MƯA Truyện dài Lâm Du_Yên
Chiều nào mà ông trời không vui, kéo mái tóc đen thui, che mặt lại rồi khóc sướt mướt là Tư buồn hiu. Chàng không thèm nấu cơm, chỉ uống từng ly, từng ly nước trà để cầm hơi.
Không phải Tư là người đa cảm đến mức đó, chỉ vì Tư biết trời mưa như vầy là Ý, cô hàng bán cháo gà đầu hẻm, rầu thúi ruột nên chàng buồn ăn theo.
Chờ cho cái bụng phản đối quyết liệt, kêu rồn rột liên tục. Tư mới chịu rút cái bóp ra, đếm lại số tiền trong đó, làm nhanh mấy bài toán cộng, trừ trong đầu, rồi mặc áo mưa đi ăn một tô cháo gà để ủng hộ mỹ nhân.
Ở đầu hẻm có đến ba, bốn hàng bán thức ăn.
Tư phải đi qua quán cơm bình dân, xe bánh mì, xôi mặn... rồi mới đến gánh cháo gà. Trời mưa nên hàng nào cũng ế. Mấy người bán hể thấy có ai đi ngang là chào mời um sùm, thiếu điều muốn lôi tuột vô hàng của mình. Họ đều là dân ở trong xóm "chuồng bò" của Tư, quen mặt quá nên Tư hết sức là ngại. Chàng đã kéo cái nón áo mưa che kín mặt rồi vậy mà dì Ba bán cơm cũng nhận ra, bà đon đả réo:
-Ghé ăn giùm dì một dĩa cơm đi Tư, có cơm cháy ngon lắm nè!
Tư lắp bắp:
-Dạ để khi khác, cháu không đói!
Chú Sáu chủ xe bánh mì cười nhăn nhở:
-Mời làm chi cho mắc công chị Ba ơi! Người ta chỉ mê cháo gà thôi hà!
Ông ta và cô Liễu bán xôi mặn, xôi ngọt cùng cười thật to làm Tư quê muốn độn thổ.
Tư còn không dám nhìn vô gánh cháo thì nói chi tới chuyện ghé vào. Tư đi huốt qua luôn, lang thang ba đồng bảy đổi, chờ họ không chú ý rồi mới len lén quay lại. Chàng nghe tội nghiệp cho mình quá chừng! Ai đời? Đi ăn cháo mà mang tâm trạng y như người đi ăn trộm.
Nhìn Tư mặt mày ướt sủng, lựa cái chỗ tối nhứt mà ngồi rón rén, cử chỉ ngượng ngập, lúng túng... Ý nghe lòng nao nao, tình cảm giành cho chàng, chừng như nặng thêm một chút.
Ý hỏi:
-Đi dạy kèm mới về hả Tư?
Tư gật đầu mà mắc cỡ cùng mình. Chàng đoán là Ý đã nghe, đã thấy mình đi ngang qua ban nãy nên chắc chắn nàng biết là chàng nói dóc.
Ý hỏi tiếp:
-Tư ăn gỏi gì?
Tư ấp úng:
-Gỏi gì cũng được, món nào còn nhiều nhứt thì lấy .
Ý cười:
-Món nào cũng còn nhiều hết!
Rồi Ý múc cho Tư một tô cháo đầy cùng một dĩa đầu, cánh, cẳng quen thuộc.
Tư nhìn nồi cháo còn hơn phân nửa mà xót ruột vô cùng. Ôi! phải chi Tư có đủ tiền để bao hết mấy đứa con nít trong xóm ra ăn sạch gánh cháo.
Ý bắt gặp tia mắt buồn hiu của Tư bèn an ủi:
-Coi vậy chớ một lát khuya khuya, mấy người đi chơi về, họ đói bụng ghé ăn lai rai cũng hết hà!
Ý vừa nói xong là ngay lập tức, hai chiếc xe gắn máy do hai cặp choai choai chở nhau ghé lại liền. Tim Tư đập rộn ràng, mừng như trúng số!
Hai đôi nam nữ trẻ măng ấy vừa ngồi xuống cái bàn nhỏ dưới bóng đèn kê sát mái hiên là hối:
-Cho bốn tô cháo, một dĩa gỏi " gió đầu cành" đi chị, lẹ lẹ giùm!
Tư liền hỏi Ý:
-Có cần lấy dĩa gỏi nầy đưa qua cho họ không? Tui chưa chạm đũa?
Ý gật nhẹ đầu, Tư chuyền trở lại dĩa gỏi cho nàng.
Tư nói:
-Ý múc cháo đi, để tui bưng lại cho!
Ý cười ra vẻ cám ơn, đưa tô cháo cho Tư rồi nói:
-Coi chừng phỏng nghe!
Tô cháo nóng hổi, Tư đặt xuống xong là chụp lên hai trái tai liền cho bớt nóng. Phục vụ họ đến nơi, đến chốn rồi mới trở lại ngồi xuống cái ghế của mình.
Ý hỏi:
-Tư biết ăn phao câu hông?
Đấy là cái bộ phận mà hiếm người thích bởi cái mùi đặc trưng của nó. Cũng có người khoái nhưng ra đường ít ai dám gọi, nhứt là mấy cô gái.
Tư cười:
-Cái gì tui ăn cũng được.
Ý lại hỏi:
-Bỏ hay để cái chình dầu?
Tư hỏi lại:
-Chình dầu là cái gì?
Ý cầm cái phao câu gà đưa tận mặt Tư, chỉ vào cái cục u lên bằng đầu ngón tay nằm ở chót đuôi:
-Là cái nầy nè!
Rồi Ý hỏi tiếp:
-Chắc Tư chưa ăn phao câu gà lần nào phải hông?
Tư gật đầu, chợt nhớ má mình khi còn sống thường nói ăn đầu gà học giỏi còn ăn phao câu học ngu. Nên cái câu "nhứt phao câu, nhì đầu cánh" ấy, cho đến nay Tư chỉ biết cái món đứng hạng nhì.
Ý nói:
-Vậy thì bỏ đi, cái nầy nặng mùi lắm!
Tư ăn và nghe tiếc quá! Trách má mình sao kỵ lãng xẹt. Cái món ngon như thế nầy mà hơn hai mươi tuổi đầu mới biết! Thật là lãng phí quá chừng!
Ý chờ Tư ăn được nửa tô cháo mới nói:
-Cháo nguội hết rồi, đưa cái tô đây tui múc thêm vô một vá cho nóng!
Tư ngại quá nhưng cũng đành chìu bởi sức trai đang độ cường tráng, ăn một tô cháo lỏng le đâu có thấm tháp gì, vả lại chàng cũng muốn kéo dài thời gian...
Ý múc đầy nhóc một tô, còn bỏ miếng huyết gà vô nữa.
Bọn trẻ đang ăn kêu thêm bốn tô cháo. Tim Tư lại nhảy cà thọt và chàng lại hăng hái đóng vai người phục vụ. Vẻ mặt hớn hở ấy làm Ý mắc cười quá cỡ!
Tô cháo của Tư đâu còn nóng nữa, thế nhưng chàng cứ thổi hoài, thổi hoài...
Tư múc thật chậm, nhai thật chậm, nuốt thật chậm... Cầu mong ông địa xúi khách đến ăn cháo để chàng có dịp giúp Ý một tay. Thế nhưng...
Bốn người khách đã ra về nhưng Tư vẫn ăn chưa hết tô cháo. Chàng cứ múc từng muỗng cháo đã nguội ngắt, đưa lên miệng mà thổi mãi...
Ý bỗng nhắc:
-Tư bỏ áo mưa ra đi cho mát.
Thì ra mưa đã tạnh mà Tư không hay.
Chàng cởi nó ra, đem vắt lên cây cột đèn gần đó. Ngay lúc ấy, Ý múc một vá cháo đổ thêm vào cái tô chỉ còn một nửa. Khi Tư quay về chỗ ngồi của mình, đã thấy tô cháo lại đầy nhóc.
Tấm màn mưa vừa vén lên là sân khấu lòng đường liền tấp nập. Các diễn viên đầu tiên là những người bán hàng rong đang trú mưa dưới hiên nhà. Họ hấp ta, hấp tấp...không thèm cúi chào khán giả mà cắm đầu bước nhanh thoăn thoắt, rao một cách hối hả để bắt lại cho kịp những vị khách bị thất lạc.
Kế tiếp là mấy người chạy xe ôm. Họ chạy chậm chậm, ngoái nhìn từng người đi bộ, bám riết theo rồi cứ lập đi lập lại một câu duy nhứt:
-Lên xe đi mà, tui tính rẻ thôi!
Ý thầm cảm ơn ông trời biết điều cho mưa tạnh sớm. Nếu ổng kéo dài thêm chút nữa, chắc Ý phải gánh nửa nồi cháo về. Lại phải rình coi nhà nào còn thức để đem cho bớt.
Đường phố bắt đầu tấp nập. Dân Sài Gòn vốn thích ra đường hóng gió. Chiều chiều mọi con đường, nhứt là mấy con đường ở trung tâm đều đông nghịt người và xe. Già trẻ, gái trai quần là áo lượt. Họ ra đường để ngắm nhau, để cười với nhau dù chẳng hề quen biết, để mang một niềm vui rất nhẹ về nhà...
Trong các xóm nghèo, buổi chiều là thời điểm nhộn nhịp nhứt. Những bậc trưởng lão, chân run, gối mỏi, không còn đủ sức để đi đi, lại lại nữa. Họ sai con hoặc cháu rinh hai chiếc ghế thấp ra trước nhà, ngồi một chiếc, gát chưn một chiếc, nhìn ông đi qua, bà đi lại... Gặp người quen là chào hỏi, trao đổi vài câu. Cái họ xài không bao giờ hết là những lời khuyên, nên hể thấy con, cháu nhà ai trái chướng, ăn mặc coi không vừa mắt là gọi lại rầy. Mấy đứa nầy cho dù ở nhà ông bà, cha mẹ chúng đều chào thua, nhưng vẫn ráng đứng nghe rồi vâng vâng, dạ dạ, một cách hết sức lễ phép...Đặc biệt là quý ông, quý bà có cháu gái xinh đẹp hoặc cháu trai tài năng, thì lời nói của quý vị ấy càng có giá trị. Thành thử họ đổi nhau, người nầy dạy cháu con người khác.
Mấy đứa con nít thì khỏi nói, chúng chiếm đa số, dồi dào cả chất lẫn lượng. Chúng rượt đuổi, chơi đùa, trêu ghẹo nhau không ngớt. Chúng chẳng ngơi tay, ngớt chân, thoắt chỗ nầy, thoắt lại chỗ kia... Chúng chạy để mà chạy, hét để mà hét, cốt giải tỏa số năng lượng dư thừa trong người cho nhẹ bớt.
Những bà mẹ trẻ hông nách con, tay bưng chén cơm hoặc cháo, bột, sữa... đi lòng vòng khắp xóm, chỉ trỏ thứ nầy thứ khác cho bé chú ý. Họ rình rình hể thấy đứa bé vừa há miệng là nhét cái muỗng thức ăn vào liền. Những đứa có kinh nghiệm hơn nhứt định "ngậm miệng ăn tiền" thì phải dùng biện pháp khác. Gặp bất cứ người nào đi ngang qua là họ kéo đứng lại nhờ hù dọa giùm, chỉ vào y hoặc thị ấy mà nói:
-Con ăn đi! Hông thôi ông (bà, bác, chú, cô, chị...) nầy bắt đem về làm thịt đó!
Cũng không hiếm những cuộc nhậu, những bàn cờ mà thành viên toàn là dân đực rựa. Có nhiều đám quy tụ đến trên chục người vừa dự, vừa xem, nghiễm nhiên choán gần hết lối đi.
Người Sài Gòn ít thích mưa (bộ ai cũng là nhà thơ sao?). Những ngày mưa, cực chẳng đã phải ngồi ru rú trong nhà là họ cứ nhấp nhỏm không yên, bồn chồn lật đi, lật lại những dự tính của mình, chờ mưa tạnh là xông ra đường liền. Mấy lúc như vậy giữa người và trời thường nãy sinh xích mích.
Có những ngày ông trời cắc cớ, mưa từ sáng đến tối, thế là cái ông đó bị truất phế liền. Ông khác lên thay, lấy lòng thiên hạ bằng cách đãi họ một bầu trời xanh ngắt, trong veo không một áng mây, kéo dài mấy ngày có khi lên đến một tuần. Nắng gắt gao cho đến nổi hơi nóng bay ra cả miệng, cả hai lỗ tai mới kịp, bằng không chắc bộ đồ lòng của mọi người đều chín hết ráo!
Chính những người ghiền ra đường, ghiền đi chơi và ghiền ăn thiệt ấy đang lấp đầy những khoảng trống chung quanh mấy gánh hàng ăn.
Xe bánh mì được chiếu cố trước tiên. Nó thu hút một lượng khách đông nhứt rồi mới đến xôi, kế tiếp là quán cơm bình dân... Mãi chẳng thấy ai ghé vào hàng cháo.
Tư đang sốt ruột thì một cô gái trẻ măng ghé lại. Có lẽ là khách quen nên cô ta đưa cái gà mên bốn ngăn cho Ý mà chẳng nói một lời. Chỉ đến khi cô ta trông thấy một người con trai, mặt mày hiền khô, mặc cái áo sơ mi ngắn tay, với cổ áo ướt nhẹp thì mới tíu ta, tíu tít:
-Nãy giờ bán được hông chị Ý?
Ý cười:
-Từ hồi chiều tới giờ bán chưa tới nửa nồi cháo. Bình thường giờ nầy là chị dẹp gánh rồi.
Cô gái an ủi:
-Chị đừng có lo, một chút là khách tới ăn đông nghẹt cho coi! Trời hơi lạnh như vầy ai mà không khoái húp mấy miếng cháo cho ấm bụng?
Cô ta vừa nói vừa liếc Tư một cái. Ánh mắt ánh ấy như mũi tên nhắm trượt mục tiêu, tín hiệu đó chẳng được đón nhận bởi Tư đang nhìn tận đâu đâu.
Lời tiên đoán của cô ta lập tức trở thành sự thật. Gánh cháo bỗng đắc khách chưa từng có, mấy cái ghế đều có người ngồi. Tư đang ăn cũng bỏ ngang để nhường chỗ cho họ.
"Sau cơn mưa, hàng lại đắc". Tuy trời vẫn còn tối hù nhưng gương mặt của những người bán hàng đều sáng trưng, mắt, mũi, miệng ...đều tươi roi rói.
Chú Sáu, chủ xe bánh mì, đẩy cái xe không về trước rồi tới dì ba bán cơm. Cô Liễu còn nán lại vớt vát mấy người khách đến muộn, bán nốt mấy miếng xôi cháy rồi cũng lót tót ra về.
Tư giúp Ý thu dọn tô dĩa. Dù Ý không chịu nhưng chàng quyết giành cho được cái xô rồi băng qua bên kia đường để hứng nước từ phông tên mang về cho Ý.
Ông trời nãy giờ nín nhịn, chờ họ thu dọn gần xong liền xán xuống một trận nữa. Tư lật đật xếp mấy bộ bàn ghế vào cái bụng trống rổng của cây cột đèn, lấy dây xích kết dính thành một chùm rồi khóa lại.
Lúc xế, khi Ý dọn hàng ra thì trời còn nắng nên không thèm mang theo áo mưa. Cho nên khi ông trời bỗng dưng trở mặt thì nàng trở tay không kịp.
Tư ép Ý phải mặc cái áo mưa của mình, lấy lý do nhà chàng ở ngay trong hẻm. Chàng sẽ vừa đi vừa núp theo mấy hàng hiên, bảo đảm về đến nhà áo không dính một hột nước.
Từ chối mãi chẳng được Ý đành phải chìu.
Tư mang cả một niềm vui theo về cùng mình. Chàng nghe trong lòng như có một ngọn lửa sáng bừng, ấm áp cho dù chân dò dẫm trong bóng tối và mưa văng khắp đầu, khắp mặt.
Xóm Chuồng Bò đã ngủ say...
Chỗ trọ của Ý ở xóm Đình.
Tư biết xóm đó rành lắm! Nó nằm đối diện với xóm của Tư. Chúng sẽ thông làm một với nhau nếu không bị cắt ngang bởi một con đường lớn. Hai con đường nhỏ giữa hai xóm giống như hai cánh tay dài thậm thượt, một trái, một phải, của một người cao lêu nghêu nằm dang thẳng cánh mà ngủ vậy. Chúng cùng là xóm nghèo với nhà cửa lôi thôi và dân cư chen chúc.
Ở Sài gòn, tên của mỗi xóm thường bộc lộ bản sắc, hình thể, hoặc một đặc điểm nào đó mà chúng có. Xóm Ý ở có cái đình nên được gọi là "xóm đình".
Lúc còn nhỏ, những dịp cúng đình, Tư thường theo mấy đứa trong xóm đến đó xem người ta làm lễ. Tư biết luôn cả cái xóm phía trong cũng nằm trên con hẻm đó, nhưng ở tận khúc đuôi. Nơi được gọi là xóm "Bông giấy" vì từ trước, và hình như cho đến tận ngày nay vẫn còn một số nhà chuyên sống bằng nghề làm bông giấy, bởi Tư thấy những mảnh giấy vụn đủ màu bay khắp đường
Xóm "Chuồng bò" của Tư, gọi là vậy thôi chớ bây giờ cho dù bỏ công sức ra mà tìm đến đỏ con mắt cũng không ra cái chuồng, hay con bò nào cả. Thế nhưng qua lời kể của những người cao tuổi trong xóm, thì ngày xưa ở nơi đây, nhà nước có xây một cái chuồng rất to, chứa đến mấy chục con bò. Những con bò ấy được thương lái mua từ khắp miền, đem về nhốt để chờ dắt vô lò mỗ. Điều nầy được khẳng định bởi cách đó không xa vẫn còn một cái xóm mang tên "Lò mỗ".
Cái tên "Chuồng bò" của nó khiến Tư mặc cảm nên ít khi giới thiệu với bạn học. Vậy mà còn có những cái tên còn kinh thiên động địa hơn nhiều!
Có lần Tư quen với một người bạn mới. Nhân dịp nhà bạn ấy có đám giỗ, thế là y ta cứ nài nỉ, mời chàng đến dự cho biết nhà luôn thể.
Tư hỏi:
-Tên xóm của ông là gì để tui biết chỗ mà đến?
Anh bạn đáp tỉnh rụi:
-Ông cứ kiếm mấy người chạy xe ôm, hỏi "xóm "Đĩ" là ai cũng biết!
Tư nghe mà chới với, hết hồn và hết dám đi luôn.
Mấy lần Tư định đưa Ý về tận nhà nhưng nàng cứ nhứt quyết từ chối, lần nào đến đầu hẻm Ý cũng bắt Tư quay lại. Ý chẳng bao giờ mời Tư đến nhà dù chàng đã nhiều lần gợi ý. Tư đành lần mò tìm kiếm. Nhờ nhận ra đôi dép trước cửa và cái áo Ý thường mặc đang bay phất phới trên sợi dây phơi đồ ngoài ban công nên Tư mới biết.
Mỗi ngày đi học hoặc đi dạy, Tư đạp xe từ con hẻm ra đường lớn, thay vì quẹo phải và chạy thẳng một lèo. Tư đều quay trở ngược, quẹo trái, đánh một vòng quanh cái bùng binh để đi theo con đường nằm ở cuối xóm "Bông giấy". Từ xóm Bông giấy Tư chạy qua xóm Đình, mục đích liếc vô nhà Ý trọ một cái rồi mới quay ra đường cái để đi tiếp.
Có một lần Tư thấy Ý, chắc vừa thức dậy nên còn mặc áo cánh, đang ngồi ngoài ban công chải đầu. Tim Tư chới với như bị một niềm vui quá lớn bắn lên tận cổ, mắc kẹt lại đó độ một giây khiến Tư muốn nghẹt thở. Tư cố nuốt khan để đuổi nó trở về vị trí cũ. Trái tim ngoan ngoãn vâng theo, đập đều trở lại, nhưng niềm vui ấy chẳng chịu nằm yên, cứ len lén phát tác, Tư chẳng thể nào đè cho nó nằm rạp xuống nổi.
Hôm ấy mấy đứa học trò cứ hỏi:
-Thầy ơi! Bộ thầy trúng số hay sao mà vui quá vậy?
Tư hỏi lại chúng:
-Sao tụi em biết thầy vui?
Chúng trả lời:
-Ngó thầy giống như mắc cười lắm mà ráng nín.
Những sáng dậy muộn, không thể theo đúng cái lộ trình đó được. Thế là hôm ấy Tư nghe bức rức trong mình ghê lắm! Có cảm giác như mọi sự vật quanh chàng đều hết sức vô vị.
Có một lần Tư đánh bạo hỏi Ý vài câu về "cuộc đời, ái tình và sự nghiệp" của nàng. Ý cúi mặt, làm thinh hoài không trả lời một tiếng nào hết.
Thấy Tư có vẻ không vui, nàng nói:
- Tư thông cảm nghe, đừng có giận! Có những câu hỏi mà tui không muốn trả lời vì biết sẽ làm Tư thất vọng. Mình chỉ cần biết tên nhau để gọi qua, gọi lại là được rồi.
Tư rất buồn khi nghe Ý nói thế. Xem ra Ý không thích Tư xen vào cuộc đời của nàng, hay vì nó không đơn giản, không vui nên Ý chẳng muốn nhắc đến?
Một hôm Ý bỗng hỏi chàng:
-Tư có thấy phiền không nếu tui xin địa chỉ để nhận thơ?
Tư đáp ngay, không cần phải suy nghĩ:
-Được chớ!
Rồi xé tờ giấy trắng trong cuốn sổ tay, ghi tên họ, số nhà ra đưa.
Cách đó gần một tháng, khi đi học về, Tư vừa mở cửa liền thấy một bao thơ nằm trên nền gạch. Cái tên người gửi đã rất lạ, lại còn mang địa chỉ của một trại cải tạo ở miền trung.
Tư lẩm bẩm:
-Cái tên gì mà lạ hoắc, chưa nghe một lần nào.
Tư cẩn thận đọc lại. Họ và tên người nhận đúng là chàng, địa chỉ cũng ngay chóc, lật ra phía sau thì thấy một hàng chữ nhỏ: "Nhờ chuyển giùm Vân".
Càng ngạc nhiên hơn, Tư lại lẩm bẩm:
-Mình có biết Vân là ai đâu mà đưa hả trời?
Tư rất hiếm nhận được thư, hầu như chưa bao giờ.
Ông bác phát thư gầy nhom, đạp chiếc xe cọc cạch với cái ghi đông treo mấy chùm bánh tét, bánh ú, bánh ít, chỉ ghé nhà Tư có một lần duy nhất để đưa cái giấy báo trúng tuyển vào đại học tổng hợp cho chàng. Má Tư mừng đến phát khóc. Bà mua mão hết mấy thứ bánh gói bằng lá chuối đó rồi phát cho mấy đứa con nít trong xóm. Chúng vừa ăn vừa chạy khắp nơi vừa hét:
-Anh Tư thi đậu rồi, anh Tư thi đậu rồi.
Làm Tư mắc cỡ trốn biệt trong nhà, chẳng dám thò mặt ra.
Thân quyến, họ hàng nào có ai, bởi má Tư là trẻ mồ côi. Ngày trước bà sống khép kín ít giao thiệp, không có bạn bè, quan hệ với láng giềng cũng chỉ ở mức xã giao mà thôi! Tất cả tình thương của mình bà đều đổ hết vào Tư và chàng cũng vậy. Ngay cả cha mình Tư cũng chẳng bao giờ nghe bà nhắc đến tên thì nói gì...
Tư cũng không bị lôi cuốn theo cái phong trào đang thịnh hành, chơi trò "Tìm bạn bốn phương", viết thư cho một người không biết mặt để tâm tình.
Bạn học hiện tại cũng chỉ lèo tèo vài người, gặp nhau trao đối vài câu là hết chuyện để nói. Mấy đứa học trò mà chàng dạy kèm đều nhỏ xíu, hiền khô...đâu đủ trình độ để bày cái trò nầy.
Tim Tư chợt nhói lên một cái. Chàng nhớ ngay đến tờ giấy hôm trước đưa cho Ý. Chắc chắn đây là thư của một người nào đó gửi cho Ý chớ không ai khác.
Tư khóa cửa, thót lên xe, đạp vù vù ra đầu hẻm để gặp Ý liền .
Gánh cháo gà đang đông khách, Ý thấy Tư đến thì mừng ra mặt. Chàng vội nhét cái thư vào túi, lật đật dựng chống xe xuống rồi chạy đến phụ Ý một tay.
Mãi cả tiếng đồng hồ sau khách mới vắng bớt. Chờ Ý rửa tô, dĩa xong, Tư vói tay lấy cái khăn vắt trên cột đèn xuống, đem lại đưa cho nàng.
Ý lau khô hai bàn tay, giũ cho chiếc khăn thẳng ra rồi đem phơi trở lại chỗ cũ. Nàng ngồi xuống cái ghế thấp sau gánh cháo, thở ra một hơi nhẹ nhõm.
Tư móc túi lấy cái thư đưa ra cho Ý coi rồi hỏi:
-Cái thư nầy phải của Ý hông?
Gương mặt Ý đột nhiên tái nhách, rồi từ từ ửng hồng trở lại. Ý cầm cái thơ, nhìn rồi áp lên ngực. Hai giọt nước mắt thập thò, không rơi xuống mà nằm hoài trong khóe.
Tư nhìn Ý đăm đăm, tự nhiên nghe lòng buồn vô hạn. Ý đọc thấy hai cái dấu hỏi to tổ bố trong mắt chàng, lòng chợt nghe ray rức như người đang phạm tội.
Ý giải thích:
-Thơ của chồng tui!
Mãi đến ba hôm sau Tư mới ra gặp Ý. Lần nầy tác phong chàng đường đường, chính chính, không cảm thấy mắc cỡ vì thèm món cháo gà thật sự.
Vừa thấy Tư là Ý quở liền:
-Trời ơi! Sao cái sắc mặt khó coi quá vậy?
Tư gãi gãi đầu, cười:
-Hôm hổm mắc mưa, cảm hơi nặng, cái miệng đắng nghét...
Ý ngắt lời:
-Có nhờ ai cạo gió chưa?
Tư lắc đầu:
-Có ai đâu mà nhờ?
Ý làm thinh, suy nghĩ một lát rồi nói:
-Sáng mai Tư có ở nhà hông?
Tư vừa đáp, vừa hỏi lại:
-Có! Chi vậy?
Ý cố nói một cách tự nhiên:
-Để tui biết mà ghé vô cạo gió giùm.
Tư từ chối:
-Thôi, mắc công lắm! Lúc mới bị hổng cạo thì thôi, chớ...
Ý lại ngắt ngang:
-Nói như vậy đâu có được ! Có gió mà không cạo để nó nhập vô xương, vô phổi là cứ bịnh rề rề không dứt đâu. Phải cạo đặng trục cho nó ra hết mới được.
Ý đưa tô cháo cho Tư, hối:
-Ăn liền đi cho nóng.
Tư múc một muỗng cháo lên, thổi phù phù đúng ba cái rồi ăn. Vừa nhai vừa nhăn mặt hỏi:
-Sao Ý cho gừng nhiều quá vậy ? Cay thấy mồ!
Rồi làm như sắp nhả ra.
Ý cau mày:
-Ráng ăn đi, gừng trị cảm tốt hạng nhứt đó!
Tư liếc vào cái chén gừng xắt nhuyễn, thấy còn có chút xíu thì cự:
-Ý bỏ gừng hết cho tui rồi một chút lấy gì mà bán?
Ý cười:
-Ai nhớ mà đòi thì mình xin lỗi, nói hôm nay bỏ quên ở nhà rồi?
Tư chưa yên bụng, vặn lại:
-Rủi họ trả tô cháo lại rồi nói: "Hổng có gừng tui hổng ăn" thì sao?
Ý cười thành tiếng:
-Ai mà nhỏ mọn dữ vậy!
Tư nhắc:
-Sao không làm một dĩa gỏi cho tui?
Ý lắc đầu:
-Đang cảm, bụng lạnh, ăn rau sống vô khó tiêu lắm! Không khéo lại bị Tào tháo rượt là mất sức thêm uổng phí. Ăn cháo với thịt là đủ rồi.
Tư ăn hết chén cháo, mồ hôi tươm đầy mặt. Ý chạy lại cây cột đèn lấy cái khăn lau mặt của mình đang phơi trên đó, đưa lên mũi hít mấy cái, kiểm tra trước rồi mới đưa cho Tư, giọng ngài ngại:
-Khăn nè! Lau cho thiệt khô cái mặt, cái đầu, cái cổ đi!
Tư cầm lấy. Chàng cũng đưa lên mũi hít một hơi thật sâu rồi cầm khăn xát mạnh lên mặt, lên trán, lên cổ. Chàng định lau tóc nhưng nhớ ra chưa gội đầu nên trả khăn cho Ý.
Ý không chịu cầm mà nhắc:
-Lau tóc nữa.
Cực chẳng đã Tư phải lau sơ sơ cái đầu cho Ý hài lòng.
Ý vừa lấy lại cái khăn từ tay Tư là hối:
-Về nhà liền đi, nhớ xức dầu rồi nằm trùm mền cho ấm nghe!
Tư chưa kịp quay lưng, Ý đã nhắc:
-Sáng mai đừng có đi đâu, tui ghé cạo gió thiệt đó!
Tư hỏi lại:
-Ý biết nhà tui chưa?
Ý cười:
-Tui biết chữ mà, có cái địa chỉ trong tay, hổng lẽ tìm không ra?
Nào Tư có thì giờ để nằm trùm mền theo lời Ý căn dặn. Cái việc Ý đến nhà làm Tư mừng, lo lẫn lộn. Chàng vừa dựng chiếc xe đạp sát vách là bắt tay ngay vào việc lau chùi dọn dẹp nhà cửa.
Ba ngày nay Tư uể oải trong mình nên chẳng rớ vô khăn lau, cây chổi... Căn nhà tuy vẫn gọn gàng nhưng kém phần sạch sẽ. Dù chưa khỏe nhưng Tư vẫn quyết chùi nhà cho sáng bóng để tạo ấn tượng tốt.
Má Tư ngày trước nổi tiếng khắp xóm với cái tính quá ư kỹ lưỡng. Bà rất ghét sờ vào đồ bị bám bụi. Hể đi làm thì thôi, còn ở nhà trong tay bà lúc nào cũng phe phẩy cái áo thun ba lỗ đã rách te tua của Tư để lau lau, chùi chùi khắp ngóc ngách. Cho nên khi má chàng qua đời vì bị ung thư, dì Chín sát bên nhà, khi qua phúng điếu đã kêu Tư lại mà nói nhỏ :
- "Ở bẩn sống lâu", má con tại kỹ quá mới sanh bịnh nặng dữ thần như vậy! Con coi đó mà ngừa. Cái gì cũng một vừa, hai phải thôi. Kỹ quá không có tốt mà hiền quá cũng có hại.
Mấy ngày bị cảm, Tư sợ nước nên chỉ tắm sơ sơ. Chàng sợ mình bốc mùi, bèn đưa thẳng hai cánh tay lên trời, cúi nghiêng cái đầu, ngửi nách trái một cái, nách phải một cái rồi thở dài ngao ngán.
Tổng vệ sinh nhà cửa xong, Tư đi ra miếng đất trống trước căn nhà đóng cửa bỏ không vì chủ đã đi kinh tế mới. Nơi đó có mấy bụi xả xum xuê và một cây ớt đã bị vặt trụi trái.
Tư cắt một nắm lá xả, hái thêm một nắm lá ổi, lá ngủ trảo xin của mấy nhà trong xóm. Đem về rửa sạch rồi cho vô cái nồi to nhất. Tư bỏ thêm mấy miếng vỏ quít phơi khô vào, múc nước đổ hai phần ba nồi rồi bắc lên rề sô.
Nước sôi bùng lên, một mùi thơm hết sức dễ chịu lan tỏa khắp nhà. Tư bưng thau nước đặt lên giường nơi có lót sẵn một tờ báo gấp làm tám.
Tư cởi hết đồ chỉ giữ lại chiếc quần ngắn, leo lên giường, ngồi chồm hổm trước nồi nước xông. Chàng lấy cái mền con rồng trùm kín mít cả người rồi mới mở he hé cái nấp vung. Hơi nóng khiến mồ hôi tươm ra khắp người, Tư nghĩ bụng nếu mà hứng lại không mất một giọt nào, chắc cũng bằng số nước trong nồi. Nước còn ấm Tư bưng vô nhà tắm lấy cái khăn lau khô rồi kỳ cọ khắp người. Phía sau lưng, chỗ hõm ngay xương sống không kỳ tới được. Tư vắt cái khăn chéo ngang lưng, mỗi tay nắm một đầu khăn, cong lưng xuống rồi kéo tới, kéo lui. Nếu có chút đất lì lợm nào bám trên đó, chắc chắn cũng phải buông tay đầu hàng. Công việc nầy chiếm nhiều thì giờ nhứt. Tư làm đến mỏi tay cũng chưa chịu dừng, bởi nhớ ngày xưa mỗi lần bị má cạo gió, bà thường rầy Tư sao không chịu kỳ lưng cho sạch.
Khi nghe da lưng hơi rát Tư mới dừng tay. Cục xà bông "Camay", mẹ đứa học trò biếu hôm trước Tư định để dành tặng Ý, nay được chàng đem ra xài. Tư múc nước trong nồi xông xối lên đầu rồi cầm cục xà bông xát lên tóc, lên mình mẩy, không chừa một mi li mét nào.
Tắm xong Tư cầm cái mặt kiếng soi khắp người. Da chàng đỏ au như tôm luộc, sạch bong từ chân lên đầu, kể cả hơi thở dường như cũng nhẹ hơn.
Tư nghe khoan khoái hết sức! Mấy con vi trùng bị mồ hôi đánh bật. Chúng cuốn gói theo nhau đi ráo, trả lại cho Tư một tinh thần trong trẻo trong một thân thể thơm tho.
Tư bỗng thở dài chán cho cái tâm trạng quay vù vù như con vụ của mình.
Hôm qua Tư hãy còn quyết định không đi ngang qua nhà Ý, không ra đầu hẻm, không ăn cháo gà, không vẽ đi, vẽ lại gương mặt Ý trong đầu, vậy mà...
Chuyện Ý đã có chồng, mới mấy ngày trước thôi, còn như một bức tường đá khó vượt qua. Giờ bị sụp đổ tan tành, hoa cỏ dại lại bắt đầu phủ kín...
Hởi ơi ! Tình yêu thật sự, yêu để mà yêu ấy! Nó trong veo như pha lê, không chút tì vết, không chút tính toán, bất chấp trở ngại...Chỉ cần gặp được người để ta rung động, để yêu là đủ mừng rồi. Ta càng dại dột, khờ khạo thì nó càng hùng mạnh. Những hạt giống thần kỳ ấy, nãy nở cả trên sỏi đá. Cái sức sống mãnh liệt đó, chỉ có thể xuất hiện khi người ta còn trẻ. Ở thời điểm ấy, tâm hồn tuy còn mong manh nhưng tích đầy ion cảm xúc. Những ion khác dấu, chỉ cần chạm vào nhau là gắn dính như keo. Khi tách ra sẽ phóng thích một năng lượng hết sức dữ dội. Để rồi bỏ lại trong ta những niềm đau hết sức huy hoàng, những vết thương vô cùng rực rở.
Có người nhờ vậy mà cuộc đời thêm phong phú, có người lại trở nên cằn cỗi. Có người vẫn còn muốn "cởi áo cho nhau", có người thì hận đến nỗi lén chọi đá nhau đến mẻ đầu sức trán.
Hầu như ai cũng mang cảm giác hao hụt. Những người không cùng nhau đi trọn đường tình, nuối tiếc, hận đời, chết lên, chết xuống đã đành. Những người đầu xuôi đuôi lọt cũng chẳng vui lâu. Tình yêu vốn yếu bao tử, tánh trái chướng nữa mới khổ. Bỏ đói thì sống đời đời, ăn càng no lại càng mau chết.
Sáng hôm ấy Tư dậy thật sớm, đạp xe đến nhà đứa học trò đang dạy kèm. Thằng bé nầy con một cán bộ, được phân nhà trong cư xá sĩ quan của chế độ cũ. Nhà nó có trồng mấy chậu bông hồng, Tư định ghé qua để xin, nếu không gặp thì cắt lén một nụ, đem về chưng cho cái phòng khách trơ trụi có chút sinh khí.
May quá! Tư vừa đến nơi thì mẹ đứa học trò đang dắt xe đi làm, không phải cắt trộm. Thấy Tư, bà đang khóa cổng, liền dừng tay, ngạc nhiên hỏi:
-Bộ sáng nay có giờ học hả thầy?
Tư gãi gãi đầu:
-Không, không...chỉ tại...
Tư chỉ vào cái chậu rồi nói:
-Em tính xin vài cái bông...
Bà cười :
-Thầy cứ tự nhiên, bứng nguyên cây cũng được.
Tư lựa một nụ còn nhỏ nhưng có cái cuống mập mạp, móc cây dao rọc giấy để sẵn trong túi ra cắt.
Bà ta khen:
-Thầy chu đáo quá, còn mang dao theo sẵn nữa!
Tư nghe hai gò má rần rần, vội cám ơn rồi vọt lẹ.
Chàng cầm ghi đông bằng một tay, tay kia cầm cái bông, không dám để vào giỏ xe sợ bị giập, cười tủm tỉm khi nghĩ đến cái câu "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa". Một chiếc xe đạp từ sau lưng chạy vượt lên, qua mặt. Cô học trò mặc y phục như nam sinh, áo sơ mi trắng tay ngắn, quần tây xanh, cổ đeo khăn quàng đỏ, quay lại nhìn Tư gật đầu:
-Em chào thầy ạ!
Tư giật mình, chợt nhớ ra học trò mình có tới ba đứa ở trong xóm nầy. Chưa kịp ừ đáp lễ, con bé đã hỏi:
-Thầy xin bông hồng nhà bạn Minh hả thầy?
Tư gật đầu, nó hỏi tiếp:
-Để chi vậy thầy?
Tư suy nghĩ một phút rồi nói:
-Thầy đem về làm thuốc.
Con bé lại hỏi tiếp:
-Thuốc gì vậy thầy?
Tư đáp liều:
-Thuốc ho.
-Ai uống vậy thầy?
-Thầy uống.
-Hôm qua đâu thấy thầy ho!
-Mới bị hồi tối.
Con bé còn muốn hỏi nữa nhưng đến ngả tư phải lo ngó đường để băng qua. Đáng lẽ phải đi cùng đường với nó nhưng Tư sợ phải nói dóc thêm nên quẹo hướng khác.
Con đường trở nên dài gấp đôi so với dự tính bởi phải chạy vòng vo. Tư lo về trễ, Ý đến thấy nhà khóa cả cửa lẫn cổng lại bỏ đi, nên đạp vù vù, mồ hôi ướt đẫm lưng áo.
Về đến đầu hẻm, Tư đã thấy Ý đứng sát hàng rào ngắm mấy dây sâm, đưa tay mân mê mấy chiếc lá hình trái tim leo kín tấm lưới sắt B40 trước nhà mình.
Nghe tiếng xe thắng sau lưng, Ý quay lại cười, quở:
-Bịnh sao còn ra khỏi nhà sớm dữ vậy?
Tư giấu cái bông, mở khóa một tay, không đáp mà hỏi lại:
-Bộ đi chợ rồi không về nhà mà ghé đây trước hả?
Ý gật đầu.
Mở cửa mời Ý vào xong, Tư lật đật đi múc ly nước. Ý ngỡ Tư rót nước cho mình định đưa tay ra đón thì thấy Tư để lên bàn rồi đặt cái bông hồng vào. Ý tấm tắc:
-Bông tươi quá! Mới cắt phải hông? Ở đâu vậy?
Tư lại hỏi thay vì trả lời:
-Ý tới lâu chưa?
-Chưa?
-Ăn sáng chưa?
-Chưa?
-Đói bụng hông? Để tui đi nấu mì ăn liền nghe?
Ý lật đật ngăn:
-Đừng! Tui có mua mấy bịt bánh bột, bánh bèo, bánh ít trần nè...
Ý cười, nói như xin lỗi:
-Thấy bánh ít trần ngon quá tui ghé vô mua. Mua xong mới nhớ Tư cảm, ăn nếp không tiêu nên mua thêm bánh bột, bánh bèo cho Tư.
Ý hỏi tiếp :
-Ăn trước rồi cạo gió, hay cạo trước rồi ăn?
Tư đáp:
-Gì cũng được.
Rồi gãi gãi đầu, nói:
-Khỏi cạo được hông? Hôm qua có nấu lá xả xông rồi, đuổi gió ra hết rồi.
Ý lắc đầu, giọng quả quyết:
-Phải cạo cho chắc ăn.
Sợ để lâu Tư lại đổi ý nên nói luôn:
-Cạo trước, ăn sau.
Ý hỏi:
-Có cái gì để cạo gió hông?
Tư đáp:
-Có.
Rồi bước lại cái tủ búp phê kê giữa nhà, mở cái hộp nhỏ xíu cẩn xà cừ, lấy ra đồng tiền xu bằng đồng đỏ. Đồng xu nầy chỉ còn giữ mỗi cái dạng tròn mà thôi! Hai bên mặt mòn cho đến độ chẳng còn nhận ra hình, đọc được chữ ghi trên đó, đường viền bao quanh mép cũng không còn vết tích của mấy cái khía nữa.
Tư chùi nó vào lòng bàn tay cho sạch rồi đưa cho Ý.
Ý hỏi:
-Bộ Tư hay cạo gió lắm sao mà nó mòn lẵng vậy?
Tư cười:
-Má tui thích được cạo gió lắm! Cũng nhiều như thích cạo cho người khác vậy! Tui bịnh cái gì cũng bị má đè đầu xuống cạo, bất kể trúng hay trật gió chi cũng lảnh đủ. Bởi vậy tui mới để cái đồng xu nầy sát cái ảnh thờ, cho nó ngay tầm tay để má hể cần là lấy xài liền.
Nghe Tư nói thế Ý liền đưa mắt nhìn lên đầu tủ, nơi được dùng làm bàn thờ. Một bức ảnh được đóng trong cái khung gỗ khá đẹp đặt trên ấy. Trong khung ảnh, chân dung bán thân của một phụ nữ trung niên, tóc dài, trông rất hiền, được vẽ bằng than chì nằm lẻ loi trên đó.
Ý đứng lên, bước lại chấp tay xá, rồi hỏi:
-Má Tư mất lâu chưa?
Tư lắc đầu:
-Chưa tới một năm.
Ý nhìn vào bức ảnh rồi giật mình, chỉ tay vào cái nốt ruồi trên gò má, hỏi:
-Bác cũng có nốt ruồi trên má nữa sao?
Tư gật đầu, nói:
-Ừ! Có điều của Ý ở bên phải còn của má tui nằm bên trái.
Bây giờ Ý mới vỡ lẽ! Hèn gì lần đầu gặp cô, Tư cứ nhìn trân trối, làm nàng không có thiện cảm vì cho rằng Tư là người không đàng hoàng, có máu háo sắc.
Ý hỏi:
-Ai vẽ mà đẹp quá vậy?
Tư bẽn lẽn:
-Tui.
Ý hít hà:
-Không ngờ Tư cũng biết vẽ, mà còn vẽ đẹp quá chừng! Tư học vẽ lâu chưa?
Tư lắc đầu:
-Tiền đâu mà học.
Ý ngạc nhiên:
-Không ai dạy thì làm sao mà biết?
Tư cắt nghĩa:
-Hồi còn nhỏ xíu, má đi đâu cũng dắt tui theo. Má làm nghề bán thuốc lá. Chỉ có cái tủ thuốc là được ngồi trên cái ghế xếp. Hai má con tui thì kê gạch ngồi cạnh nhau trên lề đường, kế gốc me trước cổng nhà thương. Má đưa cho tui một cuốn tập, một cây viết chì để muốn vẽ cái gì thì vẽ cho đỡ buồn. Tui biết vẽ trước biết đọc, biết viết nữa đó!
Rồi Tư nói tiếp, giọng bùi ngùi:
-Nhớ hồi đó, mỗi ngày hai bận, má chở tui trên chiếc xe đạp đi tới chỗ bán. Tờ mờ sáng má dậy nấu cơm xong kêu tui dậy ăn. Cơm còn dư ém vào cái lon Guizgo, đem theo để ăn trưa. Tối về nhà mới tắm rửa, nấu cơm ăn thêm một chập nữa rồi đi ngủ. Những lần mưa, má mặc cái áo mưa nhà binh, rộng thùng thinh. Tôi ngồi sau lưng ôm chặt cứng má, cái áo mưa ấy trùm kín cả hai má con tôi. Cho dù mưa lớn cách mấy tui cũng không bị ướt, không bị lạnh. Má biểu tui áp sát người vào lưng cho ấm cái ngực. Giầm mưa không biết bao nhiêu lần mà ít khi bị cảm là nhờ ngồi kiểu như vậy đó!
Ý thắc mắc:
-Tư có khiếu lắm, sao không học vẽ mà học tiếng Anh?
Tư cười:
-Tui thích biết tiếng Anh ngang như vẽ. Nhờ vậy mà bây giờ mới có chút vốn để đi dạy kèm, mới sống nổi chớ hông thôi chắc chết đói nhăn răng.
Ngay trên đầu tấm ảnh là bức tượng bằng gỗ mun của chúa Giê Su, được treo gần đụng trần nhà, dưới chân chúa là ảnh đức mẹ Ma Ri A bồng chúa hài đồng.
Ý hỏi:
- Tư có đạo hả?
Tư giải thích:
-Má tui là con bà phước nên theo chúa từ nhỏ, bà ngoan đạo lắm, kính chúa ghê lắm!
Tư chợt nhớ rồi kể cho Ý nghe:
- Lúc còn nhỏ xíu, có lần tui đã hỏi má: "Chúa và con má thương ai nhiều hơn?". Má liền rầy: "Con đừng bao giờ so sánh mình với chúa, như vậy là không tốt, coi chừng bị chúa phạt đó!". Nghe thế tui liền xịu mặt xuống, rơm rớm nước mắt. Má sợ tui buồn, giận, nên kê miệng sát tai, sát đến nổi môi chạm vào tai làm tui rất nhột, rồi thì thầm như sợ chúa nghe: "Con!". Vậy mà chúa cũng biết rồi trừng phạt bà hết sức nặng nề!
Ý hỏi:
-Tư có đi nhà thờ nhiều hông?
Tư lắc đầu:
-Từ ngày má mất tui không đi nữa!
Ý hỏi:
-Sao vậy?
Tư suy nghĩ giây lâu rồi mới đáp:
-Má tui bị ung thư gan nên đau nhức dữ dội lắm! Nhiều người đến thăm cứ khuyên hai má con tui phải hết lòng cầu nguyện để xin xá tội. Tui đã nguyện sẽ dâng trọn cuộc đời của mình để phụng sự cho chúa, nếu má tôi hết đau mà nào có được. Tui nghĩ nếu chúa có thật và đầy lòng thương yêu thì sao để má tôi chịu khổ như vậy ! Người ta thường nói mấy người ác sẽ bị chúa trừng phạt, điều nầy khiến những người bịnh nan y như má tui còn mặc cảm hơn. Tui thấy má mình rất hiền, thực hành đầy đủ bổn phận của một con chiên. Chúa quá thiếu công bằng, cũng không sáng suốt nên mới giáng tai ương cho má con tui như vậy...
Ý ngắt lời:
-Đúng là mỗi người suy nghĩ theo một hướng khác nhau. Mẹ tui thì trái lại...
Ý nói tới đó thì dừng ngang. Tư nhìn chầm chập vào mặt Ý tỏ vẻ chăm chú lắng nghe, vì đây là lần đầu tiên Ý tâm sự về gia đình của mình.
Ý thở dài rồi nói tiếp:
-Khi anh hai tui tử trận, mẹ tui xuống tóc rồi ăn chay trường luôn.
Tư đánh bạo hỏi:
-Sao Ý không về nhà ở với mẹ, cho bà đỡ buồn?
Ý rớt nước mắt:
-Còn nhà đâu nữa mà về. Mẹ tui bán nhà, gom tiền cho cả gia đình vượt biên. Tàu bị bão đánh đắm, ba, mẹ cùng hai đứa em gái của tôi đều chết mất xác.
Tư hỏi:
-Bộ Ý được người vớt hả?
Ý lắc đầu:
-Tui vì thương ảnh nên trốn ở lại, nhờ vậy mới còn sống.
Tư còn muốn hỏi thêm nhưng bị Ý chặn trước:
-Chuyện gia đình tui buồn lắm! Đừng hỏi nữa nha! Bây giờ thì cạo gió liền đặng còn ăn nữa chớ. Tui đói bụng dữ lắm rồi đây!
Tư lại mở cái hộp đựng đồng xu đặt trên bàn thờ khi nãy. Lần nầy chàng lấy ra một hộp dầu cù là Mát su, cũng chùi vào tay trước rồi đưa cho Ý.
Ý cầm lấy, mở ra xem. Lớp cao màu vàng chỉ còn một vòng mỏng nằm sát đáy. Nó gần như khô cứng, có lẽ từ ngày má mất đi, Tư chưa dùng đến một lần nào.
Ý nhìn Tư rồi hỏi:
-Ngồi đây cạo hả?
Tư biết Ý e ngại. Tư cũng sợ lối xóm nhìn vào rồi sinh lời dị nghị, bởi cái cảnh cạo gió trông rất thân mật. Rủi ai bắt gặp rồi tung ra cả một bầy vịt thì lôi thôi!
Ở hầu hết các xóm bình dân, tự do cá nhân bị xâm phạm trầm trọng, ngược lại tự do ngôn luận được phát triển tối đa. Bà con trong xóm hể thấy nhà ai có khách là nổi máu tò mò, gia chủ chưa mời đã tự động bước chân vào. Rồi thì hỏi đon, hỏi ren đủ thứ. Ai tế nhị lắm cũng nghiêng đầu liếc mắt một cái.
Tư đắn đo quá chừng! Mời Ý vào buồng coi còn kỳ dữ nữa, sợ nàng nghi ngờ, cho là Tư rắp tâm bày trò bậy bạ thì còn khổ gấp mấy lần hơn! Bèn đem đôi dép nhựa màu đen, kiểu con gái, đang nằm kế tấm xơ dừa chùi chưn vào trong rồi đóng cửa ra vào lại, đồng thời khép bớt hai cánh cửa sổ.
Tư ngồi quay lưng về phía Ý, vừa kéo áo lên chợt nhớ ban nãy mồ hôi chảy đầm đìa khắp người, liền lật đật buông vội xuống rồi vừa đi, vừa nói:
-Khoan khoan, chờ tui một chút.
Ý gắt:
-Còn làm cái gì nữa vậy?
Tư cười:
-Lấy cái khăn.
Rồi chạy tót vô buồng cởi cái áo sơ mi đang mặc ra, lấy khăn lau khô cái mình. Kế đó tháo cái áo đã được ủi thẳng, treo sẵn trên móc mà mặc vào, xách cái khăn đang phơi theo luôn.
Ý thấy Tư mặc cái áo khác thì hiểu ra ngay, tuy không nói nhưng cười tủm tỉm. Chờ Tư ngồi xuống vén áo lên đàng hoàng, cô mới lấy đồng xu quẹt vào hộp dầu cù là rồi cạo rất nhẹ.
Tư thấy cách cạo gió của má mình và Ý rất khác nhau.
Má của Tư cạo hai đường thẳng chạy dọc sát cột sống trước rồi mới cạo theo từng rãnh sườn. Ý thì ngược lại. Cô cạo hai vai đầu tiên, kế đó là những đường song song trên sườn rồi cuối cùng mới đến cột sống.
Cách cạo cũng khác nhau: Má Tư kéo mỗi nhát cạo dài gần hai tấc, trong khi những đường cạo của Ý tối đa chừng năm phân; Má đè mạnh đồng xu nên đường cạo rất sâu, rất đau. Ý cạo phơn phớt nên Tư chẳng cần phải ẹo qua, ẹo lại để né tránh và luôn miệng chắt lưỡi hít hà như đối với má; Má vừa cạo vừa lấy bàn tay trái để không xoa khắp lưng Tư. Ý chỉ đụng tay vào đồng xu mà thôi, kể cả hơi thở dường như cũng cố tình nén lại, không dám cho chúng chạm vào da chàng.
Ý bỗng hỏi:
-Tư ở nhà với ai?
Tư đáp:
-Một mình!
Ý thắc mắc
-Ba của Tư ở đâu? Còn hay mất sao tui hổng thấy ảnh thờ, cũng không nghe Tư nhắc?
Tư đáp nhỏ:
-Tui không có ba. Từ nhỏ tới giờ chỉ biết có má thôi!
Ý ngạc nhiên:
-Tư có hỏi má về ông không?
Tư đáp:
-Tui hỏi có một lần....
Ý hỏi tới:
-Rồi má Tư nói sao?
Tư trả lời, giọng buồn hiu:
-Má chỉ bảo là tui không có ba, rồi làm thinh luôn. Tối đó khi thức dậy lúc nửa đêm, tui nghe tiếng má sụt sùi, nên từ đó không dám hỏi nữa.
Ý an ủi:
-Chắc má và Tư thương nhau nhiều lắm phải không?
Tư gật đầu:
-Có hai mẹ con thôi! Hổng thương nhiều sao được?
Ngừng một lát, Ý lại hỏi tiếp:
-Tư có nghe thiếu, có thấy cần một người cha không?
Tư lắc đầu:
-Tui thấy có má là đủ cho mình rồi. Chỉ tội nghiệp má mà thôi! Má cứ mặc cảm và sợ tui xấu hổ với mọi người, sợ tui bị ăn hiếp vì không có cha.
Ý hỏi tiếp:
-Nếu bây giờ có một người xuất hiện và chứng minh rằng ông đích thực là cha của Tư. Tư có mừng và chấp nhận, rồi chung sống với ông không?
Tư cười:
-Tui cũng không biết! Nhưng tui đoán là má hận ông lắm nên chẳng bao giờ nhắc đến tên. Cho nên tui mong điều nầy đừng bao giờ xảy ra.
Ý gật gù ra vẻ thông cảm, hỏi:
-Tư có anh hay chị gì hông?
Tư lắc đầu:
-Má sanh có mỗi mình tui.
Ý ngạc nhiên:
-Vậy sao gọi là Tư?
Tư giải thích:
-Có lần tui hỏi má sao đặt cho tui cái tên đó. Má trả lời là tại tui được sanh vào tháng tư, lại trúng vô ngày thứ tư nên má đặt như vậy luôn!
Rồi Tư hỏi lại:
-Bộ Ý tên Vân hả?
Ý gật đầu:
-Vân là tên trong khai sanh. Ý là tên gọi ở ngoài. Ba chị em gái của tui đứa nào cũng mang chữ Vân hết, chỉ có ông anh hai là tên khác mà thôi!
Tư hỏi liền:
-Anh hai tên gì?
Ý đáp:
-Ảnh tên Phong.
Rồi Ý cười, nói tiếp:
-Bà ngoại tui ghét cái tên đó lắm! Bà nói thiếu gì tên sao không chịu đặt, lấy làm chi cái tên Phong nghe như mắc gió, mắc kinh phong.
Tư hỏi:
-Vậy rồi có đổi lại hông?
Ý thở dài:
-Làm khai sanh rồi đâu có đổi được! Ngoại cũng chỉ cằn nhằn với mẹ thôi, ba đâu có biết.
Tư hỏi tiếp:
-Vậy mấy anh em Ý là do ba đặt tên hết hả?
Ý gật đầu:
-Ba tui gia trưởng ghê lắm! Tất cả mọi việc nhỏ hay lớn gì cũng đều do ba quyết định, cả nhà phải răm rắp nghe theo. Như cái chuyện vượt biên đó ! Mẹ tui đâu có chịu bỏ anh hai nằm lại trơ trọi một mình. Chỉ tại ba là công chức nên ông sợ, buộc lòng cả gia đình phải đi hết theo ông.
Ý bỗng chuyển đề tài:
-Một lát Tư cho tui mượn cái bếp nha?
Tư "ừ" rồi hỏi lại:
-Chi vậy?
Ý đáp, giọng nói không được tự nhiên:
-Tui xào mắm ruốc, làm cá chà bông, thịt chà bông, đậu phọng rang muối để gởi cho ảnh ! Ở nhà trọ, xài ké bếp của bà chủ nên làm nhiều không tiện.
Tư hỏi:
-Chừng nào gởi?
Ý đáp, giọng bùi ngùi:
-Tui ráng làm cho xong đặng đóng gói rồi lại bưu điện gởi liền trong ngày hôm nay. Tội nghiệp! Chắc ảnh trông dữ lắm! Ảnh viết trong thơ, than nghe rát ruột luôn. Nói ở ngoài đó lạnh ghê lắm, cực khổ ghê lắm ! Thiếu thốn đủ thứ, thèm đủ thứ nên tui muốn gởi liền cho ảnh mừng.
Niềm vui của Tư tựa như nồi nước đang bắt đầu sủi tăm trên bếp. Thế rồi bị Ý nhắc xuống, còn bỏ thêm mấy cục nước đá lạnh vào khiến nó nguội ngắt.
Chàng bỗng nghe rêm hết cả người.
Cạo gió xong, họ cùng đi vào bếp.
Nhà bếp sạch, sáng nhờ có tấm tôn nhựa trong suốt, màu xanh nhạt lót trên mái.
Bếp nhỏ, chừng sáu mét vuông, trống lổng, không có đồ đạc, bàn ghế nên trông cũng thoáng. Trong bếp chỉ có mỗi một cái tủ cao chừng bảy tấc, đúc bằng xi măng có gắn hai cánh cửa lưới. Phía trên được lót gạch men trắng dùng làm kệ bếp. Một bếp dầu hôi có cái ấm nhôm được chùi sáng trưng nằm trên đó. Kế bên nó là cái sóng chén, hình vuông được đóng bằng gỗ, sơn trắng. Nó chia làm hai ngăn : Phía trên úp chén, tô, dĩa...phía dưới là ba, bốn cái thau, rỗ... Sóng chén cũng nhỏ nên được đặt luôn trên kệ bếp, sát vách tường.
Một sợi dây chì được cột vào hai cây đinh, đóng vào tấm vách. Nó nằm ngay trên đầu sóng chén, giắt ngang lưng ba cái nắp nồi kích cỡ khác nhau. Ba chiếc nồi cùng một cái chảo nhôm rất lớn được treo ngay phía trên cùng.
Một phòng tắm nhỏ xíu, nằm sát vách tường đối diện kệ bếp, mỗi cạnh chừng một mét. Bên trong chỉ có một vòi nước cùng cái thùng nhựa màu đỏ có nắp đậy hẳn hoi, dung tích độ năm chục lít. Một cái gáo còn mới nguyên, cũng bằng nhựa, cũng màu đỏ nằm úp trên nắp thùng.
Ý nhìn vào rồi hỏi:
-Bồn cầu đâu? Sao tui hổng thấy?
Tư hơi ngượng, trả lời:
-Xóm nầy không có nhà nào có cầu tiêu riêng hết. Ai cũng đi cầu tiêu công cộng bắt trên kinh không hà!
Ý thở dài:
-Bên xóm tui cũng vậy!
Tư nói một cách tiếc rẻ:
-Má tui đang kêu thợ đào hầm để làm cái cầu tiêu tự hoại. Chưa kịp bắt đầu thì má phát bịnh, rồi mất.
Ý hỏi:
-Bác bịnh bao lâu mới mất vậy?
Tư chép miệng:
-Chừng hai tháng?
Ý ngạc nhiên:
-Sao nhanh quá vậy?
Tư không trả lời, mặt buồn hiu. Ý vội đổi đề tài:
-Thôi mình ăn bánh đi, để tui còn làm đồ ăn kẻo đi gửi trễ.
Tư cho bánh bột, bánh bèo mặn, bánh bèo ngọt, nước cốt dừa vô một tô, rồi chan nước mắm tỏi ớt vào chung.
Ý hết sức ngạc nhiên, hỏi:
-Sao Tư ăn bánh bèo ngọt chan nước cốt dừa với nước mắm?
Tư cười:
-Tui khoái ăn béo béo, mặn mặn, ngọt ngọt như vậy đó !
Ăn xong, Ý bảo:
-Tư vô phòng nghỉ đi, để tui rửa chén rồi làm bếp.
Tư lắc đầu:
-Tui thấy Ý nấu nhiều món quá. Để tui phụ một tay mới kịp chiều đem gửi.
Ý lắc đầu ngoầy nguậy:
-Hôm nay không kịp thì để mai, dưỡng bịnh mới quan trọng...
Tư ngắt lời :
-Vừa làm vừa nói chuyện cũng giống như giải trí. Phải vận động lai rai cho máu chạy đều, chớ nắm im ru một chỗ buồn lắm, chán lắm, bịnh thêm.
Rồi hỏi Ý:
-Ý làm mắm ruốc sao không thấy mua xả?
Ý xòe bàn tay vỗ cái bép lên trán rồi nói:
-Chết mồ, tui quên rồi, để chạy...
Tư ngăn:
-Ngay trước nhà có mấy bụi xả, để tui ra cắt cho.
Rồi rút cây dao nhỏ giắt bên sóng chén đi xăm xăm ra đường, trông vô cùng hăm hở. Lát sau đem về đưa ra cả một nắm xả to làm Ý hết hồn.
Cô quở:
-Cắt chi mà nhiều dữ vậy? Xài đâu có hết!
Tư gợi ý:
-Vậy làm thêm món muối xả đi, ngoài đó lạnh ăn xả cho ấm.
Rồi lật đật cắt bỏ hết lá, đem rửa, giũ cho ráo nước rồi đập giập bầm nhuyễn, làm một cách hăng hái. Chẳng bù với ngày xưa, Tư ghét bị má sai bầm xả nhứt hạng .
Nhờ có đến bốn bàn tay nên chỉ đến hai giờ trưa là xong. Ý cho thức ăn vào túi nhựa, bọc đến hai ba lớp sợ bị bể, đặt vào thùng giấy từng món rồi kiểm lại:
-Cá chà bông; thịt chà bông; mắm ruốc, đậu phọng; kẹo dừa, kẹo gừng, kẹo chanh...
Tư cười:
-Bộ gửi cho con nít hay sao mà mua kẹo không vậy?
Ý nghiêm giọng:
-Làm việc nặng, tốn sức nên tiêu hao năng lượng, thèm ngọt dữ lắm!
Ý chợt thảng thốt :
-Chết rồi! Quên mua cà phê.
Tư sốt sắng:
-Để tui đi mua cho.
Rồi quày quả đi liền. Ý chạy theo gọi:
-Tư?
Tư ngoái đầu lại hỏi:
-Chuyện gì?
Ý dặn:
-Nhớ mua cà phê cứt chồn nghe!
Tư tưởng mình nghe nhầm nên đứng lại hỏi:
-Cứt chồn?
Ý gật đầu, khẳng định:
-Cứt chồn!
Thấy Tư ngớ ra, Ý giải thích:
-Đó là loại cà phê ngon số một đó!
Tư đi đến cửa lại bị Ý gọi giựt ngược:
-Tư!
Chàng quay đầu lại hỏi:
-Gì nữa?
Ý cười:
-Tiền!
Rồi móc hết tiền trong túi, nhét vô túi áo sơ mi của Tư. Tư định lấy ra trả lại nhưng Ý chặn lại, giọng rất nghiêm :
-Đừng! Tư giúp công là tốt lắm rồi hơn nữa là tui không dám nhận.
Thấy Ý có vẻ cương quyết quá, Tư bèn rút bàn tay không ra, vừa đi lại bị kêu:
-Tư?
Lần nầy Tư chỉ nhìn mà không hỏi.
Ý nói, giọng ngài ngại:
-Nếu đủ thì mua giùm nửa ký, còn không thì có tới đâu mua tới đó!
Tư gật đầu, tính trong bụng, nếu thiếu sẽ bù vô để mua đúng nửa ký.
Chàng hỏi :
-Còn cái gì thì nói luôn đi, để kêu đi kêu lại hoài tốn thì giờ lắm đó!
Ý suy nghĩ một chút rồi lắc đầu:
-Hết rồi!
Tư gặng:
-Chắc hông?
Ý cười:
-Chắc!
Tư vừa đi vừa nói ghẹo:
-Lần nầy mà Ý có kêu tui cũng không thèm quay lại đâu đó!
Tư hấp tấp dắt xe, mở cửa cổng, khép lại rồi đạp đi luôn mà không kịp khóa.
Ý nhìn lên trời thấy mây đang tụ lại cả một khối nặng chịch ngay trên đầu, định gọi Tư quay lại lấy áo mưa nhưng rồi lại thôi. Lúc đang lau bếp, cô chợt nghe tiếng lộp bộp đều đặn như ai rải những hạt sỏi rất nhỏ lên mái tôn.
Ý kêu lên:
-Mưa!
Chừng mười phút sau, Tư chạy vào nhà như một cơn lốc, người ướt sũng.
Ý kêu lên:
-Sao không đụt mưa?
Tư cười:
-Sợ về trễ, không kịp...
Ý ngắt:
-Thì để mai, chậm lại một ngày có sao đâu? Sức khỏe là quan trọng nhất, phải ưu tiên cho nó chớ! Mới hơi đỡ đỡ, giầm mưa nữa rủi trúng lại là nặng lắm đó!
Rồi hối:
-Chạy vô phòng thay đồ lẹ lẹ đi!
Tư đưa túi cà phê cho Ý, rồi chui vào buồng lấy khăn lau mình, lau đầu cho thật khô. Chàng lấy bộ đồ thay ra ban nãy mặc lại, máng đồ ướt lên móc để phơi.
Tư hỏi vọng ra:
-Cà phê có bị sao không?
Ý nói dối:
-Không!
Cà phê được đựng trong bịch ni lông, đáng lẽ không hề hấn gì. Người bán hàng chắc bị Tư hối quá nên làm không kỹ. Sợi đây thun cột trên miệng bị lỏng ra, nước thấm vào một ít.
Ý ngần ngừ, muốn hớt bỏ phần ướt ra nhưng sợ Tư ra thấy rồi ngại nên để nguyên. Cô lấy thêm hai cái túi ni lông còn mới tinh bọc thêm vào, cột miệng lại cho thật kín.
Ông trời coi vậy mà tính nết giống hệt như con nít, đang buồn hiu, khi không lại vén mây đưa cái mặt tươi rói ra . Y như đứa bé đang khóc được má cho kẹo nên nín ngay lập tức.
Tư nói như reo:
-Hết mưa rồi, để tui chở Ý đi liền!
Thấy Ý ngần ngừ Tư nói:
-Tui lấy cái áo mưa trùm kín lại nên không ai thấy mình đâu.
Ý cự:
-Đang nắng mà mặc áo mưa, kỳ thấy mồ!
Tư cười:
-Ở Sài gòn mình chuyện đó là thường. Người ta tưởng mình đang đi từ chỗ có mưa tới, chưa kịp bỏ áo mưa ra. Vả lại có ai biết ai đâu mà ngại.
Rồi không chờ nghe câu đồng ý, không chờ thấy cái gật đầu, Tư quay vô buồng liền.
Cái áo mưa màu cứt ngựa được đem ra.
Ý hỏi:
-Phải cái áo mưa hồi trước không?
Tư lắc đầu :
-Cái áo đó rách lâu rồi. Má tui tiếc hùi hụi. Hôm bữa đi ngang chợ trời thấy họ treo bán cái nầy, cũng giống y như nó, mừng quá nên ghé vô mua.
Ý ngạc nhiên:
-Quân trang của chế độ cũ họ cũng dám bán nữa sao?
Tư cười:
-Ý ra đường Hàm Nghi mà coi, họ bán không thiếu thứ gì hết.
Rồi tiếc rẻ :
-Phải mà biết như vậy là hồi đó đi lượm đồ về để dành bán lại. Bà con lúc đó gom đồ Mỹ với đồ nhà binh đem bỏ hết. Má tui chỉ có một cái dao ăn của Mỹ mà cũng bắt chước người ta thảy vô thùng rác. Mấy tháng sau cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ. Mỗi lần lặt rau là má lại nhắc tới nó.
Ý cười :
-Má tui cũng vậy! Thậm chí ba cái đồ hộp của Mỹ đang dùng để trong tủ lạnh cũng đem đi bỏ. Mấy chai xốt ma dô ne, xốt cà chua, mù tạt có mác nước ngoài mua để dành cũng xách ra liệng luôn.
Tư chép miệng :
-Thời cuộc thay đổi nên giá trị mọi thứ đảo ngược hết, kể cả giá trị của đồ đạc. Nghĩ cũng tội cho chúng, đang ở nhà cao cửa rộng cái chui vô đống rác nằm.
Ý thở dài :
-Chúng thì đâu có biết cái gì mà tội với nghiệp. Thương nhứt là giới thương phế binh, cô nhi, tử sĩ...Chẳng những quyền lợi vật chất không còn, mà niềm an ủi về mặt tinh thần cũng mất trắng.
Thấy Ý thừ người, Tư liền nhắc:
-Đi nhanh lên, sắp hết giờ làm việc rồi đó!
Lần đầu tiên chở một người con gái, lại là Ý nên Tư nghe bồi hồi lắm.
Tư cẩn thận phủ cho cái áo mưa trùm kín cả đầu lẫn thân của cả hai, chỉ chừa gương mặt mình ra. Ý ngồi một bên, hai tay ôm chặt cái thùng đồ đặt trên đùi nên cô phải tựa vai vào lưng Tư cho vững. Cái tiếp xúc nhẹ nhàng đó, cũng đủ làm mấy sợi cơ trên lưng Tư căng cứng.
Họ là hai người sau chót ghé vào bưu điện.
Sắp đến giờ về nên cô nhân viên trẻ- có anh bồ đang ngồi trên xe đạp chống chân xuống đất chờ trước cửa, cứ hỏi "rồi chưa?"- sốt ruột nên chỉ khám và cân qua loa...
Gửi hàng xong, họ cùng thở ra một cái phào, nhẹ nhỏm. Lúc nầy cả hai mới nghe đói ngấu. Mấy dĩa bánh ăn từ sáng đã trôi tới tận đẩu, tận đâu.
Tư rủ :
-Đi Trần quý Cáp ăn cơm tấm nghe?
Ý lắc đầu:
-Cháo ế hôm qua còn, về ăn cho hết.
Ý muốn mời Tư ghé ăn phụ mà không dám, sợ chủ nhà và lối xóm hiểu lầm, cho Tư là nhân tình, nhân ngãi của mình, mai mốt người yêu về sinh nghi ngờ thì khổ.
Tư thả Ý xuống ở bùng binh rồi đạp xe về nhà. Chàng dừng xe ở đầu hẻm để ăn ủng hộ dì Ba một dĩa cơm. Dì không hỏi mà bới ngay cho Tư một miếng cơm cháy vàng ruộm, chan nước cá kho sền sệt vào. Đôi đũa của dì vừa đụng vô dĩa dưa leo liền bị chàng chặn ngang.
Tư nói :
-Dì ba đừng cho dưa leo?
Dĩ ngạc nhiên:
-Sao vậy?
Tư cười :
-Con cảm nên cái bụng coi mòi hổng êm.
Dì hỏi liền:
-Có cạo gió chưa? Có uống thuốc gì hông?
Tư đáp, giọng cảm động:
-Làm đủ hết rồi dì.
Dì chắc lưỡi:
-Bậy quá! Tao không biết bây bịnh nên cho ăn cơm cháy. Hay là để dì đổi cho con dĩa cơm khác?
Nói xong dì định đặt cái dĩa trên tay xuống.
Tư lật đật ngăn:
-Không sao đâu, cơm cháy hiền, ăn ấm bụng, dễ tiêu mà dì. Chỉ cần ráng nhai kỷ một chút.
Tư nhìn miếng cơm trên dĩa, nuốt nước miếng một cái rồi khen:
-Cơm cháy bữa nay nhìn nhức nhối quá dì Ba! Ngó cái màu vàng đều không có một hột khét nầy là biết dì Ba khéo tới cỡ nào. Dì canh lữa sao mà hay dữ vậy? Cơm như vầy ăn mới thơm, giòn, ngọt ... không bị cứng, cũng không bị đắng. Ít ai nấu được như vầy lắm đó dì!
Dì Ba biết tính Tư thật thà, khen thiệt lòng nên mát ruột quá cỡ. Hai cánh mũi của dì cứ phập phồng.
Dì liền múc một tô canh chua, có đủ thứ thơm, giá, bạc hà, cà chua, đậu bắp...thêm cái đuôi cá lóc nhỏ nhỏ, dẹp dẹp đưa cho Tư.
Dì nói:
-Ăn canh chua cho giải cảm. Tao không tính tiền thêm đâu, bây đừng có sợ.
Tô canh ấy còn hơn một liều thuốc quý. Cái vị chua chua của nó giúp mấy giây thần kinh đang uể oải bỗng "xung" trở lai. Nó và tấm lòng nồng hậu của dì Ba đã đánh bật cái cảm giác ớn ớn, lạnh lạnh ra ngoài. Tư bỗng nghe lòng vô cùng khoan khoái! Chàng cảm thấy vui hơn bao giờ hết.
Bị trúng mưa nên Tư cảm lại. Tuy rất mệt nhưng chàng không dám bỏ học trò một ngày nào, sợ mất cái cần câu cơm. Tư chỉ nghỉ học, nghỉ ra phụ Ý chớ chẳng dám nghỉ dạy. Ở Sài gòn hiện giờ kiếm việc làm đâu có dễ, nhất là việc dạy kèm, vốn được xem là béo bở nhất. Mỗi ngày chàng phải ra đường hít bụi, phơi nắng, phơi sương, cho nên bịnh cứ dây dưa hoài không chịu dứt hẳn.
Đoán Tư bị bịnh không thể tới. Hai hôm sau Ý liền đến thăm, mang theo một gà mên cháo gà nóng hổi, đầy nhóc thịt để chàng ăn cho lại sức.
Hôm sau và hôm sau nữa Ý đều tạt qua, đưa cháo cho Tư rồi lật đật chạy ra dọn hàng.
Món ăn cho dù ngon cách mấy đi nữa, mà mỗi ngày xơi đến mấy lần, liền tù tì ba ngày thì sức hấp dẫn chắc chắn sẽ giảm sút một cách trầm trọng, cuối cùng phải đưa đến triệt tiêu thôi! Đến ngày thứ tư, vừa thấy Ý, tay cầm cái gà mên quen thuộc, Tư đã nhăn nhó mặt mày.
Chàng nói như năn nỉ :
-Chắc tui ăn cháo bữa nay nữa thôi nha, thèm cơm quá!
Ý đưa cái gà mên cho Tư rồi bảo:
-Tư mở ra coi món gì ở trỏng.
Tư mở nắp gà mên nhìn vô. Ngăn trên cùng đựng mấy khúc cá kèo kho tiêu, vàng thắm, no tròn bằng cỡ ngón tay, bóng lưỡng...Mùi nước màu, nước mắm hòa quyện, thơm phức xộc vào, khiến hai cánh mũi của chàng bất thình lình nở bung. Chúng vừa lọt vô mắt là nước miếng tự động ứa ra ngập hết ba mươi hai cái chưn răng, Tư phải lật đật nuốt vào. Ngăn thứ nhì là cơm trắng, ngăn thứ ba là canh bù ngót nấu với thịt nạt bầm.
Tư nhìn Ý bằng đôi mắt thán phục:
-Sao Ý biết tui thèm mấy món nầy mà làm trúng phóc vậy?
Ý cười :
-Tui cũng bị bịnh nhiều lần rồi chớ bộ!
Rồi Ý lật đật ra về. Tư dặn vói theo:
-Ngày mai Ý khỏi đem cơm qua nghe!
Ý ngạc nhiên:
-Sao vậy?
Tư đáp :
-Tui thấy trong người khỏe nhiều, tự nấu được rồi.
Ý biết Tư bịnh vì mình, cảm thấy có trách nhiệm nên nói:
-Tư không có được vọc nước đâu nha! Phải giữ cho mình không bị nhiễm lạnh. Thấy hơi khá rồi không chịu kiêng là bịnh tái đi, tái lại hoài lâu hết lắm !
Tư ngắt lời:
-Tui lo được mà, bất quá nhờ dì Ba giao cơm. Ý mà tới lui hoài người ta thấy không tốt.
Ý nghe Tư nói vậy thì hỏi :
-Vậy còn Tư ra chỗ tui bán mỗi ngày thì sao?
Tư cười:
-Tui là đàn ông con trai, cùng lắm bị chê chút đỉnh. Ý thì khác, rủi bị mang tiếng là khó sống lắm!
Ý nói bằng giọng cảm động:
-Để tui kho sẵn một nồi cá, mỗi ngày Tư chỉ bắt nồi cơm lên là được.
Tư lắc đầu:
-Ăn cá kho hoài cũng ngán lắm! Tui ăn cơm của dì Ba để mỗi ngày mỗi món cho lạ miệng.
Ý ghẹo:
-Sang quá ta, ngày nào cũng ăn cơm tiệm!
Tư cười:
-Cơm bụi chớ cơm tiệm cái gì? Dì Ba thương tui lắm, dĩ bán cho tui rẻ hơn nhiều so với mấy người khác. Dĩ còn biết rõ tui khoái món gì.
Ý hỏi đùa :
-Dĩ có con gái hông?
Tư nghiêm giọng :
-Đừng có nói giỡn, tới tai họ hổng hay!
Thật ra Ý suy nghĩ không sai. Dì Ba thấy Tư hiền, có ăn học, nhà cửa lại hẳn hoi thì ưng bụng lắm! Trước đây cũng đôi lần nửa đùa, nửa thật gọi Tư là rể. Từ ngày gánh cháo gà xuất hiện.Tư chiều, tối nào cũng cà rà quanh đấy. Ý lại xinh hơn con gái của mình nên dì dẹp phắt cái ý định đó luôn.
Hôm sau dì Ba vào thăm, mang cho Tư sáu trái cam với một hủ nhỏ cá chà bông.
Tư hỏi:
-Sao dì biết con bịnh?
Dì không giải thích mà nói giỡn :
-Bịnh lần nầy thôi nghe, để dì cứ chừa cơm cháy rồi bỏ hoài, tội lắm!
Rồi dì nhỏ giọng:
-Con coi chừng đó nha! Hổm rày có một thằng cha, đi chiếc xế nổ, ngày nào cũng ngồi lì ở hàng cháo gà của con Ý, tới khuya lơ khuya lắc!
Tư nghe nhói tim một cái. Cho dù Ý rất tha thiết với chồng nhưng hiện giờ, cái gì cũng lung lay, cũng chao đảo đến tận gốc, tận rể nên biết đâu...
Thời buổi nầy vật chất nhảy vọt lên hàng đầu. Con người có giá hẳn hoi, cao giá nhứt là những người sở hữu được một chiếc xe gắn máy.
Có lần Tư nghe hai cô gái trong xóm, Mến và Mỹ nói chuyện với nhau.
Mến hỏi:
-Kép của mầy đi xế gì?
Mỹ đáp, giọng hãnh diện:
-Xế nổ!
Mến buột miệng:
-Sướng quá ta!
Mỹ hỏi lại:
-Còn kép của mầy?
Mến ngậm ngùi:
-Xế điếc.
Một mày râu, cho dù mặt mũi và tính tình đều không đẹp, chỉ cần ngồi chễm chệ trên chiếc xe gắn máy là thu hút được hầu hết những cặp mắt của các mỹ nhân trong xóm. Mấy cô gái trẻ, được mời ngồi lên cái yên dài thòng, bọc si mi li láng bóng lấy làm cảm kích lắm, ít ai có can đảm từ chối. Gương mặt họ phơi phới một niềm vui.
Tội nghiệp những chàng trai - hiện giờ đang chiếm đa số- lóc cóc trên chiếc xế điếc, đạp qua, đạp lại nhà mấy nàng đến mòn cả hai cái vỏ xe cũng chẳng xơ múi được chút gì. Có cô kẹt quá bèn xài đỡ, ngồi trên bọc ba ga bằng sắt phía sau, nhìn cái lưng áo lấm tấm mồ hôi trước mặt, chẳng những không cảm động còn tỏ ra xấu hổ. Hể nghe tiếng xế nổ chạy gần đến là quay ngược cái đầu lại mà ngó, thấy chàng trai nào chạy sô lô là đá lông nheo một cái.
Người nào có xe gắn máy thì khỏe re, khỏi cần mắc công "cua" gái. Cho nên mới có câu "trăm ngàn lời dụ dỗ không bằng nghe tiếng xế nổ "!
Hôm sau Tư ráng lết ra xem mặt đối thủ.
Ý thấy Tư mặt mũi còn bơ phờ, thì rầy:
-"Anh " ra làm chi vậy? Không ở nhà cho thiệt khỏe.
Tư chới với. Khi không mà Ý đổi cách xưng hô, gọi chàng bằng anh với cái giọng rất chi mùi mẫn khiến Tư nghe hồn xiêu phách lạc. Cả tay lẫn chân đều bủn rủn hết ráo!
Rồi Ý giới thiệu Tư với một người đàn ông đang ngồi quay lưng về phía chàng:
-Anh Tư, chồng em đó!
Người đàn ông ngoái đầu nhìn Tư. Chàng nhận ra ngay đó là anh công an khu vực vừa đổi đến. Mấy ngày trước anh ta có ghé nhà Tư để kiểm tra hộ khẩu theo định kỳ, mỗi tháng một lần.
Anh ta nhíu mày lại rồi nói:
-Hình như tôi có gặp anh rồi!
Tư chỉ tay vào con hẻm mà mình vừa bước ra:
-Tui ở trong xóm nầy nè!
Y vỗ tay vào đùi đánh "chách" một cái rồi nói:
-Vậy anh thuộc tổ dân phố năm, nằm trong địa bàn của tôi. Hèn gì trông mặt thấy quen quen.
Rồi hỏi thêm bằng giọng nghi ngờ:
-Cô Ý đây là vợ anh sao?
Tư cười, giả lả:
-Chưa hẳn là như vậy, tụi tui chỉ mới đính hôn thôi.
Anh ta hỏi tới:
-Chừng nào cưới?
Tư ngập ngừng:
-Còn để dành tiền, chắc cuối năm nay.
Y nói, giọng nửa đùa, nửa thật:
-Tới lúc đó nhớ mời tôi nha.
Tư gật đầu:
-Chắc chắn rồi .
Chờ anh ta trả tiền xong, lên xe nổ máy chạy một đoạn khá xa, Tư mới quay lại nhìn Ý. Chàng ghẹo :
-Ý gan cùng mình đó nghe, dám nói dóc với công an.
Ý rút vai le lưỡi:
-Ai mà biết y là công an coi khu của Tư.
Tư nghe câu nói hớ hênh của Ý mà mắc cười.
Ngày trước xóm Tư có anh công an rất "hắc", anh ta vừa "chuyên" lại vừa "hồng". Mấy cô gái xí xọn trong xóm hay bị anh chỉ trích, bởi vậy mấy cổ rất ghét.
Một hôm anh ta đi kiểm tra hộ khẩu nhà cô L, cô nầy bị xếp vào nhóm cá biệt vì xuất thân từ giới bán "ba". Cổ thuộc hạng "cùi không sợ lở", muốn nói cái gì là nói, trời còn cản không nổi.
Thấy ảnh vào cổ liền giới thiệu với cô bạn đang ngồi bên cạnh:
-Đây là anh K. Ảnh đang coi khu của em đó!
Rồi hỏi cô kia :
-Ảnh có coi luôn khu của chị hông?
Anh ta tức đỏ cả mặt bởi chẳng thể nào buộc tội được cổ.
Ý hỏi, giọng e ngại :
-Rủi y phát hiện tụi mình nói dóc thì sao hả Tư.
Tư nửa đùa, nửa thật:
-Thì tui đành phải khai thiệt, chồng Ý là sĩ quan đang đi cãi tạo, tui chỉ giữ "nhà" giùm thôi!
Trầm ngâm một lát Tư nói:
-Tui cũng không biết cái anh mà Ý nói với tui là chồng đó, có phải là chồng thiệt của Ý hay không nữa. Nếu đúng vậy, sao Ý không về ở với gia đình ảnh, khỏi phải đi mua gánh bán bưng, một mình đối phó với đủ thứ chuyện như vầy?
Ý làm thinh hồi lâu rồi mới nói:
- Tụi tui quen nhau chưa được một năm là ảnh đi học tập. Cả hai đều chưa ra mắt gia đình hai bên. Tui chỉ biết quê ảnh ở Bình Định thôi hà!
Tư lắc đầu:
-Ý tính chờ anh ta về rồi cưới nhau hả?
Ý gật đầu. Tư thở dài, chép miệng:
-Chừng nào anh ta về, có biết còn bao lâu hông?
Ý lắc đầu, câu hỏi của Tư làm cô buồn, Tư an ủi:
-Chắc không lâu lắm đâu! Nghe nói đã cho về lai rai rồi đó!
Gương mặt của Ý tươi lên một tí, một tia hy vọng le lói trong giọng nói của cô:
-Tui cũng mong như vậy. Hồi trước ảnh làm việc trong văn phòng, không thuộc bộ phận tác chiến. Chức vụ cũng nhỏ xíu hà, chắc không đi lâu đâu!
Tư hỏi tiếp:
-Cưới xong thì sao?
Ý đáp:
-Tui tính rồi. Ảnh về ngày trước là ngày sau tụi tui dắt nhau về thăm ngoại liền. Ở với ngoại rồi làm ruộng, làm rẫy như mấy dì, mấy cậu.
Rồi Ý thở dài:
-Từ ngày gia đình gặp nạn tui chưa về thăm ngoại. Nhớ lắm, thèm về lắm mà không dám! Sợ ngoại hỏi rồi không biết trả lời sao cho êm đẹp.
Tư hỏi:
-Quê ngoại của Ý ở đâu?
Ý nói một cái tên lạ hoắc, rồi hỏi:
-Tư có biết chỗ đó chưa?
Tư cười, đáp:
-Nói Ý đừng cười nha, tui chỉ biết Sài Gòn thôi hà! Mà cũng chưa biết hết!
Ý hỏi :
-Nhà Tư có thường ăn mắm hông ?
Tư gật đầu:
-Má tui kho mắm ngon lắm, tui khoái món đó nhứt!
Ý lại hỏi tiếp:
-Má Tư có mặc lãnh Mỹ A hông?
Tư cười:
-Ai mà biết!
Ý nói một cách hãnh diện:
-Quê tui nổi tiếng nhờ hai thứ đó đó. Khắp miền nam nầy, chắc chỉ có Tư là chưa biết thôi.
Rồi Ý nói, giọng mơ màng :
-Quê tôi đẹp lắm! Trước mặt là sông, sau lưng là núi...Quanh nhà là vườn, xa hơn là ruộng...
Tư vô tình ngắt đứt dòng nhớ ấy bằng một câu hỏi:
-Ý có thường về quê hông?
Ý đáp:
-Hồi còn nhỏ, nghỉ hè năm nào tui cũng về quê. Tui biết lội giỏi là nhờ được ông ngoại dạy bơi rồi ngày nào cũng tắm sông với mấy đứa bạn ở đó!
Ý vén ống quần, chỉ cho Tư cái thẹo trên đầu gối:
-Cái thẹo nầy là do tắm sông, bị miễng ốc cắt nè!
Tư ngạc nhiên:
-Sao lại bị ở đầu gối?
Ý cười:
-Cũng hổng nhớ tại sao, chắc lúc đó tui bò .
Cả hai cùng cười hinh hích.
Tư lại hỏi :
-Ngoài tắm sông, Ý còn thích thứ gì ở quê nữa?
Ý đáp không cần suy nghĩ:
-Cái gì tui cũng thích hết ! Câu cá ; nằm võng ngoài vườn; trèo cây ; chơi cất nhà chòi; đi mót khoai, mót mía; đi cầu khỉ; hái mồng tơi vò làm mực; hái lục bình làm bánh mì thịt; chẻ cọng rau muống ngâm cho nó nở, uốn cong, để giả làm trái cóc; hái trái nổ để trên lưỡi cho nó nổ nghe cái chóc... Trời ơi còn nhiều, nhiều lắm...kể tới ngày mai cũng chưa hết.
Tư chắt lưỡi:
-Nghe Ý nói mà tui ganh tỵ quá! Con gái mà còn nhiều trò để chơi như vậy, con trai chắc còn vui ác nữa?
Ý gật đầu:
-Chớ sao? Anh hai tui mỗi lần nói về quê là ảnh mừng quá cỡ, chừng trở lên Sài Gòn là buồn hiu. Ba mẹ tui thấy tụi tui về nhà mà mặt mày bí xị thì than: "Con cái gì đâu...Tụi nó đi mình nhớ muốn chết vậy mà chúng coi bộ hổng nhớ ba mẹ chút xíu nào. Hồi đi thì cười toe, chừng về thì mặt đứa nào cũng tiu nghĩu".
Tư lại hỏi:
-Còn quê nội?
Ý lắc đầu:
-Tui không biết!
Tư ngạc nhiên:
-Sao lạ vậy?
Ý giải thích:
-Ba tui là bắc năm tư, vô đây một mình. Bà con còn không biết nói gì quê.
Tư chợt nhận ra rằng bây giờ thiên hạ, hể giới thiệu ai là người bắc thường kèm thêm mấy chữ "năm tư" hoặc "bảy lăm" theo sau liền, nghe rất ngộ!
Tư hỏi:
-Bộ ba Ý không nhắc gì ngoài đó sao?
Ý lại lắc đầu :
-Ba tui ít nói lắm!
Tư nói:
-Tui thấy mấy người có bà con ngoài bắc được họ tới thăm nhiều lắm, bộ nhà Ý không có ai sao?
Ý gật :
-Cũng có một bà tới, ba biểu tụi tui gọi bằng bác. Bà ở chơi mấy ngày rồi về. Ban đầu ba mẹ tui rất mừng nhưng mới có một ngày là chịu hết thấu.
Tư hỏi:
-Sao vậy!
Ý chép miệng:
-Tại bả cứ so sánh chuyện trong nầy với ngoài kia. Bả làm như từ trước tới giờ phải gánh tội, chịu khổ giùm ba tôi vậy. Mấy ngày đó mẹ phải đem giấu tấm ảnh thờ của anh hai, bắt tụi tui mặc đồ cũ, không dám nấu đồ ăn ngon sợ bà soi mói. Nhà tui sắp đi nên hể bà xin món gì là má tui cho món đó.
Tư thở dài :
-Cũng tội cho họ, thiếu thốn đủ thứ nên sinh ra như vậy. Ngày xưa còn nhỏ tui không hiểu, cứ cho kinh tế là quan trọng nhứt, sau nầy mới biết chính là tư tưởng. Tính sở hữu là cốt lõi của con người, cố đè bẹp rất khó. Khi bùng lên nó càng hoành hành, lớn mạnh gấp trăm, gấp ngàn lần hơn.
Ý cười, quở:
-Sao bữa nay bày đặt triết lý dữ vậy ta?
Rồi Ý lại nói về cái chủ đề mà nàng quan tâm nhứt:
-Không biết ảnh nhận được quà chưa?
Tư đáp:
-Mới có bảy, tám ngày. Chắc chưa tới ngoài ấy đâu.
Ý thở dài:
-Không biết người ta có cho nhận hông ? Tui có giấu cái thơ trong hộp thịt chà bông. Vái trời cho họ đừng đổ từng món ra mà xét.
Tư hỏi:
-Ý có viết ba cái chuyện chính...
Ý ngắt lời:
-Không, chỉ tâm sự về chuyện gia đình với...
Tư cự:
-Mấy chuyện đó thì mắc gì mà giấu cho thiên hạ sinh nghi?
Ý cười bẽn lẽn:
-Để khơi khơi ở ngoài, ai cũng đọc được mắc cỡ chết!
Sáng hôm sau, Tư vừa khóa cửa, dắt xe ra tới cổng, chuẩn bị đi học là đã thấy Tân, anh chàng công an khu vực vừa gặp tối qua, trờ tới. Anh ta không chạy chiếc xe Hon đa đam như thường lệ, mà đi bộ, tay cầm quyển sổ bìa xanh có mấy chữ "Tổ dân phố 5" bên ngoài.
Tư hỏi:
-Kiểm tra hộ khẩu hả anh?
Tân gật đầu. Tư lấy làm lạ, tự hỏi "hôm nay đâu đã đến ngày đầu tháng". Trong bụng chàng hơi lo lo, bèn mở cổng mời anh ta vào.
Tân nhìn quanh nhà rồi hỏi:
-Có ai tạm trú, tạm vắng gì không?
Tư lắc đầu.
Tân ghi mấy chữ vào sổ rồi hỏi:
-Cô Ý không ở chung với anh sao?
Tư cười :
-Chưa cưới mà, ở chung sao được?
Tân tò mò:
-Vậy cổ ở đâu?
Tư né tránh:
-Ở nhà người bà con, cũng gần đây thôi!
Tân hỏi tới:
-Sao cổ không sống với gia đình?
Tư lại lắc đầu:
-Tui hổng biết?
Tân ngạc nhiên:
-Sao anh không hỏi?
Tư cười :
-Lúc mới quen cổ có giao hẹn trước. Hể cổ hỏi cái gì thì tui mới được hỏi lại tương tự. Cổ không bao giờ hỏi về gia đình tui, nên tui không dám hỏi về gia đình cổ.
Tân phê bình :
-Không hiểu tường tận làm sao mà tin, mà thương nhau được.
Tư phản đối :
-Có khi không hiểu gì hết lại dễ thương nhau.
Tân nhận xét :
-Coi bộ cổ thương anh nhiều hơn anh thương cổ.
Tư cười thầm, hỏi lại :
-Sao anh biết ?
Tân khẳng định :
- Cổ đang nói chuyện bình thường, thấy anh ra là mắt sáng rỡ. Tui thấy cổ nhìn, cổ nói chuyện với anh có vẻ tình cảm lắm ! Còn anh thì ngường ngượng, sao sao ấy!
Tư cười rồi hỏi:
-Nếu tui nói sự thật hoàn toàn trái ngược, anh có tin không?
Tân hỏi lại:
-Nếu không, sao cổ lại giới thiệu anh là chồng?
Tư bí, bèn nhắc khéo:
-Anh đi thăm mấy nhà khác chưa?
Tân lắc đầu :
-Mới có nhà cô L rồi tới nhà anh thôi!
Rồi Tân hỏi thêm:
-Anh có biết tại sao cô L ghét anh K, công an khu vực cũ dữ vậy không?
Không chờ Tư trả lời, Tân nói tiếp:
-Tui thấy anh K rất tốt...
Tư cười :
-Có khi người ta không ghét người xấu bằng người khác mình.
Tân nhìn Tư, gằn giọng:
-Còn anh thì sao?
Tư gãi đầu :
-Tui hổng giống ai, lấy tư cách gì mà ghét ảnh chớ !
Tân cười nói bằng giọng cởi mở :
-Nói thiệt nghe, cái chuyện anh với cô Ý đó, sao tui không tin chút nào!
Tư hỏi :
-Sao vậy?
Tân đáp, ngài ngại :
-Tại tui thấy hai bàn tay của cổ không có đeo chiếc nhẫn nào hết!
Tư cắt nghĩa:
-Cái đó chỉ có giới trung lưu mới xài thôi! Bình dân như tụi tui, năm đời chồng, bảy đời vợ cũng chẳng ai đeo, để hai bàn tay trụi lũi không hà!
Tân trề môi:
-Mốc xì! Cổ mà dân lao động...
Tư chưa kịp hỏi, Tân đã giải thích :
-Anh có thấy mấy ngón tay của cổ không? Chúng suôn đuột, mướt mượt h! Dân lao động làm gì có được hai bàn tay đẹp đến vậy?
Thấy Tư có vẻ lo âu, Tân vỗ vai:
-Anh đừng có lo, tui hiểu ý cổ mà. Tui cũng đâu đến nổi tệ mà phải chạy theo nài ép, xin người ta nhận cái thứ mình cho mà họ không thích. Nói thật với anh, thiếu gì con gái thích tui, có cô còn dư điều kiện hơn Ý nhiều.
Tư biết anh ta nói thật. Thời điểm nầy mốt lấy công an đang được ưa chuộng. Sài gòn mà, lấy chồng theo mốt. Thuở của các cụ Trương vĩnh Ký, Nguyễn chánh Sắt... thì thầy thông, thầy ký được ưa chuộng. Sau đó thì tới nhà giáo, rồi thì nhà binh (nhất là các chàng vai áo có bông mai), rồi thì tới phi công...
Hiện giờ thì chị em khoái lấy chồng công an. Vừa có danh vừa có lợi : Bắt đồ lậu, phạt lấn chiếm lòng lề đường, lập biên bản mấy quán đèn mờ ...hà rầm nên túi lúc nào cũng rủng rỉnh.
Tân trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:
- Hổng chừng tui còn làm đám cưới trước anh nữa đó !
Rồi Tân hỏi Tư một câu y như hôm qua, có điều chủ từ và túc từ đổi chỗ:
-Tới chừng đó tui mời anh nhớ đi nha!
Tư bê nguyên xi câu trả lời cũ:
-Chắc chắn rồi!
Cách đó một ngày Tư ra thăm Ý, định xem coi Tân có rút lui như y nói không. Ý đang bán ế, thấy Tư ra thì hai mắt chợt le lói sáng rồi bỗng leo lét lại liền. Tư còn đang phân vân, liền được Ý giải tỏa nỗi thắc mắc ấy ngay lập tức, chỉ bằng một câu hỏi ngắn :
-Chưa có hả Tư?
Tư biết nhưng hỏi lại cho chắc:
-Có cái gì?
Ý nói cộc lốc:
-Thư
Tư bỗng nghe thương Ý hết sức và thương cả cho mình.
Chàng đáp :
-Qùa còn chưa tới, làm sao có thư?
Ý thở dài:
-Không biết tại sao mà trong bụng tui cứ nghe lo lo. Hổng biết thùng quà có bị bỏ sót lại, bị thất lạc, hư hại, mất mát hay không nữa ?
Tư bỗng nhận ra Ý là típ người có khuynh hướng bi quan. Chẳng hiểu do bẩm sinh hay những biến cố quá lớn liên tục xảy ra, đã khiến nàng luôn phập phồng lo sợ.
Tư an ủi:
-Tệ lắm là nó tới chậm hoặc trầy trụa chút đỉnh. Những thứ đến muộn, không phải mang lại cho người ta niềm vui gấp đôi sao?
Ý lắc đầu:
-Chưa chắc đâu Tư ơi ! Sự chờ đợi giống như thắng nước màu vậy, nếu để lâu quá, không nhắc xuống kịp thì cả mùi lẫn vị đều hết ngon, hết đẹp.
Tư bắt buột phải chuyển sang đề tài mà Ý và chàng đều không thích:
-Hổm rày Tân có đến không?
Ý ngạc nhiên:
-Tân nào? Rồi nhớ ra liền :
-À ! Tư hỏi anh công an khu vực của mình đó hả? Hôm qua ảnh có tới, không đi một mình mà chở theo một cô gái rất trẻ, rất đẹp, rất giàu.
Tư bắt lỗi:
-Sao Ý biết cổ rất giàu?
Ý cười :
-Cổ đeo tới ba sợi dây chuyền, còn cổ tay đeo nguyên một bộ sơ men to gần tới cùi chỏ luôn! Rồi bông tai, cà rá... đủ hết!
Tư cố cãi:
-Bây giờ đồ giả thiếu gì. Mấy người càng nghèo càng khoái lòe thiên hạ cho vui.
Ý lắc đầu:
-Chắc chắn mấy món cổ đeo không có thứ nào giả hết ! Nghe họ nói chuyện là tui biết, chính xác, cổ là con chủ tiệm vàng "Kim Hoa" trong chợ chuồng bò gần xóm Tư đó.
Tư gật gù:
-Cái tiệm vàng đó tui có biết. Bà chủ mập lắm, có tới ba cô con gái lận!
Ý ghẹo:
-Vậy ra Tư cũng rấp ranh bắn sẻ hả?
Tư lắc đầu, giọng buồn hiu:
-Lúc má bịnh có sai tui đem vàng ra đó bán mà ! Hổng biết sao được?
Rồi hỏi:
-Họ có thân nhau hông?
Ý gật đầu:
-Xưng hô "anh, em " ngọt xớt hà! Anh ta ga lăng ghê lắm! Lựa mấy miếng thịt gà thiệt ngon, gắp bỏ vô chén của cô gái ấy lia lịa. Lấy cái khăn trắng tinh lau cái yên xe cho cổ ngồi.
Tư cười:
-Vậy là tốt rồi, cả hai đều có lợi. Tiệm vàng nhà cô ta khỏi lo bị kiểm kê, bị đánh tư sản, buộc phải hồi hương hay đi kinh tế mới. Còn anh ta thì khỏi cần ăn hối lộ.
Ý hỏi:
-Đây là một mối lương duyên, đúng hông?
Tư gật đầu:
-Chớ còn cái gì nữa ? Anh ta thì được trong sạch . Gia đình cô kia thì yên lành. Mọi người đều ăn ngon, ngủ yên. Không ai phải phập phồng lo sợ!`
Nỗi bồn chồn đợi thư của Ý cũng lây lan sang Tư. Hể ở nhà là chàng dỏng hết cả hai tai chờ nghe tiếng rao : "Bánh tét, bánh ít, bánh ú, đặc biệt đây " của ông bác phát thư. Còn khi đi học, đi dạy chàng cũng nôn nao, vừa xong là vù về nhà liền, không dám dừng xe uống một ly nước mía như trước.
Thế nhưng mãi đến ngày thứ hai mươi lăm thư mới đến.
Cũng như lần trước, người nhân viên mẩn cán ấy đã chịu khó dựng xe, leo qua cái cổng thấp để nhét lá thư vô kẹt cửa giúp nó nằm an toàn trong nhà. Vì đang là mùa mưa nên chắc ông ta sợ vất trên hiên, chủ nhà rủi về trễ, sẽ bị gió thổi bay mất hoặc bị ướt.
Cầm lá thư trên tay, Tư vô cùng cảm động. Nghĩ đến sự chu đáo, thiện tâm của ông, chàng ước gì mình được nhận tận tay để mua giúp mấy cái bánh, giống như má chàng đã làm. Cho dù lá thư nầy chẳng thể nào khiến chàng vui bằng, có khi còn trái ngược .
Cái bao thư cồm cộm, khá dày và nặng . Tư đoán rằng dường như, ngoài lá thư ra nó còn có mấy tấm ảnh hay vài thứ gì khác ở bên trong nữa .
Ngoài bì thư tuy vẫn là địa chỉ của chàng, nhưng tên người nhận không phải là Nguyễn văn Tư mà "Ý Vân". Tên người gửi, ghi ở góc trái trên cùng cũng khác dù địa chỉ vẫn là chỗ cũ.
Tư nghe lo lo. Chàng không thể đợi được đến chiều mà đạp xe mang đến nhà Ý liền.
Nghe tiếng gọi cổng, Ý ngạc nhiên lắm ! Cô vừa gội đầu xong, đang xỏa tóc ra cho mau khô, tay đang cầm cây quạt bằng lá vông, quạt phành phạch. Cái áo Ý mặc phía sau lưng hãy còn bị ướt.
Thấy Tư đến Ý ngạc nhiên quá, cô hỏi:
-Sao Tư biết nhà tui?
Tư gãi đầu, để khỏi phải giải thích, chàng móc lá thư trong túi áo ra. Ý chụp vội, nàng lýnh quýnh chạy vào bếp lấy ngọn dao nhỏ để rọc.
Tư đứng tần ngần nửa muốn về, nửa muốn ở...
Đang lưỡng lự chợt Tư nghe tiếng ngã đánh quỵt phía nhà trong, chàng chạy ngay vào. Ý té xỉu nằm trên nền nhà, bàn tay phải hãy còn nắm chặt lá thư.
Tiếng ngã của cô cùng tiếng thét gọi "Ý, Ý..." của Tư, khiến bà chủ nhà từ trên gác chạy xuống. Vừa nâng Ý lên bà vừa hỏi "Sao vậy? Sao vậy?", rồi nắm tóc mai của cô giựt mạnh. Chừng mấy phút sau Ý mới mở mắt ra, vừa thấy chàng là nước mắt của Ý chảy tuôn như suối
Cô nói:
-Tư ơi! Mưa!
Rồi mắt lại nhắm nghiền, nằm im ru như chết.
Bà chủ nhà đã lớn tuổi, trông không khỏe nên Tư giành bồng rồi đặt Ý lên cái giường sắt nhà binh có tấm ri đô chắn ngang làm vách, kê trong nhà bếp.
Cái giường nhỏ có tấm giạt tre đặt lên một hệ thống dây kẽm chằng ngang, chằng dọc. Chúng nối kết mau bằng mấy sợi lò so, chắc là chỗ ngủ của Ý.
Cái trọng lượng nhẹ bỏng của Ý làm Tư xót xa. Chàng đặt Ý nằm xuống thật êm. Ý vẫn nằm nhắm mắt nhưng nghiêng người quay mặt vào vách.
Lá thư rơi khỏi tay Ý chẳng biết từ lúc nào, nằm tênh hênh trên mặt đất. Tư vội cầm lên cho vào túi, vậy mà vẫn không tránh được câu hỏi tò mò của bà chủ.
Bà hỏi:
-Cái gì vậy?
Tư đáp, cố ra vẻ tự nhiên:
-Cái thơ.
Bà gặng:
-Chắc cổ đang đọc phải hông? Hồi nãy tui thấy cổ cầm nó mà.
Tư lúng túng :
-Lá thơ nầy là của cháu gửi cho cổ .
Chàng không muốn bà giữ nên phải nói dối.
Bà chủ hỏi nữa:
-Phải cổ đang đọc rồi té xỉu hông?
Tư đáp liều:
-Dạ chắc vậy!
Bả càng thắc mắc tợn:
-Cậu viết cái gì mà cổ sợ tới đổi thất kinh hồn vía vậy?
Tư bịa:
-Cháu xin cưới cổ?
Bà chủ cười:
-Chắc mừng quá rồi chết giấc luôn!
Tư muốn đọc liền để xem trong thư có gì nên ráng moi óc để tìm một cái cớ.
Chàng chợt nghĩ ra, bèn nói với giọng khẩn khoản:
-Dì làm ơn nấu cho con xin một ấm nước để...
Tư cũng không biết nhờ nấu nước để làm gì, đang cố nghĩ ra lý do hợp lý để trả lời nếu bị cật vấn. May quá bà không hỏi gì hết mà đi vào bếp liền.
Tư lấy cái thơ trong túi ra, ngay mấy dòng chữ đầu tiên là đã chàng nghe tim mình co thắt, hơi thở gián đoạn và tay chưn bủn rủn:
" Cô Vân thân mến!
Tôi xin tự giới thiệu : Tôi tên Lộc, bạn thân nhất của Tâm.
Tôi mạo muội viết bức thư nầy, để xin báo tin cho cô một hung tin, Tâm đã qua đời vào lúc mười giờ hai mươi lăm phút, ngày mười chín tháng bảy vừa rồi.
Lý do: Tim ngưng đột ngột.
Tâm vừa nhận được thùng hàng của gia đình, trong đó có gói cà phê đã bị tan một phần vì thấm nước. Đang thèm nên anh liền chắc ra ly và uống một ngụm. Chừng một phút sau, trước sự kinh hoàng của chúng tôi, anh ôm ngực té xuống, môi tím tái và không thở nữa.
Gia đình Tâm đã được thông báo ngay lập tức. Ba mẹ và một vài người thân của anh đã đến kịp thời để chứng kiến cảnh hạ huyệt và ném theo vài nắm đất.
Họ ra về sau đó khi nấm mộ đã được đắp xong.
Vì một vài sự việc xảy ra ngoài ý muốn, mãi đến hôm nay tôi mới có thể viết bức thư nầy cho cô. Xin cô hiểu giùm mà tha lỗi.
Biết bày tỏ thế nào để cô thấu hiểu niềm đau về nỗi mất mát nầy của tất cả chúng tôi ? Và khi nghĩ đến cô thì cái đau, cái buồn ấy lại nhân lên gấp bội !
Tất cả đồ dùng của Tâm đã được giao lại cho gia đình của anh. Tôi chỉ giữ lại mấy bức ảnh mà Tâm luôn đem theo bên mình để gửi cho cô.
Những bức ảnh nầy đã từng là niềm an ủi lớn lao cho Tâm. Tôi đã thấy những nụ cười và cả những giọt nước mắt của anh rơi trên đó...
Tôi xin gửi đến cô, lời chia buồn chân thành từ tận đáy lòng của các bạn hữu. Đặc biệt là của riêng tôi, người từng chia với Tâm từng điếu thuốc, từng cục kẹo.
Qua những dịp chuyện trò cùng Tâm. Tôi, một người đang lao đao giữa dòng nước xoáy, bỗng tìm thấy một niềm vui rất nhẹ, một hy vọng rất mong manh, vịn vào mối tình của cô và Tâm như bám vào chiếc bè hoa rất đẹp, rất vững vàng để trôi qua ghềnh thác.
Có lẽ ngoài cô và gia đình của Tâm, tôi là kẻ chịu mất mát nhiều nhứt. Sự hụt hẩng nầy vẫn còn hiện diện đến tận hôm nay, đến thời điểm đang cầm bút viết cho cô lá thư nầy.
Tôi đã vô cùng hâm mộ mối tình của hai bạn, đã từng thầm mong sẽ có mặt trong ngày cưới của Tâm và cô. Tôi rất muốn được gặp cô để bày tỏ niềm ngưỡng mộ về sự hy sinh và lòng chung thủy, tận tụy mà cô đã dành cho Tâm.
Cầu xin ơn trên ban cho cô đủ nghị lực để vượt qua cơn tai biến nầy.
Ký tên
Lương Hiền Lộc
Xếp lá thư cho vào túi xong, Tư vào bếp để tìm cái bao thơ có chứa mấy tấm ảnh. Mãi mới thấy, Ý cất nó trên trang thờ ông táo.
Tư đặt chúng nằm cùng chỗ với lá thư rồi quày quả trở vô phòng. Cây quạt lá vông Ý cầm ban nãy bị vất trên nền nhà, chàng bèn đem theo để quạt cho cô.
Ý vẫn nằm với tư thế không đổi, quay mặt vào vách với hai tay đặt hờ lên bụng.
Bà chủ nhà bước vào, tay cầm ly nước gừng nóng. Bà cắt nghĩa:
-Trúng gió uống cái nầy là tốt nhứt.
Rồi bà lay nhẹ đôi vai Ý :
-Ngồi dậy uống một miếng cho giải cảm đi cô.
Ý vẫn không nhúc nhích. Bà bảo Tư:
-Cậu đỡ cổ lên để tui đổ vào miệng mới được .
Tư bước lại đầu giường, hai bàn tay đặt vào lưng của Ý rồi nâng lên một cách thật nhẹ nhàng. Thân thể nàng mềm oặt như thể gân, xương cùng hóa lỏng. Bà chủ len cái muỗng vào giữa hai hàm răng của cô để đổ vào, nước chảy hết ra ngoài từ hai khóe miệng.
Nỗi lo sợ làm Tư lắp bắp, chàng hỏi:
-Dì ơi ! Cổ có sao không?
Rồi không chờ bà trả lời, chàng giục:
-Dì đi gọi giùm chiếc xích lô, phải đưa cổ vô nhà thương mới được!
Bà để cái ly xuống, bước lẹ ra khỏi phòng rồi chạy chưn không ra đường. Tư bế thốc Ý lên tay, đứng trước hiên đợi sẵn, luôn miệng cầu nguyện một cách vô thức. Chàng đã quên đi nỗi hờn giận, bất mãn đối với chúa, cầu xin ngài một cách vô cùng tha thiết.
Chiếc xe xích lô trờ tới. Tư vẫn bồng Ý trong tay, chưa kịp ngồi yên đã hối:
-Tới nhà thương, lẹ lên giùm!
Ý được truyền nước biển có thuốc bổ vàng vàng trong đó. Vị bác sĩ già gương mặt hiền hiền, nghiêm nghiêm, nói bằng mắt nhiều hơn miệng. Ông ta có thói quen lắc đầu làm Tư cứ nhói tim từng chập. Đến ngày thứ hai Ý đã chịu mở mắt. Ông ta lắc đầu lần cuối rồi nói:
-Tốt! Ra viện được rồi.
Lát sau cô y tá mang đến cái toa, hối Tư đi làm thủ tục xuất viện. Đang có dịch tiêu chảy nên bệnh viện bị quá tải. Giường bệnh chỉ đáp ứng được một nửa nên hai bệnh nhân phải nằm chung một giường. Họ phải nằm trở đầu để khỏi bị rơi xuống đất.
Thân nhân theo nuôi nằm la liệt dưới nền nhà, ngoài hành lang. Có người còn ra mấy cái băng ghế đặt ngoài sân để ngủ.
Ý may mắn được một mình một giường nên chưa kịp về đã có người nhà của một bệnh nhân đem mền gối đến đặt lên giường để xí trước.
Dì Năm chủ nhà đến thật đúng lúc. Dì đi xe đạp của Tư đến nên Tư nhờ dì ngồi trên xích lô với Ý còn mình thì theo sau hộ tống.
Vừa đến nhà, câu đầu tiên Ý nói là hỏi Tư:
-Thư đâu?
Tư móc cái bao thư có cả ba tấm ảnh trong đó đưa hết cho Ý.
Thật ra trong ấy có đến bốn. Cái tấm thứ tư, hình Ý mặc áo dài trắng với cái phù hiệu của trường "Gia Long" gắn trên áo được Tư giữ lại.
Ý lấy ba tấm ảnh ra xem từng tấm một. Ba tấm ảnh, một Ý mặc áo dài màu, đi chợ hoa ngày tết, một Ý chạy chiếc vê lo với mái tóc bị gió hất ngược về phía sau, miệng cười rạng rở. Tấm ảnh cuối, Ý mặc bộ bà ba đen, đứng vịn tay trên cây cầu khỉ được cô ngắm lâu nhứt.
Ý lấy vạt áo lau giọt nước mắt rơi trên đó rồi nói:
-Ước gì đang ở với ngoại.
Ý nói cho riêng mình, nhỏ nhưng cũng đủ để Tư nghe. Chàng nói:
-Để tui đưa Ý về quê.
Ý hỏi:
-Chừng nào?
Tư đáp:
-Chừng nào cũng được.
Ý nói:
-Ngày mai được không?
Tư gật đầu:
-Sáng mai tui sẽ đưa Ý đi.
Ý có vẻ ngần ngại, muốn nói câu gì đó nhưng thôi. Tư nhìn Ý, đôi mắt đong đầy niềm thương cảm, muốn an ủi mà cũng không thốt nên lời...
Tư đến nhà từng đứa học trò, cho chúng biết được nghĩ một tuần lễ. Chàng ngại phải tìm lý do, ngại phải nói láo nên vừa thông báo xong là đi liền lập tức.
Tư ghé quán cơm của dì Ba, dì đang vắng khách nên mừng ra mặt khi thấy chàng. Dì hỏi:
-Hổm rày bây đi đâu mà không ghé ăn cơm?
Tư cười:
-Con đi công việc cả ngày, chừng về tới nhà là tối hù, dì dọn mất tiêu rồi.
Dì hỏi khéo:
-Mấy ngày nay cháo gà cũng hổng thấy bán.
Tư làm thinh, chàng quá mệt để giải thích nên chỉ nói:
-Thế à!
Ăn cơm xong Tư vào nhà, tắm một trận cho sạch hết ba cái mùi của nhà thương. Lôi cái túi vải cất trong tủ ra, bỏ hai bộ đồ và một khăn mặt vào.
Tư moi dưới đáy tủ lấy ra một cái hộp bằng nhựa cứng màu đỏ. Chàng mở nắp hộp, lấy chiếc nhẫn một chỉ bằng vàng y đeo vào ngón tay. Mấy chiếc nhẫn của má chàng sắm làm của, đã đem bán hết khi bà bịnh, chỉ còn mỗi chiếc nầy. Tư định bụng để dành làm kỹ niệm...
Sáng hôm sau Tư dậy thật sớm, đến nơi đã thấy Ý ngồi sẵn ngoài hiên để đợi. Dì Năm chủ nhà cũng ngồi kế bên cô, dì nói:
-Về ít ngày thấy khỏe rồi thì xuống liền. Bán buôn mà nghỉ lâu coi chừng mất hết khách đó!
Ý đáp nhỏ:
-Dạ !
Thấy Ý mang túi đồ chỉ to gấp đôi cái túi của mình, Tư nghe mừng một chút. Vậy là Ý sẽ về lại, Ý sẽ không bỏ đi hẳn, Ý chưa bị đánh gục hoàn toàn.
Rồi Tư bỗng nhói tim, biết đâu hoàn toàn ngược lại. Ý sẽ đoạn tuyệt với quảng đời cũ của mình, vứt bỏ hết kể cả Tư. Cũng phải thôi ! Tư là ai, là cái gì mà đòi...
Cố xua tất cả các ý nghĩ ấy ra khỏi đầu óc mình, chàng cười gượng, nói với cô:
-Ý đưa túi cho tui xách cho.
Ý cự:
-Tui xách nổi mà
Tư cố thuyết phục, giành cho bằng được. Chàng sợ cái vẻ tiều tụy của Ý, sẽ khiến một kẽ chưa đến nổi bất lương lắm cũng nãy ra ý định tước nó khỏi tay cô.
Đi đến đầu hẻm, Tư ngoái lại nhìn, vẫn thấy dì Năm đứng ngó theo họ. Tư vừa đưa tay vẫy dì thì nghe có tiếng "tành tạch" phía sau. Tiếng xe máy vừa đến sau lưng chàng thì im. Tư quay lại nhìn. Một người đàn ông lớn tuổi, ngồi trên chiếc HONDA 67 màu đen nhìn chàng và hỏi:
-Hai cháu đi đâu? Lên xe bác chở cho .
Ông xe ôm già y như ông bác phát thư làm Tư chạnh lòng, chàng đáp:
-Tụi cháu đi xa cảng miền tây. Bao nhiêu vậy bác?
Ông nói một con số, Tư trả giá hầu như theo quán tính.
Ông kèo nài:
-Cháu đi mở hàng giùm. Bác lấy giá đó là rẻ hơn người ta rồi.
Nghe ông nói vậy Tư liền đồng ý. Ông bảo Ý lên ngồi trước rồi tới Tư.
Thấy chàng đeo hai túi đồ trên hai vai, ông khuyên :
-Đeo như vậy không an toàn đâu, để bác cột vào phía trước cho.
Ông bác nầy có giọng nói và gương mặt hiền hậu khiến Tư tin tưởng. Chàng an tâm tháo hai cái túi trên vai xuống rồi đưa hết cho ông.
Ông vừa cột vào xe vừa giải thích :
-Hôm trước chính mắt bác thấy một cô gái bị giựt cái giỏ xách quảy trên vai. Cổ té từ trên xe xuống đất, mất cả túi lẫn mạng. Từ đó bác luôn mang theo cái nầy để cột đồ cho khách.
Ông đưa sợi dây bằng cao su cho chàng và Ý thấy, rồi dùng nó để ràng chặt hai cái túi vào bình xăng. Ông lấy tay lay thấy chúng không nhúc nhích mới yên tâm.
Chờ cả hai ngồi xong, ông cúi nhìn xem chân họ có đặt đúng chỗ chưa rồi dặn:
-Ráng kềm cái chưn cho chặt, đừng có đút vô căm nghe.
Trước khi cho xe chạy ông đưa tay về phía sau, sờ cái yên xe để kiểm tra xem Tư ngồi như thế nào, chừng như không an lòng ông bảo:
-Cháu ngồi sát vô một chút, chớ nửa trong, nửa ngoài như vầy nguy hiểm lắm!
Tư vâng lời, xích vào đúng một xăng ti mét, gồng mình nắm chặt lấy yên xe. Đến nơi, chàng lật đật bước xuống xe, xoa mãi hai bàn tay tê cứng vào nhau rồi móc bóp lấy tiền ra trả.
Ông bác xe ôm vừa thối tiền vừa dặn:
-Ở đây giựt đồ dữ lắm nghe, nhứt là ở chỗ bán vé.
Rồi ông hỏi:
-Hai cháu đi tới đây lần đầu phải hông?
Tư gật đầu, ông hỏi:
-Đi về đâu?
Ý vẫn làm thinh, Tư còn nhớ địa danh hôm trước Ý nói với chàng nên đáp.
Ông ta tỏ vẻ vui mừng, cười toe như gặp bà con, giọng thân mật:
-Vậy bác cháu mình là đồng hương rồi .
Thấy Tư cho tiền thừa vào bóp rồi nhét vào túi quần một cách lơ đãng, ông rầy:
-Cháu lấy cái bóp ra, nhét vô cái túi nhỏ trước bụng cho chắc ăn đi. Hai cái túi bên hông miệng rộng rinh, bị móc dễ nhứt, không an toàn đâu!
Một người con trai trạc tuổi Tư trờ tới hỏi:
-Anh đi về đâu, em mua vé giùm cho.
Thấy Tư nhìn y một cách ngạc nhiên, ông giải thích:
-Cháu nầy chuyên mua giùm vé để kiếm tiền uống cà phê.
Ông chỉ vào một đám người chen chúc trước quầy vé nói:
-Trong đó hơn phân nửa là họ đó. Cháu nhắm chen nổi hông?
Thấy Tư có vẻ xiêu lòng, ông bèn hỏi chàng ta:
-Xe đi... ra bến chưa?
Anh ta gật đầu. Ông nói với Tư:
-Cháu đừng lo, cậu nầy là người quen. Cứ đưa tiền nhờ mua giùm vé đi, không sao đâu!
Tư hỏi chàng trai:
-Bao nhiêu vậy bạn?
Y trả lời :
-Hai vé năm mươi bốn đồng, sáu đồng tiền công nữa là sáu chục
Tư móc cái bóp ra trở lại, lấy tiền đếm rồi đưa đúng sáu mươi đồng.
Ông bác xe ôm muốn Tư yên tâm, nên đứng lại với chàng và Ý, cho đến khi chàng trai cầm hai tấm vé trên tay quay lại chỗ họ rồi đưa cho Tư.
Chàng ta thấy Tư "lờ tờ mờ" quá nên hỏi:
-Biết chỗ xe đậu chưa?
Tư lắc đầu:
-Chưa, ở đâu?
Y ta sốt sắng:
-Để tui dắt anh chị ra xe, chỉ chỗ ngồi luôn cho.
Tư cảm thấy mắc cỡ vì ban nãy trót nghi ngờ cả hai. Chàng đâm ra vô cùng cảm kích trước lòng tốt của y và nhứt là ông bác xe ôm.
Tư chia tay ông bằng giọng xúc động:
-Cháu cám ơn bác nhiều lắm!
Ông cười xua tay:
-Có gì đâu !
Ý gật đầu chào rồi lững thững đi theo Tư. Chàng vừa quay lưng liền nghe tiếng gọi:
-Ê, ê...
Tư nhìn ngoái lại, hỏi:
-Có chi hông bác?
Ông dặn vói theo:
-Dọc đường có khát thì mua nước suối đựng sẵn trong chai có đóng nắp hẳn hoi mà uống, đói thì mua chuối nấu mà ăn cho hợp vệ sinh. Đừng có ăn ba cái món để khơi khơi không đậy gì hết, kẽo bị chột bụng bất tử, xe đang chạy mà bắt họ ngừng từng chập hoài là dám bị bỏ lại, phiền phức dữ lắm!
Tư nghe ấm lòng biết bao trước sự nhiệt tình, chu đáo của ông bác vừa mới quen nầy. Chàng chợt cảm mến ông hệt như dì Ba bán cơm của mình vậy!
Tư chạy lại xiết tay ông và nói:
-Hy vọng cháu còn gặp lại bác!
Ông gật đầu, cười:
-Cậu muốn gặp tui thì dễ ợt thôi mà! Sáng sớm nào tui cũng dựng xe đón khách ở dưới góc cây bả đậu, đầu cái hẻm xóm Đình hồi nãy.
Chờ họ đi khuất, ông bác xe ôm mới chép miệng:
-Tội nghiệp! Cậu ta coi hiền khô, đẹp trai như vậy mà có cô vợ bị câm. Uổng quá!
Con đường từ Sài gòn về đến quê của Ý bị con nước cắt làm bốn đoạn.
Đoạn thứ nhứt, nhì và ba nó là con đường nhựa, rộng rãi. Ở khúc sau cùng nó chỉ là con đường đất, mặt bị rỗ chằng, rỗ chịt bởi vô số ổ gà và những cục đá ong to bằng cườm tay được rải không đều.
Mùa nầy con sông không trong, không xanh. Thay đổi cả màu sắc lẫn tánh tình. Nó đục ngầu mang màu nâu đỏ, không chảy lượn lờ mà tuôn đổ ào ào, hối hả.
Đất, bà mẹ của sông, đang trong thời kỳ trở dạ. Mỗi năm một lần, bà chắt hết máu, phóng thích tất cả năng lượng đang có để tái sinh làn da cằn cổi của mình.
Bà khiến nó phình to, gương mặt liên tục bộc lộ những cảm xúc mâu thuẫn, khi thì biểu hiện sự cuồng nộ, khi thì sôi sục một niềm vui ...
Những cánh đồng dù vẫn mang dáng vẻ hiền từ, thanh thản, nhưng hình như đang phập phồng, hồi họp... Bởi con lũ đang lăm le, có thể ăn tươi, nuốt sống chúng trong nay mai.
Nếu chuyến đi nầy được thực hiện khoảng một vài tháng trước, lúc tâm trạng, hoàn cảnh của cả hai không nhuốm màu u ám thì tốt biết mấy.
Ý sẽ rất vui, sẽ giới thiệu với Tư những cái hay, cái đẹp của quê mình. Chàng vốn yêu hội họa chắc chắn sẽ bị phong cảnh, con người ở đây hấp dẫn đến không dứt ra được.
Chàng sẽ nhớ mãi những căn nhà nhỏ và thấp, khiêm nhường nằm cạnh mấy gốc xoài, gốc me, gốc ổi...Những người nông dân bình dị một cách đặc biệt, gặp người lạ là cười nhiều hơn nói, dễ cho, dễ nhận, từ điếu thuốc đến cả tấm chân tình... Nhớ cái dáng thong dong của bầy gia súc thơ thẩn trong sân.
Tư sẽ ngạc nhiên hỏi Ý: "Sao mà mấy con chó ở quê hiền và dễ làm quen dữ vậy?".
Ý sẽ giải thích: "Vì chúng được chạy chơi thoải mái, chẳng bị xiềng xích hay giữ rịt trong nhà. Chúng tha hồ bắt bồ, kết bè, kết bạn, chẳng bị chủ quản thúc đến độ bị bịnh điên đe dọa".
Chàng còn kinh ngạc hơn khi biết rằng chẳng một tên nào trong chúng bị lôi đầu đi tiêm phòng và khắp xóm cũng chẳng ai bị chết vì chó cắn.
Mấy tháng trước dòng sông còn thân thiện biết bao! Nó còn là một cô gái quê đang tuổi thanh xuân, tính tình hồn nhiên, hiền lành, dễ dạy...Chính những cơn mưa đã khiến nó thay đổi phái tính. Trở thành một chàng trai ngông cuồng thích bắt nạt, thẳng tay quăng quật bất cứ thứ gì rơi vào lòng, nhất là những chiếc đò nhỏ. Khiến người lái đò- thường là các ông già và những cô gái trẻ - cùng mấy người khách ngồi trong đó phải lo sợ đến teo gan, teo ruột.
Tuy dòng sông đã thay da đổi dạ, nhưng cánh đồng vẫn còn nguyên bản chất hiền lành của mình.
Tư đưa mắt nhìn theo một con cò đơn độc, nó bay một cách uể oải khiến cánh đồng như rộng ra thêm. Mấy ngọn gió leo tuốt lên đọt tre, đọt dừa... bám theo nó đến tận chân trời, bỏ lại mấy cái chòi trống lổng, cùng những thằng bù nhìn đội cái nón lá rách bươm, đứng một mình giữa mênh mông trời đất.
Một căn nhà lá nhỏ xíu quỳ gối bên bờ kinh, với cái chõng tre bên hông và giàn mướp rải hoa trên mái, khiến Tư yêu thích lạ thường! Tưởng tượng một gia đình nhỏ bé, hai vợ chồng, hai đứa con một trai, một gái sống trong đó khiến lòng chàng lâng lâng. Ôi! Phải chi...
Ngồi cạnh chàng, từ lúc lên xe, Ý cứ nhắm nghiền mắt lại. Cái dáng cứng nhắc và hai môi mím lại cho Tư biết, nàng đang nhìn chầm chập vào nội tâm, đang bóc từng lớp vỏ của cái củ hành ký ức, đang tự tra tấn linh hồn vốn đã mang đầy thương tích của mình.
Ôi! Ước gì nàng buông bỏ ý thức, ngủ lịm đi rồi tựa đầu lên vai Tư. Mái tóc dài của nàng sẽ bị gió bạt để thỉnh thoảng bám vào cổ chàng.
Nhìn dáng ngồi thẳng băng, lưng cứng đơ tựa nhẹ vào ghế của Ý mà Tư nghe đau lòng hết sức! Cái tư thế như một nhà sư đang thiền quán ấy khiến nàng tách biệt hẳn với mọi người, kể cả Tư.
Chàng có cảm giác như Ý đang được một cái túi nhựa rất dày, bền bĩ và trong suốt phủ kín. Cả hai đang ngồi cạnh nhau mà giống như trong hai thế giới khác biệt. Cảm giác cút côi lại xuất hiện trong lòng chàng, nặng nề không kém như khi chịu tang mẹ.
Tư cầu mong Ý rơi vào một trạng thái vô thức, khoảng thời gian nầy giống như đoạn băng bị xóa. Để khi tỉnh lại, Ý sẽ mới tinh, trong trẻo như tấm kính được lau sạch trơn không còn vương một hạt bụi .
Ý đang cố tập trung tinh thần để giữ cái đầu đứng yên trên cổ, không cho nó đổ gập về phía trước. Người nàng như căng ra bởi lòng căm phẩn và sự thách thức. Ý muốn thách thức cả ông trời, người mang đến những tai họa tày đình liên tục, người nhẫn tâm vặt trụi lủi những niềm vui trong cuộc sống của mình.
Cô cũng đang âm thầm tự trách: "Phải chi hôm đó mình không sợ Tư ngại, bỏ hết cà phê ướt trong túi ra thì đâu xảy ra tai họa. Phải chi mình gọi Tư quay lại lấy áo mưa. Phải chi hôm đó trời nắng... "
Ý liên tục dày vò mình và trách cứ ông trời, vì ổng không hiện diện nên một mình Tư lãnh đủ. Bởi cho dù vô tình đi nữa, thì vẻ cứng nhắc của cô cũng làm Tư cảm thấy ray rức, đau xót vô cùng.
Mấy lần Tư định gợi chuyện nhưng không dám. Chàng sợ Ý bực mình vì bị làm phiền. Mãi đến lúc xe dừng lại bến bắc Mỹ Thuận, Ý mới mở mắt ra.
Tư mừng quá, liền hỏi:
-Ý có mệt không?
Ý lắc đầu rồi khép hờ mắt lại.
Những người bán hàng rong đang xô lấn, họ tranh nhau lên xe trước để giành khách. Họ mang hàng đến từng băng ghế, kiên trì mời chào từng người một.
Tư mua chuối của một bà lão miệng móm sọm, lên xe sau cùng. Bà yếu lắm nên chỉ mang mỗi cái xịa nhỏ với hai nải chuối nấu trái nhỏ xíu. Tư hỏi:
-Chuối nầy tên gì vậy bà?
Bà đáp với chút hi vọng le lói trong mắt:
-Chuối sáp đó con, dẻo lắm! Ngọt lắm! Con mua ăn thử đi!
Tư không lựa mà lấy đại một nải chuối. Chàng cũng không hỏi giá mà rút cái bóp lấy ra một tờ giấy bạc hai chục, đưa cho bà.
Bà lão cho bàn tay vào vét hết cả hai túi của cái áo đang mặc, móc ra một mớ tiền lẻ rồi cứ đếm đi, đếm lại hoài, lúng túng vì không đủ tiền để thối cho Tư.
Bà lo chàng sẽ trả lại nên năn nỉ:
-Con lấy giùm bà thêm một nải nữa nghen! Như vậy mới đủ tiền mà thối cho con.
Tư nhìn nắm tiền lẻ trong bàn tay rung rung của bà mà nghe thương cảm lạ, chàng nói:
-Bà giữ tiền lại đi, con mua luôn nải nầy cho.
Bà cụ chới với vì ngạc nhiên, bàn tay cầm tiền cứ đưa ra trước mặt Tư. Chàng lấy thêm nải chuối còn lại, dúi cái bàn tay gầy gò đang cầm mấy tờ tiền lẻ trở vô cái túi của chiếc áo bà ba cũ của bà.
Bà lẩm bẩm:
-Cám ơn...
Bà lão mang cái xịa không bước xuống xe. Những người khách ngồi trên xe cũng lục đục xuống sau. Chàng trai ngồi trước mặt Tư thò đầu ra cửa xe nhìn dáo dác rồi nói bâng quơ:
-Bắc kẹt rồi! Hàng xe dài ngoằng như vầy chắc chiều tối mới về tới nhà.
Có tiếng thở dài thậm thượt của một cô gái và tiếng than của một cô gái khác:
-Cái bắc Mỹ Thuận nầy nổi tiếng là kẹt thường xuyên. Tui đi mười lần là bị đúng một chục. Không hiểu sao họ không mua thêm vài cái...
Một người khác ngắt lời:
-Tiền đâu? Thời buổi ăn độn nầy mà còn đòi...
Một giọng nữ thứ ba xen vào:
-Cực chẳng đã có công việc phải đi ra đường, chớ bây giờ ngồi xe đò chán phèo. Xe thì cũ xì, hư tới hư lui. Nhồi nhét như điên thở hết muốn nổi. Rồi thì trạm gác mọc lềnh khênh, chạy một chút ngừng mười chút! Để rồi coi, từ đây về tới bến ít gì cũng phải qua bốn, năm trạm nữa.
Cô gái thứ nhứt lại thở dài, than vãn:
-Không có cái gì làm tui ngán cho bằng kẹt bắc.
Người con trai ban nãy phụ họa:
-Bây giờ đỡ rồi chớ hồi trước còn lo thêm cái nạn bị đắp mô nữa.
Cao hứng, anh ta đọc luôn câu danh ngôn của ông Nguyễn Bá Học, không quên cải biên cho nó phù hợp với tình cảnh hiện tại của mình:
-"Đường đi khó không khó vì ngăn "mô", cách "bắc", mà khó vì lòng người ngại "bắc" e "mô"". Hãy can đảm lên bà con, bất quá tới khuya cũng về đến nhà.
Người tài xế trách:
-Mấy người lâu lâu mới đi một lần mà than như bộng. Tui nè! ngày nào cũng đi thì sao?
Anh con trai nói nịnh:
-Anh giỏi thiệt đó, gặp tui chắc bỏ nghề từ lâu!
Cô gái thứ nhứt cự lại:
-Ngu sao mà bỏ? Thời buổi nầy cái nghề lái xe đò là hốt bạc đó. Họ giàu nhờ hàng lậu mà. Bởi vậy bác tài nào cũng hai, ba bà vợ.
Người tài xế thở dài :
-Bởi ai cũng nghĩ như cô nên tụi tui mới khổ. Có bữa xui tận mạng, nào xe hư, nào kẹt bắc... Vừa mệt vừa đói. Vậy mà vừa về tới nhà còn bị bà xã cằn nhằn, vặn vẹo đủ thứ: "Ông ghé nhà con nào mà giờ nầy mới về...". Nhiều khi chịu hết nổi, xáng cho bả một bạt tay, thế là bị bỏ đói luôn!
Cô gái thứ ba lên tiếng bênh vực cho giới mình:
-Một lần oan chớ chín lần ưng lận! Có lần tui đi cũng tuyến đường nầy. Ông tài xế đó còn già hơn chú nữa. Đang đi ngon lành cái ổng thắng lại cái ét, xuống xe không thèm nói tiếng nào. Bỏ bà con đợi dài cổ. Chắc ổng ghé chỗ nầy thường xuyên nên cái nhà khít bên mới mở quán bán cơm, bán cà phê luôn. Bà chủ quán thấy tụi tui ngồi trên xe không dám xuống thì chạy ra mời: " Vô quán ngồi nghĩ chưn đi bà con. Đợi lâu lắm đó!". Rồi bả nói nhỏ xíu "ổng ghé thăm vợ nhỏ mà". Đúng i xì, hơn một tiếng đồng hồ sau ổng mới ra khỏi nhà, có cô gái trẻ măng đi theo, đứng nhìn rồi vẫy tay thắm thiết.
Những chuyến xe đò là dịp để người ta gặp gỡ, chuyện trò xã giao rồi đi dần đến chỗ tâm sự. Không biết bao nhiêu tri kỷ gặp nhau nhờ nó. Không biết bao nhiêu đôi uyên ương được nó tác thành, cho nên đi càng xa, người ta càng sửa soạn kỹ càng, ráng ăn diện cho thiệt là đẹp.
Những câu chuyện trên xe đò thường đầu Ngô mình Sở, đang từ chuyện nầy nhảy vọt sang đề tài khác. Đang nói chuyện vợ nhỏ liền bắc qua chuyện đánh ghen. Giữa cao trào đánh ghen có người kể cô vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át xít phải đi ăn xin. Thế rồi có người than sao bây giờ người ta đi ăn xin, ngủ ngoài đường nhiều quá! Ngay lập tức nó người phàn nàn, ngay giữa Sài gòn chỗ đường ray chạy qua bây giờ dơ hết biết! Người ta phóng uế tùm lum, không biết mắc cỡ gì hết! Thế là có người đổ thừa là tại thế nầy thế nọ...
Những câu chuyện đó chẳng những giúp họ giết thời gian, mà còn gom được cả chục cái sàng khôn, đem về nhà chia cho bà con lối xóm xài hoài không hết! Hơn hai chục người còn ngồi lại trên xe đều tham gia rôm rả. Mỗi người cống hiến một câu chuyện, ai cũng moi óc, cố tìm đề tài hợp mốt nhứt, ăn khách nhứt, hấp dẫn nhứt! Và dù đa số chỉ nghe truyền đạt lại bằng tai, nhưng để tăng thêm tính hấp dẫn họ đều bắt đầu bằng một câu, với giọng chắc lọi như đinh đóng cột:"Chính mắt tui thấy..."!
Chỉ mỗi mình Tư và Ý là không tham gia. Tư cầm sẵn trái chuối sáp trong tay, chờ Ý mở mắt là lột liền để ép cô ăn, bởi hổm rày Ý chỉ sống nhờ nước.
Ý hầu như đoán được đều đó nên chống lại bằng cách nhắm mắt vờ ngủ, tận đến khi tiếng thét thất thanh của một cô gái trên xe. Cô gái nầy hoảng hốt khi phát hiện cái túi của mình đeo kè kè trên vai, bị rọc hồi nào không hay. Lúc đó Ý mới chịu mở banh cả hai con mắt.
Tư vội lột trái chuối, dúi tận tay Ý, năn nỉ:
-Ăn một miếng lấy sức đi! Mấy ngày rồi chưa có thứ gì vào bụng.
Ý định từ chối, nhưng nghe giọng nói gần như van xin và ánh mắt khẩn khoản của Tư, cô chẳng đành lòng. Bèn nhìn trái chuối nhỏ bằng ngón tay, có màu vàng ươm một cái rồi cầm lên, cắn, nhai từng chút, từng chút một.
Vừa ăn xong một trái, Tư liền đưa tiếp trái khác. Ăn hết trái chuối thứ nhứt Ý mới nghe đói. Cô nhận trái chuối thứ nhì không do dự khiến Tư mừng húm! Đến trái thứ năm thì Ý chỉ cắn một miếng rồi lắc đầu nói :
-Ăn hết vô rồi!
Tư ngoắc một đứa bé gái đang xách cái túi ni lông có mấy chai nước suối lại để mua. Chàng mở nắp, lấy ống hút cắm vào rồi đưa cho Ý. Chờ cô cắm đầu vào chai nước, Tư liền ăn nốt trái chuối mà nàng bỏ mứa.
Mọi người trên xe xúm nhau an ủi cô gái xấu số nọ.
Cô ta khóc bù lu bù loa, kể lể rằng mình đã cực khổ như thế nào để có được một số tiền khá lớn như vậy. Cô đau khổ quá khiến ai cũng mũi lòng.
Không khí trên xe đang hết sức chan hòa bỗng co cụm lại. Ai cũng lật đật kiểm tra lại hành lý của mình. Người ta tránh nhìn nhau vì sợ bị hiểu lầm...
May thay, anh lơ xe kịp thời thông báo:
-Mời hết thảy bà con, cô bác xuống xe để qua phà.
Tư lấy thêm cái túi từ tay Ý, quàng hết trước ngực, rồi nói:
-Mình xuống cho họ khóa cửa xe, ngồi trên đây bất tiện lắm.
Chàng và nàng là hai người xuống sau cùng.
Chiếc phà gồm hai tầng. Tầng dưới đông ken người và xe nên cả hai leo lên cái băng trống ở tầng trên để tránh khói xe, khói thuốc.
Đợi Ý ngồi xuống xong Tư hỏi:
-Ý có đem theo cây lược hông?
Cô không trả lời mà lấy lại cái túi xách trên vai Tư, cho tay vào quờ quạng trong đó hồi lâu, rồi rút ra cây lược bằng nhựa màu trắng đưa cho chàng.
Tư không cầm mà bảo:
-Ý chải đầu lại đi!
Ý lại đưa túi cho Tư tròng vào cổ, tháo cây kẹp đồi mồi hình chiếc lá ra, tiện tay cho nó vào túi áo sơ mi trên ngực của Tư luôn.
Cô bắt đầu chải từ trên đỉnh đầu xuống phía dưới cho tóc thật thẳng, rồi dùng bàn tay trái đặt sát ót để gom hết tóc lại, tóm chặt rồi mới chải tiếp phần đuôi.
Ý không kẹp mà bới cao lên, phơi cái cổ gầy nhom! Với kiểu tóc nầy trông nàng già thêm năm, sáu tuổi, mang dáng dấp của một góa phụ làm Tư nghe quá xót xa!
Trong lúc Ý lo bới tóc, Tư cho bàn tay đeo nhẫn vào túi xách của Ý, dùng ngón tay cái đẩy chiếc nhẫn đeo trên ngón út ra, nhét vào đáy túi.
Bới tóc xong Ý nói:
-Mát quá!
Rồi đưa cái lược cho Tư biểu:
-Chải đi!
Tư cầm cây lược, lia hai ba nhát cho Ý vui chớ tóc của chàng hớt cua ngắn ngủn đâu cần phải chải. Một đứa bé trai bưng cái thúng gương sen rất tươi đến mời họ mua giùm. Tư thấy Ý nhìn chầm chập vào hai ống cẳng đen thui còn dính bùn của nó nên nhìn theo rồi hỏi:
-Sen nầy em hái hả?
Đứa bé trả lời rất lễ độ:
-Dạ!
Tư hỏi:
-Hái hồi nào?
Nó đáp:
-Mới hồi sáng nầy?
Tư hỏi tiếp:
-Hái ở đâu vậy?
Nó hơi ngần ngừ, chắc sợ Tư biết chỗ rồi giành hái hết, suy nghĩ vài giây rồi mới trả lời:
-Mị trong đồng, xa lắm!
Tư chỉ những vết trầy ngang dọc, chằng chịt trên chân nó, hỏi:
-Em bị sao vậy?
Lần nầy nó trả lời liền:
-Gai sen quào đó!
Tư hỏi như trách:
-Sao không mặc quần dài?
Nó lắc đầu :
-Gai sen bén lắm, rọc tét hết!
Tư mua giúp một chùm gồm năm cái gương sen, rồi cũng không lấy tiền thối khiến nó nghi ngờ, cứ trố mắt ra mà nhìn chàng chằm chập.
Thế rồi nó đi như chạy, mừng đến quên cả cảm ơn.
Lát sau nó đưa một con bé bán trứng cút đến. Con bé nầy coi bộ chuyên nghiệp lắm! Đưa cái bịt ni lông đựng mười cái trứng cút sát mặt Tư mà mời:
-Mua giùm con đi chú!
Tư cười lắc đầu:
-Chú không ăn trứng cút!
Nó năn nỉ:
-Chú mua giùm con một bịt thôi cũng được. Sáng tới giờ con chưa bán được đồng nào.
Tư vẫn lắc đầu.
Đứa con gái vẫn không nao núng, nó năn nỉ:
-Chú mua giùm đi, tội nghiệp con mà chú! Con mà không đem tiền về là trưa nay khỏi được ăn cơm mà còn bị đòn nữa đó! Làm phước đi mà!
Tư ngạc nhiên:
-Sao vậy?
Nó đáp:
-Má bả tưởng con lo chơi, hổng chịu đi bán.
Tư hỏi:
-Một bịt bao nhiêu?
Con bé mừng húm:
-Có một đồng rưởi hà!
Tư đưa cho nó hai đồng rồi nói:
-Cho con hai đồng nè, chú không lấy trứng đâu!
Con bé cầm tiền rồi chạy vù đi, chắc sợ Tư đổi ý. Tư nhìn theo thấy nó đang móc tiền ra khoe cho con nhỏ bán trà đá, rồi đưa tay chỉ về phía Tư.
Thế rồi con bé đó, cùng một người đàn bà bán chim sẻ rô ti và một người phụ nữ bán đậu phọng nấu liền hấp tấp len lỏi giữa nhóm người đang đi ngược chiều để tiến lại chỗ chàng.
Tư lật đật kéo tay Ý đi xuống cầu thang, cả hai lên bờ ngay khi phà vừa chạm vào cái bờ kè.
Cái phà ở bến bắc thứ ba nhỏ và cũ hơn hai cái trước.
Khi chiếc xe đò dừng lại sát bờ sông thì nó đã tách bến. Cho dù đi chưa được một phần tư chiều ngang con sông, nó vẫn không thèm quay trở lại mà tiến thẳng vào bờ đối diện. Mặt tình chiếc xe đò tức khí thở phì phò, bấm còi inh ỏi cùng tiếng người gọi vang dội nó cũng chẳng thèm chú ý.
Nó không có mái che, sơn tróc nham nhở và bị rỉ sét nhiều nơi. Trên phà chỉ có vài chiếc xe gắn máy và chưa đến hai chục khách bộ hành.
Khúc sông ở đây cũng không rộng bằng hai khúc sông trước. Đứng bên nầy ta có thể nhìn thấy hình dạng của con đường và những căn nhà ở bờ phía bên kia.
Người tài xế xe đò nhấn còi inh ỏi, buông ra mấy tiếng chửi thề rồi tắt máy.
Anh ta trút giận lên đầu người phụ xế, bằng tiếng quát:
-Sao không mở cửa xe cho khách xuống, còn chờ cái gì nữa?
Anh chàng phụ xế lật đật mở cửa xe, bị mắng mỏ nên anh ta tỏ ra hết sức bất mãn, vung tay rất mạnh, nói một cách hết sức hằn học:
-Xuống xe hết qua phà!
Anh ta nhấn mạnh ở chữ hết, ngụ ý chẳng ai được ngồi lại.
Bến phà vùng ven nên thưa thớt người đi cùng quán xá. Người bán hàng rong cũng rất ít! Họ không đeo bám khách như ở bắc Mỹ Thuận và Vàm Cống vừa qua.
Họ mang những món, có lẽ là đặc sản nơi đây, đi tới đi lui, chẳng thèm mời mọc và cũng chẳng thèm rao. Ai thích thì mua, bằng không thì thôi!
Một đứa bé trai đội cái mâm với những cái bánh màu vàng tươi trông rất đặc biệt. Thấy Tư nhìn chúng một cách tò mò nên Ý giải thích:
-Bánh nầy do người Miên làm bằng bột cộng với nước lấy từ xơ của trái thốt lốt chín để lấy màu và mùi thơm. Người ta gọi nó là "bánh bò thốt lốt ".
Không hỏi ý Tư, cô mua một cái, đưa cho chàng rồi bảo:
-Tư ăn thử đi, ngon lắm!
Tư không cầm mà hỏi:
-Sao Ý không ăn?
Cô lắc đầu:
-Còn no, mua để Tư ăn cho biết thôi!
Tư cắn một miếng vào cái bánh trên tay Ý. Nó có vị ngọt và mùi thơm rất đặc biệt. Chàng ăn với nỗi cảm xúc nhẹ nhàng, nghe ngon lạ lùng.
Tư cố tình nhai thật chậm. Chàng tự hỏi có phải vì nó là thứ bánh lạ, hay do bàn tay của Ý đút cho mà mình nghe hương vị của nó tuyệt vời đến vậy?
Một cô gái trẻ, da màu bánh ít, đội khăn nhưng ăn mặc theo kiểu người Việt, gánh một chùm ống tre đen thui, hình như có chứa thứ gì bên trong đến mời họ:
-Nước thốt lốt mới chắt ngon lắm nè!
Ý cũng lại mua một ống cho Tư uống thử.
Nhìn cái ống nước không được đậy Tư hơi ngài ngại, chàng từ chối:
-Tui ăn cả nải chuối, còn thêm một cái bánh nữa nên đang no lắm!
Ý đưa cái ống lên miệng định uống, Tư ngăn lại, đưa chai nước cho cô và nói:
-Ý có khát thì uống chai nước nầy nè!
Ý biết Tư ngại điều chi nên lắc đầu, tiếp tục nâng cái ống lên miệng. Thấy Tư nhìn mình đăm đăm, đang uống nửa chừng, cô liền dừng lại, hỏi chàng:
-Muốn nếm thử hông?
Tư gật đầu. Lần nầy Ý dúi cái ống vào tay chàng. Cũng như cái bánh bò vừa ăn, thứ nước ngọt và thơm còn hơn nước dừa xiêm nầy cũng làm chàng ngây ngất!
Quán xá thưa thớt, chỉ có mỗi một quán cà phê cất sát bờ sông nên không đủ chỗ cho khách ngồi. Một số người bỏ qua bên kia đường, núp dưới mấy cây trứng cá để nhờ chúng che hộ cái đầu.
Một người đàn bà vận chiếc xà rông màu nâu với những hoa văn rực rỡ, mặc áo bà ba tay dài, đầu đội khăn có viền tua rua xung quanh đang ngồi ở đó. Cách trang phục ấy cho ta biết chính xác bà ta là người Việt gốc Cam pu chia. Bà ngồi dưới gốc của một cái cây trứng cá lớn nhứt, có cái tàng rộng nhứt với từng từng, lớp lớp những chiếc lá nho nhỏ xinh xinh chồng khít lên nhau. Trước mặt bà là hai cái gióng: Một bên có cái hỏa lò bằng đất với chiếc nồi bên trên đang bốc hơi nghi ngút. Một bên là cái thúng đựng tô, chén, muỗng, đũa...,được đặt trên cái thau nhôm đựng nước để rửa.
Khói từ chiếc nồi chạy đến, chúng chui tọt vào mũi khiến Tư biết ngay, đó là một món ăn mà mình chưa từng nếm qua. Chàng nhìn Ý đăm đăm để chờ nghe cô giải thích.
Ý cắt nghĩa:
-Món nầy tên là "bún nước lèo". Nó được làm bằng cá nấu chín, bỏ xương rồi đâm cho nát. Trong nước súp mà ta gọi là nước lèo đó có cho xã, nghệ và mắm bò hóc...
Tư chặn:
-Mắm "bò hóc" là mắm của con gì?
Ý giải thích:
-Đó là đặc sản của người Cam Pu Chia . Nó cũng làm từ cá, giống mắm của người Việt mình nhưng mùi nặng dữ lắm! Bảo đảm Tư ngửi không có nổi đâu!
Tư nhận xét:
-Chắc vùng nầy người cam pu chia ở nhiều lắm hả? Từ nãy giờ sao nghe Ý giới thiệu nào là bánh của họ, nước giải khát của họ rồi bây giời là bún của họ.
Ý gật đầu:
-Đất nầy giáp ranh với họ mà!
Đưa tay chỉ về rặng núi mờ mờ, cô nói:
-Họ tập trung ở chỗ đó nhiều nhứt .
Ý bỗng hỏi:
-Đố Tư dân ở đây giàu nhờ làm nghề gì?
Tư đám không suy nghĩ:
-Ruộng rẫy.
Ý lắc đầu:
-Nơi đây được mọi người biết đến nhờ có cái miễu thờ bà chúa XỨ nổi tiếng linh thiêng nhứt nước.Chỉ những ai làm nghề bán hàng cho khách đến viếng bà và dân buôn đồ lậu mới ăn nên làm ra. Hầu hết bà con ở đây hầu hết đều làm nghề nông. Phần đông cư dân đều nghèo, một số đủ sống, số người khá khá hơi ít hơn một chút, còn giàu thì hiếm lắm! Chỉ có hai giới đi buôn và ăn theo khách du lịch mới khấm khá thôi hà!
Tư suy nghĩ một lát rồi nói:
-Tui đoán có một giới còn giàu hơn họ.
Ý hỏi:
-Giới gì?
Tư đáp:
-Quan chức bắt hàng lậu.
Ý bật cười. Nụ cười nầy đối với Tư, y như tia nắng đầu tiên hiện ra sau cả tuần mưa bão. Tư bỗng nghe người khỏe re! Chàng nghĩ thầm: "Ông bà mình nói không sai, đúng là một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Chẳng những bổ cho người cười mà cái người nhìn cũng bổ lây, hổng chừng còn bổ hơn luôn!"
Niềm vui ấy không kéo dài được lâu. Lát sau Ý bỗng nghiêm mặt bảo chàng:
-Qua phà đi một đổi nữa là đến nhà ngoại rồi! Tui không thích dắt Tư theo đâu! Để tránh mọi người hiểu lầm, phải giải thích rồi bịa chuyện lôi thôi lắm! Tụi mình nên chia tay ở đây. Tư kiếm nhà nghĩ ngủ đỡ nghe! Sáng mai ra bến xe mua vé về Sài gòn cho sớm.
Tư chới với, nhìn Ý bằng đôi mắt buồn hiu khiến cô động lòng.
Ý cúi đầu để tránh tia mắt ấy, nói tiếp mà không nhìn Tư:
-Tui rất cám ơn Tư bấy lâu đã giúp đỡ. Tư đừng phí thì giờ, đừng nghĩ đến tui nữa, vô ích lắm! Bây giờ tui chỉ muốn quên hết những chuyện không vui để sống một cách bình lặng. Nếu gặp nhau, tui không khỏi nhớ đến cái tai họa ấy, và nó lại khiến tôi nhớ tới cái tội ngộ sát của mình. Lương tâm đâu chịu để yên cho tui sống thanh thản...
Tư ngắt lời:
-Nhưng Ý nào muốn và cố tình làm thế. Sống là phải khoan dung, cho người và cả cho mình. Nếu mỗi lầm lỗi và mọi tội lỗi đều là những vết thương không bao giờ lành, thì trên đời nầy còn có được bao nhiêu người sống sót? Ý cố chấp như vậy chỉ khổ thân thêm. Không riêng Ý mà cả những người thân cũng đâu thể yên tâm. Ba mẹ, anh chị và cả người yêu của Ý ở suối vàng dõi theo cũng đau lòng, khó mà siêu thăng tịnh độ.
Ý lắc đầu:
- Ngày trước, lỡ đạp dẹp lép con kiến, hay đóng cửa kẹp chết con thằn lằn tui còn thấy buồn, thấy ray rức vì có tội...Huống hồ đây lại là tính mạng của một con người, lại là người mà tui yêu quý nhứt. Cái tội nầy chắc tui phải mang, phải trả đến hết cái kiếp nầy cũng chưa đủ.
Tư năn nỉ:
-Tui đâu có đòi Ý thương và sống với tui đâu. Chỉ muốn được săn sóc Ý mà thôi! Nếu Ý không muốn cho cùng vào chào ngoại, thì hãy để tui đưa Ý đi đến nơi, về đến chốn. Phải tận mắt nhìn thấy Ý được người thân đón tiếp tui mới yên tâm. Ý muốn giới thiệu tui là gì cũng được.
Ý lắc đầu:
-Tui không muốn bắt đầu cuộc sống mới của mình bằng những lời nói dối. Cuộc đời của tui, bắt đầu từ giờ phút nầy như cuốn tập đã sang trang. Tui không muốn viết lại những sự kiện, vẽ lại những nhân vật của những trang trước nữa. Dù biết làm như thế nầy rất có lỗi với Tư. Nhưng hãy coi như kiếp trước Tư vay của tui nên kiếp nầy phải trả, nếu không phải thì cho tui thiếu chịu, đến kiếp sau tui sẽ trả cho Tư.
Tư suy nghĩ một lát rồi nói:
-Thôi được rồi, tui sẽ không đi theo Ý nữa, nhưng tui muốn đi hết cuộc hành trình nầy. Kể từ lúc nầy Ý hãy xem như không có tui bên cạnh.
Ý biết Tư bị chạm tự ái, đang định nói thêm vài lời để Tư thông cảm cho mình và bớt thấy tổn thương. Bỗng hai cô gái đang đứng dưới cây trứng cá bên cạnh, cả hai đang chuyện trò rôm rả, chợt giậm chân lia lịa và la bài hải "kiến lửa, kiến lửa", rồi chạy bay đến chỗ Ý. Họ đứng sát vào cô để tránh nắng, khiến cô đành làm thinh tận đến lúc chiếc phà cập bến.
Ý lấy lại chiếc túi treo tòn teng trên cổ Tư rồi xuống phà. Tư không cho đó là cử chỉ xua đuổi. Chàng xem sự im lặng của cô là chấp nhận đề nghị của mình nên theo sát sau lưng.
Bất đầu từ đoạn nầy, con đường bỗng thay đổi cả dung nhan lẫn tính nết của mình. Thay vì đắp mặt bằng lớp nhựa đen, phẳng phiu, trơn láng. Nó phô ra lớp da xù xì cùng thớ đất thịt lở lói màu nâu đỏ với những mảnh xương đá trắng xám to bằng cườm tay. Những vũng nước pha bùn sệt sệt khiến ta liên tưởng đến một bải chiến trường với máu thịt lầy lội cùng các lóng xương, từ thân thể của một người vô ý đạp phải mìn bị bắn tung, nằm rải rác khắp nơi, khắp chốn.
Những cái ổ gà, ổ heo, ổ voi...mọc lềnh khênh, tạo ra vô vàn trở ngại, khiến chiếc xe đò năm chục chỗ ngồi nầy, đang quá mỏi mệt, hết kiên nhẫn nổi, dễ bẳn tính rồi sinh ra cáu gắt. Nó chẳng những khoét sâu thêm mấy cái hố đó mà còn quăng quật hành khách cho đã nư giận.
Người con trai có máu khôi hài, lúc nãy nói về chuyện ngăn mô cách bắc, liền hỏi cô gái ngồi cạnh bằng cái giọng rất hóm hỉnh:
-Cô có biết tại sao người ta gọi mấy người đi xe đò là "hành khách" hông?
Cô gái hỏi lại:
-Tại sao?
Y trả lời tỉnh khô:
-Tại vì ai ngồi trên xe cũng đều bị "hành" hết trọi!
Không riêng vì cô gái mà gần kết mọi người trên xe đều cười. Nổi bực bội đang sinh sôi trong lòng họ, nhờ có nụ cười nên được giảm nhẹ hơn một chút.
Ý ngồi sát cửa sổ, cố tập trung tinh thần để giữ cho cái đầu đứng yên, thế rồi vừa hơi lơ đảng là liền bị va vào khung sắt, trán u một cục liền.
Tư đứng lên bảo cô:
-Ý dời qua đây đi!
Ý lắc đầu đáp:
-Tui ngồi đây cũng được mà, sắp tới rồi. Đổi tới, đổi lui mắc công lắm!
Tư cắt nghĩa:
-Ngồi đây một lát xuống nhanh hơn.
Thế rồi Tư cứ đứng miết. Buộc lòng Ý phải đổi chỗ cho chàng.
Chiếc xe đò dừng lại ở bến chính của thị trấn, nơi có một cây phượng vĩ trổ bông đầy khắp, đỏ rực giống như một bó đuốc đang cháy phừng phừng.
Người lơ xe mở cửa, vài hành khách nôn nả đã đứng xếp hàng đợi sẵn ở cửa xe. Họ vọt ra trước tiên, gương mặt biểu lộ sự nhẹ nhỏm.
Những bạn đường vừa quen, buộc phải bỏ ngang cuộc chuyện trò thú vị, chừng như hãy còn nuối tiếc lắm! Kẻ đi, người ở, bịn rịn chào rồi trao những lời chúc rất hay, rất đẹp. Những câu ấy đều kết thúc bằng hai từ "mạnh giỏi". Thế rồi người thì thò đầu ra cửa xe ngoái nhìn, kẻ đứng bên đường ngó theo và đưa tay vẫy không biết mỏi.
Hành khách nối đuôi nhau xuống xe ào ạt. Mấy người đàn ông ngồi trên yên của chiếc xe đạp đòn giông, hay nằm trên cái rờ mọt phía sau của mấy chiếc xe có tên là "xe lôi", đang đậu sẵn trên bến để chờ khách. Cả thảy đều bật dậy như lò so, lật đật đổ xô đến mời. Người nào nhanh chân hoặc nhanh miệng, đón được khách thì cười tươi rói. Người ôm xe không thì mặt mày tiu nghỉu, trông ỉu xìu như mấy cái bánh bao chiều.
Tư ngỡ đây là bến cuối nên bỗng dưng nghe quặn ruột. Thấy Ý vẫn ngồi yên bèn vui lên một tí. Dù biết chẳng bao lâu nữa sẽ còn lại một mình, nhưng còn gần gũi được chút nào là mừng chút nấy.
Trên xe ngoài họ ra chỉ còn lại khoảng chín, mười người: kẻ nôn nóng, người uể oải...
Một phụ nữ trung niên, tay xách giỏ đệm bước lên xe. Người lơ chặn lại hỏi:
-Dì đi tới đâu ?
Bà ta đáp:
-Chợ Vàm, đi tới đó hông?
Anh ta gật đầu. Bà hỏi tiếp:
-Bao nhiêu?
Anh ta xòe năm ngón tay, đưa ra trước mặt, không buồn nói.
Người phụ nữ ngồi xuống ghế xong liền đặt cái giỏ lên cái ghế trống bên cạnh. Bà tháo cây kim tây đang gài miệng túi của chiếc áo mặc bên trong đưa lên miệng cắn. Thọc tay móc từ trong túi, lấy ra gói tiền được bọc trong chiếc khăn tay rồi mở từ từ.
Những tờ tiền giấy, cũ nhiều hơn mới, được xếp rất thứ tự: Lớn nhất nằm chót, nhỏ nhất nằm trên cùng. Bà rút tờ năm đồng đưa cho anh lơ xe rồi gói cái khăn lại cho vào túi, lấy cây kim tây đang được giữ chặt giữa hai hàm răng ra gài miệng túi lại.
Tư nhìn cái động tác tỉ mỉ ấy mà lòng chợt bùi ngùi vì nhớ má mình quá đỗi. Hình như những người phụ nữ, càng lớn tuổi càng gắn bó với tiền bạc, càng thích cất giữ và đếm tiền .
Ý bỗng khều vai chàng một cái. Tư quay lại nhìn, cô chỉ vào cái quần đen bóng lưỡng của người phụ nữ ấy rồi nói thật nhỏ:
-Lãnh Mỹ A đó!
Tư hỏi:
-Sao Ý biết?
Ý đáp với vẻ tự tin:
-Nó đen hơn, bóng hơn, mỏng hơn, mềm mại hơn, mát hơn hết thảy mấy thứ vải khác. Ai mặc vào cũng tăng cảm giác thải mái, tự tin. Nhìn là biết liền!
Bà dì ấy đoán biết cả hai đang nói về đề tài gì, nên cười với họ một cách thân thiện rồi bắt chuyện:
-Cô còn nhỏ mà biết giá trị của thứ nầy là giỏi lắm đó!
Ý cười, cám ơn lời khen rồi hỏi:
-Phụ nữ ở đây còn mặc Mỹ A nhiều như trước hông dì?
Bà lắc đầu:
-Ít lắm cô. Bây giờ muốn mặc cũng không có vì hổng ai nhuộm nữa. Tui mà còn là nhờ mua sẵn để dành cưới vợ cho con trai. Nó tử trận rồi nên không có dâu để cho. Tính để lại con gái mà nó nhứt định không lấy. Nó nói lãnh Mỹ A bây giờ con gái ai mà xài, chỉ có mấy bà già mới dùng thôi. Mặc mà không giống ai, bị bạn bè chộ quê chết!
Ý hỏi, giọng thông cảm:
-Con trai dì mất ở đâu?
Bà đáp, giọng bùi ngùi:
-Ở hạ Lào đó cô!
Ý rơm rớm nước mắt:
-Anh hai của cháu cũng mất ở đó!
Hoàn cảnh bất hạnh giống nhau tạo cho họ một niềm đồng cảm. Bà dì ấy vói tay nắm chặt bàn tay đang đặt trên đùi của Ý rồi hỏi:
-Cô là dân Sài Gòn phải hông?
Ý hỏi lại:
-Sao dì biết?
Dĩ cười:
-Ngó bộ dạng mảnh mai, trắng trẻo của cô là biết liền. Con gái nhà quê suốt ngày xốc vác, ở ngoài đồng từ sáng đến chiều nên chắc da, chắc thịt, đen đúa hơn nhiều.
Rồi chỉ vào Tư bà hỏi:
-Hai người là vợ chồng hay anh em?
Tư vội đính chính:
-Tui cháu mới gặp trên xe thôi, không có quan hệ gì hết!
Bà lật đật xin lỗi rồi giải thích:
-Tại tui thấy cô cậu nói chuyện rù rì coi bộ thân mật nên tưởng...
Tư và Ý không dám nhìn nhau vì ngượng.
Bà vẫn còn tò mò nên hỏi:
-Cô về đây chơi hay đi buôn bán?
Ý đáp:
-Cháu về thăm bà ngoại.
Bà hỏi tiếp :
-Vậy ra má cô là con gái xứ nầy?
Ý lễ phép:
-Dạ phải?
-Còn ba cô?
Ý kiên nhẫn:
-Ba cháu là người Sài Gòn.
Bà gặng:
-Vậy sao gặp được má cô?
Ý giải thích:
-Ba cháu làm việc chung với ông anh cô cậu của má. Cậu dắt ba về quê chơi nên gặp má cháu.
Bà gật gù:
-Vậy chắc cô ở Sài Gòn từ nhỏ hả?
Ý đáp:
-Dạ!
Bà chắc lưỡi:
-Hèn gì coi lịch sự quá!
Bà định hỏi tiếp, cũng may chiếc xe xốc mạnh khiến bà suýt văng khỏi ghế, lo kềm chặt tay vào cái ghế trước mặt mà quên béng đề tài tiếp theo.
Hành khách hồn vía lên mây. Ai cũng lo bám chặt lấy thứ gì cố định ngay tầm tay, có người ôm lấy nhau . Các câu chuyện tạm thời gián đoạn, họ cằn nhằn:
-Đường xá gì mà toàn ao với vũng.
Người lơ xe bỗng hỏi to:
-Sắp tới bến đò đầu cù lao rồi đó! Hồi nãy có người dặn ghé lại, chuẩn bị xuống xe nghe!
Hai cô gái bị kiến lửa cắn khi nãy đồng đáp:
-Tụi tui dặn đó! Ghé giùm đi.
Họ dừng ngang câu chuyện đang nói với anh chàng vui tính, vội từ giã:
-Tụi tui xuống trước nghe ! Anh đi mạnh giỏi!
Chàng ta đáp lại:
-Hai cô về nhà mạnh giỏi! Hổng chừng mai mốt tui ghé thăm đó!
Cả hai cùng hỏi:
-Thiệt hông?
Chàng ta nghiêm giọng:
-Thiệt chớ! Sợ tới chừng đó hai cô làm mặt lạ!
Họ lại kêu lên một lượt:
-Hổng có đâu!
Chiếc xe dừng lại trước một con đường đất, bề ngang chừng một thước, chạy thẳng đuột giữa hai miếng đất trồng trầu. Tấm bảng nhỏ bằng ván kẻ hai chữ "Bến đò " bằng sơn trắng, treo hơi khuất, chỉ những ai đã quen hoặc người ở xa cố tìm mới thấy.
Hai cô gái tay túi, tay giỏ lỉnh kỉnh bước xuống. Họ không đi ngay mà đứng nán lại, vẫy tay mãi miết với anh chàng vui tính.
Chàng ta ngoái đầu, hét to bằng cái giọng cà rỡn:
-Nhớ bắt gà nhốt sẵn nghe!
Kể từ lúc nầy, chiếc xe đò cứ chạy thêm chừng vài cây số thì dừng lại cho khách xuống . Nó nhẹ dần còn lòng Tư thì mỗi lúc một nặng.
Trên xe giờ chỉ còn lại bốn người, ba người họ và một ông lão mặc bộ đồ bà ba màu nâu.
Ông lão ấy là người cao tuổi nhất trên xe. Ông bới tóc và trông rất đẹp lão. Đến lượt ông đứng lên đi ra cửa, ôm bị đồ và xách một túi bánh mì.
Ông nói với bác tài:
-Ngừng giùm tui ngay cái cột cây số đàng trước nghe!
Túi bánh mì ban sáng to đùng, chứa cả chục ổ bánh, cái nào cũng phồng to. Bây giờ chúng đều xẹp lép, bèo nhèo như mấy cây dưa cải.
Ông lão nhìn túi bánh rồi nói một cách ngán ngẩm:
-Hồi trước bánh mì Sài Gòn ngon hạng nhứt, để tới chiều ăn cũng còn giòn. Bây giờ họ xài bột nổi nhiều quá mạng ! Xách về mà mắc cỡ với mấy đứa cháu.
Bà dì bồi thêm:
-Đâu riêng gì bánh, cái thứ gì bây giờ cũng tệ. Xà bông thì không có bọt, ba cái đồ bằng nhựa thì cứng cồng mau bể, vải sồ cũng xấu hơn hồi trước nhiều.
Chiếc xe thắng lại trước khối đá dẹp dựng sát bên lề. Một bầy con nít đang chơi trên cái sân gần đó đều dừng tay lại để ngó. Chúng thấy ông lão bước xuống thì chạy túa lại, ráp nhau kêu inh ỏi:
-Ông ngoại đi Sài Gòn về...ê...ê...
-Ông nội đi Sài Gòn về...
-Ông Út về...
Ông lão cười sung sướng, đưa cái bị đồ cho đứa lớn nhứt cầm giùm rồi mở túi bánh mì, lấy ra từng ổ, bẻ và chia cho mỗi đứa một khúc.
Tư bỗng cảm thấy tủi thân. Chàng không có được cái may mắn như bọn trẻ ấy. Không có cả ông ngoại, ông nội lẫn ông hàng xóm, chưa được ăn miếng ké miếng bánh thơm thảo như vậy một lần nào!
Chiếc xe chạy lên cái dốc cao. Tư giật thót người khi nghe Ý bảo anh chàng phụ xế:
-Qua cầu chừng một đỗi, tới gần bến đò anh nói tài xế dừng lại giùm tui.
Cô bỗng nắm chặt tay Tư, giữ lại vài giây rồi buông ra. Cô không nói với anh câu nào, cũng quên chào cả bà dì mới cùng trò chuyện, lầm lũi xách túi đồ đi ra cửa xe đứng đợi.
Chiếc xe dừng lại và Ý bước xuống. Hai hàm răng của Tư cắn chặt vào nhau, chàng ngoái đầu lại nhìn. Hoàn toàn tương phản với ông lão ban nãy, chẳng có một đứa bé hay người lớn nào chạy ra đón Ý. Cô không nhìn theo xe, không vẫy tay với Tư, ôm túi đồ rẻ vào con đường nhỏ cạnh cây xoài.
Tư cố lắng tai, chỉ an lòng khi nghe tiếng kêu thất thanh của một cô gái nhỏ:
-Chị Út về, nội ơi!
Anh chàng phụ xế thấy Tư không xuống xe theo Ý, lấy làm ngạc nhiên nên hỏi:
-Anh xuống đâu?
Tư lúng túng đáp:
-Bến cuối.
Người phụ nữ nãy giờ rất muốn gợi chuyện với Tư, nhưng thấy chàng mang cái khối u, cục buồn lớn quá nên ngại. Cho dù bà rất muốn ra tay bóc tách nhưng sợ mình không đủ khả năng, mổ xẻ lạng quạng chẳng những không giúp bệnh nhân khá hơn mà tử vong thì khổ.
Trên xe chỉ còn chỉ còn mỗi hai người, họ không nói chuyện với nhau thì làm cách gì cho đường ngắn lại? Thấy Tư chịu mở miệng trả lời anh lơ xe, bà mừng lắm, bắt trớn hỏi theo:
-Cháu cũng ghé chợ Vàm hả?
Tư ráng "dạ" một tiếng cho xong. Thầm mong không bị hỏi nữa. Vô ích!
Bà tấn công tiếp:
-Chắc cháu có bà con ở đó hả?
Tư lắc đầu:
-Dạ không?
Bà ngạc nhiên:
-Vậy tối nay cháu ngủ ở đâu?
Tư hỏi lại:
-Bộ ở đó không có nhà nghĩ sao dì?
Bà cười:
-Ở mấy chỗ nầy hiếm khi có khách du lịch ghé lắm! Đâu ai dám bỏ tiền xây nhà nghỉ.
Gương mặt Tư đang trĩu nặng lại càng u ám. Ông trời chừng như cũng mũi lòng trước cái cảnh tứ cố vô thân của chàng nên rơi nước mắt. Ban đầu chỉ khóc sơ sơ rồi dần dần có bao nhiêu đem ra trút hết. Mặt mũi ổng tối sầm, người tài xế phải bật đèn lên mới thấy rõ đường. Y cằn nhằn:
-Thiệt là bất nhơn! Còn có ba, bốn cây số là tới bến mà còn bị mắc mưa.
Người phụ nữ nói một cách quả quyết để an ủi mình lẫn người:
-Mưa ào ào như vầy chừng chút xíu là ổng hết nước, tạnh liền hà ! Đừng có lo!
Ông trời thấy bà qua mặt mình, nói bằng cái giọng làm tàng nên ghét. Ổng cố làm bà bẽ mặt chơi nên càng lúc càng cho mưa nặng hột.
Chiếc xe đò mò mẫm từng bước, hết trồi lên lại sụp xuống từng vũng nước một. Tốc độ còn thua người đi bộ nên khi đến nơi thì cái bến đã vắng tanh, chẳng còn một bóng người và chiếc xe nào. Hàng quán hai bên đường cùng đóng kín cửa, chỉ để lọt ánh đèn dầu leo lét qua khe.
Bác tài xế sợ họ ở miết trên xe chờ mưa tạnh nên không tắt máy mà hối anh lơ:
-Mở cửa cho họ xuống xe lẹ đi.
Người phụ xế tỏ vẻ ái ngại. Y chỉ tay vào mái hiên gần đấy bảo:
-Dì với anh vô đó đụt đỡ, chờ mưa tạnh hãy đi.
Bà ta thở dài than:
-Không có áo mưa làm sao mà về đây?
Tư lấy cái áo mưa trong túi xách, mở bung ra rồi nói:
-Cái áo mưa nầy lớn lắm, để cháu đưa dì về.
Bà không khách sáo, nhận liền:
-May mà gặp cháu, bằng không giầm đám mưa nầy về chắc cảm nặng quá!
Tư giành cái giỏ đệm trên tay của bà, nói:
-Dì để con xách đặng đi cho nhanh.
Bà cảm động, nghĩ bụng: "Cái cậu nầy tướng tá, tánh tình gì cũng được hết. Vậy mà bị cô gái kia cho leo cây thiệt là tội nghiệp hết sức"
Chợt nghĩ đến đứa con gái của mình, bà bỗng nhen nhúm một tia hy vọng, thầm nghĩ: "Coi bộ cậu ta đang lo không có chỗ qua đêm. Mình phải mời cẩu nghĩ lại cho bằng được. Mặt mũi y sáng sủa quá, chắc chắn là dân cầm viết . Biết đâu chuyện nầy là do ông tơ bà nguyệt xui khiến. Con gái mình mà lấy chồng ở Sài gòn, lại là dân có học, lên đó sống thì khỏe cái thân, còn gia đình mình cũng được hãnh diện với bà con!”
Từ ngày nhà nước áp dụng chính sách giản dân, khuyến khích dân thành phố hồi hương hoặc đi kinh tế mới thì lạ thay, phản ứng của bà con lại trái ngược. Họ lại càng khao khát được sống ở Sài Gòn. Cho nên không hiếm những cô gái lấy chồng chỉ vì cái địa chỉ.
Nhờ mơ đến viễn cảnh tươi sáng đó mà con đường về nhà, đối với bà chỉ còn có một nửa. Đến căn nhà vách tường, mái tole bà bảo Tư:
-Tới rồi đó cậu!
Cả hai đứng lại bên cái cổng đóng kín. Bà không gọi con mà vói tay mở chốt rồi mời:
-Cậu vô nhà ngồi nghỉ chưn uống nước.
Tư định từ chối, nhưng rồi nghĩ : "Biết đi đâu bây giờ, thôi cứ nghĩ tạm ở đây rồi tính tiếp", nên riu ríu đi theo.
Cửa nhà chỉ khép sơ. Bà vừa đẩy cửa vừa gọi:
-Đẹp ơi! Má về rồi nè!
Một cô gái trẻ măng, mặc bộ đồ vải bông, cổ xây, tay dún, từ trong bếp chạy ra, tay còn cầm miếng xơ dừa rửa chén. Cô ta không thấy Tư nên nói một thôi:
-Sao má về trễ dữ vậy? Tưởng dì Năm cầm má ở chơi nên con ăn cơm trước...
Cổ vừa nói tới đó liền nhận ra sau lưng má mình còn một người khác nữa, lại là đàn ông con trai, nên tự nhiên đăm ra mắc cỡ, ngưng ngang.
Bà bèn giới thiệu:
-Con gái Út của tui đó.
Rồi quay ngang hỏi chàng:
-Nãy giờ nói chuyện mà quên hỏi, cháu tên gì? Thứ mấy?
Tư trả lời:
-Cháu tên Tư, thứ hai?
Bà hơi ngạc nhiên định hỏi"sao tên Tư mà lại thứ hai?" nhưng thôi, bảo chàng:
-Dì thứ mười một lận, kêu dì một cho tiện.
Rồi hỏi cô con gái, đang đứng thập thò ở cửa buồng:
-Bữa nay con nấu món gì?
Cô con gái đáp:
-Thì làm y như má biểu đó, canh khoai ngọt với tép rang, dưa mắm.
Bà hỏi tiếp:
-Cơm với đồ ăn còn đủ cho hai người ăn hông?
Cô ta ấp úng:
-Má vô mà coi, con hổng biết nữa!
Tư vội nói:
-Cháu chỉ xin dì cho nghĩ tạm một lát rồi đi, đừng cơm nước...
Bà ngắt ngang:
-Trời mưa, tối hù cháu đi đâu bây giờ? Ở đây nghỉ ngơi, ăn ba hột cơm rồi nằm nhắm mắt dưỡng sức vài tiếng đồng hồ, mười hai giờ khuya là lên xe rồi!
Tư ngạc nhiên:
-Sao xe chạy sớm dữ vậy dì?
Bà hạ giọng:
-Họ đi giờ đó để trốn trạm mà!
Rồi bà chỉ tay vào cái lu da lươn đặt ngoài hiên bảo:
-Cháu ra đó múc nước rửa cái mặt, cái cổ đi, cho bớt bụi.
Bà nói tiếp bằng giọng tiếc rẻ:
-Phải còn sớm xuống sông lội vài vòng cho khỏe, về xứ nầy mà hổng được tắm sông thiệt là uổng!
Mưa đã ngớt hột, chừng như sắp tạnh. Ông trời khoái chơi cắc cớ, họ đã về tới nhà rồi nên ổng cũng hết hứng cái trò ngậm nước trong miệng mà phun nữa.
Tư bước ra hiên, mở nắp lu làm bằng nắp nồi gang loại lớn nhứt, lấy cái ca nhựa to có cán múc đầy một ca rồi rửa mặt mũi, hai lỗ tai và cổ.
Gáo nước mát chẳng những lấy đi lớp bụi đường trên mặt, còn làm vơi bớt nỗi phiền muộn trong lòng. Lau mặt thật khô xong, Tư không vào nhà, thấy cái võng được vắt giữa mấy song cửa sổ, chàng lấy xuống rồi leo lên nằm. Võng làm từ những bao cát nối lại, nằm khá êm.
Tư duỗi người trên võng, bỏ một chân xuống đất để đẩy cho nó đu đưa. Chàng rút chân lên, nhắm mắt lại, cảm giác như thân thể đang bềnh bồng. Chàng chợt khám phá nằm võng rất thú vị, nghĩ thầm "về nhà mình phải đi tìm mua một cái mới được".
Đang thiu thỉu chợt nghe đầu võng rung rung, Tư bèn ngước mắt nhìn lên. Cô gái đang đứng ngay đầu võng, rụt tay lại, e lệ nói:
-Má tui biểu ra mời anh vô ăn cơm.
Nói xong cổ lật đật đi liền không kịp cho tiếng cám ơn của chàng lọt vào tai .
Cái mâm nhôm đã được đặt trên bàn dài giữa phòng khách. Dì Một kéo ghế mời chàng ngồi. Không chờ Tư kịp ngồi xuống dì đã đưa chén cơm đầy vun tận tay chàng.
Dì nói như xin lỗi:
-Cơm nguội ngắt rồi, cháu chan canh vô cho đễ nuốt.
Tư để ý thấy giữa mâm có dĩa trứng vịt chiên. Thức ăn mỗi thứ một ít đựng trong mấy cái dĩa kiểu nho nhỏ, xinh xinh. Chắc dì sợ thiếu nên sai con gái làm thêm món trứng.
Món canh mà cô gái gọi là khoai ngọt đó, ăn giống hệt như canh khoai tím của người Sài gòn, có điều nó màu trắng như mỡ chứ không tím rịm, bỏ hành chớ không nêm rau om, ngò gai như má chàng. Món tép rang với những con bé li ti được ngắt bỏ râu và chân chỉ giữ lại cái đầu, một dĩa nhỏ như thế cũng có đến mấy trăm con. Nghĩ đến việc cô gái phải ngồi lặt bằng tay, hay lấy kéo cắt, rị mọ từng con mà Tư thấy tội nghiệp cho nàng hết hức!
Canh khoai ăn với mấy món tép rang, dưa mắm, cá muối chiên ...rất hợp. Từ sáng giờ chỉ ăn chuối cầm hơi, nên thấy cơm là bao tử của chàng liền rọt rẹt.
Tư khoái món dưa mắm nhứt! Nhớ Ý nói quê cô nỗi tiếng nhất là món nầy, Tư nghiệm ra rất đúng. Chàng ước chi được ăn mấy món có chữ mắm như mắm chưng, mắm kho, mắm chiên... do chính tay cô nấu.
Dì Một ăn cầm hơi, nhường cơm đãi khách. Dì canh chừng Tư vừa và hết chén cơm, chưa kịp buông đũa là giựt cái chén trên tay chàng bới thêm liền.
Cô gái hình như vẫn còn núp trong buồng theo dõi. Họ vừa ăn xong cô mang bình trà ra rồi dẹp mâm chén . Lần nầy tiếng "cám ơn" của Tư đã được cô tiếp nhận và đáp lai bằng chữ "không có chi" nhỏ xíu. Cô gái vừa nói vừa cúi gập cái cổ để giấu nụ cười bẽn lẽn, rồi bưng mâm vào bếp. Tư nhìn theo, chàng bỗng chới với khi nhận ra trên ót cô là cây kẹp chiếc lá màu tím của Ý!
Tư cho tay vào túi áo để kiểm tra : Cái túi trống không ! Chàng chợt nhớ ra, ban nãy lúc cời áo mưa hình như có cái gì rơi nhẹ trên chân, vì mệt quá nên chàng chẳng để ý. Chao ôi! Một phút lơ là, ngàn năm ôm hận! Tư muốn bức tóc, muốn tự thoi mình một cái cho hả giận.
Hai chén cơm vừa ăn bị cái lo, cái buồn, cái bực nầy đẩy trôi mất biệt. Tư nghiến răng thầm trách mình sao vô ý quá. Uổng cái công cầu xin chúa cho Ý không nhớ ra cây kẹp mà đòi lại. Chàng moi óc cố tìm cách lấy lại, vận dụng toàn bộ tỷ tỷ tế bào thần kinh nên chẳng để ý dì Một đang nói gì.
Gương mặt đờ đẫn ấy được bà cho là do mệt mỏi quá sức nên dẹp ngang cái ý định khai thác thêm về gia thế, công ăn việc làm của chàng. Dì rót ly trà đưa cho và bảo:
-Cháu uống ly trà cho ấm bụng, ra võng nằm nghĩ đi. Ráng chợp mắt được chút nào hay chút nấy. Lát nữa xe tới dì gọi dậy giùm cho.
Lúc nầy Tư mới nghe ra, chàng nói:
-Cháu xin lỗi đã làm phiền dì, khiến dì với cô Út bận bịu...
Dì Một cười:
-Có gì đâu mà phiền? Mai mốt tui có việc xuống Sài Gòn, cháu còn bận gấp mấy lần hơn nữa đó!
Tư hấp tấp mời một cách chân thành:
-Dạ dì rãnh rổi đi Sài gòn chơi một chuyến. Ghé nhà cháu nghĩ tiện lắm. Cháu ở có một mình hà!
Dì Một ra vẻ ái ngại:
-Bộ người thân của cháu ở xa hết sao?
Tư cười gượng:
-Cháu mới mồ côi năm ngoái.
Dì Một vừa mừng vừa thương, hỏi tiếp:
-Vậy rồi chuyện làm, chuyện ăn ai lo cho cháu?
Tư đáp qua loa:
-Cháu tự lo được, lớn rồi mà!
Thấy hỏi thêm nữa không tiện, dì nói:
-Tội nghiệp dữ hông ! Thôi, cháu nghĩ lưng, ráng mà ngủ đi cháu.
Tư còn bụng dạ nào mà ngủ. Mấy lần chàng muốn nói thiệt với dì Một xin lại cây kẹp mà không dám. Chàng chép miệng: "Cơm của người ta còn giắt kẽ răng, mới cám ơn lia lịa tức thì, vậy mà có cây kẹp cũng trở mặt mà đòi, coi làm sao được?". Rồi chàng lại nghĩ: "Hay là mình nói trực tiếp với cô ÚT, xin lỗi cổ trước rồi xin lại cây kẹp.
Kể từ lúc đó Tư cứ nhìn theo Út Đẹp hoài. Chàng rình chờ cơ hội để nói chuyện với cô, đồng thời cầu xin chúa lòng lành cho cây kẹp tuột khỏi mái tóc mà cô chẳng hay.
Cô gái hình như cũng cảm nhận được mình đang bị nhìn lén nên đâm ra lúng túng. Cô nghe máu chạy rần rần trên hai gò má và lòng xao xuyến quá! Cô bỗng quay lại nhìn Tư bằng cái đuôi của hai cả con mắt.
Cái nhìn như ngọn đèn xanh ở ngã tư ấy làm Tư bối rối. Câu: "Cô Út làm ơn cho tui xin lại cây kẹp" mà chàng ngậm trong miệng nãy giờ, tan như nước đá. Chàng biết cô đang đợi chờ một điều khác hẳn và câu nói đó sẽ làm nàng hết sức tổn thương!
Dì Một đem ra cho Tư một cái mền. Vừa thấy bóng dì, chàng liền nằm im nhắm mắt. Dì ngỡ Tư ngủ nên đắp cho chàng, cẩn thận gài mép kỹ mền sát vào người Tư, làm chàng bồi hồi cảm động.
Dì bỏ vào phòng, Tư nghe tiếng chõng kêu cọt kẹt và tiếng dì dặn dò cô con gái:
-Má có ngủ quên thì con ráng thức canh xe nghe!
Cô gái đáp:
-Để con! Má cứ ngủ đi.
Tư nghe tiếng "tách" nhỏ, chắc cô tháo kẹp ra để đặt đầu xuống gối. Chàng thở dài, vậy là không còn cơ hội để lấy lại cây kẹp nữa rồi!
Mấy tiếng đồng hồ sau, dì Một lay nhẹ chân Tư và nói :
-Cháu dậy đi làm vệ sinh. Xe sắp tới rồi để dì ra đường ngồi đón.
Dì vừa bước chân đi là Tư vén tấm màn treo ngang cửa, bước vô buồng liền. Cái mùng lưới thưa cho thấy cây kẹp đang nằm kế chiếc gối mà út Đẹp đang kê dưới đầu. Tư rón rén bước tới, tim nhảy tưng tưng như muốn vọt ra ngoài. Chàng vén nhẹ mùng, thò mỗi bàn tay vào để cầm cây kẹp rồi bỏ chạy ra ngoài liền. Tư chỉ kịp xách theo túi đồ, chẳng ngó ngàng đến cái áo mưa đang treo trên cánh cửa!
Út Đẹp đâu đã ngủ. Cô vẫn thao thức từ đầu hôm cho tới lúc ấy. Khi nghe tiếng chân Tư đi đến cửa buồng cô vội nhắm khít rịt hai con mắt.
Tư chỉ tập trung tia nhìn vào mỗi cây kẹp nên đâu thấy gương mặt của cô đang căng thẳng, đâu nghe tiếng tim của cô đang đập rầm rầm. Nếu bình tỉnh hơn, quan sát kỹ chắc chàng đã co giò bỏ chạy.
Cử chỉ liều mạng của Tư lại khiến Út Đẹp củng cố thêm niềm tin của mình, cho rằng Tư muốn mang cây kẹp theo về để làm kỷ niệm. Lòng cô càng xốn xang, giấc mơ trong cô càng bay cao vòi vọi.
Cũng phải thôi, có cô gái nào mới mười chín tuổi, có chút nhan sắc, lại không tin rằng cuộc đời đang cống hiến cho mình những thứ tốt nhất, đẹp nhất?
Dì Một thấy Tư đi như bị ma đuổi thì rầy:
-Từ từ, làm gì mà sợ trễ xe dữ vậy?
Tư còn đang thở dồn dập nên không trả lời nổi chỉ mĩm cười đáp lại.
Nhìn cái áo sơ mi phong phanh trên người chàng, dì quở:
-Mặc như vầy đi xe đêm chịu không nổi đâu! Tròng một cái áo vô thêm kẻo cảm.
Tư vâng lời, liền mở túi, lựa cái áo sơ mi dầy nhứt ra mặc vào, tiện tay nhét cây kẹp vào đó luôn cho nó khỏi bỏ trốn thêm một lần nào nữa.
Dì Một kéo từng ống tay của cái áo sơ mi bên trong xuống cho thẳng thớm giúp chàng. Tư lại nghe lòng nao nao. Lâu lắm rồi, từ ngày má mất, Tư mới có lại cái cảm giác sung sướng vì được chăm sóc như thế nầy. Chàng nghe lòng mình ray rức quá, linh cảm rồi đây lại làm cho cả hai má con dì thất vọng.
Hai vệt đèn pha cùng tiếng xe từ xa vọng đến. Dì Một đưa tay vẫy liền khi nó còn cách họ đến mấy chục thước. Vẫn là chiếc xe hôm qua. Vẫn người lơ và chắc cũng bác tài khó tính đó. Tư bỗng cảm thấy lo âu, nghi ngờ tính hiệu quả, an toàn của công việc khi họ không được nghĩ ngơi đúng mức mà phải làm liền tù tì như vậy!
Tư buông tay dì Một ra rồi nói:
-Thôi con đi, cám ơn dì và cô Út nhiều lắm! Rảnh việc dì lên Sài gòn một chuyến cho biết nhà con. Dì nhớ giữ cái địa chỉ con đưa, đến bến xe đọc cho mấy chú chạy xe ôm chở tới chỗ. Dì nhớ lựa người lớn tuổi để đi cho an toàn, mấy người trẻ họ lạng, lách dữ lắm!
Dì Một không đáp, chỉ gật đầu và vẫy vẫy cả hai bàn tay.
Tư ngoái lại nhìn, ánh đèn pha rọi thẳng về phía trước, dì Một bị bỏ lại phía sau, bóng tối mênh mông của đêm đã nuốt chửng, chỉ để lại một khối lờ mờ. Nghĩ đến cảnh dì lủi thủi đi trong con đường tối hù, Tư chợt nghe bùi ngùi trong dạ. Mảnh đất, con người ở đây, chàng mới chỉ biết trong chốc lát mà đã kịp chôn vào đó hơn phân nửa tâm hồn.
Con đường nầy trông hoang vắng quá ! Nó không đi qua bến xe với hai dãy nhà san sát đầy hàng quán lúc trước, nơi họ đã thả chàng xuống.
Tư hỏi người lơ xe:
-Chiều hôm qua xe đâu có chạy ngang đây?
Anh ta ngập ngừng đáp:
-Đây là đường tắt, đi gần hơn.
Thấy câu trả lời không chút tự nhiên của y, Tư đoán là họ đi theo lối nầy để trốn trạm.
Đây có lẽ là con lộ cũ, nó khá nguy hiểm vì rất nhỏ và chạy sát bờ sông. Bên tả lưa thưa vài căn nhà nằm khuất trong các vườn cây ăn trái. Bên hữu là bờ dốc lở với tiếng nước sông chảy xiết nghe sát bên tai. Thỉnh thoảng một hòn đá nhảy vọt lên cố né cái bánh xe, để rồi rơi tỏm xuống sông làm Tư nổi da gà.
Người tài xế bỗng thắng gấp trước một nhánh cây ngã nằm vắt ngang con lộ. Ông hỏi anh lơ:
-Kéo nhánh cây vô một mình nổi hông?
Anh ta trả lời:
-Phải làm thử mới biết.
Bác tài vẫn ngồi trước tay lái, tuy hỏi vậy nhưng ông không thèm xuống tiếp tay. Trên xe chỉ còn có Tư và người lơ là đàn ông nên chàng phải ra tay nghĩa hiệp. Ba người phụ nữ trên xe hình như là dân buôn đồ lậu. Họ nghe vậy nên cùng ráp nhau xuống kéo phụ.
Nhánh xoài ướt sũng nước mưa nên khá nặng. Nó chưa chịu lìa khỏi cây, năm người hì hục mãi mới kéo cho nó rớt ra. Họ hè nhau lôi đến sát bờ sông rồi đẩy xuống đó.
Vừa leo lên xe xong cô gái nhỏ tuổi nhứt liền chắt lưỡi:
-Mới đi có một đoạn là bị cản đường rồi, không biết có điềm gì không đây?
Người đàn bà lớn tuổi rầy:
-Cái miệng mầy ăn mắm ăn muối, nói tầm bậy tầm bạ không hà. Mùa nầy cây gãy nhánh là chuyện thường, điềm điếc cái giống gì!
Rồi bà hỏi Tư :
-Cậu có cái hột quẹt hông cho tui mượn?
Tư lắc đầu:
-Dạ cháu không biết hút thuốc.
Người lơ xe móc trong túi ra đưa, nói giọng trách móc:
-Biết tui có mà không thèm mượn! Sao mà giận dai dữ vậy?
Bà ta ngúng nguẫy:
-Không thèm!
Tư ngạc nhiên, họ rất chênh lệch tuổi tác mà nói chuyện thân mật y như bồ bịch.
Y ta dúi vào tay bà rồi cười mơn. Bà ta cầm, liếc xéo y một cái rồi nói:
-Thấy mà ghét!
Rồi bật lửa lên quơ vòng vòng miệng lẩm bẩm như đọc thần chú. Thấy Tư nhìn chầm chập, cô gái nhỏ tuổi nhứt ban nãy, giải thích:
-Đốt phong long.
Cô ta lại hỏi :
-Anh mới đi lần đầu hả?
Tư gật đầu, rồi sợ vô lễ nên hỏi lại:
-Sao cô biết?
Cổ không trả lời mà đưa cho chàng một cây thuốc lá "555", giọng ngọt xớt:
-Anh làm ơn giấu cái nầy vô túi giùm em.
Tư đắn đo, chàng đoán đây là hàng lậu, định từ chối thì cô ta trấn an :
-Anh đừng lo! Họ coi theo mặt mà xét thôi hà! Nhìn là biết anh là dân đi học nên họ không thèm đụng tới đâu. Chỉ có mấy người như tụi em mới bị rà tới nơi, tới chốn.
Bất đắc dĩ Tư phải cho nó vào đáy túi. Chàng có cảm giác như mình ôm quả mìn trong tay, hay đang bị một thanh gươm bén ngót treo lơ lững trên đầu.
Mỗi lần xe sắp ghé trạm, anh lơ gọi to:
-Đóng cửa sổ rồi xuống xe nghe bà con!
Hành khách bị đuổi xuống xe hết ráo. Mấy ông công an, tay cầm dùi cui, nhìn chăm chăm vào mặt từng người, hể thấy ai khả nghi là bắt mở túi ra, đưa cả tay và mắt vào lục lọi.
Đúng như lời cô gái nói, họ cho Tư đi qua dễ dàng. Tư tự hỏi, sao họ có vẻ rất chuyên nghiệp mà không nhận ra chàng đang mang nét mặt của một tên tội phạm.
Qua khỏi cái trạm sau cùng, cô gái đi gom thuốc lại. Không riêng gì Tư, có đến mấy người trên xe cũng được cô sử dụng, họ toàn là đàn ông ! Cũng phải thôi! Dân đi buôn sành sỏi lắm mà. Họ biết chẳng có đấng trượng phu nào đủ bản lãnh để thốt lời từ chối trước các cô gái trẻ, nhứt là những nàng khéo nói và xinh đến vậy!
Về đến Sài Gòn trời đã tối hù. Tư ghé quán cơm của dì Ba trước rồi mới vô nhà.
Vừa ngồi xuống là kêu liền:
-Cho một dĩa cơm với thịt kho hột vịt đi, bà chủ ơi!
Dì Ba thấy Tư là mừng ra mặt, hỏi liền:
-Đi đâu mà tới bữa nay mới về?
Tư đáp:
-Con về quê!
Dì hỏi tiếp:
-Ở đâu?
-An Giang.
Dì chắt lưỡi:
-Xa mút tí tè! Có bị kẹt bắc hông?
Tư gật đầu:
-Dạ có!
Rồi để dì không hỏi nữa, chàng nhắc khéo:
-Con đói bụng dữ lắm rồi đó dì!
Dì ba nghe vậy thì lật đật lấy cái dĩa to nhất lên cầm trên tay, mở nắp nồi cơm liền. Dì chịu khó nạy miếng cơm cháy nằm sát dưới đáy rồi úp lên dĩa. Dì rưới nước thịt cho đều, cắt làm đôi cái trứng vịt theo chiều dọc rồi gắp hai miếng thịt kho, mỗi miếng vuông vức bằng ba ngón tay, sắp hết lên trên mặt của dĩa cơm.
Dì hỏi:
-Ăn cãi chua, dưa giá, canh hay đồ xào?
Tư đáp ngay không nghĩ ngợi:
-Cãi chua dưa giá.
Hai tay bưng hai cái dĩa, một lớn, một nhỏ, dì đặt trước mặt Tư. Liếc mắt ngó qua, ngó lại...Thấy không có ai giỏng tai nghe ngóng mới cúi người nói sát lỗ tai chàng:
-Cả xóm họ đồn rần rần, nói cháu và cô Ý đi vượt biên với nhau rồi!
Tư giựt nãy mình:
-Thiệt sao dì?
Dì gật đầu:
-Ai biểu cháu đi mà không xin giấy tạm vắng.
Tư thở dài:
-Cháu quên phức.
Rồi phân trần:
-Bị gấp quá!
Dì nói tiếp, giọng còn nhỏ hơn:
-Cháu mà về trễ dám bị tịch biên nhà lắm!
Tư nghe dì nói mà sợ đến no ngang. Dĩa cơm quá hấp dẫn mà ăn hết muốn vô!
Vừa mở cửa bước vào nhà Tư đã thấy hai cái bao thư nhét vào hai bên cánh cửa chính. Một của bưu điện và một của công an phường.
Tư mở cái thư của phường ra đọc trước. Họ hẹn chàng sáng mai phải có mặt ở trụ sở công an. Lá thư kia mời ra đúng cái bưu điện hôm nọ để nhận bưu phẩm.
Tư hoang mang đến tột độ, không biết có bị chính quyền làm khó hay không? Nếu nói thật ắt liên quan đến Ý, còn bằng không phải tìm cớ gì cho trôi đây? Trước giờ chàng đâu biết bởi đâu cần nói dối. Bây giờ buộc phải làm mà làm không quen, không chuyên nghiệp, chưa chắc được tin. Có khi còn bị nghi ngờ, tra hỏi tới lui lại sinh thêm rắc rối.
Lại còn gói quà ở bưu điện nữa! Tư moi móc nghĩ hoài mà không ra ai đã gửi quà cho mình? Những người bạn của Tư ở trong cái xóm nầy đều nghèo rớt mồng tơi. Mấy đứa bỏ xóm đi xa, chúng đều theo cha mẹ đi kinh tế mới, cơm còn không đủ ăn nói gì đến chuyện gửi quà.
Những đứa bạn học thì họa may, nhưng cũng không chắc. Bấy lâu nay không liên hệ thư từ thì mắc gì lại gửi quà đột ngột, mà lại không viết thư báo trước.
Đêm đó Tư lại trằn trọc, ngủ không đủ giấc bởi vừa lo, vừa nhớ, vừa buồn đủ thứ. Một lần nữa chàng lại làm lành với chúa, cầu mong ngài hãy xí xóa chuyện cũ mà quan phòng đến mình.
Sáng hôm sau, Tư ăn mặc tươm tất rồi đến công an trình diện trước. Người chàng gặp đầu tiên là Tân, anh chàng công an khu vực.
Vừa thấy chàng là y hỏi chặn đầu liền:
-Sao? Mưa bão quá nên đi chưa được phải không? Chắc cô Ý cũng về với chung với anh hả?
Tư đáp:
-Tui đi về quê chớ đâu có ra biển mà sợ mưa, sợ bão.
Tân hỏi tiếp:
-Tỉnh nào?
Tư đáp:
-An giang!
Tân quát:
-Đừng có xạo ! Nguyên quán, trú quán của anh đều ghi ở Sài gòn rành rành. Lấy đâu cái tỉnh đó mà bịa ra ngon lành quá vậy cha nội!
Tư đáp:
-Đó là quê ngoại của cô Ý chớ đâu phải của tui.
Rồi chàng kể với Tân là Ý bị bịnh nặng phải đưa đi bệnh viện. Vừa được xuất viện là đòi về quê để được gia đình săn sóc vì không muốn làm phiền bà chủ nhà và mình.
Kể xong Tư nói:
-Cổ đòi đi liền nên tui không kịp xin anh cái giấy phép đi đường với tạm vắng. Anh không tin cứ tới bệnh viện rồi về An Giang kiểm tra coi cổ có thiệt ở đó hông?
Tân hỏi:
-Địa chỉ dưới quê như thế nào? Anh đọc cho tui ghi lại!
Tư thở dài :
-Nói chắc anh không tin, chuyện của hai đứa tui gia đình không chấp nhận nên tui đưa cổ đến nơi rồi ngồi trên xe mà không vô nhà. Tui chỉ biết cổ ghé ở chỗ...
Tân hỏi tiếp:
-Còn anh?
-Tui được một hành khách trên xe mời về nhà nghĩ chân, mấy tiếng đồng hồ sau là lên chiếc xe vừa chở mình xuống đó để về Sài Gòn liền.
Tân ghi những lời khai của Tư vào một tờ giấy, đưa chàng đọc lại rồi bắt ký tên vào một góc. Chờ Tư ký tên xong, y thu lại rồi cũng ký vào phía đối diện.
Tư nói:
-Nếu anh không còn hỏi gì nữa thì cho tui về để ra bưu điện nhận bưu phẩm.
Tân nhìn chàng bằng ánh mắt nghi ngờ rồi nói:
-Thôi được rồi, anh cứ đi về, nhưng trong thời gian nầy không được đi xa thành phố. Báo cho anh biết trước là có thể mỗi ngày tui sẽ ghé kiểm tra đột xuất đó!
Tư chưa kịp đứng lên thì nghe Tân nói tiếp:
-Anh viết bản tự kiểm, đưa cho tổ trưởng dân phố ký tên rồi đem lại đây nộp cho tui. Trong thời gian nầy không được đi vắng, biết chưa?
Tư phân trần:
-Tui phải đi dạy kèm và đến trường nữa, nên đâu thể có mặt thường xuyên ở nhà. Còn cái việc viết bản tự kiểm thì nhờ anh xí xóa giùm...
Tân ngắt lời:
-Không có xí với xóa cái gì hết!
Thấy Tư nhăn nhó, y nhấn mạnh:
-Cái tội tạm vắng không xin phép, gây hoang mang cho mọi người đáng lẽ phải phạt anh mấy ngày lao động. Thấy anh có vẻ bơ phờ, mệt mỏi quá nên tui tội nghiệp bỏ qua giùm cho, còn đòi hỏi cái gì nữa hả?
Tư vội cám ơn búa xua rồi lật đật ra về, sợ ở lâu lại sinh ra rắc rối. Ra đến cổng, chàng bỗng chới với, phát hiện chiếc xe đạp mà mình vừa dựng ở gốc bàng đã biến mất!
Chúa ơi! Đúng là "phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí"! Một nỗi lo sợ đến bàng hoàng làm mồ hôi tuôn ra nườm nượp từ những lỗ chân lông trên người chàng. Tư nghe hai chân rung bắn, hai lỗ tai bỗng lùng bùng. Cái câu "mất xe đạp rồi! Mất xe đạp rồi..." như tiếng búa gõ đều đều bên tai không dứt.
Rồi Tư nhìn quanh quất, hy vọng một cách tuyệt vọng, thầm trách mình sao quá hời hợt, làm biếng không chịu khóa xe nên mới bị mắc thêm cái nạn nầy nữa.
Tư nghe đau như mất đi một phần thân thể. Chiếc xe đạp ấy đối với Tư không khác gì người bạn cố tri. Nó chẳng những là tài sản giá trị nhất mà chàng hiện có, còn là chứng nhân của quảng đời tuy cơ cực mà vô cùng hạnh phúc của má con chàng. Vì vậy Tư bảo quản rất kỹ, những mong sẽ giữ nó bên mình suốt cả đời.
Ngoài giá trị tinh thần hết sức lớn lao đó, ích lợi về mặt vật chất nó mang đến cho chàng cũng không hề nhỏ. Đó chính là cái lưỡi của cây cần câu cơm. Không có chiếc xe đạp ấy, Tư khó mà cuốc bộ cả mấy chục cây số mỗi ngày. Chàng làm sao có thể đi từ nhà đứa học trò nầy đến nhà đứa khác, tới trường và tất cả các nơi cần đến?
Tư nào lạ gì với cái tệ nạn ăn cắp vặt đang lan rộng khắp nơi. Con người đang bị tha hóa đến cùng cực. Giá trị tinh thần đang bị vật chất đè bẹp, cây đạo đức đang lung lay đến tận gốc. Những người ngày xưa tay còn sạch, lòng còn trong mà đôi khi cũng bị vấy bùn, huống hồ gì...
Khi đất nước vừa đổi màu cờ, người ta cũng lật đật thay đổi luôn hình thức. Ở những ngày đầu tiên, mang mặc cảm có tội nên ai ai cũng cố tỏ ra hiền lành, chơn chất. Những cái móng tay dài, nhọn được tô sơn của phái đẹp, bị cắt trụi lũi rồi chùi sạch bách. Những mái tóc để dài thậm thượt cho ra dáng nghệ sĩ của phái mạnh, bị cắt ngắn ngủn đến sát ót. Các tay anh chị có máu mặt, những tên du đãng, du côn cũng không dám chửi thề như bắp rang nữa.
Tiếc thay cái thời hoàng kim ấy đã tắt rụi chỉ trong vòng mấy tháng!
Ngay lập tức, xã hội hình thành liền cái giới "mánh mun", những người kiêm nhiệm đủ thứ việc, từ mua bán, trao đổi cho tới lọc lừa...
Lòng tin giữa người và người trở thành thứ xa xỉ nhất và cũng là thứ dễ bị đánh cắp nhất! Rồi theo hiệu ứng domino, hể cái nầy sụp là kéo theo cái khác!
Ngay ở cái xóm nghèo của Tư, biết nhau quá xá mà hể sơ xuất một chút là đôi dép nhựa để ngoài hiên, hoặc cái áo, cái quần đang phơi trên gác cũng bị bốc hơi trong nháy mắt.
Tư tự dằn dật, đay nghiến cái tánh chủ quan của mình. Chàng cho rằng chẳng kẻ gian nào dám bén mảng đến tận nơi đây mà hành nghề, nên không thèm khóa xe cẩn thận như khi đến những chỗ khác. Nào ngờ bây giờ lại gặp đúng tay "tổ sư bồ đề", dám gãi ngay mũi cọp.
Thấy Tư bước trở vào, gương mặt đổi sắc, Tân hỏi:
-Còn gì nữa đây?
Tư đáp như hết hơi:
- Chiếc xe đạp của tui bị mất rồi!
Tân bật thẳng lưng lên, trố mắt nhìn Tư rồi hỏi:
-Có khóa không, dựng ở đâu?
Tư lắc đầu và chỉ tay ra sân, đáp:
-Tui dựng sát gốc bàng.
Tân hỏi bằng giọng trách móc:
-Tại sao không khóa?
Tư ỉu xìu đáp :
-Tại tui hơi gấp, với cũng ỷ lại, cho rằng ở bót công an chắc...
Tân ngắt lời:
-Bót, biếc gì? Bây giờ họ liều mạng dữ lắm! Còn dám cưa mìn nữa là...Bộ anh không biết mới tháng trước, ở đây cũng mất một chiếc xe đạp hay sao?
Tân đứng lên rồi đi ra cổng, Tư cũng lủi thủi theo sau với chút hy vọng mong manh... Làm như Tân là nhà ảo thuật, hoặc đấng toàn năng, có thể hô biến cho chiếc xe đạp đã bị mất đi sẽ hiện ra trước mắt họ vậy. Tư bây giờ chẳng khác gì người sắp chết đuối, gặp gì vớ nấy!
Tân bỗng chỉ vào chiếc xe đạp đang đứng dựa vào gốc cây bàng gần đó, hỏi:
-Đó có phải của anh không?
Tư lắc đầu:
-Giống giống nhưng không phải. Khi tui đến đã thấy nó nằm ở đó rồi! Chắc của ai đến liên hệ công việc, hay bị gọi tới để trình diện như tui.
Tư chỉ ngón trỏ vào cây bàng bên cạnh, nói:
-Tui dựng xe của mình vào cái cây đó đó!
Tân lắc đầu bỏ vào nhà lại, Tư nghe y hỏi lớn:
-Cái xe đạp ngoài sân của ai vậy?
Chẳng nghe ai lên tiếng. Tân bước vào lối đi hẹp phía trong, hai bên là các căn phòng đóng kín. Tư nghe tiếng gõ cửa, tiếng mở cửa, tiếng Tân hỏi "trong phòng nầy có người nào là chủ của chiếc xe đạp đang dựng ngoài kia không?". Tiếng trả lời "không" của một người nào đó, tiếng đóng cửa rồi tiếng chân bước tiếp.
Tư lo đến rối ruột, không thể ghìm mình ngồi yên được nữa, bèn đứng lên đi theo Tân.
Ngay lúc ấy, một cô gái đang hấp tấp dắt chiếc xe đạp từ ngoài cổng đi vào, nhìn dáo dác rồi dựng xe vào gốc bàng còn trống, nơi ban nãy Tư chỉ cho Tân thấy và nói là mình đã để xe ở đó. Cô ta lật đật dắt chiếc xe đang trên đường đi tìm chủ kia ra cổng. Thì ra...
Tư đi hơn mười bước chân thì đụng mặt Tân. Anh ta đang mở cửa một căn phòng bước ra, thấy Tư lủi thủi theo mình liền trợn mắt, gắt:
-Vô đây mà làm gì? Ra ngoài kia ngồi chờ tui đi!
Tư xoay lưng bước ra, nhìn một cách hú họa... Bỗng Tư chớp mắt liên tục. Bàn tay chàng tự động đưa lên mắt rồi dụi liền ba, bốn cái: Chiếc xe đạp cũ, màu xanh, với cái bọc ba ga vừa thay nệm, đang nằm đúng cái nơi mà ban nãy chàng đặt chống dựng nó xuống.
Chẳng nói chẳng rằng, mừng đến đánh bò cạp. Tư chạy vội đến rồi như sợ nó biến mất, lật đật vồ lấy , không thèm dắt mà thót liền lên yên chạy bay ra cổng.
May cho Tư, anh công an ngồi trong cái bốt gác nhỏ xíu cạnh cổng, đang cắm đầu vào tờ báo. Nếu không, với cái hành động khả nghi, phạm thượng ấy chắc chắn chàng sẽ bị tra hỏi đến nơi, đến chốn.
Khi Tân quay trở ra để nói với Tư cái giả thuyết của mình: Tân cho rằng có thể chiếc xe của Tư không bị đánh cắp mà do người chủ của chiếc xe kia lấy lầm. Chàng rất ngạc nhiên: Khổ chủ của chiếc xe bị mất và chiếc xe đang được xem là mất chủ, cả hai ban nãy còn sờ sờ giờ đã biệt dạng!
Tân thở dài tự hỏi "Cái thằng cha Tư nầy, đầu óc có bình thường hông ta?" .
Bất giác chàng thấy giận Ý ngang xương, lẩm bẩm:
-Tại sao một người như vậy mà đi thương cái tên như vậy? Thiệt là!!!
Tư đạp vèo vèo như bị ma đuổi, chạy một mạch đến bưu điện.
Nỗi mừng của việc tìm thấy chiếc xe đã chiếm hết tâm trí. Tạm thời những câu hỏi về sự xuất hiện đột ngột của nó, cùng chủ nhân gói bưu phẩm đều không còn chỗ trú trong đầu chàng.
Tư nghĩ thầm"lâu lâu cũng nên mất thứ gì đó, để đo lường giá trị của nó trong lòng mình và được thưởng thức niềm vui lớn lao khi tìm lại được".
Đến bưu điện, Tư chẳng những chịu khó len chiếc xe của mình vào giữa hai chiếc xe khác. Chàng còn cố ý cho vòng khóa vào cả hai cái bánh trước, của mình và của cái xe bên cạnh, khóa chúng dính chung vào nhau, rồi xoa xoa hai bàn tay một cách khoái trá.
Tư cảm thấy hết sức an tâm, tự khen đã nghĩ ra phương pháp để bảo vệ chiếc xe đạp của mình một cách rất hữu hiệu. "Đúng là cái khổ đẻ cái khôn, nếu không xém mất xe, dễ gì mình nghĩ ra cái diệu kế nầy". Chàng lẩm bẩm, tự hẹn từ nay sẽ áp dụng kế sách nầy triệt để.
Cô nhân viên hôm trước, tuy lần nầy không bị người yêu thúc hối, nhưng lại bị bao vây bởi một nhóm người xúm xít trước mặt.
Một ông, tuy khá lớn con cùng lớn tuổi nhưng lại hết sức rụt rè, đang năn nỉ cô ta:
-Cô làm ơn coi lại giùm...
Có lẽ đây không phải là lời khiếu nại đầu tiên của ông nên cô nhân viên cau mày gắt:
-Tôi đã nói rồi. Mấy món nầy bị cấm, ông đừng làm mất thì giờ của mọi người nữa!
Ông ta cố vớt vát:
-Nhưng mà...
Lần nầy cô ta không thèm nói hay nhìn ông ta, đưa tay đón lấy tờ giấy của người đàn bà đứng bên cạnh ông, nhìn rất chăm chú rồi lại gắt:
-Sao không điền ngày tháng vào rồi ký tên.
Người phụ nữ ấy có vẻ ít chữ nên ngại viết, nói một cách như van xin:
-Cô làm ơn ghi vô...
Cổ lại nói như nạt:
-Bà phải tự làm, tôi còn phục vụ mấy người khác nữa chớ đâu phải một mình bà.
Bà ta lật đật cầm tờ giấy lui ra, nét mặt ngại ngùng lúng túng trông rất tội.
Cô nhân viên ấy, chắc đã gặp cái cảnh nầy nhiều lần rồi nên trên gương mặt xinh đẹp ấy chẳng bộc lộ chút xíu cảm xúc nào, còn bồi thêm:
-Hôm nay thiệt xui, gặp cái gì không hà!
Câu nói thiếu thiện cảm ấy tuy làm những người xung quanh bất bình- đa số những người nầy đều lớn tuổi hơn cô ta- nhưng không dám bộc lộ mà càng tỏ ra e dè. Họ càng nói với cô bằng cái gọng hết sức nhẹ nhàng, gần như van xin. Chỉ mình Tư và một người con gái dáng vẻ giống sinh viên là cau mặt mà thôi!
Tư cảm thấy chút cảm tình đã có khi tiếp xúc ở lần trước với cô ta đã bay mất tiêu, mất biệt. Thay vào đó là sự ghét bỏ và bất mãn dâng lên đầy ắp trong lòng.
Gương mặt mà lúc mới gặp lần đầu, Tư thầm tấm tắc, cho là xinh đẹp đó. Bị sự vô cảm rạch lên từng nhát sâu đã trở nên xấu xí.
Cô gái nầy cũng giống với những cô mậu dịch viên ở các cửa hàng phân phối lương thực, nhu yếu phẩm. Cũng giống những nhân viên cả nam lẫn nữ ở các dịch vụ, công sở khác...Họ cư xử hoàn toàn trái ngược với những khẩu hiệu đã thuộc nằm lòng, rằng phải chứng tỏ mình là đày tớ của nhân dân..
Chính chế độ bao cấp đã biến người chủ, thượng đế thành kẻ đi xin xỏ. Cho nên ai cũng ngán ngẩm khi buộc phải đến những chốn "cửa quyền", phải tiếp xúc với các nhân viên, công chức.
Những người tự xưng là "nô bộc" đó, từ cấp thấp nhất cho đến cao nhất, ai may mắn có tí quyền hành nào là tận dụng một cách tối đa.
Tư vừa đưa tờ giấy báo ra vừa nói:
-Cô ơi làm ơn cho tui lãnh gói...
Chưa hết câu là bị cổ cự liền:
-Chờ đó đi! Bộ không thấy cả đống người ở đây còn chưa được giải quyết hay sao?
Cô ta còn rất trẻ, không chừng chưa tới hai mươi. Tư đoán chắc cái ô trên đầu của cô ta to lớn lắm, cái gốc bự lắm nên nói năng rất trịch thượng.
Tình trạng tuyển nhân viên theo tiêu chuẩn lý lịch, "nhất thân, nhì thế", quan hệ cá nhân ưu tiên hơn tài năng và đức tính ấy đang phá hoại các cơ cấu quản lý. Guồng máy hành chánh ngày càng nặng nề, kém hiệu quả bởi không được những người thợ lành nghề, đầy nhiệt huyết vận hành.
Người ta hấp tấp phá bỏ rồi giao cho những người thiếu kiến thức xây dựng lại. Họ vô tình thay thế các vật liệu bền chắc bằng những thứ không phù hợp. Cho nên...
Có lần Tư đến một công sở, chàng ngạc nhiên khi thấy ở đó có hai phòng làm việc chức năng như nhau đang trong tình trạng trái ngược: Bên nầy thì mấy hàng ghế gần như hoàn toàn bỏ trống còn bên kia lại không đủ chỗ ngồi. Hỏi ra mới biết, cái chỗ đắc địa, ăn nên làm ra đó là do một nhân viên của chế độ cũ được lưu dụng điều hành, một trong những người được gọi là "nhân viên tại chỗ".
Điều nầy cũng bởi các "nhân viên tại chỗ" không tạo cho mấy người "chủ" ấy một chút áp lực nào. Những "nô bộc" nầy phần đông đều lớn tuổi, ôm cái lý lịch đầy tì vết nên họ luôn nơm nớp lo âu. Họ bị ám ảnh rằng đến một ngày nào đó, sẽ bị gọi lên phòng tổ chức và được trao tận tay cái quyết định đình chỉ công tác. Vì lo sợ bị sa thãi nên họ phục vụ hết mình, hầu được đoái cái công sau để chuộc cái tội trước.
Tư xếp tờ giấy lại làm bốn rồi cất vào túi áo, không dám chìa ra nữa và kiên nhẫn ngồi chờ.
Hai cây kim của cái đồng hồ to tổ bố treo ngay giữa tấm vách sau lưng cô nhân viên và trước mặt Tư, đang nằm chồng lên nhau ở vị trí gần con số mười một.
Sắp đến giờ nghỉ để ăn trưa nên gương mặt của những người còn lại càng tỏ ra nôn nóng.
Cô "nô bộc" ấy cũng không còn bẳn gắt nữa. Những người tiếp theo được cô ưu ái hơn, có khi còn viết giùm, sửa giùm họ những chỗ ghi sai.
Chỉ còn một người nữa là tới chàng. Tư móc tờ giấy báo trong túi ra, cầm sẵn trên tay rồi đến đứng sau lưng cô gái sau cùng thứ nhì ấy.
Chờ cô ta đi ra khỏi quầy chàng mới dám đưa tờ giấy trên tay mình cho cô nhân viên, chưa kịp trình bày, đã nghe tiếng la chói lói của cô gái vừa đi ra:
-Ai khóa xe kỳ cục như vầy đây?
Tư chợt nhớ, vội chạy ra mở khóa. Cô gái cau có nhìn chàng gắt:
-Bộ đui hay sao mà...
Có lẽ sự chờ đợi, chầu chực nãy giờ khiến cô ta phát khùng. Nỗi bực tức vì phải chịu đựng, hạ mình trước cô gái trong kia đã có cơ hội để bộc phát. Cô không thể kềm chế được nữa , trút hết lên nạn nhân đầu tiên mình gặp nên đã nói với chàng như sỉ vả.
Tư rất mắc cỡ khi nhận ra hành động của mình hết sức ích kỷ. Chàng chỉ quan tâm với lợi ích của bản thân mà không ngại gây phiền hà cho người khác. Nỗi ân hận khiến chàng chẳng những không bất bình khi bị nàng mắng mỏ, mà còn cảm thấy nhẹ nhỏm như đã được đền tội.
Tư lật đật:
-Xin lỗi, xin lỗi!
Nhìn gương mặt đỏ bừng, cử chỉ lúng túng của chàng, cô gái "hạ hỏa" liền lập tức. Nàng bỗng nghe thương hại người con trai có nét mặt rất chất phác đang bối rối quá sức nên không làm tình, làm tội nữa. Một Ý nghĩ chợt nãy sinh trong đầu nàng: "Có khi anh chàng nầy cố tình làm thế để làm quen với mình đây mà".
Điều nầy làm cô rất thích thú nên đổi liền thái độ. Cô nhìn Tư bằng tia mắt chứa chan thiện cảm rồi nói bằng giọng hết sức nhẹ nhàng:
-Không có chi!
Trước khi đi. cô gái còn ngoái lại nhìn Tư cười rất tươi làm chàng chới với.
Khi Tư bước vào, cô nhân viên không nói một câu, đưa tờ giấy cho chàng bảo ký vào.
Tư không nén được nỗi tò mò nên hỏi:
-Ai gửi vậy cô?
Cổ trả lời:
-Anh gửi chớ ai!
-Thấy cặp mắt của Tư sắp rớt vì kinh ngạc, người nữ nhân viên ấy liền giải thích:
-Gói hàng anh gửi tháng trước bị trả về vì không có người nhận.
Rồi cô ta cúi xuống, bưng cái thùng hàng đã nằm đợi sẵn dưới chân đặt lên bàn. Kế tiếp lấy ra một quyển sổ, viết vào đó rồi đưa chàng ký.
Tư cứ đứng như trời trồng. Những sự kiện quá bất ngờ liên tiếp xảy ra khiến các giây thần kinh chịu hết muốn nổi, chúng sắp bung nếu chàng không gồng mình kìm lại.
Cô gái thấy Tư đứng im ru, không chịu cầm cây viết mình đưa cho thì bực bội gắt:
-Hết giờ làm việc rồi đó! Anh không ký nhận thì tôi lưu vào kho, sau nầy đừng có mà khiếu nại...
Tư đã định thần, chụp lấy cây viết rồi ký liền một cái rụp. Ôm thùng hàng đi ra mà quên cả cám ơn.
Cái thùng quà bị kết tội sát nhân ấy, vẫn còn mang những sợi dây bố ràng rịt khắp thân. Rõ ràng nó vẫn được giữ nguyên như khi gửi, chỉ hơi móp và trầy trụa vì phải di chuyển, bốc xếp nhiều lần.
Sau cơn chấn động, Tư liền tiếc hùi hụi, chàng ước gì Ý ráng ở lại Sài gòn thêm đôi ba ngày thì hay biết mấy. Đúng là con tạo trớ trêu!
Tư nghe nhẹ nhỏm biết bao khi cởi bỏ cảm giác tội lỗi đã mang trong lòng, đồng thời xót xa khi nghĩ rằng nàng vẫn đang mang tâm trạng nặng nề, khổ sở. Chắc Ý vẫn tự kết án mình mang tội ngộ sát, biến cuộc sống thành nhà tù vô hình, khiến bản thân và những người thương nàng cùng đau khổ.
Ngay lập tức, Tư quyết định mang thùng quà về quê cho Ý liền! Chàng muốn giải tỏa sợi dây oan nghiệt ấy cho nàng càng sớm càng tốt.
Nghĩ vây nên Tư không quẹo vào nhà mà đạp xe luôn qua xóm đình, ghé đầu ngõ chỗ cây bả đậu để tìm ông bác chạy xe ôm hôm trước.
May quá! Ông ta đang ngồi trên yên, miệng nhai, tay cầm một ổ bánh mì thịt.
Ông nhận ra Tư nên gọi rối rít:
-Cháu về rồi sao? Nhanh vậy!
Tư hỏi:
-Bác rảnh hông?
Ông gật đầu, nói:
-Thì cháu thấy đó! Bác đang ngồi không.
Ông phân trần:
-Từ sáng tới giờ chưa có một người khách nào!
Tư hỏi:
-Giờ nầy còn xe về An Giang hông bác?
Ông lắc đầu:
-Trễ lắm rồi, làm gì còn?
Tư hỏi tiếp:
-Bác có chạy nổi một lèo từ đây về đó không?
Ông gật đầu lần nữa rồi nói thêm:
-Năm nào bác cũng chở bà nhà của bác về trển để rẫy mả cho cha, má bác và ông bà ngoại sắp nhỏ. Hể thấy mệt thì lựa mấy cái quán "cà phê võng" vô nằm nghĩ, về tới nhà khỏe re!
Tư hỏi tiếp:
-Bây giờ chở cháu về dưới rồi quay lên liền, bác làm nổi hông?
Ông hơi đắn đo:
-Thường thì bác phải nghỉ lại một ngày để lấy sức chớ đi liền thì chưa lần nào nên không biết!
Rồi ông hỏi:
-Cháu làm cái gì mà gấp dữ vậy? Bộ có chuyện ngặt nghèo lắm sao?
Tư thở dài:
-Còn hơn ngặt nghèo nữa bác. Cô gái đi cùng cháu hôm bữa đó đó, có người chồng chưa cưới đi học tập ở ngoài trung. Cổ gửi đồ ăn tiếp tế cho anh ta, trong đó có cà phê. Hôm đó cổ nhờ cháu đi mua giùm cà phê để gửi theo. Cháu bị mắc mưa nên cà phê bị ướt. Thế rồi cổ nhận được một cái thơ, báo tin rằng anh ta vì uống cái nước cà phê đậm đặc tan chảy, còn nằm trong bịch nên chết ngay lập tức. Cổ té xỉu liền vì cho rằng mình đã gây ra cái chết cho anh ấy. Cháu chở cổ vô bệnh viện rồi đưa về quê ngay sau đó. Giờ mới biết gói quà chưa tới tay ảnh. Anh ấy chết vì bịch cà phê khác trong gói quà khác chớ không phải của cổ. Cháu muốn mang gói hàng nầy về liền để cổ thấy tận mắt rồi an tâm mà sống.
Ông bác xe ôm nghe say sưa đến độ quên cả nhai.
Ông nuốt vội miếng bánh đã nhũn trong miệng, rồi nói:
-Bác thấy gói quà nầy đâu có phải thuốc cấp cứu mà cháu quýnh lên dữ vậy?
Tư cắt nghĩa :
-Tại bác hổng biết nên nói thế. Gia đình cổ chết hết ngoài biển rồi. Nhà ngoại cổ ở sát bên sông. Cháu sợ cổ quẩn trí rồi đâm đầu xuống đó để đi theo họ nên muốn đi liền tức khắc.
Ông bác xe ôm nhớ lại cái dáng đau buồn, câm nín của Ý hôm trước nên nói:
-Cháu nghĩ vậy cũng đúng, thôi cháu về nhà lấy đồ rồi mình đi!
Rồi ông gợi ý:
-Hay là tới đó mình ở lại một ngày. Sẵn bác dắt cháu ghé bên bác chơi cho biết?
Tư lắc đầu, thở một hơi còn dài hơn nữa, rồi giải thích:
-Cháu mà ở lâu, chắc chắn sẽ bị mất nhà liền.
Ổng nhìn Tư, mấy cái dấu hỏi trong mắt cũng nhiều hơn hồi nãy. Tư bèn kể cho ông những rắc rối mà chàng gặp do lần trước đi không xin phép.
Ông liền hỏi:
-Vậy sao lần nầy cháu không xin phép?
Tư lắc đầu:
-Không có thì giờ, cũng chưa chắc được cho. Có khi còn bị giữ rịt vì cho là cố tìm đường tẩu thoát.
Ông gật gù, ra vẻ thông cảm, rồi hối:
-Vậy cháu về lấy đồ đi rồi mình đi ngay lập tức!
Tư hỏi:
-Bộ bác không đem món gì theo sao?
Ông trả lời :
-Bác có mặc bên trong một bộ đồ ngắn. Xuống tới đó lột bộ đồ nầy ra giũ cho sạch bụi, máng lên phơi. Chừng nào về sẽ mặc vô trở lại.
Tư yêu cầu:
-Bác chạy theo cháu nghe! Để cháu khỏi mắc công phải quay ra đây lần nữa.
Không chờ ông đồng ý, chàng đạp vút đi liền. Ông bác vội cho khúc bánh ăn dở đang cầm trên tay vào cái túi ni lông treo trên ghi đông trở lại, rồi chạy theo chàng.
Về đến nhà, Tư lấy cái túi đi đường đang nằm trong thau đồ chờ giặt ra. Chàng giũ mấy cái cho bụi bay hết rồi tóm mấy món đồ vừa bỏ ra để xếp vô trở lại.
Ông bác xe ôm đang dốc ngược chai nước trên miệng. Ông uống đến giọt cuối cùng để đẩy miếng bánh mì khô queo trôi tận ruột.
Ông đưa cái chai cho chàng và nói:
-Cháu cho bác xin một chai nước để đem theo.
Tư trao cái túi cho ông rồi xách cái chai chạy lẹ vô nhà, lật đật mở cái ổ khóa trên cửa rồi di vào bếp. Chàng nhấc cái ấm lên, nó nhẹ hều chẳng còn một giọt.
Đứng trong bếp Tư hỏi thật to:
-Hết nước chín rồi, cháu lấy nước từ rô bi nê được hông bác?
Ổng cũng hét to để trả lời:
-Được mà, hổng sao đâu, bác uống nước sống không hà!
Tư đưa chai nước cho ông, chàng không hỏi nhưng vẫn được ông giải thích:
-Mấy người suốt ngày ở ngoài đường như tụi bác đâu có được uống nước nấu chín.
Rồi nói thêm:
-Ở nhà bác cũng uống nước nầy. Vợ bác tiết kiệm lắm! Bả không dám nấu nước uống sợ tốn củi. Mấy con vi trùng với cái ruột của bác quen mặt nhau quá rồi. Bây giờ tụi nó bắt tay chung sống êm ru, hòa thuận lắm! Chẳng thèm đánh đấm nhau làm chi cho mệt.
Ông nói tiếp:
-Ông bà mình nói cái câu "ở bẩn sống lâu "sao mà đúng quá mạng! Mấy người nghèo trong xóm bác họ sống dai lắm. Bác toàn chở mấy người giàu đi cấp cứu không hà! Bác để ý thấy càng giàu càng mang nhiều chứng ngặt nghèo, nào là nhồi máu, tiểu đường, tăng xông...Có người vô ra bịnh viện như cơm bữa. Người nghèo thì chỉ cần cạo gió, giác hơi, uống nước gừng, nước chanh là đủ. Họ nhờ trời thương nên ít bịnh lắm!
Ông lại nói bằng cái giọng triết lý:
-Bác thấy người ta bịnh vì lo nhiều hơn thiếu. Người nghèo ít bịnh một phần cũng nhờ họ ít lo lắng. Đã cùi rồi thì hết sợ lở. Nghèo cùng cực rồi đâm ra hết sợ nghèo nữa, yên tâm mà sống. Bác thấy người nghèo ít ai tự vận lắm, chỉ có mấy người đang giàu rồi bị sập tiệm, sợ nghèo quá nên trốn nó mà chết thôi hà ! Mấy người nghèo cũng dễ vui hơn mấy người giàu. Lâu lâu có ai nấu món gì đem lại cho là mừng hết lớn. Mấy người giàu hay sinh bụng nghi ngờ, thấy ai tỏ ý thân mật với mình thì lo ngại lắm! Họ có nhiều thứ, mà thứ nào cũng nhiều nên sợ mất lắm!
Tư cười một cách thích thú trước nhận xét hóm hỉnh của ông bác xe ôm vui tính ấy. Gương mặt thanh thản, tính hài hước bộc lộ trong cách nói rất có duyên ấy, khiến Tư càng có cảm tình với ông hơn.
Tư nhận ra, chính những dịp tiếp xúc như thế nầy giúp mình thấy cuộc đời thêm đẹp. Không hiểu sao khi trò chuyện với những người bình dân, tính tình chơn chất Tư đều hết sức thích thú. Tâm hồn Tư được trong hóa như khi đọc những quyển truyện hay của các văn hào tầm cỡ!
Cho dù không hoàn toàn đồng ý một trăm phần trăm với ông. Chàng vẫn đáp:
-Đúng vậy đó bác.
Chờ Tư yên vị rồi ông ta liền đề pa cho xe chạy. Ông không đi ra đường lớn mà chạy thẳng xuống bờ kinh.
Biết Tư ngạc nhiên nên ông giải thích:
-Bác tạt qua nhà để báo với bác gái một tiếng, kẽo tối nay không thấy bác về bả lo không ngủ nổi, cái rồi sanh bịnh là phiền phức lắm!
Tư hỏi:
-Nhà bác gần đây hông?
Ông đáp:
-Mút con kinh nầy là tới.
Khoảng mười phút sau ông dừng lại ở một căn nhà nhỏ, mái tôn, có cái hàng rào trồng bông giấy cao nghệu, nằm đối diện con kinh rồi nhấn còi inh ỏi .
Một người phụ nữ đứng tuổi hớt hải chạy ra, tay còn cầm cái nấp vung nồi. Thấy ông bà cười tươi rói, không thèm hỏi gì hết mà nói liền:
-Hên quá, tưởng ông không về mà ăn bữa mắm kho nầy với tui rồi chớ!
Chợt nhận ra Tư bà khựng lại hỏi:
-Chú em nầy là ai?
Ông liền giải thích:
-Khách đi xe. Tui phải chở chú về quê mình gấp lắm! Tui tính đi luôn mà sợ bà trông, ghé nói cho biết chớ không phải về ăn cơm đâu!
Nhìn gương mặt tiu nghỉu của bà, Tư thấy tội quá! Chàng nhớ ngày xưa má làm món ngon, rủi mà mình vắng mặt bất tử là buồn lắm, nên nói:
-Bác vô ăn một miếng cho bác gái vui rồi hãy đi.
Ông và bà vợ nghe Tư nói vậy thì mừng ra mặt. Nhứt định mời vào ăn chung, cho dù chàng hết sức từ chối cũng bị họ lôi đi tuồn tuột.
Món mắm kho do chính tay dân có gốc "mắm" làm khác xa dân Sài Gòn.
Cái nồi mắm nầy không có màu hồng hồng vì mắm không bị ướp màu đỏ. (Khẩu vị của dân Sài gòn bị người Hoa chi phối cho nên họ khoái cho màu đỏ vào các món ăn) Cũng không cho thêm đồ biển như tôm, mực... thêm vào, chỉ có cá lóc và thịt ba rọi mà thôi.
Đồ "bổi" cũng chỉ có cà tím, thiếu khổ qua, đậu đũa, đậu bắp... Bù lại, rau ghém được trộn nhiều thứ hơn. Ngoài rau muống chẻ, giá sống, rau thơm còn có thêm bông súng, ngò gai, bắp chuối cùng bẹ chuối non xắt mỏng.
Tư chưa bao giờ được ăn món mắm kho ngon đến vậy! Chàng cũng nhận ra rằng nồi mắm kho ngon không cần phải xài phụ liệu phong phú và mắc tiền.
Tư hỏi thật lòng:
-Bác kho mắm rất đơn giản, cho ít thứ vào hơn mà ngon hơn mấy chỗ cháu ăn trước đây nhiều lắm! Bác có áp dụng bí quyết gì hông vậy bác?
Bà trả lời:
-Có bí quyết gì đâu, nhờ mắm ở nhà làm gởi lên cho, nó ngon sẵn rồi chớ tui đâu có tài cán gì!
Tư hỏi:
-Mắm làm như thế nào hả bác?
Bà đáp:
-Cá làm mắm phải rửa cho thiệt kỹ, xóc cho thiệt ráo nước rồi mới cho vào lu rắc muối vô. Ủ đủ ngày rồi vớt ra chao đủ đường, đủ thính rồi ủ tiếp. Để cho nó ngấm mới đem ra xài. Xài tới đâu lấy ra tới đó. Đừng lấy ra nhiều quá, mắm đã ra gió rồi mà xài hổng hết là bị hôi ê, hổng ngon. Mắm mà ngon kho mau rục và thơm lắm!
Tư nghe mê món mắm quá nên hỏi để học:
-Kho mắm khó hông bác?
Bà lắc đầu:
-Dễ ợt! Bỏ mắm vô cái nồi nhỏ, đổ nước ít ít rồi bắt lên bếp, nhớ cho lửa riu riu thôi. Khuấy cho mắm tan hết, thịt không còn dính vô xương thì nhấc xuống. Lấy cái rỗ đan khít như rỗ lược dừa để lọc bỏ xương, đổ thêm nước vô mớ cặn xác mắm, làm thêm vài lần để rửa cho hết thịt của mắm. Mỗi lần chỉ thêm vô chút xíu nước thôi. Xả rửa sạch, lấy gốc bỏ lá, đập thiệt giập, xắt mỏng rồi bầm nhuyễn với ớt bỏ hột. Bắt cái nồi trộng trộng lên bếp, cho lửa lớn. Rưới chừng một muỗng mỡ cho đều khắp đáy nồi, đập tỏi phi thơm rồi cho xả và thịt ba rọi vào xào, cá thì khỏi. Cho thêm một muỗng đường vô chung cho thịt có màu vàng. Thịt trong, cho tô mắm đã lượt vào nấu, chờ mắm sôi cho cá với cà tím vô, đợi sôi thêm vài dạo thì nhấc xuống.
Rồi bà dặn tiếp:
-Nhớ chịu khó lọc làm sao cho mắm không bị lỏng. Mắm lỏng, bị lạt cái rồi cho muối hay nước mắm vô thêm là hết ngon, mất mùi vị của mắm liền. Thà là lấy nước cốt hơi đặc rồi thêm nước từ từ.
Cách nấu của bà không khác má chàng nhưng cách ăn thì khác hẳn. Mỗi người ngoài cái chén bới đầy cơm còn có thêm cái chén không để bên cạnh.
Bắt đầu bữa ăn, bà đưa cho Tư một trái ớt, biểu giầm cho nát vô cái chén không trước. Kế đó mới gắp rau cho vào (rau ghém đã được xắt nhỏ trộn đều trước), chan mắm cho ngập rồi bưng lên miệng và, y như ăn cơm vậy đó! Hể ăn một đũa cơm là và thêm một đũa mắm.
Cái mùi, cái vị của tô mắm, cùng rỗ rau ghém tươi ngon khiến Tư quên mất phép lịch sự, chừng nhớ ra thì nồi cơm của gia chủ đã cạn sát đáy.
Tư ngại quá nên nói một cách ngượng ngùng:
-Con của bác lát nữa về, chắc phải nấu cơm thêm để ăn rồi!
Ông liền chỉ cái bàn thờ. Tư nhìn theo thấy có tấm hình một cô gái còn trẻ, tóc dài trên đó.
Ông cười rồi nói:
-Nó ăn trước mình rồi cháu đừng có lo.
Tư chới với, e ngại gấp mấy lần hơn lúc nãy, vì vô tình chạm vào vết thương của họ. Tư hỏi:
-Chị ấy tại sao mãn phần sớm như vậy hả bác?
Bà trả lời, giọng buồn buồn:
-Bị xe đụng.
Tư muốn hỏi thêm là cô con gái ấy chết đã bao lâu mà không dám.
Ông biết Tư ngại nên nói kiểu cà rỡn:
-Cái con nhỏ nầy nó không chịu ăn độn nên đi cõi khác trước hai bác. Con bất hiếu như vậy nên bác cũng không thèm thương nhớ gì hết!
Rồi hối:
-Cháu uống hết ly nước rồi mình đi kẽo trễ!
Tư nói với bà:
-Cám ơn bác nhiều lắm! Cháu chưa bao giờ được ăn mắm kho ngon như vậy!
Bà cười tít mắt ra vẻ hài lòng rồi kéo ông vô bếp. Tư đoán là họ đang cãi nhau, tiếng gắt gỏng của ông lấn lướt giọng lí nhí của bà.
Lát sau ông quay ra, Tư thấy trên người ông đã mang thêm áo gió cùng một cái nón lưỡi trai cũ xì trên đầu.
Ông nổ máy xe, gài số, rồ ga... sắp chạy bỗng nghe tiếng bà gọi giựt ngược:
-Khoan khoan, chờ tui một chút ông ơi!
Rồi chạy bay ra tay xách theo chai nước.
Ông cằn nhằn:
-Đã nói có rồi mà còn bắt xách thêm cho bằng được mới chịu. Cái bà nầy thiệt là...
Bà giải thích:
-Ăn mắm khát nước dữ lắm! Hai người hai chai nước mà thấm tháp gì? Một người hai chai còn chưa uống đủ, nghe lời tui đi mà! Chịu khó xách theo để khỏi kiếm chỗ xin nước.
Ông chắc lưỡi:
-Quán cà phê trên đường đếm không xuể, mắc gì phải kiếm chỗ xin?
Bà vói tay nhét thêm vô túi áo ông một chai dầu gió nhỏ xíu, vừa làm vừa nhìn ông bằng tia mắt van nài khiến ông chẳng thể nào từ chối.
Bà quay sang Tư, đưa cái nón kết cho chàng rồi nói:
-Cái nầy của ổng, cũ nhưng tui giặt sạch rồi. Cháu cầm xài đỡ. Đi đường nắng dữ lắm!
Tư cầm lấy, cám ơn rồi đội liền cho bà vui.
Ông hỏi, giọng giận giận, thương thương:
-Đủ chưa? Đi được chưa?
Bà gật đầu cười rồi dặn:
-Chạy từ từ...
Chưa nghe hết câu ông đã vọt lẹ liền.
Tư thấy cảm động trước sự chăm sóc ân cần, chu đáo của bà đối với ông nên nhận xét:
-Hai bác già mà coi bộ hạnh phúc quá!
Ông nói:
-Có hai vợ chồng ở nhau thôi! Cũng đã quen hơi bén tiếng rồi, không thương làm sao được!
Rồi hỏi:
-Ba má cháu chắc cũng vậy hả?
Tư đáp: .
-Ba cháu chết lúc cháu còn nhỏ xíu, nên hổng biết!
Ông hỏi:
-Bộ má cháu không kể gì hết sao?
Tư không muốn nói dối nên đáp
-Má cháu không có nhắc, chắc tại...
Nói tới đó Tư ngưng ngang vì chẳng biết nói gì thêm.
Ông vội đỡ lời:
-Chắc tại ba cháu mất lúc má cháu còn trẻ, ở với nhau chưa nhiều. Vợ chồng phải sống chung càng lâu, cái nghĩa, cái tình mới càng thấm thiết.
Ông dừng vài giây rồi hỏi:
-Cháu có nghe qua cái câu nầy chưa?
Ông hắng giọng đọc:
- "Mắm càng lâu càng thấm, vợ chồng già thương lắm mình ơi!"
Rồi ông tâm sự:
-Vợ bác hồi trước không chịu ưng bác, bị đòn dữ lắm bả mới chịu cho cưới. Lấy vợ đã ba, bốn tháng mà bác vẫn còn trai tân. Tới chừng bả bịnh thập tử nhứt sanh, bác săn sóc hết lòng bả mới chịu cho bác thương đó chớ. Đàn bà coi vậy chớ dễ xúc động lắm cháu ơi!
Ông bác xe ôm nói một cách vô tình, không ngờ đã thổi bùng cái ngọn lửa của niềm hy vọng đang leo lét trở thành le lói trong lòng Tư.
Chàng nghe vui vui, ôm chặt cái thùng hàng hơn rồi tự nhủ:
-Biết đâu! Ờ! biết đâu...
Qua khỏi Trung Lương, ông bác xe ôm không chạy theo mấy chiếc xe đò để đi đường lớn dẫn ra bắc Mỹ Thuận mà quẹo qua con lộ nhỏ.
Tư hỏi, giọng ngài ngại:
-Bác có đi lộn đường hông vậy?
Ông cười, đáp rất tự tin :
-Cháu yên tâm đi! Mỗi năm bác về quê trên một chục lần: Giỗ cha má bác và ông bà nhạc nè; đám hỏi, đám cưới mấy đứa cháu nè; đám tang bà con lối xóm nè; rẫy mả, ăn tết, cúng thanh minh...Toàn đi con đường nầy không hà. Bác thuộc nằm lòng, cháu đừng có lo!
Rồi ông hỏi:
-Cháu đi xe đò qua ba cái bắc mới tới phải hông?
Tư gật và đáp một lượt:
-Dạ.
Ông nói một cách đắc chí:
-Bác cháu mình đi đường nầy chỉ cần qua một cái phà nhỏ thôi! Không phải đợi lâu mà còn gần hơn mấy chục cây số nữa đó cháu!
Tư ngạc nhiên:
-Sao xe đò không chạy đường nầy cho tiện hả bác!
Ông giải thích:
-Họ phải đi qua Long Xuyên, Châu đốc để bỏ hàng, cho khách xuống nên bắt buộc phải đi con đường đó. Đường mình đi đây là đường tắt, chạy một lèo đến Hồng Ngự thì dừng.
Tư tấm tắc:
-Tên Hồng Ngự nghe hay quá! Cảnh ở đó đẹp hông bác?
Ông gật đầu:
-Ở đó là vùng Đồng tháp mười, tôm cá, chim cò, muỗi mòng...cái gì cũng nhiều hết.
Tư lại hỏi:
-Xứ đó trù phú như vậy chắc dân cư giàu lắm hả bác?
Ông thở dài:
-Mỗi năm nước lũ từ Cam pu chia đổ xuống một lần. Năm nào lũ lớn quá thì mùa màng thất bát, nhà cửa, ruộng vườn bị ngập. Của cải giành giụm hao hụt nhiều, có khi mất trắng phải làm lại từ đầu, cho nên phần lớn đều nghèo với đủ sống, ít ai giàu lắm cháu ơi!
Ông ngậm ngùi nói tiếp:
-Tội nghiệp dân làm ruộng! Cực hơn hết thảy mấy nghề khác mà cũng nghèo hơn hết thảy.
Tư hỏi:
-Bác sống ở Sài Gòn lâu chưa?
Ông đáp:
-Cũng ba chục năm có hơn.
Tư lại hỏi tiếp:
-Sao bác không ở quê nữa mà tới Sài gòn vậy bác?
Ông trả lời:
-Đúng là con người ta ai cũng có cái số hết cháu ơi! Bác có duy nhứt một đứa con thôi, vậy mà nó bị tim bẩm sinh, chở lên chở xuống nhà thương hoài nên dời về Sài gòn ở luôn cho tiện. Cũng may lúc đó tụi bác còn khỏe. Hai vợ chồng bác hết làm thuê làm mướn lại đổi sang buôn bán. Bả nhờ biết nấu nướng chút đỉnh nên bán bánh, bán bún, bán cơm... Bác với con gái phụ vô một tay, chẳng những đủ ăn mà còn dư dật.
Ông lại thở dài:
-Hai vợ chồng bác làm cật lực, để dành sắp đủ tiền để mổ cho nó. Cái rồi con gái bác bị xe đụng, bể đầu chết liền không kịp trối một tiếng. Vợ bác buồn quá làm hết nổi, bịnh tới bịnh lui hoài. Bác gom tiền để dành mua chiếc Hon Da 67 nầy để chạy xe ôm, cũng đủ độ nhựt.
Tư hỏi:
-Sao hai bác không về quê để ở gần bà con ruột thịt.
Ông nói:
-Hai bác già rồi, không đủ sức làm ruộng làm rẫy nữa. Ở Sài gòn coi vậy mà dễ sống hơn quê mình. Cái buồn thì nhiều nhưng cái bực ít hơn.
Im lặng một chút ông lại nói tiếp :
-Hai bác chỉ cầu mai mốt chết chung một lượt. Chớ kẻ đi trước người đi sau thì khổ lắm! Về quê may ra còn có mấy đứa em, mấy đứa cháu tới lui dòm ngó giùm, lại gần mồ mả của ông bà. Tới chừng nằm xuống khiêng ra gần xịt. Bác cũng có chút đỉnh, tính về dưới cất cái chòi nhỏ nhỏ trên miếng đất hương hỏa, rồi trồng trọt lai rai chắc cũng đủ ăn. Vậy mà nghĩ tới nghĩ lui lại thấy hổng êm chút nào!
Tư ngạc nhiên:
-Sao vậy bác?
Ông giải thích :
-Được cái nầy, mất cái kia cháu ơi! Ở Sài gòn thì thiếu người tâm sự, khi thắt ngặt khó tìm người giúp đỡ. Ở quê mình thì khổ kiểu khác!
Tư hỏi:
-Khổ kiểu gì?
Ông do dự:
-Bà con mình nói quan tâm cũng được mà nói tò mò cũng hổng sai! Cái gì cũng để mắt, để tai, để miệng tới. Mình mà vô tình làm mất bụng ai là bị họ rêu rao cho mọi người ghét lây khó sống lắm! Đã vậy còn phải lo trả nợ miệng dài dài mới khổ đại hạng.
Tư thắc mắc :
-Nợ miệng là nợ gì hả bác?
Ông chắc lưỡi:
-Hổng biết tại làm sao mà thiên hạ ngày càng chạy theo hình thức. Hồi bác còn nhỏ, ít ai làm đám giỗ rình rang lắm! Bây giờ thì thôi, họ đua nhau làm cho lớn, mời khách cho đông. Vừa được tiếng có tiền vừa được khen có hiếu. Ở quê bác đi ăn đám giỗ chỉ đem cúng cặp rượu, hộp bánh là đủ, không tốn kém nhiều. Ngặt cái nỗi phải mời qua mời lại. Mình ăn nhậu phủ phê ở nhà người ta rồi, tới phiên phải làm trả lại sao coi cho được. Mà đám sau phải bằng hoặc hơn cái đám trước mới khỏi sợ bị chê cười. Một năm mỗi nhà ít gì cũng vài ba đám. Mất thì giờ là một chuyện, mất sức khỏe mới ác. Họ nhậu búa xua, ai đem cúng thứ gì là lôi ra uống cho hết. Ba cái rượu đế ngày xưa làm bằng nếp rặc, bây giờ nghe đâu họ mua men công nghiệp bỏ vô nước cho có độ nồng, độc không biết bao nhiêu mà nói!
Tư thở dài:
-Nghe bác nói cháu cũng dội. Về đây thấy khí hậu mát mẻ cây cối xanh tươi, cháu đang ham mà nghe bác than nên cũng sợ. Cháu không thích uống rượu, cũng dỡ tệ cái vụ nói năng giao tiếp. Cháu yêu thiên nhiên nhưng lại sợ con người, chắc sống ở núi rừng hợp hơn.
Ông bác xe ôm lắc đầu, nói:
-Chưa chắc!
Con đường họ đang đi thuộc loại tỉnh lộ. Nó không rộng, không kiên cố, có rất nhiều ổ gà nên mấy chiếc xe hơi, xe gắn máy và cả xe đạp đều hì hụt, vất vả.
Tư nghe cả người ê ẩm, chân tê, lưng mỏi... Nhưng bù lại hai mắt được no nê .
Chạy song song và ôm sát con đường là hai con mương không sâu lắm! Người ta trồng sen, súng, rau muống, rau ngổ, ấu...và những loại thủy sinh khác. Đặc biệt là những mảng lục bình với những chùm hoa màu tím rất đẹp. Loại nầy không được trồng, không được săn sóc nhưng rất khỏe, tăng trưởng nhanh, sinh sản mạnh, chiếm gần hết mặt nước, đến độ chúng bị vớt bỏ lên bờ để ghe, xuồng di chuyển dễ dàng.
Tư đang thầm khâm phục sự dẻo dai của ông bác xe ôm, thì chiếc xe chậm dần rồi dừng lại trước một căn nhà sàn sát bên lộ.
Căn nhà nầy giống chòi nhiều hơn vì bốn bề không có vách. Chiều dài chừng ba mét còn chiều rộng thì mênh mông, đến gấp bốn gấp năm lần chiều dài.
Trong chòi có đến năm chiếc võng và hai cái bàn thấp chủm cùng tám cái ghế đóng bằng tre.
Vừa bước xuống xe, không chờ chủ quán mời, ông bác xe ôm và Tư mỗi người chọn liền một cái võng. Họ cùng thả lưng nằm xuống rồi thở cái khì một lượt.
Chủ quán là một phụ nữ trung niên, đang nằm trên cái võng xa họ nhứt với một đứa bé còn rất nhỏ. Bà ta đang dỗ cho cho nó ngủ.
Thấy có khách đến bà vẫn ôm đứa bé trong tay rồi nhẹ nhàng ngồi dậy. Bà đặt đứa bé nằm xuống võng trở lại, để cái gối ôm be bé vào hai cánh tay nhỏ xíu, dằn cái mền lên ngực cho nó không bị giựt mình và vẫn còn cái cảm giác được ôm trong vòng tay của bà.
Vừa bới tóc lại bà vừa hỏi:
-Ông anh với chú em đây dùng gì?
Bác xe ôm hỏi Tư:
-Cháu uống nước dừa hông?
Vừa hỏi ông vừa chỉ tay vào một quầy dừa trái nhỏ xíu bằng cái chén ăn cơm.
Nhìn quầy dừa với mấy trái đèo ngắt héo queo, Tư chẳng thấy thèm chút nào, trong bụng nghĩ thầm:
"Dừa non xèo, đâu có mùi vị gì, thà uống nước sướng hơn". Thế nhưng vẫn gật đầu và đáp nhẹ hều:
-Bác uống thì cháu cũng uống.
Ông bác biết Tư do dự, chắc cho rằng không ngon, chẳng muốn uống nhưng ngại mất lòng ông và chủ quán nên không dám từ chối.
Ông cười mỉm chi, rồi bảo :
-Chị chặt cho bác cháu tui hai trái dừa.
Bà ta hỏi:
-Có cạy lấy cơm hông?
Ông lắc đầu:
-Thôi khỏi?
Bà rút cái mác bén ngót giắt trên mái hiên xuống, vạt cái đuôi nhọn của trái dừa chỉ với một nhát. Không trút nước ra ly mà cho một cái ống hút vào rồi đưa cho bác xe ôm trước. Ông ta uống liền không chờ Tư.
Cầm trái dừa nhỏ xíu trên tay Tư hơi ngần ngại. Chàng hút một hơi ngắn bỗng dừng lại liền, nhả cái ống hút ra rồi nhìn đăm đăm vào bên trong và cả bên ngoài trái dừa.
Gương mặt bác xe ôm biểu lộ sự khoái trá cực kỳ.
Ông hỏi:
-Cháu thấy sao? Ngon hông?
Sự ngạc nhiên và thán phục tràn đầy trong giọng nói của Tư:
-Cháu chưa từng uống thứ dừa nào mà ngon đến vậy. Nếu không nhờ bác biết mà giới thiệu, chưa được thưởng thức qua, nghe tả thôi cũng không tin được. Cháu cám ơn bác lắm!
Ông bác nói một cách tiếc rẻ:
-Phải chi rộng rải thì giờ, bác dắt cháu đi tùm lum cho biết mấy món đặc sản ở quê bác. Trên đó cũng có nhiều thứ ngon lành lắm!
Tư uống từng chút, cố kéo dài cảm giác thú vị. Trái dừa cạn queo còn chưa muốn bỏ, nhìn nó thêm một chập rồi hỏi tiếp :
-Dừa nầy tên gì, có mắc hông bác?
Bác ta cười, đáp:
-Nó tên là dừa "ẻo". Giá chừng gấp rưởi trái dừa xiêm thôi!
Tư hỏi tiếp:
-Quê bác có trồng thứ dừa nầy không?
Ông lắc đầu :
-Không, cái giống nầy chỉ có ở miệt dưới như Gò Công, Mỹ tho...thôi hà!
Tư ao ước:
-Phải chi bác cháu mình về đây, mua một miếng đất rồi trồng chừng một trăm cây dừa như vầy để uống thả ga, đã đời hén bác!
Bác ta cười rồi nói:
-Mình không có thứ nầy thì được thứ khác. Lâu lâu hưởng một lần mới quí, nhiều quá đâm nhàm. Giết mất cái ngon đi. Ông trời coi vậy mà công bằng lắm cháu. Chỗ nào mà thiếu thứ nầy thì ổng bù lại cho thứ khác liền. Chỗ thì tôm cá nhiều, chỗ thì cây trái tốt.
Tư hỏi cắc cớ:
-Sài gòn thì được trời cho món gì vậy bác?
Ông bác cười :
-Cho người ta, dân Sài gòn giỏi lắm, không có đất mà họ trồng ra tiền ra bạc mới hay.
Gió thổi hiu hiu. Tư nằm trên võng, thòng một chân xuống để đưa qua, đưa lại. Hai bàn tay chồng lên nhau, lót sau ót để nhìn cho dễ. Tâm trạng chàng chưa bao giờ được sảng khoái như thế nầy.
Ông bác xe ôm đang nằm nhắm mắt định thần. Tư cũng muốn ngủ nhưng tiếc. Bà chủ quán thấy chàng mở mắt trao tráo, bèn kéo ghế lại, ngồi gần rồi bắt chuyện:
-Chắc cháu mới đi đường nầy lần đầu tiên hả?
Tư đáp bằng cách hỏi lại:
-Sao bác biết ?
Bà cười :
-Khách đi thường, ghé quán là nằm nhắm mắt liền, như cái ông anh nầy đó! Mấy người tới đây lần đầu như cháu là hay ngó chỗ nầy, chỗ khác.
Vừa nói đến đó bỗng đứa bé ré lên một tiếng. Bà lật đật chạy đến, tay đưa võng, miệng nói:
-Ngoại nè! Ngoại nè!
Nãy giở Tư đang thắc mắc nghĩ thầm "bà chủ quán nầy chắc cũng cỡ má mình, vậy mà con còn nhỏ xíu, thì ra...”
Chàng bèn hỏi:
-Con gái bác đâu?
Bà trả lời:
-Nó đi hái ấu rồi.
Rồi bà hỏi:
-Cháu biết trái ấu hông?
Tư lắc đầu.
Bà đẩy thêm vài cái cho chiếc võng đưa đều, miệng ru mấy câu ầu ơ, ví dầu...Chờ đứa bé ngủ yên trở lại, bà liền bước lại sạp, lấy từ cái thúng đặt trên đó ra một thứ có hình dạng như cái đầu của con trâu thu nhỏ, màu tím gần như đen, đưa cho chàng rồi nói:
-Nó nè!
Tư cầm lấy, thấy cứng như đá nên hỏi:
-Trái nầy để làm gì hả bác?
Bà trả lời:
-Để ăn.
Thấy Tư săm soi ra vẻ nghi ngờ. Bà hối:
-Cháu cắn cho nó bể làm hai rồi ăn cái ruột ở trong đi, cho biết với người ta .
Tư làm theo. Trái ấu gãy ở ngay chính giữa, để lộ phần thịt màu tím rất nhạt gần như trắng. Chàng nhai thử. Nó không mùi và có vị bùi của khoai, của hột mít luộc.
Bà hỏi:
-Cháu thấy ngon hông? Có thích hông?
Tư không thích lắm nhưng gật đầu cho bà vui.
Bà nói một cách sốt sắng:
-Nó mát và bổ lắm cháu, đem hầm giò heo, nhứt là nấu chè, ăn không thua hột sen chút nào!
Thấy Tư thờ ơ, bà hơi phật ý nên làm thinh, không thèm quảng cáo thêm cái ngon, cái bổ khác của trái ấu nữa.
Tư bỗng hỏi:
-Bác ăn ở chỗ nầy luôn sao? Cháu thấy nhà không có vách thì làm sao mà...
Bà chỉ tay về phía sau lưng Tư, nói:
-Tối bác với con gái, cháu ngoại về đó ngủ, sáng mới ra đây .
Tư nhìn theo hướng tay bà chỉ, thấy có một căn nhà lá nhỏ phía bên kia mương với cây cầu nối qua quán. Cách đó một đổi có vài mươi căn tạo thành một xóm nhỏ.
Những căn nhà ở đây đều nhỏ, chỉ một hoặc nhiều lắm là được hai gian. Vật liệu chủ yếu là tre, lá và cây tràm. Chúng không đứng khít rịt bên nhau để ăn gian một tấm vách như ở chợ, mà tách nhau ra để tạo thành những cụm nhỏ chừng năm bảy căn. Mỗi căn cách nhau hơn chục thước.
Đấy là khoảng cách lý tưởng để bạn có thể sai con, sai cháu... bưng một tô canh, tô cháo, dĩa bánh khọt, bánh xèo vừa lấy từ bếp xuống, đem biếu láng giềng. Người nhận có thể ăn liền không phải thổi và cũng không cần hâm lại.
Tất cả đều cất giống hệt nhau, nhà sàn, lót ván hoặc vỉ tre, lợp lá.
Những căn nhà ấy đều có một cây cầu nhỏ trước nhà, bắc qua con mương để ra lộ. Dưới chân cầu thường có những chiếc xuồng nhỏ, hoặc cái bè ghép bằng vài cây chuối. Điều nầy chứng tỏ dân ở đây đi lại bằng đường thủy nhiều hơn.
Mấy cây cầu khỉ nối chúng với con lộ được chia làm ba nhịp, nhịp giữa không được gắn dính để có thể lấy ra cho những chiếc xuồng chở đồ cồng kềnh chui qua, chui lại.
Tiếng gáy êm êm của ông bác xe ôm y như tiếng ru đưa Tư vào giấc ngủ. Chàng đang thiu thiu bỗng nghe tiếng nói của một cô gái:
-Nó có khóc đòi bú hông má?
Bà chủ quán trả lời:
-Có chớ sao không? Má cho uống một chén nước cháo đường nó mới chịu ngủ đó!
Tư hé mắt nhìn, chàng thấy cái lưng của chiếc áo bà ba đen ướt đẫm trước mặt, chắc đó là cô con gái của bà chủ quán đi hái ấu đã về .
Như để chứng minh cho điều đó. Cô gái đặt cái thúng ấu đầy ngang miệng, đang bưng bên hông xuống tấm giạt tre rồi hỏi, giọng buồn hiu:
-Sáng tới giờ bộ hổng bán được ấu hả má?
Bà chủ quán thở dài:
-Chỉ có một người đàn ông chở đứa con gái ghé lại mua một đồng thôi hà!
Rồi bà nói:
-Âú mới luộc để tới mai cũng không sao. Miễn là trải nó ra rời rạc từng trái, hong gió cho đừng bị nong nước bên trong là bảo đảm hổng hư, để mai còn bán được con đừng có lo.
Cô gái nói:
-Con hổng có lo nó hư, lo không vét đủ tiền đóng hụi thôi hà.
Rồi cô nói :
-Để con đội thúng ấu sống nầy ra chợ coi có bán được hông.
Bà má cản:
-Giờ nầy chợ gần tan rồi bán ai mà mua. Con đi rồi con nhỏ thức dậy đòi bú thì làm sao?
Bỗng bà lại đổi ý:
-Thôi, có muốn đi thì đi lẹ lẹ. Chừng nào về thì ghé nhà hai Rô kêu nó đem một quầy dừa dâu cho má nghe, còn có ba trái nữa là hết!
Cô gái can:
-Dừa đó nặng vốn lắm, ở đây đâu ai có tiền mà uống. Mấy người khách có tiền thường ở xa không hà, họ thấy trái nhỏ xíu thì tưởng còn non đâu rớ tới. May mà ông bà độ, chớ hôm bữa về nhà thấy má rinh nó về con rầu hết biết. Bán hết quầy nầy thì dẹp nó luôn, đừng mua thêm nữa má ơi!
Bà má rầy:
-Bán thì phải có thứ nầy thứ kia. Quán người ta thì mỗi ngày thêm một món, quán mình thì cứ bớt lần lần, riết rồi chỉ còn mì ăn liền với nước ngọt.
Cô gái nhắc:
-Má có nhớ cái quầy dừa hôm sau tết hông? Ế nhệ hổng ai mua...
Bà má gắt :
-Thì có bỏ trái nào đâu, mình cũng uống hết vậy!
Cô gái cười:
-Uống mà xót ruột muốn chết, lần đó muốn đứt vốn luôn, con tởn tới già rồi.
Bà mẹ lại gắt:
-Hổng mua thì thôi, đi lẹ đi để con nhỏ thức dậy, nó thấy là đeo dính luôn, ở đó mà đi!
Cô gái lật đật cặp cái thúng ấu bên hông rồi đi nhanh như chạy.
Tư bỗng nghe tiếng ông bác xe ôm nói với bà chủ:
-Chị chặt cho tui thêm hai trái dừa, lấy cái bịt chắc chắc đựng thêm năm đồng ấu giùm rồi tính tiền luôn!
Gương mặt bà chủ hớn hở lên liền như trúng số.
Chờ lên xe, đi một quảng rồi Tư mới hỏi:
-Bác nghe bà chủ nói chuyện với con gái nên mua giùm phải hông?
Ông gật đầu :
-Thấy họ mà nhớ tới cái lúc gia đình bác chưn ướt chưn ráo mới dọn xuống Sài Gòn.
Tư ướm hỏi:
-Chắc khổ lắm hả bác?
Ông chắt lưỡi:
- Hồi đầu hai bác ra bán hàng ăn. Vợ bác làm bánh ít trần rồi bưng đi bán, bữa nào ế là rầu thúi ruột. Nhớ cái lần ế tới nửa mâm. Ba người nhà bác ăn muốn lòi bản họng. Không dám đem bưng cho lối xóm, sợ họ ăn quen rồi hổng thèm mua, chờ mình bán ế đem cho.
Ông bỗng phát lên cười sằng sặc rồi hỏi chàng:
-Cháu ăn chè xôi nước nhưn tôm thịt chưa?
Tư hỏi lại:
-Có thứ chè đó nữa sao bác?
Ông nín cười đáp:
-Thì cũng cái lần đó đó! Ăn làm sao mà hết mấy chục cái bánh ít trần. Vợ bác bỏ đường vô nấu thành chè rồi hâm đi, hâm lại mà ăn từ từ.
Ông lại cười rồi nói tiếp :
-Kể từ lần đó hể nghe nhắc tới bánh ít trần với chè xôi nước là bác nổi ốc khắp mình. Cháu có tin là tới bây giờ, đã gần hai chục năm rồi, bác còn chưa rớ tới hai món đó hông?
Tư đáp:
-Tin chớ!
Rồi chàng lại kể cái trường hợp của mình:
-Hồi đó má cháu có cho một cặp vợ chồng ở ké. Người chồng đạp xích lô, người vợ bán chuối chiên. Ngày nào bán ế chỉ cũng cho cháu ăn ngập mặt. Thế là tới bây giờ cháu cũng ớn chuối chiên tới óc. Chẳng những sợ cái miếng chuối, mà nghe mùi dầu chiên cháu chịu cũng không nổi. Cũng may mà sau đó họ trúng số, mua một căn nhà rồi dọn đi nên cháu mới thoát nạn. Nhiều khi cháu nghĩ chắc tại má cháu xài ba cái dầu cũ đen xì của chỉ cho, với hít mùi đó hằng ngày nên mới bị ung thư.
Cái kỷ niệm về thuở hàn vi đó làm Tư nghe buồn vì nhớ má quay quắt. Chắc ông bác xe ôm cũng nhớ đến cô con gái xấu số của mình nên Tư thấy ông đưa tay lên quẹt nước mắt.
Chàng vội hỏi:
-Chắc bác gái không bán bánh ít trần nữa hả bác.
Ông gật đầu:
-Ăn sao nổi nửa mà bán. Bả đổi qua bán bún bì, thịt nướng, chả giò. Làm cực quá mạng, ban đầu cũng đắc cái có người ra tranh, xúi người chủ cho bác bán nhờ trước nhà lấy chỗ lại.
Ông chắt lưỡi nói tiếp:
-Nghĩ lại mà thương cho vợ bác hết chỗ nói ! Hồi còn con gái thì bị ép duyên. Cái người mà bả thương sống thương chết thì gia đình không cho lấy vì kỵ tuổi. Về ở với bác thì đã hổng thương chồng còn bị má với cái đám em chồng hổng ưa. Chừng thương được chồng rồi thì đẻ con bịnh lên bịnh xuống. Ra buôn bán thì trầy trật, buông cái nầy bắt cái kia. Tới chừng ăn nên làm ra thì bị ông trời xáng cho một nhát. Con gái bị chết bất đất kỳ tử!
Tư hỏi:
-Bị tai ương dồn dập như vậy rồi hai bác có nản lòng, có đổ thừa qua đổ thừa lại rồi...
Ông ngắt lời:
-Vợ chồng mà biết thấu gan thấu ruột nhau rồi, gặp hoạn nạn còn thương không hết chớ trách móc sao nổi. Con sống thương một chớ con chết thương nhau mười. Tại bác thấy cháu nặng lòng với cô bạn quá mới đi giúp, chớ từ hồi con gái mất, bác với bả chưa xa nhau đến một ngày.
Gần đến bến phà trời bắt đầu rớt hột, cũng may ông bác xe ôm có đem áo mưa theo. Chiếc phà sắp tách bến, ông liền cho xe chạy xuống luôn mà không dừng lại mua vé. Lúc nầy mưa xối xả, người bán vé không thấy, hay thấy mà không nỡ chặn lại vì sợ họ bị trễ phà.
Cái áo mưa của ông không lớn lắm, lại phải che cho cả hai nên người nào cũng ướt một chút. Chỉ có túi đồ, thùng hàng là khô thôi. Tư nghe nhớ cái áo mưa nhà binh của mình và thấy có lỗi với ông bác xe ôm quá chừng! Chàng nghĩ thầm "bác gái mà thấy chồng dầm mưa như vầy chắc xót ruột ghê lắm!"
Tư áy náy hỏi:
-Bác có lạnh hông?
Ông đáp:
-Nhờ có cháu ngồi che phía sau nên không bị lạnh.
Rồi hỏi:
-Chắc cái lưng của cháu ướt nhẹp rồi phải hông?
Tư đáp:
-Cũng không đến nổi nào.
Ông bảo:
-Cháu để cái thùng hàng phía trước rồi ngồi áp sát cái ngực vô lưng bác. Ôm cho chặc để cháu ấm cái ngực, còn bác ấm cái lưng, hai bác cháu mình mới không bị cảm.
Tư làm theo, nhớ lại ngày xưa má cũng bảo làm như thế nầy nên lòng rưng rưng xúc động. Tình cảm dành cho ông bác xe ôm bỗng tăng lên vùn vụt.
Gió hất những giọt nước từ sông bắn lên mặt, chui vào mắt của chàng. Mấy ngọn sóng vội chồm lên đòi lại. Chiếc phà cây, nhẹ và nhỏ cứ trồi lên hụp xuống khiến Tư sợ đến chóng mặt. Nhớ lúc còn nhỏ, ngày tết được má dắt đi coi xiếc, đến cái màn đi trên dây Tư sợ nên nhắm tịt mắt lại. Tư vốn đã bị "hù" từ trong bụng mẹ nên nhút nhát từ nhỏ đến giờ. Ấy vậy mà...
Qua đến bờ bên kia, Tư mới dám hỏi:
-Cái khúc sông nầy có nhấn chìm ai chưa bác?
Ông bác trả lời:
-Bây giờ thì ít chớ hồi xưa năm nào mà hổng có!
Tư hỏi thêm:
-Bác đói bụng chưa?
Ông lắc đầu:
-Nhờ uống hết một chai nước nên cái bụng còn no óc nóc.
Rồi bảo chàng:
-Cháu có đói bụng thì ăn đỡ mấy trái ấu đi! Ở miền quê, giờ nầy không ai còn bán cơm, bán cháo gì đâu!
Tư đáp:
-Cháu cũng no như bác, không nghe đói chút nào hết!
Ông bỗng chợt nhớ ra một chuyện rất quan trọng nên hỏi:
-Cháu nhìn kỹ nghen, đừng để bác chạy huốt rồi quay lại mắc công lắm đó!
Tư hơi lúng túng đáp:
-Hôm bữa về tới đây trời cũng chạng vạng, sớm hơn giờ nầy một chút thôi, nên cũng không thấy rõ. Chỉ nghe cổ dặn ông tài xế là ghé vô bến đò của cây số mười bảy, rồi đi vô con đường phía tay phải.
Ông bác ngạc nhiên, đưa tay chỉ xuống sông, hỏi:
-Phía tay phải là bờ sông rồi, làm gì có con đường nào nữa.
Tư đính chính:
-Phía tay phải lúc đó là tay trái của mình lúc nầy đó bác.
Ông bác hỏi:
-Căn nhà đó có cách xa con lộ lắm hông?
Tư rầu giọng đáp:
-Cổ đâu dám cho cháu vô theo đâu, bắt ngồi trên xe để cổ vô nhà một mình thôi!
Ông bác thở dài:
-Giờ nầy tối hù rồi, rủi cổ không ở đây thì cho dù tìm ra nhà cũng không ai biết mình, rồi ăn nói làm sao đây? Sợ họ không chịu tin mới khổ.
Rồi ông hỏi tiếp:
-Cháu có nghe cổ kể thứ, tên chủ nhà là gì hông?
Tư trả lời:
-Cháu chỉ biết đó là nhà của ngoại cổ. Cháu đâu dám hỏi tên, hỏi thứ của bà.
Tư chợt nhớ ra một chi tiết nên nói:
-Hình như cổ có ông cậu làm thầy giáo thì phải.
Ông bác xe ôm chợt la lên một tiếng:
-Thôi chết rồi!
Tư hỏi:
-Chuyện gì vậy bác ?
Ổng hơi trù trừ rồi nói:
-Cũng hổng có chuyện gì to tát.
Rồi nói cho chàng yên tâm:
-Cháu nói vậy là bác biết nhà ai rồi, đừng có lo nữa!
Từ đó ông bỗng trở nên đăm chiêu, không nói tiếng nào nữa hết!
Mưa vẫn chưa tạnh tuy không rơi ào ào như lúc trước. Con đường vắng ngắt chỉ mỗi mình họ trên đường nên tha hồ lạng lách để tránh mấy cái vũng nước. Chạy vừa qua chòm cây um tùm, ông bác quẹo vào con đường cộ nhỏ bên tay phải. Trống ngực Tư bỗng đập dồn dập, chàng nhận ra hôm trước Ý đã rẽ vào đây.
Chiếc xe dừng thật êm. Ông bác hình như tắt máy cho xe đi từ từ, hết trớn là nó tự động dừng lại ngay chân của chiếc cầu thang rất to bằng xi măng, không cần phải thắng.
Căn nhà sàn rất cao và rộng. Cây đèn dầu lửa có cái ống khói to bằng cườm tay con nít đang cháy đỏ rực. Nó được đặt trên cái bàn dài ngay chính giữa nhà. Cạnh đó, trên cái ghế có lưng tựa, một người đàn ông trạc năm mươi, đang thổi chén trà trên tay một cách rất khoan thai.
Con chó mực đang nằm yên dưới chân chủ, bỗng đâm đầu chạy thẳng ra cầu thang sủa một cách giận dữ. Người đàn ông vội đặt chén trà lên bàn, cầm cây đèn lên vừa đi vừa quát:
-Mực, mực, đứng yên đó!
Rồi hỏi to:
-Ai vậy?
Tư mất hồn, đứng im re. Ông bác xe ôm vốn mau mồm miệng cũng im thinh thích.
Người đàn ông hỏi to hơn :
-Ai đó? Giờ nầy còn tới có chuyện gì vậy?
Trong giọng nói đã nhuốm vẻ nghi ngờ. Ông bác xe ôm thúc cùi chỏ vô eo Tư một cái, thấy chàng vẫn trơ trơ bèn lên tiếng:
-Tui đây, tui đây!
Người đàn ông gằn giọng:
-Tui là ai?
Ông bác xe ôm tằng hắng:
-Tui là hai Đen đây!
Người chủ nhà hỏi tiếp, giọng đã kém thiện cảm:
-Hai Đen nào?
Ông bác xe ôm vội bổ xung thêm lý lịch:
-Tui là chồng Sáu Kim nè!
Cây đèn trong tay người đàn ông bỗng chao qua, chao lại. Khi nó tạm đứng yên, ông ta liền hỏi:
-Cô Sáu gặp chuyện gì mà sai ông kiếm tui?
Bác xe ôm giải thích:
-Hổng phải chuyện của tụi tui. Ở đây có người muốn giao cái thùng hàng cho cái cô tên Ý ở Sài gòn mới về. Cẩu không biết nhà nên nhờ tui chở lại. Ông anh làm ơn cho tụi tui gặp cổ một chút!
Người đàn ông từ chối:
-Nó có ở nhà đâu mà gặp?
Tư hỏi gấp:
-Cổ đi đâu rồi hả thầy?
Người đàn ông đáp:
-Đi thăm dì Út của nó ở trong kinh Thần Nông rồi.
Tư hỏi nhỏ ông bác:
-Tính sao đây bác?
Ông đáp còn nhỏ hơn:
-Thì gửi cái thùng đồ lại, nhờ ổng đưa cho cổ giùm chớ còn đường nào nữa mà tính?
Rồi ông hối:
-Thôi cậu đưa cho ổng, viết lại mấy dòng rồi mình đi cho lẹ.
Người đàn ông chắc cũng nghe loáng thoáng, ông bưng cái đèn để lại chỗ cũ. Tư ôm cái thùng bằng cả hai tay, con chó vừa xán lại gần chàng là bị chủ nó dằn mặt liền:
-Mực, lại đây, nằm xuống!
Con chó riu ríu chạy lại rồi nằm ỉm re liền
Tư khen thầm: "Đúng là nhà thầy giáo có khác, ngay cả con chó cũng rất có giáo dục!"
Tư mang thùng quà đặt lên bàn rồi nói:
-Nhờ thầy trao liền giùm. Mấy món đồ nầy rất quan trọng đối với cổ.
Rồi chàng nói tiếp :
-Thầy làm ơn cho mượn cây viết với một tờ giấy để con ghi cho cổ ít chữ.
Ông ta rút cây viết nguyên tử đang giắt trên miệng túi, đứng lên xé một tờ giấy mỏng trong cái lốc của cuốn lịch treo trên cây cột tròn lớn màu đen, đưa cho Tư mà không nói một lời.
Tư cầm lấy, suy nghĩ gần hơn một phút rồi viết:
Ý!
Tui đem thùng đồ bị gửi trả về vì không còn người nhận xuống tận đây để Ý an tâm.
Mong rằng từ đây Ý sẽ sống vui, sống khỏe.
Tiếc rằng không gặp.
Rất mong tin!
Tư
Chàng gấp miếng giấy thật ngay ngắn, kẹp vô cây viết rồi hai tay đưa cho ông.
Người đàn ông cầm lấy, không nói một lời, chỉ gật nhẹ đầu đáp lời chào hết sức trân trọng của Tư rồi cho lá thư vào túi áo, gài cây viết lên miệng túi trở lại.
Tư xuống thang, ông bác đã nổ máy đợi sẵn.
Tư cố nén sự thất vọng, buông lời nhận xét:
-Cháu nghe người ta đồn rằng người miền tây rất hiền, rất tử tế, rất hiếu khách. Vậy mà ông chủ nhà nầy, tiếp mình bằng gương mặt quạu đeo và cư xử kém thiện cảm quá chừng!
Ông bác xe ôm thở dài:
-Ổng hổng xịt chó cắn hai bác cháu mình là may phước lắm đó, đừng có bắt lỗi cháu ơi!
Tư hỏi:
-Sao vậy bác?
Ông chép miệng:
-Ổng là người cưới không được vợ bác vì kỵ tuổi đó! Chắc ổng còn thù bác thấu xương, cho cháu vô nhà là tốt lắm rồi! Hồi nãy cháu có thấy cái tay ổng rung thiếu điều muốn rớt cây đèn đó hông?
Thấy ông bác đi về hướng bến phà, Tư hỏi:
-Sao bác không nhân dịp nầy ghé thăm gia đình một chút?
Ông lắc đầu :
-Ghé rồi đi liền coi hổng được. Cũng không có chuẩn bị quà cáp gì hết, hai bàn tay chỉ cầm có hai nải chuối tòn teng, kỳ lắm!
Tư ngạc nhiên hỏi:
-Chuối gì? Cháu đâu có thấy bác mua chuối...
Ông cười khà khà, hóm hỉnh, xòe rộng một bàn tay, đưa ra trước mặt Tư rồi đáp:
-Thì tại bàn tay của người ta cũng giống cái nải chuối nên nói vậy cho vui. Ý bác muốn nói là mình chỉ có hai bàn tay không đó! Biết chưa?
Tư nghe ông giải thích, không nín được liền bật cười khoái trá. Nghĩ bụng:"Ông bác nầy đúng là có óc tưởng tượng vô cùng phong phú".
Tư bỗng nhớ ra lâu lắm rồi, từ hồi má mất tới giờ, mình chưa được cười một cách hồn nhiên như vậy. Ước gì chàng được gần gũi bên ông mỗi ngày để lây nhiễm cái tánh trào lộng ấy. Đối với Tư đó là điều quý báu nhứt mà thượng đế trao cho con người. Nó chính là cái bộ giảm xóc, tản nhiệt cực kỳ hữu ích, giúp chiếc xe không bị gãy, không bị cháy khi sụp ổ gà hoặc chạy quá tải.
Ông bác Hai nầy quá may mắn được trời ban phát rộng rãi cái món quà vô giá đó. Nhờ vậy mà dù gặp đủ chuyện không may, ông vẫn vượt qua một cách vững vàng, đến bây giờ vẫn còn giữ được nét trẻ trung, láu lỉnh trong ánh mắt. Ông khiến Tư nhớ đến mấy bụi lau bên con rạch ở ngoại ô, nơi có lần Tư theo nhà trường đi cấm trại. Chúng ốm yếu, quặt quẹo, chẳng cây nào đứng thẳng. Chúng làm Tư lo lắng phập phòng, sợ rằng chỉ một cơn gió nhẹ phớt ngang, cũng ngã rạp không ngóc đầu dậy nổi. Thế nhưng chính những ngọn gió ấy lại giúp chúng dẻo dai, vững mạnh, kiên cường hơn.
Nhưng điều mà chàng quý nhứt ở ông, đó là lòng nhân hậu, nhạy cảm trước những nỗi khó khăn của người khác và làm giảm nhẹ chúng trong khả năng của mình.
Tuy tiếp xúc với ông chưa được một ngày, Tư có cảm giác như mình vừa trải qua một đoạn đường dài lắm ! Ở đầu đoạn đường, chàng là người đang vác trên vai cái túi đựng đầy sỏi đá. Những viên sỏi, hòn đá đó đã được ông dần dà đẩy bật ra, bằng chất hài hước trong giọng nói khi kể cho Tư nghe những cơn bỉ cực của cuộc đời mình. Ở cuối đường, cái túi ấy đã trống, được lộn ngược và giũ sạch để chỉ còn lưu lại những dấu vết mờ nhạt. Những dấu vết ấy có thể không mất đi, nhưng chúng sẽ chẳng còn làm chàng trầy vai, bật máu nữa.
Mối tình chàng dành cho Ý đang từ trạng thái vô vọng cũng bắt đầu le lói mầm xanh.
Tư bỗng ao ước giá mà mình có một người cha như vậy! Chàng sẽ được gần gũi hằng ngày, để cuộc sống đầy màu sắc và tâm hồn thêm phong phú.
Tới bến phà mưa đã tạnh nhưng trời lại tối hẳn. Chiếc phà không còn chòng chành, quăng quật nữa. Những con sóng đã qua cơn hờn giận nên nằm im thiêm thiếp.
Phà cập bến, ông Hai chở Tư chạy thẳng lên bờ. Ghé vào chỗ bán vé, Tư chưa kịp nhắc đã thấy ông móc tờ giấy mười đồng ra đưa rồi nói:
-Hồi nãy gấp quá nên qua chưa trả tiền bận đi, tính luôn đi chú em.
Người bán vé là một thanh niên trạc tuổi Tư, nhìn ông một cách ngạc nhiên. Y xé mấy tờ giấy nhỏ xíu đưa cho ông rồi thối lại một mớ tiền lẻ.
Chạy đến một cái sạp có mái che, có lẽ được dựng lên để phục vụ cho khách bộ hành hoặc bày bán thứ gì đó. Ông Hai cho xe tấp vào rồi bảo Tư:
-Hai bác cháu mình nằm nghĩ lưng một chút rồi đón xe đò về Sài gòn.
Tư hỏi :
-Còn chiếc xe Hon Đa thì sao hả bác?
Ông đáp:
-Người ta kéo nó lên mui rồi cột lại, tới xa cảng mình lấy xuống chạy về nhà, tiện lắm!
Họ nằm chưa nóng lưng đã nghe tiếng xe vọng tới. Ông Hai lồm cồm bò dậy liền, ông hối Tư:
-Dậy lẹ lên đi cháu, trễ chuyến nầy là năm giờ sáng mới có xe đi lận!
Tư hỏi:
-Sao lạ vậy bác?
Ông hỏi lại:
-Giới nghiêm mà, bộ cháu không biết sao?
Tư chợt hiểu ra là vì sao ở chuyến xe trước, đến bến bắc qua Châu Đốc xe phải nằm lại chờ đến mấy tiếng đồng hồ, khiến chàng đã sốt ruột rồi âm thầm oán trách bác tài.
Tư thầm khen mình đã nghĩ ra cái sáng kiến nhờ ông bác Hai nầy chở giùm, đồng thời nghe mang ơn ông biết mấy. Nếu không có ông, chàng phải mất thêm ít nhất là một hoặc hai ngày nữa. Anh chàng Tân chắc chắn sẽ phát hiện, Tư sẽ gặp rắc rối vì khó giải thích cho người công an khu vực ấy tin .
Xe vừa dừng, anh lơ liếc thấy chiếc xe của họ, liền trèo lên mui thoăn thoắt rồi hối như giặc. Ông bác và Tư đứng dưới đất, lật đật nâng chiếc xe cho anh ta kéo lên. Họ chưa kịp đi tới hàng ghế trống ở cuối xe để ngồi vào, bác tài đã cho xe chạy vù đi liền. Cả hai loạng choạng ngã vào nhau, may mà Tư nắm được cái lưng ghế rồi trụ lại kịp.
Vừa ngồi xuống ghế là Tư liền than:
-Ngồi chỗ nầy chắc tới khi xuống xe xương sống thành cây đàn ắc cọt.
Ông bác rầy:
-Mình đi vào giờ nầy nên mới có chỗ ngồi. Nếu chờ tới sáng cho dù sắp hàng chen lấn mua được tấm vé cũng chưa chắc trèo vô xe nổi. Họ xô đẩy nhau, người trên xe chưa xuống người dưới đất đã trèo lên để xí chỗ. Đi xe đò mà cực như đi hành quân vậy.
Tuy khởi hành vào giờ trái khoáy, trên xe vẫn đông người, hàng hóa chất đầy, choán cả lối đi. Hành khách hơn phân nửa là dân đi buôn. Họ đi giờ nầy để trốn mấy cái trạm gác, nếu không trốn được thì cũng dễ đút lót hơn. Đêm tối là trợ thủ đắc lực cho những hành động mờ ám. Điều nầy giải thích tại sao trạm gác mọc lềnh khênh nhưng ở Sài Gòn hàng lậu vẫn tràn ngập thị trường. Chúng có mặt không chỉ ở mấy cái chợ nổi tiếng ở trung tâm, mà cả những cái chợ chồm hổm ở hốc bà tó cũng nhan nhản.
Tư và ông bác ngồi ở cái băng ghế sau cùng, xung quanh họ toàn là phái đẹp. Giới đi buôn đa số là phụ nữ. Chàng lo sợ phập phồng. May quá! Không có ai nhờ giấu hàng giùm.
Người lơ xe đến thu tiền, Tư hỏi:
-Bao nhiêu vậy anh?
Y đáp:
-Một chiếc xe, hai người. Năm chục !
Tư ngạc nhiên trước cái giá rẻ bất ngờ đó.
Trả tiền xong, chờ anh ta đi khỏi Tư quay sang bác Hai hỏi nhỏ:
-Ảnh tính có lộn hông bác? Hôm trước một mình cháu đã gần ba chục rồi.
Bác Hai cười giải thích :
-Đường nầy gần lại không qua bắc nên rẻ hơn.
Ông lấy túi ấu ra đưa Tư rồi nói:
-Cháu ăn đi cho đỡ đói.
Tư mời lại:
-Bác ăn với cháu cho vui.
Ông cười hết cỡ, lấy ngón tay trỏ chỉ vào hai cái răng cửa rồi nói:
-Răng cỏ đâu mà cắn. Hai cái nầy là răng giả chỉ để làm kiểng thôi! Cắn tàu hủ, sưng sa, sưng sáo thì được, chớ gặp ba cái thứ cứng cồng như vầy là chịu chết!
Tư chẳng nói, chẳng rằng, cầm lên cắn giập từng trái, đoạn cẩn thận bóc hết vỏ chỉ lấy cái ruột bên trong ra đưa cho ông.
Được chừng sáu, bảy trái, ông liền ngăn lại:
-Thôi bác không ăn nữa đâu!
Tư chia túi ấu ra làm hai, đưa cho ông một phần rồi nói:
-Bác đem bọc nầy về cho bác gái, cháu ăn bây nhiêu đây là no tràn họng rồi.
Bác Hai vừa cầm vừa nói:
-Bả cũng trồng mấy cái răng cửa y như bác. Đem món nầy về chắc bả cười tới mắc nghẹn luôn vì nghĩ bác cố tình chọc ghẹo.
Rồi ông nói thêm:
-Chắc bác phải lấy cái chày đâm tiêu đập cho bể ra rồi lột giùm. Phải làm như vậy may ra bả mới chịu ăn cho hết, hông thôi dám còn nguyên lắm!
Tư hỏi:
-Bác gái có nghĩ là bác chơi xỏ rồi giận hay không?
Ông cười:
-Ba cái chuyện đó để giành cho tụi con nít ! Cái bọn già của bác, còn hơi sức đâu mà phung phí vô mấy cái vụ hờn giận tầm ruồng đó .
Tư lại hỏi:
-Từ hồi cưới tới giờ, hai bác có khi nào đòi chia tay với nhau không?
Ông gật đầu, giải thích:
-Cưới được hơn một tháng là vợ bác bị bịnh rất nặng. Bác có cầu xin trời phật cho bả qua khỏi, rồi muốn cái gì bác cũng chìu hết, bỏ bác cũng được. Bác nghĩ cái bịnh ấy chắc tại thất tình mà ra. Bác bèn hỏi bả coi nếu đúng như vậy thì khi bả hết bịnh, bác sẽ đưa trả về gia đình, rồi xin với ông nhạc cho bả được lấy người bả thích, để bả vui vẻ mà sống. Nói thiệt khi đó bác buồn hết sức, ráng cầm lòng mà nước mắt cũng chảy ra.
Nói tới đây ông bỗng dừng lại. Tư quay sang nhìn thấy trái cổ của ông liên tục chạy lên chạy xuống, như thể đang ráng nuốt thứ gì sắp sửa trào ra.
Ông kể tiếp:
-Nào ngờ nhờ vậy mà bả cảm động. Lúc ấy da bả xanh rờn, ốm nhom, ốm nhách, đi không muốn nổi, tưởng chừng sắp chui xuống lỗ. Bác bỏ hết công việc để ở gần một bên mà săn sóc. Người ta đồn uống trứng gà so là bổ hạng nhứt. Cái trứng nầy phải dùng khi nó vừa chui ra khỏi cái bụng con gà, còn nóng hổi mới tốt. Bác để tai nghe ngóng. Hể nghe mấy con gà mái tơ cục tác là rình để lấy liền cái trứng còn nóng đó. Bác ủ trong túi rồi lấy cái lông nhím chọc thủng hai đầu bắt bả hút cho hết. Ở quê, bà con nuôi gà để ăn thịt chớ không ai nở ăn trứng. Chừng nào nó ấp xong rồi bỏ lại mấy cái trứng ung, trứng vữa không nở thành con được mới đem luộc chấm muối mà ăn. Má bác khó tánh và tiết kiệm lắm! Ngày nào bà cũng kiểm coi có con gà nào đẻ hông. Thấy nguyên bầy gà mái tơ, nghe cục tác rân nhà mà không có cái trứng nào bà sinh nghi. Hết rình mấy con gà rồi rình luôn tới bác. Bữa đó bắt gặp bác lộn cái trứng gà trong lưng quần, bà rầy cho một chập, đòi lại mà bác nhứt quyết không đưa, làm bà tức tới nổi trợn trừng hai con mắt. Mấy ngày sau bà lại bắt gặp nữa. Lần nầy bà giận quá, rút cây chổi lông gà ra quất bác tới tấp. Bị đòn thì bị, bác nhứt định không bỏ cái tội ăn cắp trứng gà, cho tới khi vợ bác ngán tới ói bác mới chịu thôi. Nhờ hút cả chục cái trứng gà so mà vợ bác khỏi bịnh. Nhờ cây chổi lông gà te tua nên bả mới bắt đầu thương bác.
Tư nghe ông kể rồi tưởng tượng cái cảnh ông bác lớn chồng ngồng, có vợ rồi mà bị đòn thì mắc cười quá chừng. Không dám bật thành tiếng, ráng nén xuống nên nghe tức bụng.
Ông Hai đang nhìn về ký ức nên gương mặt tràn đầy cảm xúc, ông nói tiếp:
-Cái lần đó bác tưởng đâu hai đứa rả rồi, nào ngờ khi hết bịnh bả không về nhà mà lại đổi tánh không còn lạnh nhạt với bác nữa. Vậy mà bác cũng chưa dám leo lên giường ngủ chung. Một hôm bác đang nằm dưới đất như mọi lần thì bả xuống nằm kế rồi ôm bác. Trời ơi! Bác mừng muốn đứng tim luôn. Hai đứa ôm nhau mà rung bần bật. Bác biết liền là từ đây về sau, hai vợ chồng bác sẽ thương nhau cho tới chết.
Cơn cười bỗng dứt hẳn, thay vào đó là một nỗi xúc động làm Tư nghẹn ngào.
Nếu bây giờ đức mẹ có giáng lâm, rồi nói sẽ ban cho chàng chỉ một điều duy nhứt. Tư sẽ chẳng ngần ngại, xin đức mẹ ban phép cho mình và Ý thương yêu, gắn kết bền chặt, mãi mãi bên nhau như hai vợ chồng ông bác Hai nầy, chớ chẳng cầu mong bất cứ thứ gì khác.
Ông Hai thấy Tư ngồi im như tượng, bèn thoi nhẹ một cái rồi nói:
-Bộ buồn ngủ rồi sao?
Tư lắc đầu, nói:
-Cháu thức khuya lắm! Giờ nầy dễ gì ngủ nổi.
Ông bèn nhắc :
-Vậy thì ăn đi, để bụng đói còn khó ngủ hơn nữa.
Tư cầm trái ấu lên, bắt đầu cắn rồi nhai từ từ. Chàng ngạc nhiên hết sức! Ban nãy khi bà chủ quán đưa mời, bụng còn no nên Tư nghe nó dở òm, ăn ngán ngược. Bây giờ lại thấy ngon một cách lạ thường. Chàng cứ cắn nhai, cắn nhai liên tục cho đến trái cuối cùng.
Tư lấy chai nước của bác gái trao cho họ ban nãy ra, mở nắp rồi đưa lên miệng uống. Hình như cái vị của nó ngọt hơn chai nước của mình, cho dù cả hai đều xuất thân từ thủy cục.
Chiếc xe đò như đua với thời gian. Nó chạy quá nhanh, bác Hai và Tư ngồi hai chỗ cuối ở băng ghế sau cùng nên cứ bị hất tung lên từng chập.
Cơn mưa tạm nghĩ lấy sức giờ bắt đầu hoành hành trở lại, mạnh gấp đôi lúc trước. Mưa to và bóng tối đã át tiếng và làm nhạt nhòa hình dạng của chiếc xe đò. Mấy trạm gác đóng cửa để tránh mưa, tránh gió, càng giúp nó đi qua chúng một cách êm đềm, suôn sẻ.
Bác tài tận dụng lợi thế đó, bắt chiếc xe năm mươi chỗ nầy chạy hoài không nghĩ, càng nhanh càng tốt. Nó bị buộc phải phi liên tục chỉ dừng lại một lần khi bị hành khách phản đối. Họ cần giải quyết một nhu cầu bức thiết nhứt, nên buộc lòng ông ta phải tuân theo.
Chiếc xe chưa kịp dừng lại, hành khách trên xe đã rời khỏi chỗ. Họ đổ dồn ra cửa, người nào cũng lăm le xuống xe trước tiên. Một phụ nữ trung niên đứng ngay sau lưng người phụ xế, người căng thẳng, miệng mím chặt y như một chưởng môn nhân, sắp so tài trong một trận đấu sống mái, đang tập trung mười tám thành công lực để sẵn sàng tung ra một đòn chí mạng.
Cuối cùng cái ông tài xế ngoan cố ấy cũng cho xe dừng lại. Người lơ, vốn cẩn thận và nhiều kinh nghiệm, chờ bốn cái bánh hết lăn mới chịu mở cửa xe. Mọi người đẩy lưng nhau, hối hả bước xuống. Anh chàng nào mà nổi máu ba gai, cố tình chơi ác đứng chặn ngang cửa, chắc chắn sẽ bị họ đập chết tươi rồi giẫm lên người hắn mà đi.
Trời tối và mưa nên sợi dây thần kinh mắc cỡ trùm mền đi ngủ sớm. Chẳng ai thèm đi xa. Họ ngồi ngay trên lề, nam một bên, nữ một bên giải quyết nỗi buồn một cách nhanh chóng rồi leo lên xe liền. Lúc nầy ai cũng cúi đầu, nhìn xuống chân, chẳng dám ngước mặt và đưa mắt nhìn người khác.
Chiếc xe lại lên đường, hấp ta, hấp tấp lấy lại thời gian đã mất. Nhờ chạy nhanh nên chưa đầy bốn giờ sau, nó đã ghé vào xa cảng.
Bác Hai năn nỉ người lơ, nhờ anh ta thả chiếc xe Hon Đa của mình xuống trước tiên. Bác nổ máy, chạy một lèo ra cây xăng gần đó liền, để đổ đầy cái bình xăng sắp cạn.
Trong khi Tư móc tiền ra trả thì bác cho máy nổ. Tiếng tạch tạch của nó nghe giống tiếng hối thúc Tư phải làm lẹ lẹ. Lấy tiền thối xong chàng leo lên xe ngay lập tức.
Bác vừa gài số vừa quay đầu căn dặn:
-Cháu ôm thật chặt nghe, mưa tạnh rồi nhưng bác chạy nhanh nên lạnh lắm đó!
Con đường vắng người nên rộng thênh thang. Hai chiếc xe gắn máy từ phía sau chạy qua mặt bác Hai một cái vèo. Ông cảm thấy mất mặt đối với Tư, bèn tăng ga để đuổi theo lấy cái mặt lại. Cả ba cùng phóng ào ào như muốn thi nhau nuốt trộng con đường trước mặt.
Giờ nầy những người vô gia cư cũng không còn lang thang trên đường phố. Họ đang nằm trên những tờ báo lót trên nền nhà, dưới những mái hiên của những căn phố đã tắt đèn, đóng cửa.
Chỗ nầy, dưới mái hiên thấp và tối om : Một khối tròn, to, dài của hai người đang nằm ôm nhau với tấm mền trùm kín, chỉ chừa từ cái mũi trở lên.
Chỗ kia, trên nền nhà cao được ngọn đèn nê ông ba tấc chiếu sáng : Một gia đình năm người với ba đứa bé nằm giữa, cha và mẹ chúng nằm hai bên. Cây quạt trong tay họ phe phẩy liên tục để xua muỗi cho bầy con. Cái cảnh màn trời chiếu đất ấy tuy thương tâm nhưng cũng đượm đôi phần ấm áp, khiến Tư nghe tận đáy lòng mình, đang dâng lên một niềm cảm xúc dào dạt khó tả!
Điều khiến trái tim Tư nhoi nhói là hình ảnh của các cụ già. Họ thích yên tỉnh hay ngại làm phiền người khác mà không chịu ngồi sát bên nhau ? Những cụ bà đầu trùm khăn, những cụ ông tóc lưa thưa, rối bời bời. Mỗi người đều ôm một cái bóng âm thầm của chính mình mà nép vào một góc.
Cụ thì ngồi tựa lưng vào cánh cửa sắt, một chân duỗi thẳng, một chân gập lại với hai cánh tay ràng cái đầu gối nhọn hoắc để giữ cho nó yên vị.
Cụ thì ngồi cong lưng, vòng tay bó cả hai gối lại làm một, đầu cúi gập, tựa hẳn lên hai cái đỉnh tròn tròn, nhọn nhọn đó. Bất động y như một khối đá.
Cụ thì nằm cong quắp, mang cái dáng quắt queo của một con tôm kho đi kho lại nhiều lần.
Cụ thì nằm ngửa, duỗi thẳng người, tay chân dang ra như trẻ nhỏ.
Cái túi nho nhỏ tròn tròn bằng vải ni lông dầu màu cứt ngựa, kích thước và hình dạng như nhau, được xem như đồng phục của các cụ. Nó phân biệt các cụ với những người cao tuổi không cùng một đẳng cấp. Chúng được ôm trong lòng, gối lên đầu để không thể rời bỏ các cụ một cách dễ dàng.
Đa số những người nầy là nạn nhân của buổi giao thời. Nhà nước áp dụng chính sách giản dân và kinh tế mới một cách vội vả, thiếu trù bị, nên chẳng những không có hiệu quả mà còn dẫn đến cái hậu quả tai hại. Tạo ra những mảnh đời lang thang, cơ nhỡ.
Sài gòn chỉ thưa người ở giai đoạn đầu rồi nhanh chóng được lấp đầy. Nó như một viên kẹo quá ngon, quá ngọt, quá đẹp, quá hấp dẫn... Bầy kiến đen nhỏ bé, nhút nhát nầy vừa bị xua đi, thì ngay lập tức bầy kiến vàng to lớn, dữ dằn, bậm trợn khác bu lại liền sau đó.
Hiện giờ Sài Gòn giống như một thai phụ đang lâm vào cảnh bần hàn, mang gương mặt nhem nhuốc và cái bụng căng phồng trông rất tội!
Tất cả những điều nầy đều do "công" của vị thần chiến tranh tạo dựng.
Người ta lên án chiến tranh, cho rằng nó là cái giải pháp ngu xuẩn nhất, thế nhưng nó đều được thực hiện bởi những người được ca tụng là thiên tài và giàu lòng nhân ái!
Quốc gia nào cũng phải trải qua biết bao thăng trầm trong lịch sử. Đâu phải vô tình, vô lý khi người ta ghép bốn chữ "núi, sông, xương, máu" chung lại với nhau.
Tư không biết bắt nguồn từ đâu mà từ hạnh phúc gắn liền với chữ giàu, chữ mạnh...Khiến con người ta phải tranh, lấn nhau triền miên không dứt.
Đất nước của Tư, như phần đông những quốc gia nhược tiểu khác. Cùng mang thân phận của một bà mẹ nghèo, không đủ thức ăn để phân chia cho bầy con. Sự thiếu thốn khiến bọn chúng luôn khao khát, hướng mắt nhìn chăm chăm vào những căn nhà to và đẹp của láng giềng, ao ước sẽ được sống trong đó. Trớ trêu thay, chính những đứa con khỏe mạnh, giành giật được nhiều miếng ngon hơn, được mẹ cưng chiều hơn, lại là những đứa nuôi ý định xa bà nhiều nhất ! Chúng chẳng những không trả lại vô số vật thực mà bà đã hết sức rộng lòng ban cho, để đền đáp công ơn dưỡng dục, còn nhẫn tâm vơ vét cho bằng hết!
Thấy Tư làm thinh, vòng ôm lỏng le, nên bác Hai tưởng lầm.
Ông nhắc:
-Đừng có ngủ quên rồi té xuống xe nghe hông? Nguy hiểm dữ lắm đó!
Tư trả lời cho bác yên tâm:
-Cháu đâu có buồn ngủ...
Ông ngắt:
- Không phải buồn ngủ, sao ngồi im ru vậy?
Tư đáp, mượn cái giọng têu tếu của bác :
-Cháu buồn cái khác, cái nầy sâu và rộng hơn nhiều!
Bác Hai gặng tiếp:
-Cái gì ? Đâu nói bác nghe thử coi!
Tư thở dài, vừa chỉ tay vào hai bên lề vừa nói :
-Cháu thấy những người không nhà, không cửa, không công ăn, việc làm, phải sống lang thang như thế nầy thì rầu giùm cho họ lắm. Cái cảnh "du" mà không có "mục" nầy sẽ đưa họ đến đâu. Người già thì không nói gì, nhưng thanh niên và những đứa trẻ thì sao? Không khéo họ lại bị kẻ xấu rủ rê, gia nhập vào thành phần bất hảo, trở thành mối nguy cho xã hội. Khi ấy chẳng những khổ cho họ mà còn khổ lây cho những người khác nữa !
Ông Hai chép miệng:
-Cháu mà ra đường mỗi ngày, gặp đủ thứ chuyện, đủ thứ người như bác chắc sống không nổi. Ở cái đất Sài gòn nầy, giàu nghèo chênh lệch nhau nhiều quá, khiến tâm tánh thiên hạ dần dần điên đảo. Ngẫm ra người ta chết đói đâu có nhiều bằng chết vì mấy thứ khác.
Ý đang buông mùng thì nghe tiếng cậu Ba gọi ngoài cửa:
-Út ơi! Ý ơi! Có đứa nào còn thức đó hông?
Dì Út tốc mùng chui ra trước, hỏi bằng giọng hớt hơ, hớt hãi:
-Má có sao hông anh?
Cậu Ba đáp:
-Má không có bị gì hết?
Dì hỏi tiếp:
-Vậy sao tối hù, trời mưa ào ào mà anh còn đạp xe vô đây?
Cậu Ba gắt :
-Cô mở cửa lẹ đi! Cho tui vô nhà rồi muốn hỏi cái gì thì hỏi.
Bà ngoại của Ý đã gần tám mươi, sức khỏe giảm sút nhiều nên khi nghe tiếng cậu Ba gọi cửa, cả dì Út lẫn Ý đều lo. Nghe bà không sao nên hai dì cháu đều trấn tỉnh lại.
Dì Út nghe ông anh hối mở cửa, bèn đi lò mò trong bóng tối, tiến thẳng về hướng giữa nhà để lấy cái hột quẹt đá, đang nằm kế bên cây đèn dầu hôi đặt trên đầu tủ thờ.
Dì bật quẹt, kề ngọn lửa vào tim đèn. Vừa cháy lên là dì lật đật chụp thật nhanh cái ống khói vào. Động tác nầy phải làm thật nhanh, nếu không mấy ngón tay bám vào ống khói sẽ bị phỏng, bởi nó- ống khói- làm bằng thủy tinh trong và rất mỏng nên nóng hết sức nhanh..
Dì Út thấp sáng cây đèn xong liền rút cây then bằng gỗ me nước nặng trịch ra.
Vừa mở cửa dì vừa hối:
-Anh vô lẹ đi, dắt chiếc xe theo luôn đặng em đóng cửa liền hông thôi mưa tạt.
Cậu Ba dắt xe đạp vào nhà. Trên cái bọc ba ga là một gói rất to có miếng ni lông trùm kín, được ràng bằng sợi dây thun đen thùi làm bằng ruột xe hơi.
Dì Út hỏi:
-Anh chở cái gì mà kềnh càng dữ vậy?
Cậu Ba móc tờ giấy trong túi ra đưa cho Ý . Cậu vừa tháo sợi dây ràng vừa nói:
-Có một thanh niên đem thùng quà nầy tới giao cho cậu. Y nhờ chuyển cho cháu gấp.
Ý cầm tờ giấy lịch mỏng te, bị thấm nước mưa nên ướt nhẹp lên tay một cách e dè. Cô chưa chịu mở ra xem liền mà hỏi:
-Y ta có nói tên gì và ở đâu hông cậu?
Cậu Ba giục:
-Y không xưng tên, cậu cũng không có hỏi. Cháu coi thơ là biết liền mà .
Ý cẩn thận mở thư ra, mực ngấm nước bị lem nên chữ nầy gác chữ kia rất khó đọc. Ý đang mò mẫm thì cậu Ba đã đặt thùng hàng lên bộ giạt tre.
Ý nhìn thùng quà trân trân, mặt tái nhợt như đang thấy ma. Rung giọng hỏi:
-Cái thùng nầy sao lại ở đây?
Cậu Ba trả lời:
-Cái người viết cái thơ nầy đem tới đó
Ý nghe hai chân rung bắn, đứng hết nổi nên ngồi phịt xuống tấm giạt.
Cậu Ba thấy Ý thất thần liền lấy tờ giấy trong tay Ý lại. Cậu mang lá thơ đến gần sát ngọn đèn rồi đọc to để mọi người cùng nghe.
Phải mấy phút sau Ý mới định thần.
Cô hối dì Út:
-Dì lấy cho cháu mượn cây kéo để cắt mấy sợi dây nầy ra liền đi.
Dì Út bưng cả cái rỗ may ra cho nhanh. Dì lấy cái kéo màu đen, được rèn từ thanh sắt của cái nhíp xe đã gảy, không đưa nó cho Ý mà tự cắt.
Những cái hủ nhựa đựng mắm ruốc, thịt, cá chà bông và mấy gói kẹo vẫn còn nguyên chưa mở. Ý moi cái gói cà phê lên, tháo sợi dây thun cột miệng rồi trút ra. Bột cà phê đã kết lại thành một khối, nó thấm một lượng nước rất ít nên không tan chảy nổi.
Chưa yên tâm, Ý mở nắp hộp thịt cà bông, xóc hoài cho đến khi tờ giấy nằm dưới đáy trồi lên mặt. Ý không mở ra đọc, nắm chặt nó trong tay mà khóc một cách tức tửi.
Dì Út và cậu Ba nhìn Ý rồi nhìn nhau với nét mặt chưng hững. Họ không hiểu tại sao đứa cháu gái của mình lại khóc một cách thê thảm như vậy.
Dì Út thấy Ý không thèm đưa tay lau những giọt nước ràn rụa trên mặt thì thương quá. Dì kéo vạt áo của mình lau mặt cho cháu rồi cầm lòng không đậu cũng khóc theo rấm rức.
Cậu Ba nhìn Ý rồi nói:
-Hôm cháu về đây cậu đã thấy nghi rồi. Cháu hay tránh trả lời mấy câu hỏi về anh chị Hai và con Thu con Bích. Cũng không chịu ngủ với ngoại, còn đòi đi thăm dì Út liền nên cậu biết ngay là có chuyện chẳng lành. Bây giờ không có bà ngoại ở đây, cháu nói hết cho dì với cậu nghe cho nhẹ lòng đi. Có như vậy mọi người mới biết để tránh chạm tới cái vết thương trong lòng của cháu.
Ý vẫn khóc mùi mẫn. Cô không dừng được, cũng không mở miệng nói nổi một lời nào.
Dì Út bỗng nức lên rồi kể thay Ý:
-Anh Hai, chị Hai với hai đứa kia vượt biên chết mất xác rồi anh Ba ơi! Con Ý nhờ thương một ông sĩ quan đi học tập. Nó không nở bỏ cậu ta mà đi nên trốn trên bờ, không chịu xuống tàu với gia đình . Nó định về đây ở luôn với má và mấy anh em mình đó!
Cậu Ba buông người xuống tấm giạt, nghẹn ngào không thốt nổi một lời. Cậu muốn đưa tay vuốt tóc đứa cháu để bày tỏ sự cảm thông của mình mà cũng làm không nổi.
Dì Út như chợt nhớ ra nên hỏi Ý:
-Phải đây là thùng quà có cái gói cà phê mà cháu nói đó hông?
Ý gật đầu.
Dì Út chợt hiểu ra ý nghĩa của những chữ trong bức thư ngắn ngủi đó. Dì ôm chầm Ý bằng cả hai tay rồi nói thật to gần như hét:
-Cháu thoát tội rồi Ý ơi! Cái thùng hàng chưa mở ra. Mấy gói đồ ăn còn nguyên. Bịt cà phê cũng còn nguyên, nó không có giết ai hết!
Ông cậu ngồi như tượng bên cạnh đứa cháu gái mà mình thương nhứt. Ý vẫn khóc mùi, khóc mẫn.
Dì Út đưa mắt nhìn ông anh một cách cầu khẩn. Bắt gặp tia mắt đó, ông biết cô em gái đang đòi hỏi ở mình điều gì nên lắc đầu thật nhẹ để đáp lại.
Có những bức tường rất cao, rất dày...Có những nỗi buồn quá sâu... nên ngôn ngữ đành bất lực, chẳng thể xuyên qua, chẳng thể chạm vào tận đáy.
Nỗi buồn tuy vô biên nhưng nước mắt lại hữu hạn.
Khi hai vạt áo của dì Út không còn có thể thẩm thấu thêm được nữa ! Khi cây đèn ống khói đã uống cạn cái lượng dầu trong bình, bắt đầu ăn đến cái tim của nó rồi cho ra mấy lọn khói đen xì... Ý cũng thôi khóc, hay vẫn khóc mà không còn nước mắt để rơi thì cậu Ba đứng lên đi về.
Cậu nói với Ý bằng giọng tâm tình:
-Cậu biết mất người mình yêu là buồn đến mức nào. Nhưng cuộc đời là một dòng sông, phải vứt hết hành lý để ngoi đầu lên mà bơi thôi ! Bây giờ cháu hãy nghĩ đến những món nợ tình cảm phải trả cho thân quyến, bạn bè của mình. Cháu cần phải ráng sống, ráng vui. Đừng để cho ngoại, dì, cậu... cùng những người thương cháu phải chịu cảnh đau lòng giống như cháu hiện giờ.
Dì Út gật đầu:
-Cậu Ba nói đúng đó! Cháu mà buồn rồi bịnh, dám bà ngoại cũng bịnh vì buồn theo luôn.
Dì Út nhìn cậu Ba rồi hỏi:
-Bây giờ mình phải nói với má như thế nào đây anh Ba.
Cậu Ba đáp liền:
-Má yếu lắm rồi, phải giấu nhẹm chuyện nầy. Không nói cho má cũng không hở môi cho ai biết hết! Nếu má có nghi ngờ mà tra hỏi gắt gao thì cô phải lựa cách nói sao cho má yên tâm.
Ngẫm nghĩ một lát, ông nói tiếp:
-Cô cứ nói anh chị Hai lúc nầy bận làm ăn hay buôn bán gì đó! Không có rảnh như lúc trước nên sai con Ý về thăm, bảo nó phải ở lại săn sóc bà ngoại.
Ông nhìn dì Út rồi gằn giọng:
-Cô nhứt định không được nói cho ai cái vụ gia đình chị Hai chết ngoài biển nghe hông! Tới tai chính quyền là không những con Ý mà gia đình mình cũng gặp rắc rối nữa đó! Mấy cái chuyện nầy ai mà nghe được thì khó mà giữ trong bụng lắm. Nhứt là cái thằng chồng của cô đó!
Ý hết hồn! May mà ông dượng đi vắng nên không nghe được, nếu không...
Dì Út phật ý, giọng quạu đeo:
-Sao anh xem thường ảnh quá vậy? Nghèo đâu đồng nghĩa với xấu. Người học ít hơn anh đâu có phải họ ngu hay thấp hèn hơn anh! Ảnh trót sanh ra trong cảnh cơ hàn, ông trời vốn đã bất công rồi còn bị thiên hạ rẻ rúng nữa. Thiệt là tàn nhẫn hết sức!
Cuộc hôn nhân của dì Út khiến gia đình mất mặt. Đến bây giờ ông anh vợ vẫn không ưa người em rể. Kẻ mà ông cho rằng rắp tâm phá hoại gia đình mình.
Ông nhìn dì Út bằng nửa con mắt rồi nói:
-Thì cái tình thương mà ổng và mọi người dành cho nó bị cô gom hết rồi. Còn chút nào nữa đâu mà chia cho người khác? Bởi vậy bây giờ mới phải chui về đây ở. Đang là giáo viên trường lớn, cái rồi xin chuyển về đây dạy ở cái trường nhỏ xíu, lèo tèo có mấy đứa học trò.
Dì Út cũng chẳng vừa, đốp chát lại liền:
-Nhờ vậy mà tha hồ sống theo sở thích, làm việc theo lương tâm mình. Không cần chạy theo thành tích. Khỏi bị ai xăm xoi bắt bẻ. Khỏe re.
Dừng lại một lát rồi dì nói tiếp:
-Nhờ vậy mà thanh thản đầu óc, lâu già. Còn anh đó, ôm cái trường bự tổ chảng nên tóc bạc trắng.
Thấy cô em gái còn chưa đã nư, mở miệng định nói nữa, ông liền át giọng:
-Bây giờ cái chuyện quan trọng nhứt là lo cho má đây nè ! Không lo nghĩ cách nói cho xuôi, ở đó mà lo đôi co. Cái miệng cứ tươm tướp...
Dì Út định cự lại bỗng bắt gặp tia mắt buồn thiu của Ý nhìn mình như van xin liền tắt tiếng. Nỗi xấu hổ vụt dâng trào như sóng, chụp tắt ngay lập tức ngọn lữa giận đang phừng phừng trong lòng dì. Dì Út cảm thấy mắc cỡ, nhủ thầm: "Cháu mình đang trong tâm trạng buồn thảm như thế nầy mà hai anh em còn gây lộn được sao?"
Dì Út hỏi, giọng đã dịu lại:
-Rủi má đòi mình đưa lên Sài gòn thăm ảnh chỉ thì sao?
Cậu Ba đáp:
-Thì mình nói là mắc đi dạy nên chưa rảnh.
Trầm ngâm một chút cậu lại nói:
-Dè chừng vậy thôi chớ má dễ gì chịu đi xa. Má ghét ở Sài gòn lắm! Má nói cái xứ gì mà ở nhà như ở tù. Đi vô, đi ra gì cũng phải mắc công mở ra, đóng vô hai, ba lớp cửa...
Rồi quay lại nhìn Ý, ông nói:
-Con ở chơi với dì Út một ngày nữa thôi rồi về liền để ngoại khỏi nghi. Người lớn tuổi tinh ý lắm! Ngoại cũng đang nhớ con, cứ hỏi chừng nào con về.
Ý nghe vậy thì nói:
-Vậy con về với cậu luôn để khỏi mắc công dì Út đưa ra.
Ánh sáng hấp hối của ngọn đèn cứ mòn mỏi dần rồi tắt rụi. Dì Út lại mò mẫm đi vào buồng, cầm theo cái hột quẹt để đốt cây đèn trứng vịt mà dì vừa mới tắt trước khi đi ngủ.
Ý đi theo dì, lấy bộ đồ mới giặt hồi chiều còn ướt, đang máng trên sợi dây kẽm treo cặp vách, xếp lại rồi cho vào túi xách. Khăn tắm của dì Út đã quá cũ! Ý cố tình bỏ quên cái khăn còn mới tinh của mình đang phơi chung một chỗ với bộ đồ, để lại cho dì dùng.
Dì Út biết vậy nên rút cái khăn xuống đưa cho Ý mà nói:
-Khăn là tang, là chế đó con. Đi tới nhà ai nhớ đừng bỏ lại, người ta kỵ lắm đó! Mai mốt đừng tặng khăn cho người mà mình thương...
Nói tới đó dì biết mình đã lỡ lời nên nín ngang.
Ý đáp, giọng buồn thiu:
-Chắc con không thương ai nữa đâu dì!
Dì gạt phắt:
-Chuyện nầy không có nói trước được đâu. Hồi chồng chưa cưới của dì tử trận, dì cũng nghĩ mình không còn có thể thương ai được nữa. Vậy mà...
Dì lại bỏ lửng. Ý cũng chẳng buồn gặng hỏi.
Mưa đã tạnh. Bên ngoài, trời đã hơi sáng lên một chút, nhờ ánh trăng đang vạch đám mây mỏng, đưa gương mặt mới tròn được một nửa của mình ra ngoài.
Cậu Ba vừa dắt xe ra, vừa hối:
-Mình về lẹ đi con! Để ngoại ở nhà một mình, cậu không yên tâm chút nào.
Ý vừa leo lên ngồi là bị dì Út kêu giựt ngược :
-Khoan, khoan...Còn cái thùng hàng nữa.
Ý lắc đầu nói:
-Con không đem theo đâu. Dì muốn để lại dùng hay cho ai tùy ý.
Dì Út năn nỉ:
-Đem hủ cá với thịt chà bông về cho ngoại ăn cháo trắng. Nhiều quá dì ăn không hết mà bỏ thì uổng lắm! Đem bịt cà phê cho cậu ...
Ý ngắt lời, nói một cách cương quyết :
-Để con mua cá, mua thịt về làm cho ngoại, mua cà phê khác cho cậu.
Dì Út biết Ý chịu không nổi khi thấy chúng nên thôi không ép nữa. Dì đứng nhìn theo cho đến khi con đường lầy lội nuốt chửng họ. Nhìn lên trời thấy mây đen bắt đầu tụ lại sắp che lấp mặt trăng, dì Út sợ trời lại mưa nên lẩm bẩm: " Đừng mưa nữa ông ơi, tội nghiệp cháu tui".
Ông trời chẳng thèm đoái hoài tới lời van xin khẩn thiết ấy. Bắt đầu giáng một tiếng sấm chát chúa, làm xẹt ra mấy tia lửa điện ngoằn ngoèo. Sau màn mở đầu hết sức hoành tráng đó ổng mới bắt đầu nhúng tay vào thau nước mà vẫy đều bốn phương, tám hướng. Những hạt mưa lưa thưa bắt đầu rơi nhè nhẹ rồi từ từ nhanh dần và dày đặc.
Dì Út nghe thương Ý quá, nghẹn ngào mà không khóc nổi. Chắc cái cơn tức do ông anh gây ra vừa rồi, đã khiến nước mắt của dì bốc hơi hết ráo!
Vừa đặt chân đến cổng, Chơn đã nghe tiếng võng cọt kẹt từ trong nhà vọng ra. Đưa tay xô nhẹ, hai cánh cửa đang đóng mở ra ngay lập tức. Biết vợ để sẵn cửa rồi nằm đưa võng để đợi mình, Chơn vô cùng cảm động, chàng rón rén bước đến, ngồi xuống rồi ôm cả vợ lẫn võng bằng cả hai tay.
Chơn kề sát miệng vào tai Út hỏi nhỏ:
-Chưa ngủ sao cô giáo?
Khi nào nghe thương vợ dào dạt trong lòng, Chơn lại gọi Út bằng "cô giáo". Tiếng gọi đó nhắc cho cả hai cùng nhớ, cái cơ duyên đã gắn kết họ vào nhau.
Út hỏi:
-Đi đám ma có vui hông?
Nghe cái giọng quá "bằng phẳng" của Út. Chơn không hiểu là vợ đang cà rỡn hay đổ quạu nên không dám trả lời mà chỉ hỏi lại:
-Sao không vô mùng nằm với cháu? Nằm ngoài nầy muỗi cắn chết.
Út đáp:
-Nó về ngoải rồi!
Ánh trăng chiếu qua cửa cho chàng thấy chiếc xe đạp vẫn đang dựng sát vách nên hỏi:
-Đi bằng gì?
Út trả lời:
-Anh Ba chở.
Chơn hiểu ngay vì sao vợ khó ngủ. Những người trên tay có mang vết thương, khi nhúng vào nước có vị cay, chua, mặn...Hoặc khi thời tiết chỉ hơi se lạnh một chút là họ nghe xót liền.
Chơn nghe thương vợ quá! Chàng vốn nghèo từ vựng để diễn tả cảm xúc, nên chỉ biết ghì chặt vợ vào lòng mạnh hơn một chút mà thôi!
Út hiểu Chơn biết cô buồn nên rất muốn chia xẻ và an ủi. Cô đoán trong lòng Chơn đang đầy ấp cái mặc cảm tự ti, lương tâm đang vừa cắn, vừa rức vì cho mình là người có lỗi.
Muốn anh vui nên cô hỏi:
-Tía nó đói bụng hông?
Họ thường dùng hai chữ "tía nó", "má nó", trong những trường hợp đặc biệt, để bày tỏ ước muốn gắn bó lâu dài với nhau. Tiếng gọi tuy bình dị mà đầy âu yếm đó, y như con thuyền vững vàng chở họ qua mưa bão. Dù cưới nhau chưa được lâu, chưa có con nhưng họ thích gọi nhau bằng cái từ mộc mạc của thời xa xưa ấy. Cái thời mà tình nghĩa vợ chồng như một khối đá hoa cương, tròn trịa, trơn tru không một vết rạn, hình thành một cách tự nhiên, không cần đẽo gọt.
Chơn là một tay đờn trong ban nhạc của xóm.
Ở quê, hầu hết các đám như đám ma, đám cưới, đám hỏi...đều có ban nhạc đến góp vui. Đám ma cần thiết nhất, bởi gia chủ phải thức suốt đêm canh chừng, sao cho trên lư hương lúc nào cũng có ba cây nhang tỏa khói, để giúp người vừa ra đi khỏi tủi thân và ấm áp vong linh. Câu "nhang tàn khói lạnh" thường dùng để tránh móc sự thờ ơ của người sống đối với người chết. Những gia đình theo đạo phật, bàn thờ phải thắp nhang liên tục đến đủ bốn mươi chín ngày.
Để duy trì lòng nhiệt tình của nhóm tài tử. Gia chủ thường nấu cháo gà, cháo vịt...châm trà, rót rượu... phục vụ hết sức chu đáo để họ chơi hết mình cho xôm tụ. Cho nên cái câu "ăn cháo khuya" cũng giống như mấy chữ "chầu diêm vương", "đi mua (bán)muối", "ngũm củ tỏi"...đều ám chỉ ai đó đã qua đời.
Chơn không đói chút nào nhưng biết vợ rất thích thể hiện tình cảm bằng cách săn sóc và đáp ứng mọi nhu cầu của mình nên gật đầu.
Út liền bỏ chưn xuống võng, Chơn lật đật đứng dậy rồi cầm cả hai bàn tay vợ kéo lên. Thấy Út không vô bếp mà đi xăm xăm ra cửa anh hỏi:
-Má nó đi đâu đó?
Út đáp:
-Đi hái ớt với đậu rồng.
Chơn lật đật kéo vợ lại rồi nói:
-Để anh hái cho, ngoài đó mưa mới tạnh nên trơn lắm!
Út liền quay lưng đi theo hướng ngược lại. Cô ghé vào buồng, lấy cây đèn trứng vịt ra thấp sáng rồi mang vô bếp. Cô bưng cái nồi cơm đang treo trên gióng xuống. Mở nắp vung nhìn vào thấy chỉ còn một ít cơm nạt, độ chừng hơn một chén mà thôi!
Út lấy ra hai cái chén. Chén của chồng thì cô ém cơm lại cho chặt, còn chén của mình thì không, nên tuy chén cơm của Chơn nhiều gấp đôi nhưng trông chúng vẫn bằng chan nhau.
Chơn hái hai trái ớt và mấy trái đậu rồng xong thì không đi vào cửa trước mà vòng ra cửa sau, lại cái lu bên sàn nước để rửa rau, tay lẫn chân cho sạch.
Mùi thơm của mắm ruốc xào xả ớt từ bếp bay ra làm hai cánh mũi Chơn phập phồng. Chàng ngạc nhiên, hồi chiều cả nhà ăn cơm với rau lang, rau trai luộc chấm cá kho mà!
Chơn đứng tại chỗ hỏi vọng vào:
-Mắm ruốc ở đâu ra vậy má nó?
Út nhớ lời anh Ba căn dặn làm bộ không nghe nên không đáp. Nhưng cô lại để lộ tẩy vì lật đật mở cửa sau cho chồng vào. Thấy hai trái ớt một đỏ, một còn xanh chồng đang cầm trên tay thì cau mặt, kiếm chuyện cự nự để Chơn khỏi lập lại câu hỏi.
Cô gắt:
-Anh hái làm chi trái ớt còn non xèo vậy? Cây ớt trái nhỏ xíu nầy vốn là cái thứ hay để bụng nên người ta mới gọi nó là "ớt hiểm". Mình hái trái chín thì không sao, chớ hái trái non là nó giận đó!
Chơn nghe vợ nói có duyên quá nên ghẹo:
-Sao em biết nó giận.
Út cắt nghĩa:
-Hồi nhỏ em có tự mình trồng một cây ớt. Nó vừa có trái, chưa kịp chín thì em nôn quá nên hái liền. Thế là nó giận, tự mình ngắt hết mấy cái trái trên cây rồi không thèm trổ bông, đậu trái nữa.
Chơn nói:
-Không riêng gì ớt đâu. Cây nào mới ra trái "chiến" (trái đầu) người lớn đều cấm con nít đụng tay vô hái. Má anh hồi xưa trồng bầu còn cấm tụi anh nhìn trái của nó nữa. Má nói nhìn hoài nó không lớn nổi.
Đưa trái ớt xanh cho Út xem, Chơn nói:
-Anh cố ý hái trái ớt xanh cho em ăn để biết nó ra làm sao?
Út cười:
-Ớt non thì có gì mà ngon. Cũng giống ổi non, mận non, chuối non...ăn chát ngầm có ngọt gì đâu?
Chơn cười:
-Ậy ! Trái ớt nầy coi non như vậy mà giòn, thơm, nồng nồng ...cay vừa phải chớ không xé họng như khi chín. Một chút ăn rồi biết liền. Bảo đảm em ghiền nó luôn!
Bốn tên: mắm ruốc, cơm nguội, đậu rồng và ớt, đặc biệt là ớt xanh hết sức hợp tính, hợp tình nhau. Hai vợ chồng vét cho đến hột cơm cuối cùng vẫn còn nghe thèm. Út thấy chồng ăn ngon miệng quá nên hỏi:
-Anh còn đói hông ? Để...
Chơn gạt phắt:
-Anh no rồi, không ăn nổi nữa đâu!
Út đặt mấy cái chén vô nồi định bưng ra sàn nước để rửa, Chơn liền ngăn lại:
-Để anh rửa cho, em vô giăng mùng đi!
Út nói:
-Em giăng mùng, tấn mùng xong xuôi từ nãy rồi. Thôi để em đi pha cà phê...
Chơn lại hỏi:
-Cà phê ở đâu vậy?
Út lại làm bộ không nghe, cô chẳng thèm trả lời, trả vốn gì hết. Bước lại cái bàn dài trước nhà, nơi bày sẵn bình trà, bộ tách và một cái bình thủy Trung quốc đựng nước sôi. Cô nhấc cái bình thủy lên tay, thấy còn nặng thì nhớ ra mình vừa châm đầy vào lúc nấu cơm chiều.
Út để phin cà phê vào cái tô lớn, chế nước sôi vô tô để làm nó nóng cả trong lẫn ngoài rồi lấy đũa gấp ra. Cô cho nó ngồi lên cái ly "xây chừng" dùng để uống trà, chỉ cho một muỗng canh cà phê vào phin rồi mới chế nước sôi vô đầy tới miệng. Một mùi thơm phưng phức bay ra khiến tinh thần cô vô cùng sảng khoái.
Chơn xuýt xoa:
-Cà phê thơm quá! Thứ nầy chắc mắc tiền lắm đây.
Rồi ghẹo vợ:
-Giờ nầy mà uống cà phê chắc anh ngủ hết nổi. Em sẽ mệt lắm đó!
Út làm bộ ngây thơ, nói:
-Anh uống thì anh mệt chớ mắc mớ gì tới em mà em mệt.
Chơn hăm he, giọng rất tuồng:
-Để coi lát nữa ai mệt thì biết!
Vừa thức dậy, Út liền phát hiện ra cái mùi thơm của cơm và thức ăn đã chui vào mũi mình mà trốn từ hồi nào. Bước vào bếp cô thấy Chơn đang cầm đôi đũa bếp xới tung nồi cơm đang bốc khói.
Út kêu to:
-Đừng có giầm nát miếng cơm cháy của em.
Chơn quay lại nhìn vợ, cười rồi đưa cái dĩa đựng nguyên một dề cơm cháy trên tay cho Út thấy, nói :
-Đừng có lo! Anh khựi hết ra đây rồi, không còn sót một miếng nào ở trong nồi hết .
Trong mâm đã có đủ ớt, đậu rồng, dưa leo và tất nhiên cả nửa chén mắm ruốc nữa.
Chơn lại hỏi:
-Ai xào mắm ruốc mà ngon quá vậy em? Toàn là thịt không hà!
Út biết sẽ đối mặt với câu hỏi nầy nên đã nghĩ ra một cách trả lời từ đêm qua.
Cô nói:
-Cái nầy là của anh Ba đem vô cho. Chắc cô nào làm cho ảnh, ảnh không thích hay ăn không hết nên đem vô cho mình.
Chơn tròn mắt, thích thú:
-Thiệt vậy sao? Vậy là rốt cuộc ảnh cũng chịu kiếm vợ rồi.
Út dập tắt ngúm ngọn lửa háo hức trong mắt chồng:
-Không ăn thua gì đâu anh ơi, đừng có mừng quá sớm. Ảnh hổng có thương cái cô đó đâu, nếu thương đâu có đem mấy món cổ làm mà cho mình hết trọi vậy?
Chơn thở dài:
-Bộ hồi nào tới giờ ảnh chưa hề thương ai sao em?
Út thở còn dài hơn chồng:
-Thương quá trời, quá đất mới khổ!
Rồi cô hỏi Chơn:
-Anh có biết nhà ông Năm Tiền ở mương lấp hông?
Chơn lắc đầu:
-Anh ít ra đó nên không biết.
Út nói:
-Bà vợ ổng đẻ một dọc năm cô con gái đầu, đặt tên theo thứ tự là : Ngọc, Ngà, Châu, Báu, Kim. Trong đó cô Kim là đẹp nhứt. Anh Ba với cổ thương nhau. Cô nầy hồi nhỏ đau hoài nên ốm nhom. Cha, má em có ít con trai nên kén dâu dữ lắm ! Sợ cái bụng cổ sát rạt không đủ chỗ có con nên không chịu. Anh Ba đòi bỏ học đi lính nên cha, má em phải bấm bụng mà đi cưới. Nào ngờ hai cái tuổi nầy là "bất sang tuyệt mạng", cưới xong là chết liền nên hai bên không tiến tới nữa. Có một người con trai thương cổ, đeo hoài mà cổ nhứt định không chịu. Bên gia đình cổ bèn mạo chữ của anh Ba, viết cái thơ chia tay với cổ. Cổ hận quá nên ưng anh chàng kia. Nào ngờ đến ngày cưới, khi đàng trai đang rước dâu thì anh Ba em lù lù xuất hiện, thế là cổ té xỉu. Chú rể liền bồng cô dâu xuống tàu chở đi luôn.
Chơn hỏi:
-Cô đó bây giờ ở đâu?
Út đáp :
-Ở Sài gòn! Chắc chồng cổ thấy hai người nặng tình quá, sợ họ xáp lại với nhau nên dắt vợ, bồng con, bỏ xứ mà đi xa như vậy.
Sáng hôm sau, Chơn trút lộp được một con tôm càng xanh. Anh mừng rơn, bắt bỏ vô cái rộng đeo bên hông rồi chạy về khoe với vợ liền:
-Má nó ơi, ra đây mà coi nè!
Út lật đật chạy ra, nhìn con tôm to bằng cườm tay đang nằm quơ qua, quơ lại mấy cái càng trong rộng thì cười toe toét, nói với chồng:
-Má thích ăn tôm càng nấu canh khoai ngọt lắm, để em đem ra cho má liền!
Chơn chạy vào bếp lấy cái túi đệm ra, cho con tôm vào rồi đưa cho vợ.
Út đeo cái túi đựng đồ nghề dạy học lên vai rồi nói với chồng:
-Em đem tôm ra nhà má, trên đường về sẽ ghé trường luôn! Em chiên cơm rồi đó anh ăn đi.
Vừa ngồi lên yên xe, cô chợt nhớ ra nên nói với chồng:
-Anh đem hủ chà bông cá qua đưa cho chị Hai, nhớ dặn chỉ cất để dành cho má ăn cháo. Đem bịt kẹo dừa qua chia cho mấy đứa con của anh Ba phân nửa, anh Tư phân nửa .
Nói xong là hối hả đạp xe đi liền, không kịp quay lại cười với Chơn như mọi bữa. Cô không thể thấy gương mặt vui tươi và đôi mắt nhìn theo mình một cách đầy trìu mến của chồng.
Sợ trễ giờ đến trường nên Út không leo lên cầu thang để lên thăm má. Cô ngồi trên xe, chống một chân xuống đất mà kêu hối hả:
-Ý ơi, lẹ lẹ ra đây mà cầm cái nầy giùm dì!
Ý lật đật chạy ra. Cô nói liền:
-Con biết sáng nay thế nào dì cũng ra kiếm con .
Út ngạc nhiên:
-Sao con biết?
Ý đưa bàn tay ra trước mặt dì Út, chỉ vào chiếc nhẫn đang đeo ở ngón trỏ, hỏi:
-Dì kiếm nó phải hông?
Út lắc đầu, rồi thắc mắc:
-Sao con lại đeo nhẫn vào ngón nầy?
Ý xòe rộng bàn tay trái ra, chỉ vào từng ngón, bắt đầu từ ngón cái rồi đếm:
- Buồn, vui, xui, tình, bạn. Ngón nầy là ngón tay vui đó dì. Bởi vậy mấy người kết hôn rồi đều đeo nhẫn ở cái ngón áp úp, là ngón "tình" không hà!
Rồi lột chiếc nhẫn ra đưa cho dì và nói:
-Trả cho dì nè!
Út ngạc nhiên thêm một lần nữa, hỏi:
-Sao lại trả cho dì? Nó đâu có phải của dì!
Ý trợn mắt hỏi:
-Vậy thì ai đặt vô túi đồ của cháu. Ngoài dì và cháu ra đâu có ai đụng tới nó!
Dì Út lắc đầu:
-Dì hổng biết!
Ý hỏi:
-Bộ có chuyện gì hay sao mà dì ra đây sớm vậy?
Út chợt nhớ ra, đưa cái túi đệm có con tôm càng đang bún tanh tách trong đó rồi nói:
-Cháu nói cậu Ba ra ngoài hè, đào lên một củ khoai ngọt. Chuyện nầy phải nhờ ảnh mới được, chớ cháu không biết dây nào có củ, dây nào chưa đâu! Cháu làm con tôm nầy, lột vỏ, lấy cái mình bầm ba sồn, ba sực để nấu canh với khoai ngọt cho ngoại. Nhớ nấu lỏng lỏng cho ngoại dễ nuốt. Còn cái đầu thì kho tàu, để nước ít thôi, kho cho nó hơi kẹo kẹo, chấm dưa leo, đậu rồng mới ngon.
Ý hỏi:
-Kho tàu là làm sao? Cháu chưa biết !
Út hấp tấp nói :
-Lấy gạch trên đầu ra cho sạch. Đặt cái trách đất lên bếp trước, cho một muỗng mỡ nước vào phi một tép tỏi cho thơm rồi bắt xuống. Chờ mỡ nguội, cho gạch vào rắc tiêu, hành củ bầm nhuyễn, nước mắm, đường vô chung. Đặt lên lửa nhỏ, quậy đều tay cho nó sôi, có màu đỏ au thì nhắc xuống. Cho cái đầu vô liền ướp để đó cho thấm. Cho thêm một muỗng nước mắm, chút xíu nước vô rồi bắt lên bếp kho lại, kho nhanh thôi. Tôm chín cho hành xắt nhuyễn vào rồi nhắc xuống liền. Cháu đừng có trộn để cho nó thơm và có màu xanh cho đẹp.
Ý vừa nghe vừa thắc mắc về xuất xứ của chiếc nhẫn nên câu được câu không. Định hỏi lại mà thấy dì Út có vẻ vội vàng quá nên đành làm thinh.
Út vừa nhấn bàn đạp thì Ý chận tay lại, gặng thêm một lần nữa:
-Chiếc nhẫn không phải của dì thật sao?
Út gật sát cái càm xuống hết cỡ rồi nói:
-Chắc chắn! Lương cô giáo của dì đâu đủ sống. Làm gì có dư mà sắm nó?
Rồi leo lên xe chạy như ma đuổi.
Ý vừa xách cái giỏ đệm bước lên thang, vừa moi óc ra mà nghĩ. Cô cố nhớ xem, ngoài mình và dì Út ra thì còn có ai chạm tay vào cái túi đó nữa.
Dáng dấp một người con trai, hai vai đeo hai túi xách, đi từ phà lên bờ như chạy, để tránh mấy người bán hàng rong đang đuổi theo bỗng hiện ra rõ ràng trước mặt.
Ý buột miệng kêu lên một cái tên:
-Tư!
Nửa đêm, mưa về!
Trên mái tôn, cả triệu gót chân nhỏ xíu đang dận rào rào. Tư tốc mùng chạy vào bếp, lấy cái thau nhựa và nồi nhôm đặt dưới hai chỗ dột. Tiếng hai giọt nước chạm vào vật chứa nghe rất khác nhau: một thanh, một trầm y như một nam, một nữ cùng song ca với nhau vậy.
Những tạp âm đó khiến Tư nhận ra, cùng bắt nguồn từ những giọt mưa nhưng âm thanh, cảm xúc và cả tác dụng của chúng mỗi nơi mỗi khác. Nhất là về cảm xúc!
Thường thì mưa ít có khả năng gợi lại những kỷ niệm vui, trừ trường hợp nhờ nó mà ai đó đứng đụt mưa rồi quen, rồi thương được một người.
Nhưng cái vui do cơn mưa đưa đến chẳng giản dị như những niềm vui có tính cụ thể khác. Nó như một ly nước chanh có vị ngọt, vị chua, vị mặn và vô số vị khác nữa nếu ta có sở thích cho thêm chút muối hoặc bất cứ gia vị tinh tế nào đó vào, để tạo cho nó một chút độc đáo.
Mừng thì có, nhất là vào mùa nắng. Khi mái tôn cong lên như con cá chiên trong chảo. Khi hai tay Tư chẳng thể ở không, phải cầm cả hai cây quạt để quạt phành phạch... Lúc ấy chẳng riêng gì Tư mà với tất cả mọi người mưa đều được chào đón hết lòng, hết dạ.
Tư thường viện cớ tiết kiệm, khi có người hỏi là tại sao phải giầm mưa hứng nước. Thực ra Tư vẫn còn thích được tắm mưa như khi còn là con nít. Những lúc đó Tư thấy mình trẻ lại rất nhiều, nét mặt căng tràn một nỗi hân hoan vì cất trong lòng không hết!
Buồn cũng nhiều lắm ! Buồn thuần túy thôi, chẳng hề dính dấp đến cái cô nàng "bực" thường nhì nhằng bám theo. Giọt buồn trong veo như giọt mưa rơi thẳng từ mây xuống. Có thể gọi là buồn "đẹp"!
Nhất là vào những lúc đêm sâu và lành lạnh như thế nầy !Tư có cảm giác như trong lòng mình đang có cái chậu đựng thứ nước có tên là quá khứ và mưa là những chiếc đũa thọc vào khuấy đảo. Lớp cặn nằm sát dưới đáy từ từ trồi lên. Ban đầu là những chấm bụi li ti rất nhỏ, rất nhẹ. Cuối cùng cả những hạt cát, hòn sỏi cũng góp mặt. Những chất trầm tích ấy đại diện cho những kỷ niệm gần gũi hoặc hết sức xa xôi. Chúng đến ồ ạt chẳng theo thứ tự về thời gian, không gian. Cũng không thèm xin phép hoặc báo trước.
Cái buồn thường có tính ôm đồm. Có khi buồn cho mình chưa thỏa, Tư còn buồn giùm cho người khác, và cả những sinh linh khác nữa.
Cái buồn trong mưa tuy sâu và rộng như vậy, nhưng lại không nguy hiểm lắm, có khi còn trái lại.
Qua một đêm thức để tai nghe mưa, hồn tắm táp, kỳ cọ trong mưa. Sáng ra ta thấy hình như mình trong trẻo, nhẹ nhàng, tươi mới lên một chút.
Đối với Tư mưa mang mùi vị của kỷ niệm. Nó chẳng những gợi lên những hình ảnh, âm thanh mà cả hương vị, cảm xúc xa xưa nữa.
Ngày trước, mỗi đêm mưa, Tư thường nhớ đến dáng lưng cong cong như tàu lá chuối của má. Nhớ tiếng mưa rơi trên chiếc nón lá của má đang đội. Tiếng nước tạt mạnh vào lề khi mấy chiếc xe gắn máy chạy băng qua vũng nước. Nhớ mùi thơm của những bụi bông sứ, bông công chúa, dạ lý hương, nguyệt quế ...khi đi dọc theo công viên.
Nhưng cái mà làm Tư xúc động đến bùi ngùi chính là cảm giác yên lành khi vòng tay ôm eo má, áp chặt ngực vào lưng má để đón nhận hơi ấm được truyền qua.
Tư cho rằng không chỉ dẫn nhiệt, điện, âm thanh...nước còn là môi trường dẫn truyền cảm xúc rất tốt. Tư khẳng định một điều, tuy không căn cứ theo một luận chứng khoa học nào hết, chỉ theo cảm tính của riêng mình mà thôi! Rằng nếu trời mưa và ta đang tha thiết nhớ một ai, thì chắc chắn người ấy cũng đang nhớ đến ta, với cùng một cường độ. Như lúc nầy đây Tư đoán má và Ý cũng đang nhớ Tư!
Ngay thời điểm nầy Tư đang ngồi trước màn hình để làm khán giả độc nhất đang xem lại cuốn phim chỉ có mỗi một diễn viên là Ý.
Cuốn Phim bắt đầu bằng cái hình ảnh đã khiến Tư xao xuyến khi được Ý ngồi ngay sau lưng để cạo gió giùm. Khoảng cách khá gần nên hơi thở âm ấm của Ý phả vào lưng đã khiến Tư nổi da gà.
Nó bỗng chiếu trở lại cái buổi chiều chàng lần gặp Ý đầu tiên. Lúc đó trời mưa, gánh cháo gà nằm trong một mái hiên rất rộng. Mục đích Tư ghé vào là để đụt mưa, tình cờ bắt gặp một người con gái có cái nốt ruồi trên mặt giống như má mình rồi cảm mến luôn từ đó.
Tư nhớ đến gương mặt thật hiền và ít khi cười ấy. Bàn tay với những ngón suôn đuột đưa cái khăn lên mũi hít rồi trao Tư lau mặt. Nhớ cái dáng mềm oặt khi Ý té xỉu. Nhớ tiếng tim đập rất nhẹ như thể nó vốn đã quá nhỏ nhoi, lại phải chịu đựng nặng và nhiều quá nên đã mệt mỏi lắm rồi! Nó đã cố tình nép sát bên ngực chàng như tìm chỗ nghỉ ngơi, khi Tư ôm cô ngồi trên chiếc xích lô. Nhớ khuôn mặt xanh xao, thân hình gầy nhom, bất động của Ý trên giường bịnh...
Những hình ảnh đó quá sinh động. Khiến Tư chẳng thể ngăn mình lấy tập ra ghi lại khi chúng hãy còn ràng ràng trong tâm, trong trí.
Tư vẽ liền ba bức: Một Ý ngồi giữa gánh cháo. Một Ý quay nghiêng nhìn vào bờ sông, với cái búi tròn như trái cam trên ót, với mấy sợi tóc con trên trán và tóc mai bên tai bay phơ phất lúc ở trên phà. Bức thứ ba vẽ theo tưởng tượng, cảnh Ý ngồi hai chân đặt cùng một bên, trên cái bọc ba ga xe đạp, ngay sau lưng chàng.
Tư vẽ một mạch, không hề dừng tay để xóa một lần nào. Với cảm giác gần như xuất thần, với những hình ảnh trong óc như được chạm nổi và tô bằng một loại mực rất đậm, mới nguyên chưa kịp ráo. Tư vẽ không một chút nhọc nhằn. Như thể chỉ cần đưa những tấm giấy trắng vào rồi ấn nhẹ, giúp chúng hiện lên rõ ràng từng nét.
Tư xoa tay hết sức hài lòng vì ba bức vẽ đều trung thực với hồi ức. Một cảm giác quá tuyệt vời khiến tâm hồn chàng thăng hoa, đến nổi hai mắt bỗng rưng rưng...
Tư đã hiểu vì sao những họa sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ...sẵn sàng chết cho niềm đam mê của mình. Đó chính là vì những giây phút như thế nầy mà thôi!
-Tư ơi! Có ở nhà hông?
Không nghe tiếng trả lời, bác Hai gọi lớn hơn:
-Tư ơi! Bộ đi vắng rồi hả?
Tiếng "dạ" rất to từ trong nhà vang ra làm ông bật cười khan.
Cánh cửa mở ra liền ngay sau đó. Tư còn cầm cái bàn chải đánh răng trên tay, đi như chạy ra cổng, đầu tóc bù xù vì chưa kịp chải.
Bác Hai hỏi:
-Bộ hồi tối thức khuya lắm sao mà giờ nầy mới dậy?
Tư cười, gãi đầu :
-Gần sáng con mới đi ngủ lận. Hôm nay bác nghĩ chạy xe hả?
Bác Hai đáp:
-Bác được người ta bao, đi từ sáng sớm tới giờ nầy mới về.
Tư mời:
-Mời Bác vô nhà ngồi chơi, uống nước. Để cháu dắt xe vô cho.
Bác Hai lắc đầu:
-Thôi khỏi. Bác phải đem cái nầy về nhà cho bả làm liền.
Bác đưa cái bọc ni lông trong đó có một con cá lóc khá to lên cho Tư thấy.
Tư hỏi:
-Bác mua hay câu dính nó vậy?
Bác Hai cười khà khà :
-Bác chở một ông khách về Long An thăm bạn. Họ cho ổng cá, ổng chưa về nhà còn ở khách sạn, không tiện nấu ăn nên cho lại bác.
Rồi ông mời Tư:
-Chiều nay lại nhà bác ăn cà ri cá nghe.
Tư ngạc nhiên:
-Bộ cá lóc cũng nấu cà ri được sao bác?
-Được chớ . Con cá lóc coi vậy mà dễ sai, dễ khiến hơn hết thảy. Nó là diễn viên số một mà, đóng vai nào cũng giỏi, cũng ngon lành.
Rồi bác bật mấy ngón tay lên kể:
-Canh chua nè, nướng trui nè, hấp nè, chiên nè, nấu cháo nè...Nấu cà ri ngon chỉ thua cá trạch lấu chút xíu thôi hà! Tại cái thịt không dai bằng.
Bác bổ xung thêm:
-Sở trường của nó là món gì cháu biết hông?
Tư hỏi:
-Món gì vậy bác?
Bác Hai gật gù:
-Kho. Món kho nào xài nó cũng ngon!
Rồi bác lại bật ngón cái lên một lần nữa:
-Kho tiêu, kho hành ớt, kho xả, kho tương, kho mắm...
Chắc còn nữa nhưng bác làm biếng dùng đến bàn tay kia nên dừng tại đó.
Tư nói:
-Cháu thấy nó không đóng cái vai xào.
Bác Hai cự liền:
-Vậy là cháu chưa ăn cái món cá lóc xào cần ống phải hông?
Tư lại hỏi:
-Món đó ra làm sao vậy bác?
Hai mắt ngời ngời, bác Hai kể:
-Cá lóc làm cho sạch rồi lạng lấy hai miếng thịt ở hai bên lườn, bỏ đầu và xương. Cắt mỏng chừng hai, ba li, ướp tiêu củ hành, đường, nước mắm vô cho thấm. Bắc chảo chờ thiệt nóng rồi bỏ vô một muỗng mỡ, một tép tỏi đập giập. Để lửa to, chảo nóng hực rồi vớt cá cho vô liền, nước ướp chừa lại. Xào cho cá hơi vàng vàng, cho rau cần vô, cọng trước lá sau, nêm rồi nhắc xuống liền. Món nầy coi vậy mà làm hơi khó, cá phải còn nguyên miếng không bị bể mới ngon, mới khéo. Bởi vậy lúc xào cháu không được xài đũa, phải dùng cái sạn có mép thiệt mỏng, xúc lên rồi lật qua nhẹ nhẹ.
Tư định hỏi nữa, nhưng bác xua tay:
-Bác phải về liền kẽo nó chết ngợp, hết ngon.
Bác khởi động cho chiếc xe nổ phành phạch rồi vừa gài số vừa dặn thêm lần nữa :
-Nhớ tới nghe hông ! Mà đừng có mua bia như hôm bữa. Lần nầy mà đem đổi lấy đường, bột ngọt nữa chắc lỗ nhiều hơn mà còn bị họ chửi nữa quá!
Tư cười, gật đầu đáp:
-Dạ ! Cháu nhớ.
Chờ bác Hai đi một đổi, Tư mới quay lưng định đi vào nhà, lòng nghe dào dạt một niềm vui.
Thấy ông phát thơ đi ngang qua, Tư gọi:
-Bác phát thơ!
Ông lắc đầu, không chờ Tư hỏi mà nói:
-Hôm nay cháu không có thơ đâu!
Tư lại kêu:
-Bánh tét!
Ổng thắng xe cái két rồi cười và hỏi:
-Mấy cái ?
Tư đưa hai ngón tay rồi nói :
-Bác chờ chút xíu để cháu vô lấy tiền.
Ông ta hỏi vói theo:
-Nhưn đậu hay chuối?
-Một đậu, một chuối.
Trả tiền xong Tư hỏi:
-Mấy giờ rồi bác?
Ông đùa:
-Hơn hồi nãy một giờ.
Rồi chỉnh lại liền:
-Hơn hai giờ rồi đó cháu!
Tư buộc miệng:
-Trời đất!
Nghe Tư kêu trời ông liền hỏi:
-Làm cái gì mà giựt mình dữ vậy?
Tư xòe tay ra đếm rồi nói:
-Cháu ngủ liền một mạch gần tám tiếng đồng hồ.
Ông nói bằng giọng ao ước:
-Ngủ được như vậy là tiên đó cháu. Bác bây giờ một đêm ngủ có bốn, nhiều lắm là năm tiếng. Nghe người ta nói ngồi thiền hay bị ngủ gục, bác cũng bắt chước. Ngủ đâu không thấy mà đau lưng, đau vai quá mạng. Thế là bác bỏ ngang luôn. Thây kệ tới đâu thì tới.
Tư an ủi:
-Vậy là bác sống nhiều gấp rưởi người ta rồi.
Ông cười:
-Ờ hén!
Hai cái bánh tét loại nhỏ nhứt nên chẳng an ủi được cái bao tử chút nào. Tư định thay đồ ra quán dì Ba nhưng khi đếm lại tiền thì bỏ cái ý định đó. Đành uống nước cầm cự tới chiều.
Giặt xong thau quần áo dơ dồn lại của cả tuần là đã đến bốn giờ. Tư tắm gội thay đồ rồi đến nhà bác Hai, không quên lấy chai dầu con ó của mẹ học trò mới tặng, bỏ theo túi để đem tặng lại cho bác gái. Hổm rày hai vợ chồng bác Hai cứ rủ Tư đến ăn cơm hoài. Bác Hai gái biết Tư ngại nên nói: "Cháu tới ăn cơm chung, bác mừng và mang ơn nhiều lắm! Có cháu nói chuyện, ổng vui miệng nên ăn cơm cũng nhiều hơn một chút. Đừng có bày đặt mua cái nầy cái kia đem lại nghe hông ! Đem cái bụng lép tới là được rồi, nói không nghe là hai bác giận đó!"
Tư biết bác ấy nói thật lòng nhưng chẳng lẽ lần nào đi ăn chực cũng chỉ xách theo hai nải chuối- nói theo kiểu của bác Hai trai- thì kỳ quá!
Đến trước cửa Tư đã nghe mùi cà ri và nước cốt dừa bay ra khiến cái bụng kéo biểu tình dữ dội. Chưa kịp gọi bác Hai ra mở cổng, đã nghe tiếng ông gọi:
-Dắt xe vào nhà rồi đi vô bếp luôn đi cháu!
Tư "dạ" một tiếng to, vói tay mở cái móc gài cổng rồi dắt xe vào nhà.
Dựng xe kế chiếc Hon đa xong Tư đi xâm xâm vào bếp luôn. Vợ chồng bác Hai đang đứng chụm đầu, cùng nhìn vào cái nồi bắc trên bếp.
Bác gái lấy cái vá đang nằm úp mặt vào cái tô để cạnh bên nồi, bà nhúng nó vào nồi rồi đưa cái vá sát vào miệng ông và nói:
-Ông nêm giùm tui coi vừa ăn chưa .
Bác trai thổi phù phù, hớp một miếng, chép chép miệng rồi nói:
-Hết sẩy!
Cái cảnh ấy khiến Tư xúc động quá, đứng chết trân một chỗ.
Bác Hai quay lại thấy Tư đang nhìn mình đăm đăm thì hơi mắc cỡ bèn hấp tấp nói:
-Ngồi đi, ngồi đi! Sắp ăn được rồi.
Tư lấy miếng giẻ lau xuất thân từ cái áo thun ba lỗ tuy đã rách nhưng vẫn còn trắng ngần của bác Hai, để lau cái bàn ăn vốn đã rất sạch.
Chàng hỏi:
-Mình ăn bằng tô hay chén vậy bác?
Bác gái trả lời:
-Ăn bằng tô.
Tư mở sóng chén, lấy ra ba cái tô, cầm cái khăn vải mùng treo trên ống đũa lau từng cái cho sạch. Bày chúng lên bàn rồi lau tiếp ba đôi đũa, ba cái muỗng.
Bác gái cho rau ghém gồm bắp chuối xắt thật nhuyễn, giá sống, rau húng cây...lót dưới đáy từng tô, rồi gấp một đũa to bún để lên trên. Bác cho cái vá vào nồi cà ri, khuấy một vòng rồi múc một đầy vá cho vào. Những miếng cá vàng ươm, đã được bỏ hết xương, xé dọc theo xớ. Chúng to và dài cỡ ngón tay nằm chồng lên nhau trên mặt tô bún. Bác xếp lên một nhúm hành thái sợi, đã ngâm nước nên cong cong, rối rối. Trên cùng là mấy lát ớt sừng trâu đỏ au thái mỏng.
Tô bún trông quá hấp dẫn với bốn màu trắng, xanh, vàng, đỏ. Thơm phưng phức khiến Tư cố kìm mà không thể không nuốt vì nước miếng ứa đầy nhóc miệng.
Bác gái đưa cho chồng tô bún đầu tiên, hối:
-Ông ăn liền đi, ruột cá ăn nóng mới ngon!
Rồi lật đật bưng chén nước mắm với chén ớt xanh để trước mặt ông.
Kế tiếp bác múc một tô đầy tú hụ những cá là cá đưa cho chàng khiến Tư phát ngại. Đã vậy bác còn nói:
-Cháu phải ăn hai tô mới được đó!
Tư đùa:
-Cháu định xin bác ba tô.
Bác Hai cười sảng khoái :
-Cứ việc!
Đây là món bún cà ri cá Tư được ăn lần đầu. Mùi vị rất đặc biệt khiến Tư phải trầm trồ:
-Bún nầy lạ và rất ngon. Ở Sài gòn hình như chưa thấy có chỗ bán.
Bác gái giải thích:
-Món nầy quê bác gọi là bún Nước Kèn. Nó với bún Nhâm, bún Nước Lèo là của người Cam Pu Chia. Chỗ nào họ ở nhiều mới có.
Tư hỏi:
-Nó có dễ nấu hông bác? Ngoài cá ra là thứ gì nữa hả bác?
Bác gái gật đầu:
-Dễ ợt! Nó đơn giản lắm, chỉ cần cá với dừa khô thôi hà! Cháu làm cá cho thật sạch, để trong rỗ thưa cho ráo nước. Dừa nạo xong đem vắt lấy nước cốt, nước giảo để riêng. Luộc cá trong nước giảo dừa với ba tép xả đập giập để khử mùi tanh của cá. Cá chín, cháu vớt ra, gỡ bỏ hết xương. Bắt chảo lên bếp, đợi chảo nóng cho chút mỡ vào phi tỏi, củ hành cho thơm rồi cho bột cà ri, rắc một muỗng đường cho nó có màu đẹp rồi cho cá vô. Xào hơi săn săn thì chắt liền nước luộc cá ban nảy vào. Chờ nước sắc xuống một chút cháu cho nước cốt dừa vào rồi tắt bếp.
Tư lắc đầu, nói:
-Món nầy ngon, dễ nấu nhưng chắc cháu không làm được vì đâu có biết nạo dừa .
Bác gái cười :
-Đừng có lo, ngoài chợ người ta có bán dừa nạo sẵn mà.
Bác Hai chợt hỏi:
-Cháu có ăn ruột cá lóc chưa?
Tư đáp:
-Dạ chưa .
Gấp cái ruột cá trong tô mình qua cho Tư, bác bảo :
-Cháu nhai thử coi, thích thì ăn, không thì trả lại. Đừng có vị bụng bác, ráng mà nuốt thì uổng lắm! Cái chuyện khẩu vị nầy rất khó nói. Nó y như tôn giáo vậy đó! Kẻ ưa, người kỵ. Ai ai cũng cho món mình thích là ngon nhứt, tôn giáo mình theo là tốt nhứt, nên hay cãi vã liên tu bất tận.
Tư chấm chùm ruột đã bị xẻ tanh banh đó vào chén nước mắm ớt rồi đưa vô miệng nhai. Nó vừa giòn, vừa béo, vừa cay, mùi vị khá đặc biệt. Nuốt xong Tư gật đầu:
-Ngon hết xẩy, hèn gì bác gái nhường cho bác .
Bác gái đính chính:
-Bác đâu có nhường, tại ăn hổng được nên nhờ ổng ăn giùm.
Bác gái có ý chờ sẵn, thấy Tư ăn vừa xong thì giựt liền cái tô để làm thêm nữa.
Tư nói:
-Bác cho cháu lưng lưng thôi, đừng múc đầy cháu ăn hổng nổi uổng lắm!
Bác trai gật đầu, ông nói:
-Cháu nó nói đúng đó bà! Cái lần đầu mà ăn bắt tới ngán là vô tình giết chết tươi cái món đó luôn. Phải có cái cảm giác thiếu thiếu mới còn muốn gặp lại nó nữa.
Ăn xong Tư không năn nỉ để được bác gái cho phụ rửa chén như lần đầu nữa. Bởi biết chắc chắn bác chẳng chịu nhường cái đặc quyền đó cho ai.
Bác Hai buộc chàng nằm xuống cái võng giăng song song bên cạnh cái võng của ông. Hai bác cháu vừa no phè nên chỉ nói những câu chuyện vui vui tếu tếu, không mang những chủ đề rắc rối, khó tiêu, những màu sắc ảm đạm cùng những tệ nạn nhức nhối khác.
Tư bỗng nhớ ra, móc túi đưa chai dầu xanh còn mới nguyên cho bác, rồi nói:
-Bác làm ơn đưa cho bác gái chai dầu nầy giùm cháu.
Thấy bác ngần ngừ chàng bịa:
-Má đứa học trò nầy có người bà con bên Mỹ gửi đồ "viện trợ" dài dài. Hôm trước chỉ mới cho cháu một chai, xài chưa hết nay lại cho nữa. Bác nói bác gái nhận giùm, để cháu không xài kịp nó bay hơi uổng lắm!
Bác Hai cười nói:
-Không hiểu tại sao thiên hạ khoái xài cái thứ dầu nầy dữ quá ! Ai cũng kè kè trong túi một chai. Hổng biết họ thích cái mùi của nó thiệt hông hay chỉ để lòe thiên hạ.
Chờ Tư về bác Hai mới đưa chai dầu cho vợ. Ông nói:
-Tặng cho bà nè!
Bác gái hỏi:
-Ở đâu mà ông có? Ai cho vậy?
Ông trả lời:
-Mua tặng hổng được sao? Để bà xức cho ấm cái mỏ ác .
Bà "xì" một tiếng dài thòng, nói:
-Ông mà chịu bỏ tiền mua chai dầu nầy chắc tui cùi xức móng luôn quá!
Ông bèn hỏi:
-Vậy bà nói thử coi ai cho?
Bà đáp, hơi trù trừ:
-Chắc cái ông cho con cá lóc, phải hông? Chớ mình đâu có quen ai giàu và thân đến nổi tặng cho mình một chai dầu mắc tiền mà còn nguyên như vầy!
Ông cười hóm hỉnh, lắc đầu:
-Trật lấc, cho bà nói thêm một lần nữa đó!
Giọng bà mang vẻ ngờ vực:
-Hổng lẽ của thằng cháu Tư?
Ông gật đầu:
-Đúng đó, nó sợ bà hổng chịu lấy nên nhờ tui đưa giùm.
Nét rạng rỡ trên mặt biến mất, bà cằn nhằn:
-Ông nhận làm chi? Tiền dạy học của nó đâu có được bao nhiêu. Thầy, cô giáo có bằng cấp hẳn hoi, dạy trường nhà nước đàng hoàng mà còn chạy gạo mệt cầm canh. Họ có cả mấy trăm đứa học trò mà còn không đủ sống. Nó chỉ dạy cho mấy đứa học trò lèo tèo, chắc chắn là nghèo sặc máu. Mình mà nhận một lần, mai mốt nó phải ráng mua thứ khác đem tới nữa. Cực cái lòng nó quá!
Ông nói:
-Món nầy của má học trò cho chớ nó đâu có mua. Mà bà cũng ngộ, người ta được tặng quà thì mừng, thì cảm động, thì cười, còn bà thì bức rức, cằn nhằn.
Bà nói:
-Ai mà không thích được tặng quà. Tui cảm động dữ lắm đó chớ, nhưng hổng biết tại làm sao mà nghe cái ruột nó xót quá chừng!
Ông cắt nghĩa:
-Chắc tại bà coi nó như con của mình, lại là cái đứa nghèo nhứt nên không nỡ xài tiền của nó đó mà! Tui nói vậy đâu bà rà lại cái bụng coi có đúng hông?
Bà suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
-Chắc kiếp trước tui với nó là mẹ con hay sao mà kiếp nầy mới gặp là thấy thương liền. Ông có nhớ cái hôm nhà mình cùng nó ăn mắm kho với nhau hông? Thấy nó cắm cúi nhai mà tui nghe thương đứt ruột, y như bị bỏ đói ba ngày. Ông hổng thấy chớ bữa đó tui đâu có ăn cho no. Nhai nuốt cầm chừng để nó đừng có ngại thôi hà!
Ông trợn mắt nhìn bà rồi hỏi lại:
-Sao bà biết tui hổng thấy? Ngay cái tia nhìn đầu tiên là tui biết bà với nó hợp nhau rồi. Vợ chồng mình có nhiều thứ giống nhau lắm. Tui để ý hể tui thương ai là bà cũng thương, tui ghét ai thì bà cũng ghét. Bà coi nó như con thì tui cũng vậy. Cái cuốc xe về quê rồi lên liền đó, gặp người khác là tui đâu có đi. Hôm bữa nó nhét hai trăm vô túi năn nỉ tui lấy trọn mà tui đâu có chịu, nhứt định chỉ lấy đủ tiền xăng mà thôi!
Tưởng được khen, ngờ đâu ông lại bị bà cằn nhằn:
-Có năm ba chục mà lấy làm chi cho nó mất cái tình, cái...
Ông ngắt lời:
-Ai mà hổng biết, nhưng làm quá coi hổng được, nó ngại trốn biệt thì sao?
Ông liếc bà một cái rồi nói:
-Hèn gì ông bà mình hay ví lòng cha, lòng mẹ thương con y như lòng sông: "Bình thiên không bình địa". Bà biết câu đó có ý nói cái gì hông?
Bà cự nự:
-Hở hở là xổ nho. Ai mà biết? Sao hổng chịu nói tiếng của mình cho ai cũng hiểu? Tui ghét hạng nhứt là mấy cái bà móng tay tô đỏ, cái miệng ăn nước mắm mà nói chuyện với cái dân lao động, mua gánh, bán bưng như tụi tui cứ chêm tiếng tây, tiếng u vô lùm xùm. Nghe điếc con ráy mà hổng hiểu cái gì ráo trọi!
Ông cười thẹn, gãi đầu:
-Tại quen miệng thôi bà ơi! Ai mà thèm khoe khoang cho mỏi miệng mà còn bị ghét. Bà có thấy con sông nào cũng có cái mặt phẳng lì, bằng chan hông?
Bà gật:
-Thấy chớ sao không. Rồi sao?
Ông không trả lời mà hỏi tiếp:
-Còn cái đáy, bà thấy nó có bằng phẳng hông?
Bà lắc đầu:
-Chỗ lồi, chỗ lõm chớ làm sao bằng được. Mà ăn nhậu gì tới cái chuyện ...
Ông lại ngắt lời:
-Tại tụi mình có một đứa thôi nên bà không biết. Ba má tui có một bầy con nên tui để ý thấy ổng bả thương con Út nhiều nhứt. Không phải tại nó là con gái Út. Chỉ bởi nó nghèo hơn hết nên ổng bả lén bù xớt cho nó nhiều gấp mấy lần mấy đứa khác. Cũng như cái đáy sông vậy, chỗ nào có hố chỗ đó sâu hơn, nước nhiều hơn, lớ quớ bước hụt cẳng dám chết chìm chớ đừng tưởng...
Ông nói tiếp:
-Tui thấy thằng cháu Tư nầy mồ côi, lại mất cha từ nhỏ nên thương lắm! Muốn nhận nó làm con để vong hồn con Nho được thanh thản. Nó thấy mình có người an ủi mới chịu đi đầu thai. Tui tính thăm dò từ từ coi cậu ta có giống mình hông rồi mới bàn với bà...
Bà cướp lời:
-Cái ý tui cũng y chang như ông.
Chỉ tai lên đôi bông đang đeo, bà nói:
-Tui mà được đóng vai má chồng, đi cưới cái cô gì ở quê mình cho nó là tui mừng lắm luôn. Tui để dành đôi bông tiền điếu nầy với hai chiếc xuyến má cho lúc đi cưới tui cho vợ nó.
Bà dừng lại để nén nổi xúc động rồi nói tiếp:
- Nghĩ tới lúc đó tui nôn quá ông ơi! Mình ngồi sui phải nói chuyện theo cái kiểu rào qua đón lại, đưa tới đẩy lui...chắc mắc cười lắm ông hén!
Nhớ tới gương mặt đằng đằng sát khí của thầy ba Cương khi chạm trán với mình hôm trước, ông bỗng nhìn bà, cười mỉm chi rồi nói:
-Chưa chắc!
Rồi ông nói tiếp:
-Tui sợ lúc đó bà má chồng té xỉu mới ngộ!
Đúng ba tháng từ ngày đưa Ý về quê, Tư không nhận được lá thơ nào của nàng hết!
Nỗi mong đợi không còn khiến chàng khoắt khoải như những ngày đầu, nhưng cũng không lặn mất. Tư bỗng hình thành một thói quen, chẳng thể ngồi yên ở nhà trong những buổi chiều trời mưa. Chàng phải trùm áo, xách xe đạp chạy lòng vòng: ra ngỏ, quẹo qua xóm đình, rồi quay trở về...
Mối tình dành cho Ý vẫn âm ỉ trong lòng. Như biển, như sông chẳng bao giờ lặng sóng. Đôi lúc lao xao, gờn gợn như ru. Khi lại nổi giận đùng đùng, gào thét, vật vã, làm mình làm mẩy...
Có những đêm cơn nhớ dâng lên ào ạt trong lòng, nhân dáng và những kỷ niệm về Ý tái hiện rõ ràng như khúc phim chiếu chậm. Thế là Tư lại lấy chiếc cặp tóc trong túi ra, đưa lên mũi để cố tìm một mùi tóc đã bay đi xa lắm. Hoặc ngồi dậy, tốc mùng lật đật chui ra lấy giấy, bút ghi lại lập tức những đường nét đang lung linh trong đầu.
Bây giờ Tư đã hiểu tại sao cuộc đời của các danh họa luôn ba chìm bảy nổi. Chính những bước thăng trầm, nghiệt ngã của cuộc sống- như những mũi dao khoét sâu vào đáy lòng- khiến cái đau, cái buồn trong họ thăng hoa thành nghệ thuật. Đôi khi Tư còn cho là họ cố dấn thân vào nỗi cô đơn, sầu muộn để tìm chất liệu cho sản phẩm của mình.
Cái buồn thất tình, nếu chẳng đủ sức giết được ta, chúng sẽ mang lại rất nhiều xúc cảm và ở một số người được trời thương, còn ban cho đôi phần thi vị. Có lẽ nhờ vậy mà những bức ảnh chàng vẽ, càng về sau càng làm chàng nhồn nhột ở sống lưng khi xem lại .
Con người ta (có lẽ các sinh vật khác cũng vậy), hể tập trung vào mặt nầy thì lơ là vào các thứ khác. Điều đó giải thích vì sao các nghệ nhân có chữ "sĩ" đính kèm thường có phong cách thiếu chỉnh chu (điều nầy loại trừ ca sĩ, bác sĩ, dược sĩ...những nhân sĩ mà nghề nghiệp khiến họ không thể sống lẻ loi).
Tư không hề muốn học đòi theo các biệt nhân ấy, nhưng rõ ràng lúc sau nầy, cái ăn, cái mặc của chàng không còn tươm tất như lúc trước, nó không còn quá quan trọng đối với Tư như ngày xưa nữa.
Gần đây Tư cũng ít ra quán dì Ba. Nếu không có sự tiếp tế của của bác Hai chắc chàng đã gầy còm như xác ve sầu từ lâu. Cách vài ngày, bác Hai lại kéo Tư qua nhà ông ăn cơm. Khi thì xách cái gà mên bốn ngăn đem qua cho Tư đủ món. Điều đó chẳng những giúp cơ thể Tư không hao hụt mà còn vực dậy cái tinh thần đang trên đà suy sụp của chàng. Nhờ vậy mà cuộc sống của chàng dần cân bằng, bình thường trở lại.
Càng ngày Tư càng đâm ra ghiền những món ăn của bác gái, ghiền cái tính trào phúng của bác trai, ghiền luôn hơi ấm trong căn nhà ấy. Càng ngày chàng càng gắn bó với họ hơn, nhất là đối với bà.
Những cử chỉ chăm sóc kín đáo, những lời nói mộc mạc nhưng đầy ấp thương yêu, những chén cơm bới đầy vun, những ly nước chanh của bà khiến Tư nhớ má mình quá đỗi...Nhất là những ly nước chanh!
Ôi ! những ly nước chanh...chúng hình như đều do những bàn tay nhỏ nhắn của mẹ, chị, vợ, bạn gái... làm ra. Họ ít khi dành nó cho bản thân, chỉ để cho con, chồng, người yêu...mát lòng thêm sức. Từ ngày má mất đi rồi Tư chưa uống lại nước chanh, cho nên một lần cầm ly nước chanh bác gái đưa cho Tư bỗng thốt câu "cám ơn má !".
Cái tiếng "má" thốt ra một cách bất ngờ ấy đã khiến cả hai cùng bùi ngùi. Bác gái bỗng lặng người rồi quay đi để giấu hai giọt lệ sắp rơi.
Một hôm Tư đi dạy về trời đã tối, con hẻm vắng teo, những người bán hàng ăn đã dẹp. Theo thói quen Tư lại đưa mắt nhìn vào cái mái hiên sát cột đèn. Chỗ của Ý bây giờ đã có một người phụ nữ trung niên lấp vô. Bà ta không bán cháo gà mà cháo trắng và cháo đậu. Tối nào Tư cũng thấy bà ngồi thui thủi một mình, cái đầu gục xuống bật lên như người ta nhấp cá, chắc đợi khách quá mỏi mòn nên bà ngủ gục. Tư bèn ghé vào gọi một tô cháo đậu ăn với dưa mắm. Nhìn cây cột đèn trơ trọi, Tư bỗng nhớ cái dáng phất phơ của chiếc khăn mặt ngày nào. Cái nhớ, cái đau quá cụ thể khiến Tư không kham nỗi...Tư nhủ thầm từ nay sẽ không nhìn hay ghé vào nữa.
Dãy hàng ăn đối diện còn lại mỗi dì Ba. Chắc gặp người mở hàng nặng bóng vía, bán ế cho nên dì phải làm người dẹp hàng trễ nhứt.
Không thấy Ngon, con gái của dì phụ như mọi bữa, một mình dì lui cui...
Tư dựng xe nói:
-Dì cho cháu phụ một tay.
Dì sai liền :
- Cháu bưng cái ông lò đặt vào cái thùng xe giùm dì. Nó nặng quá dì sợ khom xuống rồi đứng lên không nổi, bị cụp cái lưng thì khổ.
Tư làm xong dì lại sai bưng tiếp cái nồi còn một ít cơm dưới đáy để trên lò ; Đặt cái rỗ chén đã được rửa sạch kế bên ; Đặt khay đựng mấy hủ gia vị lên trên rỗ chén....
Dì Ba nhìn Tư khệ nệ rinh từng món bằng ánh mắt trìu mến rồi hỏi:
-Lúc nầy sao khó gặp cháu quá vậy?
Tư cười :
-Cháu mắc lo kiếm tiền tới tối tăm mặt mũi luôn, không có thì giờ...
Dì ngắt lời:
-Bận tới đâu cũng phải ăn uống đàng hoàng cho có sức chớ! Đừng có nói là bây tự nấu ăn nghe, dì không có tin cái chuyện đó đâu.
Rồi dì gặng:
-Dì thấy có một ông chạy chiếc xe Hon đa 67, hay đem cái gà mên lại cho cháu. Bộ đặt cơm tháng, họ đem giao tận nhà hả? Một tháng bao nhiêu vậy?
Tư lắc đầu:
-Không phải người đưa cơm tháng đâu, ba nuôi của cháu đó!
Dì Ba ngạc nhiên :
-Thiệt hông? Quen bao lâu mà kết tình lẹ quá vậy ?
Tư gật đầu:
-Thiệt đó dì! Quen được đúng ba tháng, còn mới gọi ba má mới được mấy ngày thôi!
Bì Ba hỏi tiếp:
-Họ có nhà cửa, con cái gì hông?
Tư hiểu ý dì Ba nên nói:
-Ba má nuôi của cháu có nhà ở xóm lò mổ. Có một cô con gái nữa, bằng tuổi cháu nhưng mấy năm trước bị xe hàng đụng chết rồi.
Dì Ba lại nói:
-Dì thấy ông già đó ốm nhom! Ngó bộ không khỏe. Coi chừng mai mốt ổng bịnh tới, bịnh lui, cháu phải cưu mang mệt lắm đó!
Tư biết dì Ba thương mình mà nói vậy nhưng không khỏi phật ý, bèn đáp:
-Ba má nuôi cháu là người thật thà lắm, không có tính vụ lợi đâu. Không biết mai mốt cháu có trả hiếu lại cho đủ không, chớ hiện giờ cháu thấy toàn là mình được săn sóc không hà!
Dì Ba lắc đầu:
-Đời còn dài lắm cháu ơi!
Ngẫm nghĩ một lát dì lại nói:
-Ông bà mình hay nói: "Dò sông, dò biển dễ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người". Tính cháu hiền lại dễ tin, khiến người ta cầm lòng không đậu.
Tư bỗng thấy buồn và có lỗi với ba má nuôi quá! Chàng bỗng lầm bầm tự trách: "Ai biểu mình có cái bộ vó khờ khạo làm chi, khiến ba má nuôi phải bị nghi ngờ. Thiệt là bất hiếu hết sức!".
Cũng may hàng đã dọn xong, dì ba nói:
-Cám ơn cháu nghe. Bữa nay con Ngon nó về quê ăn đám cưới nên dì phải dọn một mình.
Tư định hỏi thăm vài câu về Ngon cho dì Ba vui, nhưng lại sợ dì quay về cái chủ đề cũ, lại gợi ý cho Tư làm quen với Ngon như lúc trước nên chỉ nói:
-Cháu mang ơn dì hổng hết, lâu lâu có dịp trả lại chút xíu là mừng hết lớn.
Hôm nay Tư ăn cơm trưa với ba má nuôi rồi đạp xe ra về. Vừa dắt xe vô nhà là mưa tuôn như trút nước. Chưa kịp đóng cổng đã thấy bác phát thơ đạp xe bám sát, chạy tuốt vô nhà theo chàng luôn.
Tư vội mời:
-Bác đem xe vào nhà để khỏi ướt cái túi đựng thơ.
Ông ta vừa lấy cái túi ra khỏi xe vừa cằn nhằn ông trời:
-Khi không mà trở mặt bất tử làm người ta trở tay không kịp.
Thấy cái giá võng để giữa nhà ông nói:
-Bộ cháu cũng thích nằm võng nữa sao?
Tư cười:
-Cháu mới thích đây thôi!
Cái giá võng được làm từ mấy cây sắt nhà binh rất dày và nặng, ông hỏi:
-Cháu mua hay tự làm vậy?
Tư đáp:
-Cháu mua ở mấy cái chỗ bán xác nhà.
Lúc nầy ở Sài gòn, người ta ráp nhau hồi hương hoặc đi kinh tế mới. Có người bỏ nguyên căn nhà lại, khóa cửa để đó. Có người tháo dở ra để bán từng món.
Ai đi thì bán nhà mà đi. Ai còn ở lại thì mua mấy cánh cửa, mấy tấm tôn, cây cột, miếng ván...để tu bổ căn nhà của mình. Có cung, có cầu nên hình thành một nghề mới. Mấy người đàn ông chạy xe đạp khắp xóm rao: "Ai bán xác nhà, bàn ghế cũ hông?".
Tư giũ cái võng cho hết bụi rồi mời:
-Bác nằm võng nghĩ lưng, chờ mưa tạnh rồi hãy đi.
Bác phát thơ chợt nhớ ra, móc trong túi lấy một xấp thơ được cột thành bó bằng sợi dây thun, rút cái thơ nằm trên cùng đưa cho Tư, nói:
-Cháu có thơ nè!
Nhận ra nét chữ của Ý, Tư nghe tim mình đập loạn xạ liền đi lẹ vô phòng lấy con dao rọc giấy lòn vào mép rồi rọc một đường dài.
Tư chùi hai bàn tay vô quần một lần nữa cho thật khô rồi móc lá thư ra đọc. Lá thư không dài như Tư mong đợi nhưng cũng đủ giải tỏa những nỗi thắc mắc trong lòng chàng. Tư đọc thêm ba, bốn lần, đứng ngẩn ngơ một hồi lâu mới xếp lại cẩn thận, đúng theo cái nếp đã gấp, cho vào bao thơ như cũ.
Tư đang chìm đắm vào một nơi nào rất xa. Tiếng cười, nói, la hét ì xèo của cái đám tắm mưa chẳng lọt vào tai chàng đến một tiếng. Mấy đứa trẻ trong xóm mỗi lần mưa là vừa tắm vừa tha hồ đá banh, không sợ ai rầy. Chúng tranh giành, hò hét, gọi nhau om sòm... cuối cùng cũng khiến Tư chợt tỉnh.
Tư móc tiền trong túi ra đếm rồi đi ra nhà ngoài. Bác phát thơ đang ngáy o o trên võng. Tưởng bác ngủ say lắm, nào ngờ Tư vừa chạm vào võng là bác mở banh hai con mắt ra liền.
Bác hỏi:
-Gì vậy cháu?
Tư đáp:
-Bác bán cho cháu hết chỗ bánh nầy đi.
Bác trố mắt hỏi:
-Mua làm chi nhiều vậy? Ăn làm sao nổi?
Tư cười chỉ tay ra đường:
-Cho mấy đứa nó ăn giùm.
Ngạc nhiên và mừng rỡ, ông đếm từng cái đưa Tư rồi nói:
-Mười tám đồng!
Trả tiền cho bác xong, Tư để đầu trần chạy ra cổng gọi:
-Mấy nhỏ, lại đây ăn bánh nè!
Cả đám dừng ngay trò chơi, chạy ùa về phía Tư. Chùm bánh trong tay chàng hết vèo.
Một đứa lớn nhứt trong bọn hỏi:
-Bộ lần nầy cũng thi đậu nữa hả anh Tư?
Tư lắc đầu, kê vào sát tai nó mà thì thầm. Thằng bé bỗng hét toáng lên:
-Anh Tư sắp lấy vợ, anh Tư sắp lấy vợ. Xóm mình sắp có đám cưới rồi tụi bây ơi !
---HẾT---
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.09.2019 15:44:56 bởi Lâm Du Yên >