mình thì khi ra đi cũng vậy thôi. Những sự việc đều là phương tiện cho chúng ta hoàn thành điều gì đó cần phải học. Là người đi trên đường tinh thần, chúng ta đã biết rõ mục đích của cuộc đời là để học hỏi, kinh nghiệm nên cần biết tuân theo các định luật thiên nhiên. Luật thiên nhiên đã định như thế thì cưỡng lại có ích gì đâu (BRTS; Tr.175). Cưỡng lại lối sống tự nhiên tất nhiên còn muốn trở thành gì nếu không muốn nói là chống trời. Sống theo tự nhiên của con người mới có thể thành thần, mới có thể phát triển tâm linh.
      - Thưa bác, cháu nghĩ có điều gì đó bác không muốn nói đến khi cho rằng có những trường hợp đặc biệt. Vấn đề cháu đặt ra đó là làm sao biết mình có thuộc về trường hợp đặc biệt hay không?
      - Tôi không ngờ anh quá thông minh. Sở dĩ tôi không muốn nói đến vì sự tin tưởng nơi một lý thuyết và sự nhận thức qua một kinh nghiệm khác nhau rất xa. Tự xét quý anh em sẽ nhận thấy, chúng ta xưa nay đã quá quen thói muốn hiểu hết mọi sự để tưởng rằng mình đã đạt được một cái gì. Nơi trường học, những sự hiểu biết này đến mức độ nào đó được gọi là bằng cấp. Tuy nhiên, nơi hành trình nghiệm chứng tâm linh, sự hiểu biết thiếu nghiệm chứng kiến tạo trạng thái đối nghịch, nó chỉ giết chết lòng khao khát thức ngộ của con người mà thôi thay vì bổ túc và hướng dẫn tu chứng. Điều mà tôi cho rằng "Sự nhận chân thực thể nội tại chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt may ra đúng được một phần" cũng vì chúng ta chỉ muốn hiểu mà hiếm ai muốn nghiệm. Tôi muốn chứng minh cho mọi người rõ. Suốt tuần qua, có ai trong anh em để tâm suy nghĩ dù chỉ một đôi lần về lý do hay nguyên căn nơi sự thức ngộ của hòa thượng Hương Nham không? Anh Tùy nêu lên câu hỏi nhưng tôi đã không trả lời, và thế là hết, ngay cả câu trả lời của tổ Huy Sơn cũng không gây chút thắc mắc nào nơi tâm trí anh em. Ý tôi muốn nói, bất cứ ai cũng thuộc về trường hợp đặc biệt nếu dám đặt vấn đề hầu nghiệm cho sáng tỏ nhưng rất ít người để ý nhận thức.
      Cụ Tài ngưng lời, nhắp miếng rượu đoạn đưa mắt rảo qua mọi người. "Điều đau nhớ đời," nhưng đành phải hạ màn luẩn quẩn, cụ nghĩ. Vì thiếu hiểu biết nên đa số con người đã lầm tưởng phương tiện sống là cứu cánh cho cuộc đời và lao đầu tìm kiếm, nắm bắt. Dĩ nhiên họ sẽ phải đối diện với muôn vàn thất vọng vì cái mà họ muốn luôn luôn hãy còn ở ngoài tầm tay. Đạt được cái này thì lòng ham muốn lại thúc giục họ đi tìm kiếm thêm cái khác, và cứ thế, họ tìm mãi, trường kỳ đuổi theo vật chất mà chẳng bao giờ toại nguyện. Thế rồi đau khổ, thất vọng chồng chất tạo nên muôn vàn gánh nặng ưu tư, chán chường. Dẫu đến lúc nào đó để tâm tự nghiệm, họ sẽ nhận biết bài học, vì đau khổ, thất vọng là những kinh nghiệm quan trọng giúp họ ý thức rõ về mục đích của cuộc đời, thì đã bao nhiêu người chẳng bao giờ đạt được cơ hội thức ngộ. Về phía tướng tá nhóm nhậu, thiên hạ thấm đòn khá nặng. Cụ Tài lôi ngay con tẩy bạt của mọi người phơi bày nơi ánh sáng khiến tên nào tên nấy chẳng những ngọng miệng mà còn cảm thấy tự xấu hổ vì đã bỏ lỡ cơ hội ý thức. Lấy gì để bào chữa, nói sao cho thật lòng! Cụ già coi bộ hiền hòa, thái độ mang phần nào hơi lẩm cẩm nhưng dễ mến, chỉ vài câu nói đã lột trần bộ lòng ruột của những kẻ quen thói tự hào.
      - Thưa bác, ngay từ lúc mới đọc câu chuyện đó trước khi bác nói, cháu đã mấy lần tự hỏi hòa thượng Hương Nham thức ngộ nhờ điểm nào nhưng tâm trí cứ tối như đêm ba mươi nên đành phải lờ đi. Thực ra, đến lúc này cháu vẫn không thể nào hiểu được thì biết làm sao hơn!
      - Anh sẽ có cơ hội, tôi muốn nói anh sẽ thuộc về trường hợp đặc biệt nếu vẫn còn thấy tối mù, với điều kiện cứ để tâm trí luẩn quẩn nơi câu hỏi đó.
      Thế là không những thoát nạn mà mọi người còn cảm thấy may mắn vì đã học được bài học chẳng ngờ mặc dầu không ai nói lên. Nét mặt họ chứng tỏ phần nào niềm vui ngỡ ngàng thay thế vẻ đăm chiêu chỉ mấy phút trước. Cụ Tài cảm thấy lòng rộn ràng. Nước cờ giải thế bí đạt thành quả trông thấy nhưng cụ vẫn tỏ ra như không hay biết. Nhớ lại thời buổi đầu tiên, không biết bao nhiêu năm trời, câu nói nơi Kinh Thánh, "Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết" (Mt. 19:30; 20:16) đã khiến cụ rối mù không sao có thể nhận thức được. Đọc nơi sách nhà Phật, sự giải thích qua hình ảnh những người lên đò sang sông không thỏa mãn. Cụ nghĩ, những câu nói đạo học tất nhiên ý nghĩa không giới hạn chứ đâu chỉ dành riêng cho một vài trường hợp nào. Năm tháng dần trôi, những câu khác chẳng hạn "Người biết không nói, kẻ nói không biết" hoặc "Không làm gì mà không sự việc nào không làm" nơi Lão học, hay "Lửa không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng," hoặc "Người khôn học người ngu," cho dù đôi ba năm hay một vài tháng chúng đã lần lượt được giãi bày nhờ ánh sáng suy nghiệm. Đàng này, câu hỏi "tại sao kẻ đầu hết sẽ trở nên cuối hết" cứ triền miên ám ảnh mà không có sự giải đáp nào có thể thỏa mãn tâm trí của cụ. Khoảng giữa năm 1990 đi với Hưng mua chiếc máy giặt tại Sears, đang loanh quanh luẩn quẩn nơi quầy sách, cụ vô tình thấy cuốn "Tao of Leadership" nên cầm lên lật một đôi trang ngó qua. Ngay nơi bài viết thứ nhì, ngắn gọn chỉ vài chục chữ, nói về sự hòa hợp đối nghịch của thực thể sự vật, chẳng hiểu mắt quáng gà thế nào mà cụ đọc câu "Who would be first ends up last" trở thành "What would be first ends up last." Chính lúc ấy cụ nhận biết câu Kinh Thánh mang ý nghĩa gì! Bài học vỡ lòng sẽ giúp mấy anh em gặp nhiều điều thú vị, cụ thầm nghĩ.
      - Thay vì đi tìm một cái gì cao xa huy hoàng ở bên ngoài, người tu chứng tìm cách làm sao cho nội tâm được sung mãn, dồi dào, nghịch lại là sự hướng ngoại, theo đuổi đam mê vật chất trong cuộc sống hữu vi. Nơi hành trình hướng nội, mọi hoạt động sẽ có tính cách thoải mái, ung dung, tự tại vì nó xuất phát từ một nội tâm phong phú, không bị giới hạn hoặc gò bó; do đó tư tưởng được tập trung, chuyển hóa và thăng hoa. Nếu hướng ngoại, mọi hoạt động thường có tính cách lo âu, trói buộc, sợ hãi vì nó được xây dựng trên sự suy luận của lý trí luôn luôn ảnh hưởng bởi ngoại cảnh. Và như thế, tư tưởng hay sản phẩm của tâm thức chỉ là những gì lăng xăng, biến đổi, hao tán do tùy thuộc những biến chuyển không ngừng. Đây là lý do tại sao nhà Phật có những công án, hoặc Phúc Âm được viết kết hợp những câu nói nghịch thường đối với luân lý hay thói quen suy nghĩ của con người. Như vậy, tôi có thể tóm tắt, bước đầu cho hành trình thức ngộ, anh em nên để ý suy tư những công án hay những câu nói nơi kinh sách đạo học. Không nên học hỏi ý nghĩa từ người khác mà cần phải tự mình suy nghiệm. Thật ra, đó chỉ là những câu nói khôn ngoan đơn thuần nhưng thường thì được nói hay viết theo lối ám định giúp tâm trí con người ngưng đọng để nhận ra những biến chuyển về thực thể của sự vật, sự việc.
      - Nhưng thưa bác, như vậy cho dù hướng nội hay hướng ngoại thì vẫn là mê.
      - Đây là hành trình khởi đầu của tu chứng để nhận biết điều mà nhà Phật gọi là vô minh. Tôi đề nghị anh em sau khi đã tự mình nghiệm được một công án hay bất cứ câu nói nào nơi đạo học, hãy suy tư về lời phát biểu nơi nhà Phật, "Chứng cái không." Tôi nói nghe có vẻ khơi khơi như thế; tuy nhiên, nếu anh em nào thực sự muốn thăng tiến về đường tâm linh, áp dụng vào suy tư sẽ gặt hái được nhiều sự lạ lùng. Thực ra, cuộc đời là môi trường cho con người học hỏi, kinh nghiệm dẫn đến sự tự biết mình. Nhiều người sau một thời gian tu chứng hay nghiệm chứng nghĩ rằng họ đã biết rõ về mình nhưng coi chừng họ chỉ là nạn nhân của bản ngã, của một cái gì vô cùng sâu sắc và biến hiện khôn lường. Sự hiểu biết lý thuyết mà thiếu thực hành là một cái học thiển cận; do đó một người đi trên đường đạo cần phải kinh nghiệm qua việc va chạm với thực tế khổ đau. Nguyên nhân của đau khổ không phải tại hoàn cảnh, cũng không phải tại ai khác mà chính là do nơi mình (BRTS; Tr.106). Mọi hành trình nghiệm chứng hay tu chứng chỉ là công phu theo dõi tư tưởng một cách thành thật, nhận biết tất cả cho đến khi có thể hiểu trọn vẹn về chính mình. Thế nên, người có lý tưởng lúc nào cũng suy gẫm về điều mình theo đuổi, thấy rõ kết quả mà họ mong sẽ đạt được, và cương quyết đi trọn con đường. Họ phải biết tuân giữ những định luật bất biến trong vũ trụ và không bao giờ quên rằng chân hạnh phúc là một phần thưởng quý báu, chỉ đến sau khi họ đã vượt qua được những thử thách mà thôi (BRTS; Tr.179). Như vậy, muốn biết mình, người ta cần phải biết về luật biến hóa của mọi vật trong cuộc tuần hoàn của vũ trụ. Trong trời đất, tất cả đều thay đổi biến chuyển không ngừng. Để tiến hóa, con người cần có một động lực mạnh mẽ thúc đẩy họ hoạt động đó là lòng đam mê. Đây là một yếu tố cần thiết và hữu dụng đối với loài hữu tình như chúng ta vì thiếu yếu tố này, con người sẽ sống thụ động như cây cỏ, gỗ đá, chẳng có cảm giác và không thể tiến bộ bao nhiêu. Nhờ đam mê mà người ta hoạt động, thay đổi. Điều quan trọng phải là chúng ta có nhận biết được mình thế nào hay không. Như thế, nguyên lý căn bản của đạo học chỉ là biết mình và sự liên hệ của mình với quyền lực tối thượng, Phật Tính hay Thượng Đế, Đại Ngã mà thôi.
      - Thưa bác, như vậy đâu cần tôn giáo.
      - Nói cho đúng, sự biết mình là căn bản quan trọng nhất mở đường cho hành trình thức ngộ. Chính vì không biết mình do lười suy tư hoặc sợ hãi phải đối diện với con người thật của mình mà xưa nay bao nhiêu người đã chạy theo những lời hứa hẹn thiếu nghiệm chứng để cổ võ tổ chức thế tục vẫn thường xảy ra khắp nơi. Sự tự biết mình đòi hỏi một công phu nghiệm chứng, quán chiếu, để phản ánh trung thực các ý tưởng, các điều sâu kín ẩn náu trong nội tâm, chứ không phải điều mà người ta có thể tìm thấy trong sách vở, dù đó là sách gì chăng nữa. Nhờ liên lỉ nghiệm chứng, quán chiếu để tự biết mình, con người đạt đến tâm trạng minh triết trong tâm hồn và từ đó họ có thể sử dụng hợp lý các kiến thức đã thu thập được nơi cuộc sống. Mọi truyền thống tôn giáo, dù cao siêu đến đâu, thì cũng quy về con người, và những gì họ tự hiểu biết về thực thể bản thân. Nếu không tự biết mình thì họ không thể biết được bất cứ điều gì khác một cách chính xác. Bởi vậy, sự nhận biết về liên quan giữa con người và Thượng Đế đòi hỏi sự biết mình vì khi biết mình là ai thì câu trả lời về Thượng Đế sẽ hiển hiện một cách rõ rệt hơn bao giờ hết (BRTS; Tr.189).
      - Ngay từ tuần trước, nghe bác nhắc đi nhắc lại mấy điểm coi bộ quá thường, cháu cảm thấy hơi ngạc nhiên tại sao qua bao năm tháng với muôn vàn kinh nghiệm sống mà mãi cho tới lúc này bác vẫn nhắc tới chúng. Cháu xin lỗi bác đã có ý nghĩ ấy và dám thực lòng nói lên nếu có điều gì không phải. Nhưng bây giờ mới thấy thấm và nhận ra mình đã nghĩ sai, nói cho đúng, cháu đã nhận thức sai mà không biết. Có điều, hình như những gì đơn giản nhất hoặc gần với mình nhất lại khó khăn nhất nếu cháu không lầm. Chẳng hạn vấn đề biết mình, ai không tự hào rằng đã hiểu quá rõ ràng về mình. Cứ như bác giải thích thì xưa nay mọi người chỉ tưởng tượng sai lầm về chính họ mà thôi. Và như vậy, có thể nói, tất cả các phương pháp tu luyện, nghiệm chứng đều chỉ dồn vào một điểm tự nhận thức chính mình; vì không thế, tại sao các kinh sách đạo học luôn luôn nhấn mạnh về tự thể, tự giác, giác ngộ. Tuy nhiên, giải thích bằng chữ nghĩa hoặc bằng lời nói cũng chẳng khác gì nước đổ đầu vịt bởi lông vịt đâu thấm nước. Vấn đề cháu đặt ra phải là làm sao cho đầu vịt thấm nước. Xin lỗi bác và anh em, cháu chỉ muốn nói về chính cháu mà thôi!


      Cũng như một vài người khác, ngồi nghe và cứ lầm rầm uống hết chai bia này đến chai bia khác suốt buổi tối tuần trước, mãi tới lúc này Hinh mới lên tiếng. Hắn xưa nay vẫn ít nói lại không thích lý luận giành phần hơn thiệt. Dẫu những lúc bạn bè "rượu vào lời ra" hắn vẫn thế. Uống thì cứ uống nhưng có ai chọc chạch thế nào hắn vẫn ngậm miệng ngoại trừ những điều cần phải nói. Bảo rằng thế nào hắn cũng chẳng đặt thành vấn đề và thường có thái độ như không để ý đến những chuyện thời sự sôi nổi lắm khi nhóm nhậu ý kiến qua lại như o­ng vỡ tổ.
      - Thế ra lẩm ngẩm lầm ngầm mà đấm chết voi. Tôi xin tặng ông danh hiệu "đầu vịt." Sỹ nhà con chen giọng.
      - Anh Hinh nói đúng, cụ Tài lên tiếng. Chúng ta chỉ cho rằng biết mình chứ thực sự rất ít ai nhận thức được rõ về chính mình vì có chăng đã được gọi là đạt đạo. Anh dùng ngôn từ "đầu vịt" không sai bởi kinh sách nói về sự nhận thức và những phương thức giác ngộ trong khi chúng ta chỉ đọc cho qua hoặc khác hơn thì đọc để mà hiểu. Nói chung, chúng ta kiếm tìm kiến thức chứ không phải tự nhận thức. Tệ hơn nữa, chúng ta thường dùng quan niệm cố hữu nơi mình làm mẫu mực xét đoán những điều kinh sách viết rồi cho rằng đúng sai, phải trái theo sự hiểu biết hạn hẹp mà không để ý đặt mình vào trường hợp của những lời phát biểu hầu nghiệm chứng ẩn ý câu nói hoặc câu viết đó thế nào. Đây là căn bản của nghiệm chứng mà ít ai để tâm thực hành thế nên luôn luôn bị giao động, khát khao tìm hiểu ngoại vật chẳng khác gì con o­ng quanh quẩn đi kiếm từng giọt mật. Muốn thức ngộ phải tìm tự nơi mình vì chân lý vốn tự nơi ta chứ không đâu xa. Sự vô minh phát sinh từ tư tưởng hướng ngoại được gọi là kiến thức; bởi đó, kiếm tìm sự minh triết nơi mình tức là tự biết mình.
      - Bất cứ kinh sách đạo học nào cũng trình bày sẵn phương pháp thức ngộ mà mấy ai để ý. Sự nghiên cứu theo văn tự, sách vở chỉ đem đến những hiểu biết hời hợt bên ngoài chứ không thể giải thích thấu đáo những vấn đề huyền bí, ẩn mật của thực thể sự việc. Các lý luận chỉ là cái biết ngoài da và tổng hợp những cái biết của người khác. Sự hiểu biết thật sự chỉ có thể có được khi người ta đã kinh nghiệm được chúng như chúng thực sự thế nào (HTTT; Tr.167). Thế nên, kiến thức từ chương chỉ giúp cho những người sơ cơ, bắt đầu tìm hiểu con đường tâm linh để có một căn bản hiểu biết nhưng đó không phải là tất cả. Nếu người ta cứ tiếp tục bám víu vào kiến thức thì chính nó sẽ trở thành chướng ngại cho việc nghiệm chứng. Tu chứng tức là áp dụng những điều đã hiểu vào đời sống vì chỉ những gì mình nghiệm được mới thật sự là hiểu biết mà thôi. Tất cả những điều gì người khác nói ra đều chỉ là kiến thức, nghiệm chứng của họ. Đàng khác, sự giải thoát xuất phát từ chính mình chứ không thể do một ân huệ nào từ bên ngoài mang đến (HTTT; Tr.44); bởi vì những kiến thức hoặc sự thực hành tôn giáo như nghi thức lễ bái, cúng kiến bề ngoài không dẹp tan được vô minh nơi con người mà có khi lại còn cổ võ con người chìm sâu hơn. Chỉ có sự nghiệm chứng mới có thể dẹp tan cõi vô minh của tâm hồn. Sự hiểu biết hay kiến thức thực nghiệm chỉ có thể đạt tới bằng sự tìm tòi bằng lý trí qua nghiệm chứng.
      - Quý anh chị em đã nghe hay đọc về một số nguyên tắc thăm dò tâm thức nơi hành trình tu chứng nhà Phật. Xét về lịch trình phát triển Phật học, chúng ta không nên quên rằng bối cảnh giai cấp xã hội Ấn Độ ngày xưa và hệ thống giáo điều nơi Ấn giáo đã đóng những vai trò quan trọng cho sự phát triển nhà Phật. Thực ra, trước khi có Phật học, các tông phái Ấn Độ, nhất là phái Yoga, đã xác định rõ ràng phương cách thực nghiệm những phương thức cùng trình tự tu luyện. Nơi hành trình tu luyện này, người nghiệm chứng thường được gọi là tu đạo cần nhớ một điều: không có một hành động nào, không một lời nói nào, một ý nghĩ hoặc tình cảm nào mà không có ảnh hưởng tới tâm linh hành giả nên không một giây phút nào mà tâm thức con người không phải chuyên chú cẩn trọng bởi các tác vi, lời nói, cùng ý nghĩ đều tạo nên những luồng ba động gây ấn tượng trong tiềm thức của người tu đạo (TTÂĐ; Tr.241).
      - Tất nhiên, muốn nghiệm chứng, hành giả cần định tâm, và Yoga bao gồm những phương thức thực nghiệm nơi hành trình tu chứng của Ấn học để đạt tới đại định, trạng thái nhà Phật gọi là viên giác đại ngộ hay niết bàn. Chẳng khác gì nơi nhà Phật, nếu ai đó muốn tìm hiểu Phật học phải đối diện với muôn chiều hướng lý thuyết cũng như những hành trình tu chứng nhiều khi khác biệt tới độ đối nghịch thì việc tìm hiểu về Ấn học lại còn khó hơn gấp mấy lần. Tuy nhiên, dẫu các tông phái tại Ấn Độ rất phức tạp, mà thực ra, những quan niệm căn bản nơi các giáo lý Ấn học có nhiều điểm tương đồng (TTÂĐ; Tr.236). Những điểm tương đồng dựa trên vài quan niệm căn bản đó là vô minh, nghiệp báo, niết bàn hay trạng thái siêu thức, và Yoga là phương thức thực nghiệm để diệt trừ những vọng tưởng do vô minh và nghiệp chướng gây ra. Các tu sĩ Ấn Độ, nhất là các tu sĩ Yoga cho rằng phương pháp thực tiễn để biết mình là diệt trừ mọi vô minh, mọi vọng động, vọng tưởng, vọng niệm đã từng cấu tạo nên những màng lưới hình hài, bản năng, tâm tư. Tất cả những vọng tưởng, vọng niệm, vọng chấp đó, tương tự như những đợt sóng luôn luôn biến hiện trong giòng sống con người khiến tâm thức không bao giờ phẳng lặng, thanh tịnh để bộc lộ trạng thái thuần túy của thức giác hiển lộ tinh lực uyên nguyên (TTÂĐ; Tr.240). Như vậy, người nào thoát khỏi trạng thái vô minh đương nhiên đạt đến viên giác, đại ngộ, tâm thức họ sẽ tới cõi thường tịch, an lạc không kể xiết.
      - Dù có nhiều phương pháp đạt tới thức ngộ nơi Ấn học, nhưng nguyên tắc chỉ có một đó là diệt ngã hay xả kỷ. Tôi nghĩ, anh em sẽ không ngạc nhiên khi tìm hiểu Ấn học nếu đã biết về Phật học vì sự khác biệt giữa Ấn học và Phật học cũng như đối với các đạo học khác, tựu trung chỉ là những quan niệm nơi hành trình tu chứng mà thôi bởi chân lý chỉ có một, và điểm khởi hành chính là tự biết mình. Chẳng hạn, Ấn học quan niệm về Đại Ngã dẫu ngôn từ diễn giải khác biệt thì cũng chỉ như Thượng Đế, Chân Như, hay Tào. Thực thể tâm linh nơi con người được gọi Tiểu Ngã, nhà Phật gọi là Phật tính, Thiên Chúa giáo gọi linh hồn. Yoga bao gồm nhiều cách tu luyện nhưng tựu trung đều là phương thức nâng tâm thức, tiểu ngã hòa nhập Đại Ngã bắt nguồn từ nghiệm chứng nơi Ấn học.
      - Thưa bác, nếu Ấn học rất phức tạp sao có thể đặt vấn đề tổng hợp.
      - Khi nhắc đến tôn giáo, chúng ta đều nhận biết có nhiều tôn giáo và mỗi tôn giáo được phát sinh và thiết lập dựa trên nền tảng niềm tin chung nơi tín đồ. Thêm vào đó, cuộc đời thay đổi và thăng tiến cộng hưởng với sự diễn giải kết quả tu chứng của một số vị chân tu; do đó quan niệm cũng như niềm tin biến đổi cho phù hợp với nghiệm chứng đạo học. Sở dĩ Ấn học cũng như Phật học phức tạp vì hành trình tu chứng phát triển theo thời gian đã phát sinh rất nhiều khuynh hướng giãi bày cảm nghiệm. Chẳng hạn chúng ta thấy, hành trình phát triển Ấn học từ thời thượng cổ mang tính chất mật truyền được bao trùm dưới nhiều bình diện thức giác trải qua những truyền thống Kỳ Na, kinh Vệ Đà, Upanishads, và sau này vào thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau tây lịch, kinh Bhagavad Gìtà xuất hiện. Kinh này rất được người Ấn Độ ngưỡng mộ và đọc tụng (TTÂĐ. Tr.187). Kinh được viết dưới hình thức một cuộc đối thoại giữa tôn giả Krishna và Arjuna trên chiến trường Kurukshetra (CTC. Tr.IV) để trình bày nguyên lý thương đau chứa đựng trong tác phẩm và đưa các dữ kiện tôn giáo vào thực tại của cuộc đời hầu nói lên thực thể quyền lực tuyệt đối đang hoạt động dưới nhiều hình thức khác biệt. Thực ra, mọi kinh sách đạo học đều có xuất xứ khá mù mờ đồng thời được bổ xung do những bậc thức ngộ, kinh Bhagavad Gìtà là một đoạn của thiên anh hùng ca Mahabharata không biết do ai trước tác. Tuy nhiên, chỉ cần một chút suy nghiệm, chúng ta sẽ nhận thấy chân lý bao giờ cũng hiển hiện một cách mầu nhiệm trong không gian và thời gian. Sự sống thật sự không thể bị ràng buộc trong giới hạn thời gian mà ngược lại rất huyền nhiệm, sống động không ngừng biến chuyển chẳng khác gì giòng nước luôn luôn tuôn chảy. Cũng như các đạo học khác, Ấn học đặt căn bản trên nền tảng nghiệm chứng này; bởi nếu chúng ta nhận thức được sự thiêng liêng duy nhất ở tất cả thì ta sẽ thấy sự sống biểu hiện khắp nơi qua thiên hình vạn trạng. Ngược lại, con người thường thu hẹp nguồn lực thiêng liêng, quyền lực hiện hữu, thường được gọi là sự sống, trong các danh từ giới hạn, và cố gắng giải thích bằng những ý niệm của tư tưởng. Ấn học khuyến khích sự ý thức và kinh nghiệm thực thể biến chuyển không ngừng của quyền lực tối thượng hầu giúp con người nhận ra định luật điều hành vũ trụ tuyệt vời mà chúng ta thường cho là ở bên ngoài, vốn thực không khác những định luật hiện nay đang chi phối bên trong mỗi con người.
      - Có điều, nơi kinh sách diễn giải, các tác giả kinh sách Ấn học hay đề cập đến thực thể tối thượng được gọi là Đại Ngã như một vị chúa tể mang nhân tính chẳng hạn đức Thế Tôn hoặc Thượng Đế hay nhân cách hóa bằng đại danh xưng "Ta." Chẳng hạn nơi kinh Bhagavad Gìtà viết, "Này Arjuna, Ta là Đại Ngã ngự trị trong tâm hồn vạn vật: Ta là lúc khởi đầu, là chốn trung gian và là cứu cánh của vạn vật. Trong các tập Phệ Đà, Ta là Sàmaveda. Trong số các bản thể ngời sáng, Ta là bản thể ngời sáng, Ta là bản thể Vàsava. Trong các quan năng Ta là tinh thần (Manas), và trong khắp phù sinh Ta là tri thức (CTC. Tr.100-101). Ta là thần chết cấu xé muôn loài, Ta là nguyên ủy của tất cả những gì sắp sửa sinh ra. Trong các phẩm hạnh của nữ tính, Ta là danh giá, là giàu sang, là thịnh vượng, là lời nói, là ký ức, là thông minh, là đức kiên trì và lòng tha thứ (CTC. Tr.103). Ta là trò xảo trá của kẻ đại bịp, và là sự rực rỡ của những vật thể huy hoàng. Ta là vinh quang, Ta là quả cảm, Ta là chân tính của lẽ phải. Ta là yên lặng của mật tính và là tri thức của những bậc hiền giả. Ta là hạt nhân của tất cả thực hữu. Chẳng có chuyện gì, dù chuyển động hay bất động lại có thể hiện hữu ngoài Ta (CTC. Tr.105). Như vậy, Thượng Đế nơi Ấn học lớn hơn không gian nhưng đồng thời cũng nhỏ hơn một hạt nhân nguyên tử vì Thượng Đế là đời sống của nguyên tử. Không có gì lớn hơn Thượng Đế và cũng không có gì nhỏ mà có thể thoát ra khỏi Ngài. Thượng Đế hay chân lý tuyệt đối không có hình dạng, màu sắc hay đường nét gì, nhưng nhờ Thượng Đế mà các sắc tướng được đẹp đẽ, rực rỡ và tinh vi (BRTS; Tr.42).
      - Tuy nhiên, anh em nên để ý sự khác biệt giữa đạo học và tôn giáo như tôi đã giải thích nhiều lần để mở rộng lòng quan sát và học hỏi chứ không phải để phê phán hay chỉ trích; vì làm sao người ta có thể kinh nghiệm được gì khi lòng còn đầy tự hào như con đẻ của nhận thức hạn hẹp hoặc đã bị ám ảnh quá nặng nề do sự nhồi sọ của những nhà thuyết giảng bởi mang nặng tính chất ỷ lại hoặc lười suy nghĩ. Đàng khác, điều rõ ràng chúng ta đều nhận biết đó là không ai có thể đạt tới những gì chưa bao giờ biết hoặc chưa thử nghiệm nhưng lại e sợ những gì chưa bao giờ đối diện nên dễ sinh lòng đố kỵ. Thực ra, sự e sợ này chính là đặc tính của những tâm hồn thiếu nhận thức hoặc hoàn toàn mất hết khả năng sinh động mà nhà Phật thường gọi là trạng thái vô minh. Xét về Ấn học, trọng điểm nơi giáo huấn của Bhagavad Gìtà, tiếng Việt dịch là Chí Tôn Ca, bàn về con đường đạt đến tinh thần giải thoát. Con đường giải thoát này chính là con đường của đạo Yoga hướng về hành động (Karmayoga), hay là con đường hoàn tất nghĩa vụ bằng tư tưởng của đạo Yoga, một phương thức hợp thể với tinh thần đức Thế Tôn vô thượng (CTC. Tr.XXI). Quan niệm hành động nơi Ấn học có nghĩa chính là cuộc sống của một người. Ăn uống, vận chuyển, linh động qua những quan năng xác thân nơi cuộc sống thường ngày đều có nghĩa là hành động. Hành động là một phương thế hiệu nghiệm nhất để tự biểu lộ tự ngã của mình trong trần thế (CTC. Tr.XXI). Nói cách khác, cuộc đời một người chính là sự thể hiện linh hoạt của Đại Ngã nơi thế giới hữu hình. Chỉ có một năng lực tuệ mẫn luôn luôn biến chuyển hàm chứa mọi tính chất sinh động nằm sau những hoạt động vô tận của vũ trụ là đức Thế Tôn. Chỉ có ý muốn của người là hữu hiệu trong mọi hành động; người là một thực thể duy nhất hiện hữu, nhưng người hoạt động qua bản ngã nhân gian, và dùng nhân gian như thể công cụ của người (CTC. Tr.XXIII). Nói cách khác, những định luật sinh hóa, biến động tự nhiên phức tạp nơi thế giới hữu hình cũng như vô hình chính là sự hoạt động của Đại Ngã nơi muôn loài muôn vật. Thế nên, đời sống thực sự không phải là một sự cố gắng, phấn đấu để đạt được cái này hay cái khác nhưng là một sự thoải mái trong tự do tuyệt đối (BRTS; Tr.16). Như vậy, con đường thức ngộ theo Ấn học đòi hỏi một sự cảnh giác không ngừng; con người cần luôn đặt tâm tưởng nơi mục đích chính của mình đó là sự nhận thức thực sự mình là một với đấng cao cả (BRTS; Tr.25) hầu vượt qua những sự cám dỗ của các tư tưởng nhỏ mọn, ích kỷ vẫn tiềm ẩn trong tâm tạo nên đau khổ vì coi mình như chủ thể hành động.
      - Thưa bác, cháu xin được ngắt lời, vì nếu mình đã là một với đấng cao cả nào đó thì dù nhận thức hay không có gì thay đổi đâu. Và nếu đã là một với đấng cao cả thì sao còn có mình, sao còn nói đến đấng cao cả.
      - Tôi nghĩ anh chưa bao giờ suy nghiệm lời đức Thích Ca nói "Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành." Đức Đạt Ma sư tổ nói rằng "Thấy thẳng tánh mình thì gọi là thiền. Thấy tánh tức là Phật" (SCTT. Tr.124). Danh hiệu Đấng Cao Cả được dùng trong Ấn học chính là Thượng Đế, Đại Ngã, chẳng khác gì Phật tánh hay Chân Như nơi Phật học. Đó là lý do tại sao Đạt Ma Sư Tổ nói "Phật không giữ không phạm giới. Tâm tánh vốn không, cũng chẳng dơ, sạch. Các pháp đều không tu không chứng không nhân không quả. Phật là người vô tác" (SCTT. Tr.118). Bất cứ ai đã giác ngộ tức là đã thực sự thấy được chính quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mình và con người mình, cuộc đời mình chỉ là công cụ cho quyền lực này thì được gọi là Phật. Đây cũng là điểm giác ngộ tận cùng nơi Ấn học. Đại sư Swami Nikhilananda nơi phần tựa của cuốn Chí Tôn Ca đã giải thích, "Mục đích của tư tưởng Krishna là xóa bỏ những mối nghi ngờ và lầm lẫn ngự trị con người trong mọi vấn đề, tầm thường cũng như trọng đại. Những lầm lẫn và nghi ngờ này chỉ có thể được xóa bỏ nhờ tinh thần giác ngộ chân tính; đó là đức Thế Tôn hiện hữu ngay trong tâm thức của mình" (CTC. Tr.XVI). Như vậy, người nào ý thức được tinh thần vô thượng đang hoạt động nơi mình, sẽ xa thoát khỏi bản ngã trì nệ của con người. Nếu xét theo nhận thức khoa học, chúng ta không thể phân tách vật chất khỏi năng tính, cũng vậy, nếu chỉ đựa trên bản thể vô thượng, một người không thể phân biệt được hành động và không hành động (CTC. Tr.XXXVI) hoặc người hành động và thực thể hành động vì tất cả chỉ là những hoạt động, biến chuyển của thực thể tối thượng. Nếu nghiệm chứng được nhận thức này, con người đạt tới cảnh giới tâm linh vô thượng. Nói cách khác, người có ý thức vô thượng sẽ không bao giờ còn phải tái sinh nữa vì đã hợp nhất với chính tinh thần hiện hữu (CTC. Tr.XXXVIII) bởi khi tâm trí, quan năng hoàn toàn vượt khỏi thế giới ngoại lai, thoát đắm mê thế tục vô thường, khi tâm trí và quan năng được hướng về thực thể vĩnh cửu, lúc đó một tình trạng mặc khải vĩ đại, một ý thức về chân tính xuất hiện tiêu diệt tinh thần ngu lậu và lầm lẫn trong cõi đời hữu hạn như con người mê ngủ ra khỏi giấc nồng và bước vào một thế giới với một chiều hướng mới (CTC. Tr.XXXVIII).
      - Thưa bác, dẫu đạt tới cõi giới nào thì hành động vẫn chỉ là hành động và thực tính của hành động nào khác biệt chi! Chẳng lẽ người thức ngộ tinh thần vô thượng ăn ớt không cay, uống rượu không say, hoặc sẽ thức đêm, ngủ ngày khác với những người chung quanh!
      - Anh nói nghe cũng có lý nhưng lý một nửa. Để tâm nghiệm chứng anh sẽ nhận thấy, chính ý thức gợi lên tinh thần hành động chứ không phải tạo nên những hành động. Do đó, người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ tinh thần vô thượng đều có những hành động giống nhau, chẳng hạn như ăn, ngủ; nhưng trong khi người chưa giác ngộ thấy trong hành động của mình mang đầy tinh thần tự ngã và yếu tố vật chất; người giác ngộ chỉ thấy hành động của mình trong bản ngã vô thượng mà thôi. Như vậy, chỉ có ý thức mới phân biệt được con người giác ngộ và con người chưa giác ngộ (CTC. Tr.XXXV); bởi lẽ đương nhiên, điều phi thực không hiện hữu, điều chân thực không ngừng hiện hữu. Muốn thấy được yếu tính của chúng phải là người đã nhìn ra chân tính (CTC. Tr.15).
      - Thưa bác, nếu thế đâu cần luân lý.
      - Tôi hiểu anh muốn nói gì. Anh em nên để ý nhận định, luân lý là những lề luật, thành văn hay bất thành văn, chỉ là sản phẩm của con người vì lợi ích nhân sinh trong sự liên hệ cuộc sống. Tuy nhiên, đâu phải lề luật hay luân lý giúp chúng ta trở nên toàn thiện. Đàng khác, nơi hành trình tâm linh theo Ấn học, hành động chính là cuộc sống, cách sống, tất cả hoạt động nơi sự hiện hữu. Nhịp tim đập, lá phổi thở, suy nghĩ nơi tâm trí, mọi sự đều là hành động của Đại Ngã thì sao chúng ta có thể dùng nhận định luân lý hạn hẹp làm tiêu chuẩn nhận định. Ai là người đặt ra lề luật qui định con tim phải đập bao nhiêu nhịp trong một phút hay nó đập ra sao con người đành chịu như thế! Bởi vậy, vấn đề cần được đặt ra chỉ là chúng ta có ý thức quyền lực khiến con tim đập, lá phổi thở hay không. Nếu quyền lực này đang hoạt động nơi mình mà không nghiệm chứng tất nhiên được gọi là vô minh. Do đó, dẫu thức ngộ hay vô minh cũng chỉ là một người; vấn đề khác biệt tùy thuộc trạng thái tâm thức mà thôi. Nhận thức như vậy, anh em hiểu được tại sao Ấn học có câu: "Không phải nhờ giới luật của hành động con người mới đạt đến tự do, cũng không phải chỉ biết khước từ hành động (xả kỷ) con người mới đạt được toàn thiện. Sự thực, ngay trong giây lát, chẳng có ai ngồi ỳ ra mà không hành động, vì những phẩm tính bẩm sinh (Gunas) từ Prãriti mọi người sinh ra để mà hành động, bắt buộc hắn phải hành động" (CTC. Tr.31). Như thế, xác thân có mục đích riêng của nó; vì với sự hỗ trợ của xác thân, linh hồn tù túng được giải thoát (CTC. Tr.XXXIX). Có thể nói theo lối duy lý, xác thân chỉ là công cụ cho linh hồn thăng tiến nơi cuộc sống hữu hình.

      - Tuy nhiên, Ấn học không coi rẻ xác thân vì dẫu đôi khi gọi xác thân là nhà tù của linh hồn nhưng đồng thời, qua cơ hội cuộc sống nó lại là phương tiện linh hoạt duy nhất để phát triển tâm linh một người vì nó cũng chính là hiện thân của quyền lực tối thượng nơi hành trình hữu vi. Trong kinh Chí Tôn Ca, Arjuna biểu hiệu của một linh hồn nhân thế, còn tôn giả Krishna là linh hồn vô thượng hiện hữu trong tâm thức phàm nhân (CTC. Tr.VI). Krishna nhắc nhở cho Arjuna đại diện cho thế nhân ý thức cốt cán về cuộc sống; hoạt động của con người chính là ý thức về thực thể. Hành động thoát khỏi ý niệm về con người hành động, thoát khỏi năng lực hành động, và hậu quả của hành động mới đúng là ý thức vô thượng (CTC. Tr.XXXV). Atman hay linh hồn là hiện thân của tinh thần toàn thiện, vĩnh phúc, hòa bình nên linh hồn bất biến và không hành động, nhưng bản ngã vô thượng hay Atman hiện ra để hành động vì năng lực huyền ảo cứng nhắc của Màyà xâm nhập vào bản thể vô thượng và làm cho tinh thần nhất thể hiện ra muôn ngàn vóc thể, do đó bản ngã tối thượng bị nhận thức thành bản ngã hữu hạn (CTC. Tr.XXX). Như tôi đã nói với anh em, không phải bộ óc chúng ta suy nghĩ hay sáng tạo hoặc ước mơ mà những suy tư tâm linh hay tinh thần đều là hoạt động của linh hồn. Nơi Ấn học, đạo trình Yoga là phương pháp thực nghiệm dùng xác thân như phương tiện giúp linh hồn nhận thức thực thể về bản thể uyên nguyên tối thượng nơi mình.
      - Thưa bác, yoga có phải là thiền không? Cháu nghe có người nói là đạo yoga trong khi bác lại nói phương pháp yoga.
      - Thiền hay Yoga là phương pháp hoặc hành trình giúp người tu chứng tiến tới đại định, trạng thái ý thức hòa nhập với thực thể tối thượng đang hoạt động nơi mọi loài mọi vật...
      - Thưa bác,
      - Khoan hãy hỏi, bác đang nói, chưa chi đã nhảy xổm vào cổ họng...
      - Ai nhảy vào cổ họng ai! Ông biết tôi sẽ nói gì mà đã vội chận họng...
      - Các chú nên bình tĩnh, Ông Thung lên tiếng và hướng về cụ Tài, xin cụ phân định.
      - Anh Sỹ, anh muốn nói gì?
      Men rượu, men bia khiến hắn cần phần nào chứng tỏ lý phá ngang của mình nên thái độ hơi nghênh ngang phơi bày quyền ưu tiên với Bá vì vừa lên tiếng chặn câu hỏi của hắn,
      - Ông đã nhận thức được ai nhảy xổm vào cổ họng ai chưa?
      - Chú Sỹ, ông Thung ngắt lời, thời gian cũng khá muộn.
      - Vấn đề cháu muốn đặt ra đó là nếu Thượng Đế, Đại Ngã, Chân Như, Quyền Lực Uyên Nguyên đã và đang hoạt động nơi mọi người thì đâu cần phải thiền, phải định, phải "giô ga," "giô rượu."
      - Anh em biết rõ, có giô ga, giô rượu thì cuối cùng cũng như chưa giô sao vẫn cứ giô?
      - Nó phê... lắm..., Hinh lấy giọng trầm trầm, kéo dài âm "phê" khiến mọi người cảm thấy vui lây...
      - Kiến tính thành Phật hoặc Yoga đều có cùng một mục đích đó là nhận ra bản thể tuyệt đối đang hoạt động nơi mình. Nhà Phật gọi là chứng ngộ, chứng nghiệm, chứng cái không để vượt khỏi vòng vô minh. Đây chính là điều kinh Niết Bàn của nhà Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không được giải thoát (SCTT. Tr.43). Nếu anh em nào có cơ hội đọc cuốn Vô Niệm Viên Thông nên để ý nơi phần lời tựa, sư Thích Minh Thiền hý lộng, "Đời là một đại hí trường, đã trót đến hí trường, không thể không tìm trò chơi cho thoải mái. Muốn chơi theo chúng sinh hay chơi theo Phật thì cứ mà tùy ý miễn đừng quên là mình đang chơi được rồi!" (VNVT; Tr.1-2). Nguyên tắc chơi của ngài chỉ là không mong cầu tất cả những gì thuộc về tài, tình, danh lợi xoay quanh trục lợi hại bổn thân của cái tôi - không nương dựa vào bất cứ một quyền oai thần thánh nào - không sợ hãi một điều gì xuất phát từ lợi hại bổn thân - phải tuyệt đối thành thật với chính mình. (VNVT; Tr.36). Cao điểm kiến tính thành Phật hay yoga cũng chỉ có thế. Tuy nhiên, chẳng khác gì thứ lừa ưa nặng, nhân sinh muốn mang ách thì tạo ra ách cho thêm phiền hà bởi văn từ yoga lấy từ tiếng Phạn “Yog” có nghĩa là cái ách. Hành trình thực nghiệm phát xuất từ Ấn học được áp dụng theo nhiều phương pháp Yoga. Nhà Phật thì có những Phật pháp gọi chung là thiền. Ngược lại, đối với những người bình dân thiếu hiểu biết, nghe đây lõm bõm vài câu, hóng đó dăm ý kiến đồn đãi nên thường cho rằng thiền hay yoga cũng như nhau; có những người khác gọi đạo thiền hay đạo yoga. Qua lần nói chuyện buổi tối tuần trước và tối hôm nay, tôi nghĩ anh em đã biết thiền là gì. Riêng về Yoga, đó là hành trình thực chứng tối quan trọng nơi Ấn học. Tôi muốn anh em thực nghiệm đôi phút. Mọi người hãy chống cùi chõ lên bàn và giơ ngón tay trỏ lên một cách tự nhiên. Nào, nhắm mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng lỗ mũi, và dồn hết tâm trí, tưởng tượng rằng luồng khí nhẹ nhàng xuyên qua lỗ mũi được dẫn trực tiếp tới ngón tay trỏ. Anh em cứ ngồi tự nhiên thoải mái, không động đậy. Nào, từ từ thở ra, từ từ hít vô. Cụ Tài hướng dẫn mọi người hít vô, thở ra bẩy lần.
      - Anh em cảm thấy thế nào nơi ngón tay trỏ.
      - Ô!, lạ quá, nó giật giật giống như động mạch ở cổ chạy lên đầu. Tùy con lên tiếng.
      - Đây là nguyên tắc thực nghiệm chính yếu của Yoga; nếu anh em nào học võ theo môn phái hiệp khí đạo sẽ không lạ gì về trò chơi này, vì ý dẫn khí và khí dẫn huyết đến đả thông những kinh mạch bị bế tắc. Nếu được chỉ dẫn đúng đắn theo hành trình luyện khí công nào đó, người thực hành sẽ phát huy được luồng nội lực và đồng thời sẽ phát triển được một số quyền năng hữu ích nơi cuộc sống hữu vi, có thể thực hiện được những việc thường được gọi là phép lạ. Ngược lại, sử dụng những quyền năng này với ý đồ chẳng nên nào đó sẽ phải trả giá khá nặng mà chỉ ai vấp phải mới biết. Tôi nói trước, nếu anh em nào tò mò muốn thử, cứ việc thử nhưng chắc chắn sẽ gặp phiền hà đầu tiên tạm gọi là tẩu hỏa nhập ma. Bởi vậy, nếu ai liều mạng muốn thử, khi nào cảm thấy mỏi phía đàng sau gáy hay ê ẩm ngang thắt lưng tất nhiên đã bắt đầu bị tẩu hỏa nhập ma. Muốn chữa thì đứng thẳng người một cách bình thường, dồn hết tâm trí vào hơi thở từ từ hít hơi dẫn vô nơi nhức mỏi trong khi hai tay theo luồng hơi đang hít vào giang ra và từ từ đưa cao ngang bằng với vai. Khi không khí đã đầy phổi, từ từ thở ra và hai tay xuôi dần xuống hai bên thân. Làm như vậy ít nhất là năm lần thì máu huyết tắc đọng nơi đó sẽ được thông.
      - Thưa bác, nếu cứ tiếp tục luyện thì sao?
      - Thì hai năm mươi, Bá lên giọng chen ngang.
      - Dĩ nhiên, chết thì không chết nhưng sẽ bị điên khùng.
      - Thưa bác, như bác nói, mọi suy tư, ước muốn, đều do hồn con người thì sự điên khùng phải phát xuất từ hồn chứ đâu phải là kết quả của sự luyện tập dẫn luồng khí huyết không đúng phương pháp?
      - Trước khi trả lời câu hỏi, tôi muốn phân định rõ ràng đó là sự liên hệ giữa hồn và xác thể không thể tách rời và xác thân là phương tiện duy nhất cho hồn trong hành trình thăng tiến tâm linh. Linh hồn hay atman cũng là một với ý thức, nhận thức, kiến thức, ước muốn, ý định. Ai cũng nhận thấy qua kinh nghiệm sống của mình, lòng buồn sanh bịnh, bịnh sanh lòng buồn; lòng quanh quéo sông càng quanh quéo, cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu (VNVT; Tr.10). Theo Ấn học, linh hồn và xác thân là hiện thể của Đại Ngã, thực thể tối thượng. Thế nên, sự luyện tập xác thân theo phương pháp Yoga thanh tẩy những phần tử trọng trược do bởi thiếu ý thức nhận biết thực thể chính mình. Dẫu được sinh ra với bản tính khác nhau, điều lầm lạc lớn nhứt của chúng ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém; thực ra các cá tính chỉ là kết quả do những thói quen, lòng ham muốn, và dục tình sinh ra chớ không phải chúng là bản chất của con người. Cũng thế, tính tình của một người chỉ là thói quen của tư tưởng. Tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều nhập nhiễm và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng chứng là người có tâm hồn thanh cao không thể hợp với những nơi ồn ào, náo nhiệt, ngược lại, kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm (HTVPĐ; Tr.191). Thế nên, khi phần tử nào của thân xác gặp trục trặc, nó sẽ trở thành sự cản trở hoặc phương tiện biến những mệnh lệnh thành rối loạn thì hồn không thể sử dụng xác thân một cách chính xác vì vậy được gọi là điên khùng.
      - Theo lời giải thích của những hành giả Yoga, sinh lực là phương tiện để ngự trị các năng lực sinh hoạt của tâm linh trong mọi hình thức biểu hiệu của chúng. Hình thức biểu hiệu hiển nhiên nhất là hơi thở (MGTT; Tr.204). Thế nên, tập thở theo một phương pháp nhất định, đó là bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng cần lặp lại một lần nữa rằng phép luyện khí công có thể có hại nếu không nói là tối nguy hiểm đến tánh mạng trừ phi hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm (TTHB; Tr.174). Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng, hai bộ máy hô hấp và tuần hoàn đều có liên quan chặt chẽ với nhau đồng thời tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai bộ máy nói trên. Theo quan niệm Yoga, hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn; sức mạnh này mới là trụ cốt sinh hoạt của xác thể. Chính sức mạnh đó ẩn tàng, vô hình, vô ảnh trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi nó rời khỏi xác thân thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp chúng ta làm chủ được phần nào sinh lực vô hình đó (ĐPHB; Tr.79-80). Như vậy, Yoga là phương pháp chế ngự giác quan tiến tới đại định. Có nhiều phương pháp chế ngự giác quan. "Phương pháp thông thường là dồn hết tâm trí để ý đến nhịp thở được gọi là "quán sổ tức." Khi để hết tâm chuyên chú vào nhịp thở, lấy tâm mình noi theo nhịp thở, ta có thể dần dần khóa kín các ngõ ngách của giác quan khiến ngoại giới không lọt vào được tâm thức. Phương pháp thức hai là dồn tất cả sự chú ý của mình vào nội tâm và cơ thể trong người được gọi là "hồi quang phản chiếu." Tỉ dụ quán tưởng vào điểm giữa hai lông mày hoặc nơi trái tim, thường được hình dung như một bông sen có nhiều cánh. Khi đạt đến trình độ này, hành giả thường ngồi tĩnh tọa bất động, hai mắt nhắm lại, giữ hơi thở đều hòa, các ngũ quan khép chặt, toàn thân gần như trở thành vô tri giác đối với ngoại giới, tâm thức tập trung vào một điểm nào nơi cơ thể hoặc một ý niệm nào đó. Theo kinh sách kể lại, nơi giai đoạn này hành giả sắp đối diện với những thời điểm hiểm nghèo cũng như có thể đạt tới những thành quả khá kỳ lạ. Họ có thể khai thông được những nguồn sinh lực mới mẻ và hết sức mãnh liệt vẫn tiềm ẩn nơi mình" (TTÂĐ; Tr.251-252). Tuy nhiên, những quyền năng như kết quả phát triển năng lực nội tại theo phương pháp Yoga sẽ là những cạm bẫy ngăn cản bước đường tu chứng vì càng có quyền năng bao nhiêu, con người càng dễ rơi vào vọng chấp bấy nhiêu và phát sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Bậc thức giả phải biết vượt lên trên nữa để đi tới thiền định hầu đạt tới địa hạt huyền diệu tuyệt đối, hòa nhập làm một cùng quyền lực vũ trụ tức Thượng Đế (TTÂĐ; Tr.256).
      - Có nhiều pháp môn Yoga, Mimmamsa: khuyến cáo sự tu luyện bằng việc hành lễ và tụng niệm giống như phái tịnh độ tông của nhà Phật. Phái Tantrisme khuyến cáo sự thờ phượng và tụng niệm các chân ngôn. Phái Védanta chủ trương dùng trí tuệ tu luyện để thấu triệt cái lẽ phi nhị huyền diệu trong tạo vật. Phái Jnana-Yoga cũng tương tự như vậy (TTÂĐ; Tr.237). Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalingi Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ. Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén; Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, và Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, nhờ đó hành giả thấu triệt ý nghĩa và sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời (TTHB; Tr.177).
      - Thưa bác, cháu nghe đâu đó nói rằng ai muốn luyện tập yoga phải theo những quy luật rất khắt khe về ăn uống cũng như những thế ngồi, nằm, đi đứng.
      - Nguyên tắc siêu thoát của Ấn học bắt nguồn từ nhận thức tâm linh. Uyên nguyên của vũ trụ bắt nguồn ở một tinh lực duy nhất, thường hằng tự tại, vô thủy, vô chung. Bất cứ một hiện tượng nào, bất cứ một chúng sinh nào cũng đều do tinh lực đó tạo nên và cũng đều hàm chứa thứ tinh lực đó. Nhưng càng đi sâu và hiện tượng hóa, tinh lực đó thường bị vùi lấp dần dưới những lớp thể chất tương tự như một tấm gương trong sáng bị phủ đầy bụi nhơ (TTÂĐ; Tr.239-240). Chỉ khi tập trung quán tưởng, con người mới có thể thực hiện những nỗ lực cuối cùng để diệt trừ vọng tưởng đưa thần thức mình hòa nhập với thực thể uyên nguyên của vũ trụ (TTÂĐ; Tr.242). Bởi thế, phương pháp Yoga cũng như thiền tức là dồn mọi nỗ lực vào sự tập trung quán tưởng, dùng tâm thức tập trung sự quán tưởng theo chiều hướng chuyên nhất để đưa thức giác vượt lên trạng thái siêu thức bằng cách diệt vọng tưởng. Muốn đạt tới trình độ này, hành giả cần phải tập luyện để điều thân, điều tức, và điều tâm. Điều có nghĩa vừa điều hòa vừa điều khiển. Điều thân tức là điều hòa và điều khiển nhịp sống sinh lý của mình. Điều tức là điều hòa và điều khiển nhịp thở của mình. Nhịp thở là nơi tiếp giáp giữa tâm và vật. Có điều khiển được nhịp thở mới hoàn tất được nhịp sống của sinh lý và tiến tới sự điều tâm. Điều tâm nghĩa là điều hòa và điều khiển sự sinh hoạt của tâm thức mình (TTÂĐ; Tr.242).
      - Hành trình Yoga bao gồm những nấc thang giúp hành giả đạt tới đại định. Như vậy, những phương pháp hay điều lệ Yoga đều nhắm tới sự luyện tâm. Chẳng hạn Yama Yoga bao gồm sự tuân giữ năm giới: cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp, cấm hành lạc và dâm dục, không được tham lam ích kỷ. Niyrma có 5 điều luật: trong sạch, an phận, khổ hạnh, tu học và tập luyện, tôn kính Thượng Đế Icvara của phái Yoga. Ý nghĩa chính của những điều luật Niyama là sự luôn luôn khước từ những dục vọng tầm thường. Đối với những người tu Yoga, sự khước từ có một ý nghĩa tích cực vì khi can đảm khước từ một ý muốn nào như một chức vị, một chén rượu ngon, mỗi khước từ đều trau giồi cho tâm thức lớn mạnh và tự do hơn trước (TTÂĐ; Tr.245-246).
      - Theo lý thuyết thực nghiệm Yoga, vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế và trong một thời gian bao lâu không phải là vấn đề quan trọng. Sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư thế đó một cách đúng phép làm thúc động những mãnh lực tiềm tàng trong người chúng ta mới là chủ đích. Những mãnh lực đó là những bí mật của thiên nhiên; nó chỉ hoàn toàn phát triển khi nào có kèm theo những phép luyện hơi thở vì hơi thở có những quyền năng rất nhiệm mầu. Sự khích động những mãnh lực tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga (ĐPHB; Tr.70). Nơi các sách vở viết về thực hành Yoga thường nhắc tới thế ngồi Liên Hoa. Thế "liên hoa tọa bộ" giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó hành giả khỏi bị té ngã nếu y thình lình xuất thần trong cơn nhập định. Thế ngồi này thường được dùng để luyện tập điều hành hơi thở, dễ tập trung tư tưởng và tự tin. Những người thực hành Yoga quan niệm rằng sự phối hợp của thế ngồi và lòng tự tin làm thức động luồng hỏa hầu tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho hành giả khai mở một vài luân xa và có được một số khả năng trỗi vượt thường được gọi là quyền năng (ĐPHB; Tr.75).
      - Các đạo sĩ Yoga giải thích rằng cơ thể con người có bẩy trung tâm lực được gọi là luân xa mà chỉ những người đã dầy công tu luyện mới có thể nhìn thấy. Luân xa là đầu mối và qua đó tinh lực vũ trụ đổ dồn vào tiểu vũ trụ tức con người. Nơi cơ thể người thường, những luân xa bị bế tắc, chưa được khai thông nên không thể sử dụng được những nguồn tinh lực này. Luân xa thứ nhất được gọi là Mulâdhâra, nằm ở đầu chót xương sống. Luân xa thứ nhì mang tên Svadischtana nơi cuối bụng dưới, cách rốn một lóng tay, thường được gọi là đơn điền. Luân xa thứ ba ở lưng, ngang rốn, hình hoa sen mười cánh gọi là Manipura. Luân xa thứ tư nằm ở trái tim, Anahata. Luân xa thứ năm, Vischuda, tiểu não, phía sau yết hầu. Luân xa thứ sáu tức Ajna ở khoảng giữa hai lông mày. Luân xa thứ bảy gọi là Sahasrana ngay nơi chóp đỉnh đầu, cũng được gọi là huyệt bách hội. (TTÂĐ; Tr.253-254). Theo Lama Anagarika Govinda, trung khu thấp nhất ở cuối xương sống, tương ứng với màng lưới thần kinh linh thiêng được gọi là Mulâdhâra; nó chứa sinh lực gốc, dùng để hoặc là sinh sản hay đổi mới các tiềm lực, hoặc là thăng hoa chúng thành năng lực tinh thần. Năng lực tiềm tàng của trung khu này được mô tả như là luồng hỏa xà (Kundalini); với tính cách là nguyên ý sáng tạo ra vũ trụ, nó đại diện cho quyền lực thiên nhiên, mang sức mạnh không gì kháng cự nổi; nó tác động như thiên thần, hoặc như ác quỷ; nó giúp cho triết nhân chiếm hữu nó đạt được sức mạnh tinh thần siêu việt; còn người điên kích động nó thì bị nó phá hoại (MGTT; Tr.187).
      - Thưa bác, cháu hơi tò mò, vậy trong cuộc đời bác đã gặp vị nào chứng đắc được quyền năng nào do luyện tập Yoga chưa?
      - Anh em nên hiểu thêm, những bậc đại giáo chủ như đức Giêsu, đức Krishna, đức Thích Ca, xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định với một sứ mạng to tát vĩ đại rồi tịch diệt sau khi mục đích của các ngài đã được hoàn thành (XPHB; Tr.61). Riêng những vị tôn sư, chân sư, được gọi là những đấng lâm phàm ẩn dấu cuộc đời của họ trước mắt những kẻ tò mò hoặc thế nhân phàm tục. Những vị thực sự tu hành vì đã biết hậu quả khốc hại cũng như bản tính mê đắm của con người với quyền năng nên họ chẳng bao giờ có ý đồ muốn đạt được quyền năng mặc dầu khi tu luyện đến một trình độ nào đó quyền năng chỉ là kết quả của sự tu luyện, nhưng họ bị cấm bởi những lời thề nguyền trước khi nhập môn tu chứng. Như thế, có thể nói trong cuộc đời, chúng ta đã gặp và chúng ta chưa gặp những vị chân sư đạt đạo. Nếu có thể được, anh em chịu khó kiếm và đọc hai cuốn sách Tây Tạng Huyền Bí và Xứ Phật Huyền Bí, may ra hữu ích cho việc chứng nghiệm. Một cuốn viết do Lạt Ma Lobsang Rampa và cuốn kia do một tu sĩ Yoga Ấn Độ. Nhân tiện tôi kể lại cho anh em một đoạn trong câu chuyện gặp gỡ của tu sĩ Ấn Yoganada và nữ thánh Công giáo Therese Newman người Đức:
      - Cô không bao giờ ăn uống gì chứ? Tôi hỏi để được nghe lời xác nhận từ miệng cô thốt ra.
      - Không, trừ ra một miếng bánh thánh lúc sáu giờ sáng mỗi ngày.
      - Miếng bánh thánh ấy độ bao lớn?
      - Nó mỏng như giấy và nhỏ chừng bằng một đồng xu. Tôi ăn nó vì lý do tâm linh. Nếu nó không được làm phép bí tích, tôi không thể nào nuốt trôi qua cổ họng!
      - Tất nhiên cô không thể sống bằng bấy nhiêu đó suốt mười hai năm trường?
      - Tôi sống trong ánh sáng của Chúa.
      - Tôi nghĩ chắc cô cũng biết rằng cơ thể cô hấp thụ khí lực của trời đất trong không khí và ánh sáng thiên nhiên.
      Một nụ cười hiện trên gương mặt, cô đáp:
      - Tôi rất sung sướng mà thấy bà hiểu tôi sống bằng cách nào.
      - Đời sống thánh thiện của cô đã chứng minh cho lời dạy của Đức Kitô: "Con người không phải chỉ sống bằng cơm gạo mà thôi, mà còn bằng lời nói của Chúa Trời" (XPHB; Tr.116).
      Tôi liền dừng chân trên ngưỡng cửa, kinh ngạc mà nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ dị và rùng rợn. Một giòng máu rỉ xuống liên tục từ hai mí mắt dưới của Therese, mắt cô nhìn lên tập trung vào bí huyệt ở giữa trán. Cái khăn quấn trên đầu cô đẫm máu ướt sũng chảy ra từ những vết thương do cái mão gai nhọn đặt lên đầu Chúa Kitô khi xưa. Cái áo dài trắng bị đẫm máu ở trên chỗ quả tim do vết thương đâm bên hông khi đức Kitô bị ngọn giáo của người lính đao phủ hành quyết. Vì đã điều chỉnh tần số nhịp điệu rung động của tôi để có sự giao cảm tâm linh truyền thanh và truyền hình với nữ thánh nên tôi bắt đầu nhìn thấy những cảnh tượng diễn ra trong cơn linh ảnh của cô. Cô đang chiêm ngưỡng đức Giêsu khi Ngài mang trên vai cây Thập Tự Giá bằng gỗ đi giữa đám đông la hét, nguyền rủa và phỉ báng Ngài (XPHB; Tr.119-120). Tu sĩ Yogananda có thêm thắt chi nơi câu truyện hay không tôi chẳng biết. Tôi chỉ kể lại để anh em cảm nghiệm được điều gì thì tự biết lấy. Có điều tôi muốn hỏi, qua câu truyện này, anh em có nhận thức thêm được điểm gì đặc biệt không?
      - Thưa bác, Tùy con đắn đo, nếu đó là chuyện thật thì thánh nữ Newman đã đạt tới đại định như người tu luyện Yoga. Và như vậy, cháu thấy hơi khó nghĩ.
      - Cảm ơn anh Tùy. Ai có thêm ý kiến gì nữa không?
      - Theo ý cháu thì, Hinh lên tiếng, sự việc này nói lên phần nào chiều sâu của các tôn giáo. Cháu theo đạo Công giáo nhưng chưa bao giờ được nghe cha nào hoặc sơ nào nói về phương cách để gặp gỡ Chúa diện đối diện như trong trường hợp thánh nữ Newman. Mà có chăng đều cho là phép lạ hoặc ân sủng đặc biệt, Chúa ban cho ai thì người nấy được. Như vậy, cháu muốn nói, e rằng các cha, các sơ cũng chẳng biết gì về hành trình tâm linh để đạt tới trạng thái thấy được linh ảnh. Nhưng, chẳng lẽ các ngài không được học về tu chứng. Thực ra, cháu hỏi để mà hỏi thôi; các ngài học những gì thì các ngài biết, nhưng cháu chưa bao giờ được nghe đến. Kể cũng hơi lạ!
      - Anh Sỹ. Cụ Tài gọi đích danh.
      - Bài học này đắt giá quá thưa bác. Bác hỏi con để chừa tội nói tào lao phải không thưa bác. Tuy nhiên, con cũng có đồng ý nghĩ với anh Hinh mặc dầu không thâm thúy bằng. Thực ra, từ tối tuần trước tới giờ, con suy nghĩ rất nhiều về phương diện tôn giáo, vì bác đặt vấn đề nhận biết chính mình. Con thấy hình như xưa nay mình theo đạo vì mối lo sợ nào đó. Nói cho đúng, đi nhà thờ theo thói quen, và khi đã quen rồi, không đi sẽ mang mặc cảm tội lỗi vì không giữ luật buộc. Nhất là khi bác nói tới sự tuân theo lề luật không thể giúp chúng ta trở nên thiện hảo. Ngược lại, nói theo nhà Phật, còn muốn trở nên thiện hảo thì cũng chỉ là vọng tưởng. Thế rồi cháu nghĩ tới nếu nói rằng tất cả những sinh hoạt, tâm tưởng đều là kết quả của thói quen cuộc sống thì cứ kệ nó bởi mình có bộ lòng ruột, ăn thì cứ ăn nhưng tâm tình ăn chơi phải như thế nào. Cháu chỉ nói theo lời sư Thích Minh Thiền thôi. Bởi vậy, cháu cảm thấy mình chơi vơi thế nào ấy. Nếu nói theo nhà Phật thì cháu đâu phải tuân theo lề luật nào đâu, mà không làm theo thói quen lại bị phiền lòng chẳng những cho mình mà còn dây dưa liên hệ đến phản ứng của những người quen biết chung quanh. Ối chà chà, cái ông Phật nơi cháu còn lắm chuyện rắc rối không sao kể xiết.
      - Anh Bá nghĩ thế nào?
      - Thưa bác, đối với cháu, thấy thì cứ thấy, nhìn thì cứ nhìn, nghe thì cứ nghe nhưng chẳng thấy chẳng nhìn chẳng nghe gì. Nào có chi đâu mà nói.
      - Anh nói nghe cũng có lý. Thế còn anh em nào có thêm ý kiến không?
      - Thưa cụ, ông Thung lên tiếng, nói cho đúng, mang danh Phật tử mà chỉ là hùa theo và hình như có được hai lần nghe giảng kinh chứ chùa chiền cũng rất ít khi có mặt; nói thật xin cụ và anh em đừng cười, tôi thấy thích suy nghiệm về Phật học vì lần trước cũng như lần này tôi học được khá nhiều nhưng cần phải có thời gian nghiệm chứng. Khi cụ hỏi lý do gì nhà sư Hương Nham thức ngộ khiến tôi nhột nhạt vì nghĩ mãi cũng chẳng ra. Đọc nơi cuốn sách nào đó dùng thí dụ lên đò, xuống đò để giải thích câu "người trước hết trở nên sau hết và người sau hết trở nên trước hết" vẫn không làm tôi thỏa mãn. Hình như có đám mây mù nào đó cứ triền miên bao phủ khiến tâm trí càng nghe, càng cố gắng nhận biết thì lại càng cảm thấy tối tăm mù mịt. Đôi khi tôi suy luận, đi chùa cầu phước điền mà còn cầu thì còn vọng tưởng; lạy Phật có mở mang tâm trí chút nào đâu mà như cụ giảng giải thì vấn đề là sự thức ngộ. Nếu chỉ nghe anh Hưng nói thì lại càng mù tịt. Thật ra, tôi cũng chưa biết xoay xở cách nào, dẫu cũng đã có tí tuổi.
      - Đã mấy lần tôi nói nhưng anh em không để ý. Bất cứ nền đạo học nào, trãi qua thời gian nghiệm chứng lâu dài cũng đều phát sinh thành các tông phái. Mỗi tông phái lại bao gồm thành phần công truyền và mật truyền. Phần công truyền bao gồm những giáo lý dạy cho đại chúng và nhấn mạnh nơi sự thờ phượng. Anh em có thể nhận thấy, khi một đám người cùng suy nghĩ về một điều gì thì sức mạnh của tư tưởng này sẽ được gia tăng lên gấp bội ;bởi sự rung động của tư tưởng đó đã được khuếch đại lên nhiều lần. Điều đó giải thích tại sao trong đám đông, nhiều người thường dễ mất tự chủ và hành động theo sự xui khiến của đám đông ấy (BRTS; Tr.36). Tâm tình cầu nguyện trong sự thờ phượng cũng thế. Khi nguyện cầu, thâm tâm con người không hề bị bất an, đầu óc họ không bị các vọng tưởng chi phối mà nhiệt thành, sùng kính; phỏng nghiệm chứng nào hơn được trạng thái ấy. Cầu nguyện đúng nghĩa là nâng tâm thức mình hòa nhập với quyền lực tối thượng. Dẫu không biết thiền hoặc tu chứng hay suy gẫm sâu xa, nhưng con đường của họ là đức tin và đó là động năng mạnh nhất. Anh em đừng tưởng công phu tu tập hàng trăm kiếp của bất cứ ai đã hơn được đức tin của những người mộ đạo chân thành. Có thể họ vô tư không biết ý định hoặc ước muốn của những người hướng dẫn họ đã âm mưu gì, nhưng điều đó đâu ăn nhập gì đến lòng thành kính và đức tin của họ. Anh em nên biết, sự tin tưởng mãnh liệt vẫn là một động năng rất mạnh để giúp chúng ta đến gần Thượng Đế. Dĩ nhiên, khi mong cầu có được một điều gì thì sẽ không thể đạt được gì hết vì chính sự mong muốn đó đã khuấy động lòng ước ao phá tan lòng sùng kính của người cầu nguyện. Thế nên, giữ tâm yên lặng bởi nguyên tắc của lòng sùng kính tức là không ước muốn hay mong cầu mà cứ để tự nhiên vì lúc nào Thượng Đế cũng đang hiện diện và hoạt động. Đây chính là cao điểm của những tôn giáo được thiết lập nơi lòng sùng kính, tôn thờ.
      - Công giáo cũng như Ấn giáo hoặc Phật giáo, đại khái mọi tôn giáo, vì mang tính chất công truyền nên được đặt cơ sở trên lòng sùng kính của tín hữu. Đồng thời tùy thuộc mục đích hiển giáo nơi đại chúng. Những người rao giảng được huấn luyện dựa theo những nghi thức, giới luật đã được ghi chép rõ ràng trong các bộ luật và luận nên bất cứ ai đã đạt đến một trình độ học thức kinh điển và thời gian tu hành nào đó đều được công nhận vào hàng ngũ triển giáo. Xét như vậy, sự khác biệt chỉ xảy ra giữa các nghi thức tôn giáo dựa trên lòng sùng tín và quan điểm thờ phượng cũng như cơ cấu tổ chức của tôn giáo. Tuy nhiên, về phương diện thức ngộ hoặc những ai theo đường tu chứng hay mật truyền, bởi chân lý chỉ có một, đó là đạt tới sự hiệp nhất nơi quyền lực hiện hữu tối thượng, nên bất cứ đường hướng, quan niệm nào, và dẫu được giải thích khác biệt ra sao thì các hành giả đều gặp nhau nơi bình diện tâm linh nào đó. Nhận thức như thế, thiền sư Yogananda nhìn thấy linh ảnh đức Giêsu trên đường thập giá trong khi thánh nữ Therese Newman đang trực diện không có gì đáng nói lạ lùng mà sự lạ lùng ở ngay nơi anh em vì chúng ta cho đó là sự lạ lùng mà thôi.
      - Sự nhận định của anh Tùy, anh Hinh, và anh Sỹ, chứng tỏ phần nào tính chất ỷ lại nơi chính mình. Tại sao chúng ta không đặt vấn đề mình phải ra sao, đạt tới đâu, phải thực hiện hoặc nghiệm chứng như thế nào mà đòi hỏi người khác, bất cứ họ ở vị thế nào, phải đạt tới điều mình mong muốn. Chúng ta xưa nay vẫn quen thói hay đâu chầu đấy chẳng khác gì muôn người, do bản tánh hiếu kỳ, ồn ào, náo động khi nghe tin Phật bà hiện ra nơi này, Quan Âm nơi kia, Đức Mẹ, Đức Chúa tỏ mình với người này, truyền thông điệp cho người khác. Chẳng những thế, lại còn tốn tiền nay hành hương thánh địa này, mai viếng mộ bia đấng thánh kia; rồi nào nước suối thiêng, nước phép lạ, chỉ thấy ai đó được chữa lành những bệnh tật còn mình thì cứ đành cam phận, mất tiền mất giờ lăng xăng mà tật vẫn còn mang; biết đủ mọi truyện trên trời dưới đất mà thực ra chính mình thế nào thì lại không biết. Anh em nên nhận biết rõ ràng, Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo còn sống nơi thế tục. Sống nơi thế gian, người tầm đạo làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của một người sẽ giúp cho muôn vàn người khác hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi sự nhận biết thâm sâu và dứt bỏ ham muốn thế tục từ bên trong chứ không phải chỉ bên ngoài. Như thế, dù theo đường hướng tôn thờ hoặc tu chứng, nghiệm chứng, hay mật tông, và dù có gặp được chân sư chỉ dẫn hay không, sự giác ngộ phải đến sẽ đến tùy lòng khát khao nơi mình. Vị thày đích thực hiện diện ngay chính lòng mình nhưng nào mấy ai để ý; kinh Bhagavad Gìtà ghi rõ, "Khi tâm trí đã nhập vào Đại Ngã, ta không còn gì để tư duy nữa. Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người; nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta. Ai ý thức được vui buồn, đau khổ của người khác cũng là vui buồn đau khổ của mình, người ấy là một bậc đạo sư Yoga toàn thiện" (CTC. Tr.64,65). Mấy anh em Thiên Chúa giáo nên suy gẫm kỹ câu Phúc Âm, "Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gn. 6:45), và, "Kẻ tin vào Ta thì các việc ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gn. 14:12). Nhà Phật nói, "Kiến tính thành Phật" chính là ở điểm này. Lời cụ Tài trầm trầm, nhẹ nhàng như mật truyền những giáo điều cho nhóm nhậu.
       
      Ai nấy đều cảm thấy ngỡ ngàng vì mấy lời trích từ kinh điển thoát ra nơi miệng cụ già. Những vốn liếng học thức bay bổng đâu mất tạo thành khoảng trống nội tâm giúp họ cảm nhận sự thật chẳng ngờ được ghi chép rõ ràng nơi kinh sách mà nào ai để ý. Những trường lớp chỉ dạy họ kiến thức hữu vi biến con người thành công cụ kiếm tiền phụng dưỡng tham vọng, ham hố, bon chen, lâu dần thành quen khiến con người cao cả trở thành nô lệ vật chất. Kiến tính thành Phật! Câu nói quá ngắn gọn nhưng bao hàm cả một sự thức ngộ lớn lao. Bầu không khí giữa nhóm nhậu chợt bao phủ màn thinh lặng khác thường. Đây đó vang vọng từ những cánh cửa phòng đóng kín tiếng video games, những giòng nhạc trẻ nơi chương trình MTV, pha lẫn giọng phim ảnh truyện Tàu. Dòng đời bao giờ chẳng thế, những sinh hoạt thế tục ồn ào náo nhiệt đã che mờ ý thức tâm linh, khó ai có được cơ hội tìm lại thực thể chính mình. Một lúc sau, chợt Bá lên tiếng,
      - Bác có thể nghĩ rằng mọi quyền lực đã có sẵn nơi con người nhưng chưa được nhận biết?
      - Nào có gì mới lạ đâu nhưng đã bao ngàn năm rồi con người vẫn thế! Lạt Ma Lobsang Rampa đã chứng minh rằng ông đã được huấn luyện để có thể xuất hồn đi ngao du nơi các cảnh giới vô hình thì mọi người cũng có thể xuất hồn mà nào ai nghĩ như thế! (TTHB; Tr.171-172).
      - Nhưng thưa bác, theo như cuốn Tây Tạng Huyền Bí do ông viết, Lạt Ma Lobsang Rampa là hóa thân của một vị nào đó, nên khi sinh ra đã có đủ năng lực để phát triển những quyền lực thần thông.
      - Nói như vậy có nghĩa anh tin có luân hồi?
      - Thưa bác, theo sự nhận xét của cháu vấn đề không phải là tin hay không vì dẫu nói rằng tin hay không tin, sự thực vẫn là sự thực. Sự thực không cần ai chứng minh, cũng chẳng cần ai bào chữa hay quảng bá. Điều này cũng giống như nếu chúng ta nhắm mắt lại nói rằng không có mặt trời thì mặt trời vẫn soi sáng.
      - Anh muốn nói còn nhiều sự thực mà chúng ta không biết hoặc không có cơ hội được biết hay đã không chịu tìm hiểu để biết.
      - Vâng, cháu cảm thấy như vậy.
      - Đã có anh em nào đọc cuốn Transformed by the Light chưa? Cuốn này được viết do bác sĩ giải phẫu Melvin Morse. Ông nghiên cứu hiện tượng biến đổi tâm não xảy đến nơi những người bị kích ngất và được cứu sống lại. Nơi một đoạn sách ông viết: Nên nhớ rằng, thân xác con người giống như bộ máy được điều hành bởi năng lượng; khi năng lượng thay đổi thì con người thay đổi. Người ta thực nghiệm về sự làm cho trái tim đập chậm đi hoặc áp xuất máu giảm sẽ phát sinh hiện tượng năng lượng tối thiểu nơi tâm não gây kích thích ảnh hưởng tới thân xác con người (TL. Tr.163). Điều này phù hợp với quan niệm của lý thuyết thực hành Yoga nơi Ấn học. Theo nhận định về thể lý của lý thuyết Yoga, luật tự nhiên đã định cho con người thở với một số nhịp độ là hai mươi mốt ngàn sáu trăm lần trong một ngày và đêm (ĐPHB; Tr.79). Như vậy, nếu người nào thở mau, nhịp tim đập nhanh hơn sẽ mau chết, người nào thở chậm hơn sẽ kéo dài thời gian sống hơn vì số hơi thở tiết kiệm được sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ để giúp con người kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Lý luận này được dựa trên sự nhận xét về loài rùa, thở chậm nên sống lâu. Quan niệm thực hành Yoga còn đưa ra khá nhiều lý thuyết giải thích sự lợi ích của điều hành nhịp thở. Mặc dầu những lý thuyết này coi bộ hữu lý nhưng nếu đem so sánh với sự thực nghiệm theo phương pháp khoa học thì sự thực hành Yoga đúng mà lý thuyết lại chỉ là những lý luận suy luận. Áp dụng theo khoa học thực nghiệm do bác sĩ Melvin Morse, khi năng lượng oxy tối thiểu được cung cấp cho bộ não, khu vực tâm não nằm trong óc phía bên trên tai phải sẽ phát sinh phản ứng kích thích. Hiện tượng này thường xảy ra ngay lúc bắt đầu chết của một người. Nếu anh em để ý nghe quý cụ già nói về sự tỉnh táo trước khi chết giống như ngọn lửa của chiếc đèn dầu bùng lên trước khi tắt. Người nào chết thì đó là lúc hồn rời khỏi xác. Bởi thế nói theo khoa học nơi hành trình Yoga, hành giả điều chỉnh sự hô hấp chậm lại để kích thích trạng thái xuất hồn phát sinh.
      - Qua sự nghiên cứu, Bác sĩ Melvin Morse cho biết, những người trải qua cơ hội xuất hồn đã nhận được bản thể thực sự của con người không phải chỉ là xác thân, mà xác thân chính là cơ hội hay phương tiện để hồn, thực thể, hoàn thành nhiệm vụ nơi cuộc đời. Theo sự kể lại của một số người được chọn làm đối tượng nghiên cứu, vì đã trải qua kinh nghiệm thoát hồn, họ đều gặp một thực thể khác như một loại ánh sáng chỉ có thể nhận biết bằng con mắt thứ ba, thường được gọi là huệ nhãn, thực thể linh hồn đối thoại bằng cảm nhận từ thực thể ánh sáng này. Và những người sau khi trải qua trạng thái xuất hồn đã gặp được ánh sáng nguồn sống họ đều không sợ chết, vì đối với họ, chết chỉ là bước qua cuộc sống tốt đẹp hơn. Đàng khác, tinh thần và nhãn quan về cuộc đời của họ đều thay đổi. Có những người phát triển thêm những khả năng tâm linh đặc biệt như chữa lành, nhìn thấy trước những sự kiện sắp xảy ra, và cuộc sống của họ nơi trần thế trở nên rất hoạt động vì, theo như lời họ kể, cuộc đời quá ngắn ngủi trong khi bổn phận làm tươi đẹp cuộc đời nơi mỗi người lại quá lớn lao. Ngược lại họ không chạy theo hơn thua vật chất mà an nhiên với mọi hoàn cảnh xảy đến nơi cuộc sống.
      - Điểm tôi muốn nhấn mạnh đó là những lời phát biểu của các vị Yogi và các đạo sĩ Mật Tông Tây Tạng về Thượng Đế như là nguồn sáng, hoặc ánh sáng là năng lực cấu tạo vũ trụ hay con người của chúng ta. Ánh sáng hay nguồn sáng tôi muốn nói ở đây không phải là ánh sáng bình thường chúng ta nhận thấy nhưng là thực thể mà những người đã có kinh nghiệm thoát hồn nhắc tới, ánh sáng mà đạo sĩ Yogananda nói với thánh nữ Theresa Newman. Nơi các sách vở tu chứng Ấn học thường nhắc tới trạng thái đạo sĩ trong cơn đại định đã hỗn hợp tâm thức mình với Đấng Tạo Hóa, nhận thức được tinh hoa của vũ trụ vốn là ánh sáng. Điều này chúng ta cũng có thể đọc được nơi Kinh Thánh, "Các con là ánh sáng thế gian" (Mt. 5:14). Đọc nơi Phúc Âm Gioan, chúng ta thấy chính đức Giêsu cũng nói ngài là ánh sáng thế gian (Gn. 8:12; 9:5).
      - Thưa bác, bác muốn nói các vị đạo sĩ dùng thiền định hay phương pháp Yoga để đạt tới nguồn ánh sáng này?
      - Mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói "Kiến Tính thành Phật," hãy cố làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được sự giải đáp cho mọi vấn đề.
      - Thưa bác, vậy sao lại phải thiền, phải định, phải Yoga, phải tu chứng, phải nghiệm chứng, phải muôn thứ, phải ăn năn đánh tội, phải cầu Phật bà Quan Âm, Phật A Di Đà, phải ăn chay, phải niệm chú, phải...
       
      MBVN 09

      - Tôi biết anh muốn nói gì nhưng có lẽ chính anh không biết anh nói gì. Có phải vì anh thấy nhiều cái phải quá mà anh chưa thực hiện được cái phải nào trong khi lòng ham muốn đạt được quyền nọ lực kia nên kêu lên hầu che lấp mặc cảm lười lĩnh của mình không. Tôi nghĩ, anh em hãy thử rồi mới nên đặt vấn đề. Những lý thuyết phải thế nọ, phải thế kia chỉ là lý thuyết giải thích về ly nước uống. Hãy uống nước anh em sẽ cảm thấy và biết phải thế nào. Tôi muốn nói, Yoga, thiền định, hoặc bất cứ gì, những điều các tác giả trước tác gom lại thành những "Cái phải" bao quát nhiều phương pháp nơi hành trình thiền định, chỉ là những kiến thức về lý thuyết vô bổ nếu không đem so sánh với nghiệm chứng của sự thực hành. Tôi muốn nhắc lại, vấn đề chỉ là thực hành nghiệm chứng vì ước muốn suông chỉ ngăn cản hành trình thức ngộ.
      - Thưa bác, thế tại sao Yoga bao gồm nhiều phương pháp thực hành trong khi Phật học chỉ cần định tâm?
      - Sự thực hành các phương pháp Yoga bắt nguồn từ quan niệm chuẩn bị xác thân để đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Có lý thuyết cho rằng xác thân con người cũng giống như bóng đèn 100 watts không thể nào chịu đựng nổi dòng điện cao thế cả triệu watts. Bởi vậy con người cần luyện tập để thăng hoa xác thể và tâm thức hầu đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Từ quan niệm này phát sinh lý thuyết giải thích sự hiện diện quyền năng của Thượng Đế nơi mỗi người tùy thuộc sức chịu đựng của người đó. Qua sách vở được viết về những năng lực đạt được của các vị chân sư nơi Ấn học, chúng ta thường thấy nói về những quyền năng khác thường mà các vị ấy đạt được do dày công tu luyện. Nếu anh em nào đã đọc về phương pháp tập luyện võ công của phái Võ Đang sẽ hiểu rõ hơn về kết quả của những người chuyên nhất luyện tập một khả năng nào đó. Chẳng hạn sự tập luyện thường xuyên đấm từ miệng giếng hướng xuống mặt nước hoặc đưa ngón tay trỏ chỉ nơi ngọn đèn đang cháy, sau mười hoặc hai mươi năm sẽ đạt kết quả nơi những mức độ nào. Qua nhận định giải thích về sự luyện tập như thế, tôi nghĩ rằng, các phương pháp Yoga cũng giống như các phái võ thuật, chính sự luyện tập phát triển nơi con người những khả năng mà chúng ta vì đã không hoặc chưa bao giờ có ý định muốn thử, thế nên cho đó là quyền năng khác thường. Đồng ý rằng có những người có được những khả năng khác thường tự bẩm sinh mà chúng ta gọi là thần đồng. Điều này minh chứng mỗi người được sinh ra dưới sự ảnh hưởng bởi một quá khứ nào đó và nơi quan niệm Ấn học được gọi là Luân Hồi. Như vậy, sự thực hành Yoga hay được nhắc nhở tới và đề cao có lẽ cũng bởi lòng ham muốn phát triển hoặc đạt tới những khả năng tạm gọi là thần thông nào đó nơi con người. Tuy nhiên, nếu anh em nào chịu khó tìm hiểu qua sách vở đạo học trước khi quyết định thực tập những phương pháp Yoga hoặc bất cứ phương pháp nào phát triển năng lực nội tại, xin làm ơn để ý điểm tối ư quan trọng mà tôi tạm gọi là điều luật tâm linh, và đó là, bất cứ năng lực hay quyền lực nào dù bẩm sinh hay đạt thành nơi một người đều không thuộc quyền sử dụng theo ý muốn bình thường của người ấy vì mỗi khi sử dụng năng lực này tất nhiên đã lạm dụng quyền năng tối thượng của Thượng Đế. Ai cố ý lạm dụng sẽ phải trả giá một cách mắc mỏ gấp trăm lần sự thỏa mãn nơi ý định hay ý muốn của người ấy. Trường họp này, người Mỹ có câu, “You use it; you abuse it.”
       
      - Thưa bác, quyền lực nơi mình sao lại phải trả giá?
      - Vào khoảng giữa năm 1970, tôi được biệt phái về Phú Quốc dưới danh hiệu kiểm tra dân số và tình hình thuế khóa nhưng với mục đích theo dõi hoạt động tuyên vận cũng như hệ thống liên lạc của đối phương. Dĩ nhiên với nhiệm vụ này, các cơ quan quân sự cũng như dân sự đã được thông báo mật có bổn phận phải giúp tôi mọi sự dễ dãi cũng như cung cấp mọi phương tiện khi tôi nhờ vả mà không cần truy xét lý do. Đại khái, khi tôi yêu cầu, bất cứ điều gì nơi bất cứ văn phòng hành chánh dân sự hoặc các bộ phận quân sự thuộc đặc khu vùng bốn và những bộ chỉ huy các quân đoàn đang tạm trú đều phải thực hiện những gì tôi yêu cầu trước khi báo cáo cấp trên. Dầu tôi vẫn mang lon đại úy bộ binh để che giấu nhiệm vụ tình báo, tôi không lệ thuộc giờ giấc làm việc của bất cứ cơ quan dân quân sự nào; do đó tôi thường hay la cà nơi những cơ quan thuế vụ tưởng chừng xem xét sổ sách hoặc nơi các văn phòng hộ tịch xã để kiểm tra hệ thống làm việc của các ban ngành. Hôm ấy, ông Thịnh, một chủ tiệm bán cá khô và nước mắm đến nộp thuế. Tướng mạo của ông ta coi bộ rất tầm thường, thái độ nhã nhặn mang phần nào khép kín, tỏ lộ sự chịu đựng khó diễn tả, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy có thịnh tình đặc biệt với người dân buôn này. Tôi định ý chờ sẵn để làm quen với ông ta sau khi đóng thuế và được ông ta mời về nhà dùng cơm trưa. Thế rồi từ sự quen biết đó tôi có cơ hội giúp ông ta một số công chuyện. Anh em cũng nên biết rõ, tại Phú Quốc có cả một tư lịnh hải quân, một hải đội duyên phòng, duyên đoàn hải thuyền 42, căn cứ tiếp liệu hải quân, rồi đặc khu Phú Quốc bao gồm hai tiểu đoàn địa phương quân, bẩy tiểu đoàn quân cảnh, thêm vào đó một đại đội công binh, đại đội tiếp vận ba trực thuộc Sài Gòn đặc biệt cung ứng cho trại giam với trên dưới hai mươi ngàn tù nhân chính trị cũng như những thành phần bất hảo mang đầy thành tích phá rối trị an được gửi tới từ các thành phố trên toàn quốc. Và như vậy, lực lượng cảnh sát, và nhân viên chìm, nổi tổng số cũng không thua gì số người nơi trại tù, ấy là chưa nói tới quận, xã, nhân dân tự vệ, và các thành phần binh sĩ. Tất nhiên, ở chốn sĩ quan đông hơn binh lính thì lon đại úy trên vai tôi nào có nghĩa gì. Dầu cấp chỉ huy mang lon từ đại úy trở lên chẳng là bao nhưng ở đời, nào ai lạ chi thứ nhất cận lân, thứ nhì thân cận; có những người dân thường nhưng gốc gác họ có bà con quen biết với tướng vùng hoặc tỉnh nọ, tá kia do đó lon đại úy bộ binh của tôi đã trở thành tâm điểm cho một số người để ý tới, mượn cơ hội dùng tôi làm nấc thang may ra bước lên đài danh vọng trong một vài lãnh vực nào đó. Cỡ hơn sáu tháng quen biết và một đôi lần chứng kiến cảnh trớ trêu, anh thư ký xã chẳng hiểu có gốc gác thế nào cứ nhè tôi kiếm cách làm khó dễ, đôi khi gây nên những sự phiền hà dẫu chẳng đáng nhưng khiến người hiểu chuyện bực bội tâm tưởng; bởi từ ngày tôi giúp ông Thịnh trong việc khai báo sản phẩm buôn bán hầu được giảm phần thuế má, anh thư ký xã thấy tôi chỉ là một đại úy bộ binh tứ cố vô thân mà gốc gác lại xa xôi trong khi mang nhiệm vụ được khai báo quá ư khiêm nhượng. Sáng hôm ấy, ông Thịnh mời tôi tới dùng điểm tâm, và lẽ đương nhiên máu me cũng như anh em bây giờ, dù điểm tâm vẫn không thể thiếu món nước mắt quê hương. Khi ăn uống gần xong, ông Thịnh tỏ nỗi lòng bất mãn về những lúc thấy tôi bị mấy sĩ quan hải quân lon thấp hơn và nhất là anh thư ký xã đã có những thái độ bất nhã đối với tôi. Ông đứng lên, tiến đến khang thờ, lật tấm vải điều để lộ một con dao găm cắp ngập tận chuôi ngay trước mảnh án đỏ ngoằn ngoèo những chữ Phạn, đoạn nói,
      - Đã sáu tháng qua từ ngày quen biết dầu không thân thiết hoặc có liên hệ anh em họ hàng, đại úy đã giúp tôi những việc mà tôi nghĩ cả đời mình cũng không bao giờ thực hiện nổi. Chẳng hạn như chuyện thuế má, đã bao năm rồi tôi làm ăn không khấm khá được cũng vì không biết nên phải trả thuế quá nặng. Rồi những cảnh chèn ép giá cả của kẻ giầu có khiến khi mua phải trả giá cao, lúc bán lợi lộc không được bao nhiêu. Đến ngay như cửa tiệm này cũng được đại úy giải quyết đất đai, đường xá ra vô mà đã bao lâu nay tôi vẫn phải nín nhịn, đành ngậm tăm mỗi lần bị lôi vào cảnh xô xát để tránh điều đôi chối làm phiền tâm tưởng. Nhưng đã đến lúc tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi mấy cảnh trái tai gai mắt đã xảy đến với đại úy từ ít tháng qua mà tôi biết rõ nguyên nhân phát sinh từ tên thư ký xã. Hắn không những lộ diện đối đầu làm khó dễ đại úy, lại còn xúi bẩy mấy tên sĩ quan hải quân nghinh ngang lên mặt khinh thị đại úy. Nhất là vụ vừa qua, chính tên thư ký xã đã cầm đầu cho mấy thằng tù vượt ngục ăn nhậu định đón đường hại mạng đại úy. Tôi là kẻ mang ơn đại úy nhưng không biết cách nào trả nên tôi đã quyết định nếu đại úy bằng lòng, tôi sẽ bỏ lời thề trước bàn thờ tổ và rút lưỡi dao găm minh chứng lời thề của tôi để trả ơn đại úy.
      - Ông đã thề gì và tại sao phải rút lưỡi dao găm mới có thể trả ơn được? Tôi hỏi.
      - Tôi chỉ cần niệm một câu thần chú, dùng lưỡi dao găm này đâm xuyên qua hình của thằng thư ký xã là nội trong một tuần lễ nó phải chết bất tử. Ông Thịnh nhấn mạnh từng tiếng nói giải thích. Đại úy có bằng lòng cho tôi rút dao găm không?
      - Ông chưa giải thích cho tôi biết ông đã thề gì, thì sao tôi trả lời được.
      - Tôi đã tự nguyện trước bàn thờ tổ từ 6 năm trước đây, là sẽ không bao giờ sử dụng quyền lực của tôi để trả thù hoặc làm hại bất cứ ai vì bất cứ lý do gì. Vì như đại úy đã biết, vợ chồng tôi chỉ có được mỗi đứa con gái, sáng nay tôi phải sai bà ấy đưa cháu đi chợ để tôi mời đại úy đến bày tỏ tâm tình. Thế mà mười năm trước đây tôi đã dùng quyền lực của mình giết chết tên đầu đảng cướp xông vào mấy nhà hàng xóm đánh người lấy của, và kết quả tôi phải trả đó là vợ tôi bị bại một cánh tay như ông thấy. Năm năm sau, một tên đốn mạt ăn ngủ với vợ người bạn tôi để rồi vu oan giá họa cho tôi, và tôi đã giết hắn bằng quyền lực niệm chú của mình. Kết quả đem lại, đứa con gái độc nhất của tôi bị què giò đi đứng khấp khểnh từ dạo ấy.
      - Bà ấy liệt tay và con gái ông đi đứng khấp khểnh có lẽ do nguyên nhân bất thường nào đó nơi cơ thể sao ông lại cho rằng đó là những kết quả do sử dụng quyền lực niệm chú?
      - Đại úy không biết đó thôi. Khi còn thiếu thời, tôi sang Miên lên núi học bùa gần hai mươi năm. Tôi biết khá nhiều bùa ngải và cũng biết cách sử dụng một số năng lực thần thông nhưng trước khi học tập, sư cụ giảng giải và bắt tôi phải tuyên thệ lời thề vì nếu không thề, không tuân giữ điều luật đã thệ nguyện, sư cụ không cho học mà còn đuổi xuống núi. Sau này trong suốt thời gian học, tôi mới dần dần nhận ra những quyền lực tôi có được không thuộc về tôi mà đó là quyền lực tối thượng điều hành vũ trụ này. Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng để tránh thoát bảo tồn sinh mạng, dù trong hoàn cảnh nào hay vì ý hướng tốt lành đến đâu mà sử dụng quyền lực này tất nhiên là đã lạm dụng nên đều bị trả giá chẳng những ngay nơi kiếp này mà còn bị lệ thuộc nơi kiếp sau. Tôi mang ơn đại úy nơi kiếp này quá nặng nên chỉ còn cách rút lưỡi dao găm phát bỏ lời thề mới có thể đền ơn được.
      - Ông đền ơn tôi phỏng có phải trả giá không?
      - Hai lần trước đã xảy đến với vợ và con tôi thì chắc chắn lần này phải xảy đến với tôi nhưng tôi bất chấp. Giả sử chúng chặn đường đập chết đại úy rồi thì sao tôi còn cơ hội đền ơn đại úy.
      - Ông định dùng sự trả giá phải đến với chính ông để đền ơn tôi ư? Chẳng lẽ ông cho rằng tôi sẽ cảm thấy hài lòng khi sự khốn khổ xảy đến với ông sao? Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ?
      - Nhưng tôi không biết cách nào để đền ơn đại úy cho xứng, mà không trả ơn được đại úy thì tôi là kẻ vô ơn, chết không nhắm mắt.
      - Ông thử nhìn xem tướng của tôi mấy người đó có thể hại được không rồi hãy nói đến chuyện trả ơn.
      - Đại úy nói như thế tôi mới nhớ ra đã có lần nói tướng của đại úy chẳng những được thần thánh phù trợ mà ngay cả ma quỷ, âm binh cũng phải giúp đỡ. Hà hà, vì nóng sốt, bực bội bởi tên thư ký xã toa rập với mấy tay bất hảo làm tôi quên khuấy không để ý, nhưng tôi, tôi...
      - Không nên nói gì, nghĩ gì nữa. Ông muốn trả ơn tôi phải không, đây, muốn trả ơn thì hãy cạn những giọt nước mắt quê hương này, thế là xong nhiệm vụ.
      Ông Thịnh đứng như trời trồng nhìn chăm chăm tôi đang giơ cao ly rượu đế vừa được rót thêm, đôi tay run rẩy vì ngạc nhiên với câu trả lời và thái độ kỳ cục của tôi.
      - Ông còn cố giữ chằng chằng chiếc khăn nơi tay làm chi, sao không trả nó lại nơi án thờ.
      Ông Thịnh nước mắt chảy ròng, quay người bước tới khang thờ, nghiêm trọng phủ chiếc khăn điều lên chuôi dao găm đoạn trở lại bàn ăn ôm lấy tôi như một hành động tỏ lộ tâm hồn cảm mến. Ngưng nói, chiêu ngụm rượu, cụ Tài lên tiếng hỏi, phỏng sự kiện tôi vừa kể đủ giải thích luật tâm linh trói buộc những ai phát triển được những năng lực thần thông nội tại?
      - Thưa bác, vậy những thày phù thủy hay những thày bùa, thày ngãi giải cứu những người bị thư, ám thì sao?
      - Đã anh em nào đọc hoặc nghe nói về Đạo Đức Kinh chưa? Nơi Đạo Đức Kinh có câu nói, “Đi xa là trở về” (ĐĐK1. Tr.141). Ai có thể thử giải thích câu nói này cho mọi người nghe được không?
      - Thưa bác, Bá lên tiếng, Đạo Đức Kinh quả là khó hiểu, hơn nữa cháu lại không biết chút gì về chữ Tàu do đó chỉ đọc bản dịch thành ra không thể nào nghiệm được tính chất thâm thúy của Lão học. Tuy nhiên, khi đọc bản dịch của cụ Nguyễn Duy Cần tới câu, “Tràn khắp là đi xa. Đi xa là trở về” mà bên chữ nho phát âm “Thệ viết viễn. Viễn viết phản,” cháu thấy hình như có sự gì không ổn nhưng suy nghĩ mãi không biết nên hiểu sao cho hợp tình hợp lý để có thể may ra áp dụng được.
      - Trong bản dịch và chú giải, cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản viết, Đạo “đi là xa vì không đâu không tới chỗ cùng cực, lại không ngưng trệ, tùy thuộc vào một thể nào hết thảy, nên mới nói xa là trở lại, là quay về (LTĐĐK. Tr.161).
      - Thưa bác, hiểu như vậy chỉ mới nói lên tính chất trùm khắp, không đâu là không có, và hiện thể khắp nơi của Đạo, của Thượng Đế, Chân Như. Cháu nghĩ hình như câu nói còn ẩn chứa điểm nào đó mà có thể vì tam sao thất bổn nên phát sinh trùng hợp.
      - Anh muốn nói trùng hợp nơi điểm nào?
      - Thưa bác ở chữ “Đi xa.”
      - Tôi có đồng quan điểm với anh. Đã lâu tôi nghiền ngẫm về điểm này nhưng những sách chữ Hán đều dùng hai chữ “viễn” giống nhau, cùng bộ “sước.” Tuy nhiên, nếu nói về thực thể tâm linh tối thượng hiện diện và hoạt động cùng khắp qua nhiều dạng thức, đặc biệt nơi con người, anh em có để ý và thấy nơi kinh sách nào chứa đựng câu nói bao hàm phần nào ý nghĩa tương tự không?
      Ai nấy im lặng vì câu hỏi mang vẻ kỳ cục. Sao có thể đem Chúa, Phật trộn lẫn nhau. Cụ Tài đưa mắt rảo quanh một lượt nơi những gương mặt lộ phần ngơ ngác, đoạn nhẹ nhàng thêm,
      - Chẳng lẽ mấy anh em Công giáo không nhận ra được câu nào nơi Kinh Thánh ư?
      - Thưa bác, nghe các cha giảng mà cháu còn không để ý phương chi đọc Kinh Thánh, Sỹ nhà con thú nhận.
      - Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo đều biết câu Phúc Âm này, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12).
      - Thưa bác, câu này thì dễ quá rồi vì xưa nay chúng cháu vẫn thường thực hiện. Nay anh, mai tôi, chúng ta cùng nâng ly. Chúng cháu áp dụng Phúc Âm chứ không cần đọc, như bác thấy tỏ tường. Sỹ nhà con tơm tớp lên giọng huênh hoang.
      - Thôi đủ rồi ông ơi! Ông thì chỉ biết ngốn thực phẩm, và thực hiện cái củ thìu biu. Ăn nói chi vừa láo, vừa lếu, vừa đểu mà cũng thích nói! Giọng Tình trầm trầm đối nghịch âm vang hứng thú của Sỹ khiến hắn dợm người lên như muốn gây gỗ.
      - Anh em nên để bác giải thích. Ông Thung trấn an.
      - Nhưng,
      - Anh Sỹ làm ơn không nhưng không diễu nữa, hãy để cụ giải nghĩa vì thời giờ đã muộn. Ông Thung cố ý cắt ngang lời Sỹ, đoạn quay qua cụ Tài, xin mời cụ.
      - Nếu xét theo phương diện tâm linh, vì quyền lực tối thượng là chính Thượng Đế, Chân Như hiện hữu nơi mọi sự hiện hữu, và ý nghĩ, ước muốn, ý định của mỗi người đều là những thực thể hiện hữu thế nên chúng tự mang quyền lực của Thượng Đế. Nhận thực như vậy, mọi ý nghĩ, ước muốn đều mang quyền lực tác thành của Thượng Đế. Điều này có nghĩa, khi chúng ta thực sự mong muốn điều gì, tất nhiên sự việc đó phải xảy ra bằng cách này hay bằng cách khác khi hội đủ những điều kiện và tùy thời điểm nào đó. Suy thế, chúng ta thấy câu Phúc Âm “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) đã dùng động từ “làm” khiến chúng ta không để ý nên chỉ có thể nhận định theo nhận thức hữu vi là thực hiện một công việc gì. Thêm vào đó, nếu nhận thức được mọi sự, mọi việc, từ ý nghĩ đến những hành động nơi cuộc sống đều là hoạt động biến chuyển của Thượng Đế, câu Phúc Âm phải được đổi lại, “Vậy các ngươi thực sự ước muốn được điều gì thì hãy ước muốn cho người ta như thế.” Suy rộng hơn, chúng ta có thể nói, bất cứ điều gì mình ước muốn xảy đến với người khác, tất nhiên chuyện đó sẽ xảy đến với mình. Câu Phúc Âm này nói về quyền lực nội tại ngay nơi ý định của một người.
      - Thưa bác, vậy đâu là sự liên hệ với câu nói nơi Lão học. Bá lên tiếng.
      - Anh thử suy nghĩ lại câu nói “Đi xa là trở về” đem áp dụng vào ước muốn thì sẽ thấy.
      - Thưa bác, cháu vẫn còn thấy tăm tối hơn đêm ba mươi.
      - Vậy nếu anh dùng ngôn từ “phát xuất” hay “đi ra” thì thấy thế nào?
      - Ah, bác nói có lý, hèn chi có câu nói, “Không làm điều xấu đã khó; không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn.” Câu này coi bộ thường nhưng mang ý nghĩa thâm trầm chẳng thường chút nào. Thưa bác, nét mặt Bá chợt lộ vẻ hơi lạ, như vậy, câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23) nói về quyền lực của ý muốn nơi con người?
      - Tôi đã nhắc đến câu này khi nói về quyền lực tối thượng hiện diện nơi mỗi người mà nào có ai để ý. Anh nói đúng. Ý định, ước muốn của con người mang quyền lực tối thượng của Thượng Đế. Tuy nhiên, nghĩ đúng, nói đúng cũng vẫn không đem lại ích lợi gì. Vấn đề lại là phương cách nào con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh; sau đó, khi đã đạt tới mức độ thăng tiến nào đó chúng ta sẽ nhận ra những quy luật tâm linh nào cần phải chuyên nhất tuân theo. Hãy để tôi trả lời câu hỏi về những thày bùa, thày ngãi. Về sự sử dụng quyền lực tâm linh, dĩ nhiên thày bùa hay thày ngãi cũng như những vị đã dày công tu luyện có được khả năng ấy đều bị lệ thuộc ý định thực hiện công việc của họ không thể tránh thoát. Nếu anh em nào quen thân với bất cứ ai đã đạt tới trình độ như thế may ra biết được họ phải tuân theo nhiều điều cấm kỵ mà rất ít khi dám tỏ bày cho người khác biết. Anh em nên hiểu, luật lệ tâm linh không giống như pháp luật hay lề luật tôn giáo. Những ai đã bước vào con đường ấy phải tuân theo rất nghiêm nhặt. Nếu chỉ vô tình, hay hứng chí phạm luật, hậu quả sẽ xảy đến nhãn tiền, và chỉ người đó biết. Nhận biết như thế chắc anh em hiểu được lý do tại sao nơi hành trình tập luyện Yoga có những điều luật rèn luyện tâm trí con người.
      - Như vậy cho dù thăng tiến tới mức thượng thừa chăng nữa đều không có quyền sử dụng năng lực nội tại thì đâu ai cần luyện Yoga hay thiền làm chi cho tốn công sức, chỉ hao mòn cuộc sống, chẳng thà không biết để an hưởng tuổi trời, lại khỏi phải tuân theo bất cứ quy luật hay kiêng cữ. Hà, hà, chưa chắc thức ngộ đã hơn không, mà có thể ngược lại, Sỹ chen miệng.
      - Ông ơi, ông quả là minh triết nhưng mở miệng nói ra nghe chướng con ráy chịu hết nổi. Phỏng ông có biết ông nói gì không? Chỉ mới vừa dợm phát biểu đã có thể diễn tả đúng đắn lời Phúc Âm, “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng” (Mt. 13:14-15). Bá cắt ngang lời Sỹ.
      - Vậy nếu tớ không nói thì sao chú mày có thể hiểu được ý nghĩa câu Phúc Âm như thế. Chú mày nên cảm ơn tớ thay vì chua chát buông lời cay nghiệt.
      - Anh Sỹ nhận định cũng phần nào hợp lý, nhưng lý ngang. Tuy nhiên, sự thể này chứng tỏ mọi dữ kiện, sự việc xảy ra trong cuộc đời dù liên hệ đến chúng ta hay không đều là những cơ hội cho sự nhận thức tâm linh. Vấn đề còn lại chỉ là ai có tai để nghe thì nghe, và ai có mắt để nhìn thì nhìn. Không ai có thể nghe hoặc nhìn hay nhận thức dùm cho bất cứ ai. Anh em có lẽ hiểu tôi muốn nói gì.
      - Cháu xin cảm ơn bác, Bá tiếp lời cụ Tài. Hèn chi Phúc Âm cứ nhắc đi nhắc lại câu “Ai có tai thì nghe” (Mc. 4:9).
      - Anh nói đúng, cụ Tài xác nhận, vì đó là câu nói giúp chúng ta nhận định cần phải có điều kiện tâm trí như thế nào để nghiệm chứng Phúc Âm. Bây giờ đã muộn rồi, có lẽ chúng ta nên ăn cơm cho ai nấy về nhà nghỉ ngơi chuẩn bị sức lực cho những công việc ngày mai.
       
      - Khoan, khoan, giọng Tình kéo dài. Thế lần tới sẽ đến phiên ai?
      - Thì còn ai trồng khoai đất này, hí hí. Lo về năn nỉ lão bà cho được việc. Đoạn Sỹ nhà con lên giọng, nếu ai muốn tranh chức chủ xị lần tới xin mời cho ý kiến.
      - Nhà cháu xin được hân hoan gồng mình đón tiếp bác và quý ông nọ bà kia ghé qua thăm tổ uyên ương lần tới. Nhờ quý vị đề nghị nhà cháu nên cúng dường vị phật nào, cờ tây hay cờ ta, xáo ngỗng hoặc tiết canh dê, có thể gỏi cá hay nhúng giấm. Tình chiêu ngụm bia như để lấy sức tính toán.
      - Tui đề nghị nai đồng quê, Phủ nhẹ nhàng lên tiếng. Thấy bên cạnh nhà chú có ổ cờ tây xoai xoai sáu bát trông thật đã mắt. Mới thử tưởng tượng hồi quang phản chiếu để nghiệm chứng lòng ruột của những vị phật đó, chợt đã nghe thèm muốn nuốt trôi cả lưỡi. Xem nào, bộ đồ lòng chấm mắm tôm đánh với chanh, ớt, cắn thêm miếng riềng, chiêu thêm chiếc lá mơ, thế là bứt hăm bốn chai Heineken hoặc một thánh bò đi ông. Nhất là phần dồi sau khi luộc, cuốn lên khúc cây đem quệt bơ nướng dòn thêm phần hương lửa, thơm ơi là thơm.
      - Hà hà, Sỹ nhà con đế vô, “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó; chết xuống âm phủ biết có hay không.” Đoạn tợp một hơi bia, hắn tiếp, chôm lấy một con, mang sang nhà tớ, bảo đảm kín đáo. Tớ mới mua được cái "torch gaz" thui nhanh phải biết. Chỉ cần năm phút, đoạn lấy lá sả kỳ cọ, em sẽ thơm lừng như hương tóc nàng gội đầu bồ kết.
      - Vậy cái dịch vụ nai tơ của nhà ông dạo này ra sao mà thấy im hơi lặng tiếng cả năm rồi, Phủ hỏi Sỹ.
      - Dạ thưa bởi cái lũ phù thủy mắt xanh này chẳng biết nghe đâu đó nên đặt vấn đề nhà con thương yêu súc vật quá thì sao chịu đựng nổi nên nghi ngờ. Hàng tuần, nhà cháu vô "shelter" nhận nuôi một hoặc hai chú cờ tây. Cũng được đâu đó gần một năm đến độ nhân viên bảo vệ súc vật quen mặt luôn. Lần cuối cùng, gặp ngay một tên phù thủy mắt xanh cựu chiến binh tại Việt Nam, hắn ta biết tiếng Việt nên bập bẹ khi thấy nhà con ẵm cặp chó xoai xoai bỏ lên xe. Hắn nói, “Chời ơi! Thứ này mà nhậu ngon chỉ có chết.” Mặc dầu chạm tẩy nên nhà con đã phải giả mù sa mưa bằng tiếng Mỹ, “What, I feed them to take care of my chicken.” Nhưng chẳng hiểu hắn ngứa mồm ra sao, lần sau tới, chúng không cho nhận nuôi nữa.
      - Nghe cũng có lý, Tình nói. Tui sẽ nói với tên hàng xóm xin một con cho một người bạn vì hắn ta đang muốn tẩy lũ xoai xoai và định thiến luôn chó mẹ. Như vậy, lần nữa xin mời bác và quý vị quỷ quái thưởng thức cờ tây. Xem nào, chó nướng, chó rượu mận, lòng, xáo cầy ăn với bún, cộng thêm đùi chó luộc đưa cay. Chời! Nhm... nhm... Thứ này chắc chắn kỵ bia dzồi. Có lẽ đành phải thử Crown Royal. Đứa con gái lớn mới biếu kỳ tết một chai nửa gallon.
      - Không đủ, phải thêm chai nữa mới đủ đô nghiệm chứng. Bá chen vô.
      - Yên chí đi, tui còn vài thánh mờ mờ cộng với hai vị bò đi ông, thừa sức quật ngã vài chục cao thủ hạng lông như chú mày.
      - Thế là sung sướng cõi thiên thai! Thôi, Tình đứng dậy, con chào bác và tất cả quái vị, em phải đưa bà xã về động.
      Mọi người theo nhau lục tục ra về, thêm hai bà ở lại phụ chủ nhà giải quyết một rừng chén đĩa, ly chai để mấy ông ngồi chờ thực tập nghiệm chứng giảm bớt hơi men.
       
      000
       
      Khu rừng dầy đặc nên cây dong dỏng cao, ôm con đường ngoằn ngoèo lượn theo khoảnh đồi. Nối từ đường xe chạy, một con ngõ lao vô đám cây rập rạp đoạn bẻ cong và biến mất sau những bụi cây được cố ý chừa lại che những cặp mắt vô tình dòm ngó của khách băng ngang. Nếu để ý nhận định, mấy bụi cây tạp được cắt tỉa một cách sơ sài, miễn sao khỏi chướng mắt che khuất những gì phía sau biểu hiện một sự tính toán thâm trầm nơi tâm hồn chủ nhân đã dày dạn bươn chãi tranh sống nơi cuộc đời hiện tại. Hình dáng coi bộ phần nào thiếu thẩm mỹ cũng nói thêm một đặc tính chủ nhân của chúng đã học được bài học lễ độ cuộc đời, biết che giấu điều hơn người để tránh bị soi mói, đố kỵ.
       
      Sống với đám dân ăn xài 160% tiền bạc có thể làm ra nên lúc nào cũng nợ nần nặng nề sinh lòng mặc cảm, ghen tương, nghĩ rằng những người khác có cuộc đời ổn định hơn đều thuộc loại chụp giựt ma mánh hơn. Nơi một xã hội pháp trị, được khuyến khích tự do cạnh tranh phát triển đồng thời luôn luôn bị xúi giục ăn xài do quảng cáo ở  mọi phương diện truyền thông từ những băng tần truyền hình, vô tuyến truyền thanh, sách báo, mạng lưới điện toán, và ngay cả qua bưu điện, dân chúng đã vô tình tiêm nhiễm thói quen ăn xài theo ý thích để rồi trở thành những con nợ hãnh diện vì đã có thể mua chịu những gì mình muốn với bất cứ giá nào. Và thế là suốt đời lo làm trả nợ; nợ sau chồng nợ trước dẫu gồng mình làm lụng cách mấy vẫn luôn mang nợ. Sống là chủ mang nợ; chết chắc chắn mang tâm trạng quỵt nợ. Dẫu thân phận được sinh ra nơi đất nước giầu có và văn minh nhất thế giới, nhưng ước mơ của con dân đất này chỉ là làm chủ được một căn nhà và có mảnh vườn nhỏ trồng bông. Thua xa dân Việt như được nói lên nơi bản hát nào đó, “ Có con trâu, có nương rau, thiên đường này mơ ước bao lâu.”
       
      Ẩn sau những thân thông thẳng tắp, một căn nhà hai lầu nổi bật màu lá úa của tường gạch nửa như ôm, nửa như muốn phô diễn chiếc lan can được sơn màu xanh lá mạ. Đối diện với căn nhà, phía bên kia chiếc sân được tráng nhựa, cột “basket ball” ngạo nghễ như thách đố nhóm trẻ tung banh. Dọc theo hàng rào, hai hàng cây ăn trái tươi tốt chạy dài đến cuối đất bao gồm đủ loại, nào cam, nào quýt, mãng cầu tây, mãng cầu ta (cây na), hồng dòn, hồng mềm, thêm đôi bụi chuối. Tuy nhiên, chỉ hồng, cam, quýt khoe ánh vàng những chùm trái trong khi mấy thứ khác như ổi, mãng cầu dẫu cây lá tươi tốt nhưng vẫn khiêm nhượng son sẻ dường như chấp nhận thân phận sinh bất phùng thời. Nào có lạ gì, các loại cây ăn trái thuộc khí hậu mưa nắng hai mùa sao có thể đơm bông kết quả nơi miền đất bốn mùa thay đổi ở miền nam nước Mỹ này.
       
      Nối tiếp với khoảnh sân sau được tráng xi măng để làm việc và nhuộm lưới bắt tôm, đánh cá, mấy luống rau thơm, cải ngọt, rau đay, mùng tơi, mượt mà chen nhau khoe sắc dưới ánh chiều dợm tắt. Bên kia hàng rào phía phải, ba chú chó xoai xoai đùa dỡn với mẹ của chúng đang rượt nhau vòng quanh sân cỏ được cắt tỉa, chăm sóc kỹ lưỡng. Một chú cún thấy người lạ bên kia hàng rào lên tiếng sủa gây sự chú ý của mấy bợm nhậu.
      - Gà lọt dậu, chó sáu bát. Ngữ này vô nồi thì tuyệt.
      - Ơ cái thằng nhóc này, ông đập củ sả vào đầu mày bây giờ. Chớ dại ra vẻ chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng; Sỹ nói với con chó như nói với người nào đó. Chị gái mẹ kia, dẫn con đi nơi khác bởi các ông thèm rõ rãi ra rồi. Ông mà nuốt trôi cái lưỡi thì mẹ con chị khốn khổ đấy. Chị chó mẹ và hai chú cún khác chẳng biết có hiểu chi tiếng Việt hay không, nghểnh cổ chăm chú nhìn mấy người khách lạ của hàng xóm.
      - Chớ nóng tính, thằng anh cả của chúng bác đã thui sáng nay đấy, lát nữa tha hồ nhậu. Tình đi ra từ cửa sau đón khách, lên tiếng.
      - Chú dám trộm chó hàng xóm cơ à. Ông Thung hỏi.
      - Đâu có! Làm đĩ chín phương cũng cần dành lại một phương lấy chồng chứ. Mới chiều hôm kia, nhân tiện bà xã cuốn chả giò tui nhắc bả chiên thêm một đĩa. Mười hai chiếc chả giò ngồn ngộn bắt mắt lắm. Tui cũng tốt lành lắm chứ, lấy giấy bạc bọc lại tử tế ngay khi vừa chiên xong, vẫn còn nóng hổi mang qua biếu chủ chó. Thứ nhất thân cận, thứ nhì cận lân mà. Xưa nay thỉnh thoảng hàng xóm và gia đình tui vẫn có thói quen tốt lành như thế. Gặp ngay mẹ con mấy chú cún này chạy ra đón tiếp quẩn cả chân; lại chủ nhà thuộc loại dân quê chẳng khác gì mình, mở cửa đuổi chó, nói rằng muốn cho đi hoặc kêu hội súc vật đến bắt. Tui nói rằng có người bạn thích chó lắm để tui hỏi anh ta có muốn không. Về nhà được dăm phút, tôi gọi sang nói bạn của tui chỉ muốn một con thôi trong khi ông ta muốn cho cả bốn con. Và sáng hôm qua ông ta xích cổ đàng hoàng, dắt sang nhà tui tặng chó. Cảm ơn qua lại xong, tui chở ngay tới nhà ngữ Sỹ này thui. Tui biết điều lắm đấy chứ, đâu dám thịt tại đây. Cứ để đó, ba con kia thế nào cũng có thêm ba người bạn của tui muốn rước về chăm sóc.
      - Lỡ người ta chích thuốc rồi thì sao.
      - Ối dân quê mà, họ chỉ chích ngừa chó mẹ thôi. Ai thừa tiền chích thuốc mấy con chó con không định nuôi. Chời! Thui vàng lên, rửa bằng búi lá sả, mổ ra ngon hết sẩy. Trưa nay tui và Sỹ mới thử luộc một miếng, quả là tuyệt cú mèo.
      Mọi người theo Tình vô phía sau nhà. Mới ngang lưng chừng đầu hồi đã thấy mùi sả, riềng lất phất quyện trong không khí. Càng đi sâu hơn, mùi rượu mận càng nồng nặc.
      - Riềng này, sả này, mắm tôm này, me chua này; giá mà có mẻ thì tuyệt hơn. Ông Thung lẩm bẩm.
      Một nồi lớn trên lò hơi đốt đang sôi sùng sục, xì hơi bên mép vung đậy hờ, bốc lên mùi rượu mận thơm lừng. Một thẩu lòng chó còn đang bốc khói, chưa được thái chênh vênh trên chiếc ghế sắt cạnh một chiếc lò khác, nơi đó ngự một nồi lớn chứa nước luộc lòng đang sôi ùng ục. Ở một góc gần cầu nhuộm lưới, hai đứa lớn, con của Tình đang kẹp thịt chó đã được ướp gia vị vô phên để nướng trên chiếc lò than đỏ hồng.
      - Chào các bác, mời các bác vô nhà dùng nước, em đang dở tay một chút. Chị Tình, tay đang cầm đôi đũa lớn, hình như vừa mới vớt lòng luộc bỏ vào chiếc thẩu. Đoạn lớn tiếng gọi, cái Thanh, rót nước mời các bác, con.
      - Không nước non, non nước chi cho mệt, Tình lên tiếng. Mình súc miệng bằng bia và hưởng mùi vị quê hương cho lòng ruột thanh tịnh mới xứng đáng đón vị phật chó này chứ. Cái Thanh, con lấy bia nơi tủ lạnh mời các bác, nhanh lên.
      - Tình, kiếm cho tớ cây “chu bai pho” (2x4) và mang bơ ra đây để tớ nướng dồi. Sỹ nhà con mau mắn.
      - Ấy ấy, bác để nhà em chiên. Chị Tình vội lên tiếng ngăn Sỹ.
      - Dồi chó chiên bơ ăn không phê bằng nướng bơ. Nướng nó mới dòn, mới dậy mùi lá mơ chứ chiên ăn như đấm vào miệng ấy.
      - Đây, thưa ông. Coi chừng quá lửa khô khốc lỡ gẩy bố nó mấy cái răng tui sẽ kiện ông ra tòa.
      - Khô thế nào được, bao nhiêu mỡ và bạc nhạc tớ băm sáng nay sao có thể khô được. Cứ yên trí lớn!
       
      Hưng, cụ Tài, và mấy người nữa tiếp tục tới. Mấy phụ nữ giúp chị Tình luộc bún, nhặt rau, lá thơm. Chẳng mấy chốc thực phẩm, rau rợ, chén đũa đã được xếp đặt ngăn nắp trên hai chiếc bàn dài. Mọi người đã ngồi vô ghế thế mà chủ nhà lại biến đâu mất.
      - Chủ xị trốn ở đâu làm mất giờ chờ đợi. Sỹ nhà con nói lớn...
      - Có đây, có đây! Chẳng nói giấu gì, nhà cháu hái thêm mấy trái ớt bởi e rằng cuộc đời này vẫn chưa cay đắng đủ để lãnh nhận mùi vị quê hương. Mời, mời bác và quý vị tự nhiên cho.
      - Chủ xị phải có lời lẽ đàng hoàng vì ăn có mời, làm có khiến. Có phải ông biết rằng chúng tôi đang muốn nuốt trôi cả lưỡi nên cố tình rềnh rang chăng. Bây giờ, muốn nói gì thì nói coi, nói càng ngắn càng tốt, mà có thể càng không nói gì lại càng tốt hơn nhưng vẫn phải nói cho đúng nghi thức, phép tắc; Sỹ lên giọng.
      - Dạ, dạ, nhà cháu xin có đôi lời thưa cùng bác và quái vị. Hôm nay, được phép của bà chủ nhà cháu và được người hàng xóm quý mến tặng cho chú nai đồng quê nên nhà cháu sửa soạn bữa cơm rau muối mời bác cùng quái vị thưởng thức. Sự hiện diện của bác cùng quái vị là sẽ là sự mất mát lớn lao cho chú cờ tây. Nếu không, nhà cháu chẳng biết làm gì vì nhậu một mình nó làm sao ấy. Đến đây nhà cháu xin được phép hết lời, và mời bác truyền tâm ấn cho hành giả Crown Royal.
      - Tâm ấn sao có thể truyền, chỉ có thể chứng. Cụ Tài nhẹ nhàng. Tôi chấp nhận được hãnh diện khui và sau đó chúng ta cùng nghiệm chứng. Có lẽ cụ Tài dạo này bị lây lối ăn nói của nhóm nhậu.
      Cụ Tài rót rượu vô ly đoạn trao bình rượu cho ông Thung ngồi bên cạnh. Ông Thung rót cho mình rồi trao bình cho người kế tiếp và cầm ly rượu, nâng lên định uống.
      - Khoan, khoan, anh cả, đợi, đợi, để mọi người cùng chứng một lúc. Tình bỗng cản.
      - Chết tớ rồi, tớ tham quá nên rót hơi nhiều sao chứng.
      - Phép vua thua lệ làng. Lỡ rồi, cho lỡ luôn, may ra chừa tội vô minh.
      - Tớ là trọng tài; trọng tài như cha mẹ.
      - Chủ xị phán là luật bất thành văn.
      - Chú Sỹ, để tớ sẻ qua.
      - Không được, hạ thủ bất hoàn, hạ bất khoan.
      Thế rồi thời điểm nghiệm chứng cũng phải đến. Mọi người đồng nâng ly. Tình nói lớn,
      - ”Một chăm phần chăm, em ơi, chiều nay một chăm phần chăm.” Ai không chứng hết, yêu cầu đổ rượu lên đầu.
      Đến tội cho ông Thung! Mà nào có rót nhiều gì cho cam bởi ông đâu uống được nhiều nên định rót vừa đủ cho cả bữa nhậu. Ai ngờ cái lệ làng quái ác này. Cụ Tài thấy thế nhẹ nói với ông Thung, “Ông có thể san bớt sang ly tôi.” Ông Thung vừa đưa ly rượu kề vô ly của cụ Tài định san qua thì Tình đã lớn tiếng,
      - Tửu bất khả ép nhưng đã ép sẽ bất khả từ. Nếu từ chối sẽ bị phạt làm chủ xị.
      - Chú mày chơi tớ. Tớ lỡ tham có chút xíu hà. Thôi thì lần này tớ xin chừa; lần sau tớ cứ vậy.
      - Vậy thì ai bảo “Ông bẩy mươi phải học ông bẩy mốt.” Thời này văn hóa đảo ngược, ông bẩy mốt học đứa trẻ mười tuổi.
      - Chúng ta tôn trọng dân chủ nên lấy đa số thắng tiểu số. Cụ Tài thấy tội cho ông Thung nên đành chen vô.
      Thế là cảnh ồn ào chợt bùng dậy,
      - ”Một chăm phần chăm, một chăm phần chăm.” Những cái miệng của bằng ấy bàn tay đang nâng cao ly rượu cùng đồng loạt hô lên.
      - Khoan, khoan, cụ Tài nói lớn dành sự chú ý của mỗi người. Nơi phương diện ăn uống hoặc suy nghĩ, không ai có thể đại diện cho ai ngoại trừ chính mình. Và như vậy, sự đồng ý uống trăm phần trăm ly rượu mình đang cầm nơi tay cũng chỉ có một mình mình. Tôi và ông Thung đồng ý uống chung hai ly rượu tất nhiên đa số thắng thiểu số.
      Thế là thiên hạ ngớ ra! Ai cũng cảm thấy ngỡ ngàng vì xưa nay đã quen thói hùa theo điều được gọi là dân chủ, đa số thắng thiểu số, nhưng nơi trường hợp vừa được cụ Tài nêu lên, đa số lại trở thành thiểu số nơi những trường hợp cá nhân riêng biệt, và thiểu số lại biến thành đa số vì họ đồng ý cùng thực hiện chung một sự việc. Sự ngỡ ngàng bắt nguồn từ nhận thức mình không thể quyết định đường lối bắt người khác phải thực hiện. Ngưng một đôi phút để mọi người có cơ hội nhận định sự thể mới được đề xướng, cụ Tài hỏi tiếp,
      - Ai có ý kiến gì nữa không?
      Những cái mỏ mới nhao nhao “chăm phần chăm” lúc này im tịt. Câu nói của cụ Tài lần trước, “Không ai ăn dùm được cho mình; không ai uống dùm được cho mình, thì cũng không ai suy nghĩ dùm được cho mình” như lẩn quất nhắc nhở điều kiện ắt có và đủ cho một người thực sự khao khát thỏa mãn lòng khát vọng tâm linh cần phải nghiệm chứng, khi đối diện với bất cứ vấn đề nào đều cần được suy nghĩ chín chắn hơn. Và ông Thung chớp cơ hội gỡ gạc,
      - ”Dzô.” Ông nâng cao ly rượu san bớt qua ly của cụ Tài đoạn khởi đầu thực hiện “chăm phần chăm” mặc dầu phải nhắm mắt, nhăn mặt cố lấy sức nuốt ngụm rượu xuống lòng ruột dù cảm thấy cuống họng cay như bị xé kèm theo cơ thể chợt bừng nóng.
       
      Màn khởi đầu đã qua, dân ta bắt đầu thi đua múa cặp kiếm tre. Người hỉ hả với miếng dồi chó chấm mắm tôm chanh đánh với ớt. Kẻ khác thử miếng chó nướng e để nguội mất ngon. Lòng chó dần dà xuôi theo nước thánh. Thịt luộc mềm, thơm quánh mùi sả kèm theo hương vị lá mơ đoạn cắn thêm miếng riềng thái mỏng, quả là thi vị đối với món thuần túy quê nhà. Sau khi thử miếng dồi chó, ông thung gắp miếng bún, chan nước xáo vô đoạn lùa một mạch chữa lửa. Bao năm rồi từ ngày xa quê hương, nay may mắn đàn đúm với nhóm nhậu mới tìm lại được hương vị ngày nào. Ông thầm nghĩ.
      - Thưa bác, thưa quý ông nọ bà kia, để thêm phần hào hứng cho các hành giả đả phá vô minh nơi hành trình kiến tính, và đồng thời cung cấp cơ hội cho hàng nội tướng phát triển khả năng lãnh đạo điều khiển chủ soái, nhà cháu xin được phép đề nghị hôm nay chúng ta dành ra chừng một tiếng đồng hồ vừa lai rai vừa thưởng thức chương trình “ta ca cô chê” (karaoke) tân cổ giao duyên. Nếu bác và mọi người đồng ý, nhà cháu xin một tràng pháo tay cổ võ.
      Chủ nhà xin phép đề nghị, ai nấy mới chợt nhận ra qua những lần ăn nhậu trước chỉ để ý đến đạo học, thức ngộ, ngủ ngộ mà lãng quên vai trò nữ giới cùng họ hiện diện khi các ông đàn đúm ly anh, chén tôi. Và thế là tràng pháo tay nổi lên kèm theo những bộ mặt tươi rói chẳng hiểu hứng khởi vì hơi men mới chớm hay vì sắp được thưởng thức hoặc trình bày danh ca cây nhà, lá vườn, hoa quả ngoài chợ. Đồng thời, họ như được mời gọi để ý đến chiếc màn ảnh ti vi to tổ bố chình ình dựa vô tường đối diện với hai dãy bàn kê song song hướng về nó.
      - Mẹ nó đâu, kêu quân ta điều chỉnh dàn âm thanh, ánh sáng, chuẩn bị trổ tài nghệ sĩ chưa kịp vươn lên đã vội tụt xuống; trong khi giọng Sỹ nhà con oang oang vang diễu câu vọng cổ, “Bà ba ơi cho tui mượn chai dầu xức lác tui bôi cái lỗ rún...”
       
      Số là trong nhóm nhậu có ba mụ tham gia hội hát nhà thờ. Họ thích hát lắm, và nhà nào cũng có giàn máy karaoke. Đặc biệt nhà Tình vì bà xã người miền Nam; chẳng những chị ta hát nhạc đạo, nhạc đời, mà đặc biệt lại là chuyên viên ca vọng cổ nơi những buổi văn nghệ văn gừng được nhiều người ngưỡng mộ. Chị ta nhỏ người, khá linh hoạt, tươi vui, lúc nào cũng như mỉm cười. Đặc biệt, chị ta có giọng nói miền nam thật dễ thương, ngọt ngào. Nghe đâu ngày xưa Tình dẫn toán đi hành quân, trong khi dừng chân nơi một làng nhỏ, vô nhà dân xin dừa uống nước, mê ngay giọng ngọt ngào của cô bé con chủ nhà để rồi sau này chà chớ và cưới em làm vợ. Đối với gia đình bố vợ, Tình không gặp trắc trở chi vì con gái miền Nam lấy trai Bắc kỳ năm tư (1954) là nhất dẫu vẫn có tiếng trai Bắc kỳ xạo ke. Tuy nhiên, gia đình Tình cực lực phản đối bởi nghe chừng đâu đó rằng dân sinh trưởng nơi miền Nam do cuộc sống ngày xưa dễ thở, nửa năm trồng lúa nửa năm oánh bài lá, không phải cơ cực đối diện với khó khăn, lam lũ tạo nên thói quen dễ dàng chấp nhận cuộc đời thành ra thiếu cá tính cần mẫn, tranh đua như dân Bắc hoặc Trung. Tình lại là con trưởng kéo một bầy năm đứa em, hai trai, ba gái, tất nhiên, chị dâu cả mang nặng nề trách nhiệm lèo lái gia tộc sau này. Bố mẹ Tình e ngại nếu gặp con dâu cả thiếu đặc tính mưu toan, đưa đẩy, anh em trong gia đình sau này sẽ lộn xộn sinh ra thực trạng cá đối bằng đầu hoặc cá mè một lứa, chẳng ai nói ai nghe sẽ bị người ta chê cười. Không những thế, có câu nói, “Giặc nhà ngô không bằng bà cô bên chồng.” Gái miền Nam dễ thương nhưng sao có thể đối địch được ba cái mỏ bà cô Bắc kỳ, ông bà cho rằng nếu lấy vợ người miền Nam sẽ khổ cho Tình một đời sau này.
       
      Tình ít nói nhưng thâm trầm. Đàng khác, sĩ quan ngày ấy cũng khá sáng giá cho dầu các cô gái mới lớn bị tiêm nhiễm câu hát “Em chỉ yêu có anh binh nhì.” Và thế là mưu ma, chước quỷ cũng được bố mẹ Tình sử dụng để có nhiều người mai mối cho Tình những cô gái Bắc kỳ năm tư quanh vùng. Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn; cũng có thể Tình bị bùa mê thuốc lú bởi con bé Nam kỳ, bố mẹ Tình sau này nói thế, nên dù không bao giờ phản đối, lại chiều lòng bố mẹ, nay đi nhòm cô này, mai theo mối xem cô kia mỗi lần nghỉ phép, Tình cũng kiếm được nhiều lý do từ chối những em xinh như mộng nhưng chưa bắt được hồn chàng sĩ quan trẻ ít nói.
       
      Thế rồi gần hai năm sau, nhân một lần nghỉ phép, chẳng hiểu Tình xạo ke, hứa trăng hứa cuội, hoặc thề thốt cách nào với ông bô bà mia cô gái mà bợ ngay con người ta mang về trình diện bố mẹ. Chỉ sau hai ngày, cả nhà Tình thích cô bé tươi vui có giọng Nam kỳ ngọt ngào này. Cũng có thể, “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng,” do được Tình giải thích huấn luyện, cũng có thể nhờ cá tính rộng rãi dễ thương không chấp nhất, xét nét, vị thế con dâu trưởng chẳng những trong gia đình mà đối với bà con họ hàng, chị Tình được mọi người quý mến, ưa chuộng. Mà quả thật, chị Tình rất dễ thương, rộng rãi, cận nhân tình. Con cái của những bạn bè thân thiết có đứa nói thích chị Tình hơn thích mẹ chúng. Có lần chị đưa các em giúp lễ đi chơi bởi nhà có chiếc xe “van” mười chỗ ngồi. Mười lăm em, trai gái lẫn lộn chen nhau như cá hộp có thêm chị Sỹ đi kèm cho đúng luật tiểu bang, cứ bẩy em nhỏ cần một người lớn chăm sóc. Chị đưa các em đi chơi khu trượt nước, tắm biển, nào ăn uống thả dàn, lại còn mục mười lăm nhóc chễm chệ nơi quán kem. Đứa chọn ly kem ba màu, đứa khác kem thập cẩm; nhiều khi chị Sỹ muốn khùng lên vì lắm ý kiến, nhiều đề nghị của tụi nhóc. Ngược lại, chị Tình giải quyết nhanh chóng và êm đẹp, nhóc nào cũng thích vì được tôn trọng.
       
      MBVN 10

      Dàn máy vừa được bật lên, Sỹ đã vội chộp chiếc “microphone,” đặt sát vô miệng, ông ổng ca, “Nếu em không là người yêu của lính, em sẽ chớp một anh sỹ quan. Nhưng anh ơi nếu mộng không thành thì sao,”
      - Khóa cái mõm của ông lại! Tình la lên, mộng không thành mà cả một tiểu đội. Mộng mà thành có lẽ hơn trung đội.
      - Ấy, nhà cháu mới sơ sơ một bà. Nếu hai bà có lẽ sẽ ít hơn. Và để mở màn văn nghệ phụ diễn, mời chị chủ nhà làm một mục tân cổ “giao dziên.” Sỹ nhại giọng nói miền Nam của chị Tình.
      - Mời chị ca bản “Truyện Tình Lan và Điệp.” Phủ đề nghị.
      - Lan ơi, Lan về nắm ấy chuông, Sỹ lại rống lên theo cung cổ nhạc.
      Chị Tình không nói không rằng, chọn một đĩa nhạc bỏ vô máy, bấm số đoạn ấn nút cho đĩa chạy. Âm thanh réo rắt nổi lên và chị cất giọng hòa với cung nhạc, “Qua một rừng hoang, gió núi theo sang vương bụi đường trên vai...” Giọng chị ngọt ngào với bản tân cổ giao duyên Hoa Trinh Nữ. Khung cảnh ồn ào bỗng trở nên thinh lặng nhường cho giọng ca thẩm thấu lòng người. Lời hát đã quá thịnh hành từ xưa nên giọng chị dễ được để ý thưởng thức. Những tiếng vỗ tay rộ lên như muốn phá tung cửa kiếng phòng ăn khi chị xuống giọng ngâm chữ cuối của câu vọng cổ khiến chị thêm phần hào hứng diễn xuất. Ai nấy đều mang vẻ mặt vui tươi, hoan hỉ vì có được những giây phút thoải mái giữa đám bạn bè quen thuộc.
       
      Niềm phấn khởi trong lòng được cổ võ do tâm tình thân quen, khuyến khích tì vị hoạt động mạnh mẽ hơn đối với món nhắm đã bao lâu quen thuộc nhưng gần hai chục năm mới gặp lại. Chưa hết bản tân cổ giao duyên mà bình rượu lít rưỡi đã được chuyền tay lần thứ ba, cạn tới giọt cuối cùng để rồi nhường vị thế cho thánh Remy Martin rút ruột làm chủ tình hình. Phần chương trình văn nghệ phụ diễn, sau khi chị Tình ca xong bản Hoa Trinh nữ, những mục tân nhạc khác được tiếp nối. Khi các chị hát thì còn đỡ; mỗi lần anh chàng nào lên giọng thì lại yêu cầu mở máy cho to, quả là ồn ào hết sức. Nào lạ chi, khi đã sứa sứa thì hát trở thành hét. Căn phòng thì nhỏ, hai cái loa to tổ bố được nối liền với dàn mixer cộng thêm chiếc amplify 250 watts thì tai nào mà chịu nổi. Thế mà người ta vẫn vui vẻ ăn uống, có muốn nói gì thì phải hét lên; kẻ ca cố gào, người nói cố hét, giống phường quân hồi vô phèng, ồn ào, náo nhiệt. Nào ai lạ gì, khi men rượu dồn lên tới óc làm căng thẳng thính nhĩ khiến độ rung chậm lại, thần kinh mệt mỏi sao có thể nghe cho rõ ràng. Tất nhiên, dẫu ca hay hét, các nghệ nhân karaoke đều được tưởng thưởng bằng một tràng pháo tay nhộn nhịp. Cũng may, nhà Tình riêng biệt ngự giữa hai mẫu đất cách xa hàng xóm nên không làm phiền hà chi tới ai.
       
      Ở thời điểm này, phong trào hát karaoke đang lên nên được người Việt ham mộ. Nhà truyền giáo Tây Phương nào đó nơi bản đệ trình về đặc tính người Việt thời xưa có nhận định, người Việt nói líu lo như tiếng chim hót. Thực ra, tiếng Việt bao gồm năm dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng; tự chúng phần nào đã mang cung bậc âm nhạc. Thực hành riết thành quen nên dễ áp dụng vào việc hát hỏng, dễ dàng đưa giọng lên bổng, xuống trầm. Hơn nữa, những băng, đĩa karaoke thường bao gồm những bản nhạc tiền chiến, thịnh hành ngày xưa, quanh đi quẩn lại một vài điệu như Boléro, Tango, Chachacha, Valse, Boston, hiếm khi có được bản nhạc mang điệu Bebop, March và thường được gọi là nhạc Tour. Đại khái một bản nhạc được chia thành ba phần. Phần đầu được chia làm hai khúc và phần cuối cung điệu giống nhau cho hợp luật cân phương. Phần giữa, tạm gọi là điệp khúc thay đổi kiểu hát phần nào, thế nên dễ hát, dễ thuộc. Thêm vào đó, nhạc tiền chiến thường mang nặng sắc thái tâm tình dễ cảm động lòng người dẫu yểu điệu, dễ gây nản lòng tạo nên tâm tình thương vay, khóc mướn. Nói thế cũng hơi quá, cung điệu nhạc tiền chiến nếu đem so với nhạc tây phương sẽ được liệt vào loại nhạc êm dịu chắc chắn giới mộ âm nhạc rộng mở vòng tay đón tiếp bởi không bị lệ thuộc tâm tình ẩn chứa nơi lời hát.
       
      Khi Phủ thượng đài với bản nhạc “Đồi Thông Hai Mộ,” Sỹ nhà con dùng đôi đũa khua chén, đĩa, ly, theo nhịp điệu âm thanh của dàn trống, và rồi hai, ba người khác học theo. Kẻ hát cố gào cho át tiếng chén đĩa bị những nghệ sỹ sứa sứa, hung hăng dùng đũa thẳng cánh đập. Có người ra sân lôi vô chiếc vung nồi to tổ bố gõ, tưởng tượng nó như tiếng “Hihat” của giàn trống, tạo thành những âm thanh chát chúa khiến ai nấy giật nảy người khi hắn phang lần đầu. Nơi thế giới bạn bè quen biết quân hồi vô phèng này có được giây phút thoải mái, phá phách dẫu đôi khi nghịch thường lại càng khiến lòng người hứng khởi.
      - Quá đã, Sỹ nhà con gật gù sau khi tợp một hơi rượu.
      Và rồi một giờ đồng hồ vội qua; bình rượu Crown Royal, mỗi bình hơn lít rưỡi (nửa galon) kèm thêm một cặp Rémy Martin, một cặp Napoléon cùng với mấy món nai đồng quê nướng, rượu mận, lòng, dồi, bún, xáo, thoải mái chui tuột vô lòng dạ các tướng. Bốn ấm trà đậm được chị Tình đem lên cùng với những chiếc chén nhỏ. Đang sứa sứa mà thấm giọng với trà đậm quả là thống khoái.
      - Nếu có thêm hương vị lưu hoàng của vài chiếc pháo nổ lan trong không khí thì thật tuyệt vời, cụ Tài nhẹ giọng…
      - Đúng không bác, Tình vội hỏi, đoạn kêu thằng con lớn, Nghiêm, con có còn trái pháo nào không, lấy ra đây.
      - Dạ, chỉ còn có một cây pháo bay, Nghiêm trả lời.
      Chiếc pháo bay lên trần, nổ cái bốp, mùi lưu hoàng tỏa lan hòa cùng hơi men, trà đậm khiến ai nấy tỉnh táo.
      - Chưa bao giờ cháu có thể ngờ được mùi thuốc pháo lại tuyệt cú mèo như thế này, Hưng nói.
      - Diễn tả được không? Cụ Tài hỏi.
      - Dạ thưa bác, người biết không nói; kẻ nói không biết ạ.
      - Có tiến bộ. Nghiệm được câu nói của Lão học nào dễ chi!
      - Cháu thấy hình như những câu nói nơi đạo học chỉ về những sự việc hoặc sự thể xảy đến nơi cuộc sống thường ngày.
      - Anh nói đúng. Có câu nói, “Không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời.” Những lời khôn ngoan được phát xuất từ tâm thức của các bậc thức ngộ nói lên thực thể sự việc. Trãi dài qua các thời đại nơi cuộc sống nhân sinh từ xưa tới nay, những nhận thức này được gom góp lại gọi là đạo học. Vấn đề chỉ là chúng ta có để tâm nhận thức hay không. Từ những nhận thức này phát sinh những lý thuyết tạo thành phương cách thực nghiệm. Đây có thể là gốc gác cho bất cứ việc thực hành nào của thiền hay Yoga.
      - Như thế tại sao lần trước bác nói có nhiều phương pháp Yoga, Tình lên tiếng.
       
      Từ khi tiếng pháo nổ, chẳng hiểu tại mọi người giật mình hay do công dụng của nước trà đậm hoặc mùi thuốc pháo cộng hưởng khiến ai nấy tỉnh táo. Màn văn nghệ phụ diễn cũng được chấm dứt. Cái nhóm lộn xộn, cá mè một lứa đang ồn ào, náo nhiệt, bỗng trở nên bình thản, chăm chú hướng về phía cụ Tài lắng tai nghe.
      - Tôi vừa nói mà đã vội quên. Có cần thêm bia để chữa lửa không? Cụ Tài diễu!
      - Ồ, bác không nhắc có lẽ con quên. Nghiêm, mang bia ở tủ lạnh ra đây con. Tình sốt sắng.
      - Như tôi đã nói, những lời khôn ngoan từ ngàn xưa trãi dài nơi tiến trình nhân sinh được gom lại thành những đạo học tùy thuộc các vị thức ngộ nơi những sắc dân chung sống. Từ những nhận thức nghiệm chứng này phát sinh lý thuyết thực nghiệm kiến tạo phương cách hoặc phương pháp áp dụng. Mọi lý thuyết đều phát sinh từ những nghiệm chứng cộng hưởng, kiến tạo phương pháp hướng dẫn sự thực hành. Đây cũng có thể là lý do tại sao có ngôn từ hành giả.
      - Nhà cháu cố gắng hành thiệt còn chưa tới đâu phương chi hành giả. Sỹ tơm tớp nhào vô diễu.
      - Thế mà cứ tốn tiền đưa bà xã đi biu ti sóp (Beauty shop)! Lúc cưới em thì cưới đồ thiệt, từ khi đưa em đi biu ti sóp trở thành hành giả. Dại dột! Giọng Bá trầm trầm như than thở chen vô.
      - Ai dám nói tớ đưa bà xã đi biu ti sóp?
      - Kẻ nào có tật thì người ấy giật mình. Giọng Ty trầm trầm vang lên khởi xướng cho tràng cười bùng lớn.
      Phía phái nữ im re bởi chẳng nhiều thì ít, người xâm mày, kẻ xâm môi, sửa mũi cho thêm mặn mà hình dáng. Dĩ nhiên, đánh phấn, thoa son là chuyện bình thường đối với mọi phụ nữ. Câu nói “Trai tài gái sắc” tự ngàn xưa đã bộc lộ bản tính ngưỡng mộ tự nhiên của con người dẫu đã gây biết bao ngậm ngùi, đớn đau, cho đến thất vọng nơi những tâm hồn thiếu nhận thức. Theo đà tiến triển văn minh, nghệ thuật trang điểm cũng tiến dần tới thủ pháp y khoa giải phẩu, đắp mông, độn ngực, xẻ cằm tùy theo quan niệm thời trang hoặc ý thích cá nhân. Chẳng hiểu người trang điểm mang chủ ý thế nào, hoặc để tự cảm thấy mình đẹp hay để được người khác chiêm ngưỡng. Có điều, chỉ mới đơn thuần nhận định câu nói bình thường, “Sửa sắc đẹp,” tự nó đã mang nghĩa bất thường chẳng khác chi câu, “Đi khám bác sĩ.” Bác sĩ nào để cho mình khám mà nói, đi khám bác sĩ. Tương tự như thế, chẳng lẽ người có sắc đẹp muốn được sửa thành xấu, nhưng lối phát biểu vẫn được diễn tả một cách nghịch thường xưa nay luôn được chấp nhận chẳng bao giờ thấy ai đặt lại vấn đề.
      Ý nghĩ chợt thoáng qua khiến cụ Tài muốn khích động tâm tình để ý nhận thức mọi vấn đề nơi mỗi người.
      - Đi đâu hay tới đâu, tôi không đặt thành vấn đề. Tuy nhiên, tôi nêu lên hai câu phát biểu để mọi người thử nhận định; đó là “Sửa sắc đẹp” và “Đi khám bác sĩ.”
      Thế là bàn dân thiên hạ ngớ ra. Ai chẳng hiểu ý nghĩa hai câu nói đơn giản thường được nghe thấy trên đầu môi chót lưỡi mọi người, nhưng sao cụ Tài lại nhắc đến. Và tất cả đều như ngậm hạt thị khiến bầu không khí trở nên tĩnh lặng pha đậm nét ngỡ ngàng. Cụ Tài nhắp ngụm rượu, gắp miếng dồi chó chấm mắm tôm pha chanh ớt, đưa lên ngắm nghía kèm thêm câu, “Ai bảo âm phủ biết có hay không” đoạn bỏ vô miệng chầm chậm nhai.
       
      Những tiếng ồn ào mở bia, gắp món ăn nổi lên chừng như muốn che lấp phần nào tâm tình bối rối của nhóm nhậu. Nếu như được hỏi về câu nói khôn ngoan, hóc hiểm nào đó, có lẽ chẳng thiếu những nhận định, ý kiến nổi lên. Đàng này, hai câu quá thường, thường đến độ không ai ngờ được đặt thành vấn đề làm cho mọi người chưng hửng. Nói gì, nhận định gì khi ý nghĩa của chúng quá rõ ràng, ai cũng biết, nhưng tại sao cụ Tài nêu lên vấn đề nhận định. Chẳng lẽ nói lên lý do phải đi khám bác sĩ, hoặc sửa sắc đẹp, điều đó đâu phải nhận định, vậy thì nhận định sự thể gì nơi hai câu nói này. Chợt Hưng lên tiếng,
      - Thưa bác, xấu thì đi sửa cho đẹp, và ốm thì đi khám bác sĩ.
      - Bác sĩ nào để anh khám?
      - Dạ thưa bác sĩ Hoa, Sỹ nhào vô.
      - Cái chú quỷ, thế mà cũng rống lên, chị Hoa, vợ Hưng la Sỹ.
      - À há! Thế mà đã bao lâu rồi đã chẳng để ý. Công nhận, gừng càng già, càng cay, thậm phục, thậm phục. Ty trầm trầm, vừa nhai, vừa gật gù ra bộ đắc ý.
      - Anh Ty, anh vừa nói gì? Cụ Tài hỏi đích danh.
      Nuốt xong miếng ăn, Ty nhẹ nhàng trả lời trong khi mọi người hướng về hắn,
      - Thưa bác, điều chẳng ngờ lại quá thường đối với mọi người từ xưa đến nay. Cháu chợt thấy ngộ ngộ khi bác nêu câu hỏi, “Bác sĩ nào để anh khám?” Hai lối phát biểu, “Sửa sắc đẹp,” và “Đi khám bác sĩ” ngược hẳn ý nghĩa chúng muốn nói lên. Sự thể này minh chứng thiếu nhận định, thiếu nghiệm chứng nhưng chấp nhận thói quen và cho đó là bình thường không cần thiết hoặc không cần đặt vấn đề. Điều này chẳng khác chi mình đang thở nhưng không nhận biết không khí chung quanh, hoặc mình đang sống nhưng chẳng hiểu mình sống để làm gì, hay mình có ước muốn thăng tiến mà không đặt vấn đề muốn thăng tiến nơi phương diện nào. Nói tóm lại, sống thiếu ý thức.
      - Ai có ý kiến gì nữa không?
      Không ai lên tiếng bởi không biết trả lời thế nào. Nếu nói rằng không, lỡ còn khía cạnh nào mình đã không nhận biết chăng. Nói rằng có, đã nghĩ được gì khác đâu. Quả hợp với câu, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu. Đôi phút sau, cụ Tài hỏi tiếp,
      - Quý anh chị thấy có câu nào nơi sách vở nói về trạng thái này nơi tâm tưởng con người không?
      - Thưa bác, hình như coi thường câu, “Nghiệm xét mọi sự.” Bá lên tiếng.
      - Dẫu đã biết nhưng cái biết ấy vẫn chưa nhập tâm, chưa trở thành bản năng thì biết cũng như không; bởi thế, vẫn còn luẩn quẩn nơi vòng ngoài nghiệm chứng. Nêu lên đặc tính nghịch thường của hai câu nói này, tôi không khuyến khích bất cứ ai cố ý bới bèo ra bọ, chỉ muốn anh em luôn để ý nhận thức bất cứ điều gì đang diễn tiến nơi cuộc sống dù một câu nói, một hành vi, và nhất là từng ý nghĩ, mơ ước nơi tâm tưởng của mình. Thí dụ, sự thể đang ồn ào xảy ra nơi đất nước Mỹ này đó là vấn đề phá thai. Có anh em nào thử đưa lên một vài nhận định về sự kiện này không?
      - Thưa bác, hai phe ủng hộ hoặc chống đối dùng mọi lý lẽ, luận điệu, ngay cả thần thánh với mọi phương thức cuối cùng cũng chỉ tiến tới quyết định dùng ngân quỹ đóng thuế của dân chúng để trả tiền cho người phá thai hay không mà thôi. Cứ đem chém phăng tất cả những luật sư đi thì chẳng còn gì để nói. Sỹ hung hăng phát biểu.
      - Như vậy nào thêm bớt gì, chỉ bới việc và không đi đến kết quả, kết luận chi lại tốn tiền chế máy chém luật sư. Hưng giải thích.
      Nét đăm chiêu hiện rõ nơi gương mặt mọi người bởi câu hỏi được nêu lên không có câu trả lời. Trả lời thế nào khi mình không phải đối diện với những sự thể chẳng đặng đừng của người trong cuộc. Sự thể được nêu lên chẳng khác gì đặt chiếc cày trước ách con trâu, đi tới không xong, giật lùi chẳng được. Hơn nữa, nơi thế giới loài người, biết bao phương pháp, luật lệ từ những chính quyền, cổ võ hoặc áp lực đã thực hiện từ xưa tới nay nhiều khi nghe đến độ ghê rợn tâm thần.
      - Có ai nói lên được lý do tại sao phải phá thai không? Cụ Tài hỏi.
      - Thì bởi có bầu, thưa bác.
      - Thế tại sao có bầu. Cụ Tài mỉm cười khi nêu câu hỏi nghe đầy vẻ kỳ cục nhưng lại khiến mọi người giật mình.
      - Thưa bác, nếu vậy thì phải đặt vấn đề luân lý tính dục. Bá nói.
      - Nêu lên vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, tôi chỉ muốn dùng nó làm cơ hội nhắc nhở anh em nên tỉnh thức, nghiệm xét mọi sự. Người ta đang nhố nhăng kêu gào, cổ võ, chống đối theo ý thích một cách vô ý thức. Họ lợi dụng sự việc nào đó để có công ăn việc làm, để kiếm tiền, để thoả mãn nhu cầu của họ dưới những danh hiệu, mục đích đao to búa lớn. Cả hai phe chống đối hoặc ủng hộ không nhắc nhở gì tới luân lý tính dục, tất nhiên nơi vô thức đã tự động chấp nhận điều được gọi là “Tình cho không biếu không” thì sao có thể giải quyết dự luật phá thai, nên hay không nên dùng tiền thuế của dân để trả tiền phá thai cho bất cứ ai. Xét lại nơi hiện trạng nhận thức, chúng ta có lẽ vì ỷ lại hoặc lười suy tư, quá quen thói chấp nhận sự thường, thành ra thiếu khả năng nghiệm xét; thế nên, luôn có thái độ nương nương mà sống cho qua kiếp người, luôn lần mò áp dụng bản năng của loài đà điểu, chui đầu vô bụi rậm, nhắm mắt lại tưởng rằng không nhìn, không nghe thấy thì sẽ chẳng có gì xảy đến với mình.
       
      Không hiểu sao tối nay cụ Tài giáng đòn cân não quá nặng nề đối với nhóm nhậu. Đưa lên hai câu nói nghịch thường nhưng lại được thường tình áp dụng thách đố họ nhận thức, lại còn quất thêm nguyên nhân sự thể gốc gác của sự việc thiên hạ nhố nhăng lạm dụng vì ý đồ nào đó. Người ngoài cuộc thấy thế cũng chóng mặt phương chi mấy tướng nhóm nhậu bụng dạ đầy ắp rượu chè, thịt chó. Thế mà ai nấy im re không dám quen thói diễu như những lần họp mặt kỳ trước.
      - Thưa bác, như vậy, nên hoặc phải giải quyết cách nào? Sỹ ngập ngừng.
      - Anh nói giải quyết điều chi? Tôi đâu đặt vấn đề cho anh em giải quyết mà chỉ nêu lên với chủ đích kích thích tính chất để ý nhận định sự thể và sự việc trong cuộc sống. Nếu chúng ta để ý nhận định bất cứ phương diện nào của một sự kiện xảy đến nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận thức sự việc như chính nó hầu tránh thói quen hàm hồ nghe sao tưởng là vậy và đã vội cho rằng sự thể chỉ có thế, dẫn đến nhận định hoặc quyết định sai lầm, vô minh. Trường hợp cá nhân, gia đình, khi đã nhận ra nguyên nhân của sự thể, tất nhiên quý anh chị sẽ biết phải hướng dẫn con cái ra sao tránh trường hợp rơi vào trạng thái trói lại mà đánh khen hay chịu đòn. Riêng hôm nay, e rằng nỗi phấn kích phát sinh từ món quốc hồn quốc túy nơi âm phủ chẳng biết có hay không hòa nhập với thánh nọ thánh kia, lại thêm phần hứng khởi của văn nghệ văn gừng khiến lòng ruột lãng đãng, nên tôi phải nêu lên vấn đề may ra tâm trí anh em thoát khỏi cõi vô minh.
      - Bài học nào không phải trả giá, niềm mơ nào không mang giá phải trả. Bá lập lờ ngâm, đời đáng chán hay không đáng chán, cuộc sinh tồn vẫn lững lờ trôi, an nhiên, tự tại mấy người.
      - Anh Bá nói đúng. Nơi dòng sinh hóa bất tận, một tâm hồn sẽ mang nặng niềm ưu uất khi không chấp nhận sự hiện hữu buồn nản được lặp đi lặp lại thường ngày, ăn, ngủ, làm lụng kiếm sống không chi thay đổi nên khi có cơ hội, tâm thức vùng lên kiếm tìm một ý nghĩa hay đường hướng vươn lên hầu nhận ra giá trị thực thể sự hiện hữu của mình. Chẳng lẽ mình được sinh ra, cả đời phải lo toan miếng cơm manh áo rồi chết vào quên lãng như đã chưa từng bao giờ hiện hữu nơi cõi nhân sinh. Như chúng ta đã biết, chính lòng khát khao không chấp nhận nhưng muốn nhận biết và giành lại quyền giải quyết vận mệnh của mình, đã thôi thúc con người tìm hiểu lẽ sinh tồn và giá trị của quãng thời gian hiện hữu được gọi là cuộc đời mỗi người. Đây là căn nguyên phát sinh nhận thức tâm linh được gọi là đạo học, và từ nhận thức này nảy nở hành trình nghiệm chứng dẫn đến những phương cách thực hành thường được gọi là pháp. Nơi phương diện tu chứng Ấn học, sự thực hành này được gọi là Yoga và anh em đã biết có nhiều pháp môn Yoga tùy thuộc quan niệm cũng như trình độ của hành giả.
      - Thưa bác, dẫu trình độ của con người khác nhau, thế sao không có một pháp môn Yoga chung nào đi từ dễ đến khó, từ sơ căn tới mức thiện toàn để hành giả tùy nghi thực hành cho hợp với trình độ của họ hầu tiếp tục thăng tiến? Phủ từ trước tới giờ ít nói bỗng lên tiếng.
      - Hỏi là đã tự trả lời. Anh nhận nhiệm vụ thuyết pháp về Yoga phải không? Hèn chi dùng được ngôn từ pháp môn. Nơi nhà Phật, chỉ mỗi một pháp “Kiến tính thành Phật;” thế sao biết bao tín đồ, bao nhiêu hành giả, bao nhiêu phật chưa thành mà vẫn đầy rẫy chùa chiền, cúng kiến, vái lạy, xin sâm, trừ tà, truyền tâm ấn khói lên. Phật tâm, Phật tính, tâm bất sinh sẵn sàng nơi mọi người sao vẫn còn hành giả, hành thiệt. Chú Sỹ, chú hành thiệt như thế nào, có thể nói cho mọi người biết không?
      Mọi người phá lên cười khi nghe thấy cụ Tài nhắc lại lời nói tửng tửng của Sỹ.
      - Cần chi phải hỏi hắn, cứ nhìn lũ nhóc thì biết hắn hành thiệt thế nào. Bá nói.
      Lại thêm một tràng cười rộ như muốn phá bung mấy cửa kiếng nơi tường. Ngược lại hắn tỏ ra nghiêm chỉnh như đang phải đối diện với quan tòa khắt khe, lên giọng,
      - Thưa bác, nhà con đã phải tốn hao biết bao công phu tu luyện mà vẫn thua vợ chồng Phủ hai mống. Có nhà cháu đang ngồi đây làm chứng; nào là vợ đẻ chồng đau, nào khi tối lửa tắt đèn chạy thày, lấy thuốc, em bu lăng (Ambulance), em bu lung khói lên, nào nay nhà trường gọi con trốn học bỏ đi chơi, mai hàng xóm la lối mấy tên giặc oánh lộn. Nhà con nghĩ, với những công sức hành thiệt như thế, chắc chắn phải thành chánh quả ngồi chễm chệ trên niết bàn tha hồ hưởng xôi oản cúng kiếng sau này. Sỹ được trớn ba hoa.
      - Xôi thì có, nhưng oản chẳng biết còn nước non gì chăng. Ty nói trầm trầm.
      - Ơ cái ông này, thế ông không biết rằng các cụ thường nói, càng già càng dẻo, càng dai sao.
      - Mấy cái ông quỷ này ăn nói tục tĩu. Chị Hoa lên tiếng.
      - Chị nói sao! Không tục làm sao có thánh, cũng như không thân làm sao có thần, và không thần sao có Phật. Chứ tôi hỏi chị, không tục sao có con gọi bằng mẹ, cháu gọi bằng bà? Không tục sao có chị ngồi đấy và tôi ngồi đây. Đã cho là tục mà cố tình vấp phạm thì vẫn còn vô minh, Phật sao hiển lộ. Sỹ được nước, xả một hơi.
      - Biết dzồi, biết dzồi, nói mãi, nói dai, nói dài, nói dại. Nói riết bay hết hơi men chỉ tốn thêm bia, nào được ích chi! Ty chặn Sỹ.
      - Mình phải thức ngộ, phải biết mình đang làm gì, và còn hơn thế nữa, phải biết mình đang nghĩ gì mới có thể nghiệm chứng, mới thoát được vòng vô minh. Sỹ cố níu kéo chứng tỏ sự hiểu biết.
      - Vâng thưa ông, có thoát được vòng vô minh thì cũng vẫn tối như đêm ba mươi. Ty nói.
      - Đủ rồi, chú Sỹ. Ai cũng biết chú đã thức ngộ chứ chưa ngủ ngộ nên mời chú im lặng cho mọi người nhờ. Hướng qua cụ Tài, ông Thung tiếp tục, xin mời cụ giải thích về các phép Yoga.
      - Sao lại là phép dzô ga, ra ga, phải là pháp môn Yoga chứ không phải phép bùa. Sỹ hăm hở.
       
      - Sở dĩ có những pháp môn Yoga khác nhau cũng chỉ vì quan niệm một Thượng Đế hữu ngã được gọi là Brahma dẫu cho rằng hồn của mỗi người được gọi là Atman là một phần của Thượng Đế Brahma. Ngay như nơi Phật học, chỉ cần kiến tính thành Phật thì cầu xin, vái lạy với đấng nào. Xét như thế, chính những nhận thức thế tục về chủ thể hiện hữu đã là đầu mối cho sự bành trướng những tổ chức mang danh hiệu và đường lối thực hành riêng biệt. Và để hệ thống hóa tổ chức, tất nhiên cần đến nghi thức song hành cùng lề luật được kiến tạo với mục đích quản trị hệ thống những tổ chức nhân sinh. Dẫu mọi Phật tử đều thuộc nằm lòng câu nói của đức Thích Ca, “Trong 49 năm rao giảng, ta chưa từng nói lời nào,” thế sao hầu hết các nhà rao giảng, các sư sãi thuộc về Phật giáo đều công truyền rằng vì thấy con người khốn khổ nơi vòng sinh bệnh lão tử nên đức Thế Tôn bỏ ngai vàng, vợ con, bỏ cuộc đời vàng son tu chứng giác ngộ giải thoát chúng sinh. Thêm vào đó, những lời rao truyền của bậc giác ngộ trãi qua thời gian, trước hết bị tam sao thất bổn, sau lại bị nhận thức hạn hẹp thế tục làm cho méo mó, đồng thời tham vọng truyền bá cho mọi giới nên cố dùng nhận thức thế tục muốn biến con khỉ thành nhạc sĩ; do đó cải biện giáo lý thành lề luật, thành thứ mì ăn liền khiến tín đồ yên tâm cho rằng chỉ cần tuân theo những nghi thức, những giới luật phải giữ sẽ được giải thoát, thức ngộ. Tất nhiên, nhiều người, lắm ý; trong trường hợp trời không chịu đất thì đất cũng không chịu trói; thuở ban đầu từ một tổ chức, dần theo thời gian bị phân chia thành nhiều tông phái, truyền thống. Xét như thế, anh em có thể hiểu tại sao có những danh hiệu, Nam Tông, Bắc Tông, Đại Thừa, Tiểu Thừa, v.v... Cụ Tài nhẹ nhàng giải thích một hồi, đoạn nâng ly trà nhấp giọng. Mượn cơ hội này, Sỹ đã vội chen vô,
      - Thưa bác, thế sao nơi sách vở có người cho rằng Tiểu Thừa chỉ đạt tới hạnh bồ tát, còn Đại Thừa mới đạt niết bàn?
      - Có ai trả lời được không? Nhưng phải hợp lý, hợp tình; nói có sách, mách phải có chứng. Cụ Tài nhìn quanh thái độ chừng như thách đố.
      Đáng đời! Các tướng xưa nay quen thói tào lao, dùng mọi đối tượng làm đề tài diễu, từ thần thánh đến quỷ ma, hầu có được đôi phút thoải mái tâm tư sau những ngày miệt mài với công việc lo kiếm miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình. Hiện trạng này không phải chỉ giới hạn nơi các nhóm bạn bè đàn đúm mà còn là một phong trào mạnh mẽ bành trướng lan tràn trên những băng tần vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Hình như con người thời đại này mang nặng tâm trạng ưu uất do phải đối diện với cuộc đời thăng trầm, biến đổi không ngừng nên khao khát những niềm vui diễu cợt nhẹ nhàng thoáng qua may ra giảm bớt căng thẳng tâm tư được chừng nào hay chừng nấy. Thực ra, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (N. Du). Nếu lòng đã buồn, càng đối diện với cảnh vui thì sau giây phút hờ hững tạm vui, lòng càng chìm sâu nơi nỗi buồn khổ ải khi con người trở lại với chính mình. Thực trạng này chẳng khác gì mượn rượu hầu mong giải sầu, ai ngờ sầu lại càng sầu. Mấy miệng nhanh nhẩu chợt cảm thấy chẳng khác gì mõm ngựa bị bộ cương khóa, hết đường ngó ngoáy.
      - Người hỏi tự đã có câu trả lời. Bá chọc Sỹ.
      - Tớ không biết mới hỏi. Nếu đã có câu trả lời, ai hỏi làm chi.
      - Muốn biết phải hỏi Trạng Quỳnh, cho đại cấm tiểu, ha ha, Phủ phá ngang đoạn cười lớn.
      - Anh Hưng, cụ Tài nhắc. Anh diễn thuyết về Phật học mà.
      - Thưa bác, giọng Hưng ngập ngừng. Cứ theo lục tổ Huệ Năng, "Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184), thì đâu có gì mà đạt nhưng lại trở về với chính mình, lau gương để hiện rõ bổn lai diện mục thì dẫu đạt niết bàn hay đạt hạnh bồ tát vẫn chưa kiến tính phương chi là Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Cháu chỉ có thể nghĩ được như thế.
      - Đó là câu trả lời đúng nhất và hay nhất mặc dầu thấy như không trả lời gì về câu hỏi liên hệ đến điểm đích của Đại Thừa hoặc Tiểu Thừa. Riêng vấn đề người ta nói hoặc tác giả này, tác giả kia viết thì đâu có phải là ý kiến hoặc nhận thức của chúng ta. Quý anh em vẫn để lòng trí luẩn quẩn nơi ngôn từ được mượn để thiết lập câu hỏi. Điều này nói lên anh em vẫn còn lệ thuộc nơi những lý thuyết, những giáo lý, những quan niệm nhân sinh thế tục. Có lẽ đây là lý do đã khiến ông Thung yêu cầu tôi giải thích về các pháp môn Yoga. Tôi sẽ giải thích nhưng nói trước với anh em, khi anh em còn nghĩ về chúng thì nên nhớ rằng chúng không phải là hành trình kiến tính của anh em, mà là của người khác. Nói cách khác, chúng chỉ là phương tiện để anh em dùng mà so sánh với nghiệm chứng nơi cuộc đời của mình.
      - Chuyên tâm nhận định một chút, chúng ta sẽ thấy rõ một điểm đó là tùy theo trình độ nhận thức mà các nhà sáng lập tông phái kiến tạo các pháp. Điều này có nghĩa các pháp là sản phẩm của nghiệm chứng và nhận thức. Như vậy, các pháp cũng là công thức thực hành đã được thực chứng do một số hành giả tiên khởi của tông phái và được ghi chép lại cho hành giả hậu thế đỡ tốn công sức khai phá. Tuy nhiên, kết quả tu chứng theo các pháp môn chắc chắn bị ảnh hưởng bởi một số điều kiện chẳng hạn như căn cơ của hành giả, môi trường tu chứng, tâm trí cũng như cơ thể người thực hành. Bởi thế, dẫu trong một tông, phái, cùng thực hành cùng một pháp môn, sự thành đạt của mỗi hành giả ra sao chỉ y biết. Nơi hành trình tâm linh, thành quả nghiệm chứng, tu chứng theo pháp môn không giống như kết quả khoa học hay toán học, một cộng với một bằng hai, hoặc cứ hai phần hydrogen tổng hợp với một phần oxygen dưới một áp suất nào đó sẽ tạo thành nước bởi điều kiện căn bản là chính hành giả đã khác biệt cộng thêm điều kiện môi trường ảnh hưởng trên hành giả nên thành quả tất nhiên khác biệt.
       
      - Dẫu có nhiều pháp môn Yoga, tôi chỉ muốn nói đến nguyên tắc cũng như quan niệm về một đôi pháp môn thực hành. Có ai nhớ lần trước tôi kể tên bao nhiêu pháp môn Yoga không.
      - Thưa bác, hình như năm, sáu, bảy, tám, chín cái gì đó, mà những cái tên gì gì ra giô ra gi chẳng thể nào mà nhớ được. Phủ trả lời.
      - Như tôi đã nói lần trước, mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói, “Kiến Tính thành Phật.” Hãy làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được giải đáp cho mọi vấn đề. Riêng xét về Yoga, chúng ta thường dùng sai ngôn từ hoặc hiểu sai ngôn từ để chỉ về nó. Cụ Tài chợt ngưng nói, quay qua Hưng,
      - Anh Hưng, anh làm ơn ra xe lấy dùm tôi cuốn sách đang để ở ghế tôi ngồi lúc nãy. Đoạn cụ tiếp tục,
      - Yoga bao gồm nhiều môn học từ thiên văn, địa lý, triết học, toán học; trong đó hai ngành đặc biệt về tập luyện xác thân được gọi là Hatha Yoga và Kriyâ Yoga. Đọc nơi sách vở, đôi khi Kriyâ Yoga còn được gọi là Râja Yoga. Cũng nơi sách vở, chúng ta biết, tất cả các đạo học đều phát xuất từ Đông Phương, bởi đó tâm tình mộ đạo phát triển mạnh mẽ. Giống như mọi dân tộc Đông Phương, tôn giáo là lẽ sống của người dân Ấn Độ. Lòng khát khao tìm sự giác ngộ tâm linh để hưởng lạc thú tinh thần được coi là khá mạnh mẽ. Chẳng thế mà họ có thể chịu đựng cảnh sống nghèo nàn lại phải đương đầu với những thiên tai, hạn hán hằng năm xảy đến cũng như nhẫn nhục chấp nhận sự hà khắc của quan quyền thống trị họ.
      Hưng đã mang vào cuốn sách, hai tay trao cho cụ Tài. Cụ lật mấy trang đầu đoạn nói,
      - Để tôi đọc một vài đoạn nơi cuốn sách này giải thích về pháp môn Kriyâ Yoga cho anh em nghe. Trước hết, lý do nào hoặc quan niệm, nhận định nào bậc Yogi tập luyện thể xác. Nơi sách được viết, “Thể xác của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 watts, không thể chịu nổi một điện thế một triệu volts gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp môn Kriyâ Yoga. Sự gia tăng một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mạnh mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của tinh thần” (XPHB tr.5). Và cách thực hành được giải thích như sau, “Hành giả (Yogi) dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung hoàng đạo tượng trưng vũ trụ trong con người (tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường (XPHB tr.4).
       
      Một cánh tay giơ lên khiến mọi người ngạc nhiên, lại là cánh tay của chàng thích phá đám Sỹ nhà con khiến mọi người cảm thấy hơi khó chịu.
      - Thưa bác, nếu chỉ nửa phút mà đã đạt được sự tiến hóa tâm linh tương đương với một năm của người bình thường thì chỉ cần vài ngày đã có thể thức ngộ.
      - Ông phải xin ghi danh vô học lớp mẫu giáo đi là vừa. Cái chứng chỉ hai năm kỹ thuật của ông có lẽ chó gặm tan mất rồi còn đâu mà ý kiến với ý bọ. Ông thử tính xem nếu so sánh 50 watts với luồng điện một triệu volts và cường độ sơ sơ vài trăm ampère thì phải bao nhiêu phút ông mới “điện năng,” phương chi là thức ngộ.
      - Thế chú mày muốn sống được bao nhiêu tuổi mà đòi giô ga, ra ga? Cứ tính sơ sơ dòng điện 200 ampère với điện thế một triệu volts thì mới có bốn triệu cái nửa phút tức là hai triệu phút; thế giờ đâu cho chú mày ăn nhậu, chơi bời, đàn đúm; giờ đâu khiến vợ đẻ chồng đau; giờ đâu đánh tôm, bắt cá kiếm tiền trả bill, trả bọng. Xin chú mày làm ơn ngồi im cho bà con nhờ. Phủ lửng thửng lên giọng kẻ cả.
      - Nhưng sách viết lung tung khiến nhà con điếc cái tai chịu không được.
      - Đó là giấu hiệu đáng mừng, cụ Tài lên tiếng. Mới thoạt nghe mà đã thấy khó chấp nhận tức là ít nhất đã có suy nghĩ, nhận định. Có điều các anh nên để ý; như tôi đã nói, mọi sự thực hành phát sinh từ quan niệm tiến dần đến nhận định, tu chứng. Những gì được ghi lại chỉ là lý thuyết giải thích mà thôi. Để tôi đọc tiếp, đạo sư Pâtanjali viết như sau, “Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM. Pâtanjali cho rằng Thượng Đế tức là sự rung động trong vũ trụ của thánh ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi thiêng liêng (XPHB tr.3).Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi với đấng thiêng liêng như thế, tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân y làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động. Hành giả (Yogi) hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức của y hòa hợp với thiêng liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh mình (XPHB tr.4).
      - Sri Yukteswar trình bày, “Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo sĩ (Yogi) đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở. Nguồn sinh lực của con người lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hành pháp môn Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở. (XPHB tr.4). Kriyâ Yoga có nghĩa Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động. (XPHB tr.1). Hành giả của pháp môn Kriyâ Yoga quan niệm rằng đó là một phương pháp giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ thần kinh tủy não. Kriyâ Yoga có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chận sự tích tụ của máu đen. Những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Theo truyền thuyết, pháp môn Kriyâ Yoga đã xuất hiện từ xa xưa, nhiều ngàn năm, đức Krishna, một vị tiên tri lớn nhất của Ấn Độ, đã truyền dạy cho Arjuna, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh Bhagavad Gita, “Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công pranâyama” (XPHB tr.2). Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những hành giả đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng phát triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.
       
      - Thưa bác, nếu như thế thì mình đâu cần phải biết bởi vì cái biết này cũng như không, chẳng khác gì ăn bánh vẽ. Cháu nghĩ rằng chính tác giả của những lời này cũng không biết gì về cái gọi là Râja hoặc prana Yoga. Hơn nữa, lại đưa thêm điều kiện cần phải có những người đã thực hành để chỉ dẫn cộng thêm lại phải được chuẩn bị từ thể xác đến tinh thần. Tìm đâu ra người đã thực hành! Sự này chẳng khác gì bảo rằng nếu tập luyện sẽ bay được như chim trong khi không được sinh ra với đôi cánh. Đàng khác, giờ giấc nào để tập luyện trong khi đầu tắt mặt tối kiếm miếng cơm, manh áo cho gia đình. Như vậy, có thể chỉ những người ế ẩm, ngay cả những mụ đui, hủi, què, cụt cũng chê mới có thể luyện Yoga mà thôi...
      - Ai chả biết thừa bộ mặt nát như mặt thớt của ông, cần gì phải quảng cáo. Thôi thì hãy cứ bằng lòng với bộ niết bàn của nhà ông mà hưởng xôi, hành oản, hành thiền, mắc mớ chi phải phiền hà với giô ra vớ vẩn cho mệt cái miệng, phiền đến những cái tai của thiên hạ.
      Không hiểu sao hôm nay Bá cứ nhè Sỹ mà đấu. Dẫu nhóm nhậu xưa nay đã quen thói bới móc mọi khía cạnh của bất cứ ai, dù thần thánh nào để mọi người có cái cười chung vui. Dĩ nhiên, với bạn bè quen biết lâu ngày, diễu như thế cũng chẳng sao bởi không ai xét nét, chấp chiếm những lời nói dựng đứng hầu như kết án hoặc bêu riếu. Quả là khó hiểu.
      - Anh Sỹ nói cũng có lý, cụ Tài lên tiếng, nhưng cái lý của anh chỉ chứng tỏ một tâm hồn vẫn nặng nề nông nổi, chưa an định. Nơi cuộc đời, biết bao chuyện được quảng cáo, khuyến dụ chẳng liên hệ gì tới mình; nếu để chúng ảnh hưởng tới tâm trí, có lẽ chúng ta không có giờ để ăn hay ngủ. Thực tế nhan nhản những loại quảng cáo này. Nói đúng ra, chẳng phải bây giờ chuyện mới xảy đến mà đã từ ngàn xưa. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao, chúng ta thấy câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Anh Sỹ, anh có bị phiền hà khi gặp người tuyên truyền con ba ba là con trạnh hay con rùa không?
      - Thưa bác, Sỹ vội chộp cơ hội để nói, hình như ngữ này không nói được thì ăn không ngon, ngủ không yên, nên có dịp hay không cũng chẳng chịu để cặp môi ăn da non e chúng liền lại thì khổ. Đối với con ba ba, người ta cho rằng con trạnh hay con rùa sẽ không ảnh hưởng gì tới cháu vì cháu đã thực chứng được con ba ba như thế nào, nhậu tuyệt ra sao. Nhưng với loại giô ra, cháu chưa bao giờ được thực chứng nên mới thắc mắc.
      - Anh không thắc mắc về những pháp môn được người ta quảng cáo đâu. Anh thắc mắc vì muốn có quyền năng như người ta quảng cáo trong khi không phải làm gì hoặc thực hành sơ sơ một chút sẽ có thể đạt được. Trường hợp anh nói đã thực chứng con ba ba thế nào nên không bị ảnh hưởng bởi những lời tuyên truyền, quảng cáo; điều mà chính những người tuyên truyền không biết lại chỉ càng chứng tỏ sự thiếu tự nhận thức về bản thân mà thôi. Sỹ ra hiệu muốn nói nhưng cụ Tài đưa tay ngăn lại và tiếp tục. Nói có sách, mách phải có chứng; nếu anh thử tự hỏi biết bao vấn đề xảy đến chung quanh cũng như những tin tức nghe được hoặc mơ mộng anh hằng luôn ấp ủ, phỏng đã có những gì anh thực chứng mà chúng vẫn hình như không khuấy động tâm trí anh đến độ phải đặt thành vấn đề giải quyết.
      - Đồng ý rằng tác giả những đoạn sách tôi vừa đọc không thể nói lên phương thức thực nghiệm Kriyâ Yoga cũng như kết quả thực chứng chính tác giả đã đạt được tới trình độ nào; điều này chứng tỏ sự thể mà anh nêu lên là trình bày chiếc bánh vẽ, vô bổ, chỉ thuộc loại quảng cáo, tuyên truyền, nhưng nào có chi ảnh hưởng đến bất cứ ai nếu lòng đã an định, không bị chi phối bởi chính ngay ý nghĩ, ước muốn của mình. Thử xét trường hợp câu Phúc Âm, “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi; kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn 14:12). Anh tin vào Thiên Chúa, anh thực sự tin theo đức Giêsu phải không! Anh cũng thực sự tin rằng lời Phúc Âm không tuyên truyền giống như những gì tôi vừa đọc từ cuốn sách phải không? Thế anh đã làm được những gì như lời Phúc Âm bảo có thể làm như đức Giêsu? Và đã bao nhiêu người tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu như anh; chẳng những thế lại đương đường công bố, rao giảng, và khuyến dụ người ta tin theo đức Giêsu, thế sao chẳng ai thực hiện được như lời Phúc Âm đã nói. Thế sao nó không làm phiền lòng anh? Hoặc anh cho rằng Phúc Âm viết những điều không tưởng nên chẳng thèm để ý cho khỏi phiền lòng? Anh thử nói coi, cả đời theo đạo, tin theo đức Giêsu, anh đã nghiệm chứng được gì nơi Phúc Âm, phương chi anh mới chỉ lần đầu nghe câu tuyên truyền, tạm gọi như thế, về Yoga, Yogi.
      - Nói người phải nghĩ đến ta, đưa tay rờ gáy mới là người khôn. “Talk, talk, talk cho lắm vào,” không biết mình nói gì mà cũng cứ nói. Nhưng không biết có im miệng được chăng hay cứ vẫn tội chết không chừa mà cố ham cùi dừa, bánh đa. Giọng Ty trầm trầm nổi lên khiến mọi người liếc Sỹ; có kẻ ra dấu chọc quê.
      - Chưa chứng được thì tớ cũng đã là Phật, dẫu Phật chưa thành đâu có sao! Thế mà hắn vẫn tơn tơn như chẳng có gì ảnh hưởng. Mở chai bia, hắn tỉnh queo tu một hơi thoải mái.
       
      Mọi người giật mình; nỗi thao thức nào đó chợt hiện về nơi tâm não. Chỉ đôi lời thách đố về nghiệm chứng lòng tin nơi Phúc Âm đã như mũi tên xuyên thấu lòng ruột. Biết nói sao khi đã bao ngày tháng theo đạo mà lời Kinh Thánh vẫn cứ như ngây, như ngô tựa từ khoảng trời xa thẳm mông lung vô định chẳng gì liên hệ đến người tự nhận tin theo. Có tật, giật mình, mấy tướng theo đạo Phật cũng thế. Có mỗi mấy chữ, kiến tính thành Phật mà giỏi lắm cũng chỉ biết lặp đi, lặp lại cho có vẻ Phật tử. Nào những khuyến dụ đạo đức, ăn chay niệm Phật, nào những từ tâm, từ bi, từ hòn, nào những cúng bái lễ Phật ngày rằm, ngày giỗ, sao thực hiện hoài mà chẳng thấy gì được gọi kiến tính. Những lời thách đố của các bậc thức ngộ như gợi về đày đọa tâm trí những kẻ tin tưởng. Phỏng những lời đó là những chiếc bánh vẽ như Sỹ nhà con ám định. Nhưng nếu chúng chỉ là những chiếc bánh vẽ sao có thể ngự trị nơi tâm hồn những người tin theo từ thế hệ này qua thế hệ khác! Phỏng con người tin theo vì nỗi lo sợ nào đó nên cũng ráng tổn ải chút ít hầu trấn an tâm hồn hoang mang, vô định hướng. Quả là càng biết càng phiền. Đức Thích Ca bảo chớ vội tin những lời ngài nói nhưng hãy nghiệm chứng mới trở nên Phật đã thành. Đức Giêsu phán kẻ nào tin vào ngài, thì các việc ngài làm kẻ ấy cũng sẽ làm. Nghiệm chứng, tin là thế nào mà thành với chẳng thành, làm được với không làm được. Nay nghe đến những pháp môn đòi hỏi luyện thân xác, luyện trí tuệ, trí huệ, nào thày dạy, nào bực chân nhân hướng dẫn lại càng rối mù cả lên. Chỉ cần nghiệm, chỉ cần tin đã không xong phương chi pháp nọ, thiền kia coi chừng chỉ chết đói. Hừ, chẳng nghiệm, chẳng tin chưa chết thằng tây nào nhưng thiếu một bữa ăn thì bầy con kêu gào rối tung lên ngay lập tức. Ôi phận người, cái khó bó cái khôn, nhưng sao lại diệt dục, diệt ước mơ, ham muốn. Chẳng ham muốn ăn thì vẫn phải ăn; không ăn sẽ chết đói, và khi đói thì đầu gối phải bò còn đâu ngày giờ để nghiệm, để tin. Không chấp nhận thân phận con người thì đã là người; tránh trời không khỏi nắng. Ngược lại, nỗi thao thức nào đó vẫn miên tục thách đố; lòng khát khao nhận biết giá trị kiếp người vẫn hằng thúc dục tâm trí tìm đường giải quyết. Trận chiến nội tâm chợt bùng nổ khiến lòng ruột các tướng xôn xao, giao động để rồi những chiếc miệng quen thói ba hoa im như miệng hến tạo bầu khí thinh lặng nặng nề.
       
      Cụ Tài chẳng ngờ kết quả của việc dùng câu Phúc Âm thách đố nhóm nhậu đã tạo nên trạng thái im lặng của mấy tướng coi trời bằng vung này. Thích bới bèo ra bọ để diễu như Sỹ nhà con mà cũng hết ngó ngoáy thì còn ai có thể kiếm cớ phá ngang. Cụ nhẹ nhàng hỏi,
      - Sao im lặng thế?
      - Thưa bác, bác chọc đúng huyệt tụi con, Phủ chầm chậm trả lời. Bác đặt vấn đề về kết quả của sự tin theo đức Giêsu nơi Phúc Âm khiến cháu cảm thấy trống rỗng vì đã bao lâu rồi, nói cho đúng, chỉ biết tuyên xưng rằng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu, tin vào hội thánh nhưng thực tế minh chứng chỉ là một sự tuyên xưng, một sự lặp lại giống như quen thói dùng những câu tục ngữ in sâu nơi tâm trí đến độ nằm lòng để rồi không bao giờ đặt vấn đề mình tin theo gì, tin thế nào, và thế nào thì được gọi là tin, phương chi nói đến làm được những việc như đức Giêsu. Vẫn biết rằng cần nghiệm chứng những câu nói nơi Phúc Âm nhưng nghiệm thế nào, nghiệm ra sao thì đành bí tịt. Đi nhà thờ nghe các cha giảng phải tin vào Chúa, phải tin vào đức Giêsu, tin nơi giáo Hội, thì chỉ biết thế chứ các cha có giải thích tin như thế nào hoặc thế nào thì được gọi là tin đâu. Hơn nữa, cháu chưa bao giờ được nghe bất cứ linh mục nào nói hoặc giải thích về mức độ của lòng tin; điều này có nghĩa, phải làm gì thì đạt đến mức độ tin như thế nào, thành quả ra sao. Tất cả chỉ tin, tin, tin, không hơn, không kém.
      - Anh vừa trình bày nhận thức nơi nghiệm chứng về thực thể trống rỗng của lòng tin của mình. Ai có thêm nhận định nghiệm chứng nào nữa không?
      - Thưa bác, Hưng lên tiếng, khi bác nhắc tới tin vào đức Giêsu khiến cháu liên tưởng tới câu nói của đức Thích Ca, ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật chưa thành. Tuy nhiên, khi nghĩ đến câu nói của lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật, hình như có sự rắc rối nào lẩn quất ngăn cách hai câu nói này. Nói rằng kiến tính thành Phật thì Phật đã ở nơi mình rồi. Nói như vậy cũng không đúng, bởi Chân Như, Phật tính đều vô ngã; cho nên phải nói mình là Phật. Như vậy, mắc mớ chi phải kiến, phải tìm, phải làm gì. Chẳng lẽ không kiến tính thì mình là con bò, con chó ư? Thế mà lại thêm nào tu chứng, nào nghiệm chứng, nào hành giả, hành thiệt, hạnh nọ, hạnh kia, bồ tát, bồ múc, tam bảo, cúng dường, bái phật, ăn chay, ăn mặn, đi chùa, đảnh lễ rối lên. Cháu chỉ đọc được lục tổ Huệ Năng giã gạo, nhờ người viết kệ lên tường chứ không thấy sách vở nào chép lục tổ đảnh lễ Phật hoặc cúng đường hay đi chùa nào, ăn chay ăn mặn ra sao hoặc thực thi hạnh bồ tát, bồ nông nào mà chỉ kiến tính thành Phật. Một điều cứ luẩn quẩn trong đầu cháu đó là vấn đề ăn chay. Đã chắc gì ăn chay niệm Phật giải thoát tâm tư con người hơn ăn mặn nếu không muốn nói lại nhấn chìm tâm thức con người nơi vòng thị dục. Nói ra có vẻ hơi quá, nhưng thử xét nơi phương thức ăn chay. Nếu muốn ăn giò, ăn chả thì đã chết ai đâu, mắc mớ gì phải dùng đậu phụ thêm gia vị vô rồi giả làm giò để ăn như giò, hoặc như gà, như cá. Có phải cái thị dục muốn ăn như ăn cá, ăn giò, đã quá nặng nề ám ảnh nơi tâm trí người ăn chay đến nỗi phải tốn thêm tiền xài của giả để rồi cứ tưởng đang an hưởng đồ thật. Cái tâm trí này chỉ tạo nên nhận thức bệnh hoạn, chìm trong cái dục nên không nhận ra mình đang chạy theo dục vọng ăn uống.
       
       
      Nói một hơi, Hưng thờ dài, đoạn lẩm nhẩm như người thú tội,
      - Sao con người luẩn quẩn trong vòng khổ ải đến thế, lợi lộc chi khi xuôi tay nhắm mắt.
      - Có lợi chứ, không lợi ai mà làm, lợi cho người nấu cơm chay. Bá lên tiếng diễu cợt.
      - Theo kinh nghiệm sống chúng ta thấy, cụ Tài nói tiếp, muốn có gì, muốn đạt được gì, chúng ta phải thực hiện gì và thường thì phải trả giá như thế nào. Chính vì cho rằng Thượng Đế ở bên ngoài như một quyền lực cả thể, con người phải tập luyện để chuẩn bị đón nhận quyền lực này. Một khi đã nhận định rõ ràng như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nghe được biết bao vị nọ, thánh kia đã tiêu pha cả cuộc đời mong phát triển, nói cách khác, đạt được mộng tưởng hoặc do chính mình đề đạt hoặc do kẻ khác truyền bá. Dĩ nhiên nơi phương diện thể chất, những sự luyện tập này mang lại thành quả chẳng khác gì tập thể dục, thể thao, mà có thể hơn thế nữa, chính sự chịu đựng khổ luyện kiến tạo nơi con người năng lực bền bỉ dẻo dai hơn kẻ khác. Xét kỹ hơn, do chuyên nhất đào luyện, nơi phương diện nào đó con người vô tình phát triển một vài khả năng sẵn có để rồi cho rằng cứ thực hiện như thế sẽ đạt được như vậy. Người này truyền tụng đến kẻ khác trải qua thế hệ này, nối tiếp thế hệ khác kiến tạo nên pháp môn. Có thể rằng với mục đích quảng bá để cổ võ cho pháp môn bành trướng hoặc bởi ngại ngùng giải thích cho những đầu óc chỉ muốn biết để mà biết, người ta đã không ngần ngại tạo dựng nên những huyền thoại cho rằng do thần này, vị thánh kia rao truyền như thế.
      - Nhưng thưa bác, Tình hỏi, sao người ta không chịu khó tìm hiểu trước khi chọn cho mình một đường lối thực nghiệm phù hợp?
      - Câu trả lời đúng nhất là tự xét nơi trường hợp chính mình. Ngay như anh em, ít nhất tương đối là những người mang đầu óc suy nghĩ thì thử hỏi, anh em đã suy nghĩ được những gì, đã tìm tòi, học hỏi được bao nhiêu, và đã có thể kiếm tìm được lý thuyết hoặc phương pháp nào để thực nghiệm thăng tiến tâm linh cho mình chưa, phương chi những người bình thường không chịu tìm hiểu hoặc luôn phải lo lắng miếng cơm manh áo cho cuộc sống. Có điều anh em nên nhận định cho rõ ràng; luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích chung cho xã hội tùy nơi, tùy thời. Luật lệ tôn giáo chính thức phải chuẩn bị cho con người thăng tiến tâm linh nhưng chỉ vì nhận thức theo nghĩa phàm tục nên lại trở thành công cụ cổ võ cho luân lý thế tục. Tương tự như thế, những nghi thức tôn giáo phải là phương tiện giúp con người nâng lòng hướng chiều về thực thể hiện hữu tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật lại trở thành phương tiện cúng bái, chúc tụng, cầu xin. Nói như thế cũng hơi quá bởi vì đa số quần chúng đã không được hướng dẫn nên không để ý nhận thức về thực thể bản thân mình nên dễ dàng mở rộng lòng cho mê tín dị đoan, hoặc tâm tình cầu phước nơi ước vọng có được cuộc đời tưởng tượng tạm gọi là hạnh phúc theo lối nhìn thiển cận nhân sinh. Tuy nhiên, thử hỏi có ai nhận biết được những gì tạm gọi là hạnh phúc nơi mình chưa hay là luôn luôn chỉ cảm thấy không hài hòa với cuộc đời. Tất nhiên, khi thấy mình bị bó chân, bó tay đối với ước muốn thì đành chỉ còn nước đặt niềm hy vọng quyền lực ngoại tại nào đó để tạo dựng niềm tin hầu chịu đựng cho qua kiếp sống. Và như thế có thể nói đây là nền móng cho lý thuyết tôn giáo ngự trị lòng người.
      - Nói cho đúng, những nghi thức là cơ hội giúp cho con người định tâm, hướng lòng về một điểm chuyên nhất hầu hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mọi sự nhưng chính vì đã không nhận thức sự thể này, nghi thức được coi như phương thức phải theo như thế cho lòng ruột an nhiên với ý nghĩ đã hoàn thành bổn phận. Anh em có nhớ sự giải thích của thiền sư Bankei, “Tâm định mới thực sự được gọi là hành, còn vấn đề đi chùa thì cứ đi, hành thiền thì cứ hành, mỗi ngày hành thiền, tụng niệm, vái Phật năm, ba giờ, hoặc thời gian đốt hết mười, hay hai mươi que hương cũng không sao, nhưng tâm Phật bất sinh không phải là chuyện những que hương, chùa lớn hay nhỏ, thiêng hay không. Khi chúng ta an trú trong tâm Phật thì không cần tìm giác ngộ ở bên ngoài mà mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chính là sinh hoạt của Tâm Phật” (TBS; tr.124). Anh em đã thấy lời giải thích này phần nào liên hệ tới câu nói của lục tổ Huệ Năng, “Kiến tính thành Phật,” hoặc nơi Phúc Âm, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hay hành trình dần tiến tới trạng thái vô vi, “Vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi,” (ĐĐK2; tr.245). Theo Đạo, càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi (LTTH; tr.54) được gọi là trạng thái huyền đồng chăng?
      - Thưa bác, nếu đã bớt hết, bỏ hết thì con người sẽ trở về thời tiền sử, ăn lông ở lỗ, không xe, không nhà, quần áo ăn diện cũng chẳng có, văn minh, nghệ thuật hết cơ hội phát triển; con người như ngây như ngô thì cuộc sống này buồn như vườn địa đàng đâu còn gì là sinh thú. Sỹ nhà con chụp cơ hội đế vô.
      -Anh Sỹ quả là thông minh; thế khi anh mới sinh ra có quần có áo, có nhà cửa, nghệ thuật gì không? Và rồi khi chết anh có mang theo cái được gọi là văn minh, sở hữu của anh không? Anh có nhớ ý nghĩa câu nói, “Điều gì dưới đất ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16:19) mang ý nghĩa gì đối với cuộc đời một người không? Cụ Tài chầm chậm nói một hơi.
      -Thưa bác, có đấy ạ. Tình lên tiếng với giọng khá lễ phép. Khi mới sinh ra hắn đã tự biểu diễn nghệ thuật con nhộng, xếch xy chăm phần chăm, vừa “tóp lét lại vừa bó đâm lét” đấy ạ. Kiểu nói lễ phép lại đầy diễu cợt khiến tràng cười bùng lên sau câu dí dỏm nửa tây, nửa ta khiến bầu không khí bớt căng thẳng làm ai nấy cảm thấy lòng ruột thoải mái hơn.
      - Anh em làm ơn để ý điều chính yếu đó là đạo học nói về thực thể căn bản của sự hiện hữu, kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ trãi dài theo thời gian và không gian. Từ đó, mới phát sinh ra pháp môn cho các hành giả tùy nơi, tùy thời áp dụng. Tôn giáo cũng bắt nguồn từ đạo học nhưng sự thực hành đặt căn bản trên niềm tin và tôn thờ do đó kiến tạo nghi thức. Như thế, chúng ta thấy, hình thức bên ngoài của pháp môn là Yoga, thiền, của tôn giáo là các nghi thức. Bởi vậy, căn bản của pháp môn là nhận thức, và căn bản của nghi thức là tâm tình, ý niệm, ý định, ước muốn dẫu mục đích của tất cả pháp môn hoặc nghi thức đều giúp con người nâng tâm hồn hòa nhập với thực thể hiện hữu uyên nguyên, cội nguồn mọi sự hiện hữu từ tư tưởng tới vật chất. Những sự việc, sự thể hữu hình và vô hình này được Ấn học gọi là hoạt động, sự vận chuyển, biến chuyển của thực thể tối thượng được mệnh danh Brahma, và nơi mỗi người là Atman. Chúng ta thường hiểu lầm về ngôn từ hoạt động hoặc hành động được dùng nơi Ấn học. Bình thường, chúng ta cho rằng hoạt động hay hành động là thực hiện công việc hoặc làm chuyện gì, suy tư vấn đề nào đó. Nơi Ấn học, hành động hoặc hoạt động chính là bản thể của Brahma, luôn luôn biến chuyển, biến dịch. Nhận thức như vậy, mục đích của các pháp môn lại là thúc đẩy tâm thức hành giả tiến dần tới sự hòa nhập vào giòng sinh hóa, biến chuyển tối thượng thay vì vọng theo ước muốn, ham hố nhân sinh, thế tục, hữu vi.
      - Thưa bác, như vậy đâu cần phải thiền, phải định, dzô ga, ra ga, hành giả, hành thiệt làm chi cho phiền não tâm Phật, bởi càng hành, càng mong muốn kiến tính, càng phát triển vọng tưởng. Tự căn bản, chúng sinh đã là Phật, đã là biến chuyển, sinh hóa của Brahma cho nên cứ theo lẽ tự nhiên, lỡ được sinh ra làm người, đói ăn, khát uống tự động hòa nhập vào thực thể tối thượng, tự động kiến tính, đâu cần pháp môn, tây môn, mỹ môn, cầu đảo, cầu đường, bái lạy chi cho mệt thân già phật sống này! Sỹ nhà con lại tơm tớp chen giọng.
      - Đủ dzồi, đủ dzồi!, nói thừa, nói thãi, nói mãi mà chẳng biết mình nói gì. Không hành thiệt, hành giả thì chỉ còn cách nhập quan tài chứ sao có thể nhập giòng sinh hóa, sinh động, kiến tính, bọ tính. Bá cắt ngang lý luận của Sỹ.
       
      #3
        lamongthuong 06.12.2017 13:49:38 (permalink)
         
        MBVN 11
         
        Cụ Tài cảm thấy vui vui. Mấy anh chàng ăn nói ngang ngược, bán trời không văn tự này thông minh, lanh trí, lại khá sinh động. Nói về đạo học đòi hỏi nhận thức vượt khỏi giới hạn ý nghĩa ngôn từ đồng thời cần luồn lách ngang dọc nơi phân định mù mờ giữa ham muốn, ước vọng nhân sinh với hành trình tri thức tâm linh thế mà Sỹ nhà con vừa mới dùng lý luận sơ hở bỏ quên thực thể thân phận kiếp người, nhảy vô vòng duy tâm thì đã bị Bá kéo về thực tại thân, vật, cần phải làm lụng sinh sống. Sỹ định khuyến khích ăn nhậu, sống tự nhiên, bất cần pháp môn, nghi thức; Bá nhắc nhở con người có cuộc sống nên bị cuộc đời thúc đẩy kiến tạo ham muốn. Cái thân trì kéo cái thần. Bá dùng ngôn từ hành thiệt, hành giả mang ý nghĩa bao gồm những lãnh vực khác biệt. Quả thật thông minh, lanh lợi!
        - Anh Sỹ nói đúng nhưng đúng nơi trình độ nhận thức vượt khỏi cảnh giới tham sân si của tâm thức bình thường con người. Nơi cảnh giới này, Lão học gọi là vô vi; vô cầu, vô công, vô danh. Bởi nhận thực được tất cả mọi sự kiện đều chỉ là biến chuyển, hoạt động hay hành động của quyền lực hiện hữu tuyệt đối. Ấn học gọi là Brahma, nhà Phật gọi là Chân Như, hoặc nói chung là Thượng Đế thì bất cứ gì xảy đến nơi mình và bất cứ những gì được gọi mình suy tư, thực hiện cũng chỉ là diễn trình của hành động hoặc sự biến chuyển tối thượng mà thôi. Tuy nhiên đối với chúng ta vẫn còn đang trong giới hạn hành giả chứ chưa hành thiệt, cái thân vẫn đang nặng nề trì kéo cái thần thì lý luận duy lý của anh Sỹ sẽ rơi vào sự kiện mà anh Bá gọi là nhập quan tài. Thực trạng này được lục tổ Huệ Năng cho rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên đề xướng chủ thuyết hành thiền; làm gì thì cứ làm nhưng tâm thức luôn định về một điểm trong hành trình kiến tính. Cũng thế, tùy theo quan niệm mà các tông phái Ấn học thiết lập nên những pháp môn để ứng dụng cho hợp với căn cơ của các môn sinh, hành giả.
        - Để thăng tiến những tâm hồn sơ cơ dần tới tâm thức chuyên nhất, pháp môn Yama và Niyama là hai bậc thang khởi đầu. Pháp môn Yama bao gồm cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp và tham lam, cấm hành lạc và dâm dục (TTÂĐ; Tr.244). Pháp môn Niyama giúp hành giả thăng tiến nơi hai phương diện vật chất và tinh thần. Pháp môn này đề xướng năng tắm rửa, không hành lạc, không uống rượu hầu giữ gìn cho tâm tư được thanh khiết, chánh trực. Biết an phận giúp hành giả diệt dần chấp ngã để tâm hồn sớm có sự thanh thoát, an lạc. Chấp nhận mọi điều khổ nhọc nơi cuộc sống và tâm thức để mạnh tiến trên đường tu đức. Hoàn toàn tin tưởng nơi Thượng Đế để diệt trừ tham vọng cá nhân khiến cho tâm hồn thanh thản. Tuyệt đối không ngờ vực và thực hiện bằng mọi cách khiến nghi ngờ không len lỏi vô tâm hồn mình (TTÂĐ; Tr.245-246).
        - Chời! Cứ theo những điều luật này, có lẽ tụi cháu đều là những bậc Yogi hạng nặng, sắp thành chân nhân, chân mã rồi. Không cướp của, giết người, không tham lam, dâm dục! Phủ đắc ý ra bộ hãnh diện lên tiếng.
        - Vâng, chúng cháu thành tâm tu luyện khá khắc khổ nên chừa được những một nửa; không đấu cờ, chơi bài, chỉ thích đánh bạc; không mê nhâm nhi cà phê, chè tàu, chỉ thích uống rượu, nốc bia; không ham hố đàn ông, con trai, chỉ thích mơ màng đàn bà, con gái. Hì hì! Chúng cháu thích đủ thứ, chỉ không ham một vài thứ! Từ lúc bắt đầu cuộc nhậu tới giờ Ty hoàn toàn im lặng ngoại trừ vài câu chào hỏi; thế mà đột nhiên cóc nghiến răng, lại nêu lên thích đủ thứ, nguyên những thứ búa tạ khiến bà con chợt cười nghiêng ngã.
        Cụ Tài mỉm cười, lộ nét mặt tươi vui. Cụ cảm thấy vui vì nhận ra nhóm nhậu này chẳng những coi thường và đem mọi sự làm đề tài diễu cợt lại còn dám đem chính mình làm đối tượng trào lộng. Điều này chứng tỏ những tâm hồn ngay thẳng và sự hiểu biết chân thật tâm tính từng người của nhóm; hèn chi họ đã không cảm thấy nề hà khi bị kẻ khác trong nhóm bóng gió châm chọc nhiều khi đến độ gắp lửa bỏ bàn tay. Anh chàng Ty lầm ngầm này sao mà dí dỏm gớm!
        - Thưa cụ, đó chỉ là luân lý công cộng sao lại được xếp vào hàng pháp môn? Lại còn điều luật năng tắm rửa, chẳng lẽ cái nhóm môn sinh sơ cơ này ngờ nghệch lắm sao mà phải có lời khuyên đơn sơ như thế? Ông Thung chợt hỏi.
        - Nếu xét phiến diện như chúng ta thường không để ý, những điều luật này đúng là luân lý căn bản cho sự liên đới công cộng của bất cứ xã hội nhân sinh nào. Sở dĩ chúng được xếp vào hàng điều luật pháp môn chính bởi thành quả và mục đích do nhận thức của hành giả. Chẳng hạn, cấm sát sanh có nghĩa không được gây một nỗi khổ đau nào cho chúng sinh hầu phát triển lòng từ bi, mở rộng lòng thương yêu dẫn tâm thức hành giả hòa đồng với nhịp điệu của đại vũ trụ. Cấm nói dối giúp con người tiến tới chính tâm thành ý, không ngụy trá tự ý nghĩ. Cấm trộm cướp và tham lam ích kỷ giúp hành giả vượt khỏi những vọng chấp tư hữu, tự ngã dẫn tới hòa nhập đại ngã. Cấm hành lạc và dâm dục là giới luật hết sực quan trọng vì nếu tinh lực bị phung phí, năng lực quán tưởng sẽ bị thuyên giảm và khó có thể tập trung quán tưởng. Đối với quy luật Yama Yoga, dâm dục không phải chỉ là cấm đoán việc giao hoan giữa trai gái. Người tu Yoga còn cần phải làm thế nào khiến ngay những ý tưởng dục tình cũng không còn lởn vởn trong tâm não (TTÂĐ; Tr.244). Như vậy, muốn đạt tới chỗ tập trung quán tưởng để tiến tới diệt tưởng, con người cần được đào luyện từ nhận thức sinh hoạt bình thường dần tới bản năng nhận thức thực thể hiện hữu. Như chúng ta đã biết, ước muốn, ý định mang quyền lực hiện hữu kiến tạo kết quả nào đó được gọi là chúng sinh. Bởi vậy, những điều luật, pháp môn chỉ là phương tiện cho hành giả nhận thức để thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Có lẽ do không để ý nhận thức mà chỉ theo thói quen nghe sao biết vậy hoặc thực hành vậy, chúng ta đã cho nó là luật buộc mà thôi. Vấn đề được đặt ra lại là luật phát sinh từ đâu nếu không từ nhận thức của con người vì lợi ích liên hệ xã hội nhân sinh. Xét như thế, luân lý là hình thức thực hiện nơi cuộc sống vì lợi ích liên đới con người. Nơi phương diện thâm sâu, nhận thức ẩn chìm bên trong luân lý lại là những nấc thang thăng tiến tâm linh. Cũng thế trong giới hạn tôn giáo, các luật lệ chẳng khác gì dây cương điều hành những con ngựa nhân sinh, giúp con người luôn giữ tâm hồn trong khuôn khổ được gọi ngay chính theo lối nhìn thế tục tùy nơi, tùy thời. Các nghi thức đòi hỏi và ẩn tàng nhận thức. Những ai thực hiện nghi thức cúng bái, vái lạy một cách vô ý thức tất nhiên chỉ tốn công, tốn giờ, hao tiền tài mà thôi dẫu được những người khác trong cùng tổ chức chấp nhận.
        -Hèn chi mà người này cầu được, mình cầu chẳng thấy gì; thần thánh chẳng thèm nghe! Sỹ lẩm bẩm, thế ra mình vẫn chưa biết cầu nguyện.
        - Sao, anh Sỹ, đang bàn về pháp môn mà anh lại nghĩ về cầu nguyện? Cụ Tài nhìn Sỹ hỏi.
        - Thì, như bác nói, các nghi thức đòi hỏi nhận thức. Đến ngay như việc cúng bái, vái lạy mà làm một cách vô ý thức thì cũng như không phương chi cầu nguyện.
        - Anh có biết khi anh cầu nguyện anh làm những gì không?
        - Thì, xin Trời, xin Phật, xin Chúa ban cho điều mình muốn chứ cháu nào còn biết gì hơn đâu.
        - Ai mượn ông tham lam, bắt cá hai tay nên trống lổn. Bá lên tiếng.
        - Chú mày không cầu nguyện như thế sao. Xin thì xin, nghe hay không tùy các Ngài. Bộ các Ngài không cho chú mày mang ra tòa kiện được không.
        - Ai mượn ông hành giả, không chịu hành thiệt. Muốn ăn hét thì phải đào giun vì chuyện gì cũng thế, hòn đất có ném đi, may ra hòn chì mới được ném lại. Đàng này, ông chỉ muốn nằm ngửa chờ sung rụng thì có cầu đến mỏi miệng cũng chỉ như cuội. Trời, Phật đâu phải là cái mỏ vô chủ cho ông tha hồ đào bới mà đòi cầu với nguyện một cách nhưng không!
        - Thế anh Bá nghĩ ra sao về cầu nguyện hoặc để đạt được điều mình mong muốn qua việc cầu nguyện, mình phải làm sao? Cụ Tài hỏi Bá.
        - Thưa bác, có câu nói, cầu mong không bằng gặp thời; gặp thời không bằng tốt số; tốt số không bằng ý trời. Đồng thời lại có câu nói khác như dân gian tin tưởng đó là đức năng thắng số. Nếu thực sự quan niệm đức năng thắng số thì ráng mà tạo đức để có tốt số. Nhưng tốt số vẫn không bằng ý trời thì đâu cần đặt vấn đề cầu với nguyện. Cuộc đời một người theo như cháu kinh nghiệm, chúng ta luôn luôn rơi vào trường hợp trói lại mà đánh khen hay chịu đòn, chẳng bao giờ sự việc xảy đến theo ý mình; bởi thế, cuộc đời mới được coi như cơ hội cho chúng ta học những bài học cần phải học vì tất cả những ước vọng của chúng ta chỉ là ý nghĩ loài người. Thêm vào đó, nếu cháu nhớ không lầm thì Phúc Âm cho rằng ý nghĩ loài người là Satan, là quỷ vương, không thuận ý trời. Tuy nhiên, đọc nơi Phúc Âm, cháu thấy mờ mờ ảo ảo hình như vấn đề cầu nguyện mang một năng lực tuyệt vời nào đó nhưng chưa để ý truy cứu. Như vậy, cháu phải nói, cho đến giờ cháu cũng chưa thể xác quyết cầu nguyện thực sự là gì và phải như thế nào. Có điều, chắc chắn nếu đã biết sự việc sẽ không thể xảy đến, chẳng bao giờ cháu cầu một cách vô ích hoặc bất cứ những gì cảm thấy ngoài tầm tay với, cháu sẽ không bao giờ cầu với xin chi cho phiền lòng, mệt xác.
        - Thế anh có để ý mình làm gì, hay thực hiện những gì khi cầu nguyện không?
        - Thì cầu xin Trời Phật ban cho có của ăn của để, ra giày vào dép, có vợ đẹp, con khôn, và sau khi chết được hưởng nước thiên đàng. Sỹ tơm tớp nhào vô.
        - Chị Sỹ, cụ Tài hỏi, có phải anh ấy cầu như thế không?
        - Thưa bác, nhà cháu cầu cho có thêm vợ hai nên ông ấy thường gọi cháu là lão bà ạ.
        - Bu mày đừng có bêu riếu tớ. Thử hỏi, xấu chàng hổ ai!
        - Thôi đi chú Sỹ, để Bá trả lời về cầu nguyện. Ông Thung cầm trịch; mời chú Bá.
        - Thưa bác, đã gọi là cầu nguyện lúc đó mình bày tỏ điều mình ước muốn, ước nguyện, nhưng, nhiều khi suy nghĩ, tính toán hơn thiệt về những gì có thể xảy đến theo điều mình ước muốn, cháu lại thấy không muốn điều mình đã ước vọng nữa.
        - Đã bao giờ anh đặt vấn đề về nguyên tắc căn bản của sự cầu nguyện chưa? Tôi muốn nói đến gốc gác, năng lực nào có thể thực hiện ước muốn, ước vọng nơi mình.
        - Cháu chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề ấy, chỉ kinh nghiệm được, có những điều ngày xưa mình mơ ước và đến nay đạt được, nhưng nó lại trở thành gánh nặng, thế mới phiền.
        - Anh có bao giờ nghe thấy câu nói, bài học nào mơ ước hôm xưa đã trở thành cay đắng hôm nay!
        - Ô! Cháu tưởng chỉ mình cháu rơi vào trường hợp trói lại mà đánh khen hay chịu đòn!
        - Vậy anh không nhớ câu nói, đa thọ đa nhục sao? Hoặc câu khác, chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa!
        - Tôi muốn anh em để ý, cụ Tài tiếp tục, ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, vọng tưởng, tự mang quyền lực hiện hữu, quyền lực phát sinh nhà Phật gọi là dục. Đây là lý do tại sao nơi kinh Kim Cang có câu nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; tr.241). Vì dục là ước muốn, ước vọng mang quyền lực phát sinh nên tác tạo chúng sanh. Bởi vậy, khi mình cầu nguyện tức là mình dùng quyền lực hiện hữu nơi mình để tác tạo một sự thể, sự việc nào đó. Phật, Như Lai, đấng giác ngộ có nghĩa không tạo chúng sinh, không ước muốn, vọng tưởng gì, mà hòa nhập vào bản thể hiện hữu tuyệt đối. Anh Bá có nhắc đến định nghĩa của Satan nơi Phúc Âm đó là ý nghĩ loài người. Phêrô bị gọi là Satan vì ông đã nghĩ theo ý thường tình con người, theo mong muốn của mình, theo cái dục bình thường nhân sinh. Nơi Ấn học cũng thế, bởi mọi sự hiện hữu đều thuộc về hay ở trong Brahma như nơi kinh Bhagavad Gìta được viết, “Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người (Atman); nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta” (CTC. 6:29). Ý nghĩ, ước muốn là một sự hiện hữu nên mang quyền lực hiện hữu tác tạo. Như vậy khi cầu nguyện, tức là sử dụng quyền lực hiện hữu tác tạo điều gì đó. Tất nhiên, bài học mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay bởi ngày xưa mình đã dùng quyền lực này tác tạo điều mơ tưởng không hợp với ngày hôm nay. Đọc nơi Phúc Âm chúng ta thấy câu nói nếu không để tâm suy nghiệm sẽ cho rằng dường như không tưởng mà lần trước tôi có nhắc đến nhưng không giải thích nên vẫn chờ xem có anh em nào để ý đặt vấn đề hay không, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24).
        - Thưa bác, Sỹ lên tiếng.
        - Thưa gửi cái gì; nghiệm thì không nghiệm chưa chi đã thưa với bẩm. Bá chặn họng Sỹ.
        - Sao chú mày cứ nhè tớ mà đấu vậy?
        - Người khen ta mà khen bậy tức là kẻ thù của ta. Người chê ta mà chê đúng, tất nhiên là bậc thầy của ta. Đã không cảm ơn lại còn càm ràm, quả là hết thuốc chữa. Bá trả lời Sỹ.
        - Chú Sỹ, hãy để cụ nói. Ông Thung ngăn.
        - Anh em để ý, khi chúng ta ước muốn điều gì, chúng ta luôn mơ tưởng, toan tính, suy nghĩ về điều đó. Có thể nói chúng ta là nô lệ cho ước muốn, ước mơ của mình đồng thời dồn hết năng lực, phương tiện để thực hiện điều mình mong ước. Nói cách khác, ước muốn tự mang năng lực thúc đẩy con người vượt mọi trở ngại để hoàn thành, đạt được điểm tới nếu chúng ta thực sự muốn điều nào đó xảy đến. Tuy nhiên, bình thường chúng ta chỉ mơ ước khơi khơi mà không thực sự muốn nên đã không để tâm đến điều mình mơ ước. Sự thể này xác định rõ chúng ta đã không thực sự mong muốn.
        - Tôi nhắc lại điều anh Bá nói lúc nãy, cầu nguyện là bày tỏ điều ước muốn, ước mơ. Như vậy, nếu mình chỉ ước muốn khơi khơi thì lẽ đương nhiên mình cũng chỉ cầu nguyện khơi khơi, nghĩa là không thực sự mong muốn, không cần điều mình cầu xin, sao chuyện có thể xảy ra. Mà một khi mình đã thực sự muốn điều gì thì mình sẽ dồn hết năng lực để hoàn thành điều đó và như vậy, chắn chắn chuyện phải thành ngoại trừ trường hợp ước muốn điều không tưởng. Tuy nhiên chúng ta cũng đành chân thực chấp nhận rằng có những ước muốn có hại cho người cầu xin nhưng chính họ không biết. Sự thể này chính là điều mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay. Như vậy, có thể những gì chúng ta thực sự cầu xin đã không xảy đến lại trở thành may mắn.
        - Thưa bác, như vậy tốt nhất là chẳng cầu xin gì vì chuyện phải đến chắc chắn sẽ xảy đến và những gì có hại cho mình dẫu cầu xin cách mấy cũng chẳng được. Tình nêu ý kiến.
        - Chúng ta không thể phân tách thành những trường hợp riêng rẽ như thế. Đâu phải những gì có hại cho mình dẫu cầu xin cách mấy cũng không được mà e rằng lại xảy đến theo ước muốn như một cơ hội cho mình học bài học cần phải học. Chỉ nói khơi khơi về cầu nguyện, cầu xin sẽ chẳng đi đến đâu mà chỉ là bàn thảo một cách phiến diện của một sự thể phức tạp. Trước hết chúng ta thử xét cội nguồn của sự việc được gọi là cầu nguyện, cầu xin. Tại sao chúng ta được khuyến khích cầu nguyện. Nếu tôi không lầm, biết bao nhà rao giảng hoặc những vị truyền giáo khuyến khích người ta cầu nguyện đã vô tình không tìm hiểu sâu xa về sự thể này nên đã khiến tín đồ tin theo phải đối diện với nỗi thất vọng nhiều khi đến độ lung lạc niềm tin. Tôi nêu lên một câu hỏi để anh em suy nghĩ. Tôi nhắc lại, cần suy nghĩ trước khi trả lời; đó là năng lực cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ đâu?
        - Thưa bác, Sỹ nhà con vội lên tiếng chừng như sợ người khác nói mất phần của mình.
        - Khoan, ông Thung chặn Sỹ, ai nói trước khi suy nghĩ, sẽ bị phạt làm bữa nhậu lần tới.
         
        Thế là mọi người im tịt. Không phải họ sợ phải làm bữa nhậu vì thực ra chẳng tổn ải là bao. Đàng khác, có bạn bè thân quen đàn đúm là điều đáng mừng lại còn là cơ hội thắt chặt tình thân hữu bởi nay anh, mai tôi nào có chi đáng nói. Hơn nữa, có nhiều khách khứa tới nhà, con cái có cơ hội thực hành sự lễ độ đối xử với các bậc trưởng thượng cũng như có thêm bạn bè thân hữu sau này. Họ im lặng bởi xưa nay chỉ được nghe khuyến khích cầu nguyện, cúng bái rồi thực hành theo như một thói quen. Nói cho đúng, khi gặp những trắc trở không đường giải quyết nơi cuộc đời, cầu nguyện là phương thế cuối cùng như một điểm tựa an ủi cuộc sống. Nơi tâm tình phó mặc cho đấng bề trên toàn quyền định đoạt, con người dễ mở rộng lòng chấp nhận những khổ ải trái ý muốn hoặc những thua thiệt mà người xưa gọi là “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn” (TN). Nhiều người còn tự an ủi rằng chuyện không may nhỏ xảy đến để ngăn chặn sự thiệt hại lớn lao hơn có thể xảy ra.
        Cụ Tài coi bộ bình thường ở tuổi mùa thu cuộc đời không ngờ thông triệt nhiều vấn đề khiến chính ngay những người tuổi trẻ phải ngạc nhiên. Xưa nay, họ tôn trọng cụ vì tuổi tác, lại là bác của Hưng. Qua mấy lần được cụ giải thích về đạo học, tâm trí họ chuyển từ ngỡ ngàng này qua ngỡ ngàng khác, thách đố tâm tưởng họ tỉnh thức nhận định thay vì sống hùa theo thói quen người ta sao mình vậy. Cụ không phê phán nhưng nói lên thực thể sự việc xưa nay ít ai để ý phân tích hầu có lối nhìn chân chính hoặc am hiểu thâm sâu hơn về thực tại cuộc sống hoặc những phát biểu nơi ngôn từ thường dùng hằng ngày. Thấy mọi người im lặng khá lâu, cụ lên tiếng,
        - Anh Hưng, nhà Phật nói gì về năng lực nội tại nơi con người?
        - Thưa bác, điểm tận cùng của Phật học chỉ là kiến tính vì Tâm Phật, Tâm Chân Như, Tính Phật hiện hữu ngay nơi mình. Tất cả những ước muốn, ước mơ đều là dục, đều là vọng tưởng. Không có chúng sinh cho Như Lai độ thì càng cầu chỉ càng tạo chúng sinh phương chi nói đến cầu nguyện, cầu xin. À, thưa bác, suy như thế thì năng lực hay động lực của cầu nguyện, cầu xin chính là năng lực của vọng tưởng, năng lực của dục vọng, và như vậy, có thể nói năng lực của cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ Tính Phật, Tâm Chân Như, hay Tâm Phật. Nói cách khác, năng lực này chính là quyền lực tối thượng nơi vũ trụ, nơi mỗi người.
        - Ai trong anh em chịu trách nhiệm về Ấn học?
        - Thưa bác nhà cháu ạ. Tình lên tiếng. Cháu còn đang ngúc ngắc phỏng có sự liên hệ nào giữa quan niệm và nghi thức thờ phượng, cúng bái phát xuất từ đạo học liên hệ đến thực hành nơi Ấn giáo và Thiên Chúa giáo nên cứ bị rối tung lên. Dẫu theo Công giáo nhưng cháu thấy quan niệm Thượng Đế của Ấn giáo và quan niệm Thiên Chúa nơi Thiên Chúa giáo, đặc biệt Công giáo hình như rất giống nhau nơi điểm Thượng Đế hữu ngã và Thiên Chúa hữu thể. Đồng thời cháu cũng thấy có điểm khác biệt nhiều khi đến độ phi lý về quan niệm cứu độ, cứu rỗi, nghĩ mãi vẫn chưa giải quyết được gì. Riêng về quyền lực nơi sự cầu nguyện, Ấn học quan niệm Thượng Đế là Brahma, và thành phần Thượng Đế hiện hữu nơi mỗi người là Atman. Như vậy, khi mình cầu nguyện, cầu xin, mình sử dụng quyền lực của Atman, quyền lực của Thượng Đế Brahma, quyền lực nội tại nơi mỗi người. Thực ra, chưa bao giờ cháu nghĩ đến thực thể quyền lực này nên không thể nói thêm gì bởi phải trả lời nên nói đại, chẳng biết đúng hay sai.
        - Ai có thể nói về năng lực cầu nguyện nơi Lão học?
        - Mời cụ thủ từ đền thánh casino.
        - Tào như nước thì có gì để mà nói, Phủ lên tiếng. Cháu xin lỗi bác và mọi người bởi bất chợt hiểu ra khía cạnh khác của điều mình vừa nói; có lẽ đây được gọi là ngộ chăng. Đã ít lâu nay cháu kiếm sách viết về Lão học ngày đêm “ngâm cứu.” Khổ nỗi, ngày thì con cái phiền hà; đêm mẹ chúng quấy phá thành ra cháu chỉ mới đọc sơ sơ mấy cuốn. Tuy nhiên, cháu thấy những lời giải thích của các tác giả viết về Lão học hình như quá thiên về hữu vi thành ra cảm thấy lười nên lần lữa đến nỗi biến thành ngâm cứu. Cháu không dám phê bình hay nhận định về những trước tác của các bậc tiền nhân nhưng cứ cảm thấy những điều giải thích của họ nuốt không trôi thành ra chẳng khác gì con gà mắc dây thung. Ai đời nào mà câu “Tào như nước,” họ giải thích rằng làm người nên biết khiêm nhượng. Họ lại dịch Tào thành Đạo, và Đạo thành đường và nêu lên nhận định cho rằng Lão học nói về những mánh lới khôn ngoan nơi thuật xử thế để rồi thay vì nói về chiêm nghiệm, nghiệm chứng, họ trình bày về khiêm ái, khiêm nhường, không ganh đua, trở nên thụ động. Cháu ngẫm nghĩ, như thế suốt đời chỉ đi xách dép cho thiên hạ thì sao mà sống; trong khi ở nhà vợ cứ nhì nhằng chồng người ta thế này, chồng người ta thế kia; thế có tức không chứ. Có những tác giả nêu lên đặc tính của nước thế nọ, thế kia và cho rằng con người cần bắt chước theo như thế; nào là nước chảy xuống chỗ trũng, chẳng ganh đua với bất cứ ai nhưng chấp nhận làm trâu chậm uống nước đục; nào nước “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” nên con người cần biết “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.” Ngược lại như cháu vừa xin lỗi, cháu chợt nghĩ đến câu nói mang ý nghĩa khác. Tào như nước có nghĩa Tào hay Thượng Đế hiện diện mọi nơi, mọi chỗ vì nước mang đặc tính này bởi có thể nói nước là căn bản sự sống, không khí cũng chứa nước, đá lạnh ứa nước, đốt củi cũng ứa nước; như vậy câu Tào như nước thường đã bị hiểu sai nên cũng thường dẫn đến nhận thức không chín chắn. Nếu hiểu câu Tào như nước mang nghĩa Thượng Đế ở khắp mọi nơi, Thượng Đế chính là quyền lực hiện hữu nơi mình thì năng lực cầu nguyện, cầu xin tất nhiên là sử dụng năng lực tối thượng hiện diện nơi mình.
        - Ai sẽ nói về Kinh Thánh?
        Câu hỏi vừa được xướng lên khiến mấy anh em theo đạo Công giáo ngớ cả người. Kinh Thánh là Kinh Thánh, đâu mắc mớ gì tới Lão học, Ấn học, Phật học, sao cụ Tài lại vơ đũa cả nắm như thế này. Đi nhà thờ, nhà thánh, các cha thường giảng rằng chỉ có một đường độc nhất để lên thiên đàng là theo đạo Công giáo, tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu. Có những cha còn mạnh bạo hơn công bố rõ ràng, ai không chịu phép rửa tội sẽ không được lên thiên đàng. Lên thiên đàng có nghĩa linh hồn được cứu rỗi sau khi thân xác chết. giáo lý Công giáo ngày xưa đã dạy, sau khi chết, linh hồn sẽ phải đến trước tòa phán xét, kẻ lành lên thiên đàng, kẻ dữ sa hỏa ngục, và những ai còn vướng mắc những tội mọn thì bị giam cầm nơi luyện ngục để được thanh tẩy. Cớ gì cụ Tài hỏi về Kinh Thánh. Thế là lòng ruột mấy người theo đạo Công giáo giao động như ngồi phải lửa. Tuy nhiên, thái độ cụ Tài vẫn điềm nhiên chờ đợi trong khi nhẹ nhàng nâng ly rượu chiêu một ngụm không có vẻ gì thách đố lại toát ra vẻ thông cảm. Cụ vẫn thế, rất thông cảm với mọi người dẫu đôi khi có người phát biểu ý kiến ngang như cua hoặc khá chói tai, nhưng coi chừng lại được cổ võ. Lúc mới phát biểu, chính người nói mang chủ đích diễu chơi với ý định khuấy động bầu không khí tẻ nhạt, chẳng ngờ lại được cụ giải thích, khuyến khích tâm hồn mở rộng để nghiệm chứng, nhận thức sự thể qua bất cứ khía cạnh nào.
        Dẫu các tướng theo đạo Công giáo lòng ruột xốn xang, muốn nói nhưng nói gì bây giờ. Nhà Phật thì chỉ cần kiến tính. Dĩ nhiên, Tâm Phật đã ở nơi mình thì cầu nguyện tức là sử dụng năng lực Tâm Phật nơi mình mới có lý dù cầu nguyện cũng chỉ là bày tỏ ước vọng thế tục. Lão học tiến tới trạng thái huyền đồng; Tào như nước hiện diện ngay nơi mình nên cho rằng sử dụng năng lực của Tào không thể sai quấy. Ấn học, chẳng mình, chẳng người, tất cả đều là hoạt động, hành động của Brahma, của Thượng Đế. Ý nghĩ, ước muốn nơi mình cũng là hoạt động của Thượng Đế nội tại dẫu cho rằng ước muốn, ý định đều là vọng tưởng nên chỉ cần định hướng sao khỏi dính vòng thế tục là có thể chấp nhận được. Theo đạo Công giáo chỉ nghe các cha lặp đi lặp lại phải ăn năn thống hối để được Chúa Giêsu chuộc tội cứu rỗi khỏi lửa hỏa ngục. Chúa Giêsu xuống thế làm người chuộc tội cho thiên hạ thì mắc mớ gì tới cái gọi là năng lực cầu nguyện dẫu các cha luôn luôn khuyến khích cầu nguyện. Ừ, cầu thì cầu, nguyện thì nguyện nhưng Chúa cho hay không đâu tùy thuộc ý thích của mình. Phải sống tốt lành Chúa mới nghe lời cầu xin; sao mấy tay ma giáo giầu có vương giả lại quyền hành, chức vị đè đầu đè cổ thiên hạ. Hơn nữa, đã có Chúa Giêsu chuộc tội cho mình thì coi chừng cầu nguyện chỉ bằng thừa. Các cha giảng ơn cứu độ là ơn nhưng không, đâu phải cứ cầu mà được. Chẳng lẽ không cầu nguyện Chúa không ban ơn cứu độ. Nhà Phật cho rằng vọng tưởng, ước mơ tạo chúng sinh. Ah! Sỹ nhà con bí quá chộp vội ý nghĩ này lên tiếng,
        - Thưa bác, nếu nói rằng cầu nguyện, cầu xin là bày tỏ ước muốn, vọng tưởng thế tục thì đây là việc làm của Satan như bác đã giải thích câu Phúc Âm đức Giêsu mắng thánh Phêrô, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc. 8:33).
        - Như vậy anh muốn nói cầu nguyện là sử dụng năng lực của Satan?
        - Thưa bác, nói như vậy cũng không đúng nhưng cháu không biết phải nghĩ thế nào mới đúng. Tình thêm vô.
        - Vậy những ý nghĩ, ý định tốt lành của con người cũng là Satan cả sao? Chị Tình chợt lên tiếng!
        Cả đời theo đạo được dạy dỗ phải làm việc lành phúc đức, yêu thương người khác như chính mình. Nào giữ mười điều răn, nào thực thi tám mối phúc thật, nào giữ chay, kiêng thịt, đi lễ, đi nhà thờ theo luật buộc thế mà bị câu hỏi ngắn gọn của cụ Tài phá cho bay tùng khiến chị Tình chịu không nổi nên buột miệng nêu câu hỏi. Ngày xưa còn nhỏ học giáo lý được giải thích rằng Satan là quỷ vương, dẫn đầu mọi sự tội lỗi. Satan xúi giục con người phạm tội; đến bây giờ bỗng thấy câu hỏi gán ép Satan lại là ngay ý nghĩ nơi mình quả thật chẳng hiểu lý luận thế nào trong khi nơi Phúc Âm, chính Chúa Giêsu gọi thánh Phêrô là Satan. Chị Tình thực sự cảm thấy lòng ruột mình giao động.
        - Chúng ta nên có thái độ bàng quang nhận định thay vì hùa theo bất cứ quan niệm nào để nhận xét quan niệm hay quan điểm của người khác. Cụ Tài giơ tay ra dấu mọi người nên bình tĩnh bởi nghe giọng nói của chị Tình hơi có vẻ gắt gay, khó chịu hình như bị đụng chạm. Chúng ta nêu lên vấn đề để nhận định, tìm hiểu chứ tuyệt đối không cho rằng phải như thế nào. Mọi quan điểm, ý nghĩ, suy tư đều có giá trị ngang nhau; chúng không đúng, không sai mà tất cả đều được nêu lên để mọi người tự nhận định. Tôi muốn nói nhận định chứ không xét xử. Có câu nói, nếu đóng cửa để tránh không cho sai lầm lọt vô thì chân lý cũng bị loại ở ngoài. Nơi trường hợp anh Sỹ nêu lên câu Phúc Âm, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc. 8:33), rõ ràng định nghĩa Satan là ý nghĩ của loài người. Dĩ nhiên, ý nghĩ của loài người được gọi là vọng tưởng, dục, như nơi Phật học xác quyết. Tôi có thể đưa lên minh chứng. Người ta thường quan niệm đức Thích Ca bỏ ngai vàng, lầu son gác tía, vợ con, quyền lực của một vị hoàng tử để tu chứng cứu độ chúng sinh. Tôi muốn nhấn mạnh, mọi Phật tử đều quan niệm như thế và các nhà rao giảng Phật giáo đều dùng lý thuyết này để kêu gọi các tín đồ tin tưởng và theo gương đức Thích Ca nơi hành trình nghiệm chứng thức ngộ. Tuy nhiên, đức Thích Ca lại rõ ràng công bố như nơi kinh Kim Cang có câu nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; tr.241). Một đàng nơi kinh Kim Cang cho rằng không có chúng sinh cho Như Lai độ nghĩa là Như Lai không độ chúng sinh; ngũ tổ Hoàng Nhẫn cũng nghiêm nhặt khuyến cáo, giác ngộ không thể học được mà phải tự mình nghiệm chứng; đàng khác, các tín đồ, Phật tử đều quan niệm Như Lai tức là đức Thích Ca vì thương xót con người trong vòng luẩn quẩn luân hồi nên tu chứng cứu độ chúng sinh. Thực tế là như thế; chúng ta cần bĩnh tĩnh và chân thành đối diện để nhận định, chẳng nên để tâm hồn giao động vì bất cứ lý thuyết, quan niệm nào dẫu thuận chiều hoặc trái ngược với quan niệm, hiểu biết của mình.
        - Riêng với các anh em Công giáo, tôi không muốn phân biệt thành phần tôn giáo nơi đây mà chỉ muốn nhắc nhở; đó là chúng ta đang trên hành trình nghiệm chứng đạo học chứ không xét, không đặt vấn đề về chủ thuyết hay lý thuyết tôn giáo. Lý thuyết của các tôn giáo thế nào, chúng ta không đụng tới vì đó là quan niệm riêng của tín hữu. Dẫu rằng gốc gác của tất cả các tôn giáo đều phát xuất từ đạo học trong khi đạo học là kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ tùy nơi, tùy thời. Tuy nhiên thực tế minh chứng, sự thực hành tôn giáo nhiều khi đối nghịch với đạo học do bởi sự khác biệt giữa lý thuyết, chủ thuyết của tôn giáo đối với đạo học. Lý do rất dễ hiểu đó là chủ thuyết tôn giáo căn bản dựa trên quan điểm nhân sinh trong khi đạo học chỉ một phần nào bày tỏ thành quả nghiệm chứng; mà nghiệm chứng thì ai chứng người nấy biết. Lý thuyết tôn giáo chính là sự giải thích kiến tạo nghi thức thực hành niềm tin. Tôi có thể nêu lên thí dụ, ngồi trước một bữa tiệc thịnh soạn, sự giải thích về các món ăn ngon ngọt, bổ dưỡng như thế nào đối với thực khách đó là lý thuyết. Muốn thực sự cảm nhận các món ăn ra sao, thực khách phải ăn, được gọi là nghiệm chứng. Tất nhiên, hành động ăn uống rất khác biệt với sự giải thích về các món ăn. Có nghe giải thích về bữa tiệc đến đâu chăng nữa, thì thực khách đói vẫn hoàn đói, không thể no được. Như vậy, nghiệm chứng là hành động ăn uống và sự giải thích chỉ là lý thuyết. Quan niệm nơi tôn giáo là lý thuyết nhưng đạo học mới là nghiệm chứng. Nghiệm chứng bao gồm suy nghĩ đặt vấn đề và phân tích, nhận định tùy theo kinh nghiệm cá nhân. Sự thể này chính là câu nói của nhà Phật, nước nóng lạnh, người uống tự biết; bởi đó ngũ tổ Hoàng Nhẫn mới có câu nói, giác ngộ không thể học được, và lục tổ Huệ Năng chỉ nói lên kiến tính chứ không đặt thêm vấn đề nào.
        - Nếu tôi không lầm, ngày xưa các tín hữu Công giáo bị cấm không được đọc Kinh Thánh. Tôi không tìm hiểu tại sao, chỉ nêu lên một đôi giả thuyết. Có thể rằng các bậc rao giảng về đạo Công giáo thời xưa cho rằng những người tin theo quá ngu muội không đáng được đọc hoặc e ngại tín đồ đọc và nêu lên những câu hỏi các vị ấy không thể trả lời được hay e sợ tín hữu hiểu sai lầm những gì được viết nơi Kinh Thánh chăng. Điều này cũng giống như trường hợp anh Sỹ mới nêu lên câu Phúc Âm Phêrô bị gọi là Satan vì có ý nghĩ của loài người trong khi lý thuyết Công giáo mặc nhiên chấp nhận và dạy dỗ các tín đồ rằng Satan là thiên thần Lucifer kiêu ngạo muốn lên bằng Đức Chúa Trời nên bị phạt thành chúa quỷ. Tôi không theo đạo Công giáo nên không biết nói về quan niệm Satan có đúng với quan niệm của mấy anh em theo Công giáo đã được dạy dỗ chăng!
        - Thưa bác, trúng chóc. Đúng như giáo lý dạy. Nhưng, Sỹ lên tiếng, khi nói đến tiếng nhưng lại im tịt.
        - Nhưng sao?
        - Thưa bác, nhưng sao Phúc Âm lại cho rằng sở dĩ thánh Phêrô bị gọi là Satan bởi ông ta suy nghĩ theo ý tưởng loài người. Như vậy câu này cho rằng Satan là ý nghĩ của loài người.
        - Chị Tình, chị thấy thế nào? Cụ Tài hỏi đích danh.
        Được hỏi, chị Tình cảm thấy niềm hãnh diện dâng lên. Xưa nay, dẫu Tình chưa bao giờ có bất cứ lời nói nào tỏ vẻ khinh chê hay coi thường chị trong bất cứ trường hợp nào nhưng chị vẫn mang mặc cảm nào đó về thân phận nữ giới. Chị cảm phục Tình vì hắn thâm trầm, ít nói nhưng đã nói, hắn khá cân nhắc. Có điều, hắn rất tôn trọng chị dẫu nơi thời buổi ban đầu mới cưới nhau hắn chỉ bảo cho chị nhiều chuyện về đặc tính đất lề quê thói nơi gia đình để chị tuỳ nghi đối xử. Đôi khi có những chuyện bất thường xảy đến trong gia đình, hoặc hắn có thái độ hay việc gì quá đáng, chị lên tiếng phản đối, hoặc có lời nói hay bày tỏ thái độ không chấp nhận; hắn kiên nhẫn giải thích. Dĩ nhiên, lắm lúc bực quá và với cá tính của người miền Nam, thẳng thắn, dễ dãi, chị có đôi lời quá trớn; hắn bắt bẻ ngược lại, chị chân thành nhận lỗi đồng thời chấp nhận bỏ qua mọi việc cho êm cửa êm nhà. Tất nhiên, có được sự thẳng thắn, cảm thông giữa vợ chồng trong gia đình, tâm tư chị rất thoải mái. Đàng khác, phương diện tiền bạc chi tiêu nơi cuộc sống tương đối chẳng đến nỗi nào nên chị cảm thấy an vui với hoàn cảnh hiện tại, yêu thương chồng con và chăm sóc cho gia đình.
         
        Cho dù giữa những bạn bè quen biết, thân thiện xưa nay nhưng ngoại trừ thăm hỏi, nói chuyện mưa nắng, công việc làm ăn phôi pha tháng ngày, hoặc đôi khi nói chuyện diễu với những người đồng lứa nữ giới, hay bàn luận với chồng về toan tính cho cuộc sống, chị chưa bao giờ tham gia ý kiến, suy luận những vấn đề hóc búa trừu tượng. Dẫu đã mấy lần ngồi nghe nhóm đàn ông tranh luận, bàn cãi, đôi khi thấy những lời phát biểu của mấy tay bạo mồm bạo miệng oang oang khi rượu bia sừng sừng, chị đã có những ý nghĩ cho rằng có những lời nói quá đáng chẳng nên được nhắc tới, lại đôi khi cảm thấy ngạc nhiên vì lời nói trái tai được cụ Tài khuyến khích đào sâu suy nghiệm khiến chị bối rối tự hỏi phải suy luận tìm hiểu theo phương pháp nào cho hợp lý, hợp tình. Nay bỗng dưng được cụ Tài hỏi cho ý kiến về câu nói quá ư nghịch thường với quan niệm bình thường tốt lành đã bao lâu theo đuổi thực hiện trong cuộc đời, chị cảm thấy hào hứng cất tiếng,
        - Thưa bác và quý anh quý chị, nhà em thấy rằng câu Phúc Âm hình như mang ý nghĩa thâm sâu nào đó chứ nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen có lẽ hơi quá. Nói chung, cho rằng Satan là ý nghĩ loài người vậy những ước mơ, ý nghĩ tốt lành đã bao nhiêu năm chúng ta theo đuổi, thực hiện đều là Satan thì nhà em cảm thấy không ổn. Chẳng lẽ cả đời một người không bao giờ có được việc tốt lành thánh thiện nào sao? Vậy những công sức đóng góp, phục vụ cho cộng đồng, cho những người khốn khó đáng thương cũng là Satan cả sao. Có đôi lần nhà em vô tình đọc được đâu đó, hình như nơi Thánh Vịnh, câu nói, “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai trong bụng mẹ” (Tv. 51:7). Nếu nhà em không lầm thì hình như ngày xưa có lần em nghe thấy có cụ già nói vợ chồng ban đêm ăn ở với nhau, sáng đi lễ không được rước lễ vì ngày xưa chuyện vợ chồng được coi là sự tội. Nhà em thấy lùng bùng thế nào ấy. Nay vô tình giữa những người quen biết nhà em chợt nghe thấy câu Phúc Âm vơ đũa cả nắm giống như quan niệm Thệ Phản, cho rằng bất cứ những gì con người dù thực hiện hay ý nghĩ cũng đều là tội lỗi. Lý luận thì không biết cách nào để lý luận; suy nghĩ cũng không kiếm được đầu mối hay liên hệ nhận thức. Nhà em chỉ cảm thấy khó thể chấp nhận bởi nếu chấp nhận như thế sẽ trở thành con người sống không mục đích nếu không muốn nói là quan niệm khuyến khích buông thả, sống cho qua vì lối nào cũng đã bị lên án. Như vậy, mục đích cuộc sống con người là gì vì lối nào cũng sẽ bị trừng phạt dẫu ước muốn hay thực hiện những điều được cho rằng tốt lành, thánh thiện. Chị Tình nói một hơi, giọng thánh thót, thoải mái, nhẹ nhàng rặt cung điệu miền Nam nghe líu lo, êm tai. Với giọng điệu này, nếu chị được huấn luyện đặc biệt dành cho việc tuyên truyền chắc có lẽ lắm kẻ tin theo.
        - Có ai thêm ý kiến gì nữa không về câu Phúc Âm? Cụ Tài thầm nghĩ nếu giải thích ngay, mấy tướng bán trời không văn tự này thiếu cơ hội suy tư đào sâu nơi nội tâm nên lên tiếng hỏi. Cụ chợt nghĩ, mấy lần trước chỉ vì sớm giải thích tránh mất thời giờ thành ra mấy anh em này không kịp suy tư nhận định nên những điểm nhỏ nhặt nhưng lại là căn bản suy tư đã như gió thoảng ngoài tai, không ai để ý.
        Các tướng coi bộ thong dong, im lặng, kẻ uống bia, người mở chai mới chừng như muốn có hành động nào đó che lấp nỗi khắc khoải trong lòng. Nhà Phật cho rằng mọi ý nghĩ, ước muốn, ước mơ đều là vọng tưởng, là dục chỉ đem lại khổ ải cho con người nên muốn có cuộc đời an bình thảnh thơi cần phải diệt dục sao không ai phản đối. Nay câu Phúc Âm cũng cùng một ý nghĩa như thế, chỉ khác lối trình bày thì người nghe cảm thấy giống như ngồi trên ổ kiến lửa, bị chúng bu vô cắn cho khiến ngứa ngáy khó chịu. Nhất là mấy tướng theo đạo Công giáo, bao nhiêu công lao đi lễ, đi nhà thờ, được khuyến khích làm việc lành phúc đức, giữ chay, hãm mình, sống đàng hoàng, không lẹo tẹo vợ nọ con kia, không đá lông nheo chị em hàng xóm, nhất mực chăm lo cho gia đình và sống đời mẫu mực, hòa hợp với mọi người, nay bị câu Phúc Âm đá cho tơi tả; bao công đức bỗng nhiên đã được phê chuẩn là Satan, tội lỗi từ hai ngàn năm trước, thế mới cay!
        - Thưa bác, cháu đồng ý với chị Tình, Sỹ lên tiếng. Hình như có vấn đề trục trặc nơi câu Phúc Âm. Bởi nếu tất cả ý nghĩ, ước mơ của loài người là Satan thì quả thật câu Phúc Âm này khuyến khích con người ăn hoang phá hoại, sống buông thả bởi lối nào cũng sẽ bị trừng phạt muôn kiếp. Xét như thế, nhà cháu thấy tiếc nuối quãng đời đã qua vì đã bỏ lỡ mất quá nhiều cơ hội an hưởng vui thú trần gian.
         
        Giọng nói của Sỹ mang phần nào xót xa như thương tiếc cảnh lỡ làng, vô tình để chuyến tàu hạnh phúc trôi vào quên lãng khiến mặt mũi ai nấy trở nên tươi rói mang nét mỉm cười do lòng dạ vui vui cảm thông giọng điệu diễu cợt của Sỹ với chủ đích thay đổi bầu không khí nặng nề suy tư. Đây đó nổi lên tiếng xì xào bàn ra tán vô của mấy tướng hưởng ứng tâm tình tiếc nuối giả tạo của Sỹ. Bỗng Bá cất tiếng ca,
        - Ôi ngày xưa ấy đã qua, tôi nhìn thơ ấu ra đi.
        Cả bọn cùng phì cười. Có người lớn giọng ngâm, “Tiếc thương cũng đã lỡ rồi, nhìn mái đầu bạc nhớ người ngày thơ! Xuân nao ai đợi ai chờ, thời gian hờ hững ai ngờ vội qua.”
        Cụ Tài cười nhẹ cảm thông sáng kiến gỡ thế bí của mấy tướng. Đang suy tư về tâm linh, bẻ quặt bẻ quẹo qua tâm tình nhân sinh giải thoát nỗi nặng nề suy tưởng. Tay trái nâng ly rượu hớp nhẹ, cụ giơ tay phải ra hiệu im lặng, đoạn nói,
        - Vậy những tiếc nuối đã vô tình bỏ lỡ thời đã qua là ý nghĩ, ước mơ tốt lành hay lầm lỗi, Satan?
        - Thưa bác, Sỹ vội phát biểu, chuyện đã không xảy ra trong quá khứ nên được gọi lỡ làng. Sự tiếc nuối chỉ là gợi nhớ cho tâm tình thêm hương vị. Nó đã không xảy ra thì sao có thể đặt vấn đề tốt lành hay lầm lỗi. Nhưng cháu quên, vẫn còn sự tiếc nuối vì đã không thực hiện.
         
        - Tôi muốn lặp lại câu hỏi, năng lực cầu nguyện phát xuất từ đâu. Nói cách khác, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng mang quyền lực nào. Chúng ta đã vô tình chuyển đề tài thành suy tư nhận định về câu Phúc Âm đồng thời để tâm tưởng bị ám ảnh bởi quan niệm về Satan quấy rầy và trở thành kẻ bào chữa, đánh giá theo quan niệm thế tục về ý định, ước vọng nhân sinh. Chúng ta chỉ đặt vấn đề liên hệ về Satan và ý nghĩ loài người mà bỏ quên phần tiếp theo của câu nói, không phải là của Thiên Chúa. Bởi vì nơi đầu óc chúng ta đã bị in sâu định nghĩa Satan là quỷ vương, là gốc gác mọi sự đối nghịch với những gì được gọi là thánh thiện tốt lành nên chúng ta đã trở thành nô lệ cho sự ám ảnh này. Anh em đã bao giờ nghe và suy nghĩ về câu nói ngược ngạo, cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương chưa, hoặc đã bao giờ anh em nghe hay đọc được câu nói Thượng Đế và quỷ vương là một chưa? Anh em có nhớ câu nói của Pascal, “Con người không phải là thánh, cũng chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, những kẻ muốn làm thánh lại biến mình thành thú”? Câu nói nơi Phúc Âm mang ý nghĩa giống y như nơi quan niệm Phật học sao anh em chấp nhận được quan niệm về vọng tưởng nơi nhà Phật trong khi lại cảm thấy bối rối khi đối diện với định nghĩa Satan là ý nghĩ loài người để rồi quên mục đích suy tư về năng lực của cầu nguyện, cầu xin.
        - Thực thể sự vật, sự việc là chính nó dẫu mình quan niệm hoặc cho rằng chúng thế nào. Đã chắc gì những điều mình cho là đúng lúc này hoặc đang mơ ước luôn luôn hợp với mình những ngày tháng kế tiếp. Thế sao điều mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay đã và đang dày vò tâm tưởng mỗi người. Những loại thuốc trị bịnh năm mươi năm hoặc một trăm năm trước phỏng ai dám sử dụng vào thời buổi này bởi đã được khám phá ra rằng chúng là những chất độc nguy hại. Bao nhiêu năm trong quá khứ chúng ta sử dụng hàn the trong thực phẩm nhưng bây giờ có ai dám đụng đến chúng nữa không ngoại trừ những người thiếu hiểu biết. Nếu chúng ta vẫn cố tình để cho ý thích riêng, cảm tình, hoặc quan niệm một chiều ảnh hưởng nhận thức, nhận định, chúng ta sẽ rơi vào ngã chấp. Cho rằng ý nghĩ loài người là sáng kiến, là gốc gác của sự phát triển, thay đổi, hoặc tốt lành vẫn chỉ là quan niệm một chiều thiếu nhận thức toàn diện bởi đã có biết bao ý nghĩ, mơ ước chẳng ra gì lại có thể nói là nguy hại cho con người. Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để nhận thức sự vật và sự việc như chính nó, không hơn, không kém. Thực tế ngay trước mắt đang nói lên sự thể này; thí dụ, anh em nào ăn ớt được thì thấy rằng ớt quý giá, tốt lành, nhưng đối với những người không ăn được ớt thì sao?
        - Thưa bác, vậy những ý nghĩ, mơ ước tốt lành cho người khác thì sao?
        - Cũng chỉ là ý nghĩ loài người! Tôi đưa thêm một thí dụ điển hình. Cụ Tài gắp một miếng rượu mận bỏ vô miệng vừa nhai vừa nói; miếng rượu mận này ngon, tốt lành nếu tôi nuốt xuống. Tuy nhiên, nếu bây giờ thay vì nuốt xuống, tôi nhổ vô một chiếc đĩa sạch, chẳng những chính tôi mà cả mọi người không ai dám bỏ nó trở vô miệng bởi cảm thấy nhơ bẩn. Cũng cùng một miếng ăn, nuốt xuống thì tốt lành, nhổ vô chiếc đĩa sao lại bị coi là nhơ bẩn đối với chính mình!
        - Thưa bác, tại vì mình cho rằng nó nhơ bẩn, cháu xin lỗi, à à, nó là ý nghĩ loài người, không phải thực thể sự vật.
        - Tôi trở lại câu hỏi nguyên thủy, năng lực cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ đâu. Chúng ta đã chiều theo nhận định của ý thích, quan niệm và đặt vấn đề đúng, sai, phải, trái, nhĩ, ngã để rồi luẩn quẩn định giá tốt xấu của ý nghĩ, ước mơ. Ước muốn, vọng tưởng thực ra chẳng đúng, chẳng sai, không phải, không trái, không tốt lành cũng chẳng tội lỗi. Đúng, sai, phải, trái tùy thuộc ý định có hòa hợp với thực tại và tâm ý hay không. Tâm ý tốt nhưng sự thực hiện không phù hợp với hoàn cảnh, coi chừng chỉ mang lại hậu quả khó thể chấp nhận. Anh em thừa biết, năng nổ, chân thành nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại. Nhân gian có câu, “Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon.” Đâu phải phi lý mà câu nói, “Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay,” đã trải qua bao thời gian vẫn đứng vững nơi tâm trí con người. Anh em có nhớ câu, “Con mắt là cửa sổ của linh hồn không”? Chúng ta dẫu biết câu này nhưng vì vô tình không để ý suy nghiệm nên coi thường câu nói nơi Phúc Âm, “Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh" (Lc. 11:34-36). Tâm ý quyết định một nửa tính chất sự việc và nửa kia lệ thuộc diễn tiến thực tại sự thể. Ai cũng biết lời khuyên; nếu bị rắn cắn ở chân thì việc cấp thời nên lấy dây thắt chặt phía trên ngăn ngừa nọc độc theo máu chạy về tim. Thế nhưng, chẳng lẽ nếu bị rắn cắn ở đầu lại lấy dây thắt cổ. Tâm ý tốt lành nhưng không thể thực hiện mục đích bất chấp hành động.
        - Xét về thực thể con người, chúng ta thường bị ảnh hưởng bởi những thói quen, sử dụng riết rồi nhập tâm và chẳng bao giờ suy nghiệm, đặt vấn đề. Thí dụ, chúng ta thường nghe nói, tai nghe, mắt thấy. Anh em có nhìn thấy tôi đang ngồi nhậu với anh em không? Anh em có nghe thấy tôi đang nói chuyện không? Cụ Tài nêu câu hỏi đoạn im lặng đợi trả lời.
        Thế là mọi người ngớ ra! Dĩ nhiên, ai không nhìn thấy cụ Tài đang ngồi nói chuyện; thế sao cụ nêu câu hỏi ngớ ngẩn vậy! Như chim bị bắn sợ cành cây cong, đã mấy lần những câu hỏi rất thông thường khiến mọi người ngỡ ngàng bởi chưa suy nghĩ đã vội trả lời theo thói quen, ai nấy chợt trầm ngâm tự hỏi phỏng có mánh lới nào ẩn chứa nơi câu hỏi bình thường đến độ hiển nhiên chăng.
        - Phật Sỹ, thức ngộ rồi thì trả lời coi hay vẫn còn đang ngủ ngộ chưa chịu thức, Bá chọc Sỹ.
        - Vội gì, tớ còn đang phải nghiệm chứng xem có phải mắt mình nhìn hay mắt ai đang nhìn nơi mình; tai mình đang nghe hay tai ai đang nghe.
        - Sao im lặng thế! Cụ Tài lên tiếng.
        - Dạ chúng cháu còn đang ngâm cứu không hiểu có phù phép nào nơi câu hỏi quá ư hiển nhiên chăng. Phủ lãng đãng thưa.
        - Anh em có mắt không?
        - Thưa có, cháu có những hai cái mắt.
        - Anh em có tai không?
        - Thưa có một cặp.
        Mắt anh em có nhìn thấy tôi đang ngồi đây không?
        - Thưa có, rõ ràng bởi mắt thấy, tai nghe.
        - Như vậy mắt anh em nhìn thấy tôi; tai anh em nghe tôi nói.
        - Thưa bác, hình như có sự gì trục trặc nơi điểm này. Hưng lên tiếng.
        - Anh Hưng giải thích được không?
        - Thưa bác, nếu nói rằng mắt thấy, tai nghe, thế bao nhiêu người có những cặp mắt tốt, cặp tai thính; đùng một cái khi hồn ra khỏi xác, mắt họ không thấy được gì nữa; tai hết nghe. Thực thể như thế nói lên có cái gì đó nơi một người dùng mắt để nhìn, dùng tai để nghe. Thiền sư Bankei gọi là Tâm Bất Sinh.
        - Ái da! Hành giả, hành thiệt, thế ra mình vẫn chỉ là thức giả. Sỹ lẩm bẩm, giọng diễu cợt.
        - Biết mình vẫn còn “thức giả” tạm được coi như ngộ phần nào. Thực thể nơi mỗi người chúng ta minh chứng, mắt không thể nhìn tự nó, tai không thể nghe, miệng không thể nói, óc không thể suy nghĩ nhưng tất cả ngũ quan, giác quan chỉ là phương tiện cho một thực thể nơi mỗi người. Thực thể này được gọi là Phật Tính, Tâm Phật, Tâm Bất Sinh, Tào, Atman, linh hồn, Thượng Đế nội tại. Muốn gọi là gì cũng được miễn sao chúng ta nhận thức được thực thể này. Tôi nghĩ, đến đây anh em nhận thực được ý nghĩa điều Phúc Âm gọi là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”
        - Thưa bác, nói như thế Phúc Âm cũng là một đạo học. Tình hỏi.
        - Thế anh cho nó là gì.
        - Giời, xưa nay cháu cứ nghe thấy nhắc đi nhắc lại là lời Chúa nên quên phéng đặt vấn đề.
        - Như vậy ước muốn, ước mơ phát xuất từ thực thể nào đó nơi mỗi người. Xét thế, cầu nguyện, cầu xin là bày tỏ ước muốn, ý định nơi tâm hồn của người ước muốn. Những ước muốn này mang năng lực của quyền lực tối thượng đang ngự trị nơi mỗi người. Tuy nhiên, là con người, chúng ta quen thói suy nghĩ theo thế tục hầu giải quyết nhu cầu sinh sống thiết thực nên đã không để ý nhận thức nguồn gốc, năng lực của ước muốn, ước mơ phát xuất từ đâu. Nhà Phật gọi chung những ước muốn, ước mơ, vọng tưởng, ý định là dục và thường bị hiểu là dục tình mang nghĩa xấu theo nhận thức nhân sinh. Phúc Âm gọi là ý nghĩ của loài người.
        - Để tôi giải thích thêm may ra anh em hiểu rõ hơn, nơi Dịch học, con người được coi là tiểu vũ trụ. Muốn hiểu biết sự vận chuyển của vũ trụ, con người cần tìm hiểu nơi chính mình. Có anh em nào nhớ câu nói nào nơi Kinh Thánh đã nói gì về liên hệ giữa con người và Thiên Chúa không?
        Quả là câu hỏi tắc họng! Xưa nay mọi người chỉ được nghe giảng thuyết về cứu chuộc, cứu độ, Thiên Chúa Ngôi Hai xuống thế làm người chứ có bao giờ được nghe về liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Cùng lắm chỉ được nghe đến nhàm tai về lý thuyết Thiên Chúa quá yêu thương người thế đến độ sai con một của ngài xuống thế làm người chịu khổ hình vì tội lỗi nhân loại, rồi nào phải kính mến, kính sợ Thiên Chúa, chớ kêu tên đức Chúa Trời vô cớ dẫu chẳng biết tên ngài là gì, rồi nào giữ ngày chủ nhật, ăn năn đánh tội, ăn chay, kiêng thịt, chớ làm chứng dối, chớ lấy của người, chớ muốn vợ chồng người, yêu thương người ta bằng mình ta vậy, vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm; ngoại trừ câu Phúc Âm, Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta mới được cụ bới ra mấy bữa trước chứ làm gì có ai dám nói đến liên hệ bao giờ. Các cha có giảng thì cũng cứ lặp đi lặp lại phải ăn năn, phải thống hối, phải đi lễ, phải xưng tội vì mình là con người tội lỗi sao dám nói đến dây dưa, móc nối, phương chi liên với nối. Cụ Tài coi bề ngoài mang vẻ lẩm cẩm sao bới ra lắm thứ nghịch thường như thế.
        Mấy anh em theo Thiên Chúa giáo, kẻ thì Công giáo, người Báp Tít, Tin Lành đưa mắt nhìn nhau. Cùng tin vào đức Giêsu, cùng tin vào Thiên Chúa, cùng đọc chung những bản dịch Kinh Thánh dẫu có đôi chút khác nhau thế mà tâm trạng sững sờ khi bị hỏi về Kinh Thánh. May mà xưa nay nhờ có được chút vốn liếng tạm gọi là học thức nên tránh đụng chạm về quan điểm tôn giáo, tưởng như thế đã ổn thỏa nơi tình bạn hữu. Ai ngờ, nói rằng tin nhưng cứ như tin theo chứ chẳng thèm nghiệm tại sao. Có lần ai đó vô tình đặt vấn đề lý giải về Đức Mẹ đồng trinh, Sỹ nhà con lên tiếng, bà ấy đồng trinh hay không thì bà ấy biết. Muốn biết thì hỏi bà ấy sao lại tin hay không tin. Sự thể đã như thế thì tin hay không cũng chẳng thay đổi được gì. Nói rằng tin bà ấy đồng trinh thì bà ấy đồng trinh và nói rằng bà ấy không đồng trinh thì bà ấy không đồng trinh hay sao. Vớ vẩn! Như vậy, nói rằng, tin rằng bà ấy thế nào thì bà ấy vẫn là bà ấy, chẳng gì thay đổi, không chi mới lạ, thế mà cứ rối lên. Vợ Sỹ cũng chen vô bảo, giáo hội dạy phải tin như vậy. Sỹ nhà con cãi lý, chứ nếu ai đó nói không tin bà là vợ tôi thì bà là vợ ai. Bộ người ta không tin bà là vợ tôi thì bà không phải vợ tôi sao? Nếu giáo hội dạy phải tin bà không phải là vợ tôi thì tôi càng mừng.
        - Rõ cái ông quỷ này, vợ Sỹ xí xóa.
        - Anh em thử nhớ lại đoạn đầu của sách Sáng Thế Ký về việc tạo dựng con người xem thế nào.
        - Thưa bác, Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài.
        - Nếu đem câu này so sánh với những lời rao giảng của đức Giêsu anh em thấy sao?
        Im lặng, đành phải im lặng bởi không biết cách nào suy luận ráp nối!
        - Đức Giêsu dạy con người gọi Thiên Chúa là gì? Tin theo đức Giêsu, tôi nghĩ anh em biết rõ điều này vì anh em thường tụng niệm hằng ngày.
        - Ngài dạy gọi Thiên Chúa là cha; lạy Cha chúng con ở trên trời.
        - Rồi sao nữa?
        - Ngài rao giảng tin mừng, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
        - Nếu tổng hợp ba câu lại chúng ta có thể nói, vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta nên chúng ta mang hình ảnh của Ngài. Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha chứng tỏ sự liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người rất mật thiết. Anh em thường nghe câu nói, cha nào con nấy; nói rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, hay Phật tại tâm cũng đồng một nghĩa, hoặc Đại Ngã hiện diện nơi mỗi người được gọi là Atman thì cũng thế. Nếu đem so với lời giải thích, Tào như nước, hiện diện mọi nơi mọi chốn thì nào có chi khác biệt. Sự khác biệt phải chăng chỉ ở ngôn từ; trong khi Trang học có câu nói, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời. Đàng khác, ngay chính nơi cùng một tổ chức, cùng một niềm tin nhưng quan niệm vẫn có thể khác biệt; đồng thời do thiếu nghiệm chứng, không chấp nhận mở rộng nhận thức đón nhận những quan điểm khác biệt, chúng ta càng tạo thêm phân cách nhận thức.
        - Tôi thử đưa ra một thí dụ, anh Tình có năm cháu phải không. Nếu đưa cho mỗi đứa một tờ giấy và một cây viết, đoạn bảo chúng viết về bố của chúng, chắc chắn không đứa nào viết giống đứa nào mặc dầu có những nhận xét tương đương. Cũng thế, mọi người đang hiện diện nơi đây cũng đều có những nhận định khác nhau về một anh Tình. Như vậy, nơi phương diện nhận thức và nghiệm chứng đạo học, những con người khác biệt từ cơ thể, ngôn ngữ, thời đại cũng như hoàn cảnh tất nhiên đều có những nghiệm chứng và quan điểm khác nhau về cùng một thực thể tối thượng đồng thời danh xưng cũng được đặt khác nhau. Không nói đâu xa, đọc nơi sách vở chúng ta thấy rõ sự khác biệt này. Nơi Phật học, danh xưng của cội nguồn, nguyên thủy vạn vật được gọi là Chân Như; nơi Lão học được gọi là Tào; nơi Ấn, Brahma; nơi Thiên Chúa giáo gọi là Thiên Chúa. Bởi thế anh em cảm thấy bối rối với câu hỏi năng lực của cầu nguyện, cầu xin; có lẽ chính vì quá lệ thuộc nơi ngôn từ, danh xưng chăng.
        - Xét như vậy, tạm bãi bỏ hàng rào ngôn từ, chúng ta đều nhận biết có một sự thể nào đó nơi mỗi người. Sự thể này điều hành toàn bộ con người; có thể nói, cuộc đời một người là phương tiện cho sự thể này hoạt động. Và một phương diện hoạt động của thực thể này chính là ước muốn, ý định, ước mơ; bởi vậy chúng ta không lạ gì con người là nô lệ cho ước muốn, ước mơ ngay nơi mình. Thử xét thêm trường hợp, thay vì gọi Thực Thể Tối Thượng là Thiên Chúa, Chân Như, Tào, Thượng Đế, Brahma, chúng ta tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu, chúng ta sẽ nhận rõ được quyền lực hiện hữu tối thượng đang hiện diện nơi mọi người, mọi nơi mọi chốn, từ tư tưởng vô hình đến mọi vật, mọi sự hữu hình. Ước muốn, ước mơ phát sinh từ quyền lực này mà cầu nguyện chính là bày tỏ ước muốn ước mơ; tất nhiên, năng lực của ước mơ phát xuất từ quyền lực hiện hữu này. Như vậy, thật dễ cho chúng ta hiểu tại sao nhà Phật nói ước muốn hay dục tạo chúng sinh. Phúc Âm cũng nói đến trường hợp này nơi câu nói, “Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt. 5:27-28). Suy thế, xưa nay chúng ta đều mang thứ tội độc nhất mà Đạt Ma sư tổ gọi là tội vô minh, tội thiếu suy nghĩ, thiếu nghiệm chứng. Chúng ta chẳng khác gì đứa bé một hoặc hai tuổi, tay cầm "Credit card" hay tiền bạc nhưng chẳng biết chúng là gì, chẳng biết sử dụng ra sao đến nỗi chết vì khát sữa.
         
         
        MBVN 12
         
        - Thưa bác, Sỹ nhà con lên tiếng, nhưng cầu hoài cầu hủy, cầu tới, cầu lui, cầu mãi không được thì đành bó tay chấp nhận chứ biết sao hơn.
        - Nói như thế, anh Sỹ vẫn chưa biết cầu nguyện, cầu xin là gì. Và như vậy lại càng chưa nhận thức đúng đắn năng lực cầu nguyện phát xuất từ đâu. Anh em nên suy nghĩ điều này; đó là cầu nguyện, cầu xin, là sử dụng năng lực, quyền lực tối thượng nơi mình để thực hiện điều mình muốn nó xảy ra. Như vậy, nếu đã không biết, không nhận thực được quyền lực tối thượng đang hiện diện nơi mình thì sao có thể sử dụng. Bình thường chúng ta chỉ cho rằng cầu nguyện hay cầu xin là trình bày mơ ước, mong muốn của mình tới đấng tối cao và được ban cho hay không tùy ngài. Xét cho cùng, cũng bởi quan niệm như thế nên chúng ta đã chẳng tìm hiểu, suy nghiệm về thực thể chính mình. Chúng ta không biết mình là ai, thế nào, mà chỉ âm thầm chấp nhận đã bị sinh ra thì phải sống trong khi lại sợ chết để rồi mang mặc cảm sống vô tích sự đành tìm giá trị hiện hữu của mình qua giá trị thế tục hoặc danh vọng hão huyền. Thử hỏi, trãi qua bao chục năm sống nơi thế giới này chẳng lẽ khi xác thân qua đi thế là hết? Giá trị đời người nơi đâu khi vào đời tay trắng và ra đi trắng tay! Chẳng lẽ giá trị đời sống con người cũng giống như một cuộc đời con vật, tối ngày chỉ lo sao cho no bụng rồi chờ ngày chết. Thật ra, những ai quan niệm cuộc đời như thế, chẳng có gì đáng nói vì nói cũng như không. Anh em nên suy nghĩ lại về câu Phúc Âm, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) lần trước tôi đã giải thích. Tuy nhiên, bởi quá quen suy nghĩ theo chiều hướng thế tục, chúng ta không suy nghiệm thâm sâu về thực thể cầu nguyện. Nơi Kinh Thánh có câu, “Dừng lại! Hãy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (TV 46:11). Nơi tiếng Mỹ được dịch là “Be still, and know that I am God.” Nơi bản dịch khác ghi, “Desist! and confess that I am God.” Thiển nghĩ, câu này nên được dịch, hãy bình tâm và nghiệm chứng để nhận thực Ta là Thiên Chúa. Đây mới đúng nghĩa của cầu nguyện; tức là nâng lòng mình lên hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi chính mình, nơi tạo vật. Bất cứ ý nghĩ, tưởng tượng, ước vọng, ước muốn nào đều chỉ là ý nghĩ của loài người. Có lẽ anh em đã hiểu ý nghĩa tại sao đức Giêsu gọi Phêrô là Satan! Với ý nghĩa này, câu Kinh Thánh giúp chúng ta gợi nhớ lời lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật. Chỉ về trạng thái này, Lão học gọi là vô cầu, vô công, vô danh, trạng thái hòa nhập với Tào hay huyền đồng.
        - Yoga sử dụng và phát triển năng lực nội tại hầu thực hiện các pháp môn như Hatha Yoga để tu luyện xác thân, Kundalini Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ, Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén, Râja hay Kriyâ Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, Samadhi Yoga đưa đến giác ngộ tối cao (TTHB; tr.177). Mỗi pháp môn lại bao gồm nhiều giai đoạn, thứ bậc mà hành giả (yogi) cần được trải qua và nhiều khi các tác giả trước tác bởi không thực hành lại phân chia thành các thành phần riêng biệt khiến độc giả không thể nào có nhận định tổng quát đúng đắn. Đàng khác, có thể vì lối giải thích hoặc hoằng dương thiếu đúng đắn do lòng thành nhưng thiếu hiểu biết đến độ quá khích, trói buộc những tâm hồn sơ cơ hay mù quáng đã chẳng giúp ích quảng bá mà nhiều khi gây phản ứng ngược, tạo cho người nghe tâm tình coi thường. Chẳng hạn nơi cuốn Đông Phương Huyền Bí tác giả viết, “Pháp môn Hatha Yoga chỉ được một số ít môn đồ hiểu rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông người phàm tục thì hiểu sai lầm. Đã có những người nằm suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa và móng tay mọc dài đến năm mươi phân tây hay hơn. Người ta nói rằng những người này thực hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy mà trái lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người đời khâm phục và ngạc nhiên. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu trước mắt mọi người” (ĐPHB; Tr.63-64). Nơi Công giáo cũng thế, đã có lần tôi tham dự một nghi lễ trong đó vị linh mục đã phán rằng nếu ai không chịu phép rửa tội thì không được cứu rỗi, không được vào nước thiên đàng; điều này quả là quá quắt và mang tính cách kết án những người không theo đường hướng của mình và đồng thời gây phản ứng ngược nơi hàng thính giả bên ngoài đạo. Có điều, không hiểu vị linh mục ấy có để tâm nghiệm chứng tác phẩm Công Đồng Vatican đệ nhị hay không. Công Đồng này định nghĩa, giáo Hội bao gồm dân Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng thì ai ai cũng được gọi là dân Chúa; và như vậy, những người trước thời phép rửa tội được thiết lập thì sao!
        - Thưa bác, đúng. Nhiều lần cháu nghe thấy như thế nên cứ phát rét lên nhưng không dám suy nghĩ gì vì chẳng có gì ảnh hưởng đến mình nên thôi. Tuy nhiên, cháu có câu hỏi, tại sao có lắm thứ, lắm cấp bậc nơi Yoga trong khi nhà Phật thì chỉ có pháp môn bất nhị.
        - Pháp môn bất nhị, kiến tính thành Phật là quan điểm chính yếu của lục tổ Huệ Năng đâu phải quan niệm hoặc thực hành chung cho mọi Phật tử. Chúng ta có thể kiểm chứng nơi thực tại Phật giáo. Anh em nhớ cho, chúng ta đàm luận về đạo học chứ không nhận xét tôn giáo. Từ công việc đàm luận này chúng ta thăng tiến nơi phương diện nhận thức để kiếm tìm cho mình một đường hướng thăng tiến tâm linh đúng đắn phù hợp với chính mình mà thôi. Chúng ta cũng nên tránh phê phán quan điểm hoặc niềm tin của tín đồ các tôn giáo khác nhau. Có chăng, chúng ta nên mở rộng tâm hồn để nhận định, nghiệm chứng. Những gì cảm thấy đúng đắn và hợp với mình sau khi đã kỹ lưỡng suy tư và nghiệm lại nơi những trường hợp quá khứ đã xảy đến với mình đem lại nhận thức khôn ngoan áp dụng nơi thực tế cuộc sống thì mới nên chấp nhận. Có thể rằng hôm nay mình nhận được điều hay nhưng ngày mai đã thấy nó không hợp thì cũng không nên bo bo cố chấp tiếc nuối công lao suy tư mà cần nghiệm lại thâm sâu hơn nữa.
        - Tôi nhắc lại, không có bất cứ một pháp môn nào hợp cho mọi người bởi không ai được sinh ra giống ai cũng như căn cơ mỗi người một khác. Thêm vào đó, mỗi người mang một hoàn cảnh sống cũng như bị ảnh hưởng liên hệ trong cuộc đời tạo thêm nhiều điều khác biệt. Mỗi người phải tự tìm cho mình một đường hướng và sự thực hành áp dụng riêng. Đây là nguyên nhân phát sinh nhiều tông phái cũng như pháp môn như những đường hướng tiêu dẫn cho những con người khác nhau. Dẫu thế, lý thuyết căn bản cho các pháp môn Yoga làm điểm tựa bắt nguồn từ sự liên hệ giữa con người và quyền lực tối thượng, nguồn sinh lực tuyệt đối đang hoạt động nơi vũ trụ. Mối dây liên hệ này chính là không khí. “Thể xác con người và nhứt là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm chế như những giống lừa. Sau đó, sự chủ trị thần kinh và cân não sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con. Tu theo pháp môn Hatha Yoga đem đến lợi ích cho sức khoẻ, ý chí, và sống lâu”(ĐPHB; Tr.56-57).
        - Hatha Yoga có gần hai mươi phép tập gọi là tư thế (asama) để tăng cường những bộ phận và cơ quan trong thân thể và để chữa hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Một tư thế nào đó ảnh hưởng đến những bí huyệt trong bộ thần kinh hệ. Những bí huyệt này lại vang dội đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt động mạnh mẽ trở lại. Có bốn phương pháp để giữ cho thân thể được luôn khoẻ mạnh cường tráng. Trước hết là phép nghỉ ngơi để làm xoa dịu bộ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp có hiệu lực rất hay. Sau cùng là phép khí công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở (ĐPHB; Tr.65).
        - Sau khi làm việc hay đi bộ, ngồi thiền đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để tập ngồi là trải chiếu xuống đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và đừng co bắp thịt lại. Khi đã giữ được thế ngồi, hãy để cho tâm hồn yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghĩ ngợi gì đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy gom tư tưởng của mình vào một vật gì đẹp đẽ, mỹ lệ như một bức tranh đẹp hay một cái hoa (ĐPHB; Tr.66). Trong phép nghỉ ngơi không cần đến những gì khó khăn phiền phức. Những thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết quả rất tốt. Hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình. Buông xuôi các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức nặng của toàn thân đè lên sàn gạch. Người ta không thể tập kiểu này trên giường một cách đúng phép vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng. Hãy dùng một cái chăn trải lên sàng gạch. Trong phép nằm nghỉ này, những mãnh lực hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp con người tu bổ sinh lực. Đó là thế nằm của xác chết. Tư thế này làm cho các thớ thịt khỏi bị căng thẳng và xoa dịu bộ thần kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não; sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga (ĐPHB; Tr.68). Những trung tâm bí yếu của thần kinh hệ ở rải rác nhiều chỗ trong thân thể. Mỗi tư thế Hatha đều có công dụng ảnh hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ khích động các bí huyệt đó, ta có thể ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể, cũng như đến sự hoạt động của trí não. Ngoài ra, người ta không thể dùng cách nào khác. (ĐPHB; Tr.71). Hành giả thực hành mỗi tư thế một cách chậm rãi, có ý thức và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Nằm ngửa, dựng đứng ngược chân thẳng lên,; dùng hai tay, hai vai và đầu đỡ lấy thân mình, tư thế này dồn máu xuống bộ óc do trong lượng của nó trong vài phút. Có hai sự ảnh hưởng khác biệt trong tư thế này: máu dồn xuống óc gây một ảnh hưởng xoa dịu đối với bộ óc và cân não và tăng cường bộ phận sinh dục (ĐPHB; Tr.73).
         
        - Như vậy anh em thấy, bất cứ hành động, hoạt động nào cũng cần được ý thức, cần được sử dụng tâm ý như lần trước tôi đã nói, ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch. Đó là dùng năng lực của ý định điều hành khí huyết theo những phương thức để phát triển năng lực nội tại. Không những thế, kinh sách còn chỉ rõ cho chúng ta biết ước muốn, năng lực của ý định còn ảnh hưởng toàn bộ sự thăng tiến tâm thức một người.
        - Thưa bác.
        - Hãy để tôi nói dứt phần này, cụ Tài ngăn Sỹ lên tiếng. Ý định, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng chính là hoạt động của hồn, tâm Phật, Phật tánh, tâm ý. Anh em để ý nghiệm một chút nơi cuộc đời mình; mình luôn luôn theo đuổi ước muốn, ước mơ. Nếu thực sự ước muốn điều gì, chúng ta tiêu hao ngày tháng, tiền bạc, đôi khi ngay cả tình nghĩa thân sơ hay gia đình để theo đuổi chúng. Như vậy, cuộc đời một người là nô lệ cho những ước muốn, ý định. Nói cách khác, cuộc đời là cơ hội cho hồn, tâm ý, tâm Phật hoạt động và dùng thân xác làm phương tiện. Chúng ta đã không để ý nghiệm chứng năng lực và ảnh hưởng của tâm ý, của hồn nơi cuộc đời trong khi Phúc Âm nói rất rõ về điểm này. Chẳng hạn, nơi Matthêu được viết, “ Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt. 16:19). Những gì chúng ta theo đuổi có nghĩa chúng ta tự cầm buộc mình vào điều đó. Thế nên, vì tâm trí chúng ta tạo dựng và theo đuổi đồng thời dùng thân xác, cuộc đời chúng ta thực hiện ước muốn ước mơ nên khi thân xác qua đi, hồn chúng ta vẫn theo đuổi ước muốn ước mơ đó. Trạng thái này có nghĩa cầm buộc. Bởi vậy, Phúc Âm còn có câu khác, “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt” (Mc. 9:43). Câu này hoặc câu tương tự về mắt, ý nói, bất cứ những gì ngăn cản, làm phiền hà hành trình thức ngộ, chúng ta đều nên dứt khoát dẹp bỏ dù thế nào chăng nữa. Nơi Nam Hoa Kinh cũng có câu chuyện về con rùa thà chấp nhận sống lê chiếc đuôi nơi vũng bùn lầy còn hơn trở thành mớ xương khô được đặt trên trang thờ cho người ta cúng bái. Vũng bùn lầy chỉ về cuộc đời bình thường của một người nơi hành trình tâm linh; trang thờ nói về danh vọng, chức quyền thế tục. Như vậy, Trang học cũng khuyên người ta chú tâm đến hành trình thức ngộ tâm linh hơn là chạy theo danh vọng thế tục. Có lẽ rất khó cho mọi người hiểu khi nghe thấy câu, “Được lợi lãi cả và thế gian mà lỗ vốn mất linh hồn nào được ích chi.” Vì tâm hồn chỉ kiếm tìm lợi lộc thế tục nên được cả và thế gian, và như vậy hồn luôn luôn bị cầm buộc theo ước muốn thế tục sau khi thân xác qua đi. Nhà Phật gọi là luẩn quẩn trong vòng luân hồi. Anh Sỹ, lúc nãy anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi.
        - Cháu muốn hỏi về phương pháp áp dụng tâm ý nơi Yoga.
        - Điều này tôi vừa lặp lại và đó cũng là nguyên tắc căn bản của hiệp khí đạo. Ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết đến đả thông kinh mạch. Tuy nhiên, đừng hỏi tôi dẫn khí chạy từ huyệt nào đến huyệt nào bởi tôi không thực hành Yoga vì không muốn bị tẩu hỏa nhập ma. Tôi đã giải thích về sự nghiêm trọng cũng như nguy hại của sự luyện tập thiếu nghiệm chứng, thiếu vị thày chuyên môn nơi phương diện này nên chỉ nhắc lại, khuyên anh em chớ dại liều mình; lợi đâu không thấy, chỉ có hại.
        - Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn, chưa thấy Phật thì đã thành ma. Lan ơi em lui về bên ấy, để hằng ngày tâm hồn lơ lửng với tiếng... chuông... chùa. Sỹ đế vô đoạn ngoác miệng ca câu vọng cổ hắn bịa ra.
        - Cái ông quỷ này, tối ngày chỉ cà tửng, cà tửng, phá đám không hà; vợ Sỹ lớn tiếng.
        - Tớ ca vọng cổ giúp vui mà cũng la. Trời, Phật cũng không chiều được lòng đàn bà.
        - Thôi, chú Sỹ, để cụ nói. Ông Thung ngăn.
        - Nhưng thưa bác, cháu nghĩ, từ xưa đến nay biết bao tu sĩ Ấn giáo lại thêm những hành giả thực hành Yoga đều có những vị thày chỉ dẫn đúng đắn sao kết quả không ai biết thế nào. Thì cứ coi như được một số đắc đạo, vậy những người khác không đắc đạo chẳng lẽ bị tẩu hỏa nhập ma hết. Nếu họ không đắc đạo và cũng không tẩu hỏa nhập ma, nghĩa là họ đã dẫn khí đi sai đường kinh mạch mà vẫn không tẩu hỏa nhập ma thì coi chừng sự việc cần một vị thày đã kinh qua việc luyện tập vận khí chuyển mạch không cần thiết. Nói lang thang mãi chẳng cùng, mục đích cháu muốn hỏi chỉ là có phương pháp Yoga nào thiết thực đem lợi ích lại cho con người dù chỉ là sơ đẳng chăng. Bởi nếu nói rằng mọi sự đã được tiền định thì quả thật quá ư nguy hiểm và lộng ngôn vì đây là lối xúi dục con người ăn chơi hoang đàng và tiêu phí cuộc đời một cách tuyệt vời nhất khó thể chấp nhận; bởi lẽ đó lại chẳng cần phải quảng bá pháp môn, pháp khoai chi cho mệt. Đàng khác, nói rằng sự thức ngộ tùy căn cơ kể ra cũng phiêu diêu thiếu thuận lý. Cháu nói rằng thiếu thuận lý bởi đã không đề cập hoặc coi trọng ý định hoặc ước muốn của con người; mà không có con người, cháu nghĩ, chẳng có gì đáng được đề cập tới. Điều này chẳng khác gì nói rằng đã có Chúa chuộc tội cứu rỗi cho mình nên an tâm, tha hồ hoang đàng làm xằng làm bậy bởi đàng nào cũng đã được cứu chuộc vì Chúa đã chết cho tội lỗi của mình những hai ngàn năm trước. Nói tóm lại, mục đích cháu muốn hỏi chỉ là sự hiểu biết về Yoga có đem lại lợi ích gì hay phương cách thực hành hữu ích nào cho những người bình thường như chúng ta không. Cháu muốn nói, mình có thể áp dụng phần nào công dụng của pháp môn Yoga trong cuộc đời mình không. Định trang trọng nêu câu hỏi khiến mọi người để tâm theo dõi. 
         
        Định theo đạo Công giáo, ngày trước đánh đàn nhà thờ cho ca đoàn hát, hôm nay được chị Tình mời tham dự nhóm nhậu. Anh hiền lành, dễ thương, và mang đầy nghệ sĩ tính có lẽ bởi ảnh hưởng những cung đàn nốt nhạc hòa với tâm tình tác giả ẩn chứa nơi những lời ca. Nói rằng anh mang tính chất nghệ sĩ, nhưng tư cách vững vàng, mở rộng đón nhận mọi diễn tiến của sự việc có thể xảy ra để nhận định, suy tư tìm phương cách giải quyết, bởi vậy tâm tính anh hài hòa với mọi người. Ai chẳng biết, thưởng thức âm nhạc thì dù đứa bé mới nứt mắt cũng cảm nhận được phần nào, nhưng muốn bước vào lãnh vực âm nhạc lại đòi hỏi năng khiếu bẩm sinh kèm thêm tư chất mẫn cảm khác người. Chẳng thế mà có câu nói, người ta có thể dạy cho con khỉ đánh một bản nhạc dương cầm tuyệt vời nhưng không ai có thể dạy con khỉ trở thành một nhạc sĩ. Thích âm nhạc là một chuyện mà học và thực hành âm nhạc, phổ một bài thơ thành một bản nhạc, hoặc tự viết một bản nhạc cần nhiều kiến thức và thực hành, đặc tính mẫm cảm cũng như năng khiếu âm nhạc. Thêm vào đó, kiến thức về âm nhạc chỉ là phương tiện cho nghệ sĩ chứ không thể biến người có nhiều kiến thức âm nhạc thành nghệ sĩ bởi nghệ sĩ thuộc về tính chất, và cá tính không phải là công thức. Dẫu cho người nào đó biết về luật cân phương, diễn trình âm thanh kiến tạo một bản nhạc, biết cơ cấu hòa âm, nhịp điệu âm nhạc, biết nguyên tắc chuyển âm, biết các nốt trên phím đàn và lịch sử âm nhạc Đông, Tây, kim, cổ nhưng không thực hành cũng chẳng thể nào viết được một bản nhạc ấy là chưa nói tới năng khiếu. Nghệ sĩ tính đòi hỏi nghiệm chứng và nhận thức. Bởi vậy, dẫu bất cứ ai yêu thích, cố bắt chước cho có vẻ nghệ sĩ cũng chỉ làm trò cười cho những người quen biết. 
         
        Đánh đàn nhà thờ lại phải đối diện với ba bè, bốn mối lôi thôi rắc rối do đa số ca viên thích hát nhưng biết hát thì chưa chắc, đồng thời thường thì chẳng cần biết nhịp điệu là gì, cứ nghe hoặc được tập hát cho quen tai rồi hát. Cũng bởi chẳng biết nhịp điệu nên nhiều khi có tai đó nhưng không phải tai để nghe bắt được nhịp nên không biết lúc nào vô, khi nào ngừng thành ra đa số cứ chờ người khác xướng lên rồi hát hùa theo. Quả thật tội cho người đánh đàn nhưng riết rồi cũng quen, quen nhẫn nhịn; trời không chịu đất thì đất đành chịu trói. Người ta không hát theo đàn thì đành chấp nhận đàn theo hát. Chịu thế cũng chưa yên, mọi sự sai lầm bởi hàng văn ăn ngược lại trở về đổ lỗi tại người đánh đàn. Nhiều lần Định giải thích nhưng cũng chỉ như nước đổ đầu vịt. Đôi khi Định cố gắng nhẹ nhàng giải nghĩa như thế này như thế kia mà nào có ai thèm nghe. Nói cho đúng, họ cố gắng nghe nhưng chẳng thể nào hiểu, chẳng thể nào thực hành nguyên do cũng tại không biết nhịp là thế nào. Đã bốn lần Định đề nghị ca đoàn tổ chức lớp học nhịp, và thế là muôn ngàn lý do bận rộn của các ca viên được trình bày để rồi ca đoàn cứ theo nhịp rối. Lẽ đương nhiên, đã là nhịp rối thì không thể nào nói chuyện phát âm đồng cung giọng thành ra cứ lỗ chỗ như cỗ ăn mày. Bữa nào chẳng biết trời đất khí tiết trên thuận dưới hòa, âm dương đồng hợp khiến thần khí các ca viên hứng khởi hát được một đôi bản thuần điệu, một số người tham dự lễ lạy có lời khen, anh chị em ca viên cảm thấy hể hả tưởng rằng mình giỏi dang, thích thú; Định cũng cảm thấy vui lây với họ nhưng vui gượng vì anh biết rồi sẽ bị chê đó. Thực ra, chẳng ai chê đâu vì có ai đó biết chăng đã gia nhập ca đoàn; hơn nữa, có những người chịu khó bỏ giờ giấc tập dợt để hát cho nhà thờ là quí hóa rồi. Nói cho đúng, nơi nghi lễ Công giáo, đa số giáo dân nghe riết bắt quen cũng lõm bõm hát theo, mà đã hát theo làm sao tránh được sự nhận biết mình đã hát trật nên chấp nhận cho qua thành thói quen; thế nên, hát còn hơn không, hát để nâng lòng mình lên cho tâm trí phần nào thoát khỏi những nỗi ưu tư đang vướng bận lòng người. 
         
        Định cũng nhận ra nguyên nhân tại sao khó thể dạy nhịp nhạc cho ca đoàn. Số là có trưởng ca đoàn nhưng không ai có kiến thức thực nghiệm gì về ca trưởng. Nói như vậy có nghĩa cũng có người bạo phổi đứng ra tập hát nhưng cũng chẳng biết gì về âm nhạc, có chăng chỉ nghe nói hoặc đọc đây, dòm kia những bài bình luận rồi nghe, hát theo bài hát nào đó cho nhuần nhuyễn và thế là đem tập cho ca đoàn. Khổ nỗi, nơi đĩa, nơi băng, nơi mạng lưới điện toán, người ta hát theo nhịp nhạc, đến lúc tập cho người khác do nhịp nhạc không vững lại cứ theo cảm hứng riêng nên tập cho ca đoàn hát một bản nhạc nghe tạm được quả là một công trình múa gậy vườn hoang, mệt phờ người. Dĩ nhiên, ai cũng có niềm tự hào riêng. Nếu nghe dại anh Định để học nhịp nhạc, ca trưởng lại trở thành đàn em của người đánh đàn. Cái danh dự hão cá nhân này của chuẩn ca trưởng đã kéo cả ca đoàn lê lết hết tuần này sang tuần khác, tháng nọ qua tháng kia, và đã những gần hai mươi năm trời ngụp lặn ngây ngô nơi vườn thánh ca ngoài lề nghệ thuật hát xướng, tạm có thể gọi hát hỏng cho danh chính ngôn thuận theo lối dùng chữ nghĩa của anh Định đã bao lâu nay. Hình như phải thường xuyên đối diện với sự thể chẳng đặng đừng ngoắc nghoéo giữa âm nhạc và hát hỏng bao gồm nhiều khía cạnh không nói thì bực, nói ra càng tức thêm nên thà chẳng nói, đành chỉ để tâm nhận định đã kiến tạo nơi anh Định câu hỏi dè dặt bao gồm nhiều vấn đề suy tư. 
         
        - Chào anh, hình như đây là lần đầu tôi gặp anh, và cảm ơn anh đã hỏi một câu rất thực tiễn. Câu trả lời thì đơn giản nhưng đòi hỏi thực nghiệm để áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí; khí dẫn huyết, và huyết đả thông kinh mạch. Tôi không thực hành Yoga theo bất cứ pháp môn nào nhưng chỉ sử dụng Yoga áp dụng nguyên tắc ý, khí, và huyết. Chẳng hạn đôi khi chúng ta cảm đấy hơi nhức nơi cánh tay, hoặc bên hông, hay phần nào đó nơi chân. Thuở ban đầu, chúng ta nằm hay ngồi thật thoải mái, nhắm hờ mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng mũi. Trong khi từ từ hít hơi vô, chúng ta để tâm tưởng tượng dẫn không khí chạy thẳng tới nơi đau nhức. Khi đã đầy hơi, ngưng lại vài giây đoạn từ từ thở ra bằng mũi và cũng tưởng tượng dẫn sự đau nhức theo không khí thoát ra. Đến khi gần hết hơi lại cố gồng chỗ đau nhức ép sự đau nhức này theo hơi ra cho hết. Làm như thế ba lần hay cùng lắm bốn lần đoạn coi như nó khỏi và lờ đi. Chỉ đôi phút sau kiểm soát lại anh em sẽ thấy hết đau. Nếu vẫn còn đau, thử thêm ba lần hít thở nữa. Ai thử, người ấy sẽ biết. Khi đã quen định tâm dẫn khí, chúng ta có thể thực hiện như thế bất cứ lúc nào dẫu đang lái xe hoặc làm việc gì. Điều quan trọng là ý định nơi mình; trường hợp này có thể nói là hành thiền giống như lục tổ Huệ Năng đã dạy.
         
        - Các pháp môn Yoga dùng phương pháp thực nghiệm ý, khí, huyết để dẫn khí qua các trung tâm huyệt đạo theo một thứ tự nào đó hầu phát triển năng lực nội tại. Như vậy, anh em nên để ý một điều, đó là Phật học phát xuất từ Ấn Độ trong khi Ấn học đã có từ ngàn xưa. Những pháp môn Yoga được nhà Phật sử dụng tiếng Việt gọi là thiền hay thiền định. Thiền tông Tây Tạng áp dụng lý thuyết Phật học vào Yoga nên được gọi thiền tông Tây Tạng hoặc Mật Tông Tây Tạng. Tuy nhiên, thiền nơi nhà Phật chủ về kiến tính trong khi Yoga cũng được gọi là thiền lại chuyên chú về chuẩn bị xác thân.
         
        Câu giải thích của cụ Tài giống như luồng sét chém sả vô tâm tư Định khiến anh nổi da gà. Đánh đàn cho ca đoàn hát dĩ nhiên anh luôn luôn phải có mặt nơi những nghi lễ phụng vụ nơi nhà thờ. Bởi thế, không nhiều thì ít những lời giảng dạy của các cha cũng phần nào thấm nhuần nơi đầu óc người thanh niên trẻ. Với tính chất nghệ sĩ nơi dòng máu, với cung nhạc trầm bổng quanh đi quẩn lại chỉ gồm mấy nốt cộng với hòa âm tùy theo sáng tạo chuyển âm của nhạc công chẳng những dẫn dắt tâm hồn người nghệ sĩ bay bổng khỏi thực tại để hòa tâm hồn với dòng biến chuyển sáng tạo vô định hoặc được định hướng mà còn nâng tâm hồn thính giả hòa nhập với diễn tiến âm thanh dẫn lòng thoát khỏi thực tại đang xảy ra xung quanh. Vì đã quá quen với thực trạng này, nhiều khi Định cảm thấy lòng ruột xốn xang khi nghe linh mục giải thích Phúc Âm một cách ngược ngạo, câu sau phản câu trước hoặc lời giảng tuần này phản nghịch lời giảng tuần trước. Chẳng hạn, có những linh mục vừa mới thao thao bất tuyệt tuyên xưng lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa thì lại cũng vội vàng khuyên răn người ta phải thế nọ, phải thế kia kẻo bị Chúa phạt. Định ngây ngô ngồi trước phím đàn với cảm giác lạc điệu nào đó nổi lên, tưởng như cung nhạc bất thường chói cả tai nhưng chẳng biết thế nào giải quyết tâm trạng thao thức, khắc khoải đang xảy đến nơi tâm tư. Có điều, anh là người kín đáo nên chỉ âm thầm suy tư mò mẫm sao cho lòng ruột thuận tình yên vui. Nói ra chẳng được lợi ích gì mà đôi khi trở thành tâm điểm cho những mũi tên nghịch chiều bắn tới. Lại cũng có lần nghe cha giảng về câu Phúc Âm, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” (Lc. 18:25) khiến anh giật mình. Cha thì thao thao bất tuyệt lên án những người giầu có, nào là tham lam, nào là không biết thương xót những người khốn cùng, nào là đam mê của cải vật chất; đại khái những người ngồi nghe nếu nhận định đúng đắn điều kiện sống của mình đem so sánh với những người nơi các nước nghèo khác có lẽ nên bỏ ra về, ăn xài đàng điếm cho bõ kiếp người bởi cứ theo lời giảng của cha, chắc chắn họ chẳng thể nào có được mảy may hy vọng sẽ được cứu rỗi. Anh thầm nghĩ, nếu so sánh cuộc sống của mình hiện nay với những ngày xưa khi còn sống tại Việt Nam, quả là một trời một vực và thế là hết hy vọng bởi dẫu cho giải thích thế nào, lỗ kim may vá hay lối vào nhỏ bé được đặt tên lỗ kim nơi đền thờ Jêrusalem thuở xưa thì cũng vô phương cho con lạc đà chui qua. Nhìn vào thực tế, nếu người ta nghèo khó đến nỗi không đủ ăn, đủ mặc, hoặc không đủ  chi dụng tối thiểu cho cuộc sống thì lấy tiền đâu cho nhà thờ; kết án những người có thể bớt xén ăn xài đóng góp cho nhà thờ quả là phi lý vì nếu họ không cho, ông cha thất nghiệp, hoặc nếu họ quá nghèo phải lo kiếm sống đâu thể tới nhà thờ để nghe cha răn đe, lên án công sức làm lụng của mình. Những ý nghĩ này chẳng hiểu đã bao lâu gậm nhấm tâm hồn anh khiến lòng ruột nhiều khi cứ rối tung như chân gà vướng búi tóc.
         
        Lại có lần nghe cha giảng câu, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó” (Mt. 6:21); và rồi giáo dân ngồi nghe, người nọ liếc nhìn người kia vì cha đang phán xét những người ham mê có nhà cao, cửa rộng, xe nọ, xe kia, tiệm nọ, tiệm kia. Định tự hỏi, vậy lòng dạ của mình hiện giờ đang ở đâu. Câu hỏi ngớ ngẩn này đã giúp anh nhận ra hình như lời Phúc Âm hoặc mang nghĩa ám định hoặc đã bị phiền hà bởi dịch thuật do ý nghĩa của ngôn từ thay đổi theo thời gian trong khi Phúc Âm đã được viết những hai ngàn năm trước. Tự trả lời câu hỏi ngớ ngẩn này, anh thấy lòng dạ đang mơ tưởng theo ước muốn, ý định của mình. Chợt câu Phúc Âm “Kẻ giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đài chui qua lỗ kim” trở lại nơi tâm trí, anh bỗng có ý nghĩ lấy hai câu ráp lại làm một, những người ước muốn danh vọng, của cải giầu có cuộc đời này thì khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim; vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó. Anh cảm thấy hợp lý hợp tình nhưng không biết sao giải thích. Thế nên, khi cụ Tài nói về quyền lực của ý định, ước muốn chính là quyền lực phát xuất tự tâm hồn con người đã giúp anh bừng tỉnh. Bởi ý định phát xuất tự tâm hồn và cuộc đời thân xác chỉ là công cụ cho hồn thực hiện ước mơ nên khi còn sống, con người chạy theo ham muốn nào thì khi thân xác chết, hồn vẫn tiếp tục theo đuổi ham muốn đó.
        - Thưa bác, nói rằng ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch, như vậy ý định tự mang năng lực điều hành điều mình ước muốn? Định chợt buột miệng hỏi.
        -Chẳng những thế, cụ Tài chầm chậm nói, ý định còn kích thích tưởng tượng như một động lực thúc đẩy con người thực hiện ước muốn. Thiền định hay Yoga đặc biệt sử dụng năng lực này. Vượt qua những giai đoạn điều thân và điều tức, hành giả bước tới giai đoạn điều tâm. Pratyahara và Dharana nơi Yoga là những bậc thang đầu tiên của việc điều tâm tức là chế ngự giác quan hay điều khiển giác quan. Dharana là tập trung quán tưởng, tức là thu gọn thức giác của mình vào một điểm. Khi chúng ta ở trạng thái thức, không có lúc nào tâm thức ta không bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều cảm giác của ngoại giới. Nơi nội tâm, dù không muốn nghĩ gì, chúng ta vẫn luôn ghi nhận những tình tự, ý nghĩ vẩn vơ. Hành giả Yoga khi bước vào con đường điều tâm phải diệt trừ tất cả những ảnh hưởng tâm thức này. Vì vậy, Pratyahara là kỹ thuật chế ngự các cảm giác sao cho tâm thức hoàn toàn không ghi nhận bất cứ cảm giác nào (TTÂĐ; Tr.250).
         
        - Thưa bác, thế sao lục tổ Huệ Năng lại lên án rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên đưa ra lý thuyết hành thiền. Hưng hỏi.
        - Asanas Yoga có nghĩa những thế ngồi thiền. Theo nghĩa rộng, Asanas chỉ chung các thế nằm, ngồi, đi, đứng, để tập luyện và điều hòa nhịp sống sinh lý trong cơ thể nhưng thường được nói về những thế ngồi thiền mà thôi. Có nhiều lối ngồi thiền nhưng hai lối thường được dùng hơn cả là ngồi bán già hoặc kiết già. Thực ra, mục đích của các thế ngồi chỉ giúp cho tư thế của thân thể được vững vàng, thoải mái khiến sự điều tức và điều tâm dễ dàng. Ý nghĩa thâm trầm của thế ngồi là muốn giúp cho con người thoát ly khỏi cái thân phận giao động phân tán thông thường nơi tâm thức nhằm đưa trực giác tới chỗ siêu hóa (TTÂĐ; Tr.246-247). Tuy nhiên, cũng có những người gia nhập hàng tu sĩ vì lười biếng, không chịu làm việc sinh sống nên gia nhập tu thiền, thay vì ngồi quán tưởng lại ngồi đó mà ngủ. Đọc nơi các câu chuyện về những kỹ thuật hoặc quy luật đã được đặt ra giúp các hành giả tu chứng chống lại trạng thái mà lục tổ Huệ Năng gọi là vô ký không, có những tổ đã nghĩ ra phương pháp đội đèn. Tu sĩ đội đèn quán tưởng ngủ gật, đèn đổ, dầu loang ra cháy cả áo xém lên người. Dĩ nhiên, khi định tâm quán tưởng rất dễ buồn ngủ; điều này là sự thường. Lục tổ Huệ Năng đặt nặng vấn đề kiến tính, muốn kiến tính cần định tâm. Như anh em đã biết, hành thiền mang nghĩa làm gì, hoạt động gì thì cứ việc làm, nhưng tâm trí luôn tập trung nghiệm chứng về lẽ nào đó, hoặc công án nào đó. Yoga nơi Ấn học nặng phần phát triển và điều hành thân xác. Nhà Phật nhấn mạnh về kiến tính. Anh em nên để ý phân biệt rõ ràng. Dẫu ngôn từ Yoga nơi Ấn học được dịch thành thiền định nhưng nơi phần nhận định chúng ta nên phân biệt thiền định theo nhà Phật hay thiền định theo Ấn học.
         
        - Pranayama nơi Yoga có nghĩa điều tức hay điều hòa hơi thở. Theo quan niệm thực hành Yoga, hơi thở là một yếu tố hết sức quan trọng vì nó là sợi dây hay cây cầu liên lạc, thẩm thấu thường hằng giữa đại vũ trụ và con người. Lý thuyết Yoga quan niệm rằng, trong cơ cấu con người, hơi thở là nơi tiếp giáp giữa thể chất và tâm thức. Có làm chủ được nhịp thở mới có thể ảnh hưởng tới nhịp sống thể chất cũng như tâm thức. Hơi thở cần phải điều hòa, hơi càng dài bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tông phái Yoga cho rằng hơi thở rất ảnh hưởng tới sự điều hòa và điều khiển tâm thức vì nó tạo cho hành giả một thức giác miên tục giữa trạng thái tỉnh và ngủ. Mục tiêu tối hậu của Pranayama là điều khiển hơi thở để con người có thể ngưng thở trong một thời gian rất lâu được. Như vậy, ngủ cũng là một hình thức Yoga nhưng vô ý thức. Trong giấc ngủ, con người đắm chìm một cách vô ý thức nơi kho dự trữ tinh lực vũ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn (XPHB; Tr.5). Hành giả Yoga áp dụng phương pháp hít thở có ý thức một cách giản dị, đem năng lực bất diệt thấm nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác và duy trì chúng trong một trạng thái thấm nhuần từ điển một cách thường xuyên. Làm như vậy, hành giả khiến cho sự hô hấp trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa đến giấc ngủ hay sự hôn mê bất tỉnh (XPHB; Tr.6). Theo truyền khẩu, hành giả nào có thể cầm hơi thở trong mình tùy theo ý muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bởi đó, sự sống vẫn tiếp tục dầu người đó ngưng thở vì sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức sinh hoạt khác thường mà thôi. Người luyện tập Yoga đến trình độ cao có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Theo sự tuyên truyền, đây là một triển vọng để cho con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn (ĐPHB; Tr.84-85).
         
        - Giai đoạn kế tiếp sau khi đã tập luyện hài hòa với phương pháp hít thở theo một nguyên tắc nào đó, hành giả bắt đầu diễn trình quán tưởng. Tổng quát, quán tưởng tức là nhìn vào nội tâm? Hãy suy gẫm về cái chân tướng hay chân ngã, thực tướng của anh bằng sự tham thiền quán tưởng liên tục không gián đoạn. Đó là con đường độc nhất đi đến ánh sáng. Sự tiến bộ trên địa hạt tâm linh không phải dễ gì nhận biết như nơi địa hạt vật chất. Quán tưởng không cần thầy; thầy chỉ giúp phương tiện, dìu dắt mà thôi. Còn thiền định phải là một vấn đề kinh nghiệm bản thân. Thời gian tùy trình độ riêng của mỗi người. Cây diêm bắt lửa ngay nhưng than củi thì lâu hơn (ĐPHB; Tr.148-149). Các vị tu sĩ Ấn Độ đều quả quyết rằng việc quán tưởng của thiền đem lại cho hành giả một năng khiếu nhận thức mới lạ khá trọn vẹn. Sự nhận thức này không bị giới hạn hoặc đầy sơ hở như nhận thức do giác quan mà do trực giác. Nơi nhận thức này, tâm thức chủ thể và đối tượng là một, chỉ hành giả cảm nhận được mà thôi. Việc nhập định này nhiều khi bất chợt nên các nhà tu thiền đều nhấn mạnh vào tính chất bất chợt và khoát nhiên của việc nhập đại định. Trạng thái đại định là một trạng thái của tâm thức cao siêu do đó những bậc tu sĩ siêu phàm cũng khước từ không dám dùng ngôn từ để diễn tả. Nơi trạng thái tiếp xúc sơ khởi với thiêng liêng trong hành trình quán tưởng, tâm thức hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân làm cho cứng đơ, bất động. Tuy nhiên, hành giả Yoga hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác. Nơi trường hợp đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức hành giả hòa hợp với thế giới thiêng liêng trong khi thân xác vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh (XPHB; Tr.4). Nhờ luyện tập Yoga, nguồn sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng phí bởi sự loạn động của giác quan, mà được gom về những trung tâm bí yếu trên tủy xương sống để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà thể xác và những tế bào trong óc của hành giả Yoga được truyền vào một sức mạnh tâm linh tăng cường sự sống (XPHB; Tr.6). Trường phái pháp môn Kriyâ Yoga cho rằng, cuộc đời đạo sĩ Kriyâ Yoga không còn tùy thuộc vào những nghiệp quả của quá khứ mà chỉ tùy thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, hành giả tránh khỏi sự tiến bước chậm chạp do những hành động tốt hay xấu của cuộc đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô sơ của con ốc không còn phù hạp với đôi cánh bay xa của con chim phụng hoàng (XPHB; Tr.6). Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: kỷ luật của xác thân, kiểm soát ư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM (XPHB; Tr.3).
         
        Cụ Tài ngưng nói, nhìn rảo qua một lượt đoạn tiếp tục,
        - Mọi người thấy, tôi chỉ nói đại khái về lý thuyết và quan niệm của những hành giả thực nghiệm một vài pháp môn Yoga mà thôi chứ không dám tiếp tục thử nghiệm. Tôi nghĩ, như thế đã quá đủ cho tối nay. Chúng ta cần nghỉ ngơi để lấy sức cho những công việc ngày mai.
        - Chúng cháu cảm ơn bác, Sỹ vội lên tiếng. Nhưng, hắn lên giọng, lần tới nhà ai?
        - Lần tới chúng ta sẽ bàn thảo về Mật Tông Tây Tạng và Điểm Đạo Ai Cập. Cụ Tài nhẹ giọng.
        Một cánh tay giơ lên... 
         
        * * *
         
        - Xin phép bác cho cháu được mời bác cùng quý anh chị lần tới ghé qua nhà cháu dùng tạm bữa cơm mắm muối chỉ gồm có nem thính Bắc kỳ và gỏi cá hánh, giấm nấu theo kiểu dân năm tư. Thanh giơ tay nói liền một hơi.
        - Đồ uống! Đã mời thì phải cho long trọng đàng hoàng! Bộ muốn học theo trạng Quỳnh sao! Sỹ nhà con tơm tớp nhào vô e người khác nói mất phần.
        - Thì ai sao tôi vậy. Thượng tọa thích đủ thứ nên mới chỉ chừa được có một nửa.
         
        Bố mẹ Thanh thuộc dân Bắc kỳ 54 sinh sống tại khu Bãi Dâu, Vũng Tàu. Năm 75, anh đang học lớp 12 theo gia đình gồm bố mẹ và hai em sang Mỹ và được một gia đình kỹ sư người Công giáo bảo lãnh về tiểu bang Virginia vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Dẫu chân ướt chân ráo nơi đồng đất nước người nhưng Thanh đã phải trở nên đầu tàu của gia đình chỉ vì bập bẹ được đôi tiếng Anh, tiếng u. Và chỉ một tuần sau, dù vẫn chưa quen với khí hậu cũng như thời giờ thay đổi, bố của Thanh đã được giới thiệu đi làm nơi một hãng thịt heo với nhiệm vụ rửa ráy những chiếc nồi to lớn kềnh càng dùng để nấu nướng các loại thịt gần hết hạn nơi siêu thị được gom trở lại để làm thành hot dog, balony, xúc xích, và quét dọn những chuồng nhốt heo trước khi được làm thịt, kể là cũng may mắn. Thanh được giới thiệu vô hãng ống nước của thành phố với chân phụ thợ, bảo sao làm vậy, bao gồm những công việc đào đất, cắt ống nước, lấp đất, khuân vác những vật dụng lẩm cẩm lỉnh cần thiết theo lệnh của tên cai.
         
        Đang sống nơi miền nhiệt đới bỗng rơi ngay vùng ôn đới trong khi công việc đòi hỏi phải giải quyết bất chấp giờ giấc ngày hoặc đêm quả là một cực hình chẳng những do ảnh hưởng giấc ăn giấc ngủ bất thường mà lại bị cái lạnh như cắt xé da mặt, cóng buốt đôi tay của nhiệt độ nhiều khi xuống tới âm 30 độ C (-50 độ F). Sáu tháng dằng dặc trãi qua, nhận thấy tiền lương của ông cụ nơi hãng thịt heo cũng tạm đủ cho gia đình trả tiền thuê nhà, điện nước và ăn tiêu dè sẻn trong khi tiền lương, cộng thêm tiền phụ trội những giờ bất thường đã trừ thuế, Thanh còn để dành được gần hai ngàn dollars trong nhà băng. Thanh bàn tính với bố mẹ muốn tiếp tục học và đổi nghề, làm công việc bồi bàn cho một nhà hàng Tàu vào những buổi chiều và tối. Trời không phụ lòng người; làm tại nhà hàng lại không phải lo lắng đến vấn đề ăn uống nên tiền để dành cũng chẳng thua sút khi làm nơi hãng ống nước lại không phải cực nhọc chịu đựng cảnh giá lạnh đêm hôm bất thường.  
         
        Năm năm sau, Thanh tốt nghiệp chương trình kỹ sư điện tử và đã được hãng điện thoại AT&T thuê làm chánh sở cho một chi nhánh tại Mississippi, miền Nam nước Mỹ. Không hiểu số may hoặc do thành tích học lực xuất sắc, hãng điện thoại bằng lòng trả cho Thanh tháng đầu tiền thuê nhà, cộng thêm tiền chi phí xăng dầu xe cộ cũng như thực phẩm ăn uống. Hôm đầu tiên nhận sở làm việc, quen với lối sống đơn giản, tằn tiện, Thanh chỉ bận chiếc áo sơ mi trắng, sọc xanh và chiếc quần Jean đã cũ. Chiếc xe con cóc màu vàng nhạt lá khô lại càng khiêm nhượng hơn bởi năm năm trước nó chỉ được mua với giá năm trăm Mỹ kim. Vừa bước vô trong cửa văn phòng, chị thư ký xinh như mộng, tóc nâu nhạt óng ánh màu bạch kim, lên tiếng hỏi,
        - ”What's wrong!”
        - Tôi muốn gặp ông Robert Alexandria, cô làm ơn.
        - Hôm nay ông ấy bận lắm bởi phải chuẩn bị giấy tờ bàn giao nhiệm sở cho ông chánh sở mới sắp tới.
        - Thưa cô, tôi chỉ muốn gặp ông ta để nói lời từ tạ. Tôi nghĩ, ông ta sẽ chấp nhận gặp tôi.
        - Tên ông là gì?
        - Tôi là Thanh Nguyễn.
        Cô thư ký nhấc điện thoại xí xố đôi câu, chưa kịp bỏ điện thoại xuống đã hướng về phía Thanh,
        - Ông Bob sẽ gặp ông ngay bây giờ.
        Cô thư ký vừa dứt lời thì đã thấy một người Mỹ, cao ráo, tóc nâu muối tiêu được cắt tỉa gọn gàng, mặc bộ đồ vét xám, thanh lịch, chiếc cà vạt đỏ chói nổi bật giữa nền áo sơ mi xanh nhạt xuất hiện nơi hành lang nối liền văn phòng đưa tay bắt, lên tiếng,
        - Chào ông, ông là Thanh Nguyễn?
        - Thưa đúng, chào ông.
        Ông Bob đưa tay chỉ cô thư ký nói,
        - Cô Dianne Higgobotham, thư ký văn phòng; đoạn ông quay sang cô thư ký nói,
        - Đây là ông Thanh Nguyễn, xếp mới của cô từ hôm nay.
        - Chào cô. Thanh chỉ thốt một câu ngắn gọn, không đưa tay bắt vì anh vẫn còn cảm thấy hơi bực bởi câu hỏi “What's wrong” của cô. Ngược lại, cô thư ký mặt đỏ bừng im miệng do không được Thanh đưa tay bắt, có lẽ hối hận về hành vi tiếp đón chứng tỏ thái độ coi thường con người mang dáng vẻ khiêm tốn, nghèo nàn nhưng bất ngờ lại là xếp quyết định số phận công việc của mình từ nay về sau trong khi Thanh và ông Bob đã khuất bóng theo hành lang.
         
        Công việc êm đềm xuôi theo dòng thời gian, mới ngày nao mà đã mười tám năm đằng đẵng lui về quá khứ. Cũng như mọi người, thuở ban đầu Thanh cảm thấy quá ngỡ ngàng với lối làm việc của công ty nói chung và các nhân viên nơi hãng nói riêng. Họ chừng như sợ làm hết việc sẽ bị thất nghiệp nên lãng đãng, cầm chừng, tà tà kéo dài thời gian. Nhất là hệ thống văn phòng, khi đơn đặt hàng hoặc điện thoại gọi tới cần được điều chỉnh đường giây nào đó, thư ký ghi vô sổ địa chỉ, chuyển tới chuyên viên tính toán thời gian để gửi nhân viên trắc nghiệm đường giây xem xét trước, và khi được báo cáo đầy đủ mới sắp xếp nhân viên sửa chữa tới điều chỉnh những trục trặc. Bất cứ những gì sai sót gây trở ngại thuộc lãnh vực nhà riêng của khách hàng, nhân viên điện thoại không có bổn phận chỉnh đốn, nhưng nếu chủ nhà muốn nhân viên điện thoại sửa sẽ bị trả tiền công khá cao. Chi nhánh này gồm có năm chiếc xe, hai xe để căng những đường dây lớn và ba xe nhỏ cho các nhân viên sửa chữa. Mỗi xe gồm một tài xế và một chuyên viên điện thoại được trang bị đầy đủ dụng cụ cần thiết cho công việc. Nơi trụ sở gồm tám văn phòng riêng biệt, một phòng rộng rãi được ngăn ra các khu nhỏ có bàn ghế và sổ sách cho nhân viên ghi lại báo cáo công việc, và một kho vật dụng.
         
        Ngay khi được hãng AT&T chấp nhận thuê, Thanh đã dành thời giờ lấy hẹn và gặp gỡ một số người điều hành những công ty quanh vùng thành phố Roanoke, thuộc tiểu bang Virginia, nơi anh cư ngụ hầu may ra học hỏi một số kinh nghiệm điều hành thực tiễn nơi trường đời. Kể ra vận số của anh được gọi là may mắn, nhưng vận may nào không phải trả giá. Mới ra trường còn chân ướt chân ráo, chưa có thời giờ thực tập lý thuyết chứa đựng nơi sách vở đã được đặt vào vị thế cai quản một chi nhánh của công ty trong khi anh chỉ có hai chứng chỉ tùy chọn (elective) về ngành quản trị. Thực tế minh chứng, kỹ sư điện tử bị điện giật là chuyện thường và chắc chắn không thể nào sửa chữa điện đóm thiện nghệ bằng chuyên viên điện tử. Kỹ sư được chuẩn bị để tính toán phương trình điện năng, điện lượng và thiết kế hệ thống cho các chuyên viên điện tử thực hiện. Thanh là kỹ sư điện tử, lại phải ngồi ghế giám đốc tất nhiên công ty AT&T đã chẳng tử tế gì khi thuê anh bởi vai trò của anh bao gồm hai nhiệm vụ, điều hành chi nhánh và thiết kế cũng như điều chỉnh hệ thống điện thoại. Thế nên, nỗi vui mừng vì sẽ có công việc khấm khá chưa kịp nảy nở, sự lo âu đã chợt bùng lên trấn áp. Cũng may, mấy vị giám đốc của các hãng xưởng khác nhau, sau khi nghe anh trình bày nỗi lo âu trước khi nhận việc, đã khá thông cảm giải thích lề lối cũng như khó khăn về việc quản trị nơi hệ thống thương mại ở đất nước này.  
         
        Ông John Imergine, chánh sở ống nước của thành phố vẫn còn nhớ anh khi gặp ông năm năm trước, đã thật ngỡ ngàng lúc gặp lại anh. Sau khi nghe anh trình bày sự kiện và ý muốn hỏi, ông không ngớt lời ca tụng ý chí phấn đấu để thăng tiến của anh đoạn kết luận một câu thật đơn giản,
        - Ông Nguyễn, nếu ông không muốn phải đối diện với bất kỳ những sự rắc rối nào nơi thời buổi ban đầu cần nhiều thời gian chuẩn bị, tôi đề nghị, trong hai năm đầu từ khi nhận việc, ông đừng làm chi mới, cứ theo lề lối đã sẵn có, theo dõi, nhận định, và suy nghĩ đường hướng giải quyết vấn đề sau này. Ông nhớ ghi lại những nhận định về công việc cần được điều chỉnh đồng thời đừng quên viết xuống dự đoán sẽ được giải quyết ra sao. Ít nhất, ông cần một thời gian khoảng sáu tháng, tổng hợp và phân định công việc nào nên thực hiện trước, chi tiết nào phải bổ túc cho hợp tình hợp lý tránh phí phạm thời giờ và ngân khoản theo tiến trình nhất định. Thêm vào đó, bất cứ sự việc hoặc thay đổi nào cũng cần thời gian, âm thầm tìm phương cách sao tránh gây ác cảm hoặc khiến người khác có ý nghĩ đụng chạm đến quyền lợi của họ.
        - Thưa ông, vậy phương pháp nào để cắt bớt nhân viên?
        - Cắt bớt nhân viên để làm gì vì ai cũng cần việc làm?
        - Nơi trường hợp muốn tăng lương và tận dụng khả năng của nhân viên cũng như thời giờ để công việc hữu hiệu hơn.
        - Một điều tuyệt đối đó là không bao giờ nói mình muốn cắt bớt nhân viên cho bất cứ ai, ngay cả vợ mình biết. Chỉ nên mượn lý do tài chánh thiếu hụt; cắt bớt giờ làm việc của nhân viên và như thế sẽ có người tự kiếm việc khác để rồi mình chia nhỏ phận việc của người đó cho các nhân viên khác để tăng lương.
        Thời gian dần trôi, công việc nơi công ty mặc dầu càng ngày càng phát triển mà vẫn êm xuôi dẫu nhân viên được cắt bớt từ tám văn phòng chỉ còn bốn. Chuyên viên sửa chữa đường dây tự lái xe nên thay vì năm chiếc xe mười nhân viên thì nay chỉ cần bẩy nhân viên và mỗi người lái một xe làm việc. Như vậy, nhiều chuyên viên hơn thành ra không chi trắc trở. Sau khi nhận việc được tám năm thì hai em cũng đã học xong và có nghề nghiệp vững vàng nên Thanh mua nhà gần nơi làm việc và di chuyển bố mẹ về ở đồng thời cũng năm đó lập gia đình.
         
        Khi đạo luật tách nhỏ các công ty lớn ra đời, chi nhánh nơi Thanh làm việc được bán cho hãng Bellsouth; dẫu tiếp tục làm cho công ty mới hay nghỉ thì ngân khoản được lãnh cũng như nhau theo như giao kèo đã được đồng thuận từ ngày nhận việc; thế là anh được hưởng tiền hưu bổng như đã ký với hãng. Anh chọn vùng Ocean Springs, MS, vì nơi đó gần biển cho ông bà cụ có cơ hội thưởng thức thú câu cá và cũng gần trường học Công giáo cho con cái theo học sau này. Buồn ngủ gặp chiếu manh, vốn mê âm nhạc, nhân tiện nơi Biloxi, thành phố kế cận Ocean Springs, có cộng đồng Công giáo người Việt, anh tham gia và đờn cho ca đoàn hát lễ.
        Tiền hưu bổng tương đối khá đối với một kỹ sư kỳ cựu nên không phải bận tâm lo bề sinh kế cho gia đình do đó anh có nhiều thời giờ rảnh rang; bởi thế nảy sinh ý hướng vui thú điền viên cùng sông nước. Đàng khác, nhân tiện ông cụ cũng quen hoạt động lại được trời ban cho có sức khoẻ dẫu đã có tuổi, Thanh định mua chiếc bo bo du lịch để thỉnh thoảng, năm đôi ba lần, đưa gia đình ra khơi vui với sóng nước. Thoạt đầu, tính toán tới lui, anh thích chiếc thuyền buồm của đôi vợ chồng trung niên người Mỹ chẳng hiểu cơm không lành, canh không ngọt sao đó, quyết định chia tay, bán tống bán táng nhà cửa, thuyền bè, dõi theo chân trời vô định cuộc đời nhưng mới mẻ và hồ hởi với những tâm hồn tan nát. Cặp vợ chồng này con cái đã trưởng thành lại mỗi người có công việc lương bổng khá cao nên bất cần với những gì vương mang kỷ niệm cũ. Chiếc thuyền buồm tương đối khá đẹp, xin xắn, gọn gàng, và rộng rãi cũng như được trang bị đầy đủ cho năm người ăn ngủ hàng tuần lênh đênh ngoài biển khơi. Nghe đâu nếu mua mới phải gần trăm ngàn vào năm 1993 mà nay chỉ được đề giá bán ba chục ngàn. Thanh đã gặp chủ nhân; ông ta cỡ năm mươi, năm lăm, nét mặt đăm chiêu đượm vẻ chán chường dẫu thái độ, hình dáng thể hiện đầy vẻ hoạt bát, năng động. Mượn cớ hỏi lý do vì sao phải bán bởi tò mò muốn hiểu nguyên nhân, ông hiếng đôi câu, nói lên lòng nhớ nhung và yêu thương vợ thắm thiết nhưng duyên số đã chẳng đặng đừng đẩy bà vợ ra khỏi tầm tay níu kéo.
        Thuyền buồm có thể vượt khơi tới những hải đảo xa xôi nhưng lại khá phiền hà về việc bãi bến cũng như chăm sóc, anh tính mua chiếc bo bo mười bẩy bộ dài. Khi tỏ ý, cụ ông phân tích lợi hại cũng như điều kiện có thể và ý muốn riêng tư khiến anh đổi ý và quyết định mua chiếc ghe đúc fiberglass hơn bốn mươi bộ (gần 15 thước), bỏ máy mới vô và sửa sang thành chiếc ghe cào tôm, vừa có thể cùng cả gia đình đi chơi đôi ngày nơi những quần đảo gần bờ chừng hơn kém một trăm hải lý; đồng thời cụ ông cũng muốn hưởng thú lênh đênh kéo tôm dưới màn trời trăng sao vằng vặc hoặc câu cá nơi những giàn khoan dầu hay những khu lắm cá hồng, cá thu do muốn thưởng thức lại hương vị cá tươi nướng đem kho với rau răm, lá ngổ, tưởng nhớ quê hương ngày cũ. Chiêu một ngụm rượu thuốc, bồi một gắp nem thính Bắc kỳ chấm nước mắm tỏi ớt kèm thêm ngọn lá thơm theo ý thích trong khi có được đôi người bạn cùng nhau mạn đàm giữa bầu không khí lành lạnh êm ả, phỏng còn thú nào vui sướng hơn nơi cuộc sống gian trần. Cuộn lá thơm thành chiếc phễu, gắp đôi miếng cá tươi thái mỏng nhẹ nhàng bỏ vô đoạn rưới một muỗng giấm mẽ đặc biệt đang nóng hổi trong lúc miệng vương vị thơm đầm rượu thuốc; mùi mẽ chua hòa lẫn hương mắm tôm ngấu trộn với chất cay miếng ớt mới cắn, tưởng rằng miếng ngon cuộc đời chẳng đâu hơn được. Tâm tình mến yêu quê hương, dân tộc, truyền thống con dân máu đỏ da vàng còn được gợi nhớ và thể hiện qua từng miếng ăn.
         
        Còn gì sung sướng hơn nơi đồng đất nước người lại gặp được đồng hương, vài năm sau ngày dọn về Ocean Springs, gia đình Thanh đã hòa nhập với cộng đồng người Việt sống tại miền Nam Mississippi và đặc biệt cùng nhóm đồng tuổi tác thân cận sinh hoạt. Bởi hiểu biết và hay thường gặp nhau, chia sẻ, trao đổi từ chuyện đang làm ồn ào dư luận đến những chuyện nhỏ nhoi xảy ra chung quanh, những đề tài dù nhiều đến mấy chăng nữa theo ngày tháng cũng phải cạn. Thế nên, mỗi người trong nhóm kiếm cách bày cơ hội mong có được niềm vui mới. Nhân thời kỳ đóng cửa hồ, tàu nhỏ không thể ra khơi đánh tôm, chẳng hiểu mò móc nơi đâu kiếm được chiếc lưới bén, Phủ rủ Thanh và Hưng giăng lưới bắt cá ngoài bãi tắm. Lưới cá là ngón nghề của hàng ngư phủ; do đó vào những chiều rảnh rỗi cứ mấy ngày đã thấy họ họp nhau, hôm thì gỏi cá, lúc cá hấp cuốn bánh tráng, rồi cá chiên, cá nấu, và tuyệt hơn nữa là cá nướng. Tuy nhiên, được chừng hơn tháng vào một buổi chiều lúc mấy người đang quen thói lưới cá đối về thái gỏi nhân tiện có cụ thân sinh của Phủ từ California qua thăm, hai chiếc xe cảnh sát, đèn xanh đèn vàng chớp rối lên và dừng lại nơi mấy tướng đang hí hửng tự thưởng mỗi người một lon bia mừng hơn nửa thùng năm galons cá đối lớn vừa được gỡ lưới. Hai nhân viên công lực, một người kè kè xấp giấy phạt; người kia lủng lẳng chiếc batoong đeo bên hông vẫn để đèn xe chớp chớp, quay quay, đậu trên lề đường, bệ vệ bước xuôi theo bãi cát tiến đến khiến mọi con mắt của khách du lịch đổ dồn về phía mấy tay lưới cá đầu đen.
        - You can not use gill net at tourist beach. Một nhân viên cảnh sát lạnh lùng nói với Phủ,
        - Me no English. Phủ giả vờ ngơ ngác; ngón nghề của chàng từ xưa tới nay. Bởi không muốn bị rắc rối với luật pháp, đã mấy lần từ ngày sang Mỹ, chẳng may đang hiện diện nơi nào đó mà một vài chuyện đã xảy ra, cảnh sát có hỏi đến, Phủ chỉ dùng câu trả lời "Me no English" để khỏi bị hỏi tới hỏi lui khiến mình dù vô can vẫn đương nhiên được coi như chứng nhân liên hệ, mất cả giờ ăn nhậu lại đôi khi bị hạch hỏi lôi thôi hơn cả can phạm.
         
        Nhân viên cảnh sát nhìn quanh từng người, ai nấy cũng vội bắt chước Phủ, khẽ lắc nhẹ những cái đầu. Nhưng tránh trời nào khỏi nắng, chiều ấy thằng con sáu tuổi của Phủ theo bố đi lưới cá thấy vài chiếc phao của cheo lưới đang giăng dưới nước chìm nổi bất thường biết rằng có cá đóng nên thích quá hô lên,
        - Ba ơi ba, có cá gets the net.
        Đã chẳng biết sự khốn khó tới mà lại vô tình chỉ điểm cho cảnh sát bới tội, niềm vui thích của thằng bé khiến mọi người tái mặt.
        - Lưới của các ông phải không. Luật cấm dùng lưới bắt cá ở gần bờ biển.
        Đã đến nước này, có chối cũng không được, Thanh phải nhào vô gỡ gạc,
        - Lưới của ông cụ bố anh này, Thanh đưa tay chỉ Phủ, mới vừa từ California đem qua. Ông ta quên bình thuốc lào nên về nhà lấy.
        - Vậy các anh phải đổ cá trở lại biển dùm ông ta và thâu lưới lại vì có người gọi tới sở cảnh sát thông báo rằng các anh đánh lưới làm dơ bẩn bờ biển.
        Thế là thoát nạn, mặc dầu nhìn những con cá béo bổ lùng quăng chìm vào bãi nước theo chiều nghiêng của chiếc thùng từ tay Hưng mà lòng tiếc hùi hụi, Phủ và Thanh vội nhanh chân lội xuống nước thâu lưới. Nhưng vận nào đã hết xui, mà hình như số mạng mấy tay thích nhậu ngày hôm nay bị sao quả tạ chiếu. Người cảnh sát thứ nhì có vẻ như không để ý hỏi thằng bé,
        - Ông già đi về nhà mãi đâu?
        - Ông ấy ở nhà, không ra biển.
        Bởi đó, khi Thanh và Phủ còn đang mừng rỡ tưởng rằng thoát nạn vui vẻ mang lưới vô bờ, người cảnh sát vừa nói với thằng bé đã vội đưa ngón tay chỉ hai người bỏ lưới vô thùng, không quên cho họ tấm giấy phạt.
        - Mẹ cha cái thằng lỏi tỳ này; mày làm sao quả tạ chiếu vào chúng ông hôm nay. Vừa mất lưới, lại vừa tốn tiền nộp phạt, Hưng tiếc rẻ nên khăn kháu với thằng bé.
         
         
        MBVN 13
         
        - Tôi nghĩ các ông không nên giữ tấm lưới này vì khi ông già trở lại chúng tôi biết trả lời ông ta thế nào. Thanh biết chuyện đã bể không đường tránh thoát vội kiếm cớ lấy lại chiếc lưới. Lối nào thì các ông cũng đã cho giấy phạt và chúng tôi sẽ gặp ông tại tòa án nên xin ông trả lại lưới cho ông cụ già. Hoặc là, các ông đợi ở đây, tôi về gọi ông cụ ra gặp các ông cho biết rành rẽ câu chuyện. Nếu không, chúng tôi không thể nào giải thích về việc mất lưới để ông cụ hiểu được.
        Trong lúc Thanh mồm năm miệng mười mượn ông già làm cớ thì Hưng vừa tiếc rẻ mớ cá tươi báo hiệu bữa gỏi thi vị vừa bực mình bởi sự vô tình chân thật của thằng bé,
        - Thằng củ đếch này, mày mà còn mở miệng nói với mấy người Mỹ ông sẽ tẩn cho một trận. Chạy ngay về nhà, láng quáng ông cho một đá thì văng bố con xuống biển bây giờ.
        Thằng bé thấy nét mặt nhăn nhó của Hưng kèm theo lời đe dọa, nửa ngỡ ngàng nửa sợ hãi, co giò chạy một mạch nhưng lòng vẫn thắc mắc không hiểu tại sao nó chỉ nói mấy câu mà bác Hưng la và còn đòi đá văng xuống biển.
        - Thôi được, người cảnh sát mỉm cười vì mấy người dấu đầu lòi đuôi, you no English, cho các ông cầm lưới về vì đây là lần đầu. Nếu chúng tôi bắt gặp lần thứ hai, you no net.
        - Để tối chút nữa mình kiếm chỗ nào vắng ngâm lưới tiếp, tay xách thùng lưới, tay gấp đại giấy phạt nhét vào túi áo, Phủ đã toan tính chương trình bắt cá kế tiếp. Dẫu bị phạt vì giăng lưới phạm luật cấm, Phủ vẫn cố tình kiếm cá thái gỏi vào buổi tối bởi hai lý do, ông cụ từ Cali mới qua và mấy hôm trước cùng vài người bạn ăn gỏi tại một nhà hàng, Phủ học được cách nấu giấm mẻ nhậu đã quên chết.
        Sáng hôm ấy, sau khi ra bến xem nước nôi tàu bè đang tính về nhà, Phủ thấy Hưng lò mò vác cần câu đi dọc theo bãi đậu tàu. Nghĩ rằng về cũng chẳng có việc gì vội phải làm, vả lại, tưởng tượng đến thú vui lúc cá cắn, Phủ lấy cần câu đi theo Hưng dọc nơi bãi đậu. Hưng dùng ruột sò làm mồi định bắt mấy con nhệch về nhà nấu lẩu; thế nên Phủ phải ghé tàu quen đang chờ cân tôm lấy dăm con mực và ít tôm mồi. Cỡ chừng tiếng đồng hồ, bốn con cá hánh lớn và sáu bảy con nhệch nằm chật cứng chiếc thùng. Bởi mới cỡ mười giờ, hai người đưa nhau vào quán uống cà phê. Chủ quán là người quen nên khi biết được có cá hánh tươi và nhệch vừa mới bắt, đề nghị nấu lẩu và thái gỏi nhậu. Buồn ngủ gặp chiếu manh, hơn nữa, nơi quán ăn đầy đủ gia vị lại đỡ công bếp núc và còn được uống bia chùa, hai tướng đồng ý không một lời phản đối.
        Chẳng hiểu câu "Đồng khí tương cầu" nói lên tâm trạng nào nơi con người nhưng có lẽ thật hợp với đặc điểm của những chiếc dạ dày dân nhậu. Phin cà phê chưa kịp nhỏ hết những giọt nước đen đậm thì bốn tay bạn thuyền đã xồng xộc bước vô. Họ cũng đang toan tính đi câu kiếm cá về nhậu bữa trưa. Và thế rồi hơn tiếng đồng hồ sau, một chiếc lẩu lươn, hai chảo điện nước giấm nóng sốt, cá, rau thơm, bia, tất cả được bày biện trên chiếc bàn tròn lớn đặt giữa bẩy người đang bừng sáng những cặp mắt vì mùi gia vị, mùi mẻ, mắm tôm, xả, riềng, rau thơm quyện lại chui tuột theo đường khí quản kích thích con tì con vị dấy động thúc đẩy những chiếc dạ dày kêu réo. Thế rồi tiếng bia nổ lách tách hòa cùng âm thanh đũa chén chạm nhau, bốn con cá, sáu con nhệch trở thành đồ nhậu tuyệt vời cho mấy tay dân chài đánh chén.
        Lần đầu tiên Phủ ăn gỏi theo kiểu Bắc kỳ đã thấy mê nước giấm nấu mẻ nên muốn nhân tiện hỏi chủ tiệm học cách nấu. Xưa nay gỏi cá sống với nước chấm me đánh mắm tôm hoặc chanh nhậu cũng phê nhưng không thể so sánh với tính chất béo ngậy, nóng sốt, và đầy vẻ thảnh thơi lồng trong cung cách nghiêm chỉnh, trịnh trọng của lối ăn gỏi Bắc Kỳ.
        - Gỏi nhà hàng có khác, nước chấm đã tuyệt mà kiểu cách lại mang thêm phần khác thường.
        - Chưa đâu, lối ăn gỏi này thuộc giới bình dân. Quí cụ già còn có lắm kiểu cách hơn nữa.
        - Các cụ già ăn gỏi thế nào?
        - Cá mè mới cỡ bằng ngón tay, đánh dậm bỏ vô hồ thay nước hằng ngày và cho ăn rau, cơm, cỡ một tuần lễ cho hết chất bùn đất, rong rêu. Sau đó để cá nhịn đói hai ngày tiêu hóa sạch hết thực phẩm trong ruột. Hai ngày cuối này, mỗi ngày thay nước hai lần đoạn vớt cá bỏ vào thau nước nhỏ. Giấm, lá lẻo, riềng, xả, đầy đủ và cứ mỗi con cá một miếng. Quí cụ nói ăn tươi như thế mới thú nhưng kỳ công lắm.
        - Thế giấm gỏi quí cụ nấu theo phương pháp nào?
        - Thường thì chỉ lấy cá băm nhuyễn nấu với riềng, xả, mẻ, ớt, và mắm tôm; đồng thời phải pha thêm ít bột thính cho khỏi lỏng lẻo, nước đi đàng nước, cái đi đàng cái.
        - Vậy thứ giấm này anh nấu thế nào mà nhuyễn như sữa và ăn ngậy chất béo thế này?
        - Đây là tôi tự chế ra. Bởi nếu nước giấm nấu theo kiểu Bắc chính tông mất nhiều công sức; vả lại, khi đồ ăn thức uống thiếu thốn mới phải chế hóa cho đỡ tốn. Anh nghĩ coi, cá bên này thiếu gì, hơn nữa xương lại cứng sao có thể băm nhuyễn được. Bốn con cá các anh mang tới, tôi lọc lườn thái sống; phần còn lại đem bỏ tất cả vào một nồi đổ chút nước luộc cho vừa chín tới đoạn vớt ra gỡ lấy thịt. Được bao nhiêu lượng cá, tôi thêm vào cũng bằng đó lượng thịt heo xay đem xào chung cho chín, bỏ vô cối sinh tố xay nhuyễn ra. Thế rồi tùy số người ăn và ý thích mà căn lượng mẻ, mắm tôm, riềng xắt mỏng, tương ớt để có màu cho đẹp bỏ vào cối xay luôn để cuối cùng trộn đều lại. Nếu được mấy buồng trứng cá pha thêm vào thì tuyệt, không những ăn ngon mà giấm nổi mầu trông bắt mắt hơn nhiều.
        - Hèn chi nước giấm có mùi béo ngậy ăn đã quên chết. Hóa ra nó ngon bởi thịt heo xay.
        Dẫu trong lúc nghe và hỏi chủ quán học cách nấu giấm, Phủ vẫn tiếp tục quấn gỏi. Chiếc lá mơ được trãi trên mấy đầu ngón tay, ngò gai, lá dấp, húng quế, mùi, ngò ôm, miếng xoài xanh, tử tô, rau răm, hành tây ngâm dấm, và cuối cùng mấy lát cá tươi thái mỏng, tất cả được cuộn lại theo hình cái phễu. Tay trái trịnh trọng cầm miếng gỏi và tay phải múc muỗng giấm đang sôi sục đổ vào miệng phễu, chờ vài giây cho giấm nguội bớt trong lúc hớp miếng bia dọn đường. Trái ớt hiểm được cắn một nửa phụ thêm phần gia vị cho miếng gỏi.
         - Thật đúng với câu "Nghề chơi cũng lắm công phu" của Nguyễn Du. Lần đầu tiên tôi được thưởng thức gỏi theo kiểu Bắc Kỳ. Phủ vừa ngồm ngoàm nhai vừa khen. Công nhận, cá tươi thái gỏi mới trông thấy đã bắt mắt, mà sao anh có thể làm nhanh như thế; mới chỉ hơn tiếng đồng hồ.
        - Đây là kỹ thuật nhà nghề. Cá thái gỏi chỉ cần rửa sạch bên ngoài không cần đánh vảy, đoạn lọc hai miếng lườn rồi mới lọc lấy thịt. Đánh vảy trước vừa mất giờ vừa khó lọc thịt vì đàng nào mình cũng không lấy da; để nguyên vảy như thế dễ lọc thịt hơn và nhanh hơn lại ít tốn công.
        Chợt thấy Hưng không quấn gỏi theo kiểu Bắc mà xé rau thơm đủ loại bỏ vô chén, múc vài muỗm nước giấm đổ lên trên, gắp một đũa dăm bẩy miếng cá bỏ vào chén và trộn đều, chiêu miếng bia, đoạn gắp thành phần hổ lốn nơi chén bỏ vô miệng. Phủ lên tiếng,
        - Ông ăn gỏi Bắc Kỳ sao có vẻ phàm phu tục tử vậy?
        - Đã ăn là phàm phu, bộ ông không lên tiếng thì thiên hạ tưởng ông không biết nói sao? Mục đích ăn để sống chứ đâu phải ăn kiểu này thì sống lâu hơn và ăn kiểu kia sẽ bị chết sớm. Kiểu ăn gỏi tân tiến của tôi nhàn hạ hơn, nhanh hơn và thoải mái hơn sao lại nói phàm phu tục tử?
        - Nhưng cái chén giống nồi cám heo!
        - Tôi nghĩ cách thanh lịch nhất và gọn ghẽ nhất là ăn một bụng lá, đoạn ăn cá, cuối cùng mới húp giấm, như vậy mới nói lên được nét quí phái rởm. Và khi tất cả vào bụng rồi nó sẽ ra sao. Có lẽ còn tệ hơn nồi cám heo.
        - Thôi đi ông ơi! Nói ngang bỏ mẹ.
        - Tại sao anh gọi là ngang? Có phải vì không giống với anh nên trở thành ngang? Nếu vậy, anh cũng được coi là ngang đối với người khác.
         
         Lời của Hưng vô tình khơi dậy nơi Thanh nỗi thao thức đã bao lâu nay âm thầm day dứt. Phỏng mình suy nghĩ khác người? Phỏng mình mang cá tính khó hòa nhập với tâm tính những người chung quanh? Hay tại mình quá tự mãn nên coi thường mộng ước hoặc tham vọng bình thường đã khiến bao kẻ tiêu pha tiền bạc, không nhận thực giá trị cuộc sống để rồi dồn đổ bao công sức cho những mục đích chẳng ra gì hoặc bị lừa đảo trở nên loa phóng thanh tuyên bố những gì chính họ không biết. Câu tục ngữ “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa” một lần nữa đánh động tâm tư Thanh. Mặc dù quãng đời niên thiếu chỉ 17, 18 năm sinh trưởng nơi đất Việt sau đó có cơ hội học hành cũng như làm việc nơi xã hội có tiếng văn minh nhất thế giới này, Thanh vẫn cảm thấy nỗi lòng bơ vơ, cách xa với người bản xứ chung quanh. Tự lần mò kiếm sách vở tìm hiểu thêm về đặc tính cũng như tình tự dân tộc, nhất là để tâm nghiệm chứng về đạo học Đông Phương, Thanh phải đối diện với nỗi đau lòng thương cảm cho kiếp người, đặc biệt những con người mang dòng máu đỏ da vàng tự bẩm sinh đã mang sẵn giòng giống Việt. Có phải mình bị tiêm nhiễm văn hóa bản xứ nên coi thường kiểu cách hoặc những giá trị muôn đời tiềm ẩn nơi giòng máu nên ảnh hưởng chiều hướng suy tư cũng như phong cách xử sự nơi cuộc sống? Những câu hỏi tự vấn đã hằng chục năm quanh quẩn dày xéo tâm tư Thanh mỗi khi nghe ai nói hoặc đọc nơi báo chí về những sự kiện chẳng nên xảy ra liên quan đến người Việt nào đó đã và đang cứ như vô tình thao túng tâm tư người người đồng hương.
        Tối hôm qua, rót ly rượu nhâm nhi, một mình Thanh ra nơi cửa lạch được mở rộng làm bến thuyền, thưởng thức cảnh trời mây tĩnh lặng của đêm trăng. Tâm tư anh hồi tưởng sự thể mới xảy ra ít tháng gần đây. Nơi cộng đồng người Việt hơn kém vài trăm gia đình bỗng phát sinh thứ lạ đời. Có người mò mẫm, bới móc chuyện thiên hạ, tốn tiền nhờ đăng lên báo với chủ đích xỉ vả, nhục mạ những người mình không thích kèm theo những chứng cớ tưởng vậy nhưng không phải vậy do ảnh hưởng ý đồ nào đó khiến sự trưng dẫn lệch lạc. Mục đích của hành động này là gì bởi xưa nay có bao giờ kẻ tấn công đã cất tay hoặc lên tiếng cổ võ thực hiện bất cứ công việc nào đem lại lợi ích cho nhân quần xã hội! Không lên tiếng chẳng lẽ e sợ người chung quanh không biết có nhân vật quan trọng tiềm ẩn giữa chốn đô hội loài người? Muốn nổi tiếng nào khó chi nơi thời đại mạng lưới điện toán toàn cầu thịnh hành phát triển! Có thể y không biết hoặc không có máy điện toán. Nói rằng không có máy điện toán quả hơi vô lý vì chỉ cần bốn trăm bạc ra WalMart rinh một chiếc về nhà đã có thể tha hồ múa may quay cuồng, vẽ rồng vẽ phượng quậy phá theo dòng tiến triển kỹ thuật mạng lưới.

        Chợt Thanh tự hỏi, mình đang suy nghĩ gì vậy! Những suy nghĩ của mình do động lực nào thúc đẩy, có mang lợi ích chi cho tâm tư, có ảnh hưởng gì đến nhân sinh, có tạo nên động lực nào giúp ích chính mình. Tất cả chỉ là nhận định, miệng Thanh vô ý bật lên tiếng nói khiến anh giật mình nhẹ mỉm cười không ngờ lòng ruột mình xốn xang đến thế. Bao ngàn năm qua đi, bao thế hệ trôi nổi nơi giòng đời, bao công sức cũng như cuộc đời của những vị thức ngộ còn để lại phần nào nơi sách vở mà con người! Thanh không kiếm được ngôn từ nào nói lên hiện trạng tâm trí nhân sinh. Tại sao mình có những nhận định này. Vẫn biết chúng chỉ là thành quả lâu ngày dày kén thâu thập từ sách vở cộng thêm suy tư và nhận xét, nhưng lý do gì hoặc nguyên nhân nào khiến mình cố tình thâu nhận chúng, Thanh tự xét; phỏng do lòng thao thức nhận biết thực trạng hiện hữu của mình hầu có câu trả lời hài hòa cho câu hỏi “Mình là ai” nên cố công tìm hiểu quan niệm hoặc nhận thức của nhân hiền để lại. Hết lớp người này, đến lớp người khác đã qua đi dẫu thành tích ngập tràn để lại cho thế hệ mai sau tiếp nối; nay những vị ấy ra sao. Cuộc đời một người chẳng lẽ có được sự hiện hữu giới hạn trên dưới trăm năm, lao công tổn trí để rồi trở thành hư không. Nếu kết quả chỉ là hư không sao con người chẳng những cố gắng tranh đấu giành sống, ham sống, mà lại còn phí sức tạo nên những thành quả đáng cho thế hệ sau an hưởng và khen ngợi. Mắc mớ gì phải tiêu hao tháng ngày, công sức, nhiều khi gây tai hại cho chính bản thân, sức khỏe trong khi phải đối diện với thực thể cuộc đời không thể tránh khỏi; dù giầu, nghèo, danh vọng, chức quyền, thông minh hay ngu đần như thế nào, mọi người đã được sinh ra tay trắng cũng sẽ ra đi trắng tay. Do đam mê bẩm sinh, vậy đam mê từ đâu phát sinh? Nghĩ đến đây, lãng đãng nơi tâm trí, những trường hợp minh xác nơi các bài viết, sách vở do chính tác giả kinh qua ghi lại lần lượt chuyển về khiến Thanh nẩy ý muốn tìm hiểu và thâu thập thêm hầu có nhận định xác thực hơn về thân phận kiếp người và những gì có thể xảy ra sau khi chết. Phiền, ngủ thôi, Thanh tự nhủ, sớm mai cùng gia đình đi câu chuẩn bị đón khách.

        - Anh Thanh, làm gì mà thơ thẩn muộn vậy? Chị Thanh bước đến gần nơi đầu lạch, bộ anh quên sáng sớm mai mình đi câu sao?
        - Còn sớm mà, mới độ chừng chín giờ; em định hát bài gì ngày mai?
        - Em muốn hát nhạc sống, và anh đờn cho em hát.
        - Lão bà ơi, sao dạo này điệu vậy?
        - Thì thay đổi bầu không khí. Vả lại, mấy bản nhạc em thích buồn quá, hát rơi nước mắt...
        - Những bản nào?
        - Hoài Cảm của Cung Tiến, Hoa Soan Bên Thềm Cũ, Mắt Biếc, vì chúng mang tâm tình của tác giả, nhưng buồn thúi ruột.
        - Em hát những bản nhạc ấy hay lắm mà.
        - Em thích chúng nhưng đó không phải là tâm trạng của em, đôi khi bị hiểu lầm chăng.
        - Không sao đâu, anh không hiểu lầm là được bởi chúng chỉ là những bài hát đã nổi tiếng từ xưa.
        - Em không muốn bị phản cảm. Hát chúng, em cảm nhận được tâm tình nhạc sĩ nên hòa tâm hồn vô đó bởi thế phần nào cũng khiến lòng em chùng xuống. Hay thì có hay, có thể nói rất trung thực nhưng không giúp lòng người hướng lên.
        - Vậy em muốn hát bản nào, sao không nói trước để dợt...
        - Em muốn hát bản Hành Trình của anh.
        - Ah, cô định bốc tôi đó phải không. Nói thiệt đi, cô có ý gì? Thanh nhìn vợ đằm thắm, mỉm cười nói ghẹo. Cô muốn chi không được bởi xưa nay tôi có ngăn cấm hoặc than phiền gì về cô đâu, Thanh quàng tay ôm sát vợ đoạn hôn lên mái tóc.
        - Cái anh này, bộ anh nghĩ em không hiểu gì về anh sao. Mấy bản nhạc anh viết mang ý tứ nhận định thâm trầm dẫu chất chứa nhiều giả định nhưng nặng về nhận thức nhân sinh; em thích chúng nhưng ngại hát bởi e người ta nói chồng hát vợ khen có vẻ đào kép quá.
        - Vợ hát chồng khen chứ.
        - À há, nhận định trật lấc rồi ông ơi. Người ta nói theo kiểu “Đi khám bác sĩ” mà.
        - Em hát, anh đàn.
        - Nhưng bản nhạc do anh sáng tác.
        - Thì đừng giới thiệu.
        - Ôi, cái ông này, chẳng giới thiệu thì cả làng đều biết, chẳng khác gì câu nói, “Hãy nói nhỏ cho kẻ điếc nghe rõ hơn.”
        - Giỏi a! Lý do gì khiến dạo này em.
        - Thông minh hơn chứ gì. Lâu rồi ông ơi. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.” Chẳng lẽ gần đèn vẫn tối um.
        - Có thể em thông minh hơn anh nghĩ. Nào, vô nhà, mình dợt thử.
        - Ba đang ngủ.
        - Bố không phiền đâu! Bố nói giọng em hát hay lắm. Con dâu của bố ngoan, biết chăm lo cho con cái, hiền hòa, ý tứ, có giọng hát hay thì có gì đáng phiền đâu. Vô nhà, hát.
        - Em muốn hát thêm bài Lệ Hồng.
        - Bài đó buồn muốn chết luôn, hát làm gì.
        - Có phải nó là thành quả của lần bị bò đá của anh?
        - Anh có mỗi con bò và cũng chưa bị đá sao có thành quả bò đá.
        - Anh nịnh đầm giỏi nha; nhưng sao viết bài hát buồn đến như thế.
        - Có lẽ anh lãng đãng bẩm sinh, hoặc quá đam mê như em biết. Khi làm việc gì hoặc suy nghĩ gì, tất cả tâm hồn anh chìm nơi đó nên khi viết bản nhạc Lệ Hồng, anh tưởng tượng mang tâm tư của một kẻ thất tình... nói cho đúng, bị người yêu bỏ theo kẻ khác.

        Chị Thanh hát say mê khiến Thanh không ngờ bài hát của mình được chị diễn tả tuyệt vời như thế. Ông Huyền, bố Thanh đứng ở cửa phòng nhạc lúc nào, im lặng nghe hát.
        - Em hát thêm bài Bao Giờ Biết Tương Tư.
        - Bài đó không có gì nói lên nỗi lòng kẻ thất tình, chỉ phớt qua phiến diện dẫu phần nào đó đánh động tâm tình thính giả. Thêm nữa, câu, “Tình yêu cuối đời” mang vẻ bôi bác nên em không thích mặc dầu nhiều người thích. Chợt trông thấy ông Huyền nơi cửa,
        - Ba, chúng con phá giấc ngủ của ba. Chị Thanh nói.
        -Con hát hai bài thật có hồn khiến lòng người rung động. Hai bài này của ai vậy?
        - Anh Thanh viết đã lâu nhưng con ngại hát bởi e người ta nói mèo khen mèo dài đuôi.
        - Thì mèo nào chả đuôi dài. Thanh cười cười nhìn vợ. Hướng qua ông Huyền, tiếp,
        - Bố xem con dâu bố đó, lão rồi mà cứ như thời mới cưới ấy, đoạn nói với chị Thanh,
        - Dợt thêm một bài nữa rồi đi ngủ.
        - Anh thích bản nào?
        - Anh có biết mình thích bản nhạc nào đâu? Bài nào cũng thế thôi.
        - Hay bài Ngỡ Ngàng.
        - Ủa, em lục ra ở đâu vậy. Bài này lâu lắm rồi và anh cũng không nhớ nó thế nào nữa; mà em định hát cung nào.
        - Ở trên net, để em in ra. Chị Thanh bấm máy điện toán.
        - Em cho nó hát.
        - Chỉ có nhạc không à, chưa có ai hát..
        - Có mà.
        - Chưa... Em mới vô net.
        - Thì sắp…
        - Trên net cung D, hơi cao, em hát cung A. Sao anh chấm nhạc cung cao quá vậy, ai mà hát nổi.
        - Những người thực sự muốn hát sẽ có cách hát. Đưa cho anh bản in.
        - Dợt thì dợt vậy thôi, em nghĩ chỉ nên hát tối đa hai bài. Một bài khởi đầu và nếu cần thì thêm sau này bởi nên dành cho khách.
        - Coi chừng em phải hát bốn bài.
        - Bộ anh nghĩ em đi “show” sao.
        - Không phải đi show nhưng sẽ bị yêu cầu bởi nhạc sống. Sẽ có người chơi guitar và nếu anh tính không lầm, có thêm cây saxo nữa. Anh nghĩ, em nên chuẩn bị năm bài, coi chừng nhiều hơn nữa.
        - Cái gì mà nhiều hơn nữa; bộ anh muốn em độc diễn không để cho người khác hát sao?
        - Theo anh biết được, ít nhất trong tháng này có sinh nhật của bốn người. Bố này, ông Thung này, bác Tài, và em nữa. Anh định viết bản nhạc mừng sinh nhật mà chưa biết khởi đầu ra sao, không hiểu có kịp chăng. Anh đã đặt bánh sinh nhật, sẽ có người mang đến và mai phải mua thêm mấy chai Champagne nữa. Hay em nghĩ giùm anh câu khởi đầu.
        - Sao anh không viết sớm hơn.
        - Anh mới nghĩ đến lúc nãy khi em đề nghị hát nhạc sống, thế nên ngày mai anh sẽ gọi điện thoại mời anh Huynh ở New Orleans mang cây saxo tới cũng như Tính của ca đoàn nhà thờ mang theo guitar. Do đó, anh nghĩ, thời gian sẽ kéo dài hơn; đồng thời ngoài món gỏi cá, cần nấu thêm nồi bún bò Huế và vài đĩa bê thui. À, mà nhà còn tương không…
        - Yên trí “nhớn,” chị Thanh nói giọng Bắc, nhẹ mỉm cười. Những thứ phụ thuộc, mắm, ớt, hành tây, hành ta, tỏi, thính, mè, gừng sẽ có đầy đủ. Nhưng ba à, ba tính chừng nào thì về tới nhà.
        - Xem nào, ông Huyền nhẩm tính, mai là mùng 7 âm lịch, con nước bắt đầu lên giờ dần và đẫy vào giờ tỵ. Nếu đi lúc 5 giờ sáng, bẩy giờ tới nơi tức là giờ thìn, câu cỡ một tiếng thì có thể về tới nhà vào khoảng giữa giờ tỵ, như vậy khoảng 10 giờ sáng.
        - Sao ba biết con nước lên giờ dần, chị Thanh hỏi.
        - Con quên câu, “Mùng năm, mười bốn, hăm ba, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn.” Trước hôm kia tức mùng 4, con nước ròng lúc nửa đêm thì sáng mai nước lên lúc 5 giờ sáng. Con nước lên sáu tiếng, ròng sáu tiếng và con nước mỗi ngày cách nhau hai tiếng.
        - Vậy sao lại tính mùng năm, mười bốn, hăm ba, thưa ba; chị Thanh hỏi tiếp.
        - Những ngày mùng năm, mười bốn, và hăm ba âm lịch là những ngày con nước lừng, tôm cá không di chuyển nên khó bắt được tôm cá. Những ngày này quai đáy không được, những ghe đánh tôm bắt cá cũng chẳng được bao nhiêu nên mới có câu đó.
        - Con sẽ viết giấy nói ba đứa nhỏ ở nhà kê bàn, sắp ghế. Mai mình ăn sáng trên thuyền với cơm nếp nấu đậu phọng và muối mè đường nghe ba. Chút nữa con sẽ ngâm đậu phọng.
        Âm nhạc từ chiếc keyboard nổi lên, và chị Thanh cất tiếng hát. “Đã bao năm rồi, tôi đi tìm chính tôi…” Giọng chị mượt mà, thêm phần khắc khoải diễn tả nỗi thao thức nội tâm một người muốn nhận biết giá trị thân phận làm người nơi cuộc đời.

        Buổi sớm, khí trời hơi lạnh bởi đã chớm vào mùa thu mặc dầu trời đã sáng rõ dù chỉ mới năm giờ. Con thuyền êm ả lướt nhẹ hướng tới cửa vịnh hòa theo tiếng máy nổ ầm ì dưới khoang. Chị Thanh bưng nồi cơm nếp đặt lên chiếc ghế cao nơi phòng lái giữa khoảng ông Huyền và anh Thanh đang đứng.
        - Sao em mang cả nồi theo...
        - Trăm điều thông minh thế nào cũng có một điều dại.
        - Em nói sao, vậy mấy đứa nhỏ ở nhà.
        - Chúng nó là con riêng của anh sao, chị Thanh nói trong khi đặt hũ muối mè pha đường lên “cốp” phòng lái.
        - Nhưng...
        Chị Thanh mở vung nồi, lấy chiếc muỗng lớn gạt cơm chỉ còn một nửa sang bên đoạn cạy lấy một nửa lớp cháy mềm phía đáy bỏ vô đĩa, đưa cho ông Huyền,
        - Mời ba...
        - Hèn chi bố cứ khen con dâu của bố là ngoan.
        - Thì bố khen con dâu của bố chứ có khen con dâu người ta đâu mà anh phải ghen. Chị Thanh miệng trả lời, đôi tay nhẹ nhàng lấy cơm nếp ra hai chiếc đĩa kèm thêm phần cháy còn lại được chia đôi, đặt trên cốp. Ông Huyền thích ăn cháy “ốm” cơm nếp nấu với đậu phọng. Dĩ nhiên, cháy ốm cơm nếp đậm đà. Cũng phải công nhận chị Thanh khéo nấu để có cháy cơm nếp. Thay vì đổ gạo và nước vô nồi rồi bật công tắc điện, chị lấy nồi ra nấu cơm trên bếp và cho hơi già lửa trước khi đặt qua bếp điện tránh bị cháy quá. Nấu như thế vừa nhanh, gạo được đảo nên cơm chín đều. Khi cơm chín vừa tới, chị dùng đũa rấc thêm một lần thành ra cơm không bị đóng bánh khi xới nên trông gọn gàng, hấp dẫn.

        Ông Huyền quan sát trời mây đoạn nói,
        - ”Ráng mỡ gà thì gió; ráng mỡ chó thì mưa.” Ông lập lại câu tục ngữ thời tiết đoạn nhẹ nhàng nói, chiều nay hơi gió, khi thuyền ra tới gần cửa biển. Nội trong tháng mười một dương lịch phải đi câu một chuyến lấy cá ăn mùa đông. Trời đất này coi bộ năm nay khá lạnh. Mùa tôm năm nay thất quá, không biết cá mú sang năm sẽ ra sao.
        - Hay ít hôm nữa, cỡ chừng hai tuần, bố với con đi câu ít nhệch về phơi để nhậu dần, bố nghĩ sao.
        - Cũng được, về làm một bữa gỏi còn bao nhiêu thì phơi hoái hoái đoạn bỏ tủ đá, nhưng phải vô đầu tháng mười hai sò mới mẩy và nhệch mới béo.
        Chị Thanh yên lặng nhai cơm nếp thầm nghĩ, không ngờ ông già coi bộ nhà quê nhưng kiến thức về biển rả, mây nước lại quá rành rọt. Dẫu hằng năm, năm mấy lần theo ghe ra biển với cha con họ, được nghe đối thoại hay bàn luận về thời tiết cũng như tính toán con nước, hướng đánh tôm, nơi câu cá, lần nào chị cũng học thêm được kinh nghiệm và nhận định về sông nước. Có điều lạ, không hiểu sao Thanh có được kiến thức về sông nước khá rành rẽ để có thể bàn luận ngang ngửa với ông Huyền dẫu ngày xưa ông đã bao năm chăm chuyên hành nghề này. Những câu Ca Dao, Tục Ngữ thường được ông lặp lại mỗi khi tiên đoán về nhận định thời tiết. Dĩ nhiên, cũng đôi khi Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam đề xuất một đàng; thời tiết đất Mỹ chuyển theo một nẻo. Chẳng hạn, có lần khi vô gần tới cửa biển, trời mây giăng cuồn cuộn; chớp giật đùng đùng, nhưng cũng may gió không lớn. Thanh ngâm nga, “Bao giờ sấm trước có mưa; bao giờ mẹ ghẻ có ưa con chồng,” rồi bình tĩnh lái thuyền về lạch. Chỉ mới qua hơn mười phút vừa lọt vô cửa vịnh, một trận mưa tầm tã đổ xuống. Thanh lại lần nữa lặp lại, “Bao giờ sấm trước có mưa; bao giờ mẹ ghẻ có ưa con chồng;” đoạn tiếp, “Thế ra Ca Dao ta không hợp với trời tây.”

        Sau khi ăn sáng cũng là lúc thuyền đã ngang hòn đảo “Deer Island” có thể nhìn thấy từ đất liền, ông Huyền lấy dây cước tóm vô lưỡi câu khá lớn dính liền một mồi giả y-nốc kết chùm lông nilon đoạn ra sau lái thuyền thả xuống nước chừng ba chục sãi. Hơn nửa tiếng sau, một chú cá dính câu bị thuyền kéo theo cong vòng cần câu; nước bung lên trông đến thích mắt.
        - Ba, có cá mắc câu, để con kéo lên nghe.
        - Để ba kéo cho, con cá lớn, coi chừng nó kéo con xuống nước.
        Một con cá màu đỏ khá lớn, cỡ hơn 5 kilô, đầu hơi nhọn, nằm ngáp nơi sàn thuyền, trông gần giống như con cá hánh màu đỏ, vi vẩy phản chiếu ánh sáng hừng đông trông thật đẹp mắt.
        - Cũng hơi lạ sao mùa này sao lại có cá này vô gần bờ. Loại cá này thường ở nước sâu ngoài khơi mà...
        - Con cá này giống cá hánh nhưng màu đỏ; nó lớn quá ha ba.
        - Nó là cá hồng, nhà hàng khá ưa chuộng và chỉ ở ngoài khơi nơi nước sâu. Con cá này thái gỏi thì tuyệt. Chỉ cần câu được vài con cá hánh nữa để làm giấm kể là quá đủ.

        Lúc này, Thanh đã gài lái thuyền và bước ra phía sau; thoạt trông thấy con cá, anh hô lên,
        - Cái nhóm nhậu này hôm nay may mắn a! Loại cá hồng này chỉ gặp may, không thể cầu; thế mà lại chui ngay vào gần bờ để lên đĩa, ha ha. Quay qua, anh mở thùng đựng đá, gỡ cá bỏ vô trong khi lẩm bẩm, “ Cầu mong không bằng gặp may; gặp may không bằng tốt số; tốt số không bằng ý trời;” có lẽ nên đổi chương trình lại, anh tiếp, ăn gỏi cá hồng và cá hấp hay nướng thay vì bê thui; coi chừng hôm nay bắt cá mệt nghỉ.
        Hơn tiếng sau, thuyền tới nơi đã định, Thanh cột thuyền buông lơi theo gió cách giàn khoan dầu hơn kém mười lăm sãi. Ông Huyền câu mấy con cá nhỏ xắt ra làm mồi.

        Chị Thanh mắc mồi, quăng câu đoạn cắm cần vô kệ, quay vô bếp đun nước pha cà phê.
        - Em ơi, Thanh gọi, coi chừng gẫy cần câu.
        Đã quá quen với câu biển, chị Thanh lẹ bước ra khoang nhưng không vội vàng hấp tấp. Không hiểu con gì mà lôi cong vòng chiếc cần câu khiến thuyền chuyển theo. Chị Thanh một tay cầm giữa cần câu kéo đứng lên, tay kia nắm gần chuôi rút, đoạn đổi tay, dạng chân chèo, tỳ cán cần câu vào bụng, một tay nắm ngang cần lấy sức kéo ngược, mỗi lần hạ cần câu, tay phải vội quay máy thu cước. Con cá khá lớn, vùng vẫy dữ dội khi tới gần thuyền và lọt vào chiếc vợt chờ sẵn. Cá thủ đỏ, anh Thanh tuyên bố khi kéo cá lên sàn thuyền. Cỡ chừng ba mươi pounds, anh độ chừng tiếp. Con cá dài hơn ba feet, vảy sáng bóng, lóng lánh hòa hợp với màu sắc đen, đỏ, vi, mang kèm thêm chấm đen gần đuôi trông thật sặc sỡ, dễ thương.
        - Con cá giãy mạnh thật; chị Thanh buông cần câu, vui vẻ nói. Bộ lòng hai con cá này xào hành tây ăn hết biết...

         
        MBVN 14
         
        Cùng lúc ấy, hai chiếc cần câu của ông Huyền và anh Thanh ghì xuống. Hai đường dây câu bị kéo tiến sát vô và quấn lấy nhau. Chị Thanh nhanh tay nắm lấy đáy chiếc vợt giốc ngược con cá ra sàn thuyền, đứng vô giữa hai người đang quấn câu và chờ đợi; thêm hai con hánh, mỗi con cỡ 4 đến 5 pounds.
        - Hai con này nấu giấm; con cá hồng thái gỏi; con sủ đỏ nướng; hai bộ lòng xào hành tây; bắt thêm hai hoặc ba con nữa nấu nồi cháo cá ăn cho nhẹ bụng. Ông Huyền lên tiếng.
        Hơn nửa tiếng sau, ba người bắt thêm hơn chục con cá hánh; riêng ông Huyền câu được con sủ đen ngang ngửa con sủ đỏ.
        - Con sủ đen này chỉ lấy chiếc bong bóng và dạ dày xào với lòng hai con kia vì thịt nó có sán, không nên ăn. Miệng nói, tay ông cầm con dao nhỏ rạch bụng cá lấy ra chiếc bong bóng, dạ dày, rửa sạch, bỏ vô thùng đá và quăng phần còn lại của con cá xuống biển, rửa tay chuẩn bị trở về.

        Tiếng máy thuyền nổ dòn, hình như lúc về nhanh hơn lúc đi, và cỡ gần mười giờ sáng thuyền cập bến. Thanh xếp hai thùng cá lên chiếc xe kéo trong khi chị Thanh mang nồi cơm và hũ muối mè bước lên bờ. Ba đứa nhỏ nghe tiếng thuyền cập bến đã đợi sẵn; thằng lớn kéo xe cá vô sân; con bé út líu lo với mẹ phụng phịu sao không cho chúng đi câu.
        - Các con ăn sáng chưa, chị Thanh hỏi.
        - Dạ, rồi má. Thằng thứ hai nhanh miệng trả lời. Bé Linh phụng phịu suốt cả buổi sáng vì không được đi câu.
        - Để hôm khác, ông nội nói trong tháng mười một sẽ đi câu một chuyến lấy cá ăn mùa đông. Các con chịu khó ngoan ngoãn học hành. Nhà có thuyền, mùa hè tha hồ câu. Tối nay vì nhà có đông khách, ba con muốn bắt cá tươi thái gỏi nên đi vội, đâu có giờ câu chơi. Quay sang bé Linh, chị Thanh mắng yêu, còn con bé này, học tới lớp chín, lớn rồi mà còn phụng phịu. Được ông nội cưng thì chúng con phải ngoan chứ. Con bưng nồi cơm này vô cho mẹ. Chị Thanh trao chiếc nồi cho con gái. Đoạn nói với thằng thứ hai, Tĩnh, con vô nấu nước pha trà cho ông nội.

        Đoàn người kéo nhau về tới sân, chị nhờ Thanh lấy dao và búa cắt và bổ đầu cá, đem xào để nấu nước làm giấm gỏi và nấu cháo, lọc thịt cá để thái gỏi bỏ vô tủ lạnh. Những phần vi, vảy, ruột cá bỏ đi, chị băm nhỏ và đem đổ xuống mấy gốc cỏ mọc nơi bờ nước con lạch bến thuyền; cá ngửi mùi đến kiếm ăn sẽ là cơ hội tốt cho những đứa trẻ câu chiều nay khi chúng tới. Điều chị ngại ngùng nghĩ tới nhất là phải sắp xếp thế nào để tránh tai nạn có thể xảy ra khi trẻ quăng câu không để ý nhìn trước nhìn sau. Lần trước, các gia đình trong ca đoàn đưa con cái tới hồ câu và picnic; trẻ con thích câu; bố mẹ coi sóc con trẻ cũng thích câu; thằng bé con anh Hưng quăng câu thế nào mà lưỡi câu móc ngay vô cổ áo con bé Loan, may mà không xảy ra chuyện gì. Chiều nay trẻ tới; không cho chúng câu không được, chẳng phải trẻ con mà cả bố mẹ chúng bởi nghe đâu mấy đứa nhỏ đã dặn dò nhau mang cần câu bỏ trong xe. Tất nhiên, lúc bấy giờ chị và chồng sẽ bận tối mặt, chỉ còn cách nhờ ông nội và ba đứa nhỏ; mỗi người dẫn dắt ba đứa khác; và nếu cần, nhờ thêm đôi người nữa; chị thầm tính toán.
         Nghĩ đến những gì cần thiết phải giải quyết để ngăn ngừa những chuyện chẳng may có thể xảy đến, chị Thanh thầm tính, tụi trẻ không biết ăn gỏi; thêm vào đó, đã chắc gì chúng thích cháo cá, chẳng lẽ để đến lúc đó mới tính thì hơi phiền.
         - Anh Thanh, anh đi mua cho em ba con gà to ở Waltmart...
         - Mua làm gì, cá dư thừa; vả lại trong tủ đá có cả kho thịt gà.
         - Anh thử tính coi sẽ có bao nhiêu đứa trẻ tới! Em nghe đâu tụi nó dặn nhau nói bố mẹ đưa tới sớm để câu; đứa nào đứa nấy sắm sửa cần câu bỏ sẵn nơi xe từ tuần trước. Chúng nó đâu biết ăn gỏi; vả lại, cá nướng và cháo cá đối với chúng chỉ là thứ phụ, con nít bên Mỹ mà. Hơn nữa, gọi là cháo cá nhưng phải có nước gà luộc để nấu cháo. Đi đi anh, những việc lặt vặt kể như tạm ổn, chỉ cần hái lá thơm, lá mơ, sau đó thái cá kể như xong. Hôm nọ anh khen ông Tiên tiệm phở nấu giấm mẻ theo kiểu Bắc kỳ, hay nhân thể mời ông ghé chơi chiều nay và hỏi cách nấu giấm.
        - Còn dặn dò gì nữa không; “Ra đi vợ đã dặn rằng...”
        - Độ một tiếng nữa ăn cơm trưa, em sẽ nấu đầu cá với dưa và cà chua, cá hánh chiên và kho, cùng với rau diếp chấm nước kho. Ăn xong, em còn phải nhờ anh chút việc.
        - Còn việc gì nữa thì nói hết cho rồi để đi luôn một chuyến cho gọn.
        - Anh thử tính xem sẽ có bao nhiêu đứa trẻ theo bố mẹ chúng đến để đi câu. Em mới nghĩ sơ sơ, ít nhất cỡ chừng 16 đứa. Để tránh chuyện có thể xảy ra khi quăng câu như lần trước đi picnic, em nghĩ phải chia trẻ ra thành từng nhóm ba đứa cho một người lớn coi tránh cảnh đứa đứng trước, đứa đứng sau, câu cá không câu thành ra câu người. Mình có ba đứa nhỏ vị chi coi 9 đứa, nhờ ông nội coi ba đứa vị chi 12; có lẽ phải nhờ thêm vài chị khác coi những đứa còn lại. Như vậy phải chia chừng 20 feet một khoảng dọc theo bờ lạch hai bên bến thuyền. Chuyện này anh phải làm.
        - Ừ nhỉ, thế sao anh không nghĩ tới.
        - Anh quên chuyện bác sĩ Gia rồi.
        (Câu chuyện bác sĩ Gia: Bác sĩ Gia là bác sĩ gây mê, làm tại bệnh viện Veteran Hospital, Biloxi, Mississippi, qua đời khoảng năm 1997-1998). Khoảng thời gian 1990 đến 1992, ngài có 7 bác sĩ nam, trẻ, người Mỹ theo học gây mê tại bệnh viện dưới sự hướng dẫn của ngài. Đồng thời cũng thời gian ấy, nhân bữa tiệc kỷ niệm 37 năm thành hôn, ngài mời 7 bác sĩ đó tham dự bữa tiệc chung vui. Đang lúc chén tạc chén thù, một vị bác sĩ trẻ lên tiếng hỏi trong tình thân thiện, “Ông thày, hôm nay là ngày kỷ niệm thành hôn của ông thày; nếu tôi không lầm, gia đình ông thày xem ra rất hạnh phúc. Xin ông thày chỉ cho chúng tôi biết bí quyết căn bản để có được gia đình hạnh phúc sau những 37 năm chung sống.” Bác sĩ Gia lấy giọng nghiêm nghị trả lời, “Chúng ta nên nhớ, mình là đàn ông, là chủ gia đình nên mình có bổn phận lo lắng cho gia đình. Tất cả những chuyện quan trọng nơi gia đình mình phải quyết định. Tuy nhiên, qua 37 năm lập gia đình, tôi chưa thấy chuyện nào đáng được gọi quan trọng để cho tôi phải quyết định).
         
        Một chiếc xe van hùng hồn xông tới ngõ. Tiếng còi vang lên inh ỏi. Cặp vợ chồng trung niên và ba người con bước xuống sau khi xe đậu vô bãi cỏ trước sân. Thanh tiến tới chào hỏi,
        - Sao hôm nay nhị vị và các cháu có giờ rảnh sớm sớm ghé qua tệ trang. Thanh tửng tửng nói theo kiểu văn chương kiếm hiệp vì biết Tình, chúa giỡn chọc phá.
        Chị Tình, nét mặt tươi rói trả lời,
        - Em bảo nhà em nên sang nhà anh chị sớm xem có chuyện gì cần sửa soạn, giúp chị một tay. Vả lại, em cũng muốn mấy đứa nhỏ có thời gian quen biết và thân thiện với nhau hơn. Anh chị thấy đó, nơi xứ người này, mấy đứa nhỏ sống như Mỹ, thành ra em e chúng sau này trở thành quá cô độc, buồn chết đi! Chị Thanh, chị Tình hướng về vợ chủ nhà nói tiếp, nghe đâu anh Thanh nói hôm nay ăn gỏi cá Bắc kỳ, em muốn học nấu giấm mẻ Bắc kỳ ra sao mà anh Tình cứ tấm tắc khen tới, khen lui. Nhìn phần cá chị Thanh chuẩn bị nấu ăn trưa, chị Tình nói tiếp, chị mới đi câu về sao?
        - Dạ, tụi em mới đi câu về sáng nay. Mời anh chị và các cháu ăn trưa với tụi em nghen. Em định nấu đầu cá với dưa và cà chua cho hai anh nhậu, chiên một ít và kho lấy nước chấm rau diếp. Năm nay thuyền bè nhà chị khá không?
        - Cũng tàm tạm. Em có mang theo ít tôm nhỏ để làm mồi câu cho tụi trẻ, chị cho em mượn cái thau để ngâm cho tan đá.
        - Ô, cảm ơn chị nhiều; em chưa kịp dặn anh Thanh mua mồi cho trẻ câu, nhà nghề có khác.
        - Em cũng mang thêm 10 pounds tôm lớn để luộc. Chị xem có cần mua thêm hành, ớt, lá thơm không em đi chợ cho.
        - Cảm ơn chị, em đã chuẩn bị đầy đủ. Bây giờ em nấu cơm trưa cỡ nửa tiếng, bốn mươi lăm phút là xong. Nhà em gieo ít giống rau diếp; cấy được hai luống còn cả đám lớn, chị coi xem nhổ một ít về ăn với cá nấu hoặc chấm nước cá kho. Năm nay thời tiết thuận hòa, rau ngon lắm. Đây, chị nhổ rau bỏ vô chiếc bịch này; chị Thanh cầm chiếc túi nilon bên cạnh giơ lên. Chị Tình bước theo chị Thanh hướng về đám rau diếp vàng rộm dưới ánh nắng. Thân rau cao cỡ nửa gang tay, chen chúc một đám bằng mặt bàn trông ngon ơi là ngon.
        - Rau ngon quá, chị Tình nói, mới trông thấy đã muốn chảy nước miếng. Chị gieo bao giờ vậy.
        - Để xem, trước đây cỡ một tháng. Em đánh cấy ra hai luống hôm thứ tư. Mới bốn ngày mà nó lớn nhanh vậy; không ăn sớm chúng chen nhau sẽ rớt như sợi chỉ. Nhân thể chị lấy thêm ít hành hoa, mùi, ngò ôm, húng quăn, húng quế, về nhà khỏi phải hái.
        - Thôi đi chị, nhà em cấy nhiều thứ đó lắm, cũng phải hái bớt cho chúng non, không hái rau thơm mau già lắm.
         Hai người cứ như là chị em ruột, nhẹ nhàng, thân thiết. Chị Tình người miềm Nam, bản tính dễ dãi, không màu mè, hình thức. Chị Thanh học xong đại học, khi còn đi làm cũng đứng đầu một phân ngành của công ty nên quá quen với lối đối xử hiền hòa, thông cảm, thành ra hai cặp vợ chồng này rất thân thiện. Gia đình Tình đến sớm không có gì lạ. Chỉ mấy phút sau, chị Tình xách một túi rau diếp bỏ vô xe.
        - Anh còn chưa đi bao giờ mới về ăn cơm trưa? Chị Thanh hỏi chồng.
        - Ông ở đây coi mấy đứa trẻ; tôi đi chừng nửa tiếng trở về rồi mình nhậu. Thanh nói với Tình đoạn hướng về chiếc pickup bước tới.
        - Ông có cần tôi phụ chi không? Ở đây đã có hai bà ấy.
        - Cũng được, mình đi cho vui. Hướng về phía vợ, Thanh nói, hay là mình làm lẩu cá thay vì nấu.
        - Vậy anh nhớ mua thêm ít cà chua còn hơi xanh...
        - Anh thấy mấy cây cà chua nhà mình trái vàng ươm rồi mà.
        - Ô, em quên, hay anh ghé vô tiệm Việt Nam mua dùm em gói bún, nhà mình hết bún rồi. Lẫu cá ăn với bún mới hấp dẫn.
        - Nghe, còn thêm gì nữa không? Em có định xây thêm chợ bán thực phẩm Á Đông ngay ngõ cho tiện việc mua bán không, Thanh cười cười nói.
        - Thôi đi đi và về cho sớm.
        Thanh dừng xe chờ Tình bước lên,
        - Có lẽ phải mua thêm mấy đoạn cây về cắm cọc phân chia ranh giới cho trẻ câu chiều nay. Nếu không, trẻ quăng câu lung tung lỡ xảy ra chuyện chẳng nên thì phiền lắm.
        - Vậy thì mua bó cọc được cắt sẵn khỏi phải cưa, cắt mất công.
        - Ừ nhỉ, thế mà tôi không để ý. Có lẽ phải mua thêm cuộn ribbon vàng cột vào đầu cọc cho chúng dễ nhìn thấy.
         Thanh lái xe quẹo vô tiệm phở và dừng lại.
        - Ông định uống cà phê hay sao mà vô đây?
        - Không đâu. Tiện thể mời anh Tiên và nếu có thể nhờ anh ấy làm giấm mẻ chiều nay, uống cà phê không?
        - Không cần đâu nhưng cũng ghé vô chào hỏi một tiếng, chỗ quen biết mà.
        Gần trưa nên quán phở khá đông khách. Nơi bàn trong góc phải, hai người đàn ông đang ăn phở, bốn vỏ bia xếp gọn một bên,
        - Hai ông rủ nhau ghé vô nhậu hay uống cà phê; các bà ấy đâu. Mời ngồi, làm chai cho vui. Giơ tay ngoắc chiêu đãi viên, làm ơn cho hai chai Heinekene.
        Thanh và Tình kéo ghế ngồi xuống, bạn bè quen biết không thể làm lơ.
        - Cám ơn, chúng tôi đang vội đi mua đồ. Chị gì ơi, Thanh nói với người hầu bàn, đừng lấy bia.
        Quay lại Thanh nói,
        - Tối nay họp tại tệ gia, định vô mời anh Tiên nếu có thể tham dự và nấu dùm giấm mẻ ăn gỏi cá. Sáng nay, tớ câu được một con cá hồng cỡ hơn năm ký, một con cá đỏ cỡ 14 ký, hơn chục con hánh mỗi con ba, bốn ký. Ở nhà đang nấu lẫu cá, ghé qua nhậu cho vui, bây giờ tớ phải gặp Tiên, đoạn ghé qua chợ mua gói bún khô về luộc, ăn với lẫu.
        - Hai ông vội đi đâu mà bia không uống. Tiên bước đến bàn kéo ghế ngồi trong khi hỏi.
        - Tôi ghé vô mời anh chiều nay ghé qua ăn gỏi cá. Sáng nay tôi mới đi câu được ít cá khá ngon định thái gỏi. Anh có thể tới khoảng 5 giờ rưỡi được không? Chúng ta sẽ bắt đầu nhậu chừng 6 giờ đúng. Coi chừng trâu chậm uống nước đục. Có thêm món cháo cá nữa cho nhẹ bụng.
        - Nghe... Vậy nhà ông đã có những thứ gì rồi, phải thành thật khai ra kẻo vẽ hổ không thành hổ mà thành chó thì phiền lắm. Thế ông định làm gỏi cá gì?
        - Thì cá nào chả là cá; cá nào không ăn gỏi được miễn là nó tươi, chưa kho, chưa nấu. Chẳng lẽ đánh bẫy còn chê chó cái. Tình lững thững chêm vô.
        - Ông muốn nói gì vậy? Ai không biết vợ cả, vợ hai, vợ nào cũng là vợ cả; thế sao lại phải xanh mặt khi vợ cả nổi trận lôi đình. Coi chừng bị thiến có ngày.
        - Tôi câu được một con cá hồng cỡ 5 kílô, một con thủ đỏ cỡ 14 ký, mười mấy con cá hánh từ ba đến bốn ký, để làm gỏi chiều nay nên ghé qua cầu thợ làm giấm nhậu cho đã. Khoan khoan, để tôi gọi về nhà xem đã có những gì,
        - Có chanh, có me, chưa có mẽ.
        - Có tôm không?
        - Có, Tình mới mang tới,
        - Có thịt heo xay không,
        - Quên, không để ý.
        - Chắc chắn có trứng chứ?
        - Để tôi hỏi lại.
        - Không cần, nhưng cỡ bao nhiêu người tham dự?
        - Cỡ chừng 15 người lớn và hơn kém 16 đứa trẻ lầng nhầng. Nhà tôi định nấu thêm món cháo cá.
        - Nghe ông nói nấu cháo cá vậy đã có thịt gà chưa?
        - Có chứ, có chứ, đang định đi mua ba con gà dai vì e một số trẻ không thích ăn cháo cá nên làm thêm món gà luộc cho chúng.
        - Thế đã có những món rau thơm nào?
        - Đầy đủ mọi sự từ lá mơ, hành, tỏi, ớt, ngò tây, ngò ta, húng quăn, húng đứng, riềng, sả, chỉ còn thiếu ngò ôm. Thanh cười cười diễu vì nghe đâu đã có lần vợ Tiên ghen lồng lộn bởi nghi chồng có tình ý với chị hầu bàn coi bộ khá hấp dẫn, mát mắt; dẫu từ ngày chị này làm bồi bàn, quán phở đông khách hẳn lên. Vợ Tiên đe sẽ nghỉ việc để ngồi tính tiền, giữ chồng. Tính tới, tính lui, suy nghĩ hơn thiệt, Tiên đành phải đề nghị với vợ nhờ cháu gái, gọi vợ bằng cô, mới xong năm thứ 2 đại học nhân kỳ ba tháng hè ngồi tính tiền. Hình như “Khi nên trời cũng chiều người” (Kiều); cô cháu vợ cũng khá xinh, dễ thương lại hoạt bát; hơn nữa, đang là sinh viên không bị mặc cảm nếu không muốn nói là dạt dào niềm hãnh diện của lớp trẻ thành ra kiểu cách ăn nói vui tươi, niềm nở, cởi mở khiến quán phở càng thêm đông khách. Đã có lần Tiên tâm tình, nhờ sự ghen tương của vợ mà học được bí quyết dẫn dụ khách hàng.
        - Thì ăn ngò rồi ôm, thế là đủ vị. Tình nói.
        Biết Thanh và Tình chọc chạch, Tiên mĩm cười trả lời,
        - Nói sao thì nói, miễn có thì thôi. Đàng này, có tiếng mà không có miếng, cũng có cái thú của nó.
        - Thú đau thương, Thanh đệm vô.
        - Đau thì không, thương cũng không, nhưng thị,
        - Sao lại thị, một trong hai người khách ăn phở lên tiếng.
        - Không đau, không thương thì oan, chẳng lẽ tiếc nuối, nhưng có còn hơn không, đàng nào cũng có lợi.
        - Nhưng răng chẳng còn.
        - Thằ rằng hưởng thú đau thương còn hơn đau thương không có thú.
        - Ôi, cuộc đời cũng lắm cảnh trở trêu, đã muốn làm kỹ nữ lại còn muốn lập đài kỷ niệm!
        Hai người khách ăn phở khác đế thêm. Mấy người nói oang oang giữa bầu không khí ồn ào khiến khách hàng nơi những bàn bên cạnh nghe được. Một đôi giọng cười nổi lên.
        - Nhưng vẫn sáng con mắt, Tình chọc bởi Tiên đeo kiếng.
        - Chào anh Thanh, anh Tình. Gớm, bộ chiều nay mưa lớn hay sao mà hai anh nhẹ gót ghé qua. Cùng với tiếng nói, vợ Tiên tiến tới.
        - Dạo này chị nghỉ việc để chăm lo hàng quán hay sao, hay chị định biến quán phở thành quán thi hoa hậu, Thanh cười cười nói.
        - Em cũng đang định thế nên đã nói với nhà em mở thêm hai quầy tính tiền rồi mời chị Thanh và chị Tình ngồi làm mẫu, nhưng nhà em chưa chịu. Ông ấy bảo rằng khách hàng ở đây toàn là những bậc cao thủ khí công đầy mình lỡ ánh mắt sắc bén quét vô khiến các chị ấy ốm bớt, mất lòng bạn bè thì biết tính sao. Thế các chị ấy đâu?
        Vợ Tiên xinh xắn, khá vui tươi, và nhanh miệng, vì cùng lứa tuổi lại là bạn bè nên dễ thông cảm. Chị thích coi phim kiếm hiệp, cùng nhóm hát karaoke và thường hay tụ họp với nhau mỗi tuần nên trong sự giao thiệp giữa người quen, ăn nói tương đối thoải mái.
        - Chào các bác, các chú. Con gái lớn của Tiên tiến tới. Mẹ, rau mùng tơi để nơi đâu?
        - Ô, chị có đứa em gái đẹp quá ha.
        - Cái anh quỉ này chọc tôi hoài, già rồi.
        - Tôi thấy sao thì nói vậy. Đi trên đường ai không bảo là hai chị em. Bộ tôi nói oan cho chị sao!
        Phụ nữ, ai không thích được khen dù biết rằng đôi khi lời khen ám định móc máy hoặc lừa dối, chọc chạch, nhưng họ vẫn cứ thích, cứ cố tin để tự tạo cảm nghĩ lừa dối chính mình. Nét mặt chị Tiên tươi rói.
        - Mẹ để ở tủ lạnh, góc phải, phía trên đó.
        - Cháu nấu món gì vậy Huyền; Tình hỏi.
        - Dạ, cháu nấu canh mùng tơi ăn với cà ghém muối.
        - Cháu học lớp mấy rồi.
        - Dạ sắp hết lớp mười một; cháu học cùng lớp với Bân, con của chú mà.
        - Vậy mà chú nhìn không ra, cứ tưởng em của mẹ cháu.
        - Yeah, chú nói đúng. Mẹ cháu đẹp và dễ thương lắm. chỉ thích làm eo chút chút thôi.
        - Con gái nói xấu mẹ nha. Chị Tiên mắng yêu.
        - Con nói tốt mà; con khen mẹ đẹp nè, có duyên nè. Thôi đi chị hai, giọng Huyền kéo dài.
        Mấy người vui cười thoải mái vì nét nhí nhảnh dễ thương của Huyền.
        - Vậy cháu phải nói với ba cháu làm thêm một quầy tính tiền.
        - Thưa chú, làm thêm quầy tính tiền để làm gì?
        - Đó là ý kiến của mẹ cháu mà; sao lại hỏi chú.
        - Vô nấu canh đi con.
        - Ấy da! Coi chừng cạn hết nước canh rồi. Cháu xin phép các bác, các chú. Huyền cúi chào rồi bước vội, biến mất sau cửa vô bếp. 
        Còn thấy được nét nhí nhảnh, ngoan thương, và lễ phép của lứa tuổi đôi tám, đôi chín nơi hàng con cháu, lòng dạ người lớn vượng lên niềm vui khó tả. Ai không biết; ai không kinh nghiệm nơi đời mình; ai không đang thực chứng hiện trạng đổi thay chẳng ngờ nơi thế hệ nối tiếp. Được sinh vào cuộc đời nơi một xã hội quá đầy đủ tiện nghi, muốn gì có nấy, nhưng lòng khát vọng muốn có được gì tự mình hầu đối đầu với tâm tình tự ty mình chẳng là gì đã khiến giới trẻ lạm dụng cuộc đời, lạm dụng mọi phương cách thực hiện. Dĩ nhiên, với tuổi đời mới lớn, kinh nghiệm sống chưa có, phương tiện thì không trong khi nỗi thao thức muốn trở thành “cái gì” liên miên thúc đẩy sớm tạo thành nỗi thất vọng do cảm thấy bị bó tay, bó chân. Từ cảm nghĩ tự ty này phát sinh ước muốn giải thoát, và thế là tuổi trẻ dễ bị rơi vô trạng thái liều lĩnh. Thêm vào đó, hành trình phát triển thân xác đang thời kỳ sinh vượng thúc đẩy mạnh mẽ ước muốn vượt khỏi tâm tình tự ty, giới trẻ lao mình vào bất cứ phương tiện nào có thể tìm quên được coi như giải thoát thường được cho là cảm giác hạnh phúc. Nếu có cơ hội, bất cứ gì kích thích cảm giác đều được giới trẻ hân hoan thử nghiệm dần dà biến thành nghiện. Niềm vui vô tư như kiến tạo một con diều, đẽo một con quay, làm một bộ khếch để tiêu hao thời giờ nhàn rảnh và có được niềm vui tự nhiên, nhẹ nhàng với chúng bạn không có cơ hội phát triển lại được coi như quá ư thô sơ, man di mọi rợ, không thể so sánh với những phương tiện sẵn có chẳng hạn chạy xe đạp, video games, phim ảnh, internet. Nhưng rồi mọi phương tiện sẵn có sao che lấp hoặc thỏa mãn nỗi tự ty mình chẳng là gì, con đẻ của nỗi khát khao muốn trở thành gì như một bẩm sinh nơi con người; nghiện hút và tình dục sẵn sàng nhào vô thách đố thử nghiệm. Đại đa số giới trẻ đã tự tàn phá đời mình, đóng cửa tương lai để rồi trầm luân khó thể thoát ra khỏi cảm giác vui thú nhất thời này.
        Thanh còn đang mơ màng suy tư nhận định hiện trạng giới trẻ phát xuất từ nét dễ thương, vui tươi của Huyền, con gái Tiên thì Tình nhắc,
        - Đi thôi, rồi ề à lên giọng, “Khi đi vợ đã dặn rằng, đi mau về sớm không lằng nhằng, lang thang. ” Có lẽ hai bà ấy đang đợi về ăn trưa.
        Thanh vội đứng dậy nói đôi lời tạ từ đoạn cùng Tình bước ra khỏi quán phở.
        Đúng 5 giờ 30 chiều, Tiên lái xe tới, mang theo giỏ xách bước ra khỏi xe. Chị Thanh trông thấy lên tiếng hỏi,
        - Anh còn gì cần phải đem vô không?
        - Không có chi đâu chị, tất cả nơi chiếc giỏ này.
        - Anh dùng chai bia nha.
        - Khỏi đi chị, để tôi làm giấm cho kịp giờ. Nghe anh Thanh nói mọi sự đã đầy đủ.
        - Em và chị Tình sẽ làm theo mệnh lệnh của anh. Tụi em muốn thực tập để nhớ cho dễ. Hôm nay, anh làm “supervisor” để tụi em làm nhân viên học nghề. Nhiệm vụ của anh chỉ là ngồi ghế uống bia và ra lệnh thế là mọi sự sẽ hoàn tất.
        - Vậy lỡ tôi thất nghiệp thì sao? Ai bày ra phương pháp này.
        - Còn ai trồng khoai đất này nữa anh. Đây là kinh nghiệm khi còn đi làm em đã nghĩ ra lúc phải “training” cho những nhân viên mới. Nghề của nàng mà.
        Chị Thanh mau mắn bước về phía trước, tiện tay nhắc chiếc ghế gấp đặt gần bên tủ lạnh, đoạn mở tủ lấy chai Heineken đưa cho Tiên đồng thời tay kia với chiếc ly đưa tiếp.
        - Không cần ly đâu chị, tôi uống từ chai cho lạnh.
        Nơi bếp, hai con dao được đặt sẵn trên hai chiếc thớt hai bên lò nấu. Chị Thanh bước ra ngoài kiếm chị Tình trong khi Tiên dùng bật lửa mở bia. Trở vô bếp với chị Tình, mỗi người đứng bên bộ dao thớt, chị Thanh lên tiếng,
        - Mời anh ra lệnh.
        - Phi hành, mỡ, trong đó có cả tỏi.

        Chị Thanh đưa cho chị Tình mấy nhánh tỏi, đặt mấy củ hành hương nơi thớt của mình đoạn mở tủ phía dưới lấy ra chiếc nồi khá lớn đặt lên bếp và xoay nút điện, đổ vô nồi ít dầu ăn rồi bóc hành, đập dẹp, thái nhỏ, hốt bỏ vô nồi đã được chị Tình bỏ tỏi cũng được thái nhỏ bỏ vô trước. Mùi thơm hành tỏi được phi từ từ lan tỏa ngập bếp.
        - Thịt heo xay bỏ vô quấy đều, tôm bóc nõn, ít bột ngọt, sả, gừng, riềng băm nhỏ, nước mắm chừng một phần tư độ mặn. Lấy một nồi khác nấu cỡ bốn tô nước lạnh, mở lửa thật lớn, bỏ phần cá làm giấm vô. Chuẩn bị mắm tôm, ớt, bốn trái trứng đập vô chén, đánh tan.
        - Tắt bếp xào tôm thịt khi đã chín, lấy nồi ra khỏi bếp cho mau nguội, chuẩn bị máy xay sinh tố. Lấy năm trái ớt, vặt sạch núm và nếu muốn giấm có mầu, bỏ vô cỡ ba muỗng canh tương ớt...
        - Như vậy cay quá sao ăn, anh Tiên, chị Tình lên tiếng.
        - Không sao đâu vì ớt bỏ vô mẻ sẽ bị chất chua làm giảm độ cay. Cá hình như vừa chín tới, vớt cá ra đĩa, dùng xiên gỡ lấy thịt cá bỏ vô nồi xào tôm thịt đoạn tất cả cho vô máy xay sinh tố, cho vô chừng chén con nước nấu cá cho dễ xay. Khi đã xay nhuyễn, cho mẻ vô xay tiếp cho đều, đoạn đổ tất cả vô nồi nước nấu cá, quấy đều. Lấy ba muỗng mắm tôm bỏ vô một chiếc tô thêm ít nước lạnh quấy tan đồng thờ bỏ trứng vô, đánh tan, đổ vô nồi giấm. Hết việc, mất nghề, hai chị thử nếm xem đã vừa chưa, nếu nhạt, cho thêm mắm, đồng thời nếu còn lòng lẻo, lấy ít “Corn stark” hòa vô nước lạnh, quấy đều từ từ rót vô nồi giấm. Nhớ từng ít một sao cho giấm có độ đậm đặc vừa phải dễ múc, dễ ăn tránh cảnh cái đi đàng cái, nước đi đàng nước.
        Mới độ hai mươi phút, nồi giấm đã hoàn thành, nóng hổi, được mang ra chia đều trên ba chảo điện nơi bàn ăn đã sắp sẵn bát đĩa, rau thơm, cá sống. Hai chai nửa galon Crown Royal ngạo nghễ giữa hai bàn tròn dành cho người lớn dường như đang canh chừng những chiếc ly sạch bóng đượm màu xanh lơ duyên dáng vây quanh e có đứa trốn thoát bất kỳ lúc nào. Muỗng, xiên, giấy ăn nơi dãy do hai chiếc bàn dài kê tiếp nối cũng đã được chuẩn bị. Trên một chiếc bàn dài kê riêng biệt, nồi cháo cá to tướng kề bên chiếc khay phồng lên được bọc giấy nhôm âm thầm đợi đoàn quân khai phá. Chồng đĩa giấy, chồng tô nhỏ âm thầm như chuẩn bị năng lực chất chứa thực phẩm chờ đợi.
        Năm phút trước sáu giờ tối, người lớn đã hiện diện đầy đủ quanh hai bàn tròn, đoàn quân nhóm trẻ mười mấy đứa ào ạt xông vô miệng líu lo thích thú, đứa câu được con cá to, đứa giật sẩy chú rùa. Trong khi người lớn bắt đầu rót rượu, nhóm trẻ xếp thành hai hàng hai bên chiếc bàn để riêng, từng đứa tự động lấy tô, đĩa giấy đựng thịt gà luộc và cháo cá. Mấy đứa lớn biết rắc hành hoa thái nhỏ và rau thơm, tiêu, tương ớt; mấy đứa nhỏ học theo; hình ảnh dễ thương liên hệ tới đặc tính dân Việt, chỉ người Việt mới biết ăn nhiều thứ rau thơm có thể trồng quanh nhà. 
        Ah! Nhóm trẻ đứa nào cũng thử cuốn gỏi đẫn đầu bởi Huyền, con gái Tiên, từng đứa, tay cầm lá được cuốn thành hình phễu, đứa trước, đứa sau thứ tự xếp hàng gắp đôi miếng cá sống bỏ vô, đoạn múc giấm đổ lên trên, tạo nên một hình ảnh trông tuyệt vời ấm lòng người lớn đang nâng ly thưởng thức gỏi Bắc kỳ nơi hai bàn tròn. Chị Tình có lý khi quan niệm tạo cơ hội cho trẻ quen biết nhau tránh trạng thái tâm tư đơn độc sau này có thể xảy ra. Giáo dục đâu phải chỉ là lý thuyết suông mà cần sáng kiến thực nghiệm, cần môi trường, cần suy tư nhận thức. Văn hóa đâu phải là những tư tưởng chết được ghi nơi sách vở mà luôn biến chuyển, sống động nhịp nhàng nơi cuộc sống trãi dài từ thế hệ này được tiếp nối bởi những thế hệ đang vươn lên kiến tạo tâm tình hòa hợp với hiện trạng nơi môi trường cuộc sống. Trên báo chí, các phương tiện truyền thông, internet cổ võ, lý luận, giá trị rau cỏ ảnh hưởng sức khỏe và khuyến khích con người ăn rau. Dân Việt dùng lá thơm tăng nét thi vị ăn uống như một truyền thống bất thành văn. Chẳng cần phải khuyến khích, không cần biết giá trị hữu ích, mà nếu ăn bún với rau muống chẻ, không có lá kinh giới, ai không cảm thấy như bị đấm vô miệng. Một tô phở tuyệt vời nhưng không có giá sống, húng quế, ngò gai, vài cọng hành hoa thì thà ăn cơm không dễ nuốt hơn. Thịt gà luộc thiếu lá chanh xắt nhỏ, muối, chanh, ớt, thà ăn gà chiên. Rượu mận giả cầy hoặc cờ tây hay thịt rừng mà không có riềng, xả, lá mơ, dấm hoặc me hay chanh thì cứ đem kho mặn cho được việc. Văn hóa được thể hiện phần nào nơi cách ăn uống quả thực không đơn giản nhưng nào mấy ai để ý. Ai không thuộc nằm lòng mấy câu ca dao, “Con gà cục tác lá chanh; con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ hời mẹ hỡi mua tôi đồng riềng;” nhưng đã mấy ai nhớ lá chanh xắt nhỏ khi ăn gà luộc! Kinh Việt Nam (Tục Ngữ, Ca Dao) muốn được thực nghiệm cần điều kiện liên hệ nơi cộng đồng người Việt.
         
        Nơi một cuốn sách nào đó ghi lại tường trình nhận định về người Việt của một vị truyền giáo được ghi rằng người Việt có tiếng nói như chim hót. Từ tiếng nói, người Việt lại sẵn mang đặc tính dễ dàng hát và thích hát bởi những cung trầm bổng của âm nhạc rất thuận với âm thanh giọng nói dân Việt. Bình tâm nhận xét, gia đình nào có máy  karaoke, con cái họ nói tiếng Việt sành sõi hơn gia đình không có. Dĩ nhiên, thích âm nhạc, thích hát, lâu ngày phát âm được cải thiện. Đàng khác, kinh nghiệm sống chứng minh, người biết hai ngôn ngữ sẽ có nhận định, nhận thức rộng mở hơn người chỉ biết một tiếng nói, mà nào đâu mấy ai để ý! Tạ ơn trời, tạ ơn người phát minh ra hệ thống karaoke, tạ ơn những hãng sản xuất những giàn điện tử vô tình đem lợi ích cho người dân Việt tha hương. Phải chăng cuộc đời là cơ hội cho con người thăng tiến nếu con người để tâm nhận biết. Tất nhiên, bài học nào không phải trả giá, “Ai nên khôn không khốn một lần!” Đáng thương thay cho những tâm hồn không chịu suy nghĩ để rồi vô tình rơi vào ngõ hẹp nhận thức biến cuộc đời mình thành con ếch nơi đáy giếng, coi trời bằng vung.
        - Cái món tay làm, hàm nhai này khiến ai nấy bận rộn thành ra mấy đài phát thanh được phép nghỉ. Hưng lên tiếng sau khi vét sạch chén gỏi hổ lốn đính kèm một nhấp rượu. Công nhận phê! Nhưng nếu tôi không lầm thì nước giấm hôm nay thi vị hơn hôm nọ nơi quán phở, Có phải bác Tiên nhà ta có thêm bùa phép gì, xin làm ơn bật mí cho nhà cháu giữ làm của riêng; Hưng ít nhiều ảnh hưởng kiểu nói Sỹ nhà con.
        - Chả nói giấu gì, hôm nay tôi lỡ thất nghiệp. Chị chủ nhà và chị Tình bắt ép tôi ngồi uống bia để cổ võ cho chủ thuyết nam nữ bình quyền tất nhiên thành quả trổi vượt hơn. Nào có lạ gì, “hai đánh một, chẳng chột cũng què,” thi vị hơn đâu có chi lạ. Đàng khác, cá hồng và sủ đỏ dĩ nhiên mùi vị ngon hơn cá hánh, thêm vào đó từ lúc giấm nấu xong tôi nếm thử và nhận ra mùi vị thật đặc biệt nên vẫn giữ trong lòng định sẽ hỏi mùi và vị đó ở đâu bởi khi tra mắm muối, tôi không thấy hai chị thêm vào bất cứ gì, Có lẽ chị Thanh làm ơn giải thích giùm.
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2017 22:15:54 bởi lamongthuong >
        #4
          lamongthuong 06.12.2017 13:57:08 (permalink)
           
          - Thưa bác và quý anh chị, anh Tiên phán thế nào chị em chúng tôi tuân thủ không mảy may sai trật. Để con lập lại diễn trình nấu giấm nhờ bác và quý anh chị, đặc biệt anh Tiên phân định xem sao chứ chính con cũng không không thêm bớt gì và cũng chưa bao giờ nấu giấm mẻ ăn gỏi theo kiểu này. Trước hết, phi hành và tỏi, xào thịt heo xay với tôm đoạn thêm một tô nước nấu cá cùng thịt cá đã gỡ xương, cho vô máy xay sinh tố rồi đổ mẻ và bốn trái trứng vô xay nhuyễn. Con phải xay thành hai cối sau đó pha chung trong một nồi lớn với nước nấu cá đoạn thêm nước mắm, ớt tươi, ớt tương, mắm tôm. Sau khi đã đun sôi, giấm hơi lỏng con hòa thêm corn stark với nước lạnh và từ từ trộn vô cho đậm hơn. Cuối cùng nếm hơi nhạt, con thêm vô một ít nước mắm. À con còn quên, có thêm một muỗm cà phê bột ngọt. Anh Tiên thấy có thêm bớt chút chi khác không?
          - Tôi không thấy bất cứ mùi vị nào khác, chỉ thấy nó đậm đà, nói cách khác, phải dùng tiếng thi vị hơn nhưng không thể đoán được gốc gác nó từ đâu.
          - Thôi em hiểu rồi, đó là mùi vị nước mắm bố làm. Từ ngày bố làm nước mắm, nhà em không ăn được nước mắm mua ngoài chợ vì nước mắm nhà làm đậm đà lại có hương vị thanh thoát hơn và không cần phải dùng nhiều bột ngọt. Chút nữa, mời bác và quý anh chị thưởng thức đặc sản cây nhà lá vườn với món giả nem thích Bắc kỳ.
          - Nem thính Bắc kỳ có thêm sản phẩm giả nữa sao? Sỹ nhà con tay trái cầm cuộn lá, miệng lên tiếng hỏi trong khi tay kia khua đũa gắp cá.
          - Số là nghe anh Thanh nói mời bác và quý anh chị thưởng thức gỏi và nem thính Bắc kỳ, nhưng em ngại heo bên Mỹ này ăn thực phẩm sống chứ không được nấu chín như bên Việt Nam ngày xưa nên nếu dùng thịt thăn nhúng nước sôi như bên Việt Nam rồi thái ra trộn với bì theo kiểu Bắc kỳ hơi nguy hiểm. Em nói với bố; bố cũng nhận định chẳng nên; bởi lỡ ra thì phiền cả đám, nên bố đề nghị dùng chân giò luộc vừa chín tới, bóc ra thái mỏng trộn thính, chấm nước mắm tỏi ớt, ăn cũng như nem. Hôm đến nhà cố Ủi lấy chân giò làm nem, thấy chiếc đầu heo ngon ơi là ngon; em mua về định bó giò thủ; bố đề nghị làm ché Huế nhậu cho đã; chút nữa mời bác và quý anh chị thưởng thức thêm món ché Huế bố mới dạy em làm.
          - Như vậy, nhà con đề nghị, mọi người ngưng ăn gỏi để thưởng thức nem thính Bắc kỳ giả và ché Huế; bao nhiêu gỏi còn lại, nhà con bao hết.
          - Bao cũng chẳng hết được đâu ông ơi; có ăn như hổ thì món cá hấp, thêm nồi cháo cá, một mình ông bao được chăng!
          - Thế sao đủ rượu? Được đàng voi, chòi đàng tiên, Sỹ nhà con đặt vấn đề khi thấy hai bình nửa gallon, mỗi bình chỉ còn lại một phần tư. Đến lúc này, gỏi cũng chẳng còn bao nhiêu.
          - Ăn gỏi uống rượu cho điều hòa âm dương. Nem thính và ché Huế cần dùng bia giải nhiệt mắm tỏi ớt. Cá hấp và cháo cá trợ tim, bổ phổi, điều hòa tì vị giúp nhẹ nhàng trung hòa men rượu làm tỉnh trí, no lòng, ngủ ngon giấc, không giật mình dù bị khều khều cũng không tỉnh. Thanh vẽ hươu, vẽ vượn, nhưng nhớ khi bác thuyết trình, nếu ngủ gật làm ơn ngáy nho nhỏ một chút,Thanh nói háy bởi Sỹ đông con.
          - Thì tớ đâu biết nấu cháo cá nên khá tỉnh ngủ, vả lại, mẹ nó cứ quen thói khều. Sỹ nhanh nhẩu đáp vì biết bị kháy nên nói trớ.
          - Cái ông ma này, vợ Sỹ la lên, vậy mà cũng nói được! Tôi khều ông lúc nào.
          - Thì lúc tôi sắp ngủ; phỏng mình bà mà mang bầu được à! Bộ dễ lắm sao; bao nhiêu người cầu chẳng được. Không cám ơn thì thôi lại còn ra bộ oan ức!
          - Vâng, tôi phải cảm ơn, vợ Sỹ nói, đoạn phì cười.
          Cả nhà rộn tiếng cười, cười no ruột; cười vì tính chất ngộ nghĩnh, trẻ con của đôi vợ chồng bạn bè trung niên.
          Xắp nhỏ đã ăn xong, chị Thanh kêu ba đứa con của chị bật đèn ngoài sân trước và chia đội cho trẻ chơi bóng rổ trong khi chị đứng lên dọn ra nem, ché, và nước mắm tỏi ớt cùng với hai đĩa lá thơm đủ loại. Chị Tình chia cho mỗi người một chiếc muỗng sứ dùng để ăn cháo cá. Sau đó, mở lò nướng lấy ra hai con cá hánh lớn, nóng hổi đặt lên hai đĩa, mỗi bàn một con. Bia được anh Thanh chuyền mỗi người từ thùng đá lạnh.
          - Tuyệt vời. Không được thưởng thức nước mắm cây nhà lá vườn kể như chết nửa đời người. Hưng lên tiếng. Chị Thanh nói đúng. Mùi vị đặc biệt của giấm là do nước mắm tự chế.
          Đậm đà vị cá, hơi đặm dẫu đã được pha chanh, hương vị nhẹ nhàng quyện với mùi tỏi, chanh, ớt tạo nên sắc thái khác thường và trỗi bật, vượt hẳn mùi vị nước mắm nơi thị trường khiến ai nấy dường như trầm lặng thưởng thức.
          - Bác ơi, chỉ tụi con làm nước mắm nghen. Ngon quá! Vậy mà bao lâu nay anh chị Thanh giấu nghề, không cho ai biết tí gì.
          - Anh cả, có nên phạt một chầu không? Ai đồng ý giơ tay! Sỹ nhà con mở máy.
          - Nên phạt tội giấu nghề.
          - “Cái lầy pải pạt lắp pồ, pạt dất dzồi pạt dì,” tiếng nói của Phủ vang lên.
          Ông Thung tới giờ phút này đã hòa đồng thực thụ với nhóm nhậu dân chủ đa số thắng tiểu số. Có lẽ, riêng hôm nay được thưởng thức món gỏi tuyệt vời, nem, ché với mùi vị đặc biệt của nước mắm đã nâng cấp ông lên uống được những ba ly (three shots) nên cũng hơi ngà ngà. Được hỏi ý kiến, ông hướng về Thanh lên tiếng,
          - Sao khổ chủ; chú có ý kiến, ý bọ thêm bớt chi không?
          - Thưa bác, thưa ba, con xin trình bày lý lẽ hợp lý hợp tình theo nguyên tắc thăng tiến tâm linh bác thường khuyến khích khi trình bày hành trình thức ngộ qua các chủ thuyết. Nếu con không lầm, nguyên tắc đầu tiên là phải đối diện thẳng thắn với chính mình để nhận thực con người, nhận thực bản lai diện mục của mình như Lục tổ Huệ Năng đề xướng hơn kém hai nghìn năm trước. Thứ đến lại cần phải tâm niệm lời dạy của Đạt Ma sư tổ và triệt để áp dụng từng giây từng phút nơi cuộc đời mỗi người hầu thúc đẩy và tạo năng lực phát triển tiềm lực thức ngộ bằng cách mở rộng tâm hồn đón nhận mọi thực thể tâm linh có thể xảy đến hầu nhận thực chân lý và tránh thoát bản năng ỷ lại để rồi đóng cửa tâm hồn do e sợ sai lầm, và đó cũng là phương pháp hạn chế tội độc nhất, tội vô minh. Cháu trình bày những nguyên tắc và lý do như thế phỏng đã đủ nền tảng chuẩn bị cho câu trả lời chưa ạ? Bác và quý anh chị xin cho biết nhận định.
          - Đủ gồi, đủ gồi, Sỹ nhà con gào lên. Có gì thì nói toạc móng heo ra; lần phạt thứ nhất nhậu gì; lần phạt thứ hai uống chi. Ăn uống đâu cần lý lẽ hợp lý, hợp tình, ý kiến, ý bọ. Ý kiến đâu có thể khiến lòng ruột sửng sửng, lý lẽ sao thi vị bằng nước mắm cây nhà lá vườn. Hành trình tâm linh, thức ngộ cũng như giải thích bữa ăn, đâu no bụng được. Chỉ nhậu mới phê, mới nâng tâm hồn vượt lên trên cõi tâm linh.
          - Chú Sỹ, mời chú im lặng để nghe bác trả lời chú Thanh. Bộ chú muốn bị phạt thế cho chú Thanh sao.
          - Nhà con sẵn sàng, đâu có sợ. Tuy nhiên, làm như thế là cướp cơ hội thăng tiến của khổ chủ sẽ khiến khổ chủ bị luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được nên nhà con đâu dám. Cái vị đạt ma này thế mà có lý ra phết. Bởi vậy, nhà con xin ngồi im, he he, cháu xin mời bác ạ.
          - Anh Thanh, theo anh trình bày điều kiện dùng lý lẽ và nguyên nhân trình bày câu trả lời cho hợp lý, hợp tình, có lẽ chú Sỹ nhà con sẽ được phép cướp cơ hội thăng tiến tâm linh một cách hợp lý hợp tình chăng! Mời anh trình bày đối kháng hợp lý, hợp tình.
          - Thưa bác, thưa ba, Thanh lấy giọng nghiêm chuẩn lên tiếng. Thứ nhất, con chưa bao giờ học nghề đánh tôm, bắt cá. Thứ hai, nơi nhà trường cũng chưa bao giờ dạy con đánh bắt tôm cá mà chỉ dạy con nghề điện tử. Thứ ba, nghề của con là điều hành cơ sở truyền thông dẫu học về điện. Thứ bốn, con không làm nước mắm mà ba con và nhà con làm. Thứ năm, giả sử dẫu biết làm nước mắm, cổ nhân đã dạy, “Cho bạc cho vàng, không ai đọc đàng đi buôn.” Mặt khác, các anh các chị đa số làm nghề đâm Hà Bá, đánh tôm bắt cá nên biết rành rẽ cơ hội và những ngành nghề liên hệ đến tôm cá. Hơn nữa, các anh chị đã cố tình ấp ủ và cố thủ tội vô minh, không chịu thử, không mở rộng lòng để tìm hiểu, đặt vấn đề, hầu cải thiện phẩm chất nước mắm mình dùng hằng ngày, lại cứ đóng cửa tâm hồn để rồi ỷ y cho rằng không thể làm gì hơn vì đã có nước mắm tốn tiền mua tức là phạm tội vô minh, bởi tội lỗi do sự ngu dốt, không chịu suy nghĩ mà ra. Thế nên, nếu xét xử theo lẽ thưởng phạt, có công tất nhiên được thưởng, và có tội tất nhiên bị phạt; những anh chị cho rằng nước mắm đã thưởng thức tuyệt vời thi vị đều bị phạt để thưởng công cho những người kiến tạo cây nhà lá vườn. Con xin hết ý. Mời anh cả làm trọng tài tuyên án.
          - Vậy thì tôi cũng bị phạt rồi bởi tôi cũng khen nước mắm ngon. Ông Thung chợt đưa ra nhận định. Chú Sỹ, chú được phép cướp cơ hội thăng tiến tâm linh của anh chị Thanh; những anh chị em khác cũng lãnh đủ luôn. Ai phản đối, bị phạt gấp đôi. Trọng tài tuyên án. Ai bàn nhăng, tán cuội cũng bị phạt gấp đôi. Quả là chẳng bắt trộm được gà lại mất thêm nắm thóc. Ngón đòn gậy ông đập lưng ông không biết có được coi là bài học thức ngộ chăng!
          Tuyên án lại cũng nhận án. Nói thì nói thế, ông Thung biết nào có ai sợ bị phạt mà ngược lại, ai cũng hồ hởi nhận phạt nên nét mặt ai cũng tươi rói vì bia vẫn cứ mở, đũa tiếp tục múa chèo kéo nem, ché, cá hấp, và đồng thời muỗng sành khua lanh canh vô chén như e sợ nồi cháo cá không chịu cạn.
          Lúc này, thằng con lớn của anh chị Thanh đã bật giàn karaoke lên và thử micro, keyboard. Huynh đến từ New Orleans và Tính thuộc ca đoàn cũng đang chuẩn bị nhạc cụ. Thanh đứng lên nói,
          - Thưa bác, thưa ba, thưa anh cả, nhân dịp có sự hiện diện của bác, ba, anh cả và quý anh chị em, đồng thời tháng này cũng bao gồm bốn ngày sinh nhật của bác, ba, anh cả, và nhà con. Thế nên, bữa cơm rau muối cũng tạm gọi là tiệc mừng sinh nhật của bốn người. Riêng bánh mừng sinh nhật, cỡ chừng một tiếng nữa sẽ có người mang đến vì lúc này vừa được nướng xong và đang được trang trí cho thêm phần tươi mát và trang trọng. Bây giờ để thay đổi bầu không khí trong tiệc mừng sinh nhật và cũng để giải buồn cho những ai vô tình mắc tội vô minh, con xin được mời một trong những vị có ngày sinh nhật nơi tháng này trình diễn nhạc sống. Hướng về chị Thanh, anh nói, “Xin mời em.”
          Mọi người vỗ tay hào hứng. Anh chậm bước tới cây keyboard; đứng kèm hai bên Thanh là Huynh và Tính; người đeo cây saxo, kẻ khoác cây guitar.
          - Thưa ba, thưa bác, thưa anh cả, chị Thanh nhỏ nhẹ, nói về hành trình tâm linh, bước đầu tất nhiên cốt cán là nhận biết chính mình. Một trong những khía cạnh để nhận biết chính mình là hồi tâm để đối diện cuộc đời. Con xin trình bày bản nhạc đầu tiên để mừng sinh nhật ba, bác, và anh cả; đó là bài Hành Trình, tác phẩm do anh Thanh soạn đã khá lâu.
          Âm thanh saxo réo rắt trổi lên giữa giàn âm thanh của keyboard cùng với tiếng đệm guitar, tràn ngập phòng như lấn át, kéo tâm trí mọi người chú ý. Và giọng nhẹ nhàng quyến rũ nặng phần kể lể, hồi tâm nhận định thân phận, “Vào cuộc đời tôi đi, tay trơn bóng chiếc...” của chị Thanh chen vô như nhắc nhở mọi người hãy nhìn lại cuộc đời mình. “Xin, cho tôi xin được một lần nói lời trăn trối,” tiếng hát chợt nổi lên cao vút chẳng khác gì lời kêu van tận cùng của một kiếp người la lên từ cõi trói buộc vô phương đào thoát chỉ còn biết tắc nghẹn, than van trước khi buông xuôi, giã từ tất cả. Ai đã chưa bao giờ phải đối diện với thực thể cuộc đời như một vết hằn tâm tưởng, “Những gì làm tôi mê say là cội nguồn tạo niềm chua cay. Bao điều yêu dấu đã trở thành lưỡi dao ngọt đâm thấu tim tôi!” Người ta đâu cần biết tác giả đã nghĩ gì, kinh nghiệm những gì khi viết ra bài hát. Hình dáng thanh bai, duyên dáng dưới ánh đèn mờ ảo cất lên lời tâm sự hòa nhập âm thanh saxo, và đúng thời điểm nào đó, xoáy vô lòng người, tiếng guitar chẳng khác mũi tên nhắm vô nỗi lòng xuyên qua tâm trí. Hòa âm piano từ keyboard dồn dập đập mạnh giữa làn âm thanh strings ngậm ngùi nức nở dường như thúc đẩy sự co thắt của lòng ruột khán thính giả cố rướn theo giọng hát van xin, “Xin, cho tôi xin được một lần nói lời trăn trối.” Chị Thanh rướn người, tay cầm micophone, tay kia giơ lên, ngửa cổ chẳng khác gì cố gắng ép hết tàn hơi của một người rơi vào cảnh cùng cực cuối đời gào lên lời cuối. Hình ảnh ấy, những âm thanh ấy hòa quyện thu hút tâm tư mọi người về một mối; ôi thân phận con người, vào đời đơn độc ra đi lạnh lùng. Bao bon chen tranh sống, bao thắng lợi cũng như chua cay nơi cuộc đời cuối cùng cô đọng lại cũng chỉ là vết hằn tâm tưởng, nỗi đau đeo đẳng kết quả của lưỡi dao ngọt cuộc đời xuyên thấu qua tim như thân phận kiếp người. Ôi bao mơ ước, bao viễn ảnh đều chìm vô quá khứ tô đậm nỗi thao thức mờ mịt, mông lung. Nào ai biết mình sẽ đi về đâu khi bản án tử tội được khoác lên ngay từ lúc mới sinh không kẻ nào tránh thoát tới thời điểm kết cục. Phỏng cuộc đời là áng mây trôi hay như áng mây lạc lõng hư vô. Nếu cuộc đời chỉ là hư vô sao nỗi đau nhân sinh vẫn âm thầm gậm nhấm, sao niềm thao thức, khắc khoải nào đó luôn luôn dằn vặt tâm tư chẳng hề ngưng nghỉ!
          Chị Thanh cúi chào khi chấm dứt bản hát trong lúc mọi người vẫn còn như đang trong giấc mộng. Tiếng vỗ tay cổ võ của Sỹ nhà con bùng lên ngay lúc giòng âm thanh chấm dứt khiến ai nấy chợt tỉnh hùa theo vỗ tay.
           - Bis, bis, mấy người la lớn giữa âm thanh tràng pháo tay đương thịnh. Chị Thanh tươi cười cúi chào lần nữa, đoạn giơ tay trấn áp cảnh ồn ào. Mệt quá, cho em nghỉ, xin mời quý anh chị tiếp tục.
          Dĩ nhiên, thần thiêng cũng phải nhờ bộ hạ. Có được âm thanh nhạc sống, chị Thanh hát với hết tâm tình và năng lực của mình quả thực sống động thu hút toàn bộ lòng ruột khán thính giả. Không ai có thể ngờ diễn xuất của chị qua bài hát lại tuyệt vời như thế khiến mọi người ngạc nhiên và hồ hởi. Dẫu quá quen với những tối cùng nhau hát xướng nhưng tối nay hình như ai nấy cảm thấy đặc tính nào đó của nghệ thuật thứ bảy mang tâm tình mới mẻ mơ hồ nơi tâm trí. Xưa nay, hát thì hát, giữa chốn bạn bè thân quen cùng nhau hát để giải trí, để có được đôi phút quên trời, quên đất, quên tất cả những phiền hà tâm tư hầu vui chơi với những người đồng trang lứa. Lúc này, nhận thức về thân phận con người được lồng vào thế giới âm thanh du nhập lòng người đã kích động tâm trí chẳng khác gì cơn mưa bất chợt đổ xuống miền tâm tư khô cằn nắng hạn, khơi nguồn sinh khí hồi tâm nhận định cuộc sống. Qua sự trình diễn của chị Thanh, nổi lên nơi lòng bè bạn nhận định chẳng ngờ về nhận thức thâm trầm của Thanh đã bao lâu ẩn tàng không được mấy ai nhận biết, nay hiện rõ nơi lời ca của bản nhạc được sống động trình bày.
           
          Tối nay, nhạc sống thay thế nhạc chết karaoke tăng thêm phần sinh khí cho nhóm nhậu. Người hát cảm thấy yên tâm hơn không phải lo lắng lỡ nhịp bởi chẳng may lỡ nhịp, các nhạc công du di vớt vát thành ra quý tài tử bất đắc dĩ tha hồ vung vít múa gậy vườn hoang, và ai cũng có được cảm nghĩ hài hòa tâm tưởng bởi những tràng pháo tay tán thưởng khuyến khích. Có điều hơi lạ và đó là các nữ ca sĩ đêm nay mạnh dạn và điềm đạm hơn hầu hết nam ca sĩ mang nặng đầu óc ngà ngà vì men bia rượu. Không hiểu có phải họ bị khớp bởi màn trình diễn ca khúc Hành Trình do chị Thanh hay chăng, hoặc nhờ hơi men kích thích khiến họ mở rộng lòng cho lời tình tự nhận thức về cuộc đời từ lời ca thẩm thấu mà thái độ trầm hẳn, đối nghịch với những lần hát karaoke sau khi tâm trí lãng đãng do men rượu bia ảnh hưởng. Những lần trước, khi men bia rượu sừng sừng, dẫu cho giàn máy với hai chiếc loa tổ bố được mở hết cỡ, các nam danh ca gân cổ thi nhau hét; hình như men rượu gợi lại cảm nghĩ thân phận chẳng là gì nên cố thi đua với giòng âm nhạc ào ạt tuôn ra như muốn phá bung nóc nhà. Hai thùng loa với một người gào thét, thi đua chẳng để ai nói, ai nghe, nhất là kẻ hét bởi dẫu hét to đến mấy thì một cái miệng qua hệ thống thu nhận hạn hẹp của micro cũng không địch lại hai chiếc loa hết cỡ phóng xuất. Mở nhạc vừa phải cho giọng hát nổi lên thì những cái đầu tơ lơ mơ không cảm thấy hứng đủ để hát. Thế nên, càng hét thì lại càng chẳng nghe thấy mình hét gì nên lại càng cố hét.
          Hứng hét hình như mang đặc tính trớ trêu thế nào ấy. Nam danh ca khật khưỡng dẫu chụp được micro hay bị đẩy lên trình diễn, trình thì có mà nhiều lúc diễn thì không. Có những khi cơn hứng bất tử nổi máu lễ độ, anh nào đó thưa bẩm tứ lung tung một cách thừa thãi; thêm vào đó giải thích nguyên nhân tại sao thích bài hát sắp diễn trình đôi khi vô tình phanh phui những lầm lỗi cố tình che giấu đã bao năm nay để rồi ngây ngô bào chữa. Nơi nhóm bạn bè quen biết, cá đối bằng đầu, thế là những lời bàn vô, tán ra, cố tình vẽ rắn thêm chân nhào nháo như đàn o­ng vỡ tổ được phụ họa bởi nhận định thiên lệch về thực thể dân chủ tự do càng khiến cho sự rối ren thêm rắc rối, quân hồi vô phèng. Được cái, không ai để ý đến những chuyện nhỏ nhặt đôi khi phát sinh đôi chối. Bạn bè mà! Đã là bạn lại cùng một bè nên mọi sự đều được xí xóa dẫu chẳng hiểu có ai học được kinh nghiệm thăng tiếng hay không. Và thường thì mỗi danh ca trình diễn hai bản nhạc. Ôi! Đầu óc đã ngất ngưởng thì nhịp hát cũng lung lay thành ra tạm gọi trình diễn lại trở thành hứng diễn. Thích vô thì vô, hứng ngân cứ việc kéo dài cho đã hơi men. Có lẽ phải sáng tạo thêm danh hiệu cho loại trình diễn này; thôi thì tạm gọi là men hát. Riêng tối nay, các đấng nam danh ca sửng sửng chẳng kém chi những lần tụ tập kỳ trước thế mà họ lại thừa thanh lịch tạo thế âm thịnh dương suy. Đã hai chị lên hát, vợ Sỹ nhà con và vợ Tình tiếp nối chị Thanh mà bên nam danh ca vẫn chưa thấy ai rục rịch. Khớp rồi chăng!
          - Phe ta phải làm sao đi chứ, ông Thung lên tiếng, chẳng lẽ cứ để phái yếu thắng thế thì còn gì mặt mũi bầu cua. Chú Sỹ, chú Tình, chú Phủ, chú Hưng, sao mà nhịn giỏi thế?
          - Chủ nhà chưa lên tiếng, ai dám múa gậy vườn hoang! Sỹ trả lời. Anh chàng ngổ ngáo sao hôm nay biết lễ độ đến thế!
          - Thôi thì chú Thanh dẫn đầu tàu, ông Thung hướng về Thanh đề nghị.
          - Thưa bác, thưa ba, cùng anh cả và quý liệt vị, nhà cháu mượn tiếng mừng sinh nhật bốn vị xin trình bày bản Gà Tơ Mắm Gừng. Quý vị cũng biết, bất cứ những gì quá độ đều khiến người ta đau. Nói theo Nguyễn Du, “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (Kiều), và lẽ đương nhiên, chỉ những ai ở trong chăn mới biết chăn có rận, thật khó kiếm người cảm thông.
          Thanh nói nhỏ với Huynh và Tín, nhạc nổi lên, và anh tửng tửng hát. Khi hát đến lượt thứ hai, đám nam danh ca dường như choàng tỉnh. Vừa hết bài hát, Sỹ nhà con bô bô lặp lại một câu thơ Trần Tế Xương, “ Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,” và thêm, khều khều bị nó đạp ngang hông. Hắn tiếp tục điềm nhiên xuất khẩu, thịt gà ăn lắm cũng chán chường; vợ già ngắm mãi sao mà thương. Và thế là tổ o­ng lại vỡ; kẻ bàn ra; người tán vô, bỗng chốc ồn ào như cái chợ.
          - Bis, bis, Sỹ gào lên. Một bản chỉ mới thử giọng. Yêu cầu chủ nhà hát tiếp. Âm thanh nhạc sống tương đối nhỏ nên mọi người có thể nghe rõ lời yêu cầu.
          - Thể theo lời yêu cầu nhà cháu bị hát dẫu hôm nay giữ chân nhạc công, nhà cháu xin gửi đến bác, ba, và anh cả cùng quý vị bản nhạc với tựa đề Tình Yêu. Bản này nói lên thi vị của tình yêu có lẽ quý vị đã bao lâu nay tận hưởng; đặc biệt anh chị Sỹ nhà con. Tác giả của bài thơ chắc cũng trần thân cảm nghiệm thú đau thương đầy thi vị của thực thể được Lão học mệnh danh “Người biết không nói; kẻ nói không biết;” riêng nhà cháu lại càng không biết. Mời quý vị thưởng lãm. 
          Lời ca bản nhạc Tình Yêu vừa chấm dứt, ông Thung đã vội vã thúc giục,
          - Chú Sỹ, lên thôi đừng để phía mày râu mất mặt. Quả là “gần mực thì đen,” lại thêm ba cữ rượu hòa hợp với gỏi cá, cháo cá, nướng cá, nem, ché khiến mát lòng mát dạ nên ông Thung hôm nay có vẻ hồ hởi cổ võ phái nam lên đài.
          - Giời! Nào có mặt đâu mà mất. Sao anh cả không lên đi. Chợt ý nghĩ quậy phá nổi lên, hắn hô lớn, tôi đề nghị anh cả trổ tài. Bao lâu rồi anh cả giấu tài chuyên môn xít chó bụi rậm. Hôm nay đề nghị mọi người yêu cầu anh cả lên đài mở máy.
          Cái chợ đang yên lành lại trở nên ồn ào. Mọi cái loa bên phái nam đều góp tiếng, mấy khi có dịp vui đẩy người vào ngõ bí may ra có được đôi phút ngỡ ngàng.
          - Các chú đa số, tôi chỉ là thiểu số.
          - Dạ, chúng em đa số đề nghị và bầu cử anh cả lên đài.
          Ông Thung chẳng đặng đừng bước tới cầm micro lên tiếng,
          - Lên thì lên. Cuộc đời này chưa thằng nào sợ thằng này; ai nhất thì tôi thứ nhì; ai mà nhất nữa tôi thì thứ ba, chưa chết thằng tây nào.
          Loạt âm thanh vỗ tay cổ võ nổi lên càng thêm ồn ào.
          - Dô! Anh cả! Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đàng lắm kẻ còn dòn hơn ta, Phủ đế vô. Có cần chị cả phụ diễn làm thợ vịn lấy can đảm không? Hôm nay chị Thanh cố mời cho được chị Thung tham dự.
          Chẳng ngờ, ông Thung lại hướng về phía vợ tửng tửng,
          - Em ơi, tới đây xích gần anh chút nữa, ông lên giọng cải lương, cho tâm hồn anh hồi tưởng niềm lưu luyến phút ban… đầu...
          Pháo tay nổ vang, cảnh ồn ào càng thêm hỗn loạn. Không ai ngờ được con người luôn đạo mạo hôm nay bỗng mở màn xả láng.
          - Tôi xin hát bản,
          - Không được, phải trình bày!
          - Ừ thì trình bày bản nhạc, Xin Đừng Coi Tôi Như Kẻ Lạ. Tôi chỉ có một bài tủ ruột mà thôi, không bis không biếc. Anh em đồng ý thì tôi hát, không đồng ý thì tôi xuống.
          - Đồng ý! Đồng ý! Có còn hơn không, có còn hơn không. Sỹ nhà con lớn tiếng ngâm nga và lên giọng,
          - Yêu cầu cho anh cả tràng pháo tay.
          Ông Thung nói nhỏ với Thanh, Huynh, và Tính. Âm nhạc nổi lên và ông cất giọng trầm trầm, “Hỡi những người đang sống quanh tôi...”
          Mọi người ngạc nhiên vì chẳng ngờ ông Thung hát rất vững hòa hợp với cung điệu trầm buồn của bản nhạc như than thở, thiết tha diễn tả nỗi lòng nhận thức thân phận cô đơn nhân sinh. Lời hát nói lên tâm trạng đối diện với lòng để nhận chân thực thể tâm hồn không giấu diếm, che đậy hầu mong tạo dựng liên hệ tình người. Dáng vẻ ông Thung phần nào hòa với âm nhạc; tiếng hát diễn tả nỗi âm thầm thao thức cộng thêm nét bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời tạo nên cảm nghĩ như câu nói nào đó phảng phất trở về nơi tâm trí kẻ nghe, “Cô đơn giữa chốn đông người.” Chị Thanh cảm thấy lòng bâng khuâng, hình như nhận thức được điều đặc biệt nào đó về nghệ thuật trình diễn. Thực ra, được mọi người nhiệt liệt cổ võ sau khi hát bài Hành Trình, câu hỏi phát sinh nơi tâm trí, họ nhiệt liệt cổ võ để khuyến khích hay vì lý do gì, chị tự hỏi. Tất nhiên, khi men bia rượu sừng sừng thì ồn ào, náo nhiệt đến độ lộn xộn đều là chuyện bình thường giữa chốn bạn bè quen biết bởi ai cũng cảm nhận được tâm tình rộng mở không xét nét, chấp chiếm mà cảm thông, an hưởng niềm vui thoáng qua. Chị để ý nhìn cử điệu; ông Thung có cử điệu rất bình thường, nếu không muốn nói là ông không để ý đến cử điệu lúc hát mà phản ứng hoặc cử điệu của ông tùy thuộc tâm tình như phản xạ hoặc diễn tả tâm tình chất chứa nơi lời hát. Hình như ông hòa nhập tâm tình vô bài hát. Từ nhận xét này, chị hiểu lý do tại sao được nhiệt liệt cổ võ sau khi chị hát. Chị đã hòa nhập tâm tình của chị vô bài hát và thực sự phô bày nó qua giọng hát. Lúc ấy, chị không để ý đến cử điệu của mình nên hay không nên thế nào mà chúng chỉ thuận theo tâm tình của lời hát phù hợp với âm nhạc. Chị đã hiểu được nên thế nào nơi nghệ thuật trình bày hát xướng.
          Chị Thanh vỗ tay lớn nhất khi ông Thung hát xong. Chị vỗ tay cổ võ chính mình bởi nhận ra được nguyên tắc căn bản trình diễn âm nhạc. Chị Thung ngỡ ngàng, không ngờ ông Thung hát hay như thế bởi chưa bao giờ chị thấy ông hát với giàn nhạc. Mấy tên phá phách nhất lại càng ngỡ ngàng hơn. Họ cứ tưởng xưa nay ông Thung bề ngoài có vẻ đạo mạo như thế thì sao hát có thể hay. Nghệ sĩ thì tâm tính phải lãng đãng; ai không nghĩ thế; vậy mà ông Thung hát phê hết nước chê. Những tay chuyên nghiệp hát karaoke đành phải chấp nhận tự mình hạ đài nơi tâm tưởng. Dù không biết hát, bình thường ai cũng dễ hòa nhập tâm tình của mình với âm nhạc tùy theo cảm ứng. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt, đa số người Việt dễ dàng hát theo nhạc karaoke dẫu biết nhịp nhạc hay không. Thì nào có khó chi đâu, nghe riết rồi cũng hát được; một bản nhạc nghe cả trăm lần ai mà không thuộc, phương chi lại thích hát. Nhạc đã có sẵn, chỉ việc bỏ đĩa hát vô máy, tha hồ mà véo von.
          Ngoại trừ lần đầu tiên ông Thung hát, người ít hát nhất là vợ Phủ. Chẳng hiểu sao, sau khi hát, ông Thung lên tiếng mời vợ Phủ.
          - Hôm nay em không hát được bởi chưa sửa soạn gì. Vợ Phủ từ chối.
          - Tôi mà hát được thì bất cứ ai cũng hát được. Mời chị, nếu chưa kịp sửa soạn thì hát bài tủ chưa ai nghe, mới người, cũ mình nào ai biết đấy là đâu!
          Chị Thanh ôm cánh tay chị Phủ nhỏ nhẹ, ông ấy nói đúng đấy, cũ người mới ta, cũ ta mới người, cứ hát phứa đi nào ai để ý; đoạn nhẹ đẩy chị Phủ tiến dần tới ông Thung đón lấy micro.
          - Thưa hai bác, các anh các chị, xưa nay em rất ít hát nơi công cộng mà mỗi khi hát ở nhà thì anh ấy cứ gianh lấy mà hát thành ra không có cơ hội phát triển. Em định đi Cali kiếm ông bầu tập dợt nhưng nhà em không chịu thành ra cứ ấm ức hoài.
          Chị này xưa nay ít nói sao bỗng dưng giả đò tố khổ chồng; mọi người nghe chị nói diễu diễu phá lên cười ủng hộ. Sỹ nhà con đế vô,
          - Chị khỏi cần đi Cali, tôi xung phong làm ông bầu.
          - Cái ông ma này, để nghe chị ấy nói; cái gì cũng cứ đế vô. Chị Sỹ lên tiếng ngăn chồng.
          - Anh đâu biết đánh đàn nên đâu thể làm bầu. Chị Tình ngồi bên chọc Sỹ.
          - Ai nói tôi không biết đánh đàn. Bộ đánh đàn bà không phải là đánh đàn sao.
          - Cái ông ma này, nói bậy! Chị Sỹ nói.
          - Bộ tớ nói sai sao.
          - Già rồi mà chưa nên nết, không nói được câu nào đứng đắn; không sợ người ta cười cho. Thôi im đi nghe chị Phủ nói.
          - Xin cảm ơn anh Sỹ đã có lòng. Nhân tiện ngày vui, cháu xin gửi tới hai bác và anh Thung cùng với chị Thanh bài hát Nỗi Lòng tạm gọi là mừng sinh nhật. Chị quay lại nói với Thanh đôi câu. Tiếng nhạc trổi lên ngập phòng, và chị cất tiếng hát.
           
          MBVN 15
           
          Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một chị Thanh đã khiến thiên hạ sững sờ; thêm ông Thung làm chẳng ai ngờ, bây giờ lại chị Phủ. Phỏng rằng tại nhạc sống hay tại tài năng, không ai có được câu trả lời trung thực. Nhưng nghi vấn chỉ giới hạn nơi tâm trí phụ giúp cho tâm tình vui tươi. Có điều, phải công nhận ba nhạc công thật giỏi; nhờ khả năng âm nhạc, họ biến ca sĩ karaoke thành những diễn viên sống động.
           
          Thời giờ hình như trôi nhanh khi niềm vui tràn lấp. Mới thoáng chốc mà một tiếng rưỡi vụt qua; nửa tiếng ăn nhậu và một giờ văn nghệ, tiếp nối là thời điểm bàn thảo tâm linh theo chương trình đã được quy định của nhóm từ thuở ban đầu. Những người muốn hát thì đã trình diễn hết lượt; ai cũng hài lòng với giàn nhạc sống, nhất là với những tràng pháo tay, những lời cổ võ. Ông Thung trở lại thái độ điềm đạm, nghiêm chỉnh cố hữu, tiến tới đón lấy micro, nhẹ giọng nhắc nhở,
          - Thưa hai bác và quý anh, quý chị, được lòng ưu ái của anh chị Thanh với nhã ý đón mừng ngày sinh nhật của hai bác, chị Thanh và tôi; chúng ta đã có những giây phút tuyệt vời. Riêng tôi rất cảm động vì đây cũng là lần đầu tiên được chúc mừng ngày sinh nhật. Quý vị đều biết, người Việt chúng ta không để ý đến ngày sinh ngoại trừ lúc còn thơ ấu được ghi nhận những ngày thôi nôi, đầy tuổi, đôi dịp đặc biệt như cưới hỏi, đỗ đạt trong cuộc đời. Chúng ta chỉ để ý kỷ niệm ngày từ giã cuộc đời của những vị đã có công sức bồi đắp cho gia đình, giòng tộc mong tưởng nhớ và ghi nhận thành quả của các ngài mà chúng ta đang được thụ hưởng. Thế nên, đặc biệt tối nay, chúng tôi chân thành cảm ơn anh chị chủ gia đã cho ăn ngon, khuyến khích các chị mặc đẹp, lại bày ra đàn địch sống động giúp chúng tôi hát hay hơn hay hát, hy vọng từ nay chúng ta có thêm truyền thống dễ mê khó chừa này. Và bây giờ, tôi xin được công bố chương trình đàn địch, hát hỏng tạm ngưng để tiếp tục với tiết mục tâm linh do cụ Tài đàm luận hy vọng giúp mỗi người chúng ta minh triết, thức ngộ. Nếu có ai nhờ cơ hội này đốn ngộ thì càng tốt.
          - Ngộ thì chưa đâu, nhưng đốn bia thì chắc như bắp. Sỹ nhà còn hai tay cầm bốn chai bia bỏ lên bàn miệng lè nhè.
          Bia được chuyền đến những ai muốn uống tiếp, và mọi người, kẻ thì dùng hộp quẹt bật nắp chai, kẻ sắp xếp lại lối ngồi cho ngay ngắn, hay phưỡn ra, dựa vô lưng ghế một cách thoải mái.
          - Chào quý anh chị, cụ Tài lên tiếng. Trước hết tôi có lời cảm ơn anh chị Thanh đã có nhã ý mừng sinh nhật, và cũng xin cảm ơn tới quý anh quý chị đã tham gia khiến chương trình ca nhạc thật sự sống động và vui tươi khuyến khích lòng người. Tối nay, chúng ta bước vào cảnh giới mới, những thực nghiệm giao hòa của Ấn học và Phật học đã mấy ngàn năm được áp dụng nơi Tây Tạng, được gọi là Mật Tông Tây Tạng. Cụ đưa mắt nhìn qua một lượt thấy mọi người yên lặng chăm chú lắng nghe, lòng cảm khái thầm nghĩ, giữa cảnh ăn nhậu, hát hò vui vẻ, ồn ào mà buông bỏ hết để chú tâm nghe khiến cụ thấy an ủi. Đã bao lâu nay chuyên tâm suy tư đồng thời nghiệm chứng hầu thỏa mãn khát vọng thầm kín luôn dằn vặt tâm tư, cảm thương cho biết bao con người sinh ra, lớn lên và qua đi không biết mình được sinh ra để làm gì, mục đích cuộc đời không dám nghĩ tới bởi không hiểu tại sao được sinh ra làm người nên đành chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống, sống chờ chết dẫu bao thăng trầm nơi kiếp nhân sinh dằn vặt, và dù biết rằng sẽ phải chết, nhưng ai cũng ngại ngùng khi nghĩ đến cái chết. Và bao thế hệ đã qua đi, qua đi mà vẫn không hiểu tại sao mình có kiếp người. Giỏi lắm và may mắn lắm, ai đó được cuộc đời ưu đãi, làm ăn khấm khá, tương đối đỡ chật vật kiếm miếng cơm manh áo và sống đến bẩy, tám mươi tuổi, khi sức đã mòn, không còn mơ ước bởi nhận biết có ước mơ cũng chẳng còn năng lực thực hiện, đồng thời nhận ra kết cuộc cũng phải ra đi tay trắng mà vẫn không nhận biết sống để làm gì đành tạm than lên sống để chờ chết, mỗi ngày qua, thêm một bước gần nấm mồ. Bao nhiêu người, qua bao thế hệ đã ra đi về miền quên lãng; nhận thức này tạo nên nỗi lòng thương xót luôn thúc đẩy cụ nên làm gì, phải làm một chuyện gì. Nay đã hơn tám mươi tuổi, gần đất xa trời, mồ chôn đã được định, cụ vẫn chưa nhận định rõ phải làm gì cho thỏa lòng thao thức muốn xóa bỏ nỗi ngậm ngùi của con người nơi kiếp nhân sinh triền miên đày ải thân phận làm người. Dẫu đã trọng tuổi nên tâm tính lắm khi khó hòa đồng với lớp người sồn sồn nhiều khi bia rượu sừng sừng ăn nói bạt mạng, cụ ngạc nhiên vì sự thay đổi của ông Thung xưa nay phong cách vốn khép kín, đạo mạo, nhưng ảnh hưởng do tham gia nhóm nhậu đã có thể hòa đồng với họ. Từ nhận biết này, đôi khi cụ nhận thấy mình lắm lúc cũng khá khó tính; bài học lễ độ cuộc đời vẫn chưa hoàn chỉnh khiến cụ thay đổi, đối diện với anh em nhóm nhậu với tâm hồn cởi mở, thông cảm hơn. Đặc biệt nơi bầu khí nghiêm trang lắng nghe giữa bối cảnh bề bộn đồ ăn thức uống, lòng cụ dâng lên niềm cảm khái tôn trọng. Với tâm tình này chợt thoáng qua, cụ tiếp tục lên tiếng,
          - Qua những lần tiếp xúc bằng cách chia sẻ quan điểm đạo học và ăn uống, chung vui với các anh các chị, lòng tôi thực sự dâng lên mối cảm phục; để tôi nói lên lý do tại sao. Ngay lúc này, chúng ta vừa ăn uống, văn nghệ văn gừng ồn ào náo nhiệt mà đã bình tâm định trí nghiêm chỉnh dồn hết tâm hồn cho đề mục đạo học; điều này đáng được cảm phục. Hơn nữa, qua những chia sẻ, giao hữu, anh chị em dám sống thực, nói thực, mở rộng lòng chấp nhận những điều hay cũng như những gì không nên không phải, không biện hộ, bào chữa, không tự ty cũng như tự tôn, và đó chính là thái độ minh chứng lòng khiêm tốn, chân thành; đây là điều kiện ắt có và đủ trên hành trình thăng tiến tâm linh. Dĩ nhiên, các anh các chị dẫu khác biệt về tôn giáo nhưng tôi thấy tôn giáo không trở nên vách ngăn liên hệ tình người hoặc bức cản tâm linh càng khiến tôi mộ mến. Hy vọng sự hiểu biết của tôi về đạo học phần nào đem lại lợi ích thăng tiến tâm linh nơi quý anh chị. Tôi đã nói chuyện với một vị linh mục, bạn tôi đã từ lâu, ngài đã nghỉ hưu, tôi sẽ mời ngài về đây nói chuyện cùng quý anh chị về Phúc Âm. Quý anh chị yên trí, đừng e ngại gì vì đã từ lâu ngài và tôi nói chuyện với nhau về đạo học. Nhãn quan của ngài không hạn hẹp giống các vị cố đạo như quý anh chị thường tiếp xúc mà thực sự rộng mở. Tất nhiên, ngài có những thao thức tâm linh và mối thương cảm khá nặng nề đối với nhân sinh đã bao lâu nay. Có điều, tôi chưa biết nơi nào để ngài tiêu pha đôi tháng khi về đây giúp anh chị em. Nhà ai có phòng dành riêng cho khách và đồng ý ngài nghỉ lại cỡ hai tháng không, xin cho tôi biết để tôi mời ngài.
           
          Bốn cánh tay giơ lên. Sỹ nhà con, ông Thung, anh Tình, anh Thanh.
          - Nhà chú hơn kém tiểu đội lính tráng, ồn ào, rối loạn mà cũng đòi giơ tay. Ông Thung nói với Sỹ.
          - Nhà anh chỉ có đôi vợ chồng lão buồn thỉu buồn thiu. Lúc hai người hú hí bày cuộc chơi thì ngài nói chuyện với ai? Lính nhà tôi đông, lắm pha cụp lạc, nhiều mối ăn chơi, chẳng đứa này thì đứa kia đưa ngài dạo phố, ngắm hoa, ngắm người, bò lạc, bò viên. Ngủ nghỉ thì đóng cửa phòng lại thế là yên ắng, quên trời quên đất sao lại không được.
          - Cái ông quỷ này, ăn nói bậy bạ, chị Sỹ nhăn nhó.
          - Để ngài ở nhà tôi đi! Hai vợ chồng tôi xông pha sông nước, ba đứa nhỏ đi học, tha hồ thinh lặng, nên thơ. Nếu ngài muốn rong chơi trên biển, thưởng thức cua gạch, tôm tươi vừa vớt lên khỏi nước thì mời lên ghe, đối diện với trời mây trăng nước già cũng biến thành trẻ. Tình hăng hái.
          - Để ngài ở nhà tôi là êm chuyện. Muốn đi câu, muốn kéo tôm, ăn gỏi đầy đủ, lại có bố tôi, và tôi hầu chuyện nắng mưa. Nhà tôi lại gần bờ nước, muốn yên tĩnh suy tư thì tặng cho ngài chiếc cần câu.
          - Vậy tôi sẽ mời ngài về nhà anh Thanh. Xin cảm ơn ông Thung, chú Sỹ, và anh Tình. Tôi sẽ gọi điện thoại thông báo với ngài. Để tôi tính xem, hôm nay chúng ta rảo qua Mật Tông Tây Tạng và Điểm Đạo Ai Cập. Lần tới chúng ta nói về Lão học và sau đó Trang Tử. Như vậy, cỡ hai hay ba tuần nữa ngài sẽ bay về đây. Hôm đó anh Thanh đi đón ngài với tôi, và bây giờ chúng ta trở lại vấn đề đạo học.
          - Hôm nay tôi muốn nói tới Mật Tông Tây Tạng. Có anh em nào đã tìm hiểu qua chưa?
          - Thưa bác, Sỹ nhà con vội lên tiếng, đã là mật tông, bí mật sao có thể biết. Có chăng chỉ biết được phiến diện.
          - Cần gì phải phiến diện với phiến gạch phiến đá. Mật tông có nghĩa họ hàng, giòng giống nhà o­ng, chẳng lẽ người ta lấy mật từ họ hàng nhà kiến. Giọng Tình lè nhè diễu diễu.
          - Hai chú im lặng nghe cụ giải thích. Ông Thung lên tiếng ngăn.
          - Được gọi là Mật Tông vì đây là phương pháp truyền thừa được giữ kín thay vì phổ biến nơi đại chúng. Lý do chính là để ngăn cản hoặc giảm bớt sự lạm dụng do tham vọng cá nhân hoặc vô ý thức mang hại đến chính người thực hành, thực nghiệm. Quý anh chị đọc nơi Ấn học đều thấy, một số người thực tập Yoga dang dở được ít năm có được khả năng mà đa số quần chúng gọi là thần thông chẳng khác gì thầy bùa, thầy ngải và thế rồi lừa bịp, mị dân chẳng những sau này họ lãnh kết quả tàn khốc mà còn tạo nên những khốn khó không kể xiết đối với những người nhẹ dạ, dễ tin hoặc có những tham vọng thấp hèn thế tục. Bởi thế, trước khi được chấp nhận chính thức, tập sinh của mật tông phải trải qua những năm tháng thử thách chẳng những về tinh thần, tính khí, mà còn về sự kiên trì, chịu đựng. Dĩ nhiên, bất cứ sự việc gì cũng đều như con dao hai lưỡi tùy thuộc hành động và tâm ý người sử dụng. Bởi thế, Mật Tông Tây Tạng rất thận trọng trong việc theo dõi nhận định và tìm hiểu căn cơ của những thí sinh mật tông.
          - Nhìn tổng quát, Mật Tông Tây Tạng thực nghiệm đồng thời hai phương pháp, Yoga nơi Ấn học và nghiệm chứng, hay quán tưởng nơi Phật học. Qua sự hiểu biết về Ấn học và Phật học, quý anh chị em có thể nhận biết rõ hơn về Mật Tông Tây Tạng. Những tính chất, khả năng của hành giả được tóm gọn nơi quan niệm về căn cơ. Sự thể được gọi là căn cơ này bao gồm nhiều phương diện mà nhiều hành giả trước tác những tác phẩm phân tích hoặc đưa lên những quan niệm phức tạp khiến cho người tìm hiểu quay cuồng vô định nơi những lý thuyết khác nhau. Hơn nữa, tùy thuộc căn cơ cũng như khả năng và kinh nghiệm của những tác giả, đôi khi những lối nhìn hạn hẹp cá nhân tạo nên vô số điều kiện khó khăn cho các hành giả học theo. Thí dụ, nơi Tục Ngữ, Ca Dao có câu, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.” Phỏng chúng ta có thể chấp nhận như thế nơi thời đại này? Thế nên, nếu vị tác giả nào đó cố chấp với quan niệm đời cha ăn mặn đời con khát nước, sẽ đưa ra định luật tiến trình của hành giả lệ thuộc âm đức gia tộc và như thế cũng phần nào ảnh hưởng tâm trí hành giả đồng thời tạo nên cảm nghĩ nhụt chí hoặc ỷ y, lười biếng do phải chịu đựng thành quả không phải do mình tạo dựng. Thêm vào đó, Ấn học cũng như Phật học qua các thời đại kiến tạo quá nhiều lý thuyết cũng như phương cách khác biệt càng làm cho hành giả bối rối. Tôi đưa lên một thí dụ đơn giản. Lục tổ Huệ Năng chỉ dẫn chỉ một điều để thức ngộ và đó là “ Kiến tính thành Phật.” Nghe thì đơn giản, dễ hiểu nhưng khi bước vào thực nghiệm, thực hành, hành giả phải đối diện với nhiều vấn đề thực nghiệm. Chẳng hạn, làm sao để kiến tính? Phương pháp nào để định tâm? Rồi nào quán tưởng, nào đại định, nào tiệm ngộ, nào đại ngộ, nào duyên, nào nghiệp, v.v… Hơn nữa, thử hỏi hành giả có nhận thực được căn cơ của mình thế nào và phương pháp nào mới hợp với căn cơ của mình nơi hành trình nghiệm chứng. Mới chỉ nêu lên sơ sơ một đôi vấn đề, chúng ta đã thấy con đường thức ngộ mịt mùng giữa cuộc sống nhân sinh muôn phần trắc trở. Hành giả dẫu thực tâm, cố gắng đến mấy cũng dần dần nhụt chí. Đã có những vị thức ngộ có điều kiện thiết tha với ước mơ thăng tiến tâm linh đại chúng sáng lập nên những tổ chức nhân sinh hỗ trợ cho các vị hành giả. Tuy nhiên, trãi qua một, hai thế hệ, ham muốn phát triển tổ chức mạnh bạo bộc phát làm mờ nhạt ước mơ nguyên thủy của vị sáng lập và muôn ngàn lý thuyết phát triển tổ chức làm mưa làm gió thao túng tâm ý thành viên, lâu ngày dày kén, tham vọng thế tục đương đường thay thế mục đích tâm linh đồng thời làm mờ nhạt bao công trình nghiệm chứng của các bậc hành giả. Như mọi người có thể nghe đây đó những ồn ào về phật bà, đức chúa hiện ra, rồi thế nọ, thế kia nhan nhản, đầy tai. Nếu để tâm thanh tịnh, thử hỏi chúng ta nghe được gì? Chỉ những cứu này, giúp kia, phép nọ, tắc ấy rối tung lên. Người người hao tiền tổn của hành hương xứ phật, tham bái, cúng kiếng, lễ phật, lạy chùa cầu mong ân huệ. Kẻ chạy đôn chạy đáo cầu khẩn nơi này linh nghiệm, chốn kia thần thiêng để rồi tiêu hao tháng ngày, tiền mất nhưng tật vẫn hoàn mang.
           
          - Nói rằng pháp mạt thì có pháp đâu mà mạt; mà có chăng thì chỉ những thứ không ai có thể thực hành, và rồi những tổ chức tâm linh trở thành những tổ chức nhân sinh được gọi là tôn giáo và được đặt trên nền tảng tin thờ, cúng bái qua nhiều hình thức. Tại sao phải tin? Xin thưa vì mình không đụng đến được và nghĩ rằng hay được tuyên truyền rằng đó là sự thực để được yên lòng. Riêng vấn đề tôn thờ, cúng bái, ngay như đức Thích Ca cũng không một lời nào mà có chăng lại chống đối sự tin nơi những lời ngài dạy, lại càng không nói chi về cúng kiếng. Anh chị em có nhớ lời đức Thích Ca nói gì không? Ngài nói, Chớ vội tin những lời ta nói. Vội tin những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta. Thực ra, khi đã thực chứng hoặc nghiệm chứng rõ ràng thì có gì mà phải tin. Chẳng hạn anh chị em đã thực chứng được lửa nóng thì có ai nói phải tin lửa nóng, anh chị em có phải tin không? Hoặc ai đó nói lửa không nóng, chúng ta có cần suy nghĩ để tin không, và nếu có ai đó nói họ tin lửa nóng thì điều họ nói mang nghĩa gì! Tôi phải nói lên những điều này hy vọng quý anh chị em đặt lại vấn đề mỗi khi suy nghiệm về những thực thể hoặc kinh nghiệm may ra đỡ phần nào luẩn quẩn với những lý thuyết tự trời rơi xuống dẫu được đề nghị bởi bất cứ đấng nào, thành phần nào trước khi chúng ta tìm hiểu về thực chứng của Mật Tông Tây Tạng.
           
          - Một điều rất rõ ràng đó là không ai có thể chia sẻ thành quả nơi những tiến trình thực nghiệm tâm linh cho bất cứ ai và thường thì nếu có những hành giả nào ghi lại cũng không ai có thể chỉ hiểu biết mà đạt đến được. Sự thể này cũng giống như ăn uống, suy nghĩ. Không ai có thể ăn dùm, uống dùm, cũng như suy nghĩ dùm bất cứ ai. Thành quả nghiệm chứng tâm linh, ai thực nghiệm người nấy biết; chẳng khác gì kẻ đang nơi trạng thái yêu đương, người đang yêu cảm nhận thế nào, tâm tình biến chuyển ra sao không thể nào nói cho bất cứ ai. Sự thăng tiến nơi hành trình tâm linh chính là kết quả của sự nghiệm chứng mà những ai không nghiệm chứng dẫu cố gắng tìm hiểu đến mấy cũng chỉ là cái biết ngoài da chẳng khác gì chiêm ngưỡng chiếc bánh vẽ; tri thức về chiếc bánh vẽ không thể nào khiến người ta cảm nhận được vị giác, khứu giác khi nhai một miếng bánh thật cho dù cố gắng tưởng tượng đến mức độ nào.
           
          - Nơi cuốn sách The Third Eye, viết bởi lạt ma người Tây Tạng tên Lobsang Rampa vào năm 1956 được Nguyễn Hữu Kiệt phỏng dịch thành Tây Tạng Huyền Bí do Xuân Thu Xuất bản năm 1988 tại California, Hoa Kỳ, lạt ma Lobsang viết theo kiểu tự truyện. Ông sinh vào khoảng năm 1900, được nhận vào tu viện khi lên bẩy tuổi để được huấn luyện theo chương trình huyền bí nơi truyền thống Mật Tông Tây Tạng. Sau đó ông được gửi sang thế giới Tây phương để quảng bá văn hóa Phật giáo Mật Tông ra thế giới bên ngoài. Những gì tôi trình bày với quý anh chị hôm nay đều dựa theo tự truyện của lạt ma Lobsang qua lăng kính tổng hợp của Yoga và chủ thuyết kiến tính nơi Phật học. Quý anh chị có thể vô Wikipedia.org tìm phần tiếng Việt và đọc cuốn Tây Tạng Huyền Bí, bản dịch do Nguyễn Hữu Kiệt. Bản dịch này được chia thành 14 chương, bao gồm, Thời Thơ Ấu, Lời Tiên Tri, Tôi Chuẩn Bị Xuất Gia, Trước Thềm Chánh Điện, Đời Người Tu Sĩ Sơ Cơ, Đời Sống Trong Tu Viện, Tôi Mở Thần Nhãn, Tôi Yết Kiến Phật Sống Tây Tạng, Trại Hoa Hường, Tín Ngưỡng và Sinh Hoạt, Tôi Trở Về Nhà, Tôi Sử Dụng Thần Nhãn, Tôi Được Tấn Phong Lạt Ma, và chương cuối cùng là Một Cuộc Điểm Đạo Huyền Môn.
           
          - Quý anh chị cũng nên để ý khi đọc sách; dù sao, chúng ta cũng không thể đọc hết những sách được viết chuyên chú về một vấn đề do nhiều tác giả. Hơn nữa nhất là những bản dịch vì không thể nào dịch cho đúng được cảm nghiệm hoặc tâm tình tác giả trước tác. Đàng khác, những bản dịch đều bị ảnh hưởng sai biệt của ngôn ngữ mà ý nghĩa hay ẩn ý tùy thuộc thời gian và không gian cũng như phong tục, tập quán đặc biệt là ý nghĩa ám định được tác giả gán ép nơi ngôn ngữ. Như chúng ta quá thừa hiểu câu nói, “Đi khám bác sĩ,” hoặc “Nhổ răng không đau,” mà chúng ta thường dùng như một thành ngữ theo thói quen. Ý nghĩa của câu nói này thế nào và nếu ai đó thông dịch hay chuyển dịch nếu không để ý về thành ngữ sẽ dịch thế nào. Một thí dụ khác; chúng ta thử dịch một nhóm chữ đơn giản tiếng Anh, “The underground group.” Tiếng Việt mình có nghĩa nhóm du kích nhưng nơi tiếng Anh họ nói như thế. Thử hỏi nơi trường hợp này, người dịch phải thế nào nếu không cưỡng ép bịa ra điều mình tưởng tượng. Thêm vào đó, có nhiều trường hợp dẫu dưới dạng hồi ký nhưng vì chủ đích quảng bá, tác giả trước tác cũng đành viết những điều mình chưa hoặc không thể nghiệm chứng hay thực chứng để rồi độc giả tưởng là sự thể có thật theo nghĩa từ chương và cũng vì không thể nghiệm được nên phát sinh trạng thái hay lý thuyết phải tin hoặc chấp nhận một cách vu vơ chỉ kiến tạo thêm mộng tưởng. Điển hình tôi nêu lên thử hai câu Phúc Âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta,” và, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi.” Nếu xét theo nghĩa từ chương, không ai thực hành hai câu này trong khi miệng vẫn hô hào tin và theo đức Kitô. Tôi thử hỏi anh chị em, ý nghĩ và lời tuyên bố tin theo đức Kitô nơi trường hợp này mang nghĩa thế nào, phải chăng chỉ nói cho qua! Riêng về những gì không hiện thực liên quan đến cuốn Tây Tạng Huyền Bí, nếu anh chị em nào muốn tìm hiểu, vô Wikipedia.org đọc bài viết, “Fictitious Tibet: The Origin and Persistence of Rampaism” do nhà chuyên khảo văn hóa Agehananda Bharati, đăng tại Tibet Society Bulletin, Vol. 7, 1974. http://www.serendipity.li/baba/rampa.html. Chính vì thế tôi chỉ chia sẻ với anh chị em dưới quan điểm thực hành Yoga và kiến tính thành phật của Phật học.
          - Bởi thế, quý anh chị đọc thì đọc để lấy kiến thức rồi nhận định tùy khả năng của mình. Điều cần thiết phải là cần biết mở rộng tâm hồn để nhận thức và nếu muốn thực chứng, tôi nghĩ, nơi thời đại này và trong hoàn cảnh hiện thực, chúng ta nên dùng tri thức để nghiệm chứng bởi không ai có thể dành riêng cuộc đời để thực chứng vì còn những bổn phận nhân sinh đối với gia đình và cuộc sống. Nhận xét như thế, chúng ta thấy, bất cứ hành giả nào muốn thực chứng đều phải có cuộc đời đặc biệt và được sinh ra với một căn cơ cũng đặc biệt mới có được cơ hội thực chứng. Tôi muốn nói, thực chứng là phương cách tuyệt vời nhất nhưng cần những điều kiện nhân sinh khác với chúng ta. Thế nên, tôi đặt nặng và khuyến khích anh em mở rộng lòng và dùng tri thức để nghiệm chứng mà thôi. Nói cho đúng, kiến tính cần tri thức để nghiệm chứng dẫu thực chứng mang lại những kết quả thường được giới bình dân gọi là thần thông. Nhưng thần thông để làm gì? Để trở thành ông nọ bà kia thì ngược lại với hành trình tâm linh bởi đó là ham muốn thế tục. Người nào được sinh ra để đạt đến những quyền lực đó thì lại không ham muốn quyền lực thần thông bởi như cổ nhân có câu, “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.” Thuyền to sóng cả; cây càng cao chịu đựng áp lực gió càng lớn. Người nào được sinh ra để làm lớn lại phải được rèn luyện, mài dũa nặng nề để có khả năng chịu đựng những áp lực bạo tàn của thế tục.
           
          - Thế nên, dẫu thực hư thế nào hoặc bởi ý định quảng bá kiếm môn sinh mà những điều tiết nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí được viết thêm thắt pha nhiều nét huyền thoại cho ăn khách, sự thể này cũng không ảnh hưởng gì tới hành trình nghiệm chứng tâm linh của chúng ta. Lý do dễ hiểu chính là chúng ta không tìm tòi năng lực thần thông, không thiết tha tới việc kiến tạo con mắt thứ ba. Chúng ta thường nghe tới danh hiệu huệ nhãn; danh hiệu này chỉ về nhận thức tâm thức chứ không phải giống như con mắt nơi khuôn mặt mỗi người dẫu nhãn có nghĩa là mắt. Huệ là trí huệ, đâu phải nhục thể. Thực ra theo tôi nghĩ, giả sử biết rõ ràng đường đi nước bước mà phải bỏ ra cả đời tu luyện để mở được con mắt thứ ba như được viết nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí thì tôi cũng không theo. Có câu chuyện thiền tông kể rằng, một vị chân nhân trước khi khởi hành chuyến viễn du dặn đệ tử độc nhất của ngài ở lại chăm chỉ tu luyện. Sau ba mươi năm viễn du trở về, vị chân nhân hỏi môn sinh đã đạt tới mức độ nào trong suốt 30 năm tiềm tu. Vị môn sinh hứng khởi khoe với sư phụ rằng đã tu luyện tới mức đi trên nước qua bên kia con sông gần nơi tu luyện. Vị chân nhân thở dài tiếc nuối trả lời, con hao phí quãng thời gian suốt 30 năm để đạt được công sức chỉ đáng mấy đồng kẽm đi thuyền qua sông.
          - Sở dĩ tôi phải giải thích lòng vòng cũng chỉ vì ước muốn anh chị em để ý khi đọc sách để tham khảo cần có một nhận định chính xác thực hư, những gì có thể áp dụng và những gì bị phóng đại nếu liều mạng thử, chắc chắn sẽ mang đến những hậu quả tai hại. Quý anh chị em có lẽ còn nhớ rõ hiện tượng “Thanh Hải Vô Thượng Sư” vào mấy năm cuối của thế kỷ XX đã khiến cho một số người thuộc giới trí thức ham mê quyền lực tâm linh tán gia bại sản, gia đình tan nát đổ vỡ. Nào truyền tâm ấn, nào uống nước tắm vô thượng sư, thôi thì muôn mặt truyền bá, ca tụng, ồn ào, náo nhiệt và cuối cùng ra sao, tôi không cần phải giải thích. Một số vị chân tu thâm nghiêm chứng nghiệm có lên tiếng nhưng nào ai thèm nghe. Dân chúng là thế, chạy đôn chạy đáo cầu may, không chịu tìm hiểu, suy nghĩ, nghiệm chứng nên vô tình đã trở thành những con thiêu thân lót đường cho kẻ lạm dụng thực hiện ý đồ, tham vọng thế tục của họ. Tôi chỉ nhắc nhở sơ qua như thế, mong anh chị em để ý đừng dại dột vội tin theo bất cứ gì khi chưa suy nghiệm chín chắn chứ chưa dám nói tới thực chứng.
           
          - Tôi nhắc lại, gọi là mật tông chỉ vì không được quảng bá nơi đại chúng hầu ngăn ngừa những kết quả tai hại xảy đến do lòng ham muốn thế tục bình thường nơi con người; bởi thế trong hành trình tu luyện, những hành giả phải trải qua tại các tu viện mật tông thế nào, những vị tu sĩ không được phép nói, viết, hoặc truyền bá ra ngoài nên tất nhiên chẳng nên võ đoán làm gì. Những gì chúng ta có thể biết được chỉ là phiến diện; vì thế không thể nào thực nghiệm. Thứ nhất, vì chúng ta không ở trường hợp của những vị tu sĩ mật tông. Thứ hai vì căn cơ của chúng ta khác họ. Thứ ba vì chúng ta còn bổn phận phải gánh.
           
          - Dĩ nhiên, dù cho tông phái nào hoặc hành trình nào cũng cần có mục đích hướng dẫn suy nghiệm và thực hành dẫn đến thực chứng. Nơi trường hợp tâm linh, dù Mật Tông Tây Tạng, Phật học, Ấn học, Lão học, thần học đều có chung một mục đích cũng như nơi mỗi người chúng ta, và mục đích đó là sự thức ngộ. Bất cứ ai cũng được sinh ra với niềm khát vọng muốn nhận biết thực sự mình như thế nào, liên hệ giữa mình và vũ trụ cũng như quyền lực tuyệt đối, được quan niệm và gán cho những danh hiệu khác nhau, ra sao. Như mọi người đều biết, các tông phái đạo học, diễn tả cách này hay cách khác đều dẫn tới một điểm duy nhất đó là Quyền Lực Tuyệt Đối đang hoạt động nơi vạn vật qua những phương cách và dạng thức khác nhau. Lão học đưa lên câu nói, Tào như nước ở mọi nơi mọi chốn. Phật học bảo Tâm Phật nơi mọi người. Thần học nói Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ấn học cho rằng hồn hay Atman là một phần tử của Thượng Đế Brahma. Nhận thức và cảm nghiệm này được bổ xung bằng lòng khát vọng thúc đẩy con người kiếm tìm phương cách để nhận thức thực thể sự vật và sự việc.
           
          - Nói như thế, câu hỏi nên được đặt ra; đó là tại sao trãi qua bao thế hệ, con người chẳng những đã không thăng tiến tâm linh mà coi chừng càng ngày nhận thức về tâm linh càng kém được nhận biết, càng trở nên lụn bại, hầu như đại đa số quần chúng thường không được nghe nhắc tới, nếu không muốn nói là sự nhận thức hay cổ võ về hành trình nghiệm chứng tâm linh được coi như biến mất nơi nhận thức của nhân loại. Câu trả lời chỉ có thể như không trả lời vì sự thể cũng tương tự như duyên phận lứa đôi. Tại sao nơi thế gian biết bao người khác đẹp đẽ, thanh lịch, giỏi giang, dễ thương, dễ mến hơn người phối ngẫu của mình mà mình không hề biết cũng như không hề để ý tới? Cho dù nêu lên bất kỳ lý do nào cũng không thể được coi là hợp lý, hợp tình. Nhận thức tâm linh cũng thế, nỗi thao thức bẩm sinh ngự trị nơi mọi người, dù để ý hay không chỉ người đó mới có câu trả lời đúng đắn nhất. Nhận thức tâm linh bị che mờ nơi phương diện đại chúng nói lên thực tại đau lòng; đó là sự xuống cấp tâm linh nơi nhân sinh. Chính nỗi thao thức tâm linh dẫn dắt những bước chân con người gia nhập tôn giáo, nhưng thử hỏi tôn giáo đã giúp con người được những gì nơi hành trình tâm linh của họ? Tôi dùng ngôn từ giúp có nghĩa hướng dẫn, chia sẻ, khuyến khích để mỗi người nhận biết hành trình nào họ nên theo hầu thỏa mãn nỗi khát vọng tạo nên niềm thao thức tiềm ẩn nơi lòng. Thử đặt vấn đề, thực thể và mục đích của tôn giáo là gì? Chúng ta gia nhập hoặc theo tôn giáo với mục đích nào và đã đạt được những gì tạm gọi lợi ích cho hành trình thức ngộ của chúng ta, hay là chúng ta đã khoán trắng cho những vị rao giảng về tôn giáo cuộc đời tâm linh của mình, tưởng rằng cứ nghe cho qua, tuân giữ lề luật tôn giáo, và cầu mong được giải thoát để lòng ruột được an bình cho qua kiếp người? Anh em nên biết, cuộc đời là cơ hội; chúng ta đã không thể nhờ bất cứ ai sống dùm cho mình thì cũng đừng hòng nhờ vả hay chờ đợi bất cứ đấng nào thức ngộ cho mình. Một cánh tay giơ lên, và đó là chủ nhà.
          - Thưa bác, đây là lần thứ nhì cùng với anh em nghe bác nói nên thực ra có nhiều vấn đề cháu chưa được nghe. Do đó có thể ý nghĩ của cháu trùng hợp với điều bác đã giải thích. Tuy vậy, cháu xin nêu lên nhận định về sự thiếu khuyến khích con người nơi hành trình tâm linh. Có thể nói, chính vì người ta không nhận biết thế nào là hành trình tâm linh do đó dẫu nghe được ai nhắc đến cũng chẳng thể nhận thức được. Và cũng có thể nói rằng, nơi tôn giáo các vị rao giảng cũng không biết hoặc không để ý tới nỗi thao thức bẩm sinh nơi lòng mình thì sao có thể hướng dẫn người khác vì họ được huấn luyện nơi môi trường nhấn mạnh sự tin tưởng và cầu khẩn. Thực lòng mà nói, chưa chắc các vị ấy đã rờ được tới điều họ tin dẫu khuyến khích hay dạy dỗ người khác tin bởi nếu đã biết, đã đụng chạm tới được, đâu cần phải tin. Hơn nữa, cầu khẩn những gì mình chưa có, không bỏ công sức thực hiện thì dẫu có cầu đến muôn đời cũng như cuội; thế thì những người tin theo lời rao giảng của họ sao có thể tìm được con đường thức ngộ cho riêng mình. Đã không có thì lấy gì mà giúp! Như vậy, thưa bác và mọi người, nếu xét theo phương diện thức ngộ tâm linh, các nhà rao giảng tôn giáo kể như không có gì dính líu tới tâm linh, có chăng dùng sáo ngữ về tâm linh vì tôn giáo là tổ chức của con người được thiết lập dựa trên lòng thao thức bẩm sinh, nhưng đã không để ý đến tâm linh nên họ đã biến tôn giáo trở thành tôi mọi cho luân lý nhân sinh thay đổi tùy thời, tùy nơi.
          - Thế anh muốn kết luận ra sao?
          - Thưa bác, cháu thấy không có gì phải kết luận vì sự thể là chính nó; bởi đối với những người vô minh sao họ có thể nhận thức được sự vô minh của họ nếu không suy nghiệm. Chỉ suy nghĩ sao cho phát triển tổ chức nhân sinh dựa vào nỗi thao thức bẩm sinh nơi con người, và chỉ đặt vấn đề lượng thì sao có thể thoát ra được điều nhà Phật gọi là dục, phương chi nói đến chuyện thức với ngủ. Cháu tự hỏi, nếu con người không có nỗi khát vọng nhận biết chính mình, không cần biết mình được sinh ra để làm gì, không đặt vấn đề mình từ đâu tới và rồi sẽ đi về đâu thì chẳng có gì phải nói tới. Họ đâu cần đi chùa lễ Phật, đâu cần tới nhà thờ cầu Chúa. Cháu đọc Phúc Âm, đọc kinh nhà Phật chẳng hạn như Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh của Lão học, Bhagavad Gità của Ấn, có thấy đoạn nào, câu nào nói tay phải gõ mõ, miệng ê a, rồi cúng giường, bán chiếu, khất thực, ban phước đâu. Theo như cháu được biết, những phép tắc này được bày ra để giúp định tâm nơi hành trình nghiệm chứng, thực chứng chứ đâu phải cứ làm như thế thì được giải thoát. Rồi nào cầu hồn, cầu siêu để được lên niết bàn, thiên đàng, cháu nghĩ, muốn đạt được niết bàn, thiên đàng thì cần phải biết niết bàn là gì, nơi nào, hoặc thiên đàng ra sao. Cứ thử đặt vấn đề, cầu khẩn để được tới những nơi chốn ấy phải chăng mình chán sống trong khi lại sợ chết. Ôi, nói gì cũng chẳng được và cũng không nên nói vì không cách nào giúp được trong trường hợp người ta không muốn nhận biết, và đồng thời đối với những người không đủ khả năng nhận biết do không nghiệm chứng thì chỉ nên im lặng bởi không ai có thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vô được. Từ nhận định này, cháu thấy nơi Phúc Âm có câu nói thật tuyệt vời áp dụng nơi thực tế nhân sinh, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Hơn nữa, bất cứ tư tưởng, lời nói ra sao không thuận đối với quan niệm của một tổ chức nào đó đều bị thành viên của tổ chức ấy lên án. Cháu chỉ có câu hỏi đã bao lâu nay cứ khúc mắc nhưng vẫn chưa có câu trả lời và đó là vì lý do gì con đường thức ngộ hầu như bị bịt kín nơi cõi nhân sinh trong khi đạo học đã xuất hiện những bao ngàn năm!
          -Chú mày nói gì? Vậy lý do gì chúng ta tụ họp nơi đây nghe bác nói mà bịt kín, bịt hở! Theo tớ thấy, cho dù mang nặng khát vọng hoặc thao thức, thao ngủ, nhưng biết mò nơi mô, làm răng mà mò. Mò riết tới khi không còn răng nữa thì cũng đành âm thầm chấp nhận thân phận kiếp người chờ ngày xuống lỗ chứ đâu phải chúng tớ lười suy tư, thiếu nghiệm chứng. Muốn nghiệm nhưng không biết nghiệm thế nào, nghiện ngập thì dễ chứ nghiệm chứng, thực chứng, từ ngày cha sinh mẹ đẻ tới giờ nào đã nghe thấy phương chi thực hành, thực tỏi. Sĩ nhà con nhảy vô oang oang phát biểu hình như cho hả hơi men, nhưng nghe cũng được.
           
          Vấn đề được chủ nhà nêu lên không hiểu sao đánh động lòng ruột đám người chếnh choáng hơi men. Hình như ai cũng mang máng nơi tâm trí những khúc mắc về rắc rối dường như đối nghịch trong suy tư giữa nghi thức thờ phượng, cúng bái với sự chấp nhận cho qua, chẳng khác gì sự áp dụng những lời giảng giải của các vị rao giảng nơi cuộc đời sinh động đang phải đối diện từng giây từng phút. Cố tình tin tưởng vào những điều được nghe hầu có được nỗi an tâm sinh sống mà nào tâm trí chịu nghỉ yên. Nỗi thao thức lơ mơ luôn dằn vặt, càng cố quên lại chỉ càng khiến thêm khắc khoải. Muốn giải quyết cho lòng ruột khỏi dao động thì chỉ càng rối tung lên. Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến mà sao lúc nào tâm trí cũng bị nỗi e sợ bị đày ải dằn vặt. Phật từ bi giải thoát con người khỏi vòng hệ lụy thế trần mà sao vẫn ăn không ngon, ngủ không yên. Cuộc đời thăng trầm, lận đận đối nghịch với những ước mơ, ý muốn. Diệt dục làm sao khi cơn đói trờ tới, dù không muốn ăn cũng phải ăn, rồi nào tham sân si sao có thể tránh vì nếu không có tham sân si sao an hưởng thú vui cuộc đời.
          Sỹ nhà con hùng hổ nói, nữa diễu, nữa thật, nhưng hình như mọi người còn đang bận tâm với những gì gia chủ nêu lên khiến bầu không khí bình thường giao động chợt trở nên hoàn toàn im lặng, lách cách đây đó tiếng chai bia chạm bàn. Cụ Tài giơ tay khoa nhẹ ngang vai lên tiếng,
          - Vài tuần nữa linh mục bạn tôi sẽ trả lời vấn đề này. Tôi muốn giải quyết cho xong phần mật tông Tây Tạng. Có điều, chúng ta nên để ý, tất cả mọi sự đều bắt nguồn từ con người và cho con người dẫu chỉ là ý thích, ham muốn, cho tới tâm linh. Hành trình tâm linh không thỏa mãn nhu cầu vật chất, danh vọng nên không được để ý. Mật tông thực sự tin vào luân hồi, hóa thân, đồng thời thực nghiệm một vài loại Yoga thăng tiến năng lực xác thân hầu đạt tới thực trạng tạm được gọi là kiến tính, huyền đồng. Thực trạng này có nghĩa thực chứng trạng thái Atman hòa nhập làm một với Brahma, hoặc nói theo ngôn từ Kytô giáo, đó là nhận chân Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
          - Thưa bác, Tình chợt lên tiếng cắt ngang, tại sao lại phải thực hành Yoga để thăng tiến năng lực xác thân mới có thể đạt tới kiến tính, kiến toán trong khi kiến tính đâu đòi hỏi phải có vai u thịt bắp, hùm ăn bảy ngày không hết thịt? Chẳng lẽ những người nhỏ con như tụi cháu không hy vọng gì kiến tính được sao? Ôi, uổng công nghe ngóng, tổn ải rượu thịt, cá mú, tôm hùm, tôm cọp.
          - Chú mày sao ăn nói lung tung, tôm hùm, tôm cọp nào có chi dính líu tới vai u thịt bắp, lại còn nhào nháo với kiến tính, kiến toán, Sỹ nhà con nhào vô lên giọng, bộ chú mày xưa nay yên lặng tưởng mọi người cho rằng chú mày không biết nói hay sao?
          - Tôi chỉ đặt vấn đề về sự liên hệ giữa Yoga và kiến tính bởi Lục tổ Huệ Năng phán rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên bày ra thiền hành, thiền tỏi. Và cũng bởi vì đem hành tỏi xào chua ngọt với tôm hùm, tôm cọp nhậu với bò đi ông (Napoléon) thì cho dù sư tử cũng lật gọng chứ nói chi tới sư ông, sư cụ.
          - Chú Tình, cóc nghiến răng động tới trời; chú mày động khẩu coi chừng phiền hà tới anh em khác. Yêu cầu hai chú im lặng nghe cụ giải thích. Ông Thung phải lên tiếng chỉnh đốn hai cái mỏ.
          - Nơi Ấn học quan niệm rằng Brahma là Thượng Đế ngự trị mọi nơi mọi chốn, và hồn hay linh hồn của mỗi người được gọi là Atman. Brahma cũng chính là quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi vũ trụ. Con người liên lạc với Brahma, nói cách khác, liên lạc với Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng Brahma chính là không khí, và như anh em đã biết, nguyên tắc căn bản của Yoga dùng tâm trí, ý định hướng dẫn không khí luân chuyển theo thứ tự nào đó qua các trung tâm huyệt đạo để phát triển năng lực nội tại. Tôi phải nhắc tới ngôn từ Quyền Lực Hiện Hữu khi nhắc tới danh hiệu Brahma để anh em tránh khỏi nhận thức sai lầm bởi lệ thuộc ngôn từ mà tưởng nghĩ Brahma là một đấng, một sự nào đó ngự trị nơi chốn xa vời chờ con người cầu khẩn để ban phước lộc hoặc những gì theo ý họ thích. Hình như chúng ta đã nhắc tới Hiệp Khí Đạo với nguyên tắc ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đả thông kinh mạch. Sự thực hành dùng tâm ý dẫn không khí luân chuyển qua các trung tâm huyệt đạo này được gọi là Yoga. Cũng từ nguyên tắc này phát sinh thiền, quán tưởng, vân, vân.
          - Sở dĩ phải luyện tập xác thân chuẩn bị trực diện với Thượng Đế, nói cách khác, hoà nhập với Brahma do có sự giải thích rằng, thân xác con người chẳng khác gì ngọn đèn trăm oắt không thể chịu đựng nổi dòng điện cả triệu oắt, như thế, nếu muốn hòa nhập với Brahma, xác thân phải được rèn luyện tới mức nào đó mới có thể chịu đựng nổi. Tuy nhiên, nếu chỉ dùng lý luận của sự hiểu biết bình thường nơi vị thế bàng quang, chúng ta không thể có được cảm nhận chính xác chẳng khác gì nếu không biết uống rượu bia thì sẽ chẳng bao giờ cảm nhận thực sự được cảm giác cũng như ảnh hưởng của rượu bia đối với xác thân và tâm tính cùng với tâm trạng ngà ngà như thế nào. Người thực hành Yoga mới có thể thực chứng; chúng ta bàn qua, tán lại chỉ giống như ăn bánh vẽ hoặc ngồi trước bàn nhậu mà không ăn, đói vẫn hoàn đói; có tưởng tượng đến mấy thì càng nói chỉ càng chứng tỏ không biết mình nói gì mà thôi. Thời giờ cũng muộn rồi, anh em để tôi tóm tắt khái niệm về Mật Tông Tây Tạng và chúng ta tan sòng.
          - Có một điều anh em nên để ý; đó là, cũng như Yoga của Ấn, Mật Tông Tây Tạng rất chú trọng tới những câu mật chú. Những câu mật chú này được cho rằng là sản phẩm của những vị đạt tới quyền năng nào đó để lại; chúng mang nguyện lực mà vị đó ám đặt vô. Muốn sử dụng mật chú phải có lòng tin tưởng tuyệt đối nào đó cũng như sự thực hành để tập trung ý định, ước muốn, và lòng thành của hành giả. Chẳng khác gì chúng ta hay nghe nói về những gì được gọi là thần chú của các pháp sư, thầy bùa, thầy ngải. Dĩ nhiên, trong giai đoạn thực nghiệm những câu mật chú và sau đó thực hiện chúng phải tuân theo những điều kiện kiêng cữ và quy luật rất khắc nghiệt. Tất nhiên, bất cứ gì cũng có giá phải trả nếu hành giả muốn đạt được. Nơi cuốn Mật giáo Tây Tạng có viết, “Thần lực và hiệu quả của một thần chú tùy thuộc vào thái độ tinh thần, tri thức, ý thức trách nhiệm, sự thành thực của tâm hồn cá nhân. Các thần chú chỉ có thần lực và có ý nghĩa đối với người thụ pháp, nghĩa là người đã trải qua kinh nghiệm từ đó phát xuất ra lời nói hay công thức thần chú; nó dính liền với người ấy một cách keo sơn trong chiều sâu kín nhất của thực thể họ” (MGTT; tr. 28). Nơi cuốn Á Châu Huyền Bí, tác giả ghi rõ ràng mối nguy hại của khoa pháp môn và sự sử dụng mật chú, “Người nào kiểm soát và sai khiến được thần linh phải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh không phải chỉ là những vật vô tri trong bàn tay của y. Đó là những nhân vật có trí khôn và ý chí riêng biệt. Họ luôn luôn có thể nổi loạn chống lại người đã khuất phục họ. Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đã làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết lòng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ý chí của y bị sút kém, thì khi đó vài loại thần linh có thể phản công trở lại và tác hại, gây cho y những sự khó khăn bất ngờ như tai họa hoặc chết bất đắc kỳ tử. Với sự trợ giúp của những thần linh đó, người ta có thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy không đủ sức kiềm chế thần linh, họ có thể phản động lại một cách trắng trợn và làm hại người đã khuất phục được họ” (ACHB; Tr. 87-88).
          - Thưa bác, như vậy thì lối nào các nhà phù thủy, pháp sư cũng đều bị phản thùng vì khi về già chắc chắn ý chí sẽ bị sút kém, sự tự chủ lại càng tệ hại hơn, Sỹ nhà con cắt ngang…
          - Im đi cho người ta nhờ ông ơi, một cánh tay đưa lên xin nói đồng thời cái miệng phát thanh chặn lời nói Sỹ nhà con.
          - Anh muốn nói gì, anh Tình?
          - Cháu có nghe các cụ già nói chuyện về phù thủy luyện âm binh, hoặc sai âm binh dùng gầu bằng lá mít tát nước, hái trộm cà pháo  giống như những chuyện thần thoại nhưng không để ý. Tuy nhiên, ngày còn ở Việt Nam, người em họ cháu bị bệnh gì không biết, cứ đau bụng hoài, thuốc thang nào cũng không chữa khỏi. Cuối cùng người bố đem anh ta đến gặp vị pháp sư. Sau khi nghe kể về bệnh trạng, vị pháp sư đó lâm râm đọc gì không biết và lấy một chiếc lá cây còn tươi để trong hộp dắt vô cạp quần anh ta, thế là bệnh hết ngay từ lúc đó. Bây giờ nghe bác nói về mật chú, thần chú, cháu mới tin là chuyện bùa ngải có thật. 
          - Anh em làm ơn nhớ kỹ một điều; đó là có những thực thể hữu hình cũng như vô hình mà chúng ta đã không hoặc chưa bao giờ nhận biết. Bởi vậy, thái độ khôn ngoan nhất là mở rộng tâm hồn quan sát và nhận định hầu nâng cao tâm thức nơi mỗi người. Nếu tôi không lầm thì trong anh chị em chúng ta, đôi người có kinh nghiệm về cầu cơ và thường đa số nghe nói về cầu cơ, nhưng cũng như các vấn đề khác, chúng ta ơ hờ không đặt vấn đề về hiện tượng này. Để chứng thực, tôi đề nghị, ai trong quý anh chị em đã thực chứng, tôi muốn nói, ai đã tham gia cầu cơ, làm ơn giơ tay. Bốn cánh tay giơ cao.
          - Xin cảm ơn. Quý anh chị có thể giải thích hoặc trình bày một đôi sự kiện cho mọi người về kinh nghiệm cầu cơ của mình ra sao được không?
          - Thưa bác và các anh các chị, ngày còn nhỏ cỡ bẩy hoặc tám tuổi chi đó, cháu đã thực sự tham gia cầu cơ nhưng cũng không để ý mấy. Kinh nghiệm của cháu cũng như mấy chị em trong nhà về trò chơi cầu cơ chỉ là chuyện vui thường tình vì thấy hay hay nên cũng chẳng rút tỉa được chi. Số là bố mẹ cháu làm nghề buôn bán. Nhà ở ngay trên mặt đường đông người qua lại nên bố mẹ mở tiệm chạp pô, bán đủ mọi thứ từ gạo thóc, thuốc men cảm cúm, đậu đen đậu xanh, cho đến dầu hôi, nước mắm. Không hiểu từ bao giờ và do ai trong chị em cháu học ở đâu được trò chơi này; thế là chúng cháu có được một bàn chữ viết trên tấm bìa. Sau này cháu nghe nói cơ phải dùng miếng ván hòm cắt thành hình trái tim, nhưng ngày đó chúng cháu dùng chiếc chén uống trà của bố làm cơ để chạy. Không hiểu sao, qua một thời gian, chỉ cần đặt tay vô chiếc chén úp, chưa kịp đọc thần chú, niệm chú gì đó thì cơ đã chạy. Cháu xin kể ba trường hợp điển hình để tùy ý bác và anh chị em nhận định. Chị Thanh ngưng nói hình như để tâm tưởng nhớ lại. Chiều hôm ấy, có một bà nhà quê đi ngang, thấy ba bốn đứa chúng cháu đang xúm xít cầu cơ, bà đứng lại xem mấy đứa trẻ gái này bày trò gì. Chẳng nói giấu gì, gia đình nhà cháu có hai anh trai lớn và năm chị em gái sàn sàn tiếp theo; nói theo kiểu Tú Xương, “Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.” Đàng này, hai người em gái của cháu lại là song sinh nên ngũ long công chúa thành hình trong chỉ bốn năm. Hình như năm đó chị cháu lên mười, cháu lên chín, hai em song sinh bẩy tuổi, và một người lên sáu cùng cậu em út lên năm. Bác và quý anh chị đều biết, con gái từ sáu đến mười tuổi thì thân xác cũng sàn sàn ngang nhau. Thấy người đàn bà đứng lại ngó, cháu tinh nghịch hỏi hồn rằng bà nhà quê này đi đâu. Hồn cơ trả lời, bà ấy định nấu canh rau đay nên ra chợ mua dúm mắm tôm. Cháu lại hỏi, trong túi bà ấy có những gì. Hồn trả lời, trong túi bà ấy có miếng trầu, có cau, có thuốc nhưng thiếu vỏ. Bà ấy sợ quá bỏ đi mất. Trường hợp khác, em gái bé nhất của cháu lúc mới năm tuổi còn nói ngọng thay vì nói “Hồn,” cô ấy chỉ nói được “Ồn ơi ồn.” Có lần cô hỏi hồn tên gì;  hồn cơ trả lời tên một người Tầu. Một hôm, chẳng biết hỏi câu gì, một người em sinh đôi hỏi, sao hồn lên nhanh quá vậy, hồn cơ trả lời “Permanent.” Chúng cháu còn bé đâu biết permanent nghĩa là gì. Thế rồi hỏi hồn cơ học đến đâu và được trả lời là cử nhân văn chương. Trường hợp khác, một hôm, cháu nhờ gọi hồn một người mới chết. Ông ta là người có chức vị trong làng mới chôn được hai ngày. Hồn cơ nói không được. Cháu nghịch ngợm chạy chữ, thì đứng chổng mông mà gào. Hồn trả lời, ông ấy chửi cho ấy. Tuy nhiên, sau ba giờ chiều, gọi cơ không lên. Có lần cháu hỏi thì hồn cơ cho biết ba giờ chiều phải trở lại ngục. Còn nhiều những thứ vớ vẩn của tuổi con nít liên hệ với cầu cơ nhưng thôi, cháu nghĩ quá đủ. Dẫu theo đạo Công giáo và nghe được nhiều giai thoại thế nọ thế kia cũng như cho rằng các hồn là ma quỷ, với lắm đề nghị, đe dọa, nghe đến mà phát khiếp về cầu cơ, nhưng qua thực chứng cầu cơ hồi còn nhỏ, đồng thời qua những suy tư theo năm tháng, cháu thấy hình như thế giới bên kia rất gần với thế giới chúng ta. Nghe những chuyện ma quái trả thù chuốc oán, nếu cháu không lầm thì đó chỉ giống như những câu chuyện răn đời, khuyên người ta làm lành lánh dữ. Cháu cũng đọc một số sách vở thì thấy các hồn không được phép làm hại bất cứ ai, và nếu có thể nói đó là luật lệ rõ ràng; không hồn nào có quyền đụng chạm đến bất cứ người còn sống nào. Cháu không hiểu về phương diện bùa ngải có liên hệ thế nào đối với những hồn đã khuất do tham vọng của pháp sư hoặc thày bùa, thày ngải không học đến nơi đến chốn nên đã lạm dụng niềm tin làm hại đến con người. Theo như cháu nhận biết, nếu đã không thể giúp gì cho chúng ta, các hồn đã khuất không được phép làm hại bất cứ ai. Thế nên, ai nói mặc ai, đôi khi cháu nghe thấy người ta nói về cầu cơ cứ như là những sự gì huyền bí lắm hoặc đáng sợ lắm. Ông bà mình có câu, “Điếc hay hóng, ngọng hay nói” quả cũng không sai chút nào.
          - Vậy tại sao tôi cầu cơ không lên? Tình hỏi.
          - Ai mà biết, chị Thanh trả lời, cũng có nhiều người cầu, cơ không lên.
          - Có lẽ chị thuộc họ hàng nhà ma.
          - Ma hay không thì em không biết nhưng nó lên thì nó lên.
          - Vấn đề cơ lên hay không có thể tùy thuộc bản chất mỗi người, cụ Tài giơ tay ra hiệu ngưng nói. Chẳng hạn như những người lên đồng, họ phải được sinh ra với đặc tính mẫn cảm mới có thể lên đồng. Chúng ta cũng thấy rõ, một số nghệ sĩ họ khóc rất thực nơi vai trò họ diễn. Chúng ta không làm được như thế vì chúng ta mẫn cảm không đủ. Tôi chỉ muốn nhắc nhở, quí anh chị em đừngvội khép kín tâm hồn mà cần mở rộng để nhìn nhận thực thể sự vật và sự việc như chính nó. Có như thế, chúng ta mới cảm nghiệm được nghi thức thờ phượng, cúng tế, đặc biệt trong trường hợp nhận thức về Mật Tông Tây Tạng. Dĩ nhiên, những nghi thức thờ phượng hay cúng tế đòi hỏi một tấm lòng chân thành, ý định kiên vững, và ước muốn mạnh mẽ. Lòng không chân thành, tâm ngơ ngáo, thực hiện nghi thức lấy lệ thhì không thần thánh nào chứng giám. Hơn nữa, “Từ cái biết mà sinh ra niềm tin, từ niềm tin sinh ra sự mê tín khi không có kinh nghiệm để hiệu chính niềm tin” (MGTT. Tr. 31).
          - Nói về Mật Tông Tây Tạng, chúng ta cần nhận biết những quan niệm liên quan và những điều kiện cần thiết như kinh nghiệm và niềm tin phát sinh từ nghiệm chứng. Thực ra, đã nghiệm chứng được thì chẳng có gì phải nói đến niềm tin, nhưng tôi dùng ngôn từ niềm tin phát sinh từ nghiệm chứng có nghĩa do thực nghiệm nên không gì có thể lay chuyển được gọi là kiên định.
          - Mật Tông Tây Tạng có thể nói bao gồm một phần thực nghiệm Yoga của Ấn và nghiệm chứng kiến tính nhà Phật. Dẫu rằng Ấn học cũng có chi phái mật tông nhưng Mật Tông Tây Tạng, mật tông nhà Phật có điểm không tương đồng với Ấn. Mật tông Ấn chính là sự thực hành và nghiệm chứng Yoga để phát triển nặng lực nội tại, chuẩn bị thân xác chịu đựng cường mạnh hầu đạt tới sự hoà nhập với Brahma. Cũng như mọi đạo học, điểm cùng đích chính là hợp nhất với Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi vũ trụ. Tôi cần lưu ý anh chị em điểm này. Chính ước muốn hòa nhập với Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi vũ trụ là một ước muốn sai lầm bởi dù ước muốn hay không thì Quyền Lực Tối Thượng vẫn đã và đang hoạt động và hiện thể nơi mọi sự. Bởi thế, ước muốn hòa nhập hay thăng tiến đều do sự thiếu nhận thức nên phát sinh ước muốn, tạo những hoạt động, hành động khiến hành giả kiến tạo những hoạt động, hành động sai lầm chỉ làm khổ mình chẳng khác gì Pascal đã nói, “Con người không phải là thánh, chằng phải là thú, nhưng đáng thương thay, những kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú; biến thành thú bởi vì chạy theo thú tính làm khổ chính mình. Thiển nghĩ, ước muốn này thành hình do quan niệm một thượng đế hữu ngã.
          - Thưa bác, chị Tình rụt rè lên tiếng.
          - Chị muốn nói gì?
          - Thưa bác, nếu cháu không lầm thì Thượng Đế hay Thiên Chúa cũng như nhau.
          - Chị nói đúng. Thượng Đế hay Thiên Chúa cũng chỉ là danh hiệu; do đó, tôi thường hay dùng danh hiệu Quyền Lực Hiện Hữu Tối Thượng.
          - Thưa bác, thế sao bác nói hữu ngã…
          - Xin lỗi anh chị em, một điều quá ư căn bản, tôi nghĩ ai cũng biết nên đã không dám nhắc tới e bị cho rằng khinh thị người khác. Thế nên, bất cứ gì anh chị em thắc mắc, cứ tự nhiên đặt câu hỏi. Tôi nói rất nghiêm chỉnh, bất cứ vấn đề nào, dù nhỏ mọn tới đâu, bất cứ câu hỏi nào dẫu bị cho là ngớ ngẩn đến mấy, anh chị em cứ nêu lên. Chẳng hạn vấn đề chị Tình vừa nhắc tới, thượng đế hữu ngã.
          - Nơi cuộc sống hữu vi, chúng ta thường quá quen thói phân chia những trạng thái đối nghịch; chẳng hạn đúng sai, phải trái, trên dưới, Ying Yang, trắng đen, nghĩa là có bên này thì phải có bên kia được gọi là hữu vi hay hữu ngã. Nhìn vào thực tại, có những thứ hoàn toàn trắng mà cũng không hoàn toàn đen chẳng hạn cà phê sữa. Khi nói đến thực trạng này, danh hhiệu tạm gọi là nhất nguyên. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi bàn về Lão học nơi Đạo Đức Kinh. Nơi Ấn học, danh hiệu Thượng Đế được gọi là Brahma. Hồn mỗi người được gọi là Atman, một phần tử của Brahma. Thế nên cùng đích của hành giả tu luyện Yoga là hòa nhập với Brahma. Quan niệm này theo lối nhìn hữu vi, Brahma được coi như ở bên ngoài mặc dầu kinh Chí Tôn Ca (Bhagavad-Gita) nói lên rất rõ ràng Brahma hiện thể và hoạt động nơi mọi sự mọi vật. Mọi sự, mọi vật hiện hữu trong Brahma nhưng Brahma không hiệu hữu nơi chúng. Chúng ta có thể dùng hình ảnh biển và mọi sinh vật trong biển. Mọi sinh vật ở trong biển nhưng biển không thể ở trong những sinh vật. Lối phát biểu, Thượng Đế tạo dựng muôn loài chứng tỏ quan niệm Thượng Đế bên ngoài vạn vật; rõ ràng đây là lối nhìn hữu vi, hữu ngã về Thượng Đế cũng giống như quan niệm nơi Thiên Chúa giáo cho rằng Thiên Chúa tạo dựng muôn loài từ vô cùng. Nếu tôi không lầm thì quan niệm về một Thiên Chúa hữu ngã tạo dựng muôn loài cũng giống như quan niệm Ấn học nhưng chỉ khác danh hiệu. Chúng ta thử xét, lửa hữu ngã hay vô ngã. Ai cũng có thể trả lời hữu ngã vì chúng ta có thể nhìn thấy và có kinh nghiệm sử dụng lửa. Nhưng nếu nhìn theo phương diện khác, câu hỏi được đặt ra, lửa tốt hay xấu, đúng hay sai, chúng ta phải công nhận sự tự nhiên của lửa là không đúng và chẳng sai. Thế nên, bảo lửa hữu ngã cũng trật mà vô ngã cũng trật. Qua khái niệm về lửa, nhận thức nhất nguyên phần nào được nhận biết và như vậy chúng ta đã chớm bước vào điểm chính yếu của đạo học Đông Phương, đạo học nhất nguyên bao gồm Phật học và Lão học, đạo học vô ngã, và từ đó chúng ta có thể phân định sự khác biệt giữa mật tông Phật học và mật tông Ấn học.
          - Thưa bác, đã mật sao còn phân chia mật Phật và mật Ấn? Có cái nào mật...
          - Anh Tình muốn nói mật chuột phải không?
          Cả đám cười thoải mái. Cũng phải cảm ơn những tâm hồn bán trời không văn tự này. Tâm trí mọi người đang căng thẳng nhận định về vô ngã, hữu ngã, mật tông, đường tông, thế mà dám liên tưởng đến mật chuột vì làm sao ai có thể thấy mật chuột bao giờ!
          - Thưa bác đúng, bởi cháu chưa bao giờ thấy mật chuột cũng như lần đầu tiên nghe thấy mật Ấn.
          - Mật Tông Tây Tạng tức là mật tông nhà Phật. Ấn học đã có tự bao ngàn năm tất nhiên có Mật Tông Ấn học. Nói cách khác, Mật Tông Ấn học được hiểu thực ngiệm Yoga. Dẫu Yoga chỉ là phương tiện thực nghiệm hành trình Atman hòa nhập Brahma, nhưng nơi hành trình hữu vi, con người không thể đạt tới lý thuyết dùng Yoga hòa nhập thượng đế Brahma bởi vì hồn con người, Atman không hữu ngã; cho dù chúng ta cứ tưởng hữu ngã như nhận thức về lửa. Nói rằng lửa nóng, có thể nhìn thấy nên lửa hữu ngã chưa chắc đã đúng. Vậy lửa tốt hay xấu chúng ta trả lời thế nào. Dùng lửa nấu ăn, sưởi ấm, chúng ta nói lửa tốt. Cho tay vào lửa, nó có còn tốt không? Lửa hữu ngã hay vô ngã, chúng ta không thể xác quyết một chiều. Như thế, tôi yêu cầu anh chị em, từ nay chúng ta không cho rằng bất cứ gì thế nào mà đành chấp nhận nghiệm chứng trước, trả lời sau, nó thế nào, chấp nhận nó thế ấy.
          - Sự khác biệt giữa Mật Tông Phật học và Mật Tông Ấn học rất rõ ràng. “Mật tông Phật giáo hoàn toàn khác hẳn mật tông của Ấn giáo. Tuy cả hai đều sử dụng những phương tiện giống nhau như thần chú, phương pháp luyện luồng hỏa hầu (Kundalini) nhưng mục đích và cứu cánh thì hoàn toàn khác hẳn nhau. Một bên chủ trương khai mở trí tuệ để hoàn toàn giải thoát khỏi luân hồi trong khi một bên chỉ chú trọng đến việc phát triển những quyền năng nội tại để đạt đến trạng thái tuyệt đối (Brahman). Một bên tìm cách quên mình (vô ngã) và một bên tìm cách phát triển bản ngã của chính mình (hữu ngã)”  (ĐMQXT; Tr.255).
          - Chúng ta thấy rõ, quan niệm dẫn dắt hành động, nếu không muốn nói quan niệm phát sinh hành động. Quan niệm Thượng Đế hữu ngã phát sinh phương pháp phát triển năng lực nội tại. Quan niệm Thượng Đế vô ngã phát triển nhận thức tâm linh. Nói theo Phật học, “Mặc dù đức Phật (Thích Ca) đã giảng dạy rất nhiều pháp môn khác nhau nhưng Phật giáo thường được chia ra làm ba con đường chính: Nam Tông (tiểu thừa) Bắc Tông (Đại Thừa) và Mật Tông, chẳng khác gì thờ phượng, minh triết, và thiền tông. Theo sách vở mật tông thì nếu theo Bắc hay Nam Tông, một người cần phải trải qua vô lượng vô số kiếp tu hành mới có thể đạt đến quả vị Phật, nhưng theo Mật Tông thì có thể đạt đến ngay trong một kiếp” (ĐMQXT; Tr.151). “Tôn giáo Tây Tạng thường chú trọng rất nhiều về cõi giới bên kia cửa tử, hầu như câu chuyện nào cũng đều đề cập đến cõi giới này. Quan niệm thông thường nơi Tây Tạng cho rằng linh hồn con người vốn bất tử và di chuyển qua muôn ngàn kiếp sống luân hồi để học hỏi và thay đổi. Điều này thực ra không thuận lý với Phật học vì Phật học không hề chủ trương có một cái gì trường tồn bất biến như linh hồn. Nói cho đúng hơn thì họ tin rằng sinh lực hay sự sống tạo ra bởi trạng thái tâm và sinh lý của một sinh vật đều do nhân duyên tạo thành và do nghiệp dẫn dắt trong sáu nẻo luân hồi. Tất cả nhân duyên đều nương tựa vào nhau và tạo ra mọi sự, mọi vật; không vật gì có thể hiện hữu một cách riêng rẽ. Rời bỏ nhân duyên này thì không còn gì nữa. Vì bị vô minh che phủ, vì không hiểu rõ thực tướng của vạn vật mà con người tin rằng thế gian này là thực nên cứ khư khư bám víu lấy nó rồi từ đó sinh ra chấp ngã. Từ sự chấp rằng có một cái "ta" nên mới có sự phân biệt và là đầu mối tạo ra khổ não” (HTTT; Tr.28).
          “Quan niệm linh hồn trường tồn trãi qua các kiếp luân hồi phát sinh từ Ấn học chứ không phải từ Phật giáo. Ấn học quan niệm Atman có được kiếp làm người như phương tiện thức ngộ để hòa nhập với Thượng Đế Brahma. Nói rằng kiếp người là cơ hội cho Atman học những bài học thức ngộ nhưng thực ra theo Ấn học, không phải Atman hay thân xác tự làm mà chính là Brahma dùng thân phận kiếp người để thực hiện hoạt động của Ngài.
          Cũng như Mật Tông Ấn, Mật Tông Tây Tạng sử dụng chú thuật, tuy nhiên, “Mặc dù bề ngoài chú thuật Tây Tạng và Ấn Độ có vẻ giống nhau, nhưng sự thực, chúng chẳng những khác nhau về phương pháp và đối tượng mà trên bình diện lịch sử và tâm niệm các câu thần chú của Phật giáo có một ưu thế rất rộng. Điều khác biệt chính yếu là chú thuật Phật giáo không thuộc về âm tạo lực mù quáng có tính cách thần quyền. Khái niệm về âm tạo lực (Sakti) tức năng lực sáng tạo thuộc âm tính của một Thượng Đế tối cao (Siva) hay của một đa số thần linh phụ thuộc, tuyệt đối chẳng có một vai trò gì trong Phật giáo; còn trong chú thuật của Ấn Độ giáo thì năng lực sáng tạo là trung tâm điểm của vấn đề. Ý niệm trung tâm của Phật giáo là trí bát nhã. Xen vào các lực điều động vũ trụ và khiến chúng phục vụ cho mục đích của mình có thể phù hợp với các thần chú Ấn Độ nhưng không thích hợp với Phật giáo. Phật giáo không ước mong xen vào bất cứ một nguyên động lực nào, mà ngược lại, nó cố gắng thoát khỏi các động lực đó, các sức thúc đẩy vây quanh nó lâu dài, khi nó còn ở trong vòng luân hồi. Nó cố gắng thâm nhập vào các động lực đó là để tự giải thoát khỏi sức ngự trị của chúng. Chú thuật Ấn chủ trương sao cho sức toàn năng hợp lại nơi Sakti. Vũ trụ nẩy nở trong sự hòa hợp giữa Siva và Sakti. Hành giả mật tông Phật không tìm cầu sự nẩy nở của vũ trụ, mà lại mong cho nó rút lui trong cái không sinh, không tạo lập, làm cơ sở cho mọi sự diễn tiến: chính từ tánh không phát xuất ra mọi sáng tạo, và mọi sáng tạo đều siêu việt là nhờ đó (Tính Không). Lãnh hội được tánh không ấy là trí bát nhã. Thực hiện được cái trí tối thượng ấy trong cuộc đời là giác ngộ (bồ đề), nghĩa là khi trí bát nhã hay tánh không hay cái âm tính vĩnh viễn bất động, thường tịch, bao hàm tất cả, đón nhận tất cả, và từ đó hiện ra tất cả, mà hòa hợp với nguyên lý có động tính dương của lòng bi hoạt động, của động lực tỏa khắp mọi nơi từ tình thương tích cực, đại diện cho phương tiện thực hiện, thì lúc bấy giờ được gọi là hoàn toàn thành Phật” (MGTT; Tr.127-129). “Hệ thống của Ấn Độ giáo thì nhấn mạnh hơn cái khía cạnh tĩnh nhiên của các trung khu, đồng hóa chúng với các yếu tố căn bản và các lực phổ biến, do đó, đem vào các trung khu tâm lực một nội dung khách quan, dưới hình thức những chủng tử âm nhất định với những thiên chức cai quản chúng nó. Hệ thống Phật giáo thì ít chú ý đến khía cạnh khách tĩnh của các trung khu, mà lại quan tâm đến cái gì chạy qua các trung khu ấy, và các chức năng động chuyển của chúng nó, nghĩa là quan tâm đến sự biến đổi dòng năng lực tự nhiên của vũ trụ thành tiềm năng tinh thần” (MGTT; Tr.180).
          - Thêm vào đó, nơi hành trình tu luyện của Mật Tông Tây Tạng còn nhiều cấm kỵ cũng như mật chú, hóa thân, mà nếu chỉ phiến diện nhận định tất sẽ rơi vào lắm ngộ nhận, nhiều sai lệch nhận thức. Sở dĩ tôi đặt vấn đề về kinh nghiệm cầu cơ vì thường người ta nghĩ phải có câu thần chú nào đó cơ mới nhập, nhưng như chị Thanh trình bày, chưa đọc thần chú thì cơ đã lên. “Các thần chú tự bản tính riêng của chúng không tác động được mà chính là nhờ sự trung gian của tâm thức đã có kinh nghiệm về nó. Chúng nó không có tự lực, chúng chỉ là những phương tiện tập trung các lực đã có sẵn, giống như một thấu kính hội tự, tự nó không có một chút nhiệt nào, nhưng dùng nó một cách thích hợp, nó có thể biến đổi các tia nắng vô hại của mặt trời thành tác nhân gây ra hỏa hoạn” (MGTT; Tr.29). “Chỉ sau một thời gian chuẩn bị và thực hành dưới hình thức tập luyện liên tục thì các thần chú mới có thể có một ý nghĩa, vì chỉ lúc đó chúng mới đánh thức được nơi người thụ pháp các lực được dồn chứa trong suốt các kỳ thí nghiệm trước và mới có thể tạo ra được các hiệu quả mà lúc sáng chế ra, lời chú đã nhắm đạt được” (MGTT; Tr.29-30).
          - Tới đây, chúng ta đã phần nào hiểu được điểm chính yếu của Mật Tông Tây Tạng. Mật Tông Tây Tạng phần nào tổng hợp giữa hai đạo học, Ấn học và Phật học. “Phật giáo Tây Tạng không bao giờ bỏ mất mối liên hệ của nó với các truyền thống đã bắt rễ trong đất Ấn; nó có kỹ thuật của sinh lực thừa để ngự trị sinh lực còn sống động cho đến ngày nay” (MGTT; Tr.203).
          - Thưa bác, tại sao nơi một số sách, tác giả viết rằng những hành giả thực tập Yoga hoặc thực nghiệm mật tông có được nhừ năng lực thần thông?
          - Cũng có thể tác giả trước tác đã không thực sự nghiệm chứng nhưng viết với mục đích quảng cáo cho giới bình dân tăng thêm lòng mộ mến hoặc với ẩn ý nào đó. “Chúng ta thường quan niệm quyền năng là một cái gì có thể sở hữu, một phép lạ, một cái đũa thần chỉ đá hóa vàng, hô phong hoán vũ hay bay nhẩy trên không trung. Tóm lại, khi sở hữu quyền năng họ có thể làm bất cứ gì theo ý muốn. Đó là một quan niệm ấu trĩ xuất phát từ trí tưởng tượng và lòng tham lam ích kỷ. Đối với những con người ích kỷ, thế giới này quá phiền phức, chướng ngại cho bản ngã của họ nên phải tìm cách thay đổi nó cho hợp với mình. Đàng khác, quan niệm này bắt nguồn từ bản ngã kiêu căng vì nghĩ rằng có thể đạt được tất cả những gì họ muốn và lòng tham của họ không bao giờ có đáy, bởi không thể thỏa mãn quá nhiều tham vọng điên cuồng nên cần phải có thêm quyền lực, một thứ quyền lực siêu nhiên do chính nó tưởng tượng” (ĐMQXT; Tr.75-76). Chúng ta đã bao giờ tự hỏi để trả lời về mục đích cuộc đời của mình chưa? Nếu chưa tìm được giải đáp cho chính mình thì dẫu có thân xác nhưng mình đã vẫn chưa sống từ bao lâu nay.
           
           
          MBVN 16
           
          Nơi một phương trời khác cũng có những thực nghiệm dẫu không giống như Mật Tông Tây Tạng nhưng kết quả được coi tương tự tại vùng Trung Đông đó là Điểm Đạo Ai Cập. Điểm minh chứng của sự thực nghiệm Điểm Đạo Ai Cập còn sót lại nơi thế giới loài người có thể chứng thực đó là những kim tự tháp rải rác vùng sông Nile mà các nhà nghiên cứu đưa ra nhận xét các kim tự tháp này được xây nơi những địa điểm phù hợp với chòm sao thất tinh bắc đẩu trên bầu trời. Một vài nơi khác cũng có kiến trúc giống như kim tự tháp được kiến tạo; điều này minh chứng Điểm Đạo Ai Cập đã phát triển và ảnh hưởng tới những vùng dân chúng xa xôi ngoài vùng Trung Đông. Quý anh chị thử nhớ lại nơi những gì được nghe hoặc đọc về nên văn minh Ai Cập thuở xưa đã tiến tới giai đoạn cực thịnh. Nhưng đồng thời, tôi đề nghị quý anh chị nên hướng nhận xét về chiều hướng minh triết thay vì tâm trí thường bị ảnh hưởng bởi lối nhìn phiếm diện do đã quá nhàm tai để rồi định hướng quan niệm theo văn minh kỹ thuật của ngày nay. Nền văn minh minh triết Ai Cập thời trung cổ đã đào tạo nên những bậc thày của tư tưởng, của triết lý, tâm linh, lan đến toán học, thiên văn học và phát triển thêm về kỷ hà học. Chúng ta ai không cảm thấy quen thuộc với những tên của các vị hiền giả, thức giả như Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque, Hérodote, các vị này là những người ngoại quốc đã được điểm đạo theo khoa Huyền Môn Ai Cập. Herodote đã viết, “Đối với những điều huyền bí đó mà tôi đã được biết đầy đủ, tôi có lời cam kết phải giữ một sự im lặng hoàn toàn” (http://nvtt.1.forumer.com/index.php?showtopic=26; tr. 55).
           
          - Lên internet, chúng ta đọc thấy có tác giả bài viết cho rằng nền văn mình Ai Cập phát triển từ hơn mười ngàn năm trước Công Nguyên (10.000 TCN). Châu thổ sông Nile là nơi khởi đầu một nền văn minh sớm của thế giới. Cùng với sự xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ là các công trình xây dựng vĩ đại trên một khu vực tập trung dày đặc. Ai Cập cổ đã để lại và đóng góp cho nhân loại một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại, đó là Kim tự tháp Giza và tượng nhân sư Sphinx khổng lồ. (Wikepidia) Sự tiến triển và biến chuyển của Ai Cập được chia thành những thời đại; chẳng hạn, thời kỳ tiền triều đại từ năm 12.000 TCN đến 3.200 TCN, thời kỳ sơ triều đại từ 3.100 TCN đến 3.000 TCN.
          - Các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật Nekhen vào năm 1894. Trong ngôn ngữ Ả Rập được gọi là Kom El-Ahmar. Tuổi của những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3200 TCN. Tuy nhiên, gần đây các nhà khảo cổ lại tìm thấy những ký hiệu trên đồ gốm Gerzean 4000 TCN có sự tương đồng với chữ viết cổ Ai Cập. Các nhà nghiên cứu xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình là lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới. Những thầy tu thảo ra những chữ tượng hình Ai Cập cổ từ triều đại đầu tiên (2925 - 2775 TCN).
          - Sự thể các tác phẩm hội họa Ai Cập cổ tồn tại cho đến ngày nay có thể do khí hậu khô của sa mạc và điều kiện thiếu ánh sáng của các hầm mộ. Những bức vẽ của Ai Cập cổ miêu tả về một thế giới vui tươi cho những người chết ở cõi vĩnh hằng. Nhiều bức họa vẽ cảnh đi vào cõi âm nhằm che chở người chết; họ đi về với thế giới thần linh vì người Ai Cập tin rằng sự chết chỉ là sự chuyển chỗ ở sang một thế giới các vị thần và sẽ phù hộ cho những vị pharaoh và các triều đại đang trị vì nước Ai Cập. Người Ai Cập cổ sáng chế ra giấy papyrus; giấy này được làm từ cây papyrus mọc ở châu thổ sông Nile. Công nghệ làm giấy papyrus không được ghi lại và bị thất truyền theo thời gian; tuy vậy, vào năm 1940, các học giả nghiên cứu Ai Cập cổ đã phục hồi được công nghệ này. Người ta đã tìm thấy những tấm giấy có kích thước khá lớn, dài hàng mét. Giấy papyrus được người Ai Cập cổ dùng vào các việc ghi chép lại các cảnh sinh hoạt bao gồm văn học, tôn giáo, lịch sử và các công việc hành chính.
          - Theo các nhà khảo cổ, chữ tượng hình Ai Cập thời cổ đại không còn được sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Khoảng thế kỷ 15, người ta bắt đầu giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự Ai Cập. Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được đặt ra bắt chước theo văn tự Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La Tinh đã dựa theo mẫu tự Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh, các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập.
          - Quan niệm về thế giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay quan niệm tôn giáo, tín ngưỡng kéo dài trên dưới 3.000 năm trong khoảng thời gian giữa hai tôn giáo, Thiên Chúa giáo và đạo Hồi. Thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm là một thế giới hỗn mang của vật chất là nước. Vị thần đầu tiên, thần Râ-Atum, hàng năm xuất hiện như nước lũ của sông Nile ở xứ sở Ai Cập. Thần Râ sinh ra các bọt nước, từ đó biến thành thần Shu (không khí) và Tefnut (hơi nước). Thế giới được tạo ra khi thần Shu và Tefnut sinh ra hai đứa trẻ: Nut (bầu trời) và Geb (mặt đất). Con người được tạo ra khi thần Shu và thần Tefnut sơ ý bị lạc trong hoang mạc đen tối. Thần Râ dùng đôi mắt của mình đi tìm họ và trong khi xúc động về sự đoàn tụ, nước mắt sung sướng của thần Râ đã tạo nên loài người. Con trai của thần Geb là Osiris được cử làm vua của Ai Cập cổ đại. Người em trai của Osiris là Seth được xem là kẻ xấu xa trong vũ trụ. Seth đã giết Osiris và tự lên ngôi là vua Ai Cập. Sau khi giết Osiris, Seth thách đấu với con trai của Osiris (Horus) và bị thua. Seth bị đày đến sa mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi Anubis và biến thành thần của sự chết. Horus bắt đầu lên ngôi vua và trở thành pharaoh.
          - Còn rất nhiều truyền thuyết xung quanh các triều đại Ai Cập. Nhưng thế giới của người Ai Cập luôn xoay quanh các điều thần bí về con sông Nile và sa mạc, tạo nên một niềm tin về các thế lực thần bí, luôn lôi kéo con người phải thần phục các pharaoh như những vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trông coi dân Ai Cập và dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt để đưa đến cho thần dân Ai Cập một cuộc sống yên lành bên cạnh pharaoh và dòng sông Nile giàu có và thần bí.
           
          - Nữ thần Isis đại diện cho sao Sirius, một ngôi sao rất quan trọng đối với người Ai Cập cổ. Trong quyển sách Echoes of Ancient Skies, tiến sĩ thiên văn khảo cổ học Ed Krupp viết: "Sau khi biến mất khỏi bầu trời đêm (trong 70 ngày) cuối cùng thì sao Sirius xuất hiện trở lại vào buổi bình minh trước khi mặt trời lên. Điều này xảy ra mỗi năm được gọi là ngôi sao mọc cùng lúc với mặt trời và trong ngày đó sao Sirius có thể nhìn thấy chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn trước khi bầu trời trở sáng. Trong Ai Cập cổ đại hiện tượng xuất hiện trở lại thường xuyên này của Sirius rơi gần đúng vào Hạ Chí và trùng với mùa lũ của sông Nile. Isis đại diện cho Sirius, được gọi là "Nữ thần của năm mới" (Internet).
          “Năm mới của người Ai Cập được đặt theo sự kiện này. Các văn bản tế lễ năm mới ở Dendera nói rằng nữ thần Isis đi ra khỏi sông Nile và vì thế nước dâng lên. Theo nghĩa ẩn dụ là thiên văn học, thủy lực, tình dục, và nó đồng nghĩa với những chức năng của thần Isis trong thần thoại. Sirius hồi sinh sông Nile cũng như Isis hồi sinh Osiris. Thời gian mà thần Isis trốn khỏi thần Seth là khi mà Sirius biến mất (70 ngày) trên bầu trời đêm. Nữ thần Isis sinh hạ ra thần Horus cũng như Sirius sinh ra năm mới, và trong những đoạn văn thì Horus và năm mới được coi như nhau. Thần Isis là phương tiện để tái sinh cuộc sống và trật tự. Tỏa sáng vào một thời khắc, một buổi sáng mùa hè, nữ thần đã khơi dậy sông Nile và bắt đầu một năm mới." Robert Bauval tin rằng tôn giáo của Ai Cập là khởi nguồn của đạo Thiên Chúa. Ông ta cũng cho rằng những câu chuyện Cựu Ước nơi Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo được biến cải từ những truyền thuyết của Ai Cập, ví dụ như sự phục sinh. Thậm chí ở một số quốc gia trên châu Âu còn có thể thấy được những đền thờ nữ thần Isis như Italia, Pháp, Đức, Anh, tất nhiên là hình ảnh của nữ thần Isis được truyền tải dưới một hình dạng khác. Vị hoàng đế Napoleon và toàn bộ những tướng lĩnh thân cận của mình đều là thành viên hội Tam Điểm khi đóng chiếm Ai Cập đã tiếp nhận những tri thức kì bí. Paris nơi thường được gọi là kinh đô ánh sáng cũng ẩn chứa một bí mật. Bí mật này nằm ở đại lộ Champs-Élysées được hướng 26 độ về phía đông nam, tạo góc chính xác với đường chân trời hướng tới ngôi sao của Isis (Sirius) mà từ Paris có thể nhìn thấy được. Paris có nghĩa là par-isis, for-Isis, một thành phố của nữ thần Isis” (Internet).
          - “Trên ngôi mộ ít tiếng tăm của pharaoh Ankhtifi, người cai trị vùng phía nam Ai Cập, người ta đọc thấy dòng chữ: ‘Tất cả giới quan quyền ở Ai Cập đói đến độ phải ăn thịt con cái của họ.’Các pharaoh từng xây dựng những công trình đồ sộ nhất trong thế giới cổ đại, các kim tự tháp tại Giza, nhưng sau gần một nghìn năm ổn định, giới quyền lực đầu não tan rã; vương quốc nhanh chóng đi vào hỗn loạn trong vòng hơn 100 năm. Cho tới cách đây khoảng 4.200 năm (tính ngược lại từ năm 2000), nền văn minh vĩ đại đầu tiên ở Ai Cập đã hoàn toàn sụp đổ. Giáo sư Fekri Hassan, từ Đại học London, Anh, đã kỳ công làm sáng tỏ bí mật này. Fekri bắt đầu bằng việc nghiên cứu những ghi chép tỷ mỷ từ thế kỷ thứ 7 về các trận lụt của sông Nile, con sông có vai trò trung tâm trong đời sống của người dân vùng này. Ông nhận thấy nhiều trận lụt với quy mô khác nhau đã diễn ra, trở thành nguồn cấp nước sống, còn cho tưới tiêu trong vùng. Nhưng ông không có số liệu nào của năm 2.200 trước Công nguyên.”
          - “Trong khi đó, ở nước láng giềng Israel, người ta tìm thấy tại một hang đá dấu vết của đợt biến đổi khí hậu lớn nhất trong 5.000 năm: Trận hạn hán nặng đúng vào năm 2.200 trước Công nguyên đã làm suy giảm 20% lượng mưa. Vì Israel và Ai Cập nằm trong các hệ thống thời tiết khác nhau, Fekri tiếp tục tìm kiếm những bằng chứng khí hậu khác.” Sau cùng, đã có thêm một dấu vết mới. Nhà địa chất học Gerard Bond, Đại học Columbia, Mỹ, phát hiện ra rằng châu Âu đã từng trải qua các thời kỳ cực lạnh - thời kỳ băng hà, lặp lại sau mỗi 1.500 năm và kéo dài trong 200 năm. Một thời kỳ cực lạnh như thế diễn ra đúng vào năm 2.200 trước Công nguyên. Người ta cũng tìm thấy dấu vết của đợt biến đổi khí hậu rất lớn ở thời điểm này trên khắp các vùng còn lại của thế giới, từ Indonesia tới Địa Trung Hải, từ Greenland tới Bắc Mỹ. “Có thể, đợt biến đổi khí hậu nghiêm trọng đã gây ra cái chết hàng loạt của loài người cách đây 4.200 năm. Còn với Ai Cập, hạn hán đã hành hạ vùng đất này dai dẳng, cuối cùng quật ngã một trong những nền văn minh rực rỡ nhất của loài người. Fekri đã chứng minh được rằng những gì viết lại trên ngôi mộ của Ankhtifi là hoàn toàn đúng sự thật. Thiên nhiên đã đẩy con người đến bước đường cùng. (B.H. Theo BBC, Việt Báo, VNExpress). Sau này, Ai Cập trở thành một tỉnh của đế chế La Mã vào năm 30 trước công nguyên.”
          - Qua một số nghiên cứu tìm hiểu đưa đến nhận định về Ai Cập thời cổ như tôi tóm gọn lại trên internet và vừa đọc cho anh chị em nghe, chúng ta nhận thấy cuộc đời, đại khái nói chung, mọi sự đang biến chuyển, và không có gì được gọi là cố định, trường tồn. Một nền văn minh lâu đời như Ai Cập bây giờ cũng đã được coi như đi vào lãng quên. Những truyền thuyết, những công trình, những quan niệm đã đứng vững và hoành hành cũng như áp đặt trên nhân sinh qua bao thời đại nay đi về đâu!
          - Tôn giáo Ai Cập cho rằng nếu bảo tồn được thể xác thì linh hồn có thể được đầu thai nên người Ai Cập có tục ướp xác và đúc mặt nạ để linh hồn có thể nhận ra phần thể xác của mình, sau này tục ướp xác và đúc mặt nạ đã được người La Mã tiếp thu. Trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại có niềm tin rằng sau khi ướp xác linh hồn của họ sẽ được lên thiên đàng như các vị thần. Tục ướp xác được xuất phát từ truyền thuyết thần Osiris bị em trai mình là thần Seth giết xé làm 14 mảnh quăng đi khắp nơi, và sau đó được thần Isis tìm lại quấn thi thể trong lớp vải, nhưng thần Isis chỉ tìm được 13 phần thi thể còn lại 1 phần đó là bộ phận sinh dục; bộ phận đó được thần Isis làm lại bằng vàng. Sau đó nữ thần Isis trốn vào sông Nile trong 70 ngày và sau đó sinh hạ ra thần Horus; về sau Horus đi tìm Seth để báo thù cho cha. Quá trình 70 ngày kết thúc Osiris đã phục sinh; ông đã nhường lại ngôi báu cho con trai mình và trở thành vị vua cai quản cõi chết. Trong các tài liệu cổ, Osiris được miêu tả là một vị vua với nước da màu xanh (màu tượng trưng cho sự tái sinh), người dâng nước sông Nile. Thật là trùng hợp khi trong truyền thuyết có nhắc đến lục địa Mu (được gọi là Atlantide?) với chủng tộc người da xanh. Phải chăng những con người đầu tiên đặt chân lên Ai Cập là những con người đến từ lục địa đã mất này? Họ đem theo những tri thức vĩ đại về khoa học, thiên văn học mà con người lúc bấy giờ cho rằng đó là sức mạnh của thần thánh. Khi quá trình ướp xác diễn ra trong 70 ngày với đủ các phương thức bí truyền, xác của họ sẽ được đưa qua sông Nile. Sông Nile chính là biểu tượng của giãi ngân hà (Milky Way); linh hồn người chết sẽ vượt qua ngân hà đến với thiên đàng nơi mà thần Osiris ngự trị.
          - Nguyên tắc ướp xác của Ai Cập cổ đại dựa trên việc làm mất nước trong cơ thể người chết và lấy đi các bộ phận dễ phân hủy như nội tạng và bộ não. Nghệ thuật lấy não người chết của người Ai Cập cổ thật tài tình; nó đã nhiều năm làm các chuyên gia giải phẫu lúng túng về phương pháp bảo vệ hộp sọ của người chết trong khi não được lấy ra một cách hoàn hảo. Bước tiếp theo, xác ướp được để trong natron (quan tài bằng sậy) khô khoảng 70 ngày để thanh trùng. Cuối cùng là nhồi cỏ khô, thơm vào phần rỗng của nội tạng, xoa dầu thơm và quấn vải lên thi thể một cách cẩn thận và chu đáo. Các ngón tay của xác ướp được lồng bằng các ống vàng. Não và nội tạng khi lấy ra khỏi xác ướp được cất giữ ở 4 chiếc bình.
          - Quan niệm về cái chết của người Ai Cập cổ như một sự chuyển tiếp một cuộc sống khác ở thế giới bên kia, thế giới cõi âm. Nghi lễ về cái chết là một sự kiện quan trọng và tỉ mỉ nhằm tiễn đưa người chết về với cõi vĩnh hằng. Người Ai Cập cổ quan niệm con người có cả phần thể xác và phần linh hồn; chính vì vậy, các nghi lễ là thể hiện sự chuẩn bị cho thể xác và linh hồn có được sự hòa hợp khi về cõi âm. Họ tin tưởng rằng, nếu thi thể được bảo quản tốt nhất thì linh hồn sẽ tái hòa nhập sau một thời gian nào đó. Điều kiện để linh hồn mau chóng trở lại hòa nhập vào thể xác là xác phải được một người thầy tu lành nghề bảo quản nguyên vẹn cơ thể, khuôn mặt được như lúc còn sống, và cơ thể phải được ướp hương thơm. Đầu tiên, cơ thể người chết sau khi đã được lấy đi nội tạng, sẽ được cho vào một quan tài nhỏ bằng sậy vùi vào cát nóng nhằm làm khô xác để cho cơ thể không thể phân hủy sau này, sau đó thì mới mai táng trong hầm mộ.
          - Thuật ướp xác của người Ai Cập ra đời từ năm 2700 TCN. và kéo dài đến tận thế kỷ thứ 5. Quan niệm của người Ai Cập cổ về sự vĩnh hằng ở thế giới của các thần linh sau khi chết nên việc ướp xác cũng là đức tin cho sự trường tồn của vương quốc Ai Cập.
          - Chúng ta thấy, để có một ý niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đã bỏ sót lại. Người ta phải truy nguyên qua những nghi lễ đã suy tàn của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phượng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này. Những sự sưu tầm đó giúp ta khám phá ra cái mục tiêu tối thượng của sự thờ phượng của họ; đó tức là ánh sáng, biểu hiện bởi ngôi mặt trời. Bởi lẽ đó, họ dựng lên khắp nơi bên Mỹ Châu thời cổ những ngôi đền hình kim tự tháp để thờ mặt trời. Những ngôi đền đó đều là những kiến trúc một kiểu, hoặc có sửa đổi hình dáng chút ít, với những ngôi đền tương tự đã từng có ở châu Atlantide (ACHB; Tr.25). Trong nền tôn giáo cổ Ai Cập, Râ, thần Thái Dương là vị chủ tể, là đấng sáng tạo ra vạn vật vô sinh bất diệt, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác (ACHB; Tr.27).
          - Thưa bác, một cánh tay giơ lên, phỏng có gì liên hệ từ quan niệm truyền thuyết huyền bí của người Ai Cập thời cổ đối với huyền thoại con cháu Thái Dương thần nữ của người Nhật?
          - Ah! Tôi chưa bao giờ để ý về vấn đề này. Hơn nữa, một đàng là lý thuyết tâm linh được dùng làm căn bản niềm tin đưa đến thực hành áp dụng trong diễn tiến nhân sinh dẫn tới tôn giáo được gọi là Điểm Đạo Ai Cập; đàng khác là huyền thoại khai sinh dân tộc không liên hệ chi tới tôn giáo hoặc tín ngưỡng; chúng ta thấy ảnh hưởng của hai sự thể đối với tâm linh và nhân sinh rất khác biệt. Quan niệm hay tạm gọi là huyền thoại dân tộc Nhật là con cháu Thái Dương thần nữ cũng tương tự huyền thoại phát sinh dân tộc Việt Nam. Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, “đẻ” trăm trứng và sinh ra trăm con; năm mươi con theo cha lên núi; năm mươi con theo mẹ xuống vùng biển tạo thành nguồn gốc con rồng cháu tiên của dân tộc Việt Nam. Thử hỏi huyền thoại này ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhân sinh của chúng ta, phương chi nói tới so sánh hoặc liên hệ từ huyền thoại tới niềm tin và thực hành nghi thức tôn giáo. Hơn nữa, đa phần chúng ta quan niệm không rõ ràng, hoặc do không để ý, hoặc không có phương tiện nghiên cứu nên chấp nhận cho qua. Chẳng hạn, nói về huyền thoại ngồn gốc dân tộc không ảnh hưởng chi tới cuộc sống con người, nhưng niềm tin lại ảnh hưởng mạnh mẽ nơi cuộc sống nhân sinh. Dẫu quan niệm dẫn đến niềm tin nhưng huyền thoại không tạo được niềm tin vì huyền thoại không đụng chạm chi tới cuộc sống. Xét theo phương diện nào đó, huyền thoại mang phần nào tính chất quan niệm nhưng huyền thoại không phát xuất từ lòng khát khao nhận biết về chính mình, về liên hệ sự hiện hữu của mình đối với dòng sinh hóa nhân sinh dẫn dắt con người tới niềm tin, thường được hiểu lầm với danh hiệu đức tin. Xét về phương diện niềm tin, chúng ta thường lẫn lộn với đức tin. Dẫu niềm tin tăng hoặc tạo thêm năng lực nơi con người, đức tin là thực thể năng lực nơi con người. Có thể nói, đức tin là thực thể con người mà đã không được nhận biết.
          - Thưa bác, Sỹ nhà con cắt ngang.
          - Khoan đã, anh Sỹ, có phải mọi người lần đầu nghe thấy tôi phân tích niềm tin và đức tin phải không? Tôi biết mọi người đang đặt câu hỏi về niềm tin tạo năng lực khác với đức tin là thực thể năng lực thì có thể nói niềm tin kiến tạo đức tin phải không? Thứ nữa, tại sao có những đức tin khác nhau như đức tin Phật giáo, đức tin Công giáo, đức tin Ấn giáo, đức tin Tin Lành, Thệ Phản. Tôi có thể tóm gọn một câu, người ta đã hiểu lầm về thực thể danh hiệu đức tin và thường chỉ cho rằng đức tin cũng giống như niềm tin. Điều này có nghĩa những gì được tổ chức tôn giáo cho là đúng, là hợp với giáo lý của giáo phái ấy thì được gọi là đức tin. Thực ra, đó chỉ là niềm tin, là quan niệm kết quả của suy luận hay nhận thức. Đàng này, đức tin là năng lực nội tại bẩm sinh mà chúng ta đã đang không nhận biết. Niềm tin có thể kiến tạo năng lực, chẳng hạn chúng ta nghĩ rằng làm nhà hàng có lời nhiều nên đem hết năng lực, cố gắng làm nhà hàng. Niềm tin tưởng này tạo năng lực giúp con người chịu đựng hầu vượt qua thử thách khó khăn trong thời gian thực hiện mục đích hoặc đối diện với những chướng ngại, thất bại mong đạt tói thành quả ước muốn. Tuy nhiên, kết quả ra sao mọi người đều biết. Đâu phải ai làm nhà hàng cũng thành công bởi còn bị lệ thuộc nhiều yếu tố xã hội nhân sinh đồng thời, nếu không muốn nói là tin nhảm. Ông bà mình thường nói, “Làm giầu có số, ăn cỗ có phần.” Cũng một cửa tiệm, người này đứng bán hàng thì khách khứa vào ra tấp nập trong khi người khác đứng bán, mặt meo như khỉ ăn mắm. Niềm tin chính là niềm hy vọng của ước mơ, mà ước mơ thường không có gì bảo chứng, không dựa trên bất cứ thực tại nào bởi nếu đã có cơ sở làm nền tảng cho ước mơ, ước mơ lúc ấy đã trở thành chương trình hoặc dự án để thực hiện. Tất nhiên, dự án không phải là ước mơ dẫu chất chứa hy vọng hiện thực.
          Quý anh chị theo Công giáo hoặc Kytô giáo làm ơn nghe cho rõ và chịu khó suy nghĩ, nghiệm chứng câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc.11:23). Khi bảo núi xê đi có nghĩa bày tỏ ước muốn, ý định; điều này nói lên một thực thể đó là ước muốn, ý định tự nó đã mang quyền lực nào đó di chuyển được ngọn núi. Quyền lực này nơi mọi người nếu nói theo câu Phúc Âm vì ngôn từ “Kẻ nào” có nghĩa bất cứ ai, không phân biệt màu da, sắc tộc, kiến thức hoặc thời đại. Vấn đề được đặt ra lại là chúng ta có nhận biết quyền lực này nơi mình hay không, và nếu đã nhận biết, có tìm cách nào để sử dụng được quyền lực này nơi mình hay không. Đây chính là một điểm nhỏ nơi câu hỏi đầu tiên và cũng là cuối cùng cho hành trình tâm linh, “Tôi là ai,” tôi thế nào đối với vũ trụ liên miên biến chuyển. Câu hỏi này bày tỏ lòng khát khao bẩm sinh về nhận thức chính mình trong liên hệ cuộc sống với dòng sinh hóa nơi hành trình biến chuyển của vạn vật. Bởi đó, đạo học Đông Phương dẫn đến nhận thức con người là tiểu vũ trụ. Muốn nhận biết đại vũ trụ cần phải nhận biết chính mình. Anh Sỹ, anh muốn hỏi gì?
          - Thưa bác, giả sử con muốn ngọn núi xê đi, thế rồi ngày này qua tháng khi đào từng xe đất chuyển chúng tới nơi khác thì ngọn núi cũng rời. Ý định dẫn tới thực hành của việc đào đất di chuyển ngọn núi được thực hiện thì đó là đức tin hay niềm tin?
          - Niềm tin dẫn đến hành động dời núi và khi núi đã được dời, niềm tin mất dẫu niềm tin kiến tạo năng lực kiên nhẫn đào đất di chuyển ngọn núi sang chỗ khác. Đức tin là năng lực, quyền lực nội tại đã có sẵn, nếu nói theo Phúc Âm, và cũng chỉ Phúc Âm nói về quyền lực này. Điều kiện chỉ là không nghi ngại. Anh em thử suy nghĩ thêm, điều gì mình không nghi ngại tất nhiên mình đã chứng thực, đã nghiệm chứng rõ ràng. Những câu nói nơi các đạo học cần được nghiệm chứng kỹ lưỡng. Phao Lô nơi thư thứ nhất gửi Thesalonikê khuyên nhủ, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-22). Mới nghe thì thấy khơi khơi nhưng áp dụng vô thực thể cuộc sống không đơn giản chi. Chúng ta thường cứ nhắm mắt để rồi cho rằng mặt trời không soi sáng. Nghiệm chứng không phải là cho rằng, tin rằng thế này, thế kia mà chính là đã thực sự kinh nghiệm được. Tôi đưa ra thí dụ; ngày còn nhỏ, chúng ta thử hết mọi sự, không tin rằng lửa nóng, đến khi bị phỏng tay bởi rờ vô lửa. Sự thực chứng này không ai xóa bỏ hoặc giải thích cho người chưa bao giờ rờ vào lửa có thể cảm nhận được. Nghiệm chứng, thực chứng rất khác biệt với sự hiểu biết do nghe giải thích. Các anh em đã nghe hay đọc công án “Uống trà” bao giờ chưa?
          - Uống trà. Hưng nói.
          - Nhưng thưa bác, lại Sỹ nhà con lên tiếng, thế sao có câu nói, lửa thì không nóng nhưng tại vì mình cảm thấy nó nóng?
          - Đây là câu nói của Huệ Thi được viết thêm vào phần cuối của Kinh Nam Hoa của Trang Tử. Nếu suy nghĩ, nghiệm chứng nơi cuộc đời, câu này không nói gì về lửa nhưng chỉ dùng lửa để ám chỉ một thực thể trạng thái tâm tình nơi một người. Đã có ai nghiệm chứng câu nói này bao giờ chưa?
          Môt cánh tay giơ lên, Thanh, chủ nhà.
          - Anh Thanh, anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi.
          - Thưa bác, con muốn nói với anh Sỹ.
          - Thì anh cứ nói.
          - Chú Sỹ, chú mày nói như cái đếch.
          - Mọi người ngớ ra, và Thanh nói chỉ có thế, không hơn, không kém.
          - Sao anh dám nói thế? Trong khi bàn luận, chẳng có gì được cho là đúng, chẳng có gì bị cho là sai vì ý kiến chỉ là phương tiện dẫn đưa đến nhận thức. Đàng này anh không cho rằng đúng, chẳng cho rằng sai, lại bày thêm ra “cái đếch.” Thế cái đếch của anh là thứ gì? Nếu tôi hỏi đúng, anh nên cảm ơn mới phải. Nếu tôi hỏi sai, mời anh minh chứng, cớ sao nói như cái đếch. Sỹ nói một hơi không kịp thở, thái độ nhơn nhơn tự đắc ra chừng có cơ hội bày tỏ sự cả sáng.
          Cụ Tài mỉm cười; Thanh cũng không nói chi. Mọi người ngớ ra, chẳng hiểu Thanh có ý gì sau cả phút im lặng. Xưa nay Thanh không bao giờ nói cà tửng, thế sao hôm nay lại sinh ra ngang ngược như vậy!
          - Có ai hiểu anh Thanh nói gì không? Cụ Tài hỏi.
          - Hắn nói như cái đếch! Hưng lên tiếng trong khi cười mỉm chi, lặp lại, “Lửa thì không nóng.”
          - Hình như anh Thanh và anh Hưng đã nghiệm chứng được câu “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Tôi nghĩ, hai anh không nên nói gì thêm, hãy để mọi người nghiệm chứng câu nói này may ra nó trở thành cơ hội cho bất cứ ai nơi hành trình nhận thức; coi chừng nếu giải thích chỉ làm hại họ. Tôi chỉ muốn nhắc nhở quý anh quý chị, nếu muốn nghiệm chứng câu nói này, nên áp dụng đề nghị của Phao Lô nơi thư thứ nhất gửi Thesalônikê, “Hãy nghiệm xét mọi sự.”
          - Thưa bác, sao có thể nghiệm xét mọi sự. Cuộc đời quá ngắn ngủi, thời giờ đâu mà nghiệm xét mọi sự!
          - Lại nói như cái đếch! Thanh quất thêm.
          - Đúng, nói như cái đếch! Hưng đế vô.
          Thế là Sỹ đỏ mặt, tía tai,
          - Mẹ kiếp,
          Cụ Tài giơ tay ra hiệu Sỹ ngưng, đoạn nói, anh Sỹ, nghiệm xét mọi sự, thử xét tâm tình của anh bây giờ và tâm tình khi hỏi! “Lửa thì không nóng!”
          - Ah! Đoạn hắn đứng lên, chắp tay vái Thanh một vái trong khi lặp lại, “Nói như cái đếch.”
          Cụ Tài lên tiếng,
          - Khá lắm!
          Thanh thấy Sỹ vái mình trong khi miệng lẩm bẩm nói như cái đếch chỉ nhẹ nhàng lặp lại, “Nói như cái đếch.” Vợ Sỹ thấy chồng diễn xuất kỳ cục lên tiếng,
          - Mấy ông làm chuyện gì lạ vậy?
          - Nó đang cảm ơn Thanh vì đã bảo nó “nói như cái đếch,” Hưng trả lời.
          - Anh Sỹ, cụ Tài nói, thế là đủ, chẳng nên nói ra, coi chừng nói chỉ có hại cho những anh chị em khác.
          - Dạ, Sỹ lên tiếng! Đúng là nói như cái đếch.
          Vợ Sỹ thấy chồng trả lời cụ Tài như thế, cảm thấy khó chịu nên lớn tiếng,
          - Cái ông quỉ này, dám nói với cụ như thế sao!
          - Bu mày nói như cái đếch! Sỹ không giải thích, chỉ ỡm ờ trả lời vợ.
          Chị Sỹ lại càng không hiểu mầy người đàn ông giờ này thế nào mà ăn nói lung tung, chẳng ra môn, chẳng ra khoai chi hết.
          - Có thể anh đã hiểu tại sao tôi không trả lời khi anh hỏi hòa thượng Hương Nham đã ngộ về chuyện gì, anh Sỹ!
          - Thưa bác,nói vậy nhưng không phải vậy, Sỹ đáp.
          - Giỏi, cụ Tài tiếp.
          Chị Sỹ lại càng cảm thấy lạ lùng vì cụ Tài hỏi một đàng, Sỹ trả lời một nẻo thế mà còn được cụ khen giỏi. 
           
          - Trở lại vấn đề Điểm Đạo Ai Cập. Dẫu Điểm Đạo có lý thuyết về nguyên thủy hiện hữu của các vị thần minh, sự thực nghiệm của Điểm Đạo Ai Cập mang mục đích để môn sinh thực chứng sự hiện hữu của linh hồn của mình qua kinh nghiệm thoát hồn nơi nghi thức được gọi là Điểm Đạo. Chúng ta kinh nghiệm được quan niệm thay đổi, lối nhìn thay đổi hoặc ngược lại, nhưng kinh nghiệm đã qua không thể thay đổi do không ai tắm hai lần trong một dòng nước vì mọi sự đang biến chuyển; trong đó chính quan niệm cũng đang biến chuyển và dĩ nhiên, bất biến không thể phát sinh biến chuyển bởi bất biến kể như chết. Kinh nghiệm bất biến nhưng thực thể tạo nên kinh nghiệm vẫn luôn luôn biến chuyển. Đàng khác, một khi tự do được tôn trọng thì không còn sự áp đặt người khác phải hiểu hoặc nhận định theo chiều hướng của mình. Đây là nguyên nhân kiến tạo tinh thần tôn trọng niềm tin của người khác. Điểm Đạo Ai Cập không giải thích, không quảng cáo chỉ giúp phương tiện cho môn sinh thực chứng chính mình.
          - “Những cuộc lễ điểm đạo huyền môn Osiris là nghi lễ thâm diệu và huyền bí. Cuộc hành lễ này không gì khác hơn là một sự phối hợp giữa những mãnh lực thôi miên, phù phép và tâm linh nhằm giải thoát tâm hồn người thí sinh khỏi sự trói buộc của cái thể xác nặng nề trong vài giờ, có khi trong vài ngày để cho y có thể nhớ trong suốt cuộc đời còn lại của y, cái kỷ niệm của một kinh nghiệm độc đáo ghi dấu một ngày quyết định trong đời y, và để cho y xử thế một cách thích đáng sự tồn tại của linh hồn sau khi chết, mà phần đông nhìn nhận như một tín ngưỡng tôn giáo. Người đạo đồ từ kinh nghiệm này có thể đem giảng dạy với một đức tin đã được tăng cường bởi bằng chứng cụ thể do kinh nghiệm bản thân” (ACHB; Tr.126).
           
          “Những cuộc lễ điểm đạo này luôn luôn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn không chừng, trình độ điểm đạo càng cao thì cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vị tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc lễ này. Đó là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo huyền môn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ vãng. Nó có ý nghĩa gì? Sự sát hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức huyền môn này. Bằng phương thức thôi miên gồm có việc sử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân mình, cùng với việc sử dụng một chiếc đũa thần; ngườì thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết. Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vô hình mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo có thần nhãn mới nhìn thấy được. Như vậy, mặc dù mọi hoạt động thể xác đã ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại. Tất cả ý nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn không có sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lý đó bằng một phương pháp rõ ràng và thực tế nhất, nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân mình mọi diễn biến khách quan của sự chết, bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cõi giới bên kia. Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái hòm đựng xác ướp có vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngoài, nắp hòm được đóng chặt và khóa lại cẩn thận. Xét về bên ngoài, thì y là một người đã chết, nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp hòm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đó là ý nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nói rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối lại và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris không khác gì hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử huyền môn sau cuộc lễ điểm đạo” (ACHB; Tr.105-106).
           
          - Thưa bác, theo cháu đọc đâu đó, hình như Kim Tự Tháp chính là nơi dành riêng cho nghi thức Điểm Đạo mà thôi. Thanh lên tiếng hỏi.
           - Anh nói đúng, “Những sử gia thận trọng cho biết rằng người ta không hề tìm thấy trong kim tự tháp một quan tài, một xác chết, hay một cỗ xe tang nào, dầu rằng có vài truyền thuyết cho rằng một trong những vị vua Ai Cập có cho dựng trước cửa cung một cái hòm đựng xác ướp bằng gỗ chạm trổ rất khéo, mà người ta đã lấy từ kim tự tháp đem về. Trên những vách tường kim tự tháp không thấy có khắc những chữ ám tự hay chạm hình nổi hoặc tranh vẽ những sự việc xảy ra trong thuở sanh tiền của nhà vua đã băng hà. Nói tóm lại, không hề có những gì mà người ta thường thấy bên trong tất cả những ngôi mộ và lăng tẩm khác của Ai Cập. Các vách tường bên trong kim tự tháp đều trống trơn, không trình bày những mỹ phẩm như tranh vẽ, hình nổi hay ám tự để trang hoàng cho đẹp mắt mà các vị vua Pharaoh thường hay bày biện trong các lăng tẩm của họ, cũng không có dấu vết nào của sự trang trí mà người ta thường thấy ở những ngôi mộ quan trọng nhất của xứ Ai Cập” (ACHB; Tr.34). “Chỉ có một chiếc hòm trống trơn bằng đá đỏ, không đậy nắp, đặt dưới đất trong phòng lớn mà về sau người ta gọi là vương cung. Nhưng hai bên chiếc hòm bằng đá này không có khắc những ám tự hoặc tranh vẽ theo thủ tục thông thường của nền tôn giáo cổ Ai Cập. Cỗ quan tài nằm giữa phòng đầu xoay về hướng Bắc, chân về hướng Nam, năm mươi thước cao hơn mặt đất, trong khi ở những nơi khác người ta thường đào hầm đặt quan tài sâu dưới lòng đất theo tập tục thông dụng khắp xứ Ai Cập cũng như mọi nơi trên thế giới nếu không hỏa thiêu hay điểu táng” (ACHB). Trên vài ngôi mộ cổ ở Ai Cập có ghi thêm vào tên họ người chết mấy chữ "được hồi sinh" hay "người đã tái sinh hai lần." Những câu này diễn tả trình độ tâm linh của người chết đã được điểm đạo.
           
          - Thưa bác, Sỹ hỏi, những phù phép các vị chân tu Điểm Đạo Ai Cập dùng có giống như những phù phép của các pháp sư, thày bùa, thày ngải không?
          - Nói đến Điểm Đạo, chúng ta cũng nên biết về khoa pháp môn và đặc tính của khoa này. “Muốn có được cái bản lĩnh đó, người học khoa pháp môn phải trải qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đó khoa pháp môn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người. Tuy nhiên, thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí thuật của khoa pháp môn được tiết lộ cho mọi người bởi vì những kẻ hung dữ có thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác vì mục đích ích kỷ, còn về phần người thổ lộ thì sẽ mất hết quyền năng, không còn hiệu lực gì nữa. Thật ra, theo những luật lệ của khoa pháp môn, mỗi thày pháp có bổn phận phải truyền pháp cho một người đệ tử trước khi qua đời, để cho khoa pháp môn được tồn tại mãi mãi trong nhân loại” (ACHB; Tr.84-85).
           
          - “Hơn nữa, dẫu các điều giáo huấn cao thường được xem như bí mật hay bí truyền, tuy thế, không bao giờ định ý ngăn cản một ai đạt được các trình độ cao hơn về kiến thức được cổ võ, mà chỉ là một sự cố gắng nhắm tránh những cuộc trò chuyện bép xép và những suy luận vô ích; nó lôi kéo người dốt vào những nhận thức sớm về các tình trạng tâm thức cao, mà chưa hề có những cố gắng cần thiết để đạt đến các tình trạng ấy bằng phương tiện kinh nghiệm” (MGTT; Tr.43). Chẳng hạn nơi Mật Tông Tây Tạng, “Từ thời xa xưa, trong kinh điển của Đại Chúng bộ đã có những tập công thức ảo thuật mang tên là Đà La Ni hay Đái Trí Tạng. Đà La Ni là những phương tiện để định tâm tại một tri thức hay một ảnh tượng thấy được trong thiền định. Chúng nó có thể nhân cách hóa cái tinh yếu của một lời dạy cũng như kinh nghiệm của một trạng thái tâm thức nhất định; trạng thái này nhờ vậy có thể được nhắc lại hay tái tạo tùy ý và bất cứ lúc nào. Do sự kiện này, chúng nó cũng có thể đuợc gọi là Đái trí hay Tiếp trí. Xét về tác dụng hay chức năng thì chúng nó chẳng khác gì thần chú, nhưng trước nhất chúng nó là sản phẩm và là phương tiện phụ giúp cho thiền định. Nhờ trầm tư (chỉ quán) người ta đạt được một chân lý; nhờ Đà La Ni, người ta xác định nó và người ta bảo tồn nó” (MGTT; Tr.35). Các thần chú dùng trong pháp thuật tự bản tính riêng của chúng không tác động được mà chính là nhờ sự trung gian của tâm thức đã có kinh nghiệm về nó. “Chúng nó không có tự lực, chúng chỉ là những phương tiện tập trung các lực đã có sẵn, giống như một thấu kính hội tự, tự nó không có một chút nhiệt nào, nhưng dùng nó một cách thích hợp, nó có thể biến đổi các tia nắng vô hại của mặt trời thành tác nhân gây ra hỏa hoạn” (MGTT; Tr.29). “Như vậy, chỉ sau một thời gian chuẩn bị và thực hành dưới hình thức tập luyện liên tục thì các thần chú mới có thể có một ý nghĩa, vì chỉ lúc đó chúng mới đánh thức được nơi người thụ pháp các lực được dồn chứa trong suốt các kỳ thí nghiệm trước và mới có thể tạo ra được các hiệu quả mà lúc sáng chế ra, lời chú đã nhắm đạt được” (MGTT; Tr.29-30)
           
          Chúng ta tạm ngưng phần Điểm Đạo AiCập tại đây. Dẫu còn nhiều vấn đề kỳ bí, hãy để những ai muốn đào sâu tự mình tìm hiểu. Lần tới, chúng ta sẽ nói về Lão học.
          - Thưa bác, xin cho cháu hỏi một câu cuối cùng…
          - Anh cứ nói.
          - Thưa bác, theo như phần tóm lược đại cương về Điểm Đạo Ai Cập, bác nói tới quan niệm tâm linh của người Ai Cập cổ đại ảnh hưởng tới quan niệm của Thiên Chúa giáo. Như vậy, có gì minh chứng đích xác về niềm tin sống lại nơi Kytô giáo phát nguồn từ thần giáo Ai Cập chăng?
          - Những gì tôi đọc từ internet đại khái chỉ là những nhận xét của các tác giả tóm gọn chứ không phải sự nghiên cứu đã được cẩn thận tìm tòi, nghiên cứu, cho nên tôi không trả lời được về niềm tin nơi Kytô giáo có bắt nguồn từ huyền thoại sống lại của Osiris hay không. Nói cho đúng, niềm tin về sự sống lại của Osiris chỉ là huyền thoại như những huyền thoại khác, không phải thực thể nghiệm chứng hoặc sự thể lịch sử; nó chẳng khác gì huyền thoại con cháu Thái Dương Thần Nữ của người Nhật hoặc con Rồng cháu Tiên của người Việt chúng ta. Thêm vào đó, nguồn gốc thần thánh nơi Điểm Đạo Ai Cập được cho rằng từ hơi nước bốc lên cô đọng lại; vậy thử hỏi hơi nước ở đâu ra. Đặt vấn đề như vậy, huyền thoại hay quan niệm về thần thánh của người cổ đại Ai Cập không phải là huyền thoại tôn giáo và như thế dầu danh hiệu mang chữ “Đạo,” nhưng tôi cho rằng Điểm Đạo không phải là một tôn giáo. Tôn giáo phát khởi do lòng khát vọng bẩm sinh tự tâm hồn con người, và để bày tỏ lòng khát vọng này, mọi suy tư được bày tỏ qua ám định sau đó kiến tạo ước định, nghi thức của tập thể, những người có cùng chiều hướng tạo thành tổ chức. Anh chị em nhớ cho rằng, mọi đạo học đều bắt nguồn từ chiêm nghiệm về thực thể hiện hữu chính bản thân hành giả dẫn tới Quyền Lực Uyên Nguyên tối thượng nguồn gốc của mọi sự hiện hữu, hữu hình hay vô hình. Đàng này, quan niệm gốc gác của các vị thần phát sinh từ hơi nước nên đó chỉ là huyền thoại. Ngược lại, quan niệm hay niềm tin sự sống lại xác thân nơi Kytô giáo dẫu cho bị ảnh hưởng hoặc được khơi nguồn từ huyền thoại sống lại của Osiris thì niềm tin sống lại nơi Kytô giáo hoàn toàn tách biệt với quan niệm Điểm Đạo. Điểm Đạo Ai Cập chủ đích thực nghiệm thoát hồn để người trong cuộc kinh nghiệm thực thể hiện hữu chính mình. Hành trình thực nghiệm thoát hồn này phải được chuẩn bị và bổ túc bởi nhiều phương diện tâm linh chẳng hạn niềm tin, lòng khát vọng, ước muốn, niềm xác tín qua sự huấn luyện, dạy dỗ. Tuy nhiên, đa số người ta không để ý phân biệt và nhận định nên bất cứ niềm ước mơ được ám đặt nơi hình thức nào đều bị cho là tôn giáo. Chẳng hạn, Khổng giáo không phải là tôn giáo nhưng những người tin theo đạo Khổng cho rằng Khổng giáo là một tôn giáo như lối phát biểu tam giáo, Nho, Phật, Lão.
           
          - Thưa bác, như thế, niềm tin có thể sai lầm.
          - Tôi có thể nói luôn luôn sai lầm. Lý do, tin theo một cách mù mờ hoặc tin theo lời nói, lời giảng thuyết của ai đó đều đặt trên căn bản vô minh, lười suy tư, nghiệm chứng nên luôn sai lầm bởi đó không phải do mình nghiệm được nên không dính dáng gì tới mình. Có lẽ đây là nguyên nhân Thích Ca dạy, “Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Đồng ý rằng nhiều khi niềm tin không sai trật nhưng vì nó chỉ là niềm tin thiếu nghiệm chứng nên vô bổ. Thí dụ, chúng ta tin rằng mỗi người có hồn hay linh hồn; điều này không sai nhưng đã bao năm tháng nơi cuộc đời mỗi người, niềm tin này giúp ích gì nơi cuộc sống, đặc biệt nơi hành trình tâm linh, hoặc giúp ích gì cho nhận thức hầu thỏa mãn lòng khát vọng tiềm ẩn bẩm sinh nơi mình. Dẫu chúng ta tin rằng sau khi chết, linh hồn sẽ bị xét xử về những hành vi nơi cuộc đời của mình để rồi cố gắng sống tốt lành khỏi bị phạt sau này thì sự cố gắng sống tốt lành thì cũng chính là con đẻ của sự sợ hãi bị phạt sau này chứ niềm tin linh hồn sẽ bị xét xử sau khi thân xác chết không giúp ích gì cho nhận thức về sự hiện hữu của mình, cũng không giúp ích gì để thỏa lòng khát vọng nơi mình. Cũng như thế, nếu chúng ta tin rằng phải sống tốt lành để khỏi bị luân hồi thành những thứ mà chúng ta không muốn hoặc e ngại sẽ xảy đến cho mình nơi kiếp sau thì niềm tin này cũng là con đẻ của sự sợ hãi điều mình không muốn chứ không giúp ích gì cho hành trình tâm linh chút nào. Bởi thế, chỉ những người dùng nhận thức đặt vấn đề nghiệm chứng về thực thể hiện hữu của chính mình để rồi nhận ra mọi ước muốn, ước mơ, tham vọng, mưu mô, ý định, ý nghĩ phát xuất từ một thực thể nào đó nơi con người của mình được gọi là linh hồn, và từ nhận thức được nghiệm chứng này hướng dẫn cuộc đời mình, hướng dẫn suy tư, ước muốn đối chiếu với kinh sách đạo học hầu nhận biết hành trình nào mình nên theo, lối sống nào mình nên áp dụng nơi cuộc đời; niềm tin phát xuất từ nhận thức được nghiệm chứng này mới không bị sai lầm. Không trãi qua hành trình nghiệm chứng, niềm tin có được từ nghe sao biết vậy đều vô bổ, đều được coi là sai lầm bởi mình nghĩ rằng, hoặc cho là tin nhưng không phải niềm tin của mình mà là của người khác. Thử hỏi, người khác ăn mình có no không? Hoặc người khác uống bia mình có say, có lâng lâng để rồi ăn nói bạt mạng không? Người khác cầm dao cắt tay họ chảy máu mình có đau không?
          - Thưa bác, nhưng đạo Công giáo dạy phải tin xác loài người ngày sau sống lại, Sỹ nhà con lên tiếng chen vô.
          - Đúng là không thể bổ đầu bò để nhét óc chó vô được; mà cố tình nhét óc chó vô, thì đầu bò cũng không thể nào sủa gâu gâu. Bác đã giải thích như thế còn cố gân cổ ra mà cãi. Tình cắt ngang lời Sỹ.
          Cả bọn phì cười vì câu nói dí dỏm, coi thường lời nói của Sỹ. Không ngờ anh chàng lầm ngầm mà xổ ra câu nào câu nấy cay cú như thế.
          - Anh Sỹ, cụ Tài lên tiếng, nơi đây chúng ta không nói về niềm tin tôn giáo. Điều mà tôi muốn nói là niềm tin thiếu nghiệm chứng thường được gọi là tin thì luôn luôn sai lầm vì nó không phải tự mình kinh qua. Tôi cũng đã nói rõ rằng tôi không biết về ảnh hưởng của huyền thoại sống lại của Osiris liên hệ hoặc ảnh hưởng tới niềm tin xác thân sống lại nơi Kytô giáo ra sao. Điều tốt nhất, anh hãy tự nghiệm chứng điều anh được dạy dỗ. Ở đây, chúng ta không nói đến Kytô giáo dạy, Phật giáo dạy, Ấn giáo, hay bất cứ tôn giáo nào dạy phải tin thế nào. Anh không chấp nhận những luật điều hoặc niềm tin của bất cứ tôn giáo nào thì anh không thuộc về tôn giáo đó. Hoặc miệng anh nói rằng tin theo nhưng lòng ruột anh còn khúc mắc thì anh phải tự mình tìm kiếm thỏa mãn lòng khát vọng bẩm sinh của anh. Anh không nhớ câu chuyện mười nàng trinh nữ nơi Phúc Âm sao. Năm nàng trinh nữ suy nghĩ, đặt vấn đề có thể thời giờ rước dâu bị trễ nên mang thêm dầu thì được cho là khôn ngoan. Năm nàng khác chỉ tuân theo sự bảo sao làm như vậy nên đã không chịu suy nghĩ, đặt vấn đề do đó bị cho là ngu muội. Cũng phải nói cám ơn anh đã nêu lên thắc mắc nhưng thắc mắc trật. Mặc dầu thế, nó cũng là cơ hội cho mọi người đặt lại vấn đề về niềm tin của mình.
          - Nhưng thưa bác, điều cháu muốn nêu lên lại chưa kịp nói hết; cái thằng khỉ kia nó đã vội sủa. Số là nơi Phúc Âm có câu, “Thần Khi mới tác sinh, xác thịt không ích gì” (Gn. 6:63). Thế thì mắc mớ gì phải nói đến thân xác sống lại. Cháu trộm nghĩ, vì linh hồn tức là thần khí nên không thể chết được, cho nên thân xác chỉ là phương tiện trong giai đoạn thời gian thuộc không gian nào đó như cơ hội cho hồn hoạt động, tạm gọi là luân hồi đi, cháu nghĩ mới hợp lý hợp tình; chứ đã phán xét, rồi hoặc là lên hoặc là xuống đời đời thì sống lại làm gì cho thừa thãi mà phải tin. Sỹ cố giãi bày quan điểm của mình về sự sống lại xác thân.
          - Anh chị em nên nhớ lại, lý thuyết Luân Hồi phát xuất từ Ấn học. Lý thuyết này quan niệm rằng vì Atman là một phần của Brahma nên không thể chết được và mọi sự, mọi việc nơi cuộc đời chính là hành động của Brahma; thế nên nếu Atman chưa giác ngộ để trở về cõi uyên nguyên với Brahma thì sẽ được cho thêm cơ hội khác để học hỏi những điều phải học để giác ngộ chứ không phải một cuộc vay trả luân lý, sống không nên, kiếp sau sẽ trở thành con sâu con bọ đáng kinh khiếp theo quan điểm nhân sinh. Riêng phần đối chiếu niềm tin được dạy dỗ và Phúc Âm, tôi không có ý kiến vì tôi không bắt ai phải tin bất cứ điều gì, mà tôi thấy nên học từ Thích Ca, “Lời ta nói như chiếc bè; ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.” Ai nghĩ sao thì nghĩ, hiểu sao thì hiểu chứ đừng vội tin, nhất là không có gì phải hay trái nơi đây. Đúng hay sai, phải hay trái tự nơi mình nhận thức; sự thể, sự việc hiện hữu đâu lệ thuộc quan điểm mình cho là đúng hay sai. Riêng vấn đề này, quý anh chị làm ơn hãy đợi tới phần nói về Phúc Âm; chẳng có gì phải vội vã và ấm ức lúc này. Tuy nhiên, chắc quý anh chị ai cũng biết, nơi Phúc Âm lại có câu, “Phúc cho kẻ không thấy mà tin.” Tôi chân thành khuyến khích quý anh chị để tâm nghiệm chứng ngôn từ được gọi là tin được dùng nơi Phúc Âm, hy vọng đầu bò có thể sủa gâu gâu chăng. Cụ Tài vừa nói vừa mỉm cười trong khi liếc mắt nhìn Tình khiến ai nấy cảm thấy vui vui nhớ lại lời phát biểu của anh chàng lầm ngầm.
          - Thưa bác, Thanh lên tiếng, có thể rằng người tiền cổ Ai Cập đã nhận ra thực thể thân xác con người bao gồm hầu hết là nước, cỡ 85 phần trăm như khoa học ngày nay chứng minh nên huyền thoại Osiris được sinh ra bởi hơi nước có nguyên nhân từ nhận thức ấy chăng? Thêm vào đó, nếu cháu không lầm thì vị thế và cơ cấu của Kim Tự Tháp chứng tỏ một trình độ nhận thức về toán học và kỹ thuật khá cao. Mới cách đây mấy ngày, cháu đọc nơi net nói về sự thể Kim Tự Tháp trên khắp thế giới bắt đầu phát ra chùm tia năng lượng gì gì đó bắn lên bầu trời mà người ta đã có thể chụp hình được. Cháu cũng đọc đâu đó về nền văn minh Maya thời cổ đại rất phát triển; họ đã phát triển khái niệm “số 0” sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm, đồng thời kết quả tính toán về thiên văn học theo một không gian và thời gian dài cực kỳ chính xác. Dẫu hệ toàn thân của họ là 20 bắt nguồn từ nhận thức mười ngón tay, mười ngón chân, nhưng họ đã xác định chính xác độ dài của một năm là 365 ngày tức là thời gian trái đất quay hết một vòng quanh mặt trời, nhưng không hiểu tâm linh họ tiến tới đâu…
          Cụ Tài ra hiệu cho Thanh ngưng, đoạn nói,
          - Nhà bác học Albert Einstein có câu nói, “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức.” Tôi thuộc thế hệ già rồi; hơn nữa, những sách vở ngày xưa tôi tra cứu và nghiệm chứng không thể nào bằng những kiến thức được đăng trên hệ thống internet ngày nay. Mặc dầu biết được như thế, anh chị em cũng nên hiểu cho, với tuổi gần đất xa trời, sự tìm tòi hiểu biết sẽ chậm chạp hơn bất cứ anh chị em nào nơi đây; nên tôi khuyến khích mọi người nên tìm hiểu cho thấu đáo những vấn đề mình cảm thấy thao thức. Chẳng những thế, khi tìm hiểu qua sách vở hay qua mạng lưới điện tử, chúng ta cần tận dụng sự tưởng tượng nơi mình để nhận thức thêm về điều mà ngôn ngữ không diễn tả được hoặc tác giả đã không để ý mà viết ra. Tôi cũng có xem qua một số bài viết về lịch sử nền văn minh Maya nhưng không muốn đá động đến vì điểm chính yếu mà tôi muốn tìm là nhận thức tâm linh. Có giả thuyết nền văn minh Ai Cập được coi là tiếp nối của nền văn minh Maya, và nền văn minh Maya bắt nguồn từ những người chạy thoát khỏi sự chìm ngập dưới biển của châu Atlantide; nền văn minh này kiến tạo nên những Kim Tự Tháp; và mới đây, tôi cũng đọc qua sự phát sinh năng lượng của Kim Tự Tháp, nhưng những sự kiện này quá bất ngờ, tôi chưa suy nghĩ được gì có thể liên hệ tới hành trình tâm linh con người. Hy vọng anh chị em nào tìm hiểu và suy nghiệm thêm; may ra chúng ta thăng tiến phần nào sự thức ngộ nơi mỗi người chăng. Thôi, thời gian cũng muộn rồi, chúng ta tạm ngưng. Lần tới chúng ta sẽ nói về Đạo Đức kinh.
           
           
          MBVN 17
           
          - Chủ xị cho lần tới, giọng Tình kéo dài
          - Lần tới mời cụ và anh em quá bộ đến nhà tôi, ông Thung lên tiếng.
          - Đến nhà anh thì ai cầm chịch, rồi lấy gì mà uống; chẳng lẽ trà và bánh ngọt thì có gì hứng khởi cho đầu óc thông minh hơn. Không được, đến nhà anh lão thì có nhưng đạo thì không! Chán chết! Sỹ nhà con vội vàng nêu ý kiến.
          - Chú mày năng lực được bao nhiêu mà thông với minh, thông manh thì có, lại còn đòi thông minh hơn; phỏng chú có biết chú nói gì không?
          - Anh nói gì, bộ một tiểu đội mà chưa đủ năng lực sao; gấp mấy lần anh rồi! Thế hun đít cảnh sát mới thông minh sao!
          Số là tuần trước trời mưa dai dẳng khiến đường xá ướt nhèm. Chị Thung nấu món canh chua nhưng nhà hết me gói khiến ông Thung phải lái xe ra chợ. Gặp khúc đường đang sửa, bùn đất vữa nơi mặt lộ, chiếc xe cảnh sát phía trước nối tiếp đoàn xe với tốc độ cỡ ba mấy, bốn chục miles. Ông Thung trờ tới, ác hại thay, không hiểu chuyện gì phía trước khiến xe cảnh sát thắng gấp. Do thắng vội, xe ông Thung trượt trên bùn, cát nên đụng nhẹ vào cảng sau xe cảnh sát. May mắn, gặp được người cảnh sát trung niên dễ dãi, lại chẳng có gì hư hại nên ông Thung không bị chi rắc rối, không ticket, không warning.
          - Tớ đụng nhẹ để nhắc nhở ông ta quên không gắn phía sau bảng “Don’t Kiss Me.” Tớ đã chỉ cho ông ta sự thiếu sót nên đó không phải lỗi ở tớ mà lỗi ở cảnh sát. Chú mày đâu biết chi mà hun với đốt.
          - Vâng, đúng rồi, ông cảnh sát nên cảm tạ và lỡi ngãi vì bị hun đít xe.
          - Thôi, thôi, được mời lại còn chảnh. Giỏi lắm thì cũng chỉ uống một ly đã hơn ai, Tình đế vô. Tuy nhiên, nhà anh cả quá cận với hàng xóm lại hơi rộng nên có lẽ không đủ chỗ cho đám này đàn đúm, lỡ ca ok, oca phiền hà đến hàng xóm láng giềng. Tôi đề nghị, nếu không có ai xung phong thì xin mời về nhà tôi. Chuyến biển vừa qua tôi vớ được một đám nhệch (lươn biển), bán không ai mua, ăn chưa hết, mời bác và quý vị thưởng thức lẫu nhệch với bún, nhậu cá khoai kho tiêu sả ớt kèm theo rau diếp, lá thơm cây nhà lá vườn cả một rừng. Ai không đồng ý thì giơ tay; ai đồng ý, yêu cầu ngồi im.
          - Lẫu nhệch tạm được nhưng có phơi được ít nhệch khô nào không? Nhậu nhệch khô nướng đã quên chết. Nếu chú không có, tôi ủng hộ một ít, hay là đem nhệch và cá khoai sang nhà tôi nhậu, tôi phụ thêm nhệch khô nướng. Hê, hê, chú Sỹ thừa năng lực bê sang vài chai rượu, ít két bia để minh chứng xem có thông minh hơn được chút nào chăng!
          - Để tôi đem rượu sang, ai phúng điếu bia cũng được. Tôi có mấy chai “Bò Đi Ông,” Martin, Henessy, Cordon Blue Cordon bliếc gì đó và chai Crown Royal to tổ bố chẳng biết làm gì với chúng, chỉ chật chỗ; tôi sẽ mang tới có lẽ đủ để chú Sỹ say quên đường về cho chừa.
          - Hoan hô anh cả! Không ngờ năng lực của anh mạnh đến thế, nhà con sẽ cung phụng bốn két mười hai chai Heineken.
          - Nếu anh em nào có cơ hội, nên đọc cuốn Đạo Đức Kinh trước khi chúng ta gặp nhau nói về Lão học lần tới. Dẫu Đạo Đức Kinh chỉ có trên dưới năm ngàn chữ nhưng có khá nhiều vấn đề được đề cập. Hơn nữa, nếu có thể, anh em cũng nên đọc trước cuốn Nam Hoa Kinh của Trang Tử vì Nam Hoa Kinh phụ giúp cho hành trình nghiệm chứng Đạo Đức Kinh hoàn hảo hơn. Chúc quý anh chị em những ngày sắp tới may mắn….
           
          * * *
           
          Chiều nay, trời mưa nên không có đám nhóc nhưng lại có vợ chồng Tiên quán phở và cô con gái. Tiên mang theo một đùi dê hấp rượu mùi vị khác thường khiến ai nấy lòng ruột xốn xang, và vì chưa khai mạc do cụ Tài và Hưng chưa tới nên đành uống bia dằn bụng. Mấy người đàn ông, nhóm năm, nhóm ba bàn chuyện trời mây trăng nước hoặc vài vấn đề thiết thực làm ăn. Phía các bà, các chị cũng thế, nhóm nói chuyện ăn mặc hoặc chợ búa, mua bán; nhóm bình phẩm, nhận định người nọ, người kia. Sáu đứa trẻ, ba đứa con nhà Thanh, hai đứa con nhà Tình, cộng thêm con gái nhà Tiên bán phở, chia phe thảy bóng rổ lúc trời ngưng mưa.
           
          Sau khi chuẩn bị và kiểm soát món ăn chờ được dọn lên bàn, Thanh ra vườn hái mấy trái ớt tươi hầu giúp cho khẩu vị thêm đậm đà khi ăn món lẫu nhệch. Thanh chọn những trái ớt ương ương, mang màu hung hung gần chín tới. Loại ớt này ăn dòn, không cay gắt mà hương vị lại thơm. Mới bất một cây mà đã cả vốc ớt, Thanh phải bỏ vô túi áo vì khi ra vườn quên không mang chiếc rổ nhỏ hoặc bao nylon để đựng. Tay hái ớt, mắt nhìn những màu sắc xanh xanh của lá cây, đỏ đỏ ớt chín, hung hung hoặc xanh đậm hơn pha ố vàng của những trái ớt đang chờ được bất, Thanh miên man nghĩ tới sự hòa hợp tự nhiên của màu sắc rồi liên tưởng đến cuộc sống con người. Nơi cuốn sách nào đó có câu nói, cuộc đời sẽ dẫn dắt một người đi đúng con đường họ phải trãi qua.
           
          Từ thuở nhỏ tới ngày vượt biên, có bao giờ anh dám mơ tưởng ngày nào đó sẽ được đặt chân nơi miền đất Âu Châu hoặc Mỹ quốc. Thế rồi vượng lên tâm tình cảm thương cho anh em họ hàng, những người kém may mắn, thời này đang phải bươn trãi kiếp sống, vật lộn tiêu hao tháng ngày sao cho có đủ miếng cơm manh áo; rồi nào con cái nheo nhóc, vợ chồng lầm than mà vẫn lâm cảnh thiếu hụt, giựt gấu vá vai. Hình ảnh những trẻ em trên net nơi những bãi rác kiếm bao nylon đã bao lần gợi lại nơi tâm trí; Thanh chợt thở dài cảm thương cho phận người. Ôi, Thanh thầm hỏi, không biết những em nhỏ đó có cơ hội nào được nghe đến hai tiếng “Tương lai,” hay vì những đống rác quá cao so với thân xác các em nên đã bịt kín khoảnh trời trước mặt! Con đường nào cho các em đi, và nơi một xã hội con người mưu sinh khổ hơn con vật thì lấy gì làm căn bản để thăng tiến; đầu óc nào dám nghĩ đến ngôn từ thần thánh ấy. Ôi, tương lai! Tương lai dân tộc tôi!
           
          Những trái ớt nhắc nhở anh bữa nhậu sắp đến, nhệch khô nướng, lẫu nhệch, cá khoai kho tiêu sả, đùi dê hấp rượu, cơm, bún, rau rợ thập cẩm, rồi rượu, bia, nước ngọt, nước trà… khiến anh tự hỏi mình có thể làm gì giúp anh em, họ hàng nơi quê nhà. Một đất nước nghèo nàn tận cùng xã hội thì có bao nhiêu tiền gửi về cũng chỉ như gió thổi qua nhà trống. Trên net, rồi nghe tới, nghe lui, biết bao chuyện chẳng nên đã xảy ra cũng chỉ vì cảnh bần hàn. Có câu nói, bần cùng sinh đạo tặc, đói làm giặc, túng làm liều. Mấy lần gửi tiền để người em họ tráng xi măng nền nhà cho sạch tránh cảnh mấy đứa trẻ lê la bụi bậm, và người em thì qua lá thư nào cũng dùng ngón đòn kêu ca nhà cửa tường xiêu, vách nát. Hình như xã hội ấy đã biến con người thành thứ lừa đảo, kiếm đủ mọi cách để lạm dụng tình thân, miễn cào cấu được chút nào hay chút ấy. Dẫu ruột thịt, thế mà chỉ vì muốn moi móc của không cần mồ hôi, người ta đã dùng những ngôn từ một cách sắc sảo, độc ác khiến cho người đọc mang cảm nghĩ tội lỗi nếu không cho họ tiền. Cô em họ bán nước đá nơi một góc chợ, mình gửi tiền hàng tháng cho ba đứa con cô ta đi học; mới được tháng thứ ba, đã nghe tin cô ta nghỉ bán nước đá, viện cớ mỗi ngày chỉ lời được hơn trăm ngàn! Nỗi buồn bực nào đó dâng lên nghèn nghẹn cổ, Thanh thở dài! Mình làm được chi!
           
          Tiếng xe máy bể ống bô xé không gian vòng về phía sân sau nhà cắt ngang tâm tưởng khiến Thanh ngẩng lên nhìn. Sỹ nhà con đeo cặp kiếng đen úp chụp nửa khuôn mặt; phía sau, chị vợ thoải mái đôi tay bám vai chồng. Ah! Hôm nay chị này diện đúng mốt anh hùng xa lộ, quần ống tuýp, áo ngắn tay trễ lưng, tóc cột đuôi ngựa. Dẫu có chút tuổi, con cái cả tá, nhưng trời ban cho chị ta thân hình thon thả, mi nhon, lại luôn luôn tươi trẻ. Nhìn cặp vợ chồng này đi xe máy thấy cũng hay hay, chỉ tội nó kêu phá làng phá xóm, điếc cả tai.
           
          - Vô thôi, bác tới rồi, Sỹ hướng về Thanh la lớn.
          - Sao ông biết? Thanh hỏi.
          - Tớ chạy phía sau xe của Hưng mà. Vô thôi!
          - Sao giờ này ông bà mới tới? Tụi nhóc đâu?
          - Cái quân Mỹ vàng ấy đâu biết ăn lẫu nhệch nên tớ phải đi tha về một giỏ Kentucky fried. Trên đường về, không biết đứa nào hếch mắt lên, đường thì chẳng chạy, lao ngay xuống rãnh nên kẹt xe cả nửa tiếng đồng hồ; bởi vậy, tớ vác cái ông bể bô này e lỡ kẹt đường nữa thì lách cho tiện.
          - Tưởng ông bà tham gia trình diễn hoa hậu xa lộ chứ.
          - Anh Thanh lầm to rồi. Ông ấy đâu chịu; sợ đông người chiêm ngưỡng mòn vợ ổng thì sao! Chị Sỹ lên tiếng.
          - Bu mày nói đúng đó. Lỡ thằng nào nó bợ mất bu mày thì lấy ai thưa kinh!
          - Ối dà! Từ ngày lấy nhau đến giờ ông mới nói được một câu nghe tàm tạm.
          Ông Thung mở cửa sau bước ra, lên tiếng,
          - Cụ tới rồi, các ông các bà đi du hí mãi đâu mới về?
          - Ông sắp xếp anh em an vị; tôi còn phải rửa món cay đắng này, Thanh trả lời.
           
          - Hôm nay anh cả làm chủ xị, có chị hai chứng dám nếu không lại bảo tụi này không biết kính lão đắc thọ. Sỹ nhà con chưa kịp ngồi vô ghế đã oang oang phát biểu.
          - Các chú định đưa lão vào rọ hay sao! Chẳng nói giấu gì cụ và anh em, mấy cháu nhà tôi chúng biết bố chúng không uống rượu nên biếu rượu để chưng, ngụ ý luôn luôn nhắc nhở lòng hiếu thảo của con cái mỗi khi ai vô nhà. Thế nên, thứ nhất, nhà tôi không có tủ chưng chén kiểu, ly cảnh, phương chi chưng rượu. Đàng khác, quăng vô thùng rác thì tiếc, để vô góc nhà e bị mốc hoặc bay hơi hết chăng. Điều khốn khổ nhất lại là chúng chiếm hết chỗ đi lại; thôi thì mang qua đây nhờ quý vị rước đi cho nhà cháu nhờ. Nhưng mọi sự kể ra cũng chưa phiền hà bằng nỗi e sợ của chị hai…
          - Cái ông này, chị Thung kêu lên…
          - Cái với con gì, ông Thung quay qua vợ giả bộ oan uổng, bà ấy cứ sợ lỡ tôi uống say ngủ quên.
          Mọi người phá lên cười trong khi chị Thung cảm thấy hơi lạ không hiểu vì sao họ cười. Ông Thung giơ tay làm hiệu ngưng cười, nói tiếp,
          - Vì chúng tôi, kể là cũng có tí tuổi, không biết sống chết lúc nào, nên tối nào cũng tụng kinh. Bà ấy sợ tôi uống say ngủ quên tụng kinh. Bằng chứng là mấy lần đầu nhóm họp với anh em để nghe cụ nói, lỡ về muộn nên bà ấy cứ cằn nhằn ham vui quên cả kinh sách. Mà đâu phải nhắc nhở nhiều chi, bà ấy nhắc đi, nhắc lại ít ít thôi, cả ngàn lần. Tôi xin phép được hỏi cụ và anh em, dẫu có tí tuổi nên hay quên thì cũng chỉ cần một vừa, một phải, dăm bảy trăm lần là quá đủ, đàng này cả ngàn lần nên cuối cùng tôi phải bợ bà ấy đi theo để được chia sẻ thú đau thương cùng tôi cho trọn đạo nghĩa vợ chồng. Đến đây, tôi xin hết lời, cảm ơn cụ và quý anh em đã chịu khổ nhịn thèm để nghe.
           
          Thế là ầm lên những tiếng vỗ tay, cười nói hả hê. Chị Thung thấy lòng mình vui vẻ thoải mái với mọi người, không ngờ ông Thung dạo này ăn nói hoạt bát, lanh lợi ngược hẳn lại kiểu cách đã bao lâu nay kín đáo, nhẹ nhàng, và chừng mực e mất lòng người khác hoặc lỡ mang tai tiếng. Ông Thung lấy chai Hennessy XO, mở nắp, rót vô ly của cụ Tài, sau đó rót cho mình, đoạn chuyền cho người kế tiếp. Đến người cuối cùng bên tay phải cụ Tài là anh Thanh thì chai rượu cũng vừa hết.
           
          * * *
           
          -Hôm nay chúng ta nói về Lão học, cụ Tài lên tiếng sau khi bàn ăn đã được dọn dẹp sạch sẽ chỉ còn lại chén, tách uống trà và những chai bia. Đã có anh chị em nào đọc qua cuốn Đạo Đức Kinh chưa?
          -Thưa bác, cháu có đọc bản dịch và diễn giải của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần và một đôi bài viết trên internet, nhưng cháu cảm thấy hình như các tác giả cứ lòng vòng phía ngoài, hoặc nhận định Lão học một cách quá ư phiến diện, hay cho rằng Đạo Đức Kinh là một thứ triết lý nhận định về cuộc sống. Đại khái, nói chung, dẫu có người Tây phương nghiệm chứng phần nào về Lão học đã đào sâu về những kinh sách, quan niệm thời hơn kém ba ngàn năm trước được coi như những thành phần cấu tạo nên Đạo Đức Kinh, nhưng hình như lối nhận định của họ vẫn bị ảnh hưởng nặng nề diễn giải cho người khác hiểu chứ không nói lên được kinh nghiệm nghiệm chứng hay thực chứng những công án nơi Lão học. Cháu dùng ngôn từ công án của nhà Phật để chỉ về những câu nói có vẻ nghịch thường nơi Đạo Đức Kinh; thí dụ, “Người biết không nói, kẻ nói không biết;” hoặc “Đi xa tức là về gần.” Nếu cháu không lầm, đa số các tác giả người Việt hay Tàu đều đã có những nhận định sai lầm về Lão học, ngay nơi câu khởi đầu của Đạo Đức Kinh, “Đạo khả đạo phi thường đạo.” Thiển nghĩ, theo ngôn ngữ, không thể dịch tên riêng nhưng họ đã diệt tên riêng, biến chữ “Tào” sang chữ “Đạo.” Tào có nghĩa quyền lực tối thượng, thực thể Uyên Nguyên, hoặc Thượng Đế, Thiên Chúa, Ông Xanh, Ông Trời thế rồi giải nghĩa Tào là Đạo, Đạo là đường, “the Way” để suy luận theo lối nhìn triết học và cho rằng Lão học là đường lối dạy con người theo lối sống thế tục trong khi Lão học, Phật học, Trang Tử, Ấn học, Kinh Thánh, Phúc Âm, là những đạo học, những phương tiện cho con người nghiệm chứng nơi hành trình tâm linh hầu thức ngộ. Thưa bác, đại khái như thế, nói ra vô cùng và cũng chẳng nói được gì. Thanh nói một hơi và cho rằng chẳng nói được gì.
           
          - Anh chị em đã có ai nghiệm được câu nói của Lão học, “Người biết không nói; kẻ nói không biết” chưa? Đã có lần tôi nhắc qua nhưng nếu không để ý nghiệm chứng, chắc có lẽ anh em đã quên.
          - Thưa bác, cháu có thể kể về trường hợp nghiệm chứng của mình không vì cháu thấy lần trước bác giải thích và thường thì nhắc đến ngôn từ nghiệm chứng, thực chứng chứ chưa dẫn dắt chúng cháu nghiệm chứng. Thế nên, cháu nghĩ kể lại kinh nghiệm nghiệm chứng may ra mang lại hữu ích chăng; cháu không dám đoan quyết.
          - Anh nói đúng, và tôi đã cố ý không trình bày bất cứ kinh nghiệm nghiệm chứng nào vì như tôi đã nói, giải thích chỉ làm hại anh em; có chăng chỉ giải nghĩa phớt qua với chủ đích thách đố, nhưng hình như anh em thấy tôi già cả không thèm chấp nên không ai nổi tự ái lên mà đào sâu vô những công án; nói cách khác, nghiệm chứng hoặc thực chứng công án. Sách vở cũng không trình bày bất cứ hành trình nghiệm chứng nào mà có chăng chỉ nói phớt qua hay giải nghĩa nên người đọc nếu không để ý, sẽ không bực mình vì lối nói mù mờ do tác giả đã không kinh qua nghiệm chứng thì cũng chẳng nhận thức được gì. Mời anh chia sẻ.
          - Thưa bác và mọi người, lần trước hình như chú Sỹ ngộ được câu “Nói như cái đếch,” chú có giải nghĩa được nhận thức đó không?
          - Thì có gì đâu, người dùng câu, “Nói như cái đếch” không bực tức mà người nghe lại xốn xang lòng ruột thì câu nói đó tự nó là nó, lòng ruột người nghe xốn xang hay không tùy lòng ruột của mình. Nói cách khác, câu nói, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng” không nói gì về lửa mà nói về phản ứng ngay tại tâm tư của mình. Cháu chỉ biết nói thế, không hiểu đúng hay sai, thưa bác.
          - Tôi nghĩ mọi người đều hiểu, và anh Sỹ giải thích rất rõ ràng, nhưng có anh em nào nghiệm chứng được câu nói đó, làm ơn giơ tay.
          Ba cánh tay giơ lên, Sỹ nhà con, Thanh, và Hưng.
          - Trước khi anh Thanh trình bày hành trình nghiệm chứng riêng của mình, tôi muốn nói về nguyên tắc nghiệm chứng. Nếu anh chị em thực sự muốn áp dụng; tất nhiên, anh chị em sẽ cảm nhận được niềm vui không thể diễn tả. Đó là, đem câu nói nào đó khó hiểu hoặc nghịch thường đối với mình áp dụng nơi chính mình; nghĩa là mình đứng vào trường hợp của câu nói đó để rồi lục lọi nơi kinh nghiệm ở quá khứ của mình. Suy nghĩ tới, suy nghĩ lui, kiếm đủ mọi cách, giải đủ mọi kiểu sao cho câu nói nghịch thường đó có ý nghĩa nơi nhiều trường hợp, đặc biệt trường hợp nào đó tương tự nơi kinh nghiệm của mình. Tôi chỉ có thể đề nghị như thế. Vấn đề không phải sự giải nghĩa của tôi mà chính là sự thực hành của mỗi người. Xét thế, có nói thêm cũng vô ích vì dẫu nói thêm cũng chẳng nói được gì. Nào, mời anh Thanh.
          - Thưa bác, cháu xin nói thêm một câu về phương pháp nghiệm chứng. Đó là, bất cứ câu nào nói về vấn đề hay sự gì, cũng đang nói về tâm hồn của chính người nghiệm chứng. Ai có tai thì nghe. Bây giờ cháu xin trình bày hành trình nghiệm chứng của mình về câu nói nơi Lão học, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.”
           
          - Số là năm 1975 cháu học gần xong lớp 12 thì chạy loạn ngày 30 tháng tư. Ba tháng sau được định cư tại Mỹ. Bố cháu có việc làm tại lò mổ heo, làm những công việc nặng mà người Mỹ không ai muốn làm như quét dọn chuồng nhốt heo, rửa những xoong, chảo, đường kính cao hơn đầu người cũng như quét dọn chung quanh bên ngoài xưởng nhốt heo. Được ít ngày cháu cũng nhận được việc làm tại hãng cung cấp nước cho thành phố, làm những công việc của một người phụ cho nhân viên để học thêm những công việc chuyên môn như cắt ống nước, làm ren ống, đào đất cho thợ sửa những ống nước bị rò rỉ. Sáu tháng sau, khi thấy gia đình tạm yên ổn với đồng lương nhân công của bố cháu, cháu nghỉ việc và nhập học lớp 11 vì nhà trường nói cháu cần học hai năm trung học chuẩn bị Anh văn trước khi lên đại học. Năm 1978 nhân tiện ghé qua một tiệm sách tiếng Việt tại thành phố Chicago vào hai tuần nghỉ thường niên khi về thăm gia đình, cháu mua những cuốn Phật Học Tinh Hoa, Lão Học Tinh Hoa, Tinh Hoa Đạo Học Đông Phương, Cái Cười Của Thánh Nhân và một vài cuốn khác để đọc dần. Cháu đọc cuốn Lão Học Tinh Hoa trước; vừa mở sách, ngay nơi trang thứ hai phía dưới nơi góc phải được in câu, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri,” đồng thời cũng in thêm câu dịch nghĩa, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Thế là lòng ruột của cháu nổi lên một trận hoang mang. Cháu đọc hết cuốn sách nhưng cũng chẳng biết đại khái cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần bàn luận những gì mà tâm trí lúc nào cũng vương nỗi thắc mắc vì câu nói nghịch thường, người biết không nói; kẻ nói không biết.
           
          - Ngày qua tháng lại, những cuốn sách khác đã được đọc hết, cháu đọc lại cuốn Lão Học Tinh Hoa… Tính cho tới năm 1989 vị chi 11 năm, cháu đã đọc cuốn này 5 lần mà cũng chẳng hiểu được gì. Sách nhà Phật, cháu muốn nói sách viết về Phật học chứ không phải sách viết về Phật giáo; cụ Nguyễn Duy Cần cũng như các tác giả khác nói về nào là định tâm, quán tưởng, công án tùm lum tà la. Những sách giảng kinh chẳng hạn Kinh Kim Cang, Kinh Viên Giác, Kinh Đại Niết Bàn, còn bày vẽ thêm tâm Phật, tánh Phật; rồi nào kiến tính thành Phật, ngược lại gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp; nào ngũ tổ Hoàng Nhẫn cầm gậy đánh chó giơ lên thách đố trước ba ngàn môn đồ,”Nói đi, cái này là cái gì; nói rằng nó là cây gậy đánh chó, ta đánh cho 30 hèo; nói rằng nó không phải là cây gậy đánh chó ta cũng đánh cho 30 hèo; nói đi, nói đi,” trong khi ba ngàn môn đồ miệng như ngậm thóc, không ai dám lên tiếng. Sách về Ấn học cũng thế, nào là Hattha Yoga, nào Kyrâ Yoga, muôn ngàn thứ công phu, quán tưởng, quán tính. v.v… Sách nào cũng hay, pháp nào cũng tuyệt vời nhưng chẳng giúp ích gì cho cháu. Nơi cuốn Phật Học Tinh Hoa, cụ Nguyễn Duy Cần còn ghi lại câu truyện thức ngộ của hòa thượng Hương Nham và cũng chẳng giải thích gì. Cụ còn ghi lại một số truyện nơi Nam Hoa Kinh và những câu nói khác thường đóng thành cuốn Cái Cười của Thánh Nhân. Qua sách vở, cháu thấy nơi vườn đạo học đông phương được ghi lại lắm vị chân nhân, nhiều người thức ngộ, kẻ thì đốn ngộ, rồi nào tiệm ngộ, lại đến tông phái này, đạo giáo kia chỉ những danh hiệu không cũng nhớ chẳng hết phương chi phép tắc, pháp luật, rồi kinh, rồi niệm, bùa nọ, chú kia, nhào nháo như món gâm bô của Mỹ. Đọc những sách đó, cháu cảm thấy mình ngơ ngơ chứ không ngộ được chút nào. Thế nhưng, câu quỷ quái, người biết không nói; kẻ nói không biết cứ như tà ma, luôn luôn ám ảnh tâm tư. Do đọc những sách về đạo học Đông Phương, cháu bị tiêm nhiễm nên phần nào, chắc cỡ chững vài phần trăm, nói ngang giống họ bởi vậy đôi khi vô tình nói về vấn đề nào đó, bạn bè, người chung quanh đều lên án cháu nói ngang, hoặc khác thường. Có điều, cháu đồng ý với tác giả Lin Yu Tang khi ông viết nơi cuốn được dịch là Một Quan Niệm Sống Đẹp, bên Tây Phương không có đủ nhà tù để nhốt kẻ điên trong khi nơi Đông Phương chúng tôi, có người điên nào thì lại được vô cùng kính trọng và sùng bái; chẳng hạn, Lão tử, Thích Ca, Giêsu.
           
          - Thế rồi cháu để ý tới cuốn Kinh Thánh sau khi đọc về mấy kinh chẳng hạn kinh Bhagavad Gìta, được dịch là Chí Tôn Ca, Viên Giác, hòn giác. Có điều lạ lùng, vì theo đạo Công giáo nên khi để ý, cháu thấy mấy Phúc Âm còn nói ngang hơn mấy vị chân sư, tổ sư. Thế mới lạ kỳ, nhưng sao không thấy ai cho là nói ngang, nói ngược trong khi những lời viết trong đó còn nghịch thường hơn; chẳng hạn, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết,” hoặc, “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất nó.” Nơi cuốn Cái Cười Của Thánh Nhân, cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại hai câu, khi mới đọc chúng khiến cháu giật mình, đó là, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương,” và câu khác, “Thượng Đế và Satan là một.”
           
          - Cháu đánh đàn cho ca đoàn hát nơi nhà thờ nên để ý nghe giảng giãi Phúc Âm nhưng chỉ thấy Phúc Âm được giải nghĩa như những bài học luân lý. Dĩ nhiên, nếu hiểu Phúc Âm theo quan điểm luân lý thì phải đối diện với câu nọ chống nghịch lại câu kia không thể nào hòa giãi hợp lý hợp tình được. Tuy nhiên, cháu không dám ý kiến, ý bọ, bởi e rằng bị kết án rối đạo thì quả là phiền. Nói ra thì mang họa mà không nói ra thì lòng ruột ấm ức. Thôi đành học theo Khổng học, ngũ thập tri thiên mệnh. Chuyện đời là thế, nên sống sao cho êm đẹp mọi bề bởi chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết. Đôi lần nghe giảng giãi câu Phúc Âm, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.” Cháu tìm hiểu lỗ kim là thế nào và nhận ra, cho dù được ám chỉ là chiếc cổng hẹp hoặc lỗ kim may vá thì cũng không cách nào con lạc đà chui qua được. Hoặc câu, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi,” đâu ai áp dụng theo nghĩa từ chương hay luân lý đâu. Cháu nghĩ, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, đó là một kiểu khuyến khích con người sống buông thả một cách tuyệt vời.
           
          - Cháu cũng đọc những câu truyện khuyến khích suy tư chẳng hạn nơi 12 cuốn sách của Anthony de Mello hoặc những công án, nhưng không hiểu tại sao câu nói nơi Lão học cứ luôn luôn dằng dai ám ảnh chẳng khác gì quỷ ám, ma đùa, hết tháng nọ qua tháng kia rồi năm này qua năm khác. Mãi cho tới năm 1989, tức là hơn kém 11 năm, vô tình cháu đọc cuốn Hành Trình Về Phương Đông, bản dịch từ cuốn The Journey to the Far East, cháu không nhớ rõ người dịch là Nguyễn Hữu Kiệt hay Nguyên Phong. Về sau cháu được biết tác giả bản tiếng Anh là một người Mỹ, sinh sống tại Texas, sách được viết qua dạng tập truyện ngắn và dùng lối nhìn vật lý để minh chứng quyền lực hiện hữu hay quyền lực sự sống đang hoạt động nơi mọi loài, mọi vật. Nhờ nhận thức này, cháu bạo phổi, thay vì dùng danh hiệu Thượng Đế, Ông Trời, Thiên Chúa, Chân Như, Brahma, Tào, v.v… để chỉ về quyền lực tối thượng, cháu dùng danh hiệu Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự Sống nơi mọi loài, mọi vật. Từ đó, cháu nhận thấy những ngôn từ chẳng hạn tạo dựng, hoặc ban phát hay gì gì đi nữa đã bị dùng sai hoặc cố tránh né do không dám chấp nhận thực thể quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống đang chan hòa và hoạt động cũng như ngự trị nơi muôn loài.
           
          - Thế rồi bỗng một hôm vô quán cà phê của một cặp vợ chồng quen biết, cháu gặp trường hợp họ đang tranh luận về sự ăn mặc và cung cách sống của đứa con gái 14 tuổi. Nói qua nói lại, vô tình cháu hỏi một câu ngớ ngẩn, “Vậy giả sử chị thương anh ấy hơn là ý kiến riêng thì sao!” Đồng thời câu hỏi tiếp theo, chị thương anh ấy đến độ nào? Chị ta trưng lên nhiều sự việc, khía cạnh đầy vẻ ngớ ngẩn và nói đó là dấu hiệu của tình yêu. Cuối cùng, chị ta đâm quạo, phát biểu, câu hỏi gì kỳ vậy, yêu thương thì chỉ biết chứ sao có thể nói được; ngôn bất tận ý. Vừa nghe thấy trả lời thế, cháu nghiệm được câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Theo cháu, câu này chính thức phải là, người biết nhưng không thể nói và càng cố gắng giải thích thì cũng chẳng giải thích được gì. Sở dĩ câu này dằng dai 11 năm làm khó cháu có thể bởi vì người ta cố ý cắt bớt, thay vì không thể nói lại đánh lận con đen, và cũng không thèm đưa thí dụ.
           
          - Để kết luận, cháu thấy muốn nghiệm chứng câu nào hay công án nào, việc đầu tiên là tâm trí luôn luôn bị câu đó luẩn quẩn thách thức. Thứ đến cần phải suy nghĩ bằng mọi cách đồng thời tìm hiểu qua mọi phương diện sống. Cuối cùng, một điều không thể thiếu đó là cơ hội. Nếu tâm trí không luôn luôn để ý, cháu tạm gọi là luôn luôn định tâm tìm hiểu, cơ hội có tới cũng không thể nào kiếm lại, chẳng khác gì “Phúc bất trùng lai.” Qua kinh nghiệm này, để nghiệm chứng, cháu thấy cần phải hòa mình vào câu nói, đóng một vai trò nào đó vì cái gốc của câu nói ngay nơi chính mình. Bởi thế đã có câu nói, bất cứ những gì chúng ta có thể hiểu được đã có sẵn trong ta. Những gì không được sinh ra với chúng ta, sẽ không bao giờ chúng ta có thể hiểu được.
           
          - Khi đã ngộ được câu đó, đối với những câu khác, ý tôi muốn nói, những công án khác? Cụ Tài lên tiếng hỏi.
          - Có thể rằng, thưa bác, qua 11 năm tâm trí vật lộn với nỗi thao thức nhận biết, cháu đã có được thói quen, tạm gọi như vậy để áp dụng vào sự nhận thức những vấn đề khác. Có điều, mình có được niềm vui bất tận nhưng đồng thời lại trở thành cô độc tuyệt đối bởi không kiếm được ai chia sẻ, thách đố thăng tiến thêm. Ngay cả đối với vợ mình là người thân thiết nhất, hiểu mình nhiều nhất cũng như mình biết nhiều nhất vẫn vô phương thông cảm, có chăng được, hay bị chấp nhận mình, rất phù hợp câu nói, “Người biết không nói.” Riêng đối với những công án khác, hay những câu nói đạo học khác, hình như chúng cùng nhau tụ hội thành một chân trời mở rộng cho mình xông xáo tạo thêm năng lực chấp nhận nỗi cô độc nhân sinh. Nhưng thật lạ, hình như sự cảm nghiệm hay nghiệm chứng tạo nên thực trạng hơi kỳ cục và đó là sự nghiệm chứng cá nhân chỉ đúng nơi tâm tưởng, chẳng nên rao bán hay nói ra, bởi nói ra sẽ trở thành cớ cho những đầu óc thế tục vấp phạm.
          - Lại càng cô độc, Hưng đế vô.
          - Vâng, thưa đúng như thế. Thật ra, khi đã tự mình nghiệm chứng được công án nào đó tất nhiên có được kinh nghiệm nên sẽ nghiệm chứng những công án khác dễ dàng hơn do đó dễ gặp phải một lầm lỗi dễ thương hơn có thể do lòng tốt muốn khuyến khích người khác thức ngộ và cũng có thể có ý định tìm hiểu xem điều mình cảm nghiệm được có thực sự không còn thiếu sót chăng. Người có ý định nghiêm chỉnh như thế sẽ dễ dàng chia sẻ nhận thức với người khác. Nhưng sau một thời gian, hồi tưởng lại chắc chắn người ấy sẽ nhận ra bao cố gắng của mình đều tốn công vô ích. Cháu chỉ dám nói về kinh nghiệm cá nhân của mình. Lần đầu tiên nghe thấy câu, “Không thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vào được” đã khiến cháu giật mình. Nó gợi lại đã không biết bao lần ăn năn vì ý định tốt lành của mình vô tình kết quả đúng vào trường hợp câu nói nơi Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Ăn năn chẳng biết bao lần và vấp phạm cũng không thể đếm được khiến cháu sinh mặc cảm và tự hỏi bộ mình muốn nổ sao!
          - Vậy anh giải quyết cách nào? Cụ Tài lên tiếng, tôi hỏi với mục đích ngăn ngừa, hoặc nói cách khác, một ngày nào đó có những anh em nơi đây tới thời điểm thức ngộ, họ biết trước để tránh bớt mặc cảm kết án chính mình.
          - Thưa bác, thấy người ta luẩn quẩn trong nhận thức hạn hẹp thế tục nên mình muốn giúp họ nhận thức vượt lên, nhưng mình nói gà, họ nói thóc. Nhiều khi có người nói như tát vào mặt mình và chắc chắn họ sẽ cho mình là thằng khùng. Đúng, dưới con mắt nhận định thế tục, người thức ngộ đúng là thằng khùng; thằng khùng bởi vì ngu xuẩn dám đem của thánh cho chó và cũng bởi chưa ngộ được câu nói quá ư đơn giản, không thể bổ đầu bò mà nhét óc cho vô được. Cháu đang có ý định sẽ tìm tòi nơi kho tàng Tục Ngữ, Ca dao xem có được câu nào nói về trường hợp này không. Dĩ nhiên, khi nhận ra lòng tốt, ý định ngay chính nơi mình đã trở thành cớ vấp phạm cho người khác và đã nhận thực được lời cảnh cáo nơi kinh sách cháu đã quyết định dẹp bỏ cái lòng tốt ngây ngô của mình để mở rộng lòng chấp nhận người khác như chính họ; họ ra sao, hãy để họ an vui với thú vui của họ. Tuy nhiên, thấy người ta luẩn quẩn mà không nhào vô giúp họ chắc chắn được gọi là độc ác. Ôi, cái lòng tốt hại mình, phiền lòng người này quả là đáng chán. Có lần cháu nghĩ tới cảnh con nhặng xanh bay tới đậu trên xác một con chuột chết xình, đẻ trứng và chúng nở ra những con giòi bò lổm ngổm, ăn thịt vữa nơi xác con chuột chết xình. Khi đẻ xong, con nhặng xanh bay đi thì những con bọ lên tiếng khinh khi cho rằng con nhặng xanh ngu xuẩn vì không biết thưởng thức thiên đàng chúng đang an hưởng. Nghĩ như thế nhưng cháu tự hỏi lại, mình là con nhặng xanh hay là con bọ đang lúc nhúc nơi xác chuột chết!
          - “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói,” Sỹ nhà con lặp lại câu cách ngôn nơi Kinh Thánh; “Đừng đàm luận với kẻ ngu xuẩn, kẻo cả con nữa, con sẽ trở nên gìống nó.” (KT)
          - Thế anh quyết định ra sao? Cụ Tài lại hỏi.
          - Thưa bác, cháu chẳng quyết định được như thế nào vì không nói thì độc ác mà nói ra lại trở thành cớ cho người khác vấp phạm. Trạng thái này giống như thân phận chiếc lưỡi bị kẹp giữa hai hàm răng, trên đe, dưới búa.
           - Tôi tóm lược đại khái về hành trình nghiệm chứng; anh em nên để ý. Đó là luôn luôn đặt vấn đề về một câu nói, về một công án nào đó qua nhiều phương diện nhưng tâm điểm là chính mình. Kiểm chứng hay lục lọi nơi kinh nghiệm quá khứ, câu nói đó rơi vào trường hợp nào trong cuộc đời của mình. Đặc biệt, không nên sợ sai lầm vì diễn trình này chỉ xảy ra nơi tâm trí anh em, đâu ai có thể biết được. Đây chính là thực hành định tâm; tâm trí luôn được định nơi một câu nói để suy nghĩ, suy nghiệm. Tuần này, tháng này, năm này chưa nghiệm ra, cứ tiếp tục suy nghĩ tới khi nào nghiệm được mới thôi. Chúng ta biết rõ, thân xác chúng ta, cuộc đời mỗi người, và những hoạt động hay sự việc xảy đến chung quanh, cũng như sách vở, internet, những cuộc nói chuyện với người khác đều là phương tiện giúp chúng ta thức ngộ. Vấn đề chỉ là chúng ta có liên tục để ý tìm hiểu hay suy nghiệm câu nói đó hay không. Tất cả những sự giải thích, giải nghĩa cũng chỉ đều là phương tiện. Cho tới khi tự mình nghiệm được câu nói hay công án nào đó; những công án khác sẽ dề dàng được nghiệm chứng. Tuy nhiên lại cần để ý câu nói nơi Lâm Tế Lục, “Gặp Phật giết Phật; gặp pháp bỏ pháp.” Tất cả những gì được gọi là giải thích đều không phải tự mình, chúng chỉ là phương tiện chứ không phải tự mình chứng, chúng là sản phẩm của người khác, không phải là điều mình ngộ. Và khi đã ngộ rồi chúng ta lại phải đối diện với một thế giới hữu vi tràn ngập chung quanh. Lời khuyên tuyệt vời chúng ta có thể thấy nơi Kinh Thánh. Nơi Cựu Ước thì rõ ràng, mộc mạc, “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói.” Nơi Phúc Âm, chúng ta đọc được, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo…”
          - Thưa bác, một cánh tay đưa lên.
          - Anh Sỹ muốn nói gì?
          - Thưa bác, tại sao lời Kinh Thánh nặng nề khinh thị con người như thế? Giọng Sỹ có vẻ bực bội.
          - Tại ngu quá mà, Tình đế vô.
          - Người ta bảo ngu như lợn thì người ngu được gọi là lợn chứ có gì mà phải sao với giăng, Phủ lên tiếng.
          - Chả biết ai ngu, bạn của người ngu có lẽ ngu hơn đứa ngu, Sỹ đáp trả.
          - Yêu cầu anh em nghe bác phá ngu, ông Thung đành dẹp loạn.
          - Tại anh theo đạo Công giáo nên cho rằng lời Kinh Thánh là Lời Chúa và cũng cho rằng Chúa không có quyền ăn nói cay đắng như thế. Lời Kinh Thánh là những lời khôn ngoan trãi dài từ thế hệ này qua thế hệ khác được gom tóm lại dưới mọi hình thức hầu giúp con người thức ngộ. Tôi nói anh em nên để ý, những lời khôn ngoan khi đến tai những kẻ thế tục mang vẻ rất ác nghiệt, khinh thị. Thứ nhất, những lời khôn ngoan chỉ nói về tâm linh, nên là phương tiện cho những hành giả tâm linh thức ngộ. Thứ hai, tất nhiên, nơi hành trình tâm linh, bất cứ những gì cản trở phải được dứt bỏ. Đâu phải phi lý mà nơi Lâm Tế Lục có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp pháp bỏ pháp, không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Đến ngay những lời giải thích, giải nghĩa, pháp của vị này, lời khuyên của vị kia cũng bị coi như cản trở thì những kẻ chạy theo thế tục để được nọ được kia bị coi là heo, là chó hãy còn quá nhẹ. Đồng ý rằng chúng ta vì có cuộc sống nhân sinh nên phải chăm sóc cho thân xác và bảo vệ cuộc sống nơi mình, nhưng cuộc sống nhân sinh không thuộc về chúng ta mà chỉ là phương tiện, là cơ hội cho chúng ta thức ngộ. Không biết dùng cuộc đời này để thăng tiến tâm linh, để thức ngộ thì có gọi là ngu, là lợn hay chó nào khác chi vì cả đời cũng chỉ kiếm miếng ăn sống qua ngày rồi chết không hơn.
          - Ới ngu ơi là ngu, Tình kéo dài giọng than.
          - “Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó; chết xuống âm phủ, biết có hay không.” Người Mỹ có câu nói, “You are what you eat.” Thích ăn dồi chó mà không chấp nhận bị gọi là chó mới là điều lạ thường. Phủ chêm vô.
          - Ăn thịt lợn thì giống lợn, nhưng Kinh Thánh nói là heo chứ đâu phải là lợn mà chạnh lòng… ha ha. Hưng lên tiếng.
          - Mấy cái ông này, bác đang nói thì cứ rối lên heo với chó, vợ Sỹ than!
           
          - Tuy nhiên, cụ Tài giơ tay ra hiệu và nói tiếp, không phải cứ suy nghiệm là có thể tự động ngộ được một công án hay câu nói bất thường. Luôn luôn định tâm về một công án cũng cần cơ hội để thức ngộ. Vì tâm trí luôn luôn định hay để ý về điều nào đó nên khi gặp lại được sự kiện nơi quá khứ hoặc vô tình sự kiện nào đó chung quanh phù hợp kích hoạt sự nhận thức, hành giả, người nghiệm chứng mới có thể ngộ. Tôi đưa ra một công án rất thường để anh em thử nghiệm chứng, “Đánh mày, đánh tao.” Tôi nói trước, anh em nên để ý may ra có thêm kinh nghiệm về nghiệm chứng. Bây giờ chúng ta bắt đầu đề mục chính đó là Lão học. Ngưng một chút, cụ tiêp,
          - Cũng như tất cả các đạo học khác, không ai có thể minh định chính xác Lão học có từ bao giờ. Xét ngay như mấy cuốn Phúc Âm sinh sau đẻ muộn nhất cũng chỉ biết được viết vào khoảng năm 70 đến 100 năm sau Công Nguyên. Một số nhà nghiên cứu về Lão học cho rằng sự thành hình của Lão học được gom tóm trong một thời gian dài từ ba ngàn cho tới sáu trăm năm trước Công Nguyên. Cũng giống như Tục Ngữ, Ca Dao của dân tộc Việt Nam, trãi qua các thời đại, những câu khôn ngoan được sắp xếp lại đồng thời bổ túc, thêm mắm, thêm muối, sao cho hợp lý, hợp tình nên khi đọc chúng ta thấy đôi khi tư tưởng thay đổi bất chợt, không liền lạc chuyển tiếp như những câu truyện chúng ta thường đọc. Một điều nên để ý đó là tất cả các đạo học đều nói về tâm linh, về nhận thức sự hiện hữu của con người và sự liên hệ giữa con người với Quyền Lực Hiện Hữu hoặc Quyền Lực Sự Sống tối thượng nơi con người và nơi tạo vật. Nói đúng hơn, ai cũng đang có sự sống, quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi mình nhưng không được để ý. Đạo học nói về sự sống này nơi mỗi người và hành trình cũng như phương cách để nhận thực bản thân mà lục tổ Huệ Năng gọi là bản lai diện mục. Nhà Phật gọi là Tính hay Tánh, và chúng ta thường gọi là linh hồn. Bên Ấn học gọi là Atman.
          - Lão học dùng danh xưng Tào để chỉ về Quyền Lực Tối Thượng, Quyền Lực Hiện Hữu, Sự Sống hay Thượng Đế. Nếu đem so sánh danh xưng, chúng ta thấy nhà Phật với danh hiệu Chân Như, Ấn học thì gọi là Brahma, Kinh Thánh gọi Thiên Chúa. Và nếu so sánh các cách thức hay phương pháp để thức ngộ, tức là để nhận thực được bản lai diện mục của con người thì quá nhiều, muôn ngàn pháp không thể kể cho xiết chẳng khác gì ngạn ngữ chúng ta thường dùng, “Đông thày thối ma, nhiều cha con khó lấy chồng.” Tuy nhiên, mục đích của các pháp, các hành trình, cho dù chiêm nghiệm, chiêm niệm, hoặc minh triết, tựu trung chỉ là, tôi tạm mượn nguyên tắc của lục tổ Huệ Năng, “Kiến Tính thành phật.” Tất cả các đạo học là sản phẩm của các nhà thức ngộ, những người đã kiến tính, đã nhận thực được mình là ai, mình thế nào, liên hệ ra sao đối với thế giới, vũ trụ này và với Quyền Lực Hiện Hữu Tối Thượng đang hoạt động nơi mình và vạn vật, với vũ trụ vô biên giới này. Thế nên, Lão học chính là thành quả gom tóm sự khôn ngoan về hành trình nhận thức tâm linh từ ngàn xưa của dân tộc Trung Hoa, và cuốn sách được dịch là Đạo Đức Kinh nơi bản dịch tiếng Việt được gọi là Tào Tề Chinh, xuất hiện cỡ sáu trăm năm trước Công Nguyên. Biết như thế, bây giờ chúng ta thử xét xem, Lão học nói gì, và diễn đạt thế nào.
           

           
           
            
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2017 22:19:40 bởi lamongthuong >
          #5
            lamongthuong 06.12.2017 22:25:04 (permalink)
            MBVN 18

            - Ai cũng nhận thấy suy nghĩ rất khó vì muốn suy nghĩ cần có những kiến thức tối thiểu và những mối liên hệ về điều mình để ý tới; thế nên người ta ngại suy nghĩ. Thêm vào đó, tùy theo nhận thức, kiến thức sẵn có, sự suy nghĩ sẽ bị ảnh hưởng để rồi đưa đến những nhận định không được toàn vẹn. Đàng khác, chiều hướng suy tư ảnh hưởng nặng nề đến thành quả nhận định. Chẳng thế mà đã có câu, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Kiều). Đọc Đạo Đức Kinh, nếu vội đọc nhận định của những diễn giả chúng ta sẽ bị ngụp lặn trong muôn ngàn rắc rối do những chủ đích đã được định sẵn và dùng Lão học như phương tiện biện minh cho kết quả mà học giả, diễn giả muốn nhắm tới. Có người nhìn Đạo Đức Kinh qua lăng kính chính trị để rồi cho rằng Lão học dạy con người phương cách sống sao cho hợp thời, thuận theo giòng đời. Người khác rút ra những câu nói nơi Lão học với ý định chỉ về khoa chữa trị tâm lý hay tâm bệnh; kẻ lại biến Lão học thành căn bản cho tôn giáo qua cái nhìn luân lý thế tục.
            - Một vài tác giả mới đây đã có nhận định khác về Lão học qua hành trình cảm nghiệm chẳng hạn Richard Seymour nơi bài viết, “A Conversation with the Author of Tao Te Ching: Annotated & Explained,” hoặc Casey nơi bài viết “Introduction to the Tao,” nếu chúng ta đọc trên net. Cũng nơi net, vào thời điểm này (2015), có một vài bản nhận định tiếng Việt quá ư sơ sài và cũng chỉ lặp lại đơn sơ, phiến diện về Lão Tử ở Hàm Cốc viết bộ Đao ĐứcKinh.
            - Đại đa số học giả nghiên cứu về Lão học đều chấp nhận huyền thoại về văn bản Đạo Đức Kinh. Nơi cuốn sách Đạo Đức Kinh của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần, được chép, “Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc Nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ở Châu lâu, sau thấy Châu suy, nên bỏ mà đi. Đến cửa Quan, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: ‘Ngài toan đi ẩn, xin lượng vì tôi để lại bộ sách’” (ĐĐK; tập I, Tr. 11-12). Tuy nhiên, theo Richard Seymour, Tần Thủy Hoàng đốt sách, giết học trò, Mao Trạch Đông với cách mạng văn hóa nên Đạo Đức Kinh đã không còn giữ được nguyên bản do đã không được viết thành sách mà nguồn gốc lại do truyền miệng chẳng khác gì tục ngữ ca dao. Thế nên, cuốn sách được gọi là Tào Tề Ching (Đạo Đức Kinh) chỉ còn lại một phần nơi những người chạy sang Đài Loan.
            - Thiển nghĩ, ngay câu đầu tiên của Đạo Đức Kinh được viết, “Đạo khả đạo, phi thường đạo” đã là đầu mối cho cái nhìn phiến diện của biết bao học giả về Lão học. Tôi không biết gì về chữ Hán, nói chung về chữ Trung Hoa, nhưng hình như chữ Tào có giọng đọc hay cách viết giống chữ Đạo nên người ta viết ra thành chữ Đạo, hoặc bởi danh hiệu Tào Tề Ching được phiên âm sanh tiếng Việt thành Đạo Đức Kinh nên Tào thường được dịch thành Đạo và lại được suy diễn thành đường lối. Như vậy theo nghĩa này, Đạo Đức Kinh được viết để dạy con người sống cho có đạo đức theo Lão học. Xét theo danh hiệu, Lão Tử có nghĩa một vị thầy đáng kính trọng, không phải tên của một người và danh hiệu này cũng bị hiểu lầm là tên của tác giả cuốn Đạo Đức Kinh.
            - Như tôi đã tóm gọn, Tào đại khái có nghĩa Ông Trời, Thượng  Đế, Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự Sống. Chúng ta là hiện thể của quyền lực hiện hữu, sự sống mà nào ai biết cũng như không hiểu sự sống, sự hiện hữu của mỗi người, của mọi sự ở đâu ra. Ngay như tư tưởng thầm kín nơi mỗi người cũng phải có sự hiện hữu vì nếu nó không hiện hữu, sao có thể biết. Nói theo nhà Phật, bởi vì không thể đặt tên nên tạm gọi là Tào và Tào thì không thể nghĩ bàn. Nơi Đạo Học Đông Phương, nếu không để ý chúng ta sẽ bị rắc rối, phiền hà rồi suy luận sai lầm, luẩn quẩn trong việc phân định ngôn từ. Pascal có câu nói, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Anh em có thấy điểm nào tương đồng của câu này với câu “Đạo khả đạo phi thường đạo không.” Tôi muốn nói, phải gọi là, “Tào khả Tào phi thường Tào” mới đúng. Mấy anh em Công Giáo nên để ý suy nghĩ câu, Thiên Chúa mà chúng ta có thể hiểu được, nói được thì không phải là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm chứ không thể nói được gì. Tôi muốn đưa thêm một thí dụ về sự nhận định phiến diện đã bao lâu nay để anh em so sánh; chẳng hạn nơi Lão học có câu, “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.” Cũng vậy, nơi Dịch học cũng nói,“Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.” Ngay hình vẽ nhất nguyên lưỡng cực được gọi là thái cực sinh lưỡng nghi. Chữ “Sinh” mang nghĩa bao gồm chứ không phải phát sinh ra. Cũng như một người, bao gồm thân xác và linh hồn. Thái cực ngay nơi mình mà có bao giờ để ý đâu trong khi cứ dán mắt vào đồ hình rồi tụng niệm, thái cực sinh lưỡng nghi. Nói rằng Đạo sinh nhất, tất nhiên Đạo ở ngay nơi cái nhất.
            - Quá hay, Tình buột miệng!
            - Hay gì, Sỹ nhà con vội đế vô. Vậy ông có biết con gà có trước hay quả trứng có trước không?
            - Chỉ có thế mà không hiểu, về nhà đuổi gà cho vợ thì sẽ hiểu ngay. Nói rằng con gà sinh trái trứng và trái trứng sinh con gà thì con gà và trái trứng là một chứ không phải là hai. Còn con gà có trước hay trái trứng có trước, thời đó chưa có tôi sao tôi có thể nói; đó là việc của Tào. Mà Tào khả Tào phi thường Tào. Nghe chưa!
            - Đúng là thứ đổ bùn sang ao mà cũng nói. Tào gì, tào lao thì nghe rõ.
            - Mấy cái ông này, bác đang nói thì cứ chõ miệng vào. Thôi im đi cho người ta nhờ. Vợ Sỹ lên tiếng.
            - Thế bu mày vẫn chưa hiểu bác nói gì à? Tào hiện hữu thành bu mày và bu mày với Tào là một vì bu mày bao gồm Tào và cái xác mụ đàn bà… Bu mày đã biết Tào là gì chưa. Người ta đang dùng biện chứng để suy nghiệm… bốp… hắn đập thẳng thừng con muỗi vo ve bên má, miệng lẩm bẩm, mày dám vào phe mụ ấy để dọa tao sao, đoạn ngửa bàn tay phủi con muỗi chết bẹp… trong khi Tình lại a lên một tiếng.
            - Có chuyện gì vậy anh Tình, cụ Tài hỏi.
            - Thưa bác, đánh mày, đánh tao.
            Mọi người chợt vỡ lẽ tại sao cụ Tài đưa lên công án đơn giản.
            - Tôi biết nhưng vội hỏi làm những anh em khác mất cơ hội. Đáng lẽ ra tôi chỉ nên hỏi riêng anh. Nhân tiện tôi giải thích thêm, các công án đều là những sự thể đơn thuần, sự việc đơn giản. Nếu để tâm suy nghĩ, cơ hội xảy đến anh em mới có thể ngộ được. Anh em biết bài thơ con cóc không?
            - Dạ biết.
            - Tác giả bài thơ con cóc muốn nói gì vậy?
            - Thưa bác, thì tác giả tả con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy đi, đúng là thơ con cóc. Sỹ trả lời.
            Cụ Tài cười, như vậy sao có thể áp dụng nơi câu nói, “Lửa thì không nóng?” Thế là Sỹ nhà con ngớ ra, đành im lặng tự hỏi sao có thể liên hệ kỳ cục. Cụ Tài nói tiếp,
            - Chúng ta thấy được chính những quan niệm, kiến thức ảnh hưởng tới sự nhận định. Ngược lại, muốn ngộ nơi đạo học, chúng ta cần cảm nghiệm, hòa mình vào câu nói để nghiệm chứng ý ám định của câu nói. Những đạo học Đông phương đều nói về bản thể nội tâm của con người trong khi chúng ta bị ảnh hưởng lối phát biểu kỹ thuật Tây phương nên chỉ hiểu theo nghĩa từ chương, bởi đó không để ý đến sự thể tâm tình tác giả bài thơ con cóc muốn truyền đạt nên thường nhạo cười bài thơ này. Có thể nói đại đa số người Tây phương không thể nào cảm nghiệm đạo học Đông phương, mà có chăng chỉ khiến người chân thành tìm hiểu chán nản. Chả thế mà có câu nói, niềm vui của bậc thức giả khiến người ngu bực mình, trái lại niềm vui của người ngu làm bậc trí giả xót thương. Đa số người Tây phương nhìn đạo học Đông phương như những triết thuyết; tuy nhiên, nếu không cảm nghiệm mà áp dụng đạo học Đông phương như một triết thuyết nơi cuộc đời, sẽ khiến con người rối loạn tâm thần trở thành điên loạn.
            - Tào là bản thể nơi chính mình, là tâm hồn, linh hồn của một người. Được sinh dưỡng nơi thế giới hữu vi, chúng ta mơ ước và theo đuổi niềm mơ vật chất nên sinh phiền não, lo lắng. Lão học đề nghị, bớt, càng ngày càng bớt đến độ không còn gì để bớt thì trở về với chính mình, sống huyền đồng với Tào, làm một với Tào. Mọi sự, mọi vật đều là diễn biến của Tào; chuyện phải xảy ra như thế nên Lão học cho rằng, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu,” (Trời, Đất bất nhân, coi vạn vật như loài chó rơm), chưa cúng thì nâng niu, lúc cúng xong rồi thì quăng bỏ. Lẽ trời luôn luôn biến chuyển, sống hòa với lẽ trời, tùy thời, tùy nơi, uyển chuyển như nước.
            - Như vậy, Lão học là một lẽ sống chứ không phải một triết thuyết. Lẽ sống này cần nhận biết chính mình thế nào. Để tâm nhận thức, chúng ta thấy, cho dầu suy nghĩ đến cách mấy, chúng ta vẫn hơn tất cả những gì chúng ta có thể nhận biết về chính mình. Tự nhận biết về mình và chấp nhận mình là mình để sống hòa hợp với đời, với Tào.
            - Thưa bác, một cánh tay giơ lên, Tùy, con người ít nói, như vậy sẽ bị cho là lập dị vì sống theo mình mà sống thì sẽ không giống bất cứ ai. Chẳng lẽ, cả thế gian say, một mình ta tỉnh? Coi chừng mà ngược lại! Cháu thấy nó làm sao ấy!
            - Bộ anh không biết câu nói của Trang Tử sao, “Vì mình có thân xác như mọi người nên sống như mọi người, nhưng lòng mình thì khác hẳn.” Coi chừng chúng ta thường hiểu lầm điều được gọi là vô vi nơi Lão học theo nhãn quan hữu vi. Nói cho dễ hiểu, khi chúng ta đeo kiếng râm (kiếng mát) sẽ thấy mọi sự đều tăm tối. Muốn nhìn cho rõ, bỏ chiếc kiếng râm đi. Quan niệm, kiến thức của một người chẳng khác gì chiếc kiếng râm. Đàng khác, trời đất xoay vần, biến chuyển, xuân đi, hạ tới, thu về, đoạn biến sang đông; con người không thể thay đổi được thì cần phải sống hòa hợp chứ chẳng lẽ mùa lạnh mặc áo mát, mùa nóng mặc áo rét? Bởi thế, muốn thấy thế giới thay đổi, chúng ta thay đổi lối nhìn, quan niệm nơi mình. Tại sao trời lạnh lại cởi trần đi ra ngoài đường rồi càm ràm trời bất công không nắng ấm? Anh em nên nhớ, Lão học là một trong những đạo học Đông phương. Các đạo học không nói về hữu vi mà dùng sự kiện, sự việc hữu vi nói về cuộc sống tâm linh nơi mỗi người. Thế nên, vô vi tức là nhìn thì không thấy gì nhưng mọi sự biến chuyển nơi tâm của mình. Hãy tỉnh thức, nhắm mắt lại để nhìn thấy rõ hơn!
            - Tôi nói ra ngoài lề một chút. Đa số người ta cho rằng Lão học dạy về thuật trị nước, giúp vua. Thưa không, vua cũng ở nơi mình, nước cũng ở nơi mình và giúp là giúp chính mình thức ngộ, giúp mình nhận biết chính mình. Chẳng hạn, Tào như nước, muốn sửa gì nơi mình cần phải uyển chuyển, kiên trì. Thử hỏi, đã bao lần anh em quyết tâm, cố gắng chừa sửa một điều chẳng nên nào đó nơi mình, và đã bao năm rồi, anh em đã thực hiện được chưa. Lão học đề nghị trở về nguyên bản với Tào. Tất cả những gì được khuyên để thực hiện cần phải được áp dụng nơi hành trình tâm linh một người chứ mắc mớ gì Lão học nói về việc ông vua trị nước. Nếu nói về việc ông vua trị nước, chúng ta cần gì phải nói nơi đây. Thử hỏi, mấy ông vua thèm nghe ai, trong khi ai chẳng biết giáo đa thành oán; mà có chăng quyền lực tuyệt đối sẽ phát sinh sa đọa tuyệt đối mà thôi; không vậy thì đã có những triều đại bền vững đến muôn đời.
            - Thưa bác, sao cụ Nguyễn Duy Cần giải thích vô vi là “làm một cách kín đáo, không tư tâm, không vị kỷ. Người thi ân không biết là thi ân, người thọ ân không dè là thọ ân. Bậc thánh nhân trị nước mà dùng đến đạo vô vi, dân không hay là mình bị trị” (ĐĐK. Tập 1; tr. 24). Hưng hỏi.
            - Anh làm cho anh thì có gì mà tư tâm, vị kỷ, nếu không là an nhiên tự tại thì là gì?
            - Thưa bác, như vậy chẳng lẽ thiên hạ say hết, một mình ta tỉnh? Rồi sao có thể biết mình tỉnh nếu không có một đường hướng rõ ràng, và đâu là đường hướng?
            - Mục đích và cũng là điểm tiên khởi của bất cứ đạo học Đông phương nào cũng chỉ là nhận biết chính mình, trả lời câu hỏi tôi là ai cho tới tận cùng. Nhà Phật thì kiến tính thành phật; Ấn học thì cha ta với ta là một; Lão học thì huyền đồng; Tào, Chân Như, Brahma đã sẵn ở nơi mình, vấn đề chỉ là làm sao nhận ra thực thể, bản lai diện mục, linh hồn nơi mình thì cần phải học nơi đâu. Anh quên câu nói nơi Lâm Tế Lục rồi sao, găp phật giết phật, gặp pháp bỏ pháp. Nếu anh cố theo phương pháp nào đó của người khác, làm sao anh biết mình đi đúng đường hay trật đường và anh sẽ ra sao khi phương pháp đó không thể giúp gì cho anh được nữa. Tào đã ở nơi mình thì chỉ có phương pháp nơi mình mới có thể kiếm ra Tào nơi mình vì chúng ta không kiếm Tào nơi người khác. Chúng ta nên nhớ một điều, dẫu chúng ta cố gắng đến mấy để chứng tỏ mình thế nọ, thế kia, thì vẫn còn thua kém bổn lai đích thực của chúng ta. Chúng ta thực ra vẫn tuyệt vời hơn tất cả những gì mình đã có thể tưởng tượng về chính mình. Nơi hành trình thức ngộ, chỉ khi nào tự mình ngộ được công án nào đó mới có được kinh nghiệm cảm nghiệm bởi không ai có thể giải thích được cảm nghiệm của họ cho mình. Chẳng hạn nơi trường hợp của anh Sỹ, hoặc anh Tùy vừa rồi. Bởi đó, hành sự thì nên chuyên tâm, chẳng nên bận tâm về kết quả cũng chẳng nên ngưng trệ hoặc lệ thuộc và bất cứ gì vì hết thảy hiện tượng đều được phát xuất từ tự tính. Có lẽ anh quên lời khuyên của lục tổ Huệ Năng, “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,” nhất thiết vạn pháp bất ly tự tính (GLTH; tr. 169).
            - Thưa bác, con muốn suy nghĩ lắm nhưng nó cứ tối như đêm ba mươi, chẳng biết suy nghĩ thế nào. Cứ nghe bác nói về chứng với nghiệm khiến lòng ruột xốn xang nhưng càng cố gắng suy, càng rối, càng thử nghiệm càng thấy trống rỗng chẳng biết đường nào mà mò, lối nào mà đi. Vợ Sỹ lên tiếng.
            - Vậy chị thấy thế nào về bài thơ con cóc?
            - Thưa bác, con thấy bài thơ con cóc nói lên hành động của con cóc, không thêm, không bớt. Chỉ nói con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi. Không nói con cóc nhảy đi đâu, về bên trái hay bên phải, không kể lý do tại sao con cóc nhảy ra hoặc giả dụ có con bọ, con chấy gì trong hang khiến con cóc nhảy đi.
            - Chị nói đúng và nhận thức đúng, không thêm bớt, không tưởng tượng hay đặt vấn đề. Nhìn và nhận thức sự vật, sự việc như chính nó. Đây là phương pháp tuyệt vời nhất để nhận thực chính mình thế nào. Mở rộng lòng để nhận thực ra chính mình thế nào là bước đầu cần thiết nơi hành trình kiến tính, hành trình trả lời câu hỏi tôi là ai. Hãy đơn sơ, chân thành nhìn thực vào cuộc đời của mình, chị sẽ biết mình là ai; không cần thêm mắm, pha muối, chẳng cần pháp nào dẫn dắt, không cần suy tưởng; khi đã biết mình là ai, mình thế nào, tất nhiên kiến tính, biết được thực thể, bản lai diện mục của mình thì chị cần gì phải nghiệm, phải chứng vì tất cả đã hiện ra rõ ràng đâu cần cầu mong hay mơ ước chi.
            - Thưa bác, thế sao sách vở viết tràng giang đại hải nào là pháp bất nhị bất tam, rồi quán nọ, hàng kia, rồi nào thế liên hoa, liên lá, nào tam bảo, tứ bảo, nào trung đạo hạ đạo, nào tướng, nào quân, ôi thôi lắm phép, nhiều chước, rối tung cả lên. Lại còn tông nọ, phái kia, bắc nam lộn tùng phèo, cả như bác nói cứ đơn sơ ngờ nghệch như bu nó thì dễ quá rồi, chỉ cần vài lon bia hoặc ly rượu thì tha hồ tự tại, tự nhiên chẳng cần pháp tắc cũng thực hiện được. Sỹ nhà con xổ một tràng dài.
            - Anh chưa quán tưởng, chưa đơn sơ, ngờ nghệch, sao có thể biết lắm thế. Hãy cứ ngờ nghệch, đơn sơ như bu nó, tất nhiên anh sẽ ngộ.
            - Làm sao mà có thể chấp nhận ngu ngơ như thế. Con bò nó không uống rượu vì nó ngu như bò. Làm người phải biết uống rượu, uống bia, phê hơn uống nước chứ. Chẳng lẽ ăn cơm cũng như ăn thịt ăn cá thì đâu còn sinh thú gì nơi cuộc đời thiên biến vạn hóa này. Thưa bác, vậy đạo học hay những tông nọ, phái kia cố gắng biến con người thành những cục đất, cục đá, ăn không biết ngon, uống không thấy thú vị sao?
            - Điều anh vừa diễn giải đúng như định kiến phương Tây khi nhận định đạo học Đông phương. Như thế không thể nào nghiệm chứng được câu nói của Trang Tử, vì ta có xác thân như mọi người nên sống như mọi người nhưng lòng ta khác hẳn. Tôi không có bản dịch nào khác về Đạo Đức Kinh ngoài bản dịch của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần. Chúng ta thử xét sơ lược xem mục đích của Đạo Đức Kinh ra sao. Có điều, anh em thử áp dụng nghiệm xét về Lão học bằng cách tôi nêu lên những câu nói và anh em nói lên nhận định.

            - Câu đầu tiên của cuốn Đạo Đức Kinh, anh em đều biết, đó là “Đạo khả đạo phi thường đạo.” Như chúng ta vừa nhận định thì “Đạo” dịch từ chữ Tào. Và bởi vì dịch thành đạo thì lại bị lệ thuộc ngôn từ mang nghĩa thành đường lối nên đa số các học giả cho rằng Lão học dạy về phương pháp trị dân cho những người cầm quyền mà quên rằng đạo học dùng sự việc thế tục nói về hành trình tâm linh nơi mỗi người. Định hướng như thế, chúng ta cũng nhận thức được Tào hay Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự sống, Bản Thể Tuyệt Đối mà nơi các đạo học khác dùng những danh hiệu khác chẳng hạn như atman, linh hồn, tâm phật hay phật tính đang hiện diện nơi mỗi người. Không ai có thể nói gì được về Tào mà chỉ có thể nghiệm chứng.
            - Chương hai được dịch nghĩa sự tương đối của sự thể chẳng hạn thấy tốt đã có xấu, có với không cùng sanh, trước và sau cùng theo. Cụ dịch tiếp, “Vậy nên thánh nhân dùng Vô Vi mà xử sự, dùng bất ngôn mà dạy dỗ để cho vạn vật nên mà không cản, sống mà không chiếm đoạt, làm mà không cậy công…” Nào mời anh em cho nhận định. Nhưng tôi nhắc lại, đạo học dùng hữu vi để nói về tâm linh.
            - Thưa bác, hành xử vô vi bởi nói ra, giải thích không được nên đâu thể dạy ai bởi dạy dỗ, giải thích đều chẳng nói được gì nên đành bất ngôn.
            - Thưa bác, cái này phải dùng gậy ông đập lưng ông mà thôi. Đó là “Người biết không nói; kẻ nói không biết.”
            - Ai có nhận định gì nữa không?
            - Nhưng, thưa bác, nếu như vậy cách nào để đỡ đẻ tinh thần, giúp người ta thăng tiến?
            - Anh đã thăng tiến chưa mà muốn giúp người khác thăng tiến. Chắc anh đã quên câu nói, “Chân thành, năng nổ, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.”
            - Nhưng,
            - Nhưng cái gì! Tình lên tiếng, nghiệm thì không lo nghiệm, chỉ muốn làm phường phá hoại.
            - Có còn anh em nào thắc mắc về điều mà Lão học gọi là Vô Vi không?
            - Thưa bác, Tào nơi mình làm mọi sự nhưng không được nhận biết là đang hoạt động chỉ thấy thân xác múa may quay cuồng, tào lao thiên tướng. Nếu hiểu Vô Vi là không làm gì tất nhiên đã nhảy qua phần hữu vi.
            - Có lẽ anh em đưa ra nhận định hay hơn tôi mặc dầu khó hiểu hơn nhưng lại chính xác hơn. Nào, chúng ta cùng nâng ly. Không ngờ cái lười biếng do khó giải thích mang lại kết quả chẳng ngời. Mời, cụ Tài nâng ly mời mọi người.

            Chị Sỹ giơ tay,
            - Thưa bác, mấy ông ấy nói gì vậy? Thế nào là vô vi, vô viếc, lại còn gập ông đập lưng ông, người biết không nói, kẻ nói không biết.
            - Bu mày sao không hỏi nhỏ tôi! Thức giả đang chình ình ở đây mà la toáng lên như thế lỡ người ta cho rằng mình là ngu giả thì sao. Sỹ nhà con lên giọng kẻ cả. Nào có gì đâu, dễ như ăn ớt. Đối với đạo học thì chỉ có một đường lối duy nhất là nghiệm chứng mà thôi; nhà Phật gọi là kiến Tính. Ai chứng người ấy biết và không ai có thể giải thích cho ai. Tào ở nơi mình, chỉ mình mới có thể chứng được cho mình. Tào là chủ, thân xác, cuộc đời là phương tiện nên không thấy Tào hoạt động, tạm mệnh danh là Vô Vi. Vì không thể nói ra được dẫu mình biết nên gọi là người nói không biết, kẻ biết không nói. Bu mày thương tớ, bu mày biết rõ nhưng bu mày không thể giải thích cho bất cứ cô nào, chị nào để họ thương tớ như bu mày được. Chỉ có thế mà không hiểu. Bu mày mà giải thích cho em nào thương tớ được thì bu mày thức ngộ là cái chắc.
            - Cái ông quỷ này, nói đứng đắn coi…
            - Đứng đắn như thế mà còn chê. Bu mà không biết giữ thể diện cho phu quân.
            - Đúng rồi, hắn bị khinh như chiếc gối ôm nên mới một tá nhóc. Nếu được kính nể chắc chắn không nhà nào chứa nổi! Phủ đấu vô.
            - Ngộ mà, mọi người trên đời say, chỉ mình ta tỉnh không ngộ thì là gì? Sỹ làm một hơi bia, nói tiếp, cũng xin cảm ơn anh cả, rượu của anh cả để lâu uống phê thiệt.
            - Chúng ta tiếp chương 3, cụ Tài đọc, “Không tôn bậc hiền tài khiến cho dân không tranh dành. Không quý của khó đặng, khiến cho dân không trộm cướp. Vì vậy, cái trị của thánh nhơn là làm cho dân hư lòng, no dạ, yếu chí, mạnh xương. Làm theo vô vi ắt không có gì là không trị.” Đoạn cụ im lặng đưa mắt nhìn thoáng qua.
            - Thưa bác, một cánh tay giơ lên, anh Thanh, chủ nhà, nếu coi nhận định, ước muốn thế tục của chính mình là dân chúng thì mới có thể giải thích tạm được. Nói như vậy, đây là phương pháp định tâm, nhận định mọi sự cũng không là gì để nghiệm chứng Tào; vì nói theo nhà Phật, mọi sự không rời tự tính.
            - Ai có ý kiến gì nữa không?
            Mọi người im lặng vì vẫn còn đang lúng túng bởi nếu hiểu theo nghĩa từ chương của câu nói thì không kiến tạo lòng đua tranh tất nhiên ngu dân để trị. An ổn đấy nhưng dân chúng không có ý chí vươn lên mà có thể càng ngày càng chấp nhận có sao sống vậy ngược lại với cuộc đời luôn luôn biến động thay đổi để thăng tiến. Thế nên, nghe thấy Thanh nêu nhận định cho rằng những ước muốn thế tục nơi mình được coi là dân chúng, mọi người liền nhớ lại lời nhắc nhở của cụ Tài, đạo học nói về hành trình tâm linh nơi một người.
            - Tâm động vì còn so sánh hơn kém, vẫn còn lệ thuộc nhĩ ngã phân biệt. Nếu nhìn sự vật và sự việc trái phải cùng là một, đều là hiện thể của Tào thì tâm định. Thế nên, bất cứ những gì xảy đến, ngay như ước muốn tốt lành của mình cũng chỉ là sự biến chuyển của Tào. Không cho gì là quí, chẳng cho gì là hèn không phải là ngu dân vì còn phân biệt quí tiện vẫn còn luẩn quẩn nơi hữu vi phân biệt. Mấy anh em Công Giáo có thể nghiệm câu, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng” theo nhận thức này. Tôi đọc tiếp chương 4,
            - “Đạo thì trống không nhưng đổ mãi mà không đầy. Đạo như vực thẳm, dường như tổ tông của vạn vật. Nó làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, điều hòa ánh sáng, đồng cùng bụi bặm. Nó trong trẻo thay, lại dường như trường tồn. Ta không biết nó là con ai, dường như có trước Thiên Đế.”
            - Thưa bác, nơi kinh Bhagavad Gìtà viết, "Này Arjuna, Ta là Đại Ngã ngự trị trong tâm hồn vạn vật: Ta là lúc khởi đầu, là chốn trung gian và là cứu cánh của vạn vật. Ta là thần chết cấu xé muôn loài, Ta là nguyên ủy của tất cả những gì sắp sửa sinh ra. Trong các phẩm hạnh của nữ tính, Ta là danh giá, là giàu sang, là thịnh vượng, là lời nói, là ký ức, là thông minh, là đức kiên trì và lòng tha thứ... (CTC. Tr. 100-103). Xét như vậy, Tào cũng giống như Brahma nơi Ấn học. Phủ phát biểu.
            - Như vậy anh em nhận thấy, những đạo học đều có một điểm chung và đó là Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng đang hoạt động và biến chuyển nơi tạo vật.
            - Thưa bác, thế sao nhà Phật nói thuở nguyên thuỷ, Chân Như phẳng lặng, tĩnh tịch, nhưng vì vọng tưởng càng ngày càng chồng chất nên phát sinh vạn vật. Nói như vậy có phải vọng tưởng ảnh hưởng Chân Như? Hưng hỏi.

            - Chúng ta vừa nhắc đến lúc nãy, cái một bao gồm cái hai, đối diện cái ba tạo thành vạn vật, Nói rằng vì vọng tưởng chỉ là kiếm lý do nghe cho êm tai. Thực ra, do sự biến chuyển, hoạt động của Chân Như phát sinh vạn vật thì nghe hợp lý hợp tình hơn.
            - Thưa bác, như thế ngôn từ sinh có ít nhất hai nghĩa, bao gồm và tạo dựng?
            - Nói cho đúng, chỉ là tạm dùng ngôn từ mà thôi. Có lẽ anh đã không để ý đến câu nói nơi Trang Tử, được ý quên lời! Cụ Tài điềm đạm. Nào chúng ta nghe tiếp chương 5,
            - “Trời đất không có lòng nhân, coi vạn vật như loài chó rơm. Thánh nhân không có lòng nhân, coi trăm họ như loài chó rơm. Cái khoảng giữa Trời Đất giống như ống bể. Tuy trống không mà vô tận, càng động lại càng hơi ra. Càng nói nhiều, càng không sao nói hết được, thà là giữ lấy cái trung.” Ai có ý kiến gì không?
            - Thưa bác, Phủ lên tiếng, vì tất cả là biến chuyển cũng như biểu hiện của Tào nên sống chết, có không cũng giống nhau, trọng hay khinh cũng chỉ nơi Tào nên nói trời đất không có lòng nhân, coi vạn vật như chó rơm. Đại khái, nếu nhìn theo hữu vi thì rõ ràng thấy Tào, hoặc là trời đất không biết coi trọng hoặc thương xót bất kỳ ai. Thánh nhân là người học theo Tào, nghiệm chứng sự hiện diện của Tào nơi mình; nói khác đi, Tào hiện thể nơi thánh nhân để hoạt động do đó thánh nhân là người thức ngộ, nhận biết mọi sự đều là diễn tiến của Tào. Thánh nhân cũng là một với trăm họ nên thánh nhân không theo về phe phái nào hoặc đúng hoặc sai, hoặc phải hoặc trái do đó được gọi là giữ lấy cái trung; trung nghĩa là ở giữa. Thêm nữa, càng giải thích về bản chất của Tào càng chẳng nói được gì nên tạm gọi là người nói không biết.
            - Ai có ý kiến thêm bớt chi nữa không?...
            Không thấy ai giơ tay, cụ Tài nói tiếp,
            - Tôi chỉ tạm đọc một số câu trong vài đoạn của cuốn Đạo Đức Kinh, bản dịch của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần. Anh em nhận thấy, nếu định hướng Lão học theo tâm linh, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa khác hẳn lối nhìn từ chương. Và cũng vì lối nhìn từ chương này đối với các đạo học, đã phát sinh nhiều điều hiểu lầm. Nhìn một cách tổng quát về các đạo học, con đẻ của đạo học là tôn giáo, nhưng thành viên của những tổ chức tôn giáo đã áp dụng đạo học một cách từ chương, cộng thêm ý định triển dương tổ chức, đôi khi còn vì tham vọng muốn mọi người dễ nhận biết nên đã có những cố gắng đơn giản hóa hoặc dùng những ngôn từ dễ nhận biết hầu cho những kẻ dù thiếu học thức cũng có thể chấp nhận thành ra đã biến bản văn đạo học trở nên vô lý và huyền thoại. Thí dụ, nơi Phúc Âm có câu, “Người ta không lấy rượu mới đổ vào bì cũ,” nơi bản dịch nào đó, nếu tôi không lầm thì một bản dịch Kinh Thánh tiếng Anh được viết, tạm dịch, “Người ta không lấy rượu mới đổ vào bình cũ.” Thay vì “Wineskin,” người ta dùng chữ “Jar.” Anh chị em nào muốn đào sâu hơn nơi Lão học, nên đọc thêm bản dịch và nghiệm chứng.
            - Tôi nhắc lại, những bản văn đạo học thường được gọi là kinh, đó là tác phẩm của những bậc thức ngộ và những câu nói khôn ngoan khó hiểu thường được gọi là công án được soạn thành kinh để người đời chiêm nghiệm hay nghiệm chứng. Tôi muốn nói chiêm nghiệm chứ không phải chiêm niệm hoặc tụng niệm. Chiêm niệm hay tụng niệm được dùng cho bùa chú của các pháp sư. Nơi tôn giáo, cũng vì không chiêm nghiệm nên cũng thường dùng các kinh sách đạo học để tụng niệm.
            - Thưa bác, Hưng lên tiếng, nơi Đạo Đức Kinh có câu đại khái, “Vậy sự vật trong đời, bớt là thêm, thêm là bớt” (ĐĐK; Tập II; tr.226), trong khi nơi khác lại nói bớt, bớt càng ngày càng bớt đến độ không bớt được nữa là thế nào vì bớt cũng là thêm và thêm cũng là bớt?
            - Anh có ý định diễn dịch và biên khảo Lão học theo kiểu từ chương của các học giả Tây phương không? Thế anh không chấp nhận sự thể sự vật và sự việc tự chúng mang phần đối nghịch nội tại ư và nếu không như thế sự thể tất nhiên không biến chuyển và chẳng có gì để nói tiếp. Một đàng bớt, càng ngày càng bớt, bớt đến độ không bớt được nữa tất nhiên trở về với nguyên bản gọi là trạng thái huyền đồng, hòa nhập làm một với Tào. Hành động vô vi này không ai biết, chỉ hành giả tự biết. Nhà Phật gọi là hành động lau bụi bám trên mặt gương. Nếu nhìn về sự thể nhất nguyên, lau bụi, gương trở nên sạch, sáng, thì bụi tan đi bao nhiêu, gương sạch thêm bấy nhiêu. Có phải bớt bụi, thêm sạch, thêm sáng không? Một câu nói lên sự cần thiết nơi hành trình tâm linh; câu khác giải thích sự thể nơi hành trình tâm linh. Hai câu cũng là một mà thôi, vì “bản ngã mà không còn thì thiên tánh mới hiện ra” (NHK; Tập I; tr. 156). Xét như vậy, chúng ta thấy cuốn Nam Hoa Kinh phụ giúp hành trình nhận thức Lão học thêm sáng tỏ.
            - Nơi trang đầu tiên của tập I, cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại lời nơi kinh Nam Hoa, “Có nơm là vì cá; đặng cá hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ; đặng thỏ hãy quên dò. Có lời là vì ý; đặng ý hãy quên lời. Ta tìm đâu đặng người biết quên lời hầu cùng nhau đàm luận” (NHK; tập I).
            - Thưa bác, Hưng hỏi tiếp, cháu muốn trở lại Đạo Đức Kinh một chút. Cháu muốn hỏi tại sao lại nói “Đi xa tức là về gần?”
            - Nhiều câu nơi các sách đạo học tôi không muốn nhắc tới; đặc biệt những câu nói nghịch thường với chủ đích để anh em nào thực sự muốn thăng tiến nơi hành trình thức ngộ mà nhà Phật gọi là tiệm ngộ nghiệm chứng. Lý do tôi đã giải thích rõ ràng đó là tôi không muốn cướp cơ hội của anh em bởi sự giải thích không giúp ích gì mà coi chừng còn làm chậm trễ sự thức ngộ nơi anh em. So sánh câu nói, “Đi xa là về gần,” với câu nói, “Bớt là thêm, thêm là bớt,” chúng ta thấy được gì? Tự đặt vấn đề, bớt gì, thêm gì đối với cuộc đời một người cũng như đối với hành trình thức ngộ? Thế nào là đi xa? Đi xa từ đâu và tới đâu? Về gần, nơi nào là gần? Đối với sự nhận biết nơi hành trình tâm linh, càng nghiệm chứng, càng để tâm suy nghiệm, hành giả càng tiến gần tới thức ngộ tức là càng về gần sự thức ngộ. Xét về cuộc đời; đi xa nhất là trường hợp nào?
            - Chết! Sỹ nhà con buột miệng, đoạn im re.
            - Rồi sao? Hồn, phần không chết được đi về đâu?
            - Thưa bác, hồn còn tùy thuộc sự mơ tưởng, ý định khi còn sống.
            - Đạo học nói về gì?
            - Thưa bác, mục đích của các đạo học là dẫn dắt cũng như khuyến khích con người thức ngộ, thăng tiến nơi hành trình tâm linh để nhận biết bản lai diện mục, nói theo kiểu lục tổ Huệ Nàng; nếu nói theo Lão học, Ấn học thì hòa nhập với Tào, với Brahma. Đúng rồi, thế thì đi xa, càng đào sâu vào nghiệm chứng càng trở về nguyên bản của mình. Hưng trả lời.
            - Tuy nhiên, bởi con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành luôn luôn liên hệ mật thiết với cuộc sống hữu vi nên lề lối hay phương thức cũng như tâm trí đã bị sự thể hữu vi nặng nề ảnh hưởng. Các kinh sách đạo học, dĩ nhiên gom góp những dụ ngôn, ngụ ngôn, công án do những bậc thức ngộ để lại, là một trong những phương tiện hay cơ hội giúp con người thỏa mãn lòng khát vọng bẩm sinh hầu thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Nam Hoa Kinh gom góp những câu chuyện ám định được gọi là dụ ngôn hầu giúp hành giả Lão học thăng tiến. Có điều,“Ngữ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý” (Kinh Dịch), mà trong trường hợp bản dịch, quả thật rất khó cho chúng ta am tường lời nói được ghi chép lại nơi bản chính.
            - Thưa bác, đôi khi có thể suy nghiệm những công án lại là chạy trốn tâm trạng không thể giải quyết một vấn đề nào đó nơi thực tại cuộc sống.
            - Có thể nói đó là lối giải quyết tuyệt vời nhất. Thay vì để sự việc hữu vi làm phiền lòng bởi đôi khi hiện thực cuộc đời dồn con người vào thế triệt buộc vô phương trốn thoát, biết đâu lại là cơ hội cho người đó định tâm suy nghiệm bởi đã có câu, suy nghĩ rất khó nên người ta sợ hoặc không dám suy nghĩ. Tự nhận thức về chính mình, chúng ta thấy, chúng ta là những thứ lừa nơi hành trình tâm linh luôn luôn muốn thảnh thơi, thoải mái do không muốn bất cứ gì vướng mắc nơi tâm tư. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, làm chủ cực khổ và tâm trí bị phiền hà hơn đi làm công nên người ta chấp nhận đi làm thuê cho thảnh thơi đầu óc. Thế nên, với lối nhìn nhân sinh thì suy tư, suy nghiệm tâm linh khó khăn, đôi khi mệt mỏi hơn suy tính làm ăn và dường như chẳng được lợi lộc gì cho cuộc sống. Tuy nhiên, ai đã kinh nghiệm sẽ thấy những chướng ngại trên đường đời là cơ hội tuyệt vời cho con người giải mã lòng khát vọng thầm kín bẩm sinh để thăng tiến tâm linh. Tôi muốn nói nơi trường hợp suy nghiệm tâm linh mà thôi chứ không phải chạy trốn bằng cách tìm hiểu một vấn đề gì để giết thời gian dẫu bình thường, đối với những khó khăn cuộc sống, bình tĩnh nhận định, thực hiện tất cả những gì cần thiết theo nhận biết của mình và chấp nhận kết quả có thể xảy đến tồi tệ nhất cũng yên được phần nào tâm tưởng, và kết quả ai cũng biết,vẫn khá hơn sự tồi tệ nhất mà chúng ta có thể nghĩ tới. Tôi không nhớ đã nói với anh em chưa, sự hiểu biết bình thường ngăn chận dòng suy tư của con người. Chính sự hiểu biết phiến diện thế tục đình chỉ sự tìm hiểu thâm sâu hơn, cản bước hành trình tâm linh.
            - Nam Hoa Kinh có đồng quan điểm về Tào với Đạo Đức Kinh (NHK; Tập I; tr. 53). Nơi Thiên Tri Bắc Du được viết,
            “Đông Quách Tử hỏi Trang Tử,
            - Cái gọi là Đạo ở đâu?
            - Không có chỗ nào là không có nó.
            - Xin chỉ ra mới được.
            - Trong con kiến.
            - Thấp hơn nữa.
            - Trong cọng cỏ.
            - Thấp hơn nữa.
            - Trong miếng sành vỡ.
            - Thấp hơn nữa.
            - Trong cục phân.
            Đông Quách Tử không hỏi nữa” (NHK; Tập I; tr. 53-54).
            Nam Hoa Kinh chủ trương sống thuận theo cái tánh của Tào, của trời đất; nương theo sự biến chuyển để hòa mình với cái lẽ vô cùng của Tào. “Thuận theo cái tánh của trời đất tức là thuận theo cái Tánh tự nhiên của mình; quan trọng nhất là gìn giữ cái Tánh ấy, đừng để nó lu mờ vì tư dục, đừng để cho hoàn cảnh huyễn hoặc, thay đổi” (NHK; Tập I; tr. 157). Anh em có thấy quan niệm này giống Kiến Tính hay không? Thế cho nên, “Nơi mình thì lo mà thực hiện sự “Huyền đồng” cùng tạo vật, không phân trong và ngoài, ta và người nữa, không thấy lớn, nhỏ, thọ, yểu. Còn nơi vật, thì biết để cho vạn vật, vật nào cũng được an theo chỗ đã an bài của chúng nên không bắt buộc ai phải theo mình, nghĩa là không lấy mình mà đánh giá sự phải quấy của người. Đó gọi là chí nhơn vô kỷ”(NHK; Tập I; tr. 157).
            - Tóm lại nói chung, sơ qua những điểm chính yếu chúng ta thấy, mục đích chính của các đạo học minh chứng một sự thể tối thượng, được gọi qua những danh hiệu khác nhau, đang ngự trị và hoạt động nơi tạo vật. Các đạo học là những tác phẩm của những bậc thức ngộ dưới những hình thức công án, dụ ngôn để ám định khiến tâm trí con người phải định tâm suy nghiệm. Trong sự định tâm suy nghiệm này, lại cần nhờ đến phần nào kiến thức hành giả đồng thời tâm hồn cần được hoàn toàn mở rộng không lệ thuộc ngôn từ, quan niệm, thành kiến để chấp nhận chính mình trước tiên hầu kiểm chứng mọi mặt, mọi vấn đề suy tư qua kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm sống cá nhân, những lời nói hoặc động tác hữu ý hay vô tình xảy ra chung quanh, sách vở, phương tiện truyền thông, hoặc những người bên mình được coi là những phương tiện hay cơ hội cho mình chứng và nghiệm. Anh em cũng nên để ý; những chứng nghiệm của mỗi người không ai giống ai. Chúng ta nên nhớ câu trả lời của tổ Huy Sơn khi Hương Nham năn nỉ giải thích, "Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!" Tổ Huy Sơn gọi là “Cái biết,” hay là sự thức ngộ cũng vậy. Nếu không ai có ý kiến thêm bớt gì, có thể nói chúng ta tạm cho qua phần Lão, Trang học. Có điều, tôi có một câu hỏi, dạo này chúng ta nghe nói về thiền khá nhiều. Nào thiền sư, thiền môn, thiền phái, cả đạo thiền nữa, anh em có ai “ngâm kíu” về sự thể được gọi là thiền chưa? Cụ Tài mỉm cười vì học theo tiếng lóng nhóm trẻ.
            - Thưa bác, cháu nghe đâu có vị sư nhà Phật bỏ ra lấy vợ rồi xưng mình là thiền sư. Như vậy có phải các vị sư không có vợ thì được gọi là đại đức, hay thượng tọa, và vị sư có vợ thì được gọi thiền sư! Sỹ nhà con hỏi.
            - Cái ông này, lúc nào cũng tửng tửng, không nói được câu nào đứng đắn bao giờ. Vợ Sỹ nhăn chồng.
            - Thiền sư thì có tóc nên có vợ. Nhà sư không có tóc nên không có vợ. Tình đế vô.
            - Tại sao thiền sư phải có tóc? Trên thế gian này biết bao người không có tóc mà đâu phải là sư! Phủ nhào vô.
            - Thiền sư phải có tóc vì để được vợ dạy dỗ; không có tóc làm sao mà nắm nên không có vợ tất nhiên vừa hợp lý hợp tình. Tình đế thêm.
            - Anh cả, anh nghĩ sao? Sỹ lên tiếng.
            - Tôi biết chắc đầu tôi có tóc nhưng không phải là thiền sư; thêm nữa, tôi có vợ nên càng không phải là sư thì biết thế nào mà nói!
            - Cái ông này lại lây chú Sỹ hay sao, chị Thung nhăn chồng.
            - Lây cái gì mà lây; muốn lây cũng không được. Bà thấy không, chú ấy mới cưới vợ được hăm mấy năm mà cả tiểu đội. Tôi lấy bà hơn ba mươi năm mà chỉ được mấy đứa? Có lẽ bà không muốn chắc? Ông Thung ngang ngang luận lý.
            - Đúng rồi, Sỹ cao giọng. Nhà em thiền từ ngày lấy vợ đến giờ hãy còn thiền đó. Có thiền mới có công lực, không thiền thì hết ý!
            - Chú nói thiền, là thiền thế nào? Thanh thêm giọng.
            - Có nhiều cách thiền, lắm kiểu định tâm. Nào là thiền nằm, thiền ngồi, thiền đứng, thiền đi, thiền ăn, uống, nhậu; thôi thì đủ mọi sự đều thiền. Nhà con sợ lục tổ Huệ Năng mắng, sống thì ngồi không nằm, chết thì nằm không ngồi nên cứ làm bừa đi, may ra chết có thể ngồi được chăng, và cứ gọi nói là hành thiền đấy quý vị ạ.
            - Vậy còn thế nào là tỏi thiền.
            -Tỏi thiền là khi mình nhậu thiền với tỏi gà, tỏi vịt đó. Dễ thế mà không ngộ được; uổng công bác trình bày bao lâu nay, tốn không biết bao nhiêu rượu bia. Ối giời! Cũng may mà ngộ được chữ tỏi thiền.
            Sỹ nhà con vẫn đang muốn thao thao, cụ Tài giơ tay ra hiệu ngưng, cụ nói,
            - Thiền phát xuất từ Đại Thừa của nhà Phật, xuất hiện từ thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Nhờ dựa trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thể giác ngộ, Thiền thực sự phát triển vào thời điểm Phật học giao thoa và ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Lão học. Chúng ta thấy, cho dù chứng theo pháp nào, cuối cùng cũng chỉ được tóm gọn nơi bốn chữ, “Kiến Tính thành Phật.” Nơi thành ngữ tiếng Anh, Zen (thiền) cũng có nghĩa là ngộ, nói theo tiếng lóng. Tiếng Việt mình nói, tôi ngộ ra, có nghĩa cảm nhận được một cách thâm sâu, thì nghĩa của chữ “Ngộ” này cũng được coi là tiếng lóng. Anh Sỹ vừa dùng tiếng ngộ rất chính xác, và nó cũng có nghĩa là thức ngộ.
            - Nói về gốc gác, có thể nói lục tổ Huệ Năng là nguồn gốcphát sinh thời vàng son của Thiền và các bậc thức ngộ thường dùng công án và dụ ngôn để kích động suy nghiệm của hành giả.
            - Bởi vì “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184), nên không ai dám tự xưng mình là “Zen Master.” Không hiểu tôi phải nói thế nào, điều này có nghĩa, bất cứ ai cho rằng họ là thày dạy về Zen thì cũng chẳng nên để ý. Anh Sỹ, anh hiểu thế nào?
            - Thưa bác, đã tự suy nghiệm thì mình là thày dạy chính mình bởi cái biết của người khác không phải là cái biết của mình. Sỹ trả lời.
            Một tràng pháo tay rộ lên. Không ngờ con nhà này hiểu thấu đáo đến thế.
            - Đúng là chó ngáp phải thịt quay. Tình tửng tửng nói.
            - Vẫn còn hơn ngáp phải ruồi. Phủ phụ họa.
            - Các ông nói gì! Sao coi thường phật gia thế! Sỹ nhà con lên giọng.
            - Hoan hô phật sắp thành! Thế là bước vô giòng họ thích dzồi!
            - Thích đủ thứ! Đại đức thích đủ thứ.
            - Tại sao lại đì hắn vậy? Phải là thượng tọa thích đủ thứ!
            - Không được, không được! Đại đức thích đủ thứ.
            - Bầu! Bầu cho hắn làm đại đức thích đủ thứ. Ai đồng ý giơ tay. Tình lớn tiếng.
            Những cánh tay nam giới giơ cao tiếp nối những giọng hò la đồng ý sôi nổi kéo dài. Tay chưa kịp hạ xuống; những tiếng hò la vẫn đang vương vọng thì ý kiến mới lại được đề nghị,
            - Vô vọng bất thành quan! Yêu cầu mọi người im lặng để đại đức mời anh em tham ngộ nhập giới. Tình hồ hởi lên tiếng.
            - Đúng, đúng, vô vọng bất thành quan; và ai đó cất lên câu hát, uống rượu, không say, nào hay; uống rượu mà say mới hay. Đã không nâng thì thôi, nâng một lần là hết một chai. Những chai Heineken được nâng cao và vội trống rỗng để nhường các chai đầy bia khác tiếp nối.
            - Vọng thì vọng, ở đời, chưa thằng nào sợ thằng này nên thằng này đâu sợ ai. Thưa bác, nhân tiện đây, vợ chồng con kính mời bác và quý hành giả nam cũng như nữ tuần tới ghé qua tệ xá để đón mừng may ra con có thể trở thành thánh nhân. Ai đồng ý xin ngồi yên, ai không đồng ý mời giơ tay giải thích lý do.
            - Mới là phật gia mà đã đòi chờm hơm thánh nhân, thêm một khao vọng nữa.
            - Thánh nhân nơi nhà Lão đâu khác gì phật gia nơi nhà Phật, đàng nào thì cũng ngộ mà thôi; sao ông còn cố phân chia cái nhất nguyên đạo học Đông Phương.
            - Nhưng phật gia chỉ mới kiến tính thành phật, thánh nhân phải huyền đồng, không vợ, không con, không ăn, không uống nhất là say xỉn. Hưng bày thêm điều kiện.
            - Tôi sai, Sỹ lớn tiếng. Cứ hỏi bu nó coi, xưa nay tôi sai đã nhiều, sai thêm chút nữa chưa chết thằng tây nào. Nhậu thì nhậu, đâu ai đã sợ ai.
            - Mời anh cả tuyên bố thành quả, Tình chế thêm.
            Ông Thung giơ tay ra hiệu im lặng.
            - Thưa bác, thưa quý anh chị em, để chào mừng chú Sỹ thức ngộ và được sự chấp thuận của chị hai, chú Sỹ mời tới tham dự bữa cơm mắm muối tại tư gia của chú ấy tuần tới, tôi xin đại diện anh em mà vui lòng chấp thuận. Tuy nhiên, không hiểu chú Sỹ định lập đàn cầu siêu hay dựng mâm cúng quảy như thế nào; cụ nghĩ sao xin cho thêm ý kiến ạ.
            Cụ Tài mỉm cười vì giọng điệu ép buộc ngang tàng, ngược lại mang hình thức dưới dạng ăn nói trang trọng của ông Thung. Cụ cảm thấy niềm vui nào đó vượng lên nơi tâm trí. Tên Sỹ này quen thói ăn nói bạt mạng, vẽ rồng vẽ rắn thêm chân, bẻ quặt bẻ quẹo, châm chọc đủ mọi hạng người, trẻ không tha, già không thương, thế mà nhận thức tiến triển chằng ngờ. Cụ lên tiếng,
            - Phật gia hay thánh nhân cũng chỉ là danh hiệu khiến những người không nghiệm chứng bối rối, bực mình. Anh Hưng bới thêm điều kiện áp đặt lên bậc thánh nhân nhà Lão ngăn cản chức vị tự phong của anh Sỹ. Thôi thì anh Sỹ nên chấp nhận cương vị thiền sư tha hồ hợp lý, hợp tình. Như vậy, tuần tới chúng ta quá bộ chúc mừng thiền sư Sỹ cho phải phép, kẻo được mời mà không tới lại mang tiếng kỳ thị. Có điều, thứ năm tới, nếu có thể được tôi nhờ anh Thanh cùng tôi ra phi trường đón linh mục bạn của tôi. Ai có ý kiến gì nữa không?
            - Thưa bác, vậy điểm chính yếu của thiền là gì, nhờ bác giải thích lỡ có ai vặn hỏi một cách láo lếu cháu còn biết đường trả lời. Sỹ hỏi.
            - Thiền sư không biết thiền là gì, chỉ biết thích đủ thứ.
            - Thích đủ thứ là danh hiệu, không phải hàng hiệu.
            - Thiền đủ thứ là bất cứ gì cũng thiền. Người ta thích một món thì được gọi là thiền sư thích một món; chú mày thích đủ thứ tất nhiên là thiền sư thích đủ thứ, bộ oan sao.
            - Tôi muốn hỏi nguyên tắc chính yếu của thiền là gì chứ đâu hỏi thiền cái gì.
            - Bác mới nói thiền phát sinh từ Đại Thừa nhà Phật, hòa nhập với Lão và bị ảnh hưởng mạnh mẽ của Lão nên cũng chỉ kiến tính thành Phật mà thôi. Tiểu Thừa có nghĩa chiếc xe nhỏ, chứa đựng được ít; Đại Thừa là chiếc xe lớn thì chứa được nhiều nên tha hồ chứa lung tung, không cần kiêng kỵ bởi Đạt Ma sư tổ nói rõ, một vị phật không thể phạm tội được nên cứ làm tưới đi. Muốn thích đủ thứ phải suy nghiệm như thế. Thiền đủ thứ là không gì không thiền. Lục tổ Huệ Năng khuyến khích hành thiền. Thiền đủ thứ là hành đủ thứ, hành đại, hành tào lao thiên tướng. Chỉ có thế mà không biết cũng đòi làm thiền sư.
            - Người nào ngộ theo nhà Phật thì được gọi là phật gia; người theo Phật học mà chết thì gọi là phật tử. Người ngộ theo Lão thì gọi là lão gia; người theo Lão học mà chết thì gọi là Lão tử. Người ngộ theo Thiền thì gọi là thiền gia; nhà sư theo thiền thì gọi là thiền sư. Chú mày muốn được gọi là thiền sư thì phải cạo đầu.

            Đến lúc này, ồn ào thì cứ ồn ào; kẻ nói cứ nói, người nghe cứ nghe nhưng chẳng nghe được gì vì dăm ba miệng cùng nói, nên cứ uống, và bia cứ mở. Mấy khi lòng dạ được sảng khoái, thảnh thơi, do qua sự giải thích của cụ Tài, ai nấy đều cảm thấy Phật học cũng thế; Lão học cũng vậy, và Thiền đều cùng một mối kiến tính thành phật. Đặc biệt lần này cụ Tài đổi phương pháp; thay vì cụ giải thích lại đặt vấn đề nêu câu hỏi giúp mấy anh em động não. Cụ Tài ra hiệu, rồi lên tiếng,
            - Chúng ta thấy, phương pháp hiểu Đạo Học Đông Phương chỉ có một con đường duy nhất là nghiệm chứng. Nơi hành trình nghiệm chứng, ai chứng, người nấy biết, và cái biết không ai giống ai được gọi là ngộ. Ngộ hay thức ngộ là sự cảm nhận sâu xa về một vấn đề nào đó tùy thuộc người ngộ. Như vậy không ai có thể giải thích sự thức ngộ cho bất cứ ai, và nếu giải thích dẫu hợp tình hợp lý thì cũng không giúp ích gì cho người nghe mà coi chừng còn làm hại người nghe bởi đã cướp mất cơ hội thức ngộ của họ. Xin cảm ơn anh chị em đã bỏ thời giờ tham gia đàm luận về đạo học đông phương. Lần tới, chúng ta sẽ có linh mục Nguyễn Công Hải nói chuyện với anh em về Phúc Âm. Anh Thanh, chiều thứ năm cỡ ba giờ chở tôi đi đón ngài được không. Chuyến phi cơ đáp xuống sân bay Gulfport vào lúc 3giờ 45. Muộn rồi, chúng ta giải tán để anh em nghĩ dưỡng sức, chuẩn bị cho những công việc ngày mai.
             
            MBVN 19
             
            Chiều thứ năm, cụ Tài và Thanh đón linh mục Nguyễn Công Hải tại phi trường Gulfport-Biloxi, MS. Máy bay bị trễ hơn nửa tiếng nên Thanh mua hai ly cà phê rồi cùng cụ Tài trở lại nơi đậu xe ở tầng thứ ba ngắm cảnh từ trên cao. Nhân dịp có ít phút truyện trò riêng tư với cụ, Thanh hỏi về nhận định của cụ đối với lớp người Việt tha hương ngày nay nơi đất Mỹ.
            - Tôi để tâm theo dõi thấy đại khái dẫu đã 40 năm tính từ năm 1975 tới nay, người Việt mình vẫn còn bị tự ty mặc cảm quá nhiều. Đồng ý rằng đa số người Việt ngày ấy và sau này vượt biên thuộc những thành phần kể như không có học thức; có những người không biết viết hay đọc chữ quốc ngữ. Cũng không lạ gì, vì họ có sẵn tàu bè hoặc sống gần bờ biển nên dễ có dịp vượt biên. Sau này, từ khi có chương trình H.O. mới có thêm người đã được cắp sách tới trường khi còn ở Việt Nam, nhưng sự học thức đại đa số cũng chỉ hết trung học đệ nhị cấp. Định cư nơi một đất nước hoàn toàn khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, nơi mà dân chúng đại đa số có thói quen cũng như có được sự giáo dục cộng đồng, đồng thời bị tuyên truyền sai lầm về cá tính cũng như lối sống người Việt nên có những cái nhìn khác biệt đối với những người mới tới. Cũng phải đồng ý rằng có những người Mỹ, sống nơi một nước nổi tiếng văn minh như thế cũng không đọc hay viết được ngôn ngữ của họ.
             
            - Đối với hạng người thiếu hiểu biết, này họ thường tỏ ra ganh tỵ với người Việt bởi họ tưởng người tỵ nạn được chính quyền Mỹ ưu đãi, cấp dưỡng hoàn toàn. Dĩ nhiên, với giới này, lý do họ không biết đọc, biết viết, vì thời còn nhỏ họ lười lĩnh, ỷ y không chịu học dù rằng nơi những nước văn minh nền giáo dục học đường rất được chú trọng và ưu đãi. Lớn lên làm được đến đâu, ăn xàì tới đó chẳng để ý gì về ngày mai phương chi tương lai. Ngày xưa, các hãng xưởng có những chương trình giúp nhân công để dành tiền nhưng họ không bắt ép ai chấp nhận bất cứ đề nghị nào nếu nhân công không muốn. Lại nữa, nơi một đất nước kỹ thuật phát triển và trù phú như đất Mỹ, dân chúng thường di chuyển tùy thuộc công sở hoặc môi trường nên họ không có ý niệm sở hữu một căn nhà cố định cho tới trước khi về hưu. Mà anh biết, không học hành, thiếu ý thức tự lập tạo nên bản tính nương tựa nơi chương trình an sinh xã hội trong khi quen thói ăn xài. Nếu thử so sánh hai lối sống giữa một gia đình người Mỹ nghèo với một gia đình người Việt, lối tiêu xài của gia đình người Mỹ nghèo có thể gấp ba gia đình người Việt. Đi chợ, anh để ý sẽ nhận ra người có thẻ phụ cấp thực phẩm, họ mua những thứ mà có lẽ anh không bao giờ dám mua. Có người mua steak về cho chó của họ ăn. Có lần tôi cho một người Mỹ quen mượn một trăm Mỹ kim vì cửa tiệm bán đồ cũ của anh ta không sinh lợi đủ để trả tiền thuê tiệm. Trong ngày dọn hàng ra khỏi tiệm thuê, anh ta mua đồ ăn trưa được nấu sẵn một cách thừa thãi, quăng vô thùng rác hơn một nửa. Một phần ba két nước ngọt mới mua, vì không để vô tủ lạnh anh ta bật nắp đổ đi hết. Phải mượn tiền mà quen thói xài như thế phỏng có được gọi là nghèo không?
             
            - Dù thế nào chăng nữa, người Việt mình sống nơi đất nước người đương nhiên tự mang khoảng cách văn hóa, tiếng Mỹ gọi là “Culture gap,” dẫu thái độ có cố gắng cách mấy cho phù hợp với dân chúng nơi đồng đất nước người cũng không thể nào có thái độ và phản ứng giống người bản xứ. Hơn nữa, văn hóa Đông Phương áp đặt trên con người những khuôn mẫu sao cho xã hội có thứ tự, lớp lang dễ cai trị, càng khiến cho người Việt Nam nơi những đất nước mới càng thêm tự ty mặc cảm. Từ sự tự ty mặc cảm này đã phát sinh nhiều chuyện nhố nhăng làm phiền lòng những người ý thức. Tuy nhiên, cũng phải chân thành nhìn nhận rằng những nước thứ ba là cơ hội tuyệt vời cho những con em Việt Nam về đường học vấn. Có điều, không hiểu tại giới hạn truyền giống bẩm sinh hay lý do gì mà chỉ được một số ít người Việt vượt hẳn lên. Ông bà mình có câu, “Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng;” điều mà tôi muốn nói là nơi bậc trung học và đại học, sinh viên người Việt khá nổi nhưng lên cao hơn nữa tự dưng biến mất chẳng khác gì nước hòa tan nơi dòng sông. Thử hỏi bao nhiêu người Việt trên thế giới, và chúng ta có được bao nhiêu phát minh mới từ họ?
             
            - Xét riêng về mặt nhận thức, tôi thấy người Việt mình bị thế giới vật chất hóa xâm nhập sâu đậm. Cũng chẳng lạ gì, đang mang thân phận khổ cực, đầu tắt mặt tối suốt ngày, đôi khi không lo đủ miếng cơm manh áo, nay gặp thời cơ có công ăn việc làm, cho dù tiền lương không bằng người bản xứ, nhưng quen lối sống tằn tiện thì cũng có dư của ăn của để nên càng chăm chỉ lo làm lụng. Đàng khác, người Việt tỵ nạn đã trãi qua mảnh đời không dám nghĩ tới tương lai, không nơi nương tựa lúc khốn cùng tất nhiên ý chí cũng như khả năng sinh tồn rất mạnh mẽ. Thế nên, có cơ hội thì họ ra sức làm e lỡ khi chuyện chẳng ngờ xảy đến còn có chút vốn liếng giải quyết bởi không người thân thuộc, chẳng ai quen biết thì chạy vào đâu. Ai không kinh nghiệm, “Có tiền mua tiên cũng được;” cho dẫu sinh trưởng trong hoàn cảnh nghèo nàn do đất nước rơi vô cảnh triền miên chiến tranh lại chẳng trù phú gì, mơ ước về cuộc sống của con dân Việt phải nói là rất cao. Mơ ước này không đặt nặng đến tiền bạc, ra giầy vào dép hoặc nhà lầu xe hơi, nhưng là một cuộc sống ổn định, tương lai vững chắc. Mộng của người Mỹ chỉ là có được căn nhà thuộc về mình và mảnh vườn nho nhỏ trồng bông, trồng hoa. Mơ ước của người Việt mình có thể nói như lời của một bài hát nào đó, “…Có con trâu, có nương rau, thiên đường này mơ ước bao lâu.” Mơ ước có con trâu, có nương rau tất nhiên mình đâu cần phải lo lắng về nơi ở vì đã có nhà. Dù không để ý đến ước mơ, nhưng anh thấy, người Việt mình nơi đất nước này, hầu hết mỗi gia đình đều mua được căn nhà không to thì nhỏ. Dân bản xứ thất nghiệp một tuần là xốn xang lo khai thất nghiệp, nhất là vào thời kỳ này, kinh tế xập xệ, thất nghiệp cỡ bốn, năm tháng thì nhà băng kéo nhà; những cảnh gia đình tan nát, vợ chồng mỗi người một ngả, con cái giao về ông bà nội ngoại là chuyện không hiếm xảy ra nơi đất nước văn minh này.
             
            - Cũng vì nơm nớp e sợ viễn ảnh quá khứ có thể xảy đến nên người Việt tỵ nạn lo cắm đầu cắm cổ làm việc đến độ bỏ bê cả việc giáo dục con cái. Xét cho ngay, cả hai vợ chồng mờ sáng đi làm, chiều muộn mới về tới nhà, có người làm hai việc thì còn thời giờ nào mà giáo với mác, thêm vào đó trẻ ở nhà trường, nghe, học, và nói tiếng Mỹ, dăm bẩy tháng, một năm lại không có cơ hội nói tiếng Việt ở nhà thì tâm tình càng ngày càng cách xa cha mẹ dẫu cha mẹ tối ngày gắng sức làm lụng để nuôi dưỡng chúng. Rồi nào đình đám, tang ma, và khi có chút của ăn của để lại phải nghĩ đến cái xe khá hơn, căn nhà thanh lịch hơn cho nở mày nở mặt với đời. Ngay câu tục ngữ, “Đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy điệm” đôi khi cũng làm khổ biết bao gia đình chỉ vì không nhận thức chín chắn…
             
            Nửa tiếng trôi mau, hai người trở lại đón cha Hải. Vừa đi ngang qua các gian hàng bán vé phi cơ, Thanh thấy một cụ già đầu tóc bạc phơ, vai quàng một túi xách, chiếc áo lạnh khoác nơi tay trái, và tay phải nắm cán cầm có thể kéo dài của chiếc vali nhỏ có bánh xe đang đi ngược lại. Cụ Tài bước vội tới chào hỏi và quay lại giới thiệu Thanh với ngài. Thanh đỡ lấy cán cầm vali, miệng nói,
            - Con xin chào cha. Cha có còn phải lấy thêm đồ gì nữa nơi quầy hàng hóa không?
            - Chào anh, mọi sự chỉ có thế. Coi chừng đụng bể chai rượu lễ trong đó. Ngài trao tay cầm vali cho Thanh nhưng vẫn kè kè khoác túi xách trên vai.
            - Cha đưa luôn túi xách cho con.
            - Khỏi cần, để tôi mang được rồi. Nhà anh ở gần nhà ông bạn tôi hay xa?
            - Thưa cha, nói gần thì cũng không gần, mà xa thì cũng không xa. Muốn tới thì gần mà không muốn tới thì xa.
            - Anh học được kiểu nói của ông bạn tôi bao giờ vậy? Hay là ông bạn Tài đầu độc anh ta rồi phải không? Ngài quay sang cụ Tài hỏi, giọng nhẹ nhàng, mang phần vui tươi, dí dỏm.
            - Thế ra cha cũng biết nhiều về cụ Tài ư? Thanh hỏi.
            - Không nhiều, tính đến nay cỡ chừng hơn kém 50 năm. Anh Hưng và các cháu dạo này ra sao? Ngài hỏi cụ Tài.
            - Cảm ơn cha, vợ chồng chúng vẫn thường vậy. Cháu nhỏ nhất đã xong đại học rồi. Cụ Tài trả lời.
            - Mới ngày nào còn thấy nó đang học lớp 12 mà!
            - Năm năm rồi còn mới mẻ gì nữa! Cụ Tài nhẹ nhàng. Ba đứa lớn đã có vợ, có chồng, con cái biết đi học rồi. Để chiều nay kêu chúng đến chào ông. Mời ông cụ và anh chị Thanh sáu giờ tối nay ghé qua nhà Hưng dùng cơm tối với cha Hải. Cụ Tài hướng qua Thanh nói.
            - Cháu định tối nay mời cha và cụ dùng cơm ở nhà cháu rồi tối mai làm tiệc mời cha quản nhiệm và ban điều hành để giới thiệu cha mới tới. Thanh hơi bỡ ngỡ.
            - Nếu vậy cần gì tôi phải nhờ anh đưa tôi đi đón ngài. Vợ chồng Hưng đang nấu ăn chờ chúng ta về ngồi tiệc đó.
            - Để cháu gọi nhà cháu và bố cháu sửa soạn. Bây giờ mình bỏ đồ của cha xuống nhà cháu và đón bố cháu cùng với bà xã cháu đi luôn.
            - Đưa luôn mấy đứa nhỏ sang ăn cho vui.
            - Vậy nhà cháu phải lái xe chở tụi chúng.
            - Em hả! Em nói bố cùng em và mấy đứa nhỏ chuẩn bị, sau khi anh chở cha về tới nhà bỏ đồ, mình sẽ qua nhà anh Hưng ăn cơm tối. Cỡ chừng nửa tiếng nữa anh về tới nhà. Thanh gọi điện thoại cho vợ.
            - Cha và cụ đứng chờ nơi đây để con lấy xe tới đón, khỏi phải đi bộ. Thanh nói hai người đứng đợi và đi lấy xe.
             
            ***
             
            Chín giờ sáng hôm sau, Thanh cùng bố và cha Hải đi câu cá hánh nơi ngõ nước vô Back Bay ở cầu nối Biloxi với Ocean Springs vì giữa tháng mười một trời đã đổ lạnh. Cha Hải mới đầu bởi chưa quen với sóng nước lúc tàu chạy nên đi lại hơi khó khăn, vả lại ngài cũng đã có tuổi. Khi tầu đã được thả neo cách chân cầu cho người đi chơi chừng 100 feet lúc con nước đang lên trong khi trời yên sóng gió, Thanh lấy thùng mồi tôm sống và mắc câu cho cả ba người. Mới đầu, cũng tưởng như câu mồi chết nên quen thói quăng câu ra xa, thế là con tôm sống mắc hờ nơi lưỡi câu bay vô định hướng. Trong lúc ngài cuốn câu thì bố con Thanh đã kéo lên hai con hánh khá lớn. Cha Hải lò mò bắt tôm mồi, nhưng Thanh đã vội nói, cha để con mắc mồi cho kẻo không quen bóp chết tôm mồi cá hánh không chịu ăn.
            - Thì ra cái nghề này cũng lắm công phu! Bảy mươi ba tuổi rồi mà vẫn chưa học xong. Có lẽ ông cha mình nói “Ông bảy mươi phải học nơi ông bảy mươi mốt là sai hay sao?”
            Bố anh Thanh lên tiếng,
            - Thời buổi này có lẽ hàng văn ăn ngược bởi ông bảy mươi mốt coi chừng phải học nơi đứa bé mười tuổi. Nhà có ba đứa nhỏ, chúng nó gõ computer làm đủ thứ chuyện, nào lên net, nào chơi game. Thế mà mình rờ đến nó thì máy chạy đàng máy mà người gõ đàng người, chẳng còn biết lối nào mà rờ nữa.
            - Gõ computer thì tôi cũng tạm được nhưng mà rờ rờ con tôm mồi này thì có lẽ như anh Thanh nói, bóp nó chết mất.
            Vừa nói chuyện, vừa câu, chỉ một chốc đã được mười mấy con hánh khá lớn, nhỏ nhất cũng cỡ 3, 4 pounds đổ lên. Thanh đề nghị,
            - Hay là tối nay mình mời cha quản nhiệm và mấy ông trùm, ông trưởng ăn lẫu cá hánh với bún. Nướng chừng 4 con, còn bao nhiêu nấu lẫu, xào lòng cá với hành tây, thêm độ hai con vịt luộc nữa là tha hồ xôm tụ, bố nghĩ sao?
            - Cũng được, nhân tiện giới thiệu cha Hải cho họ biết đỡ mất công chở ngài đi chào cha quản nhiệm. Bố Thanh trả lời, câu thêm mấy con nữa rồi về ăn trưa.
            Cha Hải không nói gì, bắt thử tôm mồi mắc vô câu…
            - Thế là chết tiêu một chú tôm mồi, cha Hải lên tiếng. Có lẽ mình được sinh ra để nói chứ không phải để mắc mồi tôm sống. Đúng là phường phá hoại! Anh Thanh, mắc dùm tôi mồi câu, nếu không tôi lại bóp chết thêm con tôm mồi! Tôi muốn câu thêm một con nữa cho đủ bộ ngũ hành.
            - Thì cha cứ chấp nhận tốn cỡ 100 con mồi sẽ học được nghề câu mồi tôm sống.
            - Thế sao mình không đi câu vào sáng sớm bởi tôm nha nhá, cá hừng đông…
            - Cá nước mặn ăn theo con nước thủy triều. Khi nước thủy triều lên, cá vô lạch kiếm mồi. Hôm qua mùng năm âm lịch nước lừng, cá lơ lửng ngoài khơi. Hôm nay mùng 6, nước chảy mạnh tới trưa thì đẫy. Sáng sớm lúc 6 giờ, nước mới vừa bắt đầu lên, các cá con loanh quanh gần bờ vô sớm, sau đó những con cá lớn mới vô thì câu vào khoảng 9 giờ tới 11 giờ mới có cá lớn.
            - À thì ra thế! Biết hết mọi sự nhưng sự cần thiết không biết thì cũng coi như không biết gì. Cổ nhân mình nói kể cũng không sai, trăm hay không bằng tay quen…
            - Thưa cha, cha về chơi được bao lâu. Nội trong hai tuần nữa, con định đi câu một chuyến lấy cá ăn mùa đông, câu ngoài khơi thú hơn trong này.
            - Trong lúc đang có cá hánh nhiều như thế này sao không để dành mà lại phải đi câu xa? Cha Hải hỏi.
            - Ngoài sâu mới lắm cá ngon, chẳng hạn như cá hồng, cá thủ đỏ, cá ngộ lớn, câu đã tay lắm. Câu mồi sống kéo cá không đã chút nào. Mình trả giá cho niềm vui mà cha! Thanh nói.
            - Tôi cũng không có việc gì, có thể ở tới ba hay bốn tuần hoặc hơn tùy ý. Ông Tài nói tôi về chơi nhân tiện nói chuyện với nhóm thanh niên về Phúc Âm. Nghe đâu ông ấy đã giải thích về đạo học Đông Phương cho các anh rồi phải không?
            - Thưa vâng. Con mới tham dự được mấy buổi tối vì trước đó con về Chicago mất ba tuần, nghe đâu bác Tài đã nói với anh em được ba lần. Thoạt đầu con cứ tưởng bác Tài có tuổi rồi, vả lại bề ngoài bác có vẻ trầm tĩnh, nhẹ nhàng, nếu không muốn nói là kín đáo và khuôn mẫu, nhưng đến khi nghe bác nói chuyện về đạo học mới thấy nhận thức của bác được coi như không có ranh giới, bất cần phép tắc, hoặc khuôn mẫu, đẳng cấp hay lề thói. Mấy người ăn nói tào lao, bặm trợn cũng không còn đường nói ẩu; mà hình như, đạo học chỉ hợp với những tâm hồn chân thành, dám liều suy nghĩ. Đối với con, đó là cơ hội để mở rộng tâm hồn đối diện với thực thể uyên nguyên vô hạn định đang hoạt động nơi tạo vật. Con cứ tưởng vì học hành bên này nên suy tư rộng mở có thể nói tới mức quá trớn, ai ngờ, cả mấy ngàn năm trước người ta đã đi quá xa. Thế rồi đem so sánh những chiều hướng đạo học với tôn giáo, con thấy hình như đạo học đối nghịch với tất cả các tôn giáo.
            - Tôn giáo đối nghịch với đạo học chứ! Anh có nói lộn không?
            - Thưa cha, cha nói đúng vì đạo học có trước tôn giáo. Xin phép cha để con tháo dây đưa tàu về kẻo cũng muộn rồi; cha vô ngồi nơi ghế gần vô lăng bởi tàu phải quẹo hơi mất thăng bằng.
             
            * * *
             
            Tối nay tại nhà Sỹ có thêm hai vị trùm, và hai người ở ca đoàn của cộng đồng họ đạo khiến không khí hơi khác lạ. Thay vì thói quen ăn nói bạt mạng giữa những anh em đã lâu quen biết, đàn đúm, lại có thêm chút kiến thức về đạo học, hai vị trùm cũng không xa lạ gì với những anh em Công giáo, nhưng, do thấy mấy người không theo Công giáo, dẫu quen biết, tham dự nghe cha Hải nói chuyện nên các vị này hơi ngỡ ngàng khiến bầu không khí hơi thiếu cởi mở. Sau màn ăn nhậu, dùng rượu bia thay xăng dầu hâm nóng những bộ máy nói và những chiếc bàn đã được thu dọn sạch sẽ chỉ còn lại những chai bia hoặc ly rượu đang uống dở, cụ Tài lên tiếng,
            - Như anh em đã biết, đây là cha Hải bạn quen biết của tôi đã gần 50 năm. Nếu có cơ hội và thời giờ, tôi sẽ kể chuyện lý do và cơ hội chúng tôi quen biết nhau. Tối nay và một đôi tối trong những tuần kế tiếp, tôi mời ngài gặp gỡ anh chị em để trình bày về Phúc Âm. Có điều tôi quên đã không nhắc nhở anh em đọc Phúc Âm trước khi tham gia hội thoại. Thiển nghĩ, sau buổi tối nay, chúng ta ít nhất còn có cả tuần lễ cho lần họp tới, hy vọng anh em có đủ giờ đọc qua. Ngài đã về hưu và hiện đang ở tại Philadelphia, mấy lần tôi đề nghị ngài về miền Nam cho ấm áp nhưng có lẽ duyên chưa tới nên ngài vẫn còn lưu luyến miền giá lạnh Bắc Mỹ.
             
            - Mọi người đều biết tôi không theo đạo nào hết. Sở dĩ tôi phải minh định vì hôm nay có thêm một vài vị theo Công giáo tham dự. Mục đích của những buổi hội thoại là nhận định về những đạo học mà không phân tích hay nói gì về tôn giáo. Như các anh em đã tham dự những lần trước đều biết, chúng ta nêu lên những nhận định cốt lõi của các đạo học và, nói theo ngôn từ của anh Sỹ, chủ nhà, đó là “Ngâm kíu” một số công án hay dụ ngôn nơi các đạo học hầu tăng thêm nhận thức tâm linh. Bởi tôi không theo tôn giáo nào nên không muốn nói gì về tôn giáo. Hôm nay nhân tiện có cha Hải, nếu anh em có thắc mắc gì về liên hệ giữa tôn giáo và đạo học, anh em cứ việc nêu lên hy vọng ngài sẽ giải thích thỏa đáng cho lòng khát vọng của anh em. Bây giờ, tôi xin nhường lời, mời cha. Cụ Tài đưa tay mời cha Hải.
             
            - Thưa ông bạn già và quý anh chị em, tôi tên là Nguyễn Công Hải vượt biên năm 75 thuộc dạng dân Việt số 9, sinh năm 1932. Những ngày còn ở Việt Nam trước năm 75 tôi đăng lính không quân và được bổ nhiệm làm việc tại phi trường Biên Hòa với chức danh quân vụ thượng sĩ nhất coi một tiểu đội túc trực đường bay cho quân đội. Sang tới đất Mỹ, tứ cố vô thân và được một gia đình người Mỹ bảo trợ, sau đó mấy tháng, tôi gia nhập một nhà dòng và sau khi học hai năm thần học tại Chicago, tôi bị nhà dòng đuổi với 5 thứ tội mà tôi chỉ nhớ được hai tội đặc biệt đó là “Anti American” và “Sturbon.” Sau đó tôi xin gia nhập địa phận Philadelphiavà chịu chức linh mục năm 1985, tới nay được 30 năm. Qua những năm tháng làm việc với chức vị linh mục giữa những cộng đồng người Mỹ và người Việt, tôi nhận thấy lòng thao thức muốn phân định một cách rõ ràng về niềm tin của mình cùng những sự liên hệ với cuộc sống thực tại của con người và hành trình tâm linh, hành trình đức tin. Có lẽ vì những ngày còn ngồi ghế trung học, tôi theo ban B, toán và lý hóa, nên những suy tư của tôi được đặt nặng trên khuôn mẫu lý luận. Bất cứ những gì được coi như tự trời rơi xuống thật khó cho tôi chấp nhận nên tôi tìm hiểu và đào sâu về chúng qua sách vở, đặc biệt suy tư sao cho hợp lý và hợp tình và có thể chấp nhận được. Những gì được gọi là phải tin, chẳng có gì cho tôi đặt vấn đề vì dù lý luận đến mấy cũng không có gì để minh chứng và đụng chạm đến được nên tôi đành chấp nhận gọi là tin cho qua.
             
            - Thế nên, trước khi chúng ta hội thoại, tôi muốn biết quý anh chị em có nhận định gì về sự liên hệ của tôn giáo và đạo học?
            - Thưa cha, Sỹ nhà con vội lên tiếng. Theo như con thấy thì đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, giúp đỡ người khác nếu có thể và đóng góp để phát triển tổ chức tôn giáo của mình. Nhà thờ thì đóng tiền trả lương cho các linh mục, trả chi phí bảo quản nhà thờ, giúp lung tung, nhóm truyền giáo này, hội truyền bá Phúc Âm kia. Nhà Phật thì cúng dường, cúng chiếu, ăn chay, không ăn mặn nhưng ăn giả mặn, không ăn thịt, ăn cá, nhưng ăn giò giả làm bằng đậu phụ, ngoại trừ không lấy vợ, lấy chồng giả. Một số tôn giáo cấm uống bia, bởi bia độc hơn rượu nên có mộ bia mà không có mộ rượu; rồi đạo này ăn mặn thì một vợ; đạo kia ăn chay thì hai ba vợ cũng được nên con đang định ăn chay cho thỏa mãn tình yêu không biên giới. Xét chung, con nhận thấy đạo học chỉ dạy về hành trình thăng tiến tâm linh cá nhân. Tôn giáo có luật này, luật nọ, có điểm tới chẳng hạn như niết bàn hoặc thiên đàng nếu nói chung chung. Con xin ngưng vì có quá nhiều thứ đạo nên lắm thứ luật không thể biết hết phương chi nói hết ạ.
             
            - Anh định ăn chay mà còn muốn tình thật không giả, sao không tình chay cho thuận lý, hợp tình? Cha Hải cười cười hỏi Sỹ.
            - Thưa cha, con chưa ăn chay, chỉ mới có tình chay mà bu nó quá quắt lắm nên mới định đổi thành ăn chay may ra có được tình mặn. Sỹ lý luận.
            - Cái ông này ăn nói lung tung, vợ Sỹ nhăn chồng.
            - Một vợ nằm trên giường, hai vợ mời ra đường, ba vợ lọt xuống mương, bốn vợ vô nhà thương. Tình đế vô.
            - Thưa cha, ông Thung lên tiếng, tôi theo đạo Phật, đôi khi ăn chay, nhưng không có tình mặn có lẽ cũng giống như chú Sỹ nói, bà nhà tôi cũng chẳng vừa gì. Thế nên, chay hay ăn mặn, tình chay hay tình mặn có lẽ tùy thuộc mụ chủ nhà chăng.
            - Cái ông này, ông học được lối ăn nói tào lao bao giờ thế? Chị Thung lên tiếng ngăn chồng.
            - Chị nói vậy oan cho chúng tôi rồi. Chúng tôi học anh cả chứ đời nào anh cả học chúng tôi; đâu có chuyện hàng văn ăn ngược như thế phải không anh cả. Hưng nói.
            - Thưa cha, thưa cụ, chả nói giấu gì, bởi cụ (Tài) dạy rằng, ý kiến, ý nghĩ không đúng không sai; nó tùy thuộc môi trường được bày tỏ mà trở nên thế nào chẳng khác gì câu nói “Lửa thì không nóng.” Ai cảm thấy nóng thì người ấy biết. Thực ra, xưa nay tôi là kẻ ít mồm, ít miệng, chỉ có một cái à, nhưng vì cha mới tới, lại có thêm mấy vị nơi cộng đồng Công giáo tham dự nên tôi phải lên tiếng để tối hội thoại thêm vui tươi, chứ nếu khô khan quá chỉ tốn thêm rượu bia mắc mỏ. Ông Thung giải thích.
            - Tôi nghĩ, sự liên hệ giữa đạo học và tôn giáo ông bạn tôi đã giải thích, nếu tôi không lầm, nhưng coi chừng anh em vô tình không để ý thôi. Tôi biết ông bạn tôi không thích nói dài dòng, mà đôi khi còn cắt bớt để người nghe có cơ hội nhận thức thêm. Nếu để ý đến tâm tình của chúng ta khi tham dự những nghi thức tôn giáo hay khi một mình cầu nguyện, cúng bái, chúng ta sẽ nhận thấy mỗi người được sinh ra với lòng khát vọng nào đó nên luôn luôn thao thức kiếm tìm. Tôn giáo là tổ chức quy tụ những người có niềm tin như nhau dẫu họ tự nhận thức hay được dạy dỗ hoặc giáo hóa như thế nào. Tôn giáo phát sinh từ đạo học; chúng ta thấy đạo học phát triển tại vùng nào thì tôn giáo mang tên đạo học đó phát sinh.
            - Thưa cha, nếu nói rằng tôn giáo phát sinh từ đạo học vậy sao không thấy tôn giáo dạy về đạo học mà chì thấy nói về luân lý? Tình hỏi.
            - Anh lấy gì chứng minh câu hỏi của anh? Cha Hải điềm nhiên đặt vấn đề.
            - Thưa cha, Tình lên tiếng, đồng ý rằng những bài đọc thì thuộc về Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước nhưng khi giảng thì con chỉ thấy các cha giải thích lời Chúa theo nghĩa luân lý làm như chúng con là phường vô luân. Con nghĩ, tới nhà thờ để thờ phượng Chúa chứ không phải đến để học những bài học luân lý không thể áp dụng trong đời sống. Hơn nữa, nếu nhận định lời Chúa qua nhãn quan luân lý, câu Kinh Thánh này đối nghịch với câu Kinh Thánh kia khiến chúng con trở thành người đi giữa hai lằn đạn. Chẳng hạn, một đàng thì cha giảng rằng Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến, hy sinh chính con một ngài để chuộc tội cho loài người; đàng khác cha lại cũng giảng Chúa phạt. Một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến không thể nào lại là một Thiên Chúa công thẳng được vì như vậy không hợp lý và hợp tình chút nào. Ấy là con chỉ mới nói đến một khía cạnh; còn những khía cạnh khác chẳng hạn con theo đạo Công giáo tức là thuộc về Kytô giáo, nhưng hình như những lề lối được áp dụng xưa nay chẳng khác gì nơi Cựu Ước tức là theo Thiên Chúa giáo của người Do Thái. Con thấy mấy điểm cứ được nhắc đi nhắc lại nào là cầu nguyện xin Chúa giúp sức, ăn ở ngay lành để sống xứng đáng làm con cái Chúa. Con tự nghĩ, đã có Chúa Giêsu chịu chết cho tội lỗi nhân loại thì sống tốt lành, thánh thiện coi chừng lại chứng tỏ từ chối ơn cứu chuộc, khinh thường cái chết của Chúa Giêsu. Suy luận thêm một chút, nói rằng Chúa chết để chuộc tội cho mọi người sẽ mang lại kết quả phản tác dụng. Con muốn nói rằng người ta sẽ nghĩ bởi Chúa đã chết để chuộc tội cho mình thì sự chết của Chúa Giê su trở thành bảo hiểm cho mình tha hồ phóng túng bởi đàng nào ngài cũng đã chết từ hơn kém hai ngàn năm trước…
            - Ai có ý kiến gì không?
            - Thưa cha, ông trùm Lực lên tiếng, thưa ông trùm, các ông các bà đang hiện diện nơi đây. Lần thứ nhất con tham gia nhưng nghe ông Tình nói không thể chấp nhận được nên con xin trả lời. Xin cha và quý vị thông cảm nếu có gì thiếu sót. Thưa cha, thưa ông Tình, chúng ta được Chúa ban cho có cuộc đời để thờ phượng Chúa nên việc thờ phượng Chúa là bổn phận chính yếu. Nếu chúng ta không cầu nguyện xin Chúa soi sáng và chúc lành thì cuộc đời chúng ta sẽ ra sao. Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ để làm lụng nuôi sống gia đình thì chúng ta phải cảm tạ Chúa. Chúng ta phải sống tốt lành để khỏi làm mất lòng Chúa, để hưởng ơn cứu độ, được hưởng nước thiên đàng sau này. Chúa đã hy sinh con một của ngài là Chúa Giê su chịu chết trên thánh giá đổ máu mình ra chuộc tội cho thiên hạ, như vậy nếu không sống tốt lành, thánh thiện, thờ phượng Chúa tức là chối bỏ công chuộc tội của Chúa Giê su. Mười giới răn Chúa đã phán với ông Môi Sen là những điều luật chúng ta phải giữ cho đẹp lòng Chúa. Nếu không tuân giữ thì đáng phải phạt sa hỏa ngục; như thế là Chúa công bằng, mình làm mình chịu thì có chi mà không công bằng. Dạ, thưa con xin hết ạ.
             
            Ông trùm Lực khoảng năm mươi mấy, sáu chục tuổi đang làm việc cộng đồng Công giáo, rất mộ đạo, con cái đã lớn có gia đình hầu hết, chạy loạn hồi 75. Gia đình gom tụ lại và vay mượn, tậu được một cây xăng trên hwy 90, làm ăn tương đối khấm khá. Tình nghe mà lắc đầu nhưng không nói gì, không phải bởi xưa nay hắn vốn không thích nói nhiều mà thấy ông trùm Lực trả lời theo kiểu “Ông nói gà, bà nói thóc” nên im lặng chờ xem cha Hải trả lời ra sao.
            - Ông Sỹ, chủ nhà, cha Hải kêu đích danh.
            - Thưa cha, con nghe các ông bà xưa nói các cha là đức chúa trời ngôi thứ tư nên con chờ nghe cha phán quyết. Sỹ ỡm ờ.
            Bầu không khí trở nên căng thẳng bởi câu hỏi của Tình hơi nặng đối với những cặp tai người Công giáo. Dẫu lời thật mất lòng nhưng đây là lần đầu tiên cha Hải nói chuyện và thực ra, ngài cũng chưa nói gì. Dẫu mọi người, trừ mấy người mới tham dự đều hiểu rằng ý kiến không đúng, không sai, nhưng Tình lại nêu lên nhận định riêng về tôn giáo. Không thấy ai nói gì, cha Hải lên tiếng,
            - Sự nhận định của anh Tình đúng với mọi tôn giáo. Mặc dầu tôn giáo phát xuất từ đạo học nhưng tôn giáo là một tập thể con người có tổ chức nên cần phải có những quy luật của tổ chức. Tôi thử đặt vấn đề, chúng ta có biết mục đích của tôn giáo là gì không? Tại sao chúng ta theo tôn giáo? Tôn giáo bao gồm những gì? Và mang lại lợi ích gì cho con người? Ngưng một chút ngài tiếp,
            - Như tôi đã nói, điều mà mọi người đều có thể nhận biết; đó là mỗi người chúng ta được sinh ra với lòng khát vọng nào đó, và khi để ý nhận định có thể đơn giản nói rằng chính lòng khát vọng này là đầu mối cho những thao thức tiềm ẩn kiếm tìm, nếu không để ý hồi tâm sẽ không nhận ra. Lòng khát vọng tiềm ẩn này là gì; đó là muốn nhận biết mình thế nào, thân phận mình ra sao; tại sao mình có cuộc đời; tại sao mình không được sinh ra sớm hơn hoặc muộn hơn? Thế rồi cuộc đời sẽ dẫn dắt mình về đâu? Chẳng lẽ cuộc đời mình có rồi sẽ qua đi mất tăm tích được đánh dấu bằng cái chết? Mình có liên hệ gì với vũ trụ này không? Có quyền lực nào ảnh hưởng nơi cuộc đời của mình và quyền lực ấy là gì? Đại đa số con người đối diện với cuộc đời thường thì chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống và lo giải quyết những nhu cầu sống; và dĩ nhiên, những thăng trầm trong cuộc sống che khuất nỗi khát khao, thao thức. Cũng có những người không bằng lòng chấp nhận thân phận một cách tự nhiên mà muốn nhận biết và làm chủ cuộc đời của mình nên đặt vấn đề và tìm hiểu, hoặc nhận thức về giá trị con người và cuộc đời trong dòng sinh hóa vô tận này. Thế nên, đã có những người dùng cả cuộc đời mình để chiêm nghiệm, suy tưởng, nghiệm chứng thực thể con người và để lại những gì chúng ta gọi là kinh điển đạo học. Nếu để ý, chúng ta thấy tâm trí nơi mỗi người luôn luôn động, luôn luôn suy nghĩ, hoặc thao thức kiếm tìm một vấn đề hay một chuyện nào đó. Để thoả mãn thao thức này, một số người có cùng quan điểm họp lại có tổ chức. Đây là hình thức ban sơ của tôn giáo. Và dĩ nhiên, quy luật, điều lệ của tổ chức phát sinh.
            - Tôi nghĩ ông bạn tôi đã giải thích những sự thể này, nhưng tôi nhắc lại. Vì tôn giáo bắt nguồn từ đạo học nên những vị rao giảng nơi tôn giáo có bổn phận nghiệm chứng đạo học, chia sẻ nghiệm chứng của mình với tín đồ để họ so sánh cũng như tìm ra phương pháp thăng tiến tâm linh cho mỗi người, và chứng nghiệm với tín đồ, giúp họ nhận thức để rồi thức ngộ. Tôi nghe ông bạn tôi nói đã trình bày Phật, Ấn, Lão, Mật Tông cho anh em rồi phải không? Riêng tôi sẽ cùng với anh em chúng ta chứng nghiệm Phúc Âm. Tuy nhiên, trước khi nói về Phúc Âm, có vài vấn đề cần phải được minh xác chẳng hạn như con người mình thế nào, Thiên Chúa là gì, bởi vì mỗi người có những kinh nghiệm riêng, trãi qua những môi trường sống khác nhau nên thường thì có những nhận thức khác biệt trong khi đàm luận chúng ta lại dùng chung những ngôn từ. Để tránh cảnh đồng ngôn dị ý, tôi nghĩ sự phân định rõ một vài vấn đề trước khi bước vào Phúc Âm là điều nên đặt ra. Điều đầu tiên tôi muốn nêu lên đó là con người mình thế nào.
            - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, thì Chúa đã tạo dựng nên con người có xác, có hồn như Kinh Thánh đã dạy. Chúa dựng nên một người nam và một người nữ. Người nam bỏ cha mẹ mình để nên làm một với vợ mình sinh thêm con cháu thờ phượng Thiên Chúa. Bởi vậy, bổn phận của mình là phải thờ phượng kính mến Chúa, phải tin vào Chúa quan phòng, phải có đức tin cho gia đình được êm ấm, phải sống ngay lành, làm gương sáng cho gia đình, con cái. Hơn nữa, Chúa dạy rằng các con là ánh sáng và là muối đất cho muôn dân nên mình phải sống đúng những điều răn Chúa dạy để làm gương cho những người chung quanh. Chúng ta cũng phải sống khiêm nhường làm chứng cho Chúa vì Chúa đã tạo dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Ngài, lại sai Chúa Giê su xuống thế chuộc tội cho loài người nên cần tin theo Chúa Kitô, sống và truyền bá Phúc Âm. Thưa cha, như vậy con nghĩ, truyền bá Phúc Âm của Chúa chưa đủ mà phải sống theo Phúc Âm vì mình nếu không sống theo sao có thể truyền bá, sao có thể là ánh sáng cho muôn dân, sao có thể là muối ướp mặn đời.
             
            Ông trùm Canh tuổi độ chừng ông trùm Lực, hai ông cùng làm việc cho cộng đoàn Công giáo ở Biloxi. Giữ chức vụ trùm nơi cộng đoàn thì cũng có chút tiếng tăm giữa những người đồng hương Công giáo; thế nên thấy ông trùm Lực lên tiếng chẳng lẽ mình lại ngồi không, lỡ người ta tưởng mình không biết gì thì còn mặt mũi nào cho xứng chức vị làm trùm. Hơn nữa, ngày xưa cũng học xong tú tài I và bị động viên đeo lon chuẩn úy, và sau ba mươi tháng tư đi cải tạo mất gần mười lăm năm, đoạn theo chương trình H.O. sang Mỹ từ năm 1992 tới nay cũng hai mươi mấy năm. Nhờ trời, làm ăn cũng khấm khá, mấy đứa con cũng đã lớn, học hành đến nơi đến chốn, đứa kỹ sư hóa học, đứa dược sư nên cuộc sống thanh thản và có thời giờ làm việc giúp cộng đồng họ đạo. Nào có lạ gì, đối với các cha thì cứ đem Chúa ra mà hù, mọi sự đổ tại quan phòng yêu thương của Chúa là êm chuyện. Đúng hay sai chẳng lẽ cha dám nói ngược lại. Lõm bõm nhớ được đôi câu Kinh Thánh nơi bài viết nào đó ở báo Trái Tim Đức Mẹ cùng với lý luận và nhận định về nghĩa vụ truyền giáo của giáo dân, ông xả hết, mượn nó để chứng tỏ uy thế và sự hiểu biết của mình.
             
            Thấy hai ông trùm cộng đoàn bán cái mọi sự cho Chúa của họ, Thanh tự hỏi không hiểu cha Hải sẽ có phản ứng như thế nào vì nghe cụ Tài giới thiệu ngài sẽ nói về Phúc Âm. Sỹ thì tửng tửng nêu lên tính chất thế tục của các tôn giáo mà không thấy cha nói gì. Hai ông trùm nói lên nguyên những cái phải, tùy thuộc nhãn quan tôn giáo, may mà không nói rằng mình phải được sinh ra làm người trong khi câu hỏi lại là nhận định về con người thế nào, Có lẽ hai ông này không biết gì về đạo học. Cha Hải thì điềm tĩnh như không lại ra vẻ chăm chú nghe. Khi hai ông trùm nói xong, ngài hỏi Hưng,
            - Anh Hưng, anh nghĩ thế nào?
            - Thưa cha, cháu thấy hai ông trùm bên họ đạo nói theo nhãn quan tôn giáo nên không có ý kiến vì cháu đâu theo đạo Chúa, trong khi câu hỏi lại đặt vấn đề nhận định về con người.
            - Tôi đồng ý với nhận định của anh. Thế anh có nhận định gì về con người.
            - Thưa cha, qua sự học hỏi nơi các đạo học Đông Phương do bác trình bày đồng thời khuyến khích anh em tụi cháu đặt vấn đề nhận thức về chính mình, cháu nhận thấy con người của mình bao gồm hai thành phần đối nghịch hoàn toàn, tưởng như xung khắc khó hòa giải nhưng lại hòa hợp làm một bất khả phân ly, lại rắc rối khó thể nghĩ bàn. Một con người gồm có một thân xác và một phần hồn giống như Lão học hoặc dịch học trình bày về đạo nhất nguyên. Chỉ phần hồn thì không ai biết và nếu chỉ xác không sẽ mục nát, nhưng hồn kết hợp với xác, hồn trở thành chủ thể và xác trở thành công cụ cho hồn làm việc, hay hoạt động nơi thế giới hữu hình. Sự hòa hợp hay liên kết của hồn và xác, nói thế không đúng, mà cần được gọi là nhất thể, trở nên một của hồn và xác phát sinh tư tưởng, ước muốn, ý nghĩ, ý định, tham vọng. Mỗi thành phần của thân xác đều là phương tiện hay công cụ của phần hồn. Cả thân xác, cả cuộc đời một người đều là công cụ cho hồn làm việc hay hoạt động trong một khoảng thời gian nào đó tạm gọì là cuộc đời một người. Phần hồn được Phật học gọi là Tính hay Tánh do đó lục tổ Huệ Năng dạy rằng “Kiến Tính thành Phật,” điều này có nghĩa nhận biết bản lai diện mục của mình được gọi là thức ngộ, hay phật, vì phật là người thức ngộ. Cháu xin hết.
            - Thế còn nơi Lão học?
            - Nơi Lão học, thưa cha, được gọi là thánh nhân. Nơi Ấn học, tiếng Việt gọi là chân nhân. Thưa cha, con không biết nơi Thiên Chúa giáo gọi là gì, tiên tri hay phàm tri. Sỹ nhảy vô trả lời.
            - Thế anh có biết nơi Kinh Thánh nói gì về loài người không?
            - Thưa cha, nơi cuốn sách Khởi Nguyên của Kinh Thánh được viết, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, thì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Cảm ơn cha đã đặt câu hỏi nên con ngộ được câu trả lời của câu hỏi bao lâu nay ấm ức. Như vậy Thiên Chúa cũng có hai mắt, một mũi, hai tai, một miệng, trong miệng có răng, trên đầu có tóc. Nhưng có điều con chưa bao giờ nhìn thấy cũng như chưa bao giờ nghe thấy Chúa nói. Sỹ xổ một hơi.
            - Thế mà cũng dám hô lên là ngộ! Mi vừa nói lúc nãy, các cha là đức chúa trời ngôi thứ tư, bộ mi điếc sao mà không nghe thấy cha nói. Bá lâu nay im lặng lại lên tiếng.
            - Thời còn nhỏ ở Việt Nam tớ nghe thấy mấy người nói thế chứ tớ có nói các cha là chúa trời ngôi thứ tư đâu. Người ta nói thì họ biết chứ tớ đâu biết.
            - Thế sao dám hô lên là ngộ? Tùy hỏi.
            - Tớ ngộ ra mình là hình ảnh của Thiên Chúa chứ tớ không ngộ về cha, nghe rõ!
            - Chú Sỹ, chú ngộ thì chú biết, và người biết thì không nói, xin mời cha. Ông Thung dẹp Sỹ.
            - Anh em đã biết nơi đạo học Đông Phương nói gì về thân phận con người. Nơi Kinh Thánh còn nói gì thêm về con người nữa không?
            - Thưa cha, nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, đoạn 3, thánh Phaolô nói rằng, “Anh em không biết sao? Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 3:16), và nơi đoạn 4 được viết, “Anh em không biết sao, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em” (4:19). Nơi thư Galat ngài còn viết, “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20). Thưa cha, nếu đem so sánh những nhận định hoặc phát biểu của Kinh Thánh và đạo học Đông Phương, con thấy đều được cho rằng linh hồn của một người đang mang quyền lực của Đấng tối cao; điều này có nghĩa mỗi người đang mang quyền lực tối thượng mà không nhận biết. Sở dĩ con phải nhắc đến hai câu nơi hai đoạn 3 và đoạn 4 của thư thứ nhất gửi Corintô vì nơi bản dịch tiếng Việt, ngôn từ “Anh em” có thể hiểu sang nghĩa một nhóm trong khi nơi câu 19 của đoạn 4 nhắc đến “Thân mình, thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em,” vì câu này nêu rõ xác thân một người. Thưa cha, xét như thế con thấy nếu hồi tâm nhìn lại con người của mình, có thể nói, dưới nhãn quan tâm linh, hình như chúng ta chỉ giống như em bé một hoặc hai tuổi, tay cầm “credit card” nhưng chết khát vì không biết cách nào để mua sữa mà uống. Nhiều lần suy nghĩ về câu Kinh Thánh, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài,” con nghiệm ra rằng chúng ta không dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Không dám chấp nhận để thực hiện những chuyện trong cuộc sống theo ý mình; không dám chấp nhận vì nếu chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa thì rất khó sống giữa cuộc đời lừa lọc này. Như thế sao có thể chấp nhận Thiên Chúa ngự trị nơi mình, Đức Kitô nơi mình, hay Thần Khí của Thiên Chúa nơi mình.
            - Ông nói Chúa ngự nơi mình chẳng lẽ mình là Thiên Chúa! Ông trùm Lực lên tiếng.
            - Tôi không bảo mình là Thiên Chúa, mà Kinh Thánh nói mình là hình ảnh của Thiên Chúa và thánh PhaoLô minh xác rằng thân xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người chúng ta. Đây là lời Kinh Thánh, là lời Chúa chứ không phải lời nói của tôi. Ông chấp nhận được hay không thì tùy ông, riêng tôi, tôi không dám chấp nhận. Tôi muốn nói, Thiên Chúa hiển nhiên ngự trị trong tôi nhưng tôi không dám chấp nhận vì nếu chấp nhận thật khó mà sống, khó mà đương đầu với những mưu mánh thế tục tràn ngập nơi cuộc sống. Tôi chỉ minh xác cái hèn của tôi mà thôi.
            - Ai có nhận định gì thêm? Cha Hải nói lớn hỏi mọi người.
            - Thưa cha, theo như anh Thanh nói thì chẳng lẽ Kinh Thánh nói về thực thể hiện hữu của con người cũng giống nơi Ấn học, Lão học, và Phật học sao? Sỹ hỏi.
            - Sao anh lại hỏi tôi, cha Hải ngang nhiên đặt vấn đề. Sự thể ngay trước mắt anh, nói cách khác, anh đã nhận thức được điều đó thì hỏi tôi làm gì! Chẳng lẽ sau khi nhậu xong anh hỏi tôi có phải anh vừa uống rượu bia và ăn thực phẩm nấu chín; nếu tôi bảo không phải, chẳng lẽ anh đã không nhậu. Tại sao nghi ngờ cái biết, sự nhận thức của chính anh? Có phải anh sợ suy nghĩ hay nhận thức sai lầm? Thì hãy suy nghĩ, hãy nhận thức cho biết được nhận thức sai lầm cả ngàn lần, đến lần thứ ngàn lẻ một may có được nhận thức không sai, và như vậy anh đã có được ngàn lẻ một nhận thức. Chúng ta có câu hát, “Ai nên khôn không khốn một lần” mà sao anh lại sợ sai lầm…
            - Thưa cha, Sỹ lại lên tiếng, làm sao biết được sai cả ngàn lần mà lại có được ngàn lẻ một nhận thức? Mới định sai một vài lần mà mụ vợ đòi đạp ra khỏi cửa rồi, hu, hu…
            - Cái ông quỷ này, trước mặt cha cụ mà ăn nói bậy bạ, vợ Sỹ nhăn nhó.
            - Chị cứ đạp nó ra khỏi cửa đi, để tôi… Bá diễu…
            - Lại cái ông ma này, ông muốn tôi đạp cho bây giờ ư? Vợ Sỹ không tha.
            Hai ông trùm thắc mắc sao cha nói gì kỳ cục, cứ suy nghĩ sai cả ngàn lần.
            - Ông vừa mới ngộ, chỉ có thế mà không hiểu. Nếu ông đã biết mình sai cả ngàn lần tức là đã biết ngàn cái đúng từ cái sai thì không đã nhận thức được ngàn lần rồi ư! Hưng nói.
            - Nhưng mà có được phép sai hay không mới là vấn đề!
            Thế là hai ông trùm thấy tối tăm mặt mũi. Cha thì khuyến khích suy nghĩ dù suy nghĩ sai cũng không sao. Anh Hưng lại nói biết được sai lại có được nhận thức đúng. Anh Sỹ đặt vấn đề sao có được phép sai, và ai cho phép.
            - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng hỏi, chúng con thường được nghe dạy rằng phải tin với giáo Hội, sao cha lại cho phép sai cả ngàn lần?
            Câu hỏi như một trái bom nổ tung giữa đám ồn ào khiến mọi người giật mình chợt im re, chợt cảm nghĩ có chuyện nguy hiểm sắp xảy tới. Cha Hải không trả lời, đưa mắt nhìn tổng quát một lượt như thách đố ai đó lên tiếng nói. Tuy nhiên, mọi người dù theo đạo nào cũng không một ai muốn lên tiếng bởi ông trùm Canh trực tiếp hỏi cha Hải. Không thấy ai nói gì, ngài lên tiếng,
            - Đọc kinh sách đạo học chúng ta cần mở rộng tâm hồn để nhận định. Đạo học Đông Phương nhấn mạnh tới định tâm để quán tưởng hay suy tưởng, suy nghiệm. Sự suy nghiệm này vô hạn định và không nên tùy thuộc hoặc bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều kiện nào. Ai trong chúng ta cũng biết rất rõ ràng về khả năng nhận biết hoặc tưởng tượng của con người, nhưng không biết hoặc không dám dùng khả năng suy tưởng, chúng ta sẽ rơi vô trường hợp ỷ y mù tối mà Đạt Ma sư tổ gọi là vô minh. Bởi không chịu suy nghĩ, người ta tưởng rằng những điều nghe biết là kiến thức và cứu cánh cuộc đời của họ và được gọi là mường tưởng. Chẳng hạn, nghe ai đó nói cho biết con người ngày nay văn minh đã gửi những vệ tinh vào không gian cải tiến viễn thông đem lại lợi ích ít nhất chúng ta đang được hưởng đó là hệ thống điện thoại cá nhân. Như thế, nói rằng chúng ta biết con người ngày nay văn minh nhưng văn minh như thế nào, người ta văn minh hay mình văn minh. Lại nói đến vệ tinh cải tiến truyền thông mà chúng ta đang nhờ nó dùng điện thoại cá nhân. Nói cho đúng, chúng ta đang dùng điện thoại cá nhân nhưng chúng ta chẳng hiểu biết gì về nó, chỉ biết cách dùng, sao có thể gọi được là chúng ta văn minh. Xét như vậy có thể nói, mặc dầu chúng ta dùng điện thoại cá nhân nhưng chỉ biết cách sử dụng trong khi hoàn toàn mù tối nhận thức về điện thoại cũng như vệ tinh viễn thông. Dĩ nhiên, muốn biết về chúng cần phải học hỏi.
            - Tuy nhiên, nơi phương diện tâm thức, tâm linh không giống như sự vật hữu hình, chúng ta không dùng giác quan đụng đến được nên cần phải dùng khả năng suy nghĩ, suy tưởng. Chỉ những người nào ỷ y không suy tưởng mới đặt vấn đề sai hay đúng. Tôi có thể kể một câu chuyện đã xảy đến với tôi vì e sợ suy nghĩ sai lầm. Tối hôm đó nơi lớp Kitô học tới giờ nghỉ mười lăm phút, vừa bước ra tới cửa lớp, tôi hỏi linh mục giáo sư, thưa cha, con thấy hình như mình cứ đặt vấn đề rồi tự đánh nhau với những suy nghĩ của mình. Anh em biết ngài trả lời sao không? Ngài điềm đạm nói rằng, có câu nói, đối với con vật, khi ăn no thì chúng ngủ, nhưng đối với con người, khi đã có cơm no áo ấm thì người ta suy nghĩ. Ai muốn hiểu sao thì hiểu. Tôi muốn đưa thêm một thí dụ nơi Kinh Thánh. Chắc anh em Công giáo biết câu chuyện góp chung của cải nơi sách Tông Đồ Công vụ. Nơi đoạn 4 được viết, “Vả lại giữa họ không có ai phải túng thiếu, vì những người làm chủ đất đai hay nhà cửa thì bán đi và đem giá cả các vật bán được mà đặt dưới chân các tông đồ để phân phát cho mỗi người, ai nấy tùy theo nhu cầu của mình” (TĐCV. 4:34-35). Giả sử bây giờ có lời kêu gọi của bất cứ ai hoặc nhóm nào mà mình tin tưởng họ cách mấy, anh em có bán nhà cửa mà đem nộp tất cả cho họ không. Không những thế, phỏng có bất cứ ai hoặc bất cứ nhóm nào dám xung phong đứng ra nhận những sự đóng góp đó chăng? Có ai dám đưa ra nhận định không?
            - Thưa cha, bán nhà đi thì lấy gì mà ở, chẳng lẽ ra đường khum lều, rồi nấu nướng vào đâu, tắm rửa nơi nào, lại còn vấn đề vệ sinh bởi vô thì phải ra và lỡ khi đau ốm giở trời… Theo con nhận thấy, hình như có chuyện gì không hợp lý, hợp tình trong trường hợp này. Xưa nay con đọc nhưng cứ cho là lời Chúa, lời Kinh Thánh nên chẳng để ý bởi nghĩ rằng lời Kinh Thánh thì luôn luôn đúng. Nhưng khi thấy cha đặt vấn đề phỏng có nhóm nào dám đứng ra xung phong nhận, con mới chợt nghĩ tới sự thể được viết nơi Tông Đồ Công Vụ; đó là các tông đồ bận rộn đến nỗi phải kêu gọi một số người già danh tiếng đứng đắn để giúp thì sao dám ôm thêm rơm cho rặm bụng. Công việc mục vụ làm không xuể thì thời giờ đâu để lo nơi ăn chốn ở cho những người bán nhà cửa, ruộng vườn, đất đai và đem đến nộp. Con nghĩ, có lẽ có chuyện chi đó đã xảy ra và được viết một cách ám định như thế chăng. Con tìm đọc giải thích thì sách ta cũng như sách tây, chẳng cuốn Kinh Thánh nào nói chi hết, chỉ nói về cái chết của cặp vợ chồng giấu tiền mà thôi. Thanh nói.
            - Ông trùm Canh, về chuyện này giáo Hội dạy phải tin thế nào? Cha Hải hỏi đích danh. 
            Thế là ông trùm ngớ ra, những điều phải tin cha không hỏi, cha lại hỏi điều chưa nghe thấy bao giờ. Thôi thì đành nói toạc ra cho đỡ ngượng,
            - Thưa cha, đây là lần đầu tiên con nghe thấy chuyện này nên chẳng biết phải thế nào. Kinh hạt thì đọc ở nhà thờ, hoặc ở nhà, đọc riết thuộc lòng luôn chứ Kinh Thánh thì nhà có đấy nhưng nhiều quá nên mới trông thấy đã ngán đọc nên con chẳng bao giờ đọc, nói thực, mọi người đều biết.
             
            - Kinh Thánh, xét qua nhãn quan nghiệm chứng để thăng tiến nơi hành trình tâm linh, nói cách khác, thăng tiến trong hành trình đức tin theo Công giáo phát biểu, thì đó là một cuốn sách đạo học. Muốn thăng tiến nơi hành trình đức tin, chúng ta cần phải nghiệm chứng Phúc Âm. Ai cũng biết, Kinh Thánh bao gồm ít nhất hai phần, một phần được gọi là Cựu Ước và phần khác là Tân Ước. Phần Cựu Ước bao gồm Kinh Torah của Do Thái giáo và một số sách Tiên Tri, Thánh Vịnh... Tân Ước gồm bốn Phúc Âm, sách Tông Đồ Công Vụ, các thư và sách Khải Huyền. Những tổ chức tin theo Kinh Thánh được gọi là Thiên Chúa giáo. Những tổ chức hoặc gọi là bè phái tin theo Phúc Âm được gọi là Kytô giáo. Công giáo, Thệ Phản (Luthero), Anh giáo, Tin Lành thuộc về Kytô giáo. Mấy ngày gặp anh em trong thời gian này, tôi sẽ cũng anh em nghiệm chứng về Phúc Âm. Tôi sẽ không nói gì về bất cứ tôn giáo nào nên nếu có ai hỏi về vấn đề gì thuộc về tôn giáo mà không thấy tôi trả lời cũng đừng cảm thấy phiền hà; tôi khuyến khích nghiệm chứng để thăng tiến tâm linh theo Phúc Âm.
            - Nếu tôi không lầm thì anh em đã được ông bạn tôi nói cho biết rằng cái biết nơi nghiệm chứng của người này không thể truyền đạt cho người khác, hoặc sự suy tưởng của chúng ta vô giới hạn, hay là chúng ta được sinh ra với tất cả những gì chúng ta có thể ngộ hay nhận thức. Chẳng nên sợ hãi vì suy nghĩ sai, bởi nếu không sai, chúng ta không thể nhận thức được điều đúng. Thêm vào đó, nếu chúng ta không suy nghĩ, sẽ không có cơ hội thăng tiến tâm linh. Một điều người ta hay ngộ nhận đó là tưởng rằng nghe người khác giải thích là mình ngộ. Thưa không, chỉ khi nào tự mình ngộ được điều gì hay công án nào đó mới có được kinh nghiệm cảm nghiệm hay nghiệm chứng bởi không ai giải thích được kinh nghiệm này cho bất cứ ai. Chẳng hạn, chúng ta không thể giải thích cho bất cứ ai để họ có thể yêu cha mẹ của chúng ta như chính chúng ta. Chúng ta biết mình yêu cha mẹ nhưng không thể giải thích được. Nơi hành trình nghiệm chứng, mọi sự, mọi vật, hành động, tư tưởng từ mạng lưới toàn cầu, sách vở, những danh ngôn, công án, lời đàm luận, cử điệu, v.v… đều là cơ hội hay phương tiện cho chúng ta đột phá tư duy. Cao điểm của Phúc Âm là đức tin. Muốn biết về đức tin chúng ta cần biết về Tin Mừng Nước Trời hay còn được gọi là Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Muốn biết về Tin Mừng Nước Chúa, chúng ta cần biết Nước Thiên Chúa là gì, thế nào. Muốn biết về Nước Thiên Chúa chúng ta cần biết Thiên Chúa ra sao. Muốn biết về Thiên Chúa, chúng ta cần biết chính mình thế nào. Nơi đạo học Đông Phương, câu hỏi “Tôi là ai” chính là câu hỏi mở đầu và cũng là câu trả lời sau hết nơi hành trình thức ngộ. Phúc Âm cũng đưa ra những điều kiện tâm trí khi nghiệm chứng. Đạo học Đông Phương chú trọng đến định tâm. Tôi nghĩ, anh em đã biết định tâm là gì. Một vài phương thức, nhà Phật gọi là pháp cũng như công án nơi đạo học Đông Phương có thể gìúp chúng ta trong hành trình nghiệm chứng về Phúc Âm, khi nào cần thiết tôi sẽ trình bày với anh em.
             
            MBVN 20
             
            - Đại khái những điều chúng ta đã nhận thức được qua đạo học Đông Phương sẽ giúp chúng ta dễ dàng nghiệm chứng Phúc Âm vì Kinh Thánh cũng được viết từ Trung Đông. Có điều, anh em đã dùng Kinh Thánh để minh chứng thực thể con người của mình và dùng lý luận qua thực chứng nơi chính mình để minh chứng có linh hồn. Tuy nhiên, tôi muốn hỏi đã ai để ý nói lên được nghiệm chứng nơi chính mình về linh hồn bao giờ chưa? Đồng thời đã có ai dùng nghiệm chứng để chứng minh mình là hình ảnh của Thiên Chúa bao giờ chưa? Riêng với hai ông trùm và những anh chị em Công giáo, chúng ta được dạy nơi bổn đồng ấu “Hỏi đức Chúa Trời có mấy ngôi” và câu trả lời là “Thưa đức Chúa Trời có ba ngôi.” Anh chị em minh chứng ra sao về một Chúa ba ngôi và ba ngôi cũng chỉ là một Chúa.
            - Thưa cha, ông trùm Lực lên tiếng, mầu nhiệm Thiên Chúa ba ngôi là một mầu nhiệm, mà đã là mầu nhiệm thì chúng con được dạy phải tin nên chỉ có thể tin. Bao nhiêu năm đi nhà thờ, mỗi lần đến ngày kính Chúa Ba Ngôi, các cha, cha nào cũng thế, đều giảng rõ ràng Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm, không thể nói gì được. Bây giờ cha bảo nghiệm chứng thì chúng con lấy gì để nghiệm, phương chi nói đến chứng. Cha nói điều không tưởng.
             
            Mọi người không ai dám lên tiếng nhưng rất ngạc nhiên khi ông trùm kết luận câu, “Cha nói điều không tưởng." Mấy anh em Công giáo có một vài người định lên tiếng nhưng vẫn không ai nhúc nhích. Có lẽ tại chưa ai biết rõ thái độ hoặc phản ứng hay tính chất của cha Hải ra sao dẫu xưa nay bất cứ gì thấy không hợp lý, hợp tình họ đều đưa ra mổ xẻ ngay lập tức. Những gì thấy nghịch thường một chút cũng được trở thành đề tài bàn luận; họ dám đem chính họ ra mà diễu thì còn chừa ai nơi cuộc đời này. Mấy người không theo Công giáo cũng ngạc nhiên vì lối nói thẳng thừng của ông trùm Lực. Cha Hải vẫn bình tĩnh như không, nhẹ nhàng nói,
            - Ông cho rằng tôi nói điều không tưởng, không tưởng với ông hay với mọi người. Cứ lý luận mà nói, bất cứ điều gì bị cho rằng không tưởng thì đã được nghĩ đến; như thế quả thật nghịch lý; bởi chỉ không nghĩ đến được mới được gọi là không tưởng. Lời Kinh Thánh nói, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” thì con người là hình ảnh của Thiên Chúa đâu có sai trái gì với Kinh Thánh đâu. Thế chúng ta có nghĩ, có dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa không. Cũng như đạo học, Kinh Thánh để sống chứ không phải để tụng niệm hay đọc chơi lúc rãnh rỗi như đọc truyện. Đâu phải bất cứ vấn đề gì người ta cho là đúng thì nó đúng và người ta cho là sai thì nó sai, hoặc bởi vì không để ý nghiệm chứng mà cho rằng nó mầu nhiệm hay không tưởng thì không thể nghĩ bàn được. Chẳng lẽ lời Kinh Thánh là lời không tưởng? Tôi có một đôi câu hỏi đơn giản, anh chị em không cần suy nghĩ chi hết, trả lời đơn sơ, thấy gì nói nấy. Câu hỏi như sau, chúng ta thường nói đối nghịch như nước và lửa. Vậy nước và lửa có thể hòa hợp được không? Nào mời anh chị em trả lời, nhưng ông Tài không nên trả lời dùm.
            - Thưa cha, lại cũng ông trùm Lực lên tiếng, có thể ông thấy mình đã ăn nói quá lố, không thấy cha nói gì nên vớt vát chăng, nước đổ vào lửa thì lửa phải tắt chứ sao có thể hòa hợp.
             
            Không hiểu ý cha muốn nói gì khi nêu ra câu hỏi đơn sơ như vậy, thế là mọi người ngớ ra, chẳng biết suy nghĩ sao cho phải bởi vì ai không biết nước dập tắt lửa. Người nọ nhìn người kia, lắc đầu không hiểu ý ngài muốn thế nào.
            - Thưa cha, Sỹ nhà con lên tiếng, câu hỏi quá chung chung, không rõ bao nhiêu lượng nước và đống lửa to bé thế nào sao có thể trả lời. Dĩ nhiên, quăng đống lửa dù to thế nào xuống biển thì lửa cũng phải tắt, nhưng chỉ lấy một ly nước đổ vào đống lửa đốt rác coi chừng còn giúp nó cháy lâu hơn.
            - Tôi hỏi có cách nào hòa hợp hai sự thể đối nghịch nước và lửa chứ đâu có nói đến phương pháp hay điều kiện dập tắt lửa. Tôi thấy tại vì chuyện quá thường, ai cũng biết nên chúng ta không để ý do đó đến khi đặt thành vấn đề chúng ta không nhận ra bởi vì đã chấp nhận hoặc có một quan niệm sẵn về nó một cách vô ý thức. Ai nghĩ có thể hòa hợp nước và lửa, làm ơn thử giơ tay.
             
            Không ai giơ tay vì vẫn còn đang bị ngỡ ngàng.
            - Như vậy sự hòa hợp nước với lửa là điều không tưởng? Hay đặt nó thành công án để anh chị em nghiệm chứng.
            - Chú Sỹ, ngộ chưa? Ông Thung hỏi.
            - Sao hôm nay đầu óc cứ tối như đêm ba mươi, có lẽ phải kiếm miếng cà phê cho đầu óc thêm minh mẫn. Sỹ đứng lên đi về khoảnh bếp kế bên.
            - Thưa cha, Thanh giơ tay, thiếu cái ấm hay cái nồi!
            - Cám ơn, nhưng đừng nói thêm. Cha Hải bảo Thanh.
            - Rồi, rồi, nhà con biết rồi. Sỹ quay trở ra, phải có cái ấm làm trung gian thì lửa mới hòa hợp được với nước. Thế là không cần cà phê cũng ngộ! Cảm ơn anh Thanh, đang định nấu nước đổ vô “cái nồi ngồi trên cái cốc,” nghe thấy anh nói cần cái ấm nhà con chợt hiểu ra.
            - Có lẽ anh chị em đã nhận biết điểm căn bản để thức ngộ là luôn luôn phải xét lại những điều mình đã chấp nhận một cách vô ý thức hoặc đã in trí như một quan niệm sẵn có nào đó. Tôi có thêm câu hỏi đơn giản nữa; đó là, một cộng với một bằng mấy?
            - Bằng hai, Sỹ nói vội như sợ người khác nói trước.
            - Anh đoan chắc một cộng với một bằng hai không?
            - Thưa cha, chắc như bắp.
            - Mọi người nghĩ sao? Cha Hải hỏi tiếp.
            - Thưa cha, chẳng lẽ một cộng với một bằng ba! Ông trùm Lực lên tiếng.
            - Cũng có thể lắm mà coi chừng cũng chưa biết nữa vì tôi đang hỏi mọi người. Nếu biết rồi tôi hỏi làm chi. Có ai không chấp nhận một cộng một bằng hai không?
            - Ai đồng ý với ông trùm Lực, giơ tay! Cha Hải hỏi ngược lại.
            - Ông Tài, ông đã giải thích cho anh em đây về những sự thể lý trí không thể chấp nhận, không thể suy đoán mà lại là sự thể chưa.
            - Thưa cha, tôi đã nói mà hình như anh em quên; đó là nếu chấp nhận tư tưởng thuộc về vô hình đã được phát sinh từ một thực thể hữu hình là bộ óc hay thân xác thì một cộng với một là bao nhiêu mà chẳng được. Vấn đề chỉ là mình cần nghiệm chứng cái không từ cái có mà ra hay ngược lại. Cụ Tài trả lời cha Hải.
            - Tôi có thêm câu hỏi đơn giản nữa, một thân xác cộng với một linh hồn là mấy?
            - Thưa cha, con hiểu cha muốn nói gì, nhưng không biết con có nên nói ra lúc này hay không.
            - Anh cứ việc nói vì mục đích của tôi là giải thích cái mầu nhiệm mà ông trùm Lực cho rằng không thể nghĩ bàn.
            - Thưa cha, thưa bác, và mọi người, một cộng với một chính là cái gốc của đạo học nhất nguyên, cái hình vẽ của dịch cũng là chính mình, cũng là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Một Chúa ba ngôi, ba ngôi một Chúa. Trước hết, nơi hình ảnh tượng trưng cho dịch, cho đạo học nhất nguyên, trong một vòng tròn gồm hai phần âm dương nhưng cái âm hay cái dương chỉ là phần từ đối nghịch bất khả phân ly của nhất nguyên. Chúng là một, cái này tăng, cái kia giảm khiến luôn luôn cân bằng. Xét về con người bao gồm linh hồn và thân xác. Nếu chỉ hồn không, nào ai biết chi; nếu chỉ xác thân không có hồn, sẽ tàn rữa, nhưng khi linh hồn nhập vào thân xác sẽ phát sinh ước muốn, ý định, tham vọng, yêu thương, hận thù. Cái hồn của mình, chính là mình; tất nhiên ai cũng chấp nhận cái xác là phần hữu hình của mình, và tư tưởng, ước mơ cũng làm một với mình. Như vậy, con người ít nhất cũng gồm ba phần bất khả phân ly ngoài sự chết. Con người gồm ba phần và ba phần cũng chính là một người. Phỏng đây là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, tuy ba mà một, tuy một mà ba, thưa cha? Thế sao xưa nay chúng con cứ được dạy phải tin.
            - Vậy anh định nghĩa đức tin là gì?\
            - Thưa cha, đây là vấn đề xưa nay con cứ bối rối bởi vì đọc Phúc Âm, con thấy đức tin hay lòng tin mang một quyền lực tối thượng. Bất cứ câu Phúc Âm nào nói đụng đến những dụ ngôn chữa lành đều được Chúa Giê su đương đường tuyên bố là do đức tin của người đó. Phúc Âm nói, “Đức tin con chữa con; đức tin con cứu con.” Như cha thấy, mình được dạy và chấp nhận cũng như tin tưởng rằng Chúa cứu, Chúa chữa, Chúa ban ơn cứu độ. Thế mà Chúa Giê su nơi Phúc Âm không nói vậy, cứ đổ thừa cho đức tin, lòng tin. Cả cuốn Kinh Thánh chỉ có một nơi định nghĩa đức tin một cách rành mạch nhưng con cảm thấy khó thể chấp nhận. Đó là câu 1 của đoạn 11 nơi thư Hipri, “Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy.” Thưa cha, con có cả triệu hy vọng, nhưng đều thất bại, sao có thể gọi được là chiếm hữu. Chiếm hữu cái lợi ích, thành quả mới đúng với sự hy vọng vì nào có ai hy vọng thất bại bao giờ; chẳng lẽ tin là chiếm hữu thất bại thì con đâu cần, con có thừa nếu không muốn nói là quá đủ đến nỗi gần như trở nên thất vọng. Nếu điều con hy vọng càng dằng dai chiếm hữu, thất bại càng nặng nề. Con nghĩ, thánh Phao lô ít nhất là con người học thức và được thức ngộ do chính Chúa Giê su, sẽ chẳng có thể viết câu định nghĩa đức tin một cách thiếu nghiệm chứng như vậy. Đã từ lâu, đọc Tân Ước con nhận thấy các giáo phái thuộc về Kytô giáo phát sinh do hiểu các thư một cách khác nhau tùy thuộc đầu óc nhóm người nào đó, và con đã nghĩ rằng thánh Phao lô mắc phải lỗi lầm lớn lao làm phân rẽ Kytô hữu thành các bè phái vì đã viết những thư theo lối suy nghĩ thế tục nghịch lại với Phúc Âm. Chẳng hạn như quan điểm “Faith alone.” Đó là lý do tại sao con để ý đến đức tin nơi Phúc Âm mà cha Nguyễn Thế Thuấn dùng danh hiệu “Lòng tin.” Con nói thẳng, nói thật, có sao nói vậy chứ không chống đạo, chỉ dùng hồng ân lý trí để nhận định.
            - Anh suy nghĩ đúng nhưng đúng trong giới hạn vì anh đón nhận lời thư theo nghĩa từ chương cũng giống như nguyên nhân phân rẽ dân Chúa thành các bè phái. Tôi nói hơi sớm, có thể sẽ làm phiền anh em nhưng may ra nó lại là sự thách đố cho anh em nghiệm chứng. Đó là, đức tin là quyền lực tối thượng của Thiên Chúa nơi mình. Con người chẳng những là hình ảnh của Thiên Chúa mà chính Thiên Chúa, Quyền Lực Tối Thượng, quyền lực sự sống đang hoạt động nơi mọi người. Riêng về giải thích hệ quả của một cộng với một, anh nói rất đúng. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa thì ít nhất con người mang thực trạng ba ngôi một Chúa và một Chúa ba ngôi. Ông trùm Lực, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi có còn không tưởng nữa chăng?
            - Thưa cha, sao các cha khác dùng bóng đèn, nguồn điện và ánh sáng để làm thí dụ minh chứng Chúa Ba Ngôi mà con thì cứ cảm thấy không thể chấp nhận được; bởi có cháy bóng đèn thì nguồn điện vẫn còn đó chứ không cháy theo, hoặc không có ánh sáng chưa chắc đã không có nguồn điện bởi đôi khi chỗ nối dây hở thì sao. Con cũng cảm ơn cha đã có những câu hỏi đẩy con vào góc tường khiến con có cảm nghĩ lung tung, nhưng chính vì thế mà con sáng ra. Con chợt nhận thấy con theo đạo chứ thực ra chưa có đạo, chưa theo Chúa Giê su.
            - Không có cách nào theo Chúa Giê su được đâu bởi vì mình không phải là Chúa Giê su. Mình có con đường của mình, Chúa Giê su có con đường của Ngài. Thế nên, mình phải là mình; Chúa Giê su phải là ngài không thể đổi qua tráo lại hay trở nên như thế. Nếu có thể làm được như thế, thế giới này tanh bành rồi vì ông có thể trở thành người khác và gia đình ông tan nát. Gia đình nào cũng sẽ tan nát nếu người chồng hoặc người vợ có thể trở nên bất cứ một người nào khác. Phải cảm tạ Chúa vì ông là chính ông, không phải là tôi và cũng không phải là bất cứ người nào trên thế giới này. Ông đã sợ hình ảnh của Thiên Chúa chưa, phương chi là đối với chính Thiên Chúa.
            - Bao lâu nay rồi, nghe giảng giải, đọc kinh cầu nguyện, nghe đây đó bàn luận con cứ nghĩ đến câu nói, “Phúc cho ai không thấy mà tin” nên tâm tâm niệm niệm tin tưởng vào Chúa, vào lời các cha giảng là đủ để lên thiên đàng. Tối nay con nghe thấy cha đưa ngay mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giải thích quá dễ dàng, lại nhận ra, như vậy xưa nay mình đã chẳng để ý gì. Con xin lỗi cha vì chưa kịp suy xét đã vội bố láo bố toét. Con cũng cảm ơn cha đã giúp con từ nay đặt lại vấn đề nếu không thì chắc chắn uổng một đời sống đạo. Nhưng thưa cha, có lẽ cũng bởi con cứ e sợ suy nghĩ sai lầm và thường cho rằng đã có giáo hội, các cha giảng giải thì mình cứ tin theo cho an ổn tinh thần. Nào ngờ, lại trở thành thứ rờ voi. Có lẽ từ nay con không còn sợ suy nghĩ sẽ bị rối đạo nữa. Lần nữa, con xin cảm ơn cha.
            - Chưa biết ai phải cảm ơn ai. Ông có nhớ dụ ngôn con chiên lạc không? Nếu con chiên lạc được tìm thấy phải cảm ơn người chăn chiên thì cám ơn sao nổi, nhưng nếu nói người chủ chiên làm tiệc ăn mừng thì ai cảm ơn ai. Chính điều ông đã ngộ ra được và từ nay không e sợ suy nghĩ bị rối đạo là niềm vui tuyệt vời đối với tôi. Chỉ chừng ấy đã đủ cho chuyến về đây của tôi.
            - Cha nhắc đến dụ ngôn chiên lạc làm con nhớ lại đã có lần nghĩ ông chủ đàn chiên dốt thật. Bỏ 99 con chiên khù khờ ngu dại trên rừng hoang để đi kiếm chiên lạc. Lỡ lúc trở về lại lạc thêm 99 con khác hoặc đã bị chó sói ăn thịt thì sao. Hơn nữa, kiếm được một con chiên mà vui mừng, làm tiệc kêu hàng xóm chung vui thì phải làm thịt bao nhiêu con chiên nữa mới đủ. Như vậy đàng nào cũng lỗ, thà đừng kiếm chiên lạc thì còn đủ 99 con, thưa cha.
            - Ông trùm đã bị rối đạo chưa mà dám nói như thế?
            - Thưa cha, xưa nay con chỉ nghĩ trong đầu thôi, không dám nói cho ai biết, ngay cả nhà con. Đôi khi đi lễ về, có điều gì đó cha giảng không thuận tai, nói ra, vợ con ngăn cản, cho rằng nói xàm và bảo tại mình không hiểu thấu, cha nói làm sao mà sai.
            - Tội ông trùm quá, Tùy nhào vô, bị bà nhà cả vú lấp miệng em.
             
            Thế là cả đám bùng lên ồn ào như vỡ chợ. Đang căng thẳng đầu óc mà có được trận cười thoải mái khiến ai nấy vui vẻ hẳn lên. Cũng nhờ câu diễu này mà tâm tình hai ông trùm thoải mái hơn, dễ dàng chấp nhận hòa đồng với nhóm nhậu. Sự e dè tổn hại danh dự biến mất. Vô tình, vợ Sỹ đang uống nước bị sặc phun đầy lên lưng, lên đầu Bá ngồi phía trước.
            - Trời ơi cái bà này, đạp thì đạp, mắc mớ gì phun nước uống đầy người tôi rồi!
            - Xin lỗi, cho chừa nói bậy. Cái ông Tùy quỷ ma kia khiến tôi chết sặc.
            - Tôi nói miệng tôi, bà sặc miệng bà, chẳng lẽ…
            - Thôi im đi cho người ta nhờ, mấy ông này già không tha trẻ không thương. Vợ Sỹ nói.
            - Ai nói với chị tôi không thương trẻ. Già thì tôi kính lão đắc thọ. Trẻ mà tha thì sao thành tiên hạ giới?
            - Bu mày nói thế thì oan uổng cho tôi quá. Bộ bu mày già hơn tôi sao, mà lại nói trẻ không thương.
            - Cái ông quỷ này lại cứ đòi đế vô nữa. Đúng là cá mè một lứa, ông nào cái mỏ cũng tía lia, tía lia không để chúng ăn da non.
            - Nói hay, Phùng nói thêm, cái miệng mà ăn da non thì đem chôn, sẽ có người khóc hết nước mắt.
            - Thưa cha và cụ, hôm nay một gà mái đá ba gà cồ, hèn chi ngoài kia thiên hạ nhao nhao lên đòi nam nữ bình quyền. Ông Thung lên tiếng.
            - Ông lại muốn đá vô chăng, chị Thung nhắc nhở.
            - Lấy nhau mấy chục năm nay, mọi sự từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên đều do bà làm chủ chứ nào tôi dám nói năng gì, tại sao giữa nơi thanh thiên bật đèn sáng um lên như thế này mà bà phải răn đe tôi, rõ là oan như Thị Kính. Ông Thung nói lớn cho mọi người nghe đoạn quay hướng về mấy người đàn bà, nói tiếp,
            - Các thím liệu sao thì liệu, mới có vài bữa đàn đúm với mấy thím mà chị hai đã biết bắt nạt tôi rồi đó. Sự thể này lấy ai phân giải bây giờ. Thật khổ cho cái thân chẳng còn trẻ gì.
            - Ai bắt nạt anh phải bước qua xác thằng này. Sỹ hùng hổ đứng dậy giơ chân múa tay làm bộ. Nhưng mà, thì ra là chị hai. Thôi, thôi chị hai à, già néo đứt dây. Lỡ anh ấy bỏ đi thì lấy ai nâng khăn sửa túi cho chị vào lúc tuổi gần cổ lai hy. Cứ để anh ấy nói cho hả hơi rượu bia, cho dư giả văn chương, thêm hào hoa phong nhĩ đẹp lão ra. Chị xem coi, mấy người đàn bà vợ chúng em đó, im như một phép, vậy mà còn bị anh hai đổ oan cho là xúi bẩy chị; anh ấy chẳng vừa chi đâu. Thượng cẳng chân, hạ cẳng tay không được thì thịt mỡ, dao phay, xương cẳng, rìu búa, chị cứ thế mà làm.
             
            Mới bắt đầu tưởng rằng Sỹ bênh vực ông Thung; ai ngờ cuối cùng bắt ông lãnh đạn khiến cả nhà cười vui tạo bầu không khí dễ chịu. Cha Hải vui lây với niềm vui của họ.
            - Tôi có thêm một câu hỏi đơn sơ nữa và biết chắc chắn bất cứ ai đều có kinh nghiệm nhưng thường thì ít khi chúng ta để ý đặt vấn đề. Đó là trong cuộc đời của mình đã bao giờ mình để ý nhận biết một hoạt động nào đó của linh hồn hay chưa?
            - Thưa cha, tổng quát như thế sao có thể kiếm ra nhất là lúc tơ lơ mơ với miếng rượu, men bia. Sỹ nói.
            - Sao anh vội quên nguyên tắc cần thiết cho định tâm thế!
            - Thưa cha,
            - Sao chú mày vội vã thế. Có biết định tâm là gì không mà chưa kịp suy nghĩ đã vội nói. Phủ lên tiếng ngăn Sỹ hỏi.
            - Chuyện đó ai mà không biết, lòng luôn để ý một chuyện gì hoặc một công án hay câu nói nào đó; đàng này cha nói về chuyện bất cứ ai đều có kinh nghiệm mà chúng ta không để ý.
            - Thưa cha,
            - Lại đã vội nói. Bộ không nói thì người ta tưởng là chú mày câm hay sao. Khoan, suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ.
            - Suy cái gì, Sỹ gắt lên với Phủ. Tớ đang muốn hỏi cái gì mà ai cũng có kinh nghiệm. Đâu cần suy, mắc mớ gì phải nghĩ bởi nó đã xảy ra rồi đối với mọi người thì suy ở chỗ nào.
            - Như vậy thì phải lục lọi. Tôi với chú mày thử lục lọi xem sự gì cùng xảy đến với mọi người mà chúng ta ít khi để ý.
            - Lục thế nào?
            - Chú mày quên nguyên tắc của định tâm mà cha mới nói đó là tỉnh thức.
            - Thì tớ đang tỉnh chứ có ngủ đâu mà thức với ngủ.
            - Như vậy chúng ta phải xem xét tất cả các hoạt động của một người trong 24 tiếng. Sáng ra thức dậy, đánh răng rửa mặt, cà phê cà pháo điểm tâm, đi làm, ăn trưa, làm tiếp, chiều về ăn tối, coi TV hay phim, đi ngủ, một ngày như mọi ngày, tỉnh thức, tỉnh thức.
            - Đã ngủ còn tỉnh thức gì, có mà ngáy ấy, ngủ mà còn đòi tỉnh thức.
            - Thưa cha, Thanh ngồi gần Phủ và Sỹ, nghe thấy Sỹ nói đến ngủ chợt nhớ tới câu chuyện diễu Trạng Quỳnh nói về nhà vua ngọa sơn nên lên tiếng, cha muốn nói tới con mắt nhìn trong giấc mơ.
            - Anh nói đúng. Chúng ta, ai ngủ cũng mơ không ít thì nhiều. Vậy con mắt nào nơi mỗi người để có thể nhìn trong giấc mơ; vì khi ngủ, chúng ta không biết đến ngay cả thân xác của mình hoặc ngáy như sấm mà cũng không nghe thấy mình ngáy. Lúc chúng ta ngủ, con mắt thịt nhắm lại, thế thì lấy gì để nhìn. Chúng ta đã nhận ra thân xác, ngũ quan và ngay cả cuộc đời đều là phương tiện hay cơ hội cho linh hồn hoạt động hay làm việc nhưng ít khi để ý đến còn một thứ gì nữa đó là con mắt nhìn trong giấc mơ mà cho tới ngày nay khoa học vẫn còn giải thích một cách mù mờ. Chúng ta tạm gọi nó là con mắt của linh hồn. Đôi khi ai đó gặp sự thể khác biệt được gọi giấc mơ ngày.
            - Day dream.
            - Không phải “Day dream.” Day dream có nghĩa ước mơ thực tiễn nhưng sự thể này tiếng Mỹ gọi là “Personal vision.” Nghĩa là trong trường hợp một người ngất trí và nhìn thấy những linh ảnh nào đó. Đây cũng là hoạt động của con mắt linh hồn. Mọi người đều kinh nghiệm nhưng ít ai để ý. Tôi tóm lược lại mấy điểm chúng ta bàn luận tối nay. Thứ nhất, có sự hòa hợp bất khả phân ly của hai thực thể đối nghịch chẳng hạn xác và hồn, nước và lửa bằng cách nào đó dẫu chúng ta giải thích hay thực nghiệm được hay không và tạm gọi sự đối nghịch hòa hợp này là nhất thể chứ không phải hợp nhất. Hợp nhất là hai thứ khác biệt gom lại, không có phần này, phần kia vẫn hiện hữu. Nơi trường hợp nhất thể, không có cái này, cái kia cũng triệt tiêu. Thứ hai, một cộng với một nơi thực thể con người ít nhất phải là ba, nơi trường hợp ba là một và một là ba, không thể phân chia, tách rời. Thứ ba, mỗi người có một linh hồn (tạm gọi như thế) và con mắt nhìn trong giấc mơ hoặc nhìn trong những trường hợp ngất trí. Đến đây, có ai thắc mắc chi không?
            - Thưa cha, tại sao chúng ta cần phải biết mấy thứ lẩm cẩm lỉnh kỉnh này; bởi cho dù không biết, chúng ta vẫn sống mà.
            - Đã ai chứng thực được sự việc nào đó mà mình đã thấy trong giấc mơ.
            - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, kỳ con đang trong trại cải tạo, hằng ngày cùng nhóm đi vào rừng đốn củi về cho đội nhà bếp nấu ăn. Một tối khi ngủ con mơ thấy đi tới một đoạn đường, ngày xưa xe be vô rừng kéo cây; nơi đó có một đoạn thân cây to hơn một người ôm dài cỡ chừng hai thước đã mục bên ngoài, và có một vài cây cỏ mọc lên từ phần gỗ mục nằm dọc bên đường be cũ. Mỗi ngày, nhóm chúng con phải đi kiếm củi hơi xa hơn một chút. Cỡ hai tuần sau, con thật ngỡ ngàng bởi có cảm tưởng mình đã đến nơi này từ bao giờ. Chợt nhớ lại đã có lần trong cơn mơ con đã thấy; cũng cây cối như in trong giấc mơ và đặc biệt khúc thân cây lớn hơn một ôm với mấy cây cỏ mọc ở trên. Tuy nhiên, con chỉ cảm thấy lạ lùng chứ không đặt vấn đề mình thế nào và con mắt nhìn trong giấc mơ.
            - Sở dĩ tôi nhắc đến những sự thể này vì ai cũng không ít thì nhiều đã nhận biết, nhưng chúng ta không để ý nhận thức hầu một cách nào đó giúp chúng ta nhận định rõ ràng hơn về thực thể chính mình trong nghiệm chứng để nhận thức được “Mình là ai,” câu hỏi đầu tiên cũng là câu trả lời cuối cùng nơi hành trình thức ngộ tâm linh, hành trình mà ông bạn tôi hay lặp lại lời của lục tổ Huệ Năng, nhà Phật, “Kiến Tính thành Phật.” Tính hay Tánh là thực thể Uyên Nguyên, Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự Sống, bây giờ bên Việt Nam người ta gọi là quyền lực vũ trụ. Tôi không đồng ý với danh hiệu này vì phát biểu như vậy chỉ là cảm thấy chứ chưa nhận thức được sự cách biệt giữa quyền lực hiện hữu với quyền lực vũ trụ. Gọi là Quyền Lực Hiện Hữu vì nó ở mọi nơi, mọi loài, mọi dạng thức, nhưng theo nghĩa từ chương của danh hiệu “Quyền lực vũ trụ,” thì chỉ nói về vật chất. Vậy sự sống phát sinh từ đâu bởi vật chất không thể tự nó phát sinh sự sống. Sự sống dựa trên vật chất nhưng không thể phát sinh từ vật chất; cũng như khoa học cho tới ngày nay vẫn còn lầm lẫn cho rằng tư tưởng phát sinh từ bộ óc do chưa nhận ra được bộ óc cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động hay làm việc. Sự hiện hữu bao gồm vô hình và hữu hình trong khi danh hiệu vũ trụ chỉ được giới hạn trong vật thể hữu hình.
            - Bây giờ nếu chúng ta đem tổng hợp từ các đạo học Đông Phương, Kinh Thánh, họp chung với nhận thức thực thể hiện hữu nơi mỗi người, chúng ta sẽ nhận thức được mình thế nào? Ai có thể tổng hợp dùm, làm ơn lên tiếng.
            - Thưa cha, Thanh giơ tay, con xin trình bày theo thứ tự những gì mình có thể nhận biết về chính mình đoạn thử xét xem các đạo học Đông Phương nói gì về con người. Như chúng ta nhận thấy một cách rõ ràng và đó là con người gồm hai phần, thân xác và linh hồn. Thân xác cũng như cuộc đời một người là phương tiện và những gì xảy đến nơi cuộc đời đều là cơ hội cho người đó thức ngộ. Nói đúng ra, cho linh hồn của người đó học những bài học cần phải học. Linh hồn đồng thời có con mắt nhìn trong giấc mơ hoặc nơi trường hợp ngất trí thấy linh ảnh, nhưng làm sao để sử dụng được con mắt đó thì chúng ta cần phải nghiên cứu và thực tập nơi đạo học Đông Phương đặc biệt nơi Mật Tông Tây Tạng. Hoạt động của linh hồn là ý định, ước muốn, tham vọng, của một người. Các đạo học Đông Phương đều minh xác rằng linh hồn chính là Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng hoạt động nơi một người đồng thời bị ảnh hưởng của cuộc đời nên phát sinh những phản ứng khác nhau tùy môi trường hoặc căn cơ của người đó. Phật học gọi hồn là Tánh hay Tính, Lão học nói chính là Tào, và Ấn học gọi hồn là Atman, một phần của Thượng Đế Brahma. Kinh Thánh gọi linh hồn là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa nội tại, và mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình. Thưa con xin hết.
            - Tôi có thêm một câu hỏi nhỏ nữa, một cách thực nghiệm nào chúng ta có thể biết chính mình rõ ràng hơn, vì chúng ta thấy, ai cũng vậy đều cho rằng, nếu không muốn nói là tưởng tượng, mình tốt lành, nhưng thực sự tốt lành thế nào và bê bối ra sao có lẽ chúng ta cảm thấy đều không rõ ràng. Ai có đề nghị thiết thực nào có thể dễ dàng thực hiện để nhận chân ra mình, làm ơn cho ý kiến. Quay về phía cụ Tài ngài hỏi nhỏ, ông bạn đã nói cho họ biết chưa?
            - Chưa vì còn chờ mấy ông thần ngộ thêm đôi chút.
            Thanh nhớ lại thời kỳ tìm kiếm phương pháp để thực sự nhận biết chính mình thế nào nhưng đợi chờ xem có ý kiến nào khá hơn và tiện lợi hơn chăng.
            - Thưa cha, ông Tiến tiệm phở giơ tay, muốn hiểu rõ chính mình cần phải có người thân với mình nhất nói cho mình biết những gì hay, những gì dở vì nhiều khi mình không biết chính mình.
            - Vậy nếu anh có tư tình với chị thâu ngân, vợ anh ngăn cản, anh có chấp nhận không? Tình lên tiếng.
            - Nói sao thì nói, miễn có thì càng tốt, nhưng đàng này có tiếng mà không có miếng mới đáng nuối tiếc.
            - Không được, đàn bà không bao giờ sai và họ chỉ nhớ những việc gì mình quên không làm, còn bao nhiêu chuyện tốt lành mình làm thì họ quên hết, sao có thể biết mình tốt thế nào được! Hưng nói khiến mọi người cười hả hê; riêng các chị thì ngấm nguýt mà cũng đành phải cười trừ bởi đàn bà nào không như thế!
            - Tôi không chấp nhận đề nghị đó, và nhất là không dám để vợ tôi xét xử vì bà ấy không bao giờ muốn nhìn thấy những điều tốt lành nơi tôi, mà cứ xốn lên rằng chồng người ta thế này, chồng người ta thế nọ, đến nỗi tôi khùng lên bảo sao không theo họ mà cứ bám lấy tôi. Ông Thung chêm vô khiến chị Thung có vẻ lạ lùng, quá ngạc nhiên bởi chị biết ông ta bày chuyện tố khổ phái nữ cho vui.
            - Thưa cha, thưa bác, và anh em, con xin kể lại việc con đã làm để nhận biết chính mình. Vào thời đó con suy nghĩ mãi nhưng không biết cách nào để trả lời câu hỏi “Tôi là ai,”con đành lấy một tờ giấy, kẻ một đường thẳng từ trên xuống dưới. Một bên con viết tất cả những điều con thấy tốt lành, thánh thiện nơi mình từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Bên kia, con cũng viết xuống tất cả những gì con thấy nơi mình không nên, không phải. Sau khi viết xong, con cảm thấy tá hỏa, không dám chấp nhận mình tệ như thế. Dĩ nhiên, con không để cho ai biết. Sau một lúc ngỡ ngàng, con nhận định, những gì được viết nơi tờ giấy chính là con viết về con bởi đâu ai biết con thế nào. Thế nên, sau khi suy nghĩ con đi tới kết luận; đây thực sự là chính mình, mình không chấp nhận nó là tự lừa dối để rồi con mở rộng lòng chấp nhận mình thực sự là như thế. Ngay lúc chấp nhận đó là thực thể nơi mình, con cảm thấy tâm tư thoải mái, đồng thời cũng nhận thức được trên cuộc đời này không ai bết bát hơn mình, không có thằng quỷ, con ma nào tệ hơn mình; có lẽ chúa quỷ chỉ đáng làm đàn em của con. Tuy nhiên, cũng từ đó đối với những sự việc hay ai đó vô tình hay hữu ý làm phiền con, con nhận ra rằng, sự tệ hại người đó đã làm phiền lòng con không đáng để so sánh với sự tệ hại nơi con nên chẳng có gì đáng cho con phải chấp chiếm vì con còn tệ hơn người ta nhiều. Nói cho đúng, bởi nhận ra được như thế, con cảm thấy lòng mình thanh thản, dễ chịu hơn; có thể nói, con không dám đặt vấn đề đúng, sai nơi người khác nữa bởi đàng nào thi họ cũng dễ thương, tốt lành hơn con. Không hiểu tâm tình này lâu dần có làm cho con thêm tự ty mặc cảm hay chăng, nhưng cái lợi ích trước tiên về chuyện dám đối diện chính mình đã giúp con chấp nhận cuộc đời và người chung quanh dễ hơn. Có điều, nhân tiện con xưng tội trống với cha, đó là chính sự thể hồi tâm đối diện và chấp nhận chính mình cũng làm phiền con không ít. Số là nếu có ai đó chủ đích đụng chạm đến con, con biết nhưng không nói ra, không tỏ bất cứ thái độ nào khi gặp họ mà cứ như chẳng để ý gì; con lại cảm thấy thái độ im lặng này cả là một sự độc ác vì như thế có nghĩa cố tình để người đó phải trả giá nặng nề hơn. Con xin hỏi, cha và bác cùng quý anh em nghĩ thế nào?
            - Câu hỏi của anh, chúng ta sẽ trả lời sau. Riêng phần thực nghiệm để nhận biết chính mình, anh có biết Phúc Âm nói thế nào không?
            - Thưa cha, thực ra con đọc và suy nghĩ khá nhiều về đạo học Đông Phương, nhưng có chi nhiều đâu, Đạo Đức Kinh cỡ năm ngàn chữ, Nam Hoa Kinh chỉ giống như một tập truyện ngắn, các kinh khác như Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác, Sáu Cửa Thiền Thất, Kinh Pháp Bảo Đàn Hoa, Bhagavad Gìta, kinh nào cũng ngắn gọn nhưng lời lẽ cứ ngược ngược với lối suy nghĩ thường tình nên con kiếm những sách giảng giải đọc thêm. Tuy nhiên, những tác giả giải thích về các kinh lại hình như mang nặng lối giải thích theo nghĩa hữu vi khiến tâm trí con lộn tùng phèo. Dạo đó, sau năm thứ nhất đại học, con mua được cuốn Lão Học Tinh Hoa do cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần viết, ngay trang đầu tiên được ghi câu nói, “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri,” và được cụ dịch là người biết không nói, kẻ nói không biết. Chính câu này đã làm con ngất ngư hơn mười năm. Con còn nhớ, năm 1977 con vô năm thứ nhất đại học thì năm 1978 con mua cuốn sách đó nơi một tiệm sách Việt Nam tại Chicago. Thế mà mãi cho tới năm 1989 con mới hiểu câu ấy nói gì dẫu đã bốn hay năm lần đọc lại cuốn đó, qua nhiều lần suy nghĩ và cố đặt giả thuyết về những trường hợp khác nhau để giải thích câu đó sao cho hợp lý hợp tình. Sau khi đã nghiệm được câu đó, con áp dụng phương thức suy nghiệm đã học được mà nghiệm chứng các câu nói khác nơi đạo học Đông Phương. Hơn nữa, các tác giả luận giải các kinh thường nhắc nhở tới câu hỏi “Tôi là ai” nên con thử áp dụng cho chính mình. Bởi vậy, dẫu đọc Phúc Âm nhưng con có thấy câu nào nói về câu hỏi tôi là ai đâu mà để ý.
            - Thế sau khi tìm hiểu về đạo học Đông Phương, anh thấy Phúc Âm ra sao?
            - Nếu con thực tâm nói ra, e rằng cha, bác và anh em đây sẽ cho rằng con rối đạo nên thà đừng nói còn hơn.
            - Anh nói gì, nếu đã rối đạo thì nói ra hay không anh cũng đã rối. Tôi nghĩ anh ngại nói ra vì e những điều suy nghĩ của anh làm cớ cho người khác vấp phạm, hoặc làm cho người ta bị rối thì đúng hơn. Có phải vậy không?
            - Ủa, nói như thế cha rành về con hơn chính con, thì còn nói làm gì?
            - Tôi đâu hỏi cho tôi mà hỏi cho anh em ở đây thôi vì chính tôi cũng không muốn nói ra. Anh cứ nói, nếu những gì được coi là rối đạo tôi sẽ nói anh ngưng. Tuy nhiên, chúng ta chỉ nói về Phúc Âm, không nói về tôn giáo thì sao có thể nói rối. Đàng khác, không tôn giáo nào dám cao ngạo lên án niềm tin của tôn giáo khác là rối. Một người không tin theo niềm tin của một tôn giáo nào đó đâu phải họ rối, và không ai có quyền kết án người đó là rối. Sự rối hay không chỉ xảy đến bên trong tôn giáo và những thành viên của tôn giáo chứ không đến với người ngoài tôn giáo. Anh cứ việc tự nhiên.
            - Cảm ơn cha đã minh định rõ ràng nên con xin thưa. Con đọc Phúc Âm như đọc một cuốn kinh đạo học. Thế nên con thấy hình như Phúc Âm dùng những dụ ngôn và những công án ghép nối lại thành câu truyện về cuộc đời Đức Giê su. Bởi đó, nếu cố gắng hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương thì sẽ bị rối tung lên bởi giải thích hợp với câu này thì lại đối nghịch với câu khác. Con thử đưa ra một thí dụ, cha làm ơn đừng cảm thấy phiền hà. Đời thuở nào trong Phúc Âm có câu, “Ôi, thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ Ta sẽ ở với các ngươi, cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!” (Mt. 17:17; Mc. 9:19; Lc. 9:41), mà chúng ta thì nói sao? Con chỉ dám chưng lên câu Phúc Âm như thế, ai hiểu con muốn nói gì thì hiểu. Vấn đề thứ hai, nơi Phúc Âm Gioan được viết, “Quả vì thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đến nỗi đã thí ban người Con Một, ngõ hầu những ai tìn vào Ngài thì khỏi phải hư đi nhưng được có sự sống đời đời” (Gn. 3:16). Nếu hiểu theo nghĩa từ chương thì câu này trật lất vì ít nhất hai điểm. Thứ nhất, theo Phúc Âm, Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi thí con một của mình để cứu họ khỏi chết mà sao lại bày ra hai tiếng “Chúa phạt.” Vấn đề thứ hai, đó là nếu hiểu theo nghĩa từ chương, câu này hoàn toàn không thể áp dụng vì ai cũng phải chết. Thưa cha, có lẽ hai thí dụ đã đủ điều con muốn nói.
            - Ông nói gì, nếu mà không phạt thì thế giới này nổ tung lên à? Con người thuộc loại thứ lừa ưa nặng; nếu không thế thì cuộc sống này sao có thể yên ổn! Sỹ đặt vấn đề.
            - Thưa cha, Tình giơ tay, con nghĩ, anh Thanh nói có lý, vì một Thiên Chúa yêu thương loài người vô bờ bến thì không lý nào phạt bất cứ ai. Con nghĩ, mình làm ăn chẳng ra gì lại thích vung tay quá trán rồi đổ lỗi Chúa bắt phận nghèo nàn thì quả là oan uổng cho Chúa. Mình lãnh hậu quả chính mình tạo ra có lẽ hợp lý hợp tình hơn là đổ cho Chúa phạt.
            - Tôi hỏi anh Sỹ, ngồi trước bàn tiệc mà anh không ăn nên bị đói thì Chúa có phạt anh đói bụng không? Thế nên, nói rằng Chúa phạt là để giúp cho những tâm hồn đơn sơ, thiếu hiểu biết lo sống tốt lành. Bởi nếu nói Chúa phạt anh, Kinh Thánh nói anh là hình ảnh của Thiên Chúa, thánh Phao lô minh xác Thiên Chúa ngự trị nơi mọi người thì nếu Chúa phạt anh, Chúa phạt chính Ngài nơi anh ư? Có lẽ, chúng ta cần phải nghiệm chứng thâm sâu hơn về thực thể chính mình và sự liên hệ của mình với Thiên Chúa. Hơn nữa, một vấn đề quan trọng phải được đặt ra đó là chúng ta đang nói về Thiên Chúa như thế nào? Nghĩa là nhận thức hay quan niệm của chúng ta về Chúa ra sao; coi chừng chúng ta rơi vào trường hợp “Ông nói gà, bà nói thóc” thì không thể đàm luận được.
            - Thưa cha, Chúa thì chỉ có một, làm gì có hai Chúa mà cha nói phải đặt vấn đề về Thiên Chúa như thế nào.
            - Thưa cha, Bá lên tiếng, con nghĩ nên giới hạn chủ đề hoặc câu hỏi để giải quyết dứt khoát cho rõ ràng, chứ cứ nói lan man thì sẽ không thể trở về mục đích chính là Phúc Âm được. Hiện tại, câu hỏi của anh Thanh còn đang chờ mà lại thêm nhận thức phân định về Thiên Chúa, một vấn đề lớn lao như thế bao giờ mới ngưng được, rồi lại những câu hỏi liên hệ tiếp nối thì sao giải quyết.
            - Anh nói có lý, chúng ta giải quyết câu hỏi của anh Thanh trước. Anh Thanh đặt vấn đề không nói có thể là độc ác vì người vấp phạm sẽ phải trả giá mắc mỏ hơn. Ai có ý kiến gì không? Nhưng trước tiên, mời anh Thanh nói lý do tại sao không nói hoặc không phản ứng.
            - Thưa cha, thứ nhất, nói ra hoặc giải thích chỉ sinh thêm phiền hà. Những người đã nhìn mình dưới nhãn quan đối lập thì sẽ không bao giờ tin những điều mình nói. Hơn nữa, nếu con không lầm thì có câu nói, ý nghĩ, quan niệm của người ta chẳng khác gì chiếc đinh, càng đóng, chiếc đinh càng lún sâu vô khó bề gỡ nổi. Thêm vào đó, ai cũng quá quen thuộc với câu nói, “Không có lửa sao có khói.” Như vậy, mình càng lên tiếng phản bác thì lại càng chứng tỏ có điều gì liên hệ mình muốn giấu diếm. Con nghĩ, chưa chắc “Một câu nhịn là chín câu lành” nhưng chắc chắn “giáo đa thành oán;” dại gì trở thành kẻ thù của họ một cách vô cớ dẫu họ đối lập với mình dù chỉ nghe tin đồn. Tuy nhiên, dù biết rằng nhiều khi sự thể xảy đến do nghe hơi ngồi chõ hoặc bày chuyện phao tin thất thiệt thì chỉ nên lờ đi vì càng cải chính chỉ càng phiền mình thêm.
            - Thế sao anh có mặc cảm độc ác nếu im lặng? Cha Hải hỏi.
            - Thưa cha, như vậy phỏng mặc cảm tội lỗi phát sinh từ sự tốt lành, thánh thiện? Thanh nói.
            - Ông nói gì, Sỹ giống như ngồi nhằm chiếc gai, tốt lành là tốt lành sao có thể sinh ra tội lỗi.
            - Im đi ông ơi! Bá lên tiếng, ông có biết mình nói gì không?
            - Anh em chắc biết câu, “Đã biết lòng nó độc thì nhịn mà chào nó.” Mặc cảm độc ác phát sinh từ lòng nhẫn nhịn, cảm nghĩ không đáng chấp vì nhận thực ra mình còn tệ hơn những người khác bởi mình không biết gì nhiều về họ đó là một sự nhận thức trung thực của bất cứ ai đã nhận biết thực thể chính mình. Nói theo Lão học thì được gọi là thánh nhân; mà nơi Lão học có câu nói, “Trời đất coi vạn vật như chó rơm, thì thánh nhân cũng coi trăm họ như chó rơm.” Anh đã nhận ra được dù có giải thích cách nào thì cũng chẳng khác gì đem búa đóng đinh nơi đầu họ thì mặc cảm độc ác phát sinh nơi anh do lòng chân thành. Tôi nghĩ, anh nên nghiệm chứng câu, “Không làm điều xấu đã khó, không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn.” Anh không có ý nghĩ đến cải chính hay trả thù hoặc mưu toan làm hại người đối lập hoặc tuyên truyền những điều thất thiệt về họ là quá đủ. Cái mặc cảm độc ác ấy coi chừng đồng nghĩa với lòng thương xót nơi Phúc Âm mà thôi.
            - Thưa cha, sao mặc cảm độc ác lại có thể đồng nghĩa với lòng thương xót.
            - Ông ơi, im đi cho người ta nhờ. Nghiệm thì không nghiệm, chứng chẳng lo chứng, cứ sợ người ta cho rằng mình không biết nói. Bá ngăn Sỹ.
            - Chúa ở trong anh, biết anh suy nghĩ theo thế tục, làm những điều thiệt hại nặng nề cho chính anh mà không thể ngăn cản không là xót thương thì là gì? Không độc ác thì là gì?
            - Ah! Tình lại la lên, rồi lặp lại câu, “Trời đất coi vạn vật như chó rơm.”
            Cụ Tài nhìn Tình, cha Hải cũng nhìn Tình gật đầu.
            - Anh Tình, đắc ý về chuyện gì vậy? Cha Hải hỏi.
            - Thưa cha, Chúa Giê su gọi thánh Phêrô là Satan!
            Cha Hải hỏi một đàng, Tình trả lời một nẻo, Thanh nghĩ, thế nào cũng có người ngớ ra.
            - Thưa cha, Phùng giơ tay, sao có thể nói Chúa độc ác?
            - Anh Tình, anh trả lời câu hỏi này được không?
            - Thưa cha, nói rằng độc ác hay thánh thiện cũng chỉ là ngôn từ ám định về một sự thể theo nhãn qua hữu vi. Bởi mọi sự, mọi việc từ ý nghĩ, lời nói đến hành động đều biến chuyển trong Chúa chẳng khác gì muôn loài thủy sản sinh động trong đại dương. Dĩ nhiên, cá nước ngọt không thể sống trong nước biển nơi đại dương nên đại dương được coi là độc ác với loại cá ấy hoặc một số loài vật khác nhưng đại dương nó vẫn thế, không mang bất cứ ý định đối với loài nào. Tình giải thích.
            - Như vậy có lẽ anh chị em hiểu được câu Phúc Âm, “Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt. 5:48), “Vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5: 45).
            - Thưa cha, Phủ giơ tay, như vậy Chúa công bằng thế nào vì tốt xấu đều được ban phát giống nhau, không hơn không kém.
            - Bình thường, chúng ta mường tưởng một cách cá nhân, hữu vi, hoặc được dạy dỗ quan niệm về một Thiên Chúa chẳng khác gì Thiên Chúa được nêu lên nơi Kinh Thánh Cựu Ước rồi lấy Đức Giê su ráp vô khuôn mẫu đã được định hình nơi tâm trí chúng ta. Anh chị em nên để ý, Tất cả mọi cuốn sách trong Cựu Ước đều chứng minh một điểm, và đó là có một quyền lực tối thượng được gọi là Thiên Chúa đang hoạt động nơi tạo vật. Và Thiên Chúa nơi Cựu Ước được gán cho mang đầy đủ cá tính nhân sinh, cũng giận dữ, ghen tương, che chở cho nhóm người tự nhận được chọn dẫu họ thuộc loại sớm đầu tối phản và luôn luôn đối nghịch hoặc nếu có thể đàn áp bất cứ ai không thuộc về nhóm người này, nghĩa là không tin theo điều họ tin tưởng. Nơi Tân Ước, Đức Giê su được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời đồng thời trình bày một nhãn quan khác biệt với Thiên Chúa đã được diễn tả nơi Cựu Ước. Điểm chung của Cựu Ước và Tân Ước cũng chính là Thiên Chúa đang hoạt động nơi muôn loài nhưng có thể tạm nói tính chất của Thiên Chúa nơi Tân Ước vượt hẳn lên khỏi ý niệm của tạo vật về Ngài. Đây là lý do tôi muốn anh chị em nhận định cho rõ ràng khi mình dùng danh hiệu Chúa, hay Thiên Chúa để đàm luận về Phúc Âm. Đồng ý rằng Kinh Thánh được viết từ Trung Đông nên mang sắc thái ám định của các đạo học Đông Phương; chẳng những thế, chúng ta có thể nhận ra rõ ràng câu Phúc Âm Gioan, “Cha Ta và Ta là một” đã có trong Ấn học ít nhất hơn năm trăm năm trước Công nguyên. Cũng thế, câu, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” là một công án nơi Lão học cũng ít nhất năm trăm năm trước Phúc Âm. Thế nên, muốn nhận thức về Phúc Âm, điều kiện cần thiết không có không được, đó là nhận thức về đạo học Đông Phương. Đồng thời sự phân định rõ ràng về quan niệm, hay ý niệm về Thiên Chúa phải là điều không có không được.
            - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, chẳng lẽ có nhiều Chúa lắm hay sao mà cần phải phân định.
            - Tôi đã nói rồi mà ông trùm không để ý chăng. Chỉ vì muốn tránh cảnh “Ông nói gà, bà nói thóc” mà tôi phải đặt vấn đề nhận thức về Thiên Chúa trước khi đi sâu vào Phúc Âm. Ông không nhớ đã có thắc mắc được đưa lên đó là một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến không thể là một Thiên Chúa công bình hay công thẳng như anh Thanh nêu lên. Đức Giê su trình bày cho chúng ta một Thiên Chúa khác hẳn những quan niệm xưa nay trong khi chúng ta lại cứ khuôn mẫu Ngài rồi gán ép Ngài sao cho phù hợp với nhãn quan của mình, và như vậy, chúng ta đã biến quan niệm hay nhận thức của mình trở thành đầu voi đuôi chuột. Nói khác đi, chúng ta tự biến thành những thày bói mù rờ voi, không biết mình nói hoặc tuyên xưng những gì giống như nơi Ca Dao có câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Nghe ông bạn tôi nói quên chưa nhắc nhở anh chị em đọc Phúc Âm trước, thế nên tôi nêu lên câu hỏi để xem nhãn quan của anh chị em về Thiên Chúa thế nào.
            - Đó, chú mày muốn nói thì nói đi kẻo không cho nói thì khóc, cho nói lại mếu, Phủ nói với Sỹ.
            - Tớ chưa ngộ mà, đợi tớ thiền chút mới nói được. Chúa Giê su nói, “Con chiên ta thì nghe tiếng ta” (Gioan 10:27), tớ phải bác chảo, đổ dầu đun cho nóng lên chiên mới nghe được lời Ngài nói gì về Thiên Chúa.
            - Anh Sỹ, anh chiên Chúa Giê su bằng đất hay bằng giấy?
            - Thưa cha, Phúc Âm dạy vậy nên con định thực hành như thế nhưng con không thích làm đồ giả, làm thứ thiệt mới chắc ăn; mà lấy đâu ra Chúa thiệt bây giờ để chiên!
            - Vậy chú quên lời dạy của Thánh Phao lô rồi sao?
            - Bộ anh muốn tôi tự tử sao. Thế vợ con tôi ai nuôi?
            - Bây giờ mới biết chú có hiếu với vợ con nên không dám nghe tiếng Chúa!
            - Biết rồi, nói mãi, không có vợ tôi thì ai sinh con cho tôi, chẳng lẽ vợ hàng xóm?
            - Thế là thất bại! Người ta nói, đàng sau một người đàn ông thất bại là một người đàn bà xúi dại.
            - Bị xúi dại còn hơn không biết mình dại
            - Dại chi?
            - Vì không có vợ.
            - Chưa chắc có đã hơn không!
            - Chưa ai đọc Phúc Âm bao giờ sao? Cha Hải lên tiếng hỏi mọi người.
            - Thưa cha, chúng con còn đang ngâm kíu, Sỹ trả lời.
            - Thế nào, hai ông trùm.
            - Thưa cha, lần đầu tiên con mới được hỏi về những nhận xét về Chúa. Xưa nay, có bao giờ con dám nghĩ đến đâu vì cứ đinh ninh phải tin với giáo hội. Mặc dầu chẳng hiểu phải tin với giáo hội là tin thế nào nên cứ chờ các cha bảo sao nghe vậy, bước ra khỏi nhà thờ cứ quên ngay đi là xong bổn phận. Nay cha lại hỏi Chúa thế nào thì sao mà đầu óc chúng con dám nghĩ tới.
            - Vậy xưa nay ông được biết Chúa như thế nào?
            - Thưa cha thì cứ như bổn ngày xưa học thuộc lòng; thưa Đức Chúa Trời có ba ngôi; ngôi thứ nhất là Cha, ngôi thứ hai là Con, ngôi thứ ba là Thánh Thần. Rồi ba ngôi bằng nhau, không ngôi nào hơn, ngôi nào kém, không trước, không sau. Nếu được hỏi Đức Chúa Trời là Đấng nào thì cứ nhắm mắt thưa Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên trời đất muôn vật cùng hằng gìn giữ cai trị mọi sự. Rồi nào là Đức Chúa Trời là Đấng thiêng liêng, vô thủy vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, trọn tốt trọn lành, ở khắp mọi nơi. Thưa cha, trong bổn dạy về Đức Chúa Trời chỉ có thế, không hơn, không kém.
            - Ông có bao giờ nghĩ đến thế nào là ở khắp mọi nơi không?
            - Thưa cha thì ở khắp mọi nơi là nơi nào cũng có Đức Chúa Trời.
            - Vậy ông có nhìn thấy không?
            - Thưa cha, Ngài là đấng thiêng liêng sao có thể nhìn thấy.
            - Trong Phúc Âm có câu nào đó nói Thiên Chúa là Thần Khí…
            - Thưa cha đúng vậy, Phúc Âm có câu, “Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật (Gioan; 4:24). Thế ra những gì chúng con phải tin đã được ghi trong Phúc Âm mà có bao giờ được ai nói cho biết đâu. Thưa cha, là người Công giáo, con nghĩ gia đình nào cũng có cuốn Kinh Thánh nhưng để cho mà có chứ mấy ai đọc vì nghe đâu thời xưa giáo dân bị cấm không được đọc bởi đọc sẽ rối đạo. Có lẽ vì thế nên các cha thường nhắc nhở chúng ta phải tin với giáo hội.
            - Thế ông có biết tin với giáo hội là tin thế nào không?
            - Thưa cha, là tin theo những gì các cha giảng giải.
            - Ông có thể đưa ra một thí dụ được không?
            - Thưa cha, chẳng hạn về dụ ngôn người bị cướp đánh nửa sống, nửa chết (Lc; 10:29-37), các cha thường dạy rằng phải biết yêu thương và gìúp đỡ những kẻ khốn cùng. Chúa đã yêu thương chúng ta, ban cho chúng ta cuộc sống đầy đủ thì cũng phải biết yêu thương những người đồng loại như vậy.
            - Ông trùm sang Mỹ được bao nhiêu năm rồi?
            - Thưa cha, tính đến nay cũng hăm mấy năm rồi ạ.
            - Thế khi lái xe trên xa lộ gặp những người xin đi xe nhờ (Hit hiker), ông trùm có chở dùm họ không?
            - Thưa cha, ngày mới sang được ít năm, có đôi lần con cho họ đi nhờ, may mắn không xảy ra chuyện gì, nhưng mùi mồ hôi cháy nắng nơi họ bốc ra khiến con muốn ngộp thở. Sau này, mấy người quen biết được, họ nói con không được làm như thế vì rất nguy hiểm. Báo chí, internet cũng khuyên không nên làm thế bởi coi chừng sẽ bị cướp xe lại còn bị đòn tàn tật nữa thì khổ cả đời nên con thôi.
            - Như vậy, không cho họ đi nhờ xe có phải ông độc ác, không biết thương người mà để họ chịu trận dưới trời nắng chang chang?
            - Thưa cha, cũng đành chịu vậy thôi vì nếu lỡ ra thì ai thương mình!
            - Thế có bao giờ ông tự hỏi tại sao vị tư tế và vị luật sĩ không giúp người bị cướp mà lại đi tránh sang bên kia đường cũng như ông không đón người lỡ đường không?
            - Cha hỏi thì con mới nhận ra là mình đã không bao giờ đặt câu hỏi tại sao chứ con chỉ nghe thấy các cha giảng phải biết yêu thương mà giờ, có cơ hội giúp người ta nhưng lại không dám giúp.
             
            Nghe cha Hải hỏi và ông trùm Canh trả lời đến đây, mọi người nhận ra có điều gì khúc mắc nơi dụ ngôn người Samaritanô tốt lành.
            - Ai có thể giải thích được dụ ngôn người Samaritanô tốt lành sao cho hợp lý hợp tình và có thể áp dụng trong cuộc đời chúng ta? Cha Hải đưa mắt lướt qua mọi người.
            - Thưa cha, chị Sỹ lên tiếng, con nghe đâu hình như luật Do Thái rất khắt khe, người ta không được phép đụng đến những con vật nhơ uế, và cũng có điều luật cho rằng người ta hay con vật chết ngoài trời là thứ nhơ uế nên hai vị tư tế và luật sĩ không dám giúp người sắp chết vì bị cướp đánh.
            - Vậy theo chị nghĩ, dụ ngôn này muốn dạy chúng ta điều gì và làm sao áp dụng nơi cuộc sống mỗi người?
            - Thưa cha, thì những điều gì phạm luật là phạm tội nên đừng làm thì khỏi phạm tội.
            - Thưa cha, Thanh lên tiếng, theo ý con thì dụ ngôn người Samaritanô tốt lành lên án tất cả những gì được gọi là điều luật ngăn cản người ta sống yêu thương. Như vậy, Phúc Âm được viết chống lại những luật được gọi là nhơ uế nơi bộ luật Do Thái. Bởi vì người Samaritanô không biết do đó không theo lề luật Do Thái nên ông ta giúp người bị cướp đánh nửa sống, nửa chết. Tất nhiên, hai vị luật sĩ và tư tế vì họ biết và phải giữ luật nên không thực hành đức yêu thương. Nói như vậy, con thấy hình như tôn giáo đang thực hành những gì không hợp với đạo học. Con cảm ơn cha đã hỏi; có lẽ con phải đặt lại vấn đề về nhận thức đạo học áp dụng nơi tôn giáo. Tuy nhiên, đìều này có vẻ hơi phiền bởi nếu không thực hành giống mọi người, con sẽ bị họ coi như quái thai.
            - Anh nêu thí dụ được không?
            - Thưa cha, đâu cần phải thí dụ mà sự thật đang được chấp hành nơi cộng đồng Công giáo chúng con. Nơi kinh Ngày Chủ Nhật, chúng con cứ vui vẻ tụng niệm mà chẳng thèm suy nghĩ với câu, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn, mà linh hồn là giống thiêng liêng chẳng hề chết được” (Sách Kinh Địa Phận Hà Nội; Kinh Đô ấn quán; TX, USA; Tr. 31) Thưa cha, mình là hình ảnh của Thiên Chúa, linh hồn mình chính là Thiên Chúa nội tại. Thế mà dám rang rang công bố ai chẳng thông công cùng hội thánh Công giáo thì chẳng được rỗi linh hồn. Thưa cha, con nghĩ các cha phải nghe thấy bởi không vị nào điếc. Thưa cha, như vậy phỏng các cha cũng không suy nghiệm những lời kinh mình đọc?
            - Anh nói vậy thì tôi cũng điếc rồi vì đã có lần tôi dâng lễ chủ nhật cho một cộng đồng người Việt nghe thấy họ đọc như thế nhưng không để ý. Sau này kiếm ra, kinh ấy được in hình như vào năm 1950 hay 51 gì đó. Tôi nghĩ, có lẽ kinh được sáng tác khá lâu trước đó với quan niệm cổ xưa của các vị truyền giáo. Ngày xưa, người ta đều quan niệm rằng ai không theo đạo Công giáo cũng như không được rửa tội sẽ mất linh hồn. Thời đó họ chưa nhận thức được linh hồn là gì. Nếu anh em để ý, nơi đất nước này, ngày xưa, mới chỉ mấy trăm năm, người ta cho rằng những người da đen không có linh hồn nên họ bắt làm nô lệ; họ đối xử với người da đen như đối với con vật hoặc còn tệ hơn thì quan niệm mất linh hồn quá ư bình thường. Anh nói đúng, nếu cỡ ba trăm năm trước anh lên tiếng bênh vực và chứng minh người da đen có linh hồn nơi đất nước này, chắc chắn anh sẽ bị kết án là quái thai. Dĩ nhiên, bất cứ những gì anh nói khác với quan niệm của một tập thể đều khiến họ khó chịu; đặc biệt đối với những người theo Công giáo “Credo” ngày xưa, nói không giống họ nói sẽ bị lên giàn hỏa. Và không thế, chúng ta đâu cần tốn rượu bia, đồ ăn, thức uống, và thời giờ đàm luận những chuyện thường được coi là không đâu như thế này.
             
            MBVN 21
             
            Không ngờ cha Hải lại có được nhận định như vậy, Thanh nghĩ. Thường thì các cha phải dùng mọi lý lẽ đôi khi áp đặt để giải thích; đàng này, ngài tỉnh bơ chấp nhận sai lầm, không đổ tại ai, lại còn dám cho rằng mình điếc.
             
            - Riêng điều mà anh nói về lỗi lầm của thánh Phao lô để đến nỗi bị lạm dụng mà phát sinh các giáo phái khác thì đó thực sự là thiếu sót nơi anh bởi anh đã nhận thức câu nói của ngài theo quan điểm thế tục. Anh thử đặt vấn đề; Thiên Chúa ở trong anh thì đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi anh. Như vậy nói rằng đức tin con chữa con hay Chúa chữa con thì cũng thế. Chính vì không nhận thực được Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mình nên người ta đã cho rằng chỉ cần nói tin vào đức Giê su qua môi miệng là đủ được cứu rỗi mà quên rằng Phúc Âm rõ ràng minh xác, “Không phải mọi kẻ nói với Ta, ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt. 7:21). Như vậy, sự phân rẽ phải xảy ra vì nhận thức thư Phao lô theo nghĩa từ chương, thế tục. Hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương, thế tục mang đến những tai hại như thế. Nơi trưòng hợp anh Thanh, tôi muốn biết anh thực nghiệm nhận thức về chính mình nhưng anh có nhận biết được Phúc Âm đã nói gì về sự thực nghiệm đó không?
            - Thưa cha, con làm thế chỉ là làm bừa vì muốn nhận biết thực sự mình thế nào chứ đâu để ý gì Phúc Âm nói ra sao.
            - Thế anh thấy điều gì khó hiểu nhất nơi Phúc Âm.
            - Thưa cha, đọc Phúc Âm con thấy cao điểm nhất là đức tin, nhưng hãy còn câu nọ, câu kia nhắc tới nhắc lui. Tin Mừng Nước Trời thì cứ nghe người ta giải thích hay khuyến khích tin rằng Chúa Giê su đến để chuộc tội cho thiên hạ. Tuy nhiên, con lại thấy nghịch lý thế nào ấy. Nhắc đến Thiên Chúa được đức Giê su dạy gọi bằng Cha, con vẫn cảm thấy vu vơ vì chưa thực sự cảm nhận được như thế; tuy nhiên, một vài khía cạnh nhận thức Thiên Chúa là cha, theo con thấy cần phải được chiêm nghiệm. Hơn nữa, nơi những trường hợp ai đó đã không có được kinh nghiệm thân thương về cha của họ thì sao! Nãy giờ nghe cha nói về vị thế loài người con hơi hiểu một chút nhưng vẫn chưa thực sự cảm nhận được. Lý do chính mà con khúc mắc về thực thể con người như cha nói đó là sao có thể hoặc phải thực tập theo phương pháp nào để có thể sử dụng quyền lực của Thiên Chúa nơi mình. Thưa cha, còn nhiều thứ lắm, nói hoài cũng không hết nên không thể nào tìm ra điểm khó khăn nhất nơi Phúc Âm.
            -Tôi muốn hỏi anh đã bao giờ thử suy nghĩ phương pháp để anh nhận thực về chính mình có nơi nào Phúc Âm nhắc đến không mà thôi.
            - Thưa cha, theo con thấy và đại đa số, nếu không muốn nói rằng hầu hết mọi người, đều cho rằng điểm cốt yếu mà Phúc Âm dạy là yêu thương. Nào Thiên Chúa là tình yêu, nào hãy yêu thương người khác như chính mình, nào không tình yêu nào cao quý hơn thí mạng mình vì bạn hữu, hay một đôi câu khác. Phỏng điều con nhận thực được mình chẳng ra gì nên thấy mọi người dễ mến hơn có thể nói là nếu không thế thì không thể thực sự yêu thương người khác.
            - Nói thế đâu được, Sỹ lại nhảy vô, yêu thương là yêu thương chứ yêu thương có điều kiện đâu phải là yêu thương mà là vị kỷ vì thỏa mãn điều kiện mình đòi hỏi. Nếu nói yêu thương cần điều kiện thì làm gì có tiếng sét ái tình, làm gì gia đình phải tan nát khi vợ hay chồng theo đuổi một hình bóng nào đó bên ngoài.
            - Anh Sỹ, cha Hải gọi đích danh, anh đang bị quan niệm luân lý, hoặc tình cảm, hoặc ước muốn thế tục làm mờ nhận thức nên trật chủ đề. Anh Thanh đang đặt vấn đề giữa sự liên hệ thực hành nhận thức chính mình với lời Phúc Âm dạy về yêu thương chứ không dính dáng gì đến tính chất của yêu thương. Tôi muốn đặt lại câu hỏi. Vậy sự khó khăn nhất nơi cuộc đời một người để nhận biết thực sự về mình là gì?
            - Thưa cha, Thanh lên tiếng, chính là sự nhận biết chính mình.
            - Nói gì giống đổ bùn sang ao, Sỹ lại đế vô.
            - Vậy nơi Phúc Âm điểm nào quan trọng nhất để nhận biết chính mình?
            - Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của người, vợ Sỹ trả lời.
            - Đó là điều quan trọng nhất đối với hành trình tâm linh, hành trình đức tin. Nhưng sự thể đầu tiên cần phải thực hiện để bước vào hành trình tâm linh là gì?
            - Thưa cha, chính là nhận biết chính mình. Ôi, sao mà nó luẩn quẩn, Thanh nói.
            - Phúc Âm khuyên chúng ta thế nào ngoài sự yêu thương?
            - Thưa cha, “Tìm kiếm Nước Trời” (Mt. 6:33).
            - Đúng, nhưng còn gì nữa?
            - Thưa cha, yêu thương cha không chịu, tìm nước trời cha cũng không chịu dẫu Phúc Âm minh xác đó là chuyện tiên vàn, đầu tiên, tiền đâu; thế cha muốn gì? Yêu không muốn, tiền cũng không muốn. Bá nhào vô; hay cha muốn chọn con đường khó khăn… Ah, thưa cha, con đường hẹp.
            - Đúng, kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy, nhận biết chính mình, thực sự đối diện với mình là sự thể khó nhất, ai cũng biết, nhưng ai cũng ngại ngùng. Phúc Âm nói hãy đi ngõ hẹp (Mt. 7:13-14; Lc. 13:24) vì không hồi tâm nhận thực mình thế nào chúng ta vẫn bị mặc cảm tự tôn hay tự ty, hoặc quan niệm, hay kiến thức che lấp nhận thức chẳng khác gì cặp mắt kiếng màu ảnh hưởng mắt nhìn.
            - Thưa cha, đâu phải tự nhiên mình biết hết mọi sự nếu không học hỏi và như thế sao có thể nhận định đúng, sai, phải trái. Ông trùm Canh thắc mắc.
            - Tôi đưa một thí dụ rất thường, chưa được học hỏi gì về yêu đương, sao ông có thể yêu. Nếu cho rằng yêu thương là một bản năng thì chúng ta được sinh ra với nó đâu cần phải tìm hiểu trước khi yêu. Lòng khát vọng bẩm sinh nơi mỗi người sẽ dẫn đưa họ. Phúc Âm nói, “Cha Ta dẫn dắt chúng” (Ga. 6:65). Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình. Chính Thiên Chúa dẫn dắt mình; vấn đề chỉ là mình có để ý hay không; mình có thực sự muốn nhận biết chính mình hay không như trường hợp của anh Thanh. Vì muốn biết thực sự mình như thế nào, anh đã phải tự kiếm ra phương pháp để trực diện con người của anh qua sự hồi tâm nhận biết chính mình trên giấy trắng mực đen.
            - Anh em nên để ý; muốn nhận biết về Thiên Chúa hoặc thăng tiến nơi hành trình tâm linh, điều kiện đầu tiên phải là nhận biết chính mình. Sở dĩ tôi phải đặt vấn đề về sự nhận biết Thiên Chúa vì thường thì chúng ta đã hiểu lầm về sự tin tưởng với niềm tin và đức tin. Thử đặt vấn đề, nói rằng tin vào Thiên Chúa nghĩa là thế nào. Tôi biết chắc chắn, bất cứ ai trong chúng ta đang hiện diện nơi đây cũng đều cảm thấy mù mờ về điều đươc gọi là tin. Tôi muốn nói Thiên Chúa mang nghĩa tối thượng, nguồn gốc của mọi sự hữu hình cũng như vô hình mà tôi tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu hoặc Quyền Lực Sự Sống. Dĩ nhiên, cuộc đời quá ngắn ngủi và nhận thức cũng như sự hiểu biết của mỗi người quá hạn hẹp nên chúng ta phải nhờ vào hướng dẫn của những vị thức ngộ đi trước chúng ta. Tất nhiên có nhiều phương cách, nhiều tài liệu để chúng ta nghiên cứu, nghiệm chứng qua các đạo học. Riêng tôi, tôi muốn cùng anh em nhận thức về Thiên Chúa qua Kinh Thánh vì ít nhất anh em đã có cơ hội lược qua đạo học Đông Phương.
            - Một vấn đề liên hệ đó là đã có những tác giả lên tiếng; có những vị đã viết thành sách đặt vấn đề về quan niệm hay nhận thức về Thiên Chúa nói chung chẳng hạn như nơi web, anh em có thể vô mục sachhiem.com, hoặc có thể mua hay vô “Google” đọc cuốn The God Delusion do tác giả Richard Dawkins. Những tác giả này dùng quan niệm thế tục, hữu vi để nhận định về phát biểu hay quan niệm về niềm tin của một số người. Họ cho rằng Thiên Chúa được hiểu theo quan niệm hữu vi, tạm gọi là bình thường của mọi người, bị coi là nguồn gốc của mọi sự khốn khổ (evil). Nhận ra thực tại như thế, anh em hiểu tại sao tôi phải đặt vấn đề tìm hiểu hoặc nhận thức điều mà tôi gọi là Thiên Chúa của đức Giê su.
            - Thưa cha, ông trùm Lực lên tiếng, họ nói sao là quyền của họ; mình tin sao là quyền của mình. Tại sao phải lo sợ về những gì họ nói!
            - Ông đặt vấn đề rất đúng nhưng có điều, nơi Tục Ngữ, Ca Dao có câu, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết.” Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, những lời đồn đãi hoặc những quan niệm thời đại ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới tâm trí mỗi người. Nhận biết về Thiên Chúa là điều cần thiết nơi hành trình tâm linh vì chúng ta cần nhận thức thế nào là tin tưởng, thế nào là niềm tin, và thế nào là đức tin nơi Phúc Âm.
            - Thưa cha, chúng con chỉ cần cha cho biết đức tin là gì để chúng con khỏi bị sai lầm là đủ.
            - Nói về đức tin, tôi nói không được bởi cũng giống như nơi công án Lão học, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” mà anh Thanh đã phải bỏ ra mười một năm trời để nghiệm chứng. Hơn nữa, đức tin là một thực thể nơi mỗi người nên cần nghiệm chứng rồi thực chứng chứ không phải là điều chỉ hiểu cho qua…
            - Nếu cha không biết đức tin là gì sao cha đi tu vì không biết mới không thể nói ra được.
            Mọi người ngạc nhiên vì phát biểu của ông trùm Lực. Nơi trình độ hiểu biết một ít về đạo học Đông Phương, họ nhận ngay được ông trùm Lực không biết ông nói gì.
             
            Thanh cảm thấy thương hại cho ông vì qua những năm tháng cố gắng tìm hiểu về Phúc Âm để rồi phải lục lọi qua các đạo học Đông Phương, anh thấy rất cảm thương cho những người chỉ biết theo tôn giáo một cách mù mờ, a dua, đặc biệt là những người gắng sức hô hào tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Kitô, và vì thiếu hiểu biết, mỗi khi nhắc đến hoặc được hỏi về đức tin, họ có tâm tình e sợ chẳng khác gì tên tội đồ vừa bị kết án tử hình nên vội vàng phản ứng bằng cách kết án người lên tiếng hỏi, hoặc bất cứ ai nói không giống điều họ nghĩ. Gọi là điều họ nghĩ nhưng thực ra, họ có nghĩ gì đâu mà chỉ mang tâm trạng e sợ một cách mông lung vì đã chẳng thực sự biết gì bởi chẳng dám suy nghĩ, không biết thế nào là suy nghiệm, nghiệm chứng. Có lẽ họ không bao giờ dám đặt vấn đề phân định thế nào là tin tưởng, thế nào là niềm tin, phương chi nói đến đức tin. Chờ xem ngài phản ứng ra sao! Nghĩ như thế nhưng anh lại lên tiếng,
            - Ông trùm đã không để ý. Lúc nãy cha đã nói rồi và cũng cho rằng có thể không có lợi cho chúng ta bởi giải thích cũng không đem lại lợi ích gì, nhưng coi sự giải thích như một sự thách đố nhận thức của mọi người. Có lẽ ông còn nhớ cha nói, “Đức tin là quyền lực tối thượng của Thiên Chúa nơi mình.” Nhưng làm sao nhận biết thì lại cần nghiệm chứng. Nhóm họp của chúng tôi từ mấy tháng trước tới nay đang tìm hiểu về đạo học Đông Phương do bác Tài hướng dẫn. Nay đến phần Phúc Âm, bác Tài mời cha về giúp chúng tôi và đây là lần đầu tiên chúng tôi được hội thoại với ngài. Ông cũng lần đầu tiên tham dự với nhóm của chúng tôi. Thực ra, như ông thấy, chúng tôi đặt vấn đề về bất cứ sự việc hoặc sự kiện nào để bàn luận. Tất nhiên, nhiều vấn đề thực tại tưởng rằng vậy nhưng không phải vậy, và cũng nhiều vấn đề thấy đó nhưng không thể nói ra mà phải từ từ nghiệm chứng hoặc chỉ có thể nói theo lối ám định. Qua kinh nghiệm và thực tại chứng minh, mỗi sự việc hoặc sự kiện ẩn chứa bên trong nhiều nguyên nhân và lý do của chúng không thể phiến diện nhận định một cách ngây thơ hay giải thích nông nổi. Không có bất cứ gì “Free” như người Mỹ thường nói. Mọi sự cần được tìm hiểu và nhận thức một cách ý thức, bởi lắm thứ tốt cho người nhưng lại hại cho mình, hoặc điều gì đó quí giá đối với mình nhưng lại không ra gì đối với người khác. Chắc có lẽ ông không biết công án nơi Lâm Tế Lục, “Gặp Phật giết Phật, gặp pháp bỏ pháp, không tin ai hết, không để ai lừa dụ,” và công án nổi tiếng nơi đất nước Trung Hoa, “Người nói không biết; kẻ biết không nói.” Thực ra, theo tôi thấy, Phúc Âm còn có những câu ngang tàng hơn và điểm đích cao nhất nơi Phúc Âm lại là đức tin. Ông hỏi đức tin là gì tại sao không nghiệm chứng đức tin là gì theo Phúc Âm mà lại hỏi. Chúng ta đã quen thói lười lĩnh suy tư vì suy tư rất khó bởi nó đòi hỏi kiến thức tối thiểu và sự chuyên tâm mà Phúc Âm gọi là “Hãy tỉnh thức.” Qua sự tìm hiểu riêng tư, tôi nhận ra một sai lầm rất lớn đó là chúng ta chỉ thích ăn cơm mớm, nuốt vào những gì người khác đã mửa ra và vội chấp nhận như chân lý. Sở dĩ như thế vì chúng ta e sợ chính khát vọng bẩm sinh nơi mỗi người. Nếu tôi không lầm thì Đạt Ma sư tổ nói, “Chỉ có một tội độc nhất là tội vô minh,” câu này mang ý nghĩa chỉ về sự lười biếng suy tư nơi mỗi người. Con xin lỗi cha và quý anh em đã nói quá nhiều làm mất giờ mọi người. Tóm lại, con muốn nhấn mạnh một điểm, nếu mình không ăn sẽ bị đói vì không ai có thể ăn dùm cho mình; nghiệm chứng về đức tin cũng vậy.
             
            Thế là những tiếng vỗ tay bùng lên. Riêng Thanh, không ngờ mình nói nhiều như thế. Có thể bởi đánh đàn nơi nhà thờ, Thanh không lạ gì các ông trùm, ông trưởng và cũng vì xưa nay Thanh không đụng chạm đến ai và cũng không muốn mất lòng ai dầu đôi lúc phải đối diện với những điều chướng tai gai mắt nhưng cũng vì đã tự nhận biết bản thân, nên có sao chăng nữa, họ vẫn còn tốt lành chán, Thanh nghĩ. Vẫn thường nói chuyện với ông trùm Lực và cũng nhiều lần ăn nhậu với nhau, ông trùm Lực là con người khá bộc trực, ngay thẳng, sùng đạo và rất tôn trọng đấng bậc trong đạo. Sỡ dĩ Thanh nói lên những điều quá căn bản về thực hành nghiệm chứng cũng vì không bị e ngại mất lòng bởi ông trùm Lực tương đối là con người biết điều. Thanh cũng hiểu thực trạng chung của những người theo đạo; miệng nói là tin nhưng khi hỏi tin gì, tin thế nào thì lại chẳng biết mình tin ra sao, nhưng nếu nghe thấy điều gì không quen nghe đã vội sợ bị người ta lột tẩy mù mờ về đức tin của mình nên nhẩy quay lên muốn đè người ta xuống hầu cho mình có cảm tưởng không bị rối. Đàng này cha Hải lại trả lời là không thể nói được. Ngài chỉ nói nửa câu, khiến ông trùm Lực sảng lên.
            - Cảm ơn anh Thanh đã nói dùm nên tôi không phải trả lời. Anh em biết, bất cứ câu trả lời nào cũng không thể hoàn hảo vì ngữ bất tận ngôn, và ngôn bất tận ý. Nếu chỉ trả lời theo kinh viện, thiển nghĩ, tôi không nên nói chuyện với anh em; vì nếu anh em thực sự muốn biết, lên net hay mua sách về có thể đọc bất cứ lúc nào. Nhưng, net cũng như sách cũng không thể giúp anh em được gì vì sách không chỉ được phương cách cũng như không thể thách đố tâm tưởng anh em thực hành nghiệm chứng dẫu lòng khao khát nơi anh em luôn thúc đẩy, và tâm tưởng anh em hoạt động không ngơi nghỉ. Nếu tôi không lầm, nói chuyện với anh Thanh mấy ngày qua, hình như anh đọc khá nhiều về đạo học Đông Phương, anh cũng chịu khó tìm tòi; chẳng những thế, anh dám thách đố chính mình do dám trực diện tâm tư của anh. Tuy nhiên, qua những sách vở anh đã đọc, có trang sách nào nói về nhận thức định tâm không hay chỉ cổ võ định tâm, hoặc có trang sách nào giải thích câu “Người nói không biết; kẻ biết không nói.” Rất nhiều người bên Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, cả đời họ chỉ nghiệm chứng câu này để rồi cho đến khi chết cũng chẳng ngộ được câu này nói về gì và trong trường hợp nào. Cũng như đại đa số phật tử nghiệm chứng câu “Gặp Phật giết Phật,” nhưng được mấy ai ngộ câu này. Bởi thế, anh em nhớ dùm một điều, tôi tới để thánh đố anh em nghiệm chứng chứ không có giờ, không có công sức giải thích cho anh em bất cứ gì.
            - Cha yên trí, tụi con chịu chơi nên dám chịu chết. Chúng con chịu đựng được vợ con ở nhà thì thách đố với chúng con chỉ tốn thêm rượu bia mà thôi. Cha đừng lo, không có bia uống mới đáng buồn, chứ không ngộ nay thì ngộ mai nào đã chết ai!
            - Thưa cha, chúng con nghiện còn được phương chi nghiệm. Nghiện khi lên cơn không có mới phiền; nghiệm chẳng được hôm nay thì nghiệm ngày mai, tháng này không xong thì tháng tới, năm này vẫn như cũ thì sang năm, bác Tài bảo chúng con thế; vậy mà cho tới giờ vẫn mu tì mù tì, vẫn như cũ và vẫn chưa sao. Tình đế vô. Nói phải có sách, mách phải có chứng, khi bác Tài kể chuyện thày chùa Hương Nham thoát nhiên ngộ lúc miếng sành đụng vào gốc tre ngân lên một tiếng. Chú Sỹ hỏi sư Hương Nham ngộ thế nào, bác bảo, anh chưa nghiệm chứng đã vội hỏi. Thưa cha, nào có khác chi hỏi đức tin là gì. Ông trùm Lực, mời ông nâng chai, mình ngốn bia xem có ngộ không. Nào, mời ông.
             
            Mọi người coi bộ cảm thấy cha Hải dễ thương hơn cụ Tài dẫu cụ đâu phiền trách gì ai. Có lẽ ngài chịu trận riết rồi thành quen. Không hiểu qua quá trình làm việc ngài có nhận định gì về giáo dân Công giáo, chờ cơ hội hỏi thử xem, Thanh nghĩ. Vừa nuốt xong miếng bia, ông trùm Lực lại lên tiếng,
            - Thưa cha, sao nơi nhà thờ, con chưa thấy cha nào nói đến những chuyện này!
            - Tôi cũng không bao giờ nói về những chuyện như thế này dẫu làm việc với người Mỹ. Có nhiều người cho rằng người Mỹ ý thức hơn người Việt; tôi thấy nếu chỉ xét theo cuộc sống nhân sinh. Lý do, họ đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong văn hóa của họ. Đất nước họ thanh bình và thuở ban đầu lập quốc, họ gốc gác là di dân nên luật pháp và những quan niệm được bày tỏ phải được để ý đến những văn hóa khác biệt để tránh kỳ thị. Dẫu thế, họ cũng mất mấy trăm năm mới vào được một ít nề nếp. Người Việt mang nền văn hóa Đông Phương đặt nặng khuôn phép đại chúng. Điều này có nghĩa nền luân lý công cộng dẫu thành văn hay bất thành văn luôn là khuôn vàng thước ngọc cho mọi người. Nền luân lý này giúp cho chính quyền dễ bề an định xã hội nhưng cũng phần nào o ép chẳng những nếp sống mà còn tâm tư quần chúng. Tuy nhiên, xét theo phương diện tin tưởng hay niềm tin tôn giáo, tôi thấy người Mỹ hay người Việt cũng như nhau vì cùng được đào tạo theo một khuôn mẫu nhất định, có khác chăng chỉ là ảnh hưởng của hai nền văn hóa, một đàng cởi mở, tôn trọng ý kiến cá nhân, một đàng đã quá quen với tâm tình âm thầm chấp nhận. Bởi đó, thái độ và phong cách của tu sĩ làm việc nơi đất Mỹ sẽ khác với phong cách của giới tu sĩ bên Việt Nam. Nếu để ý và như tôi đã nói, những vấn đề mà chúng ta đang hội thoại là căn bản cho niềm tin cũng như phương cách thực hành tôn giáo, nhưng do chiều hướng, quan niệm, nói nôm na là lối nhìn về đạo học; tôn giáo đã không thực hành nghiệm chứng đạo học vì một vài lý do có thể được chia làm ba thành phần. Có lẽ, nếu tôi không lầm thì ông bạn tôi đã nói rồi; tôi chỉ nhắc lại. Con người được tạm chia làm ba thành phần, một số có căn cơ đặc biệt hâm mộ cuộc sống chiêm nghiệm hoặc dẫu sống giữa đời nhưng tâm hồn rất tách biệt để chìm sâu vào chiêm nghiệm. Giới chiêm nghiệm này để lại những Kinh sách mà chúng ta gọi chung là đạo học. Giới khác, dùng sự thông minh kèm theo học thức và lý luận để thỏa mãn lòng khát vọng bẩm sinh. Phương pháp này ngộ nhanh nhất mà nhà Phật gọi là minh triết. Riêng đại đa số quần chúng họp thành từng nhóm bày tỏ lòng khát vọng bẩm sinh qua những phương thức khác nhau tùy thuộc không gian và thời gian được gọi là tôn giáo. Nhận rõ như thế, anh em thấy, dù chiêm nghiệm, minh triết, hay tôn giáo đều là hành trình tâm linh nơi những mực độ tâm hồn khác nhau. Như vậy, chúng ta có ba nhóm căn bản và những nhóm này bị ảnh hưởng bởi ước muốn truyền bá để có thêm thành viên cùng chí hướng; đồng thời chín người, mười ý, mỗi nhóm lại phát sinh ra những nhánh rẽ, những cấp bậc giống như một cây gồm có ít nhánh to, mỗi nhánh vài cành vừa vừa, mỗi cành vừa vừa mọc thêm dăm nhánh khác, rồi nào lá, nào nụ, nào hoa quả sinh sôi nảy nở theo giòng thời gian không thể nào kể xiết. Tôi tạm nhắc lại khái quát như thế anh em có lẽ nhớ lại; tôi nói nhớ lại vì cho rằng ông bạn tôi đã giải thích về điểm này, nhiệm vụ của những người rao giảng nơi tôn giáo cần phải như thế nào, cần phải thực hiện những gì, và muốn giúp con người thăng tiến tâm linh thì phải làm sao. Riêng ông trùm Lực, ông đã thỏa mãn với lời giải thích của tôi chưa?
            - Thưa cha, nếu cha nói như vậy thì tôn giáo là mặt ngoài của đạo học sao?
            - Có thể nói thế đối với người thực sự tìm tòi và nghiệm chứng để thỏa mãn lòng khát vọng bẩm sinh nơi mình. Còn những người khác thì tôi không biết và cũng không muốn biết bởi muốn biết phải giống như anh Sỹ nói, ngâm kíu; mà cuộc đời tôi đâu còn được mấy năm nữa để ngâm kíu cái chuyện vô bổ, biết cũng được, không biết cũng không sao. Thế nên, nghe ông bạn tôi nói về đây gặp anh em và giúp anh em nghiệm chứng Phúc Âm, tôi mừng hết lớn; bởi theo tôi, đây là cơ hội cho chính mình nghiệm chứng lại những gì mình đã nghiệm chứng. Nếu không có những nghịch kiến, tất cả những gì mình cho rằng đã thức ngộ đều chỉ là mường tưởng, mộng du, giống như dân gian thường nói, “Vừa đá bóng, vừa thổi còi.” Tôi nói thế nghe được không anh Thanh?
            - Thưa cha, con đồng ý, bởi nhiều lần, mới tối nay cảm thấy đắc ý với nhận thức nào đó, đến sáng mai đã thấy nó sai toẹt. Ấy là chính mình vừa đá bóng vừa thổi còi chứ nếu phải đối diện với nghịch kiến thì có lẽ thay vì nghiệm coi chừng chỉ nên nghiện. Thanh trả lời.
            - Chú nói sao, mới đúng tối nay, sáng mai đã thấy sai? Ông Thung hỏi.
            - Thưa anh, ai không thấy mình như một phụ nữ toàn diện, có thấy mình sai bao giờ đâu!
            - Ai nói chúng em tự cho rằng mình toàn diện hay sao mà anh bới móc. Vợ Sỹ đặt vấn đề.
            - Tôi nói không đúng sao mà thím phải vội đính chính. Một phụ nữ toàn diện là người sáng diện, trưa diện, và tối cũng diện, bộ oan cho phụ nữ?
            - Đấy, mấy chục năm lấy nhau, bu mày lúc nào cũng chê tôi ăn mặc bê bối, đến bây giờ được khen toàn diện lại chối bai bãi. Quả thật, phụ nữ không bao giờ sai lầm. Sỹ nhà con đế vô.
            - Đấy, cha, bác, và các anh các chị coi coi. Đúng là làm phúc phải tội. Đi đến đâu thì cũng ăn mặc giống tên ăn mày mà người ta nói lại còn không thèm nghe.
            - Bu mày không nhớ lời Chúa dạy sao! Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Ăn mặc thanh lịch chứng tỏ mình khoe khoang giàu có giống như cha giảng ở nhà thờ ấy. Có chị thì ăn diện quá sức, mặc toàn đồ hàng hiệu mắc mỏ mà nào có hay ho gì cho cam. Càng đồ hàng hiệu, càng vải tốt, thợ may càng bớt xén nên phơi ra hết, mất cả vẻ thẩm mỹ. Sỹ lên giọng giống như cha giảng khiến cha Hải cũng phải cười.
            - Vậy đã ai nghiệm chứng được câu Phúc Âm chưa?
            - Thưa cha câu nào?
            - Thì anh Sỹ vừa nói đó, người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Hai ông trùm, anh Sỹ giảng có giống cha giảng không?
            - Thưa cha đúng đó ạ, còn hay hơn cha giảng chút xíu vì ở nhà thờ thì cha phán, ở đây chú Sỹ mới là giảng.
            - Tôi hỏi lại, đã ai bao giờ suy nghĩ và đặt vấn đề về câu Phúc Âm này chưa?
            - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, cứ theo như lời các cha giảng, thì phải tham lam tiền bạc mới giàu được, hoặc phải lừa đảo, ăn gian nói dối mới giàu được, hay là giống như những người phú hộ, chặn hầu bóp cổ, cho vay nặng lãi mới giầu được. Rồi thì giầu có, thừa tiền thừa bạc sinh tật ra, bê tha cờ bạc, hút sách; tiền đẻ ra tiền nên có tiền thành ra nhàn hạ mà vẫn có thêm tiền để rồi nhàn cư vi bất thiện. Thưa cha quanh đi quẩn lại như thế nên người giầu có đáng bị quở trách.
            - Vậy những người giầu có đem tiền của làm phúc, giúp đỡ người nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men thì sao.
            - Thưa cha, những người giầu có, tốt lành thì được chúc phúc nên đâu cần phải nói đến.
            - Thế tại sao Tục Ngữ mình có câu, “Số khó làm chẳng nên giầu,” và Ca Dao cũng có câu, “Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng?”
            - Thưa cha, Phúc Âm đâu có nhắc đến Tục Ngữ, Ca Dao! Bá nói.
            - Theo anh quan niệm, thế nào là nghiệm, và thế nào là chứng?
            - Xin cảm ơn cha, con hiểu cha muốn nói gì!
            Một vài người nhìn Bá, chẳng hiểu tại sao hắn nói như thế, nhưng không ai lên tiếng.
            - Anh Thanh, anh có ý kiến gì chăng?
            - Thưa cha, nếu con không lầm thì có thể nói, người nào được sinh ra để giầu có thì mới có thể giầu có được. Con có biết một vài người. Gia đình tốt lành, con cái đuề huề, ngoan ngoãn. Thế mà, cứ chăm chăm chú chú làm ăn chắt bóp một đôi năm để dành được ít tiền, có lần định bụng mua chiếc xe máy mới bởi chiếc đang chạy rã quá rồi, thì đùng một cái, bà vợ đau vô nhà thương, thế là trắng tay! Lần khác cách vài năm sau, để dành được ít tiền, lại thằng con đụng xe gãy chân và cũng sạch bách. Có điều hơi lạ, con thấy Phúc Âm vơ đũa cả nắm, như vậy đâu có được. Đã nhiều lần con đặt hết lý do này, lẽ trừ kia đến nỗi chính con phải vô thư viện lục lọi đọc tìm hiểu ý nghĩa “Lỗ kim” là thế nào. Có lần đi chơi được nghe một vị linh mục dòng Tên giảng rằng “Lỗ Kim” là tiếng lóng thời đó gọi cái cổng nhỏ nơi một góc hàng rào của thành thánh Jerusalem. Vì nó hẹp nên muốn cho lạc đà đi qua phải rỡ hết hàng quà trên lưng. Thế nên, chúng ta phải từ bỏ sự giàu có của mình mới theo Chúa Giê su được. Rồi nào Chúa dạy các môn đồ không mang hai áo, không vàng bạc, người ta cho gì ăn nấy. Con thấy suy luận để rồi nhận định như thế quá o ép đối với Lời Chúa, bắt Lời Chúa phải uốn theo ý riêng mình. Con lý luận, cho dù lỗ kim may vá hoặc cổng nhỏ nơi đền thờ Jerusalem thì Phúc Âm đã ghi, con lạc đà không chui lọt qua được thì phải giữ cho đúng thực trạng này. Và nếu đã như thế thì câu nói Phúc Âm chắc chắn phải ám định điều gì đó mà mình chưa nhận ra được; bởi vì nếu hiểu theo nghĩa từ chương, câu Phúc Âm này có nghĩa xúi gìục những người có tiền của nên vui thú với cuộc sống hoang đàng vì lối nào cũng đã bị kết án muôn đời, chẳng có chút hy vọng nào nữa đâu. Nghĩ như thế, con cảm thấy nguy hiểm quá, may mà con chưa đọc được những bài bình luận chống đối nào dùng câu này làm căn bản đánh phá Kytô giáo. Giã sử nếu có, con không biết phải nghĩ sao. Thêm nữa, cũng theo nghĩa từ chương thì những người nghèo còn lo kiếm miếng cơm, manh áo làm sao có tiền để cho nhà thờ và nếu bụng đói có lết đến nhà thờ được không! Vậy thì ở mức độ nào được gọi là giầu có, thế nào thì nghèo đến nỗi đáng được hưởng nước trời? Đàng khác nếu xét giầu hay nghèo về đường tri thức, học vấn, hoặc kiến thức thì sẽ phải giải quyết cách nào? Phỏng đây có phải là đường lối chính trị cổ xưa đã thâm nhập vào Phúc Âm do chính sách ngu dân để trị? Và khi chợt nhận ra hàng giáo phẩm hoặc những nhà thuyết giáo phải được học hành đến nơi đến chốn thì sao! Nhìn vào thực tại, sao người ta cứ phải xây những nhà thờ nguy nga lộng lẫy giữa đám dân chúng khố rách áo ôm, gượng sống nơi một xã hội khó khăn đến độ hầu như không còn không khí sạch để thở? Bao lâu nay con cứ luẩn quẩn giữa Lời Chúa một chiều và thực tại nhân sinh mà đành bó tay hầu như thối chí nên đành lờ đi bởi không cách nào giải quyết được.
            - Ai có tình tiết gì thêm về suy tư câu Phúc Âm coi bộ như nghịch lý này nữa không?
            Vẫn không thấy ai trả lời, cha Hải nói,
            - Bây giờ tôi kể chuyện của chính tôi khi phải đối diện với câu Phúc Âm này. Anh em để ý, mục đích tôi kể để anh em nhận định thêm về phương cách nhận thức sau này. Số là chiều thứ bẩy hôm ấy, lúc 5giờ chiều tôi phải dâng lễ chủ nhật 28 B mùa thường niên với bài Phúc Âm trích từ Marcô đoạn 10 từ câu 17 đến câu 30 chứa đựng câu 23 nói rằng, “Những người giầu có khó vào được nước Thiên Chúa biết bao,” và câu 25 được viết, “Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa” (Mc. 10:23-25). Nếu tôi không lầm, nơi cuốn Kinh Thánh bản dịch do linh mục Nguyễn Thế Thuấn dòng Chúa Cứu Thế lại dịch câu 23 là, “Những người có của khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao.” Anh em thấy chút khác biệt giữa hai tiếng “Có của” và “Giầu có.” Có của, mang ý hữu vi; giầu có, mang nghĩa bao quát hơn. Tôi đọc bản tiếng Anh, họ dùng chữ “The rich” và “Rich man.” Ngay sau khi soạn xong bài giảng tuần trước, tôi đã đọc bài Phúc Âm này để có một tuần suy nghĩ cho bài giảng tuần tới. Thêm vào đó, hàng năm tôi tốn tiền mua báo có đăng những bài giảng được soạn sẵn; tôi mua hai tờ báo, The Priest và Columbus. Riêng những sách bài giảng tôi mua khá nhiều, ba bốn cuốn dầy vì họ soạn chung cho Thệ Phản, Anh giáo, Tin Lành, và Công giáo, vì những giáo phái này dùng chung Phúc Âm. Sau mấy ngày suy nghĩ, tôi đọc lướt qua tất cả những bài giảng viết về bài Phúc Âm này nhưng không chấp nhận được bài nào. Mãi cho tới sáng thứ bẩy, sau khi cà phê cà pháo, tôi bước vô nhà thờ lúc 9 giờ. Dĩ nhiên, như mọi người biết, ngoại trừ những đình đám nếu có, sáng thứ bẩy nhà thờ không có ai. Tôi cảm thấy thật nản! Ngồi xuống băng ghế cuối nhà thờ, tôi cầu nguyện lớn tiếng, lạy Chúa, Chúa muốn con nói gì với dân Chúa về bài Phúc Âm. Nếu con giảng theo nghĩa từ chương, người ta bỏ không đi nhà thờ nữa, con thất nghiệp và coi chừng bị kết án rối đạo, nhưng không biết cách nào, không biết giải thích sao cho hợp lý, hợp tình. Chúa thực sự muốn gì? Và tôi ngồi đó, tâm trí bối rối với niềm khát vọng nhận thức Lời Chúa cỡ nửa tiếng.
             
            Tâm tình tôi lúc đó thật là nản vì không biết phải xoay xở ra sao. Thà rằng tôi chấp nhận cuộc đời linh mục giống như một ông quan, làm việc để sinh sống cho qua ngày đoạn tháng thì không sao, nhưng tôi lại luôn tâm niệm cuộc đời là cơ hội cho mình thăng tiến tâm linh. Có lẽ cũng bởi tại tôi đã bị ảnh hưởng quá nhiều do đạo học Đông Phương mà ông bạn già của tôi đây xúi dại tôi bước vô nên mới phiền. Thêm vào đó, tôi là linh mục Công giáo nên có bổn phận phải rao giảng Phúc Âm do đó không chấp nhận giảng giải cho qua rồi cứ nương nương mà sống như bao người khác. Thực ra, nhiều lần tôi có cảm nghĩ tự tôi ôm rơm cho rặm bụng; biết bao linh mục Công giáo từ xưa tới nay đã giảng giải Phúc Âm theo nghĩa từ chương nào có chết ai đâu, có bị ai lên tiếng phiền hà bao giờ. Nhưng tôi không thể sống như thế, tôi không thể coi thường Lời Chúa cũng như coi thường lòng khát khao nhận biết về Phúc Âm của giáo dân. Hơn nữa như anh em biết, nếu xét theo phương diện học thức thì linh mục mới học tới “Master,” tiếng Việt gọi là thạc sĩ, trong khi giáo dân đang nghe có những người là luật sư, bác sĩ, kỹ sư. So về học thức, thạc sĩ chỉ đáng học trò của tiến sĩ. Họ không nói gì vì niềm tin của họ chứ chắc chắn họ không coi bằng cấp của linh mục là gì cả. Nói làm sao đây? Giảng thế nào? Tôi ngồi đó tâm trí quay cuồng với nỗi hối thúc tâm tư.
             
            Cuối cùng, với tâm trạng mông lung sau cỡ nửa tiếng, tôi quyết định về phòng lấy bải giảng ngắn gọn nơi cuốn 5 Minutes Homily, do đức ông Authur Tone biên soạn, copy ra và đọc cho giáo dân nghe cho qua. Bí rồi! Vừa bước tới cửa nhà thờ, không hiểu sao tâm trí tôi chợt nhớ đến câu Phúc Âm, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó” (Lc. 12:34). Tôi tự hỏi, lòng dạ, tâm trí mình hiện đang ở đâu! Và chợt nhận ra tâm trí tôi không ở nơi gia tài mà đang bị luẩn quẩn vì câu Phúc Âm. Anh em cũng nhận thấy, tôi ăn mặc xuề xòa bình thường vì tiền lương được bao nhiêu đem mua đất đai hoặc nhà cửa may ra sau này có thêm chút lợi lộc đỡ đần mình trong lúc tuổi già; bởi khi về già, khi mà mình không thể làm việc, không thể tự giúp chính mình thì phải cần tiền thuê người giúp. Đây cũng là lý do tại sao đã mấy lần ông bạn già tôi nói về miền Nam cho ấm áp nhưng còn mấy miếng đất bán chưa được sao có tiền về đây mua sắm nhà ở.
             
            Vào thời đó tôi đã có một vài miếng đất nhỏ, hai tiệm tạp hóa, và một căn nhà cho thuê, lại có được chiếc xe Camry V6 mới mua, thêm ít tiền ở nhà băng, nhưng tôi không nghĩ gì đến chúng cả mà còn đang phải vật lộn với câu Phúc Âm. Từ nhận thức sự thể này, tôi chợt cảm thấy hình như có điều gì khác thường nơi ngôn từ của câu Phúc Âm, và đặt vấn đề lại, tôi thấy phải nói rằng, “Ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó” mới hợp lý, hợp tình. Dĩ nhiên, chúng ta đều nhận biết, qua sự sử dụng theo địa phương, ngôn từ thay đổi ý nghĩa sau thời gian dài là chuyện thường. Xét câu “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó” không hợp lý chút nào, nhưng tự nhận định, “Ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó” đúng vào mọi trường hợp và mọi thời đại. Thế rồi cũng trong lúc ấy, tôi tự nhủ, có thể câu nói “Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” có mang ý nghĩa nào khác tiềm ẩn nơi ngôn từ chăng. Tôi thử lấy ý của câu “Ước muốn của ngươi ở đâu…” ráp vô câu giầu có và lạc đà thì chợt ngỡ ngàng bởi câu đó trở thành, “Người ước muốn giầu có thì khó vào Nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim, vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó.” Ý nghĩa của câu mới này thật tuyệt vời, đúng trong mọi trường hợp và đồng thời mang ẩn ý nói lên giá trị cũng như quyền lực ở ước muốn, ý định nơi con người. Hơn nữa, câu này bổ xung ý nghĩa, nói cách khác, minh xác rằng ý định, ước mơ mang quyền lực của Thiên Chúa nơi mình vì ý định, ước muốn chính là hoạt động của linh hồn, Thiên Chúa nội tại. Đến đây, chấm dứt nỗi xốn xang nơi tâm trí tôi về câu “Người giầu có khó vào Nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.” Ai hiểu sao thì hiểu, ai nghiệm được gì thì nghiệm.
             
            - Thưa cha, như vậy câu Phúc Âm này có thể cũng được viết theo kiểu câu công án nơi Lão học, “Người biết không nói…,” Tình hỏi.
            - Đấy là tự anh nhận thức, anh có thể lục lọi bất cứ nơi sách vở nào hoặc trên net, chưa một ai đưa lên nhận xét như thế.
            - Thế thì ngộ dzồi, Sỹ nhà con lên tiếng, tặng cho chú mày danh hiệu thiền sư giàu có.
            - Thưa cha, còn một câu nữa đã bao lâu nay con không giải quyết được. Xin cha giải thích, và đó là câu, “Hãy làm cho người ta những gì các ngươi muốn người ta làm cho các ngươi” (Lc. 6:31). Thanh lên tiếng.
            - Sao anh có thể để ý đến mấy câu coi bộ bình thường mà ý nghĩa quá hóc búa nơi Phúc Âm như thế. Anh có biết câu này làm tôi khốn khổ bao nhiêu năm không? Vậy anh suy nghĩ về câu này được bao nhiêu năm rồi?
            - Thưa cha, cỡ dăm bẩy năm gì đó, nhưng hình như Thánh Thần Thiên Chúa du hí nơi đâu đó ở các nhà đại gia thành ra con cứ đành phải chịu trận đợi chờ.
            - Những dăm, bẩy năm cơ à; anh kiên nhẫn hơn tôi. Vậy anh còn câu nào xếp hàng chờ đợi nữa không?
            - Thưa cha, còn một câu nữa nghe hơi kỳ đó là câu, “Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa không.”
            - Với tâm trí ấy, sao anh không đi tu làm linh mục?
            - Thưa cha, con muốn làm thiền sư vì thiền sư được cả đàng nọ lẫn đàng kia, được cả mọi sự theo ý thích nơi thế gian này và chắc chắn được hưởng nước thiên đàng; trong khi đi tu, hoàn toàn mất cuộc sống thế gian mà lại chưa chắc gì được hưởng nước thiên đàng.
            Thế là cả đám lại ồn ào giống đàn o­ng mất chúa. Bia lại được mở như e ngại không uống thì tiêu tan cả cuộc đời thế tục. Ai nấy mặt mày hớn hở mang vẻ thõa mãn vì đã nhận được điều gì đó nơi câu chuyện nghiệm chứng câu Phúc Âm do cha Hải kể.
            - Tại sao anh nói chắc chắn được hưởng nước thiên đàng? Cha Hải nhẹ cười hỏi.
            - Thưa cha, theo lời các cha hay giảng là phải biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Như vậy, thưa cha, chẳng gì khó hiểu, trong cuộc đời chúng con có cơ hội thực tập yêu thương ít nhất là một vài người, chẳng hạn, vợ, con, cháu chắt. Con yêu thương vợ và con cái nên nhận thức được yêu thương không phải chỉ là danh hiệu để quảng cáo mà thực sự là một cơ hội với giá mắc mỏ con người phải trả nơi hành trình tâm linh. Nói đến yêu thương như các cha giảng giải làm sao nghiệm được câu, “Không tình yêu nào quí hơn thí mạng sống vì bạn hữu.” Chẳng hạn nói đến anh chị em nào hay ông bà nào gặp điều chẳng may, cha cũng như con, như mọi người, đều cảm thấy chút chút xót xa, thương hại, mà coi chừng còn có người cảm thấy vui là đàng khác. Nhưng, như tụi con, nếu vợ, hoặc chồng, hay con ai đó trong gia đình bị tai nạn, thế là người đó nhảy quay lên, đến nỗi có khi phải bán nhà cửa đi để chạy chữa cho người phối ngẫu hay con cái. Cha thấy đó, chúng con đang chẳng những nghiệm chứng mà còn thực chứng sự yêu thương. Các cha chỉ giảng yêu thương khơi khơi sao có thể vô thiên đàng được vì không có kinh nghiệm thì cũng chẳng khác gì người chưa bao giờ ăn ớt, nhai phải trái ớt hiểm, vội vàng nhổ ra ngay. Đàng này, chúng con ăn ớt quen rồi, không có ớt lại ăn mất ngon. Cha cứ thử so sánh thiên đàng với trái ớt hiểm sẽ thấy. Thanh luận lý một hơi.
             
            Tràng pháo tay vang lên không ngớt cổ võ cho luận lý ngang tàng hữu vi.
            - Anh nói cũng có lý nhưng lý hữu vi, thế tục. Tuy nhiên, cũng phải chấp nhận sự suy tư đó hợp lý và hợp tình đối với thực tế kinh nghiệm cuộc đời con người. Còn cái thiên đàng mà anh nói đó anh đã biết nó thế nào chưa mà dám chắc chắn thích thú đạt tới nó; nó có thể là trái ớt đối với anh, nhưng nó cũng có thể là trái sầu riêng đối với một số người khác thì chẳng lẽ anh vô đó để chịu khổ vì phải nín thở sao. Tôi đề nghị, anh em thử suy tư về thiên đàng trong khi đọc Phúc Âm và lần tới chúng ta hội đàm về nó. Bây giờ mời anh trình bày về những nhận thức liên hệ với câu Phúc Âm, “Hãy làm cho người ta những gì các ngươi muốn người ta làm cho các ngươi.”
            - Thưa cha, nơi Phúc Âm Matthêu cũng được ghi đảo lộn thứ tự, “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt. 7:12). Con thấy câu Phúc Âm này chỉ trúng được có một nửa. Con muốn nói, phần nửa trước của câu nói, “Các ngươi muốn người ta làm cho các ngươi” thì hoàn toàn ai cũng nhận biết mình đang muốn gì. Tuy nhiên, ai đó có muốn điều con muốn không mới là vấn đề. Chẳng hạn con thích ăn bún bò Huế với thật nhiều tương ớt; người khác không ăn được cay mà mời người ta đến nhà đãi ăn lại cứ bỏ đẫy ớt vô bún bò thì sao họ ăn nổi. Thêm nữa, hình như nơi Khổng học có nói, chẳng nên làm cho người khác những gì mình thích vì cái thích của họ khác mình. Câu này có thể đúng 99 phần trăm. Nhưng, chẳng lẽ lời Phúc Âm lại thua Khổng học. Con chỉ nghĩ tới như thế nên không biết cách nào nghiệm câu Phúc Âm này; anh em nào có ý kiến gì thêm, mời lên tiếng. Thanh muốn kéo thêm đồng đảng.
            - Thưa cha, thưa quý vị, Lời Chúa dạy mình phải biết yêu thương như chính Chúa đã yêu thương chúng ta thì mình muốn được người khác yêu thương trước hết phải tỏ ra yêu mến, tử tế với người ta. Người ta là chiếc gương, mình là kẻ soi gương. Mình đối xử với người ta thế nào thì chắc chắn sẽ được đối xử lại như vậy. Ông trùm Hiểu nói.
            - Ông nói gì, tôi không muốn ai thực hành yêu thương đối với vợ tôi. Đứa nào yêu thương vợ tôi, tôi sẽ tặng nó một băng đạn năm mươi mốt viên. Sỹ lên tiếng.
            - Sao ông có được băng đạn năm mươi mốt viên?
            - Thì một băng ráp đạn nhiều lần bao nhiêu chả có.
            - Nói có lý, Bá nói lớn. Tên nào mà thực tập yêu thương với vợ tớ cũng lãnh năm mươi hai viên. Ha ha…
            - Mấy cái ông này ăn nói lung tung gì thế, vợ Sỹ lên tiếng, đang nói một đàng thì bắt quàng một nẻo.
            - Bộ bu mày cũng muốn tớ yêu thương người khác sao? Sỹ đáp lại.
            - Thì ông cứ đi mà yêu thương người khác, tôi sẽ trả tiền thuê vú em nữa đó.
            - Tớ yêu thương người khác thì được nhưng người khác không được thực tập yêu thương bu mày.
            - Dễ thôi, về đóng cái tủ kiếng, mời bà ấy đứng vô trong và khóa nghiến lại. Ai muốn yêu thì yêu, ai muốn thương thì thương, thế là êm chuyện.
            - Đóng thêm hộp tiền nữa lấy thu phí, coi chừng chẳng mấy chốc giàu có! Bá đề nghị.
            - Sao đầu óc của ông có thiên tài thương mại vậy mà lại làm nghề đánh tôm? Vợ Sỹ nói.
            - Thế câu nào mới có thể đúng một trăm phần trăm? Cha Hải giơ tay ra hiệu và hỏi Thanh.
            - Thưa cha, có câu nói, “Đừng làm cho kẻ khác những gì mình không muốn kẻ khác làm cho mình,” con thấy câu này hợp lý trong mọi trường hợp.
            - Vậy khi cầu nguyện có khi nào chúng ta cầu xin điều chẳng nên xảy đến cho kẻ khác không? Cha Hải hỏi câu lạ lùng.
            - Thưa cha, Bá lên tiếng, khi mình cầu nguyện thì cầu những điều tốt lành chứ ai cầu xin những điều mình nghĩ là không nên.
            - Thế sao điều mình cầu đã không xảy ra? Tôi muốn nhắc nhở anh em. Sở dĩ mình cầu mà chuyện không xảy ra chỉ vì mình không thực sự muốn điều đó. Có lẽ ông bạn tôi đã nói cho anh em biết năng lực của sự cầu nguyện và thường thì chúng ta hiểu cầu nguyện là bày tỏ ước muốn ý định của mình. Tuy nhiên, thử nhận định xét qua các đạo học, đặc biệt nơi Phúc Âm, sự bày tỏ ý định ước muốn chính là dùng quyền lực tối thượng đang hiện diện và hoạt động nơi mình để thực hiện điều mình muốn. Anh em nên biết, trong Phúc Âm có câu, “Sự gì các ngươi cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc; sự gì các ngươi tháo cởi dưới đất thì trên trời cũng tháo cởi.” Câu này nói lên ý định, ước muốn của mỗi người mang năng lực ảnh hưởng đến chính người đó. Hoặc câu khác nơi Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì sự sẽ thành cho nó.” Nói rằng “Kẻ nào” có nghĩa bất cứ ai. “Bảo núi xê đi” có nghĩa bày tỏ ước muốn, ý định ngọn núi phải di rời đi chỗ khác. Quyền lực nào nơi ý muốn của một người? Xin thưa, thánh Phao lô đã minh xác, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em.” Ý định, ước muốn mang quyền lực, năng lực tối thượng nơi người đó, chính là quyền lực của Thiên Chúa. Thế nên, đã có câu nói, “Muốn là đã được một nửa.” Lẽ tất nhiên, thực sự ước muốn phát xuất tự đâu thì thành quả sẽ xảy đến nơi đó. Khi mình thực sự mong muốn, ước muốn điều gì thì điều đó sẽ xảy đến với mình vì mình dùng quyền lực tối thượng nơi mình để kiến tạo. Tôi có câu hỏi, khi mình ước muốn điều gì đó xảy đến với ai đó, sự thể sẽ thế nào?
            - Thưa cha, mình ước muốn thì sự thể sẽ xảy đến với mình. Thanh trả lời.
            - Thế khi bực mình với ai đó, mình có ước muốn chẳng nên xảy đến với người đó thì ước muốn của mình sẽ xảy đến với ai?
            - Thưa cha, Tình lên tiếng, chẳng lẽ nơi mình.
            - Anh nói đúng. Bất cứ ước muốn nào cũng xảy đến với chủ thể phát xuất ước muốn đó. Thế nên, khi bực mình với bất cứ ai, coi chừng, lúc đó ý chí, ước muốn chúng ta rất mạnh. Nên khi có ước muốn chẳng nên đối với người nào đó, hãy chuẩn bị đón nhận nó sẽ xảy đến với chính mình.
            - Thưa cha, ý cha muốn nói câu Phúc Âm, “Hãy làm cho người ta những gì các ngươi muốn người ta làm cho các ngươi” chỉ về quyền lực ước muốn, ý định của một người.
            - Đúng. Chúng ta có thể nói, bất cứ những gì chúng ta ước muốn xảy đến với người khác, sự đó sẽ xảy đến với chúng ta, vì chúng ta tạo nên ước muốn đó, chính chúng ta dùng quyền lực tối thượng nơi mình để kiến tạo nên điều ước muốn. Anh em thử nhớ lại, bất cứ đạo học nào cũng chỉ nói về chủ thể, không nói đến bất cứ ai khác. Thế nên, hãy coi chừng ý nghĩ, ước muốn, ý định của mình. Chuyện gì tôi không biết chứ, điều chẳng nên chắc chắn cầu được, ước thấy. Anh Thanh, cha Hải hướng về Thanh nói, mời anh trình bày những suy tư của anh về câu, “Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng” (Lc. 18:8).
            - Thưa cha, con thử phân tích thành hai trường hợp, phỏng khi đó là ngày tận cùng nên mọi người đều biết rõ sự gì đang xảy ra thế nên không cần nói đến câu này. Trường hợp thứ hai có thể là các bè phái tin vào Đức Kytô không còn nữa vì chẳng ai nhắc đến thành ra không có ai tin; cũng có thể người ta đã không biết đức tin, lòng tin là gì. Sở dĩ con đặt vấn đề như thế bởi không thấy đâu đá động đến câu này mà hình như nó bị lờ đi cho khỏi phải đối diện để được an lòng. Càng những người hô hào tin vào Chúa, vào đức Giê su thì lại càng phải lờ đi vì câu này mang tính cách đặt vấn đề sự sống còn của một sự thể được gọi là lòng tin, đức tin, mà lời nghi ngờ này lại được phát xuất từ Chúa Giê su thì những sự hô hào, quảng bá cho lòng tin sẽ ra sao!
            - Đức tin là điểm cao nhất mà Phúc Âm muốn nhấn mạnh. Tuy nhiên, với lối trình bày khuyến khích nghiệm chứng của Đông Phương, chúng ta cần nhiều suy tư, nghiệm chứng qua bốn Phúc Âm. Chẳng những thế, suy nghiệm về đức tin còn cần nhận thức nhiều quan điểm liên hệ đồng thời còn cần thêm điều kiện tâm trí được Phúc Âm đề ra mà người suy nghiệm phải tuân theo. Chẳng hạn, Phúc Âm được cấu tạo bởi những dụ ngôn liên kết với những công án. Tôi nghĩ anh em đã biết công án là gì vì đã nghe biết về đạo học Đông Phương. Riêng dụ ngôn cũng giống như ngụ ngôn, là những câu truyện ám định, dùng sự kiện và sự việc thế tục để ám chỉ điều muốn nói. Như vậy anh em đả hiểu tại sao chúng ta cần biết qua Trang Tử trước khi bàn luận về Phúc Âm.
            - Tối nay, tôi định cùng với anh em thông qua phần nhận thức về thực thể con người của mình, nhận thức về Thiên Chúa qua quan điểm Phúc Âm, nhưng thời giờ đã muộn nên chúng ta tạm đình lại cho lần họp tới. Nhân tiện, tôi đề nghị anh em đọc trước bốn Phúc Âm, Matthêu, Luca, Marcô, và Gioan, để lần tới khi bàn luận ít nhất có được khái quát chúng ta đang nghiệm chứng dưới quan điểm nào, tránh cảnh ngỡ ngàng tưởng phải đối diện với những sự thể tự trời rơi xuống. Chúng ta tạm ngừng lúc này và cầu chúc anh chị em những ngày an bình sắp tới.
            - Thưa cha, ông Thung lên tiếng, có thể kiếm mấy cuốn Phúc Âm tại đâu vì tôi không có?
            - Ngày mai, tôi biếu anh hai một cuốn Kinh Thánh và sẽ chỉ rõ Phúc Âm thuộc phần nào trong đó. Thanh nói.
            - Tôi không có thì sao, Hưng, Phủ giơ tay.
            - Tôi sẽ lo. Còn ai muốn đọc Phúc Âm mà không có sách…
             
            #6
              lamongthuong 06.12.2017 22:28:12 (permalink)
              MBVN 22
               
              Thay vì họp tại nhà Tùy, tối hôm nay mọi người quy tụ tại nhà Thanh bởi hôm qua nhân kỷ niệm Thanksgiving mấy đứa nhỏ được nghỉ học nên cha Hải cùng gia đình Thanh làm một chuyến câu bắt cá để dành ăn trong mùa lạnh. Cha Hải vui lắm bởi ngài câu được 9 con cá tương đối lớn từ 7 pounds tới 20 pounds. Số cá mọi người câu được đầy bốn thùng đá, mỗi thùng cỡ 100 pounds.
              - Bố à, hay tối mai mình mời nhóm nhậu tại nhà mình ăn gỏi, lòng cá xào hành tây, thêm nồi đầu cá nấu dấm ăn bún. Bố nghĩ có nên không?
              - Ý kiến hay, cũng nhân tiện tỏ lòng biết ơn đến người dân đất nước này đã chấp nhận cho mình định cư, ba Thanh trả lời, cha nghĩ thế nào?
              - Cũng là điều tốt nhưng có phiền lắm không? Cha Hải hỏi ngược lại.
              - Không có chi đâu cha, tụi con nhóm họp nhiều lần rồi, mà còn vui nữa. Chị Thanh trả lời, đoạn quay qua anh Thanh nói, mình có nên hát karaoke không anh?
              - Karaoke thì dễ rồi, lại có thêm chị Tiến và con gái, hai thợ karaoke, tha hồ xôm tụ. Nhưng em có cho tụi trẻ câu cá không?
              - Có chứ anh, lần trước tụi nó vui ra phết. Câu cá ai mà không ham, dù không ăn cá cũng thích thú khi cá cắn câu. Anh phải nhờ mấy người đứng coi cho trẻ câu; những mốc cắm vẫn còn đó mà.
               
              ***
               
              - Con xin mời cha! Vừa ăn vừa nghe hát cỡ nửa tiếng, sau khi ca xong, chị Tiến mời cha Hải.
              Ngài không nói, không rằng, nhấp miếng bia cho sạch miệng đoạn tiến tới đón lấy microphone.
              - Tôi không quen hát, chỉ quen giảng, nhưng đã lỡ chịu chơi thì đành chịu hát. Tôi sẽ trình bày nhạc bản Ai Lên Xứ Hoa Đào.
              Tiếng vỗ tay ngạc nhiên bùng lên; thằng lớn con của Thanh chỉnh máy tính chọn nhạc.
              - Ai lên xứ hoa đào, dừng chân bên hồ nghe chiều rơi…
              Bản nhạc khá xưa, cha Hải hát không cần nhìn màn ảnh, chầm chậm đi quanh, dáng điệu dường như tưởng nhớ đến dư âm ngày cũ nào đó. Hết bản nhạc, ngài nói tiếp,
              - Bây giờ mời mọi người thưởng thức bản Hoài Cảm.
              Nhạc trỗi lên, nhân dáng ngài chừng như đổi thay chút ít…
              - Chiều buồn, len lén tâm tư, mơ hồ nghe lá thu mưa, dạt dào tựa những âm xưa…
              Không ngờ cha Hải có giọng truyền cảm tuyệt vời khi hát. Ngài hát nhỏ giọng; âm nhạc được điều chỉnh vừa nghe khiến lời ca theo giọng của ngài như khơi động tâm tình nhung nhớ xót xa nào đó thấm vào lòng mọi người. Tối nay, lại có thêm hai ông trùm của cộng đồng họ đạo nhập bọn, ông trùm Phong và ông trùm Hiểu. Hai ông trùm mới cũng xấp xỉ tuổi của hai ông trùm cũ, khá quen biết với Thanh và tương đối cởi mở hơn hai ông trùm cũ.
              Tiếng vỗ tay lại ầm lên khi ngài vừa hát xong…
              - Ngày còn trẻ chắc cha hát ăn khách lắm, chị Tiến khen.
              - Thời còn đi lính, nơi phi trường Biên Hòa có dàn trống và mấy người bạn lính làm việc ở đó đánh ghi ta thùng nên máu văn nghệ văn gừng của tôi nổi lên do đó cũng đàn đúm hát với họ.
              - Hèn chi cha hát có vẻ điệu nghệ như thế.
              - Không đơn giản như vậy đâu. Tôi mê nhạc, biết làm thơ, và mặc dầu không học nhạc theo trường lớp nhưng tự học nên quen. Tuy nhiên, hát cho đúng nhịp thì dễ, hát sao cho diễn xuất được tâm tình của bản nhạc mới cả là vấn đề.
              - Sao cha hát nghe rõ và truyền cảm được như thế?
              - Đấy mới là phần chính yếu của trình diễn. Hát mà người ta không biết mình hát gì hoặc chói tai thiên hạ thì cần phải đặt vấn đề lại, nhưng thường thì người hát không để ý đến vấn đề này.
              - Thưa cha, khi mình hát sao có thể nghe được mình hát thế nào.
              - Chị muốn biết phải không?...
              - Thưa cha, để anh Tiến tổ chức bữa tiệc mời cha truyền nghề. Sỹ nhà con đề nghị.
              - Vâng, mời cha và quý vị tuần tới ghé tiệm con. Con sẽ đóng cửa lúc sáu giờ tối mời quý vị. Thanh, anh có thể mời thêm tay saxophone và ghi ta cùng anh chơi nhạc sống hôm đó được chăng? Anh Tiến hỏi.
              - Để tôi hỏi ý kiến và mời họ. Tối thứ bảy nếu không có chương trình đặc biệt nào, thường thì không có chi ngăn trở. Thanh trả lời.
              - Thưa bác, tụi cháu tham dự được không? Con trai lớn của Thanh hỏi.
              - Bác mời ba má và các cháu. Nhà hàng không thiếu chỗ ngồi. Tiến trả lời.
              - Muốn nghe được mình hát thế nào, phương cách hay nhất là thâu âm.
              - Thưa cha, muốn thâu nhạc phải có người phối âm, phải thuê phòng thâu chịu sao nổi.
              - Không khó như chị nghĩ đâu. Nhà chị có máy vi tính và có dàn karaoke phải không. Quá đủ, không phải thêm bớt gì, chỉ cần lên net download phương trình “Audacity” để thâu là mọi sự sẵn sàng. Tất nhiên, khi thâu tai nghe nhạc qua headphone; thâu giọng hát xong ráp vô nhạc là thành ca sĩ.
              - Thưa cha, con có thâu thử nhưng nhạc thì rõ mà lời thì không ra gì, nghe không được.
              - Chị thâu bằng hệ thống karaoke phải không?
              - Thưa cha vâng.
              - Tôi nghĩ, chúng ta đôi khi biết hoặc nghe riết nên không để ý. Người ta bảo, “Nghề chơi cũng lắm công phu” (Kiều), chị biết nhưng đã không chịu bỏ công sức thử.
              - Con sẽ thử như cha nói. Nhưng sao ráp nhạc vô được?
              - Khi thâu lời xong, “save” thành một “file;” đoạn thâu phần nhạc không có gìọng hát qua mixer và save thành file khác. Dùng phương trình “Sonar” hay “Nuendo” để ráp nhạc và lời vô, đoạn điều chỉnh. Có điều, nếu dùng phương trình Nuendo 3 loại quảng cáo cho thử nghiệm, nhanh nhất chị phải mất hơn tháng tự tìm tòi thực tập. Nếu có người đã biết sử dụng chỉ cho chị, ít nhất phải một tuần. Một tuần này để chị làm quen với âm thanh của giọng hát và điều chỉnh theo ý thích đồng thời nhận ra mức độ nào giọng hát không bị phá âm mà tiếng Mỹ gọi là “Saturated.” Thêm một tuần nữa để thực tập phát âm khi thâu. Chị làm ơn để ý, khi thâu hát rất nhỏ, đều và để ý lấy hơi khi nào lúc hát. Càng hát to, càng bể và âm thanh không thể rõ được. Hát nhỏ nhưng phải mở rộng cổ họng, không được ép hơi, âm thanh mới đầy. Mới bắt đầu thâu hơi mệt nhưng riết rồi quen đi. Hát nhỏ mới rung giọng được, hát to không rung được. Tất cả lý thuyết chỉ có thế, thực hành mới là điều quan trọng.
              - Lúc nãy cha chọn hát hai bài Ai Lên Xứ Hoa Đào và Hoài Cảm chắc có mang ẩn ý gì?
              - Tôi thích bản Ai Lên Xứ Hoa Đào vì lời hát thật tuyệt vời. Tác giả phải là người rất giỏi về thơ văn. Chị thấy, chỉ đôi tiếng lật đi, lật lại mang ý nghĩa khác nhau; chẳng hạn “Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa,” hoặc “Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương.” Văn chương như thế quả đáng cảm phục.
              - Thưa cha, còn bài Hoài Cảm?
              - Thoạt đầu tôi hát bản Hoài Cảm vì nhịp của nó ba phần tư ít người dám hát bởi hay bị lỗi nhịp. Thời đó, có chị thiếu nữ hàng xóm ở Biên Hòa, người miền Nam tôi quen biết, chị ta rất dễ thương, và hình như có cảm tình với tôi, trong khi mộng của tôi hơi cao. Tôi con nhà nghèo, thích văn thơ, thế nên sau trung học đệ nhất cấp tôi đăng lính không quân rồi làm tại phi trường Biên Hòa. Tôi dùng thời gian rảnh lấy xong tú tài một, tú tài hai và muốn lấy cử nhân luật và văn chương nên không dám vương mang dẫu thấy thích cô bé dễ thương ấy. Đùng một cái, cô bé đi buôn bị đụng xe chết. Dĩ nhiên lòng tôi cảm thấy xót xa nên khi hát bài Hoài Cảm, tôi cảm nghiệm được tâm tình của nhạc sĩ Cung Tiến, có lẽ ông ta viết bản nhạc này sau khi người yêu của ông ta chết. Chị thử nghĩ về mấy lời hát coi, “Lòng cuồng điên vì nhớ, ôi đâu người, đâu ân tình cũ. Chờ hoài nhau trong mơ, nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa… Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa.” Những lời này hát lên mà không thấm vào lòng thính giả được thì tôi nghĩ chẳng nên hát làm gì.
              - Sao cha lãng đãng thế!
              - Biết sao mà nói! Con người là giống hữu tình mà, ai thoát khỏi trầm tư đôi lúc.
              - Con hiểu cha muốn nói gì rồi. Con xin cảm ơn cha, có lẽ từ nay con sẽ chỉ hát những bài mà con có thể cảm nhận được. Nhất định con sẽ thử thâu âm như cha nói. Con cảm ơn cha.
               
              ***
               
              Hôm trước tôi đề nghị anh em đọc Phúc Âm để chuẩn bị tối nay chúng ta tiếp tục nghe khúc mắc của anh Thanh. Mời anh Thanh.
              - Thưa cha, Thanh lên tiếng, như lần trước con có đề cập đến đức tin theo Phúc Âm hình như mang quyền lực nào đó và nếu con nhớ không lầm thì cha đã nói đức tin chính là quyền lực nội tại nơi mọi người. Tuy nhiên, những sách vở viết về Phúc Âm thì con thấy hình như các tác giả chỉ nhắc đến đức tin như một danh hiệu nào đó rồi khuyến dụ chúng ta phải cầu xin Chúa ban thêm nhân đức tin. Kinh Tin Kính là kinh tuyên xưng đức tin nhưng con đọc và suy nghĩ thì hình như kinh Tin Kính nói lên những điều dân Chúa phải tin. Con nhận thấy bất cứ những gì được gọi là tin đều khác với đức tin theo Phúc Âm. Thêm vào đó, nếu con không lầm thì người ta đã hiểu lầm đức tin với tin tưởng và niềm tin. Niềm tin chứa đựng sự tin tưởng nhưng tin tưởng nếu đem xếp hạng thì thuộc về giới hạn thấp, và niềm tin bao quát hơn. Đôi khi con đặt vấn đề; mình có chiếc xe thì mình có cần phải tin rằng mình có chiếc xe hay không! Mình biết mình có chiếc xe thì cần gì phải tin. Thế nên khi nói rằng tin điều gì, tự bản chất đã phần nào không chắc chắn. Suy từ đó, nói rằng tin điều gì mang nghĩa cho rằng điều đó đúng hay điều đó có thật chứ chưa biết thật, vẫn còn phần nghi ngờ nào đó. Xét như thế, nói rằng tin điều gì thì có thể tạm gọi đó là niềm tin, hay ước mơ điều đó đúng. Phúc Âm không nói về sự tin tưởng, không nói về niềm tin mà chỉ nói về đức tin, và nói về một đức tin mang quyền lực giải quyết mọi vấn đề chứ không phải cho rằng hay tin rằng Chúa sẽ làm hay thực hiện. Con muốn nói, theo Phúc Âm, chính đức tin thực hiện như lời Chúa Giê su nói cho người đối diện biết, “Đức tin con chữa con” (Lc. 8:48),“Đức tin con cứu con” (Lc. 7:50).
              - Con trình bày nhận định này, nếu có gì sai cha, bố, và quý vị thử xét. Chúng ta thường hay dùng câu nói, “Tin vào Chúa,” hay “Tin thật có Chúa.” Thưa cha, thưa quý vị, nếu đã biết chắc chắn Thiên Chúa hiện hữu thì mắc mớ gì phải tin. Trong Phúc Âm, Chúa Giê su khuyên dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, “Lạy Cha chúng con ở trên trời; chúng con nguyện danh Cha cả sáng.” Câu nguyện cầu thẳng thắn, không nghi ngại, nhưng chúng ta lại nói ”Phải tin vào Chúa.” Con thử đặt vấn đề, nói rằng phải tin mang nghĩa mình ngu quá, không biết gì nên phải thế nọ, phải thế kia giống như dạy đứa con nít, không được nô nghịch bậy bạ, phải ngồi im, phải thưa, phải bẩm. Con không chống báng ai, chỉ đặt vấn đề để suy tư. Nhận xét như thế, con có cảm nghĩ hoặc là mình bị những nhà thuyết giáo, truyền giáo cho là quá ngu, hoặc là chính họ đã không tin chắc chắn sự hiện hữu của Thiên Chúa nên sử dụng ngôn ngữ một cách sai lầm. Điều này có nghĩa họ đã không nghiệm chứng và thực chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cuộc đời. Nói như thế có thể suy luận rằng họ chẳng hiểu gì về Phúc Âm hay là đã coi thường Phúc Âm. Thế nên khi nghe cha nhắc tới Thiên Chúa của đức Giê su, con vẫn đang chờ xem cha sẽ nói gì. Trước đây, anh em chúng con cùng bác Tài đàm luận thì thấy rằng danh hiệu Thiên Chúa chỉ về quyền lực tối thượng đang hoạt động và ngự trị nơi mọi người, nơi tạo vật mà các đạo học Đông Phương gọi bằng những danh hiệu khác nhau. Lần trước, cha nói chúng con đọc Phúc Âm để hôm nay hội thoại về đức tin. Thế nên, khi đọc Phúc Âm đặc biệt để ý đến đức tin, được gọi là “Lòng tin” nơi bản dịch Kinh Thánh của linh mục Nguyễn Thế Thuấn dòng Chúa Cứu Thế và sau này cuốn Kinh Thánh Tân Ước cũng dùng như thế, con thấy Phúc Âm viết về đức tin hoàn toàn khác lạ, không giống như những gì được học hỏi và được viết nơi sách vở xưa nay. Con có cảm nghĩ, chính những vị thày dạy về đức tin đã coi thường Phúc Âm, không cần biết Phúc Âm nói gì và chỉ dùng danh hiệu đức tin như một sự gì huyền nhiệm để rồi phát biểu theo nhận thức hữu vi, loanh quanh, luẩn quẩn chẳng khác gì con kiến bò trên miệng ly, không đầu, không cuối, và cứ như tự trời rơi xuống để rồi kết luận phải, phải, và phải, cũng như lần trước con nêu lên khiếm khuyết của định nghĩa đức tin nơi thư Hipri.
              Ngừng một chút, Thanh nói tiếp,
              - Đọc nơi Phúc Âm, con thấy đức tin được trình bày như một thực thể quyền lực nơi mỗi người. Dẫu Phúc Âm dùng những dụ ngôn đôi khi nói về sự tin tưởng nơi đức Giê su nhưng vẫn kèm theo ước muốn chứ không phải chỉ nói suông rằng tin là sự việc sẽ thành. Chẳng hạn nơi Phúc Âm Matthêu, đức Giê su trả lời người đại đội trưởng rằng, "Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!" (Mt. 8:13). Con nghĩ, bình thường, người ta cứ cho rằng hay gán ép cho đức Giê su làm phép lạ; nói như thế, làm sao chứng minh được những gì được gọi là phép lạ vẫn xẩy ra ngày nay? Thường thì câu trả lời lại được tạo dựng rằng Chúa, hay Mẹ, hay thánh nọ, thánh kia trả lời theo sự cầu khẩn. Con thử đặt vấn đề, vậy nếu không có ước muốn, phép lạ có thể xảy ra không? Và nói rằng thánh nọ, thánh kia làm phép lạ thì sao giải thích được những lời Phúc Âm minh xác, “Đức tin con chữa con; đức tin con cứu con.”
              Đang thao thao bất tuyệt, Thanh ngưng lại hỏi,
              - Thưa cha, con có nên nói tiếp không?
              - Khúc mắc của anh là sự gì có thể xảy ra mà đức Giê su đặt vấn đề nghi ngờ có còn đức tin trên mặt đất khi Ngài trở lại hay không. Anh cứ nói tiếp. Nhưng để tôi hỏi xem có ai phản bác điều gi chăng. Trả lời Thanh xong, cha Hải giơ tay hỏi,
              - Có ai nhận thấy điều gì anh Thanh nói cần được giải thích hay có thêm ý kiến gì không?
              - Thưa cha, con xin có ý kiến, ông trùm Phong lên tiếng, nếu như ông Thanh nói, Chúa Giê su trả lời “Ông tin thế nào thì được như vậy” mà Chúa không làm phép lạ thì chẳng lẽ người đại đội trưởng làm phép lạ?
              - Ông trùm quên rằng, Thanh trả lời, tôi muốn nói đến ước muốn của người đại đội trưởng chứ không nói người đại đội trưởng làm phép lạ bởi Chúa Giê su nói rõ ràng, ông tin thế nào thì được như vậy chứ không nói Ngài chữa hay Ngài cứu.
              - Như vậy chẳng lẽ ước muốn là đức tin? Ông trùm Phong hỏi tiếp.
              - Thưa cha, con phải giải thích thế nào bây giờ?
              - Để tôi nói vắn tắt nhưng đừng dựa vào những gì tôi nói mà cần suy nghĩ và nghiệm chứng, đặc biệt đừng nhắc lại lời tôi nói mới được. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, và linh hồn mình chính là Thiên Chúa nội tại. Ước muốn, ý định chính là hoạt động của linh hồn, của Thiên Chúa nội tại nên ước muốn mang quyền lực tối thượng của Thiên Chúa nơi mỗi người. Ước muốn ở đây nói theo trường hợp tâm linh, không phải ước muốn thế tục. Tôi chỉ có thể nói như thế bởi anh chị em đã đàm luận với ông cụ Tài về đạo học Đông Phương cũng như thực thể con người. Tôi nghĩ, để làm sáng tỏ vấn để hơn, ông trùm nếu có thời giờ nên nói chuyện với mấy anh em sau này. Còn có ai thêm ý kiến gì nữa, làm ơn cho biết.
              - Thưa cha, sao con cầu hoài không được; chẳng lẽ con không có đức tin? Vợ Tình lên tiếng.
              - Thế đức tin của chị là gì?
              - Thưa cha, con không biết nên con mới hỏi. Chị Tình trả lời.
              - Thưa cha, cũng giống như ông trùm Canh hay ông trùm Lực đã nói, các cha giảng sao thì tin theo vậy. Chị Sỹ trả lời.
              - Tôi cũng tin theo các cha giảng giải nên cũng không biết đức tin là gì. Cha Hải mỉm cười trả lời, đoạn lại lên tiếng hỏi,
              - Có anh em nào đã đọc qua Phúc Âm trả lời đức tin là gì được không?
              - Thưa cha, con thì không biết lấy câu nào nơi Phúc Âm làm bằng chứng nhưng cứ theo những gì ngâm kíu nơi đạo học Đông Phương cộng thêm với lời Kinh Thánh, đặc biệt nơi thư thánh Phao lô thì đức tin là quyền lực nội tại nơi mỗi người. Quyền lực này chính là quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu như bác Tài thường nói; mà hình như lần trước anh Thanh ví chúng ta giống như đứa trẻ tay cầm “credit card” mà chết vì khát bởi không biết cách nào dùng card để mua sữa. Chúng ta cũng thế, được sinh ra với đức tin nhưng không nhận biết đức tin là gì. Sỹ nhà con nói một hơi.
              Thế là tiếng vỗ tay bùng lên cổ võ.
              - Nói giỏi, tên thiền sư ngộ lúc nào vậy không biết! Hưng diễu!
              - Thiền thì phải ngộ chứ không ngộ thì thiền làm chi.
              - Anh nói thế thì, ông trùm Phong giơ tay, thì mọi người đều có đức tin à? Vậy những người vô đạo không tin Chúa, tin Mẹ gì ráo trọi sao bảo rằng họ có đức tin!
              - Nơi Phúc Âm, Chúa Giê su phán rằng, “Kẻ nào bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc.11:23). Kẻ nào có nghĩa bất cứ ai. Chúa Giê su không nói chỉ người Công giáo hay những ai thuộc Kytô giáo mà dùng danh hiệu chung “Kẻ nào.” Ah! Thưa cha, nếu vậy Chúa Giê su không phải người Công giáo hay sao? Thanh giả đò ngỡ ngàng!
              - Sao anh lại hỏi tôi, cha Hải đặt vấn đề. Năm nay tôi mới 73 tuổi thì sao biết ngày đó Chúa Giê su theo đạo nào!
              - Thưa cha, lại ông trùm Phong lên tiếng, nếu cha không biết làm sao chúng con biết?
              - Có nhiều thứ tôi không biết lắm chứ không phải chỉ về tôn giáo của Chúa Giê su. Có điều, lần trước tôi nói anh chị em đây đọc Phúc Âm thì tất nhiên họ đã biết Chúa Giê su theo đạo nào. Anh Thanh giả đò ngạc nhiên hỏi chơi cho vui. Mới nói chuyện với anh em đây lần trước, tôi cũng bị lây cái đặc tính lãng đãng, tửng tửng của mọi người. Tôi nghĩ, ông nghe thì nghe vậy rồi để ý suy tư chứ chẳng nên có ý giải quyết vấn đề ngay lập tức bởi có nhiều vấn đề liên hệ về nhận thức mà anh em ở đây đã biết nhưng không nhắc tới thành ra khi nêu lên một vấn đề mới nào để rồi câu trả lời coi bộ ngớ ngẩn và phi lý chẳng khác gì các công án khiến người mới nghe sửng sốt. Ông trùm đừng bị ngạc nhiên. Tôi trả lời không biết để anh em nhớ lại, nơi Phúc Âm có ghi Chúa Giê su theo đức Mẹ và thánh Giu se đi dự lễ nơi đền thờ Jerusalem tức là đền thờ của đạo Do Thái. Nào có ai lạ gì chuyện này.
              - Vậy thưa cha, Chúa Giê su theo đạo Do Thái à?
              - Giê su ma lạy Chúa tôi! Sỹ nhà con lên tiếng, Chúa Giê su không theo đạo Do Thái thì chẳng lẽ theo đạo Công giáo nhà ông à! Ông trùm ơi, về đọc Phúc Âm thôi!
              - Chú nói vậy không nên! Ông Thung lên tiếng. Ông trùm Phong lần đầu tham dự với chúng ta, chú quên mất, ý kiến không đúng không sai rồi hay sao! Chú làm ơn nhớ dùm, dẫu sai ngàn lần mà có được một lần thứ ngàn lẻ một không sai thì đã có được ngàn lẻ một nhận thức. Muốn ngộ thì phải sai, không sai không ngộ bởi không sai không biết đúng mà đã không biết đúng thì luôn luôn sai; thế nên, người ngu nhất là người không bao giờ sai. Mời ông trùm nói tiếp.
              Lại một tràng pháo tay bùng lên!
              - Hoan hô anh cả. Anh cả nói say thì cứ say, uống không say nào hay. Nào uống, mời mọi người nâng chai. Đã không nâng thì thôi; nâng một lần là hết một chai… Tình cất tiếng hát.
              Ông trùm Phong vừa bị Sỹ chỉnh cũng cảm thấy bớt căng thẳng nên cùng hòa tâm tình vui với mọi người. Dẫu quen biết nhưng những lần gặp gỡ và ăn nhậu các nơi khác, thái độ của mỗi người hoàn toàn khác với khi tham dự cùng nhóm này. Ông cũng hơi ngỡ ngàng khi bị Sỹ lên tiếng cắt ngang. Thế nên, khi nghe thấy ông Thung thẳng thừng lên giọng giáo huấn Sỹ chẳng khác gì thày đối với trò, ông hiểu được mọi người ở đây bất chấp cách thức ăn nói, mà vấn đề chính lại là nhận thức.
              - Say thì say, cuộc đời này chưa thằng nào sợ thằng này nên say thì cứ say. Sỹ cao giọng. Nào mời anh cả, ông trùm.
              Ông Phong lại càng ngạc nhiên, mấy người này kỳ cục, vừa nghiêm chỉnh đấy lại đã lè phè, lãng đãng.
              - Uống để mừng đức Giê su bỏ đạo. Sỹ cao giọng.
              - Tại sao lại nói Chúa Giê su bỏ đạo? Vậy minh theo Chúa Giê su mình cũng bỏ đạo à?
              - Thì Chúa Giê su theo đạo Do Thái. Mình theo Chúa Giê su mình theo đạo Công giáo thì Chúa Giê su bỏ đạo Do Thái nên mới có Công giáo!
              - Ai nói Chúa Giê su theo đạo Công giáo?
              - Vậy ông theo đạo Công giáo hay theo Chúa Giê su?
              Thế là thiên hạ rối tung lên, theo Chúa hay theo đạo.
              - Thưa cha, Phúc Âm không nói Chúa Giê su sáng lập đạo Công giáo hay Tin Lành, Thệ Phản, Anh giáo, vậy ai lập nên những đạo này? Tình lớn giọng.
              - Thưa cha, nơi Phúc Âm chỉ ghi, Chúa Giê su sai các môn đồ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và rửa tội cho muôn dân mà sao không thấy đạo nào có tên Tin Mừng Nước Trời?
              Mấy ông trùm dẫu quen biết hết mọi người nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp ý kiến ý bọ nhắng lên, vô trật tự đối với cha cụ như thế. Thường tham dự những buổi họp về điều hành cộng đoàn có linh mục làm chủ tọa, các ông trùm phải tỏ ra nghiêm chỉnh, ăn nói bẩm thưa đúng khuôn phép. Đàng này, bia rượu lộn xộn, cha ngồi chủ tọa giảng giải mà giống như quân hồi vô phèng, muốn uống gì thì uống, nói sao thì nói, lại dám đem cả Chúa Giê su làm đối tượng phân tích. Nhưng sao không thấy cha nói gì mà còn tán đồng. Ông trùm Phong lỡ lời, lại được ông Thung, người ngoại đạo dùng lý luận và qui ước lạ lùng, đúng sai không thành vấn đề bởi không có sai không nhận ra điều đúng, bênh chằm chặp khiến tên to miệng như Sỹ nhà con phải im lặng.
              Cha Hải giơ tay ra hiệu im lặng, đoạn nói,
              - Nhìn vào dòng lịch sử đạo học chúng ta dễ dàng nhận thấy, những vị tiên phong của một chủ thuyết đều là những vị không chịu khuất phục trước các khuôn mẫu, truyền thống. Anh em đã tìm hiểu về đạo học Đông Phương nên thấy rõ, chẳng hạn Lão tử, Trang tử, đặc biệt hơn là Thích Ca Mâu Ni, nếu họ cứ thần phục tư tưởng, chiều hướng lúc bấy giờ thì cũng chẳng có gì thành tựu đáng nói về sau. Đức Giê su cũng thế, nếu chỉ như chúng ta, nhắm mắt, cúi đầu tuân theo Do Thái giáo thì sao có Kytô học, sao có Công giáo, Thệ Phản, Tin Lành, Anh giáo ngày nay. Chỉ tiếc là những tín đồ đã không để ý nghiệm chứng mà chỉ biết rập khuôn theo mẫu mực sẵn có khiến cho cái tinh tuý, cái gốc tủy của chủ thuyết, của đạo học mỗi ngày một phôi phai. Lâu dần, những mấu chốt tâm linh bị lãng quên đến nỗi ngay những người được đặc biệt huấn luyện để thuyết giảng, triển dương giáo phái cũng không thể nhận biết thì sao có thể nói đến tín đồ. Kết quả thế nào mọi người đều nhận thấy, người ta cứ bám vào các nghi thức vô hồn để rồi tin tưởng cứ làm đúng theo những nghi thức như thế hầu thỏa mãn một phần nào khát vọng bẩm sinh thường ngày đêm thôi thúc.
              - Lục lọi sách vở anh em sẽ thấy, không một vị giáo chủ nào đứng ra lập tông phái, mà chính những người tiếp nhận chủ thuyết đứng lên cùng nhau thiết lập hệ phái để truyền bá. Thoạt đầu chỉ một nhóm với lòng kính thành đón nhận rồi lại truyền bá thêm để triển dương giáo phái. Theo dòng thời gian, nếu chủ thuyết được nhiều người đón nhận tất nhiên tổ chức nhân sinh dưới sự hướng dẫn của chủ thuyết phải được thiết lập. Có chủ thuyết, có tổ chức nhân sinh lẽ đương nhiên phải có nội quy, luật lệ, giáo lý, cơ cấu phát triển, lịch trình sinh hoạt. Đây là thành phần thế tục của tổ chức. Điều đáng buồn lại do không nghiệm chứng chủ thuyết bởi không ai chỉ bảo nên tín đồ thường dùng danh tánh tổ chức như chiếc áo an toàn che lấp tâm thức trống rỗng nơi mình. Lần trước đề nghị anh em đọc Phúc Âm, tôi không hiểu anh em đã đọc như thế nào, và sau khi đọc anh em lãnh hội được những gì. Tôi nghĩ, những anh em nào đọc Phúc Âm mà không cảm thấy ngỡ ngàng về những câu nói chứa đựng trong đó đến độ té ngửa thì vẫn còn chưa biết đọc lời Chúa. Tôi thử nêu lên một câu rất đơn giản anh em đã gặp 8 lần khi đọc Phúc Âm, đó là câu, “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Có ai cảm thấy giật mình hoặc bực mình vì câu nói nghịch thường này không? Thử hỏi, câu này mang ý nghĩa gì, làm sao có thể áp dụng vào cuộc đời mỗi người.
              - Không thấy anh em nào lên tiếng, có lẽ chẳng ai để ý đến câu nói này dẫu đã đọc qua 8 lần. Không có cái đạo nào phát xuất từ Phúc Âm dạy về câu này mà chỉ thấy hô hào nào đức tin Công giáo, nào đức tin Tin Lành, đức tin gì gì đó nếu chỉ kể tên cả tháng cũng chưa hết. Và rồi cũng chỉ bốn cuốn Phúc Âm lại sinh ra giáo lý nọ, giáo lý kia, phải thế nọ, phải thế kia, nguyên những cái phải không cần phải. Lý do, nếu đầy trong lòng ắt phải tràn ra bên ngoài. Bởi vì lòng trống rỗng nên phải có luật hù dọa cho người ta sợ để giữ tín đồ. Không có luật buộc, nó không sợ bị phạt kiếp sau thành con sâu con bọ hay đời đời bị trầm luân nơi hỏa ngục thì nó không theo nữa dẫu nó chẳng biết cái hỏa ngục được nói đến kinh khủng, khổ ải như thế nào. Tại sao tôi nói người ta không biết? Xin thưa, tại họ chưa chết. Người ta theo cái đạo sợ dù được gọi dưới bất cứ danh hiệu nào. Ông bạn tôi rất hãnh diện về các anh vì không ngờ tâm trí các anh rộng mở, dám đối diện với con người thực của mình. Dẫu mới một lần nói chuyện, tôi đồng ý với đặc tính rộng mở, không e ngại, không giới hạn suy tư, không lệ thuộc thói quen, truyền thống nhưng coi chừng thiếu ý chí phấn đấu vì vẫn bị lệ thuộc mặc cảm. Tôi dám nói thẳng, miệng nói không sợ sai lầm, lòng nghĩ không sợ sai lầm vì sai lầm có thể là cơ hội thăng tiến nhận thức vẫn chỉ là cái vỏ. Dám chấp nhận mọi hậu quả vì niềm tin, vì nhận thức bất chấp bị đời gán cho danh hiệu nào mới đủ can đảm đối diện với Phúc Âm. Nghỉ một chút, nhấp miếng bia, ngài nói tiếp,
              - Anh em tin theo đức Giê su, anh em có biết người ta đã kết án ngài thế nào không?
              - Phạm thượng.
              - Anh em có dám phạm thượng theo Ngài không đó mới là vấn đề; đó mới là thực trạng chúng ta phải tiến tới. Muốn phạm thượng như đức Giê su nhưng lại sợ người đời lên án thì chỉ còn cách cầu xin Chúa cất về nước thiên đàng cho sớm, và tôi biết, mọi người cũng như tôi, không ai muốn lên thiên đàng ngay lúc này.
              Mọi người phá ra cười, thầm nghĩ, ông cha này dám tự đưa mình ra mà diễu, nhưng ngài nói hợp lý, hợp tình. Hèn chi lần trước ngài nói học theo Chúa Giê su không được.
              - Phúc Âm chỉ cho chúng ta mình là gì, như thế nào, trong khi chúng ta tự chấp nhận mình là thứ nô tài nhắm mắt tuân giữ điều lệ cho có giả tưởng an lòng. Nhắm mắt học thuộc lòng giáo lý mà không biết mấu chốt, căn gốc mình theo là gì, thế nào, để rồi không dám chất vấn quyền uy bởi không biết chính mình là gì! Anh em nên nhớ, tất cả những nhà cải cách đều gặp phải muôn ngàn chiều hướng phản đối chẳng những bởi các thế lực thâm căn cố đế mà còn từ xã hội đương thời đã quá quen và chấp nhận nỗi an bình giả tạo để rồi cố gắng bám víu lấy nó hầu đàn áp nỗi lòng sôi động phát xuất từ sự khát vọng bẩm sinh. Nhìn lại thực tại, chúng ta sẽ thấy, giả sử không có TV người ta sẽ ra sao? Và TV đem lại gì cho họ? Dĩ nhiên bất cứ gì mang lại lợi ích cũng kèm theo cái hại của nó. Không có TV, khối người nổi điên vì chẳng có gì giúp họ đè nén nỗi thao thức tâm tư bởi không quen nên không muốn suy nghĩ.
              - Thưa cha, Hưng lên tiếng, thế chẳng lẽ Lão học đề nghị bớt, càng ngày càng bớt là sai lầm.
              - Bớt để lộ ra, để nhận thực chính mình thế nào; thực thể mà lục tổ Huệ Năng gọi là bản lai diện mục, nhà Phật gọi là cái tâm, Atman của Ấn, hoặc linh hồn như chúng ta thường gọi. Hành trình bớt này cũng được gọi là hành động lau gương, lau bụi bặm che khuất cái tính nơi mình. Thiền, tu, quán, hành, tất cả đều là phương tiện để nhận ra thực thể chính mình chứ không phải trở nên ngu ngơ như người khùng điên mặc dầu những vị thức ngộ dưới con mắt bình thường thế nhân bị coi giống như người điên. Đây là hành trình nhận thức, một hoạt động ý thức của tâm hồn chứ không phải hoạt động náo loạn hữu vi. Lão học gọi là vô vi, không làm gì nhưng không việc nào mà không làm. Có ý kiến nào thêm không?
               
              Thế là mấy ông trùm cảm thấy tâm trí mình quay quay, không hiểu cha nói gì mà lại dính dáng đến nhà Phật, nhà Lão, Ấn, lại còn Atman, linh hồn. giáo lý dạy linh hồn là tính thiêng liêng chẳng hề chết được mà cha lại nói những gì tới thiền, quán, hành, rồi lau gương, rồi thức ngộ, nhận thức; mà sao mấy tay lãng đãng bất thường vì bia rượu này lại nghe coi bộ nghiêm chỉnh. Quái lạ, những cái mỏ bán trời không văn tự sao lại có thể chăm chú đến im hơi lặng tiếng khiến bầu không khí có vẻ tăng thêm phần nặng nề, trầm tư.
              - Thưa cha, Tình giơ tay ý kiến, như vậy là cái hồn nghe, nhưng sao lại nói có tai nghe thì nghe?
              Đang nói về bớt, về vô vi, không làm gì mà Tình lại hỏi về cái tai nghe, chẳng đâu vào đâu. Mấy ông trùm ngỡ ngàng, chẳng hiểu Tình muốn hỏi về cái tai để làm gì.
              - Cái tai có thể nghe tự nó không?
              - Thưa không, Sỹ lớn tiếng trả lời. Tai chỉ là phương tiện cho linh hồn nghe.
              - Vậy tại sao phải nói có tai để nghe thì hãy nghe?
              - Thưa cha, vì hồn dùng cái tai để nghe và vì cái tai chỉ là phương tiện; nên mọi sự nghe được hay không, tùy thuộc cái tai, nhưng nghe được như thế nào lại tùy thuộc linh hồn. Ah! Hình như câu này nói về điều kiện để hồn nhận thức được gọi là nghe.
              - Như vậy, anh em hiểu được tại sao Phúc Âm đưa lên những công án không đâu vào đâu đôi khi bị gán ép vào những dụ ngôn nghe có vẻ kỳ cục. Chẳng hạn, người ta không đổ rượu mới vào bì cũ, chẳng ai lấy vải mới vá áo cũ. Những chuyện thường tình như thế nhưng mang ý nghĩa ám định chỉ về điều kiện ắt có cho một tâm hồn muốn nhận thức.
              - Hình như chúng ta đi quá xa trong sự bàn luận. Chúng ta chưa nói gì về Thiên Chúa của đức Giê su; vấn đề khúc mắc về sự mất còn của đức tin anh Thanh đang nói dở bị đình lại; bây giờ lại thêm điều kiện để hồn nhận thức, tạm gọi là điều kiện tâm trí. Anh em thấy thế nào, nên dứt khoát từng đề mục hay cứ bàn luận lan man như thế này thì có lẽ không bao giờ cùng. Ai có ý kiến?
              - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, đây là lần thứ hai con được tham dự hội luận về Phúc Âm. Con xin cảm ơn cha và quý vị đã giúp con mở rộng lòng trí. Nói thì nói vậy nhưng thật ra có rất nhiều điểm không hiểu gì mà con không dám xía ngang. Con nghĩ, tốt nhất là cha giảng giải những gì thấy lợi ích cho phần rỗi chúng con. Riêng theo thiển nghĩ, xin cha giải đáp dứt khoát từng mục cho dễ thâu nhận kẻo đầu óc kém cõi của chúng con đang lùng bùng. Chả nói giấu gì, ngay vấn đề Chúa Giê su theo đạo, bỏ đạo ra sao con cũng chưa biết cách nào phân định.
              - Ông nói như thế thì chính cha cũng lùng bùng chứ đâu phải mình ông vì cha có phải là Chúa Giê su nhà ông đâu mà biết Ngài theo đạo nào và bỏ đạo nào. Nói rằng Ngài theo đạo Do Thái sao lại sai các môn đồ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Bảo rằng Ngài theo đạo Công giáo thì khi Ngài còn sống làm chi có cái gì tên gọi Công giáo. Con nói thế phải không thưa cha? Bá lên giọng nói một hơi.
              - Ông nói vậy thì Chúa Giê su vô thần à?
              - Ơ hay, ông trùm nói gì vậy? Chính ông vừa nói Chúa Giê su vô thần mà lại gán cho tôi nói Ngài vô thần! Thưa cha, con nói thế đúng không?
              Cha Hải cười cười vì thấy ông trùm bị dồn vô ngõ bí. Mình đã nói rồi, chẳng nên có ý định giải quyết dứt khoát bất cứ vấn đề gì, chỉ nên nghe rồi nghiệm, thế mà vẫn không chịu ngồi yên. Không đủ kiến thức, lập luận, mà ý kiến ý bọ dây dưa với mấy tay này không cho nói thì khóc mà cho nói lại chỉ còn nước mếu máo, ấm ức mà chẳng thể nói được gì. Ngài đành ra hiệu im lặng rồi lên tiếng,
              - Anh em có hiểu vô thần nghĩa là gì không? Người ta thường cho rằng những người không tham gia tôn giáo nào được gọi là người vô thần. Anh em nên để ý về những ngôn từ mình sử dụng, coi chừng nhiều khi sai sót hoặc kiến tạo phản cảm mà không biết. Trước hết thử hỏi, thần là gì. Tôi nghĩ, có lẽ ngay những người vỗ ngực xưng danh vô thần họ cũng không biết họ đang nói gì vì họ không biết cái gì đang nói nơi họ. Cái miệng của họ tự nó đâu nói được mà chỉ là phương tiện cho hồn của họ hoạt động được gọi là nói mà thôi. Như thế, chẳng có ai vô thần mà chỉ có những người không nhận ra thần nơi mình. Ông trùm hiểu tôi nói gì chứ?
              - Nói hay, Tình nói lớn.
              - Làm cha nói phải hay, không hay sao đỗ cụ! Bá chêm vô.
              - Thưa cha, ông trùm Phong lên tiếng, bây giờ con mới hiểu cha và quý vị đang bàn luận theo chiều hướng nào. Theo con, những vấn đề nào có thể dứt khoát xin cha cho phép bàn luận đến tận cùng, còn những vấn đề nào dây dưa xin cha nhắc nhở để đặt thành chủ đề. Thưa cha, có điều con thắc mắc là nếu không có ai được gọi là vô thần thì sao họ mệnh danh họ là người vô thần.
              - Họ nghĩ là họ vô thần vì họ không biết chính họ là gì. Họ biết họ đang sống nhưng không biết thực thể sự sống nơi họ là gì. Họ có cuộc đời nhưng không dám đối diện với câu hỏi tại sao họ có cuộc sống này. Họ tưởng rằng cuộc đời là của họ nhưng không nhận biết họ chẳng có quyền hành gì về cuộc đời của họ. Họ không dám đối diện với nỗi khát khao bẩm sinh luôn thôi thúc họ nhận biết nên kiếm tìm những sự việc thế tục để che lấp. Nơi phương diện tôn giáo, tôn giáo không giúp được họ nhận thức về chính họ và sự liên hệ tâm linh của họ với thực thể tâm linh tối thượng là Thiên Chúa. Sở dĩ tôi nói đến Thiên Chúa của đức Giê su vì chúng ta cần nhận biết Phúc Âm nói gì về Thiên Chúa để nghiệm chứng. Có phải bất cứ vấn đề nào tôi vừa nêu lên là những gì chúng ta ngại ngùng suy tư hoặc chưa bao giờ đặt thành vấn đề để suy tư không? Tựu chung, những gì chúng ta bàn luận nơi đây cũng chỉ loanh quanh luẩn quẩn về những vấn đề ấy. Đoạn ngài tiếp,
              - Như vậy, chúng ta tiếp tục nghe anh Thanh trình bày khúc mắc về sự sống còn của đức tin trong ngày Chúa Giê su đến như nơi câu nói Phúc Âm, tiếp theo chúng ta nói đến Thiên Chúa của đức Giê su, rồi tiếp đến điều kiện tâm trí để nhận biết, nhận thức Phúc Âm. Có ai thấy cần biết thêm những đề mục nào đã được nhắc tới mà còn dang dở không? Ngưng một chút, cha Hải tiếp, nếu không ai có ý kiến, mời anh Thanh.
               
              - Thưa cha, con nói đến đâu rồi không biết?
              - Anh hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai!
              Thế là cả làng phá ra cười. Hình như cha Hải cố tình dẫn dụ cho mọi người nhận thức mình đang nói gì, và như vậy liên hệ đến suy tư ý nghĩ đang biến chuyển nơi mỗi người. Lôi miếng giấy trong túi áo lật ra xem, Thanh nói,
              - Con đang nói Phúc Âm trình bày một đức tin mang quyền lực. Con xin được nhắc lại, nơi dụ ngôn người đại đội trưởng đến xin Chúa Giê su chữa cho tên hầu và được Ngài trả lời, “Ông đã tin sao, thì hãy được như vậy” (Mt. 8:13). Phúc Âm ghi rõ, Chúa Giê su nói, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel.” Cứ theo thời đại bấy giờ, viên bách quản này thuộc triều đại Roma nên Chúa mới so sánh với dân chúng Israel. Chúa Giê su không nói ta chữa cho người đầy tớ của ông nhưng chỉ nói “Ông đã tin sao thì hãy được như vậy.” Có thể nói, lòng tin mà Chúa Giê su ca ngợi ở đây chính là sự tin tưởng và ước muốn cực mạnh nơi ông ta. Đối với người đàn bà loạn huyết, Chúa Giê su minh xác, "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48), mà chính người đàn bà đã phải tự đoan chắc dẫu chỉ được chạm đến áo Ngài thì sẽ được chữa lành. Ước muốn, ý định của bà ta thật mạnh mẽ. Đối với hai người mù đi theo về đến nhà, họ được lành mắt và Chúa Giê su tuyên bố, "Các ngươi đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 9:29). Tại sao Chúa không chữa lành ngay khi họ kêu xin, “Lạy con vua David xin thương xót chúng tôi” mà để họ đi theo về tới nhà mới nói cho họ biết? Có thể rằng Chúa thử lòng tin của họ chăng. Với người phụ nữ có con gái bị quỉ ám, Chúa Giê su lên tiếng không muốn đá động gì tới nhưng qua lý luận và lòng tin tưởng, đoan chắc của bà, Ngài đã phải lên tiếng, "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28). Tất cả những trường hợp được chữa lành, Chúa Giê su đều nói rõ ràng đó là lòng tin chữa, lòng tin cứu. Nơi Matthêu, khi các môn đồ không trừ được quỉ ám, Chúa Giê su đã phải than lên, “Ôi thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa Ta sẽ ở với các ngươi; cho đến bao giờ nữa ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!” (Mt. 17:17). Câu Phúc Âm này minh chứng Chúa Giê su tin tưởng các môn đồ của Ngài dùng đức tin trừ được quỉ nhưng họ không làm được chỉ vì không biết đức tin là gì để rồi Ngài phải đoan chắc, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó, nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20; Mc. 11:22). Câu này rõ ràng minh chứng, Chúa Giê su không bảo hãy cầu Ngài hoặc cầu Thiên Chúa; mà là, “Nếu các người có lòng tin bằng hạt cải.” Đã có lần con được xem hạt cải do một linh mục đi hành hương đất thánh đem về; nó nhỏ như hạt cát mịn. Thế nên nói rằng nếu có lòng tin bằng hạt cải có nghĩa không có chút nào. Thêm vào đó nơi Phúc Âm Matthêu đoạn 21 câu 21 lời đoan chắc này được lặp lại, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra " (Mt. 21:21; Lc. 17:6).
              - Thưa cha, thưa bác, thưa ba, quý anh chị em, những câu Phúc Âm Matthêu minh chứng lòng tin mang quyền lực tối thượng nơi mỗi người. Trong trường hợp so sánh lòng tin với phẩm lượng hạt cải, con nghĩ để ám định rằng môn đồ của Chúa cũng chẳng biết đức tin là gì ráo trọi. Các môn đồ theo Chúa Giê su, được chính ngài dạy bảo mà vẫn không biết đến nỗi Ngài phải than, “Ôi thế hệ cứng tin” là thế nào? Đồng thời nơi Phúc Âm Gioan, Ngài đương đường công bố, "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Qua kinh nghiệm sống, khi chúng ta nghĩ hay nói thực sự tin vào một chuyện gì mang tính chất chuyện đó có thật. Nhưng khi nóí tin vào một người nào, chúng ta nghĩ rằng những điều người đó nói ra sẽ xảy đến đúng như người ấy nói. Nơi câu Phúc Âm này, Chúa Giê su minh xác, tin vào Ngài thì các việc Ngài đã làm, người được gọi là tin cũng sẽ làm được. Xét thế, tin vào đức Giê su mang nghĩa ẩn chứa điều kiện thực hành nào đó chứ không phải chỉ nghĩ suông là tin chắc những điều Ngài nói là đúng, là sự thật thì có thể làm được như Ngài. Phải thế nào, thực hành những gì để câu Phúc Âm này trở thành hiện thực nơi mỗi người, có lẽ cần được cha nêu lên và giải thích cũng như đưa ra phương pháp áp dụng. Như vậy, thiển nghĩ các môn đồ cũng như chúng ta, có đức tin nhưng đã không nhận ra, không nhận biết, không nhận thức được, không biết cách nào để thực nghiệm. Nói thế, phỏng những gì chúng ta tuyên xưng, mệnh danh là đức tin không phải là đức tin được trình bày qua Phúc Âm. Có, nhưng không biết nó là gì; có, nhưng không nhận thức được nên không dùng được. Người Mỹ có câu nói, “You don’t use it; you loose it,” anh không sử dụng khả năng của anh, anh sẽ mất nó. Tuy nhiên, con thực tâm nghĩ, đức tin nơi mình không thể biến mất vì nó chính là quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu nơi mình mà chỉ vì không được nhận biết nên không xài được. Ngưng một chút, hơi đăm chiêu, Thanh nói tiếp,
              - Thế cho nên, con nghĩ, Chúa Giê su đặt vấn đề, “Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng” (Lc. 18:8), có thể rơi vào trường hợp cha đã nói, “Chỉ tiếc là những tín đồ đã không để ý nghiệm chứng mà chỉ biết rập khuôn theo mẫu mực sẵn có khiến cho cái tinh tuý, cái gốc tủy của chủ thuyết, của đạo học mỗi ngày một phôi phai. Lâu dần, những mấu chốt tâm linh bị lãng quên đến nỗi ngay những người được đặc biệt huấn luyện để thuyết giảng, triển dương giáo phái cũng không thể nhận biết thì sao có thể nói đến tín đồ. Kết quả thế nào mọi người đều nhận thấy, người ta cứ bám vào các nghi thức vô hồn để rồi tin tưởng cứ làm đúng theo những nghi thức như thế hầu thỏa mãn một phần nào khát vọng bẩm sinh thường ngày đêm thôi thúc.” Nói đến đây, giọng Thanh chùng xuống và im lặng. Vài giây sau lên tiếng,
              - Thưa cha, con có câu hỏi hơi quá nhưng đã lỡ nghĩ đến nên xin cha giải thích. Đó là đã hơn hai ngàn năm qua, nói chung, Kytô giáo dạy gì để đến nỗi câu Kinh Thánh vẫn nằm chình ình đấy mà không thấy ai nhắc đến?
              - Đến cả cuốn Kinh Thánh cũng trở thành phương tiện triển dương giáo phái phương chi là chỉ một câu. Anh chị em biết rõ, Kinh Thánh được viết bên Trung Đông nhưng bị lối nhìn, quan điểm Tây Phương diễn giải theo nghĩa từ chương thiếu nghiệm chứng. Thêm vào đó, những vị thông thái đó không dám chấp nhận một nhận thức, quan điểm, có thể đúng và cũng có thể sai; đúng nơi đất nước này, có thể sai nơi đất nước khác, đúng nơi trường hợp này, sai nơi trường hợp khác. Hơn nữa, để cho mau và dễ dàng minh chứng, người ta không thể bỏ được thói quen cố hữu đưa ra một điểm, một chủ đề nào đó và dùng mọi phương tiện gán ép minh chứng theo quan điểm của mình chẳng hạn như anh vừa sử dụng Phúc Âm để minh chứng quyền lực lòng tin. Anh em để ý, diễn trình nghiệm chứng đi từ căn bản sống, hợp lý hợp tình, và chủ thể có thể chấp nhận được. Thí dụ, người Tây Phương chứng minh trái ớt lợi ích, thì tiền đề phải là lợi ích của trái ớt rồi từ đó diễn dịch, phân tích bằng nhiều cách để rồi minh chứng người này ăn thấy tốt, người khác ăn thấy ngon. Chiều hướng Đông Phương không làm thế mà đưa trái ớt ra trình diện trước, thử, và cho biết người này thích, người kia không ăn được cay, rồi tìm hiểu nguyên nhân tại sao người này thích, tại sao người khác không ăn được, và đối với mình thì sao. Nếu mình không ăn được, nghiệm chứng dừng lại nơi đó vì nó không hợp với mình hoặc chỉ dùng với mực độ hơi cay; không ca tụng, không đoán xét vì nó là nó, nó không phải là bất cứ trái nào khác. Đông Phương nghiệm chứng; Tây Phương minh chứng chứ không cần biết nó hợp với mình hay không. Anh minh chứng Phúc Âm nói về lòng tin mang quyền lực nhưng không trình bày nghiệm chứng. Những gì anh minh chứng chỉ là cái biết ngoài da, biết để mà biết ai làm không được. Minh chứng từ Phúc Âm để rồi nghiệm chứng và tìm kiếm phương pháp thực hành để thực chứng mà chưa thực chứng được có giải thích cách mấy thì cũng chỉ là hiểu biết, kiến thức. Anh em nên nhớ, đạo học Đông Phương không trình bày kiến thức mà dùng dụ ngôn, công án để hành giả thực chứng, biến nhận thức thành sự thể nơi mình. Đạo học Đông Phương không trình bày những lý thuyết suông mà đòi hỏi hành giả nhào vô, ngụp lặn trong đó sống với nó, biến nhận thức thành hành động. Thử hỏi, sự minh chứng quyền lực lòng tin đem lại lợi ích gì cho anh phương chi đối với chúng tôi chỉ là những người nghe. Biết để làm gì nếu không thể thực nghiệm, áp dụng nơi cuộc sống thì cái biết đó vô dụng chỉ tiêu phí thời giờ mà thời giờ là chính cuộc đời. Biết những thực phẩm nơi bữa ăn ngon lành và bồi bổ nhưng không ăn thì đói vẫn hoàn đói. Phỏng cái biết đó lợi ích gì cho cơ thể.
               
              Thế là thiên hạ tối tăm mặt mày; bởi xưa nay như thói quen tưởng rằng hiểu biết những kiến thức sẽ nâng cao giá trị con người giúp con người sống ý thức hơn; ai ngờ, sự hiểu biết kiến thức thiếu nghiệm chứng, thực chứng chỉ giống như thái độ giả tạo của lũ khỉ học làm người. Tất nhiên, người ta có thể dạy một con khỉ đánh đàn một bản nhạc tuyệt vời nhưng không thể nào dạy con khỉ trở thành nhạc sĩ. Cứ như những gì được minh chứng từ Phúc Âm đối với lòng tin đem suy luận thì những giải thích, minh chứng xưa nay đang biến con người trở thành khỉ. Con người mang sẵn đức tin, lòng tin nhưng đã không thể nào sử dụng mà chỉ biết hô hào, quảng bá, minh chứng lòng tin chẳng khác gì khỉ chơi đàn. Lời Phúc Âm đâu đây vọng về nơi tâm trí, “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử” (Gioan 5:24); "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt. 7:21-23); "Tại sao anh em gọi Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’, mà anh em không làm điều Thầy dạy? Ai đến với Thầy và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành” (Lc. 6:46-49); "Vì lòng dân này đã ra chai lại, chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại..." (Mt. 13:15).Lời Chúa như bữa ăn, không ăn, đói vẫn hoàn đói.
               
              Những lời nói của cha Hải mang đầy thách đố như những nhát vồ đập vào màng tang người nghe khiến rúng động con tim tạo nên nỗi lo lắng do nhận biết đã bao lâu nay không hiểu biết Phúc Âm muốn nói gì để rồi tưởng rằng chỉ nghe cho qua là đủ. Ý nghĩ nào đó thoáng qua, thà đừng hiểu biết thì nỗi an bình tâm tưởng không bị giao động.
              - Thưa cha, thế chúng con phải làm sao? Phương pháp nào để có thể áp dụng Lời Chúa? Ông trùm Phong lên tiếng hỏi.
              - Có lẽ chúng ta chợt có cảm nghĩ thà không nhận thức được lời Phúc Âm sẽ có được nỗi an bình tâm tưởng. Và cũng có lẽ anh em lúc này đã hiểu được câu, “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Gioan 12:48). Ông trùm không chi phải vội lo lắng. Muốn thực chứng Phúc Âm cần nghiệm chứng; muốn nghiệm chứng cần hiểu biết và định tâm suy nghiệm. Phúc Âm cũng chỉ rõ điều kiện tâm trí để suy nghiệm và cũng là đề tài chúng ta sắp bàn tới. Riêng anh Thanh, chắc anh đã có thể trả lời được khúc mắc của anh.
              - Thưa cha, đúng như cha nói, con cũng chợt có cảm nghĩ thà không để ý tìm hiểu về Phúc Âm thì có được nỗi an lòng giả tưởng. Càng biết về Phúc Âm thì càng như ngồi trên lửa; ngọn lửa ngu dốt đã bao lâu nay thiêu đốt mà mình vẫn an hòa chịu đựng nó. Nhưng thưa cha, chẳng lẽ đã hai ngàn năm qua người ta tránh đối diện với Phúc Âm?
              - Họ không tránh đâu, nhưng nhận thức Phúc Âm với quan điểm hữu vi, từ chương thì cho đến muôn đời Phúc Âm cũng chỉ được mệnh danh là Lời Chúa, mà Lời Chúa thì chỉ để Chúa nghe, mình cứ an tâm và hãnh diện theo đuổi ước mơ thế tục của mình. Bây giờ có lẽ anh đã hiểu được tại sao nhà Phật gọi là thời mạt pháp.
              - Thưa cha, ông trùm Hiểu lên tiếng, vậy bổn giáo lý chúng con được dạy từ đâu ra.
              - Có thể nói, Phúc Âm thoát thai từ Cựu Ước và những giáo phái như Anh giáo, Tin Lành, Công giáo, Chính Thống giáo cũng từ Phúc Âm mà ra. Bổn hay giáo lý là lý thuyết niềm tin của Công giáo. Cũng như đức tin, chỉ có một tin mùng được diễn tả qua bốn Phúc Âm, nhưng từ những quan niệm khác biệt dựa trên các thư, người ta lại kiến tạo thành đức tin Công giáo, đức tin Tin Lành, đức tin Chính Thống, đức tin Anh giáo. Nhận định như thế thì bổn hay giáo lý cũng từ Phúc Âm được viết ra.
              - Thưa cha, ông trùm Hiểu hỏi tiếp, sao bổn dễ hiểu mà Phúc Âm lại khó hiểu như thế?
              - Thời còn nhỏ, chúng ta được dạy bổn đồng ấu và các kinh. Ngày xưa ở Việt Nam thì như thế nhưng nay giáo lý được phân định tùy trình độ. Bổn ngày xưa được viết để học thuộc lòng cho dễ nhớ vì cách đây 70 đến 100 năm ít người biết chữ; đặc biệt có quan niệm không nên cho con gái đi học vì e chúng chưa kịp lớn đã vội viết thư cho trai. Ngày nay, hầu hết biết chữ nên phương tiện học hỏi giáo lý cũng phải thay đổi.
              - Thưa cha, ông trùm Hiểu hỏi tiếp, vậy những người không theo đạo Công giáo thì sẽ ra sao vì con được dạy là ai ngoài Công giáo không có ơn cứu rỗi, hoặc ai không được rửa tội thì sẽ không được vào nước thiên đàng.
              - Đó chỉ là quan niệm xa xưa; có lẽ vì thời đó dân chúng còn đơn sơ nên nói gọn như thế cho tiện. Nói như anh Sỹ cho rằng các linh mục ở Việt Nam là đức chúa trời ngôi thứ tư; cha nói là luôn luôn đúng và thực ra, mới chỉ mấy chục năm nay từ khi máy computer (vi tính) phát triển để rồi những phương tiện truyền thông cập nhật thì những suy tư thần học cũng phải được đặt vấn đề lại. Chẳng hạn câu hỏi, giã sử có loài người sinh sống nơi một hành tinh nào đó trong vũ trụ bao la bát ngát này thì ơn cứu độ của Chúa Giê su có đến với họ không? Cho đến giờ vẫn chưa có câu trả lời hoặc mới có mà tôi chưa biết. Chưa trả lời được cũng chỉ vì quan niệm hạn hẹp ơn cứu độ bị giới hạn nơi Chúa Giê su mà quên rằng Chúa Giê su được sai đến chứ không phải tự ý Ngài xuống thế. Riêng về quan niệm ai không được rửa tội thì không được vào nước thiên đàng đã bị lờ đi từ lâu vì Phúc Âm có nói ai rửa tội cho thánh Giu se đâu hoặc ngoại trừ thánh Phao lô, Phúc Âm đâu có viết là có tông đồ nào chịu phép rửa tội đâu. Thật ra, tôi không nên trả lời ông về vấn đề này vì nó thuộc về tôn giáo. Trả lời như thế hơi bất nhã đối với những anh chị em thuộc tôn giáo khác. Thôi, cũng đành vậy, mong quý anh chị em thông cảm.
               
              MBVN 23
               
              - Cha nói vậy chứ không phải Chúa Giê su xuống thế để chuộc tội cho loài người à? Ông trùm Hiểu hỏi tiếp.
              - Thế ông trùm, Bá cao giọng, ông có biết mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là gì không?
              - Các cha vẫn thường giảng giải mà ông không biết hay sao lại còn hỏi như thế!
              - Tôi không muốn nói đến các cha giảng giải, tôi chỉ muốn hỏi ông trùm. Ông có biết mục đích mà Chúa Giê su được sai đến thế gian này làm gì không?
              - Tôi không hiểu ông muốn hỏi gì vì ai không biết là Chúa Giê su chịu đóng đanh trên cây thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ và đến ngày thứ ba sống lại. Ngay người ngoại đạo họ còn biết mừng lễ Sinh Nhật và ngày Chúa phục sinh. Thế mà ông hỏi mục đích là thế nào?
              - Cho tôi nói, ông Thung lên tiếng khiến mọi người ngỡ ngàng, nếu tôi không lầm thì trong Phúc Âm, hình như Luca thì phải, có ghi lời đức Giê su bảo hình như đi giảng Tin Mừng thì phải.
              - Anh cả nói đúng, Thanh tiếp lời, nơi Phúc Âm Luca đoạn 4 câu 43 ghi lại, “Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. Nhưng Ngài bảo họ, ‘Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.’ Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê” (Lc. 4:43). Cứ theo câu này thì mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa.
              - Tin Mừng Nước Trời chứ làm gì có tin mừng Nước Thiên Chúa, ông trùm Hiểu đính chính.
              - Giê su ma lạy Chúa tôi, ông trùm có biết mình nói gì không? Giọng Tình chán nản.
              - Sao mà nóng tính thế, ông Thung lên tiếng, ông trùm Hiểu mới tham dự với chúng ta lần đầu, chưa đọc Phúc Âm mà. Chú lại quên rồi, ý kiến không đúng, không sai.
              Cha Hải giơ tay ra hiệu, đoạn nói,
              - Nước trời hay nước Thiên Chúa cũng là một và chúng ta thường hay gọi là thiên đàng. Anh Thanh nói đúng, mục đích cuộc đời của Chúa Giê su chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Nói theo kiểu tôn giáo, Ngài được Thiên Chúa Cha sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
              - Thưa cha, vậy Chúa Giê su không chịu chết à? Ông trùm Hiểu cố vớt vát.
              - Có, Ngài đã chịu khổ hình, bị đóng đanh trên thập giá, chết, được mai táng trong mồ và ba ngày sau sống lại, hiện ra vài lần với các tông đồ, đồng thời sai các tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và rửa tội cho họ nhân danh Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
              - Thưa cha, nếu nói rằng Thiên Chúa ba ngôi là một, một Chúa mà ba ngôi thì chính là Chúa Giê su tự ý đến thế gian chứ làm gì có Chúa Cha sai Chúa Con vì Cha và Con cũng là một. Ông trùm Canh luận lý.
              - Nói hay, cha Hải khen, nói như thế, suy luận như thế tại sao ông trùm không đi tu làm linh mục?
              - Thưa cha, ở Việt Nam thời ấy con nhà nghèo sao có thể đi tu.
              - Gia đình tôi còn nghèo hơn ông nữa nên phải đi lính để có cơ hội học tiếp…
              - Thưa cha, con thuộc hạng sinh viên sỹ quan động viên thì làm gì có cơ hội. Sau khi cải tạo về, mò mẫm kiếm miếng ăn không đủ sao dám có ý gì phương chi là mơ ước.
              - Trở lại vấn đề, nói như ông trùm, rất đúng nhưng nơi trường lớp thần học mà nói như thế sẽ bị chụp cho chiếc mũ rối đạo bởi không phù hợp với truyền thống. Vấn đề này thuộc về tôn giáo nhưng tôi muốn minh định rõ hơn một chút để anh em nhớ mà tránh lỡ phát ngôn đúng nhưng sẽ bị kết án là rối đạo hay chống đối. Tôi có thể giải thích như sau, vì người ta đã không nhận thức được thực thể Thiên Chúa Ba Ngôi; nói cho đúng, vì Phúc Âm được tìm hiểu theo nhãn quan thế tục, theo nghĩa từ chương, chữ nghĩa thế nào thì giải thích theo nghĩa đen như thế sợ bị kết án, sợ bị sai lầm nên không thể nào suy nghĩ được một cộng với một chưa chắc đã là hai. Chúng ta thấy, hỏi bất cứ ai nơi trần gian này một cộng với một là mấy họ sẽ trả lời như chiếc máy là hai nếu không cho mình là khùng vì không biết một cộng một là hai. Không tin tôi, ngày mai về hỏi bất cứ ai, vợ quý vị hoặc con cái của quý vị một cộng một là mấy họ sẽ ngỡ ngàng nghĩ rằng mình bị nóng đầu. Bởi vậy, nói rằng tự ý Chúa Giê su xuống thế làm người cũng đúng mà nói rằng Ngài được sai đến thế gian cũng không sai. Tôi nghe thấy ông Thung nêu lên chủ thuyết “Ý kiến tự nó không đúng không sai” mà không thấy ai lên tiếng phản đối. Giờ chợt nhớ lại, tôi muốn hỏi, ai bày ra câu nói ngang ngược như thế?
              - Thưa cha, bác Tài.
              - Nếu tôi không lầm, dạo này anh em nói chuyện với người ngoài coi chừng hay bị phê bình là nói ngang lắm phải không?
              - Cũng tại bác Tài, Tình lên tiếng, thưa cha, ngay mấy hôm đầu tiên, vợ con cứ thắc mắc sao bác Tài biết nhiều thứ như thế mà nguyên những thứ ngang như cua, nhưng suy xét, lại hợp lý hợp tình. Thưa cha, vợ con người nam, mấy tiếng cười nhẹ chợt nổi lên, con muốn nói, vợ con người miền Nam rất dễ thương nhưng thẳng thắn, bộc trực, nên dễ đưa ra nhận xét như vậy.
              - Phải không chị Tình, Bá hỏi.
              Cả bọn cười ầm lên.
              - Mấy cái ông quỷ này, người ta nói một đàng lại nghĩ xằng một nẻo. Đúng là thứ óc thối. Vợ Sỹ lên tiếng.
              - Bộ chị ấy không phải là người nam thì là người nữ à? Bá đổ thêm dầu vào lửa.
              - Làm sao mà biết, muốn biết thì phải hỏi chị Tình, Phủ đế vô, người đáng hỏi không hỏi lại cứ thích nghe hơi, ngồi chõ.
              - Thôi đi mấy ông ơi, nghe xem cha nói gì.
              - Tôi nghĩ, anh em đã hiểu được câu Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6).
              - Thưa cha, khi đọc đến câu này con không thể hiểu được Phúc Âm muốn nói gì, Thanh lên tiếng, sao Phúc Âm dùng chữ quá nặng nề như thế.
              - Có lẽ chúng ta còn lệ thuộc ngôn từ quá nhiều. Thường thì những công án bất chấp văn tự, và mục đích của công án là thách đố, dồn tâm trí người đọc vào chốn tối tăm, u mê của suy tư để rồi nhờ đó chợt ngộ khi vô tình được sự việc, sự kiện soi sáng. Ai cũng biết, Phúc Âm được kiến tạo bằng sự kết hợp những dụ ngôn và công án, nhưng đã được mấy ai thức ngộ từ Phúc Âm. Thiển nghĩ chúng ta bị ảnh hưởng quan niệm và lối suy luận Tây Phương quá nặng nên quên đề nghị nơi Trang học, “Được ý quên lời.” Đối với Đông Phương, nền luân lý đại chúng khuôn mẫu hóa con người bao nhiêu thì ngôn từ nơi đạo học lại được giải phóng khỏi các khuôn mẫu tâm thức bấy nhiêu vì ý mới là điểm tới, ngôn từ chỉ là phương tiện; thế nên đôi khi sự giải thích có vẻ ngây thơ nhưng lại cần thiết đối với đại chúng. Chẳng hạn nơi Phật học có câu, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.” Ai không nhận ra được sự thể này nhưng thử xét nơi hành trình tâm linh, đã bao người, bao thế hệ chưa nhận thức được câu giải thích quá ngây thơ này để áp dụng hay vẫn bị lệ thuộc ngôn từ thay vì hướng về điểm chính yếu. Tôi cũng cảm thấy hơi lạ bởi không thấy ai phản đối khi tôi nói đức tin là tâm điểm cao nhất của Phúc Âm trong khi ai không thấy tất cả những sự rao truyền về Phúc Âm lại được cho rằng trung tâm điểm của công việc cứu chuộc của Chúa Giê su là sự khổ nạn. Mặc dầu mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, người ta cũng rất ít nhắc tới. Nói như thế, hy vọng anh em suy nghĩ hầu nhận thực được sự thể; phân định thực thể để có thể ấn định điểm nào khi nghiệm chứng.
               
              - Thưa cha, ông trùm Hiểu lên tiếng, ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng là chuyện quá thường ai cũng biết thì mắc mớ gì phải nói.
              - Ông trùm, câu này đã có hơn hai ngàn năm trăm năm mà vẫn đứng vững chẳng những nơi sách vở mà còn trở thành điều kiện thiết yếu dẫn dắt hành giả nghiệm chứng nơi hành trình thức ngộ. Thanh lên tiếng. Tuy nhiên, có thể vì nó quá hiện thực mà người ta đã coi thường không nhận ra giá trị thực tiễn của nó. Đồng ý nghĩa với câu nói này là câu, “Lời ta nói như chiếc bè” cũng đã bị coi thường. Tôi không muốn nói đến tôn giáo nhưng nếu đem so sánh sự thực hành tôn giáo và đạo học, chúng ta thấy rất rõ ràng. Chẳng hạn Phật học chỉ nhấn mạnh đến tâm ý, và đỉnh điểm nhận thức của hành giả dù áp dụng phương pháp nào cũng chỉ là kiến tính. Thế sao lại phát sinh những nghi thức cúng, kiến. Phật học nói về cúng dường, giúp người sơ căn nhận biết về tri thức để nghiệm chứng nhưng sao lại có những tỳ kheo khất thực và rồi muôn lý thuyết, quan niệm về khất thực phát sinh. Không nói đâu xa, Phúc Âm nói rõ, “Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Gioan 4:24); vậy những nghi thức thờ phượng, đọc kinh, cầu nguyện, hành hương, viếng mộ, viếng đất thánh từ đâu ra; chắc chắn là không phải từ trên trời bỗng nhiên rơi xuống. Phỏng Lời Chúa chưa đủ thỏa mãn lòng khát khao bẩm sinh mỗi người nên phải đặt ra những hình thức phiền hà mới được giải thoát, mới được cứu độ. Nói ra, coi chừng cha và anh em sẽ lên án con, nhưng chúng ta thử nghĩ, nói rằng Chúa Giê su chịu chết chuộc tội thiên hạ vì yêu thương con người thì mắc mớ gì mình phải ăn ngay ở lành, phải tránh phạm tội bởi đã có Ngài chết thay, đền thế. Phỏng sống ngay thẳng tốt lành là từ chối ơn cứu độ vì không phạm tội thì lấy gì cho Ngài cứu. Nói đến đây, con hình như mang máng hiểu được ý nghĩa tại sao cha nhắc đến điều kiện tâm trí nếu muốn nghiệm chứng Phúc Âm.
              - Nơi hành trình nghiệm chứng, cha Hải lên tiếng, nếu không để ý, chúng ta sẽ rơi vào nhiều trường hợp khó khăn, bế tắc. Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết câu tục ngữ, “Người ta canh kiệu thì ngon, tôi canh hương án thì đòn vào lưng.” Không để ý hoặc hiểu sai ý nghĩa của một vài ngôn từ, coi chừng chúng ta rơi sâu vô quan niệm thế tục. Nói cho dễ hiểu, nếu anh em đã thức ngộ về Phúc Âm, thiển nghĩ, sự hiện diện của tôi nơi đây hoàn toàn vô ích. Thêm vào đó, khi đọc kinh sách, anh em cũng nên đặt lại vấn đề vì coi chừng sách vở đã được viết hoặc dịch từ nhiều năm về trước, những ngôn từ theo thời gian và địa phương thay đổi nên đôi khi có những câu vì không hiểu sự thể hay sự việc, được câu nói hay dụ ngôn nhắc tới, mà chúng ta không thể tưởng tượng ra được; thế là bị rơi vào trường hợp nghịch thường, càng cố gắng chỉ càng gặp thêm khó khăn. Thí dụ câu tục ngữ, “Lấy râu ông cắm cằm bà.” Mặc dầu câu này cũng có nghĩa riêng của nó nhưng thực ra, câu này phải được nói hay viết là, “Lấy dâu ông, ném tằm bà.” Ý nghĩa chỉ về nỗi lòng tình tứ của người đàn ông tỏ bày với người đàn bà. Thử nghĩ lại coi, chúng ta đã bị lầm lẫn câu nói này đã bao nhiêu ngày tháng.
              - Thưa cha, chị Tình lên tiếng, canh hương án là canh gì mà bị đòn vào lưng?
              - Có câu chuyện ngụ ngôn như sau. Ngày xưa, có ông nhà quê kia đi dự đám tiệc về nhà cứ tấm tắc khen chủ nhà cho ăn món canh củ kiệu tuyệt ngon. Dĩ nhiên, bà vợ nào không chiều chồng và không muốn nấu những bữa ăn ngon cho chồng con. Riêng bà vợ ông này người bắc, chứ không phải người nam, nói đến đây, vài người cười to tiếng, cứ thắc mắc không biết canh kiệu là canh gì mà lại được chồng mình thích như thế. Một hôm đi chợ ngang qua đình làng, bà vợ nhân tiện ghé vô cầu xin cho gia đình an khang. Đến bàn hương án thắp nhang khấn vái, bà ta mới chợt nhớ chồng mình khen món canh kiệu. Bà nghĩ, kiệu hay hương án cũng đồng một thứ vì người bắc gọi hương án là bàn nhang khói cố định, kiệu là trang thờ do người ta khiêng các tượng thần cũng được thắp nhang trên đó. Bởi vậy, bà ta có ý nghĩ, kiệu hay hương án cũng đồng một thứ. Thế rồi bà ta vơ vét chân nhang cùng tàn nhang gói về nấu món canh kiệu, lòng hí hửng vì sẽ được chồng khen. Chẳng ngờ, đến bữa ăn, ông chồng thấy tô gì mà nổi lềnh bềnh chân nhang lại được bỏ vô mâm cơm bèn hỏi. Bà vợ trả lời thấy bố mình khen món canh kiệu ngon thì nhân tiện ghé qua đình làng tôi lấy tàn nhang về nấu canh kiệu cho bố mình dùng. Ông chồng sững sờ, chợt nổi điên bưng ráo cả mâm cơm quăng ra ngoài. Nhân chuyện đó mới có câu tục ngữ, “Người ta canh kiệu thì ngon, tôi canh hương án thì đòn vào lưng.” Chẳng hiểu ông chồng có tức quá mà đánh vợ không nhưng tục ngữ nói vậy thì mình đọc vậy. Chị biết cái kiệu để rước Chúa, rước Phật chứ gì? Tôi nghĩ chị biết rành về những món liên quan tới củ kiệu hơn tôi.
              - Thưa cha, cũng giống như chiếc gầu với chiếc môi, kỳ con mới cưới, về nhà ảnh, cô em nói đưa chiếc môi, con chẳng hiểu là cái gì ngớ cả ra. Chị Tình với giọng ngọt ngào miền Nam nói.
              - Thế nên, khi đọc kinh sách, chúng ta nên để ý ngôn từ. Vì nghiệm là nghiệm chứng cho mình, không ai biết mình suy nghĩ thế nào và cách nào. Tất cả những ý nghĩ, giả sử có thể xảy ra trong vòng luận giải, chúng không đúng, không sai, chúng là chúng. Mục đích của nghiệm chứng là thức ngộ chứ không đụng đến thần thánh hay phản nghịch, đối nghịch bất cứ chiều hướng nào. Kinh nghiệm cho thấy, nếu tự mình chứng được câu nào đó, hành trình nhận thức từ đó sẽ phát triển rất nhanh nếu mình để tâm. Nào, bây giờ chúng ta tiếp tục tiết mục chi? Cha Hải hỏi.
              - Thưa cha, nếu tôn giáo phát xuất từ đạo học mà không phát triển đạo học thì mục đích của tôn giáo là gì?
              - Ông theo đạo mà lại hỏi mục đích của tôn giáo! Tôi làm sao trả lời được mục đích của ông. Nói đúng ra, ông theo thì ông đã biết tôn giáo sẽ dẫn ông đến mục đích nào chứ!
              - Thưa cha, bố mẹ con đem con đến nhà thờ rửa tội khi mới sinh được ít ngày. Lớn dần học giáo lý, đi lễ, đi nhà thờ, thờ phượng Chúa, đọc kinh cầu nguyện xin Chúa ban cho khoẻ mạnh, gia đình an khang, nghe lời các cha giảng giải để biết đường sống tốt lành và được hưởng ơn cứu độ khỏi phải sa hỏa ngục. Có bao giờ con nghe nói về mục đích của tôn giáo đâu vì được dạy rằng Chúa đã tạo dựng nên mình do đó mình có bổn phận phải tôn thờ Chúa. Mình tôn thờ Chúa cần phải có mục đích sao, thưa cha.
              - Thưa cha, Thanh lên tiếng, con có ý kiến trả lời ông trùm được không?
              - Mời anh.
              - Ông trùm không nhắc đến ngôn từ mục đích mà những gì ông nói chính là mục đích chẳng hạn đi nhà thờ để tôn thờ Chúa, cầu nguyện cho gia đình an khang, nghe lời giảng giải để sống tốt lành. Đó chính là những mục đích theo đạo của ông. Riêng về mục đích của tôn giáo nói chung, đều có cùng mục đích với các đạo học dẫu người ta biết hoặc để ý đến hay không. Tôn giáo và đạo học đều bắt nguồn từ lòng khát khao bẩm sinh nơi mỗi người. Lòng khát khao này chính là nỗi thao thức nhận biết thực thể mình là gì. Liên hệ giữa mình với thế giới, vũ trụ này ra sao, và cuộc đời mình có nghĩa gì để rồi sau khi chết mình thế nào. Tựu chung, theo thời gian trôi nơi cuộc đời, khi nào một người nhận thực được thực thể chính mình thì gọi là thức ngộ; nhà Phật gọi là thành Phật. Có ba con đường đồng hành nơi hành trình nhận thức thực thể chính mình tùy căn cơ mỗi người. Ai được sinh ra với lòng khát vọng mạnh mẽ, cuộc đời họ sẽ đi vào con đường chiêm nghiệm dù hoàn cảnh sống thế nào. Con đường khác, nhà Phật mệnh danh là minh triết, con đường thức ngộ nhanh nhất, dùng kiến thức, khả năng suy lý một cách ý thức để thức ngộ. Và hành trình còn lại cho đại đa số quần chúng là tôn giáo. Tôn giáo đặt nền tảng trên niềm tin và cầu nguyện. Khi mình cầu nguyện, mình định tâm để bày tỏ ước muốn. Không có gì có thể làm mẫu mực để so sánh giữa ba dạng thức này vì mỗi dạng thức hòa hợp với căn cơ mỗi người. Các vị thức ngộ trước tác những tác phẩm được gọi là kinh chẳng hạn nhà Phật có Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác v.v. Lão học có Đạo Đức Kinh, Trang học có Nam Hoa Kinh, Thiên Chúa giáo có Kinh Torah, Kytô học có Kinh Thánh Tân Ước. Những kinh này là căn bản, gốc gác cho các tôn giáo đi theo. Chẳng hạn Kytô giáo bao gồm Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Thệ Phản, Tin Lành. Hệ phái Tin Lành lại gồm có khá nhiều học phái liên hệ. Mới tham dự với chúng tôi, ông trùm đã có thể nhận thấy sự khác biệt. Các kinh của đạo học có cơ cấu liên kết các dụ ngôn và công án lại với nhau tạo thành một câu truyện chỉ dẫn hành trình nhận thức. Dẫu tôn giáo lấy các kinh làm gốc nhưng vì tôn giáo phải đối diện với tổ chức nhân sinh không đồng nhất căn cơ và kiến thức lại lắm chiều hướng, thêm vào đó, sự ảnh hưởng của nhãn quan hữu vi, hiểu kinh sách đạo học theo nghĩa từ chương nên tôn giáo đặt nặng vào niềm tin và cầu khẩn thần thánh cứu giúp trong sự cố gắng tinh tiến của con người nơi hành trình tâm linh mà ở Công giáo được gọi là hành trình đức tin. Con tạm dừng nơi đây, nếu có gì thiếu sót xin cha và quý vị bổ túc thêm. Xin cảm ơn.
              - Thưa ông, Công giáo thuộc về Kytô giáo chứ không phải là Chúa Giê su à?
              - Thưa cha, nhờ cha giải thích.
              - Nói chung, những người tin tưởng vào Thiên Chúa và đức Giê su, được chịu phép rửa tội đều thuộc về Kytô giáo. Chữ Kytô từ tiếng Hy Lạp Christós, ngày xưa tiếng Việt mình đọc là KyTô. Ngày nay gọi chung những nhóm tin tưởng vào Chúa Giê su là Christianity, tiếng Việt gọi là Kytô giáo.
              - Vậy thưa cha, ông trùm Hiểu hỏi tiếp, thế sao kinh Ngày Chủ Nhật lại dạy rằng ai chẳng thông công cùng hội thánh thì chẳng được rỗi linh hồn mà sao lại có lắm đạo khác tin vào Chúa Giê su chẳng thông công cùng hội thánh, vậy rồi sao?
              - Lần trước cha đã giải thích với anh em rằng ngày nay người ta không nghĩ như thế nữa vì đó là quan niệm ngày xưa cả trăm năm rồi. Thanh trả lời.
              - Thưa cha, nếu nói vậy thì trăm năm sau những gì chúng con tin tưởng bây giờ sẽ ra sao?
              - Anh Thanh có thể giải thích được không? Cha Hải hỏi Thanh.
              - Không những mới hơn kém trăm năm, quan niệm con người thay đổi, mà từ hai ngàn năm trước tới nay giáo hội Công giáo đã mấy lần họp công đồng và cứ mỗi lần họp công đồng thì lại phát sinh thêm một bè phái khác, có quan niệm khác. Riêng vấn đề trăm năm tới ai mà biết vì giả sử cuộc hội luận của chúng ta xảy ra ngàn năm trước, chắc chắn chúng ta phải bị kết án lên giàn hỏa thiêu. Thiển nghĩ, vấn đề ông trùm đặt ra thuộc về tôn giáo; chúng ta có lẽ để dành dịp khác nói chuyện hợp lý hơn. Quay về phía cha Hải, Thanh hỏi,
              - Thưa cha, bây giờ chúng ta tiếp tục đến tiết mục nào?
              - Khoan, thưa cha, cho con xin hỏi, ông trùm Phong lên tiếng, thưa cha, ông Thanh nói, kinh nhà Phật, kinh nhà Lão, kinh Tân Ước, vậy kinh chúng con đọc hằng ngày có thuộc về những kinh ấy không?
              - Ông hỏi có lý! Cha Hải trả lời. Đây là lý do tại sao tôi nói mọi người nên để ý đến ngôn từ được viết nơi kinh sách. Nói về đạo học, được mệnh danh là “Kinh” có nghĩa những trước tác của các nhà thức ngộ để lại hầu giúp những người nghiệm chứng, thường được gọi là hành giả. Loại kinh này đưọc viết dưới dạng dụ ngôn và những công án, ý nghĩa thâm sâu nhưng ngôn từ dùng một cách mập mờ, ám định giống như những truyện ngụ ngôn hoặc Ca Dao hay Tục Ngữ. Thí dụ, chúng ta thường nghe nói câu, “Ăn trông nồì, ngồi trông hướng,” “Mất bò mới lo làm chuồng,” hay “Thương thì cau bẩy bổ ba, chẳng thương cau bẩy bổ ra làm mười,” Nơi Phúc Âm có rất nhiều công án; chẳng hạn, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta,” hay, “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi.” Nói về kinh hạt, những anh chị em theo đạo Công giáo sẽ nhận ngay được sự khác biệt với kinh sách đạo học. Chẳng hạn kinh Ngày Chủ Nhật, kinh Lạy Cha, kinh cầu Chịu Nạn, kinh ăn năn tội. Những kinh này thường thì để cho giáo dân học thuộc lòng cho dễ nhập tâm và áp dụng nơi cuộc sống thường ngày. Kinh cầu Chịu Nạn thì giúp cho người đọc theo thứ tự cuộc đời Chúa Giê su mà suy nghiệm. Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh giúp cho người đọc định tâm mà suy nghiệm những ý nghĩa nơi kinh. Nơi Ấn học có thực hành Yoga, và phổ thông nhất là ngôn từ Aum, miệng hành giả phát âm ngôn từ Aum trong khi thở ra và hít vào, ý dẫn luồng hơi chạy theo những trung tâm kinh mạch nhất định theo phương pháp nào đó. Nhà Phật cũng có mantra hay chuỗi bồ đề. Mantra bắt nguồn từ Ấn học, đó là một câu nói hay một công án, hành giả lặp đi lặp lại giúp định tâm nghiệm chứng. Chuỗi bồ đề của nhà Phật thì được dùng giống như niệm mantra nhưng ngôn từ ngắn gọn chẳng hạn A Di Đà Phật, hoặc Nam Mô Phật.
              - Thưa cha, ông trùm Phong hỏi tiếp, Kinh Tân Ước chỉ được coi là kinh chứ không phải lời dạy của Chúa Giê su sao?
              - Lần trước ông không có ở đây tôi đã giải thích, chẳng hạn câu nói, “Ta và Cha là một” là một công án nơi Ấn học mà RamaKrishna đã ngộ nơi một ngôi chùa cổ hơn kém năm ngàn năm về trước; cũng như câu, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” là một công án nơi Lão học cỡ hai nghìn năm trăm năm trước đây. Đạo Đức Kinh được cho rằng Lão tử viết ra, nhưng Lão tử là mệnh danh đáng kính của một cụ già, không phải là tên của vị trước tác. Theo các học giả Kinh Thánh, Phúc Âm được viết vào khoảng năm 70 tới năm 100, và bốn thánh sử, Matthêu, Marcô, Luca, và Gioan chỉ là mệnh danh của nhóm người hay cộng đồng trước tác. Chúng ta đọc thấy nơi Phúc Âm, Chúa Giê su sai các môn đồ đi rao giảng cho những con chiên lạc của Israel mà thôi. Sau này, nếu không có thánh Phao lô rao giảng cho dân ngoại thì chúng ta làm gì biết đến Công giáo hay Kytô giáo. Tôi chỉ biết kể ra như thế chứ không quyết đoán chuyện xảy ra thế nào. Tuy nhiên, Phúc Âm được gọi là Lời Chúa thì điều quan trọng là tìm hiểu và nhận thức Phúc Âm nói gì chứ dẫu có cho rằng Phúc Âm là thế này, là thế kia hay được viết thế nào hoặc nên thế nào đâu có mang lại lợi ích gì cho nhận thức, cho phần rỗi con người. Gọi Phúc Âm là kinh theo nghĩa nơi đạo học hay gọi là Lời Chúa nào có chi phiền hà tới nhận thức về Phúc Âm. Điều quan trọng là làm thế nào để Phúc Âm trở thành hiện thực nơi cuộc sống của mình chứ hiểu biết về Phúc Âm thì đã hai ngàn năm qua, Lời Chúa vẫn mù mờ đối với mọi người, không riêng gì chúng ta. Tôi nói điều này anh em nên để ý, người ta đã không hiểu Phúc Âm nói gì và làm sao có thể áp dụng nơi hành trình đức tin nên đổ dồn vào con người của đức Giê su. Thử hỏi, tôn thờ Chúa Giê su, ca tụng Ngài thế nọ, thế kia có thay đổi gì được Ngài không; trong khi Ngài dạy, "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt. 7:21). Thi hành ý muốn của Thiên Chúa là gì nếu không phải trước tiên cần nghiệm chứng lời Chúa, lời Phúc Âm, để rồi thực chứng trong cuộc đời. Không cần nói gì nhiều, tôi hỏi anh em có ai biết tại sao đức Giê su biến nước thành rượu ở tiệc cưới Cana?
              - Thưa cha, dễ mà, vì uống rượu ngon hơn uống nước lạnh. Sỹ trả lời.
              Thế là mọi người đang căng thẳng do nghe cha Hải giải thích chợt cười thoải mái vì câu trả lời có vẻ ngây ngô nhưng hiện thực, lại khác với ý nghĩ ai cũng biết bởi cho rằng vì nhà đám hết rượu đang giữa tiệc cưới.
              - Thưa cha, Tình giơ tay, con nghĩ vì các môn đồ của Ngài là dân chài lưới quen ăn đầu sóng, nói đầu gió, nên bất kể, uống hết rượu, và Chúa Giê su biết được bởi ngồi cùng bàn nên do e bẽ mặt vì mấy tên đệ tử ham ăn ham uống, Ngài phải biến nước thành rượu.
              - Con đồng ý với Tình bởi theo Phúc Âm, lúc ấy Chúa Giê su bực với mấy môn đồ quá mà Đức Mẹ lại nói nhà đám hết rượu nên Ngài trả lời ngang ngang cà bứa vì thẹn, “Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì” (Gioan 2:4). Nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước 1994 nói tránh đi nên viết, "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con?” Bá hùa theo.
              Mấy ông trùm ngớ ra, sao họ dám đem cả Lời Chúa ra mổ xẻ, diễu cợt, mà chẳng thấy cha nói gì, coi chừng lại có vẻ cổ võ nữa. Đồng ý rằng ai thì cũng đang ngà ngà, say say nhưng say sao cái nhà ông ngoại đạo lại biết về Phúc Âm rành hơn mình mà lại còn bênh mình khi lỡ cơ nữa. Ông trùm này nhìn ông trùm kia hội ý nhưng cũng không biết nên nghĩ thế nào và nên nói làm sao trong khi thiên hạ, lương cũng như giáo, bất chấp, có cơ hội vui thì cứ vui. Còn cha Hải thì đã có tuổi rồi thế mà karaoke cũng hát, mà hát mùi mẫn nữa. Cái nhà chị Tiến bán phở lại đến đứng kè kè bên chỗ cha ngồi, cúi đầu nói gì không biết ra bộ thân tình lắm giữa đám quân hồi vô phèng mà cũng chẳng thấy ai nói sao.
              - Con cháu thánh Phêrô, nào cùng nâng chai… Đã không nâng thì thôi, nâng một lần là hết một chai. Tình khới xướng và nâng cao chai bia chờ mọi người.
              Bốn ông trùm cũng đành nâng bia uống cạn để những chai bia mới chuyền tới.
              - Nhân nói về kinh sách và nghiệm chứng, cha Hải nói tiếp, nếu nhìn tôn giáo qua quan điểm nhận thức, tôn giáo được coi như phương tiện để con người bày tỏ tâm hồn mình với các đấng linh thiêng tùy theo nhận thức của mỗi người khi họp nhau để thờ phượng. Những lời kinh, lời cầu nguyện tập thể được đại diện bởi vị chủ tế hướng dẫn và nâng tâm hồn người tham dự nếu họ thành tâm, nguyện ý và dồn hết mọi năng lực hòa lòng cùng diễn tiến của việc thờ phượng. Thử đặt mình vào trường hợp đó, sự cầu nguyện bày tỏ ý định và lòng chân thành cộng hưởng tạo nên sức mạnh tâm linh. Anh em nên để ý, nếu không, tốn giờ vô ích; tôi muốn nói, nếu tâm không thành thì may ra tạm có nỗi an bình giả tưởng.
              - Thưa cha, ít nhất, Bá lên tiếng, họ đã có công tham dự.
              - Tham dự bữa tiệc mà không ăn uống gì, thử hỏi chúng ta được gì? Hưng nói.
              - Thưa cha, chính sự hiện diện đã bày tỏ tâm tình của mình với chủ mời. Bá thêm vô.
              - Anh nói về giá trị của tâm tình qua sự hiện diện, vậy tâm tình ở đâu khi tham dự việc thờ phượng mà tâm không thành, ý ở nơi khác. Tôi nhắc lại, khi cầu nguyện tức là sử dụng năng lực nội tại, năng lực sự sống của Thiên Chúa nơi mình được bày tỏ qua ý định, ước muốn. Năng lực nội tại hay năng lực sự sống chính là đức tin, lòng tin. Chúng ta đã nghe anh Thanh minh chứng đức tin qua Phúc Âm. Tôi muốn nhắc lại, chúng ta thường lầm tưởng sự tin tưởng, niềm tin với đức tin. Đức tin là quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực, năng lực sự sống nơi mỗi người. Quan niệm hay cho rằng hoặc nói rằng tin tưởng Chúa nghe lời cầu nguyện của mình khác hẳn sự thể thực sự ước điều mình muốn xảy ra. Phúc Âm ghi rõ lời đức Giê su minh xác, “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được" (Mt. 21:22). “Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu nguyện và xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc. 11:24). Như vậy, chúng ta thấy, quyền lực của lòng tin cũng chính là quyền lực nơi ý định, ước muốn của một người. Anh em đã biết, ý định, ước muốn phát xuất tự linh hồn, Thiên Chúa nội tại, chứ không phải nơi bộ óc. Vì thế, Phúc Âm được ghi, “Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng" (Mt. 5:28). Chính ý định, ước muốn tạo nên một thực thể được gọi là ngoại tình trong lòng. Hơn nữa, Phúc Âm còn được viết, “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt. 5:22). Đã bao giờ anh em để ý câu nói, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Ý định, ước muốn mang quyền lực ràng buộc con người chẳng những khi còn nơi cuộc đời dương thế mà còn kéo dài tới cuộc sống sau này của linh hồn.
              - Thưa cha, chúng con được dạy rằng quyền cầm buộc hay tháo cởi do Chúa Giê su ban cho các tông đồ và những đấng kế vị trong hội thánh. Nếu con không lầm thì cha vừa nói quyền cầm buộc hay tháo cởi điều gì đều ở nơi mọi người.
              - Thường thì sự cầm buộc được hiểu theo hai nghĩa, người khác cầm buộc mình và mình cầm buộc chính mình. Phúc Âm nói về hành trình đức tin nơi mỗi người. Nơi tôn giáo, các vị bản quyền hay thuyết giảng giải thích và lấy quyền đó áp đặt trên tín đồ theo nghĩa tín đồ đã chấp nhận quy luật của tổ chức chẳng khác gì nơi trường hợp chúng ta phải tuân theo luật lệ quốc gia, luật lái xe, mặc dầu chúng ta không đặt ra luật lệ lái xe. Những luật lệ này được đặt ra vì lợi ích nhân sinh, dĩ nhiên, ai không tuân giữ sẽ làm hại đến chính họ và những người khác nên phải được áp đặt một cách mạnh mẽ và hữu hiệu. Xét theo phương diện tâm linh, những gì chúng ta cầm buộc chính là những gì chúng ta theo đuổi, ước muốn. Vì ước muốn, ý định phát xuất từ linh hồn thế nên những gì chúng ta theo đuổi nơi cuộc sống này, khi thân xác qua đi, linh hồn vẫn tiếp tục theo đuổi ước muốn đó. Nhận xét như thế, anh em hiểu rõ ràng hơn trường hợp “Người ước muốn giầu có của cải, danh vọng thế tục thì khó vào Nước Trời hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.” Tôi thử hỏi anh em, nếu mình muốn áp đặt hay cầm buộc sự gì đó trên người khác, họ có bị lệ thuộc sự cầm buộc của mình không? Ngược lại, nếu mình ước muốn làm lụng sao cho có tiền nuôi sống gia đình thì ước muốn này ảnh hưởng mình thế nào anh em biết rõ. Tuy nhiên, đối với một người khác lười lĩnh, nếu mình đặt vấn đề cầm buộc người đó phải chịu khó làm lụng lo lắng cho gia đình thì ước muốn của mình có ảnh hưởng chi đến ông ta không? Thế cho nên, chúng ta có thể suy ra, sự cầm buộc do chính quyền lực của ước muốn, ý định của mình; nói cách khác sự cầm buộc do chính đức tin của mình, quyền lực của Thiên Chúa ngự trị nơi mình.
              - Thưa cha, Thanh lên tiếng, con nhận thấy, đành rằng nhận biết đức tin theo Phúc Âm, nhận biết được quyền lực đức tin được phát biểu qua ước muốn, ý định, nhưng phương cách nào để sử dụng được đức tin thì con chịu thua. Chẳng lẽ ước muốn, ý định của con không công chính, hay còn bí quyết nào nơi Phúc Âm mà con kiếm chưa ra?
              - Hèn chi anh nói mình giống như em bé một hoặc hai tuổi tay cầm credit card nhưng chết khát vì không biết dùng nó để mua sữa. Nói vậy thì cũng có lý nhưng thay vì cầm credit card lại cầm phải lưỡi dao sắc bén thì sao? Anh chị em hãy bình tĩnh nghe tôi nói. Chúng ta có nhà để ở, nghề nghiệp an toàn, không thiếu thực phẩm, quần áo, dày dép, xe cộ, không thiếu thứ gì. Hồi tâm nhận định ai cũng nhận thấy, thực phẩm đối với chúng ta được tạm gọi là dư thừa nhưng làm sao có được bữa ăn ngon lại quá hiếm. Tại sao? Chúng ta quen nấu nướng và làm đồ ăn giỏi là đàng khác nhưng vẫn hiếm có bữa ăn ngon. Xin thưa, vì cuộc sống của chúng ta quá đầy đủ. Cứ thử nhịn ăn một bữa hay một ngày xem ăn có ngon không. Tại sao chúng ta không nhìn thấy cuộc sống mình quá đầy đủ mà chỉ nhìn thấy khó mà có được bữa ăn ngon miệng? Lẽ thường, “Nhàn cư vi bất thiện,” nhưng “Bần cùng lại sinh đạo tặc.” Chúng ta không bần cùng và chắc chắn với tâm ngay chúng ta không phải là đạo tặc, nhưng vì có đầy đủ quá chúng ta rơi vào cảnh bất thiện, chạy theo ước muốn, bị cầm buộc bởi ước muốn, coi chừng không biết mình muốn gì nhưng vẫn ước, vẫn muốn. Nơi Phúc Âm có câu nói thoạt nghe rất nghịch thường, "Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc. 19:26). Anh em nghĩ sao? Có phải tại mình thiếu thực chứng nên không nhận thực được đức tin nơi mình dẫu mình đã nghiệm chứng qua Phúc Âm đồng thời cũng minh chứng được quyền lực của đức tin theo những gì đã được ghi trong đó?
              - Thưa cha, Tình giơ tay, dẫu biết được, nghiệm được đức tin là gì nhưng đó chỉ là cái biết ngoài da cũng như đứa trẻ biết trong tủ lạnh có sữa nhưng không lấy ra được mà uống thì cũng chỉ chết khát. Biết đức tin mà không sử dụng được, không thực hành, thực nghiệm được chẳng khác gì như cha nói, ngồi trước bàn tiệc mà không ăn, đói vẫn hoàn đói. Con dám bảo đảm với cha, mọi người đang hiện diện nơi đây, lúc này, chắc chắn biết được đức tin là gì, thế nào, nhưng ai cũng vậy, chẳng thể nào dùng đức tin nơi mình, dùng quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu, quyền lực của Chúa nơi mình để thực hiện được bất cứ chuyện gì. Như thế, chẳng khác gì dân chúng thời bấy giờ nghe Chúa Giê su rao giảng và rồi cũng chẳng đi đến đâu. Nhiều lần con nghe các cha giảng, đức tin không có việc làm, hoặc là thiếu việc làm là đức tin chết. Nhưng sao nó mang nghĩa đóng góp công sức, tiền bạc mà thôi. Xét thế cũng giống như cha đã nói, ông nói gà, bà nói thóc; con có thể nói mà không sợ ngượng miệng; giảng dạy Lời Chúa theo kiểu đó chỉ là lạm dụng. Con cũng cảm thấy nhức nhối gì đó nơi tâm tư vì không sử dụng được đức tin nơi mình, có thể giống như anh Thanh. Như cha vừa nhắc tới câu Phúc Âm, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật, còn ai không có thì dù có ít cũng bị lấy mất.” Con nghĩ, nhận biết đức tin mà không biết cách nào sử dụng dẫu không bị lấy mất thì cũng kể như không có. Như vậy, tại sao Phúc Âm còn có vẻ thách đố, “Kẻ tin vào Ta thì mọi việc ta đã làm, kẻ ấy cũng sẽ làm được và còn làm được những điều lớn lao hơn nữa” (Gioan 14:12). Lời Chúa dồn chúng con tới đường cùng. Không biết thì thoải mái ăn nhậu, càng biết càng cảm thấy gần tới cửa hỏa ngục. Mặc dầu con không sợ hỏa ngục bởi Chúa ở trong con, Chúa phạt con thì Chúa phạt ai! Nhưng chính vì thế mà cứ phải đeo đẳng nỗi ấm ức hại người, mất vui. Phỏng còn cái hỏa ngục nào tệ hại hơn nỗi dằn vặt tâm tư.
               
              Tiếng vỗ tay lại bùng lên, ai nấy mặt mày tươi rói vì cảm thấy thỏa dạ bởi đã có người nói lên được tâm trạng của mình. Bia tiếp tục cạn; bia cạn, bia lại tiếp tục được chuyền tới. Con nhà Tình hôm nay sao nói hay đến thế! Hay nức lòng người.
              - Hoan hô, Bá la lớn, thưởng cho hắn một chai, nào mời mọi người cùng nâng chai!
              Cha Hải nhìn mọi người vui vẻ cũng vui lây. Thánh Thần phải làm việc như vậy chứ, nếu không, câu nói nghi ngờ lòng tin trên mặt đất vẫn luôn thách đố dân Chúa. Đợi dăm ba phút, ngài giơ tay ra dấu im lặng.
              - Mọi người vừa nghe anh Tình nói hay không?
              - Thưa hay. Cả bọn đồng thanh thưa với những khuôn mặt rạng rỡ, vui vẻ.
              - Thế nhưng, cha Hải nói tiếp, hay trật! Hay theo quan niệm hữu vi, thế tục.
              Ai nấy chợt giật mình ngỡ ngàng, chú ý lắng tai nghe.
              - Chúng ta đã bị tiêm nhiễm quan niệm hữu vi, thực hiện được một cái gì mới là làm được gì. Như vậy, chúng ta chưa hiểu đạo vô vi nơi Lão học, chưa hiểu ý nghĩa về hành động của Brahma, Thượng Đế nơi Ấn học. Tôi hỏi anh em, mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là gì nếu không chỉ là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Biết như thế, thử hỏi câu, “Kẻ tin vào Ta thì mọi việc ta đã làm, kẻ ấy cũng sẽ làm được và còn làm được những điều lớn lao hơn nữa” (Gioan 14:12) mang nghĩa gì? Như vậy, nỗi thao thức chính thức phải là mình có rao giảng Tin Mừng Nước Trời hay không? Bất cứ ai đã nghiệm chứng Phúc Âm, đều có bổn phận rao giảng Tin Mừng Nước Trời; và chắc chắn, ai trong chúng ta cũng có thể rao giảng Tin Mừng như đức Giê su đã làm. Thử nghiệm lại ý nghĩa câu, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật, còn ai không có thì dù có ít cũng bị lấy mất.” Càng thực hành thì càng rành việc. Càng thực hiện rao giảng Tin Mừng thì bất cứ nơi nào, lúc nào cũng rao giảng được, ngay cả khi ở một mình. Nghiệm chứng không phải là phương pháp tuyệt vời nhất để rao giảng cho chính mình sao? Phúc Âm nói, “Hãy tỉnh thức” là thế. Có điều, anh chị em nên lưu ý; người Mỹ có thành ngữ, “ Don’t use it, you loose it,” nhưng đồng thời lại cũng có câu, “You use it, you abuse it;” Không sử dụng sẽ bị mất nhưng sử dụng coi chừng lạm dụng. Sự khôn ngoan luôn luôn dồn chúng ta tới đường cùng; thế nên muốn được khôn ngoan, chúng ta phải luôn tỉnh thức. Biết đức tin, biết Tin Mừng mà không thực nghiệm trong đời sống, không thực sự rao giảng bằng cuộc đời mình thì mất đức tin là cái chắc, mất ngay bây giờ, lúc này, đâu cần phải đợi lúc xuống hỏa ngục mới mất. Vậy Tin Mừng Nước Trời là gì theo Phúc Âm? Đã ai nghiệm chứng chưa?
               
              Thế là mọi người ngớ ra!
              - Dạ nghiệm rồi, nhưng thưa cha, chưa ngộ ạ! Sỹ nhanh nhẩu trả lời.
              - Ngộ là thế nào? Cha Hải tiếp tục, biết được chanh thì chua nên khi nhìn thấy trái chanh hay miếng chanh đã cắt sẵn, nước miếng ứa ra đâu phải là ngộ vì có nhìn thấy cả núi chanh mình cũng không bị chua.
              - Thưa cha, nhưng ăn cả núi chanh sẽ bị ngộ độc.
              - Đúng, ngộ độc cũng là ngộ; thế nên vì không làm được những chuyện như được viết nơi các dụ ngôn, chúng ta cảm thấy không có đức tin chứ gì? Sai, sai, sai, sai hoàn toàn, bởi chúng ta vẫn bo bo giữ quan niệm hữu vi; nói cách khác, quan niệm hữu vi tựa cặp kính màu khiến nhìn bất cứ sự vật gì cũng bị lệ thuộc màu sắc của cặp kính. Nhìn lại bản thân, cái miệng nói được, cặp tai còn nghe được, mắt nhìn được, còn suy nghĩ được, tim vẫn tiếp tục đập dẫu khi ngủ quên cả thân mình không là những phép lạ thì là thứ gì? Người mù được chữa lành có thể nhìn thấy thì được coi là phép lạ vậy chúng ta đang nhìn được chẳng lẽ đùng một cái không nhìn được mới là phép lạ? Anh em đã thấy dụ ngôn nói người mù được sáng nói về việc gì nơi mình chưa? Đã ai nghe câu nói, “Có mắt mà như mù” bao giờ chưa? Bởi vậy Phúc Âm nói đến điều kiện tâm trí chúng ta sẽ bàn luận sau. Làm ơn, nghe dại tôi, hãy mở con mắt linh hồn ra mà nhìn, hãy vất tất cả những cặp kiếng màu sắc vô hình để nhìn cho rõ mà nghiệm chứng. Đâu phải vô lý mà câu nói coi bộ ngớ ngẩn đã hơn hai ngàn năm vẫn đứng vững nơi Phúc Âm, “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ.” Hãy động não đừng ngại suy nghĩ sai. Nói rằng sợ suy nghĩ sai lầm chỉ là lười lĩnh suy tư. Nói rằng không đủ khả năng để suy nghĩ tất nhiên chứng tỏ một tâm hồn giả đò ngu xuẩn. Tôi nói giả đò ngu xuẩn bởi không muốn suy nghĩ và vì suy nghĩ rất khó, đòi hỏi nhiều điều kiện như học thức, nhận biết về chính mình, và phải thường xuyên tỉnh thức nhận định. Chẳng lạ gì có câu nói, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra,” mà gốc gác của ngu dốt lại là không suy nghĩ, là thực trạng khinh chê hồng ân được sinh ra làm người. Anh em biết câu nói khá nghịch thường của Đạt Ma sư tổ, “Chỉ có một tội độc nhất là tội vô minh vì tội này cầm giữ con người luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thể thoát ra được.” Cho nên có thể nói, sự cứu độ chính là kích thích, thách đố, và giúp con người giải thoát khỏi vòng vô mình. Điều này có nghĩa giúp con người suy nghĩ để nhận thức.
              - Thưa cha, chúng con suy nghĩ nhiều lắm chứ, lúc nào cũng suy nghĩ, bộ óc luôn luôn làm việc cả ngay khi đang ngủ nữa mà. Sỹ lên tiếng.
              - Ai nói bộ óc anh suy nghĩ? Anh tự thấy vậy hay sách vở nào nói vậy? Nói lộn, cho nói lại.
              - Con cảm ơn cha; cha nói đúng, tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra. Phạt, phạt một chai, Sỹ dốc chai bia làm một hơi.
              - Thưa cha, ông trùm Phong lên tiếng, chúng con được dạy phải tin với giáo hội thì suy nghĩ thế nào?
              - Vậy ông nghĩ giáo hội là gì?
              - Thưa cha, giáo hội bao gồm giáo hoàng, các hồng y, giám mục, linh mục.
              - Tôi đồng ý các vị ấy thuộc về giáo hội Công giáo nhưng nếu không lầm, ông chưa đọc Công Đồng Vatican II hoặc chưa được nghe giảng về giáo hội. Công Đồng Vatican II định nghĩa giáo hội là dân Chúa. Ai không là dân Chúa? Ai không có sự sống, quyền lực hiện hữu nơi mình. Nếu hiểu giáo hội đúng nghĩa như thế, những chiều hướng tư tưởng, quan niệm khác biệt cần phải được nhận định cho đúng đắn. Nói cho dễ hiểu, một Thiên Chúa hoạt động nơi đức Giê su cũng chính là Thiên Chúa đang hoạt động nơi ông, nơi tôi, nơi mọi người. Nói rằng phải tin với giáo hội là tin thể nào trong khi giáo hội chính là mọi người không cần biết họ tin tưởng ra sao. Coi chừng nói như thế để che lấp sự ngu dốt căn bản, gốc gác của mọi tội lỗi đó là thực trạng không suy nghĩ.
              - Thưa cha, anh Linh, người mới tham dự giơ tay, cha nói như vậy chẳng lẽ xưa nay chúng con được dạy dỗ sai lầm?
              - Anh nói đúng. Tất cả những gì anh đã được dạy dỗ xưa nay xét dưới quan niệm tâm linh đều hoàn toàn sai lầm. Cha Hải giơ tay, đừng vội cho rằng tôi nói ngang hay nói sai. Vừa rồi anh Sỹ nói bộ óc luôn luôn suy nghĩ đã thực sự sai thì quan niệm Phúc Âm theo nghĩa từ chương sao có thể đúng mà không sai. Tin theo đức Giê su, tất cả mọi sự phải được nhận thức theo Phúc Âm và phải được nghiệm chứng bởi chính mình. Ca tụng bữa cơm ngon mà không ăn thì vẫn đói; nghe giải thích chỉ giúp mình nghiệm chứng chứ không ai có thể giãi bày cho mình thức ngộ được. Thí dụ, anh không thể nào giải thích lòng thương yêu của anh đối với vợ con để mọi người đang hiện diên nơi đây, hay ít nhất chỉ một người, ngoại trừ anh, có thể yêu thương vợ con anh như chính anh thì cũng không ai có thể giải thích nghiệm chứng Phúc Âm để cho anh thức ngộ được. Anh không nhớ lúc nãy, anh Sỹ nói, nghiệm nhưng chưa ngộ hay sao? Tất cả những sự giải thích, giảng giải chỉ là phương tiện cho chúng ta so sánh hay tham luận để thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Đó là những cái biết của người khác, không phải cái biết của mình. Tôi nghĩ, anh đã hiểu tại sao tôi nói giảng giải, giải thích, luôn luôn sai lầm. Đúng đối với họ vì họ nghiệm chứng, sai đối với mình vì cái biết của họ không phải là cái biết của mình. Họ ăn; mình không no.
              - Thưa cha, ông trùm Phong lên tiếng, bây giờ thì con có thể hiểu được câu nói, ý kiến không đúng, không sai. Con không ngờ câu nói đơn sơ không hợp lý chút nào mà có nghĩa thâm trầm như thế. Cha nói đúng, hiểu được thì hiểu nhưng con không thể nào giải thích tại sao không đúng, không sai hay nó có ý nghĩa nào đối với con. Thế ra, đã bao lâu nay con cũng đã chẳng biết đức tin là gì, tin Chúa là như thế nào, và muôn vàn thứ khác nữa. Cảm ơn cha và quý vị đã giúp con đui mù nay được thấy. Con xin hết.
              - Tôi hỏi ông thêm một câu, lời Phúc Âm nói, “Cho kẻ mù được thấy,” ông hiểu thế nào?
              - Thưa cha, nhưng con vẫn còn bị mù. Ông trùm Phong nhẹ nhàng trả lời khiến nhiều người ngạc nhiên.
              - Nói hay, thưởng một chai bia, Tình nâng chai lên giọng.
              - Thưởng gì kỳ cục, vợ Tình nói chồng.
              - Anh Tình, anh đề nghị thưởng có lẽ anh nên giải thích lý do.
              - Thưa cha, ông trùm Phong đã không biết đức tin là gì dẫu theo đạo cả đời mà vẫn cố thủ tham gia giúp cộng đồng họ đạo, đáng thưởng một chai. Ông trùm dám nói lên nhận thức thực sự về mình không e ngại sai lầm hay tai tiếng, đáng thuởng thêm một chai, vị chi hai chai. Ông trùm cũng nhận ra không giải thích được cái đúng, cái hay của câu nói ngang ngược do bác Tài xúi dại, đáng thưởng một chai, vị chi ba chai. Ông trùm nhận biết mình mù trong khi còn đang sáng mắt, đáng thưởng một chai, vị chi bốn chai. Sự thể đáng thưởng bốn chai, con đề nghị thưởng mới có một, vẫn còn thiếu ba chai.
              - Thưa cha, Thanh lên tiếng, thưởng thêm cho Tình một chai cho đủ cấp số ngũ hành của bộ lòng ruột. Nào mời mọi người, nâng chai.
              - Anh Thanh có thể giải thích tại sao thưởng anh Tình một chai không?
              - Thưa cha, hắn ngộ câu nói của ông trùm, vẫn còn bị mù.
              - Như vậy, tôi nghĩ mọi người đã ít ra là nhận thức được câu Phúc Âm, “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc. 4:18).
              - Ông trùm Phong, ông thấy thế nào?
              - Thưa cha, con thích lắm nhưng không giải thích được tại sao thích. chỉ biết lòng dạ thơ thới, không cảm thấy e sợ bất cứ gì, và người con nó cứ như bay bổng.
              - Ông cảm thấy câu, “Loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ra sao?
              - Thưa cha, con nghĩ, dù tiền của có đến bao nhiêu mà không nhận biết đức tin thì cũng quá nghèo.
              - Ai có ý kiến gì về nghèo hèn?
              - Thưa cha, nơi Phúc Âm tiếng Anh có câu nói nhắc tới chữ “Poor in spirit,” nơi cuốn sách đó ghi chú là “Single minded,” nghĩa là người chỉ chăm chăm chú chú tìm kiếm.
              - Anh nói đúng, mặc dầu Phúc Âm thường nhắc tới hoàn cảnh nghèo khổ vật chất hoặc thân xác bất toàn, nhưng những câu truyện đó chính là những dụ ngôn không có thật được dùng như phương tiện ám định khuyến khích nhận thức mà thôi. Chẳng hạn ông trùm Phong vừa trả lời vẫn còn “Đui mù” trong khi mắt vẫn còn thấy sự vật, và “Quá nghèo” khi ông nhắc tới người có nhiều tiền của. Phúc Âm không nói đến việc giải quyết những chuyện thế tục; thế nên câu,“Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!" (Gioan 9:39) trở thành thách đố cho mọi người nơi hành trình tâm linh. Những người huênh hoang về học thức kinh viện thường hay né tránh giải thích câu này.
              - Thưa cha tại sao? Sỹ hỏi.
              - Tại đầu óc họ thông thái và luôn luôn suy nghĩ. Ngài mỉm cười giải thích.
              - Phải phạt. Đầu óc còn có thể suy nghĩ thì phải phạt. Anh cả tính giải quyết sao đây. Tình nói lớn.
              - Bạn bè với ông chẳng khác gì nuôi o­ng tay áo. Người ta bảo chị ngã em nâng, đàng này ông đạp.
              - Bạn bè tốt là khi thấy té thì đỡ chứ không phải đợi lúc mình tắt thở rồi mới đốt nhang. Ông chưa tắt thở nên tôi tỉnh thức; miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời; từ nay chừa thói quen chưa suy đã nói. Tình trả lời.
              - Thưa cha, chẳng ít thì nhiều cho tới thời điểm này, anh em chúng con cũng thức ngộ được đôi chút. Thế nên, con nghĩ nên tự giác đỡ phải bầu bán hoặc phạt hay tha.
              - Được rồi, tôi chịu phạt, lần tới họp tại nhà tôi. Sỹ cao giọng, quay sang hỏi Tình, mấy con cờ nhỏ bên nhà ông họ đã bán hết chưa?
              - Chưa đâu, ai mà dám rước của nợ ấy vào thời buổi gạo châu củi quế này.
              - Để tôi. Sỹ nói nhỏ.
              Tiếng vỗ tay lại ầm lên. Bia lại cạn, ồn ào không giảm chút nào đối với nhóm nhậu trong khi hai, ba người nhìn Sỹ gật gật đầu lúc nghe thấy hai tiếng cờ nhỏ.
              - Chúng ta đều biết câu nói, “Cuộc sống giống như lái một chiếc xe đạp, để giữ thăng bằng thì phải luôn di chuyển” (Albert Einstein). Nơi hành trình tâm linh cũng thế cần luôn tỉnh táo bởi những sự khôn ngoan, những việc xảy đến quanh ta đều là cơ hội thức ngộ. Hôm nay tạm dừng nơi đây, lần tới, chúng ta sẽ bàn luận về Thiên Chúa của đức Giê su. Có ai còn thắc mắc gì nữa không? Cha Hải nói.
              - Thưa cha, ông trùm Phong lên tiếng, nói rằng Chúa Giê su đến để cứu loài người thoát khỏi vòng tội lỗi, vậy những người không bao giờ nghe biết Chúa thì sao?
              - Để tôi hỏi ngược lại ông một câu, vậy những người cố gắng không phạm tội có phải là từ chối ơn cứu độ? Tuy thế, nói vậy nhưng không phải vậy! Thiển nghĩ, anh em hãy để một tuần suy nghĩ về câu của ông trùm hỏi. Lần tới xem ý kiến của anh chị em thế nào. Chúc mọi người một đêm an bình.
               
              MBVN 24
               
              Màn ăn nhậu tối nay quả là xôm tụ, có những bốn ông trùm, thêm Linh và một người nữa thuộc ca đoàn. Riêng đối với Linh, cỡ chừng 42, 43 tuổi, có bằng cử nhân vi tính (computer), có công việc vững chắc tại sòng bài, tham gia ca đoàn, anh cảm thấy lòng ruột luôn luôn áy náy vì câu hỏi của cha Hải, “Vậy những người cố gắng không phạm tội có phải là từ chối ơn cứu độ?” Sống nơi đất nước mà nền kỹ thuật tân tiến, chỉ cần thử chút xíu tóc người ta đã có thể biết mình “Dope” hay không. Có người bị ho, đi bác sĩ được cho uống thuốc đặc biệt trị ho. Dầu đã được nhận làm việc hơn một tháng, vì sòng bài mới mở cửa hoạt động chưa có đủ thời giờ kiểm chứng sức khỏe, văn phòng gọi lên đình chỉ công việc ngay lập tức bởi qua thử nghiệm tóc, kết quả cho biết trong tóc có chứa chất nhựa cây thuốc phiện. Người đó phải về gặp bác sĩ xin giấy chứng nhận đã được cho toa uống loại thuốc trị ho đặc biệt có chứa chất đó ba tháng trước. Đi làm công sở, lương lậu được tách thuế trước khi trả cho nhân viên. Sáng tới sở làm, chiều về lo cho con cái, dọn dẹp nhà cửa, cắt cỏ, sửa sang những chỗ hư hỏng lặt vặt từ hàng rào tới cửa bếp, ống nước, ống tiêu nếu bị trục trặc. Ăn được miếng cơm thì đã 7 hoặc 8 giờ tối và lại phải chăm sóc con cái học hành, 9, 10 giờ mới được lên giường, và 5 giờ sáng đã phải thức dậy thúc giục con cái chuẩn bị ăn sáng và chở con tới trường rồi vô sở làm thì còn giây phút nào ngơi nghỉ mà phạm tội, Linh tự đặt vấn đề. Thế mà chính ý nghĩ này lại rơi vào câu hỏi nghịch thường cha Hải đặt ra khiến suốt tuần anh cứ bối rối chẳng biết giải quyết ra sao. Trong khi người người hít hà rôm rả với những món cờ tây nướng, lòng, luộc, rượu mận ăn với bún, bia, rượu thi đua chui vào bụng dạ nhóm nhậu, thì lòng ruột anh cứ chờ chực mong sao sớm đến giờ hội thảo may ra kiếm được câu trả lời cho yên ổn tâm tư. Mà sao mấy người coi bộ vô tư đến thế, ăn uống đã phè phỡn rồi lại còn karaoke, người lên hát, kẻ khen hay chừng như chẳng có gì đáng cho họ ưu tư, lo lắng. Linh cũng không thể nào hiểu được mấy người lớn tuổi này; miệng môi quá quắt, có thể nói bán trời không văn tự, bất cứ gì cũng trở thành đề tài bàn luận, không kiêng nể bất cứ thần thánh nào nhưng lại trang trọng tỏ lòng chấp nhận lầm lỗi mỗi khi lỡ miệng hoặc khuất phục một vài lý lẽ rất thường tình xưa nay mọi người mặc nhiên chấp nhận; ngược lại đôi khi có ai nêu lên quan điểm bình thường nhưng không hợp lý hợp tình nào đó thì họ lại dùng lý lẽ đả phá tới mức tối đa khiến người dám bênh vực cho lẽ thường tình ấy tối tăm mắt mũi không biết lối nào mà trả lời.
               
              Và rồi màn ăn nhậu, hát hỏng cũng qua, cha Hải mở màn với câu hỏi,
              - Sao, chúng ta bắt đầu cuộc hội thoại với điểm nào, hoặc ai có khúc mắc hay ý kiến gì xin mời nêu lên cho mọi người chứng giám!
              - Thưa cha, Linh chộp vội cơ hội lên tiếng, lần trước cha đặt vấn đề nếu cố gắng sống tốt lành, tránh các dịp lỗi lầm thì có phải là từ chối ơn cứu độ của Chúa không? Cả tuần nay con cứ bối rối vì như cuộc đời con lúc này, dẫu muốn phạm tội cũng không có cơ hội, nhưng con đâu bao giờ có ý nghĩ coi thường hoặc từ chối ơn cứu độ của Chúa. Chẳng lẽ không có cơ hội phạm tội cũng phải cố kiếm cách phạm thì mới có tội để được Chúa cứu, bởi trong Phúc Âm con đọc được câu, “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc. 5:32) khi những người Pharisiêu và những kinh sư chê trách đức Giê su rằng ăn uống với người tội lỗi. Thưa cha, cố gắng sống tốt lành, tránh lầm lỗi thì bị cho rằng coi thường hoặc chối bỏ ơn cứu độ và cho dù không có cơ hội phạm tội cũng vẫn được khuyên nên sống tốt lành như các cha giảng dạy nơi nhà thờ. Chẳng lẽ các cha cũng khuyên giáo dân chối bỏ ơn cứu độ của Chúa?
              - Con cũng có nhận định như thế, Sỹ nói tiếp, hơn nữa, nhà con có bà chủ cũng luôn luôn canh giữ con để ép con phải từ chối ơn cứu độ.
              - Tôi ép ông bao giờ; già rồi mà còn không nên nết, ăn nói bậy bạ. Vợ Sỹ nói.
              - Bà không ép tôi hả? Nào là cứ lải nhải xúi tôi phải ăn mặc đàng hoàng tỏ vẻ ta đây giàu có để khó vào được nước thiên đàng, nào là mới liếc qua cái mụ xồn xồn nào đó khen người ta đẹp đã vội cấu tôi đau điếng lúc lái xe, lỡ gây tai nạn thì chỉ lên thiên đàng sớm, nào là nhậu say cũng bị lôi đầu dậy đi nhà thờ kẻo mắc tội trọng. Bà ngăn cản tôi phạm tội, xa lánh dịp tội, không là khinh chê ơn cứu độ thì là gì; bộ tôi nói oan lắm sao!
              Cha Hải giơ tay ra hiệu, đoạn hỏi,
              - Thế tội là gì?
              - Thưa cha, ông trùm Lực lên tiếng, tội là làm những việc mất lòng Chúa, lỗi đức yêu thương. Bất cứ những gì lỗi phạm đến mười điều răn của Chúa, và đặc biệt hai điều tổng kết “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự, sau lại yêu thương người ta như mình ta vậy” đều được gọi là tội.
              - Thế những ai đang hiện diện nơi đây nếu lỡ phạm bất cứ điều nào trong mười điều răn có dám giơ tay lên không?
              - Bộ không ai dám giơ tay sao? Tình lớn tiếng.
              - Muốn phạm nhưng không có cơ hội sao mà giơ tay với giơ chân! Sỹ nhà con nói.
              - Lần trước ông trùm Phong hỏi rằng đối với những người không bao giờ được nhận biết Chúa thì ơn cứu độ đối với họ thế nào? Mà bây giờ, anh chị em thấy, chúng ta không phạm bất cứ điều răn nào chẳng lẽ không được nhận lãnh ơn cứu độ? Vậy nói rằng Chúa cứu độ chúng ta thì cứu khỏi chuyện gì. Đồng thời, nói rằng Chúa chết vì tội lỗi của chúng ta mà chúng ta cố tình không phạm tội thì Chúa chết cho chúng ta về chuyện gì? Chẳng lẽ không dám phạm tội cũng là một cái tội để Chúa phải cứu? Cha Hải đặt vấn đề.
              - Thưa cha, cái tội sợ nên không dám, Sỹ lên tiếng.
              - Theo anh Sỹ nói, như vậy chúng ta không dám phạm tội vì sợ. Chúng ta sợ gì?
              - Sợ mất lòng Chúa? Sợ bị phạt. Ông trùm Lực trả lời.
              - Thưa cha, Chúa ở nơi mình như thánh Phao lô nói, “Thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa” (1Cor. 3:16), thì khi mình phạm tội Chúa có phạm tội với mình không? Thanh hỏi.
              - Chúa làm sao phạm tội được! Ông trùm Lực lại lên tiếng.
              - Chúa ở nơi mình nên Chúa hoạt động nơi mình và nếu Chúa không phạm tội sao mình có thể phạm tội? Tình lý luận.
              - Nói thế cũng đúng, Thiên Chúa là đấng toàn hảo (perfect), nghĩa là không thiếu một thứ gì, lại ở nơi mình thì phạm tội với mình đâu có sao! Sỹ đế vô.
               
              Thế là mọi người ngớ ra, chẳng biết đâu mà mò. Lý luận thế nào cũng không xong. Một đàng Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, đàng khác khi người ta phạm tội phỏng Chúa có phạm tội với họ không. Lý luận rằng Chúa không thể phạm tội lại hoạt động nơi con người thì sao con người có tự do để sa ngã. Nói rằng vì có tự do nên con người sa ngã thì giải quyết sao với sự hiện diện của Chúa nơi mình! Thánh Phao lô cũng nói, “Tôi sống nhưng không phải tôi mà là đức Kitô sống trong tôi” (Gal, 2:20); đồng thời nơi thư khác ngài lại tuyên xưng, “Điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính những điều tôi ghét” (Rom. 7:15), hoặc, “Sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành” (Rom. 7:19). Cả một sự đối nghịch không thể hòa giải khiến lòng ruột ai nấy đều cảm thấy như bị dồn vô góc tường không lối thoát. Cha Hải vẫn nhẹ nhàng nói chuyện với cụ Tài chừng như cố ý chờ xem có ai nẩy sinh ý kiến mới.
               
              - Thưa cha, thưa bác, Đạt Ma sư tổ có nói, một vị phật không thể phạm tội được nên làm gì thì cứ làm, giết heo thì cứ giết, mổ bò thì cứ mổ, ăn mặn hay chay không thành vấn đề, trong khi đạo Phật cấm sát sinh. Hưng lên tiếng. Phỏng trong suy tư, sự thức ngộ nơi nhà Phật có liên hệ gì với việc phạm tội bên Phúc Âm?
              - Người đã thức ngộ, nhà Phật được gọi thành phật vì đã kiến tính. Dĩ nhiên kiến tính cũng chính là thực chứng được linh hồn nơi mình, thực chứng được quyền lực tối thượng là Thiên Chúa ngự trị nơi mình.
              - Nhưng sao, thưa bác, ngộ bên nhà Phật thì không thể phạm tội được mà ngộ bên Phúc Âm lại còn phải đối diện với tội lỗi, với cám dỗ, với nỗi sợ phạm tội? Có phải tại mình chưa ngộ được thực thể tội lỗi là gì! Thanh hỏi tiếp cụ Tài.
              - Nói như vậy anh đã trở lại câu hỏi tội lỗi là gì. Bởi nếu muốn biết khi mình phạm tội Thiên Chúa có phạm với mình hay không thì cần phải biết thực thể tội lỗi là gì. Chúng ta vẫn có thói quen chấp nhận những chuyện thường tình mà quên đặt vấn đề. Câu truyện Sáng Thế đã bị hiểu theo nghĩa từ chương nên tội nguyên tổ được tạo dựng. Thử hỏi ai ở đó lúc ông Adong và bà Evà phạm tội để có thể ghi lại được, hay câu truyện Sáng Thế là một dụ ngôn ám định thực thể sự thể nào đó bao quát quan niệm đại chúng nơi hành trình tâm linh, thức ngộ. Bởi đó muốn nghiệm chứng, nói cách khác, muốn giải quyết khúc mắc Thiên Chúa hay Thượng Đế có phạm tội hay không, và tội lỗi là gì, cần phải nghiệm chứng câu truyện Sáng Thế. Cụ Tài giải thích.
              - Thưa bác, Linh lên tiếng, như vậy có phải tội lỗi phát sinh từ ước muốn, ý định nơi mỗi người? Mà ước muốn, ý định phát sinh từ linh hồn, nghĩa là phát sinh từ Thiên Chúa nội tại thì chẳng lẽ tội lỗi từ Thiên Chúa mà ra?
              - Sao anh dám cả gan nói thế, ông trùm Lực đe Linh, tội lỗi sao có thể từ Thiên Chúa mà ra. Bộ anh cứ ăn chơi hoang đàng rồi nói rằng tại Chúa ngự nơi anh bảo anh hoang đàng à?
              - Thưa ông trùm, tôi đâu nói gì, Chúa nói trong tôi chứ tôi đâu có thể nói!
              - Anh không nói chứ vậy cái gì vừa nói.
              - Thưa cái hồn tôi dùng miệng tôi để nói. Mà cái linh hồn của tôi chính là Thiên Chúa trong tôi. Ông trùm hỏi cái gì nói thì đó chính là Chúa nói.
              - Vậy anh là Chúa à? Chúa mà ăn bậy nói bạ như thế sao? Dám nói Chúa phạm tội!
              - Tôi đề nghị anh Linh khoan trả lời, Thanh lên tiếng. Thưa ông trùm, có lẽ Chúa của anh Linh khác với Chúa của ông trùm do đó anh Linh theo luận lý dẫn tới kết quả nên được suy nghĩ lại như thế. Ông trùm tham dự hội luận lần thứ ba nên cũng rõ, chúng ta tôn trọng mọi ý kiến vì ý kiến tự nó không đúng, không sai. Ý kiến được coi là đúng hay sai tùy theo người nhận thức chứ không có ý kiến sai. Đã tự ngàn xưa có câu nói, “Không có học trò ngu mà chỉ có vị thày dốt.” Câu hỏi được nêu lên chính là tội lỗi là gì, và chúng ta chưa gỉải quyết, chưa nhận thức đúng nghĩa của tội lỗi, chúng ta đã vội đặt vấn đề Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người phỏng khi mình phạm tội thì Chúa có phạm tội với mình hay không. Đặt vấn đề như thế, chúng ta đã rơi vào ngõ tối của suy tư vì chúng ta chưa phân định tội lỗi là gì đồng thời cũng chưa phân định Thiên Chúa như thế nào, ra sao, Chúa theo ông trùm quan niệm hay nhận thức khác với quan niệm của anh Linh về Thiên Chúa thế nào. Nếu ông trùm không chấp nhận Chúa phạm tội, ông trùm làm ơn dùng Kinh Thánh hoặc lý lẽ để chứng minh. Anh Linh không nói Chúa phạm tội nhưng cứ theo lý lẽ suy luận bình thường thì sẽ đưa đến kết quả tất nhiên như thế. Tôi nghĩ chúng ta hình như lạc đường trong suy tư hay đã không để ý điểm mấu chốt nào đó nên vẫn cứ luẩn quẩn với Chúa phạm hay không phạm khi mình phạm tội. Bác Tài đề nghị suy nghiệm câu truyện Sáng Thế, vì câu truyện này bị hiểu theo nghĩa từ chương nên kiến tạo tội tổ tông. Con cũng cảm ơn bác đã nhắc nhở, hình như chúng ta vẫn đang quanh quẩn nơi mắt kiếng quan niệm hữu vi. Bởi vậy, tôi đề nghị, chúng ta dành đôi phút dồn hết tâm trí suy nghĩ về câu truyện Sáng Thế may ra nhận thức về tội xem có gì tiến triển chăng. Xin cảm ơn.
               
              - Cái mụ Evà này, cứ xúi người ta phạm tội.
              Mọi người yên lặng suy nghĩ theo đề nghị của Thanh chưa được mấy giây, Sỹ đã lên tiếng khiến mọi người ngỡ ngàng. Số là chị Sỹ định nói nhỏ với chồng trong lúc mọi sự đang yên ắng nên giật giật áo chồng thì bị Sỹ nói toáng lên. Hắn là thế, không chịu nổi sự yên lặng nên kiếm cớ phá đám.
              - Chúa ở nơi bà Evà xúi Chúa ở nơi ông Adong! Tình nhảy vô lên tiếng.
              - Bà không xúi ông không phạm tội; ông thành tiên, bà xuống thế trần. Tùy thêm vô.
              - Bà Evà đâu có xúi, bà mời ông Adong ăn.
              - Vua nghe vợ mất nước, đàn ông nghe đàn bà tan hoang cửa nhà, mất cả hạnh phúc.
              - Đằng sau một người đàn ông thất bại là một người đàn bà xúi dại.
              - Nhưng trước khi ăn, bà ấy ước muốn nên thử vì mới nhìn đã thấy sướng mắt và tin chắc ăn sẽ được tinh khôn (Kn. 3:6).
              - Hèn chi các bà thích làm đẹp, sáng, trưa, chiều gì cũng toàn diện.
              - Cũng chỉ vì Chúa phán, “Người đàn ông ở một mình không tốt” (Kn. 2:18).
              Tội bởi ước muốn, trong lòng mà ra, dục vọng, Thanh thầm nghĩ, vậy Phúc Âm nói gì? Chợt câu Phúc Âm về nơi tâm tưởng, “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục, các ngươi cất đi chì khóa mở đàng hiểu biết, các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13).
              - Thưa bác, Tùy lên tiếng, bác không thuộc về phe phái nào, nam cũng như nữ, không Phật, chẳng Ấn, cũng không Công giáo. Bác nói do lối nhìn từ chương nên đã kiến tạo tội tổ tông nơi câu truyện Sáng Thế. Nhờ bác làm ơn phân tích soi sáng dùm chúng cháu.
              - Có cha Hải hiện diện nơi đây nên tôi không dám múa võ trước cửa Lỗ Ban, nhưng thực ra, cho dù Kytô giáo chấp nhận Cựu Ước dẫu đã được các chuyên viên Kinh Thánh sửa chữa và sắp xếp cho thuận với Tân Ước, nhưng Cựu Ước đã có thế đứng độc tôn của nó nơi thế giới đạo học mấy ngàn năm. So sánh với Lão học, Ấn học, Phật học, vị thế của Cựu Ước không thua kém gì. Phúc Âm bổ xung cho Cựu Ước thêm hoàn hảo chẳng khác gì Trang học bổ xung cho Lão học. Tôi đã nhắc nhở nhiều lần với anh chị em đó là nên đặt mình vào vị thế nào đó của dụ ngôn hay công án để nghiệm chứng, nhưng có lẽ tại tôi quá tôn trọng cảm ứng của anh chị em chăng, nên không muốn áp đặt thành ra ngay lúc này cũng chứng tỏ anh chị em đã coi thường câu nói nơi Phúc Âm, “Hãy tỉnh thức.” Nhìn tổng quát vào Cựu Ước và đặt mình vào vị thế của dân tộc được mệnh danh là dân Do Thái, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về con người của mình. Sự thể tổng quát đầu tiên sau khi đọc xong Cựu Ước ai cũng nhận được đó là nơi tất cả mọi sự kiện, mọi sự việc diễn tiến nơi Cựu Ước đều minh chứng điểm độc nhất, và đó là có một quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật. Dân tộc Do Thái được nhắc đến đại diện cho mỗi người chúng ta. Chúng ta nhận ra dân tộc được gọi là dân Chúa mang tính chất sớm đầu tối phản cũng chính là tính chất nơi mỗi người. Mới được giải thoát khỏi vòng nô lệ của Ai Cập đã vội than vãn, kêu khóc để rồi mơ ước trở lại vòng nô lệ kềm kẹp dưới sự đàn áp của Ai Cập chẳng khác gì con người luôn muốn trở thành nô lệ thú tính thế tục. Khi đã thấy được an toàn thoát khỏi lo sợ kẻ thù đàn áp, dân Chúa đã muốn tuyên dương quyền năng thế tục của mình bằng cách kiến tạo con bò vàng. Thử để tâm nhận định nguyên nhân hay lý do tại sao dân chúng đúc bò vàng được gọi là để thờ, chúng ta sẽ nhận rõ được ẩn ý sự kiện và nó mang ý nghĩa, ta dựng ngươi lên được thì ta cũng có thể hạ bệ ngươi bất cứ lúc nào. Điều này chứng tỏ ngươi phải luôn thần phục ta. Rồi những câu truyện khác, đại khái, nhờ các tiên tri, dân Chúa nhận thức được một chút lại xẩy ra những vị vua ở vị thế tuyệt đối quyền lực kiến tạo tuyệt đối sa đọa. Câu truyện sa ngã được tạo dựng chính là câu truyện của mỗi người và được mệnh danh dân Chúa làm bình phong. Nếu bà Evà không nhìn thấy vẻ bề ngoài ngon ngọt của thứ được gọi trái cấm, và không có ước muốn toàn tri, tạm được đặt nơi miệng con rắn sao bà có thể ăn. Thử tự hỏi chính mình, trái cấm nào không hấp dẫn, thôi thúc chúng ta chiều theo? Ngay ngôn từ được dùng cũng mang ẩn ý khuyến khích suy nghĩ thâm sâu mà thường thì chúng ta không để ý. Một điều khác cũng rất thường tình; đó là khi vừa nuốt khỏi cổ, vừa đạt được sự toàn tri theo ý muốn, bà Evà đã vội đổ tội cho con rắn. Ai trong chúng ta không thế! Chúng ta không dám đối diện với thực thể lòng mình. Đây là ngõ hẹp mà Phúc Âm nhấn mạnh như một điều kiện thiết yếu nơi hành trình tâm linh. Chúng ta cũng coi thường câu nói, đàn bà không bao giờ sai; có lẽ câu này có phần nào ám định về câu truyện Sáng Thế. Evà không bao giờ sai nữa vì không còn cái sai nào, nếu nhìn theo quan điểm hữu vi, có thể mang lại hậu quả lớn hơn cái sai bà đã mắc phải. Nhận định đơn sơ như thế, nơi mỗi người đều chứa đựng bà Evà; mỗi người mang đầy đủ tính chất của bà Evà. Cho nên, nói rằng mọi người đều vướng mắc tội tổ tông thật ra cũng là một lối chạy trốn đối diện chính mình. Thiển nghĩ, phải nói rằng tội tổ tông ở nơi mọi người mà nhà Phật mệnh danh là dục, ước muốn những tham vọng thế tục, và không dám đối diện với chính mình. Ngưng vài giây, cụ Tài thêm, để bổ xung cho dễ dàng nhận thức về tội, chúng ta cần nghiệm chứng thêm ở Phúc Âm.
              - Con xin cảm ơn bác. Nếu nhận thức câu truyện Sáng Thế như vậy, cháu thấy mới có thể tìm nơi Phúc Âm những nhận định về tội lỗi. Và nếu cháu không lầm thì tội nặng nhất nơi Phúc Âm lại là không chịu nghiệm chứng để nhận thức Tin Mừng Nước Trời và cũng do sự thiếu sót này mà những người nơi vị thế rao giảng trở thành kẻ ngăn trở nếu không muốn nói là cấm đoán người khác thức ngộ.
              - Anh có thể dùng câu Phúc Âm nào để minh chứng? Cha Hải hỏi.
              - Thưa cha, nơi Phúc Âm có câu, “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết, các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13).
              - Câu này chỉ riêng về trường hợp những người rao giảng không chịu nghiệm chứng mà giảng giải Phúc Âm theo nghĩa từ chương. Xét về ý nghĩa tội là gì, Phúc Âm nói đến khá nhiều nhưng thường thì được đặt chung với quyền lực của ý định, ước muốn. Cha Hải nhắc nhở.
              - Thưa cha, sao cha không giải thích cho chúng con biết? Vợ Sỹ lên tiếng.
              - Tôi đã giải thích lần trước; đó là tôi sẽ không giải thích Phúc Âm mà thách đố anh chị em nghiệm chứng Phúc Âm, bởi vì sự giải thích dẫu là phương tiện cho anh em thức ngộ nhưng lại thường ngăn cản sự thức ngộ của mọi người. Nói như thế, tôi nghĩ, anh chị em phần nào hiểu, tôi muốn nói chỉ hiểu câu Phúc Âm anh Thanh vừa nhắc tới, “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết, các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản.” Thử hỏi, nếu ai đã nghiệm chứng hoặc thực chứng được câu Phúc Âm này có dám huênh hoang về giảng giải Lời Chúa nữa hay không. Lời Chúa không phải được viết để hiểu mà để nghiệm, để thực chứng, biến Lời Chúa thành tâm tư, thái độ nơi cuộc sống của mình.
              - Thưa cha, chị Tình phát biểu, đầu óc chúng con lu bu, tối tăm, nghĩ được chỗ nọ thì quên mất chỗ kia thì sao mà nghiệm phương chi là thực chứng, thực hành!
              - Phúc Âm có câu, cha Hải trả lời, “Phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc. 19:26), chị có nhớ câu ấy không?
              - Nhớ chứ cha, nhưng sao đã có lại còn được cho thêm trong khi kẻ không có lại bị lấy đi, nghe không hợp lý chút nào! Không có thì lấy đi cái gì, chẳng lẽ lấy mạng!
              Giọng miền Nam của chị nghe hiền hòa dễ thương nhưng câu kết khiến mọi người chưng hửng.
              - Đó, nghe rõ chưa, đi làm mà không mang tiền về là khốn khó đó con. Sỹ nói với Tình.
              - Thì tớ đã mấy lần gần bán mạng rồi đó chứ. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận, ai mà không biết lẽ thường này. Tình trổ giọng bi thương.
              Cha Hải cảm thấy vui vui khi nghe giọng ngọt ngào dễ mến của chị Tình, nhưng cũng hơi ngạc nhiên vì qua lời nói chân thành, nhẹ nhàng mang đầy vẻ cương quyết lại dẫn đến câu kết gọn gàng không ai ngờ tới. Ngài nhẹ nhàng giải thích,
              - “Phàm ai đã có” ở đây mang nghĩa ai càng thực tập nghiệm chứng, càng ngày càng quen suy nghiệm. Thế nên người nào không chịu khó suy nghĩ thì càng ngày càng chẳng suy nghĩ được gì. Thí dụ, chị mổ cá để phơi khô, càng mổ nhiều cá bao nhiêu, chị làm càng thành thuộc bấy nhiêu. Nếu tôi mà mổ cá để phơi, có lẽ chỉ làm cá nát bấy, ăn cũng không được phương chi phơi. Nói như thế chị hiểu rồi chứ.
              - Cảm ơn cha, hèn chi mấy cái ông này quen thói ăn nói tào lao, con thấy chẳng đâu vào đâu.
              - Dẫu các ông ấy nói không đâu vào đâu thì cũng là cơ hội cho mình đặt vấn đề suy nghĩ, và nếu các ông ấy nói sai, mình biết được điều đúng nhờ câu nói sai; nếu các ông ấy nói khó hiểu cũng đều là cơ hội cho mình thực nghiệm suy nghĩ. Lâu dần thành quen hợp với câu nói “Phàm ai có thì được cho thêm.” Tất cả mọi sự chẳng hạn nghiệm chứng, suy nghiệm, thực chứng nơi hành trình tâm linh đều đặt trên căn bản suy nghĩ, suy tư và không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình cũng khỏng ai có thể giải thích để mình thức ngộ. Suy nghĩ là bước đầu tiên và cũng là bước cuối cùng. Chúng ta thường nghe câu nói, dẫu cuộc hành trình vạn dặm thì cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Suy nghĩ để nhận thức cũng thế; bây giờ, tôi xin mời anh em nào dùng Phúc Âm để nghiệm chứng về tội lỗi.
               
              - Thưa cha, Tùy con lên tiếng, trong Phúc Âm có câu, "Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha” (Lc. 12:10), thưa cha, tội phạm đến Thánh Thần là thế nào mà chẳng được tha?
              - Anh có biết Thánh Thần ở đâu không mà có thể phạm?
              - Thưa cha, Thiên Chúa ở đâu thì Thánh Thần ở đó, tuy ba mà một, tuy một mà ba. Tùy trả lời. Thiên Chúa ở nơi mỗi người thì Thánh Thần cũng ở nơi mỗi người. Thánh Thần đã ở nơi mình mà nói phạm đến Thánh Thần chẳng lẽ ai khùng mà tự nói phạm đến mình ngoại trừ trường hợp tự tử.
              - Thánh Thần ở nơi anh vậy hoạt động của Thánh Thần theo anh nghĩ là gì?
              - Thưa cha, chẳng lẽ là ước muốn, ước mơ, khả năng tinh thần, suy tư, suy nghiệm. Nhưng nếu như thế sao lại gọi là “Nói phạm?” Chẳng lẽ con đì chính con?
              - Nào, mời các hành giả thử hành thiền. Cha Hải thách đố.
              - Thưa cha, Thanh lên tiếng, có lần con đã tự hỏi tội nói phạm đến Thánh Thần là tội gì nhưng không cách nào suy nghĩ được. Con lật cuốn New American Bible thì câu này được dùng động tự “Blaspheme,” thông thường nghĩa của động từ này cũng là phạm thượng. Thế nên con phải tra tự điển xem có nghĩa khác không. Một trong những định nghĩa của mệnh đề, “Blasphemy against the Holy Spirit” là “Irreverent or impious action or expressìon in regard to something considered inviolable or sacrosanct.” Thưa cha, theo nghĩa này thì chính là mình khinh thị hồng ân của Thiên Chúa nơi mình.
              - Khinh thị hồng ân của Chúa là thế nào? Cha Hải hỏi.
              - Thưa cha, theo con nghĩ thì đó là mình không nhận biết hay nói đúng hơn mình không sử dụng hồng ân nơi mình.
              - Anh có nghĩ được nó có nghĩa bao gồm cả hai không? Tôi muốn nói là không nhận biết nên không thể sử dụng hồng ân nơi mình.
              - Thưa cha, có thể như thế vì không nhận biết tất nhiên không thể sử dụng. Nhưng thưa cha, phỏng có thể chỉ nhận biết qua quan điểm thế tục. Thanh đặt vấn đề.
              - Tôi thử nêu lên trường hợp thông thường như vừa rồi chị gì, chị Tình mới nói, đó là đầu óc lu bu, tối tăm, nghĩ được chỗ nọ thì quên mất chỗ kia thì sao mà nghiệm phương chi là thực chứng, thực hành! Tôi chỉ nêu lên làm thí dụ chứ không mổ xẻ, phân tích đúng sai phải trái chi hết. Tôi thử đặt vấn đề, nói rằng lu bu sao công việc nhà cửa, con cái, toan tính làm ăn lại rành mạch nếu không muốn nói là sắc sảo, thành công. Sự thể hữu vi này chứng tỏ một bộ óc sáng suốt, cần mẫn toan tính sao cho gia đình êm thấm và cuộc sống vươn lên. Thế nhưng, nếu xét về phương diện tâm linh thì lại rối lung tung, có phải đã chưa bao giờ thử hoặc chưa bao giờ có chút cố gắng để rồi rơi vào tình trạng “Kẻ không có thì dù có ít cũng bị lấy đi.” Tôi nói lấy đi chứ không lấy mạng đâu nha. Như vậy, có thể nói, có khả năng nhưng coi thường bởi thấy không lợi ích gì cho cuộc sống nhân sinh, thế tục. Nói cách khác là khinh thường. Giải thích như thế coi bộ hơi cưỡng ép, nhưng nếu nhận định về sự thể sự việc chúng ta thấy rõ, không suy nghĩ, nghiệm chứng Lời Chúa thì suốt đời ngu muội về nhận thức tâm linh. Ai hoặc Chúa nào có thể giúp người không suy nghiệm nhận thức, và ai có thể nhận thức dùm kẻ không suy nghiệm? Không ăn tất nhiên sẽ đói. Sự đói sao có thể tha bởi đâu ai có thể ăn dùm. Tóm lại tôi muốn nói rằng tội phạm thượng đến Thánh Thần tức là tội không suy nghiệm, không nghiệm chứng, bởi cho rằng mình không có khả năng suy tư. Đọc nơi Phật học, chúng ta thấy chính là tội vô minh.
              - Thưa cha, vậy có thể nói tội phạm đến Thánh Thần là tội vô minh, tội không suy nghĩ về nhận thức tâm linh? Sỹ nhắc lại.
              - Đã biết như thế mà còn nhắc lại, đâu có phải là ngộ!
              - Tớ đâu có nói gì về ngộ, mà tớ chỉ minh xác cho chắc chắn để sử dụng hồng ân nơi mình tránh phạm thượng.
              - Cần gì sử dụng hồng ân, dăm, sáu chai bia thì không muốn sử dụng cũng không biết mình nói gì! Lúc bấy giờ ai mà biết thánh thần hay tà thần lên tiếng, nhưng chắc chắn không phải là ông rồi.
              - Ông nói sao ấy chứ, dẫu rằng cuộc đời không thằng nào sợ thằng này nhưng vợ tớ đang ngồi đó; ông vuốt mặt phải nể mũi chứ! Tớ còn mặt mũi nào mà ra vẻ huênh hoang đây?
              Mọi người nín cười vì con nhà Sỹ tự mang mình ra diễu.
              - Thưa cha, thường thì tội lỗi được cho rằng đó là kết quả của hành động. Tuy nhiên, con thấy nơi Phúc Âm nói lạ lắm, chẳng hạn, "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng..." (Mt. 5:28), hoặc "Phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án" (Mt. 5:22), nếu con không lầm thì hai câu này nói về tội lỗi được gọi là “Để thoả lòng dục” và “Tức giận.” Như vậy, tội lỗi phát xuất tự tâm hồn mình chứ chưa nói đến kết quả của hành động. Nói khác đi, những ước muốn, ý định bất chính, chẳng nên, phát xuất tự tâm hồn được gọi là tội. Mà linh hồn mình chính là Thiên Chúa nội tại! Ah! Con xin lỗi, ước muốn thế tục phát xuất tự tâm hồn được gọi là tội. Vâng, Thiên Chúa không tạo dựng tội lỗi thì tội lỗi chính là sự dùng quyền lực tối thượng nơi mình để kiến tạo ước muốn, ý định bất chính, chẳng nên. Đức tin chính là quyền lực nơi ước muốn, ý định phát xuất từ tâm hồn, nhưng ý định, ước muốn chẳng nên, thế tục lại được coi là tội. Vậy tội là điều trái nghịch với đức tin. Không suy nghiệm để nhận thức đức tin là tội khinh chê hồng ân của Thánh Thần. Như vậy, tất cả mọi sự, Phúc Âm cho là phát xuất tự tâm, thưa cha?
              - Anh nói đúng, Phúc Âm cũng như các đạo học khác được viết ra để dẫn dắt con người nơi hành trình tâm linh. Các đạo học khác chỉ đường dẫn lối nên theo; Phúc Âm chẳng những chỉ dẫn mà còn nói rõ con người là gì. Thích Ca nói, “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật chưa thành.” Phúc Âm chỉ rõ, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Không nhận ra sự cao trọng của thân phận con người coi chừng lại là vách ngăn lớn nhất nơi hành trình thức ngộ.
              - Cha nói sao, Thanh hỏi, Phúc Âm chỉ rõ Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Con thấy xưa nay câu này thường được dùng để nói về sự hiện diện của Chúa Giê su hơn hai ngàn năm trước nơi trái đất này!
              - Chỉ dùng Cựu Ước, và thư thánh Phao lô và nghiệm chứng thực thể linh hồn,  anh chị em đã nghiệm được thực thể Thiên Chúa ngự trị nơi mình nên ước muốn, ý định của mình mang quyền lực tối thượng của Thiên Chúa. Quyền lực này dõi theo hành trình tâm linh thì được gọi là đức tin mà chạy theo dục vọng, ham muốn thế tục thì lại chính là tội. Như vậy, tại sao nghe thấy tôi nói Phúc Âm nói về thực thể Thiên Chúa ở cùng chúng ta anh em lại ngạc nhiên? Tôi đề nghị, anh chị em nên nghiệm chứng câu Phúc Âm, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Nhưng cũng nhớ đừng quên câu, “Ai có tai thì nghe.”
              - Thưa cha, vợ Sỹ giơ tay, sao cha không nói cho gọn, chứ chúng con biết lối nào mà mò, phương chi nói đến nghiệm hoặc chứng!
              - Bu mày đừng có lo, cứ mua bia về để sẵn đấy, tớ sẽ nghiệm cho bu mày thấy. Sỹ lên giọng nói với vợ.
              - Ông có mà nghiện thì giỏi. Nghe ông thì bán thóc giống đi mà ăn!
              - Chưa mất váy hãy còn may mắn. Tớ đâu cần đi cày ruộng, đâm hà bá không lẹ hơn sao?
              - Chị muốn giải thích về chuyện gì? Cha Hải hỏi chị Sỹ.
              - Thưa cha, qua những lần tham dự, con thấy muốn suy nghĩ, nghiệm chứng, cần phải biết sách này nói gì, sách kia nói sao, đại khái những kiến thức mà con đâu đọc những thứ đó sao có thể suy nghĩ!
              - Hành trình nào không bắt đầu bằng một bước chân. Chị không để ý câu Phúc Âm, “Phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc. 19:26). Cơm ăn từng miếng, việc làm từng phần, không thể nào giải quyết mọi sự cùng một lúc. Tôi đề nghị, bắt đầu chị hãy suy nghĩ câu, “Ai có tai thì nghe,” câu này chị không phải kiếm tìm nơi sách vở mà ngay nơi chị. Thoạt tiên tự hỏi mình có tai không, hoặc ai là người mà không được sinh ra với cặp tai. Đoạn lại tự hỏi, tại sao nói có tai thì nghe bởi tai nào không để nghe! Rồi suy nghĩ tiếp, tai có thể tự nó nghe không? Chị đã nhận  biết, khi linh hồn ra khỏi xác thì mọi sự đều đóng lại; điều này chứng tỏ tai chỉ là phương tiện cho cái gì đó nơi mình được gọi là linh hồn nghe. Và như vậy, tại sao lại nói có tai thì nghe! Tôi chỉ nói tới đây, nói thêm sẽ không giúp ích gì cho chị mà coi chừng chỉ làm phiền. Tất cả mọi sự đều ở nơi mình; vì thế nhà Phật nói, tất cả không ngoài tự tính. Lúc này chị không suy nghĩ được nhưng lòng vẫn để ý suy nghĩ tại sao lại nói có tai thì nghe. Đầu óc luôn luôn nghĩ đến câu nói và tìm mọi phương diện có thể chấp nhận được để trả lời. Khi làm việc chẳng hạn nấu nướng, rửa chén, quét nhà, hay giặt giũ quần áo đầu óc cũng luôn để ý trả lời. Trạng thái luôn để ý trả lời này được gọi là định tâm hay hành thiền hoặc tỉnh thức. Ngôn từ nghe có vẻ đao to búa lớn nhưng đơn giản chỉ như thế cho tới lúc nào đó, chị sẽ nhận ra câu trả lời có thể áp dụng trong mọi trường hợp thì đó được gọi là ngộ. Từ sự suy nghĩ liên tục để tìm câu trả lời này, chị sẽ có kinh nghiệm nghiệm chứng những câu khác, và như thế, lúc nào thấy vấn đề gì cần được tìm hiểu để giải quyết những câu khác, chị sẽ tự tìm tòi nơi sách vở hoặc hỏi ai đó.
              - Thưa cha, sao mấy câu gì gì đó nghe có vẻ ngây ngô và ngang ngang thế nào ấy.
              - Những câu nói như thế được gọi là công án. Những câu công án được ghi lại với chủ đích giúp cho người tìm hiểu dồn hết tâm ý để suy nghĩ, giúp họ định tâm nhận thức để tìm về bản nguyên sự vật hoặc sự việc hay sự thể. Nhờ sự định tâm tìm hiểu này, họ phải đối diện với thực thể nơi họ mà lục tổ Huệ Năng nhà Phật gọi là “Bản lai diện mục,” sự thể đích thực chính mình. Ai nhận thực được sự thể chính mình được gọi là thức ngộ, hoặc thành Phật như chúng ta thường nghe. Chẳng hạn đức Thích Ca đã giác ngộ nên gọi là Phật Thích Ca; nơi Lão học gọi là thánh nhân, Đông Phương học gọi chung là chân nhân.
              - Thưa cha, thức ngộ thì sẽ ra sao, đem lại lợi ích gì cho cưộc sống?
              - Chắc chắn rằng nó sẽ không đem lại lợi ích vật chất như một bữa ăn hoặc cái áo mặc hay tiền bạc, nhưng sự thức ngộ giúp chị nhận ra được chân giá trị làm người. Khi chị đã thức ngộ, những vẻ hào nhoáng, danh dự, hoặc bất cứ giá trị hữu vi, thế tục không đáng để chị để ý tới. Tâm hồn chị an định và hài hòa với cuộc sống dẫu nó thế nào. Trạng thái này được Lão học gọi là “Huyền đồng,” sống hòa hợp với bản thể tối thượng đang ngự trị và hoạt động nơi tạo vật. Chị sẽ nhìn nhận được ý nghĩa tuyệt vời của sự sống và sự thánh thiện cũng được gọi là hồng ân sự hiện hữu tràn ngập ở muôn loài, muôn vật. Tâm hồn chị biết mở rộng hơn để đón nhận hồng ân này và không bị lệ thuộc vào bất cứ ràng buộc nào của tham, sân, si, hoặc những vẻ hào nhoáng, hơn, thua vô nghĩa của cuộc đời. Tôi không biết cách nào diễn tả. Có lẽ chị biết câu, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” của Lão học. Nói tóm lại, cũng giống như chị thương chồng thương con chị. Chị biết rõ cay đắng, ngọt bùi thế nào nhưng không thể nào nói ra được.
              - Thưa cha, phải mất bao lâu mới.
              - Không ai trả lời được phải bao lâu. Có người mới sinh ra đã ngộ, và đa số chẳng bao giờ ngộ. Tuy nhiên, Phúc Âm nhắc nhở, "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt. 7:7-8). Bình thường, chúng ta lệ thuộc ngôn từ nên cho rằng cứ xin và đợi, Chúa ban cho hay không thì tùy ý Ngài mà không để ý thực tế. Chúng ta cầu xin cho làm ăn may mắn thì điều kiện tiên quyết là phải làm, đồng thời suy xét, tính toán công việc thế nào, sao cho có lợi. Trong khi bất cứ gì liên hệ tới cầu nguyện, cầu xin thì tâm tình chúng ta chẳng khác gì kẻ bàng quang hoặc mua vé số, cứ quăng ra đấy đợi Chúa thực hiện. Chúng ta quên rằng, cầu nguyện là bày tỏ ước muốn, sử dụng ước muốn, và nếu thực sự muốn, chúng ta sẽ thực hiện bất cứ gì, sử dụng mọi phương cách để đạt được ước muốn, nói cách khác, biến ước muốn thành sự thực. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, chỉ ước muốn suông mà không bắt tay hành động gì sẽ không có gì xảy đến. Nói như thế, vấn đề chính lại là thực hành, còn ngày giờ thì Phúc Âm cũng đã nói, "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”(Mc. 13:33). Người ta cứ nghĩ được gọi là thời điểm Chúa đến, hay ngày giờ trong những câu Phúc Âm khuyên nhủ hãy tỉnh thức và cầu nguyện là thời điểm thần chết gõ cửa hoặc ngày tận thế. Không đâu, đó là thời điểm thức ngộ nếu chúng ta luôn luôn định tâm nghiệm chứng.
              - Thưa cha, Tình hỏi, theo như cha nói thì tội phạm đến Thánh Thần nghĩa là tội khinh chê hồng ân khả năng suy tư, không dùng khả năng suy tư của mình để nhận thức nơi hành trình tâm linh. Thế sao con được dạy rằng tội phạm đến Thánh Thần là tội ngã lòng, không tin tưởng vào Thiên Chúa và vào giáo hội. Và nếu như cha đề nghị định tâm hay hành thiền để nghiệm chứng thì lại chống nghịch lại giáo hội vì giáo hội dạy phải tin với giáo hội.
              - Thưa cha, Thanh giơ tay, con xin được trả lời câu hỏi này.
              - Mời anh.
              - Thưa cha, bác, bố, và mọi người, đây chỉ theo suy tư và lập luận cá nhân của con, nếu có gì còn thiếu sót, cha làm ơn bổ túc. Thứ nhất, nếu không suy nghĩ mà cứ học theo như “Monkeys see, monkeys do” thì sẽ rơi vào trường hợp như cha đã giải thích, “Canh hương án thì đòn vào lưng.” Kinh nghiệm sống minh chứng rõ ràng, người này sắm tầu đánh tôm thì làm ăn nên; kẻ khác sắm tầu đánh tôm thì tán gia bại sản. Cũng một nồi canh, cũng mắm muối như thế mà người này nấu thì ngon; kẻ khác nấu ăn không được. Nói như thế, tất nhiên sự suy nghĩ nhận định phải làm gì và làm thế nào nơi cuộc sống là điều kiện thiết yếu để tiếp tục kiếp nhân sinh. Nếu không suy nghĩ, tính toán, chắc chắn thất bại hầu như 99 phần trăm bởi có những người sinh vào số bọc điều chẳng cần làm cũng có ăn. Nhưng nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh, không suy nghĩ, suy nghiệm thì suốt đời mê muội. Có câu nói, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.” Nếu nói ngu dốt do trời bắt tội, sao có thể làm ăn nên, sao thừa tiền của làm nhà to, mua xe xịn huênh hoang với đời? Chuyện đời không ngu dốt mà nói rằng ngu dốt nơi nhận thức đức tin chỉ là bào chữa, lừa đảo. Thế nên phải nói là khinh chê hồng ân suy tư, nhận biết. Xét về phương diện chấp nhận bảo sao nghe vậy cho qua, thì chúng ta đã bao nhiêu ngày tháng từ lúc sinh ra đến nay quá quen thuộc và nhàn hạ, tha hồ ăn nhậu, chẳng phải ưu tư, chỉ tới nhà thờ hay chùa chiền cho có mặt trong khi hồn mãi đâu đâu nếu không muốn nói để ý đến hình dáng nào mình thích để rồi sinh ra muôn thứ tội ngoại tình trong lòng mà vì ngu dốt đã không để ý. Hơn nữa, cho dù có nguỵ biện rằng không biết nên không có tội thì cứ thử, không biết lái xe, không biết luật lái xe, cứ leo lên xe mà lái sẽ nhận thức được có tội hay không có tội ngay lập tức. Nhận thức như thế, nếu con không lầm, câu nói, chúng ta phải tin với giáo hội chỉ dành cho trẻ nhỏ học bổn đồng ấu hoặc đối với những người tiền sử, hay ít nhất cách nay cỡ ngàn năm. Thực tâm nhận định, con nghĩ, câu nói này nếu còn cố thủ được áp dụng thì chính là lối ngu dân để trị. Mượn cớ rằng dân Chúa đơn sơ, thiếu hiểu biết nên phải bảo cho người ta biết để tin; con nghĩ, chỉ là thứ cả vú lấp miệng em. Đọc nơi đạo học Đông Phương, một lục tổ Huệ Năng, không biết ký tên của mình đã thức ngộ hơn hai ngàn năm và để lại phương pháp đốn ngộ, “Kiến tính thành phật.” Nhìn về Ấn Độ, vị đại thánh của họ, RamaKrishna, chỉ mới học tới lớp tư trường làng. Thiển nghĩ, hơn hai ngàn năm qua từ ngày đức Giê su rong ruổi trên trái đất này rao giảng Tin Mừng Nước Trời, mà mãi cho tới giờ, con dân Chúa vẫn chưa được biết Tin Mừng Nước Trời là gì thì tin với giáo hội là tin thế nào? Bao nhiêu tiền của, mồ hôi nước mắt, bao nhiêu công sức, rồi thánh nọ, thánh kia, dòng kín, dòng hở, bao nhiêu tiến sĩ trong giáo hội, thế mà ngày nay Phúc Âm vẫn cứ như là thần chú để những vị pháp sư giáo hội giảng giải theo quan điểm thế tục, luân lý. Thử hỏi, bao nhiêu con dân Chúa đã ra đi với lòng khát khao nhận biết Tin Mừng Nước Trời, nhận biết đức tin của họ bây giờ dồn đọng ở đâu? Con đồng ý với cha, ngồi trước bàn tiệc, không ăn sẽ đói vì không ai có thể ăn dùm cho mình. Lời Chúa, lời Phúc Âm rành rành trước mặt, không suy nghĩ, nghiệm chứng sẽ bị mù tối vì không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình được phương chi tin dùm cho mình, mà sao lại nói phải tin với giáo hội? Con xin hỏi, với nhận định đơn sơ như thế, có phải nói rằng tin với giáo hội có nghĩa lặp lại những gì người khác đã nói cho mình nghe chẳng khác gì ăn cơm mớm. Nuốt vào những gì người khác mửa ra rồi lại mửa ra giống y như thế, phỏng có phải chứng tỏ chẳng những một thân xác ăn không tiêu mà còn chứa đựng bên trong một tâm hồn bệnh hoạn? Phỏng có thể vì coi thường hồng ân suy nghĩ nên thân xác, đền thờ của Thiên Chúa một ngày một trở nên vô cảm với đức tin nên mất hết sức sống thần linh, và cũng vì miệng nói tin nhưng không biết mình tin gì nên dẫu mang danh có đạo, mượn cớ tin theo đức Giê su chỉ để che lấp một tâm hồn vô thần do thờ chủ nghĩa thế tục. Con nhớ hôm nọ cha nhắc tới câu ngạn ngữ, “Khi con vật ăn no, chúng ngủ; khi con người có đầy đủ cơm no, áo ấm, người ta suy nghĩ.” Đàng này không khuyến khích, nói cách khác, ngăn cấm suy nghĩ thì con người biến thành thứ gì? Khỉ không ra khỉ, người chẳng ra người vì không suy nghĩ. Thưa cha, thiển nghĩ, khinh chê hồng ân suy tư thì tất nhiên chuyện phải xảy ra như thế.
               
              Tràng pháo tay bùng lên, Thanh nói lưu loát nhưng đầy vẻ hung hăng, thách đố, chẳng khác gì đang đánh võ miệng, chuẩn bị cho một trận chiến khốc liệt. Nói không ngưng nghỉ, liên miên lý nọ, lẽ kia trào ra tiếp nối. Thiên hạ nghe thấy khoái cả lỗ tai; niềm phấn khởi nào hừng hực dâng lên cùng với ý tưởng phải suy nghĩ để sống đúng kiếp người, không chịu ăn cơm mớm, không chịu chấp nhận làm thứ lưỡng chừng giữa người và khỉ. Mấy ông trùm thì sợ muốn đứng tim. Sợ vì qua những lời biện luận của Thanh đã phơi bày lòng ruột vô cảm của các ông do không để ý đến lời Phúc Âm; dẫu nhà có sách nhưng không thèm đọc, do đọc cũng không biết sao mà hiểu, mà áp dụng vào cuộc đời. Đến khi Thanh nói tới “Nuốt vào những gì người khác đã mửa ra, rồi lại mửa ra giống thế,” hình ảnh Thanh nêu lên khiến tâm trí ông nào ông nấy cảm thấy ghê sợ. Thế rồi cảm nghĩ bao nhiêu công lao giúp góp cho đạo từ xưa tới nay bay theo mây khói dâng lên. Nghĩ làm sao, suy làm sao, và phải giải quyết cách nào những câu hỏi cứ dồn tới khiến lòng các ông chùng xuống.
              - Khoan, tôi nói chưa hết! Thanh nói lớn, ra hiệu cho mọi người thinh lặng. Nói về tội phạm đến Thánh Thần. Ngày xưa con cũng được dạy, tội phạm đến Thánh Thần là tội ngã lòng. Thử đặt vấn đề tại sao phát sinh sự thể ngã lòng. Con nhận thấy, bởi trước hết không biết đức tin là gì. Điều này con dám chứng thực, ngay bây giờ, nếu hỏi tất cả mọi người chúng ta đức tin là gì, con nghĩ nhiều nhất chúng ta chỉ có thể nói lên những minh chứng như cha nói hôm nọ, chứ chưa hay không thể nào nói lên được thực chứng đức tin theo Phúc Âm. Chính bởi không biết đức tin là gì nên rơi vào trường hợp niềm tin hay tin tưởng. Và xưa nay, nay xưa nóí chung, những người tin theo đức Giê su, lấy Phúc Âm làm chuẩn cũng ít ai để ý minh chứng đức tin theo Phúc Âm, phương chi thực chứng theo Phúc Âm. Nói như vậy có nghĩa, chỉ tin theo đức Giê su theo nghĩa từ chương, cho rằng những gì đức Giê su đã làm, những gì Ngài đã nói qua Phúc Âm là có thật. Chính sự thể tin theo một cách mù mờ này dẫn đến sự cầu nguyện theo ý nghĩa xin ơn và phó mặc, tin tưởng rằng nếu mình sống xứng đáng thì được Chúa ban ơn, nếu Chúa không ban thì đành rán chịu không dám kêu ca. Mọi người bây giờ đều biết, Chúa Giê su minh xác qua Phúc Âm, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con,” hoặc, “Hãy xin sẽ được, hãy gõ cửa, sẽ mở cho, hãy tìm sẽ thấy,” nhưng thử hồi tâm nhớ lại, đã bao lâu nay mình cầu nguyện, cầu xin như thế nào. Bao nhiêu người bỏ ngày giờ, tốn tiền phi cơ hay xăng xe đi Fatima, Missouri, La Vang, Lộ Đức, cầu khỏi bệnh nọ, tật kia, nào nước suối Lộ Đức, nước phép Đức Mẹ, mà tiền mất, tật vẫn mang. Con thử hỏi, Chúa ở khắp mọi nơi, bộ Đức Mẹ nơi nhà thờ mình thường dự lễ không là Đức Mẹ? Hay Đức Mẹ da vàng không thiêng mà Đức Mẹ da trắng mới thiêng, hoặc bụt nhà không thiêng? Con đồng ý với Bá, sự tốn tiền vé phi cơ hay mua xăng đổ xe cũng như ngưng chuyện làm ăn bỏ thời giờ mà đi chứng tỏ lòng khát khao muốn được chữa lành; ý định mạnh lắm chứ, thế sao đã chẳng gì xảy ra. Lần này không được, lần khác không xong, tất phải ngã lòng. Con nghĩ, chưa bỏ đạo hãy còn tốt lành chán. Nhưng, nếu nói tội phạm đến Thánh Thần là tội ngã lòng, con nghĩ, chỉ là nói tào lao vì chẳng hiểu ngã lòng là thế nào. Nói như thế rơi vào trường hợp nói nhưng không biết mình nói gì. Giáo hội không có luật kết án người ngã lòng mà trái lại, giáo hội phải mang trách nhiệm đã không giúp họ hiểu, không giúp họ nhận biết đức tin nên mới sinh ra ngã lòng. Chính ngay những người bỏ đạo, giáo hội cũng không có luật nào kết án họ. Nhận định như thế, nếu nói tội phạm đến Thánh Thần là tội ngã lòng vậy biết bao người không biết Công giáo là gì, chưa bao giờ được nghe đến tên Giê su họ cũng phạm tội ngã lòng hết sao? Phỏng nếu không biết lòng tin, đức tin thì lấy gì mà ngã? Nếu nói như thế, tất cả giáo dân Công giáo đều ngã lòng và đều mắc tội phạm đến Thánh Thần. Như vậy, tội này từ đâu ra? Xin thưa, từ trách nhiệm của giáo hội. Tội của các đấng làm thày, lãnh lương dân Chúa mà không biết đức tin là gì để rao giảng cho họ biết. Ôi, dân Chúa thật đáng thương. Hồng ân thì không nhận biết mà chỉ e bị phạt vì theo đạo.
               
              - Ông nói như thế thì bao công lao chúng tôi giữ đạo không được ơn ích gì à? Ông trùm Lực lên tiếng.
              - Ông giữ đạo thì ông biết chứ tôi làm sao biết mà nói công lao giữ đạo của ông, Thanh trả lời, hơn nữa tôi có nói gì về tôn giáo đâu; tôi suy luận về tội phạm đến Thánh Thần và thực trạng được gọi là đức tin nơi đại chúng mà. Ông thấy phần nào tôi nói về đạo, làm ơn cho tôi biết.
              - Vậy ông không tin với giáo hội à?
              - Thưa ông trùm, tin với giáo hội là tin thế nào? Bộ ông không biết kinh Tin Kính hay sao? Trong vòng hội luận ở đây, chúng tôi không nói về tôn giáo nên càng không biết đến niềm tin tôn giáo. Tôi chỉ đặt vấn đề đức tin theo Phúc Âm. Tôi muốn nói rõ, ở đây, chúng ta chỉ mới minh chứng được đức tin theo Phúc Âm chứ chưa thực chứng được. Nếu ông thấy rằng đức tin theo Phúc Âm nghịch với những điều mà ông tin thì đó là Phúc Âm chứ không phải tôi. Tôi không kiến tạo đức tin mà chỉ đưa lên nhận định đức tin theo Phúc Âm mà thôi. Hơn nữa, một điều rõ ràng ai cũng biết, ý kiến không đúng không sai; thế nên ông hãy giữ lấy đức tin của mình, không ai có thể đụng chạm đến được.
               
              Cha Hải không nói gì; thái độ của ngài dường như bàng quang nghe hai người đối thoại.
              - Sao ông nói ngã lòng không có tội và ngay cả bỏ đạo cũng không có tội.
              - Tội lỗi phát sinh ngay tại ước muốn, ý định con người chứ không phải bị kết án mới được gọi là có tội. Thưa cha, Thanh hướng về cha Hải hỏi, trong giáo luật có luật nào lên án người ngã lòng hoặc người bỏ đạo không?
              - Không có luật nào như thế vì họ bỏ đạo tức không theo đạo nữa thì sẽ không bị ràng buộc bởi giáo luật. Tôi muốn nhắc lại, tôn giáo là một tổ chức thế tục được cấu tạo bởi những người bày tỏ lòng khát khao bẩm sinh theo cùng chiều hướng, niềm tin, và nguyên tắc chính yếu của tôn giáo là tin tưởng và cầu nguyện, cầu khẩn. Vì tôn giáo là tổ chức do con người họp lại nên cần phải có quy luật, điều lệ, tôn chỉ, và mục đích thành văn. Dĩ nhiên, không ai có quyền bắt ai phải tin theo niềm tin của mình. Tuy nhiên, thực tế chứng minh, người ta theo tôn giáo nhưng hỏi đến niềm tin là gì thì lạng quạng phương chi đức tin. Tôi nghĩ, làm người trên thế gian, hành sự nên chuyên tâm, đừng nên bận tâm về kết quả ra sao. Thêm nữa, con người luôn luôn sai lầm; ngược lại nếu nhận thức được sai lầm mới thăng tiến được; bởi kẻ nào chưa từng mắc phải lỗi lầm cũng là kẻ chưa bao giờ thử làm việc gì cả. Nói cách khác, chỉ có kẻ chết mới không bao giờ bị sai lầm nữa. Bất cứ ai, còn sống là còn lầm lỗi, chẳng thế mà cổ nhân có câu, “Đa thọ đa nhục” sao! Riêng đối với ông trùm Lực, do những biện luận đặt vấn đề về đức tin và lỗi phạm đến Thánh Thần mà anh Thanh đã nói khuyến khích ông đặt lại vấn đề về tâm tình giữ đạo thì đó là cơ hội tốt. Có phải nhiều vấn đề xảy đến nơi tâm tư khiến ông bối rối không biết sao giải quyết nên sợ mình đã sai bao lâu nay. Tỷ dụ, ông thấy đìều mà ông gọi là đức tin xưa nay khác hẳn những gì được nhắc đến nơi Phúc Âm nên muốn minh xác đức tin của mình chứ gì? Thực ra, nếu ông chịu khó tìm hiểu, như tôi vừa lặp lại lần trước, tất cả các tôn giáo đều đặt căn bản trên sự tin tưởng và cầu nguyện. Sự thể mà các tôn giáo gọi là đức tin chính là sự tin tưởng chứ không phải là đức tin như Phúc Âm nói tới. Chỉ có một đức tin theo Phúc Âm mà thôi; thế sao chúng ta nghe thấy nào là đức tin Công giáo, đức tin Anh giáo, đức tin Tin Lành, và ngay cả đức tin Phật giáo. Lần trước tôi cũng đã giải thích, những giáo phái thuộc Kytô giáo đều phát xuất từ Phúc Âm. Nơi bốn Phúc Âm chỉ nói về một đức tin, nhưng thực tại ra sao chúng ta đều nhận thấy rõ ràng. Sự thể diễn biến này bắt đầu đã hơn hai ngàn năm, trãi qua bao thời đại và còn tiếp nối. Vấn đề đơn giản chỉ là làm thế nào và bằng cách nào chúng ta nghiệm chứng được Lời Chúa để áp dụng nơi cuộc đời hầu thăng tiến nhận thức tâm linh, nhận thức đức tin theo Phúc Âm. Trên trái đất này hơn bảy tỷ người, được bao nhiêu người Công giáo? Vậy những người khác sẽ ra sao? Nếu theo Chúa Giê su thì nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời của chúng ta quá lớn lao, mà chúng ta đã nhận biết và nhận thức được Tin Mừng Nước Trời là gì chưa; đó mới là điểm chính yếu. Bình thường, chúng ta quan niệm theo đạo để được lên thiên đàng, như vậy chúng ta đâu theo Chúa Giê su mà nói chi tới tin tưởng nơi Ngài! Lời Chúa qua Phúc Âm, “Các con là ánh sáng thế gian, các con là muối ướp mặn đời” (Mt. 13-14). Không nghiệm chứng Phúc Âm sao có thể ướp mặn đời, sao có thể soi sáng thế gian. Mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng; theo Chúa, nhiệm vụ của chúng ta là gì? Mỗi người phải tự trả lời cho mình.
              #7
                lamongthuong 06.12.2017 22:31:44 (permalink)
                MBVN 25
                 
                - Thưa cha, truyền bá Tin Mừng thì Phúc Âm là Tin Mừng, sao không in nhiều ra phát cho người ta đọc, ông trùm Lực nói tiếp.
                - Thưa ông trùm, Sỹ nhà con nghe thấy ông trùm Lực hỏi mà cảm thấy khó chịu; biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe; đã được giải thích như thế mà còn nói nhăng nói cuội chẳng chịu hiểu biết gì, hắn nghĩ, nên lên tiếng, dẫu Phúc Âm có nghĩa là Tin Mừng nhưng Tin Mừng Nước Trời mà đức Giê su được sai đến để rao giảng là gì ông trùm đã biết chưa. Kinh Thánh kiếm đâu không được nhưng thử hỏi, nhà ông trùm có cuốn Kinh Thánh mà ông trùm có đọc không? Thưa cha, tội là gì chưa giải quyết xong mà cứ hỏi han lòng dòng như thế này phỏng còn cái tội nào vô minh hơn?
                - Thưa cha, con có thể tóm tắt về tội được không? Thanh lên tiếng.
                - Mời anh, cha Hải không nói nhiều, chỉ gọn hai tiếng.
                - Thưa cha, nếu xét theo mục đích xuống thế làm người của Chúa Giê su, thì bất cứ những gì ngăn cản người ta nhận biết Tin Mừng Nước Trời đều bị coi là tội. Bởi thế Ngài đã lên án nặng nề đối với những người biệt phái và ký lục, “Khốn cho các ngươi biệt phái và luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13). Thêm vào đó, theo như dụ ngôn người Samaritanô tốt lành, bất cứ những gì ngăn cản con người sống yêu thương cũng được coi là tội. Nhận xét như vậy, những lề luật không hợp nhân bản, không hợp lý hợp tình đều là cớ cho người ta phạm tội. Theo câu Phúc Âm, "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng..." (Mt. 5:28) thì tội chính là những ước muốn, ý định chẳng nên. Nơi hành trình nhận thức Tin Mừng Nước Trời, trước hết cần phải biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì. Thế nên, Phúc Âm khuyên nhủ, “Tiên vàn hãy kiếm tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33). Theo lý luận hữu vi mà nói, một ông đại sứ mang thông điệp tới một quốc gia khác thì bức thông điệp chắc chắn quan trọng hơn bởi không ông đại sứ này thì đã có ông đại sứ khác. Xét thế, con muốn đặt vấn đề đó là, theo Phúc Âm, mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng dẫu Ngài tự ý đến hoặc được sai đến thì Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa phải mang tầm quan trọng hơn cuộc đời của Ngài. Tóm lại, tội phát xuất tự trong lòng và bất cứ những ý định, ước muốn nào làm hại đến con người cũng như ngăn cản hành trình nhận thức Tin Mừng, hành trình thức ngộ đều được coi là tội. Thưa cha, nếu suy xét như thế thì coi chừng đã bao lâu nay chúng ta đắm chìm trong tội nặng nề nhất đó là không chịu suy nghĩ để nghiệm chứng Tin Mừng; ấy là con chưa dám nhắc đến một vài phương diện khác chẳng hạn tâm trí chưa thoát khỏi quan niệm hữu vi, mà Phúc Âm đề nghị cắt bỏ, hoặc đã coi thường Lời Chúa qua Phúc Âm vì khinh thường hồng ân suy tư nơi mình. Riêng nhận định về tội theo quan điểm luân lý, thế tục, con nghĩ, đó chỉ là kết quả hay sản phẩm của những lầm lỗi tâm linh bởi khi đã thức ngộ thì có muốn phạm tội cũng không thể.
                - Ông nói sao! Không thể? Tớ đang muốn phạm tội mà không có cơ hội mới đúng. Sỹ lên tiếng.
                - Anh Sỹ nói không có cơ hội nghĩa là như thế nào? Cha Hải hỏi.
                - Thưa cha, tội bởi trong lòng mà ra thì dễ rồi, đàng này không có cơ hội để trình bày lòng ruột mình mới quả là phiền.
                - Nào có ai cấm ông đâu! Tình đế vô.
                - Bộ ông tưởng dễ à! Đi biển ngày đêm vật lộn với sóng gió, về đến nhà thì tù túng mà không được bước ra khỏi cửa như ông thì có cơ hội cũng chỉ giương mắt mà ngó! Ai cấm thì người ấy biết; cái phiền là người bị cấm.
                - Coi chừng cái thiên đàng của người này lại là chốn ngục tù cho kẻ khác; hèn chi người xưa có câu, “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.” (CD)
                - Ôi! Cái thú đau thương mà cũng khoe!
                - Hai ông ấy đang đấu nhau, hai bà có muốn nhào vô không? Tùy khích tướng.
                - Để ông ấy tự do muốn đấu đá ai thì đấu đá kẻo lên thiên đàng ông ấy sợ buồn. Vợ Sỹ nói.
                - Tớ nói thế không đúng à. Thiên Chúa là Thần Khí thì có lên thiên đàng Chúa vẫn là Thần Khí không cô đơn chết đi được à? Sỹ trả lời vợ.
                - Đấy là Thiên Chúa của đức Giê su mà!
                - Chẳng lẽ còn có Thiên Chúa nào khác?
                - Sao không! Nào là Thiên Chúa Công giáo, Thiên Chúa của người Do Thái, Thiên Chúa Anh giáo v.v… Lại còn những người chứng minh không có Thiên Chúa chứ chưa nói tới người không tin. Phủ đế vô.
                - Làm sao có người chứng minh được không có Chúa? Không có Chúa sao có họ để chứng minh không có. Ông trùm Lực lên tiếng.
                Sỹ nghe thấy ông trùm Lực hỏi như thế, bực quá, giơ tay nhưng cha Hải đã lên tiếng,
                - Thực ra, không ai biết rõ tôn giáo phát sinh từ bao giờ, chỉ biết rằng từ ngàn xưa người ta đã có những tâm tình cảm nhận thế giới nào đó khác với thế giới hữu hình mà họ có thể dùng cảm quan nhận biết được. Cảm nhận này được chia sẻ và dần dần truyền bá để rồi kiến tạo sự thể được gọi là tôn giáo tự nhiên. Nói như thế, chúng ta có thể nhận thức được lòng khát vọng bẩm sinh nơi mọi người chỉ tiến triển khi được để ý. Dĩ nhiên, những gì chúng ta tạm gọi là cảm nhận mang nhiều mức độ khác nhau và cũng chất chứa nhiều nguyên nhân. Dần theo thời gian, điều kiện sinh sống khá hơn nên nhận thức của con người càng ngày càng phát triển. Anh em còn nhớ câu nói, “Khi những con vật ăn no thì chúng ngủ; trái lại khi con người có cơm no, áo ấm thì họ suy nghĩ.” Như vậy, cho tới khi sự suy tư của con người phát triển đến mức độ nào đó, nhận định, nhận thức khởi nguồn và phát triển, nhưng đạo học phải đợi tới khi có được chữ viết mới được ghi lại. Có thể nói được rằng dần qua thời gian, chẳng biết bao nhiêu thời kỳ phát triển của con người, những sự khôn ngoan, nói cách khác, các ngụ ngôn, công án thuở ban đầu chỉ do sự truyền miệng chẳng khác gì Tục Ngữ, Ca Dao, Vè, hoặc Phong Dao của dân Việt mình. Thế rồi khi chữ viết được quảng bá đại chúng, những công án, dụ ngôn được một số người thâu thập và ghi lại, và sau đó lại có người san định cho có thứ tự lớp lang được gọi là kinh. Nhận định như thế, chúng ta có thể thấy sự liên hệ giữa tôn giáo và đạo học. Tất nhiên, có những nhóm người khác nhau thì cũng có những văn hóa khác nhau nên cũng có những đạo học khác nhau, nhưng tựu chung tất cả đều khởi sự từ một điểm đó là con người; bởi không có con người, lấy gì để nói. Thí dụ, không có chúng ta, không có hội thoại về đạo học. Thực thể chỉ là một nhưng được diễn giải, kinh nghiệm, nghiệm chứng qua những chiều hướng khác nhau nên chúng ta có các đạo học khác nhau và những tôn giáo khác nhau.
                - Thưa cha, ông trùm Lực lại lên tiếng, cha nói tất cả đều bắt đầu từ con người vậy không có Thiên Chúa à?
                - Tôi đã đưa ra thí dụ mà ông trùm không để ý. Ông trùm thử nghĩ, nếu không có ông trùm ở đây, ông trùm có hỏi được không.
                - Thưa cha, con không ở đây thì vẫn có con.
                - Thưa cha, Sỹ nhảy vô, có phải ý cha muốn nói, giả sử không có ông trùm, thỉ sao có câu hỏi, nghĩa là phải có ông trùm mới có được câu hỏi. Không có ông trùm thì lấy gì mà hỏi.
                - Có ai biết câu nào trong Phúc Âm nói về sự kiện này không? Cha Hải lờ luôn ý kiến của ông trùm, đoạn hỏi.
                - Thưa cha hình như Phúc Âm có câu gì đại khái nói Thiên Chúa của kẻ sống; Thanh nêu ý.
                - Nơi Phúc Âm Luca có câu, “Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống" (Lc. 20:38). Cha Hải nói, câu này mang hai nghĩa nếu chúng ta để ý suy nghiệm. Thứ nhất, linh hồn không thể chết; thứ hai, những người đã chết không thay đổi được gì; chỉ những người còn sống mới có thể nghiệm chứng. Lần trước, tôi đã lặp lại câu ngạn ngữ, “Khi những con vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người đã đầy đủ cơm no, áo ấm thì người ta suy nghĩ,” có lẽ ông trùm không để ý. Nếu tôi không lầm thì ông bạn già của tôi hay nhắc đến câu nói của Pascal, “Thiên Chúa là đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói gì về Ngài. Thế nên tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ đều là tưởng tượng.” Vì chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa nên những gì chúng ta nói về Thiên Chúa đều phát xuất từ lòng khát khao nhận biết nhờ kinh nghiệm sống và nhận thức để rồi được diễn tả bằng cách này hay bằng cách khác. Cũng bởi thế có câu nói, “Những con vật chúng sẽ nghĩ Thượng Đế có bốn chân.” Cha Hải giọng đều đều mang vẻ xót thương diễn giải.
                - Thưa cha, nếu nói như vậy thì Thiên Chúa chỉ là sản phẩm của tưởng tượng? Ông trùm Canh lên tiếng.
                - Thiên Chúa là sự sống nơi ông; ông có thể nói gì về sự sống này? Có lẽ ông không biết câu, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” nơi Lão học. Ông biết ông có sự sống nhưng không thể nào diễn tả được và dù có cố gắng diễn tả cũng chẳng thể nào nói cho đúng được. Cuộc đời có nhiều thứ không thể nói được dẫu mình biết hoặc đã nghiệm chứng. Không nói đâu xa, ông lái xe đến đây phải không! Bây giờ, mang kìm, búa ra tháo tung chiếc xe của ông ra xem trong đó có cái gì được gọi là chiếc xe không. Cũng như ngay chính ông tên là Canh, vậy bây giờ ông giải thích thế nào cho một người mù có thể nhận biết được ông ra sao. Ông đã bao giờ tự trả lời câu hỏi “Tôi là ai chưa?” Chúng ta đã chưa thể nào trả lời cho chính mình câu hỏi “Mình là ai” phương chi nói về Thiên Chúa. Bởi vậy, Pascal dùng hai chữ “Tưởng tượng” để ám chỉ tất cả những gì chúng ta dùng để nói về Thiên Chúa. Ông đã hiểu sai ngôn từ Pascal muốn dùng. Nói như vậy, anh em hãy để ý nghiệm chứng những câu nghe như ngớ ngẩn chẳng hạn, “Ai có tai thì nghe,” hoặc “Được ý quên lời,” hay “Lời ta nói như chiếc bè,” cũng như “Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.” Chúng ta cần suy nghiệm đến tận cùng để những câu nói này nhập tâm. Đây chính là điều kiện nhận thức cốt lõi cho mọi hành trình nghiệm chứng bởi nếu không, chúng ta sẽ rơi vào nhận thức hữu vi không thể nào vượt qua được. Tôi có thể nói thẳng điều này mong anh em hiểu và đừng nản chí. Tất cả chúng ta nơi đây, chưa ai ngộ, mà may ra có được vài người nghiệm chứng được một vài công án. Lý do, tâm trí chúng ta còn bận bịu với những câu nói nghịch thường, còn muốn hiểu biết theo hữu vi thì ngộ thế nào; chúng ta quá khát khao kiến thức nên dễ bị lừa dụ. Thử hỏi, trước Công Nguyên ít nhất là 300 năm Kinh Thánh đã được viết (bộ Ngũ Kinh, Pentateuch), ai cũng biết nơi sách Khởi Nguyên có câu, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài,” mà mãi cho tới nay, năm 2016, đã được mấy ai thực sự nhận thức mình là hình ảnh của Thiên Chúa, hay nếu có ai dám công bố rằng mình là hình ảnh của Thiên Chúa đều bị mọi người dè bỉu cho rằng phạm thượng, nhất là mấy người Công giáo. Và rồi hai ngàn năm qua, thánh Phao lô đã minh định thân xác mỗi người đều là đền thờ của Thiên Chúa thì đã có người nào nhận chân được sự thể này chưa hay là anh chị em mới được nghe nói tới! Phỏng chúng ta tuyên xưng đức Giê su chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ, chuộc tội cho mình vì chẳng có gì dính dáng tới mình mà lại tự dưng có được niềm tin đã có người chịu đựng kết quả đáng bị kết án do cuộc sống của mình tạo nên! Chúng ta có biết mình nói gì không? Chúng ta có biết mình tuyên xưng gì không? Chúng ta có hiểu câu Ca Dao, “Đầu ngòi có con ba ba; kẻ gọi con trạnh, người la con rùa, ý muốn nói gì? Vì lý do gì chúng ta lên tiếng thách thức nếu không muốn nói là kết án người khác vì họ không quan niệm giống mình? Có phải tại họ vạch trần niềm tin trống rỗng nơi lòng ruột của mình nên e sợ mình đã tin sai lầm do đó mình phải kết án họ để lấp liếm? Hay vì chính mình đang nghi ngờ niềm tin của mình nên kết án họ hầu có được cảm nghĩ an bình tâm tưởng giả tạo?
                 
                - Thưa cha, nếu như vậy sao Phúc Âm có câu, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi? Ông trùm Canh hỏi tiếp.
                - Nơi Phúc Âm có 2 câu, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:29-30). Kinh nghiệm sống minh chứng, từ xưa đến nay không ai thực hiện câu này theo nghĩa từ chương, hơn nữa, thiển nghĩ, Phúc Âm được viết để hướng dẫn nhận thức Tin Mừng, đức tin, tâm linh, nên câu này mang nghĩa bất cứ những gì ngăn cản, hoặc ảnh hưởng làm sai lệch tâm ý người nghiệm chứng đều phải gạt bỏ chẳng khác gì đề nghị nơi Lão học, bớt, càng ngày càng bớt. Tại sao chúng ta lại sợ những quan niệm của người khác làm mình vấp phạm nếu mình đã nghiệm chứng và thực chứng được điều mình tin tưởng. Khi mình còn e ngại tức là mình đã chưa nghiệm chứng tới tận cùng. Một người khi đã vô tình hay hữu ý ăn trái ớt và biết nó cay (thực chứng) thì cho dầu ngàn vạn người nói hoặc bao nhiêu sách vở minh chứng nó không cay cũng không thể nào lung lạc được sự nhận biết ớt cay của người đó. Câu Phúc Âm nói về điều kiện tâm trí của người nghiệm chứng chứ không nói về người nào khác.
                - Thưa cha, thế phải làm sao đối với những người rao giảng sai lạc về Phúc Âm hoặc những chủ thuyết khác?
                - Phúc Âm không được viết để rao giảng mà tất cả những gì được Phúc Âm viết chính là để hỗ trợ cho Tin Mừng Nuớc Trời. Phúc Âm được viết để nghiệm chứng chứ không phải phép thần thông hay thuốc cao đơn hoàn tán cần phải được quảng cáo, rao bán. Nơi Phúc Âm Marcô được viết, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm” (Mc. 1:15) Động từ “Ăn năn hối cải” được dịch từ tiếng Hy Lạp “Metanoia” có tới hơn 10 nghĩa, và nghĩa chính của nó là “Thay đổi chiều hướng,” hoặc, “Cải tạo (brain wash) tư tưởng.” Vào thời đức Giê su rao giảng, chưa có ngôn từ hay văn từ “Phúc Âm.” Thiển nghĩ, nếu viết lại theo lời rao giảng thì nên viết, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa ở nơi các ông, hãy thay đổi chiều hướng quan niệm và tin vào lời ta nói.” Tôi sẽ nói về chuyện này khi nói đến điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm. Bởi vậy, nếu chúng ta nhận thức được những vị khai sáng các tôn giáo, tôi nói các vị khai sáng chứ không phải sáng lập, các vị ấy được coi như những tiên tri Thiên Chúa gửi đến cho những sắc dân khác nhau thì có gì phải đặt vấn đề. Có thứ đạo học nào khuyến khích nghiệm chứng không có Thượng Đế bao giờ! Có tôn giáo nào dạy không có Thượng Đế trên thế gian này. Anh em để ý, bất cứ những ai tuyên xưng họ vô thần để rồi chứng minh không có Thượng Đế, chắc chắn họ không biết họ nói gì, vì nếu đã không có Thượng Đế thì mắc mớ gì phải chứng minh. Tôi cho rằng những ai không tin có Thượng Đế chắc chắn chẳng biết gì về sự sống nơi họ; nói cách khác không hiểu gì về sự hiện hữu của họ. Họ tưởng rằng óc họ nghĩ, miệng họ nói, nhưng đến khi sự sống nơi họ rời bỏ thân xác, có lẽ đó là sự minh chứng hùng hồn về những gì họ quan niệm. Tôi nhận thấy, mối nguy hại nặng nề nhất đối với mọi người đó là quan niệm và diễn giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương; đó là cách thức tuyệt vời để minh chứng đức Giê su nói những lời không tưởng.
                - Thưa cha, nhưng lại được đông người nghe theo bởi dễ hiểu.
                - Phúc Âm được viết để sống mà muốn áp dụng vào cuộc sống phải nghiệm chứng chứ nếu chỉ tìm hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương đó chính là phỉ báng Lời Chúa. Anh em nhớ trong Phúc Âm có câu, “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Gioan 15:19). Những người không nghiệm chứng, mà rao giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương, có ý đồ nào đó, hoặc vì cuộc sống, hoặc danh vọng, hay ham quyền lực. Anh em nên nhớ, quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức. Không có đạo đức tức là làm bất cứ gì vì lợi ích riêng tư. Không có đạo đức là những kẻ lừa đảo, cố gắng lấy lòng quần chúng để lạm dụng họ cho mục đích riêng nào đó. Tuy nhiên, người ta có thể đánh lừa được một số người nhưng không thể đánh lừa mọi người. Chiếc kim bọc trong vải sẽ có ngày lòi ra. Chỉ có điều, những người nhận thức được thì họ cũng không nói gì vì không muốn dây dưa với hủi; bởi họ coi những kẻ mỵ dân đáng bị tránh xa như thứ cùi.
                - Thưa cha, sao con thấy nơi net có những bài viết minh chứng không có Thiên Chúa. Ông trùm Canh lên tiếng.
                - Có phải họ đang chứng minh sai lầm của họ không, cái sai lầm do thiếu nghiệm chứng mà suy luận kinh sách đạo học theo nghĩa từ chương. Như tôi vừa nói, tìm hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương là cách tuyệt vời nhất để minh chứng đức Giê su nói những lời không tưởng. Hãy cầu nguyện cho họ, nhưng đừng cầu nhiều, chỉ cầu một điểm đó là cầu cho họ thức ngộ câu, “Ai có tai thì nghe.”
                - Thưa cha, tại sao không cầu xin Chúa soi sáng và thay đổi lòng dạ để họ nhận biết Chúa.
                - Những người đã dám lên tiếng nói hoặc viết thành sách hay đương đường công bố trên net, có lẽ học thức của họ hơn hẳn chúng ta, và vì đã quá quen với lối suy luận từ chương dựa trên kiến thức, nhất là quá lệ thuộc quan niệm thời nay, “Những gì khoa học không chứng minh được thì không có,” nên chỉ còn chờ họ may ra thức ngộ, hoặc vô tình họ nghiệm được một cộng một chưa chắc đã bằng hai. Thêm vào đó, cầu nguyện là dùng nguyện lực nơi mình, năng lực sự sống, hay đức tin. Thử hỏi chúng ta đã thực sự nhận biết đức tin nơi mình chưa? Chỉ cầu nguyện khơi khơi, nói lên những lời tha thiết nghe có vẻ tốt lành thánh thiện rồi cho rằng mọi chuyện đã có Chúa lo thì lại càng không giúp họ được gì. Anh em nên nhớ, thực sự cầu cho người ta thế nào thì mình nhận được thế ấy. Năng lực đức tin bộc phát nơi mình thì mình lãnh chứ có gì liên quan đến họ.
                - Thưa cha, sao mình không lên net giải thích cho họ biết. Ông trùm Lực nêu ý kiến.
                - Có lẽ ông trùm quên lời anh Thanh nói hôm nọ, “Ý nghĩ, quan niệm của người ta chẳng khác gì chiếc đinh, càng đóng chiếc đinh càng lún sâu vô khó bề gỡ nổi.” Tuy nhiên, chúng ta nên nhận thức một sự thể chẳng ngờ; chẳng hạn như trường hợp của thánh Phao lô bị quật ngã ngựa và kết quả ra sao mọi người đều biết. Trường hợp những người đủ khả năng nhận thức theo học thức, kiến thức thế tục, ít nhất lại là cơ hội cho những kẻ mù mờ như chúng ta nhận thức thâm nghiêm hơn nơi hành trình đức tin. Tỷ dụ, chúng ta tuyên xưng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Kytô, vậy chúng ta tin thế nào hay cũng chỉ biết hô lên là tin, nhưng không thể nói được chúng ta tin rao sao! Tuần rồi có ai đặc biệt tìm hiểu về Thiên Chúa theo Phúc Âm không?
                - Thưa cha, Thanh lên tiếng, con thích câu nói của Pascal, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu…,” nhưng sao khi tìm những câu nói về Thiên Chúa nơi Phúc Âm, hình như chỉ có một câu trực tiếp nói về Thiên Chúa nơi Phúc Âm Gioan, “Thiên Chúa là Thần khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật (4:24). Thưa cha, nói như thế thì cũng kể như không nói gì vì ai có thể biết Thần Khí của Thiên Chúa! Nơi những câu khác thường được viết theo kiểu ám định, hình như mục đích bắt người đọc phải nghiệm chứng chứ không giải thích dẫu lời văn có vẻ giải thích. Chẳng hạn, "Hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở ttên trời, vì Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:45; 48). Phỏng Thiên Chúa Đức Giêsu rao giảng nhìn nhận bản thể của con người chứ không xét xử con người theo thị dục nhân loại. Như thế, sự trọn lành không lệ thuộc quan điểm thị dục con người; thưa cha, như vậy, cần phải nhận biết mọi sự xảy đến với mình đều là cơ hội thăng tiến đức tin.
                - Nói như vậy thì Thiên Chúa không công bằng à? Tốt lành thì được thưởng, xấu xa phải trừng phạt chứ, nếu không thì thế giới này loạn à? Ông trùm Lực lên tiếng.
                - Thưa cha, nhận định này nhờ cha giải thích, Thanh cầu cứu.
                - Anh Thanh nói đúng, cha Hải xác nhận, nhận biết mọi sự xảy đến với mình chính là những cơ hội cho minh thăng tiến, nói cách khác, cho mình thức ngộ; đó là tâm thức của người biết mở rộng tâm hồn nơi hành trình tâm linh, mà chỉ những ai để tâm nghiệm chứng Phúc Âm mới có thể chấp nhận được. Câu nói nghe có vẻ nghịch thường nhưng Phúc Âm giải thích lại đòi một nhận thức sâu xa. Hãy suy nghĩ, “Vì Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” Sự thể diễn tiến của thiên nhiên không lệ thuộc vào ước muốn hay ý định của riêng ai. Nếu đem con rau giống cấy giữa trời nắng chang chang nơi mảnh đất khô cằn sỏi đá thì kết quả thế nào ai cũng biết, hoặc phơi cá khô lúc trời mưa sẽ ra sao. Câu kết luận đòi hỏi một tâm thức chiêm nghiệm thâm sâu, “Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành.” Anh em có thấy câu này mang máng ý nghĩa của câu nơi Lão học, “Trời đất bất nhân nên thánh nhân cũng bất nhân” không? Sự thể như thế thì cần phải sống hòa hợp với cuộc đời và như vậy đòi hỏi nhận thức đúng đắn thay vì lấy quan niệm, chiều hướng hoặc ý thích của mình làm căn bản để nhận định. Câu Phúc Âm này thách đố nghiệm chứng vị thế và liên hệ của con người với Thiên Chúa. Trước hết, cần nhận biết Thiên Chúa thế nào. Thứ đến, trở nên trọn lành như Cha các ngươi đòi hỏi những điều kiện, trạng thái ra sao. Thế nào là sự trọn lành của Thiên Chúa? Và nguyên tắc nào để con người hữu vi có thể trở nên trọn lành giống Thiên Chúa. Những vấn đề này không thể giải thích mà cần cả đời nghiệm chứng. Tôi nhắc lại, Phúc Âm được viết cho người nghiệm chứng chứ không để giải thích vì càng giải thích, càng phải đối diện với những sự thể không thể giải thích.
                - Thưa cha, nếu đã không giải thích được thì sao có thể truyền bá? Ông trùm Canh lên tiếng.
                - Các ông tốt lành quá nên không để ý đến câu nói, “Chân thành, năng nổ, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại,” coi chừng tạo nên phản cảm được gọi là “Những người ngu hữu ích” cho đối phương. Đừng nổi nóng khi nghe thấy tôi nói thế. Thử hỏi, chúng ta đã nghiệm chứng được Phúc Âm chưa mà đòi truyền bá. Rao giảng Phúc Âm theo nghĩa từ chương, như tôi đã nói, chỉ minh chứng đức Giê su hay Phúc Âm nói điều không tưởng. Tôi nhắc lại, Phúc Âm được viết để người tin theo nghiệm chứng. Phúc Âm là đạo học, không phải chuyện cuộc đời của Chúa Giê su. Dùng lý luận nhân sinh, hữu vi để giải thích Phúc Âm là điều tai hại lớn lao cho người nghe, chỉ tạo thêm cớ cho người ta vấp phạm.
                - Thưa cha, tại sao Phúc Âm không chỉ cách nào cho người ta thực hành để nghiệm chứng. Ông trùm Canh hỏi tiếp.
                - Có đấy chứ nhưng chúng ta không để ý tìm hiểu. Đọc Phúc Âm, chúng ta không thấy câu nào nói phải ngồi thiền với tư thế này hoặc cử động kia như  thường được chỉ dẫn cho các hành giả nơi Ấn học hoặc Phật học. Phúc Âm đưa ra những phương pháp hoàn toàn về nhận thức nơi tâm trí mỗi người. Anh em thấy, bao nhiêu pháp nơi Phật học chỉ dồn về một nguyên tắc, “Kiến tính thành Phật.” Mà kiến tính là diễn trình của tâm thức để nhận thức, kiến tính lúc nào cũng được, nơi đâu cũng được. Tất cả những phương pháp quán tưởng, tư thế liên hoa, kiết già được đề nghị, truyền bá chỉ với chủ đích giúp hành giả định tâm. Nhưng diễn tiến nhận thức trong khi định tâm thế nào thì Phúc Âm nói rất nhiều, tôi tạm gọi là điều kiện tâm trí để nghiệm chứng sẽ nói tiếp theo phần nhận định hay nhận thức về Thiên Chúa theo Phúc Âm. Mời anh Thanh nói tiếp.
                - Thưa cha, nơi Phúc Âm Matthêu được viết, "Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Yacob! Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống" (Mt. 22:32). Phỏng câu này nói về phần hồn của Abraham, Isaac, Yacob vì Phúc Âm Gioan được viết, “Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì” (Gioan 6:63). Nói như thế phỏng ám chỉ thân xác và cuộc sống nhân sinh chỉ là phụ thuộc hay nơi chốn cho linh hồn cư ngụ một giai đoạn thời gian. Phần hồn không thể chết và như thế thân xác là phương tiện. Nhưng sao lại nói, “Xác thịt không ích gì? Thưa cha, nếu không có xác thân đối diện với cuộc đời, chịu đựng năm chìm bảy nổi sao linh hồn có cơ hội thăng tiến. Đồng ý rằng mọi sự khốn khó đều phát sinh từ ước muốn, tham vọng, nhưng nếu không có xác thân thì lấy phương tiện nào để thức ngộ nhờ những cơ hội cuộc đời? Thêm vào đó, nếu không có xác thân sao Thiên Chúa lại phải tạo dựng; chẳng lẽ sự hiện hữu nhân sinh được tạo dựng chỉ vì lầm lỗi phí phạm. Dẫu biết rằng, thân xác không là gì, chỉ như chiếc thuyền chở hồn qua bến bờ bên kia của cuộc sống hữu hình nơi một đoạn đường tâm linh, nhưng nơi đoạn đường tâm linh này cần phải có xác thân làm phương tiện thì tất nhiên xác thân vẫn có giá trị của nó. Thưa cha, cha nghĩ sao về giá trị của thân xác nơi hành trình đức tin?
                - Tôi chẳng nghĩ chi hết. Trước nhất, chúng ta nên trực diện thực tại cuộc đời, giàu thì người ta ghét, đói rét thiên hạ khinh, thông minh sẽ bị lắm kẻ ganh tị rình rập đả phá; tất nhiên, với một tâm hồn bình thường đã phải gánh chịu biết bao sóng gió nơi kiếp nhân sinh. Thứ đến, xác và hồn là một bất khả phân ly dẫu bị tham vọng, ước muốn phát xuất tự linh hồn áp lực thân xác lệ thuộc, nhưng điều kiện cuộc đời cũng đóng vai trò quan trọng hoặc kìm hãm, bó buộc con người tham vọng ấy dẫu muốn cựa quậy cũng không được, hoặc thuận lợi được gọi là thời thế tạo anh hùng, nhưng lại bị đối diện trường hợp quyền lực tuyệt đối sẽ rơi vào sa đọa tuyệt đối; hồn và xác luôn luôn đối diện chiến trận giữa tham vọng và ý hướng thượng như lòng khát khao bẩm sinh. Anh em có nhớ câu tục ngữ, “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn;” dẫu tham vọng nhưng không có thời, không có cơ hội thì con người cũng đành phải chấp nhận, và tất nhiên, vì tham vọng không được thỏa mãn, con người phải đối diện với bất đắc chí. Thử nhìn giá trị của thân xác theo quan điểm hữu vi. Anh em có chiếc xe, đẹp, xấu, tốt, dở không thành vấn đề nhưng có ai muốn phá hủy nó để rồi đi bộ không, hay vì mục đích dùng nó như phương tiện nên nếu nó hư hỏng vẫn  phải sửa. Dẫu anh em coi nó không có giá trị nhưng nó vẫn tự mang giá trị đưa đón anh em đi nơi này, nơi kia. Phúc Âm dẫu dùng sự việc hữu vi để ám định sự thể tâm linh nên thường không đặt nặng vấn đề nhân sinh mà có chăng nhắc nhở chẳng nên lo lắng thái quá cho cuộc sống hữu vi như đã được chép, "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt. 6:25-34). Xét như thế, có lẽ đặt vấn đề về giá trị thân xác nơi hành trình tâm linh là do tại chúng ta còn bị ảnh hưởng quá nhiều bởi kinh nghiệm sống thế tục chăng? Phúc Âm nói về giá trị cuộc sống, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Gioan 6:63). Đồng ý rằng, một tinh thần minh mẫn ở trong một thân xác tráng kiện nhưng nếu chỉ lo sao cho thân xác tráng kiện mà quên phần tâm linh, Phúc Âm nhắc nhở, “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được (Gioan 12:25). Tâm tính phát xuất tự linh hồn, nhưng nếu tâm tính chỉ chiều theo thế tục thì mất tất cả, nghĩa là không thể thức ngộ được. Vì thế có thể nói, thân xác là điều kiện cần thiết cho hồn thức ngộ nơi hành trình tâm linh, nhưng một người nếu không nhận thức thì cũng chẳng có gì đáng nói, sẽ ra đi như muôn ngàn người đã ra đi không biết Tin Mừng Nước Trời là gì.
                - Thưa cha, ông trùm Lực lên tiếng, sao cha không nói cho chúng con biết Tin Mừng là gì để,
                - Ông muốn nói để khỏi sống một cuộc đời vô ích? Tôi đã nói rồi mà ông không để ý. Đó là Phúc Âm viết để nghiệm chứng, để sống chứ không phải chỉ để cho hiểu biết. Bao nhiêu năm rồi ông chưa để tâm tìm hiểu thì đợi thêm một đôi tuần nữa không sao. Vấn đề chỉ là ông có suy nghiệm hay không! Ông có áp dụng Phúc Âm vào cuộc sống của ông được hay không chứ không phải biết hay không biết. Dĩ nhiên, biết thì ông chắc chắn sẽ biết, nhưng biết mà không thực hành, coi chừng phiền hơn.
                - Thưa cha, chẳng lẽ biết mà không thực hành lại là một cái tội; thế thì thà không biết còn hơn.
                - Điều ông vừa nói chính là điểm mấu chốt để phân biệt người theo đức Giê su và người theo tôn giáo, theo đạo. Người tin theo đức Giê su thì Phúc Âm chính là cuộc sống, thái độ, tâm tính, sự đối xử của họ; còn kẻ theo tôn giáo dẫu lấy Phúc Âm làm chuẩn thì cho dù biết cũng như không bởi Phúc Âm chẳng giúp ích cho họ được gì. Có thể thực trạng này tạo nên câu nói, “Ai có tai thì nghe.” Anh Thanh, mời anh nói tiếp.
                - Thưa cha, theo Phúc Âm, Thiên Chúa thấu suốt và nhìn tận cõi lòng chứ không xét bề ngoài theo lối nhìn của con người như được viết, "Còn ngươi bố thí thì tay trái đừng biết điều tay phải làm, hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Đấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi" (Mt. 6:3). Và theo như câu, "Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi. Cầu nguyện thì các ngươi chớ lải nhải như người ngoại! Chúng tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhậm. Chớ bắt chước chúng vì Cha các ngươi biết rõ các ngươi cần gì, trước khi các ngươi xin Người" (Mt. 6:6-8). Tiếng Mỹ dùng chữ “Inner room” có nghĩa trong lòng mình. Như thế, cầu nguyện trong lòng, sống nhận thức và cảm nghiệm Thiên Chúa đang hiện hữu và hoạt động nơi mình, thực sự biết mình muốn gì.
                - Tại sao anh nói thực sự biết mình muốn gì? Cha Hải hỏi.
                - Thưa cha vì theo kinh nghiệm riêng con, bình thường, cầu thì cầu nhưng ước muốn lung tung, thêm nữa, chỉ muốn những chuyện không cần thiết.
                - Anh nói đúng. Chúng ta nên để ý về thái độ khi cầu nguyện. Cầu nguyện là bày tỏ ước muốn, ý định, tức là sử dụng quyền lực nội tại nơi mình là đức tin, quyền lực của Thiên Chúa nơi mình để kiến tạo điều mình muốn.
                - Thưa cha, như vậy, hai câu Phúc Âm này ngụ ý nói Thiên Chúa ngự trị ngay nơi mình, Thanh nói thêm.
                - Anh không sai, tất cả những gì được nói đến nơi Phúc Âm đều đổ dồn về Tin Mừng Nước Trời, Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người.
                - Thưa cha, con đồng ý với cha vì Phúc Âm cũng nói, "Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta"(Jn. 6:45). Điều này có nghĩa Thiên Chúa ngự trị nơi mình, dẫn dắt mình nhưng mình có nhận biết hay không.
                - Đến với đức Giê su có nghĩa am hiểu những lời dạy của Ngài. Như vậy đến với Ngài tức là nghiệm chứng những điều Ngài dạy, nghiệm chứng Phúc Âm. Cha Hải bổ xung.
                - Thưa cha, ông trùm Lực giơ tay, sao con không thấy cha nói gì về đi nhà thờ hay đọc kinh. Chẳng lẽ Phúc Âm không dạy thờ phượng Chúa à?
                - Ông trùm nên đọc Phúc Âm thì sẽ biết. Giọng Bá bực bội vì ông trùm Lực cắt ngang dòng tư tưởng. Trong Phúc Âm chỉ dạy khi cầu nguyện thì đọc kinh Lạy Cha, chứ thời đó chưa có đạo Công giáo.
                - Chú nói như thế thì Chúa Giê su không phải là người Công giáo à?
                 
                Câu hỏi như trái bom bùng nổ giữa những tâm trí đang chăm chú chiêm nghiệm chợt bị đánh động. Ai không biết thời đức Giê su chưa có đạo Công giáo thế mà ông trùm không nhận ra để rồi nêu lên câu hỏi chẳng khác gì ngớ ngẩn. Và những tiếng xì xèo qua lại nổi lên. Cha Hải đưa mắt thản nhiên nhìn đám người đang xì xèo mà lòng cảm thương cho dân Chúa. Câu Phúc Âm trở về nơi tâm trí, "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi phải ở cùng các người và chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?” (Lc. 9:41) khiến ngài cũng thấy cảm thương cho đức Giê su. Các môn đồ được Chúa trực tiếp dạy dỗ, cùng ăn uống, cùng rong ruổi theo Ngài rao giảng mà còn như thế thì dân Chúa xa mặt cách lòng, đậm in nơi tâm trí những quan niệm và lối nhìn thế tục thì cầu mong gì thức ngộ. Lỗi tại ai? Cha Hải lặng người suy tư! Tại hệ thống giáo điều nhờ đó người ta có quyền lực nên Lời Chúa đã bị che lấp. Tại con người không chịu nghiệm chứng mà chỉ cố tình hiểu biết theo nghĩa từ chương về Phúc Âm! Không có trường lớp nào chỉ dạy cho các đấng làm thầy nghiệm chứng thì sao có thể giảng dạy và chia sẻ nghiệm chứng! “Khốn cho các ngươi biệt phái và luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13), câu Phúc Âm đang lên án ai? Ôi hai ngàn năm đã qua, bao công lao, tiền bạc của dân Chúa như đổ xuống sông, xuống biển! Bao đền đài nguy nga ẩn tàng muôn lời cầu khẩn nhưng đức tin thì vẫn còn mãi xa xăm đối với dân Chúa. Phỏng Chúa muốn thế? Câu hỏi đơn sơ nhưng ngàn đời chẳng ai có thể trả lời lại trở về với tâm tư cha Hải. Ngài chỉ nhẹ nhàng nói,
                - Lần trước anh em đã có nhắc nhở tới nơi Phúc Âm có viết Chúa Giê su theo Đức Mẹ và thánh Giu se đi lễ và ở lại đền thờ Jerusalem. Phúc Âm là đạo học phát sinh ra Chính Thống, Công giáo, Anh giáo, Thệ Phản, Tin Lành sau này. Thời đức Giê su chưa có Công giáo.
                - Thưa cha, sao trong kinh cầu Chịu Nạn có câu “Chúa Giê su truyền thánh Phêrô cai hội thánh?
                - Thưa cha, Tình nhảy vô, nếu nói theo kinh cầu thì Chúa Giê su bỏ đạo Do Thái và thiết lập đạo mới nên sai thánh Phêrô làm đầu.
                - Ăn nói tào lao! Bá lên tiếng. Mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng. Đạo Công giáo, rồi nào giáo hoàng, giám mục, linh mục được phân định sau này. Có ai gọi là giáo hoàng Phêrô bao giờ đâu; ngay như thánh Phao lô được gọi đặc biệt bằng cách quật ngã ngựa có danh xưng giám mục bao giờ. Làm ơn đọc lại Phúc Âm xem có câu nào nói Chúa Giê su bỏ đạo Do Thái và thiếp lập Công giáo đâu. Phúc Âm cũng không có chữ nào được gọi công giáo. Đồng ý rằng ý kiến không đúng, không sai, nhưng làm ơn nói có sách, mách có chứng. Ý kiến cũng cần phải dựa trên căn bản nào đó vì nếu chuyện gì cũng hỏi sao có thể giải quyết được hết. Con đề nghị, vì lợi ích của đa số, xin cha hướng dẫn đi đúng vô lịch trình tìm hiểu và nghiệm chứng Phúc Âm. Còn những vấn đề Chúa Giê su thế này, thế kia, hãy hỏi Chúa và hãy để Chúa trả lời.
                - Nếu Chúa không trả lời thì sao? Tùy con diễu.
                - Thì không có tai để nghe, nên không nghe. Phủ đế vô.
                - Không nghe nên muốn nói sao thì nói, bày gì thì bày, Sỹ thêm.
                Cha Hải giơ tay ra hiệu im lặng, đoạn nói,
                - Như anh Thanh vừa trình bày qua Phúc Âm, Thiên Chúa của đức Giê su hiện diện và hoạt động nơi tạo vật. Thiên Chúa là Thần Khí, không ai có thể hình dung được. Ngài chính là sự sống nơi mọi loài, và chúng ta thấy từ ngàn xưa tới giờ, trãi qua bao niên đại, nào thiên tai, chiến tranh, những biến chuyển không ngờ của vũ trụ, những hiểm họa bệnh dịch hoành hành cũng không thể nào tiêu diệt được sự sống đang tùy thời, tùy nơi phát triển. Phúc Âm dùng những hình ảnh chim chóc, bông dại ngoài đồng minh chứng sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa ngay nơi những tạo vật thường tình, nhỏ bé mà chúng ta ít khi để ý tới. Nói cách khác, Phúc Âm trình bày một Thiên Chúa hoạt động nơi mỗi người, quyền lực sự sống nơi mỗi người; thế nên, khi cầu nguyện, chúng ta sử dụng năng lực, quyền lực của Thiên Chúa nơi mình. Suy nghiệm thâm sâu hơn một chút, phải nói rằng Thiên Chúa là chính quyền lực hiện hữu hiện diện nơi tạo vật hoặc mọi tạo vật đều là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Nhận thức như thế chúng ta mới có thể trả lời câu hỏi đã bao năm vẫn đợi câu trả lời đó là, giả sử nơi hành tinh nào đó nơi vũ trụ có sinh vật như loài người sinh sống thì ơn cứu độ có đến với họ không. Xin thưa, vì Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu hiện thể nơi mọi loài, nơi tạo vật thế nên Thiên Chúa vẫn hiện diện bất cứ nơi đâu, và như vậy, ơn cứu độ của Thiên Chúa cũng hiện diện bất cứ nơi hành tinh nào trong vũ trụ vô biên này.
                - Thưa cha, nếu nói như thế thì dù cho không biết Chúa Giê su cũng vẫn có ơn cứu độ? Ông trùm Lực lên tiếng.
                - Theo ông, ơn cứu độ là gì? Cứu khỏi cái gì và độ thế nào? Bá nhảy vô lên tiếng.
                - Chú là người Công giáo mà không biết ơn cứu độ à? Ông trùm phán định.
                - Thưa ông trùm, giọng Bá hơi có vẻ gằn, tôi muốn biết quan niệm của ông trùm về ơn cứu độ chứ chưa chắc quan niệm của ông trùm giống quan niệm của tôi về ơn cứu độ. Nhà Phật cũng dùng ngôn từ cứu độ vậy ơn cứu độ của Thiên Chúa có giống với sự cứu độ của đức Thích Ca hay khác thế nào theo quan niệm của ông?
                Thấy ông trùm Lực bị dồn vào ngõ bí, cha Hải lên tiếng,
                - Tất cả những diễn trình nơi Phúc Âm đều phụ trợ cho Tin Mừng đức Giê su rao giảng. Thế nên, chúng ta hãy đợi khi bàn thảo đến Tin Mừng rồi sẽ nhận định Tin Mừng cứu độ hay giải thoát con người thế nào. Hiện giờ chúng ta mới nói đến Thiên Chúa mà đức Giê su rao giảng qua Phúc Âm. Anh em thử nhớ lại những gì đã thảo luận về mấy đạo học Đông Phương, chẳng hạn, Phật, Lão, Ấn, và Kinh Thánh. Ai có thể nói lên điểm chung của những đạo học Đông Phương, làm ơn trình bày cho mọi người biết.
                - Mời thiền sư thấy đủ thứ, Tình lớn tiếng.
                - Tớ còn đang ngâm kíu, chưa kịp ngộ. Sỹ thoái thác.
                - Sao, cư sĩ Hưng, ông Thung đề nghị, thiền sư ngâm kíu thì cư sĩ nhà chùa cần lên tiếng chứ nếu không ai biết đấy là đâu.
                - Ai dám qua mặt bác Tài, Hưng điềm nhiên từ chối.
                - Phe ta mà không ai dám chẳng lẽ mời phái quần thâm thì mất mặt bầu cua. Ông Thung hối thúc.
                - Không ai nói thì con xin nói, Thanh lên tiếng. Tuy nhiên, mấy cuộc họp đầu tiên, con mãi đang vui thú tại Chicago, nên nếu thiếu sót gì, con mời bác Tài bổ túc. Trước hết, mục đích của đạo học Đông Phương chính là giúp và dẫn dắt con người đạt tới giác ngộ. Tất nhiên, một điều rõ ràng, các vị trước tác kinh sách đều nhắc nhở qua nhiều kiểu cách, và cũng chỉ tóm lại là không ai có thể giúp mình giác ngộ mà sự giác ngộ phải tự mình bởi sư phụ chỉ có thể dẫn vào tới cửa, tu hành tại bản thân. Ai cũng biết, một cây cổ thụ, cũng xuất phát từ một cây con, đài cao chín tầng, bắt đầu từ một nền đất, và hành trình vạn dặm, cũng phải khởi đầu bằng một bước đầu tiên; thế nên hành giả phải trãi qua bước chân đầu tiên đó là nhận biết chính mình, hoặc nói cách khác, hồi tâm trực diện để biết mình thực sự là gì, thế nào, mình là ai. Dĩ nhiên, giác ngộ không có nghĩa là thế giới thay đổi, thay đổi chỉ nơi bản thân mình. Trong  hành trình nhận biết mình là ai, hành giả phải đối diện với muôn chiều hướng tham sân si nơi mình, những thách đố nhận thức, những ngộ nhận đâu là bản thể tuyệt đối cội nguồn của mọi sự hiện hữu, hữu hình cũng như vô hình. Lẽ đương nhiên, cái mình biết thì không khó, cái khó thì mình không biết; thế nên hành giả cần định tâm quán tưởng. Nơi lãnh vực này lục tổ Huệ Năng sáng tạo ra hành thiền. Hành thiền tức là làm gì thì làm nhưng tâm trí luôn luôn định về một điểm, một vấn đề nào đó để quán tưởng. Cho đến khi nào hành giả nhận ra sự thể mà lục tổ gọi là “Bản lai diện mục” hoặc giác ngộ, thời điểm ấy đã thực sự trả lời được câu hỏi “Tôi là ai?” Tiếp theo, con sẽ trình bày về nhận thức tôi là ai của Phật học, Ấn học, Lão học, và Kinh Thánh. Ngưng một chút để nhấp ngụm bia, Thanh tiếp,
                 
                - Con xin khởi đầu bằng nhận thức Ấn học. Nơi kinh sách diễn giải, các tác giả kinh sách Ấn học hay đề cập đến thực thể tối thượng được gọi là Đại Ngã như một vị chúa tể mang nhân tính chẳng hạn đức Thế Tôn hoặc Thượng Đế hay nhân cách hóa bằng đại danh xưng "Ta" v.v... Chẳng hạn nơi kinh Bhagavad Gìtà viết, "Này Arjuna, Ta là Đại Ngã ngự trị trong tâm hồn vạn vật: Ta là lúc khởi đầu, là chốn trung gian và là cứu cánh của vạn vật... Trong các tập Phệ Đà, Ta là Sàmaveda. Trong số các bản thể ngời sáng, Ta là bản thể ngời sáng, Ta là bản thể Vàsava. Trong các quan năng Ta là tinh thần (Manas), và trong khắp phù sinh Ta là tri thức... (CTC. Tr.100-101). Ta là thần chết cấu xé muôn loài, Ta là nguyên ủy của tất cả những gì sắp sửa sinh ra. Trong các phẩm hạnh của nữ tính, Ta là danh giá, là giàu sang, là thịnh vượng, là lời nói, là ký ức, là thông minh, là đức kiên trì và lòng tha thứ... (CTC. Tr.103). Ta là trò xảo trá của kẻ đại bịp, và là sự rực rỡ của những vật thể huy hoàng. Ta là vinh quang, Ta là quả cảm, Ta là chân tính của lẽ phải... Ta là yên lặng của mật tính và là tri thức của những bậc hiền giả. Ta là hạt nhân của tất cả thực hữu. Chẳng có chuyện gì, dù chuyển động hay bất động lại có thể hiện hữu ngoài Ta (CTC.Tr.105). Đại khái, Đại Ngã hiện hữu nơi tất cả và tất cả đều ở trong hay là một với Đại Ngã. Tất cả những biến chuyển đều là hành động của Đại Ngã. Nhịp tim một người đập, ý tưởng của người đó, lời ăn tiếng nói cũng đều là hành động của Đại Ngã.
                  
                - Đối với nhà Phật, thực thể con người không phải chỉ là thể xác được bắt nguồn từ thời điểm sinh vào cõi trần để rồi lúc nào cũng bị đe dọa bởi bệnh, lão, và chết chóc. Nó cũng không phải chỉ bao gồm một hệ thống những cảm giác, dục vọng, tình tự, tư tưởng vẫn thường gây nên cá tính mỗi người. Vượt lên trên hai thành phần vô thường đó, nhà Phật trình bày một thành phần hết sức linh diệu nữa, thường được gọi là Tâm, là một và có đồng những đặc tính của thực thể tuyệt đối, nghĩa là vô trụ, vô biên, thường tịch, thuần nhất. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có giảng cho ông A Nan về cái Tâm to lớn của con người bằng cách so sánh với cõi hư không và các thế giới: "A Nan, ngươi nên biết rằng, cái cõi không gian kia, sinh ra trong tâm ngươi, chỉ nhỏ bé như một đám mây điểm trên trời xanh, huống hồ là những thế giới còn nằm trong không gian thì thấm vào đâu với cái Tâm của ngươi" (XDNSQ; Tr.35-36). Tâm thường trụ hay tâm thể tuyệt đối nơi con người là gốc gác cho mọi sự biến chuyển của cuộc đời, là nguồn phát sinh mọi sự được gọi là pháp. Bởi vậy nhà Phật nói vạn pháp tự Tâm, không có pháp ngoài Tâm. Hai câu tiêu đề làm then chốt nhận thức nhà Phật đó là "Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy thức." Nói như vậy có nghĩa mọi sự vật trên cõi đời này đều phát sinh do nơi tâm thể, song cách thức chuyển hóa của Tâm thành sự vật là do thức quy định nên. Nói cách khác, Tâm thể không biểu hiện, thức là sự biểu hiện của Tâm (XDNSQ; Tr.37). Đây chính là điểm đức Đạt Ma Sư Tổ đã nói, "Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lại đã và sẽ được tạo thành trong tâm" (KCGL; Tr.201). Như vậy, chúng ta có thể nói, đối với Phật học, con người là hiện thể của tâm và tất cả cũng chỉ là biến dịch của tâm tùy duyên.
                 
                - Cao điểm của Lão học là Huyền Đồng, sống hòa hợp làm một với thiên địa được gọi là thánh nhân. Điểm đáng chú ý nơi Lão học đó là “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Sự thể biến dịch của trời đất không thiên vị ai nên thánh nhân cũng không vì ai mà thiên vị. Sự biến chuyển của trời đất theo những chu kỳ riêng biệt, nghịch với biến dịch này tất thất bại; biết thì sống, không biết thì khốn khổ. Tào như nước; nước là nguyên tố căn bản thiết yếu cho mọi sự sống. Nước ẩn tàng mọi nơi chốn. Tào ẩn trong mọi loài, là sức sống và biến chuyển của mọi loài. Tào thường được gọi là Đạo, “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.” Có thể câu này lấy ở Dịch học vì dịch có nghĩa biến chuyển, thời điểm chuyển đổi. Nói cách khác, Tào sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật nhưng áp dụng vào nghiệm chứng nhất nguyên nơi thực thể con người hình như phải nói, Cái một bao gồm hai, hai đối diện cái ba sinh vạn vật vì Tào ẩn tàng nơi mỗi người. Thế nên, trạng thái hòa nhập với Tào hay huyền đồng sẽ có lẽ sống vô cầu, vô công, và vô danh. Tào cũng như Brahma đang hoạt động, biến chuyển nhưng không được để ý vì vạn vật đang biến chuyển trong Tào. Thưa, có ý kiến nào phản bác xin cho biết trước khi vô nhận định về Kinh thánh?
                 
                Không ai nói năng, hoàn toàn im lặng như tâm trí mọi người vẫn chìm đắm với thực thể Tào, Brahma đang chuyển vận nơi mỗi người, ngoại trừ những tiếng chai bia đụng bàn.
                - Xin cảm ơn, và con xin tiếp tục tóm gọn nhận thức về Kinh Thánh. Tuy nhiên, như cha đã nói, hãy còn một vài phần về Phúc Âm chẳng hạn điều kiện tâm trí khi nghiệm chứng, và Tin Mừng Nước Trời nên con chỉ nói nhận thức về Thiên Chúa của đức Giê su. Hớp một ngụm bia thấm giọng, Thanh tiếp,
                - Đại khái, xuyên qua Cựu Ước, bất cứ sách nào, từ Sáng Thế Ký cho tới Dân Số, Xuất Hành, Nhị Luật, các Tiên Tri, Thánh Vịnh, Cách Ngôn v.v…đều hiển nhiên nói đến Thiên Chúa nhúng tay thực hiện những sự việc dù cho dân chúng ngoan ngoãn tuân theo, thờ phượng Ngài hoặc khi đã sống một cách quá độ nhưng biết hối cải. Có thể nói một cách tổng quát, tất cả Cựu Ước chỉ nói về hoặc minh chứng một điểm, và đó là có một quyền lực tối thượng là Thiên Chúa hoạt động giữa dân Ngài. Con nói giữa dân Ngài chỉ để phân biệt người Do Thái nhận làm con riêng của Thiên Chúa cũng như dân Việt có huyền thoại con rồng cháu tiên vì dẫu được gọi dân ngoại thờ các ngẫu tượng, nhưng nhiều trường hợp Cựu Ước cũng nhắc đến họ nhận ra quyền uy bất bại của Thiên Chúa của dân Do Thái. Nơi sách Sáng Thế Ký có nói, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.” Như thế, chẳng những Cựu Ước nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân chúng mà còn đưa lên nhận thức mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa. Nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phao lô minh xác, thân xác mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người. Nếu để tâm nghiệm chứng, hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, một Chúa ba ngôi, cũng như ba ngôi một Chúa chính là thực thể xác, hồn, ước muốn bất khả phân ly nơi một người.
                - Tựu chung, các đạo học Đông Phương như Ấn, Phật, Lão, và Kinh Thánh đều quy về một điểm độc nhất đó là có một Quyền Lực Tối Thượng được mệnh danh bằng những danh hiệu khác nhau chẳng hạn, Chân Như, Brahma, Thượng Đế, Ông Xanh, Ông Trời, Thiên Chúa. Quyền lực tối thượng này đang hiện diện và hoạt động nơi mọi loài, mọi vật, hữu hình cũng như vô hình. Và hành trình thức ngộ chính là nghiệm chứng được thực thể Uyên Nguyên này nơi mình. Thưa cha, thưa quí vị, con xin hết.
                - Vỗ tay, Thanh dứt lời mà mọi người vẫn im lặng như trầm tưởng, đến khi Sỹ nhà con hô lớn vỗ tay, mọi người mới hình như giật mình vừa vỗ vừa la, ồn ào lại nổi lên.
                 
                MBVN 26
                 
                Đợi tiếng vỗ tay và ồn ào ngớt, cha Hải lên tiếng,
                - Có một điểm cần để ý nơi Cựu Ước đó là “Hãy trở nên thánh thiện như Thiên Chúa” nơi sách Lêvi đoạn 19, câu 1. Vấn đề được đặt ra đó là lấy gì làm căn bản để con người có thể trở nên thánh thiện như Thiên Chúa? Nếu chúng ta đặt vấn đề bảo con chó trở nên khôn ngoan và có thái độ như con người, thử dùng lý luận và suy tư để đi đến kết luận chúng ta sẽ có câu trả lời ra sao?
                - Thưa cha, Tùy con giơ tay, không thể được vì con chó không có gì làm gốc gác, căn bản để có thể có thái độ của con người. Có câu nào đó nói rằng, chúng ta có thể dạy cho con khỉ đánh một bản nhạc piano tuyệt vời, nhưng không thể nào dạy con khỉ trở thành nhạc sĩ. Con khỉ cho đến muôn đời thì vẫn là con khỉ bằng chứng là qua bao thế hệ, người ta chưa ai gặp được thứ khỉ nào biến hóa trở nên giữa người và khỉ. Thực tại minh chứng, dẫu có những con khỉ làm xiệc, những con heo, con chó đã được tập luyện đến khi nghe một mệnh lệnh như ký hiệu nào đó thực hiện chuyện gì thì đó là phản ứng theo thói quen luyện tập mà thôi. Con khỉ được luyện tập để vác rổ xin tiền nhưng không thể nào có thái độ của con người. Không nói gì đâu xa, một con khỉ có được luyện tập đến mấy, đem so với một đứa trẻ mười tuổi chắc chắn sẽ khác rất xa.
                - Thế nguyên tắc nào hay dựa vào sự thể nào Kinh Thánh nói con người “Hãy trở nên thánh thiện như Thiên Chúa?” Cha Hải thách đố.
                - Thưa cha, con hiểu ý cha muốn nói. Thưa cha, câu nói nơi sách Lêvi thoạt nghe như khuyến khích, nhưng để ý suy nghĩ, đó lại là một mệnh lệnh, một điều luật, hay điều kiện, Thanh lên tiếng. Bởi vì Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi con người; thêm vào đó theo sách Sáng Thế Ký đã nói con người là hình ảnh của Thiên Chúa; hơn thế nữa, thánh Phao lô minh xác thân xác mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa. Đàng khác, cũng như thánh Phao lô tuyên xưng, “Tôi sống nhưng không phải tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi.” Rảo qua các đạo học Đông Phương, tất cả đều quy về một điểm đó là mọi sự mọi vật đều là hiện thể của Quyền Lực tối thượng dưới những dạng thức khác nhau. Xét thế, cuộc đời, thân xác một người chỉ là phương tiện cho Thiên Chúa hoạt động chẳng khác gì nhận thức Ấn học trình bày. Như vậy, hãy trở nên thánh thiện tức là hãy nhận thức vượt lên lối nhìn thế tục chẳng khác gì trở thành thánh nhân theo nhận thức Lão học. Thưa cha, nói như thế, trở nên thánh thiện là cắt bỏ suy nghĩ thế tục để nhận biết thực thể chính mình?
                - Thưa cha, thưa quý vị, Tình nãy giờ ngồi uống bia nghe bàn luận bất chợt lên tiếng. Nếu nói thánh nhân là sống hòa hợp với thiên nhiên, vô cầu, vô công, vô danh; lại xét Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, hiện thể dưới những dạng thức khác nhau thì như Phúc Âm nói, “Hãy nhìn chim trời, không gieo vãi, không gặt hái, không tích vào kho lẫm” (Mt. 6:25),và như chúng ta thấy, chim không cầu, không công, không danh, sống hòa hợp với thiên nhiên, phỏng chúng nó là thánh nhân?
                - Con chim là con chim, ở đây chúng ta đang nói chuyện về con người, về thực thể hiện hữu của con người, mắc mớ gì ông hỏi về chim. Muốn hỏi về chim, về nhà mà hỏi xem có lãnh đủ không! Sỹ minh định.
                - Con chim vô cầu, vô công, vô danh sao chúng đánh nhau?
                - Vậy mấy con gà mái đá gà cồ cũng vô cầu, vô công, vô danh sao?
                - Con chim, con thú sống theo bản năng sao được gọi là vô cầu, vô công, vô danh!
                - Vậy con chim không phải là hiện thể của quyền lực sự sống hay sao?
                Người này hỏi một câu, kẻ khác lý luận một đường, lao xao như đám o­ng mất chúa. Cụ Tài giơ tay ra hiệu im lặng, đoạn lên tiếng,
                - Anh Tình xưa nay ít nói mà hỏi câu nào trúng câu đó. Vậy, oánh mày, oánh tao thì anh gặp thánh nhân giết thánh nhân ư?
                - Thưa bác, Phủ hỏi, sao lại oánh mày, oánh tao? Trong Lâm Tế Lục là gặp Phật giết Phật mà! Sao có thể lấy “Râu ông cắm cằm bà được như vậy?”
                 
                Cũng tội cho mấy cụ trùm, không hiểu cụ Tài nói gì. Đang tự nhiên bày ra oánh mày, oánh tao, lại còn gặp thánh nhân, giết thánh nhân, gặp Phật giết Phật. Mấy cái người này ăn nói gì kỳ cục; mà nào có ai còn trẻ gì cho cam, đến ngay cụ Tài già khú đế rồi cũng chẳng để ý lời ăn tiếng nói. Thật ra, Phủ đã tham dự mọi cuộc hội đàm mà vì chưa ngộ được công án đơn giản “Oánh mày, oánh tao” cũng không thể hiểu cụ Tài nói gì phương chi mấy cụ trùm. Một số người còn đang nghe ngóng xem có thêm tia sáng nào rọi tới mở rộng nhận thức thì Tình đã lên tiếng,
                - Thưa bác, chuyện đã như thế thì nó phải thế. Con hổ không được sinh ra để ăn cỏ thì cứ thánh nai, thánh hươu mà ăn thịt. Tình nói nghe không đâu vào đâu.
                - Nơi sách Sáng Thế Ký (Khởi Nguyên) có câu, “Và Thiên Chúa đã thấy mọi sự Người đã làm ra: và này tốt lành quá đỗi” (1:31). Tôi nghĩ, mấy anh chị em Công giáo không lạ gì câu nói, “Mọi sự từ Thiên Chúa mà ra.” Đồng thời theo nhận thức về đạo học Đông Phương vừa được anh Thanh trình bày, mọi sự mọi vật từ hữu hình đến vô hình đều là hiện thể của quyền lực tối thượng. Nơi Ấn học, một trong những đức tính thiết yếu mà hành giả rất khó đạt tới đó là yêu thương mọi loài. Nơi nhà Phật, Một số hành giả ở trần cố ý cho muỗi đốt. Thế mà như anh Tình vừa nói, con hổ không chịu ăn cỏ. Mọi loài, mọi tạo vật là hiện thể của quyền lực tối thượng dưới những dạng thức khác nhau nên mỗi vật mỗi loài mang sự thánh thiện riêng của chúng. Trái ớt phải cay, lửa phải nóng, con rắn mang nọc độc v.v… Mọi vật, mọi loài sống theo bản năng ngoại trừ con người vì con người mang quyền lực được Phúc Âm gọi là đức tin, quyền lực tối thượng của Thiên Chúa, của Thượng Đế, của Tào, của Brahma, của Chân Như. Ngưng một chút, cụ Tài tiếp,
                - Câu hỏi anh Tình nêu lên nghe thì thuận lý lẽ nhưng ẩn chứa sự nghịch thường không thể hòa hợp, nếu không để ý sẽ được coi như công án khiến khối người suy nghiệm cả đời không giải quyết nổi. Đa số các công án dùng hữu vi để dẫn dắt tâm trí bước vào hành trình tâm linh. Đàng này anh dùng hữu vi gán ép cho đặc tính tâm linh. Chúng ta nhận thấy loài vật sống theo bản năng trong khi con người vừa bản năng vừa ước vọng, đam mê, ý định. Tôi có thể giải thích bản năng, chẳng hạn, ai đó trong chúng ta, qua một đêm ngủ, sáng hôm sau thức dậy thấy mình mẩy đau nhức và nhận ra rằng khí hậu có điều gì thay đổi. Tôi gọi những người như thế là họ hàng nhà cóc vì tôi thuộc về loại đó. Chúng ta nghe đây đó, trước khi có những trận lụt hay động đất một số con vật tự động rời chỗ ở đi nơi khác. Hoặc, nếu thấy kiến bò lên cao, sắp có mưa lớn. Thế nên, có thể nói rằng muôn loài mang sự thánh thiện của chúng vì tất cả đều là hiện thể của quyền lực tối thượng dưới những dạng thức khác nhau. Con người dẫu mang quyền lực đức tin nhưng lại cũng có tham vọng nên hành trình trở về sự thánh thiện nguyên bản được gọi là hành trình tâm linh, hành trình đức tin.
                 
                - Thưa cha, Phủ hỏi, nếu tất cả là hiện thể của quyền lực tối thượng trong hành trình biến chuyển thì đến một ngày nào đó con người sẽ nhận biết đức tin; thế sao Phúc Âm lại đặt vấn đề có còn thấy đức tin ngày đức Giê su trở lại.
                - Trước hết, cha Hải lên tiếng, điều hiển nhiên ít ai để ý đó là từ lối nhìn hữu vi, người ta đã nhận ra sự biến chuyển của tạo vật mỗi ngày mỗi trở nên khá hơn chẳng hạn chúng ta thấy con cái, đặc biệt là các cháu chắt của chúng ta rất thông minh. Những em bé năm hay sáu tuổi bây giờ có thể nói chúng thông minh hơn chúng ta thời kỳ mười hai hay mười ba tuổi. Nếu để ý nhìn lại cuộc sống, con người kiến tạo cuộc sống càng ngày càng tiện nghi và thoải mái hơn. Từ nhận thức này, Darwin suy nghĩ và viết ra thuyết tiến hóa; đồng thời vì không để ý suy nghĩ vượt lên, chúng ta thấy người ta ngày nay vẫn còn bị lệ thuộc thành ngữ, “Những gì khoa học không chứng minh được thì không có.” Tuy nhiên, họ quên rằng cũng đã có câu nói, “Không có gì mới dưới ánh mặt trời” (KT. - Gv. 1:9). Tôi đề nghị, anh em nên suy nghĩ, đặt vấn đề để suy nghĩ, nhưng cũng nên để ý những gì chúng ta có thể nhận biết, có thể suy nghĩ tới đều không phải tự nhiên. Tất cả mọi sự đều có nguyên nhân, đều có cội nguồn và câu hỏi chính yếu phải là chúng từ đâu ra. Nhà Phật nói về cái duyên, nghe thì hợp lý lắm nhưng xem ra bởi không thể giải thích được nên tạm gọi là duyên. Tôi đưa ra thí dụ; ngày xưa người ta thờ thần sấm sét; ngày nay khoa học đã tiên đoán được sấm sét sẽ xảy ra ở vùng nào và vào khoảng thời điểm nào, nhưng không xác định rõ được thời điểm nào sét đánh và chính xác nơi nào. Sự hội hợp giữa hai đám mây, âm điện tử và dương điện tử, nhập vô nhau được gọi là duyên. Lối nhìn hữu vi là thế. Dĩ nhiên, hai đám mây mang điện tử đối nghịch chạm vô nhau thì tạo thành sét nhưng vấn đề lại là đám mây từ đâu ra, từ đâu tới, và nếu không có đám mây lấy chi được gọi là duyên cho chúng hội hợp. Thêm một quan niệm khác cũng cho rằng con người do chỉ vật chất tạo thành. Nếu tôi không lầm thì chúng ta có chuyên viên nhà Phật, hãy để chuyên viên giải thích theo quan điểm nhà Phật và chúng ta thử suy nghiệm. Mời anh Hưng,
                - Thưa cha, thưa bác, nói rằng nhà Phật quan niệm thì oan cho đức Thích Ca vì đức Thích Ca chỉ rao giảng về giác ngộ chứ không giải quyết về những khốn khó của kiếp nhân sinh. Những người sau này suy nghiệm về những lời giảng của đức Thích Ca rồi viết kinh nọ, kinh kia và cũng bị ảnh hưởng bởi lối nhìn thị dục nên dùng thành ngữ “Cứu nhân, độ thế” gán cho ngài để câu khách hầu triển dương nhóm của họ. Và cũng do lối nhìn hữu vi, người ta đưa ra chủ thuyết con người chẳng là gì, chỉ là duyên hội hợp của tứ đại đó là đất, lửa, khí, và nước. Đây cũng là bốn yếu tố cấu thành nên toàn bộ vật chất thuộc về vật lý của thế gian.
                - Mọi người nghe thuận lý không? Tuy nhiên, tư tưởng xuất phát từ đâu nơi con người? Thế rồi những cảm giảc phát sinh từ đâu? Lại là cái duyên, chính cái duyên mới phiền vì cơ cấu của nhiễm sắc thể di truyền nơi con người đẩy cái duyên ra ngoài lý lẽ. Chúng ta cũng nhận thức được, sự vật hữu hình được sinh bởi vô hình và rồi sự vật hữu hình sẽ trở về vô hình. Tôi nói sự vật hữu hình trở về vô hình chứ không phải phát sinh vô hình mà ngược lại. Để tôi giải thích, trước khi chúng ta muốn làm việc gì, chúng ta đã có sẵn toan tính. Toan tính là vô hình và thực hành sự việc theo toan tính là hữu hình. Tuy nhiên, người ta thường cho rằng toan tính do bộ óc nghĩ ra; xin thưa, dứt khoát bộ óc không thể suy nghĩ được gì mà nó chỉ là phương tiện để cho tư tưởng, toan tính nơi tâm hồn được thể hiện. Tư tưởng không thể nào được phát sinh từ vật chất như bộ óc mà là từ tâm hồn, linh hồn con người. Linh hồn là gì tôi nghĩ mọi người đã biết. Qua hành trình nghiệm chứng chúng ta dùng những lời khôn ngoan để hướng dẫn nhưng không lệ thuộc ngôn từ hay chiều hướng của những vị trước tác. Đã có ai đọc kinh Tăng Nhất Tập của nhà Phật? Trong đó lời kệ của đức Thích Tôn ghi rằng, “Đừng tin điều gì do kinh sách. Đừng tin điều gì do tập quán lưu truyền. Đừng tin điều gì vì được người ta nhắc đi nhắc lại. Đừng tin điều gì do bút tích của thánh nhân. Đừng tin điều gì do người ta tưởng tượng ra rồi gán cho thần phật nói. Đừng tin điều gì vì uy tín của thày dạy. Nhưng hãy tin vào điều các con đã từng trải, đã kinh qua và suy xét cho là đúng, có lợi cho các con và kẻ khác. Lòng tin ấy sẽ thăng hoa đời con, và các con hãy lấy đó làm tiêu chuẩn.” Có ai thấy mấy lời kệ này giống câu nói nào nơi đâu không?
                - Thưa cha, hình như những lời kệ này chỉ là giải trình câu nói của đức Thích Ca, “Đừng vội tin những gì ta nói mà hãy nghiệm chứng. Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.”
                - Mấy câu này đã được truyền tụng đã hơn hai ngàn năm, thế mà cho mãi tới ngày nay người ta vẫn học đòi nhân danh khoa học để luận bàn thế nọ, thế kia trong khi không hiểu gì về khoa học. Có lần coi TV nơi băng tầm Discovery về một chương trình khoa học. Họ giải thích rằng máu chuyển vận tới não qua các kinh mạch li ti rồi thế nào đó phát sinh tư tưởng, sáng kiến mới. Tôi nghĩ, mấy người đó có lẽ họ không biết họ nói gì do không bao giờ tự hỏi khi hồn ra khỏi xác họ rồi thì óc họ có còn nghĩ được không hoặc tim họ còn đập được không! Tôi ngưỡng mộ những thành quả các nhà khoa học đã tìm tòi và áp dụng đem lại lợi ích cho con người nhưng cũng cảm thương cho họ vì bị lạm dụng bởi những kẻ mang ý đồ chẳng nên cũng không ít gì. Đọc những tin tức trên net về thực trạng lạm dụng các chất hóa học pha chế vào thực phẩm chẳng những để nuôi súc vật mà còn áp dụng tai hại đến rau cỏ, thực phẩm cho người, chúng ta thấy, sự thiếu nhận thức gây những hậu quả rất tai hại. Bởi con người phải đối diện, tranh sống nơi thế giới hữu vi nên quen suy nghĩ theo lối hữu vi do đó không chịu nghiệm chứng. Tất nhiên, như ai cũng biết, chúng ta được sinh ra với đức tin vì đức tin là quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu, mà không nghiệm chứng nên không biết; do đó câu hỏi nơi Phúc Âm cho tới nay không ai dám đụng tới. Bây giờ chúng ta đã biết đức tin là gì, thế nào theo Phúc Âm, hy vọng ngày đức Giê su trở lại sẽ có khối người nhận biết. Tóm lại, câu hỏi nơi Phúc Âm, anh Phủ nêu lên, đặt vấn đề về nhận thức chứ không phải có hoặc không vì đức tin là quyền lực sự sống thì sự sống vô hình không phải là sự sống ư, không phải là đức tin ư!
                 
                - Chúng ta đi ngược về vấn đề đức tin quá nhiều, cha Hải nói tiếp, vấn đề là nghiệm chứng chứ không phải tìm hiểu bởi vì hiểu biết coi chừng chặn đường thức ngộ. Anh em nên nghiệm chứng những gì đã hiểu. Xưa nay kinh sách chỉ là phương tiện chứ không phải là chân lý. Tận tín thư bất như vô thư; tin hết vào sách vở thà đừng có sách vở còn hơn. Chỉ nghiệm mới ngộ, không nghiệm, không ngộ. Chúng ta tìm hiểu điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm. Có ai có ý kiến gì không?
                Mọi người như ngậm hột thị. Dĩ nhiên, muốn nghiệm phải đọc, mà muốn đọc thì phải biết chữ. Chẳng lẽ phải biết chữ cũng là điều kiện!
                - Thưa cha, phải biết chữ để đọc. Sỹ lên tiếng.
                - Tôi hỏi điều kiện tâm trí để nghiệm chứng. Không biết chữ thì nghe cũng có thể nghiệm được.
                - Vậy thì con bù trớt rồi.
                - Thưa cha, Thanh giơ tay, hình như có lần cha nhắc tới động từ gì nơi ngôn ngữ Hy Lạp. Con lật sách Kinh Thánh Tân Ước bản dịch năm 1994 của mười bốn dịch giả tại Sàigòn mà cũng chẳng hiểu gì thêm.
                - Nơi sách Kinh Thánh Tân Ước bản dịch năm 1994 xuất bản tại Sài gòn trang 184 có câu, “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giê su đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thìên Chúa. Người nói: “Thời buổi đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15). Nơi phần ghi chú được viết, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giê su còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố”, cha Hải rở sách đọc. Sau đó ngài nói tiếp; trước hết tôi lưu ý anh em, thời kỳ đức Giê su rao giảng chưa có bất cứ gì được mệnh danh là Phúc Âm vì Phúc Âm được viết vào những năm 70 tới 100 sau Công Nguyên.
                - Thưa cha, Thanh lên tiếng, bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn được viết, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên,” hai bản dịch tiếng Việt đều dùng ngôn từ “Gần bên.” Thưa cha, theo nghĩa từ chương, gần bên nghĩa là đang kề cận, đang tới, sắp xuất hiện, nhưng nơi bản tiếng Mỹ của cuốn New American Bible được viết là “At hand, trong câu, “The kingdom of God is at hand.” Thưa cha, “At hand” có nghĩa đang hiện diện sẵn sàng chứ không gần, chẳng kề cũng không sắp. Đồng thời câu rao giảng của Gioan Tiền Hô nơi New American Bible cũng là, “Kingdom of God is at hand.” Trong khi nơi bản tiếng Việt, Phúc Âm Matthêu cũng ghi Gioan Tiền Hô rao giảng “Nước Thiên Chúa đã gần bên.” Con lật thêm nơi cuốn Kinh Thánh Holy Bible cổ lỗ sĩ, không biết từ đời nào cũng thấy ghi “At hand” (Mt. 3:2; 4:17; 10:7; Mk. 1:15; Lk. 10:11), dẫu một hai nơi “At hand” cũng mang nghĩa đang trờ tới chẳng hạn nói thời giờ đã trờ tới. Hơn nữa, như thánh Phao lô minh xác, “Anh em không biết sao? Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 3:16), thì con nghĩ câu này nên được dịch là, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đang hiện diện nơi mỗi người.” Thêm vào đó, dịch như thế mới soi sáng cho tâm trí khi phải nghiệm chứng câu, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33) bởi vì nếu Nước Thiên Chúa sắp đến hay đang đến thì không thể nào nghiệm chứng được.
                - Ý kiến hay, ai có thêm nhận thức gì khác? Cha Hải hỏi.
                - Thưa cha, Sỹ nhà con lên tiếng, nếu lấy những nghĩa khác của động từ Hy Lạp Metanoia mà thay thế vào động từ sám hối, con thấy lạ khó tưởng tượng nổi. Này nhá, nếu thay vô câu nói sẽ thành, “Anh em hãy suy nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, và tin vào lời ta nói.” Quá hay! quá lạ lùng! Thế sao con chưa bao giờ được nghe? Thưa cha, nếu nói như thế, tha hồ suy nghĩ lung tung, nghiệm chứng lộn tùng phèo lên cũng không sợ bị rối đạo. Chúa Giê su thách đố tuyệt vời, nhưng, thưa cha, tại sao lại có câu “Chúng ta phải tin với giáo Hội?” Chẳng lẽ giáo hội hơn Chúa Giê su? Ôi, nào ngoài giáo hội không có ơn cứu rỗi, phải tin với giáo hội, không rửa tội không được vào nước thiên đàng. Thưa cha, giáo hội có theo Chúa Giê su không? Con, con phải đặt vấn đề thế nào đây? Sỹ nhà con hình như đang phải đối diện với một trận chiến nội tâm kinh khủng được diễn tả qua những lời nói ngập ngừng.
                - Anh theo đạo chứ anh có sống đạo đâu mà lo! Câu trả lời của cha Hải lại nghịch thường. Sự thể đã diễn tiến hai ngàn năm; bao nhiêu người đã ra đi chưa bao giờ nghĩ tới điều anh nghĩ! Bao nhiêu người đã ra đi không biết Tin Mừng Nước Trời là gì! Bao nhiêu người đã đổ bao công sức, thời giờ, tiền tài, ngay cả cuộc sống và đã ra đi mà không biết đức tin theo Phúc Âm là như thế nào! Hy vọng anh nhận thức được câu Phúc Âm, “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng thương xót?” (Lc. 6:36).
                - Nhưng thưa cha, tại sao nào là Anh giáo, Tin Lành, Thệ Phản, Chính Thống, Công giáo mà đã hai ngàn năm qua không kiếm ra?
                - Có thể cũng có những người đã kiếm ra mà chúng ta không biết, nhưng đại đa số vì suy nghiệm Phúc Âm theo nghĩa từ chương và cũng không biết điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Tin Mừng.
                - Sao cha không giảng cho người ta biết? Sỹ lại hỏi.
                - Giảng làm sao! Đây là anh nhận thức được như thế! Anh thử giảng xem có ai thèm nghe không hay chỉ mang vạ vào thân! Lời Chúa đã hơn hai ngàn năm rồi, anh nói không giống những gì người ta đã được nghe quen tai thì sẽ thế nào? Tôi đã minh định với anh em là tôi chỉ thách đố chứ không giải thích. Ai có tai thì nghe! Ai nghiệm chứng thì người ấy biết.
                - Thưa cha, Phủ lên tiếng, như vậy, câu “Ai có tai thì nghe” cũng là công án, cũng là điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm.
                - Anh có thể giải thích thêm được không? Cha Hải đề nghị.
                - Thưa cha, cái tai tự nó không nghe được mà chỉ là phương tiện cho linh hồn nghe. Như vậy câu này đòi hỏi điều kiện nào đó của linh hồn một người. Ah! Thưa cha, đúng là câu này đòi hỏi điều kiện tâm trí của một người vì hoạt động của linh hồn là tâm trí.
                - Anh nói đúng. Phúc Âm nói đến điều kiện tâm trí của một người để nghiệm chứng. Ai có ý kiến?
                - Anh Sỹ, anh thử nghĩ lung tung, nghĩ lộn tùng phèo xem sao! Cha Hải nhắc lại lời Sỹ nói.
                 
                Cả nhà im lặng. Không hiểu sao cha Hải lại bới ra được những câu hỏi hóc búa như thế. Lời Chúa rành rành ra đấy có chữ nào điều kiện, có chữ nào tâm trí mà lại được gọi là điều kiện tâm trí. Tiếng chai bia đụng bàn do quân ta nhấc lên bỏ xuống mượn bia kích thích suy tư liên tục nổi lên. Đợi một đôi phút không thấy ai nói gì, cha Hải nói,
                - Để tôi đọc một số câu trong Phúc Âm và anh em thử suy nghĩ xem sao, cha Hải đề nghị.
                - Thưa cha, có thể coi câu, “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (Lc. 18:25) là một trong những điều kiện được không? Thanh hỏi.
                - Anh giải thích được không?
                - Thưa cha, con chợt có ý nghĩ nhưng không biết có thể chấp nhận được chăng nên chưa dám chắc mình suy luận đúng. Đó là hình như Phúc Âm dùng danh hiệu Nước Thiên Chúa hay Nước Trời để ám định một thực thể hay trạng thái nào đó chứ không phải là nơi chốn được gọi là thiên đàng như thường được giải thích theo nghĩa từ chương. Thanh nói.
                - Thế anh nghĩa Nước Thiên Chúa là gì, Nước Trời là gì?
                - Thưa cha, Nước Trời hay Nước Thiên Chúa cũng là một vì Phúc Âm dùng cả hai danh hiệu như nhau. Mà Thiên Chúa ở khắp mọi nơi trong khi Phúc Âm lại dạy “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Chúa đã ở khắp mọi nơi sao còn phải tìm, sao phải khuyến khích tìm kiếm, mà lại tiên vàn, chuyện đầu tiên, điều cần thiết nhất!
                - Chúng ta thường nghe đến danh hiệu thiên đàng nhưng chúng ta có biết thiên đàng là gì không?
                - Thưa cha, thiên ám chỉ Thiên Chúa, đàng là đường; thế nên thiên đàng là đường lối của Thiên Chúa. Ông trùm Phong lên tiếng.
                - Có thể chữ thiên từ danh xưng Thiên Chủ, phát âm theo chữ Hán mà chúng ta gọi là Thiên Chúa. Chúng ta đọc trong lịch sử, ngày xưa trên hết là vua, rồi đến chúa nọ, chúa kia, về sau được gọi lãnh chúa chăng. Đàng, có lẽ lại bởi chữ đạo mà ra. Tôi không đọc được bất cứ tác giả nào viết về nguyên căn của “Thiên đàng” mà chỉ thấy nơi Wikipedia trên net có bài viết về thiên đàn. Tác giả định nghĩa “Thiên đàn” là đàn thờ trời, nơi hoàng đế hằng năm đến tế trời đất. Có thể “Thiên đàng” là ý được tạo thành do một trong hai nguyên chữ này chăng. Chúng ta cũng nên nhớ, tiếng Việt thuộc loại đơn âm và có đặc tính viết theo phát âm, viết thế nào phát âm thế ấy. Anh em đã đọc Phúc Âm nên thấy rõ, trong Phúc Âm không có văn tự “Thiên đàng.” Có điều lạ, nơi Phúc Âm thì được viết, “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (Lc. 18:25), nhưng chúng ta thường nghe thấy nói, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim,” Anh em có nhận thấy điều gì khác lạ không?
                - Thưa cha, câu nói đảo ngược câu viết. Chị Sỹ lên tiếng.
                - Thưa cha, câu nói hình như biểu thị đặc tính đồng hóa, đồng thời khiến câu nói nghe thuận tai hơn, Thanh nêu ý kiến.
                - Anh nói đúng. Nhìn lại lịch sử, dân tộc Việt đã đồng hóa dân tộc Chàm. Nhắc đến đặc tính đồng hóa chúng ta nhớ lại, gần ngàn năm (700) nô lệ người Tàu, gần trăm năm (80) bị Tây đô hộ mà cùng lắm thì mình mang dòng máu lai cho thông minh hơn chứ không mất gốc. Lại nữa, dẫu nhờ Alexandre de Rhodes (A lịch sơn Đắc Lộ) dùng mẫu tự Latin ráp vần theo giọng nói nên chúng ta có ngôn ngữ Việt ngày nay, nhưng, thử để ý coi, ngôn ngữ Việt độc nhất vô nhị không giống bất cứ ngôn ngữ nước nào chung quanh. Biết nói tiếng Việt, chỉ để ý học nội trong một tháng là có thể đọc sách. Nói lòng dòng như thế tôi chỉ muốn chứng minh cho anh em, khi nghiệm chứng một công án hay dụ ngôn, bất cứ khía cạnh nào cũng được giảo nghiệm, nhận định. Trở lại câu, “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (Lc. 18:25), ai có ý kiến gì thêm?
                - Thưa cha, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì sao lại có Nước Thiên Chúa?
                - Nước Thiên Chúa là nước phép, Sỹ lên tiếng khiến mọi người ngạc nhiên. Thế rồi hắn ngang ngang cò bứa nói tiếp, thì nước nào chẳng là nước, Tào như nước ở mọi nơi mọi chốn. Cha là đức chúa trời ngôi thứ tư làm phép nước thì nước trời không là nước phép thì là nước gì? Chẳng lẽ bia!
                - Lý luận hay nhưng trật lất. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì Nước Thiên Chúa cũng ở khắp mọi nơi. Con nói thế đúng không thưa cha, Tình đột nhiên lên tiếng.
                - Vậy “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” chẳng lẽ là nghiệm chứng Thiên Chúa?
                - Rồi sao? Cha Hải nói ngắn gọn.
                - Thưa cha, Thanh nói, như vậy câu “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” có nghĩa người ước muốn giầu có của cải, danh vọng thế tục thì không thể nào thức ngộ được vì ước muốn của họ ở đâu thì lòng dạ họ ở đó. Hèn chi Phúc Âm nói mang Tin Mừng đến cho kẻ nghèo khó.
                - Tại sao anh lại nhắc đến kẻ nghèo khó?
                - Thưa cha, Phúc Âm nói đến tinh thần khó nghèo có nghĩa chăm chú, định tâm vào điều gì đó không để ý hay thiết tha lối sống chạy đua theo thời tức là người khao khát nhận biết thực thể chính mình. Con nhận thấy Phúc Âm thường bị hiểu lầm là nói về những người nghèo đói vật chất. Cứ thuận lý mà nói, Cựu Ước thường nói tới những ai tôn thờ Chúa và sống cuộc đời chính trực thì sẽ được giầu có và giầu có là hồng ân Chúa ban trong khi nghèo đói là tại sống chẳng nên. Thánh Phao lô cũng nhắc nhở người không làm thì chẳng nên ăn (2Thes. 3:10). Thêm vào đó, hơi phi lý khi nói muốn theo Chúa phải bán hết gia tài đem cho người nghèo khó, thiếu ăn vật chất, vậy lấy gì sinh sống chẳng hạn như hiện tại bởi theo Chúa đâu có nghĩa là phải lên rừng ở. Hơn nữa, đối với cuộc sống bình thường, sao không nói hãy tự lo cho mình, chẳng nên làm gánh nặng cho những người khác, và cũng không ai muốn làm phiền bất cứ ai ngoại trừ những trường hợp tâm hồn bệnh hoạn thì hiểu nghèo đói thuộc về vật chất không hợp lý, hợp tình với nghiệm chứng bởi có thể càng giúp người nghèo vật chất càng cảm thấy tội lỗi hơn vì càng thấy có nhiều trường hợp cần được giúp hơn. Đàng khác, coi chừng giúp người bằng cách cho chác vật chất lại trở thành khuyến khích hoặc ngăn cản họ thăng tiến. Nếu hiểu được câu, cho một người con cá không bằng dạy họ câu cá hợp lý hợp tình hơn. Thưa cha, nếu nghĩ như thế, câu, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó” cũng có thể là điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm.
                 
                - Anh nói có lý. Nếu tôi không lầm, anh em đã đàm luận về ý nghĩa của hai chữ “Cúng dường” được đức Thích Ca giải thích là giúp cho người ta ngộ về một câu kệ nào đó. Tôi muốn nhắc nhở anh em, tất cả các đạo học chỉ nói về hành trình thức ngộ tâm thức. Mặc dầu đôi khi nhắc tới những chuyện thế tục thì chỉ dùng thế tục dẫn dắt tâm trí nơi hành trình tâm linh. Riêng hai chữ “Khó nghèo hay nghèo khó” nơi Phúc Âm đặc biệt chỉ về những tâm hồn chăm chăm chú chú nhận thức nên được gọi là tinh thần nghèo khó mặc dầu vẫn bị hiểu sai là cố gắng sống đơn giản. Tinh thần nghèo khó không dính dáng gì tới vật chất mà chính là định tâm hành thiền; bởi như Phúc Âm đã nói, “Thần khí mới tác sinh, xác thịt không ích gì.” (Gioan 6:63). Bình thường, mới nghe đều hiểu là coi thường thân xác nhưng không phải thế. Mọi sự nơi Phúc Âm chỉ chú trọng tới Tin Mừng Nước Trời. Bây giờ thử nghiệm chứng về câu hoàn toàn thế tục xem thế nào! Đó là câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn ta không đáng là môn đệ ta” (Mt. 10:37). Cha Hải đổi đề tài.
                - Không yêu vợ mới đáng lo chứ cha mẹ và con cái thì không yêu cũng chẳng thoát! Sỹ lý luận.
                - Thằng con bất hiếu, thằng cha vô phúc. Bá kê vô.
                - Vậy ai đang ngồi kia mà ăn nói kỳ cục thế, vợ Sỹ chỉnh Bá.
                - Ai có tật thì giật mình; “Giáo ngoại biệt truyền, bất chấp (lập) văn tự.” Bá đổi lời của lục tổ để bào chữa lỡ miệng.
                - Đúng là tên say khôn! Bố mình không chửi cứ giả mù sa mưa chửi bố người khác.
                - Đó là say dại! Coi chừng gặp trường hợp giả mù chửi đại nhưng lại quên “Thương cha chớ chọc ăn mày” (Thành Ngữ) cái ấy mới khôn!
                - Cơm có thể ăn bậy, lời nói không thể nói loạn! Tình thêm.
                - Thường đi cạnh bờ sông, sao có thể không bị ướt giày! Phủ tán vô.
                - Có gì đâu, không bùng nổ trong yên lặng sẽ diệt vong trong lặng yên, Sỹ thêm dầu vào lửa.
                - Không sợ đối thủ giỏi như thần, chỉ sợ đồng bọn ngu như lợn. Bá phát cáu!
                - Ha, ha, người tài thì vất vả! Thanh chọc.
                - Chỉ có kẻ tầm thường mới không bị người khác đố kỵ. Phàm những kẻ có cái tâm u ám thì hay ngộ nhận lời nói của người khác! Bá đấu tiếp.
                - Thất bại cho dù hoa lệ đến đâu cũng vẫn là thất bại! Tình đế vô.
                - Sao các ông đấu tớ nặng thế; lỡ miệng chút xíu mà cứ làm như tử thần gõ cửa; Bá gỡ gạc.
                - Nếu miệng ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì nên ngậm bia! Phủ chêm vô.
                Mấy ông trùm nghe thiên hạ đấu Bá chỉ vì lỡ lời mà cảm thấy lạnh lùng; không ngờ mấy người ăn nhậu này có những cái miệng gớm thế. Những trường hợp khác khi ngồi ăn nhậu với họ sao thái độ họ khác mà lúc họp nhóm họ lại sát ván đến như vậy. Mấy ông trùm nhìn nhau, ánh mắt như ra dấu nên coi chừng mà lòng cảm thấy hãy còn may mắn. Nhất là ông trùm Lực đã bị lỡ miệng hai lần. Lại thấy Tùy hơi lớn giọng,
                - Bách khoa toàn thư tán gái có viết, vâng lời tăm tắp chỉ là tiểu thừa, đối đầu vừa phải mới là thượng sách. Nhưng có điều, già néo đứt giây, bởi trên thế giới này cái gì cũng đều có bán ngoại trừ thuốc chữa hối hận.
                - Nhưng từ điển khôn ngoan có câu, chẳng có tình yêu nào tha thiết bằng mối tình âm thầm tuyệt vọng; vì thà yêu mà mất mát còn hơn chẳng mất gì, dẫu tâm hồn nào cũng e sợ thú đau thương. Hưng lên tiếng.
                Bá dường như nhận thấy thiên hạ đã trúng đài nên đành làm thinh. Một “cái đầu” sao địch lại đội quân tứ xứ bởi dù không cố ý chăng nữa, chúng khẩu đồng từ nhà sư cũng chết. Đành chịu thiệt nếu muốn chiếm tiện nghi, hắn nghĩ. Ông Thung thấy Bá không đấu ngược sau khi Tùy và Hưng kẻ tung người hứng nên nói,
                - Chú Sỹ, yêu vợ đáng lo hơn hay yêu cô hàng xóm lo lắng hơn?
                - Phúc Âm có nói, "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc. 14:26).
                - Đến ngay cả chính mình cũng phải dứt bỏ thì phương chi cô hàng xóm.
                - Nhưng Phúc Âm đâu nói gì về bỏ cô hàng xóm. Nói tới bỏ cha mẹ, vợ con, thì mình vẫn còn cô hàng xóm. Tiên phở thêm vô. Thưa cha, những gì Phúc Âm không nói tới thì tất nhiên không nên coi thường mà phải yêu thương người ta như mình ta vậy cho trọn luật yêu người.
                - Thiếu gì thứ Phúc Âm không nói tới; chẳng hạn như gỏi cá, mộc tồn, đeo kiếng mát lái xe mô tô lạng qua lạng lại. Nhưng anh chị đã lập gia đình được bao nhiêu năm rồi, anh Sỹ?
                - Dạ thưa cha, mới có 35 năm ạ. Chị Sỹ trả lời. Thằng lớn nhất nhà con năm nay 33 tuổi, thân xác cao, to hơn bố.
                - Vậy trong 35 năm anh chị có nhớ đã bao nhiêu lần cãi nhau không?
                - Chời! Cha hỏi chuyện đó sao mà có thể nhớ. Sỹ trả lời. Cha và mọi người biết rõ, mấy bà không bao giờ sai mà nguyên những cái đúng không thể chấp nhận được. Mà hình như cũng lạ, ngày nào im hơi lặng tiếng để gia đình êm ấm, trên thuận, dưới hòa thì ăn không biết ngon, ngủ chẳng đẫy giấc. Thế mới lạ kỳ.
                - Vậy anh có để ý trạng thái của mình hay của cả hai người khi có chuyện cãi vã không? Cha Hải hởi tiếp.
                - Thưa cha, không nói giấu gì, hình như chúng con cãi nhau cho vui cửa vui nhà vì chẳng lẽ vợ chồng cứ ngồi nhìn nhau mà không nói lên lời như ngày mới gặp!
                - Tôi muốn hỏi về nhận thức trạng thái khi hai người cãi nhau chứ không phải lý do.
                - Con cũng chẳng biết trả lời thế nào vì cũng không hiểu cha muốn biết về điều gì.
                - Để tôi giải thích. Nguyên nhân cãi nhau như anh nói thì chỉ là những chuyện thường tình. Chẳng hạn, chị muốn trồng mấy luống rau, nhờ anh cuốc đất mà vì mắc lo bữa nhậu, thế là hai người cãi nhau.
                - Vậy hai anh chị có yêu thương nhau thật tình không.
                - Thưa cha không đâu, nhà con quen dạ đẻ cách năm đôi nên con cái cả tá, mặc dầu mới cưới được 35 năm.
                - Như vậy, khi chị ấy nhờ cuốc đất mà đang không phải làm gì, anh vui vẻ cuốc đất cho chị ấy trồng rau thì có cãi nhau không?
                - Cha muốn nói đến cái ý hoặc là cái tâm tình lúc xảy ra chuyện cải vã?
                - Anh nói đúng.
                - Cãi thì cãi nhưng con nói bà ấy đi pha miếng cà phê và thế là huề!
                - Như thế, nguyên nhân mọi sự rắc rối chỉ là khác quan niệm, hay ý thích.
                - Thưa cha đúng.
                - Vậy khi cãi vã, ý thích hay quan niệm của anh thân thiết với anh hơn đối với chị ấy.
                - Thưa cha, nếu cái đúng của bà ấy có thể chấp nhận được thì có chi đâu mà nói.
                - Thế trước khi chưa cưới thì sao?
                - Thưa cha, ngày ấy nhà con dễ thương lắm; bảo gì nghe nấy. Chứ nếu ương bướng như bây giờ, con cho de luôn.
                - Vậy giả sử chuyện gì anh thấy chị ấy có lý, anh có làm theo không?
                - Có chứ, thưa cha; lệnh bà mà. Cái gì đã không hợp ý thì ối giời ơi, chỉ Chúa biết.
                - Điều tôi muốn anh em để ý đó là nguyên nhân khiến những chuyện xô xát xảy ra chính là bất đồng ý kiến. Lúc xô xát, ý kiến của mình thân thiết với mình hơn ngay cả với vợ mình dẫu hai người tha thiết yêu nhau. Ai không nhận ra điều tôi vừa nói?
                - Xét nơi thực tại, đối với một người, có người nào thân thiết với mình hơn cha mẹ, vợ con không? Trong chương trình học mục vụ đặc biệt về cố vấn mà tiếng Mỹ gọi là “Counceling,” một nguyên tắc cần phải nghiêm chỉnh chấp hành đó là linh mục không nên cố vấn cho cặp vợ chồng gặp rắc rối nếu một người là anh em họ hàng của mình, vì dẫu thế nào, vị linh mục cũng sẽ thiên vị bởi tình thân họ hàng. Xét câu Phúc Âm, "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc. 14:26), nếu đem ý nghĩ, ước muốn, ý định, quan niệm thay thế cho cha mẹ, con cái, vợ chồng, và ngay cả chính bản thân mình thì anh em nhận thấy thế nào?
                - Hay tuyệt! Tình bỗng nói.
                - Hay thế nào? Cha Hải hỏi Tình.
                - Thưa cha, Phúc Âm viết thâm trầm quá. Hèn chi cứ như là nghịch thường. Nhưng thưa cha, tại sao nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước lại giải thích là đức Kitô đòi hỏi một tình yêu tuyệt đối. Tình lý luận.
                - Anh nói thế hơi oan. Nơi Kinh Thánh Tân Ước ấn bản năm 1994 tại Sài gòn, trang 93 được chú thích như sau, cha Hải rở sách và đọc, “Ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất cũng phải được xét lại: người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Kitô lên trên mọi tương quan gia đình, trên chính mạng sống mình nữa. Quả là một đòi hỏi quyết liệt và tuyệt đối, chưa hề có ông thầy nào dám đưa ra cho môn đệ của mình. Nguyên điều này cũng mặc nhiên cho thấy Chúa Kitô chính là Thiên Chúa” (KTTU; tr. 98).
                - Thưa cha, Thanh lên tiếng. Giải thích cha vừa đọc chứng tỏ dịch giả không nghiệm chứng mà chỉ chú giải theo nghĩa từ chương hữu vi. Thưa cha, giải thích như thế rất nghịch thường và không hợp lý lẽ cũng như nhận thức thực tại. Thưa cha, nếu luận bàn Phúc Âm như thế sao có thể chấp nhận chứ chưa nói đến áp dụng câu, “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng nó đi!” (Mt. 5:29).
                - Thưa cha, Sỹ giơ tay, nói theo lời chú thích trong sách tất sẽ luôn luôn lỗi luật yêu thương và sẽ phát sinh vô cảm để rồi tiến tới lạm dụng Lời Chúa; bởi con cũng thấy có gia đình lục đục chỉ vì người vợ yêu Chúa quá đỗi, lúc nào cũng chỉ muốn quanh quẩn cầu nguyện và đọc kinh, dự lễ nơi nhà thờ; cơm nước để chồng con đi làm về thổi nấu và sinh lắm thứ phiền hà trong gia đình.
                - Thưa cha, Phủ lên tiếng, câu giải thích cuối cùng, “Nguyên điều này cũng mặc nhiên cho thấy Chúa Kitô chính là Thiên Chúa” (KTTU; tr. 98), con thấy hình như nhà chú giải nào đó đã viết tào lao, có lẽ chỉ biến Phúc Âm thành không tưởng. Cứ lý luận mà nói, đòi hỏi một tình yêu tuyệt đối không thể nào mặc nhiên cho thấy Chúa Kitô là Thiên Chúa. Vợ con và tất cả các bà vợ đều đòi hỏi một tình yêu tuyệt đối từ người chồng; nếu nghe thấy chồng mình chàng vàng với người nào thì coi chừng các bà xé xác kẻ muốn cuỗm chồng của họ. Như vậy cũng mặc nhiên cho thấy họ là Thiên Chúa à?
                - Hèn chi cha nhắc nhở về lời kệ của đức Thích Tôn trong cuốn Tăng Nhất Tập, “Đừng tin điều gì do kinh sách, nhưng hãy tin vào điều các con đã từng trải, đã kinh qua và suy xét cho là đúng, có lợi cho các con và kẻ khác. Tình thêm vô.
                - Tôi có lời khuyến khích anh em. Không ngờ phản ứng của anh em về lời chú giải nơi Kinh Thánh Tân Ước mạnh mẽ đến thế. Tôi nghĩ nếu nhận định thêm sẽ còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Chỉ xin anh em nhớ câu, “Đừng dựa dẫm vào bất kỳ ai trên đời này vì ngay cái bóng của mình cũng từ bỏ mình những lúc tăm tối.” Và xưa nay kinh sách chỉ là phương tiện chứ không phải là chân lý. “Tận tín thư bất như vô thư;” tin hết vào sách vở thà đừng có sách vở còn hơn. Chẳng còn nhiều giờ nữa, ai có chể giải thích câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn ta, không đáng là môn đệ ta“ mời lên tiếng. Cha Hải hướng về Tình, mời anh Tình.
                - Thưa cha, ở đây lắm bậc thức ngộ nên nghiệm chứng thì con dở nhưng nghiện bia thì cũng tạm được. Cha bảo con nói thì con xin tóm tắt ý nghĩa của câu “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn ta, không đáng là môn đệ ta.“ Con xin được trình bày như sau. Hồi tâm nhận thức về chính mình, chúng ta thấy không có ai hay bất cứ vật gì hữu hình mà có thể thân thiết với chúng ta bằng tư tưởng, quan niệm, ước muốn, đại khái được gọi là vọng tưởng, ngay cả cha mẹ, vợ chồng, con cái. Thế nên câu Phúc Âm dùng cha mẹ, vợ chồng, con cái mang ý nghĩa ám định về ước muốn, vọng tưởng của mỗi người. Khi định tâm, dồn hết tâm trí vô bất cứ dụ ngôn hay công án nào nơi Phúc Âm, chúng ta phải gạt bỏ học thức cũng như kiến thức, ước muốn, chỉ đối diện với Lời Chúa bằng tâm hồn mình để nghiệm chứng. Dầu chúng ta cần sự khôn ngoan hướng dẫn thì cũng nên nhớ lại lời kinh Kim Cang, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Tất cả mọi sự nơi mình; Lời Chúa nói về thực thể và sự thể chính mình. Thưa cha, con xin hết.
                - Vỗ tay; Sỹ nhà con hô hào.
                Và bia lại cạn, những chai bia mới tuần tự được chuyền tới mỗi người. Cha Hải rở cuốn Kinh Thánh Tân Ước tìm gì trong đó, đoạn chiêu ngụm bia, lên tiếng,
                - Nơi Matthêu đoạn 10 câu 39 được viết, “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất.” Mời anh em!
                - Thưa cha, Thanh giơ tay, câu này nơi bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn viết là, “Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất.” Thưa cha, hình như bản dịch 1994 dùng văn từ có vẻ hơi ngây ngô vì nói như thế phần nào ám định muốn tự tử cũng không sao trong khi luật đời lên án tự tử.
                - Anh nói không sai, nhưng câu này nếu dịch như Nguyễn Thế Thuấn cũng khiến cho người đọc đầu óc quay quay vì trước khi có được sự sống thì làm sao mà cố tìm và khi mình đã có cuộc đời, nghĩa là đã đang sống sao đặt vấn đề cố tìm làm chi.
                - Thưa cha, nói rằng ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất và kẻ cố tìm sự sống mình; cả hai đều khiến đầu óc quay cuồng vì câu nói quá ư nghịch thường chẳng khác gì mang năng lực nhiếp hồn sao có thể nghiệm chứng. Sỹ phát biểu.
                - Thưa cha, ông trùm Phong lên tiếng. Có thể sách in sai vì cuộc đời một người được Chúa ban cho chứ đâu phải cứ kiếm mà được. Con đồng ý với ông Thanh, trước khi được sinh ra sao có thể nói là kiếm tìm sự sống của mình vì lúc đó đã có mình đâu. Con nghĩ chắc chắn có sự sai sót nào khi in ấn.
                - Không in sai đâu vì nơi sách tiếng Mỹ, New American Bible, cũng được viết, “Who finds his life will lose it, and whoever loses his life for my sake will find it.”
                - Thưa cha, như vậy bản tiếng Mỹ còn khó hiểu hơn vì câu nói có vẻ thật bình thường. Con nghĩ, bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn cho chúng ta một chìa khóa để mở đó là chữ “Cố.” Thiển nghĩ, cố tìm sự sống mình có nghĩa chỉ cho rằng cuộc đời này là trên hết, không còn gì đáng nói nên lo an hưởng, lo kiếm đủ mọi cách sống sung sướng, thoải mái theo ý mình mà quên rằng ai cũng phải chết. Dĩ nhiên, phần kết luận của câu nói, “Thì sẽ mất” chỉ về sự chết của xác thân nên ai cũng thế, đọc hay nghe đến nó tưởng rằng chuyện thường lại muốn tránh nhắc tới. Nơi khác trong Phúc Âm Luca, khi một người xin về chôn cất bố của ông ta mới chết, Chúa Giê su bảo, “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc. 9:59-60). Con mất mấy tháng vật lộn với câu nói này. Thoạt đầu con thắc mắc, tại sao kẻ chết có thể chôn kẻ chết. Tại sao không được viết hãy để anh em họ hàng và gia đình chôn cất bố anh ta mà lại nói người chết chôn người chết, chẳng lẽ cầu siêu để ma hiện hình về chôn người chết. Mãi sau, khi vô tình nghĩ tới câu nào đó, “Sống như là đã chết” con chợt nghĩ ra chữ “Chết” có hai trường hợp. Thân xác chết và chết về đường tâm linh. Như thế, con hiểu câu ấy nói rằng hãy để những người chết về đường tâm linh, chỉ sống như những thân xác biết thở chôn xác chết. Theo ý nghĩa này áp dụng vô câu “Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất” lại bị chữ “Sẽ” đánh lừa. Nếu chỉ đơn giản nói lối nào cũng chết thì dễ dàng biết bao bởi thân xác chết là chuyện hiển nhiên phải xảy ra. Như vậy, câu này cũng thuộc về điều kiện tâm trí khi nghiệm chứng đó là những ai không nhận biết hoặc không dám đối diện với sự thể cuộc đời, đến ngày nào đó sẽ chết, mà cứ lo sống như là sẽ không bao giờ chết thì cũng phải chết, vẫn mất mạng sống thế tục.
                - Vậy điểm chính yếu của câu này nói về gì?
                - Thưa cha, điểm chính yếu không nói nơi câu này nhưng lại nói nơi câu, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng. Còn anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc. 9:59-60). Dĩ nhiên, thưa cha, thưa quý vị, muốn loan báo Triều Đại Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa thì cần phải biết mình loan báo gì nên cần được chuẩn bị, mà chúng ta đang nơi tiến trình tìm hiểu về điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời, thì thưa cha, con chưa có thời gian để suy nghiệm nên không thể nói lúc này. Nhưng giới hạn trong điều kiện tâm trí thì câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn ta không đáng là môn đệ ta” (Mt. 10:37) nhắc nhở mọi người rằng khi đối diện những câu nói nơi Phúc Âm, hãy để lòng thanh tịnh, không lệ thuộc bất cứ điều gì, cho dù kiến thức, quan niệm, ước muốn hay yêu thích để đối diện với câu nói, hay công án, hoặc dụ ngôn, và mở rộng lòng để nghiệm chứng. Trạng thái tâm hồn lúc này có thể dùng câu nói của anh Bá, “Bất chấp văn tự” hoặc câu nơi kinh Kim Cang của nhà Phật, “Ưng vô sở trụ” để áp dụng.
                - Nói hay, Tình chợt thốt.
                - Anh Tình nói hay thế nào?
                - Thưa cha, nghe Thanh nói xong, con chợt nhận ra không thể ngờ Phúc Âm được viết thâm trầm đến thế nhưng theo nghĩa từ chương lại đầy vẻ ngang ngược bất chấp thiên hạ nghĩ gì. Xưa nay con chỉ nghĩ, tất nhiên Lời Chúa mang sự khôn ngoan khó hiểu. Nghĩ đến đây, con cũng phải có lời cảm ơn bác Tài và cảm ơn cha. Lối khuyến khích giống như khích tướng trong khi không chấp nhất những bất đồng nhỏ nhoi, hoặc thiển cận thế tục mà cố moi nơi lòng ruột chúng con để dẫn dắt từng bước, từng bước. Quả là hay, con xin cảm phục.
                - Anh nói thế coi chừng bị kết án phạm thượng, và chẳng những thế, có thể nói vô tình lên án chúng tôi. Đơn giản hơn, tôi chỉ muốn nói, chính Thiên Chúa nơi mỗi người dẫn dắt chúng ta nhận thức. Tôi nghĩ, anh em chắc chắn chưa chấp nhận được lời tôi vừa nói, nhưng một điều khẳng định, tôi phải nói và chỉ nói được thế mà thôi. Để tôi dùng Kinh Thánh minh chứng, và khi đã nhận ra, xin anh em để tâm nghiệm chứng trong cuộc đời mình. Trước hết, nơi Phúc Âm có viết, “Chẳng ai đến với tôi được nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Gioan 6:44). Câu này rõ ràng chứng tỏ chính Thiên Chúa đã dẫn dắt anh em đề tìm hiểu hầu nghiệm chứng Phúc Âm. Không những thế, nơi sách Công Vụ Tông Đồ, đoạn 2, câu 17 đến câu 18 nhắc lại lời tiên tri Joel, “Sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, Thiên Chúa phán: Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên mọi xác phàm, và con trai, con gái các ngươi sẽ tuyên sấm, thanh niên của các ngươi sẽ thấy thị kiến, kẻ già lão trong các ngươi sẽ chiêm điềm mộng. Và cả trên các tôi trai, tớ gái của Ta, trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta xuống và chúng sẽ nói tiên tri” (CVTD; 2:17-18). Chúng ta thấy rõ, lời tiên tri Joel nơi Cựu Ước cũng hùng hồn minh chứng Thần Khí Thiên Chúa nơi mọi người; vấn đề còn lại là chúng ta có nhận biết hay không.
                 
                Một cánh tay giơ lên, Sỹ nhà con, nhưng cha Hải ra hiệu nói,
                - Hãy để tôi nói hết. Nơi Phúc Âm Matthêu được viết, cha Hải lật sách và đọc, “Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy." Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi" (Mt. 12:47-50). Tôi nghĩ, đến lúc này anh em đã hiểu được thi hành ý Chúa, thi hành ý Cha của đức Giê su chính là nghiệm chứng những Lời Chúa, nghiệm chứng Phúc Âm. Anh em đã thấy vị thế người nghiệm chứng Phúc Âm cao trọng như thế nào; xin anh em để tâm cho khỏi uổng phí cuộc đời trước mặt Thiên Chúa. Nói như thế anh em cũng nên để ý câu Phúc Âm, "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt. 7:21-24).
                - Anh Sỹ muốn nói gì?
                - Thưa cha, con chỉ muốn hỏi cho rõ về câu của tiên tri Joel, “Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta xuống và chúng sẽ nói tiên tri.” Nói tiên tri là thế nào thưa cha?
                - Có phải anh liên tưởng đến những thày bói hay những người tiên đoán các sự việc sẽ xảy đến trong tương lai phải không? Ngôn từ “Tiên tri” nơi Kinh Thánh có nghĩa rao giảng Lời Chúa chứ không phải tiên đoán chuyện thế tục hay bói toán.
                - Chú mày định làm tiên tri bói toán hay sao mà thắc mắc? Phủ hỏi Sỹ.
                - Người ta bói Kiều được tại sao không bói Kinh Thánh được, nghề không vốn mà!
                - Chú mày đã thử bao giờ chưa?
                - Đang định thử nhưng phải chờ thức ngộ đã chứ!
                - Chừng nào thử cho tớ biết; có khi mặc quần đùi lộn ngược, người ta lại tưởng mình là siêu nhân đấy, ha ha.
                - Kinh nghiệm minh chứng, người thiện bị thiên hạ khinh; ngựa hiền bị người ta cưỡi. Minh bạch tỏ tường thì không có đường chấm mút. Bởi vậy, da mặt không dày sao có thể làm hội trưởng.
                - Sao mà mới nghe lóm được vài câu Kinh Thánh đã có người ngộ chức vị tiên tri rồi ta! Tình cao giọng.
                - Chưa thử sao biết. Trên đời này chưa thằng nào sợ thằng này nên thằng này cũng chưa ngán thằng nào, chỉ sợ thằng dám làm!
                - Nói hay! Tùy con nhào vô.“Chưa buôn thì vốn còn dài; buôn thì vốn đã theo ai mất rồi!” (CD)
                 
                MBVN 27
                 
                - Hỡi cô coi bói cho người, số cô, cô để cho ruồi nó bâu! Tình nói thêm.
                - Chưa thử, chưa biết. Dù thất bại chăng nữa cũng là mẹ của thành công bởi đó là phương tiện tốt nhất truyền bá nghiệm chứng tới ít nhất một số người. Sỹ giải thích.
                - Anh Sỹ, anh định truyền bá thế nào? Cha Hải hình như thấy Sỹ có ý tưởng lạ nên hỏi.
                - Thưa cha, con chợt nghĩ tới một vài cách. Thứ nhất, xưa nay đã có bói Kiều thì bói Kinh Thánh ảnh hưởng chỉ có hơn chứ không kém. Tiếp theo là bói Kiều chỉ người bói giải thích, đàng này bói Kinh Thánh khuyến khích hay gợi ý cho người nghe nghiệm chứng, hay ít nhất để tâm suy nghĩ Lời Chúa. Con nghĩ, phương pháp cũng có những cách khác nhau, hoặc là để khách hàng tự lật hay làm những thẻ xóc giống như xin xâm nhưng quan trọng lại là người giải xâm, vì bất cứ câu nào cũng phải gài khách hàng để tâm suy nghĩ. Nói cho đúng, mục đích chính là khuyến khích suy tư lời Kinh Thánh mà thôi.
                - Anh không ngại bị cho là buôn thần bán thánh sao?
                - Thưa cha, con không bắt ai phải đóng góp cũng chẳng xin xỏ ai. Hơn nữa, mọi người đều cho là làm không được, chưa chắc đã làm không được bởi chưa thử nên chưa biết. Con cũng không nhân danh ai mà làm chuyện này thì ai có nói tai họ gần miệng nên họ nghe chứ con đâu có nghe.
                - Thưa ông Sỹ, ông trùm Lực lên tiếng. Tôi theo đạo cả đời lại đã nhiều năm làm việc cho nhà thờ nhà thánh mà vẫn còn lờ mờ nếu không mốn nói là chẳng biết gì về Lời Chúa. Nghe cha và quý ông nói, đầu óc tôi quay mòng mòng, thì làm sao những người bình dân hoặc không biết đọc, không biết viết có thể nghiệm trứng, nghiệm cà được, may ra nghiện bia chăng vì bình thường tôi cố lắm thì cũng chỉ được một chai, mà mới lần thứ hai nhóm họp bàn luận, tôi đã làm đến chai thứ ba rồi.
                - Khi đi vợ đã dặn rằng, bia mời thì uống, bia mua thì đừng, Tình tiếp lời. Đoạn hắn ngân nga theo cung Quan Họ Bắc Ninh, ông trùm đừng lo, uống không say nào hay, uống cho trời và đất lăn quay.
                Cả nhóm gật gù vỗ tay theo nhịp; Tình hát hết rồi mà vẫn còn vỗ. Mấy ông trùm càng ngỡ ngàng, chẳng hiểu được cái nhóm nhậu này ra sao. Lúc thì nghiêm nghị, yên lặng, khô khan nứt cả tường nhà, khi lại ăn nói bạt mạng cười nhạo đủ mọi thứ chuyện, chọc chạch người nọ, đưa lên đoạn đầu đài người kia giống quân hồi vô phèng chẳng ai nói ai nghe. Ai vô tình hở ra điều gì khác thường là mọi thứ miệng đổ dồn vào phân tách, phân cốc lộn xì ngầu. Nhất là tâm trạng ông trùm Lực, vừa nêu ý kiến một cách đứng đắn, Tình chớp ngay lấy, cho rằng phải vâng lệnh bà, thế rồi tửng tửng ca lung tung mà cả đám lại gật gù vỗ tay ra chiều ưng ý lắm. Chưa dứt vỗ tay, Sỹ đã vội lên tiếng,
                - Ông trùm nói thế không phù hợp với thời đại này. Một lục tổ Huệ Năng, nhà Phật, không biết chữ, nhà nghèo phải đi đốn củi nuôi mẹ bệnh hoạn, thế mà chỉ nghe bà chủ nhà mua củi tụng kinh Kim Cang đến câu, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” đã giác ngộ; trong khi bà chủ nhà, biết đọc chữ nho thì phải là người có học, lại không hiểu gì chứ chưa nói đến thức ngộ. Bởi thế lục tổ Huệ Năng khi nhờ quan biệt giá Giang Châu là Trương Nhựt Dụng viết kệ lên tường, quan biệt giá coi thường nói, ông cũng làm kệ à. Ông trùm biết Huệ Năng trả lời sao không, “Muốn học vô thượng Bồ Đề chẳng nên khinh khi kẻ sơ học. Hạ hạ nhơn hữu thượng thượng trí, thượng thượng nhơn hữu một ý trí.” Kinh nhà chùa còn giác ngộ được cả một vị Ngũ tổ phương chi Lời Chúa. Con người đã được sinh ra với tất cả mọi sự cần thiết chẳng những cho cuộc đời này mà còn cho hành trình đức tin, hành trình tâm linh. Ông trùm không nhớ lời tiên tri Joel à. Để tôi nhắc lại, “Thiên Chúa phán, trong những ngày sau hết Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên mọi con cái xác phàm; con trẻ sẽ nói tiên tri; người già nằm chiêm điềm mộng; và thanh thiếu niên thấy được thị kiến.” Lời Chúa đoan chắc như thế thì ai mà không thể ngộ được, vì ngộ chính là Thần Khí nơi con người ấy thức ngộ cái bản lai diện mục của mình. Hơn nữa, sự thức ngộ không lệ thuộc học thức, tiền tài hay danh vọng, không cần đẹp trai như tôi cũng không phải cao ráo như ông trùm mới ngộ, mà coi chừng, mấy đứa trẻ lầng nhầng con cháu mình ngộ, sau đi tu làm giám mục thì mình chỉ còn cách lạy chúng sói cả đầu.
                - Chết cha tôi rồi, đầu tôi bị hói; coi chừng đó là dấu hiệu hai thằng cháu nội của tôi đi tu làm giám mục như ông nói thì nguy. Ông trùm Phong diễu.
                - Đừng lo, đừng lo, Tình nhào vô, cùng lắm chúng nó đi tu thì chỉ mới dám mục chứ mình mục rồi thì ông nội, ông ngoại vẫn là ông mục bởi nó chưa có thể, mới chỉ dám thôi mà.
                - Sao ông lại nói là ông mục! Ông của giám mục chớ! Ông trùm Hiểu lần đầu lên tiếng diễu.
                - Không, thưa ông trùm, Tình giả đò nghiêm trang, tôi chắc chắn ông cũng như mọi người đây đã mục rồi. Cha thì linh mục, mục mà linh, còn mấy đứa con cháu chúng ta may ra chỉ mới dám mục thôi, chứ chưa mục ạ!
                - Chú Sỹ, ông Thung lên tiếng, thế khi bói chú có cần ông từ hay nhang đèn chi không?
                - Có phải bỏ tiền cúng tổ không? Tùy hỏi.
                - Nếu có thì cúng tôi chứ làm gì có tổ mà cúng. Sỹ trả lời.
                - Lần tới ông bà Tiên phở cúng dường bữa nhậu vậy ông thày có bói cho một quẻ xem dạo này tiền có vô như thác nước mà ra chỉ nhỏ giọt như khe nứt may ra trở thành triệu phú được không? Phủ bàn vô.
                - Bói thì được chứ, nhưng không biết đức tin của hành giả thế nào! Chuyện gì thì khó, chứ muốn triệu phú thì chỉ cần đức tin bằng hạt cải là sẽ thành. Sỹ ỡm ờ.
                - Ông thày nói chuyện khó là chuyện gì? Chị Tiên hỏi.
                - Chị hỏi vậy nhưng đã nghiệm chứng gì chưa? Chị nên biết, không ai ăn dùm, uống dùm cho mình được, như bác Tài thường nói, thì cũng không ai nghiệm chứng dùm cho mình được. Vậy đức tin của chị là gì mới là vấn đề đáng nói vì đây là bói Kinh Thánh, không phải bói Kiều, bói Hoa Mai, hay bói mu rùa bởi vì tôi chưa mù.
                - Ông thày nói như thế, không dựa trên căn bản nào hết thì lấy gì mà nghiệm!
                - Đây tôi giải thích cho chị, Lời Chúa phán, “Người ta không lấy rượu mới đổ bì cũ, cũng không lấy vải mới vá áo cũ” Chị về nghiệm một trong hai câu đó rồi mình gặp lần tới. Đừng hỏi thêm gì nữa vì thiên cơ bất khả lậu, mà phải nghiệm chứng.
                - Đang nói bói sao ông thày nói đến rượu?
                - Không có rượu, bói không linh, cũng như linh mục không có rượu làm lễ không thành.
                - Thưa cha, có phải thế không ạ? Chị Tiên hỏi cha Hải.
                - Anh Sỹ nói đúng, nhưng chỉ đúng với anh ấy mà thôi.
                - Thưa cha, như thế thì làm sao mà bói đúng cho con được.
                - Đúng hay sai thì chị biết. Dù anh ấy bói sai hay bói đúng thì chỉ chị biết chứ ai có thể biết mà hỏi tôi!
                Mọi người vừa nghe cha Hải nói đều cảm thấy giật mình; không thể ngờ được ngài trả lời ngang ngửa như thế, nhưng chợt nghĩ lại, lời lẽ coi bộ đơn giản nhưng ý tứ kỳ cục mà lại hợp lý, hợp tình, và đồng thời nhận ra lối trả lời của ngài cũng như không trả lời. Cha Hải nói tiếp,
                - Anh Sỹ nhắc đến câu Phúc Âm mà đã giải thích được chưa?
                - Thưa cha, con còn đang ngâm kíu. Nhưng lo gì, lời Chúa phán, “Anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt. 10: 19-20). Làm việc cho Chúa thì chắc chắn Chúa phải lo. Chúa không lo thì mình chỉ còn đường chết. Đấy, cha thấy, trói lại mà đánh khen hay chịu đòn là thế đó.
                - Thế anh đã ngộ chưa?
                - Thưa cha, ngộ gì ạ?
                - Thì rượu mới, áo cũ đó.
                - Thưa cha, mới nói mà con đã quên mất; có tí tuổi rồi nó vậy đó cha ạ. Con mới ngâm kíu được chút chút nên nhớ đã có lần bác Tài thách đố anh em Công giáo tụi con lý giải câu “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ” nơi Phúc Âm. Bác nói, Lời Chúa mắc mớ gì đến rượu mới hoặc áo cũ. Chẳng lẽ đức Giê su đến để phá bỏ tình yêu gia đình. Bác còn nói các đạo học đòi hỏi con người cần bỏ quan niệm cũ để nhìn sự việc và sự vật như chính nó thay vì đeo kiếng màu quan niệm để rồi không thể nhìn xác thực bất cứ vật gì. Bác lại nói phải đặt mình nơi mỗi trường hợp hoặc sự kiện, buông hết, bỏ hết, không nhớ gì, không nghĩ gì mà đối diện với thực thể sự vật và sự việc để nhìn thấy cái mới, cái mà ngôn từ không nói lên được nghĩa là phải được chim quên ná, được cá quên nơm, chứ nếu cứ bo bo giữ quan niệm của mình rồi vác Chúa Giê su ráp vào thì hỏng; hỏng “chăm phần chăm.”
                - Ông Sỹ nói làm sao, cụ trùm Hiểu lên tiếng. Ông nói phải được chim quên ná, được cá quên nơm là thế nào? Chẳng lẽ chúng ta phải trở thành thứ vô ơn, ăn cháo đá bát mới nghiệm trứng, nghiệm cà được à? Rồi gì nữa, chẳng lẽ Chúa Giê su không biết điều đơn giản là rượu giữ trong bình sành là tốt nhất hay sao mà phải nói đến rượu mới không đổ bình cũ. Mấy cái bình nylon ngày nay đựng rượu sao có thể bằng bình sành ngày xưa. Rõ ngay trước mắt, cũng Heineken, đựng trong chai thủy tinh uốn ngon hơn loon nhôm không phải thế sao?
                - Giời, ông trùm suy luận hay nhưng mà hay không đúng. Bá lên tiếng. Thưa ông, thời đức Giê su chưa có bình sành đựng rượu chỉ có hũ sành đội trên đầu đi lấy nước thôi ạ. Mà Phúc Âm nói đến bì đựng rượu làm bằng bong bóng con vật; không hiểu con vật nào nhưng chắc chắn là không phải bong bóng lợn bởi người Do Thái coi heo thuộc loại nhơ uế. Như vậy, bong bóng con vật đã cũ rồi không thể co giãn được nữa mà đổ rưọu mới vô thì nó sẽ nổ tung ra, hết uống, hết nhậu. Có lẽ Chúa cũng biết câu, “Cắt cổ không bằng đổ rượu” nên khuyên người ta chớ dốt nát mà biến thành hoang phí uổng của trời. Riêng cái vụ “Được chim quên ná, được cá quên nơm” thì đó là câu nói nơi sách Nam Hoa Kinh của Trang Châu. Không biết lý do gì mấy soạn giả người Việt mình lấy câu này viết nơi sách về Tục Ngữ, Ca Dao bỏ bớt mất câu cuối, có lẽ vì không hiểu nó nói gì. Chính thức, câu đó được viết, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời.” Trang Tử khuyên rằng nếu đã hiểu được ý nghĩa câu nào hay sự việc nào thì hãy quên lời nói đi, suy nghiệm ý của nó và sống sao cho ý nói đó biến thành của mình. Cái anh chàng Sỹ này có lẽ có tí tuổi và bị vợ đì nhiều quá nên quên hết mọi sự cần thiết chỉ nhớ những gì muốn nhớ và được phép nhớ nên ăn nói kiểu đó đã làm phiền ông. Thôi thì hãy vì Chúa mà tha thứ cho hắn.
                - Ông nói cái gì, Sỹ nhào vô, ai dám đì tớ! Tớ áp dụng Lời Chúa, buông hết, bỏ hết, bỏ cả kiếng trong kiếng ngoài để nhìn sự vật như chính nó, không bị ảnh hưởng bởi ước muốn, quan niệm, mà nói bị đì à? Hôm nọ nghe bác Tài nói phải quên hết, được ý quên lời thì tớ quên lời không đúng sao mà nói lòng thòng mất giờ. Riêng việc ông trùm Hiểu, tên ông ấy là Hiểu mà không muốn hiểu, không muốn ngộ; đâu ai có thể dạy thằng yếu đánh vật. Bộ ông quên rằng không ai có thể ăn dùm, cũng không ai có thể uống dùm thì cũng không ai có thể suy nghĩ, nghiệm chứng dùm bất cứ ai. Giải thích chỉ làm hại thánh nhân, hành giả; bởi giải thích chỉ giống như ngón tay chỉ mặt trăng, chỉ như chiếc bè, hay ông thày dẫn dắt tới cửa. Ông quên câu nói, chúng ta chỉ có thể dẫn con lừa tới dòng suối, còn uống nước hay không thì tùy nó sao! Vớ vẩn, hãy để lòng trống không cho Thánh Thần làm việc. Không tin lời tôi nói, cha đang ngồi đó, hỏi đi, mắc mớ gì phải giải thích, giải xâm!
                - Vậy anh Sỹ, đã ngộ được câu rượu mới bì cũ chưa hay còn vẫn còn phải ngâm kíu?
                - Thưa cha, ngày nao con chưa ngộ, chưa đặt bảng bói. Vì lỡ thiên hạ xóc nhằm câu chưa ngộ thì quê lắm, mất cả chì lẫn chài. Nhưng có lẽ, con chỉ cần làm dăm ba câu, những câu nào mình đã ngộ. Lật Kinh Thánh coi bộ phiêu diêu quá; lỡ ai đó lật phải chuyện con bò vàng rồi giải thích họ sẽ trúng số thì tiêu tán đường mất. Nhưng thưa cha, không sao, con sẽ cầu nguyện xem thế nào.
                - Cầu nguyện làm sao, thà cầu trúng số khỏi phải bói với toán.
                - Thưa cha, con đã làm rồi ấy chứ. Trước khi mua số, con cầu nguyện, sau khi mua số, con cũng cầu nguyện mà hình như Chúa không thiêng với người Công giáo, chỉ thiêng với quân ngoại đạo. Xin lỗi, tôi nói lộn, người không theo đạo.
                - Như vậy là tại theo đạo chứ đâu theo Chúa. Tình chêm vô.
                - Hay cha cầu dùm cho con, may ra đỡ vất vả coi với dòm. Sỹ nói với giọng năn nỉ.
                - Anh nói như chuyện đùa. Nếu cầu trúng số mà được thì mắc mớ gì tôi cầu cho ai. Thế nên có câu nói, cố cầu không bằng đừng cầu còn hơn. Những sự việc thế tục xảy ra theo lý của chúng mà vì thiếu hiểu biết nên chỉ còn đường chấp nhận.
                - Chấp nhận thế nào, thưa cha, ông Tiên phở hỏi.
                - Thì không bay được như chim nên đành đi bộ, đi xe. Cha Hải nói.
                - Mua số không trúng thì lo đi cày lấy tiền cho vợ shopping, Tình thêm.
                - Thưa cha vậy tại sao nhiều người lương giáo lãnh được phép lạ hơn người Công giáo?
                - Tại họ không lấy rượu mới đổ bì cũ.
                - Thưa cha, con lương giáo đây, sao cầu Chúa cũng không được. Tùy nói.
                - Tại anh lấy rượu mới đổ bì cũ.
                - Nghĩa là sao, chưa cha?
                - Anh cầu trong trường hợp nào?
                - Thưa cha, làm cực quá, dĩ nhiên cầu trúng số cho đỡ khổ.
                - Ai giải thích được anh Tùy cầu không thiêng.
                - Thưa cha, bởi anh ấy không thực lòng. Ông trùm Hiểu trả lời.
                - Vậy biết bao người cầu vẫn không được chẳng lẽ họ cũng không thực lòng!
                - Thưa cha, con có ý kiến. Thanh giơ tay nói.
                - Mời anh.
                - Thưa cha, con chỉ có thể nói theo kinh nghiệm riêng của mình và suy nghiệm thêm một chút theo Phúc Âm. Nhiều lần để ý đến tâm tình khi con cầu nguyện, con nhận thấy rằng mình chỉ cầu những điều không cần thiết; nghĩa là mình cầu chơi chơi, được cũng tốt mà không được cũng chẳng thiệt hại gì. Đôi khi con tự hỏi, mình cầu điều đó để làm gì, với mục đích gì, đồng thời lại chợt nghĩ đến những hậu quả có thể xảy đến với một tâm hồn đầy tham vọng hay vọng tưởng để rồi nghĩ rằng nếu lỡ ra cầu được ước thấy thì lại e ngại thà không được điều mình cầu còn hơn. Từ nhận thức đó con đặt vấn đề thử nhìn vào thực tại và thấy rằng những gì thiết yếu cho cuộc sống, con có quá dư thừa. Chẳng hạn tim con đang đập, giả sử nó ngưng đập ngay lập tức thì sao? Có gia đình hài hòa, nhà cửa dù không cao sang nhưng vẫn hơn điều kiện cần thiết, tiền tài không phải lo, có xe, có ghe đi chơi những ngày đẹp trời làm bạn với trời mây, trăng nước. Đôi khi con tự hỏi, nếu có thêm vài trăm ngàn Mỹ kim, con sẽ phải làm gì với chúng và rồi phải thế nào. Có lẽ chỉ bận rộn hơn hoặc vào sòng bài mua vui rồi có thể vui quá mất luôn cả nhà cửa, xe, thuyền. Thử hỏi, giả sử triệu phú, mỗi bữa con có ăn thêm được vài chén cơm hoặc vài ly rượu không mà coi chừng lại béo phì ra, mất cả vẻ đẹp lão bây giờ càng thêm phiền. Có câu nói, “Cố cầu không bằng đừng cầu còn hơn,” nhưng con nhận thấy e sợ tham vọng hay vọng tưởng của mình nên không cầu coi chừng là trạng thái tuyệt vời nhất vì Phúc Âm có nói, "Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt. 6:7-8). Khi nghĩ đến con tim ngừng đập và liên tưởng đến câu Phúc Âm này, con cảm thấy cuộc đời mang ý nghĩa đậm đà hơn và an lòng với hồng ân sự sống. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp con bị đẩy vô góc tường cuộc đời không nơi xoay xở, lúc đó con chỉ còn biết dồn hết tâm tư cũng như hy vọng vào lời cầu và tự nhủ, bởi không đường trốn chạy, chấp nhận mọi sự có thể xảy đển thì thực ra chưa bao giờ kết quả xảy đến tồi tệ như con có thể nghĩ tới và chấp nhận. Có một câu Phúc Âm con thích lắm nhưng chưa làm sao áp dụng được trong cuộc đời đó là câu, “Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu nguyện và xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc. 11:24). Con vẫn cứ thấy mình cầu chơi chơi chứ chưa có thể cầu như mình đã được vì nếu đã được thì cảm ơn chứ đâu cần nói gì thêm. Đàng khác, khi cầu nguyện, con vẫn còn thấy lắm thứ tạm gọi là ước mơ hay ý muốn nhào vô; đôi khi so sánh sự cầu nguyện của mình với tâm tình của đứa bé; lúc nó đòi sự gì thì tất cả tâm trí nó chỉ dồn vào sự đó; nó chỉ muốn cái đó chứ không cái nào khác thế mà con tập cũng chưa được. Hơn nữa, nếu nhận thức rằng những gì mình cầu cho người khác sẽ xảy đến cho mình thì chẳng lẽ mình đã có đầy đủ như cuộc sống hiện tại mà vì thấy người ta nghèo khó, khổ sở, lại cố gắng cầu cho họ có cuộc sống dễ thở hơn phỏng lại mang thêm ít nhất là ý niệm tham lam vì biết rằng mình cầu thì mình được! Hình như, con vẫn còn luẩn quẩn, chỉ nói lên được như thế. Con xin hết.
                Trong khi Thanh nói, cha Hải hý hoáy viết xuống một vài điểm nên khi Thanh nói xong, ngài lên tiếng,
                - Những gì anh vừa nói chứng tỏ anh có nhận định rõ ràng về tâm tình của mình khi cầu nguyện. Chẳng hạn, cầu chơi chơi bởi những điều cầu không thực sự cần thiết, đặt vấn đề giả sử những gì bất lợi có thể xảy đến, nhận ra lời cầu không cần thiết, tâm trạng chấp nhận cuộc đời là hay hơn hết, thế nào là cầu xin như đã được, con người lắm mơ ước, tham vọng, tâm tình của đứa bé khi muốn một chuyện gì. Cầu cho người kém may mắn hơn mình.
                - Thưa cha, như vậy bất cứ gì cũng không thể vô cầu, vô công, vô danh và vẫn không ưng vô sở trụ, và hình như vẫn nghịch với câu Thánh Vịnh, “Hãy tĩnh lặng và nhận biết Ta là Thiên Chúa” (TV. 46:11), vẫn chưa huyền đồng. Tình nói.
                - Vậy chứ cầu nguyện là gì? Sao ông không nói. Sỹ nhà con thách đố Tình.
                - Nói chi! Có gì mà nói, bởi cầu nguyện là tĩnh lặng và huyền đồng thì nói chi! Người biết cầu nguyện, hay thực sự cầu nguyện thì không nói, không cầu; những người không biết cầu nguyện thì cầu, thì nguyện, thì muốn thế này, ước thế kia coi Thiên Chúa như con ở để sai bảo làm việc này, không làm việc nọ. Tình nói một hơi.
                - Con không khóc sao mẹ biết mà cho bú. Dân chúng không kêu ca khát nước sao Chúa biết mà sai ông Môi sen đập đá cho có nước! Ông trùm Lực lên tiếng.
                - “Ôi, thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ Ta sẽ ở với các ngươi, cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!” (Mt. 17:17; Mc. 9:19; Lc. 9:41). Chúa phán. Tình đọc lại câu Phúc Âm.
                Cha Hải nhìn người nọ, người kia chừng như cố dùng thần giao cách cảm để đoán họ nghĩ gì trong khi nghe mấy người đối đáp.
                - Chúa mới nói được thế chứ ông là Chúa đâu mà nói như thế. Ông trùm Lực nói.
                - Đó là lời Chúa phán qua Phúc Âm, tôi chỉ lặp lại thôi mà! Giọng Tình mang vẻ cố gắng nhẹ nhàng.
                - Như vậy tớ cầu nguyện ít nhất 6 đến 7 tiếng một ngày. Ôi, mất gần nửa đời người rồi mà có thấy gì đâu! Rồi nào nghiệm chứng, nghiện bia, chỉ thấy “thích” chứ ngộ thì chưa.
                - Quái, lục tổ cho rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên phải hành thiền; ông cầu nguyện 6, 7 tiếng mỗi ngày mà không ngộ được thì thực là quái lạ; hay là bu nó quấy phá không huyền đồng được. Tình nói.
                - Ai quấy phá ổng. Ngủ như chết, giả sử cháy nhà, cháy thành than rồi cũng không biết. Chị Sỹ phân bua.
                - Bộ ngủ không là cầu nguyện à? “Hãy tĩnh lặng và nhận biết Ta là Thiên Chúa.” Lúc ngủ là hòa nhập với quyền lực vũ trụ, là huyền đồng; lúc bấy giờ tâm thức vô cầu, vô công, vô danh, không ưng vô sở trụ thì chẳng lẽ ưng vô mộng du? Sỹ lý luận. Thưa cha, có phải thế không ạ?
                - Anh vừa nói vô cầu, vô sở trụ, sao còn đặt vấn đề phải hay trái! Đã vô cầu sao còn phải; đã ưng vô sở trụ thì lấy gì làm gốc để phán đoán là sai! Sao còn hỏi!
                - Cha hỏi vậy thì con biết hỏi ai!
                - Gặp Phật, giết Phật, gặp pháp, bỏ pháp; bỏ pháp thì ngơ ngơ, mình ta một cõi đơn độc. Đó là huyền đồng và ưng vô sở trụ; đâu cần phải hỏi. Phủ thêm vô.
                Đến lúc này cha Hải mới lên tiếng,
                - Anh Thanh đối diện với tâm trạng của con người khi cầu nguyện; anh Tình nói lên thực trạng của cầu nguyện; anh Sỹ áp dụng cầu nguyện vào cuộc đời; xét theo luận lý thì nghe xuôi tai lắm nhưng khi cháy thành than rồi mới áp dụng vô cầu, vô công, vô danh vì lúc đó muốn "vô" cũng không được. Tôi có câu hỏi, từ nãy tới giờ chúng ta đang áp dụng câu nào nơi Kinh Thánh, có ai để ý không?
                Thế là cả đám ngớ ra! Lúc nói cố tìm lý lẽ biện luận cho ý nghĩ tào lao thiên tướng để minh chứng điều mình nói là đúng, chứ nào ai để ý đến Phúc Âm nói gì!
                - Thưa cha, anh Thanh đi con đường hẹp, chú Sỹ nghiệm xét bất cứ gì, chú Tình dựa vào Kinh Thánh để suy luận; Phủ dựa câu nói nơi Lâm Tế Lục để phân tích, ông Thung đưa ra nhận định.
                - Anh em nên nhớ cuộc đàm luận này để làm mẫu mực cho nghiệm chứng. Thoạt tiên chúng ta cần mở rộng tâm hồn nhận biết và chấp nhận thực trạng con người mình như thế nào. Khi đối diện với dụ ngôn hay câu nói Phúc Âm hay công án nào đó, đặt mình vào môi trường được nhắc đến và nghiệm xét mọi sự. Nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thesalônikê, thánh Phao lô khuyến khích, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-22). Hơn nữa, một trong những bức ngăn tâm trí chúng ta thức ngộ lại chính là quan niệm và học thức cũng như kiến thức của mỗi người. Phúc Âm được viết, “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ; cũng không ai lấy vải mới vá áo cũ” (Lc. 5:36-37). Dẫu rằng muốn nghiệm chứng cần càng nhiều kiến thức càng tốt nhưng kiến thức cũng như những lời khôn ngoan và mọi sự vật sự việc trong cuộc sống đều là phương tiện để chúng ta nghiệm chứng mà thôi chứ không phải mục đích tiến tới. Ưng vô sở trụ nghĩa là như thế. Hơn nữa, chẳng những bì cũ đã lâu ngày bị khô, dòn không thể giãn hơn thì những quan niệm, kinh nghiệm, kiến thức chẳng khác gì chiếc bì cũ, cái áo cũ, sẽ bị rượu mới, vải mới tàn phá. Thế nên, khi nghiệm chứng, quăng hết, bỏ hết, để lòng tĩnh lặng đối diện với Lời Chúa qua dụ ngôn hay công án, cố đặt mình vô câu nói tối tăm đó mà vùng vẫy, mà nghiệm xét mọi khía cạnh. Khi đã tự mình nghiệm được câu nào đó, hành trình sẽ rộng mở một phương trời mới, một nỗi an bình tâm tư và một niềm vui khó tả cũng như không thể chia sẽ cho bất cứ ai mà chỉ người nào chứng người ấy biết.
                 
                - Tôi không hiểu mọi người nghĩ thế nào, nhưng theo tôi, sự ngã ngựa của thánh Phao lô coi chừng mang nghĩa ám định về cơ hội đột phá của mỗi người nơi hành trình tâm linh. Đọc Công Vụ Tông Đồ, anh em thấy, sau khi bị ngã ngựa, thánh Phao lô hoàn toàn đổi ngược chiều hướng từ quan điểm đến cách sống chẳng khác gì kết quả tâm linh của những người đột phá bởi áp dụng nghĩa chính yếu của động từ Hy Lạp “Metanoia” vô câu Phúc Âm Marcô 1:15. Cũng có thể rằng chính vì thế thánh Phao lô mới mạnh dạn nhắc nhở chúng ta phải nghiệm xét mọi sự. Để ít phút suy tư, lời khuyên của thánh Phao lô, “Hãy nghiệm xét mọi sự” hoàn toàn đối nghịch với truyền thống Công giáo đã bao năm bền vững, đó là chúng ta phải tin với giáo Hội. Tất nhiên, nghiệm xét mọi sự chính là không tin ai hết mà đặt lại vấn đề về bất cứ sự việc, sự thể, thói quen, tập quán, quan niệm, truyền thống, sách vở, và các lời rao giảng. Có thể nói đây chính là nổi loạn tâm thức nơi tiến trình của hành trình tâm linh. Phúc Âm nói về trạng thái tâm thức này qua câu, “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). Thử hỏi, mắc mớ gì Phúc Âm nói đến chuyện cầm cày mà không có câu nào nói về cuộc sống dân chúng phải làm lụng, chăm sóc vườn tược thế nào! Anh em nhớ về lật sách sẽ thấy, Phúc Âm đang kể về việc người theo Ngài muốn xin về từ giã người thân, thế mà đức Giê su giáng ngay cho một câu không đâu vào đâu, “Kẻ nào tra tay cầm cày…” Nói như thế có giống lối nói ám định của người Việt mình không? Nói một câu tục ngữ, ca dao nào đó khiến cho ai có tật thì giật mình. Rõ ràng là mình chủ đích nói móc người khác nhưng đối phương chỉ còn nước ngậm tăm chết điếng trong lòng. Quan niệm, ước vọng, kiến thức, căn bản cho cuộc đời thế tục thường được coi là kho tàng để một người phân định khi đối diện với một sự việc hay sự kiện. Phúc Âm dạy rằng, ai nghiệm chứng hay đối diện với Phúc Âm mà tư duy còn bị lệ thuộc vào căn bản suy tư thế tục này thì sẽ không thể thức ngộ. Đến đây, tôi mời anh em nghiệm chứng câu Phúc Âm, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:20-21).
                - Đó thấy chưa, người ta chưa móc mắt đi hãy còn là may mắn lắm. Chị Sỹ nói nhắn chồng.
                - Đây là Phúc Âm được viết chơi cho vui chứ hơn hai ngàn năm qua có cha cụ nào, ngay cả giám mục, giáo hoàng, thèm tuân theo đâu mà bu mày móc lò tớ. Sỹ trả đòn.
                - Ai bảo Lời Chúa viết chơi cho vui? Tình nói.
                - Không viết cho vui thì đã có khối kẻ đui mù què quặt đầy nhà thờ. Không thế, chẳng lẽ mọi người không ai có tội! Vậy Chúa xuống thế làm gì? Hay là vì người ta theo đạo chứ không theo đức Giê su nên coi thường Phúc Âm.
                - Nghiệm thì không nghiệm, chứng chẳng thèm chứng, chỉ ăn nói tào lao. Phủ lên tiếng.
                - Nghiệm gì, chứng cho mà mù mắt, cụt tay à. Sỹ hô lớn.
                - Thưa cha, nhà con sợ mù mắt, cụt tay nên không dám chứng. Chị Sỹ trình cha Hải.
                - Nói vậy mà cũng nói; Lợn chết đâu sợ nước sôi! Người chưa mù mới sợ mù chứ! Sỹ lý luận.
                - Không mù nhưng có mắt cũng như không; sợ cũng không thấy, không sợ cũng không thấy. Lời Chúa nói không sai, “Ta đến cho kẻ mù được thấy và kẻ thấy được lại nên đui mù” (Gioan 9:39). Thanh nhẹ nhàng nói.
                - Ai chứng được câu Phúc Âm anh Thanh vừa nhắc tới. Cha Hải hỏi.
                - Thưa cha, con chứng được một nửa, Sỹ vội vã trả lời.
                - Nói gì giống như truyện trạng Quỳnh vậy? Tùy con diễu.
                - Truyện trạng Quỳnh là gì anh Tùy, chị Tình hỏi.
                Thế là cả đám cười ầm lên. Chị Thung cũng thắc mắc không hiểu truyện trạng Quỳnh là thế nào mà mấy ông ma mãnh này cười có vẻ đắc ý nên để ý xem có ai giải thích không.
                - Anh chứng được một nửa thế nào? Cha Hải hỏi.
                - Thưa cha, làm cho người mù được thấy thì con không làm được mà chỉ có thể chắc chắn làm cho kẻ thấy được thành đui mù. Sỹ trả lời.
                - Và người được thực chứng đầu tiên là chính mình. Tình thêm vô.
                - Tớ còn đang nghiệm mà! Sỹ nói, phải ngâm kíu mới thực chứng được.
                - Đúng là chuyện trạng Quỳnh. Tùy lặp lại.
                - Anh Thanh, anh giải thích câu Phúc Âm đó được không?
                - Thưa cha, làm cho kẻ mù được sáng theo nghĩa hữu vi. Khiến kẻ sáng trở nên mù tối theo nghĩa tâm linh.
                - Có ai hiểu anh Thanh nói gì không?
                - “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt; cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.” Hưng chợt đọc câu Ca Dao.
                - Thưa cha, Phủ lên tiếng, nếu hiểu Phúc Âm theo nghĩa đen tức là trở nên mù tối. Những câu truyện, những sự kiện được viết trong Phúc Âm được gọi là dụ ngôn; mà dụ ngôn là câu chuyện ẩn dụ, văn viết một đàng, ý một nẻo chẳng khác gì Ca Dao. Cháu nói vậy đúng không bác Tài?
                - Tại sao anh không hỏi cha Hải mà lại hỏi tôi. Cụ Tài hỏi ngược lại.
                - Thưa bác, cháu đâu dám đánh trống trước cửa nhà sấm. Lỡ nói sai thì sao!
                - Anh nói hay hơn tôi, cha Hải nói, vì tôi không dám giải thích cho người Công giáo, bởi có một lần được mời ăn cơm tối nơi một gia đình kia, bữa cơm khá thịnh soạn, tôi lòng ngay nói thật khi có người hỏi về câu móc mắt, chặt tay sao không thấy ai áp dụng. Một đôi cụ trong bàn ăn lấy làm khó chịu cho rằng tôi không tin đó là lời của Chúa Giê su phán. Và từ đó, không bao giờ tôi giải thích Phúc Âm giống như nói chuyện với mấy anh em ở đây.
                - Thế vậy cha giảng kiểu nào?
                - Thường thì giải thích theo nghĩa từ chương và đa đá vào luân lý hầu giúp người ta sống tốt lành hơn theo nghĩa hữu vi để họ được yên tâm, thoải mái. Anh em nên nhớ, theo như ông bạn tôi nói thì anh em thuộc loại người ít nhất có thể nói có học và đặc biệt có tâm hồn mở rộng để tìm hiểu. Và khi ít nhất đã hiểu được phần nào nguyên tắc và quan điểm của đạo học Đông Phương, quan niệm của anh em rộng mở hơn và nhận định chân thành hơn, ít bị thiên vị bởi cũng phần nào nhận chân được thực thể con người và cuộc đời của mình cho nên dám suy nghĩ. Đa số người ta tính toán công việc làm ăn, mánh mung giỏi lắm nhưng lại lười suy nghiệm tâm linh bởi thấy chẳng được lợi ích hữu vi chút nào. Tâm hồn của họ giống như bụng dạ trẻ sơ sanh, không nên cho ăn tái bò hoặc thịt heo nướng chao. Họ theo đạo đa số để được yên lòng vì không nhận biết chính họ nên luôn luôn e sợ. Dĩ nhiên, “Nhân chi sơ, tính bổn thiện,” nhưng, “Đa thọ thì đa nhục.” Cuộc đời ai không lầm lỗi, trong khi chưa nhìn ra sự thánh thiện nơi mình, ít nhất chưa nhận ra quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu nơi một người. Chính vì thế họ mắc bệnh sợ nhưng lại ỷ y phó mặc cho các nhà thuyết giảng giải quyết dùm để có được nỗi an bình giả tạo. Dân Chúa quả là đáng thương nhưng biết sao hơn. Thú thật, đôi khi ngứa miệng, tôi đưa ra một vài suy nghiệm Phúc Âm lúc nói chuyện với một số người Công giáo. Dẫu biết Phúc Âm đã răn đe rõ ràng, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” nhưng tôi vẫn hồ hởi vấp phạm, cứ đem của thánh cho chó nên bị cắn khá nhiều lần. Lần nào tôi cũng tự hứa với lòng, im miệng, ngứa thì cứ kiếm rượu mà uống; nói ra người ta chửi, đổ vạ cho mà cũng không chừa. Thế mà anh em biết không, Lời Chúa cứ như động lực thúc đẩy tôi phải nói ra. Chúa xúi dại tôi, đành chịu!
                - Thưa cha, sao cha nói cha cứ đem của thánh cho chó là thế nào?
                - Mấy tiếng “Đem của thánh cho chó” là lời Phúc Âm, tôi dùng ráp vào câu nói thay vì giải thích dài dòng.
                - Thưa cha, của thánh đừng cho chó là sao?
                - Tôi mất sáu tháng rưỡi nghiệm chứng câu này. Đại khái là đối với những người không đủ khả năng để hiểu và những người không muốn hiểu thì chẳng nên nói gì. Coi chừng nói ra sẽ bị lên án hoặc phải nghe đây đó những lời than phiền, khinh chê. Sau nhiều lần lỡ miệng một cách tốt lành nhưng dại dột, tôi cố tìm hiểu tại sao người ta nói này nói nọ về những đìều tôi trình bày theo suy nghiệm của mình, tôi có cảm nghĩ rằng những lời tôi giải thích Phúc Âm đe dọa sự tin tưởng nơi họ. Nói dài dòng, lang thang rồi, trở lại câu móc mắt, chặt tay. Ai có ý kiến gì không?
                - Thưa cha, Thanh lên tiếng, nếu đem so sánh với câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không xứng hay không đáng làm môn đệ ta,” thì câu, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:20-21) ý nghĩa cũng gần như nhau. Nơi câu yêu cha mẹ, con cái, cha mẹ, con cái được coi như vọng tưởng, mơ ước, quan niệm, hiểu biết, thì khi nghiệm chứng phải dẹp bỏ hết chúng, chỉ “Ưng vô sở trụ” để đối diện với câu Phúc Âm. Nơi câu móc mắt, chặt tay, nếu coi quan niệm, kiến thức hay bất cứ mơ ước, tập quán, thói quen nào ngăn cản hành trình tâm linh thì phải dứt bỏ nếu không chẳng thể nào thức ngộ được. Thưa cha, đại khái, con chỉ nghĩ được đến thế.
                - Nói vậy quá đủ vì phải để dành phần cho người nghe nghiệm chứng. Bây giờ chúng ta thử chọn vợ cho hoàng tử. Đã ai nghiệm chứng về dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ chưa?
                - Thưa cha, dụ ngôn này hình như được viết để chống lại quan niệm “Chúng ta phải tin với giáo Hội.” Tình lên tiếng.
                - Nói lộn, cho nói lại. Sỹ chặn Tình.
                - À, xin lỗi, Công giáo không theo Phúc Âm.
                - Cái này anh nghiệm hay chứng đây? Chúng ta không nói đến tôn giáo; chúng ta chỉ bàn về Phúc Âm. Thanh nói.
                - Nhưng…
                - Không nhưng chi hết! Muốn nói đến Công giáo, làm ơn đi ra nhà thờ. Sỹ bồi thêm.
                - Nhà thờ đâu có bia.
                - Chúa cũng biết bia độc hơn rượu nên không có bia.
                - Tại sao vậy? Ông trùm Phong lên tiếng.
                - Tại chỉ có mộ bia chứ không có mộ rượu.
                - Nói thế mà cũng nói.
                - Bộ không đúng sao! Ông trùm thử tìm tất cả các nghĩa trang trên thế giới này có cái nào là mộ rượu không! Người ta nói có sách, mách có chứng đàng hoàng mà yếu nhân đức tin.
                - Đang nói dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ thì bẻ quặt, bẻ quẹo sang mộ bia, mộ rượu. Chị Sỹ nhăn chồng.
                - Thì có gì đâu, mười nàng trinh nữ thì năm nàng được gọi là khờ dại, năm nàng được cho là khôn ngoan. Các ông tính sao thì tính, tôi thích chọn mấy nàng khôn ngoan vì “ba năm ở với người đần; không bằng một chốc đứng gần người khôn” (CD).
                - Nếu vậy phải lấy vợ già bởi có câu, “Có phúc lấy được vợ già; vừa sạch cửa nhà, lại ngọt cơm canh; vô phúc lấy phải trẻ ranh, nó ăn, nó phá khổ anh trăm đường.” Phủ nhào vô.
                - Trời ơi! Mấy cái ông này, vợ nào không già, chẳng già trước thì già sau. Đang nói về mười trinh nữ lại bắt quàng vợ già, vợ trẻ. Chị Sỹ lại lên tiếng.
                - Dụ ngôn mười nàng trinh nữ được chia hai nhóm, một nhóm khờ dại, một nhóm khôn ngoan, vậy chị có biết nhóm nào già, nhóm nào trẻ không?
                - Thì khôn ngoan hơn tất nhiên phải già hơn chứ có gì mà phải suy nghĩ!
                - Tôi thấy cả hai nhóm đều già vì tính theo tuổi thì từ ngày ấy đến nay đã hơn hai ngàn năm tuổi rồi. Thế nên nếu nói khờ dại thì già cũng chưa chắc khôn ngoan hơn vì lại cũng có câu, “Chó dại có mùa, người dại quanh năm, đến già vẫn còn dại.” Vân đế vô.
                - Anh đâu có vợ sao có thể nghiệm chứng! Vợ già có cái thú của vợ già; vợ trẻ có cái thú của vợ trẻ. Thanh nói lang thang.
                - Thú gì, hay thú đau thương. Gương của bao nhiêu ông lão về Việt Nam cưới vợ trẻ đang rành rành ra đó chưa sáng mắt ra sao. Đúng là vô phúc lấy phải trẻ ranh.
                - Thôi đi các chú. Vợ tôi đâu còn trẻ gì mà vẫn “Khổ anh trăm đàng” thì các chú cũng ráng cắn răng mà chịu…
                - Không còn răng mà cắn mới phiền chứ có răng đã đứt cả lưỡi.
                - Mấy cái ông này, bộ hôm nay sao quả tạ chiếu hay sao mà ăn nói lung tung. Chị Sỹ lại lên tiếng.
                - Người ta đang “Nghiệm xét mọi sự” như lời thánh Phao lô dạy. Sao bu mày nóng thế. Đấy, mọi người im lặng để bu mày muốn nói gì thì nói. Sỹ biện luận, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu.
                - Chị Sỹ có ý kiến gì không? Cha Hải hỏi.
                - Thưa cha, con đang chờ cha giải thích mà mấy ông này cứ nói lăng quăng.
                - Thì mấy ông ấy còn đang nghiệm xét, vậy chị nghĩ thế nào về dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ.
                - Thưa cha, Phúc Âm nói năm trinh nữ nửa đêm hết dầu không được tham dự tiệc cưới nên bị gọi là khờ dại, còn năm nàng mang thêm dầu được gọi là khôn ngoan.
                - Thế tại sao họ hết dầu?
                - Thưa vì họ không mang thêm.
                - Chị có biết lý do gì họ không mang thêm không?
                - Thưa cha vì họ đâu có ngờ đám rước dâu bị trễ.
                - Dĩ nhiên, nếu đám rước dâu không bị trễ họ đâu hết dầu nhưng nguyên nhân tại sao họ hết dầu chị có thể đoán được không?
                - Tại họ không nghiệm xét đã vội nói. Sỹ đế vô.
                - Họ không nghiệm xét nghĩa là sao? Cha Hải hỏi dồn.
                - Thưa cha, họ đã không suy nghĩ, không tính toán mà cứ theo thói quen tưởng rằng đám rước dâu không bị trễ.
                - Vậy năm nàng mang thêm dầu đèn họ già hơn nên có kinh nghiệm phải không?
                - Thưa cha, sự khôn ngoan không đợi tuổi tác mà tùy thuộc con người.
                - Như vậy kết luận của dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ là gì?
                - Thưa cha, đúng rồi, Sỹ nói, mục đích của dụ ngôn này khuyến khích suy nghĩ. Quay nhìn vợ, Sỹ tiếp, bu mày thấy chưa, phải nghiệm xét mọi sự.
                - Vâng thưa ông, còn sự gì mà ông chưa nghiệm xét.
                Cả làng phá ra cười. Ấy, ngôn ngữ ám định là thế đó; nói một đàng, hiểu một nẻo.
                - Chúng ta thấy, Phúc Âm khuyển khích suy nghĩ; cũng như nơi dụ ngôn xây tháp hoặc tính toán trước khi lâm vào chiến trận.
                - Thưa cha, sao Phúc Âm không viết thẳng ra và cứ ngoắc ngoéo dụ ngôn, dụ nghiếc. Ông trùm Hiểu lên tiếng.
                - Tất cả các kinh sách đều viết theo kiểu ám định để cho chúng ta suy tư và thức ngộ.
                - Thưa cha, vậy nếu không suy tư thì theo đạo vô ích à?
                - Tôi ăn ông trùm có no không, tôi uống bia ông trùm có say không?
                - Thưa cha, tâm trí tối mù như chúng con thì suy gì mà suy. Các cha đã bao nhiêu năm ăn học để dạy dỗ chúng con…
                - Để tôi giải thích, cha Hải ngắt lời, ông trùm thử nhớ lại hoặc nhìn chung quanh. Chúng ta giỏi dang về những chuyện tính toán sao cho có cuộc sống hài hòa, dễ chịu, tránh cảnh nước đến chân mới nhảy hoặc lâm vào cảnh khốn cùng, sao lại nóí tâm trí tối mù! Chúng ta đã không để ý suy tư mà tưởng rằng chỉ nghe giải thích để hiểu được là đủ. Thưa không, tất cả những gì người khác giải thích, tất cả những sách vở, và mọi sự xảy ra nơi cuộc sống đều là phương tiện hay cơ hội cho chúng ta suy nghĩ nhưng đã không để ý, không đặt vấn đề. Có phải lần đầu ông trùm nghe thấy câu khuyên nhủ, “Hãy nghiệm xét mọi sự” của thánh Phao lô không? Kinh Thánh đã được in trước khi chúng ta được sinh ra mà chúng ta không đọc chỉ nghe cho qua. Đi nhà thờ, nào có ai để ý linh mục giảng giải gì đâu. Đã có những câu nói, giảng dai, giảng dài, giảng dại, giảng dốt, nghe mà đau lòng. Đồng ý rằng có câu nói, “Không có học trò ngu, chỉ có những vị thày dốt,” nhưng đàng này học trò coi thường thì Chúa còn bị phê phán phương chi linh mục. Chúng ta đọc trong Phúc Âm thánh Luca, Chúa Giê su đuổi quỷ câm điếc thì người ta cho rằng dùng quyền năng của chúa quỷ Beelzebul; vào nhà ông Jakêu thì bị cho rằng làm bạn với phường tội lỗi. Ngày nay các linh mục thì bị cho rằng giảng dài, giảng dại, rồi cứ đinh ninh tâm trí rối mù nào có khác chi đâu. Chúng ta thử nghĩ coi có phải thái độ của chúng ta đối với Lời Chúa giống như thái độ của năm nàng trinh nữ khờ dại không. Không suy tư, không nghiệm xét thì giống như nhà Phật nói, “Vô minh,” mà theo Đạt Ma sư tổ thì tội vô minh là gốc gác của mọi sự tội lỗi và cũng là tội độc nhất. Đã có người cho rằng “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra” cũng bị càm ràm, thế này, thế kia. Không suy nghĩ nên bị cho rằng ngu dốt thì không chịu; có lẽ vì thế Phúc Âm phải nói rõ hơn, “Đừng tưởng chỉ nói lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, nhưng những kẻ làm theo ý Cha Ta” (Mt. 7:21). Thử hỏi, sao biết ý Chúa mà thực hiện nếu không suy nghĩ, nghiệm xét. Chúng ta không thể nói tâm trí chúng ta mù tối trong khi có cuộc sống hài hòa. Cho rằng những người sống vất vưởng đầu đường, xó chợ là không biết tính toán cho cuộc sống thì chúng ta thừa thông minh để suy nghĩ. Vấn đề chỉ là chúng ta có suy nghĩ Lời Chúa hay không. Đây cũng là lý do tôi chủ trương không giải thích mà chỉ đặt vấn đề, khuyến khích mọi người suy nghĩ.
                 
                - Bây giờ chúng ta đổi đề tài nói về dụ ngôn những nén bạc. Một ông chủ sắp đi xa, trao cho ba người đầy tớ, một người năm nén bạc, người khác hai nén, và người còn lại 1 nén. Khi trở về, người nhận năm nén và hai nén làm sinh lời thì được khen thưởng và người nhận một nén đem chôn thì bị kết án là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác (Mt. 25:14-29). Anh Sỹ đã nghiệm xét chưa?
                -Thưa cha, con vẫn còn đang ngâm kíu, chưa nghiệm được gì vì thấy hình như ông chủ quá phi lý.
                - Anh nói sao mà phi lý?
                - Thưa cha, thứ nhất, hai người đầy tớ làm lợi thì được thưởng là chuyện thường tình phải có nhưng nếu lỡ đem vốn làm thương mại, “Chưa buôn vốn vẫn còn dài; buôn thì vốn đã theo ai mất rồi,” vậy ông chủ phải trừng phạt thế nào? Nhất là vào thời buổi người khôn của khó lúc này, bỏ tiền vào nhà băng cũng bị mất giá. Chẳng lẽ ông chủ khuyến khích người ta lừa đảo, bởi nếu không lừa đảo, thương mại sẽ bị lỗ. Riêng về vụ người đầy tớ chôn tiền, có làm thiệt hại chi đâu mà bị kết án là tồi tệ và biếng nhác. Vậy nếu thua lỗ thì lấy gì mà đền bù. Người đầy tớ này trung thành, biết giữ gìn và tôn trọng tiền tài của chủ, không dám tơ hào lại lo lỡ ra thiếu hụt mà chủ không biết ơn đã giữ của lại còn bị la lối thì chỉ nên bỏ đi làm cho người khác.
                - Anh đã quên không nghiệm xét câu trả lời của người làm công, "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!" (Mt. 25:24-25), và câu kết của dụ ngôn, “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (Mt. 25:29).
                - Thưa cha, như vậy là người làm công này sợ bị sai lầm chứ không phải lười biếng và tồi tệ. Như vậy con hiểu thêm được một chút, Phúc Âm không có câu nào nói Chúa phạt mà chỉ nói hành vi nào đó đáng bị phạt. Thôi rồi, câu này nói về chúng con vì được dạy dỗ “Chúng ta phải tin với giáo Hội” mà đã chẳng hiểu giáo hội là gì thì chớ, lại e sợ bị phạt vì sai lầm… Hèn chi cha khuyến khích cứ suy nghĩ, nếu nhận thấy mình suy nghĩ sai cả ngàn lần tất nhiên đã nhận thức được ngàn lần. Linh nói một hơi. Nếu con không lầm thì Phúc Âm cũng có dụ ngôn nào đó, hình như về cây vả đã không sinh trái nên bị cắt đi để ám chỉ về chúng con. Ôi! Cả đời theo đạo! Linh than trong khi thở dài chán chường.
                - Anh suy nghĩ không chỉnh về dụ ngôn cây vả rồi. Dụ ngôn được viết như thế này, cha Hải mở Phúc Âm đọc, "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó; may ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi" (Lc.13:6-9). Chúng ta biết, cây vả trồng nơi miền Nam nước Mỹ nơi đâu cũng được và luôn luôn sinh trái. Thế nên, vấn đề được nêu lên chính là tại sao cây vả không có trái những đã ba năm. Chủ vườn ra lệnh chặt cây vả thì người làm vườn xin thêm một năm để vun xới và phân bón. Thử hỏi, đã ba năm không có trái thì sao lại xin thêm một năm để phân bón? Như vậy cây vả đã hơn ba năm không được phân bón. Điều này chứng tỏ người làm vườn đã mấy năm rồi không phân bón hoặc đã bỏ phân sai lầm khiến cây vả không sinh trái. Đồng ý với anh, nếu đặt giáo dân nơi vị thế cây vả không sinh hoa trái thì đáng bị chặt bỏ, nhưng cây vả chỉ biết đón nhận phân, nước, sương sa, hoặc nắng ấm chứ không biết bò ra tiệm mua phân, giáo dân cũng thế! Đã được dạy dỗ phải tin với giáo hội thì sao dám suy nghĩ Lời Chúa bởi e sợ sai lầm. Như vậy, điều rõ ràng là dụ ngôn cây vả không sinh trái nói về sự làm việc thất trách của người làm vườn, của hàng rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Năm nay anh độ ba mấy, bốn chục; cả đời theo đạo mà không biết Tin Mừng Nước Trời đức Giê su rao giảng là gì thì lại càng không biết đức tin theo Phúc Âm là gì. Nếu không đặt vấn đề, không suy tư để tìm hiểu nguyên nhân mà kết án, mà chặt cây vả thì sẽ ra sao? Giáo hội chỉ còn các đấng các bậc nhưng không có con chiên. Không có con chiên thì giảng cho ai.
                - Thưa cha, như thế lỗi tại các cha? Linh hỏi, giọng ngỡ ngàng.
                - Tôi không nói thế mà nếu hiểu thế thì cũng không sai. Nhưng nguyên nhân dẫn đến sự sợ hãi sai lầm của dân Chúa chính là câu nói “Chúng ta phải tin với giáo hội.” Một thực thể hiển nhiên ai cũng có thể hiểu đó là tất cả sự thể được gọi là đức tin nơi các tôn giáo đều chỉ có nghĩa là tin tưởng đúng như thế về những gì được nghe. Hồi tâm nhận định về kinh nghiệm sống chúng ta thấy; một điều rõ ràng đó là mỗi người chúng ta đã có cả bao nhiên ngàn điều mình thực sự tin tưởng, cho là đúng nhưng hầu hết đều dẫn đến thất bại. Đức tin theo Phúc Âm nói về quyền lực bẩm sinh nơi mỗi người mà chúng ta không nhận biết. Chuyện này hãy để hạ hồi phân giải. Tóm lại, dụ ngôn Cây Vả Không Sinh Trái nói về nhiệm vụ của các bậc rao giảng Phúc Âm.
                - Thưa cha, chẳng lẽ các cha đã giảng sai?
                - Các ngài giảng không sai nhưng đã không rao giảng Phúc Âm mà giải thích Phúc Âm theo nghĩa từ chương, biến tôn giáo thành con hầu, đầy tớ cho luân lý. Hãy để tâm nhận định, tôn giáo phát xuất tự lòng khát vọng bẩm sinh nơi mỗi người. Luân lý là con đẻ của tổ chức xã hội gìúp con người sống hài hòa với mọi người, với xã hội. Như vậy, luân lý được chấp nhận để phụ giúp con người thực hành tôn giáo. Một con người tốt lành mới có thể trở thành một tín đồ chân thực. Và nơi thực tế chúng ta nhận thấy ra sao? Người ta đang dùng tôn giáo để dạy luân lý! Quái đản! Thử hỏi, mấy đứa xì ke ma túy, ăn trộm, ăn cắp, cướp giật, vợ nọ, con kia, lộn chồng, bồ nhí, có đi nhà thờ không? Thế dạy luân lý cho những người tốt lành có phải vô tình mang ẩn ý chỉ dạy cho họ thực hiện những điều chẳng nên chăng? Có câu nói, “Nếu anh rao giảng về hỏa ngục, dân Chúa sẽ tìm kiếm hỏa ngục.” Hình như câu này là thành ngữ nơi đất Ái Nhĩ Lan.
                - Thưa cha, Linh hỏi tiếp, sao giáo hội khuyến khích đọc Phúc Âm, sống Phúc Âm, đem đạo vào đời?
                - Anh em làm ơn thông cảm cho tôi mấy phút trả lời câu hỏi này vì nó thuộc về tôn giáo. Nếu tín hữu đã quen đọc Phúc Âm tất nhiên không cần phải khuyến khích. Sự việc khuyến khích đọc Phúc Âm chứng tỏ dân Chúa không có thói quen đọc Phúc Âm. Lý do tại sao, anh Linh nên tự tìm hiểu bởi nếu tôi nói ra sẽ bị cho rằng chống đối hay rối đạo bởi đem của thánh cho chó. Nói đến sống Phúc Âm coi chừng phiền lớn nếu sống theo nghĩa từ chương; nói ra thì vô cùng lộn xộn. Có thể nói, sẽ phát sinh sự thể tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra. Đem đạo vào đời làm sao nếu hiểu Phúc Âm theo nghĩa luân lý. Mấy thằng kẻ trộm đến gặp anh thông báo chúng sẽ ăn trộm nhà anh để anh có cơ hội dạy nó không nên ăn trộm nhà anh nhưng đi nhà khác mà ăn trộm hay sao? Anh có dám mang luân lý ra nói với mấy người lộn vợ lộn chồng, bảo họ bỏ nhau mà đi với người khác không? Coi chừng lợi đâu không thấy nhưng răng chẳng còn. Anh em thấy, gốc gác phiền hà bởi không suy nghĩ, không suy nghiệm, không nghiệm chứng, mà cứ ngâm kíu. Có phải không bố Sỹ?
                - Thưa cha đúng “chăm phần chăm.” Chỉ có bu nó nhăn nhó khi con nói chuyện với cô hàng xóm chứ ai mà nhào vô nói nọ kia, con đấm cho lợi đâu không thấy nhưng răng chẳng còn.
                - Đúng không mẹ Sỹ?
                - Thưa cha, nhà con nói xạo đó. Con đâu cần nhăn nhó vì nhà đã có hòn đá mài.
                Mấy người được dịp cười thoải mái. Chị Sỹ dám nhăn chồng mỗi khi Sỹ nói quá thì ăn nói tự nhiên là điều hiển nhiên. Chị Tình không hiểu chị Sỹ nói gì thầm nghĩ, mắc mớ gì nói đến hòn đá mài dao. Số là Sỹ hay làm món nhậu nên mua hòn đá mài dao cho tiện mỗi khi dao cùn, lụt. Hai gia đình quen biết nên hay qua lại, do đó chị Tình biết nhà Sỹ có hòn đá mài nhưng không hiểu tại sao chị Sỹ lại nhắc đến nó trong khi câu chuyện đang nói về giảng giải Phúc Âm theo nghĩa từ chương, luân lý.
                 
                MBVN 28
                 
                Chị Tình còn đang ngẫm nghĩ lý do thì cha Hải đã lên tiếng,
                - Ai có khúc mắc nào nữa, nếu không, chúng ta tóm lược điều kiện tâm trí khi nghiệm chứng Phúc Âm.
                - Thưa cha, câu Phúc Âm được viết, "Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt. 18:18), cầm buộc và tháo cởi tùy thuộc ý định, ước muốn; mà ý định, ước muốn mang quyền lực nội tại chính là đức tin theo Phúc Âm, nếu con không lầm thì cũng giống như nhận thức vọng niệm sinh nghiệp của nhà Phật. Thanh lên tiếng.
                - Anh em nên để ý, “Chân lý là chân lý dù dưới hình thức nào: Công giáo, Phật giáo, Ấn giáo. Chân lý không là độc quyền của ai cũng không thể chứa đựng trong một hệ thống hay giáo phái nào hữu hạn, hà huống lại bị chứa đựng trong một danh từ hạn định” (PHTH; Tr. 63); cũng như nơi trường hợp ngôn ngữ, một cái nhà dù gọi nó bằng tiếng Tàu, tiếng Anh, hay tiếng Việt khác nhau thì nó vẫn là cái nhà không chi khác biệt. Tuy nhiên, suy nghiệm hay nghiệm chứng các đạo học thì không gì khác biệt, nhưng không nên so sánh quan niệm tôn giáo. Chẳng hạn vấn đề thiện, ác, “Đối với Phật giáo, tâm mới quan trọng. Việc làm không quan trọng bằng ý niệm của người thực hiện công việc vì có kho việc làm coi bộ lành nhưng thật ra chứa ác niệm và nhiều khi việc thấy là ác mà chứa thiện niệm. Phật giáo luận về thiện ác đều căn cứ nơi tâm chứ không chú trọng về sự tướng của việc làm” (PHTH; tr.151). Hơn nữa, xét theo phương diện giải thoát, Phật giáo không có vai trò nào giúp con người mà chỉ kiến tính mới giải thoát con người; tương tự, không có tôn giáo nào giải thoát con người được. Tôn giáo giúp hay không tùy con người chứ không phải nơi quyền lực của tôn giáo. Thế nên tôi chủ trương không giải thích, chỉ đặt vấn đề, bàn cãi để khuyến khích suy nghĩ và tự chứng nghiệm. “Một người có thể đọc thuộc vô số kinh luận mà không kiến tánh thì chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường” (GLTH; tr. 204).“giáo lý không thể giúp người ta chuẩn bị thức ngộ, giáo lý không thể tạo ra sự giác ngộ. Mộng không thể học được, chết không thể học được. Lãnh hội được Phật tánh nơi mình lại càng không thể học được” (GLTH; tr. 205). Có điều tôi lưu ý anh em, phương pháp thức ngộ dù cho thế nào chăng nữa chỉ là lý thuyết. Hành trình thức ngộ tức là nghiệm chứng. Chúng ta thường hay lẫn lộn giữa hiểu biết phương pháp và nhận thức để thức ngộ.
                - Thưa cha, nếu nói rằng lý thuyết, kinh sách, giáo lý, ngay cả tôn giáo không thể giúp con người thức ngộ thì cần gì phải đọc sách nọ, sách kia, kinh này, kinh nọ mà chỉ cần kiến tính. Ông trùm Phong hỏi.
                - Ai muốn trả lời câu hỏi này!
                - Thưa cha con, Thanh giơ tay. Trước hết, xin cảm ơn ông trùm đã nêu câu hỏi vì cũng chính câu này đã dằn vặt tâm trí tôi bao lâu nay cho tới khi nhận thực được vai trò của nghiệm chứng. Đã bao lâu nay, chúng ta tin tưởng nơi kinh sách nhưng thử đặt vấn đề, những sự hiểu biết về kinh sách nếu không được áp dụng nơi cuộc sống hay nơi tâm trí, phỏng có sự gì khác biệt. Con muốn nêu lên một thí dụ, hiện nay, thiên hạ bán đầy chợ các máy móc điện tử ca nhạc, đọc kinh sách, truyện nọ, truyện kia, nhưng những máy chứa kinh đó thì thế nào? Chúng có mọc ra được cái miệng thay đổi giọng nói hoặc đôi mắt liếc nhìn xem có ai nghe chăng. Kinh sách, giáo lý, cũng thế; tất cả chỉ là phương tiện; có thể được coi là giúp chúng ta hay không tùy thuộc mỗi người đón nhận nhận thức được ghi lại và thực hành nghiệm chứng để rồi áp dụng nơi cuộc đời, đặc biệt nơi tâm thức của mình hay không. Phúc Âm có câu, “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố. Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” (Lc. 6:39-40). Con không chấp nhận được câu này theo nghĩa từ chương nhưng khi nghĩ về hành trình tâm linh mới chấp nhận nó được. Ai cũng thấy rõ, nếu so sánh sự  hiểu biết và nhận thức hữu vi của chúng ta với mấy thầy cô vỡ lòng ngày xưa, chắc chắn chúng ta hiểu biết nhiều hơn vì chúng ta trãi qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời. Nhưng nếu xét theo nhận thức tâm linh, mình tiến, họ giúp mình khai phá nội tâm thì họ cũng thăng tiến không ngừng nơi lãnh vực tâm linh. Có câu nói, “Cùng tột của thông minh chẳng khác gì ngu đần” có lẽ chúng ta cần suy nghĩ và nghiệm chứng thâm trầm hơn. Dĩ nhiên, khi nghiệm chứng, nhà Phật dùng ngôn từ “Quán tưởng,” mình nghiệm xét mọi sự và mọi mặt, giống như trong Lâm Tế Lục, “Không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Nhưng chứng nghiệm điều người khác đã nghiệm, tránh mất thời giờ tìm đầu mối coi chừng lạc hay luẩn quẩn chẳng khác gì câu truyện tìm dê đã mất. Nhà Phật xác định, tu là hành trình tu chứng, chứng ngộ; không nghĩ gì để Phật tánh hiển lộ, chẳng khác gì Lão học có câu nói, không làm gì nhưng không việc gì không làm. Tu giống như hành động lau gương, nhưng không phải lau, xóa gì mà cũng không cần cố gắng gì. Như vậy, chúng ta cần kinh sách để làm phương tiện tham khảo chứ kinh sách không thể giúp gì cho người không nghiệm chứng.
                - Nếu đã như thế cần gì nghiệm, cần gì chứng, cứ sống tự nhiên, đã được sinh ra thì phải sống như chim trên trời, như bông huệ ngoài đồng để Phật tánh hiển lộ, để quyền lực sự sống hoạt động. Mắc mớ gì phải viễn vông bày đặt suy nghĩ rồi lại phải vật lộn với ý tưởng của mình. Sỹ hùng hổ phát biểu.
                - Nói thế mà cũng nói, Phủ lên tiếng. Mục đích của các đạo học chính là hướng dẫn con người trở về với bản nguyên thực thể sự sống, sự thánh thiện của sự hiện hữu, giải thoát tâm hồn con người khỏi nhận thức sai lầm để có một tâm hồn an định. Nếu chú còn ước mong nghiệm chứng để cuộc đời giầu có, dễ thở hơn, muốn gì có nấy, thì thà cứ sống như mấy con chuột còn hơn. Bởi nhận định cuộc đời như vậy, nên tôn giáo mới có thể đứng vững từ ngàn xưa tới nay, miễn sao giúp con người an tâm do đó đã có quan niệm cho là ru ngủ. Nói như chú, miễn sao cảm thấy mình sống hài hòa với cuộc đời, không cần biết tại sao mình được sinh ra, không hiểu mục đích cuộc đời mình sống để làm gì, và rồi sẽ đi về đâu sau khi chết thì không có gì phải nói. Cứ sống như cây thông đứng giữa trời mà reo khi có gió thì cũng có ngày ăn năn vì bị cưa xuống đem xẻ thành gỗ làm nhà.
                - Thưa cha, sao cha không trả lời! Ông trùm Hiểu lên tiếng.
                - Tôi đã giải thích về vị thế tôn giáo và đạo học cũng chỉ là phương tiện cho con người thức ngộ mà có lẽ ông không để ý. Hơn nữa, có tiếng là theo tôn giáo này, tôn giáo kia, cũng như Thiền tông này, Phật tông kia mà không nghiệm chứng thì cũng chỉ là theo danh hiệu. Vả lại, cả đời ông theo tôn giáo thì tất nhiên ông biết tôn giáo ông theo dạy về những sự gì. Mục đích tôi về đây theo lời mời của ông bạn tôi đây là ông Tài để nói với mấy anh em trong nhóm nhậu về nghiệm chứng Phúc Âm, một trong những đạo học Đông Phương. Dầu tôi là linh mục Công giáo nhưng nếu nói về tôn giáo thì quá bất công đối với những anh em không theo Công giáo. Ông trùm cũng nên hiểu cho, như tôi vừa trả lời anh Linh, mới chỉ một vài vấn đề khuyến khích đọc, rao truyền Phúc Âm, cũng như đem đạo vào đời với truyền thống đọc và hiểu theo nghĩa từ chương sẽ không giải quyết nổi lòng khát vọng bẩm sinh nơi mỗi người. Đã mấy lần tôi nhắc đi nhắc lại, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ, nghiệm chứng để mình thức ngộ được. Tôi đã lặp lại nhận định của cụ Nghiêm Xuân Hồng rằng, “Giáo lý không thể giúp người ta chuẩn bị thức ngộ; giáo lý không thể tạo ra sự giác ngộ. Mộng không thể học được, chết không thể học được. Lãnh hội được Phật tánh nơi mình lại càng không thể học được” (GLTH; tr. 205). Qua bao ngày tháng giải thích kinh Phật, cụ để lại lời nói rõ ràng như thế nhưng chúng ta nào để ý. Cũng đã mấy lần tôi nhắc nhở, tất cả những sự giải thích, sách vở, hoặc hội thoại nơi những phương tiện truyền thông, cũng như sự việc xảy ra chung quanh ta hằng ngày, đều là phương tiện; sự thức ngộ đến từ nghiệm chứng, và chỉ nghiệm chứng mới có thể giúp người ta thức ngộ. Tôi thử nêu lên một thí dụ, có ai dạy ông phải yêu thương vợ con, gia đình ông như thế nào không? Hay là bất cứ những lời khuyên nhủ, giải thích, minh chứng, đều như nước đổ đầu vịt bởi gia đình ông không phải là gia đình của bất cứ ai. Giả sử, nếu ông áp dụng lời khuyên của ai đó vào cuộc sống gia đình của mình, coi chừng bị đá ra khỏi nhà từ lâu rồi. Trãi qua bao năm tháng với những thăng trầm trong cuộc sống, ông mới có thể thức ngộ về lòng yêu thương đối với gia đình, vợ con. Ông nói đi, nói đi, xem bất cứ ai nơi đây có thể thương yêu vợ con ông như chính ông được không? Về phương diện này, mọi người đều phải ngậm tăm, và chính ông, thức ngộ được nhưng cũng chẳng nói được gì.
                 
                Cha Hải nói một hơi, lòng cảm thấy bực bội vì câu hỏi của ông trùm muốn mình đưa ra một thứ bánh vẽ may ra người nghe có được nỗi an bình giả tạo. Nhưng không, ngài cảm thấy xoa dịu nỗi lòng khát vọng nhận thức của con người là một sự lừa đảo, một tội lỗi không thể được tha thứ mà Phúc Âm đã lên án, “Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các người cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngưoi lại ngăn cản” (Lc. 11:52; Mt. 23:13). Nói mà ngài cảm thấy nỗi đau nào đó dâng lên! Dân Chúa khao khát nhận biết Lời Chúa nhưng lười suy nghĩ vì không được khuyến khích; hơn nữa, không ai chỉ đường nghiệm chứng nên cứ chờ giải thích, tưởng rằng những sự giải thích chẳng khác gì gói mỳ ăn liền để nghĩ rằng nghe được lời giải thích hữu vi về sự thánh thiện là đã tốt lành đủ.
                - Thưa cha, nếu như vậy thì sao chúng con có thể thức ngộ? Ông trùm Canh hỏi.
                - Điều ông hỏi chính là lý do tôi bay về đây theo lời mời của ông Tài. Có lẽ lần đầu tiên ông trùm dùng ngôn từ thức ngộ. Như tôi đã nói, tất cả các đạo học đều quy về một mối đó là có một quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật; tuy thế, các đạo học khác nhau mệnh danh quyền lực tối thượng này với những danh hiệu khác nhau. Một trong những đạo học Đông Phương đó là cuốn Kinh Thánh nói về những hoạt động của Thiên Chúa giữa loài người. Trong cuốn Kinh Thánh có bốn Phúc Âm, và chúng ta đang hội thoại về một vấn đề nơi bốn cuốn Phúc Âm, đó là điều kiện tâm trí khi nghiệm chứng Phúc Âm. Chúng ta đã nói qua về điều mà Phúc Âm gọi là con đường hẹp, điều kiện tiên quyết cho hành trình thức ngộ. Con đường hẹp chính là hồi tâm đối diện chính mình, mở rộng lòng để nhận ra mình tốt lành, thánh thiện cũng như không nên không phải như thế nào, và đồng thời chấp nhận đó thực sự là mình. Để đạt đến sự thể này, anh Thanh đưa ra phương pháp lấy giấy, chia làm hai, một bên viết tất cả mọi sự tốt lành thánh thiện của mình từ ý nghĩ, lời nói, đến hành động đã qua của mình. Bên còn lại, viết xuống tất cả những gì không nên không phải của mình từ ý nghĩ, lời nói, tới hành động. Đoạn mở rộng lòng chấp nhận đó là mình. Và rồi, chúng ta bàn về con người là hình ảnh của Thiên Chúa; chứng minh mọi người có linh hồn. Tiếp đến chúng ta bàn thảo về Thiên Chúa của đức Giê su theo Phúc Âm, đoạn nói về lòng tin hay đức tin theo Phúc Âm; thêm vào đó là tội lỗi tự đâu ra. Và bây giờ, tôi nhắc lại những câu nói về trạng thái tâm trí một người nên có khi nghiệm chứng những dụ ngôn và những câu nói nơi Phúc Âm, được tổng kết đại khái, “Ai có tai thì nghe,” hoặc có nơi được viết, “Ai có tai để nghe thì  nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35).
                1/ “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ; cũng không ai lấy vải mới vá áo cũ” (Lc. 5:36-37).
                2, “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62).
                3/ “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37).
                4/ “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng” (Lc. 9:59-60).
                5/ “Nếu mắt của ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi; nếu tay của ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi” (Mt. 5:20-21).
                6/ Dụ ngôn mười nàng trinh nữ.
                7/ Dụ ngôn ba người giúp việc.
                8/ Kiên trì nghiệm chứng, “Phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc. 19:26).
                9/ Và kinh nghiệm thánh Phao lô để lại, “Nghiệm xét mọi sự” (1Thes. 5:19). Nói cách khác, phương pháp thực dụng này chỉ là cách diễn giải Metanoia.
                 
                - Tôi có một câu hỏi, cha Hải nói tiếp, chúng ta nghiệm chứng gì?
                - Thưa cha, thì nghiệm xét Phúc Âm. Sỹ nhanh nhẩu trả lời.
                - Tôi muốn nói chúng ta đang nghiệm xét lòng vòng để tiến tới mục đích chính. Vậy anh em có biết mục đích mà chúng ta muốn tiến tới là gì không?
                - Thưa cha, mục đích của cuộc đời là ơn cứu rỗi. Ông trùm Phong trả lời.
                - Tôi đồng ý ơn cứu rỗi là cùng đích của mọi cố gắng tâm linh. Nhưng chủ đích của những cuộc hội thoại này là gì? Và cứu rỗi thì cứu khỏi điều gì?
                - Thưa cha, ông trùm Hiểu lên tiếng, Chúa Giê su chết để chuộc tội cho chúng ta thì cứu chúng ta khỏi tội lỗi.
                Thế là mọi người cảm thấy hoang mang, đang nghiệm chứng Phúc Âm, cha Hải lại hỏi về mục đích của hội thoại nghiệm chứng. Ông trùm Hiểu trả lời là Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi mà có ai nói gì về tội lỗi đâu trong khi cha Hải hỏi về chủ đích của những cuộc hội thảo. Thuở ban đầu, mọi người hứng chí muốn tìm hiểu về đạo học, nay đến Phúc Âm cũng thuộc về đạo học. Đâu có ai nghĩ tới mục đích tìm hiểu đạo học để làm gì, chỉ gặp vấn đề nào không thuận tai là đấu chứ khi rượu bia đã sừng sừng thì chưa chắc đã biết mình nói gì phương chi để ý người khác nói.
                - Thưa cha, Thanh giơ tay, con từ Chicago về, thấy anh em nhóm nhậu đã đang bàn thảo và được hướng dẫn bởi bác Tài nên nhào vô tiếp tục, và cũng chưa bao giờ đặt vấn đề mục đích của những cuộc hội họp này. Có lẽ nên mời anh cả giải thích.
                - Thích thì có chứ giải thì có gì đâu mà giải. Thuở ban đầu, các chú bắt cóc tôi làm trọng tài, thế rồi ham vui đàn đúm với mấy chú, lại rủ luôn nhà tôi đi theo cho khuây khỏa. Thực ra, tôi nào biết chi đâu; nói như thế cũng không đúng, nghe cụ Tài trình bày và các chú bàn luận, biết thêm thì có biết nhưng hỏi biết gì thì không trả lời được. Có điều, tôi cảm thấy cuộc đời mình có ý nghĩa hơn, dám nhìn thẳng vào mình không trốn tránh và nhận ra nhiều sự khôn ngoan tốt lành nơi mấy chú. Đấy, nói thì nói vậy, nhưng tôi cũng đang không biết mình nói gì và nên nói gì nữa. Có lẽ chú Hưng là người nói đầu tiên nên giải thích tại sao chúng ta nói về đạo học.
                - Nếu tôi nhớ không lầm thì thuở ban đầu anh cả đề xướng chúng ta cùng nhau để tìm hiểu về tôn giáo vì thấy những vị thuyết giảng lúc thì nói như thế này, lúc nói như thế kia đối nghịch nhau, và anh cả đề nghị mỗi người đọc sách tìm hiều về một tôn giáo nào đó rồi trình bày, và chúng ta cùng nhau bàn luận. Lý do, anh cả muốn dùng cá tính thông thường nhưng đặc biệt của nhóm nhậu đó là dám nói thẳng, nói thật, không kiêng nể bất cứ hình thức nào hầu mong có thể giải quyết thắc mắc. Như vậy, mọi sự do anh cả bới ra vì thấy những điều bất đồng khó thể chấp nhận để chúng ta bàn hươu, tán vượn may ra có nhận định đúng đắn về những vấn đề nào đó chăng. Xét như thế, mục đích khởi đầu chỉ là gỡ rối tơ lòng khi phải đối diện với những điều chướng ta, gai mắt.
                - Chướng tai thì có chứ gai mắt thì không. Tùy nói thêm.
                - Người ta nói cho có vẻ đư giả văn chương mờ! Sỹ phụ họa.
                - Ông bạn già, ông nhận xét thế nào. Cha Hải hỏi cụ Tài.
                - Tôi thấy anh em có lòng khát khao muốn nhận biết về đạo học Đông Phương thì ngứa miệng nói chuyện cho vui. Như cha cũng biết rõ, nói là để kiểm chứng hoặc hệ thống lại suy nghĩ của mình. Có điều hơi ngạc nhiên là câu hỏi của cha đơn giản như thế sao nó lại có thể biến thành công án khiến anh em ở đây tối tăm mặt mày!
                - Thưa bác, nhờ bác giải thích hay minh chứng rõ hơn. Thanh lên tiếng.
                - Giải thích cũng vô ích, minh chứng không lợi gì. Để tôi đặt câu hỏi, anh em sẽ nhận ra. Vậy anh em có nhớ câu hỏi được cha Hải đặt ra thế nào không?
                - Thưa bác, cha hỏi, Chúng ta nghiệm chứng gì?
                - Vậy chúng ta đang nghiệm chứng gì? Cụ Tài lập lại.
                - Những câu nói nơi Phúc Âm. Tùy trả lời.
                - Những câu nói nơi Phúc Âm từ đâu ra?
                - Tạm gọi do đức Giê su. Sỹ nói vội.
                - Vậy mục đích cuộc đời của đức Giê su là gì?
                - Rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Thanh trả lời.
                - Như thế chúng ta nghiệm chứng Phúc Âm để làm gì?
                - Chẳng lẽ để nhận biết Tin Mừng, Sỹ nói.
                - Chứ anh muốn gì? Chúng ta nhận thấy, tất cả các kinh sách nhà Phật cho dù viết kiểu cách nào, cuối cùng chỉ dồn về một điểm, “Kiến tính thành Phật.” Ngay chỉ bốn chữ “Kiến tính thành phật” cũng đã được mổ xẻ; bao nhiêu sách viết về chỉ một chữ kiến, rồi phương pháp nào để kiến. Sách viết về Tính lại càng nhiều hơn; nào công án này, dụ ngôn kia, không biết bao nhiêu thư viện mới chứa hết. Cả chữ thành cũng được mổ xẻ, nào “Ta là phật đã thành, các ngươi là phật chưa thành,” nào chẳng thành chẳng đạt chỉ hiển lộ, trăm người, ngàn ý. Đặc biệt chữ “Phật,” anh em đã biết phật là gì thế mà hãy còn những hành giả cố tu để thành phật, rồi nào kiết già, kiết non, cúng giường, cúng chiếu như anh Sỹ nói, nào pháp này, thuyết kia, tông nọ, phái Nam, phái Bắc, cứu độ, giải thoát, khiến người kiếm tìm chẳng mù cũng trở thành thông manh, không điên cũng mát. Tương tự thế, anh em đang nghiệm chứng những câu nói và dụ ngôn nơi Phúc Âm mà vẫn không nhận ra mình đang làm gì. Đồng ý rằng chúng ta cần có đạo học hướng dẫn nhận thức tránh bớt thời giờ luẩn quẩn mò mẫm nhưng coi chừng lại bị đạo học che mờ định hướng hoặc ngăn cản hành trình nghiệm chứng. Mục đích của chúng ta là thức ngộ chứ không phải lệ thuộc bất cứ đạo học nào. Chúng ta đã rảo qua Phật học, Ấn học, Lão học, bây giờ đang nghiệm chứng Phúc Âm thì Phúc Âm cũng chỉ là phương tiện cho mình chứ không phải cùng đích nghiệm chứng, bởi cùng đích nghiệm chứng đã hiện diện sẵn nơi mình, và dẫu mình được nhắc nhở, nhưng có mắt mà vẫn như mù, có tai như điếc. Thế nên, khi được hỏi, “Chúng ta nghiệm chứng gì” thì tâm trí mờ mịt chẵng khác gì nhà sư Hương Nham khi bị tổ Huy Sơn hỏi. Thế rồi ngay cả mục đích cũng không trả lời được chẳng khác gì Chúa, Phật, nơi mình mà đã bao nhiêu lần được nhắc nhở, cũng như đã bao người tu chứng, nghiệm chứng hết thế hệ này qua thế hệ khác cũng chẳng thể thức ngộ.
                 
                Giọng cụ Tài trầm trầm mang vẻ chán chường, ngao ngán khác hẳn với những khi cụ diễn thuyết, giải thích. Mấy người nghe chợt nhớ lại tại sao nơi nhà Phật lại phát sinh các phương pháp “Át bổng,” môn phái “Trào lộng.” Nhưng cũng chẳng biết nói sao vì nếu cố gắng cũng chưa chắc thức ngộ bởi đã bao người cả đời chăm chăm chú chú nghiệm chứng với phương pháp nọ, thế ngồi kia, rồi cuối cùng cũng ra đi với lòng khát vọng muôn đời. Nói rằng tùy căn cơ thì ai biết thế nào! Một lục tổ Huệ Năng nơi nhà Phật; một vị đại thánh RamaKrishna của nhà Ấn, và những vị thức ngộ ẩn danh, nhưng không ai biết tới lý do hay căn nguyên thức ngộ nơi họ là gì. Vậy Lão học dạy gì, “Bớt, càng ngày càng bớt,” trở về sống huyền đồng. Một đàng thì nghiệm, thiền, quán; đàng khác lại bớt, kiến tính, lau gương, khiến kẻ tham ngộ cảm thấy giống như “Bắt cá hai tay,” nếu không lại trở thành kẻ đứng ngã ba đường rối rắm tâm tư không biết nên chọn lối nào.
                - Chúng ta đã biết các đạo học Đông Phương nói gì thì nghiệm chứng Phúc Âm cũng với chủ đích tìm ra Phúc Âm nói gì rồi đem so sánh với chủ điểm của các đạo học Đông Phương. Đây là một trong những chặng của diễn trình thức ngộ. Tuy chúng ta thấy nhiều vấn đề cần được nghiệm chứng nhưng đó là cách nhanh nhất, sử dụng khả năng thông minh cũng như luận lý mà nhà Phật gọi là minh triết. Cha Hải nói. Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy, mục đích cuộc đời của đức Giê su là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, hay còn được gọi là Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Muốn biết về Tin Mừng Nước Trời, chúng ta cần biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa mà cuốn Kinh Thánh Tân Ước 1994 gọi là Triều Đại của Thiên Chúa, là gì. Muốn biết Nước Thiên Chúa là gì chúng ta cần biết Thiên Chúa thế nào, ra sao. Vấn đề này chúng ta đã nói qua. Bây giờ chúng ta thử nghiệm chứng những câu Phúc Âm liên quan đến Nước Thiên Chúa qua Phúc Âm. Tối nay cũng đã muộn, tôi đề nghị anh em trong những ngày tới làm ơn tìm hiểu xem Phúc Âm đã nói gì về Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Cầu chúc anh chị em ngủ ngon.
                 
                *  *  *

                #8
                  lamongthuong 06.12.2017 22:33:46 (permalink)
                  Ánh đèn dọc hai bên tường hắt lên trần nhà, phản chiếu xuống 4 chiếc bàn tròn được phủ lớp khăn xanh màu cổ vịt đang nâng những bộ chén đĩa kề bên hông những chiếc khăn ăn màu trắng được gấp chỉnh tề tạo thành khoảng không gian thơ mộng, gợi thêm cảm giác đầm ấm. 10 chiếc ghế được xếp chung quanh như cố ép chiếc bàn nhỏ lại để tiến gần tới nồi lẫu đặt giữa đang bốc hơi nghi ngút, tỏa mùi gia vị ngào ngạt khiến con tỳ con vị khách mới bước vô muốn nổi loạn. Hành, tỏi, riềng, gừng, tiêu, ớt, me chua, hình như có chút ngũ vị hương, mắm tôm, quyện mùi húng quế, ngò gai, ngò rí, Sỹ nói cùng Thanh và Tình  khi ba người vừa bước qua ngưỡng cửa.
                  - Đố hai ông biết lẫu gì? Sỹ nói.
                  - Có mùi mắm tôm và me chua thì coi chừng là lẫu giả cầy. Tình nói.
                  - Chào thiền sư và hai anh. Chị Tiên từ trong bếp đi ra, chào hỏi.
                  - Chào bà chủ. Không hiểu tối nay nhà hàng làm bà chủ đẹp ra hay bà chủ khiến nhà hàng sáng lên? Sỹ cất tiếng.
                  - Mấy chị ấy đâu mà chưa tới.
                  - Mấy bà ấy gặp nhau hằng ngày nhưng bao giờ cũng có nhiều điều than thở.
                  - Huyền ơi, mang bia, rượu ra con; các bác đến rồi. Chị Tiên nói lớn. Mời các anh ngồi để em vô mang thực phẩm ra cho kịp.
                  - Từ từ đi chị, để các bà ấy vô phụ chị một tay may ra học được chút nghề buôn bán. Tình đề nghị. Anh Tiên đâu?
                  - Đang sắp xếp chuẩn bị khi mọi người tới sẽ xào món hải sản thập cẩm?
                  Cánh cửa rộng mở, mọi người tiếp tục bước vô. Cha Hải và cụ Tài đi sau cùng. Mấy người đàn bà cùng chị Tiên vô bếp. Những người còn lại chia nhau ngồi gần kín bốn bàn.
                  - Anh cả, không được mở vung, đố anh biết món gì? Sỹ hỏi, trong lúc chị Tình bê một khay bốn đĩa bún lớn đặt hai đĩa xuống một bàn. Huyền xếp lên mỗi bàn một chai Henessy.
                  - Nghe chừng như mộc tồn; chẳng lẽ lại là lẫu mộc tồn. Ông Thung đoán.
                  - Tôi đoán giả mộc tồn. Sỹ dự đoán.
                  Mấy bà từ bếp đi ra, mỗi người một khay đựng các đĩa thức ăn xếp lên bốn bàn. Tiên ra sau cùng hai tay hai đĩa xào, miệng nói trong lúc đặt hai đĩa lên một bàn, chào cha, chào quý vị. Con mời cha làm phép của ăn, mọi sự nói sau để thưởng thức thực phẩm khi còn nóng sốt.
                  - Xin Đức Chúa Trời làm phép, nhân danh Cha…
                  - Cái món rùa này làm thế nào vậy? Ông Thung hỏi Tiên.
                  - Đây là món rùa luộc gia vị crawfish, đặc sản của vùng này nhưng ít người biết đến hoặc dù có biết cũng không chịu quảng bá. Tiên trả lời.
                  - Còn món xào này gọi là gì?
                  - Thưa cha đó là hải sản thập cẩm xào với cải làn.
                  Tình mở nắp lẫu đoạn nói,
                  - Tớ đoán không sai; giả mộc tồn.
                  - Sao lại gọi là giả mộc tồn? Cha Hải hỏi.
                  - Thưa cha vì không có mộc tồn thật nên phải làm giả, Tiên trả lời.
                  - Ở đây mà cũng hiếm thế à?
                  - Thưa cha, không phải là hiếm mà con e cha dùng không được mộc tồn thật.
                  - Con nghĩ không phải thế. Số là lần trước con định ăn đồ giả để có tình thật. Anh Tiên nghe lóm được nên thực hành tạm gọi là đồ giả.
                  - Nghĩa là sao? Chuyện gì mà đồ giả với tình thật?
                  - Số là trước khi cha về đây, nhân tiện nói về ăn chay hay ăn mặn, có người đặt vấn đề ăn chay mà dùng đậu phụ làm thành cá giả, giò giả thì thà ăn mặn nghĩa là ăn thứ thiệt còn đỡ nổi lòng vọng tưởng. Thế rồi Sỹ thêm mắm thêm muối rằng người ăn mặn tình giả cũng không có mà ăn chay thì có nhiều tình thật. Để thêm phần sống động, ông Thung than thở rằng ông ấy ăn chay hằng tuần mà cũng không có tình thật vì bà chủ nhà không cho phép. Phủ giải thích.
                  - Cha thấy nhà con đó, con tốn tiền mà cũng đành phải xài đồ giả. Lúc mới cưới, bu nó xấu ơi là xấu; con làm được đồng nào thì bu nó đem cúng cho mấy bà bác sĩ sửa sắc đẹp, thành ra con cứ phải ôm đồ giả suốt; chuyện đời “ai có qua cầu mới hay,” Sỹ nói.
                  - Tôi đi sửa sắc đẹp bao giờ! Cái ông này ba xạo vừa thôi chứ. Chị Sỹ nói to tiếng.
                  - Có con đây làm chứng, chị Tình nhẹ nhàng. Chị em chúng con ở đây toàn là thứ thiệt “chăm phần chăm.” Anh Sỹ nói xạo đó thưa cha. Để con chứng minh, đó là chung quanh vùng này không có bác sỹ sửa sắc đẹp nào cả. Muốn sửa phải đi Houston hoặc Cali lận.
                  - Thế các chị sửa sắc đẹp rồi mà còn đẹp như thế; nếu không sửa chắc còn đẹp hơn nữa phải không? Cha Hải cố nín cười nói.
                  - Chúng con nào có sửa chi đâu.
                  - Thì anh Sỹ nói chị Sỹ sửa sắc đẹp. Đúng là uổng tiền mà không bằng không sửa.
                  - Thưa cha, chị Tình nói, sửa sắc đẹp thì đẹp hơn chứ sao lại không bằng không sửa.
                  - Thì tại sửa sắc đẹp, nếu sửa sắc xấu thì mới đẹp hơn. Tùy con giải thích.
                  - Cái chú ma này, nói lung tung. Chị Tình nói Tùy con, chợt nhận ra đang dùng câu nói ngược.
                  - Cái món này ăn sao đây? Cha Hải chỉ đĩa rùa hỏi.
                  - Cha thích ăn đùi trước thì gắp đùi trước. Con đã cắt sẵn, bốn đùi và nguyên bộ lòng. Cha thử cho biết, không dễ chi kiếm ra. Tiên trả lời.
                  - Sao nó còn đầy đủ như vậy mà có thể ăn được.
                  - Thưa cha, phải ngâm nước ít nhất một tháng cho sạch sẽ mọi sự. Trước khi luộc, con đã làm lông rồi đem ngâm vô nước luộc crawfish cả tiếng rồi mới nấu nhỏ lửa ba tiếng đồng hồ. Nghề chơi này coi bộ thường nhưng cũng lắm công phu lắm đó cha.
                  - Tuyệt, chủ nhà hàng có khác, lần đầu tiên trong đời tôi mới được ăn món này. Sao không đặt cho nó một cái tên?
                  - Đành nhờ thiền sư thôi!
                  - Thì nó có tên là rùa luộc rõ ràng còn muốn gọi là gì nữa! Chẳng lẽ gọi rùa đun nước sôi! Sỹ lên tiếng.
                  - Chưa nghiệm chứng đã trả lời. Gọi là rùa đun nước sôi nghe quê mùa quá lại lôi thôi, lòng thòng, không thanh lịch bằng rùa luộc. Phủ nói, hay gọi bằng món qui chưng.
                  - Con rùa thuộc loại sống lâu, nghe nói có con sống cả hai trăm năm, Tùy con lên tiếng. Hay gọi là “Sống đời chưng” cho có vẻ món lạ đời, ăn vô sẽ sáng mắt, sống lâu, vì mật rùa trị đau lưng giúp sáng mắt.
                  - Tôi đồng ý, nhưng đổi lại cho thiên hạ thắc mắc tìm tòi.
                  - Anh muốn đổi lại thế nào?
                  - Thưa cha gọi món này là “Chứng đời sông.” Nếu gọi là quy chưng, người ta dễ liên tưởng tới cao quy bản. Đàng này gọi chứng đời sông, sông thì có nước, rùa sống nơi có nước, mà sống lâu được gọi là sống đời cũng thế. Gọi như vậy chẳng khác gì tên gọi món mộc tồn. Tình đề nghị.
                  - Anh cả, nêu ý kiến đi chứ!
                  - Tôi nghĩ nên gọi nó là món “Chưng quy,” vừa ngắn gọn vừa đủ nghĩa. Ông Thung nói.
                  - Thế thì bầu, Sỹ hăm hở. Có hai tên cho món rùa luộc; “Chứng đời sông” và “Chưng quy.” Ai đồng ý gọi “Chứng đời sông” làm ơn giơ tay. Không có tay nào giơ; Sỹ nói tiếp, thế thì chúng ta sẽ gọi món này là “Chưng quy.”
                  Thanh uống xong chai bia lên thử keyboard, và khi thiên hạ bầu bán xong thì Huynh với cây saxophone và Tính với cây guitar cũng bước lên sân khấu thử và điều chỉnh âm thanh. Và màn nhạc sống bắt đầu với chị chủ nhà hàng, chị Tiên trình bày bản Mắt Biếc.
                  - “Nhớ tới năm xưa bên nhau…” Lúc men bia, rượu sừng sừng, nghe được giọng hát điêu luyện với lời tâm tình gợi về dĩ vãng nhung nhớ, ai không chạnh lòng! Ai không mang kỷ niệm nào đó nơi quá khứ đáng nuối tiếc. Tiếng saxo rên rỉ kèm theo nhịp Boston chậm rãi, đôi lúc tiếng guitar với đôi nốt cao vút như xoáy vào tâm tư mỗi người. Chị Tiên hôm nay hát thật tuyệt vời. Giọng hát và cử điệu của chị quyện vào với nhau trong khi đôi mắt mơ màng như hướng về cõi xa xăm nào đó. Anh Tiên cũng không ngờ vợ mình hát có hồn như thế với giàn nhạc sống. Bản nhạc đã hết mà thiên hạ hình như còn ngẩn người mơ tưởng.
                  - Vỗ tay, Sỹ nhà con la lớn. Và thế là mọi người chợt tỉnh với tràng pháo tay khó dứt.
                  - Xin lỗi, chị hát phê quá khiến chúng tôi ngẩn ngơ. Tình nói.
                  - Không ngờ chị hát hay thế. Sao chị không thử thi làm ca sĩ. Cha Hải lên tiếng.
                  - Lần trước nói chuyện với cha, con về nhà thử. Mới đầu con sợ quá vì hát như bình thường con hát, thưa cha, lúc “burn,” muốn lủng cả CD. Xin cảm ơn cha đã chỉ bảo.
                  - Cha hay thiệt, chỉ vài câu nói mà khiến cô gái quê mùa biến thành ca sĩ. Thanh nói. Hay mình để ra một buổi tối nào đó tuyển lựa ca sĩ, thưa cha.
                  - Như vậy không công bằng, chị Tiên được cha truyền nghề, còn chúng em chưa được học hỏi gì sao có thể tuyển lựa. Chị Tình lên tiếng.
                  - Không sao, không sao. Vấn đề là thực hành chứ nguyên tắc thì chưa nói ai cũng biết nhưng không để ý mà thôi. Chị Tiên có nhớ chị đã phải dợt bài này bao nhiêu lần không?
                  - Thưa cha, có lẽ gần trăm lần. Anh Thanh đờn cho con hát bản này cỡ độ hăm mấy, ba chục lần đến độ thuộc lòng luôn, ra vào bất cứ lúc nào cũng được. Thế rồi con nói anh Thanh thâu nhạc vô keyboard đoạn thâu lời qua mixer rồi ráp vô. Cũng may nhà con biết dùng Nuendo. “Chời,” lần đầu con hét nghe mà sợ luôn, nhà con dù điều chỉnh đến mấy cũng không được. Con chợt nhớ lời cha dặn hát thật nhỏ và đều dù khi lên cao. Con thâu đi, thâu lại cỡ chừng hăm mấy, ba chục lần, nhưng vẫn hụt hơi; nhà con đề nghị tập thở, hít vô, thở ra từ từ. Cuối cùng mới được, nhưng hát với nhạc sống và có người nghe mới phê; hát một mình, nản ơi là nản.
                  - Đúng là nghề chơi cũng lắm công phu, Tình nói.
                  - Thanh, chú mày coi chừng dạo này trúng mánh rồi. Thế mỗi khi chú mày đờn thì đờn ở đâu? Ở nhà riêng hay phòng riêng? Sỹ nói.
                  - Chị ấy đến nhà tôi vì tôi cũng có keyboard, nhưng tập thở và thâu thì tôi không biết; muốn biết hỏi anh Tiên.
                  - Có phải tối nay mình hội thảo tại đây là do ý của chị Tiên? Sỹ hỏi.
                  - Cái anh quỷ này cứ muốn đổ vạ cho tôi. Lần trước anh Tiên đề nghị chứ tôi nào biết gì.
                  - Tôi tưởng chị bắt anh Tiên phải tổ chức ở đây để khoe giọng hát chứ.
                  - Biết ngay mà, anh thì già không tha, trẻ không thương, chuyên môn xóc mách. Chị Tiên nét mặt tươi rói giả đò trách móc.
                   
                  Thế rồi chưng quy, giả mộc tồn, hải sản xào thập cẩm, bún, rau, bia, rượu theo nhau từ từ biến mất. Nhạc sống, nhạc chết, hát hỏng cũng phải ngưng vì một tiếng mau qua. Khi chén bát đã được dọn dẹp và ghế được sắp xếp lại thành vòng tròn lớn, cha Hải lên tiếng,
                  - Lần này chúng ta hội luận về Nước Trời, Nước Thiên Chúa theo Phúc Âm. Ai xung phong trình bày?
                  - Còn ai trồng khoai đất này! Thanh, ông đại diện nói đi, có gì chúng tôi phụ thêm. Sỹ đề nghị.
                  - Thưa cha, con mới chỉ rảo qua Phúc Âm thánh Matthêu chứ chưa để ý tới Marcô, Luca, và Gioan. Nên nếu có gì thiếu sót, cha và anh em làm ơn phụ họa. Trước hết, chúng ta đã bàn luận lần trước, Nước Thiên Chúa đã gần bên hay Nước Thiên Chúa đang hiện diện như  trong Phúc Âm Matthêu được viết, “Trong những ngày ấy, Gioan Tẩy Giả xuất thân rao giảng trong sa mạc xứ Giuđêa rằng, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2). Và đức Giê su cũng rao giảng như thế, “Từ bấy giờ, đức Giê su bắt đầu rao giảng và nói, ‘Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 4:17). Đặc biệt, đức Giê su sai các môn đồ chỉ đi rao giảng cho người Do Thái, “Các ngươi đừng lên đàng đến các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của người Samari; phải hơn, hãy đi đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Hãy đi và loan báo rằng, ‘Nước Trời đã gần bên” (Mt. 10:7). Nước Trời thuộc về những người có tinh thần khó nghèo, “Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5:3), hoặc những ai thực hiện thánh ý của Thiên Chúa, “Không phải mọi kẻ nói với Ta, ‘lạy Chúa, lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt. 7:21). Đức Giê su giải thích, Nước Trời đến trên chúng ta khi bị mấy người Biệt Phái cho rằng Ngài nhờ đầu mục các quỷ là Beelzebul, “Ví bằng Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28). Nước Trời giống như dụ ngôn người gieo giống tốt nơi ruộng của mình, bị kẻ xấu rãi thêm hột cỏ lùng nhưng không nhổ cỏ vì e có hại cho lúa mà để đến mùa gặt sẽ phân định (Mt. 13:24). Sự phát triển của Nước Thiên Chúa cũng giống như sự phát triển của hạt cải (Mt. 13:31), hoặc men làm dậy bột (Mt. 13:33). Nước Trời quí giá như kho tàng được chôn kín và người kia tìm thấy nơi một thửa đất. Thế rồi người ấy về bán tất cả tài sản để mua thửa ruộng ấy và chiếm hữu kho tàng (Mt. 13:44), hoặc Nước Trời cũng giống như viên ngọc đắt giá; người buôn ngọc bán tất cả những gì ông có để mua lấy viên ngọc ấy. Một dụ ngôn khó hiểu đó là Nước Trời giống như lưới rùng kéo nơi bờ biển, bắt được đủ mọi thứ, rồi người ta kéo lên bờ nhặt những thứ hữu dụng còn cỏ rác thì vất đi (Mt. 13:47).
                   
                  Phần cuối cùng có thể tạm gọi là điều kiện để được hưởng Nước Trời đó là phải biết mở rộng lòng trí như con trẻ, (Mt. 18:3), cái gì cũng muốn biết có lẽ hợp với điều kiện nghiệm chứng chăng. Tuy nhiên, mọi người đã biết, người ước muốn giầu có thì khó thể vào được Nước Trời (Mt. 19:23-24) vì ước muốn của người ta ở đâu thì lòng dạ người ta ở đó (Mt. 6:21). Cho dù ước muốn giầu có, danh vọng thế tục chỉ mới khó vào Nước Trời nhưng những ai làm bất cứ chuyện gì khiến ngăn cản dân Chúa nhận biết Nước Trời thì bị đức Giê su khiển trách nặng nề, “Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản (Mt. 23:13). Thưa cha và quý vị, rảo qua Phúc Âm Matthêu, con lượm ra được những câu nói về Nước Trời chỉ có thế. Nhờ cha và quý vị bổ túc nơi những Phúc Âm khác.
                  - Ai xung phong bổ túc thêm về Nước Trời nơi Phúc Âm? Cha Hải hỏi.
                  - Thưa cha, Sỹ nói, Phúc Âm Marcô cũng cho rằng Chúa Giê su chỉ rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Mc. 1:14), và Nước Trời đã gần bên (Mc. 1:15), đồng thời các môn đồ của Ngài mới được tỏ cho biết mầu nhiệm Nước Trời và những người khác thì chỉ được nghe những dụ ngôn về Nước Trời (Mc. 4:11).
                  - Thưa cha, theo Phúc Âm Luca, đức Giê su được sai đến để rao giảng về Nước Trời, rút trong túi áo hai tờ giấy chi chít những chữ, Tình lên tiếng, như được ghi, “Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. Nhưng Ngài bảo họ,’Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:42-43). Tuy nhiên, đức Giê su nói, “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi.” Con không hiểu thế nào thì được gọi nghèo khó. Thực ra, không làm thì đói, mà làm thì nhói xương hông; chẳng lẽ cứ lười ỳ ra đấy mới được vào Nước Trời hay sao! Đàng khác như Luca viết, “Môn đồ hỏi Ngài, ‘ví dụ ấy là gì?’ Ngài nói, ‘Đã được ban cho các ngươi biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, còn chỉ ban cho những kẻ khác trong câu ví, để họ nhìn mà không thấy, họ nghe mà không hiểu” (Lc. 8:9-10). Thế các môn đồ hiểu như thế nào mà khi Chúa chịu tử nạn các ông ấy bỏ trốn hết, chỉ còn lại thánh Phêrô thì bai bải chối những ba lần, tệ hơn những người nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. Tất cả những huấn dụ của Chúa cho các môn đồ chỉ là rao giảng Nước Thiên Chúa như Ngài đã làm, (Lc. 9:2-3;60) còn chữa lành chỉ là phần phụ thuộc. Rồi Chúa bảo, Nước Trời đã gần đến nhưng “Kẻ vừa cầm cày vừa ngó lui sau thì bất kham với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). Thế nên nếu tới thành nào mà người ta không đón tiếp thì đành phủi bụi đường đã lấm vào chân trả lại họ nhưng vẫn nên nhắc cho họ biết là Nước Thiên Chúa đã đến ngay trên các ông (Mt. 12:28). Như vậy, khi cầu nguyện thì nên chân thực nguyện danh Thiên Chúa cả sáng và cầu mong Nước Thiên Chúa trị đến (Lc.11:2). Có điều hơi lạ ở đây, thưa cha, đức Giê su rao giảng và dạy các môn đồ rao giảng rằng Nước Thiên Chúa gần đến, hoặc đã đến trên đầu người ta (Lc. 11:2) sao lại còn phải cầu nước Cha trị đến, hoặc nguyện danh Cha cả sáng vì chính những việc đức Giê su thực hiện chứng tỏ Nước Thiên Chúa đã đến trên họ (Lc. 11:20). Thêm một điều nghịch thường nữa nơi Phúc Âm, đó là đức Giê su công bố Nước Trời ở giữa các ngươi (Lc. 17:19), Nước Trời ở trong các ngươi (Lc. 17:21), và Nước Trời ở trên các ngươi (Mt. 12:28); thế mà Luca lại khuyên, “Song hãy tìm kiếm Nước của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Lc. 12:31); thưa cha, đã đến, đã hiện diện mà còn tìm kiếm thì bộ người Do Thái và các môn đồ của đức Giê su ngày xưa mù hết hoặc thong manh vì nhìn mà không thấy! Không biết con có thể sai lầm đến độ nào mà cứ đọc thấy Phúc Âm nói có vẻ vô lý. Bằng chứng là nơi Phúc Âm Matthêu, đức Giê su ra lệnh cho các môn đồ, “Các ngươi đừng lên đàng đến các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của người Samari; phải hơn, hãy đi đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Hãy đi và loan báo rằng, ‘Nước Trời đã gần bên” (Mt. 10:7), trong khi Luca lại được viết, “Và người ta sẽ từ phương Đông phương Tây, từ phương Bắc phương Nam mà đến và được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc. 13:29). Phúc Âm coi rẻ các môn đồ của Chúa, coi các ngài như thứ gà què ăn quẩn cối xay, nếu không có thánh Phao lô bị bắt cóc chắc chẳng ai nơi chúng ta biết gì. Chẳng những thế, Phúc Âm Luca còn phang thêm, “Biệt Phái thỉnh vấn Ngài, bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Ngài đáp lời và nói, ‘Nước Thiên Chúa không  đến một cách nhãn tiền. Người ta sẽ không nói được, này ở đây, hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21). Giê su ma, không biết con rối đến mức nào rồi mà thấy cái đầu quay quay vì bị Phúc Âm xoay loanh quanh. Đã khuyên, “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” (Lc. 12:31) mà lại phán, “Người ta sẽ không nói được, này ở đây, hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21), thì chỉ có Chúa tìm chứ loài người sao mà kiếm. Ngưng, làm hơi bia, Tình tiếp,
                  - Luca cũng nhắc đến người giàu có khó vào Nước Trời hơn con lạc đà chui qua lỗ kim như đã được giải thích phía trên; cũng như những kẻ còn lệ thuộc, chạy theo ước muốn, tham vọng thế tục thì chẳng hy vọng gì nhận thức được Nước Trời. Có điều, dẫu được Chúa Giê su trực tiếp giảng dạy, dân chúng thời đó vì không chịu suy tư, nghiệm chứng những lời Ngài nên cho rằng Nước Trời, bởi được gọi là Triều Đại Thiên Chúa như những vương quyền thế tục khác, sẽ xuất hiện cấp thời (Lc. 19:11). Nói đến sự hiểu lầm này của dân chúng hai ngàn năm trước, con chợt có ý nghĩ, ngày đó người ta theo Chúa Giê su mà ngày nay đa số học giả Kinh Thánh dịch rằng họ tin vào Ngài có lẽ chính vì sự hiểu lầm này. Chẳng lạ gì, đang bị sống dưới sự đàn áp của triều đại La Mã thời đó mà hy vọng có được một triều đại mới nổi lên giải thoát mình khỏi ách nô lệ thì ai không phấn khởi; nhất là lại được rao giảng do Thiên Chúa giải cứu mình. Có thể rằng con nghĩ sai nhưng ý tưởng chợt đến, con nói ra nếu có lạc đạo Do Thái thì con cũng vui mừng để nhận ra điều đúng nghịch lại. Một điểm hơi lạ đối với con đó là Chúa Giê su rao giảng Nước Thiên Chúa và Tin Mừng Nước Trời, đồng thời Ngài cũng sai các môn đồ, môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng chỉ cho những chiên lạc của Israel, không nhắc chi đến việc rửa tội, thì đùng một cái, khi kết thúc, Phúc Âm lại được viết Chúa Giê su sai các môn đệ rao giảng kiếm thêm môn đồ và rửa tội cho họ, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần, nơi Phúc Âm Matthêu và Marcô. Tại sao Phúc Âm Luca không nói gì đến chuyện này?
                  - Riêng Phúc Âm Gioan, Phủ lên tiếng, khi được Philatô hỏi, Chúa Giê su tuyên bố, "Nước tôi không thuộc  về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế  gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến  đấu không để tôi bị nộp cho người  Do-thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này" (Gioan 18:36). Không hiểu có phải Phúc Âm Gioan được viết sau này, khi nghi thức rửa tội đã được mặc nhiên chấp nhận lúc gia nhập Kitô hữu hay chăng để rồi phát sinh quan niệm nếu không chịu phép rửa tội thì không được rỗi linh hồn. Thưa cha, thưa quý vị, theo Phúc Âm Gioan, con chỉ thấy được bấy nhiêu viết về Nước Thiên Chúa. Con xin hết.
                  - Nào, chúng ta hãy thưởng cho bốn diễn giả một tràng pháo tay, cha Hải mời mọi người.
                  Và tràng pháo tay không rộn ràng bao nhiêu nổi lên vì ai cũng cảm thấy tâm trạng mông lung, không rõ ràng về Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Nhất là bốn ông trùm và anh Linh cùng một người khác bên họ đạo tham dự. Bia tiếp tục được chuyền tới trong bầu không khí hơi nặng nề vì hình như tâm trí mọi người còn đang bận rộn với cảm nghĩ đợi chờ điều gì đó sắp xảy đến.
                  - Bốn anh chia nhau mỗi người tìm hiểu về Nước Trời nơi một Phúc Âm phải không?
                  - Thưa cha, nghề của chàng mà! Nếu một người bốn Phúc Âm sao chịu nổi!
                  - Hèn chi ông bạn tôi khen các anh không tiếc lời.
                  - Bác Tài có bao giờ khen chúng con đâu, chỉ xúi dại thì có. Sỹ nói.
                  - Xúi dại thế nào?
                  - Bác nói, phải nghiệm chứng, giải thích chỉ là kiến thức vô bổ cho hành trình nghiệm chứng vì ngồi trước bữa tiệc thịnh soạn mà nghe giải thích món này bổ béo ra sao, món kia giúp con tì con vị thế nào thì đói vẫn hoàn đói, phải ăn mới no bụng được. Khi nghiệm chứng thì bất cứ ý nghĩ nào tới cũng không đúng không sai, và phải nghiệm xét mọi sự kiện liên hệ, bất cứ gì mình không chấp nhận được thì quăng ngay nó đi, không lệ thuộc bất cứ quan niệm, thói quen, hay ước muốn về chuyện gì. Rồi nào là không sai không biết đúng, không biết đúng thì suốt đời sai; hoặc nếu đóng cửa vì e sợ sai lầm thì chân lý cũng đành đứng ở ngoài. Hoặc chỉ trong trường hợp nhận biết đời sống của mình bất toàn và cố gắng sửa chữa lỗi lầm thì chúng ta mới có thể chân thành nhận thực chính mình. Chúng con hư đi cũng tại bác Tài đó thưa cha. Ngày xưa chúng con ngoan lắm, đi nhà thờ nhà thánh về là quên hết chẳng cần biết cha cụ giảng giải ra sao. Nay thì cố nghe cho kỹ, về nhà gom tụ lại, bia rượu uống vào rồi người này mổ, kẻ khác xẻ rối um lên, lắm lúc nói nhiều đến nỗi không biết mình nói gì…
                  - Thôi, thôi, đủ rồi, đủ rồi! Cứ vạch áo cho người xem cái lưng đầy sẹo mà cũng nói. Tình chặn Sỹ.
                  - Thì tớ vạch tớ chứ vạch lưng ông à! Bộ không nhờ bác Tài mà ông có thể dám ăn dám nói sao?
                  - Tôi có lời khen mấy anh. Chỉ mới mấy ngày mà những gì đã bao năm qua không ai dám đá động tới đã được các anh trình bày rõ ràng. Hơn nữa, mục đích là nhận biết Phúc Âm nói thế nào về Nước Trời, trong khi tìm hiểu, các anh đã đặt thêm một số vấn đề khúc mắc chẳng ngờ. Tôi sẽ giải thích từng điểm. Cũng trong thời gian này, anh em suy nghiệm để có thể trả lời câu hỏi tổng kết, Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì?
                  - Trước hết, nơi phần trình bày của anh Thanh qua Phúc Âm Matthêu, vấn đề được nêu lên đó là, “Sự phát triển của Nước Thiên Chúa cũng giống như sự phát ttiển của hạt cải (Mt. 13:31), hoặc men làm dậy bột (Mt. 13:33),” thì đâu cần chúng ta phải nhúng tay vô hay phải thế nào. Chúng ta nhớ lại, nơi Phúc Âm Luca được viết, “Nước Thiên Chúa không  đến một cách nhãn tiền. Người ta sẽ không nói được, này ở đây, hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21), ở giữa các ông (Lc. 17:19), và ở trên các ông  (Mt. 12:28). Đã ở trong mình thì những náo động thể xác nào có thể giúp ích gì hay chỉ khiến thân xác mệt mỏi, bơ phờ, ngăn cản suy tư, nếu không muốn nói là làm hại đến hành trình nghiệm chứng. Người xưa có câu, “Một tinh thần minh mẫn nơi một thân xác cường tráng, khoẻ mạnh” chứ đâu phải ở nơi một thân xác bơ phờ, náo động. Nơi Phúc Âm Gioan, anh Phủ vừa nhắc tới lời đức Giê su trả lời Philatô, “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” Không thuộc về thế gian này đâu phải là sau khi chết, mà là tâm linh, nhận thức, thức ngộ. Thế cho nên, đối với những người quan niệm Phúc Âm theo nghĩa từ chương, hữu vi, họ chỉ thường biết tới các giáo điều, khó mà có thể lãnh hội nổi phần kỹ thuật thần bí vi diệu. Các giáo điều này thường đề cao quan niệm nhận thức theo lối nhị nguyên đối đãi (luân lý). Tỉ dụ, đề cao một vị Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ và ở ngoài vũ trụ, một vị Thượng Đế luân lý toàn thiện tuyệt đối và toàn năng đã tạo sinh ra những con người và muôn vật nghiệp dĩ phải ngụp lặn trong vòng cám dỗ và tội lỗi. Lối nhìn này chính là quan niệm hữu vi, đối đãi giữa tinh thần và vật chất, hiện hữu hữu hình và hiện hữu vô hình, thêm vào đó là cuộc sống bất tử sáng lạn trên vương quốc huy hoàng mường tưởng và sự đầy ải vĩnh cửu trong lòng địa ngục. Chúng ta nên nhớ, bất cứ một nền giáo lý nào, một chủ nghĩa nào, một khi cố gắng đi sâu vào quảng đại quần chúng cũng bị giảm mất ít nhiều tinh túy. Quan niệm hữu vi này đã đứng vững bao ngàn năm và sẽ tồn tại muôn đời. Ngày nào còn con người, ngày đó nó vẫn thống trị tâm não đại đa số quần chúng chỉ vì chúng ta, nói chung, lười suy nghĩ. Anh em có thể chứng nghiệm được dụ ngôn cỏ lùng nơi mình không? Cho dù tư tưởng, cũng không có tư tưởng nào được gọi là thiện toàn.
                  - Thưa cha, Sỹ giơ tay.
                  - Vội chi, thiền sư, cha Hải diễu. Thiện toàn là thế nào? Có phải là không thiếu sót bất cứ điểm nhỏ nào không? Vậy thì cho dù tư tưởng thánh thiện được gọi là tuyệt đối cũng thiếu phần hữu hình vì tư tưởng thì vô hình dẫu nó hiện hữu. Bởi thế cho nên, dưới nhãn quan hữu vi, chính Thiên Chúa, Thượng Đế, cũng bất toàn bởi đã kiến tạo nên những thụ tạo bất toàn. Và cũng chính vì thế người ta mơ ước công bình, chính trực theo nghĩa hữu vi. Nguyên tắc nào để phân định công bằng giữa vị thế một ông chủ và một người làm công. Lấy gì để cân đo cho công bằng giữa một số kẻ được sinh ra với bọc điều và toàn dân thiên hạ! Công bằng được nhận biết theo quan điểm nào nơi câu, “Con vua thì được làm vua, con chú sãi chùa thì quét lá đa.” Xét như vậy, những gì được gọi là lý tưởng chỉ là mơ ước nơi những đầu óc hữu vi, thế tục. Khổ nỗi, những lý tưởng không tưởng này vẫn đang thống trị tâm não con người mà Đạt Ma sư tổ gọi là tội độc nhất “Vô minh.”
                  - Dụ ngôn cỏ lùng nói về thửa ruộng là chính mỗi người chúng ta; nỗi thao thức thánh thiện luôn dằn vặt mà chúng ta cũng thường cố gắng chạy trốn, cố lờ đi để được gọi là “Vui gượng ấy mà, vui thì vui vậy nhưng mà chẳng vui.” Đồng ý rằng, nói theo Lão học, khi nói đến tốt tất nhiên đã có xấu, thì bởi lối nhìn hữu vi, ai cũng mang nặng mặc cảm tự ti, tội lỗi do không nhận biết sự thánh thiện, tốt lành của chính sự sống. Khổ nỗi, nơi thế giới vật chất, người ta ca tụng, vinh danh, trả giá cho những công việc lợi ích đến nhân quần xã hội trong khi đối với thực thể cuộc sống, người ta đã không nhận ra sự tốt lành, thánh thiện đang tràn ngập mà chỉ cố bới móc những điều không nên không phải để càng ngày càng tạo nên mặc cảm tội lỗi nơi mọi người. Nơi hành trình tâm linh, đồng ý rằng nếu không chân thành đối diện với nội tâm, không thể nào thức ngộ. Sự thể này minh chứng những gì được gọi là chẳng nên nơi mình lại chính là phương tiện cho mình nhận thức. Đã ai bao giờ nhận thức được sự nghịch lý này chưa? Không nhận thức được cỏ lùng nơi mình, không thể thức ngộ. Bố Sỹ muốn nói gì?
                  - Thưa cha, chẳng lẽ càng tội lỗi thì càng nhiều phương tiện thức ngộ sao?
                  - Nói ngang thế mà cũng nói! Sợ rằng thèm phạm tội mà không có cơ hội mới phiền! Thanh đặt vấn đề.
                  - Nói hay! Đúng là phúc bất trùng lai nên tha hồ tiếc nuối. Tình phụ họa.
                  Thế là ồn ào bùng lên như ong vỡ tổ bởi ai nấy đều cảm thấy như bị chạm nọc. Có được câu nói trúng chóc tâm tư đã âm thầm bao ngày ấp ủ, vô tình được cởi mở nỗi lòng thì sao mà thoát cảnh ồn ào, náo động. Và bia lại cạn cho những chai bia mới tiếp nối.
                  - Anh em nên nhớ, cha Hải đợi cảnh ồn ào giảm bớt, giơ tay ra hiệu để ý, anh em không biết rằng đối với nhiều thầy tu kính tín, lỗi lầm cũng là một cuộc thử thách rất cần ư? Anh em đã bao giờ có thể ngờ một trong những con đường ngắn nhất để tiến tới thánh đức là sống trụy lạc ư? (ĐBCT; tr. 46) Chỉ có một điểm tôi lợi hơn anh em; tôi biết mở to hai mắt, còn anh em, nửa thức nửa ngủ, có khi ngủ hẳn (ĐBCT; tr. 62).
                   
                  Dẫu trong mơ cũng không ai dám nghĩ tới cha Hải có thể nói những câu này. Xưa tới nay, chỉ thấy các cha khuyên người ta lánh xa hoặc chừa sửa tội lỗi, đàng này, ngài dám cho rằng tội lỗi đối với trường hợp nào đó cũng có thể là phương tiện cho con người thức ngộ; điều kiện chỉ là mở rộng lòng nhận thức. Hèn chi đã có nhận định, nếu thực sự là thiền sư, ai biết mình là thiền sư? Nếu người ta biết mình là thiền sư, mình đã không là thiền sư mà đang tìm hay chạy theo điều gì đó, nên dùng thiền để loè thiên hạ hầu đạt tới điều ước mơ nào đó.
                  - Thưa cha, Sỹ giơ tay.
                  - Thưa bẩm cái gì, nghiệm thì không nghiệm, chứng chẳng thèm chứng, cứ thưa với gửi. Tình nói Sỹ.
                  - Tớ phải hỏi, Thưa cha, nếu vậy thì biết đường lối nào để hướng dẫn con ngựa không cương nơi mình?
                  - Anh ngạc nhiên lắm sao khi nghe tôi nói thế! Con đường hẹp nơi Phúc Âm chính là nhận thức chính mình. Hồi tâm nhận thức chính mình sao còn phải theo qui luật nào. Đừng như loài khỉ bắt chước nhà tư tưởng và nhà tu khổ hạnh. Mình phải là mình, phải phát triển và thực hiện chính mình (ĐBCT; tr. 362). Phải là mình trước hết; cố gắng trở nên bất cứ gì không phải là mình đều sai lầm. Anh em nên nhớ, khi những hình tượng tan thành cát bụi mới thấy cát bụi chứa đựng quyền lực hiện hữu siêu việt. Dù cố gắng trở thành bất cứ gì chăng nữa đều không thể thức ngộ vì thức ngộ chính là kiến tính, nhận ra nguyên bản của mình. Qua nhận thức này chúng ta mới có thể chấp nhận được lời minh xác nơi Phúc Âm về Nước Trời, Nước Trời ở giữa các ông, ở trong các ông và ở trên các ông. Như vậy, sự nhận thức về Nước Trời sẽ tự phát triển nếu chúng ta tiếp tục nghiệm chứng vì “Kẻ có sẽ được cho thêm mà nên dư dật.”
                  - Anh Thanh nêu lên sự khó hiểu của dụ ngôn kéo lưới. Anh chị em thử suy luận, Nước Trời đã ở nơi mình rồi thì kéo lưới thế nào, chọn những thứ hữu dụng là thế nào, và những gì cần vất đi chỉ mình mới biết; tất cả mọi sự đều tùy thuộc mình, không ai có thể thay thế. Riêng câu, “Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản (Mt. 23:13), anh em thử nhận định Phúc Âm nói về chuyện gì?
                  - Thưa cha, nói ra e đụng chạm nên con chỉ lướt qua, không ngờ cha lại điểm mặt chỉ tên. Thanh lên tiếng.
                  - Phúc Âm nào có kiêng nể ai. Dẫu chỉ là dụ ngôn, tuy nhiên, anh em nên nhớ, thời Phúc Âm được viết, Biệt Phái và ký lục có quyền hành rất lớn nơi đạo Do Thái. Biệt Phái thuộc giới giảng dạy dân Chúa; ký lục nắm giữ lề luật thì Phúc Âm còn kiêng nể ai!
                  - Thưa cha, như vậy chẳng lẽ câu này nói về các bậc giảng dạy dân Chúa?
                   
                  MBVN 29
                   
                  - Phúc Âm viết rõ như ban ngày, sao anh còn phải đắn đo, “Các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết.” Chìa khóa mở đàng hiểu biết là gì? Anh em muốn hiểu biết về nghiệm chứng thì phải thế nào? Phúc Âm lại còn viết, “Các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản.” Ai có nhận định gì, cứ việc phát biểu. Anh em nên nhớ luật lệ của anh em, ý kiến không đúng, không sai.
                  - Thưa cha, Tình lên tiếng, dụ ngôn người Samaritanô tốt lành đả phá luật nhơ uế. Cứ áp dụng hiểu ám định như vậy, dụ ngôn phán quyết Biệt Phái và ký lục răn đe những bậc giảng dạy Phúc Âm theo nghĩa từ chương, thiếu nghiệm chứng, hoặc suy nghiệm.
                  - Anh e ngại đụng chạm tôi chứ gì? Vậy tôi đang làm gì đây? Có điều, Phúc Âm chình ình ra đấy cả hai ngàn năm qua mà vẫn bị ngăn cản bởi lối nhìn thế tục, hữu vi. Anh em nên biết, Kinh Thánh được viết bên Trung Đông, mà được triển dương ở Phương Tây theo nghĩa từ chương, phỏng anh em có thể nói gì? Dẫu có giải đáp thì cũng không áp dụng được có lẽ bởi ngày giờ chưa đến. Nhưng nói đi thì cũng phải nghĩ lại, anh em nhận thấy, ngay như Phật học, Lão học được phát triển ngay tại Phương Đông nhưng được mấy ai thức ngộ! Nhận định sự thể như vậy, anh em để ý nghiệm chứng câu, “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng hằng thương xót” (Lc. 6:36) mới thấy thấm thía. Tôi gọi câu này là câu thần thánh. Giọng cha Hải trầm trầm như xa vắng lộ nỗi xót xa nhưng chẳng thể thoát khỏi được, chỉ đành bó tay ráng chịu.
                  - Vì thế, điều kiện tiên vàn vẫn là phải nhận biết chính mình, thực tâm trả lời câu hỏi “Tôi là ai” cho tới tận cùng. Bởi khi đã nhận thực ra mình đầy thiếu sót, bất toàn, lắm tham, sân, si, chúng ta mới mở rộng lòng chấp nhận những thiếu sót của người khác. Miệng hằng rêu rao tâm niệm con người đầy lỗi lầm một cách sáo rỗng không giúp ích gì cho hành trình tâm linh mà coi chừng lại trở thành màn chắn để thừa nước đục thả câu, chờ cơ hội sa lầy nặng nề hơn. Để tránh màn chắn này, chúng ta không lạ gì Lão học đề nghị bớt, càng ngày càng bớt, và nhà Phật khuyến khích lau gương.
                  - Thưa cha, Sỹ tửng tửng, nếu đã có bức màn chắn che lấp thì bớt và lau dễ rồi, chẳng cố gắng bớt thì cũng tự động bớt, không cần cố gắng lau cũng vẫn an toàn.
                  - Chú mày nói gì, Phủ lên tiếng, sao có thể không bớt mà vẫn tự động bớt, không lau mà có thể sạch?
                  - Vấn đề này ông nên hỏi các linh mục chứ mắc mớ gì hỏi tôi.
                  - Anh Sỹ thấy linh mục có địa vị nào nơi hành trình tâm linh của mình mà lôi kéo các ngài vô?
                  -Thưa cha, bởi vì các cha thường giảng dạy rằng chúng ta là người tội lỗi; các ngài đang kiến tạo lá chắn cho mọi người.
                  - Thế sao có thể tự động bớt?
                  - Mình đã chấp nhận và tuyên xưng tự nhận là kẻ tội lỗi thì ai thèm chấp hoặc để ý đến mình. Sỹ vênh váo trả lời. Con nhà này giỏi bẻ quày, bẻ quặt, pha trộn giữa thế tục và tâm linh, Thanh nghĩ. Đang  nói về nhận thức thực thể con người, hắn kéo vô trạng thái bớt của Lão và lau của Phật mà lại nói là tự động, không cần cố gắng. Hắn muốn chọc chạch chi đây! Chợt câu Phúc Âm hiện về, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; kẻ không có thì dù có ít cũng bị lấy đi” khiến Thanh nhận ra ý phá rối của Sỹ. Nhưng chờ xem, Thanh định bụng, coi chừng cả đám bị lừa. À! Thanh xuýt bật thành tiếng. Hắn đấu tâm tưởng tự trời rơi xuống “Chúng ta là người tội lỗi, Chúa Giê su đến chuộc tội cho nhân loại” mà quên không nhận chân sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi bản chất con người, nơi tạo vật.
                  - Bộ chú mày định giả mù sa mưa, miệng cứ hô lên mình lầm lỗi rồi ngấm ngầm đấm chết voi là xong ư?
                  - Tôi nào có bày ra như thế. Các cha giảng giải như thế mà! Sỹ đá trách nhiệm sang các đấng làm thày.
                  - Thế sao có thể tự động bớt, tự động lau?
                  Chỉ mấy lời đối thoại giữa Phủ và Sỹ mà mọi người cảm thấy đầu óc quay mòng mòng. Nguyên tắc bớt, càng ngày càng bớt nơi Lão học cũng như lau bụi mặt gương để bản lai diện mục lộ ra của nhà Phật đã bao lâu nay là khuôn vàng thước ngọc cho các hành giả khiến lắm kẻ ra công ra sức cố gắng thực hiện. Nơi Công giáo thời cổ còn có áp dụng ăn năn đánh tội, chịu nhiều khổ ải để đền tội mà nay hắn dám đưa lý thuyết chấp nhận lỗi lầm để tự động bớt, tự động lau là thế nào!
                  - Thôi đi ông mãnh, im cho người ta nhờ. Thế sao ông không tự động bớt bia, bớt rượu, nhất là bớt nói tào lao cho mọi người đỡ chói tai. Vợ Sỹ lên tiếng nói với chồng.
                  - Bu mày chớ xui dại tớ. Cổ nhân dạy rằng, “Thứ nhất chén rượu ngà ngà; thứ nhì người ở nơi xa mới về.” Bu mày mới tào lao, chí xúi dại bớt điều không nên bớt.
                  - Phá người ta quá mà; thì đừng mua bia cho hắn uống nữa, được cả đàng nọ lẫn đàng kia còn kêu, Tình chêm vô.
                  - Anh Sỹ, cha Hải gọi đích danh, anh có thể trình bày nguyên tắc tự động bớt cho mọi người nghe được không?
                  - Thưa cha, Sỹ lên giọng, nếu đã đương đường chấp nhận và tuyên xưng mình là kẻ lầm lỗi, đâu ai còn chấp chiếm với thứ cùi hủi, mà có chăng tránh xa không cần để ý tới. Bởi đó mình không bị moi móc nên tha hồ âm thầm tung hoành. Dĩ nhiên, như vậy càng ngày càng sa lầy và như thế, Lời Chúa đã chỉ rõ, dầu có ít cũng bị lấy đi. Càng ngày càng sa lầy thì tự động bớt đường tốt lành, thánh thiện, không cần lau cũng vẫn luôn luôn bị bớt. Bởi vậy, tuyên xưng mình tội lỗi bằng môi bằng miệng một cách vô ý thức đã không lợi ích chi mà còn trở thành bức màn chắn che lấp một tâm hồn thoái hóa.
                  - Ông nói thế thì xưa nay chúng ta tuyên xưng mình tội lỗi là vô ích sao?
                  - Tôi không biết ông tuyên xưng như thế nào, tâm hồn ông ra sao. Tuy nhiên, cứ lý luận mà xét thì sự tuyên xưng lầm lỗi nếu không thực tâm đều vô ích; chẳng những thế, nó còn trở thành lá bài lừa bịp, giả mù sa mưa ngăn cản hành trình tâm linh bởi nó khiến tâm hồn một người trở nên vô cảm do quá quen với thói vô ý thức về nhận thức tội lỗi. Thử hỏi, nếu ông đã thực tâm và ý thức được lỗi lầm, sao vẫn còn cứ mắc phạm; trong khi miệng cứ hô mình là con người lỗi lầm, sao có thể thức ngộ! Ông tưởng lừa được Chúa, lừa được người chung quanh là có thể lừa được chính mình sao! Đối với một tâm hồn vô cảm thì cần gì bớt, nó vẫn bớt, cần gì lau bởi còn nhận thức đâu mà lau.
                   
                  Hôm nay sao con nhà này đột nhiên nổi hứng lý luận ngang tàng nhưng hợp lý thế! Thanh nghĩ. Nhà Lão đề nghị bớt những gì phiền hà, ngăn cản hành trình thức ngộ; hắn lôi ra điều ngược lại mà còn dùng lý thuyết thực dụng để minh chứng. Nhà Phật nói lau bụi để Tâm hiển lộ; hắn dùng tâm tình vô cảm cho rằng chặn đứng nẻo thăng tiến để đấu những tâm hồn ỷ lại không nghiệm chứng, chỉ biết vô ý thức làm theo những gì được dạy bảo, lại còn quàng ách này lên cổ những nhà giảng dạy theo kinh viện.
                  - Chú Sỹ, chú không là tôi, sao dám cho rằng tôi vô cảm với ý thức tội lỗi, Thanh nói. Chỉ những tên trộm mới biết kẻ trộm nghĩ gì. Rõ là không ai tra khảo mà đã tự xưng lại còn đổ lỗi tại mấy cha dạy. Thế ai dạy chú uống bia, hút thuốc; ai dạy chú có được một tá nhóc. Cóc không lo nổi cóc còn đòi lo chuyện ểnh ương. Chú quên rằng mộng không ai ngờ được; thức ngộ không học ai được phương chi bày đặt lo giúp người. Đúng là phúc đức nơi nao để cầu ao rách nát.
                  - Thì tại tôi thấy những điều không hợp lý, hợp tình nên ngứa miêng, nào có chết ai đâu!
                  - Không chết ai đâu nhưng chết ai đây, chỉ làm mất giờ vô ích, Tình nói.
                  - Cũng khen cho anh Sỹ, cha Hải phát biểu. Tuy nhiên anh đã trật đường rầy bởi nơi hành trình tâm linh, sao có thể phán quyết thế nào. Chúng ta nên nhớ, mọi sự đều là phương tiện cho một người thức ngộ nếu họ ý thức. Riêng phần vô ý thức, ai không thế. Nếu anh ý thức đã chẳng cần ngồi đây bàn chuyện viễn vông. Nguyên tắc chính yếu của điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm chính là hoán cải, có cái nhìn khác thường hoặc thay đổi não trạng, chiều hướng. Nơi ngôn ngữ Hy Lạp sự kiện này được gọi là Metanoia; nơi bản Kinh Thánh tiếng Việt thường được dịch là ăn năn hối cải. Sở dĩ Metanoia được dịch theo nghĩa giới hạn như thế có lẽ cũng vì các dịch giả Kính Thánh e sợ bị chụp mũ rối đạo hoặc lạc đạo hay không theo truyền thống chăng. Anh chị em nên biết, ngày xưa dưới thời Công giáo được coi là quốc giáo, bất cứ gì khác với quan niệm đương thời của Công giáo đều bị coi là rối hoặc tà giáo, và những ai nói không giống hoặc nghịch lại sẽ bị kết án, có khi bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Trong một xã hội quân phiệt chuyên chế như thế, Kinh Thánh lại bị hiểu theo nghĩa từ chương nên mọi sự chú giải, dịch thuật đều bị o ép hoặc gán ép theo chiều hướng thế tục hầu bảo hộ vương quyền. Vì thế, động tự Metanoia cũng bị diễn nghĩa cho hợp với chủ trương bảo vệ quyền hành theo thời điểm đó.
                  - Lật Phúc Âm Marcô, đoạn 1 câu 14 đến câu 15 được viết, “Sau khi ông Gioan bị nộp, đức Giê su đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên chúa, Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Thử hỏi, thời Chúa Giê su làm gì có ngôn từ “Tin Mừng.” Nếu lật tự điển và chú giải nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước được in năm 1994, chúng ta thấy Metanoia có nhiều nghĩa, nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận, thay đổi hướng đi.
                  - Giả sử thay thế ăn năn hối cải bằng “thay đổi chiều hướng,” chúng ta sẽ đọc được, “Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy thay đổi chiều hướng suy tư và tin vào lời Ta nói. Như vậy, những gì được viết nơi Phúc Âm sẽ được suy nghĩ theo nhiều chiều hướng suy tư, và tất nhiên, sự thể này sẽ phát sinh nhiều chiều hướng nhận thức khó có thể kiến tạo một mẫu mực ý thức hệ. Dĩ nhiên, không ai muốn gây sự khốn khó cho mình. Đàng này, dưới nhãn quan của quốc giáo sẽ không có một lực lượng nào có thể khuyến khích tự do tư tưởng; vì thế, quyền lực thế tục đã nhảy vào ảnh hưởng dịch thuật cho tiện bề cai trị. Như chúng ta đã biết, nơi hành trình nghiệm chứng, ai chứng người nấy biết, không có bất cứ khuôn mẫu nào. Gốc gác của quốc giáo là Phúc Âm; vậy nếu không có một chiều hướng nhất dịnh, sao chính quyền chuyên chế có thể vận hành. Thử hỏi, nếu ngàn năm trước động từ Metannoia được dịch thuật đúng với những nghĩa của nó, sự phân hóa thành các giáo phái phỏng sẽ như thế nào?
                  - Thưa cha, như vậy Lời Chúa đã bị bóp méo hay vo tròn tùy theo con người hay sao? Ông trùm Hiểu hỏi.
                  - Chúng ta thấy, bất cứ những gì, từ tư tưởng đến kỹ thuật, văn minh đều đặt căn bản trên con người. Không có con người, chẳng có gì đáng nói hoặc nói đến. Sự biến chuyển văn hóa, quan niệm cũng vì con người và cho con người.
                  - Thưa cha, chúng con được dạy, bổn phận và mục đích cuộc đời một người là tôn thờ và vinh danh Chúa. Ngay mười điều răn cũng tóm lại chỉ có hai, kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự và yêu thương người khác như mình ta vậy. Sao cha lại nói tất cả vì con người và cho con người. Cha là linh mục mà không dạy chúng con theo hội thánh Công giáo. Ông trùm Hiểu lại lên tiếng đặt vấn đề.
                  - Trước hết, như tôi đã giải thích, tôi không về đây giảng giáo lý Công giáo cho các ông các bà mà đặt vấn đề về nghiệm chứng Phúc Âm, khuyến khích anh em nghiệm chứng để  biến Phúc Âm thành cuộc sống của mình. Anh em cũng nên nhớ, các thánh tác giả sách Tin Mừng truy cầu sự khôn ngoan của người xưa và dựa vào những lời ngôn sứ mà xác quyết lời tường thuật của mình. Một điều rõ ràng, phần Cựu Ước là những sách của đạo Do Thái; các chuyên viên Kinh Thánh điều chỉnh và sắp xếp lại để dùng cho Kytô giáo. Nếu không lầm, tôi đã giải thích cho anh em biết rằng Cựu Ước tựu chung chỉ chứng minh một điểu và đó là có một quyền lực tối thượng được gọi là Thiên Chúa đang hoạt động và ngự trị nơi tạo vật. Kinh qua những diễn tiến cuộc đời, người Do Thái nghiệm chứng được thực thể này nên kiến tạo truyền thuyết họ là con dân riêng của Chúa chẳng khác gì huyền thoại con rồng cháu tiên của dân tộc Việt Nam. Sở dĩ tôi không muốn nói gì về Cựu Ước bởi vì nó được viết theo quan điểm hữu vi qua tiến trình những câu truyện tiên tri để minh chứng Thiên Chúa luôn luôn phù trợ và hướng dẫn họ. Tôi cũng lưu ý anh em, thường thì chúng ta quan niệm tiên tri mang nghĩa thông báo trước, biết trước; bởi tiên là trước; tri là biết nên hầu hết chúng ta có nhận định không đúng đắn về danh hiệu tiên tri. Theo kinh Cựu Ước, tiên tri mang nhiệm vụ rao giảng Lờì Chúa. Tiên tri là những công cụ của Chúa để dẫn dắt dân chúng theo ý định của Ngài.
                   
                  - Thế rồi như được viết nơi Phúc Âm Marcô, thời buổi đã mãn, Thiên Chúa sai đức Giê su đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và lý do tôi về đây như đã nói với anh em, cũng vì Tin Mừng Nước Trời mà thôi. Tôi không muốn nói về tôn giáo bởi Công giáo cũng chỉ là một giáo phái thuộc về Kytô giáo như đã được minh định trước. Để  cho rõ ràng, tôi xác minh một lần nữa, tôi nói về Phúc Âm với mục đích thách đố cũng như khuyến khích nếu không mốn nói là kích thích anh em thức ngộ nhờ vào Phúc Âm. Xin lỗi mấy anh em ngoài Công giáo, để tôi thử đặt vấn đề về Công giáo may ra mấy anh em Công giáo nhờ đó mà thăng tiến nhanh hơn chăng. Đó là, như ai đó đã nêu lên câu kinh đọc Ngày Chủ Nhật, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn,” hoặc có ai đó cũng nhắc nhở câu không nên có, “Không được rửa tội thì không được rỗi linh hồn.” Vấn đề được đặt ra, đó là có ai rửa tội cho thánh Giu se và các tông đồ không? Các vị ấy không được rửa tội, vì không thấy Phúc Âm ghi lại, nên họ không được coi là thông công cùng hội thánh Công giáo thì bây giờ họ ở đâu? Chính Chúa Giê su cũng không phải là người Công giáo vì thời bấy giờ chưa có tổ chức Công giáo. Chẳng lẽ mình kính những người không được rỗi linh hồn! Tôi nhắc lại một lần nữa, Công giáo thuộc về Kytô giáo cũng giống như Tin Lành, Anh giáo, Thệ Phản được phát xuất từ Kytô giáo và gốc gác của các giáo phái này chính là Phúc Âm. Bởi thế, tôi chỉ nói về Phúc Âm, gốc gác của tôn giáo quý vị đang theo. Phúc Âm là căn bản cho tất cả các giáo phái thuộc về Kytô giáo.
                   
                  - Thưa cha, cha không nói về Công giáo; vây tại sao cha đi tu làm linh mục Công giáo. Lại cũng ông  trùm Hiểu đặt vấn đề.
                  Thấy cha Hải quá nhẫn nại giải thích những điều vô bổ, Thanh lên tiếng,
                  - Thưa ông trùm, cha được bác Tài mời về đây với mục đích giúp chúng tôi am hiểu hầu nghiệm chứng Phúc Âm. Như ngài vừa mới trình bày, Phúc Âm là gốc; nói cách khác, là đạo học phát sinh Kytô giáo và bao gồm trong đó có  Chính Thống, Công gíáo, Thệ Phản, Anh giáo vân, vân… Nói như thế, Phúc Âm là gốc, các giáo phải chỉ là ngọn, hay hoa, cành với lá. Chẳng lẽ bỏ cái gốc để chạy theo cái ngọn. Công giáo có lý thuyết, giáo lý, hệ thống, nghi thức Công giáo; cũng như Tin Lành có lý thuyết, giáo lý, hệ thống tổ chức, nghi thức Tin Lành. Muốn biết về Công giáo, ông nên trình cha quản nhiệm. Nơi đây chúng tôi cần am hiểu về Phúc Âm. Ông dự thính nên làm ơn đừng hỏi những gì về Công giáo để chúng tôi khỏi bị mất giờ tìm hiểu Phúc Âm vì chúng tôi chỉ còn được một hoặc hai lần nghe cha giải thích. Ông làm ơn thông cảm cho hoàn cảnh của chúng tôi. Con đã nói quá nhiều, xin cha tiếp tục giải thích về điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm.
                  - Như tôi đã nói, nguyên tắc chính yếu của điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm đó là Metanoia, suy nghĩ khác thường, tẩy não để có cái nhìn mới lạ. Đâu phải phi lý mà Phúc Âm khuyên, “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi” và cũng không ai thực hành câu này theo nghĩa từ chương. Tại sao nơi khác Phúc Âm lại được viết, “Kẻ nào nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã phạm tội ngoại tình với nó trong lòng,” mà không nói nó nên móc mắt mà quăng đi trong khi tội ngoại tình trong lòng còn nặng hơn sự gì được coi là làm cớ vấp phạm bởi có thể làm cớ nhưng đâu thiếu gì trường hợp người ta không vấp phạm.
                  - Trời! Đôi khi muốn vấp phạm mà không có cơ hội, thế mới tiếc nuối. Sỹ nhà con than.
                  - Cái ông quỷ ma này, cha đang nói mà nhảy xổm vô, không vấp thì té à? Vợ Sỹ nhăn chồng.
                  - Nếu cho rằng tôi vấp thì cha làm cớ cho tôi, chẳng lẽ đem cha ra kết án!
                  - Vậy bố Sỹ đã không có cơ hội vấp phạm chuyện gì mà tiếc nuối?
                  - Thưa cha, cô em vợ của hắn xinh như mộng đấy ạ. Phủ trả lời.
                  - Ông nói sao thì nói, miễn có thì thôi; đàng này có tiếng nhưng không có miếng có phải là oan ức không.
                  - Thế mới tiếc nuối, Tình chêm vô.
                  - Mấy ông quỷ này, chỉ tào lao thiên tướng, vợ Sỹ lên tiếng.
                  - Bộ bà không có cô em gái xinh đẹp hay sao mà bảo chúng tôi tào lao. Sỹ lên giọng.
                  - Mấy chú nên im lặng để nghe cha giảng thuyết. Ông Thung ngắt lời Sỹ.
                  - Hơn nữa, Phúc Âm đâu viết những gì không thể áp dụng được. Bởi vậy, tâm trí cần có lối nhìn, quan niệm khác, hoặc suy nghĩ khác thường hầu tìm ra giải đáp để có thể chấp nhận và áp dụng nơi cuộc sống. Như vậy, nơi hành trình tâm linh, bất cứ gì ngăn cản hoặc làm phiền hà giai trình thức ngộ, chúng ta cần dẹp bỏ, chẳng khác gì Phao Lô đề nghị, “Nghiệm xét mọi sự, điều gì lành thì giữ lấy, hãy kỵ điều dữ dưới bất cứ hình thức nào” (1Thes. 5:19-21). Khi nghiệm xét, hãy đặt mình vô trường hợp của câu nói hay dụ ngôn sẽ dễ dàng hơn cho chúng ta thay vì đối diện, nhận định câu nói hay dụ ngôn qua lối nhìn đối tượng, khách quan. Chẳng hạn câu, “Người ta không lấy rượu mới đổ vô bì cũ, hoặc chẳng ai lấy vải mới vá áo cũ.” Nơi cuộc sống, ai không biết nên thực hành như thế nhưng mắc mớ gì nó lại được ghi vào Phúc Âm để rồi được gọi là Lời Chúa.
                  - Thưa cha, người ngày xưa biết nhưng người ngày nay không biết nên Phúc Âm phải nhắc nhở cho khỏi quên. Sỹ nói.
                  - Thế mà cũng chứng tỏ mình biết nói.
                  - Thôi, các chú, mình không còn bao nhiêu giờ giấc.
                  -  Nếu chúng ta đặt mình trong câu nói nơi hành trình nghiệm chứng Lời Chúa, chúng ta sẽ đóng mọi vai trong mọi trường hợp. Giả sử mình trong vai rượu mới, mình sẽ không có quyền chọn lựa. Nếu nơi vai bì cũ… Nói đến đây, cha Hải ngưng, đưa mắt rảo qua chờ  xem có ai lên tiếng.
                  - Thưa cha, vì hành trình tâm linh, hành trình thức ngộ chỉ xảy ra nơi tâm trí một người, con nghĩ, những quan niệm, hiểu biết của mình sẽ là bì cũ. Thấy không có ai lên tiếng, Thanh nói.
                  - Cảm ơn anh, vậy anh nghĩ sao về câu Phúc Âm này?
                  - Thưa cha, theo kinh nghiệm của con, hai câu này được gọi là công án. Vì công án là những câu rất tầm thường và rất trung thực đối với bất cứ hành động nào hay sự thể nào xảy ra bình thường nơi mình nhưng vì quá thường nên không được để ý theo nghĩa từ chương, hữu vi. Nếu áp dụng nơi suy tư, suy nghiệm và như cha nói, đặt mình vào câu nói nơi trạng thái tâm linh sẽ dễ dàng nhận thức được ẩn ý phía sau. Đối với hai câu, “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ, chẳng ai lấy vải mới vá áo cũ, nếu coi Lời Chúa là rượu mới, vải mới thì kiến thức, quan niệm của mình sẽ là bì cũ, áo cũ, thế nên phải vứt bỏ hết, cắt hết vì chúng sẽ là cớ cho mình vấp phạm, ngăn cản tâm trí mở rộng để nhận biết ẩn ý của câu nói. Xin cảm ơn cha đã nhắc đến câu móc mắt và chặt tay.
                  - Anh nói đúng, khi nghiệm chứng một công án, chúng ta cần đặt mình trong mọi trường hợp của công án đó với một tâm hồn của đứa trẻ chưa biết gì thì chúng ta mới có thể có cái nhìn mới, hoặc ý nghĩ khác thường, và như thế mới có thể ngộ.
                  - Thưa cha, sao cha không giải thích. Sỹ nhà con lớn tiếng vì vẫn chưa hiểu.
                  - Tôi giải thích đấy chứ, giải thích phương pháp phá án thay vì ý nghĩa công án bởi công án không thể giải thích. Nếu giải thích tất nhiên anh em sẽ ngừng suy nghĩ, ngừng nghiệm chứng và sẽ trách tôi.
                  - Ai dám trách, thưa cha, chúng con sẽ phạt. Sỹ nói.
                  - Nếu tôi không lầm, ông bạn tôi đã kể cho các anh chị câu truyện nhà sư Hương Nham. Anh có nhớ tổ Huy Sơn đã trả lời thế nào sau nhiều lần sư Hương Nham năn nỉ xin ông giải thích không? "Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!" Nơi phương diện nghiệm chứng để thức ngộ, ai chứng người ấy biết, sao anh Sỹ còn đặt vấn đề giải thích. Hơn nữa, anh chị em đã quên rằng giải thích chính là kẻ thù nếu không muốn nói là ngăn cản diễn trình thức ngộ. Anh chị em nên ghi tâm câu trả lời của tổ Huy Sơn, “Cái biết của ta không ăn thua gì đến ngươi cả.” Có những diễn giả đạo học Đông Phương đề nghị không vội tin, nên nghi ngờ tất cả từ truyền thống cho đến những lời nói hay phát biểu của bất cứ ai, ngay cả từ kinh sách. Nơi Kinh Thánh Tân Ước, nguyên tắc chính yếu của điều kiện tâm trí để nghiệm chứng Phúc Âm chính là mở rộng tâm trí, metanoia, không lệ thuộc vào kiến thức, quan niệm sẵn có để đối diện với Lời Chúa được Phao lô tóm tắt với bốn chữ “Nghiệm xét mọi sự.” Tôi nhắc lại, đặt mình vào những vị thế nơi những công án, chẳng hạn “Ai có tai thì nghe,” hoặc “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng với Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta thì không xứng với Ta,” hay dụ ngôn mười nàng trinh nữ, dụ ngôn ba người giúp việc, chúng ta sẽ nghiệm được tâm trí mình cần phải như thế nào để nghiệm xét những câu nói nơi Phúc Âm. Anh em nên nhớ, sự thức ngộ không thể cầu cũng không lệ thuộc bằng cấp, kiến thức mà chính là do để tâm nghiệm chứng được nhà Phật mệnh danh hành thiền. Phúc Âm đề nghị cầu nguyện liên lỉ đồng thời cũng nhắc nhở, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; kẻ không có thì dù có ít cũng bị lấy đi.” Nói tóm lại, ai uống rượu, bia thì người ấy say; nghe giải thích về sự lợi ích của thực phẩm thì đói vẫn hoàn đói. Muốn say thì uống, muốn no phải ăn, muốn thức ngộ cần nghiệm chứng.
                  - Chúng ta đã biết về Thiên Chúa. Tôi dùng ngôn từ biết có nghĩa chúng ta đã nghiệm chứng được Thiên Chúa là gì, liên hệ với chúng ta và đóng vai trò nào nơi sự hiện hữu của mỗi người. Chúng ta cũng biết linh hồn là gì, và thực thể hiện hữu của mỗi người chính là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, ba là một và một là ba. Bây giờ chúng ta thử nghiệm xét về Tin Mừng Nước Trời được đức Giê su rao giảng qua Phúc Âm. Tôi lưu ý anh chị em, qua những cuộc hội thoại những ngày trước, đã nhiều lần chúng ta nhắc tới đặc tính hoặc vị thế của Nước Trời qua Phúc Âm nhưng không hiểu anh chị em có để ý hay không. Đồng thời tôi cũng muốn nhắc lại, tất cả những sách, thánh vịnh, tiên tri nơi Cựu Ước đều qui về một mối đó là có một quyền lực tối thượng được mệnh danh là Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi tạo vật…
                  - Thưa cha, ông trùm Hiểu ngắt lời cha Hải, Thiên Chúa là Thiên Chúa, sao cha lại nói là mệnh danh?
                  - Theo các học giả Kinh Thánh giải thích, đối với quan niệm Do Thái, Quyền Lực Tối Thượng hoạt động và điều hành vũ trụ này không có tên và không ai có quyền đặt tên cho quyền lực này bởi người đặt tên có quyền trên kẻ bị đặt tên; chẳng hạn cha mẹ có quyền đặt tên cho con cái vì cha mẹ có quyền hay có bổn phận nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Nói theo kiểu nhà Phật, chúng ta tạm gọi Quyền Lực Tối Thượng này là Thiên Chúa; nên tôi dùng ngôn từ mệnh danh. Nói như thế chúng ta hiểu rõ hơn tại sao nơi Lão học có câu, “Đạo khả Đạo phi thường Đạo; danh khả danh phi thường danh.” Ngôn ngữ dùng để chỉ về ý niệm chứ không thể giúp chúng ta đụng chạm tới thực thể. Thí dụ, danh hiệu “Bia,” khi nói tới bia, chúng ta vì đã có lần uống, tạm gọi là biết, hay thực chứng bia như thế nào nên khi nhắc tới danh hiệu này, chúng ta phần nào cảm nhận được ngay. Nhưng thử hỏi, nếu chúng ta nghe nhắc tới bia hoặc giải thích về bia chúng ta có say được không? Như vậy ngôn từ bia nói lên ý niệm về một thực thể chứ không phải là thực thể. Tương tự như thế, danh hiệu Thiên Chúa là một mệnh danh cũng chỉ là ý niệm về Thực Thể Tối Thượng chứ không phải là Thực Thể Tối Thượng. Điều lạ lùng nhất từ thuở tạo thiên lập địa tới giờ đó là Quyền Lực Tối Thượng được mệnh danh là Thiên Chúa, hay Quyền Lực Hiện Hữu, hoặc dễ hiểu hơn, Quyền Lực Sự Sống nơi mọi người, nơi tạo vật mà chúng ta đã không để ý. Chúng ta có sự sống nơi mình, có sự hiện hữu xác thân cũng như linh hồn nơi mình, nhưng thường thì ít khi để tâm nghiệm xét. Cũng như chúng ta đang thở nhưng không để ý tới không khí, ngay cả lúc ngạt mũi, hoặc khó thở cũng chỉ làm cách nào hoặc dùng thuốc men giải quyết cho dễ thở chứ không nhận định hoặc cảm nhận sự cần thiết thiết yếu của không khí đối với sự sống của mình. Tin Mừng Nước Trời nói lên thực thể liên hệ của mỗi người, của tạo vật với Thực Thể Tối Thượng được mệnh danh là Thiên Chúa mà nơi Phúc Âm được đức Giê su gọi là Cha, hoặc Cha các ngươi ở trên trời.
                  - Thưa cha, ai chả biết Thiên Chúa tạo dựng muôn loài được Chúa Giê su dạy chúng ta gọi là Cha mà sao cha lại nói là ý niệm. Như vậy cha cho là Thiên Chúa không có thật sao?
                  - Giê su Maria lạy Chúa tôi, Sỹ nhà con phát cáu, ông vừa nói Thiên Chúa không có thật chứ có ai nói như thế đâu. Nếu Thiên Chúa không có thật thì sao ông có thể nói thật với không thật. Vậy sự sống nơi ông là gì, sự hiện hữu của ông từ đâu ra. Ông nói về Thiên Chúa mà không biết mình nói gì nên ông làm ơn im lặng mà nghe và nghiệm chứng về Thiên Chúa về sự sống của ông, chẳng nên ý kiến, ý bọ mất giờ.
                  - Chú Sỹ, chú nên nhớ, ý kiến không đúng, không sai mà tùy môi trường, thời điểm. Không ý kiến, không thắc mắc thì không thăng tiến; không bao giờ sai thì suốt đời sai. Chú không thắc mắc mà chấp nhận, chưa chắc đã đúng mà có thể chưa thực sự cảm nhận thực thể được nhắc tới. Phát biểu của chú coi chừng nói lên một tâm hồn ích kỷ không biết mở rộng để đón nhận cơ hội thức ngộ. Biết đâu câu hỏi ngây ngô nào đó lại là phương tiện hay cơ hội cho chú thức ngộ thì sao?
                  Những tiếng vỗ tay bùng lên. Không ngờ ông Thung nêu lên quan điểm hay như thế khiến tâm trí mọi người đang căng thẳng vì mấy lời nói của Sỹ nhà con, chợt dãn ra nên cảm thấy lòng ruột vui tươi phấn khởi. Riêng ông trùm Hiểu chợt nhận ra sự hiểu biết của mình về Thiên Chúa thua ngay cả ông Thung, người không theo đạo Công giáo. Đồng thời nơi tâm trí ông hình như có gì như chợt phát hiện một sự ngỡ ngàng bởi mấy lời nói của Sỹ nhà con, “Vậy sự sống nơi ông là gì, sự hiện hữu của ông từ đâu ra, nếu Thiên Chúa không có thật thì sao ông có thể nói thật với không thật.” Mấy lời nói gay gắt khiến ông tối tăm mặt mày nhưng lại như mang luồng ánh sáng soi chiếu nơi tâm trí ông. Ông cảm thấy một sự vui mừng, nhưng lại quá sợ hãi. Hình như có gì khó thể cảm nhận mà lại chân thật biểu tượng mình không phải là mình, nên lắp bắp,
                  - Con xin lỗi cha, cũng cám ơn ông Sỹ.
                  Ai nấy lại ngỡ ngàng vì lời cám ơn của ông trùm đối với Sỹ nhà con và thế là bầu không khí trở nên thinh lặng, thinh lặng mang vẻ tuyệt đối. Cha Hải nhận ra có sự biến chuyển nơi tâm trí ông trùm Hiểu qua lời cảm ơn ngắn gọn nên nhẹ nhàng lên tiếng,
                  - Ông trùm cảm thấy thế nào? Ngài muốn nhân cơ hội này thúc đẩy ông trùm Hiểu tiến sâu vào nhận thức về Thiên Chúa. Với giọng nói ngập ngừng khác thường, ông trùm Hiểu trả lời,
                  - Thưa cha, con chợt cảm thấy thế nào ấy, nhưng con sợ quá không biết giải thích ra sao. Con sợ vì câu nói của ông Sỹ đặt vấn đề, “Vậy sự sống nơi ông là gì.” Khi thoạt nghe thấy câu này, hình như câu gì nơi Phúc Âm gợi về tâm trí con, “Ta là sự sống.” Thế rồi ý nghĩ nào đó lại dồn dập thúc đẩy con nhận ra Thiên Chúa là sự sống nơi mình nên con sợ; con không thể nghĩ gì được nữa. Con sợ con phạm thượng; con sợ con kiêu ngạo; con sợ nếu Chúa chính là sự sống nơi con thì chẳng lẽ con là Chúa ư! Con sợ, nhưng chẳng biết nói sao.
                  Thanh vỗ tay và mọi người cũng hùa theo vỗ tay; ai nấy cảm thấy có sự biến chuyển lạ lùng nơi mấy câu trả lời của ông trùm Hiểu.
                   
                  - Có gì mà sợ, bộ ông sợ bị đóng đanh như Chúa Giê su hay sao? Sỹ nói lớn như muốn mọi người chú ý.
                  - Tôi chỉ sợ mình phạm thượng, ông trùm Hiểu trả lời với giọng ngại ngùng.
                  - Ông trùm, giọng cha Hải nhẹ nhàng, ông đã phạm thượng từ lâu rồi, bây giờ ông mới biết ư?
                  - Thưa cha, con có bao giờ dám làm gì phạm đến Chúa mà phạm thượng!
                  - Khi ông đọc kinh Lạy Cha, khi ông tham dự thánh lễ mà ông không biết à?
                  - Cha, cha nói sao, đọc kinh Lạy Cha mà phạm thượng sao? Ông trùm Hiểu ngỡ ngàng.
                  - Ông có biết người ta kết án Chúa Giê su chịu đóng đanh vì tội gì không?
                  - Thưa cha, Chúa Giê su chịu chết để chuộc tội thiên hạ, ai mà không biết.
                  - Thưa cha, Sỹ lên tiếng, con giải thích được không?
                  - Mời anh, cha Hải nhẹ nhàng đưa tay.
                  - Người ta kết án Chúa Giê su là phạm thượng vì Ngài dám xưng mình là con Thiên Chúa (Gioan 10:36). Nay ông đọc kinh Lạy Cha cũng tự xưng mình là con Thiên Chúa không phạm thượng giống Chúa Giê su là gì? Nơi thánh lễ, cha nói, “Chúa ở cùng anh chị em,” và ông thưa, “Và ở cùng cha,” ông phạm thượng rõ ràng từ khi chịu phép rửa tội mà còn không biết. Ông dám gọi Thiên Chúa là Cha mà không phạm thượng thì phạm gì? Ông dám tuyên xưng Chúa ở trong ông thì phạm thượng là cái chắc, bộ ông không biết à?
                  - Cái này là hội thánh dạy, tôi chỉ làm theo sao ông nói là phạm thượng.
                  - Giê su ma, ông trùm ơi, ông tin theo Chúa Giê su thì bị kết án phạm thượng từ hai ngàn năm trước. Giời, vậy mà không biết.
                  - Ông nói tin theo Chúa Giê su mới phạm thượng, tôi tin những gì hội thánh dạy mà ông cũng nói phạm thượng là thế nào?
                  - Chúa Giê su đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời, hội thánh không phải là ông chủ của Tin Mừng mà chỉ là tôi tớ rao giảng Tin Mừng. Mà người ta đã kết án Chúa Giê su là phạm thượng thì hội thánh cũng dạy ông phạm thượng giống Chúa Giê su.
                  - Thưa cha, ông trùm Hiểu hỏi cha Hải, thế này là thế nào. Bao nhiêu năm con theo đạo, cố gắng thực hành những điều hội thánh dạy mà ông ấy nói con phạm thượng. Chẳng lẽ theo đạo cũng bị kết án, ông ấy nói bậy.
                  - Ông Sỹ nói đúng, nhưng đúng một nửa.
                  - Đúng một nửa là sao thưa cha, ông trùm hỏi.
                  - Ông ấy quên hai tiếng “Ngày xưa.” Chỉ có điều, đã bao ngày tháng theo đạo mà ông đã không để ý gì. Tôi nói không phải chỉ mình ông nhưng mọi người đã không để ý vì theo đạo. Đạo theo thì thấy người ta làm sao, nói sao, mình làm vậy, nói vậy. Có lẽ từ nay ông sẽ để ý từng câu kinh mình đọc, từng lời mình thưa. Có phải vừa rồi ông cảm nhận được mấy lời nói đơn sơ, rất bình thường đã nghe cả ngàn lần hay hơn, chợt đánh động tâm hồn ông phải không. Tạm gọi nó là ngộ, mà phải là người chân thành, thẳng thắn, không chấp nhất như ông, ông Sỹ mới dám đặt vấn đề; đồng thời cũng phải có tín niệm ngây ngô, nghe sao tin vậy, mấy lời gay gắt, bực bội mới thức tỉnh được tâm trí ông ngộ được thực thể chính mình. Và như vậy, ông cũng cảm nhận được thế nào là câu nói, “Ông chứng, ông biết” thường được lặp đi lặp lại. Ông sợ là phải vì xưa nay ông được dạy về một Thiên Chúa ngự trên trời, từ nơi xa thẳm tưởng tượng nào đó, được gọi là thiên đàng hoặc nước trời, nước Chúa; rồi giữ luật Công giáo, giữ mười điều răn, học giáo lý, đọc kinh thờ phượng Chúa để được rỗi linh hồn. Nói rằng theo đạo, giữ luật đạo để được lên thiên đàng, được rỗi linh hồn mà hỏi linh hồn thế nào thì không biết nhưng không dám nói ra, bí lắm thì nói loanh quanh cho qua, phương chi biết Chúa để thờ phượng Ngài. Thế nên, bất chợt ông cảm nhận được Chúa là thế nào tất nhiên sợ. Tôi nghĩ, từ nay ông sẽ có cái nhìn mới về cuộc đời, về sự sống nơi mình, và nhiều sự khác nếu ông thực tâm muốn nhận biết. Tôi nói như thế quá đủ, chúng ta trở lại phần Tin Mừng Nước Trời.
                  - Mấy chuyên viên Kinh Thánh ngâm kíu Phúc Âm về Nước Trời, Nước Thiên Chúa; bố Sỹ, anh Thanh, anh Tình, có ý kiến chi về Tin Mừng Nước Trời không?
                  - Thưa cha, Sỹ giơ tay, Phúc Âm chỉ nói về tính chất hay đặc tính của Nước Trời và nói mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng Nước Trời chứ đâu có nói Tin Mừng Nước Trời là gì thì sao mà chúng con có thể ngâm hoặc rửa.
                  - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, nếu con không lầm thì từ xưa, các cha thường giảng, Tin Mừng cứu độ là vì Thiên Chúa quá yêu thương nhân loại (Gioan 3:16) tội lỗi nên sai con một Ngài là Chúa Giê su nhập thể chịu chết trên cây thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ. Thưa cha, Tin Mừng Nước Trời có phải là Tin Mừng cứu độ không, thưa cha.
                  - Muốn hiểu tin mừng cứu độ là gì chúng ta cần đặt vấn đề cứu độ ai, cứu độ sự gì.
                  - Thì Chúa cứu loài người khỏi tội lỗi.
                  - Nguy hiểm, nguy hiểm, Sỹ la lên, ông trùm nói như thế thì đâu cần phải ăn ngay ở lành, cứ sống bừa đi vì đã có bảo hiểm là cái chết của Chúa Giê su chuộc tội cho chúng ta. Coi chừng thay vì tin mừng, lại trở thành tin buồn, khuyến khích người ta sống hoang đàng. Hơn nữa, cứ thực tế mà xét, nói rằng Chúa chuộc tội vậy cố gắng sống tốt lành, không phạm tội thì lấy gì cho Chúa chuộc; chẳng lẽ sống tốt lành, tránh  phạm tội lại là từ chối ơn cứu độ sao; trong khi Phúc Âm được viết mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43). Thưa cha, con có đề nghị, để tụi con tổng hợp lại những câu Phúc Âm về Nước Trời rồi ngâm kíu, nhưng như lần trước trình bày, đâu có câu nào định nghĩa Tin Mừng Nước Trời là gì đâu.
                  - Ai có ý kiến thêm bớt gì không? Cha Hải giơ tay ra hiệu.
                  - Thưa cha, Thanh nêu ý kiến, con cũng có đồng quan điểm với anh Sỹ. Phúc Âm không định nghĩa Tin Mừng Nước Trời mà chỉ nói một vài tính chất; chẳng hạn, ở trên, ở giữa, và ở trong các ông; Nước Trời giống như hạt cải nhỏ bé, như men làm dậy bột, như gia tài được chôn giấu, như viên ngọc quí, và cứ theo như Phúc Âm thì bổn phận, hoặc trách nhiệm, hay công việc cũng như mục đích cuộc đời của Chúa Giê su là rao giảng Tin Mừng mà thôi, chứ không phải Ngài được sai chịu chết. Thiển nghĩ, chúng ta nói Ngài nhập thể chuộc tội thiên hạ chứ Phúc Âm không nói như thế. Thưa cha, sao cha bày ra được câu hỏi như thế?
                  - Anh hỏi tôi thì tôi hỏi ai! Và mục đích tôi về đây cũng chỉ thách đố các anh động não và cũng vì ông bạn tôi khen các anh hết lời. Ông Thung, hay là mình đặt thêm một luật, ai không nghiệm chứng được Tin Mừng Nước Trời thì bị phạt, đãi mọi người một chầu được không?
                  - Thưa cha, cứ như bác Tài xúi dại thì hôm nay nghiệm chưa ra, để tâm nghiệm thêm một tuần, nếu một tuần vẫn còn mù tịt thì thêm một tháng hoặc một năm, một năm không xong thì hai năm, mười năm. Lần trước cha kể rằng cả một tuần lễ cha phải vật lộn với câu “Người giầu có khó vào Nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.” Ấy là câu Phúc Âm đã có sẵn mà còn như thế; đàng này chả có câu nào ám định, canh định về định nghĩa Tin Mừng thì cho dù thông minh như con đến nỗi được ban cho danh hiệu thiền sư cũng đành bù trớt. Nhậu, chúng con đâu có sợ, nghiện bia rượu lại là ngón nghề, nhưng nghiệm chứng, nghiệm cà thì cũng cần phải có công án, công iếc; đàng này Phúc Âm còn không có câu nào định nghĩa, phương chi nghiệm.
                  - Để tôi thử đặt vấn đề và anh em nhận định xem sao. Thứ nhất, điểm chung của các đạo học Đông Phương là gì?
                  - Thưa cha, Sỹ nhà con nhanh nhẩu, tất cả, Ấn, Phật, Lão, Kinh Thánh, đều chung một điểm đó là Quyền Lực Tối Thượng dù được mệnh danh là gì thì cũng đang hoạt động nơi tạo vật. Nếu con không lầm thì hình như thi sĩ David Browning có câu nói, Thiên Chúa là một nhà nghệ sĩ tuyệt vời, Ngài tự đóng vai trò nơi mọi tạo vật.
                  - Về điểm này Cựu Ước nói sao?
                  - Thưa cha, Thanh lên tiếng, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.
                  - Tân Ước có câu nào không?
                  - Thưa cha, Tình giơ tay, hãy trở nên thiện toàn như Cha các ngươi trên trời là Đấng toàn thiện.
                  - Anh em có nhận thức được mấy câu trả lời mang điểm chung nào không?
                  - Thưa cha, Thanh nói, thì dĩ nhiên Quyền Lực Tối Thượng hay Thiên Chúa đang hiện diện nơi mỗi người.
                  - Nếu nói theo ngôn từ Phúc Âm thì phải nói thế nào?
                  - Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi muôn vật, Thanh trả lời, nơi mỗi người.
                  - Tôi sẽ kể cho anh chị em diễn trình nhận thức của tôi về Tin Mừng Nước Trời. Tôi biết chắc chắn sẽ làm phiền hành trình thức ngộ của anh chị em về Tin Mừng, nhưng hy vọng anh chị em nhận thức và áp dụng động từ Hy Lạp, Metanoia vào bất cứ nghiệm chứng nào của mình. Dĩ nhiên, như mọi người đều biết, bất cứ gì cũng đều là phương tiện hay cơ hội cho hành trình thức ngộ của mỗi người.
                  -Thưa cha, sao lại làm phiền?
                  - Bởi mục đích chia sẻ diễn trình nhận thức nhưng lại mang tính chất giải thích nên chẳng những không giúp ích gì mà còn ngăn cản anh chị em nghiệm chứng. Tuy nhiên, dầu anh chị em dám ăn, dám nói, nhưng do truyền thống tôn giáo đã quá nặng nề ảnh hưởng, thấm nhập tận xương tủy mọi người từ ngàn xưa cho tới bây giờ vẫn còn tiếp diễn khiến chúng ta không dám sử dụng tự do tư tưởng hoặc tự do suy tư, nghĩa là không dám suy nghĩ khác thường, không dám thay đổi chiều hướng tư duy, và đặc biệt được nghe giảng dạy rằng phải tin với giáo hội nên chúng ta thường e ngại bị sai lầm; do đó chúng ta đã không dám đặt vấn đề. Nhìn tổng quát, các tôn giáo đều là những tổ chức nhân sinh được đặt trên nền tảng khát vọng bẩm sinh nơi mỗi người. Khát vọng này chính là nỗi thao thức muốn nhận biết chính mình cùng những liên hệ với vũ trụ, với Tạo Hóa. Vì là tổ chức nhân sinh nên cần có những lý thuyết, luật lệ trong việc điều hành, cổ võ cũng như phát triển. Tất nhiên, tham vọng do nhiệt thành muốn bành trướng tổ chức kèm theo danh vọng cá nhân, tất cả tạo thành một khuôn mẫu riêng biệt nên đã biến tôn giáo thành những chiếc hộp đóng khung và ngăn chận tất cả những ảnh hưởng bên ngoài có thể làm giao động niềm tin của thành viên. Chẳng hạn câu nói, “Chúng ta phải tin với giáo hội,” đã tạo nơi tâm tưởng những người Công giáo một hàng rào khiến họ không dám suy nghĩ. Nhà Phật đề nghị lý thuyết phá chấp nên họ tiến sâu nơi hành trình duy thức. Phúc Âm đưa lên đề nghị hay khuyến khích Metanoia, hoặc Phao lô đề nghị nghiệm xét mọi sự (1Cor. 5:19) nhưng lại bị phương án phải tin với giáo hội ngăn chặn, đóng khung hoặc giới hạn tâm tưởng tín đồ trong chiếc hộp vô hình được mệnh danh “Tin với giáo hội,” và dùng lề luật luân lý răn đe chẳng khác gì giáo dục trẻ em, nên như thế này, chẳng nên thế kia, không khác gì ngu dân để trị, mà quên rằng chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại. Bởi thế, kể lại hành trình nhận thức Tin Mừng Nước Trời, tôi muốn anh chị em để ý đến phương diện phá chấp và nhận ra bất cứ gì nơi cuộc đời đều là cơ hội hay phương tiện cho mình nghiệm chứng dẫu biết rằng sẽ cắt đứt cơ hội thức ngộ của anh chị em về Tin Mừng Nước Trời. Thế nên, tôi muốn hỏi, anh chị em muốn tự thức ngộ Tin Mừng hay muốn biết diễn trình suy tư nghiệm chứng để áp dụng. Xin cho tôi ý kiến.
                  - Thưa cha, không biết nghiệm chứng thì muôn đời cũng không ngộ, nên xin cha trình bày phương cách nghiệm chứng, Sỹ nhanh nhẩu trả lời.
                  - Thưa cha, Thanh lên tiếng, Kinh Thánh nói Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài trong khi Phúc Âm cũng nói hãy nên thiện toàn như Cha các ngươi trên trời, và nơi thư thứ nhất gửi Côrintô, Phao lô cũng nói thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Chúa ngự nơi anh em, và từ ngàn xưa các đạo học Đông Phương đều quan niệm Quyền Lực Tối Thượng hiện diện và hoạt động nơi vạn vật nhưng con không thể nào gom tóm để nghiệm ra Tin Mừng Chúa Giê su rao giảng dẫu Ngài rõ ràng công bố mục đích của Ngài được sai đến thế gian để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Con nghĩ, có lẽ con suy tư còn thiếu sót phương cách nào nên xin cha chia sẻ.
                  - Thưa cha, Tình giơ tay, hai ngàn năm qua rồi từ khi Chúa Giê su nhập thể rao giảng Tin Mừng mà cho tới nay, Tin Mừng chỉ được nhắc tới như một danh hiệu. Giáo dân chúng con cũng chỉ nghe biết rằng Chúa Giê su xuống thế chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ, nhưng thật khó cho con chấp nhận phát biểu nghịch thường này vì vô tình nó mang ẩn ý xúi giục con trở thành vô trách nhiệm. Thế nên, qua hai ngàn năm bao nhiêu tiến sĩ hội thánh, bao nhiêu vị thánh, bao nhiêu nhà thông thái ẩn danh vẫn chưa ai phanh phui tất nhiên chưa ai ngộ, phương chi tài trí hèn mọn chúng con. Bởi vậy, con nghĩ, ngộ thì ngộ rồi, chưa ngộ thì cũng chẳng hơn được ai mà kinh nghiệm nghiệm chứng lại cần cho cả cuộc đời còn lại. Xin cha cứ việc chia sẻ.
                  - Tôi có điều nói trước, ai cũng biết Tin Mừng Nước Trời nhưng có lẽ đã không để tâm nghiệm chứng nên chưa ngộ do đó không nêu lên được những lời minh xác. Có thể rằng ý Trời muốn thế như một khuyến khích hay thách chức con người nghiệm chứng hoặc đặt lại vấn đề chăng.
                  - Thưa cha, Bá chen vô, cha nói ai cũng biết nghĩa là sao. Nếu con biết rồi sao còn đang ngong ngóng nghe cha nói.
                  - Sau khi nghe tôi trình bày tự sự, anh sẽ có câu trả lời. Có ai nêu ý kiến gì nữa không?
                  Không ai lên tiếng trong khi mọi cặp mắt chăm chăm nhìn vị linh mục già, điềm tĩnh, nhẹ nhàng nâng ly bia chiêu một ngụm. Ly bia được đặt xuống hơi xa hơn bình thường về phía trước, cha Hải nhẹ nhàng cất giọng,
                  - Đang làm phó cho một giáo xứ người Mỹ cỡ một ngàn gia đình, thời đó, tôi đã thụ phong linh mục được tám năm, tức là đã qua hơn hai vòng, gần hết ba vòng Phúc Âm. Một hôm, câu hỏi Tin Mừng Nước Trời đức Giê su rao giảng là gì khiến lòng tôi rối tung lên. Suốt một tuần lễ, câu hỏi này dằn vặt tôi; vì cũng như anh em, nghe nơi radio những chương trình rao giảng về Chúa Giê su của các giáo phái khác thuộc Kytô giáo rằng Tin Mừng là Chúa Giê su Christ chuộc tội cho tôi, cho anh, cho mọi người. Điều kiện chỉ là tin vào Ngài, tuyên xưng nhận Ngài là Chúa cứu độ cho mình, thật khó cho đầu óc đầy lý luận của tôi chấp nhận, nhưng không dám nói năng chi với bất cứ ai. Thử nghĩ, tôi là linh mục Công giáo mà lại đặt vấn đề về sự thể cứu chuộc của đức Giê su thì chắn chắn sẽ được đội cho chiếc vương miện rối đạo hay lạc đạo to tổ bố không cần biết lý do. Tâm trí tôi suy luận và vật lộn với đủ mọi lý lẽ để sao có thể nuốt trôi luận điệu ru ngủ vô trách nhiệm đó. Ngược lại, nói rằng đã có Chúa chết để chuộc tội cho mình dường như mang tính cách khuyến khích người ta buông thả vì đã có bảo hiểm cứu rỗi an toàn chính là sự khổ nạn của Chúa. Cứ tuyên xưng tin vào Chúa và chắc chắn được cứu rỗi, người ta rao truyền như thế; tôi hậm hực kết án thánh Phao lô và James vì đã là nguyên nhân cho chủ thuyết “Faith alone” (Rom. 3”28; James 2:24).
                  - Tôi còn nhớ, lúc ấy đúng 12 giờ khuya, sau khi tắt máy tính để tìm những câu Phúc Âm liên quan đến Tin Mừng Nước Trời, tôi xuống lầu và ghé qua nhà thờ. Với tâm trạng cực kỳ chán nản và thất vọng giữa đêm đen tĩnh lặng, âm thầm leo lét ngọn đèn chầu nhỏ nhoi màu đỏ, tôi cầu nguyện thành tiếng,
                  - Lạy Ngài, con là linh mục của Ngài nhưng con không biết Tin Mừng Nước Trời Ngài đã rao giảng hai ngàn năm trước để rao truyền lại cho dân Ngài. Một linh mục mà không biết Tin Mừng Nước Trời thì thật là nhục nhã. Ngài biết, dân Chúa trả tiền lương cho con, trả tiền ăn, tiền xe, tiền xăng, bảo hiểm, trả tiền nhà cho con ở, bao gồm cả điện, nước, lại trả luôn tiền người nấu ăn, dọn phòng mà con không biết Tin Mừng để rao giảng cho họ. Một linh mục mà không biết Tin Mừng Nước Trời để rao giảng thì chỉ là một tên lừa đảo dân Chúa hầu sống qua ngày. Con cảm thấy nhục, thà rằng con đi làm thuê kiếm miếng cơm ăn chứ thật không gì khốn nạn cho bằng nói hươu, nói vượn theo luân lý và thị hiếu thế tục, giảng Lời Chúa mà không biết Tin Mừng là gì. Nói đến đây, tôi thực sự cảm thấy mình không thể chấp nhận cho rằng Chúa Giê su xuống thế chết vì và chết cho tội lỗi loài người. Cứ theo Phúc Âm, đức Giê su bị người Do Thái, dân tộc của Ngài kết án là phạm thượng. Sở dĩ tôi không chấp nhận câu tuyên truyền rằng Chúa chết vì tội của tôi bởi lục lọi nơi Phúc Âm, Ngài rõ ràng tuyên bố chính vì mục đích rao giảng Tin Mừng Nước Trời mà Ngài được sai đến (Lc. 4:43). Phúc Âm không có câu nào ghi Thiên Chúa Cha sai đức Giê su đến thế gian để chịu chết mà chỉ được viết, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16). Tôi không hiểu cái quan điểm Chúa chết vì tội lỗi loài người ở đâu ra, nhưng chắc chắn là ngoài Phúc Âm. Lòng trí tôi cùng cực lo sợ, lo sợ vì mình suy nghĩ không giống người khác đồng thời cũng không dám nói ra. Tôi thực sự thấy mình hèn hạ, hèn chỉ vì không chấp nhận điều vô lý người ta tuyên truyền và cũng bởi vì không biết Tin Mừng Nước Trời đức Giê su rao giảng. Tôi cũng cảm thấy không thể cai quản, điều khiển được tâm trí tôi; nó cứ dùng lý lẽ và suy luận phải sao cho hợp lý, hợp tình. Tôi tự tranh luận, nếu Chúa đã chết vì và cho tội lỗi của tôi thì mắc mớ gì phải ăn ngay ở thật, cớ chi phải sống tốt lành. Vậy Tin Mừng Nước Trời là gì, là gì mà tôi không thể chấp nhận Chúa Giê su chịu chết để chuộc tội cho loài người như người ta hùng hồn rao giảng. Ngồi một mình trong nhà thờ thanh vắng giữa đêm khuya nhưng tôi cảm thấy nhục nhã, một linh mục mà không biết Tin Mừng thì còn gì khốn nạn cho bằng. Còn gì vô liêm sỉ hơn kẻ dùng những lời nói lăng quăng lừa đảo niềm tin dân Chúa để kiếm sống qua ngày, tôi cảm thấy như thế. Một nỗi nhục nhã ê chề bao phủ tràn lấp con người tôi. Cỡ 30 phút trôi qua với nỗi cảm nhận con người mình quá khốn nạn vì không nhận biết Tin Mừng mà làm linh mục, tôi nói thành lời, quyết định nội trong một tuần mà tôi không kiếm cho ra Tin Mừng Nước Trời là gì, tôi sẽ cởi áo nhà tu, đi làm thuê sống qua ngày chứ không thể chịu đựng nổi lương tâm dằn vặt với nỗi nhục vì không biết Tin Mừng.

                  - Bước ra khỏi nhà thờ về tới phòng TV, tôi buồn bã, e sợ, đưa tay mở chiếc TV Philips cổ xưa hy vọng xem được gì có thể che khuất hoặc làm giảm nỗi ê chề nơi tâm trí. Ai cũng biết, TV ngày xưa xài bằng hệ thống đèn nên hình ảnh nổi lên rất chậm. Tôi nặng nề gieo thân xác nơi băng nệm đợi, và nơi màn ảnh TV từ từ hiện lên buổi họp báo của tổng thống Clinton với ký giả. Một trong những ký giả nơi màn ảnh, viết bằng tay trái, giơ tay phải lên nói, ”Mr. president;” ông ta muốn hỏi câu gì đó, nhưng tôi chợt cảm thấy kỳ cục, thầm nghĩ, tên của tổng thống là Bill Clinton, sao không gọi là Mr. Clinton mà lại nói Mr. president. Vừa mới đặt vấn đề, nhận thức gợi về nơi tâm trí, người Việt mình thường gọi hay chào hỏi người khác bằng danh hiệu để tỏ sự tôn trọng, chẳng hạn ông chánh, ông trương, ông phó, hoặc chị thơ, tùy thuộc chức vụ hoặc nhiệm vụ của họ. Cũng đồng thời lúc ấy tôi chợt nhớ và cảm thấy ngỡ ngàng, có gì liên hệ luẩn quẩn nơi tâm trí chăng, rằng có câu Phúc Âm nào đó được viết, “Và người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel.” Người tôi như chạm phải điện, vội đứng dậy, tắt TV, trở về phòng, bật máy vi tính lên và mở phương trình Kinh Thánh tiếng Anh tìm chữ Emmanuel. Tôi đã đánh vần sai vì chữ Emmanuel có hai chữ m, tôi gõ thiếu một chữ, và cũng kiếm ra được nơi Phúc Âm Matthêu đoạn 1, câu 23, “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Tôi ngồi chết trân, người run lên. Tôi sợ quá, muốn khóc; nước mắt ứa ra chảy dài xuống hai bên má, lòng hồi hộp, thầm thĩ, lạy Chúa tôi, tôi biết nói sao đây, tôi biết nghĩ gì đây.
                  - Một lúc sau, không biết bao lâu, tỉnh lại, tôi chỉ biết nhìm chằm chằm vô màn ảnh màu xanh, chữ đen của máy vi tính, cố gắng lấy lại bình tĩnh bằng cách chầm chậm thở trong khi đầu óc lý luận. Tên của Ngài là Giê su sao lại được ghi, “Người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel.” Một ý nghĩ đến với tôi, hình như bản dịch thừa chữ “Tên,” phải được viết là, người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel mới hợp lý. Như vậy, danh hiệu của đức Giê su là Emmanuel. Danh hiệu này nói lên nhiệm vụ của Ngài, nhiệm vụ rao giảng, công bố “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

                  Giọng nói cha Hải nhẹ nhàng, như ngậm ngùi khi kể về ân hưởng ở chức vụ linh mục và nhận định về sự thiếu sót nơi nhiệm vụ khi chưa nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Nhưng khi kể lại diễn tiến thức ngộ Tin Mừng nhờ nhận thức từ văn hoá của phong cách đối xử qua việc chào hỏi lại chứa đầy vẻ thổn thức, giao động, khi nhắc đến câu Phúc Âm. Ngài điềm nhiên đưa hai tay quệt nước mắt lúc nhắc đến nhiệm vụ của Chúa Giê su, rao giảng, công bố “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Thế rồi ngài chợt im lặng dường như cố đè nén tâm tư đang thổn thức.
                   
                  Mọi người dường như bị những lời tâm tình thú nhận của một tâm hồn khuyết tật vì chưa nhận biết Tin Mừng dồn nén tâm tư tạo nên sức ép phá tan những màn chắn từ bao lâu nay bao bọc tâm cảm chợt như được giải thoát khỏi nỗi cố gắng trấn áp mặc cảm tự ti do thiếu nhận thức hằng luôn đè nén. Một linh mục đã lão thành, dám đương đường bày tỏ trắng trợn sự thiếu sót tâm linh nơi hành trình nghiệm chứng Phúc Âm mà không ngại ngùng. Chính sự thể này khuyến khích mọi người cảm nhận được phần nào trạng thái thực sự đối diện với chính mình mới là điểm khởi đầu cho hành trình nhận thức, nghiệm chứng tâm linh. Bao lâu nay, ai mà không thế, đều tránh nghĩ tới chứ chưa bao giờ dám nói tới những thiếu sót nơi lòng mình; mà có chăng cố tình che giấu để có cảm tưởng hay tỏ ra mình đi đúng đường ngay, nẻo chính. Chân thành đối diện chính mình để nhận thực mình thiếu sót những gì, đang được hưởng những hồng ân nào để rồi mở rộng lòng, chú tâm “hành thiền” mới có thể thức ngộ. Họ mang mang nhớ lại lời cha Hải nhắc nhở, mọi sự, mọi việc nơi mọi hoàn cảnh đều là phương tiện hay cơ hội cho một người thức ngộ nếu người đó để tâm nhận thức. Đâu đây nơi tâm trí những kẻ đang trầm trầm im lặng hướng về vị linh mục già, mơ hồ, lãng đãng hiện về những lời Phúc Âm, “Cửa hẹp, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở, xin sẽ được.”
                  - Thưa cha, tiếng nói của Sỹ cất lên khiến ai nấy dường như tỉnh mộng, cha nói đúng. Mọi người đều biết Tin Mừng nhưng không nhận ra. Chúa ở cùng chúng ta nhưng không nhận biết, đúng là mù.
                  - Anh nói gì, đã biết sao lại còn không nhận ra?
                  - Thưa cha, nếu mệnh danh Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự Sống thì mình đã mù tối từ khi được sinh ra bởi không bao giờ để ý. Thưa cha, con thực tâm chấp nhận mình đã bao lâu nay, và có thể vẫn tiếp tục mù tối, nhưng chẳng lẽ ít nhất hai ngàn năm qua, kể từ khi có Phúc Âm đã không ai nhận thức sự thể này? Giáo hội có biết bao người học vị tiến sĩ, bao nhiêu linh mục, giám mục, hồng y mà sao lần đầu tiên con được nghe cha nói về Tin Mừng?
                  - Anh đã vội quên những gì tôi nhắc nhở trước khi trình bày diễn trình nhận thức Tin Mừng. Tôn giáo, tôi muốn nói các tổ chức tôn giáo đều giống như cái hộp đóng khung và bịt kín tín đồ của họ lại. Anh có bao giờ đặt câu hỏi vậy những ngôn từ ngoại đạo, vô đạo, lạc đạo, rối đạo, phát xuất từ đâu ra chưa?
                  - Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn. Giọng của Bá nổi lên, ngân nga giống như đang đọc kinh trước lễ nơi nhà thờ vào ngày chủ nhật.
                  - Bây giờ, cha Hải nói, dẹp vụ nhận thức Tin Mừng sang một bên. Tôi muốn hỏi, anh Thanh, qua sự trình bày diễn trình nhận thức, anh có nhận định những gì có thể áp dụng nơi mình?
                  - Thưa cha, điều tiên quyết theo con nhận thấy đó là phải là người giống như thằng cùi không sợ lở mới dám can đảm đặt vấn đề về Phúc Âm để nghiệm chứng. Con xin mạn phép dùng trường hợp của cha làm thí dụ. Vào thời điểm này, tại đây, và với anh chị em chúng con, những đứa cùi hủi, nhất là những khi sứa sứa do rượu bia nốc vào nên dám ăn, dám nói văng mạng, nhưng thật sự mở rộng tâm hồn đón nhận, cha mới dám chia sẻ. Nếu con không lầm thì đây cũng là lần đầu cha nói đến diễn trình nhận thức Tin Mừng của cha; bởi khi cha còn làm việc mục vụ, chưa về hưu, dẫu cha nghiệm chứng được nhưng đã không dám chia sẻ cho giáo dân biết và nhất là đối với các hàng giáo phẩm có liên hệ với cha. Thêm nữa, vì cha đã về hưu, cha không sợ bị kết án lạc đạo nên mới dám nói. Trước kia, nếu cha cả gan dám nói ra, cha sẽ mất job, tiêu tùng nồi cơm, rồi muôn vàn điều ong tiếng ve nổi lên và cũng đồng thời cảnh giậu đổ bìm leo phải xảy đến biến mình thành nấc thang cho kẻ khác bước lên đài danh vọng. Thứ đến, con xin có lời cảm ơn cha đã chấp nhận nỗi khó xử nếu không muốn nói là đau lòng, tạm gọi ngăn cản đường thức ngộ Tin Mừng của anh chị em chúng con mà chia sẻ. Nhờ sự chia sẻ này, con nhận ra được đôi điều thú vị và bổ ích. Điều quan trọng nhất, đó là chân thành, thẳng thắn đối diện chính mình, thực tâm đi con đường hẹp từng chi tiết một cách khách quan và nhận thực đó là thực tại nơi mình dẫu đôi khi cần phải đóng vai quan tòa để tự xét xử, không chối cãi mà đón nhận. Điểm khác tuy mới nghe thì đơn giản nhưng chẳng đơn giản chút nào mà còn cần nhiều cố gắng học hỏi cho có đủ kiến thức để nghiệm xét mọi sự. Có câu nói, dịp may chỉ đến khi chúng ta đã chuẩn bị để đón nó. Không chuẩn bị sẽ không có dịp may, sự thức ngộ cũng thế, cần luôn luôn để tâm suy tưởng theo nhiều chiều hướng khác nhau nhưng không sợ rối, không sợ bị chụp mũ, đại khái áp dụng Metanoia nơi diễn trình ứng xử.
                  - Anh Tình, cha Hải chỉ đích danh.
                  - Thưa cha, con cảm nhận được câu chào giáo đầu các nghi thức Công giáo, “Chúa ở cùng anh chị em – và ở cùng cha.” Trước khi cha chia sẻ, con chỉ nghĩ đó là câu chào theo nghi lễ nhưng giờ thì đó lại là sự lặp lại Tin Mừng Chúa Giê su rao giảng. Có điều lạ là không thấy ai nói đến. Con có cảm nghĩ giống như Sỹ nói lúc nãy, biết nhưng không nhận ra. Điều đặc biệt hơn, đó là con thấy không cần phải tin phép mình máu thánh Chúa.
                  - Ông nói sao, vậy ông không tin thật Chúa ngự nơi phép thánh thể à, rối rồi, rối rồi. Ông trùm Hiểu lên tiếng.
                  - Thưa cha, thưa quí ông trùm, thưa quí anh em, Chúa chính là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài, mọi sự hữu hình cũng như vô hình; ngay cả nơi tư tưởng của mình, vì tư tưởng cũng là một sự hiện hữu vô hình. Thử hỏi, thưa cha, vậy không có rượu, không có bánh thì lấy gì mà truyền, mà phép. Và trước khi truyền phép thì chính Thiên Chúa đã hiện hữu nơi tấm bánh, nơi miếng rượu rồi thì đâu cần phải tin vì đó là một sự thể, một thực thể. Đã nhiều lần vấn đề được gọi là tin được bàn cãi, mổ xẻ, nhưng hình như con thấy còn một điểm hay sự thể nên cần được suy tư, nhận định. Đó là phải tin. Thiển nghĩ hoặc là tin hoặc là không tin chứ sao lại phải tin. Nếu miệng nói rằng tin mà trong lòng nghi ngờ thì phải gọi là gì? Nếu ngoài miệng nói rằng không tin nhưng trong lòng biết chắc chắn thì lại phải định nghĩa ra sao? Đàng này lại đặt vấn đề phải tin. Con nghĩ, dùng ngôn từ phải tin cho những người thiếu nhận thức hoặc ngây ngô, dốt nát. Như vậy lối phát biểu phải tin mang phần nào khinh thị, mang ý bắt buộc vì biết rằng người cần phải tin đã chẳng tin gì. Ngược lại, ai đã thực sự tin một điều gì hoặc đã thực chứng, nghiệm chứng được sự gì tất nhiên không cần phải nói tới tin hay phải. Hơn nữa, đã từ lâu, con vẫn suy nghĩ về câu nói “Trở về với Chúa,” trong khi lại nói Chúa ở khắp mọi nơi, đối nghịch như thế thì sao dung hòa được. Nhưng nay đã biết Tin Mừng, con thấy đâu cũng có sự hiện diện của Chúa, của Quyền Lực Hiện Hữu. Phúc Âm chỉ nói, Ta là sư sống thế gian; con nghĩ, phải nói Ta là sự hiện hữu mọi sự mới chỉnh. Có điều, con nhớ đâu đó có câu, con người là hiện thể của Chúa dưới dạng thức nhân sinh, trước đây con cho là phạm thượng nhưng biết Tin Mừng thì con lại nhận ra vị thế cao trọng của con người cũng như vạn vật nơi sự hiện diện của Thiên Chúa.
                  - Cảm ơn hai anh, và để bù đắp lại cơ hội nhận thức Tin Mừng Nước Trời, tôi có câu hỏi để anh em nghiệm chứng. Đó là, nếu Chúa ngự trị nơi mình, khi mình phạm tội, Chúa có phạm tội với mình không. Tối nay tới đây thôi, chúng ta cũng cần đi nghỉ. Xin chúc mọi người một đêm an lành.
                  - Thưa cha, cha vừa nói sao, Chúa ở nơi mình Chúa phạm tội với mình! Chị Tình hỏi.
                  - Anh Tình giải thích được không?
                  - Cha vừa kê tủ đứng anh đó mà. Vì anh vừa nói tới sự hiện diện của Chúa nơi tạo vật, nơi mọi người, nơi tấm bánh, nơi miếng rượu nên ngài thách đố mọi người phá công án “Nếu Thiên Chúa ngự trị nơi mình, khi mình phạm tội thì Chúa có phạm tội với mình không?” Thưa cha, có lẽ con phải nhờ Sỹ ngâm kíu mới được.
                  - Dễ thôi, có các vị thánh cầu bầu thì công việc nào không xong, án nào không được giải quyết.
                  - Thưa cha, lần tới con kính mời cha, bác Tài, anh cả và mọi người quá bộ nhà con.
                  - Được phép chưa đấy mà đã cao giọng, Phủ hỏi.
                  - Dạ, nhà em đã nhận được lệnh bà rồi ạ.
                  - Thân trai kể cũng lắm phiền hà. Không đi thì bị anh em khinh, đi thì vợ binh, nằm nhà lại buồn tênh, Sỹ lớn tiếng.
                  - Thôi đi ông ơi, có được mụ nào rinh ông đi thì tôi càng mừng, vợ Sỹ nhăn chồng.
                  - Bộ bu mày không biết tớ à; tớ chỉ ăn chờ cuộc đời qua đi, ngủ cho quên đi, và uống để đủ năng lực đối diện với cảnh sầu đời mà bu mày cứ cự nự. Ôi, mùa thu cuộc đời!
                   
                  MBVN 30
                   
                  Trên đường lái xe về nhà, Thanh hỏi cha Hải
                  - Thưa cha, tại sao cha không giải thích thêm hay ít nhất cổ vũ nhận thức bất ngờ của Tình mà dường như cố lờ đi, không nói không rằng như chẳng nghe thấy chi?
                  - Không ngờ anh khá tinh tế. Chị Thanh, chị nghĩ gì hay có nhận xét thế nào về thái độ của tôi vừa được anh Thanh đề cập tới, cha Hải lên tiếng hỏi chị Thanh ngồi phía sau.
                  - Thưa cha, con cảm thấy rất ngạc nhiên, và chợt rúng động vì vẫn nghe các cha giảng phép mình thánh Chúa là trung tâm điểm của đức tin Công giáo, nhưng lại cứ thắc mắc vì không thấy cha nói gì thì nghĩ rằng chuyện cũng thường thôi, chẳng gì đáng nói nên cha không nhắc nhở hay đoái hoài tới. Tuy nhiên, con thấy cần phải suy nghĩ, đặt vấn đề lại về nhiều chuyện khác mà hiện giờ lắm thứ lộn xộn nơi đầu óc không nghĩ gì được.
                  - Ông Tài khen các anh các chị hết lời và từ đó dấy lên niềm hy vọng cho rằng đã đến thời điểm tâm thức con người phát triển.
                  - Cha định đánh lận con đen hay sao.
                  - Chuyện này nói ra thì vô cùng bởi nó dây dưa tới nhiều hiện trạng tâm thức, tâm lý, tính chất cũng như căn cơ một người. Xét về mặt đạo học, Nó kéo Phật học, Ấn học, Phúc Âm dính chùm vào đấy, nên rất nguy hiểm cho người nói bởi nếu người nghe không đủ trình độ nhận thức cũng như chưa bao giờ tự ngộ ít nhất một công án thì sẽ rất bất lợi; đồng thời đối với thính giả thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ sẽ tạo nên nhị trùng kết quả mà đàng nào cũng gây bất lợi cho người nói.
                  - Thưa cha, cha cứ nói, con sẽ nghe như không nghe. Chị Thanh bất chợt lên tiếng với câu nói kỳ cục.
                  - Để trả lời anh về thái độ tảng lờ như không nghe thấy những gì anh Tình phát biểu, chị ấy đã nghe như không nghe thì anh cũng cần chấp nhận một điều kiện tôi mới có thể nói.
                  - Con không thích hứa bừa nhưng con sẽ chấp nhận và tuân giữ điều kiện của cha. Mời cha cứ tự nhiên.
                  - Nói rằng điều kiện cũng không đúng mà phải nói là thái độ. Thực ra đơn giản chỉ là chớ vội tin những gì tôi sẽ nói mà đợi khi nào nói xong hãy tổng hợp để có nhận thức mới. Dĩ nhiên, bởi anh đã ngộ được câu nói của Lão học, “Người biết không nói” thì chẳng có gì cần được nói là hứa hoặc giữ.
                  - Tôi có câu hỏi, anh có thể trả lời đơn sơ theo phản ứng tự nhiên không cần suy nghĩ đắn đo không?
                  - Thế nào vậy cha?
                  - Giả sử tôi nói mấy câu giải thích hoặc liên hệ đến nhận thức về phép thánh thể của anh Tình, anh có thể đoán được những sự việc nào sẽ xảy ra ngay lúc ấy không.
                  - Giời, thậm phục, thậm phục, đúng là gừng càng già càng cay. Thanh không trả lời mà thốt lên lời cảm phục.
                  - Anh Thanh, anh nói gì kỳ quặc, chị Thanh xía vô.
                  - Ai vừa hứa nghe như không nghe ấy nhỉ.
                  - Thưa cha, con, nhưng anh Thanh làm đầu óc con quay mòng mòng rồi.
                  - Được rồi, nhóm nhậu của các anh lắm người sắc sảo hèn chi ông bạn tôi cố gắng bồi đắp là phải. Chị Thanh có thể tưởng tượng được nếu tôi chỉ cần nói đá động đến thực thể hiện hữu của Thiên Chúa nơi bánh và rượu trước khi truyền phép thì những chuyện gì sẽ xảy đến không. Từ từ mà đặt vấn đề, phân tích từng trường hợp, nếu không chị lăn đùng ra đó hay có thể trở nên khùng khùng thì phiền lắm.
                  - Thưa cha, riêng con cảm thấy lúc ấy có một cái gì chẳng khác một áp lực mạnh mẽ chạm vào tâm tưởng khiến con giật mình. Chẳng nói giấu gì cha, mấy cái ông này khi rượu bia uống vào rồi thì ăn nói bạt mạng không coi trời coi đất hoặc thánh hoặc ma ra gì. Nghe riết rồi trở thành chai đá dù họ nói thế nào chăng nữa cũng nên đợi kẻ khác đấu lại làm sáng tỏ vấn đề. Đàng này, phát biểu của anh Tình chẳng khác gì phát đại bác bắn thẳng vô niềm tin chính yếu của người Công giáo. Cha biết không, con nghe kể lại, khi anh Hưng nói về Phật học kỳ chúng con đi Chicago, anh ta chỉ nhắc một câu nơi Lâm Tế Lục, “Gặp Phật giết Phật, gặp pháp bỏ pháp, không tin ai hết, không để ai lừa dụ” mà cả đám bừng bừng nổi giận khiến anh cả đã phải lo cuống lên, phương chi nói không cần phải tin vào phép thánh thể. Đúng là mấy ông ngoa mồm, nhưng vì thấy cha không nói năng gì nên họ xuôi theo. Mà tại sao cha không nói gì; chẳng lẽ không cần tin vào phép thánh thể.
                  - Vậy chị có cho tôi là lạc đạo không?
                  - Con chưa nghĩ gì hết, chỉ ngạc nhiên vì nơi trường hợp này nếu gặp cha nào khác, ngài sẽ giải thích hoặc đặt vấn đề đức tin của anh Tình.
                  - Trước hết, tôi không đến đây để rao giảng Lời Chúa hay đức tin và tôi cũng không thích lối nói phải tin. Hơn nữa, anh Tình dùng nhận thức Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu mà quyền lực hiện hữu thì hiện diện nơi mọi sự dù ngay cả nơi tư tưởng vì tư tưởng cũng là một sự hiện hữu; cũng giống như chúng ta nói Chúa ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, nói rằng Chúa ở khắp mọi nơi thì ý nghĩa vẫn còn bị giới hạn nghĩa là vẫn trong giới hạn hữu vi, nơi chốn. Tương tự Phúc Âm có câu, “Ta là sự sống,” hoặc “Thiên Chúa là Thần Khí” cũng vẫn bị hiểu gìới hạn, chưa bao quát hết mọi sự hiện hữu. Nhận định như vậy, chúng ta thấy chính ngôn từ giới hạn nhận thức của con người. Hình như anh Tình ngộ được Thiên Chúa là gì. Như vậy, nếu nhận thức được Thiên Chúa chính là Quyền Lực Hiện Hữu, tất nhiên sẽ nhận thức được Thiên Chúa đang hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn, vô hình cũng như hữu hình. Suy như thế, Thiên Chúa cũng đang hiện diện ngay nơi tấm bánh và miếng rượu trước khi truyền phép. Anh chị còn nhớ anh Tình đã nêu lên nhận thức này mà.
                  - Sở dĩ tôi cố tảng lời đi vì đối với những anh chị em Công giáo, xưa nay đã được dạy dỗ là phải tin bánh và rượu sau khi truyền phép trở nên mình và máu thật của Chúa Kitô. Anh chị biết, bất cứ gì mình nói không giống quan niệm của một tổ chức cũng làm người trong tổ chức đó khó chịu. Đây là lý do tôi lờ đi không nói năng gì, vì coi chừng càng nói chỉ càng làm phiền tâm tưởng mọi người mà có thể tôi lại vấp phạm thêm lỗi lầm đã không biết bao lần vấp phạm đó là quên câu Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Không biết bao nhiêu lần tôi đã đem của thánh cho chó mà vẫn cứ vấp phạm; may mắn, lần này tôi nhớ.
                  - Vấp phạm làm sao, thưa cha, chị Thanh hỏi.
                  - Tại vì tâm ngay của mình thôi. Tôi cố gắng giải thích cho người ta hiểu, ai ngờ, có những người nói như tát vào mặt mình.
                  - Sao vậy, cha?
                  - Tại họ e sợ đã tin sai và cũng vì họ chưa bao giờ sai.
                  - Thưa cha, tại sao họ chưa bao giờ sai mà lại còn sợ sai? Chị Thanh thấy cha Hải nói kỳ cục bèn hỏi tiếp.
                  - Họ có bao giờ suy nghĩ đâu thì làm sao mà sai được. Thanh giải thích, cũng như em đó, được dạy là phải tin vào bí tích thánh thể, phải tin là Chúa Giê su thực sự hiện diện nơi bí tích thánh thể và chỉ biết lặp lại và cho rằng đó là đích thực Chúa Giê su thì sao mà có thể sai với đúng. Được gọi là sai hoặc đúng tùy thuộc nhãn quan của người nhận định và chỉ sai hoặc đúng với người ấy mà thôi.
                  - Thế sao họ còn sợ sai?
                  - Thì bất cứ ai nói không giống điều họ quan niệm hoặc chống nghịch lại, đều bị họ cho là sai bởi không kết án người ta sai tất nhiên chấp nhận mình sai trong khi mình phải tin mà.
                  - Anh nói gì kỳ, mình phải tin điều hội thánh dạy, chẳng lẽ hội thánh dạy sai?
                  - Thưa cha, Thanh nói với cha Hải, nếu con dùng câu Phúc Âm thì sẽ vấp phạm như cha, mà coi chừng còn tệ hơn. Thật là có lý khi giáo hội đặt ra luật độc thân cho các linh mục.
                  - Sao anh không đi tu làm linh mục cho biết. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Hơn nữa, cái gì cũng có giá phải trả của nó nên chớ thấy đỏ tưởng chín.
                  Chị Thanh không hiểu hai người nói gì nhưng trong lòng cứ ấm ức về câu cha Hải nói khiến chị không sao hiểu nổi, “Sợ sai vì chưa bao giờ sai.”
                  - Thưa cha, chị Thanh lên tiếng, cha làm ơn giải thích cho con tại sao lại sợ sai vì chưa bao giờ sai.
                  - Anh Thanh đã nói mà chị không để ý. Chị phải tin một điều gì thì chị không bao giờ sai; chỉ khi nào chị suy nghĩ, rồi quyết định để hành động biến suy nghĩ, quyết định thành hiện thực; hiện thực đó mới có thể được cho rằng đúng hay sai theo tùy nhãn quan. Đàng này thì chị phải tin, và đã phải tin thì sẽ không sai dẫu cho điều mà chị phải tin thế nào chăng nữa; sai, đúng không dính dáng gì tới chị. Thế nên những người tin theo những gì người khác dạy dỗ, họ sẽ không bao giờ sai lầm vì điều đó không phải là sản phẩm, hay quan niệm, hoặc nghiệm chứng, thực chứng của họ, mà của người khác. Họ có thể bị sai lầm chỉ khi nào họ tự suy tư hoặc thực hiện một việc gì. Thế nên, khi thấy điều gì khác hoặc đối nghịch lại điều họ tin theo, mà điều khác này lại có lý lẽ không giống như họ đã phải tin thì chắc chắn họ e ngại họ đã tin lầm nên sợ.
                  - Thưa cha, chẳng lẽ hội thánh không biết?
                  - Hội thánh là gì nếu không là dân Chúa. Chẳng hạn nhận thức của anh Tình, tôi nghĩ rằng các đấng, các bậc trong hội thánh đã biết từ khuya nhưng không dám nói, như tôi chẳng hạn. Giả sử thay vì anh Tình nói thì tôi nói câu đó, có phải là mọi người sẽ kết án tôi lạc đạo không, dù họ chưa kịp suy nghĩ hay suy nghiệm. Và rồi sao, một đồn mười, mười đồn trăm để rồi đến tai giám mục rằng tôi không tin sự hiện diện của Chúa Giê su nơi bí tích thánh thể. Tôi phải bảo vệ cái nồi cơm của tôi chứ nếu cứ coi linh mục như một nghề, nhưng mà anh Tình nói thì không sao. Như vậy, dẫu đấng làm thày có biết nhưng dân Chúa chưa thể chấp nhận được thì cũng đành chịu trận.
                  - Chị có bao giờ nghe câu nói, “Ông cha là đức chúa trời  ngôi thứ tư?” rồi lại cũng có câu khác, “Mỗi cha một lý đoán.” Nói gì chăng nữa, chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết.”
                  - Sao cha không nói cho người ta biết?
                  - Nói làm sao đây nếu họ không có tai để nghe, nếu họ không suy nghĩ. Tôi thử hỏi chị, chị biết câu tục ngữ, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,” hoặc, “Liệu bò mà đo chuồng,” chị hiểu hai câu này nói gì chứ? Chúng có nói gì về ăn, về cái nồi, về cách ngồi và hướng nào cũng như về con bò hoặc cái chuồng bò không? Phúc Âm cũng được viết như thế, viết một đàng, ý một nẻo. Đồng ý rằng người ta đa số tìm hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương nhưng không phải là không có những người nghiệm chứng Phúc Âm thế sao vẫn chưa có sách vở nào được viết giải thích Phúc Âm theo chiều hướng nghiệm chứng! Đã một thời gian mấy năm, tôi cứ hậm hực với chính mình vì càng cố gắng giải thích, càng bị dân Công giáo đấu nặng nề hơn, dến nỗi tôi đặt câu hỏi, “Tại sao đức Giê su nhập thể rao giảng Tin Mừng Nước Trời đã hơn kém hai ngàn năm mà cho tới giờ, dân Chúa vẫn chưa được nhận biết Tin Mừng theo Phúc Âm là gì.” Anh chị có biết câu trả lời sẽ thế nào không?
                  Vợ chồng Thanh im lặng. Cha Hải cũng không nói năng thêm vì cũng đã gần về tới nhà. Lúc mở cửa xe bước ra, Thanh hỏi cha Hải,
                  - Câu trả lời cha nghiệm mất mấy năm?
                  - Làm gì mà lâu thế, một tuần thôi, và đó là, “Việc của Thiên Chúa, hãy để Ngài làm, ngu xuẩn.”
                  Thanh cười lớn, phục ông cha này ngay thẳng, không nhân nhượng ngay cả chính mình.
                  - Cảm ơn cha, câu trả lời giúp con học được bài học căn bản nghiệm chứng.
                  - Anh nói thế nào?
                  - Con cứ thắc mắc tại sao cha lại đi vào nghiệm chứng Phúc Âm vì trong cuộc đời con chỉ thấy những linh mục giảng Lời Chúa theo nghĩa từ chương để rồi phát sinh kết quả bài giảng này đối nghịch bài giảng khác. Hình như các ngài phần nào khinh giáo dân, cho rằng họ ngu hết nên muốn nói sao thì nói coi chừng chưa nói đã vội quên là đàng khác. Đời thuở nào hôm chủ nhật có bài Phúc Âm người Samaritanô tốt lành, ngài lên tiếng kết án vị tư tế và người luật sĩ mà quên rằng chính mình là vị tư tế đang hành lễ. Rõ ràng bài Phúc Âm lên án những lề luật ngăn cản người ta thực hiện sự tốt lành, lại cứ cho là yêu thương. Hoặc nơi bài Phúc Âm mười người phong hủi, cứ đè chín người Do Thái mà la lối rằng không biết ơn. Con nghĩ, hình như thần học kinh viện chỉ giảng dạy Lời Chúa theo nghĩa từ chương phải không cha?
                  - Cho đến nay, Kytô giáo và tất cả những giáo phái của nó cũng chỉ nhận biết Phúc Âm theo nghĩa từ chương mà thôi. Riêng một số nhà tạm gọi là cảm nghiệm, nếu tôi không lầm thì họ học hỏi một nhánh nào đó nơi đạo học Đông Phương rồi viết để lại ít sách được gọi cảm nghiệm về mầu nhiệm trong đạo Công giáo hoặc về sự khổ nạn của Chúa Giê su hoặc  nhận thức về sự hiện hữu con người trước mặt Chúa mà không dám nói gốc gác nhờ đâu họ có thể cảm nghiệm được như thế. Tôi chỉ biết rõ một điều, đó là trường thần học không có bất cứ lớp nào dạy về nghề lãnh đạo và cũng không dạy về nghiệm chứng tâm linh. Có lẽ đây là nguyên nhân phát sinh câu nói, “Mỗi cha một lý đoán.”
                  - Cha có nghĩ rằng đã đến thời điểm nhận thức tâm linh nơi con người bắt đầu phát triển?
                  - Bất cứ lúc nào cũng là thời điểm bắt đầu nếu người ta nhận chân được nỗi khát vọng bẩm sinh nơi mình. Thử lược sơ qua diễn tiến của một số đạo học Đông Phương, phải biết bao lâu từ thời khởi thủy con người trên trái đất mà Ấn học, Phật học, Lão học, Kinh Thánh  mới ra đời thế sao đã có lắm người la lên rằng thời này là thời mạt pháp. Dĩ nhiên không thể nào có một pháp chung cho hết mọi người dù chỉ trong cùng một tông phái vì ai chứng người nấy biết. Tôi nghĩ, có thể là pháp mạt bởi người ta muốn dạy thằng yếu đánh vật mà quên rằng chân thành năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại. Đồng ý rằng nơi cương vị một linh mục, giảng dạy không phải là chuyện chơi. Cho dù ngày nay internet trở thành những thư viện sống động cho con người học hỏi, nhưng sách  đạo học mà chỉ đọc lướt qua trên net thì lấy gì để nghiệm chứng. Sách đạo học không phải là những tài liệu để lấy bằng cấp học thức. Giảng Phúc Âm mà cứ lên net kiếm những bài giảng đã được viết sẵn từ những năm trước, gom góp và điều chỉnh sơ sơ theo nghĩa từ chương hoặc bàn về luân lý hữu vi hay khuynh hướng thế tục thì muôn đời con dân Chúa cũng không thể bước vào hành trình nghiệm chứng Phúc Âm. Chẳng lạ gì, đã những hai ngàn năm mà Phúc Âm vẫn cứ như huyền thoại.
                  - Mời cha và anh vô dùng trà. Chị Thanh mở cửa bước ra lên tiếng. Anh Thanh, anh đã soạn nhạc cho em thâu thử CD chưa, một tuần rồi đó, và cha sắp về tới nơi.
                  - Thâu CD sao dính dáng đến ngày tôi về.
                  - Con muốn mở tiệc tiễn chân cảm ơn cha.
                  - Vậy chừng nào đi câu, giữa tháng 11 rồi.
                  - Thứ năm 14 âm lịch, thứ sáu 15, có lẽ đi câu thứ bảy cho các cháu đi theo. Mời cha, Thanh đưa tay hướng phía cửa.
                   
                  Vừa vào tới cửa, bố Thanh đang ngồi nơi bàn ăn, như có ý đợi, vội đứng dậy,
                  - Cha về muộn thế, tội cho thân lão mà cũng chẳng được yên.
                  - Ông nói gì, thích nữa ấy chứ. Không ngờ đến tuổi này rồi mà còn cơ hội nói chuyện với mấy anh em về Phúc Âm thì còn gì sung sướng cho bằng. Không ngờ Thánh Thần làm việc quá khác thường.
                  - Cha muốn nói sao, bố Thanh hỏi.
                  - Những anh em ở đây chỉ tạm được gọi là có học nhưng đầu óc được mở rộng có thể nói vô giới hạn nên nói chuyện về Phúc Âm với họ cũng khám phá thêm được nhiều điều bổ ích mà nếu cả như sự hiểu biết giới hạn của tôi sẽ chẳng bao giờ dám nghĩ tới.
                  - Cha nói sao, chưyện gì mà không dám nghĩ tới?
                  - Gần cuối buổi hội thảo, sau khi bàn về Thiên Chúa chính là Quyền Lực Hiện Hữu nơi mọi vật, mọi loài, từ vô hình cho tới hữu hình, anh Tình nêu lên sự thể hiện hữu của bánh và rượu rồi kết luận không cần phải tin sự hiện diện đích thực của Chúa Giê su ngự nơi tấm bánh và rượu sau khi truyền phép. Anh ta lý luận rằng nơi tấm bánh và rượu, Thiên Chúa đã sẵn sàng hiện diện, hiện hữu trước khi truyền phép vì nếu không tất nhiên không có bánh và rượu. Như thế đâu cần phải tin vì đó là thực thể, sự thể sự hiện diện của Thiên Chúa hay của Quyền Lực Hiện Hữu. Điều mà tôi thấy lạ lùng đó là, ít nhất chính anh ta đã thức ngộ được Thiên Chúa là gì. Nhận thức của anh Tình khiến hầu hết mọi người rúng động vì một phần nào phá tan thói quen tin tưởng không vấn nạn.
                  - Thưa cha, cha nói thế con mới dám xin thưa, sở dĩ con không tham gia những buổi hội thảo ngoại trừ ở nhà con cũng chỉ vì e ngại lỡ mình thực tâm nói lên những suy tư của mình đôi khi lại trở thành cớ cho người khác vấp phạm; vì con biết, mấy anh em ấy được cái rất chân thành nhưng khi có đôi chén bia rượu vào rồi thì niềm hăng say có thể trở thành phóng túng nhiều lúc coi trời bằng vung. Cả đời con hành nghề biển rả nhưng con giao tiếp khá nhiều, cũng có thể nói là phận số con nó thế, không tin cũng không được. Thế nên con có cơ hội gặp một số người mặc dầu công việc và hình dáng bên ngoài họ rất thường nhưng ý tưởng và nhận định của họ về cuộc sống cũng như tinh thần tương đối khá rộng mở. Người theo đạo này, kẻ theo đạo nọ mà rốt cuộc họ có cùng một nhận thức về thân phận và vị thế của con người nơi cuộc sống. Cũng nhiều khi nói truyện với họ về tôn giáo sao con thấy họ nói rành mạch và có thể minh chứng lý do họ tin tưởng đôi khi họ kể lại những dữ kiện đã xảy đến nơi kinh nghiệm sống của họ để chứng minh. Có điều, con thấy hình như các tôn giáo đều có điểm chung là phần tâm linh thì quá ư hời hợt mà đa số thì chỉ là những điều luật luân lý được dùng như một khí cụ răn đe, dọa nạt. Nghe ngưòi ta nói rồi tự so sánh với đức tin của mình, đã nhiều lần con ao ước được có cơ hội hay cách nào đó tìm hiểu thêm nhưng khổ nỗi, con tuy thông minh nhưng vốn học hành con quá ít hay nói cho đúng, kể như không có nên đầu óc cứ luẩn quẩn. Đẫu thế, nhiều lần đi lễ về, con cứ hậm hực với chính mình vì không biết cách nào để giải quyết nỗi ưu uất tâm tư. Con dùng tiếng ưu uất tâm tư nơi trường hợp này mới đúng; đó là thấy cha giảng lần này bỗng đối nghịch với lần trước. Chẳng lẽ Lời Chúa tự đối nghịch thì sao lại gọi là Lời Chúa. Tiện nhà có cuốn Kinh Thánh, con cứ đọc hết lượt lại bắt lượt. Nơi phần Cựu ước, con không hiểu sao lại có những đoạn kể tội ông này, ông kia mà lại được gọi là Lời Chúa. Riêng phần Phúc Âm, nếu con không lầm thì dùng câu truyện của Chúa Giê su mà nói về chuyện nào đó chứ nếu áp dụng Phúc Âm theo nghĩa đen thì không thể được. Hơn nữa, con cũng thấy chẳng ai áp dụng Phúc Âm trong cuộc sống. Lắm lúc con phải nực cười vì nhận xét của mình. Chẳng hạn, nếu áp dụng câu Phúc Âm, “Nếu mắt ngươi làm có cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi,” thì giáo hội Công giáo nhà mình chỉ gồm có những kẻ mù và chột. Cha thử tưởng tượng coi, vô một cái nhà thờ mà nguyên những người không chột thì mù phải rỡ rẫm lung tung có đáng tức cười không! Thế mà các cha cứ giảng Phúc Âm theo nghĩa đen; không biết Chúa nghĩ gì.
                  Cha Hải phá lên cười vì hình ảnh được bố Thanh nêu lên. Vợ chồng Thanh không ngờ ông cụ cũng để ý về tôn giáo đã từ lâu mà chưa bao giờ thấy cụ nói năng chi; dù đôi khi gặp những người mang tôn giáo ra mổ xẻ, ông cụ thường tránh, không lên tiếng phụ họa, hoặc chống đối.
                  - Có thể rằng ông vì bị ảnh hưởng bởi những kiểu cách đe dọa theo luân lý thế tục thành ra e ngại suy nghĩ sai lầm chăng.
                  - Thưa cha, là con nhà có đạo, đâu ai dám khinh thường sự giảng dạy của các cha; các cha là đại diện Chúa Kitô; đặc biệt khi dâng thánh lễ, lời các cha giảng chính là lời Chúa dẫn dắt dân Ngài sao con dám khinh thường. Thế nhưng lời giảng đối nghịch nhau khiến con bối rối không biết phải làm sao. Có đời thuở nào, hôm nay ngài giảng về lòng Chúa thương xót vô bờ bến, cho dù người mẹ có thể bỏ rơi con mình rứt ruột ra thì Chúa cũng không bao giờ từ bỏ chúng ta; thế mà ngày mai lại lên án mấy kẻ giầu có khó vào nước thiên đàng. Con đọc Phúc Âm thấy rằng nếu không có những người giầu có theo Chúa và giúp đỡ Chúa thì lấy gì cho Chúa ăn mà đi rao giảng. Con nghĩ, dẫu thánh Giu se làm thợ mộc mà Chúa có làm thợ đâu; cũng không thấy nói Chúa buôn bán kiếm tiền sinh sống cũng như làm ruộng rẫy hay biển rả chi hết, thế mà cứ lên án kẻ giầu có. Thưa cha, không có tiền lấy chi đóng góp cho nhà thờ, hay các cha có quyền năng làm phép lạ biến giấy thành tiền, thưa cha.
                  - Ông nói đúng nhưng đúng trật; các cha chỉ có khả năng làm phép lạ dùng tiền mua giấy thôi, không phải biến giấy thành tiền đâu; chỉ có các ông có quyền năng làm phép lạ biến cá thành tiền hoặc nói cho đúng, biến công sức và kinh nghiệm của mình thành tiền mà thôi.
                  - Con nghĩ, có lẽ các cha được tòa giám mục trả lương, không phải làm lụng kiếm tiền nên không hiểu được những khó khăn mưu sinh do đó đôi khi lời giảng không hợp thực tế chăng.
                  - Ông nói gì, tiền đâu tòa giám mục trả cho các cha; tòa giám mục phải nhờ sự đóng góp của giáo dân thì lấy tiền đâu mà trả. Chính các ông trả lương cho các cha. Ông đã thấy Phúc Âm nói về chuyện gì đó khác với nghĩa đen mà lại sợ sai thì kể cũng lạ.
                  - Thưa cha, con đâu được ăn học nên chắc chắn nếu suy nghĩ về Phúc Âm sẽ bị sai lầm.
                  - Vậy ông có đánh cá sai lầm không? Ông chịu khó làm lụng, tính toán để sao cho cuộc sống khấm khá, thoải mái hơn, nuôi dạy con cái, giúp chúng học hành cho có cuộc đời tốt hơn sau này có sai lầm không? Những chuyện khó khăn như thế, tất nhiên, không thể không gặp những sai lầm nhưng ông đã thực hiện được thì sao có thể sai lầm khi suy nghĩ về Phúc Âm. Mà suy nghĩ sai có chết ai đâu vì nếu biết là sai, mình suy nghĩ lại bởi đâu ai có thể biết mình suy nghĩ gì. Coi chừng suy nghĩ sai mới có thể giúp mình suy nghĩ đúng, và như vậy nhờ suy nghĩ sai mình mới có thể nhận ra điều đúng, vì không nhận ra sai  lầm, tất nhiên không thể nào nhận ra điều đúng. Có câu nói rằng, người không bao giờ sai lầm thì sai lầm cả đời.
                  - Ủa, cha nói hay quá, thế sao các cha đều giảng rằng chúng ta phải tin với giáo hội, thưa cha.
                  - Ông có biết giáo hội là ai không?
                  - Thì tất nhiên là các đấng, các bậc trong hội thánh.
                  - Bộ ông không phải là thánh sao?
                  - Cha nói gì? Con mà là thánh thì thế gian này sẽ không có hỏa ngục.
                  - Bất cứ ai được sinh ra cũng đều là thánh vì Thiên Chúa là Đấng Thánh mà mọi sự mọi vật chính là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Gốc gác, bản thể của mọi sự đều thánh thiện bởi chúng từ sự thánh thiện của Thiên Chúa mới có sự hiện hữu. Vấn đề chỉ là chúng ta có nhận ra sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi mình hay không. Chính vì không nhận ra sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi mình nên chúng ta đã chạy theo những ý muốn thế tục được gọi là tội lỗi bởi tội lỗi chính là những gì ngăn cản hoặc phương hại đến sự nhận thức thánh thiện nơi mình. Sự nhận thức này đâu cần phải có bằng cấp học hành, đâu cần phải là ông nọ, bà kia vì sự thánh thiện đã sẵn nơi mình, mình được sinh ra bởi sự thánh thiện này nhưng mình đã không biết.
                  - Vậy thưa cha, mình không sinh ra trong tội à?
                  - Thế theo ông tội là gì?
                  - Thưa cha, theo con thì bất cứ điều gì khiến lương tâm áy náy đều đưọc coi là lỗi lầm.
                  - Thế sao có thể nói được sinh ra trong tội. Câu này ở trong Thánh Vịnh ngụ ý nói lên tâm tình, mình không là gì trước mặt Chúa, khi nhận thức được vinh quang cao cả của Ngài chứ không phải thực thể sự việc. Lần tới, tôi sẽ hội thảo với mấy anh em về đức tin, nếu có thể, mời ông dự thính. Tôi nghĩ, ông sẽ gặp lắm ngạc nhiên. Tuy nhiên, coi chừng những gì mình xưa nay cho là đúng lại đành chấp nhận chối bỏ để phải nhận thức ngược lại. Cha Hải miệng thì nói thế nhưng trong lòng lại nghĩ, tội lỗi đâu phải đơn giản tùy theo lương tâm bởi mỗi người một lương tâm khác nhau, lại có những lương tâm lệch lạc hoặc không được giáo dục, chả thế mà phải có những luật lệ hầu tránh những phiền hà nơi liên hệ cuộc sống. Nhưng, chẳng nên nói chi bởi với đầu óc đơn sơ nơi tuổi xế bóng, có phân tích, giải nghĩa chỉ khiến tâm hồn thêm bối rối, phiền hà đến tuổi già. Quay qua, ngài nói,
                  - Chị Thanh định thâu CD phải không, tôi đề nghị chị hát nhỏ như lúc chị hát một mình khi đang làm việc gì. Nghe nói thì dễ nhưng nếu không để ý, coi chừng bể CD. Có lẽ lúc nào thâu CD, nếu tôi còn ở đây, chị cho tôi biết. Giờ muộn rồi, chúng ta đi nghỉ thôi.
                  - Vâng, con xin cảm ơn cha, con sẽ nói cho cha biết ngay khi anh Thanh sắp xếp thời giờ. Kính chúc cha ngủ ngon.
                   
                  0 – 0 – 0
                   
                  4 giờ sáng thứ tư, Tình và Sỹ lái xe mãi tới đường 26 mua được con heo rừng cỡ 20 ký  vừa mới sập bẫy. Hai tướng đem về nhà Tình nuôi mấy ngày và sáng thứ bẩy hè nhau làm thịt.
                  - Mấy cái giò heo rừng mà giả cầy, ăn hết biết, Sỹ lên giọng bợm nhậu khi cả hai đang lui cui cạo lông.
                  - Ông dội nước sôi vào lỗ tai để tôi dùng cán dao giộng cho sạch lông phía trong, Tình nói.
                  Con heo cạo lông sạch sẽ trông ngon thật là ngon được đặt nằm ngửa nơi tấm gỗ kê trên hai chiếc chân ngựa gần nồi nước sắp sôi chuẩn bị luộc lòng. Tay trái Tình cầm con dao nhọn cắm hờ giữa ngực heo, tay phải cầm con dao khác chặt xuống dọc theo má dao đang được cắm hờ làm chuẩn, đoạn nhẹ nhàng kéo dọc xuống giữa hai đùi trong khi Sỹ đã lanh lẹ banh hai chân sau cho Tình khoét hậu môn và kéo bộ ruột già sang một bên để sẵn chiếc thau nhôm. Nhẹ nhàng, Tình lách dao dọc phần sụn nơi ức, cắt ngang cổ họng và kéo chùm phổi, tim, gan, kèm theo bộ ruột non, bỏ nơi chiếc chậu khác, không quên bóc túi mật quăng vô đám lông vừa được thu gọn. Khi hai người khiêng heo tới lò hơi đốt để thui cho săn da thì chị Tình đã bỏ bộ lòng chay vô nồi luộc và đang dùng dao nhọn chích nửa phần đầu đắng ruột non để luộc, phần còn lại làm dồi thay vì ruột già.
                  - Ngoài món lòng heo, giả cầy, ông định làm thêm món gì nữa, Sỹ hỏi.
                  - Sườn nướng và cháo lòng, và luộc thêm ít bún để ăn với giả cầy.
                  - Có con gà nào nơi tủ đá không?
                  - Gà để làm gì?
                  - Luộc lấy nước pha vào nước luộc lòng để nấu cháo.
                  - Có chứ, bà ấy đã bỏ ra ngoài từ tối qua, Yên chí đi, mọi phép bí tích đều đầy đủ, chỉ thiếu xỉn.
                   
                  * * *
                   
                  Trời tháng 11 tối sớm nên mọi người đồng ý ăn lúc 5 gìờ 30 chiều.
                  - Hôm nay tôi mời thêm ông Thịnh, ba của anh Thanh tham dự cùng chúng ta và tối nay cũng là buổi tối cuối cùng tôi gặp anh em; có thể tuần tới tôi trở lại Phila. Nào chúng ta cùng nâng ly.
                  - Thưa cha, rồi chừng nào cha trở lại?
                  - Có thể khi tôi bán xong mấy miếng đất để có tiền mua căn nhà nhỏ ở đây hoặc cũng có thể sẽ chẳng bao giờ.
                  - Sao cha lại nói sẽ chẳng bao giờ!
                  - Ai mà dám nói trước ngày mai. Mình có cuộc đời nhưng không có bất cứ quyền hành nào trên cuộc đời của mình nên sao có thể nói ngày mai ra sao, phương chi một vài năm trong tuơng lai.
                  - Thưa cha, đất đai thì để công ty địa ốc bán, khi được giá thì ký giấy tờ, đâu có gì phải lo lắng. Sỹ nói.
                  - Rồi sao!
                  - Cha rời về đây cho ấm áp lại có khí hậu trong sạch ven biển.
                  - Rồi sao!
                  Thế là Sỹ ngớ ra, chẳng hiểu ngài muốn nói gì. Mọi người bất chợt thinh lặng nhìn về phía cha Hải bởi nghe thấy ngài hỏi luôn hai tiếng “Rồi sao.”
                  - Thì cha không vướng mắc gì nên muốn đi đâu vào lúc nào mà chẳng được.
                  - Đúng là thiền sư tối dạ.
                  - Sao bác cứ nhè tớ mà công kích vậy?
                  - Bộ sợ không ai biết mình là dương vật quan trọng à, dám đề nghị láo lếu.
                  - Chi mà láo lếu! Nhà Thanh, nhà tớ, thiếu gì chỗ ở, và nếu cùng lắm thì vô nhà hưu dưỡng, chưa chết thằng tây nào mà.
                  - Chưa chết thằng tây nào chứ thằng ta thì không biết mình nói gì. Thử hỏi ông, chưa bán được đất, lấy chi mua nhà. Đâu phải phi lý mà có câu “Sống một nhà, chết một mồ.” Sao ông không đi ở nhờ, hay vô housing, để tiền nhậu cho sướng mà lại phải có nhà riêng? Mình không ở trong hoàn cảnh người khác thì chỉ nên im lặng, bởi nếu đã thực hiện được điều mình nghĩ thì đã chẳng đề nghị cho bất cứ ai.
                  - Các chú định khởi xướng đề tài mới hay sao? Có lẽ hai chú đã nghiệm chứng được câu hỏi “Nếu Chúa hiện diện nơi mình, khi mình phạm tội, Chúa có phạm tội với mình không?” Nếu đã nghiệm chứng dược thì chia sẻ, còn không thì bàn bạc, mắc mớ gì gây thêm cuộc cờ mới.
                  - Chúa không thể phạm tội được vì Chúa đến để cứu chuộc những người tội lỗi. Ông trùm Hiểu lên tiếng.
                  - Giết người là một trọng tội và bất cứ tôn giáo nào cũng lên án; ngay cả luật đời cũng trừng phạt mà Chúa có tha cho ai đâu. Nói cách khác, Chúa bắt hết mọi người đều phải chết, dù chết cách nào cũng là phải chết thì ông trùm nói sao đây? Tình, chủ nhà, đáp lại ông trùm Hiểu.
                  - Sự chết là chuyện bình thường vì ai cũng phải chết sao lại đổ cho Chúa!
                  - Thiên Chúa là sự sống mà chết là mất đi sự sống vậy chẳng lẽ Chúa ở nơi mình, khi mình chết thì Chúa cũng chết à? Chị Tình bạo dạn lên tiếng.
                  - Ăn rồi cũng chết, mà không ăn rồi cũng chết vậy thì ăn để mà chết sao? Phủ thêm vô, cớ sao mọi người thấy ăn uống là điều cần thiết để sống mà lại cũng lên án ăn uống quá độ.
                  - Nguời ta không lên án ăn uống đâu, chỉ lên án ăn nhậu mà thôi. Thanh giải thích.
                  - Người ta là ai nếu không phải là những kẻ lên án những gì họ thích thú trong lòng. Ôi! “Chỉ đâu mà buộc ngang trời; tay nào bưng kín miệng người trần gian.” Đến ngay đức Giê su còn bị cho rằng thích ăn uống, đàn đúm với những kẻ tội lỗi thì để ý làm chi đến những lời bình phẩm cho thêm mệt. Bá tiếp lời.
                  - Thế không cảm ơn họ sao? Sỹ hỏi.
                  - Có chứ, chính lối sống ý thức của mình là lời cảm ơn đến họ tuyệt vời nhất. Thanh nói.
                  - Cũng khiến họ khó chịu nhất, Tình thêm.
                  - Mấy cái ông này, vợ Sỹ lên tiếng, chị Tình hỏi Chúa có chết với mình không mà cứ nói hươu, nói vượn.
                  - Ai bảo Chúa chết. Thiên Chúa ngự trị nơi mình. Chúa ở cùng anh chị em, các cha thường công bố như thế. Phao lô cũng đoan quyết, “Thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa thì linh hồn mình là “Thượng Đế nội tại” làm sao có thể chết. Bởi vậy, chúng ta thường nói linh hồn ra khỏi xác. Thanh luận lý.
                  - Nói rằng Thiên Chúa ở nơi mình thì ước muốn, ý nghĩ, tham vọng đều phát xuất tự linh hồn, tự Thiên Chúa nội tại. Phúc Âm có nói về phạm tội ngoại tình trong lòng, vậy tức là Chúa phạm tội ngoại tình à? Tình chọc thêm.
                  - Thưa cha, Sỹ lớn tiếng, Phúc Âm nói như thế, nghĩa là thế nào? Cả tuần nay con ôn lại giáo lý, thưa Đức Chúa Trời là đấng vô thuỷ, vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, trọn tốt trọn lành, ở khắp mọi nơi mà Phúc Âm lại nói tội ngoại tình trong lòng tức là cái linh hồn chúng con phạm tội; vậy chẳng lẽ Chúa cũng phạm tội? Ối giời ơi, cả tuần mất ăn, mất ngủ chỉ vì câu hỏi của cha; hèn chi quần áo càng ngày càng thêm rộng rãi.
                  - Đúng đấy, ông mắt ăn, mất ngủ, nên hai cái mắt cá chúng thức chong chong thành ra cứ ồn ào như sấm động đàng tây giật sang đàng đông, may mà chưa bay mất nóc nhà. Vợ Sỹ giải thích.
                  - Bu mày không biết, đấy là tớ hành thiền để nghiệm chứng khi mình phạm tội Chúa có phạm với mình không. Nâng mình lên chín tầng trời để nghiệm chứng thì sấm chớp phải rối loạn chứ. Công việc nâng bản lai diện mục hòa nhập với Tào là chuyện kinh thiên, thảm địa để tiến tới huyền đồng đâu phải là chuyện chơi. Bu mày có đường lối của bu mày, tớ có pháp của tớ, chớ khá coi thường.
                  - Ông nghiện bia, nghiện rượu chứ nghiệm trứng, nghiệm con chi, lại còn nói hành thiền với tỏi thiền nghe ngứa cả tai.
                  - Tớ mà biết lập gia đình phiền hà đến việc tu tỉnh, thiền niệm thì ngày xưa tớ đi tu quách. Làm cha ngủ một mình trong nhà xứ rộng mênh mông, có ngáy sập nhà, tan cửa cũng không bị phiền hà đến ai, Ôi sung sướng nhất là độc thân.
                  - Anh Sỹ nói sung sướng cái gì? Cha Hải nhẹ nhàng hỏi.
                  - Thưa cha, đi tu làm linh mục đâu phải đêm khuya canh thức khi vợ đẻ, con đau, rồi nào biêu bọng, nào xâm mi xâm miệng, nào con cái đùm đề rối tung lên. Sỹ tửng tửng nói.
                  - Vậy sao chú mày lúc sướng sướng không la lên cho mọi người biết mà khi khổ khổ lại  ồn ào điếc cả tai người ta, quả là bất công. Phủ lên tiếng chọc Sỹ.
                  - Ông không thấy trên net có chị kia phải đi tù mất 24 tiếng và xin lỗi hàng xóm vì la lối quá bạo khi sướng sướng sao. Bộ ông muốn tôi đi tù ư? Tớ đâu có dại.
                  - Mấy cái ông ma này, cứ nói tào lao thiên tướng. Vợ Sỹ la.
                  - Đấy, bu mày không tào lao thì có giỏi trả lời Chúa có phạm tội hay không cho mọi người nghe. Chả biết người nào muốn tào lao mà không được. Chúa mà không phạm tội thì sao có tội ngoại tình trong lòng! Chả lẽ cái xác làm theo lệnh của cái hồn mà cái hồn không liên hệ. Đấy, tào lao! Đã lười nghiệm chứng mà khi người ta nghiệm xét mọi sự lại cho là tào lao. Rõ thật, đàn bà không bao giờ sai!
                  - Sao ông nói dai, nói dài, nói dại thế. Muốn biết Chúa có phạm tội hay không thì mắc mớ gì đến nghiệm chứng, lại còn hành thiền với tỏi thiền. Cứ hỏi thẳng Ngài có hơn không! Bá lên tiếng chọc Sỹ.
                  - Hỏi sao mà hỏi, Chúa không có cái miệng!
                  - Vậy Chúa phạm hay không phạm nào mắc mớ chi đến mình.
                  - Ơ, tớ nghiệm chứng mà. Thưa cha, chuyện phiền hà này do lỗi nơi cha mà ra.
                  - Sao lại dám lộng ngôn như thế! Bá nói, cha uống bia ông có say không? Thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên.
                  - Chú mày nói thế thì tất cả những người nghiệm chứng, hành thiền, thức ngộ đều ngu hết à?
                  - Ai vừa nói họ ngu? Muốn nghiệm, muốn thiền thì phải biết im cái mỏ lại.
                  - Thưa cha, Sỹ vớt vát, linh hồn không chết được vì là Thiên Chúa nội tại vậy chẳng lẽ phải luân hồi.
                  - Luân hồi là học thuyết phát xuất từ Ấn học đâu dính dáng chi đến phạm tội. Tuy nhiên thường bị dùng như lý thuyết luân lý hữu vi đe dọa hầu giúp con người sống tốt lành hơn. Ngược lại, nếu đã nói đến nghiệp và duyên thì mắc mớ chi đến luân hồi. Chuyện gì cũng phải có lý của nó, và câu hỏi được đặt ra đó là nguyên nhân nào tạo nên điều được gọi là duyên! Tôi nghĩ, anh em đã biết chủ thuyết luân hồi nên không muốn nói thêm.
                  - Thưa cha, Chúa đâu thể phạm tội được mà cha đặt ra câu hỏi như thế?
                  - Tôi đâu tự nhiên đặt ra câu hỏi như thế. Vậy anh em đã nhận thức được Tin Mừng theo Phúc Âm chưa?
                  - Thưa cha, đó là Thiên Chúa ở cũng chúng ta. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi loài, mọi vật.
                  - Vậy khi anh phạm tội, Chúa có phạm tội với anh không? Nếu anh không nghiệm chứng đuợc thì nghiệm chứng Tin Mừng của anh cần được đặt vấn đề lại cho đến tận cùng. Chị Tình, chị đã rõ thế nào là tư tưởng, ý kiến không đúng, không sai chưa?
                  - Thưa cha, con đã hiểu. Nếu như vậy, thưa cha, con cũng cần phải xét lại vấn đề tội là gì!
                  - Thưa cha, Thanh lên tiếng, đề án cha nêu lên không phải là vấn đề Chúa phạm tội hay không mà là tội lỗi là gì. Xin cảm ơn chị Tình đã vô tình nhắc tới tội lỗi.
                  Mấy lời nói của Thanh như tiếng sét đánh thẳng nơi tâm não mỗi người khiến ai nấy chừng như giật mình, chợt nhận ra họ bị câu hỏi choán hết tâm tư; nói cách khác, tâm tư họ bị trói buộc nơi nghĩa từ chương của câu hỏi thế nên bị dồn vào ngõ cụt không đường giải thoát.
                  - Anh em đã nghiệm chứng được điều kiện tâm trí để nghiệm chứng chưa?
                  - Thưa cha, hơi hơi.
                  - Muốn nghiệm chứng công án “Khi mình phạm tội, Chúa có phạm với mình không,” chúng ta lại cần phải nghiệm chứng về sự thể được gọi là “Tội lỗi.” Khi anh em nghiệm chứng được tội lỗi là gì, sẽ biết Chúa phạm hay không, nhưng tôi biết chắc, anh em sẽ không nói ra được.
                  - Thành quả tối cao của Tin Mừng Nước Trời chính là đức tin. Đã ai nghiệm chứng được đức tin qua Phúc Âm chưa, làm ơn giơ tay cho mọi người biết.
                  - Thưa cha, ông trùm Hiểu lên tiếng, đức tin là tin Thiên Chúa, tin Chúa Giê su, tin các điều hội thánh dạy thì làm gì mà phải nghiệm chứng nữa thưa cha.
                  - Thưa ông trùm, Phúc Âm ghi rõ, đức tin con chữa con, đức tin con cứu con, "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc,’ nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc. 17:6). Vậy điều mà ông trùm gọi là đức tin có thể làm được như Phúc Âm nói không? Bá hỏi.
                  - Vậy chú Bá không tin các điều hội thánh dạy à?
                  - Thưa ông, chúng tôi đang nói đến đức tin theo Phúc Âm. Hội thánh có bổn phận rao giảng Phúc Âm chứ không có quyền viết Phúc Âm. Hội thánh chỉ là tôi tớ cho Phúc Âm chứ không là chủ của Phúc Âm. Ông tin hội thánh thì đó là chuyện của ông, chúng tôi không nói đến đức tin theo hội thánh. Chúng tôi chỉ muốn nói đến đức tin theo Phúc Âm. Nếu ông biết, xin trình bày hoặc minh chứng. Nếu ông có đức tin bằng hạt cải thì ông hãy minh chứng bằng cách bảo cái gì di chuyển. Nếu ông dùng đức tin mà bảo bất cứ gì di chuyển mà nó không di chuyển thì ông không có đức tin bằng hạt cải; nghĩa là ông không có đức tin.
                  - Thưa cha, chỉ có một Chúa và một đức tin thế mà sao bây giờ lại có đức tin theo Phúc Âm? Ông trùm Hiểu hỏi.
                  - Ông nói đúng. Chỉ có một Chúa và một đức tin theo Phúc Âm mà thôi, rồi tùy theo các giáo phái, người ta đặt thêm ra đức tin Thệ Phản, đức tin Tin Lành, đức tin Anh giáo v.v…
                  - Thưa cha, vậy đức tin Công giáo là đức tin gì?
                  - Đức tin Công giáo là đức tin Công giáo, không phải đức tin Tin Lành hay Anh giáo hay thứ nào khác. Phủ nói như không nói.
                  - Thưa cha, vậy đức tin Công giáo cũng không phải là đức tin nơi Phúc Âm?
                  - Đức tin Công giáo cũng phát xuất từ Phúc Âm nhưng có lẽ nó to hơn hạt cải nên không khiến cây dâu mọc dưới biển được. Sỹ chen vô lên tiếng.
                  - Ông trùm, cha Hải ngắt lời Sỹ, tôi đã minh xác rõ ràng, tôi về đây để thách đố anh em nghiệm chứng Phúc Âm chứ không nói chuyện về tôn giáo dẫu tôi là linh mục Công giáo. Tôi cũng đã giải thích rằng gốc gác của Kytô giáo là Phúc Âm, và Kytô giáo bao gồm nhiều giáo phái chẳng hạn Anh giáo, Chính Thống giáo, Thệ Phản, Tin Lành, Công giáo v.v… Vì thế tôi không muốn nói về bất cứ một giáo phái nào. Cũng như qua Phúc Âm, chúng ta nghiệm chứng được Tin Mừng Nước Trời chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nhưng nhận biết hay không tùy thuộc người đó nghiệm chứng Phúc Âm hay không. Từ nhận thức Tin Mừng, chúng ta phải đối diện với vấn nạn, “Chúa ở nơi mình, vậy khi mình phạm tội Chúa có phạm tội với mình hay không?” và anh Thanh nêu lên nhận thức nếu muốn trả lời vấn nạn này thì cần phải nghiệm chứng “Tội là gì?” Tôi để anh em tự nghiệm chứng về tội lỗi nên không nêu lên bất cứ vấn đề liên hệ cũng như nhận định nào về tội lỗi và chuyển sang phần đức tin theo Phúc Âm. Ông muốn biết đức tin Công giáo có lẽ nên hỏi linh mục chịu trách nhiệm nơi cộng đồng. Cả đời ông theo đạo Công giáo mà không biết đức tin Công giáo là gì có lẽ ông nên để ý tìm hiểu thêm về đức tin Công giáo. Ở đây, chúng tôi đang đặt vấn đề về một đức tin mang đầy quyền lực mà Chúa Giê su phán, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con.” (Mt. 9:22; Lc. 17:19). Nơi Phúc Âm Gioan, Ngài còn đoan chắc, “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gioan 14:17). Phúc Âm nói về một đức tin, lòng tin mang đầy quyền lực chứ không chỉ nói suông tin vào Thiên Chúa. Chúng ta cần nghiệm chứng về đức tin, lòng tin này.
                  - Lần trước tôi đề nghị anh em đọc Phúc Âm để tìm hiểu xem Phúc Âm nói gì về đức tin; ai có thể nêu lên một và câu Phúc Âm nói về đức tin, làm ơn cho biết.
                  - Thưa cha, Thanh lên tiếng, con có ghi lại những câu có chứa hai chữ đức tin mà theo bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thưấn dòng Chúa Cứu Thế thì ngài gọi là lòng tin. Nơi bản dịch 1994 của mười bốn dịch giả Kinh Thánh cũng đưọc gợi là lòng tin. Hơn nữa, đôi khi Phúc Âm chỉ dùng một chữ “Tin” cũng mang ý nghĩa lòng tin. Con đọc lên để mọi người so sánh. Cũng có những câu giống nhau nơi bốn Phúc Âm, con chỉ ghi một lần cho tiện phân định.
                  "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13).
                  "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48).
                  "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28).
                  "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó, nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20; Mc. 11:22).
                  "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22; Lc. 17:6).
                  "Đừng sợ, hãy tin mà thôi" (Mc. 5:36; Lc. 8:50).
                  "Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Mc. 10:52; Lc. 7:49).
                  "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24).
                  "Sao! Nếu có thể!... Mọi sự đều là có thể cho người tin!" (Mc. 9:23).
                  "Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 17:19).
                  "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" (Luca 18:8b).
                  "Ngươi hãy được thấy, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 18:42).
                  "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Giờ sẽ đến - và là ngay bây giờ - các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ sống" (Gioan 5:24-25).
                  "Phục sinh và sự sống chính là Ta. Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; và mọi kẻ đang sống tin vào ta sẽ không phải chết bao giờ" (Gioan 11:25-26).
                  "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12).
                  - Thưa cha, thưa mọi người, Thanh nói tiếp, so sánh và suy nghĩ đối chiếu những câu Phúc Âm này, con thấy hình như Phúc Âm nói về một thực thể được gọi là tin hay lòng tin sẵn có nơi mọi người chứ không phải là hồng ân được ban riêng cho bất cứ ai. Chẳng hạn nơi câu, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22; Lc. 17:6). Con nghĩ, Phúc Âm dùng ngôn từ “Các ngươi” có nghĩa bất cứ ai. Có điều, con vẫn còn chưa thông suốt ý nghĩa câu, "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" (Luca 18:8b). Câu này làm phiền con quá chừng.
                  - Anh muốn giăng bẫy tôi đó phải không? Giải thích thì dễ thôi, không đáng một xu nhưng sẽ giết chết năng lực nghiệm chứng nơi quý anh chị. Hãy để tôi học theo tổ Huy Sơn vì tôn trọng quý anh chị. Cùng lắm tôi chỉ có thể nêu thêm những vấn nạn khiến đầu óc quý anh chị bị dồn ép thêm hầu phát khởi nhận thức. Tôi cũng muốn nói lắm chứ nhưng chỉ mang tai hại, nói cho dúng, chỉ ngăn cản hành trình thức ngộ của mọi người.
                  - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, cha giải thích sẽ giúp chúng con hiểu biết hơn về Phúc Âm đó là điều tốt và lợi ích cho chúng con.
                  - Tôi nói ngoài lề một chút, quý vị đừng để tâm. Đó là, dân Chúa thật tốt lành và khát khao thỏa mãn lòng thao thức bẩm sinh, nói cách khác, lòng khát vọng Tin Mừng thường được mệnh danh qua ngôn từ đức tin, và họ biểu hiện lòng khát vọng này bằng cả cuộc sống qua ý nghĩ, nghi thức thờ phượng, hành động đóng góp hay làm việc thiện, nhưng vẫn cứ cảm thấy thiếu thốn vì không cảm nhận được, không thực hiện được, hay không sử dụng được sự thể được gọi là đức tin. Đọc Phúc Âm mà không thể nào áp dụng vào cuộc sống bởi hiểu theo nghĩa từ chương vì cố áp dụng câu này nơi cuộc đời thì chống ngược lại câu kia khiến nản lòng; thế nên, Lời Chúa để Chúa nghe. Còn gì đau lòng hơn khi nỗi e sợ không biết mình sẽ ra sao sau khi chết. Còn gì khổ tâm hơn khi miệng nói tin vào Chúa mà không biết mình tin thế nào, không cảm nhận được lòng tin của mình. Tôi khuyên mọi người, hãy cho mình cơ hội; hãy suy nghiệm bất cứ câu Phúc Âm nào cho đến tận cùng, một năm không được thì hai năm, hay mười năm, hay cả đời. Lời Chúa là lời hằng sống phải áp dụng được một cách hợp lý, hợp tình, và hợp với chính mình mọi nơi, mọi lúc. Từ đó chúng ta sẽ biết mình thế nào, sau khi chết sẽ ra sao. Tôi có thể nói như thế này, không nhận biết Tin Mừng Nước Trời, đời mình kể như xong. Tuy nhiên, thì cứ coi như lối nào cũng kể như xong, thế nên, thử nghiệm chứng, kết quả chỉ có hơn chứ không có kém. Đời mình đã kể như xong thì còn gì tệ hơn nữa mà e sợ! Ai nghĩ sao thì nghĩ. Chúng ta trở lại phần đức tin.
                  - Thưa cha, ít nhất con nghe cha nói hai lần, Thanh lên tiếng, cao điểm của Phúc Âm là đức tin trong khi mục đích cuộc đời cúa Chúa Giê su chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Thưa cha, vậy đức tin có liên hệ gì với Tin Mừng. Thú thật với cha, lần đầu tiên trong cuộc đời con được nghe và nhận biết Tin Mừng Nước Trời là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Xưa nay, tin mừng này thường được hiểu chỉ về Chúa Giê su xuống thế làm người. Nếu con nói có gì không phải, xin cha bỏ quá cho chứ thực ra, biết thì biết vậy nhưng con chưa thực sự nghiệm chứng được. Nói cho đúng, cứ mỗi khi nghe nơi radio lúc  đang lái xe, những nhà truyền giáo nơi các đài phát thanh oang oang công bố Chúa xuống thế chuộc tội cho anh, cho tôi, cho mọi người, con cảm thấy có gì trục trặc sao ấy nhưng nói ra không được và cũng thật khó chấp nhận; nên đã nhiều lần con tự hỏi chẳng lẽ mình tin sai. Tại sao bao nhiêu người từ xưa đến nay chấp nhận mà con cứ thấy không ổn nơi tâm tư. Con luôn lo sợ mình rối nhưng cũng chẳng hiểu tại sao lại cảm thấy lo sợ viễn vông này. Những sách vở con đã đọc, trên internet, chưa thấy ai nhận thức Tin Mừng như thế.
                  - Hãy bình tâm, trả lời câu hỏi của tôi. Vậy điểm chính yếu của Cựu Ước là gì?
                  - Thưa cha đó là Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi dân Ngài.
                  - Và các đạo học Đông Phương nói gì?
                  - Thưa cha, Thanh trả lời, dù với những danh hiệu khác nhau nhưng tất cả đều minh xác có một Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi mọi sự.
                  - Thế nên nếu mệnh danh Quyền Lực Tối Thượng là Thiên Chúa thì sao?
                  - Thiên Chúa đang hoạt động nơi tạo vật. Đúng rồi, thưa cha, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa ở cùng anh chị em.
                  - Anh đã hiểu tại sao anh em đã bàn luận về đạo học Đông Phương. Xét về đường hướng tâm linh, nơi hành trình thức ngộ, tất cả mọi sự đều là phương tiện cho con người thức ngộ dẫu con người đó nhận biết hay không. Nếu nói theo kiểu tôn giáo, chính Thiên Chúa dẫn dắt từng người chúng ta nhận biết Ngài. Nói theo nhận thức Đông Phương thì cuộc đời sẽ dẫn dắt một người đi đúng con đường, hành trình người ấy phải đi. Nếu tôi không lầm thì mọi người đều quá quen với câu, “Thuận theo ý trời.” Có câu nói, “Cầu mong không bằng gặp may; gặp may không bằng tốt số;  tốt số không bằng ý trời.” Nơi trường hợp này, Phúc Âm có câu, hai con chim sẻ không bằng một xu mà Thiên Chúa con lo cho chúng; các ngươi không hơn con chim sẻ sao; quân yếu tin. Tôi đã giải thích mấy lần; coi chừng anh chị em đã nghe đến nhàm tai mà không để ý. Phúc Âm nói riêng, cả cuốn Kinh Thánh được viết nơi vùng Trung Đông nhưng được khai triển bên Tây Phương theo nghĩa từ chương. Đã có ai nghe thấy câu, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng” được ghi nơi cuốn sách Nam Hoa Kinh chưa?
                  - Dạ rồi, Sỹ nói.
                  - Câu ấy nói gì vậy?
                  - Thưa cha, bác Tài nhắc lại nhưng không chịu giải thích thì chúng con cũng bù trớt.
                  - Tại sao lại đợi giải thích?
                  - Vậy câu phong dao, “Liệu cơm gắp mắm; liệu bò đo chuồng” nói về việc gì?
                  - Thưa cha, liệu mà ăn ở, Phủ giải nghĩa.
                  - Thế nó có nói gì đến con bò hoặc cái chuồng, hoặc cơm và mắm không?
                  - Thưa không.
                  - Ai có thể dịch chính xác câu, “Liệu bò đo chuồng” sang tiếng Mỹ?
                  - Con chẳng đáng Chúa ngự vào vợ con, Sỹ bất chợt nói không đâu vào đâu.
                  - Anh Sỹ, anh muốn nói gì?
                  - Thưa cha, con vừa dịch câu tiếng Anh sang tiếng Việt ạ. Câu hỏi của cha không nêu rõ dịch theo ý hay dịch theo từ chương nên không thể trả lời được.
                  - Bản dịch Kinh Thánh cũng thế, bởi được dịch theo nghĩa từ chương nên cần phải được nghiệm chứng. Gốc tâm linh của Kinh Thánh ở Đông Phương nên được viết theo lối ám định Đông Phương nhưng lại được dịch và quảng diễn theo nghĩa từ chương của Tây Phương thì cũng chẳng khác gì dịch theo từ chương câu, “Liệu cơm gắp mắm; liệu bò đo chuồng.” Phúc Âm chỉ nói về hành trình tâm linh, giúp chúng ta nghiệm chứng để nhận thức về thực thể chính mình. Đạo học Đông Phương chỉ dẫn những phương pháp cá biệt được gọi chung là “Pháp” nếu nói theo nhà Phật, hầu giúp con người nhận thức; trong khi Phúc Âm chỉ rõ mình như thế nào, mình thực sự là gì. Nói theo lục tổ Huệ Năng đó là bản lai diện mục, hoặc theo Thích Ca thì đó là Phật, nhưng chúng ta chưa nhận biết; chẳng khác gì anh Thanh ví chúng ta như bé em một hoặc hai tuổi. Bây giờ có lẽ anh em đã hiểu tại sao Thích Ca nói, “Ta là phật đã thành, các ngươi là phật chưa thành.” Mỗi người được sinh ra với quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống nhưng đã không để ý. Thế nên Phúc Âm nói kẻ nào tin vào đức Giê su có nghĩa kẻ nào nghiệm chứng Phúc Âm và chứng thực được quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống là chính Thiên Chúa nơi mình sẽ thực hiện được những sự thể như Ngài.
                  - Nếu tôi không lầm thì lúc này, anh Thanh nhận thức được tại sao thánh Phao lô nói, ”Tôi sống nhưng không phải tôi mà là đức Kitô sống trong tôi.” Dĩ nhiên, Phao lô cũng đã phải trãi qua con đường hẹp, nhận thức về chính mình, “Những điều tôi muốn, tôi đã không làm mà lại làm những điều tôi không muốn.”
                  - Thưa cha, con hiểu, Thanh trả lời.
                  - Như vậy anh em đã hiểu quyền lực đức tin ở đâu ra chưa?
                  - Thưa cha, ông trùm Liệu lên tiếng, đức tin là một hồng ân, Chúa ban cho nên có quyền lực cúa Chúa.
                  - Ông đã quên rằng ai cũng được sinh ra với quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống sao! Mà quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống là chính Thiên Chúa nên được nói, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nói cách khác, mọi sự, mọi vật chính là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Thực thể này không phải chỉ nghe để hiểu mà cần được nghiệm chứng. Chúng ta đã thực chứng được con mắt, cặp tai, bộ óc, môi miệng, ngay cả cuộc đời của mỗi người đều là phương tiện cho linh hồn, Thiên Chúa nội tại, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống hoạt động vậy chúng ta là gì, thế nào; linh hồn là gì, thế nào, chúng ta cần để tâm thực chứng..
                  - Thưa cha, nói như thế, Thanh phát biểu, đức tin là quyền lực của Chúa nơi mỗi người?
                  - Chứ vậy anh nói đức tin là gì? Và gốc gác từ đâu Phúc Âm nói “Đức tin chữa, đức tin cứu?”
                  - Thưa cha như vậy nói rằng Chúa chữa, Chúa cứu cũng đồng một nghĩa, Phủ lên tiếng.
                  - Anh Thanh nói đúng, đức tin chính là quyền lục của Chúa, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống nơi mỗi người.
                  - Thưa cha, vậy không phải Chúa ban cho à? Ông trùm Lực lên tiếng.
                  - Ai vừa nói nơi ông?
                  - Thưa cha con.
                  - Cái miệng ông nói hay cái tay ông nói?
                  - Thưa cha,
                  - Thưa bẩm gì nữa ông, cái hồn của ông dùng miệng ông nói; Thiên Chúa nơi ông nói mà cũng không chịu biết. Cha bảo cần phải nghiệm chứng, thực chứng mà còn hỏi, Bá lên tiếng.
                  - Ông không sợ phạm thượng sao dám nói thế.
                  - Vậy nói rằng “Thiên Chúa ở cùng anh chị em cũng phạm thượng ư?” Bá hoạch lại.
                  - Thôi đi chú Bá, ông Thung lên tiếng. Chú không nhớ câu, “Người nói không biết, kẻ biết không nói” sao? Chẳng còn bao nhiêu giờ nữa, mời cha nói tiếp.
                  - Tôi chỉ có thể tóm tắt, đức tin theo Phúc Âm là chính quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu nơi mỗi người. Nói rằng đức tin là quyền lực sự sống cũng đúng nhưng hơi thiếu sót. Ai nghĩ sao thì nghĩ, nghiệm sao thì nghiệm. Đây là ý nghĩa cũng như sự thể mà đạo học Đông Phương gọi là “Vạn Vật Đồng Nhất Thể.” Nơi Duy Thức học, nhà Phật nói rằng mọi sự, mọi vật là hiện thể của Chân Như. Nơi Ấn học, mọi sự, mọi việc đều là hành động của Brahma. Lão học thì Tào như nước. Kytô gìáo lại nói chỉ một Chúa, một đức tin.

                  Cha Hải kết luận thật đột ngột khiến mọi người chưng hửng và những cái mỏ im như ngậm hạt thị. Một sự im lặng lạ lùng bao trùm cả đám. Hơn kém nửa phút sau, Phủ chợt lên tiếng,
                  - Thưa cha, nếu Nước Trời là chính Thiên Chúa nơi mình sao Phúc Âm lại khuyên hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa?
                  - Tìm ở đâu, tìm ở nơi mình không là nghiệm chứng hay thực chứng thì là gì? Thế mà cũng hỏi. Bá trả lời.
                  - Thưa cha, Phủ lên tiếng tiếp, nếu Nước Trời là chính Thiên Chúa đã và đang hiện diện nơi mỗi người mà còn tìm kiếm thì người Do Thái và các môn đồ, tông đồ của đức Giê su ngày xưa mù hết hoặc thông manh vì nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu sao?
                  - Họ cũng như chúng ta thôi! Đã bao lần nghe Phúc Âm sao chúng ta vẫn không hiểu! Đức Giê su rao giảng về Tin Mừng thì người ta rao giảng về đức Giê su bởi không nhận biết câu, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng” của Thích Ca. Có lẽ bây giờ anh em đã nhận thức được ý nghĩa thâm trầm của câu nói đơn sơ dường như vô nghĩa và đã hơn kém hai ngàn năm bị coi thường chưa?
                  - Rồi, rồi, cảm ơn cha nhắc đến câu nói thoạt nghe như ngờ nghệch của Thích Ca. Con đã hiểu tại sao lại có câu, “Đừng bảo Như Lai độ chúng sinh, vì không có chúng sinh cho Như Lai độ.” Phủ nói. Hèn chi người ta cứ rao truyền Chúa Giê su đến chuộc tội cho thiên hạ trong khi lại cố gắng sống tốt lành thánh thiện.
                  - Không cố gắng sống tốt lành, thánh thiện thì chỉ còn nước ăn cơm nguội, ngủ nhà ngoài. Sỹ chọc Phủ.
                  - Chẳng biết ai tốt lành đến chảy cả nước miếng mà không dám ngọ ngoạy. Nói người chẳng nghĩ đến thân. Phủ đáp trả.
                  - Nói sao thì nói, miễn có thì thôi; đàng này có tiếng mà không có miếng mới nuối tiếc. Có tật giật mình, Tiến nhào vô.
                  - Mấy cái ông này, hở ra một tí đã vội tào lao thiên tướng. Coi chừng, lúc ăn được thì không có mà ăn, đến khi có mà ăn lại không ăn được mới khốn khổ, nuối tiếc với tiếc nuối. Vợ Sỹ nhăn mấy người đàn ông. Cha đang nói về đức tin thì chẳng thèm nghe; bia rượu vào rồi, ăn nói lung tung.
                  - Có đâu mà ăn, sao lại bảo rằng không ăn được. Sỹ nói.
                  - Thôi đi ông ơi; cứ làm như sợ cái miệng ăn da non.
                  - Thì tôi nói cho hả hơi bia chứ cứ ngồi im người ta nghĩ mình là hiền nhân thì sao! Bu mày nên nhớ, có câu khôn ngoan nói rằng “Hiền giả hóa ngu.” Bộ bu mày muốn tôi ngu muội hay sao!
                  - Tôi nghĩ, chúng ta nên ngưng ở đây. Thứ năm tôi trở lại Philadelphia, nếu mấy anh em Công giáo muốn hỏi về đạo thì tối thứ hai mình sẽ gặp nhau tại nhà anh Thanh. Bây giờ, có ai còn ý kiến gì không?
                  - Thưa cha, Thanh giơ tay, con xin hỏi về mấy câu Phúc Âm. Trước hết là câu, “Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không.” Thưa cha, nếu như vậy thì người ta, nói cách khác, tức là mọi người cho đến ngày ấy vẫn không nghiệm chứng để nhận biết đức tin, lòng tin? Thưa cha, nếu theo nghĩa từ chương, thì câu này đặt vấn đề chỉ giới hạn đối với những người thuộc về Kytô giáo. Tuy nhiên, biết bao người từ xưa đến nay không thuộc về Kytô giáo hay Thiên Chúa giáo hoặc có những người không bao giờ được nghe biết về Thiên Chúa giáo nhưng họ nhận biết đức tin, lòng tin qua những danh hiệu khác thì sao. Chẳng hạn nơi đạo học Đông Phương, họ đã nhận biết vạn vật đồng nhất thể từ ngàn xưa thì chẳng lẽ các đạo học và các tôn giáo đều từ từ bị mai một theo thời gian.
                  - Nếu có thể nghiên cứu về lịch sử các tôn giáo cổ, chúng ta thấy, theo thời gian đã biết bao tôn giáo biến mất và đồng thời cũng nhiều tôn giáo phát sinh. Có điều chúng ta nên để ý suy ngẫm, chỉ có một định luật bất biến chính là định luật biến đổi, biến chuyển. Tất cả mọi sự đang biến chuyển từng giây, từng phút, lớn lao vô giới hạn như vũ trụ cho đến nhỏ như từng tế bào, hoặc phân tử, hay nguyên tử mà mắt chúng ta không thể nhìn thấy được, cũng như ý nghĩ, ước muốn con người, không sự gì ngưng nghỉ không biến chuyển; đến ngay sự chết của mỗi người cũng nằm trong định luật bất biến này. Nhìn vào thực tại ngắn hạn của một đời người, dài lắm cũng chỉ trăm năm, chúng ta đã chứng kiến biết bao đổi thay thì điều được gọi chung là niềm tin cũng thay đổi, biến chuyển tùy thuộc nhận thức của con người, của nhân loại, phương chi tôn giáo. Bởi đó, tôn giáo mất đi có thể vì không phù hợp với niềm tin thay đổi của con người chăng. Tôi không nhớ đọc đâu đó có bài viết của một mục sư Methodist với nhan đề, “Thay Đổi hay Chết.” Trở lại với câu hỏi của anh, chúng ta thường đọc hoặc nghe có những vị nơi nhà Phật than lên “Thời mạt pháp” thì cũng chẳng lạ gì. Dĩ nhiên, ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý. Đã một thời gian tôi suy tư, đặt rất nhiều giả thuyết để nhận thức về câu Phúc Âm anh hỏi. Cuối cùng, tôi chỉ có thể nghĩ rằng, coi chừng bản dịch bị giới hạn ngôn từ chăng. Rất tiếc tôi không nghiên cứu về ngôn ngữ Hy Lạp và cũng không tìm tòi xem có học giả nào nghiên cứu về sự minh xác của bản dịch về câu này. Có thể rằng một ngày nào đó câu này sẽ mai một giống như câu anh Bá hay chọc chạch về kinh Ngày Chủ Nhật, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ẩy thì chẳng được rỗi linh hồn.” Đàng khác, chúng ta có thể nghiệm chứng rõ ràng câu, “Gia tài của ngươi ở đâu, thì lòng dạ ngươi cũng ở đó.” Để tâm nhìn lại lòng mình, chúng ta nhận thức được hình như ngôn từ được dịch là “Gia tài” hơn kém hai ngàn năm trước có nghĩa ước muốn, ý định. Anh hiểu tôi muốn nói gì và dẫu có nói đến sáng mai thì cũng chẳng nói được gì. Bởi đó, câu trả lời cho anh chính xác nhất lại là không nên trả lời, hoặc trả lời như không trả lời.
                  - Thưa cha, nếu như vậy thì Phúc Âm cũng có nhiều câu hay vấn đề không phù hợp với thực tại mà còn đối nghịch lẫn nhau. Phủ hỏi.
                  - Anh cố ý làm khó tôi phải không? Nói chơi vậy thôi, tôi hiểu nỗi lòng khát vọng của anh em đặc biệt là lòng dạ của anh đối với Phúc Âm. Thứ nhất như tôi vừa nhắc đến, ngữ bất tận ngôn, và ngôn bất tận ý. Không thế mà câu nói ngang ngửa nơi Lão học, “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” có thể đứng vững mấy ngàn năm rồi trong cõi đạo học Đông Phương. Và có lẽ cũng bởi vì như nhà Phật hay nói thời mạt pháp mà câu nói thoạt nghe như ngu ngơ, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng” lại mang tính chất thâm trầm mà phải những người dám cười cợt về những bất thường nơi tâm tính của chính họ mới có thể chân thành nhận biết. Tôi không thực sự biết hoặc hiểu ít nhất theo nghĩa từ chương bản chính cúa Phúc Âm được viết thế nào nhưng đành phải cúi đầu chấp nhận và thậm phục những lối nói ngang ngang ngửa ngửa hữu vi nơi Phúc Âm. Chính những điểm này đã khiến tâm trí tôi quay mòng mòng, bắt tôi phải mở rộng lòng trực diện tâm hồn con người “Muốn làm thánh lại biến thành thú” của tôi. Có thể nói, Phúc Âm quay tôi như quay dế, dồn tôi vào tận cùng góc tối tâm linh. Bí quá, tôi liều mình nhảy rào, nghe theo ông Tài, bạn tôi đây, đọc về đạo học Đông Phương. Anh em biết không, muốn đọc về đạo học Đông Phương, một quy luật ắt có và đủ phải luôn luôn tuân thủ, và đó là vất hết, bỏ hết những kiến thức, kinh nghiệm cá nhân, quan niệm cũng như nhận định riêng tư để đối diện với từng câu nói, công án ngang như cua, nghịch thường với bất cứ suy tư, nhận định hay kinh nghiệm nào. Thí du, đã anh em nào ngộ được câu nói của Huệ Thi, “Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng” nơi cuốn Trang Tử và Nam Hoa Kinh chưa? Nó không nghịch thường và ngang như cua thì chúng ta chẳng cần nghiệm chứng. Bởi thế, Phúc Âm được ráp nối bằng những công án và dụ ngôn để chúng ta nghiệm chứng. Dù rằng có những ngôn từ của ngày xưa chẳng hạn “Bì cũ” trong câu, “Rượu mới không đổ vào bì cũ,” ngày nay không ai dùng bì cũ nữa nên tưởng là viết lầm và có bản dịch thành bình cũ, lại càng sai lầm hơn. Nhưng, như thế mới kích thích được những tâm hồn khát vọng tâm linh. Nói theo kiểu người “Theo đạo,” coi chừng những điều ngang ngang, ngửa ngửa đó lại là do ý của Thánh Thần chăng. Nói như vậy, ngày nào nhận thức của con người không thể chấp nhận được Phúc Âm nữa thì câu anh Thanh hỏi lúc trước sẽ trở thành hiện thực.
                  - Thưa cha, ông trùm Canh lên tiếng, cha có nói đến Chúa Giê su rao giảng Tin Mừng Nước Trời thì người ta rao giảng về Chúa Giê su, nghĩa là thế nào, thưa cha.
                  - Bởi không biết Tin Mừng là gì; bởi theo tôn giáo chứ không nghiệm chứng Phúc Âm; bởi  e sợ sai lầm hoặc sợ bị kết án vì nói không giống người khác; và có thể cũng bởi phải cố bám lấy cái vị thế của tổ chức để hy vọng được cả đàng nọ lẫn đàng kia; cũng có thể bởi bị mặc cảm không hiểu biết gì về tâm linh do lười suy nghĩ nên cố bám lấy tổ chức cho có vẻ bình thường tin tưởng, nói cách khác là “Có đức tin” dẫu không biết đức tin là gì; cũng có thể bởi không biết chính mình là ai, và sau khi chết e sợ sẽ bị trầm luân; cũng có thể e sợ mất gốc vì muốn nghiệm chứng phải buông bỏ hết quan niệm, học thức, kiến thức, đặc biệt mất gốc do quan niệm của tôn giáo được rao giảng.
                  - Thưa cha, sao cha nghĩ ra được lắm thứ nguyên nhân không rao giảng Tin Mừng vậy cha? Thanh hỏi.
                  - Khi nào anh ngộ được câu, “Lửa thì không nóng,”  hoặc câu Đức Giê-su nói với các môn đệ, "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống,” (Lc. 10:18), anh sẽ nghĩ ra được.
                  - Thưa cha, lý do gì cha nói, có thể một trong những con đường ngắn nhất để tiến tới thánh đức là sống trụy lạc (ĐBCT; tr. 46)? Con định lên tiếng nhờ cha giải thích lúc đó nhưng cứ chờ xem cha có nói thêm gì không nên bỏ qua. Thanh hỏi tiếp.
                  Cha Hải nhìn Thanh, không vội trả lời đoạn nhẹ nhàng hỏi,
                  - Anh đã đọc cuốn truyện Đôi Bạn Chân Tình chưa? Cuốn truyện này được viết bởi Hermann Hesse do Vũ Đình Lưu dịch, và nếu tôi nhớ không lầm thì bản tiếng Việt được in bỏi nhà xuất bản Ca Dao tại Sài Gòn vào năm 1969. Đại khái nói về mối thâm tình của hai nhân vật, một là bề trên của một nhà dòng, và người khác là một danh gia điêu khắc. Nếu đặt mình nơi quan điểm nhận thức đạo học Đông Phương, mới thấy được sự thâm trầm của tác giả. Sở dĩ tôi chỉ nhắc đến thoáng qua một câu một cách bất ngờ mục đích kích thích nhận thức mọi người. Tôi đã nghĩ có lẽ nhóm họp sẽ bùng nổ lớn nhưng mãi tới lúc này anh mới đặt vấn đề; kể ra ông bạn tôi không tiếc lời khen nhóm anh chị em cũng đúng.
                  - Câu trả lời đơn giản chỉ là kiếm cuốn truyện đó mà đọc dẫu biết rằng kiến thức cũng như học thức hoàn toàn khác biệt với sự thức ngộ. Thêm vào đó, nếu người đọc thực sự đối diện và chấp nhận chính mình để nhận biết mình là ai đồng thời nhận thức được tội lỗi là gì, cũng như cắn rứt lương tâm con người ra sao, mới hy vọng chấp nhận được thực trạng nghịch thường nơi hành trình tâm linh. Câu truyện không gì đặc sắc cho lắm nhưng đối với người có tâm thức chân thành nếu đã mở rộng tâm hồn nhận thức được ý định của tác giả, chắc sẽ bị người đời cho là có tư tưởng hoang đàng. Nói cho đúng, chưa thực sự thấy mình là kẻ đốn mạt, khốn nạn, chưa thể biết mình là ai, chưa thể kiến tính, chưa ngộ được Tin Mừng Nước Trời. Bởi vì Thiên Chúa, Thượng Đế ở cùng chúng ta, nơi mỗi người, nên còn thấy mình là một thứ gì, tâm thức vẫn còn trầm luân nơi điều mà Phúc Âm gọi là “Ý tưởng loài người, Satan,” và vẫn chưa nhận chân được vị thế cao trọng của con người, cũng như chưa thể hiểu thấu câu nói của Pascal, “Con người không phải là thánh, chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, kẻ muốn thành thánh lại biến thành thú;” và hơn nữa, cũng chẳng thể nào thưởng thức thâm trầm câu nói của Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang), như anh đã nhắc đến, “Bên Tây Phương không có đủ nhà tù để nhốt những người điên; ngược lại bên Đông Phương chúng tôi, có được người điên nào thì lại được vô cùng kính trọng và sùng bái, chẳng hạn Thích Ca, Jesus, Lão Tử.”
                  - Cha nói chưa thực sự nhận ra mình là kẻ đốn mạt, khốn nạn, chưa thể biết mình là ai. Vậy thưa cha, nếu chưa nhận biết mình đốn mạt, khốn nạn, thì chẳng lẽ phải thực hiện chuyện đốn mạt để nhận biết sao?
                  - Giỏi, tôi đã phải tốn hai năm để nghiệm chứng con người mình đốn mạt, khốn nạn thế nào; mà mới chỉ nghe thoáng qua, anh đã bắt được tâm điểm nơi hành trình thức ngộ. Sự đốn mạt, khốn nạn nơi hành trình nhận thức là tất cả những gì ngăn cản mình nghiệm chứng, hoặc làm cớ cho mình sai lầm. Đây là lý do tại sao Lão học đề nghị bớt; Phúc Âm nói móc mắt, chặt tay; đây cũng là tội độc nhất, tội vô minh. Bất cứ gì ngăn cản hoặc làm phiền hành trình thức ngộ đều đốn mạt, đều khốn nạn. Thử hỏi, còn gì khốn nạn hơn là cầm giữ chính mình luẩn quẩn trong vòng ngu muội; thế nên, nó còn được gọi là tội phạm đến Thánh Thần. Tôi nghĩ, không nên nói gì nữa; sự hiểu biết do chỉ muốn được giải thích chưa chắc giúp mà coi chừng lại ngăn cản hành trình thức ngộ. Cầu chúc anh chị em một đêm an bình. Riêng bố Sỹ, nếu sợ ngáy bay nóc nhà thì ra ngoài sân mà thiền…; tuy thế, coi chừng lại làm kẻ khác phiền hơn… Có điều… Cha Hải chợt ngưng nói khiến mọi người chú ý để tâm chờ đợi, nhưng cả phút sau, vẫn thấy ngài im lặng, dường như đang thầm tính toán điều gì. Sỹ nhà con nhịn không nổi lên tiếng,
                  - Thưa cha,
                  - Anh muốn biết tại sao tôi chợt ngưng không nói tiếp phải không?
                  - Dạ, thưa cha…,
                  - Ngay từ trước khi về đây, tôi đã tự nhủ sẽ không nhắc đến, tới lúc này nhân nhắc lại tội phạm đến Thánh Thần tôi suýt buột miệng nói ra, nhưng anh đã đặt vấn đề tại sao tôi ngưng ngang chừng khi đang nói; thôi thì cứ coi như thêm một cơ hội để chúng ta nghiệm chứng; đó là hiện tượng lên đồng; anh chị em có thể lên youtube xem và tự đặt lại vấn đề về đức tin và niềm tin tưởng nơi mình.
                  - Thưa cha, đó là những chuyện do ma quỷ bày ra sao cha khuyến khích chúng con xem làm gì cho mất đức tin. Ông trùm Lực nói.
                  - Ông trùm nói lạ, Bá lên tiếng, có đức tin đâu mà mất!
                  - Sao ông nói tôi không có đức tin?
                  - Có hay không thì ông tự biết; tôi chỉ muốn nói không biết đức tin là gì thì có cũng như không, phương chi lo sợ mất đức tin.
                  - Trên youtube, những hình ảnh lên đồng đâu nói về đức tin, ông trùm nhận định.
                  - Thế ra ông trùm đã coi lên đồng rồi à, hèn chi mất đức tin là phải. Bá giáng thêm một đòn.
                  - Làm sao có thể mất đức tin! Vấn đề chỉ là nhận biết đức tin hay không vì đức tin chính là quyền lực sự sống, sự hiện hữu nơi mình. Tình lên tiếng. Sợ mất đức tin, tất nhiên ông trùm chưa biết đức tin là gì!
                  - Thánh Phao Lô khuyến khích chúng ta, “Nghiệm xét mọi sự;” đồng thời như anh em đã biết, tất cả đều là phương tiện cho mình nghiệm chứng. Sự việc, sự thể là chính nó, mình nhận thức thế nào, thăng tiến ra sao tùy mình. Anh em quên câu nói của lục tổ Huệ Năng rồi sao, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Cha Hải nhẹ nhàng nhắc nhở.
                  - Thưa cha, con thấy có điều lạ; đó là nơi youtube, các mục lên đồng sao không thấy nhắc nhở gì đến các tôn giáo. Nếu con không lầm thì hình như con coi cỡ ba bốn chục trường hợp gì đó, chỉ có một lần hồn nhập cô đồng nhắc tới hai tiếng Thiên Chúa giáo và Phật giáo mà thôi. Tất cả các hồn nhập đồng chỉ nói về sống sao cho có đức độ và thờ cúng ông bà, tổ tiên. Thanh nói.
                  - Cũng có mấy trường hợp hồn nhập đồng nhắc tới việc đi bán cau hoặc làm gì đó giống như những công việc làm ở nhân gian. Bá nói thêm.
                  - Anh em có thấy điều gì đặc biệt nơi những sự kiện nhập đồng không?
                  - Thưa cha, các hồn nhập ăn tục, nói phét như người thường. Ông trùm Lực lên tiếng.
                  - Thưa cha, Thanh giơ tay nói, coi những video hồn nhập đồng, điều con để ý nhất là chúng minh chứng xác thực có sự sống đời sau. Đồng thời chúng cũng minh chứng lời Phúc Âm, “Những gì các ngươi cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc.” Thực ra, nếu hiểu nước Thiên Chúa, hoặc thiên đàng theo nghĩa hữu  vi, thế tục, con thấy có gì đó không chỉnh. Nhưng nơi những video đồng bóng này, con hiểu được những gì mình theo đuổi trong cuộc sống, khi thân xác mình qua đi thì linh hồn vẫn tiếp tục theo đuổi những ước mơ ấy. Như vậy, chính sự lên đồng này nói lên quyền lực của ý định, ước muốn ảnh hưởng đến cuộc sống đời sau của một người.
                  - Sở dĩ tôi nhắc đến những video lên đồng nơi youtube chỉ với mục đích để anh em nhận chân được chúng ta có sự sống đời sau; vì xưa nay tôi thường bị nghe, chẳng hạn, phải tin có sự sống đời sau. Và nếu đã có sự sống đời sau, tất nhiên linh hồn có sự sống tiếp tục sau khi thân xác qua đi. Thêm nữa, sự sống đời sau của linh hồn tiếp tục thế nào, chúng ta cần tìm hiểu thâm sâu hơn. Đàng khác, ngôn từ được dùng nơi Phúc Âm ở mực độ nào đó khác với ngôn từ dùng nơi đạo học Đông Phương; chúng ta nên để tâm tìm hiểu. Sự thật hiển nhiên mọi người đều nhận thấy, không một tôn giáo nào chứng minh có linh hồn mà có chăng chỉ chấp nhận có linh hồn, và cuộc sống linh hồn thế nào, tôn giáo không bao giờ nói tới mà chỉ có nơi đạo học. Trong khi đạo học lại chẳng bao giờ dùng ngôn từ linh hồn mà dùng những danh hiệu khác chẳng hạn Atman, bản lai diện mục, tâm, tâm phật, tâm chân như, hoặc ngắn gọn một tiếng “Hồn.” Xét thế, còn rất nhiều vấn đề liên hệ tới ngôn từ hoặc ý ám định Phúc Âm nói tới mang ý nghĩa rất xác thực với đạo học Đông Phương mà chúng ta do nhãn quan phân biệt, nếu không muốn nói là hạn hẹp, không dám mở rộng tâm hồn để nhận thức. Tôi nghĩ, như vậy đã quá đủ đối với những ai thực tâm muốn nhận thức về thực thể con người của mình.
                  - Thưa cha, Bá lên tiếng, nếu có sự sống đời sau thì thuyết nhân duyên nhà Phật sao có thể đứng vững; vì hồn có cuộc sống vĩnh cửu, đâu lệ thuộc khi duyên hợp hay tan; vì hồn không thể phát sinh từ vật chất, và xác dù đối nghịch nhưng hợp nhất với hồn. Chẳng lẽ thuyết nhân duyên chỉ áp dụng cho môi trường hữu vi, vật chất. Và như vậy, tư tưởng, ý định, ước muốn cũng không lệ thuộc hoàn cảnh, thời gian, hay điều kiện sống của con người. Điều này phi lý, ai cũng nhận biết nên không cần luận bàn.
                  - Anh hỏi tôi thì tôi hỏi ai! Thuyết Nhân Duyên nhà Phật bao gồm 12 nhân duyên cấu tạo thành con người và vạn vật. Nhà Phật chỉ nói tới Tâm Chân Như được gọi là tâm Phật hay Tính như trong yếu chỉ của lục tổ Huệ Năng, “Kiến tính thành phật” chứ không nói tới linh hồn khác biệt và kết hợp làm một với thân xác. Riêng về sự hiểu biết, nhận thức được coi là một phần trong yếu tố di truyền, Nhà Phật còn có thuyết tâm A Lại Da chất chứa toàn bộ tri thức v.v… Những vấn đề này thuộc về Duy Thức học nhà Phật, ai muốn tìm hiểu thâm sâu hơn nên tự kiếm sách vở mà đọc. Các anh chị có nhớ tổ Huy Sơn hỏi Hương Nham câu gì không, “Lúc cha mẹ chưa sinh ta ra, vậy thử nói một câu xem sao!” Có thể so sánh “Cái Tâm” nơi Phật học với linh hồn nhưng nhà Phật chỉ nói tới danh hiệu Tâm làm một với tâm Chân Như chứ không phân biệt tâm hay tính của một người với tâm Chân Như. Đến đây, chúng ta tạm ngưng. Xin chào anh chị em nếu chúng ta không còn dịp gặp lại.
                   
                   Mùa Vọng 2017
                  lã mộng thường

                   


                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.07.2021 20:35:03 bởi lamongthuong >
                  #9
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9