lamongthuong
-
Số bài
:
73
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 09.12.2016
-
Trạng thái: offline
|
Re:MÂY BAY VỀ NGÀN (tt)
06.12.2017 13:41:22
( permalink)
Cụ Tài với thái độ chừng mực, trang trọng, cụ vẫn thế nơi bất cứ trường hợp nào, mở nắp chai rượu trong khi nhẹ nhàng lên tiếng, - Thế còn bách hội huyệt và vòng luân xa của anh? - Cháu thì càng biết thêm, càng sinh lắm điều phiền não, và, Phủ ngập ngừng, sự thức ngộ vẫn như còn xa lắc, xa lơ, nhiều khi cảm thấy nản lòng nếu không muốn nói là bực bội với chính mình. - Chuyện đó phải xảy ra đối với những ai có lòng khát khao muốn thăng tiến trên đường tâm linh. Cụ nói với giọng điệu bình thường mang rõ tính chất xác quyết khiến người nghe có cảm tưởng cụ đang tâm sự đương khi rót rượu vào ly đoạn chuyền chai rượu cho ông Thung ngồi kế bên tay phải. Điều hiển nhiên theo kinh nghiệm, kẻ nào không dám chấp nhận chính mình mà tự dối lòng hoặc e sợ đối diện với bộ mặt thật của mình sẽ kiếm đủ mọi phương tiện lấp liếm hòng chạy trốn chính họ dưới mọi hình thức, phương diện, được thể hiện ngay nơi thái độ thường thì hướng ngoại. Đàng khác, con người tự bản chất dẫu tuyệt vời huyền nhiệm, nhưng cũng có thể nói, rất khó cho chúng ta có được nhận định chính xác về thực thể nơi mình vì đã được sinh trưởng nơi vòng vô minh quá nặng. Thế nên, bước đầu của hành trình thức ngộ phải là lòng sám hối, một hiện trạng hữu ích để nhận chân và chấp nhận những gì vì vô minh mình đã vô tình vấp phạm. Lòng sám hối này chỉ có thể xảy đến nơi những tâm hồn thao thức kiếm tìm thế giới tâm linh. - Bác muốn nói người nào càng cảm thấy mình xấu xa, không ra gì, càng có cơ may thức ngộ? - Hỏi như vậy có phải suốt tuần qua anh đã mang nặng mặc cảm mình chẳng ra gì? - Bác nói đúng. Cháu thấy mình xưa nay quá tệ và quá ngu, ngu không thể tưởng, mà... Phủ ngập ngừng chừng như khó diễn tả. Không biết bao nhiêu lần đã không nhận ra, ngược lại, phải nói là cố chạy trốn con người của mình. Hèn, cháu nghĩ, phải dùng tiếng "hèn" mới đúng. - Tôi có lời chúc mừng anh Phủ, và những anh em nào có đồng tâm trạng. Riêng những ai không cảm thấy thế, tôi muốn nói, tôi không biết tâm trạng anh em ra sao. Những ai chưa nhận thực được những sự hèn mạt nơi mình thì thật đáng thương vì thời điểm vẫn chưa tới với họ. Qua nghiệm chứng, tôi có thể nói với anh em, người nào càng thực sự nhận ra mình hèn hạ, đốn mạt bao nhiêu, thời điểm thức ngộ của họ gần kề bấy nhiêu, ngoại trừ kẻ nào bị tự ty mặc cảm. Cảm nghiệm được tính chất hèn nơi mình chính là thực trạng đối diện vọng tưởng, vô minh. Nói theo nhà Phật, không có cách nào chứng được Chân Như hay Phật Tánh mà chỉ có thể chứng vọng tưởng để nhận ra Tự Tánh bất khả tư nghị nơi mình. Tôi muốn chứng minh điều này bằng câu nói nghịch của anh Hưng, "Người minh triết vô minh, kẻ vô minh, minh triết." Người nào càng nhận ra trạng thái vô minh nơi họ xưa nay bao nhiêu, càng là người minh triết bấy nhiêu. - Nhưng thưa bác, dẫu cho minh triết bao nhiêu thì cũng chỉ là sự hiểu biết, chưa phải chứng nghiệm. - Chúng ta là những cá nhân khác nhau từ tinh thần đến thể chất do đó có nhiều phương cách để đạt tới giác ngộ cho những con người khác nhau. Nhận định như vậy, tôi muốn nói, còn có nhiều bậc thức ngộ không bao giờ tỏ lộ nên không ai biết tới. Tuy nhiên nếu xét về những phương thức thực nghiệm đạt tới thức ngộ được đại đa số áp dụng như tôi đã nói lần trước, chúng ta có thể chia ra ba đường lối tu trì; đó là thờ phượng, minh triết, và thiền tông. Đa số quần chúng theo con đường thờ phượng. Con đường này đặt nền tảng trên niềm xác tín, dùng niệm chú dẫn tới định tâm. Các tôn giáo là một trong những hình thức của lối thờ phượng nhưng quá chú trọng về tính chất cổ võ, phát triển, cũng như lệ thuộc luật lệ tổ thức thế tục. Dẫu những nghi thức sùng bái mang tính cách lớn lao, đồng nhất cho những nhóm tín đồ cùng niềm tin, phỏng nơi đại đa số quần chúng tham dự, mấy ai ý thức được những hình thức cử hành nơi nghi thức chỉ phần nào diễn tả thực thể tâm linh đang diễn tiến ngay nơi thờ phượng công cộng. Thử nhìn về thực thể nơi sự thờ phượng hay cúng bái anh em có thể nhận định rõ ràng hơn. Chẳng hạn nơi Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, tín đồ bái, lạy, cúng, dâng đồ vật hay tiền tài trong những nghi thức của họ. Anh em đã bao giờ đặt vấn đề đấng nào sẽ nhận lãnh những tài vật ấy? Câu trả lời đúng đắn nhất tất nhiên phải là họ dâng những phẩm vật hoặc tiền tài ấy cho lợi ích của họ chứ không cho đức Phật hay đức Chúa; bởi đức Phật hay đức Chúa nào hưởng được chút gì! Qua lần trước đàm luận, chỉ có một pháp độc nhất là Phật pháp, tức kiến tính, hoặc gọi là gì, phương cách nào, hoặc dưới hình thức chi, miễn sao đạt tới giác ngộ. Đến ngay như nghiệm chứng mà cũng chỉ có thể nghiệm vọng tưởng thì tên gọi đâu quan trọng gì. Như vậy, theo con đường thờ phượng, tài vật chỉ biểu hiệu lòng xác tín, tâm thành. Thực tế cần được nhận định rõ ràng, đó là những tài vật được dùng để bảo trì nơi chốn cho con người tụ họp để có cơ hội bày tỏ lòng thành qua hình thức minh xác với chính mình bằng cử điệu và nghi thức. Đồng thời, những tổ chức tôn giáo cũng cần có ngân quỹ để giúp cho những vị đặc trách hướng dẫn hành trình tâm linh cho tín đồ thuộc tổ chức tôn giáo và đồng thời tiếp tục đào tạo những vị hướng dẫn tâm linh trong tương lai. Sự thực hành đơn giản nhất ai cũng có thể nghiệm được chẳng hạn đốt hương. Không thần thánh nào ăn hay ngửi được hương; mà chúng ta vẫn đốt; chúng ta vẫn xông hương. Đốt hương chỉ chứng tỏ lòng thành; bởi vậy, nếu có tâm ngay thì đốt hương hay không chẳng thành vấn đề, mà không có lòng thành thì đốt cả hãng làm hương coi chừng sẽ bị nhốt vào khám mà thôi. Tụng niệm nơi nghi thức thờ phượng đóng vai trò định hướng tâm thức con người, dồn tâm thành, niềm xác tín để nghiệm chứng. Nếu để ý thái độ, cử điệu của các vị cử hành lễ bái, anh em sẽ cảm nhận được ngay vị đó đang cử hành một nghi thức tâm linh hay đang thông qua những cử điệu hình thức tôn giáo. Cũng như thiền, nếu miệng tụng niệm mà đầu óc bay tít mù khơi nơi đâu nào được ích chi! Cử hành nghi thức thờ phượng, lễ bái mà tâm hồn đang vướng mắc nơi cõi đâu đâu chẳng khác gì những tên bù nhìn giang tay giang chân, bạt bên này, lật bên kia theo gió và để chim đậu trên chính cánh tay đang giang. Bởi vậy, dẫu nơi hành trình tâm linh nào thì động lực cốt cán vẫn là tâm thành với lòng xác tín. - Thưa bác, nếu thế đâu cần minh triết, đâu cần thiền tông, mật tông. - Thôi! thôi! Ông ơi, để bác nâng ly. Chưa được chút cháo thì đã chết bởi nói khô cả cổ họng trong khi chúng tôi cũng đang ngấp ngoái vì khát. Xin mời bác, mời quý vị. Sỹ nhà con oang oang phân bì. Những hũ chìm đang thời kỳ khô cạn mà cứ phải chịu trận với mùi nước thánh xông lên ngào ngạt thì còn nỗi khổ chi cay cú hơn. Dẫu ba hoa chích chòe lắm lúc coi trời bằng vung nhưng vẫn chưa ai dám tợp hớp nào khi cụ Tài chưa nâng ly. Quả là điều lạ! Các tướng hãy còn biết chút ít phép tắc. - Đã đợi thì đừng kêu, và đã kêu tại sao lại đợi, đúng là vừa đánh trống vừa ăn cướp. Đâu ai mượn quý ông hình thức dổm! Vậy từ xưa tới nay chưa bao giờ được hưởng những giọt cam lồ của vị thánh to lớn này thì các ông đang là những con ma đói khát không hồn hay sao? Ừ thì uống, thế mới biết ẩn sau các khuôn phép lịch sự lại chính là những thèm thuồng thối nát, con đẻ của vô minh; cũng như lòng ruột của một thân xác đẹp đẽ, oai phong, không mang được vẻ hấp dẫn chút nào nếu đem so sánh với lòng ruột loài heo loài bò. Bao năm nay, người ta ca tụng, khâm phục nhà danh họa Picaso, nhưng đã mê muội hùa theo kẻ khác hầu chứng tỏ ta đây hay giỏi mà tâm hồn thực sự trống rỗng, uổng công sức cầm cọ của ông. Bá ngồi cuối góc bàn, nhỏ nhẹ như nói với chính mình nhưng ai nấy để ý nghe khiến sự ồn ào đáng lẽ phải xảy ra khi hoạt cảnh nâng ly đầu tiên của mỗi bữa nhậu lại trở nên im lặng khác thường. - Tôi có lời chúc mừng anh Bá và anh Phủ, cụ Tài nâng cao ly rượu, mời anh em. Chẳng đợi gì hơn, thế là một phần ba chất rượu của bình lít rưỡi vừa được rót vào những ly thủy tinh vội biến tan nơi các thân xác của thành viên nhóm nhậu như chưa từng bao giờ hiện hữu trên cõi đời này. Rượu vào, lời ra, trong lúc bình Hennessy được tiếp tục chuyền tay san qua các ly. Ông Thung dạo này coi bộ cũng ngon cơ dẫu phải nhắm mắt nhăn mũi chịu đựng những giọt rượu thơm ngon vì mùi cay xốc lên tới óc đến độ muốn bị sặc. Qua bao lần đàn đúm với nhóm nhậu, ông đã tự nghiệm được phương thức đẩy rượu qua cổ họng mà hơi men cay không làm ngộp buồng phổi phát sinh "chết sặc." Mấy lần đầu, màn khai ly đã làm ông khốn khổ, thở không được, ho không xong mà cứ sặc sụa chảy cả nước mắt nước mũi chẳng khác gì kẻ chết đuối. Tệ hơn nữa, ông bị ngộp rượu vì đã hít đầy phổi luồng men cay nồng nặc. Tự đặt câu hỏi tại sao người khác cũng uống như ông nhưng không sao, chợt có lần ông hớp rượu một ngụm nhỏ, nuốt xuống. À thì ra thế, ông thầm nghĩ. Nguyên tắc đơn sơ chỉ là khi uống rượu, bia phải nín hơi, ngưng thở trong khi nuốt, cùng lắm chỉ cảm thấy cay xé cần cổ nhưng không thể bị sặc. Đợi cụ Tài san miếng tiết canh và ăn xong, ông nói, - Theo như cụ giải thích về Phật học lần trước nơi nhà anh Hưng, nghiệm chứng mới là hành trình thiết yếu vì kiến thức hay minh triết đâu phải điều thực sự biết! - Minh triết không những bao gồm kiến thức, ý thức mà còn đòi hỏi lòng thực sự khát khao thăng tiến tâm linh hầu đạt tới giải thoát, giác ngộ. Bởi vậy, Phật học được gọi đạo minh triết. Dùng tiếng đạo không có nghĩa tôn giáo mà là hành trình, con đường hành giả hay một người thực tâm muốn kiếm tìm để đạt tới Thực Thể Tuyệt Đối. Xét theo phương diện tâm linh, minh triết là hành trình nhanh nhất cho con người giác ngộ, ít bị phiền hà hay lệ thuộc bởi ảnh hưởng thói quen hoặc truyền thống, đồng thời cũng không nguy hiểm như thiền mật tông hay điểm đạo nếu người theo đường này biết mở rộng cõi lòng sử dụng tự do suy tư tuyệt đối. - Có phải cụ muốn nói đến nghiệm xét mọi sự? - Đúng, điều kiện ắt có và đủ cho một người muốn đạt đạo nơi hành trình minh triết phải là nghiệm chứng bất cứ sự gì ngay cả những vấn đề hoặc sự việc xưa nay được đề cao là tốt lành thánh thiện. - Như vậy, thưa cụ, phải giải thích thế nào đối với những sự tốt lành đã được mọi người công nhận xưa nay? - Có câu chuyện dụ ngôn về một con khỉ khi lội ngang qua khe suối cạn. Hắn vớt ngay con cá bỏ lên bờ. Hỏi tại sao, con khỉ trả lời vì muốn giúp con cá khỏi bị chết đuối. Con khỉ có lòng tốt và hành động đáng khen nhưng không phù hợp đối với con cá. Nơi trường hợp của một bé gái năm tuổi, bẻ ngay miếng pizza bỏ vào miệng đứa em của nó mới được hai tháng làm đứa nhỏ chết hóc gần ngất xỉu. Như vậy, những sự tốt lành thiếu suy xét hay nghiệm chứng chẳng những đôi khi mà thường thì trở thành độc hại. Hiểu như thế, người minh triết lắm lúc hành động không thể hùa theo quan niệm phiếm diện bởi chẳng thực tại nào có thể làm khuôn mẫu cho mọi trường hợp, và những kinh nghiệm cũng không thể được áp dụng một cách máy móc, thiếu ý thức. Chúng ta tôn trọng đức Thích Ca, đức Giêsu nhưng không chịu suy tư, cảm nghiệm về những lời các ngài để lại mà chỉ cố tình hùa theo sự giải thích hạn hẹp của một số người dám cả gan tuyên dương họ đã nắm được chân lý rồi lấy những điều đó làm khuôn mẫu để tự lừa dối mình nơi cảm nghĩ chỉ cần hiểu được những điều họ giải thích sẽ thành Phật thành thánh. Nếu thực sự đối diện với lòng mình, tôi dám nói, bất cứ ai suy nghĩ về những lời dạy của các bậc đạt đạo, chắc chắn sẽ nhận ra mình là con người bết bát, tệ hại khôn cùng thì sao dám có ước mơ trở thành thế nọ thế kia. - Thưa, cụ nói như vậy có ý gì? - Thử đem một đôi câu nói của nhà Phật hay nơi Phúc Âm áp dụng vào thực tại ông sẽ thấy. Chẳng hạn lời của Lục tổ, "Tu hành mà chẳng vọng động, nghĩa là lúc thấy cả thảy mọi người mà chẳng thấy các điều phải quấy lành dữ, tội lỗi của người, tức là tánh mình chẳng động" (KPBĐ; Tr.96). Nguyên câu nói tự nó đã minh chứng vọng động vì nếu đã không vọng động sao phải đặt vấn đề vọng động. Nơi Phúc Âm có những câu, "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta, ắt không xứng với ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn ta, ắt không xứng với ta" (Mt. 10:37), hoặc, "Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo ta" (Mt. 19:21). Có phải cứ theo nghĩa từ chương mà không suy nghiệm sao cho hợp tình hợp lý nơi cuộc đời mình, chúng ta tự tạo mặc cảm tội lỗi không cách nào xóa bỏ được. Đối diện với con người thực của mình, suy tư, nghiệm xét mọi sự, dùng nghịch luận, thách đố chính mình sống phù hợp ý nghĩa thực chứng thâm trầm của những lời khôn ngoan đạo học, đó là hành trình minh triết để đạt đạo, và đây là con đường nhanh nhất vì dẫu theo thiền tông hay mật tông, dẫu thờ phượng đấng nào rồi cũng phải trải qua đoạn đường minh triết trước khi khai ngộ. Chẳng hạn Ramakrishna, một tu sĩ mật tông Ấn Độ. Thuở ban đầu ông theo con đường Bhakti, thờ phượng đức thánh mẫu Kali. Tuy nhiên, để vượt qua chặng đường cuối cùng của đại định, ông đã phải nhờ một tu sĩ và một nữ tín đồ thông hiểu kinh sách chỉ điểm cho ông về lối tu bằng trí tuệ. - Thưa cụ, nếu thế thì thiền tông hay mật tông chỉ dành riêng cho một số người đặc biệt. - Thiền tông đặt căn bản trên nền tảng minh triết và dùng một số phương thức thiền định thúc đẩy hành giả đạt tới sự thức ngộ mau hơn. Bình thường, thiền được hiểu chỉ là định tâm quán tưởng và điểm cuối cùng đưa hành giả vào giai đoạn đại định. Thực ra, thiền tông bao gồm quán tưởng và mật tông. Mật tông dùng định và những phương thức vận chuyển khí huyết phát triển năng lực tự nhiên nơi con người. Nguyên tắc chính của mật tông không khác gì căn bản luyện khí của hiệp khí đạo bắt nguồn từ năng lực của ý chí, tư tưởng, ý định theo lý thuyết ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết được chuyển tới để đả thông kinh mạch. Đó là lý do tại sao người ta nói đến mật tông, huyền thuật Tây Tạng, Zen bên Nhật Bổn, Yoga ở Ấn Độ, Điểm Đạo tại Ai Cập. Mấy người ngồi gần cụ Tài nghe cụ nhắc tới mật tông, huyền thuật, Yoga, Điểm Đạo, lộ vẻ chú ý. Đối với họ, những danh hiệu này bao hàm muôn sự huyền bí xưa nay loáng thoáng nghe nói đâu đó hoặc đọc nơi sách vở về những quyền năng cả thể cứ như là phép lạ chẳng hạn đi trên lửa, hoặc chôn dưới đất bốn mươi tám ngày không chết, hay chỉ cần một đụng chạm nhẹ của người tu Yoga hay mật tông, huyền thuật đã có thể chữa lành những bệnh bất trị hoặc có những người sau thời gian tu luyện không phải ăn mà vẫn sống. Đầu bàn bên kia, chị Sỹ chợt lên tiếng nói với qua, - Thưa bác, con nghe người ta nói tu Yoga sẽ làm được nhiều sự lạ lắm phải không bác? - Đâu phải chỉ thực hành Yoga mới đạt được kết quả sử dụng được năng lực thần thông, các bậc giác ngộ đều có thể thực hiện được những điều mà chị gọi là sự lạ. Ngay chính chúng ta, bất cứ ai cũng hàm chứa sẵn năng lực ấy; vấn đề chỉ là làm thế nào để phát huy năng lực nội tại nơi mình theo ý muốn. Tuy nhiên, hành trình phát triển năng lực nội tại này đòi hỏi nhiều điều kiện tâm linh và thể xác đồng thời cũng có nhiều đường lối luyện tập. Đó là lý do tại sao có nhiều cấp bậc cũng như thành quả nơi hành trình thực hành huyền thuật, yoga, mật tông, hay điểm đạo. Ngay cả các pháp sư đều là những người tu luyện một trong những phương pháp phát triển năng lực nội tại nơi con người để sử dụng quyền lực tự nhiên. Có điều, sự khác biệt được phân chia rõ rệt. Những bậc đạt đạo không sử dụng quyền lực này ngoại trừ những trường hợp tối cần thiết. Dẫu họ biết cách và có thể sử dụng nhưng thực ra đó là quyền lực vũ trụ, quyền lực của Thượng Đế không phải để lạm dụng kiếm kế sinh nhai hay khoe khoang tài năng vì bất cứ hành động nào cũng đều mang năng lực ảnh hưởng ngược lại chính bản thân chủ thể thực hiện. - Thưa bác, nếu nói theo hành trình thức ngộ nơi nhà Phật thì bất cứ ai cũng có thể theo con đường tiệm ngộ. Và nếu đàng nào cũng ngộ tất nhiên cuối cùng cũng đạt được những quyền năng không sớm thì chầy. Như vậy, ngoài điều kiện minh triết để bước vào mật tông hay Yoga, huyền thuật, người muốn theo con đường này cần có những điều kiện nào khác? Phủ lên tiếng trong khi những câu chuyện riêng tư nơi bữa nhậu chợt ngưng ngang vì mọi người cảm thấy háo hức khi nghe cụ Tài nói ai cũng hàm chứa sẵn năng lực thần thông. - Minh triết không phải là điều kiện vì ai cũng có thể đạt tới được nếu họ thực sự muốn; tuy nhiên, điều kiện không thể thiếu nơi mọi hành giả được trình bày qua nhiều nhận định đó là tâm thành rộng mở và lòng khát vọng, có thể gọi sự sám hối, có thể là nhận biết và chấp nhận chính mình. Tôi tạm đưa ra trường hợp điển hình để anh em tự nghiệm. Nếu tôi không lầm, suốt tuần qua sau khi nghe quan điểm về hành trình kiến tính nhà Phật, một số anh em phần nào đó bị nỗi tự ty mặc cảm dày vò. Ít nhất như anh Phủ đã nói, "Quá tệ và quá ngu, ngu không thể tưởng, phải dùng tiếng "hèn" mới đúng." Hoặc anh Bá nhận ra mặt trái của thói quen, "Đã đợi thì đừng kêu và đã kêu tại sao lại đợi." Chỉ những tâm hồn chân thành dám đối diện với lòng, nói theo nhà Phật, dám nhận định đúng đắn về ứng thân, mới thực sự sám hối để dứt khoát với con người cũ và bắt đầu cho cuộc sống ý thức tiến dần đến trạng thái minh triết. Kẻ nào không thực lòng cảm thấy mình đã quá hèn, quá ngu để chết cho con người cũ, không thể nào chạm tới ngưỡng cửa minh triết, lẽ dĩ nhiên, không hòng gì giác ngộ. Anh em nên để ý điều này, đó là tất cả các đạo học không dạy chúng ta bất cứ điều gì mà chỉ nêu lên trạng thái đạt tới Chân Thể nơi con người. Nhận biết hay không tùy cá nhân. Các bậc giác ngộ không nói đến những sự việc bên ngoài mà nội tại. Dành thời gian nghiệm chứng sẽ thấy, đức Thích Ca rao giảng Phật tính bao trùm vũ trụ ở mọi chúng sinh. Một Đạt Ma sư tổ hô lên, "Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lai đã và sẽ được tạo thành trong tâm" (KCGL; Tr.201). Lục tổ Huệ Năng bảo, "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật." Đối với Trang Tử, nhận chân được cái sống thật của mình tức hòa đồng với nguyên lý của vũ trụ được gọi là Tào. Ấn học trình bày Đại Ngã ngay trong chính tiểu ngã của con người (CTC; 13:24). Đức Giêsu công bố chỉ một tin mừng và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn táo bạo hơn bất cứ bậc đạo gia nào khi nói, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24). Mấy tướng con nhà Công giáo cảm thấy ngạc nhiên đến độ chỉ biết giương mắt ếch ngỡ ngàng nhìn cụ già. Tuần trước thuyết về Tâm Phật, giờ này đang thao thao về năng lực nội tại và đem lời nói của các bậc thức ngộ minh chứng, thế mà cụ nêu ngay câu Kinh Thánh không ông cha nhà thờ nào có thể dùng để giải nghĩa về quyền lực sẵn có nơi con người. Điều khiến các tướng phải dặn lòng từ nay cần thay đổi nhận định đó là ẩn nơi vẻ hiền hòa với thân xác về chiều của cụ, cả một tâm thức xác tín vững vàng minh chứng quyền lực đức tin. Có lẽ từ nay các tướng sẽ nhụt bớt nhuệ khí tự cao hằng ấp ủ. Dẫu mang thân tị nạn nhưng những mảnh bằng BS, BA, M này, M kia, cũng tạm khích lệ các tướng nghểnh mặt nhìn đời nhiều khi coi rẻ dân bản xứ, vác sức vóc làm thuê mướn, thế mà câu Kinh Thánh đã bao nhiêu lần nghe đến độ nhàm tai, không cần để ý, giờ này xuất phát từ cửa miệng cụ Tài chẳng khác gì ngọn roi quất vào mặt, thức tỉnh các tướng nên đặt lại vấn đề nhận thức. - Thưa bác, bác muốn nói mọi người đều đã có sẵn quyền lực nội tại? Sỹ nhà con nhào vô hỏi. - Tôi đợi anh nói thêm, tại sao chúng ta không thể sử dụng được để yêu cầu mọi người phạt thêm một chầu nhậu. Cụ Tài nhìn hắn chừng vài giây chờ đợi đoạn lên tiếng. Sở dĩ chúng ta không sử dụng được vì không biết cách sử dụng. Những phương pháp thiền tông, mật tông, huyền thuật, yoga, điểm đạo, chỉ là hành trình phát triển các phương thức sử dụng năng lực nơi con người chứ không có gì được gọi là bí mật. Tôi muốn nêu lên bằng chứng hiển nhiên, đã nhiều lần khi ngủ, chúng ta mơ. Vậy con mắt nào để chúng ta nhìn trong giấc mơ mặc dầu khi ngủ chúng ta không nhận biết ngay chính bản thân mình? Sự kiện nhìn thấy trong giấc mơ minh chứng rõ ràng bất cứ ai cũng có khả năng nào đó và đã chẳng bao giờ để ý phát triển. Có những người mù mờ giải thích đó là hiện trạng tâm lý chứa đựng những ảnh hưởng đã được chìm sâu nơi tâm thức bất chợt gợi lại khi hệ thống thần kinh bị kích thích cách nào đó do ảnh hưởng sinh lý, thực phẩm, hoặc trạng thái lưu thông của các mạch máu. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra không đơn giản theo lối nhìn hạn hẹp nhân danh khoa học vì có những giấc mơ mãi sau này mới xảy đến khiến chúng ta ngỡ ngàng, tưởng như đã gặp sự kiện hoặc sự việc bao giờ rồi. Anh em hãy để ý tìm kiếm và sử dụng con mắt nhìn thấy sự việc trong giấc mơ trước khi chúng xảy ra. Đây chính là khởi điểm nhận thức về hành trình tu chứng, nghiệm chứng các quyền lực nội tại. Mỗi người chúng ta mang một thực thể huyền nhiệm nhưng không được để ý tìm hiểu. Các đạo học nói về hành trình phát triển năng lực huyền nhiệm này, và thiền tông, mật tông, yoga, điểm đạo, huyền thuật là các phương pháp thực hành. Tuy nhiên, muốn thực hành lại cần nhiều điều kiện. - Thưa bác, - Anh Tùy muốn hỏi điều kiện nào phải không? - Dạ, thưa bác. - Anh em biết hết rồi nhưng không để ý nghiệm chứng mà thôi. Điểm căn bản ai cũng thấy rõ, chúng ta không phải chỉ là những thân xác trôi nổi theo giòng đời mà còn có một thực thể tâm linh, có con mắt nhìn trong giấc mơ. Ai cũng cảm nghiệm được thân xác không đơn giản gì đồng thời cũng là điểm đứng cho bước tới đầu tiên theo bất cứ chiều hướng nào. Hoạt động của tâm thức để tìm kiếm thực thể tâm linh được cấu tạo ra sao, gốc gác ở đâu, làm thế nào liên lạc, đó là hành trình tâm linh, hành trình nhận biết bản thể thực con người của mình. Tuy nhiên, dẫu có nhiều quan niệm về cơ cấu tâm linh của con người, tất cả mọi quan niệm cũng chỉ quy về một mục đích nhận thực ra bản thể chủ thể suy tư vì quan niệm phải nhờ đến ngôn từ mà ngôn từ thì giới hạn. Đây là nguyên nhân khiến chúng ta cảm thấy như rợ vào rừng khi tìm kiếm hành trình thực dụng nơi các kinh sách vì chẳng những văn tự được dùng ám định khác nhau mà quan niệm cũng như chiều hướng khác nhau. Kỳ mới lên lon đại úy được hai năm, tôi bị trường hợp kích ngất và mấy người lính đã vội đưa tôi vào nhà thương cấp cứu. Có điều lạ, tôi không theo đạo nào nhưng đa số những người làm việc với tôi lại là Công giáo hay Phật tử. Ở phòng cấp cứu, tôi thấy mình lơ lửng nơi trần nhà, nhìn rõ ràng các y tá, bác sĩ giật điện đánh thức con tim nơi thân xác tôi đập trở lại. Những anh em Công giáo, người thì cầu nguyện, người lần chuỗi kêu cầu Chúa cứu tôi. Mấy anh em Phật tử cũng niệm Nam Mô A Di Đà cầu cho tôi. Biết họ đang cầu nguyện cho mình, biết lòng họ tha thiết, yêu mến mình trong khi tôi không cảm thấy thiết tha gì đến thân xác đang nằm trên giường. Nói đến đây cụ Tài chợt ngưng, nhắm mắt dường như tưởng nhớ lại cảm nhận đã bao năm trôi qua, đoạn tiếp, - Mãi về sau tôi mới để ý đó là khi hồn tôi lơ lửng nơi trần nhà với đầy đủ nhận thức những diễn tiến nơi phòng cấp cứu, bộ óc trong thân xác đang nằm bất tỉnh trước mặt mọi người đã không cảm nhận được bất cứ gì. Sau này coi trên truyền hình, người ta trình chiếu các hoạt động của bộ óc về cảm ứng, tạo lập những sáng kiến, hoặc ban phát các mệnh lệnh truyền qua hệ thống thần kinh nơi băng tần Disovery. Những phim ảnh này đã giúp tôi nhận thức một điều thật trái nghịch với sự nghiên cứu của khoa học. Khoa học gia, bác sĩ cho rằng não bộ là trung tâm điều hành và phát xuất các hoạt động thể xác cũng như tâm linh. Nơi kinh nghiệm kích ngất, hồn lìa khỏi xác, tôi lại thấy bộ óc hay những hệ thống thần kinh chỉ là phương tiện cho linh hồn cảm ứng. Mọi mệnh lệnh, ý nghĩ, suy tư, sáng kiến, nhận thức đều do linh hồn phát xuất. Trong khi hồn tôi vẫn lơ lửng phất phơ phía trên cái thể xác trống rỗng, tôi đã kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng minh chứng hiệu quả nhất đó là nó đã di chuyển thật sự ra khỏi thể xác! Tôi tiếp tục nhìn cái xác phàm còn bỏ sót lại. Phải chăng cái xác bất động kia mà đã bao nhiêu năm tôi vẫn gọi là cái tôi? Một đống nhục thể, vô tri giác, chỉ có thế thôi! Chính lúc ấy tôi mới khám phá, với bằng chứng rõ ràng, cái tôi linh thiêng hoàn toàn khác biệt với thân xác. Cái tôi linh thiêng hay linh hồn mới thực sự là chủ thể con người của tôi. Bởi vậy, gọi là tôi có nghĩa linh hồn chứ không phải thân xác đang nằm bất động nơi đó. Nhìn vào đôi mắt nhắm tịt không còn thấy gì nữa, cơ thể không còn cảm ứng với ngoại cảnh, nào y tá, bác sĩ, ép ngực cho thở trở lại, giật điện tạo hô hấp, tôi mới nhận thấy rõ tất cả sự khác biệt nơi thực thể tâm linh với sự hiểu biết lầm lạc về sự sống của con người bao lâu nay. Cái thể xác vật chất mấy chục năm từ ngày sinh vẫn giam hãm lấy tôi, cái tôi thật, nhưng bây giờ thì tôi đã thoát khỏi ách thống trị của thân xác. Trước kia, tôi vẫn hiện hữu nhưng không biết mà tưởng mình chính là mảnh hình hài được gom góp bằng tứ chi, thân thể nên vẫn lầm lẫn. Cái cơ thể năng động bằng xương thịt chẳng khác gì nhà tù biết di chuyển mà hồn tôi là tù nhân. Sự nhận thức này làm tôi bàng hoàng pha lẫn niềm thư thái an lạc như vừa thoát ách ngục tù. Vậy là tôi đang lơ lửng nơi trần căn phòng cấp cứu, linh hồn tôi đã tách rời khỏi xác phàm, và con người tôi gồm có hai phần khác nhau, linh hồn và thân xác. Tôi đã rời bỏ cõi thế gian mà tôi vẫn ở bấy lâu nay. Tôi có cảm giác như trở nên một vật tinh anh thanh nhẹ vô cùng, trong một trạng thái mới kể từ đó. Nhìn chiếc băng ca trên đó xác thể tôi đang nằm, ý nghĩ giản dị thầm lặng đến với tôi; tôi đã bước vào trạng thái của sự chết. Lúc ấy tôi nhận biết rõ ràng tôi là một linh hồn, và tôi có sự hiện hữu vô hình ngoài xác thân. - Tôi chỉ còn là một bóng ma, chẳng hiểu sao lúc đó tôi bình tĩnh lặp lại nơi ý nghĩ theo thói quen giống mọi người như thế, một vong linh không thể xác đang vẩn vơ trên không gian. Tôi đã hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những ám tự cổ xưa. Với cảm giác bay lơ lưng trên không chẳng khác nào như tôi có mọc hai cánh và bay lướt trên cái thể xác đã bỏ rơi giống như con chim bay lượn trên một vật gì ở dưới đất (ACHB; Tr.63). Giống như biến cố của bà mẹ sinh một đứa con và hằng ngày nhìn nó lớn lên, sự giác ngộ tâm linh nơi tôi xảy đến do trạng thái kích ngất là một biến cố quan trọng trong đời khiến tôi không bao giờ có thể quên được; vì nó làm cho tôi hoàn toàn thay đổi và trở nên một người mới. Lúc ấy tôi cảm thấy tràn đầy một nguồn hạnh phúc vô biên và an lạc tuyệt vời không thể tả; đồng thời một tình yêu bao la rộng lớn và nồng nàn đối với toàn thể những anh em bạn lính, y tá, bác sĩ, kẻ lo âu, người cấp cứu đang vây quanh thân xác tôi. Họ cũng như tôi, đều nhìn thấy xác thân của tôi dường như đã chết, vì mọi sự sinh hoạt đều ngừng hẳn, hơi thở cũng ngừng luôn. Từ đó tôi mới có được sự nhận định chính xác về con người. Một cá nhân thường được định nghĩa gồm có hai phần tâm lý và sinh lý hay tâm và thân. Thân là phần vật chất được cấu tạo bởi các yếu tố mà khoa học có thể giải thích và chứng minh nhưng vẫn còn nhiều chứng minh đầy dự tưởng. Tâm là linh hồn, chủ thể của những tri giác, suy tưởng, quan niệm và tình cảm của con người mà khoa tâm lý học đang cố gắng giải thích dầu vẫn còn nhiều thiếu sót. - Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả những nỗi sung sướng sự giải thoát của tôi lúc ấy. Tôi thực sự là một thực thể tâm linh, một linh thể cấu tạo bằng tư tưởng và tình cảm, không còn bị trói buộc bởi những chướng ngại của ngục tù thân xác vẫn giam hãm tôi, tức là nhục thể nặng nề bằng xương thịt này. Thoát ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác, tôi giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên không hề mất đi cái ý thức của mình. Thời điểm ấy, ý thức về sự hiện hữu của tôi lại còn đậm đà nồng nhiệt hơn trước. Tôi cảm nhận được rằng việc thoát lên một cõi giới thanh cao hơn đem cho tôi cái cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cõi giới thuộc về chiều đo thứ tư các nhà đạo sĩ đôi khi nói đến. Niềm an tịnh vô biên nào đó đã xâm chiếm lấy tôi cũng như đang tràn ngập bầu không khí nơi phòng cấp cứu dẫu mọi người phía dưới lo âu cuống cuồng. Tâm hồn tôi, trí não tôi, từ lâu bị dày vò bởi phiền muộn, căng thẳng do sự độc đoán của tư tưởng, suy tư, biện luận, nhận định hạn hẹp, lúc ấy hoàn toàn đã được giải thoát. Tôi tự thả trôi theo sự nghỉ ngơi và an tịnh một cách tuyệt diệu không đếm xỉa gì đến cái xác thân dưới đó. - Đọc nơi sách vở, nhà Phật gọi là bản ngã và thân; Ấn học cho rằng đó là tiểu ngã và xác phàm; Kinh Thánh, đặt tên linh hồn và thể xác; Lão học cũng nói đến bản ngã và con người. Tôi suy nghĩ nhiều về sự liên hệ giữa thực thể vô hình, bản ngã đích thực không ai có thể nhìn thấy của tôi tạm gọi là linh hồn và xác thân trong cuộc sống. Cứ theo cảm nghiệm nhận được, những gì chúng ta gọi là tâm lý, lương tâm, lý trí, trí khôn, nhận thức, ý thức đều thuộc về linh hồn. Những hành động, ý nghĩ, suy tư trong cuộc sống không một chút nào dính bén tới xác thân mà ngược lại; xác thân chỉ là công cụ thể hiện hoạt động của linh hồn. Trong khi linh hồn tôi lơ lửng nơi trần nhà, định luật hấp lực đã không còn ảnh hưởng. Hồn tôi phất phơ trên không trung đồng thời nhận thực được rằng thực thể được gọi là tôi không lệ thuộc bất cứ gì nơi trần gian vì nó bất diệt dẫu không ai nhận ra, ngay cả chính tôi từ bao năm qua. Lúc ấy tôi mới có câu trả lời chính xác cho nỗi thao thức từ lâu vì nội tâm đã cảm thấy thiếu thốn một thứ gì không thể diễn tả được. Tôi là một thực thể tâm linh bất diệt, không thể nào chết. Cũng như mọi người, ai cũng là một thực thể tâm linh mà kinh sách gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau tùy thuộc quan niệm nhận thức. Thực thể này hoàn toàn độc lập và là chủ thể chịu trách nhiệm tất cả mọi hành vi, ý nghĩ nơi con người. Như vậy, phần thân xác không phải là chánh phạm hay chủ động của các hành vi, suy tưởng, ý định, mà linh hồn, tâm vô hình, mới thực sự là chủ phạm. Xác thân, trí óc của tôi không thể khởi niệm nếu nói theo nhà Phật. Nó cũng không thể có vọng niệm vì nó đang bất động, sõng xoài dưới những bàn tay y tá, bác sĩ, và những vật dụng y khoa giữa đám bạn lính của tôi mà chưa có được lấy một phản ứng nào trong khi hồn tôi nhận thức cũng như cảm nhận rõ ràng nỗi lòng, ý muốn từng người phía dưới. Xác thân tôi như thế tuyệt đối yên lặng chẳng khác gì dụng cụ y khoa hay những đồ nghề nơi tay người thợ. Nó chẳng qua chỉ là công cụ cho tâm, linh hồn bất diệt được gọi là "tôi." Một điều không thể chối cãi đó là tâm thức của tôi không hề kết hợp với cái nhục thể được gọi là thân này. Dẫu xác phàm của tôi tăng trưởng và thay đổi theo giòng thời gian nhưng linh hồn tôi trước khi sinh ra đã như thế. Nó dùng thân xác liên hệ với cuộc sống hầu phát triển tâm thức cho trưởng thành hơn mà vẫn biệt lập, hoàn toàn không một chút kết hợp chẳng khác gì những bộ áo quần dẫu đẹp đẽ đến mấy, được ưa thích đến mấy đối với mọi người. - Suy rộng hơn, tôi nhận ra thực thể tâm linh, còn được gọi là sự sống, sự hiện hữu, là gốc gác, căn bản, mặc lấy xác phàm. Sự hiện hữu được thể hiện qua mọi hình thức sống động nơi con người, động vật, hay bất động vật nơi cây cối, gỗ đá, cũng như nơi cõi vô hình mà linh hồn tôi hiện hữu. Sự sống, sự hiện hữu hiện diện tràn ngập qua mọi hình thức, trạng thái. Từ hữu thể vô tri giác, bất động đến thực thể tâm linh thức ngộ vì sự hiện hữu không phải là một cái gì bất động. Dẫu sự hiện hữu nơi thế giới hữu hình tuân theo các định luật khoa học nhưng mang tính chất huyền nhiệm sống động và biến chuyển trong thân thể, tư tưởng, tình cảm, ý thức con người. Từ sự nhận thức này, tâm trí tôi đã hoàn toàn thay đổi và trở thành mẫn cảm hơn, cảm nhận được sự mầu nhiệm của sự hiện hữu thường được gọi trong ngôn ngữ hạn hẹp hơn đó là sự sống. Đối với tôi, sự hiện hữu, cội nguồn hiện hữu hay quyền lực hiện hữu hoặc bản thể hiện hữu chính là Thực Thể Tối Thượng đang hiện diện và hoạt động nơi mọi người, mọi vật hữu hình hay vô hình. Như vậy, cõi đời là môi trường, cơ hội, hay phương tiện cho thực thể tâm linh của mỗi người rèn luyện, một trường học hay giai đoạn để cái "ta" đích thực hay linh hồn thăng tiến. Có điều, tôi vẫn chưa cảm nghiệm đích thực được sự liên hệ giữa linh hồn với Thực Thể Tuyệt Đối thế nào dẫu linh hồn cũng như mọi sự mang Thực Thể Hiện Hữu Tuyệt Đối. Thế nên chẳng lạ gì, các kinh sách đều khuyến khích chúng ta nhận thức về điểm quan trọng đầu tiên, phải biết mình là gì và được sinh ra để làm gì. - Xét như vậy, sự chết xác thân là một điều hiển nhiên và cần thiết vì nhờ có sự chết người ta mới ý thức được sự sống. Chết là một điều hiển nhiên vì thân thể, hao mòn theo năm tháng, hư hoại do ảnh hưởng của già lão, bệnh hoạn cần phải được thay thế bằng một thân thể khác mới mẻ và tốt đẹp hơn để linh hồn tiếp tục các kinh nghiệm đã được học hỏi hầu phát triển hơn nữa. Đàng khác, sự học hỏi sắp đặt các kinh nghiệm cấu tạo nên trí thông minh. Nhưng thông minh không phải là nấc tiến cuối cùng trong mức tiến hóa như nhiều người lầm tưởng bởi tâm thức còn phải vượt lên từ vô thức đến ý thức và từ ý thức đến trạng thái ý thức tuyệt đối nơi tất cả mọi hành động, lời nói đến tư tưởng của mình. Từ kinh nghiệm kích ngất tôi nhận rõ ràng sự thể và đó là những ý nghĩ, ước muốn, tham vọng cho đến lời nói, hành động đều phát xuất từ thực thể tâm linh, linh hồn, chứ không phải do thân xác. Ngay như bộ óc, hệ thống thần kinh vẫn chỉ là công cụ thì thân xác cũng không hơn được chi. Thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, cái vỏ nhục thể bên ngoài bao bọc nếu không muốn nói là giam hãm linh hồn bất diệt. Một tử thi không có giá trị gì nếu không muốn nói là chỉ làm phiền người sống. Như vậy, trong trường hợp chết tự nhiên, nghĩa là không phải do tai nạn bất đắc kỳ tử, thì đây là diễn biến của sự chết xác thân. Cái thể xác mệt mỏi, già cỗi đã trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không còn có thể giúp cho linh hồn tiến hóa nữa; đó là lúc cần phải loại bỏ lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật chất (TTHB; Tr.181). Ngày nào người ta ý thức được sự sống bao la mầu nhiệm và khi hiểu được giá trị sự sống thì sự chết chỉ là một hiện tượng tự nhiên, một trạng thái cần thiết không có gì đáng phải e ngại nhưng lại là cơ hội không thể thiếu cho hành trình thăng tiến tâm thức của con người. Từ đó, tôi thực sự nhận được rằng tôi không phải chỉ là cái xác thân theo ngày tháng trở nên già lão, sắp qua đi này mà là linh hồn, một thực thể tâm linh bất diệt. MBVN 07 - Sau này, càng suy luận về thực thể linh hồn, tôi càng nhận ra chúng ta không thể kết luận bừa bãi một cách ngu dốt về ý nghĩa của sự sống qua cái nhìn phiếm diện và giới hạn của một kiếp sống ngắn ngủi mà cần kinh nghiệm nó như một sự tiếp diễn liên tục. Chết không phải là chấm dứt sự sống mà chỉ là một giai đoạn biến chuyển của sự sống cũng như ngày và đêm, sáng và tối. Hơn thế nữa, chết thực sự là cơ hội thăng tiến tâm linh. Xét qua hành trình lịch sử nhân loại hay của vạn vật, sự sống vẫn tồn tại giữa những cơn tàn phá, hủy diệt. Bởi vậy, hẳn là phải có một định luật cao cả hơn định luật hủy hoại trong thiên nhiên. Chỉ có định luật ấy mới đem đến một xã hội có trật tự, điều hòa và mới nói lên được ý nghĩa của cuộc đời. Nếu sự biến chuyển là định luật của đời sống, chúng ta phải thể hiện nó trong cuộc đời hằng ngày. Trong mọi cuộc tranh chấp xung đột, mỗi khi chúng ta phải đương đầu với một địch thủ, hãy chinh phục họ bằng ý thức sự sống vĩnh cửu nơi mình cũng như nơi người. Nhận ra như thế, cuộc đời chính là cơ hội và cũng là ông thầy tâm linh của chúng ta. - Dùng kinh nghiệm khi kích ngất để nhận định những tiến triển khảo sát tâm lý, tôi thấy các nhà bác học về tâm lý chưa dám công khai nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng còn nhiều điều mới lạ mà họ chưa thể hiểu nổi, hoặc đã vì thiếu lương tâm nghề nghiệp không dám bỏ giờ nghiệm chứng, hoặc đôi khi vô tình cảm nhận được thì cũng không dám tuyên bố những điều không phù hợp với quan niệm thông thường bởi không cách nào chứng minh, hay do nỗi e ngại bị đồng nghiệp phản đối ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo nên cũng không dám lên tiếng về những điều chưa được đa số quần chúng chấp nhận. Dù tự do tư tưởng được tôn trọng, các khoa học gia vẫn không dám vượt qua bức màn thiên kiến cố hữu con đẻ của tự ti mặc cảm hoặc quá cao ngạo thành ra tự đóng khung trí tuệ chẳng khác gì kẻ mù bẩm sinh cho rằng không có mặt trời. Họ không dám đả phá các thành kiến cố hữu có thể vì e sợ không được chấp nhận thuộc về hàng ngũ nào đó. Họ e sợ dư luận và bám víu một cách lạm dụng lý thuyết cho rằng những gì chưa được kiểm chứng bởi khoa học thì sẽ không xẩy ra. Có lẽ cũng vì thế mà quan niệm của đa số quần chúng với đời sống vẫn còn là một cái gì mù mờ, không rõ rệt, không mục đích, và cũng không biết sống để làm gì. Người ta chỉ chú trọng đến những lợi lộc phù du, những giá trị vụn vặt nhỏ nhen vật chất ngắn hạn trong thế giới đầy rẫy những thay đổi vô thường, bỏ tiền mua đôi giây phút vui vẻ tạm bợ hầu tạo thêm khoảng trống tâm tư để rồi càng ngày càng chịu gánh nặng cô độc lầm lẫn ám ảnh. Lời cụ Tài điềm đạm, trầm trầm, mang thêm tính chất xót thương khi nói tới nhận thức của những tâm lý và khoa học gia nhận định về sự sống nhưng mang năng lực cuốn hút và thức động thực thể nào đó nơi lòng trí mọi người. - Thưa bác, Tam phá bầu khí nghiêm trọng nặng nề, thế lúc hồn bác lơ lửng trên trần nhà, bác có thấy hình dáng ra sao không? - Lúc đó tôi không để ý chuyện này mà chỉ cảm thấy vui sướng đồng thời thâm cảm tâm tình anh em bạn lính đang cầu nguyện cho tôi nơi phòng cấp cứu. Sau này, tôi cố tra cứu sách vở nói về hình dáng của hồn thì hầu hết những sách báo tra cứu về kinh nghiệm này, đặc biệt nơi những cuốn sách tự thuật nơi hành trình thiền định mật tông đều cho rằng hồn có hình dáng như thân xác của một người nhưng mắt trần không thể nhìn thấy. Tôi có biết một người Mỹ, Công giáo, tên là Bob, bị kích ngất bởi đứng tim và ông ta được cứu sống. Tuy nhiên theo như lời vợ ông ta kể, ngay khi được cứu sống lại, ông ta rất bực bội vì cho rằng họ đã cướp mất sự hạnh phúc mà ông ta vừa đạt tới. Hiện giờ, ông ta rất sùng đạo, tham gia các sinh hoạt của nhà thờ Công giáo nhưng đôi khi phàn nàn về những lời giảng của linh mục là không hợp với kinh nghiệm về tâm linh đã xảy đến với ông. - Thưa bác, ông ấy phàn nàn thế nào? Tùy con chen vô. - Hãy để bác nói tự nhiên! Đang không chen vô mất hứng. - Để tôi trả lời anh Tùy rồi nói tiếp về vụ ông Bob. Thêm vào đó, những gì cảm thấy cần được biết, anh em cứ việc hỏi bởi đôi khi vấn đề được đặt ra không quan trọng với người này lại có thể cần thiết cho người khác. Ông Bob nói rằng có lẽ vì không có cảm nghiệm về thực thể linh hồn một cách rõ ràng, hầu hết các linh mục hoặc mục sư đã không có cảm nghiệm thực sự về Thượng Đế thế nào mà có chăng nói đến Thiên Chúa như một thực thể được nhân cách hóa, duy lý theo suy luận nhân sinh, ngự trị nơi cõi xa xăm nào đó cách biệt với con người, và đặc biệt không phù hợp Phúc Âm. Ông Bob nói với tôi, kể từ ngày ông có cảm nghiệm qua kinh nghiệm chết, đọc Phúc Âm, ông ta hiểu hoàn toàn khác với những gì được giảng dạy. Ông có nỗi thao thức rất mạnh mẽ sao cho mọi người nhận thực được thành phần tâm linh nơi họ. Theo ông, Phúc Âm viết về hành trình của thực thể tâm linh được gọi là linh hồn trong khi người ta cứ hiểu Phúc Âm qua nhãn quan luân lý hoặc tâm tưởng đạo đức. Tôi nghĩ, lý do mà ông nói những điều này với tôi vì khi gặp ông lần thứ hai, tôi kể về chuyện được cứu sống nơi lần kích ngất. Hơn nữa, những gì ông kể về kinh nghiệm chết không có gì đối nghịch với kinh nghiệm của tôi; sự thông cảm có lẽ phát xuất từ điểm này... - Ông Bob nói rằng ông gặp bố và ông nội của ông ta. Người bố đã chết chín năm trước và ông nội đã chết hai mươi bẩy năm. Lúc ấy, ông cảm thấy nỗi an bình tuyệt vời, một trạng thái chưa từng có trong suốt cuộc sống của thân xác ông. Đồng thời ông nhìn thấy một nguồn sáng lạ kỳ, không thể diễn tả mà ông gọi là ánh sáng của đức Kitô kéo ông tới. Cứ theo sự kể lại này thì linh hồn có hình dáng của một người khi còn sống. Anh em có thể đọc thấy nhiều mẫu truyện hay phỏng vấn ghi lại nơi cuốn sách Bí Ẩn về Tiền Kiếp Hậu Kiếp do Đoàn Văn Thông biên soạn. Điểm khác biệt giữa kinh nghiệm của tôi và của ông Bob đó là tôi đã không gặp hồn những người đã chết mà nhận biết rõ ràng mọi biến chuyển nơi phòng cấp cứu khi bác sĩ và y tá giúp tim tôi đập lại cũng như cảm nhận những tấm thịnh tình của anh em bạn lính nhưng không để ý về hình dáng thực thể vô hình của mình. Ông Bob nhận ra bố và ông nội nhưng không biết gì về hoạt cảnh xảy ra nơi phòng cấp cứu. Dẫu cảm nghiệm khác biệt nhưng tựu trung cả hai trường hợp của tôi và ông Bob đều chứng tỏ chúng ta thực sự là những hữu thể vô hình mà thân xác chỉ là công cụ nơi cơ hội có cuộc sống hữu hình để tiếp tục học hỏi và thăng tiến. Đây chính là lý do tại sao tôi không theo bất cứ một tôn giáo nào mà chỉ tìm hiểu về đạo học. Nói chuyện với khá nhiều người, điều khiến tôi ngạc nhiên là sự hiểu biết của họ rất mù mờ về tôn giáo. hoặc chỉ hiểu đại khái về tôn giáo như tổ chức họ phải tùy thuộc nơi cuộc đời này chẳng khác gì một loại bảo hiểm mà giá phải trả là tuân theo luật lệ tôn giáo để hưởng phúc sau khi chết hoặc vì lo sợ bị luận phạt nên cố gắng ép mình ép xác chấp nhận chịu sự khổ đời này hầu tránh phải chịu nơi cuộc sống kế tiếp. Có thể do không muốn hiểu biết nên ít người chịu tìm hiểu về các đạo học do đó thái độ về tâm linh mang phần nào tính chất khoán trắng sự tìm hiểu cho những vị tu sĩ trong khi nghĩ rằng cứ tuân theo những gì các vị đó nói là đã chu toàn trách nhiệm hay bổn phận. Phỏng thái độ này do bởi không có hoặc không muốn biết cảm nghiệm tâm linh chăng. Hơn nữa, các vị giảng thuyết tôn giáo dẫu hiểu lý thuyết nhưng chưa chắc đã thực sự có được những cảm nghiệm tâm linh thì sao họ có thể rao giảng hoặc chỉ bảo cho tín đồ. Ai không biết muốn hết khát phải uống nước; tuy nhiên, lý thuyết về lợi ích của nước và hành động uống nước là hai sự thể khác biệt. Trãi qua những năm tháng tìm hiểu mà vẫn còn nhiều điểm khúc mắc, tôi tự nhủ đành chấp nhận; chẳng hạn lý do gì đã bao ngàn năm con người vẫn chưa nhận ra hoặc không muốn nhận ra mục đích và thực thể tâm linh của mình nơi cuộc sống. Nơi cơ hội cuộc sống, chúng ta học hỏi được gì và cần học hỏi những vấn đề nào thật khó mà phân tích được. Như anh em đã biết, nguyên tắc cốt yếu nơi nhà Phật để nhận ra thực thể tâm linh nơi mình là kiến tính, nhưng muốn kiến tính nào phải dễ dàng chi, ngược lại, nếu ai đã đạt tới mới nhận ra tất cả những công sức cho tiến trình kiến tính thật là vô giá trị nhưng không có chúng không được. Lão học đưa lên câu nói "Không làm gì mà không việc gì là không làm" (LTĐĐK; Tr.96), hay được nói một cách gọn ghẽ, không làm gì là làm tất cả. Nơi Kinh Thánh, Phúc Âm khuyến khích hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mt. 26:41; Mc. 14:38). Ấn học cho rằng xả kỷ là nhân đức quan yếu nhất (CTC; Tr.164). Anh em nhận thấy, dù lối phát biểu thoạt nghe coi bộ khác biệt nhưng thực ra chỉ khác ngôn từ mà đồng một ý nghĩa. Kiến tính chỉ là trực diện tâm thể. Trực diện tâm thể đâu cần suy nghĩ, hoạt động gì thì đâu cần làm gì vẫn đạt tới mục đích tối thượng là nhận chân thực thể nội tại. Tỉnh thức để nhận ra tâm thể, linh hồn, hoàn toàn khác biệt thân xác nơi dòng đời và trực diện tâm thì những gì thuộc về vị kỷ đâu còn thế đứng hay ảnh hưởng. Thế nên, dù xả kỷ, tỉnh thức, không làm gì, hay kiến tính cũng chỉ là một mà được gọi khác nhau. Điều này cũng giống như cùng một vật thể bằng thủy tinh dùng để uống nước, người miền Bắc gọi cái cốc, người miền Nam gọi cái ly. Ấy thế mà ngày xưa vào thời di cư 1954 đã có khá nhiều chuyện rắc rối phát sinh phiền não bởi người gọi cái cốc thì bảo cái ly sai, người gọi cái ly nói cái cốc không đúng! Tôi nghĩ, gọi là ly hay cốc chẳng thành vấn đề, miễn sao có thứ đựng nước uống là được; đây cũng có thể là một trong những lý do giúp tôi tìm hiểu đạo học. - Điểm thực dụng chung các đạo học nêu lên là lòng thương xót, từ bi, bác ái, phục vụ tha nhân. Tuy nhiên, điểm chung này cũng đòi hỏi điều kiện hiểu biết đúng đắn chứ không phải cứ mù mờ nghe sao biết vậy để rồi thực hiện một cách thiếu hiểu biết; coi chừng chẳng những hại người mà hại cả chính mình. Tôi nghĩ, cho dù mục đích của các đạo học chỉ là cố gắng khuyến khích con người nhận thức được thực thể tâm linh mà nơi thực tại cuộc sống rất ít ai đạt tới điểm khởi đầu này. Có lẽ chưa tới thời điểm cho con người nhận ra chăng, hoặc còn có phương cách nào khác mà lúc này vẫn đang là thời gian chuẩn bị. - Bác làm ơn giải thích lý do tại sao được gọi là thời gian chuẩn bị. - Thực ra, bất cứ nhận xét nào được gọi là lý do thì cũng vẫn là suy tư phỏng đoán bởi ngay quý anh chị đang hiện diện nơi đây vẫn chưa chứng nghiệm được thực thể tâm linh nơi mình mà vẫn không biết lý do thì ai có thể nói được lý do chính xác! Tôi muốn nêu lên một bằng chứng cụ thể, nghiệm được hay không tùy mỗi người, đó là nếu ai cảm nhận thực sự mình là thực thể tâm linh, hay linh hồn, tất nhiên, nhãn quan, thái độ, cách sống sẽ hoàn toàn khác biệt với những người chung quanh, và thường bị người đồng thời có nhận xét qua hai chiều hướng thật đối nghịch, hoặc là thái độ tôn trọng, kính phục nhưng cảm thấy rất khó hiểu, hoặc cho rằng đó là một người dị hợm. Thử hỏi, khi nhận ra mình là một thực thể bất diệt, mọi hành vi, thái độ, ngay cả tư tưởng đều ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống tâm linh, ai dám cả gan có những ý nghĩ hay lời nói dự đoán tới người khác phương chi là thái độ hay hành động. Hơn nữa, người thực sự cảm nghiệm được thực thể tâm linh nơi mình sẽ nhận ra dù chỉ là ý nghĩ, tự nó đã mang quyền lực tác thành một thực thể vô hình; phỏng người đó dám khởi xướng bất cứ ý định nào nữa không? Tôi muốn nói thêm, chỉ ai đã đạt đến sự cảm nghiệm này mới có thể hiểu được tại sao nhà Phật nhấn mạnh về vô niệm và đồng thời cũng mới có thể hiểu được giá trị của những câu thần chú, niệm chú, hoặc lời kinh Kim Cang, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh..." (KCGL; Tr.241). Và thế là bàn dân thiên hạ cảm thấy lòng ruột giao động, ngay cả những người không để ý gì đến đạo Phật. Đạo Phật là đạo giải thoát, đức Phật nhập niết bàn để độ chúng sanh thoát khỏi những nỗi khổ ải; xưa nay ai không hiểu như thế! Nếu đức Phật không độ chúng sanh thì ai có thể được giải thoát! Thế mà cụ Tài nêu ngay câu nói nghịch hẳn với quan niệm đạo Phật, chẳng khác gì Hưng. Hình như cảm nhận được điều gì, đôi mắt cụ Tài chợt ánh lên, miệng nhẹ mỉm cười nhưng thái độ vẫn điềm đạm. Đưa mắt rảo qua các gương mặt đang chăm chăm nhìn mình, cụ lên tiếng, - Nhắc tới nửa câu nói của đức Thích Ca nơi kinh Kim Cang, nếu tôi không lầm thì hình như mấy anh em Công giáo cũng có vẻ bất đồng ý! - Thưa bác, Sỹ nhà con nhanh nhẩu, có lẽ vì bác nói đức Phật không độ chúng sinh. - Anh nói rất hợp lý với lối hiểu biết mù mờ về nhà Phật. Câu kinh nói về quyền lực của ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng, tham vọng, thuộc về tâm linh chứ không phải độ trì hay giải thoát con người. Trước hết, kinh sách Phật học không nói đức Thích Ca hay bồ tát giải thoát hoặc cứu độ bất cứ ai mà sự giải thoát phát sinh tự hành giả, do từng người nghiệm chứng phá vòng vô minh đạt tới thức ngộ. Anh em không nhớ tuần trước anh Hưng đã giải thích rồi sao? Tôi nhắc lại câu kinh, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả" (KCGL; Tr.241). Như vậy, còn ý niệm, còn khởi nghĩ thì còn tạo chúng sanh nên không có ý niệm thì không có chúng sanh. Bởi thế, vô niệm tức là không tạo chúng sanh, không tạo nghiệp, nói cách khác tức là độ. Câu kinh thoạt nghe mang nghĩa phiếm diện giải thích cứu độ hoặc giải thoát người khác. Nếu quán tưởng chín chắn hơn, câu kinh nói về quyền lực kiến tạo của ý niệm. - Quý anh em Công giáo có lẽ đã được nghe hay đọc nhiều lần về câu Phúc Âm, "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng..." (Mt. 5:28), hoặc "Phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án..." (Mt. 5:22). Có phải thoạt nghe ai cũng đều cho rằng những câu Phúc Âm này dạy về luân lý phải không? Tôi thử đặt vấn đề, mắc mớ gì Phúc Âm phải răn dạy luân lý trong khi dân tộc nào mà không có nền văn hóa, luân lý, đạo đức riêng? Nếu có dịp, quý anh chị thử đếm xem Phúc Âm được bao nhiêu chữ, Lão học bao nhiêu, Trang Tử, kinh Kim Cang, Viên Giác, Pháp Bảo Đàn Kinh, Chí Tôn Ca, xem mỗi kinh dài ngắn ra sao. Các kinh sách đạo học được viết rất ngắn, rất gọn. Thế mà cũng nơi Phúc Âm, đã bao giờ anh em Công giáo tự đặt vấn đề tại sao câu nói kỳ cục "Ai có tai thì hãy nghe" (Mt. 11:15) lại được thêm vào khiến người mới đọc hay nghe đều cảm thấy thừa thãi, không cần để ý; mà đâu chỉ một lần, những tám lần lập đi lập lại đến độ chối tai. Hai ngàn năm trôi qua, tôi nghĩ, chưa ai dám đặt vấn đề về câu nói thừa nhưng quá ư thâm trầm, u mặc này. - Qua kinh nghiệm thoát chết, tôi nhận thực được linh hồn con người hàm chứa quyền lực vô song. Ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, phát sinh từ linh hồn nên chúng cũng mang quyền lực tác tạo. Nhà Phật nêu lên ý niệm tạo chúng sanh, Phúc Âm nói tức giận anh em thì bị can án, nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã phạm tội ngoại tình trong lòng. Tôi nghĩ, từ nghiệm chứng quyền lực tâm linh này phát sinh sự thực hành thiền, mật tông, điểm đạo, Zen, và các phương thuật mà chúng ta thường gọi là phép lạ. - Thưa bác, Bá lên tiếng, con có mấy câu hỏi cùng một lúc, nếu được, xin bác giải thích thêm. - Anh cứ việc hỏi. - Có câu nói, chúng ta chỉ có thể biết được những gì đã có, đã được sinh ra với chúng. Theo như kinh nghiệm trở về từ cõi chết của bác, câu Phúc Âm "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63) có thể hiểu theo nghĩa nào vì cũng có câu khác nói, "Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí" (Gioan 3:6). Như vậy, nếu nói rằng xác thịt không ích gì thì phương tiện nào cho con người thức ngộ tâm linh? Thêm vào đó những vấn đề bác vừa nhắc tới, tức là sự liên hệ của quyền lực nơi ý nghĩ với thiền, zen, mật tông, điểm đạo, các phương thuật, và nếu cháu không lầm thì cả về thuốc trường sinh nữa. - Sau nhiều ngày tháng suy gẫm về sự thể mà anh gọi là trở về từ cõi chết, tôi nghiệm được một điều đó là linh hồn chịu ảnh hưởng giới hạn chứ không lệ thuộc thân xác. Sự kiện này không khác gì con người chịu ảnh hưởng văn hóa dân tộc, địa dư sinh sống, hoặc nhãn quan tùy thuộc thời điểm tiến hóa. Điển hình hơn, hãy ví thân xác như những dụng cụ thường dùng chẳng hạn chiếc búa đóng đinh. Thay vì đóng đinh chúng ta đập ngay vào ngón tay thì tại búa hay tại người đóng. Đàng khác, tùy đồ vật có thể sử dụng vào nhiều công việc hay ít, người sở hữu đồ vật ấy có nhiều cơ hội hoàn thành những việc theo ý muốn hay không. Tương tự như thế, thân xác chỉ là dụng cụ cho linh hồn trong hành trình tiến hóa tâm linh. Nơi môi trường hay thời điểm thiếu phát triển, tất nhiên hành trình tâm linh bị giới hạn. Ngược lại, anh em thường nghe câu, "Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ." Điều này nói lên thân xác lệ thuộc tâm trạng linh hồn dẫu khi chiếc răng hay bộ phận nào trong cơ thể đau yếu ảnh hưởng sự suy tư của linh hồn. Nói cho đúng, sự ảnh hưởng này chỉ giống như sự trục trặc của thành phần nào đó nơi bộ máy xác thân ngăn cản sự thể hiện hoạt động của linh hồn nơi thế giới hữu hình. - Xét về mối liên hệ giữa linh hồn và thân xác, tất nhiên thân xác rất cần thiết cho sự thăng tiến tâm linh, ít nhất trong giới hạn con người có thể cảm nhận và nghiệm chứng được vì không có thân xác sao chúng ta có thể nói tới tâm linh. Tuy nhiên, đem so sánh hai thực thể, vĩnh cửu và giai đoạn, có lẽ không chỉnh. Đàng khác, dùng biểu tượng hữu vi để bắc cầu nhận thức, thân xác chỉ giống như dụng cụ hoặc tôi tớ của linh hồn nên chúng ta không thể đánh giá linh hồn qua giá trị thân xác. Lẽ đương nhiên, người ta không thể lên án một vị giám mục vì ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm vườn ấy sẽ trở nên một vị thánh chỉ vì y làm tôi tớ cho một vị giám mục (TTHB; Tr.82). Nói như vậy tôi hy vọng có thể giải đáp được phần nào câu Phúc Âm "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì." Trong Phúc Âm còn có câu khác nói về sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác nhưng nếu không để ý nhận thức chín chắn, chẳng dễ chi hiểu nổi. Đó là câu, "Điều tự trong lòng người ta phát sinh ra, điều đó làm cho người ta nhơ uế" (Mc. 7:22). Có lẽ vì được viết nơi phần giải đáp về quan niệm nhơ uế nơi xã hội Do Thái ngày xưa nên câu Phúc Âm chỉ được viết gọn như thế. Quyền lực tác sinh ý định, ước muốn, tham vọng, tự bản thể tâm linh đã bị hiểu lầm là sản phẩm của bộ não, quả là thiếu sót và thấp kém. Câu Phúc Âm "Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí" coi bộ rất thường nên không mấy ai để ý nhưng thực ra không đơn giản chi. Nó nói lên thực trạng phân biệt rõ ràng giới hạn liên hệ giữa linh hồn và thân xác. Linh hồn bất tử nên khi nhục thể của chúng ta già yếu, không giúp ích gì cho hồn thăng tiến được nữa phải bị bỏ đi; đó là sự chết để hồn tiếp tục cơ hội mới trong hành trình thăng tiến. Tôi nghĩ, đây là căn bản cho sự luân hồi xưa nay vẫn bị hiểu một cách sai lầm nơi giới bình dân về đạo học Đông Phương. Có điều, qua sự hiểu biết về những phương pháp thực hành áp dụng quyền lực tâm linh nơi thiền, mật tông, điểm đạo, dẫu tôi không thực hành, tôi xác tín rằng, linh hồn cũng mang quyền lực biến thái xác thân nếu người nào biết sử dụng quyền lực này đúng cách. Phỏng đây là một phần tạo nên nguyên tắc cho sự tìm kiếm thuốc trường sinh bất tử hay không, tôi chưa dám xác quyết. Anh em có thể thử nghiệm năng lực hội tụ của chiếc kính lúp. Dùng kính lúp cho hội tụ ánh sáng mặt trời sẽ phát sinh lửa đốt miếng giấy. Các phương pháp mật tông, thiền, điểm đạo, hay phương thuật sử dụng quyền lực ý định, và sự tưởng tượng hội tụ nơi phương diện nào đó, tất nhiên phát động biến chuyển. Nguyên tắc lý thuyết chính yếu chỉ có thế nhưng áp dụng trong thực hành lại cần rất nhiều điều kiện chẳng hạn thể chất xác thân, ý thức, sự hiểu biết, niềm xác tín của hành giả, cũng như sự chỉ dẫn đúng đắn của vị thầy đã dầy công và hoàn thành thực chứng. Nếu không có đầy đủ những yếu tố quan thiết này, người thử nghiệm vô tình tạo nên hậu quả không thể đo lường được. Có lẽ vì những đặc tính nguy hiểm khó lường của sự thực hành mà những vị chân sư hoặc đạo sĩ đạt đạo đã không ai dám viết thành sách chăng. Sau nhiều suy luận, tôi nghĩ, đây không phải vấn đề ích kỷ mà lại là sự bảo vệ những người hiếu kỳ thiếu ý thức tránh khỏi lầm lỡ lớn lao đáng tiếc. Chẳng hạn những câu thần chú, ai cũng có thể đọc mà sao người thì đạt ước nguyện, kẻ lại không cảm thấy gì; đồng thời có những người dùng thần chú để đạt nguyện ước lại phải đối diện với giá trả không muốn chút nào. - Thưa bác, nếu người áp dụng quyền lực tâm linh vào thực hành không đúng cách sẽ bị hậu quả thế nào? - Nói về hậu quả phát sinh bởi sự thực hành thiền, mật tông, hay điểm đạo, đòi hỏi sự am hiểu quyền lực của ý định, ý nghĩ, ước muốn, nên giới hạn bao gồm nhiều phương diện. Chẳng hạn sự tế lễ hoặc cúng bái, thiền, nếu không có lòng thành, tạm gọi tâm ý, đều trở nên vô ích vì đó chỉ là những hành động của một thân xác vô hồn. Những sự thực hành các phương thức thiền, mật tông, căn bản dựa trên sự sử dụng quyền lực tâm ý. Sự quán tưởng trong mật tông chỉ là dồn mọi năng lực vào sự tưởng tượng. Anh em nên nhớ, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ là hoạt động của linh hồn nên chúng mang quyền lực chứ không phải chúng phát xuất từ bộ óc vì bộ óc hay hệ thống thần kinh chỉ là phương tiện. Hành giả khi thực hành các phương thức phát triển quyền lực nội tại sử dụng chính quyền lực ý nghĩ, ý định hay ước muốn chứ không có gì được gọi là bí mật. Chỉ một điểm khác biệt đó là họ dồn mọi nỗ lực vào một ý định, hoặc một ý niệm thay vì những mơ ước không đích xác như chúng ta thường để tâm trí ao ước mông lung, không rõ rệt. Sự chỉ dẫn thực hành ở cuốn Du Già Lục Pháp của Naropa chứng tỏ rõ điều này nơi những chương quán tính không của thân xác, quán các kinh mạch chính yếu, kiểm soát tinh chất (Tr.40-47). Sự quán tính không, các huyệt đạo trung ương hoặc giọt tinh chất chỉ là dồn mọi năng lực tập trung để tưởng tượng cho tới khi nhìn thấy rõ ràng những hình ảnh được đặt ra nơi mình. Chẳng hạn quán về các huyệt đạo chính, hành giả phải ngồi thiền để tưởng tượng đến khi nào nhìn thấy huyệt đạo trung ương ở trung tâm của cơ thể từ đỉnh đầu nối qua điểm giữa hai lông mày và chạy xuống tới đan điền. Chính sự định tâm tưởng tượng này tạo nên hình ảnh hoàn toàn khác biệt với những gì khoa học phân tích về con người. Tuy nhiên, nói như vậy quá mơ hồ vì chỉ ai thực hành, người ấy mới có thể thực chứng quyền lực tưởng tượng đạt tới kết quả nào. - Thưa bác, như thế, quán tưởng chỉ là tưởng tượng. - Không phải chỉ là sự tưởng tượng suông mà là sử dụng quyền lực tâm linh áp dụng nơi tưởng tượng. Tôi đề nghị, chúng ta không nên bàn thảo thêm về điểm này vì đây là sự thực hành chứ hiểu biết chẳng đem lại ích lợi gì. Sở dĩ tôi nhắc tới chỉ cốt để chứng minh sự tưởng tượng, ý nghĩ, ý định phát xuất từ linh hồn, thực thể tâm linh nơi mỗi người, và như thế, chúng đều mang sẵn quyền lực tâm ý. Quyền lực này là căn bản cho tất cả các phương pháp thực hành mật tông, thiền đại định, điểm đạo, pháp thuật, phù thủy, cũng như sự xuất hồn chu du nơi các cõi giới vô hình hoặc phát triển khả năng sử dụng thần nhãn. Cụ Tài nói một cách xác quyết khiến lòng dạ ai nấy cảm thấy ước muốn biết về phương pháp thực hành để có được quyền năng thần thông nào đó. Tâm lý chung ai không thế, biết chỉ để được gọi là biết chứ không thực biết thành ra muốn biết hết mọi sự. - Thưa bác, Sỹ nhà con nhanh nhẩu chừng như e không nói vội, kẻ khác chuyển đề tài, bác nói thực hành thế nào? - Anh muốn thực hành hay chỉ muốn biết phương pháp thực hành? Và nếu thực hành, anh muốn biết phương pháp đạt tới tâm thức giải thoát, hoặc phát triển năng lực nội tại, hoặc mật tông hay Yoga, điểm đạo, hoặc muốn biết về phương thuật, phù thủy? Thế là chẳng những Sỹ nhà con mà mọi người tham dự bữa tiệc đều cảm thấy bối rối. Họ bối rối vì không biết mình muốn gì dẫu cảm thấy ước ao muốn biết. Đợi ít giây cho mọi người tự cảm nhận, cụ Tài nói tiếp, - Nói chung, chúng ta thường không biết mình muốn gì nên không định tâm rõ ràng nơi bất cứ vấn đề nào. Tôi thử nêu lên một thí dụ. Mọi người đều cần tiền bạc làm phương tiện giúp cho cuộc sống, nhưng tâm chúng ta không thực sự định nơi chủ đích kiếm tiền, và có tiền, nên đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội, đồng thời vì ước muốn lung tung do đó đã nhiều khi hoang phí làm tiêu hao biết bao công sức. Có thể nói, chúng ta muốn tất cả mọi sự cùng một lúc. Chẳng hạn vừa có tiền, vừa có danh, lại muốn có xe đẹp, nhà cao cửa rộng, và nhiều thứ phụ thuộc lắm khi đến độ không cần thiết hay mang hại cho chính bản thân. Lấy đặc tính của tấm kiếng hội tụ để so sánh, nếu chúng ta dồn tâm ý và tất cả năng lực vào một mục đích nơi giai đoạn nào đó trong cuộc đời, có thể nói, mọi ý định sẽ được thực hiện một cách hoàn hảo. Tôi đề nghị anh em nên tự nghiệm thử lòng mình bằng nhiều cách, nếu có thể, cho biết rõ thực sự mình ra sao, muốn gì, quyết tâm thực hiện ước muốn nào và nơi phương diện chi. Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo không lạ gì câu Phúc Âm, "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho" (Mt. 7:7-8). Nếu chúng ta không biết mình thực sự muốn gì thì sao có thể đặt tâm trí vào điều mình muốn. Anh em đã bao nhiêu lần nghe câu "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt. 6:21)! Chỉ cần ít phút tự hỏi câu nói mang ý nghĩa gì nơi cuộc đời mỗi người, chúng ta nhận ra ngay kho tàng tức là ước muốn, ý định, và như thế, ước muốn thực sự ở đâu thì lòng dạ chúng ta luôn để ý về vấn đề đó. Chúng ta đã không hiểu giá trị của đời người, không biết và không chịu tìm biết về chính mình, nên không nhận ra năng lực huyền nhiệm nơi mình. Chúng ta đã chưa thực sự sống dẫu đang mang ơn huệ có được cuộc sống hữu hình. Chúng ta phí phạm dịp may hiếm có bằng cách theo đuổi những ý thích nhất thời, thiển cận, nên không tự tìm hiểu về bản thể chính mình. Tôi thử hỏi anh em, lý do gì Kinh Thánh viết câu, "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:23-24). Mỗi lần nghĩ đến câu này tôi vẫn cảm thấy nhột nhạt vì mình vẫn còn quá mê muội dẫu tôi không theo đạo Công giáo. - Tôi nói thật lòng từ suy tư dựa trên những điều hiểu biết về đạo học; xin anh em Thiên Chúa giáo đừng chấp nhất; đó là kỳ mới đọc Phúc Âm, tôi thường có ý nghĩ coi thường những người Công giáo bởi họ đã dùng các ngôn từ "người ngoại giáo" hay "kẻ ngoại đạo." Sở dĩ tôi đã có ý nghĩ này vì Phúc Âm của họ nói về quyền lực tâm linh vô song mà khi nói chuyện với họ, tôi thấy họ vẫn mù mờ không chịu hiểu biết, ngược lại chỉ nghe sao chấp nhận như vậy và lập lại chẳng khác gì con vẹt rồi cho rằng những ai không tin tưởng giống họ thì sẽ bị phạt sa hỏa ngục. Tôi thấy điều tin tưởng của họ mang nhiều điểm trái nghịch với Phúc Âm; không những thế, bởi chẳng hiểu gì về thực thể được họ gọi là Thiên Chúa hay linh hồn nơi chính họ, quan niệm tâm linh của họ chứng tỏ họ quá coi thường Thiên Chúa mà vẫn không nhận biết. Thử hỏi, nếu con người chỉ có một kiếp sống duy nhất thì mục đích của cuộc đời là gì? Phải chăng chúng ta sinh ra để rồi chết? Không lẽ kiếp sống ngắn ngủi lại quan trọng đến nỗi chỉ phạm một lầm lỗi thôi cũng bị đầy đọa xuống địa ngục vĩnh viễn? Không lẽ một Thiên Chúa công bình và thương xót lại có thể khắc nghiệt như vậy sao? - Đàng khác, nếu con người chỉ có một kiếp sống thì tại sao họ lại không giống nhau, người được sinh ra thông minh; kẻ lại khù khờ; người này may mắn, kẻ khác bất hạnh? Ai đã quyết định về tính nết con người? Ai đã ban cho người này một sức lực khỏe mạnh và kẻ khác một thân thể tật nguyền? Nếu con người chỉ có một kiếp sống duy nhất thì chúng ta giải thích thế nào về hiện tượng thần đồng (ĐMQXT; Tr.129)? Lý do gì giải thích sự kiện văn hào Voltaire thuộc lòng tất cả những bài ngụ ngôn của La Fontaine từ năm lên ba, bắt đầu viết sách khi vừa lên trung học; Pascal chứng minh những bài toán phức tạp khi lên tám, và soạn sách giáo khoa khi chưa đầy mười bốn tuổi (ĐMQXT; Tr.131). Về điểm này, chỉ có một giải đáp duy nhất mà các đạo học Đông Phương gọi là luân hồi, sự thay đổi thân xác qua nhiều kiếp sống của linh hồn mà Phúc Âm gọi là thần khí. Tôi nghĩ chúng ta phải nhận định rõ ràng như thế mới có thể hiểu được ý nghĩa của câu "Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì." Thân xác thay đổi và là những cơ hội, môi trường cho linh hồn vĩnh cửu tiếp tục thăng tiến. Đây cũng là điểm mà nhà Phật nói, "Không biết bổn tâm học pháp vô ích," hoặc "Không biết tự thân cũng chẳng thể nào học đạo" (VNVT; Tr.93). Hơn nữa, tất cả các bằng chứng của cuộc sống đều đưa đến kết luận; có một yếu tố nào đó sắp đặt sự cấu tạo nên con người, một yếu tố vượt xa sự suy luận của toán học, ra ngoài tầm phán đoán của lý luận, và không thể giải thích bằng những công thức, định luật của khoa học thực nghiệm (ĐMQXT; Tr.131). - Đọc sách báo, anh em thấy được viết về nhiều trường hợp có những người nhớ lại tiền kiếp, hay phục hồi các kinh nghiệm học hỏi từ kiếp trước, vẫn xảy ra khắp nơi, không phân biệt vị trí hay địa dư, phong tục, tập quán. Phật tính, tâm Phật, tâm bất sinh, tánh linh giác, tự tính, tiểu ngã, linh hồn bất tử, Thượng Đế nội tại, hay thần khí đang hoạt động nơi những thân xác con người, và quyền lực nội tại cũng từ đây phát sinh và được thể hiện qua nhiều hình thức. Những sự kiện này, nếu đem so sánh nơi kinh sách đạo học, minh chứng rõ ràng chúng ta thường hiểu lầm về thực thể con người của mình. Nói cho đúng, tôi may mắn trải qua kinh nghiệm kích ngất nên nghiệm chứng được thành phần tâm linh là chủ thể cuộc đời một người. - Đến khi tìm hiểu về khoa huyền môn và lễ điểm đạo Ai Cập tôi mới mường tưởng được phần nào. Quả thật, cũng tội nghiệp cho những người không dám suy tư, không dám sử dụng nguồn năng lực sẵn có nơi mình để thăng tiến tâm linh, nên đã trở thành nô lệ cho những giáo điều một chiều không sao thoát ra được. Trước Công Nguyên nơi thời đại cổ Ai Cập, đã có những vị chân sư nghiệm chứng được sự bất diệt và có một đời sống của linh hồn sau khi xác thân chết. Thế nên họ dạy dân chúng, khi con người bắt đầu bước vào cuộc sống mới đó, những đấng thần minh phân xử linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y đã làm trong lúc ở dương gian. Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích đáng, người hiền sẽ được vào cảnh thiên đàng hưởng hạnh phúc và hợp nhứt với Osiris (ACHB; Tr.108), thủy tổ của Huyền môn Ai Cập. Những điều này khá thích hợp với quần chúng, và đem đến cho những tâm hồn chất phác viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng; đồng thời cũng phần nào giúp cho họ có được đời sống luân lý tập thể khá hơn. Theo những gì tôi được biết, ngày xưa, với trình độ dân chúng đơn sơ, người ta không giảng dạy những lý thuyết hoặc tâm lý hay triết lý thâm sâu vì có thể chỉ làm cho những đầu óc đơn sơ thêm bối rối. Nếu tôi không lầm, có lẽ quan niệm hưởng phúc thiên đàng được phổ biến từ đó nên đã phát sinh những câu chuyện huyền thoại, vừa gợi ý cho những tâm hồn muốn hiểu biết, lại vừa ngăn chặn những kẻ chưa đủ tâm đức lạm dụng khoa huyền môn thỏa mãn ý đồ thấp kém. Đây cũng là lý do nhắc nhở chúng ta không nên coi thường những huyền thoại mang đầy tính chất hoang đường hoặc những câu chuyện ngụ ngôn bình dân vì phần nào chúng hàm xúc một ẩn ý hợp lý, và chứa đựng chân lý thâm sâu nào đó. - Thưa bác, sở dĩ con người có tự do để quyết định hành động nên phải chịu trách nhiệm của mình. Nếu nói rằng mọi ý định, suy tư, hoặc quyết định đều do linh hồn, tâm Phật, thì thân xác đâu phải chịu trách nhiệm gì! - Anh khá thông minh! Anh muốn nói nếu hồn chịu trách nhiệm thì thân xác không bị tù tội hoặc bất cứ ảnh hưởng liên hệ nào phải không? Cùng đồng luận điệu này, bởi con người không thể kiến tạo nhà tù, hay bất cứ sự trừng phạt đối với linh hồn linh thiêng, nên con người tha hồ muốn làm gì thì làm hay sao? Hãy xét về những mối liên hệ nhân sinh, những tình cảm, niềm tin, ảnh hưởng thế nào đến một người khi so sánh với luật lệ nơi cuộc sống anh sẽ thấy. Có những điều không luật lệ nào nói tới nhưng đã trói buộc anh bao nhiêu năm tháng; phỏng anh giải thích ra sao? Suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ nhận thấy, luật lệ được đặt ra vì lợi ích cho con người trong liên hệ cuộc sống đồng thời ngăn cản những sự lạm dụng mà thôi. Anh em thử nhớ lại, chỉ một lời nói vô tình ai đó xúc phạm đến mình đã bao nhiêu năm sao vẫn còn ảnh hưởng tới thái độ hay tâm tình của mình đối với người ấy. Hoặc vì vô ý nói câu nào đó không kịp suy đụng chạm đến người khác, bao nhiêu năm rồi mình vẫn cảm thấy áy náy, ăn năn thì luật lệ nào có quyền trên sự ăn năn này? Luật lệ, luân lý, phong hóa, do con người kiến tạo vì lợi ích của cuộc sống liên hệ nơi xã hội, nhưng vì nhận thức tâm linh còn quá ấu trĩ, nên con người vẫn còn bị trói buộc trong vòng vô minh. Luật lệ, luân lý chẳng khác gì một loại kham đóng hàm và miếng da che phần nào mắt con ngựa cho khỏi bạ đâu gặm đó hoặc xông xáo bất kham. Tôi thử hỏi, nhà tù giam giữ thân xác nhưng lấy gì giam giữ linh hồn bất diệt? Hơn nữa, đặt vấn đề và suy nghĩ chín chắn, chúng ta thấy, ngay như các liên hệ tình cảm vợ chồng, con cái chỉ có tính cách giới hạn trong một kiếp sống. Sợi dây thân ái mà chúng ta tưởng bền vững lâu dài thật ra chỉ có tính cách tương đối; bởi sự chết xóa bỏ những liên hệ tình cảm, kỷ niệm một kiếp người; vì những điều đó chỉ có giá trị giúp hồn con người học hỏi, kinh nghiệm mà thôi. Chúng chỉ đóng vai trò như một cuốn sách giúp học sinh thu tập kiến thức, một cái đò đưa người ta qua sông, và khi hồn đã đạt được mục đích là kinh nghiệm và phát triển những khả năng nào đó nơi cuộc sống, hoặc đã qua thời hạn mà vẫn chưa đạt được gì, những phương tiện này không còn giá trị gì khác và phải được xóa bỏ (ĐMQXT; Tr.128). Nhận định như thế mới có thể giải thích được hiện tượng thần đồng vì thần đồng không phải là người từ trên trời rơi xuống mà chỉ là kết quả của nhiều kiếp sống không ngừng học hỏi (ĐMQXT; Tr.130). Như vậy, dẫu trách nhiệm thuộc về linh hồn, tự tính bất diệt thì những luật lệ, luân lý, nhà tù, chỉ là những phương tiện giới hạn; chẳng khác gì công cụ được thiết lập giúp những tâm hồn thiếu ý thức tránh làm phương hại không những chính họ mà còn ảnh hưởng tới người khác. Tuy nhiên, suy đi cũng phải nghĩ lại, luân lý, hay luật lệ xã hội thay đổi tùy theo chiều hướng quan niệm tùy thời và tùy nơi. Anh em đã bao giờ nghe câu nói, "Thiết câu giả tru, thiết quốc giả hầu" (TTTH; Tr.93)? Ăn trộm một cái đai lưng thì bị tội tử hình, còn cướp cả nước của người ta thì được làm vua một chư hầu (Trang Tử)! Thực thể cuộc đời minh chứng, biết đâu những lỗi lầm, tai họa, hoặc bị vạ nọ, tật kia, lại là những cơ hội hay bài học phải xảy đến và phải như thế; người trong cuộc mới có thể học được những điều cần phải học nơi kiếp sống! Như vậy, con người chỉ có tự do thăng tiến một cách ý thức mà thôi. Nơi trường hợp vẫn còn luẩn quẩn trong vòng vô minh thì thực thể được gọi là tự do lại chẳng tự do chút nào, mà chính là nô lệ, bởi vẫn còn bị ảnh hưởng quá nặng nề ham muốn thế tục không thể nào vượt thoát được. - Thưa bác, tại sao không thoát được? - Chúng ta thừa kinh nghiệm để nhận biết rõ ràng khi một người đeo kiếng râm (kiếng mát), tất nhiên họ nhìn thấy mọi sự đều mang màu sắc tối hơn. Cũng đồng một thể như thế, những quan niệm, suy tư giới hạn ảnh hưởng nhận thức của con người tạo nên lối nhìn chật hẹp một chiều nhất là đối với những ai e sợ hoặc lười lĩnh không dám suy tư. Tôi thử đề nghị anh em nhắm mắt lại vài giây xem thế nào. - Thưa bác, nhắm mắt lẽ đương nhiên sẽ thấy tối hù. - Anh nhận thấy tối hù hay anh nói theo ai đó đã bảo anh rằng nhắm mắt sẽ thấy tối hù? Khi nhắm mắt, bởi không nhìn thấy sự vật chung quanh chúng ta quen thói cho rằng tối hù. Nhưng nếu để ý, đâu phải tối hù mà có những điểm sáng và tối lẫn lộn không phân biệt được. Sự nhận thức hay nhận định thực thể con người cũng bị ảnh hưởng bởi những thói quen in trí tương tự như thế. Ai dám đặt lại mọi vấn đề và tìm hiểu, nghiệm chứng chúng như chưa từng bao giờ nghe nói hay chưa biết thì sẽ nhận thức được nhiều điều mới lạ cả thể. Chẳng hạn, chúng ta nghe các nhà học thức nói giấc mơ là một hiện tượng tâm lý và nô lệ chấp nhận lời giải thích ấy để rồi không bao giờ đặt vấn đề phát triển thực thể khả năng nhìn trong giấc mơ. Thêm vào đó, mượn thành ngữ "nhân danh khoa học," nếu không thể giải thích điều gì, chúng ta thường quen thói phủ nhận ngay rằng điều đó không có thật. Nếu đầu óc lý luận dựa hơi khoa học hoặc không thể chấp nhận hay lười suy tư về một vấn đề gì, chúng ta cũng vội lên án ngay rằng đó chỉ là một sự tưởng tượng, và nhiều khi tệ hơn nữa, dám cả gan chụp mũ người khát khao tìm hiểu bằng những danh hiệu bất xứng, đã chẳng giúp gì cho họ mà chỉ càng chứng tỏ bộ lòng ruột tự khinh khi. Xét về giấc mơ, tôi nhớ rõ mấy câu giải thích của lạt ma Lobsang Rampa nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí, "Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô hình bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hề hay biết; còn các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể xuất hồn đi châu du khắp mọi nơi tùy ý muốn; nhờ đó họ có thể nhớ rõ tất cả những gì họ đã thấy và làm, cùng những nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này đã mất đi ở Phương Tây; bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người tin rằng họ đã trải qua một giấc mộng (TTHB; Tr.171). Tất cả các xứ đều biết về việc đi châu du bằng thể vía. Ở Anh quốc, những nữ phù thủy đã từng nổi tiếng là biết bay. Ở khắp nơi trên thế giới, người ta đã từng biết về những vấn đề này, dẫu rằng sự hiểu biết này đã mai một với thời gian và đã mất đi trong ký ức loài người. Người ta đã tập luyện "cho tôi" có thể xuất hồn đi ngao du trên các cảnh giới vô hình, như vậy thì phép ngao du bằng thể vía cũng ở trong tầm tay của tất cả mọi người" (TTHB; Tr.171-172). - Thưa bác, nếu giấc mơ là thực thể của hồn thoát ra khỏi thể xác trong giấc ngủ tại sao cháu chưa bao giờ nhìn thấy thân xác của chính mình trong lúc hồn thoát ra đi chu du hay khi về nhập trở lại. - Tôi không thể trả lời chính xác câu hỏi này. Tuy nhiên, có thể bởi hồn chúng ta đã quá quen với thân xác của mình nên không để ý chăng. Vì thực ra, ngoại trừ lần kích ngất, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ thử tưởng tượng hình dáng mình thế nào trong giấc ngủ. Theo lạt ma Lobsang Rampa, thoát hồn chu du nơi cõi vô hình và ý thức được diễn tiến của hành trình là một sự kiện vừa tầm khả năng của hầu hết mọi người với điều kiện phải có một sự luyện tập thích nghi. Tuy nhiên, vào thời điểm mới bắt đầu luyện tập, họ cần phải sống biệt lập ở một nơi vắng vẻ không bị ai làm phiền một cách bất ngờ. Thêm vào đó, họ cũng cần được chỉ dẫn bởi một vị đạo sư lão luyện để tránh những sự hoang mang, sửng sốt. Sở dĩ tôi không luyện tập vì tim tôi bị yếu, lỡ bị xúc động quá trong thời gian đầu hoặc ai đó vô tình náo động làm ngưng trệ lúc tập luyện, tim tôi yếu có thể chết bất đắc kỳ tử. Đàng khác, nếu chết bất đắc kỳ tử theo như những lời dặn bảo nơi sách vở, hồn tôi sẽ bị đầu thai ngay lập tức để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn trước khi bước qua giai đoạn kế tiếp nơi hành trình tiến hóa. Nói về sự chu du của hồn con người khi ngủ, anh em có lẽ đã nghe nói khi một người ngủ mệt mà kẻ khác lấy nhọ nồi bôi vào mặt, lúc thức dậy, người đó sẽ bị ú ớ vài giây trước khi thực sự thức giấc. Có người giải thích đó là tình trạng khi hồn trở về thấy khác lạ nên ngỡ ngàng. Điều này xảy ra nhưng đúng hay không tôi chưa bao giờ để ý. Có điều anh em nên biết, đó là chỉ những ai dành thời giờ tu chứng mới thực sự nghiệm được rõ ràng bản thể mình thế nào, và kết quả của sự nghiệm chứng lại tùy thuộc căn cơ của chính người tu chứng. Tôi không biết dùng cách nào hoặc diễn giải ra sao để có thể tổng hợp tất cả những quan niệm hay nhận định được viết nơi kinh sách vì những cảm nghiệm tu chứng lại lệ thuộc quan niệm của chính người tu chứng về bản thể tối thượng nơi mình. Chẳng hạn, mặc dầu Phật học không quan niệm sự hiện hữu của linh hồn hoặc một thể nào trường tồn bất biến, nhưng đa số người Tây Tạng vẫn tin tưởng rằng có một bản ngã di chuyển từ kiếp sống này qua kiếp sống khác ví như con người cởi bỏ các bộ quần áo cũ để mặc bộ đồ mới. Nếu giải thích giản dị như thế thì tất cả mọi người đều là hóa thân của chính bản ngã của họ, trôi nổi từ kiếp này qua kiếp khác (HTTT; Tr.119-120). - Thưa bác, nếu hồn tách biệt với thân xác hoặc là một với thân xác thì cảm nghiệm của bất cứ ai đối với hồn cũng như nhau sao có thể bị lệ thuộc bởi quan niệm cá nhân. - Tôi đã giải thích nhưng có lẽ anh em không để ý. Quan niệm ảnh hưởng con người chẳng khác gì tấm kiếng màu ảnh hưởng đôi mắt. Thế nên muốn nhìn rõ ràng màu sắc sự vật, chúng ta không nên dùng kiếng màu. Tuy nhiên, cũng có những người vì lý do vật lý nào đó ảnh hưởng cặp mắt hoặc mắt kém không nhận được màu sắc chính xác như người khác. Có thể đây cũng là lý do đức Thích Ca đã phải lên tiếng không chấp nhận những kẻ tin vào lời ngài nói mà họ cần thực chứng (PHTH; Tr.56). Đâu phải vô lý mà câu "Lời ta nói như chiếc bè" lại có thế giá dẫn đàng nghiệm chứng nơi Phật học. Đọc nơi Phúc Âm, mấy anh em Công giáo gọi là lời Chúa, có những câu, "Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ" (Mt. 9:17), "Không lấy vải mới vá áo cũ" (Mt. 9:16), "Kẻ nào vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62), hoặc, "Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn ta ắt không xứng với ta" (Mt. 10:37-38). Lời Chúa mắc mớ gì tới rượu, áo cũ, áo mới, chiếc cày. Đàng khác, chẳng lẽ đức Giêsu đến để phá bỏ tình yêu thương gia đình, ruột thịt hay sao mà muốn con người yêu ngài hơn? Để ý suy nghiệm, nếu thay thế quan niệm hoặc những lời dẫn giải vào vị trí của chiếc bè, rượu, vải, áo, chiếc cày, hoặc cha mẹ, con cái, chúng ta thấy rõ, các đạo học đều đòi hỏi con người cần bỏ quan niệm cũ để có lối nhận thức chính xác chẳng khác gì bỏ cặp kiếng màu khi mình muốn nhìn màu sắc sự vật rõ ràng hơn. Bởi đó, tôi nghĩ, những nhận định hay các lối giãi bày cảm nghiệm tu chứng vẫn còn bị lệ thuộc nặng nề quan niệm cá nhân hoặc tông phái đạo học. Điều này đòi hỏi chúng ta cần có nhận định phân biệt sao cho khỏi bị vướng mắc nơi ngôn từ hay văn tự của các bậc tu chứng. - Xét về phương diện thăng tiến tâm linh, dẫu cho con người noi theo đường tiến hóa, chúng ta cũng phải chịu lệ thuộc những định luật về vật chất hay tinh thần vì chúng ta có thân xác hữu hình. Hơn nữa, hình thái là cần thiết, vì nó là phương tiện nơi cơ hội, chứa đựng, và nối kết các phẩm chất khác nhau. Tình cảm cũng cần thiết, vì nó tạo ra sự hòa hiệp giữa các chiều hướng giống như độ nóng của lửa nung chảy các kim loại khác nhau, trộn lẫn chúng thành một bản vị mới thuần nhất, đồng đều. Trong lúc ấy thì ý niệm là chất liệu, năng lực nguyên sơ bị thức động bởi tất cả các yếu tố trong tâm người khi chúng nó kéo các lực tiềm ẩn ra khỏi vị thế của chúng. Anh em nên hiểu, ý niệm tôi muốn nói đó là ý định, ước muốn thực sự, một động lực sáng tạo hoặc là một kinh nghiệm sống động mang quyền lực hiện hữu rất ít khi chúng ta nhận thực được bản thể quyền lực này dẫu chúng ta đã sẵn có. Chúng ta có hình hài, bản năng, cảm giác, tư tưởng, ý nghĩ. Tất cả lớp thể chất đó đều là những lớp bụi dầy khiến con người khó thể làm sáng tỏ được cái nguồn tinh lực uyên nguyên của mình. Vậy phải làm thế nào để thức giác con người đạt tới chỗ viên giác đại ngộ (TTÂĐ; Tr.240) thì chúng ta sẽ sử dụng được nguồn quyền lực tiềm ẩn này. Nhận định như vậy, anh em mới có thể hiểu, tôi muốn nói hiểu chứ chưa dám nói đến thực hành, đúng mức câu nói của đức Giêsu, "Kẻ nào tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Như vậy, thân xác chúng ta mặc dù dễ hư hoại nhưng lại là thánh điện của các lực và đồng thời là phương tiện cũng như chốn tập trung các sự thành tựu tâm linh cao siêu nhất. Thế nên, một khi chúng ta còn nhàm chán thân thể, tức là chúng ta chưa nhận thức cũng như ngự trị được nó. Nói vậy có nghĩa chúng ta chưa nhận ra được cuộc sống hữu hình là cơ hội thức ngộ độc nhất vô nhị. - Thưa bác, tại sao bác nói chúng ta đã có sẵn quyền lực hiện hữu? - Hỏi như thế có lẽ anh Tùy vẫn bị ảnh hưởng bởi quan niệm có một Đấng Sáng Tạo hữu thể ban phát tất cả mọi sự hiện hữu, sự sống cho muôn vật, muôn loài. Điều tôi muốn nói đó là trước khi chúng ta có thể nghĩ tới sự hiện hữu thì đã có sự hiện hữu vì nếu chúng ta không hiện hữu sao có thể nhận biết sự hiện hữu. Thứ đến, phỏng ý nghĩ phát sinh câu hỏi của anh do đấng nào ban cho? Ý nghĩ, câu hỏi, là những sự hiện hữu. Từ kinh nghiệm kích ngất, tôi nhận ra được ý nghĩ không phát sinh từ não bộ mà từ bản thể linh thiêng tạm gọi là hồn hay tự tính. Anh em kinh nghiệm thường ngày nhưng không để ý đó là ý nghĩ ảnh hưởng toàn bộ con người. Chẳng hạn, khi nghe tin tức nào đó, chúng ta cảm thấy tâm thần giao động, nhịp tim đập mạnh hơn và có thể khiến chúng ta bối rối, khùng lên. Nhận ra như thế, có thể nói, tất cả những gì có tính năng lực vận chuyển, có động lực, gây ra các sự thay đổi và biến chuyển thì nó hiển lộ thực tính của sinh lực. Tất cả các đặc sắc về phương diện thể chất hay tinh thần, tất cả các vật lực và tâm lực, từ các chức năng hô hấp, tuần hoàn, hay thuộc hệ thần kinh cho đến các chức năng của tâm thức, của tư tưởng, và tất cả các hoạt động cao siêu của tinh thần đều là hình thức biểu lộ của sinh lực (MGTT; Tr.186). Đây là một trong những nguyên tắc chính yếu được áp dụng nơi Yoga Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng. Nguyên tắc lý thuyết rất đơn giản, đó là, cũng một sinh lực nhưng nó không những chỉ chịu sự biến đổi thường xuyên; mà nó cũng có thể dùng nhiều cách lưu chuyển khác nhau, không hề gián đoạn chẳng khác gì giòng điện có thể chạy trong dây dẫn và cũng có thể không dây dẫn như những làn sóng. Giòng tâm lực cũng vậy, nó có thể dùng hơi thở, máu, dây thần kinh, và trong trường hợp có cường độ đủ mạnh, nó có thể không cần các phương tiện ấy, hay thoát qua bên kia các phương tiện ấy lan truyền ra ngoài không gian và tác động qua những khoảng cách vô hạn (MGTT; Tr.196). Phương tiện tâm linh của giòng sinh lực này chính là ý định, ước muốn, ước mơ, hoặc niềm tin, đức tin, tùy trường hợp được sử dụng. Nói cách khác, đó là ý định sử dụng quyền lực tâm linh, quyền lực sáng tạo, quyền lực hiện hữu được áp dụng nơi sự tưởng tượng khi tham thiền hoặc sử dụng phương thuật, huyền môn, mật tông, Yoga, Zen. - Thưa bác, Tùy con lên tiếng. - Anh để tôi nói hết rồi hãy hỏi. Theo nhận định của những người Tây phương thì não bộ là trung khu duy nhất của tâm thức. Kinh nghiệm Yoga Ấn Độ lại chứng tỏ rằng tri thức thuộc não bộ của chúng ta chỉ là một sự kiện riêng biệt trong số nhiều hình thái tri thức khả hữu. Các hình thái này tùy theo chức năng hay tính cách của chúng có thể được qui tụ hay tập trung tại nhiều cơ quan khác nhau của thân xác. Các cơ quan này ở dọc theo trục thẳng đứng của thân, tập hợp, biến đổi và phân phối các giòng năng lực. Những cơ quan này được gọi là trung khu tâm lực, từ đó tỏa ra nhiều dòng sinh lực phụ, đồng thời lại đem trở về trung khu, giống như các căm bánh xe hay cây kèo dù. Các trung khu tâm lực này là các điểm trong đó năng lực thuộc tâm và năng lực thuộc thân giao hòa và thâm nhập nhau. Nơi các điểm đó, tâm và thân lực biến đổi thành năng lực nội tại. Các đạo sĩ Yoga cho rằng trung khu tâm hồn ở tại nơi mà ngoại giới và nội tâm tiếp xúc nhau. Khi chúng xâm nhập nhau thì có những điểm tương xâm ở mỗi bên. Vậy chúng ta có thể nói rằng: ở mỗi điểm mà chúng ta ý thức được sự tương xâm ấy là trung khu của tâm hồn, và khi chúng ta kêu gọi các trung khu khác nhau trở vào hoạt động, ấy là chúng ta kích thích, linh tính hóa và biến đổi thân ta (MGTT; Tr.181). Bởi vậy, đối với quan niệm Yoga, thân thể là công cụ hay phương tiện và cơ hội thực hiện trọn vẹn định luật chân thực về chơn tính của con người. Anh Tùy, anh muốn hỏi gì? - Thưa bác, sao các tôn giáo chỉ dạy con người gồm có thân xác và linh hồn, đại khái bao gồm phần thể chất và linh tính. - Anh quên rằng đã mấy lần chúng ta nói tới tôn giáo chỉ là phương thức giãi bày niềm khát vọng tâm linh sao. Nói theo nghĩa bao quát và lấy tôn giáo làm chuẩn thì tôn giáo nào cũng được chia làm hai phần công truyền và bí truyền. Phần công truyền hay hiển giáo được đề cập rõ rệt trong các kinh điển, sách vở, các bộ luật và luận nhưng phần bí truyền hay mật giáo chỉ được truyền dạy cho một thiểu số chọn lọc trong vòng bí mật. Các kinh điển chỉ đề cập đến phần bí truyền một cách hết sức lờ mờ, không rõ rệt nếu không muốn nói là được viết theo ẩn ý nghiệm chứng. Bởi vậy, người ta chỉ có thể học hỏi qua hình thức khẩu truyền với các bậc thực sự tu chứng và nếu không gặp được bậc thầy như thế chỉ còn cách tự nghiệm chứng. Lý do các bậc đạt đạo không truyền dạy công khai vì chân lý không phải điều để mang ra tuyên bố một cách ồn ào, hời hợt trên đầu môi chót lưỡi, nhưng là một thứ mà người ta chỉ có thể chứng nghiệm được mà thôi. Đây chính là thực chứng của câu nói nơi Lão học, "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Ngôn ngữ không thể diễn tả những sự kiện tuyệt đối này, và không phải ai cũng có kinh nghiệm như nhau. Thực ra, tùy căn cơ nhận thức mà người ta nghiệm được một cách khác nhau, đôi lúc điều người ta tưởng như là một chân lý vĩnh cửu lại chỉ là một ảo ảnh, một hư vọng của tâm thức, tưởng như thật nhưng chỉ thật một nửa. Có khi đứng trước một sự thật, người ta đâm ra bàng hoàng sợ hãi mà không dám nhìn thẳng vào đó, không dám đối đầu với nó bởi không dám đặt câu hỏi nghịch luận. Bình thường, chúng ta chỉ thích nghe, thích thấy những gì hợp với điều mong ước của mình hầu được an tâm chứ không muốn nhìn thẳng vào thực thể sự việc. Có phải vừa mới nghe tôi lặp lại câu nói "Người biết không nói, kẻ nói không biết" anh em đã cảm thấy chướng tai rồi không? Đó cũng là lý do các bậc tu chứng ít xuất hiện và chỉ dậy dỗ cho một thiểu số người thiết tha cầu đạo, có căn cơ nhận thức vững chắc, sau khi đã vượt qua các thử thách để xứng đáng nhận lãnh các tinh hoa này (ĐMQXT; Tr.85). Đàng khác, điều khó nhất vẫn là những quan niệm khác biệt ngự trị và chi phối mạnh mẽ nhận thức hành giả tùy từng mức độ nên đã phát sinh nhiều tông phái khác nhau. - Thưa bác, tại sao người nói lại không biết. - Chịu khó đọc kinh sách và suy nghĩ để nghiệm chứng, anh em sẽ gặp nhan nhản những câu nói nghịch lý tương tự như thế. Để tôi nêu lên kinh nghiệm thực tế anh em đều biết thay vì giải thích. Anh yêu thương vợ con anh nhưng phỏng anh có thể giải thích bằng bất cứ cách nào cho ai đó thực sự thương chị ấy và các cháu như anh được không. Đây chính là ý nghĩa câu "Người biết không nói." Đàng khác, giả sử anh cố ý giải thích, biện luận để minh chứng lòng yêu thương của anh ngay cả đối với chính chị ấy thì càng minh chứng, chỉ càng khiến chị ấy hiểu lầm chẳng khác gì "Kẻ nói không biết." Nơi cảm nghiệm thực chứng đạo học cũng thế. Nếu tôi không lầm thì anh Hưng đã nói, "Ông chứng, ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo" chẳng khác gì anh diễn giải lòng yêu thương vợ con cho bất cứ ai. - Thưa bác, tại sao bác nói chúng ta không dám đặt câu hỏi nghịch luận cũng như không dám đối đầu với sự thật. Cháu nghĩ, ... - Tôi thử nên lên một trường hợp với điều kiện những anh em theo Thiên Chúa giáo nên bình tĩnh nhận định trước khi có ý kiến. Có phải tất cả những người theo Thiên Chúa giáo, dù Tin Lành, Công giáo, Anh giáo, đều thực sự tin tưởng và tuyên xưng rằng Đức Giêsu xuống thế để chết vì và cho tội lỗi con người không? Và tôi thử hỏi đã anh em nào dám đặt vấn đề về niềm tin tưởng này bao giờ chưa? Có ai tự cho rằng mình cứ thực hiện những điều lỗi lầm rồi người khác có thể lãnh đủ để mình tự do sống khơi khơi là hợp lý hợp tình không? Nếu suy tư đôi chút, nói rằng Đức Giêsu chết cho tội lỗi loài người phỏng có phải là lối khuyến khích con người phạm tội hữu hiệu nhất không? Đàng khác, nếu không có luật có thể phạm luật được không? Anh em thử nghĩ, luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích liên đới xã hội. Chẳng lẽ Đức Giêsu, như anh em tin tưởng, là Thiên Chúa quyền năng mà lý do chính để Ngài nhập thể lại chỉ là chết để xóa bỏ những kết quả do sự vi phạm lề luật được đặt ra bởi cũng chính giòng giống những người vi phạm? Tôi thử hỏi, tại sao bao nhiêu ngàn năm qua, ở những nước chấp nhận đa hôn người ta sống vui vẻ, đề huề, dẫu có những trường hợp ngoài ý muốn, như Trung Hoa và Tây Tạng; mà nơi đất Mỹ này thì lại tuyệt đối cấm? Cũng như các anh em Phật tử, chúng ta thường được nghe nói rằng vì thấy con người đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên đức Thích Ca động lòng thương xót đi tu kiếm đường giải thoát chúng sinh. Đã bao giờ anh em nghiệm chứng câu nói của đức Thích Ca, “Đừng bảo Như Lai độ chúng sanh?” Chúng ta đã bao giờ đặt vấn đề tự nghiệm chứng về những điều mình tin tưởng hay chỉ hùa theo những lời tuyên truyền của người khác để rồi đành chấp nhận hô hoán giống như họ, tạm gọi có lòng tin, mong có nỗi an bình giả tạo? Tất cả các đạo học đều nhắm vào điểm này hầu phá tan những sự tin tưởng mù mờ được gọi là vô minh để dẫn dắt con người nhận chân sự thật. Thêm vào đó, hành trình thức ngộ tâm linh cũng là nguồn gốc phát sinh nhiều phương cách phát triển năng lực nội tại nếu ai đó thực sự muốn và gặp cơ hội. - Thưa bác, nếu như vậy thì các tôn giáo đã không thực hiện được điều các nhà sáng lập chủ trương? - Tôi vừa mới nói xong mà anh đã vội quên. Tôn giáo thuộc thành phần công truyền của đạo học và được thành lập do lòng khát khao tìm kiếm cũng như bày tỏ ước vọng thăng tiến tâm linh. Đạo học khuyến khích và diễn giải thực thể tối thượng hiện hữu nơi mọi loài mọi vật, hữu hình cũng như vô hình. Nói tóm tắt, đạo học trình bày nghiệm chứng Quyền Lực Hiện Hữu đang hoạt động, biến chuyển nơi mọi hình thái hiện hữu, đồng thời cũng chính là nền tảng của mọi sự hiện hữu từ không khí, nước, đất, đến những trạng thái cao hơn. Quyền lực này thống trị mọi nguyên tố biến chuyển; nó khiến vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các hình thái mới của sự sống như một nhà điêu khắc nhiệm mầu luôn luôn kiến tạo và tô điểm cho vạn vật với muôn ngàn hương sắc khác nhau. Quyền Lực Hiện Hữu là nhạc sĩ dạy cho những con chim biết hót, tạo nên tiếng côn trùng ngân nga, là nhà hóa học bào chế các hương thơm của hoa, chất chua, chất ngọt, chát, đắng nơi quả. Quyền lực hiện hữu tổng hợp thành các loài thảo mộc thu hút thán khí biến đổi thành dưỡng khí cung cấp cho muôn loài (HTVPĐ; Tr.47). Đạo học trình bày nghiệm chứng thực thể Quyền Lực Hiện Hữu nơi chính người tu chứng. Tuy nhiên, tùy trình độ và căn cơ ảnh hưởng tạo nên những quan niệm cũng như những lối giãi bày khác biệt theo nhiều chiều hướng cảm nghiệm, chúng ta thấy có nhiều đạo học khác nhau, và mỗi đạo học lại chia nhiều tông phái. Thực ra, khi ai đó đã thức ngộ, cho dù các chiều hướng cũng như lối trình bày tùy thuộc các tông phái đạo học lệ thuộc những hệ thống ngôn từ khác nhau, họ sẽ dễ dàng nhận ra tất cả các ngành đạo học đều qui về một mối đó là Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi mọi sự, mọi vật. - Thưa bác, có cách nào để thực chứng quyền lực nội tại nơi mình hay không? Cháu nghĩ, tất nhiên, nói có sách, mách phải có chứng. Thế nên, cháu xin lỗi bác, ít nhất phải có điểm nào hay phương cách nào căn bản hoặc thô sơ nhất khả dĩ giúp cho người tu chứng nghiệm chứng được hầu tạo niềm tin tưởng cho hành trình thực chứng tiếp theo. Im lặng hướng tâm tư theo dõi những lời giải thích của cụ Tài, chợt Bá lên tiếng. - Tôi đã dự đoán không lầm, thế nào anh cũng hỏi câu này. Cụ Tài dường như cảm hứng khá cao lộ nơi nét mặt hướng về phía Bá, nhưng giọng điệu vẫn trầm tĩnh. Câu trả lời bao gồm Yoga Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng, Điểm Đạo Ai Cập, quán tưởng khi tọa thiền, huyền thuật hay phương thuật và thần chú. Tuy nhiên, trước khi nói về những pháp môn thực nghiệm này, điểm thiết yếu cần được nhận định rõ ràng đó là quyền lực nơi ý định, ước muốn, ước mơ mà tôi đã nói sơ qua khi đề cập tới quyền lực ý niệm. Trãi qua những năm tháng suy nghiệm, tôi nhận thấy con người là một thực thể tâm linh mang quyền lực vô song liên hệ mật thiết với quyền lực tuyệt đối được gọi là Tâm Phật, Tào, Đại Ngã, Thiên Chúa. Thực thể này biến chuyển, và thân xác là công cụ nhất thời nơi hành trình thăng tiến tâm linh. Sở dĩ tôi có thể nói như thế, vì so sánh nghiệm chứng cá nhân với những gì được viết nơi một số kinh sách đạo học đã đọc qua, tôi nhận ra điểm khác biệt chung giữa các đạo học đó là mỗi đạo học giãi bày nghiệm chứng hoạt động của thực thể tuyệt đối qua những chiều hướng tâm thức hay quan điểm nhận thức riêng tùy điều kiện nhận thức của con người nơi thời điểm những nền đạo học được phát sinh. Con người có sức mạnh tư tưởng, nhưng vì họ đã không biết sử dụng hoặc để cho nó hao tán. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất nghĩa là dồn mọi ý định, ước muốn vào một sự thể nào, con người sử dụng quyền lực sẵn có nơi mình tiếp xúc với nguồn năng lực của Thượng Đế để vận chuyển hành trình biến đổi sự vật. Thực thể sự kiện này được gọi là hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng, và khi đó chúng ta hợp nhất với mọi quyền năng tâm linh. Như vậy phương pháp duy nhất để hòa hợp với quyền lực thiêng liêng là tiếp xúc với ngài một cách ý thức hay còn được gọi là định tâm, loại bỏ ngoại cảnh để quay về nội giới vì Đấng Thiêng Liêng ẩn tàng toàn diện nơi con người. - Thưa bác, cháu xin lỗi đã cắt ngang lời bác nhưng không nói vội cháu quên mất. Sỹ nhà con phá ngang. - Anh cứ nói, - Nếu nói rằng Đấng Thiêng Liêng ẩn tàng toàn diện nơi con người nào khác gì con người chính là Đấng Thiêng Liêng. - Anh nói cũng có lý nhưng lý có một nửa chẳng khác gì một cộng một là hai. - Thưa bác, - Có phải anh muốn nói chẳng lẽ một cộng một là ba hay là một phải không? Có gì đâu mà vội! Nếu tư tưởng của anh thuộc về vô hình đã được phát sinh từ một thực thể hữu hình là bộ óc hay thân xác anh thì tất nhiên một cộng với một là bao nhiêu mà chẳng được đâu cần gì phải vội biện luận là hai hoặc một. Anh thử xét coi, tư tưởng, thân xác, dẫu là những thực thể hoàn toàn khác biệt nhưng gốc của chúng là gì nếu không phải là những hình thức kết hợp khác nhau của năng lượng. Giới New Age ngày nay gọi Thượng Đế là năng lượng nào có gì sai trái đâu. Xét như vậy, khi tập trung sức mạnh tư tưởng tất nhiên cũng chỉ là sự sử dụng năng lượng tập trung vào một điểm nào đó để biến đổi. Nói theo lối trình bày của tôn giáo hữu thể, kẻ nào đến với Thượng Đế bằng trái tim, sùng kính Ngài với tất cả lòng ước muốn mến mộ trong cô tịch, thinh lặng sẽ nhận biết quyền năng tối thượng qua sự hiện thể các điều mong muốn của họ. Mấy anh em Thiên Chúa giáo từ nay nên để ý lời Kinh Thánh đặt nơi miệng đức Giêsu, "Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi" (Mt. 6:6). Bản Kinh Thánh tiếng Việt hình như dịch chưa được hoàn chỉnh vì nơi cuốn New American Bible câu này được viết, "Go to your inner room." "Inner room" không phải nội tâm, nội tại nơi con người thì là thứ gì. Như vậy, khi cầu nguyện nếu nói theo nhà Phật tất nhiên cần dẹp sang bên tất cả lục căn, ngũ uẩn để hòa nhập làm một với quyền lực tối thượng nơi mình tức Phật tính, Thượng Đế. Đây cũng là điều kiện không thể thiếu nơi tâm thức những người thực hành thiền, yoga, phương thuật, huyền thuật, hay nghi thức lễ bái. Những nghi thức hành lễ phải phát xuất từ nội tâm, từ sự tha thiết của người chủ lễ, từ sự chân thành của những người tham dự thì mới được cảm ứng. Bất cứ nghi lễ nào cũng đòi hỏi một sự chí tâm, chí thành, kính cẩn trang nghiêm vì nghi lễ là sự nối liền tâm thức người hành lễ với những động lực thiêng liêng. Chỉ có sự xác tín và lòng chân thành mới có thể đem lại sự cảm ứng (ĐMQXT; Tr.256). Những động lực thiêng liêng như luồng điện. Lòng xác tín, chân thành không khác gì dây dẫn điện được tạo bởi quyền lực tâm thức phát sinh bởi ý định. Thế nên, tôi đề nghị anh em chịu khó suy nghiệm câu "Vạn vật đồng nhất thể" nơi đạo học Đông Phương chắc chắn sẽ nhận thức thêm được nhiều điều hữu ích. - Thưa bác, Sỹ nhà con lại chen vô, sao có thể đồng nhất. - Thôi, thôi, ông ơi, khóa dùm cái mỏ lại cho chúng tôi nhờ! Nghiệm thì chẳng chịu nghiệm, chưa chi đã tơm tớp sao với giăng. Vạn vật đồng nhất thể có nghĩa ông và thằng cu thêm, cu nếm cũng như nhau. Bố cũng như con, con như bố, ông nào cũng "you" và thằng nào cũng "you." Bác đang nói mà cứ nhảy xổm vào cổ họng phá đám. Phủ oang oang ngắt lời Sỹ. - Tớ không biết thì tớ hỏi! - Biết mình không biết tức là đã biết nên càng hỏi chỉ càng làm cho mình không biết. Bá chen giọng, xin bác tiếp tục. - Đối với người Tây Tạng, huyền thuật chỉ là một khoa học nghiên cứu sức mạnh của tâm thức để sử dụng vào một mục đích nhất định nào đó. Bí quyết của các môn huyền thuật chỉ là sự tập trung tư tưởng để tạo ra một sức mạnh trong thiên nhiên. Sức mạnh của tư tưởng chính là động năng thúc đẩy, tạo tác ra mọi sự kiện. Vì tư tưởng con người thường bị hao tán, không tập trung nên rất yếu, chỉ hiện diện phất phơ một lúc rồi tan biến đi, không đủ sức mạnh để tạo tác ra chuyện gì. Một người biết cách tập trung và sử dụng tư tưởng, thu góp các sức mạnh khác trong thiên nhiên để hỗ trợ cho tư tưởng của mình gia tăng cường độ, họ có thể tạo ra được các quyền năng vô cùng đặc biệt (HTTT; Tr.274). - Bác nói như thế thì phép lạ hay bùa ngãi cũng là quyền lực của sức mạnh tư tưởng? - Sách vở huyền môn Tây Tạng nói rõ rằng tất cả mọi quyền năng sẵn có trong mọi người, nhưng vì không biết cách phát triển nên rất ít ai sử dụng một cách chính xác. Tuy nhiên, ít người biết sử dụng không có nghĩa là những điều đó khác thường hay có tính cách trái tự nhiên. Phát triển quyền năng tức là tập sử dụng những giác quan có sẵn của thể xác, thể vía, và tâm thể (HTTT; Tr.108). Anh em thử lật nơi Kinh Thánh phần bốn Phúc Âm xem có câu nào đức Giêsu nói Ngài chữa hay Thiên Chúa chữa không hay Ngài chỉ nói "Lòng tin con chữa con, cứu con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52). Theo quan niệm tu chứng Ấn học anh em nên biết, lòng tin, đức tin hay niềm tin vững chắc và quyền năng chữa bệnh, thường được gọi là sự lạ, liên hệ mật thiết với nhau. Đức tin là khả năng nhận lãnh; quyền năng chữa bệnh là khả năng chuyển vận những luồng thần lực vào người khác để giúp họ điều hòa cơ thể. Người chữa bệnh chỉ là một con đường vận hà, một chất xúc tác, một động cơ để những luồng thần lực thiên nhiên tác động. Họ không phải là người sở hữu quyền năng đó, một tu sĩ đã diệt ngã không bao giờ vỗ ngực xưng là đấng này, đấng nọ hay khoe khoang một quyền năng nào (ĐMQXT; Tr.75). Trong việc chữa bệnh, đức tin đóng vai trò như một chất dẫn điện vì luồng điện chỉ có thể được truyền đi nếu có chất dẫn điện mà thôi. Tóm lại, quyền năng chữa bệnh chỉ hiệu lực khi có đức tin, dù đó là đức tin vào một quyền năng nào, một cá nhân nào hay một lý tưởng trừu tượng nào (ĐMQXT; Tr.76-77). Nói như vậy có nghĩa người đã đạt tới mức độ tâm linh nào đó có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong chân ngã, hồn, hay tâm lực của mình. Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có sẵn tiềm lực hàm xúc một quyền năng vô biên: đó là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng nơi mọi người (XPHB; Tr.77). Anh em nên nhận thức rõ ràng, con người mang năng lực vô biên phát xuất tự linh hồn hay tâm lực được thể hiện bằng quyền lực tư tưởng. Sức mạnh của tư tưởng vốn là một năng lực hết sức lạ lùng và mạnh mẽ. Nếu được đặt trong các điều kiện thuận tiện, nó có thể tạo ra các hình ảnh như thật mà người ta gọi là ảo giác cũng được mà gọi là ma quỷ thì cũng không sai (HTTT; Tr.145). Khi đạt đến trạng thái tâm thức nào đó anh em sẽ chứng thực rõ ràng được ma quỷ vốn chỉ là phần hình thức biến thái của tâm lực nơi tư tưởng. Không những chúng có thể biến hóa thành nhiều hình ảnh lạ lùng mà còn có thể giúp ích hay làm hại những người nào thờ phụng hay sợ hãi chúng. Chúng ta không thể phủ nhận suông qua các lý luận thông thường mà phải thực sự hiểu rõ các trạng thái của tâm thức ở ngay nơi mình. - Thưa bác, như vậy phỏng con người có quyền năng như Thượng Đế! Cháu muốn nói, ước muốn, ý định tạo nên số phận của một người? - Nói theo nhà Phật thì luật nhân quả nhận định rằng mọi ước vọng của con người rốt cuộc sẽ được thực hiện. Bởi đó, mọi điều ham muốn, dục vọng là sợi dây trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử (XPHB; Tr.74). Như vậy, tùy theo dục vọng, tư tưởng, ước muốn của mình, con người sẽ phải trải qua những hành trình tâm linh tương ứng. Lẽ đương nhiên, nếu nói một cách hết sức khoa học, lý luận, thì con người có toàn quyền định đoạt số phận của họ khi sống cũng như khi chết. Nhận thức như vậy, các dục vọng, tư tưởng của một người khi còn sống tạo ra sẽ bay vẫn vơ tác động vong linh hay hồn của họ sau khi chết cho đến khi sinh lực chúng hao mòn, tan rã mới thoát được. Do đó, vấn đề chuẩn bị tư tưởng cũng như lối sống của một người hết sức cần thiết và quan trọng. Nếu các tư tưởng, ý định chỉ hoàn toàn nhắm về vật chất thì dĩ nhiên hoàn cảnh tâm thức cá nhân sau khi chết sẽ hết sức bi đát vì vong linh không còn thỏa mãn chúng được nữa mà phải đợi cho tới khi ý thức được để có những tâm nguyện hăng hái về tâm linh hơn, chuẩn bị cho hành trình nơi một kiếp sống khác. Lật nơi Phúc Âm, anh em sẽ thấy điều này đã được ghi chép rõ ràng nhưng ít ai để ý suy nghĩ, "Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 16:19). Nếu nhận định cuộc sống hữu hình là dưới đất, cuộc sống vô hình là trời, anh em sẽ nhận ra quyền lực ảnh hưởng tác động của ý định nơi hồn một người sau khi chết. - Thưa bác, có cách nào giúp những hồn còn đang vương vấn với ước muốn thế tục không? - Hãy cầu nguyện cho họ. Sự cầu nguyện hay cầu siêu cho ai đó đã qua đời là một điều hết sức quan trọng và ích lợi vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh mang âm hưởng vô cùng ở cõi âm nếu người tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả năng lực tinh thần. Đây là bí quyết mật tông Tây Tạng (HTVPĐ; Tr.184). Tuy nhiên, thường thì chúng ta chỉ coi tụng niệm, cầu siêu, cầu nguyện như những việc làm cho qua hoặc theo một hình thức, lặp lại các câu kinh, đoạn sách, nơi đầu môi chót lưỡi mà quên tập trung tâm ý nên đã tiêu phí năng lực một cách vô ích. Với lòng chân thành lồng trong ý định hay ước muốn rõ ràng, sự cầu nguyện mang quyền lực rời núi lấp sông. Đừng bị phiền hà bởi tự ái vặt, tôi nghĩ, mấy anh em Thiên Chúa giáo chẳng hiểu gì lời Kinh Thánh, hoặc có chăng chỉ hiểu theo nghĩa đen và cùng lắm dưới nhãn quan luân lý, và nếu tôi không lầm, có thể nói anh em quá coi thường là đàng khác. Thử đặt vấn đề, lý do gì Phúc Âm viết, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự.” (Mc. 11:23) Tôi nghĩ, hai ngàn năm qua, những người theo Thiên Chúa giáo quá coi rẻ những lời Kinh Thánh. Nói đúng hơn, có thể họ cho rằng Kinh Thánh chép những điều không tưởng. Dẫu lời nói nhẹ nhàng, đắn đo từ cửa miệng cụ Tài, nhưng chúng chẳng khác gì những bàn tay gang thép tạt vào mặt mấy tướng, xưa nay vẫn cho rằng mình "có đạo." Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời! Hơn nữa, chẳng những mấy tướng có đạo mà ngay cả nhóm nhậu cùng các bà vợ xồn xồn đang lắng tai nghe, ai nấy đều cảm thấy bàng hoàng. Bàng hoàng vì thực thể không ngờ nơi mọi người được cụ già phanh phui sự thiếu sót to lớn; xưa nay mình đã vô tình không để ý tìm hiểu về chính con người của mình, về thực thể huyền nhiệm nơi mình. Cảm nghĩ này đồng thời tạo nên mối ăn năn hòa lẫn nỗi lòng nuối tiếc những tháng ngày đã qua chỉ vì thiếu ý thức nên bỏ lỡ biết bao lợi ích của tâm ý, hèn chi vẫn còn mù mờ nơi hành trình thăng tiến tâm linh. Mười mấy người im lặng, đượt mặt ngồi một đống, lộ rõ những nét trầm tư ráng chừng suy nghĩ lung lắm. Cụ Tài cẩn trọng nâng ly; vừa cạn miếng rượu thì Sỹ nhà con đã vội xách bình lít rưỡi dốc hết phần còn lại khiến rượu và miệng ly gần hòa thành mặt phẳng. Vẫn chứng nào tật nấy nhưng giọng mang đầy vẻ cảm nhận, hắn phá tan bầu không khí nặng nề, - Bác nói phê quá. Lòng cụ Tài chợt chùng xuống! Dẫu sao, mấy người anh em này cũng có học thức và cuộc sống tương đối dễ thở nhưng vì đâu suy tư nghiệm chứng tâm linh vẫn còn như xa vời ngoài tầm tay với? Phỏng họ không được sinh ra để chứng ngộ hoặc chưa đến thời điểm. Nếu nói rằng chưa đến thời điểm thì có đi đâu mà đến, có tìm đâu mà gặp! Hành trình nào không khởi đầu bằng một bước chân! Như vậy, điều gì là chướng ngại ngăn chận những bước chân xuất phát bởi lòng khao khát? Đâu đó câu Kinh Thánh gợi về, "Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản" (Lc. 11:52; Mt. 23:13). Cụ không "theo đạo" nhưng những lời Kinh Thánh khiến cụ say mê. Đã nhiều lần cụ tham dự các buổi giảng thuyết của mấy mục sư Tin Lành hay đến nhà thờ "đi lễ" với người Công giáo; nhưng sao mà lời Kinh Thánh bị mấy ông cha nhà thờ hoặc mục sư diễn giải quá nặng mùi thế tục đến nỗi tạo nơi tâm trí cụ nỗi ngỡ ngàng pha lẫn tính chất coi thường. Đôi khi gặp được linh mục hay mục sư nào đó đặt tâm điểm vào "lời Chúa" thì chỉ thao thao lặp lại và giải thích theo nghĩa đen hay áp dụng nơi luân lý khó bề chấp nhận. Với tuổi gần đất xa trời này mình có thể làm được gì, cụ thầm hỏi. Tại sao lòng mình mang mối xốn xang thương cảm. Những người anh em đang hiện diện sẽ có phản ứng nội tâm thế nào khi nghe mình nói về đạo học? Lời Kinh Thánh chừng như giục giã cụ nên tiếp tục. Cụ tự nghĩ, đặt thêm vấn đề nào có ích lợi gì; việc đến sẽ phải đến, thôi thì cứ coi như người gieo hạt giống. Nghĩ đến đây, lời Kinh Thánh lại hiện về nhắc nhở, "Người gieo giống ra đi gieo lúa, có những hạt rơi dọc đường, có hạt rớt vào đất đá, có hạt nơi bụi gai, những hạt khác được gieo nơi đất tốt. Ai có tai thì hãy nghe" (Mt. 13:4-9). Đã lỡ biết thì phải nói! Cụ cảm thấy niềm vui pha lẫn nét diễu cợt nơi ý nghĩ "phải nói." Không nói thì lòng dạ xốn xang; nói lên, tâm tư thanh thản phần nào, nên cho rằng phải nói, hay thích nói, hoặc muốn nói, cũng không đàng nào đúng. Mình nói cho mình hay nói cho họ, cụ tự hỏi! Bởi vậy, khi Sỹ nhà con lên tiếng, cụ chợt buột miệng, - Phê cũng vô ích vì cho dù nói cũng chưa chắc hơn gì ai đó biếu cụ Nguyễn Khuyến bình hoa trà. Lời cụ Tài điềm đạm nhưng ý tứ cay cú đối với đám thính giả xưa nay ồn ào, "to miệng," đã quen thói coi trời bằng vung. Khổ nỗi, những gì cụ nói đều quá ư tầm thường, ngay nơi lòng ruột mọi người nhưng chứa đầy thách đố nghiệm chứng mà bất cứ ai chưa bao giờ hay ít khi để tâm nghiệm xét đều không thể nào mở miệng. Qua lý luận đặt căn bản nơi nền tảng nghiệm chứng lồng trong lối giải thích tâm tình, cụ muốn khuyến khích những người trẻ dấn bước vào hành trình nghiệm xét tâm linh. Điều rõ ràng, kinh nghiệm tâm linh là một kết quả hiển nhiên qua công phu tu hành chứ không phải một điều trừu tượng dựa trên lý thuyết hay một cái gì cao xa mà không ai có thể đạt đến được (ĐMQXT; Tr.79). Đàng khác, chỉ thông minh mà thôi thì không thể nắm bắt được thực thể siêu linh thế nên hành giả cần thực chứng, nghiệm chứng. Kinh nghiệm bản thân nơi cụ chứng tỏ rõ ràng một điều đó là dù theo con đường nào, khuynh hướng nào, chính cá nhân phải nỗ lực chứ không thể ỷ lại vào một sức mạnh hay sự giúp đỡ của ai khác. Thêm vào đó, sự nhận thức tâm linh lại tùy thuộc căn cơ và thể chất hành giả nên chẳng những không ai có thể giúp ai mà đồng thời không phương pháp hay đường lối nào có thể là mẫu mực chung. Cá nhân phải tìm vị thầy nội tại vì chỉ có vị thầy này mới phù hợp và thấu suốt hành trình nào người đó phải trải qua. Không những thế, khi quay vào bên trong để lắng nghe, người ta sẽ phải đối diện với những sự thật phũ phàng mà trong cuộc sống hàng ngày ít ai dám nghĩ đến (BRTS. Tr.31). Thế nên, dẫu biết rằng cay cú ám chỉ sự thật cần được phanh phui sẽ đem lại cảm nghĩ khó chịu nơi những người trẻ, cụ Tài đành chấp nhận với hy vọng may ra sự nhức nhối do tự ái bị va chạm phần nào khuyến khích tri thức nơi họ thức động. Chủ đích của cụ đạt ngay điểm tới, lời cụ chưa dứt âm vang, Hưng đã lên tiếng, - Thưa bác, cứ theo một số kinh sách giải thích sự thực nghiệm, kẻ nào muốn thực tập cần có một vị thầy, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma thay vì đạt tới được phần hỏa hầu nào đó. Cháu nói như thế bác biết cháu muốn nói gì. - Câu hỏi của anh phần nào chứng tỏ sự hiểu lầm bao lâu nay của những người nghiên cứu, tu tập, và nghiệm chứng đạo học Đông Phương. Tôi muốn nói riêng về người Việt Nam mà thôi. Trước hết, sự hiểu lẫn lộn ý nghĩa của ngôn từ hay văn từ "thiền" và "Yoga." Thiền hay thiền định của nhà Phật đặt trọng tâm vào định để tiến tới kiến tính. Yoga phát xuất từ Ấn học; đó là phương pháp đào luyện thân xác, phát triển năng lực nội tại tiến dần tới trạng thái đại định, xả kỷ, giúp tâm thức hòa nhập với thực thể tối thượng. Tùy theo những tông phái và các phương pháp thực nghiệm, thiền cũng như yoga được chia thành nhiều giai đoạn hay cấp bậc kể chẳng xiết. Thêm vào đó, có những phương pháp giao thoa giữa thiền định và yoga chẳng hạn như Mật Tông Tây Tạng, phương thuật hay tương tự như thế nơi huyền môn Ai Cập. Khi nào nói đến Ấn học tôi sẽ phân tích các giai đoạn hoặc phương cách thực hành yoga cho quý anh em hiểu rõ. Điều tôi muốn nhấn mạnh trước khi nói về thành quả thực chứng hay tu luyện đó là cho dù ai đó phát triển được năng lực nội tại tới đâu hoặc đạt được khả năng huyền môn nào đó, khi sử dụng chúng tất nhiên đã bị chúng mê hoặc, nói cách khác, đã tự lao mình vào cơn cám dỗ; như tôi đã nói khi nãy, đó là lạm dụng quyền lực thiêng liêng ẩn tàng nơi mọi người. - Thưa bác, nếu như thế đâu cần gì phải nghiệm chứng hay tu luyện làm chi, thà rằng cứ chấp nhận đã được sinh ra để sống thì cứ sống, chờ ngày chôn vùi cùng cây cỏ và làm bạn với giun dế. Sỹ nhà con thêm lời xông xáo. - Cần gì phải chờ, và chưa bằng bụi đất sao dám đòi làm bạn cùng giun dế. Nói cho đúng, trên răng dưới dế thì có chứ giun chắc chắn không. Xin ông làm ơn hành thiền nín nói cho bà con nhờ. Bá ngắt lời Sỹ đoạn tiếp, thưa bác, nếu thiền và yoga có thể giao thoa, có nguyên tắc hoặc điểm căn bản nào làm đầu mối cho sự hòa hợp các phương thức thực nghiệm này không? MBVN 08 - Như tôi đã nói, nguyên tắc căn bản cho mọi sự thực hiện nghiệm chứng tâm linh chỉ là sự sử dụng quyền lực nơi tư tưởng. Tùy sự sử dụng này mà các phương pháp thực nghiệm phát sinh. Nơi thiền định, quán tưởng chính là dồn hết năng lực tư tưởng để chứng những vọng tưởng hay ý niệm hầu nhận thức năng lực hiện hữu hay Tâm Phật, Pháp Thân, hoặc Tự Tính, đang biến chuyển, hoạt động nơi mọi sự. Yoga dùng năng lực nơi ý nghĩ, ý định áp dụng nhận thức ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông các kinh mạch để phát triển năng lực nội tại mà tiếng bình dân gọi là nội lực. Tuy nhiên, muốn sử dụng được năng lực tư tưởng, hành giả cần thực chứng thực thể tuyệt đối nơi mình, tức là hiểu biết và nhận chân chính mình bằng cách trả lời cho đến tận cùng câu hỏi mình là ai. Sự tìm kiếm này sẽ giúp cho hành giả khám phá, xuyên qua những hang ngách của tâm thức những gì ẩn dấu đàng sau tâm trí của con người. Khi một người giải quyết được vấn đề căn bản này, họ sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác. Dĩ nhiên, những ai tu trì theo tông phái đều có những vị đã thực chứng hướng dẫn. Tuy nhiên, các vị tổ hay thầy chỉ là những người đi trước dẫn đường, những người giúp đỡ, hướng dẫn trong một giai đoạn ngắn chứ không phải là người có thể cứu giúp hay đưa ai đến mục đích tối hậu là giải thoát (HTTT; Tr.248). Nhận thực như thế, sự giải thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người. Người tu hành chân chính là kẻ tự biết mình vì trên đường đạo không có vấn đề vinh hay nhục mà chỉ có sự tiến bộ. Nếu chẳng may sa ngã, hãy đứng dậy và tiếp tục và chỉ cần luôn định hướng để khỏi lầm đường lạc lối (HTVPĐ; Tr.143). Tương tự, khí công bên yoga hay mật tông Tây Tạng chỉ là một phương pháp để định tâm và dụng công định tâm mới là hành trình chính yếu dẫn tới đại định. Hơi thở chỉ là một con ngựa tốt, nhưng tâm con người mới là kẻ cưỡi ngựa. Một khi kiểm soát được tâm thì mới có định mà chỉ có định rồi thì trí huệ mới phát sinh (HTTT; Tr.260). - Thưa bác, nếu như vậy sao một người đùm đề vợ con phải lo chạy ăn từng bữa có thể tu chứng nghiệm chứng? Chẳng lẽ sự nhận chân thực thể nội tại chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt? - Nói rằng chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt may ra đúng được một phần nhưng cho rằng những người nơi cuộc sống gia đình không có cơ hội thức ngộ thì hoàn toàn không có một lý do nào làm căn bản. Anh em nên tự nghiệm, thực thể sâu kín của thiên nhiên và của cuộc đời tức là bí quyết của sự bất diệt không thể nào tiếp nhận được với sự làm việc gian khổ của trí óc, hay với một hướng tâm ích kỷ, mà chính là nhờ vào sự tiếp xúc với cuộc sống trọn vẹn và không ngụy tạo với trực giác tức thời (MGTT; Tr.72). Qua những kinh nghiệm tu chứng được viết nơi kinh sách, tính đồng nhất của muôn vật hiện diện nơi tổng thể đang yên ngủ trong mỗi vật chỉ được nhận thức qua nghiệm chứng chứ không bằng suy luận. Tuy nhiên, nghiệm chứng đâu cần ngồi một chỗ mà chỉ cần định tâm. Định tâm đâu đòi hỏi phải có thời gian hay không gian nào cố định. Dành một thời giờ riêng cho sự tham thiền là việc làm của kẻ sơ cơ. Người đã tiến bộ ít nhiều trên đường tìm chân lý sẽ tìm thấy sự an lạc là điều bình thường dầu cho y đang bận rộn công việc. Trong khi hai tay người ấy đang thực hiện công việc thì trí óc hướng về cõi giới siêu hình. Người nghiệm chứng cố gắng đưa tâm trí của mình tập trung nơi mục đích cũng ví như kẻ điều khiển tay lái khiến xe chạy trên đường thay vì lọt vô lề hay mương rãnh hai bên. - Thưa bác, nếu người nào làm việc bằng sự tính toán đầu óc sao có thể định tâm? Sỹ nhà con lại chen vô. - Anh chưa thử sao dám đặt vấn đề đơn sơ như vậy! Có lẽ anh không biết câu "Ước muốn của ngươi ở đâu, thì lòng dạ ngươi cũng ở đó." Giọng cụ Tài bỗng trở nên thương cảm sau tiếng thở dài. Tôi nói hơi quá vì Kinh Thánh viết, "Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt. 6:21). Khi một người thực sự ước muốn thực hiện việc gì hay điều gì tất nhiên tâm trí của họ luôn luôn suy nghĩ về điều đó bất cứ lúc nào. Cũng một lẽ đó Kinh Thánh viết thêm, "Vậy nếu mắt ngươi đơn thuần, thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi vạy vò thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối" (Mt. 6:22-23). Câu này có nghĩa sự tập trung tinh thần vào nhãn quan tâm linh giúp cho người nghiệm chứng cảm ứng với thực thể tâm linh nơi mình. Tuy nhiên, nếu không thực nghiệm hoặc không biết mà để tâm trí phiêu diêu lơ đãng bất định hoặc trụ vào những ham muốn thế tục thì suốt đời cũng chẳng đạt tới đâu. Thế nên, sống trong bóng tối là những kẻ chỉ hướng về các tri kiến hữu hạn được gọi là những kẻ tôn thờ thế gian. - Thưa bác, Hưng ngập ngừng, nhưng dầu sao chúng ta cũng chỉ là người. - Lần trước anh đã lặp lại câu nói của Pascal, "Con người không phải là thánh cũng chẳng là thú, nhưng kẻ nào muốn làm thánh lại biến thành thú" mà vẫn chưa thông hiểu ông ta muốn nói gì. Chúng ta chớ nên phân biệt tâm và thân như hai thành phần khác biệt có thể tách rời nhau; mà cần hiểu rằng tâm và thân là một. Nơi ngôn ngữ Việt có hai chữ thân và thần trùng hợp về điểm này ở hành trình tâm linh. Dẫu được kiến tạo do sự vô tình nào đó chúng vẫn đem lại ý nghĩa thật tuyệt vời về sự hợp nhất căn bản của nghiệm chứng mà những ai chối bỏ hay không nhận biết thực tại này đều chỉ đang theo đuổi những sự phù phiếm. Nghiệm chứng đạo học minh chứng, một người muốn thức ngộ, trước hết phải nhận biết mình tức là nhận biết thực thể của thân, đó là thực thể chính họ. Thần mang ý nghĩa người đã thức ngộ. Không một đạo sư hay đấng giáo chủ nào bảo người đi theo con đường tinh thần phải đè nén mọi tình cảm. Con người là một sinh vật hữu tình, nghĩa là có tình cảm, chứ đâu phải trơ trơ như gỗ đá. Không một phương pháp đạo học nào chủ trương con người phải trở thành trơ trơ bất động, không còn tình cảm nữa. Phải chăng đi theo con đường tinh thần thì con người sẽ không còn là người nữa hay sao? Đàng khác, nếu đã không phải là người đâu cần thức ngộ. Tâm chúng ta đầy những bất an, vọng động có thể chỉ vì chúng ta quá chú trọng đến việc đè nén cảm xúc hoặc theo đuổi những ước muốn nhất thời mà không hiểu rằng tâm và thân đâu phải là hai thực thể cách biệt. Thực tế chứng minh, nếu thân bệnh hoạn thì làm sao tâm có thể an được. Nói như vậy có nghĩa muốn thành thần phải có thân, muốn đạt đạo phải là con người đúng với ý nghĩa của nó. - Thưa bác, sao trong kinh sách nói gì đâu những sự rèn luyện cần phải từ bỏ hoặc tuân theo nhiều thứ kỷ luật thân xác gắt gao, trong khi cuộc sống lại quá ư phức tạp. - Chỉ có những tâm hồn cố chấp và lạm dụng mới dám mở miệng nói rằng đường dẫn đến chân lý chỉ có một. Có hàng trăm ngàn con đường cùng đưa đến một mục đích. Người Tây Phương có câu thường bị hiểu lầm, "Đường nào cũng dẫn tới La Mã." Nói cách khác, có bao nhiêu người, sẽ có bằng ấy phương pháp hay hành trình nâng cao tâm thức con người. Thử xét về những tổ chức mang tính chất truyền bá đạo học, lịch sử cho thấy không một đấng giáo chủ chân chính nào lại lo thiết lập một tôn giáo khi các ngài còn sống cả. Các ngài đến với nhân loại để giảng dạy chân lý chứ không phải thành lập một tổ chức hữu hình nào. Tổ chức chỉ được dựng lên sau khi các ngài từ trần do tín đồ của các ngài mà thôi (BRTS; Tr.180). Xét về cuộc đời, mỗi kiếp sống, mỗi giai đoạn hay sự việc nơi cuộc đời đều là chặng đường, những bài học quan trọng trong hành trình phát triển và tiến hóa của mỗi người. Khi đã học xong một bài học, con người tiếp tục lên đường để học thêm những bài học khác. Thế nên, chẳng có việc gì hoặc sự kiện gì nơi đời người trên thế gian này là tầm thường cả, tất cả mọi việc đều có sự quan trọng riêng của nó. Đừng gán cho công việc những giá trị này nọ mà quên rằng người ta chỉ đạt đến chân lý bằng cách mở rộng trái tim và ý thức hành động của mình qua những công việc dường như tầm thường nhỏ mọn (BRTS; Tr.158). Thực ra, nơi nghiệm chứng, vấn đề được đặt ra không phải là việc làm của chúng ta mà là thái độ của chúng ta đối với những việc làm đó. Chúng ta đến cuộc đời này một mình thì khi ra đi cũng vậy thôi. Những sự việc đều là phương tiện cho chúng ta hoàn thành điều gì đó cần phải học. Là người đi trên đường tinh thần, chúng ta đã biết rõ mục đích của cuộc đời là để học hỏi, kinh nghiệm nên cần biết tuân theo các định luật thiên nhiên. Luật thiên nhiên đã định như thế thì cưỡng lại có ích gì đâu (BRTS; Tr.175). Cưỡng lại lối sống tự nhiên tất nhiên còn muốn trở thành gì nếu không muốn nói là chống trời. Sống theo tự nhiên của con người mới có thể thành thần, mới có thể phát triển tâm linh. - Thưa bác, cháu nghĩ có điều gì đó bác không muốn nói đến khi cho rằng có những trường hợp đặc biệt. Vấn đề cháu đặt ra đó là làm sao biết mình có thuộc về trường hợp đặc biệt hay không? - Tôi không ngờ anh quá thông minh. Sở dĩ tôi không muốn nói đến vì sự tin tưởng nơi một lý thuyết và sự nhận thức qua một kinh nghiệm khác nhau rất xa. Tự xét quý anh em sẽ nhận thấy, chúng ta xưa nay đã quá quen thói muốn hiểu hết mọi sự để tưởng rằng mình đã đạt được một cái gì. Nơi trường học, những sự hiểu biết này đến mức độ nào đó được gọi là bằng cấp. Tuy nhiên, nơi hành trình nghiệm chứng tâm linh, sự hiểu biết thiếu nghiệm chứng kiến tạo trạng thái đối nghịch, nó chỉ giết chết lòng khao khát thức ngộ của con người mà thôi thay vì bổ túc và hướng dẫn tu chứng. Điều mà tôi cho rằng "Sự nhận chân thực thể nội tại chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt may ra đúng được một phần" cũng vì chúng ta chỉ muốn hiểu mà hiếm ai muốn nghiệm. Tôi muốn chứng minh cho mọi người rõ. Suốt tuần qua, có ai trong anh em để tâm suy nghĩ dù chỉ một đôi lần về lý do hay nguyên căn nơi sự thức ngộ của hòa thượng Hương Nham không? Anh Tùy nêu lên câu hỏi nhưng tôi đã không trả lời, và thế là hết, ngay cả câu trả lời của tổ Huy Sơn cũng không gây chút thắc mắc nào nơi tâm trí anh em. Ý tôi muốn nói, bất cứ ai cũng thuộc về trường hợp đặc biệt nếu dám đặt vấn đề hầu nghiệm cho sáng tỏ nhưng rất ít người để ý nhận thức. Cụ Tài ngưng lời, nhắp miếng rượu đoạn đưa mắt rảo qua mọi người. "Điều đau nhớ đời," nhưng đành phải hạ màn luẩn quẩn, cụ nghĩ. Vì thiếu hiểu biết nên đa số con người đã lầm tưởng phương tiện sống là cứu cánh cho cuộc đời và lao đầu tìm kiếm, nắm bắt. Dĩ nhiên họ sẽ phải đối diện với muôn vàn thất vọng vì cái mà họ muốn luôn luôn hãy còn ở ngoài tầm tay. Đạt được cái này thì lòng ham muốn lại thúc giục họ đi tìm kiếm thêm cái khác, và cứ thế, họ tìm mãi, trường kỳ đuổi theo vật chất mà chẳng bao giờ toại nguyện. Thế rồi đau khổ, thất vọng chồng chất tạo nên muôn vàn gánh nặng ưu tư, chán chường. Dẫu đến lúc nào đó để tâm tự nghiệm, họ sẽ nhận biết bài học, vì đau khổ, thất vọng là những kinh nghiệm quan trọng giúp họ ý thức rõ về mục đích của cuộc đời, thì đã bao nhiêu người chẳng bao giờ đạt được cơ hội thức ngộ. Về phía tướng tá nhóm nhậu, thiên hạ thấm đòn khá nặng. Cụ Tài lôi ngay con tẩy bạt của mọi người phơi bày nơi ánh sáng khiến tên nào tên nấy chẳng những ngọng miệng mà còn cảm thấy tự xấu hổ vì đã bỏ lỡ cơ hội ý thức. Lấy gì để bào chữa, nói sao cho thật lòng! Cụ già coi bộ hiền hòa, thái độ mang phần nào hơi lẩm cẩm nhưng dễ mến, chỉ vài câu nói đã lột trần bộ lòng ruột của những kẻ quen thói tự hào. - Thưa bác, ngay từ lúc mới đọc câu chuyện đó trước khi bác nói, cháu đã mấy lần tự hỏi hòa thượng Hương Nham thức ngộ nhờ điểm nào nhưng tâm trí cứ tối như đêm ba mươi nên đành phải lờ đi. Thực ra, đến lúc này cháu vẫn không thể nào hiểu được thì biết làm sao hơn! - Anh sẽ có cơ hội, tôi muốn nói anh sẽ thuộc về trường hợp đặc biệt nếu vẫn còn thấy tối mù, với điều kiện cứ để tâm trí luẩn quẩn nơi câu hỏi đó. Thế là không những thoát nạn mà mọi người còn cảm thấy may mắn vì đã học được bài học chẳng ngờ mặc dầu không ai nói lên. Nét mặt họ chứng tỏ phần nào niềm vui ngỡ ngàng thay thế vẻ đăm chiêu chỉ mấy phút trước. Cụ Tài cảm thấy lòng rộn ràng. Nước cờ giải thế bí đạt thành quả trông thấy nhưng cụ vẫn tỏ ra như không hay biết. Nhớ lại thời buổi đầu tiên, không biết bao nhiêu năm trời, câu nói nơi Kinh Thánh, "Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết" (Mt. 19:30; 20:16) đã khiến cụ rối mù không sao có thể nhận thức được. Đọc nơi sách nhà Phật, sự giải thích qua hình ảnh những người lên đò sang sông không thỏa mãn. Cụ nghĩ, những câu nói đạo học tất nhiên ý nghĩa không giới hạn chứ đâu chỉ dành riêng cho một vài trường hợp nào. Năm tháng dần trôi, những câu khác chẳng hạn "Người biết không nói, kẻ nói không biết" hoặc "Không làm gì mà không sự việc nào không làm" nơi Lão học, hay "Lửa không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng," hoặc "Người khôn học người ngu," cho dù đôi ba năm hay một vài tháng chúng đã lần lượt được giãi bày nhờ ánh sáng suy nghiệm. Đàng này, câu hỏi "tại sao kẻ đầu hết sẽ trở nên cuối hết" cứ triền miên ám ảnh mà không có sự giải đáp nào có thể thỏa mãn tâm trí của cụ. Khoảng giữa năm 1990 đi với Hưng mua chiếc máy giặt tại Sears, đang loanh quanh luẩn quẩn nơi quầy sách, cụ vô tình thấy cuốn "Tao of Leadership" nên cầm lên lật một đôi trang ngó qua. Ngay nơi bài viết thứ nhì, ngắn gọn chỉ vài chục chữ, nói về sự hòa hợp đối nghịch của thực thể sự vật, chẳng hiểu mắt quáng gà thế nào mà cụ đọc câu "Who would be first ends up last" trở thành "What would be first ends up last." Chính lúc ấy cụ nhận biết câu Kinh Thánh mang ý nghĩa gì! Bài học vỡ lòng sẽ giúp mấy anh em gặp nhiều điều thú vị, cụ thầm nghĩ. - Thay vì đi tìm một cái gì cao xa huy hoàng ở bên ngoài, người tu chứng tìm cách làm sao cho nội tâm được sung mãn, dồi dào, nghịch lại là sự hướng ngoại, theo đuổi đam mê vật chất trong cuộc sống hữu vi. Nơi hành trình hướng nội, mọi hoạt động sẽ có tính cách thoải mái, ung dung, tự tại vì nó xuất phát từ một nội tâm phong phú, không bị giới hạn hoặc gò bó; do đó tư tưởng được tập trung, chuyển hóa và thăng hoa. Nếu hướng ngoại, mọi hoạt động thường có tính cách lo âu, trói buộc, sợ hãi vì nó được xây dựng trên sự suy luận của lý trí luôn luôn ảnh hưởng bởi ngoại cảnh. Và như thế, tư tưởng hay sản phẩm của tâm thức chỉ là những gì lăng xăng, biến đổi, hao tán do tùy thuộc những biến chuyển không ngừng. Đây là lý do tại sao nhà Phật có những công án, hoặc Phúc Âm được viết kết hợp những câu nói nghịch thường đối với luân lý hay thói quen suy nghĩ của con người. Như vậy, tôi có thể tóm tắt, bước đầu cho hành trình thức ngộ, anh em nên để ý suy tư những công án hay những câu nói nơi kinh sách đạo học. Không nên học hỏi ý nghĩa từ người khác mà cần phải tự mình suy nghiệm. Thật ra, đó chỉ là những câu nói khôn ngoan đơn thuần nhưng thường thì được nói hay viết theo lối ám định giúp tâm trí con người ngưng đọng để nhận ra những biến chuyển về thực thể của sự vật, sự việc. - Nhưng thưa bác, như vậy cho dù hướng nội hay hướng ngoại thì vẫn là mê. - Đây là hành trình khởi đầu của tu chứng để nhận biết điều mà nhà Phật gọi là vô minh. Tôi đề nghị anh em sau khi đã tự mình nghiệm được một công án hay bất cứ câu nói nào nơi đạo học, hãy suy tư về lời phát biểu nơi nhà Phật, "Chứng cái không." Tôi nói nghe có vẻ khơi khơi như thế; tuy nhiên, nếu anh em nào thực sự muốn thăng tiến về đường tâm linh, áp dụng vào suy tư sẽ gặt hái được nhiều sự lạ lùng. Thực ra, cuộc đời là môi trường cho con người học hỏi, kinh nghiệm dẫn đến sự tự biết mình. Nhiều người sau một thời gian tu chứng hay nghiệm chứng nghĩ rằng họ đã biết rõ về mình nhưng coi chừng họ chỉ là nạn nhân của bản ngã, của một cái gì vô cùng sâu sắc và biến hiện khôn lường. Sự hiểu biết lý thuyết mà thiếu thực hành là một cái học thiển cận; do đó một người đi trên đường đạo cần phải kinh nghiệm qua việc va chạm với thực tế khổ đau. Nguyên nhân của đau khổ không phải tại hoàn cảnh, cũng không phải tại ai khác mà chính là do nơi mình (BRTS; Tr.106). Mọi hành trình nghiệm chứng hay tu chứng chỉ là công phu theo dõi tư tưởng một cách thành thật, nhận biết tất cả cho đến khi có thể hiểu trọn vẹn về chính mình. Thế nên, người có lý tưởng lúc nào cũng suy gẫm về điều mình theo đuổi, thấy rõ kết quả mà họ mong sẽ đạt được, và cương quyết đi trọn con đường. Họ phải biết tuân giữ những định luật bất biến trong vũ trụ và không bao giờ quên rằng chân hạnh phúc là một phần thưởng quý báu, chỉ đến sau khi họ đã vượt qua được những thử thách mà thôi (BRTS; Tr.179). Như vậy, muốn biết mình, người ta cần phải biết về luật biến hóa của mọi vật trong cuộc tuần hoàn của vũ trụ. Trong trời đất, tất cả đều thay đổi biến chuyển không ngừng. Để tiến hóa, con người cần có một động lực mạnh mẽ thúc đẩy họ hoạt động đó là lòng đam mê. Đây là một yếu tố cần thiết và hữu dụng đối với loài hữu tình như chúng ta vì thiếu yếu tố này, con người sẽ sống thụ động như cây cỏ, gỗ đá, chẳng có cảm giác và không thể tiến bộ bao nhiêu. Nhờ đam mê mà người ta hoạt động, thay đổi. Điều quan trọng phải là chúng ta có nhận biết được mình thế nào hay không. Như thế, nguyên lý căn bản của đạo học chỉ là biết mình và sự liên hệ của mình với quyền lực tối thượng, Phật Tính hay Thượng Đế, Đại Ngã mà thôi. - Thưa bác, như vậy đâu cần tôn giáo. - Nói cho đúng, sự biết mình là căn bản quan trọng nhất mở đường cho hành trình thức ngộ. Chính vì không biết mình do lười suy tư hoặc sợ hãi phải đối diện với con người thật của mình mà xưa nay bao nhiêu người đã chạy theo những lời hứa hẹn thiếu nghiệm chứng để cổ võ tổ chức thế tục vẫn thường xảy ra khắp nơi. Sự tự biết mình đòi hỏi một công phu nghiệm chứng, quán chiếu, để phản ánh trung thực các ý tưởng, các điều sâu kín ẩn náu trong nội tâm, chứ không phải điều mà người ta có thể tìm thấy trong sách vở, dù đó là sách gì chăng nữa. Nhờ liên lỉ nghiệm chứng, quán chiếu để tự biết mình, con người đạt đến tâm trạng minh triết trong tâm hồn và từ đó họ có thể sử dụng hợp lý các kiến thức đã thu thập được nơi cuộc sống. Mọi truyền thống tôn giáo, dù cao siêu đến đâu, thì cũng quy về con người, và những gì họ tự hiểu biết về thực thể bản thân. Nếu không tự biết mình thì họ không thể biết được bất cứ điều gì khác một cách chính xác. Bởi vậy, sự nhận biết về liên quan giữa con người và Thượng Đế đòi hỏi sự biết mình vì khi biết mình là ai thì câu trả lời về Thượng Đế sẽ hiển hiện một cách rõ rệt hơn bao giờ hết (BRTS; Tr.189). - Ngay từ tuần trước, nghe bác nhắc đi nhắc lại mấy điểm coi bộ quá thường, cháu cảm thấy hơi ngạc nhiên tại sao qua bao năm tháng với muôn vàn kinh nghiệm sống mà mãi cho tới lúc này bác vẫn nhắc tới chúng. Cháu xin lỗi bác đã có ý nghĩ ấy và dám thực lòng nói lên nếu có điều gì không phải. Nhưng bây giờ mới thấy thấm và nhận ra mình đã nghĩ sai, nói cho đúng, cháu đã nhận thức sai mà không biết. Có điều, hình như những gì đơn giản nhất hoặc gần với mình nhất lại khó khăn nhất nếu cháu không lầm. Chẳng hạn vấn đề biết mình, ai không tự hào rằng đã hiểu quá rõ ràng về mình. Cứ như bác giải thích thì xưa nay mọi người chỉ tưởng tượng sai lầm về chính họ mà thôi. Và như vậy, có thể nói, tất cả các phương pháp tu luyện, nghiệm chứng đều chỉ dồn vào một điểm tự nhận thức chính mình; vì không thế, tại sao các kinh sách đạo học luôn luôn nhấn mạnh về tự thể, tự giác, giác ngộ. Tuy nhiên, giải thích bằng chữ nghĩa hoặc bằng lời nói cũng chẳng khác gì nước đổ đầu vịt bởi lông vịt đâu thấm nước. Vấn đề cháu đặt ra phải là làm sao cho đầu vịt thấm nước. Xin lỗi bác và anh em, cháu chỉ muốn nói về chính cháu mà thôi! Cũng như một vài người khác, ngồi nghe và cứ lầm rầm uống hết chai bia này đến chai bia khác suốt buổi tối tuần trước, mãi tới lúc này Hinh mới lên tiếng. Hắn xưa nay vẫn ít nói lại không thích lý luận giành phần hơn thiệt. Dẫu những lúc bạn bè "rượu vào lời ra" hắn vẫn thế. Uống thì cứ uống nhưng có ai chọc chạch thế nào hắn vẫn ngậm miệng ngoại trừ những điều cần phải nói. Bảo rằng thế nào hắn cũng chẳng đặt thành vấn đề và thường có thái độ như không để ý đến những chuyện thời sự sôi nổi lắm khi nhóm nhậu ý kiến qua lại như ong vỡ tổ. - Thế ra lẩm ngẩm lầm ngầm mà đấm chết voi. Tôi xin tặng ông danh hiệu "đầu vịt." Sỹ nhà con chen giọng. - Anh Hinh nói đúng, cụ Tài lên tiếng. Chúng ta chỉ cho rằng biết mình chứ thực sự rất ít ai nhận thức được rõ về chính mình vì có chăng đã được gọi là đạt đạo. Anh dùng ngôn từ "đầu vịt" không sai bởi kinh sách nói về sự nhận thức và những phương thức giác ngộ trong khi chúng ta chỉ đọc cho qua hoặc khác hơn thì đọc để mà hiểu. Nói chung, chúng ta kiếm tìm kiến thức chứ không phải tự nhận thức. Tệ hơn nữa, chúng ta thường dùng quan niệm cố hữu nơi mình làm mẫu mực xét đoán những điều kinh sách viết rồi cho rằng đúng sai, phải trái theo sự hiểu biết hạn hẹp mà không để ý đặt mình vào trường hợp của những lời phát biểu hầu nghiệm chứng ẩn ý câu nói hoặc câu viết đó thế nào. Đây là căn bản của nghiệm chứng mà ít ai để tâm thực hành thế nên luôn luôn bị giao động, khát khao tìm hiểu ngoại vật chẳng khác gì con ong quanh quẩn đi kiếm từng giọt mật. Muốn thức ngộ phải tìm tự nơi mình vì chân lý vốn tự nơi ta chứ không đâu xa. Sự vô minh phát sinh từ tư tưởng hướng ngoại được gọi là kiến thức; bởi đó, kiếm tìm sự minh triết nơi mình tức là tự biết mình. - Bất cứ kinh sách đạo học nào cũng trình bày sẵn phương pháp thức ngộ mà mấy ai để ý. Sự nghiên cứu theo văn tự, sách vở chỉ đem đến những hiểu biết hời hợt bên ngoài chứ không thể giải thích thấu đáo những vấn đề huyền bí, ẩn mật của thực thể sự việc. Các lý luận chỉ là cái biết ngoài da và tổng hợp những cái biết của người khác. Sự hiểu biết thật sự chỉ có thể có được khi người ta đã kinh nghiệm được chúng như chúng thực sự thế nào (HTTT; Tr.167). Thế nên, kiến thức từ chương chỉ giúp cho những người sơ cơ, bắt đầu tìm hiểu con đường tâm linh để có một căn bản hiểu biết nhưng đó không phải là tất cả. Nếu người ta cứ tiếp tục bám víu vào kiến thức thì chính nó sẽ trở thành chướng ngại cho việc nghiệm chứng. Tu chứng tức là áp dụng những điều đã hiểu vào đời sống vì chỉ những gì mình nghiệm được mới thật sự là hiểu biết mà thôi. Tất cả những điều gì người khác nói ra đều chỉ là kiến thức, nghiệm chứng của họ. Đàng khác, sự giải thoát xuất phát từ chính mình chứ không thể do một ân huệ nào từ bên ngoài mang đến (HTTT; Tr.44); bởi vì những kiến thức hoặc sự thực hành tôn giáo như nghi thức lễ bái, cúng kiến bề ngoài không dẹp tan được vô minh nơi con người mà có khi lại còn cổ võ con người chìm sâu hơn. Chỉ có sự nghiệm chứng mới có thể dẹp tan cõi vô minh của tâm hồn. Sự hiểu biết hay kiến thức thực nghiệm chỉ có thể đạt tới bằng sự tìm tòi bằng lý trí qua nghiệm chứng. - Quý anh chị em đã nghe hay đọc về một số nguyên tắc thăm dò tâm thức nơi hành trình tu chứng nhà Phật. Xét về lịch trình phát triển Phật học, chúng ta không nên quên rằng bối cảnh giai cấp xã hội Ấn Độ ngày xưa và hệ thống giáo điều nơi Ấn giáo đã đóng những vai trò quan trọng cho sự phát triển nhà Phật. Thực ra, trước khi có Phật học, các tông phái Ấn Độ, nhất là phái Yoga, đã xác định rõ ràng phương cách thực nghiệm những phương thức cùng trình tự tu luyện. Nơi hành trình tu luyện này, người nghiệm chứng thường được gọi là tu đạo cần nhớ một điều: không có một hành động nào, không một lời nói nào, một ý nghĩ hoặc tình cảm nào mà không có ảnh hưởng tới tâm linh hành giả nên không một giây phút nào mà tâm thức con người không phải chuyên chú cẩn trọng bởi các tác vi, lời nói, cùng ý nghĩ đều tạo nên những luồng ba động gây ấn tượng trong tiềm thức của người tu đạo (TTÂĐ; Tr.241). - Tất nhiên, muốn nghiệm chứng, hành giả cần định tâm, và Yoga bao gồm những phương thức thực nghiệm nơi hành trình tu chứng của Ấn học để đạt tới đại định, trạng thái nhà Phật gọi là viên giác đại ngộ hay niết bàn. Chẳng khác gì nơi nhà Phật, nếu ai đó muốn tìm hiểu Phật học phải đối diện với muôn chiều hướng lý thuyết cũng như những hành trình tu chứng nhiều khi khác biệt tới độ đối nghịch thì việc tìm hiểu về Ấn học lại còn khó hơn gấp mấy lần. Tuy nhiên, dẫu các tông phái tại Ấn Độ rất phức tạp, mà thực ra, những quan niệm căn bản nơi các giáo lý Ấn học có nhiều điểm tương đồng (TTÂĐ; Tr.236). Những điểm tương đồng dựa trên vài quan niệm căn bản đó là vô minh, nghiệp báo, niết bàn hay trạng thái siêu thức, và Yoga là phương thức thực nghiệm để diệt trừ những vọng tưởng do vô minh và nghiệp chướng gây ra. Các tu sĩ Ấn Độ, nhất là các tu sĩ Yoga cho rằng phương pháp thực tiễn để biết mình là diệt trừ mọi vô minh, mọi vọng động, vọng tưởng, vọng niệm đã từng cấu tạo nên những màng lưới hình hài, bản năng, tâm tư. Tất cả những vọng tưởng, vọng niệm, vọng chấp đó, tương tự như những đợt sóng luôn luôn biến hiện trong giòng sống con người khiến tâm thức không bao giờ phẳng lặng, thanh tịnh để bộc lộ trạng thái thuần túy của thức giác hiển lộ tinh lực uyên nguyên (TTÂĐ; Tr.240). Như vậy, người nào thoát khỏi trạng thái vô minh đương nhiên đạt đến viên giác, đại ngộ, tâm thức họ sẽ tới cõi thường tịch, an lạc không kể xiết. - Dù có nhiều phương pháp đạt tới thức ngộ nơi Ấn học, nhưng nguyên tắc chỉ có một đó là diệt ngã hay xả kỷ. Tôi nghĩ, anh em sẽ không ngạc nhiên khi tìm hiểu Ấn học nếu đã biết về Phật học vì sự khác biệt giữa Ấn học và Phật học cũng như đối với các đạo học khác, tựu trung chỉ là những quan niệm nơi hành trình tu chứng mà thôi bởi chân lý chỉ có một, và điểm khởi hành chính là tự biết mình. Chẳng hạn, Ấn học quan niệm về Đại Ngã dẫu ngôn từ diễn giải khác biệt thì cũng chỉ như Thượng Đế, Chân Như, hay Tào. Thực thể tâm linh nơi con người được gọi Tiểu Ngã, nhà Phật gọi là Phật tính, Thiên Chúa giáo gọi linh hồn. Yoga bao gồm nhiều cách tu luyện nhưng tựu trung đều là phương thức nâng tâm thức, tiểu ngã hòa nhập Đại Ngã bắt nguồn từ nghiệm chứng nơi Ấn học. - Thưa bác, nếu Ấn học rất phức tạp sao có thể đặt vấn đề tổng hợp. - Khi nhắc đến tôn giáo, chúng ta đều nhận biết có nhiều tôn giáo và mỗi tôn giáo được phát sinh và thiết lập dựa trên nền tảng niềm tin chung nơi tín đồ. Thêm vào đó, cuộc đời thay đổi và thăng tiến cộng hưởng với sự diễn giải kết quả tu chứng của một số vị chân tu; do đó quan niệm cũng như niềm tin biến đổi cho phù hợp với nghiệm chứng đạo học. Sở dĩ Ấn học cũng như Phật học phức tạp vì hành trình tu chứng phát triển theo thời gian đã phát sinh rất nhiều khuynh hướng giãi bày cảm nghiệm. Chẳng hạn chúng ta thấy, hành trình phát triển Ấn học từ thời thượng cổ mang tính chất mật truyền được bao trùm dưới nhiều bình diện thức giác trải qua những truyền thống Kỳ Na, kinh Vệ Đà, Upanishads, và sau này vào thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau tây lịch, kinh Bhagavad Gìtà xuất hiện. Kinh này rất được người Ấn Độ ngưỡng mộ và đọc tụng (TTÂĐ. Tr.187). Kinh được viết dưới hình thức một cuộc đối thoại giữa tôn giả Krishna và Arjuna trên chiến trường Kurukshetra (CTC. Tr.IV) để trình bày nguyên lý thương đau chứa đựng trong tác phẩm và đưa các dữ kiện tôn giáo vào thực tại của cuộc đời hầu nói lên thực thể quyền lực tuyệt đối đang hoạt động dưới nhiều hình thức khác biệt. Thực ra, mọi kinh sách đạo học đều có xuất xứ khá mù mờ đồng thời được bổ xung do những bậc thức ngộ, kinh Bhagavad Gìtà là một đoạn của thiên anh hùng ca Mahabharata không biết do ai trước tác. Tuy nhiên, chỉ cần một chút suy nghiệm, chúng ta sẽ nhận thấy chân lý bao giờ cũng hiển hiện một cách mầu nhiệm trong không gian và thời gian. Sự sống thật sự không thể bị ràng buộc trong giới hạn thời gian mà ngược lại rất huyền nhiệm, sống động không ngừng biến chuyển chẳng khác gì giòng nước luôn luôn tuôn chảy. Cũng như các đạo học khác, Ấn học đặt căn bản trên nền tảng nghiệm chứng này; bởi nếu chúng ta nhận thức được sự thiêng liêng duy nhất ở tất cả thì ta sẽ thấy sự sống biểu hiện khắp nơi qua thiên hình vạn trạng. Ngược lại, con người thường thu hẹp nguồn lực thiêng liêng, quyền lực hiện hữu, thường được gọi là sự sống, trong các danh từ giới hạn, và cố gắng giải thích bằng những ý niệm của tư tưởng. Ấn học khuyến khích sự ý thức và kinh nghiệm thực thể biến chuyển không ngừng của quyền lực tối thượng hầu giúp con người nhận ra định luật điều hành vũ trụ tuyệt vời mà chúng ta thường cho là ở bên ngoài, vốn thực không khác những định luật hiện nay đang chi phối bên trong mỗi con người. - Có điều, nơi kinh sách diễn giải, các tác giả kinh sách Ấn học hay đề cập đến thực thể tối thượng được gọi là Đại Ngã như một vị chúa tể mang nhân tính chẳng hạn đức Thế Tôn hoặc Thượng Đế hay nhân cách hóa bằng đại danh xưng "Ta." Chẳng hạn nơi kinh Bhagavad Gìtà viết, "Này Arjuna, Ta là Đại Ngã ngự trị trong tâm hồn vạn vật: Ta là lúc khởi đầu, là chốn trung gian và là cứu cánh của vạn vật. Trong các tập Phệ Đà, Ta là Sàmaveda. Trong số các bản thể ngời sáng, Ta là bản thể ngời sáng, Ta là bản thể Vàsava. Trong các quan năng Ta là tinh thần (Manas), và trong khắp phù sinh Ta là tri thức (CTC. Tr.100-101). Ta là thần chết cấu xé muôn loài, Ta là nguyên ủy của tất cả những gì sắp sửa sinh ra. Trong các phẩm hạnh của nữ tính, Ta là danh giá, là giàu sang, là thịnh vượng, là lời nói, là ký ức, là thông minh, là đức kiên trì và lòng tha thứ (CTC. Tr.103). Ta là trò xảo trá của kẻ đại bịp, và là sự rực rỡ của những vật thể huy hoàng. Ta là vinh quang, Ta là quả cảm, Ta là chân tính của lẽ phải. Ta là yên lặng của mật tính và là tri thức của những bậc hiền giả. Ta là hạt nhân của tất cả thực hữu. Chẳng có chuyện gì, dù chuyển động hay bất động lại có thể hiện hữu ngoài Ta (CTC. Tr.105). Như vậy, Thượng Đế nơi Ấn học lớn hơn không gian nhưng đồng thời cũng nhỏ hơn một hạt nhân nguyên tử vì Thượng Đế là đời sống của nguyên tử. Không có gì lớn hơn Thượng Đế và cũng không có gì nhỏ mà có thể thoát ra khỏi Ngài. Thượng Đế hay chân lý tuyệt đối không có hình dạng, màu sắc hay đường nét gì, nhưng nhờ Thượng Đế mà các sắc tướng được đẹp đẽ, rực rỡ và tinh vi (BRTS; Tr.42). - Tuy nhiên, anh em nên để ý sự khác biệt giữa đạo học và tôn giáo như tôi đã giải thích nhiều lần để mở rộng lòng quan sát và học hỏi chứ không phải để phê phán hay chỉ trích; vì làm sao người ta có thể kinh nghiệm được gì khi lòng còn đầy tự hào như con đẻ của nhận thức hạn hẹp hoặc đã bị ám ảnh quá nặng nề do sự nhồi sọ của những nhà thuyết giảng bởi mang nặng tính chất ỷ lại hoặc lười suy nghĩ. Đàng khác, điều rõ ràng chúng ta đều nhận biết đó là không ai có thể đạt tới những gì chưa bao giờ biết hoặc chưa thử nghiệm nhưng lại e sợ những gì chưa bao giờ đối diện nên dễ sinh lòng đố kỵ. Thực ra, sự e sợ này chính là đặc tính của những tâm hồn thiếu nhận thức hoặc hoàn toàn mất hết khả năng sinh động mà nhà Phật thường gọi là trạng thái vô minh. Xét về Ấn học, trọng điểm nơi giáo huấn của Bhagavad Gìtà, tiếng Việt dịch là Chí Tôn Ca, bàn về con đường đạt đến tinh thần giải thoát. Con đường giải thoát này chính là con đường của đạo Yoga hướng về hành động (Karmayoga), hay là con đường hoàn tất nghĩa vụ bằng tư tưởng của đạo Yoga, một phương thức hợp thể với tinh thần đức Thế Tôn vô thượng (CTC. Tr.XXI). Quan niệm hành động nơi Ấn học có nghĩa chính là cuộc sống của một người. Ăn uống, vận chuyển, linh động qua những quan năng xác thân nơi cuộc sống thường ngày đều có nghĩa là hành động. Hành động là một phương thế hiệu nghiệm nhất để tự biểu lộ tự ngã của mình trong trần thế (CTC. Tr.XXI). Nói cách khác, cuộc đời một người chính là sự thể hiện linh hoạt của Đại Ngã nơi thế giới hữu hình. Chỉ có một năng lực tuệ mẫn luôn luôn biến chuyển hàm chứa mọi tính chất sinh động nằm sau những hoạt động vô tận của vũ trụ là đức Thế Tôn. Chỉ có ý muốn của người là hữu hiệu trong mọi hành động; người là một thực thể duy nhất hiện hữu, nhưng người hoạt động qua bản ngã nhân gian, và dùng nhân gian như thể công cụ của người (CTC. Tr.XXIII). Nói cách khác, những định luật sinh hóa, biến động tự nhiên phức tạp nơi thế giới hữu hình cũng như vô hình chính là sự hoạt động của Đại Ngã nơi muôn loài muôn vật. Thế nên, đời sống thực sự không phải là một sự cố gắng, phấn đấu để đạt được cái này hay cái khác nhưng là một sự thoải mái trong tự do tuyệt đối (BRTS; Tr.16). Như vậy, con đường thức ngộ theo Ấn học đòi hỏi một sự cảnh giác không ngừng; con người cần luôn đặt tâm tưởng nơi mục đích chính của mình đó là sự nhận thức thực sự mình là một với đấng cao cả (BRTS; Tr.25) hầu vượt qua những sự cám dỗ của các tư tưởng nhỏ mọn, ích kỷ vẫn tiềm ẩn trong tâm tạo nên đau khổ vì coi mình như chủ thể hành động. - Thưa bác, cháu xin được ngắt lời, vì nếu mình đã là một với đấng cao cả nào đó thì dù nhận thức hay không có gì thay đổi đâu. Và nếu đã là một với đấng cao cả thì sao còn có mình, sao còn nói đến đấng cao cả. - Tôi nghĩ anh chưa bao giờ suy nghiệm lời đức Thích Ca nói "Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành." Đức Đạt Ma sư tổ nói rằng "Thấy thẳng tánh mình thì gọi là thiền. Thấy tánh tức là Phật" (SCTT. Tr.124). Danh hiệu Đấng Cao Cả được dùng trong Ấn học chính là Thượng Đế, Đại Ngã, chẳng khác gì Phật tánh hay Chân Như nơi Phật học. Đó là lý do tại sao Đạt Ma Sư Tổ nói "Phật không giữ không phạm giới. Tâm tánh vốn không, cũng chẳng dơ, sạch. Các pháp đều không tu không chứng không nhân không quả. Phật là người vô tác" (SCTT. Tr.118). Bất cứ ai đã giác ngộ tức là đã thực sự thấy được chính quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mình và con người mình, cuộc đời mình chỉ là công cụ cho quyền lực này thì được gọi là Phật. Đây cũng là điểm giác ngộ tận cùng nơi Ấn học. Đại sư Swami Nikhilananda nơi phần tựa của cuốn Chí Tôn Ca đã giải thích, "Mục đích của tư tưởng Krishna là xóa bỏ những mối nghi ngờ và lầm lẫn ngự trị con người trong mọi vấn đề, tầm thường cũng như trọng đại. Những lầm lẫn và nghi ngờ này chỉ có thể được xóa bỏ nhờ tinh thần giác ngộ chân tính; đó là đức Thế Tôn hiện hữu ngay trong tâm thức của mình" (CTC. Tr.XVI). Như vậy, người nào ý thức được tinh thần vô thượng đang hoạt động nơi mình, sẽ xa thoát khỏi bản ngã trì nệ của con người. Nếu xét theo nhận thức khoa học, chúng ta không thể phân tách vật chất khỏi năng tính, cũng vậy, nếu chỉ đựa trên bản thể vô thượng, một người không thể phân biệt được hành động và không hành động (CTC. Tr.XXXVI) hoặc người hành động và thực thể hành động vì tất cả chỉ là những hoạt động, biến chuyển của thực thể tối thượng. Nếu nghiệm chứng được nhận thức này, con người đạt tới cảnh giới tâm linh vô thượng. Nói cách khác, người có ý thức vô thượng sẽ không bao giờ còn phải tái sinh nữa vì đã hợp nhất với chính tinh thần hiện hữu (CTC. Tr.XXXVIII) bởi khi tâm trí, quan năng hoàn toàn vượt khỏi thế giới ngoại lai, thoát đắm mê thế tục vô thường, khi tâm trí và quan năng được hướng về thực thể vĩnh cửu, lúc đó một tình trạng mặc khải vĩ đại, một ý thức về chân tính xuất hiện tiêu diệt tinh thần ngu lậu và lầm lẫn trong cõi đời hữu hạn như con người mê ngủ ra khỏi giấc nồng và bước vào một thế giới với một chiều hướng mới (CTC. Tr.XXXVIII). - Thưa bác, dẫu đạt tới cõi giới nào thì hành động vẫn chỉ là hành động và thực tính của hành động nào khác biệt chi! Chẳng lẽ người thức ngộ tinh thần vô thượng ăn ớt không cay, uống rượu không say, hoặc sẽ thức đêm, ngủ ngày khác với những người chung quanh! - Anh nói nghe cũng có lý nhưng lý một nửa. Để tâm nghiệm chứng anh sẽ nhận thấy, chính ý thức gợi lên tinh thần hành động chứ không phải tạo nên những hành động. Do đó, người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ tinh thần vô thượng đều có những hành động giống nhau, chẳng hạn như ăn, ngủ; nhưng trong khi người chưa giác ngộ thấy trong hành động của mình mang đầy tinh thần tự ngã và yếu tố vật chất; người giác ngộ chỉ thấy hành động của mình trong bản ngã vô thượng mà thôi. Như vậy, chỉ có ý thức mới phân biệt được con người giác ngộ và con người chưa giác ngộ (CTC. Tr.XXXV); bởi lẽ đương nhiên, điều phi thực không hiện hữu, điều chân thực không ngừng hiện hữu. Muốn thấy được yếu tính của chúng phải là người đã nhìn ra chân tính (CTC. Tr.15). - Thưa bác, nếu thế đâu cần luân lý. - Tôi hiểu anh muốn nói gì. Anh em nên để ý nhận định, luân lý là những lề luật, thành văn hay bất thành văn, chỉ là sản phẩm của con người vì lợi ích nhân sinh trong sự liên hệ cuộc sống. Tuy nhiên, đâu phải lề luật hay luân lý giúp chúng ta trở nên toàn thiện. Đàng khác, nơi hành trình tâm linh theo Ấn học, hành động chính là cuộc sống, cách sống, tất cả hoạt động nơi sự hiện hữu. Nhịp tim đập, lá phổi thở, suy nghĩ nơi tâm trí, mọi sự đều là hành động của Đại Ngã thì sao chúng ta có thể dùng nhận định luân lý hạn hẹp làm tiêu chuẩn nhận định. Ai là người đặt ra lề luật qui định con tim phải đập bao nhiêu nhịp trong một phút hay nó đập ra sao con người đành chịu như thế! Bởi vậy, vấn đề cần được đặt ra chỉ là chúng ta có ý thức quyền lực khiến con tim đập, lá phổi thở hay không. Nếu quyền lực này đang hoạt động nơi mình mà không nghiệm chứng tất nhiên được gọi là vô minh. Do đó, dẫu thức ngộ hay vô minh cũng chỉ là một người; vấn đề khác biệt tùy thuộc trạng thái tâm thức mà thôi. Nhận thức như vậy, anh em hiểu được tại sao Ấn học có câu: "Không phải nhờ giới luật của hành động con người mới đạt đến tự do, cũng không phải chỉ biết khước từ hành động (xả kỷ) con người mới đạt được toàn thiện. Sự thực, ngay trong giây lát, chẳng có ai ngồi ỳ ra mà không hành động, vì những phẩm tính bẩm sinh (Gunas) từ Prãriti mọi người sinh ra để mà hành động, bắt buộc hắn phải hành động" (CTC. Tr.31). Như thế, xác thân có mục đích riêng của nó; vì với sự hỗ trợ của xác thân, linh hồn tù túng được giải thoát (CTC. Tr.XXXIX). Có thể nói theo lối duy lý, xác thân chỉ là công cụ cho linh hồn thăng tiến nơi cuộc sống hữu hình. - Tuy nhiên, Ấn học không coi rẻ xác thân vì dẫu đôi khi gọi xác thân là nhà tù của linh hồn nhưng đồng thời, qua cơ hội cuộc sống nó lại là phương tiện linh hoạt duy nhất để phát triển tâm linh một người vì nó cũng chính là hiện thân của quyền lực tối thượng nơi hành trình hữu vi. Trong kinh Chí Tôn Ca, Arjuna biểu hiệu của một linh hồn nhân thế, còn tôn giả Krishna là linh hồn vô thượng hiện hữu trong tâm thức phàm nhân (CTC. Tr.VI). Krishna nhắc nhở cho Arjuna đại diện cho thế nhân ý thức cốt cán về cuộc sống; hoạt động của con người chính là ý thức về thực thể. Hành động thoát khỏi ý niệm về con người hành động, thoát khỏi năng lực hành động, và hậu quả của hành động mới đúng là ý thức vô thượng (CTC. Tr.XXXV). Atman hay linh hồn là hiện thân của tinh thần toàn thiện, vĩnh phúc, hòa bình nên linh hồn bất biến và không hành động, nhưng bản ngã vô thượng hay Atman hiện ra để hành động vì năng lực huyền ảo cứng nhắc của Màyà xâm nhập vào bản thể vô thượng và làm cho tinh thần nhất thể hiện ra muôn ngàn vóc thể, do đó bản ngã tối thượng bị nhận thức thành bản ngã hữu hạn (CTC. Tr.XXX). Như tôi đã nói với anh em, không phải bộ óc chúng ta suy nghĩ hay sáng tạo hoặc ước mơ mà những suy tư tâm linh hay tinh thần đều là hoạt động của linh hồn. Nơi Ấn học, đạo trình Yoga là phương pháp thực nghiệm dùng xác thân như phương tiện giúp linh hồn nhận thức thực thể về bản thể uyên nguyên tối thượng nơi mình. - Thưa bác, yoga có phải là thiền không? Cháu nghe có người nói là đạo yoga trong khi bác lại nói phương pháp yoga. - Thiền hay Yoga là phương pháp hoặc hành trình giúp người tu chứng tiến tới đại định, trạng thái ý thức hòa nhập với thực thể tối thượng đang hoạt động nơi mọi loài mọi vật... - Thưa bác, - Khoan hãy hỏi, bác đang nói, chưa chi đã nhảy xổm vào cổ họng... - Ai nhảy vào cổ họng ai! Ông biết tôi sẽ nói gì mà đã vội chận họng... - Các chú nên bình tĩnh, Ông Thung lên tiếng và hướng về cụ Tài, xin cụ phân định. - Anh Sỹ, anh muốn nói gì? Men rượu, men bia khiến hắn cần phần nào chứng tỏ lý phá ngang của mình nên thái độ hơi nghênh ngang phơi bày quyền ưu tiên với Bá vì vừa lên tiếng chặn câu hỏi của hắn, - Ông đã nhận thức được ai nhảy xổm vào cổ họng ai chưa? - Chú Sỹ, ông Thung ngắt lời, thời gian cũng khá muộn. - Vấn đề cháu muốn đặt ra đó là nếu Thượng Đế, Đại Ngã, Chân Như, Quyền Lực Uyên Nguyên đã và đang hoạt động nơi mọi người thì đâu cần phải thiền, phải định, phải "giô ga," "giô rượu." - Anh em biết rõ, có giô ga, giô rượu thì cuối cùng cũng như chưa giô sao vẫn cứ giô? - Nó phê... lắm..., Hinh lấy giọng trầm trầm, kéo dài âm "phê" khiến mọi người cảm thấy vui lây... - Kiến tính thành Phật hoặc Yoga đều có cùng một mục đích đó là nhận ra bản thể tuyệt đối đang hoạt động nơi mình. Nhà Phật gọi là chứng ngộ, chứng nghiệm, chứng cái không để vượt khỏi vòng vô minh. Đây chính là điều kinh Niết Bàn của nhà Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không được giải thoát (SCTT. Tr.43). Nếu anh em nào có cơ hội đọc cuốn Vô Niệm Viên Thông nên để ý nơi phần lời tựa, sư Thích Minh Thiền hý lộng, "Đời là một đại hí trường, đã trót đến hí trường, không thể không tìm trò chơi cho thoải mái. Muốn chơi theo chúng sinh hay chơi theo Phật thì cứ mà tùy ý miễn đừng quên là mình đang chơi được rồi!" (VNVT; Tr.1-2). Nguyên tắc chơi của ngài chỉ là không mong cầu tất cả những gì thuộc về tài, tình, danh lợi xoay quanh trục lợi hại bổn thân của cái tôi - không nương dựa vào bất cứ một quyền oai thần thánh nào - không sợ hãi một điều gì xuất phát từ lợi hại bổn thân - phải tuyệt đối thành thật với chính mình. (VNVT; Tr.36). Cao điểm kiến tính thành Phật hay yoga cũng chỉ có thế. Tuy nhiên, chẳng khác gì thứ lừa ưa nặng, nhân sinh muốn mang ách thì tạo ra ách cho thêm phiền hà bởi văn từ yoga lấy từ tiếng Phạn “Yog” có nghĩa là cái ách. Hành trình thực nghiệm phát xuất từ Ấn học được áp dụng theo nhiều phương pháp Yoga. Nhà Phật thì có những Phật pháp gọi chung là thiền. Ngược lại, đối với những người bình dân thiếu hiểu biết, nghe đây lõm bõm vài câu, hóng đó dăm ý kiến đồn đãi nên thường cho rằng thiền hay yoga cũng như nhau; có những người khác gọi đạo thiền hay đạo yoga. Qua lần nói chuyện buổi tối tuần trước và tối hôm nay, tôi nghĩ anh em đã biết thiền là gì. Riêng về Yoga, đó là hành trình thực chứng tối quan trọng nơi Ấn học. Tôi muốn anh em thực nghiệm đôi phút. Mọi người hãy chống cùi chõ lên bàn và giơ ngón tay trỏ lên một cách tự nhiên. Nào, nhắm mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng lỗ mũi, và dồn hết tâm trí, tưởng tượng rằng luồng khí nhẹ nhàng xuyên qua lỗ mũi được dẫn trực tiếp tới ngón tay trỏ. Anh em cứ ngồi tự nhiên thoải mái, không động đậy. Nào, từ từ thở ra, từ từ hít vô. Cụ Tài hướng dẫn mọi người hít vô, thở ra bẩy lần. - Anh em cảm thấy thế nào nơi ngón tay trỏ. - Ô!, lạ quá, nó giật giật giống như động mạch ở cổ chạy lên đầu. Tùy con lên tiếng. - Đây là nguyên tắc thực nghiệm chính yếu của Yoga; nếu anh em nào học võ theo môn phái hiệp khí đạo sẽ không lạ gì về trò chơi này, vì ý dẫn khí và khí dẫn huyết đến đả thông những kinh mạch bị bế tắc. Nếu được chỉ dẫn đúng đắn theo hành trình luyện khí công nào đó, người thực hành sẽ phát huy được luồng nội lực và đồng thời sẽ phát triển được một số quyền năng hữu ích nơi cuộc sống hữu vi, có thể thực hiện được những việc thường được gọi là phép lạ. Ngược lại, sử dụng những quyền năng này với ý đồ chẳng nên nào đó sẽ phải trả giá khá nặng mà chỉ ai vấp phải mới biết. Tôi nói trước, nếu anh em nào tò mò muốn thử, cứ việc thử nhưng chắc chắn sẽ gặp phiền hà đầu tiên tạm gọi là tẩu hỏa nhập ma. Bởi vậy, nếu ai liều mạng muốn thử, khi nào cảm thấy mỏi phía đàng sau gáy hay ê ẩm ngang thắt lưng tất nhiên đã bắt đầu bị tẩu hỏa nhập ma. Muốn chữa thì đứng thẳng người một cách bình thường, dồn hết tâm trí vào hơi thở từ từ hít hơi dẫn vô nơi nhức mỏi trong khi hai tay theo luồng hơi đang hít vào giang ra và từ từ đưa cao ngang bằng với vai. Khi không khí đã đầy phổi, từ từ thở ra và hai tay xuôi dần xuống hai bên thân. Làm như vậy ít nhất là năm lần thì máu huyết tắc đọng nơi đó sẽ được thông. - Thưa bác, nếu cứ tiếp tục luyện thì sao? - Thì hai năm mươi, Bá lên giọng chen ngang. - Dĩ nhiên, chết thì không chết nhưng sẽ bị điên khùng. - Thưa bác, như bác nói, mọi suy tư, ước muốn, đều do hồn con người thì sự điên khùng phải phát xuất từ hồn chứ đâu phải là kết quả của sự luyện tập dẫn luồng khí huyết không đúng phương pháp? - Trước khi trả lời câu hỏi, tôi muốn phân định rõ ràng đó là sự liên hệ giữa hồn và xác thể không thể tách rời và xác thân là phương tiện duy nhất cho hồn trong hành trình thăng tiến tâm linh. Linh hồn hay atman cũng là một với ý thức, nhận thức, kiến thức, ước muốn, ý định. Ai cũng nhận thấy qua kinh nghiệm sống của mình, lòng buồn sanh bịnh, bịnh sanh lòng buồn; lòng quanh quéo sông càng quanh quéo, cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu (VNVT; Tr.10). Theo Ấn học, linh hồn và xác thân là hiện thể của Đại Ngã, thực thể tối thượng. Thế nên, sự luyện tập xác thân theo phương pháp Yoga thanh tẩy những phần tử trọng trược do bởi thiếu ý thức nhận biết thực thể chính mình. Dẫu được sinh ra với bản tính khác nhau, điều lầm lạc lớn nhứt của chúng ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém; thực ra các cá tính chỉ là kết quả do những thói quen, lòng ham muốn, và dục tình sinh ra chớ không phải chúng là bản chất của con người. Cũng thế, tính tình của một người chỉ là thói quen của tư tưởng. Tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều nhập nhiễm và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng chứng là người có tâm hồn thanh cao không thể hợp với những nơi ồn ào, náo nhiệt, ngược lại, kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm (HTVPĐ; Tr.191). Thế nên, khi phần tử nào của thân xác gặp trục trặc, nó sẽ trở thành sự cản trở hoặc phương tiện biến những mệnh lệnh thành rối loạn thì hồn không thể sử dụng xác thân một cách chính xác vì vậy được gọi là điên khùng. - Theo lời giải thích của những hành giả Yoga, sinh lực là phương tiện để ngự trị các năng lực sinh hoạt của tâm linh trong mọi hình thức biểu hiệu của chúng. Hình thức biểu hiệu hiển nhiên nhất là hơi thở (MGTT; Tr.204). Thế nên, tập thở theo một phương pháp nhất định, đó là bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng cần lặp lại một lần nữa rằng phép luyện khí công có thể có hại nếu không nói là tối nguy hiểm đến tánh mạng trừ phi hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm (TTHB; Tr.174). Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng, hai bộ máy hô hấp và tuần hoàn đều có liên quan chặt chẽ với nhau đồng thời tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai bộ máy nói trên. Theo quan niệm Yoga, hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn; sức mạnh này mới là trụ cốt sinh hoạt của xác thể. Chính sức mạnh đó ẩn tàng, vô hình, vô ảnh trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi nó rời khỏi xác thân thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp chúng ta làm chủ được phần nào sinh lực vô hình đó (ĐPHB; Tr.79-80). Như vậy, Yoga là phương pháp chế ngự giác quan tiến tới đại định. Có nhiều phương pháp chế ngự giác quan. "Phương pháp thông thường là dồn hết tâm trí để ý đến nhịp thở được gọi là "quán sổ tức." Khi để hết tâm chuyên chú vào nhịp thở, lấy tâm mình noi theo nhịp thở, ta có thể dần dần khóa kín các ngõ ngách của giác quan khiến ngoại giới không lọt vào được tâm thức. Phương pháp thức hai là dồn tất cả sự chú ý của mình vào nội tâm và cơ thể trong người được gọi là "hồi quang phản chiếu." Tỉ dụ quán tưởng vào điểm giữa hai lông mày hoặc nơi trái tim, thường được hình dung như một bông sen có nhiều cánh. Khi đạt đến trình độ này, hành giả thường ngồi tĩnh tọa bất động, hai mắt nhắm lại, giữ hơi thở đều hòa, các ngũ quan khép chặt, toàn thân gần như trở thành vô tri giác đối với ngoại giới, tâm thức tập trung vào một điểm nào nơi cơ thể hoặc một ý niệm nào đó. Theo kinh sách kể lại, nơi giai đoạn này hành giả sắp đối diện với những thời điểm hiểm nghèo cũng như có thể đạt tới những thành quả khá kỳ lạ. Họ có thể khai thông được những nguồn sinh lực mới mẻ và hết sức mãnh liệt vẫn tiềm ẩn nơi mình" (TTÂĐ; Tr.251-252). Tuy nhiên, những quyền năng như kết quả phát triển năng lực nội tại theo phương pháp Yoga sẽ là những cạm bẫy ngăn cản bước đường tu chứng vì càng có quyền năng bao nhiêu, con người càng dễ rơi vào vọng chấp bấy nhiêu và phát sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Bậc thức giả phải biết vượt lên trên nữa để đi tới thiền định hầu đạt tới địa hạt huyền diệu tuyệt đối, hòa nhập làm một cùng quyền lực vũ trụ tức Thượng Đế (TTÂĐ; Tr.256). - Có nhiều pháp môn Yoga, Mimmamsa: khuyến cáo sự tu luyện bằng việc hành lễ và tụng niệm giống như phái tịnh độ tông của nhà Phật. Phái Tantrisme khuyến cáo sự thờ phượng và tụng niệm các chân ngôn. Phái Védanta chủ trương dùng trí tuệ tu luyện để thấu triệt cái lẽ phi nhị huyền diệu trong tạo vật. Phái Jnana-Yoga cũng tương tự như vậy (TTÂĐ; Tr.237). Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalingi Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ. Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén; Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, và Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, nhờ đó hành giả thấu triệt ý nghĩa và sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời (TTHB; Tr.177). - Thưa bác, cháu nghe đâu đó nói rằng ai muốn luyện tập yoga phải theo những quy luật rất khắt khe về ăn uống cũng như những thế ngồi, nằm, đi đứng. - Nguyên tắc siêu thoát của Ấn học bắt nguồn từ nhận thức tâm linh. Uyên nguyên của vũ trụ bắt nguồn ở một tinh lực duy nhất, thường hằng tự tại, vô thủy, vô chung. Bất cứ một hiện tượng nào, bất cứ một chúng sinh nào cũng đều do tinh lực đó tạo nên và cũng đều hàm chứa thứ tinh lực đó. Nhưng càng đi sâu và hiện tượng hóa, tinh lực đó thường bị vùi lấp dần dưới những lớp thể chất tương tự như một tấm gương trong sáng bị phủ đầy bụi nhơ (TTÂĐ; Tr.239-240). Chỉ khi tập trung quán tưởng, con người mới có thể thực hiện những nỗ lực cuối cùng để diệt trừ vọng tưởng đưa thần thức mình hòa nhập với thực thể uyên nguyên của vũ trụ (TTÂĐ; Tr.242). Bởi thế, phương pháp Yoga cũng như thiền tức là dồn mọi nỗ lực vào sự tập trung quán tưởng, dùng tâm thức tập trung sự quán tưởng theo chiều hướng chuyên nhất để đưa thức giác vượt lên trạng thái siêu thức bằng cách diệt vọng tưởng. Muốn đạt tới trình độ này, hành giả cần phải tập luyện để điều thân, điều tức, và điều tâm. Điều có nghĩa vừa điều hòa vừa điều khiển. Điều thân tức là điều hòa và điều khiển nhịp sống sinh lý của mình. Điều tức là điều hòa và điều khiển nhịp thở của mình. Nhịp thở là nơi tiếp giáp giữa tâm và vật. Có điều khiển được nhịp thở mới hoàn tất được nhịp sống của sinh lý và tiến tới sự điều tâm. Điều tâm nghĩa là điều hòa và điều khiển sự sinh hoạt của tâm thức mình (TTÂĐ; Tr.242). - Hành trình Yoga bao gồm những nấc thang giúp hành giả đạt tới đại định. Như vậy, những phương pháp hay điều lệ Yoga đều nhắm tới sự luyện tâm. Chẳng hạn Yama Yoga bao gồm sự tuân giữ năm giới: cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp, cấm hành lạc và dâm dục, không được tham lam ích kỷ. Niyrma có 5 điều luật: trong sạch, an phận, khổ hạnh, tu học và tập luyện, tôn kính Thượng Đế Icvara của phái Yoga. Ý nghĩa chính của những điều luật Niyama là sự luôn luôn khước từ những dục vọng tầm thường. Đối với những người tu Yoga, sự khước từ có một ý nghĩa tích cực vì khi can đảm khước từ một ý muốn nào như một chức vị, một chén rượu ngon, mỗi khước từ đều trau giồi cho tâm thức lớn mạnh và tự do hơn trước (TTÂĐ; Tr.245-246). - Theo lý thuyết thực nghiệm Yoga, vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế và trong một thời gian bao lâu không phải là vấn đề quan trọng. Sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư thế đó một cách đúng phép làm thúc động những mãnh lực tiềm tàng trong người chúng ta mới là chủ đích. Những mãnh lực đó là những bí mật của thiên nhiên; nó chỉ hoàn toàn phát triển khi nào có kèm theo những phép luyện hơi thở vì hơi thở có những quyền năng rất nhiệm mầu. Sự khích động những mãnh lực tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga (ĐPHB; Tr.70). Nơi các sách vở viết về thực hành Yoga thường nhắc tới thế ngồi Liên Hoa. Thế "liên hoa tọa bộ" giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó hành giả khỏi bị té ngã nếu y thình lình xuất thần trong cơn nhập định. Thế ngồi này thường được dùng để luyện tập điều hành hơi thở, dễ tập trung tư tưởng và tự tin. Những người thực hành Yoga quan niệm rằng sự phối hợp của thế ngồi và lòng tự tin làm thức động luồng hỏa hầu tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho hành giả khai mở một vài luân xa và có được một số khả năng trỗi vượt thường được gọi là quyền năng (ĐPHB; Tr.75). - Các đạo sĩ Yoga giải thích rằng cơ thể con người có bẩy trung tâm lực được gọi là luân xa mà chỉ những người đã dầy công tu luyện mới có thể nhìn thấy. Luân xa là đầu mối và qua đó tinh lực vũ trụ đổ dồn vào tiểu vũ trụ tức con người. Nơi cơ thể người thường, những luân xa bị bế tắc, chưa được khai thông nên không thể sử dụng được những nguồn tinh lực này. Luân xa thứ nhất được gọi là Mulâdhâra, nằm ở đầu chót xương sống. Luân xa thứ nhì mang tên Svadischtana nơi cuối bụng dưới, cách rốn một lóng tay, thường được gọi là đơn điền. Luân xa thứ ba ở lưng, ngang rốn, hình hoa sen mười cánh gọi là Manipura. Luân xa thứ tư nằm ở trái tim, Anahata. Luân xa thứ năm, Vischuda, tiểu não, phía sau yết hầu. Luân xa thứ sáu tức Ajna ở khoảng giữa hai lông mày. Luân xa thứ bảy gọi là Sahasrana ngay nơi chóp đỉnh đầu, cũng được gọi là huyệt bách hội. (TTÂĐ; Tr.253-254). Theo Lama Anagarika Govinda, trung khu thấp nhất ở cuối xương sống, tương ứng với màng lưới thần kinh linh thiêng được gọi là Mulâdhâra; nó chứa sinh lực gốc, dùng để hoặc là sinh sản hay đổi mới các tiềm lực, hoặc là thăng hoa chúng thành năng lực tinh thần. Năng lực tiềm tàng của trung khu này được mô tả như là luồng hỏa xà (Kundalini); với tính cách là nguyên ý sáng tạo ra vũ trụ, nó đại diện cho quyền lực thiên nhiên, mang sức mạnh không gì kháng cự nổi; nó tác động như thiên thần, hoặc như ác quỷ; nó giúp cho triết nhân chiếm hữu nó đạt được sức mạnh tinh thần siêu việt; còn người điên kích động nó thì bị nó phá hoại (MGTT; Tr.187). - Thưa bác, cháu hơi tò mò, vậy trong cuộc đời bác đã gặp vị nào chứng đắc được quyền năng nào do luyện tập Yoga chưa? - Anh em nên hiểu thêm, những bậc đại giáo chủ như đức Giêsu, đức Krishna, đức Thích Ca, xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định với một sứ mạng to tát vĩ đại rồi tịch diệt sau khi mục đích của các ngài đã được hoàn thành (XPHB; Tr.61). Riêng những vị tôn sư, chân sư, được gọi là những đấng lâm phàm ẩn dấu cuộc đời của họ trước mắt những kẻ tò mò hoặc thế nhân phàm tục. Những vị thực sự tu hành vì đã biết hậu quả khốc hại cũng như bản tính mê đắm của con người với quyền năng nên họ chẳng bao giờ có ý đồ muốn đạt được quyền năng mặc dầu khi tu luyện đến một trình độ nào đó quyền năng chỉ là kết quả của sự tu luyện, nhưng họ bị cấm bởi những lời thề nguyền trước khi nhập môn tu chứng. Như thế, có thể nói trong cuộc đời, chúng ta đã gặp và chúng ta chưa gặp những vị chân sư đạt đạo. Nếu có thể được, anh em chịu khó kiếm và đọc hai cuốn sách Tây Tạng Huyền Bí và Xứ Phật Huyền Bí, may ra hữu ích cho việc chứng nghiệm. Một cuốn viết do Lạt Ma Lobsang Rampa và cuốn kia do một tu sĩ Yoga Ấn Độ. Nhân tiện tôi kể lại cho anh em một đoạn trong câu chuyện gặp gỡ của tu sĩ Ấn Yoganada và nữ thánh Công giáo Therese Newman người Đức: - Cô không bao giờ ăn uống gì chứ? Tôi hỏi để được nghe lời xác nhận từ miệng cô thốt ra. - Không, trừ ra một miếng bánh thánh lúc sáu giờ sáng mỗi ngày. - Miếng bánh thánh ấy độ bao lớn? - Nó mỏng như giấy và nhỏ chừng bằng một đồng xu. Tôi ăn nó vì lý do tâm linh. Nếu nó không được làm phép bí tích, tôi không thể nào nuốt trôi qua cổ họng! - Tất nhiên cô không thể sống bằng bấy nhiêu đó suốt mười hai năm trường? - Tôi sống trong ánh sáng của Chúa. - Tôi nghĩ chắc cô cũng biết rằng cơ thể cô hấp thụ khí lực của trời đất trong không khí và ánh sáng thiên nhiên. Một nụ cười hiện trên gương mặt, cô đáp: - Tôi rất sung sướng mà thấy bà hiểu tôi sống bằng cách nào. - Đời sống thánh thiện của cô đã chứng minh cho lời dạy của Đức Kitô: "Con người không phải chỉ sống bằng cơm gạo mà thôi, mà còn bằng lời nói của Chúa Trời" (XPHB; Tr.116). Tôi liền dừng chân trên ngưỡng cửa, kinh ngạc mà nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ dị và rùng rợn. Một giòng máu rỉ xuống liên tục từ hai mí mắt dưới của Therese, mắt cô nhìn lên tập trung vào bí huyệt ở giữa trán. Cái khăn quấn trên đầu cô đẫm máu ướt sũng chảy ra từ những vết thương do cái mão gai nhọn đặt lên đầu Chúa Kitô khi xưa. Cái áo dài trắng bị đẫm máu ở trên chỗ quả tim do vết thương đâm bên hông khi đức Kitô bị ngọn giáo của người lính đao phủ hành quyết. Vì đã điều chỉnh tần số nhịp điệu rung động của tôi để có sự giao cảm tâm linh truyền thanh và truyền hình với nữ thánh nên tôi bắt đầu nhìn thấy những cảnh tượng diễn ra trong cơn linh ảnh của cô. Cô đang chiêm ngưỡng đức Giêsu khi Ngài mang trên vai cây Thập Tự Giá bằng gỗ đi giữa đám đông la hét, nguyền rủa và phỉ báng Ngài (XPHB; Tr.119-120). Tu sĩ Yogananda có thêm thắt chi nơi câu truyện hay không tôi chẳng biết. Tôi chỉ kể lại để anh em cảm nghiệm được điều gì thì tự biết lấy. Có điều tôi muốn hỏi, qua câu truyện này, anh em có nhận thức thêm được điểm gì đặc biệt không? - Thưa bác, Tùy con đắn đo, nếu đó là chuyện thật thì thánh nữ Newman đã đạt tới đại định như người tu luyện Yoga. Và như vậy, cháu thấy hơi khó nghĩ. - Cảm ơn anh Tùy. Ai có thêm ý kiến gì nữa không? - Theo ý cháu thì, Hinh lên tiếng, sự việc này nói lên phần nào chiều sâu của các tôn giáo. Cháu theo đạo Công giáo nhưng chưa bao giờ được nghe cha nào hoặc sơ nào nói về phương cách để gặp gỡ Chúa diện đối diện như trong trường hợp thánh nữ Newman. Mà có chăng đều cho là phép lạ hoặc ân sủng đặc biệt, Chúa ban cho ai thì người nấy được. Như vậy, cháu muốn nói, e rằng các cha, các sơ cũng chẳng biết gì về hành trình tâm linh để đạt tới trạng thái thấy được linh ảnh. Nhưng, chẳng lẽ các ngài không được học về tu chứng. Thực ra, cháu hỏi để mà hỏi thôi; các ngài học những gì thì các ngài biết, nhưng cháu chưa bao giờ được nghe đến. Kể cũng hơi lạ! - Anh Sỹ. Cụ Tài gọi đích danh. - Bài học này đắt giá quá thưa bác. Bác hỏi con để chừa tội nói tào lao phải không thưa bác. Tuy nhiên, con cũng có đồng ý nghĩ với anh Hinh mặc dầu không thâm thúy bằng. Thực ra, từ tối tuần trước tới giờ, con suy nghĩ rất nhiều về phương diện tôn giáo, vì bác đặt vấn đề nhận biết chính mình. Con thấy hình như xưa nay mình theo đạo vì mối lo sợ nào đó. Nói cho đúng, đi nhà thờ theo thói quen, và khi đã quen rồi, không đi sẽ mang mặc cảm tội lỗi vì không giữ luật buộc. Nhất là khi bác nói tới sự tuân theo lề luật không thể giúp chúng ta trở nên thiện hảo. Ngược lại, nói theo nhà Phật, còn muốn trở nên thiện hảo thì cũng chỉ là vọng tưởng. Thế rồi cháu nghĩ tới nếu nói rằng tất cả những sinh hoạt, tâm tưởng đều là kết quả của thói quen cuộc sống thì cứ kệ nó bởi mình có bộ lòng ruột, ăn thì cứ ăn nhưng tâm tình ăn chơi phải như thế nào. Cháu chỉ nói theo lời sư Thích Minh Thiền thôi. Bởi vậy, cháu cảm thấy mình chơi vơi thế nào ấy. Nếu nói theo nhà Phật thì cháu đâu phải tuân theo lề luật nào đâu, mà không làm theo thói quen lại bị phiền lòng chẳng những cho mình mà còn dây dưa liên hệ đến phản ứng của những người quen biết chung quanh. Ối chà chà, cái ông Phật nơi cháu còn lắm chuyện rắc rối không sao kể xiết. - Anh Bá nghĩ thế nào? - Thưa bác, đối với cháu, thấy thì cứ thấy, nhìn thì cứ nhìn, nghe thì cứ nghe nhưng chẳng thấy chẳng nhìn chẳng nghe gì. Nào có chi đâu mà nói. - Anh nói nghe cũng có lý. Thế còn anh em nào có thêm ý kiến không? - Thưa cụ, ông Thung lên tiếng, nói cho đúng, mang danh Phật tử mà chỉ là hùa theo và hình như có được hai lần nghe giảng kinh chứ chùa chiền cũng rất ít khi có mặt; nói thật xin cụ và anh em đừng cười, tôi thấy thích suy nghiệm về Phật học vì lần trước cũng như lần này tôi học được khá nhiều nhưng cần phải có thời gian nghiệm chứng. Khi cụ hỏi lý do gì nhà sư Hương Nham thức ngộ khiến tôi nhột nhạt vì nghĩ mãi cũng chẳng ra. Đọc nơi cuốn sách nào đó dùng thí dụ lên đò, xuống đò để giải thích câu "người trước hết trở nên sau hết và người sau hết trở nên trước hết" vẫn không làm tôi thỏa mãn. Hình như có đám mây mù nào đó cứ triền miên bao phủ khiến tâm trí càng nghe, càng cố gắng nhận biết thì lại càng cảm thấy tối tăm mù mịt. Đôi khi tôi suy luận, đi chùa cầu phước điền mà còn cầu thì còn vọng tưởng; lạy Phật có mở mang tâm trí chút nào đâu mà như cụ giảng giải thì vấn đề là sự thức ngộ. Nếu chỉ nghe anh Hưng nói thì lại càng mù tịt. Thật ra, tôi cũng chưa biết xoay xở cách nào, dẫu cũng đã có tí tuổi. - Đã mấy lần tôi nói nhưng anh em không để ý. Bất cứ nền đạo học nào, trãi qua thời gian nghiệm chứng lâu dài cũng đều phát sinh thành các tông phái. Mỗi tông phái lại bao gồm thành phần công truyền và mật truyền. Phần công truyền bao gồm những giáo lý dạy cho đại chúng và nhấn mạnh nơi sự thờ phượng. Anh em có thể nhận thấy, khi một đám người cùng suy nghĩ về một điều gì thì sức mạnh của tư tưởng này sẽ được gia tăng lên gấp bội ;bởi sự rung động của tư tưởng đó đã được khuếch đại lên nhiều lần. Điều đó giải thích tại sao trong đám đông, nhiều người thường dễ mất tự chủ và hành động theo sự xui khiến của đám đông ấy (BRTS; Tr.36). Tâm tình cầu nguyện trong sự thờ phượng cũng thế. Khi nguyện cầu, thâm tâm con người không hề bị bất an, đầu óc họ không bị các vọng tưởng chi phối mà nhiệt thành, sùng kính; phỏng nghiệm chứng nào hơn được trạng thái ấy. Cầu nguyện đúng nghĩa là nâng tâm thức mình hòa nhập với quyền lực tối thượng. Dẫu không biết thiền hoặc tu chứng hay suy gẫm sâu xa, nhưng con đường của họ là đức tin và đó là động năng mạnh nhất. Anh em đừng tưởng công phu tu tập hàng trăm kiếp của bất cứ ai đã hơn được đức tin của những người mộ đạo chân thành. Có thể họ vô tư không biết ý định hoặc ước muốn của những người hướng dẫn họ đã âm mưu gì, nhưng điều đó đâu ăn nhập gì đến lòng thành kính và đức tin của họ. Anh em nên biết, sự tin tưởng mãnh liệt vẫn là một động năng rất mạnh để giúp chúng ta đến gần Thượng Đế. Dĩ nhiên, khi mong cầu có được một điều gì thì sẽ không thể đạt được gì hết vì chính sự mong muốn đó đã khuấy động lòng ước ao phá tan lòng sùng kính của người cầu nguyện. Thế nên, giữ tâm yên lặng bởi nguyên tắc của lòng sùng kính tức là không ước muốn hay mong cầu mà cứ để tự nhiên vì lúc nào Thượng Đế cũng đang hiện diện và hoạt động. Đây chính là cao điểm của những tôn giáo được thiết lập nơi lòng sùng kính, tôn thờ. - Công giáo cũng như Ấn giáo hoặc Phật giáo, đại khái mọi tôn giáo, vì mang tính chất công truyền nên được đặt cơ sở trên lòng sùng kính của tín hữu. Đồng thời tùy thuộc mục đích hiển giáo nơi đại chúng. Những người rao giảng được huấn luyện dựa theo những nghi thức, giới luật đã được ghi chép rõ ràng trong các bộ luật và luận nên bất cứ ai đã đạt đến một trình độ học thức kinh điển và thời gian tu hành nào đó đều được công nhận vào hàng ngũ triển giáo. Xét như vậy, sự khác biệt chỉ xảy ra giữa các nghi thức tôn giáo dựa trên lòng sùng tín và quan điểm thờ phượng cũng như cơ cấu tổ chức của tôn giáo. Tuy nhiên, về phương diện thức ngộ hoặc những ai theo đường tu chứng hay mật truyền, bởi chân lý chỉ có một, đó là đạt tới sự hiệp nhất nơi quyền lực hiện hữu tối thượng, nên bất cứ đường hướng, quan niệm nào, và dẫu được giải thích khác biệt ra sao thì các hành giả đều gặp nhau nơi bình diện tâm linh nào đó. Nhận thức như thế, thiền sư Yogananda nhìn thấy linh ảnh đức Giêsu trên đường thập giá trong khi thánh nữ Therese Newman đang trực diện không có gì đáng nói lạ lùng mà sự lạ lùng ở ngay nơi anh em vì chúng ta cho đó là sự lạ lùng mà thôi. - Sự nhận định của anh Tùy, anh Hinh, và anh Sỹ, chứng tỏ phần nào tính chất ỷ lại nơi chính mình. Tại sao chúng ta không đặt vấn đề mình phải ra sao, đạt tới đâu, phải thực hiện hoặc nghiệm chứng như thế nào mà đòi hỏi người khác, bất cứ họ ở vị thế nào, phải đạt tới điều mình mong muốn. Chúng ta xưa nay vẫn quen thói hay đâu chầu đấy chẳng khác gì muôn người, do bản tánh hiếu kỳ, ồn ào, náo động khi nghe tin Phật bà hiện ra nơi này, Quan Âm nơi kia, Đức Mẹ, Đức Chúa tỏ mình với người này, truyền thông điệp cho người khác. Chẳng những thế, lại còn tốn tiền nay hành hương thánh địa này, mai viếng mộ bia đấng thánh kia; rồi nào nước suối thiêng, nước phép lạ, chỉ thấy ai đó được chữa lành những bệnh tật còn mình thì cứ đành cam phận, mất tiền mất giờ lăng xăng mà tật vẫn còn mang; biết đủ mọi truyện trên trời dưới đất mà thực ra chính mình thế nào thì lại không biết. Anh em nên nhận biết rõ ràng, Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo còn sống nơi thế tục. Sống nơi thế gian, người tầm đạo làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của một người sẽ giúp cho muôn vàn người khác hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi sự nhận biết thâm sâu và dứt bỏ ham muốn thế tục từ bên trong chứ không phải chỉ bên ngoài. Như thế, dù theo đường hướng tôn thờ hoặc tu chứng, nghiệm chứng, hay mật tông, và dù có gặp được chân sư chỉ dẫn hay không, sự giác ngộ phải đến sẽ đến tùy lòng khát khao nơi mình. Vị thày đích thực hiện diện ngay chính lòng mình nhưng nào mấy ai để ý; kinh Bhagavad Gìtà ghi rõ, "Khi tâm trí đã nhập vào Đại Ngã, ta không còn gì để tư duy nữa. Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người; nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta. Ai ý thức được vui buồn, đau khổ của người khác cũng là vui buồn đau khổ của mình, người ấy là một bậc đạo sư Yoga toàn thiện" (CTC. Tr.64,65). Mấy anh em Thiên Chúa giáo nên suy gẫm kỹ câu Phúc Âm, "Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gn. 6:45), và, "Kẻ tin vào Ta thì các việc ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gn. 14:12). Nhà Phật nói, "Kiến tính thành Phật" chính là ở điểm này. Lời cụ Tài trầm trầm, nhẹ nhàng như mật truyền những giáo điều cho nhóm nhậu. Ai nấy đều cảm thấy ngỡ ngàng vì mấy lời trích từ kinh điển thoát ra nơi miệng cụ già. Những vốn liếng học thức bay bổng đâu mất tạo thành khoảng trống nội tâm giúp họ cảm nhận sự thật chẳng ngờ được ghi chép rõ ràng nơi kinh sách mà nào ai để ý. Những trường lớp chỉ dạy họ kiến thức hữu vi biến con người thành công cụ kiếm tiền phụng dưỡng tham vọng, ham hố, bon chen, lâu dần thành quen khiến con người cao cả trở thành nô lệ vật chất. Kiến tính thành Phật! Câu nói quá ngắn gọn nhưng bao hàm cả một sự thức ngộ lớn lao. Bầu không khí giữa nhóm nhậu chợt bao phủ màn thinh lặng khác thường. Đây đó vang vọng từ những cánh cửa phòng đóng kín tiếng video games, những giòng nhạc trẻ nơi chương trình MTV, pha lẫn giọng phim ảnh truyện Tàu. Dòng đời bao giờ chẳng thế, những sinh hoạt thế tục ồn ào náo nhiệt đã che mờ ý thức tâm linh, khó ai có được cơ hội tìm lại thực thể chính mình. Một lúc sau, chợt Bá lên tiếng, - Bác có thể nghĩ rằng mọi quyền lực đã có sẵn nơi con người nhưng chưa được nhận biết? - Nào có gì mới lạ đâu nhưng đã bao ngàn năm rồi con người vẫn thế! Lạt Ma Lobsang Rampa đã chứng minh rằng ông đã được huấn luyện để có thể xuất hồn đi ngao du nơi các cảnh giới vô hình thì mọi người cũng có thể xuất hồn mà nào ai nghĩ như thế! (TTHB; Tr.171-172). - Nhưng thưa bác, theo như cuốn Tây Tạng Huyền Bí do ông viết, Lạt Ma Lobsang Rampa là hóa thân của một vị nào đó, nên khi sinh ra đã có đủ năng lực để phát triển những quyền lực thần thông. - Nói như vậy có nghĩa anh tin có luân hồi? - Thưa bác, theo sự nhận xét của cháu vấn đề không phải là tin hay không vì dẫu nói rằng tin hay không tin, sự thực vẫn là sự thực. Sự thực không cần ai chứng minh, cũng chẳng cần ai bào chữa hay quảng bá. Điều này cũng giống như nếu chúng ta nhắm mắt lại nói rằng không có mặt trời thì mặt trời vẫn soi sáng. - Anh muốn nói còn nhiều sự thực mà chúng ta không biết hoặc không có cơ hội được biết hay đã không chịu tìm hiểu để biết. - Vâng, cháu cảm thấy như vậy. - Đã có anh em nào đọc cuốn Transformed by the Light chưa? Cuốn này được viết do bác sĩ giải phẫu Melvin Morse. Ông nghiên cứu hiện tượng biến đổi tâm não xảy đến nơi những người bị kích ngất và được cứu sống lại. Nơi một đoạn sách ông viết: Nên nhớ rằng, thân xác con người giống như bộ máy được điều hành bởi năng lượng; khi năng lượng thay đổi thì con người thay đổi. Người ta thực nghiệm về sự làm cho trái tim đập chậm đi hoặc áp xuất máu giảm sẽ phát sinh hiện tượng năng lượng tối thiểu nơi tâm não gây kích thích ảnh hưởng tới thân xác con người (TL. Tr.163). Điều này phù hợp với quan niệm của lý thuyết thực hành Yoga nơi Ấn học. Theo nhận định về thể lý của lý thuyết Yoga, luật tự nhiên đã định cho con người thở với một số nhịp độ là hai mươi mốt ngàn sáu trăm lần trong một ngày và đêm (ĐPHB; Tr.79). Như vậy, nếu người nào thở mau, nhịp tim đập nhanh hơn sẽ mau chết, người nào thở chậm hơn sẽ kéo dài thời gian sống hơn vì số hơi thở tiết kiệm được sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ để giúp con người kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Lý luận này được dựa trên sự nhận xét về loài rùa, thở chậm nên sống lâu. Quan niệm thực hành Yoga còn đưa ra khá nhiều lý thuyết giải thích sự lợi ích của điều hành nhịp thở. Mặc dầu những lý thuyết này coi bộ hữu lý nhưng nếu đem so sánh với sự thực nghiệm theo phương pháp khoa học thì sự thực hành Yoga đúng mà lý thuyết lại chỉ là những lý luận suy luận. Áp dụng theo khoa học thực nghiệm do bác sĩ Melvin Morse, khi năng lượng oxy tối thiểu được cung cấp cho bộ não, khu vực tâm não nằm trong óc phía bên trên tai phải sẽ phát sinh phản ứng kích thích. Hiện tượng này thường xảy ra ngay lúc bắt đầu chết của một người. Nếu anh em để ý nghe quý cụ già nói về sự tỉnh táo trước khi chết giống như ngọn lửa của chiếc đèn dầu bùng lên trước khi tắt. Người nào chết thì đó là lúc hồn rời khỏi xác. Bởi thế nói theo khoa học nơi hành trình Yoga, hành giả điều chỉnh sự hô hấp chậm lại để kích thích trạng thái xuất hồn phát sinh. - Qua sự nghiên cứu, Bác sĩ Melvin Morse cho biết, những người trải qua cơ hội xuất hồn đã nhận được bản thể thực sự của con người không phải chỉ là xác thân, mà xác thân chính là cơ hội hay phương tiện để hồn, thực thể, hoàn thành nhiệm vụ nơi cuộc đời. Theo sự kể lại của một số người được chọn làm đối tượng nghiên cứu, vì đã trải qua kinh nghiệm thoát hồn, họ đều gặp một thực thể khác như một loại ánh sáng chỉ có thể nhận biết bằng con mắt thứ ba, thường được gọi là huệ nhãn, thực thể linh hồn đối thoại bằng cảm nhận từ thực thể ánh sáng này. Và những người sau khi trải qua trạng thái xuất hồn đã gặp được ánh sáng nguồn sống họ đều không sợ chết, vì đối với họ, chết chỉ là bước qua cuộc sống tốt đẹp hơn. Đàng khác, tinh thần và nhãn quan về cuộc đời của họ đều thay đổi. Có những người phát triển thêm những khả năng tâm linh đặc biệt như chữa lành, nhìn thấy trước những sự kiện sắp xảy ra, và cuộc sống của họ nơi trần thế trở nên rất hoạt động vì, theo như lời họ kể, cuộc đời quá ngắn ngủi trong khi bổn phận làm tươi đẹp cuộc đời nơi mỗi người lại quá lớn lao. Ngược lại họ không chạy theo hơn thua vật chất mà an nhiên với mọi hoàn cảnh xảy đến nơi cuộc sống. - Điểm tôi muốn nhấn mạnh đó là những lời phát biểu của các vị Yogi và các đạo sĩ Mật Tông Tây Tạng về Thượng Đế như là nguồn sáng, hoặc ánh sáng là năng lực cấu tạo vũ trụ hay con người của chúng ta. Ánh sáng hay nguồn sáng tôi muốn nói ở đây không phải là ánh sáng bình thường chúng ta nhận thấy nhưng là thực thể mà những người đã có kinh nghiệm thoát hồn nhắc tới, ánh sáng mà đạo sĩ Yogananda nói với thánh nữ Theresa Newman. Nơi các sách vở tu chứng Ấn học thường nhắc tới trạng thái đạo sĩ trong cơn đại định đã hỗn hợp tâm thức mình với Đấng Tạo Hóa, nhận thức được tinh hoa của vũ trụ vốn là ánh sáng. Điều này chúng ta cũng có thể đọc được nơi Kinh Thánh, "Các con là ánh sáng thế gian" (Mt. 5:14). Đọc nơi Phúc Âm Gioan, chúng ta thấy chính đức Giêsu cũng nói ngài là ánh sáng thế gian (Gn. 8:12; 9:5). - Thưa bác, bác muốn nói các vị đạo sĩ dùng thiền định hay phương pháp Yoga để đạt tới nguồn ánh sáng này? - Mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói "Kiến Tính thành Phật," hãy cố làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được sự giải đáp cho mọi vấn đề. - Thưa bác, vậy sao lại phải thiền, phải định, phải Yoga, phải tu chứng, phải nghiệm chứng, phải muôn thứ, phải ăn năn đánh tội, phải cầu Phật bà Quan Âm, Phật A Di Đà, phải ăn chay, phải niệm chú, phải... MBVN 09 - Tôi biết anh muốn nói gì nhưng có lẽ chính anh không biết anh nói gì. Có phải vì anh thấy nhiều cái phải quá mà anh chưa thực hiện được cái phải nào trong khi lòng ham muốn đạt được quyền nọ lực kia nên kêu lên hầu che lấp mặc cảm lười lĩnh của mình không. Tôi nghĩ, anh em hãy thử rồi mới nên đặt vấn đề. Những lý thuyết phải thế nọ, phải thế kia chỉ là lý thuyết giải thích về ly nước uống. Hãy uống nước anh em sẽ cảm thấy và biết phải thế nào. Tôi muốn nói, Yoga, thiền định, hoặc bất cứ gì, những điều các tác giả trước tác gom lại thành những "Cái phải" bao quát nhiều phương pháp nơi hành trình thiền định, chỉ là những kiến thức về lý thuyết vô bổ nếu không đem so sánh với nghiệm chứng của sự thực hành. Tôi muốn nhắc lại, vấn đề chỉ là thực hành nghiệm chứng vì ước muốn suông chỉ ngăn cản hành trình thức ngộ. - Thưa bác, thế tại sao Yoga bao gồm nhiều phương pháp thực hành trong khi Phật học chỉ cần định tâm? - Sự thực hành các phương pháp Yoga bắt nguồn từ quan niệm chuẩn bị xác thân để đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Có lý thuyết cho rằng xác thân con người cũng giống như bóng đèn 100 watts không thể nào chịu đựng nổi dòng điện cao thế cả triệu watts. Bởi vậy con người cần luyện tập để thăng hoa xác thể và tâm thức hầu đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Từ quan niệm này phát sinh lý thuyết giải thích sự hiện diện quyền năng của Thượng Đế nơi mỗi người tùy thuộc sức chịu đựng của người đó. Qua sách vở được viết về những năng lực đạt được của các vị chân sư nơi Ấn học, chúng ta thường thấy nói về những quyền năng khác thường mà các vị ấy đạt được do dày công tu luyện. Nếu anh em nào đã đọc về phương pháp tập luyện võ công của phái Võ Đang sẽ hiểu rõ hơn về kết quả của những người chuyên nhất luyện tập một khả năng nào đó. Chẳng hạn sự tập luyện thường xuyên đấm từ miệng giếng hướng xuống mặt nước hoặc đưa ngón tay trỏ chỉ nơi ngọn đèn đang cháy, sau mười hoặc hai mươi năm sẽ đạt kết quả nơi những mức độ nào. Qua nhận định giải thích về sự luyện tập như thế, tôi nghĩ rằng, các phương pháp Yoga cũng giống như các phái võ thuật, chính sự luyện tập phát triển nơi con người những khả năng mà chúng ta vì đã không hoặc chưa bao giờ có ý định muốn thử, thế nên cho đó là quyền năng khác thường. Đồng ý rằng có những người có được những khả năng khác thường tự bẩm sinh mà chúng ta gọi là thần đồng. Điều này minh chứng mỗi người được sinh ra dưới sự ảnh hưởng bởi một quá khứ nào đó và nơi quan niệm Ấn học được gọi là Luân Hồi. Như vậy, sự thực hành Yoga hay được nhắc nhở tới và đề cao có lẽ cũng bởi lòng ham muốn phát triển hoặc đạt tới những khả năng tạm gọi là thần thông nào đó nơi con người. Tuy nhiên, nếu anh em nào chịu khó tìm hiểu qua sách vở đạo học trước khi quyết định thực tập những phương pháp Yoga hoặc bất cứ phương pháp nào phát triển năng lực nội tại, xin làm ơn để ý điểm tối ư quan trọng mà tôi tạm gọi là điều luật tâm linh, và đó là, bất cứ năng lực hay quyền lực nào dù bẩm sinh hay đạt thành nơi một người đều không thuộc quyền sử dụng theo ý muốn bình thường của người ấy vì mỗi khi sử dụng năng lực này tất nhiên đã lạm dụng quyền năng tối thượng của Thượng Đế. Ai cố ý lạm dụng sẽ phải trả giá một cách mắc mỏ gấp trăm lần sự thỏa mãn nơi ý định hay ý muốn của người ấy. Trường họp này, người Mỹ có câu, “You use it; you abuse it.” - Thưa bác, quyền lực nơi mình sao lại phải trả giá? - Vào khoảng giữa năm 1970, tôi được biệt phái về Phú Quốc dưới danh hiệu kiểm tra dân số và tình hình thuế khóa nhưng với mục đích theo dõi hoạt động tuyên vận cũng như hệ thống liên lạc của đối phương. Dĩ nhiên với nhiệm vụ này, các cơ quan quân sự cũng như dân sự đã được thông báo mật có bổn phận phải giúp tôi mọi sự dễ dãi cũng như cung cấp mọi phương tiện khi tôi nhờ vả mà không cần truy xét lý do. Đại khái, khi tôi yêu cầu, bất cứ điều gì nơi bất cứ văn phòng hành chánh dân sự hoặc các bộ phận quân sự thuộc đặc khu vùng bốn và những bộ chỉ huy các quân đoàn đang tạm trú đều phải thực hiện những gì tôi yêu cầu trước khi báo cáo cấp trên. Dầu tôi vẫn mang lon đại úy bộ binh để che giấu nhiệm vụ tình báo, tôi không lệ thuộc giờ giấc làm việc của bất cứ cơ quan dân quân sự nào; do đó tôi thường hay la cà nơi những cơ quan thuế vụ tưởng chừng xem xét sổ sách hoặc nơi các văn phòng hộ tịch xã để kiểm tra hệ thống làm việc của các ban ngành. Hôm ấy, ông Thịnh, một chủ tiệm bán cá khô và nước mắm đến nộp thuế. Tướng mạo của ông ta coi bộ rất tầm thường, thái độ nhã nhặn mang phần nào khép kín, tỏ lộ sự chịu đựng khó diễn tả, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy có thịnh tình đặc biệt với người dân buôn này. Tôi định ý chờ sẵn để làm quen với ông ta sau khi đóng thuế và được ông ta mời về nhà dùng cơm trưa. Thế rồi từ sự quen biết đó tôi có cơ hội giúp ông ta một số công chuyện. Anh em cũng nên biết rõ, tại Phú Quốc có cả một tư lịnh hải quân, một hải đội duyên phòng, duyên đoàn hải thuyền 42, căn cứ tiếp liệu hải quân, rồi đặc khu Phú Quốc bao gồm hai tiểu đoàn địa phương quân, bẩy tiểu đoàn quân cảnh, thêm vào đó một đại đội công binh, đại đội tiếp vận ba trực thuộc Sài Gòn đặc biệt cung ứng cho trại giam với trên dưới hai mươi ngàn tù nhân chính trị cũng như những thành phần bất hảo mang đầy thành tích phá rối trị an được gửi tới từ các thành phố trên toàn quốc. Và như vậy, lực lượng cảnh sát, và nhân viên chìm, nổi tổng số cũng không thua gì số người nơi trại tù, ấy là chưa nói tới quận, xã, nhân dân tự vệ, và các thành phần binh sĩ. Tất nhiên, ở chốn sĩ quan đông hơn binh lính thì lon đại úy trên vai tôi nào có nghĩa gì. Dầu cấp chỉ huy mang lon từ đại úy trở lên chẳng là bao nhưng ở đời, nào ai lạ chi thứ nhất cận lân, thứ nhì thân cận; có những người dân thường nhưng gốc gác họ có bà con quen biết với tướng vùng hoặc tỉnh nọ, tá kia do đó lon đại úy bộ binh của tôi đã trở thành tâm điểm cho một số người để ý tới, mượn cơ hội dùng tôi làm nấc thang may ra bước lên đài danh vọng trong một vài lãnh vực nào đó. Cỡ hơn sáu tháng quen biết và một đôi lần chứng kiến cảnh trớ trêu, anh thư ký xã chẳng hiểu có gốc gác thế nào cứ nhè tôi kiếm cách làm khó dễ, đôi khi gây nên những sự phiền hà dẫu chẳng đáng nhưng khiến người hiểu chuyện bực bội tâm tưởng; bởi từ ngày tôi giúp ông Thịnh trong việc khai báo sản phẩm buôn bán hầu được giảm phần thuế má, anh thư ký xã thấy tôi chỉ là một đại úy bộ binh tứ cố vô thân mà gốc gác lại xa xôi trong khi mang nhiệm vụ được khai báo quá ư khiêm nhượng. Sáng hôm ấy, ông Thịnh mời tôi tới dùng điểm tâm, và lẽ đương nhiên máu me cũng như anh em bây giờ, dù điểm tâm vẫn không thể thiếu món nước mắt quê hương. Khi ăn uống gần xong, ông Thịnh tỏ nỗi lòng bất mãn về những lúc thấy tôi bị mấy sĩ quan hải quân lon thấp hơn và nhất là anh thư ký xã đã có những thái độ bất nhã đối với tôi. Ông đứng lên, tiến đến khang thờ, lật tấm vải điều để lộ một con dao găm cắp ngập tận chuôi ngay trước mảnh án đỏ ngoằn ngoèo những chữ Phạn, đoạn nói, - Đã sáu tháng qua từ ngày quen biết dầu không thân thiết hoặc có liên hệ anh em họ hàng, đại úy đã giúp tôi những việc mà tôi nghĩ cả đời mình cũng không bao giờ thực hiện nổi. Chẳng hạn như chuyện thuế má, đã bao năm rồi tôi làm ăn không khấm khá được cũng vì không biết nên phải trả thuế quá nặng. Rồi những cảnh chèn ép giá cả của kẻ giầu có khiến khi mua phải trả giá cao, lúc bán lợi lộc không được bao nhiêu. Đến ngay như cửa tiệm này cũng được đại úy giải quyết đất đai, đường xá ra vô mà đã bao lâu nay tôi vẫn phải nín nhịn, đành ngậm tăm mỗi lần bị lôi vào cảnh xô xát để tránh điều đôi chối làm phiền tâm tưởng. Nhưng đã đến lúc tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi mấy cảnh trái tai gai mắt đã xảy đến với đại úy từ ít tháng qua mà tôi biết rõ nguyên nhân phát sinh từ tên thư ký xã. Hắn không những lộ diện đối đầu làm khó dễ đại úy, lại còn xúi bẩy mấy tên sĩ quan hải quân nghinh ngang lên mặt khinh thị đại úy. Nhất là vụ vừa qua, chính tên thư ký xã đã cầm đầu cho mấy thằng tù vượt ngục ăn nhậu định đón đường hại mạng đại úy. Tôi là kẻ mang ơn đại úy nhưng không biết cách nào trả nên tôi đã quyết định nếu đại úy bằng lòng, tôi sẽ bỏ lời thề trước bàn thờ tổ và rút lưỡi dao găm minh chứng lời thề của tôi để trả ơn đại úy. - Ông đã thề gì và tại sao phải rút lưỡi dao găm mới có thể trả ơn được? Tôi hỏi. - Tôi chỉ cần niệm một câu thần chú, dùng lưỡi dao găm này đâm xuyên qua hình của thằng thư ký xã là nội trong một tuần lễ nó phải chết bất tử. Ông Thịnh nhấn mạnh từng tiếng nói giải thích. Đại úy có bằng lòng cho tôi rút dao găm không? - Ông chưa giải thích cho tôi biết ông đã thề gì, thì sao tôi trả lời được. - Tôi đã tự nguyện trước bàn thờ tổ từ 6 năm trước đây, là sẽ không bao giờ sử dụng quyền lực của tôi để trả thù hoặc làm hại bất cứ ai vì bất cứ lý do gì. Vì như đại úy đã biết, vợ chồng tôi chỉ có được mỗi đứa con gái, sáng nay tôi phải sai bà ấy đưa cháu đi chợ để tôi mời đại úy đến bày tỏ tâm tình. Thế mà mười năm trước đây tôi đã dùng quyền lực của mình giết chết tên đầu đảng cướp xông vào mấy nhà hàng xóm đánh người lấy của, và kết quả tôi phải trả đó là vợ tôi bị bại một cánh tay như ông thấy. Năm năm sau, một tên đốn mạt ăn ngủ với vợ người bạn tôi để rồi vu oan giá họa cho tôi, và tôi đã giết hắn bằng quyền lực niệm chú của mình. Kết quả đem lại, đứa con gái độc nhất của tôi bị què giò đi đứng khấp khểnh từ dạo ấy. - Bà ấy liệt tay và con gái ông đi đứng khấp khểnh có lẽ do nguyên nhân bất thường nào đó nơi cơ thể sao ông lại cho rằng đó là những kết quả do sử dụng quyền lực niệm chú? - Đại úy không biết đó thôi. Khi còn thiếu thời, tôi sang Miên lên núi học bùa gần hai mươi năm. Tôi biết khá nhiều bùa ngải và cũng biết cách sử dụng một số năng lực thần thông nhưng trước khi học tập, sư cụ giảng giải và bắt tôi phải tuyên thệ lời thề vì nếu không thề, không tuân giữ điều luật đã thệ nguyện, sư cụ không cho học mà còn đuổi xuống núi. Sau này trong suốt thời gian học, tôi mới dần dần nhận ra những quyền lực tôi có được không thuộc về tôi mà đó là quyền lực tối thượng điều hành vũ trụ này. Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng để tránh thoát bảo tồn sinh mạng, dù trong hoàn cảnh nào hay vì ý hướng tốt lành đến đâu mà sử dụng quyền lực này tất nhiên là đã lạm dụng nên đều bị trả giá chẳng những ngay nơi kiếp này mà còn bị lệ thuộc nơi kiếp sau. Tôi mang ơn đại úy nơi kiếp này quá nặng nên chỉ còn cách rút lưỡi dao găm phát bỏ lời thề mới có thể đền ơn được. - Ông đền ơn tôi phỏng có phải trả giá không? - Hai lần trước đã xảy đến với vợ và con tôi thì chắc chắn lần này phải xảy đến với tôi nhưng tôi bất chấp. Giả sử chúng chặn đường đập chết đại úy rồi thì sao tôi còn cơ hội đền ơn đại úy. - Ông định dùng sự trả giá phải đến với chính ông để đền ơn tôi ư? Chẳng lẽ ông cho rằng tôi sẽ cảm thấy hài lòng khi sự khốn khổ xảy đến với ông sao? Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? - Nhưng tôi không biết cách nào để đền ơn đại úy cho xứng, mà không trả ơn được đại úy thì tôi là kẻ vô ơn, chết không nhắm mắt. - Ông thử nhìn xem tướng của tôi mấy người đó có thể hại được không rồi hãy nói đến chuyện trả ơn. - Đại úy nói như thế tôi mới nhớ ra đã có lần nói tướng của đại úy chẳng những được thần thánh phù trợ mà ngay cả ma quỷ, âm binh cũng phải giúp đỡ. Hà hà, vì nóng sốt, bực bội bởi tên thư ký xã toa rập với mấy tay bất hảo làm tôi quên khuấy không để ý, nhưng tôi, tôi... - Không nên nói gì, nghĩ gì nữa. Ông muốn trả ơn tôi phải không, đây, muốn trả ơn thì hãy cạn những giọt nước mắt quê hương này, thế là xong nhiệm vụ. Ông Thịnh đứng như trời trồng nhìn chăm chăm tôi đang giơ cao ly rượu đế vừa được rót thêm, đôi tay run rẩy vì ngạc nhiên với câu trả lời và thái độ kỳ cục của tôi. - Ông còn cố giữ chằng chằng chiếc khăn nơi tay làm chi, sao không trả nó lại nơi án thờ. Ông Thịnh nước mắt chảy ròng, quay người bước tới khang thờ, nghiêm trọng phủ chiếc khăn điều lên chuôi dao găm đoạn trở lại bàn ăn ôm lấy tôi như một hành động tỏ lộ tâm hồn cảm mến. Ngưng nói, chiêu ngụm rượu, cụ Tài lên tiếng hỏi, phỏng sự kiện tôi vừa kể đủ giải thích luật tâm linh trói buộc những ai phát triển được những năng lực thần thông nội tại? - Thưa bác, vậy những thày phù thủy hay những thày bùa, thày ngãi giải cứu những người bị thư, ám thì sao? - Đã anh em nào đọc hoặc nghe nói về Đạo Đức Kinh chưa? Nơi Đạo Đức Kinh có câu nói, “Đi xa là trở về” (ĐĐK1. Tr.141). Ai có thể thử giải thích câu nói này cho mọi người nghe được không? - Thưa bác, Bá lên tiếng, Đạo Đức Kinh quả là khó hiểu, hơn nữa cháu lại không biết chút gì về chữ Tàu do đó chỉ đọc bản dịch thành ra không thể nào nghiệm được tính chất thâm thúy của Lão học. Tuy nhiên, khi đọc bản dịch của cụ Nguyễn Duy Cần tới câu, “Tràn khắp là đi xa. Đi xa là trở về” mà bên chữ nho phát âm “Thệ viết viễn. Viễn viết phản,” cháu thấy hình như có sự gì không ổn nhưng suy nghĩ mãi không biết nên hiểu sao cho hợp tình hợp lý để có thể may ra áp dụng được. - Trong bản dịch và chú giải, cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản viết, Đạo “đi là xa vì không đâu không tới chỗ cùng cực, lại không ngưng trệ, tùy thuộc vào một thể nào hết thảy, nên mới nói xa là trở lại, là quay về (LTĐĐK. Tr.161). - Thưa bác, hiểu như vậy chỉ mới nói lên tính chất trùm khắp, không đâu là không có, và hiện thể khắp nơi của Đạo, của Thượng Đế, Chân Như. Cháu nghĩ hình như câu nói còn ẩn chứa điểm nào đó mà có thể vì tam sao thất bổn nên phát sinh trùng hợp. - Anh muốn nói trùng hợp nơi điểm nào? - Thưa bác ở chữ “Đi xa.” - Tôi có đồng quan điểm với anh. Đã lâu tôi nghiền ngẫm về điểm này nhưng những sách chữ Hán đều dùng hai chữ “viễn” giống nhau, cùng bộ “sước.” Tuy nhiên, nếu nói về thực thể tâm linh tối thượng hiện diện và hoạt động cùng khắp qua nhiều dạng thức, đặc biệt nơi con người, anh em có để ý và thấy nơi kinh sách nào chứa đựng câu nói bao hàm phần nào ý nghĩa tương tự không? Ai nấy im lặng vì câu hỏi mang vẻ kỳ cục. Sao có thể đem Chúa, Phật trộn lẫn nhau. Cụ Tài đưa mắt rảo quanh một lượt nơi những gương mặt lộ phần ngơ ngác, đoạn nhẹ nhàng thêm, - Chẳng lẽ mấy anh em Công giáo không nhận ra được câu nào nơi Kinh Thánh ư? - Thưa bác, nghe các cha giảng mà cháu còn không để ý phương chi đọc Kinh Thánh, Sỹ nhà con thú nhận. - Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo đều biết câu Phúc Âm này, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12). - Thưa bác, câu này thì dễ quá rồi vì xưa nay chúng cháu vẫn thường thực hiện. Nay anh, mai tôi, chúng ta cùng nâng ly. Chúng cháu áp dụng Phúc Âm chứ không cần đọc, như bác thấy tỏ tường. Sỹ nhà con tơm tớp lên giọng huênh hoang. - Thôi đủ rồi ông ơi! Ông thì chỉ biết ngốn thực phẩm, và thực hiện cái củ thìu biu. Ăn nói chi vừa láo, vừa lếu, vừa đểu mà cũng thích nói! Giọng Tình trầm trầm đối nghịch âm vang hứng thú của Sỹ khiến hắn dợm người lên như muốn gây gỗ. - Anh em nên để bác giải thích. Ông Thung trấn an. - Nhưng, - Anh Sỹ làm ơn không nhưng không diễu nữa, hãy để cụ giải nghĩa vì thời giờ đã muộn. Ông Thung cố ý cắt ngang lời Sỹ, đoạn quay qua cụ Tài, xin mời cụ. - Nếu xét theo phương diện tâm linh, vì quyền lực tối thượng là chính Thượng Đế, Chân Như hiện hữu nơi mọi sự hiện hữu, và ý nghĩ, ước muốn, ý định của mỗi người đều là những thực thể hiện hữu thế nên chúng tự mang quyền lực của Thượng Đế. Nhận thực như vậy, mọi ý nghĩ, ước muốn đều mang quyền lực tác thành của Thượng Đế. Điều này có nghĩa, khi chúng ta thực sự mong muốn điều gì, tất nhiên sự việc đó phải xảy ra bằng cách này hay bằng cách khác khi hội đủ những điều kiện và tùy thời điểm nào đó. Suy thế, chúng ta thấy câu Phúc Âm “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) đã dùng động từ “làm” khiến chúng ta không để ý nên chỉ có thể nhận định theo nhận thức hữu vi là thực hiện một công việc gì. Thêm vào đó, nếu nhận thức được mọi sự, mọi việc, từ ý nghĩ đến những hành động nơi cuộc sống đều là hoạt động biến chuyển của Thượng Đế, câu Phúc Âm phải được đổi lại, “Vậy các ngươi thực sự ước muốn được điều gì thì hãy ước muốn cho người ta như thế.” Suy rộng hơn, chúng ta có thể nói, bất cứ điều gì mình ước muốn xảy đến với người khác, tất nhiên chuyện đó sẽ xảy đến với mình. Câu Phúc Âm này nói về quyền lực nội tại ngay nơi ý định của một người. - Thưa bác, vậy đâu là sự liên hệ với câu nói nơi Lão học. Bá lên tiếng. - Anh thử suy nghĩ lại câu nói “Đi xa là trở về” đem áp dụng vào ước muốn thì sẽ thấy. - Thưa bác, cháu vẫn còn thấy tăm tối hơn đêm ba mươi. - Vậy nếu anh dùng ngôn từ “phát xuất” hay “đi ra” thì thấy thế nào? - Ah, bác nói có lý, hèn chi có câu nói, “Không làm điều xấu đã khó; không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn.” Câu này coi bộ thường nhưng mang ý nghĩa thâm trầm chẳng thường chút nào. Thưa bác, nét mặt Bá chợt lộ vẻ hơi lạ, như vậy, câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23) nói về quyền lực của ý muốn nơi con người? - Tôi đã nhắc đến câu này khi nói về quyền lực tối thượng hiện diện nơi mỗi người mà nào có ai để ý. Anh nói đúng. Ý định, ước muốn của con người mang quyền lực tối thượng của Thượng Đế. Tuy nhiên, nghĩ đúng, nói đúng cũng vẫn không đem lại ích lợi gì. Vấn đề lại là phương cách nào con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh; sau đó, khi đã đạt tới mức độ thăng tiến nào đó chúng ta sẽ nhận ra những quy luật tâm linh nào cần phải chuyên nhất tuân theo. Hãy để tôi trả lời câu hỏi về những thày bùa, thày ngãi. Về sự sử dụng quyền lực tâm linh, dĩ nhiên thày bùa hay thày ngãi cũng như những vị đã dày công tu luyện có được khả năng ấy đều bị lệ thuộc ý định thực hiện công việc của họ không thể tránh thoát. Nếu anh em nào quen thân với bất cứ ai đã đạt tới trình độ như thế may ra biết được họ phải tuân theo nhiều điều cấm kỵ mà rất ít khi dám tỏ bày cho người khác biết. Anh em nên hiểu, luật lệ tâm linh không giống như pháp luật hay lề luật tôn giáo. Những ai đã bước vào con đường ấy phải tuân theo rất nghiêm nhặt. Nếu chỉ vô tình, hay hứng chí phạm luật, hậu quả sẽ xảy đến nhãn tiền, và chỉ người đó biết. Nhận biết như thế chắc anh em hiểu được lý do tại sao nơi hành trình tập luyện Yoga có những điều luật rèn luyện tâm trí con người. - Như vậy cho dù thăng tiến tới mức thượng thừa chăng nữa đều không có quyền sử dụng năng lực nội tại thì đâu ai cần luyện Yoga hay thiền làm chi cho tốn công sức, chỉ hao mòn cuộc sống, chẳng thà không biết để an hưởng tuổi trời, lại khỏi phải tuân theo bất cứ quy luật hay kiêng cữ. Hà, hà, chưa chắc thức ngộ đã hơn không, mà có thể ngược lại, Sỹ chen miệng. - Ông ơi, ông quả là minh triết nhưng mở miệng nói ra nghe chướng con ráy chịu hết nổi. Phỏng ông có biết ông nói gì không? Chỉ mới vừa dợm phát biểu đã có thể diễn tả đúng đắn lời Phúc Âm, “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng” (Mt. 13:14-15). Bá cắt ngang lời Sỹ. - Vậy nếu tớ không nói thì sao chú mày có thể hiểu được ý nghĩa câu Phúc Âm như thế. Chú mày nên cảm ơn tớ thay vì chua chát buông lời cay nghiệt. - Anh Sỹ nhận định cũng phần nào hợp lý, nhưng lý ngang. Tuy nhiên, sự thể này chứng tỏ mọi dữ kiện, sự việc xảy ra trong cuộc đời dù liên hệ đến chúng ta hay không đều là những cơ hội cho sự nhận thức tâm linh. Vấn đề còn lại chỉ là ai có tai để nghe thì nghe, và ai có mắt để nhìn thì nhìn. Không ai có thể nghe hoặc nhìn hay nhận thức dùm cho bất cứ ai. Anh em có lẽ hiểu tôi muốn nói gì. - Cháu xin cảm ơn bác, Bá tiếp lời cụ Tài. Hèn chi Phúc Âm cứ nhắc đi nhắc lại câu “Ai có tai thì nghe” (Mc. 4:9). - Anh nói đúng, cụ Tài xác nhận, vì đó là câu nói giúp chúng ta nhận định cần phải có điều kiện tâm trí như thế nào để nghiệm chứng Phúc Âm. Bây giờ đã muộn rồi, có lẽ chúng ta nên ăn cơm cho ai nấy về nhà nghỉ ngơi chuẩn bị sức lực cho những công việc ngày mai. - Khoan, khoan, giọng Tình kéo dài. Thế lần tới sẽ đến phiên ai? - Thì còn ai trồng khoai đất này, hí hí. Lo về năn nỉ lão bà cho được việc. Đoạn Sỹ nhà con lên giọng, nếu ai muốn tranh chức chủ xị lần tới xin mời cho ý kiến. - Nhà cháu xin được hân hoan gồng mình đón tiếp bác và quý ông nọ bà kia ghé qua thăm tổ uyên ương lần tới. Nhờ quý vị đề nghị nhà cháu nên cúng dường vị phật nào, cờ tây hay cờ ta, xáo ngỗng hoặc tiết canh dê, có thể gỏi cá hay nhúng giấm. Tình chiêu ngụm bia như để lấy sức tính toán. - Tui đề nghị nai đồng quê, Phủ nhẹ nhàng lên tiếng. Thấy bên cạnh nhà chú có ổ cờ tây xoai xoai sáu bát trông thật đã mắt. Mới thử tưởng tượng hồi quang phản chiếu để nghiệm chứng lòng ruột của những vị phật đó, chợt đã nghe thèm muốn nuốt trôi cả lưỡi. Xem nào, bộ đồ lòng chấm mắm tôm đánh với chanh, ớt, cắn thêm miếng riềng, chiêu thêm chiếc lá mơ, thế là bứt hăm bốn chai Heineken hoặc một thánh bò đi ông. Nhất là phần dồi sau khi luộc, cuốn lên khúc cây đem quệt bơ nướng dòn thêm phần hương lửa, thơm ơi là thơm. - Hà hà, Sỹ nhà con đế vô, “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó; chết xuống âm phủ biết có hay không.” Đoạn tợp một hơi bia, hắn tiếp, chôm lấy một con, mang sang nhà tớ, bảo đảm kín đáo. Tớ mới mua được cái "torch gaz" thui nhanh phải biết. Chỉ cần năm phút, đoạn lấy lá sả kỳ cọ, em sẽ thơm lừng như hương tóc nàng gội đầu bồ kết. - Vậy cái dịch vụ nai tơ của nhà ông dạo này ra sao mà thấy im hơi lặng tiếng cả năm rồi, Phủ hỏi Sỹ. - Dạ thưa bởi cái lũ phù thủy mắt xanh này chẳng biết nghe đâu đó nên đặt vấn đề nhà con thương yêu súc vật quá thì sao chịu đựng nổi nên nghi ngờ. Hàng tuần, nhà cháu vô "shelter" nhận nuôi một hoặc hai chú cờ tây. Cũng được đâu đó gần một năm đến độ nhân viên bảo vệ súc vật quen mặt luôn. Lần cuối cùng, gặp ngay một tên phù thủy mắt xanh cựu chiến binh tại Việt Nam, hắn ta biết tiếng Việt nên bập bẹ khi thấy nhà con ẵm cặp chó xoai xoai bỏ lên xe. Hắn nói, “Chời ơi! Thứ này mà nhậu ngon chỉ có chết.” Mặc dầu chạm tẩy nên nhà con đã phải giả mù sa mưa bằng tiếng Mỹ, “What, I feed them to take care of my chicken.” Nhưng chẳng hiểu hắn ngứa mồm ra sao, lần sau tới, chúng không cho nhận nuôi nữa. - Nghe cũng có lý, Tình nói. Tui sẽ nói với tên hàng xóm xin một con cho một người bạn vì hắn ta đang muốn tẩy lũ xoai xoai và định thiến luôn chó mẹ. Như vậy, lần nữa xin mời bác và quý vị quỷ quái thưởng thức cờ tây. Xem nào, chó nướng, chó rượu mận, lòng, xáo cầy ăn với bún, cộng thêm đùi chó luộc đưa cay. Chời! Nhm... nhm... Thứ này chắc chắn kỵ bia dzồi. Có lẽ đành phải thử Crown Royal. Đứa con gái lớn mới biếu kỳ tết một chai nửa gallon. - Không đủ, phải thêm chai nữa mới đủ đô nghiệm chứng. Bá chen vô. - Yên chí đi, tui còn vài thánh mờ mờ cộng với hai vị bò đi ông, thừa sức quật ngã vài chục cao thủ hạng lông như chú mày. - Thế là sung sướng cõi thiên thai! Thôi, Tình đứng dậy, con chào bác và tất cả quái vị, em phải đưa bà xã về động. Mọi người theo nhau lục tục ra về, thêm hai bà ở lại phụ chủ nhà giải quyết một rừng chén đĩa, ly chai để mấy ông ngồi chờ thực tập nghiệm chứng giảm bớt hơi men. 000 Khu rừng dầy đặc nên cây dong dỏng cao, ôm con đường ngoằn ngoèo lượn theo khoảnh đồi. Nối từ đường xe chạy, một con ngõ lao vô đám cây rập rạp đoạn bẻ cong và biến mất sau những bụi cây được cố ý chừa lại che những cặp mắt vô tình dòm ngó của khách băng ngang. Nếu để ý nhận định, mấy bụi cây tạp được cắt tỉa một cách sơ sài, miễn sao khỏi chướng mắt che khuất những gì phía sau biểu hiện một sự tính toán thâm trầm nơi tâm hồn chủ nhân đã dày dạn bươn chãi tranh sống nơi cuộc đời hiện tại. Hình dáng coi bộ phần nào thiếu thẩm mỹ cũng nói thêm một đặc tính chủ nhân của chúng đã học được bài học lễ độ cuộc đời, biết che giấu điều hơn người để tránh bị soi mói, đố kỵ. Sống với đám dân ăn xài 160% tiền bạc có thể làm ra nên lúc nào cũng nợ nần nặng nề sinh lòng mặc cảm, ghen tương, nghĩ rằng những người khác có cuộc đời ổn định hơn đều thuộc loại chụp giựt ma mánh hơn. Nơi một xã hội pháp trị, được khuyến khích tự do cạnh tranh phát triển đồng thời luôn luôn bị xúi giục ăn xài do quảng cáo ở mọi phương diện truyền thông từ những băng tần truyền hình, vô tuyến truyền thanh, sách báo, mạng lưới điện toán, và ngay cả qua bưu điện, dân chúng đã vô tình tiêm nhiễm thói quen ăn xài theo ý thích để rồi trở thành những con nợ hãnh diện vì đã có thể mua chịu những gì mình muốn với bất cứ giá nào. Và thế là suốt đời lo làm trả nợ; nợ sau chồng nợ trước dẫu gồng mình làm lụng cách mấy vẫn luôn mang nợ. Sống là chủ mang nợ; chết chắc chắn mang tâm trạng quỵt nợ. Dẫu thân phận được sinh ra nơi đất nước giầu có và văn minh nhất thế giới, nhưng ước mơ của con dân đất này chỉ là làm chủ được một căn nhà và có mảnh vườn nhỏ trồng bông. Thua xa dân Việt như được nói lên nơi bản hát nào đó, “ Có con trâu, có nương rau, thiên đường này mơ ước bao lâu.” Ẩn sau những thân thông thẳng tắp, một căn nhà hai lầu nổi bật màu lá úa của tường gạch nửa như ôm, nửa như muốn phô diễn chiếc lan can được sơn màu xanh lá mạ. Đối diện với căn nhà, phía bên kia chiếc sân được tráng nhựa, cột “basket ball” ngạo nghễ như thách đố nhóm trẻ tung banh. Dọc theo hàng rào, hai hàng cây ăn trái tươi tốt chạy dài đến cuối đất bao gồm đủ loại, nào cam, nào quýt, mãng cầu tây, mãng cầu ta (cây na), hồng dòn, hồng mềm, thêm đôi bụi chuối. Tuy nhiên, chỉ hồng, cam, quýt khoe ánh vàng những chùm trái trong khi mấy thứ khác như ổi, mãng cầu dẫu cây lá tươi tốt nhưng vẫn khiêm nhượng son sẻ dường như chấp nhận thân phận sinh bất phùng thời. Nào có lạ gì, các loại cây ăn trái thuộc khí hậu mưa nắng hai mùa sao có thể đơm bông kết quả nơi miền đất bốn mùa thay đổi ở miền nam nước Mỹ này. Nối tiếp với khoảnh sân sau được tráng xi măng để làm việc và nhuộm lưới bắt tôm, đánh cá, mấy luống rau thơm, cải ngọt, rau đay, mùng tơi, mượt mà chen nhau khoe sắc dưới ánh chiều dợm tắt. Bên kia hàng rào phía phải, ba chú chó xoai xoai đùa dỡn với mẹ của chúng đang rượt nhau vòng quanh sân cỏ được cắt tỉa, chăm sóc kỹ lưỡng. Một chú cún thấy người lạ bên kia hàng rào lên tiếng sủa gây sự chú ý của mấy bợm nhậu. - Gà lọt dậu, chó sáu bát. Ngữ này vô nồi thì tuyệt. - Ơ cái thằng nhóc này, ông đập củ sả vào đầu mày bây giờ. Chớ dại ra vẻ chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng; Sỹ nói với con chó như nói với người nào đó. Chị gái mẹ kia, dẫn con đi nơi khác bởi các ông thèm rõ rãi ra rồi. Ông mà nuốt trôi cái lưỡi thì mẹ con chị khốn khổ đấy. Chị chó mẹ và hai chú cún khác chẳng biết có hiểu chi tiếng Việt hay không, nghểnh cổ chăm chú nhìn mấy người khách lạ của hàng xóm. - Chớ nóng tính, thằng anh cả của chúng bác đã thui sáng nay đấy, lát nữa tha hồ nhậu. Tình đi ra từ cửa sau đón khách, lên tiếng. - Chú dám trộm chó hàng xóm cơ à. Ông Thung hỏi. - Đâu có! Làm đĩ chín phương cũng cần dành lại một phương lấy chồng chứ. Mới chiều hôm kia, nhân tiện bà xã cuốn chả giò tui nhắc bả chiên thêm một đĩa. Mười hai chiếc chả giò ngồn ngộn bắt mắt lắm. Tui cũng tốt lành lắm chứ, lấy giấy bạc bọc lại tử tế ngay khi vừa chiên xong, vẫn còn nóng hổi mang qua biếu chủ chó. Thứ nhất thân cận, thứ nhì cận lân mà. Xưa nay thỉnh thoảng hàng xóm và gia đình tui vẫn có thói quen tốt lành như thế. Gặp ngay mẹ con mấy chú cún này chạy ra đón tiếp quẩn cả chân; lại chủ nhà thuộc loại dân quê chẳng khác gì mình, mở cửa đuổi chó, nói rằng muốn cho đi hoặc kêu hội súc vật đến bắt. Tui nói rằng có người bạn thích chó lắm để tui hỏi anh ta có muốn không. Về nhà được dăm phút, tôi gọi sang nói bạn của tui chỉ muốn một con thôi trong khi ông ta muốn cho cả bốn con. Và sáng hôm qua ông ta xích cổ đàng hoàng, dắt sang nhà tui tặng chó. Cảm ơn qua lại xong, tui chở ngay tới nhà ngữ Sỹ này thui. Tui biết điều lắm đấy chứ, đâu dám thịt tại đây. Cứ để đó, ba con kia thế nào cũng có thêm ba người bạn của tui muốn rước về chăm sóc. - Lỡ người ta chích thuốc rồi thì sao. - Ối dân quê mà, họ chỉ chích ngừa chó mẹ thôi. Ai thừa tiền chích thuốc mấy con chó con không định nuôi. Chời! Thui vàng lên, rửa bằng búi lá sả, mổ ra ngon hết sẩy. Trưa nay tui và Sỹ mới thử luộc một miếng, quả là tuyệt cú mèo. Mọi người theo Tình vô phía sau nhà. Mới ngang lưng chừng đầu hồi đã thấy mùi sả, riềng lất phất quyện trong không khí. Càng đi sâu hơn, mùi rượu mận càng nồng nặc. - Riềng này, sả này, mắm tôm này, me chua này; giá mà có mẻ thì tuyệt hơn. Ông Thung lẩm bẩm. Một nồi lớn trên lò hơi đốt đang sôi sùng sục, xì hơi bên mép vung đậy hờ, bốc lên mùi rượu mận thơm lừng. Một thẩu lòng chó còn đang bốc khói, chưa được thái chênh vênh trên chiếc ghế sắt cạnh một chiếc lò khác, nơi đó ngự một nồi lớn chứa nước luộc lòng đang sôi ùng ục. Ở một góc gần cầu nhuộm lưới, hai đứa lớn, con của Tình đang kẹp thịt chó đã được ướp gia vị vô phên để nướng trên chiếc lò than đỏ hồng. - Chào các bác, mời các bác vô nhà dùng nước, em đang dở tay một chút. Chị Tình, tay đang cầm đôi đũa lớn, hình như vừa mới vớt lòng luộc bỏ vào chiếc thẩu. Đoạn lớn tiếng gọi, cái Thanh, rót nước mời các bác, con. - Không nước non, non nước chi cho mệt, Tình lên tiếng. Mình súc miệng bằng bia và hưởng mùi vị quê hương cho lòng ruột thanh tịnh mới xứng đáng đón vị phật chó này chứ. Cái Thanh, con lấy bia nơi tủ lạnh mời các bác, nhanh lên. - Tình, kiếm cho tớ cây “chu bai pho” (2x4) và mang bơ ra đây để tớ nướng dồi. Sỹ nhà con mau mắn. - Ấy ấy, bác để nhà em chiên. Chị Tình vội lên tiếng ngăn Sỹ. - Dồi chó chiên bơ ăn không phê bằng nướng bơ. Nướng nó mới dòn, mới dậy mùi lá mơ chứ chiên ăn như đấm vào miệng ấy. - Đây, thưa ông. Coi chừng quá lửa khô khốc lỡ gẩy bố nó mấy cái răng tui sẽ kiện ông ra tòa. - Khô thế nào được, bao nhiêu mỡ và bạc nhạc tớ băm sáng nay sao có thể khô được. Cứ yên trí lớn! Hưng, cụ Tài, và mấy người nữa tiếp tục tới. Mấy phụ nữ giúp chị Tình luộc bún, nhặt rau, lá thơm. Chẳng mấy chốc thực phẩm, rau rợ, chén đũa đã được xếp đặt ngăn nắp trên hai chiếc bàn dài. Mọi người đã ngồi vô ghế thế mà chủ nhà lại biến đâu mất. - Chủ xị trốn ở đâu làm mất giờ chờ đợi. Sỹ nhà con nói lớn... - Có đây, có đây! Chẳng nói giấu gì, nhà cháu hái thêm mấy trái ớt bởi e rằng cuộc đời này vẫn chưa cay đắng đủ để lãnh nhận mùi vị quê hương. Mời, mời bác và quý vị tự nhiên cho. - Chủ xị phải có lời lẽ đàng hoàng vì ăn có mời, làm có khiến. Có phải ông biết rằng chúng tôi đang muốn nuốt trôi cả lưỡi nên cố tình rềnh rang chăng. Bây giờ, muốn nói gì thì nói coi, nói càng ngắn càng tốt, mà có thể càng không nói gì lại càng tốt hơn nhưng vẫn phải nói cho đúng nghi thức, phép tắc; Sỹ lên giọng. - Dạ, dạ, nhà cháu xin có đôi lời thưa cùng bác và quái vị. Hôm nay, được phép của bà chủ nhà cháu và được người hàng xóm quý mến tặng cho chú nai đồng quê nên nhà cháu sửa soạn bữa cơm rau muối mời bác cùng quái vị thưởng thức. Sự hiện diện của bác cùng quái vị là sẽ là sự mất mát lớn lao cho chú cờ tây. Nếu không, nhà cháu chẳng biết làm gì vì nhậu một mình nó làm sao ấy. Đến đây nhà cháu xin được phép hết lời, và mời bác truyền tâm ấn cho hành giả Crown Royal. - Tâm ấn sao có thể truyền, chỉ có thể chứng. Cụ Tài nhẹ nhàng. Tôi chấp nhận được hãnh diện khui và sau đó chúng ta cùng nghiệm chứng. Có lẽ cụ Tài dạo này bị lây lối ăn nói của nhóm nhậu. Cụ Tài rót rượu vô ly đoạn trao bình rượu cho ông Thung ngồi bên cạnh. Ông Thung rót cho mình rồi trao bình cho người kế tiếp và cầm ly rượu, nâng lên định uống. - Khoan, khoan, anh cả, đợi, đợi, để mọi người cùng chứng một lúc. Tình bỗng cản. - Chết tớ rồi, tớ tham quá nên rót hơi nhiều sao chứng. - Phép vua thua lệ làng. Lỡ rồi, cho lỡ luôn, may ra chừa tội vô minh. - Tớ là trọng tài; trọng tài như cha mẹ. - Chủ xị phán là luật bất thành văn. - Chú Sỹ, để tớ sẻ qua. - Không được, hạ thủ bất hoàn, hạ bất khoan. Thế rồi thời điểm nghiệm chứng cũng phải đến. Mọi người đồng nâng ly. Tình nói lớn, - ”Một chăm phần chăm, em ơi, chiều nay một chăm phần chăm.” Ai không chứng hết, yêu cầu đổ rượu lên đầu. Đến tội cho ông Thung! Mà nào có rót nhiều gì cho cam bởi ông đâu uống được nhiều nên định rót vừa đủ cho cả bữa nhậu. Ai ngờ cái lệ làng quái ác này. Cụ Tài thấy thế nhẹ nói với ông Thung, “Ông có thể san bớt sang ly tôi.” Ông Thung vừa đưa ly rượu kề vô ly của cụ Tài định san qua thì Tình đã lớn tiếng, - Tửu bất khả ép nhưng đã ép sẽ bất khả từ. Nếu từ chối sẽ bị phạt làm chủ xị. - Chú mày chơi tớ. Tớ lỡ tham có chút xíu hà. Thôi thì lần này tớ xin chừa; lần sau tớ cứ vậy. - Vậy thì ai bảo “Ông bẩy mươi phải học ông bẩy mốt.” Thời này văn hóa đảo ngược, ông bẩy mốt học đứa trẻ mười tuổi. - Chúng ta tôn trọng dân chủ nên lấy đa số thắng tiểu số. Cụ Tài thấy tội cho ông Thung nên đành chen vô. Thế là cảnh ồn ào chợt bùng dậy, - ”Một chăm phần chăm, một chăm phần chăm.” Những cái miệng của bằng ấy bàn tay đang nâng cao ly rượu cùng đồng loạt hô lên. - Khoan, khoan, cụ Tài nói lớn dành sự chú ý của mỗi người. Nơi phương diện ăn uống hoặc suy nghĩ, không ai có thể đại diện cho ai ngoại trừ chính mình. Và như vậy, sự đồng ý uống trăm phần trăm ly rượu mình đang cầm nơi tay cũng chỉ có một mình mình. Tôi và ông Thung đồng ý uống chung hai ly rượu tất nhiên đa số thắng thiểu số. Thế là thiên hạ ngớ ra! Ai cũng cảm thấy ngỡ ngàng vì xưa nay đã quen thói hùa theo điều được gọi là dân chủ, đa số thắng thiểu số, nhưng nơi trường hợp vừa được cụ Tài nêu lên, đa số lại trở thành thiểu số nơi những trường hợp cá nhân riêng biệt, và thiểu số lại biến thành đa số vì họ đồng ý cùng thực hiện chung một sự việc. Sự ngỡ ngàng bắt nguồn từ nhận thức mình không thể quyết định đường lối bắt người khác phải thực hiện. Ngưng một đôi phút để mọi người có cơ hội nhận định sự thể mới được đề xướng, cụ Tài hỏi tiếp, - Ai có ý kiến gì nữa không? Những cái mỏ mới nhao nhao “chăm phần chăm” lúc này im tịt. Câu nói của cụ Tài lần trước, “Không ai ăn dùm được cho mình; không ai uống dùm được cho mình, thì cũng không ai suy nghĩ dùm được cho mình” như lẩn quất nhắc nhở điều kiện ắt có và đủ cho một người thực sự khao khát thỏa mãn lòng khát vọng tâm linh cần phải nghiệm chứng, khi đối diện với bất cứ vấn đề nào đều cần được suy nghĩ chín chắn hơn. Và ông Thung chớp cơ hội gỡ gạc, - ”Dzô.” Ông nâng cao ly rượu san bớt qua ly của cụ Tài đoạn khởi đầu thực hiện “chăm phần chăm” mặc dầu phải nhắm mắt, nhăn mặt cố lấy sức nuốt ngụm rượu xuống lòng ruột dù cảm thấy cuống họng cay như bị xé kèm theo cơ thể chợt bừng nóng. Màn khởi đầu đã qua, dân ta bắt đầu thi đua múa cặp kiếm tre. Người hỉ hả với miếng dồi chó chấm mắm tôm chanh đánh với ớt. Kẻ khác thử miếng chó nướng e để nguội mất ngon. Lòng chó dần dà xuôi theo nước thánh. Thịt luộc mềm, thơm quánh mùi sả kèm theo hương vị lá mơ đoạn cắn thêm miếng riềng thái mỏng, quả là thi vị đối với món thuần túy quê nhà. Sau khi thử miếng dồi chó, ông thung gắp miếng bún, chan nước xáo vô đoạn lùa một mạch chữa lửa. Bao năm rồi từ ngày xa quê hương, nay may mắn đàn đúm với nhóm nhậu mới tìm lại được hương vị ngày nào. Ông thầm nghĩ. - Thưa bác, thưa quý ông nọ bà kia, để thêm phần hào hứng cho các hành giả đả phá vô minh nơi hành trình kiến tính, và đồng thời cung cấp cơ hội cho hàng nội tướng phát triển khả năng lãnh đạo điều khiển chủ soái, nhà cháu xin được phép đề nghị hôm nay chúng ta dành ra chừng một tiếng đồng hồ vừa lai rai vừa thưởng thức chương trình “ta ca cô chê” (karaoke) tân cổ giao duyên. Nếu bác và mọi người đồng ý, nhà cháu xin một tràng pháo tay cổ võ. Chủ nhà xin phép đề nghị, ai nấy mới chợt nhận ra qua những lần ăn nhậu trước chỉ để ý đến đạo học, thức ngộ, ngủ ngộ mà lãng quên vai trò nữ giới cùng họ hiện diện khi các ông đàn đúm ly anh, chén tôi. Và thế là tràng pháo tay nổi lên kèm theo những bộ mặt tươi rói chẳng hiểu hứng khởi vì hơi men mới chớm hay vì sắp được thưởng thức hoặc trình bày danh ca cây nhà, lá vườn, hoa quả ngoài chợ. Đồng thời, họ như được mời gọi để ý đến chiếc màn ảnh ti vi to tổ bố chình ình dựa vô tường đối diện với hai dãy bàn kê song song hướng về nó. - Mẹ nó đâu, kêu quân ta điều chỉnh dàn âm thanh, ánh sáng, chuẩn bị trổ tài nghệ sĩ chưa kịp vươn lên đã vội tụt xuống; trong khi giọng Sỹ nhà con oang oang vang diễu câu vọng cổ, “Bà ba ơi cho tui mượn chai dầu xức lác tui bôi cái lỗ rún...” Số là trong nhóm nhậu có ba mụ tham gia hội hát nhà thờ. Họ thích hát lắm, và nhà nào cũng có giàn máy karaoke. Đặc biệt nhà Tình vì bà xã người miền Nam; chẳng những chị ta hát nhạc đạo, nhạc đời, mà đặc biệt lại là chuyên viên ca vọng cổ nơi những buổi văn nghệ văn gừng được nhiều người ngưỡng mộ. Chị ta nhỏ người, khá linh hoạt, tươi vui, lúc nào cũng như mỉm cười. Đặc biệt, chị ta có giọng nói miền nam thật dễ thương, ngọt ngào. Nghe đâu ngày xưa Tình dẫn toán đi hành quân, trong khi dừng chân nơi một làng nhỏ, vô nhà dân xin dừa uống nước, mê ngay giọng ngọt ngào của cô bé con chủ nhà để rồi sau này chà chớ và cưới em làm vợ. Đối với gia đình bố vợ, Tình không gặp trắc trở chi vì con gái miền Nam lấy trai Bắc kỳ năm tư (1954) là nhất dẫu vẫn có tiếng trai Bắc kỳ xạo ke. Tuy nhiên, gia đình Tình cực lực phản đối bởi nghe chừng đâu đó rằng dân sinh trưởng nơi miền Nam do cuộc sống ngày xưa dễ thở, nửa năm trồng lúa nửa năm oánh bài lá, không phải cơ cực đối diện với khó khăn, lam lũ tạo nên thói quen dễ dàng chấp nhận cuộc đời thành ra thiếu cá tính cần mẫn, tranh đua như dân Bắc hoặc Trung. Tình lại là con trưởng kéo một bầy năm đứa em, hai trai, ba gái, tất nhiên, chị dâu cả mang nặng nề trách nhiệm lèo lái gia tộc sau này. Bố mẹ Tình e ngại nếu gặp con dâu cả thiếu đặc tính mưu toan, đưa đẩy, anh em trong gia đình sau này sẽ lộn xộn sinh ra thực trạng cá đối bằng đầu hoặc cá mè một lứa, chẳng ai nói ai nghe sẽ bị người ta chê cười. Không những thế, có câu nói, “Giặc nhà ngô không bằng bà cô bên chồng.” Gái miền Nam dễ thương nhưng sao có thể đối địch được ba cái mỏ bà cô Bắc kỳ, ông bà cho rằng nếu lấy vợ người miền Nam sẽ khổ cho Tình một đời sau này. Tình ít nói nhưng thâm trầm. Đàng khác, sĩ quan ngày ấy cũng khá sáng giá cho dầu các cô gái mới lớn bị tiêm nhiễm câu hát “Em chỉ yêu có anh binh nhì.” Và thế là mưu ma, chước quỷ cũng được bố mẹ Tình sử dụng để có nhiều người mai mối cho Tình những cô gái Bắc kỳ năm tư quanh vùng. Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn; cũng có thể Tình bị bùa mê thuốc lú bởi con bé Nam kỳ, bố mẹ Tình sau này nói thế, nên dù không bao giờ phản đối, lại chiều lòng bố mẹ, nay đi nhòm cô này, mai theo mối xem cô kia mỗi lần nghỉ phép, Tình cũng kiếm được nhiều lý do từ chối những em xinh như mộng nhưng chưa bắt được hồn chàng sĩ quan trẻ ít nói. Thế rồi gần hai năm sau, nhân một lần nghỉ phép, chẳng hiểu Tình xạo ke, hứa trăng hứa cuội, hoặc thề thốt cách nào với ông bô bà mia cô gái mà bợ ngay con người ta mang về trình diện bố mẹ. Chỉ sau hai ngày, cả nhà Tình thích cô bé tươi vui có giọng Nam kỳ ngọt ngào này. Cũng có thể, “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng,” do được Tình giải thích huấn luyện, cũng có thể nhờ cá tính rộng rãi dễ thương không chấp nhất, xét nét, vị thế con dâu trưởng chẳng những trong gia đình mà đối với bà con họ hàng, chị Tình được mọi người quý mến, ưa chuộng. Mà quả thật, chị Tình rất dễ thương, rộng rãi, cận nhân tình. Con cái của những bạn bè thân thiết có đứa nói thích chị Tình hơn thích mẹ chúng. Có lần chị đưa các em giúp lễ đi chơi bởi nhà có chiếc xe “van” mười chỗ ngồi. Mười lăm em, trai gái lẫn lộn chen nhau như cá hộp có thêm chị Sỹ đi kèm cho đúng luật tiểu bang, cứ bẩy em nhỏ cần một người lớn chăm sóc. Chị đưa các em đi chơi khu trượt nước, tắm biển, nào ăn uống thả dàn, lại còn mục mười lăm nhóc chễm chệ nơi quán kem. Đứa chọn ly kem ba màu, đứa khác kem thập cẩm; nhiều khi chị Sỹ muốn khùng lên vì lắm ý kiến, nhiều đề nghị của tụi nhóc. Ngược lại, chị Tình giải quyết nhanh chóng và êm đẹp, nhóc nào cũng thích vì được tôn trọng. MBVN 10 Dàn máy vừa được bật lên, Sỹ đã vội chộp chiếc “microphone,” đặt sát vô miệng, ông ổng ca, “Nếu em không là người yêu của lính, em sẽ chớp một anh sỹ quan. Nhưng anh ơi nếu mộng không thành thì sao,” - Khóa cái mõm của ông lại! Tình la lên, mộng không thành mà cả một tiểu đội. Mộng mà thành có lẽ hơn trung đội. - Ấy, nhà cháu mới sơ sơ một bà. Nếu hai bà có lẽ sẽ ít hơn. Và để mở màn văn nghệ phụ diễn, mời chị chủ nhà làm một mục tân cổ “giao dziên.” Sỹ nhại giọng nói miền Nam của chị Tình. - Mời chị ca bản “Truyện Tình Lan và Điệp.” Phủ đề nghị. - Lan ơi, Lan về nắm ấy chuông, Sỹ lại rống lên theo cung cổ nhạc. Chị Tình không nói không rằng, chọn một đĩa nhạc bỏ vô máy, bấm số đoạn ấn nút cho đĩa chạy. Âm thanh réo rắt nổi lên và chị cất giọng hòa với cung nhạc, “Qua một rừng hoang, gió núi theo sang vương bụi đường trên vai...” Giọng chị ngọt ngào với bản tân cổ giao duyên Hoa Trinh Nữ. Khung cảnh ồn ào bỗng trở nên thinh lặng nhường cho giọng ca thẩm thấu lòng người. Lời hát đã quá thịnh hành từ xưa nên giọng chị dễ được để ý thưởng thức. Những tiếng vỗ tay rộ lên như muốn phá tung cửa kiếng phòng ăn khi chị xuống giọng ngâm chữ cuối của câu vọng cổ khiến chị thêm phần hào hứng diễn xuất. Ai nấy đều mang vẻ mặt vui tươi, hoan hỉ vì có được những giây phút thoải mái giữa đám bạn bè quen thuộc. Niềm phấn khởi trong lòng được cổ võ do tâm tình thân quen, khuyến khích tì vị hoạt động mạnh mẽ hơn đối với món nhắm đã bao lâu quen thuộc nhưng gần hai chục năm mới gặp lại. Chưa hết bản tân cổ giao duyên mà bình rượu lít rưỡi đã được chuyền tay lần thứ ba, cạn tới giọt cuối cùng để rồi nhường vị thế cho thánh Remy Martin rút ruột làm chủ tình hình. Phần chương trình văn nghệ phụ diễn, sau khi chị Tình ca xong bản Hoa Trinh nữ, những mục tân nhạc khác được tiếp nối. Khi các chị hát thì còn đỡ; mỗi lần anh chàng nào lên giọng thì lại yêu cầu mở máy cho to, quả là ồn ào hết sức. Nào lạ chi, khi đã sứa sứa thì hát trở thành hét. Căn phòng thì nhỏ, hai cái loa to tổ bố được nối liền với dàn mixer cộng thêm chiếc amplify 250 watts thì tai nào mà chịu nổi. Thế mà người ta vẫn vui vẻ ăn uống, có muốn nói gì thì phải hét lên; kẻ ca cố gào, người nói cố hét, giống phường quân hồi vô phèng, ồn ào, náo nhiệt. Nào ai lạ gì, khi men rượu dồn lên tới óc làm căng thẳng thính nhĩ khiến độ rung chậm lại, thần kinh mệt mỏi sao có thể nghe cho rõ ràng. Tất nhiên, dẫu ca hay hét, các nghệ nhân karaoke đều được tưởng thưởng bằng một tràng pháo tay nhộn nhịp. Cũng may, nhà Tình riêng biệt ngự giữa hai mẫu đất cách xa hàng xóm nên không làm phiền hà chi tới ai. Ở thời điểm này, phong trào hát karaoke đang lên nên được người Việt ham mộ. Nhà truyền giáo Tây Phương nào đó nơi bản đệ trình về đặc tính người Việt thời xưa có nhận định, người Việt nói líu lo như tiếng chim hót. Thực ra, tiếng Việt bao gồm năm dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng; tự chúng phần nào đã mang cung bậc âm nhạc. Thực hành riết thành quen nên dễ áp dụng vào việc hát hỏng, dễ dàng đưa giọng lên bổng, xuống trầm. Hơn nữa, những băng, đĩa karaoke thường bao gồm những bản nhạc tiền chiến, thịnh hành ngày xưa, quanh đi quẩn lại một vài điệu như Boléro, Tango, Chachacha, Valse, Boston, hiếm khi có được bản nhạc mang điệu Bebop, March và thường được gọi là nhạc Tour. Đại khái một bản nhạc được chia thành ba phần. Phần đầu được chia làm hai khúc và phần cuối cung điệu giống nhau cho hợp luật cân phương. Phần giữa, tạm gọi là điệp khúc thay đổi kiểu hát phần nào, thế nên dễ hát, dễ thuộc. Thêm vào đó, nhạc tiền chiến thường mang nặng sắc thái tâm tình dễ cảm động lòng người dẫu yểu điệu, dễ gây nản lòng tạo nên tâm tình thương vay, khóc mướn. Nói thế cũng hơi quá, cung điệu nhạc tiền chiến nếu đem so với nhạc tây phương sẽ được liệt vào loại nhạc êm dịu chắc chắn giới mộ âm nhạc rộng mở vòng tay đón tiếp bởi không bị lệ thuộc tâm tình ẩn chứa nơi lời hát. Khi Phủ thượng đài với bản nhạc “Đồi Thông Hai Mộ,” Sỹ nhà con dùng đôi đũa khua chén, đĩa, ly, theo nhịp điệu âm thanh của dàn trống, và rồi hai, ba người khác học theo. Kẻ hát cố gào cho át tiếng chén đĩa bị những nghệ sỹ sứa sứa, hung hăng dùng đũa thẳng cánh đập. Có người ra sân lôi vô chiếc vung nồi to tổ bố gõ, tưởng tượng nó như tiếng “Hihat” của giàn trống, tạo thành những âm thanh chát chúa khiến ai nấy giật nảy người khi hắn phang lần đầu. Nơi thế giới bạn bè quen biết quân hồi vô phèng này có được giây phút thoải mái, phá phách dẫu đôi khi nghịch thường lại càng khiến lòng người hứng khởi. - Quá đã, Sỹ nhà con gật gù sau khi tợp một hơi rượu. Và rồi một giờ đồng hồ vội qua; bình rượu Crown Royal, mỗi bình hơn lít rưỡi (nửa galon) kèm thêm một cặp Rémy Martin, một cặp Napoléon cùng với mấy món nai đồng quê nướng, rượu mận, lòng, dồi, bún, xáo, thoải mái chui tuột vô lòng dạ các tướng. Bốn ấm trà đậm được chị Tình đem lên cùng với những chiếc chén nhỏ. Đang sứa sứa mà thấm giọng với trà đậm quả là thống khoái. - Nếu có thêm hương vị lưu hoàng của vài chiếc pháo nổ lan trong không khí thì thật tuyệt vời, cụ Tài nhẹ giọng… - Đúng không bác, Tình vội hỏi, đoạn kêu thằng con lớn, Nghiêm, con có còn trái pháo nào không, lấy ra đây. - Dạ, chỉ còn có một cây pháo bay, Nghiêm trả lời. Chiếc pháo bay lên trần, nổ cái bốp, mùi lưu hoàng tỏa lan hòa cùng hơi men, trà đậm khiến ai nấy tỉnh táo. - Chưa bao giờ cháu có thể ngờ được mùi thuốc pháo lại tuyệt cú mèo như thế này, Hưng nói. - Diễn tả được không? Cụ Tài hỏi. - Dạ thưa bác, người biết không nói; kẻ nói không biết ạ. - Có tiến bộ. Nghiệm được câu nói của Lão học nào dễ chi! - Cháu thấy hình như những câu nói nơi đạo học chỉ về những sự việc hoặc sự thể xảy đến nơi cuộc sống thường ngày. - Anh nói đúng. Có câu nói, “Không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời.” Những lời khôn ngoan được phát xuất từ tâm thức của các bậc thức ngộ nói lên thực thể sự việc. Trãi dài qua các thời đại nơi cuộc sống nhân sinh từ xưa tới nay, những nhận thức này được gom góp lại gọi là đạo học. Vấn đề chỉ là chúng ta có để tâm nhận thức hay không. Từ những nhận thức này phát sinh những lý thuyết tạo thành phương cách thực nghiệm. Đây có thể là gốc gác cho bất cứ việc thực hành nào của thiền hay Yoga. - Như thế tại sao lần trước bác nói có nhiều phương pháp Yoga, Tình lên tiếng. Từ khi tiếng pháo nổ, chẳng hiểu tại mọi người giật mình hay do công dụng của nước trà đậm hoặc mùi thuốc pháo cộng hưởng khiến ai nấy tỉnh táo. Màn văn nghệ phụ diễn cũng được chấm dứt. Cái nhóm lộn xộn, cá mè một lứa đang ồn ào, náo nhiệt, bỗng trở nên bình thản, chăm chú hướng về phía cụ Tài lắng tai nghe. - Tôi vừa nói mà đã vội quên. Có cần thêm bia để chữa lửa không? Cụ Tài diễu! - Ồ, bác không nhắc có lẽ con quên. Nghiêm, mang bia ở tủ lạnh ra đây con. Tình sốt sắng. - Như tôi đã nói, những lời khôn ngoan từ ngàn xưa trãi dài nơi tiến trình nhân sinh được gom lại thành những đạo học tùy thuộc các vị thức ngộ nơi những sắc dân chung sống. Từ những nhận thức nghiệm chứng này phát sinh lý thuyết thực nghiệm kiến tạo phương cách hoặc phương pháp áp dụng. Mọi lý thuyết đều phát sinh từ những nghiệm chứng cộng hưởng, kiến tạo phương pháp hướng dẫn sự thực hành. Đây cũng có thể là lý do tại sao có ngôn từ hành giả. - Nhà cháu cố gắng hành thiệt còn chưa tới đâu phương chi hành giả. Sỹ tơm tớp nhào vô diễu. - Thế mà cứ tốn tiền đưa bà xã đi biu ti sóp (Beauty shop)! Lúc cưới em thì cưới đồ thiệt, từ khi đưa em đi biu ti sóp trở thành hành giả. Dại dột! Giọng Bá trầm trầm như than thở chen vô. - Ai dám nói tớ đưa bà xã đi biu ti sóp? - Kẻ nào có tật thì người ấy giật mình. Giọng Ty trầm trầm vang lên khởi xướng cho tràng cười bùng lớn. Phía phái nữ im re bởi chẳng nhiều thì ít, người xâm mày, kẻ xâm môi, sửa mũi cho thêm mặn mà hình dáng. Dĩ nhiên, đánh phấn, thoa son là chuyện bình thường đối với mọi phụ nữ. Câu nói “Trai tài gái sắc” tự ngàn xưa đã bộc lộ bản tính ngưỡng mộ tự nhiên của con người dẫu đã gây biết bao ngậm ngùi, đớn đau, cho đến thất vọng nơi những tâm hồn thiếu nhận thức. Theo đà tiến triển văn minh, nghệ thuật trang điểm cũng tiến dần tới thủ pháp y khoa giải phẩu, đắp mông, độn ngực, xẻ cằm tùy theo quan niệm thời trang hoặc ý thích cá nhân. Chẳng hiểu người trang điểm mang chủ ý thế nào, hoặc để tự cảm thấy mình đẹp hay để được người khác chiêm ngưỡng. Có điều, chỉ mới đơn thuần nhận định câu nói bình thường, “Sửa sắc đẹp,” tự nó đã mang nghĩa bất thường chẳng khác chi câu, “Đi khám bác sĩ.” Bác sĩ nào để cho mình khám mà nói, đi khám bác sĩ. Tương tự như thế, chẳng lẽ người có sắc đẹp muốn được sửa thành xấu, nhưng lối phát biểu vẫn được diễn tả một cách nghịch thường xưa nay luôn được chấp nhận chẳng bao giờ thấy ai đặt lại vấn đề. Ý nghĩ chợt thoáng qua khiến cụ Tài muốn khích động tâm tình để ý nhận thức mọi vấn đề nơi mỗi người. - Đi đâu hay tới đâu, tôi không đặt thành vấn đề. Tuy nhiên, tôi nêu lên hai câu phát biểu để mọi người thử nhận định; đó là “Sửa sắc đẹp” và “Đi khám bác sĩ.” Thế là bàn dân thiên hạ ngớ ra. Ai chẳng hiểu ý nghĩa hai câu nói đơn giản thường được nghe thấy trên đầu môi chót lưỡi mọi người, nhưng sao cụ Tài lại nhắc đến. Và tất cả đều như ngậm hạt thị khiến bầu không khí trở nên tĩnh lặng pha đậm nét ngỡ ngàng. Cụ Tài nhắp ngụm rượu, gắp miếng dồi chó chấm mắm tôm pha chanh ớt, đưa lên ngắm nghía kèm thêm câu, “Ai bảo âm phủ biết có hay không” đoạn bỏ vô miệng chầm chậm nhai. Những tiếng ồn ào mở bia, gắp món ăn nổi lên chừng như muốn che lấp phần nào tâm tình bối rối của nhóm nhậu. Nếu như được hỏi về câu nói khôn ngoan, hóc hiểm nào đó, có lẽ chẳng thiếu những nhận định, ý kiến nổi lên. Đàng này, hai câu quá thường, thường đến độ không ai ngờ được đặt thành vấn đề làm cho mọi người chưng hửng. Nói gì, nhận định gì khi ý nghĩa của chúng quá rõ ràng, ai cũng biết, nhưng tại sao cụ Tài nêu lên vấn đề nhận định. Chẳng lẽ nói lên lý do phải đi khám bác sĩ, hoặc sửa sắc đẹp, điều đó đâu phải nhận định, vậy thì nhận định sự thể gì nơi hai câu nói này. Chợt Hưng lên tiếng, - Thưa bác, xấu thì đi sửa cho đẹp, và ốm thì đi khám bác sĩ. - Bác sĩ nào để anh khám? - Dạ thưa bác sĩ Hoa, Sỹ nhào vô. - Cái chú quỷ, thế mà cũng rống lên, chị Hoa, vợ Hưng la Sỹ. - À há! Thế mà đã bao lâu rồi đã chẳng để ý. Công nhận, gừng càng già, càng cay, thậm phục, thậm phục. Ty trầm trầm, vừa nhai, vừa gật gù ra bộ đắc ý. - Anh Ty, anh vừa nói gì? Cụ Tài hỏi đích danh. Nuốt xong miếng ăn, Ty nhẹ nhàng trả lời trong khi mọi người hướng về hắn, - Thưa bác, điều chẳng ngờ lại quá thường đối với mọi người từ xưa đến nay. Cháu chợt thấy ngộ ngộ khi bác nêu câu hỏi, “Bác sĩ nào để anh khám?” Hai lối phát biểu, “Sửa sắc đẹp,” và “Đi khám bác sĩ” ngược hẳn ý nghĩa chúng muốn nói lên. Sự thể này minh chứng thiếu nhận định, thiếu nghiệm chứng nhưng chấp nhận thói quen và cho đó là bình thường không cần thiết hoặc không cần đặt vấn đề. Điều này chẳng khác chi mình đang thở nhưng không nhận biết không khí chung quanh, hoặc mình đang sống nhưng chẳng hiểu mình sống để làm gì, hay mình có ước muốn thăng tiến mà không đặt vấn đề muốn thăng tiến nơi phương diện nào. Nói tóm lại, sống thiếu ý thức. - Ai có ý kiến gì nữa không? Không ai lên tiếng bởi không biết trả lời thế nào. Nếu nói rằng không, lỡ còn khía cạnh nào mình đã không nhận biết chăng. Nói rằng có, đã nghĩ được gì khác đâu. Quả hợp với câu, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu. Đôi phút sau, cụ Tài hỏi tiếp, - Quý anh chị thấy có câu nào nơi sách vở nói về trạng thái này nơi tâm tưởng con người không? - Thưa bác, hình như coi thường câu, “Nghiệm xét mọi sự.” Bá lên tiếng. - Dẫu đã biết nhưng cái biết ấy vẫn chưa nhập tâm, chưa trở thành bản năng thì biết cũng như không; bởi thế, vẫn còn luẩn quẩn nơi vòng ngoài nghiệm chứng. Nêu lên đặc tính nghịch thường của hai câu nói này, tôi không khuyến khích bất cứ ai cố ý bới bèo ra bọ, chỉ muốn anh em luôn để ý nhận thức bất cứ điều gì đang diễn tiến nơi cuộc sống dù một câu nói, một hành vi, và nhất là từng ý nghĩ, mơ ước nơi tâm tưởng của mình. Thí dụ, sự thể đang ồn ào xảy ra nơi đất nước Mỹ này đó là vấn đề phá thai. Có anh em nào thử đưa lên một vài nhận định về sự kiện này không? - Thưa bác, hai phe ủng hộ hoặc chống đối dùng mọi lý lẽ, luận điệu, ngay cả thần thánh với mọi phương thức cuối cùng cũng chỉ tiến tới quyết định dùng ngân quỹ đóng thuế của dân chúng để trả tiền cho người phá thai hay không mà thôi. Cứ đem chém phăng tất cả những luật sư đi thì chẳng còn gì để nói. Sỹ hung hăng phát biểu. - Như vậy nào thêm bớt gì, chỉ bới việc và không đi đến kết quả, kết luận chi lại tốn tiền chế máy chém luật sư. Hưng giải thích. Nét đăm chiêu hiện rõ nơi gương mặt mọi người bởi câu hỏi được nêu lên không có câu trả lời. Trả lời thế nào khi mình không phải đối diện với những sự thể chẳng đặng đừng của người trong cuộc. Sự thể được nêu lên chẳng khác gì đặt chiếc cày trước ách con trâu, đi tới không xong, giật lùi chẳng được. Hơn nữa, nơi thế giới loài người, biết bao phương pháp, luật lệ từ những chính quyền, cổ võ hoặc áp lực đã thực hiện từ xưa tới nay nhiều khi nghe đến độ ghê rợn tâm thần. - Có ai nói lên được lý do tại sao phải phá thai không? Cụ Tài hỏi. - Thì bởi có bầu, thưa bác. - Thế tại sao có bầu. Cụ Tài mỉm cười khi nêu câu hỏi nghe đầy vẻ kỳ cục nhưng lại khiến mọi người giật mình. - Thưa bác, nếu vậy thì phải đặt vấn đề luân lý tính dục. Bá nói. - Nêu lên vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, tôi chỉ muốn dùng nó làm cơ hội nhắc nhở anh em nên tỉnh thức, nghiệm xét mọi sự. Người ta đang nhố nhăng kêu gào, cổ võ, chống đối theo ý thích một cách vô ý thức. Họ lợi dụng sự việc nào đó để có công ăn việc làm, để kiếm tiền, để thoả mãn nhu cầu của họ dưới những danh hiệu, mục đích đao to búa lớn. Cả hai phe chống đối hoặc ủng hộ không nhắc nhở gì tới luân lý tính dục, tất nhiên nơi vô thức đã tự động chấp nhận điều được gọi là “Tình cho không biếu không” thì sao có thể giải quyết dự luật phá thai, nên hay không nên dùng tiền thuế của dân để trả tiền phá thai cho bất cứ ai. Xét lại nơi hiện trạng nhận thức, chúng ta có lẽ vì ỷ lại hoặc lười suy tư, quá quen thói chấp nhận sự thường, thành ra thiếu khả năng nghiệm xét; thế nên, luôn có thái độ nương nương mà sống cho qua kiếp người, luôn lần mò áp dụng bản năng của loài đà điểu, chui đầu vô bụi rậm, nhắm mắt lại tưởng rằng không nhìn, không nghe thấy thì sẽ chẳng có gì xảy đến với mình. Không hiểu sao tối nay cụ Tài giáng đòn cân não quá nặng nề đối với nhóm nhậu. Đưa lên hai câu nói nghịch thường nhưng lại được thường tình áp dụng thách đố họ nhận thức, lại còn quất thêm nguyên nhân sự thể gốc gác của sự việc thiên hạ nhố nhăng lạm dụng vì ý đồ nào đó. Người ngoài cuộc thấy thế cũng chóng mặt phương chi mấy tướng nhóm nhậu bụng dạ đầy ắp rượu chè, thịt chó. Thế mà ai nấy im re không dám quen thói diễu như những lần họp mặt kỳ trước. - Thưa bác, như vậy, nên hoặc phải giải quyết cách nào? Sỹ ngập ngừng. - Anh nói giải quyết điều chi? Tôi đâu đặt vấn đề cho anh em giải quyết mà chỉ nêu lên với chủ đích kích thích tính chất để ý nhận định sự thể và sự việc trong cuộc sống. Nếu chúng ta để ý nhận định bất cứ phương diện nào của một sự kiện xảy đến nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận thức sự việc như chính nó hầu tránh thói quen hàm hồ nghe sao tưởng là vậy và đã vội cho rằng sự thể chỉ có thế, dẫn đến nhận định hoặc quyết định sai lầm, vô minh. Trường hợp cá nhân, gia đình, khi đã nhận ra nguyên nhân của sự thể, tất nhiên quý anh chị sẽ biết phải hướng dẫn con cái ra sao tránh trường hợp rơi vào trạng thái trói lại mà đánh khen hay chịu đòn. Riêng hôm nay, e rằng nỗi phấn kích phát sinh từ món quốc hồn quốc túy nơi âm phủ chẳng biết có hay không hòa nhập với thánh nọ thánh kia, lại thêm phần hứng khởi của văn nghệ văn gừng khiến lòng ruột lãng đãng, nên tôi phải nêu lên vấn đề may ra tâm trí anh em thoát khỏi cõi vô minh. - Bài học nào không phải trả giá, niềm mơ nào không mang giá phải trả. Bá lập lờ ngâm, đời đáng chán hay không đáng chán, cuộc sinh tồn vẫn lững lờ trôi, an nhiên, tự tại mấy người. - Anh Bá nói đúng. Nơi dòng sinh hóa bất tận, một tâm hồn sẽ mang nặng niềm ưu uất khi không chấp nhận sự hiện hữu buồn nản được lặp đi lặp lại thường ngày, ăn, ngủ, làm lụng kiếm sống không chi thay đổi nên khi có cơ hội, tâm thức vùng lên kiếm tìm một ý nghĩa hay đường hướng vươn lên hầu nhận ra giá trị thực thể sự hiện hữu của mình. Chẳng lẽ mình được sinh ra, cả đời phải lo toan miếng cơm manh áo rồi chết vào quên lãng như đã chưa từng bao giờ hiện hữu nơi cõi nhân sinh. Như chúng ta đã biết, chính lòng khát khao không chấp nhận nhưng muốn nhận biết và giành lại quyền giải quyết vận mệnh của mình, đã thôi thúc con người tìm hiểu lẽ sinh tồn và giá trị của quãng thời gian hiện hữu được gọi là cuộc đời mỗi người. Đây là căn nguyên phát sinh nhận thức tâm linh được gọi là đạo học, và từ nhận thức này nảy nở hành trình nghiệm chứng dẫn đến những phương cách thực hành thường được gọi là pháp. Nơi phương diện tu chứng Ấn học, sự thực hành này được gọi là Yoga và anh em đã biết có nhiều pháp môn Yoga tùy thuộc quan niệm cũng như trình độ của hành giả. - Thưa bác, dẫu trình độ của con người khác nhau, thế sao không có một pháp môn Yoga chung nào đi từ dễ đến khó, từ sơ căn tới mức thiện toàn để hành giả tùy nghi thực hành cho hợp với trình độ của họ hầu tiếp tục thăng tiến? Phủ từ trước tới giờ ít nói bỗng lên tiếng. - Hỏi là đã tự trả lời. Anh nhận nhiệm vụ thuyết pháp về Yoga phải không? Hèn chi dùng được ngôn từ pháp môn. Nơi nhà Phật, chỉ mỗi một pháp “Kiến tính thành Phật;” thế sao biết bao tín đồ, bao nhiêu hành giả, bao nhiêu phật chưa thành mà vẫn đầy rẫy chùa chiền, cúng kiến, vái lạy, xin sâm, trừ tà, truyền tâm ấn khói lên. Phật tâm, Phật tính, tâm bất sinh sẵn sàng nơi mọi người sao vẫn còn hành giả, hành thiệt. Chú Sỹ, chú hành thiệt như thế nào, có thể nói cho mọi người biết không? Mọi người phá lên cười khi nghe thấy cụ Tài nhắc lại lời nói tửng tửng của Sỹ. - Cần chi phải hỏi hắn, cứ nhìn lũ nhóc thì biết hắn hành thiệt thế nào. Bá nói. Lại thêm một tràng cười rộ như muốn phá bung mấy cửa kiếng nơi tường. Ngược lại hắn tỏ ra nghiêm chỉnh như đang phải đối diện với quan tòa khắt khe, lên giọng, - Thưa bác, nhà con đã phải tốn hao biết bao công phu tu luyện mà vẫn thua vợ chồng Phủ hai mống. Có nhà cháu đang ngồi đây làm chứng; nào là vợ đẻ chồng đau, nào khi tối lửa tắt đèn chạy thày, lấy thuốc, em bu lăng (Ambulance), em bu lung khói lên, nào nay nhà trường gọi con trốn học bỏ đi chơi, mai hàng xóm la lối mấy tên giặc oánh lộn. Nhà con nghĩ, với những công sức hành thiệt như thế, chắc chắn phải thành chánh quả ngồi chễm chệ trên niết bàn tha hồ hưởng xôi oản cúng kiếng sau này. Sỹ được trớn ba hoa. - Xôi thì có, nhưng oản chẳng biết còn nước non gì chăng. Ty nói trầm trầm. - Ơ cái ông này, thế ông không biết rằng các cụ thường nói, càng già càng dẻo, càng dai sao. - Mấy cái ông quỷ này ăn nói tục tĩu. Chị Hoa lên tiếng. - Chị nói sao! Không tục làm sao có thánh, cũng như không thân làm sao có thần, và không thần sao có Phật. Chứ tôi hỏi chị, không tục sao có con gọi bằng mẹ, cháu gọi bằng bà? Không tục sao có chị ngồi đấy và tôi ngồi đây. Đã cho là tục mà cố tình vấp phạm thì vẫn còn vô minh, Phật sao hiển lộ. Sỹ được nước, xả một hơi. - Biết dzồi, biết dzồi, nói mãi, nói dai, nói dài, nói dại. Nói riết bay hết hơi men chỉ tốn thêm bia, nào được ích chi! Ty chặn Sỹ. - Mình phải thức ngộ, phải biết mình đang làm gì, và còn hơn thế nữa, phải biết mình đang nghĩ gì mới có thể nghiệm chứng, mới thoát được vòng vô minh. Sỹ cố níu kéo chứng tỏ sự hiểu biết. - Vâng thưa ông, có thoát được vòng vô minh thì cũng vẫn tối như đêm ba mươi. Ty nói. - Đủ rồi, chú Sỹ. Ai cũng biết chú đã thức ngộ chứ chưa ngủ ngộ nên mời chú im lặng cho mọi người nhờ. Hướng qua cụ Tài, ông Thung tiếp tục, xin mời cụ giải thích về các phép Yoga. - Sao lại là phép dzô ga, ra ga, phải là pháp môn Yoga chứ không phải phép bùa. Sỹ hăm hở. - Sở dĩ có những pháp môn Yoga khác nhau cũng chỉ vì quan niệm một Thượng Đế hữu ngã được gọi là Brahma dẫu cho rằng hồn của mỗi người được gọi là Atman là một phần của Thượng Đế Brahma. Ngay như nơi Phật học, chỉ cần kiến tính thành Phật thì cầu xin, vái lạy với đấng nào. Xét như thế, chính những nhận thức thế tục về chủ thể hiện hữu đã là đầu mối cho sự bành trướng những tổ chức mang danh hiệu và đường lối thực hành riêng biệt. Và để hệ thống hóa tổ chức, tất nhiên cần đến nghi thức song hành cùng lề luật được kiến tạo với mục đích quản trị hệ thống những tổ chức nhân sinh. Dẫu mọi Phật tử đều thuộc nằm lòng câu nói của đức Thích Ca, “Trong 49 năm rao giảng, ta chưa từng nói lời nào,” thế sao hầu hết các nhà rao giảng, các sư sãi thuộc về Phật giáo đều công truyền rằng vì thấy con người khốn khổ nơi vòng sinh bệnh lão tử nên đức Thế Tôn bỏ ngai vàng, vợ con, bỏ cuộc đời vàng son tu chứng giác ngộ giải thoát chúng sinh. Thêm vào đó, những lời rao truyền của bậc giác ngộ trãi qua thời gian, trước hết bị tam sao thất bổn, sau lại bị nhận thức hạn hẹp thế tục làm cho méo mó, đồng thời tham vọng truyền bá cho mọi giới nên cố dùng nhận thức thế tục muốn biến con khỉ thành nhạc sĩ; do đó cải biện giáo lý thành lề luật, thành thứ mì ăn liền khiến tín đồ yên tâm cho rằng chỉ cần tuân theo những nghi thức, những giới luật phải giữ sẽ được giải thoát, thức ngộ. Tất nhiên, nhiều người, lắm ý; trong trường hợp trời không chịu đất thì đất cũng không chịu trói; thuở ban đầu từ một tổ chức, dần theo thời gian bị phân chia thành nhiều tông phái, truyền thống. Xét như thế, anh em có thể hiểu tại sao có những danh hiệu, Nam Tông, Bắc Tông, Đại Thừa, Tiểu Thừa, v.v... Cụ Tài nhẹ nhàng giải thích một hồi, đoạn nâng ly trà nhấp giọng. Mượn cơ hội này, Sỹ đã vội chen vô, - Thưa bác, thế sao nơi sách vở có người cho rằng Tiểu Thừa chỉ đạt tới hạnh bồ tát, còn Đại Thừa mới đạt niết bàn? - Có ai trả lời được không? Nhưng phải hợp lý, hợp tình; nói có sách, mách phải có chứng. Cụ Tài nhìn quanh thái độ chừng như thách đố. Đáng đời! Các tướng xưa nay quen thói tào lao, dùng mọi đối tượng làm đề tài diễu, từ thần thánh đến quỷ ma, hầu có được đôi phút thoải mái tâm tư sau những ngày miệt mài với công việc lo kiếm miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình. Hiện trạng này không phải chỉ giới hạn nơi các nhóm bạn bè đàn đúm mà còn là một phong trào mạnh mẽ bành trướng lan tràn trên những băng tần vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Hình như con người thời đại này mang nặng tâm trạng ưu uất do phải đối diện với cuộc đời thăng trầm, biến đổi không ngừng nên khao khát những niềm vui diễu cợt nhẹ nhàng thoáng qua may ra giảm bớt căng thẳng tâm tư được chừng nào hay chừng nấy. Thực ra, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (N. Du). Nếu lòng đã buồn, càng đối diện với cảnh vui thì sau giây phút hờ hững tạm vui, lòng càng chìm sâu nơi nỗi buồn khổ ải khi con người trở lại với chính mình. Thực trạng này chẳng khác gì mượn rượu hầu mong giải sầu, ai ngờ sầu lại càng sầu. Mấy miệng nhanh nhẩu chợt cảm thấy chẳng khác gì mõm ngựa bị bộ cương khóa, hết đường ngó ngoáy. - Người hỏi tự đã có câu trả lời. Bá chọc Sỹ. - Tớ không biết mới hỏi. Nếu đã có câu trả lời, ai hỏi làm chi. - Muốn biết phải hỏi Trạng Quỳnh, cho đại cấm tiểu, ha ha, Phủ phá ngang đoạn cười lớn. - Anh Hưng, cụ Tài nhắc. Anh diễn thuyết về Phật học mà. - Thưa bác, giọng Hưng ngập ngừng. Cứ theo lục tổ Huệ Năng, "Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184), thì đâu có gì mà đạt nhưng lại trở về với chính mình, lau gương để hiện rõ bổn lai diện mục thì dẫu đạt niết bàn hay đạt hạnh bồ tát vẫn chưa kiến tính phương chi là Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Cháu chỉ có thể nghĩ được như thế. - Đó là câu trả lời đúng nhất và hay nhất mặc dầu thấy như không trả lời gì về câu hỏi liên hệ đến điểm đích của Đại Thừa hoặc Tiểu Thừa. Riêng vấn đề người ta nói hoặc tác giả này, tác giả kia viết thì đâu có phải là ý kiến hoặc nhận thức của chúng ta. Quý anh em vẫn để lòng trí luẩn quẩn nơi ngôn từ được mượn để thiết lập câu hỏi. Điều này nói lên anh em vẫn còn lệ thuộc nơi những lý thuyết, những giáo lý, những quan niệm nhân sinh thế tục. Có lẽ đây là lý do đã khiến ông Thung yêu cầu tôi giải thích về các pháp môn Yoga. Tôi sẽ giải thích nhưng nói trước với anh em, khi anh em còn nghĩ về chúng thì nên nhớ rằng chúng không phải là hành trình kiến tính của anh em, mà là của người khác. Nói cách khác, chúng chỉ là phương tiện để anh em dùng mà so sánh với nghiệm chứng nơi cuộc đời của mình. - Chuyên tâm nhận định một chút, chúng ta sẽ thấy rõ một điểm đó là tùy theo trình độ nhận thức mà các nhà sáng lập tông phái kiến tạo các pháp. Điều này có nghĩa các pháp là sản phẩm của nghiệm chứng và nhận thức. Như vậy, các pháp cũng là công thức thực hành đã được thực chứng do một số hành giả tiên khởi của tông phái và được ghi chép lại cho hành giả hậu thế đỡ tốn công sức khai phá. Tuy nhiên, kết quả tu chứng theo các pháp môn chắc chắn bị ảnh hưởng bởi một số điều kiện chẳng hạn như căn cơ của hành giả, môi trường tu chứng, tâm trí cũng như cơ thể người thực hành. Bởi thế, dẫu trong một tông, phái, cùng thực hành cùng một pháp môn, sự thành đạt của mỗi hành giả ra sao chỉ y biết. Nơi hành trình tâm linh, thành quả nghiệm chứng, tu chứng theo pháp môn không giống như kết quả khoa học hay toán học, một cộng với một bằng hai, hoặc cứ hai phần hydrogen tổng hợp với một phần oxygen dưới một áp suất nào đó sẽ tạo thành nước bởi điều kiện căn bản là chính hành giả đã khác biệt cộng thêm điều kiện môi trường ảnh hưởng trên hành giả nên thành quả tất nhiên khác biệt. - Dẫu có nhiều pháp môn Yoga, tôi chỉ muốn nói đến nguyên tắc cũng như quan niệm về một đôi pháp môn thực hành. Có ai nhớ lần trước tôi kể tên bao nhiêu pháp môn Yoga không. - Thưa bác, hình như năm, sáu, bảy, tám, chín cái gì đó, mà những cái tên gì gì ra giô ra gi chẳng thể nào mà nhớ được. Phủ trả lời. - Như tôi đã nói lần trước, mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói, “Kiến Tính thành Phật.” Hãy làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được giải đáp cho mọi vấn đề. Riêng xét về Yoga, chúng ta thường dùng sai ngôn từ hoặc hiểu sai ngôn từ để chỉ về nó. Cụ Tài chợt ngưng nói, quay qua Hưng, - Anh Hưng, anh làm ơn ra xe lấy dùm tôi cuốn sách đang để ở ghế tôi ngồi lúc nãy. Đoạn cụ tiếp tục, - Yoga bao gồm nhiều môn học từ thiên văn, địa lý, triết học, toán học; trong đó hai ngành đặc biệt về tập luyện xác thân được gọi là Hatha Yoga và Kriyâ Yoga. Đọc nơi sách vở, đôi khi Kriyâ Yoga còn được gọi là Râja Yoga. Cũng nơi sách vở, chúng ta biết, tất cả các đạo học đều phát xuất từ Đông Phương, bởi đó tâm tình mộ đạo phát triển mạnh mẽ. Giống như mọi dân tộc Đông Phương, tôn giáo là lẽ sống của người dân Ấn Độ. Lòng khát khao tìm sự giác ngộ tâm linh để hưởng lạc thú tinh thần được coi là khá mạnh mẽ. Chẳng thế mà họ có thể chịu đựng cảnh sống nghèo nàn lại phải đương đầu với những thiên tai, hạn hán hằng năm xảy đến cũng như nhẫn nhục chấp nhận sự hà khắc của quan quyền thống trị họ. Hưng đã mang vào cuốn sách, hai tay trao cho cụ Tài. Cụ lật mấy trang đầu đoạn nói, - Để tôi đọc một vài đoạn nơi cuốn sách này giải thích về pháp môn Kriyâ Yoga cho anh em nghe. Trước hết, lý do nào hoặc quan niệm, nhận định nào bậc Yogi tập luyện thể xác. Nơi sách được viết, “Thể xác của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 watts, không thể chịu nổi một điện thế một triệu volts gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp môn Kriyâ Yoga. Sự gia tăng một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mạnh mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của tinh thần” (XPHB tr.5). Và cách thực hành được giải thích như sau, “Hành giả (Yogi) dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung hoàng đạo tượng trưng vũ trụ trong con người (tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường (XPHB tr.4). Một cánh tay giơ lên khiến mọi người ngạc nhiên, lại là cánh tay của chàng thích phá đám Sỹ nhà con khiến mọi người cảm thấy hơi khó chịu. - Thưa bác, nếu chỉ nửa phút mà đã đạt được sự tiến hóa tâm linh tương đương với một năm của người bình thường thì chỉ cần vài ngày đã có thể thức ngộ. - Ông phải xin ghi danh vô học lớp mẫu giáo đi là vừa. Cái chứng chỉ hai năm kỹ thuật của ông có lẽ chó gặm tan mất rồi còn đâu mà ý kiến với ý bọ. Ông thử tính xem nếu so sánh 50 watts với luồng điện một triệu volts và cường độ sơ sơ vài trăm ampère thì phải bao nhiêu phút ông mới “điện năng,” phương chi là thức ngộ. - Thế chú mày muốn sống được bao nhiêu tuổi mà đòi giô ga, ra ga? Cứ tính sơ sơ dòng điện 200 ampère với điện thế một triệu volts thì mới có bốn triệu cái nửa phút tức là hai triệu phút; thế giờ đâu cho chú mày ăn nhậu, chơi bời, đàn đúm; giờ đâu khiến vợ đẻ chồng đau; giờ đâu đánh tôm, bắt cá kiếm tiền trả bill, trả bọng. Xin chú mày làm ơn ngồi im cho bà con nhờ. Phủ lửng thửng lên giọng kẻ cả. - Nhưng sách viết lung tung khiến nhà con điếc cái tai chịu không được. - Đó là giấu hiệu đáng mừng, cụ Tài lên tiếng. Mới thoạt nghe mà đã thấy khó chấp nhận tức là ít nhất đã có suy nghĩ, nhận định. Có điều các anh nên để ý; như tôi đã nói, mọi sự thực hành phát sinh từ quan niệm tiến dần đến nhận định, tu chứng. Những gì được ghi lại chỉ là lý thuyết giải thích mà thôi. Để tôi đọc tiếp, đạo sư Pâtanjali viết như sau, “Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM. Pâtanjali cho rằng Thượng Đế tức là sự rung động trong vũ trụ của thánh ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi thiêng liêng (XPHB tr.3).Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi với đấng thiêng liêng như thế, tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân y làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động. Hành giả (Yogi) hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức của y hòa hợp với thiêng liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh mình (XPHB tr.4). - Sri Yukteswar trình bày, “Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo sĩ (Yogi) đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở. Nguồn sinh lực của con người lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hành pháp môn Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở. (XPHB tr.4). Kriyâ Yoga có nghĩa Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động. (XPHB tr.1). Hành giả của pháp môn Kriyâ Yoga quan niệm rằng đó là một phương pháp giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ thần kinh tủy não. Kriyâ Yoga có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chận sự tích tụ của máu đen. Những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Theo truyền thuyết, pháp môn Kriyâ Yoga đã xuất hiện từ xa xưa, nhiều ngàn năm, đức Krishna, một vị tiên tri lớn nhất của Ấn Độ, đã truyền dạy cho Arjuna, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh Bhagavad Gita, “Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công pranâyama” (XPHB tr.2). Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những hành giả đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng phát triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên. - Thưa bác, nếu như thế thì mình đâu cần phải biết bởi vì cái biết này cũng như không, chẳng khác gì ăn bánh vẽ. Cháu nghĩ rằng chính tác giả của những lời này cũng không biết gì về cái gọi là Râja hoặc prana Yoga. Hơn nữa, lại đưa thêm điều kiện cần phải có những người đã thực hành để chỉ dẫn cộng thêm lại phải được chuẩn bị từ thể xác đến tinh thần. Tìm đâu ra người đã thực hành! Sự này chẳng khác gì bảo rằng nếu tập luyện sẽ bay được như chim trong khi không được sinh ra với đôi cánh. Đàng khác, giờ giấc nào để tập luyện trong khi đầu tắt mặt tối kiếm miếng cơm, manh áo cho gia đình. Như vậy, có thể chỉ những người ế ẩm, ngay cả những mụ đui, hủi, què, cụt cũng chê mới có thể luyện Yoga mà thôi... - Ai chả biết thừa bộ mặt nát như mặt thớt của ông, cần gì phải quảng cáo. Thôi thì hãy cứ bằng lòng với bộ niết bàn của nhà ông mà hưởng xôi, hành oản, hành thiền, mắc mớ chi phải phiền hà với giô ra vớ vẩn cho mệt cái miệng, phiền đến những cái tai của thiên hạ. Không hiểu sao hôm nay Bá cứ nhè Sỹ mà đấu. Dẫu nhóm nhậu xưa nay đã quen thói bới móc mọi khía cạnh của bất cứ ai, dù thần thánh nào để mọi người có cái cười chung vui. Dĩ nhiên, với bạn bè quen biết lâu ngày, diễu như thế cũng chẳng sao bởi không ai xét nét, chấp chiếm những lời nói dựng đứng hầu như kết án hoặc bêu riếu. Quả là khó hiểu. - Anh Sỹ nói cũng có lý, cụ Tài lên tiếng, nhưng cái lý của anh chỉ chứng tỏ một tâm hồn vẫn nặng nề nông nổi, chưa an định. Nơi cuộc đời, biết bao chuyện được quảng cáo, khuyến dụ chẳng liên hệ gì tới mình; nếu để chúng ảnh hưởng tới tâm trí, có lẽ chúng ta không có giờ để ăn hay ngủ. Thực tế nhan nhản những loại quảng cáo này. Nói đúng ra, chẳng phải bây giờ chuyện mới xảy đến mà đã từ ngàn xưa. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao, chúng ta thấy câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Anh Sỹ, anh có bị phiền hà khi gặp người tuyên truyền con ba ba là con trạnh hay con rùa không? - Thưa bác, Sỹ vội chộp cơ hội để nói, hình như ngữ này không nói được thì ăn không ngon, ngủ không yên, nên có dịp hay không cũng chẳng chịu để cặp môi ăn da non e chúng liền lại thì khổ. Đối với con ba ba, người ta cho rằng con trạnh hay con rùa sẽ không ảnh hưởng gì tới cháu vì cháu đã thực chứng được con ba ba như thế nào, nhậu tuyệt ra sao. Nhưng với loại giô ra, cháu chưa bao giờ được thực chứng nên mới thắc mắc. - Anh không thắc mắc về những pháp môn được người ta quảng cáo đâu. Anh thắc mắc vì muốn có quyền năng như người ta quảng cáo trong khi không phải làm gì hoặc thực hành sơ sơ một chút sẽ có thể đạt được. Trường hợp anh nói đã thực chứng con ba ba thế nào nên không bị ảnh hưởng bởi những lời tuyên truyền, quảng cáo; điều mà chính những người tuyên truyền không biết lại chỉ càng chứng tỏ sự thiếu tự nhận thức về bản thân mà thôi. Sỹ ra hiệu muốn nói nhưng cụ Tài đưa tay ngăn lại và tiếp tục. Nói có sách, mách phải có chứng; nếu anh thử tự hỏi biết bao vấn đề xảy đến chung quanh cũng như những tin tức nghe được hoặc mơ mộng anh hằng luôn ấp ủ, phỏng đã có những gì anh thực chứng mà chúng vẫn hình như không khuấy động tâm trí anh đến độ phải đặt thành vấn đề giải quyết. - Đồng ý rằng tác giả những đoạn sách tôi vừa đọc không thể nói lên phương thức thực nghiệm Kriyâ Yoga cũng như kết quả thực chứng chính tác giả đã đạt được tới trình độ nào; điều này chứng tỏ sự thể mà anh nêu lên là trình bày chiếc bánh vẽ, vô bổ, chỉ thuộc loại quảng cáo, tuyên truyền, nhưng nào có chi ảnh hưởng đến bất cứ ai nếu lòng đã an định, không bị chi phối bởi chính ngay ý nghĩ, ước muốn của mình. Thử xét trường hợp câu Phúc Âm, “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi; kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn 14:12). Anh tin vào Thiên Chúa, anh thực sự tin theo đức Giêsu phải không! Anh cũng thực sự tin rằng lời Phúc Âm không tuyên truyền giống như những gì tôi vừa đọc từ cuốn sách phải không? Thế anh đã làm được những gì như lời Phúc Âm bảo có thể làm như đức Giêsu? Và đã bao nhiêu người tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu như anh; chẳng những thế lại đương đường công bố, rao giảng, và khuyến dụ người ta tin theo đức Giêsu, thế sao chẳng ai thực hiện được như lời Phúc Âm đã nói. Thế sao nó không làm phiền lòng anh? Hoặc anh cho rằng Phúc Âm viết những điều không tưởng nên chẳng thèm để ý cho khỏi phiền lòng? Anh thử nói coi, cả đời theo đạo, tin theo đức Giêsu, anh đã nghiệm chứng được gì nơi Phúc Âm, phương chi anh mới chỉ lần đầu nghe câu tuyên truyền, tạm gọi như thế, về Yoga, Yogi. - Nói người phải nghĩ đến ta, đưa tay rờ gáy mới là người khôn. “Talk, talk, talk cho lắm vào,” không biết mình nói gì mà cũng cứ nói. Nhưng không biết có im miệng được chăng hay cứ vẫn tội chết không chừa mà cố ham cùi dừa, bánh đa. Giọng Ty trầm trầm nổi lên khiến mọi người liếc Sỹ; có kẻ ra dấu chọc quê. - Chưa chứng được thì tớ cũng đã là Phật, dẫu Phật chưa thành đâu có sao! Thế mà hắn vẫn tơn tơn như chẳng có gì ảnh hưởng. Mở chai bia, hắn tỉnh queo tu một hơi thoải mái. Mọi người giật mình; nỗi thao thức nào đó chợt hiện về nơi tâm não. Chỉ đôi lời thách đố về nghiệm chứng lòng tin nơi Phúc Âm đã như mũi tên xuyên thấu lòng ruột. Biết nói sao khi đã bao ngày tháng theo đạo mà lời Kinh Thánh vẫn cứ như ngây, như ngô tựa từ khoảng trời xa thẳm mông lung vô định chẳng gì liên hệ đến người tự nhận tin theo. Có tật, giật mình, mấy tướng theo đạo Phật cũng thế. Có mỗi mấy chữ, kiến tính thành Phật mà giỏi lắm cũng chỉ biết lặp đi, lặp lại cho có vẻ Phật tử. Nào những khuyến dụ đạo đức, ăn chay niệm Phật, nào những từ tâm, từ bi, từ hòn, nào những cúng bái lễ Phật ngày rằm, ngày giỗ, sao thực hiện hoài mà chẳng thấy gì được gọi kiến tính. Những lời thách đố của các bậc thức ngộ như gợi về đày đọa tâm trí những kẻ tin tưởng. Phỏng những lời đó là những chiếc bánh vẽ như Sỹ nhà con ám định. Nhưng nếu chúng chỉ là những chiếc bánh vẽ sao có thể ngự trị nơi tâm hồn những người tin theo từ thế hệ này qua thế hệ khác! Phỏng con người tin theo vì nỗi lo sợ nào đó nên cũng ráng tổn ải chút ít hầu trấn an tâm hồn hoang mang, vô định hướng. Quả là càng biết càng phiền. Đức Thích Ca bảo chớ vội tin những lời ngài nói nhưng hãy nghiệm chứng mới trở nên Phật đã thành. Đức Giêsu phán kẻ nào tin vào ngài, thì các việc ngài làm kẻ ấy cũng sẽ làm. Nghiệm chứng, tin là thế nào mà thành với chẳng thành, làm được với không làm được. Nay nghe đến những pháp môn đòi hỏi luyện thân xác, luyện trí tuệ, trí huệ, nào thày dạy, nào bực chân nhân hướng dẫn lại càng rối mù cả lên. Chỉ cần nghiệm, chỉ cần tin đã không xong phương chi pháp nọ, thiền kia coi chừng chỉ chết đói. Hừ, chẳng nghiệm, chẳng tin chưa chết thằng tây nào nhưng thiếu một bữa ăn thì bầy con kêu gào rối tung lên ngay lập tức. Ôi phận người, cái khó bó cái khôn, nhưng sao lại diệt dục, diệt ước mơ, ham muốn. Chẳng ham muốn ăn thì vẫn phải ăn; không ăn sẽ chết đói, và khi đói thì đầu gối phải bò còn đâu ngày giờ để nghiệm, để tin. Không chấp nhận thân phận con người thì đã là người; tránh trời không khỏi nắng. Ngược lại, nỗi thao thức nào đó vẫn miên tục thách đố; lòng khát khao nhận biết giá trị kiếp người vẫn hằng thúc dục tâm trí tìm đường giải quyết. Trận chiến nội tâm chợt bùng nổ khiến lòng ruột các tướng xôn xao, giao động để rồi những chiếc miệng quen thói ba hoa im như miệng hến tạo bầu khí thinh lặng nặng nề. Cụ Tài chẳng ngờ kết quả của việc dùng câu Phúc Âm thách đố nhóm nhậu đã tạo nên trạng thái im lặng của mấy tướng coi trời bằng vung này. Thích bới bèo ra bọ để diễu như Sỹ nhà con mà cũng hết ngó ngoáy thì còn ai có thể kiếm cớ phá ngang. Cụ nhẹ nhàng hỏi, - Sao im lặng thế? - Thưa bác, bác chọc đúng huyệt tụi con, Phủ chầm chậm trả lời. Bác đặt vấn đề về kết quả của sự tin theo đức Giêsu nơi Phúc Âm khiến cháu cảm thấy trống rỗng vì đã bao lâu rồi, nói cho đúng, chỉ biết tuyên xưng rằng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu, tin vào hội thánh nhưng thực tế minh chứng chỉ là một sự tuyên xưng, một sự lặp lại giống như quen thói dùng những câu tục ngữ in sâu nơi tâm trí đến độ nằm lòng để rồi không bao giờ đặt vấn đề mình tin theo gì, tin thế nào, và thế nào thì được gọi là tin, phương chi nói đến làm được những việc như đức Giêsu. Vẫn biết rằng cần nghiệm chứng những câu nói nơi Phúc Âm nhưng nghiệm thế nào, nghiệm ra sao thì đành bí tịt. Đi nhà thờ nghe các cha giảng phải tin vào Chúa, phải tin vào đức Giêsu, tin nơi giáo Hội, thì chỉ biết thế chứ các cha có giải thích tin như thế nào hoặc thế nào thì được gọi là tin đâu. Hơn nữa, cháu chưa bao giờ được nghe bất cứ linh mục nào nói hoặc giải thích về mức độ của lòng tin; điều này có nghĩa, phải làm gì thì đạt đến mức độ tin như thế nào, thành quả ra sao. Tất cả chỉ tin, tin, tin, không hơn, không kém. - Anh vừa trình bày nhận thức nơi nghiệm chứng về thực thể trống rỗng của lòng tin của mình. Ai có thêm nhận định nghiệm chứng nào nữa không? - Thưa bác, Hưng lên tiếng, khi bác nhắc tới tin vào đức Giêsu khiến cháu liên tưởng tới câu nói của đức Thích Ca, ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật chưa thành. Tuy nhiên, khi nghĩ đến câu nói của lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật, hình như có sự rắc rối nào lẩn quất ngăn cách hai câu nói này. Nói rằng kiến tính thành Phật thì Phật đã ở nơi mình rồi. Nói như vậy cũng không đúng, bởi Chân Như, Phật tính đều vô ngã; cho nên phải nói mình là Phật. Như vậy, mắc mớ chi phải kiến, phải tìm, phải làm gì. Chẳng lẽ không kiến tính thì mình là con bò, con chó ư? Thế mà lại thêm nào tu chứng, nào nghiệm chứng, nào hành giả, hành thiệt, hạnh nọ, hạnh kia, bồ tát, bồ múc, tam bảo, cúng dường, bái phật, ăn chay, ăn mặn, đi chùa, đảnh lễ rối lên. Cháu chỉ đọc được lục tổ Huệ Năng giã gạo, nhờ người viết kệ lên tường chứ không thấy sách vở nào chép lục tổ đảnh lễ Phật hoặc cúng đường hay đi chùa nào, ăn chay ăn mặn ra sao hoặc thực thi hạnh bồ tát, bồ nông nào mà chỉ kiến tính thành Phật. Một điều cứ luẩn quẩn trong đầu cháu đó là vấn đề ăn chay. Đã chắc gì ăn chay niệm Phật giải thoát tâm tư con người hơn ăn mặn nếu không muốn nói lại nhấn chìm tâm thức con người nơi vòng thị dục. Nói ra có vẻ hơi quá, nhưng thử xét nơi phương thức ăn chay. Nếu muốn ăn giò, ăn chả thì đã chết ai đâu, mắc mớ gì phải dùng đậu phụ thêm gia vị vô rồi giả làm giò để ăn như giò, hoặc như gà, như cá. Có phải cái thị dục muốn ăn như ăn cá, ăn giò, đã quá nặng nề ám ảnh nơi tâm trí người ăn chay đến nỗi phải tốn thêm tiền xài của giả để rồi cứ tưởng đang an hưởng đồ thật. Cái tâm trí này chỉ tạo nên nhận thức bệnh hoạn, chìm trong cái dục nên không nhận ra mình đang chạy theo dục vọng ăn uống. Nói một hơi, Hưng thờ dài, đoạn lẩm nhẩm như người thú tội, - Sao con người luẩn quẩn trong vòng khổ ải đến thế, lợi lộc chi khi xuôi tay nhắm mắt. - Có lợi chứ, không lợi ai mà làm, lợi cho người nấu cơm chay. Bá lên tiếng diễu cợt. - Theo kinh nghiệm sống chúng ta thấy, cụ Tài nói tiếp, muốn có gì, muốn đạt được gì, chúng ta phải thực hiện gì và thường thì phải trả giá như thế nào. Chính vì cho rằng Thượng Đế ở bên ngoài như một quyền lực cả thể, con người phải tập luyện để chuẩn bị đón nhận quyền lực này. Một khi đã nhận định rõ ràng như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nghe được biết bao vị nọ, thánh kia đã tiêu pha cả cuộc đời mong phát triển, nói cách khác, đạt được mộng tưởng hoặc do chính mình đề đạt hoặc do kẻ khác truyền bá. Dĩ nhiên nơi phương diện thể chất, những sự luyện tập này mang lại thành quả chẳng khác gì tập thể dục, thể thao, mà có thể hơn thế nữa, chính sự chịu đựng khổ luyện kiến tạo nơi con người năng lực bền bỉ dẻo dai hơn kẻ khác. Xét kỹ hơn, do chuyên nhất đào luyện, nơi phương diện nào đó con người vô tình phát triển một vài khả năng sẵn có để rồi cho rằng cứ thực hiện như thế sẽ đạt được như vậy. Người này truyền tụng đến kẻ khác trải qua thế hệ này, nối tiếp thế hệ khác kiến tạo nên pháp môn. Có thể rằng với mục đích quảng bá để cổ võ cho pháp môn bành trướng hoặc bởi ngại ngùng giải thích cho những đầu óc chỉ muốn biết để mà biết, người ta đã không ngần ngại tạo dựng nên những huyền thoại cho rằng do thần này, vị thánh kia rao truyền như thế. - Nhưng thưa bác, Tình hỏi, sao người ta không chịu khó tìm hiểu trước khi chọn cho mình một đường lối thực nghiệm phù hợp? - Câu trả lời đúng nhất là tự xét nơi trường hợp chính mình. Ngay như anh em, ít nhất tương đối là những người mang đầu óc suy nghĩ thì thử hỏi, anh em đã suy nghĩ được những gì, đã tìm tòi, học hỏi được bao nhiêu, và đã có thể kiếm tìm được lý thuyết hoặc phương pháp nào để thực nghiệm thăng tiến tâm linh cho mình chưa, phương chi những người bình thường không chịu tìm hiểu hoặc luôn phải lo lắng miếng cơm manh áo cho cuộc sống. Có điều anh em nên nhận định cho rõ ràng; luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích chung cho xã hội tùy nơi, tùy thời. Luật lệ tôn giáo chính thức phải chuẩn bị cho con người thăng tiến tâm linh nhưng chỉ vì nhận thức theo nghĩa phàm tục nên lại trở thành công cụ cổ võ cho luân lý thế tục. Tương tự như thế, những nghi thức tôn giáo phải là phương tiện giúp con người nâng lòng hướng chiều về thực thể hiện hữu tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật lại trở thành phương tiện cúng bái, chúc tụng, cầu xin. Nói như thế cũng hơi quá bởi vì đa số quần chúng đã không được hướng dẫn nên không để ý nhận thức về thực thể bản thân mình nên dễ dàng mở rộng lòng cho mê tín dị đoan, hoặc tâm tình cầu phước nơi ước vọng có được cuộc đời tưởng tượng tạm gọi là hạnh phúc theo lối nhìn thiển cận nhân sinh. Tuy nhiên, thử hỏi có ai nhận biết được những gì tạm gọi là hạnh phúc nơi mình chưa hay là luôn luôn chỉ cảm thấy không hài hòa với cuộc đời. Tất nhiên, khi thấy mình bị bó chân, bó tay đối với ước muốn thì đành chỉ còn nước đặt niềm hy vọng quyền lực ngoại tại nào đó để tạo dựng niềm tin hầu chịu đựng cho qua kiếp sống. Và như thế có thể nói đây là nền móng cho lý thuyết tôn giáo ngự trị lòng người. - Nói cho đúng, những nghi thức là cơ hội giúp cho con người định tâm, hướng lòng về một điểm chuyên nhất hầu hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mọi sự nhưng chính vì đã không nhận thức sự thể này, nghi thức được coi như phương thức phải theo như thế cho lòng ruột an nhiên với ý nghĩ đã hoàn thành bổn phận. Anh em có nhớ sự giải thích của thiền sư Bankei, “Tâm định mới thực sự được gọi là hành, còn vấn đề đi chùa thì cứ đi, hành thiền thì cứ hành, mỗi ngày hành thiền, tụng niệm, vái Phật năm, ba giờ, hoặc thời gian đốt hết mười, hay hai mươi que hương cũng không sao, nhưng tâm Phật bất sinh không phải là chuyện những que hương, chùa lớn hay nhỏ, thiêng hay không. Khi chúng ta an trú trong tâm Phật thì không cần tìm giác ngộ ở bên ngoài mà mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chính là sinh hoạt của Tâm Phật” (TBS; tr.124). Anh em đã thấy lời giải thích này phần nào liên hệ tới câu nói của lục tổ Huệ Năng, “Kiến tính thành Phật,” hoặc nơi Phúc Âm, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hay hành trình dần tiến tới trạng thái vô vi, “Vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi,” (ĐĐK2; tr.245). Theo Đạo, càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi (LTTH; tr.54) được gọi là trạng thái huyền đồng chăng? - Thưa bác, nếu đã bớt hết, bỏ hết thì con người sẽ trở về thời tiền sử, ăn lông ở lỗ, không xe, không nhà, quần áo ăn diện cũng chẳng có, văn minh, nghệ thuật hết cơ hội phát triển; con người như ngây như ngô thì cuộc sống này buồn như vườn địa đàng đâu còn gì là sinh thú. Sỹ nhà con chụp cơ hội đế vô. -Anh Sỹ quả là thông minh; thế khi anh mới sinh ra có quần có áo, có nhà cửa, nghệ thuật gì không? Và rồi khi chết anh có mang theo cái được gọi là văn minh, sở hữu của anh không? Anh có nhớ ý nghĩa câu nói, “Điều gì dưới đất ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16:19) mang ý nghĩa gì đối với cuộc đời một người không? Cụ Tài chầm chậm nói một hơi. -Thưa bác, có đấy ạ. Tình lên tiếng với giọng khá lễ phép. Khi mới sinh ra hắn đã tự biểu diễn nghệ thuật con nhộng, xếch xy chăm phần chăm, vừa “tóp lét lại vừa bó đâm lét” đấy ạ. Kiểu nói lễ phép lại đầy diễu cợt khiến tràng cười bùng lên sau câu dí dỏm nửa tây, nửa ta khiến bầu không khí bớt căng thẳng làm ai nấy cảm thấy lòng ruột thoải mái hơn. - Anh em làm ơn để ý điều chính yếu đó là đạo học nói về thực thể căn bản của sự hiện hữu, kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ trãi dài theo thời gian và không gian. Từ đó, mới phát sinh ra pháp môn cho các hành giả tùy nơi, tùy thời áp dụng. Tôn giáo cũng bắt nguồn từ đạo học nhưng sự thực hành đặt căn bản trên niềm tin và tôn thờ do đó kiến tạo nghi thức. Như thế, chúng ta thấy, hình thức bên ngoài của pháp môn là Yoga, thiền, của tôn giáo là các nghi thức. Bởi vậy, căn bản của pháp môn là nhận thức, và căn bản của nghi thức là tâm tình, ý niệm, ý định, ước muốn dẫu mục đích của tất cả pháp môn hoặc nghi thức đều giúp con người nâng tâm hồn hòa nhập với thực thể hiện hữu uyên nguyên, cội nguồn mọi sự hiện hữu từ tư tưởng tới vật chất. Những sự việc, sự thể hữu hình và vô hình này được Ấn học gọi là hoạt động, sự vận chuyển, biến chuyển của thực thể tối thượng được mệnh danh Brahma, và nơi mỗi người là Atman. Chúng ta thường hiểu lầm về ngôn từ hoạt động hoặc hành động được dùng nơi Ấn học. Bình thường, chúng ta cho rằng hoạt động hay hành động là thực hiện công việc hoặc làm chuyện gì, suy tư vấn đề nào đó. Nơi Ấn học, hành động hoặc hoạt động chính là bản thể của Brahma, luôn luôn biến chuyển, biến dịch. Nhận thức như vậy, mục đích của các pháp môn lại là thúc đẩy tâm thức hành giả tiến dần tới sự hòa nhập vào giòng sinh hóa, biến chuyển tối thượng thay vì vọng theo ước muốn, ham hố nhân sinh, thế tục, hữu vi. - Thưa bác, như vậy đâu cần phải thiền, phải định, dzô ga, ra ga, hành giả, hành thiệt làm chi cho phiền não tâm Phật, bởi càng hành, càng mong muốn kiến tính, càng phát triển vọng tưởng. Tự căn bản, chúng sinh đã là Phật, đã là biến chuyển, sinh hóa của Brahma cho nên cứ theo lẽ tự nhiên, lỡ được sinh ra làm người, đói ăn, khát uống tự động hòa nhập vào thực thể tối thượng, tự động kiến tính, đâu cần pháp môn, tây môn, mỹ môn, cầu đảo, cầu đường, bái lạy chi cho mệt thân già phật sống này! Sỹ nhà con lại tơm tớp chen giọng. - Đủ dzồi, đủ dzồi!, nói thừa, nói thãi, nói mãi mà chẳng biết mình nói gì. Không hành thiệt, hành giả thì chỉ còn cách nhập quan tài chứ sao có thể nhập giòng sinh hóa, sinh động, kiến tính, bọ tính. Bá cắt ngang lý luận của Sỹ.
|