SÁO SANG SÔNG
Mấy năm trước khi cả nhà mợ Ba Se đi đám giỗ của má mợ ở bên kia sông về thì xuồng bị lật. Vì vào mùa lũ, đó lại là cái năm có lũ lớn nhất trong vòng mấy chục năm trở lại, nên việc cứu người gặp nhiều khó khăn. Chồng mợ, cậu Ba Se và người con trai, anh Hai Sẻ, đều qua đời vì bị chìm trong lúc đang say quấc cần câu sau bữa nhậu trong đám giỗ. Chỉ có mợ và người con gái, chị Út Sáo, là được cứu kịp mà thôi.
Kể từ đó, chẳng những không bước chân xuống đò, mợ và chị Út Sáo còn chẳng dám xuống sông để tắm giặt. Mợ mua cả chục cái mái vú cỡ lớn nhất để trữ nước mưa xài quanh năm. Năm nào hạn hán hoặc mưa đến trễ, mợ cũng chẳng phải lo, đã có anh Hai Xởi con cậu Út Lởi sát bên nhà lo giùm, chăm nước đầy nhóc mấy cái mái cho mợ xài. Anh Hai Xởi âm thầm làm cái chuyện nầy lâu lắm mà mợ không có biết, cho đến một đêm mợ nghe tiếng nước đổ vô lu, tưởng ma làm lật đật chạy thì thấy ảnh đang rón rén, mợ rầy:
-Khuya lơ khuya lắc mà gánh nước chi vậy con, rủi bị ma da kéo giò, bây đi êm ru đâu có ai mà biết!
Anh Hai cười hềnh hệch nói:
-Thời buổi nầy ma cỏ thấy người ta là bỏ chạy tét, có gì mà sợ hả thím? Khuya như vầy hổng còn ai tắm giặt nước mới sạch đó thím!
Mợ lại chép miệng:
-Thím vô ý hết sức, thấy mấy cái lu đầy nhóc nước hoài trong bụng cứ ngờ ngợ, tưởng chú Ba bây ổng về phù hộ, ngờ đâu...Con gánh bây nhiêu đó là đủ cho thím xài tới mùa mưa rồi, đừng có làm nữa, mắc công.
Anh Hai lại cười xởi lởi:
-Ba chuyện nầy mà nhằm nhò gì, thím với cô Út cứ xài líp ba ga đừng có nhín nhín làm chi cho mệt.
Mợ Ba cảm động lắm! Chẳng riêng gì anh Hai, bà con trong xóm đều ngậm ngùi cho cái cảnh không may của gia đình mợ. Chẳng những họ giúp về những việc nặng ngoài đồng mà còn hay rủ mợ theo họ xuống bến, để quên dần cái nỗi ám ảnh mà sống trở lại bình thường. Mợ đã không tháp tùng với họ thì thôi, mà còn cấm tiệt luôn con gái nữa.
Cho nên chị Út Sáo như bị giam lỏng trong căn nhà với vườn cây ăn trái bao quanh và mấy công đất ruộng sau hè, ở cái cù lao nhỏ xíu nằm giữa sông ấy. Thỉnh thoảng có chiếu bóng thí hay gánh hát về bên kia sông, [ họ chỉ về bên ấy vì ở đó giao thông thuận lợi, dân cư hơn đông gấp chục lần] con trai con gái trong xóm bơi xuồng đi coi nườm nượp thì chị phải ngồi nhà, ráng banh cái lỗ tai mà mót từng âm thanh từ bên đó vọng sang.
Một hôm trời đang mưa to, gió lớn, bỗng một chiếc xuồng ba lá tấp vô bến sông trước nhà mợ Ba. Một người con trai lảo đảo bước lên bờ. Anh ta bị cảm mưa, ráng lết tới cái hàng ba là đi hết nổi. Mợ lật đật đè y nằm sấp lên cái chỏng tre kê gần đó rồi vừa cạo gió vừa hối chị Út đâm gừng xát vô hai lòng bàn tay, bàn chân của ảnh. Không biết nhờ kinh nghiệm, sự chăm sóc tận tình của mợ, hay những tô cháo cảm của chị Út mà anh ta hết bịnh một cái vù. Khi đủ sức nói chuyện ảnh khai mình tên Đường, thứ Tư nhà ở bên kia sông, đi thăm ruộng rồi bị cảm, đuối sức bơi không nổi nên tấp xuồng, ráng lết lên bờ nhờ cứu.
Hôm sau dù chưa hoàn toàn bình phục, anh Tư Đường cũng xin ra về viện lý do sợ gia đình trông và cũng để tránh tai tiếng vì nhà mợ chỉ có hai người phụ nữ.
Một tuần lể sau anh bơi xuồng chở cả tía má theo để qua cám ơn mợ. Họ còn mang theo một cặp vịt xiêm ú nù tặng mợ ăn lấy thảo. Họ ngồi nói chuyện cà kê dê ngỗng gần hết cả buổi sáng, uống hết ba bình trà. Chị Út phải đem cái bình thủy đựng nước sôi ra châm thêm mấy lần, cái tay chỉ run như thằn lằn đứt đuôi, y như khớp khi bị người ta xem mắt vậy.
Kể từ hôm ấy tính tình chị Út bỗng có chút thay đổi, chị hay suy nghĩ vẫn vơ, có khi mợ hỏi một đường chỉ lại trả lời một nẻo. Mợ bắt đầu lo và nói xa, nói gần với chỉ là mợ không muốn gả con gái qua bên kia sông vì đi lại quá khó khăn, nguy hiểm. Chị Út chẳng nói chẳng rằng. Chỉ vốn hiền, từ trước tới giờ đều nghe lời mợ răm rắp, lại chẳng thấy Tư Đường léo hánh nên mợ cũng yên lòng.
Một tháng sau, cô Năm Níu nhà ở xóm dưới lên nhà chơi, ngồi cà rà, nói đon, nói ren miết. Cô khen gia đình anh Tư ăn ở hiền lành, biết tu nhân tích đức. Khen anh Tư hiếu thảo, lo chí thú làm ăn không có dính vô tứ đổ tường. Mợ Ba ngồi im ru hổng nói tiếng nào. Cuối cùng cô mới nói huỵch tẹt cái ý của mình là xin mợ cho tía má anh Tư qua bỏ trầu cau. Mợ Ba lắc đầu nguầy nguậy, cái lý do mợ đưa ra không nói thì ai cũng biết, hơn nữa mợ ưng bụng anh Xởi lắm, chị Út mà chịu ảnh là mợ mừng hết lớn, sát một bên nách khỏi lo qua sông qua đò, gặp gió, gặp mưa.
Tối đó chị Út đi ngủ sớm, chỉ trùm mền kín mít cái đầu nhưng mợ vẫn nghe tiếng thút thít nghẹn ngào của chỉ, mợ xót ruột lắm nhưng đành làm lơ. Hôm sau để chuộc lỗi, mợ kho một nồi thịt kho tàu, món mà chỉ thích nhất và mỗi năm được ăn có một lần vào dịp tết, vậy mà chỉ hổng thèm đụng đũa.
Mợ lật đật bàn với anh Xởi, biểu ảnh đốc thúc gia đình, đem trầu cau qua bỏ hàng rào thưa. Còn gần nửa tháng là đám giỗ của chồng và con trai, mợ định lúc đó sẽ gom hai đám làm một cho gọn.
Gần tới ngày giỗ, một buổi sáng kia, mợ ra đồng hái mớ bông bí, vô chưa tới nhà đã nghe tiếng con heo nái đòi ăn kêu inh ỏi.
Mợ nghĩ thầm:
-“ Cái con nhỏ nầy, trưa trờ trưa trật rồi còn không chịu dậy cho heo ăn, để nó kêu ỏm tỏi, nghe mà bắt sốt ruột”.
Mợ bỗng giựt mình một cái đụi, linh cảm có chuyện không hay, bèn đi như chạy vô nhà, xông vô buồng ngủ của hai mẹ con. Hồi nãy khi mợ đi chị Út còn nằm ngủ ngon lành vậy mà bây giờ chỉ thấy cái đống mền gối xếp gọn gàng. Mợ Ba lật đật mở cái rương ra coi, đôi bông tiền điếu, sợi dây chuyền chữ cong và hai chiếc cà rá vàng của mợ vẫn còn nguyên, chỉ thiếu mấy bộ đồ bà ba của chỉ mà thôi!
Cái buồn, cái tủi, cái nhục, thay nhau dày vò mợ, ba ngày liền mợ chẳng dám gặp ai trong xóm. Mấy ngày sau, cô Năm Níu thay mặt gia đình anh Tư đến xin mợ cho làm cái đám thú phạt, mợ khăng khăng:
-Khỏi, tui coi như nó chết rồi, biểu nó đừng có vác cái mặt về đây nữa!
Ai mà biết trong cái lý do của mợ đưa ra, bao nhiêu phần do hờn giận và bao nhiêu phần muốn tránh cho con sự nguy hiểm khi qua, lại trên sông?
Ngày giỗ cậu và con trai, mợ không dám mời ai, nấu nồi canh chua bông súng cá rô, kho một ơ cá cơm kho tiêu, nướng con cá trê giầm nước mắm gừng…Toàn những món ngày trước cậu ưa. Mợ không dám ra quán mua rượu nên châm một bình trà rót cúng. Đốt ba cây nhang cấm lên bàn thờ, mợ đứng chấp tay ngang ngực khấn:
-Con xin mời cữu huyền thất tổ, nội ngoại hai bên, ông Ba Se, thằng Hai Sẻ cùng về ăn chung bữa cơm nầy. Phù hộ cho con Sáo được bên chồng thương, làm dâu trót lọt, không bị bắt chặc, bắt lỏng gì hết.
Vái tới đây mợ bỗng khóc rấm rức rồi nói thêm mấy câu để mắng vốn cậu cho hả dạ:
-Cơ sự nầy có vừa bụng ông chưa? Tui đã dặn dò ông trước ở nhà, cái xóm bên đó họ nhậu nhẹt dữ lắm, ai có mời thì nhấp môi thôi. Vậy mà ông đâu có chịu nghe. Ông nói mình là rễ con trong nhà làm như vậy coi không được, hể ai đưa là ông uống ráo. Bây giờ con gái nó trốn theo trai, tui mắc cỡ thiếu điều độn thổ. Mà con ông nó cũng cứng đầu cứng cổ y chang như ông. Sát bên nách có người hiền lành, giỏi giang đeo đuổi,tui ưng bụng quá trời mà nó đâu có chịu. Để bây giờ tui không dám nhìn mặt người ta…
Mợ nói tới đó thì nghẹn ngang. Sau lưng có tiếng anh Xởi tằng hắng một cái rồi nói:
-Thím Ba! Con xách mấy chai rượu qua trước cúng chú sau hai thím cháu mình chia nhau mà uống.
Mợ lật đật kéo khăn lau nước mắt, rầy ảnh:
-Con bày vẻ làm chi cho tốn kém. Thím nấu cơm canh cúng ổng thôi! Rượu chưa có khui con đem về trả cho người ta lấy tiền lại, thím không có nhận đâu.
Cái mặt anh Hai buồn thiu, ảnh nói:
-Thím nói vậy con buồn lắm! Tại con với cô Út không có duyên có nợ với nhau. Con không làm con rễ thì làm con trai thím cũng được. Bây giờ cô Út đi rồi, có việc gì thím cứ cậy vô con đừng có ngại gì hết.
Nói xong, ảnh lần lượt kê hai chai la de vô miệng, dùng răng cắn chặt cái nút lỏng bẻng kéo bật lên, rồi rót rượu ra ly để lên bàn thờ cúng. Mợ Ba can không kịp.
Nhang tàn mợ bưng mâm cơm xuống bàn, hai thím cháu cùng ngồi ăn. Anh Hai trao ly rượu tận tay mợ rồi nói:
-Thím uống với con cho vui đi thím, chớ một mình con làm hổng nổi.
Mợ Ba vị bụng hớp một miếng, nghe cái lưỡi se lại bởi cái vị cay cay và nhân nhẩn của nó, mợ nói:
-Chắc họ bỏ bùa mê, thuốc lú vô trong nầy chớ đâu có ngon lành gì mà nìn ông mê dữ vậy
Anh hai cười:
-Tại thím mới uống lần đầu, chớ uống quen là ghiền lắm!
Tối đó anh Hai ôm cây đờn cò ra kéo, anh không hát theo nhưng cái bài nầy mợ đã thuộc nằm lòng từ hồi còn con gái :
Ai xui con Sáo qua sông
Để cho con sáo xổ lồng bay xa
Sáo quên mất lối về nhà
Mẹ cha, em út, ông bà cậy ai?
Kể từ hôm ấy mợ hay chui ra khỏi mùng, ngồi trên cái chỏng trước hàng ba mà nhìn đăm đăm vào mấy ngọn đèn leo lét tít bên kia sông.
Một đêm, mợ đang ngồi thu lu bỗng nghe tiếng gọi rất to. Tiếng gọi ấy đã phải băng qua suốt chiều ngang con sông mới đến được đôi tai của mợ :
-Má ơi! Con là Út Sáo nè, má có khỏe hông má?
Mợ mừng đến thảng thốt. Chạy một cái vèo tới sát bờ sông luôn. Chợt ngạc nhiên trước cái giọng lanh lảnh của mình:
-Má khỏe! Con sao rồi, làm dâu nổi hông? Chồng con có thương con nhiều hông?
-Con khỏe. Nổi. Nhiều.
-Thiệt hông? Đừng có giấu má, khổ thì dìa đây!
-Con dìa thăm má được hông?
-Thôi, mắc công lắm!
-Vậy hổng lẻ con hết gặp má sao?
-Gặp làm chi, lâu lâu nói qua, nói lại như vầy cũng được.
Thế là từ đó, mỗi tháng một lần hoặc hai, mẹ con mợ lại gọi nhau í ới. Bà con trong xóm ở cả hai bên bờ cùng nghe, có người cười, có người rơm rớm nước mắt.
Mợ Ba không còn giận con gái và con rễ nữa. Cô Năm Níu lâu lâu lại ghé qua nhà mợ, khi thì mang bánh trái, khi thì khăn, áo của chị Út sắm cho mợ. Mợ cũng nghe bà con khen là Út Sáo có phước, được tía má chồng thương.Tư Đường thì lo chăm chỉ làm ăn, cưng vợ lắm không cho ra đồng và mỗi ngày đều gánh nước lên nhà cho vợ tắm. Mợ Ba nghe mà nở từng khúc ruột, có điều mợ vẫn ngấm ngầm trách chàng rễ quí, vì y vẫn chưa chịu nói chuyện với mợ.
Gần hai tháng nay, Út Sáo vắng tiếng, cô Năm Níu cũng hổng thấy ghé. Mợ lo ghê lắm đang định dẹp cả tự ái lẫn nỗi lo sợ qua một bên để đi thăm con gái, thì rộ lên cái tin xóm trên có nhà bị lật xuồng, một đứa nhỏ năm tuổi trôi mất, ba ngày sau mới vớt được xác. Thế là cái quyết tâm vừa nhen vội tắt ngấm. Mợ đang rầu thúi ruột, bỗng tối đó giọng Tư Đường văng vẳng:
-Má ơi! Con là Tư Đường, má còn giận con hông má?
Mợ mừng quýnh:
-Hông, con Út đâu?
-Vợ con có bụng rồi hổng dám nói lớn.
-Trời đất, con ráng săn sóc nó nghe, đừng cho nó mang vác nặng.
-Dạ. Má đừng có lo, con hổng để út làm cái gì cực nhọc hết. Để con bơi xuồng rước má qua ở chơi vài hôm nghe má?
-Thôi! Mắc công lắm, chừng nào nó sanh thì chở về đây cho má lo.
Mợ thấp thỏm tính từ ngày, nhờ cô Năm mua giùm mấy thước vải ú để may tả và mấy cái quần lủng đít cho cháu ngoại. Mấy hôm sau cả cái bến sông như dậy sóng bởi tiếng của Tư Đường vang dội. Y không chờ đến đêm mà gọi ngay cho mợ lúc trời còn đứng bóng, giọng vui mừng hối hả:
-Má ơi, người ta sắp làm cây cầu bắt ngang qua sông mình rồi đó má!
Mợ Ba mừng quýnh, mừng quáng, hỏi dồn hỏi dập:
-Thiệt hông, chừng nào làm, chừng nào xong?
-Con hổng biết, vái trời cho họ làm rút rút cho nó mau rồi, đặng qua lại cho dễ dàng.
-Chừng nào làm rồi là má qua thăm tụi bây liền.
Bắt đầu từ hôm ấy, trong những thời cúng, ngoài những lời cầu xin cho cữu huyền siêu thăng tịnh độ, cho con gái mẹ tròn con vuông, cho con rễ khỏe mạnh, cho anh Xởi cưới được một cô vợ giỏi giang xinh đẹp, mợ còn xin cho cây cầu được làm xong trước khi chị Út nằm ổ.
Nhờ tấm lòng chân thành của mợ, ngày đầy tháng của thằng cháu trai, anh Tư Đường lấy xe đạp chở mợ sang. Đang đi trên cầu, mợ hỏi:
-Tụi bây tính đặt tên gì cho thằng nhỏ vậy?
Anh Tư vừa cười vừa trả lời:
-Tụi con tính đặt nó tên Cầu, má thấy có được hông má?
-Thiếu gì tên, sao lựa cái tên đó? Tao thấy mấy đứa nhỏ bây giờ toàn là tên đẹp không hà, giống như tên đào kép cải lương vậy đó!
-Tụi con thích cái tên nầy là bởi vì nhờ có cây cầu má với vợ con mới đi qua, đi lại thăm nhau hổng cần phải ngồi đò mà phập phồng cái bụng.
Ngừng một lát anh nói tiếp:
- Để con Sáo sang sông không có bay mất tiêu, mất biệt.
Nghe con rễ nói vậy mợ Ba thấm ý cười :
-Ừ hén! Má cũng chịu cái tên đó nữa!
(đã mang đoản vân tới đây )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.10.2019 03:04:48 bởi Ct.Ly >