GIÓ ĐÔNG Tryện dài Lâm Du-Yên
CHƯƠNG BA Ba cây nhang cháy được hơn phân nửa thì Sơn đem bánh tét về. Anh hớn hở trao cho Thắm bốn đòn bánh to bằng cườm cẳng, cột thành từng cặp một.
Ngược lại lòng mong đợi của Sơn, Thắm chù ụ cái mặt.
Cô rầy:
-Mua làm chi tới bốn đòn dữ vậy?
Rồi không chờ Sơn giải thích mà xách chạy vào bếp, tét ra liền để kịp cúng.
Sơn cười, nói như có lỗi:
-Bà già bán bánh hỏi “mua bánh gì, trắng, ngọt, chuối, chay?”. Tui đâu biết ông bà thích ăn gì nên mua luôn bốn thứ, thà dư còn hơn thiếu.
Lam vội đỡ lời:
-Thầy mua như vầy là không thiên vị ai hết.
Rồi cô bịa:
-Bà cố, bà ngoại thích bánh chuối, ông cố hảo bánh chay, ông ngoại mê bánh trắng má tui ưa bánh tét nhưn ngọt, ba tui thì khoái đủ bốn thứ.
Gương mặt Sơn tươi rói lại.
Lam chọc:
-Thầy Sơn khéo cư xử quá! Thầy bỏ lỗi cho dì Út tui nghe! Cái tánh dì Út tui hổng giống người ta. Đáng lẽ phải cám ơn thầy dỉ lại...
Cô nói tiếp một cách lém lĩnh:
-Tại cái gien gia đình tui nó ngược đời như vậy đó! Lời ngọt ngào thì giấu trong lòng, mở miệng ra là mặn chát. Má tui ngày xưa cũng y chang. Mỗi lần được ba tui sắm cho món gì, má tui cảm động lắm, thích lắm, nhưng tiếc tiền nên hay cự nự làm ba tui bực bội.
Rồi cô kể thêm:
-Nhà tui ai cũng thích ăn phao câu gà! Bữa nào có món gà xé phai là ba tui gắp cái phao câu bỏ vô chén má, má gắp bỏ qua chén ba trở lại rồi còn làm bộ nói “tui có ưa cái thứ nầy đâu mà ông bắt tui ăn”.
Nói tới đây Lam nghe nhớ má, thương má đến đau lòng.
Cô kể tiếp giọng nghẹn ngào :
-Khi má tui mất, ba tui giành cúng cơm cho má mỗi bữa. Lần nào cúng ông cũng dặn dò: “Bà cứ ăn cho đã đi nghen! Đừng có nhường cho ai hết đó!"
Thắm bưng dĩa bánh ra rồi đốt thêm ba cây nhang nữa cắm vào.
Chương từ sáng tới giờ chưa có miếng gì bỏ bụng nên nhăn nhó hỏi:
-Bộ chờ ba cây nhang nầy tàn nữa sao dì Út?
Thắm lắc đầu:
-Khỏi! Mấy cây nhang trước cháy hết là mình dọn ba cái món mặn xuống, bắt đầu ăn là được rồi. Mấy món ngọt giữ lại cho ông bà ăn tráng miệng.
Chương lại hỏi:
-Bộ dì sai vợ con làm bánh khoai mì nướng hả?
Thắm đáp, giọng nghinh chiến:
-Ừ! Có sao hông?
Chương lắc đầu, phân trần với mọi người:
-Thấy bả cặm cụi bào khoai mì tui mới hỏi: “Bà bào khoai mì chi vậy?”. Bả đáp “Dì Út nói bà cố ngày xưa thích ăn bánh khoai mì nướng”. Tui cự bả: “Bà ngoại ngày xưa bị ngộ độc khoai mì một lần, xém chết, nên ông cố cấm tiệt con cháu ăn cái món khoai mì nầy”.
Thắm lật đật nói trớ:
-Dì nhớ lộn rồi! Bà ngoại thích ăn bánh bò nướng. Má tụi bây đó, mới thích bánh khoai mì nướng.
Rồi tỏ vẻ ăn năn:
-Thôi lỡ rồi, để lần sau cúng chị Hai, tao nhắc nó làm bánh khoai mì nướng cúng chỉ. Dì có quên thì anh em bây nhớ nhắc đó nghe!
Liền đứng lên cái rột, nói:
-Phải rút cái dĩa bánh khoai mì ra liền, chắc chưa ai đụng đũa tới nó.
Lam can:
-Đó là khi còn sống ông bà phải ráng kiêng vì sợ chết. Bây giờ chết rồi còn sợ gì nữa?
Thắm khăng khăng:
-Không được, không được! Bỏ ra liền để hông thôi bà ngoại giận, tưởng mình cúng đặng chọc tức rồi không thèm rớ tới món nào.
Miệng nói, tay làm. Thắm bưng cái dĩa đựng ổ bánh đã được cắt làm tám xuống liền.
Ba cây nhang đầu tiên đã cháy hết, tàn nhang cong vòng nằm yên trên cây chớ không rụng chút xíu bụi tro nào xuống. Điều nầy ngày xưa rất hiếm hoi.
Các nhà sản xuất bây giờ rất chịu khó tìm hiểu thị hiếu của khách hàng. Họ biết bà con mình cho rằng hể cúng mà tàn nhang cong lại không rớt, là lòng thành của mình đã được tổ tiên chứng giám. Họ cải thiện kỷ thuật nên đa số sản phẩm về nhang hiện nay khi đốt tàn đều không rụng cho dù để suốt.
Lam biết thế nhưng vẫn reo:
-Bà cố, ông cố, bà ngoại, ông ngoại với ba má con khen ngon đó dì Út.
Thắm cười, khoái trong bụng nhưng làm bộ mắng:
-Con nhỏ nầy xạo sự không hà!
Giờ phút mong đợi đã đến! Bốn người họ đói bụng quá nên không thèm kẻ trước người sau má đứng dàn hàng ngang, xá bàn thờ một lượt.
Thắm bưng từng món xuống đưa cho Lam và Chương đang chờ sẵn để đặt lên cái bàn dài giữa nhà. Thức ăn bày xong, mọi người vừa an tọa, Thắm bỗng đứng phắt lên, bưng tô canh chạy tọt vô bếp. Cô lấy cái tô khác, múc canh trong nồi còn đặt trên bếp, hơi nóng ẩn mình trong lò giúp nồi canh vẫn còn sôi âm ỉ, tô canh mới bốc khói, Thắm đặt nó vào mâm rồi bưng ra. Lam cũng bắt chước, thay bốn chén cơm đã nguội bằng cơm nóng hổi.
Chương mời Sơn:
-Mời anh cầm đũa, thưởng thức cái bữa giỗ hổng giống ai nầy!
Thắm bắt lỗi:
-Hổng giống ai là sao?
Chương đáp :
-Chớ còn cái gì nữa! Ăn đám giỗ tới mòn hai hàm răng, chưa khi nào tui thấy ai cúng mấy cái món nầy! Gia đình mình thì không sao. Đằng nầy dì mời anh Sơn mà nấu như vầy coi sao được! Đây rồi ảnh lại nghĩ là mình không tôn trọng, đãi mấy cái món quá tầm thường.
Sơn lật đật lên tiếng:
-Nói thiệt với anh, tui vừa đi cái đám giỗ sát bên nhà. Bữa nay mà ăn cà ri, chả giò, bún xào, giò heo hầm măng nữa chắc tui ngán ngược.
Rồi nói tiếp như than:
-Tui ở một mình nên làm biếng nấu ăn. Từ ngày má tui mất tới giờ toàn đi ra tiệm. Mấy món như vầy ít khi được nếm lắm!
Lam cũng lên tiếng bênh vực:
-Tại anh Hai hổng biết đó thôi! Dân sành điệu, họ đang rốt ráo săn tìm mấy cái món ngày xưa, thời ông bà mình mới vào nam khẩn đất.
Cô chỉ vào tô ba khía rồi nói:
-Anh mà đãi họ cái món thịt gà chấm nước ba khía nầy là họ khoái gần chết luôn! Còn cái món cá rô nướng giầm tương nữa. Từ trước tới giờ anh có được thử qua chưa?
Lam thúc nhẹ vô hông của Thắm rồi nói:
-Anh phải mang ơn dì Út, nhứt là thầy Sơn. Tại dì Út biết thầy Sơn ăn cơm quán đều đều, ngày nào cũng như ngày nấy, toàn mấy món thông dụng, nên cố ý nấu để thầy thấy lạ mắt rồi ngon miệng.
Mặt Thắm đỏ rực như cái bông mồng gà, không biết vì giận hay là mắc cỡ.
Chương cằn nhằn:
-Tui dọn cái bụng cả tháng để ăn cái món cà ri, chả giò trứ danh của dì mà “ọt zơ” hết ráo!
Sơn hỏi liền:
-Bộ cô Thắm nấu hai món đó ngon lắm hả?
Lam lật đật đáp:
-Bộ thầy Sơn chưa nếm qua cái món “cà ri Út trề” hả? Vậy là thiếu sót trầm trọng rồi!
Thúc vô hông Thắm một lần nữa. Cô nói tiếp:
-Trăm nghe không bằng miệng nếm! Tui mạn phép thay mặt dì Út, ngày rằm tháng giêng nầy mời thầy đến dự bữa giỗ của ông cố…
Thắm ngắt lời:
-Giỗ ông ngoại là cúng chay nghe mậy!
Lam còn hùng hồn hơn:
-Bà dì Út của tui nấu chay ngon như mặn. Thầy sẽ được ăn món bì cuốn chay. Mắm kho chay không hề khác món mặn. Gà xé phai chay bảo đảm y chang thịt gà mái tơ cho dù làm từ bắp chuối.
Chương thêm:
-Tui thì mê cái nồi kiểm với mắm thái chay của dì Út nhứt!
Lam bạo miệng hơn:
-Ai mà hùn gạo nấu ăn chung với dì Út là cái miệng tha hồ mà sướng!
Lần nầy Lam bị Thắm thúcmột cái thật mạnh vào hông nên kêu to:
-Ui da! Mắc mớ gì mà dì cho tui ăn nguyên một cái cùi chỏ, đau thấu trời vậy ?
Chương ngạc nhiên nhìn gương mặt nhăn nhó một cách rất kịch của em gái mình, người vốn rất kiệm lời và ít khi bộc lộ cảm xúc.
Chàng càng ngạc nhiên hơn khi thấy bà dì ăn nói bốp chát, lúc nào cũng tỉnh rụi cho dù bị ghẹo hết cỡ của mình bỗng tỏ vẻ mắc cỡ, lúng túng khác thường.
Chương thở dài, nói thầm:
-“ Không biết tại làm sao mà phái nữ hể đứng trước mặt nam giới là thay đổi tính cách hoàn toàn, đúng bon một trăm tám chục độ lận!!!"
Thắm vừa bưng chén cơm lên bỗng đặt ngay xuống rồi chạy cái vù vô bếp. Lam cũng lật đật buông đũa chạy theo. Sơn ngần ngại nhìn theo họ.
Chàng hỏi Chương:
-Có chuyện gì mà cô Thắm, cô Lam chạy đi mất vậy?
Chương đáp tỉnh rụi:
-Họ ngồi yên mới là chuyện lạ đó. Để rồi anh coi, từ đây cho tới hết bữa cơm, bà dì Út với cô em của tui sẽ chạy vô, chạy ra ít nhứt cũng đôi ba bận nữa.
Rồi thản nhiên lấy đầu đũa giầm trái ớt đỏ tươi, để sẵn trong dĩa nước mắm. Giầm đến phân nửa trái ớt thì ngưng, gắp khúc lươn mập lù trong tô canh chua ra đặt vào. Chương lật khúc lươn lên, róc hết phần thịt đã thắm nước mắm, cho vào chén Sơn rồi nói:
-Mời anh!
Thắm thấy Lam chạy theo mình thì gắt:
-Sao không ngồi ăn, vô đây chi vậy?
Lam nói:
-Khi không dì đứng lên cái rột, bỏ đi hổng nói tiếng nào. Con tưởng…
Thắm cười:
-Tao đi bới tô cơm.
Lam can:
-Đem nguyên cái nồi ra đi hơi đâu mà bới lắc nhắc.
Thắm lắc đầu:
-Cái đít nồi đen sì, có phải gọn sạch như nồi cơm điện đâu mà đem ra.
Lam nằng nặc:
-Cái mình nó sáng trưng như vầy là đẹp rồi. Ai mà không biết dì kỹ thấu trời! Con cháu không hà! Đâu có phải được đi coi mắt đâu mà làm màu, làm mè!
Thắm nghe Lam nói vậy thì dẹp liền cái tô, bưng cả nồi lẫn rế ra luôn.
Chương thấy mặt Thắm là khen liền:
-Canh chua ngon hết sẩy dì Út ơi!
Thắm vênh mặt:
-Sao hổng chê tầm thường nữa đi!
Sơn tấm tắc:
-Thịt gà luộc chấm nước ba khía ngon nhức nhối! Ai mà nghĩ ra món nầy đúng người sành ăn số một. Bái phục sát đất luôn.
Rồi nói bằng giọng bùi ngùi:
-Ba năm rồi mới gặp lại con ba khía. Từ ngày má tui mất tới giờ không ai làm cho mà ăn nên quên phức, hổng nhớ tới nó nữa, uổng ghê!
Lam hỏi:
-Bà bác ngày xưa thích món nầy lắm hả thầy?
Sơn gật đầu:
-Má tui thích ăn khoai lang chấm nước ba khía lắm! Khoai đem từ đồng về là má bắt đầu mua ba khía rồi trộn sẵn. Ngay hôm sau là má luộc liền một nồi khoai lang. Khoai lang ăn với ba khía phải lựa khoai trắng hoặc khoai Dương Ngọc mới ngon. Ngủ trưa dậy, cả nhà xúm nhau bóc khoai, chấm nước ba khía. Ăn xong là tui cầm cái bình trà nguội lên, không thèm rót ra ly, ngậm luôn cái vòi bình tích tu một hơi cạn láng luôn.
Thắm gắp cái phao câu gà bỏ vô chén của Sơn rồi nói:
-Trả cái công anh đi mua giùm tui mấy đòn bánh tét nè!
Sơn nhớ lời Lam ban nãy nói là cả nhà mình ai cũng thích phao câu, nên gắp bỏ lại chén Thắm.
Thắm giãy nãy:
-Tui đâu có ưa món nầy, bỏ cho tui làm chi!
Câu nói của Thắm y chang câu của má Lam trong câu chuyện mà Lam kể cho Sơn khi nãy, nên cả Lam lẫn Sơn cùng nhìn nhau mà cười một lượt.
Lam ghẹo:
-Xạo thấy mồ! Hồi nãy dì còn nói “cái phao câu là của tao nghe mậy”.
Rồi hướng mắt qua Sơn mà hỏi:
-Thầy coi tui nói có sai hông? Phụ nữ nhà nầy ai cũng giống hệt nhau.
Sơn hiểu hàm ý của Lam nên cười mỉm chi, lập lại câu của ba Lam:
-Cô cứ ăn thoải mái đi đừng có nhường cho ai hết!
Lam cười thích thú, nghĩ trong bụng:
-Vậy là cái ông Sơn nầy khoái bà dì Út thiệt rồi. Đàn ông thích nhứt là vợ đẹp, thích nhì là vợ nấu ăn ngon. Mình phải ca tụng tài làm bếp của dỉ lên tận mây xanh để ổng hết thoát ra nổi mới được.
Nghĩ đến cái viễn cảnh dì Út làm cô dâu ở cái tuổi U sáu mươi, Lam quá khoái chí nên cười một mình.
Thắm hỏi nhỏ:
-Bộ mầy mắc đàng dưới hay sao mà cười hoài vậy?
Lam đáp lại còn nhỏ hơn:
-Bà muốn biết tại sao mà tui cười thì hỏi ông thầy Sơn á!
Chương lo cắm cúi ăn, không nói năng gì, giờ mới lên tiếng :
-Hai người nầy mất lịch sự quá! Rù rì hoài bộ nói xấu tui hả?
Lam nói:
-Chớ còn gì nữa! Người nào mà hồi nãy chê thôi là chê, đòi phải có cà ri, chả giò, nói mấy cái món nầy không xứng lên mâm cúng mà bây giờ…
Chương hơi quê quê.
Sơn đỡ lời :
-Phải công nhận là món nào cũng ngon, kể cả trái ớt trong chén nước mắm cũng thơm, cũng ngọt, cũng nồng nàn một cách hết sức đặc biệt!
Lam ngắt lời:
-Thì ớt nhà trồng mới hái liền tay mà, còn tươi rói hổng thơm sao được?
Thắm bỗng bỏ đũa lần nữa. Cô không dừng lại ở bếp mà đi thẳng ra giàn rau, ngắt trái ớt xanh rồi chùi vô vạt áo, đưa cho Sơn mà nói:
-Anh cắn thử trái ớt nầy coi!
Sơn nghe theo, cắn cái chót đuôi rồi nói:
-Ớt xanh còn thơm, giòn, ngon hơn ớt chín nhiều.
Thắm cười, nói một cách khoái trá:
-Hồi còn đi dạy, nhiều bữa làm biếng tui đâu thèm làm món gì. Vo gạo rồi rửa cho thiệt sạch cái hột vịt bỏ vô nấu chung luôn. Cơm sôi vài dạo là vớt hột vịt ra liền. Trứng còn lòng đào giầm nước mắm mặn thêm chút đường ngon lắm! Hái trái ớt xanh, rưới cái nước sền sệt đó vô cơm, và một đũa, cắn một miếng ớt, vậy mà ngon còn hơn cao lương mỹ vị.
Chương đưa cái chén không cho Lam rồi nói:
-Bới cơm cháy cho anh!
Lam khựi cơm cháy lên một cách khéo léo. Ba dì cháu, ai cũng thích cơm cháy. Thắm đã có kinh nghiệm nên canh lửa sao cho miếng cơm cháy vàng, giòn mà không khét. Ban nãy vừa nhắt nồi cơm ra khỏi bếp là Thắm đặt lên cái rế lót mấy lớp lá chuối tươi liền. Cái nóng gặp lạnh đột ngột nên lớp cơm cháy bám đáy nồi ấy tróc lóc. Lam lấy đũa bếp xắn nghe cái rắc cho bể làm bốn. Cô gắp một phần tư bỏ vào chén đưa cho Chương .
Sơn cũng đưa cái chén mình cho Lam rồi nói:
-Cô Lam cho tui một miếng như vậy luôn.
Cơm cháy được chia đều cho mỗi người một miếng.
Thắm rưới tương lên khắp miếng cơm của mình rồi rỉa miếng cá chiên lên ăn kèm. Lam cũng bắt chước làm theo. Cô bỗng “ồ” lên một tiếng.
Thắm hỏi:
-Cái gì vậy? Bộ nhai trúng sạn hả?
Lam lắc đầu, nói như rên:
-Cá rô nướng giầm tương ngon quá dì Út ơi!
Cái chiêu tiếp thị của Lam tạo hiệu ứng quá ư mạnh! Mấy con cá nhanh chóng bị phanh thây.
Thắm lại chạy vô, chạy ra, khi thì đem mấy cái chén ra đựng xương, khi thì múc thêm canh, khi thì rót thêm nước mắm, khi thì hái thêm ớt…
Nét thỏa mãn lồ lộ trên gương mặt họ thì mâm cơm cũng nhẳn nhụi.
Chương nhắc:
-Bưng bánh tét xuống ăn la sét đi Lam!
Lam bưng dĩa bánh đặt xuống bàn. Thắm đứng lên gom chén tô vô mâm, đưa cho Lam bưng vào bếp rồi đẩy cái dĩa bánh trước mặt mình ra giữa.
Chương lấy ba cây tăm xỉa răng nhập lại làm một, cắm vào chính giữa miếng bánh khoai mì nướng, hai tay đưa cho Sơn rồi mời:
-Anh ăn thử coi! Bà xả tui làm đó!
Sơn cũng nhận bằng cả hai tay, đưa miếng bánh lên miệng cắn, nhai từ từ, nuốt xong rồi mới nói:
-Ngon quá! Làm bánh cao tay như thế nầy chắc chị nhà nấu ăn cũng ngon lắm phải không?
Chương chưa kịp gật hay lắc đầu, chưa kịp đáp là bị Thắm chặn họng:
Cô trề môi, nhiếc:
-Vợ nấu ngon mà chồng ốm nhom như cây tre miễu!
Lam phản đối:
-Bộ dì chưa nghe tới mấy cái trường hợp thiếu ăn mập lù mà y học gọi là suy dinh dưỡng dạng phù sao? Anh Hai con là hiện tượng trái ngược, thừa dinh dưỡng dạng teo!
Chương cười rồi minh oan cho vợ:
-Bả coi vậy mà hay lắm nghe! Ăn uống cân đối lắm! Hể bữa nào mà có mấy cái món tẩm dầu, mỡ nhiều là kèm một dĩa rau luộc, bắt tui ăn cho bằng hết đặng hút bớt mỡ, bởi vậy mập làm sao nổi? Hồi đó tui ghét ăn rau thấy mồ. Vậy mà cưới bả về cái đâm ghiền món rau. Mấy hôm ăn chay, chỉ có món rau lang luộc cho mềm chấm tương kho xả thôi mà cũng vét nồi!
Thắm trề môi:
-Ai lớn tuổi mà không thèm rau chớ?
Rồi chỉ tay ra mấy chậu kiểng ngoài sân mà nói:
-Thấy ba cái rau càng cua đó hông? Vài ngày là dì hái một rỗ, đem trộn giấm rồi chấm nước mắm tỏi ớt mà ăn, chẳng kèm cá thịt gì hết!
Lam hỏi Chương:
-Anh Hai có nhớ hông? Hồi đó má mình hay trộn rau càng cua với giấm, tiêu và củ hành tây, ăn với cá mòi hay cá linh kho rục cũng ngon lắm!
Chương bắt lỗi:
-Ngon quá trời chớ “cũng” cái gì nữa!
Thắm thở dài:
-Nói tới món cá linh kho rục cái bắt thèm cháo đậu.
Lam phụ họa:
-Bà con xứ mình sướng thiệt! Ở đầu nguồn nên bắt được cá linh tươi rói! Làm ra được cái món cá linh kho mía với nước dừa tươi, ngon còn hơn cá mòi Sumaco.
Sơn nói:
-Tiếc rằng ngành đồ hộp của nước nhà kém phát triển quá, nếu không chắc cái món cá linh kho rục của xứ mình đã vang danh bốn bể rồi.
Chương thêm:
-Cũng như các cô thôn nữ mỹ miều của chúng ta, chẳng thể có cơ hội đội vương miện vậy!
Thắm ngậm ngùi:
-Những đóa hoa đồng nội, hương sắc nào kém ai vậy mà còn không có tới cái tên.
Lam triết lý:
-Bởi vậy chúng mới cho ta một niềm cảm thương sâu sắc.
Những ly nước trà được châm đầy thêm lần nữa.
Khách chưa muốn về, chủ nhà cũng không muốn tiễn khách. Cái câu “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” áp dụng vào lúc nầy thật chính xác.
Bốn người họ cứ nói lan man từ chuyện nầy sang chuyện khác. Lam hướng đề tài về lảnh vực ăn uống để ca tụng Thắm một cách khéo léo nên các câu chuyện của họ ngày càng mặn mòi hơn.
Tiếng điện thoại reng lên từ trong túi áo của Chương kéo họ về thực tại. Chương móc điện thoại ra xem, rồi nói liền mà không đợi hỏi:
-Đang chuẩn bị về rồi nè!
Thắm lật đật chạy vào bếp. Lam cũng đi theo, tiện tay rinh luôn dĩa vú sữa trên bàn thờ.
Thắm khen:
-Con nhỏ nầy thông minh. Chưa sai mà đã làm liền.
Lam nói:
-Giỗ quảy mà. Hể đi đám giỗ là phải quảy đi rồi quảy về.
Thắm lựa hai cái bọc ni lông còn mới và đẹp nhất trong cái túi đựng bao sạch ra. Một túi cô cho vú sữa vào, túi kia cô cho bốn đòn bánh, mỗi đòn còn lại có phân nửa.
Lam hỏi:
-Cái nào của ai?
Thắm nói:
-Bốn khúc bánh tét nầy thì gửi về cho cái đám con với vợ thằng Chương. Mấy trái vú sữa của mầy thì cho ông Sơn, chắc ổng thích lắm!
Lam biết Thắm ghẹo mình nhưng tỉnh bơ, hỏi:
-Sao dì không cho bớt ổng nửa đòn bánh? Cho anh Hai ba khúc được rồi!
Thắm lắc đầu:
-Bộ mầy không biết hay sao mà xúi dại? Mấy cái món người ta đem cúng mình không có được trả lại. Đám giỗ chớ bộ đám cưới sao mà lại quả.
Cô nói thêm:
-Hồi còn má tao bả để ý cái vụ nầy kỹ lắm. Bả nói mình mà cho người ta lại cái món họ đem cúng là có khi bị họ giận tới nghỉ chơi luôn đó!
Lam ngạc nhiên:
-Sao vậy?
Thắm trề môi :
-Mầy dạy văn, sành tâm lý lắm mà! Đâu nói tao nghe thử coi?
Lam cười :
-Chắc tại họ cho là mình chê, xem thường món đồ họ đưa tới nên hổng thèm xài mà trả lại.
Thắm nói thêm:
-Bà ngoại của mầy nhớ dai lắm! Ai đem món gì tới là bả nhớ nằm lòng. Bà con mà khen thứ nào là bả kể ra xuất xứ, tên tác giả của nó liền. Hồi trước đám giỗ cực lắm! Mời khắp xóm, bà con hai bên không được thiếu một người nào. Bởi vậy phải chuẩn bị cả tháng trước.
Lam hỏi:
-Làm cái gì mà lâu dữ vậy?
Thắm nói:
-Có khi cả nửa năm luôn. Mấy đám trọng là phải làm heo, nên phải nuôi trước năm, sáu tháng. Phải đếm đầu người mà gói bánh cho đủ. Bởi vậy bà con mình mới đổ thừa là họ nghèo vì giỗ.
Lam trách:
-Dì mới cúng bà cố mà nói như vậy hổng sợ tội sao?
Thắm cười:
-Tao có bao giờ than đâu mà tội. Từ ngày ba, má mất rồi thì tao cúng giỗ theo sức của mình. Con cháu nhớ thì tới, không thì thôi. Thà là cúng giản dị, đơn sơ mà lòng thoải mái, còn hơn giựt le, làm cho to rồi kêu rên “mỗi lần tới đám giỗ là rầu gần chết” như thiên hạ.
Chương đứng sau lưng họ từ lúc nào, giờ mới lên tiếng:
-Bởi vậy cho nên mới có cái đám giỗ chỉ có bốn người nầy nè! Ba đứa cháu với một ông khách! Mà tui cũng thắc mắc về cái ông khách nầy lắm nghe! Nếu tui nhớ không lầm thì dì đã từng tuyên bố là không thèm ngó cái mặt ổng mà. Sao bây giờ lại thay đổi lập trường một cách đột ngột vậy?
Thắm thở dài:
-Ghét ai lâu quá rồi cũng mệt. Hết hồi nào tao cũng hổng hay! Hôm bữa tao đứng chờ xe, cái ổng ở đâu tấp lại năn nỉ cho tao quá giang. Chiều tối rồi, sợ hết xe nên tao không từ chối.
Rồi xuống giọng như tâm sự:
-Đi dọc đường nói chuyện mới thấy ngày trước sao mà mình khờ quá! Chỉ vì hiểu lầm có một câu nói thôi, mà mấy chục năm nay đeo cục đá bự bành ky vô cho nặng bụng. Tao bèn mời ổng tới ăn đám giỗ để xí xóa với đền cái ơn cho đi nhờ xe một lượt luôn.
Chương nói:
-Tui thấy ông Sơn được lắm đó! Có cái tâm với nghề lắm! Đâu có ông hiệu trưởng nào được cả giáo viên lẫn học trò thương như ổng!
Thắm nói:
-Bởi vậy tao mới có ý định làm mai con Lam cho ổng.
Chương lắc đầu:
-Tui thấy in là ổng thích bà mai hơn!
Lam cười, nói một cách khoái chí:
-Dì thấy con nói đúng hông?
Chương bỗng quay sang Lam rồi nói:
-Có người nhờ tao trao cho mầy cái nầy.
Vừa nói vừa móc trong túi áo ra một phong thơ đưa cho Lam.
Lam có linh tính nên không cầm mà hỏi:
-Ai vậy?
Chương đáp:
-Ai trồng khoai đất nầy? Tác giả của hai bức thơ trước mà mầy không chịu nhận. Cái người bị mầy coi là kẻ thù truyền kiếp của mình đó!
Lam tự động nắm chặt cứng hai bàn tay của mình một cách vô thức.
Chương khuyên:
-Cái đức lớn nhứt của con người là biết tha thứ. Chuyện đó tưởng khó nhưng chỉ cần nổ lực vượt qua bản thân là được. Tha thứ được cho ai sướng lắm! Nhẹ lòng lắm, lại có dịp để thêm hạnh, tạo phước.Tao đang muốn có cái cơ hội đó mà không được đây nè!
Thắm trề môi:
-Dóc tổ! Làm như mầy là ông thánh sống vậy đó! Đã là con người thì ai mà không có người để tha thứ và cầu mong người khác tha thứ cho mình?
Rồi một tay đưa bịch bánh cho Chương, một tay chộp lá thư nhét vào lưng quần. Thắm thực hiện cái động tác ấy rất nhanh để Lam không thể nào phát hiện.
Chương cầm túi bánh rồi đi ra chào Sơn:
-Anh Sơn ở lại chơi nghe, tui có lịnh triệu hồi rồi!
Sơn đứng lên vừa bắt tay Chương vừa nói:
-Tui cũng phải về, chiều nay còn đi công chuyện nữa!
Lam lật đật cầm bịch vú sữa chạy ra đưa cho Sơn:
-Vú sữa của dì Út ngọt lắm! Thầy chịu khó quảy về ăn lấy thảo.
Sơn cười cười, cầm lấy rồi máng vô cái móc gắn sau bửng xe.
Chàng nghiêng đầu nhìn về phía sau lưng của Lam rồi hỏi:
-Cô Thắm đâu rồi? Để tui chào và cám ơn cổ một tiếng.
Lam gọi vọng vô :
-Dì Út ơi! Thầy Sơn chào về nè!
Thắm nói vọng ra:
-Cám ơn anh Sơn nhiều lắm! Xin lỗi nghe tui mắc lỡ tay không ra chào anh được
Con Phèn lon ton chạy ra, ngửi ngửi, hít hít ống quần, rồi ngóc đầu lên le cái lưỡi dài thòng cố liếm tay Sơn. Chắc nó cho rằng đó là cái cử chỉ tiễn khách lịch sự nhứt.
Lam bào chửa cho Thắm:
-Chắc dỉ đang rửa chén nên…
Sơn gật đầu ra vẻ thông cảm rồi cho xe dọt từ từ.
Lam nói vói theo:
-Mời thầy tết ghé chơi.
Rồi chêm thêm một câu như dụ khị con nít:
-Dì Út tui làm món thịt kho tàu ngon lắm!
Nói tới đó Lam bỗng giật mình cái đụi, chạy te te vô nhà. Con Phèn cũng chạy theo còn sủa inh ỏi nữa. Lam quay lại gài cổng cho chắc rồi quày quả đi vào bếp.
Chưa thấy mặt Thắm là đã kêu bằng giọng hớt hơ, hớt hãi:
-Chết rồi dì Út ơi!
Thắm đang nhúng cái chén vô thau nước liền dừng tay, lật đật quay lại hỏi, mặt thất sắc:
-Chết cái gì? Ai chết?
Lam nói :
-Mình quên múc thịt kho cúng!
Thắm buông cái chén ra, tay còn ướt rượt định đưa lên trán vỗ mấy cái để tự trừng phạt, chợt nhớ ra nên kịp dừng lại nửa chừng.
Cô chưa đã nư nên trách Lam:
-Sao tới bây giờ mới nhắc?
Lam cự lại:
-Con cũng quên chớ bộ! Nhờ mời ông thầy Sơn tết ghé nhà, rồi khoe với ổng là dì kho thịt kho tàu ngon lắm cho nên mới nhớ ra đó!
Thắm nạt:
-Sao mầy dám lạm quyền vậy cái con kia? Tự nhiên mời khách khơi khơi không hỏi qua ý kiến của tao?
Lam chống chế:
-Tại dì không chịu ra tiễn ổng. Con thấy ổng quê quê nên mời cho ổng đỡ tủi.
Thắm nhiếc:
- Đừng có lẻo lự! Mầy chèo kéo lộ liễu như vậy là khắc lên cái bản mặt tao hai cái chữ “muốn chồng” bự chần dần đó biết chưa? Suốt buổi nghe mầy ca tụng cái tài nấu ăn của tao là tao ngứa lỗ tai, mắc cỡ dữ lắm rồi! Mầy làm cho tao không dám dòm mặt thằng chả nữa. Sao mầy dám hạ nhục tao dữ vậy?
Lam thấy Thắm giận thật sự thì xuống nước nhỏ:
-Tại con thương dì nên mới…
Thắm nạt ngang :
-Mầy lo thương cái thân của mình đi, đừng có xía vô chuyện tao. Tao mà thèm chồng là lấy từ mấy mươi năm về trước rồi, đâu có chờ tới bây giờ.
Cô hăm he:
-Tết năm nay tao đi chơi, đi mười cảnh chùa, ngày nào cũng đi. Mầy mời thằng chả thì qua đây mà ngồi chờ tiếp. Cho mà biết thân!
Lam hoảng hốt:
-Dì đi chùa rồi ai cúng cơm, ai coi sóc nhang đèn trên bàn thờ?
Thắm nói một cách hả hê:
-Mầy chớ ai? Ông bà đâu phải của một mình tao? Má mầy cũng được chia đất, cũng hưởng y như tao vậy! Bao nhiêu năm nay tụi bây khỏe re, bây giờ cực một lần bộ hổng được sao?
Lam chống chế:
-Mời lơi chắc ổng không tới đâu!
Thắm nằng nặc:
-Không tới tao cũng đi. Cho mầy bỏ cái tật xí xọn, làm tài lanh…
Rồi trề môi:
-Làm như giỏi lắm vậy! Nghĩ đến cái chuyện thằng Chương kể cho vợ nó nghe là mầy đem tao ra quảng cáo như bán hàng la, là tao muốn giộng cho mầy một đạp thẳng chưn, cho mầy bỏ cái tánh tào lao, bỏ cái tánh nhiều chuyện. Rảnh quá mà nên chuyện của ai cũng xen vô.
Lam hỏi lại:
-Bộ dì hổng xen vô chuyện của tui hả?
Thắm gằn giọng:
-Tao xen vô chuyện của mầy hồi nào?
Lam đáp:
-Tui có mượn dì kiếm chồng, làm mai cho tui hông? Còn nữa, thơ của người ta gửi cho tui, tui không nhận thì thôi, tại sao dì dám lấy?
Thắm chối :
-Tao lấy cái thơ đó hồi nào?
Lam chỉ thẳng ngón tay trỏ vô eo của Thắm :
-Chớ cái giống gì cồm cộm chỗ lưng quần của dì vậy?
Thắm chống chế :
-Chừng nào trong túi mầy mới là của mầy. Mầy không nhận thì nó là của rơi, ai bắt được thì người đó hưởng!
Lam nghe cái giọng “nói ngang ba làng không lại” ấy thì mắc tức cười. Cô lắc đầu ra vẻ chịu thua, nói lầm bầm cốt thấu tai Thắm:
-Già rồi mà cũng không bỏ cái tật tò mò. Hồi xưa thì chui xuống sàn rình nghe người lớn nói chuyện, còn bây giờ thì đọc lén thơ của con cháu.
Thắm trề môi, nhiếc:
-Bộ mầy tốt lắm hả? Đứa nào hồi đó xúi tao rồi bây giờ còn bày đặt lên mặt vậy?
Trong đầu cả hai bỗng hiện lên cái cảnh họ cùng khom lưng, dỏng tai, ngồi nép bên nhau dưới đít sàn, muỗi cắn cũng không dám gãi. Lúc chui ra trên đầu đứa nào cũng dính váng nhện đầy nhóc, phải gỡ cho nhau cả buổi. Thế là hai dì cháu nhìn nhau cười hinh hích.
Thắm chắc lưỡi:
-Ngộ ghê! Tao ở giá hổng sao mà thấy mầy không lấy chồng thì chịu không nổi.
Lam cười:
-Thì con cũng vậy! Bởi thế nên mới có câu “không lấy chồng mích lòng cô bác”.
Thắm lòn tay vô áo rút lá thơ ra đưa cho Lam rồi nói:
-Trả cho mầy nè! Đọc cho tao nghe coi nó nói cái gì ở trỏng.
Lam lắc đầu :
-Dì thích thì cứ xem đi, con không muốn nhớ lại mấy cái chuyện không vui đó nữa.
Thắm hỏi:
-Bộ mầy còn thù nó lắm hả?
Lam gật đầu.
Thắm nói bằng giọng tức tối:
-Đeo đẳng mấy chuyện đó làm chi cho hao tốn tinh thần, cho cuộc đời mình u ám? Sao mầy ngu dữ vậy con? Giống như cái thằng cha gì đó làm rớt tờ giấy năm đồng cái đốt tờ giấy năm chục đồng để rọi tìm.
Cô dúi lá thơ vào tay Lam, xuống giọng năn nỉ:
-Thôi! Đọc đi rồi tha thứ cho người ta
Lam giựt tay lại rồi nói:
-Con không phải là Phật, cũng không dám làm chúa giê su. Con không có quyền tha thứ cho cái người tạt nguyên cái thau mực lên đầu mình.
Thấy mặt Thắm buồn hiu, Lam an ủi:
-Thôi dì cứ giữ bức thơ đó đi! Con hứa sau nầy khi lòng con thanh thản, nhẹ nhàng, không còn chất chứa đắng cay mà tràn đầy hạnh phúc thì con sẽ đọc nó, để tha thứ rốt ráo hết cho mọi người.
Rồi nói lảng qua việc khác:
-Cái nồi thịt kho đó, mình tính sao đây?
Thắm cười:
-Thì cúng thêm một cữ chiều nữa chớ có sao đâu! Bây giờ tao với mầy rửa chén rồi nhổ tóc sâu vằn công. Chiều mát trời hai dì cháu mình ra vườn kiếm ổi chín ăn, lựa một cây chuối hột non xắc thiệt nhuyễn, trộn chung với dưa cải, rau sống làm ghém đặng chấm nước thịt kho. Ba tao ngày xưa thích ăn kiểu đó lắm!
Rồi bảo Lam:
-Mầy đứng đó ngó tao làm mà coi được hả? Vô lấy thêm cái thau lớn đem ra đây rửa phụ cho lẹ. Tao rửa bận dơ, mầy rửa bận sạch.
Lam trở vô nhà lấy cái thau, tiện tay lấy cái nón lá đội lên luôn vì cái sàn nước nằm ngoài trời.
Thắm thấy Lam đội nón thì quở:
-Đội nón làm chi cho nó nực cái đầu.
Chỉ tay lên trời cô nói tiếp :
-Chỗ nầy có lá che kín mít, đâu có cho miếng nắng nào lọt qua.
Lam nhận ra trên đầu mình, lớp lớp lá xanh rì nằm chen chúc. Cô thầm khen dì Út sáng ý, làm giàn trên sàn nước hết sức hợp lý: Vừa che nắng vừa tiện tay hắt nước ra tưới cây.
Cô hỏi:
-Ai làm cái giàn nầy cho dì mà chắc chắn quá vậy?
Thắm đáp lấp lửng:
-Hai Ngươn chớ ai!
Lam hỏi:
-Ảnh về hồi nào mà làm cho dì?
Thắm trả lời:
-Rầm trung thu! Y ta đem bánh tới cúng.
Lam thắc mắc:
-Sao không nghe dì kể gì hết vậy?
Thắm bắt lỗi:
-Mầy có qua thăm tao đều đều đâu? Lâu lâu mới gặp một lần thì làm sao nhớ đủ mà kể cho hết!
Sợ Lam hỏi thêm và cũng muốn xua đi hình ảnh của đứa cháu họ trong đầu mình, Thắm ngưng ngang. Lam cũng không dám hỏi tiếp.
Họ liếc nhau một cái như thăm dò phản ứng của đối phương. Để Lam không nhận ra nét bối rối gờn gợn trên mặt mình, Thắm bèn lái liền câu chuyện sang chủ đề khác.
Cô lôi anh em Lam ra nhiếc:
-Có giỗ, có tiệc mới vác cái mặt qua, ăn đã rồi về. Một mình tao làm thấy mụ nội. Mấy anh em bây đứa thì dặn: "Dì út ơi! Chừng nào tới đám giỗ nhớ cho hay! " Đứa thì sai:"Dì Út ơi! Bữa nào đổ bánh xèo đi!" Lâu lâu là đòi tao làm món nầy, nấu món kia. Ăn không được, ị không ra cũng kêu réo um sùm. Có đứa nào biết thương, biết nghĩ mà nói câu: “Dì Út có làm cái gì thì gọi con một tiếng” cho tao mát cái bụng đâu nè!
Lam nói như xin lỗi:
-Ai mà biết! Tưởng mấy cái chuyện nầy dì mướn mấy đứa nhỏ trong xóm làm hết cho mình.
Thắm thở dài :
-Thanh niên xóm mình đi Sài gòn làm công nhân hết rồi! Mấy cái thằng còn ở lại toàn là cái thứ cà nhỏng không hà! Tụi nó làm biếng nhớt thây, đã vậy còn đòi tiền công cho cố. Hôm bữa có mấy đứa học trò tới thăm, tao nhờ thằng Khôn bẻ có mấy trái dừa mà nó đòi tới năm chục ngàn, mắc còn hơn đi mua.
Sàn nước nằm dưới giàn bầu và mướp nên được cả trăm chiếc lá to gấp đôi bàn tay lợp kín trên đầu, mát rượi. Những cái bông màu vàng, màu trắng rung nhè nhẹ như làm duyên với mấy con ong, con bướm. Những trái mướp, trái bầu còn non đung đưa trong gió. Có một trái mướp cách đầu Thắm chừng một gang.
Lam chỉ vào nó rồi nói:
-Trái nầy ăn được rồi nè dì Út, để con cắt nó xuống rồi luộc cúng. Mình khỏi phải đốn chuối, khỏi tốn công xắc rồi còn hái rau trộn vô nữa. Cái món bầu, mướp luộc chấm nước thịt ăn khỏi chê! Nhứt là mới hái từ trên dây xuống, còn chảy mủ ròng ròng là ngon và bổ nhứt hạng.
Thắm rầy:
-Mầy chỉ ngay mặt rồi đòi hái như vậy là làm cho nó rầu đó! Từ hôm nay trở đi chắc nó ăn ngủ hổng yên, thấy bóng người ta là hết hồn cái sượng ngắt luôn!
Rồi nói tiếp:
-Má tao ngày xưa cấm tiệt cái vụ ra giàn bầu, giàn mướp mà đưa tay chỉ trỏ với nhìn đăm đăm. Bả nói làm như vậy tụi nó sợ không lớn nổi nữa.
Lam vẫn thản nhiên, ngửa đầu lên đếm:
-Một, hai, ba…Chín trái lận dì Út ơi! Dư ăn rồi!
Thắm can:
-Còn non lắm! Ăn chưa được đâu!
Lam cự lại:
-Non như vầy mới ngon nè! Mình khỏi gọt vỏ, cạo sơ sơ thôi, cắt khúc hơi dày dày cỡ một lóng tay đem luộc. Kiểu đó vừa ngọt, vừa giòn ăn đã lắm!
Vừa buộc miệng nói chữ "đã" là Lam nhớ tới Đông liền nên cười một mình.
Vậy mà Thắm cũng thấy rồi hỏi:
-Nghĩ chuyện gì mà cười vậy?
Lam chối:
-Nghĩ cái giống gì đâu!
Thắm nhiếc :
-Khi không mà cười thì chỉ có mấy cái đứa ba trợn với si tình thôi!
Thấy Lam vẫn đội nón. Thắm nhắc:
-Sao hổng bỏ nón ra cho mát tóc? Bộ sợ đen hả?
Lam chống chế:
-Con sợ sâu rớt trên đầu.
Thắm trề môi:
-Sâu ở đâu ra mà sợ? Mầy điệu thì nói đại cho rồi, mà hể còn điệu, còn khoái đẹp, còn sợ xấu là còn nghĩ tới đàn ông đó! Biết chưa?
Lam trề môi lại, còn dài hơn Thắm:
-Ai nghĩ sao tui không cần biết. Tui làm đẹp cho bản thân mình thôi! Lâu lâu bọn học trò tới thăm, nghe tụi nó khen: “Cô ơi cô xài kem gì mà da mặt còn tốt quá vậy? Cô ơi sao da cô không nhăn, không trổ đồi mồi, tóc cô không bạc như người ta?” là khoái ngất ngây. Có bao nhiêu món ngon vật lạ đem ra mời tụi nó hết ráo!
Thắm lắc đầu:
-Tụi học trò ma le lắm mầy ơi! Nó biết phụ nữ càng già càng khoái được khen là trẻ, là đẹp nên nịnh dồn, nịnh dập cho mình vui.
Rồi bỗng phá lên cười sằng sặc, kể:
-Có lần tao xuống phà. Thoáng thấy con nhỏ học trò đi sau lưng, chắc nó nhận ra tao nhưng làm bộ nói: “Chị ơi cho em qua một chút”. Tao nhích cái xe sang một bên cho nó đi, vừa qua mặt là nói liền: “Ủa cô Thắm hả? Trời ơi cái dáng của cô sao mà trẻ quá, dòm sau lưng như gái mười tám”. Rồi cho tao uống nước đường tới tấp thiếu điều muốn sặc. Tao còn đang la đà trên mây thì cái thằng nhỏ đứng trước mặt, cỡ bằng con Phương, con gái lớn của thằng Chương chớ đâu có nhỏ! Nó nhìn tao chăm bẳm rồi nói: “Bà ngoại ơi! Cái bánh xe của bà nãy giờ đè lên cái chưn tui”.
Lam cười rung người, rồi an ủi:
-Tại nó sùng vì bị bánh xe cán vô chưn nên mới nói vậy. Tin tui đi, dì ngó chừng bốn “mí” hà! Không có lên tới cái chức bà ngoại đâu, đừng có sợ!
Thắm chụp cái chữ “mí” ấy mà nói liền:
-Con Yến đi cắt mí mắt, treo chưn mày lên coi đẹp lắm! Mầy gặp nó chưa?
Lam lắc đầu:
-Chưa! Tui ở thoi loi một mình bên đó nên ít có khách tới! Mỗi năm tới ngày hai mươi tháng mười một mới có vài đứa học trò ghé thăm.
Thắm nói bằng giọng xót xa:
-Khi không cái chạy tọt qua đó, ở một mình kín kẻ y như trốn nợ. Đã vậy còn lựa cái xóm thưa rớt, thưa rỉnh nữa chớ! Ngó thôi cũng đủ buồn thúi ruột.
Rồi lập lại câu nói mà mỗi lần gặp Lam đều nghe:
-Bán phức cho rồi, về đây ở với tao. Nhà lớn, vườn rộng mênh mông có một mình, nhiều đêm sợ ma, sợ ăn trộm tao ngủ không được.
Lam nghe Thắm than mà xót ruột, nhưng lại buột miệng ghẹo:
-Dì mà ngán ai? Làm bộ dụ khị đặng tui về đây làm ô sin cho dì hả? Con nhỏ nầy đâu có ngu!
Thắm “xí” một tiếng dài thòn rồi nói:
-Đồ cái thứ suy bụng ta ra bụng người. Đi lại cái tủ kiếng mà soi đi! Cái bộ vó của mầy còn lâu mới đậu vô trường đào tạo ô sin.
Úp cái chén cuối cùng lên thúng xong, Thắm không nhảy lên bộ ngựa ngồi cho Lam nhổ tóc mà một tay xách cây cù móc, một tay bưng cái rổ tre đi xăm xăm ra vườn.
Lam tưởng Thắm giận nên nói:
-Tui nói chơi bộ dì giận thiệt hả?
Thắm không ngoái lại, đáp:
-Ai mà thèm giận làm chi cho hao hơi, tổn tướng.
Lam vừa chạy theo vừa hỏi:
-Vậy tại sao không nhổ tóc?
Thắm đáp:
-Đi thọc me để làm mức cúng tết với ngâm cam thảo ăn chơi!
Lam can:
-Nắng thấy mồ! Nhìn lên chói mắt lắm! Đâu có thấy đường mà thọc?
Thắm không nói không rằng cứ đi te te.
Cây me già ở góc vườn, cái gốc của nó to một người ôm không xuể, vừa thấy cả hai tới là chào mừng bằng một màn mưa lá lả lướt, y như người ta tung hoa giấy trong đám cưới.
Lam rủ:
-Con với dì nối tay lại thử coi mình ôm giáp thân nó không.
Thắm dựng cù móc vô cây xoài đối diện, bỏ cái rỗ xuống. Hai dì cháu đứng mỗi người một bên, áp sát người vào thân cây, cánh tay giang thẳng. Bốn bàn tay họ chạm vào nhau.
Lam chắt lưỡi :
-Nhìn không to lắm mà nào ngờ tới hai người ôm mới giáp. Cái cây nầy mà cưa xuống bán thớt cho mấy sạp thịt chắc được bạc triệu chớ không ít.
Thắm đánh vô vai Lam một cái rồi rầy:
-Mầy lớn rồi phải chỉnh đốn lời ăn tiếng nói lại một chút, mở miệng ra là nghe tổn đức liền! Gặp bông là đòi ngắt, gặp trái là đòi hái, gặp cây là đòi đốn.
Rồi nói tiếp, không cười:
-Vậy mà gặp trai là chạy trốn!
Lam nhiếc:
-Dì cũng vậy, đừng có nói tui!
Thắm nói:
-Tao rượt họ chạy có cờ chớ trốn hồi nào?
Lam bỗng hỏi:
-Mình với anh Ngươn bà con chung đầu ông gì vậy dì Út?
Thắm đáp một cách gượng gạo:
-Ông sơ! Bà cố mầy với bà cố y là hai chị em ruột.
Lam xòe tay ra đếm rồi tính:
-Vậy là năm đời, huốt xa rồi dì Út ơi!
Thắm cự:
-Mầy nói tầm xàm, bá láp cái gì vậy! Huốt cái giống gì?
Lam nói:
-Thì dì với anh Ngươn đó, dư sức cưới nhau, pháp luật cho phép mà!
Thắm lắc đầu:
-Phép vua thua lệ làng. Tao mà làm vậy có nước bỏ cái xứ nầy mà đi!
Lam thở dài:
-Mình bắt chước người Tàu mà còn sang hơn họ nữa. Xứ của họ bà con bạn dì lấy nhau là chuyện thường. Khác họ là cưới nhau thoải mái. Nhà mình in là tàu lai…
Thắm gắt:
-Tàu lao chớ tàu lai cái giống gì. Phải đúng như vậy thì…
Rồi trớ liền:
-Mà tao với nó đâu có gì đâu mà mầy dám nói…
Lam cười:
-Thôi đừng có chối nữa dì Út ơi! Má tui bả kể cho tui nghe hết rồi!
Thắm hỏi:
-Kể cái gì?
Lam đáp:
-Thì kể là khi ba má anh Ngươn bưng khai trầu qua chạm ngõ, xin bỏ hàng rào thưa dì cho ảnh đó! Hai bên nhận ra bà con thì dì té xỉu liền tại chỗ?
Thắm hỏi:
-Má mầy còn nói gì nữa hông?
Lam đáp:
-Anh Ngươn thì cạo đầu trọc lóc rồi bỏ nhà ra đi. Cả nhà xúm nhau đi kiếm, ba ảnh đánh ảnh tơi bời. Ổng đóng cây cọc trong buồng rồi trói ảnh vô đó!
Thắm hỏi:
-Chị Hai còn nói gì nữa hông?
Lam không trả lời mà hỏi lại:
-Bộ còn có chuyện khác nữa hả dì?
Thắm đáp:
-Còn chuyện gì nữa đâu?
Lam lắc đầu:
-Con không tin. Hết rồi sao dì còn hỏi?
Thắm thở dài:
-Mầy hổng biết chớ lúc đó cả xóm nầy ì xèo như đám ong vò vẻ.
Rồi cười buồn:
-Họ dệt không biết bao nhiêu là huyền thoại về tao. Tụi tao chưa có cầm tới cái tay mà họ đồn là tao có bầu rồi xuống Sài Gòn để nạo!
Lam năn nỉ:
-Chắc chắn còn cái gì nữa mà dì giấu con, hai người phải lâm ly thống thiết lắm!
Lam nhìn đăm đăm vô mặt Thắm để thăm dò phản ứng, rồi khẳng định:
-Nếu ít xịt như vậy thì dì đâu có khư khư không chịu lấy chồng.
Thắm cười còn buồn hơn nữa:
-Tại tao hết hứng!
Cô kể cho Lam nghe về cái đêm cô và Ngươn hẹn cùng nhau đi trốn. Cô đã gói quần áo, định mở cửa sau đi ra thì nghe tiếng má mình ho và hỏi:
-“Bộ con thức rồi hả Thắm! Đâm miếng gừng chế nước nóng đem vô cho má uống”.
Thế là hết đi nổi!
Lam nói bằng giọng giận dỗi:
-Vậy mà dì giấu biệt con!
Thắm vặc lại:
-Lúc đó mầy cũng xấc bấc, xang bang, cũng tự tử rồi chết lên chết xuống thì nói làm chi nữa.
Rồi nhiếc:
-Mầy cũng đâu có tâm sự với tao một tiếng nào đâu? Cái lúc mầy với cái thằng quỉ sứ đó mới quen thì còn kể cho tao nghe được vài lần, sau đó là im thinh thít, cạy miệng cũng không lòi ra một tiếng. Nếu cái gì cũng nói cho tao nghe thì đâu có phải chở vô nhà thương súc ruột?
Lam làm thinh như nhận lỗi.
Cô nói bằng giọng ăn năn:
-Nghĩ mà tội nghiệp cho bà ngoại với má quá. Tui với dì xem ra tội lỗi lút đầu, lút cổ. Chắc lúc đó tông chi của mình bị bà con chê cười lắm hả dì Út?
Thắm gật đầu rồi nói:
-Bà ngoại mầy, má tao đó! Bả truyền lại một câu xanh rờn.
Nói tới đó cô dừng ngang.
Lam hỏi:
-Ngoại truyền câu dì vậy? Dì nói cho con nghe với!
Thắm xuống giọng như sợ những người khuất mặt nghe:
-Bả nói “cái đám con cháu nhà nầy mai mốt có dựng vợ gả chồng, hể đẻ con gái là bóp mũi hết cho tao! Đứa nào không nghe lời là tao vặn họng”.
Lam làm bộ rùng mình so vai:
-Ngoại hăm he nghe rởn óc quá trời!
Bèn vặn lại:
-Vậy tại sao ngoại cưng con Phương, con Nương con của anh Hai hổng nói nổi?
Thắm chép miệng:
-Một giọt máu đào hơn ao nước lả mà mậy. Giận thì nói cho dữ chớ đâu ai làm được mấy chuyện đó! Có khi miệng thì nói một đàng mà bụng thì nghĩ một nẻo.
Rồi cười khổ:
-Má tao lỡ buông một câu ác khẩu mà bị lãnh quả báo thẳng tay! Ông trời phạt tới cỡ đó mà chưa vừa bụng. Ổng còn chọc tức. Con Thơ, em út của mầy đó! Nó cũng rặn hoài không ra nổi một thằng con trai. Nguyên một giàn cháu toàn con gái không mới ác! Tao với mầy cũng úng luôn.
Lam xúi Thắm:
-Người lớn đi chầu diêm vương hết rồi, hết sợ bị rầy, bị chửi, cũng đâu còn ai làm kỳ đà cản mũi nữa...
Kê miệng sát tai Thắm, Lam nói thật nhỏ:
-Sao dì với ảnh hổng xáp lá cà đại đi. Rồi kiếm một thằng con trai để tạ lỗi với cữu huyền, thất tổ. Kệ cha thiên hạ, ai muốn nói cái gì thì nói.
Thắm cười:
-Tao còn cái trứng nào trong bụng đâu mà đẻ?
Cô đổi giọng ngậm ngùi:
-Đã là bà con thì cho tới chết cũng còn bà con, làm như vậy coi sao được?
Câu nói như tiếng than van, trách móc ấy làm ông trời bỗng chạnh lòng, xụ mặt. Một cụm mây to, dày, từ từ trải rộng rồi trùm kín mặt trời, nắng chợt nhòe đi khiến cả hai bỗng cùng ủ dột.
“Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng, em chở mùa hè của tôi đi đâu?” Tiếng ca của Vũ Khanh phát ra từ túi quần của Thắm. Thắm liếc Lam một cái rồi vừa lật đật móc chiếc điện thoại cầm tay nhỏ xíu màu xanh dương ra áp vào tai, vừa đi trở ngược vô nhà.
Thắm đi như chạy, điệu bộ quýnh quáng, rõ ràng cố ý che đậy cuộc điện đàm khiến Lam càng thêm tò mò. Cô cố lắng tai nhưng chẳng nghe được gì sau tiếng “a lô” của Thắm.
Lam bước lại chiếc võng giăng giữa hai cây xoài và mận, ngồi xuống thật nhẹ rồi duỗi cả người ra một cách khoan khoái. Cô dang tay, cố phồng mũi hít một hơi thật dài để vét cho hết mấy làn hương mong manh lẩn quất quanh đây. Cô ngửa đầu, nheo mắt, đếm từng trái xoài tròn tròn bằng nắm tay đứng im ru dưới mấy cái cuống dài thòng.
Lam bỏ chân phải xuống, đẩy thật mạnh khiến cả hai cây xoài và mận cùng giật mình một lượt. Những trái xoài xanh rờn cụng đầu vào nhau, mấy chùm bông mận trắng tinh cũng chớp mắt rồi rắc lông nheo bay lả tả. Mùi thơm tinh khiết của những đóa hoa mận trắng phát tán nhiều hơn, đậm hơn khiến tinh thần Lam thêm sảng khoái. Cô nhắm mắt lại ngâm nga nho nhỏ, ca tiếp bài Phượng Hồng: ”Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám, thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu…”
Lần nào nghe lại bản nhạc nầy Lam cũng xúc động đến rơi nước mắt. Trái tim của Lam là một loại thép không rỉ cho dù có giầm trong a xít. Nó là một hợp chất phi thường nên bị nung trong lửa biết bao lần vẫn không chịu chảy tan, bị cắt xẻ túi bụi vẫn lành lặn rồi phục hồi nguyên trạng. Ở cái tuổi thở hết ra hơi nầy mà nó vẫn còn đập loạn xị mỗi khi bị kích thích.
Lam ca đến câu cuối thì chiếc võng bỗng dừng lại đột ngột.
Thì ra nó bị Thắm giữ bằng cả hai bàn tay.
Thắm quở:
-Con quỉ nầy! Mầy đưa vù vù như vầy thì cây cối nào chịu nổi? Võng treo ké trên cây là chỉ để ngồi, nằm im ru thôi chớ không được đưa mầy biết chưa?
Lam không thèm mở mắt hỏi:
-Ai gọi vậy dì?
Thắm đáp, cố nói một cách tự nhiên:
-Thằng Chương chớ ai?
Lam hỏi thêm:
-Nói cái gì mà lâu dữ vậy?
Thắm không trả lời, buông võng ra, nắm tay Lam kéo dậy.
Lam đứng lên, chỉ miếng ni lông bó trên đầu võng rồi hỏi:
-Dì cột cái nầy vô đây để làm chi?
Thắm đáp :
-Tao đâu có cột, Hai Ngươn đó! Tao hỏi thì y cắt nghĩa là để mấy con kiến vàng trên cây không leo xuống võng rồi bò tới cắn mình được.
Thắm chỉ tay vô hàng rào nói thêm :
-Y cũng bít hết mấy cái lỗ chó. Tụi trai gái xóm nầy buổi tối cũng thôi chui vô đây hò hẹn.
Lam hỏi :
-Bộ ảnh tới thường lắm hả? Bộ hai người liên lạc với nhau đều đều hả?
Thắm chối:
-Đâu mà có! Lúc đám ma bà ngoại mầy y có tới đốt nhang. Từ đó mỗi năm ghé lai rai vài lần. Lần nào đến cũng tu bổ vườn tược nhà cửa lại giùm. Y lủi thủi làm thôi, tụi tao ít nói chuyện với nhau lắm! Không có như mầy với cái thằng học trò mất nết kia đâu!
Lam trách:
-Vậy mà hổng nghe dì kể tiếng nào!
Thắm trách lại:
-Một năm mầy ghé tao được mấy lần? Lần nào cũng vội vội vàng vàng như ma vật ông vãi, làm gì có thì giờ mà nghe tao kể đủ thứ.
Không để Lam khai thác thêm, Thắm giục :
-Thôi đi hái me để tối hù bây giờ. Bộ tối nay mầy tính ngủ lại đây hả?
Lam nhớ đến lời hứa “ngày mai em sẽ gọi cho cô” của Đông nên lắc đầu lia lịa:
-Ngủ lại sao được, bỏ nhà ai coi?
Cây me già cao vòi vọi, tàng rộng xum xuê, mấy chùm trái treo lủng lẳng đều xa mút tí tè. Cây móc làm bằng hai nhánh tre nối lại cũng không thể vươn tới.
Thắm chắt lưỡi:
-Kiểu nầy chắc phải trèo lên hái mới được!
Lam can:
-Thôi đi dì ơi! Nguy hiểm lắm!
Thắm lắc đầu:
-Tao leo hoài có sao đâu.
Rồi sai Lam:
-Mầy chạy ra hàng ba, tháo tấm vải che bụi đem ra đây cho tao.
Lam hỏi:
-Chi vậy?
Thắm đáp:
-Để hứng mấy trái me tao liệng xuống chớ làm chi! Làm mứt phải xài me còn nguyên, không giập, không gãy, còn y thinh cái cuống mới đẹp.
Lam tháo tấm vải được nối từ mười sáu cái bao cát nhà binh ngày xưa, đến giờ đã mòn xơ xác. Bụi bay mù mịt làm cô nhảy mũi lia lịa.
Thắm từ cuối vườn hét thật to:
-Lấy theo cuộn dây.
Lam ghé bếp lấy cuộn dây ni lông treo gần cánh cửa đem ra luôn cho Thắm.
Hai dì cháu mỗi người một bên, căng rộng tấm vải. Họ cột dây từ bốn góc của tấm bố đến các thân cây lân cận, cả tiếng đồng hồ mới xong.
Lam cự nự:
-Mua đại cho rồi. Ngoài chợ bán có mấy ngàn một ký chớ mấy! Phung phí sức lao động quá trời!
Thắm cự lại:
-Nhà có sẵn thì mắc gì phải mua. Làm việc nhà cũng giống tập thể dục vậy thôi! Tao thấy bây giờ, phụ nữ ai cũng ngán làm việc nhà. Họ mướn người quét dọn, lau nhà rửa chén, ủi đồ... Thiếu vận động nên phát phì. Thế là phải ráng tập cho xuống ký, có eo. Sáng chiều chạy bộ mà đi chợ là phải ngồi xe.
Cô bới tóc lên cho gọn, khom lưng xoắn hai ống quần bó chặt cườm cẳng.
Lam hỏi:
-Túm ống chi vậy?
Thắm đáp:
-Kiến khỏi leo vô.
Rồi hai tay nắm chặt hai mấu cây đối xứng đu người lên.
Nhìn Thắm leo thoăn thoát mà Lam khâm phục. Cô nghĩ thầm: “Ở cái tuổi nầy mà dì Út vẫn còn dẻo dai quá xá! Thật là đáng nể phục”.
Lam ngửa hẳn đầu ra sau để dõi theo từng động tác một của Thắm, hai cánh tay bất giác đưa ra như sẵn sàng chụp lấy trong trường hợp Thắm rơi.
Thắm ngồi vững vàng trên chạc ba rồi gọi vọng xuống:
-Đưa cây móc .
Lam lấy cù móc đang dựng vào cây xoài đưa cho Thắm. Thắm chưa chịu cầm, cô đang vói thẳng tay để ngắt một chùm me gần đó. Động tác ấy làm cái vạt áo bung rộng ra, tia mắt Lam bất chợt chui tọt vào, đậu lại trên làn da bụng trắng phau, săn chắc của Thắm.
Lam buột miệng khen:
-Dì Út đẹp ghê! Không có chút mỡ thừa nào! Chắc dì tập bụng dữ lắm hả?
Thắm trề môi:
-Tập cái mốc xì. Suốt ngày quét lá với gom tàu dừa rụng thôi cũng đủ hết hơi, sức đâu mà tập nữa?
Lam khuyên:
-Dì tiếc làm chi mấy cái tàu dừa nầy. Bỏ cái bếp trấu rồi mua bếp ga về xài. Một mình dì đâu có tốn bao nhiêu! Cũng khỏi cần chùi nồi liền liền.
Rồi cằn nhằn:
-Dì giàu thấy bà cố mà hổng ăn, hổng diện, hổng đi chơi. Nhà thì kém tiện nghi, không dám sắm cái tủ lạnh, bếp ga, quạt máy để xài với người ta. Dì sống như vậy là bạc đãi bản thân, nên ế là phải.
Thắm nghe chỏi tai quá bèn hỏi:
-Mầy nói như vậy là có ý gì?
Lam cắt nghĩa:
-Chớ còn cái giống gì nữa? Mấy người thích dì ai mà dám nhào vô, bởi họ nghĩ dì không thương tới cái thân thì làm sao mà thương nổi họ.
Thắm quạu đeo:
-Thây kệ tao! Tao sống như vậy đó ai chịu thì chịu, hổng chịu thì thôi! Sắm ba cái đồ điện cho cả đống rồi đi đâu cũng lo ngay ngáy sợ ăn trộm cạy cửa mà sướng sao? Lại còn thấp thỏm lo cúp điện nữa. Hổng biết ai ngu hơn ai à!
Rồi nói thêm:
-Ở giá là sướng nhứt trên đời. Khỏi phải lo phục vụ ai hết. Nói cho mầy biết, mấy bà vợ bây giờ nhiều bà còn mong chồng chết sớm, nhứt là mấy cha nội nhậu như hủ chìm, hút thuốc như ống khói tàu.
Thắm hái được chùm me còn cả cuống lẫn lá. Đưa ra trước mặt cho Lam thấy, cười một cách thích chí, lắc lắc chùm me rồi khoe:
-Coi nè!
Lam nhìn theo, cười đáp lại. Cô định nói lời khen, bỗng phát hiện một con rắn lục xanh lè đang trườn từ nhánh cây trên đầu Thắm xuống.
Lam vừa chỉ vào nó, vừa hét to:
-Con rắn!
Thắm ngước lên nhìn, sợ điếng hồn, chới với, buông tay rồi té nhào xuống đất.
Tấm vải rách toẹt kêu đánh “soạt”, đệm vào đó là tiếng “chết tui rồi!” của Thắm.
Lam đứng như trời trồng nhìn Thắm nằm bất tỉnh.
Chiếc điện thoại trong túi Thắm rơi ra. Lam lượm lên, nhấn núc rồi nói to trong máy:
-Anh Hai ơi! Lại đây nhanh lên, dì Út té cây me đang nằm chết giấc đây nè!
(Xem Tiếp CHƯƠNG BỖN)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.09.2019 13:18:05 bởi Lâm Du Yên >