LDY Đoản văn - MÙI ỔI
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 33 bài trong đề mục
Lâm Du Yên 20.09.2019 13:48:40 (permalink)
TRÔI TRONG LÒNG CHIỀU

-Âù ơ ! Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người áo vá, khăn điều vắt vai…
Tiếng ru con của người chị dâu lớn vọng xuống tận bờ sông nơi Nở đang ngồi câu cá.
Tiếng ru dìu dặt khuấy động cả buổi chiều, cả con sông và làm Nở bỗng buồn rũ rượi. Con cá đang rỉa mồi có lẽ cùng chung tâm trạng, cái phao đang rung rinh vừa chìm xuống chợt nổi phều lên mặt nước rồi không thèm nhúc nhích. Con cá đã bỏ đi rồi…
Hôm nay là ngày rầm nên nước lớn đầy mà. Mấy bụi lục bình bị mắc kẹt trên bờ được dòng nước giải thoát mừng mừng, tủi tủi, bịn rịn chia tay với cây sung mọc sát mé nước trước khi theo bè bạn xuôi dòng. Mấy nhánh sung quơ tay, từng chiếc lá vẫy chào từ biệt. Nở bỗng ước phải chi mình được biến thành cái đám lục bình, trôi đi khắp mọi nơi và biết đâu…
Nỗi nhớ mang hình ảnh một gương mặt lại bắt đầu hình thành rõ nét… Nở tính nhẩm trong bụng phải gần ba tháng nữa mới đến mùa gặt, cái ghe chở những người cắt lúa thuê ấy mới ghé lại và cắm sào trên bến sông nầy.
Mỗi năm một lần, người con trai đó theo đoàn người gặt thuê lại ghé qua xóm Nở. Mấy năm trước Nở nào có để ý đến y, mãi cho đến cái ngày thi cắt lúa của mùa gặt sau cùng.
Trước mắt Nở hiện lên cái cảnh gặt thi hôm ấy. Bốn người con trai đứng thành một hàng ngang, mỗi người cầm một cái liềm sáng giới trong tay. Tía Nở hai tay cầm sẵn hai cái nấp vung nồi, chờ mọi người ổn định rồi mới ra hiệu bắt đầu bằng cách chập mạnh chúng lại để phát ra một tiếng chát tai. Người dự thi gồm anh Ba của Nở, một người nữa đại diện cho trai làng và hai người gặt thuê trong đó có y. Nghe hiệu lệnh họ liền khom người xuống rồi vung liềm lia lịa. Nở hồi họp theo dõi, miệng niệm Phật lâm râm cầu cho anh mình về nhất.
Tiếng hô hào của những người đứng xem liên tục cất lên, họ gọi tên người mình thích từng chập để khích lệ. Anh Ba của Nở được cổ vũ nhiều nhất bởi nổi tiếng là người cắt lúa giỏi nhất xóm. Những người đang làm đồng quanh đấy, đều dừng tay rồi chạy đến xem đông nghẹt. Chị dâu mới, người vợ vừa cưới hôm đầu mùa lúa của anh Ba cũng có mặt. Chị không nói tiếng nào, cầm tay Nở rồi cứ bóp chặt dần theo mức độ gay cấn của cuộc đua.
Hôm ấy anh Ba về nhất, y bám theo bén gót nhưng cái sợi dây giăng ngang làm đích đã bị anh Ba cắt trước rồi. Hai người còn lại bị bỏ khá xa. Bà con lối xóm nở mặt nở mày với mấy người thợ gặt xứ khác nên nói cười hớn hở. Tía của Nở cười to hơn hết thảy, đang cao hứng nên ông mời những người cấy thuê, chiều hôm ấy ghé nhà ăn cơm. Cả nhóm họ đều hớn hở nhận lời.
Bữa cơm hôm ấy rất vui ! Tía Nở ngồi cạnh y và cứ hỏi thăm không ngớt. Lúc bưng tô canh bầu ra Nở nghe y trả lời: “ cháu mồ côi, ở với ông bà ngoại từ nhỏ”. Khi không mà Nở nghe nhói trong lòng một cái. Rồi để ý tới y, rồi phát hiện cái áo bà ba y mặc có hai miếng vá trên cả hai vai. Lần kế bưng cái dĩa thịt gà kho gừng ra, Nở cố tình đặt ngay trước mặt y. Cái chén cơm đơm cho y Nở dụng ý ém cho thật chặt, thật đầy
Chắc y đã đoán ra cái tình ý của Nở dành cho, nên mấy ngày sau trên đường ra đồng hoặc về nhà họ hay chạm mặt. Một lần y chặn Nở lại hỏi: “ Bác Tư hết bịnh chưa cô Út?”. Nở mắc cỡ đến cứng cả người chỉ đáp được một tiếng “chưa” rồi đứng như trời trồng.
Mùa gặt chỉ kéo dài thêm mươi bữa, thế nhưng cũng đủ cho họ hiểu lòng nhau, dù bằng tia mắt nhiều hơn lời nói.
Ngày gặt cuối cùng, y chọn cái đám lúa sát bên Nở. Họ cố tình chạm mặt nhau ở mỗi đầu luống. Y gặt lơi tay còn Nở thì làm túi bụi để theo cho kịp. Y nhìn Nở lâu hơn khi cắt xong gié lúa chót, đưa cho Nở cái liềm rồi nói:
-Cô Út giữ giùm nghe, sang năm tui lấy lại !
Nở cầm cái cán liềm còn ấm hơi tay, rồi đưa y cái liềm của mình mà không nói một lời.
Khi cánh đồng còn trơ gốc rạ, và bến nước chỉ còn lại một mình cây sung thì lòng Nở cũng tràn ngập nỗi buồn, nỗi nhớ.
Ông trời như mất hết sức lực nên tháng ngày trôi qua quá chậm. Cuốn lịch Tam Tông Miếu dày mo mỗi ngày chỉ vơi đi một tờ mỏng dính, chẳng thể nào lấp đầy khoảng trống trong lòng. Nở chỉ có một niềm an ủi duy nhất, là cầm cái liềm đi ra đồng cắt cỏ đem về cho mấy con bò. Công việc nầy là của anh Ba, trước đây Nở chẳng hề đụng tới thế mà bây giờ cứ giành cho bằng được.
Nở cũng bắt đầu mê câu cá. Đi đồng về là xách cần câu xuống gốc sung, nhờ vậy mà bữa cơm chiều cũng phong phú hơn vì Nở vốn có tay sát cá. Dần dần Nở đâm ra nghiện cái không gian êm đềm của bến sông khi chiều xuống. Nó gieo vào lòng Nở một niềm an ủi cùng một chút hy vọng mong manh. Có lần Nở mừng muốn nghẹt thở khi thấy một chiếc ghe nhỏ từ từ tấp vào bờ, tới chừng phát hiện một đôi vợ chồng trẻ trên đó, Nở buồn muốn thủng ruột.
Nhớ đến đây lòng Nở lại rưng rưng. Nước mắt chực trào ra bỗng bị cái đầu gối của người nào đó ấn vào lưng, cắt ngang mạch nước mắt với cùng mạch nhớ. Nở quay đầu lại, người chị dâu mới cười trước rồi nói:
-Má biểu tui kêu cô lên nhà, đừng có câu...
Chị bỗng ngưng ngang rồi nói to:
-Cái phao chìm rồi kìa cô Út !
Cùng lúc ấy Nở nghe cây cần câu trĩu nặng trên tay, bèn giật mạnh. Một con cá trê vàng bằng cườm tay bị lưỡi câu xiên qua môi trên, ngoắc đuôi, vặn mình lia lịa.
Hai chị em nhìn nhau cười sung sướng. Cô chị dâu cúi xuống lôi cái rộng ngâm dưới nước lên, đã có vài con cá lòng tong, rô, lóc…trong đó. Cô mở nấp đậy cái rộng ra sẵn cho Nở bỏ con cá trê vào rồi xách đi trước. Nở đứng lên xoắn dây câu quanh cần, cầm cái mủng vùa đựng trùn lên rồi đưa mắt nhìn lướt trên mặt sông. Khắp lòng sông, những đám mây tim tím bềnh bồng, trông không giống như rơi từ trên trời xuống mà như thể từ đáy sông trồi lên vậy! Những tia nắng bị sóng dát ra thành từng mảnh vụn lấp lánh như một bầy cá lao xao. Một cảm xúc quá êm đềm bỗng dâng lên trong lòng Nở. Chưa muốn chia tay với buổi chiều, với dòng sông, Nở bảo người chị dâu đang sốt ruột đứng chờ:
-Chị lên trước đi, mồi còn nhiều bỏ uổng lắm ! Mấy con cá đang bắt trớn. Nói với má tui nán lại, kiếm thêm vài con cá trê nữa để nướng cho tía nhậu !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2019 14:08:05 bởi Lâm Du Yên >
#16
    Lâm Du Yên 22.09.2019 07:55:02 (permalink)
    NỒI CHÁO ĐẬU CỦA MÁ
     
    Má ôm mộng nuôi mấy đứa con ăn học đến thành tài, nên không chịu ở lại quê với ngoại mà dời qua Châu Đốc.
    Má thuê lại căn nhà rất lớn của dì Sáu Nê [chồng dì làm trưởng ty bưu điện đổi về Long Xuyên nên căn nhà bỏ trống], rồi bắt đầu nấu cơm tháng và cho học trò ở trọ.
    Má có tài nấu ăn, món nào má làm cũng ngon nhất là cái món cá linh kho rục, nên có người gợi ý má nên nấu món cháo đậu đỏ cá linh kho để bán.
    Ban đầu má nấu cháo trong cái nồi vừa vừa, bưng ra đầu cầu sắt [ đó là nơi mọi người trong xóm ghé mua đồ ăn sáng ]để bán thử. Rồi cái nồi cứ to dần lên đến đổi má bưng không nổi phải nhờ cậu Út gánh giùm.
    Dưới chân hàng rào quanh nhà má trồng thêm mấy bụi lá dứa để bỏ vô nồi cháo cho thơm. Cho đến bây giờ, vào những đêm mất ngủ, cái mùi lá dứa hòa với mùi đậu đỏ nước dừa( mà ngày xưa, hay đánh thức tôi vào mỗi sáng) lại tràn ngập cả lòng tôi.
    Cháo bán vừa hết là má ba chân bốn cẳng chạy ra chợ liền để kịp mua cá. Những ngày bán đắc, má đi chợ sớm, mua được cá tươi, mấy con cá linh má trút trong cái giỏ mây ra còn nhảy soi sói. Má vừa làm vừa hối tụi tôi :
    -Làm lẹ lên mấy đứa, hông thôi nó ương là kho không ngon.
    Hôm nào bán chậm, má giao gánh cháo cho chị hai coi rồi không chải đầu mà trùm khăn đi chợ. Những hôm ấy má phải ngâm cá đã làm vào thau nước muối, cho nó hút hết chất mật ngấm trong bụng cá ra, để khi kho cá vẫn thơm và ăn không bị đắng.
    Gặp những ngày mưa dầm, bán ế, cháo còn dư hơn nửa nồi bốn mẹ con phải ăn cháo cả ngày, chỉ có mấy anh học trò ở trọ mới được ăn cơm.
    Mỗi đêm má chỉ được ngủ chừng bốn, năm tiếng đồng hồ mà thôi! Hai giờ sáng đã chui ra khỏi mùng để lo nấu cháo.
    Má vo gạo, cho đậu đỏ đã ngâm sẵn và lá dứa vào nấu chung một lượt. Chờ cháo sôi bùng lên, má bớt lửa rồi vừa ngồi canh vừa lấy dừa ra nạo. Má vắt dừa để lấy nước cốt và nước dão. Nước cốt đầu tiên để dành chan lên mặt cháo trước khi ăn. Nước dão má chắt vô nồi cháo liền, bấy giờ nồi cháo bỗng thơm ngào ngạt.
    Nồi cá kho, cái món quan trọng nhất, đã được má làm sẵn từ chiều hôm trước. Má chuẩn bị cho nó hết sức là chu đáo. Không chỉ ở cá thôi mà cái nồi cũng được o bế kỹ càng, bởi nó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng, mùi vị của miếng cá kho… Má lựa cái nồi to vừa đủ để kho, đặc biệt cái nắp nồi phải đậy thật khít. Cá ngâm nước muối xong được rửa đi, rửa lại đến mấy lần, cho tới khi nào nước thật trong mới thôi. Má vớt cá ra cái rổ thưa, xóc cho thật ráo nước. Trút ra thau rồi ướp đầu cọng hành lá đâm nhuyễn, nước màu, nước mắm, đường và muối vào chung. Má lót những lát mía mỏng dưới đáy nồi rồi lấy đũa gắp từng con cá xếp vào từng lớp, từng lớp… Xếp xong má chế nước dừa tươi vào đến ngập mặt cá chừng một lóng tay rồi đem kho.
    Đầu tiên má cho lửa lớn để cá sôi bùng lên vài dạo mới bớt lửa và hớt bọt. Khi nước kho đã trong, không còn một tí bọt nào nữa má liền rút bớt củi ra, đậy nắp lại, lấy tấm thớt đè lên cho hơi nước không thoát ra ngoài, rồi kho bằng lửa riu riu. Khoảng vài giờ sau, má mở nấp, gắp hết cá ra rồi xếp cá vào lại theo vị trí đảo ngược. Những con cá nằm trên mặt lúc nảy, bây giờ phải chui sát đáy nồi. Nắp vung được đậy lại, dằn thớt lên và kho riu riu tiếp tục cho đến khi nào nước vừa cạn và xương cá mềm như thịt là xong. Điều đòi hỏi bức thiết nhất là phải canh làm sao để lửa nóng vừa phải và nước kho vừa đủ ngấm vào mình cá, không thiếu, không dư. Nếu dư thịt cá sẽ bị nhão, nếu thiếu cá sẽ bị khô và xương chưa được rục.
    Gánh cháo mà má bỏ hết công sức đã không phụ lòng của má. Mùi vị của nó lan ra tạo nên danh tiếng “ cháo đậu cá linh kho dì Năm” cho má. Mỗi buổi sáng, cả hàng người ngồi trên những cái ghế nhỏ và thấp như những chiếc guốc, chen chúc nhau xung quanh gánh hàng để ăn cháo của má. Mấy bà mẹ trẻ một tay bồng con, một tay cầm chén đứng chờ mua về đút cho con. Mấy cụ ông, cụ bà trong xóm đều là thân chủ của má. Má hay dặn chị hai mỗi khi nhờ bán giùm:
    -Bà Bảy không có ăn nước cốt dừa nghe, đừng có chan vô cho bả. Ông Tư không ăn dưa mắm. Dì Út Thu đau bao tử cử ăn chua đừng chan nước giấm tỏi cho dĩ. Mấy người mua cho con nít ăn đừng có bỏ ớt…
    Một hôm, cậu Út đạp trúng con heo làm đổ gánh cháo. Cậu bị phỏng, con heo nái cũng bị phỏng. Ông ngoại qua thăm, thấy má cực quá nên bắt dẹp. Mấy người khách ăn hể gặp má là khuyên bán lại, ai cũng tiếc, họ nói sao đang bán đắc mà nghỉ chi uổng vậy…Chỉ có mấy chị em tôi mừng vì khỏi phải làm cả đống cá, khỏi xắc dưa mắm mỗi buổi trưa và nhất là khỏi bị má bắt đi đòi tiền dì Hai Nho. Bà dì nầy ăn thiếu ấp lẫm, đã vậy còn đòi hoài không trả nên có một lần, không biết chị Hai học được cái câu “cháo bở quá sao dì dai dữ vậy ?” ở đâu rồi đem ra xài. Dĩ đem tiền lại trả rồi mét má. Má bắt chị Hai khoanh tay xin lỗi rồi bắt cúi nằm dài, rầy cho một trận còn tặng thêm mấy đòn bánh tét, bắt ăn bằng mông nữa.
    Bây giờ đến mùa nước lên, bà con, bạn bè có dịp ghé thăm hay kho cá linh đem cho vì biết tôi rất thích. Nó ngon, ngon lắm…bởi thắm đẵm vị quê và gợi lại nhiều hình ảnh của một thời xiết bao êm đềm ấy: Những buổi sáng vừa đi học về là bỏ cặp liền để làm cá phụ. Những buổi trưa mấy chị em vừa ngồi xắt dưa mắm vừa thi coi đứa nào làm giỏi nhất. Những ngày mưa, gió bạt tứ tung, tấm nhựa căng bốn góc che cho gánh hàng cứ vẩy phành phạch, thỉnh thoảng nó tung mình lên thật cao rồi trút nước xuống ào ào như thác. Tôi cầm cây dù đen thật là to, của ông ngoại cho để đứng che cho má. Mỗi lần có người đến mua cháo, má vừa mở nắp vung nồi vừa nói :
    -Khỏi cần che má, che cái nồi cho kỹ đi, đừng có để cho nước mưa rớt vào làm hư hết cháo !
     
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:21:05 bởi Lâm Du Yên >
    #17
      Lâm Du Yên 22.09.2019 08:01:54 (permalink)
      TÌNH NGƯỜI
       
      Chiều ba mươi tết, thấy con chở về cả chục chậu bông nào là vạn thọ, cúc, mồng gà...tôi rầy:
      -Mua chi mà nhiều dữ vậy, chưng có mấy ngày rồi bưng đem bỏ, cực thấy mồ!
      Con gái vừa thở dài vừa đáp:
      -Con tính mua hai chậu vạn thọ thôi, mà thấy họ bán ế quá nên mua giùm thêm mấy chậu nữa.
      -Mình hổng mua thì cũng có người khác. Chưng tùm lum đâu có đẹp còn chật nhà chật cửa, hổng có chỗ cho mấy đứa nhỏ chạy chơi.
      Lần nầy con còn thở dài hơn lần trước:
      -Thiên hạ bây giờ bụng dạ eo hẹp lắm mẹ ơi! Họ đi coi rần rần mà đâu thèm mua. Họ biết bông bán không hết phải bỏ lại nên chờ lượm, dù người bán hạ giá hết mức, năn nỉ, khóc lóc họ cũng chẳng xiêu lòng.
      Nghe con nói mà tim tôi thắt lại, bỗng nhớ ngày xưa...
      Chiều hôm ấy cậu hai Tha đi đồng về. Cậụ không ghé vô nhà uống trà cho ráo mồ hôi mà vác cây cuốc ra thẳng bến sông tắm và rửa cuốc luôn. Vừa bước vô nhà cậu hỏi mợ liền:
      -Có cơm chưa má nó !
      Mợ hai đáp lại bằng một giọng cằn nhằn:
      -Chờ một chút đi ông ơi, mấy con heo kêu om sòm, tui phải cho tụi nó ăn trước cái đã rồi mới tới tụi mình.
      -Má nó xăn xăn lên một chút, tui thấy trong mình hổng êm, tính ăn ba hột cơm rồi đi mua gói thuốc về uống.
      Mợ hai nghe chồng nói vậy thì bỏ tay ra khỏi cái máng, lật đật đi nấu cơm liền.
      Mợ bưng mâm cơm ra đặt lên cái chõng tre sau hè rồi gọi:
      -Ba thằng Thiết ơi ! Ra ăn cơm.
      Chẳng nghe tiếng đáp lại, chờ hồi lâu cũng chẳng thấy ổng ra. Mợ bước lại cái võng nơi cậu đang nằm. Cái võng cũng như cậu đều bất động.
      Tiếng hét của mợ vang lên, trong tích tắc mọi người trong xóm bu tới. Cậu hai Đủ kêu to:
      -Đứa nào lẹ chưn chạy mời ông thầy gân liền coi ! Kiểu nầy là bị gió độc nhập rồi !
      Chưa ai dợm cẳng thì cậu Sáu,ông thầy gân, đã ôm hộp đồ nghề chạy tới. Mấy người đàn ông khiêng cậu hai ra cái bộ giạt trước hàng ba để ổng nằm lên. Đó rồi, kẻ thời cạo gió, người thoa dầu, bóp tay, bóp chân... Mợ Hai Tha mở cây kim tây đang gài miệng túi ra, đâm mạnh vào mấy đầu ngón tay của cậu để nặn máu. Cách nầy đau lắm vậy mà chẳng nghe cậu rên dù chỉ một tiếng.
      Đám ma cậu phải hoàn lại đến bốn ngày. Hôm đi đưa mợ hai Tha vừa khóc vừa kể hết sức là thảm thiết:
      -Ông ơi là ông ơi ! Ông đi đâu mà vội mà vàng, chưa ăn một hột cơm nào, để bụng đói mà đi. Phải chi tui bỏ cho ba con heo đó, tui nấu cơm trước cho ông ăn thì ông đâu có chết như vậy !
      Bà con trong xóm nghe mợ than, chẳng ai cầm được nước mắt.
      Mùa dưa ấy, dù có lối xóm tiếp tay, nhà mợ cũng tỉa trễ hơn hết thảy. Mợ lo lắng mất ăn mất ngủ, cầu trời phù hộ cho dưa chín sớm để kịp bán trước tết vậy mà cũng không được. Dưa nhà mợ chín cận ngày tết quá nên mấy người lái dưa không mua nữa. Ngày ba mươi xe bò chở dưa về chất đầy sân, mợ ngồi nhìn đống dưa mà khóc.
      Má sai ba chị em tôi mỗi đứa bưng một cái thúng đi theo má lại nhà mợ mua dưa. Trước sân nhà mợ, chòm xóm, láng giềng tụ hội lại. Ai nấy, kẻ bưng người đội, xúm nhau mua dưa về ăn tết. Thì ra mọi người đã đoán trước được tình cảnh của mợ nên không chừa dưa lại ăn mà ráp nhau bán cho lái hết, rồi mua giùm cho mợ.
      Dưa bán hết rồi mợ còn ngồi khóc. Anh hai Thiết cằn nhằn:
      -Bà con mua giùm hết trơn, mừng muốn chết, má còn khóc cái nỗi gì?
      Mợ vừa kéo khăn lau nước mắt vừa trả lời:
      -Tao đâu có khóc tại vì buồn!
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:20:17 bởi Lâm Du Yên >
      #18
        Lâm Du Yên 22.09.2019 08:10:08 (permalink)
        MỸ A
         
        MỸ A là tên đặt cho một thứ lụa rất nổi tiếng ở Tân Châu mà mọi người dân quê tôi đều hãnh diện về nó. Nhưng Mỹ A tôi nói ở đây là một cô gái nhỏ, mà có lẽ chẳng một ai tôi đang quen và gặp gở biết về bé gái ấy.
        Một hôm đi học về, tôi thấy một đôi vợ chồng lạ hoắc đang ngồi nói chuyện với má, má bảo tôi:
        -Con chào dì dượng Năm đi!
        Tôi khoanh tay cúi đầu miệng lắp bắp:
        - Thưa dì Năm, thưa dượng Năm con đi học mới về.
        Dì Năm vuốt tóc tôi rồi nói với chồng:
        -Cháu nầy chắc cỡ bằng tuổi con Mỹ A đây.
        Chồng dì Năm mặc bộ đồ nhà binh, người ốm, cao và đen nhẻm. Dì cũng cao, hơi mập, da trắng, mắt to, môi đỏ au vì đang nhai trầu. Tôi nhìn một cách tò mò, tự hỏi không biết họ đến nhà tôi có chuyện gì? Bỗng nghe hai vợ chồng dì nói với nhau bằng một thứ tiếng rất lạ, rồi dì quay sang nói với má tôi:
        -Chị cho tui đặt cọc trước hai tháng thôi, có được hông?
        Má tôi hơi trù trừ rồi gật đầu, hỏi :
        -Chừng nào chị dọn tới?
        -Để tui coi ngày nào tốt, chắc trong tuần nầy thôi.
        Dì móc túi lấy tiền ra đếm, đưa cho má tôi rồi hai vợ chồng ra về liền. Trước khi đi, dì còn nựng càm tôi một cái.
        Hôm sau khi đi học về tôi thấy gian bếp đã được ngăn đôi. Cái võng và bàn tròn ăn cơm bị dời ra nhà trước. Chỗ cũ của chúng được cái tấm ri đô bằng vải bông che lại, tạo thành một cái buồng. Một đứa con gái trạc tuổi tôi chui từ dưới chân tấm ri đô ra. Nó nhìn tôi chằm chằm, tôi cũng vậy. Hai đứa như đang chơi cái trò đối mắt coi đứa nào thua, tôi chớp mắt trước rồi hỏi nó:
        -Phải mầy tên Mỹ A hông ?
        Nó trợn hai con mắt đã to sẵn lên, hỏi:
        -Sao mầy biết?
        Tôi không trả lời, hỏi tiếp :
        -Mầy mấy tuổi ?
        -Tám.
        -Vậy là lớn hơn tao một tuổi.
        Nó hỏi lại:
        - Bộ mầy là con của dì Năm chủ nhà hả?
        -Ừ, má mầy đâu rồi?
        -Hổng phải má, dĩ là dì của tao, má tao còn ở nhà.
        -Sao mầy hổng ở với má mà đi theo dĩ?
        -Má tao biểu.
        -Mầy có nhớ má mầy hông?
        Nó gật đầu rồi cái mặt buồn hiu, tôi bỗng nghe thương nó quá chừng.
        Từ ngày có Mỹ A tôi nôn về nhà lắm, vì dù lớn hơn một tuổi nhưng nó lại chịu nghe lời tôi, bày trò gì nó cũng làm theo và nhất là hay để dành bánh chia cho tôi. Chỉ có một điều làm tôi hơi bực là má hay đem nó ra làm gương như :
        -Coi con Mỹ A kìa, nó biết rửa chén rồi đó!
        -Con Mỹ A nó quét nhà sạch hơn con.
        -Con Mỹ A nó ăn cơm không đổ một hột…
        Mấy anh học trò cũng thương nó lắm, khen nó xinh hơn, ngoan hơn, hai bàn tay lúc nào cũng sạch hơn. Mà nó xinh hơn tôi thật, da trắng hơn, mũi cao hơn…Thậm chí tôi chỉ có một cái đồng điếu nhỏ xíu nằm khiêm nhường sát góc miệng, còn nó có đến hai cái lúm đồng tiền thật là to trên má. Tôi hỏi má:
        -Con nghe người ta nói “đen như Miên”, sao con Mỹ A nó trắng tươi vậy má?
        -Nó không phải là Miên rặc, nó là dân “ đầu gà đít vịt”nên mới ngộ như vậy?
        -“Đầu gà đít vịt” là cái gì hả má?
        -Là con của người Miên với người Tiều.
        Thật ra nó cũng không ngoan hơn tôi bao nhiêu, vì nó không chịu kêu dì Năm bằng má cho dù bị hăm he đủ thứ. Dì dỗ ngọt rồi đòi bỏ đói mà nó cũng không hề nao núng. Dì đã làm khai sanh nhận nó làm con, để chồng lãnh lương nhiều hơn một chút nên sợ nó gọi như vậy sẽ bị lộ và dượng sẽ bị tội. Dì bèn mua chuộc tôi, tôi nói với nó:
        -Mầy không kêu dì Năm bằng má thì tao không thèm chơi với mầy nữa .
        Tội nghiệp, nó chỉ có một mình tôi là bạn nên đành phải chìu theo. Tánh nó hiền và dễ tin hết sức, tôi nói sao là nghe vậy. Tôi mê con Bù Nỉ bao nhiêu, nó cũng mê tôi bấy nhiêu, có khi còn nhiều hơn nữa.
        Thời gian đầu chỉ có dì Năm với nó [dượng Năm làm trung sĩ nhất đóng quân ở Bình Thủy], sau lại có thêm một người đàn ông trẻ hơn má nó đến ở chung. Nó gọi ông ta là cậu Hai và theo lời dì Năm thì ổng là em bà con chung đầu ông cố với dì.
        Một hôm khi ăn cơm [nó không ăn chung mâm với dì Năm và cậu Hai mà hay bưng tô qua ngồi ăn với má con tôi] nó bỗng nói:
        -Tối nay mầy qua ngủ chung với tao nghe, ngủ một mình tao sợ ma lắm!
        -Bộ mầy hổng ngủ với cậu Hai sao?
        -Cậu Hai ngủ với má tao không hà!
        Tôi bèn xin má nhưng má nhất quyết không cho.
        Cái chuyện dì Năm với ông em họ, hình như đã đến tai dượng Năm hay sao mà dưỡng không gữi tiền về nữa [ đó là lý do dì Năm đưa ra khi xin má cho tôi đi theo dỉ và Mỹ A đi xuống chỗ trú binh của dượng Năm để lấy tiền]. Ban đầu má không cho, nhưng vì không có tôi Mỹ A không chịu đi nên má đành bóp bụng. Lần đầu xa má tôi ngại lắm, nhất quyết không đi nhưng rồi xiêu lòng vì dì Năm hứa mua cho tôi hộp viết chì màu, hơn nữa chỉ xa má có một ngày thôi, đâu có nhiều nhỏi gì!
        Thấy tụi tôi dượng Năm mừng lắm. Chiều đến, dì Năm, tôi và Mỹ A đã có một buổi cơm rất vui với dượng và mấy chục người lính. Mâm cơm hôm đó được dọn trên chiếc chiếu trải dưới đất, chỉ mỗi món canh chua bạc hà, nấu với cá rô mề, đựng trong cái thau nhôm to bằng cái thau rửa chén của nhà tôi mà thôi! Họ nấu cũng ngon nhưng không bằng phân nửa má tôi.
        Sáng hôm sau dượng Năm đi hành quân sớm. Tôi, Mỹ A và dì đi về, gương mặt dì Năm buồn thiu. Tụi tôi đang lội bộ ra bến xe thì một chiếc xe nhà binh đuổi theo và dừng ngay trước mặt. Dượng Năm leo xuống xe, chạy rất nhanh về phía chúng tôi, dúi tiền vào tay dì Năm rồi không kịp nói một lời, quày quả bỏ đi liền.
        Mấy ngày sau cái hòm chở xác dượng Năm được đem về nhà tôi. Dì Năm khóc té lên té xuống, Mỹ A khóc, tôi cũng khóc còn cậu Hai thì tránh mặt.
        Sau đám ma, cái bụng của dì Năm bỗng ngày một to ra, Mỹ A khoe với tôi là nó sắp có một đứa em. Nó nôn làm tôi cũng nôn lây.
        Một ngày kia tôi rủ Mỹ A cùng chơi một món mà mấy anh học trò ở trọ trong nhà vừa dạy. Hai đứa ngồi bệt xuống đất, đối diện nhau, cẳng chĩa thẳng ra phía trước cho bốn bàn chân chạm sát vào. Rồi cùng vỗ tay một lượt, vừa đập hai bàn tay vào nhau cho kêu thật to vừa hát:
        -Chị em xây cà lem nước dừa.
        Đang chơi rất vui thì Mỹ A bị dì Năm gọi vô buồng rồi bị đòn thê thảm. Một tuần sau dì Năm dọn nhà, má tôi buồn hiu vì mất đi một khoảng thu nhập, còn tôi thì khóc nức nở vì mất luôn một người bạn. Từ đó, tôi chưa gặp lại Mỹ A một lần nào.
        Cho đến bây giờ, thỉnh thoảng trong đầu tôi lại hiện lên gương mặt của một cô gái nhỏ. Một chút bào bọt dâng lên. Cái đau đó rất giống như cái xon xót của một vết thương cứ lên mủ hoài mà không chịu thành sẹo vậy!
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.09.2019 12:19:18 bởi Lâm Du Yên >
        #19
          Lâm Du Yên 28.09.2019 08:30:25 (permalink)
          CON ĐƯỜNG CỘ CŨ
          Đoản văn Lâm Du Yên

          Chẳng bao giờ Ân đi họp mặt với bạn bè hoặc dự tiệc tùng vào ngày thứ bảy. Chàng quyết dành riêng ngày đó cho má của mình.
          Sáng thứ bảy nào cũng vậy, Ân mặc bộ đồ tây cũ, đi chiếc xe đạp cũ, lăn bánh trên con đường đất gồ ghề để về thăm nhà. Cho dù con đường chạy song song được tráng nhựa hẳn hoi, có thể giúp Ân tiết kiệm phân nửa thời gian, và cho dù nóng lòng gặp má mình Ân vẫn không thể từ bỏ con đường cộ nhỏ nầy.
          Con đường cộ cũ chắc đã hình thành trước khi chàng ra đời.
          Ngày xưa người ta chỉ gọi nó là đường cộ mà thôi. Bây giờ thì bà con đã thôi nuôi bò để dùng trong việc đồng áng, lại có thêm con đường mới, rộng rải và phẳng phiu. Nó đã bị bỏ rơi, trở thành đường mòn và mang thêm cái tiếng “cũ” đi kèm.
          Hầu hết cư dân đã thôi xử dụng con đường cộ cũ, cho nên Ân càng ngày càng gắn bó với nó hơn. Thiếu người tu bổ nên con đường ngày một hư hao. Cứ mỗi lần hai bánh xe nẩy lên, sụp xuống, Ân lại nghe lòng dạt dào thương cảm.
          Từ khi thưa người qua lại, đám rau cỏ dại bắt đầu tự tung, tự tác. Chúng từ ruộng tràn lên lề rồi bành trướng lãnh thổ. Mấy cọng rau muống, rau bợ, nhãn lồng, cỏ mần chầu, cỏ may… lấn gần hết mặt đường, chỉ chừa lại mỗi một vệt đất nâu ngoằn ngoèo ở giữa y như con trăn nằm bất động.
          Ân cho rằng cái con trăn ấy chưa chết, chưa bị ăn thịt, chỉ nhờ vào hai cái bánh xe của mình mà thôi ! Chàng không khỏi đắc ý và cảm thấy có trách nhiệm với nó nhiều hơn !
          Ân thường khởi hành khi ông trời còn trùm mền, nhắm mắt, cố tình đi thật sớm để có thể dừng lại hái vài nắm rau dại. Đấy là cái thú duy nhứt mà chàng còn giữ được cho đến ngày nay.
          Má của Ân rất thích đọt nhãn lồng . Bà nói rằng bữa nào ăn món canh hoặc đọt nhãn lồng luộc chấm cá kho là tối đêm đó bà ngủ rất ngon, đóng một giấc từ đầu hôm cho tới sáng bét luôn!
          Hôm nào tìm gặp một bụi nhãn lồng xum xuê là Ân mừng như trúng số ! Trong túi áo, Ân luôn thủ sẵn hai cái bao ni lông sạch, một đựng đủ thứ rau, một đựng riêng đọt nhãn lồng.
          Mỗi lần đến cái chợ mương ở ngã ba sông gần nhà, Ân đều ghé vào một trong các sạp bán điểm tâm để mua thức ăn sáng cho cả hai má con.
          Hôm nay chàng ghé lại cái sạp ngay đầu chợ. Cái sạp ấy lúc nào cũng ấm áp bởi mùi khói của củi và những chiếc bánh tròn tròn, nho nhỏ xinh xinh.
          Cô Năm, người đang ngồi trên chiếc ghế thấp đặt trên mặt đất, đang thoăn thoắt đổ từng vá bột vào những lỗ tròn quay như cái dĩa nhỏ xíu đựng ớt trong khuôn. Cổ chào Ân với đôi mắt ướt nhẹp, đỏ vì khói kèm nụ cười tươi rói bù lại. Ân ghé mua bánh khọt của cổ vì tuần trước chàng nghe má mình nhắc tới món nầy.
          Cô Năm và các người bán ở đây đã quen nhẳn mặt Ân. Họ vẫn gọi chàng bằng danh từ “thầy giáo” mặc dù biết chàng đã nghĩ dạy từ lâu.
          Đưa cái gà mên bốn ngăn cho cô Năm, Ân căn dặn :
          -Cô bán cho cháu mười ngàn bánh khọt. Không cần giòn nhưng phải chan nước cốt dừa cho nhiều. Lấy rau sống khá khá một chút ! Cô chịu khó lựa giùm lá non và mềm chừng nào tốt chừng nấy, vì má cháu răng rất yếu. Hai cái ngăn kia đựng nước mắm, một thứ cay còn một thứ không cay.
          Cô Năm chỉ tay vô bình trà bày sẵn trên cái bàn thấp chủm gần đó rồi nói:
          -Thầy dựng xe, uống ly trà cho ấm bụng, chờ tui đổ bánh nóng cho ngon.
          Ân lắc đầu nói:
          -Thôi khỏi ! Cô cứ đổ bánh đi, cháu lại chợ mua vài món đồ rồi quay trở lại.
          Chợ mương ở ngã ba sông nên mặt hàng cá phong phú hơn mấy thứ khác. Tuy nó rất nhỏ, người bán lẫn người mua chỉ lèo tèo chừng dăm ba chục, thế nhưng nhưng cá, rau ở đây tươi roi rói, ngon hơn các chợ khác.
          Lần trước má chàng có nhắc món cá trê vàng nướng chan mỡ hành, giầm nước mắm gừng. Ân rảo khắp chợ, xăm soi tìm kiếm, mới hay con cá trê vàng đã tuyệt chủng mất rồi !
          Ân định tìm mua một con cá lóc trọng trọng, lấy cái đầu nấu canh rau còn cái mình kho làm món mặn.
          Chợt có người gọi giật ngược :
          -Thầy giáo, thầy giáo !
          Ân quay lại nhìn. Thím tư Câu đang hướng mắt về phía chàng, một tay cầm con lươn da vàng ươm dài ngoằn đưa ngang mặt, một tay ngoắc lia, ngoắc lịa còn nói :
          -Thầy mua lươn về xào cà ri đi ! Bà Ba thích món nầy lắm !
          Bà Ba mà thím nói là má của Ân. Chàng hơi ngần ngại bởi chưa bao giờ làm lươn.
          Ân bỗng nghĩ ra nên hỏi :
          -Lươn có làm được món nướng thoa mỡ hành hông thím Tư ?
          Thím Tư gật đầu :
          -Ngon số một ! Qua mặt con cá trê luôn!
          Ân ngần ngại:
          -Cháu chưa làm lươn lần nào nên …
          Thím Tư nói :
          -Dễ ợt ! Thầy lấy tro bếp vuốt cho nó hết nhớt rồi mổ banh cái bụng, moi hết ruột với máu ra là xong.
          Ân mừng húm !
          Khi chàng quay về cô Năm đã chờ sẵn.
          Ân vừa thắng xe cô đã đưa cái gà mên cho chàng rồi nói:
          -Tui làm y như thầy dặn !
          Ân móc túi lấy tờ mười ngàn ra đưa, cô Năm nói :
          -Hồi nãy thầy trả tiền trước rồi !
          Ân bán tín, bán nghi, chàng nhớ mình chưa trả tiền nên nói :
          -Cô nhớ lộn ai rồi đó ! Cháu chưa đưa tiền mà !
          Cô Năm lắc đầu nguầy nguậy :
          -Đưa rồi, đưa rồi ! Tui không có nhớ lộn đâu. Thầy quên rồi đó !
          Ân nhét tiền vô túi trở lại, vừa đạp xe vừa bức rức. Bỗng nhớ ra lần trước cách đây gần một tháng, cô Năm cũng nhứt quyết không chịu cầm tiền với cùng một lý do.
          Chàng chợt giật mình, chép miệng :
          -Thôi rồi ! Chắc cô Năm định trả cái công vợ mình đã giúp con dâu của cổ mẹ tròn con vuông năm ngoái !
          Sáng hôm sau Ân cố tình nấu cơm rất sớm, ăn cơm với má xong, Ân xin về .
          Bà Ba hỏi :
          -Có chuyện gì hông mà về gấp vậy
          Ân nói :
          -Con về sớm để hái mớ rau trên đường cộ đặng kịp đem về nấu bữa trưa. Hai mẹ con con Hòa thích món canh rau tập tàng nầy dữ lắm !
          Cầm túi rau chồng đưa cho, Lành, vợ Ân hỏi :
          -Rau ở đâu vậy mình ?
          Ân đáp :
          -Má biết mình thích ăn rau dại nên nhờ con Út nhỏ hái giùm đó !
          Chàng thầm cám ơn câu nói dối đó khi cảm nhận được tia mắt ngạc nhiên pha chút mừng rỡ của nàng :
          -Bộ má hết giận rồi sao ?
          Ân gật đầu.
          Từ ngày Ân theo vợ đi ở riêng, bà Ba từ mặt con dâu không thèm dòm tới. Thời gian đầu bà còn không nói chuyện với chàng, mỗi lần Ân về thăm, bà nằm quay mặt vào vách chẳng nhìn, trả lời hoặc nói với chàng một tiếng. Ân phải giải thích, năn nỉ đủ điều bà mới nguôi ngoai.
          Ân là con một ! Bà Ba mất chồng khi chàng chưa thôi bú, cho nên tất cả tình thương bà đều dồn cho chàng.
          Ân có lẽ là đứa con trai duy nhứt trong xóm, có thể trong cả quận và tỉnh nữa, chưa mang một cái thẹo nào trên đầu gối, trên cẳng tay, cẳng chưn kể từ lúc chập chững biết đi cho đến khi lấy vợ. Chàng may mắn vì có được một bà mẹ quá tuyệt vời, chăm sóc con hết sức tận tụy, chu đáo.
          Ân không biết lội, không biết trèo cây, chưa từng đánh lộn, không phân biệt được cọng cỏ với cọng lúa tuy rằng sanh trưởng ở nông thôn.
          Ba của Ân tử nạn vì cứu mấy đứa học trò bị chìm đò. Vì thế ông trở thành người thầy bất tử trong lòng bà con lối xóm. Phụ huynh mấy đứa bạn học của Ân, một số là học trò của ba chàng ngày xưa, cho nên mấy đứa bạn cùng lớp, cùng trường đó đều được ba má chúng căn dặn là phải đối xử tốt với Ân. Vì vậy dù bị coi là công tử bột, Ân không hề bị ăn hiếp hay kỳ thị chút nào mà ngược lại!
          Cuộc sống của Ân suôn đuột như cây chuối cho đến khi chàng đi lấy vợ. Dù Lành là người con dâu do chính tay mình chọn nhưng bà Ba lại chẳng mấy vừa lòng, bởi suy tôn con trai mình quá mức !
          Bà Ba đâu có biết, không phải Lành, mà chính Ân mới là người quyết định ra riêng !
          Vợ Ân là nữ hộ sinh trong bệnh viện quận.
          Nghề đỡ đẻ hết sức là vất vả. Các bé sơ sinh ngại phải chường mặt lập tức ra ánh sáng mặt trời nên các ca sinh nở phần lớn đều xảy ra vào ban đêm, nhứt là thời điểm tám, chín giờ tối trở đi.
          Ân rất thương vợ nên cho dù Lành về khuya cũng chịu khó thức chờ rồi hâm cơm canh để ăn cùng vợ. Điều nầy làm bà Ba xốn con mắt. Bà không nói gì nhưng đóng một cái trang rất lớn đặt ở giữa nhà thờ bà Cữu Thiên Huyền Nữ, mà dân gian gọi một cách trìu mến là bà “mẹ sanh”. Ngụ ý con trai mình theo đạo “thờ bà “.
          Ân không hiểu thâm ý của mẹ, nhưng Lành hiểu. Chính cái tính thông minh hơn người đó đã hại cô. Lành cảm nhận ngay tức khắc ý nghĩ sâu xa trong từng lời nói, cử chỉ của má chồng, y như những bệnh nhân bị thấp khớp nghe tê buốt trong xương khi tiết trời rục rịch thay đổi.
          Lành không thổ lộ với Ân, nhưng khi bị sẩy thai lúc có mang lần đầu, cô liền đề nghị chia tay dù thương chồng rất mực. Ân ngạc nhiên rồi chới với nhận ra, bấy lâu nay mình đứng giữa hai lằn đạn mà không hề hay biết !
          Ân hiểu rằng chỉ khi sống riêng mình mới giữ được vợ . Chàng viện cớ để tiện cho công ăn, việc làm, hai vợ chồng họ phải dời về chợ ở cùng nhau, rồi nằng nặc xin ra riêng.
          Thế là chiến tranh nóng với con dâu, chiến tranh lạnh với con trai bùng nổ trong gia đình bà Ba ngay lập tức.
          Ân bắt đầu thấm thía câu “cái gì cực đoan cũng không tốt kể cả tình thương lẫn đức hạnh “, mà ngày xưa chàng không chấp nhận, quá ư là đúng trong trường hợp của mình.
          Không hề quý vợ hơn mẹ, nhưng chàng muốn chứng tỏ cho bà Ba thấy rằng việc chàng ở xa mẹ không phải là không còn thương, quý bà mà trái lại. Ngoài lý do muốn duy trì cuộc hôn nhân của mình, Ân còn muốn giúp má mình lấy lại cân bằng trong cuộc sống.
          Trước khi ra riêng, Ân nhờ người chị em bạn dì ở sát bên nhà săn sóc má giùm mình. Tất cả các huê lợi trong vườn chàng tặng hết cho chị coi như để đền ơn.
          Căn nhà mới mà chàng và vợ tạo được rất nhỏ, rất đơn sơ nhưng tràn đầy hơi ấm. Ân và vợ như sống lại thời kỳ trăng mật. Lành hiểu rằng chồng đã hy sinh tất cả, chẳng những đành xa mẹ còn xa cả cái không gian sống mà anh yêu quí, nên hết lòng bồi đáp. Lành trao cho chồng tất cả tình thương mà mình có, đáp ứng một cách nhiệt tình, không còn tỏ vẻ khứng chịu một cách gượng ép nữa.
          Sau những giây phút thăng hoa bên vợ, Ân lại thấy thương má mình đến trào nước mắt. Khi hai vợ chồng họ có đứa con đầu, qua tình thương mà vợ dành cho mình và cho con, Ân biết rằng má chàng ngày xưa đã thương yêu ba chàng và chàng biết bao ! Thời gian hạnh phúc bên chồng của bà trôi qua quá ngắn, bà lấy tình thương của chàng để làm cứu cánh, chính vì vậy mà vô tình trở thành cay nghiệt với con dâu.
          Ân đặt tên con là Hòa, với hy vọng má và vợ mình cũng hòa thuận với nhau. Lành biết ý của chồng nên quyết tâm hàn gắn, cố gầy dựng tình thương với má chồng từng chút một. Sự cố gắng của cô giống như một người đi cầu khỉ. Bà Ba bị tổn thương sâu sắc, vẫn còn ấm ức với cái ý nghĩ con trai chọn vợ bỏ mẹ, nên cứ cố tình hất con dâu té giập mật cho bỏ ghét !
          Sự kiên nhẫn của con người ta không phải là sợi dây thun siêu dai, siêu dẻo, nên khi Lành từ chối không về thăm má chồng nữa, Ân không nở mở lời trách vợ.
          Ân tìm cách xoa dịu cả hai. Mỗi lần mua hoặc nấu món gì mang về cho mẹ, Ân đều nói dối là vợ làm, nên dần dần bà Ba cũng động tâm.
          Mỗi lần về thăm má, Ân thường rủ vợ đi chung cho vui, thế nhưng Lành đều lắc đầu từ chối.
          Không phải cô còn giận, còn hờn. Cô biết rằng những giây phút gần gũi con trai rất hiếm hoi ấy, vô cùng quý giá đối với bà Ba nên chẳng muốn quấy rầy.
          Từ khi nhận mớ rau của bà gửi cho, Lành luôn tự mình làm hoặc mua thức ăn, bánh trái hợp với ý má chồng để Ân mang về cho bà.
          Tối hôm đó Lành bất ngờ nói :
          -Sáng mai mình chở em về thăm má với nghen !
          Mấy ngày trước Ân có nghe vợ than mệt, khó ngủ...
          Nhìn gương mặt còn xanh rớt của Lành, Ân khuyên:
          -Mình coi mòi không được khỏe, thôi để lần sau đi !
          Lành nằng nặc :
          -Bữa nay em hết mệt rồi ! Cũng đã khuấy sẵn nồi bột gạo với nước cốt dừa, đã làm món bánh đúc mặn mà má ưa rồi ! Em muốn đích thân đưa mời má.
          Ân đành nói :
          -Để anh đi mượn chiếc xế nổ của thằng Nghĩa, chở em đi đường mới cho lẹ !
          Lành lắc đầu :
          -Mình ở chơi cả ngày, mượn xe người ta lâu quá kỳ lắm ! Với lại em thích mình chở em bằng xe đạp, đi con đường cộ cũ coi nó đẹp tới cỡ nào mà mình mê dữ vậy !
          Ân vui đến phát rung, nôn nao mong trời mau sáng y như ngày xưa nôn tới tết.
          Sáng đó Ân dậy sớm hơn vợ một chút. Chiếc xe đạp cũ được chàng o bế lại. Từng cây căm được lau bóng lưỡng. Cái sàn chở bằng sắt được chàng cột chiếc gối nhỏ xíu vào để vợ ngồi cho êm.
          Con đường cộ hôm nay đẹp và thơm hơn ngày thường. Hoa cỏ còn ngậm sương nên mùi hương vẫn còn lãng đãng. Mấy con ong, bướm chắc đã già nên ngủ ít, chúng cũng dậy rất sớm và bắt đầu vo ve.
          Đến bụi nhãn lòng Ân dừng xe bảo vợ:
          -Mình ghé lại hái cho má mớ rau, má thích ăn đọt nhãn lòng luộc lắm !
          Lành nhìn rau cỏ dại mọc hai bên lề, biết ngay mấy túi rau Ân đem về cho mình có xuất xứ từ đâu. Cô chợt hiểu ra tâm nguyện của Ân.
          Lành hỏi chồng bằng giọng cảm động :
          -Mình rất muốn em và má thương nhau đúng hông ?
          Ân gật đầu, chàng đáp :
          -Đó là điều mong mỏi tha thiết nhứt của anh !
          Lành hăng hái đi tìm đọt nhãn lồng với chồng, tỏ ra thích thú trước những hoa cỏ dại không tên bên đường. Cô đặc biệt ưu ái mấy cái bông rau muống màu trắng ngát. Cô dừng lại lâu hơn bên chúng để ngắm những chiếc cánh rất mỏng manh mang màu áo học trò ấy, với cái nhụy ở giữa còn trắng hơn màu trắng ! Chúng đơn sơ quá! Tinh khiết quá! Khiêm tốn quá ! Đến nổi khiến Lành xúc động đến rưng rưng.
          Thấy vợ chìm đắm trước vẻ đẹp của đám hoa dại, Ân vô cùng sung sướng. Chàng không dám giục, mãi đến khi hai cái túi ni lông đã đầy nhóc và ông trời mở banh cả hai con mắt mới nói :
          -Đi thôi mình ! Nắng lên rồi !
          Ân gò lưng đạp nhanh vì sợ má mình chờ lâu đói bụng. Thấy lưng áo chồng thấm mồ hôi, Lành liền bỏ hai ống giò về phía trước, đặt bàn chân lên pê đan để đạp phụ chồng.
          Cử chỉ đó làm Ân dạt dào xúc động. Cái chất thơ trong chàng sủi bọt rồi tuôn rỉ rả.
          Ân tằng hắng một cái rồi nói :
          -Sửa lỗ tai mà nghe thơ nè bà con !
          Rồi ngâm:

          - Đưa vợ về thăm nhà
          Xe đạp cũ đường xa
          Cỏ bên lề xanh lạ !
          Lác đác nụ vàng hoa

          Vợ tôi, hoa đồng nội
          Thương chồng đổ mồ hôi
          Chẳng chịu tréo cẳng ngồi
          Vói chân cùng góp sức.

          Con bướm già rạo rực
          Quanh quẩn mãi bên chưn
          Gió ghẹo tóc tưng bừng
          Quyện vào nhau tha thiết

          Mình ơi mình có biết ?
          Con đường cộ hôm nay
          Bỏ đất chạy theo mây
          Thiên đàng dần xít lại !

          Lành xúc động quá, áp mặt vào lưng chồng hít thật sâu mùi mồ hôi trên ấy. Ân nghe lưng áo mình ấm ấm, chàng tự hỏi chẳng lẽ mồ hôi cũng có nhiệt độ như nước mắt.
          Nỗi lo lắng bị má chồng hắt hủi của Lành được xua tan như lớp màng màng trên sông bị bọt xà bông đáp vào. Bà Ba đón con dâu bằng nụ cười hiếm hoi, moi ra từ đáy lòng của mình.
          Mảnh đất tình cảm của Bà Ba dành cho Lành đã được Ân nhổ sạch cỏ già, gai nhọn...Chàng còn gieo vào đó những hạt mầm của các loại cỏ cây, rất đẹp, rất thơm, rất nên thuốc ...như dây nhãn lồng chẳng hạn. Chúng đã bắt đầu đâm chồi nẩy lộc nên hể tưới là tươi liền.
          Bà Ba vừa thưởng thức món bánh đúc mặn, vừa khen:
          -Con khuấy bột với cái gì mà nó trong veo, dẻo, mềm, dễ nhai, dễ nuốt quá vậy, vợ thằng Ân ?
          Lành thưa :
          -Con có ngâm mấy lát khóm vô chung, không biết có phải nhờ nó hay không nữa !
          Bà Ba lại tấm tắc :
          -Cái bột thì béo, thơm mùi nước cốt dừa lắm ! Còn cái nhưn tôm thịt củ sắn nầy, nó được con bầm nhuyễn nhừ rồi xào hành tỏi nên rất thơm, nêm nếm cũng vừa ăn, hợp ý má lắm đó !
          Lời khen chân tình của người mẹ chồng vốn hết sức khéo léo và kiệm lời ấy, khiến Lành vui còn hơn cái lần cô được xướng tên, lên nhận giải nhứt trong cuộc thi nấu ăn năm nào.
          Lúc Lành chào để ra về bà Ba còn dặn dò :
          -Mai mốt có rảnh thì về chơi với má !
          Tuần sau, Lành lại xin Ân cho đi theo và cũng đòi đi trên con đường cộ cũ.
          Ân lại nôn nao, lại dậy sớm để lau xe, lại cột cái gối nhỏ vô sàn chở.
          Lành lại ngồi phía sau, lại bỏ chưn ra phía trước để đạp phụ chồng. Cô cứ luôn tay móc những hạt đen đen trong túi ra rải đều hai bên lối đi.
          Ân quay lại bắt gặp bèn hỏi :
          -Mình rải cái gì vậy ?
          Lành xòe tay cho chồng thấy mớ hạt giống với kích thước khác nhau.
          Cô nhặt từng thứ lên rồi giải thích :
          -Cái nầy là hột rau sao nháy nè ! Cái nầy là hột tóc tiên nè ! Cái nầy là hột rau muống Tàu nè! Cái nầy là hột nhãn lồng nè ! Cái nầy là hột mồng tơi nè ! Cái nầy là hột rau dền cơm nè !
          Ân ngạc nhiên hỏi :
          -Ở đâu mà mình có nhiều quá vậy ?
          Lành đáp :
          -Thì mua chớ đâu ! Bây giờ người ta bán đủ thứ hột của đủ thứ cây hết !
          Lành đi cùng Ân về thăm má chồng thêm vài lần nữa. Khi bà Ba đã bắt đầu nghe quen với nỗi mong nhớ con dâu thì Lành bỗng thôi về.
          Bà Ba hỏi Ân bằng giọng trách móc :
          -Con vợ mầy bộ lúc nầy bận rộn lắm sao ?
          Ân đáp bằng giọng buồn buồn :
          -Vợ con không được khỏe !
          Cho rằng con trai nói dối để chạy tội cho vợ, bà Ba giận lẩy rồi không thèm hỏi tới .
          Mấy tháng sau Ân lại đưa Lành về. Lần nầy chàng để vợ nằm lại một mình trong khu vườn rộng.
          Bà Ba thôi không còn rầy con dâu nữa ! Sáng sáng bà một tay chống gậy, một tay xách cái gà mên đựng món điểm tâm mang ra ngôi mộ mới.
          Bà vừa xớt thức ăn ra chén vừa gọi con dâu:
          -Vợ thằng Ân! Bây về đây ăn với má cho vui !
          Mỗi sáng thứ bảy Ân lại đạp xe, lại gò lưng trên con đường nhỏ về thăm mẹ và vợ. Khi thì đi một mình, khi thì có con gái ngồi đàng sau.
          Đến mùa mưa, những đóa hoa sao nháy, tóc tiên, nhãn lồng…mang đủ màu tím, vàng, trắng, đỏ, cùng phô sắc bên lề, khiến con đường cộ cũ tưng bừng sức sống.
          Bây giờ ngoài hai cái túi ni lông đựng rau cho má, Ân còn đem theo cái giỏ xách bằng giấy để mấy cái bông hái cho Lành không bị giập.
          Bày cẩn thận chúng lên mộ vợ, chàng nói :
          -Mình về mà coi nè ! Bông của mình trồng đã nở rồi, đẹp lắm !
          L D Y
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 08:36:15 bởi Lâm Du Yên >
          #20
            Lâm Du Yên 28.09.2019 08:34:48 (permalink)
            DUYÊN MƯA
            Đoản văn Lâm Du-Yên

            Như vừa dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà là má cô gọi vói theo:
            -Sao không đội nón, đội khăn gì hết vậy ?
            Như nhìn trời, mây rất mỏng và nắng rất nhẹ, yên tâm đáp :
            -Con vừa gội, để đầu trần cho nó mau khô.
            Bà cằn nhằn :
            -Rủi gặp mưa thì cảm cho coi!
            Như nói bằng một giọng tự tin:
            -Mùa nầy hết mưa rồi má !
            Má Như chưa kịp bảo chờ đem cái nón lá ra, cô đã vọt đi liền.
            Con đường từ nhà Như đến xóm Cây Gòn phải băng ngang ruộng. Nó là con đường đất không trải đá, ngày xưa nhỏ xíu, chừng hơn một sải tay, bây giờ đã được nới rộng gấp ba và đắp cao gấp rưởi. Người ta lấy đất từ hai bên lề để tu bổ, tạo thành hai con mương nhỏ chạy sát bên sườn của nó. Mặt đường đầy những dấu chân bò, chi chít vết trượt của những chiếc cộ để lại từ trận mưa gần nhứt.
            Những thửa ruộng đã bắt đầu trổ đòng đòng, gió tạt qua khiến lúa cúi đầu xuống rồi ngóc lên đồng loạt, mang cho Như một cảm giác hân hoan như thể được cả làng chào đón vậy !
            Niềm vui đó chuyển dần sang nỗi lo khi gió càng lúc càng gia tăng cường độ. Những đám mây thưa thớt bị dồn lại, chúng cụng đầu vào nhau, đau điếng nên bật khóc ào ào. Như nghe hối hận bởi không vâng lời má.
            Con đường trống lỏng không một bóng cây, cũng may mà còn một cái chòi giữ dưa sót lại bên đường. Như gò lưng đạp thật nhanh, dựng xe vào cây cột khẳng khiu rồi ngồi lên tấm giạt tre rất thưa. Cô đưa lưng về hướng gió để thân trước không bị ướt. Mưa càng lúc càng tăng, gió gào nghe phát khiếp! Một lúc sau, nước không còn tạt vào lưng Như nữa ? Nàng quay lại nhìn rồi giật mình chới với, một người con trai ngồi sau lưng Như tự hồi não, hồi nào... Hèn gì !
            Đây có lẽ là đám mưa cuối cùng nên ông trời sút lu, đổ cái ào xuống cho xong. Chưa đầy một giờ đã tạnh. Người con trai ngồi sau lưng cô bỏ đi khi mưa chưa ngưng hẳn. Bộ đồ bà ba đen của anh ta ướt sũng. Chờ mưa dứt hột Như mới móc cái khăn mù xoa trong túi ra, lau yên xe thật khô rồi leo lên đạp tiếp.
            Như đi qua mặt chàng trai ban nãy, không dám liếc nhìn cứ cắm mặt xuống đường. Những lớp bụi mịn đã biến thành bùn nhão nhoẹt, bám chặt bánh xe, giữ rịt chúng lại không cho đi dù chỉ một tấc. Như nhảy xuống, ngán ngẩm nhìn. Cô chưa biết phải làm sao thì nghe một giọng nói sau lưng :
            -Cô để tui giúp cho.
            Cái giọng nghiêm trang ấy khiến Như vững bụng. Cô quay lại nhìn anh, cười và nói :
            -Anh làm ơn...
            Không chờ Như nói hết câu. chàng trai đã xăn tay áo, vác ngay cái xe xuống mương. Anh cầm sườn xe bằng một tay, nhấc bổng nó lên chỉ để nửa cái bánh xe ngập trong nước, tay kia quay cái pê đan để rửa bánh sau. Ở bánh trước anh vừa đẩy vừa kẹp bàn chân vào sát bánh xe cho bùn rớt ra. Khi trả xe lại cho Như, anh hỏi :
            -Cô đi về nhà hả ?
            Như lắc đầu :
            -Em đến thăm thầy Trứ, nhà thầy trong xóm đó đó !
            Như chỉ tay về phía hàng gòn cao ngất. Chàng trai cũng cười rồi nói :
            -Tui là Trác, con trai của thầy.
            Như mừng rú:
            -Em nghe thầy nhắc tới anh hoài. Anh được nghĩ phép, về thăm nhà phải hông ?
            Trác gật. Như hỏi tiếp :
            -Có được ở lại ăn tết hông anh?
            Trác trả lời:
            -Ngày mốt tui đi rồi !
            Như tự trách mình khi không mà buồn lảng xẹt. Trác bóp cái bánh xe bằng hai ngón tay cái và trỏ rồi nói:
            - Bánh xe bơm căng quá, chạy đường trơn dễ trợt lắm ! Để tui xì cái vòi cho nó xẹp bớt .
            Vừa nói chàng vừa vặn ngược cái vòi, không hiểu sao khóa chặt trở lại rồi nói với Như:
            - Thôi! Cô lên ngồi để tui chở cho.
            Như riu ríu vâng theo. Trứ chạy lên lề cỏ sát mép mương, chàng giải thích.
            -Chạy trên cỏ bánh xe không bết bùn. Cô co chân cao lên để hông thôi cỏ cứa vào đau lắm !
            May mà Như mặc cái quần dài, ống rất rộng phủ kín cả hai bàn chân. Cỏ may bám kín lai trông như kết cườm rất đẹp. Bờ cỏ rộng chừng năm tấc, lạc tay lái là rơi tỏm xuống mương liền. Như sợ đến thót tim, hỏi Trác bằng cái giọng phập phồng:
            -Có khi nào mình bị rớt xuống mương hông anh ?
            Trác cười:
            -Cô yên tâm đi! Đối với lính tráng tụi tôi, ba cái chuyện nầy dễ như húp cháo !
            Như hỏi :
            -Chỗ anh đóng có hành quân nhiều hông ?
            Trác gật :
            -Cũng lai rai.
            Như lại hỏi :
            -Ban nãy anh đi đâu mà bị mắc mưa vậy ?
            Trác đáp :
            -Tui đi làm cỏ lúa.
            -Ruộng nhà anh ở khúc nào?
            -Gần cái chòi đụt mưa lúc nãy.
            Rồi Trác hỏi Như học lên tới đâu. Như trả lời là thi rớt tú tài một nên đi học may, vừa ra nghề nhưng còn ở lại tiệm làm công cho chủ. Trác hỏi :
            -Tui thấy mấy cô thợ may hay để móng tay dài, nhứt là hai ngón cái. Để cho đẹp hay có công dụng gì ?
            Như cười :
            -Hai móng tay đó dùng để cạo cho đường may nằm sát xuống, hoặc làm dấu trên vải cho lẹ, khỏi mắc công xài cây vạch.
            Trác pha trò :
            -Nó cũng là vũ khí phòng thân nữa ! Đàn ông họ sợ móng tay phụ nữ lắm !
            Như ngây thơ hỏi :
            -Thiệt vậy hả ? Anh có sợ hông vậy?
            Trác cười xòa, không đáp.
            Ra đến con lộ lớn, đường bớt bùn vì có trải đá ong, Trác xuống xe, trả tay lái cho Như rồi nói :
            -Đoạn nầy dễ, cô đi một mình được rồi đó !
            Như nghe buồn buồn, tiếc tiếc...Phải chi con đường nầy cũng ngập bùn. Nàng cám ơn Trác rồi lên xe đạp đi, Trác chạy theo gọi :
            -Nhà tui ở hướng nầy mà !
            Như mắc cỡ đỏ cả mặt, không dừng xe mà bẻ cái ghi đông để quay ngược lại, bánh trước trượt lên lớp đất sét, chiếc xe nghiêng hẳn sang một bên sắp ngã. Trác vội phóng tới, bám cái giàn chở phía sau ghì lại. Chàng hỏi :
            -Cô nhắm chạy được hông đó ?
            Như lí nhí :
            -Dạ được !
            Rồi quên cả cám ơn đạp vút đi liền.
            Đến nhà thầy Trứ, con chó vàng trước sân đang thất nghiệp, nghe tiếng người quen liền sủa rân mừng rỡ. Như cất tiếng :
            -Thầy ơi ! Con đến thăm thầy nè !
            Thầy Trứ đang lui cui sau bếp, nghe tiếng gọi liền chay ra, nạt cho con chó ngưng sủa rồi mở cửa cổng cho Như dắt xe vào. Thầy chắc lưỡi :
            -Tội nghiệp dữ hông ? Mưa mà đi làm chi, để hôm nào có nắng hãy tới thăm thầy cho đỡ cực !
            Như cười :
            -Con đi hơn nửa đường mới bị mắc mưa. Cũng may...
            Nói tới đó Như vội ngừng ngang. Thầy không hỏi thêm mà đi lại cái bàn tròn ngoài hiên, lấy chiếc bình tích đang nằm trong cái vỏ dừa khô, rót cho Như đầy một ly trà nóng. Có mùi cá kho khét, thầy chưa nghe ra là Như đã chạy xộc vào bếp, không kịp tìm đồ nhắc nồi. Hai bàn tay không, cầm liền vào hai lỗ tai của cái trách đất nhắc xuống, rồi chụp lẹ vào trái tai cho khỏi phỏng . Thấy rổ bông bí trên giàn bếp, Như hỏi:
            -Bông bí nấu canh hay xào vậy thầy ?
            Thầy Trứ vừa đáp vừa hỏi:
            -Luộc ! Cá có khét hông con ?
            Như đáp :
            -Mới xém ở vách nồi thôi ! Cá kho như vầy là ngon lắm đó thầy !
            Căn bếp của thầy quá quen thuộc đối với Như. Ba Như vỡ chà, có cá ngon thường sai Như mang qua biếu thầy. Nếu là cá Lăng, Như sẽ hái me, rau tần nhà trồng sẵn đem theo. Trên đường đi cô thường săn quần lội xuống mương, nhổ thêm mấy cọng bông súng để nấu cho thầy món canh chua bông súng cá lăng mà ông hết sức ưa !
            Luộc rau xong, Như hỏi :
            -Con dọn chén được chưa thầy ?
            Thầy nói:
            -Con để đó ra đây ngồi uống nước đi ! Chờ thằng Trác về rồi ăn luôn.
            Không hiểu sao Như lại giả tảng, hỏi:
            -Bộ anh Trác về phép hả thầy ? Ảnh nghỉ được mấy ngày vậy thầy ?
            Thầy Trứ chép miệng :
            -Nó xin phép được có một tuần hà ! Tội nghiệp vừa về tới nhà là chui đầu vô ruộng làm cỏ lúa liền. Ngày mốt đi rồi !
            Như lại nghe tiếng chó sủa, tiếng mở cổng và tiếng thầy Trứ :
            -Đi tắm liền rồi lên ăn cơm nghe con ! Bữa nay nhà mình có khách.
            Như thót cả ruột sợ Trác trả lời là đã biết và đã gặp Như rồi, không nghe anh nói tiếng nào. Như thở phào nhẹ nhõm !
            Bữa cơm diễn ra trong bầu không khí vui tươi, ấm áp. Lâu lắm rồi thầy Trứ mới hưởng lại được cái cảnh đoàn viên như thế nầy. Như vẫn còn đôi chút ngượng ngập. Trác cởi bỏ cốt cách trang nghiêm ban nãy, chàng cố kể những câu chuyện vui trong quân ngũ, đa số là chuyện có thật. Và dù anh cố chọn lọc, nhưng những câu chuyện mang mùi khói súng ấy đều thấp thoáng bóng dáng của nỗi buồn.
            Được sự khuyến khích của ông Trứ, Trác đã gọi Như bằng em, xưng anh một cách thân mật. Chàng được biết Như là cô học trò cuối của cha, được ông thương yêu rất mực. Có lẽ vì bằng tuổi với người em gái út của chàng. Cô em gái đã gặp tai nạn và qua đời, khi chiếc xe đò chở cô bị mìn giật tung.
            Trong thư gửi cho con trai, ông Trứ thường kể về Như nên Trác biết ba má cô là Việt Kiều hồi hương, để tránh nạn người Việt bị thảm sát sau đợt đảo chánh ở Cam pu chia. Như học trường Pháp nên tiếng Việt rất yếu.
            Thầy Trứ dạy môn Việt Văn, phụ đạo miễn phí tại nhà cho các em học sinh kém cỏi. Thầy được hết thảy học trò và gia đình họ kính mến, đặc biệt nhất là Như. Lúc mới về nước việc học của Như gặp nhiều trở ngại. Chương trình học hoàn toàn bằng tiếng Việt nên cô khó tiếp thu. Chỉ ở Sài Gòn mới có trường Tây, học phí rất đắt nên ba má Như không kham nổi. Chính nhờ sự tận tâm của thầy mà Như đã bắt kịp bạn bè chỉ trong một thời gian ngắn.
            Như vốn có tính hiền lành đa cảm. Những bi kịch liên tiếp xảy ra cho thầy ( sau khi con gái qua đời vợ thầy cũng phát bệnh và mất mấy tháng sau) khiến Như càng thêm gắn bó với thầy hơn. Nhà Như cũng không xa nhà thầy lắm nên hể rảnh là cô đạp xe qua nấu cơm cho ông. Sau nầy khi Như đi học may thì một tuần, hoặc nửa tháng cô mới ghé một lần.
            Cả Trác và Như đều nghe thầy kể hoài về nhau. Như biết Trác học rất giỏi, thế nhưng thi lại rớt nên phải dính vào quân dịch. Trác biết Như rất hiếu học. Cô biết đọc, viết văn, làm thơ bằng tiếng Pháp, rất hiền và hết sức sợ ma.
            Qua những câu chuyện được nghe, họ đã phát sinh lòng cảm mến lẫn nhau, nên khi gặp mặt tình cảm nãy nở cũng là lẽ dĩ nhiên. Cho dù không bộc lộ qua cử chỉ nhưng cả hai vẫn cảm nhận rằng, giữa họ đã xảy ra một điều rất đặc biệt.
            Như rửa chén xong, ra nhà trên chào thầy để ra về cô không gặp được Trác. Nỗi buồn từ đâu rót đầy tim, cô nghe lòng mình trĩu nặng. Chiếc xe cũng vậy. Nó hết sức ì ạch, hai cái bánh cứ ôm chặt lấy mặt đường như không muốn chia tay. Nỗi lo về con đường lầy lội phải vượt qua khiến Như thêm tủi.
            Lòng nàng chợt như nước vỡ bờ khi thấy ngay ngã ba rẻ vào con đường đất, Trác đã đứng đợi sẵn từ lúc nào. Không chờ chàng lên tiếng, Như dừng ngay xe lại. Trác nói:
            - Đường chưa kịp khô đâu, để anh chở cho!
            Như ngần ngại hỏi :
            -Vậy rồi một lát anh phải lội bộ về nhà sao ?
            Trác nhún vai :
            -Chừng ba, bốn cây số chớ mấy ? Còn hơn để em vừa đi vừa gở sình, hoặc té xuống mương, khổ gấp mấy lần hơn mà hổng chừng tới sáng mới đến nhà !
            Như trao xe cho Trác, lòng vừa vui vừa nhẹ nhõm. Họ lại đi trên bờ cỏ ban nãy. Ngồi ngay sau lưng anh, Như hồi hộp gấp đôi, tự hỏi không biết Trác có nghe tiếng tim đập thình thình như đang chạy nước rút của mình hay không ?
            Tia nắng cuối ngày đã chui tận tâm trái đất khi Trác đưa Như về đến nhà. Như xuống xe, ắp úng mấy tiếng cảm ơn và nói:
            -Chờ em đốt một bó lá dừa để anh cầm soi đường.
            Trác lắc đầu, chỉ tay lên trời:
            -Thôi khỏi, có trăng kìa!
            Trăng đầu tháng mỏng dính như lá lúa, như chân mày của một mỹ nhân. Như bỗng thấy ghen với cái con trăng mảnh mai ấy quá chừng. Cô sẵn lòng đánh đổi những thứ quý giá nhất để được như nó, để có thể dõi theo Trác đến cùng trời, cuối đất. Muốn cầm chân anh được chút nào hay chút nấy, nên cô buột miệng hỏi một câu đã biết trước lời đáp:
            -Chừng nào anh đi về đơn vị ?
            -Ngày mốt !
            -Ngày mai anh làm gì ?
            -Nhổ nốt cái mớ cỏ...
            Như đột ngột cắt ngang, hỏi bằng một giọng van xin:
            -Cho em ra làm phụ với nha ?
            -Thôi khỏi, còn ít lắm, anh làm một loáng là xong. Em có rảnh thì qua nấu giùm anh một mâm cơm cúng má. Tội nghiệp má quá ! Từ hôm anh về tới giờ chưa nấu được một bữa cơm cho ngon mà cúng.
            Rồi chàng móc túi đưa cho Như một tờ giấy xăng màu xanh có in hình của đức Trần Hưng Đạo. Như không cầm, cô vỗ vô túi áo, nói:
            -Anh giữ để mua quà cho bạn đi, em có tiền đây nè !
            Trác nói nghiêm:
            -Em phải nhận tiền, nếu không anh nhờ người khác đó !
            Như giữ tờ tiền còn ấm trong lòng bàn tay, không cho ngay vào túi. Trác nói :
            -Thôi em vô nhà đi. Ngủ sớm để mai dậy sớm đi chợ giùm anh.
            Như vừa tìm ra thêm một lý do, cô hỏi :
            -Má anh ngày xưa thích ăn món gì ? Em hỏi để biết mà nấu .
            Trác đáp bằng giọng ân hận:
            -Anh nào có biết ! Má toàn nấu những món mà mấy cha con anh thích thôi !
            -Là những món gì vậy anh?
            -Canh chua, cá kho, canh khoai ngọt, cá muối chiên, mắm các loại, bánh xèo, bánh ít trần...Em lựa món nào đơn giản mà làm, đừng có ôm đồm quá mà sanh bịnh.
            -Thầy có mời ai hông anh?
            Trác lắc đầu :
            -Đâu phải ngày giỗ, chỉ có cha và anh thôi !
            -Vậy hiện giờ anh thèm món gì ?
            Trác suy nghĩ rồi nói :
            -Mấy năm rồi anh chưa được ăn món gỏi sầu đâu. Sẵn cây sầu đâu trong vườn đang trổ tược non, hay em trộn cho anh một dĩa gỏi, thêm nồi canh giò heo hầm măng với nước cốt dừa và cá rô mề kho nữa là được.
            Như lại hỏi tiếp:
            -Anh muốn trộn gỏi sầu đâu với khô hay cá lóc nướng.
            -Trộn với khô cho gọn, mà em trộn với cá sặc bổi nghe, lựa mấy con thịt hơi bủn cho ngon !
            Rồi không để Như hỏi thêm, Trác đưa tay ngang trán chào đùa nàng theo kiểu nhà binh rồi quay lưng đi một nước, không ngoái lại lần nào.
            Như áp tờ giấy bạc lên má, đứng nhìn theo cho đến khi cái bóng cao gầy của Trác mất hút, mới chịu dắt xe lững thững vô nhà.
            Trước ngày trở về đơn vị, Trác xin địa chỉ của Như và hứa khi đến nơi sẽ gửi thư liền để nàng yên tâm. Thế là cứ cách vài hôm Như lại ghé nhà việc để xem có thư chưa. Như cứ nơm nớp sợ thư bị lạc bởi ở thôn quê chẳng nhà nào có địa chỉ hẳn hoi. Con đường duy nhất không có tên, cả ngàn căn nhà đều không có số. Ở mỗi bìa thư người gửi chỉ ghi tên của người nhận, cây số mấy, kèm theo những địa danh của tỉnh, quận, làng, xã... mà thôi ! Xóm Như có nhiều người trùng tên nên việc thư của người nầy đến tay người khác là chuyện bình thường. Để khỏi xảy ra nhầm lẫn, phải ghi thêm biệt danh, nghề nghiệp vào cái tên chính thức của người nhận. Nếu ai không có mấy thứ đó thì người gửi sẽ kèm tên cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ vào luôn cho dễ phân biệt .
            Mấy ngày sau Như nhận được cả hai lá thư cùng một lúc. Trác gửi cho thầy Trứ và cả cho nàng.
            Cầm hai lá thư trên đôi tay rung lẩy bẩy, Như nghe tội lỗi đầy mình, bởi thư của cô dày và nặng gấp ba. Để chuộc lỗi, Như phóng xe như bay đến giao cho thầy trước rồi quay về liền để đọc lá thư của mình. Đến cái chòi giữ dưa, Như dừng xe ngồi vào chỗ của Trác hôm ấy rồi mở thư ra đọc ngấu nghiến. Trác viết kín ba tờ giấy đôi vậy mà Như đọc vẫn chưa thấy thỏa.
            Như ôm lá thư tình đầu tiên ấy bằng cả hai tay. Cô ghì sát nó vào ngực để trấn áp con tim đang rung, đang thổn thức, đang căng phồng vì một niềm vui quá lớn. Trác viết bằng giọng văn khá nhộn với những từ ngữ hết sức hóm hỉnh, chắc muốn Như vừa đọc vừa cười, vậy mà nước mắt của nàng cứ rơi hoài, rơi mãi. Nó bắt đầu chảy ra khỏi mắt ngay từ dòng đầu tiên và không chịu dừng dù đến chữ cuối cùng.
            Trác cho biết suốt trên con đường chàng đi, mưa cứ đuổi theo sát ngót. Và vì lần đầu họ gặp nhau cũng do cơn mưa đưa đến, nên Trác có cảm giác rằng Như đang ngồi đâu lưng với mình, chỉ cần ngoái nhìn là thấy mà thôi !
            Chàng nói ở nơi mình đóng quân, mưa rất buồn, rất lạnh, quần áo phơi lâu khô, nên ai cũng sợ nó. Ngày xưa chàng cũng thế, nhưng bây giờ lại cầu mong mưa đến mỗi ngày. Lạ là những tiếng rì rào quen thuộc đó, lại khiến chàng nghe lòng ấm áp. Nhờ có nỗi nhớ về Như, nên cái cảm giác cô đơn, chán chường lúc mưa không còn nữa.
            Trác cũng khen cá lóc chà bông Như làm ngon lắm ! Và dù bị bạn bè trêu chọc nhưng Trác vẫn cố giấu để thưởng thức một mình. Rồi Trác dặn dò cô, mỗi khi qua thăm thầy nên đem thêm một bộ đồ nữa để phòng xa, rủi gặp mưa cũng có để thay ngay, khỏi sợ bị cảm lạnh. Chàng cẩn thận khuyên nàng đừng bơm bánh xe quá căng dễ bị trợt khi đi trên con đường băng ngang ruộng, vốn rất trơn.
            Cuối thư Trác hẹn sẽ về thăm một ngày gần nhất khi xin được phép. Chàng cũng hy vọng tình hình sẽ sáng sủa hơn để sớm được ở hẳn lại nhà.
            Tối đó Như chờ cả nhà ngủ hết mới dám đốt cái đèn trứng vịt, bưng vô mùng để viết thư cho Trác. Như viết nháp vào quyển tập trước rồi mới chép vào mấy tờ giấy pơ luya màu xanh mà nàng vừa mua cả một xấp dày. Lần đầu tiên viết thư cho một người con trai, ngay cái dòng đầu tiên là cô đã bị mắc nghẹn. Sửa đi, sửa lại, đọc tới, đọc lui đã đời mới viết vào tờ giấy mỏng. Như chùi cái ngòi viết cho thật sạch, cẩn thận gò từng nét. Viết chưa xong đã nghe tiếng gà gáy rộ.
            Sáng hôm sau Như ghé nhà thầy, hỏi xem ông có viết thư trả lời chưa để nàng mang đi gửi giúp. Ông Trứ nhìn Như, cười thật hiền và nói :
            -Thầy đã trả lời rồi đây, con dán tem và đi gửi giùm thầy. Mà con có tem chưa ?
            Như nghĩ chắc thầy đã đoán ra họ có tình ý với nhau. Trác có gửi thư cho Như, nàng cũng viết trả lời ngay như ông, nên mới hỏi thế. Cô trả lời bằng cái giọng ngường ngượng :
            -Con định đem lên bưu điện quận gửi cho nhanh, nên sẽ mua tem ở đó rồi dán tại chỗ luôn !
            Thầy Trứ vẫn còn giữ nụ cười trên môi, ông nói :
            -Con mua cho thầy với, tiền nè !
            Như lật đật chào thầy, thót lên xe, đạp cái vù ra cổng để không phải cầm tờ giấy mười đồng mà thầy cố dúi vào tay.
            Tội nghiệp con chó, nãy giờ nó cứ đứng chôn chân, nhìn Như đăm đăm, đuôi không ngớt ve vẫy, chờ được vuốt ve như những lần trước. Như bỏ đi mà không thèm ngó, tróc lưỡi cái nào, khiến nó cảm thấy hết sức tổn thương.
            Con Phèn chạy theo Như ra tận cổng, hy vọng cuối cùng cô cũng cười với nó một cái. Thế nhưng mà...Chàng ta cụp đuôi xuống, sủa vói theo mấy tiếng bằng cái giọng trách móc, giận hờn rồi mới thủng thẳng quay vào nhà !
            Ông Trứ cố đền bù cho sự hụt hẩng đó. Ông gãi nhẹ và lâu lên cái lưng đầy lông màu vàng cháy ấy, rồi kê sát tai nó nói nhỏ :
            -Tụi mình bị ra rìa rồi Phèn ơi !
            Chưa đầy một tuần sau, Như lại nhận thêm hai lá thư nữa, của cô vẫn dày và nặng hơn, thế nên lại mang đến cho thầy Trứ trước.
            Thầy ngạc nhiên, nói với Như bằng giọng hóm hỉnh :
            -Cái thằng làm biếng nhớt thây nầy, bây giờ sao mà siêng viết thư dữ quá !
            Như mắc cỡ, không dám nhìn thầy. Cô đưa mắt ra sân, thấy cây mai đang chìa mấy cánh tay gầy nhom, trụi lủi không còn cái lá nào, liền hỏi :
            -Sao năm nay thầy trẩy mai sớm quá vậy thầy ?
            -Năm nay lạnh, trẩy sớm để nó nở đúng giao thừa.
            Như hỏi:
            -Năm ngoái anh Trác có về ăn tết với thầy hông vậy ?
            Thầy Trứ lắc đầu, giọng buồn hiu:
            -Đã ba năm rồi, thầy ăn tết có một mình !
            Như nghe thương thầy đến xót xa. Cô nói:
            -Thầy đừng gói bánh, kho thịt, muối dưa giá nha ! Để con làm sẵn bên nhà đem qua .
            Thầy Trứ lắc đầu :
            -Thầy không dám làm phiền đâu. Thợ may tết cực lắm !
            Như năn nỉ :
            -Con đâu có làm. Nhà con cũng phải gói bánh, kho thịt cúng. Con nhờ má làm thêm một ít phần thầy, đâu có khó khăn, nhọc nhằn gì !
            -Vậy thì phải để cho thầy hùn vô, bằng không thì thôi!
            Thầy nói bằng một giọng cương quyết. Như không dám từ chối khi thầy mở bóp, đưa cho cô hai tờ giấy xăng xếp thẳng băng.
            Con Phèn nãy giờ ngóng mỏ chờ đến phiên mình, không còn kiên nhẫn nữa, cắn lai quần của Như giựt nhẹ để nhắc đến sự tồn tại của nó. Như sà xuống, vừa ôm vừa né cái lưỡi le dài sắp chạm vào gò má mình, bồng nó lên rồi thả xuống liền, quở :
            -Mầy nặng dữ lắm rồi đó nghe Phèn !
            Thầy Trứ giải thích :
            -Anh Trác con cưng nó lắm ! Cho ăn liền xì nên nó ú nu, ú núc.
            Như hỏi :
            -Nó có nhớ ảnh hông thầy ?
            -Nó buồn tới bây giờ đó con. Hễ thấy ai đi ngoài đường cũng đâm đầu chạy ra, ngó theo miết.
            Còn Phèn làm như thể biết nghe tiếng người, đang ngồi chống chân, nghe nói vậy bỗng co giò chạy vù ra cổng. Chẳng thấy ai, nó quê quá nên tha trái me dốt rụng trên sân đem vào cho Như.
            Thầy Trứ nhìn lên cây me rồi nói:
            -Năm nay me sai trái hơn mấy năm trước. Trái chín không đều, có trái dốt teo, có trái dốt bột. Những trái già sắp dốt làm mứt me ngon nhứt. Cơm nó dày, vỏ cứng, sắp tróc, lột dễ ít bị đứt tay. Con Út mà còn sống, là hái liền để làm mứt gửi cho anh hai của nó. Thằng Trác khoái món mứt nầy thượng hạng.
            Như đột ngột đứng lên xin phép thầy về liền. Tới ngã ba cô không rẽ vào con đường đất để về nhà mà chạy luôn lên chợ. Như ghé mua me để làm mứt cho Trứ. Cô đi khắp chợ chọn cái thúng me tươi nhất, lựa được hơn ba chục trái thật ngon, vỏ căng bóng, không bị trầy một tí nào.
            Như ghé cái tiệm tạp hóa đầu chợ, mua thêm một ký đường, hai đồng bột thạch cao phi, một gói va ni và giấy kiếng trong để gói. Tỏ, con trai con người chủ tiệm, ngày trước học cùng trường và trên Như hai lớp. Y ta cũng thi rớt, trốn quân dịch nên ở nhà bán hàng phụ gia đình, vừa cân đường vừa hỏi :
            -Cô mua đường làm mứt hả ?
            Như "dạ". Tỏ hỏi tiếp:
            -Cô làm mứt gì vậy ?
            Như trả lời gọn lỏn :
            -Me.
            Tỏ cười, nói nịnh :
            -Mứt cô làm chắc ngon số một.
            Như lắc lầu :
            -Đâu có!
            Tỏ thảy gói đường lên một dĩa cân, đặt cục cân bằng sắt có ghi số một trên mặt, lên cái dĩa bên kia. Dĩa cân đựng gói đường nặng hơn nên chìm sát xuống. Y ta chẳng múc bớt ra thì thôi, còn cho vô thêm một muỗng đầy nhóc. Như nhắc :
            -Anh cân giác quá rồi, còn cho thêm nữa coi chừng lỗ đó !
            Tỏ cười :
            -Tui cố tình hùn vô để tết tới nhà ăn ké mà !
            Như đáp hấp tấp :
            -Cái nầy tui làm giùm bạn, đâu có giữ lại nhà để ăn đâu mà đem ra mời khách.
            Tỏ nhìn Như, cười rồi hỏi đùa:
            -Bộ cô chừa cho tui một trái cũng không được nữa sao ?
            Như lắc đầu, cầm gói đường, trả tiền rồi bỏ đi một nước, tự hứa không ghé cái tiệm đó nữa.
            Má Như thấy cô lui cui đi rữa me, ngâm muối thì rầy :
            -Cái thứ mứt nầy làm cực thấy mồ ! Nào là tách vỏ, khựi hột cho nhẹ tay để nó không bị gãy, bị nứt. Nào là sên đường cho thấm, cho trong rồi phơi năm bảy nắng. Nào là gói vô giấy kiếng cho thẳng, cho đẹp nữa. Cực chẳng đã mới làm để khoe giỏi, khoe khéo với má chồng. Con có thèm thì để má mua vài trái cho mà ăn, đừng có làm cho khổ cái thân!
            Như vừa khuấy mạnh tay vào thau nước để mấy hột muối tan nhanh, vừa lắc đầu :
            -Người ta làm để bán, họ bỏ đường tinh ăn độc lắm má ơi !
            Những trái me dù được Như o bế hết sức, vẫn không thể trong veo như nàng mong muốn vì trời thiếu nắng. Thế nhưng nó vẫn được Trác nhiệt liệt ca ngợi trong bức thư sau đó. Lá thư ấy và cái tết đến cùng một lúc nên đối với Như, nàng xuân hầu như đã hoàn thành bổn phận.
            Có lẽ Như là một trong những người may mắn, không bị khói lửa chiến tranh làm cháy mày, phỏng mặt. Cái tết Ất mẹo ấy cho dù màu sắc có phần ảm đạm, cho dù cây mai nhà thầy Trứ hể bông vừa trổ là rụng liền, nhưng lòng cô vẫn rộn ràng với những hình ảnh về tương lai đang nằm lộn xộn trong đó. Như tha hồ đắm chìm trong những giấc mơ và hết sức phung phí óc tưởng tượng của mình. Niềm vui hừng hực trên gương mặt cô, đã giúp tảng băng lo buồn trong lòng thầy Trứ tan chảy một phần.
            Cô như đang sống trong một hành tinh khác. Nơi đó chỉ có Trác và một vài người mà họ thương yêu nhất. Những sự việc xảy ra trong ấy hết sức lung linh, huyền ảo, chỉ chứa đựng toàn những cái đẹp, điều thiện và không chịu ảnh hưởng bởi bất cứ một lực cản, một ác nhân nào. Nó như được tạo thành từ một chất rất trơn, rất cứng. Những vật thể thô, cứng chạm vào, đều không thể bám dính và làm nó sứt mẻ tí ti gì.
            Cho nên dù tình hình chung đang ngày càng dầu sôi lửa bỏng, nhưng những bài bình luận thời sự với những câu kết hết sức lạc quan, cùng những bức thư mang đầy lời thương yêu, hứa hẹn của Trác, đã khiến cô hoàn toàn tin tưởng rằng, cái đám cưới của họ sẽ xảy ra trong một ngày không xa lắm!
            Tết năm ấy thay vì đi chơi với bạn. Mỗi sáng Như đều đạp xe đến nhà thầy, nấu cơm cúng, ở lại ăn cùng ông rồi mới ra về. Trong mâm cơm hầu như có cả sự hiện diện của Trác. Anh như đang ngồi đối diện cô, mĩm cười ngượng nghịu khi nghe cha luôn miệng nhắc về những trò tinh nghịch của mình.
            Má Như đã sinh nghi từ việc làm mứt me nên bắt đầu để ý. Cho dù rất lo âu, bà cũng chẳng nỡ phá hỏng giấc mơ vừa chớm của cô. Bà làm tất cả những điều Như yêu cầu, một phần vì thương con gái, một phần bà rất quý mến thầy Trứ. Nhưng trên hết là do bà cho rằng, việc an ủi, giúp đỡ những người có hoàn cảnh như thầy và Trác là bổn phận của hết thảy mọi người.
            Sáng mùng ba, Như vừa từ nhà thầy về, đã thấy ngay một chàng trai đang ngồi ở bộ sa lông đặt chính giữa gian trước.
            Bộ đồ dân sự và mái tóc cắt kiểu "ca rê" của anh ta làm Như hụt hẩng. Cô đã đoán ra là ai ! Y ngồi quay lưng về phía Như nên cô chạy vòng ra cửa sau để tránh. Vừa dựng xe vào cây ổi cạnh sàn nước là má Như sấn tới nói nhỏ bên tai:
            -Thằng Tỏ nó đợi con từ sáng tới giờ. Má nói là con đi chơi nhà bạn. Ra nói chuyện với nó một chút đi con, tội nghiệp người ta !
            Như cau mày, lắc đầu rồi không vào nhà mà đi thẳng ra vườn. Cường độ yêu của cô dành cho Trác càng cao thì tính ích kỷ càng tăng. Như không ngần ngại, gạt thẳng tay những người được xem là vật cản. Cô nói :
            -Con không ưa y, con không ra đâu!
            Gương mặt Như thể hiện sự cương quyết khiến bà không dám ép, đành chắt lưỡi mấy cái rồi nhìn theo một cách ngán ngẩm.
            Như ngồi xuống chiếc võng máng trên hai cây lồng mức. Bóng cây, tựa như nỗi buồn, ngã sấp lên người Như làm cô nghe tức thở. Cảm giác y hệt lúc bị cái mùng đứt dây úp gọn lên người.
            Ôi, phải chi người chờ cô là Trác. Phải chi Trác có mặt bên cô trong những ngày nầy. Phải chi cô được cùng anh đi dạo trong ngôi vườn, và cùng ngồi trên chiếc võng. Cô sẽ mặc chiếc áo đẹp nhất của mình, đi đôi guốc quai nhung màu đen có gắn cườm, đội cái nón bài thơ mới tinh được viền quanh vành bằng xoa tím với cái quai cùng màu.
            Như thấy căm ghét cái cuộc chiến nầy quá thể ! Lần đầu tiên Như nhận ra khoảng cách giữa họ sao mà dài thâm thẫm. Như nghe nhớ Trác đến đau lòng. Cô quay vô nhà, lấy xe đạp ra cái chòi giữ dưa.
            Ngày tết, cánh đồng vắng tanh chẳng một bóng người. Lúa rạp mình chào, nhận ra sự hờ hững của cô nên giận dỗi ngóc đầu lên liền rồi đứng im phăng phắt. Vết xe đè trên cỏ cũng không còn nữa. Những bụi cỏ may, hôm nào thêu đầy hai ống quần, làm cô phải nhặt cả mấy tiếng đồng hồ mới sạch, vẫn còn xanh ngăn ngắt, nhưng hoa đã rụng. Cánh đồng, bờ cỏ, con mương... những ngày tết hình như bị quên lãng, mang vẻ lạc lõng, tủi và buồn đến tội !
            Tấm giạt trong chòi bị nắng trưa nung nên ấm như có ai mới ngồi. Hình như đã có một đôi nào đó vừa hò hẹn tại đây vì xác mía rải đầy trên cỏ còn chưa kịp khô. Không thể chỉ là một người bởi ai mà thích ngồi ngoài đồng một mình vào những ngày nầy. Nếu có một người nào đó cùng tâm trạng với cô, chắc chắn y chẳng còn hơi sức đâu mà nhớ tới cái ăn, đem mía theo để xước ? Chỉ khi có hai người họ mới chuẩn bị chu đáo để bày tỏ sự quan tâm, săn sóc lẫn nhau thôi!
            Như lấy trong túi áo mấy lá thư mà lúc nào cô cũng mang theo bên mình ra đọc. Những lá sau ngày một dài hơn nên mấy chiếc áo bà ba của cô, hai cái túi luôn căng phồng bởi chứa đầy nhóc. Một hôm bà chủ tiệm may, vỗ vào đó rồi nói :
            -Đem tiền kè kè trong mình, bộ không sợ bị rọc túi hay sao ?
            Như mĩm cười biết bà nói đùa, bởi ở quê Như xe đạp bỏ suốt ngày ngoài hiên còn không mất thì làm gì có cái nạn móc túi. Thế nhưng Như vẫn may thêm túi vào quần, cô đặt nó nằm phía trong, sát cái lưng thun để không ai thấy.
            Sau tết gần một tháng Như lại nhận được thư, lần nầy chẳng những Trác chỉ viết riêng cho cô thôi, mà còn dày gấp đôi những lá thư trước. Như mở ra xem, trên tờ giấy vẽ màu trắng ngà, là đôi mắt nhìn thẳng, cái miệng hơi hé của cô được Trác ghi lại bằng bút chì rất đẹp. Như hết sức cảm động ! Dù thời gian gặp nhau hết sức ngắn ngủi, Trác vẫn kịp nhớ những đường nét trên khuôn mặt cô đến từng chi tiết nhỏ. Ngay cả cái nốt ruồi núp trong vành tai chàng cũng nhận ra. Như bỗng nhắm mắt lại, tưởng tượng về Trác. Ngạc nhiên biết bao! Thay vì gương mặt, cái lưng áo ướt mưa lại hiện rõ mồn một trong đầu nàng.
            Thế là trong lá thư hồi âm ngay sau đó, Như nài nỉ Trác tự họa chân dung để gửi cho cô. Như viết trong dòng tái bút :" Em chưa nhìn kỹ gương mặt anh, chỉ mới biết rất rõ cái lưng mà thôi !"
            Rồi Như chợt nhớ ra, mỗi lần đối diện nhau, hể bắt gặp ánh mắt Trác là cô lại nhìn xuống đất, đâu dám nhìn đủ lâu để nhập tâm từng nét. Chỉ khi ngồi sau lưng anh trên chiếc xe đạp, Như mới tha hồ dán mắt vào cái lưng cong cong và chiếc cổ gầy nhom của anh. Như kêu thầm :
            -Tròi ơi ! Tới gương mặt của người ta mà mình còn chưa nhận rõ. Tại sao lại thương đến trọc tóc, tróc đầu như vầy hả trời ?
            Viết thư xong Như mang đi gửi liền. Trên đường đi cô ghé nhà thầy Trứ để xem ông có cần chi không.
            Nhà thầy nằm giữa ngôi vườn rộng. Những cây gòn lớn gốc to hơn một vòng ôm, cao đến độ mây bay qua bị níu rách áo, được trồng quanh khu vườn để làm rào. Thầy nói chúng lớn hơn, hoặc ngang tuổi mình, vì do cha của thầy trồng. Trẻ hơn chúng là những cây cau, dừa, tre, trúc, tầm vông. Vú sữa, lồng mức, ổi, mít, mận, chuối... trẻ nhất nên vẫn cho trái nhiều và đẹp.
            Con đường nhỏ bề ngang độ một thước, được cẩn vỏ sò chạy thẳng từ cổng vào nhà. Cánh cổng bằng cây đóng thưa rỉnh, lỏng lẻo y như một tên lính canh suốt ngày ngủ gục.
            Con Phèn vẫn là người đầu tiên chạy ra đón, ngay khi Như vừa thắng xe lại. Nó dùng chân đẩy miếng gỗ gài ngang một cách thành thạo để mở cửa, đuôi vẫy tưng bừng, lon ton đi trước dẫn đường. Như dắt xe đi theo sát gót, thích thú nhìn những bóng nắng rơi đều đều lên lưng nó rồi rớt xuống đất mà không bị vỡ một chút nào.
            Ông Trứ đang ngồi chăm chú viết, ông để hết tâm trí vào công việc nên chưa nhận ra sự có mặt của cô. Con Phèn đã được rèn cặp kỹ, không dám sủa một tiếng nào trong khi ông làm việc, chỉ chạy đến cọ nhẹ vào chân. Ông ngẩng lên nhìn, nhận ra Như liền nói:
            -Con ngồi chơi, thầy viết sắp xong rồi.
            Như dựng xe vào cây vú sữa, múc nước trong lu ra rửa mặt, ngồi lên chiếc võng bện bằng vải vụn còn mới tinh rồi lấy khăn ra lau mặt. Cô nhìn cái võng bằng đôi mắt thán phục, số vải vụn cô mang lại hôm trước đã biến thành một chiếc võng rất đẹp.
            Thầy Trứ vừa buông cây viết, thấy Như nhìn cái võng một cách chăm chú nên hỏi :
            -Con có thích nó hông ?
            Như lập tức gật đầu :
            -Dạ, con thích lắm đó thầy ! Không ngờ mấy miếng vải ngắn ngủn ấy lại làm được một cái võng chắc và đẹp như thế nầy !
            Thầy nói một cách thích thú :
            -Con mót thêm một mớ vải vụn đem lại, để thầy thắt cho một cái mà nằm.
            -Dạ, chắc hơi lâu một chút. Qua tết ít ai may đồ lắm thầy. Hôm nay con đi chợ quận, thầy có cần mua món gì hông thầy?
            -Thầy chỉ nhờ con gửi cái thơ thôi. Thầy hết bao thư rồi, con mua giùm, ghi địa chỉ và gửi cho thầy luôn nhé !
            Ông hơi ngần ngại một chút rồi nói thêm:
            -Con thấy ai bán quít si ma thì mua giùm thầy mấy trái nữa.
            Như dạ rồi hỏi :
            -Bộ thầy thích ăn cái trái nầy sao ?
            Thầy Trứ cười:
            -Thầy ghét nó nhứt hạng, nhưng vợ thầy ưa lắm ! Hồi đó bả có trồng một cây. Mùa nước năm kia nó chết rồi. Thầy đi kiếm cây con về trồng để có trái cúng bả mà tìm không ra. Mấy năm nay bả không được ăn nó nữa, chắc là thèm lắm ! Con có thích nó hông ?
            Như thè lưỡi, rút vai, lắc đầu :
            -Nhắc tới con còn sợ ! Có lần bà ngoại bẻ một trái bắt ăn. Con nhai hoài nuốt không có nổi! Ráng căng cổ, trợn mắt, đẩy xuống cho bằng hết để ngoại vui, nên ngán tới bây giờ. Bà ngoại con khoái nó dữ lắm ! Chẳng những ăn chơi chơi, ngoại còn pha vô bột gạo để làm bánh xèo nữa. Ngoại trồng tới hai cây, để ăn hà rầm khỏi phải mua.
            Thầy Trứ bán tín, bán nghi, hỏi:
            -Bánh xèo có quít si ma ? Thầy chưa nghe qua lần nào. Con ăn chưa ? Có ngon hông?
            Như gật đầu :
            -Dạ ngon lắm thầy, vỏ bánh xốp và giòn hơn thứ thường.
            -Cái mùi có giống bánh xèo hông ?
            -Dạ giống ! Nhờ bột nghệ áng mất tiêu cái mùi kia. Cái màu của nó vàng tươi, đẹp lắm thầy à ! Để mai mốt rảnh, con qua ngoại hái mấy trái đem về làm cho thầy ăn thử.
            Thầy Trứ can:
            -Chừng nào ngoài chợ có bán thì mua. Nghe nói nhà ngoại con ở tận Tân Quới, xa lắc mà còn phải qua đò mắc công lắm !
            Như khăng khăng:
            -Từ tết tới giờ con chưa ghé thăm ngoại. Lần nào con tới ngoại cũng đều nhờ hái quít si ma. Sẵn hái cho ngoại con hái cho thầy luôn, đâu có mắc công gì ! Huống hồ bây giờ ít người ăn, nên chắc kiếm đỏ con mắt cũng không ra chỗ bán ! Cái trái nầy hình như chỉ có ở xứ mình là có tên đó, còn những chỗ khác người ta gọi là Lê ki ma phải hông thầy?
            -Đúng rồi đó con ! Người Bắc gọi là trái trứng gà, tại cái thịt nó ăn bùi bùi, bở bở, giống hệt tròng đỏ trứng gà.
            -Sao trái cây Việt Nam mà mang tên tây vậy thầy ?
            -Trái nầy tổ tiên của nó ở bên tây chớ đâu có phải ở nước mình. Người Pháp họ đem qua đây trồng, nên mới có cái tên lai căng như vậy.
            - Hình như nó bổ ghê lắm ! Ngoại con nhờ ăn nó thường xuyên nên ít bị bịnh vặt. Bà năm nay đã tám mươi rồi mà mắt còn sáng trưng, tự mình xỏ kim không cần nhờ ai hết !
            -Cũng hổng hẳn ! Vợ thầy cũng ăn đều đều mà mất lúc chưa đầy năm mươi tuổi. Chắc tại lúc đó bả lo buồn quá ! Cái phần tinh thần quan trọng lắm đó con ! Mấy ông vua ngày xưa ăn toàn cao lương mỹ vị, ngon, bổ nhứt trên đời mà ít ai sống thọ, tại trong bụng họ cứ lo đủ thứ.
            Nói tới đó thầy dừng lại, gấp tờ giấy đôi lại làm bốn rồi nói :
            -Con chưa dán thơ thì bỏ vô luôn cho khỏi tốn một con tem. Nắng lên cả sào rồi, con uống ly trà rồi đi liền để một lát trời nóng ra đường mệt lắm !
            Như không dám nói với thầy là mình đã dán thơ rồi. Cũng may lần nầy cô dán bằng cơm nguội nên gở ra cũng dễ, nếu hái lá mít hay lá vú sữa để lấy mủ dán thì "trời cứu" !
            Như thôi không gãi cái cổ, cái tai của con Phèn nữa, xô nó ra, phủi áo rồi đứng lên đón ly trà thầy Trứ trao cho. Cô uống cạn, hắt chút cặn ra sân, úp ly xuống khay, khoanh tay chào thầy rồi dắt xe ra cổng. Thầy Trứ và con Phèn cùng đi theo. Con Phèn lại lăng xăng chạy trước để giành mở cửa. Như tróc lưỡi một cái với nó, gật đầu chào thầy thêm lần nữa, rồi mới đội cái nón lá lên đầu. Trước khi lên xe, cô móc túi lấy hai cây kẹp phơi đồ, kẹp sát hai ống quần lại cho khỏi bị quấn vào dây sên, bỏ chân mặt qua sườn xe, nhấn mạnh cái bàn đạp thật mạnh lấy trớn rồi mới thót lên yên ngồi.
            Đến Ty Bưu điện, Như móc túi lấy lá thư của mình ra trước, lấy móng tay lòn vào khoảng trống ở góc, lách từ từ cho nó bung ra, dễ còn hơn lòng mong đợi. Cô lấy từ túi áo bên kia lá thư của thầy Trứ ra để cho vào chung. Lá thư nhảy ra khỏi tay, gieo mình xuống đất, hai trang giấy mở bung như mời mọc. Như liếc nhìn vào thấy tên mình lềnh khênh ở trỏng thì hết sức tò mò.
            Ngày trước Như học trường tây, cảm thụ lối giáo dục tây phương, coi trọng tự do cá nhân nên việc xem lén thư của người khác chẳng những hết sức bất lịch sự mà còn bị coi là phạm pháp nữa. Biết vậy nhưng cái tính tò mò cứ liên tục thúc đẩy. Như chợt nhớ hôm trước vừa đưa cho thầy một xấp bao thơ đúng hai chục chiếc. Như đếm số thư mình gửi, biết thầy xài chưa tới phân nửa chớ nói gì đến hết! Nghĩ vậy nên Như cho rằng, thầy chắc muốn cô đọc bức thư nầy nên mới để ngỏ như vậy. Không còn do dự nữa, cô ngồi lên cái băng ghế trước cái bàn dài có mấy chén hồ khuấy để sẵn, cầm lá thư lên tay ngấu nghiến đọc:

            "Trác con !
            Tết năm nay có lẽ là cái tết ấm áp nhất vì cha không phải một mình mà luôn có Như bên cạnh !
            Bàn thờ của má con cũng tươm tất hơn mọi năm, bông trái chưng hực hở, bánh mức đủ loại, thức ăn ngon lành sạch sẽ.
            Như nấu ăn rất khéo, mùi vị các món ăn y hệt như lúc má con còn sống. Lâu lắm rồi cha mới tìm lại cái hạnh phúc êm đềm, cái cảm giác khoan khoái khi bưng chén cơm nóng, ngồi trước một mâm cơm tươm tất. Cha bỗng thấy tiếc cho má con hết sức, nếu còn tới bây giờ chắc bà sẽ thương Như nhiều và mừng cho con lắm !
            Cha bỗng nhận ra rằng, mình không còn coi Như là một đứa học trò nữa. Tình cảm cha dành cho Như cũng y hệt, bằng chan như cho em Trúc của con. Và vì coi Như là con gái nên cha nói với con, những yêu cầu của cha về một chàng rể quý !
            Cha muốn con gái của cha có một người chồng tốt. Đủ bản lãnh để bao bọc, chở che, làm chỗ dựa cho nó, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả tinh thần nữa.
            Cha muốn con gái của mình có một người chồng luôn chung thủy, thương yêu và trân trọng hết mực.
            Cha muốn con gái của mình có một người chồng không hà tiện những lời nói, những cử chỉ âu yếm để bày tỏ lòng thương yêu dịu dàng mà sâu sắc.
            Đến bây giờ cha vẫn còn bị niềm ân hận dày vò. Ngày xưa cha ít săn sóc, khen tặng, bộc lộ lòng biết ơn về lòng tận tụy của má con. Cha biết chắc rằng có những lúc má con rất buồn, rất tủi và không chỉ một lần.
            Cha biết Như đang yêu con, đang mơ mộng đến độ quên đi thực tại, một thực tại mà buồn thay, không mấy sáng sủa lắm !
            Cha đoán rằng chiến tranh sẽ sớm chấm dứt trong một ngày gần đây và những người như con sắp đối mặt với một sự thử thách hết sức là nghiệt ngã !
            Đọc thư con, cha nhận ra những tư tưởng bi quan, đắng cay trong đó. Con cho rằng những xương máu mà con đã đổ ra, bỗng chốc sắp trở thành vô nghĩa. Cha không đồng ý với con, bởi ta chẳng nên đem thành bại mà, luận anh hùng. Con đã cống hiến hết mình và cái mà cha vui không phải là con đã tạo dựng được những gì, mà là con đã sống như thế nào! Cũng không nghĩ rằng cuộc đời con đang thất bại bởi ngay cả cọng cỏ mục cũng trở thành phân bón để giúp đất thêm màu mỡ.
            Hơn nữa bên cạnh con còn có Như. Không phải ai cũng gặp duyên may như con, cha cho rằng chỉ riêng điều nầy cũng đủ lấp đầy những khoảng trống trong lòng con.
            Ngày xưa cha cũng như con vậy ! Nghĩ rằng sự nghiệp mới chính là cái xương sống của đời trai. Từ khi má con mất đi, cha mới biết rằng thương và được thương mới là điều quan trọng nhất !
            Chắc con đã nghe câu "nếu chúa đóng cửa cái thì ngài sẽ mở cửa sổ". May mắn thay ! Ở con, ngài chỉ đóng cửa sổ và đang mở cho con một cánh cửa cao rộng gấp mấy mươi lần.
            Chắc chắn cuộc sống của con rồi đây sẽ không dễ dàng, nhưng vì vậy mà niềm vui đưa đến khi vượt qua nó sẽ vô cùng to lớn.
            Hãy vứt bỏ những hành lý cồng kềnh, những tư tưởng cổ lỗ, những giáo diều giả dối. Mục đích con bây giờ là phải cố làm sao hết sức tránh những ý nghĩ tiêu cực, những hành vi táo bạo. Con phải cố bảo vệ mình, tránh xa lằn tên, mũi đạn càng nhiều càng tốt.
            Bổn phận đối với gia đình và xã hội coi như con đã trả xong, giờ con chỉ có một bổn phận duy nhất là phải mang đến cho con và Như một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Hai con rất xứng đáng để được hưởng điều đó !
            ...
            Đọc xong lá thư mắt Như đã nhòe nhoẹt. Như xếp ngay lại để không làm lem những dòng chữ trên đó. Không còn hối hận vì biết chắc rằng thầy muốn mình đọc bức thư nầy. Thầy muốn Như chuẩn bị trước tinh thần, bình tĩnh đón nhận sự thay đổi hết sức lớn lao sắp xảy ra.
            Như cố tưởng tượng ra những tình huống xấu nhất có thể sắp đến, nhận ra rằng chỉ có một điều khiến mình gục ngã. Đó là Trác mãi mãi không về với cô.
            Như không làm theo lời thầy mà mua một xấp bao thư mới, rồi ghi tên và số KBC của Trác vào. Cô gò từng nét, cố bắt chước sao cho thật giống tuồng chữ bên trong. Phải đến cái bao thư thứ bảy cô mới hài lòng, cho lá thư vào, dán tem rồi bỏ vô thùng thư.
            Như ghé chợ khi trời đã đứng bóng. Chợ trưa vắng hẳn người mua. Cô dắt xe thong thả đi vào nhà lồng, nơi trái cây bày đầy trên mấy cái sạp dọc theo lối đi. Như tìm chăm chú, nhìn thật kỹ từng cái rỗ đựng trái cây trong từng gian hàng một. Đang thất vọng thì cô bắt gặp ở cuối lối đi, một bà cụ rất già ngồi xổm trên đất với cái thúng đựng hai thứ trái cây: Ổi xanh và quít si ma vàng óng. Bà cụ còn già hơn ngoại của như, cái miệng móm sọm, chắc những cái răng đã bỏ bà theo nhau đi hết. Bà chắc chắn không phải là người bán hàng chuyên nghiệp. Tưởng tượng cái cảnh bà bưng cái thúng, xách cây cù móc ra vườn, ngước đầu che mắt nhìn lên từng cây, tìm trái chín để bán lấy tiền mua một chai dầu Nhị thiên đường, hoặc hộp cù là Mát su để dành cạo gió, khiến Như mũi lòng.
            Cụ thấy Như dừng xe thì nét mặt lộ vẻ vui mừng. Bà mời:
            -Mua giùm đi cháu, bà bán rẻ cho !
            Như mua hết mười một trái quít si ma của bà. Vườn nhà Như trồng ổi nhiều hơn các cây khác, trái ăn không hết, chín rụng khắp vườn, nên cô không dám "mão" luôn mớ ổi sợ bị má rầy.
            Cô xin mấy miếng lá chuối khô mà bà đem sẵn theo để gói. Cả hai cùng bọc từng quả vàng tươi, láng mướt, sắp cẩn thận vào cái giỏ đệm của Như.
            Như đưa cho bà tờ giấy năm chục đồng và nhứt định không cầm tiền thối. Bà lão nhìn theo cô với nụ cười trống toác...
            Ngay thời điểm đó, trên trái đất, chắc chắn không có ai hạnh phúc bằng Như và bà lão ấy.

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 09:35:24 bởi Lâm Du Yên >
            #21
              Lâm Du Yên 28.09.2019 09:24:56 (permalink)
              DẦU XANH
              Đoản văn Lâm Du-Yên
               

              Không biết từ khi nào, chai dầu hiệu con ó, hay còn gọi là dầu xanh vì có màu lá cây đậm, được hầu hết bà con ta, từ thành thị đến thôn quê hết sức ưa chuộng.
              Nó là mặt hàng gần như bắt buộc mà mọi Việt kiều phải thủ sẵn vài lố trong va li để đem về tặng. Có thể nói rằng "phi dầu xanh, bất thành Việt kiều". Không có chai dầu đó, cho dù da họ có trắng bóc, quần áo có mùi thơm đặc trưng mà dân nội địa dẫu giàu nức đố đổ vách cũng chẳng thể nào có được, cho dù trong câu nói thỉnh thoảng họ vô tình chêm vào mấy từ lạ tai, cũng không được chào đón như một việt kiều chánh hiệu. Ánh mắt mọi người nhìn họ sẽ hơi lành lạnh, bởi thiếu mùi vị thơm nồng của chai dầu gió có hình con ó. Nó, chính nó chứ không ai khác, chẳng những giúp ấm hai cái màng tang, chót mũi, rún...mà còn len sâu vào tim giúp bà con ta ấm áp cả tấm lòng.
              Chai dầu xanh đã vượt xa cái chức năng "ngừa phong, đón gió" đơn thuần. Nó trở thành một món trang sức. Khi mà những gia đình có thân nhân sống ở nước ngoài "lên đời" vù vù, thì chai dầu xanh nằm trong túi áo, túi xách của một ai đó, giúp nâng vị trí của chủ nó lên thêm một bậc. Cho nên...

              Bà Ba móc chai dầu xanh trong túi áo ra khoe với bà Tám :
              -Hôm trước thằng Ơn ghé thăm, cho tui chai dầu xanh nầy nè !
              Bà Tám cười hì hì:
              -Nó cũng có ghé thăm tui, cũng cho tui một chai y hệt. Tui đem cho con Út liền, nó mới sanh nhường cho nó xài, tui quen cái mùi dầu Nhị thiên đường rồi, đổi dầu khác chịu hổng nổi!
              Bà Ba cũng cười, nói với vẻ hài lòng :
              -Thằng Ơn nó đi thăm giáp xóm không có bỏ sót nhà nào. Vợ chồng Năm Câu coi vậy mà có phước, sanh được thằng con ăn ở có tình, có nghĩa hết sức !
              Bà Tám chắc lưỡi:
              -Tội nghiệp! Hai vợ chồng họ sao mà vắn số quá! Phải chi sống tới bây giờ thì vui biết mấy. Nghe nói hôm thằng Ơn ra thăm mả, nó khóc thôi là khóc.
              Bà Ba chép miệng :
              -Nó khóc cũng phải. Tại tưởng nó chết nên hai vợ chồng y mới buồn rầu đổ bịnh, rồi mất sớm như vậy. Mà nó làm hai cái mả cho ổng bả đẹp nhứt xóm, chắc họ mát bụng lắm.
              Bà Tám hỏi:
              -Nghe nói nó giàu lắm hả chị ?
              Bà Ba gật đầu :
              - Chắc là vậy rồi. Hổng giàu thì làm sao mà mua tặng giáp xóm mỗi nhà một cái bình lọc nước được? Ai mà ngờ bây giờ nó vừa giàu có, lại cao to trắng trẻo, bảnh tỏn quá trời, quá đất ! Nhớ hồi mới chui ra, nó y như con mèo ướt. Bà mụ Thắm đưa, tui còn hổng dám bồng.
              Bà Tám lại chắc lưỡi thêm lần nữa, nói:
              -Mới đây mà mấy chục năm, lẹ thiệt! Nhớ hồi nào...

              Mấy mươi năm về trước, đúng mùng hai tết, khi cả xóm cây me đang tập trung vào mấy sòng bài ngoài sân. Con nít người lớn đang xúm đen, xúm đỏ, ì xèo cười nói, cãi cọ... thì có tiếng gọi thất thanh từ dưới bến sông:
              -Bà con ơi! Cứu giùm vợ tui !
              Thằng Nho làm cái, Hai bàn tay đang chia bài thoăn thoắt vội ngưng ngang. Mấy "tay em" gom tiền rồi vọt liền xuống bến ông Ba, nơi phát ra cái tiếng kêu thảng thốt đó.
              Chưa đến nơi, mấy chục cái miệng đã nhao nhao :
              -Chuyện gì ? Chuyện gì vậy ?
              Người đàn ông đứng trước mũi chiếc xuồng nhỏ xíu, có cái mui như hai hàn tay chấp lại, nói như khóc :
              -Vợ tui chuyển bụng từ khuya tới giờ mà chưa sanh được, bây giờ đang đau dữ quá !
              Con Làng trờ tới, nghe nói vậy lật đật quay ngang, vừa chạy vừa nói :
              -Để tui đi rước mụ cho.
              Nó mới phóng có mấy bước là bị má nó kêu giựt ngược:
              -Làng trở lại, để chị hai mầy, con Lẹ nó đi cho người ta đẻ lẹ.
              Bà ta miệng nói, tay đẩy tới trước một cô gái ốm nhom, kẹp tóc đang đứng bên cạnh.
              Làng quay trở lại, mặt phụng phịu thầm trách ông già tía, đặt làm chi cái tên dỡ òm, làm mất cơ hội đóng cái vai cứu khốn phò nguy mà mình hằng ao ước !
              Mọi người trong xóm, hầu như đủ mặt, đứng lố nhố trên bờ. Tiếng rên của người phụ nữ dưới xuồng vọng lên làm ai cũng xót ruột. Tám Lanh, má của hai cô gái Lẹ, Làng ban nãy đưa ý kiến:
              -Chiếc xuồng nhỏ xíu khó day trở lắm ! Phải đem lên bờ mới được.
              Câu nói rất hợp lý mà không ai hưởng ứng, bởi họ cho rằng "sanh dữ, tử hiền", thà cho mượn nhà để làm đám ma chớ ít ai chịu để thiên hạ vô đẻ nhờ.
              Ông Bảy Chức, người cao niên nhất góp ý :
              -Cái chuồng bò của ông Ba có sẵn đây nè, hay là đem đại vô đi !
              Từ ngày ông Ba sắm được cái máy cày tay thì cái chuồng nầy bị bỏ trống. Cũng may là chưa kịp tháo bỏ để lấy chỗ trồng rau. Nghe nói vậy ổng liền gật đầu :
              -Được a ! Để tui đi kiếm đồ vừng lại cho kín. Nhà ai còn giữ mấy tấm liếp phơi bánh tráng thì gom lại liền. Ai còn lạt lợp nhà cũng đem tới luôn thể nghe bà con!
              Cả chục người đàn ông lẫn phụ nữ đang đứng bỗng chạy ào như ma đuổi, lát sau họ đến, mang theo những thứ đang cần mà nhà mình có sẵn đó !
              Cái chuồng bò nhanh chóng được vừng vách. Một người đàn ông, vai vác tấm giạt và bốn cái cọc tre vừa bứng từ nhà mình đến (vợ ông ta vừa hốt bếp xong), đặt mấy món đó xuống đất rồi nói :
              -Phải ráp cái giường đẻ trước mới được. Ai nhà gần chạy về lấy cho mượn thêm mấy cái xuổng, búa coi !
              Ông Ba nhanh chóng mang ra hai cái xuổng, lát sau có mấy người khác đem đến thêm nào xuổng, nào búa lủ khủ. Bốn người đàn ông đào bốn cái lỗ để trồng mấy cây cọc tre xuống. Người ta dùng búa nện lên đầu mấy cây cọc tre, cho nó cắm sâu vào lớp đất cứng phía dưới, lấp đất lại và nện cho thật chắc. Tấm giạt thẳng băng đóng bằng cây cau già được gác lên, thế là xong!
              Cái giường đẻ được đặt sát vách sau. Một bức vách chặn ngang, làm bằng mấy tấm liếp lá dừa còn in dấu tròn tròn của những cái bánh tráng, được dựng liền tức khắc, cái phòng nằm để đẻ đã hoàn tất.
              Công việc vừa xong, mấy người đàn ông vừa phủi tay ra về thì nhân vật chánh, bà mụ Thắm tới. Bà hối người đàn ông cõng vợ mình lên bờ. Người vợ bới cái đầu cho gọn, vịn vai chồng ráng mà đi chớ nhất quyết không chịu nằm lên lưng. Người chồng một tay dìu vợ, tay còn lại cắp theo chiếc chiếu cuốn tròn có cả gối, mền, mùng trong đó. Tám Lanh đỡ bó chiếu, trải lên cái tấm giạt tre cho thai phụ nằm liền.
              Cái mền vải được treo lên, che cái cửa buồng khiến căn phòng kín mít. Ánh sáng chui qua mấy chỗ dột trên mái giúp căn phòng sáng sủa. Cũng may là mùa mưa đã đi qua.
              Tiếng bà mụ Thắm vang lên đều đều:
              -Bây giờ bắt đầu rặng à nghe ! Ngậm chặt cái miệng, hít cho thiệt sâu rồi ém cái hơi lại mà đẩy nó xuống bụng dưới.
              Có tiếng rặng è è rồi thở ra một cách bất lực, tiếp theo là những tiếng rên thống thiết. Tiếng dỗ dành lại tiếp tục. Các âm thanh nặng nề, bức bối đó cứ lập đi, lập lại. Lát sau bà mụ Thắm đi ra, gọi một cô gái đứng gần đó lại nói nhỏ :
              -Tư, con chạy ra đồng hái một nắm cỏ mực giùm. Coi mòi dám bị băng huyết chớ chẳng chơi. Con đem đâm, vắt lấy nước cho thiệt kẹo, đốt vỏ dừa khô lấy than hòa vô, để sẵn đó!
              Thấy cái cô gái nhìn mình ra vẻ bán tín, bán nghi, bà liền giải thích :
              -Hai cái vị thuốc đó cầm băng huyết nhanh hạng nhứt, đi liền đi.
              Tư chừng như đã vững dạ, lật đật chạy một cái vù.
              Thuốc đã chế xong mà thai phụ vẫn chưa sanh được. Có người mách là phải nuốt trọng, tròng đỏ, tròng trắng của cái hột gà so, để lấy chất trơn cho dễ đẻ.
              Món đó không ngờ quá ư hiệu nghiệm. Mùi tanh của trứng sống làm thai phụ bợn dạ, buồn nôn, co thắt ruột rồi rặng một cách trót lọt. Tiếng trẻ sơ sinh khóc ré lên cùng tiếng kêu mừng rỡ của bà mụ Thắm "Con trai", khiến mọi người đều thở phào nhẹ nhỏm.
              Chén thuốc đen thùi được kề tận miệng. Sản phụ nín thở nuốt một hơi, những tia máu tuôn xối xả cũng từ từ chậm lại.
              Bà Ba chạy về nhà nấu liền một nồi cơm. Bà chắt nước ra tô để làm canh. Xớt lửa qua cái lò kế bên, bắt cái trách đất lên rồi bỏ mấy hột tiêu vô rang cho thơm để làm món muối tiêu. Bà vớt hết mấy khứa cá lóc kho trong nồi thịt tết vào trách, thêm nước mắm vào kho lại cho thiệt sánh rồi rắc thật nhiều tiêu vô. Các món ăn của sản phụ phải thật mặn để có nhiều sữa. Phải thật cay cho sữa nóng, đứa bé bú vào mới không bị sình bụng.
              Bà Ba múc từng muỗng cơm, lấy đũa rỉa một miếng cá đặt lên trên rồi đút cho người mẹ trẻ. Khuyến khích cô ta uống hết tô nước cơm cho mau lên sữa. Suốt bữa ăn sản phụ phải nằm dán lưng trên giường. Những người vừa sinh xong, bị cấm ngồi dậy liền vì sợ bị băng huyết và sa tử cung.
              Mấy người phụ nữ khác đến. Mỗi người đem lại cho vài gốc củi. Tám Lanh mang đến một cái nồi đất bị bể. Bà ba liền bưng ra ngoài để gầy lửa trong đó, chờ củi cháy hết khói, có than đỏ rồi bà mới đem để dưới tấm giạt.
              Thương hoàn cảnh tứ cố vô thân của họ, bà con trong xóm tới lui thăm viếng, chăm sóc đều đặn. Cái chuồng bò bị bỏ không, lúc trước chẳng ai thèm ngó ngàng, nay đã trở thành nơi họp mặt mỗi tối.
              Sự kiện đó đã trở thành một kỷ niệm chung của cả xóm. Người ta nhớ nó như nhớ những khoảnh khắc đẹp trong đời. Thậm chí họ còn dùng nó làm móc để xác định thời điểm của những việc quan trọng, xảy ra trước hoặc sau đó.
              Để bày tỏ lòng tri ân đối với bà con trong xóm, hai vợ chồng bèn đặt tên cho đứa con trai đầu lòng đó là Ơn.
              Tết năm ấy, hết thảy các căn nhà trong xóm cây me. Ngoài mùi nhang khói, bánh trái trên bàn thờ, người ta còn ngửi thấy một mùi dầu xanh thoang thoảng.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 09:42:52 bởi Lâm Du Yên >
              #22
                Lâm Du Yên 03.10.2019 08:41:54 (permalink)
                CHIẾU BÓNG THÍ 
                Đoản văn Lâm Du-Yên
                 
                Sáng hôm ấy, một sự kiện lớn nhất từ trước đến nay đã xảy ra trong cái xóm nhỏ của tôi. Chiếc xe lôi của anh Hai Thám chở một người thanh niên cầm cái "Ô bẹt lưa" nói oang oang:
                -Mời hết thảy bà con cô bác, tối nay tề tựu lại sân vận động kế bên nhà việc để coi chiếu bóng thí. Chương trình rất hay bà con ráng đến xem, bỏ qua rất uổng.
                "Nhà việc " là danh từ bà con dùng để gọi trụ sở của Hội đồng xã, nơi mấy người làm ba cái việc "giấy tờ" [ bà con gọi các viên chức là người làm việc giấy tờ] vô ngồi.
                Cái xóm đang bình lặng bỗng trở nên hết sức xôn xao. Như có một luồng gió mạnh thổi qua, làm những cái tổ kiến vàng trên mấy cây xoài cùng đong đưa, khiến cho tất cả lủ kiến ở trỏng đều chạy tới chạy lui nhốn nháo.
                Buổi học hôm ấy tuị tôi không thể nào ngồi yên được, thầy cứ liên tục nhịp cây thước lên bàn hét:
                -Các trò im lặng, im lặng...
                Tụi tôi yên được chừng một lát rồi lại lao xao tiếp. Thầy bèn bắt trả bài, không khí dần lắng lại. Có vài tên không thuộc, bị ăn trứng ngỗng và khẻ tay, vậy mà cái mặt của chúng cũng tươi rói chớ không héo queo như thường lệ.
                Ra về ba đứa tôi tranh nhau nói. Con Thẹn nôn nhất, nó dặn tôi với con Tíu:
                -Hai đứa bây ăn cơm cho lẹ nghe, mình phải đi thật sớm để ngồi hàng đầu cho dễ thấy.
                Con Tíu nói bằng giọng chứa nặng lo âu:
                -Tao sợ má tao hổng cho quá.
                Tôi nổi máu anh hùng:
                -Để tao xin giùm cho !
                Con Tíu mừng hết lớn:
                -Ừ ! Mầy nhớ qua sớm sớm lảy bắp với tao xong rồi hả[hãy] xin, có vậy má tao mới cho đi.
                -Ừ.
                Suốt con đường từ trường về nhà tuị tôi cứ tranh nhau nói, con Thẹn "xung" quá, nó tính đủ thứ:
                -Tụi bây nhớ mang dép đặng lót ngồi cho đỡ dơ quần. Để tao rang bắp đem theo ăn cho vui.
                Tôi cũng hào hứng lây:
                -Để tao đem theo mấy khúc mía.
                Con Tíu can:
                -Thôi, đừng có ăn mía. Ba con kiến lửa nó bắt hơi, kéo lại cắn nhừ tử cho coi!
                Con Thẹn đầy vẻ nôn nao, nó tưởng tượng cái gì không biết mà đang đi bỗng nhảy cởn lên một cái rồi hét:
                -Tụi mình chạy đua coi đứa nào tới trước nè !
                Thế là ba đứa ráp nhau chạy ào ào y như bị chó rượt vậy.
                Chiều chưa tắt hết nắng, con Thẹn đã qua nhà tôi, nó mặc bộ đồ hôm tết, tôi ghẹo nó:
                -Diện quá ta !
                Nó trả lời bằng cái giọng có chút mắc cỡ, có chút hãnh diện :
                -Má tao bắt mặc đó mầy ơi!
                Thấy vậy tôi cũng moi trong rương ra bộ đồ mới cáu của mình, con Thẹn hỏi:
                -Má con Tíu có cho nó đi hông mậy?
                -Có, tao lảy bắp giùm nó muốn mòn ngón tay đây nè ! Hổng cho sao được.
                Con Tíu giắt hai đứa em nó ra tới, con Thẹn cằn nhằn:
                -Dẩn theo chi vậy ? Rủi coi nửa chừng tụi nó đòi về thì làm sao ?
                -Má tao biểu phải cho tụi nó đi theo coi cho biết .
                Con Thẹn dặn hai đứa em con Tíu bằng một giọng quạu đeo:
                -Tụi bây ngồi coi đàng hoàng cho tới hết à nghen ! Đứa nào mà đòi về là tao đem thả xống sông đó !
                Hai đứa nhỏ gật đầu lia lịa.
                Cái sân vận động đã đông ken con nít. Chúng xô lấn nhau để giành ngồi sát tấm vải trắng, rộng khoảng bốn mét vuông được căng rất thẳng ở giữa sân. Cái máy chiếu phim đặt ở phía sau. Tụi con nít đang bu xem lấp máy, chúng chỉ trỏ, hỏi han đủ thứ nên bị rầy:
                -Tụi bây xê ra để anh làm cho lẹ mà coi, ra ngồi trước đi sắp chiếu rồi đó !
                Tụi nó lật đật kéo nhau ra xí chỗ. Chờ gần cả giờ đồng hồ mới nghe cái mô tơ điện khạc lên một tiếng, chiếu lên màn hình một cái nền sáng trưng với những lằn đen chạy ngoằn ngoèo đứt nối.
                Bắt đầu buổi chiếu là chào cờ, tiếp đến là chương trình thời sự với những người ngồi trên xe hơi và ăn mặc đẹp. Cảnh duyệt binh gồm từng đoàn binh lính mặc quân phục theo binh chủng của mình. Họ sắp hàng thẳng băng, bồng súng bước đều tăm tắp, gương mặt người nào cũng hết sức trang nghiêm. Kế tiếp là cảnh bão lụt ở miền trung với những chiếc xuồng, mái nhà bị cuốn trong nước. Với những người bám trên đọt cây, màn nước bao trùm chỉ còn những ngọn tre nghiêng đầu theo dòng nước chảy xiết.
                Tiết mục chính với cô ca sĩ Phương Dung hát những bản nhạc quen nghe trên radio như "Những đồi hoa sim", "Đồi thông hai mộ", "Hàn mặc tử", "Ngày anh xa vắng"...
                Cuối cùng là một vở kịch vui. Bối cảnh là một căn nhà lá nhỏ và cũ, hai vợ chồng ốm nhom đang ngồi trước nồi khoai đang nấu. Có tiếng người gọi, người vợ đáp lại và bỏ đi ra ngoài. Người đàn ông liền mở nấp vung, bóc khoai trong nồi ra định ăn vụng. Bỗng người vợ xuất hiện, anh ta lật đật lận khoai vô lưng quần. Bị nóng quá nên nhảy tưng tưng liên tục làm văng cả củ khoai ra ngoài.
                Cái hoạt cảnh ấy tạo ra những trận cười nghiêng ngửa. Con Thẹn cười đến chảy cả nước mắt. Hai đứa em con Tíu thì vừa cười, vừa bắt chước nhảy loi choi như người chồng trong phim. Trên màn ảnh đột ngột xuất hiện chữ "HẾT" rất to rồi màn hình tắt ngấm. Mọi người "ồ" lên tiếc rẻ. Có tiếng một người đàn ông tằng hắng và hỏi:
                -Ngày mai còn chiếu nữa hông chú em ?
                -Hông bác ơi, ngày mai tụi cháu chiếu ở chợ Vàm.
                -Chiếu phim gì ?
                -Cũng chiếu y thinh phim nầy.
                -Tưởng phim khác qua cũng ráng đi xem, bằng như chiếu lại vở nầy thì thôi !
                Ra về tụi tôi vừa ôn lại các cảnh trong phim vừa cười ngặt nghẽo với nhau, con Thẹn rủ:
                -Ngày mai tụi mình đi coi nữa nghen ?
                Tôi lắc đầu le lưỡi:
                -Xa gần chết!
                -Có sáu cây số hà, đi bộ mấy hồi .
                Con Tíu cũng lắc đầu ngoầy ngoậy:
                -Tao cũng hổng đi đâu !
                -Đi đi mà, để tao năn nỉ ba tao lấy xe chở tụi mình đi.
                Tôi gật đầu cái rụp:
                -Vậy thì tao đi.
                Con Tíu cũng hùa theo:
                -Tao đi nữa !
                     
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2019 17:45:54 bởi Lâm Du Yên >
                #23
                  Lâm Du Yên 03.10.2019 08:47:51 (permalink)
                  MÊ CON TRAI
                  Đoản văn Lâm Du-Yên
                   

                  Họ hàng bên phía má tôi con trai rất hiếm, nhất là bên chi của ông ngoại.
                  Tôi nghiệp ông ngoại tôi, khi còn sống ông có một mong muốn thiết tha là có được một đứa cháu trai nối dõi. Những lần ngoại chở tôi đến nhà mấy người bạn chơi, nhìn mấy đứa cháu trai của họ chạy nhảy tưng bừng. Ông chép miệng:
                  -Ước chi tui có một thằng cháu trai !
                  Ông Chín Năng, hoặc ông Tư Công thường an ủi:
                  -Có cháu gái như ông vậy mà sướng. Tụi nó dễ sai, dễ biểu, nhờ đấm cái lưng, pha ấm trà là làm rót rót liền đâu dám trễ. Mấy đứa cháu trai của tui phá như giặc, đứa còn nhỏ đâu có nhờ được cái giống gì. Đứa lớn hơn một chút là bày đặt ghẹo gái, tùng tam tụ ngũ, phá xóm phá làng chọc cho chúng chửi, nghe mắng vốn cũng đủ mệt. Đứa tới tuổi quân dịch thì lo cho nó trốn lính, rủi bị bắt lính rồi thì ruột gan mình cũng đi luôn theo nó, đâu có yên ổn nhàn hạ như có con gái .
                  Nghe vậy ngoại chẳng những không vui lên một chút nào mà còn thở rất dài. Lúc ông mất đi vẫn chưa được toại nguyện vì dù lúc đó ngoại đã có đến mười đứa cháu : Ba cháu ngoại, bảy cháu nội mà đều là con gái hết ráo .
                  Còn cậu Sáu tôi, trưởng nam của ngoại thì cái máu mê con trai của ổng, cả xóm thường lấy làm đề tài trêu chọc.Nó vượt xa cái khuôn khổ của một ước mơ mà trở thành nỗi ám ảnh triền miên. Mỗi lần mợ tôi có bầu, cậu tôi cất công đi cả cây số mượn, hoặc đổi cho bằng được cái giạt giường của một sản phụ vừa đẻ con trai, vác về cho mợ tôi nằm lấy hên.Thỉnh thoảng mợ đang đi cậu lại gọi giựt ngược:
                  -Má con Ghết!
                  Mợ ngoái lại nhìn, chưa kịp hỏi đã thấy cái mặt cậu buồn hiu, bởi mợ toàn quay về bên phải, mà theo ông bà ta thì: Nam tả, nữ hữu. Cho nên hể bà bầu nào, nghe kêu bất thình lình, mà quay đầu về phía tay phải thì chém chết cũng sanh con gái!
                  Mợ cũng có cách bói riêng của mợ. Khi cái bụng của mợ tròn vo như thúng úp, mợ hay bồng một đứa con nít chưa biết đi, cho nó đứng lên bụng. Nếu đứa bé là con trai và đứng hai chân thì mợ mừng lắm. Mọi người lý giải rằng, cái thằng nhỏ tí xíu ấy nó đã biết cái mầm bên trong là người yêu hay địch thủ rồi ! Hể con gái thì nó "ga lăng" nên chỉ đứng có một chân thôi, còn con trai thì y ta đạp thẳng cẳng bằng cả hai chân không hề thương xót.
                  Lúc tôi còn nhỏ mỗi lần đi đám giỗ nhà nội là tôi ngại lắm! Mặc dù được ăn thịt, ăn bánh thả giàn. Nhưng cái câu mà mấy cô, mấy bác hay nói với nhau trước mặt tôi, mặc dù còn bé tôi vẫn cảm nhận được và hết sức tổn thương:
                  -Phải con nhỏ nầy là con trai thì ba nó đâu có buồn, xin đổi qua Cái Dầu dạy rồi chết mất xác như vậy!
                  Lớn lên tôi mê chơi, hiếu động dữ lắm! Có một lần má nhìn tôi rồi lắc đầu than:
                  -Chắc tại lúc có nghén con. Má cứ cầu xin trời phật ban cho một đứa con trai hoài, nên cái tánh của con là trai mà bị mụ bà nắn lộn thành gái.
                  Cái mơ ước của má đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều, ngay từ nhỏ xíu tôi đã hết sức mong làm con trai. Tôi ghét mặc đồ mới, ghét đeo bông. Thích mấy trò chơi của con trai như ngồi trên bẹ chuối thả dốc một cái ào, đu theo xe bò hoặc được nằm trên đống rơm chất cao mà ngủ. Người lớn hồi đó hay hăm mấy đứa con trai là hể đứa nào học dốt, học lười là cho nghỉ học đi chăn bò, làm cho tôi càng thêm tủi thân! Cái mơ ước số một của tôi lúc ấy, là được ngồi trên lưng bò cho nó chở đi khắp cả cánh đồng.
                  Khi lớn lên tôi lại càng thích làm con trai dữ dội. Những cô bạn của tôi thuở ấy đứa nào mà được "chàng" làm thơ tặng là mừng hết lớn! Tôi ước mình làm con trai để tặng thơ cho hết thảy những cô gái tôi quen, giúp họ đều vui hơn, đẹp hơn.
                  Tôi hay tưởng tượng cái cảnh xe đạp, ba lô một mình rong duỗi trên đường. Mang theo một cái võng, một cái nồi, một cây dao, một cái hộp quẹt rồi đi khắp đất nước.
                  Một đôi lần tôi còn muốn giả trai như nàng Mạnh Lệ Quân trong chuyện Tái Sanh Duyên, đăng lính rồi lập chiến công rồi...tới chỗ bí nên tôi bỏ luôn.
                  Bây giờ cái ước mơ ấy vẫn còn thoi thóp trong tôi. Tôi thèm làm một lão ông sáng đi câu, chiều ngồi uống rượu, hoặc đi lang thang ghẹo mấy bà già...
                  Thôi kiếp nầy đã lỡ, xin hẹn lại kiếp sau! Kiếp sau, tôi nhất quyết sẽ làm con trai cho bằng được !
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2019 17:43:12 bởi Lâm Du Yên >
                  #24
                    Lâm Du Yên 03.10.2019 08:57:52 (permalink)
                    LỰA DÂU
                    Đoản văn Lâm Du-Yên
                     

                    Bấy lâu nay anh Ba Đực hể đi đồng về là hối bà má của mình dọn cơm như giặc. Ăn xong bèn đánh răng xúc miệng kỹ càng, mặc quần dài áo rộng rồi bơi xuồng đi liền. Khuya lơ, khuya lắc mới về tới nhà. Ngày nào khỏi đi đồng thì chuồn mất biệt, có khi không về ăn cơm luôn. Ban đầu dì Bảy, má ảnh, không thèm để ý, nhưng những biểu hiện ấy càng ngày càng tăng. Ảnh còn xin tiền hút thuốc lia lịa nên dì đâm ra nghi ngờ.
                    Một đêm chờ ảnh ngủ say, dì lục cái túi quần tây của ảnh, moi cái bóp ra thì thấy có tấm hình của một người con gái. Dì cầm tấm hình lên, dán mắt vào soi thiếu điều muốn thủng giấy. Dì bước ra bộ ván bên ngoài, nơi anh Hai Hỉ đang nằm ngáy o o, giựt cái chưn của ảnh thiệt mạnh. Anh Hai đang ngủ bị kéo cẳng thình lình, bèn giật mình tung một cú đá, may mà dì né kịp chớ hông thôi chắc dám trẹo ba sườn. Dì tát cho ảnh một cái vô gò má, rồi nói:
                    -Hai, dậy đi, cho má hỏi cái nầy.
                    Anh Hai Hỉ mới mở được có một con mắt, nhìn dì mấy giây rồi mới hỏi bằng cái giọng ba sồn ba sực:
                    -Có chuyện gì mà nửa đêm má hổng để tui ngủ, hỏi gấp dữ vậy?
                    -Chuyện thằng Ba.
                    -Nó bị cái giống gì?
                    Dì Bảy dí tấm hình sát mặt anh Hai rồi hỏi:
                    -Mầy có biết con nhỏ nầy là con cái nhà ai hông?
                    Anh Hai chống tay ngồi lên, dụi mắt, kê tấm hình sát cây đèn trứng vịt mà dì Bảy vừa bưng từ đầu tủ thờ xuống, rồi hỏi:
                    -Ở đâu ra tấm hình nầy vậy má?
                    -Tao moi trong cái bóp của thằng Ba. Con nhỏ nầy chắc là ”mèo” của nó chớ gì?
                    -Tui làm sao mà biết được. Sao má hổng hỏi nó?
                    -Tao mà thấy hỏi nó được thì hỏi mầy làm chi? Nó có kể với mầy cái vụ nầy hông?
                    Anh Hai gãi muốn rách da đầu rồi mới nói:
                    -Cái bận nó đi đám cưới con dì Út về, tui nghe nó nhắc tới con nhỏ nào ở bên sông mấy lần, rồi thôi hổng nghe nó nói thêm gì hết ráo!
                    -Đâu mày ráng dụ cho nó kể hết, rồi học lại cho má biết nghe.
                    -Thôi, má cứ hỏi nó cho chắc ăn đi, tui dính vô rủi có chuyện gì là anh em xích mích, trong nhà xào xáo mắc công lắm!
                    -Đồ cái thằng…Thiệt uổng công nuôi tụi bây lớn tới chừng nầy rồi mà nhờ có chút xíu cũng hổng chịu làm. Biết vậy tao đẻ trứng gà, trứng vịt bán lấy tiền còn sướng hơn!
                    Nghe Dì Bảy nhiếc anh Hai thấy nhột nên nói:
                    -Thôi để thủng thẳng tui tìm cách, hỏi sao cho nó hổng nghi rồi cho má hay.
                    Khoảng mươi bữa sau dì Bảy đã biết về tên và gia đình của cô gái trong hình đó. Dì liền tức tốc đi gặp mặt .
                    Hôm ấy chị Hai Bé vừa quét sân, quét nhà xong, đang ngồi lau cái máy may để chuẩn bị may đồ cho khách. Bỗng có tiếng gọi cất lên từ ngoài cổng:
                    -Bếp có tro hông cháu? Cho tui xin một nắm .
                    Chỉ ngước mắt nhìn ra thấy một người phụ nữ hơi lớn tuổi, mặc bộ đồ lãnh Mỹ A đen bóng, tay cầm dù ra vẻ chững chạc, bèn lễ phép trả lời:
                    -Dạ hổng có dì ơi, tro con hốt hết từ sớm rồi .
                    Người phụ nữ ấy không bỏ đi mà bước xâm xâm vô nhà rồi nói với chỉ:
                    -Cho tui ngồi nghỉ nhờ một chút nghe, mỏi cái chưn quá!
                    Chị hai Bé lật đật đứng lên mời:
                    -Dì lại bàn ngồi uống nước, để con rót trà mời dì.
                    Dì Bảy, chính là người phụ nữ ấy, vội xua tay:
                    -Thôi khỏi, cho tui xin một gáo nước mát là được rồi.
                    Dì vừa nói vừa bước lại cái khạp da bò kê trên mấy cục gạch thẻ để trước hàng ba, mở cái nắp ra rồi nhìn chăm chú vào. Nước trong lu trong veo, đáy lu sạch bong không đóng cặn. Có lẽ được súc thường xuyên nên chẳng có con lăng quăng nào ở trỏng. Dì cầm cái ca nhôm sáng bóng đang treo tòn ten lên, nhìn kỹ vào cái cán tay cầm coi có đóng bợn hông. Chừng như yên lòng mới nhúng vào lu nước, múc một phần ba ca rồi uống từng ngụm nhỏ. Uống xong nước dì bước tới gần nhìn coi chị Hai Bé đang làm gì rồi hỏi:
                    -Bộ cháu là thợ may hả?
                    -Dạ .
                    -Cháu may một bộ đồ như tui đang mặc đây ăn bao nhiêu tiền?
                    -Dạ bảy đồng. Cái áo bốn đồng, quần ba đồng.
                    -Cháu may một ngày mấy bộ?
                    -Làm thẳng thét suốt ngày thì vừa cắt vừa may là xong một bộ.
                    Dì Bảy tính nhẩm trong đầu rồi nói:
                    -Vậy công cũng được gần một giạ lúa há? Vậy ở nhà may cũng đủ ăn rồi, đâu cần ra đồng làm chi. Cháu có biết làm đồng hông?
                    -Dạ biết chút đỉnh.
                    -Có biết cắt lúa, đánh lá mía, làm cỏ hông?
                    -Cháu biết làm cỏ thôi, còn hai cái món kia chưa làm lần nào.
                    Cách nhìn, cách nói, cách hỏi của khách làm chị Bé chột dạ. Má chị hay kể cho chị nghe, ngày xưa bà nội đi coi mắt má như thế nào. Bà vặn hỏi đủ thứ, sờ mó hết góc nầy đến ngách kia, còn lấy tay quẹt vào đít nồi coi lọ nghẹ có đóng dầy hông nữa. Chị Bé liếc trộm bà khách thấy gương mặt hao hao một người…Chợt bà ta ngó ngang, hình dạng cái sóng mũi hết sức giống cái mũi của anh Ba Đực. Khi không mà chị Bé phát run như làm cử. Cái tay cầm sợi chỉ xỏ hoài không chui qua cái lỗ to đùng của cây kim may máy. Dì Bảy thấy chỉ làm miết không xong bèn hỏi:
                    -Con mắt cháu có tốt hông?
                    -Dạ tốt.
                    -Vậy sao cái lỗ kim thù lù trước mắt mà cứ xỏ sợi chỉ đi đâu không vậy?
                    Chị Bé không trả lời, ráng gồng mình kềm cứng cái tay, trời thương nên lần nầy sợi chỉ chui qua trót lọt. Dì Bảy lại chỉ vô cái mục ruồi mọc sát khóe miệng của chỉ rồi hỏi:
                    -Cái mục ruồi nầy có lâu chưa?
                    -Dạ con hổng nhớ nó có hồi nào nữa.
                    -Nó có lớn thêm hông?
                    -Dạ hông, hồi nào tới giờ nó cứ y thinh như vậy.
                    Dì càng hỏi chị Bé càng run, chừng như tội cho chỉ, hay dĩ cho rằng bước đầu hỏi vậy cũng đủ rồi nên nói:
                    -Thôi cháu may đi nhe! Tui phải về lo cơm nước, trưa rồi.
                    Chị Bé định mời dì ở lại ăn cơm mà cái miệng cứng ngắt nói không ra tiếng.
                    Dì Bảy vừa đi vừa ôn lại mặt mũi, dáng vóc của Hai Bé rồi thở dài tự nhủ:
                    -Con nhỏ nầy mặt mày coi cũng được, nhưng có cái mục ruồi ăn hàng ngay mép miệng xấu quá! Nhà cửa gọn gàng. Có điều cái tướng mỏng manh sợ không làm việc cực nhọc được, chắc hổng thể bằng con Tư Lanh đâu! Con nhỏ đó nó đội một giạ lúa đi te te, vác hai bó mía chạy cời cời, còn cắt lúa thì bỏ xa mấy đứa con gái khác. Cưới dâu như vậy mới đáng đồng tiền chớ!
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2019 17:42:06 bởi Lâm Du Yên >
                    #25
                      Lâm Du Yên 10.10.2019 14:02:37 (permalink)
                       
                      CỎ XANH
                      Sáng hôm ấy đã xảy ra một sự kiện quan trọng hạng nhất trong đời Du.
                      Cũng như tất cả mọi buổi sáng, Du thức dậy khi cái đồng hồ báo thức không còn đủ kiên nhẫn. Nó quá giận nên cứ rung lên bần bật. Vói tay đóng cái miệng nó lại, Du quyết định nằm nán thêm năm phút nữa. Chợt nhớ ra hôm nay phải nộp bảng thống kê cho xếp, Du bật dậy liền như chiếc lò xo. Chàng thay đồ, đánh răng rửa mặt bằng tốc độ tên lửa rồi thót lên xe, đạp bạt mạng. Du qua mặt chiếc xe phía trước cái vù, một giọng nói khàn khàn gọi vói theo:
                      -Cháu ơi! Quên gạt chống kìa.
                      Tiếng nói đó phát ra từ ông lão quen thuộc mà mỗi ngày đi làm Du thường gặp. Ông lão ấy khiến Du rất nhớ đến ông ngoại của mình. Ông cũng mặc bộ bà ba đen, bới tóc củ tỏi, ba chòm râu của ông cũng bạc trắng và dài như ngoại. Có lần Du chạy sau lưng thấy ông thỉnh thoảng lại dừng xe, lượm cục đá, cái lon sữa bò, chay nước ngọt bị bể bỏ vào thùng rác. Điều nầy nhắc Du nhớ đến những lần ngồi sau lưng ngoại trên chiếc xe đòn giông rất cũ. Ngày xưa khi chở Du đi học, ngoại cũng thường dừng xe, sai Du lượm mấy cục đá bỏ vào lề vì sợ những chiếc xe chạy nhanh, có bánh bơm quá căng sẽ vấp phải rồi ngã ngang.
                      Quay lại cười và gật đầu để thay tiếng cám ơn, Du không dừng lại cũng không giảm vận tốc, thò chân vít cái chống lên, nghe vui và cảm động trước lòng tốt của ông bác ấy. Hôm nay Du không có thì giờ để nối dài cảm xúc từ ông đến ông ngoại như mọi ngày, chỉ dừng lại ở lòng tri ân, cảm kích.
                      Tính Du rất nhạy cảm, thương cũng nhanh mà giận cũng dễ, chỉ một hành vi, một lời nói bộc lộ thiện ý, cũng làm chàng xúc động đầm đìa và ngược lại cũng làm chàng đùng đùng nổi giận.
                      Sắp vượt qua chiếc xe đạp của một cô gái chở hàng bông cồng kềnh trước mặt, Du bỗng bắt gặp gói ớt từ cái giỏ đệm đầy tới miệng của cổ rơi ra. Phải hôm khác chắc Du sẽ chỉ báo cho cô ấy biết, nhưng chàng đang bị cái gọi là hiệu ứng dây chuyền, muốn trả ơn ông bác ban nảy bằng một hành vi tích cực hơn nữa. Cho nên dù rất vội, cũng dừng xe lại nhặt nó lên rồi đạp hết ga để đuổi theo cô gái. Chàng gọi, khá to:
                      -Cô ơi ! Gói ớt rớt nè !
                      Cô gái thắng xe một cái "ét" rồi quay mặt lại nhìn Du. Có tiếng sét nổ cái "rầm" trên đầu Du. Chàng chết đứng liền tại chỗ ! Du đưa cho nàng gói ớt, rồi đạp chậm rì theo sau cô gái.
                      Du nào phải kẻ yếu bóng vía hay người háo sắc ! Cũng không phải cái hạng "học hành ba chữ lem nhem, thấy gái là thèm bỏ chữ trôi sông". Thế nhưng chẳng thể nào lấy tia mắt ra khỏi gương mặt xinh đáo để cùng nụ cười tươi tắn, hết sức dễ thương của cô gái ấy !
                      Người ta hay bị rơi vào hai cái cửa sổ, có tấm màng nhung long lanh được gọi là mắt. Trong trường hợp nầy Du rơi thẳng vào cửa cái luôn. Chàng chẳng kịp nhận ra mắt cô ta tròn hay dẹp, nâu hay đen là đã lọt thỏm vào cái miệng rất xinh với cái môi dưới đầy đặn hơi trĩu xuống như nũng nịu, cùng giọng nói rất ư mộc mạc:
                      -Cám ơn anh !
                      Đến ngã tư, chàng chẳng đành lòng rẽ về phía tay phải để đi về hướng công ty, mà dừng lại bên cạnh cô gái, cùng chờ đèn xanh và bắt chuyện với nàng. Du vừa cười vừa hỏi :
                      -Cô bán ở chợ nào vậy?
                      Cô gái chỉ tay vào cụm nhà cao cao phía tay trái. Có lẽ cái nhìn của Du làm cô nàng mắc cỡ, nên nói chuyện mà không xài chủ từ gì ráo:
                      -Hổng có bán ở chợ, bán ở cái chung cư đó đó !
                      Du đạp xe theo tò tò, tận mắt nhìn cô dừng xe, cho nó dựa vô gốc cây bằng lăng, móc tấm ni lông trải ra để bày hàng rồi mới chịu về.
                      Vừa đến công ty, chưa kịp ngồi xuống ghế là bị "Bà chằng lửa", biệt danh của xếp, gọi vào và "giũa" cho một trận thê thảm. Du bước ra, gương mặt vẫn tươi rói làm Sơn, đồng nghiệp nam, nhìn chàng đăm đăm, không giấu nổi sự thán phục trong giọng nói:
                      - Tui phục ông sát đất, tên bay đạn lạc tơi bời mà chẳng hề hấn gì !
                      Đến trưa Du viện cớ lên sở lấy công văn, ra về trước giờ nghĩ để ghé qua chỗ cô gái xem sao ! Nàng đang dọn hàng, xếp những rau trái còn lại cho vào túi đệm. Mấy món nặng như bí rợ, khoai tím, khoai lang cho vào trước rồi mới đến dưa leo, cà chua, chanh, ớt...Cái giỏ đệm ban sáng đầy vun bây giờ lép xẹp, chỉ lèo tèo vài món dưới đáy.
                      Cô gái đang dọn hàng bỗng linh cảm có người đang nhìn, bèn dừng tay ngó về phía Du. Phát hiện ra chàng mặt cô ta đỏ bừng đến tội. Du vốn bản lỉnh đầy mình bỗng đâm ra lúng túng. Vốn nhanh trí, chàng tiến thẳng đến nàng rồi nói:
                      -Cô còn ớt, còn chanh hông vậy ?
                      Cô gái gật đầu, lí nhí:
                      -Còn.
                      Rồi mấy ngón tay rung như cái đuôi bị đứt lìa của con thằn lằn ấy vội moi trong giỏ, lấy cái gói chanh và ớt ra. Cô hỏi:
                      -Anh mua bao nhiêu ?
                      Du đáp đại :
                      -Năm chục.
                      Cô gái nhìn chàng bằng tia mắt ngạc nhiên, nói:
                      -Chỗ nầy không đủ.
                      Cô định đặt nó vào chỗ cũ, Du liền ngăn lại:
                      -Bây nhiêu đó cũng được ! Bao nhiêu vậy cô ?
                      -Hai chục hà !
                      -Sao rẻ quá vậy ?
                      -Tại mùa nầy rau rẻ !
                      Cầm lại tiền thối, Du hỏi :
                      -Sáng nay cô bán có đắt hàng hông?
                      Cô gái bẽn lẽn:
                      -Đắt hơn mọi bữa.
                      Du pha trò :
                      -Hú hồn, tui sợ cô bán ế rồi đổ thừa là tại tui nặng bóng vía, đốt phong long làm tui bịnh liệt giường liệt chiếu .
                      Cô gái phì cười :
                      -Anh đâu phải là người mở hàng đâu mà bị đốt phong long ! Mà đốt phong long là để xả xui, đâu có trù ếm mà bịnh tới liệt giường liệt chiếu.
                      Du cãi :
                      - Cô chỉ toàn đốt người ta thôi, có bị đâu mà biết !
                      Cô gái lắc đầu :
                      -Tui chưa có đốt phong long lần nào hết! Làm như vậy người mua sợ lắm ! Ai mà dám mở hàng cho mình nữa ?
                      Du ghẹo :
                      -Vậy khi bán ế thì cô làm sao ?
                      Cô gái đáp, ngượng nghịu :
                      -Tui vái ông địa.
                      Du bật cười sằng sặc :
                      -Cô giống má tui quá ! Cô biết hông, má tui sợ đủ thứ, xin đủ thứ. Cho nên ba tôi phải trồng một vườn chuối cho má tui cúng ông địa đó !
                      Rồi chàng nói bằng giọng ỡm ờ :
                      -Chắc mai mốt tui cũng phải trồng vài bụi chuối mới được.
                      Cô gái càng cúi thấp đầu xuống hơn để che giấu nụ cười. Từ đó cho đến lúc ra về, cô chỉ cười, đáp lí nhí mà không hỏi lại một câu nào. Nàng cũng không dám ngoái lại nhìn Du trên suốt con đường chàng theo cô về đến tận nhà.
                      Từ hôm ấy trở đi, ngày nào Du cũng đạp xe song song cùng cô gái. Bây giờ cổ đã biết chỗ Du làm nên nhất định buộc chàng quẹo phải khi đến ngã tư. Một hôm đang đi cùng cô, Du thoáng thấy cái lưng cong và bộ đồ bà ba đen quen thuộc, chàng vội đạp thật nhanh đến ngang ông bác đã nhắc nhở mình hôm trước, rồi cất tiếng :
                      -Chào ông ! Cháu cám ơn ông !
                      Ông lão quay lại nhìn chàng rồi hỏi:
                      -Cháu cám ơn chuyện gì ?
                      Du trả lời:
                      -Ông đã cho cháu một món quà to lớn lắm !
                      Cô gái đạp trờ tới nghe Du trả lời bèn hỏi thay cho ông lão:
                      -Món quà gì vậy anh ?
                      Du kể cho ông và cô nghe về câu chuyện ấy. Cô gái nhìn Du bằng tia mắt cảm động. Ông lão phì cười:
                      -Mèn ơi ! Ba cái chuyện cỏ rác ấy có công lao gì mà cám ơn !
                      Một phát hiện về Cư, cô gái ấy, khiến Du vô cùng xúc động. Một hôm Du mời Cư đi xem kịch, nàng trả lời không rảnh. Lời từ chối đó làm Du vô cùng phật ý. Chàng gặng :
                      -Tối hù đâu có mua bán gì được nữa mà em nói bận ?
                      Cư đáp:
                      -Em phải đi học .
                      Du hỏi tới :
                      -Em học Anh văn hả ?
                      Cư lắc đầu :
                      -Em học bổ túc.
                      -Lớp mấy rồi ?
                      -Mới lớp năm thôi !
                      Du không giấu kịp nỗi ngạc nhiên. Chàng phát ra một tiếng "ồ" ngay sau câu trả lời của cô gái. Cư giải thích :
                      -Hồi nhỏ em không được đi học.
                      Du muốn hỏi tại sao, nhưng đoán là do một lý do không vui nên không dám hỏi, sợ sẽ gợi lên trong nàng cảm xúc tiêu cực. Thế là thay vì đi xem kịch Du đi theo nàng đến trường, chàng đòi vô lớp dự thính nhưng Cư nhất quyết không cho.
                      Du đành ngồi trong quán cà phê gần đó để chờ. Nhà Cư nghèo, điều đó Du đã biết ngay lần đầu đưa nàng về đến tận nhà. Nhưng thiếu gì gia đình nghèo vẫn cho con đi học đàng hoàng. Tại sao cha mẹ Cư vô tâm, vô ý, vô tình đến vậy ? Ở cái tuổi lên sáu đứa bé biết làm điều gì ngoài học ? Không thể diện lý do quá nghèo, bởi thời buổi ấy học đâu có phải đóng tiền nhiều như hiện giờ ? Hay là hồi nhỏ Cư bị bệnh nặng không thể tới trường được ? Du càng nghĩ càng xót xa, không ngờ một cô gái có gương mặt hết sức sáng sủa, trông thông minh như vậy mà lúc nhỏ bị mù chữ, đến hôm nay mới cầm được cuốn tập, cây viết.
                      Cái thắc mắc đó đã được Cư giải đáp trên đường về ngay hôm ấy. Hóa ra Cư là con nuôi. Cư kể :
                      -Ba nuôi em chạy xích lô. Cái nhà nhỏ xíu nên ổng để chiếc xe ngoài cửa. Một buổi sáng ổng lấy xe đi chở khách, phát hiện em nằm ở trỏng nên bồng vô nhà. Má nghi em là con rơi của ổng nên không chịu thương. Em ăn còn không đủ no, nói gì đến việc đi học.
                      Du hỏi :
                      -Vậy sao em còn ở với họ cho đến tận hôm nay ? Sao không tự tìm đến cô nhi viện, ở đó ít ra em cũng được ăn no, được cho đi học.
                      Cư lắc đầu :
                      -Ba thương em lắm! Ổng hay dặn em buổi chiều ra đầu hẻm đón ba đừng cho má biết. Ba thường mua cho em một ổ bánh mì thịt, chở em chạy vòng vòng cho tới khi nào ăn hết rồi về.
                      Cái buồn về nỗi bất hạnh của nàng khiến cái thương trong Du càng nặng! Nghe Cư kể về sự thèm học của nàng mà Du ứa nước mắt:
                      -Tối em theo má đi bán, ngang qua mấy nhà có tiếng con nít đánh vần là em đi thiệt là chậm, có khi đứng lại để nghe. Em quyết định chừng nào làm ra tiền sẽ nuôi mình đi học.
                      Dư thấy mình và hầu hết những đứa bé khác quá may mắn khi so sánh với Cư. Ngày đầu đi học, Du được má dắt tới trường với biết bao lời dỗ ngon, dỗ ngọt mà còn giẫy đây đẩy và khóc bù lu bù loa. Trong đầu Du lại hiện ra hình ảnh của chính mình vào những buổi sáng ngày xưa, trùm mền kín đầu, trong khi má ngồi bên cạnh năn nỉ:
                      -Dậy đi học đi con, trưa về má làm đồ ăn thiệt ngon cho con nghe!
                      Rồi má liệt kê những món mà Du ưa cho đến khi nào Du chịu ngồi dậy mới thôi.
                      Du nhìn đôi mắt đang ngâm trong nước của Cư, một nỗi thương cảm dâng lên ngùn ngụt. Chàng tự hứa sau nầy sẽ dốc hết sức ra để đền bù lại cho nàng .
                      Những mơ ước của Du mọc tràn lan như cỏ xanh gặp nước. Chàng mơ xây nhà lầu, mua xe hơi, chở Cư đi khắp nơi ngắm cảnh đẹp, ăn món ngon...Tưởng tượng tới cái cảnh đó Du nghe lòng lâng lâng như cánh diều no gió. Rồi chợt té nhào xuống đất khi nhớ đến thực tại, mình chỉ là nhân viên quèn với mức lương hạng bét!
                      Quyết tâm đạt được mục tiêu, Du vạch ra cho mình một kế hoạch. Những người bạn của Du nhờ giỏi ngoại ngữ nên làm việc cho các công ty ngoại quốc, lãnh lương bằng ngoại tệ. Muốn vinh thân phì gia, phải noi gương họ dồi mài ngoại ngữ mới xong! Nghĩ vậy nên chàng bóp bụng, đóng tiền cho một trung tâm dạy Anh văn có cái tên kêu như sấm. Khi Cư lên lớp sáu thì Du cũng lấy được cái bằng A.
                      Không có động cơ nào có sức đẩy mạnh bằng tiền, và nếu mục tiêu là tình thì công suất tăng gấp đôi. Má Du một hôm lên thăm con thấy chàng cắm đầu cắm cổ học, nghe đĩa dạy tiếng Anh ngay cả trong giấc ngủ thì mừng không biết để đâu cho hết! Bèn dùng số tiền định mua quà cho chồng để bồi dưỡng cho con trai. Bà tìm mua cho được loại mật ong rừng, dặn chàng mỗi ngày phải pha với cam uống để có sức mà học, nhấn mạnh là phải uống vào lúc vừa thức dậy mới tốt hoàn toàn.
                      Du mang hủ mật ong cùng một túi cam cho Cư, truyền đạt lại cho nàng đúng y từng lời của má. Cư nghe theo, sáng nào trước khi đi bán cũng pha một ly, không phải cho nàng mà cho người cha đang đau yếu của mình.
                      Không có mối tình nào đẹp cho bằng những mối tình nghèo. Trong đó cái đức hy sinh làm nó thêm tỏa hào quang. Thiếu thốn vật chất nên họ hết sức phung phí ước mơ. Nào có phải họ mơ cho chính mình. Họ mơ cho nhau thôi. Du cứ mong gấp gấp giàu để Cư được ăn sung, mặc sướng. Cư thì mơ họ cưới nhau, rồi có liền một căn nhà để nàng có thể đưa ba về phụng dưỡng, tránh xa người vợ tai ác để ông có thể sống vui, sống khỏe.
                      Giấc mơ của Du rất thuận buồm xuôi gió còn của Cư thì gặp nhiều trở ngại. Một hôm vừa đi bán về Cư đã bị má hỏi:
                      -Cái thằng đang quen với mầy lương cao hông? Nó lãnh bao nhiêu một tháng?
                      Cư trả lời một cách thành thật:
                      -Con không có hỏi .
                      Má cho rằng Cư nói dối, chắc "bèo" lắm nên cô mới giấu. Nếu giàu thì đâu có thèm đi cái xe đạp cà tàng. Nghĩ vậy bà bỗng có ác cảm ngang xương với Du nên mắng Cư xối xả :
                      -Cái mặt sáng láng mà ngu còn hơn con bò. Mầy có thấy con Liễu hông? Nó như vậy mà còn lấy được thằng chồng Đài Loan, đem tiền cho má nó sửa lại cái nhà. Bây giờ cả xóm chỉ có cái nhà của nó là đẹp nhứt, ai cũng khen. Má nó nở mặt, nở mũi với ...
                      Cư ngắt ngang :
                      -Sao má hổng nhắc con Sương, nó cũng mới trốn về vì bị hành hạ chịu hổng thấu. Nếu mấy người đó tốt, giỏi thì con gái xứ họ đâu có chê, phải qua tới đây mua vợ. Cho dù họ đem tiền tới chất ngập đầu, con cũng không bỏ ba ở lại mà đi đâu!
                      Má Cư nạt to:
                      -Mới nói tới đó mà mầy đã xắm xa, xắm xỏn. Con Sương nó làm sao mới bị tống cổ về. Trăm ngàn đứa mới có một đứa như nó. Mầy mê trai thì nói đại cho rồi, đừng có đem ổng ra mà kê nề. Nếu có hiếu thì mầy đã chịu cho bà Bảy dắt đi để người ta coi mặt. Cỡ như mầy kiếm tiền dễ ợt, tại mầy hổng muốn cho ổng ăn uống phủ phê, sung sướng mấy ngày rồi chết cho mát...
                      Ba Cư dùng hết sức bình sanh mà nạt một tiếng thiệt là to :
                      -Bà có im đi hông? Nó mà làm như vậy là tui cắn lưỡi chết tươi liền cho bà vừa bụng.
                      Vậy là bà má rú lên khóc hù hụ, kể lể đủ thứ. Cư ngồi nuốt nước mắt, thương mình thì ít mà thương ba thì nhiều.
                      Lát sau Cư bưng chén cơm lại đút cho ba. Cư đỡ ba ngồi dậy khum tay vỗ lưng cho ba đỡ mỏi. Cư vỗ thật lâu cho máu chạy đều khắp phổi rồi mới chêm gối để ba ngồi cho vững. Ba thấy mặt Cư buồn thiu nên an ủi :
                      -Má con cái miệng nói vậy chớ cái bụng không có ác đâu con đừng có lo. Ba còn sống thì không để cho ai ăn hiếp con đâu! Nếu ba có mệnh hệ nào con nhắm ở đây được thì ở, không thì thôi. Mười mấy năm nay con trả hiếu cho ba, cho má như vậy là đủ rồi!
                      Cư nói:
                      - Con biết ba nói vậy là vì thương con, muốn con mát bụng, chớ ba đâu nỡ nào để má ở một mình. Con hứa với ba là sẽ nuôi cho đến khi má trăm tuổi. Chỉ có điều bây giờ con đã lớn, má cứ mắng là con ngu như bò làm con phát bực.
                      Ba cô cười, ông nói :
                      -Ai chê con bò ngu chớ ba thấy nó khôn vàng trời luôn! Đố con trên đời nầy cái cây gì mình không trồng mà nó cứ mọc, chỗ nào cũng có, bất kể lề đường, kẹt đá. Hễ mọc được là mọc hoài nhổ không hết!
                      Cư trả lời ngay mà không cần suy nghĩ vì câu hỏi quá dễ:
                      -Cỏ.
                      Ba cô cười ra vẻ khoái trá, ông giải thích :
                      -Con bò nó khôn ghê lắm! Chọn cái thức ăn có sẵn ê hề nên khỏi phải giành giựt, khỏi lo thiếu đói. Chó, mèo giành ăn cắn lộn chớ bò thì chẳng bao giờ. Cỏ đầy ra đó, mạnh ai nấy ăn. Bởi vậy cái mặt với con mắt của nó hiền khô hà. Ba độ chừng tụi nó mà chết là lên thẳng miền cực lạc đó con!
                      Cư vui lây với nhận định khôi hài của ông, cô trêu:
                      -Vậy là con được má khen chớ đâu phải chửi hén ba!
                      #26
                        Lâm Du Yên 10.10.2019 14:14:37 (permalink)
                        MẸ GHẺ
                        Dù rất thương đứa con gái nhỏ, Mến cũng đành đứt ruột giao cho chồng nuôi khi họ chia tay. Từ đó, Mến tập trung hết sức lực, tận dụng mọi khả năng để kiếm thật nhiều tiền. Mục tiêu của Mến là mua một căn nhà và rước con về cùng ở.
                        Khi nghe tin chồng đã tái hôn với một góa phụ lớn tuổi hơn anh ta, có cơ ngơi vững vàng, Mến lo đến gầy rộc cả người. Nàng sợ rằng người đàn bà có nhiều tuổi đời, rất thành đạt đó, sẽ dựa vào sự vượt trội về kinh tế và kinh nghiệm để lấn lướt chồng. Bé Thương sẽ không còn được cha yêu quí, bị mẹ kế hành hạ, bị đòn roi, mắng mỏ.
                        Tuy vét cạn sức ra làm việc, Mến vẫn chưa mua nổi một căn nhà. Cho dù nàng cố nhịn ăn, nhịn mặc nhưng giá nhà cứ leo thang và nàng không thể nào bắt kịp. Những lúc đến thăm con Mến càng tủi thân. Con bé giờ đã ở trong một căn nhà sang trọng. Quần áo tươm tất, tóc tai gọn gàng, mặt mũi sáng sủa, tay chân sạch sẽ hơn lúc trước. Bé Thương có đến năm sáu con búp bê và một căn nhà bằng nhựa rất đẹp dành cho chúng. Những món quà bé nhỏ nàng mua cho con, trở nên thảm hại so với những thứ mà bé đang hưởng, đến độ nàng không dám trao. Mến cũng thấy mắc cỡ với mấy người làm, vì nàng ăn mặc còn thua kém họ.
                        Một hôm Mến đến trường vào giờ ra chơi để gặp riêng con. Nàng dọ hỏi bé Thương đủ thứ, phát hiện rằng con bé quí mến Từ, người mẹ ghẻ mà nó gọi một cách thân mật là “Má Năm” ấy, vô cùng. Mến vừa mừng lại vừa tủi. Mừng vì con được thương yêu, chăm sóc. Tủi vì thấy cái hy vọng sống chung với con ngày một mong manh. Cho dù mua nổi căn nhà cũng chưa chắc bé Thương chịu về ở. Và dù nó có chịu đi nữa thì nàng đành lòng nào nhìn con từ bỏ những tiện nghi, chịu đựng mọi sự thiếu thốn khi về sống với mình?
                        Nhìn mái tóc của con được tết rất đẹp, Mến hỏi:
                        -Ai cột tóc cho con vậy?
                        Bé Thương trả lời:
                        -Má Năm.
                        Mến cầm bàn tay của con lên xem, móng tay rất sạch và được cắt sát, nàng hỏi tiếp:
                        -Ai cắt móng tay cho con?
                        Câu trả lời của bé Thương vẫn là:
                        -Má Năm.
                        Mến lại hỏi:
                        -Có đau hông con?
                        Con bé lắc đầu :
                        -Má Năm thoa cái nước gì đó lên tay con, cắt êm ru không có đau gì hết!
                        Nó nói thêm:
                        -Bây giờ mỗi tối má Năm còn đọc truyện cho con nghe nữa đó mẹ!
                        Mến mừng đến rưng rưng nước mắt, hỏi:
                        -Chuyện gì, hay hông con?
                        Bé Thương gật đầu:
                        -Chuyện đời xưa, hay lắm đó mẹ! Có nàng Út nhỏ bằng ngón tay, chui vô ống tre ngồi giữ dưa. Có bảy anh em ngồi trong một chiếc giày bay đi vù vù. Có cái nồi cơm nhỏ xíu mà một trăm người ăn không hết…
                        Mến hỏi:
                        -Má Năm có đánh con không?
                        Bé Thương lắc đầu:
                        -Dạ không?
                        Một hôm Mến bị ngất khi đang làm việc. Khi tỉnh dậy, nàng thấy mình đang nằm trên cái giường trải drap trắng muốt. Bé Thương và người phụ nữ ấy đang ngồi ngay bên cạnh. Bé Thương thấy mẹ tỉnh dậy thì mừng đến bật khóc. Từ nhìn nàng và cười rất hiền. Cô ta nói:
                        -Chị bị xĩu trong xưỡng. Họ đưa chị vào đây rồi báo tin cho tụi tôi. Anh Thịnh đi công tác không có ở nhà nên tôi vào thay cho ảnh.
                        Mến ấp úng:
                        -Cám ơn chị! Tôi làm phiền…
                        Cô ta gạt ngang :
                        -Mình là người một nhà mà, có cái gì mà phiền!
                        Mến hỏi:
                        -Tôi bị sao vậy chị?
                        -Bác sĩ nói chị bị suy nhược, chớ không có bệnh gì trầm trọng cả. Nghỉ ngơi và ăn uống đầy đủ là sẽ sớm bình phục.
                        Chiều hôm ấy Mến xin được xuất viện. Nàng âm thầm ra về một mình. Sáng hôm sau Mến vừa thức giấc, chưa kịp bước xuống giường thì nghe tiếng gõ cửa, nàng ngạc nhiên khi thấy Từ đang đứng chờ. Cô ta nói:
                        -Sao chị không nghỉ thêm vài hôm cho thật lại sức rồi hãy xuất viện.
                        Mến cười:
                        -Tôi thấy trong mình đã khỏe. Công việc cũng không dùng sức nhiều nên...
                        Cô ta nói:
                        -Tôi và cháu mang thức ăn đến bệnh viện thì được báo là chị nằng nặc xin về. Tôi không biết chỗ ở của chị nên gọi điện hỏi anh Thịnh. Ảnh cho số điện thoại của cô Nhả, nhờ vậy mới tìm ra. Đêm qua bé Thương cứ khóc suốt. Tôi đã hứa là sáng nay sẽ đưa chị về ở chơi với nó mấy ngày.
                        Mến lắc đầu:
                        -Không được đâu chị…
                        Cô ta không để Mến nói hết câu, tiếp tục bày tỏ ý định của mình:
                        -Chị đừng ngại gì hết. Anh Thịnh đi công tác xa, đến cuối tháng mới về. Tôi muốn nhân cơ hội nầy mình cùng chung sống để hiểu nhau. Biết đâu sẽ giúp chị an tâm về bé Thương, tinh thần sẽ thoải mái hơn.
                        Lời giải thích hợp lý cùng sự thành khẩn của Từ đã thuyết phục được Mến. Cô đang có giấy phép của bác sĩ, cho nghỉ một tuần để dưỡng sức, nên cũng muốn gần con và tìm hiểu Từ kỹ hơn.
                        Đó là một tuần lễ hết sức quí báu của nàng. Sáng đưa bé Thương đi học, chiều rước về và tối được ôm con vào lòng mà ngủ. Mến để ý thấy cô giúp việc hết sức lễ độ đối với nàng. Mỗi sáng cổ đều làm một ly cam vắt pha mật ong thật to để Mến uống cho lại sức. Từ cũng rất tế nhị, ít chen vào những giây phút thân mật của hai mẹ con nàng. Tất cả những điều đó khiến Mến vô cùng cảm động.
                        Mấy ngày đầu nàng cố tránh mặt Từ. Nhưng những dịp tiếp xúc hiếm hoi khiến nàng nhận ra Từ tràn đầy lòng nhân ái. Từ tuy bận rộn nhưng lúc nào cũng dành cho bé Thương những buổi tối cùng chuyện trò trước khi đi ngủ. Bé Thương đã được Từ khuyến khích tập kể chuyện, tập vẽ để phát huy năng khiếu.
                        Từ không đẹp nhưng lòng nhân hậu khiến gương mặt nàng trông rất dịu dàng. Cái bớt xanh trên gò má trái như mờ đi, không còn gây phản cảm như lần đầu Mến gặp. Mến biết rằng Thịnh chọn Từ một phần cũng vì bé Thương, con của họ. Chỉ điều đó thôi cũng đủ an ủi nàng rất nhiều. Ngày cuối cùng nàng ở đó, Từ đã rủ nàng đi dạo để cùng trò chuyện. Từ ngỏ ý muốn giới thiệu Mến đến làm ở một công ty, nơi đó đang có một công việc rất phù hợp với nghành học của Mến. Cô ngỏ ý muốn họ trở thành bạn bè để chăm sóc cho bé Thương chu đáo hơn.
                        Cái núi đá đè lên tim bấy lâu đã được bẩy ra khỏi lòng ngực. Cặp kiếng màu xám che mắt đã được lột bỏ. Mến biết cuộc sống của mình từ nay sẽ tươi sáng. Nàng cảm thấy vô cùng mang ơn người phụ nữ hiền lành, đức độ ấy.
                        Sáng hôm ấy, Từ đích thân lái xe đưa Mến về tận nhà. Thanh, cô bạn ở chung phòng trọ đang ngồi xổm trước hàng bánh canh, trố mắt nhìn chiếc Toyota bảy chỗ màu trắng dừng ngay bên cạnh. Càng ngạc nhiên hơn khi thấy một người phụ nữ sang trọng mở cửa xe cho Mến. Thanh không thèm bưng tô bánh canh do người bán hàng đang đưa tận tay mà lật đật đuổi theo Mến, vừa kéo áo vừa hỏi:
                        -Ai đưa chị về vậy?
                        Mến đáp:
                        -Má Năm của con Thương!
                        Thanh nhìn nàng, hỏi gặng:
                        -Má gì?
                        Mến giải thích:
                        -Cổ là vợ sau của anh Thịnh.
                        Cô ta gật gù:
                        -Thì ra là bà mẹ ghẻ của nó!
                        Mến bỗng cảm thấy lòng mình dấy lên một nỗi bất mãn. Nàng muốn nói một câu gì đó để xóa bỏ cái ác ý đi kèm theo cái chữ “ghẻ” đó mà tìm mãi không ra.
                        #27
                          Lâm Du Yên 10.10.2019 15:04:22 (permalink)
                          CON KINH NƯỚC TRONG
                           
                          Ý bỗng chỉ tay vào con kinh, hỏi :
                          -Con kinh nầy nước trong suốt mười hai tháng hả ?
                          Tư gật đầu. Ý nói như vừa phát hiện một điều vô cùng mới mẻ:
                          -Như vậy nếu đi theo cái dòng chảy của nó mình sẽ chẳng bao giờ về tới quê.
                          Tư hỏi:
                          -Tại sao ?
                          -Nó không nối với bất kỳ một chi lưu nào của con sông Tiền. Cho nên mình không thể đi về quê bằng xuồng được.
                          Ý nói vậy vì có lần Tư đòi sắm một chiếc ghe nhỏ, thả từ từ theo con nước, ngược về tận xứ của họ.
                          Tư phản đối:
                          -Những con lạch nhỏ sẽ nối chúng vào nhau. Có những nơi xe không qua nổi nhưng xuồng thì đi được tuốt !
                          Ý cãi :
                          -Vậy anh cho là tất cả các dòng sông, tất cả các con đường thủy đều nối liền với nhau hả ?
                          -Đúng vậy !
                          -Thế tại sao nó vẫn trong veo, trong khi nước sông quê mình thì đang đục ngầu.
                          -Con kinh nầy quá nhỏ, chảy rất chậm nên phù sa lắng dần, đục không nổi nữa .
                          Ý vẫn không tin, nhưng từ câu nói của Tư nàng lại nảy ra một ý tưởng :
                          -Như vậy có thể suy ra rằng, nếu mình càng nghèo, cuộc sống càng ít ràng buộc, càng bình yên phải hông?
                          Tư phì cười trước cái tật của Ý. Nàng hay liên tưởng, kết nối hai sự vật khác hẳn nhau. Tư không muốn cãi, những ngày bên nhau của họ sắp hết, chàng không muốn làm Ý phật lòng.
                          Tư chuyển đề tài :
                          -Tối nay chắc có mưa.
                          Ý nhìn về chân trời phía tây, ở đó mây rất dày, mặt trời núp sau lưng nó rất an toàn, chẳng để lọt một tia chiều nào le lói. Ý nói :
                          -Quê mình đang mưa. Tối nay cơn mưa đó sẽ chạy tới nhà mình.
                          Giọng nói của Ý có pha chút chất cảm, hai tiếng "nhà mình" bỗng làm Tư xúc động. Từ lâu chàng vẫn thầm mong, sẽ có một ngày được gọi Ý là "nhà tôi" khi nói với bạn bè.
                          Họ im lặng, mỗi người đang bơi trong dòng sông suy tưởng của mình. Tư giựt câu theo quán tính, mới hay nó bị mắc gốc tự hồi đời nào.
                          Lưỡi câu mất, họ chẳng còn lý do để ngồi lại trên bờ kinh nầy nữa. Tư bỗng đổ nước và cá trong thùng ra. Ý ngạc nhiên :
                          -Sao thả cá ra hết vậy ? Rồi cái nồi canh chua, cái mớ rau muống em vừa hái phải làm sao?
                          Tư cười :
                          -Ngày mai tính, chiều nay hai thằng mình đi ăn bánh xèo, bánh khọt.
                          Ý cằn nhằn :
                          -Chiều tối mà ăn mấy món có nước cốt dừa là khó tiêu lắm !
                          -Biết vậy rồi, nhưng cái chỗ nầy bán bánh khọt rất ngon, sợ em đi mà không kịp ăn !
                          Cái giọng, cái ý hàm chứa trong câu nói của Tư làm Ý buồn ngang xương. Nàng làm thinh suốt quảng đường về nhà.
                          Trước ngày đi, Ý kiếm chuyện để làm, để gây với Tư suốt. Như thể cố tình làm Tư ghét rồi trông Ý đi phắt cho rảnh nợ, vậy mà càng làm cho Tư thương hơn, lưu luyến hơn. Lạ làm sao! Ý chưa ra đi mà Tư đã nghe nhớ đến ngập lòng, đang đứng trên bờ kinh hút điếu thuốc, mà nhớ cho tới nổi mới rít mấy hơi liền dụi tắt, quay về nhà.
                          Ý đang ngồi giặt cái áo sơ mi trắng của Tư, vết đen bám thâm niên ở cổ được nàng tẩy sạch bách, cái áo trắng bóc, mùi thuốc tẩy nồng nặc. Tư cúi mặt sát xuống, hôn lên tóc nàng một cái. Ý kêu lên:
                          -Anh mới hút thuốc phải hông?
                          Tư cười kiểu cầu tài:
                          -Thèm quá! Mới rít có hai hơi...
                          Ý cắt ngang, nói bằng cái giọng chì chiết:
                          -Cái thân mà còn không biết thương thì nói gì tới thương người khác. Hôm qua vừa hứa bỏ mà bây giờ hút lại là sao?
                          Tư không trả lời, xách thùng đi lấy nước lên để Ý khỏi xuống kinh xả đồ.
                          Hôm sau, Tư ngồi câu từ trưa cho đến khi trăng mọc mới chịu ra về. Rồi tay xách thùng cá, vai vác cây cần câu bằng trúc nhẹ hều, bước thật chậm như đi không muốn nổi. Vừa tới nhà Ba "Nhậu" chàng nghe tiếng y hỏi:
                          -Có dính cá nhiều hông anh Tư? Bạn về rồi hả?
                          Tư trả lời gọn lỏn:
                          -Hông! Ừ!
                          Rồi đột ngột tăng tốc, đi như chạy làm ba Nhậu cụt hứng, chẳng thể hỏi thêm một câu đang nằm sẵn nơi cửa miệng.
                          Vào tới nhà Tư liền chẻ củi, nhóm lửa, hâm cái nồi thịt kho còn đầy tận miệng. Cơm nấu từ sáng vẫn chưa đụng tới, Tư rưới nước vào rồi bắt lên cái bếp còn sót chút than cho nóng. Bới hai chén cơm đầy, múc hai cục thịt kho, xắt một trái dưa leo, đặt tất cả vào mâm rồi bưng ra cái chỏng ngoài sân. Vừa quay vào nhà lấy cây đèn, trở ra đã thấy ba Nhậu ngồi xếp bằng trên chỏng, y hỏi:
                          -Sao ông biết tui tới ăn chực mà bới sẵn hai chén cơm vậy?
                          Tư đáp thẳng thừng:
                          -Ai mà tính tới ông! Tui bới sẵn để khỏi phải rinh cái nồi ra.
                          Ba Nhậu, kẻ thường bảo Tư rằng y đã cắt đứt cái dây thần kinh mắc cỡ, nói bằng giọng tỉnh rụi:
                          -Ông không mời tui ăn còn ngon miệng. Chịu khó trở vô bưng cái nồi cơm ra luôn thể, một chút khỏi mắc công đi cha nội!
                          Rồi thản nhiên móc chai rượu thuốc trong túi áo ra. Tư lại quay vào, ba Nhậu gọi vói theo:
                          -Đem cái ly ra nữa!
                          Tư mang cái chung trên bàn thờ ra đưa cho Ba Nhậu, y không cầm mà bỏ chưn xuống đất rồi nói:
                          -Để tui đi rửa cái tay, hồi nãy mới đi đào đất.
                          Rồi đi xăm xăm lại cái lu gần đó múc nước rửa tay, rửa mặt, súc miệng. Tư sợ y uống nên nói:
                          -Nước uống ở trong bình lọc, đừng có uống nước đó!
                          Ba Nhậu phun hết nước trong miệng ra rồi mới nói:
                          -Ông khỏi phải dặn, tui cũng biết quí cái mạng mình lắm chớ bộ! Uả mua cái bình lọc hồi nào vậy?
                          Tư đáp giọng nhát gừng:
                          -Tuần trước!
                          Ba Nhậu đinh hỏi có phải cô bạn mua tặng, nhưng thấy Tư không có hứng nói chuyện nên thôi.
                          Bây giờ y mới chịu nhìn vô mâm cơm, thấy cái chén đựng thit kho thì lắc đầu nói:
                          -Cái thứ nầy khó bắt lửa lắm! Ba con cá ông mới câu được đâu rồi? Ông đưa đây, tui xách về cho con bé Hai nó làm món khác, để uổng cái chai rượu thuốc của tui.
                          Tư hất hàm về phía sàn nước. Hai nhậu không thèm ngó theo, y ngồi tại chỗ mà rống thật là to:
                          -Bé Hai ơi, bé Hai! Qua đây cho cha nhờ một chút coi!
                          Lát sau một cô gái độ chừng mười bẩy, mười tám tuổi, gầy nhom, cao lêu khêu vừa kẹp tóc, vừa bước tới, vừa hỏi:
                          -Cha kêu con chi vậy cha?
                          Ba Nhậu chỉ vô cái thùng mà bảo:
                          -Con bắt mấy con cá ra đem nướng, làm chén nước mắm cho ngon rồi hái mấy cọng rau thơm đem qua đây liền cho cha.
                          Bé Hai cằn nhằn :
                          -Giờ nầy đâu có thấy đường mà hái rau.
                          Giọng ba Nhậu ngọt như mía lùi :
                          -Đốt cái đèn lên mà làm con gái! Hôm nay cha con mình ra tay nghĩa hiệp, giúp chú Tư con qua cái cơn sầu tình nầy, để hông thôi tối nay ổng dám đập đầu vô gối mà chết, rồi hiện hồn về nhát cha con mình đó!
                          Bé Hai nghe cha nói vậy thì liếc Tư một cái, thấy mặt chàng buồn hiu thì chù ụ cái mặt, không thèm bắt cá ra mà xách luôn cái thùng về nhà.
                          Ba Nhậu thấy con gái đi một cách vùng vằng thì đâm ra mắc cỡ với Tư, y chắc lưỡi :
                          -Con gái thiếu mẹ khó dạy lắm! Hồi vợ tui còn sống, nó dễ thương hết biết. Bây giờ thành cá không ăn muối rồi.
                          Tư vội bênh vực cho bé Hai liền:
                          -Nó như vậy là ngoan lắm đó! Con nít bây giờ được chìu chuộng hết cỡ, sai rót giùm ly nước còn hổng thèm làm, đâu có được như nó. Ông mà đang ngủ ngon, bị dựng đầu dậy bắt làm đồ nhậu cũng quạu, cự nự om sòm cho coi!
                          Rồi bưng chén cơm lên đưa cho Ba Nhậu và hối:
                          -Ăn ba hột dằn bụng đi, một chút có mồi hãy uống!
                          Ba Nhậu từ chối:
                          -Anh có đói bụng thì ăn đi, tui mới ăn hồi chiều, còn no ngang.
                          Tư không ép, lấy đũa xắn cục thịt kho ra làm hai, cho vào chén rồi và một cách ngon lành. Ba Nhậu nghe Tư nhai rôm rốp khúc dưa leo thì cầm lòng chẳng đặng, bèn gắp nửa cục thịt còn lại, nhai một cách chậm rãi, vừa nuốt xong là hỏi Tư liền:
                          -Bà Xã của ông có phải là dân Bến Tre hông vậy?
                          Bốn chữ " Bà xã của ông" làm Tư mát ruột quá chừng, Tư đáp:
                          -Bả cũng dân An Giang như tui. Mà sao ông đoán như vậy?
                          Ba Nhậu nói bằng cái giọng ngậm ngùi:
                          -Cái mùi thịt kho nầy y chang như má con bé Hai làm hồi trước! Vợ tui người Bến Tre, cái món thịt kho Tàu nầy không ai qua mặt bả nổi. Bả lựa từng miếng thịt, từng trái dừa...
                          Y bỗng dừng lại, hỏi gặng:
                          -Anh biết tại sao phải lựa cả dừa nữa hông?
                          Tư lắc đầu, hỏi :
                          -Tại sao?
                          Ba Nhậu như được gãi đúng chỗ ngứa, làm một bài "diễn thuyết" hết sức hùng hồn:
                          -Cái nồi thịt kho muốn ngon cần phải có đủ ba yếu tố: Một là thịt phải tươi, săn chắc, mỡ không dày lắm và phải dính liền vào cái phần nạt. Hai là nước mắm phải ngon, trong, không được trở mùi. Ba là nước dừa phải là của trái dừa xiêm không non, không già, cỡ vừa rám vỏ...
                          Để nhấn mạnh vào tầm quan trọng của thứ dừa đó, y lại gằn giọng:
                          -Tại sao phải là dừa Xiêm rám vỏ, anh có biết hông?
                          Không chờ Tư đáp, y lại "diễn thuyết" tiếp :
                          -Dừa xiêm rám vỏ là cái nước thượng hảo hạng để kho thịt, kho cá. Bởi vì nó cho cái mùi hết sức độc đáo, cái màu vàng óng hết sức hấp dẫn, cái vị hết sức, hết sức...
                          Thấy y nhắm mắt lắc đầu hoài, Tư sốt ruột ngắt ngang :
                          -Ngon.
                          Ba Nhậu chắc lưỡi tiếp lời:
                          -Ăn bể mỏ còn chưa muốn ngừng. Bởi vậy bây giờ ngày mùng một tết, nhìn cái dĩa thịt kho là tui nhớ bả muốn đứt ruột!
                          Tư khựi miếng cơm cháy lên rồi bẻ một phần ba đưa cho Ba Nhậu, y không để vào chén mà cầm chấm nước thịt kho rồi nhai rau ráu.
                          Bé Hai bưng cái mâm đồ nhậu qua. Tư gắp miếng cá chấm vào chén nước mắm tỏi ớt, định bụng ăn để có cái mà khen cho con nhỏ vui lòng, nhưng mà khen hổng nổi. Ba Nhậu lấy đầu đũa nhúng vào chén nước mắm, nếm một cái rồi quát :
                          -Sao mà mặn như muối lồi vậy Bé Hai?
                          Bé Hai trả lời quạu đeo :
                          -Nhà mình hết đường, nước mắm còn có chút xíu nên con bỏ muối vô thêm cho...
                          Ba Nhậu nạt ngang:
                          -Rồi hổng biết đi mua hả?
                          Bé Hai nghinh mặt hỏi:
                          -Tiền đâu?
                          Ba Nhậu sượng trân không đáp, Tư vội nói:
                          -Cháu bưng chén nước mắm vô bếp pha lại giùm chú. Trong đó chắc còn đường, còn nước mắm. Có cái chai giấm cao cao, cháu cho vô một tí. Nhớ cầm cây đèn theo để thấy đường mà làm.
                          Bé Hai riu ríu nghe theo. Ba Nhậu vò miết cái đầu khiến tóc rối bù như ổ quạ. Y rót rượu vào chung, không mời Tư mà uống một cái ót. Trăng chiếu thẳng lên đôi môi ướt của ba Nhậu, trông chúng như được thoa một lớp son bóng, chẳng thích hợp chút nào với nét mặt nhàu nhĩ ấy. Tư bỗng nghe tiêng tiếc. Giá nó đậu trên môi của một cô gái thì sẽ gợi cảm biết bao!
                          Bé Hai đặt chén nước mắm vào mâm rồi ngoe ngoải bỏ về. Ba Nhậu nhìn theo thở dài:
                          -Phải chi còn má nó!
                          Buổi nhậu cố ý giúp vui của y trở nên ủ dột. Y không ăn mà cứ rót rượu uống tì tì, không ngớt ca tụng người vợ quá cố của mình. Nào là bả tính tình hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, nấu ăn ngon số dzách, thương chồng, thương con...Y càng kể càng phóng đại. Người phụ nữ ấy càng lúc càng cao đẹp. Khi cô ta dần biến từ vợ đảm thành người mẹ hiền rồi vị nữ thánh thiêng liêng thì Tư biết là Ba Nhậu đã say.
                          Bất chấp Ba Nhậu phản đối, Tư đưa y về để có thể đắm mình vào nỗi nhớ. Không như vợ của Ba Nhậu, Ý không hay nói và càng ít nói ngọt. Ý săn sóc Tư một cách chu đáo nhưng lại làm ra vẻ hờ hững. Hình như Ý cho rằng nàng đã vay cái thương của Tư quá nhiều nên bây giờ chẳng muốn lấy thêm, chỉ ráng trả bớt chút nào hay chút nấy.
                          Vậy mà không hiểu sao cái giọng "dùi đục chấm nước mắm" đó, giờ đây khi nhớ tới, lại khiến Tư cảm động đến cay cả hai con mắt.

                          Một cái giựt chân quá phủ phàng khiến Tư choàng tỉnh. Ba Nhậu đang đứng bên cạnh, cầm tờ giấy hai trăm ngàn giúi sát mặt Tư mà hỏi:
                          -Cái nầy ông để vô túi tui hồi tối phải hông?
                          Tư cố nặn ra cái nét mặt ngỡ ngàng, điều nầy cũng dễ thôi vì chàng còn ba sồn, ba sực, hỏi bằng một giọng gây hấn:
                          -Ông nghi tầm bậy, tầm bạ rồi phá cái giấc ngủ của tui như vậy đó hả?
                          Ba Nhậu thấy Tư phản ứng quá mãnh liệt thì đứng đực mặt ra rồi lẩm bẩm:
                          -Hổng phải thằng chả thì ai làm cái chuyện nầy vậy ta?
                          Tư kéo mền phủ đầu định ngủ tiếp. Ba Nhậu đâu chịu để yên, y tốc cái mền ra rồi lôi Tư dậy:
                          -Trưa trờ, trưa trật rồi cha, dậy đi uống cà phê với tui.
                          Tư bỗng đổ quạu, nói như gây lộn:
                          -Ông đưa tiền cho con Bé Hai để nó mua thực phẩm, đừng cà phê, rượu trà gì hết! Cũng phải nghĩ cho người khác nữa chớ!
                          Rồi sợ Ba Nhậu nghi ngờ nên nói tiếp :
                          -Biết đâu đây là tiền của nó!
                          Ba Nhậu quả quyết :
                          -Đời nào nó để tiền vô túi của tui. Hổng móc ra thì thôi! Mà nó làm sao có được món tiền cỡ nầy?
                          Tư gợi ý:
                          -Biết đâu nó trúng số!
                          Ba Nhậu lắc đầu nguầy nguậy:
                          -Tiền hổng đủ ăn, lấy đâu ra để mua vé số? Thôi để tui về hỏi lại cho chắc ăn.
                          Tư nằm nán cho đến khi nắng chiếu qua song cửa sổ, đoán chắc đã trưa nên thôi không nướng nữa.
                          Đánh răng rửa mặt xong Tư bám khung cửa, đu vài cái cho giãn gân cốt rồi đi thu dọn cái chiến trường còn bề bộn hồi tối. Bé Hai đang ở đó, tay cầm cái áo rách mướp dùng làm giẻ lau từ nhà đem qua, thấy Tư ra tới liền hỏi:
                          -Cái dĩa cá nướng còn nguyên nầy đổ hay để vậy chú Tư?
                          Tư nói một cách gấp gáp:
                          -Để, để lại chớ đổ đi đâu mà uổng vậy? Rau với nước mắm nữa, để lại cho chú hết!
                          Bé Hai đặt mấy thứ Tư nói vào mâm, bưng vô bếp lấy lồng bàn đậy lại, trở ra xếp chén vô nồi bưng xuống bờ kinh ngồi rửa. Tư định cản lại nhưng rồi làm thinh, nghĩ bụng chắc Ba Nhậu đã đoán ra nên sai con gái qua trả "ơn" đây. Thôi để Bé Hai rửa dọn cho cha con họ vui.
                          Bé Hai ngồi khom mình trên cầu vói tay khoát nước, xô mấy nhánh lục bình tản ra. Mấy tia nước giật mình nhảy lung tung, bám vào những sợi tóc phất phơ trước trán. Tia nắng chiếu vào khiến chúng long lanh như những hạt kim cương. Hình ảnh ấy mang một nét đẹp phi thực khiến Tư xúc động. Chàng quay liền vào phòng để lấy quyển tập phác thảo. Tìm hoài mà không thấy, Tư cố xua cơn bực dọc đang mấp mé. Tiếng xe gắn máy dừng trước cổng và cái giọng ồm ồm của Hưng cất lên:
                          -Anh Tư ơi, anh Tư!
                          Tư không đáp, cố cầm chân cái hình ảnh quí giá vừa bắt gặp trong đầu. Tiếng gọi lại cất lên, to và lâu hơn lần trước:
                          -Anh Tư ơi! Hỉ tín, hỉ tín, mở cửa nhanh lên, nhanh lên!
                          Tư thở dài, tiếc cho cái cảm hứng vừa vuột mất, bước ra với hai bàn tay không, nhìn Hưng một cách bực bội. Hưng chẳng thèm để ý, cười tít mắt, nói:
                          -Nào, trải chiếu hoa mà đón thần tài đi, tiền tới rồi nè!
                          Tư đổi sắc mặt liền, mừng quýnh, nói lắp bắp:
                          -Bức, bức ... nào?
                          Hưng trả lời :
                          -"Câu đêm".
                          Tư hỏi một cách hào hứng:
                          -Ai mua vậy? Khách quen hay lạ?
                          -Lạ hoắc! Anh không đoán được đâu, không phải người thường đâu nha?
                          Tư đùa:
                          -Nữ hoàng nước Anh hả?
                          Hưng cười hô hố rồi nói:
                          -Anh có nghe tên Đại Đức Thích Thiện Nhiên chưa?
                          Tư lắc đầu. Hưng nói tiếp:
                          -Hình như ổng là đồng hương với anh đó! Ổng nói là cái cảnh trong tranh giống hệt cái vàm trước nhà má ổng.
                          Rồi Hưng móc túi đưa Tư mấy tờ giấy màu xanh có in hình tổng thống nước Mỹ. Tư chưa đếm mà đã hỏi:
                          -Sao nhiều dữ vậy?
                          Hưng nói với vẻ tự hào :
                          -Tui thấy ổng quá khoái bức tranh, lại là Việt Kiều nên đẩy giá lên một chút! Cũng may nó chưa kịp gắn cái bảng giá.
                          Bé Hai bưng nồi và chén từ dưới kinh đi lên, mình mẩy ướt nhẹp, thấy cái ông chú Tư nghiêm nghị ngày thường, mặt mày hí hửng, cười như con nít thì trố cả hai mắt lên mà nhìn. Tư nhìn lại, cũng ngạc nhiên chẳng kém:
                          -Bộ cháu té xuống kinh hả?
                          Bé Hai lắc đầu:
                          -Đâu có! Khi không mà có chiếc o bo chạy ngang một cái vù. Sóng rút, kéo cái nồi trôi theo. Cháu phải lội ra vớt lại.
                          Hai mắt Hưng mở to hết cỡ, như muốn nuốt trọng cái cơ thể thanh tân với bộ đồ ướt dính sát rạt của cô gái trẻ. Bé Hai đỏ mặt vì mắc cỡ, đặt cái nồi xuống chõng rồi quày quả bỏ đi. Hưng nhìn theo cho đến mất hút rồi quay lại nheo một con mắt với Tư, nói bằng giọng tinh nghịch:
                          -Hèn gì đại ca từ bỏ nơi phồn hoa đô hội, về đây để hưởng lạc thú bên hoa đồng, cỏ nội!
                          Tư nghiêm giọng:
                          -Đừng có nói bậy! Nó là con của ông bạn nhà kề bên đó!
                          Hưng hỏi, giọng rất ư "cà chớn":
                          -Thiệt vậy hông "chú Tư"?
                          Tư trợn mắt, hỏi lại:
                          -Mầy hỏi vậy là có ý gì?
                          Hưng thấy Tư đổ quạu thì không dám giỡn nữa, vội chuyển tia mắt nhìn xuống kinh. Con nước ngày rầm tràn bờ, trong vắt, thấy bắt thèm nên rủ Tư:
                          -Mình xuống lội mấy vòng đi? Anh cho tui mượn cái khăn, với cục xà bông.
                          Tư mở tủ lấy cái khăn còn mới tinh đưa cho Hưng. Chàng không muốn Hưng xài cái khăn còn vương mùi của Ý. Hưng nhắc:
                          -Cục xà bông nữa!
                          Tư lại mở tủ, đưa cho y cục xà bông cũng mới tinh với cùng một lý do.

                          Một tuần sau Hưng lại mang tiền xuống cho Tư, bức "Bông súng" đã được bán. Nó sắp bị phòng tranh gửi trả thì may mắn lọt vào mắt của vị sư hôm trước. Lần nầy Hưng không dám nâng giá vì bị Tư phản đối quyết liệt cái kiểu làm ăn đó. Ngoài ra vị đại đức ấy còn đặt Tư vẽ một bức về cánh đồng ngập nước với những đám bông điên điển.
                          Nỗi buồn của Tư được bù đắp một cách thỏa đáng, không phải chàng quá ham tiền, chỉ bởi đối với người họa sĩ, không có niềm vui nào to lớn cho bằng được thưởng thức, đồng cảm và tán dương.
                          Hưng đã có sẵn ý đồ nên mang theo một thùng bia, một con vịt quay để ăn mừng với nhau. Y đề nghị Tư rủ Ba Nhậu cho xôm tụ. Ba Nhậu bỏ ngang cái luống đậu phọng đang bón phân, hớn hở nhận lời, không quên cặp nách chai rượu thuốc. Rồi bất mãn vì dù được quảng cáo hết cỡ, xị rượu thuốc cũng không ai đụng tới. Y lại ngồi tại mâm mà gióng giả gọi con gái:
                          -Bé Hai, hái cho cha mấy trái ớt.
                          Bé Hai đem ớt xong, vừa về tới nhà lại nghe tiếp :
                          -Bé Hai, hái cho cha mấy cọng rau thơm!
                          Cô gái lại đội nón, bưng rỗ ra vườn rau sau lưng nhà, hái mấy thứ rau ăn sống như vấp cá, húng quế, húng cây, húng nhủi...Những cọng rau khi bị tay chạm vào, như được kích thích liền tỏa ra cái mùi đặc trưng của chúng. Tất cả các hương thơm ấy cộng lại, tạo cho cô một cảm giác vô cùng sảng khoái. Đang phồng mũi hít thì nghe tiếng cha cô giục:
                          -Làm gì mà lâu quá vậy con?
                          Bé Hai hơi bực mình. Cái tật của cha cô là như vậy đó! Hể có khách là hay giựt le, sai con gái tưng bừng, cố thị uy, lên mặt làm cha. Thường thì Bé Hai răm rắp nghe theo nhưng đôi khi chịu không thấu cũng đổ quạu, ra vẻ chống đối. Cô vội bưng rỗ rau chỉ được lưng lưng xuống kinh rửa cho nhanh. Cái rỗ rau ướt nhẹp được mang lên. Bé Hai bưng thẳng tới mâm nhậu, chưa kip đặt xuống chõng thì Tư sai:
                          -Cháu lấy cái thau nhôm trong bếp, ra cái bình lọc hứng nước, cho muối vào rồi ngâm thêm cho nó sát trùng. Nước kinh tuy trong nhưng có lẫn nhiều loại ký sinh trong đó lắm!
                          Bé Hai vội làm theo đúng như chỉ thị. Bị quay như chong chóng mà cô gái không hề bực bội, mặt mũi tươi hơn hớn mới lạ!
                          Chẳng riêng gì Bé Hai, Hưng cũng thế. Cái tánh huênh hoang, bạ đâu nói đó hôm nay được gói cất cẩn thận. Y tỏ ra hết sức đàng hoàng, và dù kém Ba Nhậu chưa tới chục tuổi cũng xưng con, xưng cháu một cách rất ư lễ độ.
                          Ba Nhậu tinh ý lắm! Y rất tự hào vì được làm cha của một cô gái xinh xắn, dễ thương. Cái cảm giác mất mặt, do xị rượu đem qua bị rẻ rúng ban nãy, đã được gột sạch. Y hết sức hả lòng, hả dạ. Tự ái được ve vuốt bởi cô con gái của mình chẳng những không bị xem thường như cái món rượu thuốc "gia truyền" kia, mà rõ ràng đang được cái quí ông, xem ra rất sang trọng nầy hết lòng trân trọng.
                          Tư thì lo ngay ngáy, nghĩ bụng:"Cái thằng Hưng nầy vốn có số đào hoa, thay bồ như thay áo, không khéo lại gieo tai họa cho cha con người ta." Chàng định bụng sau bữa nhậu, sẽ nói riêng cho Ba Nhậu biết để y giữ con thật cẩn thận.
                          Bắt đầu từ hôm đó bé Hai hay qua nhà Tư hơn, khi thì mang thau đồ bẩn về nhà để giặt, xách nước đổ đầy cái lu ngoài hiên. khi thì lau sạch trơn cái mặt chõng bám bụi. Có hôm cô còn quét cái vườn thật kỹ, moi khắp ngóc ngách không bỏ sót một chiếc lá nào làm Tư tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Hôm trước chàng đã kịp ngăn khi thấy Ý cầm trên tay cây chổi, bởi có chủ tâm giữ lá lại cho thật nhiều để vẽ một bức tranh về khu vườn ngập lá!
                          Thu hoạch đậu phọng xong, Ba Nhậu đem hai trăm ngàn qua trả. Tư không chịu nhận, chàng chối đây đẩy là không phải của mình. Vậy là có cớ để Ba Nhậu sai Bé Hai nấu một nồi cháo gà và chặt cái bắp chuối hột vô trộn gỏi. Ba Nhậu lại ca tụng người vợ quá cố của mình với cái tài chế biến các món ăn bằng bắp chuối hột. Y nói:
                          -Cái bắp chuối hột nầy là "vua" của tất cả các loại bắp chuối. Nó chứa mủ đầy óc nóc vậy mà ra gió vẫn trắng tinh, giòn mềm chớ không "xảm" như bắp chuối sứ. Má con Bé Hai có cái món gỏi gà chay làm bằng bắp chuối hột, ăn y như thịt gà mái tơ xé phai. Cái món canh chua lươn nấu với nó bả làm cũng ngon số dzách. Bả còn chế ra món cá mòi chay bằng bắp chuối nữa, cái hộp cá mòi hiệu "Ba cô gái" của Thái Lan chẳng thể nào bằng.
                          Tội nghiệp cho Bé Hai, đem hết công sức ra trộn dĩa gỏi, theo ý Tư cũng vào hạng thượng thừa, vậy mà bị ông cha đem ra so sánh với bà má rồi chê dậm dề khiến cái mặt buồn thiu.

                          Dưới con mắt của một họa sĩ, Tư thấy rằng con người ta đẹp nhất khi đang yêu. Cả Hưng lẫn Bé Hai đều trở nên bừng sáng và hết sức sinh động. Gương mặt của họ như được cả mặt trăng và mặt trời chiếu vào, vừa rực rỡ, chói chang vừa rất đỗi mơ màng. Nhất là ở Bé Hai! Hình như tình yêu làm cho tim cô đập mạnh hơn, máu chảy nhanh hơn khiến má cô hồng và môi cô cũng thắm hơn. Đôi mắt rất trong, rất sáng, với cái nhìn thẳng thắng vốn có của cô bỗng trở nên hết sức dịu dàng.
                          Có lần Tư bắt gặp Bé Hai đang phơi đồ. Cô cầm một cái áo trên tay, giũ cho thẳng rồi không trải ra phơi trên hàng rào dâm bụt mà áp nó lên mặt rồi lim dim hai mắt như đang áp má lên làn da người mình thương. Cái nét xuất thần ấy truyền đến Tư như một luồng điện, cứ đứng ngây người ra mà ngắm cho đến khi bé Hai chợt tỉnh, phát hiện ra chàng đang nhìn trân trân liền bỏ cả thau đồ đang phơi dở, ôm cái áo mà đâm đầu chạy thẳng vô nhà.
                          Tư bỗng ao ước có ngay trong tay một cây cọ thần kỳ, ghi lập tức cho bằng hết cái hình ảnh tuyệt vời đó! Tư nhận ra mình may mắn nhứt trên đời. Những khoảnh khắc quý báu ấy có mấy ai được hưởng cho dù chỉ một lần? Mấy ai có được cái diễm phúc như chàng, bắt gặp một cô gái đẹp đang sống trong phút giây đẹp nhất của cô ấy? Cảm xúc gần như thiêng liêng đó, đang đưa tâm thể Tư trồi lên tận đỉnh của ngọn núi an lạc, rồi từ niềm vui nó bỗng biến hình thành một nỗi ngậm ngùi! Tư tự hỏi tại làm sao mà những cái đẹp đều có một cuộc sống ngắn ngủi đến vậy?
                          Chàng đâm ra ngần ngại, cái ý định nói cho Ba Nhậu biết đành gác lại. Chàng sợ với bản chất đơn giản và lối suy nghĩ có phần hời hợt, người cha ấy sẽ thẳng tay phá bỏ khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cô con gái. Chàng vốn trân trọng cái đẹp nên quyết định, cho dù hậu quả như thế nào, cũng giúp cho Bé Hai duy trì thời kỳ nầy càng lâu càng tốt. Chàng sẽ bảo vệ Bé Hai bằng phương thức khác.
                          Tư suy nghĩ mãi, chàng cho rằng tốt nhất mình nên nói chuyện với Hưng. Cho y biết là chàng vô cùng quý mến cha con Bé Hai và sẽ trừng phạt kẻ nào làm họ tổn thương. Tư bỗng bật cười khi tưởng tượng mình trong cái "lốt" hiệp sĩ, với áo giáp sắt và ngồi uy nghi trên lưng ngựa, chỉ gươm vào mặt Hưng mà nói:
                          -Nầy tên kia, mi sẽ bước qua cái xác của ta nếu làm họ đổ máu!
                          Ngay khi gặp lại Hưng Tư liền hỏi:
                          -Mầy đang để ý con Bé Hai phải hông?
                          Hưng đáp một cách nghiêm túc:
                          -Chắc lần nầy em dính lưới thiệt quá anh.
                          Tư nhìn vào mắt Hưng để tìm hiểu xem y nói câu đó với mấy chục phần trăm thành ý. Cái vẻ chân thật pha chút ngượng ngùng trong ấy khiến chàng vững tin nên nói:
                          -Nó hình như cũng "cảm" mầy rồi đó! Cha con họ tuy nghèo nhưng tốt lắm! Hiền lành lắm! Mầy sẽ không tìm ra một cô vợ nào tinh khôi, tài sắc vẹn toàn như nó đâu!
                          Hưng hỏi lại:
                          -"Tài"?
                          Tư cười:
                          -Má nó hồi trước nghe đâu là thợ nấu nổi tiếng nhứt vùng nầy. Nó thừa hưởng cái gen của bả nên nấu ăn cũng khá lắm! Như vậy không phải tài thì là gì?
                          Hưng nói:
                          -Nhưng sao em thấy hình như cổ đang né mình. Cứ mỗi lần định lại gần nói chuyện là cổ lũi mất biệt.
                          Tư vỗ vai Hưng một cái để khích lệ:
                          -Đó là dấu hiệu của những nàng trinh nữ, tin tao đi, họ cố đè nén tình cảm của mình để rồi nó sẽ bùng lên như núi lửa. Cốt yếu là mầy phải biết trân trọng phẩm cách của họ, phải cư xử hết sức lịch sự. Những cô gái nghèo, họ rất mặc cảm. Mầy cũng nên nhớ là tao coi cha con bé Hai như ruột rà, máu mũ.
                          Thế rồi cái cô gái " tinh khôi " ấy đã làm cho Tư vô cùng thất vọng, khi một hôm tình cờ phát hiện Bé Hai đang rón rén vào phòng, cho tay vào cái túi quần tây đang treo có cái bóp chàng trong đó.
                          Tư như người đang đứng trên đỉnh núi cao, bất ngờ bị một tia nham thạch, phún xuất từ miệng núi lửa ngay dưới chân bắn tung lên trời. Chàng chới với, quay trở ra ngay, không muốn cái hình ảnh phũ phàng ấy in sâu vào đầu mình hơn nữa. Và cũng tránh cho bé Hai không phải xấu hổ rồi đâm ra thù ghét chàng thậm tệ.
                          Tư thầm trách ông trời, tại sao cứ khi nào cái lòng thương và sự tin cậy đối với con người trong chàng dâng lên cao nhất là bị ổng chộp lấy rồi thẳng tay ném xuống, sao cho nát vụn mới hài lòng! Chàng phạm tội gì mà ổng nỡ trừng phạt một cách phũ phàng đến vậy?
                          Trong nỗi thất vọng cùng cực đó, Tư bỗng thấy như mình là người có lỗi, nghe thương hại cái con bé khờ dại ấy vô cùng! Chàng biết rằng sau nầy khi thấy hoặc nhớ đến cô, chàng sẽ lại xót xa y như với chú gà con ngày xưa của ngoại. Chú gà mà chàng đã vô tình giẫm phải!
                          Cứ mỗi lần gặp chuyện buồn, Tư lại vác cần đi câu cá. Con kinh như một người bạn thông tuệ, cho chàng những lời khuyên hết sức bổ ích.
                          Chuyến câu nầy Tư chuẩn bị chu đáo hơn tất cả những lần trước. Chàng mang theo cái võng bố, chai nước to đầy, mấy gói mì ăn liền để nhai trừ bữa... Và dù cảm thấy rất có lỗi với Ý, cũng ráng xách theo một gói thuốc lá.
                          Con kinh đón Tư bằng gương mặt bình thản và lòng bao dung cố hữu, Tư tưởng tượng như nó đang hỏi:
                          -Chào anh bạn, lại gặp bế tắc phải không?
                          Và chàng trả lời:
                          -Tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ! Tại sao tất cả những lỗi lầm của người khác đều đè nặng lên tôi, khiến tôi cảm thấy như chính mình là người có tội?
                          -Thì chính bạn là người có lỗi chứ còn ai vào đây nữa? Nầy nhé : Bên cạnh sự thiếu thốn, vất vả của họ, bạn sống phây phây. Trong khi họ đổ mồ hôi, sôi nước mắt, giành giật với thiên nhiên để kiếm một miếng bánh nhỏ nhoi. Trong khi đôi tay họ chay phồng vì những cán liềm, cán cuốc...Bởi công việc của họ là cung cấp lương thực để duy trì sự sống của loài người trên trái đất nầy. Đáng lý họ phải được đền đáp thỏa đáng bằng cả tinh thần lẫn vật chất, thì trái hẳn lại. Bạn thì chỉ với một cây cọ trong tay, làm một công việc hết sức an nhàn nhưng thu nhập gấp trăm ngàn lần họ. Bạn được họ tôn trọng và tự cho là mình hơn hẳn chỉ vì đang cung cấp mấy món ăn tinh thần, mang cái tên rất mỹ miều là nghệ thuật. Khi họ đòi hỏi sự công bằng, thì bạn lại cho rằng họ vi phạm luật trời và luật người.
                          -Vậy bạn cho rằng cái hành vi ấy là do bất công mà ra sao ?
                          -Đúng vậy ! Nếu họ được xã hội quan tâm hơn, cuộc sống được bảo đảm hơn thì cần gì phải đánh đổi danh dự để lấy mấy đồng bạc mà họ không cần đến ?
                          -Vậy cô bé ấy cứ tiếp tục cái việc mà bạn cho là lấy lại công bằng ? Và tại sao tôi là người phải trả ?
                          -Bạn không phải là người duy nhất phải trả và cũng không phải trả bằng cách ấy. Điều bạn cần là phải nói chuyện với cô ta, tìm hiểu nguyện vọng của cổ rồi cố đem hết khả năng ra giúp.
                          Đó là một buổi đi câu thành công nhất của Tư, cho dù chàng chẳng mang được con cá nào về.
                          Hôm sau Tư quyết định sẽ gặp và nói chuyện với Bé Hai. Thật là trớ trêu! Ngày thường hình như nhìn đâu cũng gặp nhưng đến lúc cần thiết lại chẳng thấy cô ta. Cửa rào đóng kín và khóa lại bằng cái ống khóa nhỏ xíu tròng vào cái dây lòi tói to đùng. Chắc hai cha con họ đang ở ngoài rẫy. Tư hơi ngần ngại rồi đi thẳng ra đó. Không thấy Ba Nhậu, chỉ có một mình Bé Hai giữa mấy luống bắp chưa trổ cờ. Cô bé đón Tư bằng một vẻ mặt như cố ghìm một niềm vui, chẳng vướng chút gì sợ sệt làm Tư quá đỗi ngạc nhiên. Tư nhìn gương mặt với làn da mịn như nhung chẳng gợn chút xíu ăn năn, ray rức nào với lòng ngán ngẩm. Núp sau cái nón lá vẫn là đôi mắt ngây thơ, trong sáng, nhìn chàng một cách gần như háo hức. Tư tự hỏi:
                          -Sao cái con nhỏ nầy chẳng có chút gì ngượng ngùng, xấu hổ vậy trời? Chắc có lẽ nó cho là mình không thấy, hay cái chuyện nầy cũng giống như móc bóp của ba nó lấy tiền đi mua kẹo?
                          Đột nhiên Tư nổi giận đùng đùng. Chàng nghiêm giọng nói với Bé Hai:
                          -Cái việc cháu làm là xấu lắm, cháu có biết không? Thử nghĩ xem nếu ba cháu mà biết thì ổng buồn và giận biết mấy, chắc ổng sẽ đập cháu một trận nhừ tử.
                          Gương mặt của bé Hai bỗng ỉu xìu như bông bí nhúng nước sôi, cô nói lí nhí:
                          -Ba cháu biết rồi mà ổng có nói gì đâu!
                          Tư chới với, trời đất ơi! Lẽ nào Ba Nhậu tệ đến mức nầy? Chàng chống chế :
                          -Cho dù ba cháu vì thương mà bỏ qua cho cháu, nhưng người trong xóm và bè bạn cháu mà biết thì họ sẽ khinh bỉ cháu dữ lắm! Nếu không phải là chú mà là người khác, thì họ sẽ đi rêu rao khắp xóm, cháu còn có thể bị ngồi tù nữa đó!
                          Bé Hai đáp bằng giọng ấm ức:
                          -Con Mây biểu cháu phải làm như vậy. Bạn cháu thiếu gì đứa làm cách đó, đâu có ai bị như chú nói!
                          Tới mức nầy thì Tư chịu hết nổi, chàng gằn giọng:
                          -Cháu làm cho chú quá thất vọng, đáng lẽ phải tủi nhục vì cái hành động xấu xa ấy, cháu lại coi đó là chuyện bình thường. Nếu cháu không gạt bỏ cái tư tưởng bệnh hoạn đó thì đừng có gặp mặt chú nữa!
                          Rồi không chờ nghe, cũng không thèm nhìn mặt cô gái, Tư bỏ đi luôn. Chàng cảm thấy ngợp, thở không muốn nổi, không thích và cũng không còn chút hơi sức nào để dạy bảo Bé Hai. Trời ơi! cái xóm nhỏ với những người mà chàng cho rằng hiền khô nầy. Cái không gian tĩnh lặng bên dòng kinh trong veo nầy. Chốn mà chàng cho là nơi bình yên xanh mát nhất, chưa bị ô nhiễm và lòng người còn đơn sơ, đã hoàn toàn biến dạng chỉ với một câu nói của Bé Hai. Tư lầm lũi đi, chàng không về nhà mà thẳng ra lộ, vẫy chiếc xe lam đang trờ tới, leo lên ngồi mà còn chưa quyết định sẽ ghé chỗ nào.
                          Tư đáp thêm hai chuyến xe buýt để đi đến nhà một người bạn ở quận mười hai. Tư không thân lắm với y nhưng trong nhóm người Tư quen chỉ có y đang ở một mình. Người bạn đón Tư với vẻ ngạc nhiên nhiều hơn mừng rỡ, y hỏi:
                          -Ngọn sóng nào đưa rồng đến nhà tôm vậy?
                          Tư không đáp, buông người ngồi phịch xuống ghế, cả người chàng như đang mang đầy thương tích. Người bạn lại hỏi:
                          -Ông từ bệnh viện đến thẳng đây phải không?
                          Tư ngạc nhiên:
                          -Sao ông hỏi lạ vậy?
                          Y đáp, vẻ thành thạo:
                          -Thằng Ân hôm trước cũng mang nét mặt như ông đến nhà tôi. Hỏi ra mới biết nó vừa được chẩn đoán là ung thư phổi ở giai đoạn cuối.
                          Tư cười trấn an y:
                          -Tôi từ nhà đến, buồn quá đi tìm chỗ trút đây.
                          Y hỏi:
                          -Bộ ông chia tay với bà Ý rồi hả?
                          Tư gật đầu, rồi nói:
                          -Nhưng đó không phải là cái lý do đưa tôi đến đây.
                          Rồi Tư kể cho người bạn nghe tuốt luốt mọi sự kiện, mọi cảm xúc của mình, như lộn trái cái túi áo ra mà giũ cho sạch bụi.
                          Người bạn vừa nghe vừa đập tay vào đầu gối của Tư mà cười ngặt nghẽo. Y nói:
                          -Tôi không ngờ ông còn ngây thơ như con nít vậy. Xã hội là một dòng chảy, nước trên đầu nguồn đục thì tất cả những chỗ khác cũng đục thôi!
                          Tư ở chơi với người bạn mấy ngày. Trước khi về y hỏi mượn chàng một số tiền. Tư móc bóp ra đếm trao cho anh ta. Chàng ngạc nhiên khi thấy xấp tiền vẫn còn nguyên không mất đến một tờ. Bao nhiêu câu hỏi hiện lên trong đầu Tư. Lẽ nào hôm ấy chàng trông nhầm? Bé Hai không lấy tiền thì cho tay vào túi để làm gì? Mãi nghĩ ngợi, Tư cầm tiền đưa ra như cái máy. Người bạn nhận rồi đưa lại cho chàng một tờ giấy, Tư xua tay:
                          -Ông khỏi cần ...
                          Người bạn vội nói :
                          -Không phải giấy vay tiền của tôi đâu, cái nầy trong túi của ông rớt ra.
                          Tư nhìn tờ giấy, tim bỗng đập nhanh, chàng linh cảm có một điều vô cùng quan trọng sắp giáng xuống đời mình. Đó là một tờ giấy học trò, chắc được rức ra từ một quyển tập chưa xài vì còn thơm mùi giấy mới. Tư mở ra xem. Mấy nét chữ đỗ nghiêng như lúa chín ngã rạp trên đồng làm chàng chết đứng, tưởng như đang đứng trước mắt mình là Bé Hai với gương mặt đỏ bừng vì mắc cỡ và giọng nói e ấp, khẽ khàng:
                          -Chú Tư ơi! Cháu thương chú lắm!




                           
                          #28
                            Lâm Du Yên 14.10.2019 09:27:57 (permalink)
                            CANH BÔNG BÍ
                            Mỗi lần anh Hai giận vợ, nếu đúng vào mùa bí rợ trổ bông, chị Hai liền nấu món canh bông bí để làm lành.
                            Không phải vì đó là món canh anh ưa nhất, thật ra ảnh thích canh chua hơn, nhưng phải món canh bông bí mới xoa dịu được trái tim đang rêm, bởi nó nhắc cho ảnh nhớ lại cái kỷ niệm của lần đầu hai người quen nhau:
                            Sáng hôm ấy, Lụa, tên con gái của chị hai, đang đội một cái thúng bông bí đi ra chợ bán. Cái thúng có dung tích bốn chục lít đó được gọi là thúng giạ, bên trong chứa đầy những bó bông bí vừa hái còn sương tấm tấm, được bó lại thành từng lọn to bằng cườm tay, chất cao ngất nghểu.
                            Cũng như cô gái đội trứng trong chuyện ngụ ngôn của La phông te, chỉ đang nhẩm tính xem số tiền bán bông bí, gom thêm tiền để dành trong ống tre coi có đủ để mua một chú heo con về nuôi không? Chỉ định xin ba má cho phép nuôi riêng một con heo, chờ đúng tạ thì bán lấy tiền rồi sắm cho mình cây kiềng bằng vàng mười tám. Lòng tràn ngập niềm vui, chưa kịp nhảy dựng lên thì từ phía sau một chiếc xe đạp đang thả dốc ào ào tông mạnh vào lưng làm chỉ té thiếu điều gảy gọng. Lồm cồm bò dậy, mặt đỏ phừng phừng vì giận, chưa kịp cự đã nghe một giọng ấp úng đầy mắc cở và biết lỗi của một người con trai:
                            -Cho tui xin lỗi nghen ! Tại cái xe bị đứt thắng ngang xương.
                            Chỉ liếc xéo anh Hai, muốn cự mà thấy cái mặt hiền khô của ảnh ỉu xìu như bông bí nhúng nước sôi thì không đành mở miệng. Bèn chẳng nói chẳng rằng lui cui lượm lại mấy bó bông bí đã bị giập gần phân nửa. Ảnh định đề nghị đền tiền cho chỉ, nhưng trong túi chẳng có đồng nào nên nín thinh, cũng hổng dám lượm phụ cứ đứng gải đầu miết. Chỉ gom hết bông bí vô thúng với nét mặt chằm vằm, rồi đội lên đi tiếp. Anh Hai cũng dắt xe đi sau lưng không nói tiếng nào, lát sau chỉ quay lại nói như nạt:
                            -Sao hổng chạy cho rồi, đi theo tui làm cái giống gì ?
                            Anh Hai lại gải đầu, đi thêm một đoạn rồi mới chịu nhảy lên xe. Hơn một tháng sau ảnh nhờ ba má mang khay trầu qua đền cái thúng bông bí ấy!
                            Cái món canh bông bí làm lành, được chỉ đặt toàn tâm toàn ý vào đó, nên thơm tho ngon ngọt làm sao ! Để có nồi canh thật ngon, chị phải ra đồng sớm hơn mọi người để lựa từng cái bông vừa hé nở, có cánh và cọng đều mập ú ăn mới giòn và ngọt. Những bông bí vàng tươi với nhụy đầy phấn, lông măng li ti bám đầy trên cánh ấy chưa nấu mà đã gợi thèm rồi. Cái cảnh chỉ ôm cái bó bông bí tươi rói trên tay với nét mặt sung sướng pha một chút âu yếm ấy, giống hình ảnh của những cô dâu ôm hoa trong ngày cưới làm sao!
                            Chỉ lặt từng bông bằng cách gở bỏ mấy cái lá đài ốm, dài như những ngón tay ôm quanh chân bông. Ngắt bỏ cái nhụy bên trong một cách khéo léo để mấy cái cánh không bị giập, tước bỏ vỏ mấy cái cọng của nó, cho vô cái rổ tre mắt thưa rồi đem xuống sông rửa.
                            Chỉ nhen bếp bắc nồi cơm lên trước, chờ cơm sôi chắt nước ra tô, san bớt củi đang cháy qua cái lò bên cạnh, chừa lại mấy cục than đỏ vừa đủ cho cơm chín. Bỏ thêm củi vô cái lò vừa được san lửa, rồi đặt lên đó một cái nồi chứa nước đầy hơn phân nửa. Chờ nồi nước vừa sôi ục lên liền thả con cá lóc đã được làm vào, với bộ ruột được cạo sạch sẽ, bởi ảnh khoái ăn cái ruột cá lóc chấm nước mắm ớt thật cay. Cá chín được vớt ra, rỉa thịt, loại bỏ xương không để sót lại một cọng nào. Ướp vào những miếng ca trắng phau ấy, tiêu, hành, đường, nước mắm, rắc thêm một ít bột ngọt cho nó đậm đà hơn [thời đó bột ngọt rất hiếm và mắc].
                            Nếu là những cơn giận nho nhỏ, ngoaì cái món canh bông bí, trong mâm còn có thêm một trách cá lòng tong kho tiêu với thật nhiều tóp mở. Nhưng với những trận lôi đình kinh thiên động địa, như cái lần chỉ nhất quyết không chịu đưa tiền cho ảnh mua xe hon đa, thì cái dĩa tôm kho tàu hết sức hấp dẩn sẽ bày tỏ tấm lòng tha thiết của chỉ dành cho ảnh.
                            Cơn giận của anh Hai sẽ được những vá canh đẩy trôi từ từ, tiếng cười lại vang lên trong ngôi nhà lá nhỏ, giọng ru con của chị Hai lại cất lên thật êm đềm:
                            -Ầu ơ ! Con kiến vàng bò quanh bông bí
                            Anh thấy nàng có ý… anh thương.
                            #29
                              Lâm Du Yên 14.10.2019 09:36:51 (permalink)
                              ĐỢI MƯA
                               
                              -Mùa mưa năm nay đến trễ quá !
                              Hên tự nhủ thầm trong lòng khi ngước nhìn bầu trời xanh ngắt, trên đầu hai hàng gòn đứng song song, chạy dài theo con lộ cặp sát bờ sông.
                              Ngay từ lúc nghe câu nói của người con gái ấy:
                              -Mùa mưa sang năm tui lại tới!
                              Thì anh đã mong đợi những cơn mưa rồi. Dù đó có thể chỉ là một câu trả lời thôi, nhưng đối với anh nó y như một lời hò hẹn âm thầm vậy !
                              Cho nên mùa mưa năm nay được khao khát không riêng cho cây cối mà còn cho cả bản thân anh nữa. Cả anh, cả khu vườn và con mương cạn dường như trở nên thân mật hơn vì cùng chung một nỗi mong chờ.
                              Bà Bảy má của Hên luôn giục:
                              -Má con mình phải lo lợp lại cái nhà trước mùa mưa nghe con, lá mục hết rồi đó !
                              Trong làng cũng có một vựa lá, nhưng Hên không muốn mua, anh đợi cái ghe lá của người con gái có đôi mắt dài đen lánh, long lanh, láng mướt như lá dừa trong trăng ấy!
                              Mỗi năm vào đầu mùa mưa, những ghe lá từ miệt dưới chèo đến xóm Hên để bán. Tiếng rao to và ngân dài “ lá đây “ nhắc bà con nhớ tới những cái lỗ nhỏ chi chít trên mái nhà mà khi có mưa là nhỏ nước long tong, làm cái nền đất ướt nhem bị thủng lỗ chỗ như cái khuôn bánh khọt.
                              Chiều hôm ấy, một ghe lá ghé lại bên gốc cây sung, cặp vô cái bến ngay trước mặt nhà Hên. Một cô con gái còn rất trẻ với mái tóc dài ngồi sau lái. Cô ta cong người chúi đầu, vén hết tóc ra phía trước, nhúng chiếc gáo dừa xuống sông để múc nước lên gội đầu. Cái ót trắng phơi ra với vài sợi tóc còn vướng rối. Cái cảnh gội đầu ấy không hiểu sao lại hấp dẫn Hên một cách lạ kỳ làm anh chẳng thể nào rời mắt được. Hên nhìn miết cho đến khi cổ gội đầu xong, giủ bớt nước rồi lau khô tóc. Có tiếng một bà già vọng ra từ trong khoang :
                              -Nấu cơm chưa Lá, tía mầy ổng đói bụng rồi đó !
                              Cổ dạ một tiếng rồi chui vô ghe, lát sau lại trở ra với cái nồi trên tay rồi bắt đầu vo gạo. Hên vội lấy khăn đi tắm, anh muốn nhìn tận mặt cô gái có cái cổ gầy gầy ấy quá! Anh vừa bơi vài vòng vừa liếc nhìn coi cổ xoay sở thế nào trên cái bếp nhỏ xíu, chứa hai cái cà ràng đặt trên cái sàn gỗ chưa tới một thước vuông, cột sát bên hông ghe chỗ gần bánh lái.[ Người ta cố ý tách rời cái bếp khỏi ghe, để nếu lửa có lan ra thì hất nó xuống sông cho nhanh, khỏi làm cháy ghe]. Hình như cảm nhận được ánh mắt của anh, cổ đang ngồi làm cá bỗng quay ngoắt lại nhìn Hên đăm đăm. Hên thấy ngại nên hụp cái đầu xuống nước, khi ngước lên vẫn còn thấy tia mắt đó. Cổ bỗng gọi Hên bằng một giọng khẩn khoản:
                              -Anh hai ơi! Làm ơn mò giùm tui cây dao.
                              Hên vừa mừng vừa ngạc nhiên hỏi dồn:
                              -Rớt ở đâu? Hồi nào?
                              -Ở ngay cái chỗ tui ngồi nè, mới rớt thắt thì.
                              Hên không bơi mà lặn sâu sát đáy, tiến về hướng dòng chảy. Phải ba bốn lần ngoi lên lấy hơi anh mới tìm thấy cây dao yếm ấy, nó nằm cách xa chỗ rơi gần năm chục thước.
                              Cô gái vừa nhận cây dao từ tay anh, vừa cám ơn, vừa phân trần:
                              -Tui mới vừa khỏ đầu con cá cái bóp, nó quẩy mạnh quá làm rớt cây dao luôn.
                              Hên nói đùa:
                              -Cũng may mà rớt cây dao, chớ rớt con cá thì nó lội mất tiêu, biết đâu mà bắt, cho cô ăn thịt “cọp” luôn!
                              -Anh Hai lặn giỏi ghê, cái sông minh mông như vậy mà anh kiếm được liền. Mà sao nó đi xa dữ vậy?
                              -Mùa nầy nước đổ mà! Cây dao mỏng, bề bảng bự như vậy nó chao dữ lắm!
                              -May mà có anh chớ hông thôi mất tiêu cây dao, mần cá bằng cây dao cau nhỏ xíu lâu lắm! chắc bị chửi tắt bếp.
                              Cô vừa nói vừa cười, đôi mắt đen nheo với lại làm cái đuôi càng cong vút lên làm Hên thấy lao đao, anh hỏi tiếp:
                              -Cô ở tỉnh nào vậy?
                              -Cần Thơ.
                              -Bao lâu mới tới đây nầy một lần?
                              -Cứ đầu mùa mưa là nhà tui chất lá lên ghe, rồi chèo ngược lên mấy cái miệt trên nầy mà bán.
                              -Khá hông?
                              -Cũng đấp đổi qua ngày thôi!
                              -Vậy mỗi năm cô dìa đây một lần hả? Năm tới cô có ghé đây hông?
                              -Có, mùa mưa sang năm ghe tui lại tới.
                              Hôm ấy Hên tắm lâu gấp ba ngày thường và cô gái cũng bị má rầy mấy lần vì dọn cơm quá trể.
                              Tối đó anh ôm cây đờn ngồi trên cái chõng sát bờ sông kéo tới khuya lơ khuya lắc. Anh muốn mượn tiếng đờn để tỏ cho cổ biết cái mối tình vừa nhen nhúm của mình. Sáng hôm sau, trời còn tờ mờ Hên đã mò xuống bến, chiếc ghe đã nhổ sào chèo đi mất, cái bến sông quen thuộc bỗng trở nên quạnh vắng khác thường.
                              Chỉ có vậy thôi! Chỉ có như vậy thôi! Mà cuộc đời đã đổi sang màu khác. Mùa màng và thời tiết bỗng trở nên gắn bó với anh quá thể. Chàng trai ấy bỗng chợt vui vui, chợt buồn và không ngừng mong đợi một mùa mưa.
                              Một đêm đang ngủ ngon bỗng Hên bị đánh thức bởi những tiếng rào rào êm ái. Anh chui ra khỏi mùng gom hết thau, nồi đặt dưới những chỗ dột để hứng nước, rồi trở vô mùng nhưng chẳng thể nào ngủ lại được. Anh nhắm mắt tưởng tượng lại gương mặt cô gái ấy, tưởng tượng lại cái nụ cười tươi và hai con mắt ươn ướt hơi nheo lại với cái đuôi cong vút, anh chợt chép miệng:
                              -Người đâu mà!
                              Rồi anh bỗng chợt lo, không hiểu cô ấy còn đi theo ghe cùng tía má không hay là đã lấy chồng rồi. Nghĩ tới đó bỗng anh nghe tim mình trĩu nặng, vội vén mùng trở ra đốt ba cây nhang cắm lên bàn thờ, anh lẩm bẩm khấn:
                              -Tía ơi! Có linh thiêng, ráng phù hộ cho con cưới được cổ nghe tía.
                              Những cơn mưa năm nay lớn hơn năm ngoái. Cái maí nhà ngày càng mục nát, má anh hối lợp lại hoài nhưng Hên cứ hẹn lần hẹn lựa mãi. Bà giận nên không thèm nhắc đến nữa.
                              Chiều nay đi đồng về, Hên lại không ghé nhà mà bước ra bờ sông liền. Một chiếc ghe lá cắm sào đậu sát gốc sung làm tim anh bỗng tăng nhịp đập. Chẳng thấy cô gái xuất hiện lòng anh nhoi nhói một nỗi lo. Không kịp cởi bỏ cái áo bà ba Hên lội ngay xuống nước, bơi một vòng quanh ghe rồi tấp vô phía đuôi ghe. Anh bám tay vào bánh lái, rướn người lên chưa kịp thò đầu vào xem anh đã nghe trước mũi có tiếng hỏi:
                              -Anh Hai kiếm cái gì mà ngó dáo dác vậy? Giọng cô gái có nhuốm một chút tinh nghịch, cô hỏi tiếp:
                              -Bộ anh tính mua lá hả?
                              -Chớ còn gì nữa, cái mái nhà nó dột tùm lum. Tui chờ ghe lá của cô muốn thắt ruột, thắt gan đây!
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 33 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9