PHẠM NGỌC THÁI * CÁNH ĐẠI BÀNG của THI CA ĐƯƠNG ĐẠI VN * Tác phẩm
Tập sách PHẠM NGỌC THÁI * CÁNH ĐẠI BÀNG của THI CA ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM NXB THANH NIÊN 2019
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2019 17:58:14 bởi Nhân văn >
Tác phẩm dầy 300 trang XB 2019
Rồi một ngày mai ta sẽ chết Như là chiếc lá vậy thôi Gió sẽ hót trên nấm mồ truyền thuyết: Rằng, có một thi nhân Thánh Phật rước đi rồi! LỜI TÁC GIẢ Sáng tác thơ là một ham muốn lớn, niềm vui thú lớn của bản thân tôi sống ở dương gian. Việc bàn cãi về thơ hiện đại ngày nay còn nhiều ý kiến trái chiều, giữa các luồng tư tưởng khác nhau. Song dù thế nào đi nữa, thi ca vẫn là một thế giới thật kì vĩ, vẻ đẹp của thế giới ấy đầy bí ẩn, giàu sắc thái và huyền diệu. Bươn bả trong cát bụi cuộc đời, vì miếng cơm manh áo - Thơ ca trở thành một sứ mạng, là giá trị tồn tại, ý nghĩa về sự sống qua những năm tháng mà tôi đã ghi nhận ở cõi thế nhân này. Gọi là kỷ vật được sinh ra làm người, dâng hiến lại cho đời: Thế giới của thơ tôi! Anh Trần, một nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh Hà Nội đã viết: “Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc. Thơ anh súc tích, hấp dẫn, có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Tác giả đã sáng tác được một khối lượng đồ sộ thơ tình hay, ghi dấu ấn riêng biệt của anh trong lòng người yêu thơ... với những giá trị nghệ thuật tinh túy, để lại cho nền văn hiến Thăng Long”. Hay như nhà văn Bảo Ngọc, trong lời đề tựa cho tập thơ “Rung động trái tim” của tôi tại Nhà xuất bản Thanh Niên, nhận xét: - Là một “nhà thơ của tự do”, nhưng Phạm Ngọc Thái có tầm vóc lớn trong thi ca! Thơ anh hàm chứa đầy ý nghĩa trong câu chữ và hình tượng, có nhiều bài đã đạt đến độ khúc chiết, viên mãn để tạo thành những thi phẩm hay. Nó gắn liền tính chất sâu xa của thơ cổ phương Đông, kết hợp nhuần nhuyễn với thi pháp của các trường phái thơ hiện đại Âu Châu: từ trường phái thơ lãng mạn, tượng trưng đến thơ siêu thực... cô đúc lại trong một thứ thơ, gọi là thơ triết học. Nó được đúc kết ra không chỉ từ lý luận thuần túy, mà gắn liền với đời sống xã hội cùng nỗi dâu bể trầm luân chốn dân gian, giàu tính nhân văn. Càng đọc càng thấm thía hơn nỗi long đong, lận đận nơi bờ bến con người. Nhưng trước hết vẫn phải nói: Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tình yêu! Hiếm có thi nhân nào có thể viết được nhiều thơ tình hay đến thế... Có thể kể ra đây hàng loạt các bài thơ tình hay của anh như: - Người đàn bà trắng, Em ơi! Thành phố lại mưa, Đêm nay trời lại không mưa, Anh vẫn ở bên Hồ Tây, Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ, Con đường phượng đỏ, Váy thiếu nữ bay, Mưa bay trong tiếng chuông, Thời áo trắng, Cô áo trắng, Tiếng hát đời thường, Biển hát, Em về biển, Tiếng rúc chim đêm, Em bán xoài, Thiếu nữ đi trong chiều mây, Thế giới nàng, Khóc bên Hồ Núi Cốc, Một góc Hồ Tây, Đêm tóc đá... Chưa kể đến nhiều bài thơ khác nữa cũng rất khúc chiết sâu xa: Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh, Thành phố mưa rơi, Phố thu và áo trắng, Khoảng trôi trong lá, Hàng cây lá đổ, Trước Núi Mỹ Nhân, Người con gái sông xưa, Mái tóc con gái, Trăng lặn, Sáng thu vàng, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ, v.v. Mong rằng, tác phẩm sẽ mang đến cho các bạn đọc còn ham thú thi ca, một sự cảm đồng và yêu mến. Hà Nội, mùa đông 2018 Tác giả tri ân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2019 18:02:58 bởi Nhân văn >
PHẠM NGỌC THÁI CON NGƯỜI VÀ THI CA BÙI VĂN DONG Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia Tôi biết Phạm Ngọc Thái từ thuở còn chiến tranh, cùng là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú trên mặt trận Tây Nguyên – Nam Bộ. Suốt chặng đường chinh chiến ấy, Thái ham viết nhật ký và làm thơ. Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng, anh thường đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến tranh, tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là một điều đáng tiếc. Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở đó, nay đã trở thành một nhà thơ nổi danh trên văn đàn. Thái cho xuất bản cũng đến gần chục tập thơ và bình, qua các tác phẩm đó và nhiều chùm thơ anh cho quảng bá trên mạng - Không khỏi ngỡ ngàng về tâm lý, tình cảm Phạm Ngọc Thái hôm nay khác xưa nhiều quá? Nếu đọc ở mảng thơ tình ta nhận thấy một tâm hồn tha thiết yêu nhưng hoang dã, mà phần nhiều đều là những mối tình dang dở hoặc tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm xa xưa. Bài “Đêm nay trời lại không mưa”, anh viết: Ta lại bước lang thang trên phố vắng Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi Tiếng hát xưa đưa, bờ hồ gió thổi Bóng với mình đi mãi tới ban mai Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến… đã chia tay? Còn ở “Người đàn bà trắng”: Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em Người đàn bà ngậm cả vầng trăng. Trong số bài thơ khác, ta lại thấy một cái bóng bảng lảng, quanh quất cõi thiền của một con người vào tuổi hoa niên. Có lẽ không phải chỉ là vấn đề tuổi tác, còn do khách quan cuộc sống và thời thế… đã làm thay đổi những suy nghĩ và tâm hồn tác giả - như trong tựa đề của tập thơ Người Đàn Bà Trắng: Tiếng chuông chùa bốn phía âm vang Mình lễ cả ba thiên toà phật Người có vận! Thôi đừng oán trách Chuyện thơ văn vừa thực, vừa chơi... Phảng phất nỗi u hoài, tìm đến nơi cửa Phật. Còn tựa đề tập Rung Động Trái Tim, thì tâm tư nhà thơ lại hoà trộn vào cát bụi cuộc đời: Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Phạm Ngọc Thái lớn lên khi đất nước chìm ngập bởi chiến tranh. Mới bước qua ngưỡng cửa thời niên thiếu, anh đã rời bỏ cuộc đời sinh viên đại học - Từ giã Hà Nội vào chiến đấu trên chiến trường miền Nam, tới tận ngày chiến tranh kết thúc. Khi đó tâm lý cũng đã mệt mỏi đường chinh chiến, Phạm Ngọc Thái rời khỏi quân ngũ trở về thành phố quê hương, tiếp tục theo học trường Đại học Ngoại thương, để trở thành anh cán bộ ngành ngoại thương quốc tế. Diễn biến tư tưởng và tình cảm cuộc đời tác giả, những năm hoà bình trở lại đây khá phức tạp: Có lúc anh rơi vào sự chán chường thời thế, chẳng khác nào một người đi ở ẩn, sớm hôm sống lẩn khuất hoặc phiêu lãng với bạn bè, vui thú thơ văn. Tâm trạng ấy đã được tác giả bộc lộ ở nhiều bài: Ta đã sống phần đời sau chót Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng nhân gian Một cuộc sống bình thường bầu bạn Nửa trăng hồ, nửa gã hiền nhân. (Trên nấm mồ truyền thuyết) Khi lại rơi vào sự cô đơn đến gai người: Hãy vứt ta lên chiếc giường Phủ đệm, chăn, màn... làm bằng những tế bào đói khát Ta không đói khát tình em? Mà đói khát bầu trời. Hay là: Một thứ ma người Quen hút khí đêm thay cho sữa mẹ Chơi với hoa, với cá, với chim (Cô đơn) Tha thẩn với trăng sao: Ta! Anh thi sĩ của nhân gian Tạc thù với cả khối sao trăng Hồn hoa nâng cốc xin dốc cạn Dẫu chỉ mình thôi vẫn mê man (Tối quán) Cuộc đời tác giả trải qua bao phong trần, phải chấp nhận không ít những mất mát về cuộc sống và tình yêu? Tất cả những sâu sắc ấy đều được dội vào trong thơ. Bởi vậy, một mảng lớn thi ca Phạm Ngọc Thái đầy ắp tính hiện thực. Nó bao chứa tính nhân sinh xã hội cùng thế giới quan của nhà thơ. Thơ Phạm Ngọc Thái rất hàm súc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý đến những bài trải theo dòng cảm xúc tự nhiên. Từ nhận thức về tình yêu và cuộc sống được trải nghiệm qua đường đời, thấm tháp chảy vào thơ. Thơ tình thì huyền diệu, có sức rung cảm trái tim người yêu thơ! Thơ đời lại ôm bọc những giá trị hiện thực xã hội sâu sắc. Đặc điểm cơ bản trong tính triết lý thơ đời của tác giả, là vận từ đời sống dân gian, nỗi kiếp con người. Thơ được chắt ra từ tim óc nên đọc không bị gò ép, mà tạo thành bản sắc riêng của thơ anh. Trong “Khúc xuân tuổi bảy mươi”, anh viết: Ta vừa sống giữa đất trời, vừa nhập thân trong màn kịch Thông minh không kém đời, mà lại vào vai kẻ điếc, câm Cứ giả bộ hề tuống cho dễ sống Nuốt nước mắt mình đi như uống nước chè đường. Bảy mươi xuân trôi… Cũng nhanh như bóng câu qua vậy Già với con nhưng trẻ giữa dân gian Ta hóa chớp, hóa mây mưa thế kỉ Cả trời thi ca đã toả khắp dương trần. Hoặc nói về thế sự, qua bài "Viết sau đám xe tang": Cuộc cờ ấy theo thời như hội Vàng, đỏ, trắng, đen... thay sắc luân hồi Từ anh nhà thơ tới đứa ăn mày Mấy ai tránh nổi trò sấp ngửa? Một đặc điểm rất rõ, nhiều bài thơ của Thái được viết ở trong các quán xá, bên hồ, trên phố, hay trong trăng sao. Thiên nhiên không chỉ là yếu tố quan trọng nuôi sống thơ anh, nó còn là chỗ dựa cho những tình cảm vui, buồn, hạnh phúc và đau khổ. Nhờ vào cảnh thiên nhiên, một sự việc nào đó bỗng nhiên xẩy ra, một tâm trạng hay một kỷ niệm thoắt đến, tạo thành cảm xúc thơ. Tác giả đã từng thổ lộ: Mai ta chết, các bạn bè thân hữu Bọc thiên nhiên mà đọc điếu văn Đại bàng vỗ... cánh rợp trời mưa gió… Trong không gian vào mãi xứ vô biên (Viết dưới chân đài hoàn vũ) Nhiều bài thơ của Thái bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường ấy được khái quát sâu sắc giữa con người với xã hội, cá nhân và thế giới, tuỳ theo cảnh tình mà tạo thành vóc dáng thơ ca. Nó chẳng những có giá trị hiện thực, còn mang theo tính triết học, một nhân sinh quan sâu sắc cùng thế giới quan phong phú, cô đúc đến mức điển hình. Như những bài: Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Làm ma em vợ, Khoảng trời phía sau, Những kỷ niệm bên con, Đêm trung thu và đứa ăn mày v.v... Trên đây tôi chỉ nêu ra một số nét để dẫn dắt cuộc bình luận, giờ xin đi vầo những chủ đề cụ thể. A. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG THA THIẾT Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nhà thơ Phạm Ngọc Thái được Bộ ngoại thương biệt phá ra nước ngoài công tác, quản lý những người đi xuất khẩu lao động, đồng thời kết hợp làm kinh tế gia đình. Những năm tháng xa nước ấy, anh đã viết nhiều thơ về quê hương: Có một khoảng trời để thương, để nhớ Là khoảng trời ở đó có em Những bóng cây in trên đường phố thân quen Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc... (có một khoảng trời) "Có một khoảng trời" cũng là nhan đề của tập thơ đầu tay, mà anh đã cho xuất bản sau thời gian đó. Thơ chan chứa những kỉ niệm yêu thương. Tiếng hát từ trong tâm khảm, trái tim nhà thơ bay lên! Nó mang hơi thở nơi dân dã, tình cảm đầm ấm chốn đời thường. Những sự việc, hình ảnh, ta thường gặp trong các mái nhà nơi phố nghèo; trên một bến ga thân quen hay bên bờ hồ trăng thanh, gió thổi. Đôi khi tiếng hát ấy vẳng lên cô quạnh, lẻ loi, lầm lụi hoà vào trong cát bụi cuộc đời. Như bài “Khúc hát người tha phương”: Đi về đâu cuối chiều Khi xung quanh vắng lặng Con thú nào lạc bạn Hoảng hốt giữa đồi nương Suối róc rách bìa rừng Cứ kêu hoài chân vực Một thành phố quê hương Hiện lên trong đáy mắt. Ôi, cuộc đời nghèo xác Nằm chết giữa tình thương Có người vợ hiền lành Với con tôi ở đó... Chiều nay trong nắng đỏ Bước lang thang mình tôi Khúc buồn như chim bay Hỡi người tha phương ơi? Đi về đâu cuối chiều Đời xa nước cô liêu! Nước Đức 4/9/1988 Thơ của Thái về nơi chôn rau cắt rốn ấy, bộc lộ những tình cảm rất máu thịt. Trong chủ đề về “Tình yêu quê hương” này, tôi xin phân tích đôi ba bài để thấy rõ điều đó. 1/. TRỞ VỀ Đôi cánh chim trời quạt gió mây Ta về non nước nước non đây Nghe thu xào xạc rung mùa lá Đông cũng hương đông lạ chưa này? Ở chốn quê nhà bụi cát bay Hoà bình mà tan mộng trăng say Ta về bầu bạn cùng mưa nắng Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi… Ta về trọn cuộc đất cố hương Với mộng ngàn thu gửi nhân gian Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác Bốn bể chân trời lạc khói sương. Bài thơ được tác giả sáng tác ở nước ngoài vào cuối năm 1990, khi Đông Đức mất vào tay Tây Đức, kéo theo một loạt nước XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sau những năm ra ngoại quốc, lúc này anh đang chuẩn bị rời khỏi Đức trở lại quê nhà. Tuy hoàn cảnh thời thế bắt buộc phải trở về cố hương trước thời hạn, nhưng lòng anh lại vui mừng khôn xiết. Ta hãy nghe nhà thơ thổ lộ: Đôi cánh chim trời quạt gió mây Ta về non nước, nước non đây Lấy hình ảnh cánh chim quạt vào trong mây gió, để nói lên nỗi lòng xốn xang: Nghe thu xào xạc rung mùa lá Đông cũng hương đông, lạ chưa này? Lá mùa thu thì xào xạc vì vui, còn mùa đông lạnh lẽo khô khốc… thế mà người lại cảm thấy ngào ngạt hương hoa trái? Quê huơng, xứ sở đã chắp cánh để hồn thơ bay! Thời kỳ đó để mưu cầu cuộc sống, có biết bao người tìm cách ở lại, hoặc chạy sang Tây Đức. Mặc dù anh biết ở quê hương vẫn đang trong cảnh nghèo túng, khó khăn, như đã mô tả: Ở chốn quê nhà bụi cát bay Hòa bình mà tan mộng trăng say “…tan mộng trăng say”: câu thơ nói lên sự tan vỡ trong lòng tác giả, sau một cuộc chiến tranh trở về. Những hy vọng, ước mơ về cuộc sống cũng thành mây khói… vậy mà giờ đây khi nghe tin trở lại quê nhà, thái độ của anh vẫn rất dứt khoát: Ta về bầu bạn cùng mưa nắng Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi... Hay là: Ta về trọn cuộc đất cố hương Với mộng ngàn thu gửi nhân gian Mộng và hồn của tác giả bài thơ "Trở về" này, quả thật là gắn bó máu thịt với quê hương. Nhưng điều ta cần quan tâm chính còn ở hai câu thơ kết: Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác Bốn bể chân trời lạc khói sương Chủ nghĩa Mác đã trở nên hoang tưởng, hàng loạt các nươc XHCN Đông Âu bị sụp đổ - Thế giới chìm vào trong màn sương khói, tương lai nhân loại không biết sẽ ra sao? Chỉ từ một bài thơ 12 câu có ý tự bạch, đã vượt lên bao quát cả tính nhân tình thế sự! Lời thơ vẫn bay, tình thơ tha thiết, tứ thơ thật khúc triết và sâu sắc. 2/. “TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG” - cũng được tác giả sáng tác ở nước Đức vào năm 1989. Bài thơ viết về người vợ hiền với đứa con thơ ở nơi quê nhà đang mong mỏi đợi chồng: Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen. Đôi mắt màu đen là đôi mắt người phụ nữ Á Đông, mà người ta thường gọi là đôi mắt đen huyền. Nhưng ở đây, đôi mắt đen mà tác giả gợi lại của người vợ trẻ trở nên yêu dấu và tha thiết biết bao: Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen /- Đó là đôi mắt của quê hương, ngày đêm vẫn ngước nhìn lên bầu trời xanh thăm thẳm chờ anh. Lời thơ tha thiết, khó có bút nào tả hết. Nếu Xuân Diệu viết: Mắt em thăm thẳm như màu gió Thơ cũng vàng trong như nắng hanh Đó là đôi mắt hẹn hò của tình yêu trai gái. Còn trong bài thơ này, đôi mắt lại chứa đựng một nỗi niềm của người vợ gần gũi bên chồng: buồn vui và sướng khổ trong cuộc sống. Ngày ngày nàng vẫn đón con đi, về... nơi quê nhà. Thơ tả bình dị nhưng vẫn đọng. Đó chính là cái phố nghèo mà nhà thơ đã từ biệt để ra đi đất khách, quê người. Quê hương, còn ở đâu thân thiết hơn thế nữa! Nàng là tình yêu trái tim của cuộc đời anh. Hình ảnh thành phố thân thuộc được tác giả gợi ra: Ôi quê hương! Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Đứa cháu gái bé bỏng ấy cứ tối tối phải bê mẹt thuốc rao bán kiếm sống, đến nỗi không còn đoán ra được tuổi đời của nó? Con phố nhỏ thân quen thì mỗi cơn mưa xuống lại ngập úng, lầy lội - Ở đó, vợ con anh: Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội /- Tất cả cứ thế, cứ thế chảy trào trong cảm xúc của nhà thơ. Lời thơ không cầu kỳ mà vẫn tạo dựng những hình ảnh quê hương thân thiết. Ngay ngôi nhà vợ con anh đang sống, cũng được miêu tả bằng những hình ảnh gần gũi mà đầy ý nghĩa: Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (1) Đêm hồ ước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Cung thành xưa dấu đại bác còn. (2) - Chú thích (1) ý rằng: Ngôi nhà nhỏ ngày đêm soi mình lên bóng nước, với câu chuyện xa xưa: Nàng Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Hồ Tây đã gặp ông Nguyễn Trãi, cùng câu chuyện đối đáp giữa hai người đã trở thành truyền thuyết lưu tụng đến ngày nay. Nguyễn Trãi ướm hỏi Thị Lộ rằng: Ai ở Tây Hồ bán chiếu gon? Chẳng hay chiếu hết hay còn Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi Đã có chồng chưa được mấy con? Nàng Thi Lộ đáp lại: Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon Cớ chi ông hỏi hết hay còn? Xuân xanh chừng độ trằng tròn lẻ Chồng còn chưa có, hỏi chi con. - Chú thích (2): Là hình ảnh Thành Thăng Long Cửa Bắc, còn in dấu đạn đại bác khi quân Pháp đổ bộ vào đánh chiếm cố đô. Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Bài thơ thật sâu sắc, ý tình chan chứa vô cùng. Chính cái thành phố quê hương ấy và những người thân, từng một thời đã theo anh ra mặt trận của cuộc chiến tranh xưa: Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn Hành quân rừng già võng treo sườn gió Giờ lại theo anh trong cuộc sống tha phương nơi đất khách, quê người: Ai biết chiều nay người vợ trẻ Đứng mong chồng bên đứa con thơ Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu! Nó heo hút tựa con chim sẻ hót trên cánh đồng mênh mang nước, lại thân thương trong tiếng của người hát rong trên sân ga. Ta cảm thấy như nhà thơ đã khóc! Nước mắt anh chảy tràn trong bể tình nhân thế này. Giọt lệ ấy đẫm tình người mà xanh sắc mùa thu quê hương. Bài thơ muốn nhắn nhủ cùng những ai khi rời xa tổ quốc, luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình: Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy! "Tiếng hát đời thường" là một bài thơ quê hương hay! 3/. Bài “NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA” - Nhớ về những tháng năm, khi đất nước vẫn còn trong chiến tranh đánh Mỹ. Có một chiều trên đường ra mặt trận, nhà thơ đã cùng đơn vị dừng chân nghỉ lại ở một thôn xóm nhỏ. Khi ấy, làng quê Việt Nam rất yêu thương với những người chiến sỹ ra đi, vào nơi chiến trường giết giặc. Lúc đó, Phạm Ngọc Thái là một anh lính trẻ, chàng trai tuổi mười chín, đôi mươi, với một trái tim đang khát vọng và cháy bỏng tình yêu. Chính trong tối đó, anh gặp một thiếu nữ làng. Làng em ở bên con Sông Hồng, cuồn cuộn phù sa… màu son sắt, thủy chung: Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ Bãi ngô non xanh gió chân mây Người con gái anh gặp thời chinh chiến Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay. Tuổi trẻ hồn xuân phơi phới. Cô thiếu nữ làng lại xinh xắn, dễ thương. Thế là, chỉ giây lát của tình quân dân thắm thiết, anh và nàng đã đã dan díu với nhau. Hẳn người con gái ấy phải để lại trong anh nhiều nỗi cảm thương - Bởi vậy, dù mấy mươi năm qua, khi mái tóc trên đầu đã ngả bóng, nhà thơ vẫn bồi hồi nghĩ về những kỉ niệm xa xưa. Bài thơ được ra đời như thế! Lòng anh giữa trời sao mênh mông nỗi nhớ: Lá tre rụng bao mùa, trôi dĩ vãng Và quê em, đời sống có nâng cao? Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao. Tác giả kể lại: Tối đó, người con gái ngồi bên anh trong ánh bếp lửa hồng. Tháng năm, bóng em vẫn còn soi mãi vào cuộc đời anh với tình quê đằm thắm: Làng em luỹ tre xanh bất tử! Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương Bóng nhìn anh, mắt theo giờ còn biếc Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng... Phạm Ngọc Thái là một con người của quê hương bình dị, thân thương. Khi cuộc đời nhà thơ sau này đầy những đắng đót, xa xót... thì những kỷ niệm ngọt ngào xưa lại càng da diết trái tim anh. Lời thơ viết về hồi ức mà thật rung cảm, tưởng như có cả lệ chảy ở bên trong. Tình em quyện với tình quê hương máu thịt, tha thiết mà vô biên. Tất cả theo thời gian, như bóng câu bay qua để không bao giờ còn quay lại - nhưng vẫn còn đây, tấm tình thuỷ chung, in dấu trong thơ của thi nhân: Người con gái sông xưa, ơi có biết! Một thời trai bão táp cuộc hành quân... Đêm thành phố nhớ em buồn da diết Em bây giờ, có hạnh phúc không em? Bài thơ đầy ắp tính nhân văn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2019 18:13:23 bởi Nhân văn >
B. TÍNH DÂN GIAN TRONG THƠ ĐỜI PHẠM NGỌC THÁI Thơ đời Phạm Ngọc Thái rất sâu sắc nỗi kiếp người. Ở đây, không chỉ nói về sự vất vả, lam lũ kiếm miếng cơm, manh áo của những con người lao động, nó còn phản ảnh cả chủ nghĩa nhân đạo trong đó. Những con người nghèo khổ luôn là tầng lớp phải chịu nhiều sự bất công, bị quyền lực dẫm đạp, chà xéo. 1/. Bài “CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ” - Trước hết, ta hãy nghe tác giả tả hình ảnh trong hai câu đầu: Một đêm hồ nước đầy sương gió Người đi không rõ mặt người Cái bóng người "không nhìn rõ mặt" này, chỉ cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa đen, tức là gương mặt họ đã bị nhoà nhoạt đi trong trời đêm sương gió - Nhưng nghĩa bóng, nó phản ảnh họ chính là lớp người, những kiếp đời thấp hèn, sống mà không có... "nhân ảnh" trong xã hội. Con người lao động tầng lớp thấp ấy, vừa lầm lụi gió sương vừa là bọt bèo ở chốn cộng đồng: Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim! Kiếp sống của họ cũng chỉ giống như những chiếc chổi tre, bị kéo mòn vẹt đi trên đường đời. Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy... đã trích vào trái tim đau của người thi sĩ. Anh cùng với thiên nhiên ru quanh cô quét lá: Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng Em thầm thì quét lá, bên tôi! Tả về nỗi người, cảnh đời mà thơ như mộng: Em hoá thành thơ rơi lặng lẽ Trong cõi lòng tôi buồn triền miên Nhà thơ buồn, đau với những nỗi đời trong xã hội? Khoảng không gian bao trùm lên phố khuya vừa thực, lại vừa ảo. “thực”: là cảnh trời đất gió sương, lá cây rơi xào xạc, hàng dương liễu hiu hắt bên hồ với một vầng trăng cô đơn: Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa... Cái bòng trăng cũng cô độc, bơ vơ như người thi sĩ = còn “ảo”: vì câu thơ đã chứa cả linh hồn cùng trái tim người. Không phải cái bóng trăng nó lạc lõng, cô đơn đâu? mà chính là nhà thơ đấy! Anh cảm đồng với thân phận cô quét lá, xót xa với nỗi kiếp người cần lao, để những giọt thơ rơi ra. Ta hỏi: Tại sao bóng của rừng thu lại vào đây? - Đấy là cõi mộng của nhà thơ. Vốn là một thi sĩ đa tình, nhìn cảnh phố khuya - Phạm Ngọc Thái ngỡ như mình đang đứng trong bóng rừng thu xưa của cố thi nhân Lưu Trọng Lư: có con nai vàng đang ngơ ngác… Nhưng nếu con nai vàng nó vẫn sống nhởn nhơ, tung tăng nhảy trong rừng thu đẹp như tranh vẽ (thì đó lại là thơ của Lưu Trọng Lư) - Ý thơ sẽ trở nên mâu thuẫn với cảnh đời bọt bèo, lầm lụi của cô quét lá đêm trong chốn dân gian. Bởi thế, con nai vàng phải chết! Mới là thơ Phạm Ngọc Thái. "Con nai vàng chết bóng thu xưa..." - Câu thơ mang ý nghĩa tượng trưng. Nó muốn nói rằng: Những con người lao động nghèo khổ, phải kiếm miếng cơm, manh áo, vật vã chốn đời thường - thì đầu óc nào mà mộng mơ đến cảnh con nai vàng đẹp như tranh cổ tích của cố thi nhân!? Cho nên, hình ảnh "con nai vàng chết" đã phản ảnh tới sự mất mát, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài! Thế rổi, cả hồn vía nhà thơ nhập vào cô quét lá. Anh nhìn theo mãi cái bóng đi xa dần ở phố đêm kia: Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya... Cái bóng người quét lá lẩn khuất trong đêm, như thân phận nhân gian lầm lụi hết kiếp này, qua kiếp khác. Thơ giàu tính nhạc và thấm đẫm tình người. Về phương pháp tư duy, ta hãy đem đối chiếu với bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử - Như một số nhà bình luận có nhận định: âm hưởng trong thơ Phạm Ngọc Thái, ảnh hưởng khá sâu sắc thơ Hàn Mặc Tử. Đó là lối cảm xúc thơ theo thi pháp "tương ứng cảm quan" của trường phái thơ tượng trưng ở châu Âu đầu thế kỷ XX. Ở trong bài "Đây thôn Vỹ Dạ", khi Hàn Mặc Tử nói về cái duyên phận hẩm hiu, cách trở giữa thi nhân với nàng Hoàng Cúc bằng hinh ảnh tượng trưng: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay... Nghĩa là: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi! - Phân chia, cách biệt như con gió với làn mây ở trên trời. Tâm trạng thì u hoài, buồn nản tựa dòng nước lặng lờ bên những bông hoa bắp phật phờ lay ở bờ sông. Còn trong bài "Cô quét lá đêm hồ", tác giả dùng hình ảnh cái chổi mòn quét cả đời, cả kiếp... làm tượng trưng nói về thân phận người lao động như đã phân tích trên. Trong đoạn thơ cuối của bài "Đây thôn Vỹ Dạ": Hàn Mặc Tử mơ tưởng hình bóng người thương, nhói lên những uẩn khúc trong lòng: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Thì trong bài thơ Phạm Ngọc Thái, ta nhận thấy cái tâm trạng cảm hoài của nhà thơ về cô quét lá, những thân phận mịt mờ, lầm lụi trong chốn dân gian: Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya... Còn về cấu tứ - Hai bài thơ đều được chia làm ba khúc, mười hai câu, phong dáng tư duy tương đối giống nhau. "Cô quét lá đêm hồ" là một bài thơ đời sâu sắc và hay. 2/. “EM BÁN XOÀI” - Nói về những kiếp đời vất vưởng, lang thang trong chốn nhân quần. Bài thơ vẽ lên một khung cảnh ở thành phố biển Nha Trang, dưới bóng hàng dừa xứ sở. Đó là những cô gái “bán xoài” nổi trôi, để kiếm sống qua ngày: Em bán xoài đi đêm trên cát trắng Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm Dẫy cột đèn đứng đêm côi lạnh. Xót thương cho các thân phận lạc loài ấy, cả đến những chiếc cột đèn đã được nhân cách hóa, linh hồn của chúng cũng hắt hiu trong đêm giá lạnh. Hàng dừa thì se sẽ ru quanh các cô gái, lời ru ngọt ngào của quê hương. Nghe nói: ngày ấy, nhà thơ trở về sau cuộc chiến tranh. Anh đi ngang qua đây và đã gặp những cô gái bán xoài: Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách... Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi Các cô gái đã bị xô đẩy ra bên lề cuộc sống. Dòng thơ như những giọt sương, rơi buồn bã xuống các kiếp đời. Làn điệu êm và tha thiết đến lạ lùng. Tác giả đã khắc họa một thế giới bao quanh, bằng hình ảnh của một biển cả mịt mùng sóng bão. Nó giống như miệng của con thuồng luồng khổng lồ, chỉ muốn nuốt chửng những thân phận nhỏ nhoi, yếu đuối kia: Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm Linh hồn treo ngoài thế giới em đi Trên những cành dừa hay trong đám mây qua? Những thân phận vất vưởng không có nơi bám víu, có khác nào kiếp đời bạc bẽo của nàng Kiều đang hiển hiện lên? Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng" Tóc còn xanh, em bán kiếp đời trôi... Hình ảnh chúng vật vờ, cát bụi. Những chiếc cột đèn lại được tái hiện đứng hiu hắt trong đêm, ánh đèn mờ mịt tựa các linh hồn đang khắc khoải. Như lời Kinh Thánh đã nói: Ta sinh ra từ cát bụi lại trở về cát bụi… Cảm đồng trong cõi nhân gian, nhà thơ cùng với hàng dừa quê hương cất lời ru em, tiếng ru chan chứa tình đời: Các cô gái đi đêm như các cột đèn Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy... Biển ru ta và ta ru em Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm... Chủ nghĩa nhân văn của bài thơ, chính là lòng thương người và nỗi đau nơi nhân tình thế thái. 3/. “LÀM MA EM VỢ” - Là một bài thơ có tính xã hội học sâu sắc, in lần đầu tiên trong tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. đã được nhà văn Đào Viết Minh binh rất khúc triết. Mấy điều đáng lưu ý: a- Bài thơ rất giàu bản sắc dân gian. Về tính triết học, nó dựa theo thuyết bản mệnh trong kinh phật. Tôi xin trích hai câu cuói của bài để phân tích: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ, (*) Anh ở vì chưng trả nợ đời (*) Theo kinh phật: Chỉ có người đã chết mới hết nợ đời! Ý của câu thơ, tác giả muốn vấn an hương hồn em: Em chết, coi như đã trả hết nợ đời đó em! Cầu mong hương hồn em được siêu thoát nơi suối vàng. Nhà văn Đào Viết Minh đã bình như sau: " Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng. Theo quan điểm về nỗi kiếp đoạn trường nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du, thông qua thân phận nàng Kiều - Nàng Kiều trải qua bao khổ nạn, nhục nhã ê chề. Mấy lần phải đắm tấm thân ngà ngọc của mình trong chốn thanh lâu nhơ nhuốc, đến mức phải tìm cách quyên sinh cho thoát nợ. Nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường để chết... nhưng rồi lại được Giác Duyên vớt cứu - Nghĩa là, theo thuyết bản mệnh, món nợ kiếp của nàng Kiều chưa hết. Nàng vẫn phải sống để trả nốt nợ đời: Làm cho sống đọa, thác đầy Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi ( Kiều ) Trở lại với bài thơ "Làm ma em vợ" của Phạm Ngọc Thái, với câu: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ, Ý của câu thơ như đã phân tích trên. Còn câu thơ dưới: Anh ở vì chưng trả nợ đời Anh còn sống, chẳng qua vì đời chưa hết nợ. Trả hết nợ đời rồi, anh cũng đi thôi! ". Và nhà bình luận kết luận rằng: "Làm ma em vợ" là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp dân tình. b- Chìm sâu trong bài thơ, nó mang ý nghĩa phê phán xã hội, vẫn còn nhiều sự bất nhân. Ngay câu mở đầu: Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp"! "sống" mà phải tìm cách tự kết liễu mình để thoát khỏi cảnh sống, thì không biết có kiếp nạn nào khốn khổ hơn? Suy cho cùng, nó cũng chỉ là một nạn nhân của xã hội mà thôi. c- Cấu tứ bài thơ súc tích, tình thơ cảm động, sâu sắc nghĩa đời. "Nghĩa tử là nghĩa tận", nhà thơ đã cầu nguyện cho em: Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: nam-mô-di-phật! Ở đoạn thứ hai, lời thơ mang âm hưởng như những tiếng khóc tang nơi dân dã: Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Ý tứ đã được gạn lọc để hợp với hoàn cảnh, nông nỗi về cái chết của người em. Xét về cả nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật: "Làm ma em vợ" có chân dung của một bích phẩm thi ca! Cho dù thời thế có biến đổi, lịch sử có thăng trầm... thì tình thơ vẫn có khả năng tồn tại trường cửu cùng năm tháng. Ta hãy đọc cả đoạn thơ cuối: Em ơi, chữ "kiếp" trước chữ "người"! Sống cần cố gắng, chết rồi thôi Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ, Anh ở vì chưng trả nợ đời. Tác giả đã kết hợp cả duy tâm và duy vật biện chứng để phản ảnh quan niệm, màu sắc tín ngưỡng xã hội trong mối quan hệ cuộc sống, cá nhân với cộng đồng. Bài thơ chỉ có ba đoạn, mười hai câu, mà ý nghĩa rất sâu sắc! Nó có thể trở thành một trong những bài khóc tang có giá trị điển hình. 4/. “NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG” - Tác giả đã sáng tác bài thơ này trong những năm tháng ở nước ngoài vào cuối thế kỷ XX. Thi phẩm đã được xuất bản lần đầu tiên trong tập "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - Để phản ảnh một bối cảnh xã hội, sự bi hài trong cuộc sống, nhiều nơi dân tình rơi vào sự đói nghèo, hoạn nạn. Sau đó bài thơ đã được nhà văn Khánh Hòa bình rất sâu sắc. Trong bài viết này, tôi lược trích bài bình của nhà văn Khánh Hòa, xin giới thiệu cùng bạn đọc. LỜI BÌNH: Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút, đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90, Xô Viết Nga tan vỡ và hàng loạt các nước XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời, như ở trong bài Trở Về của tập thơ Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết: Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác Bốn bể chân trời lạc khói sương... Những trăn trở riêng chung của tác giả, trước thực cảnh các đám dân dã đi tha phương kiếm sống: Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp Rời quê qua bên kia biển sóng Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người thì thật kinh khủng - đến mức đạo lý sống tưởng chừng không còn chỗ để dung thân. Nhiều khi tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời: Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống... Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót: Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên! Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra, mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó, như thế nào: Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (1) - Câu (1) này: Sử dụng ý thơ của Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/- "vàng mười" ở đây, chính là thứ vàng của lương tâm - Nghèo cực quá, thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp, cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ, quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia, có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán, thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều: Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác...(2) - Câu (2): Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki - Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri! Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng, cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày, khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng, đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri. Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái. Vậy là, thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được: Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Nó đã phải đổi bằng sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, đạo lý bị tha hoá. Dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy. Kịch tính biết bao, khi chính họ lại phải sống với nhau thật bi hài: Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ... Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích, mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng: Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật Đánh một đoá hồng vàng, tôi trao đứa con thơ Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ Một chút nữa với bạn bè thân hữu... Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại cả một "một tấn đời"! Bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc và tính điển hình thời đại. Trong một giai đoạn có nhiều biến động phức tạp xẩy ra, cả trong nước và trên thế giới.
C. THẾ GIỚI THƠ TÌNH PHẠM NGỌC THÁI Thơ tình Pham Ngọc Thái hầu hết đều thuộc loại tình chia ly hoặc tan vỡ. Khi thì anh nuối cảm về một mối tình xưa, lúc vẩn vơ thương nhớ một cô em nào đó. Anh không đi sâu lý giải về sự chia ly hay tan vỡ ấy, thường là mượn chuyện để xây dựng thành hình tượng tình yêu trong thi ca! Số lượng thơ tình Phạm Ngọc Thái sáng tác rất nhiều, đa dạng và giàu hương sắc. Có khi chỉ là cuộc gặp gỡ vu vơ ngang đường với một thiếu nữ hoặc người đàn bà trẻ đẹp, làm trái tim thi sĩ rung động, thế là tạo thành một tình thơ chí lý. Đọc lên ta cảm tưởng như đó phải xuất phát từ một cuộc luyến ái sâu sắc. Nhưng không? chỉ là một cuộc tình thoáng bay - Loại thơ tình dạng này của Phạm Ngọc Thái có tới cả trăm bài, và không ít đã trở thành những áng thi đặc sắc của văn đàn. Tôi xin trích đôi bài thơ tình kiểu đó ra đây làm ví dụ! LỜI HÓT CON CHIM KHÁCH Em trở về với ốc-đảo xanh trinh bạch (Thơ Đinh Thị Hồng Minh) Em một mình mang ốc-đảo bỏ đi Anh trở lại phố thành nghe gió hú Nghe cả lá và hồn đời khẽ vỗ Con-tim-buồn hoá trăm mảnh vỡ tan. Con tim buồn không còn thuộc về anh Những mảnh vụn lẫn vào trong cát bụi Có một mảnh hoá thành “con chim khách” Bay đi tìm, bóng lạc giữa vu vơ... Chầm chậm đừng đi, người con gái của ban sơ Anh thả xuống ốc-đảo xanh em, một mối tình nguyên thủy Mốt mai lỡ đau, nỗi khổ đau của loài tim vỡ "Con chim khách" vẫn về để hót ru em! Lời bình: Vào một buổi, anh có gặp một thiếu nữ nọ... nói dăm ba chuyện tinh ý gái trai, thế rồi nàng bỏ đi. Nhà thơ ở lại thẫn thờ, bâng khuâng. Trái tim thi sỹ đã bị thiếu nữ làm xao động mất rồi! Anh đi vào một cái quán nhỏ trên phố, mua một ly cà phê và viết thơ về nàng: Em một mình mang ốc-đảo bỏ đi Anh trở lại phố thành nghe gió hú Nghe cả lá và hồn đời khẽ vỗ Con-tim-buốn hoá trăm mảnh vỡ tan! Cái nàng thiếu nữ ấy lại cũng có một tí chút ham mê thơ phú. Như một số nữ sinh viên, nàng làm thơ tình chép vào sổ tay, rồi thỉnh thoảng lại chọn một đôi bài gửi đi đăng báo. Trong một bài thơ tình của cô gái, có câu viết: Em trở về với ốc-đảo xanh trinh bạch /- Phạm Ngọc Thái đã lấy câu thơ đó làm tựa đề cho bài thơ "Lời hót con chim khách" của mình. Nói về cái “ốc đảo” của người con gái, khi vẫn còn trinh bạch và thơm mát - Ta nhớ đến bài "Thiếu nữ ngủ ngày" của bà Hồ Xuân Hương. Bà tả người trinh nữ: Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông Ý muón nói: thiếu nữ vẫn còn tinh khôi, trong trắng, chưa bị đời làm vẩn đục – Còn trong bài "Lời hót con chim khách" này, nhà thơ tưởng tượng ra cả phố thành chìm vào bão gió, khi người con gái ấy bỏ đi: Anh trở lại phố thành nghe gió hú... Để rồi: Con-tim-buòn hoá trăm mảnh vỡ tan! Nghĩa là, mất em... cả phố thành hoang lạnh và lòng anh cô đơn! Nhưng vấn đề mà tôi muốn đề cập ở đây, chính là cái hình tượng "Lời hót con chim khách": Có một mảnh hoá thành "con chim khách" Bay đi tìm bóng lạc giữa vu vơ... Trái tim nhà thơ tan nát, rồi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Dù vậy, vẫn có một mảnh hóa thành chim bay đi lạc lõng tìm em, để: ... thả xuống ốc-đảo xanh em một mối tình nguyên thuỷ “mối tình nguyên thủy” là mối tình trong mát tựa một sớm ban mai, ngào ngạt những hương hoa. Bài thơ được kết thúc với những câu thơ thật nhân ái: Mốt mai lỡ đau, nỗi khổ đau của loài tim vỡ "Con chim khách" vẫn về dể hót ru em! Lối kết thúc thơ kiểu này, làm ta tưởng nhớ đến một bài thơ nổi tiếng của thi hầo Nga vĩ đại Pushkin. Trong bài "Một chút tên tôi đối với nàng", ông đã kết rằng: Nhưng nếu gặp ngày buồn đau đớn Em thầm thì hãy gọi tên lên! Và hãy tin, còn đây một kỷ niệm Em vẫn còn trong một trái tim! Hồn thơ đầm đìa và giàu tính yêu thương. Bài thơ "Lời hót con chim khách" đã ra đời như thế! Tôi nói thêm một bài thơ nữa : ĐÊM THU SƯƠNG Trăng đi chếch về phía dòng sông vắng Tiếng con chim bay ngang “cắn” vào khoảng xanh trong... Đêm thu sương, trăng không vàng mà bạc Gió khuya khoắt men hàng phố thức Với mấy người quét rác, quét trong đêm Những ngôi nhà chẳng biết có bình yên? Đêm thì hoang - Sông cách sông Lá liễu em đong khắp thân em Mắt em như liễu ngang cành liễu Máu chảy đầy trăng, em biết không! Lời bình: Một đêm thu thanh tĩnh. Bỗng có tiếng con chim lạc đàn bay ngang qua kêu như xé ruột! Tiếng kêu côi cút, ai oán của con chim làm cho thi nhân thổn thức, anh chạnh lòng nhớ đến một cô em đã từng gặp bên kia con sông vắng: Trăng đi chếch về phía dòng sông vắng Tiếng con chim bay ngang "cắn" vào khoảng xanh trong... Không gian hiu hắt, lòng người càng thêm cô đơn. Nghe tiếng con chim đêm ở đây, ta nhớ đến bài "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến: Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Tâm trạng thi nhân u hoài, bâng khuâng thì hỏi vậy, chứ nào có quan tâm gì đến tiếng chim? Tận trong cõi lòng ông đang da diết, ngỏn ngang. Trở lại với bài "Đêm thu sương" - Đó là vào cái đêm trăng sáng bàng bạc, cảnh phố khuya được gợi ra làm thành nền cho cả bài thơ: Đêm thu sương, trăng không vàng mà bạc Gió khuya khoắt men hàng phố thức Với mấy người quét rác, quét trong đêm Những ngôi nhà chẳng biết có bình yên? Nhà thơ thao thức trong con gió khuya lạnh lẽo, thấp thoáng bóng những người quét rác đêm. Ta hãy đọc đoạn thơ cuối cùng: Đêm thì hoang - Sông cách sông Lá liễu em đong khắp thân em Mắt em như liễu ngang cành liễu Nó trộn hòa giữa thi pháp của dòng thơ tượng trưng và siêu thực. Hàng loạt những hình ảnh về liễu làm biểu tượng quấn quít với nhau để khắc họa chân dung người con gái, mà anh gặp bên bờ sông vắng ấy. Nói đến "liễu" ta lại nhớ tới câu thơ của Nguyễn Du, mô tả nàng Kiều: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh "liễu yếu đào tơ": đó là hình ảnh tượng trưng về cái đẹp thanh mai, theo quan niệm thẩm mỹ ngày xưa. Còn ở bài này, lấy hình ảnh “dáng liễu trừu tượng” - Ta thấy hiện lên bức tranh về cô gái sống động, để rồi tác giả buông một câu kết hoàn toàn siêu thực: Máu chảy đầy trăng, em biết không? Lòng khắc khoải tưởng nhớ đến người thiếu nữ tới mức, máu tim của nhà thơ đổ tràn cả lên trăng... Thật là một bài thơ tình thu hiện đại, độc đáo! Sau đây, tôi chia ra một số đề mục để dễ phân tích về “Thế giới thơ tình” của anh. I. TÌNH MỘNG MÀ VÔ VI 1/. Bài “ANH VỌNG NGHE TIẾNG EM HÁT BÊN HỒ” - Nghe nói, thuở xa anh có yêu một người con gái. Những buổi tối đi chơi bên hồ, nàng lại hát cho anh nghe! Tiếng hát của nàng nhẹ như hơi gió, thoảng bay xa và cũng chỉ đủ cho một mình anh thưởng lãm. Xuân Diệu từng viết: Tình chỉ đep khi còn dang dở Mối tình của anh với người con gái ấy kéo dài bao lâu không biết? Nhưng lắng nghe trong tình thơ, tiếng hát ấy vẫn vang mãi cùng năm tháng và thấm đẫm tâm hồn: Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng Đôi mắt mùa thu ru êm ả Ôi, hồ xưa! Những đêm trăng lộng gió Những đêm không chiếu, không màn Hay nhất của bốn câu thơ này là hình ảnh về "những đêm không chiếu, không màn" - Tình yêu mới đẹp và kỳ diệu làm sao! Đó là những đêm hạnh phúc, những đêm trăng hồ gió mát. Đôi mắt người yêu được anh mô tả như cả một mùa thu êm ái. Lời thơ du dương, tưởng như đang đưa ta vào một khoảng không gian đầy nhữmg mộng mơ. Ngôn ngữ bình dị mà vẫn làm cho lòng ta xao động: Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát Em mãi còn kỷ niệm trong anh Như hạnh phúc đời anh: cái thực là hư cả... Ý muốn nói: mối tình xưa tuy đã vào cát bụi, nhưng nàng vẫn hiển hiện trong cuộc đời anh. Thơ mang màu sắc triết lý giữa hư và thực? Dù thể xác anh dang tồn tại chốn đời thường - nhưng niềm hạnh phúc của cuộc sống, anh lại cảm nhận nó từ tận cõi hư vô! Nghĩa là, tình yêu xa xưa ấy vẫn trở về nuôi sống cả linh hồn và trái tim anh. Bởi vì: Cái đã hư xưa mới chính thực là mình. Đấy, đoạn thơ đã triét lý như thế! Ngôn ngữ thi ca mềm mại, không rơi vào sự chải chuốt và bọc chứa cả một thế giới tâm linh. Nói về đoạn thơ cuối: Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ Chiếu ở rất xa, qua hồn ta, trong mộng ủ Đời người cũng chỉ thoáng như một đám mây, nhưng cái đám mây của tình yêu đó vẫn về ấp ủ trong mộng và hồn. Lamartin, nhà thơ tình lãng mạn Pháp đầu thế kỷ XIX, khi nói về tình yêu với một người đàn bà, đã viết: Hãy yêu nhau, hãy yêu! Khắc giờ đang vụt biến Vội vàng lên cho hưởng trọn giờ vui Thời gian không có bờ, con người không có bến Thời gian trôi đi, đời người mau qua thôi! Thì cũng như thơ Xuân Diệu: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em, em ơi, tình non sắp già rồi! Còn ở trong bài thơ của Phạm Ngọc Thái thì kí ức tình vẫn trở về cào xé trái tim anh! Nhịp thơ nhấn thành cung bậc: Cuộc đời / như bóng mây / qua vũ trụ Chiếu ở rất xa / qua hồn ta / trong mộng ủ Sau đó câu được buông trải dài xuống, giọng thiết tha: Hỡi đêm tàn! Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa... Hồn thơ bay xa làm rung cảm con tim, để mang tình yêu và cuộc sống đi vào cõi vĩnh hằng. 2/. “TRĂNG DẠT TRONG MÂY” - Bài thơ chỉ như một lời tâm tình nhỏ nhẹ, nhưng lại ngập tràn cảm xúc. Nó xẩy ra vào lúc nhà thơ nghĩ về việc... người yêu đi lấy chồng: Trăng dạt trong mây, em trôi vào cuộc sống Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa Và những đêm thiếu nữ bên hồ... Nàng đi lấy chồng - Nghĩa là, từ biệt đời thiếu nữ! Nhưng vì sao phải: Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa /- Ta để ý ngay câu thơ đầu tiên, tác giả dùng hình ảnh so sánh: vế đầu viết "trăng dạt trong mây" - khi bị mây bao phủ, trăng sẽ mờ tối đi, còn vế sau "... em trôi vào cuộc sống" /- Chẳng lẽ việc lấy chồng làm cho cuộc đời em chán chường đi ư? Thực ra, ý của câu thơ không nặng nề đến thế! Nó chỉ muốn phản ảnh một tâm trạng: Cô thiếu nữ ấy của anh là một người nhiều khát vọng, mộng mơ. Chắc rằng thuở yêu nhau, nàng thường thổ lộ những tâm tình sâu kín với anh, nhưng nay thì em phải giã biệt tất cả để bước vào cái vòng quay khép kín của đời người... đi lấy chồng! Thành thử, việc nàng đi lấy chồng chẳng những chỉ để lại sự hẫng hụt với nhà thơ, mà ngay đối với nàng cũng bao tiếc nuối. Những kỷ niệm đẹp về những “đêm thiếu nữ”, những đêm hạnh phúc ngọt ngào của yêu đương mãi mãi lùi vào dĩ vãng. Một sự nuối nả như nhà thơ tự thán: Anh không hỏi gió có buồn? Lá có buồn? Một chiều nào đó có hư không? Nỗi buồn sâu xa cuộc sống... Không hỏi? Có nghĩa “nỗi buồn” đó là tất yếu! Sau đó nhà thơ đã bộc lộ một tình cảm tha thiết vô vàn: Em bỏ lại trong lòng anh khoảng trống Như thi ca! Tan vỡ mặt trời! Anh trông theo em "bờ bãi con người" Ai sẽ nhặt lá rơi như những chiều thu ấy? Chà, tình yêu mới phiêu diêu và lãng mạn làm sao! "Trăng dạt trong mây" là bài thơ đưa chân người thiếu nữ sang ngang, để lại trong lòng nhà thơ một khoảng trống vô cùng. Tình mộng mà vô vi. Có buồn nhưng không đến nỗi sầu. Nàng vẫn bay trong hồn và trái tim anh như cánh gió, như hương hoa của những đêm mộng mơ. Anh thi sĩ đứng nhìn lên bầu trời đầy trăng sao, gẩy cây đàn thơ hát mãi về em: Trăng đêm nay lung lay trên thành phố Có một người đã nhớ người xưa Có một chàng thi sĩ ngắm bơ vơ... Chuyên lạ cõi đời: Đàn bà xưa nay là bất tử! Phạm Ngọc Thái là nhà thơ của “tình yêu và đàn bà”. Anh đã gieo một câu kết thật đắc địa! 3/. “TRĂNG LẶN” - Nói là thơ “trăng”, nhưng lại vào một đêm... không trăng: Trăng đã chán trời nên đi mất Cứ hững hờ, tiêng tiếc, phân vân Em có chán anh giống vầng trăng không biết? Mất trăng rồi còn lại trời đêm. Thật ra, sự day dứt của nhà thơ không phải là vấn đề: Em có chán anh giống vầng trăng, đã bỏ trời kia đi hay không? mà đây chỉ là một tâm trạng hoài cảm, nhớ nhung. Mất trăng thì bầu trời sẽ vào đêm tối, như đời anh nếu không có em: cuộc sống sẽ âm u, tẻ buồn. Những hình ảnh so sánh, liên hệ với trời đất, sao trăng như thế... làm người đọc dễ cảm đồng được với ý tưởng của bài thơ. Đoạn thứ hai, tác giả chuyển sang hình tượng về biển: Biển vỗ vào anh... biển vỗ vào em... Em hoá đá, để sóng ghềnh ôm mãi Mượn hai hình tượng “đá” và “sóng”, để nói về tình yêu muôn đời của đôi trai gái - “đá” biểu tượng của sự thuỷ chung như Hòn Vọng Phu, còn “sóng” là tình chàng lúc nào cũng dạt dào vỗ quanh “đá”. Bao trùm là hình ảnh của biển cả và cuộc sống, không gian cùng thời gian vĩnh cửu. Dù năm tháng, bão giông thì mối tình của anh và em cũng không bao giờ phai: Năm tháng, nắng mưa - Đá vẫn còn nguyên đấy! Anh phong ba, anh nhẫn nại suốt đời. Như vậy, từ hình ảnh "trăng lặn" dưới ngòi bút Phạm Ngọc Thái, đã xây dựng nên một biểu tượng vĩnh hằng của tình yêu, tạc vào trong trời đất. Tựa câu chuyện cổ "trầu cau..." vẫn truyền tụng trong dân gian. Sóng cứ ngày đêm ôm lấy đá. “đá” và “sóng” cứ xoắn xít lấy nhau mà vượt qua phong ba, bão tố. Sang đoạn tiếp theo: Bài thơ tình còn viết, em ơi! Đá vẫn đá, người vẫn người: không thể khác, Hoài vọng đấy, nhưng cuộc sống vẫn cứ phải tồn tại. Nhà thơ đã quay trở về với hiện thực, dù nhớ thương em: Xé rách lòng cho cánh thơ bay Lòng thi sĩ chỉ còn biết hướng về với tình yêu bằng những áng thi ca, gửi lại cho đời. Cuối bài thơ, hình ảnh bóng trăng lại hiện về, nhưng “vầng trăng mọc” bây giờ lại chính là... "vầng trăng em": Mất một vầng trăng, lại mọc môt vầng trăng Sóng khốn khổ hôn mãi hòn đá trắng... “Vầng trăng” ấy cứ sáng mãi trong trái tim và tâm hồn chàng, dù những đêm không trăng - và con sóng lòng ngàn năm, hôn quanh mãi cái “hòn đá trắng”. II. THƠ TÌNH NHƯNG ÔM BỌC NỖI ĐỜI Không kể những áng thơ đời đậm tính dân gian, như số bài đã phân tích trên: Cô quét lá đêm hồ; Em bán xoài; Làm ma em vợ; Nỗi trăn trở người đi tìm vàng... mà ngay trong thơ tình của Phạm Ngọc Thái, cũng rất nhiều bài “ôm bọc nỗi đời”. Mỗi bài một vẻ, sự sâu sắc khác nhau. Xin chọn ra đôi bài làm thí dụ, để giới thiệu cho bạn đọc dễ cảm nhận: Từ nỗi đời vào thơ tình Phạm Ngọc Thái thế nào? Như tôi đã nói ở trên: Vào những năm cuối thế kỷ XX, Phạm Ngọc Thái có một giai đoạn sống và công tác ở nước ngoài. Sau thời gian đó, khi về nước anh cho xuất bản tập thơ "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - gòm những thi phẩm mà anh đã sáng tác trong những ngày tháng xa nước đó. Ở đây, tôi giới thiệu hai bài thơ của anh đều rút ra từ tập thơ ấy! 1/. “EM, CÁT VÀ DÒNG SÔNG” - Vào những năm tháng theo dòng người xuất khẩu lao động sang châu Âu, có cô gái cũng ra đi trong dòng gió cuốn. Nhà thơ tâm tình với em, như những lời thủ thỉ bên con sông quê hương: Buồn chi em mà hát Bên dòng Sông Lô Vui chi em mà khóc Ướt bờ vai anh. Nàng buồn vì cuộc đời nên nàng hát, nàng vui vì hạnh phúc của ái tình, yêu thương nhưng lại không có hậu... nên nàng đã khóc chăng? Bài thơ nói về thân phận cùng mối tình thiết tha, nhưng đầy những tủi buồn. Cái kiếp bọt bèo của con thuyền gái lênh đênh trong cuộc bể dâu? Đó là mối tình mà họ đã dan díu với nhau trong những năm tháng xa nước, vì cô lẻ: Ta cánh chim lìa đàn Gặp nhau cùng cô lẻ Hai tâm hồn đáng thương Vá lành chăng? Không thể! Nhưng tại sao hai cánh chim lạc đàn cùng cô lẻ kia, lại không thể vá lành trái tim và cuộc đời của nhau? Nhà thơ đã giải thích: Em cần cả cuộc đời... Anh chia đôi, xẻ nửa: Chốn quê hương xa vời Còn một người vợ trẻ! Đó là cái cảnh tình đầy mâu thuẫn của bài thơ "Em, cát và dòng sông" này. Một cuộc tình duyên trớ trêu. Con sông đường đời ấy, lại ngày đêm cứ phăm phăm chảy xiết: Cuón cả em và cát Trôi tận về xa xăm... "cát" là một hình tượng về cát bụi cuộc đời. Đời người con gái cũng bèo dạt, mây trôi đó thôi! Một bài thơ tình tha thiết yêu thương, nhưng thấm đầy nước mắt? Bởi, dù anh có yêu em bao nhiêu - nhưng còn một người vợ trẻ, đang chờ đợi anh ở quê nhà. Đấy chính là cái lý do, anh đành phải “…chia đôi, xẻ nửa” – Đó là một mối tình tạm bợ, trong những năm tháng xa quê. Cảm thương với nỗi đau trong lòng người con gái, nhà thơ đã thốt lên: Em đi đâu?... về đâu?... Con thuyền đời trôi dạt Lòng anh dẫu bao dung Nhưng mặn mòi, đắng chát Lệ của chàng thi sĩ cũng đã rơi ở trong thơ! Trên con sông tháng năm chảy xiết kia, tương lai của người con gái chỉ thấy: Giữa mênh mông toàn cát... Một mối tình đằm thắm nhưng lại không có kết hậu. Vậy, bài thơ để nó phản ánh cái gì? Đó là tiếng hát từ trái tim và nỗi lòng chính họ, thật xa xót cho những kẻ cầu thực, tha phương. Bản thân nhà thơ cũng đã tự phân bua với chính lòng mình: Có gì vui cho em? Thương cũng thành tạm bợ Nhìn nhau cười... rỏ lệ! Hanh phúc sao phũ phàng? Có thể nói "Em, cát và dòng sông" là một bài thơ tình ôm bọc sâu sắc nỗi đời và đầy chất vị tha. Cô gái ấy đã khóc và đã hát! Nước mắt nàng chảy xuống lòng con sông xanh thẳm cứ xuôi mãi, xuôi mãi tới vô cùng... 2/. “CỎ HOANG” - Một bài thơ tình về người con gái bèo dạt mây trôi, để phản ảnh cảnh tượng có thể gọi là bừa bãi, không còn luân thường đạo lý của một lớp dân dã sống tha phương ở nước ngoài – Qua đó, tố cáo một hiện thực xã hội xuống cấp, đạo đức bị tha hóa: Cô gái bay đi ngỡ làn mây dại Trôi lang thang đầu bãi, cuối giời Em tự do như thể là cát bụi Có đôi lần giời cũng khóc, mưa rơi! Cái cảnh bay đi giống như một làn mây dại, nói lên sự hoang dại của người con gái ấy: "Em tự do" nhưng lại tự do “như cát bụi”… đến nỗi giời cũng phải khóc! Hình tượng “cỏ hoang” không phải chỉ để phản ảnh thân phận của người con gái, mà của cả lớp người lang thang, cầu thực. Ta hãy đọc bốn câu làm tựa đề: Thuở ấy quê người, đất khách Trong buổi pha phương mưu tính cuộc đời Tôi đã gặp những người con gái Dẫu yêu kiều, nhưng cũng bèo thôi... Tác giả tả về cái tuổi xuân xanh bọt bèo của các cô gái: Loài lạc thú phồn vinh hơn gió “Cơn hồng hoang” thả cỏ xuân xanh... Em phá bỏ những đức qui kiềm chế Yêu phanh phui, yêu đến tan tành! Trai gái yêu đương lộn phèo hoang dã, không khác nào thuở còn buổi hồng hoang xưa. Giai đoạn ấy ở trong nước thì kinh tế sa sút, đói kém, dân lao động đổ xô ra nước ngoài mưu cuộc sinh nhai. Anh muốn phục lại một hiện thực xã hội – trong đó các cô gái và tầng lớp chúng sinh kia cũng chỉ là nạn nhân, như trong thơ đã lý giải: Huống hồ buổi thường bán buôn đạo lý? Có dễ gì thân gái, trách chi em! Thời buổi mà đến đạo lý cũng đem ra chợ giời để bán, như Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười (vàng của lương tâm) đem ra bán nốt /- Thì những cô gái sống lang bạt nơi đất khách quê người, sao giữ trọn được mình? Có một đoạn nhà thơ đã mô tả về xã hội và thế giới: Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian! Loài người mãi sao tràn lan tội ác? Ta từng ngơi ca: Chủ nghĩa nhân văn chân thiện nhất Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng... Cái cộng đồng của chúng ta đang sống hôm nay, vừa là Thiên đường vừa là Địa phủ! Bởi: Loài người mãi sao tràn lan tội ác? /- Nghĩa là, dù cũng có những điều tốt đẹp nhưng cường bạo, tội ác thì ngày càng hoành hành, đẩy chúng sinh vào thảm cảnh khốn cùng. Tôi muốn phân tích thêm về câu kết của đoạn thơ này: Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng... Đây là một câu thơ siêu thực. Nó không phải chỉ là để miêu tả về sự trần trụi của người con gái (nghĩa đen) - Nghĩa bóng, mô phỏng bản chất muông dã của con người theo thuyết Đác Uyn. Nếu đọc đến đoạn thơ cuối ta thấy có câu: Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân Và bản chất muôn đời con muông thú Nhất là, ở những người con gái thì sự hoang dã ấy lại càng nhiều. Ý nói, thời hiện đại hướng để nuy của giới nữ trẻ ngày càng phát triển, tới mức gần như cởi truồng...Nhưng nếu cái bản chất hoang dã của giới nữ ở trong điều kiện xã hội có đời sống cao, văn minh... thì nó còn hàm chứa nhiều tính mỹ học. Đằng này, vào “buổi hồng hoang” tạp-pí-lù của lớp người tha phương, cầu thực - đó chỉ là những sự bừa bãi, lộn ẩu, bệnh dịch mà thôi. Cho nên, đi sâu vào phân tích bài thơ "cỏ hoang", ta cần hiểu từng đoạn thơ hoặc những câu thơ biệt lập. Chúng tổng hợp tác động với nhau mà làm nên ý nghĩa của toàn bài. Về hai câu thơ cuối: Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi Thánh Nữ Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang, gieo hoa cấy linh hồn Đây là hai câu thơ hay nhất bài! Hình ảnh tượng trưng, ngôn từ mỹ học, hàm ý sâu xa và tính nhân bản cao: Thời buổi từ kẻ mũ cao áo dài cho tới phường lưu manh, đứa tám lạng người nửa cân, khốn nạn khác chi nhau? Đấy là ý của câu thơ: Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi Thánh Nữ /- Người con gái trở thành thứ đồ chơi. Câu thơ đả kích vào bọn làm chính trị quen thói đạo đức dổm. Chính những người con gái đó là hoa thơm, trái ngọt của sự sống chúng ta! Thế mà, thân phận chỉ là những kiếp phù du và cánh bèo hoang dạt, lênh đênh.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2019 18:25:13 bởi Nhân văn >
III. ĐÔI TÌNH THƠ LẠ Nói về thơ trong thi đàn, có những tình thơ rất lạ - Nó không giống như nhiều bài thơ thường tình cảm xúc từ cuộc sống, mà lại nẩy sinh bất ngờ ở một miền hư ảo, mông lung nào đó? rồi thi sĩ xuất thần sáng tác ra. Sáng tác những tinh thơ này cho hay không dễ, nhiều khi bị hỏng thơ. Tôi lấy vài ví dụ vài áng thi ca như vậy, trong văn đàn xưa nay: “Tiếng thu” của Lưu Trong Lư, “Tống biệt” Tản Đà, “Bẽn lẽn” Hàn Mặc Tử... Xin quay trở về bình đôi bài thơ tình lạ của thi sĩ Phạm Ngọc Thái. 1/. HÀNG CÂY LÁ ĐỔ - Một buổi chiều lặng ngắt, chỉ nghe thấy tiếng gió heo hút: Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió Ta lang thang qua lá đổ hàng cây Thơ khắc hoạ cả khoảng không gian, thời gian - nhưng đó chỉ là không gian, thời gian trừu tượng: nó vô tận. Đây là cái chiều của sự cô đơn trong cuộc đời, thi nhân lang thang cõi vắng, dưới hàng cây lá đổ. Sự "đi" kia cũng chỉ mang theo ý ẩn dụ? Đó là cảnh tan tác của một mối tình. Thi sĩ chạnh lòng mà nuối cảm. Ở trong hai câu 7- 8, nói rõ hơn: Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga. Bóng “những con thiên nga”, là hình ảnh tượng trưng của tình yêu! Ngay trong khổ thơ đầu, nhà thơ cũng đã mô tả về nó: Bản tình xưa em hát ở đây! Nơi ngày nay, xác các con thiên nga đã chết... "những con thiên nga đã chết" ấy - Nghĩa là, tình yêu của nàng đối với anh không còn. Nhưng tình yêu dành cho nàng trong trái tim thi nhân, thì vẫn nguyên vẹn như xưa. Nàng để lại một thế giới hoang tàn... và đi dưới hàng cây lá đổ đó, nhà thơ nhớ lại những kỉ niệm đã qua: Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em! Cũng ở dưới hàng cây ấy: nụ hôn thì nồng nàn, tha thiết, tấm thân em trinh trắng vô vàn. Đó là khoảnh khắc bài thơ đã ra khỏi biên giới những ảo ảnh, mặc dù vẫn chỉ là những cảm xúc trong mộng. Thời gian cứ trôi, ký ức rồi sẽ phai nhoà: Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ! Xin rụng một bông buồn lắt lay... Đời người - mái tóc nhà thơ đã bạc trắng (hóa đá), cùng với sự phôi phai trong cái vũ trụ mênh mang của tình yêu và cuộc sống kia! Ta nghe thấy cả ngàn năm sau, con gió còn ru mãi quanh những hàng lau vô vi... lay lắt buồn. Hồn thi nhân lại trở về với hình ảnh của chiều gió heo hút ở câu thơ đầu. Thơ trừ tượng nhưng vẫn chứa đầy cảm xúc và rất lạ. 2/. “XEM TRANH BÁN LÕA THỂ” - Anh Trần, một nghệ sĩ “sân khấu và điện ảnh” Hà Nội, khi bình bài này đã đánh giá: “Bài thơ viết rất "nghệ", sâu sắc và hay! ”. Thí dụ như những hình ảnh: Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình ra từ trong bụng... Theo ý của người nghệ sĩ: câu thơ không phải chỉ muốn khoanh vào để nói em có khả năng mang thai trong bụng rồi sinh đẻ, tất nhiên là ra con người. Ý nghĩa bao trùm của nó rộng lớn hơn - Tình yêu và đàn bà sinh ra cả hạnh phúc lẫn khổ đau, chiến tranh và hoà bình. Ta hãy nghe tác giả miêu tả về "cái" của người đàn bà: Lui xuống dưới nàng, một rừng sâu um tùm che hang động Lên trên nàng, đôi mỏm núi trắng vô biên Ta lại nhớ đến những câu thơ miêu tả người thiếu nữ, của thi nhân Bích Khê: Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động! (Tranh loã thể) Trở lại với bài "Xem tranh bán loã thể" của Phạm Ngọc Thái, cũng như người nghệ sĩ phân tích: Tác giả không chỉ dừng lại ở sự miêu tả, thơ đã được phát triển một cách sâu sắc: Em như gió trăng mà rung động cả vua chúa, thánh thần Cuộc sống cần em, đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử Hàm ý lên án chiến tranh sâu sắc. Nhất là trong đoạn thơ kết: Khi em cởi ra nhiều Điểm báo thế giới càng hiện đại văn minh (1) Nhưng điều đáng đớn đau: Là tính nhân loại Con người cũng ngày càng nhiều dã tâm, gây tội ác! (2) Ý câu (1) nói: Thế giới càng hiện đại văn minh - thì khuynh hướng triển lãm thân thể của các thiếu nữ càng phát triển, tới mức gần như cởi truồng. Còn câu (2) để diễn tả ý nghĩa, mà nhà văn Nga Ai Ma Tốp đã cảnh báo trong tác phẩm "Đoạn đầu đài" nổi tiếng của ông rằng: Thế giới, cái ác vẫn lấn át cái thiện và con người hiện đại còn ác hơn con sói! Tính thời đại cùng giá trị nhân bản của thi phẩm đã được phát triển tới tột cùng. Bài thơ được coi là một kỳ tác thi ca! IV. THƠ TÌNH THỜI ÁO TRẮNG Phạm Ngọc Thái sáng tác rất nhiều thơ tình viết về thời áo trắng. Ở đây, tôi chỉ xin chọn ra đôi bài, mà ngay trong tít đề đã có cái tên "áo trắng". 1/. Bài “THỜI ÁO TRẮNG” - Vào đầu bài thơ, ta đã thấy tiếng gọi của thi sĩ, như muốn níu kéo về một thời xa: Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Những bông hoa mùa xuân thôi không nở Đi dưới bóng điện đêm, lòng sẽ rất buồn Cái thời ấy như những buổi ban mai trinh khiết và thơm mát. Tình yêu với các nàng thiếu nữ cũng thật quyến rũ, say mê. Nhà thơ bàng hoàng, nuối tiếc: Trả lại cho anh.../- Bởi, thời đó đã quá xa với anh rồi. Song nghe thơ, ta lại cảm thấy như vừa mới mất thôi! Cả đất trời cùng luyến tiếc: Hoa mùa xuân thì thôi không nở, nhà thơ chỉ còn biết lang thang trong những ánh điện đêm thành phố, để hoài vọng nhớ thương. Tình yêu thời áo trắng với bao nhiêu sự ngọt ngào, nhưng mỏng manh tựa sương mai, rất dễ bị tan vỡ trên đường đời đầy cát bụi. Dẫu thế, nó vẫn lắng đọng trong tâm hồn anh. Đời người, thường ai cũng cất dấu trong trái tim một khoảng trời xa xăm nào đó với những kỷ niệm êm đềm. Tác giả đã thốt lên: Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách Mắt em cười, mùa thu xanh lên! Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh! Đôi mắt của người con gái là cả mùa thu xanh thẳm, mộng mơ. Nó hiển hiện trong anh vào những đêm trống vắng. Hình ảnh câu thơ: ...khe khẽ nát tim anh!/ - gợi ta về mối tình của một thời chớm nở. Dưới ánh trăng kia... đôi trai gái đang học bên nhau. Cái bỡ ngỡ, rụt rè, ham muốn của buổi ban đầu. Đó chính là thời mà anh cùng em ngồi dưới mái trường đại học. Ôi! Tà áo trắng của người thiếu nữ khẽ động vào, cũng làm cho trái tim nhà thơ xốn xang. Có thể nói - "Thời áo trắng" là bài thơ gối đầu của những lớp sinh viên, nhất là các nữ sinh. Họ tìm thấy trong đó hơi thở, tình yêu tuổi trẻ! Không chỉ thế, ngay các bậc hoa niên cũng tìm về kí ức một thời xa của mình, từng dan díu với bao em. Sau đó tác giả khắc hoạ dĩ vãng: Trả lại cho anh một thời áo trắng Đã đi qua và... đã đi qua... Với cả dòng sông trôi mơ mộng Lá lá rụng vàng, tóc tóc hoá sương pha Con sông của tuổi thơ xanh biếc khát vọng, ước mơ. Năm tháng theo lá rụng và mái tóc nhà thơ bạc dần. Điệp khúc: Trả lại cho anh một thời áo trắng/ - đã được đay đi, đay lại đến ba lần. Bởi vì, đó chính là ý tưởng của bài thơ! Đại từ "em" cũng chỉ là hình ảnh tượng trưng, chứ không để nói về một em nào cụ thể. Tất cả đã trôi qua, chỉ còn đây tiếng vọng: Nghe gió thổi hàng cây vi vút Em biển xanh xa mãi vô cùng Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng. Chính là tiếng của trái tim thi nhân đang đập dồn dập, bên bờ bến tình xưa. 2/. “PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG” - Nếu như "Thời áo trắng" chỉ là sự hồi tưởng của kí ức về tình yêu một thời, thì "Phố thu và áo trắng" lại là một tình thơ, cảm xúc của tác giả vọt trào ra bất chợt trên đường đời. Có một buổi nhà thơ đang đi trên phố, bỗng nhiên anh bắt gặp những tà áo trắng của các nữ sinh vào buổi khai trường mùa thu, phấp phới bay lướt qua. Nhà thơ bồi hồi nuối lại những kỷ niệm xưa: Tà áo trắng em đi qua phố Mùa thu rơi phủ mắt anh Tà áo trắng của người sinh nữ Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng. Ôi mùa thu! Mùa thu sâu lắng, có cả màu áo trắng em trong đó. Vậy, tà áo trắng này là tà áo trắng thực, Phố thu này cũng là phố thực - Nó khác với "Thời áo trắng", chỉ là thành phố và tà áo trắng tượng trưng trong tưởng tượng. Gặp lại những tà áo trắng ấy, nhà thơ xúc động đến mức máu tim anh rỏ xuống: Chỉ còn lại con tim rớm đỏ Áo quệt vào, máu rỏ hai tay Chàng bật kêu lên! Không, chàng nấc lên: Ôi mùa thu! Mùa thu êm ả... Sao lòng anh tơi tả thế này? Nếu như ở "Thời áo trắng": Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh !/- Sự xao động, ham muốn còn ở mức độ bỡ ngỡ, rụt rè của tình yêu ban mai - Thì trong “Phố thu và áo trắng”, nỗi xa xót siết lên trái tim nhà thơ dữ dội hơn nhiều. Anh bàng hoàng nhớ về một thuở từng say đắm, ngọt ngào bên người thiếu nữ. Tâm trạng tiếc nuối ấy, như con dao cào nát trái tim anh. Máu chảy ngập tràn cả mùa thu. Thế là, tất cả đất trời: Áo trắng in ngang trời - sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu? Đến đây, hình tượng thơ lại trở thành tượng trưng: Tà áo trắng hiện lên mà tưởng như thành sét đánh xuống cuộc đời. Tấm ảnh lưỡi dao cào nát cả trái tim mùa thu - là một hình tượng đã được thăng hoa, để đẩy nỗi thơ đến tột cùng. Rồi một bức họa in trên nền trời: Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ... Lại là hình ảnh ảo. Không phải những con bướm ấy bơ vơ, mà chính là hồn của nhà thơ bơ vơ... Anh bồi hồi tưởng lại những tháng năm xa: Anh cũng có một thời bên áo trắng Cũng bế bồng và cũng đã ru em! Cái thời ấy chìm vào xa vắng Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang Nó trở thành kỉ niệm thiêng liêng. Đây lầ những giây phút mà nỗi khao khát yêu đương, trong trái tim nhà thơ bùng nổ. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ chứa đầy hồn và khốc liệt. Đau đến mức, mùa thu phải đổ máu. Trong tao đàn hiếm có những hình ảnh thi ca nào về áo trắng và mùa thu, dữ dội đến thế! Tôi xin nhấn mạnh lại cả đoạn thơ thứ ba này: Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ Áo trắng in ngang trời - sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu? Đó là những hình tượng thơ hay! Mỗi một mùa thu đến - dù trời đất vẫn trong xanh, mùa thu vẫn êm ả, nhưng tà áo trắng kia thêm một lần lại rời xa anh hơn, thêm một lần trái tim nhà thơ càng tan nát. Đoạn thơ kết: Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ Câu thơ nẩy những bông hoa buồn Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ Em đi rồi! Anh chết cả mùa đông... “Tàn úa” là qui luật của thời gian trong cuộc đời, ai mà cưởng nổi. Ý tưởng bài thơ, để nói về khát vọng tình yêu trong cuộc sống con người! 3/. “MÁI TÓC CON GÁI” - không biết vì lý do gì, người yêu của anh đã bỏ anh đi... lấy chồng? Đọc thơ, ta thấy nhà thơ đầy tiếc nuối. Đây là một thiếu nữ phố, mái tóc của nàng xoã như mây bay: Mái tóc phố màu mây Xoã ngang đời con gái, Em đi lấy chồng rồi! Lòng anh buồn biết mấy Nếu như hình ảnh người con gái trong thơ Nguyễn bính, là những cô gái quê một thuở đã xưa: Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi! Thì hầu như thơ tình Phạm Ngọc Thái, đều là các thiếu nữ phố ngày nay. Ngay trong bài thơ anh viết về người vơ trẻ của mình cũng thế: Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. (Tiếng hát đời thường) Trở lại với bài “Mái tóc con gái” - Cái hình tượng mái tóc phố màu mây này, gợi cho ta hình dung về mái tóc xõa ngang vai của các thiếu nữ Hà Thành. Nhưng đây tác giả viết: Xoã ngang đời con gái /- Nghĩa của nó rộng hơn: không phải chỉ tả đơn điệu về mỗi mái tóc, mà ý nói đến xuân sắc cả một thời con gái. Thế là... em đi lấy chồng rồi! Giọng thơ nghe có vẻ bình thường, thực ra nhà thơ chẳng bình thường chút nào? Đến mức những hàng cây cũng phải “đứng thầm”, còn hoàng hồn thì: Gió như là để tang Con gió phật phờ như lá cờ tang rũ xuống. Ôi chao! Ông nhà thơ này tiễn người yêu đi lấy chồng, thật sầu hết chỗ nói. Sau đó vẫn là khúc tâm tình, anh giãi bầy: Đây, bông hoa yêu thương Ta ủ vào nỗi nhớ... Em đã không còn nữa Chỉ có sao trên trời Bóng nhà thơ lẻ loi dưới một bầu trời cô quạnh, mênh mang. Người yêu không còn ở lại, chỉ có những ánh sao đêm khuya khoắt cùng thức với nỗi lòng trống vắng của chàng. Tấm hình người con gái như một đoá hoa ngát hương, anh ép vào trong tận trái tim. Đến đoạn sau, thơ được xoáy sâu hơn: Vầng trăng khuyết, em ơi! Giống đời anh cô độc Sáng ngày treo tưởng chết Hắt hiu và nhỏ nhoi. Ta thường thấy cái bóng trăng cuối tháng mọc vào lúc nửa đêm về sáng, đó là mảnh trăng khuyết. Nó nhỏ nhoi, hiu hắt, nhợt nhạt như một kẻ chết trôi - Nhà thơ lấy hình tượng đó, để ví với mình. Một sự cô độc làm ta gai lạnh. Đây là đoạn thơ, thiên nhiên đã được nhân cách hoá... để làm biểu tượng cho tình yêu và con người. Nói về đoạn thơ kết: Em đi lấy chồng rồi! Màu hoa xưa trinh trắng Tháng năm cùng mưa nắng Tóc hoá thành mây bay... Tác giả quay trở về với hình tượng “mái tóc phố” lúc ban đầu. Hình ảnh: Tóc hoá thành mây bay /- chỉ ra sự mênh mang, vô định. Nghĩa là, em đi... anh trở thành hư vô. Thơ viết tri âm, tâm tình trong trẻo - từ cảnh vật, trăng, sao đều có hồn, rất đáng yêu! V. THƠ TÌNH HAY VÀO HÀNG TUYỆT BÚT Nhà văn Nguyễn Khôi đã có nhận xét: “Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn nhưng đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được tứ mới, ý lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái “thơ” đan trong cái “mộng” - cái “ảo” diệu huyền để hiện lên cái thực, thấm vào tâm can người đọc. Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu, Thế Lữ, thơ Phạm Ngọc Thái đã vượt lên trên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê, Hàn Mặc Tử…”. Chỉ với thơ tình, rồi mai sau Phạm Ngọc Thái cũng phải có cả trăm bài đứng trường cửu được với đời, trong đó có tới vài chục tình thi của anh đạt vào những cung bậc của các tầm thơ hay vô giá. Phạm Ngọc Thái thực sự là một hiện tượng thơ ca hiếm có ở đương đại này. Trong đề mục này, tôi xin chọn ra ít bài thơ tình đặc sắc của anh để phân tích. 1/. “NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG” - Nói đến Phạm Ngọc Thái là phải nói về “Người đàn bà trắng”, một bài thơ tình hay vào hàng đẳng cấp của văn đàn. Bài ca tình yêu của nhà thơ với một người đàn bà trẻ, dù đó chỉ là mối tình lỡ dở. Phải chăng như Xuân Diệu đã viết: Tình chỉ đẹp khi còn dang dở... Anh gọi nàng là “người đàn bà”, thực ra khi ấy nàng vẫn còn một thiếu nữ. Nàng rất đẹp, từ ánh mắt mộng mơ: Đôi mắt em đong những áng mây Đến đôi môi mềm thơm quyến rũ và thân thể nõn nà, nhuốm màu hoang dại. Trái tim của nhà thơ đối với “người đàn bà trắng” như ngọn lửa rừng rực cháy, con sóng rào rạt dâng lên trong lòng. Bài thơ được bắt đầu với hai câu làm tựa đề: Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy Nghĩa là, nàng đang đi trong “cơn mưa cuộc đời”. Ý thơ muốn nói về sự chìm nổi, trôi dạt trong cuộc sống. Mặc dù vậy, người đàn bà ấy vẫn như cả trời hoa, toả hương thơm ngát. Với hai câu mở đầu ấy, ta hiểu: đó không phải là người đàn bà sống trong nhung lụa, hay căn phòng hạnh phúc ấm êm... mà là, của nỗi truân chuyên đời người. Dù thế, nàng vẫn nở hoa, kết trái ngay trên bờ bến nhân gian. Người Đàn Bà Trắng là bản tình ca đắm đuối. Chất nữ tính được đẩy lên đến tột cùng, hoang dã mà vô biên: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau Bón câu thơ khắc hoạ về thần tượng tình yêu, qua những câu chuyện tình lâm ly trong truyền thuyết: - Chuyện về nàng Mỵ Châu đã rắc lông ngỗng trắng dọc đường, để chàng Trọng Thuỷ lần theo. Khi không lấy được nhau, họ đều quyên sinh để tỏ lòng son sắt. Kết cục tình ấy bi thương quá! - Chuyện về nàng Vọng Phu đã hoá đá chờ chồng... - Chuyện chàng Trương Chi, cứ đêm đêm cô đơn chèo thuyền trên con sông vắng, tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Những hình ảnh này được tác giả đưa vào thơ làm thành biểu tượng, nhưng đều đảo ngược lại : Em không biến thành đá.... Anh cũng không làm chàng Trương Chi.... Ta không đi theo con-đường-lông ngỗng-trắng.... Lập thành tứ liên kết với nhau, mang tính triết học và có ý nghĩa nhân sinh. Nó rất đời, như đời - Nghĩa là trong “Người đàn bà trắng”, đôi trai gái không chọn cách kết thúc cuộc đời mình như những câu chuyện tình bi thảm đó! Đọc thơ ta thấy tình yêu vẫn đẹp, đầy chất mộng mơ. Nó còn mang ý nghĩa phổ quát xã hội, sống động và có tính thuyết phục. Thiên tình ca đã trở thành một bức tượng đài về đàn bà! Ta hãy nghe tác giả tả về chân dung nàng: Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây... Cả bầu trời tụ vào trong người đàn bà tạo thành một bức tranh hoàn bích. Nàng đội một chiếc mũ vải trắng mềm, như một đám mây đang vờn bay trên mái tóc. Ta có thể tưởng tượng trên đầu nàng là cả một vòm trời mênh mông, với đôi mắt huyền. Hình ảnh thơ mang tính tượng trưng, ngôn từ mỹ học... hiện lên chân dung một người đàn bà đep! Nàng đi trong đất trời: Em đi, về... chao những hàng cây Hồ gió thổi lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Xõa ngang vai mái hất tơi bời Toát lên dáng vẻ của một thiếu nữ Hà Thành. Không chỉ thân thể, đôi mắt, mái tóc, làn da... đến dáng đi, chiếc mũ vải trắng mềm em thường đội lệch trong chiều gió, cả thềm nắng gội trên mình em v.v. Những câu thơ khắc họa như những nét trạm rất tinh tế, hào hoa. Qua đó, ánh lên một tâm hồn lãng mạn chứa chất bên trong. Thơ viết công phu mà vẫn nhiên nhi nhiên, nhẹ nhàng. Để tả sự kiều diễm của người đàn bà. Ta có thể liên hệ với bài thơ tình “Tranh lõa thể” nổi tiếng của Bích Khê. Thi nhân đã mô tả về tấm thân người mỹ nữ: Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm? Nàng là hương hay nhan sắc lên hương? Về đôi mắt: Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc Mái tóc: Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc Và đôi môi mỹ miều đầy hưng phấn: Vài chút trăng say đọng ở làn môi... Đến ánh trăng còn phải say mê, đậu lại trên đôi môi người đàn bà. Đó là cách tả thuộc tính mỹ học! Đối chiếu trong cách tả “Người đàn bà trắng” của Phạm Ngọc Thái - Thí dụ về đôi mắt: Đôi mắt em đong những áng mây... Mái tóc: Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc... Thi pháp thơ hiện đại kết hợp với sự khúc triết của thơ cổ phương Đông, mà vẫn gần gũi đời sống. Nói về “cái ấy” của đàn bà, nơi bắt nguồn của sự sống, đam mê và khát vọng - Phạm Ngọc Thái viết: Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà đinh nghĩa? Tạo hóa đã sinh ra thiên thai đó, hoang xơ mà trinh khiết biết bao. Hai chữ “chùm trinh” còn gợi cho ta một cảm giác đầy hương sắc. Trái cấm của nàng đang trĩu trịt... ăn vào là nhớ mãi. Ca dao có câu: Dao đâm vào thịt thì đau Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời Trở về với bài “Người đàn bà trắng”: Hình ảnh gợi cảm nhưng không thô tục. Chùm trinh của nàng đang reo ca với nhà thơ chăng? Chất đàn bà đã được tụ vào đó để tác giả buông ra một câu triết lý: Người đàn bà ai mà định nghĩa? Sự huyền bí về đàn bà mà ta không thể nào đinh nghĩa được? Câu thơ tạo ra tựa hồ như một học thuyết: chẳng bao giờ lý giải hết được về “cái ấy” của đàn bầ! Trong thi đàn hiếm có bài thơ nào nói về đàn bà lại súc tích, sâu thẳm đến thế! Nó tôn tạo cả về ý nghĩa cuộc sống: Nếu không có đàn bà – cuộc đời, xã hội và thế giới... tất cả đều trở thành vô nghĩa! Phải chăng đàn bà chính là nguyên căn của mọi nguyên căn? Nền móng trong cả lịch sử, triết học và chính trị... Tôi xin phân tích đoạn thơ cuối: Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em! Người đàn bà “ngậm” cả vầng trăng... Bài thơ kết lại trong hoài vọng. Dưới bầu trời đêm đêm, chỉ có những ánh sao khuya và làn gió hắt hiu, buồn bã, thao thức cùng với nhà thơ tưởng nhớ về nàng. Riêng câu thơ cuối: Hình ảnh “ngậm cả vầng trăng”, là biểu tượng cho cả người đàn bà hay chỉ nói về “cái ấy” của nàng? Có thể là cả hai. Một câu thơ trìu tượng mà đầy chất phàm trần. Chữ “ngậm” thuộc ngôn ngữ thơ siêu thực, biến hóa giữa thực và ảo... trong duy lý của nhà thơ. “người đàn bà ngậm cả vầng trăng” là một câu thơ hay! Nó đã đưa Người Đàn Bà Trắng lên đến chót đỉnh, thành một tượng đài của thi ca! 2/. “EM VỀ BIỂN” - Nói về mối tình của nhà thơ với một cô nữ sinh, đã bị tan vỡ. Hẳn mối tình ấy phải đẹp và tha thiết lắm, mới để lại trong lòng tác giả một nỗi đau đầy lệ như thế: Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan, vòm ngực đã thương đau Theo như chú thích của nhà thơ, thành phố biển chính là quê hương của người nữ sinh. Trong suốt bài, hình tượng “biển” được tác giả sử dụng vừa là không gian biển, vừa là “bãi biển đời người” và... người con gái đã hóa thân trong đó. Chữ “cát” trong câu thơ đầu mang nghĩa về nơi “cát bụi trần ai”. Ý thơ muốn nói: mối tình tan, em trở lại thành phố biển quê hương... hay đã trôi dạt chân trời góc biển? Cảnh biển cứ xoắn xít lấy nhau, hiện lên cả một khoảng trời đầy bão tố: Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả... Xô mãi bờ với lá thông reo Cảnh biển nát tan hòa đồng với trái tim tan vỡ của người con gái ở đoạn thơ trên: Những nát tan, vòm ngực đã thương đau /- Vậy biển ấy, chính là “biển đời người”. Ngày đêm hàng thông vẫn reo, sóng bão xô mãi lên bở cát... như tình em năm tháng chẳng bao giờ nguôi: Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu? Tình yêu không còn, cuộc đời em thành cát bụi. Sau đó anh cũng không biết người con gái đã đi đâu? trôi dạt đến phương trời nào? Những xúc động trái tim đã đẩy tình thơ đi xa, vượt qua biên giới hạn hẹp của đời thường, vào cõi mênh mang. Nói về đoạn thơ ba: Bờ bãi đời người – Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ, em dựng cả tòa sen chân Phật Tổ! Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả Yêu thương nhiều, hưởng đã bao nhiêu Đoạn thơ đã mang ý tưởng cốt lõi của toàn bài, tính nhân văn sâu sắc. Nó nói rằng: Tình yêu của em là thánh đường đối với cuộc đời anh! Thiêng liêng và cao cả. Tinh yêu của người thiếu nữ đưa ta đến cõi nát-bàn, thánh thiện nhất trong cuộc sống con người. Những câu thơ thấm đẫm tính triết học, đưa tình thi đi đến điểm đỉnh trong giá trị nhân sinh, xứng đáng đứng vào hàng bậc những câu thơ hay của văn đàn xưa nay. Sang đoạn thứ tư, nhà thơ bộc bạch: Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ, ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh Hình bóng người con gái đươc hiện lên với ánh mắt thơ ngây và “đôi gót đỏ”, thật đáng yêu sao! Ta không lý giải nổi, vì lý do gì mà mối tình tan vỡ? Dòng suối tinh yêu ấy thanh khiết, mát trong vậy – như nhà thơ đã ví: Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải /- Phải chăng khi mất em rồi, anh cũng chỉ giống như cây thông theo thời gian già cỗi và mục ải, lặng lẽ reo bên bờ biển vắng... để hát mãi bản tình xô-nát, trong sóng bão của tình em. Chả thế mà nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ E.K.DDAGLARRGIA trong bài thơ “Tình yêu”, đã viết: Yêu – có nghĩa Là cùng người yêu Chia đều Trái đất thành hai nửa. Trở lại với bài Em Về Biển: Ở nơi bờ-bãi-con-người trong chốn nhân gian ấy, tình yêu đã sinh tồn! Dù ở đấy vẫn trầm luân bể khổ. Nơi mà Kiều đã phải bán mình để chuộc cha, mười lăm năm lưu lạc: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần Xin bình tiếp vào bài: Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây, em hỡi! Anh còn đây, Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ Hình ảnh ngôi trường đại học, nơi em sống đời nữ sinh còn in đậm dấu trong anh. Hàng bạch đàn soi bóng, những buổi đón người yêu bên cổng trường: Tất cả vẫn còn đấy! Thế mà em đã xa vời... Năm tháng qua đi, tóc nhà thơ cũng bạc. Chỉ còn nghe thấy tiếng gió mưa phủ táp lên cuộc đời trống vắng: Tóc nửa bạc rồi, chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! “Em về biển” vừa mang cho ta hương vị ngọt ngào của hạnh phúc, lại xa xót vì tan vỡ! Giọng thơ trầm lắng, ngôn ngữ bình dị mà sâu xa. Nó tôn vinh ý nghĩa thánh linh, của tình yêu gái trai trong cuộc sống con người. 3/. “KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC” - Tác giả đã sáng tác bài thơ trong dịp đến thăm, chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên kì vĩ của Hồ Núi Cốc. Vào một đêm mưa gió phủ đầy trời, hoang dã và cô đơn! Lòng nhà thơ lại thổn thức nhớ đến người yêu, mối tình của anh với một người đàn bà trẻ: Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Em khỏa thân nằm trên bóng bến xưa bay Nhà thơ kể lại: mối tình của anh với nàng tan nát và đẫm lệ. Cái đêm mưa gió dữ dằn đến mức “gió gào thét…”, hòa với nỗi khát vọng yêu đương đang đau quặn trong lòng chàng, tưởng chừng có thể làm cho trái tim tan vỡ! Chàng chỉ còn như một cái xác trôi, linh hồn đi tới tận phía trời xa, để đến bên nàng. Câu thơ: Gửi hồn theo dòng nước trôi thây /- là như vậy. Hình ảnh người đàn bà bay lên trên thảm trời kia, đằm đìa trong trái tim anh. Truyền thuyết kể rằng: Nàng Công là cô con gái Quan lang dân tộc, yêu chàng Cốc chỉ là một tiều phu đốn củi. Mối tình của họ bị lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Cốc bị truy đuổi phải chạy vào rừng, đến ở dưới một gốc cây Sồi. Nàng Công vì thương nhớ chàng Cốc, ngày đêm khóc lóc thảm thiết rồi chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc xót thương người yêu rồi cũng chết, hóa thành non vây bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi “Hồ Núi Cốc”: Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên Sồi lại hóa thành non... Nhưng vấn đề đặt ra trong hai câu thơ tiếp theo: Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm “khoảng đời con” Ý hai câu thơ đó nói lên điều gì? Trước đây, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết những câu thơ ca ngợi: Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con đè nát “cuộc đời con” Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn. Theo quan niệm đó: muốn cao cả là chỉ được nghĩ đến cái chung, cái lớn lao chứ... không được nghĩ đến cái nhỏ bé, riêng tư? Sở dĩ có quan niệm như vậy, vì nó đã bị chi phối bởi tư tưởng bảo hoàng, mang tính áp đặt chính trị của một thời. Cho nên, tác giả của bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc này đã phản biện lại: Không có cái riêng tư, nhỏ bé... thì làm sao có cái vĩ đại, lớn lao!? Có thể coi đây là một tuyên ngôn của Phạm Ngọc Thái: Chút hương nàng vẫn ấm “khoảng đời con” /- Đó là xuất phát điểm trong nhân sinh quan xã hội của nhà thơ. Tôi bình sang đoạn thơ ba: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hóa tạc phù điêu Câu chuyện tình bi thương của nàng Công, chàng Cốc đã nhập hòa vào nỗi lòng tác giả, tạo cho tình thi đẫm một màu bi tráng. Đến mức, cái băng tang trắng phủ lên mối tình huyền thoại kia, cũng là cái băng tang trắng của đời. Bài thơ “Khóc bên Hồ Núi Cốc” được cất lên trong cả khoảng không gian ấy! Khát vọng yêu đương mãnh liệt đến cồn cào: Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! /- Cảm xúc thơ được đẩy đến tột cùng, dường như tất thảy thiên nhiên kì vĩ kia, có máu của trái tim đôi trai gái tắm vào trong đó. Nó đã trở thành một bản tình ca lãng mạn, vừa quyện giữa câu chuyện tình son sắt trong truyền thuyết với mối tình đời tha thiết. Phụ họa với cảnh gió mưa gào thét, đồi núi mịt mùng mà cào xé lòng người. Về đoạn kết, xin đặc biệt chú ý đến câu thơ cuối: Mai chết rồi làm nước tắm cho em... Câu thơ cũng mang ý nghĩa phản biện - Liên hệ trong một số bài thơ khác anh đã viết: Nếu như không em, chỉ toàn tổng thống? Trái đất này sẽ nở đầy các thứ giống hoa tang... (Tiếng kim đồng hồ) Hoặc bài “Đêm tóc đá”: Ngai vàng còn “dưới” cái em ta! Khi các cường quyền với bao bất công vẫn đè nặng lên những con người lao khổ? Tác giả đặt tình yêu với đàn bà lên trên tất cả, để tôn vinh cho tình yêu và cuộc sống con người. Đó là phẩm giá cùng tính nhân ái của bài thơ! Về thơ hay của Phạm Ngọc Thái còn nhiều – Trong đó, có một số bài đã được các tác giả khác bình rất khúc triết. Bài viết này, tôi tránh không nói tới các thi phẩm ấy của anh, cho đỡ bị lặp lại. Xin xem tiếp những bài bình khác ở phần sau.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2019 18:41:22 bởi Nhân văn >
PHẠM NGỌC THÁI 5 TUYỆT TÁC - 22 BÀI THƠ HAY Nhà văn TRẦN ĐĂNG (tuyển chọn và giới thiệu) Trong một bài viết, chính nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã nêu - Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định thơ hay: " Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của văn đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó khả năng tồn tại hay không? Cũng như, muốn xác định tầm vóc chân dung thi nhân: Trước hết phải xác định, thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không? Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, suy cho cùng chỉ để cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá, văn nghệ nhất thời. Một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy... mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đích thực đối với nền văn học được". Nhất quán trên cơ sở ấy, kết hợp với nhận thức bản thân và sàng lọc qua dư luận ở văn đàn - Tôi xin khái quát về chân giá trị tác phẩm thơ ca Phạm Ngọc Thái, như sau: A- NĂM TUYỆT TÁC THI CA 1. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy. * Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Em đi, về... chao những hàng cây Hồ gió thổi lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Xoã ngang vai mái hất tơi bời. Nỗi niềm thao thức Những đêm trăng nước... Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Đường xưa đó về đây em ơi! Những con đường đã đầy xác lá rơi Xác ve, xác gió và xác của mưa. Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo Con-đường-lông-ngỗng-trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau. Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em! Người đàn bà ngậm cả vầng trăng. 2. VÁY THIẾU NỮ BAY Váy thiếu nữ bay để ngỏ Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở Tìm vào chỗ ấy của em... Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm. Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian Có phải đó khúc quân hành nhân loại? Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh. Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý! Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang. 3. LÀM MA EM VỢ Kính viếng hương hồn cụ Nguyễn Du Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi " kiếp" Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi... Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật! Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”! Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*) Anh ở vì chưng trả nợ đời. ----------------- (*) Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo, trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du: Nàng chưa thể chết, vì chưa trả hết nợ đời!
4. ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI Em nói với tôi rằng muốn có một đứa con… Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm Năm tháng dáng hình em hiển hiện Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi! Người thục nữ tôi yêu những năm cuối cuộc đời Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm. Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn Tóc cũng bạc đôi phần dẫu tim còn khao khát Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu… Thì đời này - em ạ, có trớ trêu Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh. Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em! Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ Với mối tình nồng thắm của em yêu! Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu! Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau. Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn! Anh tìm đến em lúc đã tàn úa mái đầu xanh Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu… Hà Nội 6.9.2018 (chiều thu năm Mậu Tuất) 5. NGƯỜI THÔN NỮ MIỀN SÔNG NƯỚC Nén hương lòng anh tưởng niệm mối tình em Bóng trúc vắng, làng quê xanh viễn vọng Giọt lệ đắng em hòa cùng anh uống Chốn xa vời người lữ khách đứng dừng chân. Xin để lại cho đời vài khúc ca ngân Nghìn năm sau - Thế nhân ơi, hãy nhớ ! Tấm hình ta cùng nàng một thưở Và cuộc tình nước mắt lẫn yêu thương. Anh không thể mang em theo trọn kiếp thi nhân Giúp em vượt qua đời bể dâu khốn khổ Mai có đến gặp lại anh bên nấm mồ nơi chân trời, xứ sở Xõa tóc mà than khóc cõi dương gian... Anh vẫn chờ em ở dưới suối vàng Ta hãy quên đi thế giới đầy bạo loạn Để cùng em kết trăm năm tình bạn Của tình yêu tự trái tim anh ! Anh vẫn thương em dù duyên phận bẽ bàng Chẳng phải vì em, chẳng phải anh không muốn Nhưng em ạ ! KIỀU đã nói rồi, đó là bể sống... Tình giữa trần ai, nước mắt trộn cơm chan. Dẫu phải biệt xa... anh có hạnh phúc đâu em ? Vẫn biết đời em cũng hòa dòng lệ đắng Ừ, thì trang nam anh khinh thường kiếp nạn Chỉ thương em là phận nữ nhi. Hãy vững bước lên em vào thế giới của ca thi Sẽ giúp em quên mọi điều sầu muộn Anh chỉ tiếc không thể dìu em tới bến... Mong đất trời có Thượng đế đỡ em đi !? * Thơ viết đã dài mà chẳng thỏa nỗi tình si Ta lại cất tiếng gọi tên em: - Người thôn nữ miền sông nước... Mai dân tộc có đặt ta nằm ở nơi nào dưới gầm trời tổ quốc Hãy đưa mộ nàng về chôn cạnh nấm mồ ta. Để con cháu đời đời cất cao bản tình ca " Không có chiến tranh, chỉ có tình yêu bất diệt ! " Anh sẽ nâng hình em bay trên đất trời nước Việt Vượt qua mọi chủ nghĩa tới muôn năm. Hãy đi cùng anh, mình không chết đâu em Kinh thánh đã dậy rồi: nay chỉ là "cõi tạm" Khi biết vượt qua đủ buồn đau, khổ nạn Mới vào được ngôi đền... - Tòa Thánh của tình yêu ! Ôi ! Người thôn nữ anh thương Cuộc tình mình dù đắng đót bao nhiêu Nhưng hãy nghe lời anh: - Ta được nhiều hơn mất... Đã giúp em nhìn ra nghĩa sống trong bể đời khốn kiếp Vượt lên bão táp, phong ba. Em hãy hòa nước mắt vào viết những bản tình ca Nó vĩ đại hơn các luận ngôn đảng phái Ta sẽ là ánh sao băng trên thiên hà sông núi Anh đợi đón em về trong thế giới bên kia. Hà Nội, 8/11/2018 ( sáng mùa đông năm Mậu Tuất)
B- 22 BÀI THƠ HAY 1. ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY Tình để lại vết thương không lành được Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian Em hiền dịu trái tim từng tha thiết Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan. Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt Hạnh phúc qua như một cánh chim bay Nông nỗi đời người để đâu cho hết Tình thơ ngây, tình sao mãi thơ ngây. Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm Đôi mắt từ xa đã nhận ra người Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm Giờ ở đâu, người con gái xa xôi? Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi Anh ở đây, vẫn bên Hồ Tây mây trôi... 2. EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA Nghe không em lại mưa lên phố Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi... Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ Mối tình thời trinh nữ xa xôi. Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở Say như mơ và mộng như thơ Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ. Thành phố lại mưa… Có nghe không em? Con chim trời, cá nước Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua Tình êm dịu bên em mơ màng quá Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa. Tiếng mưa rơi não nề thao thức Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ Chân trời vương vấn dải mây lan. Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em? Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang... 3. CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ
Em mang màu phượng đỏ ra đi... Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ Xác ve còn bám ở thân cây. Con đường phượng đỏ đêm nay Mây lãng du bay trời xanh vô định Những cánh hoa rung trong hoài niệm Nghe lòng thổn thức đâu đây! Phượng đã cháy lên một thời Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi! Con đường tình đẫm giọt sương rơi Gió vẫn xạc xào vi vút thổi Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy Thì đâu còn phượng để anh ru? Em đã mang màu phượng ấy ra đi... 4. EM BÁN XOÀI - Anh trai mua xoài cho em đi? Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang! Em bán xoài đi đêm trên cát trắng Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh. Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách… Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm! Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm. Linh hồn treo ngoài thế giới em đi Trên những cành dừa hay trong đám mây qua? Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“ Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi Xoài em thơm. Hương toả mát thân người. Ai mua xoài? Còn ai có mua em? Các cô gái đi đêm như các cột đèn Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy... Biển ru ta và ta ru em Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm. 5. NỖI TRĂN TRỞ
NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp Rời quê qua bên kia biển sóng Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống. Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên! Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1) Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác...(2) Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều Cứ để cho tất cả lãng quên! Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ… Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ. Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua Những năm tháng không bẩn đấy, cũng rộm vàng khói cột Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật! Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ Một chút nữa với bạn bè thân hữu Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu Dù cho tất cả đã quên tôi !? Nước Đức- Đêm 11/9/1989 (1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: " Còn chút vàng mười mang ra bán nốt" (2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki.
6. MỘT GÓC HỒ TÂY Anh đến mình anh trong chiều muộn Nhặt thơ tình ở một góc hồ Tây Ngắm mặt gương hồ vào chập tối Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi. Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng Vừa đơn côi mà không đơn côi... Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi. Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu! Trong sân gạch sư già quét lá Bước người đi thầm lặng cõi hư hao. Chiều Hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió Ta và người: cõi mộng khác chi nhau? Người quên hết! Còn ta yêu tất cả Trong tiếng lá bay… chầm chậm bóng ta theo... 7. SÁNG THU VÀNG Gặp lại em một sáng thu vàng Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố Với trời xanh, hồ xanh gió Gió đưa làn tóc em bay... (Kỉ niệm BĐ - Gặp lại em sáng đó bên hồ gió) * Sáng thu này trĩu cả hàng cây Đô thành dịu mát Ông lão ngồi bên gốc cây, bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời Bà xúc tép váy khều khào nước… Một thời xa lắc Em nghiêng chao về một thời xa. Người con gái đã thành chính quả! (phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha) Đôi mắt em bóng trúc bay xoà... Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở... Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu! Sáng thu vàng mông mênh mênh mông Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn. Sáng thu vàng xang xênh xênh xang Những con đường xưa tắm hơi em Môi em cười...hoa lá nát đau thêm Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh. Một mùa thu lá lá Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Người đàn bà em nuốt mùa thu tan... 8. BIỂN HÁT Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi Anh nhặt chút tình vương lại thời xa Treo hồn lên nửa vành trăng lấp Thả lòng bay lặng bến bơ vơ. Biển có thể không biết mình hóa sóng Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh Em có thể không còn nhớ đến... Như làn mây trôi mãi vô tình. Biển ba phần cho trái đất tươi xanh Em trong anh một mùa thu huyền ảo Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão Là đã hòa biển cả với cô đơn! Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa… 9. TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*) Đêm hồ nước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Cung thành xưa dấu đại bác còn. (**) Ôi quê hương! Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Ai biết chiều nay người vợ trẻ Đứng mong chồng bên đứa con thơ Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu! Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy! Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Nước Đức - tháng 2/1989 ----------------------- (*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở Hồ Tây. Bà đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người còn truyền tụng đến ngày nay. (**) Là hình ảnh của mặt thành Thăng Long Cửa Bắc, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. 10. ĐÊM TÓC ĐÁ Nửa đời tóc hoá thành đá cả Rụng vãi thềm đầy phủ quanh trăng Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ Mà nay gò mả, ma rừng. Tai nghe tóc ve bên bà gái goá Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu Có của nhà vẫn còn ham tơ nhú Ngồi chẳng yên, hồn dạ cứ vi vu. Trên kia nguyệt không quần như đã... Đêm thơm chùa, trắng dã tấm thân nga Trinh tiết thời nay em mở cửa Ngai vàng còn “dưới” cái em ta!
11. CHIỀU HOÀNG HÔN Chưa đi đến tuổi già Mà yêu hoàng hôn đỏ Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao Soi mặt nước xanh veo Trầm tư và lặng lẽ Đàn muỗi phố đã kêu Quanh bàn nơi quán nhỏ Chiều đang buông dần chiều. Sợi tóc mình ngơ ngác Có nên bạc hay không? Tuổi trẻ sợ già nhanh Giờ điềm nhiên đến lạ Cái màu hoàng hôn đỏ Cháy như là khai sinh! Ôi, hoàng hôn hoàng hôn Trái tim là bất diệt! Ngày mai anh có chết Cũng nhẹ như lá vàng. Hồn mây gió lang thang Mà đầm đìa mưa bão Đời - tư lợi không tham Chán trò danh bốc hão. Mang suối tóc của em Đi rồi yêu vĩnh viễn Anh sẽ hoá rừng thông Ngàn năm reo cát, sóng 12. CÔ ÁO TRẮNG Anh lại có một cô áo trắng Mắt nàng nhìn trong biếc mùa thu Mái tóc xoã, bàu vú nàng hưng phấn Ngủ đi em, nghe bài thơ anh ru! Đất Sài Gòn mùa xuân đến trong mơ Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố Em ơi em, những khi trời trở gió Có thấy bóng anh về thao thức bên em? Anh nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm Em khoả thân mình để hoá thành nữ thánh! Áo em trắng hay là da em trắng Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên. Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em! Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất Thế giới văn minh ta không cần gì hết Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ. Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ Em bọc trong anh không cần quần áo Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong. Em đừng hỏi vì sao anh yêu em! Anh lại có một cô áo trắng Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi. 13. THỜI ÁO TRẮNG Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Những bông hoa mùa xuân thôi không nở Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn. Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách Mắt em cười mùa thu xanh lên! Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học Tà áo trắng động vào...khe khẽ nát tim anh! Trả lại cho anh một thời áo trắng Đã đi qua và... đã đi qua... Với cả dòng sông trôi mơ mộng Lá lá rụng vàng, tóc tóc hóa sương pha. Nghe gió thổi hàng cây vi vút Em biển xanh xa mãi vô cùng… Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng. Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! 14. THẾ GIỚI NÀNG Những giờ khắc êm đềm trăng sáng Trong bài ca nàng hát mãi không thôi Đêm buông xuống sao trời toả rạng Ánh mắt xôn xao, thân tuyết nàng trôi... Ôi, thăm thẳm không gian vô tận Sóng hồ chao dòng nước lặng lờ Xin dừng lại những tháng năm bất tận Cát bụi cũng hoá băng trong đôi mắt nàng mơ. Khi nàng diễn đôi bầu trắng tinh mặt nguyệt Tội ác cũng run lên, bóng tối hết yêu ma Dường như cả đất trời chấp chới Để hồi sinh một thế giới thật lạ xa. Những giây phút sống bên nàng bất tử! Hồn trôi trong vũng nguyệt đẫm sao sa Ta tưởng tượng nàng đẩy lùi toàn thế giới Khi giữa ngân hà nàng cởi váy nàng ra... 15. KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay. Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*) Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm khoảng-đời-con. Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Mai chết rồi làm nước tắm cho em. Viết tại Hồ Núi Cốc ---------------------- (*) Huyền thoại kể: nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc! 16. MƯA BAY TRONG TIẾNG CHUÔNG
Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện Nam-mô-a-di-đà! Trong khúc mưa bay âm vang trời đất Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... Vi vút tầng cao con lá rụng Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ Chân ta bước dưới khuông trời thành phố Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ. Thoắt tình đã vào xa vắng Mình anh với bóng nhớ hoài em Hồn như cánh chim vô định Mái tóc em bay làn mưa mênh mang. Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức? Kia không gian thao thiết gót chân mềm Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.
17. CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ Một đêm hồ nước đầy sương gió Người đi không rõ mặt người Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng Em thầm thì quét lá, bên tôi! Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim! Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ Trong cõi lòng tôi buồn triền miên. Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa… Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya. 18. ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA Trời không mưa áo em đâu có ướt Chỉ ướt lòng em: cô gái nhỏ của anh! Em ngả vào anh mà hình như có khóc Tiếng con tim thật rõ bên mình. Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng Buổi cuối cùng em đến để chia tay Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi !? Kìa không mưa mà áo anh lại ướt Mùa thu đi… sao nắm mãi bàn tay? Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay… Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ Phố vắng em buốt giá cả canh dài Em dại lắm lấy chồng làm chi vội Đưa em sang sông rồi lòng mới biết đã yêu ai! Ta lại bước lang thang trên phố ấy Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi Bóng với mình đi mãi tới ban mai… Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến…đã chia tay? 19. EM VỀ BIỂN kỉ niệm K.A: Người nữ sinh trường SPNN năm xưa. Quê hương thành phố biển Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả... Xô mãi bờ với lá thông reo Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu? Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật Tổ! Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu. Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh. Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây! Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! 20. PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG Tà áo trắng em đi qua phố Mùa thu rơi phủ mắt anh Tà áo trắng của người sinh nữ Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng. Chỉ còn lại con tim rớm đỏ Áo quệt vào máu rỏ hai tay… Ôi, mùa thu mùa thu êm ả Sao lòng anh tơi tả thế này? Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ Áo trắng in ngang trời - sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu? Anh cũng có một thời bên áo trắng Cũng bế bồng và cũng đã ru em! Cái thời ấy chìm vào xa vắng Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang. Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ Câu thơ nẩy những bông hoa buồn Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ Em đi rồi, anh chết cả mùa đông. 21. HÀNG CÂY LÁ ĐỔ Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió Ta lang thang qua lá đổ hàng cây… Bản tình xưa em hát ở đây Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết. Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga. Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ! Xin rụng một bông buồn lắt lay... 22. NGƯỜI ĐÀN BÀ CHỨA LINH HỒN THÁNH LINH
Người đàn bà anh mãi mãi không quên Nàng đã lẫn vào trong cát bụi... Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua? Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi Em mở rộng động trinh, để anh vào tận sâu trong hứng khởi Lúc sướng vui em đã uốn mình. Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em để gieo hoa cho thế thái nhân tình Vĩ đại và vô biên... Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống Trái tim em chứa linh hồn thánh linh. Trấn át ác quỉ bạo tàn Anh khắc hình hài em trong vũ trụ Biểu tượng lớn lao của chúng sinh Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới. Cả chiến tranh và trong cả hoà bình. * Ngoài ra anh còn nhiều áng thi giàu hương sắc khác - Như: Sáng xuân nay; Thành phố mưa rơi; Ký ức mùa thu; Khoảng trôi trong lá; Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ; Tiếng rúc chim đêm; Có một khoảng trời; Xem tranh bán loã thể; Cỏ hoang; Thêm yêu thành phố quê mình khi đã vào đêm; Thông và biển; Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ; Đêm thiếu nữ; Mái tóc con gái ; Trăng lặn ; Nhớ em đêm noel ; Đêm trung thu và đứa ăn mày; Cây thầm tiếc bóng; Trước Núi Mỹ Nhân ; Đêm thu phố vắng... Những tình thơ này đều rất súc tích. Trong đó, có số bài cũng có thể gọi được là hay! Phạm Ngọc Thái đã có cả thế giới thơ riêng biệt, dựng lên thành một tượng đài thi ca để lại cho đời, và sống trường cửu với nền văn học nước nhà. Hà Nội, 2018 Trần Đăng
BÌNH THƠ ĐẶC SẮC PHẠM NGỌC THÁI “Mưa bay trong tiếng chuông” - MỘT BẢN TÌNH MƯA TUYỆT VỜI Lời bình: Trong cái làn mưa bay dưới khuông trời thành phố, có một người thi sĩ đang lang thang nhớ bóng người yêu: Vi vút tầng cao con lá rụng Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ Chân ta bước dưới khuông trời thành phố Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ Đọc đến những từ "con lá rụng": Tức là hình ảnh hiu hắt của vài chiếc lá đang bay vi vút giữa tầng không, mà tác giả gọi là "con lá..." - Tôi bỗng liên tưởng đến câu thơ trong KIỀU của Nguyễn Du: Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường Đây là hình ảnh của vầng trăng khuyết cô quắt... khi nhớ đến bóng người đi xa. Mảnh trăng cô độc ấy nửa thì lọt qua song cửa soi lên chiếc giường chăn đơn gối chiếc của Kiều, nửa thì dõi theo cái bóng đã khuất dặm trường của chàng Thúc Sinh ở tận phương trời. Trở lại với bài "Mưa bay trong tiếng chuông" - Tuy hình ảnh ở bài thơ này của Phạm Ngọc Thái không đến mức sầu muộn, thê lương như hình tượng câu thơ trong Kiều? Song, những "con lá rụng..." đang bơ vơ bay giữa khuông trời của đêm cô đơn kia, cũng làm cho lòng ta xốn xang cùng với nhà thơ. Những tiếng sóng bên hồ lao xao vỗ theo bước chân anh. Cảnh mưa đó lại được hoà tấu bằng sự đồng vọng của tiếng chuông chùa buồn. Đó cũng chính là tiếng lòng thương nhớ của anh thi sĩ với người con gái đã xa xăm. Ba cái cảnh: Trời mưa, tiếng chuông và sự cô đơn... để tạo nên một bản tình xô-nát âm vang trong trời đất. Giọng điệu thi ca trầm... ngân nga... như câu thơ đã viết: Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ Tôi trở lại với đoạn thơ đầu: Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện Nam-mô-a-di-đà! Trong khúc mưa bay âm vang trời đất Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... Suốt bài thơ... làn mưa và tiếng chuông chùa cứ thao thiết trong nhau, hoà vào tâm tình của người thi sĩ. Cái tiếng chuông thỉnh lên lời cầu nguyện "nam-mô-a-di-đà" ấy, phải chăng cũng là tiếng khắc khoải nguyện cầu thao thiết trong anh? Anh đi trong khúc mưa bay với một tâm hồn trống trếnh, chơi vơi: Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... /- Sự mơ màng như thể đang dẫn người đến bên cửa phật. Một bài thơ tình ở chốn thánh thần, làm cho tình thi vừa thân thương lại thêm màu huyền hoặc. Đến đoạn thứ ba thì người mới thực sự tả về em: Thoắt tình đã vào xa vắng Mình anh với bóng nhớ hoài em Hồn như cánh chim vô định Mái tóc em bay làn mưa mênh mang. Bóng của người con gái được hiện ra cũng rất hư hao, chỉ nhìn thấy trong làn mưa mái tóc em đang vương bay. Tâm hồn nhà thơ thì "như cánh chim vô định" - Nghĩa là mông lung, không có bến bờ, ở cõi vô tận vô cùng. Một tâm hồn lạnh lẽo, cô liêu. Hình ảnh thơ như ẩn, như hiện đưa ta hút sâu vào cùng tâm trạng của anh. Cũng chẳng khác là bao với tâm trạng của kẻ nhớ người ở phương trời trong Chinh Phụ Ngâm: Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây Hình tượng thơ của bài "Mưa bay trong tiếng chuông" được sử dụng đầy chất triết luận hoặc hội hoạ: Hồn vô định, mưa mênh mang, khúc mưa bay, vọng giữa mưa đêm, khuông trời, gió... trăng... dìu dặt, người và bóng, bản nhạc thơ v.v.... Không gian thực mà ảo. Hiện tại và quá khứ đan xen trong nhau để nói về nỗi tình da diết của nhà thơ với người thiếu nữ đã xa. Tôi xin bình sang đoạn thơ cuối cùng: Ôi, tiếng chuông gảy lên bao kí ức? Kia không gian thao thiết gót chân mềm Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm. Những kỉ niệm trong kí ức tràn về theo tiếng chuông. Hình ảnh người con gái từ câu thơ: Mái tóc em bay làn mưa mênh mang /- Đến đây, nhà thơ nhớ lại những ngày cùng dạo bước bên người yêu: Kia không gian thao thiết gót chân mềm /- Cả bóng trăng khuya, con gió dặt dìu, tiếng chuông và làn mưa... cùng hoà trong bản tình xô-nát bên hồ ấy: Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm... Hai câu cuối thật hay! Không chỉ với giọng thơ khoan nhặt, mà cả bản tình như được tắm vào trong vũ trụ cuộc sống và tình yêu con người. "Mưa bay trong tiếng chuông" như có tiếng ru thần diệu thấm vào hồn ta, để lòng ta say. Một cái say thâm trầm, da diết. Ngôn ngữ và làn điệu tha thiết. Hình ảnh lại hư hao như ở chốn bồng lai, cõi phật... cuốn hút cảm nhận của ta đắm chìm vào trong đó. Trong đoạn thơ cuối này, ta thấy cả khoảng không gian của bài thơ đều qui tụ vào đây. Từ gió, ánh trăng cùng làn mưa đêm và tiếng chuông chùa ngân nga... ẩn hiện bóng hình với bước chân thiếu nữ. Đó là một bản tình ca đằm đìa, xao xiết dưới gió trăng - Như câu thơ đã kết: Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm Nói "Mưa bay trong tiếng chuông" là một bài thơ tình hay hoặc "rất hay!..." cũng đều thoả đáng. Nhưng cảm yêu cái tiếng mưa, những hạt mưa bay đã được thi sĩ Phạm Ngọc Thái gieo suốt bài thơ mà tôi bảo rằng: Đó là một bản tình mưa tuyệt vời! THẢO HOÀNG Chú thích: các bài thơ trong mục bình này, hãy xem ở phần thơ trên.
“Đêm tóc đá” - KHÁT VỌNG TUỔI HOA NIÊN Lời bình: Dường như ban đầu khi sáng tác bài thơ này, tác giả chỉ có ý định viết chơi. Mái tóc một thời tuổi trẻ đã cùng dan díu với bao nàng thiếu nữ xinh đẹp, thế mà giờ đây: Nửa đời tóc hoá thành đá cả Rụng vãi thềm, đầy phủ quanh trăng... Chỉ còn biết ve vãn bên các bà gái goá. Buồn đến chảy nước mắt: Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ Mà nay gò mả, ma rừng Đau xót lắm chứ! Nhưng câu thơ sau thì lại thật thi ca: Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu… Nhịp thi ca khá uyển chuyển và phong hoa. Tuy mô tả những dòng nước mắt lã chã rơi xuống mùa thu của đất trời, nhưng lời thơ du dương. Nó đối lập với câu thơ khốc liệt trên mà tạo thành tứ hay. Ta hãy đọc lại cả hai câu: Tai nghe tóc ve bên bà gái goá Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu… Sự chuyển đổi giọng và nhịp của những câu thơ như thế mang nhiều tính nhạc, kết hợp với nghĩa thơ để gây một âm hưởng trong rung cảm của trái tim, đưa thi phẩm trở thành một bản thơ trữ tình. Những câu thơ rơi được tác giả nhặt lên ấy, hoà với dòng lệ đời chảy xuống mùa thu xao xiết buồn - mùa thu của tình yêu muốn được mơn trớn, vuốt ve: Có của nhà, vẫn còn ham tơ nhú Ngồi chẳng yên, hồn dạ cứ vi vu Đành rằng “của nhà” thì lúc nào cũng sẵn, song trong dân gian thường nói: trai nào mà chẳng ham của lạ cơ chứ? Chẳng phải chỉ của lạ mà còn thích em trẻ nữa. Bởi vậy, dù bước vào tuổi hoa niên, thi sĩ vẫn còn “ham tơ nhú…” là vì thế! Nhưng đọc lên, ta chẳng những không chê trách mà còn cảm đồng với nhà thơ. Sang đoạn thơ cuối của bài – Được biết, nhà thơ Phạm Ngọc Thái cùng gia đình ở ngay bên đền Quán Thánh, nên mới có hình bóng chùa chiền trong bài thơ này. Nhưng hình tượng “chùa” ở đây, còn để nói về tính thiền của thi ca. Lúc này nhà thơ đã luống tuổi, cái tuổi ham thú cảnh sống thiền… hương khói chốn phật đài. Song tác giả lại là một anh thi sĩ với tâm hồn lãng mạn. Bởi vậy, cái hình bóng nguyệt ở trong đêm chùa này đã được hóa thân, để hòa hợp với tâm trạng khao khát tình ái của Người: Trên kia nguyệt không quần như đã Đêm thơm chùa, trắng dã tấm thân nga... Hình ảnh “trắng dã” là để biểu tượng cho một sự khỏa thân của nguyệt – ý của câu đó là: vào đêm chùa thơm hương khói, nhưng nhìn lên thì thấy chị hằng nga lại đang… cởi truồng bay trên bầu trời. Nếu ta bóc câu thơ ra, có nghĩa: Sau một cuộc tình gió mưa - nguyệt ở trên kia vẫn chưa kịp mặc quần, nên mới để lộ cả tầm thân “trắng dã”. Hình ảnh của hai câu này rất hay, thông qua cảnh để diễn tả khát vọng tình yêu của thi nhân. Thơ đọc vẫn không thô mà còn thi vị nữa. Có thể coi “Đêm tóc đá” là một bài thơ tình lãng mạn, ẩn chứa một nỗi lòng hiu hắt và khát vọng tình yêu, của một con người khi đã bước vào tuổi hoa niên – tuổi “tóc đá”, tuổi của sự cô liêu! Nhưng ngòi bộc phá của tình thơ lại nằm ở câu thơ kết, nó chứa cả tính nhân tình thế thái: Ngai vàng còn “dưới” cái em ta! Một câu thơ cay độc rất Hồ Xuân Hương! Mang cả ngai vàng vua chúa, đặt dưới “cái” của đàn bà. Văn chương thường mượn xưa nói nay: Ngai vàng là biểu tượng cho quyền lực tối cao của một chính thể – Suy cho cùng, chẳng có cái gì bằng “cái ấy” của đàn bà. Ý trong nghĩa đen: “cái ấy” là khởi điểm cho cội nguồn của sự sống, tức là khởi điểm cho cả chính trị và triết học… Còn về nghĩa bóng: câu thơ bọc chứa một ý nghĩa xã hội. Chính câu thơ kết ấy, đã nâng tầm vóc thi phẩm “đêm tóc đá” lên cao, trong những hàng bậc của thi ca. NGỌC BÍCH
“Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh” – THƠ KHÚC CHIẾT VỀ TÌNH YÊU VÀ ĐÀN BÀ Lời bình: Bài thơ gợi cho ta một thế giới: Thế giới đàn bà: Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em để gieo hoa cho thế thái nhân tình Vĩ đại và vô biên... Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống Trái tim em chứa linh hồn thánh linh. Đây là khổ thơ thứ ba. Đã tóm bắt từ nhân sinh cho tới vũ trụ của người đàn bà: Vĩ đại và vô biên /- Bởi vì sao?... vì nàng "gieo hoa cho thế thái nhân tình"- Biểu tượng của sự sống bất tử! Nhưng nàng cũng rất bình dị trong cuộc sống và thân thiết đối với người đàn ông. Là người vợ hiền cơm dẻo canh ngọt, đầu gối tay ấp. Bình dị trong tiếng nói nàng trìu mến, dịu dàng mà chiếm ngự cả trái tim chàng. Bình dị với ánh mắt nàng cười, mang đến mùa thu mát lành, trong xanh. Câu thơ "Ôi, tạo hoá sinh ra cái của em..." - Nó triết lí. Như người ta thường nói, người đàn bà là hoa thơm của đất trời, trái ngọt của sự sống. Ở đây, tác giả chỉ ra rằng: ... cái của em để gieo hoa cho thế thái nhân tình? Về nghĩa đen ta có thể hiểu: "cái của em" là để sinh nở, tức là sinh con đẻ cái bảo tồn nòi giống. Duy trì và phát triển trong thế thái nhân tình. Với nghĩa bao trùm: nó còn mang theo tính luyến ái trai gái. Là cội nguồn của cuộc sống. Đồng thời "cái của em" là nhân tố tạo ra cả hoà bình cùng chiến tranh, hạnh phúc và khổ đau của con người. "thế thái nhân tình" mà không có hoa thì cũng không thể kết trái. Tất cả sẽ trở thành vô nghĩa. Thế giới sẽ không không... Xin liên tưởng đến những thi phẩm khác của tác giả. Như ở bài "Nguyệt của chị Hằng và nguyệt của em", nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã viết: Nếu như em không có nguyệt Thì loài người cần gì tổng thống nữa, em ơi! Hoặc bài "Có một thời như thế", anh cũng có những câu thơ bình luận về "cái của em" thật đặc sắc: Tạo hoá sinh ra kỳ quan vĩ đại Suy cho cùng nhất cái này thôi! Nhân loại tồn sinh phát triển ở nơi này Không có sẽ hư vô phù phiếm cả. Trở lại với "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh". Sau đó nhà thơ trào ra cảm xúc: Anh trải thơ lên đời viết về tình yêu - cuộc sống Bởi vì, không có em thì không có gì cả. Sự luyến ái chính đáng gái trai là cao thượng và thiêng liêng.
Nếu nhà thơ Nga vĩ đại Mikhail Lermontov, đã viết những câu thơ bất hủ thần tượng tình yêu đối với người đàn bà: Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.... Thì người đàn bà của tình yêu, cũng được nhà thơ Phạm Ngọc Thái nâng lên ý nghĩa thần thánh. Nó đọng lại súc tích trong câu kết của khổ thơ: Trái tim em chứa linh hồn thánh linh. Giờ xin trở về với những câu thơ đầu: Người đàn bà anh mãi mãi không quên Nàng đã lẫn vào trong cát bụi... Thế mà tất cả còn lại về nàng chỉ là một hồi ức xa xăm. Hình ảnh hai chữ "cát bụi" - Ý nói, tình yêu thuở xa xưa đã chìm lấp vào trong những tháng năm trôi dạt của cuộc đời. Khắc họa tình yêu trong bối cảnh nổi chìm ở dân dã. Tức là, tác giả đề cập về chủ đề "tình yêu và cuộc sống" chốn nhân quần. Tôi bỗng nhớ đến bài thơ "Những bóng người trên sân ga" của thi nhân Nguyễn Bính. Ông tả về cảnh chia ly trong nhân tình: Những chiếc khăn màu thổn thức bay Những bàn tay vẫy những bàn tay Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt Buồn ở đâu hơn ở chốn này? Cuộc chia ly trong "những bóng người trên sân ga" của Nguyễn Bính và cuộc chia ly tình yêu với người đàn bà của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, có gì khác nhau? Ta không rõ. Nhưng chắc tâm trạng thì cũng là... "buồn ở đâu hơn ở chốn này"? Chỉ biết rằng, sự chia ly tình yêu đó đã để lại trong lòng nhà thơ một nỗi buồn nhớ khôn nguôi, yêu thương da diết. Như câu thơ đã viết : Người đàn bà anh mãi mãi không quên Hoặc một kiểu nuối cảm ở "Hai sắc hoa ti-gôn" của nữ sĩ TTKH chăng? Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng Trời ơi, người ấy có buồn không? Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ Tựa trái tim phai, tựa máu hồng Bởi sau đó nhà thơ đã đặt câu hỏi về nàng? Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua? Nghĩa là, nhà thơ không còn gặp lại và cũng không biết tin tức về em nữa. Không biết giờ em sống ra sao? Hạnh phúc hay là... "bèo dạt mây trôi"? Đó là ý của câu thơ "Nàng đã lẫn vào trong cát bụi..." - Trái tim nhà thơ thổn thức: em có còn nhớ những tháng năm, khi chúng mình yêu nhau? Người đàn bà ấy đã thành thần tượng của đời anh và của cả thi ca. Cũng nỗi cảm hoài trên, có một khổ thơ được tác giả cảm xúc lại giây phút đã cùng nàng tận hưởng những khoái lạc yêu đương. Đó là khổ thơ thứ hai: Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi Em mở rộng động trinh để anh vào tận sâu trong hứng khởi Lúc sướng vui em đã uốn mình. Đoạn thơ tả thực... nhưng hình ảnh thì lại mang màu sắc thơ mĩ học. Nào là: ánh mắt như sao sa; vòm ngực tiên trắng mềm; động trinh... Những hình ảnh mĩ học đó giúp cho tác giả dẫu tả thực vào xác thể của người yêu, cảm khoái của tình dục, mà thơ không bị thô. Ta đọc câu cuối của khổ: Lúc sướng vui em đã uốn mình Hoặc khi tác giả tả về sự khoái lạc tột cùng: Em mở rộng động trinh... để anh vào tận sâu trong hứng khởi /- Hình ảnh mang tính biểu tượng của thơ tượng trưng. Nói về việc sử dụng biểu tượng thơ tượng trưng - Trong thế giới thơ tình của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, phải thừa nhận rằng: Bên cạnh những hình ảnh nhụy nhàng hoa mỹ, có một số bài anh tả khá sâu vào khoái lạc hay về thân thể người đàn bà, đã đạt được sự thành công. Vẫn đầy tính nghệ thuật ngôn ngữ. Cảm xúc sâu mà thơ huyền ảo, không bị tục. Thí dụ bài "cô áo trắng": Em bọc trong anh không cần quần áo Ôi, nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong Em đừng hỏi vì sao anh yêu em! Rồi nhà thơ kết luận: Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm! Bầu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi... Hay bài "Người đàn bà trắng" - Một trong những tuyệt đỉnh thi ca của anh, đã tả về cái của người đàn bà như thế này: Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai ! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Thơ Phạm Ngọc Thái thường đi đến tột cùng sự viên mãn của thơ tự do hiện đại. Chính vì vậy mà tác giả đã được mệnh danh là "con đại bàng của thi ca hiện đại Việt Nam". Nói về khổ thơ cuối cùng. Sau khi gieo một câu thơ đạt đến điểm đỉnh về người đàn bà: Trái tim em chứa linh hồn thánh linh /- Tác giả hạ một đoạn thơ kết bài: Trấn át ác quỉ bạo tàn Anh khắc hình hài em trong vũ trụ Biểu tượng lớn lao của chúng sinh Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới. Cả chiến tranh và trong cả hoà bình. Tôi nhớ trong tác phẩm của thi hào Nga Pushkin - Ông từng nói ý rằng: Tình yêu của người đàn bà có thể hoá giải cả hận thù và cải hoá sự tàn ác. Tức là, người đàn bà có thể biến một tên bạo chúa trở nên nhân từ, xoá bỏ vợi đi những tội ác, mang lại lòng nhân ái lớn lao trong cuộc sống con người. Đó là ý nghĩa của câu thơ: Trấn át ác quỉ bạo tàn... Hình tượng của khổ thơ kết, nó phản ảnh cả về vị thế cũng như phẩm giá của người đàn bà, trong sự tồn tại của thế giới cộng đồng. Nếu hai câu thơ trích của nhà thơ Nga Mikhail Lermontov ở trên: Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ Được xem là lời tuyên ngôn bất hủ của tình yêu! - Thì hai câu kết ở đây, chính là bản tuyên ngôn của bài thơ "Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh" này: Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới. Cả chiến tranh và trong cả hoà bình. Hình tượng đúc kết cả tính vũ trụ, lịch sử và nhân sinh... trong ý nghĩa sinh tồn của xã hội loài người. Nó có thể đạt đến tầm vóc là một bài thơ đặc sắc, mẫu mực của thơ tự do hiện đại, khi xây dựng biểu tượng về người đàn bà. NGUYỄN THỊ XUÂN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2019 17:15:38 bởi Nhân văn >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: