LDY Đoản văn - MÙI ỔI

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 33 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 03.09.2019 13:27:44
MÙI ỔI
Lâm Du-Yên


Mỗi ngày đi học tôi đều đạp xe ngang qua căn nhà đó. 
Nó là căn nhà nhỏ, mái và vách đều lợp bằng lá. Những đám dây leo phủ kín bên ngoài làm người ta lầm tưởng cho đấy là một lùm cây. Cái mái xanh mướt của nó lấm tấm những màu vàng đậm, nhạt khác nhau : màu vàng của hoa mướp, của hoa thiên lý và của một loài hoa nữa mà tôi không biết tên.
Một lần thấy tôi nhìn nó quá chăm chú, chị Đằng bảo: 
-"Ông chủ nhà nầy hồi xưa thương má mầy lắm đó!". 
Không có chi tiết ấy, thì căn nhà nầy cũng đã thu hút tôi một cách mãnh liệt lắm rồi !
Thay vì trổ cửa ra đường, nó lại quay ngang nhìn về hướng con kinh, nằm lọt thỏm trong một khu vườn trồng toàn cây ăn trái mà hầu hết là ổi. Hàng rào xương rồng bao quanh tạo cho nó một nét cô đơn và khắc nghiệt. Cố nhìn kỹ sẽ thấy ở cuối vườn có một cái chỏng tre và một cái võng nhỏ bện bằng vỏ cây bố treo tòn ten trên hai thân cây ổi. Vào những ngày trời lạnh gió đuổi mùi ổi bay ra đường nên mỗi lần đi ngang, tôi cố căng mũi hít thật sâu, thật đầy, hầu để dành cái mùi thơm rất dễ chịu ấy trong phổi càng nhiều càng tốt.
Người chủ căn nhà nầy cũng làm tôi tò mò ghê gớm, rất hiếm khi tôi nhìn thấy ông. Hình như ông ấy làm nghề bắt cá thì phải, vì ở bến sông trước nhà có một chiếc xuồng câu, mấy tay lưới rách, mấy cái lọp hư và một cái vó cá nằm trong nước.
Hàng ngày tôi và chị Đằng đạp xe đi học cùng nhau. Vì học hai buổi nên bốn bận đi về. Hai chị em có thú vui là ví những con gà, vịt chạy lang thang ngoài đường. Hôm nay cũng vậy. Vừa thấy bầy vịt nhởn nhơ chị Đằng vội vã phân công liền: Tôi chạy sát lề phải, chị phía trái. Hai đứa đạp xe bằng một chân còn chân kia lùa ép bầy vịt đi về phía trước. Được hơn chục bước thì con vịt đầu đàn trở chứng đâm sầm vào xe tôi. Tôi té đánh "hụyt", văng vào lề đường, mông bị gai đâm nhói buốt. Đau và sợ làm tôi khóc hu hu. Chị Đằng quýnh quáng kéo tay đỡ tôi đứng dậy, đau thấu trời làm tôi hét lên một tiếng "ái" thật to.
- Có sao không cháu?
Tôi ngước mắt nhìn lên, đúng là ông ta rồi. Vậy là tôi đã té văng vào đám xương rồng hàng rào nhà ông.Tôi nín bặt và nhìn ông chăm chú.
Ông cười trấn an rồi nói:
- Đâu vào đây chú xem, chắc cháu bị trật tay rồi.
Vừa nói ông vừa đỡ tôi đứng dậy.
Ôi! thế là mong muốn của tôi đã đươc thực hiện. Tôi cứ ước ao khám phá ngôi nhà và khu vườn nầy. Thật là cám ơn bầy vịt không biết để đâu cho hết!
- Cháu ngồi đây đi.
Ông ta nhường cái ghế duy nhất trong nhà cho tôi rồi ngồi xổm xuống đất. Xăn tay áo của tôi lên cao tận vai và bảo:
- Chịu đau chút xíu nghen, để chú sửa lại cho ngay khớp.
Bây giờ được dịp nhìn tận mặt, tôi thấy ông rất hiền : Hai mắt ông dài, khóe mắt gần nhau hơi chúc xuống. Những nếp nhăn ở đuôi mắt xòe rộng như đuôi cá. Một cục thịt dư nhỏ bằng hột tiêu nằm sát mép tai...đang mãi nhìn bỗng tôi nghe đau nhói một cái và hét lên lần nữa.
- Xong rồi! Từ giờ cháu nhớ đừng có xách nặng, hay chống cái tay nầy xuống đất nghe.
Tôi vừa dạ vừa đưa tay quẹt nước mắt. Ông ta nhìn tôi rồi cười. Nhìn xuống hai bàn tay mình thấy bám đầy đất đỏ, chắc mặt tôi lem luốc hết rồi.
- Ra đây chú rửa mặt cho.
Vừa nói ông vừa dắt tôi ra lu nước trước nhà. Bàn tay to bè của ông khum lại hứng từng bụm nước từ chiếc gáo dừa, phả vào mặt tôi rồi xoa thật nhẹ nhàng. Chợt ông hỏi :
- Cháu là con ai vậy?
Chị Đằng láu táu tranh lời:
- Nó là con cô năm Hân đó chú!
Tôi cảm nhận bàn tay đang xoa đều trên mặt của mình bỗng khựng lại.
- Nhà chú trồng nhiều ổi ghê! Sao chú không hái?
Tôi vừa hỏi vừa đưa tay chỉ những trái ổi rụng đầy trên đất.
Ông lắc đầu:
- Hái làm chi ? Có ai ăn đâu. 
Rồi như chợt nhớ ra, ông bảo:
-Để chú hái cho cháu mấy trái đem về ăn.
Tôi định từ chối nhưng biết má thích ăn ổi nên thôi. 
Ông xách cái lồng đi về tận cuối vườn lát sau mang lại một bịt ổi đầy.
- Nè, cháu mang về đi chừng nào muốn ăn thì cứ ghé hái nha !
Chị Đằng thúc cùi chỏ vào lưng tôi một cái rồi nói:
- Về thôi! ăn cơm rồi còn học buổi chiều nữa.
Hai chị em vội đứng lên chào rồi xách bịch ổi ra về.
Má đón tôi trước cổng mặt hầm hầm:
- Đi đâu mà tới giờ nầy mới về hả?
Rồi thấy bộ dạng tôi má hoảng:
- Trời đất ơi! Bộ té xe nữa à?
Vừa hỏi má vừa kéo tay tôi, lại trúng vào cái tay đau và lần nầy thì tôi rú lên . Má lật đật buông ra rồi vén tay áo xem chỗ đau. Bàn tay má xoa trúng ngay chóc cái chỗ ông chú khi nãy đặt tay vào để nắn khớp. Má xuýt xoa:
- Đau lắm hả con?
Tôi gật đầu, ráng ép hai giọt nước mắt rớt ra, rồi móc trong túi một trái ổi ngon nhất để dành đưa cho má :
- Má ăn đi, ổi nầy thơm lắm đó!
Má cầm trái ổi đưa lên nhìn, chùi vào áo rồi cắn một miếng to gần nửa trái, mùi ổi tỏa ra thơm phức. 
Má khen:
- Ổi ở đâu mà ngon quá vậy con?
- Hồi nãy con té vào bụi cây xương rồng của chú nầy, rồi chú đem con vô nhà sửa tay, còn hái ổi cho con nữa đó má. Chú tốt mà hiền ghê hén má!
Má không trả lời, chầm chậm nhai từng chút một nửa trái ổi còn lại. Tôi len lén nhìn lên, thấy đôi mắt má buồn rười rượi, đang nhìn về một nơi nào xa xăm lắm!

LDY
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.09.2019 18:19:02 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - HÀNG BẮP - 03.09.2019 18:31:04
HÀNG BẮP
Lâm Du-Yên
 
Cư bỗng hỏi:
-Hình như nhà em ngày xưa, năm nào cũng trồng bắp phải không ?
Sa nhìn Cư một cách ngạc nhiên.
Anh giải thích:
-Tại lần nào đến thăm, em cũng đem bắp rang ra đãi
Sa hỏi lại :
-Vậy sao ?
Cư gật đầu, nói thêm:
-Có lần em còn bưng ra một rổ bắp mới nấu nóng hổi, ăn kèm với một tô đu đủ mắm !
Sa lại hỏi:
-Vậy sao ?
Cư lại gật, lại nói:
-Anh còn được ăn chè bắp nấu với đường thốt lốt ở nhà em. Chắc lúc đó em đã bắt đầu thương anh, nên chén chè của anh được chan nước cốt dừa ngập mặt.
Sa cười, hỏi tiếp :
-Còn gì nữa không ?
Cư hỏi lại :
-Về cái gì ? Chuyện của tụi mình hả ?
Sa lắc đầu :
-Về bắp !
Cư suy nghĩ một lát rồi nói :
-Hết rồi ! Mà em chưa trả lời câu hỏi của anh đó !
Rồi chàng lập lại:
-Có phải nhà em năm nào cũng trồng bắp ?
Sa cười :
-Chắc vậy ! Trong trí nhớ của em, cây đà gác ngang nhà bếp lúc nào cũng có mấy túm bắp treo đầy. Mỗi lần sai em bắt ghế lấy bắp xuống lảy để rang, má lại dặn:
-“Lấy phía tay trái nghe hông ?”
Cư hỏi :
-Sao vậy ?
Sa giải thích :
-Đó là bắp cũ, bắp mới nằm phía tay phải.
Rồi cô hỏi:
-Anh có được em mời ăn bắp nướng tại rẫy chưa ?
Cư lắc đầu, giọng tiếc rẻ:
-Chưa ! Hôm nào mời đi !
Sa cười :
-Anh còn ở chơi lâu hông ? Có chờ tới mùa bắp được hông ?
Cư hỏi:
-Bao lâu mới tới mùa bắp ?
Sa đáp :
-Cỡ ba tháng nữa lận !
Cư ngậm ngùi :
-Vậy là hụt rồi ! Thôi chờ lần sau vậy ! Năm sau em nhớ gọi điện cho anh hay khi bắt đầu trồng bắp nghe !
Sa gật đầu.
Năm sau, Sa đi tìm cho bằng được giống bắp Nù ba đuôi ngày xưa rồi đem về trồng trên miếng rẫy phía sau nhà. Loại bắp nầy hột nhỏ, vỏ mềm, nướng ngon hơn mấy loại bắp khác.
Mấy hạt bắp vừa chui đầu lên khỏi mặt đất, Sa đã gọi điện giục Cư:
-Ê ! Bắp trồng rồi đó, về lẹ lên !
Cư nôn nao quá ! Chưa ăn mà vị bắp nướng thoa mỡ hành đã làm nước miếng ứa ra ngập miệng.
 
Ngày Cư về, chồng Sa ra đón anh tận phi trường Tân Sơn Nhất.
Cư không dám hỏi Sa đâu. Chồng Sa cũng không dám nói.
Ngay chiều hôm đó, chồng Sa dắt Cư ra rẫy, chỉ tay vào một hàng bắp duy nhứt còn lại rồi nói:
-Bả cứ trối hoài, biểu phải chừa lại một hàng bắp cho anh
 

Ct.Ly

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 08.09.2019 08:31:10
DƯA MẮM
Sáng nay cô bạn gần nhà vừa đi chợ về, ghé qua cho hai trái bắp nấu còn nóng hổi.
Mừng và cảm động quá! Lấy trong tủ lạnh ra cái hủ dưa mắm rồi rửa tay, lột bắp ra cạp ăn với dưa mắm liền. Những hạt bắp mềm, ngọt, kết hợp với miếng dưa mắm giòn giòn, mặn mặn, cay cay, chua chua...Bỗng thấy đời quá đẹp và con người quá tuyệt !
Vừa ăn vừa suy nghĩ không biết mùa nầy bắp ở dưới quê đã bẻ hết chưa ? Cái đám nhóc ở đó có còn đi mót mấy trái bắp bị bù cào ăn, đem theo chén nước mắm mỡ hành, rồi lượm rơm và mấy nhánh me nước gãy về gầy lửa nướng ? Không biết ở quê còn trồng cái loại bắp tẻ [loại bắp có hột màu vàng và màu tím pha lẫn. Có trái toàn là màu vàng, có trái toàn màu tím, có trái đủ cả ba màu, vàng, trắng, tím trộn chung rất đẹp], hay chỉ trồng bắp nếp và bắp Mỹ mà thôi?
Mẹ cu Bo ngang nhà qua xin mấy ngọn rau tần dầy lá, thấy tôi ăn dưa mắm liền quở:
-Ăn ba cái thứ nầy dễ lên tăng xông lắm đó cô .
Cổ nhìn cái hũ dưa mắm to đùng rồi hỏi:
-Bộ cô thích ăn dưa mắm lắm hả ?
-Ừ.
-Ráng hạn chế đi cô, ba cái mắm nầy ăn nhiều có hại lắm chớ đâu có bổ, béo gì !
Những giọt buồn từ đâu bỗng dưng rơi vào, làm loãng bớt cảm giác hài lòng mà tôi đang có.
Quê tôi nổi tiếng về mắm, kết tội mắm vô tình làm tổn thương cái niềm tự hào âm thầm trong tôi. Một nỗi tấm tức buột tôi phải trả lời cổ, bằng một giọng y chang cái kiểu má tôi cằn nhằn khi gặp điều không ưng ý:
-Quê tôi, ai mà không ăn mắm, ăn từ đời nầy sang đời khác. Một năm ăn mắm hết gần sáu tháng mà đâu có chết chùm vì cái bệnh đứt gân máu đâu ? Tôi cãi
-Cô hổng biết đó thôi! Cái bịnh nầy hồi xưa hay gọi là trúng gió. Bà con cứ thấy ai té sùi bọt mép là tưởng gặp gió độc hay bị kinh phong giựt, đè xuống cạo gió không hà. Cho nên hồi xưa có nhiều người bị chết vì trúng gió lắm !
-Tui ăn cũng ít thôi, mỗi ngày gắp vài đũa chắc cũng hổng sao .
-Cô đâu có ăn nó không, còn mấy món khác nữa. Vì vậy nên lượng muối tiêu thụ mỗi ngày sẽ cao lắm, dễ dính vô cái bệnh cao huyết áp lắm nghe !
Tôi nghe cổ nói mà rầu, bởi đối với tôi dưa mắm không chỉ là một món ăn khoái khẩu. Sự hiện diện của nó còn kéo theo cái không gian ngày xưa, mang lại cho tôi một cảm giác êm đềm, ấm áp.
Hồi đó má tôi nổi tiếng về ủ mắm, làm mắm và nhất là trộn dưa mắm. Má tôi không trộn dưa mắm bằng đường cát mà trộn bằng đường chảy. Má thắng cho đường kẹo lại rồi ướp vào dưa mắm đã xắt mỏng [goị là dưa nhưng có khi làm từ đu đủ, ngon nhất là từ những trái dưa gang còn nhỏ, nhờ có vị dòn xốp chớ không cứng như đu đủ]. Những miếng dưa ấy được moi ra từ những gáo mắm cá linh, cá sặc. Nó đã được nhận chung với cá khi chao mắm lần cuối. Nước từ cá rỉ ra ngắm vào từ từ làm nó trong vắt và có màu vàng như mật ong. Má bầm tỏi, ớt sừng trâu [bỏ hột để lấy mùi thơm hơn là vị cay], rồi trộn thật đều, không vắt chanh vào ngay mà trước khi ăn mới cho vô. Trộn xong má cho vô cái keo thủy tinh [ loại keo đựng chao cở lớn] rồi đặt vô cái tô, chế nước chung quanh để bầy kiến cho dù có bắt được mùi đường vẫn không bò vô được.
Dĩa dưa mắm hầu như có mặt thường xuyên trong mỗi bữa ăn. Có khi nó đóng vai chính, có khi hết sức khiêm nhường nằm cạnh những món ăn khác và chỉ được đụng tới vào cuối bữa. Ngày xưa tôi không mặn mà với nó lắm, đôi lúc còn cằn nhằn sao má cứ bắt ăn hoài dưa mắm.
Bây giờ khi tôi đã gắn bó với nó. Khi cái vị của nó không chỉ thấm qua đầu lưỡi mà còn ngấm sâu vào lòng, khơi gợi cả một niềm hoài niệm. Khi những lát dưa mắm vẽ lại con đường của những bầy cá linh mùa lũ, của những trái dưa trên cánh đồng ngập tràn nắng gió, của những bàn tay thoăn thoắt và những bàn chân với những ngón xòe rộng để bám chặt vào đất, của những gương mặt hết sức thân thương thì sá gì một chút nguy cơ mà phải đành từ bỏ nó! Tôi nói để cổ vui lòng :
-Chắc tui nghe theo cô, bỏ bớt mới được.
L D Y
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:18:33 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 08.09.2019 08:43:05
MẤT GÀ
Mợ Tư Tương rất mát tay nuôi gà. Mợ quí bầy gà lắm, nó vừa giúp mợ có thêm thu nhập vừa mang lại cho mợ một niềm tự hào với bà con trong xóm.
Thú vui lớn nhất trong ngày của mợ là vào mỗi sáng, tập trung bầy gà ra sân sau, cấp cái rổ quảu đựng lúa bên hông, vói tay bóc rồi tung đều như gieo mạ, miệng liên tục "túc túc" gọi bầy gà. Mấy con gà từ cái chuồng dưới sàn, nghe tiếng mợ liền túa ra ào ào.
Đi đầu bao giờ cũng là con gà trống cồ. Nó chạy vội ra giữa sân, vỗ cánh phành phạch rồi rướn người lên mà gáy một tràng, để tập họp cái đám cung phi, bộ tịch giương giương tự đắc như Co lom bo vừa khám phá ra châu mỹ vậy! Mấy con gà mái dắt theo bầy con te tái chạy ra, vừa mỗ mấy hạt lúa trên sân, vừa kêu "cục cục", vừa lấy chân quào đất tìm cái gì không biết cho đám con của chúng. Cái đám gà con nghe lời mẹ riu ríu, tụi nó định chạy tìm món ngon ở xa, nghe mẹ gọi là đâm đầu vù về liền tuy trong lòng hết sức tiếc rẻ !
Mấy con gà giò trẻ trai hăng máu, thóc ê hề trên sân vậy mà cũng tranh giành đánh nhau chí chóe. Mợ phải ra tay, xua cái con gà hung hăng qua một bên để thiết lập trật tự, hòa bình.
Vừa cho gà ăn mợ vừa điểm danh. Đàn gà của mợ gồm mấy chục con gà mái, gà giò và một bầy gà con lúc nhúc, vậy mà mợ nhớ mặt không sót con nào. Hôm nay không thấy con "Bắp nổ", tên mợ đặt cho con gà mái tơ lông vàng, có vô số những đốm trắng, y như cái tô bắp rang nở tung, nở tóe. Mợ ngó tìm dáo dát, chui vô sàn coi nó có đang nằm ấp trứng mà làm biếng chui ra không. Một con gà mái đang nằm ấp trứng, nhìn mợ bằng gương mặt hầm hừ và cặp mắt đe dọa. Mợ lật đật chui ra ngó ba bên bốn bề.
Bỗng mợ giật thót người một cái! Thôi chết rồi, hổng lẽ nào? Hôm qua, nhà Hai Thước có gầy độ nhậu, y qua xin rau răm nhà mợ, mợ còn hỏi:
-Cái giàn rau của má bây tốt quá bộ hổng có trồng rau răm sao ?
Y trả lời ấp úng:
-Dạ hông !
Mợ biết là y nói dóc. Bởi ở quê rau răm, rau thơm, rau nấu chua và hành, ớt, là những thứ mà nhà nào cũng trồng thủ sẵn. Mợ nghiến răng nhủ thầm :
-Không ngờ cái thằng nầy mặt dạn mày dày hết sức ! Nó ăn cắp gà rồi còn qua hái rau nhà mình cho đủ bộ nữa.
Mợ đi te te qua vườn dì Út Đo, má Hai Thước, liếc mắt dòm vô cái đống rác đang un coi có sót lại cái lông gà nào hông. Dì Út trông thấy bèn hỏi :
-Kiếm cái gì vậy chị Tư ?
-Con gà mái, mới hôm qua nó còn chạy cời cời mà sáng nay mất tiêu mất biệt .
-Đâu chị kiếm dưới chân mấy cây rơm coi, ba con gà hay chui vô đó bươi lắm !
Mợ Tư không đi thẳng về phía mấy cây rơm chất sau hè, mà vòng qua cái giàn rau của dì Út liếc vào. Mấy cái lá rau răm xanh mướt y như những cọng gai đâm vào mắt dì. Mối nghi trong lòng của dì càng lớn.
Mợ lầm bầm:
-Đúng là cái thằng ôn dịch, nó muốn chơi xỏ mình đây mà! Chắc hôm bữa không cho mượn cái cuốc nên nó để bụng, mà có phải mình làm hiểm đâu, tại cái cuốc gãy cán chớ bộ !
Thật ra dì đã nghi oan cho anh Hai Thước, bởi bấy lâu nay ảnh và chị Hai Chao, con gái của dì Tư, có tình ý với nhau nên hay tìm dịp lân la. Hôm qua liếc thấy chị Hai đứng kế giàn rau, nên qua xin để nhìn mặt một cái cho đỡ nhớ thôi hà!
Tìm quanh quất mấy cây rơm cũng không thấy, dì hầm hầm trở vô nhà, múc đầy một gáo nước uống thấm giọng rồi bắt đầu:
-Cái quân trâu sanh, chó đẻ nào, vói tay mặt, đặt tay trái bắt mất con gà của tao ? Tụi bây ăn ở thất nhơn thất đức, con gà đang nằm ổ mà bây đành đoạn bắt ăn. Tụi bây ăn con gà của tao như ăn xương, ăn cốt. Tao xóc miễng sành, miễng chén lên mà rủa ba ngày ba đêm cho động mồ động mả ông cố, ông sơ, bà nội, bà ngoại bây...
Chị Hai Chao lật đật chạy ra can:
-Thôi má ơi ! Con gà đi lạc đâu đó chớ ai mà bắt. Má chửi tùm lum coi chừng mít lòng khắp xóm !
Mợ nạt:
-Mầy biết cái gì mà nói, nó bắt con gà đã đành còn dám vác cái mặt qua...
Mợ chưa kịp nói thêm ba chữ " xin rau răm" thì chị Hai Chao bỗng kêu rú lên :
-Con Bắp Nổ về rồi nè má ơi !
Mợ thắng lại một cái rụp, rồi vừa bỏ vô nhà vừa nhiếc con gà:
-Đồ đàn bà hư ! Đi ngủ lang cả đêm !

L D Y
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.09.2019 15:26:13 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 10.09.2019 06:38:08
CUỘC PHIÊU LƯU BẤT ĐẮC DĨ CỦA THẰNG CÒI
truyện dài
 

Một hôm thằng Còi bắt sâu róm để nhát con Mén. Coi nhỏ nầy có cái tật sợ sâu khét tiếng, cả xóm ai cũng biết.
Nó ngắt cái lá muồng trâu, có con sâu đen thui, lông dài tua tủa nằm trên đó, thả rất nhẹ lên đầu con nhỏ. Con sâu biết mình đang du lịch trên miền đất lạ nên hăm hở khám phá. Chờ cho nó đu sợi tóc xuống tới vai con Mén, thằng Còi la toáng lên liền:
-Có con sâu bò xuống vai mầy kìa Mén !
Con nhỏ Mén quay qua nhìn rồi ngã ngang chết giấc.
Mấy đứa con gái đang ngồi bún dây thun gần đó đồng thanh la inh ỏi. Con Ý, lanh và dữ nhứt, chỉ tay vào mặt thằng Còi hét lớn:
-Mầy nhát nó chết rồi mầy biết hông ? Ba má nó đi thưa, lính tới bắt rồi cho mầy ở tù tới mục xương luôn !
Thằng Còi nghe lạnh ngắt sống lưng, nó rùng mình một cái rồi co giò chạy thục mạng tìm chỗ trốn. Nó nhìn quanh, mấy bụi chuối, cây rơm, đám mía...chỗ nào nó cũng trốn qua rồi. Nếu không trốn đòn của cha thì cũng dùng trong các trò chơi với mấy thằng bạn. Cha nó không biết thì mấy thằng bạn chơi chung cũng mách nên không an toàn chút nào. May quá! Có một chỗ mới tinh: đó là chiếc xe bò đang đậu sau hè nhà thằng Một. Chiếc xe nầy hình như sắp đi, hai con bò bị cột vào càng xe đang giậm chân một cách sốt ruột. Nó lật đật chui vào nằm sát đáy thùng xe, vén tấm bao bố đang đậy mấy cái bọc lỉnh kỉnh, co giò nằm gọn hơ trong đó.
Bên ngoài đang cực kỳ hổn loạn, tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng khóc hù hụ của má con Mén, lát sau là tiếng cha nó gọi một cách giận dữ:
-Còi ơi ! Bớ Còi... ra đây mau. Mày trốn tới đâu tao cũng bắt được rồi đem trấn nước cho chết mới thôi đó !
Nó sợ quá, lấy hai ngón tay trỏ nhét vào hai lỗ tai, chặt cho đến nổi chẳng nghe được thứ gì ngoài tiếng tim đập đùi đụi trong ngực. Nó không dám thở mạnh, tận cho đến khi có tiếng voi vút lên lưng bò và tiếng quát cho bò khởi động :
-Thá !
Chiếc xe bò nầy của anh Năm Sung, cháu gọi ba thằng Một bằng chú ruột. Nhà Sung ở mút đuôi kinh Thần nông, nơi đó rất hẻo lánh, buồn hiu... Mỗi năm Sung đều ra nhà thằng Một ở ăn tết đã đời rồi mới về. Chiếc xe chạy càng xa, nhịp tim của Còi dần chậm lại, nó bắt đầu yên bụng thì lại nghe tiếng quát to:
-Ví !
Chiếc xe đứng sửng lại, Sung rút cây dao yếm dắt ở thành xe chém một nhát rất ngọt vào gốc cây mía de ra sát lề, chặt bỏ đọt rồi cầm nguyên cây mà xước. Cái động tác bình thường ấy làm thằng Còi sợ tới xón ra quần. Nhờ tiếng xước mía, tiếng rít nước một cách khoái trá của Sung, nó mới định thần trở lại

Nó giật mình khi bị hất tung lên vì bánh xe sụp ổ gà, chiếc xe dừng lại và giọng năm Sung quát to :
-Sao mầy ngu quá vậy ?
Nó tưởng năm Sung nói với mình, đang sợ muốn teo ruột, chẳng biết phải làm sao thì nghe tiếng roi quất, tiếng bò kêu, cái xe nhúc nhích rồi chạy đều trở lại. Thì ra anh ta mắng con bò, nó mừng rơn, nghe người nóng ngợp bèn hất tấm bao bố ra để thở.
Con trăng rằm tháng giêng rất to đang đăm đăm nhìn nó. Vậy là nó đã ngủ một giấc khá dài. Chiếc xe bò đang chạy bon bon, Sung bỗng tằng hắng rồi nói lối mấy câu trong bài vọng cổ "Cây trứng cá":
-" Cây trứng cá có bao nhiêu lá ?
Hai đứa mình... có bấy nhiêu tình?
Đếm cây có mấy trái xanh
Tim anh có biết bao hình bóng em..."
Anh ta tằng hắng thêm một tiếng nữa rồi mới bắt đầu vô vọng cổ.
Còi cũng nín thở, ém hơi theo Sung, cho đến khi nghe tiếng roi quất mạnh trên lưng bò cùng lúc với giọng xuống "xề" trút ra, nó mới thở hắt ra. Quên bẵng mình đang trốn nó vỗ tay bồm bộp.
Đang cao hứng, Sung liền dừng phắt lại, quát to :
-Đứa nào núp trong thùng xe đó ?
Còi nín thinh không dám đáp, cũng không dám thở. Chỉ khi nghe tiếng chân Sung chạm đất nó mới ráng cất cái giọng rung rung:
-Em là thằng Còi nè anh Năm.
Sung vừa nhìn nó vừa quát, còn lớn giọng hơn nữa:
-Mày làm cái gì mà núp trong xe ? Muốn ám sát tao phải hông?
Còi lẩy bẩy:
-Hổng phải đâu anh Năm, em trốn !
-Trốn ai ? Tại sao phải trốn ?
Hỏi xong, Sung chợt nhớ ra nên không chờ nó trả lời mà gằn giọng:
-Mầy có biết mấy ông lính làng quầng kiếm mầy tới láng lình khắp xóm hông?
Thằng còi khóc hu hu, được thể năm Sung hù thêm:
-Coi chừng con Mén nó hiện hồn về bóp cổ mầy đó!
Thằng Còi nức nở:
-Bộ nó chết thiệt rồi hả anh năm ?
Năm Sung cố nén cười:
-Hổng lẽ chết giả ngộ?
Thằng Còi cất giọng ai oán:
-Tại thằng Cà Reo nó thách. Nó nói em mà dám bắt sâu nhát con Mén là nó cõng em đi quanh chòm mả ba vòng.
Nó càng thống thiết Sung càng khoái, anh ta bồi thêm:
-Chắc tao phải quay xe, nộp mầy cho làng để lấy tiền thưởng mới được.
Còi khóc rống:
-Em lạy anh Năm, đừng đem em đi nộp. Anh cho em theo rồi bắt làm gì em cũng chịu.
Cố kìm tiếng cười Sung hỏi:
-Cho theo đặng mầy bắt rắn bỏ vô mùng cho nó cắn tao toi mạng hả? Tao đâu có ngu.
Còi lật đật thề :
-Em mà làm vậy cho bà bắn lòi hai con mắt. Từ rày em không dám bắt con gì nhát ai nữa hết.
Thấy nó nức lên một cách thảm thiết, lo sợ điếng hồn nên Sung tội nghiệp, bèn nói:
-Tao nói vậy thôi chớ đâu có nỡ. Muốn đi theo thì mầy phải nghe lời tao răm rắp, hông thôi tao mà nổi giận là...
Không chờ anh ta nói hết lời, nó đã đưa thẳng cánh tay, ngón trỏ chỉ lên trời thề thêm lần nữa :
-Em mà cãi lời anh cho thiên lôi đánh nát óc, cho ma da kéo giò, cho bà cố bẻ cổ...
Nó sắp lôi hết mấy quan chức ở cõi vô hình ra làm chứng thì Sung ngăn lại:
-Thôi thôi, đủ rồi. Một mình tao cũng đủ đập cho mầy giập phao câu. Không cần mắc công trời phật thần thánh.
Thấy gương mặt nó quá thiểu não, Sung động lòng trắc ẩn, vói tay lấy cái bọc sát chưn nó, mở sợi dây cột miệng lôi mấy cái bánh gói lá chuối ra đưa :
-Có đói hông ? Ăn mấy cái bánh ít nầy đi !
Trong khi Còi an tâm nhai mấy cái bánh ít một cách ngon lành, thì cả cái xóm Cầu ván đang lên đến đỉnh điểm của sự hoảng loạn. Không riêng gì gia đình, họ hàng nó mà hầu hết bà con đều hè nhau lùng sục khắp hang cùng ngõ cụt.
Những đóm lửa từ các bó lá dừa rải đều khắp vườn, khắp ruộng. Cảnh tượng nầy giống như khi mưa vừa xong và mọi người ráp nhau đi soi ếch vậy ! Tiếng gọi "Còi ơi !" vang lên từng chập. Lúc đầu còn kèm theo lời đe dọa, nhưng dần trở nên thống thiết với những câu tha thứ bằng cái giọng van xin nài nỉ.
Ba và chú con Mén cũng có mặt trong đám người đi tìm. Vị trí con Mén dần thay đổi, ban đầu nó được xem là nạn nhân, thế rồi từ từ trở thành nguyên nhân. Mối thương cảm dành cho nó phai nhạt nhanh chóng. Chị con Mén còn rầy nó :
-Ở nhà quê mà mầy bày đặt sợ sâu thì làm sao sống nổi !
Má thằng Còi cứ lập đi lập lại câu :
-Thằng con tui nó nhát như thỏ đế. Từ hồi nào tới giờ có dám chọc ghẹo ai đâu...
Bà đâu có biết rằng chính những đứa như thằng Còi mới hay liều mạng khi bị thách thức. Chúng rất muốn chứng tỏ cho mọi người thấy cái chất "anh hùng" tiềm ẩn của mình nên khoái làm mấy chuyện động trời. Cái câu "lù đù vác lu mà chạy" đâu có phải khơi khơi mà có!
Đến nửa đêm thì mọi người không còn hy vọng, ba con Ý bàn ra:
-Chắc nó thấy mọi người tìm ráo riết, đâm ra sợ thất kinh nên trốn biệt. Hổng chừng mình rút hết, nó thấy êm ru mới dám mò về .
Bà con cho rằng hợp lý, đành quay về nhà với mối hy vọng mỏng manh.
Cha, má thằng Còi vẫn còn nán lại. Bây giờ má nó mới bật khóc nức nở, cha nó quát:
- Khóc cái gì mà khóc. Nó trốn cho đã, một lát đói bụng rồi cũng quay về thôi!
Giọng nói tuy cố tỏ ra giận dữ, cứng cỏi nhưng bộc lộ nỗi đau xót, bất lực ấy, càng làm tiếng khóc thêm bi ai.
Khuya đó, trong lúc cha, má thằng Còi đang nằm gác tay lên trán, lắng tai chờ nghe tiếng cạy cửa thì bỗng có tiếng gọi thất thanh của cô Út Đẹp :
-Anh Ba, chị Ba ơi ! Thằng Còi nó té xuống sông rồi !
Rồi cổ không chờ hỏi, đứng ngoài cửa kể luôn một thôi :
-Tui đang ngủ thiu thiu thì giựt mình nghe cái tiếng "ầm", y như có ai nhảy xuống sông vậy. Tui nghĩ bụng " con nít nhà ai mà giờ nầy còn đi tắm ", cái rồi bỗng nhớ ra. Chắc nó leo lên cây sung trốn rồi ngủ quên nên té xuống sông.
Nhà cô ở sát bờ sông, cạnh cây sung rất to có cái thân bự như cột đình nằm song song với mặt nước. Mấy đứa con trai thường rủ nhau ngồi trên đó "thả bom" hoặc nhảy xuống sông tắm. Thằng Còi mê cái cú nhảy "lộn mèo" rất tuyệt của thằng Cà Reo, nên hàng ngày hay ra đó tập.
Cách cây sung mấy bước chân là cây dừa lão, gốc to bằng bụi tre với những cái rễ như triệu triệu con rắn nhỏ uốn éo, bu chi chít. Thân cây mang đầy vết thẹo, không còn cao lên nữa và ngày một gầy thêm. Mấy buồng dừa đeo lủng lẳng trên đọt đầy nhóc trái. Như thể nó cố vét hết sinh lực để đền đáp ơn đời. Rủi thay ! Vì nằm cheo leo sát mé sông nên ít ai dám leo hái. Những trái dừa bị bỏ quên, già, khô dần cho đến nổi cái mọng bên trong biến thành bộ rễ, lá mầm đâm ra làm bật cuống, buông mình rơi thẳng xuống sông. Thình thoảng những người phụ nữ, quảy gánh hoặc bưng thau, rỗ...đi gánh nước, giặt đồ, rửa cá...Họ lên nhà với bộ đồ ướt nhẹp, gương mặt rạng rỡ và một trái dừa trong tay. Mấy đứa trẻ tắm sông may mắn vớt được nó, sẽ yên lòng kéo dài cuộc chơi thêm một chút. Chúng tin rằng nhờ có " cống phẩm", chắc chắn sẽ được má mình đoái công chuộc tội.
Chỉ tiếc cho những "đứa" rụng vào lúc khuya lơ, khuya lắc, phải âm thầm trôi giạt cho đến khi rả mục, chẳng ai hay biết, nói gì đánh động cả xóm Cầu Ván như cái "tên" nầy !
Cha, má thằng Còi chưa nghe hết đã tức tốc chạy ra bờ sông, cùng kêu to :
-Bà con ơi ! Vớt giùm thằng con tui !
Những bó đuốc lá dừa lại thắp lên, sáng rực trên bờ và khắp mặt sông. Cả chục người đàn ông lưng trần cùng hụp đầu xuống nước. Mấy chiếc xuồng với những người đứng trước mũi vung chài tứ phía. Họ chỉ hy vọng vớt người nên cho dù rất nhiều cá dính lưới cũng chẳng ai thèm gỡ.
Chiếc xe bò dừng lại ở cuối đường, nơi đó có một xóm nhỏ với khoảng hai chục nóc nhà nằm rải rác.
Căn nhà sàn của Sung ở đầu xóm, ngay ngã ba, chỗ đầu con kinh gối lên hông con sông lớn. Con sông nầy rộng cho đến nổi, những căn nhà nằm hai bờ đối diện chẳng thể nào nhìn rõ mặt nhau. Nó mang dáng vẻ hiền từ với bờ sông thấp lè tè và các con sóng thì gần như bất động.
Xóm nầy toàn là những căn nhà tre, mái lá. Chúng đều nhỏ, chỉ lớn hơn cái chuồng bò một chút, có mái thấp chủm nhưng sàn rất cao. Chúng không nằm thẳng hàng và đồng loạt nhìn xuống sông như xóm Cầu Ván và hầu hết những xóm ven sông ở các cù lao khác.
Nhà của Sung nằm lặng lẽ sát bờ. Ánh trăng đang bao trùm nó và chảy xối xả xuống khắp mặt sông. Nước bị lấn, theo nhau nhảy lên bờ từng đợt. Mấy con sóng liếm liên tục vào từng cây cột nhà đang đứng ngâm chân trong nước, chắc để làm quen. Sung chắc lưỡi :
-Chèn ơi, nước lên tới đây lận! Leo thang coi chừng té nghe Còi.
Cả hai bắt đầu mang đồ lên nhà. Chiếc thang tre hơi nhỏ khiến họ di chuyển khó khăn, một tay cầm túi còn một tay phải bám chặt thang, bước từ nấc một. Còi hỏi :
-Sao anh làm sàn cao dữ thần vậy ?
Sung giải thích:
-Đất ở đây thấp lắm! Tới mùa lũ là bị ngập trước tiên, khô sau chót. Mầy thấy nó cao nghệu vậy đó, mà năm ngoái cái nhà còn bị uống tới nửa bụng nước.
Vừa qua khỏi thang, chân nó chạm vào mặt sàn mấp mô như sóng bởi làm bằng các thanh tre đan lên, xuống xen kẻ, bà con đặt tên cho cái kiểu đó là "đan long mốt". Sung móc cái hột quẹt đá trong túi ra, thắp sáng cây đèn trứng vịt đang đứng kế cái lư hương làm bằng lon sữa bò đổ đầy cát. Miếng ván nhỏ, vuông vức như bàn cờ, đựng hai món đó, cùng ba cái chung, được đóng vào hai khúc tre thòng từ mái xuống, có tên là bàn "Thông thiên". Cây đèn trứng vịt ấy được gọi là "đèn trời", thường được chong suốt đêm. Tập quán nầy có lẽ được bắt nguồn từ hai câu ca dao:
-"Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con".
Bàn thông thiên, theo tên gọi, có nghĩa là bàn thờ trời, nơi ta bày tỏ nguyện vọng với các đấng tối cao, tối thượng. Ở các nơi khác nó đều được để giữa sân, riêng có cái xóm nầy là đặt nó trong nhà, ngay chính giữa hàng ba.
Nhiều căn nhà ở xóm Cầu Ván thường trồng một cây gòn, chờ to bằng bắp vế thì cưa ngang, chỉ chừa một khúc cao đến ngực, rồi chuyển cái bàn thông thiên đang đặt trên một cây cột trồng tạm bên cạnh lên đó. Ở nhà thằng Còi cây gòn ấy vẫn sống nhăn, to và cao hơn nó nhiều, với mấy nhánh nhỏ bao quanh thân vươn thẳng lên trời. Những chiếc lá đan tay nhau, tạo thành mái vòm xanh ngắt phía trên rất đẹp.

Sung để mấy cái túi xuống, tháo sợi dây lòi tói rồi đẩy cửa bước vào. Căn nhà trống hoác, chẳng có bàn, ghế, giường, tủ...cản ngăn tầm mắt, nên đứng ở đầu cầu thang, Còi có thể nhìn thấu tới bếp.
Sung cùng nó đem mấy túi đồ vào nhà, rồi quay ra tháo bò ra khỏi càng xe. Hai con bò tới lúc nầy mới được thong thả, mừng gần chết mà còn làm bộ, vừa đi vừa lắc đầu lia lịa.
Sung cột chúng vào hai cái cọc tre đóng sẵn trên đường. Còi hỏi :
-Sao anh hổng làm chuồng cho tụi nó ?
Sung chỉ xuống sàn nhà :
-Nó ngủ ở đó ! Mấy bữa nước rong thì lên lộ nằm cho khỏi ướt cẳng.
Trăng sáng vằng vặc, soi rõ cảnh quạnh hiu của xóm nhỏ ven sông. Nỗi lo sợ vừa bỏ đi thì cái buồn liền xâm chiếm tâm hồn thằng Còi ngay lập tức.

Tiếng gà gáy rộn ràng không đủ khả năng kéo bật hai mí mắt Còi. Sung để cho nó ngủ, rón rén chui ra khỏi mùng, xuống bếp nấu cơm. Đổ ba lon sữa bò gạo vào cái nồi đóng khói đen thui, đến độ người lạ chẳng thể phân biệt được nó làm bằng gang hay đất, Sung vo gạo, hứng nước vào thau để dành lát nữa rửa chén, rồi đi nhúm lửa. Cơm sôi, y chắt nước ra tô rồi đặt trở vô nồi, một cái chén đựng mấy con mắm sặc.
Chỉ khi chén mắm chín, dậy mùi, Còi mới ngồi thẳng lưng lên nổi. Nó không xếp mền, cuốn mùng mà xăm xăm đi ra sau bếp. Trên sàn, một cái mâm nhôm mất vành, bên trong có hai chén cơm bốc khói với hai đôi đũa gát ngang miệng để cúng, một tô đựng nước cơm và một chén mắm rắc tiêu lưa thưa trên mặt đang chờ sẵn.
Thấy nó định ngồi Sung nhắc:
-Rửa mặt, súc miệng cho sạch ke rồi mới ăn !
Vừa nói y vừa chỉ cho nó thấy cái lu nước gần đó. Còi rửa mặt, súc miệng qua quít rồi nhổ nước xuống những khe nhỏ trên sàn. Nó đưa hai cánh tay ra, nghiêng mặt quẹt má phải, má trái vào từng tay một. Cái động tác "lau" ấy chẳng thể làm khô cả mặt. Sung định rầy nhưng thấy cái bộ tịch quýnh quáng ấy, biết nó đang đói lắm nên thôi.
Chờ cho nó húp cạn tô nước cơm, Sung mới hỏi:
-Mầy ngủ đã chưa ?
Nó gật đầu. Sung chỉ vào mấy khúc tầm vông và một đống dây làm bằng vỏ của cây gòn nói :
-Vậy thì ôm cái đống nầy đi theo tao.
Nó hỏi:
-Chi vậy ?
-Làm bè chuối.
-Làm bè chi vậy ? Anh có xe bò rồi mà.
Sung đáp:
-Đặng chống qua chống lại. Tao có đặt mấy cái lộp ở bờ kinh bên kia.
-Sao anh hổng đặt phía nầy, mà sao hổng xài xuồng.
Sung kiên nhẫn cắt nghĩa :
-Sắm nổi xuồng thì tao làm bè chi cho cực ? Bờ bên kia cỏ nhiều, tôm nó thích núp hơn phía bên nầy.
Nghĩ tới những bữa cơm với các món tôm kho, tôm nướng khiến Còi phấn chấn. Không chờ Sung sai khiến, nó bưng mâm lại sàn nước, nhúng chén vào thao nước cơm vo, cầm miếng xơ dừa kỳ ken két vào từng cái chén.
Trong lúc đó Sung đi dọn dẹp nơi vừa ngủ. Anh không xếp mà chỉ vắt chân mùng lên nóc. Mền và gối được chiếc chiếu bó tròn lại, lăn sát vô vách cho tiện.

Còi vác bó cây và dây trên vai. Sung tay cầm mác, tay cầm cây sào đi xăm xăm trên con đường cộ, nó là con đường duy nhất ở đây.
Vừa đi sau lưng Sung, Còi vừa ngó dáo dác. Xóm nầy đất rộng nhưng nhà thưa, cất lộn xộn chớ không ngay hàng thẳng lối như xóm của nó. Cây ăn trái được trồng rất ít. Sung nói như để trả lời trước những câu mà nó sắp hỏi:
-Ở đây nước ngập liên miên, mấy cái cây chết yểu hoài nên người ta chán hết muốn trồng. Buồn hiu, không trường, không chợ, chỉ có hai cặp vợ chồng chưa có con tới ở. Còn lại là dân cày thuê, cuốc mướn, như tao không hà !
Đến nơi có hàng chuối rậm rạp mọc lấn ra đường, Sung liền dừng lại, ngó lên đọt từng bụi rồi cầm mác đốn mấy cây. Thấy Sung bỏ qua một cây chuối to, nó hỏi :
-Sao anh không đốn cây nầy ?
-Nó chưa trổ buồng, đốn uổng lắm!
Sung chặt đúng sáu cây chuối. Mấy cây tầm vông đem theo từ nhà, được kẹp ngang sáu cây chuối để kết chúng lại. Sung cột hết bó dây bằng vỏ gòn cho chiếc bè thật chắc rồi cả hai cùng đẩy nó xuống kinh.
Nước chảy xuôi chiều, họ chỉ ngồi yên mà chẳng cần làm gì ráo. Cây sào đem theo để chống được ở không. Còi nằm ườn trên bè. Sung kéo nó dậy, chỉ tay xéo xéo với hướng mặt trời mọc hỏi:
-Đố mầy đi mút con kinh nầy, tới ngã ba là nhà của ai ?
Nó lắc đầu:
-Em hổng biết !
Sung dùng cả hai bàn tay, vò rất mạnh cái đầu của nó cho tóc xù ra như trái gáo, rồi quở :
-Nhà của mầy chớ của ai mà hổng biết !
 
Nó cười bẽn lẽn rồi hỏi:
-Xài sào khó hông anh Năm ?
Sung gật đầu:
-Khó gấp mấy lần xài cây dầm lận !
Còi ngạc nhiên:
-Vậy sao anh hổng xài dầm?
Sung đáp:
-Cái bè phải dùng sào nó mới đi.
Thấy Còi rờ rẩm cây sào, Sung hỏi:
-Mầy muốn học chống sào hông ?
Còi mừng húm:
-Muốn !
Sung đứng thẳng lưng, lấy cây sào từ tay nó, chống mạnh xuống nước, dồn sức vào hai cánh tay mà đẩy, chiếc bè lướt mạnh làm Còi chới với vội ngồi thụp xuống. Làm được vài lần Sung kêu nó đứng dậy, bụng ép sát lưng nó rồi cầm tay mà dạy. Lập đi, lập lại hoài ba động tác: Cắm, chống, rút sào.
Đến căn nhà sàn nhỏ nằm trên bờ mương, Sung cho bè tắp vào rồi gọi vang:
-Anh Hai ơi !
Một người đàn ông ốm nhom, cao nhồng như cây sậy, từ đám lau bên cạnh bước ra hỏi:
-Có chuyện gì mà réo om sòm vậy Năm ?
Sung hỏi cắc cớ:
-Anh làm cái gì mà chui vô bụi sớm vậy?
Hai Móm đáp :
-Tao thăm mấy cái trúm, còn mầy đi đâu mà tấp vô đây ?
Sung chỉ xuống chân nói:
-Tui đốn hết cái vườn chuối của anh đặng kết cái bè nầy nè! Anh coi có được hông ?
Hai Móm nhìn chầm chầm, dùng mắt để đo độ chắc của cái bè khá lâu mới nói:
-Coi cũng được ! Mà mầy làm bè chi cho mắc công, có đi đâu thì qua tao cho mượn xuồng...
Sung khoát tay:
-Tui xài mỗi ngày mượn hoài coi sao được ? Chị Hai có ở nhà hông anh ?
Hai Móm lắc đầu:
-Bả mới đội thúng thuốc đi bán hôm qua, chi vậy?
Sung thở ra một cách thất vọng:
-Tính nhờ chỉ dắt thằng cháu nầy gửi trả cho ba má nó. Nó trốn nhà theo tui, chắc ổng bả đang kiếm tưng bừng tở bở.
Còi điếng hồn, thì ra Sung không muốn nuôi nó như đã hứa.
Sung đâu có nhận ra điều đó, hỏi tỉnh bơ:
-Chừng nào chỉ về hả anh ?
Hai Móm gãi đầu:
-Bán hết mới về, đâu có biết ngày nào mà hẹn trước. Chuyến nầy bả đi Châu Ma, ít gì cũng phải ba, bốn ngày.
Sung nói bằng giọng nài nỉ :
-Chừng nào chỉ về anh nhớ hú liền cho tui nghen, để lâu quá ba má nó rầu thúi ruột !
Hai Móm hứa, giọng chắc nịch:
-Ừ ! Khỏi lo, bả về là tao cho mầy hay liền. Mai chiều có rảnh xuống nhậu với tao một bữa nghe Năm!
Sung vừa gật đầu vừa nói:
-Tui mà bắt được con tôm đầu tiên là xuống kiếm anh liền. Hủ rượu chuối còn hông?
Hai Móm đáp, hơi phật ý:
-Còn chớ sao không, chuối chín hà rầm, tao làm gối đầu hoài, dễ gi hết !
Sung hồ hởi:
-Rồi, để tui kiếm coi có ai đi xóm Cầu Ván, gửi thằng nhỏ xong là tới anh liền.
Còi nghe Sung nói vậy thì càng rung dữ, phen nầy là chết chắc !
Tối hôm ấy chờ nghe Sung ngáy đều, nó lồm cồm bò dậy, đẩy cái bè xuống mương rồi cong lưng chống về hướng mặt trời lặn. Chiếc bè đi êm ru, được một đổi thì gặp lớp đất sét dẻo ngoẹo ôm dính khắn cây sào. Còi dốc toàn lực vào hai cánh tay để rút nó lên, nhưng cây sào vẫn không nhúc nhích. Chiếc bè bị nước kéo đi theo, bỏ lại cây sào đứng bơ vơ giữa dòng đời.
Nó hoảng hồn đưa mắt ngó dáo dát. Dưới ánh trăng, con sông rộng mênh mông khoác gương mặt đen thui trông vô cùng bí hiểm. Tưởng tượng như tụi ma da và cả bầy thủy quái đang chờ bên dưới, khiến nó không đủ can đảm nhảy xuống nước lội vào bờ.
Chiếc bè bị nước đẩy ra đến giữa sông. Hai bờ đều xa nên tiếng kêu yếu ớt của nó chẳng đến được tai người. Nó tu lên khóc, Chiếc bè nhờ có ông tà bà độ nên không cần chèo chống cũng tấp êm ru vào cây cầu gòn dưới bến nhà nó. Còi mừng muốn phát khùng, không thèm đẩy bè lên cho nước khỏi trôi, nhảy phóc lên bờ rồi ba chưn, bốn cẳng chạy ào lên nhà.
Đang giờ trưa nên cả cái xóm Cầu ván vắng lặng. Tụi bạn chẳng có đến một đứa đi lang thang để đụng mặt, cũng không có ông lính nào tay lăm le súng chờ bắt, nên nó rất an tâm đi thẳng vô nhà.
Cha, má và hai đứa em của nó đang ngồi ăn cơm trên cái chõng tre quen thuộc kê sát giàn rau. Cha nó đang vói tay hái trái ớt đỏ tươi, cúi đầu dầm vô chén nước mắm để ngay trước mặt, không để ý đến sự xuất hiện đột ngột của nó.
Má nó đang cầm đôi đũa bếp to xới tung nồi cơm, ngước mắt nhìn nó cười hết sức hiền. Bà cũng làm thinh nhưng bới liền một chén cơm đầy vun, cắm đôi đũa tre đứng sửng y như cắm nhang vào cái lư hương rồi đưa cho nó.
Còi mừng húm! Chẳng những không bị đánh, bị rầy mà còn được cho ăn. Nó đưa hai tay bưng chén cơm, dùng vai lấn con út Đẹt giạt ra mút đầu chõng rồi chen vào ngồi sát bên cạnh má, nơi cách xa tầm tay của cha nó nhứt cho chắc ăn.
Bữa cơm hôm nay có đủ các món mà nó ưa thích. Trong cái mâm thau cũ xì đã bị ra teng xanh lè nhiều chỗ, quá đổi quen thuộc ấy có một tô canh chua lươn nấu với bắp chuối, dĩa thịt gà xào mặn đầy vun và một cái dĩa kiểu đựng một con cá chiên bự bành ky có chan nước mắm tỏi ớt ngập mình. Chao ơi, toàn những thứ cao lương mỹ vị, hiếm khi xuất hiện riêng lẻ trên mâm cơm nhà nó, nói gì đến chuyện tập trung cùng một lúc như vầy!
Còi ta vốn khoái tất cả các món xuất thân từ lươn như cháo lươn, lươn xào cà ri, lươn kho mắm...Không chỉ bởi thịt lươn ngọt hơn cá, mà còn do một lý do quan trọng nhứt đối với đám con nít: Con lươn chỉ có cái xương sống mà thôi ! Những đứa trẻ bận rộn như nó, vừa nhai, vừa nuốt, vừa nghĩ tới mấy cái chuyện trên đọt cây, khỏi lo bị mắc xương như khi ăn cá.
Nó được má gắp cho cái khúc mập nhứt,ngon nhứt ngay giữa bụng con lươn. Đang đưa lên miệng Còi liền bỏ xuống vì thấy hai đứa em đang tranh nhau dĩa thịt gà. Nó lật đật gắp cục thịt to nhứt, chôn xuống chén để dành.
Con Đèo, nhỏ em kế, chĩa đũa qua dĩa cá chiên. Con cá dãnh to bằng bàn tay xòe, nằm chổng ngược cả đuôi lẫn đầu, cái mình vàng ươm điểm mấy đốm trắng trắng, đỏ đỏ của tỏi và ớt, còn nguyên chưa ai đụng đũa. Theo lệ là phải rỉa từ đuôi lên, thế nhưng con Đèo lại đặt đũa vào ngay cái lưng, chỗ thịt đầy vun sát đầu con cá. Cái lối ăn ngon trước, dở sau nầy bị cha má nó cắm ngặt, vậy mà hôm nay chẳng ai lên tiếng la rầy. Còi ngứa con mắt quá, quên béng cái tội tày đình mà mình đang mắc phải, cũng quên cái câu "trời đánh tránh bữa ăn" mà cha má nó hay lặp đi lặp lại trong các bữa cơm, khi nó và hai con em tranh giành hục hặc. Nó cong mấy ngón tay cú cái cóc lên đầu con nhỏ.
Con Đèo vừa la, vừa khóc chói lói. Cha nó không nói không rằng, cầm chén cơm đang chan canh đầy nhóc đập vào trán nó một cái bốp.
Còi ta mở choàng cả hai con mắt. Bàn tay mát rượi đang đặt lên trán nó liền rút lại, giọng mừng rỡ của một người đàn bà cất cao:
-Ông ơi, nó tỉnh rồi nè !

Còi nhắm chặt hai mắt như muốn chui vào giấc chiêm bao trở lại. Nỗi nuối tiếc như con nước ngày rằm, tràn ngập cả cõi lòng. Than ôi ! Nó chưa kịp ăn tới một miếng mấy món ngon ê hề trong cái mâm thau cũ đó! Cũng chưa kịp và cơm, chưa kịp húp một muỗng canh, chưa kịp nhúng đầu đũa vào chén nước mắm để mút một cái trước khi ăn (thói quen mà nó cùng cha lập lại đều đều trước mỗi bữa cơm)...Ôi phải chi nó bỏ cái tật ưa giành ăn với hai đứa em thì hay biết mấy !
Thấy hai giọt nước đang chui ra từ mắt, sắp lăn vô hai lỗ tai của nó. Người đàn bà ấy vội kéo cái khăn lông nhỏ đang đội trên đầu xuống, lau nhẹ rồi hỏi, giọng đầy thương cảm:
-Cháu tên gì? Nhà ở đâu ? Con cái nhà ai? Mắc tội gì đến nổi bị đóng bè thả trôi sông vậy ?
Còi không muốn và cũng không dám trả lời. Hai mắt nó cứ nhắm khít rịt, đó là cách duy nhất để nó chối bỏ thực tại và khỏi phải trả lời. Thấy vậy người đàn bà còn dịu giọng hơn :
-Thôi đừng khóc nữa ! Cháu phải nói thì dì, dượng mới biết chỗ mà đưa về chớ !
Lúc nầy người đàn ông vừa bước tới, vội can:
-Nó chưa nhớ nổi đâu ! Chắc là hồn phi phách tán hết rồi ! Cha mẹ gì mà bất nhơn...Không biết nó trôi bao lâu rồi? Cái bụng lép xẹp chắc là đang đói teo ruột. Bà đi hâm lại nồi cháo rồi múc cho nó một chén, chờ con người ta ăn no rồi muốn hỏi cái gì thì hỏi.
Chỉ mấy phút sau, mùi cháo cá hành tiêu đã lan tỏa trong không khí. Còi chỉ mở mắt khi hai bàn tay rắn rỏi của người đàn ông lòn xuống lưng, xốc nách nó nâng dậy. Người đàn bà đưa cho nó một tô cháo nóng bốc hơi nghi ngút, có cái cán muỗng nhôm thò ra ngoài miệng. Còi đưa cả đôi tay ra để bưng chén cháo. Thấy hai bàn tay nó yếu xìu, run lẩy bẩy, bà nói :
-Thôi để dì đút cho, coi bộ cháu yếu lắm, cầm không có nổi đâu !
Rồi múc liền một muỗng, đưa lên miệng thổi, thè lưỡi ra nếm thấy nguội mới đút cho nó. Nó không thèm nhai, nuốt một cái ót, vừa nuốt xong là liền há miệng ra chờ sẵn. Người đàn bà hấp tấp, hớt vội, hớt vàng lớp cháo trên mặt, thổi phù phù thật mạnh, chưa kịp nguội là đút ngay. Chén cháo hết vèo ! Hai con mắt của nó hau háu, lộ vẻ còn đói muốn ăn nữa. Người đàn bà định đi múc thêm thì bị chồng ngăn lại :
-Cho nó ăn từng chút thôi ! Ăn cho đã một lần là giãn cái dạ dày, sa cái ruột không có tốt. Bây giờ cho nó uống một miếng "Chánh khí đơn" cho ấm bụng, dễ tiêu, lát nữa hãy cho ăn tiếp !
Bà vợ nghe theo, dẹp cái chén, rót cho nó một ly nước trà. Bà mở gói giấy lấy từ cái hộp thiếc đặt trên đầu cái tủ nhỏ xíu xuống, lấy ra một miếng cao đen thui vuông vức chừng ba ngón tay, bẻ một góc, biểu nó hả miệng, bỏ vào rồi nói:
-Nhai cái nầy cho nát rồi hãy uống nước !
Nó nhăn mặt khi nghe mùi thuốc. Vị đắng nghét, cay xè khiến nó chỉ muốn nhổ ra. Bà liền dỗ:
-Ráng nuốt xuống đi cháu ! Thuốc nầy hay lắm đó ! Ráng uống cho hết bịnh đặng ăn cơm, cho có sức mà chạy đi chơi.
Chờ nó nuốt xong bà mới chịu đưa cái ly trà đang cầm sẵn trên tay. Còi chụp vội ly trà, trà nguội ngắt, nó không cần thổi mà uống liền một hơi cạn tới đáy. Mồ hôi tươm ra đầy mặt. Người đàn bà lại lấy cái khăn ban nãy, chưa kịp đội còn vắt tạm trên vai, để lau mặt cho nó. Cái khăn nầy nằm thường xuyên trên đầu bà, nên toát ra mùi dầu dừa, y hệt mùi tóc của má nó. Cái mùi quen thuộc ấy khiến nó nghe nhớ nhà đến rưng rưng nước mắt.
Người đàn ông hỏi vợ:
-Cây quạt đâu rồi bà ?
Người vợ lật chiếu moi ra một cây quạt lá vông te tua đưa cho chồng. Cây quạt đã cũ lắm rồi ! Cán quạt được bó lại bằng mấy sợi dây thun xanh xanh, đỏ đỏ. Ông ta cầm lấy, quạt phành phạch vào lưng, đầu và mình của nó. Ông bảo vợ:
-Cái áo nó ướt nhẹp. Bà lấy cái áo của tui cho nó mặc, để mồ hôi ngấm ngược vô mình hổng tốt!
Bà vợ cự lại:
-Áo của ông bự bành ky nó mặc đâu có vừa ! Để tui lấy cái áo túi của tui cho nó mặc đỡ.
Bà đổ nước trong bình thủy ra cái thau nhôm nhỏ, lại lấy cái khăn vắt trên vai xuống, nhúng vào thau nước rồi vắt cho thật ráo. Bà giũ mạnh cái khăn, lau cái mình của nó từ trước ra sau, xã khăn rồi lau đi lau lại cho đến khi da đỏ ửng, mới mặc cái áo trắng cụt tay vào cho nó
Cơn bịnh của Còi chỉ do cái đói, cái sợ sanh ra, nên khi được ăn no, vững bụng là dứt nhanh, hết lẹ.
Vợ chồng Ba Rum, chủ cái ghe nầy, đã vớt nó tại Vàm Nao ngay khi chiếc bè sắp chui vào xoáy nước.
Họ vốn chưa có con. Cả hai đã kẻ trên, người dưới bốn mươi, chuyện sanh con đã từng trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên, cấp bách, đã được họ chấp nhận không còn thôi thúc nữa.
Người khổ tâm nhất là bà, vì vẫn còn mang mặc cảm có lỗi (không hiểu tại làm sao mà thiên hạ trút hết cái tội vô sinh nầy lên vai của mỗi mình người vợ), nên hể nghe đồn thầy nào, thuốc gì hay là liền tìm đến, mua cho bằng được. Thậm chí có người mách uống nước tiểu heo nái, bà cũng mua liền một con, cột theo ghe để dùng. Đeo đuổi theo cái phương pháp hết sức phản khoa học nầy đến gần nửa năm, không thấy công hiệu mới chịu thua rồi bán heo luôn chẳng thèm nuôi nữa.
Việc cứu Còi đã xóa bỏ cái mặc cảm ấy ! Vốn mê tính nên bà cho rằng Còi ta do chính Phật bà Quan Âm ra tay. Ngài đã nghe thấu những lời cầu khẩn, cùng hàng ngàn phẩm kinh Phổ Môn mà bà kiên trì tụng niệm mỗi đêm, nên cảm ứng rồi gửi tặng. Điều nầy được minh chứng bằng cái vẻ lơ mơ như người cõi trên của nó.
Bởi tin tưởng hết lòng nên thoạt đầu bà còn tìm cách hỏi đon, hỏi ren để cố moi ra từ cửa miệng của Còi, một vài câu về tông tích nó. Sau đó thì chẳng những không hề đá động tới, mà còn can ngăn mỗi khi ông chồng tra hỏi thằng nhỏ, với ý định là mang đem trả cho cha mẹ nó.
Ngay hôm sau bà bắt ông ghé vô chợ Long Xuyên để mua hai bộ đồ, một dài, một ngắn cho Còi. Bà còn bấm bụng xài sang, mua thêm một hộp sữa bò, một chục cam để tẩm bổ cho nó.
Từ ngày có Còi, chiếc ghe cà dom ấy bỗng ngập tràn sinh khí. Bà trổ tài bếp núc, cố nấu thật ngon, thay đổi món liên miên để nó ăn được nhiều cho mau khỏe, mau lớn. Ông cũng siêng bắt cá hơn. Ngoài tấm lưới được căng dưới lườn ghe, ông còn làm thêm mấy sợi dây câu thả hai bên hông. Để đủ mồi, mỗi lần cặp bến để ăn ngủ, nghỉ ngơi hoặc cho bà đi chợ, ông đều nhảy lên bờ, tay xách theo một cái xuổng để đào trùn. Số trùn nầy ông thả vào mấy cái chậu đất trên mui. Những chậu nầy được bà dùng để trồng mấy loại rau như tần dày lá, ngò gai, hành, ớt, cần tây, bạc hà, cà gió...Đây gọi là một công hai lợi. Mấy con trùn mê đào đường hầm lắm! Nhờ vậy mà đất thêm tơi, thêm xốp, giúp rau xanh tốt. Ngoài ra phân trùn còn là món ăn ngon số một cho hầu hết các loại cây nữa. Nhờ đủ mồi tươi ngon nên trong cái rộng to cột sau lái, lúc nào cũng nghe tiếng cá hớp bọt nước. Lắm khi gặp may còn có thêm mấy chú tôm càng xanh búng tay lách tách.

Khi phát hiện Còi ta đã biết rành hết các mặt chữ, Ba Rum mừng còn hơn trúng lô độc đắc. Thế là ông được thoát khỏi cái công việc mà mình ghét nhứt: Đêm đêm gò lưng đọc truyện cho vợ. Bà có tật mê nghe mấy cái chuyện bên Tàu, vừa nghe vừa ngủ gục. Hể nghe bà ngáy êm êm là ông bỏ sách xuống liền, chưa kịp làm gì thì bà mở mắt ra tức thì rồi hỏi:
-Tới đâu rồi ông?
Thế là ông phải cầm sách lên đọc tiếp.
Vậy là Còi ta có thú tiêu khiển mới. Những cảnh bày binh, bố trận, điều binh, khiển tướng đó khiến nó say mê theo dõi, đâm ra ghiền nên dán mắt vào mấy trang chi chít chữ đó mà đọc suốt ngày. Bà được nghe thỏa thích, mọi lúc mọi nơi, cả khi giặt đồ, vá áo, lượm thóc...
Có một lần cả nhà phải ăn cơm khét. Đó là khi thằng Còi ôm cuốn truyện "Tiết Đinh San chinh tây" ngồi bên cạnh cái cà ràng trong lúc bà đang nấu cơm. Nó đọc thao thao cái đoạn Tiết Đinh San đi theo kiểu "tam bộ nhứt bái" để cầu Phàn Lê Huê . Bà nghe say sưa cho đến nỗi quên phức công việc đang làm, chắt nước nồi cơm mà không thèm bớt lửa.
Ông cũng tạo cho mình một sở thích mới : Dạy võ và hớt tóc cho nó.
Võ thì Còi khoái lắm, học hết sức hăng say, còn hớt tóc thì nó sợ đến hết hồn. Bởi ở ngay cái lần đầu tiên, ông đã nhấp kéo trúng cái vành tai của nó.
 
Vợ chồng Ba Rum vốn là dân thương hồ. Hai chữ "thương hồ" nầy áp dụng cho những người sống trên sông và làm nghề buôn bán. Họ chuyên mua hoa quả theo mùa từ miệt thượng nguồn, chở xuống Sài Gòn hoặc các tỉnh lỵ lớn để bán cho mấy người chủ vựa. Cái tết vừa rồi họ trúng đậm chuyến dưa hấu. Hiện giờ trong ghe là dừa khô chất cao tới nóc.
Chiếc ghe bề ngang khá rộng, có lần Còi thử đo bằng cách nằm duỗi thẳng chân, vươn thẳng tay nhưng vẫn còn cách vách cả thước. Chiều dài ghe gần gấp ba chiều rộng, chia làm hai khoang: Khoang chính rất lớn để chứa hàng, khoang sinh hoạt nhỏ hơn nhiều. Chiều cao khoang sau rất thấp bởi có cái sàn cách đáy ghe gần một thước. Khi di chuyển trong khoang nầy phải dùng gối, hoặc ngồi chồm hổm rồi đi lạch bạch như vịt. Khoang đựng hàng không lót sàn, khi để trống đi thẳng lưng một cách bình thường.
Khoang sinh hoạt, nơi để ở, để ngủ nầy có diện tích chừng bốn mét vuông. Nó có một cánh cửa lớn chiếm nửa tấm vách, ngăn hai khoang. Hai cửa sổ nhỏ ở hai vách đối diện và một cửa lớn thông ra cái nhà bếp lộ thiên phía sau. Bên trong chỉ có một cái tủ nhỏ xíu cao chưa đến một mét, kê sát vách. Trên đầu tủ có lót một tấm vải nhựa màu xanh với khung ảnh của một đôi vợ chồng rất già đều bới tóc. Ba cái chén nhỏ xíu cùng cái lư hương bằng đất có cắm đầy chưn nhang, được đặt trước khung ảnh ấy.
Cái sân cuối ghe, gọi là sàn thì đúng hơn, được dùng làm bếp. Nồi, chảo, thau, rỗ, dao, thớt...được treo sát vách, phía ngoài. Hai cái cà ràng được kê trên một tấm ván cột bên hông phải sát bánh lái, đối diện nó là cái nhà tắm nhỏ xíu được làm từ chiếc thùng ván thông.
Mui ghe đóng bằng ván, có bọc thiếc bên ngoài để không thấm nước. Trên mui, phía sau lái, có cơi thêm một cái chòi không có vách, mái lợp lá rất mát. Ba bữa cơm trong ngày đều dọn trong ấy và vào những buổi trưa, tối, khi gió không chịu chui vào hai khung cứa sổ nhỏ trong khoang, nó được dùng làm chỗ ngủ .
Kiểu ghe nầy có tên là "ghe cà dom", có cái mũi và đuôi hơi cong lên một chút. Cái tên cho thấy nó có xuất xứ từ miền biên giới tây nam. Nó được trang trí như một con cá to, hai bên mũi ghe có vẽ hai con mắt, nằm trong cái mang khá lớn sơn màu đỏ với tròng đen to bằng trái chanh, nằm giữa tròng trắng.
Sàn trước có hai cây cột to bằng cườm cẳng, cao cả thước, đứng song song, trên đó có cột cái quai bằng dây luộc to cỡ cổ tay con nít, xoắn lại thành hình số tám để lồng mái chèo vào.
Bánh lái là một tấm ván to dựng thẳng ở sau ghe, cũng được trang trí như đuôi cá. Một khúc cây rất dài, đẽo từ một thân gỗ, to bằng cánh tay được bào rất láng, gắn vào miếng ván hình tam giác gọi là bánh lái đó, chĩa ngang vô giữa cái chòi. Người vợ có nhiệm vụ ngồi trong chòi, tay cầm khúc cây, dịch chuyển sang trái hoặc phải để điều chỉnh hướng đi của chiếc ghe. Khi nước xuôi, không cần phải chèo, người chồng thường lái thay vợ. Những lúc ấy Còi thường cà rà một bên để học cách lái và hỏi đủ thứ.
Nó cũng khoái chèo lắm, nên một hôm năn nỉ:
-Dượng Ba dạy cháu chèo với !
Ba Rum nghiêm giọng:
-Phải kêu bằng ba thì dượng mới dạy!
Thế là nó phải đổi cách xưng hô, bằng cách gọi chữ "dượng " nhỏ dần rồi bỏ hẳn. Với người phụ nữ thì dễ dàng hơn, bởi ngay từ đầu nó hay gọi lộn "dì" là "má". Mỗi lần nó gọi tiếng "má" là bà cảm động ghê lắm ! Có một lần không nén được, bà đã ôm và hun nó một cái thật mạnh làm nó mắc cỡ quá trời quá đất. Con nít ở quê, qua cái thời được bồng được ẵm thì những cái hun cũng thưa dần và cỡ tuổi thằng Còi thì gần như là mất hẳn. Cái món quà quý giá không tốn tiền mua ấy, tiếc thay ít khi được dùng!
Hai vợ chồng Ba Rum bàn tính rồi quyết định đặt tên nó là "Hên", bởi nhớ tới cái cảnh phải may mắn thế nào mới kéo kịp nó từ cái bè lên ghe !
Kể ra cả ba đều hết sức hên. Vợ chồng ba Rum khi không còn hy vọng, đâu ngờ lại có được một thằng con ngang hông, ngoan ngoãn, nên vui như bắt được vàng.
Thằng Còi thì khỏi phải nói ! Nó mừng như chết đi sống lại bởi chẳng những thoát chết mà còn được cưng, được chìu, sung sướng, phủ phê như chuột sa hủ nếp.
Bây giờ vô mâm cơm nó khỏi phải tranh ăn, tranh múc. Những món ngon nhất đều được má nuôi gắp bỏ vô chén cho nó. Mỗi lần đi chợ bà còn hỏi xem nó thèm quà bánh, món ăn gì rồi mua, nấu liền cho nó.
Sướng như vậy nhưng không hiểu sao đôi khi nó nghe buồn quá đỗi. Nó thích nhất là khi đổ mồ hôi được má nuôi kéo cái khăn đội trên đầu xuống lau mặt, lau mình cho. Những lúc đó nó phồng mũi, cố hít cho bằng hết mùi dầu dừa thấm đẫm trong khăn. Mùi thơm quen thuộc ấy, như loại mực vô hình, tô đậm thêm những đường nét trên gương mặt của má cùng tất cả người thân đã vẽ sẵn trong đầu, đem đến cho nó một niềm an ủi hết sức lớn lao .
Một hôm má nuôi nó đi chợ về, lấy cái gói vuông vuông, mỏng mỏng có bọc giấy nhựt trình kẹp bên nách ra. Bà kêu nó lại đưa cho rồi nói :
-Má mua cho con cái nầy nè !
Nó lật đật bóc ra xem, thấy có hai cuốn tập hàng chiếc, mỗi cuốn 100 trang. Một hộp viết chì màu và cây viết chì đen có gắn cục gôm màu hồng hồng nhỏ xíu ở một đầu, chẳng phải là mấy thứ ăn được, chơi được khiến nó thất vọng tràn trề, cái mặt như cây dù cụp xuống, tiu nghỉu hỏi:
-Con có đi học đâu mà xài mấy món nầy?
Má nuôi cười:
-Sáng hôm qua má thấy con dòm theo mấy đứa ôm tập chạy trên bờ, coi bộ thèm lắm ! Không tới được trường thì mình ở nhà học một mình. Con thích viết cái gì thì viết, muốn vẽ thứ gì thì vẽ .
Nó lắc đầu:
-Con không biết vẽ, cũng không thích viết cái gì hết !
Má nuôi rầy:
-Con bỏ lâu cây viết, mai mốt cầm là rớt lên, rớt xuống cho coi. Cái chữ coi vậy chớ quý nhứt hạng đó con. Má nhớ hồi đó má phải ra hội đồng xã ký giấy tờ, đâu có biết chữ, đánh cái dấu thập cũng không xong, người ta xúm nhau cười, má mắc cỡ muốn chết! Mình làm khéo thứ gì hay thứ đó. Viết chữ đẹp đỡ lắm con à! Ai mà biết mai mốt mình làm nghề gì. Cây viết nó nhẹ hơn cây chèo, cây cuốc dữ lắm ! Mấy người kiếm ăn bằng cây viết sướng gấp mấy lần người khác, lại còn được thiên hạ trọng vọng. Bộ con hổng thích sao?
Nó hỏi lại:
-Nhưng mà viết cái gì hả má ?
Má nuôi nó tần ngần:
-Thì thấy cái gì, nghe cái gì ngộ ngộ mà mình thích thì ghi lại cho khỏi quên. Túng cùng quá thì đặt tuồng bụng mà viết, đại để như con muốn lớn lên làm cái gì, muốn có thứ gì? Ăn món gì ngon, nghe chuyện gì vui thì chép đại vô cũng được. Hay là con nhớ ai thì viết thơ cho người ta, hỏi thăm, mời tới nhà chơi, vậy đó!
Má nuôi càng nói nó càng rầu, một tay cầm cuốn tập một tay gãi đầu sồn sột.
Mấy hôm sau, má nuôi lại hỏi:
-Con có viết được chữ nào chưa ?
Nó lắc đầu. Má nuôi chắt lưỡi rồi nói:
-Con đem cuốn tập với cây viết chì ra đây .
Nó riu ríu làm theo. Má nuôi suy nghĩ một lát rồi bảo nó:
-Con chép mấy câu nầy cho má : " Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Nó kêu lên :
-Khoan khoan, má chờ con chuốt cây viết chì đã. Má phải đọc từ từ, đọc lẹ quá con viết hổng kịp .
Má nuôi nó đang ngồi trước một rỗ cóc xanh lè. Một tay cầm cây dao cau mỏng dính, nhọn hoắc, vừa cầm một trái cóc lên, nghe nó nói như vậy liền bỏ xuống. Bà biểu nó đưa cho mình cây viết chì đen đang cầm, sẵn cây dao đang cầm trên tay, bà gọt cho đến khi cái mũi viết nhọn hoắt mới trả lại.
Nó ngậm cái ngòi cho mềm rồi mới viết. Sợ chữ xấu bị chê nên ráng gò, viết xong thì cả bàn tay tê cứng. Hai ngón trỏ và giữa, chỗ kẹp cây viết móp vào, tái ngắt. Mồ hôi cũng tươm ra đầy trán. Như để thưởng công, má nuôi rút một chéo khăn xuống, vừa lau cho nó vừa khen:
-Con viết chữ đẹp quá!
Rồi lựa một trái cóc ngon nhứt, tách múi thật khéo đưa tận tay nó liền.
Nó nhìn mấy nét nguệch ngoạc, y như dấu chân của bầy gà trên sân, mà mắc cỡ đến đỏ ké mặt mày .
Thế là từ đó, mỗi ngày nó đều phải chép cho má nuôi mấy câu ru em mà bà chợt nhớ. Bàn tay dần mềm đi và nét chữ cũng cứng cỏi lên dần. Bà nhớ tới đâu thì cho nó chép tới đó. Nhiều khi nó đang ngủ lơ mơ cũng bị gọi dậy. Bà cười như xin lỗi, nói:
-Con lấy tập ghi liền cái câu nầy vô để hông thôi má quên.
Có những câu nó đã quen biết từ trước, cũng có những câu lạ hoắc. Những câu nó thích, hiểu và cảm động nhứt, là những câu nói về tình mẹ. Nó nghe bà đọc mấy câu đó, chỉ cần một lần là thuộc liền, ghi liền một mạch, không cần phải nhờ lập đi lập lại. Nhưng cũng có những câu mà nó chẳng khoái chép chút nào. Đó là mấy câu làm nó thắc mắc, chẳng hạn: " Khoan khoan bớ mụ chèo đò, bớ cô cầm lái dặn dò trước sau", thì nó phải hỏi cho hiểu rồi mới chịu chép:
-Ai dặn, mà dặn cái gì hả má?
Bà cười, áy náy :
-Má cũng hổng biết ! Bài nầy chắc người ta đặt ra để dỗ con nít, cho nó êm tai dễ ngủ mà thôi! Mấy bài kia thì để chỉ dạy. Nói suông khó lọt tai, khó nhớ nên phải ráp cho có vần, có điệu.
Rồi bà chép miệng:
-Ngẫm lại, ông bà mình sao mà khéo quá ! Nói cái gì cũng hay, dạy cái gì cũng đúng. Như cái câu " Chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều", sao mà y chang cái cảnh của má khi đi làm dâu. Bà nội con hồi đó khó lắm ! Má làm gần chết mà không dám ăn no. Quầng quật cả ngày nên gà vừa lên chuồng thì hai con mắt cũng híp lại. Vậy mà đâu dám chui vô mùng ngủ, phải chờ trong nhà ngủ hết, coi đóng cổng, gài cửa rồi mới đi ngủ sau cùng. Bị rầy hà rầm nên cứ chiều chiều là nhớ nhà rồi lén ra sau hè ngồi khóc.
Nói tới đó bà lại rươm rướm nước mắt, kể tiếp:
-Ba với má đâu có muốn sống trôi nổi như vầy ! Tại má không có con nên ông bà nội biểu ba con bỏ má mà cưới người khác. Rầy rà hoài nên ba má phải bỏ trốn. Ban đầu đem theo cái xuồng nhỏ xíu, rồi ráng làm, từ từ để dành tiền sắm ghe lớn. Cũng nhờ ông bà ngoại giúp đỡ nên mới được như hôm nay.
Nó nghe thương bà quá, chưa biết an ủi nên chỉ hỏi:
-Hai người trong tấm hình thờ là ông bà nội hay ngoại vậy má?
Bà chép miệng :
-Ông bà nội ?
Nó ngạc nhiên :
-Sao má hổng thờ ông bà ngoại ?
Hai giọt nước mắt nằm trên khóe ban này bây giờ đã lăn đến nửa gò má. Bà kéo khăn lau cho khô rồi nói:
-Đàn bà có chồng làm sao dám thờ cha mẹ ruột hả con ?
Trưa đứng bóng. Mặt sông như chiếc khiên bạc khổng lồ ngăn chặn những tia nắng nóng rát, bén ngót, đâm thẳng xuống đầu. Chiếc ghe cà dom với những nhịp chèo uể oải, đang từ từ trôi sát bờ. Nó quá nhỏ bé và thầm lặng, chẳng đáng để mấy con sóng bận tâm. Chỉ đến khi một chiếc o bo trắng toát xuất hiện, với cái máy đuôi tôm thật to gắn phía sau khiến cái mũi chổng ngược, phóng như điên mới làm chúng nổi giận đùng đùng. Chúng nhảy chồm lên, cố tóm đầu cái con quái vật phách lối đó mà dìm xuống nước. Vồ hụt hoài khiến chúng tức tối, lao thẳng vô bờ, táp liên tục vào bãi bùn và cây cầu dừa đang nằm chịu trận cho đã nư.
Tiếng động cơ đánh thức mấy đứa con nít trong những căn nhà lá ven sông. Những bé trai đang chơi trò rượt bắt, hoặc đang ngồi vắt vẻo, đu đưa trên cây ổi, cây mận, cây me...liền nhảy phóc xuống đất. Chúng chưa kịp mang dép là đâm đầu chạy bổ xuống sông. Đa số đứng lại trên bờ vừa hò hét vừa vẫy tay. Chỉ có hai đứa con trai, lưng trần, quần xà lỏn là nhảy ào xuống nước để đè đầu con sóng.
Còi nhìn chúng bằng đôi mắt thèm thuồng. Mới hôm nào nó còn là một trong hai thằng bé đó. Mới hôm nào nó và mấy đứa bạn, còn bơi theo chiếc ghe chở hàng đi ngang qua khi đang tắm, để bắt chuyện với một thằng nhỏ trạc tuổi nó, ngồi trong ghe. Thằng bé ấy cũng ló mặt ra cửa sổ, hau háu nhìn một cách thèm muốn, y như nó bây giờ. Tụi nó đã cùng cười với nhau. Còn nhớ chúng hỏi thằng bé:
- Nhà mầy ở đâu?
Nó lắc đầu:
-Tao không có nhà. Chỉ có ghe thôi !
Chúng hỏi tiếp:
-Mầy có đi học hông?
Nó lắc đầu thêm lần nữa:
-Tao không có đi học !
-Mầy biết chữ hông ?
Trước sự ngạc nhiên của chúng, nó gật đầu:
-Biết, ba tao dạy !
Chúng hỏi thêm như thách đố:
-Mầy thuộc hết bảng cửu chương chưa?
Thằng bé đáp không do dự:
-Thuộc.
Thấy chúng tỏ vẻ không tin, nó thách:
-Tụi bây đố đi, tao đọc cho coi.
Chúng lựa hai bài khó nhất là cửu chương bảy với chín. Thằng bé đọc ro ro, cả xuôi lẫn ngược làm chúng cụt hứng. Coi như tụi nó thua, bèn tìm cách gỡ :
-Mầy có bạn nhiều hông?
Thằng bé lắc đầu tiu nghỉu. Chúng hơn thằng bé một thứ, vậy là huề, bèn rủ :
-Nhảy xuống tắm với tụi tao cho vui.
Nó rút vai, le lưỡi:
-Ba tao hổng cho đâu!
Thấy chúng định bơi vào bờ nó bèn năn nỉ:
-Lội theo chơi với tao một chút nữa đi !
Cho rằng rủ suông không thuyết phục, nó nói:
-Chờ một lát, để tao lấy cái nầy cho tụi bây !
Nghe vậy chúng đâm ra tò mò nên bám tay vào ghe nán lại chờ. Thấy thằng bé biến mất, sợ bị lừa nên một đứa trèo lên ghe, nhoài người để nhìn theo. Chiếc ghe chở khẳm nên nó vói tay bám vào bậu cửa sổ rất dễ, thót lên ngồi gọn hơ, liếc vào khắp ghe rồi nhảy xuống thông báo:
-Chiếc ghe nầy chở nhóc ké dưa hấu, tụi bây ơi!
Lát sau thằng bé ban nãy lại nhô đầu ra cửa với hai trái dưa hấu nhỏ xíu cầm trong tay. Nó đưa hết cho chúng, rồi nói:
- Dưa gốc ngọt lắm đó, ăn liền đi !
Chúng chuyền tay nhau hai trái dưa hấu, bơi ngay vào bờ trước sự thất vọng của thằng nhỏ. Chúng được chào đón bằng tiếng hoan hô vang vội của mấy đứa đang tắm gần bờ. Hai trái dưa bị đập vô đầu gối bể đôi. Cả bọn chia nhau, đứa nầy cạp một miếng rồi đưa cho đứa khác. Dưa tuy nhỏ nhưng rất ngọt, chúng khá đông nên chuyền vừa đúng giáp một vòng là hết. Mẫu dưa có chút xíu càng làm dạ dày thêm thổn thức, khiến cả bọn còn thèm hơn khi chưa nếm. Chúng đều ao ước, phải chi được làm thằng bé đó để ăn dưa hấu cho đã đời. Còn bây giờ...
Hai đứa vừa nhảy xuống nước, mê nhồi sóng nên không thèm nhìn đến chiếc ghe. Chúng đang dang rộng hai tay, ngửa mặt nhìn trời, tận hưởng cái cảm giác bềnh bồng do được sóng nâng lên, hạ xuống, kéo ra, đẩy vào...Chúng không thể bắt gặp tia mắt khát khao, nụ cười và câu hỏi: "Tụi bây muốn ăn dừa hông ?" của nó. Chẳng đứa nào đáp, chẳng đứa nào nhìn, chẳng đứa nào cười với nó lấy một lần, khiến nó thấy tủi và buồn quá đỗi!
Ba Rum bắt gặp cảnh đó. Ông biết nó rất thèm được chơi với chúng. Chiều hôm đó ông dừng ghe, lấy cớ là mò ốc để nó có dịp tắm sông với mấy đứa con nít.
Xóm nầy nhà thưa thớt, bến vắng teo, không thấy ai xuống tắm. Ba Rum thấy vậy bèn thôi mò ốc mà chơi với nó. Bà cũng không ngồi trên ghe, tắm bằng cách múc nước xối lên người nữa, mà nhập bọn rồi rủ nó thi bơi, thi lặn...
Để cho vui, ông đồng đồng nó lên vai rồi ném thật mạnh, thật xa làm bà hết hồn còn nó thì khoái chí cười khanh khách. Hai cha con nô đùa cho tới khi mắt đỏ ké còn chưa chịu thôi. Bà phải bắt họ ngưng rồi kéo nó lại gần để kỳ lưng, cổ, lỗ tai ... Hai ngón tay cái của bà liên tục miết trên da của nó. Lớp đất bám trên đó bị se lại thành những sợi ngắn ngủn, đen thui, rơi lả lả, y như một bầy lăng quăng bơi, lặn rồi chìm trong nước.
Trong lúc cả hai lo kỳ cọ, Ba Rum đi dọc bờ sông kiếm đất sét về để dạy nó nặn đồ chơi. Một trái xoài khá to của cây xoài tượng sát mé sông, rớt ngay trước mặt. Ông lượm lên rồi đem đưa cho vợ. Bà mừng rơn nói:
-Hên quá ! Để tui bầm xoài, luộc ốc, nướng thêm một con khô sặc bổi, trộn cho hai cha con ông một dĩa gỏi.
Một người đàn ông dắt hai con bò xuống sông cho uống uống nước, thấy chiếc ghe, đoán Ba Rum là chủ nên hỏi:
-Ghe đi đâu ? Chở món gì vậy ông anh?
Ba Rum đáp:
-Chở dừa đem bán ở Sài Gòn.
Ông ta mừng húm nói:
-Tui có mấy chục trái trong nhà, anh lấy giùm, trả bao nhiêu cũng được.
Ba Rum nói:
-Tui mua của người ta giá nào thì trả cho anh giá đó. Anh có bao nhiêu thì gom hết, đem lại đây tui mua cho !
Khi cả ba đang ăn cơm thì ông ta đội một thúng dừa đến. Ba Rum mời:
-Gặp bữa ăn ba hột lấy thảo ông anh.
Người đàn ông định từ chối nhưng nhìn vào mâm cơm thấy có dĩa gỏi và chén nước mắm tỏi ớt quá hấp dẫn, cầm lòng chẳng đặng nên nói:
-Cơm thì tui ăn rồi, còn nhậu thì chưa ? Nếu anh có lòng thơm thảo thì chờ tui lên nhà xách bình rượu thuốc xuống, mình lai rai cho vui.
Ba Rum, vốn đang thèm bạn nhậu, còn mừng gấp đôi y nên đồng ý cái rụp liền:
-Rồi, anh đem lẹ lẹ nghen !
Ông chưa kịp nhai, nuốt miếng cơm vừa và vô miệng là đã thấy y ta xuất hiện, chẳng những bưng theo hủ rượu mà còn cặp nách cây đàn.
Họ vừa nhậu vừa đàn ca, thỉnh thoảng dừng lại để chuyện trò, một cách hết sức hào hứng. Dịp nầy Ba Rum khiến Còi khâm phục và tự hào quá đỗi, bởi làn hơi của ông cũng ngọt không thua Hữu Phước.
Người đàn ông kia cũng đâu có kém. Nó dán mắt vào mấy ngón tay kéo lê trên những sợi dây đàn, lướt nhẹ, bấm và rung ấy với tràn ngập một lòng mến mộ. Cái cách ông ta rướn cổ lên để bắt đầu một câu vọng cổ, rồi nhắm mắt lại để xuống "xề" khiến nó phải căng cả người theo. Nó cố ghìm cái cảm xúc đang dâng cao trong ngực, đẩy xuống hai bàn tay, bắt chúng chờ cho đến đúng lúc đó mới ào ra như sóng!
Nó ngồi mãi, chờ mãi, nghe mãi...
Gió từ lòng sông thổi vào mát rượi, tiếng đàn, ca quá êm tai khiến hai mắt nó từ từ sụp mí, nằm mẹp xuống rồi ngủ hồi nào cũng không hay.
Thiếu mất sự cổ vũ nhiệt tình của nó, hai người đàn ông cũng cạn dần cảm hứng. Họ quay sang trò chuyện, hỏi thăm từ công việc, gia đình, con cái rồi lần tới nguồn cội của nhau. Người đàn ông nầy là nông dân thuần túy vì ngoài huê lợi từ ruộng vườn, y ta chẳng có thêm một nguồn thu nhập nào khác.
Họ đã biết thứ, biết tên, biết tuổi của nhau. Tuy mới quen có mấy tiếng đồng hồ nhưng cảm xúc do lời ca tiếng nhạc cùng sự trợ giúp của men rượu, khiến tình bạn của họ tăng trưởng một cách vô cùng nhanh chóng !
Buổi nhậu kết thúc khi một thằng bé trai đứng trên bờ gọi :
-Ba ơi về ngủ !
Tư Chắc, tên và thứ của người đàn ông đó, vội cáo từ. Vừa quay mình vừa ngoáy đầu, mời đi mời lại mấy lần rằng sáng mai Ba Rum phải lên nhà y uống trà. Khi đặt chân lên tấm đòn mỏng, y còn nhắc lại lời mời rồi nhấn mạnh:
-Anh hứa là phải giữ lời đó nhe !
Lòng còn quyến luyến nên Ba Rum gật đầu lia lịa:
-Tui mà hứa là như đinh đóng cột, anh đừng có lo!
Sáng hôm sau, ăn xong chén cơm chiên, Ba Rum lấy tấm đòn mỏng gác trên mui bắc lên bờ trở lại. Ông dắt thằng Còi theo để nó dịp trò chuyện với đứa con trai hồi tối, bởi biết nó rất thèm có bạn .
Căn nhà lá khá rộng nằm lọt thỏm trong chòm cây ăn trái. Chủ nhà đã ngồi sẵn ở chiếc bàn uống trà giữa nhà để đợi khách. Vừa nghe tiếng chó sửa là y phóng ra liền để đón bạn. Thấy thằng Còi đi sau lưng Ba Rum, ông mừng rở gọi to:
-Chọn ơi, ra chơi với bạn nè con!
Một thằng bé đen thui, gầy và thấp hơn thằng Còi một chút, ló mặt ra cửa buồng, nhìn một cái rồi rút vô liền. Chủ nhà hơi ngượng, giải thích :
-Cái thằng nầy nhát còn hơn con gái nữa. Tối nào cũng phải có tui nằm tấn cái cửa mùng nó mới chịu ngủ. Sao anh hổng rủ chị lên chơi cho biết nhà ?
Không chờ Ba Rum trả lời, y ngoái đầu ra sau gọi vợ :
-Má con Trơn ! Bà xuống ghe mời chị Ba lên nhà uống nước giùm tui !
Bà vợ đang cho heo ăn ngoài sân liền quay mặt vô nhà gọi đứa con gái:
-Trơn, con ra coi chừng con heo giùm má. Đừng cho nó thọt cẳng vô cái máng nghe hông !
Bà bước lại lu, múc một ca nước rửa tay, vừa đi vừa chùi vô quần rồi bước xăm xăm xuống sông.
Lát sau hai người đàn bà đã nắm tay nhau, bước đến bàn trà một lượt. Họ chào ra mắt hai người đàn ông rồi rút vô nhà sau nói chuyện. Ở thôn quê, phòng khách, bàn trà, cái chõng ngoài hiên là chỗ dành cho đàn ông. Bếp, sàn nước, cái võng nhà sau là nơi gặp gỡ của chị em phụ nữ.
Tư Chắc vào buồng cầm tay thằng con dắt ra, khoe để giúp nó tự tin :
-Cái thằng nầy nó bắn chim giỏi số dzách đó con !
Hai đứa nhỏ nhìn nhau bẽn lẽn. Tư Chắc giục :
-Dắt anh Hên ra vườn đi Chọn.
Chúng nó có vẻ lúng túng trước mặt người lớn, nhưng vừa ra khỏi tầm mắt của họ là nhìn nhau cười mỉm chi liền. Còi móc trong túi ra mấy cục kẹo mà má nó đã bỏ sẵn vô túi, đưa cho Chọn rồi hỏi:
-Ăn hông?
Thằng kia không đáp, cầm lên một chiếc, lột tấm giấy bao có in hình trái khóm bỏ vô miệng liền. Bây giờ Còi mới dám chắc rằng thằng bé nầy nhỏ tuổi hơn mình, bởi cái miệng nó trống lổng vì hai cái răng cửa còn chưa kịp mọc lại.
Ba Rum vừa nhìn cái cơ ngơi là biết ngay hai vợ chồng Tư Chắc là những người làm ăn chăm chỉ, đàng hoàng.
Căn nhà tuy không to lắm nhưng rất gọn gàng, sạch sẽ. Nền đất màu nâu đen được nện rất chặt, phẳng lì như mặt trống, láng mướt chẳng kém gì lót gạch. Tuy cột tre, mái lá nhưng mát mẻ sáng sủa nhờ hàng ba thông thoáng và trổ nhiều cửa sổ.
Miếng vườn bao quanh nhà sum xuê cây ăn trái. Mấy luống rau được vun liếp rất cao, chăm sóc cẩn thận nên ra lá xanh mướt. Giàn bầu, giàn mướp cũng đầy nhóc trái. Chuồng bò, chuồng heo sát bên nhà nhưng chẳng nghe mùi nồng nặc, chắc chúng được tắm và chuồng được dọn rửa mỗi ngày.
Những người vốn là nông dân, yêu ruộng đất, nhưng vì hoàn cảnh phải xa vườn, lìa ruộng như Ba Rum thì nơi đây đúng là miền đất hứa. Ông bất giác buông lời khen và ao ước một cách thực lòng:
-Chỗ ở của anh coi mát con mắt quá. Phải chi tui được ở một nơi như vầy!
Tư Chắc chụp liền câu nói đó mà rủ:
- Anh thiệt lòng muốn như vậy thì tui sẽ để ý. Hể có ai bán đất là cho anh hay liền.
Ba Rum cười, hỏi lấp lửng:
-Tiền đâu mà mua ?
-Đất ở đây không có mắc lắm đâu ! Nhiều hổng dám nói, chớ chừng vài công thì trúng mấy chuyến dưa mùa tết là anh dư sức sắm.
Thấy bạn quá nhiệt tình, Ba Rum cảm động nói:
-Nói thiệt với anh, cực chẳng đã tui mới làm nghề nầy. Mỗi lần nghe gà gáy, chó sủa lá bắt buồn muốn chết. Vợ chồng tui cũng tính với nhau, đeo theo ghe ít năm nữa rồi ráng kiếm một chỗ để cắm dùi cho con đi học. Mai mốt trăm tuổi cũng khỏi lo không có đất chôn.
Tư Chắc hỏi tới:
-Thằng con anh cái mặt coi sáng quá, nó mấy tuổi, có đi học chưa?
Ba rum trả lời ngắn gọn rồi đánh trống lảng:
-Mười. Hồi nảy tui nghe anh kêu "má con Trơn". Trơn là con gái lớn của anh phải hông ?
-Ờ! Nó mới có chín tuổi hà !
Ba Rum vỗ tay lên đùi nghe cái "chách" rồi nói:
-Nhứt gái lớn hai, nhì trai hơn một, vậy là tui với anh làm sui được rồi đó. Nó học tới lớp ba rồi hả?
Tư Chắc gãi đầu :
-Nó nghĩ học hồi năm ngoái rồi. Tại cái trường quá xa, qua tới ba bốn cây cầu khỉ. Nó đi học về bị rớt xuống sông, may mà có người vớt chớ hông thôi dám toi mạng lắm ! Má nó sợ quá nên bắt nghĩ học luôn. Tội nghiệp ! Con nhỏ sáng dạ lắm, để tui kêu nó vô chào cho anh coi mặt hén !
Rồi cất giọng dõng dạt:
-Trơn, vô ba biểu coi!
Tiếng "dạ" cao vút và một đứa con gái với hai tay áo xăn tới cùi chõ chạy từ hàng ba vào. Tư Chắc sai liền:
-Con khoanh tay chào bác Ba rồi chạy vô bếp xách cái bình thủy đem ra đây cho ba.
Con bé khoanh tay cúi đầu nói:
-Cháu chào bác Ba !
Ba Rum vừa nhìn nó một cái là thấy ưng bụng liền, nghĩ thầm: " Con nhỏ nầy bong bắn lẹ làng, hơn hẳn thằng em của nó, cao cũng xấp xỉ thằng Hên, mặt mũi sáng láng. Coi bộ được à nghen !"
Y nghe thương nó liền nên móc bóp, lấy ra tờ giấy một đồng còn hơi mới mới đưa cho, vừa cười, vừa nói:
-Bác cho con một đồng nè, lấy đi để dành mua bánh ăn.
Con Trơn chưa dám cầm, nhìn ba nó có ý dò hỏi. Tư Chắc biết ý nên nói:
-Cám ơn bác đi con !
Nó cầm tiền bằng cả hai tay rồi nói:
-Cháu cám ơn bác Ba.
Rồi chạy ra nhà sau để lấy cái bình thủy. Má nó đang đứng trước cái lò trấu để nấu nước, cạnh bên là một người đàn bà lạ. Nó liền bị má gọi lại, bảo y như ba nó:
-Con khoanh tay chào bác Ba rồi bưng cái bình thủy ra cho ba con, má mới châm đầy rồi đó !
Con Trơn lại làm y, nói y như khi nãy, lòng tràn trề hy vọng. Người đàn bà không cho tiền, chỉ kéo nó lại rồi hun vô hai gò má.
Nó bưng cái bình thủy ra. Thấy ba nó và ông bác Ba mới tinh kia đang ngoéo tay, vỗ lưng nhau rồi cười ha hả như con nít !
Vợ Tư Chắc dụi lửa, tắt bếp, vừa vói tay lấy cái thúng úp trên miệng bồ đầy vun lúa, vừa nói:
-Để tui dắt chị ra vườn cắt mấy mớ rau, mớ trái.
Lúa bám trên miệng thúng rơi ra, bà ta khom lưng nhặt lên từ hạt. Vợ Ba Rum cũng làm phụ, lớp vỏ nhám cùng hai đầu nhọn của chúng chạm vào tay làm lòng bà bỗng xót. Mấy hạt lúa vàng ươm ấy, gợi cho bà nhớ đến cánh đồng mênh mông và những vụ mùa xa xưa ở quê mình. Những hạt lúa, cho dù ở đâu, cũng mang màu sắc và hình dáng giống hệt nhau. Chúng hiền lành và thân thuộc quá chừng! Bà hỏi:
-Năm ngoái lúa trúng hông chị ?
-Cũng khá, nhưng không bằng năm kỉa, năm kia.
-Sao vậy ?
-Nước lên sớm quá nên không kịp chín, trúng mà cũng như không.
Họ dừng lại dưới cái giàn cao, lợp đầy những chiếc lá to gấp đôi bàn tay xòe rộng. Cái giàn rất lớn nầy cho cả mướp và bầu leo chung, thứ nào cũng đầy nhóc trái. Vợ Ba Rum ngửa mặt đếm rồi hỏi:
-Chị bón phân gì mà tốt quá vậy?
Vợ Tư Chắc lắc đầu:
-Không có bón thứ gì hết ráo !
Những trái mướp hương dài gần bằng cánh tay, xanh như cẩm thạch với những cái sọc đậm màu hơn chạy dọc theo thân. Những trái bầu tuy to gấp đôi, gấp ba chúng mà vẫn còn non, chưa lớn hết. Có da căng bóng, màu xanh lợt lốm đốm trắng được phủ một lớp lông mịn như nhung trông vô cùng gợi cảm. Những trái cà khoác tấm áo sa ten bóng lưỡng màu tím thẫm cũng được chui vào nằm ké.
Cái thúng gần đầy mà vợ Tư Chắc còn chưa chịu dừng tay. Vợ Ba Rum vội ngăn lại:
-Thôi thôi nhiều lắm rồi !
Vợ Tư Chắt bèn chỉ vào mấy vạt rau sống, bù ngót, cải dún....bên cạnh hỏi:
-Chị xài thứ gì nữa hông?
Vợ Ba Rum từ chối:
-Bây nhiêu đây là ăn lòi bảng họng rồi ! Chị đừng cắt thêm mà uổng, để dành đó...
Vợ Tư Chắc ngắt lời:
-Để dành cũng bỏ chớ nhiều quá ăn đâu có hết!
Bà chỉ vào cái nia to kê trên đống củi gần đó, nói :
-Chị coi nè, tui phơi đầy một nia bầu .
Rồi bà chỉ vào mấy trái mướp khô queo còn bám trên giàn:
-Ba cái nầy thì lấy xơ để kỳ mình, rửa chén.
Vợ Ba Rum tiếc hùi hụi, chắc lưỡi:
-Sao chị hổng bán bớt.
Vợ Tư Chắc thở ra:
-Ở đây nhà nào cũng có, bán cho ai ? Chị ăn giùm là tui khỏi bỏ mang tội, cám ơn hổng hết!
-Sao chị hổng trồng ít lại một chút?
-Mỗi thứ có một hai cây thôi chớ đâu có nhiều.
Vợ Ba Rum khen:
-Đất ở đây tốt quá!
Vợ Tư Chắc giải thích:
-Hể năm nào bị ngập là năm sau trồng cái gì cũng tốt!
Cả hai khiêng cái thúng lên ghe. Vợ Tư Chắc ngó thấy mấy chậu rau đứng trên mui ghe, khóm nào cũng xanh lặc lè, um tùm lá, liền tấm tắc:
-Chà, chị cũng mát tay dữ hén ! Rau tốt quá chừng luôn !
Vợ Ba Rum đáp, khiêm tốn pha chút xíu hãnh diện :
-Thì nước đầy cả sông, tha hồ mà tưới. Ổng thả trùn đầy nghẹt trong đó nên đất tơi xốp lắm!
Khoang ghe chất đầy nhóc dừa, họ phải trèo lên mui mới đi tới bếp.
Vợ Ba Rum lật tấm ván đậy cái hầm nhỏ ở đuôi ghe, xếp mướp, bầu, cà vào đó. Vợ Tư Chắc ngó vô hầm thấy than, củi, bình dầu hôi và mấy món đồ linh tinh xếp rất thứ tự trong ấy. Bà nhìn vào khoang sinh hoạt, nơi có cái tủ nhỏ xíu và đống mền gối xếp rất gọn. Hai cây chổi lông gà, một lớn, một nhỏ treo cạnh nhau sát vách ghe. Bà miết tay vào ván sàn thấy nó láng mướt, mấy ngón tay không bám đến một hột bụi thì nghĩ thầm:
-Người đàn bà nầy coi bộ vén khéo, kỹ lưỡng lắm đây!
Vợ Ba Rum mời:
-Mình lên cái nhà chòi trên mui ngồi cho mát đi chị !
Rồi kéo tay cho vợ Tư Chắc đu lên, vừa an tọa là lấy chiếc bình trà ủ trong vỏ trái dừa khô ra, rót vào hai cái ly trên khay. Bộ đồ trà và hộp bánh có mặt thường trực ở đây. Bà mở hộp bánh, cầm lên một gói giấy màu trắng có dính những vệt mỡ trong trong. Tháo tấm giấy bìa có in ba chữ " Tân Hiệp Thành" màu đỏ, lấy một cái bánh bía hình tròn, dày chừng hai lóng tay, nhỏ hơn miệng chén một chút, cắt đôi. Lớp vỏ tơi xốp, có đóng dấu tròn màu đỏ bên ngoài rơi ra. Phía trong là phần nhưn màu trắng ngà làm từ đậu xanh, mứt bí, chính giữa có khối tròn màu cam rất đẹp.
Đưa miếng bánh có tròng đỏ hột vịt muối nhiều hơn cho vợ Tư Chắc, bà mời:
-Mời chị ăn một miếng với tui !
Vợ Tư Chắc lắc đầu:
-Mới ăn cơm còn no lắm!
Bà nhét cho bằng được miếng bánh vào tay bạn rồi nói :
-Có nhiều nhỏi gì đâu, ăn cho vui mà !
Vợ Tư Chắc chẳng thể từ chối, cầm để đó, chưa nếm vội.
Vợ Ba Rum lại mời:
-Ăn đi mà!
Vợ Tư Chắc bèn đưa bánh lên cắn một miếng nhỏ. Miếng bánh thơm mùi sầu riêng ấy tan ngay trong miệng, đẩy lời khen trào ra ngoài:
- Chị mua bánh mới ra lò hay sao mà nó còn mềm và thơm quá!
Vợ Ba Rum chụp lấy câu đó mà nói liền:
-Tui mua chỗ quen, họ đưa bánh mới không hà. Để lát nữa tui gửi biếu chị một cây ăn lấy thảo.
Vợ Tư Chắc lắc đầu, chưa kịp mở miệng từ chối thì bị chặn ngang:
-Chị mà không nhận là tui bưng trả mấy trái cà, trái mướp lại hết đó!
Rồi mở cái hộp bằng giấy lấy ra một cây bánh cho vào thúng tức thì.
Vợ Tư Chắc đã ăn xong miếng bánh. Bà ngừng nhai, cầm ly trà lên uống tráng miệng, hắt chút cạn xuống sông, úp ly xuống khay rồi bưng thúng đứng lên cáo lui.
Mấy bụi lục bình núp sau bánh lái, nãy giờ đứng yên hóng chuyện, bỗng buông tay, xoay mình một vòng. Chúng từ từ xếp thành hàng dọc, nối đuôi nhau bập bềnh trên sóng.
Vợ Ba Rum tiễn bạn lên tận nhà xong, ghé lại bàn trà nơi hai người đàn ông đang chuyện trò rôm rả, kề miệng sát tai chồng nói thầm:
-Mình phải đi cho kịp con nước đó ông !
Ba Rum chợt nhớ ra, lật đật đứng lên, vỗ vai Tư Chắc một cái thật mạnh rồi nói:
-Vậy nghen! Bây giờ tui phải đi rồi, để không thôi lỡ con nước, chèo ngược mệt lắm !
Vợ chồng Tư Chắc đưa họ xuống bến, con Trơn cũng đi theo. Ba người đều lộ vẻ bịn rịn.
Ở nông thôn, đất rộng người thưa nên khách lạ đến nhà là cả một sự kiện. Đôi khi gia chủ hãnh diện đến độ mở tiệc đãi đằng bà con lối xóm, để giới thiệu vị khách quý của mình.
Khách khứa mang đến niềm vui, làn gió mới, màu sắc lạ... cho cuộc sống bình lặng của họ. Những câu chuyện nghe từ khách được họ cất giữ như món quà quý, chờ dịp mang ra kể đi, kể lại.
Những nhà khá giả, cái tủ kính đặt một nơi trang trọng ở nhà ngoài, chưng mấy bộ gối thêu và mền mùng mới tinh, được sắm để dùng cho khách. Chiếc chiếu bông gác trên cái kệ cao quá đầu trong buồng, lâu lâu lại được đem hong nắng, tránh mối mọt ẩm mốc, dọn sẵn mình để khách có một giấc ngủ ngon lành.
Cái tủ chén với những hàng tô, dĩa, chén, muỗng... kiểu, đũa mun, sắp ngay hàng thẳng lối cũng được sắm để bày trên mâm cơm đãi khách. Tất cả bọn chúng đều tận lực giúp nâng chất lượng, giá trị của món ăn và đẹp con mắt khách!
Bầy gà, bầy vịt mỗi lần có khách đến nhà là rầu ghê lắm! Chúng biết rằng đây chính là dịp tử biệt hoặc sinh ly, có khi cả hai cùng một lúc. Bởi nếu khách cứ tấm tắc khen cái miếng gà xé phai sao mà ngon quá xá ! Thì chắc mẫm rằng khi khách giã từ, trong cái giỏ đệm mà gia chủ trao tận tay, có một hoặc hai con gà bị trói thúc ké, nằm im trong đó!
Khi trong nhà có khách là bầy gà nhớn nhác, lo âu. Đêm đến chúng không dám ngủ yên, xao xác suốt. Sáng ra rải lúa trên sân cho ăn, chúng cũng chẳng dám cắm đầu mổ lia lịa như ngày thường, cứ vừa ăn vừa đưa mắt liếc chừng. Mấy con nhát hích thì đứng thủ thế bên ngoài, chờ đến khi không thấy bóng dáng người mới dám chạy vô ăn mót.
Hủ rượu thuốc ngâm bìm bịp, cắc kè đặt trên đầu tủ, cho dù ngon và bổ cách mấy đi nữa, cũng ít khi được gia chủ mang ra uống một mình.
Gói thuốc rê với tờ giấy quyến nằm yên trong túi áo của ông chủ. Cái dĩa kiểu nhỏ, đựng gói thuốc thơm, (sang thì Ru by, tầm tầm thì con két (A ra) hoặc Bát tô(Bastos), vừa được bà chủ hoặc một trong mấy đứa con chạy vắt giò lên cổ từ tiệm tạp hóa đem về) được đặt ngay ngắn trên cái bàn uống trà để mời khách.
Đối với người nông dân, thời vụ vô cùng quan trọng. Xuống giống trễ một ngày cũng để lại hậu quả khó lường. Sự thù tạc đối với láng giềng, bà con cũng thế ! Được mời mà không dự là mích lòng ghê lắm! Thế nhưng chỉ cần đưa lý do là đang có khách thì được thông cảm ngay.
Người ta sẵn sàng hy sinh tất cả để ở nhà tiếp khách với một tấm lòng đầy hân hoan.
Cái tính hiếu khách số một ấy, chắc chỉ có ở nông thôn mà thôi !
Vợ Tư Chắc lộ vẻ bịn rịn, căn dặn:
-Đáng lẽ phải cầm anh chị ở lại ăn một bữa cơm, mà thấy gấp đi quá nên không dám ép. Mùa nước nhớ ghé lại thăm tụi tui nghe ! Lúc đó bông điên điển trổ đầy đồng, cá linh, lươn, tép... nhiều lắm. Tui hái rồi đổ bánh xèo tép, nấu canh chua cá linh, trộn ghém ăn mắm kho... Phải đãi anh chị ăn ngập mặt mới phỉ cái bụng của tui !
Vợ Ba Rum cũng rũ:
-Khi nào qua mùa lúa, anh chị quởn quởn công việc, theo ghe tui xuống Sài Gòn một chuyến. Tụi tui sẽ dắt anh chị đi coi cãi lương với vô sở thú cho biết, vui lắm !
Ba Rum thì nói nhỏ với Tư Chắc:
-Cái hủ rượu thuốc của anh tui thấy hiệu nghiệm lắm đó ! Chuyện kia chưa biết chớ cái lưng cúa tui bớt nhức dữ lắm !
Tư Chắc nghe nói vậy thì đâm đầu chạy lên nhà bưng hủ rượu xuống tặng liền. Ba Rum từ chối:
-Anh giữ giùm để mai mốt tui còn ham ghé ! Đem cái nầy theo tui cầm lòng chẳng đặng, ngày nào cũng uống rồi chèo ghe quay mòng mòng hoài. Bà tức mình cấm tiệt là khổ !
Rồi không để Tư Chắc tốn công năn nỉ, y và vợ vọt lẹ.
Ba Rum kéo đòn mỏng gác lên mui ghe, gắn mái chèo vô cột trước rồi mới nhổ cây sào và chống thật mạnh. Chiếc ghe dang ra thật xa để bắt cho được dòng nước chảy mạnh.
Trên bờ, vợ Tư Chắc đang đi bỗng chợt nhớ ra, kêu lên thất thanh:
-Còn thằng nhỏ nữa ông ơi !
Tư Chắc ba giò bốn cẳng chạy bay xuống bờ sông, khum tay làm loa gọi ầm ỉ :
-Còn thằng Hên nữa anh Ba ơi !
Ba Rum nghe một chữ "Hên" là giật mình chới với, bà vợ cũng kêu lên thảng thốt:
-Trời đất ơi ! Quên mất tiêu thằng nhỏ rồi !
Chiếc ghe lại cặp bến lần nữa. Tư Chắc cười hềnh hệch. Ba Rum chữa thẹn:
-Tui tính cho ở rễ trước mà anh hổng chịu thì thôi!
Y định nhảy lên bờ thì Tư Chắc can:
-Anh lên làm chi cho mắc công để tui đi kêu nó giùm cho.
Rồi vừa đi vừa gọi to:
- Chọn ơi! Hên ơi !
Kêu hai ba lần mà chẳng nghe chúng đáp, ông đâm lo. Nhìn quanh quất chẳng thấy hai đứa nó đâu, hai vợ chồng cùng con Trơn, ba người chạy ba hướng để tìm.
Ba Rum cũng căng cả hai lỗ tai, không nghe tiếng đứa nào trả lời thì phát hoảng. Ông không kịp bắc cây đòn mỏng để đi mà phóng cái vù lên bờ liền.
Thằng Chọn đang rình con chím se sẻ trên cây me nước. Con chim nầy y như người đàn ông hai vợ, cứ liên tục chuyền từ cành nầy sang cành khác, hồi lâu thấm mệt mới chịu dừng lại thở.
Hai đứa nó không ở xa nhà lắm ! Tiếng gọi chui vào tai chúng một cách dễ dàng. Chúng quá để tâm vào con chim nhỏ ấy nên không nghe, hay nghe mà không dám đáp vì sợ nó giật mình bay mất?
Khi con chim sẻ không còn cảnh giác, đứng im ru thì cái thân hình bất động của thằng Chọn mới nhúc nhích. Nó kéo căng cái ná thun hết mức, sắp sửa buông tay thì giật mình cái độp. Hai ngón tay của Tư Chắc kẹp cứng cái lỗ tai của nó, xách lên và quát:
-Mầy đứng đây sao tao kêu mà không dạ hả?
Tiếng quát đó đánh động con chim và làm lệch đường bay của viên đạn. Con chim thoát chết. Nó sợ đến nổi vừa bay vù đi, vừa xón một cục phân nhỏ xíu xuống tàu lá chuối.
Sáng hôm ấy, như thường lệ, Sung bật dậy khi gà gáy chập hai. Nhìn bên cạnh không thấy Còi, Sung liền chui ra khỏi mùng để kiếm. Gọi hai ba tiếng không thấy nó trả lời, Sung đi thẳng ra cái hầm cá vồ, anh nghĩ :
-Chắc thằng nầy đi trút bầu tâm sự.
Anh xé mấy miếng lá chuối khô cầm tay, vừa đi vừa xoa chúng vào nhau cho sạch. Đến nơi chẳng thấy ai, tưởng nó hụp đầu núp sau tấm vách lá của cái cầu tiêu để giỡn với mình. Anh bèn rón rén bước thật nhẹ lên cây cầu, sao cho hai khúc tre không rung rinh, định hù một phát cho nó rớt xuống hầm chơi. Bên trong trống trơn. Anh điếng hồn, trực giác cho biết đã xảy ra biến cố, cái nhu cầu cấp thiết bỗng biến mất tiêu, anh ném nắm lá chuối xuống nước rồi chạy đi tìm nó tới tối tăm mặt mũi.
Mọi ngóc ngách quanh nhà đều không có, anh chạy xuống bến, chiếc bè và cây sào đều biến mất !
Sung thở phào một cách nhẹ nhỏm, nói một mình:
- Vậy là nó đã chống bè về thăm nhà rồi ! Mình khỏi mắc công nhờ người đưa giúp .
Không đủ thời gian để làm chiếc bè và cây sào mới, Sung đeo cái rộng lên cổ, bơi qua con mương để thăm mấy cái lộp. Hai con tôm càng xanh, một con cá trê và bốn con cua là thành quả của anh hôm đó. Sung cho tôm và cá vào rộng còn cua thì đập chết, thả lại vào lộp để làm mồi nhử mấy con tôm.
Anh vừa bơi trở về vừa nghĩ đến bữa nhậu chiều nay vơi Hai Móm mà lòng lâng lâng vui sướng, đâu có biết rằng trong lúc đó, thằng Còi đang nằm chết giấc trên cái bè chuối trôi vù vù.
Và cũng trong lúc đó, cả cái xóm Cầu ván đang chìm trong bầu không khí bi thương, tang tóc. Mọi công tác tìm kiếm đều không có kết quả, người ta đành dừng lại, chờ mấy ngày sau cái xác nổi lên rồi vớt.
Má thằng Còi khóc mãi không thôi. Bà đau lòng khi nhớ ra, nó chết khi bụng trống rổng bởi chưa kịp ăn bữa cơm chiều. Nghĩ đến cảnh con mình biến thành ma đói, đi lang thang, bị các cô hồn to khỏe, giàu kinh nghiệm khác hành hạ khiến bà đau như cắt ruột.
Cảnh xôn xao vào mỗi sáng khi mọi người gọi nhau ra đồng và tiếng thúc giục mấy con bò cũng trở nên khẽ khàng hết sức!
Má con Ý cũng không đứng trước cửa réo inh ỏi cho nó dậy đi học. Bà chịu khó tháo dây cho cái mùng úp lên mặt để nó ngộp thở mà chui ra lẹ lẹ.
Cái không khí ảm đạm đó len lỏi đến tận lớp học. Cái bàn ba, nơi thằng còi ngồi giữa bị bỏ trống hoàn toàn. Thằng Cà Reo và Của Em đã ôm tập xuống bàn chót mà ngồi với nhau.
Giờ ra chơi, tụi nó không còn hăng say ăn thua đủ với nhau nữa. Những trò chơi bỗng không còn đủ sức để hấp dẫn chúng. Bên cạnh mỗi đứa, dường như có một bóng ma đang lảng vảng. Đứa nào cũng tự vấn lương tâm, xem ngày xưa mình đắc tội với nạn nhân đến cỡ nào và sắp phải chịu hình phạt gì ?
Người trong xóm bỗng nhớ ra vô số sự kiện để chứng minh rằng cái chết ấy đã được báo trước, bắt đầu từ bà nội thằng Còi. Bà cứ luôn miệng tự dằn vật:
-Tội nghiệp thằng cháu của tui. Hôm trước nó xin tiền ăn cà lem, tui không cho, nó mới nói "nội cho con lần nầy thôi, từ rày con không xin nữa đâu". Tui mà biết có ngày hôm nay là dốc túi để nó ăn hàng cho đã!
Dì Út Em, chủ cây xoài nghệ mà tụi nhỏ trong xóm ưa thích nhứt, nói bằng cái giọng ăn năn:
-Hôm bữa nó cầm cục đá chọi trái xoài rồi làm bể một tấm ngói. Tức mình tui xách chổi rượt, nó nói "Dì Út đừng có rượt nữa, từ giờ tới chết con không dám chọi cây xoài của dì nữa đâu !"
Xét ra đây là một lời hứa rất bình thường của mấy đứa con nít, nhưng vì thằng Còi lỡ chết nên người ta bèn coi đó như một lời trăng trối vậy!
Bến cây sung, nơi cả đám con nít trong xóm thường tập trung lại để biểu diễn trò nhảy cầu khi tắm, ngày trước nước luôn đục vì hết tốp tới tốp khác luân phiên khuấy đảo, giờ im ru suốt ngày. Tụi nhỏ không còn ham tắm sông. Nếu mình mẩy hôi rình bị má ép đi tắm thì rủ thêm vài đứa, rồi kéo nhau đi thật xa mà tắm. Chúng cũng chẳng dám tắm lâu, chỉ hụp cho ướt cái đầu rồi ba chưn bốn cẳng chạy lên nhà. Mấy bà, mấy chị cũng bưng thau đồ, rỗ chén dời qua các bến khác để giặt, rửa.
Như vậy đã thôi đâu! Ba hôm sau, thằng Cà Reo bỗng sốt li bì rồi nói mê, nói sảng. Nó cứ gọi tên thằng Còi và xin tha mạng. Có lẽ bởi lúc trước hay ăn gian, ăn hiếp thằng Còi trong các trò chơi nên giờ bị ám ảnh.
Mấy đứa nào trong xóm được chứng kiến việc thách đố, biết nó là tác nhân chính tạo ra cái chết oan ức của thằng Còi, bèn kể cho ba má chúng nghe. Vì vậy nên bà con trong xóm mới cho rằng chứng bịnh của thằng Cà Reo là do thằng Còi phạt.
Ba má thằng Cà Reo không đưa nó đi nhà thương, cũng không rước ông thầy Tư Công tới nhà để hốt thuốc bắc cho nó uống. Họ mời ông Năm Bốn, thầy pháp trong làng, đến cúng kiến và ém xi bùa để giúp thằng Cà Reo hết bịnh. Ông Năm lên xác, nói bằng cái giọng giống y thằng Còi, đòi phải cúng một cái đầu heo mới chịu trả ba hồn, bảy vía lại cho thằng Cà Reo.
Người ta làm một chiếc tàu tống rất đẹp bằng bẹ chuối. Trên tàu treo cả chục lá cờ hình tam giác đủ màu. Có hai hình nhơn bó bằng rơm cầm chèo, một ở trước mũi và một ở sau lái.
Trong tàu có: Một cái đầu heo luộc, một dĩa gạo và muối, ba chén cháo, một dĩa trái cây, một bịt bánh men, ba cây nhang cùng hai cây đèn cầy cháy đỏ.
Trước khi tống tàu đi xa, có người nhớ ra là thằng Còi chơi tán hưng rất hay nên vội vàng bỏ theo tàu hai khúc tre, một dài một ngắn.
Thằng Còi đã giữ lời hứa, cúng xong là thằng Ca Reo hạ sốt, hết nói mê và mấy hôm sau thì hoàn toàn bình phục.
Một tuần lễ sau, cô Út Đẹp bỗng dời cái nhà lá nhỏ xíu của mình ra tuốt sau hè. Người ta rỉ tai nhau rằng ngày nào cổ cũng nghe tiếng thằng Còi rơi tỏm xuống sông, có khi nghe nó khóc. Một đôi lần nó còn trèo lên nóc nhà vạch mấy tấm lá ra nhìn xuống.
Có người còn thấy thằng Còi đu từ cây dừa qua cây sung. Báo hại mấy trái dừa trôi lều bều không ai dám rớt. Bọn con gái hết dám trèo cây sung đó để hái mấy trái chín đỏ vò nát làm sưng sa, hoặc chấm muối ớt ăn với nhau.
Nghe nói cái tàu tống trôi tới xóm mương lấp thì bị một thằng nhỏ tinh nghịch cầm cục đá chọi vào. Thế là tối đó nó bị bịnh giống hệt thằng Cà Reo. Phải mời ông Năm Bốn cúng mới hết bịnh.
Thằng Còi nổi tiếng linh thiêng từ đó !
Ở nông thôn việc người cõi âm tham dự vào mọi sinh hoạt của cõi dương là chuyện hết sức bình thường.
Xét về mặt y tế thì điều nầy đem lại nhiều hậu quả xấu, nhưng nó lại giúp ích ở một vài mặt khác, như trật tự trong xã hội chẳng hạn.
Người ta cho rằng người cõi âm biết tuốt mọi việc và rất ghét những kẻ hung hăng bạo ngược. Chỉ trừ một số ác thần, chuyên xúi giục làm điều bậy bạ.
Những nông dân ở xóm Cầu Ván đa số đều hiền lành chất phác. Sự tin tưởng vào tính toàn tri của các đấng thiêng liêng giúp họ có được một lương tâm trong trẻo, sống rất đàng hoàng và cư xử hết sức tử tế với mọi người.
Nếu có bị ức hiếp hay hiểu lầm, họ tin rằng ông trời sẽ thấu hiểu, từ từ lấy lại công bằng cho mình nên cũng chẳng bức rức nhiều.
Đa số họ đều là người ít chữ nên hiến pháp- cái nền tảng giúp xã hội ổn định- chẳng thể thẩm thấu vào tâm trí. Khắp làng chẳng có lấy một vị đại diện luật pháp - Cái người được gọi là cảnh sát ấy, chỉ có mặt ở những tỉnh lỵ, quận lỵ. Họ mặc bộ đồng phục trắng bóc, đội mũ lưỡi trai, chân mang giày da được đánh xi đen bóng, tay cầm dùi cui, nhìn mọi người bằng đôi mắt dò xét, làm như biết đủ thứ nhưng thật ra đâu biết chi nhiều- Thế nhưng đời sống ở đây lại hết sức an ninh, bởi hòa hiếu là bản chất tự nhiên của hết thảy bà con.
Họ không thích tranh cãi để áp đặt người khác theo ý mình. Cái câu "một điều nhịn chín điều lành" được dùng làm phương châm trong cách sống của họ. Ngoài ra câu " có đức mặc sức mà ăn" khiến họ sốt sắng làm điều tốt và giúp đỡ những người xấu số.
Nhờ có đức tin và kiêng sợ sự trừng phạt của các đấng ấy, các mầm mống tội lỗi bị tiêu diệt ngay trong trứng nước. Trong xóm, cho tới lúc đó, chưa có một người nào bị giam trong các nhà tù. Cuộc sống thanh đạm, ít dục vọng giúp họ có một tinh thần lành mạnh, tâm lý ổn định.
Những cuộc gây gổ hiếm khi xảy ra, nếu nghi ngờ nhau họ chỉ cần đứng giữa trời, chỉ thẳng ngón tay (hành động nầy có thể xem như mời gọi một đấng tối cao đang ngự trên trời, ngó xuống mà chứng giám), thề độc một câu, là mọi sự được giải quyết. Quan hệ giữa họ sẽ trở nên bình thường như cũ.
Nếu phải nhờ đến sự phân xử của con người, họ cũng không cần phải lôi nhau ra tòa, rầy rà cho mất công, mất sức. Họ sẽ nhờ một vị hương lão trong xóm, một người có uy tín và được mọi người kính nể quyết định. Như cái lần anh Hía chun vô mùng của chị Thơm:
Chẳng là lần đó nhà cậu Sáu Lý gặt lúa. Miếng ruộng của cậu xa mút tí tè nên mấy người thợ gặt phải ở lại, chờ gặt xong mới về. Đêm ấy trời nóng quá cỡ, chị Thơm bèn rủ chị Mị đem chiếu trải lên đống lúa rồi giăng mùng ngủ cho mát. Chưa tới nửa đêm, chị Mị thấy khó ngủ quá nên bỏ vô chòi ngủ chung với chị Cà.
Anh Hía nghĩ là chị Thơm có tình ý với mình nên lén tốc mùng chui vô. Chị Thơm ngủ ngon nên chẳng biết ất giáp gì hết. Tới chừng có người ôm nhột quá chị mới giựt mình, tưởng chị Mị nên chị chỉ xô ra. Nhè đâu trúng cái đầu tóc ngắn ngủn, mấy chân tóc đâm tay nên chị biết ngay là một người đàn ông bèn la làng chói lói.
Sáng hôm sau ba chị Thơm đến nhà anh Hía mét ba má ảnh. Họ dắt nhau đến nhà ông Út nhờ giải quyết giùm. Ông Út xử bằng cách phạt gia đình ảnh phải đền cho chỉ một đôi bông tiền điếu.
Kể từ hôm đó anh Hía cạo cái đầu trọc lóc và cố tránh mặt mọi người. Anh ra đồng rất sớm và về nhà rất trễ. Cái giá anh trả không nhỏ, chẳng những là nổi hổ thẹn mà về sau còn không cưới được người cùng xóm, phải lấy một cô gái lỡ thì ở tuốt miệt dưới. Cho dù cái tội ấy được má anh biện hộ rằng anh bị con(thằng) ma cây gáo nhập hồn.
Bà con trong xóm hể gặp tai ương, cũng đều được giải thích rằng do trời sắp đặt. Cho nên mọi oán hận đưa đến thâm thù, đáp trả đều không thể xảy ra, bởi ai hơi đâu mà giận ông trời cho mệt! Do vậy mà những vết thương cho dù chí mạng cũng rất mau lành.
Phải nói là họ hơi nịnh nọt, lấy lòng các vị khuất mặt ấy. Có lần con heo nái của má thằng Mum bỏ ăn, cả nhà lo sốt vó. Má nó vừa nấu một mâm cơm cúng ông chuồng, bà chuồng, vừa nhờ cậu Tư Khá chích giùm mấy mũi thuốc. Khi con heo hết bịnh, má nó lại nấu một mâm cơm cúng tạ ơn ông bà, phủi công cậu Tư một cái rột.
Và khi con bò nhà dượng Tám Mới bị đi cà nhắc thì ổng nói là tại nó giẫm lên chòm mã. Cho dù vẫn hái lá thuốc cứu đem sao rồi đắp cho nó. Ổng cũng vẫn cho rằng sở dĩ nó đi đứng bình thường trở lại là được những người nằm bên dưới xí xóa, bỏ qua giùm.
Mỗi lần trời mưa những đứa bé tính tinh nghịch, hay bị đòn rất lo lắng. Chúng thường bới một chén cơm rồi ngồi ăn từng hột, sao bữa ăn kéo dài cho hết cơn mưa, để né cái búa của ông thiên lôi. Chỉ tại mỗi lần sấm nổ một cái rầm là người lớn lại nói: "Chắc có đứa nào bất hiếu nên bị thiên lôi đánh". Cái chữ bất hiếu nầy theo như chúng biết là tất cả những cái tội, cái lỗi làm cha mẹ chúng tức tối, khiến chúng chúng bị ăn đòn, như ăn vụng, làm đổ cơm, nói dối, mê chơi, trốn học ...v...v...
Thằng Còi vốn là một đứa bé rất gầy gò, nhút nhát. Nó thường bị lép vế trước biết bao nhiêu đứa khác. Cái chết bi thương đó giúp nó nổi tiếng như cồn. Cái vầng hào quang ấy ngoài sự đóng góp của cô Út Đẹp, thằng Cà Reo, ông Năm Bốn... Còn có sự trợ lực của cây dừa như: Cho trái rụng vào lúc nửa đêm, thả tàu dừa rơi làm tróc mái nhà cô Út Đẹp...
Sau cuộc trò chuyện với gia đình Tư Chắc. Ước mơ rời khỏi cuộc sống lênh đênh, về với đồng ruộng trở nên thôi thúc hơn bao giò hết trong lòng vợ chồng Ba Rum. Trong đầu họ cứ quanh đi quẩn lại với những suy tính, đắn đo, khiến cả hai chẳng thể tập trung vào công việc.
Ông cầm cây chèo trên tay mà cảm thấy nó nặng hơn ngày thường gấp đôi, vung một cách uể oải. Cũng may nước xuôi nên chiếc ghe vẫn lướt bon bon.
Bà cảm thấy cái bếp túm húm ngày thường sao mà quá bất tiện. Công việc nấu ăn do vậy không còn thấy hào hứng mà chỉ ráng làm cho xong.
Bưng cái mâm đặt lên chòi, bà gọi :
-Hên ! ra mời ba vô ăn cơm.
Bữa cơm khá thịnh soạn với dĩa cà tím nướng chan mỡ hành. Tô canh mướp nấu với tôm khô. Con cá trê vừa dính câu, được chiên giòn chan nước mắm gừng bay mùi thơm phức. Thằng Còi đã bắt mùi từ nãy giờ nên ngồi đợi sẵn. Nó hăng hái bới cơm ra ba cái chén.
Bà lập lại lần nữa:
-Con ra mời ba vô ăn liền cho nóng
Nó bị mấy món ăn hớp hồn, ngồi ôm cái mâm mà gọi lớn:
-Ba ơi! vô ăn cơm.
Chỉ nghe cái giọng thôi cũng đủ biết nó đang nôn ăn dữ lắm!
Ông lật đật gác cây chèo lên, vói tay xuống sông khoác nước rữa mặt, kéo cái chàng đội trên đầu xuống lau, rồi mới leo lên mui bước lại mâm cơm.
Thằng Còi ráng chờ ba, má nuôi cầm đũa trước rồi liền xắn cái đuôi cá, gắp cho vào miệng mà nhai rau ráu. Cái cách nó ăn khiến bà nghe mát bụng làm sao! Thấy nó quá ưu ái món chiên, hai vợ chồng bèn nhường cái quyền săn sóc con cá trê cho nó.
Ông gắp một đũa cà lên ăn trước rồi nói:
-Cà mới hái ngọt quá !
Húp thêm một muỗng canh rồi khen tiếp:
-Ngon !
Bà cười:
-Mình mà tự tay trồng thì ăn còn ngon hơn nữa ?
Rồi nói thêm bằng giọng buồn buồn:
-Phải chi mình có được cái cơ ngơi như vậy?
Câu nói đó đã gieo vào đầu thằng Còi một niềm nhớ tiếc. Nó nhớ tới cái mảnh vườn ở nhà với dây đậu rồng trổ hoa tim tím, trái cong cong núp sau lưng những trái bầu, trái mướp dài thòn.
Đêm đó nó cũng trằn trọc không sao ngủ được. Tuy mới quen thằng Chọn có mấy tiếng đồng hồ nhưng cứ nghe lòng ngập tràn một niềm quyến luyến, không thể tả xiết .
Ngôi nhà, mảnh vườn đó sao mà quen thuộc quá ! Khiến vừa đặt chân lên là nó nghe thương mến liền. Nó có cảm giác như cái xóm Cầu Ván đang gần xịt một bên. Nếu được ở lâu hơn thì không chừng cha, má, những người thân và bạn bè của nó sẽ lần lượt xuất hiện từng người.
Chao ơi ! Nếu được như vậy thì hay biết mấy ! Nó sẽ nói với má mình rằng nó nhớ bà cho đến nổi phải ôm cái khăn của má nuôi mà ngủ. Khoe với cha rằng nó đã biết chèo ghe, biết chống bè, đang học võ và đọc truyện ro ro. Mấy thằng bạn chắc chắn sẽ thèm đến chảy nước miếng khi nghe kể về những món bánh, kẹo mà nó được hưởng. Chúng cũng sẽ phục sát đất khi xem nó đi mấy đường quyền.
Đang hân hoan trước viễn cảnh đó ! Bỗng hình ảnh con Mén người mềm quặt ngã xuống đất, gương mặt giận dữ của con Ý cùng bốn chữ "ở tù rục xương" làm nó bàng hoàng. Cái giấc mơ kia tắt lịm ngay như cục than đỏ nhúng vào thau nước.
Hình như ba má nuôi của nó cũng đang thao thức. Nó nghe bà tằng hắng một cái rồi hỏi:
-Ông còn thức hông ông?
Ông trả lời:
-Còn, chi vậy bà ?
Bà đáp một cách e dè:
-Tui tính như vầy, đâu ông nghe coi có được hông !
Ông hỏi:
-Tính cái gì đâu nói thử nghe chơi ?
Bà nói:
-Hồi sáng tui có nói chuyện với vợ Tư Chắc. Đất ở đó rẻ lắm ông à ! Bằng vào số tiền hai vợ chồng mình để dành được chắc sắm hơn năm công. Nếu trời phật phù hộ, bán cái ghe được giá thì cũng đủ mua thêm một cặp bò với cất cái nhà nhỏ nhỏ.
Ông cười:
-Hổng ngờ bà còn tính lẹ hơn tui.
Bà chắc lưỡi:
-Hổng lẹ sao được ? Mình phải gấp gấp để tựu trường tới là thằng Hên kịp đi học.
Ông thở dài:
-Tui cũng nghĩ y như bà vậy. Có điều mình đang làm ăn được mà bỏ ngang thì uổng lắm ! Cái chuyện làm ruộng cũng năm ăn, năm thua, lỡ thất mùa là sất bất, sang bang. Còn cái chuyện nầy nữa...
Nói tới đó ông ngưng ngang. Bà hỏi:
-Có chuyện gì vậy ông?
Ông kề tai bà nói nhỏ:
-Bà coi thằng Hên ngủ chưa ?
Nó nghe ông ba nuôi hỏi vậy thì liền hót bụng, nín thở, không dám nhúc nhích, như thể vừa bị ai điểm trúng huyệt .
Bà nhích gần sát vào nó, nghe ngóng giây lát rồi nói:
-Nó nằm im ru hà, chắc ngủ rồi.
Ông nói với vẻ thận trọng:
-Cái chuyện thằng Hên bị đóng bè thả trôi làm tui bán tín, bán nghi quá bà. Đâu có cha mẹ nào mà độc ác dữ vậy? Tui coi bộ, đây là chuyện ơn oán, thù hằn gì đó. Thằng nhỏ nầy hổng chừng bị bắt cóc rồi cố ý thả trôi sông cho chết chìm để phi tang. Rủi khi cha mẹ hay người quen của nó tìm gặp, coi chừng mình bị nghi là kẻ chủ mưu, rồi mang gông, đeo xiềng đó bà ơi!
Bà chới với:
-Sao ông nói nghe y như tuồng hát vậy ?
Ông chắt lưỡi:
-Thì cũng có tuồng người ta làm từ chuyện thật mà bà.
Bà lo lắng hỏi:
-Vậy thì ông tính làm sao ?
-Tui định để ý hỏi thăm mấy chủ ghe ở miệt đó coi họ có biết tin gì hông ? Rồi ghé nhà việc trình cho họ biết là mình có vớt được một đứa nhỏ bị đóng bè thả trôi. Sau nầy nếu xảy ra chuyện nầy, chuyện nọ, họ cũng biết là mình vô can.
Bà sụt sịt:
-Nghe ông nói sao tui thương nó quá ! Tội nghiệp ! Còn nhỏ xíu mà phải gánh chịu thù oán của người lớn. Có khi nào nó là con của bà vợ bé, bị vợ lớn bắt lén hông ông ?
Ông rầy:
-Đó là mình tỷ dụ vậy thôi ! Biết có đúng hông mà bà khóc.
Bà chưa chịu từ bỏ giả thuyết của mình, giọng còn ngậm ngùi hơn:
-Mình mà trưng nó ra, chưa chắc nó được yên thân đâu. Đây rồi họ cũng tìm kế bắt lại, lần nầy hổng chừng giết cho nó chết rồi đem vùi mất xác. Thôi ông ơi! Mình làm ơn thì phải làm cho trót, gọt thì gọt cho trơn. Tù tội gì để một mình tui chịu, đã coi nó như con rồi thì phải ráng che chở tới cùng.
Những câu nói của ba má nuôi đều chui vào tai thằng Còi không sót một chữ. Nó nghe thương họ quá chừng ! Nếu không nhớ là đang giả bộ ngủ, chắc nó đã quay sang ôm bà một cái thật chật để bày tỏ tấm lòng của mình.
Đêm đó nó trằn trọc miết. Nỗi nhớ nhà và lo sợ bị phát hiện cùng liên tục dày vò khiến nó chậm đi vào giấc ngủ. Đã vậy còn không dám trở mình mới khổ!
Hằng ngày má nuôi nó thường dậy sớm nhứt. Bà nấu cháo, nấu xôi hoặc chiên cơm cho cả nhà ăn lót lòng. Sáng hôm ấy bà dậy muộn. Nó bèn lục nồi, bới tô cơm nguội ăn với tán đường móng trâu, vẫn thấy ngon quá xá!
Ăn xong không chờ được nhắc nhở như mọi bữa mà lấy ngay cuốn tập ra, lật úp lại để đọc bảng cữu chương in trên cái bìa sau.
Hôm nay nó quyết học thuộc hết cái bảng cữu chương nầy cho ba, má nuôi vui bụng. Vừa đọc nó vừa liếc nhìn, tìm những biểu hiện tích cực và chờ nghe lời khen tặng.
Nó đã không thất vọng. Bà nhìn nó bằng gương mặt rạng rỡ với nét hài lòng ngập tràn trong mắt, còn vói tay xoa đầu nó mấy cái .
Ông đang bóc một nhúm thuốc trong cái gói vừa lấy từ túi ra, cho vào tờ giấy quyến vấn. Gương mặt hơi cúi nghiêng như cố tập trung vào hai bàn tay để se cho tròn điếu thuốc. Hai gò má đang bình thường bỗng nhô lên nên nó biết rằng ông đang cười.
Nó bèn đọc to hơn nữa, làm một mạch từ bài hai đến bài chín. Đọc đi đọc lại hơn một chục bận, rồi nhắm mắt lập lại. Mỗi lần bị vấp lại đọc lại từ đầu. Lát sau thấy đã thuộc làu làu, bèn xếp tập lại, thò đầu xuống coi bà làm bếp.
Thấy bà không kéo cái rộng lên, nó nhắc:
-Sáng nay ba thăm câu, thăm lưới dính cá nhiều lắm đó má!
Bà đáp:
-Hồi tối má quên nói với ổng, bữa nay là ngày vía, cả nhà phải ăn chay đừng có bắt cá.
Chao ơi là buồn ! Nó đang hy vọng bà làm mấy món thiệt ngon để thưởng công nó học thuộc mấy bài cữu chương. Nào ngờ chỉ được ăn rau, thứ mà nó ghét nhứt.
Bà đi guốc trong bụng nó, nên nói:
-Để một chút má nướng cho con một cặp lạp xưởng nghe ?
Nó đáp liền bằng giọng khấp khởi:
-Dạ !
Rồi cầm bảng cữu chương lên đọc ro ro.
Bà lấy cái nồi cơm ra, vét hết cơm nguội ra chén. Cơm bám trên vá được bà kê miệng cạp sạch. Không rửa nồi mà đong hai lon sữa bò gạo vào luôn. Nó bèn hỏi:
-Sao má hổng rửa cái nồi cơm vậy má?
Bà cười:
-Hổng phải má làm biếng đâu ! Cái nồi nhỏ xíu rửa cái một, đâu có tốn công, tốn sức gì nhiều. Chỉ tại má sợ đổ bỏ mấy hột cơm còn dính mang tội.
Thấy bà cặm cụi lượm thóc, nó nói:
-Má để con lượm cho !
Bà đặt nồi đang ngồi trên cái rế cũ lên cái rế tre mới tinh rồi đưa cho nó, còn dặn vói theo:
-Coi chừng lọ nghẹ dính tay nghe con !
Rồi đưa cho nó cái lon chao rổng, có chừng một nắm lúa bên trong, nói:
-Bỏ thóc vô đây nè con !
Nó hỏi:
-Má để dành chi vậy ? Nhà mình đâu có nuôi gà?
Bà cười :
-Bỏ tội lắm con à ! Để khi nào ở không, má lấy dao gọt cái vỏ nó ra.
Bà mở cái nấp hầm ở khoang cuối, lấy một trái bầu khá to ra gọt vỏ rồi rửa sạch. Thấy bà cắt bầu thành từng cục nhỏ chớ không bầm và bỏ ruột như nhà nó thường làm, nó bèn hỏi:
-Sao má hổng bầm thành từng sợi hả má ?
Bà trả lời:
-Má luộc chấm chao chớ đâu có nấu canh mà xắt sợi.
Suy nghĩ một lát rồi bà hỏi:
-Con có thấy ai bầm bầu chưa ?
Nó đáp
-Con thấy rồi !
Bà làm ra vẻ tự nhiên, hỏi tiếp :
-Ai vậy ?
Nó trả lời một cách miễn cưỡng :
-Má con !
Bà hỏi thêm:
-Má con ở đâu?
Nó đáp lí nhí :
-Ở nhà .
Bà cố lần cho ra manh mối nên cứ tiếp tục:
-Nhà con có mấy người ?
Giọng nó yếu hẳn đi:
-Năm người ?
-Ai với ai ?
-Cha con, má con, con với con Đèo con Đẹt.
-Con tên gì ?
Nó suy nghĩ một chút rồi mới trả lời:
-Con tên thằng Thiệt.
Bà gặng:
-Con có hay bị đòn hông ?
-Có.
-Nhiều hông?
-Nhiều.
-Nhà con ở đâu ?
Nó lắc đầu, đáp một cách do dự:
-Con hổng biết !
Thấy nó có vẻ không thích trả lời nên bà thôi, không hỏi thêm một câu nào nữa.
Cách đó một hôm, sau khi suy tính kỹ càng. Tối lại chờ thằng Còi nằm im ru bà mới rù rì với ông. Lần nầy thì nó ngủ thiệt nên không ghe được một lời nào.
Bà kể cho ông nghe từng câu hỏi, đáp, giữa bà và nó. Vẫn tin vào sự ứơc đoán của mình, nên bà kết luận bằng cái giọng chắc lọi như đinh đóng cột:
-Tui dám cá với ông, nó không phải là con ruột của họ. Hổng chừng là con rơi, con rụng của ông chồng, bà vợ phải bấm bụng mà nuôi chớ hổng có thương yêu chút xíu nào hết ráo.
Ông hỏi liền:
- Sao bà biết ?
Bà đáp không do dự:
- Tui nghe nó nói là bị đòn nhiều lắm ! Chắc bả tức ông chồng nên ghét thằng nhỏ. Nó bị bả hành hạ quá cỡ, chịu hết xiết nên phải bỏ trốn đó ông.
Ông chắt lưỡi :
-Hèn chi nó ốm nhom, ốm nhách, đèo teo, đèo ngắt. Tội nghiệp quá, bỏ nhà đi mà trên mình chỉ có mỗi một bộ đồ cũ xì dính da. Hai bàn chưn thì nức nẻ hết trơn.
Rồi ông can :
-Biết tới đây được rồi, đừng có hỏi thêm mà nó tủi. Có khi còn khiến nó sợ rồi bỏ trốn lần nữa.
Bà cãi lại:
-Bộ nó đui hay sao mà hổng thấy tui với ông cưng nó quá trời, quá đất ? Nó ở với tụi mình đâu có bao lâu mà đã có da có thịt, không còn ốm nhách, ốm nhom, lòi mấy cái ba sườn. Mặt mũi cũng phổng phiu, sáng sủa. Tay chưn sạch sẽ, tóc tai gọn gàng. In là cũng có cao thêm một chút.
Ông nói với giọng tự hào:
-Nhờ tập võ mỗi ngày đó bà. Mấy cái bài quyền đó nếu nó siêng năng, chịu khó tập một ngày mấy bận là giãn gân, giãn cốt, cao lớn cấp kỳ .
Bà nói như để nhắc khéo cho ông nhớ, là trong chuyện nầy công của mình không phải nhỏ:
-Cái thằng nầy cũng ngộ. Cái bụng lép xẹp vậy mà ăn không thua gì ông. Một mình nó ăn ba bốn chén cơm ém đầy vun. Bữa nào có món canh chua, tui nấu thêm nửa lon gạo vậy mà nó cũng vét nồi sồn sột. Cái bữa dính mấy con tôm, tui làm món tôm kho tàu, nó ăn như bị bỏ đói ba ngày. Ngó thấy thương quá nên tui nhường hết cho nó, hổng đụng một đũa nào. Trong trách còn có một chút xíu nước kho hà! Vậy mà nó cũng vét hết cơm bỏ vào ăn cho tới sạch bách. Chắc lúc ở nhà, nó ăn uống kham khổ lắm ông há !
Hiểu ý bà nên ông vội vuốt đuôi:
-Cái tài nấu ăn của bà thì khỏi nói. Nhứt là cái món canh chua với cá kho tộ. Tui còn mê nói chi nó.
Ông ít khi khen ngợi bà hẳn hoi như vậy. Trong các bữa ăn, nếu gặp món khoái khẩu ông chỉ gật gù cái đầu. Cho dù không mê uống rượu cũng buông một câu: "Cái món nầy mà có ly rượu đế uống sương sương là số dzách", để khen bà một cách gián tiếp.
Bà nghe mà nở từng khúc ruột. Chợt nhớ ra cái chậu bạc hà, bẹ đã to bằng cườm tay rồi, phải ăn liền kẻo héo, hết ngon. Bà định bụng sáng dậy sẽ kêu ông tấp vô cái chợ nào đó để mua khóm, giá, cà gió với cá lóc. Bà định nấu một nồi canh chua cho thiệt là ngon. Phải lựa một con cá lóc mập nhứt, to nhứt cỡ mười khía trở lên thịt mới ngọt và chắc.
Bà sẽ làm cái ruột cá thiệt sạch, lấy cái mật sao cho khéo để nó còn nguyên không bị giập, ăn mới không đắng, khỏi làm hư cái món mà ông ưa nhứt hạng. Phải xẽ banh cái ruột ra cạo hết cái chất xanh xanh, trắng trắng bên trong. Lộn cái bao tử tròng vô ngón tay trỏ để cạo cho sạch nhớt mới ăn được. Cái đầu với khúc đuôi thì nấu canh, còn khúc giữa thì cắt từng khoanh bằng lóng tay, để kho với tiêu hành tóp mỡ...
Hai cha con nó mới ăn chay hôm qua, gặp món nầy chắc sẽ vét tới thủng nồi, trôi rế. Nghĩ vậy nên bà tủm tỉm cười, trông cho trời mau sáng.
Câu và lưới hôm qua không kéo nên hôm nay cá dính nhóc ké. Có một con cá vồ bự. Mấy con trộng trộng gồm : Ba con cá ét da đen thui, hai con cá mè lúi, hai con rô biển... Còn lại là một mớ cá lụn vụn.
Đang là con nước xuôi nên khi đi ngang một cái chợ chồm hổm bà bảo:
-Ông tấp vô đây cho tui mua mấy trái khóm, trái cà, để nấu canh chua. Mua miếng mỡ để thắng lấy tóp bỏ cá kho cho nó ngon.
Ông bèn từ chối thẳng thừng :
-Thôi thôi, có thứ gì xài thứ nấy. Nấu canh chua với bạc hà, bỏ rau tần là đủ ngon rồi. Con cá vồ trong bụng đầy nhóc mỡ, sao hổng lóc ba cái mỡ đó mà thắng cho giòn bỏ rồi cá.
Bà cự lại:
-Mỡ cá thì thắng làm sao cho giòn, cho ngon như mỡ heo được ?
Ông vẫn nằng nặc :
-Dỡ một chút không sao ! Tui phải chèo cho kịp để cặp chiếc tàu Dòng. Tới trễ quá ba trái dừa lên mộng hổng ai mua, tui cho bà ngồi nạo rồi thắng dầu tới cụp xương sống cho biết thân!
Tàu dòng là loại tàu không lớn lắm nhưng gắn cái máy bự bành ky. Nó không dùng để chở hàng hóa hay hành khách, mà chỉ dùng để kéo những chiếc ghe đi trên sông lớn. Những chiếc ghe nhỏ, cho dù có gắn máy đuôi tôm, cũng không dám một mình qua những chỗ ngã năm, ngã bảy vì sóng rất lớn, hay xuất hiện mấy cái xoáy nước, có thể nhận chìm ghe.
Mỗi chiếc tàu dòng dư sức kéo đến ba, bốn chục chiếc ghe cà dom.
Bà nghe ông nói vậy thì riu ríu nghe theo, không dám kèo nài thêm một tiếng nào.
Món canh chua được nấu với con cá rô biển và cái đầu cá vồ( mình và đuôi của nó không cho vào luôn mà để lại làm món kho).
Con cá mè lúi, xương nhiều nên phải khứa xương (khứa liền dao, thật nhuyễn), đem chiên ngập mỡ cho thật giòn, giầm nước mắm tỏi ớt mới ngon.
Cá ét thịt nhão và hôi. Bà định bỏ nhưng tiếc, bèn đem đánh vảy, bỏ đầu, xẻ bụng, ướp muối phơi khô để dành lúc thắt ngặt mới đem ra xài.
Càng đi về phía hạ nguồn, con sông càng rộng và có thêm nhiều nhánh nhỏ.
Những cù lao cũng xuất hiện nhiều hơn. Có cái hình như bị bỏ hoang bởi chẳng thấy bóng nhà, bóng người, thế nhưng mặt đất vẫn được bao trùm bởi một màu xanh của lúa.
Còi hỏi:
-Chỗ nầy hổng thấy ai ở, sao có lúa mọc tốt quá vậy ba?
Ba Rum chỉ tay vào cái rặng cây ở mút tầm mắt nói:
-Có chớ con. Họ ở trong cái hàng cây đó đó !
Còi nhướng mắt nhìn chầm chập hồi lâu rồi nói:
-Con hổng thấy cái nhà nào hết trơn.
Ba Rum cười :
-Nhà thấp lắm, bị cây lấp, con làm sao mà thấy!
Còi không tin, hỏi ráng:
-Sao họ không cất sát bờ sông ? Ở xa như vậy thì làm sao mà đi tắm với gánh nước?
Ba Rum kiên nhẫn giải thích :
-Chỗ đó cũng chạy dọc theo bờ sông đó con. Chắc có đường lộ nên họ xúm nhau cất nhà ở đó cho vui, cho tiện. Chắc cũng có chợ và trường học nữa.
Chiếc ghe đang đi vào một con rạch. Trên bờ đất thấp lè tè chỉ có mỗi một căn nhà sàn với mấy cây cột tràm ốm nhom, nằm thêu lêu sát bờ sông. Ngay sau lưng nhà là một cây cầu làm bằng tấm giạt tre, nối liền cửa sau xuống bến nước. Nhà bếp chắc đang đỏ lửa vì những làn khói cứ đùn nhau trồi lên từ cái mái lá thấp chũm.
Một chiếc xuồng nhỏ, loại xuồng câu cặp gần cây cầu. Trời có gió nên mặt nước gờn gợn sóng, khiến nó luôn lắc lư, cứ cụng đầu qua lại, giữa cây cầu và cây sào. Một sợi dây lòi tói to bằng ngón tay, cột từ chân cây sào tới cái mũi nhọn hoắc của chiếc xuồng.
Còi lại hỏi:
-Sao người ta không chịu cột chiếc xuồng vào cây cầu luôn, mà cột vô cây sào làm chi cho mắc công vậy ba ?
Ba Rum tuy nghĩ trong bụng : " Cái thằng nầy thiệt là rầy rà, gặp thứ gì cũng hỏi ". Thế nhưng ông không hề tỏ ra bực bội, vẫn ôn tồn cắt nghĩa :
-Cái xuồng lắc lư hoài, đâu có chịu đứng yên. Gặp gió to, sóng lớn, cây cầu chịu đâu có nổi. Sập tới, sập lui, làm đi, làm lại hoài, mắc công lắm! Người ta cắm thiệt sâu cây sào xuống đất, có khi thả thêm cục đá bự làm neo xuống nước cho nó đứng một mình, không ảnh hưởng tới cây cầu.
Một đứa bé trai ở trần, mặc quần xà lỏn đen bỗng xuất hiện đột nhột trong khung cửa trổ ra cầu. Nó chạy ra mút đầu cầu để nhìn cho rõ chiếc ghe. Còi đưa tay ngoắc và cười với nó một cái. Nó đáp lại bằng một nụ cười bẽn lẽn, không ngoắc trả mà chỉ đứng nhìn theo mãi miết.
Còi cảm thấy tội nghiệp cái thằng nhỏ ấy hết sức ! Nó cho rằng thằng bé nầy chắc không có bạn và đang buồn lắm ! Đột nhiên từ sau lưng thằng bé kia, lại xuất hiện thêm ba đứa nhỏ hơn, chắc là mấy đứa em của thằng bé đó. Còi bỗng nghe mừng khơi khơi !
Qua khỏi căn nhà một đỗi, chừng non cây số lại là một căn nhà khác. Cũng y hệt như căn nhà kia, với tấm giạt tre làm cầu và chiếc xuồng câu cột vào cây sào. Có điều trên cây cầu thay vì những đứa bé con, lại là một phụ nữ đang ngồi với cái rỗ to trong đựng giá trong tay. Cô ta vừa nghiêng cái rỗ cho lớp vỏ đậu xanh trôi ra ngoài, vừa liếc ngang để nhìn theo chiếc ghe một cách kín đáo.
Má nó bỗng hỏi:
-Trong nhà có bí rợ hông chị, bán cho tui một trái.
Người phụ nữ đáp:
-Có! Chị ghé vô đi !
Má nó lắc đầu:
-Tụi tui đi gấp lắm ! Ghé không tiện. Chị chịu khó bơi xuồng theo nghe, tui trả tiền rồi tặng thêm mấy trái dừa khô đền công, chị chịu hông?
Người phụ nữ không đáp, lật đật để cái rỗ lên cầu, chạy bay vô nhà. Lát sau đã thấy cô ta ôm trái bí rợ thiệt bự bước xuống xuồng. Cổ tháo sợi dây luộc đang vòng qua cây sào, cầm cây dầm rồi dang thẳng cánh tay, bơi vun vút về phía chiếc ghe.
Ba nó thấy vậy liền gác chèo lên chờ nên chỉ một lát sau là cô ta đuổi kịp. Má nó đã thủ sẵn ba trái dừa, hai trái còn nguyên với một trái có lớp vỏ hơi đậm vì bị ướt.
Người phụ nữ cầm sợi dây đưa cho má nó để bà kéo chiếc xuồng cặp sát vào ghe. Chờ cột xong, cô mới hai tay bưng trái bí đưa lên cho bà.
Má nó xuýt xoa:
-Trái bí bự dữ ! Bí hai da phải hông chị?
Cô ta gật đầu, không nói tiếng nào.
Má nó lại hỏi :
-Bao nhiêu vậy chị ?
Cổ đáp:
-Chị trả bao nhiêu thì trả. Tui trồng mấy dây để ăn thôi, có bán chác gì đâu mà biết giá.
Má nó móc trong túi đưa ra một tờ giấy năm đồng. Bà bỗng thấy hai miếng vá, một ở vai và một ở cùi chỏ trên chiếc áo bà ba đen rất cũ của người phụ ấy. Cảm động quá, bà bèn rút tay lại, móc gói tiền trong túi ra, lấy thêm một tờ y như vậy rồi đưa hết hai tờ cho cổ.
Người phụ nữ kêu to:
-Trả cái gì mà nhiều dữ thần vậy ? Tui lấy một tờ hà !
Má nó nói dối:
-Tui mua ngoài chợ giá nào thì trả cho chị giá đó, bộ khùng sao mà trả nhiều hơn.
Cô ta cầm nhưng gương mặt còn lộ vẻ bán tín, bán nghi.
Má nó đưa cho cổ thêm ba trái dừa rồi nói:
-Hai trái còn nguyên, một trái bị hư. Chị chịu khó nạo rồi thắng dầu mà xức tóc.
Người phụ nữ ra vẻ cảm động, hỏi:
-Chị có ăn hột vịt hông ?
Má nó lắc đầu. Cổ nói như năn nỉ:
-Tui cho chị chớ hổng có bán đâu. Tại vịt đẻ nhiều quá ăn không xuễ.
Má nó vẫn cương quyết:
-Ông nhà tui không hợp với cái món hột vịt. Hồi nhỏ ổng ăn vô có một miếng mà nổi mề đay khắp mình mẩy, gãi muốn tróc da luôn. Tới bây giờ hổng dám rớ tới nữa.
Rồi bà gợi ý :
-Sao chị hổng muối để dành.
Cổ nghe vậy bèn hỏi tới:
-Muối làm sao ? Tui thấy họ bọc tro trấu đen thùi bên ngoài. Coi bộ khó lắm ! Tui đâu làm nổi. Tro trấu bời rời lắm ! Bọc làm sao cho dính hả chị ?
Má nó lắc đầu:
-Chị khỏi cần bọc tro trấu làm chi cho mắc công. Pha muối cho thiệt là mặn, thả hột cơm vô thấy nó nổi lều bều là được. Rửa hột vịt cho thiệt sạch rồi thả vô. Lấy cái vỉ tre gài cho nó nằm sát hủ, không nổi lên trên mặt. Chị canh chừng nứa tháng tới hai mươi ngày là ăn được rồi.
Ba nó nghe chừng hai người họ còn muốn trò chuyện tiếp chớ chưa chịu chia tay. Ông nhắc khéo bằng cách thả mạnh cây chèo xuống nước.
Má nó lật đật tháo sợi dây ra khỏi ghe rồi nói:
-Thôi tui đi nghe, chị ở lại mạnh giỏi.
Người phụ nữ cũng cầm cây dầm, chống vô lườn ghe, đẩy mạnh cho chiếc xuồng có trớn. Cái xuồng quay phắc một trăm tám mươi độ. Cổ ngoái đầu lại nói vói :
-Dà , chị cũng đi mạnh giỏi !
Suốt ngày hôm ấy Ba Rum chèo ráo riết. Đến tối cũng không dừng lại ngủ mà cho ghe đi luôn trong đêm. Hai cây đèn gió được đốt lên, treo hai bên hông ghe để soi đường và làm hiệu cho mấy chiếc ghe khác tránh. Chúng cứ lắc lư theo từng nhịp chèo.
Mỗi khi đi nước rút như vậy, cả hai vợ chồng Ba Rum cùng chèo, kẻ lái, người mũi. Còi ta lần đầu tiên được giao cho cái công việc mà mình ưng ý nhứt nên mặt mày hết sức hớn hở. Nó ngồi chễm chệ trong cái nhà chòi, hai tay bám chặt cần lái.
Thật ra nó chưa đủ trình độ để tự mình xoay sở, phải thi hành răm rắp theo mệnh lệnh của người lớn. Hể nghe ba nó sai:
-Cho qua bên trái một chút !
Thì nó đẩy cái cần qua bên phải.
Nếu ổng sai:
-Qua bên phải!
Thì nó kéo qua trái.
Có lần nó quên nên làm ngược lại, chiếc ghe lủi vô bờ, ba nó la chói lói. Má nó lật đật chụp lấy cần lái bẻ ra từ từ, kẻo nó làm nhanh quá ghe có thể lật.
Tới khúc sông vắng má nó bỗng rủ:
-Hò vài câu cho vui đi ba thằng Hên !
Từ ngày có nó, họ đã thay đổi cách xưng hô. Không gọi ông (bà) và xưng tui nữa. Bà mở đầu trước, ban đầu ông hơi ngại nhưng nghe quen rồi thấy thích.
Ba nó có máu văn nghệ lắm ! Cái la dô ấp chiến lược lúc nào cũng kè kè bên cạnh, ông vặn suốt ngày, tìm nghe các đài có ca cổ nhạc. Ông rất khoái nam nghệ sỹ Tấn Tài, nên định bụng sau nầy nếu làm khai sanh cho nó, sẽ mượn cái tên của y mà đặt.
Lời yêu cầu của bà đã gãi đúng cái chỗ ngứa, Ông bèn tằng hắng một cái rồi hò:

-Hò hớ ...ớ ơ...
Bìm bịp kêu nước lớn em ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê...

Giọng của ông ngọt như mía lùi, cái chữ "mê" kéo dài làm má nó nghe là hết mệt liền. Bèn tìm câu đối lại. Nhìn mấy trái dừa bà bỗng nhớ ra, cũng ho một cái cho trơn cổ rồi mới bắt giọng :

-Hò hớ...ớ...ơ...ơ...
Nạo dừa vắt nước cho nhanh
Thắng dầu mà xức tóc anh cho mượt mà ...

Tiếng hò rất du dương, ngân nga một cách truyền cảm, chẳng thua ba nó chút nào !
Ông thuộc ca dao nhiều lắm, bà vừa ngưng là xướng giọng liền:

-Hò hớ...ớ ...ơ...
Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ,
Chợ Cờ Đỏ tuy nhỏ mà đông.
Thấy em chèo chống anh chẳng đành lòng,
Thôi để anh làm mướn kiếm từng đồng mà nuôi.

Lần nầy má nó đáp liền :

-Hò hớ ...ớ...ơ...ơ
Em mặc áo vá, đội cái nón lá bung vành
Không ai dám cưới sợ mang danh nhà nghèo
Ghe không gắn máy phải chèo
Thương không dám nói, ngó theo cho đỡ buồn.

Trên bờ bỗng xuất hiện một cái nhà cặp sát mé sông. Bóng một người đàn bà ngồi vá áo dưới ngọn đèn chong leo lét.
Ba nó liếc vô một cái rồi hò:

-Hò hớ...ớ...ơ
Đi ngang nhà má, cái tay tui xá, cái gối tui quỳ
Lòng thương con má sá gì thân tui.

Một giọng con gái, trong veo như nước sông mùa nắng, từ căn nhà đó vọng ra :

-Hò hớ...ớ...ơ...ơ
Tai em đeo đôi bông nhận hột, có cái chột bằng đồng
Nói cho anh biết, bên chồng em mới cho.

Ba nó cũng đâu có vừa, đáp liền:

-Hò hớ...ớ...ơ
Có chồng mặc kệ có chồng
Còn duyên anh ẵm, anh bồng, anh hun...

Nghe ba nó "xung" quá, má nó sợ cô gái đó xiêu lòng nên hò cho cổ biết là ba nó "ván đã đóng thuyền rồi ". Bà liền khuyên:

-Hò hớ ớ...ơ ...ơ
Đói lòng nhai nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.

Ba nó đang có trớn nên ghẹo tiếp:
-Hò hớ ...ớ...ơ
Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ, phải thương cho đồng.

Má nó lên giọng dằn mặt ngay lập tức:
-Hò hơ...ớ...ơ...ơ
Ớt nào là ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng
Một vợ thì nằm giường đồng
Hai vợ thì xuống bờ sông mà nằm.

Tới đây coi mòi gây cấn nên ba nó im ru luôn!

Khi con trăng hạ tuần gầy nhom vác cái lưng cong cong, chậm chạp leo tới nơi cao nhất của bầu trời, thì chiếc ghe cũng vừa đến cuối con rạch.
Chắn ngang rạch là một con sông rộng mênh mông. Ánh trăng yếu ớt khiến những con sóng nhỏ lao xao như một bầy rắn ngóc đầu chờ đớp mồi. Mặt nước mang vẻ bình thản, tươi vui, trong sáng lúc ban ngày, bỗng trở nên nghiêm nghị, thâm u, đe dọa... Trên mặt sông tối tăm, sâu hút như rơi mất đáy ấy, những đám lục đen thẫm len lén trôi qua. Vẻ hiền từ, thân mật của chúng cũng nhuốm nét bí hiểm, khó lường.
Ngay chính giữa sông có hai khối hình trụ đen thui, nằm song song cách nhau mấy thước. Đó là hai chiếc thùng phuy rổng nổi lềnh bềnh, có mang những chiếc đèn chong trên lưng.
Còi chỉ tay vào chúng, hỏi:
-Nó là cái gì vậy Ba?
Ba nó đáp:
-Miệng đáy đó con !
Ông giải thích thêm:
-Ở mấy chỗ như vầy cá nhiều lắm, nên người ta thả đáy suốt tháng, quanh năm luôn. Họ phải chong đèn để mấy chiếc tàu biết mà tránh.
Nói xong ông liền kêu:
-Sắp tới rồi đó má thằng Hên ơi! Bà cầm lái đi !
Bà lật đật buông cây chèo ra để lấy lại cái cần lái từ tay thằng Còi. Nó chưa chịu bỏ tay ra. Bà đặt bàn tay của mình trùm lên tay nó, từ từ đẩy cái cần sang bên trái. Mũi ghe xoay một góc chín mươi độ, ôm sát bờ sông bên phải, rồi chầm chậm tiến tới đích đến, nơi mấy chiếc ghe sắp thành hàng dài, cặp sát bờ sông như một con đê chắn sóng.
Tiếng hỏi han lao nhao phát ra từ một nhóm người ngồi trên mui vang đến:
-Ghe của ai vậy ta?
-In là ghe của Tư Lành.
-Hổng phải đâu, chuyến nầy Tư Lành chở tro lên Bình Dương mà!
Một người đàn ông đang ngồi bỗng đứng phắt lên, nhìn đăm đăm chiếc ghe đang tìm chỗ đậu, rồi cất cái giọng rất dỏng dạc hỏi:
-Phải ghe của Ba Rum hông?
Ba Rum nhận ra người quen, liền trả lời:
-Tui nè anh Năm, anh tới lâu chưa?
Người đàn ông lớn tuổi, có cái cục xi nhon sau ót đó đáp :
-Từ đầu hôm lận! Sao chú em mầy tới trễ dữ vậy?
Ba Rum thở ra một cái khì:
-Gặp nước ngược, tưởng đâu lỡ mất toi cái chuyến tàu nầy luôn rồi chớ !
Ông bác ấy lại chỉ tay về phía thằng Còi mà hỏi:
-Ai vậy ?
Ba nó trả lời, giọng tràn trề hãnh diện:
-Thằng con ngang hông của tui đó ! Nhờ có nó giữ lái, bả phụ thêm một tay mới tới kịp đó anh!
Ông ta khen nức nở :
-Chèn ơi! Mới bây lớn mà biết cầm lái rồi sao? Giỏi quá!
Thằng Còi nở muốn banh cái lỗ mũi khi ba nó bồi thêm:
-Nó mới học có mấy ngày chớ đâu có lâu lắc gì!
Chiếc ghe của Ba Rum dừng lại khi cái vỏ xe hơi bọc quanh mũi của nó chạm nhẹ vào phần hông sau của chiếc ghe trước mặt.
Ông bác bới tóc là chủ chiếc ghe đó. Ông liền nhảy từ mui ghe của mình xuống, vói tay lấy sợi dây luộc từ tay ba nó, cột vào cái trụ cao chừng một tấc hình chữ T nằm mút đuôi ghe. Cột xong ông phủi tay rồi rủ :
-Lại ngồi chơi với anh em một chút đi chú !
Ba Rum "dà" một tiếng rồi kề tai nói nhỏ với thằng Còi:
-Con vô nói má bới cho ba một tô cơm.
Nó chưa kịp đi đã thấy má nó xuất hiện. Bà bưng một tô cơm đầy vun với hai khứa cá lóc kho khô và một trái dưa leo gát trên mặt, đưa cho ông rồi nói:
-Ông ăn ba hột dằn bụng cái đã !
Ông vừa bưng tô cơm vừa nói :
-Nướng giùm tui vài con khô đi bà !
Nó ngạc nhiên:
-Bây nhiêu cá mà ba ăn chưa đủ sao mà còn nướng khô nữa?
Ba nó cười:
-Nướng để hùn mồi chớ ba đâu có ăn một mình.
Khi ông tém gọn mấy hột cơm sau cùng, thì má nó cũng đem cái dĩa với hai con khô cá sặc ra. Ba nó hỏi:
-Bà nhóm bếp nhanh dữ hén!
Má nó cười:
-Tui đốt cái rề xô làm cho lẹ. Nướng có hai con khô, nhóm lửa chi cho mắc công.
Ba nó bưng cái dĩa trên tay, dợm chưn đứng lên rồi hỏi nó:
-Con có muốn đi theo ba hông ?
Nó gật đầu một cách sốt sắng:
-Muốn!
Má nó ngăn:
-Đừng có rủ ông ơi. Để nó ở nhà ngủ cho khỏe.
Nghe bà nói vậy, cái mặt đang tươi hơn hớn của nó chù ụ liền tay. Bà không cản nữa, đưa cây quạt lá vông mới tinh cho nó rồi căn dặn:
-Ở đây muỗi nhiều lắm. Con phải quạt lia, quạt lịa luôn tay. Quạt cho ba con luôn, hông thôi là ổng bị hút không còn một giọt máu đó!
Ba Rum cẩn thận dắt nó đi từng bước. Hai cha con hết nhảy lên rồi lại nhảy xuống, chuyền từ cái mui ghe nầy đến mui ghe khác, mới đến được chỗ mọi người đang ngồi. Họ vừa ngoắc lia lia vừa gọi Ba Rum inh ỏi.
Mấy người đàn ông đang ngồi xếp bằng trên mui của chiếc ghe lớn nhất liền nhích người, ngồi sát vào nhau để nhường chỗ cho hai ba con nó. Người trẻ nhứt trong nhóm hỏi:
-Chuyến nầy chở món gì vậy anh Ba ?
Ba nó đáp:
-Dừa khô, còn chú ?
-Khoai lang.
Đáp xong anh ta nói thêm:
-Nghe nói dừa đang hút. Chuyến nầy anh hốt bạc rồi đó.
Ba nó cười :
-Chưa chắc đâu chú ơi ! Rủi đụng hàng, chủ vựa nó nhận giá là ăn muối luôn.
Thấy thằng Còi thập thò sau lưng ông, một người khác hỏi:
-Thằng nhỏ nào đi theo anh vậy ?
Ba nó chưa kịp trả lời thì ông Bác có cái búi tó ban nãy đáp thay:
-Con rơi của y đó. Mấy chú có thấy nó giống cha y hệt hông?
Thế là Thằng Còi được trưng ra cho mọi người coi mắt. Nó vốn nhát nên cứ cúi mặt nhìn xuống cái mâm nhôm để ở giữa, vô tình phát hiện trên mâm bày lủ khủ những thứ nó thích như khoai luộc, chuối nấu, đậu phọng rang và mấy chén nước lỏng bỏng. Đây là những mặt hàng đang có trong mấy chiếc ghe đó.
Nó đang tự hỏi không biết món gì được đựng trong mấy cái chén đó, thì nghe một người trong số họ gọi to.
-Thằng Dư đâu, kêu má bây múc thêm hai chén chè đậu xanh rồi bưng lên đây.
Một bàn tay to, chai sần nâng cái cầm nó lên. Mọi con mắt của những người đàn ông cùng nhìn đăm đăm vào tận mặt, rồi bình phẩm:
-Gương mặt cúa hai cha con giống hệt, y như cắt để qua.
-Bộ vó thằng nầy coi bảnh quá !
-Coi bộ sáng dạ à nghe !
Một người nhỏ giọng hỏi:
-Chị Ba có cằn nhằn hông anh ?
Ba Rum đáp bằng giọng tự hào:
-Có người sanh giùm, bả mừng gần chết, cằn nhằn cái giống gì ?
Ông bác bới tóc nói:
-Vậy là chú em mầy có phước lắm đó ! Nhiều người thà đi xin con nuôi chớ không chịu thương con rơi của chồng đâu !
Ba Rum cười hể hả :
-Đâu anh hỏi thử nó coi, tui với bả ai cưng nó nhứt ?
Ông bác hỏi ngắn:
-Ai vậy con?
Nó đáp bẽn lẽn:
-Má !
Ba Rum để dĩa khô vào giữa mâm rồi xé chúng thành từng miếng nhỏ. Ông bác bới tóc rót rượu vô cái chung, đưa cho Ba Rum rồi nói:
-Vô một cái cho ngọt coi !
Ba Rum đưa cái ly lên miệng uống một cái ót, vừa để xuống là nghe tiếng còi tàu rú lên gần xịt.
Mấy người đàn ông hớt hải chạy về ghe của mình, lật đật tháo dây cột, kéo neo rồi chèo ra giữa sông để cặp theo đuôi chiếc tàu dòng đó.
`Chiếc ghe của Ba Rum nằm mút sau chót. Nó như cái đuôi của đoàn ghe có hình dạng giống con cá nóc đó. Đầu cá dĩ nhiên là chiếc tàu, còn cái bụng phình to là mấy chục chiếc ghe xúm xít.
Còi đứng trên mui, nhón chân để đếm coi được bao nhiêu. Nó rất ngạc nhiên khi thấy chiếc tàu lớn chừng đó mà có thể kéo đến ba mươi ba chiếc ghe xêm xêm nó!
Ba Rum cột sợi dây lèo từ mũi ghe mình vào cái trục sau, gần bánh lái của cái ghe trước mặt. Đó vẫn là chiếc của ông Năm già bới tóc. Làm vừa xong, chưa kịp phủi tay là đã nghe tiếng hú, gọi mọi người tập họp của người chủ chiếc ghe khi nãy. Ông ta réo tên từng người để mời họ cùng tiếp tục cuộc ăn nhậu, trò chuyện đang bỏ dở.
Thằng Còi cũng lẻo đẻo bám theo ba nó. Một phần do mê nghe chuyện, một phần vì tiếc cái chén chè đậu xanh mà ban nãy, nó chỉ mới cầm có cái muỗng lên rồi bỏ xuống liền chớ chưa kịp ăn.
Má nó lại can, lại cằn nhằn, lại đưa cây quạt, lại dặn dò...Lần nầy bà còn móc túi lấy ra chai dầu "Song Thập" bôi lên màng tang, chót mũi và yết hầu của hai cha con nó để ngừa phong, đón gió.
Họ chưa kịp đi thì một người đàn ông mặc bộ py da ma màu xanh đậm, sọc đen, cầm cuốn biên lai xuất hiện. Ông ta trông không giống mấy người lái buôn như ba nó. Cách ăn mặc, điệu bộ, ngôn ngữ nửa phần dân thầy, nửa phần dân thợ.
Ông ta cười để lộ hai cái răng cửa bịt vàng, xoa đầu nó rồi hỏi:
-Thằng nhỏ nào đây?
Câu hỏi chứng tỏ họ đã quen nhau từ trước. Ba nó cười đáp:
-Thằng con cầu tự của tui đó anh Bảy !
Ổng hỏi tiếp:
-Sao hồi nào tới giờ hổng thấy, cũng không nghe vợ chồng anh nhắc tới nó ?
Ba Rum cười:
-Nó kỵ tuổi, khó nuôi. Vợ chồng phải đem đi bán khoán rồi cho người khác làm con nuôi. Bây giờ mới bắt về, cho theo nghề dần dần.
Ông Bảy ấy liền gật đầu:
-Cỡ nầy là dạy cầm chèo, cầm lái được rồi.
Ông ta lại nhìn nó đăm đăm rồi chặc chặc cái lưỡi, gật gật cái đầu ra vẻ thích thú, hỏi:
- Anh đúc kiểu gì mà nó giống anh như tạc vậy ?
Ba Rum khoái trá cười hô hố, trong khi thăng Còi lại có vẻ đăm chiêu.
Nó nghĩ ngợi, nhìn Ba Rum một cái để âm thầm so sánh. Chẳng là khi còn ở nhà, bà con trong xóm đều nói nó giống cha ruột như hai giọt nước. Bây giờ thì mấy người nầy lại nói nó y hệt ông ba nuôi. Nó cho rằng nếu vậy thì hai người, ông ba này và ông cha kia, phải giống nhau như in mới phải. Nó ráng nhìn cho thật kỹ, vẫn thấy họ có hai gương mặt khác nhau hoàn toàn.
Ông Bảy lại hỏi nó:
-Cháu tên gì ?
Nó khoanh tay đáp một cách lễ độ:
-Cháu tên là thằng Hên.
Ông ta nhìn nó đầy thiện cảm, khen:
-Thằng cháu nầy rất có giáo dục, tốt quá!
Ba Rum nghe ổng khen nó thì lấy làm hả lòng, hả dạ. Nên không chờ người chủ tàu nói ra số tiền phải trả, rồi kỳ kèo như thường lệ, mà móc liền trong túi gói tiền ra, đếm rồi trao cho người chủ tàu.
Ông Bảy cầm mấy tờ giấy bạc đếm lại rồi đưa biên lai cho ba nó.
Ổng bỏ tiền vô cái túi áo to phồng, rồi lại móc ra, lựa tờ giấy một đồng mới nhứt đưa, nói :
-Bác cho con mua bánh ăn.
Nó không dám cầm dù rất muốn, nhìn Ba Rum chầm chập.
Ông Bảy khuyến khích:
-Lấy đi con, ba con hổng có rầy đâu !
Thấy nó còn do dự, Ba Rum gật đầu một cái rồi nói:
-Cám ơn bác Bảy đi con.
Nó khoanh tay chặc hơn, cúi cái đầu sát hơn, nói một cách cung kính hơn:
-Con cám ơn bác Bảy.
Xong rồi mới cẩn thận cầm chắc tờ giấy màu cam ấy bằng cả hai bàn tay, vuốt cho thẳng thớm, rồi gấp laị làm hai, làm tư, làm tám. Nó không dám bỏ vào túi sợ mất mà giữ rịt trong lòng bàn tay, nắm sát năm ngón tay lại hết mức có thể, để không bị lọt ra ngoài.
Ba Rum bèn mời ông chủ tàu:
-Lên mui ngồi uống với tui vài hớp nước đi anh !
Ông chủ tàu chưa kịp trả lời, đã nghe tiếng của người đàn ông vừa gọi ban nãy, y ta giục:
-Tới lẹ đi anh Ba ơi !
Ổng bèn lắc đầu:
-Để khi khác đi anh Ba. Tui còn về lái thay cho chú Tám nó một chút.
Ổng vừa quay lưng là hai ba con nó cũng vọt liền !
Bàn tiệc ban nãy giờ có thêm hai người nữa. Trên mâm cũng có thêm hai món mới là dĩa củ sắn đã lột vỏ và cái thau đựng mía. Mía cũng được róc sạch, chặt thành từng đoạn ngắn chừng hơn một lóng tay. Cạnh mỗi thứ là một chén muối ớt đỏ lòm.
Thằng Còi ngồi sát một bên ba nó, y cái chỗ hồi nãy có điều chật hơn một chút. Nó rất muốn bưng chén chè lên mà hổng dám.
Ông bác bới tóc tuy đã già nhưng vẫn chưa quên tâm trạng của thuở mình còn bé, cầm chén chè lên đưa tận tay nó. Ông nói:
-Ăn đi con!
Rồi cũng nói với ba nó:
-Húp vài muỗng đi chú Ba.
Đậu xanh mới hái nấu với đường thốt nốt nên bùi và ngọt lịm, lại thêm nước cốt dừa béo ngậy, ngon không tả nổi. Nó ăn hết vèo trong nháy mắt. Thấy nó nhìn mấy chén chè còn nguyên một cách thòm thèm. Ba Rum bèn đưa luôn cái chén của mình cho nó. Ông nói nhỏ:
-Ăn giùm ba luôn đi con!
Chờ nó ăn xong ông bác bới tóc mới đẩy cái tô đựng đậu phọng rang tới trước mặt cu cậu. Đậu phọng cũng rất thơm ngon, nhưng trong bụng nó đã không còn chỗ chứa. Nhớ tới má nuôi đang một mình giữ ghe, nó thấy thương quá ! Bèn rình rình, thấy không ai chú ý tới mình, liền hốt một nắm đậu phọng bỏ vô túi áo, để lát nữa đem về cho bà.
Chiếc tàu đang đi giữa sông, gió quạt phần phật vào mặt hai ba con nó. Cái quạt lá vông má nó đưa không còn cần thiết nữa. Lủ muỗi đói đã bị bỏ lại trên bờ. Thằng còi lạnh rung, giá mà má nuôi cho nó mặc thêm một cái áo tay dài nữa thì đỡ biết mấy !
Càng về khuya khí trời càng lạnh, câu chuyện càng thu hút. Nó khoanh tay, ngồi sát vào người ba nuôi cho ấm. Khi câu chuyện bớt rôm rả, mấy món ăn đã vơi dần, người chủ mâm nhậu nghiêng đầu về phía ông Năm già bới tóc, nói với giọng nài nĩ:
-Nói vài câu thơ Vân Tiên cho vui đi chú Năm !
Ông Năm lắc đầu nói:
-Qua khúc sông nầy là tới dinh Cậu rồi. Mấy anh em ai nấy lo về ghe mình, chuẩn bị nhang đèn để cúng. Nhớ mặc quần áo tề chỉnh nghe! Đây là nơi rất linh thiêng. Chỗ nầy sóng to, gió lớn, nguy hiểm hạng nhứt, nhưng nhờ có Cậu độ nên ít khi xãy ra tai nạn .
Mọi người chợt nhớ ra rụt rịch rút lui. Người chủ ghe ráng mời:
-Cúng xong là mình tiếp tục nghe anh em.
Hai cha con về đến ghe, má nó đã chuẩn bị sẵn nhang, đèn, bánh, kẹo, gạo muối... để sẵn trong cái mâm nhôm đặt trước mũi ghe.
Chỉ vài phút sau, những con sóng bỗng tăng kích thước và vận tốc. Như thể có những bàn tay khổng lồ, thọc sâu xuống lòng sông và khuấy thật mạnh. Mũi ghe bỗng ngoi lên, hụp xuống, nghiêng qua trái, qua phải một cách liên tục. Những giọt nước bắn cao vượt qua khỏi đầu của thằng Còi, rồi rơi xuống, bám vào mặt, lạnh toát khiến nó rùng mình.
Ba nó mặc thêm bộ đồ mới mà má nó đã soạn sẵn ra bên ngoài. Với gương mặt vô cùng thành kính, ông cầm ba cây nhang đã được đốt, đưa lên ngang trán rồi rì rầm khấn khứa rất lâu.
Sáng hôm sau, như thường lệ, thằng Còi được má nuôi gọi đi rửa mặt để ăn sáng. Nó lồm cồm bò ra trước mũi ghe, thọc cái gáo xuống sông múc nước lên xúc miệng. Cái gáo nầy làm bằng lon sữa bò, có hình con chim in nổi dưới đáy, được một nhánh tre nhỏ bằng ngón tay, dài thậm thượt xỏ ngang miệng.
Nước xanh trong vắt, mặt sông y như cái thau bông cỏ khổng lồ làm nó bùi ngùi. Bởi nhớ lại cái món có vị nước đường, dầu chuối hết sức mát, ngọt, thơm mà má nó hay bưng đi khắp xóm để bán ấy !
Hồi đó, nó hay bị những đứa bạn nhìn bằng ánh mắt ganh tị, vì chúng cho rằng ngày nào nó cũng được ăn bông cỏ cho tới ngán. Thực ra nó nào có được ăn nhiều đến phát ớn. Má nó cho ba anh em chúng, mỗi đứa một chén lưng lưng thôi, mà cũng ngày có ngày không. Tụi nó ăn đâu có đã, xin thêm là bị má từ chối bằng một câu quen thuộc:
-Ăn ít no dai, ăn nhiều mau đói !
Cái câu nầy luôn làm nó bất mãn. Tự hỏi tại làm sao ăn nhiều lại mau đói ?
Bây giờ, trong bối cảnh nầy nó đã hiểu ra đôi chút. Giá như lúc nầy có cái thau bông cỏ trước mặt và má cho ăn thả giàn chắc nó vét tới sạch bách. Má nó sẽ đứt vốn, hết bán và ngay hôm sau nó sẽ chết thèm cái món đó !
Cái cảnh bưng chén bông cỏ húp xì xụp trồi ngay lên trong trí tưởng tượng, khiến nó đưa cái gáo đầy nước lên miệng mà uống ừng ực. Ngay lập tức nó vừa sặc vừa phun toàn bộ số nước chưa kịp chạy tới bao tử đó.
Một đứa con trai bằng cỡ nó, đang ngồi sau lái của cái ghe trước mặt, cũng cầm cái gáo y như nó, đang thọc ngón tay trỏ vô miệng để chà răng, cũng sặc nước vì cười.
Nó hỏi thằng bé:
-Nước của mầy cũng mặn hả?
Thằng nhỏ ấy gật đầu rồi hỏi lại nó:
-Bộ mầy mới đi ghe hả ?
Nó cũng trả lời bằng một câu hỏi:
-Sao mầy biết ?
Thằng kia đáp bằng cái giọng tự đắc:
-Ngó cái bộ vó của mầy ai mà hổng biết.
Nó định bắt chuyện thêm thì thằng bé ấy đã chui tọt vô khoang khi nghe tiếng gọi của một người phụ nữ :
-Út ơi ! Vô má biểu cái coi !
Má nuôi nó cũng kêu :
-Hên ơi! vô ăn bánh tầm khoai mì nè con.
Nghe nói món bánh tầm khoai mì là hai con mắt nó sáng trưng liền cho dù chưa được rửa. Nó bèn bụm bàn tay trái cho khít rịt, xối nước lên đó rồi chà khắp mặt, không quên ngậm chặt môi lại và chỉ làm một lần duy nhứt. Chất muối trong nước khiến da mặt nó như căng ra, rin rít hơi khó chịu .
Ba má nuôi đã ngồi sẵn trong chòi, họ chưa ăn và có vẻ như đang đợi nó. Nó chạy vội đến, bây giờ nó đã quen thân với cái mui ghe, không còn sợ bị bắt giò rồi chụp ếch mà té xuống sông uống căng bụng nước, thế nhưng vẫn làm má nuôi nó sợ. Bà rầy:
-Đi từ từ thôi con, đừng có chạy, té lộn cổ bây giờ!
Nó ngồi giữa hai người rồi dán mắt vô mâm. Trong mâm, cái tô bự đựng những sợi khoai mì trắng bóc, to bằng đầu đũa đầy vun tới miệng, đã được hấp chín đang bốc khói nghi ngút, khắp mặt phủ đầy dừa nạo. Đó là lớp dừa trong cùng, được nạo đầu tiên, tiếp xúc với nước dừa nên rất mềm và ngọt. Ở nhà, mỗi lần thấy má nạo dừa là nó đứng xớ rớ chờ ăn chúng cho bằng được. Má nó làm bộ rầy, nhưng không thấy nó thì lại lấy cất để dành, chờ gặp rồi cho, nhứt là mấy cái mộng dừa.
Kế tô bánh là cái tô nhỏ hơn đựng nước cốt dừa thắng bồng con, lấm tấm những chấm xanh xanh của hành lá xắt nhỏ. Một chén đậu phọng rang đâm nhuyễn trộn muối đường, thường được gọi là muối mè dù không có hột mè nào ở trỏng.
Nó vừa ngồi xuống là được má nuôi đưa tận tay dĩa bánh tầm. Dĩa bánh đã được chan nước cốt dừa và rắc muối mè, thế nhưng nó vẫn chan thêm một muỗng nước cốt dừa đầy vun, rắc muối mè thêm nữa. Má nuôi nó rầy:
-Con chừng mặn đó con !
Cái chữ mặn đó khiến nó nhớ lại cái vị của gáo nước khi nãy, liền hỏi:
-Sao nước ở đây mặn dữ vậy má ?
Ba nuôi nó giành trả lời :
-Chỗ nầy ở gần biển nên hể nước chảy ra biển thì ngọt, mà nước biển chảy vô là mặn.
Nó hỏi tiếp:
-Biển lớn hông ba ?
Ba nó trả lời :
-Lớn không tả xiết!
Nó hỏi tiếp:
-Ba thấy biển chưa ?
Ổng lắc đầu :
-Chưa !
Nó năn nỉ:
-Mai mốt mình chạy ra biển coi thử đi ba !
Ổng lại lắc đầu :
-Không được đâu con, ghe mình mà ra biển là bị sóng đánh chìm liền. Sóng ở đó lớn lắm !
Má nó tiếp thêm :
-Cho dù hổng bị chìm thì cũng khỏi đi nữa được !
Nó ngạc nhiên:
-Sao vậy má ?
Ba nó cắt nghĩa :
-Bị con hà nó ăn lủng ghe luôn, đâu còn mà đi !
Nó lại hỏi tiếp:
-Sông có hà hông ba ?
Ổng cũng kiên nhẫn trả lời :
-Có chớ con, nhưng mà nó không có dữ bằng mấy con hà biển. Mình xài chừng vài năm là phải đem ghe lên bờ, xông khói cho nó chết, trét chai, phết dầu khắp lườn rồi mới đi nữa.
Má nuôi thấy hai cha con nó ăn quá khí thế. Bà có ý chờ họ khen mà hổng ai nói tiếng nào, không còn kiên nhẫn nữa, nên hỏi:
-Ngon hông con?
Nó gật đầu, gấp một đũa vun cho vào đầy nhóc miệng, nhai mới ba sồn, ba sực là nuốt. Nuốt xong rồi nói bằng cái giọng khiến bà hết sức thỏa mãn:
-Ngon quá trời, quá đất luôn !
Bà bèn bảo nó:
-Con ăn xong thì lột hết cái rỗ khoai mì, để má ngâm nước đặng mai làm bánh cay, bánh xếp cho mà ăn.
Nó kèo nài:
-Làm liền trưa ăn đi má !
Má nó cười :
-Khoai mì phải ngâm nước qua đêm ăn mới không hại bụng. Như món bánh tầm nầy má cũng lột hồi tối, đem ngâm nước liền, sáng mới đem ra bào rồi hấp đó chớ !
Ba nó hỏi:
-Khoai nầy phải của Hai Bường cho hông ?
Má nó lắc đầu:
-Của anh Năm Già.
Má nó bỗng dừng nhai mà thở dài sườn sượt. Ba nó hỏi:
-Mắc mớ gì mà đang ăn cái bỏ đũa ngồi thở nghe muốn rát ruột vậy ?
Má nó thở thêm một hơi nữa rồi mới nói:
-Nghe chị Năm than chuyến này có tới ba ghe chở khoai mì. Chỉ sợ dội hàng, bị chủ vựa ém giá là lỗ thắt họng.
Ba nó cũng thở dài theo:
-Ba cái khoai mì, cà gió, chuối.. nầy tui sợ lắm ! Không bán được liền, cầm cự hoài thì chỉ có nước đem đổ. Chủ vựa biết vậy nên họ đâu có ngán, ép giá cho tới cùng luôn ! Mình đi dưa, dừa, khoai ngọt, bí rợ... để được lâu hơn mà còn không chắc ăn, lo muốn teo ruột nữa là...
Ăn xong, không chờ má nuôi sai thêm lần nữa, Còi lật đật chạy ra mũi ghe nơi có cái rỗ khoai nằm chình ình để bắt tay vào việc liền. Không phải nó có tinh thần trách nhiệm cao, chỉ vì muốn gặp lại thằng Út khi nãy. Dân thương hồ, bởi sống biệt lập nên họ thèm đủ thứ, nhất là thèm bạn. Đối với mấy đứa con nít, điều nầy còn bức thiết gấp đôi .
Cũng như nó, thằng Út đang lấp ló, nhìn chăm chăm qua cửa khoang sau. Vừa thấy thằng Còi tay dao, tay thớt là nó phóng một cái vèo qua liền.
Còi điếng hồn, hỏi :
-Mầy hổng sợ lọt giữa hai cái ghe rồi bị nghiến cho dẹp lép sao?
Nó hỏi như thế bởi khoảng cách giữa hai chiếc ghe luôn dao động. Sợi dây nối liền chúng khi căng ra hết mức, lúc thì thun lại cho đến nổi mũi chiếc nầy và lái của chiếc kia hun nhau thắm thiết. Nếu sóng bất thình lình ghen tức, xô chúng giạt ra liền, thì cái chuyện rơi tỏm xuống sông chắc chắn không thể nào tránh khỏi. Nếu may mắn thoát chết thì cũng uống nước tới cành hông và sợ đến bay hết ba hồn bảy vía.
Út cười toe:
-Ba cái chuyện nầy dễ ợt, tao nhảy cái một, dễ dầu gì rớt.
Rồi nó chờ cho đến khi hai chiếc ghe dang xa nhau nhứt, sợi dây căng ra hết cỡ liền biểu diễn một cú nhảy hết sức ngoạn mục, làm thằng Còi lé xẹ cả hai con mắt.
Đứng nhìn thằng Còi khứa khứa, lột lột mấy củ khoai mì một cách quều quào, nó nghe ngứa tay và xốn hai con mắt quá, bèn biểu:
-Đưa cây dao đây tao làm cho, múc nước đổ đầy cái thau nầy đi.
Còi răm rắp làm theo mà không hỏi lại một tiếng nào. Tướng tá thằng Út hiên ngang, lời nói dõng dạc nên nó tuân theo không một chút nghi ngờ.
Thằng Út cầm cây dao yếm gọn hơ. Nó chặt bỏ hai đầu củ khoai, rạch một đường dọc theo chiều dài từ cuống đến đuôi rồi thảy vô thau nước ngâm. Động tác của nó rất nhanh và dứt khoát, đúng là dân lột khoai mì chánh hiệu. Chắc cả ức, cả muôn, cả thiên... củ khoai mì đã qua hai bàn tay của nó !
Thấy thằng Còi ngưng múc nước, cầm củ khoai vừa được bỏ xuống lên bóc vỏ, nó can:
- Khoan lột, cứ đổ cho ngập khoai, ngâm lâu chừng nào lột lẹ chừng nấy !
Mấy ngón tay của thằng Út nhanh thoăn thoắt. Còi ngấm ngầm đua, thế nhưng nước chưa đầy thau mà nó đã chặt và rạch bụng hết mấy củ khoai rồi hất cái đống vỏ xuống sông.
Nó thọc hai tay vô thau nước, đảo cho lớp khoai dưới đáy nằm lên mặt để lột trước. Những củ khoai nầy đã uống no nước, thịt nở căng đến nức áo, nên cởi ra nhanh cóc kỳ.
Nhờ thằng bạn có kinh nghiệm đầy mình mới quen nầy, Còi ta thanh toán cái rỗ khoai mì một cách nhanh chóng. Nó khoe thằng Út:
-Ngày mai nhà tao ăn bánh cay, bánh xếp khoai mì nè !
Để tỏ ra mình là người biết điều, nó rủ :
-Mầy qua ăn cho vui nghe !
Út trề môi lắc đầu. Nó gặng:
-Sao vậy?
Thằng nầy nói tỉnh bơ:
-Ngán thấy bà cố !
Còi ngạc nhiên :
-Ngon như vậy mà mầy chê hả ?
Út gật đầu. Còi hỏi tiếp :
-Vậy mầy có thích ăn bánh tầm khoai mì chan nước cốt dừa hông?
Thằng Út lại lắc đầu :
-Đừng có nói khoai mì với tao. Cho dù khoai mì ướp xả, nghệ, hành, ớt rồi vò viên đem chiên; chè chuối chưng khoai mì; khoai mì nấu chè xôi nước; bánh xếp khoai mì; bánh khoai mì nướng; bánh ít khoai mì; bánh chuối khoai mì; bánh kẹp khoai mì...hay làm cái món gì gì bằng khoai mì, có ngon cách mấy đi nữa, tao cũng ghét tuốt luốt !
Còi hỏi tiếp:
-Vậy thì mầy thích ăn món gì nhứt ?
Út nuốt nước miếng rồi trả lời :
-Bây giờ tao chỉ thích ăn cơm với món gì cũng được. Nhưng mà tao thèm nhứt hạng là cái món cơm chiên bỏ thiệt là nhiều hành với tóp mỡ.
Vợ Ba Rum đang ngồi trên mui ghe, gần đó. Từ nãy tới giờ lắng tai nghe tụi nó trò chuyện không bỏ sót tiếng nào. Đoán chừng vợ Năm Già hay cho cả nhà ăn khoai mì trừ bữa thì cảm động chịu không nổi.
Bà bèn bỏ đi ra khoang sau, lật nấp hầm lên lấy hết mấy trái mướp, bầu, cà tím. Cắt thêm nửa trái bí rợ rồi bỏ vô rỗ bưng đi. Vừa dợm cẳng bước qua ghe Năm Già, chợt nhớ tới cái xâu khô đang treo trong chòi, bèn leo lên lấy xuống, cho nó vô rỗ nằm chung, rồi đi tiếp.
Vợ Năm Già đang ngồi vá áo, tóc không bới mà xõa hết ra. Đứa con gái nhỏ tên Út Em đang quì gối sau lưng, tay mân mê, mắt nhìn chăm bẳm lên đỉnh đầu bà. Một tiếng "bựt" rất nhỏ vang lên, gương mặt của hai mẹ con đều hiện vẻ khoái trá. Con bé vừa đưa cho má nó một sợi tóc ngắn ngủn, xoăn tít, bạc trắng vừa đếm:
-Chín.
Vợ Ba Rum cúi gập người chui vào khoang rồi ngồi im ru. Thấy hai mẹ con họ không để ý tới mình liền tằng hắng một cái rồi hỏi:
-Vá đồ hả chị Năm ?
Vợ Năm già ngừng kim, quay đầu lại nhìn, thấy vợ Ba Rum bưng đầy một rỗ xanh xanh, tím tím, nâu nâu, vàng vàng...thì chắc lưỡi hai ba cái rồi hỏi:
-Cho cái gì nữa vậy thím Ba?
Vợ Ba Rum cười mơn đáp:
-Ba cái thứ để nấu canh, với một xâu khô cá lụn vụn thôi hà !
Vợ Năm Già liếc qua, thấy chúng tươi roi rói thì hỏi:
-Sao thím hổng để dành ăn, còn ngon quá mà ?
Vợ Ba Rum đáp:
-Có chừa một mớ trong ghe rồi .
Vợ Năm Già hỏi tiếp:
-Chắc thằng Út Anh từ sáng tới giờ ở bên ghe của thím hả?
-Dà ! Nó với thằng Hên coi bộ ăn ý với nhau lắm ! Nghe thằng Hên rủ nó ở lại chơi tới trưa, tới chiều, ăn cơm với nhau luôn. Nó nói chắc chị hổng cho. Sẵn tui bưng đồ qua nên tính xin chị cho hai đứa chơi chung, đừng kêu nó về.
Vợ Năm già cười, nói đùa:
-Ờ, thím mà chịu nuôi cơm, thì tui cho nó ở luôn bên đó.
Vợ Ba Rum chụp ngay câu đó mà nói:
-Vậy lát nữa nó ăn cơm bên tui, ảnh có hỏi chị nhớ nói đỡ cho nó mấy câu nghen !
Vợ Năm già gật đầu:
-Cái chuyện đó khỏi cần. Nghe nói lát nữa ổng với chú Ba, chú Hai nhậu với ông chủ tàu mà. Tui chỉ sợ nó loi choi quá thím chịu hổng nổi thôi hà !
Trưa hôm đó, vợ Ba Rum nấu cơm hơi khô hơn mọi bữa. Món cơm chiên hột cơm phải bời rời mới ngon, nên canh khi cơm vừa sôi phải chắc nước liền, để lâu cơm nhão nhoẹt, chiên dính chùm ăn rất ngán.
Bà hy sinh nửa bụi hành lá của mình, gạn hết tóp trong cái hủ mỡ, thấy còn ít quá bèn chiên thêm một cặp lạp xưởng nữa.
Bà bới cho chúng mỗi đứa một tô cơm đầy vun. Ém thêm cơm và rắc thêm một nhúm hành vô tô của thằng Út, rồi bưng đưa cho từng đứa.
Út nhìn cái món trong mơ của mình bằng đôi mắt hau háu. Nó từ chối mà lòng vô cùng hồi họp:
-Con không dám ăn đâu, tía con rầy chết !
Bà bảo nó:
-Tía con với chú Ba đi nhậu với ông Hai, ông Bảy rồi. Họ hổng có ăn cơm nhà đâu con đừng có lo. Thím có xin cho con ở chơi với thằng Hên tới chiều, ăn cơm bên nầy luôn, má con cho rồi.
Nghe bà nói vậy, nó mới chịu đưa tay ra bưng tô cơm và lí nhí cám ơn.
Hai đứa tay xúc, miệng nhai, nuốt ào ào như thi coi ai hết trước, được hơn nửa tô, Út ngưng ngang. Còi thấy vậy bèn hỏi:
-No rồi hả ? Sao mầy hổng ăn lạp xưởng ?
Nó nói:
-Con Út Em nó thích món nầy nhứt hạng, tao để dành cho nó, đừng có nói cho má mầy biết nghe !
Còi gật đầu:
-Tao không nói đâu.
Út đặt cái tô xuống, kéo dây cho hai chiếc ghe cặp sát vào nhau, gọi nhỏ:
-Út Em, Út Em ra tao cho cái nầy nè !
Thằng Còi trông thấy một đứa con gái, có gương mặt rất hiền, với cái nốt ruồi nằm trên má, tóc cắt kiểu bom bê ló mặt ra. Út đưa tay ngoắc lia lịa, chìa cái tô có cái lạp xưởng bóng lưỡng, thơm phức nằm tênh hênh bên trên cho thấy, rồi hối :
-Nè ăn lẹ đi !
Út Em nhìn một chập rồi mới bưng tô cơm chui vô khoang. Út lật đật kêu lại:
-Ngồi đây ăn, đừng cho má thấy.
Con bé nói vọng ra:
-Hông, em phải ăn chung với má !
Thằng Còi bỗng thấy mắc cỡ khơi khơi. Nó nhớ những lần giành ăn với con Đèo, con Đẹt mà hối hận vô cùng. Tự hứa mai mốt về nhà chẳng những bỏ cho bằng được cái thói xấu đó, mà còn bắt chước thằng Út nhường cho hai đứa kia bất cứ món chúng thích.
Chợt nghĩ đến tình trạng hiện tại của mình nó lại buồn hiu. Biết có cái mai mốt đó hông mà hứa !
Ăn xong, chúng rủ nhau thi coi đứa nào phun nước miếng trúng cái nhánh lục bình trôi bên hông ghe nhiều nhứt. Thằng Út phóng phát nào là trúng phát nấy khiến thằng Còi bái phục. Còi ta đang cố gắng đuổi bám cái thành tích ấy thì bỗng nghe tiếng con Út Em gọi:
-Anh Út, má biểu em đưa cái nầy cho hai anh ăn nè !
Nó đưa trả lại cái tô ban nãy. Cái tô đã được rửa sạch, cơm và lạp xưởng biến mất, thay vào đó là hai miếng bánh khoai mì nướng hình tam giác.
Thằng Út cầm lấy rồi đưa cho thằng Còi. Thằng nầy tay bưng, tay bóc, định cho miếng bánh vàng tươi, thơm phức mùi nước cốt dừa vô miệng, thấy thằng kia đứng im ru thì rút tay lại hỏi:
-Mầy hổng ăn sao?
Út trả lời như cự lộn:
-Tao đã nói là ghét khoai mì rồi mà !
Còi hỏi thêm một lần nữa cho chắc ăn:
-Thiệt hả ?
Út gật đầu:
-Nghe cái mùi khoai mì là tao muốn bỏ chạy cả mấy cây số luôn, ăn làm sao mà nổi ?
Còi liền bỏ miếng bánh trở vô, bưng cái tô leo lên chòi để đưa cho má nó. Dù nước miếng ứa ngập chưn răng, nhưng nó quyết nhường cho ba và má nuôi ăn trước.
Má nó đang bận cả hai tay: Tay phải cầm cái quai của ấm nước sôi, chế vào chiếc thau có nhúm bột hàn the dưới đáy. Tay trái cầm chiếc đũa bếp đã được trở đầu, dùng cái cán của nó khuấy đều để hàn the mau tan. Bà đang pha nước để gội đầu.
Nó chìa cái tô ngay dưới mũi của má, nói:
-Bác Năm cho mình nè má !
Má nó nhìn cái tô rồi hỏi:
-Sao giống cái tô của nhà mình quá vậy ?
Nó gật đầu:
-Thì đúng là của mình mà.
Rồi nó kể cho bà nghe về chuyện thằng Út Anh chỉ ăn có phân nửa tô cơm, chừa nguyên cái lạp xưởng cho em nó. Con nhỏ Út Em đó không chịu ăn một mình mà bưng vô ăn chung với bác Năm gái, nhờ vậy mới được "lại quả" hai miếng bánh nầy.
Kể xong, nó cố tình đặt mạnh cái tô xuống nghe một cái "cộp" để bà chú ý, nhìn vào và bảo nó "con ăn một miếng đi". Thế nhưng má nó vẫn tập trung vào công việc, không thèm liếc sơ một cái !
Nó bỗng nhỏ giọng hỏi:
-Bộ nhà bác Năm nghèo lắm hả má ?
Má nó hỏi lại, bằng những tiếng thì thào:
-Làm sao con biết ?
Nó đáp với giọng tự phụ:
-Tại con thấy có một tô cơm mà hết người nầy nhường rồi tới người kia.
Má nó chép miệng, thở dài :
-Hai bác có một người con gái lớn, bị bịnh mắc kinh phong, phải gửi người bà con nuôi. Uống thuốc hoài nên tốn tiền dữ lắm! Bác trai muốn lên bờ ở. Nghe đâu đang để dành tiền để mua mấy công ruộng.
Còi giật thót :
-Bộ họ hổng đi ghe nữa sao má ? Vậy thì làm sao con gặp thằng Út ?
Má nó cười, ghẹo:
-Mới quen có một ngày mà đã mến tay, mến chưn rồi sao ? Tính như vậy chớ còn lâu mới vói tới. Như ba con đó ! Hể nghe nói đất chỗ nào tốt, là rục rịch hỏi tới, hỏi lui, coi có ai muốn bán hông. Thiếu điều muốn chạy lên bờ ở một cái rột. Vậy mà mười mấy năm rồi đâu có bỏ được cây chèo.
Bà vừa nói vừa rút mấy cây ghim gài trên búi tóc xuống, tháo từng vòng, từng vòng sợi dây chỉ đen to bằng cọng len đang quấn quanh chưn tóc để gở cái bao lưới ra. Bà lắc nhẹ đầu cho búi tóc xổ tung. Những lọn tóc bị xô qua, xô lại, sợ đến run lẩy bẩy. Chúng không còn bám nhau thành chùm mà buông tay, đổ dài xuống, ôm kín cái lưng như thác.
Biết nó đang mê chơi đùa với thằng Út, nên bà suy tính coi có cần nhờ nó xối nước giùm cho mình gội đầu hay không, đang mở lời:
-Hên à...
Thì có tiếng thằng Út Anh tróc lưỡi, đó là ám hiệu chung của tụi con trai thay cho câu: "Mầy làm cái gì lâu quá vậy ? Tao đang đợi đây nè!".
Thằng Còi cũng tróc lưỡi đáp lại, ngụ ý : "Tao nghe rồi, chờ chút xíu !".
Coi bộ nó ngứa cẳng quá nên bà ngưng ngang.
Còi không nghe má nuôi nói câu gì thêm nữa. Phân vân định hỏi xem có phải bà sắp gội đầu ? Có muốn nhờ nó phụ một tay như mọi lần không mà hổng dám. Thấy má nó kéo tóc về phía trước rồi cầm cây lược thưa chải đều, nó sợ bà đổi ý, bèn đi như chạy lại chỗ thằng Út.
Vừa thấy nó lại gần, thằng Út liền móc trong túi ra một sợi dây thun màu đỏ còn mới và mấy tờ giấy lụn vụn, xếp nhỏ xíu nhỏ xiu mà đưa cho nó.
Nó hỏi:
-Chi vậy ?
Út chỉ tay vào khúc chuối có lá cờ tam giác màu vàng ghim ngay chính giữa cái lưng láng bóng, rồi hỏi nó:
-Thấy cái đó hông?
Nó hỏi lại :
-Đó là cái gì vậy ? Sao nó không trôi ?
Út cắt nghĩa:
-Nó là cái phao, bị cột vào cục đá nặng để đứng yên một chỗ. Ông già đội cái nón lá, ngồi trên chiếc xuồng câu là chủ của nó. Ổng cắm cây cờ làm hiệu cho mấy chiếc tàu, chiếc ghe biết cái chỗ mình đang giăng câu để họ tránh.
Rồi nó nói tiếp:
-Hai thằng mình thi coi đứa nào bắn trúng lá cờ trên khúc chuối đó, chịu hông ?
Còi hỏi :
-Chơi ăn gì ?
Út cười:
-Ăn cú !
Còi gật đầu cái rụp, gì chớ môn nầy nó giỏi chỉ sau tán hưng thôi. Không tin ghé nhà nó thì biết, chẳng có con thằn lằn nào dám đeo mấy cây cột.
Thằng Út giao hẹn:
-Trúng ngay phóc cây cờ mới tính nghe mậy!
Nó không thèm trả lời, lấp miếng đạn giấy vô sợi dây thun, bắn liền.
Do nôn nóng trổ tài nên viên đạn bay phớt qua, cách lá cờ chừng một mi li mét. Đuôi nhọn của lá cờ tuy có rung rinh chút xíu, nhưng không thể gọi là trúng nên hổng được tính.
Khúc chuối đã bị bỏ xa hơn một chút. Trong tay thằng Út, sợi dây thun đang kéo căng chờ nhả đạn. Không đợi cho lá cờ kịp định thần, nó buông tay liền. Viên đạn giấy bay một cái vèo, rất nhanh và mạnh. Lá cờ bị trúng ngay tim, liền giật mình chới với, nhảy tưng lên đồng thời rên lên một tiếng "hực".
Khi lá cờ đã ở ngoài tầm. Hai đứa nó tiếp tục bắn vào bất cứ thứ gì trôi ngang qua như vỏ dừa, vỏ bưởi, lá khô, củi mục... tận khi hết giấy và sợi dây thun đã nhão chúng mới chịu thôi.
Sau khi tổng kết, thằng Út lại là người chiến thắng một cách oanh liệt với tỷ số hết sức thuyết phục là mười một trên sáu.
Thằng Còi đành phải đưa đầu cho nó cú đúng năm cái. Tuy mấy cái cú đó không mạnh lắm, nhưng nó nghe rất đau vì mất mặt.
Muốn gở một bàn danh dự nên nó lại rủ:
-Tụi mình thi bắt cầu đi. Coi cây cầu đứa nào cao hơn, dài hơn.
Thằng Còi có vẻ tự tin khi đưa ra đề nghị nầy, nét mặt câng câng nhuốm vẻ tự đắc bởi cho rằng mình đã cầm chắc cái thắng trong tay. Nó căn cứ vào cái thành tích lẫy lừng của mình lúc còn ở nhà. Ngày nào đi học về, nó và tụi bạn cũng dừng lại chính giữa cây cầu ván. Chúng đứng sát mép con lươn, xếp hàng ngang, cùng ngó mặt xuống sông để thi đấu cái môn nầy với nhau. Lần nào nó cũng là người giỏi nhứt !
Thằng Út nhận lời thách đấu không một chút do dự. Hai đứa cùng vén cái ống quần xà lỏn, ưỡn bụng ra phía trước hết khả năng cho phép, đưa khẩu "cà nông" ra rồi cùng đếm:
-Một, hai, ba. "BẮN " !
Cây cầu của thằng Út có độ cao và chiều dài bỏ xa cây cầu của nó.
Thằng Còi tiu nghỉu than thầm: "Cái thằng Út mắc dịch nầy sao thứ gì cũng giỏi, kể cả cái môn bắc cầu mà nó cũng qua mặt mình một cái vù!"
Tội nghiệp con Út Em, vừa bưng cái thau khoai mì ra khoang lái, đưa mặt ra định nhờ thằng anh bào tiếp một tay. Bất ngờ chứng kiến cái cảnh ấy liền hoảng hồn thụt vô liền. Thế là nó ở miết trong ghe luôn, đành ôm cái thau khoai mì bự tổ chảng đó, mài một mình cho tới chiều mới hết !
Ông trời không nở tận diệt ai bao giờ. Hể ổng đóng kín mít rồi gài then cánh cửa cái thì cũng mở liền hai cái cửa sổ. Bằng không làm sao người ta sống nổi !
Đối với thằng Còi cũng vậy. Trong lúc đang gậm nhấm nỗi cay đắng, nó bỗng phát hiện có một lãnh vực mà thằng Út thua nó xa lơ, xa lắc.
Đó là khi thằng nầy hỏi:
-Hôm bữa tao nghe mầy đọc cái gì cho thím Ba nghe mà hay quá vậy ?
Thằng Còi nghe nó khen - cho dù không biết là khen cốt truyện hay giọng đọc của mình, cũng vô cùng khoái trá - bèn trả lời ngay lập tức:
-Phải mầy hỏi cái truyện "Tiết đinh San chinh tây" hông?
Út gật đầu, đáp:
-Chắc vậy! Tao nghe cái gì mà "Tiết" nầy, "Tiết" kia, đủ thứ ở trỏng.
Thằng Còi hỏi tiếp:
-Mầy thích hông ? Tao đọc gần hết rồi, để tao làm rút rút rồi cho mầy mượn nghe?
Thằng Út lắc đầu:
-Tao đâu có biết chữ !
Còi ngạc nhiên:
-Sao mầy hổng đi học ?
Út trả lời:
-Bà má đẻ tao trên ghe, ở luôn cho tới bây giờ thì làm sao mà đi học?
Còi nghe cả một nỗi kiêu hãnh và lòng thương hại dâng lên cùng lúc. Nó hỏi:
-Mầy có thích đi học hông?
Thằng Út trả lời, buồn thiu:
-Tao thích muốn chết luôn. Phải chi ông trời cho biết chữ là tao ghi sổ giùm cho ba của tao, để ổng khỏi sợ người ta ăn xén, ăn bớt của mình !
Thằng Còi chợt nãy ra một ý tưởng. Trái ý tưởng đó chưa kịp chín trong đầu, đã rơi ngay xuống miệng. Nó hỏi thằng Út bằng cái giọng nhuốm chút e ngại:
-Mầy có chịu để cho tao dạy hông ?
Thằng Út mừng đến thót ruột, cái quần xà lỏn bị giản lưng thun xệ xuống một chút ! Nó hỏi lại thằng Còi bằng cái giọng vừa hồi họp vừa hồ hởi:
-Mầy nói thiệt hả ?
Còi gật đầu, nói:
-Mầy xin bác Năm đi rồi qua đây học với tao.
Út cười:
-Khỏi hỏi tao cũng biết là ba má tao chịu liền.
Nó hỏi lại thằng Còi :
-Chú, thím Ba có chịu để mầy dạy tao hông?
Còi đáp, giọng chắc nịch :
-Cho chớ, Ba má tao dễ lắm ! Tao xin cái gì cũng cho hết á !
Thằng Út đứng bật dậy, đâm đầu vọt về ghe của mình liền, lát sau nó trở qua hỏi:
-Mầy dạy con Út Em luôn được hông ?
Còi hỏi lại:
-Nó có chịu hông mà dạy ?
Út cam đoan:
-Nó còn thích học hơn tao nữa, vừa nghe là đòi chèo chẹo liền. Nó năn nỉ tao quá cỡ ! Má tao biểu qua nói với mầy là dạy giùm nó luôn.
Nhìn đăm đăm vô mặt thằng thằng Còi, nó gằn giọng:
-Được hông mậy?
Còi bỗng thấy mình trở nên quá quan trọng, liền vênh mặt đáp :
-Ừ, cũng được !
Rồi nó hỏi thằng Út:
-Tụi bây có tập, có viết chưa ?
Thằng Út hỏi lại:
-Bộ hổng có là không học được hả ?
Còi khẳng định:
-Chớ sao !
Gương mặt được bơm căng bằng niềm vui của thằng Út, chợt xìu xuống như cái bong bóng bị kim chích. Nó gãi đầu, lo lắng trước một mối bế tắc vô phương cứu chữa.
Còi cảm nhận được nỗi thất vọng sâu đậm ấy nên an ủi:
-Hôm trước má tao có mua cho tao hai cuốn tập. Tao mới viết có mấy trang hà ! Để tao xin với má cho hai anh em tụi bây mỗi đứa một cuốn coi có được hông nghe?
Nói vừa xong là nó ba chưn bốn cẳng chạy đi liền.
Má nó đã gội đầu xong, đang ngồi trong chòi, xỏa tóc ra nhờ gió giũ cho mau khô. Nó bỗng tiếc hùi hụi vì ban nãy không ở lại để xối nước giùm.
Thấy nó là bà nói liền :
-Con đem bánh ra ăn với thằng Út đi.
Nó lắc đầu:
-Thằng đó nó ngán ngược mấy cái món khoai mì rồi !
Má nó bưng tô bánh đưa ra rồi biểu:
-Con ăn một mình đi.
Nó không chờ bà nhắc thêm, bóc một miếng cho vô miệng nhai nhồm nhoàng.
Thấy nó ăn một cách ngon lành, bà hỏi:
-Ngon hông con?
Mồm đầy bánh nên nó gật đầu lia lịa. Chợt nhớ đến nghĩa vụ của mình, biết thằng Út đang nóng lòng chờ nghe kết quả. Nó nuốt vội miếng bánh rồi nói:
-Thằng Út với em nó không biết một chữ nào hết đó má !
Má nó thở dài:
-Tội nghiệp mấy đứa con của dân thương hồ ! Tụi nó ở miết trên ghe nên đâu có được đi học như người ta, bởi vậy làm sao mà biết mặt cái chữ nào cho được!
Còi hỏi:
-Con dạy tụi nó được hông má ?
Má nó mừng quýnh:
-Được chớ con!
Sẵn trớn nó hỏi luôn:
-Con cho thằng Út Anh với con Út Em, mỗi đứa một cuốn tập được hông má ?
Má nó chẳng những không rầy mà còn vui hơn:
-Cho tụi nó hết đi con, rồi mai mốt má mua cho cuốn khác.
Còi mừng húm ! Nó bật dậy thật nhanh, chạy đi báo tin cho thằng Út liền. Đi được mấy bước bỗng nó quay lại, hai tay ôm lấy mặt bà rồi hun vào hai bên má !
Hai cái hôn ấy đã làm cho má nuôi của nó mọc ốc khắp mình. Chúng chẳng những làm làn da gợn sóng mà còn khiến trái tim của bà nhảy dựng lên trong ngực.
Thấy thằng Còi vừa đi vừa gật gật cái đầu ( dấu hiệu cho biết là má nó đã đồng ý ), là Út Anh chạy về cho má và em nó hay liền.
Con nhỏ Út em nầy biết mình được học thì mừng quá, đang ngồi bỗng đứng phắt lên, khiến cái đầu đụng vô cây đà trên nóc ghe một cái "bộp", u lên một cục.
Nó vừa chạy vừa lấy tay vò đầu. Má nó gọi cách mấy cũng không chịu ở nán lại để bà đắp muối lên cho tan máu, mà bám theo thằng anh đặng cùng nhập học ngay lập tức.
Còi đã lấy sẵn hai cuốn tập và một cây viết chì ra, nó đưa hết mấy thứ mình có đó cho Út. Thằng nầy nhường cho em nó cuốn tập mới nguyên, chọn cho mình cái quyển có ghi mấy câu ca dao mà hôm trước thằng Còi chép theo sự gợi ý của bà má nuôi.
Chỉ có mỗi một cây viết chì nên tụi nó phải lấy con dao nhỏ, bén ngót để cắt ra làm hai. Còi làm tài lanh, giựt cây dao trên tay Út Anh rồi khứa một cách vụng về.
Út Anh vốn khéo tay hơn, thấy nó làm một cách quờ quạng thì xốn con mắt chịu hổng thấu. Bèn giành lại con dao rồi cưa đi cưa lại, nhát nào ra nhát nấy, một cách hết sức nhẹ nhàng. Cái ruột than chì nằm giữa, vốn hết sức giòn cũng đứt ngọt không bị bể vụn chút nào.
Công việc tưởng chừng đơn giản ấy lại đòi hỏi rất nhiều công sức. Khi cây viết được tách ra làm hai đoạn bằng nhau, trán của Út Anh đã lấm tấm mồ hôi. Nó thở phào nhẹ nhỏm, nhường cho em mình cái khúc có cục gôm, còn chuốt giùm cái ngòi cho thật nhọn.
Hai đứa học trò mới tinh ấy hăng hái quá xá cỡ. Có tập, viết rồi là đòi bắt tay vào học ngay. Chắc chúng sợ nếu trì hoãn ông thầy sẽ đổi ý.
Ông thầy Còi cầm cục phấn viết những chữ cái, số và dấu xuống tấm thiếc lót mui ghe trong chòi cho chúng chép lại. Vừa viết vừa phát âm từng chữ để tụi nó bắt chước đọc. Hai anh em thằng Út thấm nhanh như đất khô hút nước. Viết vừa xong là tụi nó đọc ro ro chừng vài bận là thuộc liền.
Còi ta hết vốn ngay lập tức, cố suy nghĩ mà không nặn ra được món gì để dạy thêm.
Cũng may là trong lúc bế tắc thì Út Anh chợt hỏi :
-Tên của tao viết làm sao hả mậy ?
Nó liền viết tên từng đứa vào miếng nhãn in trên bìa tập, rồi dạy chúng đánh vần. Thế là hình thành một cách dạy rất độc đáo, vô tiền khoáng hậu !
Ông thầy giáo ngang xương nầy bỏ qua giai đoạn ghép vần ngược, vần xuôi. Ổng chỉ cho hai đứa học trò của mình nhận mặt chữ, viết rồi đọc luôn không cần phải đánh vần.
Cách dạy nầy không giống ai hết ! Học trong lớp, một cách có hệ thống và đúng bài bản thì thầy, cô phải nghĩ ra chữ trước rồi mới dạy cho học trò, không cần biết chúng có thích, có hiểu hay không, chỉ cần lập lại cho đúng là được. Chúng phải học theo trình tự: Nguyên âm trước rồi tới phụ âm, kế đó là từ và cuối cùng mới là câu và những thứ khác.
Những cái chữ rời rạc ấy, không dính vào nhau và vào đâu cả. Chúng trơn tuột, té dồn cục dưới đáy bởi chẳng có cái móc hình dấu hỏi nào để bám vào.
Tụi nó thì ngược lại, hai đứa học trò thắc mắc tới đâu, ông thầy giải đáp tới đó. Hổng biết chữ nào, hỏi thì ổng mới viết ra, dạy đọc chữ đó !
Anh em thằng Út sau khi thuộc làu cái tên của mình rồi, thì bắt đầu học đến tên của những người thân, trừ tên ba má, ông bà là phải giấu cho thật kỷ. Dĩ nhiên là tên của ông thầy phải biết trước tiên, kế đó là bất cứ đồ vật gì mà chúng thấy và nhớ ra.
Phương pháp nầy ngược hẳn với đường lối của các thầy cô từ xưa đến giờ. Không có sư, theo phạm nào hết nhưng đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng. Giống như trò đào lỗ còn thầy gieo hạt vậy. Mảnh đất hoang trong đầu chúng đang xanh tốt dần theo từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây...
Tụi nó đói chữ lâu ngày quá nên ăn bao nhiêu cũng hổng thấy no.
Con nhỏ Út em ban đầu còn mắc cỡ, cứ kề miệng sát tai thằng anh nhờ hỏi giùm. Sau nầy thấy ông thầy hiền khô thì bạo dạn dần lên, hỏi tưới hột sen, còn nhiều hơn thằng anh. Hai đứa nó thay phiên nhau, hỏi liền liền khiến thằng Còi viết muốn mòn tay, trả lời thiếu điều ná thở !
Khi chúng chưa kịp nhớ ra chữ mới, thằng Út lại chỉ vào mấy câu ca dao trong cuốn tập của mình mà hỏi. Mấy câu ầu ơ, ví dầu đó đã nằm trong lòng hai anh em nó từ lâu lắm rồi ! Chúng đã được đưa vào máu cùng lúc với những dòng sữa mẹ nên quá ư thân thuộc. Giống những người bà con rất hiền, rất tốt, được nghe nhắc tên hoài mà không gặp mặt, nay được dịp hội ngộ, lòng cảm mến bỗng tăng thêm gấp bội. Bởi bắt nguồn từ sự thương yêu nên thấu hiểu một cách vô cùng nhanh chóng.
Bốn người lớn, cha mẹ tụi nó, không giấu nổi sự ngạc ngạc nhiên khi nghe Út anh, Út em vừa đọc "i,u, ư..." xong là nhảy qua học mấy câu thơ lục bát rồi đọc ào ào !
Khả năng nhớ và viết của chúng khiến Còi tuy không nói ra nhưng bái phục sát đất. Chỉ cần đọc qua một, hai hoặc nhiều lắm là ba lần là chúng đã thuộc nằm lòng và viết lại y chang. Con nhỏ em còn giỏi hơn thằng anh một bực. Đôi lúc Còi còn tự hỏi : " Con nhỏ nầy bộ có giấu cái hột quẹt ở trong đầu hay sao mà sáng dạ dữ thần án địa vậy trời !".
Thằng Út Anh lại khiến ông thầy nó bất ngờ vì khả năng tính nhẩm thiên phú của mình.
Mấy bài toán cộng, toán trừ, có một hoặc hai chữ số được nó làm một cái ào trong đầu, nhanh hơn bất cứ đứa nhỏ nào mà Còi đã biết. Nó mê làm toán lắm ! Chẳng những nhớ các mặt số rất nhanh, mà còn ghiền đọc cữu chương còn hơn ca vọng cổ, mới ngộ !
Con Út em thì cứ bắt ba má nó moi ra mấy câu thơ, câu hò, câu ru vùi sâu trong dạ.
Ba` nó phải móc lần lần trong bụng ra mấy câu thơ Lục Vân Tiên cho nó cầm đưa cho ông thầy, nhờ dạy viết vô tập rồi học từng chữ cho thuộc làu làu.
Không có hình ảnh nào khiến cha mẹ chúng sung sướng, hả hê cho bằng thấy ba đứa nó chụm đầu vào nhau cùng học, cùng hỏi.
Phản ứng của hai gia đình hết sức trái ngược. Vợ chồng Năm già thì rơm rớm nước mắt. vợ chồng Ba Rum thì chẳng thể che giấu nụ cười rạng rỡ trên gương mặt ngời ngời một niềm hãnh diện !
Kể ra cái công sức họ bỏ ra từ trước đến giờ, hầu như đã được bọn chúng đền đáp một cách thỏa đáng bằng niềm vui hết sức lớn lao đó !
Khúc sông ở hạ nguồn, nhà cửa ven bờ rất thưa. Dân ở đây ít dựng nhà cạnh sông. Hình như họ thích sống kế đường lộ để tiện đi lại, buôn bán.
Bà con vùng nầy được gọi là dân miệt vườn (có nơi còn gọi là miệt dưới). Sở dĩ mang tên đó, vì họ trồng cây ăn trái còn nhiều hơn hoặc ngang như trồng lúa.
Những ngôi nhà nằm khuất giữa vườn cây, đa số đều rộng và thấp, với những khối tròn tròn bao quanh.
Những khối tròn tròn đó không phải để trang trí đâu ! Nó giữ một địa vị chiến lược, hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của họ. Nó chính là dụng cụ dùng để chứa nước. Vì con sông cho nước mặn cả hai mùa, mưa lẫn nắng, nên nhà nào cũng sắm cả mấy chục cái lu to đùng, gọi là mái vú, để trữ nước xài đủ quanh năm, suốt tháng.
Những cái lu ấy được xếp quanh mái nhà để hứng nước. Chúng y như những tên lính cần mẫn đứng lì một chỗ, bất di bất dịch, cả sáng lẫn tối, từ ngày nầy qua tháng nọ đến năm kia. Chúng chẳng bao giờ đào ngũ, cho đến khi tàn hơi, rả xác thì cũng ngã gục ngay tại chỗ, bày tỏ tấm lòng trung thành có một không hai của mình đối với chủ.
Mảnh vườn bao quanh nhà được chia thành nhiều ô bởi mấy cái mương, xẻ ngang, xẻ dọc.
Những cái mương đó được đào trước là để đắp luống, sau lên giồng cho cao rồi trồng cây trên ấy. Đáy mương phải thấp hơn mặt sông để nước tùy tiện ra vào.
Ở đầu con mương người ta thường đóng đăng, đặt lộp. Mấy con cá nào quá tò mò, định chạy vô xem thử một lần cho biết, sẽ bị mắc kẹt, chẳng thể nào chui ra được.
Trong lòng mương người ta thả vài bụi lục bình, cắm mấy nhánh chà để cầm chân mấy con cá con, tép nhỏ. Tụi nầy bị dụ khị nên ở lại đấy luôn, kết hôn rồi sanh con, đẻ cháu tùm lum, tùm la, đếm hổng xuể.
Cùng một nhiệm vụ như chúng, nhưng khác vị trí đó là những bụi dừa nước. Chúng chen nhau đứng gác hai bên bờ sông. Có lẽ để canh chừng con lũ vì vậy nên vùng nầy hiếm khi bị ngập úng.
Cái bọn dừa nước nầy cũng điệu đà ghê lắm, đeo cà rá cẩn hột khắp người. Đó là mấy con ốc tròn tròn, dẹp dẹp, đen đen... chúng chỉ cỡ đầu ngón tay út mà thôi! Lớn tối đa chừng ngón tay cái là cùng.
Mấy con ốc nầy, vì đeo dính mấy cây dừa nước không rời nên có tên "ốc dừa". Nó coi vậy mà ngon số dzách ! Thịt của chúng ngọt và béo hơn mấy thứ ốc khác nhiều lắm ! Có điều ăn mỏi tay nhiều hơn mỏi miệng.
Ốc dừa khi ăn phải rửa cho sạch, luộc chín. Lấy kim tây lể chấm với nước mắm me, tỏi, ớt... Khi khựi ra, cái ruột của nó to không hơn hột lúa, cho dù luộc cả rỗ mà ăn chẳng nghe thấm tháp gì. Bà con hay ví là ăn chúng giống như "cọp ăn bù mắt" vậy !
Lần đầu thấy bụi dừa nước, Còi hết sức ngạc nhiên. Nó hỏi má nuôi:
-Cái cây dừa gì mà thấp chũm vậy má ?
Má nuôi nó cắt nghĩa:
-Cây dừa nước đó con!
Nó hỏi tiếp:
-Người ta trồng để chi ?
Má nó nói:
-Lấy đủ thứ, lá nè, trái nè !
Còi hỏi:
-Trái của nó ra làm sao vậy má ?
Bà bèn chỉ tay vào cái khối mang hình chùy, rất to, màu nâu đỏ, đứng chính giữa bụi cây mà nói:
-Con có thấy cái buồng dừa nước đó hông? Mấy cái đuôi nhọn nhọn ghim xung quanh, dính lại thành một chùm kẹo nẹo là trái của nó đó!
Còi lại hỏi tiếp:
-Cái trái nầy có ăn được hông má?
Bà gật đầu:
-Được ! Nó cũng giống như trái thốt lốt, có điều vị lạt hơn và không thơm, ngon bằng. Phải ăn lúc còn non, cơm dẻo mới ngon. Để càng già thì cơm càng cứng, ăn xảm xì, nhai mỏi miệng lắm !
Thấy gương mặt nó lộ vẻ đăm chiêu, như đang cố tưởng tượng ra mùi vị của cái thứ trái cây lạ lẫm ấy.
Bà bèn hứa:
-Để tới Sài gòn rồi má mua cho con ăn để biết với người ta !
Nó hỏi tới:
-Bộ ở Sài Gòn có trồng hả má?
Má nó cười trước câu hỏi ngờ nghệch đó. Bà đáp:
-Cái đất Sài Gòn chỉ có trồng nhà cửa là nhiều thôi, còn cây trái thì le hoe hà con ơi ! Mà cây ở đó trồng cũng để ngó cho vui chớ ít ăn được lắm ! Vậy mà cái gì cũng có hết đó con. Người tứ xứ họ trồng được thứ gì, xài hổng hết cũng đem tới bán. Người Sài Gòn hể thấy cái gì ngộ ngộ, lạ lạ là phải xài thử, ăn thử, cho bằng được. Chịu khó ra mấy cái chợ kiếm thì thứ gì cũng có hết.
Hài lòng về phần trái rồi nó bắt đầu hỏi qua phần lá:
-Còn cái lá của nó thì người ta làm gì hả má ?
Bà bèn chỉ tay lên nóc chòi nói:
-Người ta làm lá lợp nhà giống như vậy nè !
Còi nhìn những tấm lá trên chòi, so sánh với mấy tấm lá trên cái nhà nhỏ đang đứng trên bờ, rồi hỏi:
-Sao cái nhà đó người ta lại để nguyên tàu lá mà lợp vậy má.
Bà lại cắt nghĩa:
-Ở đây cây dừa nước mọc lềnh khênh nên họ xài phủ phê. Chỉ cần chẻ tàu lá ra làm hai rồi lợp cho nó nhanh. Người miệt trên đâu có trồng được, phải mua nên họ tiết kiệm, lợp lá chầm không hà !
Còi lại hỏi tiếp:
-Tại sao gọi là lá chầm vậy má !
-Lá chầm là lá dừa nước được rọc ra rồi kết lại thành từng tấm một. Người ta chẻ cọng dừa ra thành từng miếng dẹp dẹp. Ngang cỡ một lóng tay, dài chừng một thước, để làm sống lá. Thợ chầm lá, dân chuyên nghiệp, vài ngày là chầm được cả thiên lá đó con.
Còi thắc mắc:
-Má có biết chầm hông má ?
Má nó kiên nhẫn giải thích:
-Ở quê má hồi trước có một cái dựa lá. Khi má còn nhỏ, lúc rảnh rổi hay tới đó chầm lá, mót tiền để dành sắm quần áo. Mình phải lấy một tấm lá bự kèm theo một tấm lá nhỏ bên trong. Đặt nó lên sống lá rồi bẻ cụp lại, phần đuôi dài gấp đôi phần cuống, kết những tấm như vậy lại với nhau bằng sợi dây lạt. Dây lạt là những cái lá non xèo, còn trắng bóc, cuống được giạt xéo cho bén. Nằm giữa hai tấm lá bự đó là tấm lá nhỏ lót bên trong. Sợi lạt nầy xuyên qua hai tấm lá nầy rồi bắc cầu với hai tấm lá kế. Nó tạo thành một đường thẳng hàng y chang như mũi đột thưa nằm trên quần áo vậy !
Bà vừa nói vừa diễn tả bằng hai bàn tay,bộ tịch như đang cầm cây kim đâm lên, đâm xuống cho nó hiểu. Thế nhưng nó chẳng thể tưởng tượng ra được một tí nào.
Nhìn nét mặt ngẩn tò te của nó, bà chán nản thở ra rồi nói:
-Ba cái nghề của đàn bà con gái ! Hỏi làm chi ? Biết làm chi cho mệt vậy con ?
Nghe bà má nói thế nên tuy còn thắc mắc, Còi cũng đành làm thinh, không hỏi tiếp.
Nó đang định gọi anh em thằng Út đem tập qua học, bỗng trông thấy một con cá mình mẩy đen thui, lớn bằng ngón chân cái, dài chừng một gang nhảy loi choi trên bãi sình ven bờ.
Nó bèn kêu toáng lên :
-Má ơi ! Con cá có chưn, con cá có chưn !
Má nó nhìn theo hướng ngón tay trỏ của nó rồi cười:
-Con cá thòi lòi đó, bộ con chưa thấy lần nào sao ?
Nó lắc đầu:
-Ở chỗ con không có con cá nào giống như vầy.
Bà gật đầu:
-Cá nầy sống gần cửa sông, uống nước lợ, ở miệt dưới mới có .
Nó hỏi:
-Con cá nầy nhìn bộ dạng dị hợm quá ! Hai con mắt lòi hết ra ngoài lại chạy nhảy trên bờ y như con ếch vậy. Chắc nó cũng có chưn phải hông má ?
Má nó lắc đầu :
-Chưn ở đâu mà có ! Con cá nầy tính tình nóng nảy, hay nhảy tưng tưng, tưởng có chưn mà không phải. Cái bụng nó cứng lắm, đập xuống đất rồi dội ngược lên thôi hà !
Nó hỏi tiếp:
-Cá nầy ăn được hông má?
Bà chắc lưỡi một cái rồi nói :
-Ba con cá nuôi trong hầm, nước không chảy vô chảy ra được thịt còn tanh huống hồ... Mấy con thòi lòi nầy suốt ngày đầu cổ, mình mẩy vùi trong sình chắc là hôi lắm !
-Bộ má chưa ăn qua hả má ?
Lần nầy thì má nó rùng mình:
- Có một lần má nghe người ta đồn thịt của nó tốt lắm ! Ai mà ăn thì được bổ gân, bổ cốt, hết nhức mình. Má mới ra chợ mua một mớ, tính làm cho ba con ăn coi có bớt cái bịnh đau lưng của ổng hông. Má đem về làm, chặt bớt cái mỏ, mổ bụng, lột da hẳn hoi rồi nhúng xuống sông rửa. Rõ ràng là tụi nó chết ngắc hết rồi. Hổng dè cái rỗ vừa nằm xuống nước là chúng phóng ra hết ráo. Má sợ thất kinh hồn vía, y như gặp ma vậy ! Từ đó tới giờ không dám mua, cũng không dám ngó nó nữa !
Hai mẹ con đang nói đến đó thì có tiếng thằng Út gọi từ bên ghe của nó :
-Hên ơi ! Đi tắm hông ?
Nó quay sang hỏi :
-Con đi tắm với nó nghe má !
Chẳng là hôm qua, lúc thằng Út đang nắm cái núc của sợi dây luộc thả lòng thòng bên hông ghe để tắm. Sợi dây nầy dùng cột mấy cái vỏ xe hơi treo bên hông ghe để làm miếng đệm, phòng khi va chạm ghe không bị bể. Chỗ đầu dây còn thừa dài cả thước được cột lại thành một cái núc to bằng nắm tay, thả dưới nước. Nó bỗng thấy thằng Còi ngồi trên ghe, cầm cái gáo cán dài múc từng gáo nước dội lên đầu liền ghẹo:
-Mầy là con trai, sao không đu dây tắm mà múc từng gáo nước xối y như con gái vậy ?
Nó quê một cục, đáp lí nhí:
-Tao chưa có tắm cái kiểu đó lần nào...
Ba Rum nghe nó trả lời thằng Út bằng cái giọng ấp úng, ngại ngùng thì tội nghiệp. Ông đang nằm đọc sách, liền bỏ cuốn truyện xuống rồi ngồi dậy hỏi nó:
-Con có thích tắm kiểu đó hông ?
Nó vừa đáp, vừa hỏi:
-Con thích lắm, nhưng mà rủi vuột tay có chết hông ba ?
Ổng nói:
-Để ba dạy cho. Chừng biết rồi thì dễ ợt hà, hổng có hề hấn gì hết !
Nói rồi ổng đi tắm với nó.
Đầu tiên ổng ôm nó chỉ với một tay. Bàn tay còn lại ông nắm dây cho nó yên tâm là sợi dây rất chắc. Kế đó ổng biểu nó bám sợi dây đó bằng cả hai tay.
Cuối cùng thì nó cũng dạn nước, không còn lo sợ nữa. Lựa lúc nó đang mê mãi giỡn nước, ông mới thả tay ra khỏi người nó. Ông làm điều nầy một cách từ từ và hết sức nhẹ nhàng, bởi nếu đẩy nó ra một cách đột ngột thì với cái tinh nhát hít của mình, nó có thể hết hồn, chới với rồi buông tay, rồi chìm nghĩm, rồi uống nước cành hông!
Nó nhắm mắt tận hưởng cái thú được nước nâng lưng, vỗ bụng, vò đầu...Sức đẩy của nước và sức kéo của chiếc tàu tạo thành một lực ma sát lên toàn thân khiến nó vô cùng khoan khoái. Như thể có vô số bàn tay xoa, vuốt khắp người không bỏ sót một mi li mét nào. Cứ tưởng đang còn ở trong vòng ôm của ba mình nên chẳng sợi gì hết! Bám chặt cái núc của sợi dây rồi ngửa mặt mở mắt nhìn trời và dõi theo những con sóng hình chữ V do mình bỏ lại đang từ từ lan rộng. Cái cảm giác như mình trở thành một con tàu ấy mới thú vị biết bao !
Mãi một lúc lâu sau nó mới phát hiện là Ba Rum đang bám vào vách ghe. Hai tay tuy không còn đặt sau lưng để chực hờ ôm giữ, nhưng mắt vẫn theo dõi, miệng vẫn hướng dẫn để nó làm cho đúng. Vậy là ông đã buông dây và buông cả nó ra từ hồi não, hồi nào. Nó bỗng có được sự tự tin và mừng quá cỡ vì đã biết tắm theo kiểu đu dây.
Kiểu tắm nầy giống y như một trò chơi, một bài thể thao, không nguy hiểm như nó nghĩ. Chỉ cần nắm thật chắc sợi dây không buông ra là được. Với vận tốc của một chiếc tàu kéo mấy chục chiếc ghe, lại đi nước ngược như vầy, thì cho dù bị tuột tay, miễn còn đủ bình tỉnh, nó vẫn bơi theo kịp.
Thằng Út đang xung gà tre, liền biểu diễn mấy pha hết sức ngoạn mục: Nào là buông dây cho nước đẩy xa cách ghe mấy thước rồi mới bơi theo và bám bánh lái đu lên. Nào là liên tục đổi thế nằm sắp, rồi nằm ngửa. Nào là không thèm dùng tay cầm dây mà dùng hai cạnh bàn chân kẹp cứng cái núc, rồi dang thẳng hai cánh tay ra, giả bộ làm máy bay...
Trước cặp mắt thán phục của nó, Út ta hứng chí, làm đi làm lại đến mấy lần. Các động tác càng lúc càng khó khăn, vừa làm vừa liếc để tìm kiếm những nét thán phục trên gương mặt nó.
Nó theo dõi thật kỹ, ghi nhớ từng động tác một, quyết định sẽ ngấm ngầm luyện tập cho thật nhiều, thật giỏi. Nó chờ cho đến khi những pha biểu diễn của mình ngoạn mục hơn, nguy hiểm hơn ...Sẽ rủ thằng Út thi, rồi qua mặt một cái ào để thằng nầy không còn nhìn nó bằng nửa con mắt .
Má nó định can nhưng thấy nó hăng quá nên nói:
-Thằng Út nó biết rành lắm! Tập lâu lắm! Lội giỏi lắm ! Nó buông dây mới hổng bị làm sao. Con mà bắt chước là bị nước cuốn, sóng đè thở không nổi đó.
Nó năn nỉ:
-Con hổng có buông dây ra đâu, má đừng có lo.
Dù nó nói vậy nhưng bà vẫn không yên bụng. Bèn gọi to:
-Ông ơi! Có rảnh hông vậy?
Ba nó đang cột cái cán quạt liền dừng tay hỏi:
-Chi vậy ?
Bà gằn từng tiếng:
-Thằng Hên nó đòi đi tắm với thằng Út nè !
Biết ý bà nên ông đáp :
-Bà biểu nó chờ một chút, tui cột cây quạt rồi tắm chung với tụi nó liền!
Thằng Còi muốn chứng tỏ cho thằng Út thấy mình giỏi, nên chẳng những né tránh những cái ôm, vịn... của ba nó, mà còn không thích ông bơi quanh quẩn gần mình nữa.
Ba Rum thấy vậy bèn để cho hai đứa nó chơi với nhau, đi gỡ tay lưới giăng dưới lườn ghe ra. Mấy sợi dây câu thì khỏi vì hôm qua đã tháo trước khi tắm rồi quên thả lại.
Ông hít một hơi rất sâu rồi lặn mất dạng, hồi lâu mới trồi lên, trên tay là tấm lưới có mấy con cá trắng trắng giãy giụa lung tung cố thoát .
Còi ta thấy mấy con cá quen thuộc ấy, thì mừng như gặp bà con. Nó liền gọi to cho thằng bạn đang biểu diễn cái trò dang tay làm cánh máy bay, lượn qua, lượn lại tới xem:
-Cá linh, cá linh kìa Út ơi !
Thằng Út bơi lại nhìn một cái rồi trề môi:
-Cá đó mà mầy kêu là cá linh hả?
Còi hỏi ngược lại:
-Hổng phải nó thì còn ai vô đây ?
Rồi nó nói thêm, giọng đầy thán phục:
-Cá linh ở đây lớn quá xá cỡ !
Ba nó cười:
-Con ngó kỹ coi ! Thấy giống vậy chớ không phải. Nó là cá đối, chú bác ruột với con cá linh thôi hà!
Rồi ổng hỏi nó:
-Con có nghe câu: "Con cá đối nằm trên cối đá" hông? Nó đó!
Còi hỏi:
-Ở miệt nầy có cá linh hông ba?
Ông lắc đầu:
-Mùa nầy chắc kiếm đỏ con mắt cũng không ra, chờ nước nổi mới có. Cũng ít xịt chớ không nhiều bằng ở miệt trên. Tụi nó bị mấy cái lưới, cái đáy chặn bắt gần hết rồi.
Ông gọi vợ:
-Bà ơi ! Bắt mấy con cá ra giùm tui!
Bà vói tay ra cầm rồi nói:
-Cá nầy kho lạt mới ngon ! Nhưng mà ít quá, có mấy con sợ hổng đủ ăn. Thôi để tui kho tiêu rồi nấu một nồi cháo trắng nước dừa đặng ăn kèm với dưa mắm cho tròn một bữa.
Nó cản:
-Con ghét ăn cháo lắm !
Ba nó rầy :
-Con chưa ăn nên hổng biết đó thôi! Má con mà nấu cháo trắng nước dừa ăn chung với cá kho tiêu, kèm dưa mắm ướp tỏi ớt, là ngon tới quên thôi luôn !
Thấy cái mặt của nó còn chầm vằm. Ba Rum biết câu nói của mình chưa thuyết phục được nó. Coi bộ ổng rất không vừa bụng, cho là nó không tin tưởng mình nên gằn giọng:
-Bây ăn mà hổng ghiền thì đừng có kêu tao bằng ba nữa !
Má nó nghe vậy thì quyết trổ hết tài nghệ ra cho nó thấy. Bà lựa một trái dừa thật ngon, nạo rồi vắt lấy nước cốt để riêng ra. Phần nước dão thì cho vô trước để nấu chung với gạo.
Muốn cho nồi cháo hấp dẫn hơn, bà còn chịu khó qua ghe vợ chồng Năm già để xin mấy cọng lá dứa về rửa sạch mà cho vào. Nước dừa rất hợp với mùi lá dứa, nên khi nồi cháo sôi bốc hơi liền nghe thơm phưng phức, Còi ta bắt được cái mùi ấy thì tinh thần bỗng dâng cao vùn vụt .
Bà cho nó giỡn nước với thằng Út thật đã đời, không hối tắm lẹ lẹ như hôm qua. Chủ ý để nó đói thiệt là đói đặng ăn cho ngon. Đến khi thằng Út bị má nó kêu om sòm "Út ơi, lên ăn cơm ", thì hai đứa mới nghe cái bụng réo ì xèo. Chúng thôi nấn ná, cùng trèo lên ghe một lượt.
Đúng như lòng bà mong đợi. Thằng Còi lau cái đầu còn chưa kịp khô liếc thấy má nó đang bưng cái mâm đặt lên chòi, bèn chùi lia lịa cái mình rồi mặc đồ vô ngay lập tức. Không chờ bà gọi một tiếng nào liền nhảy vô chòi, chân co lại, ngồi xếp bằng ngay ngắn trước mâm. An tọa xong nó mới hai tay khép áo, so cho hai vạt bằng nhau rồi mới bắt đầu gài từ cái núc dưới cùng. Ban nãy vì nôn nóng nên nó chỉ kịp trồng cái áo vô rồi vọt.
Ba nó chưa có mặt. Nó chồm đầu xuống, nhìn vô khoang mời to:
-Ba ơi, lên ăn cơm!
Nghe cái giọng hối hả của nó Ba Rum cười thầm trong bụng. Muốn ghẹo nó nên ông rề rà. Ngồi nán lại hút cho hết điếu thuốc rồi mới chịu bước lên mui.
Trong mâm, cạnh ơ cá kho tiêu và tô dưa mắm là ba chén cháo đang bốc hơi nghi ngút. Thằng Còi và má nó tay cầm cái muỗng, mỗi người khuấy một chén. Ba Rum ghét ăn đồ nóng, vợ ông biết vậy nên vừa khuấy vừa thổi cho mau nguội. Hơn nữa mấy món có nước cốt dừa nếu ăn khi còn nóng thì cái ngọt, cái béo giảm tới năm chục phần trăm.
Ông vừa ngồi xuống là bà chan một muỗng nước cốt dừa lên mặt chén cháo đang khuấy rồi đưa cho ông.
Bà nói:
-Ông ăn cái chén nầy nè!
Ba Rum cảm động lắm, tay bưng, miệng bảo :
-Hai má con bà ăn đi !
Còi chỉ chờ có vậy là bưng chén cháo lên múc ăn. Nó tưởng cháo đã nguội nào ngờ còn nóng hổi, miệng vừa ngậm lại là tự động hả ra liền. Má nó thấy vậy bèn chu môi thổi phù phù giùm.
Bà rầy:
-Con phải hớt trên mặt với húp xung quanh miệng chén, mấy chỗ đó cháo nguội trước. Đừng có múc tuốt dưới đáy, lại ngay chính giữa là nóng lâu lắm. Phải thổi mấy hơi, đưa lưỡi nếm trước nghe còn hơi ấm mới ăn. Ăn vội ăn vàng kiểu đó có ngày vuột họng đa !
Chờ cho nó nuốt xong, bà bèn đặt cái chén cháo của mình đang cầm trên tay xuống mâm trở lại, lật đật bỏ hai cái cẳng bước xuống khoang dưới.
Ông quở:
-Sao lần nào vô mâm cơm tui cũng thấy bà né, không chịu ngồi cùng một lúc, ăn cùng một lượt với chồng, với con cho vui mà chờ bao chót là tại làm sao ?
Thằng Còi định vọt miệng nói câu: "Má ruột con cũng vậy", nhưng thắng lại kịp. Trong lòng nó tràn ngập một niềm thắc mắc, tự hỏi tại sao mấy người phụ nữ làm hay ăn gì cũng rề rà chậm lụt.
Phải hai, ba chục năm nữa, cỡ bằng tuổi ba nó bây giờ, nó mới biết điều nầy phát xuất từ cái đức hy sinh, cái tính nhường nhịn bẩm sinh của phái đẹp.
Phái đẹp ở đây đâu chỉ nói đến nhan sắc, dáng vóc, hình thức bên ngoài. Nó còn bao gồm những phẩm chất cao quý có trong hầu hết các bà má, bà chị.
Ở những gia đình còn nghèo túng chật vật, người mẹ thường chờ cho chồng con ăn xong rồi mới tới mình. Họ gầy còm trước rồi mới đến ông chồng và mấy đứa con.
Má nó không trả lời, lui cui giở sóng chén lấy ra hai cái dĩa bàn đem lên. Bà biết hai cha con nó đói bụng nên lua nhanh lắm, chén cháo hết cấp kỳ !
Cháo trong nồi còn nóng hổi, bà sợ họ gấp ăn rồi phỏng miệng nên phải chịu khó múc cháo ra dĩa trước cho hơi nóng thoát ra nhanh để kịp nguội, rồi mới xớt vô chén.
Bà vừa làm vừa nhắc nó:
-Con nhớ chan nước cốt dừa vô cho nhiều nhiều, trộn thiệt đều rồi ăn mới ngon.
Đây là lần đầu Còi làm quen với món nầy, thế mà nghe thân thương quá đỗi ! Nó ăn nhiều gấp đôi ngày thường cũng thấy như chưa no. No rồi vẫn chưa muốn thôi!
Nhìn cái cách nó húp sì sụp, gắp lia lịa mà hai vợ chồng Ba Rum khoái gần chết ! Trong nồi còn chừng một, hai chén, họ liếc nhau rồi cùng buông đũa.
Chờ nó quẹt mỏ xong, má nó hỏi:
-No chưa con ?
Nó cười, đưa tay vén áo, nhìn xuống rồi nói:
-Má coi nè ! Cái bụng con binh rỉnh luôn .
Ba Rum nghe hả lòng, hả dạ lắm, ông cười:
-Bây giờ con tin lời ba chưa ?
Nó nghe hơi quê quê nên cười lỏn lẻn. Để chuộc lỗi nó nói:
-Má để con rửa chén cho!
Bà lắc đầu nguầy nguậy, nói:
-Ai mà bắt đàn ông con trai làm mấy cái việc nầy!
Nó lại đề nghị:
-Vậy con đọc truyện cho má nghe hén ?
Bà từ chối:
-Sụp mặt trời rồi, đọc hư con mắt, hổng nên !
Nghe bà nói vậy bất giác nó đưa mắt nhìn về hướng tây. Mặt trời đang trườn mình từ từ xuống sông, chuẩn bị tắm cho nhẹ mình để đi ngủ.
Mặt sông đầy những ngọn sóng lao xao, rì rào giống mấy ngọn lúa lả lướt trên đồng. Mấy bụi lục bình bám theo ghe dù bị sóng phủ phàng đẩy xa nhưng chẳng chịu bỏ cuộc. Vài đứa chờ chúng nguôi giận rồi đi theo tò tò sau lưng. Vài đứa bị giạt mạnh nên tấp vô bờ, đứng chôn chưn mà ngó theo hoài, xem chừng còn tha thiết lắm !
Cái buồn, cái nhớ chợt xuất hiện mà không hề báo trước.
Nó hỏi thầm trong bụng không biết giờ nầy má mình có cho heo ăn rồi đi tắm chưa ? Con Đèo có lau ống khói, châm dầu mấy cây đèn chưa? Con Đẹt có thay nước cúng, thay bông chưng trên bàn thờ chưa? Không có mình thì ai đi ra giàn củi, rút lá dừa gầy lửa cho cái đống un, đốt phân bò để đuổi muỗi cho con xe, con pháo đang nằm trong chuồng ? Chắc cha mình đang làm chuyện nầy, hay là ổng lại đạp xe qua nhà bác Bảy để nói chuyện rồi quên luôn, bỏ tụi nó trân mình chịu ngứa ?
Mấy đứa trong lớp chắc đang cười nhạo và chê mình ngu dại ? Thằng Cà Reo chắc vừa bụng lắm ! Nó thua đố rồi mà khỏi cõng mình chạy ba vòng xung quanh gò mã thì hổng mừng sao được? Tội nghiệp con Mén, nó chết oan chết ức, chắc chưa chịu đi đầu thai, chờ mình về để bóp cổ đòi mạng mới hả hạ !
Rồi nó tưởng tượng đến những bữa ăn. Mọi người xúm xít quanh mâm, gát đôi đũa lên miệng chén cơm, đưa lên trán lăm răm mời ông bà rồi mới kêu nó về ăn chung. Nghĩ đến đó thì hai giọt nước mắt không đứng lấp ló hoài trong khóe nữa. Chúng thôi nghe lời nó, ứa tuôn ra và lăn dài trên má.
Ba Rum đang cúi đầu vấn thuốc, chợt thấy một giọt nước rơi cái độp trên sàn thì ngạc nhiên quá xá cỡ, bèn ngước mắt lên nhìn nó.
Thấy ba nuôi nhìn mình chăm chú, nó vội đưa tay chùi nước mắt.
Ông biết nó khóc, trong lòng tự nhủ: " Cái thằng nầy tính nết sao mà thay đổi vù vù, mới ăn hùng hục, mặt mày hớn hở cái rồi buồn thiu liền, chắc nó nhớ nhà đây".
Nghĩ vậy nên ông nghe lòng mình tràn ngập một niềm thương cảm. Cũng như nó, dù bị gia đình từ bỏ nhưng lúc nào trong lòng ông cũng đau đáu, bèn hỏi bằng cái giọng rất dịu dàng:
-Nhớ nhà hả con?
Nó gật đầu rất nhẹ. Ông thở dài, an ủi:
-Để giao cái mớ dừa nầy xong, ba với má quay về miệt đó. Chịu khó hỏi thăm, chắc hổng người nầy thì người khác cũng biết gốc gác, nhà cửa của con.
Thấy nó không có vẻ đồng tình, ông hỏi:
-Con có muốn về nhà hông?
Nó lắc đầu, mặt buồn hiu. Ông hỏi tiếp:
-Sao vậy ?
Nó vẫn làm thinh. Ông bèn gặng:
-Phải con sợ bị người ta bắt, rồi đánh đập, hành hạ con phải hông?
Nó gật đầu.
Ông nghe lòng trắc ẩn dâng lên cao tột trong lòng, nhìn nó rồi nói:
-Con muốn ở đây tới bao lâu cũng được. Ba má hổng phải như người ta, nuôi con nuôi đặng nhờ, bắt làm hết việc nầy tới việc nọ. Ba má coi con như cái đứa từ trong ruột mình chui ra. Thủng thẳng rồi ba làm giấy khai sanh cho con, để con được ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn .
Ông muốn nói thêm là tuy mới sống chung chưa lâu nhưng ông thương nó nhiều lắm. Cái tình mà ông và vợ minh dành cho nó chẳng hề kém cái tình của vợ chồng Năm già dành cho mấy đứa con của họ. Vợ chồng ông sẽ không để nó thua sút thằng Út anh, con Út em một chút xíu nào !
Ông rất muốn làm như vợ mình, kéo khăn xuống lau nước mắt cho nó rồi hun vô hai gò má mỗi bên một cái, cho nó cười một cách sung sướng mà làm không có được !
Những người đàn ông xuất thân từ đồng ruộng như Ba Rum tánh tình mộc mạc lắm ! Họ đơn sơ như đất, như lúa vậy, không biết bày tỏ cảm xúc bằng những lời hoa mỹ hoặc cử chỉ vuốt ve. Mặt khác, không hiểu bắt nguồn từ đâu và vì cái giống gì, mà từ xưa tới giờ mấy thứ thuộc sở trường của phái yếu là bị họ kỵ dữ lắm, như chưng diện, nói chuyện, khóc lóc, hun hít, ăn hàng...
Ở phái khỏe, bất cứ ở đâu, lúc nào họ cũng thích chứng tỏ mình bản lãnh, cứng cựa. Họ hầu như cho rằng tính cách mình càng khác xa phái đẹp thì càng chứng tỏ mình là một bậc đại trượng phu. Nhiều người đàn ông hay đánh mắng vợ, chỉ vì mang mặc cảm tự ti nên muốn chứng tỏ ta đây quyền hạn lẫy lừng, cho dù là quyền hù vợ, đánh con. Họ chẳng những dè sẻn mà còn dè bĩu những cử chỉ thân mật và không bao giờ xài đến những món mà phụ nữ thường ghiền được hưởng, được xài.
Ba Rum không tệ đến vậy. Tuy rất hiền lành và thương vợ không biết để đâu cho hết nhưng lại quá vụng về trong cách biểu cảm. Đôi khi được vợ săn sóc, dặn dò điều nầy điều kia, ông cảm động lắm nhưng thay vì mở lòng ra để cám ơn một tiếng thì lại lầm bầm những lời cự nự.
Khi còn trẻ, chưa có kinh nghiệm bà cũng tủi thân vô cùng. Rồi một lần bà bỗng chợt ngộ ra, trong lớp vỏ xù xì đó có ẩn chứa một niềm thương sâu sắc...
Chính vì vậy mà tình cảm họ tuy thô, mặn như muối hột nhưng càng dùng lâu thì lại càng thắm thiết...Đôi khi họ còn tỏ ra mắc cỡ, khó chịu với những lời âu yếm ngọt ngào.
Má nó rửa chén xong thì lui cui đi tắm, thay đồ rồi lau dọn bàn thờ để chuẩn bị đốt nhang. Lát sau một làn khói xám rất nhạt kèm mùi nhang bay ra từ khoang ghe. Vì là ngày thường nên bà đốt nhang trơn, ngửi toàn mùi khói. Chỉ có ngày rằm mới được ngửi nhang thơm, có mùi trầm rất dễ chịu.
Đốt nhang trên bàn thờ xong, bà cầm mấy cây nhang đỏ rực ra sau lái. Bà đưa nhang lên ngang trán khấn khứa một cách sùng kinh, xá đông, tây, nam, bắc rồi cắm lên đầu bánh lái. Cầm cây nhang cuối cùng, bà leo lên mui để ra trước mũi ghe, lập lại cái động tác vừa làm: khấn vái, xá đủ bốn phương rồi cắm lên cái lỗ duy nhứt nằm trên cái chót mũi ngóc cao của chiếc ghe.
Lúc nầy Ba Rum và Còi vẫn còn ngồi trong cái chòi trên mui ghe, cùng đưa mắt nhìn về chân trời phía tây. Đây là thói quen chung của cả hai. Họ cùng yêu mặt trời chiều, hay bởi đó là nơi, mà hằng ngày khói từ chái bếp đã bay lên từ mái nhà thân thương suốt bao năm qua, vẫn còn đọng lại trên những chòm mây đang sà rất thấp ?
Ở đó, chân trời phía tây ấy, mặt trời đã lặn xuống tận đáy sông, gom bằng hết mấy đọt nắng theo nó. Những đám mây từ màu hồng đã chuyển sang tím nhạt, tím đậm rồi đen thẳm lại.
Ở phía đông, những tia sáng bị dìm chết dần mòn ấy bỗng trổi dậy một cách hết sức đột ngột. Còi ngạc nhiên tột độ, dụi mắt mấy lần rồi đưa tay chỉ về hướng đó và hỏi:
-Chỗ đó bộ người ta đốt đồng hay sao mà sáng dữ vậy ba ?
Ba Rum cười, giải thích :
-Lửa đốt đồng cháy đỏ chớ đâu có trắng như vậy ?
Còi càng thắc mắc hơn:
-Nó là cái gì vậy ba?
-Là đèn điện...
Nó thắc mắc hơn, hơn nữa:
-Đèn điện là đèn gì vậy ba?
Ba Rum gãi đầu, rặn ra từng tiếng:
-Là cái đèn cháy tự ên, không cần châm dầu, thay tim gì ráo !
Thắc mắc của nó lần nầy dâng cao tột đỉnh:
-Không cần dầu, không cần tim thì làm sao cháy ?
Ông chưa kịp đáp, nó đã nói thêm:
-Mà còn cháy sáng dữ dội ! Chắc bằng một trăm cái đèn măng sông đốt lên một lượt ?
Ba Rum gật gù:
-Hơn nhiều đa, cả ngàn cái mới được như ...
Ông lại bị nó ngắt lời bằng một câu hỏi:
-Người ta đốt làm chi mà nhiều dữ vậy ba?
-Thi đốt để thấy đường mà làm công chuyện.
Nó lại càng ngạc nhiên hơn, không phải giờ này ai cũng chuẩn bị đi ngủ hay sao? Chẳng có ai ra đồng lúc mặt trời lặn cả. Làm việc cũng không, đi chơi cũng không, đây là thời khắc dành cho sự sinh hoạt của cõi khác. Lúc còn ở nhà mỗi khi nó chột bụng phải ra hè giải quyết vào đúng cái thời điểm nầy, má nó đều dặn:
-Lẹ lẹ rồi vô, giờ nầy âm binh đi nhiều lắm, coi chừng bị quở đó !
Còi bỗng rùng mình, hổng lẽ đó là cõi âm sao ?
Nó hỏi tiếp bằng giọng thì thào:
-Đó là chỗ nào ? Ai ở vậy ba?
Ba nó đáp tỉnh khô:
-Sài Gòn đó con, người ta ở chớ ai !
A ! Sài Gòn ! Miền đất hứa đối với mấy đứa con nít nhà quê, đứa nào mà chẳng ước ao được đi tới đó một lần ? Kể cả người lớn cũng vậy !
Cả xóm của nó chỉ có thằng Thả được biết Sài Gòn mà thôi ! Cái thằng ấy may nhờ có ông anh đi lính bị thương nằm ở quân y viện nên mới được theo má nó lên thăm. Anh nó bị cụt một giò vậy mà chẳng thấy nó buồn chút xíu nào ! Nghe má nó cho đi theo là nhảy tưng tưng rồi chạy đi khoe khắp xóm. Lúc về lại nhà là nó bô bô liền liền cái miệng, khoe thấy thứ nầy, thứ kia.
Trong đầu Còi tái hiện cái cảnh thằng Thả xòe bàn tay ra trước mặt tụi nó, rồi tách từng ngón để kể tên những thứ mà nó cho là lỗi lạc nhứt, chỉ có ở Sài Gòn:
- Ở Sài Gòn cao thứ nhứt là nhà. Cái nầy chồng lên cái kia, ngó muốn trật ót luôn ! Cao thứ nhì là mấy cây cột đèn. Cao thứ ba là mấy cây me.
Tụi nó không tin. Lẽ nào ở cái xứ sở kỳ diệu ấy lại có một loại cây tầm thường đến vậy ? Một thằng hỏi lại bằng một giọng bán tín, bán nghi:
-Bộ Sài Gòn cũng có trồng me sao ?
Thằng Thả vênh mặt đáp :
-Có chớ sao không. Họ trồng kín mấy cái lề đường.
Đứa khác hỏi:
-Nó có trái hông mậy ?
Thằng Thả đáp bằng giọng tiếc rẻ :
-Đầy nhóc ! Vậy mà hổng có ai hái, cái mới uổng. Trái rụng lềnh khênh trên mặt đường, bị xe cán dẹp lép. Tao ngó mà tiếc đứt ruột, muốn lượm mà má tao không cho.
Tụi nó kêu lên một lượt :
-Sao lạ vậy ?
Thằng Thả nói, giọng còn vương chút xíu ấm ức :
-Má tao nói người Sài Gòn thấy ai mà lượm đồ dưới đất lên xài là xem thường lắm ! Họ chê mất vệ sinh. Đừng nói gì đồ ăn, tiền cũng vậy nữa . Hôm bữa tao thấy một đồng xu mắc kẹt trong nắp cống, vậy mà má tao nhứt định không cho tao khựi lên để lấy. Bả giữ rịt cái tay tao chặt cứng.
Tụi nó ngạc nhiên quá cỡ ! Bởi ở đây ba má, ông bà bắt chúng lượm từng hạt cơm đổ lên ăn. Vậy thì cái bọn hỉ mũi chưa sạch như chúng phải làm sao cho đúng ?
Chúng đâu có biết rằng, chân lý thay đổi theo không gian và thời gian, theo hoàn cảnh sống, từng giai đoạn và vị trí của từng người trong xã hội.
Tụi nó hỏi tiếp:
-Còn cái gì lớn hơn chỗ mình nữa hông mậy?
Chỉ chờ có vậy là thằng Thả đáp liền. Có lẽ đây là điều nó ngưỡng mộ nhứt:
-Cái ổ bánh mì bự bành ky luôn !
Thằng Cà Mun hỏi liền:
-Bự tới cỡ nào ?
Nó liền dang hai cánh tay ra:
-Bự cỡ nầy nè ! Tao với má tao ăn không hết một ổ!
Một đứa hỏi bằng giọng ao ước:
-Ngon hông mậy ?
Thằng Thả chưa kịp trả lời là nó, thằng Còi, làm giọng tài lanh:
-Bánh mì Sài Gòn mà hổng ngon sao được !
Sở dĩ nó dám khẳng định vì khi má thằng Thả đi thăm anh nó về, có ôm một bó bánh mì bự bằng bó lúa, phát cho mỗi nhà một ổ ăn lấy thảo. Nhà nó may mắn ở kề bên nên được nếm qua.
Nhớ tới đó nó liền quay mặt qua hỏi ông ba nuôi:
-Ba ăn bánh mì Sài Gòn chưa ba ?
Ba Rum gật đầu rồi hỏi lại nó:
-Con ăn bánh mì chấm sữa chưa ?
Nó lắc đầu, ông hỏi tiếp :
-Bánh mì ba tê ? Bánh mì kẹp tôm nhúng bột chiên giòn ?
Nó lại lắc đầu. Ông cười:
-Chừng nào tới Sài gòn ba cho con ăn đủ hết mấy thứ đó !
Nó nôn nao:
-Còn bao lâu nữa mới tới Sài Gòn lận ba?
Ba Rum nghĩ ngợi một chút rồi nói:
-Lẹ gì cũng phải tờ mờ sáng.
Con tàu rẻ ngoặt và chòm sáng bỗng biến mất.
Nó kêu lên thảng thốt:
-Sài Gòn mất tiêu rồi ba ơi!
Ba Rum xoa đầu nó, chỉ về hàng cây bên phải, nói:
-Đừng có lo, nó núp ở đó đó ! Con thấy chỗ đó còn bừng bừng hông?
Khúc sông nầy có hình chữ S, nên khi đoàn ghe đi qua một doi đất, chùm sáng lại hiện ra. Lúc nầy trông nó còn rõ, gần và sáng hơn khi nãy.
Giờ nầy vào ngày thường là Còi đã đống một giấc rồi, nhưng hôm nay vì nôn nao trong lòng quá cho nên chẳng thể nào ngủ được. Ba Rum buồn ngủ quá mạng nhưng chẳng nỡ để nó ngồi trên mui chong ngóc một mình, bèn vấn thêm một điếu thuốc, hút để thức nói chuyện cho nó vui.
Ông bật cái hột quẹt lên, che tay mồi lữa, đang bập bập hai môi thì nghe nó hỏi:
-Ở Sài Gòn ban đêm họ làm cái giống gì mà giờ nầy còn chưa chịu ngủ hả ba ?
Ba Rum tóp cả hai bên má, rít một hơi thật sâu để điếu thuốc cháy đượm. Ông lấy thuốc ra khỏi miệng bằng hai ngón tay cái và trỏ, thở cho khói bay ra hết rồi mới nói :
-Dân ở đó làm nhiều mà ăn cũng dữ. Ban ngày họ đi làm, còn buổi tối lại kéo nhau ra đường để đi ăn, đi nhậu với giải trí hằm bà lằng kiểu !
Nó ngạc nhiên:
-Bộ nhà nào cũng vậy hả ba ?
Ba nó lắc đầu:
-Nhà có nhà không, đâu có ai giống ai. Hể người nào giàu thiệt giàu thì kéo nhau đi tiệc tùng, nhậu nhẹt, nhảy đầm. Giàu hơi hơi thì đi ăn, đi hóng mát lai rai. Người nào quá nghèo thì đi làm để kiếm thêm chút đỉnh. Người nào hổng giàu hổng nghèo thì đi ngủ.
Nó suy nghĩ một lát rồi hỏi tiếp :
-Chắc ở đó người giàu nhiều hơn nghèo hả ba ?
Ba Rum cười:
-Hổng hẳn như vậy đâu con. Thấy nhà cửa phố xá bên ngoài coi rôm rả vậy chớ vô trong mấy cái hẻm sâu người nghèo nhiều lắm ! Một người giàu chớ cả trăm, cả chục người nghèo.
Rồi ông hỏi nó:
-Trong xóm con có mấy người làm nghề đi xin ?
Nó lắc đầu:
-Hổng có ai hết !
-Ở Sài Gòn đi đâu cũng gặp ăn mày. Họ nằm, ngồi trên lề đường. Chùa chiền, chợ búa, bến xe, quán ăn, rạp hát ...chỗ nào cũng thấy hết. Có những đứa con nít nhỏ xíu, chưa biết nói đã biết xòe tay xin tiền rồi. Tội nghiệp nhứt là mấy ông già, bà lão không nhà, không cửa, phải ngủ nhờ ngoài hàng ba nhà người ta, bị đuổi lên đuổi xuống.
Câu nói vừa rồi của Ba Rum như cây kim chích vào cái bong bóng niềm vui đang căng phồng của nó.
Nó hỏi bằng giọng buồn buồn:
-Có ai cho tiền họ hông ba ?
-Có chớ con, bởi vậy họ mới sống nổi.
-Chắc chỉ toàn là mấy người giàu cho thôi hả ba ?
Ba Rum lắc đầu:
-Chưa chắc ! Mấy người nghèo coi vậy mà dễ động lòng, với lại họ nghĩ lỡ nghèo rồi cho nghèo luôn, một hai cắc bạc đâu có làm được cái giống gì. Mấy người ăn xin họ biết vậy nên toàn vô mấy cái xóm lao động làm ăn không hà !
Còi còn cả đống thắc mắc trong lòng, chưa kịp hỏi nữa thì nghe tiếng má nó rầy:
-Hai cha con bữa nay sao mà già chuyện quá vậy ? Đi ngủ thôi ba nó, ông thức khuya coi chừng mất sức, ngày mai là bận túi bụi đó nghe !
Ba Rum thúc nhẹ cùi chõ vô hông nó rồi nói:
-Đi ngủ đi con, mai mốt tới Sài Gòn rồi tha hồ mà thức !
Hai cha con lục đục bước xuống, vén mùng chui vô.
Chờ nghe nó ngáy đều rồi Ba Rum mới nhỏ giọng gọi vợ:
-Má nó ơi ! Bà ngủ chưa vậy?
Bà cũng trả lời rất nhỏ:
-Chưa, có chuyện gì hông ông?
Ông hạ giọng xuống một nấc :
-Chuyện thằng Hên !
Bà nghe lo lo, hỏi dồn :
-Chuyện gì ?
Ông ghé miệng gần tai vợ thêm chút nữa , giọng lí nhí:
-Hôm bữa bà lau mình cho nó, có thấy hai cái bàn tọa của nó thẹo lồi, thẹo lõm tùm lum hông?
-Thấy chớ ! Rồi sao ?
Ông hít hà:
-Tui độ chừng nó bị ăn đòn nhiều lắm mới mang thẹo dữ vậy .
Bà cãi:
-Hổng có phải đâu ông ơi ! Tui có hỏi nó rồi. Nó nói là tại chơi thi nhảy qua đống un, té ngồi lên lửa than nên mới ra nông, ra nổi như vậy đó !
-Tui không tin đâu ! Hổng chừng nó là con nuôi hay có cha ghẻ, mẹ ghẻ. Bị họ đánh, họ đập bằng củi đun hay tạt nước sôi mới bị te tua như vậy.
Bà bán tín bán nghi, vặn lại:
- Sao ông biết ?
Ông thở dài:
-Tui độ là nó chịu hết nổi nên bỏ trốn.
Bà hỏi y như cũ:
-Sao ông biết ?
-Hồi chiều tui thấy nó khóc. Biết nó nhớ nhà tui mới an ủi, hứa là mai mốt tìm người hỏi thăm rồi đưa nó về nhà, nhưng mà nó lắc đầu không chịu.
Bà ngạc nhiên :
-Sao lạ vậy ?
Ông lại thở còn dài hơn cái trước:
-Tui hỏi có phải nó sợ về nhà rồi bị đánh đập, hành hạ nữa hông, cái nó gật đầu.
Bà lặng người đi vì thương rồi ứa nước mắt.
Ông nghe tiếng bà khịt mũi thì rầy :
-Cái bà nầy, có vậy mà cũng khóc !
Giọng bà rấm rức:
-Sao mà tui nghe xót cái ruột quá ông ơi ! Tội nghiệp nó quá chừng!
Cái giác quan đầu tiên của Còi tiếp xúc với Sài Gòn không phải thị giác!
Chính một loạt những âm thanh "co... ong, co...ong, co...ong...", vừa thanh vừa trầm của hai khối kim loại chạm vào nhau một cách liên tục, đẩy bật nó ra khỏi giấc ngủ.
Ngay khi thức giấc, nó đã phát hiện ra một mùi rất khó chịu. Đó là mùi của những chất thải, trầm tích lâu năm dưới lớp nước ao tù.
Má nó đã thức từ lâu, phát hiện ra cái trở mình khẽ khàng của nó liền nói:
-Tới Sài Gòn rồi đó con !
Nó ngồi dậy một cái rột, hỏi:
-Lâu chưa vậy má ?
Bà trì vạt áo nó xuống, bắt nằm trở lại, đáp :
-Gần một tiếng rồi ? Giờ còn sớm lắm chưa tới sáu giờ đâu, con ngủ nữa đi !
Trên ghe không có cái đồng hồ nào. Ba má nó coi giờ bằng cách nhìn bóng của họ mà đoán, hoặc nhờ người phụ nữ ngồi trong cái la dô báo từng đợt: "Bây giờ là...giờ" mới biết, nên nó hỏi :
-Sao má biết chưa tới sáu giờ ?
-Chừng nào cái ông chủ tiệm thuốc Bắc đó hết khua chày, giả cối thì đúng bon sáu giờ.
Thì ra cái tiếng "co...ong" ấy là tiếng chày, cối chạm vào nhau. Nỗi thắc mắc đã được giải đáp, nhưng nó chưa hài lòng vì còn một thứ nữa. Nó hỏi:
-Cái mùi gì mà hôi quá vậy má ?
Má nó liền thò tay vô túi lấy chai dầu Nhị Thiên Đường ra. Bà mở nút, đè chặt ngón tay trỏ lên miệng, dốc ngược chai, quẹt chút dầu vừa thấm ra đầu ngón tay lên nhân trung của nó rồi mới đáp:
-Nước sình đó con.
Nó ngồi dậy nói:
-Để con đi coi Sài Gòn ra làm sao!
Bà kéo nó nằm xuống thêm lần nữa, nói:
-Giờ nầy chưa có cái gì để coi đâu con. Con mà chun ra khỏi mùng là mấy con muỗi nó xông tới, hút không còn một giọt máu bây giờ !
Nó đành nằm lại, thấy trong mùng chỉ có hai má con nên hỏi:
-Ba đâu rồi má ?
-Ổng đi uống cà phê với mấy ông chủ ghe khác rồi .
Nó ngạc nhiên:
-Bộ giờ nầy quán đã mở cửa rồi hả má ?
-Ở bến xe, bến tàu, có khi người ta bán thâu đêm luôn đó con !
Nó năn nỉ:
-Má dắt con lên ngồi với ba được hông má ?
Bà nói liền:
-Má hổng dám bỏ ghe đâu ! Mà con lại đó làm gì, toàn người lớn không hà, đâu có ai thèm chơi với con.
Nó không dám nói với bà là mình rất mê nghe người lớn nói chuyện, bởi điều nầy nằm trong phạm vi bị cấm, đành nằm im ru mà tưởng tượng đủ thứ. Để nó bớt bức rức bà hỏi:
-Một lát má đi chợ con có muốn đi theo hông ?
Nó mừng húm, đáp không kịp thở:
-Có chớ ! Má phải cho con theo đó nghe !
-Ừ !
-Chợ ở đâu vậy má ?
-Sát một bên, đứng trên mui ghe là thấy từ đầu tới cuối chợ luôn.
Nó hỏi một cách háo hức:
-Chợ bán cái gì vậy má?
-Cái gì cũng có hết trọi !
-Có bán đồ ăn hông?
-Đủ thứ!
Nó kỳ kèo:
-Món gì với món gì ? Má kể cho con nghe đi!
Bà nhắm mắt để vẽ lại cả cái chợ trong đầu rồi đáp:
-Từ bến đi lên là quán hủ tiếu mì của ông Tiều, kế đó là xe bánh mì của cô Lẹ. Bên kia đường là cơm tấm, bún thịt nướng rồi tới bún rêu, phở...
Nó ngắt lời:
-Bún rêu ra làm sao hả má?
Bà đáp một cách dè dặt:
-Má chưa ăn lần nào. Món nầy là của người Bắc.
Rồi nói tiếp bằng giọng bán tín, bán nghi:
-In là họ nấu bún rêu bằng cua đồng giả cho nát nhừ, còn phở thì làm bằng thịt bò.
Nó ngạc nhiên:
-Cua đồng cái vỏ cứng ngắt làm sao ăn được hả má?
-Má độ chừng người ta lọc lấy cái thịt dính trong nước, còn cái cặn có xác cua thì bỏ .
-Còn phở !
-Cái nầy má có ăn qua một lần...
Nó ngắt lời:
-Ngon hông má ?
Bà chắt lưỡi một cách tiếc rẻ:
-Nghe người ta đồn là ngon dữ lắm nên má bấm bụng mua một tô cho ba con ăn thử. Ổng ăn có một đũa thôi rồi đẩy qua cho má. Hôi mùi bò quá má ăn hổng có nổi. Bỏ thì tiếc tại nó mắc quá, má ráng trợn trắng, trợn dọc mà nuốt cho hết. Từ đó tới giờ hổng dám gặp nó nữa !
Nó thắc mắc:
-Sao ăn hổng được mà mắc hả má ?
-Tại mình ăn không quen thôi chớ nhiều người ghiền lắm đó con ! Mấy cái quán bán phở đắc như tôm tươi !
Rồi bà chép miệng, tự hỏi:
-Hổng hiểu tại làm sao mà họ mê cái thứ nước lèo hôi mùi vị, với mấy miếng thịch bò nửa sống, nửa chín, chấm với cái thứ tương đen thui đó dữ vậy hổng biết ?
Nhớ lời ba nuôi nói hôm trước nó hỏi :
-Bánh mì ba tê ngon hông ma ?
Má nó đáp không do dự :
-Ngon ! Ba con thích nó nhứt hạng.
-Còn bánh mì chấm sữa?
Lần nầy thì bà ngạc nhiên, hỏi lại :
-Bộ con chưa ăn món nầy sao?
Nó khẳng định:
-Chưa có ăn lần nào hết !
Bà hỏi tiếp:
-Mấy lần bị bịnh con ăn thứ gì ?
-Cháo trắng, cháo cá...
Bà nói bằng giọng an ủi :
-Cái món nầy làm dễ ợt. Chút nữa má mua một ổ bánh thiệt nóng, thiệt giòn, rồi mua một hộp sữa ông thọ về để con chấm ăn cho đã thèm luôn !
Nó đâu bằng lòng chừng đó, háo hức hỏi:
-Còn món bánh mì tôm nhúng bột chiên giòn ?
Bà gật gật cái đầu:
-Cũng ngon lắm ! Cái thứ nầy thì má biết làm. Để mai chiều má mua tôm, mua bột về chiên cho con ăn nghe?
Nó đáp một cách sung sướng:
-Dạ !
Khi tiếng giả thuốc cuối cùng cũng kiệt sức, im ru thì má nó lại thiu thiu ngủ. Nó không gọi bà dậy mà vén mép mùng lên chui ra một mình.
Vừa mở cửa khoang sau, chưa kịp bước ra nó đã hét lớn:
-Má ơi !
Má nó ngồi bật lên như bị điện giật, hỏi to:
-Cái gì vậy?
Nó đáp hụt hơi:
-Con chuột.
Tiếng thét đó chẳng những làm má nó hết hồn, ngay cả cái tên trộm bốn chưn, to bằng con mèo mướp ấy cũng hoảng vía phóng xuống nước lội vô bờ.
Tiếp đó là tiếng anh em thằng Út cưới giòn rụm, hai đứa nó đang ngồi trên mui ghe nhà chúng. Chắc cái cười đó nhắm vào nó vì thằng Út anh bỗng hỏi:
-Bộ mầy chưa thấy con chuột nào bự như vậy hả?
Nó gật đầu :
-Ở quê tao chưa có con nào bằng phân nửa nó. Sao ở đây nó bự dữ vậy ?
Thằng Út trả lời :
-Chắc tại ở đây không ai bắt để ăn thịt nên tụi nó sống lâu rồi bự tới đâu cũng được.
Con chuột đã bơi vào bờ. Nó vừa lấy lại ba hồn chín vía là quay mặt lại, ngóc mỏ, rung râu, nhăn răng cười, chọc quê cái thằng thỏ đế đang vừa nhìn theo nó vừa rung.
Ba Rum xuất hiện bất thình lình trên bờ. Ông hỏi lớn bằng giọng lo lắng:
-Làm cái giống gì mà con la ỏm tỏi vậy ?
Nó chưa kịp đáp là ông lại hỏi dồn:
-Má con đâu ?
Bà thò mặt ra cho ông thấy, rồi nói:
-Con chuột bự quá làm nó sợ. Mới thấy lần đầu mà !
Nó nói thầm một mình:
-Hèn gì thằng Thả nó nói ở Sài Gòn cái gì cũng lớn.
Ba nó vừa bước xuống ghe là hỏi má nó liền:
-Sao bà còn chưa cuốn mùng cho rộng chỗ ?
Má nó nói:
-Hồi tối dậy sớm quá nên gần sáng ngủ lại rồi quên dậy luôn.
Ông hối tiếp:
-Bà lo đi chợ rút rút rồi về liền để còn phụ tui đếm dừa nữa đó !
Bà hỏi :
-Bộ bán rồi hả ông?
-Ừ !
-Cho vựa nào vậy ?
-Vựa Tư Tỏ.
-Được giá hông ?
-Được, dừa đang hút. Mình chất lên cho lẹ rồi quay về liền để kịp làm thêm một chuyến nữa .
Bà nhìn mặt nước rồi nói:
-Chắc tui nhờ chị Năm đi chợ nấu cơm luôn. Nước đang lên, mình cặp ghe sát vựa rồi chuyền lên cho lẹ.
Bà nói xong là hỏi thằng Út anh:
-Má con đâu rồi ?
Vợ Năm già lên tiếng :
-Tui nè thím Ba, có chuyện gì...
Bà không chờ nghe hết câu là nói liền :
-Một lát chị nấu cơm giùm cho ba người bên tui ăn chung luôn nghe, được hông ?
Miệng hỏi tay bà móc tờ năm chục ra đưa liền.
Vợ Năm già vừa vói tay ra cầm tiền vừa hỏi :
-Bộ bán được dừa rồi hả thím ?
Vợ Ba Rum gật đầu rồi hỏi lại:
-Còn bên chị ?
Vợ Năm già lắc đầu :
-Chưa thấy ổng về, không biết bán được chưa. Thôi tui đi chợ liền đây! Mà thím tính ăn món gì ?
Vợ Ba Rum chắt lưỡi :
-Ăn món gì cũng được mà ! Có điều chị nhớ mua giùm một ổ bánh mì lớn với một hộp sữa ông thọ.
Thằng Còi đang rửa mặt để chuẩn bị đi chợ, nghe nói vậy thì cái mặt xụ xuống buồn hiu. Bà biết nó đang thất vọng tràn trề, bèn nói thêm:
-Chị làm ơn dẫn thằng Hên theo cho nó ngó chợ một cái. Từ tối tới giờ nó nôn quá nên ngủ hổng yên. Bị tui có hứa bữa nay đi chợ sẽ dắt nó theo.
Từ lúc có cái vụ thằng Còi dạy chữ, dạy toán cho Út anh, Út em, vợ Năm già đã dành sẵn mối cảm tình và lòng biết ơn cho nó, nên hết sức vồn vã :
-Ừ ! Cho nó đi luôn đặng xách đồ tiếp tui chớ !
Gương mặt đang héo queo của nó nở bùng ra liền, y như cái bánh phồng tôm được bỏ vô chảo dầu nóng vậy. Bây giờ lại tới phiên anh em thằng Út kỳ kèo, hai đứa nó nói một lượt :
-Cho con đi nữa má !
Vợ Năm già lắc đầu, dỗ ngọt:
-Tụi con đi hết rồi ai coi chừng ghe ? Ngồi đó lấy tập ra học với nhau đi rồi lát nữa má mua bánh về cho mà ăn. Tụi con thèm thứ gì ?
Hai đứa nó không trả lời mà liếc thằng Còi một cái, ra vẻ tủi thân vì là con ruột mà hổng được má dắt theo.
Thấy hai anh em chúng nhìn thằng con mình bằng ánh mắt ghen tỵ, vợ Ba Rum liền nói:
-Chị dắt tụi nó theo luôn đi, để ghe tui dòm chừng cho !
Để chặn câu từ chối mà vợ Năm già sắp thốt ra, bà hối chúng :
-Hai đứa con còn hổng lo đi rửa mặt chải đầu cho lẹ ?
Rồi nói với vợ Năm già:
-Chị mua thêm một ổ bánh nữa nghe, cho ba đứa nó ăn chung cho vui.
Vợ Năm già không nói gì hết. Út anh, Út em biết đó là dấu hiệu là má chúng đã bằng lòng, bèn mừng quá phóng xuống ghe làm theo răm rắp .
Hai anh em thằng Út chạy phom phom trên cây đòn dày lên bờ, Còi thì chưa quen nên đi lần từng bước. Vợ Năm già đi sau cùng, hai tay đưa ra trước mặt để chực hờ đỡ nó.
Còn sớm nhưng chợ đã đông người. Toàn là dân mua đi bán lại nên chẳng ai xách cái giỏ mây nhỏ xíu, đi thong dong như vợ Năm già và ba đứa nó.
Còi hết nhìn bên nọ lại ngó bên kia, cái gì cũng kỳ lạ, cũng khác xa quê nó một trời một vực!
Chúng đi qua mấy cái vựa nườm nượp người. Một bác lớn tuổi ngồi trên chiếc xe ba gác chất đầy rau củ đang nổ máy, thấy tụi nó nắm tay nhau đi hàng ngang, liền quát:
-Ép vô, ép vô, xe cán nát óc bây giờ.
Ba đứa nhỏ hết hồn buông tay nhau giạt vô lề ngay lập tức. Chúng đụng phải một người phụ nữ đang hai tay xách hai cái túi to, liền bị bà ta nạt:
-Tụi bây làm cái gì mà xô nhau ngã vô mình tao, bộ tính móc túi hả ?
Thế là cả ba lại đứng ì ra.
Vợ Năm già trừng mắt nhìn người phụ nữ đó, rồi nói như gây lộn:
-Bộ bà đui hay sao mà hổng thấy tụi nó là con nít. Chúng ở quê mới ra, mặt mày còn khờ câm, đi đứng lớ ngớ, bị xô qua, xô lại... không biết thương mà còn vu oan, giáng họa như vậy hả ?
Thằng Còi thấy vợ Năm già nổi xung thì hết hồn. Nó không ngờ người đàn bà gầy nhom, hiền khô, từ trước tới giờ chưa hề nghe la rầy con cái nầy, lại có thể dữ dằn đến thế.
Người phụ nữ kia đoán bốn người họ đi chung với nhau, nhìn kỷ thì thấy không phải là dân đá cá lăn dưa, nên không trả lời lại tiếng nào mà bỏ đi một nước.
Vợ Năm già thấy ba đứa nhỏ tròn xoe mắt nhìn mình thì giải thích:
-Gặp ai hiền thì mình hiền lại, gặp ai dữ thì mình phải dữ hơn để họ khỏi ăn hiếp !
Hành động "nghĩa hiệp" của má Út anh khiến Còi cảm phục. Người phụ nữ nầy bỗng giống như Phàn Lê Huê trong quyển truyện nó đang đọc. "Chắc bác ấy cũng biết võ nghệ nên mới dám đương đầu với một người to gấp đôi mình", nó nhủ thầm như vậy cho dù chỉ mới thấy bà thi thố một môn võ "mồm" mà thôi!
Một mùi thịt nướng bỗng xông vào mũi của chúng. Tụi nó đang đi ngang qua hàng bán cơm tấm. Cả ba đứa đồng nhìn về điểm xuất phát của làn hơi hấp dẫn đó. Một cái máng nhôm hình chữ nhựt có cái vì sắt gát trên miệng, với mấy miếng thịt heo cốt lết tươm mỡ vàng ươm nằm trên đó đang tỏa khói nghi ngút. Mấy sợi khói ấy tuy hết sức mỏng manh nhưng thừa sức bó ba đôi chưn nhỏ, gầy nầy dính chặt.
Nhìn sáu con mắt hau háu của chúng, má Út anh bỗng ước chi mình thiệt là giàu để mua hết chỗ thịt đó rồi cho ba đứa nó ăn cho đã cái miệng.
Bà giục chúng :
-Lẹ lên tụi con, còn nhiều thứ để coi lắm !
Rồi đẩy nhẹ cái lưng Còi một cái. Mắt nó vừa rời khỏi cái gánh cơm tấm, chân dợm bước đi thì tai bỗng bắt được một giọng nói thống thiết :
-Cháu ơi! Làm ơn làm phước cho bác xin một đồng ăn xôi. Hôm qua tới giờ bác chưa có miếng gì trong bụng.
Còi quay lại nhìn, một người đàn ông hom hem đã đứng bên cạnh nó chẳng biết từ lúc nào. Nó giựt mình bởi trong túi đang có một đồng của ông chủ tàu cho hôm nọ. Ban nãy nó định để ở nhà nhưng rồi quyết định đem theo, dự trù trường hợp muốn mua một món gì đó. Hổng hiểu sao ông bác nầy biết mà xin ngay chóc.
Còi nhìn ông ta chăm chú. Ổng cũng già như bác Năm ba thằng Út nhưng tóc không bới mà cắt ngắn ngủn. Cái quần ông ta đang mặc, cả hai ống đều rách lai te tua với hai miếng vá rất to ở cả hai đầu gối. Chiếc áo bà ba cũ xì, chắc cái màu nguyên thủy của nó cũng đen nhưng bây giờ đã bạc thếch. Một tay áo xẹp lép bay phất phơ vì thiếu cánh tay bên trong. Gương mặt đen thui, gầy nhom, đôi mắt buồn hiu ấy làm Còi nghe thương xót quá !
Nó rút bàn tay đút trong túi, đang nắm chặt tờ giấy một đồng xếp gọn ra, hơi ngần ngừ rồi thả tờ tiền vô cái ca nhôm nhỏ mà ông ta chìa ra trước mặt nó.
Nghĩa cử đó rơi gọn vào mắt của ba mẹ con thằng Út. Thế là giá trị của nó bỗng tăng vùn vụt trong lòng họ. Út anh bỗng nghe khâm phục cái thằng bạn mà trước giờ nó có chút xem thường vì chơi môn gì cũng dở. Bởi nó cho rằng phải giỏi lắm mới làm ra tiền, phải tốt lắm mới đem tiền đi cho. Một đứa nhỏ như vậy mà vừa giỏi vừa tốt thì ai mà không ngưỡng mộ!
Vợ Năm già bỗng nghe thương mấy đứa con của mình thêm một bực. Con người ta được cho ăn, cho mặc phủ phê, còn cho tiền đến độ xài không hết có dư đem bố thí. Còn con mình thì thèm một miếng bánh, một cục kẹo cũng không có mà mua.
Phát xuất từ mặc cảm có lỗi, để con thua sút bạn bè, nên bà nhứt quyết trưa nay sẽ đền bù cho chúng. Bà sẽ trổ tài nấu thật ngon, mấy món mà hai đứa nó ưa nhứt.
Thằng Út anh thích thịt ba rọi kho tiêu. Con Út em thì khoái món canh chua cá lóc đại hạng. Bà rẽ qua chỗ bán thịt để mua một cân ba rọi.
Út anh thấy má nó dừng chân trước sạp thịt mừng hết biết ! Bèn hỏi liền bằng giọng khấp khởi:
-Má mua thịt để làm món gì vậy má ?
Bà nhìn nó thật âu yếm, giọng ngọt mát như nước mía:
-Má làm cái món mà con thích đó ! Kho tiêu.
Út anh khoái quá, tặng liền cho má nó một nụ cười hàm ơn tươi rói.
Người bán đang bọc miếng thịt ba rọi vào tờ giấy nhựt trình, chợt bắt gặp tia mắt và nụ cười trìu mến hai mẹ con Út anh trao nhau. Chị ta xúc động quá, bất ngờ với ngay chính mình khi mở bung gói thịt ra rồi cho thêm một miếng thịt nọng nho nhỏ vào, vừa đưa cho bà vừa nói:
-Bỏ cái nầy vô kho chung, ngon lắm !
Bà vừa nhận gói thịt vừa nói lí nhí :
-Cám ơn
Trả tiền xong bà lại dắt chúng vào hàng cá. Đường đi tới chỗ bán cá rất dơ. Nước lẫn máu cá chảy lênh láng rất tanh. Bà bảo tụi nó đứng chờ bên ngoài rồi lại cái sạp gần đó để mua.
Mấy con cá lóc nằm chen chúc trong cái thau nhôm to đùng. Chúng đang buồn nên dù thấy có người nhìn cũng chẳng thèm quẩy đuôi làm dáng.
Cô gái đến trước bà chỉ vào một con cá to nhất trong thau. Người bán cá bắt nó thảy lên bàn cân rồi nói giá. Cô gái kỳ kèo rồi bỏ đi, chi ta gọi lại, nói:
-Bán cho cô để mở hàng, chớ bán giá nầy là lỗ mắc dịch luôn ! Làm hông ?
Cô gái đáp :
-Dì đập cái đầu, chích máu ra hết giùm thôi, để nguyên đặng cháu nướng trui .
Chị ta cầm con cá nặng gần một ký đó chỉ bằng một tay, tay còn lại cầm cái chày đâm tiêu đập mạnh lên đầu nó. Máu văng tung tóe, con cá bị bể đầu còn ráng dùng hết sức bình sanh, quẫy đuôi tưng bừng, bày tỏ lòng căm phẩn một cách quyết liệt, rồi chết mà không thèm nhắm mắt.
Chờ cô gái trả tiền xong, bỏ đi rồi, má thằng Út mới lấy ngón tay trỏ chỉ vào một con cá lóc bự bằng cườm tay nằm xụi lơ đưa cái bụng trắng hếu lên trời mà hỏi:
-Con cá chết nầy bao nhiêu vậy cô ?
Chị ta vớt con cá đó lên rồi nói:
-Nó mới ngộp, còn ngon như cá tươi, hai con mắt trong veo nè, thấy hông ? Tính rẻ chị hai chục thôi!
Bà lắc đầu, trả giá :
-Mười lăm được hông ?
Chị ta cũng lắc đầu :
-Mười tám !
Bà bỏ đi, chị ta kêu lại, nói một cách tiếc rẻ:
-Con cá nầy mà còn sống, dưới hai mươi lăm đồng tui mà bán thì làm con của chị. Nó mới giãy đành đạch tức thì, thôi trả tui thêm hai đồng nữa đi.
Bà nói một cách dứt khoát:
-Thêm một đồng, cô hổng chịu thì thôi !
Chị ta gằn giọng:
-Tui bán mở hàng cho chị, chớ không có giá nầy đâu nghe !
Bà cười thầm trong bụng. Cái cô nầy nói dóc không chớp mắt, ban nãy cũng nói với cô gái kia là bán mở hàng. Chắc cái câu nầy được cô ta lập đi, lập lại cho tới hết thau cá mới thôi !
Chị bán cá cầm sợi dây xỏ qua mang con cá đưa cho bà.
Bà không cầm mà nói:
-Cô phải làm cho tui chớ !
Chị ta cằn nhằn:
-Bán rẻ rồi còn bắt làm nữa.
Rồi hỏi:
-Đánh vẫy hay lạn da đây ?
Bà nhẹ giọng :
-Lạn đi !
Chị ta lấy con dao bảng to nhưng mỏng như lá lúa, đặt sát sống lưng con cá rồi lóc ra miếng da có cả vẫy dính vào to bằng bàn tay. Động tác hết sức chuyên nghiệp, đưa có bốn nhát là xong !
Cái mình con cá bây giờ trắng hếu. Chỉ có phần vẫy và lớp thượng bì mỏng vánh bị tách ra thôi. Lớp hạ bì dính vào thịt không bị trầy xước tí xíu nào .
Ba đứa nhỏ bắt đầu sốt ruột thì bà Năm xuất hiện. Đưa con cá lên cho chúng thấy, bà nói:
-Đi ra đầu chợ mua đồ nấu canh chua, mua bánh mì với sữa rồi về.
Út em thấy con cá rồi nghe thêm là mua đồ nấu canh chua, biết trưa nay sẽ được ăn cái món ruột của mình nên cười mỉm chi, mắt ăm ấp một niềm vui.
Đi ngang qua hàng chuối chiên, Út anh bỗng xúi Còi:
-Mua một miếng đi !
Còi lắc đầu:
-Tao đâu còn tiền. Có một đồng mà cho hết rồi!
Thằng Út anh nhìn nó đăm đăm, cái vẻ ngưỡng mộ trong mắt lúc nãy, bây giờ hoàn toàn bị xóa tan. Thay vào là một tia nhìn pha tạp đủ thứ : Thất vọng, nghi ngờ, xem thường, bất mãn...
Dù vẫn còn đầy ấp nỗi khao khát muốn khám phá Sài Gòn nhưng Còi vẫn phải bấm bụng theo ba mẹ con Út anh quay về để bà chuẩn bị bữa cơm trưa.
Nó và thằng Út, mỗi đứa ôm một ổ bánh mì trên tay đi sau cùng. Út em cầm hộp sữa chạy lon ton theo má nó. Bà đi te te phía trước, lấy cớ lo nấu cơm không kịp. Thật ra bà sợ ông về thấy ghe bỏ chẳng ai trông, ba má con nó đi đâu mất biệt thì bực bội, cự nự khiến vợ chồng Ba Rum hiểu lầm.
Hổm rày ông đang canh cánh nỗi lo bên mình. Cho dù không nói ra nhưng bà biết, vì sợ dội hàng không bán được nên gương mặt ông lúc nào cũng dàu dàu. Bà không muốn mình là cây kim chích vào cái bong bong đang căng phồng, tích chứa đầy những nỗi bất an đó. Cho nên dù thấy cái mặt nó tiu nghỉu, dù biết đây là lần đầu tiên nó đặt chưn tới Sài Gòn, lòng đầy náo nức, còn ham đi đủ chỗ, ham thấy đủ thứ, nhưng bà đành phải làm ngơ. Bà bước thoăn thoắt khiến chúng chẳng thể nào theo kịp, nên thỉnh thoảng quay lại ngó chừng và giục:
-Lẹ lên hai đứa. Trưa trờ, trưa trật rồi.
Út anh nói:
-Má về trước đi, tụi con từ từ về sau. Con nhớ rành con đường nầy lắm, không có lạc đâu mà má sợ !
Cái giọng nó nhuốm chút bực bội, khiến bà hơi chùn bước.
Bà nói:
-Má lo là lo cho thằng Hên thôi ! Nó còn lạ nước lạ cái, chớ con thì má hổng lo chút xíu nào hết ! Rủi nó đi lạc hay bị bắt cóc, má ăn nói làm sao với chú thím Ba đây ?
Út đành an ủi Còi:
-Thôi ngó sơ sơ rồi về. Chợ nầy nhỏ xíu, đâu có bán đồ ăn nhiều như chợ Bến Thành. Sài Gòn ban ngày chán lắm ! Tối mới đẹp và vui ác liệt hơn nhiều.
Còi hỏi :
-Tối thì có cái gì ?
Út anh giải thích, giọng sôi nổi :
-Trời chạng vạng là người ta thắp đèn điện sáng trưng. Đàn ông, đàn bà ai cũng mặc đồ đẹp đi ra đường hóng gió rồi đi coi hát. Mầy có muốn đi coi chiếu bóng hông ? Muốn thì xin chú thím Ba trước. Chiều nay ăn cơm cho sớm rồi chờ tao qua dẫn đi coi xi nê cọp. Rạp hát gần xịt đây thôi !
Còi hỏi lại:
-Coi xi nê cọp là làm sao ?
Út cười :
-Mầy quê quá ! Cái gì cũng hổng biết. Coi xi nê cọp là mình đi coi chiếu bóng mà không tốn một đồng nào.
Còi ngạc nhiên:
-Giống coi chiếu bóng thí vậy hả ?
Út giải thích :
-Coi chiếu bóng thí là ngồi ngoài sân, còn coi cọp là vô rạp hát ngồi ghế đàng hoàng. Có quạt máy quay vù vù trên đầu mát lắm, thích lắm !
Còi vặn lại:
-Người ta cho coi không hổng lấy tiền sao ?
Út cười:
-Họ bán vé chớ. Người lớn phải sắp hàng để mua. Muốn vô cửa phải trình cái vé ra họ mới cho vô rạp. Mình coi cọp là thấy cô bác nào đi một mình, thì năn nỉ họ dắt vô giùm.
Còi hỏi lại:
-Mầy có đi coi cọp lần nào chưa ?
Út gật đầu :
-Tao với con Út em lên tới Sài Gòn là ngày nào cũng đi. Nhiều người tốt lắm ! Cho theo vô rồi còn mua mía ghim, quạt giấy cho tụi tao nữa.
Còi nghe nôn nao khắp người. Sài gòn sao nhiều thứ thú vị quá ! Nó trông mau mau tới chiều để đi theo thằng Út coi xi nê cọp một lần cho biết.
Hai đứa nó vừa nói chuyện vừa đi nên tới chỗ ghe đậu hồi nào không hay. Con Út em xách cái xô đứng trên bờ đợi sẵn, vừa thấy tụi nó trờ tới là đưa cho thằng anh liền rồi nói:
-Má biểu anh ra phông tên hứng cho má một thùng nước.
Út anh đưa ổ bánh mì cho em rồi hỏi Còi:
-Mầy có muốn đi coi cái phông tên hông?
Còi lại hỏi:
-Phông tên là cái gì ?
Út anh ra vẻ bí hiểm, nghiêm mặt nói:
-Thấy thì mới biết ! Muốn coi hông?
Còi gật đầu lia lịa:
-Muốn chớ !
Nó đưa luôn ổ bánh đang cầm cho Út em rồi đi theo Út anh không chút đắn đo.
Phông tên là vòi nước công cộng được đặt trên lề con lộ nhỏ. Những bà con lao động, không có tiền đóng cho thủy cục để gắn đồng hồ, chuyền ống nước vô tận nhà, đều ra đó gánh về xài và không phải trả tiền. Điều nầy giúp hình thành một đội ngũ chuyên đi gánh nước về bán lại cho những người có nhu cầu.
Đó là một khối sắt, cao tới ngang lưng quần, bự cỡ gốc chuối đã trổ buồng. Tướng tá xem ra rất ư thô kệch, nặng nề, lại chẳng biết ăn nói, lúc nào cũng im thinh thích, vậy mà có số đào hoa ghê lắm ! Ít khi nó ở một mình. Không cô nầy thì cũng cô kia, có khi cả chục cô gái vây quanh, từ sáng cho đến chiều tối.
Cái khối sắt đen sì, vô cảm ấy, chỉ mang một món trang sức duy nhất trên người: Đó là cái vòi nước bằng đồng sáng trưng gắn chặt vào cổ, chẳng tên trộm nào có thể tháo ra được. Trên cái "mề đay" đó, có gắn một cái bánh xe nhỏ xíu để điều khiển lượng nước chảy ra, nhiều, ít tùy ý, hoặc khóa chặt cho nó ngưng lại.
Những người làm nghề gánh nước mướn, phần nhiều là các cô gái trẻ măng. Họ túc trực quanh đó từ bốn năm giờ sáng. Trừ nhân viên sở vệ sinh, những người có nhiệm vụ làm sạch, đẹp đường phố. Có lẽ đội ngũ nầy là mấy người thức khuya, dậy sớm nhất ở Sài Gòn.
Có những cô bé mới mười ba, mười bốn tuổi, cao vừa đủ để hai cái thùng thiếc đeo lủng lẳng vào cái đòn gánh trên vai không chạm đất là đã theo má, theo chị, theo đứa bạn trong xóm đi gánh nước rồi. Họ không lớn thêm được nữa, nhảy vọt qua thời con gái, làm thiếu phụ rồi già đi một cách nhanh chóng. Những mơ ước, nếu có, cũng lụi tàn ngay khi chưa le lói !
Lúc nầy là giờ cao điểm nên cả đội quân ấy đang tập trung đầy đủ quanh cái phông tên. Cô thì tay cầm đòn gánh chống xuống đất, đứng dựa vô cột đèn gần đó. Cô thì lót dép ngồi bệt xuống lề đường. Họ tranh nhau nói, tranh nhau cười, để khỏi sốt ruột khi chờ đến phiên mình.
Út em đặt cái xô tuốt sau bét.
Cô gái đứng đầu hàng là người làm của bà chủ vựa, hay lui tới ghe nên quen với má nó. Cô ta thấy nó phải đợi gần một chục người mới tới phiên, thì ngoắc lại rồi nói:
-Lại đây chị cho hứng ké nè ! Em đứng đó tới trưa cũng chưa có nước xài đâu.
Mấy người đứng sau lưng cô ta cự nự. Cô gái cười giải thích:
-Cái xô nhỏ xíu hà ! Em nầy không có nhà, ở dưới ghe, lâu lâu mới ra hứng nước một lần mà !
Nghe vậy họ không la ó nữa. Út anh mừng húm, cám ơn lia lịa. Nó đem xô lại hứng cho đầy rồi kêu thằng Còi lại phụ, mỗi đứa một tay, khệ nệ rinh thùng nước về ghe.
Thấy hai đứa đem xô nước về nhanh quá, má nó ngạc nhiên hỏi:
-Bộ bữa nay mấy người gánh nước mướn nghĩ hết rồi sao Út?
Nó cười, nói một cách đắc chí :
-Họ xếp hàng dài ngoằng ở ngoải. Con nhờ gặp chị My, chỉ nhường cho hứng trước đó chớ !
Má nó chắt lưỡi:
-Con nhỏ đó tuổi còn ít xịt mà biết điều hết sức !
Nó hỏi :
-Để con đem khoai mì cho chỉ liền nghe má ?
Má nó can:
-Nó khoái ăn khoai mì sượng, củ nhỏ xíu như ngón tay mà phải dẻo. Chờ một chút má nấu cơm xong, rảnh tay rồi lựa một mớ cho con đem đi.
Thấy hai ổ bánh mì còn nguyên cùng lon sữa chưa khui nằm gần đó, chẳng có ai đụng tới, nó nhắc:
-Ăn bánh mì được chưa má ?
Má nó nhớ ra, lật đật đáp:
-Được chớ, được chớ, ba đứa ăn với nhau đi.
Bà đưa cây dao yếm cho nó rồi biểu :
-Con đục lon sữa đi, rót ra chén rồi chấm mà ăn với nhau.
Nó lấy vạt áo chùi nấp lon cho thật sạch rồi đục hai cái lỗ dẹp lép, đối xứng nhau trên đó. Con Út em cầm cái chén ngồi sẵn một bên. Sữa trào ra, nó nghiêng lon cho sữa chỉ chảy theo một lỗ thôi. Út em đưa chén vào hứng. Được một phần ba chén thì Út anh ngưng, không rót nữa, dùng ngón tay trỏ quẹt ngang giọt sữa gọn hơ, rồi cho vô miệng mút một cách ngon lành.
Còi cầm ổ bánh mì bẻ nghe cái "rốp", xé một miếng nhúng vào sữa, đưa lên cái miệng đang há to, định cho hết vào, chợt thấy anh em thằng Út ngồi im ru, liếc nhìn má chúng.
Nó nhớ ra, vội vã mời:
-Bác Năm ăn với tụi con cho vui !
Bà lắc đầu:
-Bác hổng có đói, tụi con ăn đi !
Con Út em năn nỉ:
-Má có ăn cái gì đâu mà no, lại ăn với tụi con đi mà !
Bà đáp dứt khoát:
-Má không ưa mùi sữa, tụi con cứ ăn đi.
Con Út em phụng phịu. Nó biết bà nín nhịn, cốt ý nhường cho chúng ăn nhiều một chút, định không thèm rớ tới để làm reo, buộc má nó phải chìu. Nó thu tay nhìn bà đăm đăm, thấy bà không thèm để ý còn hai đứa kia thì ăn như càn quét, bèn sợ hết nên lật đật nhảy vào vòng chiến.
Ăn xong Còi xin bà về ghe kẽo má nó chờ.
Bà nói:
-Má con có dặn bác cho con ở bên nầy chơi. Chừng nào bán dừa xong má con kêu thì về.
Nó hỏi :
-Ghe con đâu rồi bác ?
Bà chỉ tay về phía trái nói :
-Đó ! Cái chỗ đông đông, có mấy người đang thẩy thẩy, chụp chụp mấy trái dừa đó !
Còi rủ Út anh lên mui ngồi coi.
Con Út em nán lại, lấy miếng bánh mì vét cái chén và miệng lon cho không còn tí sữa nào rồi cho vô miệng nhai một cách ngon lành. Nó xé giấy làm núc nhét vào hai cái lỗ trên miệng lon, đặt cái lon vào tô rồi rót nước vào cho kiến khỏi bò vô. Tiếp đó nó thu dọn chiến trường, hất mấy vụn bánh xuống nước, lấy nùi giẻ lau cái sàn cho thật sạch rồi lặt rau cho má nó.
Hai đứa con trai đứng trên mui nhìn dáo dác. Trên bến có đến mấy nhóm bốc dỡ hàng, nên tìm hơi khó.
Còi trông thấy trước, nó đưa tay ngoắc lia, ngoắc lịa rồi kêu to:
-Ba, má, con ở đây nè !
Vợ chồng Ba Rum đang tối tăm mặt mũi, đếm đếm, ghi ghi làm không kịp thở. Vậy mà nghe tiếng gọi đó cũng dừng tay, vẫy và cười với nó một cái.
Càng về trưa bến ghe càng tấp nập. Con kinh khi sáng tràn bờ giờ đang cạn dần. Nó càng kiệt quệ, càng buông những hơi thở nặng nề đầy mùi sình và rác đang phân hủy.
Ánh nắng gay gắt đốt phừng phừng trên đầu khiến nước bốc hơi rất nhanh và cô đặc lại. Màu xanh nguyên thủy của nó cứ đậm dần, đậm dần rồi trở thành một màu đen quánh.
Đối với đứa trẻ quen hít thở không khí trong lành của ruộng đồng, như Còi, thì điều nầy là một cực hình. Nó thấy Út anh lim dim mắt hít một hơi thật sâu rồi nói "thơm quá" thì vô cùng sửng sốt !
Nó hỏi:
-Mùi sình hôi rình nầy mà mầy nói là thơm hả?
Út anh mở mắt ra hỏi lại:
-Bộ mầy hổng nghe mùi thịt kho tiêu hả?
Bây giờ Còi mới phát hiện ra mùi thơm cùng làn khói mỏng bay ra từ cái bếp sau đuôi ghe.
Út anh nói như trách:
-Sao hai cái lỗ mũi của mầy ngu dữ vậy ? Mùi thơm không hít, đi tìm mà hít mùi hôi làm chi ?
Nó thở dài:
-Tao đâu có biết !
Rồi nói tiếp:
-Coi bộ ở Sài Gòn cũng đâu có sướng hả mậy ?
Út anh lập lại một câu đã nghe nhiều lần từ ba, má nó:
-Có người vầy người khác, có lúc nầy lúc khác.
Nó hỏi Út:
-Mầy có thích ở Sài Gòn hông ?
Út anh trả lời liền, ước muốn của nó như đã nằm sẵn trong miệng, chờ đúng lúc là nhảy vọt ra, không cần xin ý kiến của cái đầu làm chi cho lâu lắc:
-Tao thích gần chết luôn!
Rồi lý sự:
-Ai mà hổng thích !
Liếc nhìn một cái để đo lường mức độ kín miệng của Còi, nó nhỏ giọng:
-Tao nói cái chuyện nầy cho một mình mầy biết thôi nghe, đừng có nói đi nói lại cho ai, ba tao mà biết là ổng cho tao ăn cả chục đòn bánh tét...
Còi giục :
-Tao thề không nói với ai hết, mầy nói lẹ lên!
Út anh kề miệng sát tai nó, thì thào:
- Ba má tao đang để dành tiền để mua nhà ở Sài gòn. Ba tao ổng nói phải ở đây đặng gần nhà thương, chị tao mới hết bịnh. Gần trường, hai anh em tao mới được đi học.
Còi hỏi, giọng nghi ngờ:
-Nghe má tao nói là ba má mầy tính mua đất, mua ruộng trên quê mà?
Út đáp:
-Ba tao đổi ý rồi ! Ổng nói ở Sài Gòn dễ mua bán, kiếm nhiều tiền hơn mà ít cực như làm ruộng.
Còi thót ruột một cái, cái viễn cảnh xa thằng bạn duy nhất đang có nầy làm nó điếng hồn. Nó nhìn Út anh bằng tia mắt tha thiết, rồi năn nỉ:
-Đừng vậy mầy ơi! Ở Sài gòn làm sao mầy tắm sông ?
Út anh trề môi:
-Vậy là mầy hổng biết gì hết. Tắm được tuốt. Để chiều chiều nước lớn rồi mầy coi. Cả đống con nít đổ ra đây tắm đầy nghẹt. Sợ hổng có đủ chỗ cho mầy lội nữa chớ !
Còi liếc nhìn toàn bộ con kinh, mà hiện giờ, kích thước chỉ còn bằng con mương nhỏ, để thẩm định mức độ chính xác của câu nói ấy. Nó chợt phát hiện có hai người đàn ông trần trùi trụi đang ngụp lặn dưới dòng nước đen thui, đầy xác gián chết nổi lều bều: Một già, một trẻ đang trầm mình dưới dòng nước đen. Họ liên tục hụp xuống rồi ngoi lên, liên tục bỏ thứ gì vô cái thau đang trôi lòng vòng trước mặt.
Nó rú lên vì kinh ngạc:
-Hai người đó làm gì vậy ?
Út anh biết nó hỏi chuyện gì, không thèm nhìn theo ngón tay đang trỏ mà trả lời liền:
-Họ mò trùn chỉ để bán cho mấy người nuôi cá kiểng đó !
Còi bất giác rùng mình, nói :
- Sao họ không chờ nước lớn cho sạch rồi hãy làm ?
Út lắc đầu:
-Nước lớn khó moi lắm !
Cái vẻ mặt tỏ rõ sự gớm ghiếc của Còi làm Út anh nổi xung nên nói:
-Tao muốn xô mầy xuống cho uống hết ba cái nước sình nầy quá !
Còi nghe vậy thì lật đật ngồi bệt lên mui ghe, la chói lói:
-Hổng có giỡn kiểu đó nghe mậy ! Uống cái nước nầy tao mà chết chắc không đi đầu thai được quá !
Thấy nó sợ, Út anh càng khoái, nói:
-Kệ mầy !
Còi nạt:
-Kệ gì ! Tao mà bị như vậy là thành ma da, theo kéo giò cho mầy chết chung luôn !
Út cười:
-Ai biểu mầy làm bộ sợ thấy mà ghét !
Còi đáp:
-Tao sợ thiệt chớ làm bộ hồi nào ?
Nó tính cự Út anh thêm một chập, nhưng dự định đó bị cái tiếng gọi rất to của con Út em đè bẹp:
-Anh Út, má biểu đi ra quán cà phê kêu ba về ăn cơm kìa !
Út anh liền rủ Còi :
-Đi hông?
Còi ngập ngừng:
-Tao chưa xin, sợ bị ...
Út xí ngang một cái :
-Xí, má mầy có biết đâu mà rầy !
Út anh không thèm chờ coi Còi có đổi ý hay không. Nó đưa tay kéo mạnh, bắt thằng nầy phải đứng lên rồi lôi tuồn tuột theo mình.
Út anh nôn ăn cơm quá nên lôi Còi cùng chạy một cái vù đến tiệm cà phê liền. Không có ba nó ở đó, nó ngó dáo dác rồi xáp lại một người đàn ông đang ngồi uống trà. Người nầy là chủ cái ghe mà hôm trước ba chúng ngồi nhậu, cũng là chủ của mấy chén chè đậu xanh rất bùi, rất béo mà Còi ta nhớ đến còn thèm đó. Út anh hỏi:
-Chú hai có thấy ba con đâu hông?
Ông ta trả lời:
-Ổng mới đi tức thì, đâu con kiếm vòng vòng xung quanh đây coi !
Ông Năm già đang đứng trong vựa khoai nói chuyện với cả hai vợ chồng người chủ, bất thình lình nhìn ra đường, thấy hai đứa nó đi xâm xâm thì kêu to:
-Tụi bây đi đâu đó !
Út cười toét miệng nói:
-Má biểu đi kiếm ba về ăn cơm.
Ổng gật đầu:
-Ba nghe rồi ! Hai đứa về trước đi, chút nữa ba về .
Út kỳ kèo :
-Về liền nghe ba!
Để thêm sức thuyết phục, nó kéo ống quần lên vỗ vô bắp chuối một cái rồi nói tiếp:
-Hồi sáng má đi chợ mua một con cá lóc bự như vầy nè, về nấu canh chua với khóm. Má còn mua thịt heo về kho tiêu nữa, ngon dữ lắm ba ơi !
Ông quở thầm trong bụng:
-Cái bà nầy sao dám xài sang dữ !
Út thấy ba mình làm thinh thì cầm ngón tay út của ổng lên rồi lắc lắc:
-Nghe ba !
Ổng gật liền hai cái cho nó yên tâm, nói :
-Biết rồi, biết rồi ! Hết việc là về liền. Má con bây có đói bụng thì ăn trước đi !
Nó phụng phịu:
-Má hổng có chịu như vậy đâu, thế nào cũng bắt chờ ba về cho coi !
Nó nói thế vì rành cái tánh của má mình quá xá. Hể bữa nào có món ngon là bà bắt đợi cho đủ mới ăn. Bởi vậy khi rong duỗi trên sông, thiếu mặt chị nó nên bà đâu thèm nấu thứ gì ngon. Phải chờ cho đến khi về tới bến nhà rồi, bà mới chịu dùng đến cái tài nghệ thượng thừa của mình.
Thấy hai đứa nó không chịu về mà cứ đứng nhấp nha nhấp nhổm. Năm già bèn lật đật kết thúc câu chuyện đang nói dang dở với hai vợ chồng người chủ vựa:
-Để tui về hỏi lại coi bả có ưng hông cái đã, rồi cho anh chị biết sau.
Người vợ nói:
-Anh quyết định gấp gấp lên nghe. Cái giá đó rẻ lắm, chỗ đó cũng dễ làm ăn buôn bán nữa. Cái nhà đó bề ngang rộng rinh, anh ngăn đôi rồi cho mướn một bên cũng dư sức sống.
Người chồng nói tiếp:
-Tại hôm trước anh có nhờ nên tụi tui mới chỉ giùm. Đây là dịp may khó kiếm, bỏ qua là không dễ gì mà có lại lần nữa đâu ! Ông bà mình có câu "phước bất trùng lai"...
Năm già lật đật cám ơn, rồi phân bua:
-Tui biết anh chị thương hai vợ chồng tui nên mới để ý giùm. Tui mà có sẵn tiền trong tay là không có tính tới tính lui gì hết, ngặt nổi...
Người chồng gợi ý:
-Sao anh hổng coi có ông bạn nào có ý định giống mình mà rũ. Như vậy thì tiện lợi lắm ! Lúc chân ướt, chân ráo có bạn bè gần một bên cũng vững bụng hơn !
Năm già gãi đầu, chuyển đề tài :
-Còn cái vụ khoai, bộ anh chị hổng nhích cái giá lên cho tui được chút xíu nào hay sao ? Nói thiệt nghe cái giá đó bằng y với giá tui mua tận gốc.
Người vợ chắt lưỡi một cái rồi nói:
-Anh thấy khoai còn chất đống như núi trong vựa hông? Nể tình anh là mối lái quen, tụi tui mới mua giùm, ráng tới giá đó là muốn bứt gân rồi...
Người chồng tiếp lời:
-Anh mà hổng tin cứ ngồi đây mà chơi, coi tui có thâu vô của ai nữa hông.
Rồi ông chỉ tay vô một người đàn ông đang đứng lóng ngóng trước cửa:
-Hai Bường từ sáng tới giờ năn nỉ muốn đứt lưỡi mà tui đâu chịu lấy của y !
Năm già hỏi:
-Sao y hổng bán cho Năm Nhỏ, y là mối của ổng mà ?
Người vợ chép miệng:
-Họ hổng chịu "ăn" nên y mới nài ép tụi tui đó chớ.
Người chồng tiếp:
-Nói thiệt cho anh biết, giá nầy chớ thấp hơn y cũng lạy mà bán. Tụi tui làm ăn có trước có sau, khi hút anh chỉ bán cho tui thì khi dội tui cũng mua cho một mình anh thôi !
Năm già thấy họ nói chắc lọi như vậy đành chấp nhận. Ông thở dài:
-Bán giá nầy tụi tui chỉ huề vốn, còn lỗ cái công với tiền trả cho tàu dòng...
Người chồng an ủi :
-Thì có chuyến nầy chuyến khác mà anh. Mai mốt khoai hút, anh lấy lại mấy hồi !
Năm già nói, giọng xuôi xị:
-Phải chờ tới đó chớ biết làm sao bây giờ ? Anh chị muốn cho người lên hàng liền ngay lúc nầy hay là đợi tụi tui ăn cơm xong rồi mình mới cân?
Ông chủ vựa khoát tay :
- Anh cứ ăn cơm từ từ đi, ngủ một giấc rồi dậy cân cũng được mà, tụi tui đâu có gấp.
Út chỉ chờ tới lúc đó là khoanh tay chào liền không đợi ba nó biểu:
-Thưa hai bác con về ăn cơm !
Còi thấy nó làm vậy cũng bắt chước làm theo. Có điều nó mắc cỡ quá nên nói lúng búng trong miệng. Họ chỉ nghe được chữ đầu là "thưa" và chữ cuối là "cơm" thôi hà !
Cái bộ tịch "lính mới" của nó làm cả hai vợ chồng người chủ vựa để ý. Ông chồng xoa đầu nó rồi ngước mắt nhìn Năm già, bà vợ hỏi liền:
-Thằng cháu nầy cũng con anh nữa hả?
Năm già lắc đầu:
-Nó là con của Ba Rum.
Người chồng ngạc nhiên:
-Sao nghe nói vợ chồng của họ hổng có con mà?
Năm già cười:
-Thằng nhỏ nầy là con r...
Ông nói tới đó rồi ngừng ngang xương, bởi sợ cái lý lịch không hay của nó làm người ta đánh giá. Ông suy nghĩ trong nhấp nháy rồi chỉnh lại liền :
-Nó là con cầu tự nên họ giấu biệt không dám nhắc tới, nhờ người nuôi giùm. Chờ tới bây giờ qua cái "đốt" rồi mới dám đem về, làm ai cũng chưng hửng.
Bà chủ vựa cười toét miệng:
-Chắc họ cưng nó dữ lắm hả ?
Năm già chưa kịp trả lời thì ông chồng của bả đã lên tiếng rầy:
-Còn phải hỏi ?
Thằng Út nãy giờ đói bụng dữ lắm rồi nên kéo tay ba nó mạnh như kéo cái neo. Năm già lật đật bước theo, bàn tay còn lại chỉ kịp nắm chặt cái tay thằng Còi.
Con Út em chắc cũng bị kiến cắn bụng không thua thằng anh nên đứng ở cuối đường đợi sẵn. Thấy họ đi tới liền chạy lại nắm tay thằng anh rồi phụng phịu:
-Sao anh đi lâu dữ vậy ? Bộ ăn cái gì no rồi sao ?
Út gắt:
-Đói bụng gần chết ! Mầy dọn cơm chưa ?
Út em vênh mặt:
-Dọn từ nãy giờ, chờ hoài hổng thấy em mới lén má chạy ra ngóng đó chớ !
Năm già rầy hai đứa con:
-Tụi bây già khú đế rồi mà còn làm như con nít còn bú. Đói bụng có chút xíu mà la ỏm tỏi.
Ông cùng ba đứa nó chưa đặt chưn lên ghe là đã thấy vợ chồng Ba Rum và bà vợ đã ngồi trước mâm cơm đợi sẵn. Ba người cũng có vẻ sốt ruột hổng thua tụi nhỏ. Hai người phụ nữ, mỗi người cầm trên tay một cây quạt giấy, xua lia lịa mấy con ruồi đang bay lảng vảng, vo ve liền miệng xin ăn chực.
Ba Rum trợn mắt nhìn con, gằn giọng :
-Hên ! Bận sau con đi đâu phải xin ba má một tiếng nghe hông ? Má mầy hồi nãy hổng thấy mầy còn đứng trên mui ghe là sợ tới xanh mặt luôn đó !
Đây là lần đầu tiên ông rầy nó một cách nghiêm khắc như vậy, cho nên thằng Còi rất sợ. Nó trách thầm mình sao ban nãy yếu bóng vía, để cho thằng Út dụ dỗ một cách quá dễ dàng. Nó cúi gầm, mặt và tai đỏ bừng, mắc cỡ cùng mình vì bị rầy trước mặt cả bá quan văn võ.
Ba Rum chưa chịu bỏ qua, hỏi tiếp:
-Ba nói như vậy con có nghe không mà hổng ừ, hổng hử gì hết vậy?
Nó càng sợ hơn bèn liếc nhìn bà một cái như cầu viện, rồi bào chữa:
-Con không chịu đi, mà thằng Út nó cứ ép. Con nói để xin má, cái mà thằng Út nó nói "má mầy không biết đâu" rồi kéo tay con đi luôn một cái một.
Giờ thì đến lượt thằng Út bị lôi ra trước vành móng ngựa.
Má nó rầy dữ dội để chạy tội cho thằng Còi:
-Cái thằng nầy nó quen cái tật "tiền trảm hậu tấu" rồi. Nó thúc dữ lắm nên thằng Hên mới làm theo chớ thằng nhỏ hiền khô đâu có dám làm như vậy !
Thằng Út bị trút giận lên đầu thì liếc thằng Còi một cái, ra vẻ trách móc.
Năm già chấm dứt cuộc luận tội bằng câu nói:
-Thôi ăn cơm !
Quay lại nhìn hai vợ chồng Ba Rum ông mời:
-Gặp bữa mời gia đình chú ăn ba hột lấy thảo với tụi tui cho vui.
Ba Rum ghẹo :
-Ăn có ba hột thì làm sao no mà mời ? Ai mà dám ăn ?
Vợ Năm già cười, giải thích với chồng:
-Hồi sáng thím Ba có gửi tiền nhờ tui đi chợ nấu cơm giùm. Bữa cơm nầy là hai nhà hùn vô đó ! Chú thím Ba nó cứ ăn tự nhiên nghe.
Bà nghiêng cái nồi cơm cho ai cũng thấy rồi nói:
-Tui nấu một nồi cơm đầy nhóc ké, không có sợ thiếu đâu mà lo !
Năm già chữa thẹn:
-Vậy thì tui cám ơn thím Ba hổng biết để đâu cho hết ! Bữa nay mà ăn khoai mì nữa chắc ba cha con tui nuốt tới trắng con mắt cũng không xuống nổi. Chắc mắc cổ mà chết.
Nói xong ông cười hà hà, tránh không nhìn tia mắt nguýt ngang của bà.
Họ chưa kịp cầm đũa là bà lật đật bỏ giò chạy vội xuống bếp. Năm già gọi vói theo vợ :
-Sao hổng ngồi ăn luôn mà làm cái gì nữa vậy trời ?
Bà hấp tấp đáp:
-Tui đi múc thêm một tô canh nóng để ông với chú Ba ăn cho ngon miệng.
Vợ Ba Rum nói liền :
-Ông nhà tui khoái ăn cái gì cũng nguội nguội, chị đừng có lo.
Năm già phân bua :
-Cái tánh bả là vậy đó. Có bao giờ chịu ngồi ăn một lượt đâu !
Ba Rum cười vỗ vai vợ một cái, nói :
-Y chang bà nầy !
Rồi nói tiếp :
-Mấy bà cứ hết nhường tới nhịn, riết rồi làm cho tụi tui hư .
Vợ Năm già bưng tô canh lên xong lại quay xuống tiếp. Lần nầy thì Năm già chịu hết nổi, gắt to:
-Trời đất, làm cái gì nữa vậy ?
Bà cười ngỏn nghẽn:
-Rót thêm chén nước mắm không cho tụi nhỏ. Ăn đi mà, chờ tui làm chi!
Năm già không còn kiên nhẫn nữa cầm đũa lên rồi hối vợ chồng Ba Rum:
-Ăn đi chú thím ! Ăn đi tụi con !
Mấy đứa nhỏ chỉ chờ có vậy là khua đũa, khua muỗng ì xèo liền. Năm già gấp cái ruột cá, chấm vô chén nước mắm ớt, bỏ vô chén của Ba Rum rồi nói:
-Cái nầy chú khoái nhứt phải hông ?
Vợ Ba Rum cười:
-Sao anh biết hay vậy ?
Ba Rum cũng cười:
-Ai mà hổng thích ?
Năm già nói:
-Vậy chớ mấy người miệt ngoài, họ không ưa đâu nghen. Mời họ ăn cá đồng nhứt là ruột cá nữa là họ giận ghê lắm ! Nói mình cho ăn đồ bỏ, đồ dở.
Ba Rum ngạc nhiên:
-Sao lạ vậy ?
Năm già trả lời :
-Con nhỏ em bà con tui lấy chồng về xứ đó nó kể. Nó còn nói người Trung không có ăn mấy con ếch, nhái, bù tọt, rắn... như trong Nam mình đâu. Mấy con nào mà con mắt đỏ au là họ kỵ ghê lắm !
Vợ Năm già gấp miếng ức đầy vun trên cái đầu con cá lóc bỏ vô chén vợ Ba Rum rồi nói:
-Thím Ba ăn miếng nầy nè!
Vợ Ba Rum lật đật gấp ra, để qua chén nước mắm không cay, nói:
-Miếng nầy hổng có xương tụi nhỏ nó khoái lắm đó chị.
Rồi gấp lại một miếng thịt ba rọi kho. Bà vít một đũa cơm nhai kèm với miếng thịt rồi khen nức nở :
-Chị Năm kho thịt ngon quá ! Thịt mềm mà mỡ giòn, ngon ghê ! Chị bỏ món gì mà cái vị mặn ngọt của nó dịu như vậy ? Không có gắt như người ta làm .
Vợ Năm già cười:
-Tui cho một miếng khóm vô kho chung.
Vợ Ba Rum hỏi thêm:
-Còn cái nước của nó sao sền sệt được như vầy ? Đâu chị chỉ giùm coi, chớ tui kho lỏng le hà !
Vợ Năm già nói:
-Thím canh cho miếng thịt vừa săn là cho tô nước cơm mới chắt vô. Kho tới khi cạn là cái nước nó quánh lại thôi hà ! Dễ ợt chớ hổng có cái gì khó khăn hết.
Ba Rum tấm tắc:
-Cái nước canh cũng đậm đà hết sức !
Rồi bảo vợ:
-Đâu bà nếm tử coi !
Vợ Ba Rum buông đũa cầm muỗng lên, múc nửa muỗng canh trong vắt lên đưa lên miệng húp rồi nói:
-Ngon thiệt ! Có cái gì ở trỏng vậy chị Năm ?
Vợ Năm già giải thích:
-Tui có cho chút xíu bột ngọt vô .
Vợ Ba Rum buột miệng:
-Chị dám xài thứ đó sao? Tui nghe người ta nói ai mà ăn nó là mai mốt bị mục xương đó !
Ba Rum rầy vợ:
-Thôi đi bà ơi ! Tối ngày tin ba cái chuyện gì đâu không hà. Mấy nhà bào chế người ta tính hết rồi, nếu mà độc như vậy họ đâu dám làm, tội chết !
Năm già vội lên tiếng bênh vực vợ Ba Rum:
-Thím Ba nó nói đúng đó ! Thiên hạ bây giờ ẩu lắm ! Thấy cái gì có lời là làm, chớ không có sợ tội như mình nghĩ đâu. Tui nói hoài mà bả hổng chịu nghe .
Vợ Năm già phân bua :
-Ai mà biết nó độc như vậy ! Cứ tưởng ...Mình nghèo, thịt cá nào dám mua nhiều nên phải nêm bột ngọt vô cho tô canh nó có kha khá vị thịt.
Ba Rum ủng hộ:
-Tui thì nghĩ nó mà độc thì bị mấy ông lớn cấm tiệt rồi, đâu có để bán cho dân.
Rồi rầy vợ :
-Cái bà nầy, lo chuyện bao đồng không hà ! Nó mắc như vàng, mỗi lần ăn có vài ba hột, làm gì có đủ tiền mà xài nhiều cho tới mục xương. Bà hà tiện hổng dám mua thì nói đại cho rồi !
Năm già lật đật đổi đề tài :
-Chú bán dừa được giá hông vậy ?
Ba Rum gật đầu, hỏi lại:
-Còn anh ?
Năm già lắc đầu:
-Kỳ nầy phá huề, không lời đồng nào hết !
Ông nói tiếp giọng buồn xo:
-Chắc tui bán ghe, bỏ nghề quá !
Ba Rum giật mình:
-Anh định về quê làm ruộng thiệt sao ?
Năm già lắc đầu:
-Vợ chồng chín Ống Vố có xúi tui mua một căn nhà ở gần đây. Họ nói người ta đang túng tiền nên kêu giá rẻ lắm ! Cái nhà đó rộng rãi, ngăn làm hai cho mướn bớt một căn cũng được. Tui ham lắm mà hổng đủ tiền, đi vay thêm mà mua sợ đóng lời hổng nổi, lãi mẹ đẻ lãi con rồi nợ đìa ra còn khổ dữ nữa !
Ba Rum làm thinh. Năm già nói tiếp:
-Tui bây giờ cũng yếu rồi, đứng mũi chịu sào bớt vững. Ở ghe hoài con cháu không đi học được, đời nầy qua đời kia khó ngóc đầu lên cho bằng với thiên hạ.
Ba Rum hỏi:
-Cái nhà đó giá bao nhiêu ? Anh có đi coi chưa ?
Năm già đáp :
-Tui chưa đi coi, nghe nói họ đòi một trăm ngàn.
Ba Rum suy nghĩ một lát rồi nói:
-Tui cũng muốn lên bờ ở cho thằng Hên học hành tới nơi tới chốn. Để chuyến nầy tui lên rồi coi, nếu được thì hai anh em mình hùn vô mà mua.
Năm già hỏi :
-Chừng nào chú đi tiếp ?
Ba Rum đáp:
-Tui tính ở lại vài ngày để dẫn thằng Hên đi coi cho biết Sài Gòn, mà dừa đang hút, có giá quá nên tính về lẹ lẹ đặng gom thêm một chuyến. Chờ lát nữa nước lớn là lui ghe liền.
Thằng Còi, thằng Út vừa ăn vừa lóng tai nghe. Tụi nó đang định xin ba má chúng cho đi coi xi nê như dự tính, nghe nói vậy thì lo lắng nhìn nhau.
Ba Rum tánh nóng nảy lắm, muốn cái gì là phải làm liền, nên hối Năm già:
-Hay là mình ăn cơm xong rồi, tui với anh lại đó coi thử đi.
Năm già mừng rở:
-Ừ ! Được đó !
Họ ăn hết chén cơm rồi buông đũa liền. Vợ Năm già tiu nghỉu:
-Sao hai người ăn ít quá vậy ? Cơm với đồ ăn còn minh mông.
Ba Rum vỗ bụng nói:
-No lắm rồi chị Năm, tui ăn cành hông luôn chớ không có làm khách đâu, chị đừng có ngại.
Vợ Năm già lật đật buông đũa đi châm một bình trà nóng đem lên.
Hai người đàn ông tợp một hớp trà, không nuốt mà súc qua súc lại cho sạch miệng rồi mới uống. Năm già hắt chút nước trong ly xuống sông. Vói tay cầm ca nước đầy vợ đang đưa, rửa mặt phân nửa, còn phân nửa đưa cho Ba Rum. Họ tháo cái khăn đang vấn trên đầu xuống để lau mặt, vuốt sơ mái tóc rồi mới vấn khăn trở lại.
Ba Rum móc gói thuốc rê trong túi ra đưa cho Năm già rồi nói:
-Vấn một điếu đi anh Năm.
Năm già vấn thuốc xong, không để giữa hai lòng bàn tay se mà đặt xuống cái bắp vế để trần mà se cho chắc. Ba Rum cũng làm y như vậy, y cho điếu thuốc lên miệng, móc cái hột quẹt đá từ cái túi áo bên kia ra, bật lửa cho Năm già mồi trước rồi mới châm cho mình. Họ rít mấy hơi, rồi cùng nhau vừa đi vừa hút.
Vợ Ba Rum nói với vợ Năm gà:
-Nhờ chị coi giùm ghe, tui chạy ra chợ mua một mớ đồ ăn, đồ nấu bỏ theo, hết sạch rồi !
Vợ Năm già gật đầu lia lịa:
-Thím cứ đi đi, để tui ngó chừng giùm cho.
Còi lật đật buông đũa:
-Má cho con theo với !
Má nó vừa gật đầu là nó quay qua rũ thằng Út anh liền:
-Xin bác Năm đi với tao cho vui !
Út ngần ngừ. Còi nói tiếp:
-Một lát tao đi rồi đó !
Trong giọng nó có chút bịn rịn làm vợ Năm già cảm động. Bà chẳng những không chờ thằng Út mở lời để cho phép mà còn xúi nó một cách tích cực :
-Đi đi Út, đi chơi cho vui đi con!
Chợt nhìn thấy Út em đang lui cui dọn chén, bà hỏi :
-Con có muốn đi theo hai anh hông?
Út em lắc đầu:
-Hông ! Con thích ở nhà rửa chén cho má hà !
Vợ Ba rum nhìn Út em bằng tia mắt đầy trìu mến, khen rất thật lòng:
-Anh chị có phước quá ! Có đứa con gái Út coi mòi có hiếu quá !
Vợ Năm già bùi ngùi :
-Con Bé Hai cũng y như nó vậy. Tại bị cái bịnh hể té là té liền không ai đỡ kịp nên hổng dám cho đi theo. Sợ nó rớt xuống sông hồi nào hổng hay. Gửi dì Tư tụi nó giữ giùm, tuy chị em ruột mà tui cũng đâu yên cái bụng. Kỳ rồi về thấy mặt mũi sưng vù, hỏi ra mới biết đang ngồi trên sàng nước rửa chén cái té cấm đầu xuống đất.
Nói tới đó bỗng bà không cầm lòng nổi nữa, khóc rưng rức. Kéo ống tay áo chậm nước mắt rồi nói tiếp:
-Vái trời phật, ông bà độ cho hai vợ chồng tui mua được căn nhà nhỏ nhỏ ở trên đây, đặng đem nó lên trị cho dứt nọc.
Bà dừng lại lau nước mắt một lần nữa rồi nói:
-Phải hết bịnh thì mới có chồng, có con chớ bị như vậy đâu ai chịu cưới.
Vợ Ba Rum cũng chảy nước mắt ròng ròng, lau ướt cả hai vạt áo, ráng lên tiếng an ủi :
-Thôi chị đừng lo, để tui xúi ông nhà tui hùn tiền vô mua cái nhà nầy cho gia đình chị được sum họp.
Thằng Còi nghe như vậy thì mừng thiếu điều muốn nhảy dựng lên luôn!
Còi, má nó và Út anh vừa đi ra tới ngã ba thì một tiếng mời từ phía sau làm nó giựt mình:
-Đi xích lô hông thím Ba ?
Má nó liền quay ngang cái mặt, nhìn người đàn ông lớn tuổi đang ngồi trên chiếc xe có cái yên cao nhồng. Ông ta chừng như là người quen nên nhìn bà cười một cách rất thân mật.
Ổng mặc cái áo thiếu tay và cái quần lở cỡ, không ra ngắn, chẳng ra dài, ngang ngang đầu gối. Hai ống cẳng dài thòng gắn vào hai bàn chưn chè bè. Cái đầu với mái tóc cắt ngắn ngủn được để trần, chưn không mang giày dép gì ráo ! Ổng chắc cao dữ lắm nên ngồi trên yên mà chân gần chạm đất. Cỡ nó mà lên ngồi, cho dù nhón hết mức, cũng chưa chắc đụng tới cái bàn đạp nữa là !
Má nó lắc đầu đáp:
-Tui đi chợ gần đây thôi, khỏi ngồi xe.
Thấy gương mặt ông ta tiu nghỉu, bà hỏi như an ủi:
-Sáng tới giờ được mấy cuốc rồi anh Hai ?
Ông ta thở dài:
-Mới có hai, kiếm vừa đủ trả tiền mướn xe.
Má nó nghe vậy thì động lòng trắc ẩn. Sau một thoáng suy nghĩ, bà dừng lại nói:
-Anh chở tụi tui ra chợ Bến Thành đi !
Người đàn ông mừng húm, lật đật nhấn gót đạp thật mạnh cho chiếc xe trờ tới để dừng ngay trước mặt cho họ khỏi mắc công bước lùi trở lại.
Ông ta nhảy xuống đất, vói tay lấy cái khăn vắt bên hông xe, đập thật mạnh mấy cái lên tấm nệm vải khiến những hạt bụi bay lả tả trong nắng...
Ổng hạ cho càng xe xuống chạm đất để họ bước lên một cách dễ dàng, bằng cách nâng bánh xe sau chổng ngược rồi gồng mình kềm cho thật chắc.
Bà bước lên trước, ngồi sát một bên rồi tới thằng Út. Còi lên sau cùng, nó ngồi giữa họ, phải đặt cái bàn tọa lên hai cái đùi, một to, một nhỏ.
Còi đã nghe Út anh khen chợ Bến Thành rồi nên rất muốn tới một lần cho biết. Nó hiểu má mình chỉ muốn ghé chỗ mà ban sáng nó đã được má thằng Út dắt theo. Nhờ người đàn ông nầy, nó mới được đi cái chợ nỗi tiếng nhứt miền nam ấy. Nó nhìn ông ta một cách hàm ơn rồi dồn tất cả sự chú ý của mình vào chiếc xe có tên ngồ ngộ là "Xích Lô " đang ngồi.
Khác với chiếc xe lôi ở quê nó. Chiếc xe nầy xài lực đẩy mà không dùng lực kéo. Người chở ngồi tuốt đàng sau chớ không đưa cái lưng, ngoái cái mông cho khách tha hồ ngắm như xe lôi.
Ngoài cái mui được lợp bằng vải ni lông trùm trên đầu, còn có thêm một tấm vải cũng bằng ni lông giắt ngang phía trước để khách dùng che nắng che mưa. Xe chỉ có một băng ghế thôi nên không chở khách hoặc hàng hóa nhiều bằng xe lôi. Cho dù ép như gài mắm cũng chỉ được ba người là cùng.
Còi lần đầu đi xích lô nên háo hức lắm ! Thế rồi cái niềm vui ấy tàn lụi nhanh chóng.
Để tránh ánh nắng chiếu ngay vào người, má nó kéo tấm ni lông trước mặt ra che lại. Cả người nó bị bao kín chẳng ngó được gì hết ráo! Chỉ có thể soi thủng cái sàn xe để nhìn qua khe hở mà rồi chỉ thấy cái mặt đường nhựa đen thui, cùng mấy cái ổ gà nho nhỏ mà thôi!
Vì ngồi ở giữa, bị lèn chặt cứng, thở muốn hổng ra hơi nên nó ngộp gần chết ! May mà cái chợ cũng ở gần, chừng mấy phút là tới, lâu hơn nữa chắc nó không thể nào chịu nổi.
Nó so sánh cái cảm giác nầy với mấy lần đi xe lôi còn giữ lại trong ký ức rồi hãnh diện vô cùng. Nó kết luận đi xe lôi sướng gấp trăm, gấp ngàn lần ! Tha hồ nhìn lên trời và cả bốn phương tám hướng. Cho dù phải kềm chặt thùng xe vì con đường đất ở quê trải đá lởm chởm nhưng rất ư thoải mái. Dân Sài Gòn thua xa dân xóm Cầu Ván ở cái môn nầy.
Nó ước gì bác Hai, ông Bảy ở xóm mình, đem xe lôi lên đây làm ăn thì mấy chiếc xe xích lô nầy bảo đảm hổng ai thèm bước chưn lên mà đi !
Ông Hai cho xe dừng lại trước cái nhà rất rộng có rất nhiều gióng gánh cùng người bán hàng ngồi rải rác khắp bốn phía. Cái nhà nầy không gắn cửa, cũng không vừng vách. Sát trên nóc có một chiếc đồng hồ hình tròn, to bằng cái nia phơi cau. Má nó mở tấm ni lông ra rồi giục:
-Tới rồi, xuống đi con !
Nó không chờ bà nhắc thêm, lật đật phóng xuống đầu tiên rồi tới thằng Út.
Má nó xuống sau cùng. Bà không hỏi giá mà đưa luôn tờ giấy năm đồng cho ông Hai, nói:
-Giữ luôn đi anh hai, khỏi thối.
Chắc hơi nhiều nên ổng cám ơn rối rít, rồi hỏi:
-Thím có về liền hông để tui chờ ?
Má nó nói:
-Về chớ, nhưng mà anh coi có ai kêu thì chở người ta trước đi. Tui mua đồ lũ khủ chắc cũng hơi lâu. Sợ anh chờ cái mất thời gian nhiều lắm !
Nó đang ngước mặt nhìn cái đồng hồ chưa kịp coi mấy giờ thì bị nắm tay lôi đi. Bà hối:
-Lẹ đi con, phải nhanh nhanh cái chưn mới kịp.
Chợ Bến Thành lớn gấp cả một chục lần cái chợ ban sáng, gấp hai chục lần cái chợ Tân Phú dưới quê. Hàng hóa thì nhiều đến gấp trăm, gấp ngàn lần lận.
Má nó ghé qua hàng thực phẩm trước. Thấy nó nhìn đăm đăm vào cái kệ bán thịt heo quay, vẻ thèm thuồng lồ lộ trong ánh mắt. Bà liền ghé vào mua một miếng ba rọi mỡ trong veo, da đỏ tươi giòn rụm. Chờ người bán cân xong bà nhờ ông ta chặt nhỏ ra. Ông bán thịt cầm cái dao bảng to, mài sáng giới chặt đều và nhanh không gián đoạn một giây. Động tác của ông ta hết sức thuần thục, nhát nào ra nhát ấy, miếng nào ra miếng nầy, bằng chan nhau, nhìn thiệt là đã con mắt. Chỉ cần thưởng thức cái màn chặt thịt đó thôi, cũng đáng đồng tiền, bát gạo bỏ ra rồi !
Kế đó bà qua cái sạp đối diện mua nửa ký mỡ. Tới ngã ba bà rẽ qua trái để mua bánh hỏi, khóm, giá, dưa leo, rau sống... để ăn kèm.
Bà định đi thẳng, chợt nhớ hôm trước mình có hứa làm món bánh mì tôm, nên tạt vô hàng cá, lựa hơn một chục con tôm bạc thẻ to bằng ngón tay còn tươi roi rói.
Qua hàng củ quả bà mua một cái bắp cải. Người bán cho thêm mấy tép hành, dù có trồng sẵn nhưng bà cũng không từ chối. Rồi bà mua thêm cà rốt, trái su...những món mà miệt ruộng ít trồng.
Đến chỗ bán gia vị bà mua dầu phọng, tiêu, tỏi, muối, đường...Cầm gói bột ngọt một trăm gờ ram lên tay rồi ngần ngừ bỏ xuống. Khi người bán cân và tính tiền xong bà dợm bước đi bỗng đứng sựng lại, bóc cái gói bột ngọt ban nãy lên một cách dứt khoát, hỏi giá, móc tiền ra trả rồi đi tiếp.
Đến hàng quần áo may sẵn bà mua hai cái áo thun ba lỗ, một lớn, một nhỏ cho hai cha con nó.
Đôi dép của thằng Út khôn ghê, lựa đúng cái lúc đi ngang qua chỗ bán giày dép mà giẫm lên cái vỏ chuối, chủ của né té một cái đụi, quai dép đứt một cái bực thế là...
Mấy người bán hàng thấy cảnh đó, không bỏ qua cơ hội, tay ngoắc, miệng mời om sòm. Bà liền ghé vô cái sạp gần nhứt, mua cho hai đứa nó mỗi đứa một đôi làm bằng cao su, giống hệt nhau. Thằng Út xin tấm giấy nhựt trình, gói đôi dép cũ lại xách về cho ba nó lấy dây kẽm nối lại mà xài tiếp !
Trả tiền xong bà chợt nhớ đến con Út em ở nhà. Ngại nó thấy ai cũng có còn mình thì không rồi tủi, nên lựa thêm cho nó một đôi, kiểu con gái có gắn cái bông mai trên quai.
Ngang qua hàng bán thức ăn. Còi liên tưởng đến món chuối chiên mà thằng Út đòi mua ban sáng nên nắm tay bà kéo lại rồi bấm một cái.
Bà ngạc nhiên hỏi:
-Chuyện gì vậy Hên?
Nó nói:
-Con thèm ăn chuối chiên !
Bà lại lật đật kiếm tìm cái món đó, phải ngó tới ngó lui, nhìn ráo riết hồi lâu mới thấy.
Cô gái bán chuối chiên không ngồi trên sạp cao như những người kế bên. Cô ngồi chồm hổm, ghé mông tọa lên cái ghế nhỏ xíu, đóng bằng tấm ván to cỡ nửa miếng gạch tàu kê sát đất. Trước mặt cổ là một cái mâm nhôm đựng chuối đã chiên chín. Phía tay phải của cổ, một cái rề sô được đặt ngay trên nền xi măng. Phía tay trái là một cái thau trộng trộng đựng bột sền sệt, có mấy trái chuối khỏa thân đang bơi lóp ngóp trong đó.
Cái chảo to đựng dầu ngập hơn phân nữa, nằm ngửa trên rề sô đang sôi sùng sục. Mấy miếng chuối bọc bột to bằng bàn tay, vàng rộm, liên tục trồi lên, hụp xuống trong chảo. Những miếng chuối chín đều được vớt ra để vô cái máng bện bằng dây kẽm đặt trên miệng chảo. Những giọt dầu còn bám trên mình chúng lại long tong rơi trở về chảo.
Thấy họ đến, cô gái vẫn không chịu dừng cái bàn tay đang cầm đôi đũa rất dài trở qua, trở lại mấy chuối. Cổ gắp hết chuối trong chảo ra để lên cái máng dây kẽm ấy rồi gát đôi đũa lên miệng chảo. Kế tiếp cổ cầm cái vá nằm trong thau bột hớt từng trái, từng trái chuối cùng một lượng bột vừa phải cho vào chảo. Cổ lột từng trái chuối đã chín mùi ra, ép hơi dẹp rồi bỏ thêm vô thau bột. Từng ấy động tác được cổ làm trong nháy mắt !
Cổ vừa nhìn họ, vừa gật đầu chào, vừa cười, vừa quảng cáo, vừa mời:
-Mua chuối giùm con đi cô, chuối mới vớt ra còn giòn lắm !
Má nó rút một tấm lá chuối kẹp dưới đáy mâm ra rồi xé làm đôi. Bà lựa hai miếng chuối ngon nhứt đang nằm trong máng đặt lên từng tấm lá rồi đưa cho nó và thằng Út mỗi đứa một phần.
Còi vừa thổi vừa cắn từng miếng lớn. Út anh mắc cỡ nên nhơi nhơi từng chút một. Còi thúc cùi chỏ vô hông nó rồi hỏi bằng một giọng bực bội :
-Mầy hổng thèm mà hồi sáng đòi mua làm chi vậy ?
Út anh không đáp, chỉ cười trừ.
Ra đến cửa chợ, đúng cái chỗ ban nãy chiếc xích lô ghé vào, bà chưa kịp tìm đã thấy ông Hai đạp xe trờ tới. Ba người họ cũng ngồi đúng y vị trí cũ.
Lượt về nầy thằng Còi còn cảm thấy khổ gấp đôi lượt đi. Mấy cái bọc hàng được đặt hết vào trong lòng nó. Nó phải ngồi im ru như chịu hình phạt, không cục cựa được chút xíu nào !
Câu nói "tới rồi" của ông Hai y như hồi chuông cứu rỗi. Má nó vừa tháo miếng ni lông che ngang mặt xe ra là nó hai tay ôm hai túi, phóng cái ào xuống xe liền.
Trước mắt nó hiện ra một cảnh tượng hết sức ồn ào huyên náo: Hai người đàn bà đang quần thảo dữ dội ở lề đường bên kia. Họ đánh nhau trông rất ác liêt ! Mái tóc dài của cả hai đều rối tung và bị đối phương ngoái chặt giữ rịt trong tay. Họ nghiến răng lại mà ghì cho chặc, chẳng ai chịu buông ra.
Nó thấy những người xung quanh đều đứng xem mà không ai nhảy vô can thì bất mãn hỏi:
-Sao hổng ai can vậy má ?
Má nó thở dài:
-Dân Cầu Muối dữ có tiếng, nên ít ai dám đụng vào.
Bà nói tiếp:
-Đúng là người ở chợ, mạnh ai nấy sống, chuyện như vậy mà thò lõ mắt nhìn, chắc còn cầu cho họ đánh nhau cho tới chết đặng nhìn cho đã !
Ông Hai nghe má nó nói vậy, hay tự ông cảm thấy bất nhẫn, liền chạy vội qua can. Một người đàn bà, dáng vóc lực lưỡng thấy ông sắp xông vô bèn nói:
-Ông là đàn ông, coi chừng đụng tay, đụng chưn bị họ vu vạ, thôi để tui can cho.
Hai đối thủ đã mệt nhoài. Người phụ nữ ấy ung dung chen vào, tháo tay người nầy khỏi tóc người kia rồi tách họ ra một cách khá dễ dàng.
Ông Hai quay người lại, leo lên xe đạp đi. Má nó kêu lại:
-Anh hai ?
Ổng kéo cái thắng tay gắn ngay dưới yên xe, chiếc xe đứng sửng cả ba cái bánh một lượt. Ổng quay đầu lại hỏi má nó, giọng hết sức ngạc nhiên:
-Bộ đi đâu nữa hả thím ?
Má nó cười:
-Tui chưa trả tiền xe .
Ổng cãi:
-In là thím đưa rồi mà !
Má nó lắc đầu:
-Đâu mà có !
Ổng chưa chịu tin, móc túi lấy tiền trong túi ra đếm lại rồi mới chịu cầm.
Đám người đứng xem đánh lộn vẫn chưa chịu bỏ đi. Họ bàn tán râm ran, chê bai đủ thứ. Có người còn không thèm che giấu vẻ thất vọng vì cuộc chiến bị dừng lại giữa cao trào.
Đây là một trong những tính cách của một số người sinh sống ở Sài Gòn, nhất là những nơi quy tụ những anh chị giang hồ tứ chiến như bến tàu, bến xe .
Ở xóm Cầu Ván người lớn chẳng bao giờ đánh nhau. Tụi con nít tuy cự lộn hà rầm nhưng ít khi nào đấm đá. Hể tụi nó sắp xáp lá cà là có một đứa đứng chen vào giữa, dang thẳng hai cánh tay ra mà nói "xin can hai đàng hửi địch. Đàng ăn trứng vịt, đàng ăn trứng gà...", nghe tới đó là mấy đứa đứng xem cười rũ rượi. Những nụ cười đó như cây kim chích vô cái tự ái đang phình to của hai đối thủ. Tụi nó xìu xuống rồi hạ tay, lui chưn... ai về nhà nấy hoặc ở lại rồi cùng chơi tiếp.
Họ đang đứng tần ngần thì con Út em không biết từ đâu kêu to:
-Anh Út !
Út anh nhìn về hướng phát ra tiếng gọi, vừa thấy cái bàn tay vói lên ngoắc ngoắc thì chạy vội đến đưa cái miếng chuối chiên mới ăn được một phần ba ra :
-Ngon lắm, ăn đi.
Bây giờ Còi mới hiểu ra, Út anh ăn lai rai không phải vì hết thèm, chỉ vì nó rất thương con Út em nên ăn cái gì, làm cái gì cũng nghĩ đến em mình trước nhứt.
Má nó cũng tiện tay cầm đôi dép có gắn cái bông đang nằm trên cùng trao cho Út em, bà nói:
-Thím cho con nè, cầm đi !
Con bé như không tin vào mắt, vào tai minh. Nó không dám nhận mà hỏi lại:
-Thím cho con sao?
Má nó gật đầu rồi dúi vào tay Út em luôn.
Hai má con vừa bước xuống ghe là nghe ba nó cự liền:
-Bà mua cái giống gì mà tới mấy tiếng đồng hồ vậy ?
Má nó cười cầu tài:
-Dẫn thằng Hên đi chợ cho biết !
Ba nó gắt:
-Bộ hồi sáng nó đi chưa đã sao ?
Bà vẫn cười mà đáp:
-Hồi sáng nó mới biết cái chợ Cầu Muối. Cái chợ nầy toàn là mấy cái vựa bán sĩ không hà, có cái gì đâu mà coi, thấy người, xe ì xèo chớ ...
Ba nó ngắt ngang :
-Vậy bà dắt nó đi chợ gì
Bà đáp cái rụp:
-Chợ Bến Thành.
Ba nó thở ra:
-Hèn gì tui đi kiếm cùng cái chỗ nầy mà hổng thấy !
Rồi ông giải thích:
-Ông Bảy ổng hối như giặc. Cả đoàn ghe người ta chờ có một mình mình. Tui lo gần chết ! Rủi mà huốt cái chuyến nầy là phải đợi thêm một ngày nữa lận.
Bà vừa vào ghe xong, ông liền rút cây đòn dày, gát lên mui, tháo dây, nhổ sào rồi chống ra xa.
Thằng Còi đứng trên mui ghe mình . Anh em thằng Út cũng đứng trên mui ghe của chúng. Tụi nó cùng nhìn nhau cho đến khi hai chiếc ghe xa dần rồi mất hút.
Bữa cơm chiều hôm ấy vô cùng thịnh soạn. Ngoài bánh hỏi thịt quay, bánh mì tôm bọc bột chiên, bà còn nấu thêm cơm canh để cúng ghe, cúng sông nước, ông bà.
Sau mỗi chuyến hàng cho dù lời hay lỗ, dân thương hồ đều dọn một mâm cơm, bưng ra đặt trước mũi ghe để cúng. Họ tin tưởng rằng, luôn có những lực lượng thiêng liêng yểm trợ cho chuyện làm ăn của mình được xuôi chèo mát mái. Điều nầy giúp tinh thần họ thêm phấn chấn.
Cái buồn chia tay thằng Út bị mùi khói từ mấy cái nồi, cái chảo trên hai cái cà ràng, tạm thời đánh văng xa lắc. Còi ngồi sát bên bếp xem má nó làm thức ăn mà nuốt nước miếng từng chập. Thỉnh thoảng bà nhờ nó đưa cho mình chai dầu, lọ tiêu, hủ đường...Nó làm răng rắc, một cách hết sức nhiệt tình.
Để nó vui, khi nấu xong món gì bà cũng kêu lại cho nếm ké một miếng, rồi hỏi:
-Ngon hông ?
Nó gật thiếu điều gãy cổ:
-Ngon, ngon !
Bà bắt nồi canh ra khỏi bếp- đó là món nấu sau cùng- để đặt ấm nước lên, rồi sai nó lau mâm, dọn chén. Bà bới ba chén cơm sắp thành một hàng, gác ba đôi đũa ngang miệng, rồi múc thức ăn ra tô, ra dĩa. Cái mâm đường kính gần sáu, bảy tấc, vậy mà đựng không hết. Bà phải trải thêm tấm ni lông ra phía trước mâm, bày lên đó cho đủ.
Ba nó cúng trước tiên. Ông đi rửa mặt, thay đồ sạch sẽ rồi mới ra trước mũi ghe, nhận ba cây nhang do bà đốt sẵn đưa cho. Đặt ba cây nhang vào hai bàn tay chấp lại, đưa ngang trán, ông khấn rất to:
-Nam mô a di đà phật. Con tên Nguyễn văn Rum, bốn mươi bốn tuổi, quê quán ở Lấp Vò. Hôm nay kỉnh mâm cơm nầy để tạ ơn, trời phật, thần thánh, ông bà đã phù hộ cho con mua may, bán đắt. Xin thỉnh chư vị cùng về thọ hưởng, chứng nhận cho tấm lòng thành của con. Nam mô a di đà phật.
Kế tiếp là má nó. Bà cũng làm y như ba nó, trong lúc ông cúng bà lo thay đồ vuốt tóc lại cho gọn gàng. Đốt ba cây nhang khác nhưng đưa cao quá trán và khấn nhỏ hơn ông một chút. Nó ráng lắng tai nên nghe không sót một tiếng nào. Bà cũng khấn y như ông, có điều cám ơn thêm về việc vớt được nó. Bà cũng xin các vị ấy phù hộ cho nó mạnh khỏe, dễ sai, dễ dạy, biết nghe lời, biết thương hai vợ chồng bà như cha mẹ ruột. Về phần mình bà cũng hứa, coi nó như đứa con từ trong bụng mình chui ra.
Tuy trông bà cúng cho lẹ đặng được ăn, nhưng nghe vậy nó cũng rất cảm động. Nên dù bà khấn lâu gấp đôi ông nó cũng không dám trách !
Tưởng tới đó là xong, nào ngờ bà còn đốt thêm ba cây nhang đưa cho nó rồi nói:
-Con cúng đi !
Nó hỏi:
-Vái cái gì hả má ?
Má nó nói:
-Con thích cái gì thì xin, thương ai thì nhờ phù hộ giùm người đó. Con phải hứa sau nầy ráng học cho thiệt giỏi đặng đi làm việc để có tiền mà trả lễ đàng hoàng.
Còi bèn đưa ba cây nhang lên trán. Nó không dám khấn lớn sợ bà nghe, chỉ lâm râm trong miệng:
-Xin trời phật, ông bà phù hộ cho con Mén thành tiên, hay là đi đầu thai làm con nhà giàu có để nó đừng có giận con nữa. Phù hộ cho ba má ruột con mạnh khỏe, làm lúa trúng mùa. Phù hộ cho con Đèo, con Đẹt học giỏi, được ăn nhiều món ngon, có nhiều quần áo đẹp. Phù hộ cho ba má nuôi của con cũng thiệt là mạnh giỏi, bán dừa chuyến nào cũng lời thiệt là nhiều.
Rồi nó đưa nhang cho bà cắm giùm. Bà vừa làm vừa hỏi ghẹo:
-Con vái cái gì ? Nói cho má nghe có được hông?
Nó đỏ mặt vì mắc cỡ:
-Con vái cho ba má mạnh khỏe, mua may bán đắt.
Bà nhắc:
-Con có xin cho mình học giỏi để mai mốt làm quan hông ?
Nó lắc đầu, bà giục :
-Nhang còn cháy, con vô vái thêm đi. Mình phải xin cho mình trước tiên, rồi mới xin cho người khác chớ !
Nó lại chấp tay lên trán, khấn bổ xung.
Lúc ăn cơm, khi đỡ cái chén không ông đưa ra nhờ bới, bà chợt phát hiện chiếc cà rá bằng vàng y nặng một chỉ, ông đeo trên ngón tay áp út đã biến mất.
Bà hỏi thất thanh :
-Chiếc cà rá của ông đâu rồi ?
Ba nó cười:
-Tui đặt cọc nhà rồi .
Bà chới với :
-Trời đất ! Ông làm cái gì mà lẹ dữ vậy ? Mua nhà chớ đâu có phải mua tôm mua cá hay sao mà làm một cái rột vậy ? Cũng phải bàn đi tính lại chớ !
Ông gắt :
-Tui biết, tui biết...Tại anh Năm ảnh thích quá ! Tụi tui ngồi một chút thì thấy có hai vợ chồng khác tới xem nhà nữa. Coi bộ họ chịu lắm ! Anh Năm thấy họ vừa nói chuyện, vừa chỉ trỏ vừa gật đầu với nhau từng chập, ảnh đâm lo nên bức râu hoài. Thấy vậy nên tui liền đồng ý. Phải đặt cọc để họ tin chắc rằng mình đã chịu mua, không bán cho ai mà giữ lại cho mình. Nhờ vậy mà anh Năm ảnh yên tâm, để hai bàn tay ở không với cái bộ râu nằm yên. Chớ hông thôi trong bụng ảnh cứ phập phồng, lo họ bán cho người khác rồi ăn không ngon, ngủ không yên, chắc hàm râu trụi lủi.
Bà hỏi:
-Sao lúc trước ông tính mua đất gần vợ chồng Tư Chắc ?
Ông gãi đầu:
-Nói thiệt với bà, tui ưa về quê hơn làm ruộng hơn. Mua cái nhà nầy cũng giống như đi chùa làm phước.
Bà ngạc nhiên:
-Ông nói cái gì mà nghe ngộ quá vậy ?
Ông giải thích:
-Anh Năm ảnh muốn sống ở Sài gòn dữ lắm ! Để trị bịnh cho đứa con gái lớn. Mình mà hổng nhúng tay vô, một mình ảnh mua không có nổi. Mình muốn giúp ai là phải làm liền, hể tính tới tính lui là tiếc tiền rồi dội ngược. Bởi vậy tui mới phải quyết định gấp rút. Tại bà hổng có ở đó. Bà mà tận mắt chứng kiến cái cảnh ảnh mừng như chết đi sống lại, thì không có tiếc chút nào cái đồng tiền mình bỏ ra đâu !
Bà gật đầu:
-Hồi sáng tui có nói chuyện với chị Năm. Chỉ vừa nói mà vừa khóc nên tui cũng tính xúi ông hùn vô để giúp gia đình họ. Cái nhà đó ra làm sao hả ông?
Ông nhăn trán như cố gắng vẻ lại toàn bộ căn nhà trong đầu, rồi nói:
-Nó có mái tôn, tường gạch, nền tráng xi măng hẳn hoi. Bề ngang được chín bước chưn, bề dài mười chín bước. Phía trước có cái sân nhỏ nhỏ để phơi đồ.
-Ông nhắm ở đó có làm ăn buôn bán gì được hông ?
Ông gật đầu :
-Ở ngã ba gần đó có cái chợ chồm hổm. Bà với chị Năm nấu chè, nấu cháo đem ra đó bán chắc được.
Vậy là cái mơ ước ở gần Út anh của Còi đã được toại nguyện. Đáng lẽ phải thật vui nhưng không hiểu sao nó nghe lòng tràn ngập một nỗi buồn. Phải đến mấy ngày sau nó mới biết vì đâu mà mình buồn đến vậy.
Hôm ấy khi đi qua con sông rộng má nó chỉ vào cái xoáy nước xa xa mà nói:
-Đó là cái chỗ mà ba má vớt được con đó !
Nhìn theo tay bà, nó thấy cái xoáy nước đó y như họng của cái cối xay bột thiệt lớn. Ai rủi rơi vô chắc bị hút chìm sát đáy. Nó rùng mình một cái, chợt nghĩ chắc chỗ nầy đi lên nữa là dám tới xóm mình lắm. Nó bỗng nghe tim đập đùi đụi trong ngực, tay chưn bủn rủn như bị ai rút hết mấy sợi gân đem bỏ.
Kể từ lúc đó nó không dám ngồi trên mui giúp bà cầm lái mà chui xuống khoang, ngồi nép bên khung cửa sổ , đưa chỉ một con mắt ra mà nhìn chầm chập vào bờ.
Bữa cơm trưa đó ăn món gì ? Nếu có ai hỏi chắc nó cũng không biết cho dù mới vừa buông đũa.
Bà để ý thấy gương mặt nó rất không bình thường, khi thì nhớn nhác lúc lại lừ đừ. Cứ lùa cơm vô miệng mà quên gắp thức ăn thì lo ghê lắm !
Ăn cơm xong nó vâng lời bà nằm xuống, ráng nhắm khít rịt hai con mắt mà chẳng thể nào ngủ được. Lại phải choàng dậy rồi ngồi y như lúc trước.
Thế rồi cây sung, cây dừa quen thuộc bỗng từ từ hiện ra trước mặt. Nó muốn nhìn chúng rõ hơn nhưng lại thụt sâu vào khoang thêm một chút.
Giờ nầy là trận tắm buổi chiều, cái bến trước đây luôn ì xèo bởi hầu hết mấy đứa con trai trong xóm đều quy tụ lại đây để tắm, để thi nhảy từ cây sung xuống coi đứa nào làm nước văng nhiều. Vậy mà bây giờ vắng ngắt ! Trên cây sung chẳng thấy có đứa nào ngồi hay đánh đu rồi buông tay cho rơi tỏm xuống.
Căn nhà của cô Út Đẹp cũng mất tiêu mất biệt. Thay vào đó, dưới gốc sung, xuất hiện cái miễu làm bằng lá nhỏ xíu, ngó mặt ra bờ sông. Trước mặt miễu là cái lư hương có mấy cọng chưn nhang và một cây nhang đang tỏa khói .
Nếu không nhận ra căn nhà lá, cái sân trống trải không có hàng rào, cùng cái bàn thông thiên làm bằng cây gòn xanh um lá. Không nhìn thấy con xe, con pháo đang nằm nhai rơm trong chuồng bò sát bờ sông, chắc nó nghi rằng đây không phải là cái xóm Cầu Ván của mình.
Thế rồi chiếc ghe chầm chậm đi ngang qua căn nhà của nó. Bất giác nó chồm đầu ra để nhìn. Một người phụ nữ ốm nhom, đội cái khăn sọc rằn trắng đen quen thuộc. Bà đang bưng thau đồ từ bờ sông đi lên.
Miệng nó lắp bắp không ra tiếng:
-Má, má...
Người phụ nữ ấy, má ruột của nó, đặt thau đồ lên đống củi đang phơi gần đó. Bà cầm cái áo lên giũ mấy cái rồi buông một tay ra. Bà đặt bàn tay ấy lên ngang trán che mắt, nhìn đăm đăm vào chiếc ghe đang đi sát bờ. Bà đứng hầu như bất động với cái tư thế như chào, như đón. Bà cứ đứng mãi, đứng mãi cho đến khi cả cái thân hình gầy guộc ấy, hoàn toàn ra khỏi tầm nhìn của nó.
Ông trời như đang vói tay xuống để đặt một tảng đá lên ngực của thằng Còi mà dằn xuống. Thân hình nó vẫn bất động, không nhúc nhích, không xê dịch cho dù chỉ một mi li mét, cho dù nó rất muốn bay vèo qua cái khoảng cách chừng hơn chục thước đó, để ôm chầm lấy má ruột của mình !
Cái gì đã ngăn cản nó ? Chính cái mặc cảm có tội, chính cái nỗi khiếp sợ phải đối mặt với cái tai họa mà mình trót gây ra đã khiến nó ngồi như bị đóng đinh dính khắng. Để rồi kể từ lúc ấy cho đến suốt đời nó phải chịu sự dày vò. Suốt đời làm kẻ tha hương. Suốt đời làm đứa con tội lỗi tày trời...
Nó không dám cắn vỡ cái lớp vỏ đắng chát của trái măng cụt, nên chẳng bao giờ được nếm mùi vị ngon lành bên trong. Nó không có can đảm đền tội nên chẳng bao giờ có được cái cảm giác nhẹ nhỏm của sự giải thoát. Nó quá nhút nhát mà lại khao khát đi ngược lại bản chất, để rồi vô tình làm thay đổi hướng đi của dòng đời mình.
Mãi về sau, cái hình ảnh má nó lấy tay che mắt nhìn theo chiếc ghe cứ ám ảnh nó hoài. Khi thì chúng xuất hiện trong giấc mơ nhưng với một phiên bản khác. Khi thì đang đi, nó bỗng nghe văng vẳng bên tai giọng nói thân yêu ngày xưa đang gọi " Còi ơi !". Khi thì trong làn gió nó bỗng bắt gặp một mùi thơm quen thuộc...
Một lần trong lúc mơ màng nửa thức, nửa ngủ. Nó bỗng cảm nhận gương mặt má mình đang kề sát một bên, tay bưng chén thuốc y như lúc nó đang bị phỏng. Bà nói:
-Nằm sắp lại để má bôi cái nầy vô cho nó mau lên da non đi con !

Đó là chuyến đi đầu tiên và cuối cùng của thằng Còi. Sau hôm đó nó bị bệnh, được đưa vào nhà thương tỉnh, rồi chuyển xuống Sài gòn. Khi hết bịnh nó không trở lại ghe mà về ở trong ngôi nhà mới.
Trong suốt thời gian nó bịnh, má nuôi luôn túc trực và chăm sóc hết lòng. Nó xuất viện với mái tóc lưa thưa thì má nuôi nó liền xuống tóc trả lễ. Hai má con cùng mang hai cái đầu trọc lóc. Ba nuôi nó không cạo đầu nhưng cũng ăn chay theo vợ một tháng.
Bây giờ ba nó không còn đi ghe nữa. Ông sắm chiếc Hon đa rồi làm nghề chạy xe ôm. Má nó và má thằng út anh mở quán ăn tại nhà, sáng bán cơm tấm, trưa và chiều bán cơm bình dân, nhờ nấu ngon và rẻ nên khách ngày một đông.
Tình thân của hai nhà ngày một khắng khít. Ba Rum và Năm già gọi nhau bằng anh sui, nhưng hai bà vợ thì không, mấy bà mẹ đều coi con mình là số một, chẳng ai sánh bằng.
Còi biết ba má nuôi lấy sự học của nó làm niềm hãnh diện, nên báo hiếu bằng cách học thật giỏi để họ vui. Mỗi năm trên vách nhà nó lại có một cái hình chụp nó lãnh thưởng được treo lên theo thứ tự.
Lúc nó đậu tú tài đôi, má nó đi coi thầy rồi bảo:
-Cái lá số tử vi nầy nói con có tay phục dược, làm nghề khác là không có được.
Nó nghe vậy là biết ngay đó là nguyện vọng của má mình. Nó thi đậu cái ót vào trường y, lần nầy cả hai vợ chồng Ba Rum lại ăn chay một tháng.
Năm thứ nhì học y, nó gặp một cô bạn, không hiểu sao ngay cái nhìn đầu tiên nó đã có cảm tình. Dù xuất thân trong gia đình giàu có nhưng Lan, cô gái mà nó thích, trông rất bình dị, không hề kênh kiệu như mấy cô gái học trường tây khác.
Để chiếm cảm tình của nàng, Còi ta phải nổ lực gấp đôi, gấp ba ngày xưa, nó nổi tiếng khắp trường nhờ tài học và cái tính hiền lành, thích giúp đỡ người khác.
Tết năm ấy, Lan, giờ đã trở thành người yêu, rủ nó:
-Anh về quê ăn tết với gia đình em đi!
Nó hỏi:
-Quê em ở đâu?
Lan đáp:
-Tân châu!
Tim nó bỗng nhảy vọt lên đến tận cổ, nó hỏi:
-Tân châu Tây ninh hay Tân châu An giang ?
-Tân châu Ang giang!
Không chờ hỏi qua ý kiến ba má nuôi nó gật đầu cái rụp.
Bắt đầu từ hôm đó, thời gian bỗng như sợ dây thun luồn quần, mỗi ngày một dãn. Nó thức, ngủ, ăn, học, đi chơi chỉ bằng một nửa tâm trí, một nữa kia hướng về hình ảnh của người phụ nữ che mắt nhìn theo chiếc ghe ngày nào.
Mùng một tết, có một đôi thanh niên nam nữ, ghé vào căn nhà ở đầu con mương để hỏi thăm coi đây có phải là nhà của thằng Còi hay không.
Một cô gái mà thoạt nhìn là Còi nhận ra là con Đẹt, em của nó, nhìn hai đứa đăm đăm rồi hỏi:
-Bộ anh với chị đi kiếm cậu Còi để xin có con hả?
Nó ngớ ra nhưng rồi cũng gật đầu.
Cô gái chỉ tay xuống sông rồi nói:
-Nhà của Cậu Còi ở dưới bến sông chớ hổng phải ở đây.
Còi ngạc nhiên quá! Tại sao con Đẹt lại kêu nó bằng cậu, tại sao nhà nó lại ở dưới bờ sông? Nó nhìn theo hướng ngón tay trỏ của con Đẹt, nhận ra đó là một cái miễu khá to !
Nó hiểu ra liền, thì ra nó đã bị khai tử và được khoác lên người một cái áo linh thiêng. Một người phụ nữ đang ngồi cạnh miễu, mặt hướng về con sông lưng quay về hướng nó, thế nhưng có một tiếng nói trong sâu thẫm tâm hồn báo cho nó biết đó chính là má nó.
Nó chạy nhanh cũng y như ngày xưa chạy trốn, đến sau lưng bà và gọi thật to :
-MÁ !


HẾT













<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.09.2019 18:13:31 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - GIỖ CHỊ - 15.09.2019 11:02:32
GIỖ CHỊ
 
Hôm qua 29 tháng 7 âm lịch là ngày giỗ chị Ba tôi. Nó rơi vào ngày chủ nhật thế là con, dâu, cháu nội, cháu ngoại có mặt đầy đủ. Tôi " xung gà tre" nên thay vì nấu mấy món đơn giản lại trổ tài làm chả giò và cơm hấp lá sen.
Con dâu vốn quá biết cái tạng của tôi, nên can :
-Mẹ đừng làm mấy món phức tạp, để con mua mắm thái chay, mình nấu cơm canh nữa là được rồi.
Tôi trả lời, hơi phật ý :
-Mẹ làm được mà ! Dì ba con thích món chả giò lắm ! Cái món cơm hấp lá sen nầy hồi dĩ còn sống chưa có, bây giờ cúng cho dĩ dùng để biết với người ta.
Biết con dâu cản vì sợ không rảnh mà phụ và tôi làm một mình không xuễ, tôi nói:
-Con giúp mẹ bằng cách giữ hai đứa nhỏ cho nó đừng đeo mẹ là được rồi .
Ba giờ sáng tôi đi gọt củ sắn, khoai, bầm củ hành. Cho dù ăn chay kỵ hành nhưng tôi và chị Ba ngày xưa, thường tự gọi mình là dân "chay đụng". Nghĩa là đụng gì ăn nấy nên xài "tạp xị", miễn không dùng động vật là được. Sơ chế xong là đến giờ đi tập thể dục, tập vừa dứt là vọt lẹ liền. Mấy cô bạn rủ ở lại đi ăn sáng chung. Tôi ấp úng từ chối, không dám nói về gấp vì có đám giỗ bởi đâu có dám mời ai. Một cô ghẹo :
-Làm gì mà vội về dữ vậy, bộ có ông nào chờ sẵn hả ?
-Có một bầy ong trên cây liêm xẹt, chớ có ông nào đâu ! Tôi vừa cười, vừa trả lời vừa đi như chạy.
Về đến nhà không kịp thay đồ, ăn sáng mà đi cắt rau. Tôi trồng mấy bụi vấp cá, húng cây, đinh lăng...để làm rau ăn sống. Hái được một nắm đầy. Ăn rau do chính tay mình trồng, thích lắm! Rửa rau, ngâm nước muối rồi lấy xấp bánh tráng ra ngồi cuốn từng cuốn nhỏ bằng ngón tay cái. Lần nầy tôi cải tiến bằng cách hấp đậu xanh đải vỏ trộn thêm vào nhưn, cùng với củ sắn, khoai, nấm mèo để ăn cho bùi. Cuốn xong đem chiên, bánh tráng quá mỏng nên bị bể lại làm bằng bột năng nên không giòn, tôi quá đỗi thất vọng, con dâu khuyên:
-Mẹ đừng buồn, để con chạy đi mua bánh tráng chuyên dùng làm chả giò. Mình tháo cái vỏ ra cuốn lại.
Rồi sợ tôi can nên vọt xuống siêu thị luôn. Vậy là hai mẹ con lột hết mấy cái đã cuốn ra làm lại bằng bánh tráng mới. Tôi chiên thử một cuốn, thổi nguội rồi đưa con dâu:
-Đâu con ăn thử coi nó ra làm sao.
-Ngon lắm mẹ ơi!
Tôi mừng quá lấy lại tinh thần, cái bần thần trong người bay đi mất.
Đến cái món thứ hai thì nói không ngoa đâu nghe, trên cả tuyệt vời luôn. Chỉ có điều quên đi hái lá sen, vì hồi sáng né bạn chạy vội về nhà. Thế là cái món cơm hấp lá sen mà hổng có mùi lá sen gì hết! Thôi hẹn lại sang năm vậy !
Món thứ ba là bông cải xanh hấp. Một người bạn chỉ cho cái cách hấp rau, vừa vớt ra, rau còn nóng là cho vô ngăn đá trong tủ lạnh liền. Nhờ vậy mà cái dĩa rau xanh ngắt trông hết sức là hấp dẫn.
Nấu xong vừa kịp giờ cúng. Nhờ con trai đốt nhang vì khi chị tôi còn sống thương nó nhiều nhứt. Mấy đứa cháu nhỏ xíu cũng xin mỗi đứa một cây nhang xá xá, lạy lạy trông dễ thương hết sức !
Đây là cái đám giỗ tương đối thành công của tôi. Nhờ có con dâu mà tôi làm trót lọt, chớ thường khi gặp trắc trở là tôi hay bỏ ngang. Tôi tỏ lòng biết ơn con dâu bằng cách nói:
-Mẹ nấu ăn mà có con một bên là yên tâm lắm !
Con gái và cháu ngoại đi bơi về nghe mùi thức ăn là kêu lên:
-Thơm quá, đói bụng lắm rồi mẹ ơi!
-Xá bàn thờ đi mấy đứa, chờ nhang tàn rồi ăn.
Chị Ba nhìn tôi, cười rất nhẹ.


Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - SÁCH CŨ - 15.09.2019 18:11:55
SÁCH CŨ
 
Cái xóm tôi ở ngày xưa mỗi ngày có gần một chục gánh ve chai đi thu gom, đa số do phụ nữ đảm nhiệm.
Một hôm, tôi thanh trừng mớ đồ phế liệu, ngoắc một cô đi ngang (mới sáng sớm mà cái gánh đã đầy nhóc) vừa đặt gánh xuống cổ vừa hỏi:
-Bán cái gì vậy cô?
Tôi bưng ngay ra một cái thùng giấy to chứa hầm bà lằng nào là bịt nilon, tập cũ, dép nhựa hư...Trong khi chờ cổ phân loại từng thứ để cân và tính tiền, tôi bỗng chú ý đến mớ sách cũ trong gánh nên e dè hỏi cổ :
-Cô cho tui soạn coi có cuốn nào xem được hông nghe?
-Ừ cô cứ coi đi!
Tôi lấy ra từng cuốn rồi bắt gặp trong đó một quyển sách mỏng nhất và cũ nhất của một tác giả mình hằng hâm mộ. Tôi đưa cho cổ:
-Cuốn nầy bao nhiêu vậy?
Cổ nhìn quyển sách rồi chép miệng:
-Có mấy cuốn mới tinh sao cô hổng lấy? Cuốn nầy cũ thấy mồ, mỏng te, thôi cho cô đó!
Tôi cám ơn rối rít, đáp lại bằng cách gỡ ba cục nước đá bỏ vô cái lon cho cổ đem theo uống.
Thế là từ đó mỗi lần đi ngang nhà tôi cổ không rao: "Có ve chai bán hông?" mà: " Mua sách cũ hông cô?"
Tôi mê sách cũ từ lâu lắm! Từ những ngày đầu tiên mới chân ướt chân ráo đến Sài Gòn được chị chở đi mua. Thuở ấy nó được bày bán trên các vĩa hè dọc bên đường, do rẻ, hợp với túi tiền của tụi tôi. Còn sau nầy, nó cho tôi có cảm giác như được kết giao với những người đồng điệu, tuy không cùng không gian và thời gian.
Ôi! Những quyển sách cũ ấy! Có những cuốn được cất giữ rất cẩn thận từ lâu lắm, nên dù giấy đã ngã màu vẫn còn rất thẳng, không bị sờn bìa, cong mép. Những cuốn như thế, thường khi mở ra, ngay từ trang đầu, đã tìm thấy bút tích của người chủ thứ nhất qua mấy câu có kèm theo chữ ký như: " Sông Hương ngày tao ngộ!", hoặc " tặng Mỹ, đừng quên mình nhé!"...Cứ mỗi một câu lại hình thành trong đầu tôi một cốt chuyện. Tôi tưởng tượng ra tâm trạng của họ khi mua nó, tình cảm của họ dành cho người đề tặng... Có một câu mà tôi vừa đọc vừa rưng rưng nước mắt: "Con dành tiền lương đầu để mua tặng mẹ quyển sách nầy, mong rằng mẹ yêu thích nó. Con nhớ mẹ nhiều!" và tôi đã chọn nó chính vì những lời đề tặng ấy!
Có những quyển mang thân phận của nàng cung nữ chưa hề được vua sủng ái, vì tuy sách đã rất cũ, nhưng những trang giấy vẫn còn dính liền chưa được rọc !
Có những quyển sách có một cuộc đời bi đát giống như Thúy Kiều với lời đề tặng hết sức trân trọng của người mua đầu tiên, rồi bên trong bị hủy hoại bằng những nét chữ khác nhau cùng lời ghi thô thiển!
Có những quyển sách dành cho tôi một niềm ngạc nhiên thú vị vì nó hay và hợp với tôi quá, như thể tác giả viết riêng cho tôi đọc vậy. Đó là cái lần tôi gặp "Bếp lửa " của Thanh Tâm Tuyền.
Có những quyển sách với những câu ghi chú rất ngộ nghỉnh làm tôi vừa đọc vừa cười như: "xạo vừa vừa thôi cha nội" hoặc "ai biểu ngu"...
Cũng có những cuốn làm tôi tức muốn phát ách vì đang đọc tới chỗ hấp dẫn lại bị xé rách mấy trang, hoặc chen vào những lời bình vô duyên hết chỗ nói.
Cái chồng sách cũ được tôi thu thập và lưu giữ như một báu vật ấy một ngày kia cũng rời bỏ tôi. Bởi tôi cho một đứa bạn rất thân của con gái mượn, không hiểu vì lý do gì đòi hoài y không thèm trả rồi đi đâu mất biệt.
Nơi tôi ở hiện giờ thiếu vắng những gánh ve chai nên thỉnh thoảng tôi nghe lòng buồn nhớ. Tôi nhớ cô bán ve chai mà mỗi lần ghé lại hay xin một ca nước lạnh rồi lót dép ngồi bệt xuống đất vừa uống, vừa kiên nhẫn chờ tôi lựa từng cuốn vừa cầm cái nón lá quạt liên tục. Nhớ cảm giác hồi họp khi lật tìm và niềm vui khi gặp một quyển sách hay. Nhớ những câu đề tặng hoa mỹ được viết một cách nắn nót gói ghém nhiều tình ý. Nhớ cái chồng sách cũ bị mất đi... nhớ tất cả thật thắm thiết y như nhớ những người bạn cũ...
 

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - SÁCH CŨ - 16.09.2019 10:26:40
CƠM NGUỘI NỬA ĐÊM
 
Hồi chiều làm biếng nấu cơm, chỉ làm một tô mì gói bỏ bụng mà thôi nên bây giờ nghe đói ngấu.
Mở tủ lạnh nhìn vô. Tủ lạnh cuối tuần chẳng có gì ấm áp : Hai trái cam, một trái táo, hai trái chuối lá xiêm, một hộp sữa, một chai nước. Hết! Đóng tủ lại, bỗng nhớ nồi cơm nguội và trách cá kho quẹt của má, quá trời quá đất!
Má tôi có tính lo xa, sợ con bị đói, sợ không có cơm ăn trước khi chạy giặc nên ngày nào cũng nấu dư để qua đêm. Trên cái gióng treo tòn ten cạnh giàn bếp, sát bên hông cái nồi gang đựng cơm lúc nào cũng có cái ơ cá kho, với vài ba khứa cá lóc kho tiêu, cá trê kho gừng hoặc mấy con cá sặt kho xả. Phải treo cao như vậy để tránh mấy con chó theo đúng tinh thần của câu châm ngôn "chó treo, mèo đậy". Kinh nghiệm của ông bà từ xưa để lại.
Thuở ấy tôi hay thức khuya lén đọc tiểu thuyết, hoặc học bài trong những ngày thi, đêm nào cũng đều lục cơm nguội ăn trước khi xếp tập đi ngủ. Cho nên dám vỗ ngực tự hào rằng, cái thú ăn cơm nguội lúc nửa đêm, tôi là người được hưởng nhiều nhất!
Nếu thức đêm đọc truyện thì bị coi như ăn vụng. Phải đi rón rén vô bếp. Nhón chân bưng cái nồi cơm xuống. Nín thở bưng cái trách cá một cách rất thận trọng vì nó làm bằng đất, rủi sút tay làm rớt bể nồi coi như tiêu tùng. Bới cơm nhè nhẹ không dám chạm đáy nồi sợ phát ra tiếng động. Nhai nhỏ nhẻ đúng kiểu con gái nhà nề nếp, ăn xong rồi cẩn thận treo nồi lên.
Hồi đó thức ăn hay được đặt trong gióng máng trên cây tre. Gắn ngay trên đầu mấy ông táo chạy dọc theo chiều ngang, hoặc dài của gian bếp. Vì đa số nhà bếp lúc đó đều chưa có tủ gạt măng giê. Thực phẩm dự trữ, tất tần tật đều đựng trong cái rỗ, đặt vô gióng mà treo lên hết. Nhà nông ăn uống đạm bạc lắm, cũng không hay mua gia vị để dự trử như bây giờ. Ăn tới đâu mua tới đó, nên mấy bà má mỗi lần nấu ăn hay réo giựt ngược mấy đứa con:
-[Bé hai] ơi! về mua cho má năm cắc đường.
Có khi con bé đó vừa cầm hai thẻ đường về tới nhà, lại bị dúi một cái chén vô tay, đi mua tiếp năm cắc tương hột hoặc mỡ nước, bột ngọt...
Nếu vào mùa thi thượng bán nguyệt hay hạ bán nguyệt thì không cần lén lút. Đôi khi còn cố ý làm mạnh tay, nhai mạnh miệng để má nghe được. Má sẽ ra vuốt đầu tôi một cái rồi nói:
-Ráng học nghe con.
Má tôi rất trọng việc học của con, vào những ngày ôn thi má hay làm thức ăn nhiều một chút để tẩm bổ cho tôi. Hồi đó tôi trốn việc bằng cách suốt ngày cầm tập, hoặc lấy cái bìa tập cũ tròng vô cuốn tiểu thuyết rồi yên tâm ngồi đọc. Má cứ tưởng tôi đang chí thú học hành nên không hề sai làm bất cứ điều gì .
Cơm nguội nửa đêm ngày xưa sao mà ngon quá, dù đôi khi chỉ ăn kèm với một tán đường hoặc dưa mắm mà thôi ! Gặp những tối trời mưa mà có cá kho khô hoặc nước mắm kho quẹt thì thật là hết ý, cho nên khi nghe câu ca dao:
 
"Chàng ơi phụ thiếp làm chi.
Thiếp là cơm nguội phòng khi đói lòng"
 
…tôi không hề có cảm xúc bởi đối với tôi không có gì ngon bằng cơm nguội lúc nửa đêm.
Bây giờ cũng có những đêm thức khuya đói bụng, mở nồi cơm điện ra bới một chén. Nhấn bếp hâm cá kho, hoặc đập một cái hột vịt ra khuấy nước mắm, ăn một cách đường đường chính chính mà chẳng thể nào tìm lại cái cảm giác ngon miệng như ngày xưa. Hương vị ngọt ngào của miếng cơm cháy đáy nồi cứng ngắt, cùng mùi thơm đậm đà của trách cá kho thuở ấy, hình như cũng đã đi theo cùng với má luôn rồi!
 
 

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - KHAY TRẦU, ỐNG NHỔ - 16.09.2019 12:07:46
KHAY TRẦU, ỐNG NHỔ
 
Ngoại tôi có một cái khay trầu rất đẹp! Nó vừa có công dụng đựng trầu vừa mang tính cách trang trí bởi được nằm ở trên cái bàn, của bộ sa long đặt ngay chính giữa phòng khách.

Cái khay trầu ấy giống một cái hộp hình vuông. Có điều thiếu cái nắp đậy và có thêm bốn cái chân phía dưới. Cũng giống như cái tủ thờ, nó màu đen và được cẩn xa cừ bốn mặt, bên trong những lá trầu được xếp gọn gàng đặt cạnh cái hủ vôi bằng sứ trắng, với cái chìa bằng bạc có cái cán rất đẹp. Cái ống ngoáy được mạ vàng bóng lộn. Hồi đó mấy đứa cháu nhỏ tụi tôi cứ tưởng nó làm bằng vàng thật. Một cái chén bằng sứ màu trắng được ngoại dùng ngâm cau khô, dùng lâu ngày nên bên trong đã ngả màu nâu. Thuốc xỉa được đặt trong cái túi bằng vải bông do dì Bảy may cho ngoại, trên miệng có sợi dây rút lại.
Những người bạn của ngoại ai cũng ăn trầu. Tôi còn nhớ bà Năm, còn gọi là bà "Năm trầu", hay đến chơi với ngoại. Bên miệng bà lúc nào cũng độn một cục thuốc xĩa rất to làm một bên má phồng lên. Không riêng gì hai hàm răng mà cả hai ngón tay, ngón cái và ngón trỏ của bà đều bị nước “cổ trầu” đóng dính khắn. Bởi bà cứ liên tục cầm cục thuốc xỉa mà lau qua, lau lại bộ răng còn gần đủ. Mỗi lần bà đến là ngoại sai tôi bưng cái khay trầu ra mời bà, rồi bưng tiếp cái ống nhổ để bà nhả cái miếng trầu đang nhai trong miệng ra, mà têm miếng khác. Tôi thường nán lại đứng nhìn bà Năm têm trầu. Động tác của bà rất nhanh và gọn. Bà lựa hai lá trầu, một lớn, một nhỏ, lá lớn bên ngoài, nhỏ bên trong. Bà ngắt đuôi cả hai lá trầu, quét vôi lên lá nhỏ rồi đặt miếng cau vào trong và cuốn lại. Tôi còn nhớ bà hay nói với ngoại :
-Tui ưa vôi màu đỏ hơn, ăn nó đậm vị lắm !
Và ngoại tôi đều trả lời :
-Ăn vôi trắng cái màu nó đẹp hơn.
Tôi thường giữ nhiêm vụ chẻ cau, vì rất thích ăn cái mầm trắng đục giống y như hột gạo trong trái cau, nó có vị ngọt ngọt.
Ăn trầu, gọi là ăn chớ chỉ nhai rồi nhổ nước ra, bỏ xác. Bởi vậy ai ăn trầu cũng phải có cái ống nhổ để sát một bên. Cho nên cái ống nhổ và cái khay trầu, như một đôi uyên ương không thể chia lìa. Cái ống nhổ của ngoại bằng sứ, giống như cái bô nhưng cái miệng gọn hơn. Bên ngoài màu xanh lá cây nhạt có vẽ mấy cành trúc màu đậm hơn, bên trong màu trắng. Hồi đó mỗi ngày dì Bảy đều đem cái ống nhổ đi đổ rồi lấy rơm hay xơ dừa cọ rửa thật sạch bên trong cho ngoại. Khi dì Bảy đi lấy chồng, mấy đứa con ông cậu giữ nhiệm vụ nầy. Tụi nó hơi làm biếng nên mỗi lần về thăm, tôi thường lau cái khay trầu cho bóng và rửa cái ống nhổ của ngoại cho thật sạch để làm ngoại vui.
Ngoại ghiền trầu nhưng lại cấm má tôi và dì Bảy. Ngoại hay vừa têm trầu vừa nói:
- Hay hớm gì cái chuyện ăn trầu mà bắt chước, để tiền ăn bánh còn ngon hơn.
Rồi vừa cho miếng trầu vô miệng ngoại vừa dẫn một câu:
-"Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu sắm ruộng ", ăn cái nầy có bổ khỏe gì đâu?
Tôi hỏi ngoại:
-Vậy sao ngoại còn ăn tới bây giờ vậy ngoại?
Ngoại chép miệng:
-Lỡ ghiền rồi, làm sao mà bỏ!
Bởi ghiền nên ngoại trồng sẵn cả chục nọc trầu để ăn, có lần ngoại sai tôi ra hái, ngoại dặn:
-Con nhớ bỏ ba lá non bứt lá già nghe.
Tôi nghe ba chớp ba xáng thành "bỏ ba lá già bứt lá non" làm lần đó bị rầy quá mạng!
Một lần về thăm quê, đi ngang qua chỗ hàng cau ngày xưa bây giờ đã trồng thứ khác. Mấy nọc trầu chắc còn bị thế chỗ trước hơn nữa! Tôi nghe bùi ngùi hết sức! Nhớ những lá trầu hình trái tim ửng vàng trong nắng. Nhớ mấy buồng cau trĩu trái trên cành, và cái dáng anh Lơ leo thoăn thoắt...
Trên bàn thờ ngoại, cái khay trầu nằm lạc lỏng bên trong chỉ còn cái ống ngoáy, bình vôi và cái chén ngâm cau, tất cả đều bám bụi. Tôi nhớ ngoại đến trào nước mắt, bỗng buột miệng hỏi nhỏ em:
-Cái ống nhổ đâu rồi?
Nó ngạc nhiên trước cái câu hỏi chắc nghe vô duyên đối với nó nên trả lời cụt ngủn:
-Ai mà biết!


 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.09.2019 12:09:05 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - TẠP HÓA - 16.09.2019 13:02:02
TẠP HÓA
 
Xóm tôi chưa tới một trăm nóc nhà nhưng có đến ba cái tiệm tạp hóa: Một cái ở phía trên, đầu xóm, của cô bảy Sậm; Một cái của bà Dục [người Hoa] ở phía dưới, cuối xóm; Và của má tôi nằm ngay giữa xóm.

Còn nhớ hồi đó má hay than:
-Cái nghề bán tạp hóa nầy khổ như làm làm dâu trăm họ .
Má than như vậy cũng có lý do. Thứ nhất, giờ giấc không ổn định, có khi nửa đêm cả mấy má con tôi đều giật mình hoảng hốt bởi tiếng đập cửa ầm ầm cùng tiếng gọi giựt ngược:
-Cô Năm ơi! Cô Năm ơi! Bán thuốc.
Cứu bịnh như chửa lửa. Bởi vậy má tôi không kịp xỏ dép, bới đầu, cứ đi chân đất với cái mái tóc xổ tung dài phết gót mà chạy vội ra mở cửa liền. Vậy mà đôi lần còn bị rầy là để kêu hồ hơ hồ giựt mới chịu ra bán.
Thứ nhì là cái khổ phải đổi cái món hàng vừa bán. Có nhiều cô, bác mua hàng xong, xách về xong rồi mang trả lại lấy thứ khác. Chưa về tới nhà lại quày quả trở lại đổi lấy cái thứ vừa mới trả. Thế là phải cân đong lại ba hồi mười chập mới xong.
Cái thứ ba là bán chịu. Hồi đó, tết gần tới là má sai tôi cầm cuốn sổ đi từng nhà để đòi tiền. Tôi sợ cái công việc nầy hạng nhứt. Bởi mấy cô bác hay quên nên khi nghe số nợ đều cự:
-Tao đâu có mua chịu nhiều dữ vậy, coi lại coi có ghi lộn hông đó?
Má chỉ khổ có bao nhiêu đó thôi! Tôi còn khổ hơn má một bậc vì hay bị đòn bởi mê chơi bỏ tiệm.
Hồi đó mấy đứa bạn hay phân bì:
-Mầy sướng thấy bà cố! Nhà mầy bán bánh mặc sức mà ăn.
Tụi nó nói thế, bởi mê cái kệ chứa đầy nhóc bánh, được má tôi đặt ngay trước mặt tiền để dụ mấy đứa con nít. Trên những cái kệ được nối lại như những bậc thang, là mấy cái thùng thiếc có lấp kiếng một mặt. Bên trong có chứa nào là cốm, kẹo đậu phọng, kẹo bánh tráng, bánh men, bánh gai, bánh bía, bánh quai chèo, bánh tai heo, bánh in nhưn đậu xanh còn gọi là bánh in Cao Lãnh...
Tôi là chúa ăn vụng, ăn nhiều quá rồi đâm ngán hết muốn ăn nữa. Cho nên cái niềm vui đó chỉ nhất thời thôi, còn cái khổ thì kéo dài đăng đẳng. Tôi rất mê đọc sách, hễ cầm cuốn sách lên là ai hỏi mua món gì tôi cũng trả lời "hết rồi", bị mét má hoài nên cứ bị đòn liên tục!
Hồi đó mấy chị tôi khi về thăm nhà, mỗi lần thay tôi bán hàng hay ngớ người với những câu:
-Bán cho tui một viên "ỉa nâu".
Hay:
-Bán hai viên "ho xanh".
Hoặc:
-Bán một chai "ông già chống gậy"
Mấy chỉ chạy kiếm tôi tở mở để lấy đúng thuốc mà bán, bởi tôi đã quá quen với cách gọi tượng hình của những cái tên thuốc. Cô bác quê tôi không hề gọi thuốc bằng cái tên chính thức của nó mà gọi theo hình dáng, màu sắc hoặc nhãn hiệu của nó mà thôi. Thí dụ như cái ống thuốc "Bạc hà thủy" thì gọi là "hai đầu nhọn", "Lục thần thủy" thì gọi là "đầu bằng đít nhọn". Viên thuốc nhức đầu Kalmin thì gọi là "Ổ nhền nhện", thuốc trị đau nhức thì gọi là "hột dưa"...v...v...
Tôi có một con bạn tánh hết sức ma lanh tên " Út một". Một hôm nó lại tiệm tôi mua giấm và kẹo (mấy đứa con gái trong xóm tôi rất mê cái loại kẹo đủ các màu xanh, vàng, đỏ... có gắn chiếc cà rá bằng nhựa cùng màu, một đồng mười cục). Nó lựa năm cục kẹo đủ năm màu, bóc giấy bọc hai cục màu vàng và màu đỏ bỏ vô miệng. Lấy hai chiếc cà rá cùng màu đeo vô hai ngón tay, trong khi chờ tôi đong cho nó nửa lít giấm. Một lát sau dì tư Thợn, má nó, đi như chạy lại nhà mắng vốn má tôi:
-Cô Năm ơi! Cô bán cái thứ giấm gì mà lạt nhách như nước lạnh vậy!
Má tôi lật đật nếm thử rồi kêu tôi lại hỏi, tôi nói:
-Hồi nãy con đong cho nó có nửa chai mà!
Thế là nó bị phát hiện là ăn bớt tiền và đổ nước lạnh vô giấm. Tang chứng còn rành rành với cái lưỡi đỏ lòm và hai chiếc cà rá trên tay. Má nó lập tức cầm cái quai (lỗ tai) của nó, lôi xềnh xệch về nhà rồi cho nó ăn đòn nhừ tử .
Khi lớn hơn một chút má hay sai tôi đạp xe ra chợ Vàm để "bổ đồ" cho má. Tôi hay nhín tiền mua cho mình một cuốn truyện. Về gần tới nhà tôi dừng xe giắt cuốn truyện vô lưng quần để giấu má. Có mấy lần bị má phát hiện nhưng không đánh, chỉ rầy dằn mặt mà thôi! Hình như cái gì mà dính với chữ nghĩa thì má tôi nể lắm!
Bây giờ nhớ lại tôi thấy có tội với má nhiều quá! Chợt thèm được cúi cho má đánh đòn biết bao. Thèm nhìn cái cách má lắc đầu, nhún vai trề môi nhìn tôi mà nói lửng " vô phương...". Má chưa bao giờ nói trọn cái câu với hàm ý là tôi không còn thuốc chữa đó. Ngay từ thuở ấy tôi đã làm cho má thất vọng mất rồi!
 
Ước gì má vẫn còn sống, tôi sẽ...
 

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - AI CHO BÚ THÉP - 16.09.2019 13:21:46
AI CHO BÚ THÉP!
 
Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.
[ca dao]

Bạn còn nhớ cái cảm xúc lần đầu khi nghe con khóc, khi bồng con trong tay, và nhất là khi cho con bú không?

Đó là cái cảm xúc đặc biệt lắm! Nó chỉ xuất hiện một lần trong đời, và cũng khó mà hồi tưởng lại, quá thiêng liêng nên không thể miêu tả cho chính xác. Nó pha trộn nhiều thứ lắm: vui sướng, tự hào, kinh ngạc và pha lẫn một chút buồn lo trong đó!
Lần đầu môi con chạm vào bầu ngực, một cái rùng mình lan nhẹ khắp châu thân. Có một lực vô hình tác động lên các dây thần kinh cảm giác, khiến tôi tuy cười với con mà nước mắt cứ rơi hoài, và bụng nhói đau từng chập.
Khi con bắt đầu tập lật, nhìn cái thân hình bé nhỏ đang cố xoay sở. Bé đang cố gắng còn tôi phải ráng kềm chế để không đưa tay giúp bé, gồng mình nín thở như đang truyền hết nội lực qua cho bé một cách gián tiếp. Khi bé úp người xuống được thì lòng tôi cũng chấp chới nhẹ nhàng, y như cái bong bóng được cắt dây bay bổng lên trời.
Rồi bé bắt đầu biết hóng chuyện, biết đòi và hình như còn biết trêu mẹ nữa ! Có những lần bé đang bú ngon lành, bỗng nhả vú mẹ ra rồi cho tay vào nút. Tôi nhìn bé có hơi phật ý rồi rút bàn tay bé xíu ấy ra, đưa lên miệng nếm thử coi mùi vị ra sao mà bé ghiền đến chê sữa mẹ. Bỗng khám phá ra đây là trò đùa của bé, bé muốn chọc tức hoặc để trả đũa những lần mẹ bắt bé phải chờ lâu.
Nhờ có con tôi mới biết, không có thứ tình cảm nào có thể so sánh với tình mẹ. Tôi chắc chắn một điều là, không một ai, có thể thương người khác bằng con của mình. Chỉ có người mẹ mới toàn tâm toàn ý, làm mọi thứ cốt cho con vui. Mẹ bơm vào con từng giọt sữa để nuôi phần xác, tình thương để bồi dưỡng phần hồn. Mẹ vừa làm lớp vỏ bao bọc che chắn bên ngoài, vừa là cái nhân nằm bên trong con. Cái nhân đó lấp đầy, nẩy nở từng chút một, để cho con có một cơ thể vững vàng và một tâm hồn lành mạnh.
Chính quan niệm như thế, cho nên bây giờ tôi thấy hết sức là buồn !
Hôm nay tôi cùng một người bạn, đi thăm một nơi nuôi trẻ mồ côi do mấy ni cô chăm sóc. Nơi nầy ở chỗ hơi khuất nên ít người biết đến. Trẻ cũng không nhiều khoảng trên dưới hai mươi em, đa số đều còn bú.
Có một đứa bé gái khoảng chừng hai hay ba, bốn tuổi, là thành viên được nơi nầy tiếp nhận đầu tiên. Bé ốm lắm và tóc lưa thưa. Không theo chân khách như mấy bé khác mà đứng một chỗ, đưa bàn tay phải với hai ngón tay cái và trỏ vào miệng nút. Bé mặc cái áo đầm màu hồng. Cái áo đầm rất đẹp ấy càng làm tôi mũi lòng vì nó quá tương phản với gương mặt gầy héo, dính những giọt nước mắt chưa kịp khô của bé, tôi hỏi:
-Con tên gì?
Bé không trả lời và cũng không cười đáp lại nụ cười làm quen của tôi. Tôi bước đến gần, bé lui miết cho tới khi chân chạm vách tường mới dừng lại. Tôi hỏi tiếp:
-Con mấy tuổi?
Bé vẫn không trả lời. Sư cô thấy thế cầm cái tay bé đang cho vào miệng kéo ra, rồi giải thích:
-Con nhỏ nầy hơn ba tuổi rồi mà chưa biết nói.
Bé lại cho tay ngay vào miệng trở lại, tôi hỏi:
-Sao tới tuổi nầy mà nó còn bú tay hả cô?
Sư cô trả lời bằng giọng ngán ngẩm:
-Tui cũng hổng biết nữa, mấy lần thoa dầu xanh vô cho cay vậy mà nó cũng không bỏ. Con nhỏ nầy khó nuôi nhứt ở đây đó! Nó bịnh hoài hà, vô đầu tiên mà không có ai xin. Mấy đứa một lượt với nó có người rước hết rồi, chắc tại nó ốm quá nên người ta ngán.Tội nghiệp, hồi nó mới vô cũng tròn trịa lắm, chắc tại nhớ mẹ nên cứ khóc hoài và bú tay miết!
-Mẹ nó có trở lại thăm hông cô?
-Hông, gửi vô đây rồi đi luôn một nước!

Có lẽ biết tụi tôi đang nói về mình nên bé chảy nước mắt, bàn tay vẫn còn đặt trong miệng chặn ngang tiếng khóc. Trời ơi! nhìn đứa bé mới ba tuổi mà khóc không ra tiếng, chỉ chảy nước mắt thôi làm tôi đau lòng hết sức. Tôi moi trong túi xách cố tìm một món để tặng bé mà chẳng thấy thứ gì ngoài mấy cái cạt có màu xanh, màu đỏ...Tôi đưa cho bé, bé không cầm bởi đâu cần cái thứ nầy, cái bé cần, chỉ một người duy nhất có thể cho bé mà thôi! Cái người đó giờ đang ở nơi nào?

Rồi đây bé sẽ lớn lên với một khoảng trống như hố sâu thăm thẳm trong lòng. Cái khoảng trống ấy, sau nầy, biết có ai lấp đầy giùm bé hay không?
 

Thanh Vân
  • Số bài : 3866
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.05.2007
Cuộc Phiêu Lưu Bất Đắc Dĩ của Thằng Còi - 20.09.2019 02:54:25
Cuộc Phiêu Lưu Bất Đắc Dĩ của Thằng Còi
 
Đã được đem vào thư viện và đem những đoản văn đã viết tiếp nối
 
Lần sau Lâm Dư - Yên nên ngừng đem truyện dài vào trừ những đoản văn thôi nha
 
Cảm ơn tác giả và chúc tác giả luôn vui
 
Attached Image(s)
Cuộc đời một giấc mộng
Thời gian thoáng mây bay
Nguồn tâm không xao động
Khoan thai

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 20.09.2019 13:28:53

 
Bà hai “HÒ” nhỏ tuổi hơn nhưng tóc bạc và răng rụng nhiều hơn ngoại của tôi. Bà chắc cũng xài ống ngoái trước và nhiều hơn ngoại luôn, nên suốt ngày cứ thấy cặp môi bà đỏ lòm. Các ngón cái và trỏ của bà cũng đỏ bầm như bị giập, bởi bà cứ cầm cục thuốc xỉa chà hoài trên hai hàm răng thưa rỉnh rồi nhét nó vào góc miệng.
“Hò” không phải là cái tên của bà, đó là nghệ danh vì ngày xưa bà hò rất hay. Cô bác trong xóm, hể nhắc đến bà là người ta lại nhắc luôn cái chữ “HÒ” ấy. Nghe đâu ngày xưa bà rất đẹp. Tiếc rằng bà không có một người con gái nào để kế thừa cái tài, cái sắc đó.
Trong xóm tôi ai cũng gọi nhau bằng thứ, số người trùng thứ rất nhiều nên người ta phải gọi kèm theo tên( chỉ khi nào không có mặt họ). Không hiểu sao cái tên vốn đặt ra để dùng, lại bị gói kín và đem giấu biệt. Trừ cái tụi con nít con nôi ăn hôi bù xít cứ bị réo tên ra rả, chớ người lớn thì chẳng ai dám gọi đích danh. Nếu có cũng chỉ trong những cuộc khẩu chiến mà thôi ! Điều nầy họa quoằn lắm mới xảy ra. Mấy đứa bạn của tôi, có đứa còn chẳng biết tên ông bà của nó.
Thứ thì chỉ có từ hai đến mười là hết. Thời ấy không có dụng cụ “thắng đẻ” như bây giờ nên con nít cứ chui ra thoải mái. Các bậc cha mẹ cho dù không chắc là sau đứa thứ mười có phải là cái đứa cuối cùng hay không, cũng cứ gọi đại nó là út. Nhiều người nguyên liệu còn dồi dào nên ráng nặn thêm một vài sản phẩm nữa, lúc đó sẽ có Út Thêm, Út Nữa, Út Dứt, Út Mót, Út Nhứt, Út Nhì…
Thứ ít quá nên nhiều người phải xài chung. Để phân biệt, bất đắc dĩ người ta phải trưng dụng cái tên. Muốn tránh xích mích nên hể ai có một cái nghề, cái tướng, cái tật, cái tánh hoặc cái tài đặc biệt thì mấy thứ ấy được xài thế liền. Cho nên mới có Năm Câu, Baỷ Cao, Chín Móm, Tư Liệu, Tám Kẹo, Ba Đờn…Bà Hai nhờ hò hay quá nên cái chữ “Hò” chiếm hết chỗ, chẳng ai còn nhớ tên bà nữa, hổng chừng cả bà cũng quên béng nó luôn.
Tôi thường tiếc cho mình ra đời sao quá muộn. Không được sống vào cái thời mà những tiếng hò trên đồng, trên sông chan chứa như khí trời.
Bây giờ những cảnh miệng hò, tay gặt chỉ thấy được trong những phim tài liệu. Chẳng phải không còn ai ưa chuộng cái món ăn tinh thần đó! Có điều sức người phải chào thua mấy phương tiện nghe nhìn hiện đại. Dù vào thời đó pin con ó khá mắc, nhưng bà con nào ra đồng cũng kè kè cái ra dô ấp chiến lược bên mình. Nó thuộc hạng con cưng, được cho “ăn” đầy đủ để có sức mà rót đầy lỗ tai của mọi người, ở mọi nơi, vào mọi lúc, chỉ đến khi chủ đi ngủ mới được ngưng.
Tôi còn nghiệm ra một điều, những việc hay, việc tốt bà con ta chỉ dám làm lén thôi, ít dám đường đường chính chính, chắc sợ bị coi là ham nghe khen. Nhứt là mấy cái chuyện hát hò lại càng mắc cỡ dữ dội.
Bà Hai không còn ra đồng, cũng không có cháu nhỏ nên chẳng còn cơ hội biểu diễn, tài năng đành mai một. Nhàn cư vi bất thiện, bà sợ ở không, bị rủ đánh tứ sắc riết đâm ghiền, nên làm mấy món ăn vặt để bán lai rai. Khách hàng của bà chủ yếu là tụi tôi, cái đám con nít lúc nào cũng thiếu ăn, lúc nào cũng thèm đủ thứ.
Bà làm bánh gì cũng ngon, đặc biệt nhứt là món cơm rượu. Cơm rượu của bà rất thơm, rất dịu, ngọt lừ cho dù chẳng bỏ một hột đường nào. Điều nầy tôi dám khẳng định vì vào thời buổi đó đường cát mắc mỏ lắm. Chỉ nhà giàu mới dám xài.
Hôm ấy tôi ngồi xuống cái ghế tre đặt trước sạp cơm rượu của bà để mua một chén. Bà đang bán ế nên thấy tôi mua là mừng lắm.
Nhìn bà lấy cái muỗng nhỏ xíu, cạn xợt xúc thật nhẹ tay từng viên cơm rượu tròn vo, cho vào cái chén cũng nhỏ, tôi chợt nảy ra một ý định nên hỏi:
-Bà Hai ơi, hồi xưa bà hò hay lắm hả?
Bà nhìn tôi, mắt le lói sáng, cười rồi trả lời:
-Ai nói mà con biết?
-Má con. Bà hò cho con nghe một câu thôi có được hông?
Thấy bà chần chừ tôi nói:
-Con thích nghe hò lắm! Ngoại con nói ngày xưa người ta vừa làm công việc vừa ráp nhau hò thiệt là vui. Bây giờ hổng còn nữa con thấy tiếc quá!
Bà nói bằng một giọng bùi ngùi :
-Thời nay thiên hạ thích nghe ca vọng cổ trong “la dô” hơn, có hò cũng hổng ai nghe. Để bà dạy cho con mấy câu.
Bà đưa chén cơm rượu cho tôi, nhổ miếng bả trầu trong miệng ra, đi lại cái lu trước hàng ba múc một gáo nước đầy xúc miệng. Kéo chéo khăn vắt trên vai lau cho khô, rồi không ngồi xuống mà đứng hò:

-“Hò hớ ớ ơ …
Hò chơi cho vui ruộng vui đồng
Nào ai cướp vợ giựt chồng của ai”

Có lẽ mỗi lần hò đối, trước tiên người ta phải nêu rõ mục đích. Ngày xưa chắc bà hay bắt đầu bằng câu nầy, nên bây giờ quen miệng. Làm nghề nông, mỗi lần tới mùa, tới vụ thì cả vợ chồng con cái đều kéo rốc ra đồng cùng làm. Ngay mấy đứa đang đi học cũng phải nghĩ ngang để phụ hái đậu, bẻ bắp, đào khoai…Chồng người nầy hò, vợ người khác đối, cho nên phải nói trước để tránh chuyện ghen tuông. Như để khẳng định điều đó bà lại hò tiếp, lần nầy mục đích lại khác:

-“Hò hớ ớ ơ…
Hò đây cho nên cuộc vuông tròn
Trai son hò với gái son
Ai mà đủ gióng, đủ đòn
Đủ chồng, đủ vợ, đủ con thì đừng hò…”

Tôi đâu ngờ đến giờ bà Hai vẫn giữ được một chất giọng rất truyền cảm đến vậy! Hai bàn tay tôi, một bên bưng chén, một bên cầm cái muỗng bên trong có một viên cơm rượu, đưa gần tới miệng rồi ngưng ngang ở đó. Gương mặt đầy vẻ ngưỡng mộ của tôi khiến bà cười một cách hài lòng. Bà còn định hò tiếp thì dì Sáu La ghé vô (dì nầy cũng hổng phải tên La, tại dỉ nói lớn và nhiều nên bà con đặt cho dỉ biệt danh “Ống tà la”, tức là cái loa, gọi là La cho gọn), dì nói:
-Trời phật ơi! Dì Hai hò hay quá xá, vậy mà lâu nay im ru uổng quá!
Bà Hai cười lỏn lẻn, mắc cỡ như con gái. Dì Sáu hình như là mối ruột của bà Hai, nên khi dì xề xuống, bà Hai không hỏi gì hết mà múc cho dỉ một chén cơm rượu nhiều gấp đôi tôi. Tôi muốn nghe bà Hai hò thêm nên xúi dì Sáu:
-Dì Sáu đòi bà Hai hò nữa đi !
Dì Sáu chắc cũng thích nghe hò nên không chờ tôi nhắc đến hai lần, dì giục:
-Làm thêm vài câu cho hai dì cháu tui nghe đã cái lỗ nhĩ đi dì.
Bà Hai lắc đầu:
-Thôi già cả rồi, hò mấy câu huê tình người ta cười chết!
Dì Sáu năn nỉ:
-Thì dì lựa mấy câu khác mà hò, thiếu gì !
Bà Hai có lẽ cũng muốn ôn lại thời kỳ oanh liệt của mình, nên tằng hắng một cái để lấy giọng. Lần nầy bà không đứng lên, ngồi mà hò tiếp:

-“Hò… hớ… ớ… ơ…
Cái áo gấm đó mặc
Đây mua, đây cắt, hai vạt bằng chang
Một bên thêu phụng, một bên thêu loan
Cái cổ viền vàng đơm hàng nút đỏ
Trách bạc tình lang vắt chanh bỏ vỏ
Giận sự đời… chớ giận sự đời …vợ nhỏ cưng hơn”

Thấy cái mặt của dì Sáu và tôi ngớ ra thán phục, bà hò tiếp:

-“Hò…hớ…ớ…ơ…
Cô kia bới tóc đuôi gà
Nắm tay cô laị hỏi nhà cô đâu
Nhà tui ở dưới đám dâu
Ở trên đám đậu…Ờ …ở trên đám đậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ…chớ đám cà trổ bông…”

-“ Hò…hớ…ớ…ơ…Tay bưng quả nếp vô chùa
thắp nhang, lạy phật xin bùa cho anh đeo.

Bà càng hò càng hay. Đang có trớn bỗng ông Tư Sói chạy chiếc xe đạp ngang qua. Chắc ổng nghe được câu hò cuối nên dừng lại nói:
-Cô nhớ xin thêm một sợi dây bùa cho tui đeo nghe cô Hai !
Bà Hai cười, mắng giỡn:
-Cái anh mắc dịch nầy. Có hai bà vợ dữ như chằng tinh gấu ngựa mà còn hổng sợ. Gìa cúp bình thiếc còn bày đặt, không sợ thiên hạ chê cười. Bộ hổng nghe người ta nói:“Gìa thì sắm giỏ sắm khăn, già đâu lại sắm linh lăng, đồi mồi”.
Hai câu đó bà nửa hò nửa đọc, âm điệu nghe cũng du dương lắm !
Ông Tư đã không giận mà còn cười khà khà, ông trả lời:
-Cô hai ơi! “Tui đây già mặt già mày. Chưn tay già hết chớ dạ dày còn non”.
Bà Hai chưa kịp lên tiếng thì dì Sáu La đã ra miệng:
-Bộ cậu Tư hổng biết là “Một vợ thì nằm vườn Lèo, hai vợ thì nằm chèo queo, ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm” hay sao, mà còn đòi rinh thêm dì Hai cho khổ vậy ?
Ông Tư liệu sức mình không đương cự nổi, bởi “hai chọi một, không chột cũng què” nên nhấn bàn đạp chạy tuốt. Dì Sáu cũng vét sạch chén cơm rượu, móc tờ giấy một đồng trả cho bà Hai rồi đi. Tôi sờ túi, năm cắc bạc mất tiêu, Hết hồn nói lấp bấp một mình:
-Năm cắc má mới cho đâu mất biệt rồi ? Bây giờ tính làm sao đây trời ?
Bà Hai hỏi:
-Bây trả tiền trước rồi còn năm cắc nào nữa?
Tôi mừng hết lớn, chợt nhớ ra tụi tôi hay bị đòi coi tiền rồi mới bán. Chắc mấy tiền bối con nít ngày xưa hay ăn liều, ăn mạng, nên cái vụ trả tiền trước đã thành truyền thống.
Hôm nay tôi bị tiếng hò của bà Hai khuấy đảo tâm hồn nên quên đi mọi sự, thấy dì Sáu móc tiền ra trả bèn bắt chước. Cũng may được bà Hai nhắc, bèn thở một hơi nhẹ nhỏm. Niềm sảng khoái do mấy câu hò của bà Hai đem đến vừa chạy đi, đã chạy ào về còn nhanh và mạnh hơn lúc trước. Tôi vừa đi vừa nhảy tưng tưng, chân nhẹ bổng còn cái hồn bay bổng.
L D Y
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2019 14:09:52 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 20.09.2019 13:35:15
CÂY CẦU VÁN

Từ nhà đến trường, tôi phải đi qua một cây cầu ván.
Cây cầu nầy đã có từ lâu lắm! Lớn tuổi hơn tôi là cái chắc, vì khi tôi còn chưa mọc đủ răng thì răng của nó đã rụng nhiều. Mỗi ngày không biết tôi giẫm ngang mình nó bao nhiêu lượt. Ngoài bốn lượt đi học, đi về- hồi đó tụi tôi học hai buổi- còn vô số lần khác như đi mua nước đá cho má ở cái tiệm cà phê tại cây số 16, hoặc lên nhà con Ngỡ, con Bông…
Nhưng nhiều nhất là trong các trò chơi như sắp hàng chạy đua mà đích đến là đầu cầu bên kia, hoặc thách nhau đi trên con lươn sát mép cầu -trò chơi nầy đã có lần làm tôi bị một trận đòn lịch sữ- Con Xôi, con cậu hai Nếp thách tôi dám đi qua đi lại trên con lươn hai bận, thì sẽ chịu thua một cắc bạc. Nó đâu có biết là tôi thích cảm giác mạnh. Khi tôi đang biểu diễn thì mấy đứa khác chạy về cho má tôi hay. Má tức tốc có mặt tại hiện trường. Tôi bị xách lỗ tai lôi về, chẳng những bị “xù” tiền chung độ mà còn ăn đòn te tua vì chơi dại. Giờ nhắc tới còn giận.
Cây cầu ván nầy cách nhà tôi chừng vài chục mét. Nó được làm toàn bộ bằng gỗ. Chân là những thân cây rất to, mặt lót những tấm ván dầy cui, rộng chừng hai tấc rưởi và dài bằng chiều ngang của cây cầu khoảng ba, bốn mét gì đó. Nó là nơi qui tụ của mấy đứa con trai xóm trên, xóm dưới. Chúng chơi đánh trận, bắn nhau bằng mấy cây súng làm từ những cọng lá chuối để chiếm cầu .
Vào những buổi chiều trên cầu vui lắm ! Lúc đó mấy đứa con nít nhảy cầu tắm sông, mấy anh thanh niên, mấy chú sồn sồn, mấy ông lớn tuổi ngồi lên mấy con lươn hóng gió. Thỉnh thoảng một chiếc xe “Phu lích” trống hoặc chở chừng đôi ba người khách chạy qua ( từ ba giờ chiều trở lên là xe ế khách), bánh sau bị mắc kẹt ở cái khe rộng do bị mất một tấm ván, thế là họ hè nhau đẩy phụ.
Cái cảnh đẩy xe nầy ngày nào cũng có, nhất là vào mùa mưa. Khi đó nước chảy ào ào, khoét những cái ổ gà thành ổ chó, rồi ổ voi. Những chiếc xe đò hay bị kẹt cứng vì một cái bánh xe nằm gọn hơ trong vũng sình. Cảnh tượng lúc ấy rất gay cấn, chiếc xe nghiêng hẳn về một bên, mọi người trên xe lục đục kéo xuống rồi hè nhau đẩy. Có lần một chiếc xe đám cưới đi ngang nhà tôi bị mắc lầy. Bà con ăn mặc lịch sự đều xăn quần lột dép mà đẩy xe, xong rồi xuống bến rửa tay chân, lên xe đi tiếp.
Vào mùa mưa, nước từ khắp nơi dồn về mương, chảy rất xiết. Lúc ấy chân cầu run bần bật như bà già đi âm phủ vậy. Khi nước lên lé đé mặt cầu, mấy chiếc xuồng không trôi lọt qua, người chủ xuồng hú lên một tiếng :" Bà con ơi ! giúp một tay khiêng cái xuồng qua cầu giùm". Thế là mọi người túa lại, chia đều ra đứng kín hai bên, nâng chiếc xuồng lên ngang vai với sự reo hò tở mở của bầy con nít.
Những chiếc xe đò đều bắt khách xuống hết đi bộ qua cầu, chiếc xe trống lổng nhích từng chút một. Nó bò qua cầu trong sự hồi họp của hết thảy mọi người.
Nói gì mấy chiếc xe lớn, ngay như mấy đứa nhóc tụi tôi, đạp mấy chiếc xe nhỏ xíu, hai cái bánh chỉ bự bằng cái sàng rê gạo, mà cũng được người lớn dặn tới dặn lui là phải xuống cầu dắt xe đi bộ. Mấy cái tai nạn xảy ra trên những cây cầu ở tận đẩu, tận đâu được đem về tô vẽ rồi phóng đại lên gấp mấy lần làm tụi tôi khiếp vía.
Vào những năm lũ lớn, cây cầu bị nhấn chìm chẳng thấy mặt mày, lúc nầy việc đi lại trên đường rất hạn chế. Mấy chiếc “tắc ráng” thay thế xe đò. Xuồng cui, xuồng ba lá thay thế xe lôi, xe đạp. Cái đám nhóc bị cấm đi qua cầu, tuy nhiên lâu lâu cũng lén rủ nhau đi gặp bạn. Tụi tôi nắm tay nhau mò mẫm, đôi khi một đứa xui xẽo chân lọt xuống kẹt ván thế là cùng la làng chói lói, phải xúm nhau kéo cái cẳng nó lên giùm.
Có một lần cây cầu ván ấy đã mang lại một niềm tự hào vô cùng to lớn cho tụi tôi, khi một chiếc “hủ lô” làm sập cầu và rơi tỏm xuống mương.
Cái tai nạn ấy làm mặt mày đứa nào, đứa nấy đều sáng rở. Cả mấy năm sau chúng tôi vẫn còn nhắc tới nó với một niềm hãnh diện vô biên.
Khi những đứa con nít ở xóm khác đem mấy cái sự kiện dữ dội ở xóm nó ra khoe như: “Xóm tao có một con bò cái sanh tới hai con bò con”, " xóm tao có cái chú đó đi lính về còn có một cái giò", hoặc là “xóm tao có anh…học giỏi lắm, mới đậu tú tài” ...Thì tụi tôi chặn họng nó liền, bằng cách đứng chống nạnh, chỉ ngón trỏ về phía cây cầu, chĩa cái càm thẳng ra phía trước mà thách:
-Xóm tao có chiếc xe hủ lô lọt xuống cầu, xóm mầy có hông?
Cái thành tích chói lọi ấy làm cả bọn chúng đều bí xị.Từ đó hết dám ho he.
Và khi đưa con trai út về làng “vinh quy bái tổ”. Lúc hai mẹ con đi ngang qua cây cầu ván ấy, tôi bỗng lấy lại cái giọng điệu con nít ngày xưa mà khoe: ”Hồi mẹ còn nhỏ xíu, đã có một chiếc xe hủ lô lọt xuống cây cầu nầy”.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2019 14:09:05 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 20.09.2019 13:48:40
TRÔI TRONG LÒNG CHIỀU

-Âù ơ ! Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người áo vá, khăn điều vắt vai…
Tiếng ru con của người chị dâu lớn vọng xuống tận bờ sông nơi Nở đang ngồi câu cá.
Tiếng ru dìu dặt khuấy động cả buổi chiều, cả con sông và làm Nở bỗng buồn rũ rượi. Con cá đang rỉa mồi có lẽ cùng chung tâm trạng, cái phao đang rung rinh vừa chìm xuống chợt nổi phều lên mặt nước rồi không thèm nhúc nhích. Con cá đã bỏ đi rồi…
Hôm nay là ngày rầm nên nước lớn đầy mà. Mấy bụi lục bình bị mắc kẹt trên bờ được dòng nước giải thoát mừng mừng, tủi tủi, bịn rịn chia tay với cây sung mọc sát mé nước trước khi theo bè bạn xuôi dòng. Mấy nhánh sung quơ tay, từng chiếc lá vẫy chào từ biệt. Nở bỗng ước phải chi mình được biến thành cái đám lục bình, trôi đi khắp mọi nơi và biết đâu…
Nỗi nhớ mang hình ảnh một gương mặt lại bắt đầu hình thành rõ nét… Nở tính nhẩm trong bụng phải gần ba tháng nữa mới đến mùa gặt, cái ghe chở những người cắt lúa thuê ấy mới ghé lại và cắm sào trên bến sông nầy.
Mỗi năm một lần, người con trai đó theo đoàn người gặt thuê lại ghé qua xóm Nở. Mấy năm trước Nở nào có để ý đến y, mãi cho đến cái ngày thi cắt lúa của mùa gặt sau cùng.
Trước mắt Nở hiện lên cái cảnh gặt thi hôm ấy. Bốn người con trai đứng thành một hàng ngang, mỗi người cầm một cái liềm sáng giới trong tay. Tía Nở hai tay cầm sẵn hai cái nấp vung nồi, chờ mọi người ổn định rồi mới ra hiệu bắt đầu bằng cách chập mạnh chúng lại để phát ra một tiếng chát tai. Người dự thi gồm anh Ba của Nở, một người nữa đại diện cho trai làng và hai người gặt thuê trong đó có y. Nghe hiệu lệnh họ liền khom người xuống rồi vung liềm lia lịa. Nở hồi họp theo dõi, miệng niệm Phật lâm râm cầu cho anh mình về nhất.
Tiếng hô hào của những người đứng xem liên tục cất lên, họ gọi tên người mình thích từng chập để khích lệ. Anh Ba của Nở được cổ vũ nhiều nhất bởi nổi tiếng là người cắt lúa giỏi nhất xóm. Những người đang làm đồng quanh đấy, đều dừng tay rồi chạy đến xem đông nghẹt. Chị dâu mới, người vợ vừa cưới hôm đầu mùa lúa của anh Ba cũng có mặt. Chị không nói tiếng nào, cầm tay Nở rồi cứ bóp chặt dần theo mức độ gay cấn của cuộc đua.
Hôm ấy anh Ba về nhất, y bám theo bén gót nhưng cái sợi dây giăng ngang làm đích đã bị anh Ba cắt trước rồi. Hai người còn lại bị bỏ khá xa. Bà con lối xóm nở mặt nở mày với mấy người thợ gặt xứ khác nên nói cười hớn hở. Tía của Nở cười to hơn hết thảy, đang cao hứng nên ông mời những người cấy thuê, chiều hôm ấy ghé nhà ăn cơm. Cả nhóm họ đều hớn hở nhận lời.
Bữa cơm hôm ấy rất vui ! Tía Nở ngồi cạnh y và cứ hỏi thăm không ngớt. Lúc bưng tô canh bầu ra Nở nghe y trả lời: “ cháu mồ côi, ở với ông bà ngoại từ nhỏ”. Khi không mà Nở nghe nhói trong lòng một cái. Rồi để ý tới y, rồi phát hiện cái áo bà ba y mặc có hai miếng vá trên cả hai vai. Lần kế bưng cái dĩa thịt gà kho gừng ra, Nở cố tình đặt ngay trước mặt y. Cái chén cơm đơm cho y Nở dụng ý ém cho thật chặt, thật đầy
Chắc y đã đoán ra cái tình ý của Nở dành cho, nên mấy ngày sau trên đường ra đồng hoặc về nhà họ hay chạm mặt. Một lần y chặn Nở lại hỏi: “ Bác Tư hết bịnh chưa cô Út?”. Nở mắc cỡ đến cứng cả người chỉ đáp được một tiếng “chưa” rồi đứng như trời trồng.
Mùa gặt chỉ kéo dài thêm mươi bữa, thế nhưng cũng đủ cho họ hiểu lòng nhau, dù bằng tia mắt nhiều hơn lời nói.
Ngày gặt cuối cùng, y chọn cái đám lúa sát bên Nở. Họ cố tình chạm mặt nhau ở mỗi đầu luống. Y gặt lơi tay còn Nở thì làm túi bụi để theo cho kịp. Y nhìn Nở lâu hơn khi cắt xong gié lúa chót, đưa cho Nở cái liềm rồi nói:
-Cô Út giữ giùm nghe, sang năm tui lấy lại !
Nở cầm cái cán liềm còn ấm hơi tay, rồi đưa y cái liềm của mình mà không nói một lời.
Khi cánh đồng còn trơ gốc rạ, và bến nước chỉ còn lại một mình cây sung thì lòng Nở cũng tràn ngập nỗi buồn, nỗi nhớ.
Ông trời như mất hết sức lực nên tháng ngày trôi qua quá chậm. Cuốn lịch Tam Tông Miếu dày mo mỗi ngày chỉ vơi đi một tờ mỏng dính, chẳng thể nào lấp đầy khoảng trống trong lòng. Nở chỉ có một niềm an ủi duy nhất, là cầm cái liềm đi ra đồng cắt cỏ đem về cho mấy con bò. Công việc nầy là của anh Ba, trước đây Nở chẳng hề đụng tới thế mà bây giờ cứ giành cho bằng được.
Nở cũng bắt đầu mê câu cá. Đi đồng về là xách cần câu xuống gốc sung, nhờ vậy mà bữa cơm chiều cũng phong phú hơn vì Nở vốn có tay sát cá. Dần dần Nở đâm ra nghiện cái không gian êm đềm của bến sông khi chiều xuống. Nó gieo vào lòng Nở một niềm an ủi cùng một chút hy vọng mong manh. Có lần Nở mừng muốn nghẹt thở khi thấy một chiếc ghe nhỏ từ từ tấp vào bờ, tới chừng phát hiện một đôi vợ chồng trẻ trên đó, Nở buồn muốn thủng ruột.
Nhớ đến đây lòng Nở lại rưng rưng. Nước mắt chực trào ra bỗng bị cái đầu gối của người nào đó ấn vào lưng, cắt ngang mạch nước mắt với cùng mạch nhớ. Nở quay đầu lại, người chị dâu mới cười trước rồi nói:
-Má biểu tui kêu cô lên nhà, đừng có câu...
Chị bỗng ngưng ngang rồi nói to:
-Cái phao chìm rồi kìa cô Út !
Cùng lúc ấy Nở nghe cây cần câu trĩu nặng trên tay, bèn giật mạnh. Một con cá trê vàng bằng cườm tay bị lưỡi câu xiên qua môi trên, ngoắc đuôi, vặn mình lia lịa.
Hai chị em nhìn nhau cười sung sướng. Cô chị dâu cúi xuống lôi cái rộng ngâm dưới nước lên, đã có vài con cá lòng tong, rô, lóc…trong đó. Cô mở nấp đậy cái rộng ra sẵn cho Nở bỏ con cá trê vào rồi xách đi trước. Nở đứng lên xoắn dây câu quanh cần, cầm cái mủng vùa đựng trùn lên rồi đưa mắt nhìn lướt trên mặt sông. Khắp lòng sông, những đám mây tim tím bềnh bồng, trông không giống như rơi từ trên trời xuống mà như thể từ đáy sông trồi lên vậy! Những tia nắng bị sóng dát ra thành từng mảnh vụn lấp lánh như một bầy cá lao xao. Một cảm xúc quá êm đềm bỗng dâng lên trong lòng Nở. Chưa muốn chia tay với buổi chiều, với dòng sông, Nở bảo người chị dâu đang sốt ruột đứng chờ:
-Chị lên trước đi, mồi còn nhiều bỏ uổng lắm ! Mấy con cá đang bắt trớn. Nói với má tui nán lại, kiếm thêm vài con cá trê nữa để nướng cho tía nhậu !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2019 14:08:05 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 22.09.2019 07:55:02
NỒI CHÁO ĐẬU CỦA MÁ
 
Má ôm mộng nuôi mấy đứa con ăn học đến thành tài, nên không chịu ở lại quê với ngoại mà dời qua Châu Đốc.
Má thuê lại căn nhà rất lớn của dì Sáu Nê [chồng dì làm trưởng ty bưu điện đổi về Long Xuyên nên căn nhà bỏ trống], rồi bắt đầu nấu cơm tháng và cho học trò ở trọ.
Má có tài nấu ăn, món nào má làm cũng ngon nhất là cái món cá linh kho rục, nên có người gợi ý má nên nấu món cháo đậu đỏ cá linh kho để bán.
Ban đầu má nấu cháo trong cái nồi vừa vừa, bưng ra đầu cầu sắt [ đó là nơi mọi người trong xóm ghé mua đồ ăn sáng ]để bán thử. Rồi cái nồi cứ to dần lên đến đổi má bưng không nổi phải nhờ cậu Út gánh giùm.
Dưới chân hàng rào quanh nhà má trồng thêm mấy bụi lá dứa để bỏ vô nồi cháo cho thơm. Cho đến bây giờ, vào những đêm mất ngủ, cái mùi lá dứa hòa với mùi đậu đỏ nước dừa( mà ngày xưa, hay đánh thức tôi vào mỗi sáng) lại tràn ngập cả lòng tôi.
Cháo bán vừa hết là má ba chân bốn cẳng chạy ra chợ liền để kịp mua cá. Những ngày bán đắc, má đi chợ sớm, mua được cá tươi, mấy con cá linh má trút trong cái giỏ mây ra còn nhảy soi sói. Má vừa làm vừa hối tụi tôi :
-Làm lẹ lên mấy đứa, hông thôi nó ương là kho không ngon.
Hôm nào bán chậm, má giao gánh cháo cho chị hai coi rồi không chải đầu mà trùm khăn đi chợ. Những hôm ấy má phải ngâm cá đã làm vào thau nước muối, cho nó hút hết chất mật ngấm trong bụng cá ra, để khi kho cá vẫn thơm và ăn không bị đắng.
Gặp những ngày mưa dầm, bán ế, cháo còn dư hơn nửa nồi bốn mẹ con phải ăn cháo cả ngày, chỉ có mấy anh học trò ở trọ mới được ăn cơm.
Mỗi đêm má chỉ được ngủ chừng bốn, năm tiếng đồng hồ mà thôi! Hai giờ sáng đã chui ra khỏi mùng để lo nấu cháo.
Má vo gạo, cho đậu đỏ đã ngâm sẵn và lá dứa vào nấu chung một lượt. Chờ cháo sôi bùng lên, má bớt lửa rồi vừa ngồi canh vừa lấy dừa ra nạo. Má vắt dừa để lấy nước cốt và nước dão. Nước cốt đầu tiên để dành chan lên mặt cháo trước khi ăn. Nước dão má chắt vô nồi cháo liền, bấy giờ nồi cháo bỗng thơm ngào ngạt.
Nồi cá kho, cái món quan trọng nhất, đã được má làm sẵn từ chiều hôm trước. Má chuẩn bị cho nó hết sức là chu đáo. Không chỉ ở cá thôi mà cái nồi cũng được o bế kỹ càng, bởi nó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng, mùi vị của miếng cá kho… Má lựa cái nồi to vừa đủ để kho, đặc biệt cái nắp nồi phải đậy thật khít. Cá ngâm nước muối xong được rửa đi, rửa lại đến mấy lần, cho tới khi nào nước thật trong mới thôi. Má vớt cá ra cái rổ thưa, xóc cho thật ráo nước. Trút ra thau rồi ướp đầu cọng hành lá đâm nhuyễn, nước màu, nước mắm, đường và muối vào chung. Má lót những lát mía mỏng dưới đáy nồi rồi lấy đũa gắp từng con cá xếp vào từng lớp, từng lớp… Xếp xong má chế nước dừa tươi vào đến ngập mặt cá chừng một lóng tay rồi đem kho.
Đầu tiên má cho lửa lớn để cá sôi bùng lên vài dạo mới bớt lửa và hớt bọt. Khi nước kho đã trong, không còn một tí bọt nào nữa má liền rút bớt củi ra, đậy nắp lại, lấy tấm thớt đè lên cho hơi nước không thoát ra ngoài, rồi kho bằng lửa riu riu. Khoảng vài giờ sau, má mở nấp, gắp hết cá ra rồi xếp cá vào lại theo vị trí đảo ngược. Những con cá nằm trên mặt lúc nảy, bây giờ phải chui sát đáy nồi. Nắp vung được đậy lại, dằn thớt lên và kho riu riu tiếp tục cho đến khi nào nước vừa cạn và xương cá mềm như thịt là xong. Điều đòi hỏi bức thiết nhất là phải canh làm sao để lửa nóng vừa phải và nước kho vừa đủ ngấm vào mình cá, không thiếu, không dư. Nếu dư thịt cá sẽ bị nhão, nếu thiếu cá sẽ bị khô và xương chưa được rục.
Gánh cháo mà má bỏ hết công sức đã không phụ lòng của má. Mùi vị của nó lan ra tạo nên danh tiếng “ cháo đậu cá linh kho dì Năm” cho má. Mỗi buổi sáng, cả hàng người ngồi trên những cái ghế nhỏ và thấp như những chiếc guốc, chen chúc nhau xung quanh gánh hàng để ăn cháo của má. Mấy bà mẹ trẻ một tay bồng con, một tay cầm chén đứng chờ mua về đút cho con. Mấy cụ ông, cụ bà trong xóm đều là thân chủ của má. Má hay dặn chị hai mỗi khi nhờ bán giùm:
-Bà Bảy không có ăn nước cốt dừa nghe, đừng có chan vô cho bả. Ông Tư không ăn dưa mắm. Dì Út Thu đau bao tử cử ăn chua đừng chan nước giấm tỏi cho dĩ. Mấy người mua cho con nít ăn đừng có bỏ ớt…
Một hôm, cậu Út đạp trúng con heo làm đổ gánh cháo. Cậu bị phỏng, con heo nái cũng bị phỏng. Ông ngoại qua thăm, thấy má cực quá nên bắt dẹp. Mấy người khách ăn hể gặp má là khuyên bán lại, ai cũng tiếc, họ nói sao đang bán đắc mà nghỉ chi uổng vậy…Chỉ có mấy chị em tôi mừng vì khỏi phải làm cả đống cá, khỏi xắc dưa mắm mỗi buổi trưa và nhất là khỏi bị má bắt đi đòi tiền dì Hai Nho. Bà dì nầy ăn thiếu ấp lẫm, đã vậy còn đòi hoài không trả nên có một lần, không biết chị Hai học được cái câu “cháo bở quá sao dì dai dữ vậy ?” ở đâu rồi đem ra xài. Dĩ đem tiền lại trả rồi mét má. Má bắt chị Hai khoanh tay xin lỗi rồi bắt cúi nằm dài, rầy cho một trận còn tặng thêm mấy đòn bánh tét, bắt ăn bằng mông nữa.
Bây giờ đến mùa nước lên, bà con, bạn bè có dịp ghé thăm hay kho cá linh đem cho vì biết tôi rất thích. Nó ngon, ngon lắm…bởi thắm đẵm vị quê và gợi lại nhiều hình ảnh của một thời xiết bao êm đềm ấy: Những buổi sáng vừa đi học về là bỏ cặp liền để làm cá phụ. Những buổi trưa mấy chị em vừa ngồi xắt dưa mắm vừa thi coi đứa nào làm giỏi nhất. Những ngày mưa, gió bạt tứ tung, tấm nhựa căng bốn góc che cho gánh hàng cứ vẩy phành phạch, thỉnh thoảng nó tung mình lên thật cao rồi trút nước xuống ào ào như thác. Tôi cầm cây dù đen thật là to, của ông ngoại cho để đứng che cho má. Mỗi lần có người đến mua cháo, má vừa mở nắp vung nồi vừa nói :
-Khỏi cần che má, che cái nồi cho kỹ đi, đừng có để cho nước mưa rớt vào làm hư hết cháo !
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:21:05 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 22.09.2019 08:01:54
TÌNH NGƯỜI
 
Chiều ba mươi tết, thấy con chở về cả chục chậu bông nào là vạn thọ, cúc, mồng gà...tôi rầy:
-Mua chi mà nhiều dữ vậy, chưng có mấy ngày rồi bưng đem bỏ, cực thấy mồ!
Con gái vừa thở dài vừa đáp:
-Con tính mua hai chậu vạn thọ thôi, mà thấy họ bán ế quá nên mua giùm thêm mấy chậu nữa.
-Mình hổng mua thì cũng có người khác. Chưng tùm lum đâu có đẹp còn chật nhà chật cửa, hổng có chỗ cho mấy đứa nhỏ chạy chơi.
Lần nầy con còn thở dài hơn lần trước:
-Thiên hạ bây giờ bụng dạ eo hẹp lắm mẹ ơi! Họ đi coi rần rần mà đâu thèm mua. Họ biết bông bán không hết phải bỏ lại nên chờ lượm, dù người bán hạ giá hết mức, năn nỉ, khóc lóc họ cũng chẳng xiêu lòng.
Nghe con nói mà tim tôi thắt lại, bỗng nhớ ngày xưa...
Chiều hôm ấy cậu hai Tha đi đồng về. Cậụ không ghé vô nhà uống trà cho ráo mồ hôi mà vác cây cuốc ra thẳng bến sông tắm và rửa cuốc luôn. Vừa bước vô nhà cậu hỏi mợ liền:
-Có cơm chưa má nó !
Mợ hai đáp lại bằng một giọng cằn nhằn:
-Chờ một chút đi ông ơi, mấy con heo kêu om sòm, tui phải cho tụi nó ăn trước cái đã rồi mới tới tụi mình.
-Má nó xăn xăn lên một chút, tui thấy trong mình hổng êm, tính ăn ba hột cơm rồi đi mua gói thuốc về uống.
Mợ hai nghe chồng nói vậy thì bỏ tay ra khỏi cái máng, lật đật đi nấu cơm liền.
Mợ bưng mâm cơm ra đặt lên cái chõng tre sau hè rồi gọi:
-Ba thằng Thiết ơi ! Ra ăn cơm.
Chẳng nghe tiếng đáp lại, chờ hồi lâu cũng chẳng thấy ổng ra. Mợ bước lại cái võng nơi cậu đang nằm. Cái võng cũng như cậu đều bất động.
Tiếng hét của mợ vang lên, trong tích tắc mọi người trong xóm bu tới. Cậu hai Đủ kêu to:
-Đứa nào lẹ chưn chạy mời ông thầy gân liền coi ! Kiểu nầy là bị gió độc nhập rồi !
Chưa ai dợm cẳng thì cậu Sáu,ông thầy gân, đã ôm hộp đồ nghề chạy tới. Mấy người đàn ông khiêng cậu hai ra cái bộ giạt trước hàng ba để ổng nằm lên. Đó rồi, kẻ thời cạo gió, người thoa dầu, bóp tay, bóp chân... Mợ Hai Tha mở cây kim tây đang gài miệng túi ra, đâm mạnh vào mấy đầu ngón tay của cậu để nặn máu. Cách nầy đau lắm vậy mà chẳng nghe cậu rên dù chỉ một tiếng.
Đám ma cậu phải hoàn lại đến bốn ngày. Hôm đi đưa mợ hai Tha vừa khóc vừa kể hết sức là thảm thiết:
-Ông ơi là ông ơi ! Ông đi đâu mà vội mà vàng, chưa ăn một hột cơm nào, để bụng đói mà đi. Phải chi tui bỏ cho ba con heo đó, tui nấu cơm trước cho ông ăn thì ông đâu có chết như vậy !
Bà con trong xóm nghe mợ than, chẳng ai cầm được nước mắt.
Mùa dưa ấy, dù có lối xóm tiếp tay, nhà mợ cũng tỉa trễ hơn hết thảy. Mợ lo lắng mất ăn mất ngủ, cầu trời phù hộ cho dưa chín sớm để kịp bán trước tết vậy mà cũng không được. Dưa nhà mợ chín cận ngày tết quá nên mấy người lái dưa không mua nữa. Ngày ba mươi xe bò chở dưa về chất đầy sân, mợ ngồi nhìn đống dưa mà khóc.
Má sai ba chị em tôi mỗi đứa bưng một cái thúng đi theo má lại nhà mợ mua dưa. Trước sân nhà mợ, chòm xóm, láng giềng tụ hội lại. Ai nấy, kẻ bưng người đội, xúm nhau mua dưa về ăn tết. Thì ra mọi người đã đoán trước được tình cảnh của mợ nên không chừa dưa lại ăn mà ráp nhau bán cho lái hết, rồi mua giùm cho mợ.
Dưa bán hết rồi mợ còn ngồi khóc. Anh hai Thiết cằn nhằn:
-Bà con mua giùm hết trơn, mừng muốn chết, má còn khóc cái nỗi gì?
Mợ vừa kéo khăn lau nước mắt vừa trả lời:
-Tao đâu có khóc tại vì buồn!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:20:17 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 22.09.2019 08:10:08
MỸ A
 
MỸ A là tên đặt cho một thứ lụa rất nổi tiếng ở Tân Châu mà mọi người dân quê tôi đều hãnh diện về nó. Nhưng Mỹ A tôi nói ở đây là một cô gái nhỏ, mà có lẽ chẳng một ai tôi đang quen và gặp gở biết về bé gái ấy.
Một hôm đi học về, tôi thấy một đôi vợ chồng lạ hoắc đang ngồi nói chuyện với má, má bảo tôi:
-Con chào dì dượng Năm đi!
Tôi khoanh tay cúi đầu miệng lắp bắp:
- Thưa dì Năm, thưa dượng Năm con đi học mới về.
Dì Năm vuốt tóc tôi rồi nói với chồng:
-Cháu nầy chắc cỡ bằng tuổi con Mỹ A đây.
Chồng dì Năm mặc bộ đồ nhà binh, người ốm, cao và đen nhẻm. Dì cũng cao, hơi mập, da trắng, mắt to, môi đỏ au vì đang nhai trầu. Tôi nhìn một cách tò mò, tự hỏi không biết họ đến nhà tôi có chuyện gì? Bỗng nghe hai vợ chồng dì nói với nhau bằng một thứ tiếng rất lạ, rồi dì quay sang nói với má tôi:
-Chị cho tui đặt cọc trước hai tháng thôi, có được hông?
Má tôi hơi trù trừ rồi gật đầu, hỏi :
-Chừng nào chị dọn tới?
-Để tui coi ngày nào tốt, chắc trong tuần nầy thôi.
Dì móc túi lấy tiền ra đếm, đưa cho má tôi rồi hai vợ chồng ra về liền. Trước khi đi, dì còn nựng càm tôi một cái.
Hôm sau khi đi học về tôi thấy gian bếp đã được ngăn đôi. Cái võng và bàn tròn ăn cơm bị dời ra nhà trước. Chỗ cũ của chúng được cái tấm ri đô bằng vải bông che lại, tạo thành một cái buồng. Một đứa con gái trạc tuổi tôi chui từ dưới chân tấm ri đô ra. Nó nhìn tôi chằm chằm, tôi cũng vậy. Hai đứa như đang chơi cái trò đối mắt coi đứa nào thua, tôi chớp mắt trước rồi hỏi nó:
-Phải mầy tên Mỹ A hông ?
Nó trợn hai con mắt đã to sẵn lên, hỏi:
-Sao mầy biết?
Tôi không trả lời, hỏi tiếp :
-Mầy mấy tuổi ?
-Tám.
-Vậy là lớn hơn tao một tuổi.
Nó hỏi lại:
- Bộ mầy là con của dì Năm chủ nhà hả?
-Ừ, má mầy đâu rồi?
-Hổng phải má, dĩ là dì của tao, má tao còn ở nhà.
-Sao mầy hổng ở với má mà đi theo dĩ?
-Má tao biểu.
-Mầy có nhớ má mầy hông?
Nó gật đầu rồi cái mặt buồn hiu, tôi bỗng nghe thương nó quá chừng.
Từ ngày có Mỹ A tôi nôn về nhà lắm, vì dù lớn hơn một tuổi nhưng nó lại chịu nghe lời tôi, bày trò gì nó cũng làm theo và nhất là hay để dành bánh chia cho tôi. Chỉ có một điều làm tôi hơi bực là má hay đem nó ra làm gương như :
-Coi con Mỹ A kìa, nó biết rửa chén rồi đó!
-Con Mỹ A nó quét nhà sạch hơn con.
-Con Mỹ A nó ăn cơm không đổ một hột…
Mấy anh học trò cũng thương nó lắm, khen nó xinh hơn, ngoan hơn, hai bàn tay lúc nào cũng sạch hơn. Mà nó xinh hơn tôi thật, da trắng hơn, mũi cao hơn…Thậm chí tôi chỉ có một cái đồng điếu nhỏ xíu nằm khiêm nhường sát góc miệng, còn nó có đến hai cái lúm đồng tiền thật là to trên má. Tôi hỏi má:
-Con nghe người ta nói “đen như Miên”, sao con Mỹ A nó trắng tươi vậy má?
-Nó không phải là Miên rặc, nó là dân “ đầu gà đít vịt”nên mới ngộ như vậy?
-“Đầu gà đít vịt” là cái gì hả má?
-Là con của người Miên với người Tiều.
Thật ra nó cũng không ngoan hơn tôi bao nhiêu, vì nó không chịu kêu dì Năm bằng má cho dù bị hăm he đủ thứ. Dì dỗ ngọt rồi đòi bỏ đói mà nó cũng không hề nao núng. Dì đã làm khai sanh nhận nó làm con, để chồng lãnh lương nhiều hơn một chút nên sợ nó gọi như vậy sẽ bị lộ và dượng sẽ bị tội. Dì bèn mua chuộc tôi, tôi nói với nó:
-Mầy không kêu dì Năm bằng má thì tao không thèm chơi với mầy nữa .
Tội nghiệp, nó chỉ có một mình tôi là bạn nên đành phải chìu theo. Tánh nó hiền và dễ tin hết sức, tôi nói sao là nghe vậy. Tôi mê con Bù Nỉ bao nhiêu, nó cũng mê tôi bấy nhiêu, có khi còn nhiều hơn nữa.
Thời gian đầu chỉ có dì Năm với nó [dượng Năm làm trung sĩ nhất đóng quân ở Bình Thủy], sau lại có thêm một người đàn ông trẻ hơn má nó đến ở chung. Nó gọi ông ta là cậu Hai và theo lời dì Năm thì ổng là em bà con chung đầu ông cố với dì.
Một hôm khi ăn cơm [nó không ăn chung mâm với dì Năm và cậu Hai mà hay bưng tô qua ngồi ăn với má con tôi] nó bỗng nói:
-Tối nay mầy qua ngủ chung với tao nghe, ngủ một mình tao sợ ma lắm!
-Bộ mầy hổng ngủ với cậu Hai sao?
-Cậu Hai ngủ với má tao không hà!
Tôi bèn xin má nhưng má nhất quyết không cho.
Cái chuyện dì Năm với ông em họ, hình như đã đến tai dượng Năm hay sao mà dưỡng không gữi tiền về nữa [ đó là lý do dì Năm đưa ra khi xin má cho tôi đi theo dỉ và Mỹ A đi xuống chỗ trú binh của dượng Năm để lấy tiền]. Ban đầu má không cho, nhưng vì không có tôi Mỹ A không chịu đi nên má đành bóp bụng. Lần đầu xa má tôi ngại lắm, nhất quyết không đi nhưng rồi xiêu lòng vì dì Năm hứa mua cho tôi hộp viết chì màu, hơn nữa chỉ xa má có một ngày thôi, đâu có nhiều nhỏi gì!
Thấy tụi tôi dượng Năm mừng lắm. Chiều đến, dì Năm, tôi và Mỹ A đã có một buổi cơm rất vui với dượng và mấy chục người lính. Mâm cơm hôm đó được dọn trên chiếc chiếu trải dưới đất, chỉ mỗi món canh chua bạc hà, nấu với cá rô mề, đựng trong cái thau nhôm to bằng cái thau rửa chén của nhà tôi mà thôi! Họ nấu cũng ngon nhưng không bằng phân nửa má tôi.
Sáng hôm sau dượng Năm đi hành quân sớm. Tôi, Mỹ A và dì đi về, gương mặt dì Năm buồn thiu. Tụi tôi đang lội bộ ra bến xe thì một chiếc xe nhà binh đuổi theo và dừng ngay trước mặt. Dượng Năm leo xuống xe, chạy rất nhanh về phía chúng tôi, dúi tiền vào tay dì Năm rồi không kịp nói một lời, quày quả bỏ đi liền.
Mấy ngày sau cái hòm chở xác dượng Năm được đem về nhà tôi. Dì Năm khóc té lên té xuống, Mỹ A khóc, tôi cũng khóc còn cậu Hai thì tránh mặt.
Sau đám ma, cái bụng của dì Năm bỗng ngày một to ra, Mỹ A khoe với tôi là nó sắp có một đứa em. Nó nôn làm tôi cũng nôn lây.
Một ngày kia tôi rủ Mỹ A cùng chơi một món mà mấy anh học trò ở trọ trong nhà vừa dạy. Hai đứa ngồi bệt xuống đất, đối diện nhau, cẳng chĩa thẳng ra phía trước cho bốn bàn chân chạm sát vào. Rồi cùng vỗ tay một lượt, vừa đập hai bàn tay vào nhau cho kêu thật to vừa hát:
-Chị em xây cà lem nước dừa.
Đang chơi rất vui thì Mỹ A bị dì Năm gọi vô buồng rồi bị đòn thê thảm. Một tuần sau dì Năm dọn nhà, má tôi buồn hiu vì mất đi một khoảng thu nhập, còn tôi thì khóc nức nở vì mất luôn một người bạn. Từ đó, tôi chưa gặp lại Mỹ A một lần nào.
Cho đến bây giờ, thỉnh thoảng trong đầu tôi lại hiện lên gương mặt của một cô gái nhỏ. Một chút bào bọt dâng lên. Cái đau đó rất giống như cái xon xót của một vết thương cứ lên mủ hoài mà không chịu thành sẹo vậy!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:19:18 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 28.09.2019 08:30:25
CON ĐƯỜNG CỘ CŨ
Đoản văn Lâm Du Yên

Chẳng bao giờ Ân đi họp mặt với bạn bè hoặc dự tiệc tùng vào ngày thứ bảy. Chàng quyết dành riêng ngày đó cho má của mình.
Sáng thứ bảy nào cũng vậy, Ân mặc bộ đồ tây cũ, đi chiếc xe đạp cũ, lăn bánh trên con đường đất gồ ghề để về thăm nhà. Cho dù con đường chạy song song được tráng nhựa hẳn hoi, có thể giúp Ân tiết kiệm phân nửa thời gian, và cho dù nóng lòng gặp má mình Ân vẫn không thể từ bỏ con đường cộ nhỏ nầy.
Con đường cộ cũ chắc đã hình thành trước khi chàng ra đời.
Ngày xưa người ta chỉ gọi nó là đường cộ mà thôi. Bây giờ thì bà con đã thôi nuôi bò để dùng trong việc đồng áng, lại có thêm con đường mới, rộng rải và phẳng phiu. Nó đã bị bỏ rơi, trở thành đường mòn và mang thêm cái tiếng “cũ” đi kèm.
Hầu hết cư dân đã thôi xử dụng con đường cộ cũ, cho nên Ân càng ngày càng gắn bó với nó hơn. Thiếu người tu bổ nên con đường ngày một hư hao. Cứ mỗi lần hai bánh xe nẩy lên, sụp xuống, Ân lại nghe lòng dạt dào thương cảm.
Từ khi thưa người qua lại, đám rau cỏ dại bắt đầu tự tung, tự tác. Chúng từ ruộng tràn lên lề rồi bành trướng lãnh thổ. Mấy cọng rau muống, rau bợ, nhãn lồng, cỏ mần chầu, cỏ may… lấn gần hết mặt đường, chỉ chừa lại mỗi một vệt đất nâu ngoằn ngoèo ở giữa y như con trăn nằm bất động.
Ân cho rằng cái con trăn ấy chưa chết, chưa bị ăn thịt, chỉ nhờ vào hai cái bánh xe của mình mà thôi ! Chàng không khỏi đắc ý và cảm thấy có trách nhiệm với nó nhiều hơn !
Ân thường khởi hành khi ông trời còn trùm mền, nhắm mắt, cố tình đi thật sớm để có thể dừng lại hái vài nắm rau dại. Đấy là cái thú duy nhứt mà chàng còn giữ được cho đến ngày nay.
Má của Ân rất thích đọt nhãn lồng . Bà nói rằng bữa nào ăn món canh hoặc đọt nhãn lồng luộc chấm cá kho là tối đêm đó bà ngủ rất ngon, đóng một giấc từ đầu hôm cho tới sáng bét luôn!
Hôm nào tìm gặp một bụi nhãn lồng xum xuê là Ân mừng như trúng số ! Trong túi áo, Ân luôn thủ sẵn hai cái bao ni lông sạch, một đựng đủ thứ rau, một đựng riêng đọt nhãn lồng.
Mỗi lần đến cái chợ mương ở ngã ba sông gần nhà, Ân đều ghé vào một trong các sạp bán điểm tâm để mua thức ăn sáng cho cả hai má con.
Hôm nay chàng ghé lại cái sạp ngay đầu chợ. Cái sạp ấy lúc nào cũng ấm áp bởi mùi khói của củi và những chiếc bánh tròn tròn, nho nhỏ xinh xinh.
Cô Năm, người đang ngồi trên chiếc ghế thấp đặt trên mặt đất, đang thoăn thoắt đổ từng vá bột vào những lỗ tròn quay như cái dĩa nhỏ xíu đựng ớt trong khuôn. Cổ chào Ân với đôi mắt ướt nhẹp, đỏ vì khói kèm nụ cười tươi rói bù lại. Ân ghé mua bánh khọt của cổ vì tuần trước chàng nghe má mình nhắc tới món nầy.
Cô Năm và các người bán ở đây đã quen nhẳn mặt Ân. Họ vẫn gọi chàng bằng danh từ “thầy giáo” mặc dù biết chàng đã nghĩ dạy từ lâu.
Đưa cái gà mên bốn ngăn cho cô Năm, Ân căn dặn :
-Cô bán cho cháu mười ngàn bánh khọt. Không cần giòn nhưng phải chan nước cốt dừa cho nhiều. Lấy rau sống khá khá một chút ! Cô chịu khó lựa giùm lá non và mềm chừng nào tốt chừng nấy, vì má cháu răng rất yếu. Hai cái ngăn kia đựng nước mắm, một thứ cay còn một thứ không cay.
Cô Năm chỉ tay vô bình trà bày sẵn trên cái bàn thấp chủm gần đó rồi nói:
-Thầy dựng xe, uống ly trà cho ấm bụng, chờ tui đổ bánh nóng cho ngon.
Ân lắc đầu nói:
-Thôi khỏi ! Cô cứ đổ bánh đi, cháu lại chợ mua vài món đồ rồi quay trở lại.
Chợ mương ở ngã ba sông nên mặt hàng cá phong phú hơn mấy thứ khác. Tuy nó rất nhỏ, người bán lẫn người mua chỉ lèo tèo chừng dăm ba chục, thế nhưng nhưng cá, rau ở đây tươi roi rói, ngon hơn các chợ khác.
Lần trước má chàng có nhắc món cá trê vàng nướng chan mỡ hành, giầm nước mắm gừng. Ân rảo khắp chợ, xăm soi tìm kiếm, mới hay con cá trê vàng đã tuyệt chủng mất rồi !
Ân định tìm mua một con cá lóc trọng trọng, lấy cái đầu nấu canh rau còn cái mình kho làm món mặn.
Chợt có người gọi giật ngược :
-Thầy giáo, thầy giáo !
Ân quay lại nhìn. Thím tư Câu đang hướng mắt về phía chàng, một tay cầm con lươn da vàng ươm dài ngoằn đưa ngang mặt, một tay ngoắc lia, ngoắc lịa còn nói :
-Thầy mua lươn về xào cà ri đi ! Bà Ba thích món nầy lắm !
Bà Ba mà thím nói là má của Ân. Chàng hơi ngần ngại bởi chưa bao giờ làm lươn.
Ân bỗng nghĩ ra nên hỏi :
-Lươn có làm được món nướng thoa mỡ hành hông thím Tư ?
Thím Tư gật đầu :
-Ngon số một ! Qua mặt con cá trê luôn!
Ân ngần ngại:
-Cháu chưa làm lươn lần nào nên …
Thím Tư nói :
-Dễ ợt ! Thầy lấy tro bếp vuốt cho nó hết nhớt rồi mổ banh cái bụng, moi hết ruột với máu ra là xong.
Ân mừng húm !
Khi chàng quay về cô Năm đã chờ sẵn.
Ân vừa thắng xe cô đã đưa cái gà mên cho chàng rồi nói:
-Tui làm y như thầy dặn !
Ân móc túi lấy tờ mười ngàn ra đưa, cô Năm nói :
-Hồi nãy thầy trả tiền trước rồi !
Ân bán tín, bán nghi, chàng nhớ mình chưa trả tiền nên nói :
-Cô nhớ lộn ai rồi đó ! Cháu chưa đưa tiền mà !
Cô Năm lắc đầu nguầy nguậy :
-Đưa rồi, đưa rồi ! Tui không có nhớ lộn đâu. Thầy quên rồi đó !
Ân nhét tiền vô túi trở lại, vừa đạp xe vừa bức rức. Bỗng nhớ ra lần trước cách đây gần một tháng, cô Năm cũng nhứt quyết không chịu cầm tiền với cùng một lý do.
Chàng chợt giật mình, chép miệng :
-Thôi rồi ! Chắc cô Năm định trả cái công vợ mình đã giúp con dâu của cổ mẹ tròn con vuông năm ngoái !
Sáng hôm sau Ân cố tình nấu cơm rất sớm, ăn cơm với má xong, Ân xin về .
Bà Ba hỏi :
-Có chuyện gì hông mà về gấp vậy
Ân nói :
-Con về sớm để hái mớ rau trên đường cộ đặng kịp đem về nấu bữa trưa. Hai mẹ con con Hòa thích món canh rau tập tàng nầy dữ lắm !
Cầm túi rau chồng đưa cho, Lành, vợ Ân hỏi :
-Rau ở đâu vậy mình ?
Ân đáp :
-Má biết mình thích ăn rau dại nên nhờ con Út nhỏ hái giùm đó !
Chàng thầm cám ơn câu nói dối đó khi cảm nhận được tia mắt ngạc nhiên pha chút mừng rỡ của nàng :
-Bộ má hết giận rồi sao ?
Ân gật đầu.
Từ ngày Ân theo vợ đi ở riêng, bà Ba từ mặt con dâu không thèm dòm tới. Thời gian đầu bà còn không nói chuyện với chàng, mỗi lần Ân về thăm, bà nằm quay mặt vào vách chẳng nhìn, trả lời hoặc nói với chàng một tiếng. Ân phải giải thích, năn nỉ đủ điều bà mới nguôi ngoai.
Ân là con một ! Bà Ba mất chồng khi chàng chưa thôi bú, cho nên tất cả tình thương bà đều dồn cho chàng.
Ân có lẽ là đứa con trai duy nhứt trong xóm, có thể trong cả quận và tỉnh nữa, chưa mang một cái thẹo nào trên đầu gối, trên cẳng tay, cẳng chưn kể từ lúc chập chững biết đi cho đến khi lấy vợ. Chàng may mắn vì có được một bà mẹ quá tuyệt vời, chăm sóc con hết sức tận tụy, chu đáo.
Ân không biết lội, không biết trèo cây, chưa từng đánh lộn, không phân biệt được cọng cỏ với cọng lúa tuy rằng sanh trưởng ở nông thôn.
Ba của Ân tử nạn vì cứu mấy đứa học trò bị chìm đò. Vì thế ông trở thành người thầy bất tử trong lòng bà con lối xóm. Phụ huynh mấy đứa bạn học của Ân, một số là học trò của ba chàng ngày xưa, cho nên mấy đứa bạn cùng lớp, cùng trường đó đều được ba má chúng căn dặn là phải đối xử tốt với Ân. Vì vậy dù bị coi là công tử bột, Ân không hề bị ăn hiếp hay kỳ thị chút nào mà ngược lại!
Cuộc sống của Ân suôn đuột như cây chuối cho đến khi chàng đi lấy vợ. Dù Lành là người con dâu do chính tay mình chọn nhưng bà Ba lại chẳng mấy vừa lòng, bởi suy tôn con trai mình quá mức !
Bà Ba đâu có biết, không phải Lành, mà chính Ân mới là người quyết định ra riêng !
Vợ Ân là nữ hộ sinh trong bệnh viện quận.
Nghề đỡ đẻ hết sức là vất vả. Các bé sơ sinh ngại phải chường mặt lập tức ra ánh sáng mặt trời nên các ca sinh nở phần lớn đều xảy ra vào ban đêm, nhứt là thời điểm tám, chín giờ tối trở đi.
Ân rất thương vợ nên cho dù Lành về khuya cũng chịu khó thức chờ rồi hâm cơm canh để ăn cùng vợ. Điều nầy làm bà Ba xốn con mắt. Bà không nói gì nhưng đóng một cái trang rất lớn đặt ở giữa nhà thờ bà Cữu Thiên Huyền Nữ, mà dân gian gọi một cách trìu mến là bà “mẹ sanh”. Ngụ ý con trai mình theo đạo “thờ bà “.
Ân không hiểu thâm ý của mẹ, nhưng Lành hiểu. Chính cái tính thông minh hơn người đó đã hại cô. Lành cảm nhận ngay tức khắc ý nghĩ sâu xa trong từng lời nói, cử chỉ của má chồng, y như những bệnh nhân bị thấp khớp nghe tê buốt trong xương khi tiết trời rục rịch thay đổi.
Lành không thổ lộ với Ân, nhưng khi bị sẩy thai lúc có mang lần đầu, cô liền đề nghị chia tay dù thương chồng rất mực. Ân ngạc nhiên rồi chới với nhận ra, bấy lâu nay mình đứng giữa hai lằn đạn mà không hề hay biết !
Ân hiểu rằng chỉ khi sống riêng mình mới giữ được vợ . Chàng viện cớ để tiện cho công ăn, việc làm, hai vợ chồng họ phải dời về chợ ở cùng nhau, rồi nằng nặc xin ra riêng.
Thế là chiến tranh nóng với con dâu, chiến tranh lạnh với con trai bùng nổ trong gia đình bà Ba ngay lập tức.
Ân bắt đầu thấm thía câu “cái gì cực đoan cũng không tốt kể cả tình thương lẫn đức hạnh “, mà ngày xưa chàng không chấp nhận, quá ư là đúng trong trường hợp của mình.
Không hề quý vợ hơn mẹ, nhưng chàng muốn chứng tỏ cho bà Ba thấy rằng việc chàng ở xa mẹ không phải là không còn thương, quý bà mà trái lại. Ngoài lý do muốn duy trì cuộc hôn nhân của mình, Ân còn muốn giúp má mình lấy lại cân bằng trong cuộc sống.
Trước khi ra riêng, Ân nhờ người chị em bạn dì ở sát bên nhà săn sóc má giùm mình. Tất cả các huê lợi trong vườn chàng tặng hết cho chị coi như để đền ơn.
Căn nhà mới mà chàng và vợ tạo được rất nhỏ, rất đơn sơ nhưng tràn đầy hơi ấm. Ân và vợ như sống lại thời kỳ trăng mật. Lành hiểu rằng chồng đã hy sinh tất cả, chẳng những đành xa mẹ còn xa cả cái không gian sống mà anh yêu quí, nên hết lòng bồi đáp. Lành trao cho chồng tất cả tình thương mà mình có, đáp ứng một cách nhiệt tình, không còn tỏ vẻ khứng chịu một cách gượng ép nữa.
Sau những giây phút thăng hoa bên vợ, Ân lại thấy thương má mình đến trào nước mắt. Khi hai vợ chồng họ có đứa con đầu, qua tình thương mà vợ dành cho mình và cho con, Ân biết rằng má chàng ngày xưa đã thương yêu ba chàng và chàng biết bao ! Thời gian hạnh phúc bên chồng của bà trôi qua quá ngắn, bà lấy tình thương của chàng để làm cứu cánh, chính vì vậy mà vô tình trở thành cay nghiệt với con dâu.
Ân đặt tên con là Hòa, với hy vọng má và vợ mình cũng hòa thuận với nhau. Lành biết ý của chồng nên quyết tâm hàn gắn, cố gầy dựng tình thương với má chồng từng chút một. Sự cố gắng của cô giống như một người đi cầu khỉ. Bà Ba bị tổn thương sâu sắc, vẫn còn ấm ức với cái ý nghĩ con trai chọn vợ bỏ mẹ, nên cứ cố tình hất con dâu té giập mật cho bỏ ghét !
Sự kiên nhẫn của con người ta không phải là sợi dây thun siêu dai, siêu dẻo, nên khi Lành từ chối không về thăm má chồng nữa, Ân không nở mở lời trách vợ.
Ân tìm cách xoa dịu cả hai. Mỗi lần mua hoặc nấu món gì mang về cho mẹ, Ân đều nói dối là vợ làm, nên dần dần bà Ba cũng động tâm.
Mỗi lần về thăm má, Ân thường rủ vợ đi chung cho vui, thế nhưng Lành đều lắc đầu từ chối.
Không phải cô còn giận, còn hờn. Cô biết rằng những giây phút gần gũi con trai rất hiếm hoi ấy, vô cùng quý giá đối với bà Ba nên chẳng muốn quấy rầy.
Từ khi nhận mớ rau của bà gửi cho, Lành luôn tự mình làm hoặc mua thức ăn, bánh trái hợp với ý má chồng để Ân mang về cho bà.
Tối hôm đó Lành bất ngờ nói :
-Sáng mai mình chở em về thăm má với nghen !
Mấy ngày trước Ân có nghe vợ than mệt, khó ngủ...
Nhìn gương mặt còn xanh rớt của Lành, Ân khuyên:
-Mình coi mòi không được khỏe, thôi để lần sau đi !
Lành nằng nặc :
-Bữa nay em hết mệt rồi ! Cũng đã khuấy sẵn nồi bột gạo với nước cốt dừa, đã làm món bánh đúc mặn mà má ưa rồi ! Em muốn đích thân đưa mời má.
Ân đành nói :
-Để anh đi mượn chiếc xế nổ của thằng Nghĩa, chở em đi đường mới cho lẹ !
Lành lắc đầu :
-Mình ở chơi cả ngày, mượn xe người ta lâu quá kỳ lắm ! Với lại em thích mình chở em bằng xe đạp, đi con đường cộ cũ coi nó đẹp tới cỡ nào mà mình mê dữ vậy !
Ân vui đến phát rung, nôn nao mong trời mau sáng y như ngày xưa nôn tới tết.
Sáng đó Ân dậy sớm hơn vợ một chút. Chiếc xe đạp cũ được chàng o bế lại. Từng cây căm được lau bóng lưỡng. Cái sàn chở bằng sắt được chàng cột chiếc gối nhỏ xíu vào để vợ ngồi cho êm.
Con đường cộ hôm nay đẹp và thơm hơn ngày thường. Hoa cỏ còn ngậm sương nên mùi hương vẫn còn lãng đãng. Mấy con ong, bướm chắc đã già nên ngủ ít, chúng cũng dậy rất sớm và bắt đầu vo ve.
Đến bụi nhãn lòng Ân dừng xe bảo vợ:
-Mình ghé lại hái cho má mớ rau, má thích ăn đọt nhãn lòng luộc lắm !
Lành nhìn rau cỏ dại mọc hai bên lề, biết ngay mấy túi rau Ân đem về cho mình có xuất xứ từ đâu. Cô chợt hiểu ra tâm nguyện của Ân.
Lành hỏi chồng bằng giọng cảm động :
-Mình rất muốn em và má thương nhau đúng hông ?
Ân gật đầu, chàng đáp :
-Đó là điều mong mỏi tha thiết nhứt của anh !
Lành hăng hái đi tìm đọt nhãn lồng với chồng, tỏ ra thích thú trước những hoa cỏ dại không tên bên đường. Cô đặc biệt ưu ái mấy cái bông rau muống màu trắng ngát. Cô dừng lại lâu hơn bên chúng để ngắm những chiếc cánh rất mỏng manh mang màu áo học trò ấy, với cái nhụy ở giữa còn trắng hơn màu trắng ! Chúng đơn sơ quá! Tinh khiết quá! Khiêm tốn quá ! Đến nổi khiến Lành xúc động đến rưng rưng.
Thấy vợ chìm đắm trước vẻ đẹp của đám hoa dại, Ân vô cùng sung sướng. Chàng không dám giục, mãi đến khi hai cái túi ni lông đã đầy nhóc và ông trời mở banh cả hai con mắt mới nói :
-Đi thôi mình ! Nắng lên rồi !
Ân gò lưng đạp nhanh vì sợ má mình chờ lâu đói bụng. Thấy lưng áo chồng thấm mồ hôi, Lành liền bỏ hai ống giò về phía trước, đặt bàn chân lên pê đan để đạp phụ chồng.
Cử chỉ đó làm Ân dạt dào xúc động. Cái chất thơ trong chàng sủi bọt rồi tuôn rỉ rả.
Ân tằng hắng một cái rồi nói :
-Sửa lỗ tai mà nghe thơ nè bà con !
Rồi ngâm:

- Đưa vợ về thăm nhà
Xe đạp cũ đường xa
Cỏ bên lề xanh lạ !
Lác đác nụ vàng hoa

Vợ tôi, hoa đồng nội
Thương chồng đổ mồ hôi
Chẳng chịu tréo cẳng ngồi
Vói chân cùng góp sức.

Con bướm già rạo rực
Quanh quẩn mãi bên chưn
Gió ghẹo tóc tưng bừng
Quyện vào nhau tha thiết

Mình ơi mình có biết ?
Con đường cộ hôm nay
Bỏ đất chạy theo mây
Thiên đàng dần xít lại !

Lành xúc động quá, áp mặt vào lưng chồng hít thật sâu mùi mồ hôi trên ấy. Ân nghe lưng áo mình ấm ấm, chàng tự hỏi chẳng lẽ mồ hôi cũng có nhiệt độ như nước mắt.
Nỗi lo lắng bị má chồng hắt hủi của Lành được xua tan như lớp màng màng trên sông bị bọt xà bông đáp vào. Bà Ba đón con dâu bằng nụ cười hiếm hoi, moi ra từ đáy lòng của mình.
Mảnh đất tình cảm của Bà Ba dành cho Lành đã được Ân nhổ sạch cỏ già, gai nhọn...Chàng còn gieo vào đó những hạt mầm của các loại cỏ cây, rất đẹp, rất thơm, rất nên thuốc ...như dây nhãn lồng chẳng hạn. Chúng đã bắt đầu đâm chồi nẩy lộc nên hể tưới là tươi liền.
Bà Ba vừa thưởng thức món bánh đúc mặn, vừa khen:
-Con khuấy bột với cái gì mà nó trong veo, dẻo, mềm, dễ nhai, dễ nuốt quá vậy, vợ thằng Ân ?
Lành thưa :
-Con có ngâm mấy lát khóm vô chung, không biết có phải nhờ nó hay không nữa !
Bà Ba lại tấm tắc :
-Cái bột thì béo, thơm mùi nước cốt dừa lắm ! Còn cái nhưn tôm thịt củ sắn nầy, nó được con bầm nhuyễn nhừ rồi xào hành tỏi nên rất thơm, nêm nếm cũng vừa ăn, hợp ý má lắm đó !
Lời khen chân tình của người mẹ chồng vốn hết sức khéo léo và kiệm lời ấy, khiến Lành vui còn hơn cái lần cô được xướng tên, lên nhận giải nhứt trong cuộc thi nấu ăn năm nào.
Lúc Lành chào để ra về bà Ba còn dặn dò :
-Mai mốt có rảnh thì về chơi với má !
Tuần sau, Lành lại xin Ân cho đi theo và cũng đòi đi trên con đường cộ cũ.
Ân lại nôn nao, lại dậy sớm để lau xe, lại cột cái gối nhỏ vô sàn chở.
Lành lại ngồi phía sau, lại bỏ chưn ra phía trước để đạp phụ chồng. Cô cứ luôn tay móc những hạt đen đen trong túi ra rải đều hai bên lối đi.
Ân quay lại bắt gặp bèn hỏi :
-Mình rải cái gì vậy ?
Lành xòe tay cho chồng thấy mớ hạt giống với kích thước khác nhau.
Cô nhặt từng thứ lên rồi giải thích :
-Cái nầy là hột rau sao nháy nè ! Cái nầy là hột tóc tiên nè ! Cái nầy là hột rau muống Tàu nè! Cái nầy là hột nhãn lồng nè ! Cái nầy là hột mồng tơi nè ! Cái nầy là hột rau dền cơm nè !
Ân ngạc nhiên hỏi :
-Ở đâu mà mình có nhiều quá vậy ?
Lành đáp :
-Thì mua chớ đâu ! Bây giờ người ta bán đủ thứ hột của đủ thứ cây hết !
Lành đi cùng Ân về thăm má chồng thêm vài lần nữa. Khi bà Ba đã bắt đầu nghe quen với nỗi mong nhớ con dâu thì Lành bỗng thôi về.
Bà Ba hỏi Ân bằng giọng trách móc :
-Con vợ mầy bộ lúc nầy bận rộn lắm sao ?
Ân đáp bằng giọng buồn buồn :
-Vợ con không được khỏe !
Cho rằng con trai nói dối để chạy tội cho vợ, bà Ba giận lẩy rồi không thèm hỏi tới .
Mấy tháng sau Ân lại đưa Lành về. Lần nầy chàng để vợ nằm lại một mình trong khu vườn rộng.
Bà Ba thôi không còn rầy con dâu nữa ! Sáng sáng bà một tay chống gậy, một tay xách cái gà mên đựng món điểm tâm mang ra ngôi mộ mới.
Bà vừa xớt thức ăn ra chén vừa gọi con dâu:
-Vợ thằng Ân! Bây về đây ăn với má cho vui !
Mỗi sáng thứ bảy Ân lại đạp xe, lại gò lưng trên con đường nhỏ về thăm mẹ và vợ. Khi thì đi một mình, khi thì có con gái ngồi đàng sau.
Đến mùa mưa, những đóa hoa sao nháy, tóc tiên, nhãn lồng…mang đủ màu tím, vàng, trắng, đỏ, cùng phô sắc bên lề, khiến con đường cộ cũ tưng bừng sức sống.
Bây giờ ngoài hai cái túi ni lông đựng rau cho má, Ân còn đem theo cái giỏ xách bằng giấy để mấy cái bông hái cho Lành không bị giập.
Bày cẩn thận chúng lên mộ vợ, chàng nói :
-Mình về mà coi nè ! Bông của mình trồng đã nở rồi, đẹp lắm !
L D Y
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 08:36:15 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 28.09.2019 08:34:48
DUYÊN MƯA
Đoản văn Lâm Du-Yên

Như vừa dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà là má cô gọi vói theo:
-Sao không đội nón, đội khăn gì hết vậy ?
Như nhìn trời, mây rất mỏng và nắng rất nhẹ, yên tâm đáp :
-Con vừa gội, để đầu trần cho nó mau khô.
Bà cằn nhằn :
-Rủi gặp mưa thì cảm cho coi!
Như nói bằng một giọng tự tin:
-Mùa nầy hết mưa rồi má !
Má Như chưa kịp bảo chờ đem cái nón lá ra, cô đã vọt đi liền.
Con đường từ nhà Như đến xóm Cây Gòn phải băng ngang ruộng. Nó là con đường đất không trải đá, ngày xưa nhỏ xíu, chừng hơn một sải tay, bây giờ đã được nới rộng gấp ba và đắp cao gấp rưởi. Người ta lấy đất từ hai bên lề để tu bổ, tạo thành hai con mương nhỏ chạy sát bên sườn của nó. Mặt đường đầy những dấu chân bò, chi chít vết trượt của những chiếc cộ để lại từ trận mưa gần nhứt.
Những thửa ruộng đã bắt đầu trổ đòng đòng, gió tạt qua khiến lúa cúi đầu xuống rồi ngóc lên đồng loạt, mang cho Như một cảm giác hân hoan như thể được cả làng chào đón vậy !
Niềm vui đó chuyển dần sang nỗi lo khi gió càng lúc càng gia tăng cường độ. Những đám mây thưa thớt bị dồn lại, chúng cụng đầu vào nhau, đau điếng nên bật khóc ào ào. Như nghe hối hận bởi không vâng lời má.
Con đường trống lỏng không một bóng cây, cũng may mà còn một cái chòi giữ dưa sót lại bên đường. Như gò lưng đạp thật nhanh, dựng xe vào cây cột khẳng khiu rồi ngồi lên tấm giạt tre rất thưa. Cô đưa lưng về hướng gió để thân trước không bị ướt. Mưa càng lúc càng tăng, gió gào nghe phát khiếp! Một lúc sau, nước không còn tạt vào lưng Như nữa ? Nàng quay lại nhìn rồi giật mình chới với, một người con trai ngồi sau lưng Như tự hồi não, hồi nào... Hèn gì !
Đây có lẽ là đám mưa cuối cùng nên ông trời sút lu, đổ cái ào xuống cho xong. Chưa đầy một giờ đã tạnh. Người con trai ngồi sau lưng cô bỏ đi khi mưa chưa ngưng hẳn. Bộ đồ bà ba đen của anh ta ướt sũng. Chờ mưa dứt hột Như mới móc cái khăn mù xoa trong túi ra, lau yên xe thật khô rồi leo lên đạp tiếp.
Như đi qua mặt chàng trai ban nãy, không dám liếc nhìn cứ cắm mặt xuống đường. Những lớp bụi mịn đã biến thành bùn nhão nhoẹt, bám chặt bánh xe, giữ rịt chúng lại không cho đi dù chỉ một tấc. Như nhảy xuống, ngán ngẩm nhìn. Cô chưa biết phải làm sao thì nghe một giọng nói sau lưng :
-Cô để tui giúp cho.
Cái giọng nghiêm trang ấy khiến Như vững bụng. Cô quay lại nhìn anh, cười và nói :
-Anh làm ơn...
Không chờ Như nói hết câu. chàng trai đã xăn tay áo, vác ngay cái xe xuống mương. Anh cầm sườn xe bằng một tay, nhấc bổng nó lên chỉ để nửa cái bánh xe ngập trong nước, tay kia quay cái pê đan để rửa bánh sau. Ở bánh trước anh vừa đẩy vừa kẹp bàn chân vào sát bánh xe cho bùn rớt ra. Khi trả xe lại cho Như, anh hỏi :
-Cô đi về nhà hả ?
Như lắc đầu :
-Em đến thăm thầy Trứ, nhà thầy trong xóm đó đó !
Như chỉ tay về phía hàng gòn cao ngất. Chàng trai cũng cười rồi nói :
-Tui là Trác, con trai của thầy.
Như mừng rú:
-Em nghe thầy nhắc tới anh hoài. Anh được nghĩ phép, về thăm nhà phải hông ?
Trác gật. Như hỏi tiếp :
-Có được ở lại ăn tết hông anh?
Trác trả lời:
-Ngày mốt tui đi rồi !
Như tự trách mình khi không mà buồn lảng xẹt. Trác bóp cái bánh xe bằng hai ngón tay cái và trỏ rồi nói:
- Bánh xe bơm căng quá, chạy đường trơn dễ trợt lắm ! Để tui xì cái vòi cho nó xẹp bớt .
Vừa nói chàng vừa vặn ngược cái vòi, không hiểu sao khóa chặt trở lại rồi nói với Như:
- Thôi! Cô lên ngồi để tui chở cho.
Như riu ríu vâng theo. Trứ chạy lên lề cỏ sát mép mương, chàng giải thích.
-Chạy trên cỏ bánh xe không bết bùn. Cô co chân cao lên để hông thôi cỏ cứa vào đau lắm !
May mà Như mặc cái quần dài, ống rất rộng phủ kín cả hai bàn chân. Cỏ may bám kín lai trông như kết cườm rất đẹp. Bờ cỏ rộng chừng năm tấc, lạc tay lái là rơi tỏm xuống mương liền. Như sợ đến thót tim, hỏi Trác bằng cái giọng phập phồng:
-Có khi nào mình bị rớt xuống mương hông anh ?
Trác cười:
-Cô yên tâm đi! Đối với lính tráng tụi tôi, ba cái chuyện nầy dễ như húp cháo !
Như hỏi :
-Chỗ anh đóng có hành quân nhiều hông ?
Trác gật :
-Cũng lai rai.
Như lại hỏi :
-Ban nãy anh đi đâu mà bị mắc mưa vậy ?
Trác đáp :
-Tui đi làm cỏ lúa.
-Ruộng nhà anh ở khúc nào?
-Gần cái chòi đụt mưa lúc nãy.
Rồi Trác hỏi Như học lên tới đâu. Như trả lời là thi rớt tú tài một nên đi học may, vừa ra nghề nhưng còn ở lại tiệm làm công cho chủ. Trác hỏi :
-Tui thấy mấy cô thợ may hay để móng tay dài, nhứt là hai ngón cái. Để cho đẹp hay có công dụng gì ?
Như cười :
-Hai móng tay đó dùng để cạo cho đường may nằm sát xuống, hoặc làm dấu trên vải cho lẹ, khỏi mắc công xài cây vạch.
Trác pha trò :
-Nó cũng là vũ khí phòng thân nữa ! Đàn ông họ sợ móng tay phụ nữ lắm !
Như ngây thơ hỏi :
-Thiệt vậy hả ? Anh có sợ hông vậy?
Trác cười xòa, không đáp.
Ra đến con lộ lớn, đường bớt bùn vì có trải đá ong, Trác xuống xe, trả tay lái cho Như rồi nói :
-Đoạn nầy dễ, cô đi một mình được rồi đó !
Như nghe buồn buồn, tiếc tiếc...Phải chi con đường nầy cũng ngập bùn. Nàng cám ơn Trác rồi lên xe đạp đi, Trác chạy theo gọi :
-Nhà tui ở hướng nầy mà !
Như mắc cỡ đỏ cả mặt, không dừng xe mà bẻ cái ghi đông để quay ngược lại, bánh trước trượt lên lớp đất sét, chiếc xe nghiêng hẳn sang một bên sắp ngã. Trác vội phóng tới, bám cái giàn chở phía sau ghì lại. Chàng hỏi :
-Cô nhắm chạy được hông đó ?
Như lí nhí :
-Dạ được !
Rồi quên cả cám ơn đạp vút đi liền.
Đến nhà thầy Trứ, con chó vàng trước sân đang thất nghiệp, nghe tiếng người quen liền sủa rân mừng rỡ. Như cất tiếng :
-Thầy ơi ! Con đến thăm thầy nè !
Thầy Trứ đang lui cui sau bếp, nghe tiếng gọi liền chay ra, nạt cho con chó ngưng sủa rồi mở cửa cổng cho Như dắt xe vào. Thầy chắc lưỡi :
-Tội nghiệp dữ hông ? Mưa mà đi làm chi, để hôm nào có nắng hãy tới thăm thầy cho đỡ cực !
Như cười :
-Con đi hơn nửa đường mới bị mắc mưa. Cũng may...
Nói tới đó Như vội ngừng ngang. Thầy không hỏi thêm mà đi lại cái bàn tròn ngoài hiên, lấy chiếc bình tích đang nằm trong cái vỏ dừa khô, rót cho Như đầy một ly trà nóng. Có mùi cá kho khét, thầy chưa nghe ra là Như đã chạy xộc vào bếp, không kịp tìm đồ nhắc nồi. Hai bàn tay không, cầm liền vào hai lỗ tai của cái trách đất nhắc xuống, rồi chụp lẹ vào trái tai cho khỏi phỏng . Thấy rổ bông bí trên giàn bếp, Như hỏi:
-Bông bí nấu canh hay xào vậy thầy ?
Thầy Trứ vừa đáp vừa hỏi:
-Luộc ! Cá có khét hông con ?
Như đáp :
-Mới xém ở vách nồi thôi ! Cá kho như vầy là ngon lắm đó thầy !
Căn bếp của thầy quá quen thuộc đối với Như. Ba Như vỡ chà, có cá ngon thường sai Như mang qua biếu thầy. Nếu là cá Lăng, Như sẽ hái me, rau tần nhà trồng sẵn đem theo. Trên đường đi cô thường săn quần lội xuống mương, nhổ thêm mấy cọng bông súng để nấu cho thầy món canh chua bông súng cá lăng mà ông hết sức ưa !
Luộc rau xong, Như hỏi :
-Con dọn chén được chưa thầy ?
Thầy nói:
-Con để đó ra đây ngồi uống nước đi ! Chờ thằng Trác về rồi ăn luôn.
Không hiểu sao Như lại giả tảng, hỏi:
-Bộ anh Trác về phép hả thầy ? Ảnh nghỉ được mấy ngày vậy thầy ?
Thầy Trứ chép miệng :
-Nó xin phép được có một tuần hà ! Tội nghiệp vừa về tới nhà là chui đầu vô ruộng làm cỏ lúa liền. Ngày mốt đi rồi !
Như lại nghe tiếng chó sủa, tiếng mở cổng và tiếng thầy Trứ :
-Đi tắm liền rồi lên ăn cơm nghe con ! Bữa nay nhà mình có khách.
Như thót cả ruột sợ Trác trả lời là đã biết và đã gặp Như rồi, không nghe anh nói tiếng nào. Như thở phào nhẹ nhõm !
Bữa cơm diễn ra trong bầu không khí vui tươi, ấm áp. Lâu lắm rồi thầy Trứ mới hưởng lại được cái cảnh đoàn viên như thế nầy. Như vẫn còn đôi chút ngượng ngập. Trác cởi bỏ cốt cách trang nghiêm ban nãy, chàng cố kể những câu chuyện vui trong quân ngũ, đa số là chuyện có thật. Và dù anh cố chọn lọc, nhưng những câu chuyện mang mùi khói súng ấy đều thấp thoáng bóng dáng của nỗi buồn.
Được sự khuyến khích của ông Trứ, Trác đã gọi Như bằng em, xưng anh một cách thân mật. Chàng được biết Như là cô học trò cuối của cha, được ông thương yêu rất mực. Có lẽ vì bằng tuổi với người em gái út của chàng. Cô em gái đã gặp tai nạn và qua đời, khi chiếc xe đò chở cô bị mìn giật tung.
Trong thư gửi cho con trai, ông Trứ thường kể về Như nên Trác biết ba má cô là Việt Kiều hồi hương, để tránh nạn người Việt bị thảm sát sau đợt đảo chánh ở Cam pu chia. Như học trường Pháp nên tiếng Việt rất yếu.
Thầy Trứ dạy môn Việt Văn, phụ đạo miễn phí tại nhà cho các em học sinh kém cỏi. Thầy được hết thảy học trò và gia đình họ kính mến, đặc biệt nhất là Như. Lúc mới về nước việc học của Như gặp nhiều trở ngại. Chương trình học hoàn toàn bằng tiếng Việt nên cô khó tiếp thu. Chỉ ở Sài Gòn mới có trường Tây, học phí rất đắt nên ba má Như không kham nổi. Chính nhờ sự tận tâm của thầy mà Như đã bắt kịp bạn bè chỉ trong một thời gian ngắn.
Như vốn có tính hiền lành đa cảm. Những bi kịch liên tiếp xảy ra cho thầy ( sau khi con gái qua đời vợ thầy cũng phát bệnh và mất mấy tháng sau) khiến Như càng thêm gắn bó với thầy hơn. Nhà Như cũng không xa nhà thầy lắm nên hể rảnh là cô đạp xe qua nấu cơm cho ông. Sau nầy khi Như đi học may thì một tuần, hoặc nửa tháng cô mới ghé một lần.
Cả Trác và Như đều nghe thầy kể hoài về nhau. Như biết Trác học rất giỏi, thế nhưng thi lại rớt nên phải dính vào quân dịch. Trác biết Như rất hiếu học. Cô biết đọc, viết văn, làm thơ bằng tiếng Pháp, rất hiền và hết sức sợ ma.
Qua những câu chuyện được nghe, họ đã phát sinh lòng cảm mến lẫn nhau, nên khi gặp mặt tình cảm nãy nở cũng là lẽ dĩ nhiên. Cho dù không bộc lộ qua cử chỉ nhưng cả hai vẫn cảm nhận rằng, giữa họ đã xảy ra một điều rất đặc biệt.
Như rửa chén xong, ra nhà trên chào thầy để ra về cô không gặp được Trác. Nỗi buồn từ đâu rót đầy tim, cô nghe lòng mình trĩu nặng. Chiếc xe cũng vậy. Nó hết sức ì ạch, hai cái bánh cứ ôm chặt lấy mặt đường như không muốn chia tay. Nỗi lo về con đường lầy lội phải vượt qua khiến Như thêm tủi.
Lòng nàng chợt như nước vỡ bờ khi thấy ngay ngã ba rẻ vào con đường đất, Trác đã đứng đợi sẵn từ lúc nào. Không chờ chàng lên tiếng, Như dừng ngay xe lại. Trác nói:
- Đường chưa kịp khô đâu, để anh chở cho!
Như ngần ngại hỏi :
-Vậy rồi một lát anh phải lội bộ về nhà sao ?
Trác nhún vai :
-Chừng ba, bốn cây số chớ mấy ? Còn hơn để em vừa đi vừa gở sình, hoặc té xuống mương, khổ gấp mấy lần hơn mà hổng chừng tới sáng mới đến nhà !
Như trao xe cho Trác, lòng vừa vui vừa nhẹ nhõm. Họ lại đi trên bờ cỏ ban nãy. Ngồi ngay sau lưng anh, Như hồi hộp gấp đôi, tự hỏi không biết Trác có nghe tiếng tim đập thình thình như đang chạy nước rút của mình hay không ?
Tia nắng cuối ngày đã chui tận tâm trái đất khi Trác đưa Như về đến nhà. Như xuống xe, ắp úng mấy tiếng cảm ơn và nói:
-Chờ em đốt một bó lá dừa để anh cầm soi đường.
Trác lắc đầu, chỉ tay lên trời:
-Thôi khỏi, có trăng kìa!
Trăng đầu tháng mỏng dính như lá lúa, như chân mày của một mỹ nhân. Như bỗng thấy ghen với cái con trăng mảnh mai ấy quá chừng. Cô sẵn lòng đánh đổi những thứ quý giá nhất để được như nó, để có thể dõi theo Trác đến cùng trời, cuối đất. Muốn cầm chân anh được chút nào hay chút nấy, nên cô buột miệng hỏi một câu đã biết trước lời đáp:
-Chừng nào anh đi về đơn vị ?
-Ngày mốt !
-Ngày mai anh làm gì ?
-Nhổ nốt cái mớ cỏ...
Như đột ngột cắt ngang, hỏi bằng một giọng van xin:
-Cho em ra làm phụ với nha ?
-Thôi khỏi, còn ít lắm, anh làm một loáng là xong. Em có rảnh thì qua nấu giùm anh một mâm cơm cúng má. Tội nghiệp má quá ! Từ hôm anh về tới giờ chưa nấu được một bữa cơm cho ngon mà cúng.
Rồi chàng móc túi đưa cho Như một tờ giấy xăng màu xanh có in hình của đức Trần Hưng Đạo. Như không cầm, cô vỗ vô túi áo, nói:
-Anh giữ để mua quà cho bạn đi, em có tiền đây nè !
Trác nói nghiêm:
-Em phải nhận tiền, nếu không anh nhờ người khác đó !
Như giữ tờ tiền còn ấm trong lòng bàn tay, không cho ngay vào túi. Trác nói :
-Thôi em vô nhà đi. Ngủ sớm để mai dậy sớm đi chợ giùm anh.
Như vừa tìm ra thêm một lý do, cô hỏi :
-Má anh ngày xưa thích ăn món gì ? Em hỏi để biết mà nấu .
Trác đáp bằng giọng ân hận:
-Anh nào có biết ! Má toàn nấu những món mà mấy cha con anh thích thôi !
-Là những món gì vậy anh?
-Canh chua, cá kho, canh khoai ngọt, cá muối chiên, mắm các loại, bánh xèo, bánh ít trần...Em lựa món nào đơn giản mà làm, đừng có ôm đồm quá mà sanh bịnh.
-Thầy có mời ai hông anh?
Trác lắc đầu :
-Đâu phải ngày giỗ, chỉ có cha và anh thôi !
-Vậy hiện giờ anh thèm món gì ?
Trác suy nghĩ rồi nói :
-Mấy năm rồi anh chưa được ăn món gỏi sầu đâu. Sẵn cây sầu đâu trong vườn đang trổ tược non, hay em trộn cho anh một dĩa gỏi, thêm nồi canh giò heo hầm măng với nước cốt dừa và cá rô mề kho nữa là được.
Như lại hỏi tiếp:
-Anh muốn trộn gỏi sầu đâu với khô hay cá lóc nướng.
-Trộn với khô cho gọn, mà em trộn với cá sặc bổi nghe, lựa mấy con thịt hơi bủn cho ngon !
Rồi không để Như hỏi thêm, Trác đưa tay ngang trán chào đùa nàng theo kiểu nhà binh rồi quay lưng đi một nước, không ngoái lại lần nào.
Như áp tờ giấy bạc lên má, đứng nhìn theo cho đến khi cái bóng cao gầy của Trác mất hút, mới chịu dắt xe lững thững vô nhà.
Trước ngày trở về đơn vị, Trác xin địa chỉ của Như và hứa khi đến nơi sẽ gửi thư liền để nàng yên tâm. Thế là cứ cách vài hôm Như lại ghé nhà việc để xem có thư chưa. Như cứ nơm nớp sợ thư bị lạc bởi ở thôn quê chẳng nhà nào có địa chỉ hẳn hoi. Con đường duy nhất không có tên, cả ngàn căn nhà đều không có số. Ở mỗi bìa thư người gửi chỉ ghi tên của người nhận, cây số mấy, kèm theo những địa danh của tỉnh, quận, làng, xã... mà thôi ! Xóm Như có nhiều người trùng tên nên việc thư của người nầy đến tay người khác là chuyện bình thường. Để khỏi xảy ra nhầm lẫn, phải ghi thêm biệt danh, nghề nghiệp vào cái tên chính thức của người nhận. Nếu ai không có mấy thứ đó thì người gửi sẽ kèm tên cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ vào luôn cho dễ phân biệt .
Mấy ngày sau Như nhận được cả hai lá thư cùng một lúc. Trác gửi cho thầy Trứ và cả cho nàng.
Cầm hai lá thư trên đôi tay rung lẩy bẩy, Như nghe tội lỗi đầy mình, bởi thư của cô dày và nặng gấp ba. Để chuộc lỗi, Như phóng xe như bay đến giao cho thầy trước rồi quay về liền để đọc lá thư của mình. Đến cái chòi giữ dưa, Như dừng xe ngồi vào chỗ của Trác hôm ấy rồi mở thư ra đọc ngấu nghiến. Trác viết kín ba tờ giấy đôi vậy mà Như đọc vẫn chưa thấy thỏa.
Như ôm lá thư tình đầu tiên ấy bằng cả hai tay. Cô ghì sát nó vào ngực để trấn áp con tim đang rung, đang thổn thức, đang căng phồng vì một niềm vui quá lớn. Trác viết bằng giọng văn khá nhộn với những từ ngữ hết sức hóm hỉnh, chắc muốn Như vừa đọc vừa cười, vậy mà nước mắt của nàng cứ rơi hoài, rơi mãi. Nó bắt đầu chảy ra khỏi mắt ngay từ dòng đầu tiên và không chịu dừng dù đến chữ cuối cùng.
Trác cho biết suốt trên con đường chàng đi, mưa cứ đuổi theo sát ngót. Và vì lần đầu họ gặp nhau cũng do cơn mưa đưa đến, nên Trác có cảm giác rằng Như đang ngồi đâu lưng với mình, chỉ cần ngoái nhìn là thấy mà thôi !
Chàng nói ở nơi mình đóng quân, mưa rất buồn, rất lạnh, quần áo phơi lâu khô, nên ai cũng sợ nó. Ngày xưa chàng cũng thế, nhưng bây giờ lại cầu mong mưa đến mỗi ngày. Lạ là những tiếng rì rào quen thuộc đó, lại khiến chàng nghe lòng ấm áp. Nhờ có nỗi nhớ về Như, nên cái cảm giác cô đơn, chán chường lúc mưa không còn nữa.
Trác cũng khen cá lóc chà bông Như làm ngon lắm ! Và dù bị bạn bè trêu chọc nhưng Trác vẫn cố giấu để thưởng thức một mình. Rồi Trác dặn dò cô, mỗi khi qua thăm thầy nên đem thêm một bộ đồ nữa để phòng xa, rủi gặp mưa cũng có để thay ngay, khỏi sợ bị cảm lạnh. Chàng cẩn thận khuyên nàng đừng bơm bánh xe quá căng dễ bị trợt khi đi trên con đường băng ngang ruộng, vốn rất trơn.
Cuối thư Trác hẹn sẽ về thăm một ngày gần nhất khi xin được phép. Chàng cũng hy vọng tình hình sẽ sáng sủa hơn để sớm được ở hẳn lại nhà.
Tối đó Như chờ cả nhà ngủ hết mới dám đốt cái đèn trứng vịt, bưng vô mùng để viết thư cho Trác. Như viết nháp vào quyển tập trước rồi mới chép vào mấy tờ giấy pơ luya màu xanh mà nàng vừa mua cả một xấp dày. Lần đầu tiên viết thư cho một người con trai, ngay cái dòng đầu tiên là cô đã bị mắc nghẹn. Sửa đi, sửa lại, đọc tới, đọc lui đã đời mới viết vào tờ giấy mỏng. Như chùi cái ngòi viết cho thật sạch, cẩn thận gò từng nét. Viết chưa xong đã nghe tiếng gà gáy rộ.
Sáng hôm sau Như ghé nhà thầy, hỏi xem ông có viết thư trả lời chưa để nàng mang đi gửi giúp. Ông Trứ nhìn Như, cười thật hiền và nói :
-Thầy đã trả lời rồi đây, con dán tem và đi gửi giùm thầy. Mà con có tem chưa ?
Như nghĩ chắc thầy đã đoán ra họ có tình ý với nhau. Trác có gửi thư cho Như, nàng cũng viết trả lời ngay như ông, nên mới hỏi thế. Cô trả lời bằng cái giọng ngường ngượng :
-Con định đem lên bưu điện quận gửi cho nhanh, nên sẽ mua tem ở đó rồi dán tại chỗ luôn !
Thầy Trứ vẫn còn giữ nụ cười trên môi, ông nói :
-Con mua cho thầy với, tiền nè !
Như lật đật chào thầy, thót lên xe, đạp cái vù ra cổng để không phải cầm tờ giấy mười đồng mà thầy cố dúi vào tay.
Tội nghiệp con chó, nãy giờ nó cứ đứng chôn chân, nhìn Như đăm đăm, đuôi không ngớt ve vẫy, chờ được vuốt ve như những lần trước. Như bỏ đi mà không thèm ngó, tróc lưỡi cái nào, khiến nó cảm thấy hết sức tổn thương.
Con Phèn chạy theo Như ra tận cổng, hy vọng cuối cùng cô cũng cười với nó một cái. Thế nhưng mà...Chàng ta cụp đuôi xuống, sủa vói theo mấy tiếng bằng cái giọng trách móc, giận hờn rồi mới thủng thẳng quay vào nhà !
Ông Trứ cố đền bù cho sự hụt hẩng đó. Ông gãi nhẹ và lâu lên cái lưng đầy lông màu vàng cháy ấy, rồi kê sát tai nó nói nhỏ :
-Tụi mình bị ra rìa rồi Phèn ơi !
Chưa đầy một tuần sau, Như lại nhận thêm hai lá thư nữa, của cô vẫn dày và nặng hơn, thế nên lại mang đến cho thầy Trứ trước.
Thầy ngạc nhiên, nói với Như bằng giọng hóm hỉnh :
-Cái thằng làm biếng nhớt thây nầy, bây giờ sao mà siêng viết thư dữ quá !
Như mắc cỡ, không dám nhìn thầy. Cô đưa mắt ra sân, thấy cây mai đang chìa mấy cánh tay gầy nhom, trụi lủi không còn cái lá nào, liền hỏi :
-Sao năm nay thầy trẩy mai sớm quá vậy thầy ?
-Năm nay lạnh, trẩy sớm để nó nở đúng giao thừa.
Như hỏi:
-Năm ngoái anh Trác có về ăn tết với thầy hông vậy ?
Thầy Trứ lắc đầu, giọng buồn hiu:
-Đã ba năm rồi, thầy ăn tết có một mình !
Như nghe thương thầy đến xót xa. Cô nói:
-Thầy đừng gói bánh, kho thịt, muối dưa giá nha ! Để con làm sẵn bên nhà đem qua .
Thầy Trứ lắc đầu :
-Thầy không dám làm phiền đâu. Thợ may tết cực lắm !
Như năn nỉ :
-Con đâu có làm. Nhà con cũng phải gói bánh, kho thịt cúng. Con nhờ má làm thêm một ít phần thầy, đâu có khó khăn, nhọc nhằn gì !
-Vậy thì phải để cho thầy hùn vô, bằng không thì thôi!
Thầy nói bằng một giọng cương quyết. Như không dám từ chối khi thầy mở bóp, đưa cho cô hai tờ giấy xăng xếp thẳng băng.
Con Phèn nãy giờ ngóng mỏ chờ đến phiên mình, không còn kiên nhẫn nữa, cắn lai quần của Như giựt nhẹ để nhắc đến sự tồn tại của nó. Như sà xuống, vừa ôm vừa né cái lưỡi le dài sắp chạm vào gò má mình, bồng nó lên rồi thả xuống liền, quở :
-Mầy nặng dữ lắm rồi đó nghe Phèn !
Thầy Trứ giải thích :
-Anh Trác con cưng nó lắm ! Cho ăn liền xì nên nó ú nu, ú núc.
Như hỏi :
-Nó có nhớ ảnh hông thầy ?
-Nó buồn tới bây giờ đó con. Hễ thấy ai đi ngoài đường cũng đâm đầu chạy ra, ngó theo miết.
Còn Phèn làm như thể biết nghe tiếng người, đang ngồi chống chân, nghe nói vậy bỗng co giò chạy vù ra cổng. Chẳng thấy ai, nó quê quá nên tha trái me dốt rụng trên sân đem vào cho Như.
Thầy Trứ nhìn lên cây me rồi nói:
-Năm nay me sai trái hơn mấy năm trước. Trái chín không đều, có trái dốt teo, có trái dốt bột. Những trái già sắp dốt làm mứt me ngon nhứt. Cơm nó dày, vỏ cứng, sắp tróc, lột dễ ít bị đứt tay. Con Út mà còn sống, là hái liền để làm mứt gửi cho anh hai của nó. Thằng Trác khoái món mứt nầy thượng hạng.
Như đột ngột đứng lên xin phép thầy về liền. Tới ngã ba cô không rẽ vào con đường đất để về nhà mà chạy luôn lên chợ. Như ghé mua me để làm mứt cho Trứ. Cô đi khắp chợ chọn cái thúng me tươi nhất, lựa được hơn ba chục trái thật ngon, vỏ căng bóng, không bị trầy một tí nào.
Như ghé cái tiệm tạp hóa đầu chợ, mua thêm một ký đường, hai đồng bột thạch cao phi, một gói va ni và giấy kiếng trong để gói. Tỏ, con trai con người chủ tiệm, ngày trước học cùng trường và trên Như hai lớp. Y ta cũng thi rớt, trốn quân dịch nên ở nhà bán hàng phụ gia đình, vừa cân đường vừa hỏi :
-Cô mua đường làm mứt hả ?
Như "dạ". Tỏ hỏi tiếp:
-Cô làm mứt gì vậy ?
Như trả lời gọn lỏn :
-Me.
Tỏ cười, nói nịnh :
-Mứt cô làm chắc ngon số một.
Như lắc lầu :
-Đâu có!
Tỏ thảy gói đường lên một dĩa cân, đặt cục cân bằng sắt có ghi số một trên mặt, lên cái dĩa bên kia. Dĩa cân đựng gói đường nặng hơn nên chìm sát xuống. Y ta chẳng múc bớt ra thì thôi, còn cho vô thêm một muỗng đầy nhóc. Như nhắc :
-Anh cân giác quá rồi, còn cho thêm nữa coi chừng lỗ đó !
Tỏ cười :
-Tui cố tình hùn vô để tết tới nhà ăn ké mà !
Như đáp hấp tấp :
-Cái nầy tui làm giùm bạn, đâu có giữ lại nhà để ăn đâu mà đem ra mời khách.
Tỏ nhìn Như, cười rồi hỏi đùa:
-Bộ cô chừa cho tui một trái cũng không được nữa sao ?
Như lắc đầu, cầm gói đường, trả tiền rồi bỏ đi một nước, tự hứa không ghé cái tiệm đó nữa.
Má Như thấy cô lui cui đi rữa me, ngâm muối thì rầy :
-Cái thứ mứt nầy làm cực thấy mồ ! Nào là tách vỏ, khựi hột cho nhẹ tay để nó không bị gãy, bị nứt. Nào là sên đường cho thấm, cho trong rồi phơi năm bảy nắng. Nào là gói vô giấy kiếng cho thẳng, cho đẹp nữa. Cực chẳng đã mới làm để khoe giỏi, khoe khéo với má chồng. Con có thèm thì để má mua vài trái cho mà ăn, đừng có làm cho khổ cái thân!
Như vừa khuấy mạnh tay vào thau nước để mấy hột muối tan nhanh, vừa lắc đầu :
-Người ta làm để bán, họ bỏ đường tinh ăn độc lắm má ơi !
Những trái me dù được Như o bế hết sức, vẫn không thể trong veo như nàng mong muốn vì trời thiếu nắng. Thế nhưng nó vẫn được Trác nhiệt liệt ca ngợi trong bức thư sau đó. Lá thư ấy và cái tết đến cùng một lúc nên đối với Như, nàng xuân hầu như đã hoàn thành bổn phận.
Có lẽ Như là một trong những người may mắn, không bị khói lửa chiến tranh làm cháy mày, phỏng mặt. Cái tết Ất mẹo ấy cho dù màu sắc có phần ảm đạm, cho dù cây mai nhà thầy Trứ hể bông vừa trổ là rụng liền, nhưng lòng cô vẫn rộn ràng với những hình ảnh về tương lai đang nằm lộn xộn trong đó. Như tha hồ đắm chìm trong những giấc mơ và hết sức phung phí óc tưởng tượng của mình. Niềm vui hừng hực trên gương mặt cô, đã giúp tảng băng lo buồn trong lòng thầy Trứ tan chảy một phần.
Cô như đang sống trong một hành tinh khác. Nơi đó chỉ có Trác và một vài người mà họ thương yêu nhất. Những sự việc xảy ra trong ấy hết sức lung linh, huyền ảo, chỉ chứa đựng toàn những cái đẹp, điều thiện và không chịu ảnh hưởng bởi bất cứ một lực cản, một ác nhân nào. Nó như được tạo thành từ một chất rất trơn, rất cứng. Những vật thể thô, cứng chạm vào, đều không thể bám dính và làm nó sứt mẻ tí ti gì.
Cho nên dù tình hình chung đang ngày càng dầu sôi lửa bỏng, nhưng những bài bình luận thời sự với những câu kết hết sức lạc quan, cùng những bức thư mang đầy lời thương yêu, hứa hẹn của Trác, đã khiến cô hoàn toàn tin tưởng rằng, cái đám cưới của họ sẽ xảy ra trong một ngày không xa lắm!
Tết năm ấy thay vì đi chơi với bạn. Mỗi sáng Như đều đạp xe đến nhà thầy, nấu cơm cúng, ở lại ăn cùng ông rồi mới ra về. Trong mâm cơm hầu như có cả sự hiện diện của Trác. Anh như đang ngồi đối diện cô, mĩm cười ngượng nghịu khi nghe cha luôn miệng nhắc về những trò tinh nghịch của mình.
Má Như đã sinh nghi từ việc làm mứt me nên bắt đầu để ý. Cho dù rất lo âu, bà cũng chẳng nỡ phá hỏng giấc mơ vừa chớm của cô. Bà làm tất cả những điều Như yêu cầu, một phần vì thương con gái, một phần bà rất quý mến thầy Trứ. Nhưng trên hết là do bà cho rằng, việc an ủi, giúp đỡ những người có hoàn cảnh như thầy và Trác là bổn phận của hết thảy mọi người.
Sáng mùng ba, Như vừa từ nhà thầy về, đã thấy ngay một chàng trai đang ngồi ở bộ sa lông đặt chính giữa gian trước.
Bộ đồ dân sự và mái tóc cắt kiểu "ca rê" của anh ta làm Như hụt hẩng. Cô đã đoán ra là ai ! Y ngồi quay lưng về phía Như nên cô chạy vòng ra cửa sau để tránh. Vừa dựng xe vào cây ổi cạnh sàn nước là má Như sấn tới nói nhỏ bên tai:
-Thằng Tỏ nó đợi con từ sáng tới giờ. Má nói là con đi chơi nhà bạn. Ra nói chuyện với nó một chút đi con, tội nghiệp người ta !
Như cau mày, lắc đầu rồi không vào nhà mà đi thẳng ra vườn. Cường độ yêu của cô dành cho Trác càng cao thì tính ích kỷ càng tăng. Như không ngần ngại, gạt thẳng tay những người được xem là vật cản. Cô nói :
-Con không ưa y, con không ra đâu!
Gương mặt Như thể hiện sự cương quyết khiến bà không dám ép, đành chắt lưỡi mấy cái rồi nhìn theo một cách ngán ngẩm.
Như ngồi xuống chiếc võng máng trên hai cây lồng mức. Bóng cây, tựa như nỗi buồn, ngã sấp lên người Như làm cô nghe tức thở. Cảm giác y hệt lúc bị cái mùng đứt dây úp gọn lên người.
Ôi, phải chi người chờ cô là Trác. Phải chi Trác có mặt bên cô trong những ngày nầy. Phải chi cô được cùng anh đi dạo trong ngôi vườn, và cùng ngồi trên chiếc võng. Cô sẽ mặc chiếc áo đẹp nhất của mình, đi đôi guốc quai nhung màu đen có gắn cườm, đội cái nón bài thơ mới tinh được viền quanh vành bằng xoa tím với cái quai cùng màu.
Như thấy căm ghét cái cuộc chiến nầy quá thể ! Lần đầu tiên Như nhận ra khoảng cách giữa họ sao mà dài thâm thẫm. Như nghe nhớ Trác đến đau lòng. Cô quay vô nhà, lấy xe đạp ra cái chòi giữ dưa.
Ngày tết, cánh đồng vắng tanh chẳng một bóng người. Lúa rạp mình chào, nhận ra sự hờ hững của cô nên giận dỗi ngóc đầu lên liền rồi đứng im phăng phắt. Vết xe đè trên cỏ cũng không còn nữa. Những bụi cỏ may, hôm nào thêu đầy hai ống quần, làm cô phải nhặt cả mấy tiếng đồng hồ mới sạch, vẫn còn xanh ngăn ngắt, nhưng hoa đã rụng. Cánh đồng, bờ cỏ, con mương... những ngày tết hình như bị quên lãng, mang vẻ lạc lõng, tủi và buồn đến tội !
Tấm giạt trong chòi bị nắng trưa nung nên ấm như có ai mới ngồi. Hình như đã có một đôi nào đó vừa hò hẹn tại đây vì xác mía rải đầy trên cỏ còn chưa kịp khô. Không thể chỉ là một người bởi ai mà thích ngồi ngoài đồng một mình vào những ngày nầy. Nếu có một người nào đó cùng tâm trạng với cô, chắc chắn y chẳng còn hơi sức đâu mà nhớ tới cái ăn, đem mía theo để xước ? Chỉ khi có hai người họ mới chuẩn bị chu đáo để bày tỏ sự quan tâm, săn sóc lẫn nhau thôi!
Như lấy trong túi áo mấy lá thư mà lúc nào cô cũng mang theo bên mình ra đọc. Những lá sau ngày một dài hơn nên mấy chiếc áo bà ba của cô, hai cái túi luôn căng phồng bởi chứa đầy nhóc. Một hôm bà chủ tiệm may, vỗ vào đó rồi nói :
-Đem tiền kè kè trong mình, bộ không sợ bị rọc túi hay sao ?
Như mĩm cười biết bà nói đùa, bởi ở quê Như xe đạp bỏ suốt ngày ngoài hiên còn không mất thì làm gì có cái nạn móc túi. Thế nhưng Như vẫn may thêm túi vào quần, cô đặt nó nằm phía trong, sát cái lưng thun để không ai thấy.
Sau tết gần một tháng Như lại nhận được thư, lần nầy chẳng những Trác chỉ viết riêng cho cô thôi, mà còn dày gấp đôi những lá thư trước. Như mở ra xem, trên tờ giấy vẽ màu trắng ngà, là đôi mắt nhìn thẳng, cái miệng hơi hé của cô được Trác ghi lại bằng bút chì rất đẹp. Như hết sức cảm động ! Dù thời gian gặp nhau hết sức ngắn ngủi, Trác vẫn kịp nhớ những đường nét trên khuôn mặt cô đến từng chi tiết nhỏ. Ngay cả cái nốt ruồi núp trong vành tai chàng cũng nhận ra. Như bỗng nhắm mắt lại, tưởng tượng về Trác. Ngạc nhiên biết bao! Thay vì gương mặt, cái lưng áo ướt mưa lại hiện rõ mồn một trong đầu nàng.
Thế là trong lá thư hồi âm ngay sau đó, Như nài nỉ Trác tự họa chân dung để gửi cho cô. Như viết trong dòng tái bút :" Em chưa nhìn kỹ gương mặt anh, chỉ mới biết rất rõ cái lưng mà thôi !"
Rồi Như chợt nhớ ra, mỗi lần đối diện nhau, hể bắt gặp ánh mắt Trác là cô lại nhìn xuống đất, đâu dám nhìn đủ lâu để nhập tâm từng nét. Chỉ khi ngồi sau lưng anh trên chiếc xe đạp, Như mới tha hồ dán mắt vào cái lưng cong cong và chiếc cổ gầy nhom của anh. Như kêu thầm :
-Tròi ơi ! Tới gương mặt của người ta mà mình còn chưa nhận rõ. Tại sao lại thương đến trọc tóc, tróc đầu như vầy hả trời ?
Viết thư xong Như mang đi gửi liền. Trên đường đi cô ghé nhà thầy Trứ để xem ông có cần chi không.
Nhà thầy nằm giữa ngôi vườn rộng. Những cây gòn lớn gốc to hơn một vòng ôm, cao đến độ mây bay qua bị níu rách áo, được trồng quanh khu vườn để làm rào. Thầy nói chúng lớn hơn, hoặc ngang tuổi mình, vì do cha của thầy trồng. Trẻ hơn chúng là những cây cau, dừa, tre, trúc, tầm vông. Vú sữa, lồng mức, ổi, mít, mận, chuối... trẻ nhất nên vẫn cho trái nhiều và đẹp.
Con đường nhỏ bề ngang độ một thước, được cẩn vỏ sò chạy thẳng từ cổng vào nhà. Cánh cổng bằng cây đóng thưa rỉnh, lỏng lẻo y như một tên lính canh suốt ngày ngủ gục.
Con Phèn vẫn là người đầu tiên chạy ra đón, ngay khi Như vừa thắng xe lại. Nó dùng chân đẩy miếng gỗ gài ngang một cách thành thạo để mở cửa, đuôi vẫy tưng bừng, lon ton đi trước dẫn đường. Như dắt xe đi theo sát gót, thích thú nhìn những bóng nắng rơi đều đều lên lưng nó rồi rớt xuống đất mà không bị vỡ một chút nào.
Ông Trứ đang ngồi chăm chú viết, ông để hết tâm trí vào công việc nên chưa nhận ra sự có mặt của cô. Con Phèn đã được rèn cặp kỹ, không dám sủa một tiếng nào trong khi ông làm việc, chỉ chạy đến cọ nhẹ vào chân. Ông ngẩng lên nhìn, nhận ra Như liền nói:
-Con ngồi chơi, thầy viết sắp xong rồi.
Như dựng xe vào cây vú sữa, múc nước trong lu ra rửa mặt, ngồi lên chiếc võng bện bằng vải vụn còn mới tinh rồi lấy khăn ra lau mặt. Cô nhìn cái võng bằng đôi mắt thán phục, số vải vụn cô mang lại hôm trước đã biến thành một chiếc võng rất đẹp.
Thầy Trứ vừa buông cây viết, thấy Như nhìn cái võng một cách chăm chú nên hỏi :
-Con có thích nó hông ?
Như lập tức gật đầu :
-Dạ, con thích lắm đó thầy ! Không ngờ mấy miếng vải ngắn ngủn ấy lại làm được một cái võng chắc và đẹp như thế nầy !
Thầy nói một cách thích thú :
-Con mót thêm một mớ vải vụn đem lại, để thầy thắt cho một cái mà nằm.
-Dạ, chắc hơi lâu một chút. Qua tết ít ai may đồ lắm thầy. Hôm nay con đi chợ quận, thầy có cần mua món gì hông thầy?
-Thầy chỉ nhờ con gửi cái thơ thôi. Thầy hết bao thư rồi, con mua giùm, ghi địa chỉ và gửi cho thầy luôn nhé !
Ông hơi ngần ngại một chút rồi nói thêm:
-Con thấy ai bán quít si ma thì mua giùm thầy mấy trái nữa.
Như dạ rồi hỏi :
-Bộ thầy thích ăn cái trái nầy sao ?
Thầy Trứ cười:
-Thầy ghét nó nhứt hạng, nhưng vợ thầy ưa lắm ! Hồi đó bả có trồng một cây. Mùa nước năm kia nó chết rồi. Thầy đi kiếm cây con về trồng để có trái cúng bả mà tìm không ra. Mấy năm nay bả không được ăn nó nữa, chắc là thèm lắm ! Con có thích nó hông ?
Như thè lưỡi, rút vai, lắc đầu :
-Nhắc tới con còn sợ ! Có lần bà ngoại bẻ một trái bắt ăn. Con nhai hoài nuốt không có nổi! Ráng căng cổ, trợn mắt, đẩy xuống cho bằng hết để ngoại vui, nên ngán tới bây giờ. Bà ngoại con khoái nó dữ lắm ! Chẳng những ăn chơi chơi, ngoại còn pha vô bột gạo để làm bánh xèo nữa. Ngoại trồng tới hai cây, để ăn hà rầm khỏi phải mua.
Thầy Trứ bán tín, bán nghi, hỏi:
-Bánh xèo có quít si ma ? Thầy chưa nghe qua lần nào. Con ăn chưa ? Có ngon hông?
Như gật đầu :
-Dạ ngon lắm thầy, vỏ bánh xốp và giòn hơn thứ thường.
-Cái mùi có giống bánh xèo hông ?
-Dạ giống ! Nhờ bột nghệ áng mất tiêu cái mùi kia. Cái màu của nó vàng tươi, đẹp lắm thầy à ! Để mai mốt rảnh, con qua ngoại hái mấy trái đem về làm cho thầy ăn thử.
Thầy Trứ can:
-Chừng nào ngoài chợ có bán thì mua. Nghe nói nhà ngoại con ở tận Tân Quới, xa lắc mà còn phải qua đò mắc công lắm !
Như khăng khăng:
-Từ tết tới giờ con chưa ghé thăm ngoại. Lần nào con tới ngoại cũng đều nhờ hái quít si ma. Sẵn hái cho ngoại con hái cho thầy luôn, đâu có mắc công gì ! Huống hồ bây giờ ít người ăn, nên chắc kiếm đỏ con mắt cũng không ra chỗ bán ! Cái trái nầy hình như chỉ có ở xứ mình là có tên đó, còn những chỗ khác người ta gọi là Lê ki ma phải hông thầy?
-Đúng rồi đó con ! Người Bắc gọi là trái trứng gà, tại cái thịt nó ăn bùi bùi, bở bở, giống hệt tròng đỏ trứng gà.
-Sao trái cây Việt Nam mà mang tên tây vậy thầy ?
-Trái nầy tổ tiên của nó ở bên tây chớ đâu có phải ở nước mình. Người Pháp họ đem qua đây trồng, nên mới có cái tên lai căng như vậy.
- Hình như nó bổ ghê lắm ! Ngoại con nhờ ăn nó thường xuyên nên ít bị bịnh vặt. Bà năm nay đã tám mươi rồi mà mắt còn sáng trưng, tự mình xỏ kim không cần nhờ ai hết !
-Cũng hổng hẳn ! Vợ thầy cũng ăn đều đều mà mất lúc chưa đầy năm mươi tuổi. Chắc tại lúc đó bả lo buồn quá ! Cái phần tinh thần quan trọng lắm đó con ! Mấy ông vua ngày xưa ăn toàn cao lương mỹ vị, ngon, bổ nhứt trên đời mà ít ai sống thọ, tại trong bụng họ cứ lo đủ thứ.
Nói tới đó thầy dừng lại, gấp tờ giấy đôi lại làm bốn rồi nói :
-Con chưa dán thơ thì bỏ vô luôn cho khỏi tốn một con tem. Nắng lên cả sào rồi, con uống ly trà rồi đi liền để một lát trời nóng ra đường mệt lắm !
Như không dám nói với thầy là mình đã dán thơ rồi. Cũng may lần nầy cô dán bằng cơm nguội nên gở ra cũng dễ, nếu hái lá mít hay lá vú sữa để lấy mủ dán thì "trời cứu" !
Như thôi không gãi cái cổ, cái tai của con Phèn nữa, xô nó ra, phủi áo rồi đứng lên đón ly trà thầy Trứ trao cho. Cô uống cạn, hắt chút cặn ra sân, úp ly xuống khay, khoanh tay chào thầy rồi dắt xe ra cổng. Thầy Trứ và con Phèn cùng đi theo. Con Phèn lại lăng xăng chạy trước để giành mở cửa. Như tróc lưỡi một cái với nó, gật đầu chào thầy thêm lần nữa, rồi mới đội cái nón lá lên đầu. Trước khi lên xe, cô móc túi lấy hai cây kẹp phơi đồ, kẹp sát hai ống quần lại cho khỏi bị quấn vào dây sên, bỏ chân mặt qua sườn xe, nhấn mạnh cái bàn đạp thật mạnh lấy trớn rồi mới thót lên yên ngồi.
Đến Ty Bưu điện, Như móc túi lấy lá thư của mình ra trước, lấy móng tay lòn vào khoảng trống ở góc, lách từ từ cho nó bung ra, dễ còn hơn lòng mong đợi. Cô lấy từ túi áo bên kia lá thư của thầy Trứ ra để cho vào chung. Lá thư nhảy ra khỏi tay, gieo mình xuống đất, hai trang giấy mở bung như mời mọc. Như liếc nhìn vào thấy tên mình lềnh khênh ở trỏng thì hết sức tò mò.
Ngày trước Như học trường tây, cảm thụ lối giáo dục tây phương, coi trọng tự do cá nhân nên việc xem lén thư của người khác chẳng những hết sức bất lịch sự mà còn bị coi là phạm pháp nữa. Biết vậy nhưng cái tính tò mò cứ liên tục thúc đẩy. Như chợt nhớ hôm trước vừa đưa cho thầy một xấp bao thơ đúng hai chục chiếc. Như đếm số thư mình gửi, biết thầy xài chưa tới phân nửa chớ nói gì đến hết! Nghĩ vậy nên Như cho rằng, thầy chắc muốn cô đọc bức thư nầy nên mới để ngỏ như vậy. Không còn do dự nữa, cô ngồi lên cái băng ghế trước cái bàn dài có mấy chén hồ khuấy để sẵn, cầm lá thư lên tay ngấu nghiến đọc:

"Trác con !
Tết năm nay có lẽ là cái tết ấm áp nhất vì cha không phải một mình mà luôn có Như bên cạnh !
Bàn thờ của má con cũng tươm tất hơn mọi năm, bông trái chưng hực hở, bánh mức đủ loại, thức ăn ngon lành sạch sẽ.
Như nấu ăn rất khéo, mùi vị các món ăn y hệt như lúc má con còn sống. Lâu lắm rồi cha mới tìm lại cái hạnh phúc êm đềm, cái cảm giác khoan khoái khi bưng chén cơm nóng, ngồi trước một mâm cơm tươm tất. Cha bỗng thấy tiếc cho má con hết sức, nếu còn tới bây giờ chắc bà sẽ thương Như nhiều và mừng cho con lắm !
Cha bỗng nhận ra rằng, mình không còn coi Như là một đứa học trò nữa. Tình cảm cha dành cho Như cũng y hệt, bằng chan như cho em Trúc của con. Và vì coi Như là con gái nên cha nói với con, những yêu cầu của cha về một chàng rể quý !
Cha muốn con gái của cha có một người chồng tốt. Đủ bản lãnh để bao bọc, chở che, làm chỗ dựa cho nó, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả tinh thần nữa.
Cha muốn con gái của mình có một người chồng luôn chung thủy, thương yêu và trân trọng hết mực.
Cha muốn con gái của mình có một người chồng không hà tiện những lời nói, những cử chỉ âu yếm để bày tỏ lòng thương yêu dịu dàng mà sâu sắc.
Đến bây giờ cha vẫn còn bị niềm ân hận dày vò. Ngày xưa cha ít săn sóc, khen tặng, bộc lộ lòng biết ơn về lòng tận tụy của má con. Cha biết chắc rằng có những lúc má con rất buồn, rất tủi và không chỉ một lần.
Cha biết Như đang yêu con, đang mơ mộng đến độ quên đi thực tại, một thực tại mà buồn thay, không mấy sáng sủa lắm !
Cha đoán rằng chiến tranh sẽ sớm chấm dứt trong một ngày gần đây và những người như con sắp đối mặt với một sự thử thách hết sức là nghiệt ngã !
Đọc thư con, cha nhận ra những tư tưởng bi quan, đắng cay trong đó. Con cho rằng những xương máu mà con đã đổ ra, bỗng chốc sắp trở thành vô nghĩa. Cha không đồng ý với con, bởi ta chẳng nên đem thành bại mà, luận anh hùng. Con đã cống hiến hết mình và cái mà cha vui không phải là con đã tạo dựng được những gì, mà là con đã sống như thế nào! Cũng không nghĩ rằng cuộc đời con đang thất bại bởi ngay cả cọng cỏ mục cũng trở thành phân bón để giúp đất thêm màu mỡ.
Hơn nữa bên cạnh con còn có Như. Không phải ai cũng gặp duyên may như con, cha cho rằng chỉ riêng điều nầy cũng đủ lấp đầy những khoảng trống trong lòng con.
Ngày xưa cha cũng như con vậy ! Nghĩ rằng sự nghiệp mới chính là cái xương sống của đời trai. Từ khi má con mất đi, cha mới biết rằng thương và được thương mới là điều quan trọng nhất !
Chắc con đã nghe câu "nếu chúa đóng cửa cái thì ngài sẽ mở cửa sổ". May mắn thay ! Ở con, ngài chỉ đóng cửa sổ và đang mở cho con một cánh cửa cao rộng gấp mấy mươi lần.
Chắc chắn cuộc sống của con rồi đây sẽ không dễ dàng, nhưng vì vậy mà niềm vui đưa đến khi vượt qua nó sẽ vô cùng to lớn.
Hãy vứt bỏ những hành lý cồng kềnh, những tư tưởng cổ lỗ, những giáo diều giả dối. Mục đích con bây giờ là phải cố làm sao hết sức tránh những ý nghĩ tiêu cực, những hành vi táo bạo. Con phải cố bảo vệ mình, tránh xa lằn tên, mũi đạn càng nhiều càng tốt.
Bổn phận đối với gia đình và xã hội coi như con đã trả xong, giờ con chỉ có một bổn phận duy nhất là phải mang đến cho con và Như một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Hai con rất xứng đáng để được hưởng điều đó !
...
Đọc xong lá thư mắt Như đã nhòe nhoẹt. Như xếp ngay lại để không làm lem những dòng chữ trên đó. Không còn hối hận vì biết chắc rằng thầy muốn mình đọc bức thư nầy. Thầy muốn Như chuẩn bị trước tinh thần, bình tĩnh đón nhận sự thay đổi hết sức lớn lao sắp xảy ra.
Như cố tưởng tượng ra những tình huống xấu nhất có thể sắp đến, nhận ra rằng chỉ có một điều khiến mình gục ngã. Đó là Trác mãi mãi không về với cô.
Như không làm theo lời thầy mà mua một xấp bao thư mới, rồi ghi tên và số KBC của Trác vào. Cô gò từng nét, cố bắt chước sao cho thật giống tuồng chữ bên trong. Phải đến cái bao thư thứ bảy cô mới hài lòng, cho lá thư vào, dán tem rồi bỏ vô thùng thư.
Như ghé chợ khi trời đã đứng bóng. Chợ trưa vắng hẳn người mua. Cô dắt xe thong thả đi vào nhà lồng, nơi trái cây bày đầy trên mấy cái sạp dọc theo lối đi. Như tìm chăm chú, nhìn thật kỹ từng cái rỗ đựng trái cây trong từng gian hàng một. Đang thất vọng thì cô bắt gặp ở cuối lối đi, một bà cụ rất già ngồi xổm trên đất với cái thúng đựng hai thứ trái cây: Ổi xanh và quít si ma vàng óng. Bà cụ còn già hơn ngoại của như, cái miệng móm sọm, chắc những cái răng đã bỏ bà theo nhau đi hết. Bà chắc chắn không phải là người bán hàng chuyên nghiệp. Tưởng tượng cái cảnh bà bưng cái thúng, xách cây cù móc ra vườn, ngước đầu che mắt nhìn lên từng cây, tìm trái chín để bán lấy tiền mua một chai dầu Nhị thiên đường, hoặc hộp cù là Mát su để dành cạo gió, khiến Như mũi lòng.
Cụ thấy Như dừng xe thì nét mặt lộ vẻ vui mừng. Bà mời:
-Mua giùm đi cháu, bà bán rẻ cho !
Như mua hết mười một trái quít si ma của bà. Vườn nhà Như trồng ổi nhiều hơn các cây khác, trái ăn không hết, chín rụng khắp vườn, nên cô không dám "mão" luôn mớ ổi sợ bị má rầy.
Cô xin mấy miếng lá chuối khô mà bà đem sẵn theo để gói. Cả hai cùng bọc từng quả vàng tươi, láng mướt, sắp cẩn thận vào cái giỏ đệm của Như.
Như đưa cho bà tờ giấy năm chục đồng và nhứt định không cầm tiền thối. Bà lão nhìn theo cô với nụ cười trống toác...
Ngay thời điểm đó, trên trái đất, chắc chắn không có ai hạnh phúc bằng Như và bà lão ấy.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 09:35:24 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 28.09.2019 09:24:56
DẦU XANH
Đoản văn Lâm Du-Yên
 

Không biết từ khi nào, chai dầu hiệu con ó, hay còn gọi là dầu xanh vì có màu lá cây đậm, được hầu hết bà con ta, từ thành thị đến thôn quê hết sức ưa chuộng.
Nó là mặt hàng gần như bắt buộc mà mọi Việt kiều phải thủ sẵn vài lố trong va li để đem về tặng. Có thể nói rằng "phi dầu xanh, bất thành Việt kiều". Không có chai dầu đó, cho dù da họ có trắng bóc, quần áo có mùi thơm đặc trưng mà dân nội địa dẫu giàu nức đố đổ vách cũng chẳng thể nào có được, cho dù trong câu nói thỉnh thoảng họ vô tình chêm vào mấy từ lạ tai, cũng không được chào đón như một việt kiều chánh hiệu. Ánh mắt mọi người nhìn họ sẽ hơi lành lạnh, bởi thiếu mùi vị thơm nồng của chai dầu gió có hình con ó. Nó, chính nó chứ không ai khác, chẳng những giúp ấm hai cái màng tang, chót mũi, rún...mà còn len sâu vào tim giúp bà con ta ấm áp cả tấm lòng.
Chai dầu xanh đã vượt xa cái chức năng "ngừa phong, đón gió" đơn thuần. Nó trở thành một món trang sức. Khi mà những gia đình có thân nhân sống ở nước ngoài "lên đời" vù vù, thì chai dầu xanh nằm trong túi áo, túi xách của một ai đó, giúp nâng vị trí của chủ nó lên thêm một bậc. Cho nên...

Bà Ba móc chai dầu xanh trong túi áo ra khoe với bà Tám :
-Hôm trước thằng Ơn ghé thăm, cho tui chai dầu xanh nầy nè !
Bà Tám cười hì hì:
-Nó cũng có ghé thăm tui, cũng cho tui một chai y hệt. Tui đem cho con Út liền, nó mới sanh nhường cho nó xài, tui quen cái mùi dầu Nhị thiên đường rồi, đổi dầu khác chịu hổng nổi!
Bà Ba cũng cười, nói với vẻ hài lòng :
-Thằng Ơn nó đi thăm giáp xóm không có bỏ sót nhà nào. Vợ chồng Năm Câu coi vậy mà có phước, sanh được thằng con ăn ở có tình, có nghĩa hết sức !
Bà Tám chắc lưỡi:
-Tội nghiệp! Hai vợ chồng họ sao mà vắn số quá! Phải chi sống tới bây giờ thì vui biết mấy. Nghe nói hôm thằng Ơn ra thăm mả, nó khóc thôi là khóc.
Bà Ba chép miệng :
-Nó khóc cũng phải. Tại tưởng nó chết nên hai vợ chồng y mới buồn rầu đổ bịnh, rồi mất sớm như vậy. Mà nó làm hai cái mả cho ổng bả đẹp nhứt xóm, chắc họ mát bụng lắm.
Bà Tám hỏi:
-Nghe nói nó giàu lắm hả chị ?
Bà Ba gật đầu :
- Chắc là vậy rồi. Hổng giàu thì làm sao mà mua tặng giáp xóm mỗi nhà một cái bình lọc nước được? Ai mà ngờ bây giờ nó vừa giàu có, lại cao to trắng trẻo, bảnh tỏn quá trời, quá đất ! Nhớ hồi mới chui ra, nó y như con mèo ướt. Bà mụ Thắm đưa, tui còn hổng dám bồng.
Bà Tám lại chắc lưỡi thêm lần nữa, nói:
-Mới đây mà mấy chục năm, lẹ thiệt! Nhớ hồi nào...

Mấy mươi năm về trước, đúng mùng hai tết, khi cả xóm cây me đang tập trung vào mấy sòng bài ngoài sân. Con nít người lớn đang xúm đen, xúm đỏ, ì xèo cười nói, cãi cọ... thì có tiếng gọi thất thanh từ dưới bến sông:
-Bà con ơi! Cứu giùm vợ tui !
Thằng Nho làm cái, Hai bàn tay đang chia bài thoăn thoắt vội ngưng ngang. Mấy "tay em" gom tiền rồi vọt liền xuống bến ông Ba, nơi phát ra cái tiếng kêu thảng thốt đó.
Chưa đến nơi, mấy chục cái miệng đã nhao nhao :
-Chuyện gì ? Chuyện gì vậy ?
Người đàn ông đứng trước mũi chiếc xuồng nhỏ xíu, có cái mui như hai hàn tay chấp lại, nói như khóc :
-Vợ tui chuyển bụng từ khuya tới giờ mà chưa sanh được, bây giờ đang đau dữ quá !
Con Làng trờ tới, nghe nói vậy lật đật quay ngang, vừa chạy vừa nói :
-Để tui đi rước mụ cho.
Nó mới phóng có mấy bước là bị má nó kêu giựt ngược:
-Làng trở lại, để chị hai mầy, con Lẹ nó đi cho người ta đẻ lẹ.
Bà ta miệng nói, tay đẩy tới trước một cô gái ốm nhom, kẹp tóc đang đứng bên cạnh.
Làng quay trở lại, mặt phụng phịu thầm trách ông già tía, đặt làm chi cái tên dỡ òm, làm mất cơ hội đóng cái vai cứu khốn phò nguy mà mình hằng ao ước !
Mọi người trong xóm, hầu như đủ mặt, đứng lố nhố trên bờ. Tiếng rên của người phụ nữ dưới xuồng vọng lên làm ai cũng xót ruột. Tám Lanh, má của hai cô gái Lẹ, Làng ban nãy đưa ý kiến:
-Chiếc xuồng nhỏ xíu khó day trở lắm ! Phải đem lên bờ mới được.
Câu nói rất hợp lý mà không ai hưởng ứng, bởi họ cho rằng "sanh dữ, tử hiền", thà cho mượn nhà để làm đám ma chớ ít ai chịu để thiên hạ vô đẻ nhờ.
Ông Bảy Chức, người cao niên nhất góp ý :
-Cái chuồng bò của ông Ba có sẵn đây nè, hay là đem đại vô đi !
Từ ngày ông Ba sắm được cái máy cày tay thì cái chuồng nầy bị bỏ trống. Cũng may là chưa kịp tháo bỏ để lấy chỗ trồng rau. Nghe nói vậy ổng liền gật đầu :
-Được a ! Để tui đi kiếm đồ vừng lại cho kín. Nhà ai còn giữ mấy tấm liếp phơi bánh tráng thì gom lại liền. Ai còn lạt lợp nhà cũng đem tới luôn thể nghe bà con!
Cả chục người đàn ông lẫn phụ nữ đang đứng bỗng chạy ào như ma đuổi, lát sau họ đến, mang theo những thứ đang cần mà nhà mình có sẵn đó !
Cái chuồng bò nhanh chóng được vừng vách. Một người đàn ông, vai vác tấm giạt và bốn cái cọc tre vừa bứng từ nhà mình đến (vợ ông ta vừa hốt bếp xong), đặt mấy món đó xuống đất rồi nói :
-Phải ráp cái giường đẻ trước mới được. Ai nhà gần chạy về lấy cho mượn thêm mấy cái xuổng, búa coi !
Ông Ba nhanh chóng mang ra hai cái xuổng, lát sau có mấy người khác đem đến thêm nào xuổng, nào búa lủ khủ. Bốn người đàn ông đào bốn cái lỗ để trồng mấy cây cọc tre xuống. Người ta dùng búa nện lên đầu mấy cây cọc tre, cho nó cắm sâu vào lớp đất cứng phía dưới, lấp đất lại và nện cho thật chắc. Tấm giạt thẳng băng đóng bằng cây cau già được gác lên, thế là xong!
Cái giường đẻ được đặt sát vách sau. Một bức vách chặn ngang, làm bằng mấy tấm liếp lá dừa còn in dấu tròn tròn của những cái bánh tráng, được dựng liền tức khắc, cái phòng nằm để đẻ đã hoàn tất.
Công việc vừa xong, mấy người đàn ông vừa phủi tay ra về thì nhân vật chánh, bà mụ Thắm tới. Bà hối người đàn ông cõng vợ mình lên bờ. Người vợ bới cái đầu cho gọn, vịn vai chồng ráng mà đi chớ nhất quyết không chịu nằm lên lưng. Người chồng một tay dìu vợ, tay còn lại cắp theo chiếc chiếu cuốn tròn có cả gối, mền, mùng trong đó. Tám Lanh đỡ bó chiếu, trải lên cái tấm giạt tre cho thai phụ nằm liền.
Cái mền vải được treo lên, che cái cửa buồng khiến căn phòng kín mít. Ánh sáng chui qua mấy chỗ dột trên mái giúp căn phòng sáng sủa. Cũng may là mùa mưa đã đi qua.
Tiếng bà mụ Thắm vang lên đều đều:
-Bây giờ bắt đầu rặng à nghe ! Ngậm chặt cái miệng, hít cho thiệt sâu rồi ém cái hơi lại mà đẩy nó xuống bụng dưới.
Có tiếng rặng è è rồi thở ra một cách bất lực, tiếp theo là những tiếng rên thống thiết. Tiếng dỗ dành lại tiếp tục. Các âm thanh nặng nề, bức bối đó cứ lập đi, lập lại. Lát sau bà mụ Thắm đi ra, gọi một cô gái đứng gần đó lại nói nhỏ :
-Tư, con chạy ra đồng hái một nắm cỏ mực giùm. Coi mòi dám bị băng huyết chớ chẳng chơi. Con đem đâm, vắt lấy nước cho thiệt kẹo, đốt vỏ dừa khô lấy than hòa vô, để sẵn đó!
Thấy cái cô gái nhìn mình ra vẻ bán tín, bán nghi, bà liền giải thích :
-Hai cái vị thuốc đó cầm băng huyết nhanh hạng nhứt, đi liền đi.
Tư chừng như đã vững dạ, lật đật chạy một cái vù.
Thuốc đã chế xong mà thai phụ vẫn chưa sanh được. Có người mách là phải nuốt trọng, tròng đỏ, tròng trắng của cái hột gà so, để lấy chất trơn cho dễ đẻ.
Món đó không ngờ quá ư hiệu nghiệm. Mùi tanh của trứng sống làm thai phụ bợn dạ, buồn nôn, co thắt ruột rồi rặng một cách trót lọt. Tiếng trẻ sơ sinh khóc ré lên cùng tiếng kêu mừng rỡ của bà mụ Thắm "Con trai", khiến mọi người đều thở phào nhẹ nhỏm.
Chén thuốc đen thùi được kề tận miệng. Sản phụ nín thở nuốt một hơi, những tia máu tuôn xối xả cũng từ từ chậm lại.
Bà Ba chạy về nhà nấu liền một nồi cơm. Bà chắt nước ra tô để làm canh. Xớt lửa qua cái lò kế bên, bắt cái trách đất lên rồi bỏ mấy hột tiêu vô rang cho thơm để làm món muối tiêu. Bà vớt hết mấy khứa cá lóc kho trong nồi thịt tết vào trách, thêm nước mắm vào kho lại cho thiệt sánh rồi rắc thật nhiều tiêu vô. Các món ăn của sản phụ phải thật mặn để có nhiều sữa. Phải thật cay cho sữa nóng, đứa bé bú vào mới không bị sình bụng.
Bà Ba múc từng muỗng cơm, lấy đũa rỉa một miếng cá đặt lên trên rồi đút cho người mẹ trẻ. Khuyến khích cô ta uống hết tô nước cơm cho mau lên sữa. Suốt bữa ăn sản phụ phải nằm dán lưng trên giường. Những người vừa sinh xong, bị cấm ngồi dậy liền vì sợ bị băng huyết và sa tử cung.
Mấy người phụ nữ khác đến. Mỗi người đem lại cho vài gốc củi. Tám Lanh mang đến một cái nồi đất bị bể. Bà ba liền bưng ra ngoài để gầy lửa trong đó, chờ củi cháy hết khói, có than đỏ rồi bà mới đem để dưới tấm giạt.
Thương hoàn cảnh tứ cố vô thân của họ, bà con trong xóm tới lui thăm viếng, chăm sóc đều đặn. Cái chuồng bò bị bỏ không, lúc trước chẳng ai thèm ngó ngàng, nay đã trở thành nơi họp mặt mỗi tối.
Sự kiện đó đã trở thành một kỷ niệm chung của cả xóm. Người ta nhớ nó như nhớ những khoảnh khắc đẹp trong đời. Thậm chí họ còn dùng nó làm móc để xác định thời điểm của những việc quan trọng, xảy ra trước hoặc sau đó.
Để bày tỏ lòng tri ân đối với bà con trong xóm, hai vợ chồng bèn đặt tên cho đứa con trai đầu lòng đó là Ơn.
Tết năm ấy, hết thảy các căn nhà trong xóm cây me. Ngoài mùi nhang khói, bánh trái trên bàn thờ, người ta còn ngửi thấy một mùi dầu xanh thoang thoảng.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 09:42:52 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 03.10.2019 08:41:54
CHIẾU BÓNG THÍ 
Đoản văn Lâm Du-Yên
 
Sáng hôm ấy, một sự kiện lớn nhất từ trước đến nay đã xảy ra trong cái xóm nhỏ của tôi. Chiếc xe lôi của anh Hai Thám chở một người thanh niên cầm cái "Ô bẹt lưa" nói oang oang:
-Mời hết thảy bà con cô bác, tối nay tề tựu lại sân vận động kế bên nhà việc để coi chiếu bóng thí. Chương trình rất hay bà con ráng đến xem, bỏ qua rất uổng.
"Nhà việc " là danh từ bà con dùng để gọi trụ sở của Hội đồng xã, nơi mấy người làm ba cái việc "giấy tờ" [ bà con gọi các viên chức là người làm việc giấy tờ] vô ngồi.
Cái xóm đang bình lặng bỗng trở nên hết sức xôn xao. Như có một luồng gió mạnh thổi qua, làm những cái tổ kiến vàng trên mấy cây xoài cùng đong đưa, khiến cho tất cả lủ kiến ở trỏng đều chạy tới chạy lui nhốn nháo.
Buổi học hôm ấy tuị tôi không thể nào ngồi yên được, thầy cứ liên tục nhịp cây thước lên bàn hét:
-Các trò im lặng, im lặng...
Tụi tôi yên được chừng một lát rồi lại lao xao tiếp. Thầy bèn bắt trả bài, không khí dần lắng lại. Có vài tên không thuộc, bị ăn trứng ngỗng và khẻ tay, vậy mà cái mặt của chúng cũng tươi rói chớ không héo queo như thường lệ.
Ra về ba đứa tôi tranh nhau nói. Con Thẹn nôn nhất, nó dặn tôi với con Tíu:
-Hai đứa bây ăn cơm cho lẹ nghe, mình phải đi thật sớm để ngồi hàng đầu cho dễ thấy.
Con Tíu nói bằng giọng chứa nặng lo âu:
-Tao sợ má tao hổng cho quá.
Tôi nổi máu anh hùng:
-Để tao xin giùm cho !
Con Tíu mừng hết lớn:
-Ừ ! Mầy nhớ qua sớm sớm lảy bắp với tao xong rồi hả[hãy] xin, có vậy má tao mới cho đi.
-Ừ.
Suốt con đường từ trường về nhà tuị tôi cứ tranh nhau nói, con Thẹn "xung" quá, nó tính đủ thứ:
-Tụi bây nhớ mang dép đặng lót ngồi cho đỡ dơ quần. Để tao rang bắp đem theo ăn cho vui.
Tôi cũng hào hứng lây:
-Để tao đem theo mấy khúc mía.
Con Tíu can:
-Thôi, đừng có ăn mía. Ba con kiến lửa nó bắt hơi, kéo lại cắn nhừ tử cho coi!
Con Thẹn đầy vẻ nôn nao, nó tưởng tượng cái gì không biết mà đang đi bỗng nhảy cởn lên một cái rồi hét:
-Tụi mình chạy đua coi đứa nào tới trước nè !
Thế là ba đứa ráp nhau chạy ào ào y như bị chó rượt vậy.
Chiều chưa tắt hết nắng, con Thẹn đã qua nhà tôi, nó mặc bộ đồ hôm tết, tôi ghẹo nó:
-Diện quá ta !
Nó trả lời bằng cái giọng có chút mắc cỡ, có chút hãnh diện :
-Má tao bắt mặc đó mầy ơi!
Thấy vậy tôi cũng moi trong rương ra bộ đồ mới cáu của mình, con Thẹn hỏi:
-Má con Tíu có cho nó đi hông mậy?
-Có, tao lảy bắp giùm nó muốn mòn ngón tay đây nè ! Hổng cho sao được.
Con Tíu giắt hai đứa em nó ra tới, con Thẹn cằn nhằn:
-Dẩn theo chi vậy ? Rủi coi nửa chừng tụi nó đòi về thì làm sao ?
-Má tao biểu phải cho tụi nó đi theo coi cho biết .
Con Thẹn dặn hai đứa em con Tíu bằng một giọng quạu đeo:
-Tụi bây ngồi coi đàng hoàng cho tới hết à nghen ! Đứa nào mà đòi về là tao đem thả xống sông đó !
Hai đứa nhỏ gật đầu lia lịa.
Cái sân vận động đã đông ken con nít. Chúng xô lấn nhau để giành ngồi sát tấm vải trắng, rộng khoảng bốn mét vuông được căng rất thẳng ở giữa sân. Cái máy chiếu phim đặt ở phía sau. Tụi con nít đang bu xem lấp máy, chúng chỉ trỏ, hỏi han đủ thứ nên bị rầy:
-Tụi bây xê ra để anh làm cho lẹ mà coi, ra ngồi trước đi sắp chiếu rồi đó !
Tụi nó lật đật kéo nhau ra xí chỗ. Chờ gần cả giờ đồng hồ mới nghe cái mô tơ điện khạc lên một tiếng, chiếu lên màn hình một cái nền sáng trưng với những lằn đen chạy ngoằn ngoèo đứt nối.
Bắt đầu buổi chiếu là chào cờ, tiếp đến là chương trình thời sự với những người ngồi trên xe hơi và ăn mặc đẹp. Cảnh duyệt binh gồm từng đoàn binh lính mặc quân phục theo binh chủng của mình. Họ sắp hàng thẳng băng, bồng súng bước đều tăm tắp, gương mặt người nào cũng hết sức trang nghiêm. Kế tiếp là cảnh bão lụt ở miền trung với những chiếc xuồng, mái nhà bị cuốn trong nước. Với những người bám trên đọt cây, màn nước bao trùm chỉ còn những ngọn tre nghiêng đầu theo dòng nước chảy xiết.
Tiết mục chính với cô ca sĩ Phương Dung hát những bản nhạc quen nghe trên radio như "Những đồi hoa sim", "Đồi thông hai mộ", "Hàn mặc tử", "Ngày anh xa vắng"...
Cuối cùng là một vở kịch vui. Bối cảnh là một căn nhà lá nhỏ và cũ, hai vợ chồng ốm nhom đang ngồi trước nồi khoai đang nấu. Có tiếng người gọi, người vợ đáp lại và bỏ đi ra ngoài. Người đàn ông liền mở nấp vung, bóc khoai trong nồi ra định ăn vụng. Bỗng người vợ xuất hiện, anh ta lật đật lận khoai vô lưng quần. Bị nóng quá nên nhảy tưng tưng liên tục làm văng cả củ khoai ra ngoài.
Cái hoạt cảnh ấy tạo ra những trận cười nghiêng ngửa. Con Thẹn cười đến chảy cả nước mắt. Hai đứa em con Tíu thì vừa cười, vừa bắt chước nhảy loi choi như người chồng trong phim. Trên màn ảnh đột ngột xuất hiện chữ "HẾT" rất to rồi màn hình tắt ngấm. Mọi người "ồ" lên tiếc rẻ. Có tiếng một người đàn ông tằng hắng và hỏi:
-Ngày mai còn chiếu nữa hông chú em ?
-Hông bác ơi, ngày mai tụi cháu chiếu ở chợ Vàm.
-Chiếu phim gì ?
-Cũng chiếu y thinh phim nầy.
-Tưởng phim khác qua cũng ráng đi xem, bằng như chiếu lại vở nầy thì thôi !
Ra về tụi tôi vừa ôn lại các cảnh trong phim vừa cười ngặt nghẽo với nhau, con Thẹn rủ:
-Ngày mai tụi mình đi coi nữa nghen ?
Tôi lắc đầu le lưỡi:
-Xa gần chết!
-Có sáu cây số hà, đi bộ mấy hồi .
Con Tíu cũng lắc đầu ngoầy ngoậy:
-Tao cũng hổng đi đâu !
-Đi đi mà, để tao năn nỉ ba tao lấy xe chở tụi mình đi.
Tôi gật đầu cái rụp:
-Vậy thì tao đi.
Con Tíu cũng hùa theo:
-Tao đi nữa !
     
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2019 17:45:54 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 03.10.2019 08:47:51
MÊ CON TRAI
Đoản văn Lâm Du-Yên
 

Họ hàng bên phía má tôi con trai rất hiếm, nhất là bên chi của ông ngoại.
Tôi nghiệp ông ngoại tôi, khi còn sống ông có một mong muốn thiết tha là có được một đứa cháu trai nối dõi. Những lần ngoại chở tôi đến nhà mấy người bạn chơi, nhìn mấy đứa cháu trai của họ chạy nhảy tưng bừng. Ông chép miệng:
-Ước chi tui có một thằng cháu trai !
Ông Chín Năng, hoặc ông Tư Công thường an ủi:
-Có cháu gái như ông vậy mà sướng. Tụi nó dễ sai, dễ biểu, nhờ đấm cái lưng, pha ấm trà là làm rót rót liền đâu dám trễ. Mấy đứa cháu trai của tui phá như giặc, đứa còn nhỏ đâu có nhờ được cái giống gì. Đứa lớn hơn một chút là bày đặt ghẹo gái, tùng tam tụ ngũ, phá xóm phá làng chọc cho chúng chửi, nghe mắng vốn cũng đủ mệt. Đứa tới tuổi quân dịch thì lo cho nó trốn lính, rủi bị bắt lính rồi thì ruột gan mình cũng đi luôn theo nó, đâu có yên ổn nhàn hạ như có con gái .
Nghe vậy ngoại chẳng những không vui lên một chút nào mà còn thở rất dài. Lúc ông mất đi vẫn chưa được toại nguyện vì dù lúc đó ngoại đã có đến mười đứa cháu : Ba cháu ngoại, bảy cháu nội mà đều là con gái hết ráo .
Còn cậu Sáu tôi, trưởng nam của ngoại thì cái máu mê con trai của ổng, cả xóm thường lấy làm đề tài trêu chọc.Nó vượt xa cái khuôn khổ của một ước mơ mà trở thành nỗi ám ảnh triền miên. Mỗi lần mợ tôi có bầu, cậu tôi cất công đi cả cây số mượn, hoặc đổi cho bằng được cái giạt giường của một sản phụ vừa đẻ con trai, vác về cho mợ tôi nằm lấy hên.Thỉnh thoảng mợ đang đi cậu lại gọi giựt ngược:
-Má con Ghết!
Mợ ngoái lại nhìn, chưa kịp hỏi đã thấy cái mặt cậu buồn hiu, bởi mợ toàn quay về bên phải, mà theo ông bà ta thì: Nam tả, nữ hữu. Cho nên hể bà bầu nào, nghe kêu bất thình lình, mà quay đầu về phía tay phải thì chém chết cũng sanh con gái!
Mợ cũng có cách bói riêng của mợ. Khi cái bụng của mợ tròn vo như thúng úp, mợ hay bồng một đứa con nít chưa biết đi, cho nó đứng lên bụng. Nếu đứa bé là con trai và đứng hai chân thì mợ mừng lắm. Mọi người lý giải rằng, cái thằng nhỏ tí xíu ấy nó đã biết cái mầm bên trong là người yêu hay địch thủ rồi ! Hể con gái thì nó "ga lăng" nên chỉ đứng có một chân thôi, còn con trai thì y ta đạp thẳng cẳng bằng cả hai chân không hề thương xót.
Lúc tôi còn nhỏ mỗi lần đi đám giỗ nhà nội là tôi ngại lắm! Mặc dù được ăn thịt, ăn bánh thả giàn. Nhưng cái câu mà mấy cô, mấy bác hay nói với nhau trước mặt tôi, mặc dù còn bé tôi vẫn cảm nhận được và hết sức tổn thương:
-Phải con nhỏ nầy là con trai thì ba nó đâu có buồn, xin đổi qua Cái Dầu dạy rồi chết mất xác như vậy!
Lớn lên tôi mê chơi, hiếu động dữ lắm! Có một lần má nhìn tôi rồi lắc đầu than:
-Chắc tại lúc có nghén con. Má cứ cầu xin trời phật ban cho một đứa con trai hoài, nên cái tánh của con là trai mà bị mụ bà nắn lộn thành gái.
Cái mơ ước của má đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều, ngay từ nhỏ xíu tôi đã hết sức mong làm con trai. Tôi ghét mặc đồ mới, ghét đeo bông. Thích mấy trò chơi của con trai như ngồi trên bẹ chuối thả dốc một cái ào, đu theo xe bò hoặc được nằm trên đống rơm chất cao mà ngủ. Người lớn hồi đó hay hăm mấy đứa con trai là hể đứa nào học dốt, học lười là cho nghỉ học đi chăn bò, làm cho tôi càng thêm tủi thân! Cái mơ ước số một của tôi lúc ấy, là được ngồi trên lưng bò cho nó chở đi khắp cả cánh đồng.
Khi lớn lên tôi lại càng thích làm con trai dữ dội. Những cô bạn của tôi thuở ấy đứa nào mà được "chàng" làm thơ tặng là mừng hết lớn! Tôi ước mình làm con trai để tặng thơ cho hết thảy những cô gái tôi quen, giúp họ đều vui hơn, đẹp hơn.
Tôi hay tưởng tượng cái cảnh xe đạp, ba lô một mình rong duỗi trên đường. Mang theo một cái võng, một cái nồi, một cây dao, một cái hộp quẹt rồi đi khắp đất nước.
Một đôi lần tôi còn muốn giả trai như nàng Mạnh Lệ Quân trong chuyện Tái Sanh Duyên, đăng lính rồi lập chiến công rồi...tới chỗ bí nên tôi bỏ luôn.
Bây giờ cái ước mơ ấy vẫn còn thoi thóp trong tôi. Tôi thèm làm một lão ông sáng đi câu, chiều ngồi uống rượu, hoặc đi lang thang ghẹo mấy bà già...
Thôi kiếp nầy đã lỡ, xin hẹn lại kiếp sau! Kiếp sau, tôi nhất quyết sẽ làm con trai cho bằng được !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2019 17:43:12 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 03.10.2019 08:57:52
LỰA DÂU
Đoản văn Lâm Du-Yên
 

Bấy lâu nay anh Ba Đực hể đi đồng về là hối bà má của mình dọn cơm như giặc. Ăn xong bèn đánh răng xúc miệng kỹ càng, mặc quần dài áo rộng rồi bơi xuồng đi liền. Khuya lơ, khuya lắc mới về tới nhà. Ngày nào khỏi đi đồng thì chuồn mất biệt, có khi không về ăn cơm luôn. Ban đầu dì Bảy, má ảnh, không thèm để ý, nhưng những biểu hiện ấy càng ngày càng tăng. Ảnh còn xin tiền hút thuốc lia lịa nên dì đâm ra nghi ngờ.
Một đêm chờ ảnh ngủ say, dì lục cái túi quần tây của ảnh, moi cái bóp ra thì thấy có tấm hình của một người con gái. Dì cầm tấm hình lên, dán mắt vào soi thiếu điều muốn thủng giấy. Dì bước ra bộ ván bên ngoài, nơi anh Hai Hỉ đang nằm ngáy o o, giựt cái chưn của ảnh thiệt mạnh. Anh Hai đang ngủ bị kéo cẳng thình lình, bèn giật mình tung một cú đá, may mà dì né kịp chớ hông thôi chắc dám trẹo ba sườn. Dì tát cho ảnh một cái vô gò má, rồi nói:
-Hai, dậy đi, cho má hỏi cái nầy.
Anh Hai Hỉ mới mở được có một con mắt, nhìn dì mấy giây rồi mới hỏi bằng cái giọng ba sồn ba sực:
-Có chuyện gì mà nửa đêm má hổng để tui ngủ, hỏi gấp dữ vậy?
-Chuyện thằng Ba.
-Nó bị cái giống gì?
Dì Bảy dí tấm hình sát mặt anh Hai rồi hỏi:
-Mầy có biết con nhỏ nầy là con cái nhà ai hông?
Anh Hai chống tay ngồi lên, dụi mắt, kê tấm hình sát cây đèn trứng vịt mà dì Bảy vừa bưng từ đầu tủ thờ xuống, rồi hỏi:
-Ở đâu ra tấm hình nầy vậy má?
-Tao moi trong cái bóp của thằng Ba. Con nhỏ nầy chắc là ”mèo” của nó chớ gì?
-Tui làm sao mà biết được. Sao má hổng hỏi nó?
-Tao mà thấy hỏi nó được thì hỏi mầy làm chi? Nó có kể với mầy cái vụ nầy hông?
Anh Hai gãi muốn rách da đầu rồi mới nói:
-Cái bận nó đi đám cưới con dì Út về, tui nghe nó nhắc tới con nhỏ nào ở bên sông mấy lần, rồi thôi hổng nghe nó nói thêm gì hết ráo!
-Đâu mày ráng dụ cho nó kể hết, rồi học lại cho má biết nghe.
-Thôi, má cứ hỏi nó cho chắc ăn đi, tui dính vô rủi có chuyện gì là anh em xích mích, trong nhà xào xáo mắc công lắm!
-Đồ cái thằng…Thiệt uổng công nuôi tụi bây lớn tới chừng nầy rồi mà nhờ có chút xíu cũng hổng chịu làm. Biết vậy tao đẻ trứng gà, trứng vịt bán lấy tiền còn sướng hơn!
Nghe Dì Bảy nhiếc anh Hai thấy nhột nên nói:
-Thôi để thủng thẳng tui tìm cách, hỏi sao cho nó hổng nghi rồi cho má hay.
Khoảng mươi bữa sau dì Bảy đã biết về tên và gia đình của cô gái trong hình đó. Dì liền tức tốc đi gặp mặt .
Hôm ấy chị Hai Bé vừa quét sân, quét nhà xong, đang ngồi lau cái máy may để chuẩn bị may đồ cho khách. Bỗng có tiếng gọi cất lên từ ngoài cổng:
-Bếp có tro hông cháu? Cho tui xin một nắm .
Chỉ ngước mắt nhìn ra thấy một người phụ nữ hơi lớn tuổi, mặc bộ đồ lãnh Mỹ A đen bóng, tay cầm dù ra vẻ chững chạc, bèn lễ phép trả lời:
-Dạ hổng có dì ơi, tro con hốt hết từ sớm rồi .
Người phụ nữ ấy không bỏ đi mà bước xâm xâm vô nhà rồi nói với chỉ:
-Cho tui ngồi nghỉ nhờ một chút nghe, mỏi cái chưn quá!
Chị hai Bé lật đật đứng lên mời:
-Dì lại bàn ngồi uống nước, để con rót trà mời dì.
Dì Bảy, chính là người phụ nữ ấy, vội xua tay:
-Thôi khỏi, cho tui xin một gáo nước mát là được rồi.
Dì vừa nói vừa bước lại cái khạp da bò kê trên mấy cục gạch thẻ để trước hàng ba, mở cái nắp ra rồi nhìn chăm chú vào. Nước trong lu trong veo, đáy lu sạch bong không đóng cặn. Có lẽ được súc thường xuyên nên chẳng có con lăng quăng nào ở trỏng. Dì cầm cái ca nhôm sáng bóng đang treo tòn ten lên, nhìn kỹ vào cái cán tay cầm coi có đóng bợn hông. Chừng như yên lòng mới nhúng vào lu nước, múc một phần ba ca rồi uống từng ngụm nhỏ. Uống xong nước dì bước tới gần nhìn coi chị Hai Bé đang làm gì rồi hỏi:
-Bộ cháu là thợ may hả?
-Dạ .
-Cháu may một bộ đồ như tui đang mặc đây ăn bao nhiêu tiền?
-Dạ bảy đồng. Cái áo bốn đồng, quần ba đồng.
-Cháu may một ngày mấy bộ?
-Làm thẳng thét suốt ngày thì vừa cắt vừa may là xong một bộ.
Dì Bảy tính nhẩm trong đầu rồi nói:
-Vậy công cũng được gần một giạ lúa há? Vậy ở nhà may cũng đủ ăn rồi, đâu cần ra đồng làm chi. Cháu có biết làm đồng hông?
-Dạ biết chút đỉnh.
-Có biết cắt lúa, đánh lá mía, làm cỏ hông?
-Cháu biết làm cỏ thôi, còn hai cái món kia chưa làm lần nào.
Cách nhìn, cách nói, cách hỏi của khách làm chị Bé chột dạ. Má chị hay kể cho chị nghe, ngày xưa bà nội đi coi mắt má như thế nào. Bà vặn hỏi đủ thứ, sờ mó hết góc nầy đến ngách kia, còn lấy tay quẹt vào đít nồi coi lọ nghẹ có đóng dầy hông nữa. Chị Bé liếc trộm bà khách thấy gương mặt hao hao một người…Chợt bà ta ngó ngang, hình dạng cái sóng mũi hết sức giống cái mũi của anh Ba Đực. Khi không mà chị Bé phát run như làm cử. Cái tay cầm sợi chỉ xỏ hoài không chui qua cái lỗ to đùng của cây kim may máy. Dì Bảy thấy chỉ làm miết không xong bèn hỏi:
-Con mắt cháu có tốt hông?
-Dạ tốt.
-Vậy sao cái lỗ kim thù lù trước mắt mà cứ xỏ sợi chỉ đi đâu không vậy?
Chị Bé không trả lời, ráng gồng mình kềm cứng cái tay, trời thương nên lần nầy sợi chỉ chui qua trót lọt. Dì Bảy lại chỉ vô cái mục ruồi mọc sát khóe miệng của chỉ rồi hỏi:
-Cái mục ruồi nầy có lâu chưa?
-Dạ con hổng nhớ nó có hồi nào nữa.
-Nó có lớn thêm hông?
-Dạ hông, hồi nào tới giờ nó cứ y thinh như vậy.
Dì càng hỏi chị Bé càng run, chừng như tội cho chỉ, hay dĩ cho rằng bước đầu hỏi vậy cũng đủ rồi nên nói:
-Thôi cháu may đi nhe! Tui phải về lo cơm nước, trưa rồi.
Chị Bé định mời dì ở lại ăn cơm mà cái miệng cứng ngắt nói không ra tiếng.
Dì Bảy vừa đi vừa ôn lại mặt mũi, dáng vóc của Hai Bé rồi thở dài tự nhủ:
-Con nhỏ nầy mặt mày coi cũng được, nhưng có cái mục ruồi ăn hàng ngay mép miệng xấu quá! Nhà cửa gọn gàng. Có điều cái tướng mỏng manh sợ không làm việc cực nhọc được, chắc hổng thể bằng con Tư Lanh đâu! Con nhỏ đó nó đội một giạ lúa đi te te, vác hai bó mía chạy cời cời, còn cắt lúa thì bỏ xa mấy đứa con gái khác. Cưới dâu như vậy mới đáng đồng tiền chớ!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2019 17:42:06 bởi Lâm Du Yên >

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 10.10.2019 14:02:37
 
CỎ XANH
Sáng hôm ấy đã xảy ra một sự kiện quan trọng hạng nhất trong đời Du.
Cũng như tất cả mọi buổi sáng, Du thức dậy khi cái đồng hồ báo thức không còn đủ kiên nhẫn. Nó quá giận nên cứ rung lên bần bật. Vói tay đóng cái miệng nó lại, Du quyết định nằm nán thêm năm phút nữa. Chợt nhớ ra hôm nay phải nộp bảng thống kê cho xếp, Du bật dậy liền như chiếc lò xo. Chàng thay đồ, đánh răng rửa mặt bằng tốc độ tên lửa rồi thót lên xe, đạp bạt mạng. Du qua mặt chiếc xe phía trước cái vù, một giọng nói khàn khàn gọi vói theo:
-Cháu ơi! Quên gạt chống kìa.
Tiếng nói đó phát ra từ ông lão quen thuộc mà mỗi ngày đi làm Du thường gặp. Ông lão ấy khiến Du rất nhớ đến ông ngoại của mình. Ông cũng mặc bộ bà ba đen, bới tóc củ tỏi, ba chòm râu của ông cũng bạc trắng và dài như ngoại. Có lần Du chạy sau lưng thấy ông thỉnh thoảng lại dừng xe, lượm cục đá, cái lon sữa bò, chay nước ngọt bị bể bỏ vào thùng rác. Điều nầy nhắc Du nhớ đến những lần ngồi sau lưng ngoại trên chiếc xe đòn giông rất cũ. Ngày xưa khi chở Du đi học, ngoại cũng thường dừng xe, sai Du lượm mấy cục đá bỏ vào lề vì sợ những chiếc xe chạy nhanh, có bánh bơm quá căng sẽ vấp phải rồi ngã ngang.
Quay lại cười và gật đầu để thay tiếng cám ơn, Du không dừng lại cũng không giảm vận tốc, thò chân vít cái chống lên, nghe vui và cảm động trước lòng tốt của ông bác ấy. Hôm nay Du không có thì giờ để nối dài cảm xúc từ ông đến ông ngoại như mọi ngày, chỉ dừng lại ở lòng tri ân, cảm kích.
Tính Du rất nhạy cảm, thương cũng nhanh mà giận cũng dễ, chỉ một hành vi, một lời nói bộc lộ thiện ý, cũng làm chàng xúc động đầm đìa và ngược lại cũng làm chàng đùng đùng nổi giận.
Sắp vượt qua chiếc xe đạp của một cô gái chở hàng bông cồng kềnh trước mặt, Du bỗng bắt gặp gói ớt từ cái giỏ đệm đầy tới miệng của cổ rơi ra. Phải hôm khác chắc Du sẽ chỉ báo cho cô ấy biết, nhưng chàng đang bị cái gọi là hiệu ứng dây chuyền, muốn trả ơn ông bác ban nảy bằng một hành vi tích cực hơn nữa. Cho nên dù rất vội, cũng dừng xe lại nhặt nó lên rồi đạp hết ga để đuổi theo cô gái. Chàng gọi, khá to:
-Cô ơi ! Gói ớt rớt nè !
Cô gái thắng xe một cái "ét" rồi quay mặt lại nhìn Du. Có tiếng sét nổ cái "rầm" trên đầu Du. Chàng chết đứng liền tại chỗ ! Du đưa cho nàng gói ớt, rồi đạp chậm rì theo sau cô gái.
Du nào phải kẻ yếu bóng vía hay người háo sắc ! Cũng không phải cái hạng "học hành ba chữ lem nhem, thấy gái là thèm bỏ chữ trôi sông". Thế nhưng chẳng thể nào lấy tia mắt ra khỏi gương mặt xinh đáo để cùng nụ cười tươi tắn, hết sức dễ thương của cô gái ấy !
Người ta hay bị rơi vào hai cái cửa sổ, có tấm màng nhung long lanh được gọi là mắt. Trong trường hợp nầy Du rơi thẳng vào cửa cái luôn. Chàng chẳng kịp nhận ra mắt cô ta tròn hay dẹp, nâu hay đen là đã lọt thỏm vào cái miệng rất xinh với cái môi dưới đầy đặn hơi trĩu xuống như nũng nịu, cùng giọng nói rất ư mộc mạc:
-Cám ơn anh !
Đến ngã tư, chàng chẳng đành lòng rẽ về phía tay phải để đi về hướng công ty, mà dừng lại bên cạnh cô gái, cùng chờ đèn xanh và bắt chuyện với nàng. Du vừa cười vừa hỏi :
-Cô bán ở chợ nào vậy?
Cô gái chỉ tay vào cụm nhà cao cao phía tay trái. Có lẽ cái nhìn của Du làm cô nàng mắc cỡ, nên nói chuyện mà không xài chủ từ gì ráo:
-Hổng có bán ở chợ, bán ở cái chung cư đó đó !
Du đạp xe theo tò tò, tận mắt nhìn cô dừng xe, cho nó dựa vô gốc cây bằng lăng, móc tấm ni lông trải ra để bày hàng rồi mới chịu về.
Vừa đến công ty, chưa kịp ngồi xuống ghế là bị "Bà chằng lửa", biệt danh của xếp, gọi vào và "giũa" cho một trận thê thảm. Du bước ra, gương mặt vẫn tươi rói làm Sơn, đồng nghiệp nam, nhìn chàng đăm đăm, không giấu nổi sự thán phục trong giọng nói:
- Tui phục ông sát đất, tên bay đạn lạc tơi bời mà chẳng hề hấn gì !
Đến trưa Du viện cớ lên sở lấy công văn, ra về trước giờ nghĩ để ghé qua chỗ cô gái xem sao ! Nàng đang dọn hàng, xếp những rau trái còn lại cho vào túi đệm. Mấy món nặng như bí rợ, khoai tím, khoai lang cho vào trước rồi mới đến dưa leo, cà chua, chanh, ớt...Cái giỏ đệm ban sáng đầy vun bây giờ lép xẹp, chỉ lèo tèo vài món dưới đáy.
Cô gái đang dọn hàng bỗng linh cảm có người đang nhìn, bèn dừng tay ngó về phía Du. Phát hiện ra chàng mặt cô ta đỏ bừng đến tội. Du vốn bản lỉnh đầy mình bỗng đâm ra lúng túng. Vốn nhanh trí, chàng tiến thẳng đến nàng rồi nói:
-Cô còn ớt, còn chanh hông vậy ?
Cô gái gật đầu, lí nhí:
-Còn.
Rồi mấy ngón tay rung như cái đuôi bị đứt lìa của con thằn lằn ấy vội moi trong giỏ, lấy cái gói chanh và ớt ra. Cô hỏi:
-Anh mua bao nhiêu ?
Du đáp đại :
-Năm chục.
Cô gái nhìn chàng bằng tia mắt ngạc nhiên, nói:
-Chỗ nầy không đủ.
Cô định đặt nó vào chỗ cũ, Du liền ngăn lại:
-Bây nhiêu đó cũng được ! Bao nhiêu vậy cô ?
-Hai chục hà !
-Sao rẻ quá vậy ?
-Tại mùa nầy rau rẻ !
Cầm lại tiền thối, Du hỏi :
-Sáng nay cô bán có đắt hàng hông?
Cô gái bẽn lẽn:
-Đắt hơn mọi bữa.
Du pha trò :
-Hú hồn, tui sợ cô bán ế rồi đổ thừa là tại tui nặng bóng vía, đốt phong long làm tui bịnh liệt giường liệt chiếu .
Cô gái phì cười :
-Anh đâu phải là người mở hàng đâu mà bị đốt phong long ! Mà đốt phong long là để xả xui, đâu có trù ếm mà bịnh tới liệt giường liệt chiếu.
Du cãi :
- Cô chỉ toàn đốt người ta thôi, có bị đâu mà biết !
Cô gái lắc đầu :
-Tui chưa có đốt phong long lần nào hết! Làm như vậy người mua sợ lắm ! Ai mà dám mở hàng cho mình nữa ?
Du ghẹo :
-Vậy khi bán ế thì cô làm sao ?
Cô gái đáp, ngượng nghịu :
-Tui vái ông địa.
Du bật cười sằng sặc :
-Cô giống má tui quá ! Cô biết hông, má tui sợ đủ thứ, xin đủ thứ. Cho nên ba tôi phải trồng một vườn chuối cho má tui cúng ông địa đó !
Rồi chàng nói bằng giọng ỡm ờ :
-Chắc mai mốt tui cũng phải trồng vài bụi chuối mới được.
Cô gái càng cúi thấp đầu xuống hơn để che giấu nụ cười. Từ đó cho đến lúc ra về, cô chỉ cười, đáp lí nhí mà không hỏi lại một câu nào. Nàng cũng không dám ngoái lại nhìn Du trên suốt con đường chàng theo cô về đến tận nhà.
Từ hôm ấy trở đi, ngày nào Du cũng đạp xe song song cùng cô gái. Bây giờ cổ đã biết chỗ Du làm nên nhất định buộc chàng quẹo phải khi đến ngã tư. Một hôm đang đi cùng cô, Du thoáng thấy cái lưng cong và bộ đồ bà ba đen quen thuộc, chàng vội đạp thật nhanh đến ngang ông bác đã nhắc nhở mình hôm trước, rồi cất tiếng :
-Chào ông ! Cháu cám ơn ông !
Ông lão quay lại nhìn chàng rồi hỏi:
-Cháu cám ơn chuyện gì ?
Du trả lời:
-Ông đã cho cháu một món quà to lớn lắm !
Cô gái đạp trờ tới nghe Du trả lời bèn hỏi thay cho ông lão:
-Món quà gì vậy anh ?
Du kể cho ông và cô nghe về câu chuyện ấy. Cô gái nhìn Du bằng tia mắt cảm động. Ông lão phì cười:
-Mèn ơi ! Ba cái chuyện cỏ rác ấy có công lao gì mà cám ơn !
Một phát hiện về Cư, cô gái ấy, khiến Du vô cùng xúc động. Một hôm Du mời Cư đi xem kịch, nàng trả lời không rảnh. Lời từ chối đó làm Du vô cùng phật ý. Chàng gặng :
-Tối hù đâu có mua bán gì được nữa mà em nói bận ?
Cư đáp:
-Em phải đi học .
Du hỏi tới :
-Em học Anh văn hả ?
Cư lắc đầu :
-Em học bổ túc.
-Lớp mấy rồi ?
-Mới lớp năm thôi !
Du không giấu kịp nỗi ngạc nhiên. Chàng phát ra một tiếng "ồ" ngay sau câu trả lời của cô gái. Cư giải thích :
-Hồi nhỏ em không được đi học.
Du muốn hỏi tại sao, nhưng đoán là do một lý do không vui nên không dám hỏi, sợ sẽ gợi lên trong nàng cảm xúc tiêu cực. Thế là thay vì đi xem kịch Du đi theo nàng đến trường, chàng đòi vô lớp dự thính nhưng Cư nhất quyết không cho.
Du đành ngồi trong quán cà phê gần đó để chờ. Nhà Cư nghèo, điều đó Du đã biết ngay lần đầu đưa nàng về đến tận nhà. Nhưng thiếu gì gia đình nghèo vẫn cho con đi học đàng hoàng. Tại sao cha mẹ Cư vô tâm, vô ý, vô tình đến vậy ? Ở cái tuổi lên sáu đứa bé biết làm điều gì ngoài học ? Không thể diện lý do quá nghèo, bởi thời buổi ấy học đâu có phải đóng tiền nhiều như hiện giờ ? Hay là hồi nhỏ Cư bị bệnh nặng không thể tới trường được ? Du càng nghĩ càng xót xa, không ngờ một cô gái có gương mặt hết sức sáng sủa, trông thông minh như vậy mà lúc nhỏ bị mù chữ, đến hôm nay mới cầm được cuốn tập, cây viết.
Cái thắc mắc đó đã được Cư giải đáp trên đường về ngay hôm ấy. Hóa ra Cư là con nuôi. Cư kể :
-Ba nuôi em chạy xích lô. Cái nhà nhỏ xíu nên ổng để chiếc xe ngoài cửa. Một buổi sáng ổng lấy xe đi chở khách, phát hiện em nằm ở trỏng nên bồng vô nhà. Má nghi em là con rơi của ổng nên không chịu thương. Em ăn còn không đủ no, nói gì đến việc đi học.
Du hỏi :
-Vậy sao em còn ở với họ cho đến tận hôm nay ? Sao không tự tìm đến cô nhi viện, ở đó ít ra em cũng được ăn no, được cho đi học.
Cư lắc đầu :
-Ba thương em lắm! Ổng hay dặn em buổi chiều ra đầu hẻm đón ba đừng cho má biết. Ba thường mua cho em một ổ bánh mì thịt, chở em chạy vòng vòng cho tới khi nào ăn hết rồi về.
Cái buồn về nỗi bất hạnh của nàng khiến cái thương trong Du càng nặng! Nghe Cư kể về sự thèm học của nàng mà Du ứa nước mắt:
-Tối em theo má đi bán, ngang qua mấy nhà có tiếng con nít đánh vần là em đi thiệt là chậm, có khi đứng lại để nghe. Em quyết định chừng nào làm ra tiền sẽ nuôi mình đi học.
Dư thấy mình và hầu hết những đứa bé khác quá may mắn khi so sánh với Cư. Ngày đầu đi học, Du được má dắt tới trường với biết bao lời dỗ ngon, dỗ ngọt mà còn giẫy đây đẩy và khóc bù lu bù loa. Trong đầu Du lại hiện ra hình ảnh của chính mình vào những buổi sáng ngày xưa, trùm mền kín đầu, trong khi má ngồi bên cạnh năn nỉ:
-Dậy đi học đi con, trưa về má làm đồ ăn thiệt ngon cho con nghe!
Rồi má liệt kê những món mà Du ưa cho đến khi nào Du chịu ngồi dậy mới thôi.
Du nhìn đôi mắt đang ngâm trong nước của Cư, một nỗi thương cảm dâng lên ngùn ngụt. Chàng tự hứa sau nầy sẽ dốc hết sức ra để đền bù lại cho nàng .
Những mơ ước của Du mọc tràn lan như cỏ xanh gặp nước. Chàng mơ xây nhà lầu, mua xe hơi, chở Cư đi khắp nơi ngắm cảnh đẹp, ăn món ngon...Tưởng tượng tới cái cảnh đó Du nghe lòng lâng lâng như cánh diều no gió. Rồi chợt té nhào xuống đất khi nhớ đến thực tại, mình chỉ là nhân viên quèn với mức lương hạng bét!
Quyết tâm đạt được mục tiêu, Du vạch ra cho mình một kế hoạch. Những người bạn của Du nhờ giỏi ngoại ngữ nên làm việc cho các công ty ngoại quốc, lãnh lương bằng ngoại tệ. Muốn vinh thân phì gia, phải noi gương họ dồi mài ngoại ngữ mới xong! Nghĩ vậy nên chàng bóp bụng, đóng tiền cho một trung tâm dạy Anh văn có cái tên kêu như sấm. Khi Cư lên lớp sáu thì Du cũng lấy được cái bằng A.
Không có động cơ nào có sức đẩy mạnh bằng tiền, và nếu mục tiêu là tình thì công suất tăng gấp đôi. Má Du một hôm lên thăm con thấy chàng cắm đầu cắm cổ học, nghe đĩa dạy tiếng Anh ngay cả trong giấc ngủ thì mừng không biết để đâu cho hết! Bèn dùng số tiền định mua quà cho chồng để bồi dưỡng cho con trai. Bà tìm mua cho được loại mật ong rừng, dặn chàng mỗi ngày phải pha với cam uống để có sức mà học, nhấn mạnh là phải uống vào lúc vừa thức dậy mới tốt hoàn toàn.
Du mang hủ mật ong cùng một túi cam cho Cư, truyền đạt lại cho nàng đúng y từng lời của má. Cư nghe theo, sáng nào trước khi đi bán cũng pha một ly, không phải cho nàng mà cho người cha đang đau yếu của mình.
Không có mối tình nào đẹp cho bằng những mối tình nghèo. Trong đó cái đức hy sinh làm nó thêm tỏa hào quang. Thiếu thốn vật chất nên họ hết sức phung phí ước mơ. Nào có phải họ mơ cho chính mình. Họ mơ cho nhau thôi. Du cứ mong gấp gấp giàu để Cư được ăn sung, mặc sướng. Cư thì mơ họ cưới nhau, rồi có liền một căn nhà để nàng có thể đưa ba về phụng dưỡng, tránh xa người vợ tai ác để ông có thể sống vui, sống khỏe.
Giấc mơ của Du rất thuận buồm xuôi gió còn của Cư thì gặp nhiều trở ngại. Một hôm vừa đi bán về Cư đã bị má hỏi:
-Cái thằng đang quen với mầy lương cao hông? Nó lãnh bao nhiêu một tháng?
Cư trả lời một cách thành thật:
-Con không có hỏi .
Má cho rằng Cư nói dối, chắc "bèo" lắm nên cô mới giấu. Nếu giàu thì đâu có thèm đi cái xe đạp cà tàng. Nghĩ vậy bà bỗng có ác cảm ngang xương với Du nên mắng Cư xối xả :
-Cái mặt sáng láng mà ngu còn hơn con bò. Mầy có thấy con Liễu hông? Nó như vậy mà còn lấy được thằng chồng Đài Loan, đem tiền cho má nó sửa lại cái nhà. Bây giờ cả xóm chỉ có cái nhà của nó là đẹp nhứt, ai cũng khen. Má nó nở mặt, nở mũi với ...
Cư ngắt ngang :
-Sao má hổng nhắc con Sương, nó cũng mới trốn về vì bị hành hạ chịu hổng thấu. Nếu mấy người đó tốt, giỏi thì con gái xứ họ đâu có chê, phải qua tới đây mua vợ. Cho dù họ đem tiền tới chất ngập đầu, con cũng không bỏ ba ở lại mà đi đâu!
Má Cư nạt to:
-Mới nói tới đó mà mầy đã xắm xa, xắm xỏn. Con Sương nó làm sao mới bị tống cổ về. Trăm ngàn đứa mới có một đứa như nó. Mầy mê trai thì nói đại cho rồi, đừng có đem ổng ra mà kê nề. Nếu có hiếu thì mầy đã chịu cho bà Bảy dắt đi để người ta coi mặt. Cỡ như mầy kiếm tiền dễ ợt, tại mầy hổng muốn cho ổng ăn uống phủ phê, sung sướng mấy ngày rồi chết cho mát...
Ba Cư dùng hết sức bình sanh mà nạt một tiếng thiệt là to :
-Bà có im đi hông? Nó mà làm như vậy là tui cắn lưỡi chết tươi liền cho bà vừa bụng.
Vậy là bà má rú lên khóc hù hụ, kể lể đủ thứ. Cư ngồi nuốt nước mắt, thương mình thì ít mà thương ba thì nhiều.
Lát sau Cư bưng chén cơm lại đút cho ba. Cư đỡ ba ngồi dậy khum tay vỗ lưng cho ba đỡ mỏi. Cư vỗ thật lâu cho máu chạy đều khắp phổi rồi mới chêm gối để ba ngồi cho vững. Ba thấy mặt Cư buồn thiu nên an ủi :
-Má con cái miệng nói vậy chớ cái bụng không có ác đâu con đừng có lo. Ba còn sống thì không để cho ai ăn hiếp con đâu! Nếu ba có mệnh hệ nào con nhắm ở đây được thì ở, không thì thôi. Mười mấy năm nay con trả hiếu cho ba, cho má như vậy là đủ rồi!
Cư nói:
- Con biết ba nói vậy là vì thương con, muốn con mát bụng, chớ ba đâu nỡ nào để má ở một mình. Con hứa với ba là sẽ nuôi cho đến khi má trăm tuổi. Chỉ có điều bây giờ con đã lớn, má cứ mắng là con ngu như bò làm con phát bực.
Ba cô cười, ông nói :
-Ai chê con bò ngu chớ ba thấy nó khôn vàng trời luôn! Đố con trên đời nầy cái cây gì mình không trồng mà nó cứ mọc, chỗ nào cũng có, bất kể lề đường, kẹt đá. Hễ mọc được là mọc hoài nhổ không hết!
Cư trả lời ngay mà không cần suy nghĩ vì câu hỏi quá dễ:
-Cỏ.
Ba cô cười ra vẻ khoái trá, ông giải thích :
-Con bò nó khôn ghê lắm! Chọn cái thức ăn có sẵn ê hề nên khỏi phải giành giựt, khỏi lo thiếu đói. Chó, mèo giành ăn cắn lộn chớ bò thì chẳng bao giờ. Cỏ đầy ra đó, mạnh ai nấy ăn. Bởi vậy cái mặt với con mắt của nó hiền khô hà. Ba độ chừng tụi nó mà chết là lên thẳng miền cực lạc đó con!
Cư vui lây với nhận định khôi hài của ông, cô trêu:
-Vậy là con được má khen chớ đâu phải chửi hén ba!

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 10.10.2019 14:14:37
MẸ GHẺ
Dù rất thương đứa con gái nhỏ, Mến cũng đành đứt ruột giao cho chồng nuôi khi họ chia tay. Từ đó, Mến tập trung hết sức lực, tận dụng mọi khả năng để kiếm thật nhiều tiền. Mục tiêu của Mến là mua một căn nhà và rước con về cùng ở.
Khi nghe tin chồng đã tái hôn với một góa phụ lớn tuổi hơn anh ta, có cơ ngơi vững vàng, Mến lo đến gầy rộc cả người. Nàng sợ rằng người đàn bà có nhiều tuổi đời, rất thành đạt đó, sẽ dựa vào sự vượt trội về kinh tế và kinh nghiệm để lấn lướt chồng. Bé Thương sẽ không còn được cha yêu quí, bị mẹ kế hành hạ, bị đòn roi, mắng mỏ.
Tuy vét cạn sức ra làm việc, Mến vẫn chưa mua nổi một căn nhà. Cho dù nàng cố nhịn ăn, nhịn mặc nhưng giá nhà cứ leo thang và nàng không thể nào bắt kịp. Những lúc đến thăm con Mến càng tủi thân. Con bé giờ đã ở trong một căn nhà sang trọng. Quần áo tươm tất, tóc tai gọn gàng, mặt mũi sáng sủa, tay chân sạch sẽ hơn lúc trước. Bé Thương có đến năm sáu con búp bê và một căn nhà bằng nhựa rất đẹp dành cho chúng. Những món quà bé nhỏ nàng mua cho con, trở nên thảm hại so với những thứ mà bé đang hưởng, đến độ nàng không dám trao. Mến cũng thấy mắc cỡ với mấy người làm, vì nàng ăn mặc còn thua kém họ.
Một hôm Mến đến trường vào giờ ra chơi để gặp riêng con. Nàng dọ hỏi bé Thương đủ thứ, phát hiện rằng con bé quí mến Từ, người mẹ ghẻ mà nó gọi một cách thân mật là “Má Năm” ấy, vô cùng. Mến vừa mừng lại vừa tủi. Mừng vì con được thương yêu, chăm sóc. Tủi vì thấy cái hy vọng sống chung với con ngày một mong manh. Cho dù mua nổi căn nhà cũng chưa chắc bé Thương chịu về ở. Và dù nó có chịu đi nữa thì nàng đành lòng nào nhìn con từ bỏ những tiện nghi, chịu đựng mọi sự thiếu thốn khi về sống với mình?
Nhìn mái tóc của con được tết rất đẹp, Mến hỏi:
-Ai cột tóc cho con vậy?
Bé Thương trả lời:
-Má Năm.
Mến cầm bàn tay của con lên xem, móng tay rất sạch và được cắt sát, nàng hỏi tiếp:
-Ai cắt móng tay cho con?
Câu trả lời của bé Thương vẫn là:
-Má Năm.
Mến lại hỏi:
-Có đau hông con?
Con bé lắc đầu :
-Má Năm thoa cái nước gì đó lên tay con, cắt êm ru không có đau gì hết!
Nó nói thêm:
-Bây giờ mỗi tối má Năm còn đọc truyện cho con nghe nữa đó mẹ!
Mến mừng đến rưng rưng nước mắt, hỏi:
-Chuyện gì, hay hông con?
Bé Thương gật đầu:
-Chuyện đời xưa, hay lắm đó mẹ! Có nàng Út nhỏ bằng ngón tay, chui vô ống tre ngồi giữ dưa. Có bảy anh em ngồi trong một chiếc giày bay đi vù vù. Có cái nồi cơm nhỏ xíu mà một trăm người ăn không hết…
Mến hỏi:
-Má Năm có đánh con không?
Bé Thương lắc đầu:
-Dạ không?
Một hôm Mến bị ngất khi đang làm việc. Khi tỉnh dậy, nàng thấy mình đang nằm trên cái giường trải drap trắng muốt. Bé Thương và người phụ nữ ấy đang ngồi ngay bên cạnh. Bé Thương thấy mẹ tỉnh dậy thì mừng đến bật khóc. Từ nhìn nàng và cười rất hiền. Cô ta nói:
-Chị bị xĩu trong xưỡng. Họ đưa chị vào đây rồi báo tin cho tụi tôi. Anh Thịnh đi công tác không có ở nhà nên tôi vào thay cho ảnh.
Mến ấp úng:
-Cám ơn chị! Tôi làm phiền…
Cô ta gạt ngang :
-Mình là người một nhà mà, có cái gì mà phiền!
Mến hỏi:
-Tôi bị sao vậy chị?
-Bác sĩ nói chị bị suy nhược, chớ không có bệnh gì trầm trọng cả. Nghỉ ngơi và ăn uống đầy đủ là sẽ sớm bình phục.
Chiều hôm ấy Mến xin được xuất viện. Nàng âm thầm ra về một mình. Sáng hôm sau Mến vừa thức giấc, chưa kịp bước xuống giường thì nghe tiếng gõ cửa, nàng ngạc nhiên khi thấy Từ đang đứng chờ. Cô ta nói:
-Sao chị không nghỉ thêm vài hôm cho thật lại sức rồi hãy xuất viện.
Mến cười:
-Tôi thấy trong mình đã khỏe. Công việc cũng không dùng sức nhiều nên...
Cô ta nói:
-Tôi và cháu mang thức ăn đến bệnh viện thì được báo là chị nằng nặc xin về. Tôi không biết chỗ ở của chị nên gọi điện hỏi anh Thịnh. Ảnh cho số điện thoại của cô Nhả, nhờ vậy mới tìm ra. Đêm qua bé Thương cứ khóc suốt. Tôi đã hứa là sáng nay sẽ đưa chị về ở chơi với nó mấy ngày.
Mến lắc đầu:
-Không được đâu chị…
Cô ta không để Mến nói hết câu, tiếp tục bày tỏ ý định của mình:
-Chị đừng ngại gì hết. Anh Thịnh đi công tác xa, đến cuối tháng mới về. Tôi muốn nhân cơ hội nầy mình cùng chung sống để hiểu nhau. Biết đâu sẽ giúp chị an tâm về bé Thương, tinh thần sẽ thoải mái hơn.
Lời giải thích hợp lý cùng sự thành khẩn của Từ đã thuyết phục được Mến. Cô đang có giấy phép của bác sĩ, cho nghỉ một tuần để dưỡng sức, nên cũng muốn gần con và tìm hiểu Từ kỹ hơn.
Đó là một tuần lễ hết sức quí báu của nàng. Sáng đưa bé Thương đi học, chiều rước về và tối được ôm con vào lòng mà ngủ. Mến để ý thấy cô giúp việc hết sức lễ độ đối với nàng. Mỗi sáng cổ đều làm một ly cam vắt pha mật ong thật to để Mến uống cho lại sức. Từ cũng rất tế nhị, ít chen vào những giây phút thân mật của hai mẹ con nàng. Tất cả những điều đó khiến Mến vô cùng cảm động.
Mấy ngày đầu nàng cố tránh mặt Từ. Nhưng những dịp tiếp xúc hiếm hoi khiến nàng nhận ra Từ tràn đầy lòng nhân ái. Từ tuy bận rộn nhưng lúc nào cũng dành cho bé Thương những buổi tối cùng chuyện trò trước khi đi ngủ. Bé Thương đã được Từ khuyến khích tập kể chuyện, tập vẽ để phát huy năng khiếu.
Từ không đẹp nhưng lòng nhân hậu khiến gương mặt nàng trông rất dịu dàng. Cái bớt xanh trên gò má trái như mờ đi, không còn gây phản cảm như lần đầu Mến gặp. Mến biết rằng Thịnh chọn Từ một phần cũng vì bé Thương, con của họ. Chỉ điều đó thôi cũng đủ an ủi nàng rất nhiều. Ngày cuối cùng nàng ở đó, Từ đã rủ nàng đi dạo để cùng trò chuyện. Từ ngỏ ý muốn giới thiệu Mến đến làm ở một công ty, nơi đó đang có một công việc rất phù hợp với nghành học của Mến. Cô ngỏ ý muốn họ trở thành bạn bè để chăm sóc cho bé Thương chu đáo hơn.
Cái núi đá đè lên tim bấy lâu đã được bẩy ra khỏi lòng ngực. Cặp kiếng màu xám che mắt đã được lột bỏ. Mến biết cuộc sống của mình từ nay sẽ tươi sáng. Nàng cảm thấy vô cùng mang ơn người phụ nữ hiền lành, đức độ ấy.
Sáng hôm ấy, Từ đích thân lái xe đưa Mến về tận nhà. Thanh, cô bạn ở chung phòng trọ đang ngồi xổm trước hàng bánh canh, trố mắt nhìn chiếc Toyota bảy chỗ màu trắng dừng ngay bên cạnh. Càng ngạc nhiên hơn khi thấy một người phụ nữ sang trọng mở cửa xe cho Mến. Thanh không thèm bưng tô bánh canh do người bán hàng đang đưa tận tay mà lật đật đuổi theo Mến, vừa kéo áo vừa hỏi:
-Ai đưa chị về vậy?
Mến đáp:
-Má Năm của con Thương!
Thanh nhìn nàng, hỏi gặng:
-Má gì?
Mến giải thích:
-Cổ là vợ sau của anh Thịnh.
Cô ta gật gù:
-Thì ra là bà mẹ ghẻ của nó!
Mến bỗng cảm thấy lòng mình dấy lên một nỗi bất mãn. Nàng muốn nói một câu gì đó để xóa bỏ cái ác ý đi kèm theo cái chữ “ghẻ” đó mà tìm mãi không ra.

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 10.10.2019 15:04:22
CON KINH NƯỚC TRONG
 
Ý bỗng chỉ tay vào con kinh, hỏi :
-Con kinh nầy nước trong suốt mười hai tháng hả ?
Tư gật đầu. Ý nói như vừa phát hiện một điều vô cùng mới mẻ:
-Như vậy nếu đi theo cái dòng chảy của nó mình sẽ chẳng bao giờ về tới quê.
Tư hỏi:
-Tại sao ?
-Nó không nối với bất kỳ một chi lưu nào của con sông Tiền. Cho nên mình không thể đi về quê bằng xuồng được.
Ý nói vậy vì có lần Tư đòi sắm một chiếc ghe nhỏ, thả từ từ theo con nước, ngược về tận xứ của họ.
Tư phản đối:
-Những con lạch nhỏ sẽ nối chúng vào nhau. Có những nơi xe không qua nổi nhưng xuồng thì đi được tuốt !
Ý cãi :
-Vậy anh cho là tất cả các dòng sông, tất cả các con đường thủy đều nối liền với nhau hả ?
-Đúng vậy !
-Thế tại sao nó vẫn trong veo, trong khi nước sông quê mình thì đang đục ngầu.
-Con kinh nầy quá nhỏ, chảy rất chậm nên phù sa lắng dần, đục không nổi nữa .
Ý vẫn không tin, nhưng từ câu nói của Tư nàng lại nảy ra một ý tưởng :
-Như vậy có thể suy ra rằng, nếu mình càng nghèo, cuộc sống càng ít ràng buộc, càng bình yên phải hông?
Tư phì cười trước cái tật của Ý. Nàng hay liên tưởng, kết nối hai sự vật khác hẳn nhau. Tư không muốn cãi, những ngày bên nhau của họ sắp hết, chàng không muốn làm Ý phật lòng.
Tư chuyển đề tài :
-Tối nay chắc có mưa.
Ý nhìn về chân trời phía tây, ở đó mây rất dày, mặt trời núp sau lưng nó rất an toàn, chẳng để lọt một tia chiều nào le lói. Ý nói :
-Quê mình đang mưa. Tối nay cơn mưa đó sẽ chạy tới nhà mình.
Giọng nói của Ý có pha chút chất cảm, hai tiếng "nhà mình" bỗng làm Tư xúc động. Từ lâu chàng vẫn thầm mong, sẽ có một ngày được gọi Ý là "nhà tôi" khi nói với bạn bè.
Họ im lặng, mỗi người đang bơi trong dòng sông suy tưởng của mình. Tư giựt câu theo quán tính, mới hay nó bị mắc gốc tự hồi đời nào.
Lưỡi câu mất, họ chẳng còn lý do để ngồi lại trên bờ kinh nầy nữa. Tư bỗng đổ nước và cá trong thùng ra. Ý ngạc nhiên :
-Sao thả cá ra hết vậy ? Rồi cái nồi canh chua, cái mớ rau muống em vừa hái phải làm sao?
Tư cười :
-Ngày mai tính, chiều nay hai thằng mình đi ăn bánh xèo, bánh khọt.
Ý cằn nhằn :
-Chiều tối mà ăn mấy món có nước cốt dừa là khó tiêu lắm !
-Biết vậy rồi, nhưng cái chỗ nầy bán bánh khọt rất ngon, sợ em đi mà không kịp ăn !
Cái giọng, cái ý hàm chứa trong câu nói của Tư làm Ý buồn ngang xương. Nàng làm thinh suốt quảng đường về nhà.
Trước ngày đi, Ý kiếm chuyện để làm, để gây với Tư suốt. Như thể cố tình làm Tư ghét rồi trông Ý đi phắt cho rảnh nợ, vậy mà càng làm cho Tư thương hơn, lưu luyến hơn. Lạ làm sao! Ý chưa ra đi mà Tư đã nghe nhớ đến ngập lòng, đang đứng trên bờ kinh hút điếu thuốc, mà nhớ cho tới nổi mới rít mấy hơi liền dụi tắt, quay về nhà.
Ý đang ngồi giặt cái áo sơ mi trắng của Tư, vết đen bám thâm niên ở cổ được nàng tẩy sạch bách, cái áo trắng bóc, mùi thuốc tẩy nồng nặc. Tư cúi mặt sát xuống, hôn lên tóc nàng một cái. Ý kêu lên:
-Anh mới hút thuốc phải hông?
Tư cười kiểu cầu tài:
-Thèm quá! Mới rít có hai hơi...
Ý cắt ngang, nói bằng cái giọng chì chiết:
-Cái thân mà còn không biết thương thì nói gì tới thương người khác. Hôm qua vừa hứa bỏ mà bây giờ hút lại là sao?
Tư không trả lời, xách thùng đi lấy nước lên để Ý khỏi xuống kinh xả đồ.
Hôm sau, Tư ngồi câu từ trưa cho đến khi trăng mọc mới chịu ra về. Rồi tay xách thùng cá, vai vác cây cần câu bằng trúc nhẹ hều, bước thật chậm như đi không muốn nổi. Vừa tới nhà Ba "Nhậu" chàng nghe tiếng y hỏi:
-Có dính cá nhiều hông anh Tư? Bạn về rồi hả?
Tư trả lời gọn lỏn:
-Hông! Ừ!
Rồi đột ngột tăng tốc, đi như chạy làm ba Nhậu cụt hứng, chẳng thể hỏi thêm một câu đang nằm sẵn nơi cửa miệng.
Vào tới nhà Tư liền chẻ củi, nhóm lửa, hâm cái nồi thịt kho còn đầy tận miệng. Cơm nấu từ sáng vẫn chưa đụng tới, Tư rưới nước vào rồi bắt lên cái bếp còn sót chút than cho nóng. Bới hai chén cơm đầy, múc hai cục thịt kho, xắt một trái dưa leo, đặt tất cả vào mâm rồi bưng ra cái chỏng ngoài sân. Vừa quay vào nhà lấy cây đèn, trở ra đã thấy ba Nhậu ngồi xếp bằng trên chỏng, y hỏi:
-Sao ông biết tui tới ăn chực mà bới sẵn hai chén cơm vậy?
Tư đáp thẳng thừng:
-Ai mà tính tới ông! Tui bới sẵn để khỏi phải rinh cái nồi ra.
Ba Nhậu, kẻ thường bảo Tư rằng y đã cắt đứt cái dây thần kinh mắc cỡ, nói bằng giọng tỉnh rụi:
-Ông không mời tui ăn còn ngon miệng. Chịu khó trở vô bưng cái nồi cơm ra luôn thể, một chút khỏi mắc công đi cha nội!
Rồi thản nhiên móc chai rượu thuốc trong túi áo ra. Tư lại quay vào, ba Nhậu gọi vói theo:
-Đem cái ly ra nữa!
Tư mang cái chung trên bàn thờ ra đưa cho Ba Nhậu, y không cầm mà bỏ chưn xuống đất rồi nói:
-Để tui đi rửa cái tay, hồi nãy mới đi đào đất.
Rồi đi xăm xăm lại cái lu gần đó múc nước rửa tay, rửa mặt, súc miệng. Tư sợ y uống nên nói:
-Nước uống ở trong bình lọc, đừng có uống nước đó!
Ba Nhậu phun hết nước trong miệng ra rồi mới nói:
-Ông khỏi phải dặn, tui cũng biết quí cái mạng mình lắm chớ bộ! Uả mua cái bình lọc hồi nào vậy?
Tư đáp giọng nhát gừng:
-Tuần trước!
Ba Nhậu đinh hỏi có phải cô bạn mua tặng, nhưng thấy Tư không có hứng nói chuyện nên thôi.
Bây giờ y mới chịu nhìn vô mâm cơm, thấy cái chén đựng thit kho thì lắc đầu nói:
-Cái thứ nầy khó bắt lửa lắm! Ba con cá ông mới câu được đâu rồi? Ông đưa đây, tui xách về cho con bé Hai nó làm món khác, để uổng cái chai rượu thuốc của tui.
Tư hất hàm về phía sàn nước. Hai nhậu không thèm ngó theo, y ngồi tại chỗ mà rống thật là to:
-Bé Hai ơi, bé Hai! Qua đây cho cha nhờ một chút coi!
Lát sau một cô gái độ chừng mười bẩy, mười tám tuổi, gầy nhom, cao lêu khêu vừa kẹp tóc, vừa bước tới, vừa hỏi:
-Cha kêu con chi vậy cha?
Ba Nhậu chỉ vô cái thùng mà bảo:
-Con bắt mấy con cá ra đem nướng, làm chén nước mắm cho ngon rồi hái mấy cọng rau thơm đem qua đây liền cho cha.
Bé Hai cằn nhằn :
-Giờ nầy đâu có thấy đường mà hái rau.
Giọng ba Nhậu ngọt như mía lùi :
-Đốt cái đèn lên mà làm con gái! Hôm nay cha con mình ra tay nghĩa hiệp, giúp chú Tư con qua cái cơn sầu tình nầy, để hông thôi tối nay ổng dám đập đầu vô gối mà chết, rồi hiện hồn về nhát cha con mình đó!
Bé Hai nghe cha nói vậy thì liếc Tư một cái, thấy mặt chàng buồn hiu thì chù ụ cái mặt, không thèm bắt cá ra mà xách luôn cái thùng về nhà.
Ba Nhậu thấy con gái đi một cách vùng vằng thì đâm ra mắc cỡ với Tư, y chắc lưỡi :
-Con gái thiếu mẹ khó dạy lắm! Hồi vợ tui còn sống, nó dễ thương hết biết. Bây giờ thành cá không ăn muối rồi.
Tư vội bênh vực cho bé Hai liền:
-Nó như vậy là ngoan lắm đó! Con nít bây giờ được chìu chuộng hết cỡ, sai rót giùm ly nước còn hổng thèm làm, đâu có được như nó. Ông mà đang ngủ ngon, bị dựng đầu dậy bắt làm đồ nhậu cũng quạu, cự nự om sòm cho coi!
Rồi bưng chén cơm lên đưa cho Ba Nhậu và hối:
-Ăn ba hột dằn bụng đi, một chút có mồi hãy uống!
Ba Nhậu từ chối:
-Anh có đói bụng thì ăn đi, tui mới ăn hồi chiều, còn no ngang.
Tư không ép, lấy đũa xắn cục thịt kho ra làm hai, cho vào chén rồi và một cách ngon lành. Ba Nhậu nghe Tư nhai rôm rốp khúc dưa leo thì cầm lòng chẳng đặng, bèn gắp nửa cục thịt còn lại, nhai một cách chậm rãi, vừa nuốt xong là hỏi Tư liền:
-Bà Xã của ông có phải là dân Bến Tre hông vậy?
Bốn chữ " Bà xã của ông" làm Tư mát ruột quá chừng, Tư đáp:
-Bả cũng dân An Giang như tui. Mà sao ông đoán như vậy?
Ba Nhậu nói bằng cái giọng ngậm ngùi:
-Cái mùi thịt kho nầy y chang như má con bé Hai làm hồi trước! Vợ tui người Bến Tre, cái món thịt kho Tàu nầy không ai qua mặt bả nổi. Bả lựa từng miếng thịt, từng trái dừa...
Y bỗng dừng lại, hỏi gặng:
-Anh biết tại sao phải lựa cả dừa nữa hông?
Tư lắc đầu, hỏi :
-Tại sao?
Ba Nhậu như được gãi đúng chỗ ngứa, làm một bài "diễn thuyết" hết sức hùng hồn:
-Cái nồi thịt kho muốn ngon cần phải có đủ ba yếu tố: Một là thịt phải tươi, săn chắc, mỡ không dày lắm và phải dính liền vào cái phần nạt. Hai là nước mắm phải ngon, trong, không được trở mùi. Ba là nước dừa phải là của trái dừa xiêm không non, không già, cỡ vừa rám vỏ...
Để nhấn mạnh vào tầm quan trọng của thứ dừa đó, y lại gằn giọng:
-Tại sao phải là dừa Xiêm rám vỏ, anh có biết hông?
Không chờ Tư đáp, y lại "diễn thuyết" tiếp :
-Dừa xiêm rám vỏ là cái nước thượng hảo hạng để kho thịt, kho cá. Bởi vì nó cho cái mùi hết sức độc đáo, cái màu vàng óng hết sức hấp dẫn, cái vị hết sức, hết sức...
Thấy y nhắm mắt lắc đầu hoài, Tư sốt ruột ngắt ngang :
-Ngon.
Ba Nhậu chắc lưỡi tiếp lời:
-Ăn bể mỏ còn chưa muốn ngừng. Bởi vậy bây giờ ngày mùng một tết, nhìn cái dĩa thịt kho là tui nhớ bả muốn đứt ruột!
Tư khựi miếng cơm cháy lên rồi bẻ một phần ba đưa cho Ba Nhậu, y không để vào chén mà cầm chấm nước thịt kho rồi nhai rau ráu.
Bé Hai bưng cái mâm đồ nhậu qua. Tư gắp miếng cá chấm vào chén nước mắm tỏi ớt, định bụng ăn để có cái mà khen cho con nhỏ vui lòng, nhưng mà khen hổng nổi. Ba Nhậu lấy đầu đũa nhúng vào chén nước mắm, nếm một cái rồi quát :
-Sao mà mặn như muối lồi vậy Bé Hai?
Bé Hai trả lời quạu đeo :
-Nhà mình hết đường, nước mắm còn có chút xíu nên con bỏ muối vô thêm cho...
Ba Nhậu nạt ngang:
-Rồi hổng biết đi mua hả?
Bé Hai nghinh mặt hỏi:
-Tiền đâu?
Ba Nhậu sượng trân không đáp, Tư vội nói:
-Cháu bưng chén nước mắm vô bếp pha lại giùm chú. Trong đó chắc còn đường, còn nước mắm. Có cái chai giấm cao cao, cháu cho vô một tí. Nhớ cầm cây đèn theo để thấy đường mà làm.
Bé Hai riu ríu nghe theo. Ba Nhậu vò miết cái đầu khiến tóc rối bù như ổ quạ. Y rót rượu vào chung, không mời Tư mà uống một cái ót. Trăng chiếu thẳng lên đôi môi ướt của ba Nhậu, trông chúng như được thoa một lớp son bóng, chẳng thích hợp chút nào với nét mặt nhàu nhĩ ấy. Tư bỗng nghe tiêng tiếc. Giá nó đậu trên môi của một cô gái thì sẽ gợi cảm biết bao!
Bé Hai đặt chén nước mắm vào mâm rồi ngoe ngoải bỏ về. Ba Nhậu nhìn theo thở dài:
-Phải chi còn má nó!
Buổi nhậu cố ý giúp vui của y trở nên ủ dột. Y không ăn mà cứ rót rượu uống tì tì, không ngớt ca tụng người vợ quá cố của mình. Nào là bả tính tình hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, nấu ăn ngon số dzách, thương chồng, thương con...Y càng kể càng phóng đại. Người phụ nữ ấy càng lúc càng cao đẹp. Khi cô ta dần biến từ vợ đảm thành người mẹ hiền rồi vị nữ thánh thiêng liêng thì Tư biết là Ba Nhậu đã say.
Bất chấp Ba Nhậu phản đối, Tư đưa y về để có thể đắm mình vào nỗi nhớ. Không như vợ của Ba Nhậu, Ý không hay nói và càng ít nói ngọt. Ý săn sóc Tư một cách chu đáo nhưng lại làm ra vẻ hờ hững. Hình như Ý cho rằng nàng đã vay cái thương của Tư quá nhiều nên bây giờ chẳng muốn lấy thêm, chỉ ráng trả bớt chút nào hay chút nấy.
Vậy mà không hiểu sao cái giọng "dùi đục chấm nước mắm" đó, giờ đây khi nhớ tới, lại khiến Tư cảm động đến cay cả hai con mắt.

Một cái giựt chân quá phủ phàng khiến Tư choàng tỉnh. Ba Nhậu đang đứng bên cạnh, cầm tờ giấy hai trăm ngàn giúi sát mặt Tư mà hỏi:
-Cái nầy ông để vô túi tui hồi tối phải hông?
Tư cố nặn ra cái nét mặt ngỡ ngàng, điều nầy cũng dễ thôi vì chàng còn ba sồn, ba sực, hỏi bằng một giọng gây hấn:
-Ông nghi tầm bậy, tầm bạ rồi phá cái giấc ngủ của tui như vậy đó hả?
Ba Nhậu thấy Tư phản ứng quá mãnh liệt thì đứng đực mặt ra rồi lẩm bẩm:
-Hổng phải thằng chả thì ai làm cái chuyện nầy vậy ta?
Tư kéo mền phủ đầu định ngủ tiếp. Ba Nhậu đâu chịu để yên, y tốc cái mền ra rồi lôi Tư dậy:
-Trưa trờ, trưa trật rồi cha, dậy đi uống cà phê với tui.
Tư bỗng đổ quạu, nói như gây lộn:
-Ông đưa tiền cho con Bé Hai để nó mua thực phẩm, đừng cà phê, rượu trà gì hết! Cũng phải nghĩ cho người khác nữa chớ!
Rồi sợ Ba Nhậu nghi ngờ nên nói tiếp :
-Biết đâu đây là tiền của nó!
Ba Nhậu quả quyết :
-Đời nào nó để tiền vô túi của tui. Hổng móc ra thì thôi! Mà nó làm sao có được món tiền cỡ nầy?
Tư gợi ý:
-Biết đâu nó trúng số!
Ba Nhậu lắc đầu nguầy nguậy:
-Tiền hổng đủ ăn, lấy đâu ra để mua vé số? Thôi để tui về hỏi lại cho chắc ăn.
Tư nằm nán cho đến khi nắng chiếu qua song cửa sổ, đoán chắc đã trưa nên thôi không nướng nữa.
Đánh răng rửa mặt xong Tư bám khung cửa, đu vài cái cho giãn gân cốt rồi đi thu dọn cái chiến trường còn bề bộn hồi tối. Bé Hai đang ở đó, tay cầm cái áo rách mướp dùng làm giẻ lau từ nhà đem qua, thấy Tư ra tới liền hỏi:
-Cái dĩa cá nướng còn nguyên nầy đổ hay để vậy chú Tư?
Tư nói một cách gấp gáp:
-Để, để lại chớ đổ đi đâu mà uổng vậy? Rau với nước mắm nữa, để lại cho chú hết!
Bé Hai đặt mấy thứ Tư nói vào mâm, bưng vô bếp lấy lồng bàn đậy lại, trở ra xếp chén vô nồi bưng xuống bờ kinh ngồi rửa. Tư định cản lại nhưng rồi làm thinh, nghĩ bụng chắc Ba Nhậu đã đoán ra nên sai con gái qua trả "ơn" đây. Thôi để Bé Hai rửa dọn cho cha con họ vui.
Bé Hai ngồi khom mình trên cầu vói tay khoát nước, xô mấy nhánh lục bình tản ra. Mấy tia nước giật mình nhảy lung tung, bám vào những sợi tóc phất phơ trước trán. Tia nắng chiếu vào khiến chúng long lanh như những hạt kim cương. Hình ảnh ấy mang một nét đẹp phi thực khiến Tư xúc động. Chàng quay liền vào phòng để lấy quyển tập phác thảo. Tìm hoài mà không thấy, Tư cố xua cơn bực dọc đang mấp mé. Tiếng xe gắn máy dừng trước cổng và cái giọng ồm ồm của Hưng cất lên:
-Anh Tư ơi, anh Tư!
Tư không đáp, cố cầm chân cái hình ảnh quí giá vừa bắt gặp trong đầu. Tiếng gọi lại cất lên, to và lâu hơn lần trước:
-Anh Tư ơi! Hỉ tín, hỉ tín, mở cửa nhanh lên, nhanh lên!
Tư thở dài, tiếc cho cái cảm hứng vừa vuột mất, bước ra với hai bàn tay không, nhìn Hưng một cách bực bội. Hưng chẳng thèm để ý, cười tít mắt, nói:
-Nào, trải chiếu hoa mà đón thần tài đi, tiền tới rồi nè!
Tư đổi sắc mặt liền, mừng quýnh, nói lắp bắp:
-Bức, bức ... nào?
Hưng trả lời :
-"Câu đêm".
Tư hỏi một cách hào hứng:
-Ai mua vậy? Khách quen hay lạ?
-Lạ hoắc! Anh không đoán được đâu, không phải người thường đâu nha?
Tư đùa:
-Nữ hoàng nước Anh hả?
Hưng cười hô hố rồi nói:
-Anh có nghe tên Đại Đức Thích Thiện Nhiên chưa?
Tư lắc đầu. Hưng nói tiếp:
-Hình như ổng là đồng hương với anh đó! Ổng nói là cái cảnh trong tranh giống hệt cái vàm trước nhà má ổng.
Rồi Hưng móc túi đưa Tư mấy tờ giấy màu xanh có in hình tổng thống nước Mỹ. Tư chưa đếm mà đã hỏi:
-Sao nhiều dữ vậy?
Hưng nói với vẻ tự hào :
-Tui thấy ổng quá khoái bức tranh, lại là Việt Kiều nên đẩy giá lên một chút! Cũng may nó chưa kịp gắn cái bảng giá.
Bé Hai bưng nồi và chén từ dưới kinh đi lên, mình mẩy ướt nhẹp, thấy cái ông chú Tư nghiêm nghị ngày thường, mặt mày hí hửng, cười như con nít thì trố cả hai mắt lên mà nhìn. Tư nhìn lại, cũng ngạc nhiên chẳng kém:
-Bộ cháu té xuống kinh hả?
Bé Hai lắc đầu:
-Đâu có! Khi không mà có chiếc o bo chạy ngang một cái vù. Sóng rút, kéo cái nồi trôi theo. Cháu phải lội ra vớt lại.
Hai mắt Hưng mở to hết cỡ, như muốn nuốt trọng cái cơ thể thanh tân với bộ đồ ướt dính sát rạt của cô gái trẻ. Bé Hai đỏ mặt vì mắc cỡ, đặt cái nồi xuống chõng rồi quày quả bỏ đi. Hưng nhìn theo cho đến mất hút rồi quay lại nheo một con mắt với Tư, nói bằng giọng tinh nghịch:
-Hèn gì đại ca từ bỏ nơi phồn hoa đô hội, về đây để hưởng lạc thú bên hoa đồng, cỏ nội!
Tư nghiêm giọng:
-Đừng có nói bậy! Nó là con của ông bạn nhà kề bên đó!
Hưng hỏi, giọng rất ư "cà chớn":
-Thiệt vậy hông "chú Tư"?
Tư trợn mắt, hỏi lại:
-Mầy hỏi vậy là có ý gì?
Hưng thấy Tư đổ quạu thì không dám giỡn nữa, vội chuyển tia mắt nhìn xuống kinh. Con nước ngày rầm tràn bờ, trong vắt, thấy bắt thèm nên rủ Tư:
-Mình xuống lội mấy vòng đi? Anh cho tui mượn cái khăn, với cục xà bông.
Tư mở tủ lấy cái khăn còn mới tinh đưa cho Hưng. Chàng không muốn Hưng xài cái khăn còn vương mùi của Ý. Hưng nhắc:
-Cục xà bông nữa!
Tư lại mở tủ, đưa cho y cục xà bông cũng mới tinh với cùng một lý do.

Một tuần sau Hưng lại mang tiền xuống cho Tư, bức "Bông súng" đã được bán. Nó sắp bị phòng tranh gửi trả thì may mắn lọt vào mắt của vị sư hôm trước. Lần nầy Hưng không dám nâng giá vì bị Tư phản đối quyết liệt cái kiểu làm ăn đó. Ngoài ra vị đại đức ấy còn đặt Tư vẽ một bức về cánh đồng ngập nước với những đám bông điên điển.
Nỗi buồn của Tư được bù đắp một cách thỏa đáng, không phải chàng quá ham tiền, chỉ bởi đối với người họa sĩ, không có niềm vui nào to lớn cho bằng được thưởng thức, đồng cảm và tán dương.
Hưng đã có sẵn ý đồ nên mang theo một thùng bia, một con vịt quay để ăn mừng với nhau. Y đề nghị Tư rủ Ba Nhậu cho xôm tụ. Ba Nhậu bỏ ngang cái luống đậu phọng đang bón phân, hớn hở nhận lời, không quên cặp nách chai rượu thuốc. Rồi bất mãn vì dù được quảng cáo hết cỡ, xị rượu thuốc cũng không ai đụng tới. Y lại ngồi tại mâm mà gióng giả gọi con gái:
-Bé Hai, hái cho cha mấy trái ớt.
Bé Hai đem ớt xong, vừa về tới nhà lại nghe tiếp :
-Bé Hai, hái cho cha mấy cọng rau thơm!
Cô gái lại đội nón, bưng rỗ ra vườn rau sau lưng nhà, hái mấy thứ rau ăn sống như vấp cá, húng quế, húng cây, húng nhủi...Những cọng rau khi bị tay chạm vào, như được kích thích liền tỏa ra cái mùi đặc trưng của chúng. Tất cả các hương thơm ấy cộng lại, tạo cho cô một cảm giác vô cùng sảng khoái. Đang phồng mũi hít thì nghe tiếng cha cô giục:
-Làm gì mà lâu quá vậy con?
Bé Hai hơi bực mình. Cái tật của cha cô là như vậy đó! Hể có khách là hay giựt le, sai con gái tưng bừng, cố thị uy, lên mặt làm cha. Thường thì Bé Hai răm rắp nghe theo nhưng đôi khi chịu không thấu cũng đổ quạu, ra vẻ chống đối. Cô vội bưng rỗ rau chỉ được lưng lưng xuống kinh rửa cho nhanh. Cái rỗ rau ướt nhẹp được mang lên. Bé Hai bưng thẳng tới mâm nhậu, chưa kip đặt xuống chõng thì Tư sai:
-Cháu lấy cái thau nhôm trong bếp, ra cái bình lọc hứng nước, cho muối vào rồi ngâm thêm cho nó sát trùng. Nước kinh tuy trong nhưng có lẫn nhiều loại ký sinh trong đó lắm!
Bé Hai vội làm theo đúng như chỉ thị. Bị quay như chong chóng mà cô gái không hề bực bội, mặt mũi tươi hơn hớn mới lạ!
Chẳng riêng gì Bé Hai, Hưng cũng thế. Cái tánh huênh hoang, bạ đâu nói đó hôm nay được gói cất cẩn thận. Y tỏ ra hết sức đàng hoàng, và dù kém Ba Nhậu chưa tới chục tuổi cũng xưng con, xưng cháu một cách rất ư lễ độ.
Ba Nhậu tinh ý lắm! Y rất tự hào vì được làm cha của một cô gái xinh xắn, dễ thương. Cái cảm giác mất mặt, do xị rượu đem qua bị rẻ rúng ban nãy, đã được gột sạch. Y hết sức hả lòng, hả dạ. Tự ái được ve vuốt bởi cô con gái của mình chẳng những không bị xem thường như cái món rượu thuốc "gia truyền" kia, mà rõ ràng đang được cái quí ông, xem ra rất sang trọng nầy hết lòng trân trọng.
Tư thì lo ngay ngáy, nghĩ bụng:"Cái thằng Hưng nầy vốn có số đào hoa, thay bồ như thay áo, không khéo lại gieo tai họa cho cha con người ta." Chàng định bụng sau bữa nhậu, sẽ nói riêng cho Ba Nhậu biết để y giữ con thật cẩn thận.
Bắt đầu từ hôm đó bé Hai hay qua nhà Tư hơn, khi thì mang thau đồ bẩn về nhà để giặt, xách nước đổ đầy cái lu ngoài hiên. khi thì lau sạch trơn cái mặt chõng bám bụi. Có hôm cô còn quét cái vườn thật kỹ, moi khắp ngóc ngách không bỏ sót một chiếc lá nào làm Tư tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Hôm trước chàng đã kịp ngăn khi thấy Ý cầm trên tay cây chổi, bởi có chủ tâm giữ lá lại cho thật nhiều để vẽ một bức tranh về khu vườn ngập lá!
Thu hoạch đậu phọng xong, Ba Nhậu đem hai trăm ngàn qua trả. Tư không chịu nhận, chàng chối đây đẩy là không phải của mình. Vậy là có cớ để Ba Nhậu sai Bé Hai nấu một nồi cháo gà và chặt cái bắp chuối hột vô trộn gỏi. Ba Nhậu lại ca tụng người vợ quá cố của mình với cái tài chế biến các món ăn bằng bắp chuối hột. Y nói:
-Cái bắp chuối hột nầy là "vua" của tất cả các loại bắp chuối. Nó chứa mủ đầy óc nóc vậy mà ra gió vẫn trắng tinh, giòn mềm chớ không "xảm" như bắp chuối sứ. Má con Bé Hai có cái món gỏi gà chay làm bằng bắp chuối hột, ăn y như thịt gà mái tơ xé phai. Cái món canh chua lươn nấu với nó bả làm cũng ngon số dzách. Bả còn chế ra món cá mòi chay bằng bắp chuối nữa, cái hộp cá mòi hiệu "Ba cô gái" của Thái Lan chẳng thể nào bằng.
Tội nghiệp cho Bé Hai, đem hết công sức ra trộn dĩa gỏi, theo ý Tư cũng vào hạng thượng thừa, vậy mà bị ông cha đem ra so sánh với bà má rồi chê dậm dề khiến cái mặt buồn thiu.

Dưới con mắt của một họa sĩ, Tư thấy rằng con người ta đẹp nhất khi đang yêu. Cả Hưng lẫn Bé Hai đều trở nên bừng sáng và hết sức sinh động. Gương mặt của họ như được cả mặt trăng và mặt trời chiếu vào, vừa rực rỡ, chói chang vừa rất đỗi mơ màng. Nhất là ở Bé Hai! Hình như tình yêu làm cho tim cô đập mạnh hơn, máu chảy nhanh hơn khiến má cô hồng và môi cô cũng thắm hơn. Đôi mắt rất trong, rất sáng, với cái nhìn thẳng thắng vốn có của cô bỗng trở nên hết sức dịu dàng.
Có lần Tư bắt gặp Bé Hai đang phơi đồ. Cô cầm một cái áo trên tay, giũ cho thẳng rồi không trải ra phơi trên hàng rào dâm bụt mà áp nó lên mặt rồi lim dim hai mắt như đang áp má lên làn da người mình thương. Cái nét xuất thần ấy truyền đến Tư như một luồng điện, cứ đứng ngây người ra mà ngắm cho đến khi bé Hai chợt tỉnh, phát hiện ra chàng đang nhìn trân trân liền bỏ cả thau đồ đang phơi dở, ôm cái áo mà đâm đầu chạy thẳng vô nhà.
Tư bỗng ao ước có ngay trong tay một cây cọ thần kỳ, ghi lập tức cho bằng hết cái hình ảnh tuyệt vời đó! Tư nhận ra mình may mắn nhứt trên đời. Những khoảnh khắc quý báu ấy có mấy ai được hưởng cho dù chỉ một lần? Mấy ai có được cái diễm phúc như chàng, bắt gặp một cô gái đẹp đang sống trong phút giây đẹp nhất của cô ấy? Cảm xúc gần như thiêng liêng đó, đang đưa tâm thể Tư trồi lên tận đỉnh của ngọn núi an lạc, rồi từ niềm vui nó bỗng biến hình thành một nỗi ngậm ngùi! Tư tự hỏi tại làm sao mà những cái đẹp đều có một cuộc sống ngắn ngủi đến vậy?
Chàng đâm ra ngần ngại, cái ý định nói cho Ba Nhậu biết đành gác lại. Chàng sợ với bản chất đơn giản và lối suy nghĩ có phần hời hợt, người cha ấy sẽ thẳng tay phá bỏ khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cô con gái. Chàng vốn trân trọng cái đẹp nên quyết định, cho dù hậu quả như thế nào, cũng giúp cho Bé Hai duy trì thời kỳ nầy càng lâu càng tốt. Chàng sẽ bảo vệ Bé Hai bằng phương thức khác.
Tư suy nghĩ mãi, chàng cho rằng tốt nhất mình nên nói chuyện với Hưng. Cho y biết là chàng vô cùng quý mến cha con Bé Hai và sẽ trừng phạt kẻ nào làm họ tổn thương. Tư bỗng bật cười khi tưởng tượng mình trong cái "lốt" hiệp sĩ, với áo giáp sắt và ngồi uy nghi trên lưng ngựa, chỉ gươm vào mặt Hưng mà nói:
-Nầy tên kia, mi sẽ bước qua cái xác của ta nếu làm họ đổ máu!
Ngay khi gặp lại Hưng Tư liền hỏi:
-Mầy đang để ý con Bé Hai phải hông?
Hưng đáp một cách nghiêm túc:
-Chắc lần nầy em dính lưới thiệt quá anh.
Tư nhìn vào mắt Hưng để tìm hiểu xem y nói câu đó với mấy chục phần trăm thành ý. Cái vẻ chân thật pha chút ngượng ngùng trong ấy khiến chàng vững tin nên nói:
-Nó hình như cũng "cảm" mầy rồi đó! Cha con họ tuy nghèo nhưng tốt lắm! Hiền lành lắm! Mầy sẽ không tìm ra một cô vợ nào tinh khôi, tài sắc vẹn toàn như nó đâu!
Hưng hỏi lại:
-"Tài"?
Tư cười:
-Má nó hồi trước nghe đâu là thợ nấu nổi tiếng nhứt vùng nầy. Nó thừa hưởng cái gen của bả nên nấu ăn cũng khá lắm! Như vậy không phải tài thì là gì?
Hưng nói:
-Nhưng sao em thấy hình như cổ đang né mình. Cứ mỗi lần định lại gần nói chuyện là cổ lũi mất biệt.
Tư vỗ vai Hưng một cái để khích lệ:
-Đó là dấu hiệu của những nàng trinh nữ, tin tao đi, họ cố đè nén tình cảm của mình để rồi nó sẽ bùng lên như núi lửa. Cốt yếu là mầy phải biết trân trọng phẩm cách của họ, phải cư xử hết sức lịch sự. Những cô gái nghèo, họ rất mặc cảm. Mầy cũng nên nhớ là tao coi cha con bé Hai như ruột rà, máu mũ.
Thế rồi cái cô gái " tinh khôi " ấy đã làm cho Tư vô cùng thất vọng, khi một hôm tình cờ phát hiện Bé Hai đang rón rén vào phòng, cho tay vào cái túi quần tây đang treo có cái bóp chàng trong đó.
Tư như người đang đứng trên đỉnh núi cao, bất ngờ bị một tia nham thạch, phún xuất từ miệng núi lửa ngay dưới chân bắn tung lên trời. Chàng chới với, quay trở ra ngay, không muốn cái hình ảnh phũ phàng ấy in sâu vào đầu mình hơn nữa. Và cũng tránh cho bé Hai không phải xấu hổ rồi đâm ra thù ghét chàng thậm tệ.
Tư thầm trách ông trời, tại sao cứ khi nào cái lòng thương và sự tin cậy đối với con người trong chàng dâng lên cao nhất là bị ổng chộp lấy rồi thẳng tay ném xuống, sao cho nát vụn mới hài lòng! Chàng phạm tội gì mà ổng nỡ trừng phạt một cách phũ phàng đến vậy?
Trong nỗi thất vọng cùng cực đó, Tư bỗng thấy như mình là người có lỗi, nghe thương hại cái con bé khờ dại ấy vô cùng! Chàng biết rằng sau nầy khi thấy hoặc nhớ đến cô, chàng sẽ lại xót xa y như với chú gà con ngày xưa của ngoại. Chú gà mà chàng đã vô tình giẫm phải!
Cứ mỗi lần gặp chuyện buồn, Tư lại vác cần đi câu cá. Con kinh như một người bạn thông tuệ, cho chàng những lời khuyên hết sức bổ ích.
Chuyến câu nầy Tư chuẩn bị chu đáo hơn tất cả những lần trước. Chàng mang theo cái võng bố, chai nước to đầy, mấy gói mì ăn liền để nhai trừ bữa... Và dù cảm thấy rất có lỗi với Ý, cũng ráng xách theo một gói thuốc lá.
Con kinh đón Tư bằng gương mặt bình thản và lòng bao dung cố hữu, Tư tưởng tượng như nó đang hỏi:
-Chào anh bạn, lại gặp bế tắc phải không?
Và chàng trả lời:
-Tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ! Tại sao tất cả những lỗi lầm của người khác đều đè nặng lên tôi, khiến tôi cảm thấy như chính mình là người có tội?
-Thì chính bạn là người có lỗi chứ còn ai vào đây nữa? Nầy nhé : Bên cạnh sự thiếu thốn, vất vả của họ, bạn sống phây phây. Trong khi họ đổ mồ hôi, sôi nước mắt, giành giật với thiên nhiên để kiếm một miếng bánh nhỏ nhoi. Trong khi đôi tay họ chay phồng vì những cán liềm, cán cuốc...Bởi công việc của họ là cung cấp lương thực để duy trì sự sống của loài người trên trái đất nầy. Đáng lý họ phải được đền đáp thỏa đáng bằng cả tinh thần lẫn vật chất, thì trái hẳn lại. Bạn thì chỉ với một cây cọ trong tay, làm một công việc hết sức an nhàn nhưng thu nhập gấp trăm ngàn lần họ. Bạn được họ tôn trọng và tự cho là mình hơn hẳn chỉ vì đang cung cấp mấy món ăn tinh thần, mang cái tên rất mỹ miều là nghệ thuật. Khi họ đòi hỏi sự công bằng, thì bạn lại cho rằng họ vi phạm luật trời và luật người.
-Vậy bạn cho rằng cái hành vi ấy là do bất công mà ra sao ?
-Đúng vậy ! Nếu họ được xã hội quan tâm hơn, cuộc sống được bảo đảm hơn thì cần gì phải đánh đổi danh dự để lấy mấy đồng bạc mà họ không cần đến ?
-Vậy cô bé ấy cứ tiếp tục cái việc mà bạn cho là lấy lại công bằng ? Và tại sao tôi là người phải trả ?
-Bạn không phải là người duy nhất phải trả và cũng không phải trả bằng cách ấy. Điều bạn cần là phải nói chuyện với cô ta, tìm hiểu nguyện vọng của cổ rồi cố đem hết khả năng ra giúp.
Đó là một buổi đi câu thành công nhất của Tư, cho dù chàng chẳng mang được con cá nào về.
Hôm sau Tư quyết định sẽ gặp và nói chuyện với Bé Hai. Thật là trớ trêu! Ngày thường hình như nhìn đâu cũng gặp nhưng đến lúc cần thiết lại chẳng thấy cô ta. Cửa rào đóng kín và khóa lại bằng cái ống khóa nhỏ xíu tròng vào cái dây lòi tói to đùng. Chắc hai cha con họ đang ở ngoài rẫy. Tư hơi ngần ngại rồi đi thẳng ra đó. Không thấy Ba Nhậu, chỉ có một mình Bé Hai giữa mấy luống bắp chưa trổ cờ. Cô bé đón Tư bằng một vẻ mặt như cố ghìm một niềm vui, chẳng vướng chút gì sợ sệt làm Tư quá đỗi ngạc nhiên. Tư nhìn gương mặt với làn da mịn như nhung chẳng gợn chút xíu ăn năn, ray rức nào với lòng ngán ngẩm. Núp sau cái nón lá vẫn là đôi mắt ngây thơ, trong sáng, nhìn chàng một cách gần như háo hức. Tư tự hỏi:
-Sao cái con nhỏ nầy chẳng có chút gì ngượng ngùng, xấu hổ vậy trời? Chắc có lẽ nó cho là mình không thấy, hay cái chuyện nầy cũng giống như móc bóp của ba nó lấy tiền đi mua kẹo?
Đột nhiên Tư nổi giận đùng đùng. Chàng nghiêm giọng nói với Bé Hai:
-Cái việc cháu làm là xấu lắm, cháu có biết không? Thử nghĩ xem nếu ba cháu mà biết thì ổng buồn và giận biết mấy, chắc ổng sẽ đập cháu một trận nhừ tử.
Gương mặt của bé Hai bỗng ỉu xìu như bông bí nhúng nước sôi, cô nói lí nhí:
-Ba cháu biết rồi mà ổng có nói gì đâu!
Tư chới với, trời đất ơi! Lẽ nào Ba Nhậu tệ đến mức nầy? Chàng chống chế :
-Cho dù ba cháu vì thương mà bỏ qua cho cháu, nhưng người trong xóm và bè bạn cháu mà biết thì họ sẽ khinh bỉ cháu dữ lắm! Nếu không phải là chú mà là người khác, thì họ sẽ đi rêu rao khắp xóm, cháu còn có thể bị ngồi tù nữa đó!
Bé Hai đáp bằng giọng ấm ức:
-Con Mây biểu cháu phải làm như vậy. Bạn cháu thiếu gì đứa làm cách đó, đâu có ai bị như chú nói!
Tới mức nầy thì Tư chịu hết nổi, chàng gằn giọng:
-Cháu làm cho chú quá thất vọng, đáng lẽ phải tủi nhục vì cái hành động xấu xa ấy, cháu lại coi đó là chuyện bình thường. Nếu cháu không gạt bỏ cái tư tưởng bệnh hoạn đó thì đừng có gặp mặt chú nữa!
Rồi không chờ nghe, cũng không thèm nhìn mặt cô gái, Tư bỏ đi luôn. Chàng cảm thấy ngợp, thở không muốn nổi, không thích và cũng không còn chút hơi sức nào để dạy bảo Bé Hai. Trời ơi! cái xóm nhỏ với những người mà chàng cho rằng hiền khô nầy. Cái không gian tĩnh lặng bên dòng kinh trong veo nầy. Chốn mà chàng cho là nơi bình yên xanh mát nhất, chưa bị ô nhiễm và lòng người còn đơn sơ, đã hoàn toàn biến dạng chỉ với một câu nói của Bé Hai. Tư lầm lũi đi, chàng không về nhà mà thẳng ra lộ, vẫy chiếc xe lam đang trờ tới, leo lên ngồi mà còn chưa quyết định sẽ ghé chỗ nào.
Tư đáp thêm hai chuyến xe buýt để đi đến nhà một người bạn ở quận mười hai. Tư không thân lắm với y nhưng trong nhóm người Tư quen chỉ có y đang ở một mình. Người bạn đón Tư với vẻ ngạc nhiên nhiều hơn mừng rỡ, y hỏi:
-Ngọn sóng nào đưa rồng đến nhà tôm vậy?
Tư không đáp, buông người ngồi phịch xuống ghế, cả người chàng như đang mang đầy thương tích. Người bạn lại hỏi:
-Ông từ bệnh viện đến thẳng đây phải không?
Tư ngạc nhiên:
-Sao ông hỏi lạ vậy?
Y đáp, vẻ thành thạo:
-Thằng Ân hôm trước cũng mang nét mặt như ông đến nhà tôi. Hỏi ra mới biết nó vừa được chẩn đoán là ung thư phổi ở giai đoạn cuối.
Tư cười trấn an y:
-Tôi từ nhà đến, buồn quá đi tìm chỗ trút đây.
Y hỏi:
-Bộ ông chia tay với bà Ý rồi hả?
Tư gật đầu, rồi nói:
-Nhưng đó không phải là cái lý do đưa tôi đến đây.
Rồi Tư kể cho người bạn nghe tuốt luốt mọi sự kiện, mọi cảm xúc của mình, như lộn trái cái túi áo ra mà giũ cho sạch bụi.
Người bạn vừa nghe vừa đập tay vào đầu gối của Tư mà cười ngặt nghẽo. Y nói:
-Tôi không ngờ ông còn ngây thơ như con nít vậy. Xã hội là một dòng chảy, nước trên đầu nguồn đục thì tất cả những chỗ khác cũng đục thôi!
Tư ở chơi với người bạn mấy ngày. Trước khi về y hỏi mượn chàng một số tiền. Tư móc bóp ra đếm trao cho anh ta. Chàng ngạc nhiên khi thấy xấp tiền vẫn còn nguyên không mất đến một tờ. Bao nhiêu câu hỏi hiện lên trong đầu Tư. Lẽ nào hôm ấy chàng trông nhầm? Bé Hai không lấy tiền thì cho tay vào túi để làm gì? Mãi nghĩ ngợi, Tư cầm tiền đưa ra như cái máy. Người bạn nhận rồi đưa lại cho chàng một tờ giấy, Tư xua tay:
-Ông khỏi cần ...
Người bạn vội nói :
-Không phải giấy vay tiền của tôi đâu, cái nầy trong túi của ông rớt ra.
Tư nhìn tờ giấy, tim bỗng đập nhanh, chàng linh cảm có một điều vô cùng quan trọng sắp giáng xuống đời mình. Đó là một tờ giấy học trò, chắc được rức ra từ một quyển tập chưa xài vì còn thơm mùi giấy mới. Tư mở ra xem. Mấy nét chữ đỗ nghiêng như lúa chín ngã rạp trên đồng làm chàng chết đứng, tưởng như đang đứng trước mắt mình là Bé Hai với gương mặt đỏ bừng vì mắc cỡ và giọng nói e ấp, khẽ khàng:
-Chú Tư ơi! Cháu thương chú lắm!




 

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 14.10.2019 09:27:57
CANH BÔNG BÍ
Mỗi lần anh Hai giận vợ, nếu đúng vào mùa bí rợ trổ bông, chị Hai liền nấu món canh bông bí để làm lành.
Không phải vì đó là món canh anh ưa nhất, thật ra ảnh thích canh chua hơn, nhưng phải món canh bông bí mới xoa dịu được trái tim đang rêm, bởi nó nhắc cho ảnh nhớ lại cái kỷ niệm của lần đầu hai người quen nhau:
Sáng hôm ấy, Lụa, tên con gái của chị hai, đang đội một cái thúng bông bí đi ra chợ bán. Cái thúng có dung tích bốn chục lít đó được gọi là thúng giạ, bên trong chứa đầy những bó bông bí vừa hái còn sương tấm tấm, được bó lại thành từng lọn to bằng cườm tay, chất cao ngất nghểu.
Cũng như cô gái đội trứng trong chuyện ngụ ngôn của La phông te, chỉ đang nhẩm tính xem số tiền bán bông bí, gom thêm tiền để dành trong ống tre coi có đủ để mua một chú heo con về nuôi không? Chỉ định xin ba má cho phép nuôi riêng một con heo, chờ đúng tạ thì bán lấy tiền rồi sắm cho mình cây kiềng bằng vàng mười tám. Lòng tràn ngập niềm vui, chưa kịp nhảy dựng lên thì từ phía sau một chiếc xe đạp đang thả dốc ào ào tông mạnh vào lưng làm chỉ té thiếu điều gảy gọng. Lồm cồm bò dậy, mặt đỏ phừng phừng vì giận, chưa kịp cự đã nghe một giọng ấp úng đầy mắc cở và biết lỗi của một người con trai:
-Cho tui xin lỗi nghen ! Tại cái xe bị đứt thắng ngang xương.
Chỉ liếc xéo anh Hai, muốn cự mà thấy cái mặt hiền khô của ảnh ỉu xìu như bông bí nhúng nước sôi thì không đành mở miệng. Bèn chẳng nói chẳng rằng lui cui lượm lại mấy bó bông bí đã bị giập gần phân nửa. Ảnh định đề nghị đền tiền cho chỉ, nhưng trong túi chẳng có đồng nào nên nín thinh, cũng hổng dám lượm phụ cứ đứng gải đầu miết. Chỉ gom hết bông bí vô thúng với nét mặt chằm vằm, rồi đội lên đi tiếp. Anh Hai cũng dắt xe đi sau lưng không nói tiếng nào, lát sau chỉ quay lại nói như nạt:
-Sao hổng chạy cho rồi, đi theo tui làm cái giống gì ?
Anh Hai lại gải đầu, đi thêm một đoạn rồi mới chịu nhảy lên xe. Hơn một tháng sau ảnh nhờ ba má mang khay trầu qua đền cái thúng bông bí ấy!
Cái món canh bông bí làm lành, được chỉ đặt toàn tâm toàn ý vào đó, nên thơm tho ngon ngọt làm sao ! Để có nồi canh thật ngon, chị phải ra đồng sớm hơn mọi người để lựa từng cái bông vừa hé nở, có cánh và cọng đều mập ú ăn mới giòn và ngọt. Những bông bí vàng tươi với nhụy đầy phấn, lông măng li ti bám đầy trên cánh ấy chưa nấu mà đã gợi thèm rồi. Cái cảnh chỉ ôm cái bó bông bí tươi rói trên tay với nét mặt sung sướng pha một chút âu yếm ấy, giống hình ảnh của những cô dâu ôm hoa trong ngày cưới làm sao!
Chỉ lặt từng bông bằng cách gở bỏ mấy cái lá đài ốm, dài như những ngón tay ôm quanh chân bông. Ngắt bỏ cái nhụy bên trong một cách khéo léo để mấy cái cánh không bị giập, tước bỏ vỏ mấy cái cọng của nó, cho vô cái rổ tre mắt thưa rồi đem xuống sông rửa.
Chỉ nhen bếp bắc nồi cơm lên trước, chờ cơm sôi chắt nước ra tô, san bớt củi đang cháy qua cái lò bên cạnh, chừa lại mấy cục than đỏ vừa đủ cho cơm chín. Bỏ thêm củi vô cái lò vừa được san lửa, rồi đặt lên đó một cái nồi chứa nước đầy hơn phân nửa. Chờ nồi nước vừa sôi ục lên liền thả con cá lóc đã được làm vào, với bộ ruột được cạo sạch sẽ, bởi ảnh khoái ăn cái ruột cá lóc chấm nước mắm ớt thật cay. Cá chín được vớt ra, rỉa thịt, loại bỏ xương không để sót lại một cọng nào. Ướp vào những miếng ca trắng phau ấy, tiêu, hành, đường, nước mắm, rắc thêm một ít bột ngọt cho nó đậm đà hơn [thời đó bột ngọt rất hiếm và mắc].
Nếu là những cơn giận nho nhỏ, ngoaì cái món canh bông bí, trong mâm còn có thêm một trách cá lòng tong kho tiêu với thật nhiều tóp mở. Nhưng với những trận lôi đình kinh thiên động địa, như cái lần chỉ nhất quyết không chịu đưa tiền cho ảnh mua xe hon đa, thì cái dĩa tôm kho tàu hết sức hấp dẩn sẽ bày tỏ tấm lòng tha thiết của chỉ dành cho ảnh.
Cơn giận của anh Hai sẽ được những vá canh đẩy trôi từ từ, tiếng cười lại vang lên trong ngôi nhà lá nhỏ, giọng ru con của chị Hai lại cất lên thật êm đềm:
-Ầu ơ ! Con kiến vàng bò quanh bông bí
Anh thấy nàng có ý… anh thương.

Lâm Du Yên
  • Số bài : 108
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2019
Re:LDY Đoản văn - MÙI ỔI - 14.10.2019 09:36:51
ĐỢI MƯA
 
-Mùa mưa năm nay đến trễ quá !
Hên tự nhủ thầm trong lòng khi ngước nhìn bầu trời xanh ngắt, trên đầu hai hàng gòn đứng song song, chạy dài theo con lộ cặp sát bờ sông.
Ngay từ lúc nghe câu nói của người con gái ấy:
-Mùa mưa sang năm tui lại tới!
Thì anh đã mong đợi những cơn mưa rồi. Dù đó có thể chỉ là một câu trả lời thôi, nhưng đối với anh nó y như một lời hò hẹn âm thầm vậy !
Cho nên mùa mưa năm nay được khao khát không riêng cho cây cối mà còn cho cả bản thân anh nữa. Cả anh, cả khu vườn và con mương cạn dường như trở nên thân mật hơn vì cùng chung một nỗi mong chờ.
Bà Bảy má của Hên luôn giục:
-Má con mình phải lo lợp lại cái nhà trước mùa mưa nghe con, lá mục hết rồi đó !
Trong làng cũng có một vựa lá, nhưng Hên không muốn mua, anh đợi cái ghe lá của người con gái có đôi mắt dài đen lánh, long lanh, láng mướt như lá dừa trong trăng ấy!
Mỗi năm vào đầu mùa mưa, những ghe lá từ miệt dưới chèo đến xóm Hên để bán. Tiếng rao to và ngân dài “ lá đây “ nhắc bà con nhớ tới những cái lỗ nhỏ chi chít trên mái nhà mà khi có mưa là nhỏ nước long tong, làm cái nền đất ướt nhem bị thủng lỗ chỗ như cái khuôn bánh khọt.
Chiều hôm ấy, một ghe lá ghé lại bên gốc cây sung, cặp vô cái bến ngay trước mặt nhà Hên. Một cô con gái còn rất trẻ với mái tóc dài ngồi sau lái. Cô ta cong người chúi đầu, vén hết tóc ra phía trước, nhúng chiếc gáo dừa xuống sông để múc nước lên gội đầu. Cái ót trắng phơi ra với vài sợi tóc còn vướng rối. Cái cảnh gội đầu ấy không hiểu sao lại hấp dẫn Hên một cách lạ kỳ làm anh chẳng thể nào rời mắt được. Hên nhìn miết cho đến khi cổ gội đầu xong, giủ bớt nước rồi lau khô tóc. Có tiếng một bà già vọng ra từ trong khoang :
-Nấu cơm chưa Lá, tía mầy ổng đói bụng rồi đó !
Cổ dạ một tiếng rồi chui vô ghe, lát sau lại trở ra với cái nồi trên tay rồi bắt đầu vo gạo. Hên vội lấy khăn đi tắm, anh muốn nhìn tận mặt cô gái có cái cổ gầy gầy ấy quá! Anh vừa bơi vài vòng vừa liếc nhìn coi cổ xoay sở thế nào trên cái bếp nhỏ xíu, chứa hai cái cà ràng đặt trên cái sàn gỗ chưa tới một thước vuông, cột sát bên hông ghe chỗ gần bánh lái.[ Người ta cố ý tách rời cái bếp khỏi ghe, để nếu lửa có lan ra thì hất nó xuống sông cho nhanh, khỏi làm cháy ghe]. Hình như cảm nhận được ánh mắt của anh, cổ đang ngồi làm cá bỗng quay ngoắt lại nhìn Hên đăm đăm. Hên thấy ngại nên hụp cái đầu xuống nước, khi ngước lên vẫn còn thấy tia mắt đó. Cổ bỗng gọi Hên bằng một giọng khẩn khoản:
-Anh hai ơi! Làm ơn mò giùm tui cây dao.
Hên vừa mừng vừa ngạc nhiên hỏi dồn:
-Rớt ở đâu? Hồi nào?
-Ở ngay cái chỗ tui ngồi nè, mới rớt thắt thì.
Hên không bơi mà lặn sâu sát đáy, tiến về hướng dòng chảy. Phải ba bốn lần ngoi lên lấy hơi anh mới tìm thấy cây dao yếm ấy, nó nằm cách xa chỗ rơi gần năm chục thước.
Cô gái vừa nhận cây dao từ tay anh, vừa cám ơn, vừa phân trần:
-Tui mới vừa khỏ đầu con cá cái bóp, nó quẩy mạnh quá làm rớt cây dao luôn.
Hên nói đùa:
-Cũng may mà rớt cây dao, chớ rớt con cá thì nó lội mất tiêu, biết đâu mà bắt, cho cô ăn thịt “cọp” luôn!
-Anh Hai lặn giỏi ghê, cái sông minh mông như vậy mà anh kiếm được liền. Mà sao nó đi xa dữ vậy?
-Mùa nầy nước đổ mà! Cây dao mỏng, bề bảng bự như vậy nó chao dữ lắm!
-May mà có anh chớ hông thôi mất tiêu cây dao, mần cá bằng cây dao cau nhỏ xíu lâu lắm! chắc bị chửi tắt bếp.
Cô vừa nói vừa cười, đôi mắt đen nheo với lại làm cái đuôi càng cong vút lên làm Hên thấy lao đao, anh hỏi tiếp:
-Cô ở tỉnh nào vậy?
-Cần Thơ.
-Bao lâu mới tới đây nầy một lần?
-Cứ đầu mùa mưa là nhà tui chất lá lên ghe, rồi chèo ngược lên mấy cái miệt trên nầy mà bán.
-Khá hông?
-Cũng đấp đổi qua ngày thôi!
-Vậy mỗi năm cô dìa đây một lần hả? Năm tới cô có ghé đây hông?
-Có, mùa mưa sang năm ghe tui lại tới.
Hôm ấy Hên tắm lâu gấp ba ngày thường và cô gái cũng bị má rầy mấy lần vì dọn cơm quá trể.
Tối đó anh ôm cây đờn ngồi trên cái chõng sát bờ sông kéo tới khuya lơ khuya lắc. Anh muốn mượn tiếng đờn để tỏ cho cổ biết cái mối tình vừa nhen nhúm của mình. Sáng hôm sau, trời còn tờ mờ Hên đã mò xuống bến, chiếc ghe đã nhổ sào chèo đi mất, cái bến sông quen thuộc bỗng trở nên quạnh vắng khác thường.
Chỉ có vậy thôi! Chỉ có như vậy thôi! Mà cuộc đời đã đổi sang màu khác. Mùa màng và thời tiết bỗng trở nên gắn bó với anh quá thể. Chàng trai ấy bỗng chợt vui vui, chợt buồn và không ngừng mong đợi một mùa mưa.
Một đêm đang ngủ ngon bỗng Hên bị đánh thức bởi những tiếng rào rào êm ái. Anh chui ra khỏi mùng gom hết thau, nồi đặt dưới những chỗ dột để hứng nước, rồi trở vô mùng nhưng chẳng thể nào ngủ lại được. Anh nhắm mắt tưởng tượng lại gương mặt cô gái ấy, tưởng tượng lại cái nụ cười tươi và hai con mắt ươn ướt hơi nheo lại với cái đuôi cong vút, anh chợt chép miệng:
-Người đâu mà!
Rồi anh bỗng chợt lo, không hiểu cô ấy còn đi theo ghe cùng tía má không hay là đã lấy chồng rồi. Nghĩ tới đó bỗng anh nghe tim mình trĩu nặng, vội vén mùng trở ra đốt ba cây nhang cắm lên bàn thờ, anh lẩm bẩm khấn:
-Tía ơi! Có linh thiêng, ráng phù hộ cho con cưới được cổ nghe tía.
Những cơn mưa năm nay lớn hơn năm ngoái. Cái maí nhà ngày càng mục nát, má anh hối lợp lại hoài nhưng Hên cứ hẹn lần hẹn lựa mãi. Bà giận nên không thèm nhắc đến nữa.
Chiều nay đi đồng về, Hên lại không ghé nhà mà bước ra bờ sông liền. Một chiếc ghe lá cắm sào đậu sát gốc sung làm tim anh bỗng tăng nhịp đập. Chẳng thấy cô gái xuất hiện lòng anh nhoi nhói một nỗi lo. Không kịp cởi bỏ cái áo bà ba Hên lội ngay xuống nước, bơi một vòng quanh ghe rồi tấp vô phía đuôi ghe. Anh bám tay vào bánh lái, rướn người lên chưa kịp thò đầu vào xem anh đã nghe trước mũi có tiếng hỏi:
-Anh Hai kiếm cái gì mà ngó dáo dác vậy? Giọng cô gái có nhuốm một chút tinh nghịch, cô hỏi tiếp:
-Bộ anh tính mua lá hả?
-Chớ còn gì nữa, cái mái nhà nó dột tùm lum. Tui chờ ghe lá của cô muốn thắt ruột, thắt gan đây!

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 33 bài trong đề mục