NGUYỄN QUỐC VĂN/TRUYỆN NGẮN VÀ TẢN VĂN NGUYỄN QUỐC VĂN
Nguyễn Quốc Văn 09.10.2019 15:54:33 (permalink)
GIỚI THIỆU:
Nguyễn Quốc Văn sinh năm 1954, quê Nam Định, sống tại Sài Gòn, hội viên Hội Nhà văn Tp. Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính: Thao thức nỗi niềm quê (tản văn) , Mùa hoa điệp vàng, Tro bụi, Đất vuông tròn, Chuyện của hồn ma (truyện ngắn), Nhớ cộng nhớ, Vẽ tuổi, Những ngôi mộ chữ (thơ)...






TẢN VĂN






                
THAO THỨC NỖI NIỀM QUÊ

Sài Gòn vào Tết chan hòa nắng. Đứng ở một ngã tư lúc bị kẹt xe, tôi vô tình ngước lên trời. Giữa hai tàn cây bên đường, không gian chiều ngang như hẹp lại, đẩy cái nhìn lơ đãng của tôi vút lên trời. Trời xanh thăm thẳm sắc bình yên. Hình như ở đây là cái màu xanh ngắt được nhận ra từ ngõ trúc trong thơ Yên Đổ. Hình như đó còn là cái màu xanh “một màu xanh Quảng Trị - đất nước hai miền có chia đâu” khắc khoai năm nào trong thơ ai. “Xanh kìa, cha nội”, ai nhắc cùng tiếng động cơ rộ lên giòn giã, hối hả khiến tôi quay về thực tại, rồ ga, vào số, chạy qua dinh Thống Nhất, ra chợ Bến Thành.
Sống ở Sài Gòn đã lâu, tôi vẫn giữ lối xưa, đi “đụng lợn” theo lối mới. Được cái thời kinh tế thị trường người bán hàng nào cũng đon đả, chiều khách nên yêu cầu khó tính của tôi được một cô bé bán hàng đáp ứng ngay bằng một lời hẹn nghe mát cả ruột gan: “Chú cứ đi đâu đó, chừng một giờ rưỡi quay lại, con lo cho. Con hứa danh dự đó chú”. Tôi đặt cọc gấp đôi số tiền định mua thịt, cô bán hàng gạt đi: “Khỏi, khỏi chú ơi! Con đã nói lo là lo mà. Ngày Tết...”. Sướng thật!
Ngồi bên ly cà phê đen, nhìn sang bên Thủ Thiêm, tôi bỗng nao lòng khi thấy khói bếp nhà ai vương lên trời một vài sợi mỏng.
Quay sang quán bên, mấy cô gái đang rúc rích cười, vẻ mặt và áo quần rực rỡ như hoa. Lấp ló trong nắng sáng xuân vàng, hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa mào gà khoe sắc nắng hoac sắc cờ.
Tự nhiên trong tôi thức dậy nỗi nhớ quê da diết. Ai tha hương không da diết nhớ quê? Vào tiết xuân, quê tôi mờ trong mưa bụi. Mưa xuân li ti giăng mắc, bay nhảy trong gió nhẹ. Thảng lúc, có một cơn gió mồ côi chợt ào đến, những hạt mưa như bụi đang lơ lửng kia như bay ngược lên, nước như vỗ vào trời, đất trời như hòa làm một.
Khi ấy tôi còn bé tí. Tóc vàng khét nắng gió đồng quê. Bốn mùa áo nâu sòng lưng vá, cúc hai bên vạt áo trèo cây nhiều đứt hết, ngực gầy cứ phơi ra.
Thôi rồi mừng hết chỗ nói! U tôi đã mang áo quần mới về. Con nhà nghèo, khỏi phải đến hàng may. Chiều qua, u tôi bảo tôi cởi trần một buổi cho nó mát, người lẳng lặng mang tấm áo vá của tôi ra hàng may, ông thợ cứ thế mà may áo mới bằng cách nới rộng, nới dài mỗi bộ phận ra một tí. Tôi mặc liền áo mới, chạy ra ngõ, những mong có một đứa bạn nào trông thấy rồi sẽ cởi áo cất đi chờ Tết. Ngõ hun hút tre xanh!
Bố tôi đi đụng lợn đã về. Ông ngồi lom khom trên tấm phản lim đen bóng, rít một hơi thuốc lào, nõ điếu kêu lên tóc tóc vui vẻ, ngửa mặt lên trời khoan khoai để thở khói thuốc xanh mờ. Xong, ông bảo: “Nhà ta năm nay ăn Tết to cu ạ. Bố đụng những một đùi lợn đấy!”. U tôi đang ở ngoài bậu cửa bỏm bẻm nhai trầu, nghe thấy thế vội nhổ bã trầu, chen vào: “Chết, chết, nhà mình vụ này mới đủ thóc ăn. Ông đụng nhiều thế, ăn nó phí đi!”. “Thôi bà ạ, đói cả năm cả đời, ai đói ba ngày Tết? Bà để yên cho chúng nó vui”. U tôi nghe bố tôi nói vậy, lại lấy trầu cau ra têm, ngồi chậm rãi nhai, mắt sáng những tia vui.
Tiếng lợn kêu eng éc lúc bị trói giò, hay ò ò ò, hộc hộc lúc được hóa kiếp cuối năm đây đó đã vang lên, bị lũy tre làng ken dày cản lại, như hất ngược lên trời. Từ sớm “ông Táo về trời” (23 tháng Chạp), tôi đã nôn nao hỏi bố bao giờ thì con lợn đụng nhà tôi được thịt. “Sáng 29. Trưa, bố sẽ cúng tổ tiên”. Thành thử bữa ấy tôi phải trần truồng lội xuống ao xuân lạnh giá, lấy chân khua nước, tay đập gậy trên mặt nước lùa cá vào vó cho bố. Được vài con cá. Rán giòn hết. Chỉ tiếc và không hiểu sao bố tôi giữ con cá chép lại, con chép to nhất, ngon nhất; cúng xong, đem ra sông thả. “Để cho nó hóa rồng con ạ. Rồi con rồng ấy đưa ông Táo, bà Táo về trời. Họ quanh năm vất vả khói rạ rơm, giờ về trời báo tin vui nhà ta hết đói, kể cũng sướng! Bố cứ nghĩ bao nhiêu năm nay vợ chồng ông Táo nhà mình không nỡ kể cảnh nhà ta! Giờ thì...”. Bố tôi buông lửng câu nói, tay đặt cả cái chậu có con cá chép, dìm xuống bến sông, mắt lại hướng lên trời đang giăng đầy mưa bụi.
Rồi cái ngày mong đỏ mắt ấy, cái ngày hăm chín tháng chạp quyến rũ ấy, cũng đến. Cả nhà tôi dậy từ lúc sáng mờ. Tôi mang một cái rổ tre theo bố. Con trai trưởng có khác, được quyền nhận và bê rổ thịt về nhà. Tôi vẫn còn nhớ như in, con lợn năm ấy mõm ngắn cũn, lông đen nháy và xoắn tít, thân thon, bụng hóp - giống lợn ỉ chậm lớn - chỉ vẻn vẹn chưa đầy ba mươi kí lô. Dù vậy, tôi vẫn đủ để hãnh diện với đám bạn nghèo: nhà tôi đụng một đùi lợn! Lớn bé gì thì một đùi lợn cũng vay mà thôi. Một đùi lợn!
Một đùi lợn có nghĩa là một con lợn đấy! Đủ một phần từ thủ lợn, lưỡi lợn, vai, mông, chân giò, tim, gan, phèo phổi... “ Ông cha mình nghèo ăn lấy thơm lấy thảo, ăn lấy hương, lấy hoa, chẳng cốt no, chỉ cốt đủ”, bố tôi bảo thế. Cái no và cái đủ, về sau đi học, vào đời, tôi vẫn nhớ như một lời răn. Cái no dành cho kẻ đói, cái đủ dành cho kẻ thanh. Kẻ thanh liêm, thanh cao, thanh đạm hướng về cái đủ theo nghĩa tinh thần. Người thờ tổ tiên trọng tinh thần hơn vật chất, không thể không cố lo cho đủ lễ, nếu có điều kiện. Lúc nghèo, chỉ một bát nước trong, một nén nhang cũng là đủ. Về ý này có lần tôi đã hỏi bố tôi. Bố tôi vuốt râu, cười mà rằng: “Tổ tiên ta vốn rồng tiên. Rồng ở nước. Tiên ở núi. Bát nước trong là biển. Nén nhang là rừng cây thu nhỏ lại. Đặt hai vật ấy gần nhau, khác gì làm một bài thơ? Cụ đồ có dạy con vậy không?”. Tôi lại lấy một bát nước trong, thắp một nén nhang cắm vào bát nhang hình như đôi lúc nhãng khói hương... Bên tai đã thoảng lời bố; áo chùng, khăn đóng, kính lão giương lên cuốn bài vị: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... nhất thứ Nguyễn Văn đồng gia đẳng... lòng thành dâng... tiên tổ... quốc gia...”. Mỗi lời là một tiếng “sít... suýt” thoat ra từ hai kẽ răng dính lại, lưỡi đẩy lên vòm ngạc, suýt xoa thành kính. Trước tiên tổ, bố tôi chỉ nhìn vào cuốn bài vị, đọc xong bao giờ người cũng cúi đầu, mắt nhìn xuống ngực nhưng không mở to, tiếng cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Tôi chỉ thực sự biết bài văn cuối năm kết thúc khi bố tôi phủ phục xuống nhiều lần rồi đứng lên trang trọng rót rượu từ cái chai đã mở nút lá chuối hột vào các chén mắt trâu, so đũa, kêu tôi đơm cơm cúng, múc nước trong. 
Chợt tỉnh nỗi niềm, tôi hốt hoang nhìn đồng hồ. Ô, không mang theo! May thay, quay lại chợ, cô bé bán hàng vẫn còn chờ, trách: “Con mong chú đỏ cả mắt. Cứ ngỡ... Song nghĩ người tỉ mỉ thế, khong thể sai lời!”. Tôi ậm ừ xin lỗi. “Con lo đủ rồi đó. Chú cứ yên tâm. Y chang lời chú dặn”. Giỏ thịt lợn Sài Gòn cũng y như rổ thịt lợn năm xưa! Khác là tôi đã lớn, đã phong trần, tóc đã muối tiêu.
Cho đến lúc mâm cỗ tất niên vợ tôi bày lên bàn thờ, tôi bỗng hốt hoang thấy không có trên dĩa lòng những lát tim nâu đỏ, mịn màng. Xem kỹ, vẫn không thấy! Dặn vợ qua quít, tôi phóng xe ra chợ. Cô bé mếu máo bảo: “Con đợi chú hoai, chỉ sợ chú hiểu lầm, tội nghiệp con. Trái tim này, tiếc không phải của con heo đó. Con xin lỗi, xin lỗi. Con xin biếu”. Tôi nói thế nào cô bé cũng nhất định không nhận tiền. Giữa Sài Gòn gió bụi, tôi bỗng như gặp lại dáng xưa chân chất, thật thà nơi khoai lúa...

CON TRÂU THỜI THƠ ẤU
                                                                 
Một buổi sáng tháng tư xanh lọc sau cơn mưa đầu hạ. Lúc ấy, tôi lên sáu, nhởn nhơ  bắt bướm, chơi chọi cỏ gà một mình để bà và u rảnh tay tát nước cho đám ruộng lúa cạnh mương nước ngang với con đường đất cát dẫn vào làng. U tôi bỗng buông dây gầu, mừng rỡ kêu lên: “Bố thằng cu đã về! Mua được trâu rồi, u ơi”. Bà tôi mất đà, ngã ngồi xuống cỏ. Cái gầu rơi “tùm”, nước bạc bắn lên tung toé. U tôi lội qua sòng đỡ bà dậy. Rồi, vừa xuýt xoa, vừa le te chạy lên đường, u dừng lại chỗ bố. Bố tôi vẫn còn đứng ngẩn ra, nới tay buông lỏng sợi thừng, khiến con trâu có dịp vươn cổ, nghênh đầu, phô ra cái lợi sún. Tôi được bố bế đặt ngồi chỗm chệ trên lưng trâu. Bà tôi đưa bàn tay mồi vuốt vuốt những sợi lông thưa trên mặt da đen bóng của con vật. Bố nhìn u âu yếm, giọng lạc đi: “Trâu nhà ta đấy!”. Tôi tụt từ trên mình trâu xuống. Như đã nhận ra người chủ nhỏ, con trâu gại gại đầu, rồi thè cái lưỡi ráp như lá lúa, liếm liếm vào tay. Trâu tỉnh Thanh sừng cong chuối ngự, cổ cò, bụng hóp, mông nở, chân thon gióng trúc. Kéo cày khoẻ lắm đây! Bà tôi vừa cười, tay run run xoa đầu cháu, thì thầm vào tai tôi: “Vậy là bố cháu tam thập nhi lập, làm nhà, cưới vợ, tậu trâu. Có chí, mấy nả mà giầu tiền kho thóc đụn”. Con trâu mở to đôi mắt lờ đờ, cúi đầu như đang ngẫm nghĩ về ước vọng mà cả nhà tôi đã ngầm đặt lên vai nó.
Tôi nhập bọn và trở thành một trong những trẻ trâu với nhiều trò nghịch ngợm thơ ngây từ thuở ấy. Sáng, dắt trâu từ chuồng ra khỏi ngõ, chúng tôi í ới gọi nhau, thong thả dong những con vật hiền lành qua cái cổng làng rêu phong cổ kính trổ lối ra đồng. Hai bên cổng, tre ken dày thành luỹ, bao bọc lấy làng xóm. Tre như chiều lũ trẻ, che khuất những việc làm dại dột nhưng thú vị của chúng tôi. Ông mặt trời đỏ rực đang cười; khoang trời xanh đã mở cho cánh chim bay; con đường đồng vắng lặng như mời, như gọi vó câu. Nhớ chuyện Đinh Bộ Lĩnh, chẳng đứa nào bảo đứa nào, chúng tôi cùng cúi rạp trên mình trâu, nhất loạt ra roi dâu. Những con trâu ban đầu còn lộp cộp lộp cộp nước kiệu; về sau, hứng khởi bởi tiếng la hét trẻ thơ, chúng cất bốn vó lồng lên phi nước đại. Gió ù ù bên tai, hất tóc ngược về phía sau. Đất nâu trắng phớ tung bụi, lúa đồng xanh chấp chới như vờn như giỡn. Thầy giáo khai tâm của tôi phong thanh biết chuyện, cười, khuyên: “Các con muốn nhanh nên người thì phải học. Chữ nghĩa chính là cái cổng làng và con đường dẫn vào cuộc đời. Sự cố gắng, nỗ lực, chẳng qua cũng chỉ là một cách phi trâu lồng mà thôi”.
Nhớ lời thầy, chúng tôi thả trâu gặm cỏ trên cồn, để mặc cho tiếng mõ lóc cóc xa dần, những cái nón mê chụm lại quanh một cuốn sách: “Ai bảo chăn trâu là khổ?”. Tiếng ếch nhái uôm uôm lẫn vào tiếng cá quẫy lóc bóc trong các ruộng lúa. Sau khi đã thuộc nằm lòng bài học, tháng tư tuốt rờm lúa, tháng tám nhổ cỏ khô, chúng tôi nướng những con cá mò được, bày cỗ chơi trò việc làng, việc họ, việc cưới cheo. Lá nhọ nhồi, tro nướng cá và đất sét thế mà được việc! Lấy những thứ đó vẽ lên mặt là có đủ cả lý trưởng, tiên chỉ họ, chú rể, cô dâu. Chơi chán thì thả đỉa ba ba, rồng rắn lên mây hay giả làm trai gái làng hát chầu, hát ví. Vừa cười đã khóc, vừa mới giận hờn đã vội làm quen. Rồi lớn lên, kẻ đi xa đau đáu mong ngày trở lại chốn xưa, người ở lại khắc khoai bấm đốt ngón tay đợi bạn vong niên. Gặp nhau mỗi độ xuân về, tết đến, cười nhăn cả má, nước mắt cứ trào ra, người này thương kẻ kia tóc sớm bạc, người ở quê xót người nơi góc bể chân trời...
Tôi có mấy người bạn ba mươi năm qua vẫn còn trong quân ngũ. Mỗi khi có dịp, các anh ấy vẫn nhắc lại trò chơi trận giả thuở ấu thơ. Vào tháng mười một, ruộng cày lên xếp thành những luống ải, gió bấc  hanh hao đã làm đất nỏ tom. Đám con trai chia làm hai phe ta và địch, len lỏi đuổi theo nhau trong từng luống đất. Dĩ nhiên, “đạn” chỉ là đất ải nhào với nước cho nhuyễn vo lại. Đám con gái thì được cử làm cứu thương, lo việc hậu cần. Tôi chơi xấu, cố tình nhô người lãnh đạn, để được đám con gái khiêng lên cồn, nằm khểnh nhai ngô rang giòn tan,thơm nức. Về sau, trò này bị lộ. Chúng bạn phạt bắt tôi làm máy bay địch, đạn súng nhỏ bắn không tới, miệng ù ù trong suốt cuộc chơi. Thấy tôi giang hai tay liệng đi liệng lại, mấy con trâu đang thản nhiên gặm cỏ nhất loạt ngửa mặt, nhăn mũi, cười chế nhạo: “Ngò...ngò...ò...”.
Vào một vụ tháng sáu, tôi thả diều trên cồn. Tiếng sáo lơ lửng neo giữa tầng trời cao vời vợi, mênh mang. Bố tôi đang cày một chân ruộng dầm, đất lật loang loáng qua diệp cày sáng bạc. Con trâu hục hặc đi trong chang chang trời nắng, thi thoang đưa lưỡi liếm nhanh một mầm lúa sót. Bất ngờ, nó dừng lại, ngẩn ra nghe những thanh âm lạ. Cột dây diều vào cọc buộc trâu, tôi lội xuống ruộng, xin bố cho tập cày một sá. Trao tay cày cho tôi, bố dặn cẩn thận, rồi lên cồn, giở điếu cày, vê thuốc, châm đóm hút. Con trâu nghe tiếng nõ điếu reo, không đợi tôi giục “vắt, vắt”, gằm mặt xuống đi băng băng. Tay yếu, không đủ sức ấn seo cày, tôi để lưới cày lướt trên mặt ruộng. Cái cày đổ, kéo tôi nhào về phía trước. Nước dềnh lên, cuộn sóng. Bố tôi mới kịp “họ” lên một tiếng, con trâu đã thoat dừng lại, lưỡi cày như một cái lá đa sắc lẹm lệch sang một bên. Con vật phì phò thở, quay lại nhìn chủ, đôi tai vẫy vẫy. Bố đỡ tôi dậy, tháo ách trâu. Con trâu thơ thẩn gặm cỏ quanh cái cọc tôi đã buộc dây diều. Ngỡ sợi dây phát ra thanh âm réo rắt, con trâu dỏng tai, cọ cọ sừng vào đó. Dây đứt phựt, cái diều chấp chới theo chiều gió, tiếng sáo cuống quýt, ngắt quãng. Tôi chạy theo hướng diều rơi; vớt được diều ở một ao bèo, lên bờ đã thấy con trâu đang cúi đầu uống nước, cái đuôi chổi sể ngoe nguẩy vẫy...
Tháng Chạp rét cắt da cắt thịt. Khoac áo tơi lá móc, chúng tôi nằm phủ phục trên mình trâu. Da trâu mốc trắng, khen khét, hâm hấp nóng. Thương trâu, bố tôi lấy bao tải may cho nó một cái áo. Thế mà, mỗi khi gió bấc ào ào từng đợt xô tới, con trâu thoang khẽ rùng mình. Đêm, cửa chuồng được che kín bằng các phên rạ, trâu nằm trên ổ rơm chóp chép nhai trầu.
Tôi nhớ năm nào cũng vậy, ba ngày Tết, mỗi buổi sáng bố đều bảo tôi mang cho trâu một cái bánh chưng. Con trâu ngoạm dần từng miếng bánh trên tay người, vừa từ tốn  nhai vừa nhìn tôi, ứa nước mắt.
Thấm thoat ngày nào mà đã mấy mùa hoa đào nở! Con trâu cần mẫn cùng bố tôi cày bừa hết đám ruộng này đến đám ruộng khác. Ngày mùa, nó nhong nhong kéo đá lăn trục lúa; ngày dưng, nó theo bố tôi kẽo kẹt đẩy che đạp mía thuê cho một lò đường ở làng bên cạnh. Dẫu chưa dư tiền kho thóc đụn như bà mong ước, bố tôi đã lấy làm đắc ý vì nhà được tiếng thơm là hộ khá giả trong thôn.
Cho đến một tháng Ba năm Hợi, trong lễ hội chọi trâu dâng cúng thần làng, con trâu nhà tôi đứng đầu sới . Lời khen chưa dứt, lại đã tháng Ba năm Tí. Lần này, nghe tiếng reo vỡ trời vỡ đất của dân làng mừng con trâu nhà thằng bạn tôi thắng cuộc, bố tôi bưng lấy mặt, tôi không kìm được nức nở, nhìn qua nước mắt cảnh con trâu thân yêu bị nhốt  trong gióng. Nó sẽ được hóa kiếp vào đúng lúc ba hồi trống hội kết thúc, báo hiệu giờ tế lễ thiêng liêng bắt đầu.
Da trâu đem thuộc, bưng cho mỗi xóm trong làng một bộ trống. Cái trống to nhất, làng đem tặng cho trường cấp một của xã. Năm ấy tôi học xong lớp bốn. Ba hồi trống bế giảng đã vang lên. Lòng nao nao, tôi nghĩ con trâu thân thuộc vẫn còn đang bên cạnh, nhắc cho biết thời thơ ấu đã qua...
Lớn lên, tôi có nhiều dịp đi suốt chiều dài và chiều rộng của đất nước. Không ít lần, tôi đã từng ngẩn ngơ ngắm những đàn trâu Hàm Yên, Phong Châu, Thạch Thành, Anh Sơn, Đức Thọ, Bố Trạch, Bảo Lộc, Lâm Hà đi trong ngân nga tiếng sáo mục đồng bảng lảng lẫn vào nền chiều tím ngắt hoang hôn. Cũng có lúc, nhìn dáng núi non, tôi bồi hồi ngỡ đó là dáng đàn trâu làng tôi đang thung dung gặm cỏ trong mênh mông trời đất. Nghe tiếng sấm đầu mùa báo đất trời rẽ lối, tôi tưởng mặt trống da trâu nhà tôi còn rung lên đâu đó, đủ âm vang để làm náo nức tất cả các lễ hội mùa xuân...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

RÉT GIÓ CHIỀU NGƯỜI
 
Bất chợt, gió bấc về. Lá cây bàng trước cổng trường từ vàng chuyển màu đỏ sậm; lúc rời cành lá đã héo khô, cuộn lại lăn trên mặt đất khô rang xao xác. Hết tiết học của học trò, tôi khoac cái măng tô bằng dạ xám ra đứng lặng cùng dãy hành lang tầng một. Trong gió rét, những cành bàng vươn ra như những cánh tay gầy. Những cánh tay xua gió, gọi nắng ấm. Trong âm thầm thớ vỏ, nhựa cây dồn ngược lên ngọn chống giá lạnh, sương muối.
Chiều. Tôi dẫn học trò đi xem rối nước Nam Xang. Bảo là rối nước mà lại diễn trên cạn, trong sân nhà trưởng phường. Các con rối mới được sơn phết lại, sơn gặp gió lạnh, nứt ra những vết rạn tự nhiên. Mặt mũi, tay chân chú Tễu nứt nẻ như mặt người đi cấy đồng xa. Thế mà cứ đỏ hồng lên. Phường rối lưu diễn trong cả nước suốt từ mùa xuân cho đến tháng tám, tháng chín. Tháng mười các nghệ nhân về gặt lúa mùa, sửa sang cho các nhân vật, có khi sửa luôn cả tích diễn. Hôm ấy, chúng tôi xem Lưu Bình, Dương Lễ. Những người hát chèo ẩn trong nhà, nhìn ra, hát theo điệu bộ. Lúc trở về, qua hồ nước trước đình làng Nam Xang Hạ, đã thấy dựng sẵn đồ diễn trò cho rối nước xuân.
Đồng quê lốm đốm nâu. Người đi bừa, đi cấy mặc những cái áo bông chần màu xanh hoac màu cỏ úa, có người khoac cả áo tơi lá móc. Người đi bừa lặng lẽ theo trâu, bước chậm rãi, gió lùa vào lá áo tơi loạt xoạt. Những đám ruộng đã cấy, mạ chưa kịp bén rễ, vàng úa, ngả về hướng Nam.
Tới cây đa đầu làng Nam Xang Thượng, học trò ùa cả vào quán nước chè xanh, mua kẹo bột. Lọ kẹo bột của bà lão bán hàng hết nhẵn. Đám trẻ xuýt xoa, thích thú ngậm kẹo. Đứa nào đứa ấy đỏ bừng cả mặt. Kẹo bột nấu bằng đường mía, mạch nha và nước gừng lọc, vừa ngọt, vừa cay. “Xấu mã nhưng nó tốt lòng. Ăn ấm lắm!”, bà lão vừa rót nước vừa bảo tôi như vậy. Chè tươi sóng sánh khói. “Ông giáo dẫn các cháu đi xem tích phải không? À, tôi còn cái này mời ông giáo xơi tạm”. Tôi chưa kịp từ chối khéo, bà lão đã đon đả mời trước: “Cái này không bán. Chỉ biếu!”. Bà đặt trước mặt tôi mấy cái bánh đậu xanh. “Bánh đậu xanh Ngọc Anh đấy”. Tôi đã biết tiếng đậu xanh Ngọc Anh, Hanh Tụ qua thơ Tú Xương. Thậm chí còn biết rõ ông Ngọc Anh quê làng Nhang Cát (Trực Ninh) nhờ buôn bán thật thà mà đậu xanh hương sắc ngọt cả trong thơ. Nghe phong thanh, về sau ông có cửa hàng to lắm ở phố Tràng Thi, Hà Nội. Có một người con gái của ông, cô Tuyết, lại theo nghề giáo, kết duyên với một “ông tú” dạy học cùng tôi, suốt ngày thơ phú. Giờ cũng đã hơn sáu mươi cả. Tôi đã đọc một cuốn sách cô viết về những thăng trầm nhà Ngọc Anh, văn chương đồng quê chớm mùi thị thành nghe man mác. Tôi biết làm bánh đậu xanh, tưởng dễ mà khó. Chọn đậu xanh ở đâu, đậu thu hoach vào vụ nào, tháng nào; phơi bao nhiêu nắng, rang và ủ trên lửa ra sao; thắng đường trộn bột, tra hương,... mới nghe qua nghĩ là công việc văn chương, nghệ thuật, chẳng ai nghĩ đó lại là một nghề làm bánh... Thành ra, nhấm một mẩu bánh đậu xanh, đầu lưỡi thấy ngọt mát, hương đồng trong thanh quấn quít ngấm vào hồn. Trong gió bấc ù ù thổi trên ngọn đa già, tôi thấy lòng mình ấm lại. Bà lão cho thêm củi vào bếp, than lách tách, lửa bùng lên...
Buổi tối, tôi ngồi đọc thơ Nguyễn Khuyến. Cố tìm trong những vần thơ thanh khiết, trong veo như nước ao mùa thu có chỗ nào viết về mèo, về chuột không, hầu tìm cách bình bài “Con mèo mà trèo cây cau” mà không thấy. Thôi đành đánh vật với câu chữ, ý tứ theo kiểu dân cày. Tôi làm văn cũng như đi cày, đi cuốc vậy. Nhọc mệt mà đôi khi thấy mình toàn nói chuyện tào lao. Cũng cực khổ như làm bánh đậu xanh mà thôi! Có điều, bánh đậu ăn ngon ngọt mà văn chương tôi trầm lặng quá, cứ hướng về xưa. Nghĩ cũng tủi và thương mình!
Nhưng mà, buổi bình văn đầu xuân đã hẹn. Dù cày xới ra sao, ngày ấy vẫn phải lên đàn. Miệng cười rõ tươi cho mắt lấy lòng, tay vung làm bộ giả say để che chỗ ý nông choèn. Rồi lời văn tuôn ra như mây, như khói, quên cả giờ người khác; chủ tọa phải giơ tay làm hiệu cũng chưa chịu xuống. Bấy giờ mới có văn. Nói theo cảm hứng. Bài bình văn viết cạn cả bình mực, giờ gió lật nghiêng sang một bên. Tưởng tượng cả! Mới vào tháng chạp, tiết lập xuân.
Có người gõ cửa. Vợ tôi ra mở và kêu lên: “Ông Tú!”. Gọi thành quen chứ thực ra “ông tú” không phải là một cái tên thật. Học qua đại học, già dặn trong làng giáo như ông phải là ông cử kia. Gọi “ông tú” để nhắc đến một tính cách thành Nam. Người khách văn chương ôm trong lòng khư khư một bọc. Thơm nức. “Cho cậu cái này mà thưởng Tết”. Vừa nói, ông Thang Ngọc Pho vừa mở bọc, đưa cho vợ tôi những gói vuông hình chữ nhật: “Tớ vừa đến nhà Thọ. Cậu ấy gửi cái này...”. “Sừu Châu?”. “Còn cái gì hơn nữa?”, ông Thang hỏi lại và cười tinh nghịch. Rồi bảo: “Còn rượu nếp Hải Hậu, đem ra nhắm thử chơi!”. Ai lại uống rượu với kẹo lạc Sừu Châu? Có mà rượu đổ lỗ chuột! Có mà bỏ kẹo xuống sông! Sừu Châu, chỉ có ở Nam Định. Nghề truyền không được. Cũng là lạc rang, đường, mạch nha, va-ni... mà người làng Nam Xang Thượng chỉ nấu được thành kẹo lạc, ăn xong vẫn còn cái gì đó dính ở răng. Kẹo Sừu Châu không vậy. Cắn nhẹ đã vỡ tan, giòn mảnh mà mềm mại, ngọt mà thanh, thơm nhẹ mà vương lâu. Tôi đã xem anh Thọ, người con trai được cha truyền nghề duy nhất, nấu Sừu Châu. Không khác gì cách nấu của làng kẹo Nam Xang Thượng. Khác chăng là cách chọn thời điểm đường và mạch nha tan kết, keo lại, gặp lạc rang ủ nóng và khí lạnh của tiết đông mà tạo nên vẻ riêng. Ông Thang nói đó là việc làm thơ. Thơ chỉ ra khi nhà thơ có hứng. Thơ khác với văn vần vì trong thơ có hồn. Hồn nhạt nhẽo, thơ chẳng đáng dùng gói kẹo Sừu Châu! Về ý này, có một lần tôi hỏi Lưu Trọng Văn, nhà báo, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư : “Này, hồi nhỏ, ông già có dạy ông làm thơ không?”. “Không”, “Sao vậy nhỉ?”. “ Ông cụ mình bảo làm thơ không dạy được. Đó là tiếng thổn thức của con tim. Có ai dạy nhau cách làm cho tim thổn thức không?”. Khó thế đấy! Thơ không thất truyền. Sau Lưu Trọng Lư, lớp lớp nhà thơ xuất hiện như măng mọc. Còn “Tiếng thu” chỉ có một! Liệu Sừu Châu trong đời có như thơ? Mà sao vắng bóng? Mà sao anh Thọ chỉ làm để tặng bạn bè vào dịp Tết? Anh là cán bộ ở Sở Văn hóa và Thông tin Nam Hà, văn thơ kể cũng đã đầy mình. Riêng bài thơ cha truyền lại, vị ngọt mới ít người được nếm!
Sáng hôm sau, người cho kẹo rủ tôi và ông Thang Ngọc Pho ngược đường Hưng Yên lên đê Hữu Bị, qua dốc Lốc, đi cầu gỗ Mỹ Hà sang Nhân Hậu, đến làng Đại Hoang của Nam Cao. Cái lò gạch cũ còn đó như nhắc Chí Phèo, Thị Nở. Tre làng xào xạc, cót két nhớ trăng suông... Tôi bất giác nhìn ra ruộng mía. Mía dành bán Tết. Mật ứ từng gióng, căng nứt ra. Nhớ thuở nhỏ, đi qua ruộng mía không dám chặt trộm, chỉ ghé răng vào cắn, mật ngọt ứa tràn loang cả ra má, đến trưa vẫn còn deo dẻo. Vườn nhà Nam Cao trồng nhiều chuối ngự. Thứ chuối quả chỉ bằng ngón tay út, bóc vỏ ăn, hai ngày sau tay vẫn như xức dầu chuối. Thân chuối héo tom, xơ xác. Tôi nghĩ chuối mẹ đã dành hết cho con tất cả sinh lực nên héo tàn như vậy. Nam Cao dồn hết tinh túy hồn mình vào văn chương nên ông thường ít nói, về quê thích ngồi trên cầu ao rửa bát cho vợ, chân thõng xuống nước, mắt nhìn vườn chuối, đứng dậy trở vào nhà trong, rổ bát chưa rửa vẫn bên bờ ao...
Cho đến một hôm, các bạn tôi đến chơi, nghiêng ngó, chỉ cây bàng. Những búp nâu đã bật. Những ngọn nến mùa xuân! Mấy đứa học trò yêu của tôi thập thò, đùn đẩy nhau đi xin phép thầy được tổ chức cho cả lớp đi xem múa rối nước. Mồng ba, chúng kéo nhau đến chật cả nhà tôi chúc Tết. Và để ăn lấy may! Trong nhà có bao nhiêu bánh chưng, kẹo Sừu Châu, chuối ngự... vợ tôi dọn ra hết mà vẫn còn thiếu. Tôi chợt nhớ và vội chạy ra đầu phố. Bà cụ Thép bán nước trà đã mở hàng bên cây si già đền Giếng. Mở hàng cho cụ lọ kẹo bột... Đám trẻ ngây thơ nhai kẹo ráu ráu. Đường ngọt, gừng cay. Tôi biết: Sau này, dù ở đâu và trở thành ai, nhiều em vẫn còn nhớ sáng mồng ba ấy; gió rét chiều người, khiến cái gì ở nhà thầy giáo nghèo cũng ngon, cũng ngọt. Cũng như tôi, mỗi mùa xuân, các em sẽ nhớ mãi mối tình quê, tình người nồng hậu nơi quê nhà mà lớn lên...
 Xuân. Tôi đến thăm ông giáo già Thang Ngọc Pho. Cho đến khi ông kêu lên: “Nhớ rét quá!”, tôi đã lặng đi trong giây phút. Tôi hiểu ông đang da diết nhớ những ngày xuân xưa nồng ấm, dù ngoài trời gió bấc lạnh tung ngược lên trời muôn ngàn hạt bụi của mưa. Ơ kìa, mắt ông giáo sao lại có ngấn nước! Sương xuân trên lá? Nếu có rét, hoa mai góc nhà kia ắt sẽ chúm chím cười!
 
 
 
 
 
 
XUÂN Ở LÀNG THƯỢNG VĂN
 
Sáng ba mươi tháng mười một lịch trăng, bố tôi lọm cọm thuê xe lên Biên Hòa thăm ông bạn già vốn là nghệ nhân chuyên vẽ hoa văn trên gốm sứ.
Chiều, người về, gọi lũ cháu lễ mễ khiêng từ xe xuống một gốc mai già. Người giữ khư khư trước ngực một bó tranh. Tôi trịnh trọng đặt cây mai vào cái chậu lớn. Đã non tơ những lộc non lá mới, lác đác xòe vài bông vàng e ấp... Bố tôi giở cuộn tranh, treo trong phòng riêng. Tranh vẽ trên giấy dó đã ố vàng. Bố tôi nói những bức vẽ này, người bạn già mang vào Nam từ những năm bốn mươi. Tuổi cao sức yếu, ông chọn người truyền lại cho đời...
Nửa đêm, tự nhiên tôi tỉnh dậy, giật mình khi thấy bố thao thức, lúc đến gần các bức tranh ngắm nghía, lấy tay sờ sờ lên mặt giấy, lúc thẫn thờ ngồi vào bàn viết, viết những câu thơ về hoa đào, hoa lê bằng chữ Hán thất thần...
Tôi đoán bố tôi đang sống lại thời tuổi trẻ còn ở làng Thượng Văn ven sông Hồng. Con nhà Nho hay chữ nhưng bố tôi lại mê vật võ. Hội vật làng tôi chỉ mở vào tháng 3 và tháng 8, lúc nông nhàn. Tết, để cho có đủ mọi cuộc vui, làng bày sới phụ để trai làng tỉ thí cho vui chứ không có giải. Sới vật trên diệc mạ, cạnh cây đu tre, cạnh sân đình đã kẻ sẵn các ô cờ người... Cái diệc mạ ấy cũng là nơi họp chợ Thượng. Nó ở đầu làng Thượng Văn nhưng là cuối làng Thượng Võ và Thượng Lễ. Chợ chỉ họp hai phiên cuối năm và đầu năm. Vật võ tàn vào phiên chợ cuối và được mở lại ngay sau ngày họp chợ đầu năm. Tục này có từ  bao giờ, không ai rõ.
Bố tôi lúc trai tráng là một đô vật nổi tiếng cả tỉnh Nam. Người thấp bé, nhẹ cân. Ấy vậy mà người đã làm lấm lưng không biết bao nhiêu đô vật cao lớn, nặng cân hơn trong vùng. Vật võ được gọi là toàn bích khi cả ba keo phải hạ đối thủ như mèo bị cắt tiết. Thế mà bố tôi chỉ thắng keo đầu và keo cuối. Những đô thắng người keo giữa, không có ai không xá người ba xá, tỏ ý mến mộ. Hồi còn nhỏ tuổi, một lần tình cờ gặp bức “Đánh vật” của họa sĩ Nguyệt Hồ, tôi cứ ngớ người ra. Đô vật trong tranh có gương mặt hao hao giống khuôn mặt bố tôi. Cái cười rõ tươi, thân thiện. Tôi hỏi có phải ông Nguyệt Hồ lấy người làm mẫu vẽ chăng, bố tôi bảo không phải. Người chưa bao giờ làm mẫu vẽ. Nếu có chăng, ông Nguyệt Hồ đã cảm xúc trước những keo nổi tiếng của người năm 1939 bên bờ hồ Vị Xuyên mà vẽ nên. Ở đấy, người lần lượt thắng các đô vùng Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Thanh Hóa. Bức vẽ ấy bây giờ ở đâu? Hồi còn ở Bắc, tôi theo trí nhớ tìm về nhà có treo tranh. Mấy chục năm mờ xa, trong nhà không ai còn nhớ. Tôi nao nao nhớ Nguyệt Hồ, họa sĩ nhỏ thó, cười nheo nheo mắt vào cái lần tôi vô tình nhắc đến tên ông mà không hề biết ông đang ngồi trước mặt ở ngõ Văn Nhân.
Có lần bố tôi giảng cho tôi nghe về tranh. Bộ tứ bình treo ở nhà tôi vẽ trên lụa Hà Đông. Người vẽ vẽ bằng bút lông và chỉ bằng một thứ mực Tàu đen ánh, được mài thật kỹ trong rượu nếp hương vùng Hải Hậu. Phỏng đoán thế thôi. Hư thực ra sao không rõ. Nhưng chỉ thứ rượu ấy mới làm tan được thứ mực rắn như đá núi Đọi Sơn kia. Những hình ảnh tương ứng trên tranh là đào, sen, cúc, tùng hay các loài chim: én, đỗ quyên, thiên nga, hạc... tượng trưng cho xuân, hạ, thu, đông. Bộ tứ bình nhà tôi độc một thứ cây - cây trúc. Và ao, ngõ, mái tranh, thằng bé mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo, ông lão ngồi câu khật khưỡng dưới trăng. Tôi lấy làm lạ là bộ tranh gọi là tứ bình kia, chỉ có ba bức. Hỏi bố thì người chỉ vào ba bài thơ Nôm Nguyễn Khuyến (Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) đề ở phía dưới ba bức tranh và bảo riêng bức có bài “Thu vịnh” ít nhất đã là hai bức rồi. Thu ban ngày. Thu ban đêm. Hay là Thu xưa, Thu nay... “Con nhìn kỹ xem. Nào, con có thấy ánh mặt trời đang ló và trăng đang lu ở hai đầu ngõ trúc ?”. Tôi hỏi thêm: “Bố ơi! Sao nhà ta không có bức tranh nào vẽ mùa xuân?”. Bố cười: “Mùa thu gói đủ bốn mùa rồi con ạ. Này nhé, sáng là xuân, trưa đã hạ, chiều: chính thu và đêm đã có hơi hướng tiết đông”. Sớm mai, tôi thức dậy sớm, sương thu còn mờ ảo, hơi lạnh, vườn cúc bông vàng rung nhẹ gió: xuân... “Xuân trong lòng ấy con ạ. Lòng xuân thì đã mùa xuân”. Vui quá! Bố cho vài xu mua cốm xanh bọc lá sen. Ấy là vào thu. Còn vào dịp Tết, tôi chạy vù đến nơi có đám đáo lỗ của trẻ trong làng. Tiếng xu cái chọi vào xu con lách cách, đồng xu còn nảy lên cùng niềm hân hoan thắng cuộc. Rồi đứa nào thắng, mua bún chiều chấm mắm tép với nhau ngoài đồng...
Bố tôi nói bức “Đám cưới chuột” chính là bức vẽ đám cưới của chú tôi đấy. Chả là chú tôi tên Tý. Trong đám cưới chú tôi thì chuột lại lấy mèo. Chú tôi mê cô Mão. Nhưng bố cô Mão lại khăng khăng chỉ gã cô Sửu cho chú. Mặc kệ! Cô Sửu thương em, bèn bàn với chú tôi, cứ nhận lời lấy cô thì sẽ lấy được cô Mão; sau ra sao, cô sẽ liệu. Đám cưới vui vẻ y như trong tranh. Chỉ khác là cô Mão lên kiệu thay cô Sửu. Hôm sau, bố cô Sửu nhìn kỹ, biết mắc hợm con, nọc cô Sửu ra đánh ba chục roi, dọa gả nốt cho chú Tý... Thím Tý tôi có dễ hai năm không dám về nhà bố. Lúc em họ tôi là thằng cu Tẹo biết bập bẹ: “Ôông ơi...” thì ông ngoại nó cũng hết giận thím tôi. Ông quý cháu như vàng, bắt chú thím tôi cho ông nuôi nó. Chỉ thương cô Sửu! Sau vụ tai tiếng ấy, trong làng không ai dám lấy. Cô bỏ vào Sài Gòn. Trời thương, cho buôn bán phát đạt, giàu có vô kể, được chồng con yêu chiều, quý hóa lắm lắm... Biết tôi vào Sài Gòn kiếm sống, cô có cho người gọi đến ăn cơm mấy bận. Về sau, lúc bố mẹ tôi theo tôi vào ở hẳn trong này, cô mới có lời nhắn, chưa kịp gặp thì lại đã phải theo con đi xuất cảnh. “Người như thế có đi đâu cũng tốt phúc!”. Bố tôi cứ ngậm ngùi mong như vậy. “Lạy trời, trời có mắt”, mẹ tôi lầm rầm trong miệng khi nghe bố tôi báo tin co Sửu đã sang mãi Ca-na-đa.
Bên cạnh sới vật sau tiết lập xuân, trên chiếc đu tre, cô Đào và cô Mơ đang dún lên dún xuống. Áo tứ thân bay như bướm lượn giữa trời mưa giăng bụi trắng. Các cô cười khanh khách, mắt lá răm lúng liếng nghiêng về phía đám trai làng vừa thử phân thắng bại. Có ai đó ngước mắt nhìn lên. Hai cô càng dún mạnh hơn. Cây đu tre như về hùa với các cô, tung niềm vui thanh nữ lên trời...
Cho đến hôm cô Đào thủ quân tướng trên bàn cờ người, bố tôi mới biết cô là con gái út ông Phán San làm ở sở dây thép trên huyện lỵ. Đô vật nổi tiếng bối rối, chôn chân bên ô tướng. Được nước đi hay, người ta reo hò như vỡ chợ, riêng đô chỉ lắp bắp không thành tiếng. Lần ấy, hội vật tháng 3 làng Thượng Văn vắng bóng bố tôi. Người bị ốm. Ốm tương tư...
Trăng tháng 3 mờ ảo. Trai gái làng đang hát đối bên sông. Vẳng đâu đây tiếng trong thanh nghe quen quen: “Trèo lên ơ là lên cây bưởi ới tinh tình tang...”. Bố tôi vùng dậy, lấy hai bàn tay khum lại làm loa: “Ớ ơ... Em có chồng là tang tình tình anh tiếc thay lắm thay ì i...”. Tiếng cười rộ lên. Tiếng hát cứ gần lại về phía ngõ nhà ông nội tôi. Ông nội đang ngồi bên án thư đọc sách, bảo: “Ra đường mà hát”. Bố tôi nhập đám. Đám hát vẳng dần theo đường ra xóm trại nhà cô Đào...
Sáng tinh mơ bố tôi mới về. Ăn hết ba bát cháo hoa bà tôi nấu, mồ hôi vã ra như tắm, rồi khỏi ốm hẳn. Ông tôi không hỏi ý kiến ai, sai sắm trầu cau đến nhà ông Phán hỏi vợ cho con trai. Bố tôi cười tủm tỉm, răm rắp làm theo ý cha. Cô Đào thì khóc. Bà Phán tát nhẹ vào má cô: “Cha cô! Ngày xưa u cũng thế !”. Cô cười...
Mùa xuân năm Sửu, mẹ tôi sinh tôi vào đúng đêm hội phường chèo Thượng Văn diễn tích Quan Âm - Thị Kính. Chú Tý đóng vai anh Nô, mẹ tôi sắm vai Thị Mầu. Đúng lúc bố tôi vào vai phú ông quát nạt, đánh Thị Mầu, mẹ tôi bỗng lăn đùng ra sân đình, quằn quại. Làng được một trận cười hả hê, khen mẹ tôi diễn trò khéo. Rồi cả làng thất kinh... Tiếng trẻ con oe oe trên sàn diễn. Thị Mầu đẻ con! Đứa bé ấy chính là thằng Chèo. Tên ấy gọi ở làng lúc tôi còn để chỏm. Trong khai sinh, bố tôi theo ý ông nội đặt là Xuân. Vâng, đã hơn bốn chục mùa xuân.
Một lần khác, tôi đưa con trai về thăm làng cũ. Gần tới làng, thằng bé cứ vượt lên, lon ton ở phía trước. Đường vào làng hai hàng phi lao xanh thẫm, thẳng tắp. Con đường cứ hút dần về phía cuối, bỗng thênh thang gặp khoang trống sân đình, như vút lên trời. Tự đâu đó văng vẳng tiếng đàn tranh. Phường chèo đang tập. Ấy là sắp vào hội xuân, có những đêm nghiêng ngả cả sân đình.
Hai mươi ba Tết, chú thím Tý vào thăm gia đình tôi, cũng là để đón cô Sửu từ Ca-na-đa về. Nhìn những mái đầu bạc phơ chụm lại tính chuyện tàu xe hồi quê, mẹ tôi cười như mếu, phều phào bảo tôi: “Trời Phật cho ngày này đấy con ạ”.
Không biết năm Tý này ở làng Thượng Văn còn mở hát chèo văn, vật võ, đánh cờ người; chơi đu tiên không. Tôi tin bây giờ không nơi đâu có những đám cưới chuột lấy mèo. Có điều chắc chắn, vẫn còn mãi mãi những em bé mang tên Xuân như tôi.
 
 
TẾT VỀ HÀ NỘI HÁI TẦM XUÂN
 
Thuở nhỏ, tôi mê đi hái tầm xuân. Bây giờ tìm tầm xuân không dễ. Còn nhớ ở miếu làng gần đình Cổ Nhuế có một bụi tầm xuân, tôi thử đến tìm. Tự trách mình trí nhớ lá khoai, thấy đường mở rộng, nhà cửa vài ba tầng mọc lên san sát, quên cả lối xưa, thở dài đi ngược về Chèm...
Tới đê, bỗng ngẩn người, thấy vắt ngang trời sông một dải lụa đỏ. Màu đỏ của cờ treo dọc con cầu Thăng Long. Xe cộ chạy nườm nượp trông bé như những cái hộp di động. Ngày xưa, trước mênh mang sóng nước, nhà thơ chỉ thấy tràng giang và những kiếp phù du trôi giạt. Con mắt nhà thơ nhìn xuống, hắt ra những tiếng thở dài. Tôi không biết làm thơ, trước con cầu, ngu ngơ nghĩ đó là đường lên trời. Nhưng con đường lên trời này không thể đi bộ. Đành gọi tắc xi...      Xe chạy trên cầu, tôi có cảm giác như đang trên mái nhà mình nhìn xuống. Hà Nội, một vườn hoa đa sắc...
Anh lái xe lấy làm lạ khi tôi đòi xuống chân cầu. Anh ta mỉm cười, vì nhớ lại chuyện tôi kể lúc nãy, rằng tôi đang đi hái tầm xuân. Thực ra, bên Đông Anh không có tầm xuân hoac có mà tôi không hề biết. Tôi muốn đến thăm một gia đình quen cũ. Đó là gia đình bác Tào, gốc gác mãi tận ở Cổ Gia, dạt về đây sống nhờ nghề sông nước. Nhà có quán nước, bác gái bán trà và kẹo lạc, kẹo vừng hay rượu Vân với lạc rang. Em Vui làm thợ may. Em Vẻ đi học đại học. Bác Tào trai suốt ngày ngồi trên thuyền đánh bạc. Nhớ lúc hàn vi, nhờ biết chút ít võ vẽ, tôi hay được bác Tào cho xuống thuyền làm đệ tử. Tiền to cuộn lại đẩy ra phía sau, tôi vo lại lẩn vào cạp quần, chờ lúc được sai đi mua rượu là đem về cho bác gái. Một lần công an bắt được tất cả những người chơi bạc. Tôi đi mua rượu nên không bị bắt, lòng cứ ngậm ngùi... Nói cho đúng, tôi không ham cờ bạc. Tôi chỉ có máu tò mò. Tôi theo bác Tào xuống thuyền chẳng qua là một kiểu học đòi. Học đòi các nhà văn ấy. Đi thực tế mà! Tôi biết khối chuyện về cờ gian, bạc bịp. Ví như chiếu bạc có bốn người thì phe bác Tào ba, người kia chơi cách nào rồi cũng thua ba người. Trên chiếu, bác Tào hầm hè với hai người bạn coi như xa lạ. Lúc đám tan, họ lại về nhà bàn đánh chén, bàn dụ con mồi khác.
Làng tôi ở bên kia sông. Chỉ đi đò, đi phà qua mà thành thân. Vợ chồng bác Tào tỏ ý yêu mến ra mặt. Vui và Vẻ chỉ nhìn tôi cười khúc khích. Sau này, tôi vào Sài Gòn làm báo, ít dịp về quê cũ, tưởng đã quên cả.
Tôi gọi tắc xi ngược trở lại vì bác Tào đã chuyển vào Ngọc Nhật. Chắc là theo con gái lấy chồng ở làng hoa. Tôi tìm được nhà bác không mấy khó khăn. Hỏi cô Vẻ, Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Bờ Bắc, không mấy ai không biết. Về sau, tôi biết cô nổi tiếng không phải vì giàu có mà vì một mối tình. Chao ôi! Có những sự nổi tiếng đượm buồn...
Bác Tào trai đang cặm cụi ngoài vườn. Sao mà lắm quất, thược dược, lay ơn... Bác đang uốn cành cho những cây quất đã được tạo dáng theo mười hai con giáp. Tôi suýt bật cười thành tiếng vì bác nghĩ tôi chỉ là một khách đi đặt hoa. Chuột chạy, Mèo lười. Trâu cười, Hổ phục... Trông đến vui mắt. Tôi đến gần bác, nói nhỏ: “Cháu đặt cửa này ạ!”. Bác Tào so lại kính, nhìn chằm chằm vào tôi, vất ô doa nước, lạc giọng kêu lên: “Thằng Bắc!”. Rồi ôm lấy tôi, mắng yêu: “Bố anh! Cái giống bạc! Biệt tăm ở mãi đâu?”. Tôi nói gia đình tôi vào Nam hết, lâu lắm mải kiếm kế sinh nhai nơi đất lạ, chưa về thăm được...
Tôi và bác Tào ngồi uống rượu. Uống với quất chín. Ngay trong vườn. Bác Tào gái đã mất từ lâu. Vui lấy chồng rồi theo chồng vào Đà Nẵng. Vẻ đi tối ngày. Một mình bác Tào bầu bạn với cây, hoa. Tháng, năm bứng gốc quất. Trước đó, trên cành có nụ, có hoa nào phải ngắt đi cho bằng hết. Rồi sau tháng năm có lá non nào trổ, bấm hết đi cho đến khi nào nụ hoa bật khỏi cành. Quất vào dịp Tết chưa đủ trái chín vàng, sai trẻ con đái vào chai lúc sáng sớm, hòa một thùng nước, phun đều lên từng cây là được vừa ý. Còn hoa lay ơn, thược dược... muốn Tết có hoa chơi và bán, phải trồng làm nhiều đợt. Một ngày nắng hoa lớn nhanh bằng bảy ngày rét. Cứ thế mà tính trồng xen. Việc cứ bù cả chân tay, bác Tào nói vậy.
Tôi hỏi bác về đào sau khi đã nâng ly cụng cùng bác. Bác Tào nói bác không có duyên đào. Cũng ngắt nụ, ngắt lá, tỉa cành mà đào của bác chưa có vụ nào nở hoa đúng Tết. Năm nay, lạ thay, rét ngọt thế, lười chăm thế, đào vẫn trổ bông. Những nụ hoa nhỏ như cái cúc bấm đo đỏ sắp hé chờ mưa xuân...
Khuya. Vẻ tự lái xe về nhà. Tôi và bác Tào đã chuếnh choang men hoa. Không phải say rượu. Vẻ nói bác Tào đưa tôi vào nhà, kẻo hai bác cháu dễ cảm gió. Nghe đến gió, tôi mới thấy lạnh. Áo hai bác cháu trắng hạt bụi mưa xuân. Nhà lớn quá, sang trọng quá; nhưng cũng trống vắng quá. Máy điều hòa ro ro. Chỉ có Vẻ là ít nói, lặng lẽ nhìn tôi: “Anh cũng chẳng thay đổi mấy”. Tôi nói: “Em cũng vậy”. Cô buồn buồn hỏi về bố mẹ tôi, công việc của tôi. Tôi kể nhà tôi ở Gò Vấp, bố mẹ tôi tối ngày bên vườn hoa, tôi tối ngày lang thang trên các nẻo đường lượm tin, đêm ngồi viết bài. Tôi kể hơn một năm nay bố mẹ tôi tỏ mặt giận dỗi vì cứ nhắc đến chuyện vợ con là tôi lấy xe ra, đi lên tòa báo. “Cũng như em”, Vẻ nói, nhìn lại bác Tào âu yếm như định nói ngầm với người cha một điều gì đó. Bác Tào rót cho tôi và bác mỗi người một ly, chép miệng: “Rồi anh chị ế cả thôi”.
Tôi đã trở về Hà Nội như vậy. Những hôm sau, Vẻ đưa tôi đến công ty của cô. Cô buôn bán máy vi tính. Tiếc thay, chẳng có cái máy nào tính đúng đường đời cô. Cô đã chờ một người hầu như vô vọng...
Chúng tôi bơi thuyền trên Hồ Tây căm căm gió bấc. Ai nấy lại nóng ran cả mặt. Và ngồi nhà Thủy Tạ uống ca cao, cùng đón gió bấc! “Chỗ này chính diện gió”, tôi nói và kéo Vẻ vào một góc khuất. “Em tưởng anh thích gió lạnh mãi ?”. Tôi cười. “Rồi anh sẽ nói”. Hai đứa nhìn bờ hồ xanh cây, lọt thỏm trong bốn bề nhà cao tầng như sâu hơn, sẫm hơn.
Vẻ hỏi tôi còn nhớ anh Quan. Tôi nhớ và hai anh em xuống Thượng Đình tìm bạn. Khu trường đại học xưa giờ bị vây kín với khu tập thể Thanh Xuân dựng trên trận địa cao xạ ngoài đồng năm xưa. Nhìn cảnh cũ đổi thay, tôi bỗng giật mình nhớ cách đây gần hai mươi năm, Vẻ đã tắt đồng từ khoa Lý xuống khoa Văn thăm tôi. Tôi đã tiễn em về. Trời căm căm gió rét. Tôi đã nắm lấy tay em và bảo: “Đi sau anh. Gió chính diện! Rét ghê!”. Lúc chia tay, tôi đã vô tình không nhìn vào đôi mắt hơi ươn ướt của em. Vô tình quá! Cái nắm tay chặt quá, làm em đã gửi lầm một niềm tin... Chúng tôi dừng ngoài đường, cùng ngược về quá khứ. Khác là bây giờ chúng tôi đã lớn. Vẻ ngồi sau tay lái, quay về phía tôi. Tôi nắm lấy tay em và bảo: “Giờ thì anh không để mất em nữa”. Vẻ khóc...
Cái cơ ngơi của Vẻ bây giờ bắt đầu từ vốn bán quất. Từ giã sông nước, hai bác Tào chuyển sang trồng cây, hoa. Bác kể ở trong tù hồi bị giam giữ vì tội đánh bạc có tổ chức, một người tù đã truyền nghề cho bác. Mấy mùa xuân, quất của bác vàng rực cả phố phường Hà Nội. Vẻ mở một cửa hàng bán máy. Rồi phát triển thành công ty như bây giờ...
Tôi đã bay trở lại làng hoa Gò Vấp. Từ trên máy bay, Sài Gòn trắng xóa màu vôi, sơn mới quét. Máy bay nghiêng cánh lượn vòng, đủ để tôi nhìn rõ thành phố y như một ngôi sao năm cánh. Sông Sài Gòn uốn khúc hình chữ V rất lạ. Một người ngoại quốc bảo tôi đó là chữ Việt Nam. Một người nói đó là biểu tượng chiến thắng hay cất cánh gì đó. Vẻ ơi, tôi nghĩ đến em! Tôi nhớ đến căn nhà bé tí, quán nước, con đò nơi bến Chèm và con cầu đang bay lên trời. Tôi nhớ bác Tào, nhớ vườn quất và thược dược, nhớ bụi tầm xuân...
Hình như hôm qua cầu Thê Húc, lúc vào đền Ngọc Sơn, tôi bỗng nhìn thấy um tùm cây lá. Mắt có lầm không khi nhác thấy một bụi tầm xuân. Tay có lầm không khi tôi nắm lấy tay em... Ở Gò Vấp không có tầm xuân. Quất vườn nhà đang vào mùa vàng mọng.
Bố tôi giục tôi ra Hà Nội. Có thể ăn Tết ở đó cũng được. Người già tinh đến tận lòng con.
Vẻ ơi, hôm nào rỗi, em nhớ ghé qua Ngọc Sơn xem anh có nhìn lầm không nhé! Lẽ nào giữa Hà Nội hiện đại, vẫn còn nguyên sơ một bụi tầm  xuân không dễ gì kiếm được ngay cả ở chốn rừng hoang? Lẽ nào cái nắm tay ở Thượng Đình năm ấy không đủ sức gắn ta lại với nhau? Tết này, ta cùng đi hái tầm xuân, em nhé!
 
 
 
 
 
KHÁN KHÁN NHÂN PHONG
 
Tết, tôi đến Lê Văn Sỹ xem tranh.
Bức tranh sơn mài thực thực hư hư. Bố cục tranh khá lạ. Trên nền nâu sẫm dân dã thẫm dần từ trên xuống dưới, giữa bức tranh là một vầng tinh vân quầng vàng le lói. Giống như nhật hoa lơ lửng trong khoang không mênh mông lãng đãng, lạ thay, điểm vào chính tâm một chấm bạc của nhũ. Mặt trời hay mặt trăng? Con mắt thao thức nỗi niềm hay một mảnh hồn treo keo lại? Bên dưới vầng tinh vân kia, hình ảnh một bàn chân quá khổ như nói ai vừa bước qua đây. Màu bạc của nhũ ảo mờ lẫn vào nền sơn nâu tím sẫm. Tôi ngỡ ngàng nhớ dấu chân Giao Chỉ, năm ngón tõe ra bám chặt vững vàng trên nền châu thổ sông Hồng trơn nhẫy phù sa. Bóng bàn chân còn to hơn. Nó làm thẫm gần một nửa chiều dài tranh. Bầu trời, mặt đất, con người như tan ra rồi tụ lại trên bề mặt một không gian mà ta chẳng nên phân định...
Tôi như bị hút hồn vào bốn chữ Hán viết theo lối chữ Nôm bay bướm, cân đối, dọc theo chiều rộng hai mép tranh. Bên trái “Khán khán”, bên phải: “Nhân phong”. Mở mắt ra mà nhìn đời, nhìn người. Ai mở mắt? Thế thái nhân tình chăng? Nỗi day dứt này thành một ma lực ám ảnh tôi đến mấy ngày. Thú thật, cho đến bây giờ, tôi đã cố hiểu bức tranh theo rất nhiều nghĩa, song vẫn tự biết, đó chỉ là cách tự an ủi mình mà thôi. Dưới lớp sơn màu cánh gián thếp bạc vàng kia, một mảnh hồn vẫn còn đang động cựa, nói những điều thông thái và ngu ngơ của người vẽ nó trong những giây phút xuất thần đầy hứng khởi...
Người bạn lớn tuổi của tôi, anh Nguyễn Công Quỳnh, Chủ tịch Hội đồng hương Nam Định, thấy tôi ngẩn ngơ trước bức tranh, bảo: “Chú cảm nhận tranh theo lối cảm thơ văn. Tôi kể cho chú chuyện này, có thể chú sẽ đổi ý”. Nói xong, anh lẳng lặng vào buồng, lúc trở ra, anh mang theo một tờ bìa cứng, bọc trong nhiều lớp giấy dó. Rồi cũng lặng lẽ, anh đặt tấm bìa lên mặt bàn, chậm rãi mở những nuột dây gai. Anh không mở tiếp mà kể. Giọng hơi run. Mắt anh nhìn vào mắt tôi, lúc bừng lên, lúc ươn ướt, dịu dàng.
Anh kể: “Tôi nhớ hôm ấy là một buổi chiều. Trời tự nhiên tím sẫm lại. À, chú hẳn biết anh em Bàng Bá Lân, Bàng Thúc Long, Bàng Sĩ Nguyên người quê ta chứ nhỉ?”.
Tôi nói tôi chỉ biết các ông khi xem tranh của họ ở đâu đó. Riêng Bàng Sĩ Nguyên, tôi còn đọc khá nhiều bài thơ trên báo Văn nghệ, riêng bài Vợ chồng xuống núi thì tôi thuộc từ hồi còn bé. Anh Quỳnh nói các nghệ sĩ này người Hà Nam ra Hà Nội đã lâu. Nhớ hồi gặp nhau ở Sài Gòn, hỏi quê nhau, ôm chầm lấy nhau mà khóc rồi thành thân.
Anh tiếp: “Chiều ấy, Bàng Sĩ Nguyên đến tôi chơi, buồn buồn báo tin tác giả Điêu tàn bệnh nặng, đang nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy. Anh rủ tôi đi thăm Chế Lan Viên. Chúng tôi đến, Chế Lan Viên vẫn còn đang đọc sách thiền. Tôi không nhớ anh đang đọc Giác ngộ hay Chứng minh. Chỉ thấy ánh hoang hôn lọt qua cửa sổ tím thẫm cả trang sách vừa gấp lại. Mắt anh vẫn còn sáng lắm. Anh hỏi han sức khỏe từng người rồi chuyển qua chuyện đời, chuyện văn, thơ. Lúc chia tay, Chế Lan Viên gọi Bàng Sĩ Nguyên lại, thì thầm riêng một vài câu. Tôi không nghe rõ, chỉ thấy Bàng tỏ vẻ xúc động lắm. Sáng hôm sau, gặp tôi, anh Nguyên cầm tờ bìa này tên tay, khoe mới vẽ xong một bức tranh. Tôi xem xong, hỏi: “Có phải những chữ này anh Hoan nói với anh hôm qua phải không?”. “Phải, phải”. “Và anh đã vẽ theo ý tưởng ấy?”. Tôi chăm chú nhìn bạn, nhưng anh chỉ gật đầu thay cho câu trả lời. Tôi nói bức tranh này làm thành sơn mài thì tuyệt. Anh Nguyên cho là phải. Ít lâu sau, tôi đến chơi, anh Nguyên cho xem cả hai bức và bảo: “Có lẽ anh nên giữ tranh này. Nó là kỷ niệm chung về chiều ấy. Cái buổi chiều lóe những niềm tin”. Chú thấy đấy, bức sơn mài là bản sao thôi. Còn đây...”.
Anh chậm rãi mở từng lớp giấy. Dưới bóng chiều xuân nghiêng qua phòng khách, tôi thót người khi thấy những đường nét hoang sơ mà thâm trầm trên nền tối sẫm bởi sơn dầu lộ trên mặt tờ bìa cứng cũ mép đã bị sờn. Hình như họa sĩ đã vớ được tờ bìa ở đâu đó, trong lãng đãng men và cảm hứng, dồn cả nỗi thổn thức nơi cõi lòng sâu thẳm tình đời, tình bạn vào ngọn bút, tãi màu lòng sẫm nâu non pha sắc tím nắng tà lên mặt giấy. Là nhà thơ, lúc không tìm được chữ, được vần, hoac thấy chữ và vần không chở hết được sức nặng tình người, Bàng Sĩ Nguyên đành bất lực và hóa thành họa sĩ. Bức tranh tôi nói trên chỉ là một trong hàng trăm trường hợp như vậy. Tôi có lầm lẫn không khi gọi đó là những bức thi họa, những bức tranh như vẽ để làm thơ. Những Bến Đục, Trâu tắm suối ở Phù Vân, Rừng Mơ, Phố, Nhớ về Hà Nội, Thiếu nữ... Cảnh và người đều gợi một mối tình non nước đằm thắm, máu thịt. Nắm bắt được cái thần chông chênh trong mỗi bức tranh kia cần chăng những tâm tình đồng điệu đến tri âm, tri kỷ?
Hơi may đâu đó bất chợt về. Tôi bỗng thấy trong lung linh vô định giọt nước mắt tình đời nơi vầng tinh vân ngầm tỏa sáng. Chỉ có bàn chân kia là không vô định. Nó đang đi về phía mặt trời mọc! Như Chế Lan Viên bước ra từ  Điêu tàn để đến với Ánh sáng và phù sa. Như dân tộc Việt vững tin bước vào Xuân lúc thiên thời và địa lợi.
 
NƠI QUÊ CHA ĐẤT TỔ
 
Sau ngày đất nước liền một dải, u tôi nhận được tin chú tôi còn sống, hiện cư ngụ ở Sài Gòn. Tôi đã trở về Việt Nam tìm chú; và từ đó đến nay, tôi đã về nước bốn lần. Song cho mãi tới lần này, tôi mới có thể viết bằng tiếng Việt - tiếng của ngọn nguồn xứ sở cha ông - thầy tôi đã mang theo trong một cuộc mộ phu khốn khổ năm 1942. Thứ tiếng ấy, thầy chưa kịp truyền hết cho con gái, đã vội từ giã cuộc đời; u  tôi đi làm thợ tối ngày, đâu có điều kiện dạy tiếng cho con. Tôi lớn lên, biết có quê cha. Tiếng Việt thực ra đã thổn thức trong ngực tôi nhiều năm, nhưng không bật ra được tròn vành, rõ tiếng. Những lần về Việt Nam tôi thường ở nhà chú. Ở đấy, em họ tôi, chú Bắc (một thầy giáo trung học) thường dẫn tôi đi chơi. Nhớ lần đầu, tôi đi đâu cũng chỉ nói tiếng Pháp. Hai người Việt dịch cho nhau nghe. Điều này làm tôi thẹn chín cả mặt khi ở chốn đông người. Năm đó là mùa xuân 1981. Tôi đã sẻ chia với gia đình chú tôi một cái Tết nghèo nhất trong đời mà tôi biết được. Tôi có mang một số tiền về biếu chú. Nài nỉ thế nào chú cũng không nhận. Vậy mà bây giờ chú tôi lại bảo: “Ngọc, em Bắc nó không dám phiền chị, nhờ chú xin giúp thứ này cho nó. Nếu cháu làm được thì cố gắng. Thôi thì...”. Chu tôi ngừng lời, nhìn tôi. Tôi mừng rỡ, đoán: “Chắc chú Bắc chưa có nha, muốn nhờ cháu giúp đỡ”. Chú tôi cười: “Không, không! Vợ chồng nó ở chung với chú thím được rồi. Ăn hết nhiều chứ ở hết mấy!”. “Thế Bắc muốn nhờ cháu gì ạ!”. Chú tôi bảo: “Bắc nó dạy học. Nó nói sách giáo khoa bên đó đã được biên soạn kĩ lưỡng  nhiều lần nên khá chuẩn. Nó muốn có một bộ sách để làm tài liệu tham khảo”. Chao ôi! Ở Pa-ri, tôi nghe người ta nói: về Việt Nam, cứ cho người nhà nhiều tiền là tốt. Vậy mà Bắc chỉ xin sách! Ôi em tôi, sao mà nó giống chú tôi! U tôi kể, lúc đi học ngày xưa, hai anh em học chung một lớp, chỉ một mình chú tôi học, thầy tôi chỉ cóp bi thôi. Về sau, chú tôi theo Việt Minh. Kỷ niệm lần đầu tiên về đất nước là gia đình chú, là Bắc. Tôi đã kể lại chuyện này cả Pa-ri nghe. Người ta cho là tôi bịa chuyện.
Tết năm 1983, tôi về Việt Nam cùng cháu Việt, đứa con trai lớn nhất của tôi. Tôi mang cho Bắc khá nhiều sách. Ở sân bay, người ta giữ lại, kiểm tra rất ngặt rồi đưa vào kho. Hai hôm sau, lúc nhận lại, người ta chỉ trả ba cuốn. Hỏi Bắc, chú chỉ cười, bảo chắc là tôi chọn lộn sách. Thuở ấy, Việt học lớp bốn. Hai chú cháu quấn lấy nhau. Chú giảng cho cháu nhiều cái mà có nằm mơ nó cũng không bao giờ biết. Tối, chú chở cháu đi xem chèo. Nghe không hiểu; nhưng về nhà chú dịch cho, Việt thích lắm. Tôi không ngờ bây giờ Việt lại theo ngành Đông Phương, thạo tiếng Việt hơn cả tôi. Năm ngoái cháu có về Việt Nam, đến tận Đặng Xá xem chèo cổ, lên cầu Họ thắp hương trên mộ ông bà nội ngoại. Ở đấy, cháu có làm một bài thơ lục bát, rồi tự tay đốt trên mộ ông nội. Cháu kể lại: Khi lửa cháy, gió bấc thổi qua các rặng phi lao trồng ken kín bốn chung quanh nghĩa trang nghe ù ù và cháu như nghe thấy giọng ông bà đang thì thầm dưới đất, tàn giấy tự nhiên bay ngược lại, có mảnh dính đúng vào ngực cháu. Thằng bé tế nhị lấy một dúm đất đồng chiêm đem về Pháp...
Đến năm 1991 tôi và chồng tôi đưa u tôi về Sài Gòn. U muốn cùng chú tôi đến nơi có ngôi chùa thầy tôi yên nghỉ ở Pắc Xế! Va li tôi và li anh Đào căng đầy quần áo. Vợ chồng nhớ món quà cho Bắc, sợ bị mất như lần trước, để mỗi nơi mỗi cuốn. Ai ngờ xuống sân bay, chỉ trong năm phút, tôi đã có quyền gọi tắc xi, mang hết hành lý về nhà chú. U tôi trông thấy chú tôi, cứ cầm lấy tay, nghẹn ngào. Trong lúc đó, chú tôi lại khóc tức tưởi. U tôi phải bảo: “Chú y như ngày xưa. Con gái lắm”, chú tôi mới nín, lấy khăn lau nước mắt. Rồi u tôi và chú tôi sang Lào. Hôm tôi và anh Đào bay ra Hải Phòng thăm một người nhà trở vào đã thấy hai cụ già ngồi rì rầm. Nhà có thêm bức ảnh thầy tôi phóng to đặt trên bàn thờ. Hai chị em đã mang tro cốt thầy tôi về chùa Vĩnh Nghiêm để chú tôi tiện đường hương khói. Rồi, ngày mồng một Tết, cả nhà lên chùa. Trong tiếng chuông lơ lửng khua vào sớm mai; u tôi lặng đi. Chú tôi bảo trông thấy thầy tôi trong làn khói hương đang cười.
Lần này tôi mang u tôi về với thầy. Đó là nguyện vọng cuối cùng của một người xa xứ. U tôi dặn khi nào chú thím tôi theo thầy u tôi, nhớ dặn Bắc xin chùa đem cả bốn người về cầu Họ. Đồng chiêm vốn là nơi cả gia đình tôi dù đi xa, vẫn đêm ngày thắc thỏm nhớ.
Giữa tháng Chạp, theo nguyện vọng của chú thím tôi, tôi và Bắc lo sắp xếp công việc, về Hà Nam  thăm viếng quê hương. Hai chị em đều có chung một cảm tưởng: mới có mấy năm xa cách mà quê hương đổi thay nhiều quá. Chỉ có nấm mộ tổ là vẫn nguyên vẹn như xưa, Bắc nói thế. Chú bảo tôi đứng phía cuối, chú đứng phía đầu mộ. Tôi vái chín lần, chú ấy lạy bảy lần; rồi mới cắm hương xung quanh mộ. Cả hai đền lầm bầm cầu mong đất nước thái bình, toàn dân no ấm, cháu con được ông bà phù hộ chân cứng đá mềm nơi cùng trời cuối đất. 
Gần Tết, Bắc dẫn tôi đi xem hoa mai, hoa đào và sách. Thấy tên em mình trên bìa những cuốn sách khiêm tốn, tôi muốn khóc lên được. Hai chị em rủ nhau đi ăn món bún ốc Bình Lục mà tôi ưa thích; rồi đi chợ Cũ, chọn mua lá gói bánh chưng. Chiều, tôi ngồi nhặt lá, xem em gói bánh. Khuya, chị em thức trắng đêm chờ vớt bánh. Mùi lá, mùi gạo, đỗ và thịt lợn quê nhà nghi ngút bốc lên. Sáng mai, áo tôi đầy mùi bánh chưng quê. Tôi bỗng nhớ lời Bắc khi hai chị em đi thắp hương ở mộ tổ ngoài cồn Rùa. Mộ tổ bằng mười hai cái chiếu cói, vuông vức, mặt phẳng lì, bốn chung quanh có xẻ rãnh để phân biệt ranh giới. Tôi nhớ có lần Bắc đã nói hình vuông là hình của đất và nước. Ép bánh xong, Bắc nhờ tôi kêu chú tôi xuống xếp bánh lên bàn thờ. Chú tôi quần áo tề chỉnh từ bao giờ không rõ, tay run run mở cuốn bài vị rồi lần lượt xếp bánh chưng thành hai chồng cao bên cạnh mâm ngũ quả. Tôi giật mình: Hai chồng bánh như hai cái tháp vuông tỏ ơn cha nghĩa mẹ, ông bà tiên tổ... Có phải vì vậy không mà bánh chưng vuông vức thế? Tấm bánh như cuốn sách, có thể đọc được lòng ai?
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

ĐƯỜNG ĐẾN VỚI HOA ĐÀO
 
Có một lần, tôi tưởng mình đã nói chuyện được với hoa lan. Nói với hoa với cỏ, với chim thú và nghe được lời vạn vật, ấy là sự giao hòa của cõi bất tử. Vâng, tôi và nhiều đồng đội nữa, vào mùa xuân năm 1972 Quảng Trị, có những người đã đi vào cõi ấy. Đúng ra thì tôi chỉ lạc vào cõi ấy, ngất lịm bao lâu không rõ trong căn hầm chữ A đổ ụp xuống bởi một trái pháo. Nhiều năm sau, tôi cố nhớ lại trong những phút giây ngắn ngủi kia, tôi đã nói với hoa lan điều gì, hoa đã nói với tôi ra sao mà không sao nhớ nổi. Tất cả mờ xa, hút về tận cùng nơi con đường cõi tâm thức...
Chẳng biết trời xui đất khiến thế nào, Dương Hùng Phong, một đồng đội cũ của tôi (bây giờ tôi mới biết anh còn sống và hiện đang công tác ở Đài truyền hình Hà Nội, dò tìm được địa chỉ của tôi) dù biết Tết đã qua, vẫn cứ gởi cho tôi một cành đào. Đào đi máy bay. Nhựa nơi cắt cành vẫn còn ứ ra, trong vắt. Hoa lấp ló cười với nắng gió trời Nam. Hoa tìm người thay người. Hoa đắm đuối nỗi người. Vẫn hoa xưa, lại là hoa muộn, trong đất trời và cuộc đời đổi mới, nhưng bừng lên màu cờ thắm. Hoa nhắc tôi về một con đường, đường hoa...
Đường đến với làng hoa vẫn ngoằn ngoèo như rồng, như rắn uốn. Như cả đám trẻ con chúng tôi nắm lấy lưng áo nhau mà ê a, mà cười như nắc nẻ : “Rồng rắn lên mây, gặp cây núc nác...”. Cây núc nác nhà ai hoa như cái loe kèn đỏ chói rụng xuống gốc vàng. Trò chơi chẳng bao giờ dứt. Cũng như con đường làng không chịu duỗi thẳng chân ra như đám trẻ: “Thả cá mè, đè cá chép, chân nào đẹp, đi buôn men, chân nào đen, làm chó mèo...”. Tôi mấy lần phải làm chó, làm mèo. Chó gâu gâu. Mèo meo meo. Đến lúc cái Mận phải làm chuột, thay vì kêu chí chí, nó lại xị mặt: “Em thèm vào chơi nữa. Các anh chỉ chúa ăn gian !”. Con bé khóc. Mấy đứa lớn như tôi phải đi hái lén thật nhiều hoa, cài lên đầu để nó thành công chúa, nó mới chịu nín. Cười, tươi như hoa. Răng sún đen chứ chẳng trắng như hó mận nở cuối mùa đông.
Thuở ấy, làng chưa có trường cấp một. Trẻ con học có một ông thầy. Lớp đồng ấu, lớp nhất, lớp nhị đều do thầy Phương dạy. Thầy là con trai cụ đồ Bỉnh, thạo chữ Nho, lại có cả bằng đíp lôm. Tôi nhớ có lần thầy đọc thơ trong đó có ý “đường gần anh cứ đi vòng cho xa”, tôi chân quê hỏi sao đường làng ta vòng vèo thế, thầy cười, nói mãi tôi cũng cứ ngớ người ra. Nào là, trò có nhớ câu “Làng ta phong cảnh hữu tình, dân cư đông đúc như hình con long”, nào là dân quê tắt lửa tối đèn có nhau, nhà nọ chạy sang nhà kia mãi mà thành đường; nào là đường như lối nói Việt Nam: vòng vèo mà thẳng thắn, mềm mại và cứng rắn; hay đường là bài học làm người đầu tiên: đi đường vòng để đi đường đời ngay thẳng. Khi tôi khôn lớn, hiểu được đôi ý tứ sâu  xa của thầy, thầy tôi đã đi xa lắm. Thầy nhập ngũ khi tôi đang học lớp bốn. Nghe đâu lúc ngã xuống trong một vườn mai vùng Sông Bé, thầy là tiểu đoàn trưởng. Có bao nhiêu sư đoàn chủ lực đã đi qua Sông Bé từ năm 1962? Bây giờ thầy tôi ở đâu? Tôi biết chỉ có hoa mai biết rõ điều này...
Tôi bỗng nhớ con đường giữa những tán cây có dây leo phủ kín, gọi là đường ống, trong rừng già Như Xuân, Yên Thành hay rừng Trường Sơn bạt ngàn. Chúng tôi đi vẹt cả gót dép cao su mà con đường vẫn tươi màu đất đỏ, đất nâu. Hoa nhiều quá. Nhất là phong lan. Tôi đã mang được một giò lan đai trâu. Lan lủng lẳng trong hầm nơi trận địa chốt của sư đoàn. Giò lan nát dập, loang máu bạn tôi. Tay nó bấu vào giò lan hôm ấy. Bây giờ, mỗi lần thấy hoa lan đai trâu, tôi hay cúi đầu. Âu cũng là cúi đầu trước những hồn hoa! Tôi không hiểu sao vào tháng tư đầy nắng lửa và đạn lửa, đỏ máu và đỏ cả màu cờ, hoa lan nở, hương dịu ngát. Hoa Trường Sơn. Giò gỗ rừng mục. Người lính nào đã treo trên một cành sao dầu phía đường Công Lý. Tôi đã tần ngần nhìn mãi hai vết đạn tiểu liên xuyên gọn trên một dải lá già. Loài hoa cũng bị thương. Cũng biết đi đến tận cùng cùng người lính. Tôi đã đi ngược con đường ấy, con đường dằng dặc như khúc ruột đất nước trở ra Bắc, về với hoa đào. Tôi đã thực sự lấy làm ngạc nhiên, sau bao năm xa cách, tôi không biết lối về nhà. Không phải vì đường vòng mà bởi vì đường quá thẳng. Con đường về làng như một cái ống xanh, phi lao che rợp cả trời xanh. Vẫn tre, vẫn trúc, vẫn ao, vẫn vườn xưa. Nhà tôi kia rồi, tươi ngói đỏ. Tôi chạy xăm xăm về phía người ra đón. Ôi anh! Ơ kìa... Mận! Tôi đã đi nhầm ngõ. Cô bé mới đi học ở Nga về. Phó tiến sĩ cơ đấy. Luận văn về trồng hoa: Cũng là trọn đời với hoa. Bố tôi bỏ cuốc, chạy ra từ vườn cẩm chướng. Mẹ đi bán hoa chưa về. Hoa vườn tỏa hương như đang nói...
Tôi trở lại trường đại học để học nốt những năm dang dở. Và cuộc đời, như đã định sẵn, gán cho tôi một người mang tên hoa con gái. Tên thì chua nhưng Mận trong đời dịu ngọt. Em là hoa - đào - trắng cuộc đời vất vả nhưng đào hoa của tôi. Nhà tôi trồng rất nhiều hoa. Hai đứa con gái của tôi, Sen và Mai, tên hoa vùng Nam Bộ. Hoa nở muộn. Vâng, giờ thì tôi đã nhớ. Rõ mồn một! Trong cái lần chạm tay vào thần bất tử ấy, đất cằn và hoa cỏ đã nói với tôi rằng: Đường đến với hoa đào là đường Thống Nhất. Qua lắm ngả gian nan máu lửa, mồ hôi, từ những con đường ống trong rừng thiêng núi thẳm, dân tộc Việt Nam rẽ lối, ngẩng cao đầu đi trên những con đường đỏ hoa đào, vàng hoa mai - mãi mãi... Đất nước đang bừng bừng sức xuân. Gởi cho tôi một cành đào muộn, bạn nhắc tôi rằng anh còn sống. Anh chưa chết! Chỉ có giò lan đai trâu kia nát dập! Hồn hoa đã che chở hồn người? Kỳ lạ thay...
 
KHÁCH VĂN THUỞ MAI VÀNG
 
Còn nhớ năm nào bạn bè chưa ly tán, mỗi người chưa dạt đến chân trời góc biển, cứ mồng 5 tháng giêng Âm lịch chúng tôi thường tụ ở nhà tôi, uống rượu, bình thơ. Khách thơ của tôi là dăm ông lão vừa học chữ Nho vừa học chữ Pháp, mấy nhà văn tỉnh lẻ tiếng tăm nhiều hơn tác phẩm, vài ông giáo sùng văn chương hơn sùng tem phiếu; đặc biệt, còn có bà cụ Gái, một chữ cắn đôi không vỡ, nhưng Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục Vân Tiên  thì thuộc nằm lòng.
Vợ tôi lo đến trũng mắt. Tết vừa đi qua, như gió bấc cuốn sạch những món tiền cát bụi từ vài bài báo còm của tôi hóa thành. Rồi cũng đủ cả. Tươm quá! Ông Thanh mang tới một hũ sành rượu nút lá chuối; anh Trương, anh Trần, anh Nguyễn kẻ mang lạc rang, bánh đa, kẻ thủ theo gói Sừu Châu bày chật cả chiếu trải trên nền lát gạch đỏ.
Còn chưa quên Nguyễn vừa đọc thơ vừa khóc thương cho một người ăn mày hương đêm giao thừa; Trần đọc một truyện ngắn không thể ngắn hơn nửa giờ, mồ hôi túa ra ướt cả trán như khinh gió rét; Trường đứng lên, trợn mắt, phùng má diễn một trích đoạn hề chèo anh mới viết và tự dựng diễn đêm qua. Chờ chúng tôi lần lượt nhả ngọc phun châu cho đến khi thơ văn đã vãn, rượu đã làm hồng nhiều khuôn mặt hốc hác, bà cụ Gái mới chép miệng, bảo: “Chả bén gót các cụ ngày xưa! Một câu của cụ Tố Như cũng chả thấy bóng! Thôi, chào các bác, các ông, cháu về”. Nói là về, nhưng một lát sau, lọm cọm quay trở lại: “Cháu có cái này, gọi là góp để đưa cay”. Bà cụ thò ra một cái chân giò lợn luộc. “Treo trên xà nhà từ trong năm đấy. Mẹ nó luộc lại cho mềm. Ai chứ tôi thì chịu!”, bà cười, thơ trẻ quá, chẳng còn chiếc răng nào trên lợi. Chỉ có thế mà cứ độ đông về, bạn bè đã nhắc nhau bài vở. Chuyển qua chuyển lại, đọc thuộc lòng trước cả thơ nhau. Nguyễn hay chơi trò bất ngờ, bài thơ anh viết lần đầu đưa cho bạn đọc, ai định đọc theo lúc anh cất giọng, hẳn sẽ chịu thua vì anh đã sửa nó thành một bài gần như  mới hoàn toàn.
Ấy là cái thuở hoa đào. Mới hơn mười năm nhìn lại đã thấy chóng mặt. Đôi lần trở về chốn cũ, tôi chỉ còn gặp lại giọng lẩy Kiều của bà cụ Gái, giọng ngâm sang sảng như tiếng đồng tiếng sắt của cụ đồ Lắm, âm thanh trầm bổng mượt mà của những câu thơ tiếng Pháp của ông giáo Nam mang mang cùng gió bấc! Hồn họ thoang bay trong trời đất và hình như đã phù hộ cho những trang viết của bọn trẻ chúng tôi. Ba anh em họ Trần là những nhà văn lớn nhỏ; Nguyễn tấp tểnh làm tiến sĩ văn chương; đến như các em út họ Đoàn, họ Phạm cũng đã in đến mấy chục bài thơ. Đời có nhớ họ không, tôi không biết! Nhưng tôi biết, dù đổi tên thay họ, thay lối viết này bằng lối khác, hay hoặc dở, tôi luôn nhận ra bạn xưa qua những trang văn. Thế là may lắm rồi! Tri âm liệu có mấy người?
Buổi bình văn năm nay đến bất chợt. Từ lâu, phần do bạn bè mỗi người một ngả, phần vì công việc liên miên, phần vì... bao nhiêu thứ không tiện nói ra đây, bình văn trong tôi đã thành một hoai niệm đẹp, một kỷ niệm về sự nhập tục trong thoat tục mà không phải ai trong đời cũng may mắn có được.
Thực ra, chẳng có việc gì tình cờ. Năm ngoái, có lần tôi đưa anh Nguyễn Ngọc Ký đến trường Nguyễn Trãi, những mong tấm gương vượt khó bằng một nghị lực phi thường của anh sẽ giúp ích được phần nào cho lớp học trò bé nhỏ hôm nay. Trong buổi trò chuyện tâm tình, học trò rất thích nghe anh Ký đọc thơ và ký tặng bàn chân vào những tập thơ đem theo phục vụ các em. Lần ấy, tôi cùng anh đi vào lớp, tôi bình ngắn gọn một vài bài thơ của anh. Trẻ con mê nhà thơ; thơ bán được đến vài trăm cuốn. Mồng 5 Tết, anh Ký nhờ Nguyễn Ngọc Nhưng, một giáo viên dạy văn mê thơ ở Gò Vấp, chở anh đến thăm tôi. Theo hẹn, một người bạn vong niên sau mười lăm năm trời cách biệt, một nhà thơ trẻ - kiêm luật sư, đến chơi. Vợ bạn tôi, chị Nguyễn Thị Hợp, hồi trẻ nổi tiếng hát chèo hay, ngâm thơ quyến rũ, mê thơ bạn tôi mà nên vợ nên chồng... Vợ tôi chợt nhìn vào xa xăm, nhắc: “Bây giờ có đủ mọi thứ, chỉ thiếu thơ! Giá được như ngày xưa nữa, thì...”.
Tôi như bắt được cảm hứng xuân. Và, bằng lối dẫn dụ chân tình của một ông giáo, tôi đưa đẩy câu chuyện đời thường sang chuyện văn chương lúc nào không ai để ý. Vợ tôi cười, tỏ ý phục tài chồng.
Thật không ngờ, anh bạn luật sư của tôi đọc thơ trước. Dặn con, thơ của ông cụ thân sinh anh mộc mạc, thấu tình, đạt lý. Chị Hợp ngâm bài Lời ru thầm anh viết ru chị cách nay đã mười mấy năm, thuở cháu Phương còn bé tí. Thơ nói về nỗi vui buồn, cay đắng, thủy chung. Thơ giãi lòng chồng thương vợ. Vốn mủi lòng, mắt anh Ký rơm rớm ướt. Tôi chưa kịp bình một lời nào, anh Ký đã bảo: “Bài ấy hình như viết cả cho mình. Nhiễu nhà tôi cũng đã là người nâng bổng hồn tôi như vậy”. Rồi bằng giọng thảng thốt, anh đọc cho chúng tôi nghe bài thơ viết về bàn tay người vợ ân tình, đảm việc nhà, chăm việc đời của anh. Như đọc được men thơ chắp cánh, Nguyễn Ngọc Nhưng chưa bao giờ làm thơ cũng hứng lên họa được mấy vần. Bữa ấy, tôi đã được bình những vần thơ bè bạn, có cảm giác như chưa bao giờ mình bình đúng ý, đẹp lời đến vậy! Vợ tôi lặng lẽ cười. Vì sung sướng, sung sướng lắm lắm! Vì lâu lắm rồi, nhà tôi ồn ào, tràn ngập tiếng cười reo của lũ trẻ. “Cả nhà hóa trẻ!”, anh Ký bảo thế! Nghe mà thấy nao lòng! Thương mình, thương bạn - những đứa trẻ tóc đều đã điểm sương. Và nối nhau, anh Ký thì viết bằng chân, chúng tôi viết bằng tay một bài thơ mộc mạc:
            Ngọc Ký suốt đời ký
            Thiền Tâm vẹn chữ tâm
             Bình Bắc thao thức bắc
             Nhưng nhưng mà không nhưng...
Khách bịn rịn ra về...
Bao giờ lại đến cuộc bình văn? Trong ánh điện giăng mắc phố, tôi đã thấy mai vàng nở rộ - trọn cả tháng ngày năm Bính Tý - sáng rỡ lên như mắt bạn.
Thú bình văn, xuân này tôi gặp lại. Ước những mùa xuân có đủ cả khách văn thuở hoa đào và cả ở thuở hoa mai...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
         CÁI TÂM TRONG TỤC XEM CHÂN GÀ
 
Ai trong đời cũng trải qua một thời thơ bé. Có lẽ ít đứa trẻ không thích được gặm chân gà trước khi mâm cỗ dành cho mọi người được bưng xuống. Tôi cũng vậy thôi. Nhưng tôi biết có hai cái chân gà không được vòi mẹ đưa cho bằng được. Nó gắn với một tập tục. Cũng như mọi tập tục, nguồn nước lọc ta đến trong suốt mà ta nào có hay, chuyện về hai cái chân gà này thấm vào tôi như mưa xuân thấm vào đất, rượu thấm vào lòng. Như một mảnh hồn dân tộc hiện ra qua một vật, một việc bình thường, bé nhỏ.
Ở nhà quê, hết ngày mồng ba, người ta thường làm cỗ và hóa vàng tiễn tổ tiên sau những ngày về ăn tết với cháu con. Bữa ấy, con cháu nhất thiết phải đủ mặt ở nhà người trưởng nam. Người có vai vế lớn nhất trong nhà thường được mời cầu khấn trước bàn thờ tiên tổ. Làm như vậy chẳng qua để tỏ lòng tôn kính người già. Có lần, tôi thắc mắc hỏi bố: “Bố ơi, sao ông trẻ còn ít tuổi thế mà vẫn được vái trước bố?”. Bố tôi cười: “Ông ấy bề vai ông nội con. Bố còn gọi là chú kia mà?”. “Thế bao giờ thì bố thay ông trẻ?”. “Chẳng bao giờ. Vì ông trẻ chỉ bằng tuổi anh cả nhà ta”. Ông trẻ tôi khấn vái đã xong, với tay lấy hai cái đĩa nhỏ bên trái bàn thờ. Đó là hai cái chân gà của con gà trống giò mà bố tôi đã hóa kiếp vào đúng đêm ba mươi. Con gà luộc, đặt trên một đĩa xôi lớn. Bên trái phía ngoài đĩa xôi đặt hai cái chân gà, bên kia là ba nén nhang đặt nằm song song. Phần bàn chân gà quay ra ngoài, cùng chiều lửa đỏ của hương đang cháy hướng về phía trước. Tàn nhang cuộn tròn, khói nhang quấn quít. Những ngón chân gà luộc quắp lại. Ấy là may. Ấy là trời đất, tổ tiên đã nhận lòng thành. Âm đã gặp dương. Ông trẻ tôi đưa hai cái chân gà cho bố tôi, mắt ánh lên: “Anh coi kỹ mà xem, ngón nào cũng co, cũng chụm. Gân xanh, da trong, khô đều”. Bố tôi đưa hai tay đỡ lấy cặp chân gà. Xong, một tay ông thò vào túi áo, mở và đeo đôi mục kỉnh gọng đồi mồi để nhìn rõ hơn, chăm chú xem. Ông tán: “Âm dương hài hòa. Cháu con xum họp. Ăn nên làm ra. Ơ này ...”. Ông trẻ tôi giật mình thót người “Cái gì?”. “Có một cái chân ngón cái hơi choãi. Các cụ có vẻ chưa bằng lòng”. Ông trẻ tôi và mọi người trầm ngâm hẳn xuống. Bố tôi vỗ vỗ vào trán. Ông là người thạo chữ Nho, cả họ đều nể vì. Ông bảo: “Điềm này phải gả chồng cho cô Tí”. Cô Tí tôi yêu chú Tuất đã sáu năm. Nhưng ông trẻ tôi thề sống thề chết không chịu gả. Ông trẻ nói cô chú ấy không hợp tuổi nhau. Việc ấy khiến cõi âm cũng động lòng vì tuổi tác nào có can hệ gì! Tôi nhớ giữa mùa xuân năm ấy, đám cưới cô chú tôi vui như hội. Chú Tuất cứ ôm lấy vai bố tôi mà khóc. Còn bố tôi, ông lặng lẽ cười ... Sau này, khi tôi đã vào độ tuổi bốn mươi, bố tôi mới gọi riêng ra một chỗ và tiết lộ rằng: chính ông đã lấy một cái kim nhỏ thuôn vào ngón cái của cái chân gà kia. Ngón chân gà có cái kim khi đem luộc, không thể nào co lại được nữa. Làm trưởng nam, giữ việc coi chân gà, khó thế đấy! Tôi hiểu vì sao người xem chân gà phải trải đời. Thực ra chân gà nào luộc lên mà các ngón chẳng co khép lại, gân chẳng xanh, da chẳng trong? Điềm lành đã dành sẵn cho lời tán của người xem. Có muốn nói điều xấu, điều ác cũng không được. Cha ông ta bày ra tục lệ thâm sâu đến thế, thế thái nhân tình đến thế là cùng. Đừng tin là duy tâm! Tôi nghĩ vậy và luôn luôn tìm trong những cái bình thường ấy những vẻ đẹp khôn lường trước; nếu hời hợt và nông nổi, không thể nhận ra. Ví như cái ngón chân gà co lại sao lại được coi là tốt, bố tôi bảo: “Con gà bới đất kiếm ăn chỉ bằng ba ngón, nó chống lại kẻ thù thì nhờ thêm ngón cái và cựa sắc phía trên. Co ngón lại là tỏ sự hiến dâng. Co ngón lại cũng là báo bình yên”. “Còn đường gân xanh, da trong và khô?”. “Là lòng thành đấy con ạ. Xanh và trong để dễ nhận. Khô để dễ gần”. Những cách suy luận ấy thiên biến van hóa, hướng về lẽ phải. “Nó có hướng về người nghèo không bố?”, tôi hỏi. Bố tôi trầm ngâm, không trả lời vào câu hỏi, mà chỉ dặn: “Con gà cúng đêm giao thừa, con nhớ mua gà giò, đừng béo quá. Nó vừa với túi tiền của tất cả mọi nhà”.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

                  BỮA TIỆC RAU ĐẦU XUÂN
 
Anh chị đều là bác sĩ. Nặng lòng quê, cứ 29 Tết, cả nhà lại ra sân bay Tân Sơn Nhất, về quê ăn Tết. Họ về tới Vị Xuyên vào đêm 29. Ăn Tết ở Nam Định đến hết mồng một; trưa mồng hai, cả nhà lên Hà Nội, ăn Tết bên ngoại, trên đường Láng. Mới chiều mồng 8, anh chị và các cháu đã ở Sài Gòn. Nghe kể về chuyến du quê, nghĩ mà thèm! Chỉ cách đây vài năm thôi, chuyện đi Bắc về Nam như vậy quả là chuyện trong mơ...
Và, theo lời mời từ trước Tết, giờ lại được mời lần nữa qua điện thoai, chúng tôi - những người bạn cũ của anh chị - tự động đến con đường mới mở sau cư xá Ngân hàng, nơi nhà anh tọa lạc, dự tiệc gặp gỡ đầu xuân.
Qua đường Nguyễn Tất Thành đang mở rộng, hai bên đường còn ngổn ngang đá cát, ống cống, ống nước, vút qua cầu Tân Thuận mới được sơn màu xanh nhạt nổi bật trên làn nước kinh Đôi đang lên triều; xuống hết dốc cầu thì quẹo phải; chạy dọc đường Trần Xuân Soạn chừng 400m, chúng tôi rẽ vào con đường mới mở chạy suốt từ bờ sông vào Tân Quy Tây. Mới hồi hè tôi có ghé qua đây; thế mà giờ đây vẫn cảm thấy giật mình. Căn nhà hai lầu của anh giờ đây lọt thỏm giữa những căn nhà hai ba lầu bề thế sơn trắng toát mới cất còn thơm trong gió xuân mùi hồ, mùi vôi mới...
Xe Cub đời cũ, đời mới để chật cả sân. Mới nhất là một chiếc ô tô bốn chỗ của S. Năm rồi công ty TNHH “Nông dân” của anh buôn bán khá phát đạt.
Thấy tôi đến, đám bạn thơ reo lên: “Văn xuôi đã tới!”, “Đầu xuân đã cày cuốc, đào bới gì mà giờ này mới tới?”. Tôi nói tôi phải dạy ca chiều, tan trường mới có thể đi được. Tất cả cười và vỗ tay ran lên. Chắc mọi người hoan hô ông giáo có xe Dream? “Ông giáo lên hương rồi đấy nhỉ”. Nhà thơ T gỡ kính, hướng mắt nhìn vào tay tôi, ngón kế út: “Thằng này có vàng? Giàu nhỉ? Nhà giàu đi trễ! Chắc nặng túi...”. “Chả nặng thì sao! Đây này...”. Tôi nói và giúi cái cặp chứa toàn bài kiểm tra vào tay anh. Anh ôm bụng cười rũ rượi, khen cho sự mẫn cán của anh giáo công chức đầu năm đã gõ đầu trẻ sức bài.
Bữa tiệc được dọn lên.
Những tiếng cười ồn ào dần lắng xuống.
Tôi nhìn lướt qua bàn tiệc. Tuyệt đối không có sơn hào hải vị gì. “Tiệc rau xuân” như lời bạn tôi mời; chỉ cốt để chúng tôi, những người Tết không có điều kiện về quê, được hưởng sắc xanh quê... Kìa, ở hai đầu bàn là hai đĩa rau muống mùa đông cằn xào lẫn với tỏi tía. Thứ rau muống này trồng trên vườn, mùa nào cũng xanh non mơn mởn, cọng nhỏ, lá nhỏ và chỉ cần luộc chấm tương Vĩnh Tường, ăn mười năm sau còn nhớ vị. Su hào nếp chợ Chùa, hình dáng dẹp như bánh xe, ruột trắng như tuyết, luộc lên nước ngọt như có pha đường, được chủ nhà xắt thành những bông hoa nhỏ, đảo qua nước sôi rồi vớt vội ra, chấm với nước mắm cốt Hải Hậu. Và kia, vài tô canh cà chua vùng Láng hay Nghĩa Đô đỏ au chen trong màu vàng trứng gà ri Đông Ngạc đang bốc khói. Xà lách, húng, răm, thì là, cần tây, hành tây vùng Láng, thứ thì non tơ mơn mởn, mỡ màng, thứ thì cằn cỗi thu sức sống trong những cọng tưởng đã hóa già bày dọc theo bàn. Bàn dự trữ (nói thế vì lúc dự tiệc chúng tôi có thói quen tự đứng dậy lấy thêm thức ăn nào mình thích để ở bàn bên cạnh) xếp những tấm bánh chưng Vị Xuyên xanh cả đỗ, những chồng bánh giầy giò trắng tròn nõn nà hé qua những mảnh lá chuối lá vẫn còn xanh màu chợ Chùa. Đất Bắc, quê hương yêu dấu của chúng tôi như tề tựu trong các loài rau cỏ như có hồn kia. T chớp chớp mắt ngó lên trần nhà...
Tôi bồi hồi như đang sống cảnh quê. Chai rượu Kiên Lao nút lá chuối đã được nhà thơ T thay mặt chủ nhân bật nút. Hương nếp đồng Bắc Bộ lan tỏa mùi nắng sông Hồng. Chúng tôi cùng cụng ly, chúc cho đất nước thanh bình, mọi người hạnh phúc trong cuộc sống mới của năm mới. Rồi tất cả cùng uống cạn ly rượu quê cay nồng, lòng chợt nhớ về những miền quê xa xưa đói nghèo giờ đã đổi thịt thay da theo bước đi lên của cả nước trong thời vận mới. “Rươu cay, báo những điềm may”, T nói.
Khuya, chúng tôi chia tay nhau. Bạn tôi không quên bỏ vào bịch ni lông các thứ rau quả, bánh trái và cả một “cút” rượu nếp để chúng tôi đem về cho người không có điều kiện dự tiệc rau đầu xuân. Không hiểu sao, ai cũng có một bó mùi già...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
PHIÊN CHỢ ĐỜI NGƯỜI
 
Sau Tết, nhằm chiều mồng bảy, tôi vừa giong trâu từ ngoài đồng về tới lối rẽ về nhà đã thấy bố tôi đứng đợi sẵn ở bến nước ven sông. Bên cạnh người, cái cày và cái bừa vừa được đánh sáng loáng, xếp cạnh nhau trên một vạt cỏ xanh.
Vẫy tay ra ý bảo tôi họ trâu lại, người khẽ nói: “ Con lấy bòng bong tắm cho trâu. Nhớ kì cọ thật sạch sẽ. Mai bố con ta dắt nó đi chợ Giềng chơi một buổi!”. Thấy tôi ớ người ra, bố tôi cười: “Cho nó lấy may ấy mà! Nó vất vả cả năm, hưởng một ngày vui, cũng là xứng đáng thôi!”.
Dặn tôi xong, bố tôi- vai vác cày, vai khoac bừa- chậm rãi đi về nhà. Bóng người cong cong lẫn vào bóng tre nghiêng trong chiều mờ mờ mưa bụi bay.
Nước sông quê đầu xuân âm ấm. Con trâu như cảm nhận được điều đó, vui vẻ lội tòm xuống bến .Vừa kì lưng cho trâu, tôi vừa nựng nó: “ Sướng nhé! Mai được đi chợ Tết. Rồi thế nào mày cũng được bố tao thưởng cho một cái bánh chưng rõ to. Cứ gọi là nhất mày đấy!”.
Suốt đêm mồng bảy, mặc dù đã được tôi lót ổ nằm cho ấm, con vật chốc chốc lại đứng dậy, gõ sừng, khua gióng cồng cộc. Hình như nó cũng mong trời chóng sáng tựa tôi vậy. Ờ, một năm mới có một lần, ai mà chẳng mong, chẳng đợi?
Vào khoang canh tư, một bàn tay ấm nóng vỗ vỗ nhẹ vào mông tôi. Tôi thức cùng tiếng bố gọi khẽ: “ Dậy thôi con! Cơm nước xong, ta phải đi ngay mới kịp chợ!”.
U tôi đã dậy từ lúc nào không rõ, cơm đã nấu xong, bát đũa đã sắp sẵn trên chiếc mâm đồng gia bảo quý.
Ngoài chái nhà, hai chồng rổ rá bố tôi đan suốt trong tháng Chạp mới được đem xuống từ gác bếp, xếp bên cạnh cái bừa của bố tôi.
Từ bên kia giậu, bà tôi đã gọi với sang: “ Nhà Mão cơm nước xong chưa thì đi rỗi, kẻo chẳng còn chỗ mà bày hàng đâu”. Bố tôi vội đặt bát cơm  xuống mâm, nói to: “ Xong rồi u ạ. U chờ nhà con đi một thể cho vui”. Bà tôi giục: “ Dưng mà nhanh nhanh lên  nhá! Lâu quá, tôi chả đợi đâu đấy!”.
Một lát sau, cả nhà tôi đã hòa vào dòng người đi chợ. Bà tôi đi trước, áo lương màu nâu, thắt lưng màu tím, thúng đội trên đầu, hai tay vung vẩy giống như đang múa. Tôi biết trong cái thúng bà đang đội chỉ có vài bơ gạo nếp cái hoa vàng, mấy bó rau muống cằn bà mới hái ngoài vườn chiều hôm qua. Tôi chỉ lấy làm lạ là:Từ hôm mồng ba Tết, bà đã đi tới ba bốn phiên chợ quanh vùng như chợ Thượng, chợ Yên, chợ Cổ Gia, chợ Chùa mà chẳng bán được lấy một bơ gạo nào cho gọi là có duyên bán, có duyên buôn. Vậy mà bà vui lắm! Đội gạo về đến nhà, bà gọi ngay anh em tôi sang, cho mỗi đứa một cái bánh đa vừng. Rồi cứ chép miệng chèm chẹp: “ Năm nay được mùa, chợ chẳng co ai mua gạo nếp nấu cháo”.
U tôi quảy hai chồng rổ rá; gánh nhẹ tênh tênh mà cái đòn tre bánh tẻ cũng cứ nhún lên nhún xuống, trông thật vui mắt. Bố tôi đi bên cạnh u, vai trái khoac bừa, nách phải cắp chiếc mâm đồng. U tôi nói với bà rằng: trông bố tôi giống cái hôm ra ở riêng ngày xưa quá. Ngày xưa tôi không biết thế nào, chứ hôm nay thì vẻ mặt bố tôi tươi roi rói...
Tôi cưỡi trên lưng trâu, thỏa mắt nhìn dòng người nườm nượp, áo quần đủ mọi màu sắc. Kia, một đôi vợ chồng trẻ, chồng áo nâu sồng, vợ quần lĩnh, áo phin nõn, chồng bặm môi kéo cái xe bò chất đầy vôi cục, vợ vịn hờ vào thành xe, miệng cứ giục chồng đi nhanh nhanh hơn nữa kẻo mà chợ trưa. Và đây nữa, một ông lão buông quần lá tọa, vai vác một bó giấy hồng, bên hông lủng lẳng cái tráp khảm trai. Ông đồ đấy! Trong cái tráp kia, mực tàu , bút lông đủ để viết một trăm câu đối, bài thơ.
Chợ Giềng năm nay đông quá! Nhiều người sợ phải chen chúc, ngả hàng ngay ở quán Giáp Nhất bán. Người mang hàng nhẹ, thế nào cũng cố len vao được chợ Chùa mới chịu.
Bà tôi rỉ thầm vào tai bố và u tôi. Cả nhà cố đến được quán Đôi thì rẽ phải, theo đường bờ ruộng sang Giáp Ba, Giáp Tư, rồi đi vòng ra sau làng Vân Tràng mà đến chợ Giềng.
Chợ Giềng được mở trên một khu đất trống, ngay bên cạnh bãi tha ma ở phía tây  tỉnh lộ số năm mươi lăm, cách thành phố Nam Định chín cây số. Cách đó hai cây số về phía bắc là chợ Xám. Chợ Chùa, chợ Rin ở phía nam, cách cái chợ độc đáo này trên dưới một cây. Các chợ quanh vùng họp tháng sáu phiên, bán đủ các thứ vật dụng thường ngày. Riêng chợ Giềng, năm duy nhất có một phiên, nghiêng về hội hơn là chợ. Tôi biết điều này là nhờ đi chợ nhiều lần, lần nào tôi cũng để ý thấy phần đông người đi chợ không nhằm mục đích mua bán; hình như,  đối với họ, đi chợ chỉ để du xuân mà thôi.
Rồi cả nhà tôi cũng vào được một góc chợ. Bà tôi đặt mấy bó rau trên một tấm ni lon trải trên mặt đất, thúng gạo nếp cái bà để ở phía trong. Người ta hỏi mua gạo, giá mỗi bơ chỉ có tám hào, không hiểu sao bà cứ đòi đồng tám.
U tôi thì bán rổ rá như thể cho không. Tám hào hay một đồng, muốn lấy rổ hoac rá, xin cứ tuỳ ý. Rổ rá hết, bố tôi bảo u tôi số may, năm mới đã phát tài to, bây giờ thử bán con trâu xem sao! Dặn dò u tôi xong, bố kẹp cái mâm đồng vào nách, vẫy tôi len vào khu bán đồ cổ.
Năm nay bố tôi chọn chỗ ngồi cạnh một ông lão trưng lư đồng. Cái lư to quá! Tôi ước chừng mình vòng tay ôm không xuể. Chiều cao của chiếc lư xấp xỉ tới tai tôi. Người đến ngắm chen chúc ở đằng trước, đằng sau. Chỉ có một người dám hỏi: “ Thưa cụ, chiếc lư quý này độ bao nhiêu thì cụ để lại ạ?”. Ông lão nheo mắt, ngắm người mua, hóm hỉnh nói: “ Thế bao nhiêu thì ông mua được?”. “Dạ, con không dám. Nhưng xin được mạo muội trả cụ một tiếng, nếu có gì thất lễ, cũng mong cụ xá cho!”. Ông lão vuốt râu, cười: “ Không hề gì phải khách sáo thế! Xin ông cứ trả một tiếng lấy may”. Người kia ngồi xuống, khẽ khàng: “Ba nghìn, nếu được thì xin cụ để cho con. Biết thứ của này quý báu hơn cả vàng ngọc, ở đời hỏi còn được mấy người, cụ nhỉ!”. Ông cụ lại cười. Nụ cười khiến khuôn mat vốn đã hồng hào của cụ sáng rỡ lên trong tiết xuân.
Lúc người ngắm chiếc lư đã vãn, ông lão quay sang hỏi bố tôi chiếc mâm quý có bán thật không. Bố tôi lễ phép, đáp: “ Cũng như cụ, con chỉ đem đi khảo chơi thôi. Đồ ông cha truyền lại, mỗi năm chỉ đem trưng để lấy hơi người, điều đó ai mà chẳng biết hả cụ!”. Bố tôi thành thật quá. Bởi thế, khi thấy có bốn người mắt như dán vào cái mâm đồng nhà tôi, trả giá lên , trả giá xuống, ông lão bán lư cứ  tủm tỉm cười. Lúc họ đi sang dãy hàng bán các bức tranh cổ, ông lão nói khẽ vào tai bố tôi: “ Nhìn mấy người đến định mua mâm của ông, tay người nào cũng xách một xâu thịt bê thui, tôi biết đó không phải là những người biết chơi đồ cổ sành. Họ nghĩ đơn giản cái mâm của ông mà xếp vài bát thịt bò xào rau cần, bên cạnh có thêm hũ rượu nếp nữa, thì tuyệt lắm đây”. Bố tôi bảo: “ Cụ không biết đấy thôi, nghe giọng họ, con biết không phải người vùng ta. Tiếng nhẹ lắm. Dân buôn chính gốc giả ngây đấy cụ ạ!”.
Mặt trời dần dần đứng bóng. Bố tôi mời: “Trưa rồi, con xin phép đãi cụ bữa rượu nhạt, liệu có được chăng?”. Ông lão xua xua tay: “Tôi có cơm nếp nắm đây, nếu ông không chê, ta cùng ăn cho vui”.
Bố tôi từ chối khéo rồi dẫn tôi đến một quầy phở quen. “Phở chú Lềnh nhá”, bố nói và chẳng chờ tôi đồng ý, kéo tôi ngồi xuống ghế. Người hàng phở nhận ra bố tôi trước, chào: “ Ông cho cháu đi chơi chợ ạ? Quý hóa quá. Ông vẫn lấy phở trâu ạ!”. Rồi chú Lềnh thoan thoat băm băm thái thái trên một cái thớt. Âm thanh của tiếng dao thớt trong phiên chợ Giềng náo nức lạ, nghe y như một lời mời mọc xoắn xuýt của người hiếu khách. Loáng một cái đã thấy chú Lềnh bê phở tới. Bố tôi gọi thêm cút rượu Kiên Lao. Tôi húp xùm xụp, mũi ngây ngất hít vị phở quê. Ngon ơi là ngon! Thấy vậy, bố tôi nháy mắt, ra ý bảo chú Lềnh làm thêm cho tôi một bát nhỏ. Còn bố tôi, người chậm rãi rót rượu vào cái ly mắt trâu màu da lươn, đưa lên mắt ngắm. Rồi người  khum tay che miệng, mặt hơi ngửa lên trời, uống cạn một lần...
Về sau, đi nhiều nơi, ăn nhiều chốn, kể cả những chốn có tiếng tăm, tôi vẫn không sao tìm được hương phở chú Lềnh bán ở phiên chợ Giềng. Nước dùng trong veo, bánh thái to, mỏng trắng, trên xếp những lát thịt trâu luộc mỏng tang chen những cọng lá mùi cằn. Có lúc, tôi cố tưởng tượng mình đang ngồi trong một túp lều dựng vội, xung quanh kẻ đứng người ngồi, chan chan húp húp, í ới gọi thêm đồ nhắm song vẫn không thể nào tóm được kỉ niệm cũ! Nghe nói chú Lềnh đã dọn lên tỉnh ở. Tiếc rằng tôi không rõ là lên tỉnh nào.
Ăn uống xong, hai bố con chen chúc mãi mới tới được nơi bà và u tôi bán hàng. Hai người đang ngồi bên một mẹt bánh đúc chấm mắm tôm. Bà tôi hỏi hai bố con đã ăn gì chưa. Dù bố tôi nói là đã cho tôi ăn no uống đủ rồi, bà vẫn mua cho tôi một đệp cháy bánh đúc. Tôi đưa đệp bánh lên miệng, cắn từng miếng nhỏ. Mùi vôi nồng nàn, ngai ngái...
Chờ cho u tôi ăn xong, bố tôi hỏi: “Trâu nhà ta năm nay có được giá không?”. U tôi bảo: “ Được giá, tôi bán rồi!”. “ Sao lại bán? Mà tôi có dặn u nó bán đâu!”. U tôi cười: “ May mà tôi không nghe ông. Ông bảo cứ được ba nghìn thì bán. Người ta trả con trâu nhà ta tới những bốn nghìn cơ”. “Thế con trâu đâu?”, bố tôi hỏi. “Nó kia, bà mua cho nó cái bánh chưng. Ăn hết, nó cư nghé ọ, nghé ọ mãi. Tôi đành vơ cả đống lá dong đem đến cho nó nhai, nó mới chịu nằm yên một chỗ đấy”.
Bà tôi nói: “ U mỏi chân rồi. Con trâu cứ để đấy u coi cho. Các con nên dẫn thằng cu  dạo thêm một vòng chợ nữa, kẻo năm có một lần, nó phí đi”. Nghe bà nói phải, u tôi cầm tay tôi đi hết hàng này đến hàng nọ. Bố tôi tủm tỉm cười đi bên cạnh, nhắc u tôi mua cho bà cái khăn mỏ quạ, sắm cho tôi  đôi dép cao su. Lúc sắp trở về, bố đến bên quầy bán thịt bê thui mua ngay miếng lớn nhất.
Cho mãi đến khi trời tối mịt, cả nhà tôi và con trâu thân thuộc mới về tới nhà. U tôi lội vội xuống ao nhổ một mớ rau cần. Tôi được bố sai đi mời cụ đồ Bỉnh ( thầy dạy chữ nho của bố) và mấy người chú họ sang uống rượu .
Mảnh trăng non đã hé. Buổi uống rượu họa thơ duy nhất trong năm cũng bắt đầu. Bóng cụ đồ nghiêng xuống bóng bố tôi. Bóng các chú tôi nghiêng xuống bóng tôi, cái bóng như còn cả hơi hướng của chợ Giềng mồng tám tháng Giêng...
                                              ***
Cuộc đời dâu bể. Rồi những năm tháng cả nước có chiến tranh. Chợ Giềng bẵng đi đến hơn mười năm không họp.
Cho đến khi đất nước tắt tiếng súng, tôi trở về trường đại học, học hết năm thứ ba mới thấy chợ được mở trở lại. Và tôi lại háo hức đi chơi chợ, du xuân.
Ít lâu sau, tôi vào Nam dạy học. Cũng từ đó, chẳng mấy khi được cùng bạn bè dan díu chợ Giềng. Đường xá quan hà cách trở, đồng lương lại bé, giấc mộng du quê trở nên xa vời vợi...
Đêm giao thừa, vào khoang thời gian đất và trời rẽ lối, tôi bỗng nghe vẳng từ bên kia sông Sài Gòn chim lợn kêu bảy tiếng. Người ta bảo chim kêu bảy tiếng là vận may. Tiếng chim “ bảy hồn” đủ cả khí dương của mùa xuân. Rồi sang năm mới, ra đường gặp ai, cũng sẽ thấy mặt hồng tươi hạnh phúc!
Riêng tôi, tiếng chim kia khiến nao lòng. Nao lòng bởi “ Nhớ ngày mồng Tám về chơi chợ Giềng”. Nao lòng bởi nhớ phiên chợ Giềng cuối cùng được dự. Thả hồn về với quê cha đất tổ, tôi lặng lẽ cúi đầu, mắt ươn ướt đỏ vì hơi men, đi chợ một mình trong tâm tưởng...
Chợ Giềng tôi đi cách đây mười năm vẫn như xưa. Khác chăng là đã dời địa điểm. Bây giờ, chợ cũ chẳng còn. Thay vào đó, người ta dời bãi tha ma đi nơi khác, dựng lên ở đây một xí nghiệp cơ khí cỡ huyện lẻ. Dấu vết của chợ xưa, vẫn còn hiện diện trong một cây đa sum suê cành lá. Riêng cái quán lợp rạ và hình ảnh bà lão tóc bạc trắng “nước thời gian” trong thơ Đoàn Văn Cừ, chỉ còn là hoài niệm.
Còn nhớ những năm nào đi chợ, tôi như bị chết mê chết mệt, chỉ quẩn quanh bên những món đồ cổ. Tôi dư biết chẳng bao giờ có thể mua nổi những món hàng quí giá ấy. Thôi thì mỗi năm được thỏa thích nhìn ngắm một lần, chết cũng không còn ân hận. Có đến tám năm liền, tôi chết lặng bên một bức tranh vẽ bằng nhọ nồi đun củi trầm hương và đất hoàng thổ núi Tản Viên (ông lão chủ tranh bảo thế) vẽ hình một ông lão mắt lơ đễnh nhìn trời thu, buông câu bên trúc, liễu. Khuôn mặt ông như thoat tục đã thành tiên; sao đôi bàn chân, lạ quá, giống chân bố tôi, một lão nông, như tạc: mười ngón chân bám nhiều trên đường trơn nên cứ như tãi thưa ra. “Chân người Giao Chỉ xưa”, bạn tôi nói nhỏ vào tai.
Đến năm thứ chín, ghé chỗ xưa không thấy người và tranh nữa, tôi ngồi nhìn xuống cỏ, bỗng một cô gái ném cho một mảnh giấy hồng. Tôi ngơ ngác nhìn quanh, giở ra đọc. Những bài thơ tình thời Xuân Diệu viết bằng thứ chữ học trò bỗng xôn xao, từ ngữ xưa tưởng đã nhàm, ai ngờ vào tiết xuân, tự nhiên động cựa xôn xao. Tôi bỏ cả bạn bè đuổi theo tiếng cười tinh nghịch kia. Ô, cô em gái của một người bạn! Từ đấy, cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn viết tiếp những vần xuân. Cũng là duyên nợ cả! Chỉ tại cái chợ đa tình kia!
Có một lần, tôi hỏi bố sao tên chợ lại là chợ Giềng. Bố tôi trách: “ Bố những tưởng anh học cao thì biết rộng. Thế đến cái tên chợ cũng không biết đến gốc thật a?”. Tôi thú thật: chúng tôi học nhiều quá, biết nhiều quá; đến nỗi, nhiều cái nhỏ, cái cụ thể, không biết nữa! Lạ lắm thay? Giận đấy, nhưng khi thấy tôi tỏ ra thành thật với sự dốt nát của mình, bố tôi cũng giải thích để tôi rõ. Vì thế, cho đến bây giờ, tôi cũng không biết ông cụ dựa vào sách vở nào. Đại ý thế này: Vào khoảng đời Lý, sư  Không Lộ cho xây chùa Cổ Lễ, chùa Bi, chùa Thượng ở Nam Trân. Chùa xây xong vào mồng Tám tháng Giêng. Dân chúng đến mừng, đông quá, tụ lại cách chùa Bi cả cây số mà thành chợ. Chợ họp vào tháng Giêng, gọi chệch tên mà thành. “Thế chợ Giềng ở Vụ Bản, chợ Giềng ở Viềng, Mỹ Lộc thì sao hả bố?”. Bố tôi bảo: “Chợ Giềng Nam Trân người đến hàng năm dài như rồng như rắn, đen một góc trời.Từ Vụ Bản qua, từ Mỹ Lộc xuống phải đi đò. Đò chở không hết người. Người đi chợ tụ lại mà thanh chợ Giềng mới là vậy”. Nghe rất có lý. Tôi thấy có lý vì chưa tìm được một chứng cớ gì về nguồn gốc xưa. Mặt khác, giải thích như bố tôi cũng đã là quá đẹp. Về sau, hỏi một số cụ già trong vùng, tôi cũng chỉ được trả lời tương tự  thế...
Thường những dịp ấy, khuya lắm tôi và lũ bạn nhỏ mới kéo nhau về, vừa chạy trên đường, vừa hò hét bắt chước giọng điệu của một gánh chèo hay một gánh tuồng diễn không bán vé vào đêm có chợ.
Đêm tháng Giêng tối trời, lất phất mưa bụi bay. Lúc này mới thấy rét.
Sớm mai, vẫn chẳng thiếu một đứa nào trên sân đu ngoài diệc mạ gần chợ Thượng.
Ô kìa, bố tôi hôm nay áo chùng the đen, tay lại cầm ô đi trước; u tôi áo lương dài khăn mỏ quạ, xách tay nải đi sau. Tôi biết ấy là lúc hát chèo văn có kèm lên đồng ở các nhà thờ họ đã bắt đầu...
Năm tháng qua đi, đất nước trải qua chiến tranh, rồi trở lại thanh bình. Chúng tôi như chim bay khắp phương trời, dự vào những cuộc hội lớn của công cuộc tái tạo đất nước. Kẻ xuôi Nam, người ngược Bắc. Có điều, tôi biết: trước mùa xuân, chẳng mấy ai quên lời:
                  Nhắn ai đi ngược về xuôi
      Nhớ ngày mồng Tám về chơi chợ Giềng
                 Chợ Giềng năm có một phiên...
Vợ tôi bảo năm nay tôi đâu có đi chợ Giềng một mình?
Trong cái thành phố lắm chợ này, liệu tôi có tìm được cho mình một chợ Giềng?
 
                                                                                                                                         
      ĐỀN HÙNG TRONG LÒNG NGƯỜI VIỆT
 
Trước khi đất nước liền một dải trọn vẹn, tôi là một người lính, thuộc sư đoàn 338. Trong một thời gian ngắn, tôi sống trên đất Thậm Thình.
Đêm đêm, nằm dưới chân núi Nghĩa, tôi cố lắng nghe trong tâm tưởng tiếng chày giã bánh giày giò của chàng Lang Liêu hiếu thảo, tiếng giã gạo dâng vua cha của những nàng công chúa nhưng chỉ thấy tiếng rì rầm của những đoàn xe chở quân, kéo pháo rầm rập, rung cả đất chuyển động về hướng Nam...
Sáng ấy là chủ nhật. Tôi được nghỉ phiên trực chiến, được phép tự do những 10 giờ. Tôi bèn rủ đại úy Phạm Ch. (lúc đó là trợ lý tuyên huấn ở Phòng Chính trị sư đoàn) lên núi Nghĩa thăm viếng các vua Hùng.
Con đường đất đỏ rẽ từ quốc lộ số 2 lịch sử ngoằn ngoèo như rắn lượn: Hai bên đường xanh đến non tơ những rừng bạch đàn trẻ. Tre ngút ngàn ken dày thành lũy che chắn những căn nhà gỗ lợp lá cọ dầu dãi nắng lửa mưa ngàn đất trung du. Thi thoang, cả hai ngơ ngác trước những nụ cười như mơ của mấy cô gái hái chè ngang đồi cọ xòe ô xanh nắng, hay bối rối trước mấy câu hát ghẹo táo bạo đến bất ngờ của mấy cô gái khác đang nhặt cỏ lúa dưới những chân ruộng chằm. Có một cô thụt xuống bùn chằm, bùn lút đến ngang bụng. Các cô cười ré lên, xô nhau chạy lên bờ, cô này dắt tay, cô kia cầm mũ đòi chúng tôi xuống cứu. Làm thành một hàng người (anh Ch to khỏe đứng đầu, tôi đứng cuối) chúng tôi hò dô kéo cô gái lên. Thoat hiểm, cô lấy bùn ném bùm bụp vào các bạn bởi các cô nói ai đã cầm tay tôi, phải cố mà yêu lấy lính. Tên cô là Dung. Nghe nói giờ cô đã có con đi bộ đội!
Tên cô gái khiến tôi và Phạm Ch giật thót mình khi cùng soi gương mặt lính ở giếng Tiên Dung. Giếng dưới chân đền Hạ, nước trong vắt như tấm lòng người con gái đất Phong Châu. Thảo nào mắt cô Dung trên ruộng chằm trong vắt.
Đường lên đền Thượng cũng là đường lên trời. Ngước mắt lên, trời mênh mông qua những tán lá chò, ngàn năm còn lấp loáng nước đằm mướt. Qua kẽ lá, tôi nhìn thấy những biểu tượng rồng, mắt cũng hướng lên trời trên mái đền ngói cổ rêu phong đen sạm. “Lên tới đó cũng còn xa nhỉ”, Phạm Ch thở dốc, áo lính xanh ướt đẫm mồ hôi, mặt đỏ như uống rượu. Tôi ngồi bệt xuống đá, bảo: “Cả ngàn bậc cơ đấy”. “Phải rồi, bậc ngàn năm”, Phạm Ch cười.
Lên tới đền Thượng, chúng tôi ngồi nghỉ dưới gốc đa già. Tôi nghĩ là gốc đa vì Phạm Ch chợt liên tưởng: “Con đường này giống như đường đến đình làng quê tớ quá. Có điều khác, quê tớ ở Nam Định, vùng chiêm trũng ấy, con đường làng và cả con đường đồng nữa, trâu bò đi nhiều mà thành những bậc thang. Hồi nhỏ, đi học, bọn tớ cứ phải nhảy cò qua những bậc thang ấy”. Anh bật cười thành tiếng khi tôi nói con đường đi tới đền dẫn vào con đường lên đền Thượng chính là một con rồng, đầu rồng là trái núi Nghĩa, hồn sông núi linh thiêng.
Lúc cả hai phóng tầm mắt về bốn phía, Phạm Ch bỗng trầm giọng, vẻ xúc động bảo tôi: “Có lẽ cậu đúng! Tớ đã thấy”. Xa mờ phía chân trời, bên kia là Ba Vì, bên này là Tam Đảo, sừng sững. Chín mươi chín ngọn đồi xung quanh vùng Phong Châu, chín mươi chín con voi đều châu đầu, vươn vòi về đất Tổ. Ba dòng sông, nhưng chỉ hai sắc - sắc đỏ kiêu hùng của sông Đà, sông Hồng và sắc xanh dịu như tình mẹ của sông Lô - dồn tụ nơi ngã ba Hạc (Việt Trì ) mênh mông nước quẩn, như quyến luyến đất cha trước lúc đổ về phía đồng bằng Bắc Bộ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được non sông ta gấm vóc như lần ấy. Lời dặn dò của Bác Hồ vẫn như còn vang lên trong tâm thức chúng tôi “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; làm cho “non sông ta ngày một tươi đẹp hơn”, “đàng hoang, to đẹp hơn”.
Đã hơn hai mươi năm xuôi Nam theo con đường chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi chưa có dịp quay lại Đền Hùng. Nhưng đi đâu, tôi cũng thấy dáng núi sông, dáng làng xóm, phố phường hao hao nét đất Tổ xưa. Làng xóm, phố phường luôn quần tụ quanh những trung tâm văn hóa, hành chính; và xóm làng nào, thành phố nào trên đất nước ta không gắn với những con sông? Nét Việt cổ xưa vẫn sống mãnh liệt, hiện diện đến bây giờ.
Cách đây một tuần, nguyên thiếu tá Phạm Ch, tìm đến thăm tôi. Anh khoe đã về thăm lại được Đền Hùng. Anh bảo: “Cậu có về đất cũ cũng khó mà nhận ra. Việt Trì giờ như mơ. Lâm Thao, Phù Lỗ, ngã ba Then nhà cửa mọc lên san sát. Nhà của công nhân su-pe Lâm Thao và Nhà máy giấy Bãi Bằng ấy. Chắc cậu còn nhớ nền cũ của doanh trại bỏ không của Tiểu đoàn 19? Bãi hoang ấy, giờ là một nhà máy giấy to bậc nhất nước ta đấy”.
Thấy tôi có vẻ buồn, anh an ủi: “Hay là tớ và cậu sang Thảo cầm viên thăm Đền Hùng? Vì cậu vẫn bảo tớ ở đâu chẳng có Đền Hùng! Đền Hùng trong lòng người Việt, phải không?”.
 
 
 
 
 
ĐÁM GIỖ THẦY ĐỒ
 
Trước kia, có hai lần tôi được xem đám giỗ thầy đồ; một lần ở quê tôi và một lần ở Đô Quan (còn gọi là Đô Đò), quê hương nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Tiếc rằng lúc đó còn quá nhỏ, không nhớ hết. Chỉ nhớ lần nào cũng được một nắm xôi gấc, bên trong có một miếng thịt gà.
Cho nên, khi thầy Tiến rủ đi dự đám giỗ cụ Đồ Quí, người thầy khai tâm của ông ở quê ông, tôi đồng ý ngay.
Vào một buổi chiều tháng giêng năm 1982, theo hẹn trước, tôi và thầy Tiến mang hương hoa đi viếng thầy xưa.
Tới ga Cát Đằng, chúng tôi rẽ vào một con đường đá khá nhẵn nhụi. Dọc hai bên đường, tôi thấy những là cờ màu trắng viền đuôi nheo đen bay phấp phới và lấy làm lạ vì không có đám ma nào. Thầy Tiến giải thích: “Cậu biết đấy, đám giỗ thầy là đám của cả làng. Cờ cắm dọc từ bãi tha ma về làng, chẳng qua cũng như biển chỉ đường bây giờ ấy, để cụ Đồ, các bậc phụ huynh, các học trò đã khuất biết lối về với cháu con”.
Ở một ngã ba đường, tôi lúng túng chưa biết rẽ đâu thì thầy Tiến đã cười, bảo: “Cậu viết văn mà chẳng tinh chút nào cả. Cứ theo cờ cắm mà đi. Bao giờ gặp lá cờ to nhất có chữ Sư (Thầy) là đã tới nơi”.
Do thầy Tiến giới thiệu, tôi được đón tiếp theo nghi lễ khách. Một ông già mặc áo đỏ, tóc bạc trắng như cước đến kính cẩn cúi đầu, vái ba cái để chào tôi: “Mời ông vào nhà trong. Quí hóa quá! Được ông đến viếng, thật vinh dự cho đám trò nhỏ chúng tôi!”. Chao ôi, tôi chỉ xứng tuổi cháu của người “trò nhỏ” này. Thấy tôi có vẻ áy náy, thầy Phạm Tiến nói nhỏ vào tai: “Đây là lệ. Cậu khỏi phải lo. Ông già này học cụ Quí từ những năm 20 đầu thế kỷ. Đã từng là cán bộ ngoại giao, đã về hưu rồi”.
Để ý, tôi thấy cứ một lát lại có những cô gái trẻ, khăn vấn, áo tứ thân thắt dây lụa xanh, đội những mâm trên có phủ vải điều tới. Một ông lão áo chùng đen, đầu đội khăn xếp đen, cứ mỗi lần đỡ mâm từ  tay các cô gái đặt lên bàn thờ thầy, lại quay sang vái những người đàn ông mặc áo lương màu gụ hoac màu nâu, màu xanh đi bên cạnh ba vái. Hỏi thì được biết đó là “lễ” của các học trò. “Lễ” phủ kín không cho ai biết lễ sang, hèn, giàu, nghèo, nhiều, ít. “Lễ” chỉ là chút lòng thành. Người nhận lễ là kẻ thay thầy nhận lễ, được cử trong những học trò được làng xóm kính trọng về đạo đức. Thầy Tiến kể: “Xưa thầy dạy chúng tôi câu “phú quí sinh lễ nghĩa” thế này: phú chỉ sinh ra lễ, còn quí mới sinh được ra nghĩa. Trò nghèo, chỉ có dăm ba con cua, bát gạo, cút rượu... mà vẫn có thể tỏ được lòng mình”.
Bỗng một hồi trống kèm thanh la vang lên. Tiếng trống trường? Tiếng thanh la vĩnh biệt? Quá khứ và hiện tại cùng rung ngân một lúc nhắc nhở mọi người. Giờ tế lễ đã đến !
Ông già mặc áo đỏ, tóc bạc phơ đón tôi ban chiều kính cẩn đứng trước bàn thờ trên có treo bức họa hình thầy. Ông châm một nắm nhang, rồi đưa cho một ông lão đứng bên trái bảy nén, ông lão bên phải chín nén. Còn ông, tôi thấy rõ: ông chỉ cầm có ba nén nhang. Cả ba phủ phục trước bàn thờ thầy, dập đầu xuống đất ba lần. Họ lạy trời, lạy đất, lạy thánh nhân (mà thầy là hiện hữu). Sau đó, họ quay đủ bốn phương, tám hướng vái lần thứ nhất bảy cái. Thầy Tiến bảo tôi những cái vái ấy để tưởng nhớ cả chúng sinh, tưởng nhớ cả những ai đã thấm “đạo” của thầy.
Bài “Văn tế thầy” của ông “trưởng tràng” già nhất dài lê thê, buồn não nuột, gợi nhớ người xưa với một niềm ngưỡng vọng khôn nguôi. Những ai từng theo học thầy đồ Quí, đều phải quì xuống để nghe. Ở nhiều đoạn, tôi liếc ngang và thấy có những ông già lấy khăn hay vạt áo chùng chấm chấm mắt. Họ đang sống lại ngày xưa với thầy, với bạn và với cả tuổi thơ của chính mình.
Khuya, “lễ” được hạ xuống, bưng vào nhà trong. Đám thanh niên trong làng được cử đến giúp đám giỗ, chia thành nhiều mâm. Mâm cỗ thết khách có đủ cả “lòng thành” từ tất cả các mâm “lễ”. Là một người dễ xúc động, nước mắt tôi bỗng trào ra khi nhìn thấy một thanh niên đang xắt một vắt cơm và đang xé vụn một con ếch đồng nướng vừa được lấy ra từ một mâm lễ phủ vải đỏ, rồi rắc đều vào mỗi mâm một ít cơm, một chút xíu thịt ếch.
Tôi là khách, được mời ngồi với các “trò” cao niên nhất ở chiếu hoa giáp với bàn thờ. Nằn nì mãi mới được phép, tôi đi dọc theo các chiếu trắng, đến mâm cỗ dành cho các “đàn em út” ngồi trên chiếu vỉ. Ở đây có thầy Phạm Tiến, ông bí thư huyện ủy và một viên tướng. Viên tướng bốc được cái đùi ếch. Ông đưa cho bí thư: “Cho mày cái này. Tao nghĩ cả đời đi học, rồi đi đánh giặc, hòa bình giành được rồi, chẳng lẽ...”. Ông bí thư vừa uống rượu, nước mắt chảy cả vào chén rượu, vừa gật gật...
Nếu gạt bỏ những hủ tục sang một bên, rõ ràng đây là một sinh hoat văn hóa đẹp của dân tộc.
Còn không những đám giỗ thầy đồ nơi vùng quê từng sinh ra biết bao nhiêu trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, vùng quê giàu truyền thống “tôn sư trọng đạo”?
      Lẽ nào ta có thể quên một nét đẹp văn hóa cổ xưa vẫn còn nguyên giá trị đối với hiện tại?

 
NGƯỢC DÒNG TÌM MỘT MOM SÔNG
 
Tôi sinh ra và sống trọn cả tuổi hoa niên trên vùng đất nổi, ngầm chảy bên dưới là con sông Vị Hoàng mà không hề biết. Đọc thơ Tú Xương, lòng đau đáu tiếc một con sông vô định trong tâm tưởng “Sông kia rày đã nên đồng...”, có lúc tôi đã lầm hồ Vị Xuyên bây giờ là di tích còn sót lại in dấu dòng sông Vị.
Xa Nam Định, đôi khi nhớ về quê cũ, tôi khát cơn khát nước sông Đào, con sông mà ngày bé thơ tôi ngỡ tên đặt cho nó được chắt ra từ màu nước đỏ phù sa. Cùng với những biến thiên của lịch sử, con sông Đào góp phù sa làm biến đổi một vùng đất. Theo sử cũ, sông Vị Hoang là con sông được đào vào đời Trần, nối sông Đáy với sông Vĩnh Tế (Vĩnh Giang) chảy quanh co quanh phủ Thiên Trường xưa. Sách Việt sử thông giám cương mục cho rằng: “Việc đào sông Vị Hoang đã chặn mất long mạch nên nhà Trần mất ngôi”.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), do sông Vị Hoang chảy xiết, làm bờ sông ngày càng xói lở, khu phố buôn bán phía Đông - Bắc thành Vị Hoang có nguy cơ bị mất: thể theo nguyện vọng của địa phương, nhà vua cho đào một con sông mới để chia sẻ dòng nước từ kênh Phù Long đến bến đò Lương Xá, tách làng Vị Hoàng thành hai làng: Vị Hoang và Vị Khê. Nước sông Hồng đổ vào sông Đào đã được nối với sông Đáy chảy rất mạnh, con sông Vị lững lờ trôi và bị phù sa lắng đọng, bồi lấp dần.
Đến thời Trần Tế Xương, sông Vị Hoang đã bị lấp dần theo tốc độ đô thị hóa. Hai mươi ba năm sau ngày Trần Tế Xương mất, người Pháp mới cho đào hồ La két (Vị Xuyên). Hồ đào năm 1930 và bị bỏ dở. Rồi, chẳng bao lâu, vùng đất ấy cũng đã hóa thành phố phường. Dấu xưa nhạt nhòa, mờ ảo dần trong ký ức các thế hệ sau như tôi. Đôi lúc ngậm ngùi, tôi không khỏi trách mình vì vô tình mà ngay nơi chôn nhau cắt rốn cũng không thông tỏ ngọn nguồn.
Nói vậy thôi chứ hồn tôi luôn nhớ về quê. Cũng như Chế Lan Viên thao thức “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Nam Định với tôi vẫn còn là một miền quê thân thuộc nhưng có nhiều bí ẩn cần khám phá.
Tôi đã đi tìm một “mom sông” trong thơ Tú Xương với một nỗi niềm như vậy.
Theo sách Thành Nam xưa (Vũ Ngọc Lý) vàTrông dòng sông Vị (Trần Thanh Mại) và được sự chỉ dẫn của một vài người quen, tôi đã dò tìm ra cái “mom sông” nhiều người cho là đã mất.
Mom sông nơi bà Tú buôn bán quanh năm xưa không thể là nơi có các bến đò Bích Câu, Trà Lũ, Bến Ngự đến thời Tú Xương “rày đã nên đồng”. Nó chỉ còn có thể ở dọc theo con sông Đào trước khi ông Tú sinh ra 38 năm. Nếu tính từ hạ lưu, bên dòng sông Đào có các bến đò như: đò Bái, đò Chè, đò Quan, mom sông...
Vị trí của mom sông ngay ở Quán Bánh Giầy phía đông bắc giáp khu Quán Chuột, phía tây giáp khu Vườn Dâu, đối diện với làng Vị Khê bên kia sông Đào. Ngày nay, mom sông chỉ còn một vệt nhỏ phía ngoài đê bao thành phố, bên trong đê là đường Phù Long chạy thẳng vào Hàng Cót, Hàng Nâu... Ngôi nhà 280 Hàng Nâu nơi ông bà Tú Xương đã từng ở cách mom sông khoang hơn một ki lô mét. Trên cái vệt nhỏ ấy, theo thói quen từ xưa, dân Vị Khê vẫn mang rau, hoa và các sản vật quê khác qua đò bày bán. Dĩ nhiên, cảnh buôn bán không thể sầm uất như xưa. Theo mom sông ngoài đê, người ta có thể đến làng Long Ngập vốn xưa là eo sông đươc phù sa bồi đắp mà thành.
Chúng tôi đã đứng ngẩn ngơ bên mom sông lộng gió. Mấy cô gái Vị Khê quang gánh rau đã bán hết đang chờ đò ngang. Tôi nhìn họ, chợt nhớ những vần thơ Tú Xương đã xui mình lặn lội từ  thành phố Hồ Chí Minh về đây:
   Quanh năm buôn bán ở mom sông                                                        
   Nuôi đủ năm con với một chồng
   Lặn lội thân cò khi quãng vắng
   Eo sèo mặt nước buổi đò đông...
Tôi biết mom sông rồi đây sẽ lở hết. Nhưng cũng như bà Tú Xương - Phạm Thị Mẫn, hình bóng nó sẽ còn mãi trong thơ, in dấu trong những tâm hồn thiết tha với xứ sở cha ông ...
 
 

CHỐN MƠ
 
Đèo Prenn, Đà Lạt. Con đường lên độ cao một ngàn năm trăm thước ngoằn ngoèo ôm lấy những rừng thông thẳng tắp, vút lên trời, tỏa ánh sáng xanh. Không gian rì rào âm thanh. Như có tiếng đàn cầm ai khẽ gảy giữa thinh không lạnh vắng. Một khúc buồn. Rồi cũng từ đó, bỗng vi vút, vi vút những thanh âm lạ và cao. Thông nói. Thác nói. Những lời từ đất âm lên, từ trời vọng xuống. Đà Lạt như chốn mơ có thật!
Cảm giác lâng lâng siêu thoat ấy đã ngập tràn hồn tôi lúc xe lên tới đỉnh đèo. Mưa. Cơn mưa chiều Đà Lạt làm duyên, ào đến rất nhanh, rồi đột ngột vụt tắt, khoac lên vạn vật một chiếc áo trắng mờ. Xe như chạy trong khói sương ảo ảnh. Tiếc là không gói lại được một chút hơi lạnh để ngày về tặng bạn, thả thơ.
Đường vào hồ Tuyền Lâm còn đỏ au đất đá ba zan. Rừng, vẫn thông. Suối, vẫn tuôn ra từ đá, có lúc nhìn thấy sáng lấp lánh, có lúc chỉ nghe tiếng reo mà không rõ ở nơi nào. Xe như chạy trong dịu êm. Bởi tay lái lụa của anh Huê mấy chục năm trong nghề điêu luyện? Hay bởi đường lên núi Phượng Hoang, mây đẩy phía sau xe và kéo xe lên phía trước? Như đang bay...
Bây giờ trước mắt tôi, đất trời sáng rỡ lên trong mênh mông màu tím. Tuyền Lâm, những mảnh xanh lục ghép lại dưới lô xô đồi núi lặng trầm. Ngẩng đầu, đỉnh Phượng Hoang, nơi có Trúc Lâm thiền viện, y như một con chim lớn màu xanh cõng trên lưng mình một ngôi chùa Phật hai tầng mái đỏ vút cong. Ngôi chùa vững chãi tựa dáng Phật tổ ngồi thiền, đường nét cứng cáp hòa đồng với sự mềm mại, thâm u nhưng tỏa sáng, trầm lặng ngoài hình hài mà xao động trong tâm linh...
Theo nhịp chuông như làn nước vỗ nhẹ vào trời, tôi khoan thai bước qua hai trăm hai mươi hai bậc lên chùa. Bên phải, Tham vấn đường, nơi Hòa thượng giảng Ngữ lục, năm mươi vị tăng áo cà sa vàng, năm mươi vị ni áo tu màu xám nhạt và hàng trăm phật tử đang lặng phắc nuốt lấy từng lời của vị Thiền sư đức độ. Đang mùa trả ơn cha nghĩa mẹ, nghe Thiền sư giảng đạo, tôi quay mặt về hướng Bắc, mặc cho hồn bay về phía sông Hồng, nơi có những làng mạc xanh bóng lũy tre mẹ cha tôi vừa đi qua một cơn lũ...
Ở nhà khách, tôi và nhà văn Việt Anh đã lặng lẽ ngồi ghi chép cuộc đàm đạo thú vị về đạo và đời giữa Đại đức Thông Triết và Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu đúng được hai chữ “hạnh nguyện”: muốn ước nguyện thành hiện thực, thì phải làm, phải hành động; “giác ngộ”: biết rồi mới tỏa sáng được.
Tôi đã đứng bên quả chuông tạc ở phường đúc Huế, được Thiền sư Thích Thanh Từ chứng minh, nghe non nước cỏ cây từ rừng suối theo gió thoang, hút vào lòng chuông những tiếng u u lúc có, lúc không. Khẽ gõ phía đáy chuông, tiếng vàng, tiếng sắt ngân nga; gõ lưng chuông, tưởng tiếng người thanh thoat; gõ đỉnh chuông, tiếng đất, tiếng đá, tiếng gỗ. Chị Việt Anh mang kiếng, dán mắt vào những hàng chữ trên vỏ chuông. Tôi giật mình nhận ra cả quá khứ và hiện tại cùng song song trường tồn bất tử hiện qua dòng chữ Hán “Chúng sinh an lạc... Thế giới hòa bình” ở bên trên, và bên dưới là những bài kệ nổi tiếng nhất của Trúc Lâm Đầu Đà (Trần Nhân Tông), của Thiền sư Thích Thanh Từ khắc bằng chữ quốc ngữ: “Nghe tiếng chuông - Phiền não nhẹ - Nguyện thành Phật - Độ chúng sinh”.
Từ tháp chuông, mắt tôi phóng tầm trải rộng khắp mặt hồ. Trên cao hướng xuống, có cảm giác hồ đọng lại bởi bốn dòng suối lớn, cứ hai dòng một đi với nhau thành một đôi song song qua núi rừng cao nguyên rồi tụ lại. Giữa hồ, hai rẻo núi thấp dần trông như hai con rồng thiêng đang chụm đầu vào nhau cùng uống nước xanh. Biểu tượng Rồng Tiên như thu trọn vẹn, hiện hình ở một chốn suối sừng? Lạ kỳ thay!
Rồi chẳng để tôi đắm hồn trong thiên nhiên mê đắm, sương chiều đã tím ngắt che mờ vạn vật, gọi tôi trở về hiện tại. Ngồi trên xe, tôi hỏi thầm vào tai Bí thư thành ủy Đà Lạt, rằng: Tuyền Lâm có phải là chốn nên thơ nhất ở đây chưa. Anh Giản lắc lắc mái đầu bồng bềnh sương núi, khẽ cười, đọc cho tôi nghe một loạt bài thơ anh viết về Đà Lạt. Tôi chỉ thực sự hiểu được niềm tự hào kín đáo của anh lúc Mạnh Đạt - người nhạc sĩ hay thổn thức theo tiếng lòng của cỏ cây hoa lá xứ sở - sau khi tự đàn và hát những khúc ca như mê hoac về vùng đất mộng mơ này, đã nói với tôi ý nhị và khiêm tốn: Thanh âm mà âm nhạc nắm bắt được, vẫn còn phải thở dài trước tiếng thông reo gió, tiếng sóng lao xao dưới trăng mờ hồ Tuyền Lâm...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
ĐÀ LẠT NGÀY TRỞ LẠI
 
Cuối năm 1996, tôi - một Việt kiều - từ Pháp về Việt Nam để tìm kiếm một cơ hội đầu tư. Những kỷ niệm của thời thơ ấu trong  tôi bỗng thức dậy như sóng xô khiến tôi cứ nôn nao nhớ đất, nhớ người. Nghỉ ngơi một ngày, tôi đã vội lấy vé máy bay đi Đà Lạt.
Từ Tân Sơn Nhất, chiếc AT72 lao vút lên lững lờ mây trắng Sài Gòn. Những con đường người xe nườm nượp, những tàu bè xuôi ngược trên sông, những toà nhà cao chọc trời cứ mỗi lúc một nhỏ dần. Thành phố xoè bàn tay lớn trên nền xanh biếc đồng bằng đang vẫy vẫy...
Tới Liên Khương, máy bay lượn một vòng trong khói sương bảng lảng trước khi hạ cánh. Qua cửa sổ, tôi bất ngờ thấy đỉnh Di Linh ở phía bắc, đỉnh Lang Biang ở phía tây nhô lên từ một biển mây. Rồi, những mảng xanh đa sắc trải dài phía dưới mách bảo tôi nơi đây vẫn còn bất tận rừng già.
Máy bay lăn trên đường băng sống lại từ cuối tháng 8 năm 1996. Nghe nói, trước 1975 Liên Khương chủ yếu phục vụ cho các chuyến bay mang mục đích quân sự. Sau giải phóng, nó hầu như bị quên lãng nên cứ hư hao dần. Thế mà, giờ đây, mỗi tuần nhà ga đã mở được ba chuyến bay cho các tuyến Liên Khương - Tp Hồ Chí Minh, Liên Khương - Huế.
Từ sân bay, suốt dọc bốn mươi cây số ô tô về Đà Lạt, tôi như lướt giữa xanh non  dâu tằm, rồi bất ngờ chìm vào ánh nắng ngả màu xanh hắt xuống từ những rừng thông. Thông ngút ngàn, trùng điệp. Trên cao, dưới thấp; trước mặt, sau lưng; bên phải, bên trái... Thông  gần đến nỗi thò tay qua cửa xe là có thể với được, lại có lúc thông xa vời vợi, mờ trong sương. Ở dưới nhìn lên, thông thẳng vút tượng hình những mũi tên hướng lên trời.
Dừng xe bên đường, tôi chạy lên đồi. Thông loang loáng thân đen như những người bạn thuở nhỏ quanh tôi. Ngỡ cây là người, tôi vòng tay ôm một gốc thông. Đã tròn lẳn thế này rồi sao thông? Nhựa thông màu hổ phách, lưu luyến níu áo tôi. Trời ơi! Thế mà ở nửa vòng bên kia trái đất, có lần tôi nghe một kẻ ác ý nói rằng: chính mắt họ đã trông thấy rừng thông Đà Lạt bị chặt trụi, đất ba zan cứ phơi ra màu đỏ ngậm ngùi. Ai ngờ bây giờ, tôi vẫn còn được ngồi giữa một rừng cây, bần thần vơ một nắm lá. Thông Prenn xoè năm ngón như muốn bắt tay người.
Tôi bỗng nao nao nhớ gốc thông già ở thung lũng Tình Yêu. Lá thông rụng đầy, êm như  thể chiếc chiếu trời cho. Tôi và em thường ngồi ở đó, nhìn vào mắt nhau mà thấy cả hoang hôn giăng tím chiều xứ sở. Tiếc biết bao nhiêu khi KaYang không cùng tôi trở lại cao nguyên thơ mộng trong dịp này! Đã mấy chục năm! Xa vời vợi...
Xe chạy dọc theo con đường mới mở hai làn lớn, hút vào phố cũ. Phố đồi lô xô thân thuộc đây rồi! Tôi đã nhận ra địa chỉ tôi cần đến, khiêm tốn nằm giữa những khu nhà bề thế đang xây cất dở.
Một người cao lớn, trắng trẻo, trán cao, mắt sáng, cười thật tươi ra tận cửa xe đón tôi. Anh nắm chặt tay tôi, lắc lắc: “ Tôi đợi ngày hôm nay từ lâu lắm rồi! Đã hơn hai mươi năm! Tôi biết...”. Tôi cười theo: “Rằng thế nào rồi tôi cũng sẽ trở về! Người tha hương, ai nỡ phụ quê suốt một đời, anh nhỉ!”.
Trong phòng khách, sau khi trao đổi vắn tắt về chương trình làm việc, tôi xin phép anh Giản được dạo một vòng Đà Lạt. Cho đỡ nhớ mong! Cho một cái nhìn thỏa thuê sau bao năm trời cách biệt. Anh vui vẻ ngỏ ý muốn được trực tiếp làm “hướng dẫn viên” cho tôi, người mà anh gọi là nhà đầu tư quí.
Tôi vô cùng ngạc nhiên.Vì tới chỗ nào anh Giản cũng có thể đọc thơ cho tôi nghe. Hỏi, anh bảo đó là hồn thơ của các nhà thơ viết về Đà Lạt. Có đôi bài là thơ anh. Rồi đùa: “Thơ chưa xuất bản, tôi đã xuất khẩu trước cho anh đấy nhé ”.
Ngồi ở nhà hàng thủy tạ trên hồ Xuân Hương, tôi ngắm mây nước thì ít, ngắm anh Giản thì nhiều. Tôi mến anh không phải vì anh là một cán bộ hiếu khách, mà chủ yếu do anh là người có một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, dễ rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người. Bức tranh Đà Lạt năm 2000 anh vẽ ra trước mắt, đẹp hơn cả một bài thơ. Bài thơ ấy đã dạo những khúc đầu xuân sắc.
Anh rủ: “Chiều thế này, đến Tuyền Lâm tuyệt lắm anh ạ”. Tôi đồng ý:“Thì ta đến đó đi anh. Tôi nghe nói nơi ấy sẽ là...”. “Tương lai sẽ là khu du lịch. Vốn đầu tư lên tới 400 triệu đô la cơ đấy”.
Xe lại chạy. Dọc đường, anh cho tôi biết khu du lịch này lấy hồ Tuyền Lâm làm trung tâm vươn về bốn phía. Phía bắc sẽ chạy tới quốc lộ 20, xuôi tới thác Prenn. Mặt trời chiều bất chợt loé trên đèo. Tuyền Lâm, suối rừng như một chốn mơ với rừng thông khoac tấm áo vàng. Chuông chùa Thiền viện Trúc Lâm ngân nga tan trong sương khói, tỏa trên những gợn xanh đến huyễn hoac của nước hồ. Tới đây, bụi trần ném lại, tâm hồn thơ thới lạ. Vốn quen kinh doanh, tôi đành thở dài, không biết diễn tả cảm xúc thoat tục của mình như thế nào. Chỉ biết theo 222 bậc lên chùa, chân tôi như có ai đó nâng lên. Cứ như sắp bay vậy.
Sáu giờ chiều, Đà Lạt đã mờ mờ. Ở biệt thự số 10 đường Nguyễn Du, tôi mở cửa sổ: cà phê trong vườn xanh đen, hoa hoang tử đỏ sẫm, cúc vàng rực. Dưới đèn, hoa bìm bịp e ấp tím đến bất ngờ. Nhìn chéo qua vạt rau xanh dưới chân đồi, ánh đèn trên công trường xây dựng khách sạn Dầu Khí bên kia vẫn còn sáng rực lên. Khuya, hình như có tiếng lộp bộp rơi nhẹ trên lá. Sương sa... 
Sớm mai, tôi tản bộ đến biệt thự số 6 uống cà phê. Quán cà phê chỉ có mấy bộ bàn ghế nhỏ, mái che bằng một tấm bạt. Một giọt sương trong vắt vô tình rơi xuống ly cà phê tôi vừa khuấy. Sương long lanh thành từng chuỗi trên cỏ, trên dây muống dại leo. Đường vắng, thông cao vút, lấp lánh trong nắng sớm mai... Tôi bỗng nhớ: hồi còn  nhỏ, cứ vào dịp trước Tết, tôi hay được bố dẫn đi săn. Bố tôi là một viên chức kiểm lâm. Ông thuộc rừng Đà Lạt như lòng bàn tay. Len lỏi trong những đồi cỏ tranh Nam Ban, Lán Tranh vùng Đức Trọng cũ, mê mải đuổi theo dấu chân nai, chồn, dúi, nhím, tôi hét khản cả giọng. Có lần, một con dúi bị chó săn đuổi dồn vào một cái nhà dài. Cả nhà nhốn nháo. Một cô bé đã chụp được con vật. Cô tên là KaYang, con gái của già làng K’Ho. Đó là em. Từ đấy, mỗi lần đi săn, bố tôi đều ghé lại nhà già làng. Tôi lấy cớ muốn học tiếng K’Ho, xin bố ở lại chơi với anh em của KaYang chỉ vì tôi rất mê tài ngồi trên mình ngựa phóng lao bách phát bách trúng của họ. Duyên nợ của chúng tôi chỉ thực sự bắt đầu khi KaYang lên Đà Lạt, rồi được chọn đi du học ở Pháp cùng một đợt với tôi.
Lần này, theo anh Giản về Lán Tranh, tôi ngỡ ngàng quá. Xe chạy bon bon trên đường 27 mở sau giải phóng. Vượt qua cây cầu sắt lát gỗ dài 72 mét, xe từ từ leo lên dốc Két. Xưa kia, nơi đây là khu vực săn bắn của Bảo Đại (Sau này, khu ấy dành cho gia đình Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân). Giờ đây, những đồi cỏ tranh bất tận tới rừng già đã biến mất. Thay vào đó là sắn, khoai, bắp, cà phê xanh đến mỡ màng, mát mắt...
Ở bản Di Hin, nơi xưa tôi gặp em, tôi vô cùng xúc động khi được tiếp xúc với một số bà con ở  Thành phố lên đây xây dựng vùng kinh tế mới. Họ đều làm việc ở nông trường quốc doanh số 1 do TP Hồ Chí Minh đầu tư. Mỗi hộ được cấp một căn nhà 40 mét vuông, tường xây, mái lợp tôn hoac ngói. Nhiều nhà có ti vi, xe máy, có hàng trăm triệu đồng gởi tiết kiệm.
Rẽ sang Công ty trà Cam Lâm do ông Chung Ching Sen người Đài Loan làm Tổng giám đốc, tôi được biết trong số 47 héc ta trà trồng thử nghiệm, 31 héc ta đã cho những tấn trà xuất khẩu đầu tiên. Trà Xuân Mới, Kim Huyên, Thúy Ngọc, Ô Long xanh sẫm, lá nhỏ, sao không nát; nghe nói, khi chế biến xong, bán trên thị trường quốc tế với giá 100 đô la một ki lô gam. Vốn đầu tư của ông Chung chưa phải là lớn lắm, chỉ khoang 6 tỉ đồng Việt Nam!
Quay trở lại N’Thôi Hạ, xe như lồng trên nhánh đường 27 gập ghềnh, men theo những rừng thông non bạt ngàn, chúng tôi đến Nam Ban. Thị trấn của những người đi khẩn đất này mọc lên từ năm 1977. Đông đúc, tấp nập. Nhà mới, chợ mới, những bảng hiệu mới.
Hồ Cam Ly Thượng sắp tưới nước cho 600 héc ta đất ruộng và đất đồi của Lâm Hà vừa xây dựng xong. Đập tràn trắng xóa nước. Trắng xoá như thác Voi hùng vĩ đổ xuống từ trời xanh cao nguyên. Tôi đã lặng ngắm một cây si bên lòng hồ. Cây si xưa rễ bám vào một cây đa ngàn năm. Đa đã mục, còn trơ lại những rễ si vặn xoắn vào nhau thành cây mới. Từ thời thượng cổ đến giờ, có lẽ đây là lần đầu tiên những mắt lá si thấy dòng Cam Ly tụ lại, trong vắt như một tấm gương trời.
Để tiện cho việc tìm hiểu đầu tư, tôi đã dọn đến ở khách sạn Palace. Khách sạn xây dựng từ năm 1922 này vừa được nâng cấp. Bước vào khách sạn, tôi không tin ở mắt mình, ngỡ nơi nghỉ ngơi dành cho du khách đã trở thành một bảo tàng nghệ thuật. Khắp các hành lang, các phòng ốc đều treo những bức tranh đắt giá của nhiều họa sĩ nổi tiếng trên thế giới. Có những bức tôi chỉ thấy có ở Viện bảo tàng nghệ thuật Louvre. Nghe giới thiệu, tôi rất thích thú khi biết rằng chúng chỉ là những bản sao tinh vi được đem từ Hồng Kông đến. Các phòng ngủ sang trọng, giá cao nhất tới 360 đô la, thấp nhất cũng phải 120 đô la một đêm (chưa tính phụ phí). Ngang ngửa giá các khách sạn lớn ở các thành phố đắt đỏ như Oasinhtơn, Pari, Tokyô mà tôi có dịp trải qua trong những chuyến công cán xa. Ở đây, tôi được biết thêm: Ngoài 442 khách sạn hiện có trong thành phố,  Đà Lạt sẽ cho chỉnh trang 16 biệt thự  trên đường Trần Hưng Đạo theo cách  liên doanh với nước ngoài để chuẩn bị đón một lượng khách có thu nhập cao ngày càng tăng vào những năm 2000. Sau ngày tìm hiểu dự án 9,5 triệu đô la cho chương trình cấp nước Đà Lạt do  chính phủ Đan Mạch hỗ trợ, tôi quyết định ở lại Suối Vàng một đêm. Từ trên núi nhìn xuống, suối lấp lánh ánh sáng kì ảo của một bông huệ vàng Đà Lạt đang lay động khẽ. Ý định đón xuân ở Di Hin trong tôi bỗng bùng lên trong tôi như một đốm lửa nhỏ. Tôi khát được uống rượu cần, ăn thịt trâu và hát múa theo nhịp cồng chiêng những bài ca ân tình của người K’Ho cao nguyên...
Hăm hở với Đà Lạt, trở lại TP Hồ Chí Minh, tôi háo hức đi thăm các khu chế xuất Tân Thuận, Linh Xuân, các khu công nghiệp ở Đồng Nai, Sông Bé... Ở đâu tôi cũng gặp những người nước ngoài sớm đầu tư ở Việt Nam thành đạt, niềm nở đón tiếp. Tôi hiểu ra là mình đã chậm chân. Mặc dầu vậy, tôi vẫn chứa chan hy vọng. Vì cơ hội lớn nhất - chính sách mở cửa mềm dẻo và quyết tâm hiện đại hóa đất nước của chính phủ Việt Nam trong thời kì đổi mới - vẫn còn đang ở trước mắt tôi!

                   DẤU NGƯỜI XƯA
 
Hơn bốn mươi mùa xuân đã qua. Còn nhớ cứ tới mùa mưa bụi, u lại cho tôi theo phường hội du xuân. Tôi biết câu “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”  từ ngày ấy. Chỉ không hiểu sao người đời lại gọi Ba chúa Liễu là Thánh Mẫu.
Đúng vào hôm trời bất chợt hửng nắng, phường hội của u tôi tay nải nối nhau qua bến đò Chè, lần theo những con đường ngoằn ngoèo, tre hai bên đường uốn cong như cố vít bầu trời Vụ Bản thấp xuống, hướng về làng Kim Thái dưới chân hai dãy núi mà u tôi bảo là Ông Gôi, Bà Lê. Với u tôi, do niềm tin vạn vật hữu linh gần như đã ăn sâu vào máu thịt, người hay thêm các từ  ông,  ba vào trước tất cả mọi vật mà người cho là tôn kính, quý trọng. Vì thế, khi nghe tôi gọi tên tục của núi, u tôi nguýt dài tỏ sự khó chịu, rồi mới hạ thấp giọng, khẽ khàng bảo:
- Con cứ gọi tên tục các ngài ra như thế thì phải tội chết!
Tôi không dám nghĩ nhời u là sai; nhưng do tò mò, tôi đánh bạo hỏi:
- U ơi, thế sao người ta lại gọi Thánh Mẫu là bà chúa Liễu? Gọi như thế có  xếch mé không?
- Bố nhà anh, còn bé tí đã vặn vẹo chữ nghiã! Mà u thì cũng chẳng biết sao lại như thế. U đồ rằng người ta gọi Thánh bằng Bà cho gần gũi. Ví như lúc bà thuốn lình cho u thì bà là thánh nêu u mới không bị đau. Xong việc, bà lại là bà thôi, hái rau, nấu cám cho lợn, làm hàng xáo, đi chợ bán gạo bán khoai...
Đêm, năm thì ở phủ Tiên Hương, có năm lại trong phủ Vân Cát, năm nào u tôi cũng được phường hội cử ra làm một đồng cô. Tôi rất lấy làm lạ là vào những giờ phút  ấy, trong ánh đèn nến chập chờn cùng những âm thanh réo rắt như mê như hoac của vài cây đàn nhị, vài nhịp phách nứa tre, xuất hiện trong bộ quần áo lụa vàng tứ thân có thắt lưng bằng một dải lụa đỏ, u tôi như trở thành một người đã thoat tục hẳn. Đôi mắt u lúc cháy rực như hai ngọn lửa, lúc mơ màng như lạc từ một cõi xa xăm xuống trần thế. Duy có dáng đi thì không thay đổi được. Tay cứ vung về hai phía trước sau, nhịp nhàng để giữ thăng bằng cho chiếc mâm đồng xếp đầy phẩm vật đội ở trên đầu. Trông giông giống những lần u đội lễ đến từ đường họ, hay vắt vẻo cùng bà tôi đi chợ, thúng trên đầu, suốt cả năm sáu cây số cũng chẳng cần phải đưa tay lên đỡ một lần nào. Chợt u tôi ngồi xuống. Lặng đi trong giây lát, đang từ tư thế bất động, bỗng u lắc nhẹ đầu. Nhị, phách vang lên cùng một bài hát chầu văn. Rồi theo nhịp phách dồn dập dần, u tôi lắc đầu theo chiều quay từ trái qua phải, mỗi lúc một nhanh hơn. Cái mâm đồng đảo nhanh loang loáng, tạo thành một vầng hào quang trông thật hư ảo. Vào đúng lúc ấy, nhạc bỗng nhiên ngừng bặt. U tôi sững lại trong giây lát; rồi người ngồi lặng phắc, cái mâm đồng còn như cố xoay thêm một vòng nữa rồi mới chịu nằm im. Từ đấy, u không nói, chỉ gật hoac lắc khi người ta xin quẻ. Tôi tò mò gạn hỏi mãi u tôi mới cười, che miệng bảo:
- Thần thánh cũng từ người mà ra cả. U ngẫm người tốt chỉ nên làm những điều lành. Cho nên, lời u nói ra qua điệu bộ, u biết, cũng chỉ là một cách an ủi người, an ủi mình thôi con ạ!
Sáng hôm rước Mẫu, u tôi cũng được chọn vào phường lình. Phường này thường đi sau các vị sư tăng, phường các bô lão và phường kiệu. Sau phường lình là phường lân, một phường vừa múa cho vui mắt, vừa làm công việc dẹp đường cho đám rước. Nghe bà tôi kể lại thì xưa kia người ta thuốn ba loại lình. Loại lình đại to như cái liềm cắt lúa, thuốn vào bụng. Lình trung chỉ bằng cái đũa cả, lình tiểu ước chừng chỉ nhỉnh hơn cái kim khâu bao. Hai loại lình này dùng thuốn qua má hoặc thuốn qua lưỡi. Khi tôi biết trên đời có chuyện thuốn lình, người thạo thuốn cũng chỉ còn một vài người. Ngay như bà tôi cũng chỉ thuốn được lình tiểu. Lúc  đám rước Mẫu tan, nhìn hai cái lá khô mà bà tôi dán lên má u, tôi hỏi có đau không thì u bảo là u chỉ cảm thấy hơi tê tê thôi. Nói xong, u khẽ bóc cái lá ở bên má phải, nhờ tôi nhìn kỹ xem có còn vết sẹo nào không. Tôi tròn mắt nhìn, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên, kêu lên:
- Lạ quá u ạ! Chỉ còn một vết xước nhỏ! Sao vết lình bà thuốn qua liền nhanh đến thế u nhỉ?
U cười:
- À, mà u chưa nói cho con biết, nhờ thuốc cả đấy, bà có thứ lá dấu thiêng lắm! Ai bị thương, cứ đem lá ấy rịt vào là máu ngừng  chảy ngay. Vết thương lại chóng liền miệng nữa. Hôm nào con dò hỏi bà, xem nó là thứ lá quý nào. Biết đâu sau này, con chẳng giúp ích được cho đời?
Tôi theo lời u, hỏi bà về thứ lá lạ. Bà dắt tôi ra vườn, chỉ vào bụi lá dấu. Lá dấu  rất giống lá bỏng, hình trái tim, mặt lá dày, cạnh lá có khứa răng cưa. Bà tôi nói, lấy lá dấu phơi khô, tẩm thêm một ít thuốc nam nữa là được một cái dấu. Mỗi cái dấu chỉ dùng một lần. Cũng chỉ làm lành được những vết thương nhỏ. Vì thế, cây lình chỉ nhỉnh hơn cây kim một chút mà thôi...
Về sau, lên đồng bị cấm, cây lá dấu trong vườn nhà không ai để ý, cứ lụi dần và mất hẳn từ ngày bà tôi theo ông tôi về cõi cực lạc.
Chiến tranh bùng nổ. Lớp lớp trai làng, trong đó có tôi, lần lượt lên đường ra mặt trận. Mỗi khi nhìn thấy đồng đội, người bị đạn Mỹ bắn vào bụng, người thì bị mảnh bom hay mảnh pháo bầy găm vào ngực, vào mặt, máu chảy loang cả những khuôn mặt còn măng tơ, tôi thường nhớ tới cây lá dấu. Ôi, ước gì có một cái dấu, một cây lình xưa! Cái dấu có thể làm ngưng chảy máu, những cây lình có thừa khả năng khâu lành những vết thương cho người lính! Không phải bằng niềm tin tôn giáo như người ta thường nghĩ! Mà bằng giá trị đích thực của một loại cây thuốc, một kĩ năng y học đã từng bị một hủ tục lợi dụng; rồi vì ghét bỏ hủ tục kia, người đời cũng vô tình quên đi rằng nó chính là một loài cây quý, một kinh nghiệm độc đáo mà cha ông đã truyền lại cho cháu con...
Những lần như thế, tôi thường khóc thầm vì tiếc. Tôi bứt ngực, tự trách mình thiển học, đến một thứ cây lá quý hiếm như vậy mà cũng không biết vun trồng, chăm bón, giữ lại giúp đời. Không rõ bây giờ, ở Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, Nam Trực, Xuân Trường, Giao Thuỷ có nơi nào còn cây lá dấu? Có còn ai đang miệt mài trong các phòng thí nghiệm để tìm ra bí quyết của người xưa?
Day dứt với cây, vào đúng dịp Hội Phủ Giầy, tôi đã cố cất công tìm về chốn cũ.
Hội rất to, có xu hướng phục cổ. Tôi tỏ ý mừng rỡ khi thấy những nét xưa đẹp đẽ phần nào đã được cháu con làm sống lại. Có những trò chơi ai đã từng biết một lần, một đời không quên nổi. Ví như trò kéo chữ ở phủ Tiên Hương chẳng hạn. Các cô gái quê mặc áo tứ thân đa sắc chạy đi chạy lại theo nhịp trống, xếp thành những chữ ước mong muôn thuở như Thiên hạ mẫu nghi, Thiên bản nhất kỳ. Nhiều lần, khi đang ở Sài Gòn, nhất là những khi đứng trên sân thượng của những toà nhà cao chọc trời mới xây dựng trong thời gian gần đây, nhìn xuống phố, thấy những dòng người xe xuôi ngược, tôi hay nghĩ tới trò chơi kéo chữ ở một vùng quê chèo. Khác là cuộc kéo chữ mới hôm nay hoanh tráng và có tốc độ cao hơn. Và, những con chữ cũng như được phả thêm hồn của đất nước thời bước vào công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước...
Tôi chỉ còn được gặp hát chầu văn qua một tiết mục sân khấu của đoàn chèo Nam Định. Lên đồng cải biên. Ba giá đồng trong Tứ phủ đủ làm say lòng người, đủ gợi lại một nét xưa. Dĩ nhiên, các nghi thức tôn giáo không còn nữa. Ngay cả lời ca của ba giá đồng này cũng đã mang những nội dung hoan toàn mới. Ở đây, tôi được biết thuốn lình không chỉ sống trong hồi ức của những lớp người cùng thời với tôi mà thực sự đã được tái sinh trong một hình thức khác. Vào cái thời mà đất nước cần đến cả cái cổ lẫn cái kim để vươn lên hòa nhập chứ không hòa tan vào thế giới, có không ít bác sĩ ngành y học cổ truyền đã biết dùng nó vào việc châm cứu, chữa bệnh cứu người. Riêng cây lá dấu, tiếc thay, kiếm tìm vẫn khó như kim đáy nước…
Nhưng dấu ấn văn hóa xưa của một vùng đất thì vẫn còn đó. Tâm linh của Mẹ, hay gọi là Thánh Mẫu, như đã ngấm sâu vào đất đai, hiện hình trong lúa ngô khoai sắn, mãi mãi nuôi dòng máu đỏ ân tình còn đang chảy rần rật trong huyết quản các thế hệ cháu con. Và có lẽ, trong ngực mỗi chúng ta, ai mà chẳng có một cái lá dấu, dấu của người xưa…     
 
                                                                                       
 
 
 
 
 
 
CHƠI TRĂNG NÚI BÀ ĐEN
 
Buổi sáng, ngồi uống trà xuân, bình thơ Tết, các bạn tôi chợt nhắc đêm nay đã là đêm Nguyên Tiêu. “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”, không ngắm được trăng khuya, e rằng rồi sẽ phải lấy làm tiếc cho đến tận Trung Thu.
Chợt nhớ năm nào, thuở còn chiến tranh, có một lần vào đúng đêm Rằm tháng Giêng, chúng tôi, lúc đó là những người lính sắp ra mặt trận, rủ nhau leo lên chót đỉnh núi Nghĩa Cương. Dưới trăng khuya mênh mang dát bạc, Đền Hùng thâm nghiêm trở nên gần gũi đến lạ thường. Chắp hai tay vái lạy tổ tiên, tôi đâu có nghĩ tới ngày hôm nay, sau hơn hai mươi lăm năm trời đằng đẵng, trong số chúng tôi ngày ấy, nhiều người đã không thể, hoặc chưa có được một dịp thảnh thơi để trở lại với chốn xưa. Tìm trăng tháng Giêng ở thị thành không phải là điều khó. Bây giờ, vào một đêm bất kì nào đó, trừ những ngày nguyệt tận, mời nhau leo lên sân thượng, quây quần bên ấm trà ngon hay bình rượu quý, chúng tôi đã có thể ung dung ngồi thưởng nguyệt, đón gió trời. Nhưng để có một đêm trăng đủ cả gió núi, mây ngàn, lá hoa, cây cỏ quả là việc bấy lâu nay còn nằm ngoài tầm mơ ước của chúng tôi!
Mơ ước ấy, trong sáng xuân này, vô tình được đánh thức. Anh T, một luật sư có tiếng trong thành phố, quay sang phía anh K- một nhà văn quân đội- thủ thỉ rủ:“ Đêm nay, tôi rất muốn cùng mấy anh em mình đi tìm trăng xưa! Các anh thấy việc này liệu có nên không?”. “ Sao lại không nên !”, anh S- một nhà báo có khuôn mặt lúc nào cũng khó đăm đăm- bỏ ly trà trên tay xuống, nhỏ nhẹ, tiếp: “ Mấy năm trước thì tôi chả dám rủ các bác. Năm nay, nhờ vận nước đổi mới, lại được tổ tiên phù hộ cho, tôi thấy ai trong chúng ta cũng phát tài phát lộc, thơ văn in ra bày bán khắp nơi, đem cái nhuận bút báo xuân nuôi một đêm trăng, theo tôi, là việc rất đáng làm! Biết đâu, cảm hứng từ cuộc chơi trăng sẽ nhập vào ai đó, khiến người ấy cầm bút viết và để lại được cho đời một áng thơ văn xuân sắc mãi với thời gian?”.
Bàn qua tính lại một hồi lâu, các bạn tôi quyết định: đêm Rằm này, chúng tôi sẽ đến thưởng trăng trên núi Bà Đen. Bởi, núi không xa thành phố bao nhiêu. Bởi, núi nhắc nhở chúng tôi nhớ về những bà mẹ một nắng hai sương nuôi con khôn lớn thành người. Bởi, núi là dáng hình thu nhỏ của con chim Trường Sơn vĩ đại, mấy ngàn năm qua vẫn còn tung cánh, vẫy người Việt đi khai hoang khẩn đất, mở mang bờ cõi tới cả những vùng xa tít tắp ở  phương nam.
                                    ***
Sáu giờ chiều, xe chúng tôi mới tới được chân núi. Gửi xe vào bãi đậu, quên cả mệt mỏi, chúng tôi nhập ngay vào đoàn người hành hương đông như nêm cối, thong thả qua cổng và từ  từ  ngược dốc.
Trong chạng vạng hoàng hôn tím sẫm, núi Bà Đen trong mắt tục của tôi, trông tựa hồ như một người đàn bà mặc áo bà ba đang thư thái nằm nghỉ sau một ngày tỉa lúa trồng khoai vất vả. Trên tấm áo ấy, còn lấm tấm cả bùn đất của những cánh ruộng cò bay thẳng cánh vùng đồng bằng Nam Bộ trồng lúa nước.
Tôi bất giác ngước nhìn lên. Vầng trăng phía xa sáng trắng lên một thứ ánh sáng đã được lọc trong văn vắt. Thứ ánh sáng ấy trải ra trong mênh mang, rồi như cố ý tụ lại trên những thân cột, cái thì bằng xi măng, cái thì bằng gỗ núi. Chúng nhấp nháy, tinh nghịch như những đôi mắt đang cười. Ngỡ ngàng mà thân quen  quá ánh sáng điện cùng người leo lên núi. Có lẽ vì thế chăng mà một tốp thanh niên (tôi đoán là các em sinh viên) vừa ca hát trong tiếng đàn ghi ta vừa nhảy múa trên những bậc đá gập ghềnh, có em đưa tay chỉ chỉ trỏ trỏ những dây bóng đèn điện màu vàng với một vẻ thích thú đặc biệt. Đi sau các em, các cụ già tay cầm nhang, vai mang đồ tế lễ, miệng lầm rầm: “ A di mô đà Phật”. Gió núi Bà Đen vờn nhẹ, những chòm râu cước của các bô lão khẽ phất phơ.
Rồi cũng tới được Suối Vàng. Nói là suối nhưng tôi ngược theo lòng khe đá, không thấy có nước. Chỉ thấy ánh trăng loang loáng, loang loáng vờn theo chiều cây hai ven bờ đang reo lên xào xạc cùng gió xuân. Tôi bần thần nhìn xuống dưới chân núi. Đêm chắn che vạn vật, không gian nửa hư nửa thực bồng bềnh một sắc bạc. Trên cái nền bạc mông lung ấy, hàng ngàn ngọn đèn hắt ra từ các ô cửa của các căn nhà phía xa xa nhấp nháy như một trời sao. Có những ngôi sao trôi ngang, trôi dọc, từ từ như người đi bộ, vun vút như xe lao trên đường cái quan. Xa hơn nữa về phía đông, nhiều quầng sáng lớn hắt lên trời, soi rõ cả những tầng mây trắng nõn như bông. Tây Ninh, Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa đang lớn dậy từng ngày đều ở những chân trời ấy. Tưởng như  ánh sáng vào  thời đổi mới của các đô thị lớn có đủ sức để tỏa lan tới tận cả miền đất núi phía tây nam của Tổ quốc xa xăm này.
Tới Điện Bà, chúng tôi thấy người đi lễ Phật đã vòng trong vòng ngoài, tấp nập vào ra từ  hai cái điện thờ có tiếng là linh thiêng. Ngoài  sân điện, người hành hương ngồi kín mít, người đi vãn cảnh như chúng tôi phải len chân mà đi. Ở đây, không hiểu sao, ánh trăng xanh đến kỳ lạ. Mặt người nào, người nấy trông như đượm vẻ trầm tư, thành kính. Tôi lặng đi trong suy tưởng. Rồi cảm hứng về trăng khiến tôi khám phá ra một điều bí mật của tự nhiên: Được ánh trăng từ trên mặt lá phía dưới hắt ngược lên, lại thêm cả ánh trăng lọt qua kẽ lá ở trên cao lọt xuống, do nằm ở lưng chừng núi, Điện Bà vô tình được trăng khuya nhuộm xanh cái sắc xanh tưởng như là của thần thánh vậy.
Tôi lại cố trèo lên Hang Gió. Cũng là để tìm một sự khác lạ của hang đêm so với ban ngày mà thôi. Có lẽ khí lạnh toả ra từ hang không làm nhiều người đi hành hương thích thú, nên nơi đây vắng ngắt như tờ. Tôi quỳ xuống đá, ngó vào hang. “ Trời ơi!”, tôi thầm kêu lên, vẻ đẹp thần tiên, huyền bí đến thế mà người đời cũng lãng quên ư ! Hay là chỉ do người ta chưa kịp phát hiện ra? Tôi vội chạy xuôi trở xuống để gọi bạn bè lên ngắm ánh vàng rọi xiên qua kẽ đá, lúc gió lay cây, những luồng sáng mong manh kia cứ như run lên bần bật. Điệu run của đá, thử hỏi trong đời này, đã mấy ai được tận mắt ngắm nhìn?
Tôi đã không kịp thực hiện được ý định của mình. Nghĩ tôi đã vượt lên đằng trước, các bạn tôi  đành rủ nhau đi tiếp lên chùa Hang, ngôi chùa cao nhất của thắng cảnh núi Bà Đen. Họ đang bị kẹt cứng ở bên một gộp đá hẹp mà lối đi chỉ đủ lọt cho một người qua. Thật là may: nhờ cái gộp đá biết níu hộ chân người mà tôi theo kịp bạn. Len lỏi khá vất vả, mồ hôi ướt đầm cả áo, chúng tôi mới đến được ngôi chùa cuối cùng ấy. Người vào chùa thắp nhang, người ngồi bệt xuống bức tường nhiều bậc lấy lại sức. Tôi rủ được anh K còn đang sung sức len vào hang. Hang sâu hun hút, tối om. Đang định quay trở ra, tôi bỗng nghe anh K hổn hển gọi: “ Vào đây! Mau lên! Đẹp tuyệt trần!”. Tôi lần theo vách đá, có lúc phải bò qua các ngách hẹp. “Thấy chưa?”, K nói và cầm lấy tay tôi, chỉ ngược lên vòm hang tối. Mắt tôi tưởng như  bị một ngọn đèn pha cực mạnh làm cho chói lòa. Luồng ánh trăng hình phễu ngược mở ra một khoang xanh bao la. Lồng lộng trong khoang xanh đó là một quầng vàng rực rỡ. Rồi những thanh âm bảng lảng của tiếng chuông chùa điểm vọng lại, ngỡ như cùng một lúc len lỏi qua kẽ đá với những sợi trăng...
Chúng tôi ra về vào khoang hai giờ sáng. Khí núi và gió xuân lành lạnh cùng ùa theo đưa tiễn khách. Trăng vẫn bát ngát toả xanh trên mỗi mái đầu. Tôi quay lại, ngước nhìn lên một lần nữa. Trăng núi Bà Đen gợi nhớ trăng xưa ở mãi tận Đền Hùng. Trăng, giống như khuôn mặt người - khuôn mặt của Bà Âu Cơ,  của Bà Đen và của cả mẹ tôi nữa - vẫn muôn đời sẽ còn toả sáng...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
LỜI HOA ĐỒNG NỘI
 
Ai chưa từng hưởng thú dạo chợ hoa xuân, thật khó mà tưởng tượng được vẻ đẹp lộng lẫy và không khí Tết nhộn nhịp ở Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng tôi, mỗi khi xuống phố ngắm người, thưởng hoa, tôi thường nghe trong gió thoang những tiếng thầm thì cua cây lá quê nhà gợi nhắc...
Thuở tóc trái đào, tôi là một đứa trẻ trâu ở một vùng quê nghèo ven sông Đào, nhà mái tranh vách đất. Vượt qua cái cổng làng có hai cánh cửa bằng gỗ lim già dày cả tấc nằm lọt thỏm giữa điệp trùng tre trúc ken kín mít, tầm mắt những đứa trẻ chăn trâu mới được mở. Khoang trời xanh lồng lộng mây trắng in hình đàn chim trời dàn hàng dọc giang cánh bay về phương nam. Tôi chỉ lờ mờ nghe nói phía ấy là các làng Trại Vĩnh, Đồng Quỹ, Nam Hưng...
Thả trâu gặm cỏ trên cồn Rùa, lũ trẻ chúng tôi thả sức nô đùa. Chán chơi âm, chơi u, chơi trận giả thì ngồi bệt xuống đất  mà chọi cỏ gà. Đây là thứ cỏ lá nhỏ, dài, vị ngọt đắng. Hoa cỏ gà chính là những lớp bẹ cỏ xếp chồng lên nhau, hao hao cái đầu gà nhỏ, mào gà là những búp cỏ xanh chụm lại. Người chơi chọi cỏ gà cầm phần cuống hoa quất mạnh vào “đầu gà” đối phương. Hoa bên nào rụng thì bên ấy thua. Đứa ăn gian cầm sát “cổ gà”, bên kia quất cách nào cũng không thắng nổi. Cãi nhau om cả đồng vắng, rồi lại bỏ qua, chuyển sang trò đám cưới, những đám cưới trẻ con phỏng theo những đám cưới thật gần nhất trong làng. Trò chơi này tốn nhiều công, nhưng mà vui. Vì cần rất nhiều hoa cho cô dâu trang điểm. Một cái áo cài đầy hoa sài đất, thứ cúc đồng nội vàng như không thể vàng hơn. Một vòng nguyệt quế tím màu tím của hoa rau muống dại, hoa súng, hoa rau ngổ... Rồi thì lấy đất sét nặn một cái lục bình, cắm vào bao nhiêu là hoa ké vàng, ké xanh. Lại phải có một bó hoa cho chú rể. Và đồng quê lại phải góp hoa dứa hoặc hoa loa kèn dại thơm đến nao lòng... Tôi không nhớ bao nhiêu lần mình được đóng vai chú rể hay phù rể; nhưng gương mặt chúng bạn trẻ con, dù là trai hay gái, dù còn hay đã khuất, giờ tóc đã bạc, mắt nhìn đã kém tỏ, tôi vẫn nhớ như  in. Tuổi thơ và hoa đồng nội luôn hiện lên trong tâm tưởng, nhắc nhở tôi đừng bao giờ quên những ngày gian khó nhưng cũng rất đẹp đẽ của một đời người. Tôi hiểu ra rằng, mình yêu đồng không chỉ vì thương lúa mà còn vì gần gũi với các loài hoa cỏ, gắn bó với những đứa trẻ thơ dại, nhờ sắn khoai mộc mạc mà lớn lên..
Rồi cũng như hàng triệu đứa trẻ nhà quê khác, tôi may mắn được dọc ngang trên những nẻo đường tổ quốc, được gặp rất nhiều hoa. Hoa ban Tây Bắc trắng. Hoa đào Nhật Tân thắm. Hoa lay ơn Đà Lạt đỏ. Và mai, vàng như nắng Sài Gòn.
Sống ở thành phố Hồ Chí Minh, vào những ngày giáp tết, chỉ cần nhìn  nắng dâng đầy mọi nẻo đường thành phố, rắc vàng lấp lánh cả mặt sông Sài Gòn tháng Chạp, tôi đã biết chợ hoa xuân sắp nhóm họp. Nhiều năm nay, có năm chợ mở trước bữa ông Táo về trời, lại có năm chậm mất một ngày. Trong ba ngày 27, 28, 29 tết, việc nhà, việc cơ quan đã vãn, lòng thơ thới, tôi thường rủ vợ con hoac bạn bè đi ngắm hoa xuân từ khắp mọi miền đất nước gửi về làm đẹp cho thành phố. Cho bõ một năm tất bật cùng công việc, bù cho những lần trắng đêm thao thức, trăn trở bên những trang văn mỗi khi viết xong lại thấy  mình nhạt nhẽo. Và để cùng người, cùng đủ mọi loài hoa lá giã từ một năm cũ, dự liệu một hướng đi cho những ngày sau...
Đi dọc những đường hoa, không ít lần đã ngẩn ngơ trước những giò phong lan ngũ sắc. Vẫn chưa nguôi nỗi nhớ rừng già và thời trai trẻ. Nhìn những dây phong lan, tôi cả nghĩ tay ai vẫn ngoắc tay mình, kéo mình vượt qua những con suối mùa lũ thuở chiến tranh. Lá lan dài như mắt ai sắc lẹm. Lan không biết vẫy, chỉ có  hoa lan khẽ nhẹ rung trong gió xuân thị thành. Lan bao giờ cũng vì người. Làm vui mắt những người lính mở thao láo sau cơn sốt rét rừng sâu. Và bây giờ, khi họ cởi áo xanh về phố, lan lặng thầm làm đẹp một khung cửa sổ. Phong lan đưa gió ngàn về làm mát lòng ai, như nhắc một quá khứ không bao giờ phai nhạt. Và hồng, loài hoa dành cho ngày gặp mặt tưởng như  chỉ có trong những giấc mơ. Hoa của tình yêu và hạnh phúc. Đỏ như một làn môi ấm! Còn nhớ tay nắm tay người, tôi lạc giữa bạt ngàn hồng gần một khách sạn lớn trong thành phố. Ngất ngây vì người, vì những gương mặt tươi hồng trong gió xuân...
Nhớ rét đến nôn nao, tôi thường đi tìm đào hỏi chuyện xuân. Hình như tôi ít gặp may, chỉ gặp một thứ đào phai, nụ hoa đã xòe hết, cánh hoa đã nhạt. Thứ đào ấy báo không có cái rét của gió bấc sương muối. Cái rét tê da, tái thịt nhưng biết bù cho mắt người những nụ xuân chúm chím. Cái rét khiến cho cải bắp, sà lách cuộn tròn, rau diếp trong vườn, rau cần dưới ao non búng, mượt như thoa mỡ. Cái rét lẩn vào nồi thịt đông, khi dùng bữa tưởng như có thể nhai nuốt được. Và cái rét là bàn tay vô hình kéo người ta lại gần nhau. Ông bà muốn ôm lấy cháu tỏ lòng thương quý, đôi lứa khát khao được sưởi ấm bằng lửa thương yêu. Cái nhìn tình tứ của người vợ sắc như rét nhưng ấm áp hơn cả lửa nồng. Cái nhìn khiến người chồng thôi chất củi vào bếp, lấy cớ đã khuya mà nhẹ nhàng mời mọi người đi nghỉ. May mà cũng có lần gặp cố tri, mua được một cành đào Nhật Tân chính hiệu. Không phải do người khiến được hoa tươi, mà là do trời đất bảo hoa tươi. Nghe các cụ già sống ở Sài Gòn nhiều năm kháo nhau, thì năm ấy rơi vào chu kì 24 năm một lần vùng Bến Nghé có gió heo may. Đào chúm chím cười, người mở lòng khui chai rượu tết. Xuân ấy tôi say cả ba ngày; nhưng không phải say rượu, mà say vì rượu rót xuống gốc đào. Cành đào chuếnh choang men, đỏ thắm cả gian phòng...
Đi chợ hoa, ngoài việc chiêm ngưỡng những tòa nhà chọc trời mới mọc, ngắm những gương mặt tươi cười, những kiểu quần áo đẹp, tôi chú mục nhiều nhất tới mai. Ngắm đến thuộc lòng cả dáng cây, dáng hoa. Tôi còn biết mai dễ tính như người Nam bộ, cắm xuống đất là bén rễ, bật chồi, nảy lộc. Dù là mai tứ quý hay hoàng mai, thân mai đều nâu sẫm, mốc thếch dấu vết của thứ cây rừng được những người đi mở đất đưa về trồng ở vườn nhà. Mai tứ quý nở bốn mùa, nhiều nhất là hoa màu vàng và màu đỏ sậm. Còn hoang mai, sau khi được người bứt lá, mai dồn nhựa sống, bung nụ. Và, cũng như tính cách người phương nam khoang đạt, cành mai cắm trong độc bình, sau mấy ngày tết, kể cả những nụ mai bé xíu như hạt thóc cũng xòe nở hết mình....
Những lần đi chợ hoa, lẫn vào dòng người tầm xuân, tôi đi tìm cho riêng mình những nét chân quê đồng điệu thấp thoang trong lá hoa. Tôi đồ rằng, trong vô số người lịch lãm kia, hồn hoa đồng nội của nơi chôn nhau cắt rốn vẫn còn ngát thơm tâm tưởng họ. Và năm nào cũng vậy, lúc chợ đã vãn, tôi hớn hở rinh về nhà một cặp mai, đào đang nụ! Cho những ngày xuân sắc,  hoa cũng được sóng đôi...

                          TRỞ LẠI SÔNG ĐÀ
 
 Ba mươi hai năm về trước, lần đầu tiên trong đời tôi được chứng kiến cảnh nước lụt sông Đà. Giữa non xanh núi thẳm, Đà giang đỏ rực một màu son đậm, tung bọt trắng xóa, réo lên ồ ồ như hàng ngàn, hàng vạn cái cối xay đang xay lúa. Trên mặt sóng, ngổn ngang những cành củi khô, những cây gỗ lớn từ rừng thượng nguồn bị lũ quét cuốn vào dòng nước dữ, lao vun vút như tên bắn…
Năm nay, sau 30 năm trời có lẻ, trong chuyến lên Tây bắc công tác, tôi có được dịp may để trở lại với sông Đà. Các anh chị họ tôi như anh Củng, anh Nguyên, anh Trường, chị Hồng, chị Tiến, chị Khuyên, chị Hiền… tóc đều đã lốm đốm bạc. Các cháu tôi, đứa thành công nhân sông Đà, đứa đi học đại học, bây giờ đều đang ở rất xa. Đứa đang xây dựng nhà máy thủy điện Yaly, đứa công tác ở Hà Nội, ở Tp Hồ Chí Minh. Xóm nhỏ ven sông Đà này xưa kia hầu hết là nhà sàn,  nay nhờ các dịch vụ phục vụ công trình sông Đà mà đã bê tông hóa hoan toàn. Riêng cái nhà sàn trong vườn nhà bác tôi thì vẫn còn nguyên vẹn, vách gỗ bạc phếch cùng thời gian. Các anh chị tôi thấy tôi về ai cũng mừng mừng tủi tủi vì tôi về muộn quá! Nghe anh Trường kể, lòng tôi cứ ngùi ngùi khi hay rằng, lúc sắp mất, bác tôi còn thều thào nhắc tên tôi mãi…
Mang nặng những kỉ niệm về dòng sông một thuở, tôi đã đi thăm khắp lượt từng người trong xóm nhỏ, trở lại tất cả những nơi chốn mình đã từng đi qua. Trong dịp này, tôi còn may mắn được các nhà văn, nhà thơ của báo Văn nghệ Hòa Bình đưa đi thăm Nhà máy thủy điện.
Người giới thiệu là anh Hoang Tâm, một nghệ sĩ chụp ảnh, đồng thời cũng là người chuyên lo về việc làm đẹp cho các vách đường hầm, gian máy, phòng tiếp khách trong nhà máy thủy điện Hòa Bình. Tôi rất thích hình những cái tua bin bảy cánh tượng trưng cho sức trẻ và sự phát triển của nhà máy, hình những cái tua bin năm cánh trên nền nốt son (nhạc) được phối trong một vòng tròn, gợi liên tưởng tới những tiếng reo vui của người thợ khi thấy dòng điện do mình làm ra thắp sáng khắp mọi miền đất nước. Tâm là người tạo mẫu và tự tay vẽ lên vách các đường hầm, chỉ đạo việc khắc hình và gắn kết, trang trí chúng trên các bộ cửa ra vào, các rào chắn. Tôi cũng rất thích bộ bưu ảnh mà Tâm đã chụp các hạng mục công trình của nhà máy. Ban đầu, bộ bưu ảnh này chỉ là một bộ ảnh tư liệu. Về sau, do thấy có tính nghệ thuật cao, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình đã cùng anh chọn ra khoang hai chục tấm, ấn hành hàng chục ngàn bản để phục vụ du khách tới thăm sông Đà. Riêng bức “ Toàn cảnh thuỷ điện sông Đà”, anh Bùi Chỉ và nhiều anh chị em khác trong Hội văn nghệ Hòa Bình cứ  tự  hào khoe với tôi rằng, đây là bức ảnh có một không hai vì những hình ảnh ấy chỉ xuất hiện một lần trong những thời điểm không bao giờ lặp lại nữa. Hoang Tâm kể, để chụp được bức ảnh nói trên, anh đã phải bỏ ra khá nhiều công sức và tiền bạc. Làm thế nào để mây trời liền một khối? Để những khuôn hình đồng sắc chồng khít lên nhau? Khi mà bức toàn cảnh phải ghép từ bốn tấm ảnh khác nhau, chụp trong những ngày khác nhau? Có bức chụp ngang từ dãy núi đối diện, có bức phải chụp hất từ giữa lòng sông lên? Chỉ về phía tượng đài Bác Hồ cao mười tám mét, nặng bốn trăm tấn bằng đá ga nit lồng lộng giữa trắng xóa mây trời, Tâm nói, để có được khuôn hình ưng ý, anh đã phải thuê và đưa một chiếc cần cẩu lớn lên đỉnh núi, chờ hai ngày liền mới chọn được thời điểm bấm máy thích hợp. Lúc ghi tặng tôi bức tranh, Tâm cứ  than, so với vẻ đẹp rồng bay phượng múa của sông núi Hòa Bình hùng vĩ, những bức hình mà anh đã chụp được, có thể còn nhỏ hơn một cái vảy của con cá anh vũ!
Trong khoang thời gian xe chạy chầm chậm trên mặt đập chắn ngang sông Đà cao hơn một trăm mét, dài gần một cây số, anh Bùi Chỉ  đã tranh thủ giới thiệu cho tôi một vài nét về những nơi chúng tôi sắp tới thăm quan. Anh bảo, bên dưới con đập có lõi bằng đất sét này còn có một màng chống thấm được con người tạo ra bằng khoan phun dày tới ba chục thước. Giữa đập là công trình xả nước cao hơn bảy chục mét, rộng hơn một trăm mét, có khả năng xả nước tới hơn ba mươi lăm ngàn mét khối trong một giây. Để tới được gian máy, người ta sẽ phải đi qua một đường dài nửa cây số. “ Còn gian máy?”, tôi hỏi. Anh Chỉ bảo: “ Gian máy có tám tổ máy, công xuất  mỗi máy khoang 240MW. Tất cả đều được đặt ngầm trong núi đá. Vĩ đại lắm anh ơi! Đầu óc lãng đãng như đám văn nghệ sĩ chúng ta không thể tưởng tượng ra nổi đâu! Nên cứ đi cho hết đã! Rồi anh khắc biết!”.
Anh Chỉ đã nói đúng. Tôi chỉ thực sự cảm nhận được tầm lớn lao của sông Đà khi tận mắt được chứng kiến những công trình vĩ đại, tai được nghe kể về quá trình xây dựng chúng. Tôi nghĩ, công trình thế kỉ này quả là một chiến công kì diệu của dân tộc ta trong các cuộc chinh phục thủy thần đã diễn ra từ  hàng ngàn năm trước, biến sức mạnh siêu nhiên của nước thành sức mạnh của con người. Cũng như nhiều người, tôi  biết rõ dòng điện sông Đà đã lan tỏa, thắp sáng mọi vùng đất, đã làm chuyển động tất cả các cỗ máy lớn nhỏ trong các nhà máy trên cả nước. Nhưng chỉ tới hôm nay, tôi mới hay, trong những ngày nắng như đổ lửa ở Tp Hồ Chí Minh, nhờ đường dây 500 ki lô vôn tôi đã từng được ngâm mình trong dòng nước lạnh, được thưởng cả ngọn gió sông Đà mát rượi cách nhà mình gần hai ngàn cây số!
Chúng tôi đã xuống xe và đứng rất lâu trước Đài tưởng niệm 157 cán bộ, công nhân viên Việt Nam và 11 chuyên gia Liên Xô hy sinh trong khi làm nhiệm vụ xây dựng Nhà máy thủy điện sông Đà. Cách đấy không xa là Bức thư thế kỉ của những người thợ gửi thế hệ mai sau. Thư được đặt trong một khối bê tông lớn. Nó sẽ được bóc vào đúng ngày 01 tháng 01 năm 2100. Xa xa, công trình xả nước ầm ầm réo gào, trông y như  một con thác đang đổ từ trời xuống hạ lưu sông Đà. Nắng mặt trời chiếu xiên qua những làn bọt nước trắng xóa, tạo thành một chiếc cầu vồng ngũ sắc khổng lồ vắt ngang sông. Hình ảnh huyền ảo này khiến tôi lại nhớ tơi bác Lưu. Không biết bác có hay, nhờ có những người dám cả an lấp sông Đà, dòng sông Đà hung bạo nay đã được thay dòng, đổi tính? Và bây giờ, trên lòng hồ sông Đà mênh mông, ngay cả loài cá anh vũ cũng được thư nhàn bơi lội, chúng không còn phải ráng sức, bám chặt miệng vào đá mới ngược được lên phía thượng lưu nữa!
 Tạm biệt sông Đà trong một ngày nắng đẹp, trên đường về TP Hồ Chí Minh, bên tai tôi cứ văng vẳng mãi những lời tâm sự gan ruột của anh Trường: “ Em ạ, các anh chị ai cũng đã có nhà mái bằng. Nhưng cái nhà sàn gia đình ta ở ngày xưa trong vườn kia nhất định sẽ được tu bổ thường xuyên và giữ lại mãi mãi. Bởi nó không chỉ là nơi thờ cúng, nơi lưu dấu những hình ảnh đẹp của hai bác tôi mà còn là chứng nhân của sông Đà một thời nước lũ”. 
 
 
 
 
 
 

 
     MÓN QUÀ THƠM THẢO CỦA MÙA XUÂN
 
Không ít lần trong đời, tôi đã phải trải qua những ngày đói quay đói quắt. Lẻ gạo, bắp ngô, củ khoai, củ sắn, nắm rau xanh, ngọn cỏ lành lúc ấy quý ngang vàng. Bữa đói, chúng vỗ về, dằn cái cồn cào trong dạ xuống. Khi no, chúng xoa dịu, làm cho nỗi nhớ đồng quê phần nào được nguôi ngoai. Bởi vậy, vào những lúc trời đất chuyển mùa, đổi tiết, tôi thường bâng khuâng vin vào các loài cỏ, hi vọng qua một sắc xanh có thể tìm thấy một chút hơi ấm của quê nhà. Ví như cây cỏ khúc.
Khúc chưa được gọi là rau mà chỉ là một loài cỏ dại. Thân khúc cằn cỗi, thấp bé. Lá tròn, dẹp, hai mặt lá phủ một lớp lông mịn li ti màu nhũ. Hoa cỏ khúc phơn phớt trắng, nhụy vàng mơ, lúc nào cũng như còn chúm chím nụ. Thứ cỏ này mọc hoang, chen lẫn vào trăm ngàn loài cỏ dại trên những vạt đất ẩm nơi chân đê sông Đuống, sông Hồng, sông Ninh, sông Đáy hoặc ven những bờ cừ, bờ mương ngang dọc khắp bề mặt ruộng đồng bằng Bắc bộ. Nhưng có lẽ, nơi khúc ưa phủ xanh nhất lại chính là các  diệc mạ sau vụ cấy lúa chiêm.
Trong cái lạnh hun hút suốt mùa đông, cỏ khúc buộc phải thu nhỏ lại, dồn nhựa sống xuống thân, ủ sâu vào trong rễ. Tới độ xuân về, bén hơi ấm gió nồm, nhờ mưa phùn, khúc trở nên mỡ màng, ánh lên sắc bạc dưới nắng hoe. Vào thời điểm này, nhổ cây cỏ khúc, bấm nhẹ vào thân rễ, người ta bất giác được thưởng một vị hương hơi ngai ngái, nồng nồng. Đấy là thứ hương dại khờ man mác chứ không nồng đậm như mùi thơm của các loài hoa cúc trồng trong vườn nhà, được bàn tay con người tỉa tót, chăm sóc đến nơi đến chốn. Có thể đấy còn là một lời mời gọi kín đáo, khe khẽ...
Tôi biết có rất nhiều người, đặc biệt là những người làm bánh tinh đời, cảm nhận được tiếng gọi vô thanh kia. Vì chẳng phải ngẫu nhiên, chỉ riêng trong trường hợp này thôi, người ta bỗng ưu ái gọi tên cỏ khúc là rau khúc! Việc thay đổi cách thức gọi tên muôn loài, thực ra đã diễn ra từ  hàng ngàn hàng vạn trước, kể từ khi con người biết hòa đồng vào tự nhiên, chọn cỏ cây hoang dã làm thức ăn, làm thuốc chữa bệnh, làm đẹp cho đời. Nhưng chỉ đến khi người nông dân Bắc bộ gọi cỏ khúc là rau khúc, loài cỏ dại này mới tạm được coi như một thứ rau đặc dụng. Dĩ nhiên, cho tới thời điểm ấy, vẫn chưa hề thấy ai trồng khúc trong vườn. Khúc vẫn mọc tự nhiên ở những nơi nó có thể mọc. Nói khác đi, khúc vẫn chỉ do trời gieo cấy. Mặc dù thế, khúc vẫn là thứ rau của trần thế, dành cho cõi tục. Vì sao lại như vậy ư ? Câu trả lời sẽ hết sức đơn giản là, ấy là do ý của con người muốn vậy. Đồ vật, thức ăn đặt ở chỗ này thì sang, chuyển đến nơi chốn khác có thể gọi là hèn; đưa lên bàn thờ thì thành vật dâng cúng, còn bày ra chợ để bán thì lại hóa một món quà! 
Chuyện cỏ cây cũng lạ, nhiều khi hao hao, hoac gợi liên tưởng tới số phận của con người. Từ giàu tới nghèo, từ sang đến hèn, nhiều khi cũng chỉ do hoan cảnh, chỗ đứng trong cuộc đời?
Thảng hoac, trong một vài chuyện hi hữu, giữa con người và vật vô tri còn có một mối dây liên lạc vô hình nhưng gắn bó với nhau rất chặt chẽ. Ví như câu chuyện bạn bè của tôi thuở thiếu thời chẳng hạn. Ngày ấy, do hiểu lầm một người bạn mà tôi cho là xấu chơi, tôi đã định cắt đứt hoan toàn quan hệ với anh ta. Chẳng biết do ai kể lại, bố tôi phong thanh biết chuyện. Người hỏi tôi khá cặn kẽ về anh bạn và đưa ra một lời khuyên rất lạ lùng: “ Con nên tới nhà bà Huyên, hỏi ông bà ấy làm bánh khúc như thế nào đã. Rồi thì có bỏ bạn cũng chưa muộn đâu!”. Tôi đã nghe theo lời khuyên đầy ẩn ý ấy và lẳng lặng đến nhà người chuyên làm bánh khúc. Nhìn đôi vợ chồng già gò lưng, lóc cóc giã những nắm cỏ khúc, vắt lấy nước trong, bỏ bã, tôi bỗng giật mình. Làm bánh mà cũng công phu, vất vả đến thế sao! Nhưng đó là công việc sinh nhai, là một nghề để sống, nên ông bà Huyên đã hầu như không biết đến nỗi vất vả của mình, họ chỉ thấy niềm vui trong công việc tạo ra những cái bánh thơm ngon, bán rất chạy trong những phiên chợ Thượng trong cả tiết đông xuân. Riêng bài học muốn luôn được vui trong cuộc đời dằng dặc song cũng không hiếm những buồn này, mỗi người nên mở rộng lòng, bỏ qua cho nhau những cái mình chưa được ưng ý, gạn đục khơi trong mà nhận lấy những phần tốt của người khác, thì phải rất lâu sau tôi mới nhận ra! Tôi nghĩ, cũng như cỏ khúc hữu ích cho con người chỉ nhờ vào lá và thứ nước chắt ra từ  rễ, thân của nó, mỗi người bạn chỉ thích hợp với ta ở từng mặt nào đó, đòi hỏi sự toàn diện e là điều không tưởng. Không có hương vị riêng trời cho ấy, làm sao bánh khúc hấp dẫn được người đời? Không biết neo vào những mặt tốt của người, làm sao ta có bạn trong đời?
Mang trong lòng bài học vỡ lòng từ bánh khúc, lớn lên, tôi hay tự  vấn chính  mình và thường chủ quan nghĩ rằng, ai đã từng được thưởng bánh khúc ở dốc Lò Trâu, Nam Định, ở đầu làng Nghi Tàm, Hà Nội, ở cổng chợ Sắt, Hải Phòng, hay ở một góc chợ quê xa xăm nào đó vào một sớm gió rét trở mùa, hẳn khó mà quên được hương vị của món quà dân dã ấy. Nhờ bánh khúc bắc cầu, nối nhịp, hồn tôi vẫn còn tơ vương mãi về những nơi chốn mà mình đã từng dừng chân ghé lại dẫu chỉ một đôi lần. Cho đến hôm nay, sau nhiều mùa cỏ khúc mọc rồi tàn, tôi vẫn nhớ như in nét mặt rạng rỡ của bà Minh, người bán bánh khúc ở dốc Lò Trâu, khi bà sung sướng ngồi nhìn đám khách lạ, khách quen của mình đang túm năm tụm ba vây quanh chõ bánh, vừa xuýt xoa thổi, vừa cắn từng miếng bánh khúc nhỏ ngon lành. Tôi cũng không quên được dáng cây đa xòa xuống đất, rễ đa như những cánh tay với xuống chõ bánh khúc đang nghi ngút khói thơm của cô hàng bánh Thu Hương ở đầu làng Nghi Tàm. Tay cô thoan thoắt đơm xới bánh; miệng, môi, mắt cô tươi cười khi trao gói bánh khúc còn nóng hôi hổi vào tận tay từng người. Trong số thực khách đều đặn vào các buổi sớm, tôi biết nhiều chàng trai ghé qua hàng bánh khúc cốt chỉ để được ngắm nhan sắc mặn mà của cô Thu Hương. Họ phải lòng người rồi phải lòng bánh khúc, hay nhờ hương bánh khúc mai mối mà đến được với người, điều này tôi chưa được tỏ. Nhưng mỗi sáng ghé qua đây, tôi thấy trong lòng thơ thới lạ. Vào những ngày không có việc phải ngang qua làng Nghi Tàm, tôi cứ cảm thấy hẫng hụt, trống vắng thế nào ấy. Nhưng, không hiểu vì lẽ gì, ngày ấy tôi đã cố ép lòng, tìm ra đủ mọi lí do để lẩn trốn mình, không dám thừa nhận cảm giác nay chính là một mối tương tư...
Ngược dòng cùng nỗi nhớ, năm nay, đúng vào một ngày gió bấc trở mùa, tôi đã lần tìm về chốn cũ. Và lòng tôi không khỏi nao nao khi hay tin người già đã khuất, người trẻ đã sang sông. Chỉ có hương quê thì vẫn còn đâu đó, ngan ngát vị nếp cái hoa vàng từ cái bánh khúc mà tôi mua vội của một bà lão bán quà sáng  cạnh  đình làng Khương Trung gần Ngã tư  Sở cũ. Tôi đã cầm cái bánh gói tạm bằng lá chuối mật hong sơ lửa trên tay, để cho mùi thơm của gạo nếp, gạo tẻ, đậu xanh, hạt tiêu, hành mỡ, nhất là của hương khúc, lan tỏa theo làn khói mỏng manh. Lúc ấy, tự nhiên tôi lại nhớ tới lời bố tôi nói năm xưa. Rồi nghĩ thầm, những suy ngẫm của người về cái bánh khúc quả thật là rất chí lý !
Theo bố tôi, dựa vào những chiêm nghiệm trong đời, những con chữ  trong bộ sách chữ Nôm bìa phết cậy đen mà ông nội tôi truyền lại, thì bánh khúc cũng chỉ là một món ăn mô phỏng, kết hợp hài hòa, sáng tạo ba thứ bánh chưng, bánh dày và xôi của những lớp người đi trước mà thôi. Từ thượng cổ, xôi, bánh chưng, bánh dày đã được liệt vào hạng phẩm vật dùng để dâng cúng các bậc tiên hiền tiên liệt trong các dịp nghi lễ. Riêng bánh khúc, miếng ngon được tạo nên từ những sản vật dung dị của đồng quê, chỉ được người xưa gọi là quà kẻ chợ, dùng để ăn chơi, ăn lấy hương, lấy hoa, lấy thơm, lấy thảo...
Là một thứ  thời trân kết hợp nhưng nghiêng về thế tục, cái bánh khúc có đủ cả ba phần. Ngoài cùng là áo bánh. Đó là một lớp gạo nếp mỏng, khi chín gạo sẽ bám vào vỏ bánh. Phía trong là vỏ bánh được nặn bằng hai phần bột gạo nếp pha với một phần bột gạo tẻ. Trong cùng là nhân bánh, gồm đậu xanh giã nhuyễn, hai miếng thịt mỡ quân cờ, điểm thêm một vài nhánh khúc xanh (hoac đã được giã nhuyễn). Người ta còn có thể gia giảm thêm hạt tiêu, hành củ để tăng hương vị cho nhân. Cách thức làm bánh, đồ bánh khúc cũng rất đặc biệt. Như đã nói qua ở trên, trước khi làm bánh khúc, người ta hái cỏ khúc ngoài đồng về, rửa sạch rồi giã nhỏ, vắt và lọc lấy nước cốt. Đem thứ nước khúc ấy mà nhào với hai phần bột gạo nếp pha một phần bột gạo tẻ, ta được một thứ bột dẻo dùng làm vỏ bao bọc lấy đậu xanh, rau khúc và thịt mỡ. Xong việc, người làm bánh rải một lớp gạo nếp cái hoa vàng dưới đáy chõ, xếp  một lớp nhân bánh lên trên và lại rải một lớp gạo nếp, xếp nhân. Chõ bánh được đặt trên một nồi nước, đem đồ chín như đồ xôi vậy. Muốn bánh thơm hơn, có người còn cầu kì dùng nước chắt của cỏ khúc để đồ bánh.
Tôi nhớ, có một lần tôi đem việc này ra hỏi bố tôi. Người chỉ khẽ mỉm cười, rồi buông lửng: “ Con hỏi vì sao người ta lấy nước chắt ra từ một loài cỏ dại để nhào nhân và đồ bánh ư? Trước hết là để cho bánh được thơm ngon”. Tôi gặng: “ Còn sau đó, bố?”. Bố tôi hướng mắt về phía xanh xa, chậm rãi cắt nghĩa: “ Cái bánh khúc cũng có thể là vật tượng trời và đất nhưng không lẫn với bánh chưng, bánh dày; bởi nó gói trọn tấm lòng người thảo dân chốn thôn dã nữa!”. Nghe thì biết vậy thôi, chứ cho tới hôm nay, tôi vẫn chưa đủ khôn để tỏ tường mọi ý nghĩa thâm sâu trong lời nói của người già. Mặc dầu vậy, mỗi khi được tận mắt nhìn những hạt mưa phùn vương trên mặt lá khúc màu nhũ bạc lóng lánh, tôi hay nghĩ thầm, đối với người Việt Nam ta, cho tới hôm nay, bánh khúc vẫn là một trong những món quà xuân thơm thảo của quê nhà! Là cái tình người thôn dã cho nhau…
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
                              CÂY ĐƯỚC
 
Trong chuyến đi thực tế ở Cà Mau do Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, nhà văn Nguyễn Thanh, Tổng thư kí Hội liên hiệp văn học nghệ thuật tỉnh, thân mật hỏi tôi đã biết nhiều về cây đước chưa. Tôi khiêm tốn trả lời, nhờ chữ nghĩa trong những trang văn Nguyễn Tuân, Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo trước đây tôi đã hình dung ra được phần nào về dáng dấp và một vài đặc tính của loài cây đặc trưng cho vùng đất cực nam này. Nhưng cảnh trí trong tâm nhuốm màu sắc chủ quan, lại biến đổi tùy theo sở thích tưởng tượng của từng người nên thường đẹp đến mê hồn. Cái đẹp do yêu quý vùng đất xa xôi của Tổ quốc mà thấy cái gì gắn với đất, với người cũng mộng cũng mơ chăng?
Hôm sau, trên con xuồng gắn máy xuôi về Mũi Cà Mau, tôi đã tận mắt được thấy đước. Lúc lên bờ, ngồi nghỉ dưới vòm tán đước, tôi đưa tay, run run sờ vào từng thân thân đước sù sì, mốc trắng. Trước mắt tôi, điệp điệp trùng trùng, xanh ngút ngàn đước Thới Bình, Năm Căn, Viên An, Đất Mũi. Đước hai bên bờ kinh Tắc, sông Cửa Lớn, kinh Mũi loà xòa; đước ở mũi đất Cà Mau chùm rễ một nửa vươn về phía biển Đông, một nửa kia bám chặt trên nền phù sa vịnh Thái Lan...
Ngắm nhìn rừng đước, tôi ngỡ mình đã nghe được tiếng đước nói. Rì rầm khi gió nhè nhẹ thổi. Ào ào khi gió giật, sóng xô. Lúc tâm tình, khi triết lí. Dân giã và thẳm sâu. Tiếng đước mang những thang âm riêng của một vùng sông nước; song hình như còn ẩn chứa cả những thanh âm chung của những lũy tre làng quê Bắc bộ, những đồi xà nu Tây Nguyên bất tận. Âm thanh của tiếng Việt, bổng trầm và thiết tha...
Đước ở Cà Mau bao giờ cũng mọc thành rừng, thành vệt. Một rừng đước thường có nhiều tầng. Thấp nhất là những cây đước non. Nếu mọc xa đước mẹ, đước non thường bị ngả nghiêng vì xoáy nước hoac bị sóng cuốn trôi đi xa. Tuy nhiên, chỉ cần chạm chân được xuống nền phù sa còn sền sệt lúc nước ròng, cây đước non chớp ngay lấy thời cơ và bám chặt xuống đất. Cũng trong khoang thời gian ngắn ngủi ấy, đước đem hết mọi sinh lực có thể có của mình để bật xòe chùm rễ ra bốn phía; rễ đước y như một cái nơm chụp lún nan sâu vào lòng đất. Đước non, nhờ lớp phù sa mỡ màng nuôi nấng, chẳng mấy chốc đã hóa thân thành những cây đước lực lưỡng, sum sê. Mới nhìn qua, ai cũng tưởng tán lá đước hầu như xanh cả hai mùa mưa nắng, lúc nước nổi cũng như nước ròng. Nhưng quan sát kĩ, người ta mới biết trên những tán đước có tới bốn thế hệ lá. Búp đước nhọn hoat như búp đa, bụ bẫm, căng ứa nhựa. Lá non xanh mướt. Lá trưởng thành xanh đen, sau vài tháng bỗng chuyển sang màu vàng rồi lặng lẽ rời cành. Sự kế tiếp của những lớp lá diễn ra theo quy luật màu xanh luôn lấn át màu vàng. Điều này khiến cho hình hài cây đước phát triển khá nhanh, vẻ đẹp của đước lúc nào cũng là vẻ đẹp mơn mởn của tuổi trẻ. Bây giờ thì gió có thể quất cành cây tơi tả, gãy gục, bứt sạch trơn lá đước; sóng có thể vít cong, bẻ quặt thân cây nhưng một khi rễ đước đã bám sâu vào đất, khi gió lặng, sóng tan, thân đước kia lại tự gượng đứng lên thẳng vút. Nếu gộp tất cả số rễ lẻ lại thành một bó, vòng tròn bó rễ đước ngập trong nước mặn kia sẽ lớn gấp 30 lần thân đước hướng lên trời xanh lộng gió, chan hòa ánh nắng mặt trời...
Tôi đã say mê, đăm đắm ngắm cây đước trưởng thành và nhận ra không ít điều lạ. Ví như tất cả các nhánh đước hướng thiên đều phát triển thành cành lá chi chít những trái đước; riêng những nhánh vì lí do nào đó mà phải quặp xuống đất đều phát triển thành rễ, trông giống như những cánh tay người vồng ra ôm lấy đất. Có thể do vươn lên tới một độ cao nào đó, đước vẫn chưa thật sự yên tâm về bộ rễ vững chắc của mình nên khi thấy thân càng to, đước càng phải cố lo tạo cho bộ rễ vững vàng hơn mới mong chống được sóng gió. Hay chỉ vì nỗi nhớ phù sa và nước mặn đã hằn sâu trong tâm linh mà nhánh đước có thể tự biến hóa thành rễ đước tùy theo chiều không gian mà nó hướng tới chăng?
Tôi đã tận mắt thấy sau một lần nước ròng, ngay trong lòng bộ rễ chằng chịt kia, một lớp phù sa nâu sẫm mịn màng đã được rễ đước giữ lại. Tôi hiểu rằng, theo tháng năm, cứ hết cơn nước nổi này đến cơn ròng nọ, phù sa dưới những chân những rừng đước nước mặn điệp trùng đất phương Nam kia đã hình thành nên những miền đất bồi trù phú, nổi bồng bềnh trên chằng chịt kinh rạch đồng bằng. Ai đã từng đọc thơ Nguyễn Bá hẳn chưa quên vùng đất Viên An, một địa danh nổi tiếng của vùng đất mũi Cà Mau. Nhưng ít ai biết từ khi vùng đất này vào thơ, hơn nửa thế kỉ qua, từ Viên An, đất mũi đã vươn ra biển Đông tới hàng chục cây số. Ở Cà Mau, đất và nước sinh ra đất nước; nhưng giữ phù sa cho đất nước mỗi ngày một dài, một rộng, loài cây có công nhất chính chính là cây đước. Nói đúng hơn, chính những chùm rễ đước đã có công rất lớn trong việc cản dòng chảy, giữ lại dưới gốc mình những hạt phù sa bé nhỏ. Đương nhiên, đước vươn tới đâu, dù do trời hay do con người trồng, người đều theo sát cây ngay tới đó để giữ gìn và chăm bẵm đất. Công việc mở đất diễn ra lặng thầm, bền bỉ, thật vất vả song cũng thật thiêng liêng; đước và người khi thức, khi ngủ, khi ăn, khi chơi, thậm chí cả khi yêu nhau, chân vẫn còn lấm ướt đất phù sa kinh rạch...
Tới Năm Căn, tôi nhận ra cách xây cất những ngôi nhà ven sông Cửa Lớn được con người mô phỏng theo dáng của cây đước. Cọc sàn nhà được người dân sông nước đóng xuống đất trông y như một bộ rễ đước. Gió bão có thể làm bay mái, tốc phên lá dừa nước nhưng không thể nào nhổ được những cây cọc đước đã mút chặt lấy đất phù sa sông rạch, không bẻ gãy nổi sàn nhà ken dày bằng thân đước khô chắc như một tấm bè. Ngày xưa, cách nay hàng thế kỉ, nghe nha văn Nguyễn Thanh nói thế, vùng này có năm căn nhà của người Việt. Nhà năm gian, hai chái, thường được cất ở những chỗ đất cao. Kèo, cột, rui, mè của chúng, tất cả đều làm bằng thân cây đước. Dấu vết những ngôi nhà xưa như thế còn lưu giữ đến bây giờ...
Người Cà Mau, từ người đóng đáy trên sông Cửa Lớn đến người làm nghề đánh bắt cá ở Hòn Khoai, từ người trồng rừng ở nông lâm trường 184 đến những người vỡ ruộng ở Thới Bình vốn cần cù, kiên cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, yêu ghét rạch ròi. Họ là những người hiếu khách, tính tình phóng khoang như biển Cà Mau lắm tôm nhiều cá vốn rất mặn mòi. Khi chúng tôi ghé thăm ông Nguyễn Hôn, một lão ngư kì cựu đồng thời cũng là một cựu chiến binh của tiểu đoàn 307 lừng danh năm xưa, ông kêu người nhà đi đổ đáy ngay lập tức. Được bao nhiêu tôm cá, ông bảo các con đem luộc hết đãi cả đoàn. Nhìn thân hình đen như đồng hun, cánh tay còn săn chắc của ông, khi nói cứ chém phầm phập vào khoang không trước mặt, nghe giọng nói ồm ồm vang vọng khi ông hồn nhiên kể chuyện năm xưa, chuyện đổi đời ở một vùng sông nước, tôi rất xúc động. Rồi ông đọc mười lời thề danh dự của người chiến sĩ Vệ quốc, cùng chúng tôi hát vang bài ca Tiểu đoàn 307. Tiếng ông làm rung cả sàn đước, tưởng như có thể làm cho mặt sông Cửa Lớn bất ngờ nổi những con sóng xô bờ ì oạp...
Ở nông trường 184, lúc chúng tôi xuống xuồng bơi tiếp cuộc hành trình, anh giám đốc trẻ tuổi, dáng vạm vỡ, da đen sạm mới đi họp trên tỉnh về. Tiếc nuối vì không được tiếp đón các nhà văn, anh cho ca nô chạy bám theo xuồng chúng tôi. Can rượu anh mua dành để nhậu lai rai cùng anh em trong nông trường bộ vào những đêm mùa mưa rừng lạnh lẽo được rót ra từng chung lớn, chuyền qua tay từng người. Anh bảo thiệt tình với nhau dễ nhất là uống rượu! Cái dễ nhất không làm được sao gọi là thiệt tình? Vậy là anh thiệt tình cùng cả đoàn uống hết cả can rượu. Anh giám đốc say nghiêng ngả; và cũng chỉ tới khi đó, anh mới chịu tạm biệt chúng tôi.
Tại mũi Cà Mau, ngồi trên nhà thủy tạ giữa hai mũi đất bồi ra biển, tôi có cảm giác như đang được ngồi giữa hai ngón chân của hai bàn chân nước Việt đang tiến ra biển Đông. Trong âm vang sóng biển vỗ ầm ầm, tung lên trời những con sóng đục ngầu, chúng tôi được nghe sáu câu vọng cổ ngợi ca những người đi mở đất. Tiếng ca trầm hùng, buồn thương, da diết lạ:
 Con thương Năm Căn, má ơi, con thương cây đước
Con thương má, đước ơi, má  đi ngủ rồi chân còn dầm trong nước
Thương Cà Mau, thương con xuồng một đời tròng trành sóng nước 
Thương đất bồng bềnh mặt lấm ướt phù sa…
Và lại uống rượu. Rượu tri âm tri kỉ. Rượu nồng như hương đất, đục như  nước sông rạch Cà Mau bao đời nay chưa bao giờ có lấy một lần trong vắt...
Tôi nói với Nguyễn Thanh rằng, tới đây rồi tôi mới thấy bản đồ nước ta giống hình một cây đước quá! Chùm rễ là đồng bằng Bắc bộ. Thân đước là dải đất miền Trung dằng dặc. Và tán đước là đồng bằng sông Cửu Long mênh mông. Mũi Cà Mau chính là ngọn của cây đước ấy, nó cứ lớn lên từng ngày, từng ngày. Nhà văn miệt đất mũi gật gật đầu tán thưởng rồi vỗ vai tôi, khẽ khàng nói qua hơi men: “ Cậu thấy đó, cây đước miệt này gốc có vững, cây mới bền được. Cũng như tụi tôi, cây phải sống được trong môi trường khắc nghiệt đã, rồi mới nghĩ đến chuyện phát triển”. Ờ nhỉ, chuyện cây sao giống chuyện một cộng đồng dân tộc; dân có giàu nước mới mạnh? Chuyện cây sao giống chuyện người cầm bút phải sống thật rồi hãy nghĩ đến chuyện viết, viết vì cuộc sống, viết để xứng đáng với cuộc sống mà mình và dân tộc mình phải gian lao, đổ mồ hôi, thậm chí phải đổ rất nhiều xương máu mới có được?
Trên đường về, ngồi thu lu tránh cơn mưa đầu mùa mà đã dữ dội trong lòng con xuồng nhỏ, đưa tay chỉ lên một cành đước sà ra phía mặt sông tua tủa những trái đước tượng hình những cây bút, sắp lao thẳng xuống nước, Nguyễn Thanh khàn khàn tâm sự với tôi: “Tôi và các bạn tôi ở đây hầu hết là những cây bút đước mộc mạc, trời cho mọc lên để viết về vùng đất này đấy. Các cậu có ai muốn thành đước thì về với Cà Mau đi. Ở xứ nước nổi này, ngay cả rượu cũng có vị mặn của nước biển. Còn người thì, khỏi phải nói, mặn mà hơn bất cứ  nơi đâu”...
                                       

 
 
 
 
 
 
 
 
                        TRUYỆN NGẮN

                 
                         SỚI VẬT 
 
      Thuở ấy, tôi học lớp bốn. Vào đúng lúc làng tôi mở hội vật, tôi nhận được một lời thách đấu. Chuyển lời thách đấu là Cu Tèo. Cu Tèo bảo tôi: “Thằng Mẹo nó tức mày lắm. Nó kể mày bảo nó thất học, nhà nó chỉ ăn khoai, năm nào cũng vay lúa nhà mày”. Tôi vặn lại: “Thì không đúng vậy sao? Ấy là tao còn chưa nói nó chỉ có một cái quần đùi”. Cu Tèo cười nhăn cả cái lợi sún: “Thế mà nó bảo mày nói láo. Nó quyết đấu cho mày hết nói láo”. 
      Theo tục làng tôi, nếu có ai thách đấu mà người kia từ chối thì bị coi là hèn. Tôi buộc phải nhận lời thách đấu của thằng Mẹo mà tôi chẳng muốn tí nào. Tuy cùng tuổi Mão, tôi cao hơn hắn hai cái đầu. Chơi trốn tìm, tôi đứng trước, thằng Mẹo nấp sau lưng, đố đứa nào tìm được hắn nếu hắn không khúc khích cười.
      Lúc ra sới, trống mới gióng một, Mẹo đã múa may, hò hét. Trống đã dứt ba hồi, tôi cũng chẳng muốn ra. Bố phải khẽ bấm vào lưng tôi, tôi mới miễn cưỡng bước ra chậm rãi. Còn chín tiếng trống dạo sới nữa, tôi không ra, Mẹo đương nhiên thắng. Tiếng la ó, tiếng cười rộ trong tiếng trống thúc. Mẹo vờn quanh tôi như con mèo vờn con chó săn. Hắn lao vào ôm lấy ngang lưng tôi định nhấc bổng lên. Tôi đứng im, cười sằng sặc. Tôi tin là tôi chỉ ngã ra đè lên Mẹo, là hắn thua rồi. Đúng lúc đó Mẹo nới lỏng tay, thấp người xuống, cái cằm nhọn cứng hất ngược lên. Tôi choáng váng, từ từ đổ xuống. Mẹo một tay giữ lưng tôi, tay kia cầm chặt cánh tay tôi, chân phải hắn khẽ quét ngang qua chân trái tôi. Tai tôi ù ù như có gió bão. Hạ bộ tôi như thọt lên cổ. Tôi tắc thở.
      Chiều thì tôi tỉnh lại nhờ gừng giã với rượu và nước tiểu đắp vào chồ hiểm. Bố tôi lắc đầu, cười như mếu: “Cha thằng Mẹo! Nó chơi bẩn. Đánh vào chỗ hiểm... Ác quá!”.
     Lần ấy, vì chơi ăn gian, Mẹo không được làng cho thắng cuộc. Cũng chỉ bị cấm sới (cấm thi đấu tới tuổi 45) chứ chưa bị khép vào tôi bán sới, đuổi ra khỏi làng, nhưng tôi cũng bị hắn làm cho ê mặt.
      Năm tôi và Mẹo mười tám tuổi, tôi học hết cấp ba, Mẹo là anh thợ mộc có tiếng trong vùng. Hắn nổi tiếng vì khéo đóng tủ chè, tủ đứng khảm trai... Cũng nổi tiếng về sự ngỗ ngược. Dạo ấy, tôi thấp hơn hắn một cái đầu; dáng điệu thư sinh, da trắng mịn.
      Gần nhà tôi cô bé Ngọc. Cô bé là bạn em gái tôi. Cô rất hay sang nhà tôi, thì thụt trò chuyện, cười rúc rích dưới bếp và còn cả gan nói với cái Nụ rằng cô rất muốn làm chị nó. “Chuyện trẻ con!”, tôi nghĩ vậy. Dĩ nhiên, tôi không để ý đến cô. Một cô gái khá xinh. Chỉ tội còn bé quá. Như cái Nụ, em tôi...
     Chẳng hiểu thế nào, một hôm, tôi đi ôn thi đại học về đến ngõ, Mẹo đã chắn ngang trước cổng, giọng lạnh băng: “Theo tao. Tao muốn nói chuyện!”.
     Tôi nhếch mép, không trả lời, lầm lũi theo hắn ra diệc mạ cuối làng.
            Chờ tôi ngồi xuống cỏ, Mẹo ngồi xuống bên cạnh. Hắn không nói, mắt ngước nhìn lên vầng trăng mới ló sau lũy tre. Tôi phải lên tiếng trước: “Này, Mẹo! Mày muốn nói chuyện gì với tao?”. Hắn bỗng oà khóc. Một lúc sau, hắn bảo: “Tao muốn lấy vợ”, “Thì mày cứ lấy. Sao lại hỏi tao?”, tôi nói. Hắn có vẻ ngượng nghịu: “Nhưng mà...”. “Sao?”. “Tao muốn lấy... người yêu của mày!”. Tôi cười: “Tao làm gì có người yêu mà mày lấy?”. Hắn há hốc miệng, rồi cúi xuống, ngẫm nghĩ: “Sao cái Nụ em mày nói cái Ngọc để ý mày?”. “À, cái này thì tao không biết. Con Ngọc nó còn bé...”. “Thật ư? Mày nói thật ư?”.
      Hắn lặng đi một lúc. Bỗng hắn đứng dậy, lạnh lùng bảo tôi: “Tao với mày đều là đàn ông. Tao biết con Ngọc để ý mày mà mày không biết. Còn tao, tao lại phải lòng con bé trong lúc nó lại hờ hững với tao. Thôi thì...”.
      Hắn dừng lời, bối rối. “Thì sao?”, tôi dồn. Hắn lại ngồi xuống: “Tao và mày phải đấu thôi. Thằng nào thua, cấm được chơi với con Ngọc”.
      Tôi từ chối. Hắn bật dậy, nhổ toẹt trước mặt tôi một bãi nước bọt và buông một câu rủa: “Mày không xứng đáng là trai làng Thượng Võ”. Tôi tự ái, cũng đứng dậy, xắn tay áo: “Thôi được, tao tha tội cấm sới cho mày!”
      Lòng tự ái khiến máu tôi sôi lên. Tôi và Mẹo chờn vờn dưới ánh trăng suông, lao vào nhau rồi lại lùi ra. Cả hai đều đã trơn nhẫy. Mẹo bất ngờ chồm lên, định ôm lấy bụng tôi, lật ngược qua đầu hắn. Miếng vật này cực hiểm, chỉ dùng cho kẻ tử thù. Không còn cách nào khác, tôi vòng tay qua đùi phải khiến hắn nghiêng về một bên, rồi bất ngờ húc đầu vào chấn thủy hắn, tay kia rà sát đất, chặt mạnh. Mẹo đổ vật xuống, đầu đập vào bờ ruộng mạ khô nẻ, giãy đành đạch. Tôi chạy lại đỡ hắn dậy thì bị một bãi nước bọt tanh máu nhổ vào mặt. Hắn lồm cồm bò dậy, ôm mặt khóc...
      Tháng sau, hắn đi bộ đội, tôi vào đại học. Cả hai chúng tôi dời làng Thượng Võ mà không có cô Ngọc đưa tiễn.
      Năm 1972, lúc vào bộ đội, khi chiến đấu ở trung đoàn 48, tôi nghe tin Mẹo đã là đại đội trưởng, chiến đấu dũng cảm lắm, bị thương rồi chuyển ra Bắc.
      Sau năm 1975, tôi trở về làng. Biết tin Mẹo đã lấy Ngọc, tôi mừng lắm. Tôi đến thăm nhưng không có lần nào gặp được vợ chồng hắn. Nghe nói hắn đưa vợ lên rừng cùng một tốp thợ xẻ.
      Hắn tìm được địa chỉ của tôi, gửi một bức thư với mấy dòng chữ nguệch ngoạc, xin đấu lại, hắn còn thanh minh lý do viết thư chậm. Hắn chỉ dám gặp mặt khi tôi nhận lời quyết đấu. Mà hắn lại không biết chữ. Hắn đã cố học vần để viết thư. Táo gan hơn, hắn chất vấn tôi: vì sao không lấy vợ? Và theo nguyên văn thư Mẹo mọi chuyện cần được hai năm rõ mười. Ngọc phải thuộc về ai, mập mờ mãi khổ thân Ngọc.
      Tôi không trả lời. Mọi việc đã qua rồi. Vì tôi và vợ hắn không có mối quan hệ nào? Tôi đã tha thứ cho hắn.
      Còn tôi, vì một lý do không tiện nói ra đây, tôi không thể lập gia đình riêng. Nhưng rồi tôi lại viết thư nhận lời thách đấu. Bức thư chỉ một lời ấy. Vâng, tháng tám này tôi sẽ về quê. Tôi sẽ lại mặc quần đùi đỏ, chít khăn đỏ. Mẹo cũng vừa hết hạn cấm sới. Và tôi sẽ phải làm thế nào để thua hắn đây? 

 
 
                        CHỊ MƠ XÓM RUỐI
 
      Sau năm năm phục vụ trong quân đội, tôi giải ngũ rồi trở thành anh sinh viên già. Đã là trưởng tràng của lớp, lại còn cầm chịch đội chèo của trường.
      Có một đôi mắt Thị Mầu ám ảnh tôi. Tôi tìm gặp và cô bé gật đầu liền. Cái gật đầu sao cũng quen quen. Thì Thị Mầu nào chẳng lẳng lơ như thế.
            Hết kỳ một, vở chèo “Quan Âm Thị Kính” do tôi đạo diễn và đóng vai Thị Kính, được công diễn ở hội trường. Hay dở thế nào tôi không tự phán xét. Chỉ thấy lúc diễn viên ra chào khán giả, người ta đứng cả dậy. Đám sinh viên các khoa Lịch sử, Triết học, Pháp lý, Toán,... đồng thanh rao: “Lấy! Lấy nhau đi! Lấy!...”. “Ai lấy ai?” tôi ngơ ngác hỏi Huệ - cái cô Thị Mầu ấy. “Em. Lấy em. Anh ấy...”- Huệ đảo đôi mắt Thị Mầu, liếc nhanh một cách cố ý về phía tôi. Đám đông càng hét: “Lấy! Lấy nhau đi...”. Ơ, tôi gật gật đầu. Huệ cũng gật gật đầu. Cả hội trường cười như vỡ chợ...
      Tôi bỗng sực nhớ mười mấy năm về trước, sân đình làng Thượng như ong vỡ tổ vì ông lão Ấm say. Lão cầm cái vỏ chai đã đập vỡ, gai góc, sắc lẹm, múa may trên sàn diễn, đòi giết thằng Xăm, con trai lão theo con Thị Mầu Mơ mặt tổ ong bầu không có bố. Giết con đĩ Mơ thối thây. Trong lúc nhốn nháo, tôi vô tình chạy ngang qua chỗ chị Mơ. Ao từ thân vướng vào rễ đa. Tôi ngã sõng soài, kéo tuột cả cái áo diễn của chị. Lão Ấm say nhè cái áo mà nện. Nhưng mới được một cái, lão tá hỏa, hơi rượu tưởng như bay hết sạch khi nhận ra tôi, thằng bé vẫn đi chăn trâu với lão. Lão lấy thuốc lào rịt vào chỗ vai tôi chảy máu. Rồi bế thốc tôi lên, vừa đi về phía nhà tôi vừa khóc.
      Nhà chị Mơ ở cuối làng. Chị ở với bà cả Ruối. Tôi còn bé, loáng thoáng biết bà cả Ruối không có chồng. Nhà nghèo, chị Mơ ngoài vụ cấy, vụ gặt đi làm thuê nhiều việc, ngày dưng tháng rỗi, chị chăn trâu cho nhà lão Ấm. Ai ngờ anh Xăm con lão đi bộ đội về, thoát ly hẳn hoi, nghỉ được dăm ngày phép, dở dáy phường chèo, hát xướng hư thân rồi say chị Mơ như điếu đổ, ngỏ ý bỏ cơ quan nhà nước về quê làm ruộng chân lấm tay bùn. Lão tức lắm, tự chăn trâu lấy. Trước đây, con trâu đực nhà tôi khi đi ngang qua nhà lão Ấm, cứ rống lên “Ngò! Ngò...!” gọi con trâu cái. Cũng lúc ấy, chị Mơ dắt trâu ra. Hai chị em cưỡi trên lưng mỗi con, lững thững đi ra Cồn Rùa. Thả trâu trên cồn, mặc kệ cho chúng đùa giỡn, đầm mình dưới các vũng nước, hai chị em chơi đủ mọi trò chơi trẻ con. Chị Mơ tầm tuổi chị Cả Ngan nhà tôi. Thằng cu Tính con chị cả gọi tôi bằng cậu cũng đã bằng tuổi tôi. Lúc quên, Tính gọi tôi là mày, xưng tao, chị tôi biết, cốc cho mấy cốc to bằng quả ổi. Láo, như vậy là láo! Kim chỉ phải có đầu đuôi chứ. Vậy mà chuyện ấy chị Mơ chả thèm chấp. Chúng tôi nặn các ông bụt đất sét, chọn chỗ dốc đứng giữa cồn và ruộng, khoét một cái chùa, xếp các ông bụt vào. Ngày nào cũng cúng, khi thì củ khoai, khi thì nắm ngô rang. Có hôm tôi coi trâu, chị Mơ mò ở ruộng bắt được cá, hai chị em lấy cỏ khô đốt, nướng cá cúng thần. Rồi đến lúc chúng tôi dựng một ngôi đình con con trên  một cái mả bằng các cây điền thanh, tôi đã lấy cây đa bánh tẻ cắm xuống bên cạnh, giả làm cây đa thì chị Mơ bảo thiếu cái sân đình. Tôi bảo cứ coi bãi đất trống xung quanh là sân đi, chị gật đầu. Lại kêu thiếu cái phường chèo. Không có phường chèo thì sân đình chỉ là bãi cỏ thôi, chị bảo thế. Vậy là hai chị em diễn chèo trên cái sân đình mênh mông. Tôi đóng hết Thị Kính lại đóng anh Nô, chị sắm vai Thị Mầu... Tôi thuộc vở chèo này từ ngày ấy. Có lúc, hai chị em đóng vai vợ chồng. “U em ơi, nay anh...”, “Bố cu hời, mai bố cu đi...” lời cứ quấn vào nhau. Tôi bảo mình không biết sắm vai, chị lại khen giỏi và bảo: “Giá mà em lớn, thế nào chị cũng lấy em”. “Thì chị cứ lấy em. Ai cấm chị lấy trẻ con?”. Chị không nói, rân rấn nước mắt: “Nhưng mà... chị rỗ tổ ong bầu. Xấu, xấu lắm!”. “Em thấy chị đẹp” tôi nói thế và chị cười khanh khách, ôm lấy tôi: “Bồng bồng cõng chồng đi chơi...”
      Bỗng một hôm, sau khi chơi, chị buồn buồn bảo: “Chị sắp lấy chồng”. “Lấy ai?”. “Anh Xăm ấy, em. Anh ấy hát chèo cũng hay lắm”. Tôi khóc. Một lúc sau, anh Xăm đi be bờ ruộng, mang cho tôi một gói lạc luộc, bảo tôi coi trâu cho anh chị đi mò cá thì tôi nín. Hôm ấy, hai người đi mò cá ở đâu tối mịt mới về, tôi đưa trâu về nhà muộn, bố tôi đã toan đi tìm. Phía nhà lão Ấm say, anh Xăm và bố cãi nhau to lắm. Lão dọa sẽ tự tử...
      Lão Ấm say tự chăn trâu, chị Mơ vào đội văn nghệ xã. Anh Xăm lấy cớ đi phong trào, về xã công tác, cũng nhận sắm một vai như tôi đã kể. Không biết có phải vì ê mặt hay không, chị Mơ bỏ làng đi khai hoang. Anh Xăm chịu lời bố, lấy cô Nguyệt làm y tá ở trạm xá, sinh liền tù tì một lô con gái. Khi tôi ở bộ đội về, bố tôi bảo đi xem mặt cô Liên, con gái đầu của anh Xăm.“Con bé xinh mà đảm. Vả lại chú Xăm rất mến anh”, bố tôi nói và châm lửa vào nõ điếu, rít lên sòng sọc. Chiều bố, tôi có đến, gọi anh Xăm ngày xưa là chú. Rồi về.
      Hết năm đại học thứ nhất, tôi đưa Huệ về trình bố mẹ. Bố tôi cứ ớ người ra: “Ờ, ờ, ờ...” và chăm chú nhìn Huệ. Những ngày ấy, chú Xăm đi bè gỗ không có nhà. Liên đến chơi với mẹ tôi, có lẽ để kín đáo xem mặt Huệ thế nào. Về sau, nghe một người bạn kể lại, Liên về nhà khóc mãi, mẹ cô hỏi thì bảo: “Sao lại có người giống con đến thế? Có điều người ta thì giỏi giang...”.
      Khi sắp cưới nhau, tôi mới được về nhà Huệ mãi trên Hà Giang. Khuya mới tới nhà. Cửa mở. Tôi đứng như trời trồng trước mẹ Huệ. Trời ơi, chị Mơ! Đôi mắt Thị Mầu và khuôn mặt rỗ hoa... Chị lặng người khi Huệ hỏi: “Bố về chứ mẹ?”. Trong nhà, người đàn ông bước ra, tươi cười, ra dáng một ông bố vợ tương lai, nói: “Mời cậu ngồi...”. Tôi rụt rè ngồi xuống phản. Tôi nhìn ông. Có lẽ cái nhìn ấy khiến ông bật lên mà không thành lời, chỉ “A !” một tiếng. Chị Mơ trở lại, khẽ nói: “Ông Xăm, ông mời cậu Phong uống nước đi!”. Rồi quay sang Huệ đang ngẩn người vì ngạc nhiên, chị bảo: “Cậu Phong là bạn thiếu thời của bố mẹ đấy, con ạ”.               
      Ô hay, cái tích chèo bãi cỏ chăn trâu chưa vãn, còn hát đến bây giờ hay sao?

 
 
                                    LÃO ĂN MÀY
                                                                                                            Tục truyền ông Tổ làng tên là Rách. Khi ông băng, do có công bỏ tiền lát đá xanh cả hai bên đường xuống miếu thờ Thành hoàng, con cháu được đặt cái bát nhang ở phía sau, bục thờ phụ trong miếu hưởng hương khói thừa ơn trên. Đương nhiên, được đổi tên là Danh. Theo gia phả, tôi thuộc đời thứ sáu của dòng họ ăn mày nổi tiếng này.
      Làng Đồng Côi tôi không nghèo. Vào kỳ nông nhàn, người trong làng vơi đi quá nửa. Người có nghề xây đi xây cất nhà thiên hạ, người có nghề mộc đi đóng tủ, đóng cối xay, người biết buôn bán đi buôn bè, buôn thúng bán bưng... Đến mùa, thóc lúa rủng rỉnh, tiền bạc leng keng, người ta lại lo mở hội chơi, lo mở phường hát khoe làng, mở sòng sát phạt nhau.
      Có một năm tôi không được góp mặt trong dịp hội hè sau vụ mùa. Theo lệ làng, năm ấy đến lượt tôi và anh cu Vận, anh họ tôi phải đi ăn mày chuộc lỗi cho làng. Anh cu Vận lúc ấy chừng hơn ba mươi, tôi lên mười. Hai anh em theo lời bố tôi căn dặn phải xin được nhiều tiền, phải chi tiêu tằn tiện, bóp mồm bóp miệng, đem đủ tiền nộp làng xong, bèn đóng giả làm hai bố con, bị gậy lên tỉnh, vốn liếng là bốn nắm cơm và một gói muối.
      Anh cu Vận dẫn tôi đến một xóm nhỏ ven bờ sông thuê nhà ở. Chủ nhà nhìn anh, cười hề hề: “Năm nay có thằng nhóc tì mới hả?”. Tôi ngớ người. Chờ lúc chủ nhà xuống bếp, anh bảo: “Năm nào mà tao chẳng đi. Muốn phất, không có gan ăn cướp thì đi ăn mày”. Khoảng ba giờ sáng, tôi đang rửa mặt, anh cu Vận đứng lù lù sau lưng, bất ngờ thả tung một gói tro bếp vào đầu tôi. Tôi bị tro vào mắt không mở mắt được. Dụi mãi, đỏ cả mắt. Anh bảo: “Được rồi. Đánh bộ này vào là thành ăn mày!”. Một bộ quần áo hôi chưa từng thấy. Nó được lôi ra từ một góc phên liếp của nhà trọ. Rách mướp. “Chú mày mà giãy giụa là chim cò thò ra ngoài hết đấy. Nó mổ nhẹ là nát vải ngay”. Một lát sau, anh trở vào nhà. Lúc trở ra, trông rất giống một ông lão. Tay đen đúa, chống gậy, giọng lại khàn khàn. “Đi”, anh giục.
      Tới đầu ngõ, anh dắt tôi vào một tiệm phở. Tôi len lén không dám bước vào thì anh véo cho một cái: “Ngu. Vào ăn trả tiền chứ đâu thèm xin mà sợ. Vào!”. Chủ quán đon đả: “Ông mới ra? Mở hàng thế này hôm nay đắt phải biết!”. Nói rồi không chờ anh cu Vận gọi, chủ quán băm băm, thái thái cành cạch trên quầy. Nước dùng điếc cả mũi. Hai tô đặc biệt. “Anh đãi chú mày đấy. Anh có hào đây!”. Lần đầu tiên tôi biết phở. Gắp hết bánh và thịt bò, tôi bê cả bát lên ngang mặt húp xùm xụp. Ngon quá! Xong phí quá! Những năm hào một bát. Năm hào là một cân gạo. Cả nhà tôi mỗi ngày cũng chỉ có một bơ rưỡi, tính ra là một cân hai gạo, còn thì khoai, dong độn vào ăn cho chắc bụng. Vậy là tôi đã ăn một cân gạo!
      Hai anh em ra bến xe ô tô. Bến còn vắng tanh. Anh bảo: “Trải cái chăn xuống đây nằm. Ta mua vé đi Hà Nội”. Đi mãi Hà Nội ăn mày, tối lại về? Lạ thật! Nghĩ vậy chứ tôi chẳng dám ho he. Gần sáng, sau anh em tôi lố nhố người xếp hàng. Rồi hai anh em mua được hai vé, mỗi vé hai đồng. Có khối người không mua được vé. Bỗng anh ngã khuỵu xuống, ôm lấy bụng. Người cho cao xoa, người hỏi đi đâu... Anh cu Vận khàn khàn kêu không được, bụng đau quá. Ai cần thì để lại vé cho. Dĩ nhiên có người mua lại. Giá vé chợ đen ba đồng, người ta thương, cho một đồng nữa là bốn. Tôi dìu anh xiêu vẹo đi bên cạnh. Xe chạy. Anh ngồi bệt xuống đất, cười: “Lãi bốn đồng. Trừ một đồng phở, còn ba. Số chú mày thế mà tốt đáo để. Thôi vào đây anh hút điếu thuốc lào rồi anh em mình ra ga”. Anh dắt tôi vào quán nước. Anh gọi một chén trà Thái, mua cho tôi một cái kẹo lạc năm xu. Vị chi mất một hào. Anh rít sòng sọc, lơ mơ nhả khói...
      Cuối năm ấy, mãn hạn ăn mày, tính ra tôi và anh kiếm được dư ra gần một ngàn bạc. Anh bảo nếu gom mua vàng cũng được mười mấy đồng cân thừa sức mua hai cái nhà của lão chủ trọ. Không về làng nữa. Cái làng ăn mày! Anh đưa cho tôi hơn ba trăm: “Về làng, chú em bảo bị mất trộm hết. Anh Cu sợ quá, bỏ làng đi rồi...”. Tôi van anh thế nào anh cũng không nghe. Thế là tôi bảo: “Anh em sống chết có nhau một năm. Anh cầm lấy mà đi...”. Bịn rịn mãi, cu Vận ép tôi lấy mười đồng tiền đi xe. Tôi đã mười một. Đi ăn mày về làng với hai bàn tay trắng.
      Theo lời cu Vận, tôi nói anh chết rồi. Làng đưa đám giả, đắp một cái mộ giả bên đường. Ai đi qua cũng ném vào một hòn đất, hòn gạch... Mả cu Vận dần dần to như một đụn rạ.
      Nhờ hưởng lộc sáu đời ăn mày tôi được ăn học và hành nghề ở thành phố. Lại mua được nhà. Người chủ nhà ủy quyền cho người môi giới cùng tôi lo giấy tờ chu tất. Giá có vẻ rẻ, vợ tôi rất lấy làm hài lòng.
      Một lần, thụ lý một vụ lừa đảo lớn, tôi đã vào nhà giam gặp phạm nhân. Bao nhiêu năm tháng đã qua, song khi vừa bước vào cửa, tôi giật thót người: Lão cu Vận. Lão co rúm người lại, mặt cụp xuống. Rồi lấy lại bình tĩnh rất nhanh, cười cười: “Đất hẹp. Đi đâu rồi cũng gặp chú!”. Rồi thản nhiên, bảo: “Chú bào chữa cho anh chứ. Anh sẽ trả lại chú số tiền mượn ngày xưa. Lãi ròng tính ra cũng đến mấy chục cây vàng rồi đấy”.
      Tôi hỏi làm sao đến nông nỗi này, cu Vận không giấu giếm kể rằng sau giải phóng, với số tiền ăn mày để ở góc vườn nhà, cu Vận đã vào Nam tậu rất nhiều đất cát. Gặp thời, lão giàu lên như diều gặp gió. Mai danh ẩn tích đã lâu, lão hứng chí lập một công ty trách nhiệm hữu hạn, mua vàng bạc của các công ty khác rồi quịt luôn. Số tiền lên đến bạc tỉ...
      Cu Vận bất ngờ nắm lấy tay tôi và bảo: “Nói vậy thôi. Tôi chả phiền chú. Chú cứ để tòa luận tội. Tội ăn cướp là cùng. Hơn sáu mươi rồi! Tôi chả thiết gì nữa...”
      Lúc tôi ra về, lão cu Vận lại nắm lấy tay: “Chú đừng lo. Tiền bạc, nhà cửa, tôi đứng tên cả. Ai làm người ấy chịu. À, còn món nợ chú, tôi đã bảo thằng Cả mang đến tận nhà”.
      Về sau, lão cu Vận chết trong nhà tù. Con cái lão theo di chúc xây cho lão một cái mộ rất to. Mộ xây bằng đá, cao hơn nhiều lần cái mộ anh cu Vận ở làng Danh.
      Riêng về lời hứa của lão chưa có ai thực hiện. Tôi hầu như cũng đã quên.
      Cách đây hai tháng, tôi đào móng làm lại nhà. Cả nhà lấy làm ngạc nhiên khi đào được một số vàng đúng bằng số lượng tiền tôi đã mua căn nhà này. Số vàng ấy gói trong một mảnh vải mục mà tôi nhớ đã trông thấy ở đâu đó lâu lắm rồi...                    
 
 

 
 
                                    BÀ CHÁU 
 
      Khi ba Ly mất, bà nội ôm lấy Ly, nước mắt trào ra từ hai hố mắt sâu thẳm, mờ đục. Vai Ly đẫm nước. Lạnh toát. Thế là hết! Hỡi lá xanh rụng trước lá vàng!
      Má Ly mất lúc Ly tròn ba tuổi. Ba Ly ở vậy nuôi con và mẹ già. Xích lô, rượu, xì ke... đã giết chết ba Ly. Bà nội và Ly sống sao đây?
      “Con dắt nội đi bán vé số”.
      Một mù lòa, một bé tong teo vừa bán, vừa xin.
      Đói. Rách.
      “Nhưng lúc nội chết, bán ai mua?”.
      “Thôi con ạ, phải đi học lấy cái chữ, cái khôn để độ lấy thân”, bà bảo Ly.
      Thế là Ly đến trường. Ly đã học tới lớp ba. Ly vẫn bé tí như cái kẹo.
      Có một dạo, tự nhiên Ly giở chứng. Nó không dắt bà đi bán buổi tối nữa. Đi học chiều về, Ly ăn vội ăn vàng, bỏ cả rửa đĩa chén, tót đi đâu mất. Bà nội Ly sờ soạng đến cầu rửa, vừa rửa chén vừa lẩm bẩm một mình.      Khuya. Ly về. Bà hỏi. Ly ôm lấy bà, hôn lên khuôn mặt nhăn nheo cười khanh khách.
      Bỗng một hôm, bà nắn túi áo cháu. Bàn tay người mù không đánh lừa bà: trong túi áo Ly có hai tờ năm mươi ngàn còn nguyên nếp. Nỗi lo sợ khiến bà té ngã. Bé Ly giật mình tỉnh dậy, chạy lại đỡ lấy bà nội.
      - Nội ơi ! Nội có làm sao không?
      - Không, không hề chi...
      - Nội ơi, nội có đau chỗ nào không?
      - Có, chỗ này...
      Bà xoè bàn tay. Hai tờ giấy bạc hắt ánh xanh lên khuôn mặt Ly. Ly “á” lên một tiếng: “Của con! Của con phải không nội?”.
      Bàn tay bà nội từ từ nắm lại.
      - Ly! Nói cho nội hay, con lấy tiền này ở đâu? Con lấy của ai?
      Ly im lặng.
      - Sao con không nói? Con lấy của ai? Trời ơi! Trời bắt tội con...
      Bà oà khóc.
      Ly mếu máo:
      - Nội ơi, con không lấy của ai.
      - Vậy con nhặt được? Vậy ai cho con?
      - Con được thưởng.
      - Được thưởng! Nhưng ai thưởng? Bà nuốt nước mắt, thở dài.
      - Các thầy ở lớp học tình thương thưởng cho con mà.
      - Nội không hiểu. Con kể nội nghe đi... Bà dỗ dành.
      Ly kể thì thầm. Nó sợ người khác nghe thấy bí mật của hai bà cháu.
      Đúng nhưng thế, buổi tối Ly tới lớp học tình thương do quận mở, nhằm giúp đỡ những trẻ nghèo. Trò được học miễn phí, được phát tập vở. Trò nào học giỏi lại còn được cấp học bổng nữa. Sự tính toán trẻ thơ của Ly đã đúng. Nó ghi danh học lớp một. Nó đã là học sinh giỏi, được lãnh học bổng. Nó tin bằng cách này, cộng với tiền lời vé số mỗi buổi sáng, hai bà cháu sẽ sống qua ngày và nó sẽ học tới đại học.
      Bà nội ôm Ly vào lòng, thì thầm với cháu.
      Ly ngước mắt nhìn khuôn mặt bà. Mắt bà ngấn nước, ngời lên như hai giọt sao xa...
      Vâng lời bà nội, Ly đem số tiền học bổng trả lại cho lớp học tình thương.  Bây giờ, vào các buổi sáng hay buổi tối, trên các nẻo đường Tôn Đản, Xóm Chiếu hay những con hẻm tối tăm lầy lội như giăng mắc cửi của quận Bốn, khi nào gặp một bé gái chừng mười tuổi dắt một bà lão mù bán vé số, bạn nhớ mua giúp một tấm nhé. Có thể, đó là hai bà cháu Ly đấy.
 

 
                                    LỄ VẬT MÁU
 
      Con trâu nhà Cờ trán khoáy tam tinh gan lì như chủ nó. Có lần Cờ mắc lỗi, bố lấy roi mây đánh mấy chục cái vào mông, Cờ chỉ chảy nước mắt, người nảy lên theo nhịp roi chứ không khóc. Bố lắc đầu, bỏ mặc, lấy rượu ra uống. Ông say mê man. Mẹ Cờ phải bôi vôi vào bàn chân, hòa thuốc cảm đổ vào miệng, ông mới tỉnh dần. Tỉnh rượu, ông vất cây roi mây vào bếp lửa. Loài trâu cổ nải, mắt ốc bươu, khó dạy ông lẩm bẩm. So Cờ với trâu thì sai rồi. Trâu nhà Cờ bụng thon như bụng ngựa; chân hai gióng thon lẳn; mông như hai cái lồng bàn úp... Cờ rúm ró trên lưng trâu như con mèo hen trên lưng con voi. Ấy vậy mà Cờ thi trâu lồng nhất nhì trong làng đấy.
      Chỉ thua thằng Cẩm Cóc. Vì trong làng không có con trâu đực nào nghịch ngợm, tinh ranh như con trâu nhà Cóc. Có lần, nó phóng lộp cộp, lộp cộp trên đường đất thịt, bất ngờ nhảy ào xuống ruộng, giả ngã chổng bốn vó lên. Nhanh như Cẩm Cóc mới nhảy kịp khỏi lưng trâu, tránh hai cái sừng nhọn hoắt có thể chọc thủng bụng ngay trong nháy mắt. Con trâu lăn qua lăn lại mấy vòng rồi chồm lên bờ, hai chân sau như kiễng lên. Lúc nó hạ hai chân, thì phóc một cái, Cẩm Cóc đã ở thế kẹp hai chân vào hai bên lườn nó, tay nắm ghì lấy cái u chai ở vai, vừa hét vừa quất roi dâu đen đét...
      Chiều nào Cờ và Cóc cũng rủ nhau đi chăn trâu. Hai đứa đã học lớp bốn, tuy khác lớp nhưng rất thân nhau. Thả trâu trên bãi tha ma, hai đứa hôm thì mò cá dưới đìa, hôm thì tìm đào ổ chuột. Hai con trâu thung dung gặm cỏ, đuôi ve vẩy. Thi thoảng, phởn chí, chúng đuổi nhau; rồi lại cọ sừng vào hông, vào mông nhau âu yếm. Hôm trời nóng, chúng cùng đầm mình trong một vũng nước đọng trên mặt đất, đuôi ngoe nguẩy vẩy bùn nhão lên nhau. Thân thiện y như một đôi bạn hiền.
      Thế mà, cuối tháng ba, vào dịp xuân phân, một trong hai con vật hiền lành ấy sẽ bị giết. Ngay sau hội chọi trâu làng Vớ. Tháng tám năm trước, trâu nhà Cẩm Cóc và trâu nhà Cờ đều đứng đầu hai khóm. Trận chọi trâu này chúng sẽ gặp nhau. Và, con nào thua cuộc, sẽ trở thành lễ vật dâng cúng thần làng. Đi xem chọi trâu, lần nào Cóc và Cờ cũng hò hét đến khản cả giọng vì hứng khởi. Cả sướng nữa. Nhất là lúc cầm miếng thịt trâu thui đem về cho mẹ xào với mớ rau cần mới nhổ từ ao bùn chằm lên. Cả hai không hiểu nổi tại sao người chủ trâu thua đã được làng trả tiền sòng phẳng như mua một con trâu ngoài chợ lại có thể giọt vắn giọt dài, từ chối nhận miếng thịt gọi là lộc làng. Bây giờ thì cả hai lờ mờ hiểu.
      Theo thông lệ, trước trận chọi, mỗi con trâu được thưởng một cái bánh chưng; sau đó, người ta sẽ đổ ba lít rượu vào hai cái ống nứa vạt nhọn, nâng đầu trâu lên, dốc vào miệng. Bánh để lấy sức. Rượu để tạo sự liều lĩnh, say máu. Chính rượu đánh thức thú tính của con vật nuôi hiền lành, hai kẻ say sẽ lao vào nhau như hai con thú hoang, man dại. Đầu chạm đầu cùng cục nghe như sắp vỡ hộp sọ, sừng chạm sừng chát chát, toé ra mùi khét lẹt. Rồi máu me đầm đìa. Rồi đến lúc một cái sừng nhọn như cái đòn càn tre cật xuyên bụp vào bụng con kia. Con trâu thắng cuộc hăng máu lắc lắc hất đầu lên, ruột con thua sổ ra cùng mùi phân trâu hăng hắc, cay cay... May mắn hơn, mới chọi vài chọi, một con sẽ bỏ chạy. Dĩ nhiên là kẻ thua xấu số ấy vẫn bị giết. Có điều người ta đuổi bắt nó lại, trói vào cũi và chọc tiết. “Ò... ò...ò”, nó rên rỉ, nước mắt chảy ròng ròng, mắt mở trừng trừng không khép được...
      Ngày hội chọi trâu càng gần, bố Cờ càng hay uống rượu. Ông buồn. Thì uống. Và lại say. Lại khổ mẹ bôi vôi, phục thuốc cảm hòa nước. Chỉ hai con trâu là chả thèm để ý, vẫn theo hai đứa ra bãi tha ma quen thuộc. Hôm nay có chuyện gì mà Cờ và Cóc ngồi rì rầm như hai ông cụ non...
      Vào đúng ngày hội, hai ông cụ non ấy được chít khăn đỏ, tay hai đứa cầm một lá cờ đuôi nheo cũng màu đỏ, dắt hai con trâu ra sới. Khi hai chú bé và hai con trâu ra đến giữa sới, cả làng vỗ tay ầm ĩ. Đẹp quá! Đầu trâu bôi phẩm đỏ, lưng trâu bôi phẩm xanh, bụng và chân trâu hai đứa bôi vôi trắng. Trông ngộ ngộ... Ông chủ hội đi giữa, hai cô gái làng bưng hai khay bánh chưng đi hai bên. Ông chủ hội trao bánh cho Cờ và Cóc. Chúng cho trâu ngoạm một miếng rồi úp cả hai bàn tay vào phần gạo đỗ, nhét vào miệng trâu. Sau đó thì bố Cờ và bố Cóc đổ rượu cho trâu. Xong, ông chủ hội sai họ đưa trâu về hai đầu sới, chờ trống gióng. Trống gióng. Người la. Hai con trâu lao vào nhau. Hục hặc. Cộp. Chát. Huỵch... Đất tung lên. Bụi mù... Có lúc, người ta chỉ thấy những mảng trắng xanh, đỏ lấp loáng, lấp loáng. Hai con trâu ngày thường là đôi bạn, giờ như hai thằng say rượu, quên hết tất cả, chọi nhau như kẻ tử thù. Tim Cờ và Cóc thót lại. Bố Cờ và bố Cóc quay mặt đi. Máu đã loang đỏ trên hai thân trâu...
      Bỗng Cờ bấm vào tay Cóc một cái đau điếng: “Rồi...”. Cóc nhướng mắt. Ơ kìa, hai con trâu bỗng như nhận ra nhau, chúng tự dừng lại rồi cùng chạy về hai đầu sới. Lạ hơn, sau đó chúng đến bên nhau, con nọ cọ cọ vào sừng con kia. Tưởng như trước đó chưa hề có một trận hỗn chiến sinh tử vậy. Dĩ nhiên là hòa. Lần đầu tiên, làng không có trâu chọi dâng cúng. Người ta kháo nhau là chính thần làng đã xuống tay để cứu lấy một con trâu. Chẳng ai biết được đó là nhờ bàn tay mục đồng và vốc thuốc cảm giã rượu.
 
                                   CÂU CÁ MÙA HÈ
 
      Bố nói mùa hoa phượng đỏ là mùa ve sầu kêu ve ve. Nhưng đã mấy mùa hè, Bắc đến sân trường bố dạy học, không nghe thấy tiếng ve. Rất nhiều ô tô, xe máy vọng từ ngoài đường vào. Tiếng chát chúa, tắc, bụp rõ mồn một từ dãy sau hàng rào bằng gạch cho biết đấy là phim kiếm hiệp gì đó. Rụng xuống sân trường vắng lặng là những trái bàng quế vẫn lặng thầm rơi khẽ, âm thanh nghe như vọng về từ năm ngoái.
      Bố đang dạy một lớp luyện thi vào lớp mười. Bố dạy bài “Thu điếu” mà cả lớp cười như chợ vỡ. Rồi tất cả lặng phắc. Lặng như Bắc ngồi trên ghế đá tự học tiếng Anh, mắt dán vào cuốn sách.
      Nói là tự học chứ thật ra là bắt buộc. Sáng, hai bố con dậy lúc năm giờ. Bố giảng sơ sơ bài tiếng Anh cho Bắc, giao phải thuộc lòng, dịch thông nghĩa vào lúa 10 giờ trưa. Vậy là có đến ba giờ học. Học dưới gốc bàng.
      Bài học thêm hôm nay có mục câu cá. Chú bé người Anh tên là Steven sướng ơi là sướng. Hè, đi píc-níc, đi câu cá với bố mãi tận bờ biển Nha Trang. Lạ nhỉ! Sao bố Bắc không chịu nghỉ hè? Ồ, giá chỉ được bố đưa về quê thăm ông bà, ngồi thõng chân xuống dưới nước ao từ cái cầu ao bằng tre ghép lại, cũng đã sướng rồi.
      Bắc bỗng giật mình khi nhìn vào vườn cảnh. Giữa khuôn viên nhô lên một hòn non bộ. Hòn  non bộ chìm một nửa dưới cái hồ nước trong leo lẻo, xây hình bán nguyệt. Dưới hồ bao nhiêu là cá.
      Bắc chạy đi tìm bác Phúc bảo vệ. Nó nói nhỏ gì đó vào tai bác.
      - Ồ, tưởng cái chi, sợi chỉ thì bác có ngay, có ngay...
      Bác Phúc mở ngăn kéo, lấy ra một cuộn chỉ màu. Chỉ này dùng cho mấy anh chị lớp Mười quên không khâu phù hiệu vào ngực áo đây. “Mà con lấy chỉ làm cái chi?”, bác Phúc hỏi. Bắc gỡ cặp kính cận ra lau, từ tốn thưa: “Con buộc chân con chuồn chuồn”.
      Bẻ một cành liễu mềm đã có một cái cần câu. Dây cước là sợi chỉ. Thiếu con mồi.
      Thì kia, một chú chuồn chuồn kim mới lột xác đang chúi đầu trên một đám hoa mười giờ còn chúm chím nụ đỏ. Chẳng khó khăn lắm, chú chuồn kim đã bị hai ngón tay Bắc nhón gọn lấy đuôi, cánh đập đập yếu ớt.
      Bắc đặt cuốn sách bên cạnh,buông câu. Nó thu lu dưới gốc liễu rủ. Những cành liễu mềm phủ kín thân hình bé nhỏ.
      Những đàn cá cảnh bơi đi bơi lại, giương mắt nhìn con chuồn chuồn kim nổi lềnh phềnh trên mặt nước.
      Chúng nhìn rồi lại vẫy đuôi bơi đi.
      Bắc nghe loáng thoáng tiếng xe, tiếng người. Hình như có cả tiếng “Bắc ơi” giọng hơi lạc đi của ai đó.
      Song lũ cá cảnh quẫy trong nước khiến Bắc hầu như không nghe thấy gì cả. Nó đang chờ một con cá kim đã đến ngửi ngửi vào cánh con chuồn chuồn. Con cá bỏ đi, rồi quay lại. Nó chưa đến bữa đấy má! Cứ chờ xem...
      Bóng mặt trời đã lóa hồ cá cảnh.
      Bắc chưa kịp nhấc con cá kim vừa ngậm chặt con mồi ra khỏi mặt nước. Con cá giãy giụa, rơi tõm trở lại hồ nước.
      Bắc tiếc rẻ, òa khóc.
      Bác Phúc bảo vệ nghe tiếng trẻ khóc, vội chạy lại.
      - Trời ơi! Thì ra mày ở trong bụi cây! Thằng nhóc...
      Bác mắng nhưng lại ôm chầm lấy Bắc, bác nhấc bổng lên đầu: “Mày làm cả nhà giờ này còn đang đi tìm. Thôi để bác gọi điện...”
      Bắc giật mình khi đồng hồ trong phòng bảo vệ chỉ con số mười hai.
      “Chỉ một chút nữa bố sẽ đến đón”, Bắc nghĩ. “Mà có nên nói với bố về chiếc cần câu mình giấu dưới gốc cây liễu không nhỉ?”.               

 
 
                        XUẤT XỨ TẬP THƠ “GÀ  GÁY”
     
      Thơ buồn buồn lắm. Làm thơ chưa nuôi nổi thân mình. Tập thơ “Gà gáy” bạn bè đều mê mà không có tiền in.
      Soi vào gương thấy mặt hóp lại, tóc tai bù xù. Lạ! Sao thấy cái bóng in trên tường to quá. Đâm ra sợ.
      Đến nhà lão Văn chơi vậy.
      Lão Văn đang uống rượu. Uống rượu với canh mùng tơi và cà pháo. “Làm vài ly đi. Kệ mẹ nó đời”, lão bảo.
      “Thì uống! Thế mẹ nó đâu?”
      “Trên cung trăng. À quên, ở Bexty ấy. Ô-ten”.
      “Giỡn”.
      “Giỡn cái con khỉ đang cháy túi tiền nó gọi. Mèo nào chê  mỡ?”.
      “Thật à?”.
      “Dối mà làm gì? Uống đi! Chút nữa tao dẫn tới đó”.
      Thơ húp cái “xoạt”. Rồi mới đón ly rượu mắt trâu từ tay Văn, giơ lên, ngửa cổ, đổ vào họng:  “Cay”.
      Chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Vợ Thơ đã ngầm rủ vợ Văn tới Bexty.
      Đàn. Một giờ, hai mươi ngàn. Một giờ rưỡi bốn mươi ngàn. Hai giờ, tám mươi ngàn. Ở lại hay đi đâu đó lãnh đô la...
      Tới Bexty, cả hai đứng ngó lên. Đèn các phòng vẫn sáng rực. Tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng nhạc.
      “Nỡm”, Thơ lầm bầm.
      “May chứ”, Văn gật gù.
      Họ chở nhau đến nhà Nhạc.
      Văn bấm chuông như nhấn còi ô tô.
      Một người nước ngoài ra mở cửa
      - Cạc ôông tim ai? (Các ông tìm ai?)
      - Nhạc. Mít-tờ Nhạc.
      - Đên ngo ba bay. Căn sô 100.
      - ?
      Cửa đóng sầm lại.
      - Nó bảo ngõ ba bảy, số 100.
      Rồi cũng tìm được nhà Nhạc.
      Đang bò ra viết.
      Thơ sẵng:
      - Sao lại ở đây?
      Nhạc thở dài :
      - Vợ tao bảo tiền nó đuổi.
      - Thế vợ mày? Văn hỏi cho phải nhẽ.
      Nhạc đứng dậy, chống nạnh, chỉ tay vào mặt Thơ:
      - Đàn. Hiểu chưa? Tất cả đều từ  con vợ mày mà ra cả. Hiểu chưa? Bây giờ thì ra Bexty mà tìm. Hiểu chưa?
      - Hiểu... Hiểu rồi.
      Họa lò dò ở đâu tới, vừa đi vừa nói:
      - Mà to tiếng làm gì! Tớ đến dẫn các cậu đi khao đây.
      - À, thằng này giỏi! Đi cho bõ ghét! Cứ gọi là chúng ông cứa cổ mày!
      Bốn người  bạn văn kéo nhau đi.
      Hình như ai cũng đã chuếnh choáng.
      Bóng người nào in xuống đường cũng dài thượt.
      - Tấp vô đây! Hoạ ra lệnh.
      - Cháo gà! Nhạc reo lên.
      Văn và Thơ cùng phụ họa:
      - Dô thì dô! Dô nào... Dô...
      Điện trong quán vụt tắt.
      Mấy người đàn bà mời khách, giọng như bịt mũi.
      Văn la:
       - Quái lạ, sao thiên hạ nhiều người hỏng mũi thế?
      Tiếng cười phá lên.
      Thơ là người đầu tiên nhận ra những âm thanh trong như suối của vợ mình.
      Chị Nhạc bước ra cùng ánh đèn vừa bật trở lại:
      - Xin chào, xin chào các quý anh...
      Các bà vợ bưng cháo ra.
      Chị Nhạc tuyên bố:
      - Có tiền cho anh Thơ in tập “Gà gáy” rồi.
      Đám văn nhân  trố mắt.
      Các tô cháo đặt hết xuống bàn.
      Chị Nhạc giải thích vắn tắt: Tiền cho thuê nhà, chị dùng thuê mặt bằng và làm vốn. Còn các quý bà đây thì đánh bộ gõ. Quán “Gà gáy”, cháo gà. Gà sẽ đẻ ra tiền. Sẽ có tiền. Sẽ có tiền. Đuổi được tiền rồi!
      Tha hồ mà viết!

 
                       PHIÊN CHỢ TUỔI THƠ
     
      Giống như một con cá, làng Mả Cá của tôi lọt thỏm giữa đồng chiêm trũng. Tháng Bảy, tháng Tám nước đã mênh mông bốn phía. Chỗ nào cũng chỉ thấy nước. Từ Mả Cá muốn xuống Vượt Mới, lên Rin hoặc sang bến Đò, chùa Cả phải đi trên những con đường bé tí tẹo, đầy cỏ may, không đủ lối cho hai con trâu tránh nhau. Mùa nước to, muốn khỏi trượt chân xuống ruộng, cứ lần theo ngọn cỏ may ngả rũ xuống mà đi.
      Ấy vậy mà hôm nào bà tôi cũng phải đi. Bà đi chợ. Thúng đội đầu, tay vung vẩy. Trong thúng, hôm thì vài chục bó rau muống, mớ cá, vài nắm chè xanh hay ít tấm cám... Bà bảo tôi: “Áo mấy đứa rách hết rồi. Bà bòn để mua vải trúc bâu may cho bền”.
      Khoảng tháng mười một, nước rút dần. Đồng chiêm đầy nước giờ trắng phớ màu đất bạc, nứt nẻ những vết chân chim. Cỏ may lại mọc kín cả lối đi trên những con đường nhỏ. Gió bấc đã về, thổi hun hút. Bố tôi đi cày, mẹ đi tát nước, mỗi người mang một cái áo tơi bằng lá móc già, trông cứ như là những con nhím khổng lồ biết đi. Da mặt chúng tôi nứt nẻ, xù xì màu mốc trắng. Bà xoa đầu cái Hào em tôi, vừa cười vừa nói: “Bà sắp bòn đủ rồi...”. Con bé ngây ngô, hỏi: “Mùa này bà còn bòn rau muống vườn, hả bà? Rau chát, chả ai mua đâu, bà ạ”. “Không, bà nói bà sắp bòn đủ tiền”. Tôi nhẩy cẫng lên, bá lấy cổ bà: “Bà may áo cho cháu nhé”. Bà cầm lấy tay tôi bảo: “Ừ. May cả cho em Hào nữa. Tết này cháu bà đẹp cứ gọi là nhất làng”.
      Bỗng một hôm, vào sáng sớm, lúc cả nhà ngồi ăn khoai lang vùi trong than trấu chấm với muối vừng, bà cởi ruột tượng ở thắt lưng ra đếm tiền rồi bảo bố tôi: “U góp nhặt được mười hai đồng rồi. Hôm qua đi chợ Rin, u có rẽ đến chỗ chị Đào hàng vải, hỏi mới biết còn thiếu năm hào nữa thì đủ mua cho mỗi đứa một bộ. Anh chị còn đồng nào cho u vay bù vào. Qua tết, u trả”. Mẹ tôi rơm rớm nước mắt: “Thôi, tiền ấy u để mà ăn quà. Quần áo của thằng Cu và con Hào để chúng con lo”. Bà nói: “Vẽ chuyện! Cứ để đấy u. Chứ hôm nọ nghe anh chị bàn cắt cái áo cũ của anh, may áo lương cho thằng Cu và con Hào, u thấy không ổn. Tết, vợ chồng cũng phải có bộ quần áo đẹp để sang nhà ông bà ngoại chứ. Ai lại...”. Bố tôi buồn buồn, nói: “U nghĩ thế thì con phải theo. Nói có bóng đèn, lòng con chả yên chút nào”. Bố tôi ậm ừ nói nhà chẳng còn xu nào. Lo được hơn hai mươi đồng thì đụng đùi lợn hết hơn mười đồng, sáu đồng mua gạo nếp gói bánh chưng, năm đồng góp giỗ bên bác trưởng. Tiền đèn nhang chưa có, đang định bán mấy con ngan...
      Bà tôi lặng lẽ nhìn lên trần nhà. Rồi bà tặc lưỡi: “Thôi, để u đập ống. Có dễ cũng được vài đồng”.
      Bà chống tay xuống chiếu, lọm khọm đứng dậy, vào buồng lấy ra một cái ống nứa. Giữa hai đầu mắt ống, bố tôi cưa một vết chéo, đủ để tạo thành một khe hẹp nhét được những đồng tiền kẽm lẻ. Tôi lấy con dao để bà bổ ống. Bao nhiêu là xu xòe ra, trắng một góc chiếu. Mỗi ngày năm xu mà cũng được đến hơn mười lăm đồng. Một món tiền to. To quá! Bà xuýt xoa: “Bà định dành cho thằng Cu lấy vợ. Giờ túng thế này, thôi đành...”
      Bà bảo bố tôi: “Sáng mai phiên chợ Rin, u định dẫn hai đứa đi chợ. Còn tiền, u mua cho mỗi đứa một đôi guốc”. Bố tôi gật đầu. Mẹ tôi đưa cơi trầu cho bà: “Rét quá, u ăn một miếng cho ấm”.
      Tối hôm ấy, tôi và cái Hào không ngủ được. Thi thoảng nó lại bảo: “Anh ơi, vải trúc bâu có đẹp bằng vải lụa may áo lương của cái Nụ không?” , “Anh ơi, em thích áo lụa cơ”, “À mà anh này, cái guốc sơn đỏ, có vẽ hoa như của cái Nụ con ông giáo Quy có phải không. Đi sạch chân lắm, anh nhỉ!”.
      Sáng dậy, bà gọi mãi cái Hào cũng không thưa. Đầu nó nóng hầm hập. “Thôi, u cho thằng Cu đi thôi. Con bé ấm đầu để con gọi bác Thụ đến tiêm”, mẹ tôi nói.
      Bà tôi đã định không đi chợ nữa. Bà không nỡ. Tôi mè nheo một lúc, bà đành phải chiều. Bởi tôi mà khóc to nữa, cái Hào sẽ tỉnh giấc, đòi đi nữa thì chết. Bà chép miệng, đội thúng lên đầu. Cái Hào mở mắt he hé nhìn hai bà cháu, miệng nó ú ớ, ú ớ. Cứ như là sắp chết không bằng...
      Đến gần chợ, hai bà cháu ngồi gỡ cỏ may. Tôi vụng về thế nào, ống quần vải đã mục, rách toạc theo ống. Bà bảo lấy dây chuối túm lại. Chịu khó vài hôm nữa là có quần áo mới diện tết.
      Bà dẫn tôi đi dạo một vòng chợ. Chợ Tết có khác. Những đống cam vàng sậm chất ngất. Những quả thanh yên, phật thủ tôi chỉ thấy trong tranh giờ mới biết. Hàng vải đủ màu sắc trông lóa cả mắt. Giày dép, guốc sơn, guốc mộc xếp thành đụn...
      Hai bà cháu vòng qua cái bàn gấp của bác nặn các con giống bằng bột màu xanh đỏ. Tôi cứ nghển cổ nhìn những con lợn có xoáy âm dương, con gà mào đỏ đang vươn cổ gáy. Bà nói quay về hàng vải kẻo muộn và lôi tôi đi.
      Tới một hàng vải, bà bảo: “Đây là hàng cô Đào. Cũng người Mả Cá ta cả. Lấy chồng chợ Rin, mở hàng vải, ta mua cho cô ấy lấy may”. Cô Đào khen tôi nhanh nhẹn, nói tôi mặc quần áo trúc bâu hồ cứng thì đẹp nhất làng. Tôi xấu hổ, mặt nóng ran, tay mân mê cái ống quần rách.
      Bà cởi ruột tượng, nắn nắn mãi... Mặt bà tự nhiên tái nhợt kêu lên: “Cu ơi! Sao lại thế này?”. Bà dốc cái ruột tượng bằng nái vàng lên. Từ trong đó rơi ra năm đồng tiền năm xu... “Mất cả. Mất cả rồi... Đứa nào...”. Bà nghẹn ngào không nói thành lời. Bà bảo cô Đào: “Có khi bác để quên ở đầu giường. Thôi, để phiên tới...”.
      Bà chỉ còn đủ tiền mua một tấm bánh đa cho cái Hào. Còn một ít, mua cho bố tôi gói thuốc lào và tôi thì được bà cho một con lợn và một con gà bằng bột. Bác bán con giống bột bảo quí tôi nên bớt cho hai xu.
      Về đến ngõ, tôi đã thấy cái Hào đang đánh chuyền với cái Nụ con ông giáo Quy. Bà không nói mà đưa cho nó cái bánh đa, bảo nó chia cho tôi và cái Nụ mỗi đứa một ít.
      Bà đặt cái thúng xuống, chạy tọt vào buồng. Bà lật cái gối bằng mây có phủ một cái khăn mỏ quạ lên. Bọc tiền giấy gói bằng dây chuối vẫn còn nguyên vẹn. Chỉ có cọc tiền xu xâu bằng một sợi dây đay khác. Bà mỉm cười...
      Phiên chợ sau đúng là phiên chợ Tết. Tôi và cái Hào lúc về tới ngõ, bắt bà bỏ thúng xuống, lấy guốc xỏ vào chân chạy lộp cộp vào nhà. Cái quai da trâu còn cứng làm chân hơi đau đau. Nhưng mà thích thích thế nào. Mẹ tôi nhìn ba bà cháu, ứa nước mắt.
      Bốn mươi năm sau.
      Hào, em gái tôi đã trở thành một giám đốc công ty thương mại lớn. Vợ tôi (cô bé Nụ ngày xưa ấy) hay kể lại chuyện thuở bé Hào đã ước mơ có một cái áo lương bằng lụa mà thầy Quy đã may cho Nụ. Hào nói với Nụ thuở ấy cô đã mắc một lỗi lầm thật khó tha thứ. Riêng tôi, tôi thực sự thấy làm lạ khi thấy vợ chồng Hào biếu tôi bất cứ cái gì, em tôi đều gói buộc bằng một thứ dây rất khó kiếm ở thành phố, mặc dù lắm lúc nó chẳng tương xứng với những vật rất quí: dây chuối.
      Một lần, em tôi bị ốm nặng, phải nằm bệnh viện. Tôi đến thăm. Em tôi vừa cắt một cơn sốt nguy hiểm. Tôi ngồi ở bên cạnh, sờ lên trán em. Hào bỗng mở mắt và hỏi: “Bác có thấy trán em nóng như  sáng ngày xưa bà và bác đi chợ không”. Tôi hiểu ra, cười: “Bây giờ thì nóng thật”. Hào nói: “Ngày đó trán em cũng nóng chứ” . “Nhưng sau lúc ấy, làm sao cô lại ra đánh chuyền với nhà tôi được. Còn nhớ không?”. “Em nhớ. Em nhớ chứ! Lúc đêm, lấy tiền của bà xong, em cứ nghĩ cảnh bác và bà sững sờ ở chợ, em sợ quá... Sợ phát ốm! Lúc bà và bác đi rồi, thấy bố hỏi mẹ có còn dây chuối để buộc áo tơi không, em muốn khóc lên. Em chạy vào buồng, đặt tiền xuống dưới gối bà. Tiền xu buộc dây chuối mục, rơi ra tung tóe... Em lấy một sợi dây đay xâu lại. Không biết bà có biết không”.
      Tôi khẳng định với em tôi là chính mắt tôi trông thấy bà đã cười khi cầm chuỗi tiền xu lên đếm và ngắm nghía... Nghe tôi nói, em tôi cười. Ít ngày sau, cô ấy khỏi bệnh.
      Hôm mới rồi, vợ chồng Hào đến góp giỗ. Lúc ra về, em tôi gọi tôi ra một chỗ, dặn đi dặn lại: “Bác nhớ nhắc bác gái mua mấy bộ quần áo lương gửi xuống cho bà. Em nhớ lúc bà mất, bố mặc cho bà cái áo lương màu nâu đã bạc. Lúc ấy, hình như bố khóc, bác ạ”.

 
 
                          EM GÁI MỘT NHÀ VĂN
 
      Nhà có hai anh em.
      Lần ba uống rượu say, chơi trong đám bài, cãi lộn, bị người ta đấm một quả vào mặt, ngã vật vào tường, ai cũng tưởng con bạc ngủ. Đám bạc tan nghe người ta kêu, má kêu xích lô đến đón. Bả khóc rú lên khi thấy ba đã lạnh cứng.
      Lúc ấy hai anh em đang chơi nhảy lò cò. Thấy má khóc hai đứa chạy vô ngó, thấy ba ngủ như mọi lần say rượu, lại ra ngõ chơi.
      Rồi má đến ở nhà chú xích lô. Má có thêm em Tèo, em Tuột, em Thôi, em Út Lớn, em Út Nhỏ. Trước má còn ghé thăm, sau hai anh em trông mỏi mắt, dắt nhau đến nhà chú xích lô, thấy má khóc lại dắt nhau về với bà nội.
      Chuyện ấy xảy ra đã lâu lắm, tưởng như không còn ở trên đời, nếu Tết vừa rồi, người em không khóc nấc lên trước bàn thờ bà nội và ba má.
      Em có một tổ hợp may mặc. Tèo, Tuột, Thôi, Út Lớn, Út nhỏ đứa làm bảo vệ, đứa đứng máy, ăn lương theo sản phẩm, bữa trưa được người chị cho không, khỏi tính vô lương.
      Người anh là một nhà giáo. Anh mắc lỗi, anh hay bảo thế, đam mê văn chương, đàn bà và rượu. Nên nghèo cũng chẳng phải do số kiếp!
      Từ khi người em làm nên, thương anh, hay cho tiền xài. Cũng không rõ có phải vì thế hay vì hậm hực bởi nỗi bất công ở đời anh thề nguyền không đụng đến văn chương nữa. Bạn bè bảo anh là nhà văn không có tác phẩm. Đã thế, việc trường lớp anh cũng bỏ bê, khiến bà hiệu trưởng đã ba lần khuyên anh nên tự làm đơn xin thôi việc. Anh cóc cần đơn từ. Ai đuổi cứ đuổi. Đời anh bị đuổi  từ lúc còn  nhỏ xíu rồi.                                                                       
     Người anh bị đuổi thiệt.
      Anh trở thành thằng nghèo, không có tiền, không có đàn bà và cũng chẳng có văn chương. Anh vẫn độc thân. Trơ trọi trên đời.
      Anh mò đến đám bạc. Không phải để chơi. Có tiền đâu mà chơi. Mà để xin tiền. Chẳng có ai cho lấy một xu.
      Cướp thì không dám. Anh bèn thò tay định thó vài ngàn trên chiếu. Một quả đấm còn nặng hơn cả búa tạ thoi vào bụng, ruột gan tưởng nát hết. Đám bạc ù chạy, bỏ lại cả một số tiền. Anh chết vật đè lên chúng...
      Người em thuê xích lô đến. Chị lẳng lặng bế anh đặt lên xe, lẳng lặng vơ hết số tiền trên chiếu bỏ vô giỏ. Về đến nhà thì anh tỉnh lại, miệng vẫn còn ri rỉ máu.
      Lúc ấy sắp giao thừa. Và như ta đã biết, trước bàn thờ, chị đã khóc. Tèo, Tuột, Thôi, Út Lớn, Út Nhỏ khóc theo. Rồi họ xúm vào lau rửa, xoa bóp, bón cháo cho anh. Họ thấy anh hao hao giống mình.
      Ít lâu sau, anh khoẻ lại. Nằng nặc đòi em xếp chân bảo vệ. Người em chiều ý. Với một điều kiện. Điều kiện ấy là anh làm bảo vệ không lĩnh lương, mọi sinh hoạt em lo cho. Nửa thời gian còn lại, mỗi ngày phải viết một trang sách, kể về chính cuộc đời của mấy anh em. Khi nào cuốn sách viết xong, anh sẽ được lãnh một số tiền đủ mua một căn nhà nhỏ để tự lập. Trời ơi, viết hết ba trăm sáu mươi lăm trang thì người ta thành nhà văn hẳn hoi! Mà mong ước của người em chỉ là anh thành người tốt.
      Người anh nhận lời và bắt tay vào việc. Những trang đầu viết xong, anh đưa cho em đọc. Em khóc và đặt những trang ấy lên bàn thờ. Anh xúc động, đêm ấy viết hai mươi trang. Mới có nửa năm, cuốn sách đã viết xong. Người em đã bỏ tiền ra in nó. Không biết có đúng không, chị khoe với anh trai mình cuốn sách lời hai mươi triệu. Chị đưa cả số tiền ấy cho anh. Và giục anh đi tìm một căn nhà, đúng như chị đã hứa. Người anh đã khất lần. Anh còn muốn viết nữa, viết nữa... Và anh đã trở thành một nhà văn.
      Bây giờ chỉ cần nói bút danh này, bút danh kia của anh là đã có nhiều người nhận ra anh. Và cũng chỉ đến bây giờ, do anh đã quá nổi tiếng, nên tôi mới tiết lộ rằng, cuốn sách đầu tiên in ra của anh, hiện nay đang nằm trên gác nhà tôi, đủ cả năm ngàn bản. Người em là bạn thân của tôi. Chị rất tin cái gác nhà tôi biết giữ mồm giữ miệng, chí ít là đến lúc anh đã thành danh.

 
 
                        CẬU CÒNG ĐƠM ĐÓ TÉP
                                               
      Lúc chúng tôi ra rả như cuốc kêu thuộc lòng bài “Bà Còng đi chợ mua rau...”, tôi vô tình liếc sang phía thằng Công. Nó có vẻ bối rối, mặt đỏ nhừ, miệng lí nhí. Tan học, cả lớp ùa ra sân. không ai để ý Công vẫn ngồi trong lớp, gục mặt xuống bàn, thổn thức. Thằng Mật ngoái lại, thấy trong bọn thiếu người, kêu: “Thằng còng? Còn thằng còng. Chúng mày xem nó lẩn đi đâu”. Cả bọn nhớn nhác tìm. Mấy đứa con gái, táo tợn nhất là cái Mít, réo: “Ớ còng!”. Thằng Mật đã quay lại, giơ tay bịt miệng ra hiệu im, rồi trợn mắt, dọa: “Nó đang... Chúng mày có biết ngậm cái miệng cá ngão lại không?”. Không rõ sợ nắm đấm của thằng Mật hay sợ Công tủi thân khóc to hơn, cả bọn im thin thít, rón rén quay lại, đứa đứng bên cửa sổ, đứa đứng ở bậc cửa ra vào, mắt thao láo. Một lát sau, tất cả lặng lẽ bỏ đi. Bấy giờ chỉ còn tôi đứng ngẩn tò te cạnh cửa lén nhìn Công đang đưa tay áo lên ngang mặt, dụi dụi lau nước mắt. Nó đứng dậy, bỏ cuốn học vần vào cái tay nải khâu bằng vải nâu cũ, đi ra cửa. Thấy tôi, Công hỏi: “Mày không a dua với chúng nó gọi tao là còng à?”. “Ừ, tao đợi mày về cùng. Mà sao mày lại khóc?”. Hỏi vậy, nhưng bất ngờ nhớ tới dáng Công, cái lưng cong như con tôm, mặt như cứ úp xuống đất trên cái cổ cò bị đẩy ngang về phía trước, tôi biết mình đã lỡ lời. Hình như Công không để ý, nói: “Tao thương u tao quá. Cứ nhìn thấy tao là u tao khóc”. Nước mắt Công rỉ ra cùng tiếng nói cứ tắc nghẹn dần của nó.
      Buổi tối, ăn cơm xong, cả nhà ngồi ngoài sân uống nước. U tôi bất ngờ bảo: “Con không được gọi Công là thằng. Nó ít tuổi nhưng trong họ nó ngang hàng với u cơ đấy. Như vậy thì phải gọi bằng cậu”. Bố  tôi lừ  mắt: “Ra thằng cu cá đối bằng đầu hả? Láo! Vậy là hỗn đấy con ạ! Không gì thì cậu ấy...”.
      Không hiểu sao bố tôi ngừng lời, bỏ lỡ một dịp nói tốt về cậu Công để làm gương răn chúng tôi. Nào là thằng bé bằng tuổi các con mà lần đêm mò hôm, đến con ma áo trắng ở cồn Rùa nó cũng không sợ, thả lờ bắt cá mú, đơm đó gom tôm tép; nào là nó vừa chăn trâu vừa mò cua bắt cáy ven sông. Người bé mà đã biết hiếu nghĩa vẹn tròn. Nuôi thân, nuôi mẹ già mù loà đã đành, giỗ chạp họ hàng, cưới xin này nọ, mẹ con Công đều có phong bao đỏ. “Lưng nó còng nhưng lòng nó thẳng, chí nó cao. Từ nay, hễ bố còn nghe nói con gọi cậu ấy là thằng, thì...”, ông nhìn cái roi mây cuộn tròn giắt ở góc trái hiên nhà: “Đét, đét. Hai chục roi, nghe chửa!”.
      Bắt chước cậu họ, tôi nằn nì xin tiền mẹ mua mười cái đó tép. Hôm có đó, buổi chiều tôi ra đồng, nhè cánh ruộng gần cừ  Dọc, be bờ, đặt đó, lắp trúm. Công việc xong xuôi, nghe tiếng tôm tép đi rào rào trong chạng vạng, tôi thơ thới đi về, vừ đi vừa huýt sáo. Ấy chết, sao lại “Bà Còng đi chợ...”. Ồ, chỉ có gió đồng nghe thấy. Chẳng có bố. Chẳng có cậu Công...
      Khuya. Tôi đeo một cái giỏ tre lớn ra đồng. Lạnh. Tiếng côn trùng nỉ non. Thi thoảng, một con ếch nhảy tõm xuống cừ từ một mô đất nhô lên trông rất giống ai đó đang ngồi. Tôi bấm hai ngón tay cái vào nhau, lấy can đảm, lò dò đi trên bờ cừ vốn đã thuộc lòng từ những buổi chăn trâu. Bỗng, “tõm”. Nước cừ bắn lên người, lên mặt tôi. Ối trời ơi! Ma! Một con ma áo choàng trắng, lênh khênh trên cặp cà kheo, đang huơ huơ một cái trúm tép trên đầu. Tôi trợn mắt, quay đầu chạy, ú ớ kêu. Chân ríu lại, tôi vấp vào một mô đất, ngất lịm. Tôi thét lên khi con ma chạm vào người tôi. Nhớp nháp, tanh lợm mùi tôm tép ươn. Rồi tôi lơ mơ nghe bố nói: “Cậu dọa cháu phải không?”. ”Em không biết là nó. Giá như bác bảo em trước...”.
      Sáng sớm, tỉnh dậy, tôi thấy u tôi đang ngồi nhặt rác lẫn trong tôm tép. Ái chà, những một thúng đầy! Cậu Công đi ngang nhà, gọi với vào: “Chị đưa lên Cổ Gia mà bán. Chợ Thượng ta tôm tép rẻ hơn cả bèo!”. Nói, rồi thở dài, chập choạng đi. Tay vung lên trời. Tất ta tất tưởi...
      Càng lớn lên, chúng tôi càng ít dám chòng ghẹo Công. Từ ngày bà cụ mù loà mất, thấy Công hay ngồi thừ hàng giờ trước cửa, tôi rủ đám bạn trong xóm đến nhà cậu, chia làm hay phe nam nữ hát ví cho vui. Ở đời ai học được chữ  ngờ. Hôm cái Mít hát kết với Công, chẳng biết vô tình hay hữu ý, nó hát: “Anh về sắm trái cau vàng - Thì em kết nghĩa đá vàng cùng anh...”. Công nghe xong, ứ miệng, chạy xuống bếp. Tôi biết cậu khóc. Thương cho cái phận nghèo mò tôm bắt tép! Giận cái đứa chanh chua đỏng đảnh châm chọc kẻ cô đơn... Buổi hát tan, tiễn Mít về tới ngõ, tôi tỏ ý trách. Mít tát yêu vào má tôi, nũng: “Thì em tưởng hát thế cho vui. Ai biết trước anh ấy tủi...”.
      Cậu Công không tủi mà hi vọng. Vào một buổi hát vui vẻ, cậu bỗng cao hứng nói: “Cô Mít hứa rồi đấy nhé. Tôi mà sắm được cau vàng thì...”. Cậu liếc nhanh sang phía tôi, cười. Đang vui, mọi người cho rằng cậu đùa. Mít cũng cười ngặt nghẽo: “Thì em là vợ anh Công!”. Cả bọn lại cười nữa, ngéo tay thay cho lời hứa.
      Chiến tranh lan rộng, tôi và đám trai làng lần lượt lên đường ra mặt trận. Trong một trận đánh, tôi bị bom mất cả hai bàn tay, trở về làng cũ với một tấm thẻ thương binh. Cậu Công đến thăm, buồn bã an ủi: “Vẫn còn đơm đó được. Chẳng chết đâu mà sợ!”. Từ đấy, hai cậu cháu đi thả đó tép chung. Sáng sáng, đổ tép xong, tôi và cậu ra bến sông tắm. Tôi lấy một hòn cuội nhỏ, cuội đầu nguồn Đạ Dâng, nhờ cậu cọ lưng hộ. Cầm hòn đá, cậu bảo: “Giống quả cau quá. Hỏi vợ đi!”. Tôi cười.  Hòn đá rơi tõm xuống sông. Hai cậu cháu mò mãi mới tìm lại được.
      Trai làng lần lượt trở về sau chiến thắng ba mươi tháng tư. Vẫn đủ để nhóm một cuộc hát ví. Lần này, cậu Công đòi bạn bè đến hát ở nhà tôi. Hình như nhớ lại lời hứa năm xưa, cậu Công nhìn lướt qua cả bọn, dừng lại ở Mít, hát: “Trầu cay nay đủ cau vàng - Hỏi nàng: Lời hứa với chàng, còn không?...”. Mít run lẩy bẩy; tôi tái mặt; trai gái trong nhà cười nói ồn ào cả lên... Cậu Công vỗ vỗ tay, chờ mọi người im bặt mới nghiêm giọng nói: “Đề nghị chú ý: Tôi biết có một chàng đã sắm được cau...”. Cả bọn hướng về phía tôi, nửa tin, nửa ngờ. “Đúng! Cậu ấy...”. Tôi chưa kịp ngăn cậu lại thì Công đã chạy vào góc nhà, lễ mễ đưa chiếc ba lô của tôi ra đặt giữa nhà. Cậu Công, sao cậu ác thế! Cậu sẽ lôi hòn cuội Đạ Dâng thiêng liêng để chế nhạo tôi ư? Mà cậu chế nhạo tôi làm gì? Tôi nhắm mắt lại, kinh hãi tưởng tượng ra cảnh cậu thọc tay vào cóc ba lô và ánh mắt thất vọng của Mít lúc nhìn thấy hòn cuội. “Đây rồi !”, cậu Công reo lên đắc thắng. Vết thương nơi hai bàn tay bị mất của tôi đau nhói. Kiến bò theo cánh tay, lan khắp người, chạy dọc sống lưng tôi. Tôi cố chống đỡ sự yếu đuối, mở mắt chứng kiến cảnh người cậu ác độc mưu quật ngã mình... Ô! Không phải hòn cuội! Một quả cau! Vàng chói. Quả cau ấy run rẩy trên lòng bàn tay đang mở ra của cậu Công. Cậu đặt nó vào tay Mít, rồi đẩy khẽ cô về phía tôi. Quả cau rỗng rơi xuống nền gạch, khẽ vang lên âm thanh của một quả chuông vàng. Đám bạn reo như vỡ cả trời đất.
      Khi mọi người chợt hiểu, Công đã chạy ra ngoài từ lâu. Không có ai ngoài tôi biết cậu đang ở chỗ nào. Vào giờ khuya khoắt như thế này, các đó trúm đặt ngoài bờ ruộng đã ứ chặt tép...
 
                                    BẮC VÀ TÂN
 
      Năm nay Bắc học lớp 7. “Ngày xưa đã được gọi là trí thức rồi bố nhỉ.”.  “A bố ơi ngày xưa là ngày nào? Chắc lâu lắm rồi phải không bố? Con quên không hỏi thêm trí thức nghĩa là cái gì hả bố?”
      Bố Bắc là một thầy giáo dạy toán song lại mê văn chương. Có lẽ vì thế mà ông chọn mẹ Bắc, là một nhà thơ nữ. Thơ mẹ Bắc viết chỉ dành cho trẻ con. Bà đến đâu, trẻ con xúm xít lại hỏi chuyện, cười như nắc nẻ, chảy cả nước mắt.
      Cho nên Bắc viết truyện.
      Người ta bảo Bắc giống bố, mà nào Bắc có giỏi toán.
      Các cô khen Bắc đẹp như mẹ. Bắc tự ái. Bắc là đàn ông cơ mà. Quan trọng hơn, Bắc chưa bao giờ làm thơ ngoài một bài đăng trên báo tường của lớp nhân ngày hai mươi tháng mười một, được giải nhất về văn có vần của nhà trường.
      Hôm học văn kể chuyện, Bắc hỏi đủ thứ khiến thầy dạy văn suýt cho điểm “không” vì vô lễ. Bắc nhớ là viết truyện phải có câu chuyện. Có nhân vật. Có... cái gì nữa nhỉ... Quên thì lục sách của bố mà đọc.
      Thoạt đầu Bắc viết truyện “Chó và mèo”. Làm như ông Tô Hoài ấy. Viết xong, nghĩ thấy chó và mèo giống mình và em Bình quá. Bắc thở dài. Báo mà đăng lên trang nhất thì ôi mặt. Bạn bè tha hồ mà trêu ghẹo... Chó Lu Lu y như Bắc, mang kính cận tám độ. Mèo Natasa hay nhè nhưng luôn xếp hạng nhất trong lóp, ai mà chẳng biết đó là Bình, em gái song sinh của Bắc, “Thôi bỏ truyện này. Hay gì cái chuyện tranh nhau ăn quà mẹ đi chợ về. Hay gì cái anh Lu Lu nhòm bài của Natasa trong giờ toán. Chẳng hay hớm gì mà khoe”. “Thôi đi sửa cái xe đạp. Sắp tết rồi”.
      Bắc xếp tập vở, dắt chiếc xe đạp ra tiệm sửa xe ở cuối phố. Nó muốn “ủng hộ” thằng Tân, bạn cùng lớp mới nghỉ học, đang học việc sửa xe ở tiệm chú Bảy.
      Tân là cháu ngoại ông Tám. Bắc chỉ biết là bố mẹ Tân không có nhà. Ông bà ngoại đã già nuôi hai đứa cháu, không phải là việc dễ; còn khó hơn khi bây giờ họ không còn có thể làm gì được nữa, sống nhờ vào số tiền hưu trí ít ỏi của ông. Thương ông bà, hai chị em đã bỏ ngang, chị đi học may, em đi học sửa xe.
      Thấy Bắc, Tân mừng rỡ cuống quít. Nó hỏi đủ thứ chuyện. Bắc còn hay nhòm bài của Bình không? Thầy Thanh dạy toán các bạn có tiến bộ không? Ông thầy giám thị có còn hay quát nạt các bạn không? Bắc kể chuyện trường đang xây thêm mấy lớp học. Nghe thầy hiệu phó nói, đâu như sẽ có các lớp học tình thương ban đêm học nhờ.
      - Ôi, tuyệt thật, tuyệt thật!
      Tân vừa nghe vừa thốt lên, tay vẫn vặn chiếc ốc cho chặt thêm. Buông tay, nó bảo: “Ước gì tớ được đi học!”.
      Bắc nghe đứa bạn kể chuyện, có vẻ cảm động. Tân tiếp:
      - Tớ ước tớ đã là chú Bảy. Qua tết tớ sẽ mở một tiệm xe gắn máy.
      Rồi thì có tiệm sửa xe hơi. Thành ông chủ. Có tiền thì là ông chủ hẳn rồi. Rồi cũng như Bắc, nó thản nhiên nói giọng lớp bẩy bảo:
      - Lúc ấy tớ sẽ xây một ngôi trường. Tớ sẽ mời các thầy đến dạy. Tớ sẽ ngồi ở bàn đầu tiên, dĩ nhiên là tớ sẽ là lớp trưởng.
      Mơ ước của bạn làm Bắc ngạc nhiên. Nó nhìn bạn chằm chặp qua kính cận rồi reo lên: “A”.
      Tân ngơ ngác không hiểu vì sao Bắc bỏ chiếc xe đạp đã sửa xong, chạy về nhà.
      Bắc chạy về nhà vì nó đã tìm được câu chuyện. Câu chuyện ấy là ước mơ của Tân. Bắc gần như chép lại cuộc nói chuyện giữa Tân và nó. Riêng câu cuối cùng, Bắc quên khuấy  mất...
      Nó sực nhớ ra cái xe đạp. Và hớt hơ hớt hải chạy ra tiệm sửa xe. Dĩ nhiên vì Tân nói, nên Tân nhắc lại không khó khăn gì. Tân thắc mắc, hỏi Bắc bảo nó nhắc lại câu ấy để làm gì, Bắc chỉ cười.
      Có câu nói của Tân, Bắc chỉ viết một loáng là xong truyện. Nhanh hơn mẹ làm một bài thơ. Chẳng thế mà cả tháng mẹ chỉ có một bài thơ đăng báo.
      Đọc lại, Bắc thấy truyện chưa hay. Kém cả chuyện Lu Lu và Natasa chó mèo.
      “Đây rồi”, Bắc thầm reo lên và lấy bút thêm vào đầu đề chuyện ba chữ “và của tôi”. Xong, ngay lúc đó, nó nheo mắt và gạch chữ “của” đi. Bây giờ truyện có tên là “Ước mơ của Tân và tôi”.
      Bắc ước truyện này trúng giải. Người ta đưa truyện đi dự thi quốc tế. Trúng giải Nô ben thì dư xây trường. Có lần mẹ bảo giải Nô ben to lắm.
      Mà nếu cái giải Nô ben kia chưa đủ, đã có thêm tiền của Tân. Một ngôi trường. Tân sẽ làm lớp trưởng.
      Bắc đã nhờ cả lớp bẩy A chín chép truyện này thành bốn mươi bản. Cả lớp đổ xô ra các sạp báo ghi địa chỉ tên các báo và các cuộc thi truyện ngắn. Báo Sài Gòn giải phóng, Văn nghệ, Nhân dân, Quân đội nhân dân, Tạp chí... Tổng cộng bốn mươi mốt địa chỉ. Vì bản thảo gốc của Bắc được gởi cho một tờ báo dưới tỉnh.
        Bây giờ Bắc và cả lớp bẩy A chín cũng đang mong Bắc trúng giải. Chỉ có Tân là không biết gì. Nó vẫn đang học sửa xe đạp ở tiệm chú Bảy với giấc mơ trở thành một ông chủ...

 
                                    CHÉN TÌNH
 
      Đào được sáu mét đất đá mới tới đất sét. Từ đáy giếng, Tì bỗng hét lên: “Cho tao lên, Sáng”, “Có ngay, có ngay. Gớm làm như bắt được vàng không bằng. Nào, bám chặt vào”. Sáng nói và gồng người quay tay tời.
      Tì đã bám vào sợi thừng, bò ra khỏi miệng giếng. Mặt anh đỏ bừng bừng, tỏ vẻ xúc động. “Cái gì lẩn vào cạp quần kia?”. Sáng cười hềnh hệch chỉ vào quần Tì. “Cái chén”. “Xem nào. Không khéo là vàng thì bỏ mẹ”, Sáng nói và sấn tới định lấy cái chén. Tì đã gỡ cái chén từ cạp quần ra: “Vàng đây”. Sáng chộp lấy giơ lên xem. Anh ta lấy một mảnh sành lượm gần đó, cạo cạo lớp đất đỏ và đất gỉ. “Xì, đồng ông anh ạ”. Nói xong, ném cái chén lại cho Tì, bảo: “Cũng còn may chán. Nó là một cái chén”. Rồi khuyên: “Nó nằm dưới đất là của người xưa. Dùng đựng nước đặt trên bàn thờ là hợp nhất”.
      Buổi chiều, hai anh em họ lại nhặt được một cái chén nữa. Có điều là nó rất sạch sẽ và hình như được ai ném xuống vào giữa trưa, lúc hai anh chàng thổ mộc nằm lăn quay ngủ ngoài vườn.
      Đến tối hôm đào xong giếng, hai anh em rủ nhau ra quán thịt chó mừng Tì có giếng nước trong. Sáng nói với anh họ nên rửa hai cái chén sạch sẽ, rồi múc nước giếng trong dâng lên bàn thờ hai bác. Còn hôm nào có rượu ngon, mỗi người một chén, chạm nhau long cong, chắc thích lắm!
      Chuyện chỉ có vậy mà tai vách vạch rừng, hôm sau Tì đi đâu người ta cũng xúm lại hỏi anh đào được nhiều vàng lắm không? Đến cả mấy anh ủy ban xã cũng đến hỏi hư thực. Tì đưa hai cái chén, họ cười khẩy, bỏ về. Anh chủ tịch ra tới ngõ, dừng lại nói khẽ: “Nếu chú đào được vàng thật, nên góp qũy cho xã. Tôi không báo lên trên về thu đâu”. Thấy Tì cười cười, anh dặn: “Nhớ nhé! Nghĩ cho kĩ rồi gặp riêng tôi cũng được”.
      Anh chủ tịch về rồi, Tì định đến nhà Sáng rủ em họ mai sang chợ Mền đào giếng cho một người hẹn từ tháng trước. Bước được vài trăm bước đã tới ngõ nhà Sắn. Tì chưa kịp hắng giọng báo cho người yêu biết thì đã nghe tiếng “e hèm” vọng ra từ sau cánh cổng. Anh dừng lại, định lên tiếng chào. Ông Khoai e hèm lần nữa, nói: “Cậu đứng lại hẵng, tôi hỏi”. Nghe ông Khoai nói, Tì Toát mồ hôi hột. Chắc ông lại cấm cửa anh đây. Rồi ông sẽ lại khuyên: “Đàn ông cánh ta như cái nơm ấy. Úp con cá này không được thì đi úp chỗ khác. Cớ gì cậu cứ nhè ao nhà lão. Ao này đã có anh Thơm nhà Tho trông coi”. Đã nhiều lần như vậy, Tì bỏ lửng Sắn. Gặp anh, Sắn thanh minh: “Bố em có lấy anh Thơm thì lấy. Em thì chẳng có thơm tho nào cả. Em không hám sáu gian nhà ngói và cái cửa hàng”.
      Ông Khoai nhìn Tì từ đầu đến chân rồi cười nhạt: “Cậu cũng khéo giả dạng nhà giàu húp tương nhỉ. Tôi hỏi thật... Thôi vào đây đã...”. Ông nhìn trước nhìn sau xem có ai trông thấy hai người không, rồi cầm tay Tì kéo qua cổng. Lúc ngang qua bếp, Tì nhanh mắt thấy Sắn che miệng cười. Tì mừng quá, tưởng mình mơ. “Ấy là tôi thử lòng kiên trì của cậu. Biết cậu thật lòng với con Sắn, tôi rất mừng vì nhà này có phúc. Thôi thì...”. Ông dặn: “Sắm một cái lễ nho nhỏ... Chủ yếu là lòng tôn kính tổ tiên là được. Chớ bày vẽ linh đình mà mang tiếng”.
      Tháng sau, Tì nhờ năm người bạn gái của Sắn đến đội giúp các mâm lễ ăn hỏi. Riêng cái mâm đồng phủ vải đỏ xếp rượu và hai cái chén đồng đã được đánh bóng khá kĩ lưỡng.
      Ông Từ buôn bán đồ cổ ở Sài Gòn về quê chơi đúng vào dịp anh trai gả con gái cho một cậu trai làng. Lúc tấm khăn điều phủ mâm lễ vật được mở ra, ông Từ tái cả mặt vì ngạc nhiên. Ông kéo ông Khoai vào buồng thì thầm.
      Ngay tối hôm ấy, hai anh em ông đến nhà Tì. Mới đến gốc đa ngoài đầu làng có con đường rẽ vào nhà cậu rể quí, họ bất chợt nghe thấy tiếng cười khúch khích. Thằng Tì và con Sắn. Hôm ấy không có trăng, trời khá tối nên hai ông già khó mà trông thấy đôi trai gái ngồi ở chỗ nào. Ông Từ bấm nhẹ vào tay ông Khoai. Hai anh em lắng nghe. Rõ mồn một tiếng Sắn:
      - Anh biết hai cái chén ấy ở đâu không? 
      - Anh đào được ở đất vườn nhà anh chứ ở đâu?
      - Xí, ngốc ơi là ngốc!
      - Thế thì ở đâu?
      - Em ném xuống đấy!
      - Thật à?
      - Thật! Em nhặt được chúng ở gần đền vua Đinh. Em cầu mong thần phật phù hộ cho chúng mình! Ai ngờ linh thế…

 
 
                         ĐẬU XANH ĐẬU ĐỎ
 
      Xa anh chị, chỉ nghe những tin bâng quơ, tôi buồn đến nẫu ruột. Tôi nghe nói mỗi lần nhận của ai đó cho dù là một kí đường hay một quyển sách, anh đều lấy một hạt đậu xanh bỏ vô hũ. Vợ anh bảo: “Ông định đong đếm lòng người đời ư?”. Anh nhăn mặt, gật đầu.
      Gian nhà kho bên trái khu bếp của tòa biệt thự xếp các bao đậu xanh đã đầy ứ. Ở gian kho bên phải, số bao chất lên cũng đã phân nửa. Không phải đậu xanh. Chỉ người vợ biết đó là những bao đậu đỏ. Những hạt đậu đo lòng anh với nguời đời.
      Trên người anh có khá nhiều vết cứa. Giống hệt như vết xước khi lao qua hàng rào thép gai. Những vết cứa mảnh  gọn, sắc lẹm của dao lam. Có lần, vợ anh hỏi về những vết cứa ấy, anh cười nhạt, bảo đấy là những nỗi đau đời.
      Bỗng một hôm, nhà chức trách đến khám nhà anh. Một kẻ nặc danh nào đó đã xưng suất anh. Hình như anh có tội?
      Ban đầu, người ta nghi anh là kẻ buôn đậu xanh, đậu đỏ lậu thuế. Có điều lạ là các bao đậu trong hai gian kho đều nhẹ tênh. Vỏ đậu còn nguyên. Chỉ có ruột đậu là ruỗng tuếch. Thi thoảng, trong một vài hạt có những chú mọt béo núc.
      Người ta bèn đi tìm chứng cứ trong những kệ sách kê sát tường. Đông, tây, kim, cổ... đủ cả. Chỉ thiếu không có cái người ta cần tìm.
      Những người điều tra nháy mắt cho nhau và liền khám phòng vợ anh. Họ tủm tỉm cười khi vớ được một tập hình đen trắng. Hình đã mờ, ố vàng. Tuy nhiên, người ta vẫn nhận ra chị, còn người đàn ông đang ôm lấy chị thì họ đoán già đoán non là các thủ trưởng của anh.
      Sau hôm ấy, anh được thăng cấp. Bốn cậu con trai của anh chị cũng lần lượt được cử đi du học ở nước ngoài.
      Thế mà, bỗng dưng anh uống cả trăm viên thuốc ngủ với rượu mạnh. Rượu và thuốc xé ruột gan anh; anh xé hết quần áo, chết trần truồng như nhộng trên giường.
      Lúc mặc quần áo cho anh, bỗng vợ anh nhìn chăm chắm háng anh, khóc rú lên rồi ngất lịm. Bốn đứa con anh nhìn qua nước mắt, thấy rõ ràng bốn vết sẹo cắt ngang hằn trên món nợ đời của anh.
      Anh để lại một bản chúc thư, đại ý: số đậu xanh đậu đỏ dành cho đồng bào đi kinh tế mới làm giống; số sách vở tặng thư viện một trường tiểu học...
      Nghe tin, lòng xót xa, tôi đến viếng anh.
      Tìm nửa ngày trời, tôi tới được nhà anh ở Gò Vấp.
      Không có biệt thự. Chỉ có một mái tranh, lọt thỏm giữa một khu vườn. Tôi đã bắt đầu nghi ngờ những lời đồn đại kể trên.
      Khi tôi hỏi, một cô gái đang tỉa đậu xanh đậu đỏ lễ phép mở cổng, đưa tôi vào nhà. Chị đang lúi húi nấu ăn trong bếp, nghe tên tôi vội chạy ra, cười như mếu.
      Vừa rót nước, chị vừa khoe chuyện thằng Út mới ở Trường Sa về, anh chị mới cưới vợ cho nó: “Đấy, con bé vừa rồi là vợ thằng Út đó, cậu Cử! Nó là con gái cậu Tư”.
      Thấy tôi lặng đi, chị bảo: “Ba con ổng cũng sắp về. Giá cậu đến sớm, cùng ổng đến thăm cậu Tư bịnh”. Chị nói và rút khăn chấm chấm nước mắt: “Chắc cậu còn nhớ Tư sư trưởng sư Mười”.
      Đúng lúc ấy anh về, tay xách một bịch tròn tròn.
      Nhận ra tôi, anh lao đến, ghì chặt, lắc lắc vai: “Cử! Thằng Cử! Mày ở đâu rơi xuống nè? Trời ơi, thế mà tao cứ tưởng...”
      Mắt anh nhắm nghiền, cái  bịch tuột khỏi tay, rơi xuống đất. Đậu xanh đậu đỏ tung toé trên nền nhà. Anh mếu máo: “Tao mang đến cho thằng Tư. Khổ nỗi, nó không còn ăn được nữa”.
      Tôi đỡ người bạn già ngồi xuống bộ ván ngựa và bất chợt gặp ba cặp mắt đượm buồn nhìn xoáy vào lòng. Ba cặp mắt của ba người trai trẻ trên bàn thờ, trong các tấm bằng Tổ quốc ghi công.
      Anh bỗng bảo: “Chút nữa, tụi mình sẽ đi thăm chúng nó. Tiện có thằng Út nữa. Nó muốn đến chào các anh nó trước khi ra đảo”.
      “Ông và cậu ăn chút gì cho ấm bụng đã, rồi hãy đi, nhé!”, chị nói và bưng lên một nồi chè, múc đủ cả tám tô.
      Anh xếp lên bàn thờ ba tô. Hương đậu vương, trong thanh như hương đất.
 

 
 
                          NGƯỜI LÀNG HOA
     
      Từ ngày bà giáo mất, ông Chữ hay nhắc Sen: “Hai chị yên bề gia thất rồi. Bố chỉ còn lo cho con”. Sen nũng nịu: “Thì bố cứ để con kén”. “Bố nhà cô! Kén, rồi cả đời hầu bố à?”. Cả hai bố con đều biết rõ, ở cái làng hoa này chưa có người con gái nào lấy chồng muộn hơn Sen.
      Ông Chữ suốt ngày lúi húi ngoài vườn với đám cây cảnh. Ông cắt cành, tỉa lá, uốn dáng cho những cây kim ngân; nhổ chỗ này cấy xuống chỗ kia những cây hồng, cây mào gà... Chiều, ông ra bến sông câu cá giải khuây.
      Cô giáo Sen hay rủ bạn về chơi. Hầu hết là các bạn trai. Anh nhà thơ có hai bài thơ về hoa sen đã được đăng báo. Anh ngoại thương đã đi Nam về Bắc nhiều lần, thành thạo việc mua lúa gạo, khoai sắn... Và anh giáo dạy toán giỏi nổi tiếng trường xã, đã từng có một học sinh suýt nữa được tuyển vào học ở trường chuyên toán huyện.
      Có một người hàng xóm, cô Sen chẳng muốn anh ta đến nhà, là anh cu Mích. Lũ trẻ con gọi là Mích mười tám. Tên nghe như tàu bay. Thực ra cái tên gợi mơ ước thầm kín của cha mẹ mong anh khi lớn, Mích lái máy bay chiến đấu, tung hoành trên bầu trời gìn giữ  đất làng hoa. Khổ nỗi, khi Mích lớn lại đã hoà bình. Người ta chỉ tuyển những người học hết cấp ba mà Mích mới học đến lớp mười một. Anh đi bộ đội ba năm và trở về làng hoa với quân hàm trung sĩ. Trung sĩ Mích nổi tiếng uốn cây si.
      Không biết anh ta học ở đâu cách trồng tỉa, cách hãm cây cảnh, đâm rễ, uốn thế mà vườn cảnh của nhà anh toàn một loại si. Cây si Mẫu Tử và cây si Đất Nước, tết năm ngoái Mích bán được một triệu. Đúng là hai chỉ vàng. Cũng nhờ cái khéo léo của bàn tay vàng biết chăm lo vun tỉa cây mà thôi.
      Ông Chữ đã từng đứng lặng hàng giờ trước vườn cảnh của đứa học trò dốt năm xưa. Bây giờ, Mích đáng được gọi là bậc thầy về si cảnh. Cũng là trời ban cho cái mà các ông thầy trường làng không có để mà cho trò. Ông ngỏ ý Mích truyền nghề. Mích cười hề hề, thưa: “Có gì đâu mà giấu, thầy. Dễ như mở bàn tay ấy thầy ạ. Chỉ việc làm thế này, thế này...”. Cứ như thế này, thế này mà Mích nói hết cả buổi sáng; anh hẹn thầy chiều ăn cơm xong sẽ nói tiếp. Tối lại hẹn mai. Nghĩa là có thể viết ra một cuốn sách.
      Mấy ngày liền, thấy ông Chữ có vẻ sốt ruột, Mích sực nhớ và bảo: “Khổ quá. Con nói cứ  lằng  nhằng như rau muống luộc. Chi bằng...”. Ờ nhỉ, ương một vườn si cảnh bên nhà thầy, ngày ngày trò đến hướng dẫn. Tiện quá! Tiện quá! Đỡ mang tiếng trò dạy khôn thầy.
      Thế là nhà ông giáo Chữ có một vườn si. Anh nhà thơ bảo thế và ứng khẩu đọc một bài thơ rối hơn cả rễ si đang loà xòa, đâm chéo vào nhau. Anh ngoại thương dịch bài thơ ra tiếng anh tiếng em gì đấy, xì xồ đọc; tiếng gì mà lắm âm “sần” ở cuối, nghe sần sùi như gốc si mốc. Anh dạy toán ước tính tác phẩm có hai ngàn từ, vị chi mỗi từ một hào, bài thơ cũng đáng hai chục ngàn. Ơ, tính thế là thế nào nhỉ? À, giống như rễ si móc vào cây đa đầu làng. Cô Sen được một bữa đỏ chín cả mặt.
      Đến lúc uốn thế, ông Chữ yêu cầu Mích làm cây si Ông Cháu. Ông Chữ làm mẫu ông, cháu thì đã có một đứa học trò gần nhà cô Sen giúp. Mỗi buổi chiều, ông cháu bên nhau cho Mích ngắm và sửa cây. Cầu kỳ và nhọc công quá.
      Lúc ông Chữ đã nản, tác phẩm vẫn chưa xong thì Tết đã đến. Làng hoa tràn ngập khách buôn. Người ta đòi mua cây si Ông Cháu. Mích nói với ông giáo chớ có bán.
      Giáp Tết, hôm ông Táo về giời, ông giáo sang nhà Mích ăn cỗ. Sen ở nhà trông nhà. Khách vào nườm nượp. Cô sốt cả ruột. Rồi cô buột miệng bảo một ông to béo đi ô tô, đỗ xe ở ngõ, cứ ngẩn ra hàng giờ trước cây si: “Một triệu. Cháu không bớt một xu. Chịu thì bác mang đi”. Ông ta chỉ chờ có thế , sai người đưa tiền mang cây ra xe.
      Đếm lại tiền, Sen thấy dư ra mười ngàn. Và chỉ đến lúc nghe Mích oà khóc khi biết cô đã bán cây Ông Cháu, Sen mới biết mình hớ.
      Cô an ủi mãi, Mích vẫn hự hự trong ngực, nhìn trách móc. “Thôi thì ra Tết, em sẽ làm mẫu để anh làm cây Thiếu Nữ”. Mích đỏ mặt, bỏ về.
      Tết, anh lánh mặt cô. Anh đến thăm ông giáo vào lúc cô đi vắng. Cô nhắn mấy lần, Mích mới sang. Trông lạnh lùng thấy ghét! Anh lặng lẽ uốn tỉa cây, thi thoảng mới liếc nhìn cô đang chải tóc. Tối, anh chào cô rồi về. Dửng dưng. Xa lạ. “Chắc anh ta giận. Thôi thì mình cố làm mẫu để bù nỗi ngu ngơ. Cho bố già khỏi buồn”. Nghĩ thế nên Sen kiên trì ngồi làm mẫu. Đôi khi cô cười như xin lỗi.
      Sen như quên cả chuyện anh ngoại thương đã vào Sài Gòn; anh nhà thơ đã đi làm báo xa; và anh giáo dạy toán đã chuyển lên trường huyện. Quên cũng phải. Vì họ có nhớ cô đâu. Đến một cái thư cũng không có.
      Một hôm, cô gợi được chuyện Mích. Anh thủ thỉ nói: “Trồng cây si đẹp giống như làm thơ. Để cho nó đẹp phải tính như toán. Dĩ nhiên vẻ đẹp sẽ tạo ra tiền như... để xuất khẩu ấy”. “Ôi anh Mích! Thế ra anh bằng cả ba người cộng lại?”. Mích ngừng tay uốn, bứt một lá si. “Không, tôi không phải là ba người. Tôi chỉ là một người có đôi mắt lá si. Tôi là người trồng si”.
      Sen tinh nghịch: “Hình như em nghe anh Mích nói ngọng?”. Mích không giận. Anh đã nhìn vào mắt Sen. Và, trả lời khiến cô giáo phải sửng sốt: “Tôi nói tôi là người trồng si cảnh. Và em biết đấy, anh đến đây và muốn ở lại làm một người chồng si thật sự. Em  thấy thế nào?”.
      Nói xong, Mích vụt chạy. Anh chạy ra bến sông nơi ông giáo Chữ  đang câu cá để thưa chuyện. 
      Cuối năm ấy, trời rét ngọt. Đám cưới được tổ chức. Tiệc bầy trong vườn si cảnh. Người ta không thấy cây si Thiếu Nữ đẹp như thế nào; vì vườn si này là vườn cảnh của nhà anh Mích. Đám cưới chỉ vắng anh bạn làm thơ. Tiếc thay! Nếu không, chắc hẳn chúng ta sẽ được đọc thêm một bài thơ ở cuối truyện này.
 
 

 
                                      DI CHÚC
 
      Thế là sự đã rồi! Không thể cưỡng nổi giấy trắng mực đen nữa! Cô, dì, chú, bác của thằng Bờm chẳng ai được hưởng nhiều như vậy từ ông nội. Di chúc ghi rõ: “ Nguyễn Văn Bờm được thừa hưởng ba bài văn lớp đệ nhất, lớp đệ nhị, lớp đệ tam của ông nôi trong các năm 1930, 1931, 1932. Ngoài ra, Nguyễn Văn Bờm còn được thừa kế tòa biệt thự nằm trên diện tích đất 180 mét-ca-rê, lô 2, thửa sáu, tọa lạc tại số 9, đường Pôn-be cũ, nay gọi là đường... quận..., Thành phố Hồ Chí Minh”.
      Ba bài văn được giao thẳng cho Bờm. Riêng tòa biệt thự, ba Bờm được ủy quyền giữ giùm. Chẳng ai hiểu tại sao ông nội lại làm như vậy! Có lẽ phải nhờ ông giáo cắt nghĩa giúp. Tôi là thầy giáo của Bờm, được cả nhà kính trọng. Dĩ nhiên tôi được hỏi ý kiến.
      Về tòa biệt thự, quả thật tôi cũng không biết nói thế nào. Âu cũng là thói thường ở đời: cha truyền con nối?
      Chỉ có ba bài văn, lạy trời, nhờ từng là học trò, rồi lại làm nghề gõ đầu trẻ, tôi khám phá ra nhiều điều. Xin thứ lỗi “bệnh” tỉ mỉ nghề nghiệp để được ghi ra đây vài điểm chính:
       - Đây là ba bài văn tả cảnh. “Hãy tả một ngôi biệt thự trên đường Pôn-be”. Ba cái đều giống nhau từng chữ.
       - Cả ba bài viết, trò chép giống nhau từng dấu chấm, dấu phẩy.
      - Ở phần ghi nhận xét và cho điểm, bài viết năm 1930 ghi: “Giỏi - Mười”, bài viết năm 1931 để: “Trung bình - Bốn, bài viết năm 1932 ghi: “Rất kém - Không”. Nét chữ viết và chữ số mách bảo hậu thế rằng ông thầy này dạy học trò liên tục suốt ba năm tiểu học.
      Tôi nói với cha con Bờm:
       - Đây là một bài học.
       Bờm tròn xoe mắt:
       - Thưa, con không hiểu...
       Ba Bờm hắng giọng nói khẽ:
       - Ông cụ dạy rằng...e hèm... ông cụ có ý nói rằng...
      Tôi khéo léo tiếp lời:
       - Lúc người ta nhỏ, làm được việc nhỏ là tốt. Khi đã lớn, vẫn làm việc nhỏ ấy là kém, là thụt lùi.
       - Có lí! Có lí! Có lí lắm! Ba Bờm vỗ vào vai con, nức nở khen thầy.
       Bờm khép nép:
       - Thưa thầy, còn toà biệt thự?
       - À, cái này... cái này... thầy... Tôi lúng túng và trở nên ấp úng.
       Bỗng Bờm reo lên:
       - A! Con biết rồi...
      Ba Bờm nhìn con tỏ vẻ nghi ngờ:
     - E hèm! Cái gì! Con biết cái gì nào?
     - Nó là ước mơ! - Mắt Bờm sáng bừng lên - Nó là ước mơ của ông nội con...
       Tôi xoa đầu Bờm, khen “Hay quá!”.
       Ý tưởng của Bờm khiến lời giải của tôi trở nên rành mạch.
       Đúng rồi! Ông giáo đã gợi cho nội nhiều ước mơ về toà biệt thự. Thành ra, nội đã tưởng tượng được ra nó. Ước mơ trong tâm tưởng hằn sâu đến mức mỗi khi viết hay nói về toà biệt thự, nội đều viết y hệt nhau chăng?
       Chúng tôi đến thăm toà biệt thự.
       Cả ba ngỡ ngàng khi thấy các chi tiết trong toà biệt thự, cách bố trí vườn cảnh hầu hết đã được mô tả trong bài văn. Dáng dấp toà biệt thự vừa già nua, cổ kính vừa trẻ thơ và hiện đại.
      Ba Bờm đột ngột bảo:
       - Điều quan trọng nhất là ông nội đã làm cho ước mơ trở thành sự thật phải không con?
       Bờm “ Dạ! Dạ!”. Bàn tay nóng ấm của em nắm chặt lấy tay tôi. Em ngước nhìn lên bầu trời xanh.
      Trời vẫn xanh như ngày xưa.
 
 

 
                                          DAO SẮC
 
      Về thăm trường nơi sơ tán cũ, tôi đưa thầy đến nghĩa trang liệt sĩ, viếng một người bạn cùng lớp đã hi sinh trong chiến tranh. Vào lúc tàn nhang đã uốn cong hình những ngọn tre, thầy bảo tôi mở nút chai rượu cúng. Chén rượu mắt trâu thứ nhất được rưới xuống mộ. Chén thứ hai, thứ ba, thầy trò ngửa mặt lên trời, cạn một lần. Chai rượu nếp quê nồng nàn đủ sức khiến người ở hai cõi âm dương say nghiêng ngả. Thầy rủ rỉ nói chuyện với đất nâu và cỏ xanh. Còn tôi, tôi gân cổ hát một khúc quân hành lạc điệu.
      Mấy đứa trẻ chăn trâu thấy lạ, xúm đến xem, xì xào bàn tán. Mắt chúng ánh lên vẻ lo ngại. Tôi bỗng giật thót người, chợt thấy một bé gái nhìn chằm chặp vào cái cặp da thầy tôi để lăn lóc bên phần mộ. Trong cặp có rất nhiều bản thảo.
      Hai thầy trò bước thấp bước cao trên con đường bậc thang, mấp mô những vết chân trâu dẫn vào làng. Tre hai bên đường ken thành lũy, bóng tỏa xanh cả những vũng nước đọng từ cơn mưa cuối hạ đêm qua. Hụt chân, tôi ngã nhào vào một bụi tre. Loạng choạng ngồi xuống, gỡ mấy cành gai còn níu lấy áo tôi, thầy đưa tay lần khắp người trò xem có chỗ nào bị chảy máu không. Rồi, lò cò đứng dậy, với tay rút mấy búp tre non, thầy bảo tôi nhai và nuốt nước đi. Khi tôi vịn vào một thân tre đứng dậy, thầy lại cúi xuống,lúi húi vuốt vuốt một thân măng bị gẫy. Vẻ trầm ngâm lộ rõ trong những tiếng thì thầm mỗi lúc một thấp dần xuống: “Tre già, măng mọc”.
      Về thành phố, hai thầy trò dồn sức hoàn thành mấy bộ sách viết chung. Công việc lút đầu, tôi mệt muốn đứt hơi. Thế mà thầy vẫn tỏ vẻ an nhàn, miệng luôn nở những nụ cưòi tủm tỉm. Tôi hỏi bí quyết, thầy lảng chuyện, hỏi: “Con có nhớ mấy đứa trẻ chăn trâu hồi ta về thăm trường cũ không?”.
      Sách viết xong, chưa kịp xếp bút, thầy tôi mắc trọng bệnh. Hàm cứng lại; răng như dính chặt vào nhau. Không nói được, muốn dặn tôi điều gì, thầy đều phải ghi ra giấy.
      Cách đây hai tháng, lúc thầy ngủ, tôi thấy lẫn trong số bút đàm một tờ giấy chi chít chữ. Xem qua, tôi biết đó là một truyện ngắn. Truyện kể: Thầy gặp trò cũ ở chốn bên kia, uống rượu say tuý luý, ngã vào một bụi tre. Thân tre khắc kín các con chữ lẩy ra từ những cuốn sách thầy và tôi đã viết. Một đám trẻ trâu ê a đánh vần từng chữ. Thầy đã định nhắc nhở khi nghe chúng đọc sai nhiều chỗ. Nhưng xem kĩ lại, chữ nâu trên tre xanh rõ rành rành, thầy tái mặt, toát mồ hôi. Thì ra lỗi là do thầy và tôi viết sai! Sai. Chao ôi, sai! Kêu gào khản cổ, nhìn lên dương thế, thầy muốn chết thêm một lần nữa khi thấy tôi đang hăm hở chấp bút một cuốn sách mới. Rất có thể nó cũng sẽ bị viết sai ở một trang nào đó mà tôi không hề biết...
      Vì một lý do đặc biệt, Ban biên tập tờ báo chiều theo ý tôi, đăng nguyên vẹn truyện, không sửa một chữ. Tờ báo, được chuyển qua ngưòi bác sĩ điều trị, đến tay thầy. Khi đọc xong truyện, mắt như lạc hết tinh lực, miệng thầy bật “á” lên một tiếng, máu tươi rỉ ra khoé mép. Khối u làm cứng hàm đã vỡ, mặt thầy tôi đang tái nhợt cứ hồng dần lên...

 
                                
                                    BÔNG GẠO
 
      Nết mang tích nước chè nóng, ủ trong cái dành tre cật sơn cậy đen nháy, bên trong dồn bông cây hoa gạo. Vũ biết đó là bông lấy từ cây hoa gạo đầu làng, vì thứ bông lộ qua lớp vải hoa tím sẫm có chỗ đã thủng, trắng đến lạ lùng. Nhìn bàn tay cầm quai tích bằng đồng của Nết, Vũ quay mặt ra phía cửa. Anh bất giác nhìn thấy những bông hoa đỏ chói in trên nền trời quê đang sáng rỡ lên trước lúc hoàng hôn buông xuống.
      Nết đã xuống bếp. Lửa rạ khiến má cô hồng lên.
      - Thôi, anh về. Thầy cho anh về - Ông đồ nhắc.
      Vũ biết là ông đuổi khéo. Anh tủi thân, đứng dậy, ấp úng chào ông đồ rồi hấp tấp đi ra cửa. Qua sân, Vũ muốn nhìn Nết đang bặm môi thổi lửa nhưng không dám. Không biết có đúng là Nết đang thổi lửa hay không (anh có dám nhìn đâu mà biết rõ). Ấy là anh đoán thế. Đoán thế vì anh nghe vẳng bên tai những tiếng phù, phù, phù...
      Vũ chả dám quay lại. Anh biết ông đồ đang nhìn theo anh, dõi từng bước chân, ngắm tướng đi lóng nga lóng ngóng.
      Ra khỏi ngõ nhà ông đồ, bỗng có tiếng người gọi: “Anh giáo”. Vũ nhìn quanh quẩn và chợt nhớ đây là ngõ của bà cụ Tâm. Bà cụ có mấy người con đi bộ đội hi sinh ở Cao Lạng. Hình như hồi năm 50. Đến cuối năm 54 mới có giấy báo các con hi sinh, cụ cứ bảo là các con hi sinh ở Điện Biên điện biếc  gì gì đấy. Nết vẫn sang trông nom giúp đỡ việc vặt lúc cô dâu út của cụ đi vắng. “Khổ, còn có thằng con út thì nó lại đi công nhân gang thép, ở mãi tỉnh Thái”. Cụ thở dài thườn thượt bảo Nết thế.
      - Anh giáo vào đây chơi đã - Cụ Tâm mời.
      Vũ đẩy cái cổng bằng rào tre sang một bên, bước vào sân. Bà cụ lẩy bẩy bưng rá khoai lên hiên nhà, nơi có kê cái chõng nan tre.
      Đã tháng ba, chiều nay gió lạnh ở đâu ùn ùn thổi về. Sao mà lắm gió. Nhìn bà cụ run vì lạnh, Vũ chạnh lòng bảo:
      - Thôi u để con mang khoai vào phản mà ngồi. Ngoài này gió lắm. Rét tháng ba... Vũ giật mình dừng lại, ân hận vì lỡ lời.
      Bà cụ chép miệng “phải, phải” rồi lui cui đi dò dẫm từng bưóc vào nhà. Bà như đi cả chân và tay. Cái lưng còng như dáng một con tôm. Trời ơi, sao lại giống cái bài “Bà còng đi chợ...” thế! Vũ vừa dạy lũ trẻ trong xóm. Mà kìa, đứa bé nào ở nhà sau đang ê a: “Bờ a ba huyền bà, cờ ong...”. Và có tiếng rúc rích: “Thầy giáo Vũ. Thầy đến nhà cô Nết”.
      Vũ nhìn đồ đạc trong nhà. Giường tre, chiếu đã cũ. Chỉ có một tấm chăn đơn. Góc nhà có ba ông đầu rau. Đấy là bếp sưởi đông của cụ Tâm.
      Mùa ấy bông gạo được mùa. Quả héo khô, đen sẫm, bóc ra bông được cả nắm tay chặt, trắng muốt.
      Vũ gom bông gạo được cả mấy kí lô.
      Anh mua vải màn, tự bật bông, dàn bông, khâu mạng và trần thành một tấm chăn.
      Bận với việc dạy học, làm tấm chăn, anh như thưa thớt hơn trong việc đến nhà Nết.
      Rồi hết thu, vào đông. Gió năm nay to hơn, trời lạnh giá đến tám độ. Bà cụ lại đốt lửa. Nhà lúc nào cũng như đang nấu cơm.
      Vũ mang tấm chăn bông đến biếu cụ. Cụ Tâm nằng nặc không nhận. Nết phải chạy sang nói giúp Vũ mãi, cụ Tâm mới chép miệng, nói Vũ cũng cô đơn rét mướt, nhận sao đang tâm. Nết nhìn Vũ, cười.
      Có tiếng ông đồ gọi, Nết chạy ù về nhà. Rồi cô nháy Vũ, ra hiệu cho anh xin phép cụ, còn sang gặp ông đồ.
      Nết lại mang tích nước chè tươi ra, rót mời bố và Vũ. Ông đồ lấy một chén trà, đưa cho Vũ, bảo khẽ:
      - Từ nay con cứ lại chơi. Rồi sang xuân ấm áp...
      - Dạ, vâng ạ. Con biết bố thương con...
      Nết tỏ ra bạo, đánh liều hỏi bố:
      - Bố ơi, thế bao giờ thì mùa xuân?
      - Bố nhà cô ! Lúc nào cô cậu lấy nhau thì là mùa xuân.
      Bà cụ Tâm lụ khụ sang, hai tay bưng một rổ khoai luộc còn nghi ngút khói. Ông đồ nhìn bà tỏ vẻ ái ngại nhưng bỗng tủm tỉm cười sung sướng. Vũ biết vì sao ông có nụ cười ấy.
                               

                                   BỨC TRANH
 
      Bức tranh được vẽ bằng muội đèn dầu ma dút. Bút vẽ là ngón tay trỏ. Người vẽ tranh ký bằng điểm chỉ. Ngón tay cái của bàn tay phải hằn lên giấy những đường tròn đồng tâm tròn vành vạnh.
      Thú thật, tôi treo bức tranh này ở nhà đã lâu mà không hiểu rõ họa sĩ vẽ về cái gì. Toàn bộ mặt tranh đen kịt, loang lổ, đậm nhạt khác nhau. Những mảng màu kỳ quái ấy, có lúc tôi đã tưởng tượng ra những trái núi to nhỏ khác nhau. Lại có lúc nghĩ đó là rừng đêm, biển bão.
      Phòng tranh của tôi là gian gác xép gỗ, hai đầu vách có hai cái cửa sổ chỉ to bằng quyển vở học trò, ở giữa có một dấu thập bằng sắt. Phòng luôn luôn mờ mờ, kể cả vào lúc giữa trưa nắng gay gắt.
      Mấy hôm trước, nhà hàng xóm ở phía tây đập ra để xây một khách sạn mi ni. Nhà kế bên kiện tụng gì đó, khiến công trình thế kỷ kia phải tạm hoãn lại chờ ý kiến của nhà nước. Buổi chiều, bước trên các bậc thang để lên gác, tôi thấy, một luồng sáng như ánh đèn pha, chiếu xiên vào vách phía đông.
          Phòng tranh còn độc có một bức ấy. Trơ chọi ở góc phía tây.
      Trước đây, khi bạn tôi còn sống, bốn bức vách đầy tranh. Nhiều nhất là tranh của Vân.
      Xuất xứ của những bức tranh rất giống nhau. Bức thì tôi đổi sách, bức thì tôi bỏ tiền ra chuộc.
      Bố tôi là một nhà văn. Ông để lại cho đời một gian sách và một nhà văn con. Đủ loại sách. Đông, tây, kim cổ. Sách đã in. Sách còn là di cảo. Cuốn của ông. cuốn của bạn bè ông giữ hộ. Tôi lên mười thì ông ra đi. Ba mươi bảy tuổi. Một số không trống rỗng! Mẹ tôi khóc hết nước mắt rồi dằn lòng bảo: “Bố con phận bạc. Thôi thế là đành phận. Tiếng thơm vậy cũng là dư. Con cố mà giữ lấy thanh khí bố. Sau này, mẹ có theo bố cũng nhắm mắt được”.
      Lớn lên, tôi kết giao với đám bạn bè mà mẹ tôi cho là hư hỏng. Kể cả Vân. Anh là một họa sĩ mèng. Chuyên đi trang trí đám cưới. Đôi khi vẽ một bức khỏa thân không có người mẫu. Anh nhìn tôi tắm để vẽ các thiếu nữ. Thành ra các bức vẽ con gái trông rất lạ. Đó là những cô gái đàn ông. Một loại tính cách? Những hình khối rơi vào khái niệm sáng tạo? Cộng thêm lối văn chương đồng bóng của tôi khi giới thiệu tranh Vân, anh thành một họa sĩ một có tên tuổi. Bốc lên, Văn vẽ lung tung. Vẽ cây. Vẽ chim cò. Ruộng lúa. Con gái Thái... Có khối người đến gạ mua tranh. Và vậy là Vân có tiền. Tôi thì được anh cho hưởng sái, đi đâu cũng cho gọi.
      Anh ngông nghênh vẽ những bức tranh biểu tượng. Hiểu thế  này hay thế kia đều được. Rất khó nắm bắt. Lời tán tụng của tôi không còn hiệu nghiệm nữa.
      Rốt cuộc thì tôi đi dạy học. Thi thoảng viết một cái truyện nhì nhằng, kí những bút danh mà chính tôi cũng không nhớ.
      Vân bỏ tôi lên Tây Bắc, vào Quảng Bình, Quảng Trị. Rồi anh trở về. Vẽ. Ngồi quán cà phê, ăn phở. Ghi sổ. Tôi biết anh thường trả nợ bằng tranh. Được mấy ông chủ này mê văn nghệ, chỉ cười hề hề.
      Có một thời phong trào tái bản các sách cũ của các nhà văn quá cố nổi lên khá rầm rộ. Vân chỉ một ông chủ quán cà phê làm môi giới đến điều đình mua kho sách nhà tôi. Tôi cười, nói đùa: “Tôi không bán sách. Nếu ông chịu đổi thì tôi đồng ý”. Người kia cười nhạt khi nghe tôi nói đổi một cuốn sách lấy mười cái tranh của Vân. Ông ta cho là tôi gàn. Vì vậy, sau khi đổi được chừng hai mươi cuốn sách, ông ta tuyên bố chẳng còn tranh nào của Vân nữa. Hào hiệp hơn, ông ta gởi biếu tôi ba trăm ngàn đồng. Một món tiền tôi và Vân nằm mơ cũng không thấy. Hai đứa được cả tháng hè ăn chơi, nằm tán gẫu về tranh. Tiền ấy cũng góp phần mua được cái khung kính rẻ tiền, để tôi và Vân lồng tranh vào, treo kín bốn vách gỗ ván.
      Sau lần ấy, Vân ốm nằm liệt giường. Anh đã vẽ bức tranh kỳ lạ ấy trong một đêm không ngủ được. Tôi đã giấu hết giấy má, bút mực. Thế mà có lần vẫn bắt gặp anh hì hục viết.
      Tôi dạy tiếng Việt ở một trường đại học. Có rất nhiều học sinh nước ngoài đã được tôi thụ giáo. Các cô các cậu ấy hay đến chơi với tôi lắm. Cũng dễ hiểu. Tôi không lập gia đình. Rất là tự do. Nhiều người đã được tôi tặng tranh của Vân. Về nước, họ gởi cho tôi thứ này, thứ nọ. Tôi đã bán những thứ đồ ấy để chu cấp cho Vân.
      Một lần, tôi đến thăm anh, Vân đưa cho tôi một tập bản thảo. Về nhà giở ra xem, tôi giật thót người. Đây mới đúng là Vân, con người mà lúc ấy tôi mới cắt nghĩa được vì sao cả cuộc đời tôi gắn bó, cưu mang như vậy. Tôi không hiểu cái gì khiến văn của anh hao hao giọng văn của bố tôi. Nếu được phép nói ra sự thật, tôi phải vái vong linh bố, rồi nói rằng ở đời đã có một người vượt được bó tôi. Nó sắc sảo và giản dị. Đọc thấy tưng tức nhưng lại thấy thinh thích. Tôi thề sẽ in bằng được tập bản thảo này. Thôi thì tôi còn vớt vát được chút ít cái gọi là lòng hiếu thảo. Văn nghiệp tôi mỏng như tờ giấy, sao đáp được lòng mong mỏi của mẹ tôi nơi chín suối. May mà tôi còn có bạn! Mạch văn mà bố tôi đã vạch, vẫn còn một dòng chảy.
      Vân qua đời mà không biết ở Ba Lan, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc có nhiều tờ báo cùng rộ lên một lúc ca ngợi anh như một họa sĩ có phong cách tài hoa ở Việt Nam.
      Người ta đổ xô đi tìm mua tranh của anh.
      Hôm qua, một học trò cũ của tôi từ Nhật qua. Bây giờ anh là một thương gia kiêm một nhà sưu tập tranh nổi tiếng. Đến thăm tôi, anh ngỏ ý được xem lại phòng tranh. Tôi nói chỉ còn một bức. Khách nằn nì mãi. Tôi đành chiều lòng.
      Buổi chiều, nắng xiên khoai chiếu thành luồng vào vách gỗ phía đông. Gặp vật chắn, ánh sáng hất ngược trở lại, chiếu hắt vào bức tranh.
      Khách sững sờ, đứng lặng; rồi từ từ cúi đầu xuống.
      Lần đầu tiên tôi hiểu bức tranh. Dưới ánh sáng vừa phải, các mảng đen loang lổ, đậm nhạt hiện rõ một khuôn mặt. Nhìn chính diện là mặt bố tôi. Nhìn nghiêng sang bên trái là mặt tôi. Nghiêng sang bên phải là khuôn mặt Vân.
      Người học trò cũ nói rằng bức tranh mà tôi đã vô tư tặng anh trước đây là một tác phẩm vô giá. Nhờ nó mà anh có được một cơ nghiệp như hôm nay. Lần này, vì lòng biết ơn ấy, anh sẽ ngã giá sòng phẳng với tôi. Giá bức tranh là một khoản tiền khổng lồ; tôi có thể dùng để in hàng trăm tập sách như Vân đã để lại.
      Vân ơi, có nên bán bức tranh cuối cùng này không? Bởi giữ nó, cuốn sách của anh sẽ vĩnh viễn nằm trong tủ của tôi?
      Tôi đã hỏi như vậy. Những đám rêu màu muội đèn lốm đốm trên mộ Vân đã im lặng, không trả lời...
                                 

 
                        THẰNG NGƯỜI TRỜI                                
 
      Năm 1977, trong một trận huyết chiến với bọn Phun-rô, tôi bị lạc khỏi đội hình đơn vị. Quân địch khép chặt vòng vây nhưng không nổ súng.
      Chạy theo con đường mòn độc đạo giữa rừng rậm, tôi bị chúng dồn đến đầu nguồn Đạ Dơn. Trước mặt, thác Koi như đổ từ trời xuống, bọt sôi sùng sục. Duềnh trên mặt sóng, một đám thiếu nữ K’Ho vừa té nước lên mặt nhau vừa cười ngặt nghẽo. Sau lưng, tiếng chân người sột soạt trên lá khô mỗi lúc một gần. Rồi, “soạt, soạt”! Một đôi nhím hốt hoảng vụt ra từ một lùm cây. Theo thói quen, tôi lăn xuống chân thác, ngã xoài vào trắng xoá bụi nước, trắng xoá những thân thể con gái. Một con nước xiết chồm tới, cuốn tôi chìm nghỉm. Nổi bềnh lên như một khúc gỗ khô, tôi cố nhoài người bơi ra khỏi vực. Xoáy nước cứ hút tôi vào rồi lại đẩy ra...
      Đám thiếu nữ kêu lên những tiếng kinh hãi, chạy té lên bờ, mặc váy áo. Các cô chỉ trỏ, bàn tán, rồi rối rít cắt nối dây rừng, quăng xuống vực xoáy...
      Lên bờ, tôi rũ xuống. Phần do kiệt sức, phần do tiếc khẩu AK còn một viên đạn bị vực xoáy nuốt chửng. Các cô gái K’Ho vây lấy tôi. Một người nói: “KaYung, hỏi xem nó có phải là người Trời cho chị em ta không?” KaYung quay sang bảo bạn: “KaLiêng ơi! Áo nó xanh như lá cây rừng, mắt nó sáng như mắt chim ưng, nó bơi giỏi như một con trâu. Nó là cái bộ đội đấy!”. “Bộ đội? Trai làng sẽ giết nó như giết con thú à? KaBộp bảo bộ đội không có tim. Nó đuổi người K’Ho ta vào rừng sâu, lấy đất tốt cho người Kinh ở”. “Ồ, nó đẹp như KaXing thổi khèn đánh chiêng giỏi nhất làng ta. Có lẽ nó không phải là bộ đội. Nó là người trời”
      KaYung bảo tôi: “Mày là người trời. Mày phải theo chúng tao về làng. Mày không quay lại được đâu. Rừng nhiều cọp vồ người lắm. Cọp không vồ thì cái súng nó cũng ăn mày mất thôi”. Tôi ngước mắt, thầm cảm ơn cô. “Đi theo tao. Đến nhà già làng. Ở đấy không ai dám làm hại mày đâu. Mày sẽ là khách của làng”. Các cô gái cùng phá lên cười. “Nó đồng ý rồi! Trời cho làng thêm một KaXing”
      Đám thiếu nữ rúc rích cười nói dẫn tôi đến trước một căn nhà sàn gỗ. Ở đó đã có ba người đàn ông cởi trần, đóng khố, vai đeo súng, tay cầm giáo, đứng chờ ngay dưới chân cầu thang. Người trẻ nhất tiến lên một bước. KaYung nhắc khẽ: “Già làng đấy. Mày chào nó đi”. Anh ta chắp tay trước ngực, tôi cũng làm theo: “Chào già làng”. “Được”, giọng già làng trầm đục, “Tao là KaDâng. Còn mày?”. “Tôi là ... là...”. “Mày là bộ đội?”. Tôi khẽ gật đầu. Già làng lừ mắt về phía các cô gái: “Ớ trời! Sao chúng mày bảo nó là người trời?”. Rồi ngửa mặt lên trời: “Tao thù cái bộ đội lấy đất! Tao thù cái bộ đội không yêu đàn bà, không quí trẻ con!”. Tôi lạnh sống lưng, nghĩ đến thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của bọn Phun-rô đầu sỏ. Những rừng cỏ tranh dưới chân núi Koi nông trường khai hoang, chúng bảo đó là đất của tổ tiên người K’Ho, ngưới K’Ho phải giữ lấy. Cán bộ vận động định canh định cư ổn định cuộc sống, Phun-rô bảo họ đang tìm cách cầm tù ngưới K’Ho đấy. Phải bỏ làng đi thôi. Làng K’Ho rời đến thác Koi này là do những lời độc ấy. Nhiều trai làng đã vào rừng, lẩn lút trong các hang đá ở núi Koi, cầm súng chống cách mạng.
      Già làng vẫy KaYung lại: “Ớ KaYung! Nghe KaBộp bảo nó là bộ đội, tao đã muốn giết. Tao biết lòng mày trong như nước thác Koi, miệng mày nói lời lành như tiếng chim ri núi, mày hãy nói: Nó là bộ đội xấu hay là người Trời cho ta?”.
      KaYung nhìn tôi: “Nó đến làng ta tay không giáo mác, không tên nỏ. Nó biết xuống suối tắm cùng đám con gái. Nó trôi vào miệng vực, Trời đẩy nó ra. Nó là KaXing của làng ta”.
      Các cô gái rúc rích cười. “Nó là người trời của KaYung”. “KaLiêng ném được cái lo KaXing theo KaYung xuống suối rồi nhé”. “Ứ ừ, tao thả dây. Nó là của tao”.
      Các cô gái chỉ im bặt khi KaDâng khoát mạnh tay: “Thôi, ai về nhà ấy. Về cho người già khỏi lo đỏ con mắt! Về cho người trẻ khỏi bối rối trong lòng”.
      Chờ cho đám trai gái làng lẫn vào bóng cây rừng, KaDâng cầm tay tôi dắt lên cầu thang: “Mày là khách. Mày được ngủ bên bếp lửa. Mày muốn làm gì cũng được. Nhưng không được lội ngược lại thác Koi”.
      KaYung cắt một tảng thịt khô treo ở vách bếp, xiên vào cái que tre đen nhẫy, lật đi lật lại trên than đỏ. Mùi thịt nướng khen khét, ngầy ngậy. Cô dùng dao rừng chặt thịt thành bốn miếng. Đặt hai miếng thịt trong một cái đĩa bằng bạc trước mặt tôi và Ka Dâng, cô trở lại góc sàn bê ra một hũ rượu. Úp trên miệng hũ là một cái gáo vầu. “Ơ KaDíp! Ra chào người trời rồi ta ăn cơm nhà ta đãi khách”, già làng gọi. Một người đàn bà bụng chửa vượt mặt khệ nệ đi ra từ sau bức vách gỗ, cúi đầu, lí nhí. Tôi chắp tay đáp lễ. KaDâng bảo: “Nó là KaDíp, chủ đất của làng. Vợ tao đấy. Còn đây...”, anh ta chỉ vào tôi: “Thằng người trời”.
      Già làng bưng hũ rượu đổ ra gáo. Uống trước một ngụm lớn, anh đưa gáo rượu cho tôi. Tôi mỉm cười thay lời cảm ơn thịnh ý của chủ, nâng gáo ngang mặt, uống cạn một hơi. “Được, được! Mày biết uống rượu bắp ủ men lá rừng núi Koi, mày không chê nhà tao, tao coi mày như người làng”. Ở bên kia, KaDíp bấm vào đùi KaYung khiến cô cười lên khanh khách. “Con KaYung là em ruột tao. Em ruột của già làng, em chồng của chúa đất. Nó kén chồng lắm. Thằng KaXing trong núi ngó nghiêng nó, nó còn chưa chịu đấy. Cái chân nó còn như con chim chưa buộc vòng, cái mắt nó còn nhìn núi Koi, núi Chẻ. Từ mai, mày đi rẫy với nó. Mày là người làng rồi, cái bụng mày cũng cần có bắp, có lúa”.
      KaDâng thường mang súng đi suốt ngày và chỉ trở về nhà khi đêm đã rất khuya. Tôi hỏi KaYung, cô bảo: “Nó đi bắn con thú”. “Sao không lần nào được thịt?”. “Đi với KaBộp không được thịt. Đi giữ rẫy thôi”.
      Một đêm, nghe tiếng súng rộ lên ở bên kia núi Koi, tôi thấy KaDíp ngồi bên bếp lửa có vẻ bồn chồn, thi thoảng lại cúi xuống lấy gấu váy lau nước mắt. Tôi chui ra khỏi chăn, đến ngồi đối diện với chị. Chị bảo: “KaBộp nó sẽ giết mày thôi. Nó ác hơn cả thú dữ trong rừng”. Tôi hỏi KaBộp là ai, chị thở dài: “Phun-rô...”.
      Gần sáng, tôi và KaYung bị đánh thức bởi những tiếng rên rỉ như xé ruột của KaDíp trong cơn vượt cạn. KaYung khóc thút thít. Thi thoảng, cô lại chạy xuống cầu thang hú lên từng hồi ba tiếng một. Tiếng hú gọi thần rừng, thần suối về che chở cho chị dâu của cô đập vào vách núi Koi, vọng lại như tiếng ma hời âm u, rợn tóc gáy. KaDíp rùng mình, “hộc” lên một tiếng. KaYung hốt hoảng kêu lên: “Ớ trời! Nó ra ngược...”. Cô run lẩy bẩy bước ra khỏi nhà “hú, hú, hú” liên hồi... Không kìm được thương cảm, tôi luýnh quýnh đến góc sàn, quì xuống bên KaDíp. Mặc chị quằn quại, tôi cố giữ lấy hai chân của  đứa trẻ. KaDíp bỗng “hừ ”giận dữ, co chân thu hết tàn lực đạp vào ngực tôi. Tôi reo lên cùng tiếng khóc oe oe. “ Một chú bé con!”.
      Trao chú bé cho KaYung đang tròn mắt nhìn mình, tôi định quay lại giúp KaDíp. Lúc ấy, một họng súng lạnh toát đã dí vào lưng tôi: “Đứng lại!”. KaDâng từ phía sau bước lên, gạt mũi súng, bảo: “KaBộp! Không được bắn thằng người trời. Nó...”. Người có tên là KaBộp quay lại, chạy xuống cầu thang, chĩa súng lên trời bắn một phát “đùng”. Đứa bé trên tay KaYung khóc thét lên. KaDâng nhìn tôi, lắc lắc đầu...
      Chưa tới mùa bắp, KaDâng bảo tôi: “Mấy hôm nay heo rừng về phá rẫy dữ lắm. Mày và KaYung đi lấy bắp về kẻo chúng ăn hết mất”. Nghe anh nói, KaYung hỏi: “Rẫy nhà ta cái chân đi nửa ngày mới tới, nửa ngày về, hái bắp lúc nào?”. KaDâng cười: “Ừ nhỉ! Thì bảo thằng người trời dựng lán, ngủ lại rẫy. Bao giờ xong việc thì về...”.
      Chiều hôm sau, lúc lán đã dựng xong, nhìn mặt trời khuất dần sau núi Koi, tôi ngồi thừ ra nghĩ ngợi. KaYung thấy vậy, dặn: “Rừng lắm hổ, lại lắm súng ăn người nữa. Mày chớ có đi xa lán”.
      KaYung nhóm lửa trước cửa lán, ngồi hơ tay nhìn vời vợi vào rừng đêm, lo lắng. Khuya, cô thì thầm: “Bầy sao trên trời đã đi nằm rồi. Ta cũng phải ngủ thôi”. Nói xong, bảo tôi nằm trong, cô trải lá ngủ ở phía ngoài.
      Trằn trọc mãi, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Trong mơ, tôi cảm thấy nhột nhạt, rồi như có một bàn tay bóp mạnh vào chỗ con giống. Chồm người dậy, tôi thấy rõ ràng một bóng đen vọt qua người KaYung lao ra khỏi lán.
      Tôi lay KaYung dậy, kể chuyện lạ. Nghe xong, cô sợ hãi kêu lên: “Nó định giết mày. Thằng KaBộp...” Rồi bất ngờ, cô ôm chặt lấy tôi, ghì má tôi áp vào ngực mình. Tôi giãy dụa cố thoát khỏi vòng tay của cô gái K’Ho. Nới lỏng tay để tai tôi sát vào miệng mình, KaYung nói như gió thoảng: “Ôm chặt lấy tao. Không thì... nó giết mày!”. Tôi đã lờ mờ hiểu, rối rít hôn lên mặt, lên môi cô...
      Đúng như KaYung đoán, ngay lúc ấy, mấy thanh niên K’Ho bất ngờ ào tới như gió rừng, kẻ kéo oặt tay tôi ra phía sau, kẻ dựng tôi dậy, trói nghiến lại. Mặc cho KaYung nguyền ruả, chúng xốc tôi lên cáng, khiêng tôi như khiêng heo, vội vã đi về làng.
      Lấy dây rừng trói tôi vào một cây cột, KaBộp đến dưới chân cầu thang nhà KaDâng gọi với lên: “Ớ KaDâng! Ra mà xem thằng người trời. Nó đang bị trói chờ làng xử phạt trâu ngoài kia kìa”. Gọi KaDâng xong, KaBộp rút cái tù và sừng trâu bên lưng, ngửa mặt lên trời thổi từng hồi dài: “Tù, tù, tù...”.
      Dân làng lục tục kéo đến, vây thành một vòng tròn. KaBộp nhìn mọi người khắp lượt rồi nói: “Thưa lũ làng! Lệ làng K’Ho ta trai gái ăn ở vụng, con trai phải nộp trâu phạt cúng thần rừng để ngài khỏi nổi giận. Kẻ không có trâu sẽ bị đuổi vào rừng cho hổ vồ, cọp xé. Đêm qua, chúng tôi đã bắt quả tang thằng ngươì trời...”.
      Lũ làng xì xào. KaBộp tiếp: “Thằng ngưòi trời là bộ đội xấu. Xin già làng đuổi nó qua thác Koi”.
      KaDâng tiến lên một bước, nhìn xoáy vào KaBộp: “KaBộp! Chính mày đã tìm cách lùa được thằng người trời về làng?”. “Đúng thế. Bọn tao đã không bắn nó chỉ vì muốn cho lũ làng biết bộ đội không có...”. “KaBộp, mày bảo bộ đội không có tim nên ghét đàn bà, con trẻ, không có con giống nên không biết ngủ với con gái. Nếu vậy thì nó là con thú, ta phải giết...”. KaBộp ưỡn ngực nói: “Đúng thế!”. KaDâng bước lên một bước nữa, quắc mắt: “Thế sao nó biết đỡ đẻ cho vợ tao? Thế sao nó biết...”.  “Trước đây tao nghĩ thế! Chính tao đã lén mò vào lán, sờ xem nó có con giống không”. “Nhưng...”. KaBộp cướp lời: “Nhưng nó cưỡng bức em mày, em của già làng, em chồng chúa đất. Nó làm nhục làng K’Ho. Thần rừng đã nổi giận. Nó không có trâu nộp phạt, nó sẽ phải chết!”.
      Nói đến đó, KaBộp đến cởi trói cho tôi. Hắn gằn giọng: “Cút đi thằng nhà trời rởm!”. Mấy thanh niên K’Ho đã đưa tay lên vai phải, nắm lấy dây súng...
      “Khoan đã” KaDâng khoát tay: “Thưa lũ làng, KaBộp quyết giết thằng người trời để gieo thù hận. Nó dám dối cả già làng. Trước đây, KaBộp xui tao đưa cả làng vào núi. Thấy mọi người khổ quá, tao đã định bàn với lũ làng trở về đất cũ. KaBộp bảo tao cố chờ nó bắt sống một bộ đội để làm rõ trắng đen. Việc này không thành. Bây giờ nó lại xoay ra cớ thằng người trời không có trâu nộp phạt để đuổi ra khỏi làng cho hổ vồ, súng ăn...”. “Nói láo !”, KaBộp gầm lên. “KaBộp, mưu mày sâu hơn hang tối núi Koi, nhưng mày không lừa được tao nữa. Chính mồm mày nói ra, tay mày sờ thấy thằng người trời cũng chỉ là người như ta. Nó không phải là con thú mà là ngươì có con giống tốt. Phải không KaYung?”.
      KaYung đỏ bừng mặt, lí nhí: “Phải” rồi bỏ chạy lên sàn nhà.
      KaDâng nghiêm mặt: “Lũ làng, hãy bắt lấy KaBộp. Nó không xứng là người K’Ho núi Koi ta”.
      KaBộp bất ngờ rút súng, chĩa vào ngực KaDâng: “Không đứa nào được động đến tao. Rồi tao sẽ là già làng!”.
      “Đoàng”. Khẩu súng ngắn rơi xuống cỏ. KaBộp ôm lấy cánh tay loang máu đỏ. Hắn nhìn lên cửa sổ nhà KaDâng. Ở đó, KaYung vẫn còn tì súng vào má, hướng về phía hắn.
      KaDâng bảo: “KaLiêng, lấy lá rừng rịt cho anh mày”. Rồi quay sang lũ làng, anh nói to: “Hỡi lũ làng! Hãy vào rừng gọi con em về hết! Chúng nó nói láo, nói láo!”. Giọng trầm đục của già làng K’Ho vang lên như những âm thanh của rừng núi...
      Tôi và KaLiêng chạy lại, định đỡ cho KaBộp khỏi ngã. Nhưng không kịp nữa rồi, hắn đã nhào vào một bụi cây, vội vã bứt lá nhét vào miệng, nhai ngấu nghiến như trâu bị bỏ đói lâu ngày. Rồi cố níu lấy một cành cây, hắn khuỵu xuống, miệng sùi bọt.
      Lá ngón dưới chân núi Koi chưa bao giờ tha thứ cho kẻ nào dám lấy mạng sống của mình để đùa cợt với nó.
 
 

 
 
                        MÙA HOA ĐIỆP VÀNG
 
      Thuở tôi còn đi học, tôi hay ngẩn ngơ trước sân trường, kể cả khi bạn bè đang vui chơi náo động. Ngẩn ngơ nhìn những bông điệp tháng ba nở vàng cả trời đất. Hoa lả tả rụng rơi. Chấp chới trong gió. Những lúc gió quẩn, những cánh hoa mảnh vụn bị hất ngược lên trời, bất ngờ đổ xuống, tóc đám con gái vương đầy sắc vàng của nắng. “Hoa phong lạc”, điệu gió thổi hoa bay của từ khúc. Đúng rồi, thầy B.G, tóc cũng bồng bềnh như sương che khuất khuôn mặt đầy góc là góc, đã giảng bài “Tống biệt” của Tản Đà như thế. Lá đào rơi. Hoa điệp rụng. Lòng thiếu nữ trong tôi thổn thức.
      Lưu, Nguyễn đã về hạ giới. Còn anh, anh đi đâu? Tôi lờ mờ biết anh đi chơi ở Củ Chi rồi đi luôn. Anh vô rừng? Tôi nhớ đó là mùa khô 1969. Và hoa điệp đã lả tả rơi cùng những giọt nước mắt tiễn biệt mối tình đầu đời của tôi.
      Tôi giận anh. Tôi căm thù anh. Anh đã đánh thức trong tôi những xúc cảm thương nhớ mà trước đó tôi nào có biết. Giờ anh để lại cho tôi nếm vị đắng của sự thất vọng.
      Năm ấy tôi suýt trượt tú tài.
      Nhưng rồi anh Dũng, đại úy không quân, bạn của anh trai tôi đã tới. Quê gốc tôi ở Thái Bình, anh ở Sơn Tây, cả hai gia đình đều vào Nam năm 1954. Anh Dũng và anh Bình tôi đi học ở Mỹ từ năm 1964. Về nước, anh lái máy bay, anh Bình tôi đi làm thông dịch. Hai người thân nhau như anh em. Anh Dũng coi tôi như em gái.
      Có hai người anh giúp sức ôn tập, tôi vô đại học chẳng mấy khó khăn.
      Cuộc đời êm ả trôi qua. Năm 1974, tôi tốt nghiệp đại học và được anh Dũng nhờ bạn bè xin cho tôi dạy học ở thành phố.
      Cuối cùng, tôi và anh Dũng làm lễ cưới. Tôi chưa kịp yêu anh như yêu một người yêu. Tôi đồng ý lấy anh vì cũng chưa thể chê trách anh một điều gì. Anh tốt với tôi quá. Tôi quí anh và hạnh phúc cùng anh. Tôi có một người chồng đáng kính để chăm sóc, yêu thương.
      Tôi đã tưởng tượng mình không sống nổi: Anh Dũng rớt máy bay khi tôi đang mang bầu cháu Hoài Sơn. Nhớ lại những ngày ấy nhiều lúc tôi còn thoảng thốt trong những cơn ác mộng. Nỗi đớn đau không bút nào tả xiết ấy khiến tôi gầy như một con ve. Đúng hơn nữa là một con nhện ôm cái bầu to hơn người... Những ngày ấy, tôi chợt nhớ tới những bài thơ “Tống biệt” của thầy B.G, chợt nhớ tới làn điệu của bài từ khúc “Hoa phong lạc”. Và những cánh điệp vàng cuốn tung lên trời không chịu rơi xuống đất để hoá thân thành cát bụi, lả tả rơi trong những nỗi đau đớn của tôi...
      Ngoài kia, súng ầm ầm vang vọng về Sài Gòn, ngày một gần. Rồi tiếng xe tăng nghiến ầm ầm trên đường phố, tiếng reo tưởng vỡ trời, vỡ đất, những người lính xa lạ, áo xanh, nón tai bèo, chân đi dép râu, súng lăm lăm trong tay vụt chạy qua nhà tôi, vun vút, rầm rập, như  thác, như lũ ùa về phía Dinh Độc Lập. Giải phóng.
      Ngay đêm hôm ấy, tôi sinh cháu Hoài Sơn ở bệnh viện Từ Dũ. Cả gia đình tôi, gia đình anh Dũng đã xuống tàu đi Mỹ ngay sớm hôm sau. Tất cả đều nhớ đến tôi nhưng không thể đi tìm. Đây đó vẫn còn đì đòm tiếng súng...
      Tôi đã sống ngay trên mảnh đất mẹ đã sanh ra các em tôi, lớn lên từng ngày cùng những bước đi của đứa con thơ dại. Mảnh đất gắn bó đến nỗi cả hai gia đình tôi đều đề nghị bảo lãnh tôi theo tiêu chuẩn ODP, nhưng tôi đã từ chối. Hình như tâm thức báo cho tôi biết  tôi vẫn đang chờ đợi một cái gì...
      Cái tôi lờ mờ đợi chờ kia đến không ngờ.
      Hoài Sơn của tôi đã học tới lớp mười. Cũng như nhiều phụ huynh khác, tôi đến trường trung học nơi cháu học, họp buổi đầu tiên.
      Tôi đã ngẩn người, không sao nói nên lời khi chúng tôi gặp nhau ở hành lang một lớp học.
      Kẻ bội tình giờ là hiệu trưởng một trong những trường phổ thông trung học lớn nhất thành phố.
      Tôi đã toan quay lại. Anh vẫn vậy, ngang tàng như xưa, bước tới, chắn lấy lối.
      Thay cho lời tự biện bạch, anh lại nói, giọng run bắn lên: “Anh khổ lắm. Anh đã quay lại nhiều lần nhưng ...”
      Tôi lạnh lùng: “Tôi không biết ông. Ông lầm ai chăng?”. Anh nhìn thẳng vào mắt tôi: “Anh không lầm. Em là Mai Điệp.”. “Tôi xin lỗi ông. Tôi đã có gia đình”. “Anh biết. Anh biết nhưng anh không thể...”.
      Tôi bỏ về. Và Hoài Sơn đã được chuyển trường mà không được tôi cho biết lý do cụ thể. Tôi chỉ bảo con. “Mẹ thấy cái trường ấy... Nó... nghiêm trang quá. Mẹ sợ!”. Thằng bé cười đôn hậu: “Mẹ lẩm cẩm rồi mẹ ạ. Trường nghiêm trang là trường tốt đấy. Con lấy làm tiếc!”.
      Điều tôi tưởng là bất hạnh lại là điều may mắn. Không gặp anh, tôi đã không bao giờ yêu anh Dũng, dù tôi rất kính trọng anh.
      Anh đến. Nhiều đến mức tôi mắc cỡ mà phải tiếp. Tôi nhắc đến anh Dũng để đuổi khéo anh. Anh trầm ngâm, rồi bỗng như nói với mình: “Anh và anh Dũng có bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn...” Tôi đã bắt đầu nghe anh. Câu chuyện như là một giấc mơ. Thật là khủng khiếp và bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của tôi.
      Anh nói anh không thể cắt nghĩa được khi bố anh Dũng là quận trưởng cảnh sát ngụy, nhưng anh lại là một chiến sĩ quân báo? Chính anh Dũng đã giác ngộ anh và đưa anh lên chiến khu Bời Lời. Trong một trận chống càn, anh bị thương nặng. Sau đó máy bay Mỹ dội bom xuống trận địa, đồng đội không kiếm được xác. Đơn vị đã bí mật báo tin anh hy sinh cho Dũng. Không ai biết một người làm rẫy đã bắt gặp anh, chữa chạy cho anh lành vết thương rồi bí mật đưa anh trở lại với một đơn vị chủ lực. Anh đã trở về sau chiến thắng. Có điều, anh đã để lại cho chiến trường một phần thiêng liêng của cơ thể. Anh đã mất khả năng làm một người chồng bình thường.
      Anh kể anh rất biết rõ hoàn cảnh của tôi. Anh rất muốn thay anh Dũng chăm sóc tôi và Hoài Sơn. Nhưng mà... anh nghĩ tôi có thể đi bước nữa. Trên đời này đâu thiếu những người đàn ông tốt bụng.
      Anh kể bao năm nay anh đã đứng bên kia đường ngắm nhìn tôi và Hoài Sơn. Anh chờ mong được nhìn thấy ai đó, tất nhiên không phải anh, đến ở với tôi và Hoài Sơn. Anh đã thất vọng vì hình như trái tim tôi đã chết. Anh đã định liều... nhưng mà... còn đang lưỡng lự thì vô tình tôi đã nhận ra anh. Sau hơn hai mươi năm. Năm 1969...
      Tôi đã khóc khi nghe anh kể.
      Nghe lời anh khuyên, tôi đã cho Hoài Sơn trở lại học ở trường anh.
      Khi Sơn học đến lớp 11, tôi đã kể cho cháu nghe về chuyện của bố cháu, chuyện của tôi và anh. Thằng bé tinh nghịch cười phá lên: “Con biết cả rồi. Thầy ấy đã bảo con khai lại lý lịch”.
      Sau hôm nhận tấm bằng “Tổ quốc ghi công” liệt sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Sơn giữ anh lại ăn cơm với mẹ con tôi. Trong bữa ăn, nó nhìn tôi và anh rồi ứa nước mắt nói: “Mẹ ạ, từ lâu, con đã coi thầy như cha. Con mong...”.
      Mắt tôi như mờ lệ. Những cánh điệp vàng ở sân trường xưa gió lại cuốn bay lên. Tôi bỗng thấy mình là một cô bé nhỏ học lớp 12 năm xưa, bẽn lẽn ngước nhìn những chùm vàng đang rắc bụi kín một góc trời xanh.
      Thực ra lúc ấy, tôi giật mình, nhìn thấy những sợi tóc bạc lốm đốm mọc hai bên thái dương anh. Tôi ước khoa học có thể làm được tất cả. Không, tôi muốn nói đến khoa học của trái tim!
 

 
 
                                     THUẬT CÂU CÁ
 
      Cuối tháng tám, bèo sen vẫn còn phủ xanh mặt ao. Hai bố con lấy cần câu gẩy bèo ra bốn phía, tạo được hai khoảng tròn bằng cái mẹt, bỏ một ít cám nếp rang vàng xuống nhử cá, rồi mắc mồi giun vào lưỡi câu, buông phao. Tiếng cá đớp dưới bèo “pắp, pắp” khiến tôi nôn nao, chờ hễ phao động đậy là giật liền. Cách đó vài bụi trúc, bố tôi ngồi thu lu, một tay chống cằm lơ đãng nhìn những đám mây trắng lững lờ trôi qua khoảng mặt nước giữa đám bèo. Cái phao cuống hoa ngô trắng nõn bỗng chìm nghỉm. Tôi kêu “Kìa...” làm bố tôi giật mình, vụt nhấc cần câu lên. Dây câu thẳng căng kéo khỏi mặt sóng một cọng rong đuôi chồn mỏng mảnh như những sợi cước xanh trong nhểu nước xuống.
      Đến chiều, cầm cái giỏ tre rỗng không lên, tôi buồn thỉu buồn thiu. Bố tôi cười: “Đầy một giỏ”. Tưởng bố đùa, tôi toét miệng cười theo.
      Nhiều lần nữa tôi vẫn theo bố đi câu. Lạ thật, hai bố con chưa lần nào câu được một con cá nhỏ cho gọi là có duyên; thế mà lúc thu cần, cuộn dây câu bố tôi cứ một mực bảo: “Lại một giỏ đầy”.
      Cuối năm học lớp hai, nhờ đọc thông viết thạo nhất khối, tôi được nhà trường thưởng giấy bút và mấy quyển truyện. Về nhà, tôi giở ra khoe mẹ. Cả hai mẹ con sững sờ khi thấy trong mấy quyển truyện kia có một quyển là văn của bố tôi.
      Chiều thứ bảy, bố tôi từ tỉnh về, trên cái đèo hàng xe đạp cột một cái giỏ tre. Tôi dừng đọc truyện, chạy lại đỡ xe cho bố. Bố tôi cười, chỉ vào giỏ cá, bảo: “Một giỏ đầy” và nhìn vào quyển “Câu cá” tôi đang cầm trên tay, nói: “Một giỏ vơi”.
      Lớn lên, tôi đi bộ đội, dọc ngang khắp mọi miền đất nước; rồi học xong đại học, làm nghề gõ đầu trẻ ở một nơi cách quê tôi hàng nghìn cây số. Thao thức nỗi niềm quê, nhớ bố mẹ, tôi viết được một cuốn truyện nhỏ về làng quê. Dĩ nhiên người đọc và biên tập đầu tiên là bố tôi.
      Tôi đã nhận được thư của bố. Chẳng hiểu sao ông cụ không đả động gì đến văn chương mà chỉ nói về thuật câu cá.
      Thư viết: “Cuộc đời phức tạp trong đơn giản. Thuật câu cá rất khó! Con sẽ thật sự câu được cá khi biết rõ rằng: lúc về tay chỉ xách một cái giỏ nhẹ tênh, nhưng lòng thì đã vấn vương hồn những cánh bèo thu muốn con làm cho chúng được đẹp hơn”.

 
 
                           PHO TƯỢNG PHẬT
 
      Cho đến bây giờ anh Cu Mão vẫn chưa hoàn hồn. Anh bị kiện, bị kết án và vào tù nhanh đến mức không ai ngờ lại như vậy. Tang vật sờ sờ ra đấy, có trời mà cãi. Anh oán trời không có mắt, có miệng. Anh Cu cố ngủ. Cũng lạ, khi còn ở nhà, cứ buổi tối là mắt anh đã díp lại. Thế mà ở đây, mắt cứ thao láo. Mọi việc đã qua, càng muốn quên, nó càng bám riết lấy mình. Anh lại nhớ...
      Cũng tại chị Cu cả. Hôm anh đang cày ruộng ở gần Chùa Cả, chị Cu hớt hơ hớt hải từ nhà chạy ra, vẫy nón rối rít. Anh dừng trâu “họ, họ” rồi lên đầu bờ gặp vợ. Chị Cu vừa thở, vừa quạt vừa nói:
      - Bố thằng cu Ngọ này, nhà mình có khách. Bố nó cho trâu nghỉ một lát về nhà xem ất giáp ra sao. Họ nói cái gì, tôi nghe chả hiểu đầu cua tai nheo gì cả, bố nó ạ.
      Anh Cu chưa kịp hỏi thì chị đã nói tiếp:
      - Họ cứ khăng khăng đòi mua con lợn nhà mình.
      Anh Cu xẵng:
      - Hừ, lợn đang lớn mau,mua bán cái gì. Vớ vẩn...
      Chị Cu đưa tay vén mấy sợi tóc bết trên gò má đỏ bừng, nhìn chồng cười:
      - Vẫn biết là thế, dưng mà...
      - Mà sao? Anh Cu giật giọng.
      - Họ trả giá thịt hơi gấp rưỡi người ta...
      - Lạ nhỉ...
      Anh Cu nói đến đấy thì mặt biến sắc! Anh kêu lên: “Bỏ mẹ rồi, nó...”
      Rồi anh bỏ chạy. Vắt chân lên cổ mà chạy. Mau, mau lên! Không thì sạt nghiệp. Trời ơi, con mẹ ngu ơi là ngu!
      Chị Cu còn kịp chạy xuống ruộng. Nước bắn tung toé ướt hết cả quần áo. Chị tháo cái ách cho con trâu. Chị chạy lên bờ. Ngã dúi dụi. Tay áo, ống quần dính bết bùn non. Chị nhớ nhà có cái xe đạp, cái đài anh Cu mới sắm trên tỉnh tuần trưốc, một ít tiền bỏ ống trong con lợn đất để dưới gầm giường... Chị bật khóc, le te chạy theo chồng. Cái nón cầm ở tay rơi lúc nào không nhớ. “Giời ơi là giời”, chị kêu nghẹn ứ cả cổ. Muốn đứt hết hơi.
      Tới sân, chị bỗng đứng sững lại. Chị lườm anh Cu, ra ý nói làm người ta hết cả hồn. Anh Cu đang cười hề hề với mấy ông lái lợn. Thấy vợ lườm mình, anh bảo: “Lệnh ông không bằng cồng bà, bu nó quyết định quách cho rồi. Gọi tôi về chỉ thêm mệt”.
      Mấy ông lái lợn nói theo:
      - Ông nói vậy chứ không phải như vậy. Nhìn chị Cu kìa... Cả bọn phá lên cười. Lão to nhất trong bọn cười hềnh hệch: “Để cho chị ấy quyết mà ông anh tôi dìm bà xuống bùn thế kia kìa”.
      Chị Cu giờ mới nhìn xuống áo, xua xua tay chữa thẹn: “Không, chỉ tại con trâu. Với lại, ruộng chằm quá...”. Anh Cu bảo vợ: “Đặt cho tôi nồi bảy nước. Rồi đi tắm rửa cho sạch. Trông khó coi quá!”. Chị Cu cười thầm, thế mà cứ bảo bố cu Ngọ cục. Xem ra việc này bố cu cũng đáo để đấy. Tiền nó dạy người ta khôn. Lợn hơi người ta mua có mười bốn ngàn một cân, có người trả hai mươi ngàn, khờ gì mà không bán. Ô hay, hay là giá thịt nó lên? Có lẽ chẳng phải. Mới chiều qua mua cho anh Cu hai lạng thịt ba chỉ mỗi lạng cũng mới hai ngàn. Bốn ngàn thịt và hai ngàn rượu anh Cu đã say tuý luý, ngủ ngáy vang cả nhà. Ờ, mà lúc nãy mấy bác đây nói là người làng bên, đi mua lợn làm đám cưới, đắt rẻ chẳng quan trọng. Miễn là vừa túi tiền là được... Hay là họ lừa mình. Lừa? Chẳng phải. Vì tiền anh Cu đang đếm kia. Chị đến bên cạnh, đúng là tiền thật... Thôi kệ, việc ngừơi ta, người ta lo, việc bán lợn có lợi thì vợ chồng chị bán. Ai làm gì cũng mặc. Cái bác be bé kia nói thế mà có lý: “Con lợn đang lớn, chỉ nửa tháng nữa là tiền bằng bây giờ. Chúng tôi mua có tính đến chỗ thiệt ấy của chủ”. Thật mát cả lòng. Người ta cũng biết của cả chứ ai dại đâu...
      Chị vừa nghĩ vừa múc nước giếng vào cái nồi bảy bằng đồng. Chị đặt lên bếp kiềng vẫn để nấu cám lợn, chất củi vào rồi quạt lửa phù phù. Xong, chị dặn anh Cu:
      - Bố cu Ngọ uống nước với mấy bác, nhớ trông hộ nồi nước sôi. Tôi đi tắm đây.
      Ý tứ vì nhà có khách, chị lấy quần áo bỏ vào cái rổ mang ra phía cầu ao. Chị khúc khích cười khi thấy cái rổ không phải là cái nón. Cái nón đâu nhỉ. Rõ là đa nghi cái vợ chồng nhà chị... Chị Cu tắm vội vàng rồi chạy về nhà. Mấy người mua lợn đã trói nghiến con lợn lại, đang đè ra chọc tiết vào một cái chậu thau. Họ cạo lông, mổ bụng con lợn và để bộ lòng ra ngoài. Sau đó, họ bỏ con lợn vào một cái bao tải, đầu thò ra ngoài. Chị Cu đang hái lá xương xông ngoài vườn được gọi vào cho họ mượn một cái quang tre. Anh Cu và một người nữa ra cầu ao loay hoay rửa và làm lòng lợn.
      - Chị đặt thêm nồi nước. Khi nào xong lòng thì luộc. Chúng tôi khênh thịt về trước để làm cỗ - Một người nói.  
      Người kia bảo:
      - Chị nhớ nói anh Cu đánh cho chúng tôi mỗi người một bát tiết canh. Xong việc, chúng tôi đánh chén với nhau một bữa.
      Con lợn có ba chục cân mà sao cái đòn gánh cứ oằn xuống. Họ khênh lợn về phía đầu làng. Ai mà để ý mấy ông lái lợn. Khoảng hơn mười hai giờ thì họ quay lại. Rượu vào lời ra, rôm rả lắm... Bốn người đàn ông đang uống rượu với lòng lợn thì sư ông bên chùa Cả hớt hải đi vào ngõ. Sư ông hỏi: anh Cu có thấy ai đi tắt từ chùa sang đây không. Anh Cu lắc đầu. Ba người kia rót rượu mời sư ông. Ông cụ trông thấy bát tiết canh còn loang lổ máu, xua xua tay rồi đi nhanh ra ngõ. Đến khoảng ba giờ chiều thì ba người đàn ông chào vợ chồng anh Cu, nói là đi về dự cưới. Ở làng bên, vẳng theo gió đưa lại tiếng nhạc, tiếng kính thưa quan viên hai họ... Anh Cu rờ lên cằm, nhổ một sợi râu nhìn chị Cu, cười. Rồi chợt hỏi:
      - Thằng Cu Ngọ đâu?
      Chị Cu nhìn chồng, khẽ bảo: “Quên khấy mất, tôi chưa nói với bố thằng Cu, tôi cho nó sang ngoại từ khi bố Cu dắt trâu đi. Vừa về đến nhà thì họ đến”.
      Anh Cu nháy mắt. Chị hiểu ý:
      - Nỡm ạ, ban ngày ban mặt. À, bố thằng Cu xem con trâu tôi thả từ sáng ở  đâu rồi. Nó mà theo trâu cái làng dưới, thì tha hồ mà tìm đến mất cả đêm...
      Anh Cu nghe ra, khoác cái áo, với cái roi đi ra ngõ. Anh vừa đi vừa cười.
      Sáng hôm sau, anh dắt trâu đi cày. Mới có hơn tám giờ đã thấy anh Cu về. Trên vai vác một cái gì như khúc gỗ. Kiếm cớ về nhà đây. Đến dễ ghét, chị Cu lườm chồng:
      - Dửng mỡ... Định cấy chậm lại à?
      Anh Cu cười:
     - Có tiền đây. Phúc vô đơn chí chí... hì... hì... Anh vứt cái vật trên vai xuống đất cái bịch.
      - Cái gì thế, bố cu? Chị Cu thấy lạ hỏi rồi không chờ anh Cu giải thích, chị ngồi xuống, lấy cái que tre cời cời đất, reo lên:
      - Một pho tượng... Thế mà tôi cứ tưởng cái tút đại bác hay cái đầu tên lửa cơ đấy.
      Hai vợ chồng cời hết đất bám bên ngoài pho tượng. Đẹp quá! Vợ múc nước giếng, chồng lấy cái xơ mướp cọ. Lạ quá, đồng cứ sáng lên một lát rồi lại xỉn đen lại. Anh Cu sờ tay lên trán vẻ ngẫm nghĩ.
      - Đồng đen rồí! Ồ...
      - Ồ cái gì? Bố cu kêu toáng lên người ta đến thu mất bây giờ. Mà ồ cái gì, bố nó?
       - Nó hao hao tượng bên chùa Cả sư ông quí hơn cả mả tổ ông ấy.
       - Ờ nhỉ, tôi cũng nghĩ thế... À, sư ông quí pho tượng ấy, chắc nó có giá lắm. Chị nhìn chồng lo lắng:
     - Tôi quên chưa hỏi bố cu lấy pho tượng này ở đâu.
      - Tôi đâu có lấy ở đâu. Đang cày thì bỗng.. kịch.. tôi bèn thò tay xuống, moi thế này này.. rồi lôi lên - Anh làm như đang moi đất - Rồi tôi đem về... như bu nó thấy đấy. Có dễ hơn hai chục cân.
       Chị Cu bảo chồng cất pho tượngvào trong buồng. Chị nghe phong phanh cái gì ở dưới đất lâu không rỉ đều quí. Đài phát thanh hôm nọ có nói một món đồ cổ có giá trị hàng triệu đô la. Thôi một triệu tiền Việt Nam cũng là to lắm rồi. Những cả tấn thóc chứ chơi à... Chị Cu chưa kịp mừng. Ngay tối hôm ấy, công an xã và công an huyện đi cùng sư ông ập vào nhà chị. Theo đơn kiện của sư ông, rõ ràng hôm chùa Cả mất pho tượng phật quí bằng đồng đen, có rất nhiều vết chân từ chùa đi tắt qua vườn nhà anh Cu. Sáng qua, chính sư ông đã thấy...
      Anh Cu bị đưa ra xử vì tội ăn cắp di sản văn hoá dân tộc. Chị Cu từ hôm đó ra đồng cứ bịt khăn kín mít, cái nón đánh rơi đã tìm lại được cứ xùm xụp trên đầu. Đi đâu cũng nghe thấy người ta đang xì xào về nhà mình. Chị tưởng như mỗi lần chị đi qua, những người ở phía sau đang chỉ trỏ vào chị mà bảo nhau: “Vợ thằng ăn trộm của chùa đấy. Thế mà cứ bảo vợ chồng nó hiền...”. Ức muốn khóc được. Nhục nhã, ê chề quá.
       Có một phạm nhân can tội giết người được tha bổng. Anh tên Lành. Lạ nhỉ! Tội to thế mà còn được tha là làm sao? Anh Cu nghe phong phanh anh này bị oan. Anh kêu oan hay kháng án gì đấy. Một luật sư đã cãi cho anh trắng án. Ta cũng oan, có thể làm như thế được chứ. Không thì nhục lắm. Ra tù cũng chẳng dám về làng. Anh Cu nghĩ thế và tìm gặp Lành. Anh này rỉ tai anh nhắn vợ tìm luật sư Tâm Thiện cãi cho. Chị Cu vào thăm nuôi chồng nghe nói như vậy, thì mừng lắm. Về nhà, chị Cu gọi cậu em ruột bán cho nó con trâu. Cậu em đưa tạm cho chị hai triệu, còn bao nhiêu cậu lo dần... Chị gởi Cu Ngọ cho ông bà ngoại, nắm theo bốn nắm cơm và một lọ vừng, lên xe ra Hà Nội.. Chị tìm được nhà ông luật sư không khó lắm. Từ trong nhà một người đàn ông chừng hơn bốn chục tuổi bước ra. Ông hỏi:
      - Có phải chị muốn tìm tôi?
      Nghe có vẻ người dễ gần. Mặc dù vậy giọng chị Cu vẫn run run:
      - Thưa ông, ông có phải là ông Thiện không ạ.
      - Tôi đây, tôi đây, mời chị vào nhà...
      Ông rót nước mời chị uống. Thấy chị e dè, người run run, ông hỏi trước:
       - Chắc chị có việc gì oan ức, muốn nhờ tôi giúp đỡ...
       Nghe ông nói chị Cu òa khóc. Rồi vừa sụt sùi chị  vừa kể lể câu chuyện chồng mình được pho tượng ngoài ruộng mà phải lại đi tù vì tội ăn cắp.
      Ông im lặng ngồi nghe. Thỉnh thoảng, ông hỏi chị Cu một câu và ghi vào cuốn sổ tay. Lúc chị Cu ra về, ông hẹn hai hôm sau nữa sẽ về làng Chùa Cả để biết thêm các chi tiết. Chị Cu đặt cái gói vuông lên bàn, khẽ khọt:
      - Thôi thì trăm sự nhờ ông, vợ chồng cháu có chút tiền mọn gọi là lộ phí xe cộ...
      Ông Thiện cầm lấy gói tiền lên, bảo chị cầm lấy, mọi cái sẽ tính sau. Ông cười.
       Chị Cu chào ông rồi ra bến xe ô tô. Trên xe, chị vừa mừng, vừa lo. Mừng vì ông thầy này có vẻ đức độ. Lo vì sợ ông chê gói tiền kia bé quá...
      Đúng hẹn, ông Thiện về làng Chùa Cả. Ông bảo chị Cu dẫn ông ra chỗ cái ruộng anh Cu bắt được pho tượng. Ông hỏi trước đó có ai đến gặp anh Cu không. Chị Cu kể chuyện ba ông lái lợn. Chị có tỏ ý nghi ngờ sao con lợn nhà chị đã thịt rồi còn nặng đến thế. Cái đòn gánh chị gánh cả gánh cỏ nặng mới oằn được. Thế mà... Mắt ông luật sư sáng lên. Sau đó ông Thiện đi sang Chùa Cả. Sư ông dẫn ông đi xem pho tượng. Phần đế của pho tượng phật bị khuyết một góc, ông lẩm bẩm: “Sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ thế nhỉ. Hay là...” Ông hỏi sư ông trong chùa có sách nào ghi về pho tượng phật không.
      - Có nhưng là sánh Nôm. Theo sư cụ đã viên tịch, bản ở đây chỉ là bản sao. Còn bản chính thất lạc từ bao giờ, sư cụ cũng không nhớ. À mà ông cũng đọc được chữ Nôm?
      - Được, được - Ông Thiện cười - cũng gọi là võ vẽ...
      Sư ông dẫn ông Thiện vào phòng khách. Ông đưa cho luật sư một cuốn sách bìa đen đã sờn: “Nó đây”. Ông Thiện bắt đầu đọc. Mới mở trang thứ nhất ông đã kêu lên: “Nó đây rồi. Nhị phật đồng đen cản thôn lân...” Sư ông lại bên ông: “Như vậy nghĩa là sao, thưa ông?”
      - Có nghĩa là - Ông Thiện nói - Pho tượng trên điện thờ đang ở chùa nhà ta kia đúng là pho tượng anh Cu Mão bắt được.
      - Không thể được - Sư ông kêu lên - Đó là pho tượng nó đã ăn cắp. May mà...
      Ông Thiện giở trang thứ chín. Trong trang sách có đoạn đại ý: Năm một nghìn bốn trăm hai tám, dân làng Chùa Cả đào một con mương, bất ngờ thấy một cái cột đồng, đoán là quân Minh yểm vượng khí nước Nam chôn ở đây, bèn đúc hai pho tượng phật, mỗi pho dự tính là hai mươi lăm cân. Đồng được chia đều vào hai nồi nấu. Lúc đúc pho thứ nhất, khuôn hơi rộng, người thợ đã múc một gáo đồng đã nấu chảy đổ vào. Pho tượng thứ hai vì thế mà khuyết một phần đế. Pho thứ nhất để ở Chùa Cả, pho thứ hai gởi ra đền Chân Quốc... Khoảng năm kiêu binh nổi loạn, pho tượng phật ở đền Chân Quốc tự nhiên biến mất...
      Sư ông chăm chú đọc theo ngón tay chỉ của ông Thiện. Rồi hỏi:
      - Liệu sách có ghi lầm hoặc người xưa chuyển lầm pho tượng khuyết đế ra Chân Quốc?
      - Tôi nghĩ là không lầm. Chỉ có thể là lúc loạn lạc, một người nào đó ở làng Chùa Cả này đã ra lấy pho tượng đem về đây. Tiếc là không thể đặt ở chùa được vì đã có một pho rồi. Người kia bèn giấu đi...
      - Còn pho tượng không khuyết đế mà ông bảo rằng nó ở đây thì sao? Sư ông hỏi.
      Ông Thiện cười:
      - Nó đang ở sân bay Tân Sơn Nhất.
      - Sao ông biết?
      - Tôi làm luật sư cho một công ty nước ngoài liên doanh với Việt Nam. Vụ này liên quan đến một nhân viên của họ.
      Sư ông chăm chú nghe ông Thiện lý giải:
      - Đó là một người đàn ông Pháp. Hải quan sân bay phát hiện ra pho tượng quí, bèn giữ lại. Người ta còn giữ được một cuốn sách Nôm và một bản dịch tiếng Pháp liên quan đến pho tượng. Bản chữ Nôm là một bản chụp từ một thư tịch cổ ở thư viện quốc gia. Ông xem đây, địa danh Chùa Cả không ghi tên tổng, tên phủ...
      - Vậy người Pháp kia làm sao lấy được pho tượng ở đây? Sư ông hỏi, tỏ ý không hiểu.
      - Sư ông còn nhớ bọn lái lợn đã mua lợn và đánh chén ở nhà anh Cu Mão không?
      - Tôi nhớ... Nhưng họ có liên quan gì ở đây.
      - Có đấy. Chúng chính là bọn trộm pho tượng. Nếu tôi không lầm thì hôm ấy pho tượng đã được nhét vào bụng con lợn đã mổ.
      - Bọn này được thuê phải không?
      - Có lẽ chúng là đồng bọn. Còn kẻ tìm ra địa danh này phải là một người có học, thậm chí rất giỏi về cổ học...
      - Thế công an đã bắt được bọn chúng chưa.
      - Thưa, hiện nay thì chưa. Nhưng tôi nghĩ sớm muộn gì thì cái kim trong bọc cũng sẽ lòi ra.
      Điện từ thành phố Hồ Chí Minh cho biết: phía trong, phần rỗng của pho tượng, có một vài vết máu lợn. Pho tưọng phật tưởng vô chủ đã có địa chỉ.
 
 

 
                        HUYỀN THOẠI CÀ PHÊ  
 
      Vừa ở nước ngoài về sau mấy năm nghiên cứu đề tài phát triển các giống cà phê, tôi thu xếp lên Đak Roong ngay để viếng Trần.
      Tuất, bạn thân của tôi và Trần hồi còn học ở Trâu Quỳ, giờ thay Trần làm giám đốc nông trường ra tận bến xe đón tôi.
      Lúc xe chạy ngang qua một đồi cà phê trái đang vào độ tím thẫm, Tuất bỗng hạ giọng:
      - Trần kia kìa. Cậu ấy đang vẫy cậu đấy!
      Tôi bảo Tuất dừng xe, nhìn theo hướng tay anh chỉ. Không thấy ai ngoài một rừng cà phê điệp trùng tít tắp, tôi xăm xăm chạy lên đồi. Những tán lá xanh mướt, những cành cà phê chi chít trái, rung rinh trong gió.
      Trở lại xe, tôi hỏi Tuất:
      - Các cậu trồng lại rừng cà phê này từ bao giờ vậy?
      Tuất tròn mắt:
      - Cậu đi mới vài năm. Chỉ có thánh trồng, cà phê mới lớn nhanh đến thế... À, chắc là cậu...
      - Sao? Chắc là...
      - Cậu chưa nhìn các gốc cây phải không?
      Tôi giật thót người. Thì ra Trần đã táo bạo thực hiện dự án rừng chồi, một ý tưởng đẹp từ thuở cả ba chúng tôi còn là những người lính. Hồi ấy, có lần quay lại một khu rừng cà phê bị bom Mỹ phạt ngang thân vào năm trước, tôi và Trần đã ngỡ ngàng khi bất ngờ thấy những cây cà phê hồi sinh, trái chi chít trên cành, trái chín nẫu rụng xuống đầy gốc... Khi học ở nước ngoài, tôi đã đem hiện tượng ấy hỏi một giáo sư tiến sĩ về cây cà phê, ông ta nói đó chỉ là một trong những trường hợp đặc biệt, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố đất, nước, ánh sáng ở một số vùng hiếm hoi trên trái đất.
      Tuất đưa tôi đến viếng Trần. Bạn tôi nằm yên giấc bên gốc một cây cà phê. Ai đó đã đặt trên cỏ một vài đoá hoa dại còn tươi.
      Tuất kể, tin vào kiến thức và kinh nghiệm, Trần đã đưa ra lệnh chặt đốn toàn bộ rừng cà phê già. Công nhân phản đối, đâm đơn kiện khắp nơi. Rồi Trần bị qui tội phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa, bị kết án tám năm tù giam.
      Trước tòa, anh vẫn khăng khăng đưa các thông số kĩ thuật, đã được tính toán kĩ lưỡng để bênh vực mình. Khi được nói câu cuối cùng trước khi toà nghị án, anh hỏi vị chủ tọa nếu một năm rưỡi sau cà phê ra trái thì sao và được ông ta trả lời: lúc ấy anh có thể được miễn thi hành án.
      Năm ấy trời đại hạn. Cà phê bị đốn thân chỉ èo uột nhú chồi. Trần đau đớn, tự dằn vặt mình, người cứ héo quắt dần. Theo di chúc của Trần, nông trường đưa anh về táng dưới gốc cây cà phê bị chặt đầu tiên.
      Không ai ngờ, sau mùa mưa tiếp theo, rừng cà phê như bật dậy bởi một sức mạnh thần kỳ, cành lá sum suê, hoa thơm ngát rồi trái chi chít.
      Ba đêm ở với Tuất ở Đak Roong, tôi đều thức trắng. Một mặt, vì tôi và Tuất còn rất nhiều chuyện cần nói với nhau. Mặt khác, có lẽ là do cà phê ở đây đắng quá. Vị đắng này, không thể nói khác, tôi chỉ thấy trong huyền thoại về cây cà phê.

 
                            
                                    ÔNG HẠ HỎA
 
      Vợ tôi bảo: “Ngày mai anh chở tôi sang Thủ Dầu Một”. “Mai là thứ hai, mới đầu tuần, nghỉ sếp la, tính sao?”. “Tôi thì nhổ toẹt vào mặt sếp nhà anh ấy! Ông ta là cái thá gì? Giỏi lắm tháng lo cho anh năm trăm bạc, hút  thuốc vặt không đủ...”.
      Tôi im lặng. Những lúc như thế này tốt nhất là im lặng. Nói qua nói lại vài tiếng nữa là nhà cửa ầm ĩ, tan hoang cả. Mà không phải do tôi làm tan hoang. Vợ tôi tính nóng như hổ, không vừa ý là cô ta la hét, vớ được cái gì đập cái ấy. Có lần đập bể một cái ti vi hiệu Sony, làm vỡ cái đèn pha xe Dreame, lúc bình tĩnh lại, cô ta bưng mặt khóc hu hu, mắng tôi sa sả sao không ngăn cô lại.
      Được cái vợ tôi làm ở một cơ quan kinh tế và kiếm được khá nhiều tiền. Ti vi bể, cô sai bê một cái Sony mới tinh từ cửa hàng về đặt vào chỗ cũ. Còn cái xe, cô nhờ mấy anh thợ sửa xe  mua phụ tùng thay mới, sơn lại chỗ bị tróc sơn.
      Người ta hơn người ở chỗ lắm tiền, có địa vị hoặc danh vọng. Tôi hơn người vì có vợ trẻ, đẹp, giỏi giang nhưng dữ tính. May mà tôi là thầy giáo, tính điềm đạm, thích nhường nhịn. Tính ấy có lúc tôi được vợ khen, bảo: “Em lấy anh thế mà lại hay. Tay khác, nát hết cửa nhà rồi.”. Tôi chỉ cười. “Còn cười?”, vợ tôi nguýt: “Hiền quá rồi hóa...”. Tôi im bặt, biết vợ định nói gì. Cô ta hiểu ý, chữa: “Rồi lại hóa ra khôn...”. Nói rồi cười trừ và bảo: “May sao anh chẳng nghĩ ra kế gì khôn để trị em nhỉ!”. “Trị em? Anh đã thuê...”. Vợ tôi chặn: “Cháu ông Tạ Duy Hiển phải không?”. Nói thế thì hết chuyện. Hết chuyện nhưng mà đêm ấy êm ấm lắm. Cả hai vợ chồng rúc rích đến khuya. Vừa chợp mắt đã có tiếng còi ô tô inh ỏi bóp “bim, bim” ở trước cửa.
      Vợ tôi vùng dậy, chạy ra ban công nhìn xuống đường. Cô ta chạy vào, kéo chăn dựng tôi dậy: “Anh dậy nhanh nhanh lên! Mặc áo mặc sống lẹ lẹ nhé! Vợ chồng cái Mai đến rồi”. Tôi ú ớ, lăn vào phía trong tường: “Đến làm gì? Em bảo hôm nay...”. Vợ tôi gắt: “Phải gió ạ! Em nói anh chở em đi là sợ vợ chồng nó không đúng hẹn. Giờ nó đến thì ta đi ô tô”.
      Rồi thì xe chạy qua cầu Bình Triệu, lên Thủ Đức, thẳng hướng Thủ Dầu Một. Vợ chồng Mai rúc rích cười khi tôi ngu ngơ hỏi vợ: “Ta đi đâu hở em”. “Đi xem bói ông giời ạ”. “Thế em đi một mình cũng được, còn bắt anh nghỉ dạy đi làm gì”. “Giời ạ, người ta phải xem vợ xem chồng mới biết quá khứ, hiện tại, tương lai. Không biết cứ mặc tôi”. Mai cấu chồng: “Giời ạ, cứ mặc tôi”.
      Tôi tiếc buổi dạy học, nghĩ học sinh không có thầy trong lớp ồn ào ảnh hưởng đến các lớp khác mà não cả ruột. Vẩn vơ nghĩ, xe chạy qua thị xã, rẽ vào một xóm nhỏ đường đất đỏ, xóc chồm chồm tôi mới biết. Cũng là lúc tới nhà bà thầy Sáu Hiếng. Tên vậy, nhưng có lẽ bà là Sáu mù. Kiếng đen che kín cả mặt. Tay huơ huơ ba nén nhang. Mai lè lưỡi, ý nói mọi cái bà ta đoán cho vợ chồng cô ta đều trúng phóc.
      Đến lượt vợ chồng tôi, bà Sáu bắt vợ tôi quì trước mặt, tôi ngồi sau ôm lấy hai vai vợ bà ta mới nói. Vợ tôi “Dạ dạ” liên hồi, mồm cứ há hốc ra vì kinh ngạc. Vẫn giọng đều đều: “Chị có một vết chàm ở bụng, mạng hổ chưa hết, chồng là mạng trâu nên ăn hiếp thường ngày. Cách nay không lâu đã đập... Nay muốn ăn nên làm ra, vàng bạc đầy nhà, con đàn cháu đống thì… Bằng không thì...”. Nghe đến câu cuối, vợ tôi bật khóc. Ghê gớm quá: “Chết không kẻ chôn, nhà cho người khác ở...”.
      Về thành phố, vợ tôi bắt tôi dẫn đến một hoạ sĩ  chuyên sao chép tranh, cứ theo lời kể họa một “Ông Dần” đang vồ mồi, mắt sáng quắc, miệng đầy răng trắng nhợt, lưỡi đỏ lòm, vuốt như sắp quặp lấy người trước mặt...
      Bây giờ ai đến nhà tôi đều nghĩ vợ tôi chiều chồng, mua cả tranh nghệ thuật về treo tường. Ngoài tôi và vợ chồng Mai ra không ai biết đó là lá bùa hộ mệnh để  “hạ hỏa’’ cho vợ tôi mà bà thầy Sáu Hiếng đã truyền bảo. Vợ tôi đi đâu về đều liếc nhìn bức tranh, đi lại khẽ khàng, ăn nói nhẹ nhàng. Chỉ một thời gian rất ngắn, cô ấy xưng “em” với tôi ngọt và dịu. Dĩ nhiên không còn cảnh la hét, đập phá như ngày nào.
      Năm nay, tôi dạy học sinh lớp 12 tốt nghiệp một trăm phần trăm. Nhà trường tặng một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Đang chưa biết treo ở đâu thì vợ chồng Mai đến. Dũng, chồng Mai cười hề hề rồi nói cứ gỡ bức tranh “Ông Dần” xuống. Vợ tôi nhìn tôi dò ý. Tôi mỉm cười có ý để vợ quyết định. Không ngờ, vợ tôi đồng ý luôn, giục tôi và Dũng treo bức tranh mới lên chỗ bức “Ông Dần” sắp được gỡ xuống.
      Chiều thứ bảy, vợ tôi làm một bữa tuyệt ngon đãi bạn. Lúc đã ngà ngà men, Dũng khen tôi giỏi; Mai thì khen vợ tôi là một phụ nữ hoàn hảo, hiền thục. Vợ tôi tỏ vẻ sung sướng lắm! Tôi đã định nói điều ấy ra trong bữa tiệc vui nhưng nhìn Dũng nháy mắt, tôi đành bấm bụng, cầm ly bia lên và yêu cầu mọi người cạn chén chúc hạnh phúc.
      Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn nhớ y nguyên cảm giác tự ái hôm vợ tôi bảo tôi hiền quá hóa...và đã kịp đỡ lời “hóa ra khôn”. May thay, hôm ấy tôi chưa kịp nói hết câu. Kế hoạch “Ông Dần” tôi nghĩ ra, được vợ chồng Dũng, Mai tiếp sức đã đạt hiệu quả “hạ hỏa” cao đến mức tôi có thể ngồi viết truyện ngắn này suốt cả đêm mà vợ tôi vẫn không hề nổi giận. Lạ thật!

 
                               
                           GÀ TRỐNG
 
      Hôm ấy trời mát, ông có vẻ phởn chí. Đi khám bệnh về, bác sĩ là người cùng quê vợ cho một chai “Ngũ tinh đại bổ”, dặn bữa uống một ly mắt trâu, có đồ nhắm tươi thì càng tốt, ông đặt chai rượu lên bàn, đi thẳng vào bếp. Người vợ trẻ mặt đỏ hồng vì lửa đang phi hành mỡ trong một cái chảo gang nhỏ. “Thơm nhỉ”, ông nói, cười cười với vợ. Vợ ông không quay lại, hỏi: “Cái gì thơm?”. “Đấy”, ông đến gần vợ, vừa dài giọng hắng “ e hèm”, vừa đưa tay vỗ vỗ vào mông bà. Người vợ gắt: “Thôi ông ra ngoài cho tôi làm. Suốt ngày quẩn quanh...”.
      Ông tủm tỉm cười, ra bàn ngồi. Ông ngắm chai rượu thuốc. Một chai sáu lăm, nhãn giấy in chữ màu xanh nhoè nhoẹt, nút có gắn xi màu mận. Rượu bên trong mầu đen nâu, sóng sánh như mật ong. Thứ này bổ lắm lắm, bác sĩ bảo thế. Tăng sức mạnh, đỏ da thắm thịt, ăn ngon ngủ yên, thơ thới tâm hồn...
      Người vợ đã rán xong món thịt gà. Bà bày lên đĩa bốn miếng, cà chua thái lát xếp dưới, phía trên là nước sốt phủ vài nhánh rau thơm. Bà nhìn ông. Ông đứng dậy, vào chạn lấy hai cái bát, hai đôi đũa và hai cái ly thuỷ tinh chân cao loại nhỏ.
      Lúc người vợ gắp cho ông một cái đùi gà vàng rộm, ông cũng đã mở xong cái nút chai, rót đầy rượu vào hai cái ly, đẩy một ly về phía vợ. Bà vợ cầm ly rượu lên, nhắm mắt uống cái ực. Ông cười: “Uống được đấy” và nhấp môi vào ly của mình, hỏi: “Gà trống hay gà mái?”. Người vợ ngạc nhiên, hỏi lại: “Ông hỏi thế nghĩa là thế nào?”. “Là gà trống hay là gà mái, thịt này này”, ông nói. Người vợ bỏ ly rượu xuống: “Dớ dẩn! Trống hay mái thì sao? Không ăn được à?”. Ông gắt: “Sao lại thì sao? Tôi đã nói nhà mình không ăn thịt gà mái! Bà hiểu chưa?”. “Nhưng hôm nay là thịt gà trống. Thôi, ông ăn đi!”.
      Hai vợ chồng lặng lẽ ăn. Câu chuyện dấm dẳng làm ông mất hứng; ông đổ ly rượu trở lại chai, và vội một bát cơm rưới ít nước sốt rồi buông đũa, đi ra phòng khách, nằm dài trên chiếc đi văng gỗ...
      Người vợ bỏ bát, quên cả lau miệng, uể oải lên gác, đôi mắt trống rỗng, chờ đợi. “Giả dối”, bà nghĩ  “Cả một đời giả dối. Kẻ này dối kẻ kia, chẳng dám sống thật con người mình”.
      Bà nằm, nhớ lại ngày xưa. Lúc ấy hình như bà mới hăm hai, đẹp nhất làng. Bà mê chính mình mỗi khi soi bóng xuống cầu ao trong veo. Khối anh trai cày tối tối đến nhà cô y tá trẻ hút thuốc lào vặt. Mấy cậu giáo dạy cấp một ngoài xã cũng hay đến chơi với ông cụ, bàn thơ phú, câu đối và thi thoảng biếu cụ lạng chè Thái, gói thuốc lào Vĩnh Bảo...
      Thế mà bà chẳng để ý đến ai. Duyên bà đến thật bất ngờ. Chả là bà có bà cô ở trên tỉnh. Bà cô già hay đưa các vị chức sắc về thăm quê vào chủ nhật. Bà lọt vào mắt ông, lúc ấy đã sắp tứ tuần, “kén vợ đến mức không lấy được người phụ nữ nào nữa” như lời bà cô giới thiệu. Bà thấy thinh thích khi ông nói chuyện. Có lần nghe ông nói với bố là không nên ăn thịt gà mái, vì gà mái là giống đẻ ra trứng, làm cho giống gà tồn tại và phát triển, bà cười phá lên và bị bố mắng là vô duyên. Ông đã gặp bà ở cầu ao rửa bát và nói bà rất có duyên. Bà vờ hỏi ông về chuyện ăn thịt gà, ông bảo: “Chẳng qua là để phát triển sản xuất. Nói chung, để phát triển sản xuất, không nên ăn bất cứ con giống nào thuộc giống cái”. Bà lại phá lên cười, thêm: “Cả giống đực nữa”. Ông bảo: “Giỏi” rồi nắm lấy tay bà. Bà nhớ tay ông ram ráp, đầy những vết chai. Làm cán bộ tuyên huấn, chắc ông viết nhiều lắm!
      Đám trai làng và các cậu giáo ớ người ra khi nghe tin ông lấy bà. Bất ngờ nhất là bà cô già. Bà giận cháu gái mà há miệng mắc quai. Nghe phong thanh bà cô nói ông rể quí mắc bệnh ung thư tim. Bố bà chẳng quan tâm đến chuyện đó. Rể ông có ô tô đi về làng, cả tỉnh nể vì. Con gái ông chỉ là y tá trạm xá xã, lấy chồng làm cán bộ tỉnh, như thế là nhà đại phúc rồi.
      Liền mấy năm bà sinh được một trai, một gái. Đứa nào cũng sởn sơ, lớn nhanh như thổi. Rồi một tay ông lo liệu, bây giờ đứa ở Nga, đứa ở Ba Lan, học xong chúng chưa chịu về nước. Đã hai mươi lăm năm...
      Hai mươi lăm năm! Người đàn bà sinh hai đứa con trong vòng năm năm. Hai mươi năm còn lại, từ đó đến nay, bà có chồng cũng như không.
      Bà vẫn còn nhớ rõ mồn một vẻ đau khổ của ông cách đây hai mươi năm khi ông bác sĩ vốn là bạn học hồi phổ thông với bà, báo cho ông biết là ông đã bị ung thư. Anh ta nói ông sẽ phát bệnh rất nhanh và chết bất đắc kỳ tử nếu còn quan hệ xác thịt với phụ nữ. Hôm ấy, ông đã giấu bà người tiết lộ bệnh tật của mình. Ông chỉ bảo vợ: “ Người ta lấy nhau là duyên nợ. Tôi và em đều nợ hai con. Mà giời thì cũng không nỡ hại một người. Em còn nhớ chuyện thịt gà trống và thịt gà mái chứ? Cố mà nhịn vì tương lai”.
      Bà đã không nhịn. Bà mắc một chứng bệnh một tháng ba bốn lần, tùy theo thời tiết, phải đến bác sĩ. Và hai mươi năm nay bà có đến hai người đàn ông. “Thôi, cũng chỉ ăn thịt con gà trống. Gà mái...”. Ông đúng là một con gà mái. Con gà mái giữ cho gia đình vẫn là một gia đình êm ấm, tương lai rực rỡ đang ở trước mặt.
      Con gà trống sắp bỏ vợ. Y sẽ lấy bà. Y đã ngầm tính loại con gà mái bằng một chai rượu độc. Y dặn bà sau khi ông uống, phải đổ phần rượu còn lại đi. Trời ơi! Thế mà lúc chồng hỏi chuyện gà mái gà trống, rồi tự tay rót cho mỗi người một ly, cười nụ cười tinh quái, bà nghĩ ông đã biết tất cả. Và không hiểu sao, bà đã chọn cái chết.
      Bà ngạc nhiên khi nghe ông dội nước ào ào trong nhà tắm và cảm thấy mình vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
      Sáng hôm sau bà đến bệnh viện. Con gà trống lạnh lùng bảo: “Em gan quá! Anh sợ! Và tiện đây anh cũng nói luôn, từ hôm nay em khỏi bệnh”. Bà xé nát tờ đơn thuốc, định ném vào mặt kẻ bội tình nhưng y đã ra khỏi phòng, chạy về phía một người đàn bà mà bà biết đó là người vợ bé nhỏ của y.
      Về đến nhà, bà vô cùng ngạc nhiên. Bàn ăn đã dọn. Món thịt gà sốt bày còn vụng về nhưng nói được sự cố gắng phi thường của ông. Lúc rót rượu ra hai cái ly nhỏ, ông tươi cười bảo bà: “Tôi chưa nói để em mừng. Hôm qua, bác sĩ nói bệnh của tôi kỳ lạ quá, tự nhiên biến mất. Tiếc quá, tôi đã ngoài sáu chục...”. Rồi cười: “Bác sĩ bảo cứ uống đều đều rượu này, tôi cũng có thể còn gáy được mấy hồi cơ đấy...”.
      Hai vợ chồng cụng ly.
      Tự nhiên bà mong bây giờ trời đã chiều. Bà nhìn chồng lóng ngóng gắp một miếng thịt gà bỏ vào bát mình. Đôi đũa ấy hơi vênh nhưng không lệch?
 
 
 

 
             CÂY CAO SU CỤT NGỌN NHIỀU CÀNH
 
      Hồi bố tôi còn sống, có lần ông đưa tôi theo một đoàn cựu chiến binh đến đến khu rừng cao su này. Ông ngắm nghía rất lâu một cây cao su cụt ngọn, gần gốc nổi u một cái bướm sần sùi to bằng một cái bát. Tò mò, tôi đưa tay sờ vào cái bướu. Tay tôi tứa máu, bởi chỗ ấy còn găm một mảnh đạn pháo sắc lẹm. Lý do cây cụt ngọn đà rõ. Vẻ mặt bố tôi thật là khó tả. Ông vạch cỏ quanh gốc cây, tìm được một cái hố. Giọng mừng rỡ, ông reo lên: “Nó đây”. “Cái gì thế bố?”. “Một vết thương”. “Của đất?”. “Không, của người, con ạ!”. Tôi nài nỉ muốn biết chuyện. Mãi, bố tôi mới bảo: “Bố biết trước sau rồi bố cũng nói sự thật. Có điều ở tuổi con...”. Và bố tôi kể. Câu chuyện khó tin kia, lúc ấy, chỉ giúp tôi hiểu được vì sao trên người bố tôi có rất nhiều vết đạn.
      Năm tháng trôi như dòng suối cạnh rừng cao su, số phận run rủi tôi trở thành một lái xe, kiêm luôn việc phiên dịch. Ở công ty du lịch, tôi nổi tiếng được lòng khách. Dĩ nhiên, tôi có nhiều khách.
      Hôm kia, tôi đã không thể từ chối yêu cầu éo le của hai mẹ con bà Keyly. Bà nằng nặc đòi tôi chở về Cát Tiên ngay trong đêm. Táo bạo hơn, tôi phải đưa họ đến một cánh rừng già; vì, theo bà Keyly, bà có một lý do đặc biệt, không thể đến đó vào lúc thanh thiên bạch nhật... Nhìn liếc qua rất nhiều hoa và nhang họ mang theo, tôi tỏ vẻ thông cảm. Người đàn bà mang quốc tịch Mỹ nói tôi có dáng vẻ thật dễ thương của thanh niên châu Á. Trong khi mẹ nói, cô con gái nhìn tôi qua gương, mỉm cười...
      Bà Keyly bảo tôi dừng xe đúng vào lúc tôi nhận ra dòng suối, con đường mòn và cánh rừng cao su nối vào trùng điệp rừng rậm lạnh lẽo. “Cho Keyly Nguyễn mượn cái áo khoác của anh được không?”, cô gái nói bằng tiếng Việt khá sõi. Tôi ngỡ ngàng đưa chiếc áo vắt trên ghế xe cho cô. Cô xuống xe, quay sang mẹ: “Có cần coi lại bản đồ không, má?”. “Không, má còn nhớ, lối này...”. Bà Keyly bảo tôi ở lại trông xe và kéo con gái đi. Tôi lờ mờ đoán họ đang định đi đến đâu.
      Khi họ quay lại xe, dưới trăng mờ, mặt bà Keyly trắng nhợt, mắt cô con gái còn ngấn nước. Không ai trong họ có ý định giấu nỗi xúc động của mình.
      Không hiểu sao tôi buột miệng hỏi một câu vô cùng ngớ ngẩn: “Có phải bà và cô vừa đến chỗ cây cao su cụt ngọn?”. Mắt bà Keyly tối lại: “Cậu cũng đến đó, hồi nãy...”. “Không, đã lâu rồi. Với...”. “Ai?”, bà Keyly thảng thốt, mắt sáng lên. “Với bố cháu”. “Ông ấy là người lính?”. “Vâng, đúng thế”. “Ông ấy đã kể chuyện?”. “Vâng”.
       Tôi chợt nhớ câu chuyện mà bố tôi đã kể bằng một giọng đều đều bên miệng hố dưới gốc cao su hôm nào. Lần ấy, bố tôi được lệnh giải ba tù binh thuộc “đội quân thiên nga” về cứ. Dẫn đường là một cô giao liên người KơHo. Đêm đầu tiên, hai con hổ lớn vồ mất cô gái giao liên đi đầu và một  tù binh. Ba người còn lại mất hướng, ngày một đi sâu vào rừng già. Rồi đêm thứ mười, vừa ở trên cây tụt xuống, một tù binh nữa bị đôi hổ đói bí mật rình rập cắp đi tiếp... Người áp giải và người tù binh còn lại bây giờ chỉ còn dám đi ban ngày, cứ theo hướng mặt trời mọc mà băng rừng, lội suối. Họ biết đêm đêm đôi hổ đói vẫn gầm gừ đâu đó, bất ngờ sẽ chồm ra... Mải miết đi với chung một mục đích tìm nẻo sống, dần dà họ trở thành một đôi bạn. Và rồi vào một đêm lạnh tối đen trong một hang đá hẹp, hai tấm thân nóng ấm đã xích lại với nhau... Rồi họ đến được chỗ cây cao su cụt ngọn. Sợ hổ, họ đào một cái hố, chặt cành cây ghép thành nắp đậy lên trên để ngủ qua đêm. Màu đất đỏ au đã khiến máy bay trực thăng chú ý. Đạn xối xuống như mưa. Người tù binh được  người áp giải đẩy xuống hố, đè người lên trên. Ông trúng đạn. Máy bay đổ quân xuống. Hai ngươì lính Mỹ xốc nách người đàn bà đang giãy dụa lên... Máy bay cất cánh... Mở mắt, thì rõ mồn một, bố tôi trông thấy kẻ mà ông cứu đang chĩa súng xuống phía mình. Ông lăn một vòng cùng nỗi khinh ghét ngươì tù binh mọc núi trong lòng...
      Như đọc được suy nghĩ của tôi, bà Keyly buồn buồn, nói: “Lúc bị lôi lên máy bay, ta đã cố tuột xuống đất để cứu ông ấy. Một chiến hữu đã ngăn việc làm rồ dại của ta bằng cách... Và ta đã gạt họng súng AR 15 đang nổ sang một bên...”.
      “Vậy là ông ấy chỉ bị thương”, bà thở phào như trút được một gánh nặng. “Còn bây giờ?”, cô con gái hỏi. “Bố tôi đã mất cách đây hai năm!”. “Chúa ơi! Ba của con!”, cô kêu lên và ôm lấy mặt, chợt nhớ những đốm đỏ lập loè của nhang mà cô tưởng tượng đó là ánh mắt của người đã khuất đang nhìn mình...
      Mắt bà Keyly như vô hồn: “Ông ấy đã buộc lòng phải giấu quá khứ. Xin chúa lòng lành hãy cho các con tôi khép lại những ngày tủi nhục. Chúa ơi...”. Tôi rủn người, nghĩ: “Liệu ở thế giới bên kia, bố tôi có muốn trở về để nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ đêm nay không? Và, mẹ tôi có oà lên nức nở khi biết sự việc này?”.            Tôi mới chỉ nghĩ đến đấy thì Keyly Nguyễn đã ôm lấy tôi, hôn lên trán. Vành môi hơi dày của chị hao hao giống vành môi của bố và tôi. Ẩm nóng và mặn mòi...
      Trời đang rạng. Trên nền rừng xanh tím, cây cao su cụt ngọn xoè tay lá, vươn lên đón ánh bình minh. Nó xanh như chẳng thể vô tình.

 
 
                                    NGÔI NHÀ NĂM CỬA
 
      Tôi đang kể chuyện mẹ tôi khóc mãi vì để rơi cái cơi trầu lúc đi sơ tán thì có tiếng bom rít lên như lụa xé. Vừa kịp đẩy Nhân xuống công sự chốt, một luồng hơi nóng rát đã hất tôi nhào lên người bạn. Cùng lúc đó, đất đá tung lên trời rào rào rơi xuống, phủ một lớp mỏng lên trên người hai đứa. Nhân lấy tay cào cào đất, gạt tôi sang một bên, òa khóc. Theo như Nhân kể lại, lúc ấy người tôi mềm oặt như lá lúa gặp úng, mặt trắng như sáp, hai mắt mở trừng trừng, miệng đầy đất. Rồi Nhân sờ khắp thân thể tôi xem có vết thương nào không. Mặt gần như áp sát tôi, Nhân thấy lạ quá, bây giờ chỗ nào cũng ướt máu. Nhân khóc, nước mắt mờ cả mắt, ròng ròng chảy xuống. Nhân thương tôi vì anh mà chết. Rồi anh đưa tay lên gạt nước mắt. Bỗng Nhân thấy nhói đau nơi miệng. Anh nhận ra máu của mình chảy xuống người tôi. Một mảnh bom nổ nhỏ nổ gần đã xé rách môi trên của anh rồi.
      Lúc tôi tỉnh lại, Nhân lại rũ xuống. Tôi xé áo băng cho bạn. Một vết xé rách môi. Hai vết khác, một ở bụng, một xén gọn nửa vành trên của tai trái. Đến lúc ấy, tôi ngất đi một lần nữa. Sự việc sau đó thế nào tôi không biết. Chỉ biết sau đó mấy ngày, tôi và Nhân đều được chuyển vào quân y viện dã chiến ở Vĩnh Linh. Hai đứa đã coi nhau như anh em cùng sinh đôi lại từ cái công sự trên trận địa chốt cháy nắng và đẫm máu kia. Tôi đã khóc khi Nhân được xếp hạng là thương binh và trở về hậu phương học đại học. Mừng cho Nhân và buồn phải xa Nhân. Tôi đã trở lại chiến trường sau một lớp đào tạo sĩ quan ngắn. Từ đấy chúng tôi mất hút tin nhau.
      Sau này, khi đã trở thành một người làm báo, tôi có nhiều dịp đi đây đi đó. Trong những lần ra Hà Nội, tôi đều có ý tìm Nhân. Cuộc tìm kiếm khắc khoải quá vì có lúc tôi gần như tìm được bạn, dấu vết lại mất hút. Âu đó là số phận chăng? Hay đó chỉ là do tôi tìm kíếm theo kiểu chuồn chuồn đạp nước của một anh phóng viên tối mặt tối mũi vì văn chương?
      Năm ngoái, bố tôi ốm nặng. Tưởng không qua khỏi, người cho gọi tôi đến và nhìn tôi với ánh mắt tin cậy: “Việc này ông nội giao cho bố. Tiếc là bố không làm nổi. Nay bố truyền lại cho con. Đời con không làm được thì sau này giao cho các cháu. Nhớ chọn mặt mà gửi vàng”.
      Kể lại thì rất dài, tôi chỉ tóm lược việc hệ trọng kia. Ông nội tôi vốn là một công chức trong sở Điền Đạc. Tình cờ thế nào đấy, ông tìm được một bảo vật qúy mà cụ tằng tổ tôi để lại. Vật ấy nhà nước bảo hộ biết là họ thu trắng. Ông cụ đã cho cất tại nhà và bí mật chôn vật quí vô giá kia ở một góc để chờ thời. Bao nhiêu biến loạn, hết Tây rồi Nhật, rồi lại Tây... Hòa bình lập lại, ngôi nhà bị trưng thu làm nhà tập thể, cấp cho ba hộ là cán bộ nhà nước. Trước lúc theo tôi vào Nam, bố tôi cũng không biết rõ ngôi nhà cổ của ông nội tôi bây giờ ra sao...
      Tôi về Hà Nội, lần theo chỉ dẫn của bố, tìm được ngôi nhà. Đó là tòa biệt thự khá sang trọng trên đường Quan Thánh. Cánh cửa sắt sơn trắng khóa im ỉm báo cho tôi biết nhà này giờ do một người chủ khác ở.
      Tôi bấm chuông. Một người phụ nữ chừng bốn mươi ra mở cửa. Tôi nhanh chóng tự giới thiệu về mình. Nào là nhà báo. Nào là tôi đang viết một loạt bài về các khu phố cổ... Thấy vẻ nghi ngờ lộ rõ trong đôi mắt trong veo, tôi đang định rút thẻ nhà báo ra để người đàn bà yên tâm thì bà ta đã như thấu cả ruột gan tôi, bảo: “Bác không phải trình thẻ. Nhà em cũng là nhà báo mà!”. Nói nhưng không mời tôi vào nhà. Đúng lúc đó, bỗng có tiếng người đàn ông: “Mẹ nó cứ mời bác ấy vào chơi đi”. Tiếng chân đi dần ra phía cổng. Lộ sau khóm dừa nước là khuôn mặt hồng hào béo tốt. Người đàn ông đến gần, đứng sững lại, ớ lên một tiếng. Tôi chưa kịp nhận ra ai thì ông ta đã ôm chầm lấy tôi trước đôi mắt tròn xoe của người vợ. Tôi tưởng mình nghe lầm: “Ôi anh! Ôi Dũng... Thế mà cứ tưởng anh chết rồi!” Vừa nói, vừa thở, Nhân ôm lấy lưng tôi, đẩy vào nhà. Anh ấn tôi ngồi xuống ghế, hồn nhiên như lúc còn lính tráng: “Sau hòa bình, tôi đi tìm anh, đến đơn vị cũ thì chúng nó bảo anh mất tích. Giờ thì lù lù ở đây... Kể cho nghe xem nào... Giờ ở đâu? Vợ con ra sao... Thôi, trời xui đất khiến cho anh em mình gặp nhau rồi. Anh ở đây với vợ chồng tôi vài ngày...”. Tôi rơm rớm nước mắt, gật đầu.
      Sau bữa ăn trưa, Nhân dẫn tôi ra xem nhà anh. Anh khoe nhà này trước đây đã nát lắm, về tay anh, bỏ đâu ra có bao nhiêu tiền mà lộng lẫy là thế. “Giỏi, vợ chồng anh giỏi thật! Nhà này mua dễ đến vài trăm lượng?”. “Đâu ra mà có nhiều tiền thế anh. Mà tiền có nhiều như vỏ hến cũng không mua nổi cơ mà.”. Tôi hỏi vì sao vậy, Nhân cười hề hề: “Vì thằng chủ cũ là một thằng giàu sụ. À, anh có nhớ thằng Chữ lùn không”. Chữ thì tôi nhớ. Cậu ta là trinh sát đại đội, bị thương; tôi và Nhân đã cáng về tuyến sau. Nghe nói sau được cử đi học ở nước ngoài, lúc về giàu lắm lắm. “Chữ nó dùng tiền để đuổi mấy hộ ở đây đi đấy. Nó mua của từng người rồi chạy chọt hóa giá”. “Chữ mua cho anh à?”. “Nó mua cho nó chứ. Ở đời sướng quá hóa rồ, thằng này ăn chơi bạt tử. Tôi cho nó vay tiền, quá cả tiền nhà này. Nó vỡ nợ, gọi tôi cầu cứu. Chỗ bạn bè, tôi đành lấy nhà cho nó. Cũng là chỗ đã bỏ thóc trước thôi! Rồi cho thêm vài cây để cu cậu biến”.
      Đêm hôm ấy Nhân nhất quyết ngủ chung với tôi. Nhân khoe đường làm ăn và chê tôi lơ ngơ nên giờ vẫn còn ở một căn hộ chung cư ọp ẹp. “Nói vậy thôi chứ tôi cũng nên người nhờ chung cư đấy”, Nhân nói. Biết tôi mấy lần đến địa chỉ của Nhân mà không gặp, Nhân cười và kể rằng anh rất láu cá. Anh chuyển cơ quan liên tục. Lợi dụng sơ hở trong quản lí, mỗi lần chuyển, anh đều được cơ quan mới cấp tạm cho một căn hộ. Rồi thì nhượng. Lại chuyển. Tất cả bốn lần. Ngoạn mục nhất là vụ anh chuyển vợ vào quân đội. Cũng vì một suất đất thôi! Một ông bạn ưng, thì sang. Mảnh đất cuối cùng dư sửa tòa biệt thự này. “Anh Dũng thấy đấy. Kỉ niệm về năm vụ làm ăn, khi xây lại nhà, ngoài ba cái cửa ở dưới trệt, tôi chỉ cho làm thêm hai cửa ở tầng lầu. Năm cửa, tương ứng với sinh, lão, bệnh, tử, sinh đấy!”. Tôi cười. Rồi lạnh cả sống lưng khi Nhân nói: “Tôi đang định trổ thêm một cửa nữa. Cũng là để nhớ một vận may và để có thêm chữ lão anh ạ. Mới rồi, lúc sửa lại cái cống, tôi đào được một cái thạp bằng đồng, trong đựng mấy chục lạng vàng ròng... Nghe nói anh thích đồ cổ, mai tôi bảo nhà tôi đưa cho. Mà anh không thích thì đem về cho bác gái đựng trầu cau. Chỉ tiếc là nó đã bị thủng mấy lỗ”.
      Nhân giữ đúng lời hứa. Khi chia tay, vợ chồng anh đã đưa cho tôi một gói giấy, nói là có cái thạp trong đó. Tôi không ngờ, về đến Sài Gòn, lúc tôi mở lớp giấy báo ra, trông thấy nó, bố tôi đã lặng đi. Là một người bình thường tôi cũng biết đó không phải là một cái thạp hay là một cái cơi trầu. Những nét hoa văn chim lạc quanh vành thạp như đang kể về tuổi mấy ngàn năm của một chiếc trống đồng nhỏ vô giá.
      Bố tôi đã bình tĩnh lại, vừa gõ gõ vào mặt trống vừa nhắm nghiền hai mắt lại. Rồi cũng thật bất ngờ, người từ từ khuỵu xuống, nâng vật báu lên đầu. Tôi trân chối nhìn bảy cái lỗ thủng trên mặt và hai bên tang trống. Trời ơi, đôi tai, đôi mắt, hai lỗ mũi và cái miệng trên một khuôn mặt ngườí! Tôi bỗng nhớ đến vợ chồng Nhân. Có lẽ họ đã trổ cái cửa thứ sáu rồi. Nếu vậy vẫn thiếu một cái tai..                   

 
                        TÊN TRỘM KỲ LẠ
 
      Tôi không phải là một nhà văn. Một anh lính mèng thức dậy theo tiếng còi, chạy nhanh ra sân tập thể dục sáng, rửa mặt đánh răng xong lại sấp ngửa tập hợp trước cửa nhà ăn đơn vị để ăn lót dạ và ra thao trường, đi lao động. Chiều còn phải tăng gia rau xanh. Tối họp. Hôm thì họp tổ ba người. Hôm thì sinh hoạt tiểu đội, trung đội, đại đội. Chẳng có mấy lúc được rảnh rỗi. Thời gian đâu mà văn với chương!
      Ấy vậy mà tiểu đội trưởng cứ gọi tôi là “nhà văn”. Về sau thì cả tiểu đội đều gọi như vậy. Không phải vì trong quân đội mọi việc đều nhất nhất, nên mọi người ép phải gọi tôi là “nhà văn” theo tiểu đội trưởng. Vấn đề là tôi hữu ích cho cả tiểu đội. Đúng hơn thì văn tôi đã giúp được nhiều người, kể cả trường hợp khó khăn nhất như của Đỗ.
      Tiểu đội toàn một đám phòng không. Duy nhất tôi có người yêu. Dĩ nhiên là tôi hay viết thư cho cô ấy. Nhận được thư, tôi thường tủm tỉm cười. Người tôi lâng lâng và tôi lại tiếp tục viết thư.
      Cả tiểu đội lần lượt được đi phép. Và cũng lần lượt có những mối tình làm vốn cho tương lai. Mang tiếng học lớp này lớp nọ mà cậu nào cũng tự nhận  mình viết thư dở ẹc. Đọc trộm thư tôi, nhiều cậu phát ghen lên. Sao mà ý nhị, tình tứ! Sao mà trôi chảy! Chẳng có một lỗi chính tả để làm duyên! Đọc cứ như uống mật ong.
      Một tối sinh hoạt tiểu đội, chẳng biết các đồng đội của tôi họp kín với nhau từ bao giờ, cả tiểu đội giơ tay biểu quyết cử  tôi làm “trợ lý tình cảm” cho anh em. Tôi giãy nảy như đỉa phải vôi. Tiểu đội trưởng dỗ: Nào là tôi sẽ được miễn tham gia tăng gia rau xanh, miễn quét nhà, khi cần có thể được phép miễn sinh hoạt tổ ba người... Đấy là quyền lợi. Nghĩa vụ thì đơn giản: Tôi sẽ nghe anh em trong tiểu đội tâm sự, dựa vào đó mà “sáng tác” ra những bức thư. Sao cho “các em” hài lòng là được. Quan trọng lắm! Anh em tin ở cậu đấy! Cậu là nhà văn, ngoáy một cái là xong! Ai lại nỡ để cả tiểu đội trần trùng trục, mồ hôi vã như tắm, để viết ra những bức thư đọc đã tự ngượng với mình! Bao nhiêu là lý lẽ. Tôi nghe xuôi xuôi và gật đầu. Cả tiểu đội chỉ chờ có thế, xúm vào công kênh tôi lên vai, chạy sáu vòng sân để tỏ lòng ngưỡng mộ.
      Ngay trong tuần ấy, tôi phải vắt óc viết chín bức thư. Vị chi trong cả tháng sẽ là mười tám bức, chưa kể lúc các cặp uyên ương có những bất đồng hoặc tăng cường độ tình cảm. Cả tiểu đội hôm nào cũng vui như hội. Thư bay về như bướm xuân. Thư nào cũng khen người yêu tiến bộ. Đi bộ đội có khác! Đến cái thư cũng rất bộ đội. Thương nhớ cứ như keo dính. Thiết tha lạ! Tôi vui lắm. Vui và bận. Vì cậu nào cũng muốn tâm sự với tôi. Đến là buồn cười, ai cũng nghĩ: Nói với tôi, tức là đã nói với người yêu của họ rồi vậy.
      Rồi chuyện buồn não lòng đến với tôi. Viết nhiều thư quá, lại nhập vai như thật, tôi đâm ra lẩn thẩn. Thư tôi viết cho người yêu của mình có những chi tiết lầm với viết hộ tiểu đội trưởng. Người yêu tôi ngúng nguẩy, bóng gió xa xôi qua vài bức thư, rồi nói toạc ra rằng tôi đã thay lòng đổi dạ. Tôi phải thanh minh bằng cách cứ hai ngày gởi cho cô ấy một bức. Ròng rã một tháng trời dư hai ngày, người yêu tôi làm lành, hẹn qua mùa sẽ lên đơn vị thăm tôi và anh em. Hú vía! Chúng tôi đóng quân ở trên tỉnh. Người yêu tôi lấy cớ đi sắm quần áo để đến thăm tôi không khó. Cô còn tế nhị rủ Nụ, người yêu của Đỗ đi cùng. Đỗ nhập ngũ sau tôi một năm. Tình cờ được bổ sung vào đơn vị rồi được điều về tiểu đội tôi. Cả tiểu đội coi cậu ta như em út. Nụ ở quê, ngụ xóm bên cạnh. Cô mới lớn nên tôi không biết.
      Hai anh em mừng rỡ khi được báo ra nhà khách. Tôi và người yêu gặp nhau cứ ríu ra ríu rít. Tội cho Đỗ, cậu ta chẳng biết nói năng gì, mặt cứ cúi xuống, tay cấu cấu một cọng lá. Nụ giận dỗi: “Thư thì anh bảo nhớ! Tới thăm lại ngồi như tượng gỗ! Chán anh! Em về đây!”. Nói rồi Nụ đứng lên, vùng vằng định ra về. Đỗ cũng lẳng lặng đứng dậy như để tiễn. Tôi lại phải dàn xếp, thuyết phục. Hai ngươì ngồi gần nhau hơn, chuyện cứ lí nha lí nhí. Cuối cùng rồi cu cậu cũng làm Nụ bật cười, phát vào vai, vào lưng bộp bộp, miệng: “Nỡm, nỡm nào...”. Về sau, khi hai người phụ nữ đã ra về, tôi hỏi thì Đỗ cười hì hì: “Em bắt chước thư anh viết hôm nọ chứ có gì đâu. Khổ, chỉ nhớ được câu: “Cho anh gởi một cái hôn nhé!”, thế mà cô ấy sướng rơn... Văn ông anh mạnh hơn cả hổ. Vật chết tươi được cả tính tự ái đàn bà! Giỏi thật!”. 
      Hết hai năm nghĩa vụ, tôi được xuất ngũ. Riêng Đỗ cậu ta đi học lớp tiểu đội trưởng, chỉ huy chín cậu lính mới toanh, kém cậu ta một năm tuổi đời và tuổi quân.
      Hai tháng sau tôi cưới vợ. Hôm hai vợ chồng lên tỉnh sắm chăn màn, một ít nữ trang, tôi có ghé về đơn vị cũ thăm Đỗ. Cậu ta buồn lắm. Chia tay, cậu bảo tôi: “Cứ cưới liền tay như anh mà lại hay!”.
      Đám cưới tôi, người yêu Đỗ có đến dự. Nụ phàn nàn: Đỗ đã thay lòng đổi dạ... Mấy tháng nay, Đỗ không viết cho Nụ một chữ gọi là có. Bạc quá! Thế mà cứ bảo anh ta lành tính! Chả hiểu ra làm sao nông sâu lòng dạ con người!
      Tôi có nghe nói Đỗ về nghỉ phép. Cậu ta chẳng thèm đến thăm tôi. Định đến nhà Đỗ vào sáng hôm sau thì đêm hôm ấy nhà tôi mất trộm. Vợ chồng mới cưới, ngủ mê mệt như chết, kẻ trộm mở chốt vào khoắng tủ quần áo. Tên trộm mở ngăn kéo tủ, lấy hai cái hộp. Một hộp vợ tôi đựng thư làm kỉ niệm, hộp kia nhỏ hơn đựng hai cái nhẫn và sợi dây chuyền nhỏ bằng vàng tây chúng tôi sắm trước hôm cưới. Có lẽ tên trộm vội vàng khi có động, cái hộp nữ trang rơi ngay ở ngoài vườn, cạnh cầu ao. Cũng có thể hắn tưởng cái hộp to và nặng kia đầy châu báu, nên ném trả lại cái hộp nhỏ bé tí tẹo để ghẹo những kẻ ngủ say... Kiểm lại đồ đạc, thấy chẳng mất thứ gì ngoài một hộp thư, vợ tôi hú hí bảo: “Thằng trộm này rồi đến phát điên vì tình! Tiếc là không còn thư, để lúc buồn đọc cho anh khỏi nuốt chuyện cũ”. Tôi cười: “Bây giờ anh quen nói bằng... tay rồi. Em cứ liệu liệu cái thần hồn!”. Vợ tôi nguýt dài một cái: “Be bé cái mồm chứ! U đang ngoài sân. Cụ cười thối mũi đấy!”
      Cái cậu Đỗ thế mà tệ! Về quê, mất mặt. Lên đơn vị cũng chẳng một lời. Tôi giận và cố quên cậu ta. Cái thằng đến thế là tệ!   Dưng mà Nụ nhắc tôi nhớ đến Đỗ. Mấy hôm nay, mặt cô tươi hơn hớn. Cô thì thọt qua lại, rầm rì, khúc khích với vợ tôi. Cô khoe dạo này Đỗ chăm viết thư lắm! Cứ giục cưới! Thư nào cũng giục cưới chị ạ! Chả hiểu ra làm sao cái cánh đàn ông. Chị bảo họ là người thế nào? Vợ tôi ruột để ngoài da, đưa cả thư Nụ để lại góp ý cho tôi xem: “Rõ là anh em nhà sáo! Cậu ấy ở với anh có một năm mà văn hoa ra dáng chững lắm. Cái Nụ có vẻ chịu rồi”. Tôi cầm bức thư đọc. Bỗng giật thót người. Y như thư tôi đã viết cho vợ tôi nửa năm về trước. Chỉ đổi có cái tên. Ẩu quá, đến ngày này, tháng này thì đúng mà năm thì vẫn để nguyên không chịu sửa.
      Tôi mỉm cười. Thế là Đỗ cũng sắp cưới vợ. Một cô gái làng duyên dáng, tính tuềnh toàng hơn cả vợ tôi. Vì vậy, cô sẽ không bao giờ biết được chồng mình, vì tình yêu, có lần đã dám liều lĩnh làm một tên trộm kỳ lạ.
                       

                  
                        CHUYỆN TỪ BẦY KIẾN
 
      Đương mùa cam đậu trái, bầy ong mật nhà ông Năm Cỏ bay đi về như trẩy hội. Ông biểu Út năm nay mùa cam sẽ trúng lớn. Chỉ còn lo đám kiến hôi. Búp non bật, chúng ăn đọt. Nụ hoa lấp ló, chúng mài răng. Trái non bị chích, dù nọc kiến chưa đủ mạnh, cũng sắt lại tẻo teo. Trông mà buốt mắt!
      Nghe nội bày cách diệt kiến hôi, Út mừng lắm. Nó lấy ruột cá bỏ vô hai bịch nilon, đặt trước tổ kiến đỏ. Chờ kiến đỏ bu kín, Út lấy một bịch, buộc hờ miệng lại, đặt dưới gốc cây cam nhiều kiến hôi nhất. Khi Út tháo nuột dây, kiến đỏ ùa ra, leo ngược lên cây. Đám kiến hôi chụm đầu gọi nhau. Rồi chúng ùn ùn kéo xuống. Út cười thầm, đoán loài kiến đỏ có thân hình lực sĩ gấp đôi kiến hôi sẽ thắng! Thế mà, khi chạm trán kiến hôi, bầy kiến đỏ bỗng sững lại, ngơ ngác; rồi bỏ chạy tan tác...
      Cậu bé suýt oà khóc, ấm ức chạy đi tìm nội. Ông Năm Cỏ nghe chuyện, vuốt râu, cười ha hả, sai cháu đem bịch kiến đỏ còn lại tới, thả lên ngọn cam. Bây giờ đến lượt lũ kiến hôi chạy toán loạn. Xác rụng đen cả gốc cây.
      Út tròn mắt, lặng lẽ nghe ông biểu: “Khi các giống kiến đánh nhau, giống nào ở trên cao đánh xuống đều thắng. Chúng tưới nọc độc lên đầu kẻ kém lợi thế, làm kẻ kia bị tê liệt, rồi mới xông tới cắn chết...”. “Hay quá trời, nội! Thảo nào...”. Ông âu yếm nhìn cháu, tiếp: “Nhà nông ta vận dụng điều này để trừ các giống kiến hại cây trái đó con”.
      - Nội ơi, nội biết việc này lâu chưa? Út tò mò.
      - Từ hồi đi tập kết. Ở nông trường Điện Biên, một người lính miệt vườn Lái Thiêu đã bày vẽ cho nội.
      - Thế ai chỉ cho ổng, nội?
      - Nội hỏi, ổng chỉ cười, biểu: “Tướng Giáp”. Nội cũng chưa tường vì cớ chi ổng lại nói thế.
      Út bỗng chớp chớp hàng mi cong vút, nắm lấy tay nội, hỏi: “Nội ơi, có phải vì biết chuyện loài kiến mà cụ Lê Lợi cho quân mai phục ở hai sườn núi ải Chi Lăng; ông Giáp cho kéo pháo lên núi Điện Biên?”. “Ôi, cháu ông giỏi quá! Giỏi quá!”. Ông khen và xoa đầu cháu, ngỡ ngàng hiểu ra một điều bình thường mà thâm sâu đến thế.
      Út được khen, cao hứng: “Nội ạ, cũng vì thế mà bộ đội ta từ Trường Sơn tràn xuống, đã giải phóng được miền Nam?”. “Phải rồi!”. Ông Năm Cỏ lẩm bẩm: “Phải, nội sẽ thưởng cho con một cuốn truyện lịch sử”. “Dạ. Con cám ơn nội”. “Ơ kìa...”, ông nheo mắt, đưa một ngón tay lên. Hai ông cháu cùng nhìn lên các cành cam. Chỉ còn loài kiến đỏ hữu ích đang chuyển nhị từ hoa này sang hoa khác. Hương vườn dìu dịu đưa theo cánh ong bay...
 
 
                          

                       
                        THẦN LÀNG MUÀ LŨ
 
      Đã thành thông lệ, tôi không nhớ rõ từ bao giờ, nhà tôi thường gói bánh vào sáng ba mươi. Sau bữa cúng tất niên, bố tôi xếp ba chồng gạch thay cho ông đầu rau rồi đặt thùng bánh chưng lên, chất củi gộc vào, lấy lửa từ cái đèn dầu trên bàn thờ châm bếp luộc bánh. Đêm ấy, cả nhà tôi thức canh bánh, đón giao thừa. Sang canh thì bánh đã rền , được vớt ra, xếp đều lên một cánh cửa sổ thành nhiều chồng và đặt lên trên một cách cửa nữa, xếp các cối đá, gạch cho đủ độ nặng ép bánh.
      Trong khi chờ bánh, ai có chuyện gì đều đem ra kể. Câu chuyện bố tôi kể cả nhà đều thuộc lòng. Riêng tôi, tôi chép vào trang giấy này, để lỡ về sau đến tuổi thất thập, nếu có phải kể lại cho con cháu, cũng khỏi sợ nhầm lẫn.
      “Năm ấy, mưa to gió lớn nhiều. Đê sông Hồng, sông Đáy, sông Luộc và nhiều con sông khác nữa bị nước cuốn trôi đi từng mảng. Lúc ấy bố mới chừng năm tuổi, tên là Hạ. Năm tuổi, việc nhớ chỉ lõm bõm. Duy cái ăn thì nhớ rõ mồn một. Đói thì nhớ lâu, vậy thôi.
      Khi nước rút, nhà cửa xiêu vẹo hoặc trôi mất. Riêng nhà ta ở nhà thờ họ, gọi là từ đường, xây bằng gạch ong, cột bằng gỗ lim đặt trên thớt đá, nước không làm gì được, phù sa mịn như mỡ phủ dầy đến hai tấc. Ngoài vườn, cam quít thối rễ, thân cứ đen lại. Góc vườn, những bụi lá dong rũ xuống, từ gốc bật mầm, gặp phù sa lớn nhanh trở lại, xanh mỡ màng. Phía ngõ ra vào, mấy khóm tre, hóm trúc cũng đứng thẳng lại, ngọn như những cây nêu cong lên, đung đưa.
      Thóc giống quí hơn vàng đã vãi ngoài diệc mạ. Cả làng hầu như chẳng còn nhà nào có cơm ăn. May thay, ngoài đồng, trong các mương rạch, ao chuôm cá nhiều vô kể. Đúng là trời sinh voi trời sinh cỏ. Cứ thò tay xuống vũng nước là bắt được cá. Cá nướng, cá luộc, cá nấu canh, cá om trấu, cá kho. Trông thấy cá, bụng thì đói, nhưng vẫn sợ.
      Khoảng giữa tháng Chạp, lúa đã cấy xong, xanh lạ lùng. Năm ấy lập xuân sớm. Ông nội dẫn bố và bác Trung ra cồn Tròn. Bố mang cuốc, bác Trung mang xẻng cho ông. Tưởng ông dẫn đi be đắp bờ ruộng ai ngờ ông dẫn đi thăm mộ tổ. Bố hỏi ông: “Thầy ơi! Cái đụn to kia là mộ tổ nhà ta phải không?”. “Không. Đó là mả con mẹ Mìn ăn mày. Mỗi người một nắm đất mà to thế đấy.” Bác Trung chỉ một cái mộ xây ở hai đầu có hai cái cột, trên đỉnh cột có tạc hình hai cái búp hoa đại, hỏi: “Có lẽ là cái này, hả thầy?”. Ông nội bảo: “Đấy là sinh phần của cụ tiến sĩ họ Phan. Chả biết ông cụ đỗ tiến sĩ hồi nào, chỉ nghe gia phả họ Phan kể thế”. Đến một chỗ bằng phẳng ở giữa cồn, ông nội tự dưng bảo: “Các con thử tìm mộ tổ mình xem”. Bố và bác Trung nhìn quanh chẳng thấy gì, cùng nói là không biết. “Vậy thì thầy chỉ cho. Nhớ lấy, nhá”. Ông lấy cái xẻng bác Trung đang vác trên vai, cắm phập xuống giữa cồn, bước về phía Bắc ba bước rưỡi, bảo bố đánh dấu bằng một nhát cuốc. Rồi, trở lại chỗ xẻng, bước về phía nam ba bước rưỡi. Cũng vậy, ông bước về phía Đông và phía Tây, đánh dấu thành một cái dấu thập, mỗi nét dài bảy bước. Cuối cùng, ông nối đầu dấu thập ấy bằng các vạch ngang tạo ra một hình vuông, mỗi cạnh cũng bảy bước. Ông nói: “Mộ tổ ta đấy”. Mãi sau này bố mới hiểu ý ông nội. Mộ tổ họ Trần ở đâu không ai rõ. Ở cồn Tròn, cái cồn tượng Trời, cái khoảng vuông tượng Đất. Điền trang, thái ấp ở đấy cả.
      Về nhà, lúc ấy ông mới cho xúc phù sa ở gầm các bàn thờ dọn ra sân. Ông tự nhào luyện đất cho nhuyễn, đóng được mấy chục viên gạch thất loại nhỏ. Ông nói qua Tết gởi vào lò gạch ông lý Sâm nung thành gạch, lấy gạch đó đánh dấu khu mộ tổ tiên cho dễ nhớ.
      Làng ta từ xưa có lệ cúng thành hoàng ở miếu. Lệ ấy bây giờ vẫn còn nên các con đều biết cả. Lễ vật cũng đơn giản, gồm chín cái bánh chưng, chín bát nước trong và một cút rượu trắng. Cúng xong, lý trưởng làng, đồng thời cũng là chủ tế, tự tay ném tất cả lễ vật xuống sông, cầu xin đấng linh thiêng cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, dân làng được bình yên.
      Suốt mấy ngày liền ông nội các con hết lên Đặng lại xuống Oản kiếm gạo, lúc về cứ thở dài thườn thượt. Năm nay đến phiên họ Trần lo dâng lễ vật cho làng ông nội các con là trưởng tộc, làm sao không lo lắng?
      Chừng hai mươi Tết, ông nội sai bác Trung và bố ra vườn hái lá dong, rửa thật sạch, xếp vào rổ để ở góc bếp. Ông chặt một cây tre bánh tẻ, chẻ bao nhiêu là lạt. Quái lạ, ông lo được gạo nếp rồi sao? Giấu kĩ quá!
      Hôm sau, bố và bác Trung đi chăn trâu, bà nội đi chợ. Đến trưa về, lạ chưa, ông nội đã gói xong chín cái bánh chưng. Vẻ mặt ông trầm ngâm. Ông khẽ bảo: “Năm nay gạo hiếm. Chỉ đủ gạo gói bánh dâng làng”.
      Tối, ông xếp ba chồng gạch thất thành ba ông đầu rau, lấy củi gộc đốt rồi đặt thùng bánh lên. Ông bảo cả nhà đi ngủ. Sáng, bánh đã ép xong, đều chằn chặn, vuông vưng vức. Bác Trung hít hít. Ông bảo: “Năm nay lụt, gạo cũng chả thơm nổi nữa”. Đúng như thế. Y có mùi lá dong thì vẫn muôn thuở như vậy. Bố nhìn hau háu, nuốt nước bọt. Bác Trung nhìn bố thương hại.
      Cả ngày hai ba tháng Chạp, dân làng xì xụp vái lạy trước bục thờ ở miếu thành  hoàng.
       Nhìn những tấm bánh vuông vức  ông lý trưởng ném xuống sông, nhiều đứa trẻ con khóc òa lên.
      Nửa đêm, bác Trung từ đâu về không rõ, ướt như chuột lột, người cứ run bắn lên, răng đập vào nhau lập cập. Bác thì thào bảo bố: “Tao liều mạng lặn xuống sông mò bánh...”. “Chết, sao anh lại làm thế? Miếu làng mình thiêng lắm. Rồi các ngài vật hộc máu mồm ra!”. Bác Trung càng run hơn, nói không ra tiếng: “Tao biết rồi. Giờ thì tao tin. Tao mò được một cái bánh. Lên bờ, mở ra xem thì...”. Bố im lặng, lo lắng nắm lấy tay bác, có ý bảo bác nói khe khẽ, kẻo ông biết thì chết. Bác Trung hiểu ý, thì thào vào tai bố: “Lạ quá em ạ! Các ngài đã hoá bánh của bố thành đất sét hết!”.
      Vụ chiêm năm ấy lúa tốt bời bời. Mùa gặt, nhà nào nhà ấy thóc chất ngất đầy bịch. Cả làng nói miếu làng mình thiêng”.
      Câu chuyện bố tôi kể, cả nhà đã thuộc lòng, nhưng năm nào cũng vậy, mỗi ngươì hiểu theo một cách. Người trợn mắt ra mà tin, người tủm tỉm cười, có ngươì mới nghe đến chữ năm ấy, đã lặng rời câu chuyện xưa bước vào đêm trừ tịch đón một năm mới đang tới.
 

 
                              DẤU CÀ KHEO
 
      Khoai dong trâu qua cổng làng một quãng đã thấy Bưởi nách cắp rổ dong riềng đi ngược vào xóm Vượt Mới. Xóm mới có vài hộ, nằm trơ trọi giữa những thửa ruộng chằm. Cho tới lúc giáp mặt nhau, cô mới nói khẽ:
      - Đứng lại em hỏi chuyện này đã!
      Khoai níu sợi thừng. Con trâu dừng lại, gõ guốc lộp cộp, che khuất người con gái đang đứng sát bên một bụi trúc.
      - Em lo lắm! Chẳng lẽ anh không nghĩ đựơc cách gì ư?
      Bưởi ngập ngừng, chớp chớp đôi mắt đen láy. Khoai nhìn cô chăm chắm, cố lấy giọng bình tĩnh:
      - Em xem - Anh nói và dộng bó tre đang vác trên vai xuống đường.
      - Thôi thì cũng là tại số giời cả!   
      Bưởi rơm rớm nước mắt, trách:
      - Anh không thể cố hơn nữa đựơc sao?
      Khoai gắt:
      - Ai bảo anh không cố? Dưng mà còn ý của bố em thì ta biết  làm sao đây?
      - Mà thôi, em mặc kệ anh đấy!  Anh muốn làm thế nào thì làm! Đừng để em phải khổ tâm nữa. Em không chịu đựơc mãi đâu!
      Khoai hứa:
      - Nhất định rồi! Anh sẽ có cách của anh chứ! Mà sao em cứ lo cuống cà kê lên như thế để làm gì?
      Bưởi nhét một củ dong tím nhạt vào miệng con trâu, than:
      - Em khổ  tâm quá! Hay kiếp trước chúng mình là đôi trâu tu chưa hết nhẽ, hả anh?
       Khoai cười khẽ:
      - Em buồn cười thật! Số với kiếp cái gì! Chẳng qua là do cái anh chàng Chiến không biết điều, cố đấm ăn xôi thôi!
      Biết Khoai và Bưởi tình ý với nhau từ lâu, nhưng Chiến vẫn cố vờ đi, nài bố đến thưa chuyện cũ với ông Cam. Mỗi khi nghe nhắc đến cái chuyện cũ ấy, Khoai và Bưởi lại nép vào nhau, cười rúc rích.   
      - Bố em ưng thì cứ để anh ta lấy ông lão - Bưởi nói - Còn em, em chẳng ưa anh ta!
      Cô dụi dụi đầu vào ngực chàng lực điền, bảo:
      - Giá chúng mình đã là vợ chồng rồi thì làm gì có chuyện rắc rối nhỉ?
       Khoai âu yếm vuốt tóc người yêu, hỏi:
      - Thế hôm trước ông Chinh nói chuyện gì với bố em?
      - Em chỉ nghe loáng thoáng, câu được câu mất. Đại thể là...        Bưởi cười khẽ, che miệng nhại giọng bố và giọng ông Chinh:
      - Ông Cam, ông còn nhớ cái hôm ông cho trâu lội qua sông ngày xưa không?
      - Tôi quên làm sao đựơc cơ chứ! Hồi ấy, tôi không biết bơi. Nếu hôm ấy ông không vô tình đánh trâu qua khúc sông ấy, chắc tôi đã chết đuối từ tám hoánh rồi ông nhỉ?
      - Ừ, hôm ấy, ông có hứa với tôi: sau này nếu có con trai con gái thì ta sẽ làm thông gia với nhau, có phải không nào?
      - Phải, phải... Tôi vẫn còn nhớ! Nhưng tôi e rằng... con Bưởi nó không bằng lòng.
      - Ông là bố nó cơ mà! Tại gia tòng phụ! Chẳng lẽ ông không còn muốn giữ nếp xưa của tổ tiên?
      - Khổ quá ông Chinh ạ! Con bé nó lại phải lòng cái thằng Khoai rồi. Tôi biết thằng Chiến nhà ông cũng chẳng kém cạnh gì thằng kia. Có điều, bây giờ đời sống mới, ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên, hả ông?
      - Thì tôi có nói là ép đâu. Cứ để cho thằng Chiến tìm hiểu con Bưởi. Còn chuyện giữa hai thằng ấy, thì ông cứ chiều theo ý tôi một lần, làm thế này...thế này...Giả tỉ thành công thì tốt. Mà không đựơc như ý ngừơi, thì đó là ý của trời. Lúc đó, con Bưởi dù có thành dâu con nhà ai, tôi cũng chả dám trách ông thất hứa!
      Câu chuyện chỉ có thế. Không ngờ hai hôm sau, ông Cam sai Bưởi gọi Khoai tới nhà, thủng thẳng bảo:
      - Bố chưa hiểu đầu cua tai nheo chuyện của các con. Nhà này đã có người mang nơm đến, vẫn còn người muốn tới để cất vó...
       Bưởi ngạc nhiên:
      - Bố nói bóng gió xa xôi thế, con chả hiểu ra làm sao cả.
       Ông Cam với điếu, vê một mồi thuốc cho vào nõ, châm đóm, rít tong tóc. Rồi ông bụm miệng, phả khói lên trần nhà, mắt lơ mơ, tiếp:
      - Chả là ngày xưa bố có hứa với ông Chinh, bố của cậu Chiến rằng...
       Kể xong câu chuyện cũ, ông bảo Khoai và Bưởi ngồi xuống phản, phân bua với hai người về sự khó xử của mình. Ông bảo, cho đến bây giờ,  có nhiều người thuộc thế hệ ông vẫn chưa quên và còn muốn niú kéo các tục lệ cổ hủ  cũ. Do đó, chuyện ông buộc phải làm, không có mục đích  làm khó dễ cho  Khoai . Ông nói Chiến đã nhận lời rồi. Còn Khoai, nhận hay không là tuỳ ở anh, ông không bắt buộc. Có điều, anh nên nhận lời thì hơn. Vì ông tin Khoai vốn sáng dạ, anh nhất định sẽ tìm đựơc cách vượt qua thử thách.
      Nghe ông Cam nói, Khoai đưa mắt nhìn Bưởi. Cô nháy mắt ra ý cho anh đừng nhận lời, cứ để cô liệu. Bưởi yêu  anh, nếu  cô cứ khăng khăng một mực từ chối Chiến, thì dù hai ông lão có giở cả phép giời ra đi nữa, cũng khó mà chia cắt được họ...
      Vậy mà, không hiểu sao Khoai lại đi chấp nhận lời thách oái oăm đó. Vì lòng tự trọng? Vì muốn ông Cam giữ được lời hứa? Hay vì muốn chứng tỏ mình không thua kém gì Chiến? Những cái sĩ diện ấy đã đẩy anh và Bưởi vào một tình thế chông chênh, bất lợi quá. Bưởi giận anh nông nổi, chưa tính kĩ đường hơn lẽ thiệt đã nhắm mắt làm liều. Cô doạ: nếu anh thua cuộc, cô sẽ xuống tóc đi tu cho mà xem! Khổ chưa!
      Con trâu thấy chủ lặng đi, vươn cổ: “Nghé ọ...”,  kéo căng sợi dây thừng. Khoai giật mình nhìn theo bóng Bưởi đang lủi thủi rẽ vào cái ngõ nhỏ nằm giữa hai thửa ruộng chằm nhà cô. Anh bất giác thở dài khi nhìn thấy rõ mồn một dấu hai hàng cà kheo của ai đó đều tăm tắp trên thửa ruộng bên cạnh đường cái. Anh tái mặt, chợt nghĩ: “Chiến! Đúng là dấu kheo của anh ta rồi!”.
      Xốc bó tre cật lên vai, Khoai khẽ giật sợi dây thừng. Trong gió thoảng, anh như còn nghe rõ cả những tiếng trống hội mùa xuân vọng về từ năm ngoái. Trống thúc liên hồi trên sới vật. Khoai đầu đội khăn đỏ, thân đóng khố đỏ, người còn nhễ nhại mồ hôi sau keo vật chung cuộc hạng gà, đứng giữa hai đô vật kém anh một hạng, tay  cầm chiếc tù và sừng trâu danh dự giơ cao lên trời huơ qua huơ lại. Mọi người hồi hộp chờ tiếng tù và ấy vang lên. Tiếng tù và do người trai khỏe nhất sới vật thổi, luôn được dân làng coi là những lời cầu khấn thần linh xuống tay đem đến cho họ sức khỏe, may mắn và sự no đủ... Bởi thế, mọi cuộc vui sẽ chỉ được bắt đầu sau những thanh âm thiêng liêng kia vang lên. Hội múa lân ào đến cùng với đủ mọi thứ âm thanh. Đội văn nghệ xã xúng xính trong những bộ áo xanh, áo vàng, tay nâng những cây kèn đồng sáng loáng, người nào người nấy phùng má, cố thổi theo đúng điệu một bài hát chèo. Lũ trẻ chăn trâu lao xao ở phía sau, đứa thì thòm gõ trống ếch, đứa phất phất trên tay những cây cờ phướn ngũ sắc. Lúc ấy, Chiến lênh khênh trên đôi cà kheo ba mét, vững chãi như đi bằng chính đôi chân của anh vậy. Đội lân trên đầu, anh nghiêng qua nghiêng lại, vờn dọc vờn ngang. Tay anh ta khi thì vỗ vỗ vào cái trống cơm đeo trước ngực “ tung tung...”, khi thì nhằm chỗ đám đông có Bưởi vẫy vẫy... Thì ra thâm ý của ông Chinh muốn con trai ông ta thắng cuộc đã rõ! Ai chẳng biết Chiến sẽ lội qua thửa ruộng chằm, chân không chạm đất nhưng vẫn để lại được dấu đi trên mặt ruộng là dễ dàng hơn? Còn anh, anh cay đắng nhận ra rằng mình thua kém Chiến rất xa về khỏan tài nghệ này.
      Từ khi nhận lời gỡ rối cho ông Cam, ngày nào Khoai cũng dắt trâu ra đồng. Bỏ mặc cho con vật nhởn nhơ gặm cỏ trên cồn, anh lấy đôi kheo thấp nhất ra tập đi. Nhiều lần, mất thăng bằng, hai cây kheo đổ nhào về phía trước, anh bị ngã sấp mặt xuống đất, miệng cạp đầy cỏ đắng. Mà nào có khá được bao nhiêu! Ngày ông Cam hẹn ông Chinh vào đêm lập xuân cũng đã sắp tới rồi, mà Khoai mới chỉ tập tễnh đi được trên đất cồn. Nói gì đến chuyện lội qua ruộng chằm kia? Việc này, ngay cả đối với Chiến, để vượt qua được mặt ruộng chằm nhà Bưởi, cũng không phải là dễ dàng gì. Vì chính mắt Khoai có lần đã trông thấy anh ta bị sa lầy trên một bãi bồi, đôi kheo bị bùn  hút xuống, càng cố lắc để rút kheo lên, thân tre càng lún sâu hơn.
      Mải ngẫm nghĩ, chân Khoai vấp vào một mô đất. Anh ngã nằm sóng soài. Bó tre cật xổ tung, lăn lóc trên đường. Lồm cồm bò dậy, Khoai cột các cây kheo lại, phủi quần aó, giục trâu đi. Những vết chân trâu di lại từ ngày này qua ngày khác đã biến con đường thành một cái thang hút về phía trước. Thi thỏang lại có những đoạn đường mà các lườn sống trâu bị sạt lở hết, gọi là đường vỡ, mặt đường chỉ thấp ngang mặt ruộng, bùn đất nhão nhoét như ở ruộng chằm. Muốn qua đựơc những quãng đường ấy, người và trâu phải lội ì ọp, bùn nứơc bắn lên tung tóe.
      Tới đường vỡ rẽ vào cồn Rùa, con trâu nghiêng qua nghiêng lại như bơi. Cái bụng to kềnh càng của nó trông giống như một cái phao. Có lẽ nhờ cái phao đó mà con trâu không bị chìm xuống lớp bùn, trên bề mặt thì nhão nhoét như cháo loãng  mà ở ngầm phía dưới thì lại kết dính một thứ keo dẻo quánh. Con vật tỏ ra rất thận trọng. Chân trước đặt đâu, chân sau đặt đó, nó phì phò để lại phía sau hai vệt chân trên mặt bùn đều chằn chặn. Khoai đã cố đi sát vào bên mép ruộng lúa để tránh thụt mà chân anh vẫn như bị ai đó nắm lấy kéo ghì xuống. Nhìn con trâu, trong lòng anh bỗng dậy lên một mối cảm thương là lạ. Tự dưng anh nghĩ đến thân phận mình. Con đường anh đến với Bưởi hình như còn khó hơn cả việc con vật lội qua khúc đường vỡ...
      Con trâu bỗng dừng lại, chun mũi để lộ ra cái lợi sún như cười.
      - Mệt lắm rồi phải không chú mày? Khoai an ủi nói - Sắp tới cồn rồi! Cố lên nào!
      Con vật lắc lắc sừng, tai vẫy vẫy, đuôi ngoe  nguẩy. Rồi như muốn nói với chủ điều bí mật, nó rướn cổ, ngửa mặt lên trời, kêu: “Ngò....ò...”.
      - A, thằng láu cá! Khoai bật kêu lên -Tao biết rồi! Biết rồi! Trời ơi, chỉ cần trèo lên lưng chú mày là...
       Anh chợt nhớ tới lời dặn dò của ông Cam. Anh biết mình đã lầm. Thì ra là như vậy! Bây giờ, ai dám bảo là  ông lão vì cả nể mà không biết thương con? “Mình cạn nghĩ qúa! Thôi được,  mình vẫn còn  nhiều dịp để xin ông lão xá tội cho cơ mà!”, Khoai thầm thì một mình.
      Dắt con vật trung thành lên cồn, mặc cho nó còn hổn hển thở, Khoai đã ôm chầm lấy đầu trâu. Bàn tay người nóng ấm xoa khắp các khoáy tam tinh của con vật. Anh thủ thỉ, khen:
      - Giỏi qúa! Giỏi qúa!
      Con trâu lim dim đôi mắt, thè cái lưỡi ráp như lá lúa liếm liếm những giọt nứơc mắt vừa lăn dài xuống má chủ.
      Rồi cái đêm lập xuân ấy cũng đến. Dĩ nhiên là chỉ có mấy người trong cuộc biết chuyện. Còn dân làng, ngay cả những người tò mò nhất, cũng chỉ nghe phong thanh rằng ông Cam có cách kén rể lạ lắm mà thôi...
      Mãi đến lúc vợ chồng Khoai đã có hai mặt con, trong lễ hội mừng xuân, thấy Khoai và Chiến, người đội đầu lân, người đội đuôi lân, cùng nhảy múa trên những đôi cà kheo lênh khênh, người ta kháo nhau là ở lần thi tài năm xưa, Khoai đã thắng. Có người còn đánh bạo hỏi Khoai chuyện cũ. Anh không trả lời, miệng tủm tỉm cừơi, chỉ tay ra con đường đồng bây giờ đã trải đá. Mặc dầu vậy, dấu chân trâu hai hàng đều tăm tắp vẫn còn hằn rõ trên những lớp bụi mờ...
 
 
                        CÂY ĐÀN ĐỨT DÂY
 
      Trăng khuya vằng vặc sáng. Gió đàn hây hẩy, xào xạc thổi qua những tàu dừa lấp lánh ánh xanh. Ba Đực bỏ sách xuống, bần thần nhìn ra cửa. Hoang mang, anh chạy lại góc nhà, lấy cây đờn bầu ra gẩy. Những âm thanh trầm bổng, trong vắt rung lên, lan toả. Anh ngây ngất như chết lặng đi trong sóng âm, bồng bềnh trôi về quá khứ...
      Đạn như vãi trấu về phía anh và Út Côi. Sân bay Tân Sơn Nhất. Những chiếc máy bay trúng thủ pháo của “đặc công” phừng phừng bốc cháy. Thi thoảng, sau mỗi tiếng nổ lớn, khói và lửa lại đùn lên trời những hình nấm khổng lồ.
      Thoát khỏi hàng rào bùng nhùng , hai người vùng chạy về phía ngã tư Ga. Côi vướng mìn. Anh bị cụt một chân.
      Hoà bình, anh cưới cô gái đã băng bó vết thương và nuôi giấu anh ngày nào làm vợ. Nhưng, như một cơn ác mộng, ba năm sau ngày cưới, vợ anh bồng con vượt biên cùng một gã thiếu úy mới đi cải tạo về.
      Từ đấy, anh giáo thù ghét đàn bà. Anh nuôi một con chó đực, một đàn gà trống. Đêm đêm, con  chó ngủ dưới chân giường anh. Ban ngày, nó đùa giỡn với đàn gà trống. Những lúc đàn gà trống tha thẩn sang sân nhà chị Út Tám, con chó nằm ghếch mõm lên đùi anh, dỏng tai nghe tiếng đàn bầu. Mắt nó xa xăm như vô hồn.
      Đêm nay, nghe tiếng đàn bầu, không hiểu sao con chó cứ cắn cắn vào gấu quần Ba Đực, hết day day lại rên ư ử. Ba Đực dừng đàn, vuốt ve dọc sống lưng nó, nựng:
      - Đi đâu? Nào, mày muốn tao đi đâu nào?
       Con chó vùng ra, ăng ẳng sủa. Rồi nó chạy lại, chồm lên, khựng xuống, trân trối nhìn chủ.
      - Thì đi!
      Anh giáo đứng dậy, với nạng, tập tễnh theo con chó lon ton chạy phía trước.
      Tới sân nhà Út Tám, con chó thoáng rùng mình rồi khẽ khàng nằm xuống. Ba Đực lặng người. Trước mặt anh, chị Út Tám vừa ngủ gật vừa xay bột nước để sớm mai tráng bánh ướt bán. Thân hình chị nhấp nhô theo chiều quay của chiếc cối. Người đàn bà ướt đẫm mồ hôi. Những sợi tóc mai bết vào má, ánh lên dưới trăng... Bên cạnh chị, thằng Hai Cút học bài xong, ngoẹo đầu ngủ. Nét mặt thơ ngây của thằng bé bất ngờ sáng rỡ lên một nụ cười. Nó ú ớ gọi “ba, ba” trong cơn mơ. “Vẫn giấc mơ nó thường kể đây”, Ba Đực nghĩ. “Ba Côi con về thăm má con con thầy ạ. Oắch ghê lắm nghe, thầy! Vai mang hàm cấp tướng. Lưng đeo khẩu súng trường. Chỉ tức cười là làm sao ba con giống thầy quá trời à! Chân giả. Nạng kẹp ở nách...”. Kể xong giấc mơ của mình, thằng bé nói: “Má biểu hồi nhỏ ba Côi và thầy là đôi bạn con chí cắn làm hai. Thầy rủ đi làm giải phóng là ba con đi liền hà”.
      Đúng lúc ấy, con chó bỗng sủa rống lên. Thằng Cút dụi mắt, oà lên khóc. Chiếc cối xay khựng lại. Út Tám giật mình tưởng giấc mơ đánh lừa chị. Mở to đôi mắt, chị ngạc nhiên, nhìn chăm chắm vào Ba Đực đang ngẩn người như một pho tượng. Run cầm cập, mặt chị trắng bệch dưới ánh trăng.
      Ba Đực khàn khàn gọi khẽ: “Út!”.
      Chị không đáp, quay mặt lau thầm nước mắt khi thấy anh tập tễnh đến ngồi xuống bên cạnh thằng Hai Cút. Ôm nó vào lòng, anh hôn mãi lên mái tóc khét nắng của đứa học trò nhỏ.
      Gần sáng, Ba Đực về đến nhà. Con chó đang ngồi chồm hỗm, “gâu” một tiếng, rồi cong đuôi chạy về phía cây đàn bầu.
      - Trời ơi! Ba Đực nghẹn ngào.
      Cây đàn đã đứt dây...            
 

 
                                    VÒNG ĐỜI
 
      Ngồi vắt vẻo trên mình trâu, chợt nhớ lời hẹn, tôi vội nhảy xuống đất, xà vào vườn nhà thằng Nhự ngắt một nắm lá mít, vơí tay bẻ một cành tre gai. Cái Đào tay cầm sợi dây thừng, lò cò nhảy qua các bậc thang trên đường. Con trâu cái nhà nó chậm rãi thả từng bước ngắn ở phía sau. Tới cồn Tròn, mặc cho đôi trâu quấn quýt gặm cỏ bên nhau, tôi và Đào ngồi khuất sau cái sinh phần của cụ tằng tổ làng bày trò chơi đám cưới trâu.
      - Thế ta phải làm đám như thế nào hả anh? Đào băn khoăn.
      Tôi ngớ ra:
      - Ơ, vậy mà anh cứ ngỡ là em biết hết cả rồi kia đấy!
       Thấy Đào lộ rõ vẻ thất vọng, tôi an ủi:
      - Hay là ta làm theo đám cưới anh Cu lấy chị Xoan? Được không?
       Đào cúi mặt xuống,  giọng buồn buồn :
      - Không được! Vì mỗi lần nhớ lại mấy cái roi, em đã muốn khóc rồi!
      Nhớ hôm đám cưới anh Cu, nhà trai bị trẻ trâu ngăn ngõ bằng một ngọn rào tre. Anh Cu đã đưa một cọc tiền xu, nhưng thằng Nhự bảo chưa đủ, nhất định không chịu mở lối. Láu cá hơn, nó đẩy cái Đào ra phía trước, rồi đứng ở phía sau, leo lẻo đòi thêm. Anh Cu nằn nì thế nào nó cũng không nghe. Vốn cục tính, lại sợ qúa giờ tốt thì không đón được dâu, anh Cu mặt đỏ bừng bừng, tay bẻ rắc một cành  rào, quật tới tấp xuống đất. Ý của anh chỉ để hù doạ, ai ngờ tôi và Đào không chịu chạy, mỗi đứa bị một roi, vừa chạy về nhà vừa hu hu khóc... Giận anh Cu, lúc đón dâu, cái Đào cứ níu lấy áo chị nó. Đám cưới mất cả vui!
      Còn đang chưa biết phải làm như thế nào thì Đào đã reo lên:
      - Em nhớ ra rồi! Ở trên tường nhà em có bức tranh họa đám cưới chuột!
       Hiểu ý Đào, tôi cười:
      - Ờ nhỉ, có thế mà anh không nghĩ ra được! Phải rồi, trâu với chuột bốn chân. Hay đấy! Hì hì...
      Hai đứa hý hoáy xé lá mít, bẻ các gai tre làm được sáu bảy con trâu. Trẻ mục đồng thì tôi nặn bằng đất sét. Con gái, con trai cưỡi trâu đi đám cưới, việc này xưa nay chưa từng xảy ra ở làng. Cứ gọi là nhất!
      - Ô hay, thế thì thành đám cưới người rồi anh ạ! Đào chun mũi cười.
      - Ừ, em xem cô dâu chú rể giống những ai nào?
       Đào rúc rích:
      - Hao hao dáng em. Bé như cái kẹo ấy!
      Lấy tay che miệng, liếc nhanh về phía tôi, Đào khẽ nói:
      - Mà chú rể thì...giống anh qúa!
     Rồi Đào bảo :
      - Anh giả anh Cu, em làm chị Xoan thì cứ gọi là y hệt!
      - Ừ- Tôi nói và nắm lấy tay Đào -Trưa rồi, u em vo gạo nấu cơm đi chứ! Xong thì chạy sang nhà ông Nhự mua cho tôi cút rượu nhé!
      - Hết gạo rồi bố nó ạ! Hay là để tôi vác rá sang vay u?
      - Vay? Vợ chồng mới cưới đã đi vay! Đẹp cái mặt nhỉ!
      - Thôi thì bố em đợi tôi một lát. Tôi ra đồng kiếm mớ cá. Mấy hôm nay con nước cạn, gì mà chẳng kiếm nổi bữa bún?
      Tưởng đùa, không ngờ Đào đi mò cá thật. Được một xâu, cô xuống chợ Phố đổi bún và mắm tôm. Chấm chấm mút mút xong, hai đứa nằm bên nhau, ngửa mặt lên trời đánh một giấc dài. Đôi trâu không có người trông, thung dung lội xuống ruộng nhà Đào, ăn trụi một đám lúa to bằng ba cái chiếu...
      Những ngày  sau, không hiểu vì sao, Đào cố ý lánh mặt tôi. Tìm gặp, hỏi thì Đào bảo:
      - Em ngượng lắm! Chả chơi nữa! Nhỡ về sau phải lấy anh thì khổ!
      - Sao vậy? Tôi dồn.
      - Anh chưa biết chuyện chị Xoan bỏ anh Cu về nhà rồi à? Anh Cu ác lắm, hơi một tí là đánh vợ!
      - Nhưng anh không giống anh Cu! Anh thề sẽ không động đến lông chân em! Tôi quả quyết hứa.      
      Đào im lặng một lát rồi buồn buồn bảo:
      - Thế thì anh sẽ chẳng bao giờ lấy em.
      Sau cái lần nói chuyện chẳng đâu vào đâu ấy, chúng tôi càng ngày càng thân nhau hơn. Như một đôi bạn trai vậy. Chuyện cũ chưa ai quên. Nhưng ai nấy đều cố tỏ ra mình không nhớ những gì đã xảy ra vào cái đám cưới trâu hôm nào.
      Lớn lên, đúng vào lúc chiến tranh bùng nổ, cùng với bao trai tráng trong làng, tôi lên đường ra mặt trận. Những năm tháng hào hùng của đời tôi vụt trôi qua như một giấc mơ. Tôi bị sốt rét trọc cả đầu, lại bị thương, nên được đưa về hậu phương điều trị. Ít lâu sau đó, tôi trở về làng với tấm thẻ thương binh hạng hai. Vào thời gian này, Đào hầu như ngày nào cũng có mặt ở nhà tôi. Cô chăm sóc tôi như một người em gái. Về phía tôi, tôi cũng coi Đào như em vậy. Chuyện ngày xưa coi như đã trở thành dĩ vãng. Xa lắc.
      Năm hai mươi chín tuổi, tôi yêu một ngừơi con gái làng bên kém tôi tám tuổi. Tôi đem chuyện hệ trọng ấy hỏi ý kiến Đào. Cô khen người yêu tôi đẹp người đẹp nết và khuyên tôi nên cưới cô ấy làm vợ. Tôi chỉ không hiểu nổi vì sao sau khi khuyến khích tôi lấy vợ, Đào lại khóc. Hỏi, cô cứ nằng nặc nói là mừng quá! “Ờ, mừng quá, người ta cũng có thể khóc được lắm chứ !”, tôi vô tình nghĩ.
      Còn Đào, mặc cho Nhự theo đuổi đã mấy năm trời, mặc cho tôi tốn không biết bao nhiêu lời vun vào cho họ, cô vẫn cứ dấm da dấm dẳng chưa dứt khoát.
      Mãi đến khi vợ chồng tôi có hai mặt con, Đào và Nhự mới cưới nhau. Họ sinh được một bé gái rất kháu khỉnh, đặt tên là Mít. Hai thằng con trai của tôi quý em bé như vàng. Có đồ chơi đẹp hay qùa bánh ngon, chúng đều nhắc nhau để phần cho con bé.
      Thời gian thấm thoát thoi đưa. Mấy đứa trẻ lớn bỗng lên từ lúc nào. Cũng như chúng tôi ngày xưa, chúng lại í ới rủ nhau đi chăn trâu giúp bố mẹ. Dĩ nhiên, ở độ tuổi thơ ngây ấy, chúng chẳng thiếu các trò chơi.
      Nhà tôi và nhà vợ chồng Nhự chỉ cách nhau một cái ao nhỏ; thế mà, đã nửa năm nay, tôi chưa có dịp nào để gặp gỡ, nói chuyện riêng với Đào.
      Vào buổi sáng nay, đang cuốc vườn, bỗng thấy Đào cắp rổ đi ngang qua, tôi mừng lắm. Không để tôi kịp ngỏ lời thăm hỏi, Đào đứng ngoài dậu, nói với vào:
       - Em nói bác đừng giận! Em đã cấm cái Mít chơi với anh em thằng Cún nhà bác rồi đấy! Bác nhớ đe nẹt các cháu cho em nhờ!
      Tôi bỏ cuốc, tròn mắt vì ngạc nhiên, bối rối xoa xoa tay:
      - Cô buồn cười thật! Trẻ con chúng nó chơi với nhau, sao lại cấm?
      Đào đến sát dậu, bảo:
      - Bác xem đây!
       Rồi, cô ngồi xuống, bỏ vội mấy bó rau muống ra bên cạnh, úp nhanh cái rổ xuống đất. Bao nhiêu là trâu bò lá mít, trẻ mục đồng đất sét tung tóe trên vạt cỏ xanh.
      Tôi chợt hiểu, đứng ớ người ra. Thì ra, cho đến bây giờ, Đào vẫn còn bị cái đám cưới trâu năm xưa ám ảnh. Và, cô sợ! Sợ cái vòng đời luẩn quẩn kia! Biết đâu đấy, nó sẽ còn quay lại? Có lẽ vì thế chăng mà cô hốt hoảng đến nỗi quên cả mấy bó rau, cắp vội cái rổ rỗng không lên, vùn vụt chạy như bị ma đuổi?              
 
 

 
                                    BẾN NƯỚC
 
      Dòng họ Vũ của u tôi cây một cành, cành một cội. Đến đời ông ngoại tôi, ông bà chỉ sinh được một người con gái. Bố tôi vốn là dân ngụ cư trôi dạt từ Thái Bình tới, làm người ăn kẻ ở trong nhà ông ngoại. Vốn cần cù, chiụ thương chiụ khó, bố tôi được ông bà thương, gả con gái cho. Trong kháng chiến, bố tôi làm liên lạc cho ủy ban khu. Hòa bình, do biết ít chữ nghĩa, các bác cán bộ trên huyện xếp cho một chân ở Phòng thông tin. Ông ở trên huyện cả tuần, chỉ về thăm u con tôi vào các buổi chủ nhật. U tôi hay than rằng cả đời ông không có lấy một chốn quê.
      Ba u con tôi ở trong căn nhà mà ông bà ngoại tôi để lại. Ban ngày, ngoài những việc đồng áng, u tôi khi thì ở nhà làm hàng xáo, khi thì đi chợ kiếm thêm vài đồng lo quần áo, sách bút  cho tôi và thằng Tản ăn học. U tôi còn nhận nuôi một con trâu cho hợp tác xã. Dĩ nhiên, việc chăn con trâu ấy, u tôi đã cắt đặt sẵn cho tôi.
       Hàng ngày, tôi thường đưa trâu ra tắm ở bến sông. Cũng là để chờ cái Dậu, đứa bạn gái ở cách nhà tôi có một cái ao bèo. Hai đứa kì cọ cho đến lúc da hai con trâu đen loáng lên, rồi mới từ tốn dong chúng ra đồng gặm cỏ.
      Tôi còn nhớ, sáng hôm ấy, Dậu cho trâu tắm sớm lắm. Nó ngồi trên bến đá, thõng chân xuống nước. Thi thoảng, Dậu lại nhấc đôi bàn chân khỏi mặt nước, chăm chắm nhìn. Gót chân, gan bàn chân, và cả mu bàn chân nữa đều ửng một màu hồng phơn phớt.
      Nghe tiếng guốc trâu lộp cộp gõ ở phía sau, Dậu quay lại. Nhận ra tôi, nó đứng dậy, thả ống quần xuống, mừng rỡ:
      - Em cho trâu tắm chờ anh mãi! Hôm nay anh ngủ quên à?
      - Không phải anh ngủ quên! Chỉ tại cái thằng Tản! Em biết không, nó tè ướt sũng cả quần anh. Đã thế nó còn già mồm, cứ khăng khăng đổ vạ cho anh đổ nước vào quần  nó. Tức quá! Tôi phân bua.
       Dậu đưa nhanh mắt nhìn tôi, che miệng cười khúc khích.
      - Em cười anh hả?
      - Không, em cười đứa “dấm đài”. Dấm đài là ...
      - Em mà cũng nghĩ anh xấu đến thế cơ đấy - Tôi tự ái.
      Dậu lặng lẽ dắt trâu lên bờ, vắt sợi thừng qua sừng con vật, rồi bảo:
      - Đi đi, Rơi.
       Con trâu hiểu ý chủ nó, cúi gằm mặt, lầm lũi bước. Nó không thèm ngoái lại để nhìn bạn của mình. Chỉ đến khi con trâu đực nhà tôi lồng lên phía trước như có ý chặn nó lại, con trâu nhà Dậu mới nghểnh đầu lên “nghé ọ, nghé ọ...” rồi khẽ cọ cọ vào mông bạn.
      - Chúng nó làm lành rồi kìa - Tôi đến bên Dậu, vừa nói vừa nắm lấy tay cô bé.
       Dậu khẽ gỡ tay tôi, dỗi:
      - Đến là dễ ghét!
      - Thì em cứ việc đi mà ghét anh! Chỉ sợ không được nửa ngày thôi!
       Dậu cười.
      - Còn cười! Cười hở mười cái răng!
      Tôi nói không sai, tới cồn Quán, con trâu nhà Dậu bỗng lồng lên, đuổi theo con trâu nhà tôi.
      - Họ chúng lại! Con Rơi đang có chửa... Rồi thì khổ thân nó! Dậu níu lấy áo tôi, giật giật, giọng van vỉ.
       Tôi cười, bảo:
      - Vợ chồng nó giỡn với nhau, chả lẽ cũng cấm ư?
       Miệng nói vậy nhưng chân tôi lại chạy như bay về phía hai con vật. Thấy tôi, đôi trâu như khựng lại. Tôi ngồi bệt xuống cỏ, thở dốc. Cũng lúc ấy, Dậu đã ở bên cạnh, cười:
      - Đúng là vợ chồng trâu! Không biết người ta có như vậy không anh nhỉ?
      - Anh không biết! Ờ, mà con Rơi sắp đẻ rồi đấy nhỉ? Có thêm con nghé thì thích phải biết!
      Tôi bảo Dậu bứt cỏ gà chơi trò chọi trâu. Thấy lần chọi nào tôi cũng thắng, Dậu bảo:
      - Anh ăn gian ơi là ăn gian! Ai lại cứ  cầm sát đầu  trâu thế kia?
      - Thì em cứ thử cầm như anh xem - Tôi nói.
       Rồi nhanh như chớp, tôi đảo tay thay một cọng cỏ khác. Chưa kịp chọi tiếp thì Dậu đã buông cọng cỏ xuống đất, kêu lạc cả giọng:
      - Ơ kìa, con Rơi làm sao rồi anh ơi...
       Đứng vụt dậy, chân như bị níu  lại, hai đứa líu ríu chạy lại chỗ con trâu cái đang nằm nghiêng sang một bên, bốn vó giãy giãy, hổn hển thở dốc.
      - Nó trúng gió rồi! Khổ thân mày Rơi ơi... Làm sao bây giờ hả anh?
       Thấy mặt Dâụ không còn một hạt máu, tôi cũng run bắn lên. Con Rơi bỗng “hự , hự”, quằn quại trên nền cỏ, rồi như cố hết sức, nó gượng đứng dậy...           
      - Một chú nghé! Trời ơi, con Rơi đã thành mẹ trâu rồi! Dậu nghẹn ngào kêu lên.
      Tôi phụ họa theo:
      - Vậy là con trâu nhà anh cũng đã thành bố cu cơ đấy. Hay thật!
      Dậu bảo:
      - Ta dựng cho vợ chồng, con cái nhà trâu cái lều để chúng che mưa nắng anh nhé!
       Tôi đồng ý, chạy đến các bờ ruộng bẻ một vác cây điền thanh. Tước vỏ cây làm lạt, tôi lấy một cây làm nóc, cắm chéo các cây còn lại thành một cái lều không có cột. Rồi tôi sai Dậu vơ cỏ trên cồn, lợp nốt cái mái. Mát đáo để! Chỉ tội thấp qúa, bé qúa; người ra vào còn khó huống hồ là trâu... Dậu chui vào lều, cười khanh khách. Bị mái lều thấp cản ngã, chúng tôi nằm dúi lên nhau. Cùng lồm cồm bò dậy, trong lúc Dậu đỏ chín mặt, tôi lại nói:
      - Ước gì chúng mình thành đôi trâu nhỉ!
      Dậu nhìn tôi, xua xua tay:
      - Đừng, đừng. Số em bạc lắm!                      
      Mấy năm sau, bố tôi được chuyển từ Phòng thông tin huyện lên Ty văn hóa tỉnh. U tôi được bố xin cho làm một chân nấu cơm ở nhà ăn tập thể. Vậy là cả nhà tôi phải dọn lên thành phố. U tôi mừng lắm! Bao nhiêu năm chân lấm tay bùn, giờ được ở nhà lầu, tắm nước máy, có phải là chuyện nằm mơ mới thấy được không. U bàn với bố làm một bữa cơm mời hàng xóm láng giềng và hai bên nội ngoại đến chia vui.
      Bữa liên hoan rất vui vẻ. Chỉ có tôi là cảm thấy buồn thiu. Vì tôi đã mời mà Dậu không đến. Tôi đã lén cất một nắm xôi gấc đỏ sẫm trong cặp sách. Mãi đến tối, tìm được Dậu, lúc tôi đưa nắm xôi, cô ngoảnh mặt đi, khăng khăng không chịu nhận, bảo:
      - Đi rồi quên hết người ta! Em chả ăn để mà nhớ!
      Tôi an ủi:
      - Dậu cứ cầm lấy. Anh không quên em đâu. Lúc nào anh cũng nhớ!
      - Nhớ lời năm kia không? Dậu hỏi.
      - Nhớ - Tôi nói -Anh nhớ hôm con Rơi đẻ, anh có ước rằng...
       Dậu mở to đôi mắt, cô như đang nhìn vào một chốn xa xăm nào đó:
      - Thôi, em bỏ lời hứa đó cho anh. Chuyện trẻ con ấy mà! Anh đừng bận tâm nữa. Em chỉ mong, dù đi đâu, ở đâu, anh cũng đừng quên bến nước đồng quê...
       Nói đến đấy, Dậu vụt bỏ chạy. Tôi ngơ ngác, không biết nắm xôi trên tay rơi xuống cỏ tự lúc nào.
      Lên tỉnh, tôi lao vào học. Tôi học không đến nỗi tồi. Có lẽ vì thế mà tôi được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi toán của tỉnh. Nhờ được giải khuyến khích trong kì thi toàn quốc, ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi đuợc nhà nước cho đi học ở Đức.
      Cơn khát học vị khiến tôi quên cả năm tháng, quên cả những người thân. Rồi tôi có người yêu. Điều này làm cho hình ảnh Dậu cứ nhạt nhòa dần rồi tắt hẳn trong tôi.
      Học xong, trước khi vào Sài Gòn nhận công tác, tôi có cùng u tôi về quê cũ thắp hương cho ông bà ngoại. Tôi lần lượt đến thăm hết mọi người trong xóm. Riêng có  Dậu, cô cứ cố ý lánh mặt tôi. Rồi lúc gặp được cô, thấy tôi tỏ ra vui mừng khi cô nói mình đã có người yêu, Dậu lại vụt bỏ chạy.
      Từ bấy đến nay, lần này tôi mới thu xếp được một ít thời gian để về thăm quê cũ. Xe bon bon trên con đường mới rải đá rồi dừng  lại ở ngay bến nước đầu làng.
      Trên bến, một thanh niên cao lớn đang múc từng sô  nước hắt lên rửa cái máy cày đầy bùn đất đậu ở bên kia lề đường. Tôi nhận ra ông lão Phúc vừa rửa chân xong, thong thả vác cuốc đi ngược lên đường cái. Bao nhiêu năm đã qua mà trông dáng ông lão vẫn gân guốc như xưa.
      - Cháu chào bác! Tôi lễ phép bỏ mũ.
      Ông lão nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi ném cái cuốc xuống cỏ, kêu lên:
      -Trời ơi, thằng Nhĩ con bà cả Tâm!
      Ông hỏi tôi đủ mọi thứ chuyện. Bỗng dưng, nhìn xuống bến, ông vẫy vẫy:
      - Ngọ, Ngọ ơi...
       Người thanh niên nghe ông lão gọi, vội vã chạy đến chỗ chúng tôi. Nghe ông lão nói qua về tôi, Ngọ tự giới thiệu:
      - Cháu là con của u Dậu. U cháu hay kể về bác lắm! U cháu bảo nhất định một ngày nào đó bác sẽ còn về với cái bến nước này.
      Tôi nhìn nhanh xuống bến. Một cô gái đi làm đồng về đang khoả vội chân trong làn nước phù sa mát lạnh.
      - Em cháu đấy - Ngọ nói - Nhưng nó khác hẳn với u cháu! Những lúc u cháu kể chuyện cũ cho anh em cháu nghe, nó cứ bảo đó là chuyện cổ tích! Nó còn khuyên u cháu đừng có thừa hơi mà đi thương cá bể chim trời cho khổ một đời! Nghe nó nói, u cháu chỉ khóc thôi bác ạ!
       - Này Ngọ, thế bố cháu làm gì? Tôi hỏi.
      Ngọ bần thần:
      - Chúng cháu chỉ có u Dậu! U đã đón anh em cháu từ trại mồ côi về nuôi từ hai mươi năm nay.
     Tôi lặng đi, không nói thêm được một lời nào.
      Lúc ấy, trên bến sông, mưa bụi giăng giăng như vỗ  nước vào nền trời xuân xám nhạt. Bến nước ảo mờ dần, từ từ ánh lên màu tím biếc muộn mằn...               
 
 
 

 
 
                        NHỮNG BỨC THƯ KHÔNG GỬI
 
      Khổ thân anh Đật! Tên Đật, suốt ngày lật đật. Sao cha mẹ chẳng tìm cái tên khác mà đặt?
      Các cụ qua đời, chắc vẫn còn thương anh mồ côi mồ cút, phù hộ cho cái sức nằm đâu ngủ đó, voi vật khéo cũng chẳng chết. Thế mà cái đục, cái tràng, cái cưa nó quật ngã anh thợ mộc!
       Ai cũng tưởng thế khi Đật bất ngờ lăn đùng ra ốm. Ít ai biết cái buồn nó vật anh...Thì ra buồn cũng là một thứ bệnh!
      Anh Đật mắc bệnh buồn sáu tháng nay. Cái bệnh ấy phát từ lúc cô Na, con bà cụ Lẫm bên cạnh nhà anh rời cái trường sư phạm ngoài tỉnh, về với mẹ để dạy học ngoài trường xã.
      Trước, lúc cô Na còn ngoài tỉnh, Đật hay sang nhà bà cụ chơi. Câu được cá, anh biếu cụ con cá. Hái được nắm rau muống ngoài ao, anh cũng mang sang. Mẹ con xem chừng thân thiết lắm. Đật cứ gọi “mẹ” ngọt xớt. Ai mới nghe cái giọng khàn khàn của anh thợ mộc thì khó chịu. Ai không biết, chứ bà cụ Lẫm nghe đã quen, thấy lòng cũng dịu lại lúc xa con gái.
      Giờ, Na về, Đật thấy làm sao ấy. Anh không dám bước qua ngõ nhà bà cụ. Anh sợ! Chẳng biết sợ cái gì. Dưng mà sợ! Gặp bà cụ ở đâu, anh lí nhí gọi là “bác”.
      - Sao lâu nay con không qua nhà?
      - Dạ. Cháu bận, bác ạ.
      - Mẹ nhà anh, con Na nó như em anh, anh ngại gì mà không sang nào?
      - Dạ...
      Bà cụ nói thế nào Đật cũng có cớ để từ chối.
      - Thôi thì kệ anh. Mẹ đến khổ vì anh không thương. Bà cụ nói như mếu.
      Lúc ấy, Đật đã muốn khóc oà lên, thú thật lòng mình và gọi “mẹ” như xưa. May mà anh dằn lòng được! Anh cố dồn nén, đẩy “nó”vào trong, giữ kín trong bụng. Chẳng thổ lộ với ai, cả ngày Đật nói bằng tay cùng cưa, cùng đục; đẽo, gọt, bào, cắt gỗ thành bàn, ghế, tủ, chạn...
      Đêm, anh nằm trong màn, hì hục viết thư. Viết xong, anh kẹp thư vào một tờ báo, để ở dưới chiếu, bên dưới cái gối bằng gỗ do anh tự chế, ngủ. Nói là ngủ chứ anh chẳng ngủ được, chỉ nằm, thở dài và nghe bên kia tiếng hai mẹ con Na thì thầm. Thi thoảng, tiếng cười giòn tan của Na vọng vào đêm, như xé cả ruột gan anh. Anh ít chữ quá. Thư nào cũng giống thư nào. Thêm được dăm ba chữ vào lá thư mới thì đọc lại nghe có vẻ ngớ ngẩn hơn cả thư trước. Người ta là cô giáo, chữ nghĩa đầy mình, nhận được những lá thư thế này, người ta lại chẳng cười vào mặt cho ư? Bông hoa nhài đâu cắm vườn anh thợ mộc? Nghĩ mà tủi thân... Con gà nhà ai gáy như trêu người. Đật vùng dậy, nấu cơm ăn rồi ra chợ  Lao mua gỗ... Hết ngày nữa. Lại lấy giấy ra viết thư. Lại tự trách mình ít chữ. “Thôi, cất...”, Đật bỗng đờ đẫn, thất thần khi tập thư dưới gối không cánh mà bay. “Ơ”, anh kêu lên và lăng quăng chạy đi chạy lại khắp nhà lục lọi đồ đạc. Chẳng mất cái gì. Chỉ mất có tập thư tình, xấp xỉ một trăm tám chục bức. Anh chạy ra sân.
      - Ô! Đật kêu lên vì kinh ngạc, mặt trắng bệch dưới ánh trăng.
      - Ô! Cô Na cũng kêu khe khẽ, lấy tay che miệng cười, ra hiệu cho Đật đừng có mà kêu toáng lên như vậy. Cô cười:
      - Em lấy đấy! Anh Đật văn chương quá.
      - Sao? Na bảo tôi văn chương? Thợ mộc văn chương?
      - Dạ, văn chương mộc mạc. Em cảm động lắm!
      - Cảm động? Giời ơi, thật ư? Anh kêu lên, giọng khê đặc.
      - Mẹ em bảo mẹ thương anh lắm!
      - Có nghĩa là...
      - Là em... cũng thương!
      Sau này Đật mới biết những lần anh viết thư, Na đã đứng ngoài cửa sổ, lặng lẽ nhìn anh viết. Thảo nào gáy anh cứ nóng ran lên! Cô thật sự tin lời mẹ nói, Đật tốt lắm, chất phác như lúa khoai, thương ai chỉ biết thở dài... Quả thật những bức thư không gởi đã làm cô xúc động. Cô giáo quê thương anh từ  bao giờ mà chính cô cũng không biết.
      Nhìn Na dưới trăng, Đật bỗng rón rén đến bên cô và bảo:
      - Ta chơi trốn tìm như ngày xưa đi!
      Na lắc lắc đôi bím tóc, nũng nịu:
      - Ứ, mẹ biết mẹ cười cho...
      - Mặc kệ! Em không thích chơi như ngày bé con sao?
      - Thôi, em về soạn bài đây! Na nói rồi chạy ù về nhà.
       Đật nhảy qua rào, đứng chặn trước cửa, tay ra hiệu cho Na khe khẽ thôi kẻo mẹ nghe thấy bây giờ.
      - Mẹ biết chúng mình thế này, mẹ sẽ cười chết - Na nói khẽ.
      Hai người chạy ra vườn.
 
 
                        THẦY TRÒ NGƯỜI VIẾT
 
      Mười năm về trước. Khi còn ở tỉnh lẻ, tôi là một cây viết có chút ít tiếng tăm. Đôi ba tháng đều có truyện ngắn đăng báo. Lại cầm chịch một nhóm văn sĩ trẻ. Các văn sĩ tự phong này tôn tôi làm sư phụ. Họ thường tụ tập ở nhà tôi. Kẻ mang rượu. Người mua gói lạc rang, cái bánh đa. Say rượu. Say văn. Quang nghiêng ngả, hai tay giang rộng, cứ ngâm thơ xong là khóc. Trần méo miệng, lưng còng còng, xoè tay về phía trước diễn một miếng chèo viết còn dang dở. Tôi vỗ tay bộp bộp, lên giọng thầy:
- Thơ thì phải...
- Chèo thì nên...
      Các văn sĩ ngồi trên chiếu, tay cầm chén rượu quên cả uống, ngẩn mặt nghe tôi trịnh trọng đọc truyện. Có người bỏ chén, xoa xoa hai tay vào nhau:    
      - Ác thật!
      Đến đoạn hay nhất, tôi dừng đọc, bảo:
      - Cạn chén! Cạn chén mừng nhân vật...
      - Thì cạn!
      - Sư phụ viết ác quá! Như thế thì đàn em bao giờ theo kịp?
       Hứng chí, tôi tuyên bố:
      - Thầy trò ta ra toà báo lấy nhuận bút. Làm một chầu bia hơi. Được không?
      Tất cả rũ áo, đứng dậy...
      Đi vã cả mồ hôi.
      Tới được tòa báo, cả bọn lại ồ lên tiếc rẻ, nhớ ra hôm ấy là chủ nhật.
       Một thời gian sau, vì sinh kế, tôi phải theo gia đình vào Sài Gòn. Nghe nói nhóm có tụ lại mấy lần rồi tan, mỗi người đi về một phương trời với gánh nặng vợ con oằn trĩu trên vai. Lao vào các công việc kinh doanh sắt thép và phân hoá học, văn tôi tự nhiên nhiễm giọng điệu kẻ cả như  lời ngã giá hàng hóa.
      Mấy lần, thấy vợ cầm tờ báo, lật trang có in truyện ngắn của tôi, nhìn lướt qua rồi bỏ xuống, tôi biết văn mình đã hỏng. Lúc đầu tôi cũng hơi buồn buồn. Nhưng càng về sau, tôi cho đó là điều bình thường. Ngôi sao nào mà chẳng có ngày tắt? Có hề gì? Tôi vẫn say cơ mà! Say rượu.            Có một buổi trưa tôi không say. Chưa say nên tôi vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy vợ chồng Quang đột ngột xuất hiện trước cửa. Anh reo to:
      - Sư phụ! Đúng nhà sư phụ rồi!
      Chững chạc quá! Chồng diện com lê, thắt cà vạt. Vợ mặc áo dài, tay ôm một bó hoa.
      Vừa ngồi xuống ghế, Quang đã rối rít khoe:       
      - Lĩnh thưởng xong là em về đây luôn. Báo cho thầy mừng...
      Tôi ngớ ra:
      - Thưởng cái gì?
       Vợ Quang đỡ lời:
      - Mai chúng em đã phải về Hà Nội rồi! Nhà em được giải nhì cuộc thi truyện của báo N.W. Cái truyện Ngày chủ nhật ấy mà.
      Quang vui vẻ:
      - Vợ chồng em đến mời thầy cô đi dự tiệc mừng. Ở nhà hàng...
       Rồi như chợt nhớ ra điều gì anh nói khẽ:
      - Em vẫn nhớ cái ngày chủ nhật ấy. Chính nó đã thôi thúc em viết cái truyện này.
      Chiều. Tôi uống khá nhiều rượu mạnh. Về nhà, vẫn tỉnh khô. Không ngủ được. Tôi ngồi vào bàn viết. Mượn ngòi bút kể hộ đời mình. Viết xong, tôi cất cái truyện vào chỗ vợ tôi vẫn giấu đồ nữ trang. Rồi ngày nào tôi cũng viết. Lại không hài lòng. Và, lại cất vào nơi kín đáo ấy.
      Cho đến hôm viết được một cái truyện đắc ý, tôi định đem khoe vợ thì cô ấy lại đi vắng.
      Vợ tôi đi làm về, đưa cho tôi một tờ báo và một bức thư. Thư của Quang. Anh cám ơn tôi. Nói coi tôi mãi mãi là một người thầy.
      Chờ tôi đọc thư xong, vợ tôi bảo:
      - Báo hôm nay có cái tin vui lắm!
      Tôi tò mò giở tờ báo. Trời ơi, tôi dự thi bao giờ mà được giải! Hay người ta lầm? Nhưng địa chỉ đúng là nhà tôi thì không thể lầm được.
      Tôi chạy vào mở ngăn kéo tủ. Cái truyện tôi viết sau bữa tiệc mừng Quang đã không cánh mà bay.
      Vợ tôi ngồi xuống, ôm lấy cổ tôi, hỏi:
      - Anh học thầy nào mà viết lên tay nhanh thế nhỉ?
      Và, tròn mắt khi nghe tôi nói:
      - Ông thầy này ở... rất xa!
      - Không phải ! Ở rất gần. Đó là em - Vợ tôi cười.
      Tôi lắc đầu.
      Thôi, nói gì thì nói, tôi cũng đã được giải.
 
                    

                       
                   CÂY SẦU RIÊNG TRỔ BÔNG
 
      Đang mùa hương sầu riêng ngan ngát, thầy Chín Tân tự nhiên giở quẻ. Bỏ dạy cả tuần, thầy ngồi giữa văn phòng uống rượu. Chướng quá! Mắt ầng ậng nước. Đầu lắc lắc.      Sáu Thiện ngồi xuống bên cạnh, đặt nhẹ tay lên bờ vai xương xẩu của ông giáo già, giọng buồn buồn:
      - Có chuyện sầu tủi chi, thầy cứ nói ra cho nhẹ dạ!
      - Tui không vợ, không con...Thương anh như em, tui mới về đây. Vậy mà anh...
      - Em có lỗi? Thiện ngạc nhiên.
      - Anh cứ cho họp ban giám hiệu, rồi tui sẽ nói. Cái con bé Tám Ước nữa. Ở đây, người ta sống với nhau tệ quá!
      Chết rồi - Thiện nghĩ - Ông lão nói như vậy có nghĩa là Tám Ước mắc lỗi! Rắc rối thiệt!
      - Thôi được, em chiều theo ý thầy. Có điều, xin thầy cứ thẳng thắn cho.
      Ông Chín Tân bỏ ly rượu xuống, nút chai lại:
      - Cực! Tui chịu được. Tui chỉ thương cho người ta! Mà nào có ai hiểu cho tui đâu!
      Chín Tân nói được mấy câu, có vẻ đã nguôi ngoai, xách chai rượu, bước thấp bước cao đi về phòng nghỉ. Còn lại một mình, Thiện thấy lòng trống trải quá. Gió chướng thổi xao xác trên những tàu dừa. Anh bất giác thở dài, nhìn theo những chiếc ba lá chở năm sáu đứa học trò lẫn dần vào mênh mông trời nước.
      Mới đó ngày nào mà đã bao nhiêu năm tháng qua. Anh vẫn còn nhớ, khi anh dạy lũ trẻ lớp một duy nhất trong cái lán dựng tạm ở ấp Sầu Riêng này, mỗi lần nhìn qua ô cửa sồ mắt cáo, Thiện luôn luôn bắt gặp một đôi mắt mở to như ngạc nhiên của của cô bé chăn trâu đang tựa lưng vào thân một cây sầu riêng cao chưa quá đầu người. Đôi mắt khát khao ấy khiến anh thấy mình như có lỗi...
      Một hôm, Thiện đứng lớp, mắt lấp loá như có từng đàn đom đóm chập chờn trước mặt. Thấy Tám thập thò ngó vô lớp từ gốc cây sầu riêng, anh vẫy cô bé lại, hỏi:
      - Thầy nghe nói em đã học tới lớp chín. Em có thích nghề dạy học không?
       Tám bẽn lẽn:
      - Thích! Nhưng mà em dốt lắm!
      - Thầy biết, thầy biết chứ! Bữa nay, em giúp thầy một lần nghe!
      Cô bé nhận lời liền. Đám học trò nhỏ tròn mắt, chăm chắm nghe chị Tám bày một cộng một là hai...
      Sau bữa ấy, Thiện thấy chúng thường xúm xít quanh Tám để hỏi bài. Hình như chúng học có khá hơn thì phải.
      Khi ấp có thêm lớp hai, lớp ba, rồi lớp bốn, Thiện đề nghị phòng cho thêm giáo viên. Anh chờ mỏi cả mắt, vẫn chưa thấy ai về. Ăn cái chi mà về ấp Sầu Riêng cơ cực, sâu và xa, chỉ có nước và nước này! Con nít đói cơm, đói luôn cả chữ. Người  lớn thì đầu tắt mặt tối mò cua bắt cá sống qua ngày.
      Tự nhiên, Thiện nghĩ tới Tám. Nghe anh nói, Tám lắc đầu:
      - Làm cô giáo thì phải đi học. Mà hoàn cảnh của em thì thầy biết rồi đấy. Cực quá thầy ơi!
       Thiện biết cô bé mồ côi, phải bỏ học dở dang để lo ruộng vườn nuôi bà ngoại. Cô làm sao có tiền lên thành phố học?
      - Thầy sẽ giúp! Anh hứa.
      Tám rơm rớm nước mắt, gật đầu, lí nhí nói gì không ai nghe rõ.
      Từ đấy, vào các buổi tối, Thiện kèm Tám học. Sáng dạ, hai năm sau cô đã học hết cấp ba bổ túc.
      Rồi như một giấc mơ, cô làm mọi người hết sức ngạc nhiên khi hu hu khóc lúc nhận tấm bằng tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm. Giữ lời hứa với thầy, Tám đã trở về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
      Ấp Sầu Riêng giờ đã có một trường tiểu học. Thầy hiệu trưởng Thiện, cô hiệu phó Ước và thư ký công đoàn Chín Tân. Họ cũng đồng thời là ba giáo viên đứng lớp. Vẫn hiu hắt thế nào... Thầy Thiện đã độ bốn mươi; Tám cũng vừa tròn hăm lăm. Vẫn gọi thầy, xưng em. Niềm yêu kính thầy quá lớn khiến Tám không dám kêu Thiện bằng anh. Còn Thiện, mỗi lần nhớ lại hình ảnh cô bé chăn trâu xưa, anh chỉ mỉm cười lặng lẽ. Ai cũng héo cả lòng bởi nỗi người này chờ người kia ngỏ ý trước. Nhìn họ ý tứ với nhau, Chín Tân não cả ruột...
      Trong buổi họp, ông lão bảo:
      - Tui già rồi. Tôi chỉ uất...
      - Xin thầy cứ nói - Thiện khẽ khàng.
      Ông giáo già hét lên:
      - Các người định chết già như tui sao! Ông nghẹn ngào - Tui thì...tui sẽ bỏ đi, nếu các người không chịu...
      Tám thút thít khóc:
      - Chung quy chỉ vì em cả. Em xin lỗi...
       Thiện ngồi im, mặc cho ông giáo và Tám Ước nhìn anh qua nước mắt.
      Không thấy Thiện nói gì, Chín Tân đưa bàn tay hộ pháp lên, chém xuống bàn cái “rầm” rồi xầm xập bước ra khỏi phòng họp.
      Lúc ấy Thiện đứng dậy, nói khẽ:
      - Anh xin lỗi...Vì anh... không dám nói thật lòng mình.
      Nói xong, Thiện thấy nhẹ cả người. Anh lấy hết can đảm, kêu Tám đến bên cửa sổ, chỉ ra vườn:
      - Em trông kìa! Cây sầu riêng bé xíu giờ đã trổ bông. Thơm quá, em nhỉ!
      Tám không trả lời, nhón một bông sầu riêng vương trên áo Thiện, cười lặng lẽ. Cô tưởng mình vẫn còn là một đứa bé, tin tưởng nép sát vô anh.   
 
 
 
 
 
 

 
            PHIÊN XỬ KHÔNG CÓ QUAN TOÀ
 
      Cuối năm ấy, Tiến là người may mắn nhất cơ quan. Vừa trúng số hai trăm năm chục triệu, anh bỏ ra ngay hai chục để cúng chùa và liên hoan cho anh em mừng. Trong bữa tiệc, Tiến cao hứng nói hễ ai chịu khó ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức, ắt trước sau cũng sẽ được Trời Phật cho hưởng lộc.
      Lời nói của anh quả là linh nghiệm. Ngay đầu năm mới, anh đã thông báo cho cả cơ quan biết vợ chồng anh vừa thắng lớn. Thì liên hoan! Lần này đi nhà hàng hẳn hoi. Tiệc cho ra tiệc mừng đại sự! Rồi thì mọi người lại tròn mắt thán phục tài dự đoán của Tiến. Tiếc nhất là anh Dũng, nhân viên bảo vệ cơ quan. Theo như Dũng kể thì trước đây, khi mua mảnh đất ấy, vì không đủ tiền, anh Tiến có rủ anh cùng bỏ tiền ra mua cho mỗi người một nửa. Dũng bảo anh ở nhà tập thể quen rồi, mua đất đai thì phải làm nhà, lúc ấy đào đâu ra tiền. Thôi thì cứ để cho anh chàng bụng giữ tiền giúp cho mà lại khỏe re. Nói xong, Dũng còn bảo vợ lấy hai cây vàng tiết kiệm phòng khi đau ốm đưa cho Tiến mượn. Cho trưởng phòng mượn thì chẳng đi đâu mà thiệt. Anh em cả mà. Ai ngờ, mới có vài ba năm, khu đất khỉ ho cò gáy Tiến mua trúng ngay vào khu dân cư nhà nước qui hoạch. Giá cả đất đai tăng đến chóng mặt. Tiến kể rằng khi có người tìm đến nhà anh để sang lại một nưả, nghe người ta trả giá, chính anh cũng lấy làm ngạc nhiên, cứ tưởng bị họ giỡn đùa. Đi hỏi mọi chủ đất xung quanh, anh toát cả mồ hôi hột. May mà anh chưa ngã giá dứt khoát - cái giá người mua trả mới chỉ bằng phân nửa giá cả thật sự!
      - Anh Tiến ơi! Xin anh trả lời câu hỏi tò mò này để anh em biết và mừng cho anh chị. Anh có thể nói áng chừng giá nửa lô đất vừa bán là bao nhiêu không? Một nhân viên bên phòng hành chính hỏi.
      Tiến nâng ly bia lên, cười:
      - Tôi xin nói thật chứ không chỉ áng chừng - Anh bỏ ly bia xuống bàn, đưa cả hai tay lên trời, xoè mười ngón tay ra - Xin các vị tính giúp cho nhé: Nửa tôi đã bán diện tích chỉ có bốn trăm hai chục mét vuông; mỗi mét vuông người ta trả hai triệu hai trăm năm chục. Vị chi là...
      Tiến mới nói đến đó, moị người đã ồ lên vì kinh ngạc và nể phục. Những lời chúc mừng rôm rả không ngớt vang lên khiến Tiến ngây ngất vì sung sướng và mãn nguyện. Anh đưa mắt về phía vợ và bắt gặp ánh mắt ấy cũng đang ánh lên những tia rạo rực. Anh thầm mong bữa tiệc mừng vợ chồng nhà tỉ phú sớm kết thúc.
                                       ***
      Nghe vợ chồng Tiến nài nỉ mãi, ông Quy ngã lòng, giao nhà cho cô con gái đã ra ở riêng từ  mấy năm nay để vào Nam với con trai. Thực lòng, ông không muốn rời nơi chôn rau cắt rốn, nơi đời ông đã traỉ qua bao nỗi vui buồn với họ hàng và bà con chòm xóm. Ông cảm thấy việc đi xa như là có lỗi với tiên tổ và người vợ hiền đã quá cố của mình. Rồi ai khói nhang cho các cụ trong những ngày lễ tết? Ai huơng hoa cho bà ấy đỡ tuỉ thân khi đông tàn, xuân, hạ đến, thu sang? Nhưng thiết nghĩ, phận làm cha mẹ không chăm lo, vun vén cho con cái cũng là bất hiếu với tiền nhân nên ông Quy cho rằng việc mình theo con trai có thể biện minh được. Lẽ nào các cụ và bà lão không thương thằng Tiến? Nó cũng khổ lắm chứ! Vừa lớn lên đã phải ra vào chỗ hòn tên muĩ đạn; hoà bình thì thân lại tự lập thân; giờ mới có bát ăn bát để đã biết nghĩ đến bố, đến em. Ông không lo cho vợ chồng nó thì lo cho ai? Đành rằng thằng Tiến là con trưởng, nếu nó ở nhà, khi ông nhắm mắt xuôi tay, nó đương nhiên là tiên chỉ họ Vũ. Nhưng vì việc nước, nó phải đi công tác xa, ngôi ấy trong dòng họ cũng chẳng thiếu người thay cơ mà! Vả lại, nếu có vào trong ấy, ông sẽ xin họ mạc cho đem theo một bát nhang; bố con ông sẽ lập một ban thờ để tưởng nhớ ông bà tiên tổ, họ Vũ của ông sẽ có thêm một chi mới ở trời Nam. Ông Quy còn được an ủi vì nếu ông đi theo Tiến, vợ chồng cái Nhị - con gái ông - sẽ có nhà để ở riêng. Nhà chồng Nhị nghèo quá. Bốn cặp vợ chồng, mỗi cặp hai ba đứa con, ở chung trong một cái nhà gianh ba gian đã mục nát, trông tội quá. Mà vợ chồng cái Nhị ý tứ, ông mấy lần bảo chúng nó anh mày đi vắng thì cái nhà này chúng mày cứ đến mà ở, hai đứa cứ lắc đầu quầy quậy, nói anh Tiến chưa có ý kiến gì thì chúng con chưa dám... Bây giờ, con dâu ông - ông nghĩ là Tiến khéo xui vợ - cứ một mực nài nỉ nói bố nên cho cô Nhị cái nhà hương hỏa ấy. Nghĩ cũng mát lòng mát dạ thay cho ông bố có cô con dâu thảo biết thương em chồng.
                                       ***
      Ông Quy vào Nam được hai tháng thì Tiến nói với mọi người trong cơ quan rằng khu nhà tập thể đông trẻ con, ồn ào quá nên bố anh thường bị mất ngủ. Mọi người bảo sao sẵn đất, sẵn tiền mà vợ chồng anh không cất lấy một cái nhà to mà ở. Ông cụ lặn lội từ  Bắc vào Nam, bỏ cái nhà to như cái đình lại quê theo con, vào đây chẳng lẽ để ở trong một căn hộ cấp bốn cũ kỹ? Tiến nói thôi thì anh nghe theo mọi người vậy. Anh chỉ e người ta dị nghị. Chẳng gì anh cũng là trưởng phòng tổ chức của một cơ quan giàu nhất nhì trong thành phố. Anh làm nhà danh chính ngôn thuận bằng đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình, anh đâu sợ ai bàn ra tính vào. Anh chỉ sợ ảnh hưởng đến cơ quan! Nghe anh giãi bày thế, nhiều người đùa rằng: anh cứ làm nhà đi, kẻ nào xúc xiểm anh, chúng tôi xúm vào vả vỡ miệng nó ra cho anh xem. Ừ, đã thế thì vợ chồng anh cất nhà vậy. Thương bố già, muốn bố được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng lúc tuổi chiều xế bóng, Tiến nghĩ đấy cũng là để báo đáp chữ hiếu mà thôi.
      Tiến đem việc mình dự định làm nhà báo cáo với giám đốc cơ quan và bí thư đảng uỷ. Việc chính danh, theo anh, phải nên làm như vậy mới hợp lẽ. Rồi vợ chồng anh sang tận Sông Bé xin quẻ, chọn ngày. Bà thầy bói nhìn vợ chồng anh từ đầu đến chân, phán:
      - Anh tuổi Tí, lại hưởng lộc trời đã nhiều, năm nay làm nhà, coi như lộc phát, không có gì cản trở. Chỉ e chị cầm tinh con trâu, việc lành thì cười, việc dữ cũng cười, thật khó xử cho chồng.
      - Thưa thầy, vậy con phải làm gì để công việc chồng con đã định liệu không bị cản trở ạ - Vợ Tiến lễ phép.   
      - Dễ thôi - Bà thầy bói nói - Làm xong nhà, vợ chồng anh chị chỉ cần đặt cái bàn thờ thần...
      Bà kéo vợ Tiến ra ngoài sân, rủ rỉ bày vẽ cho chị cách cưỡng lại số mệnh. Chẳng biết bà ta nói những gì. Tiến chỉ thấy nét mặt vợ mình cứ mỗi lúc một sáng rỡ lên vẻ mãn nguyện. Biếu bà thầy bói mấy trăm ngàn xong, hai vợ chồng vào một tiệm phở ăn mỗi người một tô đặc biệt rồi mới lên xe về thanh phố. Họ về tới nhà vào khoảng bảy giờ tối.
      Hôm ấy, nghe con dâu nói ý định làm nhà, ông Quy vui vẻ lắm. Ông xin các con  cho mình được đóng góp một chút, gọi là  có tí của bố mẹ dành dụm phần cho con cháu. Số tiền ấy cũng chả nhiều nhặn gì. Nhưng nó chính là kỉ niệm của bà Quy. Bà lão muốn tự tay trao cho con dâu mà không kịp. Vợ Tiến gạt đi với lý do đó là kỷ vật thiêng liêng, xin bố cứ giữ lấy để sau này làm quà cho cháu dâu. Ông Quy nở từng khúc ruột, âu yếm nhìn thằng Vững mỉm cười. Thằng con trai đang học đại học năm cuối cùng nghe mẹ nó nói thế, quay sang bảo ông nội:
      - Ông cho cháu thì đưa ngay ra đây đi ông ơi! Chờ đến lúc cháu lấy vợ, e rằng...
      Tiến lừ mắt nhìn con. Thằng bé biết mình lỡ lời bèn chữa:
      - Cháu e rằng bố cháu làm nhà hết tiền, lại xin ông thì cháu chẳng còn phần...
      - Bố mày - Tiến mắng yêu con - Chỉ được cái nói nhảm nói nhí. Không lo học hành, thì cứ liệu liệu đấy!
       “Chà chà, đúng là tre già măng mọc. Họ Vũ  đúng là dòng họ có phúc!”, ông Quy nghĩ thế và tủm tỉm cười.
                                        ***
      “Thật không ngờ thằng Tiến lại có nhiều tiền đến thế để xây toà biệt thự này”, ông Quy băn khoăn nghĩ. Trong lòng ông, ông cảm thấy hình như có hai người đang lý sự  với nhau. Người naỳ thì tỏ ra lo lắng cho Tiến, sợ anh tham ô móc ngoặc, lấy của công làm của riêng, rồi tội lỗi ai gánh vác thay cho? Người kia lại bênh Tiến chằm chặp. Rằng Tiến có tiền thì anh cứ đàng hoàng làm nhà. Không đàng hoàng, làm sao trước lúc khởi công, anh dám xin phép cả ý kiến của các vị lãnh đạo trong cơ quan? Song nghĩ mãi, ông Quy thấy điều mình lo lắng là thừa. Lòng ông chỉ thực sự cảm thấy thư thái khi tận mắt thấy các anh giám đốc, bí thư đảng uỷ, công đoàn lần thì đem tiền, lần thì đem quà đến mừng Tiến sắp có nhà mới. Họ còn nói, khi nhà xây xong, anh em phải xúm lại tổ chức một chầu tân gia thật xôm trò nữa mới lạ chứ.
      Công việc mà ông Quy đảm đương hàng ngày là ra trông coi vật liệu. Ông đi đi lại lại, ngó chỗ này một tí, xem chỗ kia một tẹo, gật gù nghe các anh thợ trẻ khen con trai ông giỏi giang, khen con dâu ông đẹp người, đẹp nết. Lúc rỗi rãi, ông nhặt nhạnh từ cái đinh anh em thợ vô ý làm rớt khi đóng dàn giáo. Tất bật cả ngày mà vui đáo vui để!
      Càng gần ngày hoàn thành, tòa biệt thự càng lộ rõ tất cả vẻ uy nghi của nó. Chỉ mới nghĩ tới lúc được đặt bàn thờ tiên tổ ở một nơi trang trọng nhất trong toà nhà, ông Quy đã sung sướng đến rơi cả nước mắt. Cả đời ông, có lẽ ngay cả trong những giấc mơ đẹp đẽ nhất, ông cũng chưa bao giờ tưởng tượng ra  nổi cảnh ngày hôm nay. Ông Quy chợt mỉm cười khi nghĩ đến cảnh ông bà nội ngoại, và cả bà lão nữa, khi được ông đốt nhang mời gọi, đã đi tới ngõ căn nhà này rồi lại ngập ngừng dừng lại vì ai mà tin nổi đây là nhà của vợ chồng thằng Tiến, con trai ông, một nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, lúc ra tỉnh còn không dám qua đường.
      Khi toà nhà sắp hoàn thành, ông Quy bộc lộ ý nghĩ của mình với con dâu. Vợ Tiến lễ phép trả lời để chị nói với chồng xem. Nhưng xem ra thì con dâu ông bận việc quá, hình như nó chưa có cả thời giờ để nói vơí chồng về lời đề đạt nguyện vọng của bố. Có lẽ vì thế mà đám thợ cứ ớ người ra khi ông Quy hỏi sao lại không đặt bàn thờ tổ tiên như ông đã nói với con dâu ông. Họ bảo ông nói có lý lắm; nhưng họ chỉ là người làm công, không dám làm thêm một chi tiết nào không có trong bản vẽ. Ông Quy ấm ức, ngồi chờ Tiến vừa ở cửa cơ quan. Tiến vừa dắt xe ra cửa đã thấy bố, biết là có chuyện gì rồi, bèn nhẹ nhàng hỏi:
      - Bố đến tận cơ quan tìm con chắc là có việc gì gấp lắm phải không ạ?
      Ông Quy không trả lời vào câu hỏi của con trai mà hặc:
      - Nhà phải có nóc. Con cháu phải thờ tổ tiên. Tôi hỏi anh, hà cớ gì mà trong nhà mới anh không cho đặt bàn thờ ở chỗ tôi đã nói với vợ anh?
      Tiến cười trừ hề hề:
      - Bố ơi, bố cứ về nhà rồi con nói cho bố thông. Chả là con đã tính...
      Nghe con trai nói to tiếng ở đây không tiện, ảnh hưởng đến uy tín lãnh đạo của nó, ông Quy mới chịu ngồi ở sau xe  để Tiến chở về nhà.
      Tưởng có chuyện gì, hoá ra là chuyện cái bàn thờ. Ông Quy cứ khăng khăng đòi Tiến phải để bàn thờ tổ tiên ở nơi cao nhất trong nhà. Anh không chịu, nói với bố chỗ cao nhất ấy là chỗ của vị Thần Tài. Anh nói anh không tin bói toán, nhưng chỗ của ông bà tiên tổ phải để ở tầng trệt. Vị trí này rất tiện cho việc ông Quy nhang khói.
      Ông Quy bảo con:
      - Nếu anh chị bảo chỗ ấy thờ Phật nghe còn có lý. Nhưng thờ cái vị thần kia thì vô lý quá, tôi không thể chịu được!
      - Thôi đi bố - Tiến cãi - Chuyện này liên quan đến việc làm ăn của vợ chồng con...
      - Thế việc thờ cúng mẹ anh có liên quan đến anh chị không - Ông Quy hỏi lại - Hay là anh chị chỉ thờ tiền?
      -Thôi - Tiến quát lên - Bố lẩm cẩm rồi đấy bố ạ! Thử hỏi cả đời bố, bố đã làm được những gì nào? Con cái bây giờ nó đâu có ngu dại gì mà bố phải dạy? Chẳng ra gì thì con cũng là trưởng phòng...
      - Thôi, thôi! Ông Quy xua xua tay - Anh cứ ý anh anh làm. Tôi biết cả rồi! Chỉ chán cho cái mớ đời tôi tin anh cho lắm vào mà thôi! Hỡi trời ơi! Bà nó ơi!
      Ông lão tuỉ thân, nấc lên hực hực. Ông bỏ bũa cơm tối đi nằm sớm.
       Từ hôm ấy, ông không đến trông nom tòa biệt thự  đang đi vào giai đoạn trang trí nội thất nữa. Ông nhất quyết đòi Tiến đưa ông về Bắc ở với con gái. Con trai ông ậm ừ cho qua chuyện. Anh nghĩ các cụ già sớm nắng chiều mưa, biết thế nào mà chiều cho đủ? Anh không bao giờ biết rằng ông lão đã thất vọng về anh như thế nào.
                                    ***
      Khách đến mừng tân gia đã đông đủ. Ông giám đốc bỗng nhìn quanh một lượt rồi kêu lên:
      - Còn thiếu ông cụ thân sinh ra anh Tiến!
      Vợ Tiến đỡ lời chồng:
      - Thưa bác giám đốc, bố em bị cảm từ mấy hôm nay. Ông cụ nói các bác thứ lỗi cho.
      - Khổ! Ông giám đốc nói - Trông coi công trình từ đầu đến cuối, đến lúc “mừng công” lại lăn ra ốm.
      Mọi người đã quen với câu nói cửa miệng ấy của giám đốc nên chỉ nhìn nhau, lặng lẽ cười. Bữa tiệc mỗi lúc một huyên náo. Hầu như không còn ai nghĩ đến ông Quy nữa.
      Tiệc tan vào khoảng mười giờ. Lúc ấy Tiến tự nhiên thấy nóng ruột. Chợt nghĩ đến bố, anh bảo con:
      - Hai bố con mình về nhà cũ thăm ông một lát. Xem ông đã ăn cháo chưa, rồi về đi ngủ cũng chưa muộn. Con đi với bố chứ?
      Thằng bé gật đầu.
      Tới nhà cũ, Tiến gọi mãi ông lão vẫn không thưa. Anh đẩy mạnh cưả, bật đèn. Cảnh tượng hãi hùng trước mắt khiến cả hai bố con anh cùng ngã ngồi xuống đất. Tiến suýt khóc nấc lên vì thương cảm. Song vốn là người từng trải, anh biết rất rõ bây giờ anh và con trai anh lỡ kêu lên một tiếng, hậu quả sau này thật khó mà lường trước được. Anh giơ tay ra hiệu cho con trai im lặng và nói nhỏ vào tai nó những việc cần phải làm ngay không được phép chậm trễ.
      Theo lời bố, thằng Vững gỡ sợi dây từ cổ ông nó hết sức nhẹ nhàng. Ở phía dưới, Tiến đỡ lấy ông Quy, cũng nhẹ nhàng đặt ông nằm lên giường. Rồi anh lấy lọ dầu xoa lên vết bầm trên cổ người xấu số. Anh xoa khắp lưng, khắp bụng và làm như người ta vẫn cạo gió cho người bị cảm. May quá, ông lão tắt thở chưa lâu. Vì vậy mà những vết cạo gió vẫn có thể hằn lên những vệt tím ngắt. Vừa làm, Tiến vừa nói to những câu anh sai con lấy thêm dầu nóng cho ông. Cho đến lúc mấy hộ cán bộ gần đó bị tiếng nói của Tiến đánh thức, vội vàng chay sang thì Tiến báo ông lão vừa đi rồi. Anh òa khóc. Thằng Vững  cũng òa khóc.
      Người ta liệm cho ông lão. Có người thấy những nốt bầm trên cổ. Nhưng nghĩ đấy là những vết cạo gió, không ai đem lòng nghi ngờ gì cả. Ai cũng thương ông lão đến lúc sung sướng lại không được hưởng.
      Đám ma bố ông trưởng phòng tổ chức được cử hành rất long trọng. Số vòng hoa người đi dự đám tang mang đến xếp dài từ ngoài đường cái quan vào tới tận nơi để quan tài. Và, ông giám đốc, theo thông lệ, lại đọc một bài điếu văn dài do cô văn thư phòng hành chính soạn. Những người dự đám tang cuí đầu, tránh cái nhìn thăm dò của thủ trưởng. Ai cũng tỏ ra vẻ xúc động. Nhất là vợ Tiến. Chị lăn qua lộn lại, tưởng như có bao nhiêu nước mắt, chị đã đem rưới cả lên mộ ông bố chồng thương con hết mực.
                                          ***
      Sau những sự kiện ấy, Tiến vẫn tiến lên vù vù. Anh được đề bạt làm giám đốc, rồi tổng giám đốc. Con trai anh học xong đại học, đi tu nghiệp ở nước ngoài về, được anh xếp cho làm kế toán trưởng ở một công ty lớn. Vợ anh đã nghỉ hưu sớm, ở nhà giúp chồng tiếp khách. Tiền bạc nối đuơi nhau vào nhà anh như nước chaỷ vào chỗ trũng. Vợ anh hay nói với anh rằng, gia đình anh được như ngày nay chẳng qua là do chị đã xếp đặt cái bàn thờ đúng cách. Chính vì thế mà vị Thần Tài đáng kính kia đã độ trì cho. Tai hoạ nhiều khi tưởng như đã kề ở bên cạnh; thế mà rồi cũng thoát được hiểm.
      Một hôm, thằng Vững chở người yêu đi chơi. Thằng bé phóng nhanh quá, không làm chủ được tốc độ, lao vào một cái ô tô bất thần vụt ra từ một ngã ba. Cô gái chết ngay tại chỗ. Còn con trai Tiến bị chấn thương sọ não. Sau thời gian điều trị, sức khoẻ nó đã được hồi phục; chỉ có trí nhớ là mất hẳn. Thằng bé tâm thần hay hỏi Tiến những câu nghe đau nhói:
      - Bố ơi! Sao Lan (tên người yêu nó) không “như trên” mà cũng chết được nhỉ?
       Tiến nhìn con, lắc đầu. Tiến bắc một cái ghế, định thắp nhang. Thằng Vững thấy thế, bèn quỳ sụp xuống dưới nền đá hoa:
      - Bố ơi! Con van bố. Bố đừng làm “như trên” mà mang tiếng con cái. Con van bố đấy bố ơi!
      Nghe tiếng con ở phía dưới, Tiến vội quay mặt xuống, ra ý bảo nó đừng lảm nhảm nữa. Rồi anh thắp nhang, miệng lầm rầm cầu khấn. Bỗng anh giật thót người. Trên kia, bố anh đang trừng trừng nhìn anh. Ông hỏi vì sao anh phải mua vé số của người trúng số? Vì sao anh đã thông đồng với đám cán bộ nhà đất mua được chỗ đất đai họ biết trước nhà nước sẽ quy hoạch làm khu dân cư, lại còn rủ anh Dũng bảo vệ mua chung? Tiền bạc ấy, anh lấy ở đâu ra? Và, có phải vì muốn che mắt thế gian, vợ chồng anh đã không ngần ngại dùng cả thánh thần làm lá chắn?
      Mắt Tiến bỗng hoa lên. Cùng lúc đó, những câu hỏi dồn dập, giống như một luồng gió mạnh và lạnh toát hất Tiến xuống. Nằm bất tỉnh trên nền nhà, Tiến nghe thoảng lại từ đâu đó tiếng van vỉ khẩn thiết: “ Bố ơi! Sao bố lại làm “như trên”? Bố ơi...”. Anh chợt thấy có ai đó như đang nâng bổng anh lên. Đúng rồi, họ không phải là các quan toà. Khuôn mặt họ hao hao khuôn mặt của bố anh, của con trai anh.
 
 
 

 
 
                                      ĐI TÌM CHA
 
      Theo chỉ dẫn của anh cán bộ tỉnh đội thì kế sau cái quán rượu này là nhà ông Chữ. Chủ quán là thím Tư Ú, cả vùng này không ai là không biết. Chẳng cần phải hỏi ai, thằng bé nhận ngay ra được một trong hai người đàn ông đang ngất nga ngất ngư bên cái bàn ọp ẹp kia là chú Tư.
      - Cứ uống đi - Chú Tư lè nhè - Đời ta gang tấc, thử hỏi còn uống được mấy xị?
      - Phải, anh Tư nói thế mà phải - Người khách có khuôn mặt đầy sẹo nâng ly rượu lên ngang miệng - Như tôi đây chẳng hạn. Đời tôi...
      - À, mà có phải từ cái đận...
      Người khách bỏ ly rượu xuống, mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà:
      - Cái đận ấy, không nhớ đến thì thôi, nhớ đến tôi chỉ muốn khóc anh Tư  ạ!
      Thằng bé khép nép ngồi xuống một cái ghế con. Nó đặt cái tay nải trong có một bộ quần áo xuống dưới gầm bàn, ý tứ nâng một bàn chân đè lên trên. Linh tính cho nó hay câu chuyện của họ dính dáng đến đời nó thì phải.
      Thím Tư Ú đã ra từ lúc nào thằng bé không rõ, nhẹ nhàng hỏi:
      - Cháu uống bia nha!
      Thằng bé rời mắt khỏi hai người đàn ông, nhìn lướt qua người đàn bà, thú thật:
      - Cháu còn ít tiền lắm. Thím cho cháu cốc nước chè.
      - Cái gì? Thím Tư tròn mắt tỏ vẻ không hiểu.
      Rồi như chợt nhớ ra điều gì đó, thím cười cười:
      - Ờ, thím nhớ ra rồi. Một ly trà. Thì ra cháu mới ngoài Bắc vô? Cháu đi thăm người nhà hay đi tìm việc?
      - Dạ - Thằng bé đỏ bừng mặt, lí nhí - Cháu đi tìm việc ạ...
      - Ừ, thời buổi khó khăn, biết đi kiếm cơm thiên hạ là tốt rồi. Còn hơn chán vạn cái đám thanh niên vô tích sự, cả ngày chỉ biết có nhậu với nhẹt.
      Chú Tư ngồi bên kia nói với sang:
      - Bà lại nói xấu sau lưng anh em tôi rồi! Này chú em, sang đây làm vài ly với hai anh nhá. Hôm nay anh bao! Nào...
      Nói xong, chú Tư đứng dậy, lảo đảo đi về phía thằng bé. Chú cầm tay, như lôi nó đi. Thằng bé cuí xuống lấy cái tay nải. Nó không ngờ rằng việc làm vô tình ấy kéo chú Tư nhào theo.
      Người đàn ông bước thấp bước cao, tập tễnh đến bên cạnh bạn. Chú Tư gầy khô như một cành cuỉ, ấy thế mà - dù đã ráng gồng hết sức - đôi tay nổi đầy gân xanh của ông ta vẫn không thể nào làm cho người bạn nhúc nhích. Thở hổn hển, ông ta ngồi bệt xuống bên cạnh chú Tư, cười như mếu:
      - Tụi mình sắp hết rồi! Sắp hết... Kìa chú bé, sao không kéo chúng ta dậy?
      Thằng bé tưởng mình trông lầm. Nó “á” lên một tiếng kinh ngạc và cũng ngã ngồi xuống đất. Không thể lầm được! Hai cái răng cửa bịt vàng của ông ta loé sáng như một sự trình diện bất đắc dĩ. Hai người đàn ông lồm cồm bò dậy. Họ ngơ ngác, không hiểu sao thằng bé lại khóc. Quả thật, lúc ấy, thằng Hậu đã khóc. Về sau, mỗi khi nhớ lại, nó cứ băn khoăn tự hỏi mình, làm sao nó lại có thể khóc trong hoàn cảnh ấy nhỉ?
      - Sao cháu lại khóc? Thím Tư hỏi thằng bé - Các ông ấy xỉn quá, té như thế là chuyện thường ngày ấy mà...
      - Dạ, dạ...
      - Chú mày thế mà xoàng! Yếu đuối như đàn bà! Rồi chịu sao được sóng gió cuộc đời? Chú Tư vừa lồm cồm bò dậy vừa ề à.
      Người đàn ông đã tự đứng dậy, chăm chắm nhìn thằng Hậu, chép miệng:
      - Hình như  ta đã gặp chú mày ở đâu rồi thì phải?
      Thằng Hậu đã kịp kìm nỗi xúc động đang cuộn lên như sóng trong lòng, lắc đầu:
      - Có thể ông đã lầm cháu với ai đó?
      Rồi nó hỏi lại:
      - Nghe giọng ông, cháu đoán ông cũng là người Bắc . Hỏi không phải, ông người tỉnh nào ngoài ta ạ?
      Người đàn ông lắc đầu,vẻ chán chường:
      - Ta không còn quê! Đúng hơn thì ta không nhớ quê! Ta đã...
      Nói tới đó, ông quay mặt đi:
      - Tôi phải về thôi anh Tư ạ. Hôm nay người tôi khó ở quá.
      Thằng Hậu lặng lẽ nhìn theo người đàn ông, quyết định không để lộ tung tích vội. Nó muốn biết tận ngọn nguồn những gì nó cần phải biết. Vì u con nó? Hay là vì ai đó, nó cũng không biết nữa! Trong đầu nó sôi lên những suy tính. Nó thấy cần phải ở lại đây, ít nhất là đủ thời gian để hoàn thành được công việc hoàn toàn bất ngờ và khó tin này.
      Nghĩ thế nên nó cứ ngồi thừ ra trước ly trà đá. Nó chờ thím Tư sẽ hỏi mình. Biết đâu, vận may sẽ tới? Biết đâu thím Tư sẽ thuê mướn nó làm một công việc gì đó.
      Thằng Hậu đoán không sai. Chờ mãi mà thằng bé cứ ngồi lì bên ly trà đá, thím Tư lịch bịch đi tới bên cạnh nó, hỏi:
      - Cháu nói đi tìm việc, làm sao cứ ngồi ở đây?
      - Thưa thím - Thằng Hậu lễ phép - Quả thật là cháu đi tìm việc. Nhưng bây giờ cháu cũng chẳng biết ai cần cháu. Cháu đang định...
      - Định làm gì? Thím Tư tỏ vẻ sốt ruột.
      - Cháu định đi tìm một nơi trọ. Rồi mai sẽ tính tiếp.
      - Thế cháu biết làm gì?
      - Cháu làm thợ mộc, đóng được bàn ghế, giường tủ...
      - Thôi, thế thì cứ ở lại đây dăm bữa, sửa cho thím đám bàn nhậu này rồi đi đâu hẵng đi.
      - Dạ, dạ...
      Thằng Hậu mừng quá. Nó không ngờ mọi việc lại diễn ra suôn sẻ đến thế.
                                  ***
      Đêm ấy, câu chuyện của u Hậu cứ chập chờn hiện lên. Những dòng nước mặn chát, như cố ý chảy vào miệng, nhắc Hậu nhớ rằng hơn hai mươi năm qua, u nó đã phải chịu đưng cực khổ như thế nào!
      Ngay từ lúc biết gọi “bố, bố ơi...”, thằng Hậu đã thấy nét mặt rầu rầu của u nó. Lớn lên một chút, nó nhớ vào khoảng nó bắt đầu đi học thì phải, lúc khai tên bố mẹ vào sổ học bạ, thằng Hậu chạy về nhà hỏi u nó tên bố là gì. “Cứ khai là Chữ. Nguyễn Hữu Chữ, con ạ”. Nhớ hồi đó, nó ngây thơ hỏi u: “ U ơi, sao hoà bình rồi mà bố không về, hả u?”, u nó đã ôm lấy đầu nó áp vào ngực mình, khóc thút thít. Rồi cũng chỉ vì chuyện ấy mà u Hậu ốm mất mấy ngày. Những ngày này, u chỉ hớp mỗi bữa một nửa bát con nước cháo loãng, hai hố mắt trũng xuống tưởng như chỉ có lòng trắng. U bảo Hậu không khéo u chết mất! U chết thì chỉ tội cho Hậu! U bảo u phải sống; nhất định phải sống, chờ ngày Hậu lớn lên. Hậu sẽ đi tìm con người ấy. Xem ông ta ở cùng trời hay cuối đất mà tệ bạc đến thế!
      Hậu không bao giờ quên lời u dặn sau cái lần u kể cho nó nghe về bố . “Con nhớ tìm bằng được ông ta, hỏi xem u có lỗi gì mà ông ta không quay lại?”. “ Con hứa. U cứ yên tâm. Nếu tìm được ông ấy, nhất định con sẽ lôi ông ta về chịu tội trước u”, Hậu nói với u như đinh đóng cột. U Hậu bảo không cần thế. Chỉ cần biết bây giờ ông ta có sung sướng hay không mà thôi. U nói và nhìn như thất thần vào khoảng không mênh mông trước mặt, thở dài hắt ra, Hậu chả hiểu ra làm sao nữa.
      Ở cái làng ven rừng này, người ta đã  quen coi u Hậu là kẻ tâm thần. Chả tâm thần sao khi xã báo tin anh Va - chồng chị, bố của thằng Hậu - hy sinh, chị bảo xã lầm sao mà lắm lần lầm đến như vậy? Chị khăng khăng chồng chị đích thực là anh Chữ! Thế mà, sau bao nhiêu năm, xã vẫn báo thằng Hậu là con liệt sĩ Va. Đến như Hậu, nhiều lúc nó cũng hoang mang. Nó nghĩ hay là u nó lẫn thật? Nhưng càng lớn lên, Hậu biết điều u nó vẫn nói có thể là một sự thật đầy ẩn khuất. Vậy có nên tìm lại sự thật ấy không? Và tìm để mà làm gì? Bố nó, dù là Va hay là Chữ thì có nghĩa lý gì khi cả hai đều đã không quay lại cái làng ven rừng hiu hắt này?
      Chuyện u kể nghe như là chuyện bịa. U bảo hồi ấy chiến tranh ác liệt lắm. Bộ đội trong thời gian huấn luyện trước lúc đi B thường ở lẫn với dân. Bộ đội từ dân, vì dân vì nước nên tới đâu dân đều coi như con, như anh, như em. Bởi thế, lần bộ đội về làng, nhà u ở ngay sát bìa rừng nên được chọn làm nơi trú của ban chỉ huy đại đội. Anh đại đội trưởng tên là Chữ đẹp trai mà lại ăn nói có duyên lắm. Thành ra, cô con gái bà chủ nhà phải lòng anh là chuyện ai cũng coi là thường tình. Quân với dân như cá với nước, chả có ai cấm chuyện yêu đương chân chính. Dân làng còn xì xào rằng con bé thế mà có duyên. Cậu liên lạc của đại đội cũng say cô như điếu đổ! Rồi việc binh thần tốc, đơn vị bộ đội ấy phải lên đường ra mặt trận gấp. Lúc này, cả làng đều đã biết việc cô con gái nhà ở bìa rừng đã có mang ba tháng. Người nói đứa trẻ là con anh đại đội trưởng. Có người lại nói làm gì có chuyện đó. Anh ấy là cán bộ, là đảng viên, đời nào lại đi làm cái trò ma kia? Và sự thật đã diễn ra đúng như nhiều người dự đoán. Ngay trước hôm đơn vị lên đường vào Nam, dân làng còn được dự một đám cưới theo đời sống mới. Lạ nhất là ở giửa đám cưới, cô dâu nhìn về phía anh đại đội trưởng; họ không nói với nhau câu nào; nhưng không hiểu vì sao cô dâu cứ rưng rưng như sắp khóc. Còn chú rể Va thì mặt cứ đờ đẫn như kẻ đi đưa đám. Và, theo giấy báo tử, anh đã hy sinh ở chiến trường miền Đông Nam Bộ vào muà xuân năm 1974. Từ ngày ấy, u Hậu vẫn thắp nhang trên bàn thờ liệt sĩ Va. Nhưng bà vẫn bảo con là bố Hậu còn sống. Quả thật, ông ta không được bằng cả người đã  chết! Người chết thì đã về đây! Còn ông ta, ông ta đang lẩn trốn ở đâu? Bà chỉ muốn biết rõ vì sao ông ta phải làm như vậy mà thôi! Bà bảo con, nếu không hiểu được điều đó, chắc lúc chết, bà không nhắm được mắt.
                                    ***
      Thằng Hậu sửa chữa xong số bàn ghế cho thím Tư thì ông Chữ nhờ nó đến đóng cho nhà ông một cái tủ. Rõ là ước gì được nấy. Dịp may hiếm hoi này hẳn sẽ giúp nó làm tròn được công việc u nó giao cho.
      Nhà ông Chữ chỉ có ba người. Vợ ông, dáng người thấp bé nhưng khá nhanh nhẹn. Bà là người chiều chồng có tiếng trong ấp. Nghe phong thanh, trong kháng chiến thời chống Mỹ, bà là y tá ở một trạm quân y. Bà gặp ông Chữ vào lúc ông chỉ còn là một cái xác không hồn. Một tay bà thuốc thang, chăm sóc, động viên ông mới còn đủ nghị lực để sống. Hai người lấy nhau dù biết trước họ không còn khả năng sinh con đẻ cái nữa. Chất độc hoá học mà quân thù rải xuống các cánh rừng đã ngấm vào máu họ. Họ có một cô con gái nuôi. Tên cô là Sác. Hình như cái tên gợi lại những kỉ niệm ở chiến khu Rừng Sác chăng?
      Hậu chẳng hiểu mình có lầm không. Nếu cứ  theo như lời u thì dáng đi của ông Chữ không giống với dáng đi của người u Hậu tả. Có khuôn mặt là dễ nhận thì mặt ông Chữ lại bị bỏng, nham nhở những sẹo là sẹo.
      Hậu hỏi quê thì ông Chữ nói ở Hà Đông.Vùng quê này là quê của liệt sĩ Va. Chỉ có hai cái răng cửa bọc vàng là y như đặc điểm u Hậu tả. Cũng có chỗ khang khác: khi Hậu hỏi khéo, ông Chữ lại bảo ông chỉ mới bọc răng từ sau ngày giải phóng.         
      Hậu bỗng nghĩ ra một cách. Hôm đi xẻ gỗ, trên đường về nhà, nó giả vờ trượt chân ngã xuống mé đường. Mấy tấm ván Hậu vác trên vai đè lên người nó. Ông Chữ hốt hoảng bỏ phần ván mình đang mang xuống, chạy lại để đỡ Hậu dậy. Chờ cho ông sắp tới gần, thằng bé bất chợt kêu lên: “Chú Va!”. Ông Chữ nháo nhác nhìn ra bốn phía. Không có ai ngoài ông và thằng Hậu. Ông cúi xuống và thấy mặt nó đã ướt đầm ướt đìa những nước mắt và nước mắt. Nó gọi ông, giọng nghẹn ngào: “Chú Va! Chú có nhận ra cháu không?”.
      Ông Chữ rủn người, cùng một lúc nhớ tới cả người đã chết và người còn đang sống. Ông run rẩy, nói không thành tiếng :
      - Cháu có phải là thằng Nghĩa?
      Đến lượt mình, thằng Hậu giật thót người. Cái tên này, u Hậu có lần nói ngoài u và bố Chữ ra không một ai biết.
      Thằng bé kinh ngạc trân trân nhìn ông Chữ:
      - Trời ơi! Thế ra đây là bố? Bố ơi...
      Ông Chữ lắc đầu, giọng nghẹn ngào:
      - Con ơi! Thật đáng tiếc, ta lại không phải là bố đẻ của con.
      - Con không hiểu! Con chẳng hiểu ra làm sao nữa! Con van bố, bố hãy nói thật bố là Chữ hay là Va...
      - Bây giờ thì ta đang là Chữ đây. Nhưng con ơi, trước kia ta chính là Va.
      - Nghĩa là thế nào ạ. Trời ơi, thế này thì u con sẽ chết mất!
      - Thôi, đã tới nước này ta cũng chẳng  giấu con nữa. Ta cũng nên trở lại là Va chăng? Liệu có muộn quá rồi chăng! Ta ân hận quá! Mà ta ân hận vì cái gì mới được chứ?
      Ông bỗng dứt khoát:
      - Không! Ta chẳng có gì phải ân hận. Ta đã hành động như một người lính chân chính. Nhưng với con, thì ta sẽ phải nói thật. Bởi thời cơ cũng đã chín nẫu rồi.
      Hai người ngồi trên thảm cỏ xanh cùng ngược về quá khứ.
      Hồi đó, thực lòng mà nói, anh Chữ và anh Va đều yêu cô con gái người chủ nhà. Có điều, anh Chữ đã chiếm được trái tim cô gái. Họ yêu nhau quá đà, cô gái có mang như mọi người đã biết. Đơn vị lại sắp ra mặt trận. Nếu vụ này vỡ lở, Chữ sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng, sẽ bị hạ chức vụ. Đương nhiên, đaị đội ra mặt trận sẽ không có anh. Là một người chỉ huy, Chữ  đau khổ lắm. Nếu không cưới, nhỡ anh có làm sao thì u Hậu phải chịu tiếng là gái không chồng mà chưả, đứa con không được hưởng chế độ ưu tiên, sẽ khổ một đời. Biết Chữ băn khoăn, Va đã tự ý bàn với anh thực hiện cách mà mình đã nghĩ ra. Va cho đây là cách xử sự thích hợp nhất để anh tỏ được tình yêu cao thượng, vô bờ bến của mình với người mà anh thầm yêu. Anh nghĩ làm như vậy là để bảo vệ uy tín của anh bộ đội. Vào mặt trận, nhiều lần Va được Chữ cứu mạng. Sau mấy năm, anh đã trở thành chính trị viên của đại đội. Trong một trận đánh ác liệt, đại đội của Va đã bị thiệt hại nặng nề. Chữ trúng một trái bom. Va thoát chết; anh chỉ bị bom na pan làm cho bỏng nặng; còn hàm răng thì bị gãy mất hai cái răng cửa. Người ta tìm được anh cạnh một dòng suối. Anh được đưa về trạm quân y của quân đoàn.
      - Thế thì vì sao bố phải đổi tên? Hậu hỏi.
      - Lúc ấy ta chỉ đơn giản nghĩ u con đã sinh con. Ta đâu phải là bố đẻ của con? Ta phải làm thế chẳng qua là vì anh Chữ! Ta không ngờ rằng...
      - Bố không ngờ tới điều gì? Có điều gì khiến bố đau khổ chăng? Hậu dồn dập.
      - Đơn giản là ta không còn mặt mũi nào trở về quê hương được nữa. Ở quê nhà, người ta đã coi ta là liệt sĩ... Khổ tâm hơn, bố con - ông Chữ thật ấy - người quê ông nói là ông ta đã trở thành kẻ vong quê. May mà ta còn có bà ấy an uỉ. Ta đã mắc lỗi rất nặng với bà ấy; vì cho đến tận bây giờ, bà ấy vẫn nghĩ ta là Chữ.
      Ngày hôm sau, ông Chữ đưa Hậu đến một cánh rừng - nơi diễn ra trận đánh khốc liệt năm xưa. Hậu gói một nắm đất  đem về. Rồi nó trở ra Bắc.
      Chỉ có ông Va - bây giờ ta có thể gọi tên ông như vậy - là còn đang rất băn khoăn. Ông không biết liệu tổ chức có thể tha thứ cho ông về những việc làm trong quá khứ không? “Liệu nó đúng hay sai nhỉ?”, ông Va hay nhìn lên trời xanh và tự hỏi như vậy.
      Trời xanh lồng lộng mây trắng bay.          
 
 

 
 
                         CHIM TRỜI RƯỢU BỂ
     
      Tới độ tuổi sáu mươi hai, tóc ông Sĩ đã trắng như cước. Chứng thấp khớp mãn tính thi thoảng lại làm tình làm tội,  khiến ông nhiều lúc đang viết phải bỏ bút. Căn bệnh phải gió. Đang lúc có cảm hứng, phải bỏ dở, dù muốn hay không, tác phẩm như cái bánh bị cắt thành nhiều khúc. Lúc viết trở lại, dù khéo tay đến mấy, văn chương đọc lên vẫn cứ còn cảm giác gờn gợn. Những lần như thế, không có cách nào khác, ông Sĩ tìm đến rượu. Một ly nhỏ. Hơi tê tê. Thì hai ly. Đầu rần rật, ong ong. Cái chân, như sợ mùi men nếp, cũng bắt chước cái đầu nóng ran lên. Dĩ nhiên, nó hết làm ông phải bận tâm. Và, bây giờ thì, dòng thác văn chương xô nhau, chảy ra ào ào... Ô, không phải! Làm gì có nước trên đồng khô! Chỉ có những giọt nước, từ đâu đó không biết, nhỏ đúng vào giữa những dòng chữ. Ông Sĩ gỡ kính, đưa vạt áo lên lau. Mắt ông cay cay. Thì ra ông đã khóc. Ai bảo tuổi già giọt lệ như sương ông không nhớ rõ. Nhưng điều làm ông phải khóc thì ông biết. Đúng như thế, ông tự nhủ, mình đã rơi nước mắt vào khoảng thời gian viết đoạn truyện về người vợ đây. Người vợ ấy phải cắn răng, âm thầm chịu khổ tâm làm một việc mà thực lòng bà không nỡ. Bà ta đã cấm chồng mình uống rượu. Chỉ vì ông chồng bị đau tim. Rồi, kết truyện mới có hậu làm sao, nhờ sự cấm của người vợ hiền mà đức ông chồng kia khỏi được bệnh.
      Mới nghĩ đến đấy thì cái chân đã lại đau nhói lên. Ông Sĩ lẩm bẩm :
      - Lại đòi chất cay nữa à? Tệ quá! Cứ thế này, một ngày mày phải bắt tao hối lộ bao nhiêu ly, hả cái thằng chân bệnh tật kia?
       Cái chân không biết nói, nó giật mạnh lúc ông định đứng dậy.
      - Thôi được, giời không chịu đất thì đất phải chịu giời vậy! 
      Ông Sĩ nghĩ thầm, tập tễnh đi về phía cái tủ. Ở đấy, tất cả có bốn ngăn. Tính từ ngoài vào trong, ngăn thứ nhất để bình rượu rắn người em trai út biếu anh, ngăn thứ hai là ba chai rượu thuốc vợ ông cắt ngâm bồi dưỡng sức khỏe cho chồng, hai ngăn kế tiếp để các chai rượu mà bạn bè hoặc học trò cũ mang đến. Các chai rượu ở hai ngăn cuối, phần nhiều còn nguyên vẹn. Nhưng ở đó cũng có ít nhất hai chai đã vơi đi quá một nửa.
      Phải cố gắng lắm ông Sĩ mới đến được cạnh cái tủ. Như mọi lần, ông với tay kéo cánh cửa khép hờ. Hôm nay, ông kéo mãi cũng không được. Chẳng lẽ ông đã đuối đến mức không đủ cả sức để mở một cái cửa? Ông ngồi thụp xuống, mở to mắt nhìn. Trong góc tối mờ mờ của căn bếp, cái tủ rượu đứng trơ ra như có vẻ thách thức. Bốn cái khoá móc vào bốn cái cửa của các ngăn tủ, dàn thành một hàng ngang. Ông lắc đầu, chợt nghĩ tới nhân vật bà vợ mà ông đã sáng tạo ra cách đây mới có vài phút đồng hồ. Thì ra nguyên mẫu đã có sẵn. Có điều, ông phát hiện ra chậm hơn ngòi bút mà thôi.
      Những mong tìm quên để làm dịu cơn đau, ông Sĩ cố leo qua các bậc thang lên lầu. Ông mở cửa, tập tễnh bước ra sân thượng. Lòng ông bỗng như dịu lại khi nghe thấy tiếng vỗ cánh của bầy bồ câu đi kiếm ăn về. Có một đôi chim mới ra giàng đậu lên đôi vai gầy của ông. Mắt chúng ngây thơ mở to, cái mỏ hồng hồng hơi ngậm lại, cái đầu tròn nhỏ gật gật theo những tiếng “gù, gù...” âu yếm. “ Vài bữa nữa cô cậu sẽ sang ở Sài Gòn nhé!”. Ông bảo hai con chim non:
      - Chủ nhật tới, thế nào cậu Bắc cũng đến đón cô cậu về nuôi. Nghe nói cậu ấy đã làm xong chuồng rồi đấy!
      Đôi chim như hiểu ý ông Sĩ, khẽ đập cánh, bay lên đậu ở chấn song cửa sổ. Ông sĩ tủm tỉm:
      - Đúng là đất lành chim đậu.
       Còn nhớ, hồi ông mới nghỉ hưu, một hôm đang ngồi uống trà một mình trên sân thượng, lòng đang ngổn ngang nỗi nhớ lớp, nhớ trò, ông bỗng thấy một con chim bồ câu mái đang tha một cọng rơm. Con chim bay đến đậu ở ô cửa sổ, cánh chấp chới vỗ nhẹ. Ông chạy xuống dưới nhà bốc một nắm gạo, bỏ vào một cái điã, đặt lên mái buồng tắm. Con chim mái chớp chớp mắt. Hôm sau, nó dẫn thêm ba đôi bồ câu nữa tha rác bay qua cửa sổ bỏ ngỏ nhà ông. Đàn chim sinh sôi nảy nở nhanh đến nỗi tiền viết báo của ông Sĩ chỉ đủ để mua thóc cho chúng ăn thêm. Nhưng mà vui lắm lắm. Lúc viết, còn gì thơ mộng hơn cảnh bồ câu bay đi bay về, tiếng chim non gọi mẹ cứ rộn cả lên. Và, thật thú vị, khi đến nhà bạn bè hoặc nhà học trò, thấy đôi chim giống ông cho họ đã nảy nở thành những đàn chim mới tung tăng bay lượn, ríu ra ríu rít, hạnh phúc như chính gia chủ của chúng!  
      Nghe ở dưới nhà có tiếng cửa kéo lạch xạch, ông Sĩ vội vàng định đi xuống. Chợt nghĩ người có chìa khoá để mở cửa chỉ có thể là bà giáo, hoặc hai đứa học trò thân thiết nhất, ông yên chí, gọi với xuống:
      - Cứ tự nhiên. Tôi đang trên gác đây!
      Ông Sĩ đoán không sai. Tiếng bước chân bịch bịch của Lân. Rồi giọng nói oang oang - bao giờ cũng đi trước người - của Thọ, làm mấy con bồ câu vụt bay lên. Hai đứa sấn lên gác, nghe ông kêu đau chân bèn xúm lại, mỗi đứa một bên, gần như là khênh bổng thầy lên, dìu ông xuống dưới nhà. Đặt ông ngồi vào ghế xong, Thọ rủ:
      - Thầy trò mình làm một vài ly mừng em vừa trúng giải nhé!
      - Trúng giải gì?  Ông hỏi.
      Lân lanh chanh:
      - Giải vật võ...
       Ông Sĩ mỉm cười. Hai thằng láu cá. Chúng nó bắt ông khao cái truyện ông viết về sới vật vừa được Hội văn nghệ tỉnh cho giải tư đây.
      - Được thôi! Ông nói và chỉ vào cái tủ rượu phía trong bếp.
       Chỉ chờ có thế, Thọ đứng dậy, xăm xăm chạy đi kiếm một chiếc ly, đặt trước mặt ba người.
      Bây giờ Lân mới uể oải vươn vai, vờ vịt vẻ bị bắt ép:
      - Thôi thì uống! Khổ! Cái số khổ, đi đâu cũng phải uống rượu!
       Nói rồi chạy biến đến bên cái tủ. Bỗng cậu ta kêu toáng lên:
      - Rượu bị cô giáo cầm tù rồi! Thế này thì hỏng...
      Thọ cũng vội đứng dậy, đến bên cạnh bạn, nghiêng nghiêng ngó ngó nhìn cái tủ, phán:
      - Trổ tài đi!
       Lân nháy mắt ra ý hiểu, chạy ra ngoài. Lát sau, quay trở lại, cậu ta cười hề hề:
      - Phương tiện của tự do đây. Cứ gọi là thầy trò ta tha hồ mà làm mưa làm gió.
       Rồi trước sự ngạc nhiên của ông Sĩ, Lân móc từ túi quần ra một chùm chìa khoá, thong thả tra vào từng ổ. Thọ đã chầu sẵn, đem đến một cái ly cỡ lớn để Lân múc rượu ra.
      Uống đến ly thứ sáu, Thọ bỗng thừ mặt, nói:
      - Thế này thì cô gíáo phát hiện ra mất. Hay là...
      Lân tủm tỉm cười, khen hay. Không hay sao được khi ông Sĩ có những chai rượu Thạch Sanh! Tha hồ say! Tha hồ viết để  rồi  lại lãnh thêm giải nữa! Và, tuyệt nhất là cái chân sẽ không còn một lý do nào nữa để mà tiếp tục ăn vạ ông thầy. Tuyệt ơi là tuyệt!
      Nhiều lần sau, nhờ có chùm chìa khoá Lân thửa cho, ông Sĩ - khi thì một mình, khi thì cùng với  hai cậu học trò nghịch ngợm - vẫn đều đều uống rượu. Còn bà giáo thì mừng ra mặt. Mỗi lần ngó vào tủ, thấy rượu vẫn đầy ăm ắp trong bình, lại thấy ông ngày một vui vẻ, bà cho rằng diệu kế của mình đã thành công lớn. Quả thật, vào thời gian ấy, ông Sĩ rất sung sướng và mãn nguyện. Chính hai nhà văn trẻ này đã gợi cho thầy nhiều cảm hứng và ý tưởng lạ. Ông viết rất khỏe. Và được thêm ba giải thưởng văn học nữa.
      Nhưng có một điều làm ông Sĩ buồn. Đàn bồ câu, không hiểu sao, cứ từ từ tự bỏ ông mà đi. Lũ chim già thì vẫn thuỷ chung như nhất. Chỉ có lũ chim con, mới hôm nào còn nghe tiếng chúng ríu rít đòi mẹ mớm mồi; mấy hôm sau ngó tới, ông đã thấy chúng biệt tăm lúc nào không hay. Thực ra, ông Sĩ không oán trách lũ chim con. Ông chỉ lo lắng chúng chưa đủ lông đủ cánh để tự sống độc lập mà thôi. Và, ông cứ phải thất hứa với thằng Bắc mãi. Cái lồng chim làm bằng bìa các tông vàng của thằng bé đã ngả sang màu bạc phếch mà nó vẫn chưa có chim non để nuôi.
      Rồi ông ngờ ngợ khi nghe bà giáo kể: vợ Thọ và vợ Lân mát tay nuôi con lắm. Mấy đứa trẻ, nhờ sữa mẹ tốt, đứa nào đứa nấy da cứ trắng hồng, lớn nhanh như thổi. Vợ  hai anh nhà văn còn thật thà nói rằng: các cháu khỏe mạnh thế, là nhờ có món cháo chim đấy. Cái giống ấy, ăn mãi cũng chẳng ngán. Lạ thật!
      Cuộc đời éo le không cho người hiền thọ lâu. Ông Sĩ mất vào tuổi sáu mươi tư. Sau khi ông đi xa vừa tròn bốn mươi chín ngày, bà giáo gọi Thọ và Lân tới. Ý bà muốn cho hai cậu học trò yêu của chồng số rượu ông còn để lại.
      Bà giáo mở khóa tủ. Thọ và Lân chuyền tay nhau xếp các bình và chai rượu lên một cái bàn. Đúng vào lúc đang định chia số rượu quý làm hai phần, bỗng nhiên bà giáo nhìn chăm chắm vào hai người học trò, run lên cầm cập. Trời ơi! Tất cả rượu trong bình, trong chai đều trong văn vắt như nước mưa. Rồi bà càng hoang mang hơn, bởi không biết vì lẽ gì, hai nhà văn trẻ cùng oà khóc nưc nở... 
 
 
 
 

 
 
                                    TRO  BỤI
 
      Sinh thời, vốn coi trò như con, mỗi khi viết xong một truyện ngắn, thầy thường  đưa cho tôi đọc trước. Thầy bảo tôi là người sành văn; tuy viết đôi khi còn mắc lỗi về câu, nhưng bù lại, tôi hay có những ý tưởng lạ. Mà văn chương thì luôn cần những ý tưởng như thế. Được thầy khen, tôi thích chí ra mặt. Và, để xứng đáng với sự tin cậy ấy, tôi đọc văn thầy kĩ đến mức thuộc lòng một số truyện.
      Một lần kia, khi viết truyện Nhà văn Xóm Chiếu, thầy chọn tôi làm nguyên mẫu để xây dựng nhân vật chính. Nghe thầy nói, tôi như bị hút vào từng con chữ. Tình cờ như thế nào đấy, tôi may mắn giúp thầy sửa được một chi tiết. Tôi kể bố tôi nuôi chim bồ câu từ hồi tôi còn bé tí. Thuở học lớp bốn, tôi đã từng bị người mắng cho một trận nên thân; vì, trong  bài văn miêu tả chim mẹ mớm cho con, tôi đã viết chim con được mẹ nó mớm sâu cho. Cứ theo bố tôi thì bồ câu là loài ăn hạt, người chưa từng thấy chúng ăn sâu bọ bao giờ. Thầy mỉm cười, lặng lẽ lấy bút sưả chi tiết “mớm một con sâu” thành “mớm một hạt thóc”. Tôi còn ngu ngơ hỏi sao thầy viết về tôi mà nhiều điểm thấy chẳng giống một tí nào, nếu không nói là trái ngược hẳn. Ví như ngoài đời chữ tôi vốn xấu như gà bới, trong truyện, tôi lại viết đẹp và nhanh như rồng bay phượng múa. Hoặc như tôi mắc tật nói nhiều - mẹ tôi thường chê là kẻ ruột để ngoài da - khi thành nhân vật của thầy, tôi lại là một người thâm trầm, lặng lẽ. Lạ nhất, mặc dù chỉ có một bài báo nhỏ được dán trên tờ báo tường cơ quan, tôi vẫn được ngòi bút khéo léo của thầy vẽ thành một nhà văn. Nhà văn Xóm Chiếu! Đọc, thấy mặt nóng ran lên vì ngượng. Nhưng mà trong lòng thì thấy thinh thích vì như vừa được ai đó động viên, nâng đỡ.
      Hôm thằng bạn đang làm báo ở Sài Gòn về thăm nhà, tôi khoe thầy viết được nhiều truyện lắm. Hai đứa rủ nhau đến chơi với thầy. Bạn tôi đọc truyện thầy viết; thích quá,  bèn đem gửi cho một tờ báo đang có cuộc thi truyện ngắn. Bặt đi gần một năm, bỗng nhiên trong mấy tuần liền, tờ báo kia đăng rộ các truyện ngắn của thầy tôi. Cuối năm ấy, tay cầm tờ báo, chân cứ như ríu vào nhau, tôi hổn hển chạy đến nhà thầy báo tin vui.
      Đọc xong mục báo đăng tin thầy là một trong số những tác giả trúng giải thưởng kì thi truyện ngắn do báo tổ chức, thầy lấy ra một chai rượu, rót đầy hai ly, rồi đẩy một ly về phía tôi:
      - Chúc mừng em! Chúc mừng nhà văn Xóm Chiếu!
      - Em xin chúc sự thành công của thầy! Tôi vừa chạm ly với thầy vừa vui vẻ nói.
      Thầy cười:
      - Cái giải hôm nay thực ra là giải của em! Đúng không? Nếu em không sửa chi tiết ấy, cái truyện kia không khéo đã nằm ở sọt rác của tòa soạn rồi cũng nên!
      Rồi, thầy bất ngờ bảo:
      - Em có khiếu văn chương, nếu chịu khó học thêm, có thể còn viết hay hơn cả thầy đấy. Cứ thử xem...
      Tôi đã nghe lời thầy và thử nhiều lần. Đúng như dự  đoán, những truyện tôi viết, thầy sửa đều lần lượt được in trên mặt báo. Và thật lạ lùng, truyện ngắn Cát và bụi - nhân vật chính là thầy tôi - cũng được một tờ báo trao giải thưởng truyện hay trong năm.
      Sau buổi đi lĩnh giải về, tôi được thầy gọi đến, khen  truyện viết hay lắm. Thầy tỏ ý tiếc: Nếu để cái truyện của thầy làm đoạn đầu, ghép truyện tôi mới viết làm đoạn cuối, hai thầy trò sẽ có một truyện ngắn xứng đáng được để đời. Thầy dặn, một mai lỡ thầy đi xa, nếu như tôi làm đúng được cái ý tưởng độc đáo kia, thì dù đã ở dưới chín suối, thầy cũng được yên lòng. Nghe giọng thầy buồn buồn, tôi nghĩ là điềm gở, đành ậm ờ cho qua chuyện rồi ra về.
      Thật không ngờ, chỉ qua một trận ốm xoàng, thầy tôi đã đột ngột qua đời. Trong  di chúc viết từ  khi mới bước sang tuổi thất thập, thầy đã chu đáo sắp đặt mọi việc cho vợ con. Riêng dòng cuối cùng, chữ viết còn mới lắm, thầy dặn mọi trình tự làm đám cho thầy, gia đình cứ thực hiện theo ý tôi để thầy được toại ý nguyện.
      Được hỏi ý kiến, tôi không biết trả lời ra sao, bèn kể lại chuyện hôm thầy cho gọi. Tôi noí với mọi người rằng: Thầy vốn thích sự  độc đáo, nhất định trong lời dặn dò kia có ẩn ý gì đây.
      Suốt đêm ấy tôi không ngủ được vì giận mình không hiểu được ý thầy.
      Chợt nhớ lời thầy ước, tôi lấy báo ra, đọc liền một mạch hai cái truyện ngắn. Ghép chúng lại, tôi giật thót người, ngỡ ngàng  nhận ra đó chính là câu chuyện về cuộc đời và ước muốn cuối cùng của thầy.
      Theo chỉ dẫn của truyện mà tôi lĩnh hội được, gia đình đã hoả táng cho thầy ở đài Phục Sinh. Tro cốt được chia làm hai nửa bằng nhau; một nửa đem rắc trên núi Bửu Long; nửa còn lại lấy các tờ giấy in hai truyện ngắn Nhà văn Xóm Chiếu, Cát và bụi, dùng dây chuối gói lại, đem ra giữa cầu Hóa An, ném xuống sông Đồng Nai vào giờ Thìn.
 
 
                                    CÔ MƯA
 
      Chúng tôi đã giận oan bác Hùng! Vào Nam mưu kiếm kế sinh nhai, bác ghé thăm gia đình tôi, nhờ bố tôi xin dạy học ở một trung tâm dạy kèm. Thế mà bác về Bắc lúc nào, bố tôi cũng chẳng hay tin. Biết anh em tôi tỏ ý trách, bố tôi vẫn bênh bác chằm chặp, nói lòng dạ bác ấy tốt lắm; tiếc là hễ cứ có tí hơi men, bác chẳng còn nhớ được chuyện gì. Thảo nào, việc tôi nhờ quan trọng thế mà bác cũng quên khuấy đi.
      Chỉ thương cho con lợn đất! Nó đã phải đau đớn, chịu để người anh song sinh của tôi hóa kiếp, tách làm hai mảnh. Heo ăn tiền bớt từ quà sáng gần một năm nay, đếm được ba trăm lẻ tám đồng chẵn. Mẹ tôi chép miệng bảo:
      - Chưa đủ tiền mua hai cái vé tàu hỏa!
       Nghe mẹ nói, tôi héo cả ruột. Anh em tôi đâu có ý đi chơi. Chúng tôi chỉ định nhờ bác Hùng chuyển số tiền chắt bóp được đến cô Mưa.
      Tôi còn nhớ, mùa hè năm 1985 nóng như đổ lửa. Bố tôi hôm đi dạy học thêm, hôm thì ở nhà ngồi rang lạc tẩm húng lìu. Chiều, vừa đi làm về, mẹ tôi đã phải tranh thủ đem lạc bỏ mối ở các hàng nước. Chị Minh tôi chẳng mấy lúc ở nhà. Tôi hỏi thì chị quát:
      - Tao đi học!
      Dĩ nhiên tôi và Bắc đi nhà trẻ. Bố tôi nhờ một người bạn nói mãi, bà giáo Thu mới nể tình nhận trông nom anh em tôi. Bà giao hai đứa cho cô giáo Mưa.
      Nhìn cái đầu trọc lốc của tôi sau một trận mụn nhọt, cô hỏi:
      - Gái hay trai?
       Anh Bắc tôi để tóc dài, đứng bên cạnh. Tưởng cô hỏi mình, anh tôi bẽn lẽn cúi mặt xuống, giơ lên một ngón tay. Cô Mưa cười nắc nẻ, mặt đỏ bừng:
      - Hai thằng cu.
       Mãi đến lúc dẫn tôi vào “nhà bô”, cô lại được thêm một trận cười dàn dụa cả nước mắt, nước mũi.
      Sáng chủ nhật, ngủ dậy, không thấy mẹ; hỏi bố, bố nói chút nữa có các bác đến chơi nên mẹ đi chợ rồi.
      - Các con sẽ có một cái bánh đa to thế này này...
       Theo vòng tay của bố, cái bánh đa chi chít vừng, có dễ phải to bằng cái mâm đồng. Thích thật!
      Hai anh em tha thẩn chơi trước cửa. Chị Minh được giao rửa chén. Bố tôi ngồi trên ghế, vừa hút thuốc, vừa đọc một tờ giấy đến là nhiều chữ.
      Bắc chợt nhìn thấy bên trên những bó rau trong rổ của một cô đi chợ về ngang qua nhà một tấm bánh đa. Nhìn qua đã biết là giòn tan! Anh chỉ chỉ, rồi rủ:
      - Ra cổng đón mẹ đi!
      Dắt nhau ra đầu ngõ, hai đứa trông thấy một người giống mẹ quá. Tóc dài chấm gấu áo. Bước đi thật nhanh.
      - Mẹ kìa! Tôi nói và kéo Bắc - Mau mau lên!
      Tới cổng chợ, bóng người giống mẹ tôi mất hút. Vào chợ thì không dám. Về nhà lại đã quên mất lối. Hai anh em cầm tay nhau, đợi mẹ một lúc lâu, vẫn không thấy. Sợ quá, cả hai òa lên khóc.
      Lúc ấy, một bà lão đến gần tôi, bảo:
      - Thôi đừng khóc! Để bà đưa cháu về nhà. Bà có bánh đây.
      Rồi bà bế thốc tôi lên, vội vã đi về phía dốc. Tôi khóc giãy đành đạch, cố tuột khỏi tay bà. Bà nựng:
      - Thằng cu con của bà! Bố mày hiếm hoi. Cứ gọi là hơn cả cục vàng.
      Tôi nghe loáng thoáng tiếng Bắc:
      - Bình ơi...hư hư...
      Rồi thì thấy cô Mưa bế Bắc, chặn trước mặt bà lão:
      - Bà định bế đứa bé đi đâu?
      - Ơ hay cô này, cháu tôi, tôi bế đi đâu thì cô cấm được tôi à! Bà lão nói cứng.
       Cô Mưa cũng không vừa:
      - Sao hai anh em nó bà chỉ bế một đứa?
      Bà lão chột dạ:
      - Thấy nó khóc tôi định đưa nó lên đầu dốc mua cho nó cái bánh hấp. Cháu tôi cả đấy!
      - Thế bà có biết nó là con gì không, con của ai không? Cô Mưa dồn.
      Bà lão lúng túng:
      - Thôi đi cô, ai chẳng quý cháu trai. Đứa tôi đang bế là thằng cu. Còn đứa kia là cái hĩm.
      Nghe bà lão nói thế, cô Mưa bỏ Bắc xuống giằng lấy tôi. Cô nói gì nhiều lắm. Chỉ biết, một lát sau, người ta xúm đông lại quanh ba cô cháu. Còn bà lão, bà lẩn vào đám đông lúc nào không ai biết nữa.
      Nghe kể lại, bố mẹ tôi, những người hàng xóm, cả những cô chú là khách của bố tôi đã túa đi tìm hai đứa. Ai cũng não cả ruột khi thấy bố tôi cứ vò đầu kêu: “Khổ! Khổ...”. Còn mẹ tôi thì tóc tai rối bời cứ chạy ra chợ rồi lại chạy về, mặt tái mét, môi run run nói không ra tiếng.
      - Chúng nó đang ăn mía! Chú Quang Trung chạy về nhà tôi, hổn hển báo tin.
      - Ở đâu?
      - Ở nhà cô Mưa!
      - Sao biết?
       Chú Trung kể: bố chú là bạn của bố cô Mưa, nghe phong thanh cô đi chợ, vừa nhặt được hai đứa trẻ, ông liền đạp xe đến, thì thấy hai cô cậu đang nhai mía. Cô Mưa dỗ thế nào cũng cứ mếu máo gọi mẹ ơi, mẹ ơi...
      Một năm sau, nhà tôi chuyển vào Nam.
      Bây giờ, nghe bác Hùng kể quê tôi đang gặp quá nhiều khó khăn, chúng tôi nghĩ thương cô Mưa quá! Với đồng lương cô giáo giữ trẻ eo hẹp, cô làm sao lo chu tất cho một gia đình bốn miệng ăn? Bởi thế chúng tôi đã quyết định...
      Và, cũng vì vậy, tôi rất giận bác Hùng.
      Tôi chỉ thật sự nguôi ngoai khi bố tôi bảo: vì giàu lòng tự trọng, sợ bạn bè phải giúp đỡ mình quá khả năng của họ, bác Hùng đã không cho ai biết và lặng lẽ trở về Bắc.
      Anh Bắc bàn với tôi nên viết thư hỏi ý kiến cô Mưa trước đã. Chúng tôi rất sợ cô từ chối! Vì, theo bác Hùng kể, cô Mưa còn có họ rất gần với nhà bác.
 
 
 
                          NGÓN TAY ĐIỂM CHỈ
 
      Chiều thứ sáu, hai nhà lại cãi nhau to về việc nhà cửa. Bà lão Cam ốm nặng, nằm liệt trên giường đã sáu tháng nay đang ho sù sụ, phải cố hết sức mới thều thào được mấy câu:
      - Tôi van các anh, các chị đừng có cãi cọ nhau nữa. Tôi mà nằm xuống, không khéo là nhà nước lấy ngay cái nhà này cho mà xem. Lúc ấy, có kéo nhau ra giữa đường rủa cha mẹ nhau lên cũng chẳng ai can cho nửa lời đâu!
       Nghe lời bà lão, Ngọc nuốt giận vào lòng, lẳng lặng đi xuống bếp sắc thuốc cho mẹ nuôi.
      Vợ chồng nhà Ánh cũng dắt con ra phố. Nghe loáng thoáng, họ nói với nhau là đi coi cải lương cho nhẹ cái đầu.
       “Đến là dễ ghét! Mang tiếng cùng là con nuôi mà vợ chồng Ánh vô tình quá. Vô tình cả khi bà lão ốm. Quà cáp biếu mẹ thưa thớt đã đành; đến cả lời hỏi thăm mẹ ốm đau  họ cũng tiết kiệm nốt là cớ làm sao? Thôi, người ta ăn ở có giời có đất biết!”, Ngọc vừa bỏ gói thuốc vào cái siêu đất vừa nghĩ: “Mà cái chị Ánh còn dọa: hễ bà lão nằm xuống là vợ chồng chị cho cả nhà Ngọc ra đường cho bõ ghét nữa chứ! Hừ, chưa biết mèo nào ăn mửu nào mà doạ. Con này đâu dễ bắt nạt thế! Rồi ra xem ai sẽ phải biết tay ai!”. Nghĩ  tới đây, Ngọc khẽ mỉm cười. Bởi chị chợt nhớ tới cách thức của mấy anh em trong một nhà kia dùng để tranh giành nhau phần nhà cửa cha mẹ họ để lại mà một anh bạn đã tình cờ kể cho vợ chồng chị nghe mấy hôm trước. Trong câu chuyện ấy, Ngọc thấy hình như có sẵn một bài học dành cho chị. Chị nghĩ, nếu cần để tự vệ, nó quả là một vũ khí lợi hại. Nhưng mà, nghe cứ ghê ghê thế nào ấy.
      Bỗng Ngọc nghe như có tiếng thều thào gọi. Chị vội chạy đến bên giường mẹ nuôi.  Vào lúc ấy, bà Cam  đang thở dốc từng cơn, hai tay đưa lên trời như cố níu lấy một vật gì đó vô hình lơ lửng giữa bầu không. Ngọc khẽ đặt tay lên trán mẹ. Trán nhơm nhớp những mồ hôi, lạnh giá. Bà lão he hé mắt.
      - Mẹ ơi, mẹ có dặn dò gì ai không hả mẹ?
       Nghe Ngọc hỏi, bà Cam chỉ chỉ tay vào cái tủ. Ngọc nghĩ là mẹ có ý nói trong đó có bộ hồ sơ của căn nhà này. Chị luồn tay vào túi áo mẹ lấy chùm chìa khoá. Rồi nhanh nhẹn, chị mở cửa tủ, lôi ra một tập giấy đã chuyển sang màu vàng ố, giơ lên trước mặt mẹ. Bà Cam nhìn tập hồ sơ nhà cửa, nước mắt bất thần ứa ra. Có lẽ biết mình không thể nói được nữa, bà lão cố hết sức để nhấc tay lên, chỉ vào cái nơi bà định chỉ. Nhưng sự cố gắng chỉ làm bà mau kiệt sức hơn; bà hự hự được mấy tiếng rồi lịm dần đi...
      Ngọc chạy lại lay chồng dậy. Du đang lơ mơ; nhưng nghe vợ nói những việc cần phải làm gấp trước khi anh chị nuôi trở về nhà, anh ta vùng bật dậy như một con sóc. Tìm vội trong những nơi mà họ nghĩ là bà lão thường dùng để cất giấu những thứ bí mật, không thấy vật cần tìm, Du ngẩn mặt ra:
      - Thế này thì gay rồi em ạ! Chẳng lẽ nhà Ánh đã có nó trong tay?
      - Thôi được, mình có cách của mình. Kiếm cho em hai tờ giấy trắng. Nhanh lên nào!
      Du xé vội mấy tờ giấy từ cuốn sổ công tác của anh đưa cho vợ.
      - Đưa cây bút bi đây! Ngọc hổn hển nói.
      Du không hiểu, trố mắt nhìn vợ quệt mực vào ngón tay chỉ của mẹ nuôi. Xong, chị cầm tay bà lão lên, điểm chỉ vào góc dưới của từng tờ giấy. Ngọc vừa dặn chồng cất kĩ những tờ giấy chị đưa cho vừa lấy vạt áo lau sạch vết mực trên ngón tay mẹ. Quên tất cả vì mải mê với sự tính toán, lúc này chị mới nghĩ đến việc nhìn lại mặt mẹ nuôi. Mắt bà lão đã khép hờ lại. Hình như bà đã nhìn thấy thấu tim gan Ngọc qua những hành động lén lút của vợ chồng chị. Ngọc chợt rùng mình, thảng thốt kêu thầm:
      - Mẹ ơi! Mẹ tha tội cho con! Con muốn cho những kẻ bất hiếu ấy một bài học để họ sáng mắt ra. Con chỉ làm thế để ngăn họ không thể đẩy chúng con ra đường thôi mẹ ạ...
      Cầm hai bàn tay đã lạnh ngắt cái giá lạnh của tử thần đặt xuôi lên bụng bà lão, tự nhiên cổ Ngọc nghẹn lại. Chị òa khóc nức nở như không thể kìm giữ được  nước mắt...
      Nửa năm sau ngày bà Cam mất, vợ chồng Ngọc kiện ra tòa xin đòi lại phần nhà cho vợ chồng Ánh ở nhờ.
      Ánh rất lấy làm lạ. Vì từ khi mẹ nuôi của họ về với tổ tiên, vợ chồng anh nghĩ chỉ còn hai anh em, cũng chẳng nên làm khổ nhau làm gì. Thôi thì cơm nhà ai người ấy ăn, phần nhà mẹ nuôi cho ai ở đâu thì cứ thế mà ở, hục hặc với nhau chỉ để thiên hạ cười cho. Giận thì nói như xúc đất đổ đi vậy thôi. Chứ thử mỗi người một phương xem có nhớ có thương không. Đấy, giả tỉ như cái chiều anh em to tiếng, vợ chồng anh bỏ đi coi hát, ở nhà mẹ mất, lúc anh chị về, con Ngọc chẳng cứ ôm chầm lấy anh mà gào lên những lời não nuột đó ư? Em nuôi anh, chính anh đã có công nhặt nó từ ngoài đường về cho mẹ cơ mà. Còn nhớ hôm ấy, nhìn con bé gầy gò, rúm ró như một túm giẻ rách, không hiểu sao mẹ đã cho anh biết: Trước đây, mẹ cũng đã  nhặt được anh trong tình cảnh tương tự. Mẹ còn nói, cả hai đều bị cha mẹ đẻ bỏ rơi; sống với mẹ, hai đứa phải coi nhau như anh em ruột thịt. Mà họ đã thương yêu nhau như anh em ruột thịt thật. Có điều, từ khi lập gia đình riêng, cuộc sống khó khăn với những tính toán riêng đã phần nào làm vẩn đục những tình cảm trong sáng xưa. Ánh tự nhận thấy mình có lỗi không dạy bảo vợ, thành thử đôi khi cậy thế chị dâu, vợ anh có to tiếng với Ngọc. Lúc còn bé, những lần bị chị dâu mắng, Ngọc chỉ tấm tức khóc, có hôm bỏ cả cơm; bà Cam lại phải viện đủ mọi cớ để dỗ dành Ngọc mới chịu bỏ qua. Thế nhưng từ khi Ngọc có chồng, không hiểu sao, vợ chồng Ánh luôn bị Ngọc tỏ ý nghi là đang có ý định chiếm căn nhà này. Chị nói với anh chị mình rằng việc đó không dễ ức hiếp nhau được đâu.
      Ở toà án, sau khi được một nhân viên cho xem hồ sơ nhà cửa, Ánh hoa cả mắt. Mặt anh tái mét như không còn một giọt máu. Anh ấp a ấp úng, nói chẳng ra đầu ra cuối. Thấy anh lộ rõ vẻ lúng túng, viên chức kia bảo anh cứ yên tâm về nghỉ và hỏi anh có cần nhờ luật sư bênh vực cho quyền lợi của mình không. Ánh đồng ý và nhận địa chỉ của một vị luật sư. Bỏ tấm cạc vào túi, lòng đầy thất vọng, Ánh thất tha thất thểu đi về nhà.
      Ngay sáng hôm sau, theo lời hẹn, Ánh tìm đến nhà luật sư Thiện. Ông luật sư hỏi anh khá nhiều điều. Có những điều ông Thiện hỏi, Ánh nghe xong cứ ngẩn người ra vì không hiểu hỏi như vậy để làm gì. Ông luật sư thì ghi ghi chép chép cả những câu nói bình thường nhất của Ánh. Được ông khuyến khích, anh nghĩ trong đầu như thế nào thì cứ nói như thế ra miệng:
      - Vâng, thưa ông, mẹ nuôi chúng tôi là một phụ nữ người Hoa độc thân. Bà nhận nuôi hai anh em tôi nhưng không làm các thủ tục giấy tờ nhận con nuôi. Còn cái nhà, lúc ốm nặng, bà ấy vẫn còn lo nhà nước sẽ thu lại để sung vào công quỹ. Tôi chưa bao giờ nghe mẹ tôi nói sẽ cho người nào căn nhà này. Quả thật, tôi không hiểu sao con Ngọc lại hợp thức hoá được căn nhà thành nhà riêng của nó...
      Ông luật sư chú ý nhiều nhất đến cái ngày bà Cam mất, lúc bà đi có những ai ở bên cạnh. Những câu hỏi làm Ánh chợt nhớ lại việc làm dại dột của vợ chồng mình. Anh vẫn thường tự vấn lương tâm rằng có phải do anh xử sự không ra gì nên mẹ anh đã uất quá mà nặng bệnh thêm? Anh kể khi anh về nhà, hàng xóm đã đến chật cả nhà. Còn Ngọc, nó cứ ôm ghì lấy chân anh mà hờ, mà trách. Ông luật sư hỏi lúc liệm cho bà lão Ánh có thấy gì khác thường không.
      - Tôi thấy không có gì đặc biệt cả. À, tôi nhớ ra rồi, một ngón tay cái của me tôi có giây vết mực. Tôi hỏi thì Ngọc nói mẹ viết cái gì sau anh sẽ rõ. Trời ơi! Chẳng lẽ mẹ tôi đã viết di chúc cho vợ chồng nó?
      - Có thể là như thế hay không thì chưa chắc! Nhưng  bản di chúc thì có thật. Và nó mang nội dung bà cụ đã đồng ý cho vợ chồng Ngọc căn nhà ấy. Tôi chỉ nghi rằng...
       Ông Thiện bỏ lửng câu nói, nhìn nhanh vào mặt Ánh, khẽ mỉm cười an uỉ:
      - Thôi được, anh cứ yên tâm về nghỉ nhé. Nếu anh oan ức, tôi nhất định sẽ bênh vực cho vợ chồng  anh!
      Tại phiên xử, trong suốt giai đọan Tòa thẩm vấn, luật sư Thiện cứ ngồi trầm ngâm; trán ông hằn những vết nhăn bởi bao nhiêu điều cần ông giải đáp vẫn như còn đang  mông lung lắm. Đến khi được tòa cho phép thẩm vấn, ông mới từ  tốn  đứng lên  xin được hỏi chị Ngọc:
      - Thưa chị, chị cho tôi hỏi di chúc bà Cam lập vào ngày nào ạ?
      - Tôi nhớ là vào đúng hôm mẹ nuôi tôi mất.
      - Chị có thể cho biết chính xác giờ giấc lập di chúc không?
      - Sao lại không? Lúc đó là 10 giờ 30 phút tối.
      - Thưa, trong giấy khai tử, tôi thấy chị và anh Ánh khai bà cụ mất đúng vào thời gian này. Chẳng lẽ cụ đã mất vẫn còn ký được vào tờ giấy?
      Ngọc hơi tái mặt. Tuy vậy, chị vẫn đủ bình tĩnh để trả lời tiếp. Bên tai chị, tiếng ông luật sư vẫn nhẹ nhàng:
      - Thưa chị, chị giải thích thế nào về việc bà Cam là người Việt gốc Hoa chỉ biết viết chữ  Hán, không biết viết chữ  Việt mà di chúc lại được lập bằng chữ quốc ngữ?
      - Bà cụ mệt, không viết được, cụ đọc, tôi dịch cho một người làm chứng viết.
      - Chị Lan làm chứng và viết phải không ?
      - Đúng - Ngọc trả lời nhưng có vẻ đã không chủ động được nữa. Chính chị cũng không biết chị Lan có biết chữ không, mặt con chữ của chị ấy có giống chữ trong di chúc do chồng chị tự tay viết lấy không.
      Tiếp đó ông Thiện hỏi ông Chơn công chứng:
      - Thưa ông Chơn, ngày ông xuống công chứng cho chị Ngọc đúng vào ngày bà cụ Cam mất có đúng là ngày 10/11 không?
      - Tất nhiên là đúng - Ông Chơn trả lời.
      - Thưa ông, ông có thể cho biết: Theo bảng chấm công ở cơ quan, vào đúng ngày này ông đang nghỉ phép ở quê nhà. Chẳng lẽ ông có thể phân thân, một nửa người ở Bắc, một nửa người ở Nam để công chúng cho chị Ngọc?
      Ông Chơn không kịp phản ứng trước câu hỏi bất ngờ này, lắp bắp:
      - Tôi xin nhớ lại. Xin cho tôi giở sổ...
      - Tôi xin đề nghị quý toà cho ghi những lời trên của nguyên đơn và công chứng viên vào biên bản - Ông Thiện dõng dạc nói - Bây giờ, tôi xin phép toà được nói những lời bênh vực cho thân chủ của tôi là anh chị Hồ Văn Ánh...
      Được toà cho phép, ông Thiện đã chỉ rõ: Tờ di chúc của chị Ngọc trình trước các cơ quan chức năng là di chúc giả. Ông cho rằng khi bà Cam đã hôn mê, ai đó đã kịp lấy vân tay của bà vào những tờ giấy trắng, sau đó tự viết theo nội dung có lợi cho mình. Rồi bằng nhiều cách, vợ chồng Ngọc đã nhờ người đứng ra làm chứng, thậm chí còn lôi kéo công chứng viên vào vụ việc này. Từ những điều trên, ông đề nghị các cơ quan chức năng xem xét lại tính hợp pháp của căn nhà vợ chồng chị Ngọc đang là sở hữu chủ...
      Phiên xử  tạm dừng ở đấy để  toà tiếp tục làm sáng tỏ những điều còn nghi vấn.
      Về nhà, Ngọc tức giận hất tung các đồ vật vô tình đập vào mắt chị. Cái tủ con của bà lão cũng không tránh khỏi số phận ấy.      Đúng vào lúc Ánh xuất hiện, chị xô cái tủ ra như cố ý chắn lấy lối đi của anh. Cái tủ lăn long lóc, các ngăn kéo văng ra mỗi cái một nơi. Từ một cái ngăn kéo, một tờ giấy tung lên theo chiều gió. Ánh cúi xuống nhặt tờ giấy lên. Anh liếc nhanh và thấy những dòng chữ Hán vuông vức quen thuộc. Trời ơi! Di chúc! Bản di chúc ghi rõ phần nhà bà mẹ nuôi dành cho hai người con nuôi. Chữ ký của bà lão giống in như mọi chữ ký trong bất kỳ giấy tờ nào bà đã từng ký tên. Ngay dưới chữ ký, cẩn thận hơn, bà lão còn điểm lên giấy trắng hai ngón tay cái bằng mực Tàu đen. Những đường chỉ tay lồng lên nhau, bộc bạch như một lời trăng trối.
      Thoáng nhìn thấy tờ giấy, Ngọc chợt hiểu và gục mặt xuống. Ân hận khiến chị bật khóc tức tưởi...
 
 
                              HƯƠNG ĐỒNG NỘI
 
      Trường cấp hai xã tôi cất trên nền cũ ngôi chùa làng Thượng nổi tiếng linh thiêng. Chuà đã bị giặc Pháp bắn sập vào đúng ngày u tôi bỏ anh em tôi vào hai cái thúng, gánh đi tản cư. Chỉ có cây đa cổ thụ trước cưả chuà là không chịu ngã.
      Năm 1965, tôi học lớp năm, cùng lớp với thằng Cao. Gọi là thằng vì chúng tôi là hai thằng trẻ trâu. Hơn tôi bốn tuổi, tên là Cao nhưng thằng bạn của tôi lại rất thấp và bé. Tạng hạt tiêu như Cao, người quê tôi gọi là còi.
      Nhà Cao quanh năm đói quay đói quắt. Nghĩ cũng khổ, u Cao đau ốm kinh niên, nhà có mớ rau, con cá cũng phải đem đổ vào tiền thuốc men. Qua vụ gặt, bố Cao đã phải đi vay đi dạm. Ngày chỉ có bữa cháo bữa cơm mà lãi mẹ đẻ lãi con, cả đời ông cũng không thể nào trả hết được công nợ. Cho Cao đi học, ông những mong sau này đời nó sẽ khá hơn.
      Ước mong của người cha nghèo quả là mong manh. Vì Cao học vốn đã dốt lại nổi tiếng là đứa ngỗ nghịch. Nó suýt bị nhà trường đuổi học vì dám trèo lên tận ngọn đa và thả một quả trứng quạ xuống đầu thầy giáo Bình. May mà ông giáo già không để bụng, xin thầy hiệu trưởng bỏ quá cho.
      Thầy Bình dậy chúng tôi môn Sử. Năm ấy, nghe nói thầy mới ngoài năm mươi mà mắt đã mờ, tóc đã bạc trắng như cước. Chỉ có hàm răng thầy là vẫn đều và đẹp lắm! Có lẽ vì thế mà thầy Bình hay cười chăng?
      Thầy ăn mặc tuềnh toàng nhất trường. Lúc lên lớp,  thầy hay khoác một cái áo ka ki gụ có tới bốn cái túi. Chúng tôi rất mê cái túi trái phía dưới, nhất là hôm nào trông thấy nó có vẻ phồng phồng.
      Thấy thầy từ xa, Cao xui bọn con gái cúi rạp xuống đất, đồng thanh:
      - Chúng con lạy thầy ạ! Chúng con...
      - Đứng cả dậy. Thầy biết rồi. Thầy có cái này cho các con đây.
       Chúng tôi xúm quanh thầy, tranh nhau xoè những bàn tay còn ngai ngái mùi đất cát quê. Thầy chớp chớp mắt, tủm tỉm cười:
      - Tay có sạch không?
       Rồi, không chờ chúng tôi trả lời, thầy móc trong túi ra khi thì nắm ngô rang, khi thì dăm củ lạc luộc, chia đều cho đám trò nhỏ. Thằng Cao vỗ cả nắm ngô vào miệng, nhai rau ráu. Nó nuốt vội nuốt vàng để còn kịp xin mấy đứa con gái thêm vài hạt.
      Hôm thầy Bình kể chuyện về nạn đói năm 1945, cả lớp rơm rớm nước mắt. Chỉ có thằng Cao là không khóc. Mắt nó hau háu nhìn vào cái túi trái phía dưới hơi phồng phồng của thầy. Cao đang đói. Nó ngửi thấy mùi ngô rang nụ thơm phưng phức mà không biết làm thế nào. Thật may cho nó, một lát sau, có lẽ do nóng quá, thầy Bình cởi cái áo khoác vắt lên thành ghế.   
      Giờ chơi, chờ cho cả lớp đã chạy ra sân hết, Cao lẻn trở lại, thò tay vào túi áo thầy. Khi ra chỗ tôi và các bạn khác đang chơi đá cầu, đoán là tôi biết chuyện, mặt Cao cứ đỏ rần lên.
      Hết giờ chơi, thầy Bình vừa cười cười, vừa lắc lắc đầu, hỏi:
      - Lúc nãy có trò nào nghịch ngợm cái áo của thầy không?
       Cả lớp nhao nhao trả lời không có ai. Cao đưa tay che lấy miệng. Mặc dầu thế, hơi thở gấp gáp vì quá sợ hãi đã tố cáo nó. Miệng Cao còn thơm mùi ngô rang nụ.
      Lần ấy, thầy Bình chỉ hỏi chứ không tra đứa nào tắt mắt. Nhưng cũng từ hôm ấy, trong các giờ ra chơi, thầy hay gọi Cao ra một chỗ, lặng lẽ dúi vào tay nó củ khoai, nắm ngô.
      Học xong lớp mười, tôi và Cao nhập ngũ. Xã tổ chức giao quân cho huyện ngay dưới gốc đa trường cấp hai. Trong không khí lưu luyến của buổi tiễn đưa, Cao cứ ôm chặt lấy thầy Bình, rơm rớm nước mắt, xin được thầy thứ lỗi.
      Cho đến năm 1975, khi trở về quê, tôi mới biết tin Cao đã hy sinh tại mặt trận Quảng Trị. Dù chưa đưa được anh về nơi quê cha đất tổ,  nhưng trong nghĩa trang liệt sĩ xã tôi vẫn có phần mộ của Cao.
      Nghe tin trò còn sống trở về, thầy Bình mừng lắm, bắt anh con rể chở ngay đến nhà tôi. Buổi chiều, hai thầy trò rủ nhau ra nghĩa trang viếng Cao.
      Trên đường đi, lúc qua chợ Thượng, tôi ghé vào một cửa hiệu mua mấy nắm nhang. Quay ra đã thấy thầy lọ mọ trở lại chỗ hẹn từ một hàng quà cho trẻ con, tay cầm một gói giấy nhỏ.
      Sau khi lần lượt thắp nhang cho các liệt sĩ, tôi và thầy Bình dừng lại khá lâu trước nấm mộ tượng trưng của Cao.
      Bảo tôi thắp cho bạn ba nén nhang, thầy chậm rãi mở gói giấy, đổ xoè lên nấm cỏ những hạt ngô rang nụ.      Mùi ngô rang man mác khiến tôi bất giác rủn người, chợt hiểu hôm chúng tôi ra mặt trận, dưới gốc đa già, Cao đã nói những gì với thầy Bình.
 
 
                    NHỮNG MÓN LỘC TRỜI
 
      Tóc tai lởm chởm, mắt trũng xuống, anh len lỏi trong con hẻm tối tăm. Dù  dáng dấp rất buị, anh vẫn cảm thấy rờn rợn trước những cặp mắt sắc lẻm như dao dõi theo mình. Túi còn mười ngàn, anh tấp vô một cái quán èo uột, kêu:
      - Làm ơn cho một cô ca, một Khánh Hội, nghe.
      - Ơn với huệ cái chi! Có tiền mua tiên cũng được...
      - Ơ, cái nhà anh kia...
      Một gã to béo, ục ịch tiến lại phía anh, hất hàm, hỏi:
      - Nhà báo?
      Anh chưa kịp trả lời, một gã gầy nhom ngồi đối diện  đã nheo mắt, nói giọng xiên xỏ:
      - Báo chí hay báo hại?
      Anh cười nhăn nhở:
      - Dĩ nhiên là báo chí!
      Anh trả lời và lấy làm lạ rằng, bằng cách nào họ biết anh là nhà báo? Anh đã hoá trang y hệt một kẻ bụi đời: quần “gin” cắt ống cào cho te tua, áo phông loè loẹt, chân lại xỏ một đôi giày đúng mốt. Thế mà...
      - Ở đây không bán cô ca, cấm hút loại thuốc lông chuột! Nghe chưa? Cũng không cần phải “làm ơn”. Nghe chưa?
       Gã to béo vừa nói vừa nháy mắt vừa quăng gói ba số năm về phía bàn anh. Rồi gã ngồi xuống bên cạnh, gọi với vô phía trong:
      - Các em! Lè lẹ cho anh Hai mười “ve” đập phá chơi nào...
      Anh còn chưa hết ngỡ ngàng thì mấy cô gái bán hàng đã nhanh nhảu mang ra một két bia. Gã to béo khui bôm bốp. Bia xủi bọt, tràn cả ra ngoài các miệng ly.
      - Tuị này bao mà - Gã gầy nhom đẩy một cái ly về phía anh - Trăm phần trăm! Nào, zdô...
      Anh nốc cạn ly bia như một cái máy.
      - Chẳng nói giấu gì ông anh - Gã to béo vỗ vai anh - Tuị này làm “chuột”. Ở nhà tổ chuột thì làm chuột có gì xấu? Nghĩa là đục kho khoét hầm, lấy trộm hàng của nhà nuớc ấy mà. Cũng chẳng được là bao mà vào tù ra tội như chơi. Nhục chứ sướng cái chi! Nhưng mà tức...
      Gã gầy nhom gật gù, chen vô:
       - Anh Hai tức lũ “chuột lớn” lọt lưới! Thôi đi cha nội ơi, mèo nhỏ bắt chuột nhỏ chớ! Mặc kệ nó đời! Uống đi nào, uống...
      Gã to béo quắc mắt, nhìn xoáy vô mắt kẻ đàn em, hạ giọng:
      - Tuị này biết ông anh là một nhà báo tốt. Ông viết bài nên khu này mới có con hẻm láng xi măng này, lại sắp có máy nước, có điện. Nghĩa là ông còn thương cánh áo rách. Giá ông kiếm cho tụi này một cái việc gì đó, có lẽ ông đỡ phải chui rúc vô đây viết về lũ “chuột con”. Bọn này đã phục ông ở đây vì biết thế nào ông cũng còn quay lại. Dĩ nhiên, mai phục không phải để giết ông, vì ông viết về tội lỗi của bọn này. Mà để thưởng công ông, xúi cây viết còn thơm thảo của ông hướng về lũ “chuột lớn” kia.
      - Ê, mấy em! Gã gầy nhom kêu.
      Mấy khuôn mặt loè loẹt phấn, dở cười dở khóc, lấp ló sau tấm phên lá dừa.
      Anh liếc nhìn họ, tỏ vẻ ái ngại.
      Như đo được lòng anh qua ánh mắt, gã to béo khoát tay:
      - Cho lui! Ông anh đây còn sạch sẽ, đừng nhúng ông vô bùn.
      Rót thêm bia vô ly cho anh, gã bảo:
      - Thực ra thì tụi này không xấu như người ta vẫn tưởng. Chỉ nghèo thôi! Nghèo nên khổ, nên cực, nên cùng! Nghèo nên ngu, nên hèn, nên rồ dại! Nhưng tụi này cũng rất giầu. Đấy, ông coi, anh em dám bao cả chục em bơ vơ từ miệt vườn lên. Em nào lớ xớ đi kiếm tiền là ăn dao liền à. Hà, hà, đói cho sạch...
      Cũng là một kiểu sạch! Ly bia chảy qua cổ họng anh bỏng rát. Thứ lộc trời này, lần đầu tiên anh được nếm.
                                   ***      
      - Nhà báo, anh nói cho chú biết, chú thua rồi. Hôm nay anh đã bắt được một tên trộm cỡ bự.
      - Tình tiết này có ý nghĩa gì? Khi mà anh và đồng bọn đã bán cả kho hàng?
      - Sao lại không có ý nghĩa? A ha, bọn trộm này đúng là ân nhân của bọn anh. Nhờ chúng mà anh sẽ vô tội. Và chú mày, chú mày cũng chẳng còn chi mà viết nữa nhỉ - Ông ta hài hước.
      Anh cười:
      - Không dễ thế đâu. Trời giăng lưới cả rồi đấy, anh chớ có vội mừng!
      Vị giám đốc đổi giọng, tâm sự:
      - Thì anh vẫn đợi đấy chứ! Có điều, anh khuyên chú đừng có dã tràng xe cát. Anh vốn sòng phẳng nên đến đây không chỉ mang theo lời khuyên. Bây giờ ván bài đã lật ngửa, anh không chơi đẹp thì chú mày cũng đành bó tay thôi. Hơn nữa, việc điều tra là của công an, can hệ gì đến chú mà chú cứ xía vô? Thôi, cầm lấy chút đỉnh này để lấy hơi mà viết cái tác phẩm nhớn nhớn một chút. Cho nó ra hồn nhà văn. Hay là chú chỉ muốn làm cái anh nhà báo nhãi nhép mãi?
      Anh gắt:
      - Anh cầm tiền về đi! Tôi không thể...
      Vị giám đốc sẵng:
      - Được! Tôi chẳng còn điều gì để nói thêm với chú nữa. Xem chú làm được cái gì nào?
      Rồi ông ta bỗng hét lên:
      - Thế là ngu! Ngu! Chú hiểu chưa?
      Vị giám đốc tím mặt, đùng đùng ra về.  Nhưng chỉ một lát sau, ông ta đã sai người mang đến cho anh một bức thư. Thư viết: “ Đừng giận anh! Lúc nóng anh đã thô lỗ với em. Là người lính cũ, anh rất thông cảm với chất lính và cái tâm của em. Anh mong em nghĩ đến cái tình. Chẳng gì thì trong chiến tranh anh cũng là đaị đội trưởng của em...”
      Anh đọc thư, thở dài. Điều này anh không bao giờ quên: Cách đây hơn hai mươi năm, vào cái mùa hè đỏ lửa và máu ở Quảng Trị, sau một trận bom B52, chính đại đội trưởng đã bới đất moi anh lên. Anh ấy đã cưu mang anh hơn cả một đứa em.            Còn bây giờ? Đau xót và buồn rầu, anh lang thang ra phố.
                                 ***
      - Anh nhà báo! Vô đây, anh.
      Giật mình, anh nhìn lên và biết mình đang ngang qua cái quán nghèo trong hẻm. Ai xui khiến anh tới đây?
      Quán vắng teo.
      Hai cô gái miệng nói, tay dắt, kéo anh vô quán.
      - Làm ơn cho một chai cô ca - Anh nói.
      -  Có gì nữa không? Một cô tiếp lời.
      Anh nửa như gật đầu. Cô kia xà vô lòng, anh cũng để mặc. Lần đầu tiên anh để mặc ai làm gì mình thì làm.
      - Anh cứu anh Hai, anh Ba tụi em đi anh!
      - Ờ, ờ...
      - Tội nghiệp anh Hai lắm nghe anh. Ảnh bị bắt lúc đang trong kho. Bảo vệ cứ nhằm cái bụng bự của anh ấy mà đấm, mà đá túi buị. Còn anh Ba, nghe nói mất tích luôn. Chắc họ đánh chết rôì! Hu hu...
      - Ảnh chưa chết đâu - Một gã mặt đen đúa, tay chạm rồng nham nhở, nở một nụ cười méo xệch, buồn nản - Vừa bị bắt rồi!
      - Ở đâu?
      - Trong công-ten-nơ ! Kho số 5.
      - Ơ, thế là thế nào?
      - Khi anh Hai và anh Ba chui vô kho, em ở ngoài canh chừng, chờ hai ảnh tuồn hàng ra. Chờ mãi, em tò mò ghé mắt vô coi, thì trời ơi, hai cha nội đang nghe nhạc. Nhạc và tiếng Anh tiếng em gì đó từ một cái cát sét. Có lẽ là của thằng bảo vệ để trong kho. Đúng lúc ấy...
      Thấy mắt anh bất ngờ sáng lên, một cô giục:
      - Kể tiếp đi, Tư!
      - Bảo vệ ùa vào. Họ tóm ngay được anh Hai. Bụng ảnh to quá, chạy không nổi. Anh Ba chui tọt vô một cái công  ten nơ rỗng. Em thì chạy. Cắm đầu chạy. Đạn bắn vèo vèo bên tai thế này này. Hết cả hồn!
      - Kể như toi! Cô gái đang ngồi trong lòng anh kêu lên - Anh nhà báo ơi, anh cố cứu anh Hai, anh Ba tụi em với nha anh!
      Không biết vì lẽ gì, anh gật đầu. Ô hay! Sao anh lại dám hứa cứu cả đám trộm?
                                   ***
       Khi anh đến kho số năm trên đường Ổ Gà, bảo vệ đang lập biên bản về một công ten nơ đã bị kẻ gian moi hết hàng hóa, nhưng bên trong lại có một gã đàn ông gày nhom đang nằm ngủ. Hỏi gì gã cũng chỉ ú ớ...
      Anh nhận  ngay ra gã “chuột nhỏ”. Hai tay gã cứ khư khư ôm lấy bụng khiến anh nghĩ gã vừa bị đánh đau lắm. Thật không ngờ, lựa lúc mọi người đang hút mắt vô một mũi khoan quý còn sót lại ở một góc công ten nơ, nhanh như chớp, “chuột nhỏ” đã kịp nhét vô túi áo anh một cuộn băng ca sét. Rồi gã nói nhỏ: “Đi đi! Mau lên! Trong đó có cái anh đang cần tìm đấy”.
      Như một kẻ đồng loã, anh bỏ mặc tên trộm, quay ra. Phỏng vấn mấy người bảo vệ cho có lệ, anh kêu xe ôm chạy về toà soạn, lấy cái ca sét ra và lắp băng vô để nghe...
       “ Hai thằng chui vô kho mà!”. “ Ờ, sao chỉ tóm được thằng phệ?”. “ Thằng ốm nhỏ con bỏ chạy, tụi em nhằm chân nó bắn, nhưng không trúng”. “ Thế là yên tâm về cái hòm mũi khoan kim cương”. “ Xếp hết lo nhá”. “ Tụi em sẽ nện cho nó lòi ruột ra. Phải kí vô biên bản nhận lấy một hòm đồ đã. Lúc đó hãy giải nó lên công an”. “Ừ, cứ thế mà làm”. “Đừng để bọn nhà báo biết. Rách chuyện lắm!”.
      Vẫn giọng giám đốc. Có điều ông ta đang nói với đàn em, những kẻ giữ kho cho ông.
      Xen vào lời ông ta còn có cả những tiếng thô tục phía xa, tiếng đấm đá bùm bụp, tiếng “hự hự” yếu ớt của một kẻ nào đó bị đánh.
      Khi cuốn băng vừa đuợc sang xong , cũng là lúc anh có điện thoại. “ Alô! Chú mày hả. Nhanh chân thật! Thôi, chỗ anh em cả. Anh mong chú đem trả lại cuốn băng mà tên “chuột nhỏ” đã lén trao được cho chú. Đây là tang vật của vụ trộm. Công an đang tìm chú đấy, chú nhà báo ạ. À, mà anh giỡn cho vui thôi. Cứ giữ  lấy, chiều anh lại nhé”.
                                     ***
      Suốt cả buổi, anh ở lỳ toà soạn.Viết. Xoá. Lại viết. Lại xóa... Có đến nửa xọt giấy. Cái sọt há hốc miệng như giễu cợt anh. Hình như anh chưa ăn gì.
      Rồi cũng xong. Anh nộp bài. Ngáp. Thở dài. “ Thôi đi về!”.
      Anh lê bước về nhà. Đầu đau như sắp vỡ tung ra.
      Vợ anh đang ôm con ngồi trên giường. Chị gắt:
      -  Mau về mà đưa con đến bệnh viện! Sốt cao lắm!
      - Ờ , ờ...
       Nhìn nhanh vô đôi mắt thất thần của chồng, chị bỗng hỏi khẽ:
      - Anh còn tiền nhuận bút bài hôm chủ nhật không? Tủi quá, con bệnh mà em chẳng còn lấy một đồng.
 
 
 
 
 
                      NGƯỜI GIĂNG LƯỚI BẪY MÌNH                       
 
      Cậu mợ tôi buôn bán ở ngoài tỉnh. Tuy chưa giàu có bằng nhiều người khác, nhưng gia đình tôi cũng có một căn nhà ở mặt một con phố chính. Bỗng nhiên, vào đúng ngày quân Pháp bại trận phải xuống tàu thuỷ để về nước, không hiểu vì lẽ gì, cậu mợ lại đem gửi tôi về quê để bác tôi nuôi. Hỏi, cậu tôi chỉ cười, bảo cả gia tộc muốn đưa tôi về đây kiếm lấy chút ít vốn liếng chữ Nho của cụ đồ Xướng.
      Ngay sau lúc cậu mợ tôi ra xe ngựa về tỉnh, tôi thấy một thằng bé cứ thập thà thập thò ngoài ngõ. Bác tôi gọi nó vào và bảo:
      - Bố cháu là em họ mợ anh Quốc đây. Từ rày, cháu phải gọi anh ấy là anh đấy Dự ạ.
      Dự gật đầu, nhìn người anh họ cao hơn nó nửa cái đầu với một vẻ thán phục không giấu giếm.
      Ở xóm Rau Diếp, thôn Cầu Đá lúc bấy giờ, tôi biết Dự là đứa trẻ thật thà như đếm.
      Tết năm ấy, Dự rủ tôi ra chợ Thượng chơi đáo lỗ ăn tiền với đám trẻ con ngoài chợ. Gặp vận đen, mới chơi được chừng mươi ván, hai nghìn tiền mừng tuổi của Dự đã cả cái hết vào túi một con bợm đáo. Dự cay cú chạy về nhà, mở hòm bố giấu tiền lấy hẳn năm nghìn đồng. Lại thua. Muốn gỡ, lại chạy về nhà.
      Hôm chợ Giềng, bố Dự mở hòm, thấy không còn xu nào bèn hỏi u Dự:
      - Bà lục lấy tiền tôi cất trong hòm phải không?
      Sợ bố lấy roi mây đánh u như đã từng đánh mình, Dự quỳ sụp xuống trước mặt bố, thú thật hết mọi chuyện. Lại ăn một trận mưa roi mây. Lươn hằn qua ngày rằm chưa lặn hết.
      Dự đem chuyện mình bị đòn kể cho chúng tôi nghe. Thằng Song dí tay vào trán Dự, bảo:
      - Mày ngu lắm con ạ! Những lúc như vậy sao không biết tìm cách mà lỉnh đi chỗ khác?
      Dự cho lời Song có lí. Nhà đông người, nếu Dự không nhận, bố Dự cũng khó mà trị đòn được. Ôi dào, thật thà chỉ thiệt đến thân! U Dự vẫn chẳng hay nói với bố như thế đấy ư?
      Từ đấy, Dự bắt đầu biết nói dối. Cậu ta thấy nói dối còn dễ hơn cả nói thật. Mà ai cũng thích nghe mới hay chứ. Ví như sau các buổi học ở nhà cụ đồ Xướng, Dự cùng chúng tôi la cà đủ chốn. Về nhà, bố Dự hỏi:
      - Sao về muộn vậy?
      Dự tỉnh queo:
      - Thưa bố, nhà ông Quỹ tát ao, con ở lại hôi cá.
      Bố Dự nhìn áo xống Dự, nhếch môi cười:
      - Được những mấy con cá?
      - Ba con mè ạ - Dự nói và mở cái gói lá khoai ra.
      Trong đó quả là có ba con cá mè. Nhưng đó là cá mà chúng tôi cuỗm được từ rổ của bà Quỹ. Và, thế là Dự được yên ổn.
      Yên ổn, vì ngay cả cụ đồ cũng tưởng Dự sáng dạ lắm. Mà cụ đồ đã có nhời khen thì bố Dự mừng phải biết!
      Ấy là chuyện của những năm hoà bình vừa lập lại ở miền Bắc.
                                          ***
      Sau cải cách ruộng đất, việc buôn bán vải vóc, tơ lụa của gia đình ngày một phát đạt, cậu mợ tôi nói là tôi đã lớn, bèn xin phép bác tôi cho đón về ở hẳn ngoài tỉnh. Lớn lên, học hết lớp mười, tôi xung phong đi bộ đội, chiến đấu ở chiến trường tới sáu năm. Nhờ có một chút cống hiến cho cách mạng, ít nhiều đã được kinh qua thử thách, khi phục viên, tôi được nhà nước ưu tiên cho đi học ở nước ngoài mấy năm nữa. Về nước, do chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tế, tôi luôn bị hàng đống công việc của cơ quan làm cho mệt lử.
      Quê tôi cách tỉnh chẳng bao xa. Nhưng do việc viếng thăm họ mạc cứ thưa dần, nhất là từ khi cậu mợ tôi khuất núi, tôi bị tiếng là người nhạt tình làng nghĩa xóm. Người bắn tin trách móc tôi nhiều nhất là Dự.
      Mỗi lần nhận được những lời trách đầy hờn giận ấy, tôi cứ thần người ra. Chỉ tiếc là mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh, kể từ hồi Dự lập gia đình, năm thì mười hoạ tôi mới tạt qua thăm vợ chồng cậu một lát. Mà cũng chỉ chiếu lệ cho phải phép! Bởi vậy, dù biết Dự trách móc mình hơi quá lời, tôi vẫn không nỡ giận cậu. Tôi biết sẽ có một ngày nào đó, nghe tôi giãi bày, nhất định Dự sẽ hiểu và thông cảm cho tôi.
      Sáng ngày hai mươi tám Tết năm 1985, tôi về quê góp giỗ. Thật may mắn, không hẹn mà gặp, hôm ấy Dự cũng có công việc của xã, phải ghé vào bàn với ông bác ruột tôi. Sau hàng chục năm trời xa cách, sợ Dự mếch lòng, tôi vui vẻ nhận lời mời, hẹn buổi trưa sẽ đến chơi và ăn cơm với vợ chồng cậu.
      Thấy bóng tôi từ đầu ngõ, Dự cuống quýt chạy ra đón:
      - Giời ơi! Mong bác đỏ cả mắt! Bu nó ơi, bác Quốc đến chơi đây này! Cho chúng nó ra chào bác đi bu em!
      Vợ Dự dắt từ trong bếp ra năm đứa bé. Chúng tự động xếp thành hàng ngang, đồng loạt cúi đầu:
      - Chúng cháu chào bác ạ!
      - Ạ...ạ...ạ!
      Dự cười như nắc nẻ khi thấy tôi vừa xoa đầu từng đứa bé vừa khen:
      - Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh nhỉ. Thằng này giống bố, thằng này y hệt mẹ, thằng này...
      Dự đỡ chiếc xe của tôi dựa vào tường, cười hề hề:
      - Bác nhầm rồi! Chẳng có thằng nào đâu ạ. Toàn thị mẹt.
      Chị vợ lườm chồng:
      - Cái ông nỡm này, con nào chẳng là con.
      - Nhưng giá bu em đẻ được một thằng cu tý thì cũng hay hay.
      Cậu bỗng kêu lên:
      - Ối giời ơi! Bu em ơi! Bác Quốc câu nệ quá, mua đủ mọi thứ. Khổ, bác cứ bày vẽ quà cáp, làm chúng em khó nghĩ quá.
       Dự bảo lũ trẻ:
      - Chúng mày đâu, mỗi đứa một tay mang các thứ này vào nhà cho bác nào!
      Rồi, quay sang tôi, cậu mời:
      - Bác vào nhà xơi nước.
      - Cậu cứ để tớ tự nhiên. Mà này, vườn tược trồng nhiều hoa nhỉ? Thú chơi hoa rồi phỏng?
      Dự xuýt xoa:
      - Lỗi phép bác, hoa hoét em vốn chẳng ưa. Cái anh nhà nông cứ hoa bắp cải mà chơi là đẹp nhất. Nhưng em là cán bộ, cũng phải có mấy luống hoa cho gọi là có văn hoá. À, mà cũng ăn lắm đấy bác ạ. Nói mình bác biết: dịp vừa rồi, vừa hoa đám cưới, đám ma, vừa hoa hội nghị lung tung xoè em cũng thu được những hai chục ngàn có dư đấy. Ngon ăn, nên ra giêng, em định phá tiệt cả vườn cây ăn quả để...
      - Thế thì phí quá - Tôi nói và chỉ những cây cam vàng rực quả chín - Mấy cây cam kia chẳng phải là một bức tranh tuyệt đẹp sao?
      - Vẫn biết là đẹp, lại ăn được, phá đi kể cũng tiếc. Nhưng thôi, cái gì lợi thì ta làm. Bác tính, nếu như cả khu vườn này trồng hoa hết, em sẽ thu hoạch gấp mười lần tiền bán cam. Nhà quê bây giờ chơi hoa chẳng kém gì ngoài tỉnh đâu. Ấy chết, ta vào nhà đi bác! Nghe em huyên thuyên có mà hết ngày.
      Dự dắt tôi vào nhà. Tôi sững người lại, không tin nổi ở mắt mình nưã. Ở gian chính giữa, Dự  kê một chiếc tủ chè cổ khảm trai. Trên mặt tủ, chiếc lư đồng mắt cua nghi ngút hương trầm. Phía sau là hai cái độc bình cỡ lớn đỡ lấy chiếc mâm đồng chạm thủng thành cảnh một đám ruớc làng thời xưa. Đồ cúng xếp thành từng chồng: mười cái bánh chưng, mười hộp kẹo Sừu Châu, bốn cây thuốc ba số năm và bốn chai rượu ngoại. Phía gian bên phải, dưới chiếc đồng hồ mười gông là chiếc Cúp bẩy mươi phân khối màu đỏ ớt được phủ kín bằng vải ni lông trong suốt.
      Mời tôi ngồi xuống chiếc sập gụ bóng loáng kê ở gian bên trái xong, Dự khoe:
      - Chả giấu gì bác, mấy năm nay em ăn nên làm ra, cũng có bát ăn bát để. Đúng là cha mẹ hiền lành để phúc cho con! Chứ hồi còn ma các cụ, nói bác bỏ quá, đến cái xoong nhôm nhà mình cũng không có, chỉ toàn dùng nồi đất; trời rét thì nằm ổ rơm thu lu lại cho ấm. Bác còn lạ gì em? Học thì dốt, cày thì dát; tưởng chẳng làm nên công chuyện gì. Thế mà nhờ lộc giời lộc phật, cũng được mát mặt. Nói có mặt giời chứng giám, người ta làm ăn nó có số cả đấy bác ạ!
      Tôi cười:
      - Tớ phục vợ chồng cậu sát đất đấy. Một nách mấy đứa con thơ mà cơ ngơi đủ cả vườn cây ao cá, nhà ngói cây mít thì giỏi thật. À, cậu  nuôi nhiều lợn lắm phải không?
      - Chắc bác chưa quên, em vốn tính sợ bẩn, chúa ghét cái cảnh lợn gà. Thú thật với bác, từ hồi vợ chồng em về ở với nhau đến nay đã đủ năm mặt con, chúng em tịnh không nuôi một chú ỉ nào cả. Bác bảo nuôi người còn không xuể, nuôi sao được lợn? Cái lũ lợn đen đầu nó ăn uống, nó gào thét cũng đủ làm nhược lử người ra rồi. Lợn gà nhà em nuôi ngoài chợ,  muốn ăn thì xỉa tiền ra lôi về, chả thiếu...
      - Đúng! Nuôi lợn thì cầm cái vất vả là chắc rồi.
      - Mà lúc nào cũng thấp thỏm nữa. Nay lo lợn dịch, mai lo lợn toi! Nói bác đừng cho em là xịa người, có nhà người ốm thì chẳng thấy lo, còn con lợn ốm thì rối tinh rối mù lên lo thang thuốc, cháo não! Tội lắm! Đến lúc bán lợn tưởng được món tiền to, ai ngờ tiền giống má, cám bã, rau cỏ lại quá cả số tiền thu được. Con lợn thịt ta nuôi cũng giống như con lợn đất, bóp mồm bóp miệng, bỏ vặt thu tột, lời lãi gì bác? Em tính thế nên bảo bu nó chẳng dại gì mà lợn gà cho mệt xác. Chứ vừa đi làm đồng về đã băm băm nấu nấu, cám cám bã bã thì chẳng mấy nả mà lên vai làm bạn với ông sáu tấm. Thì giờ lợn gà để mà khểnh cho nó mát.
      Bỗng nhớ lại những kỉ niệm thời thơ ấu, tôi hỏi:
      - Cái ao nhà chắc vẫn lắm cá, Dự nhỉ?
      Dự hể hả ra mặt:
      - Còn phải nói! Năm nào em cũng thả cả ngàn con giống không mất tiền .
      - Người ta biếu hay là cậu tự đi vớt cá bột lấy?
      Dự ghé vào tai tôi, cười ranh mãnh:
      - Cậu em bu nó là đội trưởng đội cá. Ao nhà ta chỉ cách ao hợp tác có một cái bờ con, lúc thả cá, cậu nó cứ đổ ào cái của giời cho không kia xuống bờ! Em được tiếng là chẳng bao giờ thèm bấu sấu một con tôm cái tép của hợp tác xã cơ đấy.
      Nói tới đây, Dự khoái trá cười lên ha hả.
      Chợt nhìn thấy hai bức truyền thần song thân Dự, tôi đứng dậy, trịnh trọng bê gói quà tết đặt lên bàn thờ, thắp ba nén nhang.
      Dự chắp tay đứng bên cạnh, thấy tôi chỉ vái mà không khấn, cậu lầm rầm:
      - À hèm, Việt Nam quốc, à, Sơn Nam tỉnh...à, Cầu Đá thôn - Cậu suýt suýt một hơi dài, tiếp - nhất thứ Nguyễn Quốc, a... đồng gia đẳng hữu Phạm Dự... bạc soạn lễ... lòng thành... tổ tiên... chúa đất linh quân... táo phủ... À hèm...
      Khấn xong, Dự  quỳ sụp xuống lạy bảy lần, đổi giọng:
      - Em đã khấn cho bác rồi. Qua Tết, nhằm ngày rằm tháng giêng, tiện hôm bác về dự đám giỗ thầy, anh em ta sẽ cùng nhau đi sửa mộ cho các cụ.
      Vợ Dự lễ mễ bưng một mâm cơm lên:
      - Chả mấy khi bác về, gọi là có dưa muối, bác dùng tạm.
      Dự bảo vợ:
      - Bu em cũng thu xếp cho con nó ăn luôn thể. Cứ mặc tôi tiếp bác. Anh em tôi muốn hàn huyên cho thỏa.
      - Cậu bảo cô ấy và các cháu ngồi cùng cho vui. Tớ thích cảnh gia đình.
      Dự  chặc lưỡi:
      - Bác dạy thế quá lời. Bu nó đàn bà con gái, ngồi với lũ trẻ là được rồi. Cho chúng nó lên, đứa bốc, đứa húp xì xụp, đứa khóc mếu, em chưa chắc đã nuốt nổi chứ đừng nói đến bác chân son. Thôi, vô phép bác, ta vào mâm ạ. Trong nhà cũng chẳng thiếu gì đâu.
      Mâm cỗ vợ chồng Dự làm đãi khách có tới ba tầng. Dưới là bốn bát vừa nấu vừa ninh. Giữa là bốn đĩa xào. Trên cùng là nem, chả, giò, thịt gà luộc, trứng rán và gỏi cá, bò tái...
      Dự trịnh trọng mở nút chai rượu. Bọt sủi lên trắng xoá tràn ra khỏi ly uống rượu chân cao bằng pha lê Pháp.
      - Tính em thế. Không kiếm được thì rau mắm, lúc dư giả thì cũng thích đập phá cho đã đời! Nhà vẫn còn hai hũ “ quốc lủi” thượng hạng, nhưng được tin bác về chơi, em phải nhờ thằng hàng ăn trên tỉnh mua mấy chai “châm banh”, mấy chai “ Na ba ông” này cho sang.Vui thì phải tốn kém chứ bác! 
      Chúng tôi uống rượu.
      - Dạo này em sinh ra thực tế bác ạ. Của thiên trả địa, kiếm được bao nhiêu cứ gửi anh bạn ruột là chắc chắn nhất. Bác còn nhớ cụ đồ Xưông dạy đời “có có không không” không? Ôi dào, đã thế thì không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài bác nhỉ? Cuối năm nay mà bu nó lại thêm một thị mẹt nữa, nhất định em sẽ lấy vợ hai đấy!
      - Cậu là cán bộ, không sợ mang tiếng ư?
      - Bác không biết đấy thôi, ở xã ta, ông chủ tịch đã năm tám còn lấy vợ bé vì không có con giai nữa là. Một con một của, bác bảo ai mà từ  cho được?
      - Nhưng lấy gì mà nuôi được chúng?
      - Giời sinh voi ắt giời phải sinh cỏ, bác lo xa làm gì cho già người đi!
      - Tớ lại nghĩ khác. Đồng ý là trời sinh voi, trời sinh cỏ nhưng voi nhiều thì chỉ có cỏ úa thôi. Cậu có gan nhìn con cái đói khát và rách rưới không?
      - Nói bác đừng cho là em ăn to nói nhớn, có hàng tá con em cũng cóc sợ! Cứ đẻ, còn nuôi thì đã có xã hội...
      - Xã hội! Cậu gù lưng làm nuôi chúng thì có - Tôi vừa tủm tỉm cười vừa nói.
      Dự đập tay xuống sập, vỗ đùi đen đét, cười sằng sặc:
      - Bác đừng tưởng em như ếch ngôi đáy giếng nhé! Bác bỏ quá, em cóc cần làm nhưng vẫn thu bằng hàng chục người kia! Thời buổi nào chẳng có thằng còng làm cho thằng ngay ăn hả bác? Có điều thằng còng là thằng ngu! Thằng ngay rõ ràng là xấu rồi! Nhưng, nó là thằng khôn...
      Nốc cạn ly rượu, Dự tiếp:
      - Thật đã đời, rượu ngon lại có bạn hiền. Em tiếp bác ly nữa nào. Khà, em đang nói chuyện gì nhỉ...
       Thấy mặt Dự ngây ra, tay vỗ vào trán bồm bộp, tôi nhắc:
      - Cậu đang nói đến kẻ dại, người khôn.
      - Vâng, em nhớ ra rồi! Em là một thằng khôn! Khôn lỏi ăn người! Nhưng thời thế thế thời phải thế bác ạ. Khôn mà không biết thời thế thì cũng dễ rũ tù! Cái món khoán sản phẩm theo từng công đoạn sản xuất hay lắm đấy! Nhà nước và hợp tác xã thì lợi đứt đuôi nòng nọc rồi. Còn dân chúng thì sao? Họ hí hửng làm nhiều thì sẽ đầy túi! Nhưng họ không biết rằng vỏ quýt dày thì ắt có móng tay nhọn. Em thấy lúc này là lúc đục nước béo cò nhất. Nhờ ơn trên, mấy năm nay em phất lên  như diều gặp gió...
      Tôi chưa kịp hiểu đầu cua tai nheo ra sao thì Dự  đã bô bô kể:
      - Trước đây, chưa khoán ruộng cho xã viên, chúng em chỉ dám ăn cò con lén lút thôi. Chủ yếu là lận vào các khoản liên hệ phân bón, tiếp cánh máy cày, đi thuê bơm nước... Chỉ sướng riêng cái lỗ mồm mình! Còn vợ con ư?  Vẫn vét niêu sồn sột! Bác bảo như thế thì có gì là vui thú? Nhưng kể từ khi ruộng được khoán, cán bộ đội sản xuất mới thực sự là những ông vua con. Phân bón chúng em chỉ bán chiếu lệ còn thì cho đi ở hết. Nhưng bở nhất vẫn là cái diện tích bác ạ. May mà hòn đất nó không biết nói, chứ không thì em chẳng còn cái răng nào để mà gặm đùi gà hôm nay đâu...
      Tôi trố mắt ngạc nhiên:
      - Cậu bảo diện tích béo bở là thế nào?
      Dự gật đầu, lè nhè:
      - Bác không nghĩ ra ngay được cũng đúng thôi, vì đó là xiếc mà lại. Bác biết đấy, nông dân đa số ít học, tính lại đại khái, cả tin. Lúc chia ruộng, em bảo họ: Phải chia ruộng nhỏ ra, nhà nào cũng có chỗ tốt, chỗ xấu mới công bằng các bác ạ! Thế là chia! Có nhà kia, chỉ có ba sào ruộng, cũng phải nhận tới sáu mảnh. Tất nhiên đã chia thì phải làm cho có chỗ dôi ra. Cứ một mẫu em dư ra được nửa sào. Xã viên chỉ cấy chín sào rưỡi, vẫn phải nộp đủ thóc cho cả mẫu. Chỗ thừa em giao cho một người cấy và thu. Cứ vậy, mỗi vụ nhà em chỉ cấy hai sào chiếu lệ, vẫn có cả tấn lúa, vài chục nghìn tiêu rủng rỉnh...
      Tôi ngớ người ra:
      - Tiền phân bón mà nhiều thế à?
      Dự đắc thắng nhìn tôi, tỏ vẻ thương hại:
      - Bác xa quê lâu, không còn biết cách làm ăn nông gia nữa. Tiền phân gio em nói lúc nãy chỉ đủ tiền chè thuốc vặt hàng ngày thôi. Số tiền lớn phải là tiền bán công điểm và lúa non.
      - Công dư ra giữa khoán của hợp tác xã với khoán của đội sản xuất chứ gì?
      - Đúng! Ai không cấy ruộng thì mua điểm. Mùa vẫn được lĩnh thóc như người cấy.
      Tôi vẫn chưa hiểu hết:
      - Còn lúa non?
      Dự cười:
      - Ở chỗ ruộng thừa ra ấy chứ còn ở đâu? Không bán trước đi, em lấy kho đâu mà chứa hết cái thứ của nợ ấy! Chả là mượn gió bẻ măng bác ạ. Hợp tác xã cho đội sản xuất ba tạ lúa bán lấy tiền chi tiêu phụ cho họp hành, ngoại giao. Thế là hợp lý rồi, ai mua em cũng bán cho ba tạ. Tất nhiên có người biết, nhưng vì vớ được món hời, họ vẫn phải lờ đi: giá lúa non em để cho họ chỉ bằng một nửa giá luá ngày mùa thôi bác ạ. Bác xem đấy, đồ đạc nhà em có thiếu cái gì đâu. Công an huyện nghi làm ăn bất chính, có về khám nhà hai lần, xem lại sổ sách , cũng chẳng dò ra được một cái kim sợi chỉ. Em lại sai cậu em bu nó tung tin hôm vét ao cá, em được ba thỏi vàng.
      - Thảo nào - Tôi vỡ lẽ - Thế mà hôm bà bác ở quê ra tỉnh chơi, kể chuyện dân làng đồn đại cậu được của, tớ cứ nghĩ là thật...
      - Nói thật có mà mất đầu - Dự trợn mắt lên - Có bác là chỗ cố tri, lại không ở quê, em mới dám nói, chứ ngay cả nhà bà bác làm bí thư huyện có gặng hỏi em cũng chỉ đánh trống lảng thôi.
      Vợ Dự  tiếp thêm giò vào đĩa.
      - Bố nó tửu nhập ngôn xuất, nói chả ai tin được! Mong bác bỏ quá cho...
      Dự dằn cái ly xuống mặt sập, gầm gừ:
      - A!  Mày dám chặn họng ông à? Láo nhỉ? Mới học đòi được cái thói bình đẳng bình điếc len vào chuyện đàn ông hả? Thôi đi ra, kẻo ông mà cáu...
      Dự đổ rượu ồng ộc vào ly. Tôi ngăn lại:
      - Tửu bất khả ép! Cậu cũng đã say rồi.
      - Cứ uống, cứ uống đi bác! Bác về đây... chỉ có em... Bác làm...ly nữa...ờ...
      Dự nhấn tay tôi xuống. Rượu tràn khỏi ly ra mặt sập.
      Thấy tôi buông đuã, Dự gọi với vào nhà trong:
      - Bu em đâu rồi. Mang đồ đét se cho bác dùng.
      Vợ Dự lật đật chạy ra, chùi chùi tay vào vạt áo, rồi lễ mễ bưng một đĩa cam bổ sẵn thành từng miếng vàng óng:
      - Gọi là cây nhà lá vườn, bác dùng tạm.
      - Cám ơn! Cứ cho tôi tự nhiên... như người nhà.
      - Nhớ mang khăn và nước để bác lau miệng - Dự lại giục.
      Chị vợ răm rắp làm theo.
      - Đàn bà nó phải thế! Em phải uốn từ lúc mới lấy nhau mới được như vậy! Chứ trước kia, một thời nó đã là bí thư đoàn thanh niên xã cơ đấy! Cũng đáo để ra phết!
      Tôi lặng đi.
                                ***
      Giữ đúng lời hẹn với Dự, nhằm ngày rằm tháng giêng, tôi về quê thắp hương cho tiên tổ và dự đám giỗ cụ đồ Xướng.
      Ngoài tôi, Song, Dự là những học trò cuối cùng của cụ đồ còn có cả những đàn anh theo học cụ trong những năm năm mươi. Trong số ấy có bốn ông thầy cúng, bốn ông đã là cán bộ then chốt của nhà nước. Đó là các ông Nguyễn Tuấn, Phó chủ tịch tỉnh;  ông Lã Huy Vịnh,  Giám đốc Sở giáo dục; ông  Trần Công Tam, Giám đốc nhà máy dệt tơ lụa; ông Phạm Hải, Giám đốc Sở tài chính tỉnh. Cả bốn ông này đều đi xe con. Riêng ông Hải còn cho cả ba đứa con cùng về giỗ thầy cũ.
      Dự là người đứng ra tổ chức đám giỗ. Theo chỉ dẫn của cậu, chúng tôi quì trước bàn thờ cụ đồ. Dự thắp mười một nén hương, khỏa trên đầu mọi người một vòng rồi cắm vào bát nhang.
      Bốn ông thầy cúng đồng thanh đọc bài văn tế sống thầy do chính cụ đồ làm lúc sinh thời.
      Thấy trẻ con kéo đến xem đông nghịt, Song lẻn ra đằng sau, dọa:
      - Đứa nào về nhà đứa ấy ngay! Các bác tưởng niệm cụ đồ chứ có gì lạ mà xem nào!
      Mấy đứa con gái Dự lấp ló. Đứa nào cũng diện áo len đỏ, tay áo đã đen bóng vì quệt ngang mũi nhiều lần; mỗi đứa cầm một nắm xôi, miệng nhai tóp tép.
      Vợ một ông thầy cúng ghé vào tai người đàn bà bên cạnh:
      - Đấy, người ta sống có thủy có chung cũng khác! Lên ông to bà nhớn rồi vẫn không quên ơn người khai tâm. Thế mới là người có phúc, có đức! Chứ trẻ con bây giờ ấy à, cha mẹ đẻ chúng nó chứ, chưa ăn cháo đã đá bát. Thầy đi trước, đi sau nó đã dứ dứ nắm đấm...
      Bà kia bảo:
      - Các ông ấy giỗ thầy đồ cũng vì cả lẽ ấy. Ông nhà tôi bảo đám giỗ không phải chỉ dành cho người âm đâu. Cho người sống nhỡn tiền là chính...
      Một bà khác chặc lưỡi:
      - Các chị bảo cúng giỗ chẳng cho người sống thì cho ai? Người ta chết rồi đều ra đất tất!
      Bà kia ngúng nguẩy:
      - Cái nhà chị này quen ăn nói bỗ bã, không sợ phải tội chết à! Người ta chết chứ hồn thì vẫn sống. Nhà chị không nghe các ông ấy đang gọi hồn kia ư ?
      - Hồn với lại chả vía! Các ông cán bộ ai tin cái duy tâm nhà chị? Tôi nghe bác Vịnh bảo đây là việc giáo dục.
      - Này chị, giáo dục là cái gì? Hồi cải cách chị cũng học bình dân học vụ hết i tờ rồi đấy nhỉ?
      - Gớm, bình dân với lại học vụ! Đội cải cách bảo tôi đi thì tôi đi chứ có biết chữ nào dọc, chữ nào ngang đâu? À, thế chị bảo nó là cái gì?
      - Rõ vớ vẩn cái nhà chị này! Ông năm mươi hỏi ông năm mốt thì nhà chị lại đi hỏi người ta...
      - Chốc nữa hỏi giáo Song ấy. Chắc anh ta biết - Một bà nói.
      Dự vẫn ôm mặt, che miệng bằng khăn, kêu như khóc: “Ơ hơ hơ, thương thay! Ơ hô hô...”.
      Chúng tôi cũng che miệng, cúi đầu, đồng thanh như trẻ con đọc bài: “Thương thay! Ô hô... thương...”.
      Lễ thầy đồ xong, cơm rượu được bưng xuống. So với hôm tết, các mâm cỗ cúng có vẻ khiêm tốn hơn. Dự cho làm hai mươi mâm để mời xóm làng, chủ yếu là các bậc bô lão. Cậu đề nghị:
      - Thưa các cụ, các bác! Cụ đồ Xướng tạ thế cách đây gần hai mươi năm. Cụ không có người nối dõi tông đường hương khói. Song không phải vì thế mà vong linh cụ phải ngậm ngùi nơi chín suối. Chúng tôi, anh em đồng môn được cụ đồ khai tâm, đã coi nhau như anh em một nhà, về đây giỗ cụ! Vong linh cụ đã chứng giám lòng thành của chúng tôi. Bây giờ, tôi đề nghị các cụ, các bác nâng chén mừng cuộc hội ngộ huynh đệ của chúng tôi.
      Nghe Dự nói thế, một ông thầy cúng ngăn lại:
      - Chú Dự nói nghe không lọt tai. Hồi còn ma cụ đồ, cụ vẫn dạy không nên cá đối bằng đầu.
      Mọi người chưa hiểu ông thầy cúng định nói điều gì thì ông đã tiếp:
      - Cụ dạy “phú” mới sinh ra “lễ”, “ quý” mới sinh ra được “nghĩa”. Anh em ta quí nhau, cũng nên lấy nghĩa mà đáp lễ nhau cho phải phép.
      Dự cười xòa:
      - Ý bác muốn các bậc đàn anh sẽ ngồi riêng một mâm, còn bọn đàn em..
      Ông thầy cúng gật đầu lia lịa:
      - Chí phải, chí phải! Chú cũng thông kim bác cổ ra phết đấy.
      Dự quay sang hỏi chúng tôi:
      - Các bác dạy thế nào ạ?
      Ông Huy Vịnh cười mỉm rồi nói:
      - Tôi nghĩ, trước anh linh cụ đồ, chúng ta nên bình đẳng vì ai cũng chỉ là học trò. Mà đã là học trò của thầy, ta cứ ngồi chung là hay nhất. Đúng không chú Quốc?
      Tôi tán thành:
      - Thầy chúng ta vốn xem nhẹ hư danh, ghét các hủ tục. Bác Vịnh nói đúng ý thầy rồi đấy ạ.
      Dự hể hả:
      - Vô phép các bác, mười một anh em ta ngồi một chiếu mà lại hay. Nếu các bác đồng ý như vậy thì cánh áo ngắn bọn em rất lấy làm vinh hạnh.
      Một thầy cúng vỗ đùi cười ha hả:
      - Hay, hay! Chú Dự bé là bé hạt tiêu thôi! Chứ khoản ăn nói thì ra dáng trò cụ đồ lắm. Nói các bác để ngoài tai, tôi xem vong linh cụ thiêng lắm; ứng khẩu vào ai là lời lẽ cư tuôn ra như nước chảy ngọc rơi vậy. Nhờ cụ, rồi ai cũng sẽ làm nên cho mà xem.
      Dự có vẻ khoaí chí, khen:
      - Bác vẫn là người thạo cái môn âm dương địa lý; nói cứ như thánh sống. Như em đây chẳng hạn, dù chưa mở miệng xin xỏ  một nhời mà xã vẫn chọn em cho đi học đại học nông nghiệp tại chức.
      Ông thầy cúng có chiếc răng vàng giờ mới lên tiếng:
      - Con cái lốc nhốc một đàn như chú, tuy chí hướng chưa lụi, nhưng liệu việc học có  nên tấm nên  miếng được không?
      Ông Hải cười vang:
      - Sao lại không được? Chú Dự nên khắc phục khó khăn để hưởng quyền lơi cao quí này!
      Dự bỗng xua xua tay, nói:
      - Nói các bác đừng cho là em thối chí, em cũng lo học hành mà chẳng nên cơm cháo gì...
      Ông Tam giật giọng, hỏi:
      - Sao vậy?
      - Chả là - Dự nói - Học bổ túc như em là học cóc nhẩy. Các bác tính xem, có đời thuở nào hai năm học ba lớp không? Thi cử thì tội vịt chưa qua tội gà đã đến. Khổ nỗi em lại là lớp trưởng, năm học  nào cũng chỉ lo quà tặng cho các thầy, có được chữ nghĩa nào vào bụng đâu.
      Ông Hải nghe Dự  nói thì ngạc nhiên ra mặt:
      - Thế thì cậu thi hết cấp ra sao?
      - Dạ, em cũng đỗ loại khá cơ đấy ạ - Dự cười trừ.
      Ông Tam chép miệng:
      - Lạ nhỉ!
      - Có gì mà lạ bác -Dự  phân bua - Cả lớp đỗ loại khá chứ  riêng gì em!
      - Thật à? Ông Hải hỏi, tỏ ý không tin chuyện Dự vừa nói là thật.
      Như đoán được mọi người đang nghĩ gì , Dự giãi bày:
      - Chẳng giấu các bác, bài thi thầy đọc cho chép từ đầu đến cuối, không đỗ được, có mà là ma!
      Tôi cười nụ:
      - Thế thì phải đỗ loại giỏi mới phải chứ! Sao chỉ đỗ loại khá?
      - Vâng, nếu chép đủ lời thầy thì giỏi đứt đuôi rồi. Nhưng thú thật, cả lớp chẳng có tướng nào chép đúng trăm phần trăm cả!
      Tất cả  ồ lên, cười chảy cả nước mắt. Chỉ có Dự là vẫn tỉnh khô:
      - Chuyện các bác bàn em nghe chưa thủng. Nhưng ai mà chẳng cần có thêm tí chữ nghĩa để soi sáng đường đi nước bước của mình? Em thấy ngay cả việc ủ phân cũng cần có kĩ thuật cơ đấy!
      Bưng cốc rượu bằng hai tay đưa cho tôi, Dự nói khẽ:
      - Mấy hôm nữa em lên tỉnh thi đại học, bác cố giúp rập cho nhé...
      Tôi nâng cốc:
      - Thì cậu cứ đi thi đi...
      Dự uống cạn cốc rượu, tươi cười:
      - Rồi bác sẽ thấy tên em trong danh sách thí sinh thi đỗ. Vì, nếu em mà trượt, ắt cũng chẳng có ai đỗ được đâu!
                                          ***
        Năm ấy, không rõ thi cử như thế nào đấy, Dự có được số điểm vừa đủ đỗ. Rồi bốn năm sau, cậu cũng lấy được tấm bằng tốt nghiệp đại học tại chức. Nghe phong thanh, nhờ sự nâng đỡ của ông Tuấn, ông Vịnh, ông Hải, ông Tam nên Dự cứ tiến lên vù vù; chẳng mấy chốc, cậu ta đã trở thành Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp tỉnh.
       Điều trớ trêu là chức vụ chỉ đem lại bất hạnh cho gia đình Dự. Cuối năm ngoái, vợ Dự hớt hơ hớt hải chạy đến tìm tôi báo tin Dự đã bị bắt vì tội làm thất thoát hàng tỉ đồng của nhà nước. Cô van lơn tôi, với tư cách là một thẩm phán trong phiên xử Dự và đồng bọn sắp tới, hãy vì tình họ hàng, tình bạn thời thơ ấu mà cố tìm ra được một cách gì đó để giảm tội cho cậu ta.
      Thức trắng nhiều đêm đọc hồ sơ vụ án, tôi biết mình hoàn toàn bất lực trong việc cứu Dự thoát khỏi tội chết. Có những đêm, trong khi nửa mê nửa tỉnh, tôi đã khóc nức nở, cảm thấy hổ thẹn vì những lời nói và việc làm vô tình của mình trước đây đã ít nhiều khiến Dự ngộ nhận.
      Sáng hôm qua, tôi vào nhà giam thăm Dự. Cậu ta vẫn quả quyết với tôi rằng cậu chỉ nhận tiền biếu mà người vay tiền của ngân hàng trích lại; rằng, dù chỉ một đồng xu nhỏ của nhà nước cậu cũng chẳng dám tơ hào tới, rằng...
      Lúc sắp chia tay tôi, đang thao thao tự biện hộ cho mình, Dự bỗng hạ thấp giọng, buồn buồn bảo:
      - Nói bác bỏ quá cho, thằng em ngã keo này đau lắm! Bị người ta lừa đã là một nhẽ! Đằng này lại vướng chân vào chính cái lưới mẹo vặt mà mình vẫn giăng ngoài đời trong nhiều năm qua! Nên càng nghĩ, càng hận mình...
      Tôi ngạc nhiên, kêu lên:
      - Ô hay, cậu nói văn hoa như vậy có nghĩa là thế nào, Dự?
        Người bị tạm giam không trả lời, chỉ hơi nhếch mép, cười một nụ cười bí hiểm...
 
 
 
 
 
 
 
                       BÀI THƠ MỘT CHỮ
 
      Thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ thật thà như đếm. Cả dòng họ nói tính tốt ấy là do tổ tiên ban cho đứa cháu nghèo. Quả thật, nhà tôi nghèo đến mức cứ trông thấy cơm là tôi thèm có thể khóc lên được vì thương thân, tủi phận.
      Vào ngày họ làm đám giỗ cụ tằng tổ, tuy chỉ bé như cái kẹo, nhưng do được cụ trưởng họ bổ theo lệ một suất đinh, tôi cũng được gọi đến để trình diện trước bàn thờ tiền nhân.
      Đến lượt, tôi phủ phục xuống trước ban thờ lớn đang nghi ngút hương trầm. Lúc ngẩng đầu lên, tôi thấy giữa hai cái độc bình lớn, cái bên phải cắm một thanh gươm, cái bên trái cắm một cây bút lông, một mâm xôi gấc vàng óng ánh những mỡ gà; bên trên là một cái thủ lợn lớn. Vái xong, tôi đứng dậy, lầm rầm khấn.
      Mâm xôi níu chân tôi lại. Thừa lúc cụ trưởng họ quay ra ngoài gọi một tay đinh khác vào trình tổ, tôi thò tay véo một nắm xôi nhỏ, giấu lẹm vào túi áo nâu. Lẻn ra ngoài ngõ, tôi ngồi tựa lưng vào một đụn rạ, lấy xôi ăn trộm được ra ăn.
      Chính ngọ, mâm lễ được hạ xuống. Cụ đồ Bỉnh, trưởng họ nhìn chăm chắm vào chỗ xôi bị khuyết, giọng lạc đi:
      - Các cụ thương con cháu nghèo nên chỉ nếm tí chút hương hoa...
      Thấy tôi tái mặt đi, cụ trưởng họ hỏi:
      - Có đúng như vậy không, cháu?
      Tôi lí nhí:
      - Không đúng! Cháu thèm quá nên đã véo một miếng.
      - Trời ơi ! Bố tôi đứng bên cạnh kêu lên.
      Rồi ông nắm lấy tay tôi, lôi xềnh xệch về nhà.
      Tôi ăn đến cái roi mây thứ mười thì cụ trưởng họ tới. Cụ nắm lấy cái roi trong tay bố tôi, can:
      - Cháu nó trót dại. Nhưng nó đã không lừa ai. Con nên tha trước, rồi dạy dỗ sau.
      Bố tôi buông roi, chắp hai tay, lạy:
      - Con xin  lĩnh  lời thầy. Xin thầy xá tội bố chưa dạy bảo con đến nhẽ.
      - Thôi được - Cụ trưởng họ nói - Ra ngoài rằm, con cho nó đến nhà ta học lấy ít chữ  thánh hiền.
                                  ***
       Lớp học toàn trẻ con trong xóm. Dĩ nhiên cụ đồ chỉ dạy chữ nho. “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, sáu chữ này thầy dạy viết và giải nghĩa mất vị chi là chín buổi. Rồi “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, “Trung, hiếu, tiết, nghĩa”. Về sau, thầy bình cả thơ đường luật. Hầu hết là thơ tứ tuyệt, do thầy trước tác.
      Cụ đồ về với tổ tiên vào đúng ngày xã tôi khánh thành trường cấp một xây ở cạnh một ngôi chùa cổ. Năm ấy, tôi đến trường học chữ quốc ngữ. Càng lên các lớp trên, vốn chữ nho thầy đồ Bỉnh truyền cho chúng tôi cứ ngày một rơi rụng dần. Riêng tôi, học thầy hơn một ngàn chữ, lúc ấy không nhớ nổi lấy vài trăm. Bố tôi hay phàn nàn rằng, trước lúc mất, thầy có để riêng cho tôi một bài thơ, nhưng không rõ cụ viết vào giấy nào. Mà có tìm thấy nó, không biết tôi có còn đủ chữ  để đọc và hiểu rõ nghĩa không!
      Mấy chục năm đã trôi qua, lòng tôi vẫn canh cánh bài thơ cuối cùng của thầy. Tiếc là cả dòng họ lục tìm mọi bút tích của cụ đồ, vẫn tịnh không thấy.
      Hè vừa qua, tôi vượt gần hai ngàn cây số về thăm quê. Rồi bố tôi và tôi, một tóc đã trắng như mây, một mái đầu cũng đã điểm nhiều sợi bạc, lại dắt nhau đến nhà thờ họ. Bố tôi bảo bài trí trên bàn thờ họ thầy tôi đã xếp đặt lại ngay sau ngày tôi véo nắm xôi kia, đến hôm nay vẫn chưa hề thay đổi. Trước bài vị tổ tiên, vẫn hai chiếc độc bình lớn, một cắm thanh gươm, một cắm cây bút lông theo thế nghiêng vào nhau...
       Tôi mở to mắt, ngạc nhiên, kêu lên thảng thốt:
      - Bố ơi! Bài thơ kia kia kìa! Chỉ độc có một chữ...
      Bố tôi bảo tôi đọc bài thơ. Nghe xong, ông ngồi sụp xuống, ôm lấy mặt. Một lát sau, ông nắm lấy tay tôi, khẽ khàng nói:
      - Bố biết con học cao, đi nhiều, biết lắm. Song bố cũng cứ hỏi thật: con đã thấu chữ nhân thầy để lại chưa?
      Nghe bố hỏi vậy, tôi ứa nước mắt, mặt nóng rực lên.
 
 
 
 
 
 
                             

 
 
                                    ĐÒN DUYÊN
 
      Lúc ấy trời vừa chạng vạng tối. Tứ đang tìm lối rẽ vào nhà Bông thì bất ngờ bị quật ngã. Không kịp kêu lên một lời. Cũng không thể dùng những miếng võ hiểm mà anh đã học được trong thời gian tại ngũ ở một đơn vị trinh sát. Bởi lúc ấy, Tứ đã kịp biết bọn chặn đánh anh có tới bốn đứa. Một gã to như con trâu mộng, hai bàn tay cứng như đôi gọng kìm sắt, cố lấy hết sức đè lên lưng Tứ, dúi đầu anh xuống bùn. Ba gã kia, đứa kéo chân, đứa lấy chân đạp vào mông Tứ, đứa ráng sức thoi từng quả đấm nặng như quai buá tạ vào vai, vào những chỗ hở ở lưng anh.
      Thi thoảng, gã to như con trâu mộng lại túm lấy tóc Tứ, kéo giật về phía sau. Hình như gã cố ý làm như vậy vừa là để cho anh khỏi bị chết ngạt, vừa để cả bọn có dịp nhận rõ mặt kẻ bị đòn. Những lúc ấy, Tứ rất sợ bị chúng đấm vào mặt, hoặc lật ngửa người anh lên để thoi vào bụng, vào ngực. Nhưng tuyệt nhiên chúng không ra những đòn chết người kia. Chúng chỉ giật ngửa mặt anh ra để anh nghe những lời đe dọa mà thôi.
      - Quả này trị tội thích gái làng Hạ!
      - Quả này nữa chúng ông cấm chỉ mày mò tới nhà con Bông!
      - Còn quả này, mẹ mày, chúng ông mà còn gặp mày ban ngày ban mặt trên cái đất làng Hạ nhiều bùn lầy nước đọng nữa, thì cứ gọi là tan xương con ạ.
      Một lúc sau, gã to như con trâu mộng bỗng buông Tứ, đứng dậy, bảo đồng bọn:
      - Nghỉ tay một tí rồi giần tiếp đợt hai!
      Tứ không thể nằm chờ chúng ra đòn. Theo bản năng, anh vuốt bùn trên mặt, vùng dậy, chạy. Sau lưng anh, chỉ có những tràng cười hô hố, đầy thỏa mãn của bọn du đãng đuổi theo. Tới cống Quay, yên chí không có kẻ nào đuổi theo nữa, Tứ nhảy xuống sông tắm. Nước sông Ngọc mát lạnh khiến anh tỉnh táo hẳn. Nhưng bọn chặn đánh anh là những kẻ nào thì anh vẫn chưa nghĩ ra. Vì anh nào có xích mích gì với ai bên làng Hạ?
      Ô, hay là chúng nó làm theo tập tục cổ! Cái tập tục lạc hậu cấm trai làng khác lấy con gái làng ngày xưa bây giờ đâu còn nữa? Ờ, nhưng mà... Biết đâu lời chị Mơ, chị gái ruột của anh dặn là đúng? Chị Mơ chẳng nói cái Bông vừa xinh, vừa đảm đang nên chẳng thiếu trai làng Hạ đánh tiếng định dạm hỏi đấy ư? Vậy thì đúng là một trong những đứa ấy rồi. Nó rủ chúng bạn ngăn Tứ đến nhà Bông đây! Đã vậy thì Tứ phải cho chúng biết ai thắng ai. Tiếc là chúng đâu dám cả gan một chọi một! Chứ  vốn võ nghệ Tứ học được khi là trinh sát trong quân đội đâu phải là xoàng. Nếu không bị đánh bất ngờ, chưa chắc bốn kẻ kia đã hạ Tứ đo ván như hồi nãy. Mà thôi, cũng chả cần đối mặt với chúng nữa! Người mà Tứ đang cần chinh phục là Bông kia. Với Bông, chỉ cần những lời ngọt ngào, đáng yêu. Bông đâu cần những kẻ thượng cẳng tay hạ cẳng chân vũ phu kia? Và, làm sao thì làm, Tứ phải tới được nhà, ngồi tâm tình, giãi tỏ tình cảm chân thật của mình với cô là thành công rồí! Tứ chẳng cần đếm xỉa tới lũ côn đồ kia. Tránh voi chẳng xấu mặt nào! Vì tình, Tứ sẽ tìm trăm ngàn lối khác để đến với Bông. Không đến ban ngày thì anh sẽ tới vào ban đêm. Miễn là Bông chịu lời anh. Rồi, khi bố mẹ cô đã chịu nhận trầu, dù bọn phá đám kia có phép giời cũng chẳng thể xoay nổi tình thế. Nghĩ đến đó, Tứ thấy lòng nhẹ nhõm hẳn. Anh bỗng tưởng tượng ra Bông. Cô đang đứng trước mặt anh, khẽ mỉm cười. Vẫn nụ cười mà anh lén nhìn thấy vào hôm nhá nhem tối, chị Mơ làm như vô tình đưa người bạn gái vẫn đi buôn bán dép chung với mình ở các chợ dưới mạn biển về nhà, ngầm giới thiệu cho cậu em út mới xuất ngũ được vài tháng. Cứ theo lời chị Mơ thì Bông rất mến gia đình Tứ. Riêng anh, được chị Mơ cho xem ảnh trước, nói qua về tính tình, Bông tỏ ra rất có cảm tình.
      Còn nhớ sau lúc Bông đã ra về, Tứ hỏi thì mẹ anh vừa quệt trầu vừa tủm tỉm cười, bảo:
      - Ai chứ nhà ông Vải làng Hạ thì mẹ có thể đọc ra vanh vách cho con nghe. Ngày xưa, mùa trăng nào mà trai gái làng Thượng ta không hò đối đáp với trai gái bên làng Hạ. Nghe phong thanh, trước khi dạm mẹ, bố các con đã định hỏi mẹ cái Bông bây giớ đấy! Nếu con ưng con bé Bông, mẹ cho rằng âu đó cũng là có duyên nợ từ kiếp trước.
      Thế rồi, ngay sáng hôm sau, Tứ nhờ chị Mơ đánh tiếng trước cho Bông. Buổi tối, mặc dù người còn đau ê ẩm, tay cầm một thanh tre cật ngắn cho vững dạ, anh cứ theo đường cái làng Hạ mà đi thẳng vào nhà Bông. Đường vắng teo. Chẳng có gã trai nào chặn đánh anh như hôm trước. Hình như nhà Bông có chuẩn bị trước nên khi anh tới, ở nhà chỉ có Bông và một cậu em trai. Thằng bé mang nước vào mời Tứ  rồi lỉnh ra ngoài ngõ chơi với con chó mực. 
      Bên ngọn đèn dầu mờ tỏ, Tứ thấy Bông đẹp quá. Dáng người thắt đáy lưng ong. Đôi mắt đen láy lấp lánh dưới hàng mi cong vút. Nước da Bông trắng hồng như được thoa một lớp son phấn nhẹ. Chỉ hơi ít nói. Lần đầu, Bông ít nói là phải thôi. Nhưng mà chẳng sao! Vì những gì cần nói, cô đã nói qua ánh mắt lưu luyến lúc tiễn anh ra ngõ rồi.
      Tứ đến nhà Bông được sáu lần thì cô bằng lòng để bố mẹ anh sang thưa chuyện với bố mẹ cô. Song cũng chính vào cái buổi tối vui vẻ ấy, trên đường về, anh lại bị bốn gã trai làng Hạ hôm nào chặn đánh giữa đường. May có thanh tre cật, lại không bị bất ngờ, Tứ nhận rõ mặt từng đứa; anh tả xung hữu đột, khiến chúng phải bỏ chạy tán loạn. Gã trai to như con trâu mộng vừa chạy, vừa doạ:
      - Mày dám cưới con Bông không? Chúng ông sẽ phá nát đám cưới cho mày xem!
      Thì Tứ xem chúng nó dám làm gì anh nào. Anh về thưa chuyện với cha mẹ. Cha mẹ anh sắm trầu cau làm lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi cho đôi trẻ êm ru. Rồi theo ước nguyện của Tứ và Bông, hai họ đồng ý cho đôi trai tài gái sắc thành hôn vào tháng sau.
      Trong đám cưới, lúc mọi người vui vẻ nâng chén, Tứ bỗng tái mặt bởi bất chợt nhìn thấy cả bốn gã trai làng Hạ cùng ngồi chung một mâm cỗ. Chúng coi như không hề có chuyện gì xảy ra trước đó, thay nhau rót rượu, miệng bô bô chúc cho hai anh chị hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Đã vậy, thi thoảng, như để trêu ngươi, gã to như con trâu mộng cứ nhìn về phía Tứ, mắt nháy nháy với vẻ mãn nguyện lắm lắm. Lúc họ nhà gái ra về, cả bốn gã trai làng Hạ quây lấy vợ chồng Tứ, cười cười, nửa đùa nửa thật:
      - Anh chị còn nợ chúng em bữa rượu xe duyên! Không đãi ra trò, những ngày tới, anh chị đừng bước chân tới đất làng Hạ nữa!
       Nói xong, chúng cười rũ rượi, bá vai kéo nhau đi. Tứ ức muốn chết mà không làm gì chúng được!
      Sáng hôm sau, thấy chồng cứ nhìn mình chằm chặp, Bông hỏi:
      - Khiếp! Anh nhìn em lạ lắm sao?
      Không muốn giấu nỗi băn khoăn của mình, Tứ  bảo vợ:
      - Anh hỏi thật, em đừng giấu. Sao những lần gặp trước anh thấy em trắng lắm cơ mà? Bây giờ cưới về, sao em lại đen đến thế nhỉ?
      Bông thật thà kể:
      - Thì lần nào anh sang chơi chị Mơ chả báo cho em biết. Chị ấy sợ anh chê em đen, mua sẵn son phấn, bắt em trang điểm để anh vui.
      Tứ cười hề hề:
      - Anh nói là nói vậy thôi. Chứ em có đen như bồ hóng chăng nữa anh cũng vẫn cứ yêu! Bởi để lấy được em, anh đã bị đám trai làng Hạ giã cho một trận y như giã cua vậy! Em biết chuyện này không?
      - Em có biết! Bông ôm lấy cổ chồng, rúc rích cười.
      Vào lúc ấy, sực nhớ ra điều khiến mình còn tấm tức, Tứ bảo vợ:
      - À, Bông này, anh đang định làm đơn kiện mấy gã đe doạ vợ chồng mình đấy! Em thấy có nên không?
      Bông giật thót người:
      - Ấy chết! Đánh nhau vỡ đầu mới nhận ra anh em. Mấy đứa đánh anh nào có xa lạ gì! Đó là thằng Hùng, thằng Dũng, thằng Thắng, thằng Lợi nhà chú Vui và chú Vẻ.
      Nghe vợ nói, Tứ ngạc nhiên, giật giọng, gặng:
      - Là anh em, sao chúng nó lại cản anh đến với em?
      Bông cười hiền lành:
      - Em cũng đã gạn hỏi chúng nó như vậy. Đứa nào cũng gân cổ lên bảo là chúng phải ra tay thì em mới lấy được anh!
      - Lạ nhỉ! Thế sau đó chúng nó còn nói gì nữa không? Tứ  hỏi tiếp.
      Bông nhẹ nhàng trả lời chồng:
      - Có chứ! Chúng nó bảo chúng không muốn cho anh  gặp em ban ngày…
      - Vì sao nhỉ? Tứ bâng quơ, giọng có vẻ hơi xa xăm.
      Sợ chồng phải nghĩ ngợi lâu, Bông ghé sát miệng vào tai Tứ thì thào. Bông nói câu gì với chồng không ai biết. Chỉ thấy Tứ phá lên cười. Rồi anh thơm mãi lên mái tóc đen huyền của vợ, giọng lạc đi vì xúc động:
      - Ôi, họ làm thế chẳng qua cũng chỉ vì muốn anh có...
      - Một củ tam thất quý! Đúng không anh? Bông tiếp lời và âu yếm nhìn Tứ đang tủm tỉm cười.
 
                                                                                                  
 
 

 
 
                          NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI
 
      Cậu Loan có thú chơi chim. Thế nhưng, trong nhà cậu tịnh không có một cái lồng chim nào. Cậu hay bảo chúng tôi, chơi chim nhốt trong lồng, trông thấy chúng hốt hoảng đập cánh, nghe chúng hót những âm thanh ai oán, người yêu quý chim não cả ruột, thật không nỡ. Nghĩ sao làm vậy, vào những buổi chiều sau khi đi làm đồng về, cậu thường ngồi tẩn mẩn làm các loại tổ cho chim đến ở. Lúc còn bé, tôi hay được cậu kiệu lên vai, len lỏi trong khu vườn nhà ông ngoại chơi.
      Trên các ngọn cây, nào là chim sâu lông biếc chân hồng, chim chào mào mũ đen mũ đỏ, chim sáo mỏ vàng thích rỉa mãi vào bộ áo đen... Ríu ra ríu rít, chúng vừa chuyền cành vừa hót thật vui vẻ. Những lúc như thế cậu hay bảo: “ Chim cậu nuôi cả đấy! Thích không?”. Dĩ nhiên tôi nói là tôi thích lắm lắm và muốn xin cậu một vài con sáo. Nghe tôi nài nỉ, cậu cười: “Được rồi, được rồi! Để cậu làm cho cháu một cái tổ chim. Đầu ngõ nhà cháu có một hàng xoan phải không?”.
      Chiều hôm sau, cậu mang sang nhà tôi một cái rổ cũ, một mảnh chiếu cói và một cái giỏ. Hai cậu cháu hì hụi một lúc thì chiếc tổ sáo được làm xong. Trông giống như một cái trúm đó tép nhưng lớn hơn một chút. Cậu trèo lên cây, chọn cành hướng về phía đông nam để cột tổ chim. Lúc về, cậu nắm lấy tay tôi, giọng chắc như đinh đóng cột: “Chỉ vài ba ngày nữa là cháu sẽ có một đôi chim sáo thật đẹp cho mà xem. Tha hồ mà nghe chúng hót nhé!”.
      Tôi ngong ngóng đợi có dễ đến nửa tháng. Cái tổ chim lồ lộ trên cành như mời như gọi. Cũng có hai ba đôi chim sáo đến nghiêng ngó, thăm dò nhưng chẳng có đôi nào chịu ở lại. Qúa sốt ruột, tôi đến nhà cậu hỏi cho ra nhẽ. Mới đến đầu ngõ, nghe tiếng sáo non đang nũng mẹ lúc được mớm mồi, tôi nhướng mắt nhìn lên. Và, thấy ngay cái tổ chim trên cành của một cây xoan rất thấp. Một ý nghĩ bất chợt lóe trong óc, khiến tôi bỏ ngay ý định ban đầu. Tôi quay về nhà, nằm dài trên chiếc chõng tre, nhẩm tính kế...
      Để cậu tôi khỏi nghi ngờ, buổi tối, tôi đến chơi với hai anh em thằng Cắt tới mười giờ. Rồi chào cậu mợ rõ to, tôi yên chí ra về.
      Khuya. Chờ cho thật yên ắng, tôi lẻn ra khỏi nhà, lần theo bờ ao sang nhà cậu Loan. Tôi rón rén như một con mèo mà lũ chó nhà cậu cũng đánh hơi thấy, sủa rộ lên một lúc. Sau, nghe tôi huýt sáo khẽ, hai con chó nhận ra người quen, chạy đến vẫy đuôi rối rít. Tôi bám vào thân xoan leo lên. Hai con chó chõ mõm lên trời, kêu ư ử, tỏ ý không hiểu vì sao tôi lại làm như vậy.
      Khi tôi leo gần tới tổ chim, chim bố và chim mẹ vụt bay ra. Rồi khi nhận rõ ý đồ của kẻ trộm chim con, chúng liệng ra rồi lại lao vào, mổ tới tấp lên đầu tôi. Mặc! Tôi bỏ hai con chim non vào cái giỏ đeo bên thắt lưng, tụt xuống. Chợt thấy ở góc vườn, ngay cạnh chỗ có mấy bụi chuối có một bóng đen hình người, tôi ù té chạy...
      Tôi đã đem đôi chim non bỏ vào cái tổ chim rỗng không của mình rồi đi ngủ, chắc mẩm sớm mai thế nào cũng được thấy chim sáo bố mẹ đến đậu và hót trên cành xoan nhà.
      Nhưng ngày một, ngày hai vẫn không thấy chim bố mẹ đến mớm cho con. Nghĩ đôi chim non đã chết, tôi buồn lắm, chẳng thèm ngó ngàng đến cái tổ nữa. Thế mà, ba tháng sau, không hiểu sao, có một đôi sáo bay đến, chúng nghiêng ngó ngắm cái tổ của tôi rồi bay đi, bay về cùng những cọng rơm, cọng cỏ.
      Từ đấy, tôi có rất nhiều chim. Cũng từ đó, tôi hiểu được vì sao cậu Loan hay bảo bầu trời quê thanh bình đẹp lắm.
      Lớn lên, tôi và Cắt đi bộ đội. Cắt vào không quân, chiến đấu dũng cảm và hy sinh trong khi bảo vệ vùng trời Hà Nội. Ngôi mộ tượng trưng của em tôi nằm ngay dưới chân nuí Sóc Sơn. Cạnh đấy có một rừng xoan đào. Đúng vào hôm tôi và cậu Loan lặn lội đến viếng em, có một đàn chim như đã quen từ bao giờ không rõ, vừa tấp cánh xuống, líu lo hót những khúc ca ca ngợi trời xanh màu trứng sáo. Nheo mắt nhìn bầu trời lồng lộng mây trắng bay, cậu Loan níu chặt lấy tay tôi, giọng lạc đi: “Cháu ạ, người ta ai cũng mong được như những cánh chim kia. Bây giờ thì cậu càng hiểu rõ hơn cái điều mà cậu lờ mờ nhận ra trong đêm cháu trèo cây bắt trộm chim non của cậu. Điều đó là,  con người chỉ hơn con chim ở chỗ, ngoài việc biết sống và chết để giành bằng được tự do cho bản thân và đồng loại,  nó còn biết tôn trọng và bảo vệ tự  do cho cả muôn loài”.
      Nghe cậu nói, tôi quay vội về phía đàn chim vừa vụt khỏi cành. Thực ra, tôi không muốn để cậu Loan trông thấy những giọt trong, đã cay cay nơi khóe mắt, sắp lăn xuống má tô

 
                                      ĐẤT
 
      Mẩu rao vặt lạ chọc vào mắt: “Nhà bán. Đất ngang 10, sâu 20 mét. Đủ tiện nghi tân kỳ. Người giới thiệu 13 lượng 999, giá thực bán 120. Liên hệ 9404103, nhắn Bần chủ đất”. Tôi bỏ tờ báo xuống, cười khẽ. Số điện thoại này là số của nhà tôi! Hắn lại sắp giở trò gì đây? Khó hiểu thật!
     Năm ngoái, Bần làm tân gia. Hắn mời đủ loại thực khách. Cán bộ quận. Cán bộ phường. Cán bộ lãnh đạo cơ quan vợ. Lạc lõng làm sao, trong đám khách mời có cả ông Hai A, ông Tư Ngão và vợ chồng tôi.
     Thực ra, vợ chồng Bần mời chúng tôi tới để cảm ơn cũng là chuyện thường tình. Vì vợ hắn làm kỹ thuật cắt may ở công ti MiMimex, trong tổ do vợ tôi phụ trách. Còn tôi, tôi chính là người dẫn dắt ban đầu, khiến hắn có được ngày hôm nay.
     Tôi còn nhớ, sau bữa tiệc tốn hàng chục triệu, Bần ngà ngà say, chẳng biết thật hay giả, bảo tôi: “Em ngán cái xứ khỉ ho cò gáy này đến cổ rồi! Sớm muộn gì thì em cũng phải chuồn ra phố thôi bác ạ! Nhiều tiền lắm bạc thì được cái thá gì, nếu sống mà không biết hưởng thụ nhỉ? Thôi thì, tiện đây, em nhờ bác một việc. Nó là thế này...”. Là hắn lại muốn giúp lại tôi. Chứ điện thoại nhà hắn sờ sờ ra đấy, nhấc máy lên là “a lô”  liền với khách. Là... Hắn nheo nheo mắt, cười khùng khục: “Bác nhớ đấy! Nhờ cái vía bác lành, em làm cái gì cũng đầu xuôi đuôi lọt. Ắt lần này cũng vậy thôi!”.      
      Vía vái gì tôi không tin. Nhưng là một thầy giáo, bám trụ ngay từ những ngày ở huyện chỉ có một trường cấp ba độc nhất vô nhị đến nay, tôi rất có uy tín ở vùng đất mới được qui hoạch thành quận và đang trên con đường đô thị hoá như vũ bão này. Số học sinh tôi dạy có tới vài trăm, nhiều em bây giờ đã ra trường, về công tác ở quận, ở phường. Và, không ít gia đình trong vùng, đã coi tôi như người thân trong nhà họ. Ví như nhà ông Hai A chẳng hạn.
      Cái số ông Hai khổ! Lắm ruộng, nhiều vườn mà vẫn khổ!  Khổ vì con, vì cháu. Người ta gà trống nuôi con. Ông Hai gà trống nuôi cháu! Đứa cháu ấy là giọt máu duy nhất của dòng họ ông còn sót lại. Ông Hai chặc lưỡi, âu cũng là cái số trời đày! Vậy thì ông phải ráng mà cho nó ăn học bằng chúng bạn chứ! May mà con Bé ngoan. Ngoài giờ đi học, nó lủi thủi cùng ông gieo  trồng sáu công lúa. Năm Bé học lớp 12, tôi thấy sức học của nó đuối lắm. Biết chuyện Bé phải lo làm đồng tối ngày đỡ ông, liền tìm đến nhà, gỡ thế kẹt cho nó bằng cách gợi ý ông Hai chia bớt ruộng cho người ta cấy rẽ.
      Năm 1988, vợ chồng Bần mới chuyển vào thành phố. Qua câu chuyện vợ tôi vui miệng kể cho chị em cùng tổ nghe, vợ Bần đưa hắn đến nhà tôi chơi. Vòng vo một hồi, hắn kêu ca đang thất nghiệp, rồi biếu tôi một chai rượu nếp, nhờ thưa dùm với người có ruộng cho hắn cấy rẽ. Tôi không nhận chai rượu nhưng vẫn đưa hắn tới gặp ông Hai.
      Họ thoả thuận với nhau, trúng vụ thì chia theo lối cấy chị hai, chủ ruộng và người cấy mỗi bên lấy một phần; thất vụ thì chia theo lối cấy chị ba, chủ ruộng lấy một phần, người cấy lấy hai phần. Để tạo điều kiện cho Bần trong việc trông  coi lúa, ông Hai sang rẻ cho hắn một miếng đất nhỏ với giá một trăm ngàn đồng, vừa đủ để cất cái chòi con.
      Phải thừa nhận Bần, một kỹ sư lâm nghiệp bỏ ngang việc theo vợ, có tài nông gia. Số  lúa hắn chia cho gia chủ vụ nào cũng gấp đôi những năm ông Hai cấy. Hắn được ông Hai qúy ra mặt, chẳng chầu nhậu nào mà ông không có hắn bên cạnh. Nâng lên đặt xuống, ba ba con con, tình cảm tưởng như ruột thịt chưa dễ bằng. Tôi lấy làm mừng. Phần vì Bần có bát ăn bát để. Phần vì con bé đã học tới được đại học.
      Bỗng một hôm ông Hai A kiếm tôi, buồn buồn bảo: “Ruộng nhà tôi sắp mất hết rồi!”. Tôi gặng hỏi, ông ngẹn giọng trả lời rằng, nghe phong thanh, người ta đồn ầm lên là nhà nước sắp mở một cái lộ to lắm. Mặt lộ chiếm trọn phần ruộng nhà. Mà nghe nói thì giá đền bù đất ruộng chỉ vẻn vẹn năm ngàn đồng một mét. Ruộng còn sinh ra lúa gạo nuôi người. Chứ tiền vào tay nhà nông, như gió vào đất trống, hết, lấy gì mà ăn!
      Ông Hai kể lại, chính anh trắc địa trắc đồ gì đó đi đo đất, mách nước cho ông nên bán chạy trước đi, may còn vớt vát chút đỉnh chăng? Ông đã chạy đi tìm Bần làm cò đất. Bần cười khà khà nhận lời. Chừng nửa tháng sau, hắn trả lời chẳng có ma nào dám mua đất sắp trở thành đường chung cho thiên hạ cả. Hắn bảo, hay là hắn liều? Hứa vậy nhưng hắn vẫn cố ý thờ ơ, cố lánh mặt ông. Nhóm nhậu, kêu mãi hắn mới sang. Rồi ông nói khó. Ông nài nỉ. Hắn ậm ư chê đất xa bờ kinh. Giá như cho không. Mỗi công bảy chỉ vàng. Hắn kêu chỉ mượn được của người quen chừng ấy! Ông Hai tặc lưỡi, ký vào giấy bán...
      Vậy mà, chỉ mấy hôm sau, Bần lại mượn được tiền mua thêm luôn hai công công đất sát mé lộ dọc theo bờ kinh của nhà ông Tư Ngão. Nghe kể, hôm giao tiền cho ông Tư, hắn nói rồi vợ chồng hắn sẽ là tỉ phú, hoặc sẽ đi ăn mày. Hắn mà đi ăn mày, cô bác nhớ thương tình cho!
      Dạo ấy, do lòng kinh bị phù sa bồi, thuyền bè chỉ qua lại được khi nước lớn, thành phố phải cho tàu cuốc nạo vét thông luồng. Ống hút bùn ồng ộc chảy vào ruộng lúa. Ai nhìn cũng xót, kêu đến tận chính quyền.
      Vô tình thế nào đấy, vào đúng dịp này, Bần làm đơn xin chuyển cơ cấu cây trồng. Một mô hình mới đây. Và quan trọng hơn, có chỗ cho tàu cuốc nhả bùn. Mấy anh trong uỷ ban nghĩ vậy và phê ngay vào đơn. Vậy là, dù không chủ định trước, tám công lúa của hắn thành gò thành đống. Chẳng tốn kém một cắc lẻ nào gọi là có! Vẫn theo lời Bần kể, nể tình người chịu thiệt thòi vì lợi ích chung, người ta còn đồng ý nâng cấp hai trăm mét vuông từ đất nông nghiệp thành đất thổ cư cho hắn. Số đất thổ cư này Bần xin ở vị trí chính giữa khu đất gò. Hắn còn hài hước nói rằng, đó chính là cái bánh chưng mà vợ chồng người cấy rẽ hôm nào dành dụm từng hạt gạo và gói được.
      Cuộc đới lắm cái bất ngờ! Người ta lại thấy anh trắc địa đi đo đất. Chẳng hiểu đo làm gì mà đo lắm thế cơ chứ? Đo đến hai tuần lễ! Người hiếu kỳ ngó được mấy tờ giấy họ ghi chép về khoe những người tò mò rằng, khu ruộng gần bờ kinh sẽ thành khu dân cư, dành cho những hộ bị giải toả trong thành phố đến ở nay mai. Riêng Bần, hắn cứ gân cổ lên cãi, cho đó là tin đồn nhảm.
      Rồi khi thấy từng đoàn người xe xa lạ từ những đẩu đâu tới, dò hỏi mua đất rộ lên, Bần vẫn một mực chặc lưỡi, tỏ ý không tin. Mặc dầu thế, hắn bảo, cứ từ từ xem hư thực thế nào, biết đâu vận may tới thì sao! Vậy thì hắn cũng thử với đời, tự tay vạch ba con đường rộng tám mét, chia đôi số đất của mình ra thành nhiều lô! Thử rao bán xem sao nào!
      “Trời ơi!”, hắn kêu lên với ông Hai trong một bữa nhậu, “Ngươì ta mua thật!”.
      Giá lên vùn vụt! Trong ba tháng liền, Bần viết giấy tay sang đất hết một cuốn tập nhỏ. Hắn trở thành tỉ phú chứ chẳng chơi! Vẫn còn hai trăm mét vuông trên có cái nhân bánh! Thì xây chơi! Và thế là ngôi nhà ba tầng mà hắn rao bán trên báo, đã mọc lên sừng sững như sau một phép lạ huyền bí và mầu nhiệm.
      Mẩu rao vặt trên báo hại tôi. Chuông điện thoại liên tục reo trong suốt một tuân liền. Tôi lại phải giải thích, chỉ dẫn. Có người dò qua tổng đài 116, biết cả địa chỉ, đến tận nhà nhờ tôi đưa đi xem nhà Bần.
      Vía tôi lành. Chưa đầy ba tháng, nhà Bần đã về tay một ông cán bộ quận sở tại. Bên nhận tiền ra đi, bên dọn về nhà mới, chỉ làm giấy tay với nhau. Ông chủ mới tỏ ý hài lòng lắm, thành tâm biếu tôi một thùng rượu tây. Bần còn hả hê hơn. Hắn giữ đúng lời hứa, đem trả công tôi 13 cây vàng. Tôi từ chối. Hắn giận, bỏ về.
      Nhưng năm hôm sau, vợ hắn đi một chiếc xe Dreame mới tinh đến nhà chơi với vợ tôi. Rồi lấy cớ đến chung cư Vĩnh Hội thăm một người bạn trên lầu hai, chị ta dắt xe để vào một góc nhà.
      Buổi trưa, nhìn qua kính tủ chè, tôi bất chợt trông thấy một tờ giấy lạ, trên đè một cái chìa khóa. Mở ra xem mới biết là hóa đơn mua chiếc xe kia. Hóa đơn ghi rõ tên người mua là tôi. Dĩ nhiên, tôi vẫn không chịu, nhắn Bần tới lấy xe về. Chiếc xe vợ hắn để đâu vẫn còn nguyên đó.
      Cách nay nửa tháng, Bần đến thăm tôi. Hắn khoe đã mua được nhà ở quận Nhất. Sắp tân gia nên đến mời vợ chồng tôi. Hắn bảo vẫn cần cái vía may của tôi. Song hắn tỏ ta tiếc. Vì hắn mới hay thành phố qui hoạch khu đất đã bán thành khu nhà ở cao cấp.
      Tôi ngớ người hỏi trước đây sao mấy anh trắc địa nói đám ruộng kế bên lộ ven kênh tiêu nước kia chỉ là khu dân cư xoàng thôi mà? Bần cười mửa miệng, bảo hắn chưa học hết chữ ngờ! Cũng tại hắn non gan, chỉ dám tung tin đến cỡ ấy qua miệng đám trắc địa ma, đám khách mua đất giả, tức là mấy thằng bạn thất cơ lỡ vận ăn tiền của  hắn để làm cái việc láu cá này!
      Tuy vậy, lúc chia tay tôi, Bần vẫn cười hề hề, thản nhiên bảo những tờ giấy viết tay hôm nào, sẽ không làm hại nổi hắn đâu! Trước thời vận mới vừa mở ra đối với khu ruộng đất, nếu kheó léo và chịu suy nghĩ một chút, hắn có thể biến chúng thành một món tiền to, thậm chí còn lớn hơn cả số vàng bạc mà hắn đã hốt được từ việc sang đất trước kia!
      Nghe thì biết vậy thôi! Chứ thực lòng, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu được cách mà Bần sẽ dùng để giải bài toán về những tờ giấy tay hóc búa ấy như thế nào!
 
 
 
 
 

 
 
                                    ÂN NHÂN
 
Bố tôi bảo mèo, báo, hổ vốn là anh em ruột trong một nhà. Ban đầu, chúng là bạn tốt, sống thân thiện với người. Đi săn về, chúng thường chia thịt các con mồi kiếm được cho người dùng làm thức ăn. Mèo là em út nhưng tinh ranh, suốt ngày nằm cạnh bếp chờ hai anh. Hắn ít vận động nên thân thể cứ teo dần. Chỉ có tính nịnh người thì ngày càng lớn.
Chính cụ tằng tổ một trăm lẻ tám đời nhà tôi, vì tin lời mèo bé mà lần lượt đuổi hai con mèo lớn vào rừng. Trở về rừng xanh, sống cuộc đời cuả kẻ tự do đích thực, hai con mèo kia đã trở thành hổ và báo, chúa tể chốn sơn lâm.
Tuy nhiên, những con vật ấy không quên nổi những gì đã học được ở con người. Vì vậy, vợ chồng hổ báo cũng biết yêu thương nhau thắm thiết; hổ báo con cũng được sống trong sự chở che, nuôi dạy chu đáo, tận tình cuả cha mẹ chúng... Có lẽ vì thế chăng mà cả nhà tôi đã thoát chết?
Bố tôi kể, năm Canh Dần 1950, nhà tôi tản cư vào Thanh Hoá. Bố u tôi bỏ tôi và anh Trung vào hai cái thúng, quảy bộ tắt qua rừng Nho Quan. Lúc ngồi nghỉ, u tôi vạch vú cho tôi bú. Bố tôi ẵm anh Trung, dỗ anh ăn vài miếng cơm muối vừng cho đỡ đói.
Bỗng một mùi hôi đến lợm giọng theo gió thoảng tới. Mùi hôi mỗi lúc một nồng nặc cùng những tiếng sột soạt trong rừng cỏ gianh ở ngay phía trước. Bố tôi líu cả lưỡi vì bất chợt thấy một cặp hổ vằn ló đầu ra, liếm liếm những cái lưỡi đỏ ngòm. Nhưng lạ lùng làm sao, hai con hổ, sau khi chăm chắm nhìn u tôi cho con bú, đều khẽ lắc đầu, gầm gừ như nói với nhau một điều gì đấy, rồi quay đầu từ từ lẫn vào cỏ dại. Bố tôi bảo chúng không nỡ ăn thịt những người đang nuôi con thơ!
Rồi, trên đường đi, lúc lương đã cạn, bố u tôi đã mừng rỡ đến chảy cả nước mắt khi thấy trên một tảng đá ai đó đã bày sẵn cho một đùi thịt nai dang dở, còn tươi nguyên. Nhìn kỹ, bố giật mình, nhận ra những dấu chân hổ hút vào rừng rậm. Người bán tín bán nghi, nghĩ thầm, phải chăng chính những con hổ này là hậu duệ cuả những con mèo mà ông cụ tằng tổ nhà tôi đã từng nuôi vào một thời xa lắc?
Sau kháng chiến chống Pháp, phần vì đã quá sợ bom đạn, phần bị con người săn lùng ráo riết để kiếm lợi to, loài hổ báo sống trong các dải rừng ở miền Bắc nước ta có nguy cơ tuyệt chủng. Nghe nói, để thoát được hiểm hoạ, chúng buộc phải chạy vào những miền rừng hoang vu nhất, dọc theo biên giới giữa hai nước Việt - Lào. Bố tôi kể, trong một vài lần xuôi bè trên sông Đà, ở đoạn sông chảy qua địa phận tỉnh Hoà Bình, người còn thấy vài cặp vợ chồng hổ ra sông uống nước. Nhưng cứ thoáng thấy bóng người là chúng đã bỏ chạy.
Lần ấy, cũng là lần cuối cùng bố đi bè. Nghe tiếng súng săn nổ, bố bảo chú Thả và cánh lái neo bè gỗ vào bờ, may ra thì mua được một ít thịt rừng cải thiện. Vì cả chục hôm rong ruổi qua bao thác ghềnh mà chỉ ăn độc một món rau bí, thèm chất tươi quá!
Vừa lúc đó, có ba người súng ống lăm lăm chạy qua, nói là bắn trọng thương một con hổ cái lớn lắm. Họ hỏi bố có thấy con thú bị thương vừa chạy qua đây không...
Chiều, bố tắt rừng, băng về phía những ngọn khói lam, hy vọng có thể mua hoặc đổi ở đấy một vài con gà. Đang lách người trong một lối đi hẹp, cỏ gianh cao quá đầu người, bố bỗng giật mình, đứng sững lại. Vừa kinh sợ, vừa ngạc nhiên! Trước mặt người là hai con hổ con đang ngậm vú cuả con hổ mẹ bị thương nặng, mắt đã nhắm nghiền lại. Nằm trên vũng máu cuả mẹ, hai con hổ nhỏ hầu như chưa ý thức được cái chết đang chờ mẹ con chúng.
Thấy cảnh ấy, chợt nhớ tới đùi thịt nai ngày tản cư năm nào, bố quên hết cả sợ hãi, vội ngồi xuống, lấy mấy cái lá dấu tẩm thuốc quý luôn đem theo bên mình để phòng thân, dịt vào vết thương trên bụng hổ mẹ. Máu từ vết thương dần dần ngừng chảy...
Song vừa ngẩng lên, bố run lên bần bật, kinh hãi nhận ra một con hổ đực đang nhìn từng cử chỉ cuả người. Nó đã kịp tha về một tảng thịt heo rừng cho vợ con. Bố chắp hai tay lại để lấy can đảm, đi giật lùi. Con hổ đực nheo nheo mắt, khẽ vẫy đuôi về bên trái, đầu hơi nghiêng về bên phải, tư thế báo hiệu nó sẽ không tấn công người.
Quay trở lại bè, bố bảo mọi người chuẩn bị nhổ neo. Đúng khi ấy, có ba tên thợ săn xuất hiện, chĩa súng về phía bố, bắt phải lên bờ ngay. Không có cách nào khác, bố đành phải làm y theo lời chúng. Bọn thợ săn khăng khăng nói bố đã lấy được con hổ! Chúng bảo, lần theo vết máu, chúng cũng tới được chỗ con hổ mẹ bị thương. Chỉ lạ là con vật đã bị kẻ nào đó đem đi mất. Xem kỹ dấu chân người còn in trên máu khô, chúng thấy bàn chân rất nhỏ, ngón chân hơi chụm. Không phải dấu bàn chân người bản xứ! Bàn chân người đi rừng nhiều thường to và thô, ngón chân hơi choãi như rễ cây bám vào đá. Vậy thì, chỉ còn cánh lái bè! Không thể khác được!
Một tên thợ săn lăm lăm súng trên tay canh chừng mọi người. Hai tên kia nhào xuống bè, lục soát tất cả mọi thứ đồ đạc. Không thấy gì, chúng lên bờ, xúm vào đánh bố. Những quả đấm, những cú đá hiểm hóc tới tấp giáng xuống, khiến người rũ rượi như một tàu lá héo. Một trong hai tên thợ săn độc ác ôm lấy bố, dựng đứng lên cho tên kia đấm đá tiếp. Hự, hự...Bố tôi ngã vật xuống, kéo cả kẻ ôm mình ngã nhào theo.
Chính vào lúc không ai ngờ đó, bỗng một bóng xám vụt qua. Y như một tia chớp! Sau tiếng gầm man rợ như vọng về từ thời tiền sử, tên thợ săn ngã gục xuống, mặt bị cào nát thành nhiều mảnh. Rồi con hổ nhào lên, hai chân trước quắp chặt lấy tên đang đè lên người bố tôi. Miệng nó ngoạm lấy tay kẻ ác. Hai chân sau cuả nó co lại, đẩy bố tôi ra. Song có lẽ, do cú đẩy quá mạnh, trên ngực bố hằn rõ cả những vết vuốt sắc. Tên cầm súng hết hồn, leo tót lên cây, run rẩy nổ được một phát lên trời...
Sự việc diễn ra chỉ trong chớp mắt. Bởi thế, khi trả lời các nhà chức trách, bố tôi chỉ dám dè dặt cho rằng, con hổ đã hạ cùng một lúc hai người thợ săn kia, hình như là con hổ đực mà người đã từng gặp khi xuống tay cứu con hổ cái bị thương. Người còn mô tả thêm, nó rất giống một con mèo.
      Câu chuyện người được hổ cứu không ít lần đã làm con tim non nớt của tôi xúc động. Xúc động vì mình may mắn chưa phải thành trẻ mồ côi! Xúc động vì một điều mơ hồ nào đó, kể cả khi vô tình nhìn thấy con mèo mướp vụt ra vồ một con chuột nhắt. Về sau, lúc đã đi học, được thầy giáo Vượng, thầy giáo Trường kể cho nghe những câu chuyện cổ tích ly kỳ và hấp dẫn, tôi lại hay bâng khuâng tự hỏi: Chuyện bố kể ngày nào, phải chăng là để tránh phải nói ra một sự thật đau lòng nào đó về những vết thương trên ngực với lũ trẻ? Nhưng, mỗi lần, ví như vào dịp ông Táo về trời hàng năm chẳng hạn, lòng nao nao nhìn  những vết sẹo vuốt hổ nâu tím trên ngực bố khi người xoay trần lội xuống ao đánh cá dâng cúng, tôi lại tin như đinh đóng cột rằng, câu chuyện bố kể trong đêm giao thừa mấy chục năm về trước là một câu chuyện thiêng liêng. Và, hoàn toàn là sự thật! Rồi lớn lên, buộc phải trải qua lắm đoạn đời dâu bể, cho dù đã học hỏi và làm chủ được một số kiến thức pháp luật do con người tạo ra, song đôi lúc ngồi suy tư về nhân tình thế thái, về thế giới bao la này, tôi vẫn  không sao lẩn tránh được ý nghĩ: Hình như, cho đến muôn đời sau, con người vẫn còn phải khám phá, học hỏi và nâng niu những lẽ phải trái mà chốn rừng xanh núi thẳm kia đã gợi ý cho. 
 
 

 
                                    NHẤT
 
Anh Toán ngước mắt nhìn lên trời, bảo:
- Tình cảm con người dâng lên trời phật là thiêng liêng nhất. Trời ở đây là không khí, nước, đất, cây cối, thú vật, chim muông. Không có những thứ này, con người không thể tồn tại. Trời phật lại có khi là Thượng đế, là ông Thích Ca, bà Quan Âm, là các bậc tiên hiền tiên liệt, vân vân. Các vị này vốn là người được thần thánh hóa, là hình mẫu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức mà con người cần phải noi theo. Niềm tin mà chúng ta dành cho họ là tuyệt đối, là trong suốt. Sự thật là những khi bối rối, ta thường bấu víu vào cái này để mà hi vọng và tăng thêm nghị lực sống. Không có nó, ta dễ rơi vào tình trạng bi quan, chán nản...
Anh Triết vẻ mặt đăm chiêu, nói:
- Tình mẫu tử, phụ tử mới là thiêng liêng nhất. Nếu không có cha mẹ, làm sao có chúng ta? Cha mẹ cho ta bú mớm, dạy dỗ, dựng vợ gả chồng cho ta. Ngay cả khi ta đã yên bề gia thất, cha mẹ vẫn giặt giũ, nấu nướng, quét nhà, bế con cho ta, trăm thứ việc của người đi ở không công, mà cha mẹ không được làm thì ấm ức, coi như bị trời phạt vậy. Bởi thế, lúc cha mẹ già yếu mà được bưng cơm, đưa nước là bổn phận thật thiêng liêng, khó mà chối cãi được…
Anh Thông tủm tỉm bảo:
- Tình vợ chồng mới là thiêng liêng nhất. Cha mẹ sinh ra ta nhưng vợ ta mới là người đưa ta vào khuôn phép. Vợ chỉ khẽ than con chưa có quần áo, giày dép, lại chưa đóng kịp học phí nên bị thầy cô la là ta đã lao đi kiếm tiền trăm tiền triệu đem về mới hả. Vợ mới nói bóng nói gió chồng người ta là ông này ông kia, thế là ta sẽ tìm đủ mọi cách, nào vận vật lực, nào vận mưu cao, có lúc bất chấp cả danh dự, sự hèn hạ để leo lên nấc thang danh vọng từng bước, từng bước một như đứa trẻ dò dẫm tập đi. Để ta đỡ hư thân mất nết do thói đàn đúm cùng bạn bè cờ bạc, rượu chè, trai gái vợ ta thường thu gom hết tiền lương ta bỏ quên trong túi, lại quan tâm tới mức phát tiền cho ta từng buổi để đi ăn phở, uống cà phê, đi dự đám cưới, đi chia buồn đám tang. Vợ ta cũng chẳng quản trong nhà thiếu thốn, nghiến răng lại mà bỏ tiền trăm tiền triệu ra để mua rượu tây rượu tàu cho ta biếu sếp hay rủ sếp đi nhậu. Ta thăng quan tiến chức, vợ ta luôn khoe ta là một ông thánh, mẫu mực, liêm khiết, cao quý, thân thương vô cùng. Còn ta, vì yêu vợ mà hết mực thương con, ta tự nhiên trở thành một người chồng mẫu mực, đi làm đúng giờ, về nhà lúc hết việc không sai một phút, ăn cơm nhà nhiều hơn ăn ngoài tiệm, ngon cũng khen mà dở cũng khen là được. Lại vì thế mà yêu công việc, coi cơ quan như nhà của mình. Và ta được yên thân, được thỏa mãn mỹ mãn về vật chất và tinh thần…
- Xin lỗi! Anh Lý khẽ nhếch mép, cất lời - Tôi không phủ nhận những tình cảm thiêng liêng  mà chỉ phủ định từ “nhất” sau chúng. Vì tình bạn mới là thiêng liêng nhất!
- Anh có ấm đầu không đấy? Anh Toán sờ lên đầu anh Lý.
- Khà, khà, lý lẽ lạ đây! Anh Thông nhẹ nhàng.
- Ừ, nói đi! Anh Triết giục.
- Thì nói! Anh Lý cao giọng - Tình bạn thiêng liêng nhất vì nó mong manh nhất. Này nhé, tình cảm đối với Trời Phật được neo giữ bởi tôn giáo, niềm tin. Tình cảm cha mẹ, con cái bền vững là nhờ vào huyết thống. Còn tình vợ chồng, các anh biết đấy, nó bị ràng buộc bởi hôn nhân. Mất những sợi dây trói buộc ấy, liệu những tình cảm trên có tồn tại? Riêng tình bạn, thích thì chơi, không thích thì thôi, muốn giữ nó đâu phải dễ. Vì thế, nó là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Đúng chưa?
Tới đây, anh Toán ngẩn mặt ra, hỏi:
- Nhưng nếu tình cảm tôn giáo, tình cảm cha mẹ đối với con cái và ngược lại, tình vợ chồng, bên cạnh những nét riêng của mỗi loại, lại có thêm cả tình bạn đi kèm thì sao?
Nghe gợi ý thế, anh Triết tự hỏi, vậy tình cảm nào là thiêng liêng nhất nhỉ?
- Thật khó xếp thứ tự cao thấp, trước sau đối với những cái vô hình - Anh Thông nghĩ thầm.
Riêng anh Lý thì bảo, rất có thể, ở hoàn cảnh này, với người này thì cái này là nhất; song ở hoàn cảnh kia, người kia, thì cái này ấy chỉ là nhì, là ba mà thôi…
Đúng lúc ấy, bốn người bạn thấy một cái cáng đi qua. Nhìn hai người quen khênh cáng, không ai bảo ai, họ cùng chạy ra hỏi thăm.
- Thế nào, ông cụ được xuất viện rồi phải không các anh?
-  Không! Người khênh cáng đi trước nói khẽ - Ông cụ yếu lắm, bác sĩ bảo cho về đi, mổ bốn ngày rồi mà không đánh rắm được tức là...ừ, về nhà chờ…
Người khênh cáng đi sau cười:
- À quên, chưa nói thêm với các anh, bác sĩ bảo bây giờ điều cần nhất là ông cụ đánh được một cái ủm, không thì, ừ, vô nghĩa hết!

 
                              CÁ LINH ĐAO
 
Về Bến Tre, lúc đã là ngà say bởi rượu Phú Lễ trong một cái quán nhỏ dựng giữa vườn dừa lão bên bờ sông Hàm Luông, tôi được một bạn văn xứ cù lao kể cho nghe một câu chuyện cũ.
Nghe truyền lại, ngày xưa, khi biết câu chuyện mộc mạc này qua miệng một người học trò Ba Tri chất phác, cụ Đồ Chiểu vốn rất điềm đạm đã phá lên cười...
Dưới đây là chuyện tôi chép lại theo cách nghe gì thì ghi nấy.
“Vào triều Nguyễn, khi cụ Đồ Chiểu còn chưa chạy giặc về Ba Tri khai sáng chữ nghĩa, đạo đức của các bậc tiên hiền tiên thánh, ở một ấp nhỏ bên sông Hàm Luông đã có hai cha con nhà kia đều là nho sinh.
Một ngày kia, người cha lâm bệnh nặng. Ông toát mồ hôi hột, ôm ngực ho rũ rượi và thổ ra đất ba cục máu đen.
Biết mình không qua khỏi, trước lúc nhắm mắt xuôi tay, người cha cho gọi con trai tới đầu giường, lại bắt con chỉ tay vào những cây dừa lão thân nhẵn thín như bào ngoài vườn mà thề rất độc; rồi mới dặn rằng: sau khi cha mất, những lúc gặp chuyện vui buồn thái quá, con nên đi câu cá cho tĩnh tâm lại.
Ba hôm sau, đúng lúc một cây dừa lão bị gió xô gẫy đổ ầm xuống sông, người cha lên tiên.
Lo đám cho cha xong, lại quá lo lắng vì kì thi hương sắp mở, chàng nho sinh thấp thỏm vùi đầu vào kinh sách, người cứ gầy rạc đi.
Từ sáng tới tối, chàng ngồi lì ngoài vườn dừa lão để đọc sách, luận kinh.
Nhưng cứ mỗi lần tựa lưng vô gốc cây là chàng lại cảm thấy ngứa ngáy toàn thân, gãi tấy cả lưng vẫn không hết khó chịu.
Rồi thi thoảng một trái dừa vỏ đã chuyển sang mầu nâu sậm lại rơi lịch bịch xuống đất, lăn về phía chàng. Nho sinh sợ hãi nhắm mắt lại.
Ôi, những cái sọ người! Sọ người!
Còn các tàu dừa khô bị gió lay sao mà giống những cánh tay chấp chới dưới sông lúc sắp hụt hơi thế? Thanh âm chúng phát ra xào xạc, xào xạc, chẳng khác gì tiếng ma đói hờ từ kiếp trước vọng lại vậy.
Học hành trong tâm trạng bất an như thế nên chàng trai trẻ không sao nhập tâm được các nét của các con chữ mới. Hình như cả các chữ tích được trong bụng chàng cũng vơi đi mất ba phần tư…
Quá thất vọng, chàng vò đầu, bứt tóc, ngửa mặt lên phía những đọt dừa xanh mà than trời hại ta thật rồi.
Tiếng than của chàng lọt thỏm vào khoảng không bao la chẳng khác gì một cục đất phèn bị trẻ con ném tõm xuống mặt sông. Nhưng cũng hên, nhờ tiếng than ấy mà chàng sực nhớ ra được lời cha dặn lúc sinh thời.
Vậy là chàng vùng dậy, đi ra vườn dừa lão. Cố bươi đất đào được vài con trùn làm mồi, chàng thắt giỏ ngang lưng, vác cần câu đi câu cá.
Ra tới bờ sông Hàm Luông, chàng thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy cảnh sông nước lăn tăn gợn sóng, trời xanh thẳm lượn lờ mây trắng bay.
Nhưng khi chàng buông cần, sợi dây câu vừa chạm mặt nước, cả chục con cá linh đao (thuở ấy mỗi con đáng giá một lạng bạc) đã lao tới tranh mồi khiến cho chàng phải giật mỏi cả tay.
Trong chốc lát, cái giỏ đã ních chặt cá.
Lúc này chàng nho sinh mới giật mình, ngày có ba bữa, mỗi bữa chỉ ăn một con cá, mang cả giỏ cá về làm gì nhỉ?
Rồi không chút lưỡng lự, chàng chọn ba con, còn bao nhiêu đem đổ trở lại sông.
Chàng lại nghĩ, chắc lũ linh đao thoát chết sẽ mừng rỡ lao vút đi như tên bắn cho mà xem. Nhưng trái lại, cả đàn cá không những không bơi đi mà còn tự quây lại thành một vòng tròn, quẫy đuôi trắng loá cả một vùng nước. Cũng như người, loài cá linh đao không hề biết vô ơn?
Kế đó, không rõ vì chăm học hay vì được vong linh cha phù hộ, chàng nho sinh lần lượt vượt qua các kì thi hương, thi hội, thi đình khá suôn sẻ. Chàng được nhà vua vời vô kinh cấp mũ áo, bổ làm tri phủ ngay tại bản quán.
Sau mười năm, quan phủ đã dư cả tòa ngang dãy dọc, vợ đàn, con đống. Dĩ  nhiên, ngài không còn màng đến chuyện đi câu nữa.
Trong khi đó, các con dân vùng kinh rạch chằng chịt, cù lao lố nhố mà ngài là phụ mẫu càng ngày càng nghèo rớt. Họ lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau bỏ quê đi tha phương cầu thực; người gan thỏ đế thì ôm khăn áo ra Gia Định, Tân Bình; kẻ mạnh tay bạo phổi thì chèo ghe ngược sông Tiền tới tận nước Miên, nước Xiêm...
Vụ thuế năm ấy thất thu nặng.
Nhà vua sinh lòng nghi ngờ, liền hạ chỉ truyền lính ở Gia Định đem trát đòi tri phủ vô kinh để tra xét.
Quan tri ăn không ngon, ngủ không yên mấy ngày liền.
Có lúc quẫn trí, ngài đã định trẫm mình xuống sông Hàm Luông để chứng tỏ sự cao quý của một viên quan vùng đất mới khẩn hoang liêm khiết.
Song khi vừa rón rén tới mép nước sông, quan lại sực nhớ tới lời trăn trối cuả người cha năm xưa.
Thế là ngài ra lệnh hạ kiệu, chọn một gốc cây trứng cá râm mát thay lọng xanh che nắng, sai lính về phủ lấy cần câu, đào sẵn mồi trùn để quan câu cá.
Hôm ấy, nước sông Hàm Luông đục ngầu như máu; da trời thì xám xịt, tím bầm.
Sợi dây câu không ít lần căng ra. Vậy mà khi quan giật lên, chỉ có những cành dừa mục trông y những khúc xương người, chứ tịnh không được một con cá nhỏ nào.
Quan lắc đầu, mở mắt trừng trừng ngó về phía tòa ngang dãy dọc nhà mình.
Ngài chỉ lờ mờ thấy từng đống, từng đống cá linh đao cao chất ngất ngang lưng chừng trời...
Sau đó, quan phủ vô triều theo lệnh vua rồi bị kết án tử hình vì tội tham nhũng. Trước ngày ra pháp trường, tham quan được nhà vua ban cho ba đặc ân.
Thứ nhứt, y ước một bát canh chua cá linh đao. Thứ hai, y mong được tới hồ nước bên cạnh ngục thất để câu cá. Và thứ ba, nếu hai mong ước trển không thành thì y sẽ được nhà vua cho về làm phủ quan như trước.
Nhà vua nghe Bộ Hình tâu lại, cứ vuốt râu cười ngất. Ngài phẩy tay rồng, cầm bút lông phê ngay hai chữ “Y nguyện” nguệch ngoạc.
Hôm sau, ngục quan sai đầu bếp ra chợ mua cá linh đao. Không có. Hôm sau nữa, sau nữa và sau nữa cũng vẫn không tìm được cá. Vậy là kẻ tử tội vẫn phải dài cổ ngồi câu bên cái hồ nước không có lấy một cọng rêu cũng như một con cá để chờ bát canh chua nấu bằng cá linh đao ân huệ kia.
Nghe phong thanh (chứ sử sách triều Nguyễn không hề chép chuyện này) thì cho tới khi băng hà, vua nhà Nguyễn vẫn chưa có cơ hội xuống ấn cho y được khôi phục lại chức vụ cũ”.
Khi nghe xong chuyện trên, tôi buột mồm hỏi: “Bây giờ Bến Tre còn cá linh đao không?”. Bạn tôi cười: “Làm gì có linh đao mà còn! Nhưng cá linh thì không thiếu. Vào mùa nước nổi, từng đàn cá linh vẫn rẽ sóng trắng cả sông Tiền chớ bộ!”. Không chờ tôi kịp hỏi thêm, bạn tôi vỗ tay đánh đét một tiếng: “Ờ, xíu nữa thì tớ quên! Tớ chưa tả khuôn mặt của cụ Đồ Chiểu hồi nghe chuyện này cho cậu biết nhỉ?”. Tôi: “Ừ”. Bạn tôi nghiêm mặt: “Lúc đó ấy à? Từ hai hõm mắt trũng sâu của ông cụ,  những giọt nước mắt màu đỏ cứ ứa ra cậu ạ!”.
 
 

 
 
                               BONG BÓNG
 
Các bạn thấy đấy, cách nay chưa xa, các báo ầm ĩ về một cây bút trẻ. Nhà văn Hà Lê. Lê là bạn thân của tôi, thế là tôi cũng được thơm lây rồi. Đọc mà nở cả mặt mũi. Ôi giời, sao mà lắm ý kiến trái ngược nhau thế này không biết!
- Hà Lê là một thiên tài vừa phát lộ, nay mai sẽ tỏa sáng trên bầu trời văn chương nước nhà vốn thưa thớt những ngôi sao...
- Rất nhiều người tán nhăng tán cuội bậy bạ về cây viết thiếu tính chuyên nghiệp này; anh ta viết câu chưa thành câu, chưa đạt trình độ lớp bốn thì có; tuy nhiên, anh có thể là một nhà tư tưởng nhớn, những tư tưởng vĩ đại ẩn ngay trong những tình tiết thô tục, những câu chuyện bẩn thỉu...
- Anh là một trong những dị nhân đi trước thời đại một bước lùi cần thiết, những trăn trở của anh bản năng như thời tiền sử, thời con người ta vốn trong suốt như thời gian...
- Ồ, có gì mới khi nhai lại quá khứ, cho dù đó là thời vàng máu. Nhân vật trong văn Hà Lê chung quy cũng chỉ là biến tấu của ba loại khuôn mặt người – ngợm mà một nhà văn Pháp đã tổng kết, đại loại: một là thiên tài, những người ưu tú hiếm hoi nghĩ ra chủ thuyết này chủ nghĩa kia, tư tưởng bảo hoàng cũ hay dân chủ mới; hai là lớp lớp đội ngũ miệng nói tay làm, dám xả thân biến cái mù mờ thành hiện thực hay còn gọi là những tín đồ; và, cuối cùng là thế hệ hưởng thành quả; nếu họ biến chất, không còn là tín đồ thực sự nữa thì đó chính là một lũ lưu manh, côn đồ, lươn lẹo, xảo trá, giả đạo đức không hơn không kém...
- Bút pháp mới chưa từng thấy, nội dung thì hoang dã, yêu tùm lum đã đời thiệt. Có lẽ trước anh chưa có cây bút nào viết bạo liệt đến mức ấy. Có thể coi một số trang văn của anh là những thành tựu của khoa giải phẫu sinh lý trong y học hiện đại...
- Ê, ngắn học mới nói thế, chứ anh này mô phỏng phương Tây thôi, văn chương cởi truồng thì viết dễ ợt à...
- Vân vân và vân vân...
Nhìn chung (hoặc coi như là, hay tóm lại – văn chương Lê đầy rẫy những cụm từ như thế) Hà Lê đã nổi tiếng. Kéo theo, sách của anh bán chạy như tôm tươi. Còn có đọc hay không, còn tùy ở cuốn sách, ở bạn đọc.
Sau đó ít lâu, khi thời gian đủ làm tôi tĩnh tâm, không hiểu sao tôi bỗng bi quan nghĩ theo chiều ngược lại. Báo cho là có giá trị thì tôi nghĩ là rổm. Báo khen hay, tôi đoán là dở. Vì sao ư? Lê ơi là Lê! Cậu có giận thì cứ giận! Chứ tôi không thể không thú thật rằng tôi đã bị thất vọng quá nhiều lần rồi. Có nhiều cái, trong đó có các tác phẩm chúng ta dứt ruột đẻ ra, báo chí bảo là hòn ngọc, vậy mà bây giờ đem ra săm soi thử, thấy không bằng một nửa cục đất, đất thời nay còn quý hơn vàng ngọc kia. Vậy là cậu bị báo chí thổi bong bóng lên mây lên gió rồi đó! Rồi cậu và cả các nhà văn từng được báo đài đồn thổi đều sẽ lặn mất tăm trên văn đàn. Cậu và họ đi đâu, có còn viết hay không, viết thế nào, ai đọc, hàng trăm câu hỏi đặt ra, thậm chí có nhiều nhà phê bình còn cất công đi điều tra cũng không sao tìm được câu trả lời. Chỉ biết là các nhà văn ấy không trở lại nữa! Họ có lỗi? Đầu tiên là có lỗi với họ. Đang viết, tên tuổi nổi như cồn mà buông bút thì có lỗi quá đi rồi. Lỗi không viết được nữa! Vì sao nhỉ? Vì thành vĩ nhân rồi, đi đâu cũng tưởng mình vĩ đại, nói câu nào cũng là lời vàng ý ngọc, làm sao còn tâm trí đi gom lời quê mua vui cho kẻ khác. Và vì bị sức ép từ chính bản thân. Lỡ có tiếng rồi. Viết nữa có khi lại bị tai tiếng cũng nên. Bởi thế người ta bảo thành nhà văn rồi thì không phải viết nữa. Viết nữa, e rằng đến lều văn cũng chả xứng. Cũng tương tự như các vị tiến sĩ ở ta vậy thôi, lúc còn là thạc sĩ, nghiên cứu sinh thì đi đâu cũng nghiên nghiên cứu cứu, thậm chí có quý cô, quý bà còn vừa nghiên cứu vừa sinh nữa cơ. Vậy mà khi thành tiến sĩ rồi thì mất dạng; có học vị mới rồi, cao rồi, chả nhẽ viết kém cả hồi tiền tiến sĩ; thế là gác nghiên để cứu mình bằng những công việc hốt bạc khác! Những công việc ấy chả cần học tới bậc tiến sĩ, một bà nội trợ kiêm môi giới đất đai cũng dư sức. Nhưng như thế thì các vị ấy có lỗi với bạn đọc đứt đuôi nòng nọc rồi! Vâng, bạn đọc tôi là A, giờ là B và B lại kém A, bạn có chấp nhận không? Vả lại, trước đây tôi viết chỉ vì tôi, vì danh vọng tôi, bạn đọc là cái gì mà tôi phải day dứt? Có bạn đọc cũng thế, mà không cũng có chết ai đâu? Sách in bằng tiền nhà nước, đoàn thể, tổ chức tài trợ, tôi có mất gì đâu. Và điều này, xin nói thật nhé, tôi chẳng có lỗi gì với các bạn đọc hết, bụng tôi chỉ chứa một cục văn con con, nó ra hết rồi, tôi làm sao rặn tiếp được nữa!
Ý nghĩ của tôi bị cắt ngang bởi tiếng nước chảy ồ ồ. Tôi vội đi ra phía sau nhà. Ở đấy, vợ tôi đang giặt quần áo. Từ cái chậu giặt bao nhiêu là bọt xà phòng bay lên. Chúng cứ loang loáng rồi vỡ vụn ra. Tôi hỏi:
- Bọt xà phòng làm sạch quần áo phải không em?
Vợ tôi cười:
- Bọt xà phòng chỉ kéo bụi ra khỏi quần áo thôi. Còn làm sạch quần áo là nhờ nước xà phòng, trong nước xà phòng có xút ăn da mà.
Ôi, bọt xà phòng!
Thứ bọt vô tình khiến cho các tình tiết trong hai lần gặp nhà văn Khai Nguyễn nở bung ra trong óc tôi... 
Lần thứ nhất, tôi vừa bước qua cổng, vào nhà ngồi chưa ấm chỗ, Khai Nguyễn đã quay sang phía tôi, hạ giọng bảo:
“ Xuân Tình sắp chết rồi!”.
Xuân Tình là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ trước cách mạng tháng Tám. Thơ ông, thế hệ chúng tôi ai cũng thuộc hàng chục bài. Đó là những bài thơ người ta chỉ có thể viết được trong những giây phút thăng hoa hiếm hoi trong đời. Đọc chúng, bạn đọc cùng thổn thức và đau nỗi đau của thi nhân. Thú thật, lúc còn trai trẻ, đọc thơ Xuân Tình, không ít lần tôi đã định tự tử khi thất tình. Song cũng có khi, thơ ông làm tôi trở thành một con người khác, đặc biệt là tính bốc đồng, khinh bạc mọi thứ ở đời.
Cách đây hai tuần, tôi còn gặp ông trong một cuộc nói chuyện thơ cơ mà, ông chết nhanh thế sao? Bởi vậy, tôi mở to đôi mắt nghi ngờ, hỏi:
“Sao chú biết?”.
Khai Nguyễn cười nhạt, thản nhiên nói:
“Xem truyền hình thì biết chứ sao”.
“Đài đưa tin Xuân Tình ốm nặng?”.
“Không, ông ta vẫn nói nói cười cười, đọc thơ sang sảng…”.
Tôi ngạc nhiên:
“Vậy sao chú nói ông ấy sắp chết?”.
Khai Nguyễn huơ tay vẽ một vòng tròn trong không khí:
“Người ta chả vừa tổng kết cuộc đời ông ta đấy sao!”.
Tôi “A” lên một tiếng. Thâm thúy thật! Chà chà, chẳng là đối với các nhà văn, nhà thơ lão thành, vào cuối đời họ, truyền hình thường ưu ái làm một chương trình giới thiệu, khẳng định lại công lao đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà. Song vì sao cứ phải chờ đến cuối đời người ta mới làm việc này nhỉ? Một anh bạn nghe tôi hỏi thế, chỉ cười xòa:
“Lúc nhà văn đã già mới biết anh ta có mắc sai lầm hay không. Những nhà văn không mắc sai lầm nào thì nêu làm gương người tốt việc tốt luôn thể”.
“Tiếc thật, lúc còn trẻ mặt mũi phơi phới ra thì không được trình cho thiên hạ thấy. Được thế thì các nhà văn áo ngắn cũng được an ủi phần nào. Rất có thể nhờ lên truyền hình mà mấy cây bút còm lọt vào mắt xanh của các em má hồng môi đỏ đang hớn hở chạy theo sau. Già mới được truyền hình thì người đã thành ngợm rồi, lên để nát thiên hạ chứ hay ho cái nỗi gì”, Khai Nguyễn có lần bảo tôi thế.
Rồi ông buông:
“Người ta đọc và yêu nhà văn là yêu văn yêu thơ, tức là yêu cái đẹp. Nhà văn, nhất là những kẻ xấu giai như cậu, chớ dại gì mà ló mặt vào ống kính. Biết cậu, người ta sẽ bớt yêu văn cậu đi một chút. Hãy để bạn đọc tưởng tượng cậu là một tay hào hoa phong nhã chứ không phải là một gã phàm phu tục tử mồm mép nhầy mỡ, nhồm nhoàm nhai thịt chó kia, nhớ nhé. Mình rất tiếc cho Xuân Tình…”.
Ba tháng sau, nhà thơ Xuân Tình chết thật. Nhà văn Khai Nguyễn cùng tôi đến viếng ông. Chúng tôi mang theo một vòng hoa và ném xuống huyệt nhà thơ đáng kính một nắm đất.            
Lần thứ hai, tôi nhớ là vào khoảng tháng năm, trời nắng như đổ lửa, tôi lại đến thăm nhà văn Khai Nguyễn.
Lần này vừa mở cổng cho tôi, không chờ tôi kịp lau mồ hôi đang chảy ròng ròng trên mặt, ông đã nói:
“Hữu Xạ chết rồi cậu ạ!”.
Nhớ chuyện nhà thơ Xuân Tình, tôi gặng:
“Ông ấy mới lên truyền hình phải không chú?”.
“Không, chỉ có quan tài ông ấy lên truyền hình thôi!”.
“Buồn quá!”.
“Buồn hơn là tôi và cậu không có tiền bay ra Bắc để ném xuống huyệt ông ấy một nắm đất con”.
Lúc ra về, lòng tôi nặng trĩu.
Ông Hữu Xạ chính là người đã giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn. Nghe nói, hồi ấy, trong ba lần họp, do bênh vực tôi, cả ba lần ông đều to tiếng với nhà thơ Xuân Tình. Ông nói văn tôi là thứ văn hiện đại, nhuần nhuyễn với truyền thống; tôi viết văn giống như yêu, vì yêu mà viết; và vì thế, tôi viết để cho mình, cho người, tìm người mà cho. Loại lão làng như ông, ông Xuân Tình ạ, tay văn sĩ này đã cố cho mà ông không chịu nhận, thật tiếc thay, phụ lòng người thay ông ơi; ông quen viết một chiều kiếm cơm rồi, giờ thằng nào trái ý là ông bảo thế này thế kia. Thật chán cho cái mũ ông đội, nó vừa với ông chứ đâu phải với tất cả mọi cái đầu! Còn Xuân Tình, nghe nói lại thì lúc ấy ông ta đỏ mặt, chém tay phầm phập vào không khí mà kiên quyết phán rằng, đại ý: văn vẻ của gã văn sĩ nhà quê ấy chỉ xứng là đồ đồng nát, hay còn gọi là ve chai, lượm từ bãi rác. Ngửi thối lắm. Không có tư tưởng. Yếu về chính trị. Thiếu vốn sống thực tế. Có biểu hiện của khuynh hướng tự nhiên...
Hữu Xạ quan trọng với sự nghiệp, tiếng tăm của tôi đến thế mà lúc ông rời bỏ cõi đời tôi lại không hay. Mà lúc biết thì đã muộn rồi. Than ôi, giả sử tôi có biết sớm hơn thì tôi cũng sẽ chẳng biết làm gì để tỏ chút lòng biết ơn tri ngộ!
Đúng lúc tôi đang bồi hồi nhớ lại người xưa, chuyện cũ thì có tiếng gõ cửa.
Nhà văn Khai Nguyễn!
Ông già này thiêng thật!
Tôi kêu lên thay cho lời tạ lỗi với bậc đàn anh trứ danh:
- Trời ơi, rồng đến nhà tôm. Cuối năm bận nhiều việc, cháu chưa đến chú được!
- Không sao, không sao…
Ông xua tay, ra ý nói nhân đi qua nhà, chợt nhớ tới tôi nên tạt qua thôi. Vào nhà, ông hỏi ngay:
- Tối qua cậu có xem truyền hình phỏng vấn trực tiếp Hà Lê không?
- Dạ, không. Hay không chú!
- Hay cái con khỉ! Nó sắp tan bọt nước rồi!
Nghe ông thở dài cái thượt, tôi nói:
- Mới ngoài ba mươi, cậu ấy còn phơi phới thế kia mà?
Khai Nguyễn cười ruồi:
- Còn trẻ mà chỉ chăm chắm đánh bóng tên tuổi, thời gian đâu viết lách nữa? Thật tội cho bạn cậu! Thân xác, tên tuổi thì vẫn trơ ra đó. Sự nghiệp rồi cũng thành bong bóng thôi! Tiếc thật! Mà cũng giận thật!
Ông nói thế và chỉ tay lên trời, mặt từ từ cúi xuống đất.
 

 
                        ĐÙA NHẢ
 
Ánh và Tuấn trước đây là bạn đồng môn.
Năm ngoái, họ vô tình gặp lại nhau khi vợ chồng Tuấn mua miếng đất của người em họ Ánh. Lúc làm giấy tờ sang tên mới biết đất của Ánh, người em họ chỉ đứng tên giúp.
Tuấn hỏi:
- Chắc nhiều đất quá, sợ chính sách thay đổi nên phải phòng xa phân tán trước phải không?
Ánh chỉ cười nhạt hỏi lại:
- Lương cậu tháng cả chục triệu. Cậu mới là người có nhiều đất, cậu đứng tên hết hay cũng nhờ người khác?
Còn nhớ lúc ấy vợ Tuấn cứ ngẩn mặt ra. Tháng nào lĩnh lương Tuấn cũng đưa cho vợ bốn triệu, kèm theo mảnh giấy cô tài vụ ghi rõ từng khoản tiền.
Giờ nghe Ánh nói thế, chị sinh nghi, về nhà cứ tra hỏi chồng mãi.
Tuấn bảo vợ:
- Thằng Ánh có tính bông đùa, nó hỏi vậy để xem em có hay ghen không thôi.
Chị vợ nửa tin nửa ngờ, mát mẻ bảo:
- Thôi tùy anh, nói thật thì nói, không thì thôi. Có đất, lúc chết anh cũng chẳng mang theo được, em chả cần biết nữa.
Lần này, vợ chồng Tuấn vừa ngồi xuống ghế, Ánh đã hất hàm về phía Tuấn hỏi:
- Này ông, cái nhà trong hẻm Hồ Văn Huê thằng em tôi để lại cho ông mấy tháng trước còn hay đã bán rồi, đất ở đó giờ phải hai cây một mét nhỉ!
- Nhà nào? Tuấn ngạc nhiên hỏi.
Ánh tỉnh bơ:
- Cái nhà ông gửi con em họ gì đó trông nom giúp chứ còn nhà nào!
Tuấn nghiêm mặt:
- Bậy!
Ánh xoa xoa tay cười khà khà:
- Ông giấu bà chị tôi phải không, khà khà...
Vợ Tuấn bảo không khát nên không uống ly nước Ánh đẩy về phía chị. Chị véo mạnh vào lưng chồng, ngầm ra lệnh phải về ngay.
Về tới nhà, chị chạy thẳng vào buồng ôm mặt khóc. Tuấn đã thề độc anh mà có căn nhà ấy thì cả dòng họ nhà anh là giống chó ăn cứt, chết hộc máu mồm ra chị cũng không tin.
Sau đấy, cả tháng trời hai vợ chồng không nói với nhau một tiếng.
Lúc đi ngủ, chị quay lưng vào tường, Tuấn quay lưng ra phía ngoài, đêm khuya Tuấn quờ tay qua làm lành, chị đẩy ra quầy quậy, miệng lẩm bẩm, không thèm, không thèm...
Hôm nay thì vợ chồng Tuấn buộc phải làm lành. Họ mang bộ mặt đám ma tới đưa ma vợ Ánh.
Khổ thân chị ấy, dáng phốp pháp, da dẻ phây phây, cười nói vui vẻ suốt ngày mà bỗng lăn đùng ra chết.
Mà chết thế nào?
Ai lại dại thế nhỉ! Uống cả chai thuốc rầy thì ruột gan nào không tan không nát!
- Vì sao chị ấy lại chết thảm như thế nhỉ? Vợ Tuấn bỗng nắm lấy tay chồng, hỏi khẽ.
Anh chồng tái mặt, nói không ra hơi:
- Hình như chỉ vì một... cái bao cao su.
- Lạ nhỉ! Vợ Tuấn không hiểu.
Khi quan tài đã hạ huyệt, mồ mả đã đắp xong, mọi người lên xe về nhà.
Để tránh chuyện u buồn, đám bạn đồng môn của Ánh quay sang nói về chuyện buổi họp mặt cách đây ba ngày.
Ai cũng bảo, lâu ngày mới gặp nhau, tăng một được ăn uống, tăng hai rủ nhau đi hát ka rao kê với nhau vui thật, vui thật, khó mà quên được...
Nghe các ông chồng bô bô nói với nhau như thế, trừ vợ Tuấn, tất cả các bà vợ đang ngồi bên cạnh chồng mình đều mím chặt môi, mặt tự nhiên tím lại. Tuy nhiên không ai hiểu vì sao người bên cạnh mình lại thay đổi thái độ qua vẻ mặt nhanh như vậy.
Liếc nhìn đôi gò má đỏ ửng vì lạnh của vợ, mặt Tuấn bỗng thuỗn ra.
Anh bỗng nhớ tới Ánh trong buổi hát ka rao kê.
Lúc ấy, anh ta lướt nhanh qua từng người, một tay vỗ vai bạn, tay kia nhét nhanh vào túi áo bạn một vật nhỏ.
Trò cớt nhả chơi ấy mà!
Tới chỗ Tuấn, động tác của Ánh đã đạt tới mức khéo léo tuyệt hảo.
Nhưng khi Ánh vừa quay đi, cũng nhanh gần như vậy, Tuấn đã kịp nhét cái vật bé tí xíu kia trở lại túi áo anh ta.
Trò tếu táo vui ấy mà!
Thật tai hại, vợ Ánh không biết đùa.
 

 
                              CỦA QUÝ
 
Bố Dậu là bộ trưởng, còn bố Nga là thứ trưởng một bộ nọ.
Khi ông bộ trưởng sắp về hưu thì ông thứ trưởng lên thay. Còn Dậu và Nga thì thành vợ chồng.
Vợ chồng Dậu, Nga là bạn học của Tuất hồi ở đại học.
Hình như có lần đến nhà Tuất, khi nước mắt đã lã chã rơi, Nga đã nói với anh rằng, cô đồng ý lấy Dậu chỉ vì lời hứa của bố. Lời hứa này đã đưa ông ngồi lên cái ghế bộ trưởng...
Chiều mùng một Tết năm nào Tuất cũng đến thăm vợ chồng Dậu, Nga.
Trước đó, suốt từ giao thừa cho tới hai giờ chiều ngày mùng một, Tuất chỉ nằm khoèo ở nhà, ra ra vào vào, hút thuốc lá vặt, suy nghĩ vẩn vơ. Bởi anh chẳng còn cha mẹ, có anh em, họ hàng ở thành phố này để mà đi chúc Tết.
Thế mà cũng đã hơn mười năm.
Tết đến rồi đi. Mai đào nở rồi tàn.
Riêng Tuất, anh vẫn thui thủi một mình một bóng.
Mà cái bóng cứ ngày một dài thượt ra, trông đến dễ ghét...
Cũng như lệ thường, hai giờ kém mười lăm phút chiều mùng một năm nay, Dậu bảo Nga:
- Em dọn sẵn chút gì để anh và Tuất uống chơi nhé. Cậu ấy sắp tới rồi đó em.
Nga dạ, rồi lẳng lặng sắp bàn ăn.
Ba chiếc ly, ba chiếc bát, ba đôi đũa.
Nhà chưa có, nói đúng hơn là sẽ không có trẻ con, cứ vắng vắng thế nào ấy.
Ngay cả người cũng ít tiếng. Dậu và Nga ra ngoài vui vẻ là thế, nhưng hễ cứ về đến nhà là mất hứng. Có hôm, hai người hôn nhau, ngủ với nhau mà không ai nói với nhau một tiếng nào. Sau đó thì Dậu bảo:
- Nói ít làm nhiều, như vậy mới hay!
Nga thêm:
- Tình cảm biểu hiện qua hành động. Hành động nói lên tất cả rồi, hà tất phải nói thế!
Dậu không đáp lại, trùm chăn, bật quạt, ngủ thẳng một mạch tới sáng.
Lúc Nga tỉnh giấc thì anh ta đã ra khỏi nhà từ lâu rồi.
Trên bàn có một tờ giấy viết nguệch ngoạc như chữ trẻ con: “Đi công tác Đà Nẵng. Nửa tháng. Ở nhà, bảo trọng!”.
Nga lướt mắt đọc dòng chữ rồi lẳng lặng vo viên mảnh giấy lại, ném tọt vào sọt giấy dưới gầm cái máy vi tính.
Chuông đồng hồ điểm hai tiếng thì ngoài cửa có tiếng chuông reo. Dậu nói:
- Tuất đấy!
Nga tươi cười ra mở cửa:
- Chúc anh Tuất năm mới khỏe, vui, vạn sự như ý nhé!
- Mình cũng chúc các cậu như thế! Xin chúc mừng!
Dậu mời Tuất vào bàn:
- Uống chút gì nhé! Vui xuân mà.
- Thì uống!
Tuất cười phô cả hàm răng trắng đều tăm tắp:
- Nhà năm nay đẹp, lại sắm thêm được nhiều thứ quý quá nhỉ! Chả bù cho mình...
Dậu cười vang:
- Thế thì mình sẽ bù! Hôm nay cậu thích cái gì quý nhất, đẹp nhất ở cái nhà này tớ cũng chiều! Hứa danh dự đấy! Ti vi và máy vi tính nhé!
- Không.
- Tủ lạnh và lò vi ba vậy!
- Không!
- Cả bốn thứ đó!
- Càng không!
- Thế thì cả ô tô và cái nhà này!
- Tớ cần những thứ cậu nói làm gì.
- Vậy cậu cần gì?
- Một thứ! Mà có lẽ cậu không đủ dũng cảm để bù cho tớ đâu!
- Tớ sẽ làm. Hứa danh dự một lần nữa đấy! Nói đi!
- Tớ muốn thứ mà cậu đang muốn rũ bỏ!
- Cái gì?
- Không phải là cái gì mà là ai!
- Ai vậy?
- Nga chứ còn ai!
- Chà chà, ái chà chà! Người con gái hiếu thảo của bố cô ấy! Người vợ môn đăng hộ đối của tớ ư?
Dậu kêu lên, mặt tái nhợt.
- Đúng thế!
Tuất dứt khoát.
Nói xong, anh tự nâng ly rượu lên, uống cạn một hơi, rồi ra về.
Tới cuối tháng giêng thì vợ chồng Dậu, Nga li dị. Họ đến tòa án mà vui như đi trẩy hội.
Rồi chưa đầy một tháng sau, Nga lấy Tuất.
Lúc động phòng, Tuất đột ngột hỏi:
- Chúng mình có con chứ!
Nga cười:
- Chắc chắn rồi!
Tuất chưa hết ngỡ ngàng thì Nga đã khoe:
- Em mới đi tháo cái vòng đặt sau đêm tân hôn ngày xưa ra rồi. Bác sĩ bảo cứ yên tâm, yên tâm đi! Mạ già ruộng ngấu mà! Em yêu anh!
 
 

 
                              MƠ HÃO
 
Truyền người xứ Nghệ. Anh lẫn vào sỏi đá, rừng xanh, khoai sắn, suối trong, nắng lửa và cả vô vàn tiếng chim hót, tiếng bò gọi bầy ò ò ò nữa. Đói khát không ngăn được vóc dáng lực lưỡng của anh cứ lớn bổng lên. Nước suối trong anh vốc lên rửa mặt hoặc uống ừng ực khiến cho đôi mắt anh lúc nào cũng lấp lánh sáng, giọng nói của anh trầm trầm mà vang vọng. Còn đồi núi, rừng xanh lại luyện cho các gióng chân trên đôi chân săn chắc như chân ngựa của anh dài ra.
Lớn lên, Truyền trở thành một chàng trai cao, to, ngực vồng, bụng múi, mặt chữ điền, trán rộng, mắt sáng, mũi cao, cằm nở. Người ta ví anh với một nam tài tử xi nê người Hàn Quốc cũng chẳng ngoa. Dĩ nhiên, Truyền cũng có nhược điểm. Ấy là cái bàn chân vừa thô, vừa to, vừa dài lúc nào cũng đỏ ửng lên như chân người bị mắc chứng dị ứng da. Đi dép râu Trung Quốc, Truyền đã lựa tới số bốn mươi hai mà vẫn còn thiếu chín xăng ti mét. Đương nhiên là không có cỡ giầy nào, kể cả giày đóng cho Tây đi, vừa với chân Truyền.
Về sau, lúc Truyền ra Hà Nội học, anh ta mới hay cái bàn chân xấu xí kia lại chính là ưu điểm lớn nhất của mình. Chả thế mà không ít cô gái Truyền quen cứ nhìn chằm chặp vào nó, miệng tủm tỉm cười ruồi.
Về sau nữa thì Thu Ngân, vợ anh mới nói toạc ra rằng, theo giải phẫu sinh lý học tổng kết, các bộ phận cơ thể của người ta đều được tạo hoá cấu tạo theo một tỉ lệ hài hoà, cân đối. Ví như, nhìn bàn chân anh, người ta có thể biết cái của nợ đời của anh dài bao nhiêu, mạnh hay yếu, cứng hay mềm.
Lúc đi tắm, Truyền mới biết là trúng phóc! Đơn giản thế mà nào anh có biết, Truyền mím môi cười thầm, mắt liếc nhanh xuống cỗ tam sự quý hóa của mình. Tuyệt hảo! Người ngắn bắn súng dài đã là tuyệt hảo, còn anh, đúng là trên cả tuyệt hảo chứ chả chơi, bởi vì cái khác thường ấy lại nằm ngay trong cái tổng thể tự nhiên vốn đã tuyệt hảo của anh...
Và, chẳng cần phải nói dài dòng, ai cũng biết một cơ thể khỏe mạnh luôn là nơi cư trú của một trí tuệ thông thái. Truyền thông thái tới mức chính anh cũng phải ngạc nhiên về bản thân mình. Đọc Kiều ba lần, anh có thể nhắc lại đúng từng chữ một nửa cuốn truyện. Nghe các giáo sư thao thao bất tuyệt trên giảng đường, Truyền chả mấy khi ghi chép. Ghi làm gì những lời giết thì giờ ấy, sách vở có hết rồi, các vị ấy có hơn gì một cái máy nói. Ví như Trung Hoa là nước Trung Quốc, Trung là Trung Nguyên, Hoa tức là Hán tộc, người Hán cho mình là Hoa, tức là đẹp, cho nên mọi nước, mọi tộc người ngoài Trung nguyên đều là man ri mọi rợ. Hay Luật, theo Từ điển tiếng Anh là Lô, theo từ điển tiếng Pháp gọi là Loa, còn người Trung Quốc gọi là… Ấy vậy mà khi thi hết môn học, vị giáo sư nào cũng tấm tắc khen Truyền làm bài y như mình đã giảng, chỉ khác cách chấm câu. Nghe nói lại như thế, Truyền bảo anh chỉ chấm câu lại cho đúng ngữ pháp của lối văn viết thôi, bởi khi nói, các giáo sư nói loại văn nói, có ai nói chỗ này phẩy, chỗ kia chấm đâu, nói sao cho người nghe hiểu đúng được ý đã xứng là bậc thầy rồi. Do vậy, Truyền học như chơi mà vẫn tốt nghiệp á khoa. Tài tử cỡ Nguyễn Công Trứ đấy, các cô gái bảo nhau thế và đua nhau chinh phục Truyền. Chàng trai xứ Nghệ này sinh ra là để làm giảng viên đại học. Mà thành giảng viên rồi thì có hộ khẩu Hà Nội, được phân nhà ở Hà Nội, lại đi nước ngoài nước trong như đi chợ, chắc lúc đó anh sẽ trở thành người túi xoàn xoạt tiền bạc chứ không phải hạng vỗ túi mãi mới nghe thoảng qua vài ba tiếng leng keng. Tiền đồ tương lai Truyền sẽ thật sán lạn, huy hoàng, con cái Truyền mà có cái gien ấy di truyền lại, nếu gặp thời, chí ít cũng sẽ là tiến sĩ, giáo sư, vụ trưởng, bộ trưởng chứ chả chơi...
Người con gái đầu tiên chinh phục được Truyền là Hương Giang. Mới nghe tên ai cũng tưởng cô là người xứ Huế. Xinh đẹp, ngọt ngào, đằm thắm mà mãnh liệt. Song khi nghe giọng cô nói mới hay cô được sinh ra và lớn lên bên dòng sông Lam xanh biếc. Cô là đồng hương của Nguyễn Du, thơ hay, hát giỏi mà đàn địch cũng khá. Đêm biểu diễn văn nghệ của khoa, của trường mà thiếu cô dẫn chương trình thì người xem giảm hẳn đi một nửa. Cô đến với Truyền đúng vào lúc anh đang ngẩn người ra sau khi nghe cô hát một bài dân ca xứ Nghệ trong suốt. Cô nói thẳng:
- Em thích anh. Anh cũng vậy chứ?
Truyền bủn rủn cả chân tay, nói một tiếng cộc lốc:
- Phải!
- Chả văn chương một tí nào! Hương Giang nói và hôn chụt một cái vào má Truyền.
Tới đây thì chàng trai xứ Nghệ nói thêm được một câu nữa nhưng nó chả ăn nhập gì với hoàn cảnh lãng mạn lúc đó một chút nào:
- Chó hoang!
Hương Giang hiểu anh nói cô mạnh mẽ như chó hoang, bèn bảo:
- Cám ơn đã hiểu đúng em. Chúng mình sẽ là một đôi tuyệt hảo!
Truyền đưa bàn chân quá khổ ngáng ngang chân khiến Hương Giang ngã nhào vào ngực anh. Cô gái không giận mà lại ôm chầm lấy Truyền, áp bộ ngực thây lẩy nóng hổi vào ngực anh và khen:
- Giỏi!
Dĩ nhiên, tiếp theo đó là những ngày trên cả tuyệt vời như Truyền vẫn nói. Ai cũng nghĩ là đôi trai tài gái sắc này sẽ kết tóc xe tơ vĩnh viễn, ngoài cái chết ra, không gì có thể tách họ ra được nữa.
Vậy mà, trớ trêu thay, ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, Hương Giang tổ chức đám cưới.
Truyền xuất hiện ở đám tiệc trong bộ com lê màu trắng, cà vạt đen, giày da đen bóng lộn, miệng cười hớn ha hớn hở, bắt tay khách tới dự lễ cưới nhiều tới mức nóng ran cả hai bàn tay.
Nhưng người đàn ông cưới Hương Giang làm vợ không phải là Truyền, mà là Quang, anh có biệt danh là Quang Ba Than, một kĩ sư xe máy chuyên về cần cẩu ở Công ty than Hà Nội. Nhà Quang ở dốc phố Hàng Than. Da anh đen như than. Miệng anh lúc nào cũng than thở đủ điều. Có tiền thì than khổ vì sướng. Hết tiền thì than cực vì nghèo. Trời nóng than sao xuân qua mau thế. Còn khi trời trở lạnh anh lại quay sang than tiếc những ngày hè. Lấy được Hương Giang, Quang cũng than. Vợ đẹp như mộng thì dễ vỡ mộng lắm đây. Rồi thì khổ vì ghen. Khổ vì vợ anh gặp ai cũng cười, cũng thân mật như thể đã quen nhau từ kiếp nảo kiếp nào vậy. Than ôi, mỡ bày ra sẵn thế, mèo nào chẳng khát thò đuôi vào ngoáy! Rồi than nhà chưa xây được, chả khác gì một cái tổ chuột. Và cuối cùng thì than, giống tốt thế, nhưng
 đẻ gì mà đẻ kém thế. Hai vịt giời liền, vợ ơi là vợ…
Hương Giang nghe chồng than thế thì ức lắm. Cô doạ lần tới sẽ đẻ con trai cho sáng mắt ra:
- Dĩ nhiên, tôi nói trước đấy, cái giống nhà anh làm chó gì có con trai. Đấy, người gì mà ngang phè bẩy thước, cao chỉ một mét năm tư, chân chữ bát, bàn chân chưa đầy một gang tay, lại đen nhem nhẻm, thế mà còn vẽ chuyện làm điệu làm bộ. Tôi thì tôi xin cắt đứt, tôi chả cần. Tôi đang muốn lắm đây!
Nghe vợ doạ, Quang phát hoảng:
- Xin lỗi, xin lỗi em, em cứ đẻ một thằng con trai cho tôi nhờ. Hay là, nếu thích, em cứ đẻ liền tù tì hai đứa cũng được. Còn li dị ấy à, có nướng trên lửa than kíp lê, dìm sâu xuống cống bãi than ngoài mé sông Hồng thằng Quang này cũng không chịu kí vào giấy đâu. Đừng có mơ hão cho hao mỡ, nhé!
Ba tháng sau, Truyền kết hôn với Thu Ngân.
Ngân nói cô đẻ trước anh tám tuổi, đã chờ đợi anh từ ba mươi hai năm rồi.
Đám cưới rềnh rang, ngựa xe như nước, tiền mừng phải đựng trong mấy bao tải.
Cưới xong, ông bố vợ cho vợ chồng anh sang Nhật hưởng tuần trăng mật.
Lúc về, xe đưa thẳng hai người từ sân bay về một căn biệt thự sang trọng toạ lạc trên đường Thái Hà.
Ba hôm sau thì Truyền nhận công tác ở Bộ ngoại giao.
Thu Ngân khoe với bố cô:
- Anh Truyền hơn hẳn những thằng con đã gặp bố ạ! Thật xứng đồng tiền bát gạo bố bỏ ra vì con gái rượu!
Truyền nín thinh. Làm chồng trong cái nhà này phải biết câm, biết điếc, nếu mù được càng tốt. Rồi một ngày kia, ta sẽ...
 Này, bọn người hợm của kia ơi, các người chớ có hí hửng vội, thằng này đầy một đầu óc chứ không phải bùn đâu nghe! Hãy đợi đấy!
Và Thu Ngân lần lượt sinh cho Truyền ba đứa con gái. Vợ Truyền xấu dây nhưng tốt củ, đứa con gái nào cô ta sinh ra cũng mũm mĩm như búp bê, da trắng hồng như trứng gà bóc, mắt sáng như mắt chim ưng, nói cười líu lo như chim sáo hót ngày xuân.
Điều đáng nói là tới đứa con gái thứ ba, ông bố được mua một căn nhà mới. Vợ chồng Truyền bỏ tiền ra mua, tiêu chuẩn của ông bố, nên ông đứng luôn sở hữu chủ. Biết chuyện, Truyền giận quá, kiếm cớ đòi li dị vợ. Thu Ngân cười:
- Không được, chúng ta phải có thêm một đứa nữa em mới kí giấy thuận. Lúc ấy, ai cũng có hai đứa cho công bằng...
Truyền tặc lưỡi, thế là thêm một bé gái xinh như một bông huệ trắng.
Hơn mười năm sau, Truyền gọi điện rủ Hương Giang tới cùng ngồi trên một cái ghế đá đặt bên bờ Hồ Tây thơ mộng. Anh hỏi:
- Chuyện li hôn của em tới đâu rồi?
- Không được! Căn nhà em và Quang bỏ tiền ra xây vẫn mang tên bố anh ấy. Mà ông cụ thì năm nay mới năm tư, tối nào cũng còn đi đánh ten nít ba tiếng liền. Còn anh?
Truyền thở dài:
- Tiếng là anh có tới hai cái biệt thự, nhưng một cái mang tên ông bố vợ, cái kia thì là tài sản riêng của vợ trước lúc kết hôn.
Hương Giang thẫn thờ:
- Giả sử anh đòi li hôn cô ta có đồng ý không?
- Chắc chắn là đồng ý. Vì cô ấy biết rằng, ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng, anh sẽ chẳng dám đem theo một đứa bé nào.
Hương Giang nghẹn ngào nói trong nước mắt:
- Vậy là bài toán năm xưa của hai ta không thành rồi. Cái giá ở lại Hà Nội đắt quá anh ơi!
Truyền an ủi:
- Không, thực ra thì chúng ta đã hi sinh đời bố mẹ để củng cố đời các con ta. Con chúng ta sẽ ở Hà Nội. Vì chúng là người Hà Nội, sinh ra ở Hà Nội!
Hương Giang lau nước mắt, hỏi:
- Vậy giấc mơ được sung sướng ở bên nhau thì sao đây?
 Truyền chém tay vào khoảng không trước mặt, giọng dứt khoát:
- Chúng ta sẽ là thông gia. Em có tới hai thằng con trai, chúng sẽ cưới con gái anh!
Hương Giang nhìn lên trời, sụt sịt hỏi:
- Nhưng anh ơi, liệu những đứa con gái trắng như bột nhà anh có chịu để mắt tới hai thằng quỷ lùn đen hơn than nhà em không?

 
                              TRÂU BÒ
 
Thầy Trần Tịch, tuy không giữ chức vụ gì, nhưng bạn bè cứ giỡn gọi là Trần chủ tịch, bỏ việc từ Cà Mau lên Sài Gòn.
Trắng tay.
Lương bậc sáu chấm hết.
Ngạch giáo viên cũng chẳng còn...
Sống sao đây?
Tịch tìm đến một tờ tạp chí sắp xuất bản, được nhận vào làm biên tập. Anh sửa bài cho tạp chí và viết bài cho nhiều tờ báo khác.
Là thầy giáo bỏ nghề rồi bất đắc dĩ thành nhà báo, nhà văn nhưng Tịch chưa có một nửa mái nhà để che cái đầu đã đốm bạc.
Năm tháng qua đi.
Bạn bè giật mình khi thấy anh mua nhà, cất nhà.
Nhà ở đâu? Trung tâm thành phố.
Nhà xây như thế nào? Có thể nói, đang ở biên chế nhà nước, chức to lồng lộng như  ông Tổng biên tập tờ tạp chí cũng chưa từng được ở một cái nhà to và sang như thế.
Gớm, tiền ở đâu ra mà lắm thế nhỉ?
Nghe phong thanh lúc lên thành phố, một người bạn cho vay hai chỉ vàng để mua một cái máy chữ, người bán máy lại không bán nữa, Trần chủ tịch sắm vai nông dân, xắn quần lội qua Nhà Bè mua một mảnh ruộng phèn. Ý chỉ mong có chút đất trồng rau muống ăn dần thôi. Ai ngờ, ít năm sau, cái ruộng phèn kia lên giá tới vài tỉ. Cũng có người nói anh góp vốn làm một tổ hợp sản xuất mì sợi. Mì bán đắt như tôm tươi. Tổ hợp thành một cái xưởng rồi thành một nhà máy. Tên hình như là Datafood thì phải.
Lại có người nói… Thôi chẳng kể nữa. Vì tốt hơn hết là nên hướng vào hiện tại.
Vậy thì hôm nay là ngày lành tháng tốt, Trần chủ tịch cưới vợ cho con trai đây.
Ở nhà hàng nào? Sinh Đôi.
Đúng, cái nhà hàng to nhất, sang nhất thành phố.
Còn khách thì sao nào? Gớm, một tay biên tập viên quèn ngoài biên chế mà ở đâu ra mà lắm bạn bè đến thế. Chí ít cũng trên dưới năm trăm người. To thì có các vị lãnh đạo bộ, ngành. Vừa thì có các nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà buôn. Và rất nhiều người ở các ngành nghề khác. Có cả hàng chục chú bé bán hủ tiếu gõ, bánh mỳ rong, rao báo vặt, nhặt ve chai...
Tóm lại, một đám cưới rất to. Nghĩa là phải chi rất nhiều tiền. Mà người ngoài biên chế như bác Trần chủ tịch, chức quyền chả có, người hàm ơn chịu phúc chả mấy, lại không thể đè ai ra để moi tiền, thì việc bỏ bạc túi ra làm đám cưới cho con là cái chắc. Vậy mà bác Trần nhà ta cứ tươi hơn hớn, chả tỏ ra có ý gì lo lắng.
Ở góc cuối nhà hàng có một bàn ồn ào quá. Bàn của mấy tay có ba bốn thứ nhà như nhà văn Trần. Trong số đó có mấy tay còn có thêm cả các nhà tôi. Nhà cửa, nhà đất họ cũng mênh mông. Tiếng là thế nhưng họ ăn uống nhồm nhoàm, uống bia ừng ực. Có đũa có chén nhưng món nào bốc được là họ cứ tự nhiên sai năm ngón. Mốt đấy, các đại gia bây giờ đều ăn bốc cả. Như thế mới đúng mốt thuở nguyên sơ, mới xứng là người tân tiến trong cái thời đại chó lên ngôi này!  
Ông Tổng biên tập mới uống có mấy ngụm bia đã phải đứng dậy. Bụng quan yếu, phải đi trút bầu tâm sự. Và đương nhiên người đàn ông bụng bự này phải đi ngang qua bàn của đám có rất nhiều nhà này nhà nọ kia.
- Vị này đang trong biên chế đấy các ông ạ!
- Liệu cho ông ta ra ngoài biên chế, các ông thử đoán xem ông ta sống nổi mấy ngày?
Một tay trong số ấy bảo:
- Sống thế chó nào được, ngữ ấy không bám vào một cái ghế đến cám cũng chả có mà cạp!
- Nghe đồn ông ta đội cái tiến sĩ học bổ túc văn hoá mà ngoi lên. Những gì ông ta có, đều do bọn người hèn hạ đặt sẵn lên ghế. Mà cái ghế ấy cũng có đủ hai tay, bốn chân cơ đấy!
Vừa lúc ấy, nhà văn tóc muối tiêu ngoài biên chế của chúng ta khoác tay người vợ xinh đẹp đang cười tươi như hoa đi qua.
Một tay ba bốn nhà bô bô nói với cả bàn tiệc:
- Bọn ta thử so sánh ông Tổng và ông Trần coi nào...
Cả bọn nhao nhao, ồn lên một lúc. Rồi có kẻ nào đó hét toáng lên:
- Ông Trần chủ tịch tài số một.
- Số một!
- Ở ngoài biên chế mà vẫn sống nhăn răng, lúc nào cũng cười hơ hớ hơ hớ.
- Còn nhà cửa, con cái, thì đấy, đã có thằng nào ở đây sánh kịp nào.
- Ô, ô, ô, xin một tràng pháo tay cho bác Trần! Hoan hô người ngoài biên chế! Đúng, người tài giỏi bây giờ phải là người ngoài biên chế!
Cả bọn cười vang. Và đám cưới càng thêm vui vẻ nhờ những tiếng cười như vậy.
- Hoan hô...
- Hoan hô...
Ít lâu sau, nhờ một tên thối mồm mách lẻo, chuyện này cũng tới tai ông Tổng.
Ông vê râu cằm, cười một mình.
Thằng Trần Tịch nhờ vợ ngoài biên chế nhà nước mà có tất cả.
Vợ nó có tất cả mà thực ra chẳng có gì cả!
Nhà cửa, đất đai, công ty con bé đứng tên và được chia ké một phần lợi nhuận không của thằng anh họ trong biên chế này thì của bố nó à!
Hê hê, những thứ con bé đứng tên là của thằng này cả đấy. Đố đứa nào trở mặt được đó! Bởi vợ chồng nó đã viết sẵn giấy bán tài sản và nhận đủ tiền của Tổng này, chỉ chưa ra công chứng thôi.
Thật hài hước khi đám bạn một tấc tới trời giao du với thằng Tịch cứ ngoác miệng ra, ngoài biên chế giỏi, giỏi, giỏi!
Đúng là một lũ trí ngủ!
Ngu tranh hết cả phần của trâu bò!

 
                              ĐIỆN THOẠI
 
Cô Hoa được nhiều người tín nhiệm mời tới nhà dạy kèm cho con em họ.
Bởi thế, điện thoại của cô phần lớn ghi số điện thoại di động của học sinh.
Cô bảo, con nhà giầu, đứa nào cũng có một cái. Có lẽ thời nay âm thịnh dương suy, học sinh cô dạy ở nhà đều là các đấng mày râu tương lai: Anh Hùng, Võ Dũng, Trần Quyết, Đào Chiến, Quyết Thắng, Kiên Cường.
Chà chà, đi từ nhà này tới nhà kia, trị cả một lũ quỷ, cô mệt chắc chết đi được.
Anh chồng thương vợ nên những lúc cô Hoa cáu gắt thất thường, anh chỉ cười hề hề. Hề hề tức là huề, là bỏ qua. Hề hề...
Một hôm, cô Hoa đi dạy về. Mệt quá, cô lăn ra ngủ. Cái điện thoại để bên cạnh bỗng reo lên tít tít, tít tít. Sợ vợ thức giấc, anh chồng vội cầm điện thoại lên nghe.
“A lô”.
Bên kia vẫn im lặng.
“A lô, a lô, xin lỗi ai đó ạ”.
Vẫn im lặng. Rồi tắt máy. Học sinh tệ thật, không gặp được cô chúng cũng chẳng thèm trả lời người bắt máy! Vừa lúc ấy thì cô Hoa tỉnh dậy. Nhận cái điện thoại từ tay anh chồng, cô bấm bấm mấy cái vào bàn phím. Rồi vừa liếc nhìn chồng cô vừa gọi to:
“A lô, a lô! Chị Loan phải không ạ. Em Hoa nghe đây. Dạ, tối mai chị em mình đi mua đồ nha. Dạ, dạ, ông xã nhà em ấy à, dạ, ông ấy đang ở bên cạnh em nè...”.
Cô mới nói tới đó thì bất ngờ chuông điện thoại reo lên tít tít, tít tít!
“Ơ, thế này là thế nào?”.
Cô tỏ vẻ sửng sốt. Nhưng chỉ trong giây lát, cô đã kịp bấm máy ngắt cuộc gọi. Việc đó diễn ra cùng lúc với thời điểm anh chồng thôi cười hề hề hề:
“Máy như vậy là máy hỏng. Nếu không thì mạng điện thoại di động hư. Ai đời tín hiệu vung vãi thế, chỗ cần rớt không rớt lại rớt vào chỗ người ta đang gọi!”.
“Thôi được!” - Anh chồng nói tiếp: “Cứ thử hỏi 1080 xem có khi nào đang nghe điện thoại mà chuông lại réo không đã. Mà thôi, hề hề...”.
Hoa là người vốn có tư cách trên cả đàng hoàng, làm gì có chuyện ỡm ờ gì đó, gọi chi cho tốn tiền, nhỉ!
Một lần khác, cô Hoa đang tắm. Thấy cái điện thoại để trên giường cứ rung lên bần bật, tiện tay, anh chồng lại nhấc lên xem. Một cái tin nhắn.
 “Anh đây, anh chờ ở ngã tư Cây Thị nha em”.
Anh chồng bỏ vào chỗ cũ. Có lẽ ai đó nhắn lộn. Thời di động toàn dân, máy nhảy số, tin đi lung tung cũng chả có gì lạ.
Chả thế mà vừa tắm xong, cô Hoa đã cầm máy lên khoe:
“Anh ơi, người ta chờ em ở ngã tư Cây Thị nè, đi với em coi đó là ai đi anh”.
“Bậy bạ nào, anh chồng nói, nó nhắn lộn đó, em tưởng thiệt a? Hề hề...”.
Chuyện cô Hoa vẫn giấu bị lộ vào khoảng thời gian cô bị ngã gẫy chân, phải vào bệnh viện bó bột. Sợ các học sinh vợ mình dạy kèm mất công chờ đợi, chồng cô liền móc điện thoại ra gọi. Ba số điện thoại đầu có tín hiệu chuông rung nhưng không có ai bắt máy. Hai số sau có tiếng đàn ông càu nhàu, hỏi số này của ai vậy, quên đi nghe. Anh chồng cô Hoa cười hề hề rồi bụm môi bấm số điện thoại thứ sáu. Anh ta chưa kịp a lô thì bên kia đã vang lên một giọng lè nhè:
“Ừa, ừa, anh tới ngay đó, vẫn chỗ cũ phải không cưng?”.
Ô, một thằng say! Hề hề…
Nhưng mà, ồ, anh chồng bỗng giật thót người! Bởi anh chợt nhớ khi say người ta thường nói thật! Lúc ấy, anh ta chỉ đủ bình tĩnh để hắt ra mấy tiếng, xì, xì...
Trên bàn phím điện thoại có số, cạnh mỗi số lại có hai hay ba con chữ. Số để bấm số điện thoại, chữ để ghi tên, địa chỉ và viết tin nhắn. Điều này ai đã từng sử dụng điện thoại đều biết. Song phía sau chữ và số ẩn chứa những chuyện gì, không phải ai cũng biết!
Tuy nhiên, bây giờ thì chồng cô Hoa đã biết! Hề hề...

 
                        CHIA BUỒN
 
Anh trai: “Nghe em vừa nhận chức phó hiệu trưởng?”.
Em gái: “Dạ”.
“Vậy thì trước hết…”.
“Anh chúc gì nào?”.
“ Chúc tiến bộ”.
“Một”.
“Thêm bổng lộc”.
“Hai”.
“Đỡ phải soạn giáo án”.
“Ba”.
“Không còn dịp bỏng họng hét học trò”.
“Bốn”.
“Hết vụ chấm bài kiểm tra…”.
“Năm”.
Em cười, ngước mắt nhìn anh, thăm dò:
“Còn sau đó?”.
Anh nắm chặt tay em:
“Thành thật chia buồn!”.
Em tròn mắt:
“Buồn! Anh có lộn từ không đấy?”.
Anh xua tay:
“Không”.
“Anh nói rõ thêm một chút được không?”.
“Được”.
Em giục: “Vậy thì nhanh lên!”.
Anh thủng thẳng:
“Em biết đấy, trước kia anh cũng đã làm hiệu trưởng…”.
“Thì sao nào?”.
“Chị dâu em ngày xưa là vợ của tay hiệu trưởng vừa cất nhắc em đấy”.
“Chuyện cũ mèm của họ liên quan gì tới em?”.
Anh cười: “Có đấy!”.
Em tỏ ý không hiểu.
“Hẳn em còn nhớ chị dâu cũng từng làm hiệu phó”.
Môi em mấp máy.
“Cô ấy được thế là do anh đề nghị cấp trên…”.
Em hơi há miệng.
“Còn em?”.
Em ngẩng mặt lên:
“Em khác chị dâu! Đời nào em chịu ngồi chờ! Em đã ép hắn ta phải đưa em lên! Nếu không…”.
Anh cười gượng:
“Vui chứ?”.
Mắt em tối sầm lại:
“Hỏi như trẻ ranh ấy! Thật vớ vẩn!”.
Anh lưỡng lự:
“Vậy thì…”.
Em gân mặt nhìn thẳng vào mắt anh:
“Thì đã sao?”.
Anh buông:
“Xin chia buồn!”.
“Với em?”.
“Không. Với chồng em!”.
“Anh lại lộn lần nữa nữa rồi!”.
“Em bảo sao?”.
Em thở dài:
“Thực ra thì anh ấy đáng được chia vui!”.
Anh dẹt mắt:
“Sao vậy?”.
Em đan chéo hai bàn tay vào nhau, miệng ráo hoảnh:
“Thoát được em!”.
 

 
                              BẢN SAO
 
Mỗi lần gặp nhau, biết thời gian bên người tình chỉ ngắn tựa một lần chim vỗ cánh, họ thường quấn chặt lấy nhau như một đôi rắn cuối xuân. Anh lạc vào cõi mơ, còn chị thì trào nước mắt vì sung sướng…
Có lần, chị lau nước mắt, hỏi anh:
“Chị ấy dạo này thế nào?”.
Anh khẽ gỡ cánh tay chị ra khỏi cổ, nói qua hơi thở:
“Vẫn xinh đẹp, đảm đang, hiếu kính cha mẹ, chiều chồng, thương con”.
“Thật không?”.
“Thật!”.
“Vậy sao anh còn yêu em?”.
“Anh không biết. Có lẽ em có sức hấp dẫn riêng”.
“Còn em, em yêu anh vì cái gì?”.
“Vì anh rất giống chồng em, lại mạnh mẽ nữa”.
Câu chuyện vô tình khiến cả hai cùng lặng đi. Anh tự nhiên cảm thấy ân hận. Anh có một gia đình thật hoàn hảo. Trong con mắt của người vợ anh lấy vì yêu say đắm, anh được chị tôn thờ như một thần tượng. Chị một tay chăm sóc song thân anh như một người con gái hiếu kính cha mẹ. Chị yêu anh đắm đuối, tin anh một cách mù quáng và sinh cho anh hai đứa con không thể xinh đẹp và thông minh hơn được nữa. Chúng đều đã trưởng thành, con trai giống bố, làm kĩ sư thiết kế tàu thủy, con gái giống mẹ, mới đi dạy học một năm đã đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp trường. Riêng anh, cho dù anh có đi đêm về hôm chăng nữa, chị vẫn tin anh chỉ đi vì công việc.
Còn chị, chị hay nghĩ tới chồng sau mỗi lần cố quên anh ấy đi để sống với người tình. Thật tội nghiệp, chồng chị hiền như một cục đất. Tốt bụng nhưng vụng về. Nói oang oang như cãi nhau nhưng lại rất dịu dàng với vợ con. Nói cho đúng, chồng chị là người nể sợ vợ. Chị cho gì, anh ấy hưởng nấy, ít khi có lời ra tiếng vào. Tuy nhiên, so với anh thì chồng chị kém nhiều lắm. Anh lịch sự, hào hoa biết bao...
Chị bỗng thấy trong lòng nóng như lửa bèn buông anh ra, thì thầm:
“Cứ mãi thế này em thấy nó làm sao ấy anh ạ. Hay là...”.
“Là sao?”.
“Em ly dị rồi chúng mình cưới nhau!”.
“Có điên mới làm thế, em yêu”.
“Vậy thì anh đưa em tới để em nhận lỗi với chị ấy nhé”.
“Không được, không nên hạ một ông thánh xuống hàng một con quỷ...”.
“Thế thì em...”.
“Chẳng nên làm gì cả! Cứ thế mà sống đã là hạnh phúc rồi, em còn đòi hỏi gì hơn?”.
Họ lại ôm chặt lấy nhau, ngày tháng lại trôi nhanh như nước chảy qua cầu.
Đã gần một năm. Một hôm chị bảo anh:
“Em đã có anh rồi. Sau lần này, ngày nào em cũng được gặp anh!”.
“Anh cũng có em rồi...”.
“Nhưng em nói “có anh” với nghĩa bây giờ chồng em giống anh được bẩy, tám mươi phần trăm rồi cơ”.
“Anh cũng hiểu như vậy. Vì bây giờ nhà anh cũng đã giống em tới cỡ đó”.
“Thế ư! Anh biết đấy, vì yêu anh nên em đã cố lái anh ấy thành một bản sao. Anh ơi, bản sao có cần giống bản chính một trăm phần trăm không?”.
“Không. Bởi nếu thế, một ngày nào đó, nó cũng sẽ nhàm chán như anh”.
“Em hiểu”.
Khi sắp chia tay nhau, anh chị dự định từ nay sẽ không hẹn gặp nhau nữa. Vì ân hận? Vì người này vẫn có thể thấy người kia đang ở bên cạnh qua những bản sao?
Lúc này, cửa ở phòng bên cạnh bỗng vang lên tiếng lạch xạch, những âm thanh báo hiệu một đôi tình nhân cũng đang sắp chia tay nhau.
Xuống tới cầu thang, anh chị cùng bị khựng lại.
“Không thể tin được!”, anh tròn xoe mắt.
“Tôi có nhầm không đây!”, chị quay mặt đi.
Đôi tình nhân đang khoác vai nhau cố ý đứng chờ anh chị kia chính là chồng chị và vợ anh. Họ không hề tỏ ra bối rối mà bước thẳng tới trước mặt anh chị.
Bốn đôi mắt cùng cụp xuống…
Kể từ đây, ngày vẫn đủ hai mươi bốn giờ.
Tháng vẫn từ hai tám đến ba mươi mốt ngày.
Và năm, không thay đổi. Đúng ba trăm sáu mươi lăm ngày!

 
                  XIN RA KHỎI HỌ
 
Anh cu Đức mới cất nhà hồi năm ngoái.
Phía hồi nhà bên trái, đống đất xúc lên lúc đào móng chưa kịp dọn đi cao lù lù như một cái đụn rạ.
Trong nhà, bề bộn những thứ đồ cũ nát anh tha về sau mỗi chuyến ve chai.
Tủ chè không còn kính, tủ quần áo đã mất cánh cửa hay ổ khoá cái nào cũng rỗng ruột, lèo tèo vài bộ quần áo bở bục.
Còn quạt, la liệt là quạt đứng, quạt ngồi, quạt nằm. Cái thì vỡ lồng cánh, cái thì đã long công tắc, nhiều cái đã bị cháy. Anh cu Đức treo chúng trên tường, trên trần nhà hoặc quăng bừa bãi trên nền nhà, thậm chí vất chỏng chơ trong gầm giường.
Cả xe nữa, ngoài con xe máy Trung Quốc thay chân anh chạy ve chai, hai mẹ con chị cu Đức cũng có tới năm chiếc xe đạp. Dĩ nhiên, bốn chiếc vất dưới bếp chỉ để cho anh tháo phụ tùng thay dần vào chiếc xe vốn đã cọc cạch mà vợ và con gái anh vẫn thay nhau dùng đi chợ kiếm thêm chút rau mắm vặt.
Nghe chị cu phàn nàn, làm nhà xong, anh cu Đức gánh nợ tới gần hai chục triệu. Có làm lấm mặt cũng phải vài năm mới mong giũ hết được. Khổ cho cái thân anh, được tiếng mà phải bỏ miếng. Từ đầu năm tới nay, lấy cớ yếu dạ, ăn cứ ợ hơi chua, anh bỏ hẳn bữa sáng. Sạch ruột thế cho người nó khoẻ, chạy xe không bị tức bụng!
Ở làng Phúc Hạ, anh cu Đức là trai đinh thuộc chi thứ năm, đời hai mươi bảy họ Nguyễn Phúc, một dòng họ đời nào cũng có người thi đậu tới tiến sĩ. Tuy nhiên, như một định mệnh, các tiến sĩ họ Nguyễn đều chỉ ra làm quan vài ba năm rồi tự cởi mũ áo, xin được lui về quê vui với việc chài lưới, ruộng vườn. Có thể vì thế mà họ này nghèo nhất làng chăng?
Bằng chứng rõ nhất là cái từ đường họ ở phía hồi phải nhà anh cu Đức. Ngày nay, so sánh như thế thì tội chết, anh cu Đức vẫn lẩm bẩm trong bụng, nó chỉ nhỉnh hơn cái bếp nhà anh một tí. Đó là một căn nhà ngang kiểu cổ, chạm trổ rất thô, chiều ngang dài chín mét, chiều sâu áng chừng chỉ khoảng ba mét. Nhà chia làm ba gian, mỗi gian xây một cái ban thờ cách nhau vừa đủ một thân người đi lọt, trên đó xếp kín các bài vị lớn nhỏ, cao thấp. Phía ngoài, tính từ bậu cửa bằng gỗ lim nhìn lên mái là một bức hoành phi nền đen, chữ sơn son thếp vàng. Nhìn ngang về hai bên cánh gà là một đôi câu đối cổ, các con chữ nho vuông vức đã được đắp đi đắp lại nhiều lần bằng vôi vữa, nay đang rụng tróc từng mảng. Chái nhà lát gạch tàu, mặt gạch hầu như không viên nào còn lành lặn. Riêng cái sân, nghe nói được sửa chữa từ thời Minh Mệnh, giờ tự nhiên lún xuống cả tấc, trời vừa mưa đã biến thành một cái ao nhỏ.
Từ đường thờ cúng tổ tiên như thế, con cháu làm sao không mạt vận? Tuy nhiên, tự thẳm sâu trong lòng, anh cu Đức vẫn tin chắc rằng, vào cái thời này, người làm rạng danh tổ tông chính là thằng Dục, con trai anh. Vợ chồng anh khoai lúa bao nhiêu thì thằng Dục càng thanh cao bấy nhiêu. Vầng trán nó cao vời vợi như có ánh hào quang chiếu rọi tới từ cõi vô hình, mắt nó sáng lấp lánh, môi nó mỏng và đỏ như son, miệng nó nói mà nghe như đang hát. Từ lớp một tới lớp tám, các bài kiểm tra của thằng bé chỉ có một loại điểm, ừ, điểm mười. Lớp chín nó đi thi học sinh giỏi toán cấp huyện, cấp tỉnh rồi cả cấp quốc gia, lần nào cũng đạt giải nhất. Tới cấp ba, thằng Dục được một trường đại học gọi ra thủ đô, cho vào lớp chuyên toán, nghe đâu đây là lớp luyện gà nòi toán để đi đấu quốc tế. Rồi được tuyển thẳng vào đại học, nó chọn  trường luật vì nghĩ ngay cả trong bát cơm nó sẽ ăn, cái áo nó sẽ mặc, cái ghế nó sẽ ngồi, nó sẽ làm dân hay làm quan, sẽ giàu hay nghèo, sẽ sang hay hèn đều có luật, do luật quyết định. Dục học rất giỏi. Chỉ cực nỗi vợ chồng anh cu Đức phải gò lưng lo tiền cho nó thuê nhà, đóng học phí, ăn uống, sinh hoạt. Năm trăm ngàn đồng dành nuôi một người con ăn học đại học đối với những người khá giả không ảnh hưởng gì, nhưng với vợ chồng anh cu Đức, số tiền ấy tương đương với thu hoạch của bốn sào ruộng khoán sản trong một vụ! Suốt năm, phải nhịn ăn, nhịn mặc, bấm bụng làm ngơ tiền ông khóc bà cười anh chị mới chắt bóp được ít tiền chu cấp cho con! Ô hay, thế mà thằng Dục vẫn được đi học, lại chẳng hề kém chúng kém bạn như ai mới lạ chứ! Anh cu Đức cười mãn nguyện, nghĩ anh nên biện một cái lễ để tạ ơn ông tổ nghề ve chai đã phù hộ cho anh mạnh chân khỏe tay, mồm năm miệng mười, mua rẻ bán đắt để có tiền nuôi vợ nuôi con mới phải.
Vừa lúc đó, cái máy điện thoại cũ anh thuê để thỏa thuận giá cả trước với bạn hàng mỗi khi đi đổ ve chai kêu lên tít tít. Móc điện thoại ra nhìn vào màn hình, mắt anh cu Đức bỗng nhiên tối lại. Không phải người ta hỏi có ve chai bán chưa mà là tin nhắn của thằng Dục. Đã một tháng nay, mối mua mối bán đều ế ẩm, anh cu Đức chẳng dư nổi vài trăm chứ đừng mơ có cả triệu để gửi cho con. Biết làm sao bây giờ, anh cu Đức thở dài, ngồi phệt xuống cái phản gỗ mít có từ hồi còn sống ma ông nội anh. A, hay là bán quách mấy cái xe đạp đi. Vị chi năm chục một cái, cả thảy cũng được hai trăm rưởi. Thiếu thì cho mớ quạt nát đi ở non tiếp, cũng thêm được hơn chừng đó một chút. Chí ít thì cũng trang trải được một số nợ cho con, thiếu nhiêu tính đó, chứ bây giờ có giết anh đi cũng chả đào đâu ra được ngần ấy tiền. Nghĩ tới đó, miệng anh cu Đức bất chợt nở một nụ cười méo xệch. Tiện tay, anh với cái điếu bát, vê một viên thuốc lào nhét vào nõ, rồi khoan thai nâng xe điếu lên miệng, châm lửa, rít một hơi dài. Nước điếu sôi lên tong tóc. Tuy chưa bị say nhưng anh cu Đức vẫn ngửa mặt lên trần nhà, mắt lim dim, miệng từ từ nhả ra từng ngụm khói thuốc cay xè.
Bỗng có tiếng ho húng hắng từ ngoài ngõ vọng vào. Anh cu Đức nhướng mắt nhìn ra sân và nhận ra người vừa đánh tiếng là cụ trùm họ Nguyễn Phúc. Anh cu nhổm dậy, lật đật chạy ra sân:
- Con chào cụ trùm ạ!
- Phải!
- Mời cụ vào nhà xơi nước ạ!
- Phải!
Dắt cụ trùm tới chiếc phản ngồi, anh cu Đức rót nước mời:
- Cụ dùng tạm, con chỉ quen dùng loại chè bồm này thôi ạ.
- Phải! Không sao!
-  Thưa, nắng thế này, cụ cất công tới con chắc có việc hệ trọng?
Cụ trùm không trả lời anh cu Đức ngay mà lại hỏi:
- Anh đi ve chai, nay tỉnh Thanh mai xứ Nghệ, kiếm cũng được chứ?
- Dạ, đủ rau cháo qua ngày thôi cụ ạ! - Anh cu xoa hai tay vào nhau phân bua, miệng cười trừ.
- Tốt! Ông cụ khen.
Rồi đổi giọng, hặc:
- Nhưng anh vô tình với tổ tiên quá. Hỏng! Người như thế là hỏng!
Cu Đức ngạc nhiên:
- Cụ nói thế là có ý gì, con nghe chưa thủng!
- Thì đấy, cả họ cả hàng họp, việc đại sự thế mà anh vẫn mũ ni che tai, lại còn hỏi có ý gì thì không quá vô tình sao?
Anh cu Đức hạ thấp giọng:
- Xin cụ thương bỏ qua mà dạy bảo cho con cháu!
- Thôi được, anh đã nói thế thì tôi không vòng vo nữa. Đại sự là như thế này, đại ý là... Anh biết đấy, họ ta là một họ vẻ vang. Có bao nhiêu truyền thống quý hóa trong thiên hạ dồn tụ cả vào họ ta. Thế mà cái từ đường họ, cả trăm năm nay chưa có ai phát tâm đứng ra tu sửa. Thử hỏi con cháu nào mà không cảm thấy áy náy? Tôi hỏi thật, ý anh thế nào?
- Dạ! - Anh cu thở dài, chậm rãi nói - Riêng con thì con đang lo mình sẽ phải đắc tội với tổ tiên đây. Tiện cụ hỏi con mới phô, việc học hành của các cháu thời này tốn kém lắm cụ ạ. Cháu nghĩ, thằng Dục nhà cháu mà được như ngày nay cũng chỉ là nhờ được nương vào phúc ấm của tổ tiên. Chã nhẽ bây giờ tổ tiên lại mong nó phải bỏ học ngang?
Nghe anh cu nói chướng tai quá, cụ trùm phẩy tay, ra ý không muốn nghe chuyện ngãng ra nữa. Cụ nghiêm mặt đứng dậy, bước ra cửa.
Hôm sau, rồi hôm sau nữa, anh cu Đức vừa tiếp cụ trưởng chi cả xong lại phải trò chuyện ngay với cụ trưởng chi thứ, vừa nghe mấy ông bác vận động lại đã phải căng tai bởi ông chú giải thích vì sao phải đóng góp gấp tiền. Người thì đánh tiếng xa, người thì nói toạc móng heo ra rằng, từ đường họ ta sắp khởi công tu sửa rồi, ai không đóng tiền thì chỉ còn nước phải đeo mo nang lên mặt mà ra đường thôi. Ừ, nhà anh hai suất đinh, vị chi mới có một triệu, anh chỉ phẩy tay một cái là xong, dây dưa làm gì mấy đồng tiền lẻ cho tai tiếng anh cu nhỉ.
Hôm thứ ba, anh cu Đức nhận được tin Dục nói tình thế gấp lắm. Cho dù thuộc diện được thi tuyển làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ngay sau khi có bằng cử nhân, nhưng nếu nó không thanh toán các khoản nợ nhà trường trước hạn, chắc chắn sẽ không được bảo vệ luận văn tốt nghiệp trong thời gian tới. Người ta sẽ xóa tên nó? Tương lai nó sẽ ra sao? Anh cu Đức mới tưởng tượng tới đó mà đã toát mồ hôi hột.
Nhưng tự nhiên anh lại cười. Đã thế vừa cười lại vừa lắc đầu. Rồi anh bậm môi, nhấc máy, gọi tới vựa ve chai. Rằng, anh sẽ bán cái này, cái kia. Rằng, anh đang có việc cần nên để giá mềm như vậy. Rằng, nhớ nể mặt nhau một chút, chứ ép nhau lúc này là tệ lắm đấy...
Một lát sau, đại lý ve chai cho một cái xe ba gác máy tới.
Lúc nổ máy rời nhà anh cu Đức, chiếc xe chất ngất bốn cái xe đạp nát, hai chục cái quạt điện hư, vài cái bàn là hỏng và hàng tạ giấy vụn... Anh cu Đức đưa tay thấm nước bọt, cẩn thận đếm lại từng tờ bạc, rồi đút nhanh vào túi quần sau.
Đi đi lại lại trong nhà một lát, anh với tay lấy cây bút máy và một tờ giấy trắng, nằm bò trên cái phản gỗ mít mà viết. Anh viết những gì chỉ một mình anh biết. Rồi anh bỏ tờ giấy vào cái bì thư, dán lại, lấy xe, nổ máy, chạy bon bon thẳng tới Bưu điện Phúc Thượng gửi cho Dục một triệu đồng. Tần ngần một lát, anh rút cái bì thư từ túi áo ra, mua hai con tem dán lên và bỏ vội nó vào cái thùng thư màu vàng...
Mấy hôm sau thì cụ trùm họ nhận được lá thư ấy.
Đọc xong, ông cụ phá lên cười. Cụ ra ngay bưu điện đánh dây thép cho ai đó. Người ta loáng thoáng nghe ông cụ nói câu được, câu mất: “ Ờ, ờ, cháu nói thế ông vỡ ra rồi... Phải, tức là phải viết đơn gửi tới Sở Tư pháp phải không. Mà thôi… Rồi ông sẽ bàn riêng với cháu… Ừ, cháu cứ về đi, ông cho tiền tàu. Thôi, ông chờ nhé!”.
Sau hai ngày, cụ trùm sai thằng cháu đi gọi anh cu Đức tới để hỏi cho rõ ngọn ngành.
Anh cu vừa ngồi xuống ghế cụ đã dồn:
- Người họ ta khác thường thật. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi mới thấy có người dám viết đơn xin ra khỏi họ Nguyễn Phúc đấy!
Anh cu Đức run run:
- Con quẫn nên đã làm liều. Giờ nghĩ lại, mong cụ bỏ qua cho các cháu nhờ!
- Anh mới gửi cho con một triệu, phải không?
- Dạ.
- Vậy anh đúng là người có hiếu với con cái nhất rồi!
- Thưa, không dám ạ.
- Tôi nói thật, như vậy cũng là đại hiếu với tiên tổ! Chỉ tiếc rằng...
- Cụ dạy sao ạ?
Cụ trùm họ nheo mắt:
- Anh mới chỉ nghĩ một mà chưa suy hai. À, mà anh có thằng con khéo thật! Nó nói thủ tục xin ra khỏi họ rườm rà lắm, anh phải nạp đơn cho cơ quan nhà nước, lại phải cất công tới chỗ này chỗ kia cũng mất vài ba tháng. Nhưng thằng cu lại nói với tôi, bố nó không góp được của thì góp công, góp thứ khác chứ việc gì phải bỏ họ, bỏ hàng? Nghe cũng được đấy chứ...
Nghe ông cụ nói, anh cu tái mét mặt, người gai gai như sắp bị sốt. Chuyện nhỏ thành chuyện nhớn rồi! Đi hầu cơ quan nhà nước vài tháng, có nghĩa là phải nghỉ ve chai, và như vậy tức là chết đói! Tay vân vê cái mép phản, miệng anh lí nhí:
- Vâng, con tối dạ, xin cụ cứ mở mắt cho!
Ông trùm họ cười khẽ, khoan dung bảo:
- Thôi, đi về mà hỏi thêm đống đất bên hồi nhà xem nó nói gì với anh đã. Rồi mau mau lại đây mà lấy lại cái đơn!
- Vâng!
Về tới ngõ, anh cu Đức thấy thằng Dục đang đứng tần ngần bên đống đất.
Thằng bé về bao giờ nhỉ? Về làm gì cho tốn tiền tàu xe cơ chứ?
Thấy bố, Dục đon đả chào rồi hồn nhiên gợi ý:
- Bố ơi bố, cụ trùm bảo...
- Cụ bảo sao?
- Có đống đất này mà tôn nền từ đường lên thì tiện nhỉ!
Anh cu Đức giật thót cả người nhưng vẫn cố cười gượng:
- Ừ, cũng đỡ được cả triệu mua cát đội từ đầu làng về đấy!
Nói xong, anh quay ngoắt lại, chạy một mạch tới nhà cụ trùm.  
Rồi vừa thở hổn hển, anh vừa khoe với ông cụ:
- Người ta cho cháu nó được thi rồi cụ ạ...
Cụ trùm vuốt râu, giọng xa xăm:
- Ừ, dòng họ ta lại sẽ có một tiến sĩ...
 
 
 

 
       NHÀ NGÓI ÂM DƯƠNG
 
Có ba chuyện lạ về ông Sáo.
Năm cải cách ruộng đất, ông bị quy là địa chủ.
Nhà ông chỉ có năm sào ruộng, một con trâu. Cày bừa xong ruộng nhà, ông đi làm thuê cho nhiều người trong và ngoài làng. Riêng ngày mùa, ông vác cái đòn càn buộc liềm, hái trên một đầu đi gặt mướn từ đầu vụ. Vậy thì địa chủ cái gì?
Sau mới vỡ lẽ tại cái nhà to. Mà to thật. Năm gian. Mái ngói âm dương. Cột gỗ lim một vòng tay trẻ con đứng trên đá tảng. Cửa, bậu cửa chỉ một loại gỗ mun đen bóng.
Ông thanh minh, nhà này cụ tổ tôi cất từ đời Lê mạt. Cụ mới là địa chủ. Sao lại là tôi. Cán bộ có nhầm không đấy.
Nhầm sao được, cán bộ đội cải cách gõ tay xuống bàn nói, ông là người thừa kế, đương nhiên thuộc thành phần tổ tiên.
Thế là ngôi nhà cổ bị dỡ, chia khắp lượt cho dân nghèo trong làng. Người này được chia vài viên ngói. Người kia được cái cột gỗ. Có người được một cái cánh cửa. Lại có người được nhận một viên đá kê chân cột. Chả biết làm gì với những thứ manh mún được chia, người ta vất chúng lăn lóc ở góc nhà, trong bếp hay ngoài vườn. Riêng ông Sáo, ông được đội cho ở lại trong cái bếp tường đắp bằng đất, mái lợp rạ mà ông mới dựng hồi đầu năm ngoái. Từ đấy, gặp bất kì ai, ông cũng nói, bây giờ mình mới biết nhà mái rạ mát hơn nhà mái ngói. Cán bộ bảo, ngồi mát ăn bát vàng thì hiểu sao được tình cảnh của giai cấp nông dân.
Mấy tháng sau, ông Sáo được sửa sai xuống trung nông. Vậy thì ông lại cất nhà. Và căn nhà cổ, không rõ các bộ phận của nó đã được ông Sáo thu lượm lại bằng cách nào, lại mọc lên trên cái nền gạch cũ mà đội cải cách quên chưa cho lột lên.
Năm 1959, phong trào hợp tác xã vừa dấy lên, ông Sáo đã viết đơn xin tự nguyện góp ruộng, góp trâu, lại ngỏ ý muốn góp luôn cả căn nhà cổ nữa.
Cán bộ bảo, bây giờ không phải hồi cải cách, dân ta làm chủ tập thể rồi, nhà ông ông cứ ở, chỉ góp ruộng góp trâu, góp cày bừa để làm chung ăn chung thôi.
Vào hợp tác, lạ nhất là càng được mùa dân càng đói. Trong khi đó xã lại được thưởng huân chương về thành tích đóng góp nhiều lương thực cho nhà nước.
Nhà ông Sáo cũng đói. Ngày ngày ra đồng, ông vác cây cuốc và bó mạ đi không vững. Ai cũng buồn cười bảo ông đọa chết. Bởi hễ chỗ nào có đất trống, cho dù chỉ bằng một cái sàng gạo, ông cũng cắm mấy gié mạ xuống. Một mẩu làn, một khoanh đất gần một cái mả, doi đất nhô ra mé sông..., ông Sáo không bỏ qua chỗ nào hết. Ô, vậy mà mạ cũng thành lúa, lúa cũng trổ đòng, đòng trổ thành bông. Đúng, chỉ lèo tèo vài bông! Mà bông lúa không có hồn vía tập thể cứ cúi gằm mặt xuống!
Vụ ấy lại được mùa, xã lại được huân chương, và… Riêng nhà ông Sáo không đói, vì sao thì ai cũng đã rõ, nói thêm cũng bằng thừa.
Chuyện lạ thứ ba là kết quả của hai chuyện trên.
Tới thời cả làng được no bụng thì ông Sáo đã thành tỉ phú. Rất có thể là nhờ vào những gié mạ mà ông đã từng gieo cấy ở khắp gầm trời làng Thượng năm xưa. Thóc ăn không hết, ông bán lấy tiền cho cậu con trai ra Hà Nội học. Con chưa có chỗ trọ, ông bảo cậu vào làng Nhân Chính gần chợ Xanh mua một cái ao, dựng một cái chòi mà ở tạm. Và sau này, cái ao một mẫu tây ấy đã thành một dãy phố.
Cuối đời, nể con nài nỉ mãi, ông Sáo nước mắt lưng tròng cho dỡ cái nhà ở quê đưa lên Hà Nội cất.
Khổ, chả biết ai đưa tin mà xe mới tới ga Giáp Bát người ta xúm vào đòi mua.
Khách mua hầu hết xưng danh là nhà khảo cổ, nhà kinh doanh gì gì đó, ông Sáo nghe không hiểu.
 Họ trầm trồ, nhà từ đời Lê. Ba tỉ tiền tươi, bán cho tôi cụ nhá, có người ra giá trước.
 Ông Sáo khẽ lắc đầu.
Từ đấy, ông không bao giờ mở mắt ra nữa.

 
                               XÌ HƠI
 
Kiên nói, mọi vật đều có những điểm yếu. Đấy là cách để chúng tự bảo vệ mình.
Này nhé, đê sông Hồng dài hàng ngàn cây số, cao như một dãy núi giữa đồng bằng cũng có những đoạn rất yếu. Con người cố ý tạo nên cái yếu ấy là để phòng khi lũ tràn bờ, muốn cứu các vùng khác trong miền thoát lụt, chỉ cần phá những đoạn đê yếu cho nước sông hạ thật nhanh…
Cái bình ga ta vẫn dùng đun nấu hàng ngày cũng vậy. Vỏ bình dày cả chục mi li mét, chả có loại khí nào có thể phá nổi. Tuy nhiên, để phòng cháy nổ, người ta thiết kế van bình tương đối yếu. Nếu áp suất trong bình tăng đột ngột, ga có thể phá tung van để xì ra ngoài, thiệt hại sẽ hạn chế ở mức cháy chứ không nổ chết người.
Ngay cả cơ thể con người, cái này thì ông thừa biết, cũng được tạo hóa cố ý tạo ra những điểm yếu, ví như cục a mi đan trong vòm họng chúng ta chẳng hạn. Bộ phận này thường xuyên bị vi trùng, vi khuẩn thâm nhập, gây ra viêm nhiễm nếu ta vệ sinh răng miệng không tốt. Dĩ nhiên, đây cũng chính là cửa ải vững chắc của nội tạng do hàng triệu bạch cầu trấn giữ.
Nói thêm cho vui, dạ dày không thể bị bục, bởi khi nó đầy hơi, người ta đã khéo léo xì cái thứ khí khó ngửi kia ra ngoài…
Những chuyện dông dài trên hình như chẳng ăn nhập gì với điều mà Kiên tâm sự với tôi. Nhưng nhìn vào ánh mắt, nghe giọng nói hào hứng của Kiên, tôi biết bạn tôi đã trăn trở rất nhiều về chúng. Anh nhếch mép cười, bảo đó là quy luật, ai biết vận dụng vào giao tiếp, ứng xử thì thành công và ngược lại. Ví dụ, cánh nhà báo các ông đánh tiêu cực từ nhà ra đường, từ nam chí bắc mà tiêu cực vẫn hoàn tiêu cực, tham nhũng thì không giảm mà ngày càng tinh vi hơn. Tại sao vậy? Các ông mới chỉ chém ngang vai, toàn nhắm vào bọn tép riu, bọn ấy chết thì nhằm nhò gì? Nói không ngoa, chúng là tấm lá chắn thép che cho bọn tham nhũng chóp bu sống đấy. Chúng chỉ là loại để phơi ra cho các ông nhắm bắn, còn bọn kia thì vẫn ung dung, nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Tôi đọc báo thấy kể về một thằng lưu manh làm cho công an bở hơi tai vì nghe nó báo bắt bọn ăn cắp vặt, còn nó thì cứ ngồi rung đùi cười mà thu bạc tỉ từ các sòng bạc. Bọn tiêu cực, tham nhũng bự tung cho các ông vài con mồi để đánh lạc hướng. Các ông chú tâm đuổi theo những con mồi nhỏ ấy mà quên bẵng đi chúng mới chính là cả một bầy hổ dữ…
Thấy tôi thừ mặt ra, Kiên tiếp, nói thật, ông đừng buồn, làm nghiên cứu nghiên kiếc như tôi cũng chẳng hơn gì các ông đâu. Thật đấy, các công trình này nọ của chúng tôi là gì ông có biết không? Toàn là những vấn đề xã hội bức xúc, có thể bùng ra bất cứ lúc nào như cái bình ga yếu van ấy. Mà kẻ châm ngòi sẽ là những thằng như ông và tôi. Vậy thì phải làm thế nào để ông, để tôi được nghĩ, được nói, được ăn uống, được nhận tiền thù lao nữa mà không phương hại gì? Dễ thôi, người ta sẽ cho tổ chức các hội nghị gọi là khoa học để ông có chỗ mà nung nấu, tra cứu, viết lách, tranh luận nảy lửa. Rồi ông ký tên nhận phong bì góp mặt, nhuận bút, tham luận. Đó là những khúc xương chắn ngang miệng, làm hạ nhiệt ông đấy. Tiếp theo đó thì ông được xì ra những thứ hiểu biết mắm thối tích quá lâu trong bụng. Lại được tiếng là người có ý thức tổ chức kỉ luật, biết ăn nói đúng lúc, đúng chỗ trên tinh thần xây dựng. Có điều, những cái vô thưởng vô phạt ấy, ngay sau khi nghiệm thu, sẽ được người ta xếp xó vào tủ cho gián, cho mối gặm mà thôi. Bởi nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với xã hội! Nghe rõ chưa, ông mãnh?
Làm sao mà tôi nghe không rõ?
Khi chính tôi cũng là một kẻ theo đóm ăn tàn?                                         

 
                               MUỖI
 
Vào một buổi chiều cuối thu nắng nhạt, trưởng phòng tổ chức dẫn một cô gái trẻ tới nhận việc tại bộ phận văn thư.
Khi họ mở cửa bước vào phòng cũng là lúc  bốn con nhặng xanh bắng nha bắng nhắng vo ve bay ngược ra sân.
Vậy là ở đây sẽ có tới ba người.
Trước kia, Lan và Linh phải chia nhau từng việc nhỏ. Công việc thì quanh đi quẩn lại chỉ là mấy việc chuyển thư từ, công văn, đóng dấu, gọi điện, giữ chân cho khách khỏi sốt ruột trước khi vào liên hệ công tác. Họ chậm rãi giải quyết từng công việc, dò từng dấu chấm, dấu phẩy, thậm chí đọc thuộc lòng các công văn, ấy vậy mà chỉ hai giờ chiều đã hết việc. Hai chị em xoay qua đọc báo. Thôi thì chuyện khủng bố, giá dầu lên cao xuống thấp, hãng quần áo lót mới tung ra ba kiểu đồ mặc không bị ẩm chỗ kín, họ đều thạo vanh vách...
Cô gái mới tới tên Hiền. Cô có đôi mắt lúng liếng, cái mũi dọc dừa, môi trái tim đỏ mọng, dáng người eo ót, bước đi dài như sải, mông đánh tanh tách từ bên này qua bên kia.
Lúc trong phòng chỉ còn ba người phụ nữ, Hiền nói ngay:
- Không biết sếp đã báo hai chị biết em là tổ trưởng mới chưa...
Thấy hai nhân viên cũ ngạc nhiên, Hiền nhìn xoáy vào họ rồi tiếp:
- Chưa biết cũng không sao. Kể từ hôm nay, em sẽ kiêm việc giao nhận công văn, thư từ, gọi điện, đóng dấu và tiếp khách.
- Vậy chúng tôi làm gì? Lan phật ý hỏi.
- Thay nhau dọn phòng ốc, lau cửa kính, rửa cốc chén, xua ruồi nhặng…
- Chỉ có thế thôi ư? Linh lộ rõ vẻ không bằng lòng.
Hiền cười:
- Hàng ngày các chị vẫn đọc báo, đấy cũng là việc. Nhân viên cũng nên quan tâm tới các vấn đề chính trị, xã hội và các sự kiện đang diễn ra xung quanh...
- Thật không công bằng! Lan phản đối.
Hiền khẽ hặc:
- Sao? Vậy tôi kiêm thêm những việc vừa giao nhé!
Linh tỏ ra bất cần:
- Thì cô cứ làm! Chúng tôi sao cũng được!
- Thẳng thắn thế càng tốt! Chị nhớ giữ lời nhé!
Hiền nói sao làm vậy.
Hôm sau, cô đi làm sớm nửa giờ. Quét nhà, lau kính, rửa cốc chén, xếp mấy tờ báo lên bàn xong, cô ngồi vào vị trí trực nhận thư từ, công văn, phân loại chúng và tự tay chuyển tới từng phòng. Chuông điện thoại reo, cô nhấc máy, a lô... Có khách, cô niềm nở mời chào, bắt chuyện rôm rả lắm. Với người nước ngoài, khi thì cô nói tiếng Anh, khi thì cô dùng tiếng Hoa, tiếng Pháp. Cô hầu như quên hẳn Lan và Linh đang ngồi nép ở góc phòng, cúi gằm mặt xuống tờ báo mà chẳng nhìn rõ chữ nào hoặc thấy chữ mà không hiểu bài báo nói về chuyện gì.
Hai tuần sau, nghe họ xin vã cả nước miếng, Hiền mới chia cho Lan việc quét nhà, lau kính, còn Linh thì được rửa cốc chén. Lan quét nhà ba bốn lượt, Linh rửa chén ngay sau khi khách bước ra khỏi phòng mà thời gian đối với họ vẫn cứ như vô tận. Họ lại vào ngồi ở góc phòng đọc báo...
Vào một buổi sáng đầu mùa đông, Lan và Linh cùng nộp đơn xin nghỉ việc.
Trưởng phòng tổ chức rẽ ngang qua phòng văn thư nói một câu bâng quơ:
- Khá lắm!
Cô văn thư đánh đuôi mắt:
- Bao giờ thì đến lượt em?
Tay trưởng phòng cười tít:
- Làm phó cho anh? Hả?
- Muỗi!
 

 
                               NGHĨA TẬN
 
Bà Na nằm thiêm thiếp nửa mê nửa tỉnh. Nghe tiếng kẹt cửa, đoán ông lão về, bà he hé mắt nhìn ra. Ông lão về thật. Trên tay lại có cả một cái bọc lá chuối bóng nhẫy. Bà lão cố nhỏm day.
- Ông cho tôi xin ngụm nước...
Ông lão bỏ bọc xuống chõng, đưa tay với cái ấm sành, rót nước vào cái bát sứ Hải Dương.
- Nước đây. Bà uống thuốc cụ lang Hinh có thấy kiến hiệu không?
- Thuốc hay. Dưng mà tôi vẫn mệt lắm. Nằm toàn mơ thấy ông nội bà ngoại về rủ đi thôi.
Ông lão không đồng ý:
- Đừng có nói dại, bà rồi sống cả trăm tuổi. Không khéo tôi đi trước cũng nên.
- Được thế thì ông đỡ khổ, tôi chỉ lo...
Ông lão dịu giọng:
- Bà lo tôi khổ chứ gì?
Bà lão chép miệng, tay run run chuyển lại bát nước cho chồng:
- Phải.
Đón bát nước đã vơi đi quá nửa từ tay vợ, ông Na khoe:
- Tôi đi đám, đem phần về cho bà đây.
Miệng nói, tay ông lão mở cái bọc lá chuối.
- Xôi rặt. Thịt thủ lợn. Đùi gà.
- Sao ông lại làm thế? Không sợ người ta cười cho là tham ăn à?
- Nào tôi dám tự tiện! Ấy là do các ông ngồi cùng mâm nài mãi, lại cứ bảo bà đang ốm, họ gói những thứ này rồi giúi vào tay bắt tôi phải đem về...
Bà lão nhìn lướt qua nắm xôi và mấy miếng thịt rồi ngả lưng vào thành giường:
- Tôi nhạt miệng lắm, chả nuốt nổi những thứ này. Ông cất vào chạn kẻo chuột nó vầy, tối thì nhớ đem ra mà nhắm rượu.
Ông lão xua tay:
- Không. Tối tôi còn phải sang đám lần nữa. Cậu Dong dặn thế!
Thấy bà lão không nói gì, ông Na thủng thẳng khoe:
- Ông cụ Thấp thế mà có phúc bà ạ. Đẻ được cậu Dong như thế cũng mát mày mát mặt với làng nước.
Bà lão nhỏm hẳn dậy, hỏi:
- Cậu Dong làm sao? Bán sới vào Sài Gòn kiếm cơm thì vẻ vang cái nỗi gì?
- Sao bà cứ cố chấp. Nó bây giờ là ông chủ thầu, ngày hốt bạc trăm, bạc triệu, bạc tỉ chứ đâu còn là thằng Dong ăn cắp trứng gà nhà bà...
- Sao ông biết nó có bạc tỉ?
- Nó không khoe cả làng cũng biết. Không có bạc tỉ có dám bỏ bốn chục triệu đóng hòm thiếc, bỏ quan tài bố vào xe chở nước đá đem về quê? Mà cái ván của ông Thập mới đẹp làm sao chứ, nó sơn son thếp vàng, gỗ dày nửa gang, giá mười hai triệu bạc. Còn đình đám thì cỗ lu bù từ mấy hôm nay rồi. Nhờn mép chứ không bôi ra đâu bà ạ. Lại nữa, kèn ta, kèn tây, sư mô ra vào cứ nườm nượp...
- To thế cơ à?
- Ừ, từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi chưa thấy đám nào to thế.
Bà Na tần ngần, giọng phân vân:
- Hay ông cứ dìu tôi tới viếng ông Thập...
Ông lão cười:
- Tôi cũng đang định bảo bà thế. Ừ, nghĩa tử là...
Bà lão ngồi chễm chệ trên giường vấn tóc, chít lại cái khăn mỏ quạ.
- À, mà tôi chưa khoe bà cái này.
Ông lão thò tay vào túi.
- Cái gì vậy?
Ông lão rút tay ra khỏi túi, bàn tay vẫn nắm chặt lại.
- Đố bà biết nó là cái gì?
- Kẹo.
- Thế ra bà và tôi là trẻ con à. Sai!
- Vậy thì mì chính.
- Gói mì chính to như cái bánh chưng, tay tôi nắm thế nào được. Lại sai nữa!
- Chịu.
Ông lão xòe bàn tay.
Bà lão kêu lên:
- Ô, tiền!
Ông lão rụt tay lại.
- Những ba trăm cơ đấy.
Rồi ông đưa ngón tay trỏ lên miệng thấm nước bọt, xỉa ra xỉa vào ba tờ giấy bạc xanh.
Bà lão không giấu nổi vẻ ngạc nhiên:
- Ông lấy đâu ra mà lắm bạc thế?
- Tôi thì lấy ở đâu được. Cậu Dong cho đấy!
Bà lão tròn mắt:
- Nhà đang có đám, còn tiền đâu mà cho ông?
- Thế mới ra chuyện chứ!
Bà lão dồn:
- Chuyện thế nào?
Ông Na buông:
- Ai tới cậu Dong cũng giúi cho một cái phong bì, bảo đấy là tiền lại hương lại hoa...
- Vậy là ông...
- Từ hôm qua tới giờ, tôi viếng ông Thập ba lần rồi. Vừa được đánh chén, vừa được bạc, hẹp hòi gì mà không đi?
- Vậy thì... Ừ, nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi cũng phải đến bái anh họ tôi mấy bái chứ!
 

 
                       BÍ QUYẾT
 
Hà vào thành phố luyện thi đại học đã được một tháng. 
Em sống với bác ruột nhà ở cạnh Sở Thú. Nhìn qua cửa sổ, Hà thấy đủ cả voi, khỉ, ngựa, hươu cao cổ, và cả cò nữa. Thật khó tin ở phố mà có lắm cò đậu trên ngọn cây như thế.
Hà định vài buổi nữa, nếu phải học nhiều bài thuộc lòng, em sẽ sang Sở Thú, ngồi dưới một cái gốc cây thật to để học. Chị họ Hà bảo, muốn vào Sở Thú không phải mua vé thì chịu khó dậy sớm một chút, chừng sáu giờ kém mười lăm, coi như đi tập thể dục, lúc ấy người ta chưa bán vé, ra vào thoải mái. Còn ngồi trong Sở Thú học thì vô tư, lúc nào về cũng được.
Bác Hà dành hẳn cho em một phòng. Cái phòng bỏ trống đã lâu, toàn mùi mốc, mấy hôm đầu lắm kiến quá. Giờ thì hễ có con kiến nào ngơ ngơ ngáo ngáo bò vào là Hà dí chết ngay tại chỗ, các con khác vào sau cứ ngửi ngửi rồi hết hồn bỏ chạy hết. Nhưng hôm nào không có kiến bò vào phòng Hà lại cảm thấy buồn buồn. Không gian ở đây vắng lặng quá. Ngay cả tiếng ve sầu bên Sở Thú vọng qua con kinh nhỏ em cũng nghe rõ mồn một.
Hà đi luyện thi mà vẫn ngay ngáy lo năm nay lại trượt vỏ chuối lần nữa. Mới rồi, các thầy dạy môn Toán, Hóa, Sinh bán tài liệu ôn thi cho học sinh, về nhà đọc xong, em càng thấy lo lắng hơn. Vì sao ư? Tập tài liệu nào cũng nhan nhản những chỗ sai. Chỗ thì sai chính tả, con số, chỗ thì nhầm lẫn công thức, kiến thức cơ bản. Luyện thi theo các tài liệu này, làm sao đỗ đại học?
Hà ngỏ ý với chị họ định bỏ lò luyện đậu ngọn cây này để kiếm chỗ nào đó có thầy cô dạy uy tín hơn.
Chị họ giật mình, dỗ:
- Em mà bỏ lớp luyện thi này thì sai một li đi một năm đó. Ở lớp này, năm nào học sinh cũng thi đỗ tám chín chục phần trăm. Chị đã học qua nên mới bảo em theo. Ai lại đi xui dại cho em mình rớt?
Thấy mắt Hà không chớp, chị họ hạ giọng, giải thích:
- Còn các tài liệu in sai thì do như vầy. Các thầy cố ý làm ra như vậy đấy em ạ. Trò nào không theo học mà chỉ mua tài liệu để tự học, hay có đăng ký học mà nghỉ bừa bãi, cứ theo tài liệu in sai đó thì thi đậu ngọn tre là cái chắc. Bởi vì hôm nào đi học các thầy cũng chỉnh lý. Ví dụ, hôm nay các em mở bài tập ở trang 30, trong đó có sửa số 15% thành 75%, công thức Hóa này sửa con số này, chữ này mới đúng. Như vậy học sinh không phải chép bài, có nhiều thời gian giải bài, chữa bài trên lớp…
Hà đã lờ mờ hiểu.
- Các tập tài liệu em có trong tay quý lắm đấy Hà ạ. Chúng được cập nhật, đảo lên đảo xuống, bổ sung thêm nên không năm nào giống năm nào. Cũng dễ hiểu thôi, bởi các đề thi chỉ quanh quẩn trong từng ấy câu hỏi, dạng bài, kiểu bài.
Tới đây thì Hà gật đầu.
Chị họ Hà lên giọng:
- Học theo các thầy, chỉ có những đứa ngu như lợn mới về nhà đuổi gà cho mẹ. Em cứ luyện đều đều là đỗ. Vô tư mà tin vào bí quyết của các thầy đi!

 
                               CÂU GIỜ
 
Hôm ấy, sau khi giải xong bài toán hình học không gian, thầy Huyền rủ rỉ kể chuyện.
Về một con số thôi thầy cũng có chuyện.
Thầy kể:
- À, chỉ có một con số mà cục diện thay đổi hẳn nghe. Chuyện thế này. Một ông già sáu mươi muốn lấy vợ, liền đăng báo tìm bạn đời. Báo đăng ông sáu mươi, có một tỉ tiết kiệm. Chả có ma ào hồi âm. Ông hạ xuống năm mươi, có một tỉ rưỡi. Kết quả vẫn như trên. Đành liều lần cuối, cho đăng mới bốn mươi hai, có hai tỉ tiết kiệm. Tuổi tác quan trọng thật, ngay hôm sau có hai chục cô gái mười tám đôi mươi gửi hình và lý lịch tới. Ông già sướng rơn, tay run run lựa một cô gái ưng ý nhất. Vừa lúc đó thì người của tòa báo đến…
Tới đây thì thầy giáo luyện thi đáng kính ngừng kể, lướt ánh mắt hóm hỉnh nhìn khắp cả lớp, hỏi:
- Đố các em người của tòa báo sẽ nói gì nào?
Cả lớp nhao nhao:
- Đòi tiền thêm ạ!
- Chia vui ạ!
- Chúc mừng ạ!
- Gạ đứng ra tổ chức đám cưới ạ...
Thầy Huyền xua tay:
- Ồ không, không phải…
Thấy cả lớp lộ rõ vẻ chờ đợi, thầy tiếp:
- Có em nào đoán được kết thúc chuyện như thế nào không?
Một bạn học sinh nam ở cuối lớp đứng dậy:
- Thưa thầy, em ạ. Kết thúc chuyện “như trên” ạ.
- Thế là thế nào? Thầy Huyền ngạc nhiên, hỏi.
- Dạ, thưa thầy, “như trên” có nghĩa là giống y hệt chuyện thầy đã kể ở các năm trước, ngay sau khi giải xong bài hình không gian này ạ.
- Vậy, em…
- Dạ, hai năm trước em đã luyện thi với thầy. Và… Kết của câu chuyện là tòa báo đến xin lỗi ông già! Vì cái gì? Có phải là do họ in nhầm số bốn thành số chín không ạ? Tòa báo in ông già chín hai tuổi chứ không phải bốn mươi hai…
Thầy Huyền dồn:
- Thế em có biết vì sao các cô gái lại nhao nhao đến với ông già chín mươi hai mùa lá vàng rụng chưa?
Bạn em tự tin:
- Em nghĩ là do tình yêu ạ.
Thầy Huyền phá lên cười:
- Em đã nghe chuyện nhiều lần mà vẫn chưa hiểu. Thầy chốt lại, em đúng một nửa. Các cô ấy đến với ông lão vì ông sắp chầu giời! Vì tình yêu? Em nói thế phải không? Không sai. Nhưng mà là yêu tiền…
- Ơ, em vẫn chưa hiểu!
Cả lớp ồ lên, cười như chợ vỡ.
Đúng vào thời khắc đó, chuông báo hết giờ học ré lên. Reng, reng, reng…
Thầy Huyền phẩy tay:
- Ô kê, bữa sau ta tiếp nha…
Luyện thi với thầy thoải mái thật!
Ô kê,
 

 
                              VÔ GIÁ
 
Mùa thu năm 2005, nhà văn Minh Quốc cho tái bản tập truyện ông viết song hành với một đời đi dạy học.
Cuốn sách nhỏ khiến ông nhớ tới chuyện xảy ra vào đầu hè năm 1996.
Lần ấy, ông đem tập truyện vừa xuất bản của mình đến lớp bán cho học trò. Về nhà, kiểm lại sách, ông biết có hai cuốn học sinh không trả tiền.
Nhà văn tủm tỉm cười:
“Thế là lời rồi!”.
Cho tới giữa hè năm nay, một hôm nhà văn bỗng nhận được một bức thư.
Người viết thư xưng là học trò cũ.
Đầu thư, em xin lỗi thầy cách đây chín năm mua sách mà không có tiền để trả. Dĩ nhiên, vì quá mê sách, em đã thở dài và giấu lẹm hai cuốn truyện vào cặp.
Tiếp theo, em báo tin nay đã là giám đốc ở một công ty xuất nhập khẩu thủy hải sản ở Bến Tre. Em tâm sự đã học được rất nhiều từ cuốn sách thầy viết.
Cuối thư, em nói vì lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi đúng số tiền theo giá in trên bìa sách là hai mươi ngàn đồng tới thầy.
Nhà văn rơi nước mắt, phá lên cười ha hả:
 “Lời lớn rồi! Văn tôi lời lớn rồi!”.
                                    ***
Đầu năm học, nhà văn tới lớp khoe chuyện trò cũ với các em học sinh lớp ông đang dạy.
Nhà văn vô cùng ngạc nhiên khi ông vừa dứt lời thì em lớp trưởng đã hô cả lớp đứng dậy.
Tay em nào cũng đều đặt sẵn vào cặp sách vừa mở hé.
Lớp trưởng hô tiếp:
“Một, hai, ba!”.
Cả lớp đồng loạt đưa tay lên.
Nhà văn không tin ở mắt mình nữa.
Trên tay từng học trò, tập truyện của ông xòe nở như những bông hoa.
“Cảm ơn! Cảm ơn các em!”.
Giọng ông lạc đi vì xúc động.
Rồi nhà văn ngồi xuống.
Bỗng nhiên, mặt ông hơi biến sắc.
Lúc ấy, một loạt câu hỏi thoảng qua như cơn gió đầu đông:
“Chúng mua mà chưa đọc? Hay sẽ không đọc? Mình vẫn lời? Hay đang lỗ?”.
                        ***
Tan trường, em lớp trưởng tìm gặp nhà văn.
Em khoe:
“Thưa thầy, mấy bữa nay, chúng em đều đọc truyện thầy viết trước lớp sau giờ truy bài”.
“Thật thế ư?”.
“Dạ. Và chúng em cảm thấy…”.
Thầy giật mình:
“Thấy thế nào?”.
“ Giờ văn của thầy hay hơn nhiều ạ!”.
Nhà văn nắm chặt lấy tay cậu học trò nhỏ, mỉm cười.
Ông muốn nói lời cảm ơn mà cổ họng cứ nghẹn ứ lại.
Văn ông đã trở thành vô giá?
 
            

                   
                  CHUYỆN CỦA HỒN MA
 
Ông Vĩ nói:
- Đời người ta có bốn hồi. Đó là hồi hộp, hồi đó, hồi xuân và chấm hết là hồi chuông. Lúc chưa sanh, ba má hồi hộp lo có đủ chân đủ tay không, sanh ra rồi thì lo lưỡi dài hay ngắn, có sa chân sảy hầm, té cây, chìm nước không. Rồi hồi hộp lúc thi hết cấp một, cấp hai, thi vào cấp ba, nhất là thi vào đại học, con cái đi thi mà cha mẹ ngồi ngoài vã hết mồ hôi lạnh. Lại nữa, lúc tốt nghiệp đại học, tim cứ thót lên khi xin vào cơ quan nào đó làm việc, lúc đi làm rồi sếp chỉ ho một tiếng mà cứ tưởng sấm nổ bên tai, thấp thỏm kỳ tăng lương tới liệu có có tên mình. Ôi, qua được hồi này thì vẻ vang rồi.
Sau này, để nêu gương cho con cháu, thì kể hồi đó ta thế này thế kia. Lên rừng xuống bể. Vào tên ra đạn. Đói cơm rét áo. Thăng chức thăng quyền. Kẻ đưa người đón. Vào gửi ra thưa. Tiền vô như nước. Vãi một chút tiền ra làm phúc cho người thì đời bắt thu lại gấp ba gấp bốn. Hồi này, đến bị chó cắn cũng ra tiền ông ạ.
Ví như vợ chồng Song mà ông cũng có quen chút đỉnh đó.
Bà Song ngọt thịt nên chó dại cứ nhắm vào chân bà mà cắn. Chả thế mà chưa chích hết thuốc phòng dại đợt này bà đã phải chích ngừa đợt kia. Ai hỏi, bà cũng cười cười, nói chó cắn là sắp giàu to đấy! Ai cả đời chưa được chó cắn cũng nên xem mình có phải là loại rẻ rách không? Có lẽ nghĩ vậy nên bà có sở thích được rong ruổi đạp xe trên đường suốt ngày. Đường lớn, đường nhỏ, các con hẻm ngoằn ngoèo trong quận, đâu đâu cũng in dấu bánh xe bà. Bà lao xe tới đâu cũng đã có người mời:
“ Chào bà bắc, mời bà vô nhà tui uống nước!”.
“ Bà bắc, bà vô đây tôi chỉ cho…”.
“ Rồi, tôi vào, tôi sẽ vào. Để tôi thở cái đã, nhé!”, bà Song cười nói vui vẻ và dừng xe lại.
Lúc về, bà hẹn hò, hứa với gia chủ đủ điều. Chủ và khách ai cũng vui như sắp bắt được của vậy.
Còn ông Song, ông khai trong lí lịch sanh ở Bến Tre. Vậy mà bạn bè ông cứ một mực nói ông sanh ở cái tỉnh chó ăn đá gà ăn sỏi, khu bốn đẩy ra khu ba đẩy lại. Bởi ông hay nói những câu chẳng đâu vào đâu, đại loại như:
“ Đi vô nhà”.
“ Đến tê chờ tui nghe”.
“ Ùa, mày mới vào à. Rẻ tao chơi”.
“ Đ… má mi, nói rứa mà nghe lọt tai, hổng ngứa ruột sao?”...
Ông thú uống rượu cả chai, cứ ngửa cổ lên mà dốc ừng ực vào họng, mặt tái mét đi. Nhưng sau đó ông lại khoan thai rót nước trà từ một cái ấm chuyên bằng đất nung vào một cái chung mắt trâu, nhấp từng ngụm nhỏ, miệng chép chép. Thật đúng kiểu cách của hạng người có văn hóa, văn minh, xa lạ với man di, mọi rợ.
Trong làng báo, ông nổi tiếng năng động, có tầm hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, pháp luật, quốc tế, an ninh quốc phòng. Văn phong ông ngắn gọn, súc tích, chính xác khi đưa những dòng tin nóng hổi năm mươi chữ. Ông chủ động, khéo léo tới từng chi tiết trong các phóng sự về thân phận người nghèo, kéo hết số báo này tới số báo kia trên một tờ nhật báo có nhiều độc giả nhất nhì trong nước. Còn khi viết văn, các truyện ngắn, truyện dài của ông  đọc lên cứ na ná như tiểu sử của một đồng chí lãnh đạo, một viên tình báo, một anh hùng nào đó. Các nhân vật do ông nhào nặn ra như thánh, như thần, trẻ con đọc cứ ngỡ là truyện cổ tích.
Khi bạn bè đang dẹt mắt trước sức viết hình như có thể phải viết ngay cả trong lúc ngủ mới vung vãi ra trên mặt giấy nhiều đến thế thì ông Song lại cho loan một tin đồn mà kẻ ngu ngơ nhất cũng phải há mồm ra vì khó tưởng tượng đó lại là sự thật. Nghe đồn, ông là cha đẻ của các ý tưởng. Ồ, và một bộ óc tổ chức. Cộng một nhãn quan chính trị vững vàng. Thêm một niềm tin trong sáng. Rồi, còn nữa, nhiều thứ lắm, chả nên kể ra đây làm gì! Tóm lại là, ông có một văn phòng. Phòng văn này do mười hai cây viết tài năng nhưng chưa có ai được bất cứ cơ quan nào nhận họ vào làm việc. Mỗi ngày ông cho ra lò ít nhất hai mươi bốn ý tưởng và chuyển giao cho các nhân viên thực hiện. Các sản phẩm báo chí, văn chương lúc đăng trên các báo đều ký bút danh của ông và nhân viên chấp bút. Nhuận bút tính tỉ lệ ông Song ba, người viết bẩy. Nhận vài ba trăm từ tay ông, không ít các tài năng tương lai đã ứa nước mắt, cảm phục ông vừa là cái đầu vừa là kho báu biết lo xa cho cái dạ dày rất hiếm khi được hưởng cảm giác tưng tức của họ. Ơn này xứng được các đàn em sống để dạ, chết mang theo!
Việc viết báo theo dây chuyền công nghệ đang phất như diều gặp gió thì ông lại dở chứng, cho giải thể văn phòng. Ông bảo vừa nhận lời mời của một vị lãnh đạo, chuyển tới một quận vùng ven công tác. Chức danh ông được giao không lớn mà cũng không nhỏ. Hỏi làm gì, lương hậu hay bạc thì ông trả lời là làm thư ký cho ông phó chủ tịch, thu nhập vừa đủ cà phê, ăn sáng, trưa cơ quan nuôi cơm, chiều vợ coi như kẻ thêm chén thêm đũa. Rồi ông cười hì hì, nửa đùa nửa thật rằng, thời này đến trâu bò cũng không sống bằng đồng lương huống hồ là người! Riêng ông thì sống bằng lương. Bởi ngoài cà phê sáng, ba bữa ăn trong ngày, ông thờ ơ với thuốc lá, xa lạ với rượu bia, ghét thói bài bạc… Có lẽ vì thế mà ông được tiếng là một cán bộ liêm khiết. Ai biếu ông cân đường, hộp sữa khi ông đau yếu thì ông nhận. Còn phong bì, ông chỉ nhận khi đi dự hội nghị, họp hành; người nào lén đưa để nhờ việc riêng ông đều từ chối thẳng thừng, thậm chí còn mắng sơi sơi một hồi nữa.
Năm rồi, nghe nói cấp trên đề cử ông vào chức chủ tịch quận nhưng ông đã khéo léo từ chối. Lạ hơn, ông lại viết đơn xin nghỉ hưu sớm vì lý do sức khỏe. Ông năn nỉ mãi mới được cấp trên phê chuẩn cho rút tên khỏi danh sách. Ghê gớm chửa, cả gan làm dân sau khi đã nếm quan trường không phải ai cũng làm được đâu! Nghĩ vậy, ông rũ áo từ quan cái roẹt, chờ được thanh thản hưởng thú nhàn dân dã…
Nhưng nghỉ hưu rồi bứt rứt quá! Thôi thì làm gì đó nhẹ nhàng cho vui. Chứ để bà ấy phải long nhong, chó nó cắn cho mãi, khổ lắm. Ông tuyên bố với bạn bè như vậy và mở cái rụp bẩy cái đại lý bưu điện. Bẩy căn nhà mặt lộ, ông lấy đâu ra tiền để thuê nhà? Ông bạn già ơi, ông định làm cho người ta ăn sao?
Thấy bạn bè tỏ ý ái ngại, ông Song cười hề hề như Liên Xô:
“ Các cậu cứ lo bò trắng răng!”.
Ông nhấp một ngụm trà rồi thủng thẳng:
“ Tớ có tham ô, tham nhũng gì đâu mà sợ tè ra quần?”.
Chưa ai kịp hiểu ông nói thế là có ý gì thì ông đã tiếp:
“ Mình làm trong ủy ban, chỗ nào cấp trên chủ trương quy hoạch cũng biết trước. Bà xã mình tiền bé, nghe mình xui dại, cứ tìm mua những căn nhà sập sệ trong hẻm. Mua và chờ ngày một con đường ló dạng. Cứ mỗi lần bà ấy bị chó cắn là một lần tụi mình bớt nghèo đi một chút. Giờ thì kinh doanh cho có người ra người vô thôi. Ở không buồn lắm, chịu sao thấu!”.
Nói xong, ông Song rung đùi, nhấp một ngụm trà bắc đặc sóng sánh.
Kể tới đây, ông Vĩ khẽ thở dài, giọng trầm xuống:
- Tuy nhiên, tôi cũng phải chua thêm, đến độ này người ta tự nhiên thấy mình đương độ xuân thì, trí nhớ lờ mờ nhớ nhớ quên quên, tóc muối tiêu bốn năm sáu bảy chục gì đó nhưng các bộ phận trên cơ thể từ cái cổ đã có ngấn ngang ngấn dọc trở xuống hình như mới chỉ ngoài ba bốn mươi thôi. Bởi lúc ấy ăn ít nhưng bụng chả mấy khi đói, người không mấy khi cảm thấy mệt. Máu như ứ thừa, cứ chảy rần rật trong huyết quản. Mắt nhìn tiền bạc đã coi khinh, nhưng nhìn con gái đẹp thì, đã tự răn mình bằng thuyết này thuyết nọ, bài học này bài học kia, lại luôn dặn lòng phải biết đề cao cảnh giác vì sắc đẹp là viên đạn bọc đường cực kì nguy hiểm đấy nhé, thì sao nhỉ? Thì nó cứ lóng la lóng lánh, lúng liếng lúng la. Bảo nhắm lại thì nó mở to. Đúng là cơ quan não bộ trung ương sáng suốt thế, biết lường trước mọi cái sẽ diễn ra là thế, mà không chỉ đạo được bộ phận thị giác. Trên bảo dưới không nghe là ý này đây. Chả lẽ mình lại tự chọc mù mắt mù tim mình để chứng tỏ bản lĩnh! Thôi thì, chặc lưỡi một cái, cả đời đã vất vả, hi sinh, hỏi lại tiếp tục vất vả hi sinh vì cái gì, vì ai đây. Chả lẽ kiếp ta không bằng trâu bò dê chó gà lợn, tức là không biết hưởng thụ, không biết yêu thương? Mà mỗi loại tình cảm một khác, tình vợ chồng hiển nhiên là không giống tình bồ bịch thoảng qua. Hồi này theo em nhớn em bé, chân thành cũng lắm mà bị lừa lọc cũng không ít hơn. Và tiền bạc vốn khó kiếm như gom gió bấc giữa hè cũng từ từ bốc hơi khỏi hầu bao. Vậy là chỉ một mực muốn chết, chết còn hơn, sống không bằng chết thì cũng chẳng thi vị gì. Tới đây thì vô tư mà bước sang hồi chuông thôi. Chuông sám hối. Chuông nguyện hồn. Than ôi, cũng một kiếp người!
Ông Đại nghe tới câu cảm thán này thì bật dậy, vỗ đánh đét vào đùi một cái:
- Ông có lý! Tôi cũng cho là thế, tuy có vài ý khác một chút. Phải, bốn hồi. Hồi nhỏ, hồi xuân, hồi tưởng, hồi kèn. Ứng với sinh, lão, bệnh tử. Cái nghề viết nó khiến tôi hình như lúc nào cũng bị cột chặt vào cái hồi tưởng. Những cái tôi viết, ngay cả chuyện hôm nay cũng đã là cái hôm nay vừa qua rồi. Còn những cái tưởng tượng, cái thì thuộc về tiền kiếp, cái thì thuộc về tương lai, song thực ra chúng đều nằm trong cái hồi đó cả thôi. Bởi vì số phận buộc tôi thuộc về cái hồi đó! Đời tôi được treo lên để làm gương soi. Gương gì, gương không nhà cửa, không vợ con mà lại có đủ cả biệt thự, chức vụ, quyền lực, sự kính yêu. Chúng chả có nghĩa gì hết. Chúng đều thuộc về của chung. Kể cả sự kính yêu, nếu có. Vậy nên, tôi rất buồn. Hạnh phúc một đời người là được đi qua cả bốn hồi trọn vẹn ông ạ. Như ông thế mà lại may. Tuy đời ông hơi lung tung, bụi bặm một chút nhưng còn có chút mùi vị, có cái để mà kể. Còn tôi, ngay cả cái hồi chuông rất to kia cũng chỉ là hình thức, chán thật. Bởi sau đó, cái bất tử khiến đời tôi không có muối, và dĩ nhiên, nhạt thếch!
Trên đây là câu chuyện tào lao của hai hồn  ma. Vậy mạo muội chép lại để bạn đối chiếu mình đang ở hồi thứ mấy.
 

 
                  LÃO MẠC
 
Mạc quê ở làng Thự. Làng cách bốt Cổ Gia hai cây số. Trước khi Nhật vào, bốt chỉ có một tiểu đội lính Tây đen và hai tiểu đội lính dõng trú đóng. Lúc Nhật đảo chính Pháp, bốt bị bỏ hoang. Năm bốn lăm, Việt Minh cắm cờ đỏ sao vàng trên nóc bốt.
Tháng mười năm ấy rét đậm. Bố Mạc bảo nhà neo người, Mạc phải lấy vợ để có thêm một người làm. Bởi thế cô Sen, người hơn Mạc tới mười tuổi, trước đó cũng chưa hề có tình ngang ý dọc gì với anh, đã được bố Mạc nhờ người mai mối rồi bưng trầu cau đến dạm hỏi, xin cưới cho con trai.
Sau hôm rước dâu một ngày, cô Sen chê Mạc miệng hô mắt trố, thân hình thấp bé, bảo đâu ngồi đấy, chẳng nên cơm cháo gì, bèn bỏ về nhà mẹ đẻ. Bố mẹ cô gặng hỏi thêm, cô lại ví von cái anh chàng Mạc ấy chả khác gì một cái nồi đất đựng nước sôi. Nghe rõ là đồ con gái huyên thuyên, chả biết mình cũng chỉ là chum là vại!
Mạc nghe lời bố xui, mặc độc một chiếc quần đùi, sấn sổ đến trước cổng nhà Sen, tay năm tay mười ném gạch, liệng đá vào sân, miệng liên hồi réo chửi Sen là đồ lộn chồng.
Sen tức lộn ruột, xua chó ra đuổi.
Thấy ba con chó dữ nhe răng, nhẩy chồm chồm lên mặt mình, Mạc bỏ chạy. Dây rút quần đứt cái phựt, chiếc quần đùi tụt hẳn khỏi bụng, khỏi chân Mạc rơi xuống đất. Ba con chó xúm lại, tranh nhau cắn xé chiếc quần nát thành từng mảnh nhỏ. Hú vía! Mạc không nhanh chân chạy thoát, chả biết cái con cúi có còn ở đúng vị trí của nó không đây? Thế là từ đấy, cứ trông thấy chó, bất kể chó nhà ai, chó lớn hay chó bé, chó vàng hay chó mực là Mạc lủi. Ngay cả thịt chó, món đưa cay khoái khẩu đối với nhiều người, anh cũng không dám động đũa. Thì ra Mạc vẫn sợ nó cắn!
Năm bốn bảy, Tây đen Tây trắng lại nườm nượp kéo về bốt Cổ Gia. Chúng giăng dây thép gai vòng trong vòng ngoài. Mười khẩu súng đại bác hướng nòng về tứ phía, cứ ngứa tay là chúng hò nhau bắn, không kể ngày đêm. Thi thoảng, chúng còn bất ngờ càn quét vào những làng mà chúng nghi là có du kích hoạt động. Tới đâu chúng cũng châm lửa đốt nhà, cướp của và cưỡng hiếp phụ nữ. Có lần càn vào làng Thự, một thằng Tây đen ba vạch đã lôi ông Chấn ra đồng, chả biết nó làm gì mà từ đấy về sau ông lão bị mắc bệnh lòi rom, khi bước lưng cứ  phải cúi lom khom.
Thấy cảnh giặc giã khó yên, bố Mạc giục Mạc đến nhà ông bà thông gia gọi vợ về, nếu ở làng không được thì vợ chồng tính chuyện tản cư vào vùng tự do trong mạn Thanh Hóa.
Mạc không làm theo lời bố. Nó là vợ mình, nó tự ý bỏ về nhà, mình phải đến bắt về, việc gì phải gọi? Vậy là anh bỏ ra mấy buổi tối liền, trèo lên một cây xoan nhà bên cạnh, ngó nghiêng cô Sen giờ nào đi ngủ, bố mẹ vợ anh ngủ ở chỗ nào, bắt được vợ rồi thì vác chạy theo ngả nào để khỏi bị chó đuổi.
Tính toán mọi việc sẽ đầu xuôi đuôi lọt, tối hôm ấy Mạc leo lên mái nhà cô Sen nằm dán bụng xuống rạ nghe ngóng động tĩnh. Nhìn xuống vườn chuối, Mạc thấy ba bốn cái bóng người lúc ẩn lúc hiện. Tai Mạc thi thoảng lại nghe thấy những tiếng bước chân bước nhẹ trên lá, phát ra những âm thanh loạt xoạt khe khẽ…
Đêm đã khuya. Lúc này trăng đã ló ra khỏi những đám mây đen. Mạc cười thầm, bụng bảo dạ rõ là mình thần hồn nát thần tính, những cây chuối đứng thẳng tắp lại ngỡ là người, lá chuối lay động xào xạc lại tưởng tiếng bước chân.
Lấy hết can đảm, Mạc từ từ trườn theo cái tường gạch, leo sang cây xoan rồi từ đó tụt xuống đất. Men theo tường, Mạc tới được chái nhà. Ở phía ngoài, bên cạnh cái cổng gỗ cài then ngang to tướng, ba con chó dữ như sói đang hếch mũi lên trời, gừ gừ dọa con mèo đang rón rén bước qua trước mặt chúng. Mạc ngồi thụp xuống, kiễng chân đi xổm về phía buồng cô Sen.  Chàng trai trẻ mừng rơn khi thấy cửa buồng không khép. Sen kia rồi, cô ta đang nằm quay mặt vào phía trong. Mạc chỉ cần xông đến, vác cô lên vai và chạy. Chó sẽ sủa vang lên. Cả nhà sẽ thức dậy, người đòn gánh, kẻ cầm dao lao theo. Và họ sẽ được một trận cười vỡ bụng nhưng hể hả khi thấy Mạc vác vợ chạy cho mà xem! Nhưng chính lúc ấy, cô Sen bỗng nhỏm dậy, la lớn: “Trộm, trộm! Bớ làng nước!”. Mạc sợ hết hồn, lao ra ngoài, nhảy vọt qua bức tường cắm đầy mảnh chai vỡ.
Thoát nạn, anh đứng thần người ra trong bóng tối, lắc đầu chán ngán.
Về tới nhà, thấy bố khóa trái cửa, Mạc lẳng lặng xuống bếp, nằm lăn trên đống rơm ngủ thẳng một mạch. Đêm ấy, con trâu nhà Mạc khua gióng lộc cộc tới sáng; nó vừa thiếp đi đã bị tiếng ngáy pho pho của Mạc đánh thức trở lại.
Chuyện Mạc rình bắt vợ không ai biết. Nhưng những lời đồn đại cô Sen chê chồng nên đã lén rủ trai về nhà bố mẹ ngủ thì nghe chướng tai lắm. Mạc trong lòng lấy làm tức mà há miệng mắc quai, thành thử anh cũng không dám nói ra sự thật. Dưng mà trong rủi có may, bố mẹ Sen sợ muối mặt với làng trên xóm dưới, liền dắt cô sang tận nhà ông thông gia, đẩy cô vào buồng Mạc rồi đóng cửa lại.
Tối hôm ấy, quá nửa đêm Mạc mới dám về nhà. Anh cắp manh chiếu rách vào buồng, trải xuống đất nằm. Chỉ một lát sau tiếng ngáy của Mạc đã vang lên như sấm. Cô Sen tủi thân khóc đỏ cả mắt. Nhưng cô lại cười thầm, dạo này Mạc to con ra phết! Cái lưng bè bè như  lưng gấu kia khỏe phải biết!
Sáng sớm, Sen dậy nấu cơm. Mạc lò dò xuống bếp, thấy rơm bén lửa cháy đùng đùng bèn nháy mắt, bảo:
- Khéo cháy nhà đấy!
Nói xong, ngồi xuống bên cạnh Sen, vơ một nắm rơm to cho vào bếp. Nhựa nồi cơm đang sôi sùng sục trào lên, tràn xuống bếp khiến ngọn lửa tắt rụi.
- Nóng quá!
Mạc kêu nghèn nghẹn trong họng, rồi bất thình lình anh quơ  tay ôm ngang lấy thắt lưng vợ.
Sen vờ đẩy chồng ra nhưng lại bị mất đà, cô ngã dúi xuống đống rơm.
- Cơm sôi, cơm sôi… Kìa, buông tôi ra! Phải gió cái nhà anh này!
- Hì hì… Khẽ cái mồm cho tôi nhờ. Bố xuống thì bẽ mặt!
- Dơ! Ban ngày ban mặt, ai lại…
Mạc ngớ người. Anh ngạc nhiên khi thấy Sen chạy lên nhà.
Rồi Mạc hiểu ra. A, là như thế, như thế…
Anh vùi vội nồi cơm vào đống than rồi ra khỏi bếp, nhón chân bước nhẹ vào buồng, khẽ hắng giọng:
- E hèm…
Thấy Sen nằm quay lưng vào tường, hai tay ôm lấy mặt, Mạc đưa cả hai bàn tay hộ pháp lật mạnh cô xoay ngược về phía mình... Cái giường dát tre đến là dễ ghét, cứ cót ca cót két.
- Khéo nó sập thì… chui xuống đớt đới…
- Mặc kệ…
- Hi hi… Qủy sứ!
Ngoài nhà, tiếng điếu bát của bố Mạc rít lên sòng sọc. Đôi vợ chồng trẻ tạm nằm im, rồi lại cùng hi hi cười khi nghe tiếng guốc của ông bố loẹt quẹt đi ra ngõ. Hẳn là ông ấy cũng đang tủm tỉm.
Đúng vào thời điểm Sen cảm thấy rủn cả sống lưng, người lơ lửng như đang bay trong không trung, miệng tự nhiên bật ra tiếng kêu: “ Úi giời, úi giời ơi!” khe khẽ thì những tiếng nổ lớn bỗng vang lên từ tứ phía. Mặt đất chao qua chao lại như đưa võng. Từng đụn khói lớn đùn vào buồng, mùi khét lẹt của khói súng xộc vào mũi.
- Mẹ thằng Tây, bắn lúc nào không bắn lại bắn vào lúc chết người này!
Mạc buông vợ ra. Sen sợ quá, bò xuống đất, chui vào nấp trong gầm giường. Còn Mạc, anh vừa xốc quần vừa tất tả chạy ra sân. Trước đôi mắt trợn tròn của anh, cái sân đã biến thành một cái ao cạn. Chạy tiếp ra đầu ngõ, Mạc sững lại, miệng tu tu khóc. Bố anh bị đạn đại bác đẩy ngã sấp xuống đất, lưng ông bị mảnh đạn chém ngang, máu tươi chảy đỏ cả một vạt cỏ xanh.
Chôn cất bố xong, Mạc mang con dao mã tấu bố anh vẫn dùng để phát bờ ruộng ra mài, rồi anh bảo Sen anh sẽ đi theo bộ đội đang đóng ở làng Hạ để trả thù cho bố. Sen lẳng lặng bỏ quần áo của Mạc vào một cái tay nải và đưa cho chồng.      
Mạc được phiên chế về tiểu đội ba, trung đội trinh sát thuộc trung đoàn 48. Tiểu đội trưởng của Mạc tên là Bố. Ai gọi tên Bố cũng ngại nên chỉ gọi tiểu đội trưởng hay Tiểu, anh Tiểu. Riêng Mạc, anh gọi tiểu đội trưởng là anh Trưởng, bởi vì Trưởng hay hơn Tiểu chớ! Vậy là Bố có một cái tên mới. Bù lại, Mạc được tiểu đội trưởng qúy ra mặt. Cho dù kém Mạc một tuổi, Bố vẫn cứ gọi Mạc là Út, em út của tiểu đội ấy mà! Mạc chỉ cười, bảo đúng quá đi chứ lị, về tuổi quân, so với mười một anh em khác Mạc là em út ai mà chẳng biết!
Các đàn anh trong tiểu đội cũng muốn tỏ cho Mạc biết họ xứng đáng là đàn anh thực sự. Bởi thế, lúc hành quân, có thứ gì nặng, họ chia nhau mang vác để Mạc đi theo kịp mọi người. Mạc đào công sự chậm, cả tiểu đội xúm vào đào giúp, thành ra công sự của Mạc bao giờ cũng sâu nhất. Bữa cơm, Bố có gắp cho Mạc miếng thịt, con cá to nhất, ngon nhất cũng không ai thắc mắc. Mạc đi ngủ, có người rèm màn; sáng sớm có người lay đánh thức.
Rồi ai cũng để tâm đến cái bệnh ngủ ngáy vang như sấm của Mạc. Người thì khuyên Mạc nằm nghiêng. Người lại chỉ dẫn Mạc các cách chữa ngáy bằng mẹo dân gian, lúc ngủ cứ đưa tay nắm thật chặt cái của qúy là ngủ hết ngáy ngay! Không ít người rủ nhau đi tìm các loại thân, rễ, lá, củ, quả của các loài cây nghe đồn là có công hiệu chế ngự bệnh ngủ ngáy đem về phơi khô, sao tẩm và sắc cho Mạc uống.
Đúng là em út, được chiều quá hoá hư, cái bệnh ngủ ngáy của Mạc không những không thuyên giảm mà ngày càng tăng nặng thêm, chẳng mấy chốc đã phát thành bệnh ngủ ngày. Nghĩa là Mạc ngủ bất cứ lúc nào.
Khi ăn cơm, Mạc hay ngáp vặt.
Anh có thể ngủ cả trong lúc đi, cái dáng anh cứ ngật ngà ngật ngưỡng, nửa ngủ nửa thức.
Có lần cùng sáu anh em khác trong tiểu đội đi gài mìn trên con đường rẽ vào làng Hạ, Mạc loay hoay mãi mới làm xong. Rồi anh gục ngủ. Anh em chẳng ai dám lại gần, phải chờ anh tỉnh ngủ hẳn mới dám gọi.
Sợ nhất là lúc lau súng, hai mắt Mạc cứ nheo nheo, cái đầu thì gật lên gật xuống. Bố bực mình giật phắt lấy khẩu súng từ tay Mạc, nhận lau giúp. Chấp với em út làm gì, cứ để cho nó tự nhiên tựa lưng vào tường mà ngáy cho đã đời. Ngủ chán ngủ chê ắt nó sẽ khỏi bệnh!
Mạc không khỏi bệnh. Tai hại nhất là đúng vào đêm Tây trên bốt Cổ Gia tập kích vào làng Hạ, nơi đơn vị trú quân, Mạc vẫn ngủ say như chết. Tổ trưởng tổ tam tam nghe lệnh báo động đã cấu rất mạnh vào đùi Mạc, dựng anh ta dậy, hét vào tai rằng Tây nó đến, phải rút nhanh ra đồng. Vậy mà, lúc kiểm lại quân số vẫn thấy không có Mạc!
Thực ra thì Mạc đã nghe thấy tiếng tổ trưởng gọi. Nhưng nghĩ tổ trưởng hù, Mạc chạy tới đống rơm và ngã nhào vào đó; không đầy một giây sau tiếng ngáy pho pho của anh đã vang lên.
Bọn Tây bốt Cổ Gia bắn đì đòm trong làng, rồi chúng châm lửa đốt nhà. Lửa cháy đỏ cả một góc trời, tàn than bay tứ tung, bén vào đống rơm Mạc đang tựa lưng vào ngủ. Gặp gió, ngọn lửa bùng lên. Mạc bỗng cảm thấy nóng, nóng quá. Anh dụi mắt, hốt hoảng khi thấy lửa lem lém liếm vào quần áo mình, vội ôm súng, lăn một vòng xuống ao bèo.
Ngâm mình trong nước nghĩ ngợi một lát, Mạc run cầm cập bò lên bờ. Trông thấy mấy thằng Tây súng lăm lăm trong tay, anh vụt chạy. Trong ánh lửa bập bùng, bọn Tây thấy một người vác súng chạy bán sống bán chết, chúng bèn hò nhau đuổi theo để bắt sống bằng được. 
Mạc chạy qua chỗ quả mìn anh gài mấy hôm trước. Khi bọn Tây đã tới sát sau lưng, Mạc vướng chân vào sợi dây gài, ngã sấp mặt xuống đất. Một tiếng nổ long trời vang lên. Trong khói đen mù mịt, xác mấy tên lính Tây tung lên…
Mạc định thần, chạy một mạch tới cây đa giữa đồng. Lúc ấy trời đã tang tảng sáng.
Tiểu đội trưởng Bố mặt nhăn như bị, giơ thẳng cánh tay tát Mạc một cái đau điếng.
Mấy hôm sau, Mạc được thưởng Huân chương chiến công hạng ba! Cuống huy chương nền đỏ, phía trên đỉnh trái hai cái vạch màu xanh dương song song nhau là một ngôi sao bạc lấp lánh. Huy chương đúc bằng kẽm, mặt trước rập nổi hình một người lính tay cầm bom ba càng trong tư thế lao về phía trước. Đương nhiên đây là phần thưởng cao qúy dành cho những người có hành động gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu.
Mặc cho cả trung đội vỗ tay rào rào hoan hô, Mạc vẫn cứ gật gật, nói một câu chả ra đâu vào đâu:
- Công của anh em hết. Tôi chỉ gặp may.
Anh em cho Mạc là người khiêm tốn, càng vỗ tay  to hơn.
Chuyện trên xảy ra vào năm 1948.
Hai mươi năm sau, vào thời kỳ Mỹ ném bom oanh tạc miền Bắc, ông Mạc được xã đội cử làm tiểu đội trưởng tiểu đội lão dân quân làng Thự. Tiểu đội được trang bị ba khẩu súng trường và một khẩu mười hai ly bảy. Ông Mạc tham gia trực chiến cùng anh em hai mươi bốn tiếng một ngày.
Có người thắc mắc, hỏi ông lấy sức đâu mà trực như thế, ông bảo:
- Hỏi gì mà ngốc thế, trực chiến để lấy mỗi ngày mười lăm điểm công nhật thì ngày có ba mươi tiếng chúng tôi cũng trực! Thằng Mỹ nó thay nhau cỡi tàu bay đi ném bom thì mình cũng phải chờ mà bắn nó chứ!
Những lúc không ngủ thì ông Mạc nghe đài. Đài mở, tức là ông thức.
Song cũng như khẩu mười hai ly bảy được ngụy trang bằng những cành lá, thằng Mỹ có mắt thần cũng không phát hiện nổi, cái đài quả là phương tiện tốt nhất để ông Mạc giấu người khác tật ngủ ngáy vang trời vang đất của mình. Bởi thế, khó ai biết lúc đài nói ông Mạc thức hay ngủ. 
Vả lại, tuổi càng cao, tai ông càng thính. Đang ngủ, nghe một tiếng động nhỏ là ông đã mở mắt ngay tắp lự. Người ta hỏi ông ngủ hả, ông đáp ngủ đâu mà ngủ, tôi đang nghe đài. Hỏi đài vừa nói gì, ông chỉ cười xòa, bảo lắm chuyện.
Nhưng cũng nhờ cái đài mà ông Mạc lập được công to.
Số là đêm ấy, ông mở đài rồi ngủ quên mất, tiếng ngáy lẫn vào tiếng o, o phát ra từ cái đài. Gần sáng, cái đài đánh thức ông Mạc dậy.
Vừa ngửa mặt lên trời, vươn vai làm một động tác thể dục, ông Mạc bỗng thấy những chấm đen từ phía chân trời xa đang lao vun vút về phía trận địa.
Máy bay Mỹ!
Không kịp gõ kẻng báo động, ông vội vồ lấy khẩu súng máy, hướng nòng súng về phía mục tiêu. Những chiếc máy bay lao vút qua đầu ông Mạc, phơi ra những cái bụng trắng lóa. Tiếc quá!
Rồi vào đúng lúc cả tiểu đội lồm cồm bò dậy, còn đang ngơ ngác hỏi nhau có chuyện gì thế thì tốp máy bay thứ hai nhào tới. Lần này chúng bay thấp hơn, trông rõ cả thằng cầm lái.
Lão dân quân Mạc nhắm một cái, xiết cò. Chiếc máy bay khựng lại, bụng nó lóe những chấm lửa, nó gượng vọt lên, loạng choạng như mất đà rồi đâm thẳng xuống dòng sông Ngọc. Một cột nước cao tới hai ba chục thước tung lên trắng xoá…
Ông lão được thưởng Huân chương vào đúng hôm đài truyền thanh tỉnh đọc bài tường thuật về chiến công của tiểu đội lão dân quân làng Thự  do ông chỉ huy.
Nghe cô phát thanh viên đọc tới đoạn ông Mạc và đồng đội thức suốt đêm trực chiến, khi máy bay giặc tới, ông phất cờ ra lệnh cho cả tiểu đội đồng loạt nổ súng, ông Mạc vừa lắc đầu vừa cười ha hả, bảo:
- Khéo vẽ chuyện! Chúng tôi ngáy khò khò cả đêm thì có! Sao không kể chuyện ấy nghe cho vui nhỉ? 
 
 

 
ĐẤT VUÔNG TRÒN
 
Giờ thì đại đội trưởng Ngoạn đang nằm kia, dáng hộ pháp, làn da đã răn rúm, sạm đen màu gốm sống. Đau đớn quá!
Nhìn đôi mắt mở trừng trừng, phần toát ra vẻ căm giận, phần như còn ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước một điều chưa biết trước, lòng chúng tôi đau thắt lại.
Chúng tôi thay nhau vuốt mắt cho anh. Những người đã có vợ ấp tay lên mi mắt, xoa nhẹ theo chiều ngang; cánh trai tân thì xoa theo vòng tròn hoặc theo chiều dọc. Đủ mọi cách. Theo kinh nghiệm. Theo chỉ dẫn của sách vở đã từng đọc trước đây. Nhưng vô hiệu, Ngoạn vẫn không sao nhắm được mắt!
Chính trị viên Quánh là một trong những người cuối cùng đến vuốt mắt cho Ngoạn. Quánh nổi tiếng là một người sắt đá. Nhưng lần này, anh không kìm được, hai hàng nước mắt cứ ứa ra, lăn dài xuống má và đọng lại thành giọt, nhểu xuống khuôn mặt sạm đen của Ngoạn. Quánh vừa xoa mu bàn tay đã mất hai ngón cuối trong một lần gỡ mìn lá lên mắt Ngoạn vừa thì thầm:
- Sống khôn chết thiêng Ngoạn ơi! Anh ngủ đi cho anh em yên lòng!
Lúc ấy, tôi có cảm giác như đôi mắt của người con trai làng gốm đang chiếu thẳng về phía mình. Tôi bàng hoàng cảm thấy có một đốm lửa nhay nháy cháy dọc theo sống lưng mình và bừng tỉnh. Những sự kiện xảy ra trong mấy ngày qua khiến tôi chợt nhớ tới câu chuyện về đôi mắt của người chiến sĩ Điện Biên mà bố tôi đã kể cho nghe từ lâu lắm rồi...
Sớm mùng bảy tháng hai năm 1972, sau lúc B52 Mỹ trút bom xuống khu rừng cạnh con suối A Koi, một con vượn bạc má bị thương vào đầu, mất phương hướng, loạng choạng chạy từ đỉnh 654 xuống nơi chúng tôi đang ém quân thì kiệt sức. Không bỏ lỡ dịp may hiếm hoi này, trung đội trưởng Đễ hò cánh lính làng gốm Bát Tràng cùng xúm vào làm một bữa tươi.
Do vội vã, lại phải tắt lửa nhiều lần để tránh bị máy bay trinh sát của địch phát hiện, món thịt mà chúng tôi đã chia nhau nhai ngấu nhai nghiến một cách ngon lành trong khi đói hình như còn nửa sống nửa chín thì phải. Trông chúng chẳng khác gì thứ đất gan gà qua lò gốm tắt lửa giữa chừng vậy. Thâm sì và tanh ngắt!
Sau bữa liên hoan trời cho, ngồi bên cạnh tôi, thằng Giới cứ khụt khịt mũi. Hỏi, Giới nói nó ngờ tôi chính là thủ phạm của cái mùi tanh ngóm tanh ngòm đang lởn vởn tỏa ra từ đâu đây. Tôi đưa tay lên mũi. Mùi tanh từ các lỗ chân lông rịn mồ hôi chua lòm. Lại thấy cả hơi thở của mình cũng có vẻ nằng nặng, lờm lợm. Thằng Giới bắt chước điệu bộ của tôi, nó nhăn mặt, kêu toáng lên là người nó bị bốc mùi. Mùi vượn chết! Hoi, hoi quá! Mới thoảng qua đã thấy ớn!
Hai chúng tôi chạy đi tìm trung đội trưởng Đễ và bắt gặp anh đang lặn ngụp dưới suối. Từ dưới nước, Đễ vẫy tay rối rít ra hiệu cho tôi và Giới chạy lại. Vừa lồm cồm bò lên tới bờ Đễ đã dồn:
- Hai thằng mày thế nào? Có thấy gì lạ không?
Tôi trả lời:
- Có, tự  nhiên hóa ra một lũ chua lòm lòm anh ạ!
- Làm sao bây giờ? Giới lo lắng, hỏi.
 Đễ cười phô cả hàm răng trắng bóng:
- Ha ha, xuống đây, xuống mau! Ha, ha, nước sẽ gột hết trơn mọi thứ cho mà xem!
Cả ba nhảy tùm xuống suối A Koi, ra sức kì cọ. Lại ngậm cả nước, xúc miệng òng ọc, phun ra phì phì nữa. Hình như mùi tanh có bớt đi một chút. Nhưng khi về tới nơi ém quân, mồ hôi ai nấy lại túa ra. Và cái mùi quái ác kia lại xuất hiện, lởn vởn, thoang thoảng bay ...
Ba giờ chiều, đại đội trưởng Ngoạn và chính trị viên Quánh đến kiểm tra lại quân số và vũ khí của trung đội trước khi cả đại đội lên đường tập kích cứ điểm 671. Xem xong dây thủ pháo cài trên thắt lưng tôi, đại đội trưởng bỗng nheo nheo mắt, hất hàm hỏi:
- Mấy ngày rồi đồng chí chưa tắm?
Tôi dập chân đứng theo tư thế nghiêm, dõng dạc trả lời người đồng hương xứ gốm Bát Tràng của mình:
- Báo cáo thủ trưởng! Tôi vừa tắm hồi nãy ạ!
Nghe tôi trả lời, Ngoạn khẽ lắc đầu, sải bước xuôi theo hướng gió đi về phía cuối hàng quân. Mặt anh sa sầm, cặp lông mày rậm nhíu xệch về một bên.
Trong khi đó, chính trị viên Quánh dừng lại trước mặt thằng Giới, hỏi khẽ:
- Còn anh?
 Giới không hiểu thủ trưởng định hỏi mình về điều gì, nó lúng búng trong miệng:        
- Báo cáo, tôi, tôi đã sẵn sàng!
Chính trị viên cười:
- Tôi hỏi cậu tắm cách nay mấy ngày rồi kia?
- Sao lại mấy ngày? Em cũng mới tắm lúc trưa mà. Nhưng sao các thủ trưởng chỉ xoáy vào chuyện tắm giặt thế ạ?
Quánh không trả lời câu hỏi của Giới. Anh quay sang hội ý với Ngoạn và ra lệnh kiểm tra tư trang toàn trung đội. Những chiếc ba lô được mở tung. Chăn, màn, quần, áo, bát, đũa lần lượt được xếp ngay ngắn trên những tấm ni lon xanh thẫm.
Đúng lúc Đễ đang nháy nháy mắt, ra ý không ai được tiết lộ bí mật của trung đội làng gốm, Quánh bỗng đưa cái bát sắt của thằng Giới lên ngang mặt. Mùi tanh lợm giọng của mỡ vượn còn sót lại nơi đáy bát xộc vào mũi anh. Chính trị viên ho sặc sụa, chảy cả nước mắt. Anh vừa khạc nước bọt vừa la lên:
- Thịt vượn! Đúng là thịt vượn chết rồi! Thảo nào...
Biết không thể giấu được nữa, Đễ vội chạy tới trước mặt đại đội trưởng và chính trị viên, giơ tay lên ngang trán, thành thật:
- Báo cáo các thủ trưởng, đúng là mùi thịt vượn chúng tôi chén lúc trưa đấy ạ. Bây giờ...
Ngoạn nghiêm mặt nhìn Đễ, chì chiết:
- Bây giờ ư? Bây giờ có cách nào giải quyết hậu quả không ư? Với cái mùi vượn chết này, các đồng chí tưởng có thể luồn sâu vào cứ điểm mà không bị chó bẹc giê của địch phát hiện ra sao?
Đễ tái mặt nhìn chính trị viên cầu cứu. Quánh không nói, hướng về phía Ngoạn như có ý chờ đợi anh trả lời.
- Thôi được, tôi có cách chữa rồi đây! Ngoạn nói ngay.
Cả trung đội thở phào nhẹ nhõm.
Theo lệnh của Ngoạn, chúng tôi úp tất cả xoong, chảo và bát sắt xuống đất. Cũng vậy, chúng tôi cởi hết quần áo ném xuống cỏ, lấy đất phủ lên trên một lớp mỏng. Cả trung đội trần truồng như nhộng, vừa khúc khích cười vừa trườn, lăn trên mặt đất theo khẩu lệnh của Ngoạn. Cho tới lúc mồ hôi chúng tôi vã ra như tắm, toàn thân bị đất nhuộm đỏ au, anh mới cho ngừng công việc. Ngoạn bảo mỗi người hãy nhào cho mình một nắm đất thật nhuyễn. Sau đó, đập bẹt thành hình những cái bánh dày, úp vào miệng, hả hơi ra, hít hơi vào thật mạnh.
Chúng tôi hà hít tới cái thứ năm mươi thì Ngoạn giơ tay ra ý dừng lại và quay sang nói với Quánh:
- Giờ thì ta có thể bịt được những cái mũi ướt của lũ bẹc giê trong cứ  điểm rồi đấy!
Chính trị viên ngược từ phía cuối lên đầu hàng quân, vừa đi vừa hít mạnh.
Anh dừng lại trước mặt tôi, nở một nụ cười hiền lành :
- May mà đất đã át hết mùi thịt vượn. Không thì...
Ngoạn nhìn mọi người khắp lượt, gằn giọng ra lệnh:
- Trung đội chuẩn bị hành quân. Đúng giờ X tập kết cách hàng rào thứ nhất của cứ điểm 671 năm chục mét. Giờ Y bắt đầu tổ chức tiền nhập. Nổ súng vào giờ Z. Rõ chưa?
Thay vì phải đứng nghiêm và hô: “Rõ!” theo quân lệnh, chúng tôi lại hích hích vào hông nhau, cùng một lúc nhìn xuống và phá lên cười...
Trận tập kích vào cứ điểm 671 diễn ra hoàn toàn trái ngược với kế hoạch tác chiến của đơn vị tôi. Ngay từ những phút đầu tiên, chúng tôi đã làm chủ được trận địa. Nhưng trớ trêu thay, đó là một trận địa không có địch. Trước đó, chúng đã gian ngoan bí mật rút ra phục kích ở những công sự ngoại vi. Chờ cho chúng tôi tung hết số thủ pháo và quét AK tảo trừ vào các ụ súng, các nhà ngủ dã chiến, chúng mới cho gọi pháo bầy bắn hàng mấy trăm quả đạn vào khu trung tâm rồi tổ chức phản kích, xiết chặt vòng vây, quyết đánh bật chúng tôi khỏi trận địa. Do tính chất của trận đánh, nhận ra sự chênh lệch quá lớn về quân số và vũ khí giữa ta và địch, Ngoạn đành cắn răng ra lệnh cho đơn vị vừa chống trả vừa rút lui. Anh dẫm phải một trái mìn và hi sinh tại hàng rào bùng nhùng thứ  hai.
Ngày mùng tám, trinh sát ta báo tin địch ở cứ điểm 671 đã cho một tốp lính đi tua quanh các hàng rào dây thép gai. Nhưng không rõ vì lí do gì mà chúng không chịu dời xác Ngoạn đi chỗ khác. Có thể vì chúng sợ vấp phải mìn gài trong hàng rào dây thép gai? Hay chúng đoán thế nào chúng tôi cũng quay trở lại lấy xác đồng đội nên đã ngầm giăng bẫy đón sẵn?
Đêm mùng mười, tôi và Giới nhận được lệnh bằng bất cứ  giá nào cũng phải đưa được Ngoạn về với đơn vị. Trong đêm tối, sau khi gỡ được bốn quả mìn chân voi, chúng tôi đã bí mật trườn tới được chỗ Ngoạn hi sinh. Hầu như không biết tới mùi hôi rợn tóc gáy ọc vào mũi, Giới khẽ khàng đặt cái xác đã ri rỉ nước vàng lên lưng tôi. Giới trườn phía trước, tôi nắm chặt lấy chân anh cùng nhích dần từng phân ra khỏi cõi chết. Mỗi lần địch bắn pháo sáng hoặc la hét, nổ súng bừa bãi vào các hàng rào xung quanh, tôi lại phải nghiêng người đặt Ngoạn xuống cỏ. Tôi không muốn anh trúng đạn của quân thù một lần nữa! Lạ thay, như có một phép màu vừa xảy ra, mùi hôi từ  thân thể người đại đội trưởng cứ mỗi lúc một vơi dần đi. Tới hàng rào cuối cùng thì cái mùi khó chịu ấy đã phần nào được thay thế bằng vị ngai ngái của cây cỏ và đất đai.
Tảng sáng, hai chúng tôi cáng Ngoạn về tới cửa rừng. Lúc đặt cái cáng xuống đất, tôi đưa mắt nhìn Ngoạn và Giới. Trời ơi, cả người sống và người đã khuất đều lấm lem như vừa chui lên từ bùn đất vậy! Chính điều này đã làm tôi không kìm được lòng và bật khóc thành tiếng...
Thấy Quánh cứ lặng người đi bên thi thể Ngoạn, tôi bèn ngồi xuống bên cạnh anh và trình bày ý định của mình. Nghe giọng nói hơi nghẹn lại vì xúc động của tôi, Quánh gật đầu, bảo:
- Cậu cứ  làm thử xem! May ra...
Tôi chạy nhanh ra bờ suối và trở lại với một nắm đất đỏ mịn như đất dùng để nặn đồ gốm trên tay. Lặp lại trình tự từng việc theo câu chuyện mà bố đã kể, tôi chia nắm đất làm đôi, nhẹ nhàng cúi xuống đặt lên hai mí mắt Ngoạn, miệng lầm rầm đọc một câu hát ru của người làng gốm:
       Vuông bên này nâng chân kẻ dẫm
       Tròn bên kia dẫn lối người đi...
       Chim trời đậu nhánh chanh quê
       Bàn xoay thương đất tay vê nhớ người...
Dứt lời hát, tôi nghiêng mình nhìn Ngoạn lần cuối rồi quay ra, nhường chỗ cho anh em trong đơn vị lần lượt tới vĩnh biệt đại đội trưởng.
Do phải đi làm nhiệm vụ theo dõi quy luật hoạt động của bọn địch ở cứ điểm 671 gấp, tôi không được cùng anh em làng gốm tắm rửa và quàn thi thể cho Ngoạn. Nhưng về sau, nghe Giới kể lại, tôi mới hay rằng: nhờ có hai nắm đất thiêng kia, đôi mắt trân trối của đại đội trưởng Ngoạn đã từ từ khép lại...
Hình như linh hồn anh đã đến được với giấc mơ mà anh em chúng tôi thường khao khát - giấc mơ trở lại quê nhà, tự tay nhóm lên những lò gốm rừng rực lửa đỏ...

 
                        CHUYỆN Ở TRÀM CHIM
 
Hôm đến Tràm Chim viết bài về loài sếu đầu đỏ, nghe đồn cái quán nhậu quay mặt ra kinh Đồng Tiến có món đặc sản ngon nhất xứ, tôi lò mò dò tới uống vài li chơi.
Món đặc sản Đồng Tháp là thịt chuột. Có tới hàng chục món, hàng chục cách chế biến. Luộc, hấp, nướng than nguyên con. Chả băm viên vo tròn chiên giòn. Xào lăn, nấu cà ri, nấu măng , nấu sả, nấu ớt, nấu giả cầy. Đương nhiên trong lúc chờ dọn món, khách hàng cũng được dịp thưởng thức đủ mọi loại âm thanh vang lên từ nhà bếp. Khi thì xèo xèo, lục bục. Lúc thì chát chát, cạch cạch. Mùi thơm xực nức cứ xộc vào mũi. Chưa dùng món, nước miếng đã tứa ra.
Chủ quán hỏi tôi ngoài món chuột đồng, ông có dùng thêm món rắn nước bơi trên kinh Đồng Tiến không. Tôi bảo ông cho tôi một tô cháo là được. Một tô be bé thôi. Sau khi nhậu xong. Mà nhớ nhắc tôi nghe, tôi không kêu lại đâu. Vì tôi có tật nhậu xong là chẳng nhớ được gì mình dự định hoặc nói trước đó mà. Vâng, tôi họ Hứa đấy ông chủ ạ. Nghĩa là chớ vội tin những gì tôi hứa. Nhưng nhớ tính tiền cho sòng phẳng nghe. Chớ có thấy bộ dạng tôi loạng choạng mà tưởng tôi say nghe. Bị lỏng túi là tôi tỉnh liền à...
Chủ quán nói ông vui tính quá. Nhất định là ông sẽ được hài lòng thôi. À, mà ông có cần kêu các bạn ông đang nghỉ ở nhà khách huyện tới góp vui thì tôi cho cháu nó đi ngay. Tôi nghĩ các bạn ông sẽ không ai nỡ từ chối ông đâu. Một người hào hoa như ông mà lại đi nhậu có một mình, xem ra có cái gì đó không bình thường. Hay ông có tâm sự? Tiếc rằng ở miệt heo hút này không có mấy em như ở thành phố. Nhưng món nhậu thì tuyệt. Tôi bảo đảm cả thế giới không nơi nào có những món nhậu hết chê như ở Tràm Chim.
Tối ấy tôi nhậu một mình. Cũng phải nếm cái cảm giác ăn một mình đau tức ra sao chớ. Ngon thiệt! Món nào tôi cũng kêu hai miếng. Chỉ hai miếng thôi. Miếng thứ nhất nhấm nháp tìm hương vị. Miếng thứ hai đưa cay. Giữa các món đảo mắt một vòng nhìn xuống lòng kinh, coi thuyền gắn máy chạy ngược chạy xuôi, hoặc nghĩ tới một câu thơ viết về sông nước Đồng Tháp. Chậc, chả nghĩ ra câu thơ nào. Rồi tự an ủi mình: thời trân cũng là thơ chứ sao. Thơ từ thị giác, vị giác, xúc giác. Tứ thơ nhìn, ngửi, nhai nuốt. Dung tục mà cũng thanh tao biết mấy!
Tôi đã hình như ngà ngà say. Có lẽ vì thế mà khi thấy một cậu thanh niên ngoài hai mươi, tóc tai bù xù, mặt mũi bơ phờ, dài dại tự ý ngồi xuống bên cạnh, tôi cũng không tỏ ra bực bội, chỉ khẽ đưa mắt nhìn cậu ta, ra ý thăm dò. Người kia cũng không nói. Anh ta không tỏ ý xin ăn. Cũng không tỏ ý khiêu khích, trêu ngươi. Có vẻ như anh ta không hề biết tôi đang ngồi nhậu ở cái bàn này. Lạ hơn, anh ta bất ngờ hất hàm về phía chủ quán, giọng rất hách, tính tiền, tính tiền lẹ cho tui còn đi nào, chủ quán đâu, tính tiền.
Chủ quán tươi cười đi tới. Ông vỗ nhẹ vào vai người trai trẻ mặt đang ngớ ra như vừa sực tỉnh, nhẹ nhàng nói cậu cứ vô đây ăn uống cho thật đàng hoàng, thật no say đã, rồi đâu có đó, muốn tính bao nhiêu tiền tui cũng chịu, nào, mời cậu.
Người trai ngoan ngoãn vâng lời. Anh ta ra ngồi cạnh bờ sông, miệng lẩm bẩm tàu kia mà vào tay ba tui thì bỏ đời nhà nó rồi. Hên cho nó là ba tui về thành phố rồi. Mà tui lại không phải là giải phóng, tui cũng không phải là dì Tư. Tui không có lựu cũng chẳng có mìn, tui chỉ là con của ba tui...
Một lát sau, anh ta đứng dậy, chắp tay chào chủ quán: chào chú, con đi đây, tiền con thiếu chú cứ ghi vô sổ, vài bữa nữa ba con xuống tính, chú đừng buồn con nghe chú, mốt con lại tới nhậu giúp đỡ chú đó chú à. Rồi bỏ đi.
Thấy tôi tỏ ý lạ, chủ quán nhậu giải thích: nó là con anh Hai Rắn đấy ông ạ. Đại tá Hai Rắn lừng lẫy một thời mà ông không biết a? Nó theo xe của công ty du lịch gần nhà xuống đây. Nó vậy nhưng hiền khô à, chẳng hại ai đâu.
À, thì ra đó là một cậu bé mát! Và đúng thế, tội nghiệp cho ba nó thiệt.
Nhưng anh Hai Rắn là ai nhỉ? Mà nổi tiếng tới mức một ông chủ quán nhậu cũng hay tên? Nổi tiếng tới mức cậu con trai mát tính của ông đi tới đâu, không một cắc một đồng dính túi cũng vẫn được người ta cho ăn cho uống tử tế?
Sáng hôm sau, chúng tôi huyện mời đi tham quan một số địa danh nổi tiếng trong thời chống Mỹ.
Nghe báo cáo viên kể lại trận đánh thủy phi cơ ngụy trên kênh Đồng Tiến đầu năm 1960, tôi ghi kín cả hai trang giấy. Thú vị nhất là chiến tranh ác liệt thế mà người ra trận cứ coi như trò chơi vậy. Cái chết kề bên cạnh mà người ta vẫn cứ yêu nhau. Yêu say đắm. Yêu như thể lấy tình yêu mà giật sự sống ra khỏi tay cái chết!
Trận này do chị Tư Chuột và anh Hai Tỵ đánh. Lý do phải cử hai người cũng đơn giản. Anh Hai biết cách đánh tàu nhưng lại không thạo sử dụng ghe máy. Còn chị Tư thì lại nổi tiếng là người thạo ghe thuyền sông rạch vùng này. Tính chất của trận chiến rất ác liệt nên đơn vị đã làm lễ truy điệu cho hai người trước khi họ xuất kích.
Tới vị trí lựa chọn trước, Hai Tỵ đào một cái hố giấu xuồng, lại trùm lên bên trên xuồng một lớp bùm mỏng. Anh bàn tính với Tư Chuột chọn lúc chập tối làm thời điểm khai hoả. Vì sau trận đánh, muốn tránh bị máy bay và bộ binh địch truy đuổi, họ rất cần bóng tối che chở để bơi xuồng rút êm về cứ.
Đôi trai gái nằm phục tới mười mấy ngày dưới một lùm bần ken kín mít dây dại leo ven kinh mà thời cơ vẫn chưa đến. Hết đồ ăn dự trữ, tối tối, anh Hai lại bò ra khỏi lùm cây, kiếm rắn nước, kiếm chuột. Hai người che chắn lửa khói kĩ càng rồi thay nhau nướng thịt ăn cho ngày hôm sau. Nhiều bữa, thấy anh Hai cứ lặng lẽ hút thuốc rồi lại thở dài trong đêm Tháp Mười hun hút gió, chị Tư khóc thút thít, biểu sao anh không hiểu lòng chị. Hai Tỵ nói là anh biết chớ, chờ hết giặc nhất định anh sẽ cưới chị làm vợ. Họ hôn nhau đắm đuối nhiều lần rồi ôm nhau ngủ. Về sau, có nhiều người cùng thời nói, trong những ngày ấy hai người  đã sống với nhau như vợ như chồng vậy. Nói cho vui chứ chả ai có bằng chứng gì.
Kết quả là một cái thủy phi cơ của địch đã bị nổ tung bởi vướng một dây lựu đạn anh Hai Tỵ giăng qua kinh. Còn hai người thì trở về cứ ở Hồng Ngự an toàn, được cấp trên đề nghị thưởng Huân chương chiến công hạng ba.
Họ chưa kịp cưới nhau thì anh Hai được trên điều sang Bến Tre làm đại đội trưởng một đơn vị vũ trang hỗ trợ cho đồng khởi.
Bao nhiêu là nước mắt chia li đã nhỏ. Nhưng nhiệm vụ là trên hết. Anh Hai và chị Tư hẹn chờ nhau mãi mãi rồi lại hôn nhau nhiều lần. Họ chỉ chịu rời khỏi nhau khi chiếc xuồng đưa hai người tới đầu kinh Đồng Tiến, nơi có một chiếc ghe máy nhỏ chờ sẵn để chở anh Hai xuôi sang vùng đất đồng khởi. Ở đấy, những trận đánh ác liệt đang chờ anh.
Anh Hai Tỵ và chị Tư Chuột bặt tin nhau từ đó. Về sau, lúc liên lạc được với nhau thì hoàn cảnh éo le lại đã đẩy số phận mỗi người về một phía.
Bây giờ họ đang ở đâu? Nghe chúng tôi hỏi thế, anh báo cáo viên ngượng ngịu nói anh cũng không biết. Dạ, thưa các anh, chiến tranh tàn khốc thế đấy, lớp hậu sinh chúng em cũng chỉ nghe tới đó, biết tới đó, còn số phận từng người sau cuộc chiến như thế nào, chưa có ai tổng kết. Nhưng em tin tốt đẹp cả thôi. Vì hiện tại chính là tương lai của quá khứ. Một quá khứ đau thương nhưng rất đẹp.
 
Tối hôm sau tôi lại đến quán nhậu.
Quán đã có hai thực khách. Ngồi bên cạnh cậu con trai mát tính là một người đàn bà tóc bạc trắng như cước. Tôi không đoán nổi tuổi của bà. Nếu dựa theo khuôn mặt đỏ hồng và đôi mắt sáng, có lẽ bà còn đang độ năm mươi. Bà gọi chàng trai là con, xưng má. Má lấy thêm đồ ăn cho con nghe? À, con thích món cháo rắn chớ? A, hay là má kêu thêm cho con chai bia nghe?
Chàng trai dạ dạ, vâng vâng, hì hụp húp cháo. Ngon lắm má ạ. Con nói thiệt đó, ngon lắm. Ba con chưa cho con ăn món nào ngon thế. Mà sao má đi hoài vậy. Sao giờ con mới hay mình có má. Con cứ tưởng mình ra từ nách ba. Hi hi, hoá ra má sanh ra con, hi hi...
Hai người ngồi thêm một lát nữa rồi mới chào chủ quán, đi xuống một cái thuyền máy lớn. Hình như đây chính là con thuyền chở khách du lịch chạy lòng vòng trên kinh rạch Tam Nông. Nếu khách bao gọn chuyến, thuyền có thể chạy bất cứ lúc nào, trên bất cứ dòng kinh ngang dọc nào trên đất Tràm Chim mênh mông nước và tràm này.
Chủ quán nhậu bảo tôi, bà hồi nãy chính là chị Tư Chuột tôi kể cho ông nghe tối qua đó ông. Bả mới ở bên Úc về. Nghe nói về tìm ông Hai Rắn.
Tôi gặng, nghe ông kể thì chị Tư là người yêu ông Hai Tỵ, lại là chiến sĩ hồi chống Mỹ, bây giờ sao lại ở bên Úc, lại đi tìm một ông Hai Rắn nào đó là cớ làm sao?
Chủ quán cười hì hì lấy lòng, bảo: ông chưa hay Tỵ tức là Rắn ư? Là Tỵ, là Tý hay là gi gỉ gì gi là gì cũng được mà hay bắt rắn, nhậu rắn thì tên là rắn cũng chẳng hề hấn đến ai. Ông Tỵ mà tôi kể, trước đây ai cũng kêu là ông Rắn. Rắn cắn chết kẻ ác đấy. Thằng giặc nào nghe tên ông cũng khiếp vía hết. Chỉ có bà con, nhất là chị Tư Chuột, cứ nghe tên ấy là khoái mới đã chớ! Hay thiệt ông nhỉ. Chuột chỉ mong được rắn bắt. Mà đàn bà mong được đàn ông yêu thì trúng phóc rồi, có gì để phải bàn trái lẽ hay hợp lẽ nữa chớ?
Ông ạ, chủ quán tiếp, số chị Tư lận đận lắm. Anh Hai qua Bến Tre chừng một năm thì có tin báo ảnh hi sinh. Chị Tư khóc hết nước mắt, thề không lấy ai nữa. Cấp trên cử chị về Cao Lãnh hoạt động trong một nhóm tình báo cài trong nội bộ quân ngụy. Rồi chẳng rõ do yêu cầu của công việc hay vì một căn nguyên nào đó, chị lấy một viên thiếu tá ngụy. Viên thiếu tá này bị chuyển đi nhiều nơi, lúc về Cần Thơ, lúc lại ra Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa. Năm 1969, tổ chức nội gián của ta ở Cao Lãnh bị lộ, chị Tư mất hẳn liên lạc. Và cũng không ai liên hệ lại với chị nữa. Là vợ sĩ quan ngụy, tới đâu chị cũng bị người ta nhìn với ánh mắt không mấy thiện cảm. Năm 75, sau khi người chồng chết trận ở Bảo Lộc, chị Tư đã dẫn đứa con trai duy nhất của mình di tản qua Úc. Về sau, nhờ một tờ báo nước ngoài đưa tin, ảnh về trận chiến ở Bảo Lộc, chị mới hay anh Hai Rắn vẫn còn sống. Anh chính là người chỉ huy quân giải phóng chọc thủng phòng tuyến do chồng chị đảm nhiệm, mở cửa cho đại quân tiến về Sài Gòn. Bữa ấy, chị đã bị ngất xỉu, tỉnh dậy lòng vẫn còn hoang mang.
Nhiều năm sau nữa, con trai chị Tư đã trở thành một tiến sĩ nông học, trong những lần về thăm Tràm Chim, chị vẫn ngấm ngầm điều tra về anh Hai. Chị được biết cho tới năm 1975 anh mới lập gia đình. Vợ anh là y tá thuộc sư đoàn do anh chỉ huy. Chị bị nhiễm chất độc màu da cam trong trận càn của quân Mỹ vào Tây Ninh năm 1969. Chị sinh cho anh Hai hai đứa con. Đứa đầu là một bé gái, ba tháng nó vẫn không mở được mắt và mất vào đầu tháng tuổi thứ tư. Còn cậu con trai của anh, bảy tuổi nó mới biết đi, lại chẳng có tí trí khôn nào. Nhà anh Hai ở gần một công ti du lịch nên tình cờ thằng bé đã xuống được Tràm Chim. Chủ quán nhậu thấy nó giống anh Hai thời trẻ quá, gọi lại hỏi, cho ăn, cho uống tử tế, lại cho cả tiền để nó về thành phố. Chị Tư còn biết chị Hai đã mất từ năm 1983. Anh Hai ở vậy nuôi thằng bé. Và hình như anh vẫn có ý chờ đợi một ai đó. Chị nao lòng nhận ra chính mình cũng có ý đó! Chao ôi, xót thay, cả hai đều đã bước qua tuổi lục tuần! Mà duyên nợ thì vẫn chưa dứt được ư, hả trời?
Đầu tháng tám, tôi vô tình gặp chủ quán đặc sản Tràm Chim ở thành phố. Ông khoe mùa này cỏ non mọc nhiều, chuột đồng béo lắm. Rắn cũng thế. Con nào con lấy lườn cứ tròn căng. Người đi bắt chuột, bắt rắn chỉ cần lùa chúng chạy từ các đám cỏ vào lưới, không phải mất công đào hang, hun khói vất vả nữa. Giá lại rẻ. Rẻ đến bất ngờ.
Mấy anh cán bộ huyện, lúc có khách, cũng thường ghé qua quán cho tiện. À, mà cái anh tiến sĩ con trai chị Tư Chuột mới rồi cũng theo mẹ về thăm Đồng Tháp đó ông. Anh ta cũng mê món thịt rắn nước ra trò. Nhậu với mấy anh bên huyện, anh ta bảo anh rất kính phục, không phải vì các ông ấy có tài lai rai mà vì bữa nhậu rất bình dân. Người bình dân nhậu chơi với nhau lấy con chuột con rắn làm mồi cốt chỉ vì tình. Mấy ông nhậu bình dân thế, tức là còn gần dân lắm. Rồi anh ta hứa sẽ góp phần giúp tỉnh sống chung với lũ. Lạ lắm ông ạ, lo nhà cho người ở đã đành, anh tiến sĩ kia còn nói phải lo cho chuột cho rắn chỗ sống nữa thì chưa nghe ai nói bao giờ!
Nhưng nghĩ mãi thì thấy cũng có lí. Từ bao đời nay, con rắn con chuột là thiên địch của nhau mà chúng vẫn sống bên nhau được. Đành rằng con rắn có ăn con chuột đấy, nhưng có giống nào bị tuyệt diệt đâu? Lại nữa, cứ nói chuột là loài phá hoại lúa; nhưng mùa nước thiếu chuột thì lấy thịt nào mà cải thiện nhậu lai rai chờ nước rút? Ở đâu tôi không hay, chớ ở Tràm Chim, tôi nghĩ bậy bạ rằng, chuột cũng là một con vật nuôi đó ông ơi. Nhưng trời lấy cỏ mà nuôi nó là chính. Trời nuôi chuột cũng là để nuôi con người ta chớ bộ...
Tôi ngỏ ý mời ông chủ quán Tràm Chim về nhà chơi. Ông biểu: không, tôi phải đi cho được việc đã. Thôi chết, gặp ông mải nói chuyện chuột, chuyện rắn mà quên chưa nói chuyện người là cái thằng tôi dở ẹt quá cỡ rồi. Hồi nãy ông hỏi tôi lên thành phố mua bán gì đó phải không? Không, tôi đi đám cưới. Ông còn nhớ chị Tư Chuột không? Cón nhớ a? Ừa, tôi đi đám cưới bả với ông Hai Rắn đó. Bà ấy hồi hương rồi. Bả thương thằng nhỏ nhà anh Hai dữ lắm! À, hay là ông đi với tôi cho vui? Rồi về Tràm Chim nhậu vài ngày cho đã đời? Ông cũng sắp lục tuần rồi nhỉ? Nhưng còn trai chán! Còn nhai được cả mấy tạ rắn nữa chớ bộ. Tôi cười. Chợt nghĩ tới anh Hai Tỵ. Nghĩ tới những con sếu đầu đỏ.
Hôm ở Tràm Chim, lần đầu tiên nhìn thấy loài sếu qúy hiếm này, tôi biết đó là hồng hạc, loài chim hồng báo tin vui trong thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Chúng rất mê củ năng Đồng Tháp, thứ củ rắn và chuột cùng rất thích.
 
                              LỄ BẾ GIẢNG
 
Trước khi mất tích, lão Phán ngụ tại số nhà 488 đường Tố Như. Căn nhà này nằm ở khoảng giữa số 1 và số 916. Lão hay nheo mắt, nói đùa với bạn bè rằng, cứ gấp bản đồ thành phố làm bốn là tìm ngay được nơi lão ở.
Lại nữa, phòng dành riêng cho lão cũng ngự  chính giữa hai căn phòng. Một là khoảng tự do của tiến sĩ Mới. Một dành cho cô Thu Tâm, vợ của vị tiến sĩ khả kính. Có nghĩa là lão Phán luôn luôn là trung tâm của mọi trung tâm. Giữa địa danh và địa danh. Giữa người và người…
Vị trí này được xác lập là do lão có rất nhiều tài, kể cả tài làm nổi danh lợi cho người khác. Dĩ nhiên, nghe lão nói, mắt lại hơi rơm rớm mỗi khi mở miệng, thì vị trí mà lão phải chấp nhận hiện thời cũng là do lão còn ngu! Quá ngu! Hay nói trại đi là đại đại ngu cũng chẳng ngoa!
Người ngoài hay ngứa miệng, bảo lão mắc xương cá hay sao mà tự nhiên bán sạch đồ đạc, lại chuyển giao cả chức hiệu phó cho tiến sĩ Mới, rồi lại còn dọn đến nhà anh ta ở nữa, ăn nói chẳng ra chủ, cũng không phải đày tớ, thật chẳng hiểu mô tê ra làm sao? Hà tất phải có một cớ gì khó nói ra lắm đây! Khôn nhiều thì ngu lắm, âu cũng là thói thường ở đời, có trách, đi mà hỏi ông xanh ấy. Lão Phán không đi hỏi ông xanh, cũng chẳng ai đi hỏi thay lão. Nhưng hỏi và buộc lão đi theo một con đường nào đó, không phải bằng lời, mà bằng nhiều cách khác nhau, thì có đấy. Là lương tâm trong trẻo của lão? Là một âm mưu vô hình ai đó đã tính toán rất chi li? Hay là một cái gì mơ hồ rất chông chênh, ví như tình ái chẳng hạn?
Chuyện đời lão Phán hệt như một giấc mơ có thật, nói ra cũng khó có người tin. Vì hên, lúc nào cũng hên. Ngay cả khi bất hạnh cũng vẫn còn hên?
Hồi mới từ Huế vào, nhuệ khí ngất trời, lão Phán làm việc như điên để xây dựng cơ ngơi. Ban đầu lão xin đi dạy cho một trung tâm luyện thi đại học. Vốn là một thầy giáo giỏi dạy ở một trường nổi tiếng, từng luyện nhiều học sinh đi thi và đạt giải quốc tế, tiếng tăm lão nhanh chóng nổi như cồn trong giới phụ huynh và học sinh ở thành phố. Lão nhanh chóng kiếm được khá nhiều tiền. Lại nhanh chóng ngộ ra rằng, nếu đứng ra tổ chức một trung tâm, lão có thể còn kiếm được gấp hàng chục hàng trăm lần như thế. Tiếc thay, sức thì còn nhưng tiền lại cạn, chí lớn nhưng lực nhỏ, lão cam phận dạy hợp đồng với số lương thỏa thuận một trăm hai mươi ngàn tính cho một giờ thực dạy. Số các thầy giáo đi dạy thêm có giá như lão bây giờ ở thành phố cũng chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay. Hậu hĩ là thế nhưng lão vẫn ấm ức, dĩ nhiên là âm thầm thôi, chứ ngoài mặt, lão luôn tỏ ra hài lòng lắm, lúc nào cũng cười, trừ lúc trên lớp, lão nghiêm khắc tới mức có thể khiến bất cứ đứa học sinh lười học nào cũng trở thành chăm chỉ, cần mẫn. Vậy thì còn tiếc cái gì? Khi một ông thầy hạnh phúc nhường ấy? Ơ, sao lại không tiếc nhỉ? Tiếc là tiếc cái tài quản lý. Cái tài ấy chưa được đưa ra thi thố ở chốn hái ra bạc từ  nghề gõ đầu trẻ tự ngàn đời nay đã được tiếng là thanh sạch bậc nhất này!
Người giàu tâm huyết hay được trời thương. Cho nên ngày ấy lão đã gặp được bà Tôn Nữ Thục Trinh và được bà đem lòng yêu kính? Bà Thục Trinh goá chồng. Từ năm ba mươi tuổi, bà thủ tiết thờ chồng và nuôi ba người con ăn học. Khi bà vừa bước qua tuổi năm mươi thì các con cũng đã trưởng thành. Họ đều làm việc trong các công ty nước ngoài ở hải ngoại. Người như bà, tuổi tác chưa hẳn đã gọi là già, nhưng cũng không còn trẻ nữa. Thời gian chưa đủ sức làm tàn phai vẻ đẹp vốn có của bà; bà không còn đẹp, nhưng mà còn duyên, lại là duyên thầm của người trải đời, người nhẫn nại nên vẫn còn rất ưa nhìn. Bây giờ, các con đã ra ở riêng cả, mà lại ở rất xa, bà bỗng trở lại thời son rỗi như xưa, chả còn nghĩa vụ nào ràng buộc nữa. Bà là người tự do hoàn toàn, không còn bị lương tâm dằn vặt mỗi khi tự hỏi về tương lai của đời mình vào những ngày tới sẽ ra sao. Và bà đã có thể cho phép mình lựa chọn. Đương nhiên, bà chọn một người bạn hơn là chọn một người tình. Lão Phán nằm trong tiêu chuẩn lựa chọn của bà, lấy lão chẳng qua cũng là để có một người đàn ông làm bầu làm bạn lúc xế chiều mà thôi. Một ý nguyện như thế là qúa ư đứng đắn và nên làm, ai cũng nói thế, các con trai của bà cũng nhìn nhau tủm tỉm cười mà bảo nhau như thế. Ba người con trai tân tiến của bà rất thương mẹ, lại cũng muốn có ai đó gánh vác phần đời còn lại cùng mẹ họ nên việc bà Thục Trinh tái giá không gặp cản trở nào. May sao, lão Phán là người quá ư mực thước, nếu không nói là qúa đức độ. Giá như làm việc này từ  hàng chục năm trước mới là phải. Tiếc thật, duyên trời chưa bén, mãi hơn năm chục tuổi đầu mới gặp nhau, muộn đấy, nhưng vẫn hơn là không gặp. Vợ chồng già đối đãi với nhau, qúy trọng nhau như khách. Đi dạy học về, lão Phán rất thích được tự tay nhóm lửa nấu nước cho vợ tắm, có hôm còn xuống bếp làm những món ăn mà bà Thục Trinh ưa thích. Lương tháng được bao nhiêu, lão đều đưa cho vợ giữ. Vì vậy, hôm lão vô tình than vắn thở dài, ngỏ ý muốn mở một trung tâm luyện thi đại học mà không có vốn, bà Thục Trinh đã tiết lộ bí mật lớn nhất của đời bà cho lão biết. Rằng, chồng bà đã để lại một tài sản khá lớn, dư sức để lão đầu tư mở một trường học, còn một trung tâm luyện thi thì có gì mà phải kêu ca thiếu vốn? Rằng, ông thích mở trung tâm hay dựng trường học tôi đều chiều hết, miễn là ông phải tính cho thấu nhẽ, tóc bạc rồi, không thể không thấu nhẽ tiền bạc khó kiếm lại như thế nào nếu sơ suất đánh mất vì tính toán chưa hết khúc nông sâu. Rằng...
Lão Phán đã nghe theo lời vợ. Nghe một người yêu thương mình và chu đáo trong mọi chuyện là việc phải, là lẽ đương nhiên, nhất là đối với những người đàn ông có số lận đận về đường vợ con. Lão đã đặt bút và tính chi li tới từng đồng vốn đầu tư. Chi tiết tới mức, khi lão đưa cho bà Thục Trinh coi lại, bà chỉ mỉm cười, nói một câu tình tứ  đầy ý nghĩa:
- Giỏi! Việc gì ông cũng giỏi!
Ít lâu sau, lão Phán nhờ bạn bè chạy vạy khắp nơi và được đứng tên đầu tư dựng nên một trường dân lập. Hai vợ chồng bán nhà ngoài phố dọn vào ở trong trường cho tiện việc quản lý. Bà Thục Trinh góp nhiều vốn nhất, được các cổ đông bầu làm Chủ tịch Hội đồng quản trị; còn lão Phán, đương nhiên nắm quyền hiệu phó điều hành. Quyền và tiền đều do hai vợ chồng nắm, chỉ còn lo cho trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò thôi. Chức hiệu trưởng danh dự, cái chức để các cơ quan quản lý thông qua thủ tục, để phụ huynh học sinh tin tưởng gởi con em họ tới trường, thì giao cho giáo sư Lô Tấn Cận giữ, mức lương của ông ấy là bốn triệu một tháng. Lương vậy là cao với nghề dạy học, nhưng với một giáo sư có uy tín thì còn rẻ, rẻ qúa! May mà các nhà giáo thừa chữ nghĩa còn nghèo, nên bốn triệu bạc vừa là tiền lương làm việc, vừa được hiểu là ơn huệ, là ưu ái. Phán nó là trò ngày xưa, giờ mở mang mày mặt, nghĩ tới thầy cũ như vậy cũng là đúng đạo lý, vả lại, thầy không giúp trò thì giúp ai, cơ chế mới thầy không đi tiên phong thì nhường cho ai đi trước? Thầy Lô Tấn Cận nghĩ thế và vui vẻ ngày đến trường nửa buổi, đi tua các lớp, chỉ trỏ chỗ này, góp ý chỗ nọ, dặn đại khái phải làm như thế, như thế chứ không được làm khác đi thế kia, nghe chưa! Nghĩa là vẫn còn dáng vẻ của một giáo sư mẫn cán lắm lắm...
Công việc đang tiến tới thì bà Thục Trinh mắc trọng bệnh. Các bác sĩ khẳng định rằng bà chết vì căn bệnh nhồi máu cơ tim. Riêng những người lẻo miệng thì rỉ tai nhau rằng vợ ông hiệu phó chết do ghen với cô Thu Tâm, thủ quỹ của trường. Cứ theo lời đồn đại thì cô Tâm là tình nhân của lão Phán. Chính mắt người ta đã nhiều lần trông thấy lão đến và ở  lại qua đêm tại nhà cô Tâm trong thời gian nghiên cứu sinh Trần Tiến Mới đang ở nước ngoài. Láo toét, láo toét tất! Gớm ghê thay những kẻ hôi mồm hôi miệng, ngẫm về đời, suy về người chỉ qua cái bụng bốc mùi của họ! Gớm thay, gớm thay! Giáo sư  Cận đã lắc đầu và kêu lên như vậy. Cổ họng ông như bị nghẹn. Lại có lúc nước mắt chứa chan. Ôi, ôi ôi là, gớm ghê qúa, khủng khiếp qúa là cái miệng thế gian! Nó tâm địa với người tâm huyết, ác khẩu cả với những người khai sáng! Những người ấy mất đi, một vùng tối của sự thiếu tri thức sẽ ùa lại, như mây như khói bao phủ tiếp lên đầu lên cổ con em của những kẻ thất học kia. Nguy thay! Vậy mà họ không xót thương thì chớ, lại lên giọng mỉa mai người đem lại ánh sáng và hy vọng đổi đời cho con em họ. Buồn biết mấy, những kẻ vô ơn, mắt nhìn bé bằng nửa hạt đậu, mới đóng năm trăm ngàn tiền học một tháng cho con mà đã la toáng lên...
Nhưng tất cả mọi tiếng xấu về quan hệ giữa lão Phán và cô Thu Tâm đã tắt ngấm ngay sau khi tiến sĩ Mới về nước.
Bất chấp những chuyện quá đáng mà miệng thế gian truyền tai nhau trong những cuộc đàm tiếu bậy bạ, vợ chồng vị tiến sĩ mời lão Phán về ở hẳn trong nhà họ. Gia đình tiến sĩ Mới, ngoài hai vợ chồng ra, có thêm lão Phán càng thêm vui cửa vui nhà chứ sao. Lão có thể chưa đứng vào bậc cha chú, nhưng thừa đáng mặt đàn anh. Một ông thầy tốt như thế, hoàn cảnh lại đáng thương như ta đã thấy, không bao bọc, không thương yêu ông ta, không chăm sóc ông ta khi khả năng cho phép thật đáng hổ thẹn. Nhất là thẹn với người đã bỏ tiền ra xây trường dựng lớp vừa mới khuất kia. Tiến sĩ Mới hay nói thế và lão Phán đi đâu cũng nói những câu đại loại như thế. Mối quan hệ tốt đẹp giữa ba người được chứng minh bằng chính vẻ bề ngoài của từng người, ai cũng béo tốt, hồng hào, nụ cười luôn tươi rói trên môi. Người ngoài chưa ai dám bảo lão Phán có cái cười gượng bao giờ. Lão cười ha ha, hi hi. Mắt tít lại, miệng mở rộng, âm vang xa. Những cử chỉ, dáng vẻ ấy chỉ có thể có ở những người đang được thỏa mãn. Cũng chả hiểu ra làm sao nữa cái lão Phán! Hay là lão sắp điên? Hoặc đã điên rồi mà những kẻ rỗi hơi vô tình nên chưa biết?
Bỗng một hôm tiến sĩ Mới nổi hứng, nhận lời mời của Đài Truyền hình và xuất hiện trước công chúng để nói chuyện về vấn đề hôn nhân và gia đình. Anh ta say sưa phân tích những lỗi lầm của một mối tình tay ba khá kì dị. Những người quen vợ chồng Mới và lão Phán nghe cứ cảm thấy ngờ ngợ. Chuyện vừa quen vừa lạ, vừa thực, lại như hư. Nghĩa là cứ u u minh minh. Nghĩa là như cố phơi bày, lại như cố giấu giếm; càng giấu càng lộ ra. Nghe vừa tức vừa giận. Tức vì con người hèn quá. Giận vì con người đê tiện quá. Mà lại đều là thầy cô giáo cả mới tai hại chứ. Loại người đi dạy người mà xấu xa nhường ấy thì còn dám tin vào ai trên đời này? Nội dung nói kích động, nhưng người nói chả biểu lộ thái độ gì, mặt cứ lạnh tanh, miệng trơn tru như nói về chuyện của những kẻ ở đâu đâu vậy. Chết người là ở cái khách quan ấy. Hình như có ám chỉ ai chăng? Hay là chỉ nói cho đã mồm, cho hả bớt mớ kiến thức tâm lý đầy ứ hự học được mãi bên Tây bên Tàu? Này, biết đâu đấy, chuyện vu vơ mà khối kẻ phải giật mình?
Sau đó, vị tiến sĩ trở về nhà. Không hiểu vì lẽ gì, anh ta bị Tâm chặn lại từ ngoài cổng, cô ta chỉ tay vào mặt chồng, khẽ rít qua kẽ răng:
- Tư cách anh thật không hơn gì một con chó, nhỉ! Anh bày mưu lừa lão già để lấy hết tiền bạc, lại phải nhường phần vốn hùn cho anh để đổi lấy sự  yên thân chưa đủ sao? Bây giờ anh trở mặt, không muốn để cho tôi được yên ư? Lành làm gáo, vỡ làm môi, gái dở  này đâu dễ xỏ mũi thế!
Tiến sĩ Mới cười gằn:
- Cô im đi! Cô cứ gọi tôi là chó cũng chả sao! Nhưng tôi vẫn là chồng cô, tôi còn bản giao kèo có đủ chữ kí của cô và lão Phán đây. Có đúng là hôm cô và lão bị tôi bắt quả tang trên giường, ngoài các điều khoản khác, còn có điều lão sẽ chỉ được tự do sống với cô nửa năm ở nhà ta không?
- Nhưng ai đã cho anh phép chung chạ với mụ Hương Giang, chủ nhà hàng Đổi Gió? Ai?
- Có bằng chứng không?
Đúng lúc ấy, lão Phán xuất hiện và lạnh lùng nói:
- Có ngay đây. Xin tặng anh cuộn băng ghi âm lời anh và mụ Giang bàn cách cho chúng tôi dính tai nạn giao thông này...
Cơ trên mặt vị tiến sĩ khẽ giật giật:
- Ông... ông mà cũng đáng gờm nhỉ! Ông đã lừa tới hai người đàn bà. Một, ông vờ yêu thương để chiếm trọn tài sản. Một, ông lấy tài sản để chiếm đoạt trái tim. Nhưng ông thắng sao được thằng này!
- Anh đã lầm rồi tiến sĩ ạ. Tôi có tội với bà Thục Trinh. Nhưng với cô Thu Tâm thì không. Màn kịch mà anh buộc cô ấy phải thực hiện đã làm cô ấy bừng tỉnh và hiểu rõ anh thuộc hạng người nào. Và anh biết đấy, bây giờ anh đã trở thành kẻ tay trắng!
- Không, chính các người mới là những kẻ tay trắng. Hãy dắt nhau cút khỏi nhà tôi! Cút!
Thu Tâm cười ruồi:
- Anh hãy tự xéo đi thì đúng hơn! Biết không, tờ giao kèo bẩn thỉu của anh đã được tôi sửa lại rồi! Chỉ có chữ kí là còn nguyên vẹn thôi!
- Láo!
Thu Tâm lạnh lùng nói:
- Tôi chỉ nói lên một sự thật. Tờ giấy mà tôi để trên bàn đêm ấy là loại giấy mỏng có tới hai lớp. Ở nửa phía trên, nơi anh đã viết các điều khoản bất lợi cho tôi còn đủ cả hai lớp giấy. Tôi đã bóc đi và thay vào đó là những dòng đánh máy tuyệt đẹp. Còn nửa phía dưới...
Tiến sĩ Mới run bần bật, hỏi:
- Nó thế nào?
Thu Tâm gằn giọng:
- Nó đã được lột một lớp trước đó. Và đương nhiên, chữ kí của ba chúng ta vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng nói lại cho anh biết thôi, chứ bây giờ tôi nhổ toẹt vào sự ràng buộc đó. Tôi đã phô tô sẵn cho anh một bản đây này. Có dám muối mặt để tôi đưa nó cho tất cả mọi người quen biết anh xem không? Khi mà anh...
- Tôi đã làm cái gì?
- Anh đê tiện lắm! Số vàng mà anh kiếm được, tôi để chúng trong tủ, hiện ở đâu? Chúng đã bị mất trộm. Ai lấy ư? Tôi đã ngầm báo cho công an biết hôm số qúy kim ấy bị mất. Người ta đã lấy dấu vân tay trên mép cửa tủ và khẳng định đó là vân tay của anh. Vậy thì anh còn có gì trong cái nhà không phải do anh tạo nên này?
Vị tiến sĩ xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau, hạ giọng nói:
- Thôi được, coi như anh chịu thua em! Em có thể tha thứ cho anh chăng?
- Không! Tôi thà ở với quân lừa đảo đã hoàn lương chứ nhất định không chịu sống chung với kẻ dám đánh đổi vợ mình lấy tiền tài địa vị nữa!
Tiến sĩ Mới im bặt, đi vào nhà. Một lát sau, anh ta xách ra một cái va li khá nặng, bước lên một cái xe tắc xi màu đen. Làm ra vẻ lịch lãm, anh ta còn đưa tay ra vẫy chào Thu Tâm và lão Phán. Người thông minh như anh ta không thể không lịch lãm. Ngay cả trong lúc gặp cảnh dở khóc dở cười này cũng không được phép quên điều đó. Cho dù nó là một sự giả dối. Giả dối nhưng vẫn là cách của kẻ có học. Mới tin rằng anh ta hơn hẳn kẻ vô học là ở chỗ này, chỉ ở chỗ này mà thôi. Vì vậy, thất bại thì phải biết chấp nhận. Nhưng thành công, biết đâu đã ló dạng ở đâu đây? Có điều chưa rõ, chưa tỏ mặt mũi nó mà thôi! Vẫn có quyền hy vọng, vì không hy vọng tức là đã đầu hàng kẻ khác! Mà đầu hàng thì còn tệ hơn cả cái chết!
Suốt cả tuần sau đó, trường dân lập của giáo sư Lô Tấn Cận xao xác như vừa qua một trận bão cấp mười hai. Mọi người hoang mang không hiểu vì lẽ gì mà  tiến sĩ Mới và lão Phán đều biến mất dạng.
Người ta nói Trần Tiến Mới đã được cử ra nước ngoài để báo cáo một công trình khoa học lớn cỡ quốc tế về tâm lí của con người trong buổi giao thời đầy biến động.
Còn lão Phán, thì nghe đâu là đã bị tâm thần nên đã bỏ về Huế rồi.
May mà trường còn có cô Thu Tâm! Cô cười tươi hơn mọi khi, gặp ai cô cũng cười, cũng bắt tay. Mà lại nắm rất chặt, lắc rất mạnh. Rõ khéo! Rõ là người bản lĩnh chưa? Mà này, tôi bảo cho mà biết nhé, nhờ một tay cô vững tay chèo chống mà kết quả học tập và tu dưỡng đạo đức của các em học sinh vẫn lạc quan lắm lắm đấy! Cô quả là một tấm gương sáng về nghị lực và lòng yêu trẻ! Vâng, đúng thế, đúng sự thật là như thế đấy! Và thay mặt cô, tôi xin mời qúy vị hãy tới thăm trường chúng tôi! Lời mời này chúng tôi cũng đã gửi tới rất nhiều nơi nhân dịp bế giảng năm học! Giáo sư Lô Tấn cận đã quả quyết nói thế.
Còn ông hiệu phó, một thầy giáo mới được tuyển từ Huế vào thì chỉ tủm tỉm cười và khoe, trường sẽ có rất nhiều phong bì dành cho quan khách đến góp mặt làm vẻ vang cho buổi lễ đặc biệt nói trên. Dự đoán là lễ bế giảng năm nay của chúng tôi sẽ rất thành công, kể cả không có các vị thì vẫn cứ vậy vậy thôi, nghĩa là vẫn như trên ấy mà! Biết không? Vâng, còn ông bà muốn biết cảm tưởng của tôi về buổi lễ ư? Xin thành thật mà nói rằng, đối với tôi, ngày hôm ấy sẽ là một ngày khai giảng đáng nhớ. Tôi vừa nghỉ hưu cách nay hai tháng. Và bây giờ lại bắt đầu đi học. Học gì ư? Học vào đời chứ còn học gì nữa?
 
 

 
                  CẶP SONG SINH
 
Bốn năm trước, lão Phú mua căn nhà sát vách nhà tôi. Ngay từ những ngày đầu tiên dọn tới nơi ở mới, lão đã tỏ ra qúy con gái tôi ra mặt, một điều xưng chú, hai điều gọi con với con Thủy. Thành thử con bé Thu, cháu ngoại tôi, cũng được thơm lây. Những buổi chiều mát mẻ, nhiều lần thấy bé Thu ngất ngưởng trên vai lão Phú cười ngặt nghẽo ngoài đầu hẻm, tôi vui lắm. Tình cảm là thứ dễ lây, tôi sinh lòng cảm mến người hàng xóm của mình một cách khá tự nhiên. Rồi ngày tháng trôi qua, tôi và lão trở thành đôi bạn thân từ lúc nào cũng không ai rõ nữa.
Lão Phú là người ý tứ. Chẳng biết bằng cách nào, lão biết tường tận lịch làm việc của tôi. Những lúc tôi dừng viết, lão thường ghé qua chơi trong chốc lát. “Để ông còn viết chớ!”, lão hay nói thế mỗi khi tôi lịch sự bảo lão nán lại chuyện vãn thêm dăm ba phút nữa.
Trong một lần đàm đạo về nghề viết với tôi, vào lúc hứng khởi nhất, lão triết lí:
- Ông ạ, tôi nghĩ hễ cứ có nghề có nghiệp tử tế thì chẳng bao giờ sợ chết đói! Nhưng nếu như người ta nắm thêm được một số bí quyết lắt léo của nghề, sự giàu coi như đã ở trong tầm tay. Tuy nhiên, theo tôi, quy luật trên không phải bao giờ, ở đâu, với ai cũng đúng đâu nhé!  Bởi trên đời còn có hàng núi công việc không thể xếp vào danh mục nghề nghiệp nào nhưng lại có khả năng đem lại danh lợi khá bất ngờ!
Tôi chưa kịp hỏi thêm, lão Phú đã lấy mình ra làm thí dụ:
- Ví như nghề làm chủ tịch hội phụ huynh học sinh trong trường học của tôi chẳng hạn. Một nghề độc nhất vô nhị và cũng rất tử tế đấy ông ạ. Không có chuyên môn, non kém trong kĩ năng hành nghề, coi như biết trước sẽ thất bại. Thực tế khiến tôi nghiệm ra rằng, việc này chỉ thích hợp với những ai hội đủ các phẩm chất kiên trì, bình tĩnh, khôn khéo, có thể hơi láu cá một chút mà được việc cũng tốt!
Thấy tôi chăm chú lắng nghe, lão bỗng chuyển làn, gợi ý:
- Hay là ông đồng ý để tôi giới thiệu ông nhé. Nên coi đây là một trong những cách nuôi ngòi bút để mà sống và viết thôi. Vả lại, biết đâu khi nhập cuộc, ông chẳng có thêm nhiều nguyên mẫu để nặn ra những nhân vật mới?
Tôi chưa biết công việc mà lão định giới thiệu cho tôi là việc gì, nhưng vẫn cười lấy lòng:
- Tôi tiếng là kẻ cầm bút, nhưng ông biết đấy, các chân dung tôi dựng lên đều chỉ là những cái bóng cả thôi. Tôi quen hiểu người qua trí tưởng tượng của mình, còn những ngõ ngách thật của đời thường tôi lại quá dốt. Liệu mù mờ như thế có thích hợp với việc mà ông giới thiệu cho không?
Lão Phú nheo mắt:
- Ông quá khiêm tốn đấy! Ông hơn hẳn tôi ở chỗ có những cái vốn mà tôi không có. Như sự nổi tiếng. Lại có tới hai qúy tử đang theo trung học. Chưa đem cái vốn ra dùng, sao dám nói mình là kẻ mù mờ?
Có lẽ nghe lão Phú nói, lúc ấy mặt tôi hơi dại đi một chút thì phải. Vẻ lúng túng của tôi khiến lão bật cười thành tiếng. Chẳng biết vì thương hại hay cảm thông, lão xòe tay ra trước mặt tôi, giải thích:
- Chí ít ông cũng có đủ điều kiện để làm phó chủ tịch hội phụ huynh trường Tân Trí. Liệu có mấy ai có tới hai đứa con cùng học một cấp như ông? Liệu có mấy ai quan tâm, lo lắng đến việc dạy và học ở trường này nhiều bằng ông? Với tiêu chuẩn này, chắc chắn các phụ huynh học sinh sẽ bầu ông vào ban chấp hành.
- Còn nhà trường?
- Nhà trường rất cần những người có uy tín như ông. Là nhà văn, ông chỉ cần khua tay nói vài lời vàng ngọc cũng đã bằng người ta bỏ công sức ra vận động cả tháng ròng đấy!
- Nhưng tôi sẽ phải nói về những cái gì, và nói với ai?
- Ôi ông bạn ơi! Tôi ngỡ ông thừa trí tưởng tượng để nghĩ ra những cái cần phải nói chớ? Như kêu gọi mọi người đóng góp hỗ trợ quỹ giáo dục. Gặp gỡ phụ huynh trong các cuộc họp. Vận động các cơ quan kinh tế đóng trên địa bàn quận. Giải trình với Sở Giáo dục khi họ thanh tra các khoản qũy của hội...
Tôi lắc đầu:
- Như vậy thì phải lấy mình ra làm gương. Mà tôi thì...
Lão Phú như đi guốc vào bụng tôi:
- Ông lo phải đi đầu trong việc đóng các khoản tiền phải không? Này, tôi nói cho mà hay, nếu ông làm chủ tịch hội phụ huynh học sinh, ông sẽ chẳng phải đóng một khoản tiền nào hết. Con ông được miễn giảm học phí. Ông có phần trăm, có quyền ăn quyền nói. Lại có thêm cả cơ hội để mở rộng quan hệ xã hội nữa.
- Nếu chỉ có vậy thì tôi làm được!
Lão Phú cười:
- Có thế mới xứng mặt nhà văn chứ! Thôi nhé, tôi xin phép ông tôi về. Coi như ông đã nhận lời tham gia vào ban chấp hành hội rồi đấy nhé. À, mạn phép ông, tôi đã thay ông đi họp phụ huynh cho cháu Thu nhà ta rồi đấy. Con mẹ Thủy kêu là nó bận qúa! Mà ông thì có rảnh bút lúc nào đâu! Cứ có người nhớn đến ngồi vào chỗ ghi tên cháu trên mặt bàn là được rồi, cô giáo cũng chẳng bắt bẻ ai là ông nội ông ngoại, bố mẹ đẻ hay bố mẹ nuôi...
Lão Phú nói là làm. Tại buổi họp đầu năm, theo gợi ý của lão, thầy chủ nhiệm lớp 11A 25 giới thiệu tôi là một nhà văn đại tài, có uy tín rất lớn trong  nước và quốc tế, nếu tôi nhận lời làm đại diện phụ huynh thì quả là một đóng góp lớn cho lớp. Thầy lại hỏi, ai đồng ý đề cử tôi vào chức danh đó thì giơ tay biểu quyết. Một trăm phần trăm người dự họp, có người là bố mẹ, có người là ông bà của học sinh trong lớp, đều đã giơ tay tín nhiệm tôi. Tương tự như vậy, tôi lại được lão Phú giới thiệu trong buổi họp toàn thể các đại diện phụ huynh học sinh từng lớp và được bầu làm cấp phó. Đương nhiên, chức chủ tịch hội phụ huynh học sinh trường Tân Trí vẫn chỉ là ông Nguyễn Phú đáng kính và năng nổ... 
Trong năm học, lão Phú đã cùng với ban chấp hành hội phụ huynh học sinh trường Tân Trí lo cho nhà trường khoảng ba trăm triệu đồng. Nghe mấy vị trong ban chấp hành xì xào, tôi hay rằng tuần chay nào lão Phú cũng có nước mắt, mỗi lần xin được tài trợ, dù ít dù nhiều lão đều có phần cả. Những ba mươi phần trăm? Vị đại diện nào có mối nhưng ngại tiếp xúc với các cơ quan tài trợ, nếu nhờ lão Phú đi liên hệ, lão sẽ đưa lại mười phần trăm. Ai xuê xoa thì lão lờ luôn, lấy trọn. Tới kì tham quan, lão Phú cùng với công đoàn giáo viên đứng ra chung lo việc tổ chức. Mười ba vị phụ huynh học sinh trong ban chấp hành đều được mời đi chơi cùng các thầy cô. Tiền quỹ do hội lo trọn gói, ai hảo tâm tự nguyện đóng góp thêm càng tốt. Dịp này lão Phú bỏ ra cả chục triệu tiền túi để mua qùa lưu niệm cho từng người. Dĩ nhiên, chỉ tới khi về tới nhà, mở gói qùa ra, người ta mới biết đấy là qùa riêng của ông chủ tịch hội phụ huynh học sinh biếu, và ai cũng nghĩ  rằng ông Phú chỉ đặc biệt ưu ái với riêng mình...
Ngoài những lời xì xào mà tôi nghe được, mọi công việc lớn nhỏ của hội phụ huynh học sinh trường Tân Trí đều tuần tự trôi qua trong êm thấm. Và chuyện kể về lão Phú sẽ chẳng có gì đặc biệt nếu không có những tình tiết mà tôi sẽ nói thêm ở dưới đây. Tôi thấy cần nói thêm vì lão vốn trung thực như một nguyên mẫu. Chỉ còn e một nỗi, do những trang viết nhạt nhẽo này, tôi có thể trở thành một kẻ mang lỗi với lão Phú, với bạn đọc mà thôi !
Ngày 24 tháng 5, lễ tổng kết năm học của trường Tân Trí diễn ra lúc bảy giờ ba mươi phút.
Theo chương trình đã định sẵn, buổi lễ gồm các phần: giới thiệu đại biểu, ông hiệu trưởng đọc báo cáo tổng kết, ông hiệu phó đọc danh sách học sinh được tuyên dương khen thưởng, ông chủ tịch hội phụ huynh học sinh nói lời cám ơn, ông chủ tịch ủy ban nhân dân quận phát biểu ý kiến và cuối cùng là mục phát thưởng. Các phần thưởng, tùy theo mức độ cao thấp khác nhau, sẽ lần lượt được các vị nói trên trao tận tay cho từng học sinh.
Lấy cớ tôi là người chuyện vãn giỏi, lão Phú bảo tôi nên ngồi ở hàng ghế danh dự cùng với các vị khách. Riêng lão, để tiện việc đón khách tới muộn, mà khách bao giờ cũng đến muộn, lão sẽ ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Có lẽ đấy là một cử chỉ khiêm tốn? Hay như lão vẫn nói nhỏ với tôi, lão muốn mọi người chú ý đến tôi hơn? Để năm học  tới, tôi sẽ ngồi vào ghế chủ tịch hội phụ huynh học sinh thế cho lão? Vì năm nay cũng là năm đứa cháu trai của lão học hết chương trình lớp mười hai; lại nữa, ít nhiều thì lão cũng đã đóng góp công sức cho trường Tân Trí ba năm liền rồi. Muốn làm nữa cũng không được. Mà lão thì lại muốn đánh đổi?
Lão Phú nói đúng. Khách đến muộn khá nhiều. Lão cười với ông chủ tịch mặt trận tổ quốc quận, bắt tay bà chủ tịch hội phụ nữ, chỉ chỗ ngồi ở hàng danh dự cho các vị phụ huynh có con em đạt danh hiệu học sinh xuất sắc... Tất bật tới mức ai cũng nhận ra vai trò không thể thay thế của lão.
Cho tới lúc chỉ còn hai phút nữa là tới lượt vị chủ tịch hội phụ huynh học sinh phát biểu, tôi đưa mắt về phía lão Phú. Tôi không thấy lão ở hàng ghế dành cho các vị khách mời mà đang hớt hơ hớt hải đi từ phía ngoài cổng trường về chỗ ngồi. Được giới thiệu lên phát biểu, lão Phú khoan thai đi lên bục, nhã nhặn cúi đầu chào mọi người và sang sảng nói liền một mạch ba phút. Có lẽ vì trước đó phải nghe các ông hiệu trưởng, hiệu phó đã đọc những bản báo cáo dài lê thê đến chóng mặt, học sinh tỏ ra rất thích thú với bài phát biểu ngắn gọn, súc tích và đầy ý nghĩa, đặc biệt là những câu ca ngợi các nhà giáo, khen ngợi học sinh của lão Phú. Chúng tán đồng lão, vỗ tay hoan hô tới một phút rưỡi. Lão Phú trở về hàng ghế của mình cùng một nụ cười mãn nguyện nở trên môi.
Lão Phú đúng là người lạ lùng. Chỉ sau đó bốn phút, tôi lại không thấy lão đâu nữa. “Thôi đúng rồi, sáng nay lão chẳng than là đang mắc bệnh đấy ư? Cái căn bệnh Tào Tháo kì cục, không chạy mau mau thì khổ”. Tôi mỉm cười một mình khi tưởng tượng ra cảnh lão đang ngồi ở đâu, khuôn mặt tái đi như thế nào.
Nhưng lúc ấy, có lẽ cũng là do tưởng tượng, tôi bỗng nghe thấy tiếng lão Phú đang nói. Những thanh âm trầm bổng văng vẳng vọng lại theo làn gió đông nam thổi nhè nhẹ trên những tán phượng vĩ. Tuy chỉ nghe  câu  được câu mất, tôi vẫn nhận ra đó là những lời căn dặn chân tình và chu đáo của một vị chủ tịch hội phụ huynh học sinh tâm huyết. Cũng ngắn gọn, vẻn vẹn trong ba phút. Cũng những tràng vỗ tay của con trẻ ran lên. “Chả lẽ lão Phú còn giữ thêm cả chức chủ tịch hội phụ huynh học sinh ở bên  trường tiểu học Bến Sông?”. Thắc mắc của tôi được giải đáp ngay. Phần nhờ gió, phần nhờ thính giác tập trung cao độ, tôi nghe rõ mồn một được toàn bộ lời cám ơn của cô hiệu phó trường Bến Sông. Cô cảm ơn sự đóng góp hiệu quả của hội phụ huynh, nhất là nhờ vào sự hoạt động tích cực của “bác Phủ” mà nhà trường đã hoàn thành được các mục tiêu đã đề ra đầu năm một cách xuất sắc. Cụm từ “ bác Phủ” được nhắc đi nhắc lại tới sáu lần trong lời của cô hiệu phó. Vậy ra là tôi nhầm! Vậy ra là lão Phú đang nhăn nhó ở đâu đó? Khổ cho cái thân lão, ngày vui thế này lại bị vướng vào một chứng bệnh éo le...
Ở trường Tân Trí, vào thời điểm này, thầy giáo chủ tịch công đoàn điều khiển chương trình đã mời lão Phú một lần nữa lên trao phần thưởng cho các em học sinh thuộc diện “khá, ngoan, nghèo” có tinh thần vượt khó. Y như có phép màu, lão Phú lại hiện ra thật đúng lúc. Vẫn tươi hơn hớn, lão tỏ ra như không hề bị bệnh, vui vẻ bước lên lễ đài. Thật là nghị lực phi thường!
Cuối lễ tổng kết năm học, tôi lại không thấy bóng lão. Nghĩ rằng lão còn có việc cần bàn thêm với ban giám hiệu, tôi chào mọi người rồi ra về.
Khi tới cổng trường Bến Sông, tôi thật sự không thể tin vào mắt mình được nữa. Trước mặt tôi đúng là một lão Phú bằng xương, bằng thịt? Lão vừa đi ra từ cổng trường! Mà lão còn nhìn thấy tôi nữa kia. Nhưng không hiểu sao lão lại phớt lờ như chưa từng quen biết tôi nhỉ? Không nén được tò mò, tôi gọi thử:
- Bác Phú, bác Phú ơi, đợi tôi với!
Người đàn ông giống lão Phú như tạc vẫn rảo bước. Tên ông ta không phải là Phú?
Về tới nhà, vừa ngồi xuống ghế chưa nóng chỗ, tôi đã thấy người đàn ông kia đi vào nhà tôi. Sợ nhận lầm người, tôi lên tiếng trước:
-  Chào ông!
- Ơ, trông vẻ mặt ông nó thế nào ấy nhỉ? Tôi tìm ông mãi trên sân trường không thấy. Hỏi mấy đứa học trò có thấy bác nhà văn đâu không, mới được hay ông đã về trước. Đây là quà của hội - Lão Phú nói và đưa cho tôi một gói mềm mềm - Vải ngoại đấy! Mấy phụ huynh là lãnh đạo thuộc Công ty dệt Mimimex biếu hội ta. Hội lại đem chia đều cho mỗi thành viên hai mảnh.
Tôi rót nước mời lão Phú. Chuyện vãn một hồi, tôi buột miệng hỏi về những chuyện tôi chưa được rõ.           Lão Phú cười cười:
- À, đó là người anh song sinh của tôi đấy! Đứa cháu ngoại của ông ấy đang học ở trường Bến Sông.
Không tin là mình đã bị ảo giác đánh lừa, tôi hỏi tiếp:
- Ông ấy tên là Phủ?
Lão Phú thản nhiên:
- Đúng vậy! Ông vừa gặp anh tôi hồi nãy ở cổng trường Bến Sông phải không?
Tôi dồn:
- Và ông ấy cũng làm chủ tịch hội phụ huynh học sinh?
Lão Phú cười lớn:
- Cái đó thì không!
Tôi ngẩn người ra một lát. Rồi chắp nối các sự kiện lại, tôi giật mình, hỏi một câu khá ngớ ngẩn:
- Vậy có nghĩa ông chính là ông Phủ?
Lão Phú cười khẽ:
- Không, tôi chỉ mang lốt ông anh tôi khi cần thiết thôi. Như khi họp ban chấp hành hội phụ huynh, đi liên hệ với các cơ quan tài trợ, phát biểu trong các buổi lễ...
Nói tới đây, lão Phú bỗng thở dài đánh thượt. Rồi lão cao giọng, triết lí:          
- Ở đời có những cái ngoài ý muốn! Tôi không tham nhưng mà tiếc! Ông anh tôi lơ tơ mơ quá! Mà đứa cháu mới chỉ học lớp hai! Nghĩa là nó còn học ở Bến Sông ba năm nữa. Đương nhiên, không thể không ghé vai vào gánh thế cho ông anh cái ghế chủ tịch phụ huynh học sinh kia. Nhưng tới nước này rồi, chúng ta lại thân nhau đến mức này nữa, tôi thấy cũng chẳng nên giấu ông làm gì. Tôi đưa ông vào ban chấp hành hội phụ huynh học sinh trường Tân Trí chẳng qua cũng chỉ vì thật lòng muốn giúp ông. Có thể coi đây là một sự hoán đổi; còn ông phán xét tôi là người như thế nào, hoàn toàn tùy ở ông!
Nói xong, lão Phú rút từ trong túi áo ra cuốn sổ liên lạc của cháu Thu và đưa cho tôi. Tôi lật trang đầu của cuốn sổ. Và giật thót người khi nhận ra chữ kí của lão Phú. Chữ kí của ông ngoại! Đúng thế, lão vẫn tự xưng là ông ngoại của Thu mà! Và, cả con bé nữa, hàng ngày nó vẫn chẳng ông ngoại ơi, ông ngoại à với lão đấy ư?
- Còn ông, ông chính là ông Phủ, anh song sinh của tôi đấy! Cuộc đời éo le thế, ông thấy có đáng buồn không? Lão Phú hạ thấp giọng vừa giải thích vừa hỏi.
Cho tới khi lão Phú ra về, con Thủy mới từ trong buồng đi ra, nó ngồi xuống bên tôi và nói:
- Con đã hiểu hết câu chuyện của chú Phú rồi! Chú ấy vẫn bảo con, chú là một nửa còn thiếu của bố đấy. Không có nửa ấy, bố viết nhạt lắm! Con thì con chả tin vào những lời chú ấy nói! Còn bố, bố nghĩ thế nào về nhận xét ấy?
Tôi không trả lời, chỉ gật đầu.

 
                              MIẾNG BÁNH
 
Mới đầu tháng bảy, trường THPT Sơn Hà đã nhóm họp hội đồng sư phạm. Mục đích cuộc họp giữa hè này đã được thầy hiệu trưởng nêu rõ trong lời phát biểu mở đầu rất ngắn gọn. Một, thông báo kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT. Hai, thành lập hội đồng xét tuyển học sinh vào lớp 10 năm học mới. Và cuối cùng, vâng, ba là, phân công giảng dạy ôn tập hè và học kỳ một.
Tôi xin lưu ý thêm, thầy hiệu trưởng nhấn mạnh, thu nhập của cả trường ta có thể ví như một cái bánh vậy. Nếu công bằng mà nói, nó phải được chia đều cho tất cả mọi thành viên, tùy theo số tiết thực dạy tại các lớp. Vậy nên, trong thời gian tiến tới loại bỏ hoàn toàn các giờ dạy thêm sai quy định trong nhà trường, để việc chia đảm bảo tương đối đều, các anh chị trong tổ đều phải đảm nhận dạy ít nhất ở hai khối lớp. Cụ thể là, thầy cô nào dạy các lớp 11, 12 sẽ phải có nghĩa vụ dạy ở một vài lớp 10. Ban giám hiệu chúng tôi sẽ căn cứ vào kết quả thỏa thuận ở tổ để xếp thời khóa biểu. Mọi đề xuất, thắc mắc của cá nhân, nếu chưa thông qua tập thể, sẽ không được lãnh đạo trường chấp nhận...
Cuộc họp hội đồng diễn ra trong vòng mười lăm phút. Nói ít hiểu nhiều, cả trường đều biết nội dung quan trọng nhất là mục thứ ba trong lời phát biểu của thầy hiệu trưởng. Và đương nhiên, người đứng đầu trường đã chỉ đạo, việc phân công giảng dạy sẽ tiến hành tại các tổ chuyên môn.
Từ phòng họp hội đồng, các thành viên tổ toán ùa ra, vừa cười nói vui vẻ vừa đi về phòng học số mười ba. Họ hỏi thăm nhau đủ chuyện. Nào là sau khi chấm thi tốt nghiệp, coi thi vào lớp 10 THPT chuyên, thầy đã kịp đi đâu chưa; sắp tới cô đăng ký coi thi và chấm thi cho trường đại học, cao đẳng nào? Phần lớn kêu ca chưa có thời gian đi nghỉ mát, thăm hỏi bà con, bạn bè ở xa. Mà còn đi đâu được nữa khi lại sắp phải dạy hè. Nhà trường đã đồng tâm nhất trí tất cả vì học sinh thân yêu, mình đứng ngoài cuộc sao được?
Được xếp họp ở phòng 13, con số mà người ta cho là xui xẻo, tổ toán bắt đầu không mấy suôn sẻ. Vấn đề đầu tiên mà tổ bàn bạc giải quyết là những ai sẽ đứng các lớp 12.
Thầy San dạy lớp 11 năm rồi đề nghị nên hoán đổi những người từ các khối 10 và 11 lên. Phải luân chuyển để hoàn thiện đội ngũ cho toàn diện chứ. Về ý kiến này, cô Xuân tổ trưởng tế nhị nói, các thầy cô đứng lớp 12 năm ngoái đều là thứ dữ có cỡ cả. Nhờ họ ốp học sinh đi học phụ đạo gắt gao mà trường ta đạt tỉ lệ tốt nghiệp từ 92 đến 95% đấy. E rằng những người mới, do chưa có nhiều kinh nghiệm, sẽ khó mà giữ được thành tích trường đã đạt được.
Tiếp lời cho cô Xuân, cô Vân thỏ thẻ, thôi, không hoán đổi giáo viên giữa các khối thì ta bốc thăm vậy. Vì sao phải bốc thăm ư ? Tôi có thể trả lời thẳng thắn ngay là, ở khối 12 có 5 giáo viên mà số lớp để dạy chỉ có 17. Làm một phép tính chia đơn giản, ta thấy có ba người chỉ được dạy có ba lớp, còn hai người sẽ được dạy tới bốn lớp lận.
Thì bốc thăm, cô Xuân miễn cưỡng nói, cho khách quan.
Thầy San được phân công làm năm cái thăm, trong đó ba cái ghi số 3, hai cái ghi số 4.
Kết quả là cô Xuân vẫn  dạy bốn lớp 12. Không phải do cô bắt được cái thăm có ghi số 4 mà bởi cô Vân cứ khăng khăng sẻ cho cô một lớp. Cô Vân cố thanh minh rằng, vì đang phải điều trị gan ngoại trú, cô chỉ đảm đương được ba lớp 12 và xin dạy một lớp 10. Thôi cũng được, cả tổ cho qua... 
Tiếp theo đó, tổ lại phải chia mười bẩy lớp 11 cho sáu người. Khó quá! Vì ai sẽ là người chịu nhận dạy hai lớp đây? Bởi vậy, khi thấy cô Xuân hí hoáy chuẩn bị sáu cái thăm, các thầy cô dạy khối 11 đều lặng lẽ quay mặt về hướng khác.
Riêng thầy Hội, thầy cảm thấy rất bức xúc mỗi khi tổ phải họp để phân công khối lớp. Lúc này, cũng như mọi người, thầy càng hiểu rõ hơn, thủ phạm tạo ra cái không khí nặng nề kia chính là các giờ phụ đạo buổi chiều.
Năm kia, thầy Hội dạy bốn lớp 10, thu nhập của thầy là một triệu hai trăm năm chục ngàn đồng, bao gồm cả lương chính và tiền phúc lợi. Còn năm ngoái, thầy được ưu tiên dạy bốn lớp 11. Nhờ có ba mươi hai tiết phụ đạo, thu nhập của thầy tăng vọt lên tới hai triệu một trăm ba chục ngàn. Cho dù Hội đã cố bao biện rằng có làm thì có hưởng, nhưng mỗi tháng đứng trước quầy thủ qũy lãnh tiền, thầy vẫn không sao xoá được cảm giác mình đang mắc lỗi với ai đó. Hội biết, vì sĩ diện mà chẳng ai dám nói toạc ra sự thật về miếng bánh to, miếng bánh nhỏ kia. Cái lớn, cái nhỏ, tức là sự chênh lệch trong phân phối thành quả lao động trong một tập thể, chính là nguyên nhân dẫn tới sự đố kị, ganh ghét, bè phái và cả những điều tiếng không hay về người này người kia nữa.
Nhìn lướt qua phòng họp, thầy Hội biết người ta đang trông chờ ở mình một điều gì đó, thật khó nói. Ừ, hoàn cảnh kinh tế nhà thầy cũng tàm tạm. Là người cao tuổi nhất trong tổ, thầy thấy mình không còn đủ dũng khí để đưa tay ra bốc một cái thăm? Vả lại, theo nguyên tắc chia khối lớp của thầy hiệu trưởng, nếu như thầy chỉ nhận dạy ở khối 10, chắc chắn nhà trường cũng không chấp nhận cơ mà. Người ta sẽ điều chỉnh lại, phân công thầy dạy hai lớp 11.
Không rõ vì muốn làm cho không khí cuộc họp bớt căng thẳng hay vì một ý tưởng táo bạo khó đoán trước, thầy Hội khoan thai đứng dậy, phẩy tay nói, thôi, không phải bốc thăm nữa, vì một lý do chưa tiện nói, năm nay tôi lại xin dạy ở khối 10.
Cô Xuân chỉ chờ có thế, không đợi thầy Hội kịp ngồi xuống ghế, cô đã bật dậy xác nhận, cả tổ nghe rõ thầy Hội vừa nhận dạy ở khối 10 rồi nhé. Vậy nên tôi đề nghị cô Lan, cô Hồng dạy bốn lớp 11, bốn anh chị còn lại dạy ba lớp. Vui vẻ cả nhé! Ơ kìa, Vân ơi, em ghi vào biên bản họp tổ cho giấy trắng mực đen đi chứ!
Nghe cô Xuân nửa đùa nửa thật như thế, cả tổ ồ lên cười vui vẻ.
Thầy Hội cũng tủm tỉm cười.  
Nhưng ngay sau đó, một nỗi lo âu mơ hồ bất chợt xuất hiện, len vào tâm hồn thầy. Giả sử ban giám hiệu cứ xếp thời khóa biểu y như biên bản họp tổ thì sao? Rồi ai đó có thể vu vơ tưởng rằng, thầy Hội không dạy được các lớp 11, 12 nên đã tự nguyện xuống dạy ở lớp 10? Hay ông này bắt đầu mát tính rồi, tiền chia cho mà còn sĩ, tự bỏ qua túi người khác là cớ làm sao? Những câu hỏi dồn dập khiến cho sống mũi thầy Hội cay cay, lấm tấm mồ hôi.
Cũng may, tới đó thì buổi họp kết thúc. Thầy Hội không ngoái đầu nhìn lại, vội vã bước như chạy ra khỏi phòng.
Giữa bữa cơm trưa, nhận ra vẻ mặt tư lự của chồng, vợ thầy hỏi, năm nay ông thầy dạy mấy lớp phụ đạo, thu nhập liệu có khá hơn năm ngoái không? Hội thở dài, bảo chả có giờ dạy thêm giờ nào hết.
Người vợ tròn mắt, chết, chết thật, thế thì đói to à! Không có thực làm sao ông vực được đạo? Sao ông không đề nghị người ta chia cho? Con không khóc mẹ nào cho bú? Hay là ông cao ngạo, ra vẻ ta đây, nhường hết cho người ta rồi? Thời buổi bây giờ vật giá cái gì cũng tăng vọt. Tiền gạo, thịt, mắm, muối, tiền điện nước, xăng xe, tiền học phí, vui cũng tiền mà khóc cũng tiền! Có cả hàng trăm khoản cần tiêu mà ông lại dám coi thường tiền ư? Người ngợm gì mà cứ lớ nga lớ ngớ như rơi từ trên trời xuống vậy! Chỉ khổ cái thân tôi...
Thầy Hội buông đũa, bỏ vào buồng nằm. Ruột gan thầy xót như bào, cứ sốc lên từng đợt. Đầu óc thầy ong ong, quay cuồng như bị trúng gió đột ngột. Mồ hôi trên trán thầy vã ra như tắm.
Tiên trách kỉ, hậu trách nhân. Hơn lúc nào hết, thầy Hội tự thấy mình hèn quá, ích kỉ quá! Thầy là người ý thức rất rõ rằng, người ta phải sống rồi mới làm thầy, mới nói những chuyện cao siêu được. Thế mà, khi thầy hiệu trưởng thân mật vỗ vai hỏi, theo ý thầy, có nên dũng cảm bỏ việc dạy thêm trá hình đi không, nên làm như thế nào để thu nhập của anh em trong trường bớt chênh lệch nhau; thay vì góp ý ban giám hiệu nên giải quyết theo hướng lấy tổng số tiền thu được từ các giờ dạy phụ đạo chia đều cho tổng số tiết thực dạy, trong trường ai dạy nhiều hưởng nhiều, dạy ít hưởng ít, thầy lại tìm cách né tránh câu trả lời bằng cách lảng qua chuyện khác. Hèn? Hay cái khoản thu nhập hai triệu tư kia nó làm thầy lúng búng? Ai lại đi vạch áo cho người xem lưng, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của những người được phân công dạy các lớp phụ đạo? Ờ, sao lúc đó thầy không đặt bản thân mình vào vị trí của các thầy cô không dạy phụ đạo mà suy nghĩ, trăn trở và nói lên tâm tư của họ nhỉ? Chả lẽ trường chỉ ưu ái các thầy dạy văn, toán, lý, hóa, ngoại ngữ ở các khối 11, 12 - khối có giờ phụ đạo? Còn các thầy cô dạy khối 10 hay  các bộ môn sử, địa, công dân, kĩ thuật, thể dục, phụ trách thư viện, phòng bộ môn, phòng thí nghiệm,...không phải là giáo viên trong trường?
Nghĩ tới đây, thầy Hội nhỏm dậy, với điện thoại. Thầy định gọi cho thầy hiệu trưởng, mong muốn ông có thể chia sẻ và làm vơi đi nỗi tâm sự đang rối bời trong lòng mình.
Song cũng vào thời điểm đó, bên tai thầy bỗng vẳng lên những lời chì chiết của người vợ. Thầy rụt tay lại, nằm vật xuống giường. Phải gọi ngay cho Xuân thôi, bây giờ vẫn còn kịp, Hội nghĩ. Và thầy nhấc cái điện thoại lên. A lô, Hội đây. Ừ, ừ, mình đã nghĩ lại, mình muốn... Cứ thử xem. Ừ, thế nhé. Cảm ơn nhiều…
Chiều tối cô Xuân mới gọi điện lại cho Hội. Vâng, không thể thay đổi được anh ạ. Ngay sau lúc anh báo lại, em đã gọi cho thầy hiệu trưởng. Nhưng xui cho anh là máy của thầy ấy lại ngoài vùng phủ sóng. Dạ, thời khóa biểu hè thì đã xếp xong từ lúc năm giờ chiều rồi. Cô hiệu phó chuyên môn nói tổ đã thống nhất thế, dứt khoát không chiều theo ý của cá nhân nào nữa. Vâng, nguyên tắc một người dạy hai khối lớp chỉ là tương đối thôi mà. Khó cho em lắm. Anh thông cảm nghe anh. Riêng cái đề nghị thêm của anh, em đã báo ban giám hiệu, họ hứa sẽ xem xét lại sau khi hết ôn tập hè. Nhưng em biết là khó đấy! Quyền lợi của số đông mà. Một mình thầy hiệu trưởng, thêm anh nữa cũng vẫn chỉ là số ít...
Thầy Hội bỏ máy, khẽ thở dài. Chả lẽ dứt bỏ những giờ phụ đạo, nói thẳng ra là những giờ học tăng tiết bắt buộc, lại khó khăn đến thế sao? 
Ừ nhỉ, một tháng rưỡi hè! Học phí cho năm môn học phụ đạo là ba trăm ngàn. Kết quả học sinh được những gì? Được học trước chương trình! Và mất đi những ngày hè vui vẻ ?
Còn thầy Hội, thầy sẽ được nghỉ hè tiếp.
Điều quan trọng hơn, thầy được ít nhất hai bài học.
Ở đời, ăn bánh phải trả tiền! Vì thế, đừng ai tưởng rằng thầy Hội không phải đóng học phí. Đắt lắm! Đó chính là cuộc đời, với những quãng lội đã qua, đang qua và sắp tới !
Cho tới đầu năm học.
Lệnh của Sở giáo dục cấm việc dạy thêm trong trường được ban ra.
Ông hiệu trưởng họp hội đồng sư phạm lại và nói:
- Chúng ta sẽ thành lập Trung tâm giáo dục thường xuyên. Đây không phải là các lớp phụ đạo cũ. Có điều, các thầy cô nhớ cho các trò làm đơn. Không bắt buộc. Trò nào  tự nguyện mới được học! Vì như vậy mới hợp lệ. Sở, Bộ không thể khiển trách, còn quyền lợi của các thầy cô thì vẫn như trước! Được chưa?
Hội cúi gằm mặt xuống, tai đỏ rực.
 
 
 

 
 
                              GIẤY TRẮNG
 
Long Thừa Tự tọa ở lưng chừng núi Rồng.
Ở đấy, ngọn tháp bảy tầng bốn mùa ngả bóng xuống sông Đồng Nai trông giống như một cây bút đang viết lên mặt nước lớp lớp sóng xanh. Mỗi khi gió nổi, sóng nước xôn xao, bóng ngọn tháp lúc tan lúc hợp, chập chờn như những cánh tay đang bơi hoặc những nét chữ chữ xô lệch, mực nhòe nhoẹt…
Thân tháp cất giữ tro cốt những người đã thành hư vô trong các hũ sứ nâu. Riêng tro cốt giáo sư Trần, không biết vì lý do gì, lại được cất trong một cái nậm rượu màu trắng, men rạn, miệng bị sứt một mảnh nhỏ.
Nghe nói vị trụ trì Long Thừa lúc còn đi học ở Sài Gòn là trò cưng của giáo sư Trần. Nhưng về sau, thầy thì vào chiến khu chống Mỹ, còn trò thì lại đeo lon trung úy tâm lý chiến của quân đội ngụy. Đây chính là nơi thầy trò họ gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách. Và cuối cùng thì giáo sư đã ở lại đây mãi mãi...
Vào những ngày tuần, có một người đàn ông trạc năm mươi, dáng người mảnh khảnh, tóc lốm đốm bạc, đôi mắt sáng lấp lánh sau cặp kính thường ghé thăm chùa.
Có lần, ông ta ngồi thụp xuống chân tháp, thắp vài nén nhang, đốt một ít vàng mã,  lóng ngóng rưới nậm rượu xuống đất, miệng lẩm bẩm: “ Đúng là ông ấy rồi! Không thể khác được!”.
Vô tình nghe được câu nói ấy, chú tiểu đang quét sân chùa rất lấy làm lạ.
Càng lạ hơn khi người đàn ông vừa đi khuất, hoà thượng trụ trì đã đứng ở bên chú và  đột ngột hỏi:
- Bao giờ thì vị thí chủ ấy quay lại nhỉ!
Hiểu ý bề trên, chú tiểu nhanh nhẩu thưa:
- Bạch thầy! Con đồ tháng sau ông ta sẽ tới ạ!
- Người ấy cúng dường bao nhiêu sách rồi?
- Thưa, cả thảy có bốn mươi tám cuốn. Bốn mươi lăm cuốn viết cho trẻ con tham khảo. Ba cuốn tự truyện.
Nói tới đây, chú tiểu bỗng buông lỏng cán chổi, nét mặt lộ rõ vẻ băn khoăn:
- Bạch thầy! Bảy bảy bốn chín là vòng đủ cho một linh hồn siêu thoát khỏi kiếp hồng trần. Nhưng con vẫn chưa tường sao phải là bốn mươi chín lần mà không phải bốn mươi chín ngày ạ?
Vị hoà thượng không giải thích mà chỉ khẽ nói:
- Kỳ lạ thật!
Rồi chợt nhớ ra điều gì, người dặn:
- À, hôm nào ông ấy tới, con nhớ báo ta hay. Để hỏi cho tỏ nhẽ...
Vào lúc quá ngọ ngày rằm tháng chín, người đàn ông xách một cái giỏ cói, quai giỏ sờn vẹt quá nửa ghé thăm chùa. Nhìn qua miệng giỏ bỏ ngỏ, chú tiểu thấy trong đó  có một cái nậm, một gói hoa rời, một thẻ nhang và hai cuốn sách. 
Bước sân vào chùa, người đàn ông nhanh nhẩu đi về phía hòm công đức, bỏ vào đó một cái phong bì. Ông xin phép chú tiểu được thắp vài nén nhang bái Phật và cúng nhà chùa một cuốn sách.
Sau đó, ông thong thả quay ra sân chùa, đi vòng quanh tháp và chậm rãi rắc hết cả gói hoa. Những cánh hoa lả tả rơi, vương trên lớp tro tàn khá dày mà ai đó đã để vương lại từ nhiều ngày trước. Rồi ông lặng lẽ quỳ xuống đất, tay run run xoáy cái nút lá chuối nút trên miệng nậm, rưới rượu thật nhanh xuống chân tháp.
Cuối cùng, ông lấy cuốn sách từ trong giỏ ra, lật trang thứ nhất, mắt nhắm nghiền lại, miệng lầm rầm một đoạn văn ngắn và bất ngờ xoè diêm châm lửa đốt. Giấy bén lửa lem lém cháy, trừ phần gáy sách, nơi ghi tên sách và tên tác giả.
Lúc ấy, một cơn gió từ phía mặt sông ùa tới làm ngọn lửa bùng lên lần cuối, hất tàn than bay ngược lên trời. Hình như có một mẩu nhỏ trong số tro vụn ấy đã bay vào mắt ông. Người đàn ông đưa tay áo lên quệt ngang hàng nước mắt đã ứa ra, chảy dài trên má tự  lúc nào không rõ.
Với một nụ cười mãn nguyện thoáng nở trên môi, người đàn ông khẽ rũ tay áo đứng dậy.
Nhìn dáng đứng lặng phắc của vị hoà thượng đang ở bên cạnh mình, ông ta cung kính chắp tay đáp lễ:
- Bạch thầy!
- Kẻ tu hành hỏi khí không phải, ông đến cúng sách?
Giọng người đàn ông xa xăm:
- Dạ. Riêng lần bốn chín này, tôi mượn chữ làm nhịp cầu...
Vị hoà thượng đưa tay trỏ vào đám tro tàn:
- Kia là nhịp cầu?
- Đó chỉ là bóng cuốn sách.
Tiếng vị hoà thượng nhẹ như gió thoảng:
- Tôi biết, đó là cách ông tri âm với người muôn năm cũ?
- Bạch thầy!
- Ông gửi cuốn nào cho thầy?
- Thưa, cuốn thầy và tôi đứng tên, tôi vừa chỉnh lý xong...
- Sao ông không gửi cuốn tự  truyện mới in?
- Cuốn đó dành cho tôi.
- Còn thầy Trần?
- Tôi muốn đem lại cho thầy sự thanh thản. Tuy muộn mằn, nhưng có vẫn hơn không! Vì nó là cuốn sách đã làm thầy phải đau đớn, chí ít là tới hôm nay…
- Ông tin thầy vẫn đọc sách?
- Tin! Nhưng không dám chắc!
Hoà thượng hỏi dồn:
- Vậy sao ông lại làm thế?
- Tôi làm để giải thoát mình. Bởi vì...
- Xin đừng quá xúc động! Nếu nói ra được, ông sẽ thấy nhẹ nhõm hơn ...
Người đàn ông chăm chắm nhìn vào cái bình tro, giọng nghẹn ngào:
- Thầy trò tôi viết chung khá nhiều sách. Nhìn chung sách được bạn đọc đánh giá là có chất lượng khá và có ích. Chỉ tiếc là có một cuốn, do chủ quan, và có lẽ do cả năng lực có hạn nữa, chúng tôi đã để sai sót ba lỗi kiến thức. Giấy trắng mực đen! Buồn qúa! Xấu hổ qúa! Chúng tôi đã uống không biết bao nhiêu là rượu để giải sầu. Rượu rót tới mức cái nậm kia sứt cả miệng…
- Tôi hiểu tâm sự của ông. Nhưng ông sẽ còn tới đây? Và viết?
- Đó là nghiệp, làm sao tôi rũ bỏ được? Nhưng tôi sẽ không quấy quả vong linh thầy nữa!
- Sao vậy?
- Tôi nghĩ, những chữ được lửa chừa lại báo cho tôi hay thầy tôi đã hài lòng. Từ nay, theo lời hứa với thầy phút lâm chung, tôi chỉ gửi cho thầy rượu và giấy trắng thôi...
- Thầy vẫn viết?
- Phải, viết vào vô thủy vô chung chẳng hạn. Bởi chiều nay, trong khi mở to mắt nhìn thẳng vào ngọn lửa, tôi đã ngộ ra rằng những trang viết dành cho người như chúng ta đây, hơn bao giờ hết, cần phải được phát lộ ở bất cứ đâu ...
Nghe người đàn ông bộc bạch, con tim vị hoà thượng bỗng nhiên bị đau nhói. Người thở dài, bộc bạch :
- Những điều ông nói khiến tôi thẹn quá! Tôi cũng học thầy Trần. Nhưng tôi khác ông.
- Thưa... Người đàn ông ngập ngừng rồi hỏi – Nếu tôi không lầm, tôi đã từng gặp ông trong trận càn năm sáu chín ở Bời Lời?
- Đúng! Khi ấy tôi là một sĩ quan ngụy.
- Ông đã gí súng vào đầu tôi và bóp cò?
- Trí nhớ của ông rất siêu việt!
- Lúc đó tôi bị thương nặng. Nhưng tới tận hôm nay, tôi vẫn chưa quên được ánh mắt thất thần của ông. Tôi chỉ lấy làm lạ vì sao ông lại bắn ra ngoài?
- Vì tôi biết ông là học trò thầy Trần!
- Làm sao ông biết?
- Tôi vô tình có được tập hình thầy chụp lưu niệm với học trò, trong đó có ông.
- Nhưng nếu ông không nhớ? Nếu đó là một người lính xa lạ khác?
- Thì tôi vẫn cứ làm như vậy thôi!
- Cảm ơn ông! Lần đầu tới đây, nhác thấy ông, tôi đã không tin vào mắt mình...
- Tôi cũng không ngờ thầy tìm được ông cho tôi và tôi cho ông. Chính ông mới là người cứu tôi đó!
Người đàn ông ngỡ ngàng nói:
- Tôi không hiểu!
Vị hòa thượng mỉm cười:
- Từ hôm gí súng vào đầu ông, nhìn ánh mắt nảy lửa của ông, tôi đã quyết định ngừng viết!
- Nhưng nghe thầy kể, ông cũng đã viết rất nhiều!
- Phải! Nhưng khi tôi đã xuống tóc, phát tâm hướng về Đức Phật, thầy Trần đã bỏ qua cho tôi mọi lỗi lầm cũ. Thầy cho người gặp tôi và biến nơi này thành một cơ sở bí mật...
- Rồi khuyên ông quay về đời tục?
Hòa thượng nhìn dòng sông chuyển sang màu tím sẫm, chậm rãi nói: 
- Không, cụ chỉ nhắc tôi đừng bỏ nghiệp văn...
- Và ông đã nghe theo?
- Tôi chỉ theo một nửa.
- Một nửa?
- Tôi không viết văn xuôi nữa. Tôi chọn thơ làm lối thoát cho mình...
- Ông có thể cho tôi được lĩnh ý một bài thơ nào chăng?
Hoà thượng nhìn đăm đắm vào những viên gạch dưới chân tháp, khẽ lắc đầu:
- Thật đáng tiếc! Tôi đã dâng tặng thầy…
Chú tiểu thỉnh một hồi chuông. Rồi chú chắp tay vái sư phụ đang bước vào chính điện :
- Bạch thầy, giấy trắng con đã đặt sẵn. Xin thầy cho con được chép lại chuyện vừa rồi để tĩnh tâm trong những đêm thanh vắng, liệu có được chăng?
Vị hoà thượng đứng bất động.
Trong khi đó, bóng tháp Long Thừa vẫn lung liêng trên mặt sóng.
Cái bóng tượng dáng người ấy bỗng gật đầu!
 

 
                      LÃO NHÂN NGHĨA
 
Cái tên Công Tôn Nhân Nghĩa được được kẻ rõ đến từng nét, trang trọng ngự trên tấm biển màu vàng cam treo ở phía trước cửa ra vào trại. Thế mà, bọn người làm công lười biếng và rỗi miệng cứ thở ra với nhau rằng ông chủ là Lưỡi Hái. Láo khoét thật! Nhưng mặc xác chúng! Những kẻ hôi mồm hôi miệng ở đời này nhiều nhan nhản! Chấp với chúng thì suốt ngày phải đi mà đôi co sao?
Riêng tôi, thấy lão tuổi đã cao, lại rất biết điều, tôi coi lão thuộc hàng như cha như chú và bao giờ cũng một điều thưa chú Công Tôn, hai điều thưa ông Nhân Nghĩa đàng hoàng.
- Hay lắm! Ông bạn trẻ đúng là người có học! Giọng nói, dáng đi trí thức lắm lắm!
Lão nheo nheo mắt nhìn tôi, đưa ra lời khen rồi từ tốn bộc lộ:
- Tôi rất thích cách xưng hô lịch thiệp của người Bắc ta! Nhưng biết tạ ơn ông bằng cái gì cho xứng đây?
Tôi bảo chẳng phải khách khí thế.
- Ông không muốn tôi tạ ơn, nhưng tôi thì không thể thất lễ, tôi sẽ ban cho ông một ân huệ.
Tôi chưa kịp từ chối cái ân huệ mà một chủ trại hòm như lão Công Tôn Nhân Nghĩa có thể ban cho thì lão đã tiếp:
- Ông sẽ được làm bạn tôi! Đơn giản vì y phục của ông rất giống tôi!
Từ hôm ấy, thi thoảng lão lại tới thăm nhà tôi và nhỏ to tâm sự với tôi.
Chuyện của lão không có mở đầu, cũng chẳng bao giờ có kết thúc, đoạn sau có thể mâu thuẫn với đoạn trước. Lão bảo lão thành tâm thuật hết mọi sự rồi đấy, còn tin hay không, thì tùy. Lão chẳng ép. Rằng, ở đời, lão chỉ có thể làm bạn được với ba loại người. Đó là trẻ con, những tên tội phạm và người già.
- Tôi coi trẻ con hư hỗn là những thiên thần, ông ạ. Thời trẻ, lấy xong bằng đíp lôm ở Nam Định, tôi giã quê vào Nam làm thầy giáo. Tôi là một công chức ưa làm những việc khó. Nhưng nghề dạy học là một nghề đơn điệu. Để trổ tài, tôi thường chọn bài thật khó để giao về nhà cho học trò, lên lớp tôi cứ nhè vào những chỗ bữa trước mình giảng sơ sài nhất mà hỏi chúng. Cho tới khi trò cảm thấy mình không hơn gì những đứa dốt nát nhất, tôi sẽ đưa tay ra. Nào, cố lên các con, thầy trò ta phải chạy như ngựa lồng mới mong đạt được học lực trung bình. Chúng chạy vã mồ hôi. Dĩ nhiên, những đứa trò dốt nào chịu nổi những trò nhiêu khê của tôi về sau đều nên người cả; ông nghe và thấy chuyện có kì không?
Một lần khác, nhân xem trên ti vi, thấy tường thuật toà xử một vụ tham ô công quỹ lớn, lão tỏ ra rất bất bình, chê các vị trong hội đồng xử án nghiêm khắc qúa. Lão nói thời lão còn giữ ghế chủ toạ các phiên toà, lão chưa bao giờ làm như thế cả. Thấy tôi lộ vẻ ngạc nhiên, lão bảo:
- Ông chưa biết tôi đã từng làm ở toà án ư? Cũng đúng thôi. Vì tôi đã kể duyên cớ gì đã khiến tôi bỏ nghề gõ đầu trẻ để đi học luật cho ông nghe đâu. Thôi, đại loại có hai sự kiện. Thứ nhất là sự học càng ngày càng mạt. Lão hiệu trưởng của tôi thủ đoạn lắm. Dạy thêm cho học trò, lão thu tiền đủ cả “cua” ba tháng. Thầy dạy buổi nào ăn tiền theo tỉ lệ thầy sáu chủ trường ba. Nhưng lão cứ cho trò nghỉ khi hứng lên, cũng chẳng cần dạy bù. Trò được nghỉ học thì sướng quá trời rồi. Còn lão hiệu trưởng, hưởng trọn tiền những ngày nghỉ đó. Có một khóa luyện thi, lão bảo tôi dạy bốn buổi cấp tốc. Tôi lại được giao soạn ngay một đề thi kiểm tra như thế nào đấy để trò đi học thêm được thỏa mãn với kết quả của mình. Dĩ nhiên là người khác gác thi nhưng tôi vẫn phải làm việc chót là chấm bài. Khốn khổ, đề tôi ra dễ như chơi mà chỉ có một nửa lớp làm được. Làm thế nào bây giờ? Cái khó ló cái khôn, tôi nghĩ ngay ra cách sửa lại thang điểm, câu nào khó thì cho thật ít điểm, câu dễ thì nâng nhiều điểm lên. Kết quả chín mươi chín phần trăm thí sinh dự thi đạt khá giỏi. Phụ huynh học sinh nghe tiếng cho con đến học ùn ùn. Rồi cũng chẳng rõ bằng cách nào đám học trò ấy đỗ ở các kì thi tiếp theo cũng rất cao. Về sau tôi mới vỡ lẽ ra rằng lão hiệu trưởng trường tôi đã thậm thụt mua đề của mấy người làm khảo thí. Thứ hai là lúc Mỹ vào đất này, tôi rất ghét cái lũ mũi lõ. Tôi muốn học luật để bênh người Việt. Nhưng tôi đã vỡ mộng...
Tôi hỏi:
- Vậy là ông phản kháng Mỹ - ngụy bằng cách bênh tội phạm chống lại chế độ ấy?
Lão Nhân Nghĩa cười mỉm:
- Không hoàn toàn như vậy. Nếu tôi làm được như ông nói, có thể tôi đã là người của các ông...
- Có nghĩa là ông không bênh những người lương thiện?
- Tôi chỉ bênh tiền! Những kẻ buôn ma túy, trộm cắp, ma cô...đều có tiền. Dĩ nhiên còn có cả các quan chức nặng túi nữa. Lũ học trò tôi dạy trước đây khi ấy đã có rất nhiều đứa thành ông này bà nọ. Chúng có thế lực và giàu có. Nhưng lá mặt lá trái, giả nhân giả nghĩa, lừa thầy phản bạn, tham nhũng, dối trên lừa dưới thì trên cả cơ lão hiệu trưởng của tôi. Nhờ bênh vực chạy tội cho chúng, tôi đã có rất nhiều tiền, nhiều xe cộ và nhà cửa. Rồi khi các ông vào tới đây, tôi đã phải bỏ hết, tôi phải giấu tung tích. Nên tôi chọn cái nghề hòm. Nghĩa tử là nghĩa tận, chẳng ai thèm để ý tới một người chuyên lo cho những người chết. Và, tôi hi vọng cái nghề hèn này sẽ tạo cho tôi cơ hội  làm bạn với người già...
Quả thật, lão Nhân Nghĩa là bạn tốt của tất cả những người già trong khu phố tôi. Được tín nhiệm bầu làm tổ trưởng, lão có nhiều dịp đi đến từng nhà. Khi thì thu tiền dân phòng, ủng hộ đồng bào các vùng gặp thiên tai, hoả hoạn, lúc thì tới mời họp tổ, vận động đi bầu cử... Những lần như thế, lão thường dừng lại ở những gia đình có ông già bà cả để hỏi thăm con cháu cụ làm ăn ra sao, sức khoẻ cụ thế nào, hiện nay cụ quan tâm đến chuyện gì nhất. Lâu lâu không thấy lão ghé chơi, có những ông già đã lần ra quán cà phê gần trại hòm, nơi lão hay ngồi đọc báo, để tìm và nghe lão triết lí cái chết chính là mầm mống của sự sống. Việc làm ăn của trại khá suôn sẻ nên lão Nhân Nghĩa tỏ ra hài lòng lắm. Lão công khai nói, tuổi tác đã làm cho những bậc cao tuổi một đời bon chen kia trở nên khoan dung, đại lượng. Họ ít ghen ghét, thù oán do những thành công hay thất bại chẳng còn là mối quan tâm nữa. Điều họ muốn chia sẻ nhất là sự cảm thông và kinh nghiệm. Con cái họ, do mải lao vào các cuộc làm ăn, cảm thấy cha mẹ mình vừa khó tính vừa lắm đòi hỏi nhiêu khê. Họ ít khi trò chuyện tâm tình với thế hệ mà họ cho là đã lạc thời. Chúng quên mất rằng người già là một kho báu! Nhờ họ, người ta có thể biết trước nhiều thứ mà vào tuổi này tuổi kia chưa biết được. Lão Nhân Nghĩa thì khác hẳn. Lão bảo trong cái khu phố này có bao nhiêu người già thì lão có bấy nhiêu bài học. Nhưng chơi với người già cũng rờn rợn. Họ như nhìn thấu hết những gì mình đang dự tính trong đầu. Lại nữa, lòng hay có cảm giác bâng khuâng, nhất là những lúc nghe báo người này người kia tạ thế. Trong các đám tang, ví như lúc người ta thống thiết đọc điếu văn chẳng hạn, lão Nhân Nghĩa thường ứa nước mắt. Người già thấy thế dạy con cháu là ông Nghĩa giàu lòng nhân. Chỉ có bọn làm công cho trại hòm là bậy bạ, chúng rỉ tai nhau nước mắt của lão chẳng qua chỉ  là thứ nước để người ta mài những chiếc lưỡi hái mà thôi.
Lão Nhân Nghĩa nhẩm tính, đã mười hai vòng tua rồi lão chỉ cắt việc cho những kẻ làm công. Mười hai tua nhân với mười hai phu kiệu, vị chi đã có một trăm bốn tư cái hòm được dùng vào việc. Một trăm bốn tư chia đều cho ba mươi ngày, là bốn tháng, tám ngày. Trong vòng nửa năm, có tới ngần ấy ngày tất bật, lúc mới mở trại hòm, lão có nằm mơ cũng không thể thấy được. Quả là chơi với ngươi già, được người ta chỉ vẽ cho chóng khôn thật! Dĩ nhiên phải cộng thêm máu liều lĩnh của bọn trẻ nữa mới có thể thành công được.
Sau đám bà lão Cò, lão Nhân Nghĩa đãi đám đám phu đòn một bữa nhậu. Cuối bữa, lão kêu thằng Bụi ra ngoài, ghé sát tai hắn, nói khẽ:
- Bữa nay tới phiên chú mày coi trại đó!
Bụi giãy nảy người:
- Con vợ con đương bịnh. Xin thầy cắt người khác!
- Hừ! Chú mày sợ, hay kiếm cớ lẩn việc?
- Con sợ! Con van thầy! Thầy cắt việc trâu bò con cũng ráng gánh. Nhưng việc ấy, quả thật con không dám!
Lão Nghĩa dọa:
- Chú mày không dám thì mai chú mày phải nghỉ việc!
Câu cuối cùng của lão làm tay chân thằng Bụi bủn rủn. Như bị chích một liều thuốc cực mạnh, hắn lắp bắp:
- Thôi thì con xin vâng. Anh em làm được, con cũng làm được.
Buổi tối, lão Nghĩa đưa Bụi đến trại hòm. Ngơ ngác nhìn những cái hòm ánh lên màu vàng chói, sực nức mùi vẹc ni và cồn, Bụi hỏi:
- Thưa, không có giường nệm, chăn chiếu, con ngủ ở đâu ạ?
Lão Nghĩa nheo mắt, chỉ tay vào một cái hòm đã mở nắp sẵn, nói như giỡn:
- Thử  vào trong đó nằm vài lần xem.
Rồi dặn:
- Nhớ vận hồn nghĩ đến một ai đó, nghe!
- Muỗi nhiều quá! Không vào đó cũng chết!
Nói xong, Bụi chui tọt vào cái hòm, đưa hai tay lên, tự  hạ nắp xuống.
- Được đấy!
Lão Nghĩa tỏ vẻ hài lòng, dặn tiếp:
- Lấy cái dép kê cho kênh nắp lên. Nghe rõ chưa? Hay là chú mày muốn chết ngạt?
Mấy ngày sau, chẳng hiểu vì lẽ gì, Bụi bị lão Nghĩa phạt phải coi trại tiếp. Sợ bị đuổi việc, tối tối Bụi đến nằm trong chiếc quan tài rỗng, sau một hồi oán trách lão chủ trại nhẫn tâm “cấm vận”vợ chồng hắn, mắt díu lại, hắn đánh một giấc tới sáng.
Tới ngày thứ  tám, lão Nghĩa gọi Bụi lại, thở dài :
- Chú mày cao số qúa! Cao số thật vô tích sự, chẳng gọi được ma nào. Thôi, bắt đầu từ  tối hôm nay, ta sẽ thế chỗ thay nhà ngươi...
Buổi chiều, lão ghé thăm mẹ tôi, tiện thể rủ tôi đi uống rượu thịt chó ở chân cầu Thị Nghè. Lãng đãng trong hơi men, lão lại lấy triết lí về cuộc đời ra để làm chuyện vãn. Lão bảo:
- Tôi rất khoái những hình chữ  nhật, những khối hình hộp. Ông có muốn biết vì sao tôi lại mê chúng đến như thế không? Theo thiển ý của tôi, chúng là tượng của tiền, của vàng khối và nhà cửa, đất đai. Nói rộng ra chúng là trời và đất, và...
Lão Nhân Nghĩa nói nhiều điều lạ quá, tôi không hiểu và cũng không thể nhớ hết được. Tôi đã say mềm. May còn  kêu được xích lô về nhà.
Sáng sớm, tôi tỉnh dậy, đầu vẫn còn nhức như bị buá bổ. Tuy vậy, khi đến gần phòng mẹ tôi, tai tôi vẫn đủ thính để nghe rõ câu chuyện mà bà đang thì thầm với một người bạn già. Họ sợ hãi nói với nhau rằng đêm qua lão Nhân Nghĩa đã đi về cõi mơ rồi.
- Khổ, ông ấy nằm duỗi thẳng chân trong một cái hòm bà ạ...
- Tôi còn nghe kể miệng ông ấy hơi há ra! Có lẽ lúc ấy ông đang lẩm bẩm cầu nguyện cho các chúng sinh đang ở thời lão bệnh như chúng ta được yên ổn chăng?
- Ôi, sự việc đã ba năm rõ mười như vậy mà sao mấy anh công an cứ nhiêu khê mãi thế nhỉ?
- Bà bảo mấy anh công an nhiêu khê cái gì? Có phải chuyện họ yêu cầu tang chủ phải giữ nguyên đôi dép mà ông lão đã xếp rất ngay ngắn ở dưới sàn, mũi hướng về phía tây không?
- Phải! Họ bảo đó là vật chứng gì gì đó. Chả hiểu ra làm sao nữa!
- A di đà Phật!
Mẹ tôi nhắm nghiền mắt, chắp hai tay hướng lên trời cầu nguyện.
Lúc ấy tôi bất chợt nhìn xuống và thấy một cái dép lạ trong đôi dép mà mình đang đi. Trời ơi, nó chính là cái dép bên trái của lão Nhân Nghĩa! Mắt tôi hoa lên. Chân tôi khuỵu xuống...
Trong cõi bồng bềnh, tai tôi vẫn nghe thấy tiếng ai đó văng vẳng từ một nơi rất xa vọng về: “Xin các anh hiểu cho! Tôi xin cam đoan đây là một người bạn tốt. Xin các anh đừng bắt oan anh ấy!”.
 
                      
                             

 
 
                              MÓN NỢ
 
Trước lúc đưa vợ con vào Nam sinh sống, Hoàn có ghé về thăm quê nhà.
Trong lúc dọn dẹp bàn thờ gia tiên, anh lỡ tay làm rớt cái bài vị của ông tổ xuống nền gạch. Giữa hai lớp ván mỏng được dán bằng sơn nam bị bong ra, anh nhặt được hai tờ giấy dó gói trong một mảnh lụa trắng. Một tờ chi chít chữ Nôm. Tờ kia hình như là một tấm địa đồ.
Hoàn không nói với ai về chuyện ấy, lẳng lặng giấu những vật thiêng liêng ấy đi.
Vào Nam được ít lâu, anh nổi hứng theo học một lớp Hán Nôm vào các buổi tối. Thông minh như anh mà cũng phải mất mấy năm mới hiểu được ý nghĩa của vật qúy. Và cũng chỉ tới lúc ấy, không hiểu vì lẽ gì, ngày đêm anh chỉ mong thằng Cún bỏ quê vào Nam quấy quả mình.
Hoàn còn nhớ lần thằng Cún xuất ngũ, nó khoác ba lô thẳng một mạch từ  đơn vị đến nơi anh đang làm việc. Được bảo vệ báo có người nhà tới tìm, anh lật đật chạy xuống phòng khách. Thằng Cún đang ôm chiếc ba lô lộn ngược trong lòng, gõ gõ đế giày xuống sàn nhà; thấy Hoàn, nó thay lời chào bằng một câu hỏi:
- Anh có biết vì sao tôi chưa về nhà mà đến gặp anh ngay không?
Hoàn nén giận, bảo:
- Chắc là tiện xe chú mày rẽ qua?
Thằng Cún cười khẽ:
- Sao anh không nghĩ là tôi sẽ về ở hẳn với anh chị cho có anh có em?
- Thôi được! Hoàn nói - Chìa khoá đây, bây giờ  chú mày cứ về nhà đã. Anh em ta sẽ nói chuyện sau.
Thằng Cún dạ dạ vâng vâng rồi ra cổng gọi xích lô chở nó về nhà anh. Chiều hôm ấy, khi rượu ngà ngà say, nó khoe:
- Anh chị biết đấy, nghe anh, tôi đã phấn đấu và mấp mé được đứng trong hàng ngũ của anh chị. Nhưng tôi ngắn học, cấp trên bảo không phát triển lên sĩ quan được!            
Hoàn nói:
- Thì về xây dựng quê hương cũng tốt chứ sao? Quê ta đang rất cần những người như chú mày.
Thằng Cún dằn cái li uống bàn cái cộc:
- Không được, anh phải giúp tôi. Tôi không muốn về quê làm một anh xã xệ!
- Vậy thì - Hoàn nhìn thằng em thăm dò- Chú mày có thể làm được gì nhỉ? Khi mà trong tay không có lấy một nghề ngỗng nào?
Thằng Cún hạ giọng:
- Anh không thấy bao nhiêu người như tôi mà vẫn làm nên được tới ông này bà nọ thật à? Chẳng lẽ tài trí như anh mà không nổi cho em một chân thư kí phụ việc giấy tờ, điếu đóm đỡ cho một vị quan chức nào?
Hoàn ngán ngẩm lắc đầu:
- Muốn ngồi ở cái ghế đó chí ít cũng phải mài nát đũng quần ở một trường đại học chú em ạ.
Thằng Cún cười khẩy:
- Ở bộ đội, tôi được dạy cuộc sống là trường đại học lớn nhất. Nếu đúng thế, vừa ở nhà quê, vừa ở bộ đội, tôi chẳng đã có tới hai cái bằng đại học đấy ư?
Sau hai tháng tá túc ở nhà Hoàn, cùng anh trai mình gõ hết cửa này tới cửa kia vẫn không kiếm được việc làm thích hợp, thằng Cún mới chịu xách ba lô về quê. Dĩ nhiên là có điều kiện. Như, Hoàn phải bỏ tiền ra xây lại nhà cho bố mẹ. Rồi đứng ra lo trọn đám cưới cho thằng Cún lấy một cô giáo trường làng. Thỏa hai điểm đó nó mới chịu. Bằng không, nó dọa sẽ bỏ quê đi biệt xứ. Mà đi đâu? Biết không? Ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn làm cái bang chơi! Cún này mà đi ăn mày thì xấu mặt cả làng Yên Hàn khoa bảng đã lỡ đẻ ra nó, khác nào bôi gio trát trấu vào cái họ Hoàng nổi tiếng nhờ đời nào cũng lắm người đỗ đạt và giàu có kia! Những điều kiện thằng Cún đưa ra đã được thỏa và mọi chuyện tưởng như đã yên. Sau sự kiện ấy, Hoàn vô tình được hai tờ giấy cổ và chuyển vào sống tại thành phố. Nhờ làm ăn tấn tới, ngoài căn nhà ba tầng lầu toạ lạc trên đường Cộng Hòa dùng để ở, vợ chồng Hoàn còn có một căn nhà khác ở đường Phổ Quang để cho thuê. Mới rồi người thuê nhà có đến nài nỉ xin Hoàn đồng ý để ông ta cho một người bạn cũ được phép tới ở tạm vài tháng. Vợ chồng Hoàn đã đồng ý và dự  tính sẽ đến tận nơi để xem xét xem người ở nhờ là người như thế nào vào một dịp thuận lợi. Nhưng bận việc liên miên, anh chưa thu xếp được thời gian.
Cách đây mấy hôm, có một chuyện xảy ra ngoài dự tính của Hoàn. Nhờ trời xui đất khiến như thế nào đấy, vào đúng lúc Hoàn đang mong gặp em trai cháy gan cháy ruột thì thằng Cún đã đột ngột vào thành phố. Nó tìm đến nhà anh mà không hề báo trước một câu. Ngồi chưa nóng chỗ, Cún bảo:
- Trước đây tôi nghe lời anh chị nên đã tình nguyện về quê chăm nom bố mẹ già. Anh chị làm ăn ngày càng tấn tới cũng là do phúc ấm mà cha mẹ để lại cho. Vậy nên, tôi đề nghị...
- Đưa cho chú mày một số tiền để phụng dưỡng bố mẹ phải không? Vợ Hoàn nhanh nhẩu nói.
Thằng Cún lạnh băng:
- Sao chuyện gì anh chị cũng quy ra tiền bạc nhỉ?
Hoàn thấy lạ bèn gặng:
- Sao chú mày không huỵch toẹt ra cho khỏi mất thì giờ?
Thằng Cún cười:
- Anh chị nhầm rồi. Tôi không nói chuyện tiền. Tôi chỉ nói chuyện tình!
- Thôi được! Hoàn nói- Đầu đuôi ra làm sao nào?
- Chuyện là thế này, bố mẹ giờ đã già yếu, lại chán cảnh quê mùa. Ý bố mẹ muốn vào trong này với anh chị.
- Việc ấy đâu khó khăn gì! Vợ Hoàn chặn trước - Bố mẹ chỉ nói một tiếng là tôi ra đón ngay!
Thằng Cún cười tủm tỉm:
- Giả tỉ bây giờ bố mẹ đang ở trong này rồi, chị có đi đón ngay không?
Người chị dâu giật mình:
- Chú đã đưa bố mẹ vào?
- Dĩ nhiên. Mà đang trọ ngay trong cái nhà anh chị cho ông Ba bún bò thuê ấy. Mỗi tháng đỡ cho ông ấy tám trăm tiền mướn nhà.
Mới nghe nói tới đó, mặt vợ Hoàn đã tái mét, cổ chị như bị nghẹn lại, đắng ngắt. Riêng Hoàn vẫn tỏ ra bình tĩnh, cứ như là chẳng hề có chuyện gì làm anh phải lo lắng hay bận tâm cả. Thằng Cún liếc nhanh về phía anh chị để thăm dò, rồi thủng thẳng bồi tiếp:
- Nói anh chị đừng nổi giận, vì gạo đã nấu thành cơm rồi, tôi đã tạm cầm hết nhà cửa, ruộng vườn ở quê và đưa bố mẹ vào đây trả anh chị. Dĩ nhiên về phần vợ chồng tôi, tôi đến đây không phải để xin anh chị mà để đòi nợ.
Hoàn đập tay xuống bàn:
- Tao nợ mày cái gì? Nói mau, tao nợ mày cái gì?
Thằng Cún xua tay:
- Anh nổi giận vô lí qúa. Nổi giận làm người ta mất khôn. Anh thử bình tĩnh nghĩ thử xem!
- Tao không nợ nần gì mày, nghe chưa? Hoàn quát lên.
- Có đấy! Thằng Cún xoa xoa hai bàn tay vào nhau - Mà nợ hơi bị  nhiều đấy...
Hoàn nóng mặt:
- Mày bảo tao nợ mày những gì? Kể ra đi!
Thằng Cún vênh mặt lên, bảo:
- Món anh nợ tôi chính là quá khứ và trí tuệ. Là anh em ruột, có bao nhiêu trí thông minh anh đã lấy hết của tôi. Anh không thèm để lại cho tôi một chút cho gọi là có! Hồi trước, nhà ta nghèo, nhưng bố mẹ còn cố lo cho anh được đi học. Đến lượt tôi thì bố mẹ bảo hết lực rồi. Giả sử lúc đó tôi không chịu tự nguyện bỏ học để anh được học tiếp, liệu bây giờ anh có hơn gì tôi không? Vậy mà anh dám bảo là anh không nợ gì tôi ư?
- Còn gì nữa không? Hoàn đã hơi run nhưng anh cố dằn giọng - Nói tiếp đi!
- Ai đã phải viết đơn tình nguyện đi bộ đội để anh trai mình được ở lại trường đại học? Có phải là tôi không?
Hoàn buông:
- Nói nữa đi!
Thằng Cún xoa xoa hai tay vào nhau, cười khẩy:
- Và ai đã thay anh ở với bố mẹ để anh có thời gian và yên tâm nghĩ cách làm giàu bấy lâu nay? Những cái đó không phải là món nợ mà anh sẽ phải trả cả đời cũng không thể hết được sao?
- Thôi được! Hoàn tỏ ra đuối lý, bất ngờ hạ giọng và vỗ vào vai em trai - Anh chấp nhận sẽ sòng phẳng, coi như cái nhà của anh chị sẽ thuộc về chú mày. Còn cái nhà ở quê, do các món anh chị nợ mà chú đã kể ra, anh sẽ bỏ tiền ra chuộc lại và nó thuộc quyền anh chị sở hữu. Dĩ nhiên phải có điều kiện. Giấy tờ đây, chú mày tự tay viết ra rồi cùng ký vào, mai ta sẽ ra công chứng!
Thằng Cún tưởng mình nghe lầm, hỏi lại một lần nữa. Nghe Hoàn nhắc lại, nó còn cố nài thêm:
- Còn việc phụng dưỡng bố mẹ già, anh chị có điều kiện hơn tôi, mong anh chị đừng từ chối cho trọn chữ hiếu.
Hoàn nói như đanh đóng cột:
- Được!
Rồi giục:
- Viết giấy đi!
Thằng Cún không ngờ tình thế lại diễn ra thuận lợi đến thế. Sợ anh trai mình đổi ý, Cún viết lia lịa và ký toẹt vào tờ giấy.
Hoàn nhận tờ giấy, thản nhiên đút vào túi áo và lạnh lùng bảo vợ đưa cho em trai mình một triệu đồng. Rồi lấy cớ mệt phải đi nghỉ sớm, anh quay vào phòng riêng.            
Đứng trước gương, lòng lâng lâng như bay, Hoàn sung sướng ngắm mãi những nét thanh tú trên khuôn mặt vốn rất sáng sủa của anh. Anh biết rằng, nay mai vợ chồng anh sẽ giàu hơn bây giờ nhiều lần. Bởi khi đã có trong tay hai tờ giấy, một là tờ giấy nói về kho báu, một là bản đồ chỉ dẫn cùng với căn nhà mà bố mẹ và em trai đã đồng ý để cho vợ chồng Hoàn toàn quyền định đoạt, việc lấy kho báu trong lòng đất dưới bục thờ tiên tổ đối với anh chỉ còn là vấn đề thời gian.
Giao nhà cho em trai xong, vợ chồng Hoàn lấy vé máy bay về quê. Trưa hôm sau Hoàn làm một mâm cơm cúng, mời các chú các bác đến họp. Anh nói:
- Anh em cháu bỏ quê đi kiếm ăn xa. Ấy cũng là có lỗi với dòng họ. Thôi thì các bác, các chú cho vợ chồng cháu bù lại bằng cách đứng ra xây lại cái bục thờ trong từ đường họ ta...
Các ông chú bà bác vỗ tay tán thưởng, khen vợ chồng Hoàn hiếu nghĩa.
Hôm sau, lấy cớ phải chọn giờ động thổ tượng trưng, vào nửa đêm, Hoàn xắn tay áo, hì hục đào một cái hố nhỏ dưới bục bàn thờ. Mới chừng nửa mét, Hoàn đã moi được một cái hộp gỗ. Bật nắp hộp, hai vợ chồng anh mừng phát khóc khi thấy bên trong có một pho tượng. Đúng là vàng ròng thật rồi! Vợ Hoàn giữ khư khư cái hộp trên tay. Trống ngực chị đập thình thịch. Mắt chị hoa lên…
Chị chợt thấy thằng Cún đứng lù lù bên cạnh, nhăn nhở cười, rồi đưa tay giật phắt lấy cái hộp. Pho tượng văng ra khỏi hộp, rơi xuống nền gạch cái cạch và bị gẫy làm đôi. Thằng Cún cúi xuống vồ lấy pho tượng. Nó tròn mắt, lạc giọng kêu lên:
- Đá! Chỉ có đá!
Rồi ném ngay pho tượng xuống đất, quay mặt bỏ đi thẳng.
Có lẽ thằng Cún đã lờ mờ nhận ra điều uẩn khúc đằng sau việc Hoàn lấy lại cái nhà tồi tàn ở quê kia? Nên nó đã theo anh chị về tận đây để biết rõ hư thực? Nhưng nó đã không biết khối đá lạnh ngắt kia còn qúy hơn cả vàng ròng?
Cái rủi, cái may ở đời thực ra chỉ có trời mới biết trước! Xây từ đường xong, vợ chồng Hoàn đem pho tượng về thành phố, trang trọng đặt ở phòng tiếp khách; bạn bè Hoàn đến chơi, ai cũng khen đẹp. Chuyện lọt tới tai một tay buôn đồ cổ ở đường Lê Công Kiều. Hắn tìm tới thăm Hoàn và bỏ ra mười ngàn đô la để mua pho tượng đá. Hoàn chưa hết mừng thì thằng Cún lại đã lù lù xuất hiện. Nó đứng giữa cửa, dọa sẽ kiện anh nếu không chia cho nó một nửa pho tượng...
Nhớ tới đây, Hoàn chặc lưỡi:
- Ở đời ai cũng phải gánh một nỗi khổ riêng! Người thì khổ vì sướng. Kẻ lại khổ vì cực. Còn ta, ta khổ vì cái gì đây?
Lúc ấy, có thấy tiếng xe máy rồ ngoài cửa. Đoán là vợ đã về nhưng Hoàn vẫn không ngẩng mặt lên. Anh đã đau đầu lắm rồi, dù có phải chịu đựng thêm vài giờ bị vợ chì chiết nữa cũng chẳng hề hấn gì. Nhưng bên tai anh lại loáng thoáng tiếng thằng Cún:
- Tôi lói ... cho anh hay... Anh mà...thì anh sẽ ...
Mắt Hoàn bỗng tối sầm lại.
Anh lâng lâng bay vào một giấc mơ vô tận...
 

 
 
                              NẾP NHÀ
 
Cả nhà nhốn nháo. Bà Tư và hai cô con dâu khóc như ri vỡ tổ.
Cậu hai nhấc máy điện thoại, quát vô ống nghe, gọi bác sĩ.
Cậu ba lạnh lùng chạy ra cửa, móc mô bai, chẳng rõ  đang gọi đến cơ quan hay ngoắc tắc xi ngoài đường.
Riêng cậu út ấm đầu thì ngồi bên cạnh ông Tư, tay khẽ day day lên ngực người bệnh, miệng mếu máo :
- Ba ơi ư ư ... Ba đừng bỏ chúng con...ư ư...
Khi út lần tới túi áo ba, cậu bỗng kêu lên: “Cái gì thế này?” và móc ra một cái nhẫn.
- Bằng đồng đuôi các tút đạn súng trường! Cậu hai nghiêng ngó nhìn, rồi tỏ ra thông hiểu về các loại nhẫn, nói.
Cậu ba đoán:
- Chắc ba làm để cho tụi con nít chơi...
Lúc ấy, ông bác sĩ ở cuối phố đã lạch bạch chạy tới, phều phào nói:
- Tránh hê...hết r..ra. Bộ các người không muốn cho ổng thở nữa sao?
Mọi người dạt ra một chút. Vẫn đủ để nghe thấy ông bác sĩ lẩm bẩm:
- Hê...hết cách! Ổng thất lộc rồi! Nhưng...
Cậu hai hét vô tai ông bác sĩ già:
- Nhưng làm sao, hả? Ông nói nhanh lên! Để chúng tôi còn liệu, nào!
- Nhưng ... Còn nước còn tát! Chở ông ấy đi cấp cứu ngay!
-  Đồ rởm! Cậu ba văng tục.
Một người đàn bà hùa theo:
- Vậy mà cứ há mồm ra tự  khen giỏi, giỏi...
Cậu hai cắt ngang:
- Trách cứ bây giờ chưa phải lúc! Ô, đã có ai kêu xe chưa?
- Rồi! Nào, xúm tay đưa ba ra xe, nghe!
- Thằng út ở lại trông nhà. Dạo này lắm bọn chôm vặt lắm đó út à!
Út nghe không rõ, hoạnh:
- Ai biểu tui chôm vặt? Tui giựt công khai chớ sá kẻ nào mà phải lén?
Ba cái tắc xi cùng lúc trờ tới, thắng kít trước cửa. Ông Tư được hai người con trai khiêng lên cái tắc xi màu đỏ. Cậu ba làu nhàu:
- Tệ thiệt! Ba vừa mới hưu, đã hắt ngay nhỡn tiền. Chẳng có ma nào dòm, chết bỏ luôn!
Cậu hai dằn mặt:
- Im đi!
Những người đàn bà lục tục leo lên hai chiếc xe màu trắng còn lại, miệng nheo nhéo giục tài xế:
- Cứ theo xe đỏ mà chạy!
Cậu út ấm đầu nhướng mắt về phía anh hai, hất hàm:
- Chở ba tới Thống Nhất, phải không?
Hai người anh cùng gật đầu. Thế là anh lái xe rồ máy, cho xe vọt đi.
Cậu út trở vô phòng. Một lát sau, cậu quay ra, tay cắp tấm bảng đen ba cậu vẫn dùng để ghi lịch công tác  hoặc những lời dặn dò đại loại “ Ba ăn tiệc ở nhà hàng”, “ Không phải chờ cơm”, hoặc “ Tiền cho út để ở chỗ cũ”, “ Khuya ba mới về”. Treo tấm bảng ở góc phòng khách xong, út lục tìm được cây bút lông màu đen, vẽ nguệch ngoạc vô giữa bảng một dòng chữ. Lướt nhìn cái sáng kiến độc đáo của mình, út dậm dậm chân xuống nền nhà, miệng huýt sáo, óc nghĩ thầm: “ Độc thiệt! Không rõ vì can cớ gì mà những kẻ độc mồm độc miệng cứ  biểu ta là hâm nhỉ?” .
Nghe tiếng bước chân người, út quay trở ra. Một ông lão hom hem vừa bước từ xích lô xuống đã hỏi ngay:
- Ba con bịnh đang nằm đâu?
- Ở kia kìa!
Nhìn tay út chỉ, vị khách ngớ người:
- Thế này là thế nào?
- Ông không nhìn thấy sao?
- Ta...ta thật không ngờ...
- Điều gì?
- Lẽ ra ta đã không trả lời con nữa. Nhưng vì anh Tư, ta yêu cầu con bỏ tấm bảng kia xuống. Và nên học ăn học nói cho đúng cách...
- Xin lỗi, ba tui có ở nhà thì cỡ ông cũng chỉ đáng được nhìn dòng chữ “ Đi công tác vắng” mà thôi. Chẳng lẽ tôi đã không lịch sự  khi cho ông hay ổng đang nằm viện?
Lão Vận mở to mắt. Đúng là nó đã viết dòng chữ “ Ông Tư hiện đang nằm tại Thống Nhât” trên bảng! Tuy nhiên, lão đã không nổi giận vì chợt nhớ ra rằng thằng út còn có biệt hiệu là út ấm đầu. Và chỉ ít phút sau đó, lão Vận đã thấy ngay được giá trị của hành hành vi hâm hấp kia. Nhờ nó mà  lão đã kịp tới bệnh viện Thống Nhất để nắm lấy bàn tay đang lạnh giá dần của ông bạn già. May mắn nhất là trong phút lâm chung của ông Tư, lão đã nhận được cái gật đầu đầy ẩn ý của bạn và cảm thấy hơi bị sốc khi buộc phải xác nhận cái chuyện nghe như đùa năm xưa là chuyện thiệt trăm phần trăm. Là cán bộ lâu năm, bụng chứa cả một kho luật pháp, chẳng lẽ ông làm ẩu đến cỡ ấy? Trước đây, do không được hay những chuyện riêng của bạn, có lúc lão Vận cũng đã nghĩ: “ Người ta bịa chuyện bậy bạ để kiếm cớ hạ bệ ông Tư đấy thôi”. Nghe nói thì ngoài bà vợ cơ quan cưới cho hồi tập kết ngoài bắc, sau giải phóng, ông Tư còn có tới hai bà vợ bí mật nữa. Một bà vốn là vợ goá của một công chức cũ. Bà có với ông một đứa con trai. Sợ ông bị liên lụy, bà bồng con xuất cảnh theo gia đình. Nghe nói ông có trao cho bà một kỉ vật. Một viên ngọc qúy lắm thì phải. Một bà nữa buôn bán ở chợ Cầu Muối. Bà này cũng có hai mặt con với ông Tư. Khác chăng, tiếng là già nhân ngãi non vợ chồng thật đấy, nhưng kể từ sau lần sinh thứ hai, năm thì mười hoạ bà mới cho người nhắn ông Tư  tới thăm con một bận. Người ta đồn rằng hai đứa trẻ kia cũng được ông Tư trao cho một kỉ vật. Vẫn là những viên ngọc qúy. “Chắc ông phải còn nhiều ngọc nữa”, ai cũng biểu thế. Họ cho rằng, hồi tiếp quản, ông Tư ở cả tháng ròng trong tòa biệt thự của một viên chức cao cấp của chế độ cũ vốn  nổi tiếng là kẻ tham những; ở đấy chắc chẳng thiếu gì ngọc?
Trong đám tang, chỉ có bà Tư là người đàn bà duy nhất khóc ông Tư. Nhưng bà cũng chỉ hờ. Hờ cho mọi người hay rằng ông đã sống một cuộc đời thủy chung như nhất với bà. Đi sau quan tài ông Tư còn có hai người đàn bà nữa; nhưng họ không khóc. Không phải vì họ không muốn khóc mà là không dám khóc. Bởi họ sẽ khóc ông theo quan hệ nào? Nếu vì nước mắt của những người đàn bà mà thanh danh ông bị hư hoại thì họ cũng chẳng nên khóc? Bởi vậy, lão Vận chỉ nghe được những tiếng hự hự ấm ức. Mấy người trai trẻ ăn mặc lịch sự đi sau những người mẹ của họ cũng không khóc, chỉ lấy khăn mù soa che lấy miệng.
Cậu hai ghé miệng sát tai cậu ba nói thầm:
- Bữa nay má mình là người sung sướng nhứt. Bả được khóc thiệt đã!
- Ừ, nhưng mà tội cho những người khác quá, họ sẽ chết vì không chảy được nước mắt!
Cậu út từ phía dưới vượt lên, cấu vô tay anh hai:
- Vì sao mấy ảnh ai cũng mang một cái nhẫn đuôi các tút súng trường nhỉ? Họ có phải là anh em của chúng ta không?
 Cậu ba quay sang phía thằng em, lừ mắt:
- Không! Đấy không phải là bằng chứng để họ đến đây nhận một phần tài sản của chú mày! Nghe rõ chưa, đồ mát?
Cậu ba định nói nữa. Nhưng bắt gặp ánh mắt sắc như dao của người vợ, cậu nín thinh ngay. Cậu rùng mình tưởng tượng ra cảnh  ba mươi năm sau. Ngày ấy, vợ cậu sẽ xử trí như thế nào khi cô ta rơi vô hoàn cảnh y hệt của má cậu hôm nay?

 
 
                              GƯƠNG TRĂNG
 
Đầu giờ chiều ngày thứ hai, Nguyễn lò dò tới ủy ban quận.
Cuối buổi tiếp, bà phó chủ tịch vui vẻ đưa cho anh bốn tập báo cáo tổng kết. Đọc lướt qua, Nguyễn như mở cờ trong bụng. Trong sấp giấy anh vừa nhận được có một nguyên mẫu rất tiêu biểu.
Cơm chiều xong, Nguyễn quên cả uống nước, vô ngay phòng viết để đọc tài liệu. Vốn là người dễ xúc động, đọc nhiều đoạn do chị Thu Hằng tự kể về đời mình, nước mắt Nguyễn cứ ứa ra. Có lúc, không kìm được, anh kêu lên: “Khổ, khổ quá. Khổ đến thế là cùng!”, hoặc: “Hên rồi! Cũng phải vậy mới được chứ!”. Bị nhân vật cuốn hút, Nguyễn say sưa tới mức không biết vợ anh đã đứng ở sau lưng từ lúc nào. Cho tới lúc anh reo lên: “Chà chà...” thì cũng là lúc tóc anh bị túm chặt, mặt anh bị xoay ngược lại đằng sau.
- Này! Vợ anh nghiến răng, khẽ rít lên- Tôi biểu cho mà biết, anh còn theo nó, bù trì cho nó, tôi xẻo...
- Ơ kìa, em hay thiệt, đây là một tấm gương!
- Gương lược gì! Anh xạo thì có. Gương lược nào khiến anh khóc được?
- Đây này!
Anh nói và giở trang cuối cùng của tập báo cáo. Người vợ nhìn chăm chắm vô hàng chữ kí và con dấu còn đỏ chót màu son. Rồi buông Nguyễn ra, chị thở cái phào:         
- Văn với chả chương, làm người ta hết cả hồn!
Sáng thứ ba, Nguyễn xuống phường. Anh chủ tịch phường kể:
- Cô Thu Hằng là một phụ nữ giàu nghị lực. Chỉ tội nghiệp cho anh chồng. Ảnh bị tâm thần bảy năm nay; chân lại bị bại liệt, không đi lại được.
Chị hội trưởng hội phụ nữ ngồi bên cạnh cũng nói:
- Chị Thu Hằng cực lắm anh ơi. Ba giờ sáng đã phải dậy nấu xôi đem xuống Chợ Lớn bán. Mười một giờ trưa mới về tới nhà. Chiều lại phải lo đủ việc chồng con. Đúng là hồng nhan bạc phận!
Riêng anh công an phường ghé qua ủy ban xin ý kiến về việc chống tệ nạn xã hội là không nói gì. Thấy anh chủ tịch ngỏ ý nhờ dẫn Nguyễn xuống nhà chị Thu Hằng, anh công an gật đầu nhận lời ngay.
Anh công an đưa Nguyễn tới nhà ông Hai, tổ trưởng dân phố nơi gia đình chị Thu Hằng cư trú, rồi lịch sự xin phép ra về.
Nguyễn giở sổ tay, chăm chú nghe ông Hai kể về thành tích xoá đói của chị Hằng. Cuối cùng, ông cùng Nguyễn tới thăm một căn nhà lụp xụp. Nhà ẩn trong một khu vườn đầy dừa và cây dại. Chỉ vô cánh cửa im ỉm khóa, ông nói:
- Nhà chị Hằng đó.
Nguyễn hỏi:
- Vậy anh chồng bây giờ ở đâu?
Ông Hai thở dài:
- Nó nhốt ảnh ở trỏng. Rồi đi bán hàng.
- Chị Hằng có gửi ai giữ chìa khoá đề phòng hỏa hoạn không?
- Nó gửi tôi. Để tôi mở cửa cho anh gặp chồng nó nha!
Ông Hai vừa nói vừa tra chìa vô ổ khoá.
Cửa mở. Từ trong đống chăn màn hôi hám chưa gấp, một người đàn ông lồm cồm bò dậy. Đôi tay khẳng khiu của anh ta run bần bật...
Hai con mắt giương thao láo, anh ta thều thào nói:
- Không để đến tối cho khuất hẳn mắt tao ư?
Nói xong, anh ngã vật xuống, quay mặt vô tường. Hình như anh ta không muốn nhìn mặt ai nữa thì phải.
- Tội nghiệp chị Thu Hằng. Phải kiếm bao nhiêu tiền mới đủ để chữa hết bệnh cho chồng đây? Nguyễn nghĩ thầm.
Trong suốt chiều hôm ấy, dựa theo lời kể của nhiều người và những điều mình được tận mắt chứng kiến, Nguyễn viết xong bài kí về nhân vật chị Hằng.
Đắc ý, buổi tối, anh đem ngay bản thảo đến nhờ ông Hai đọc và góp ý giùm.
Đọc xong bài Nguyễn viết, ông tổ trưởng không khen chê điều gì. Nguyễn gặng hỏi thì ông Hai lại biểu:
- Còn thiếu nhiều lắm!
Rồi, ông khoát tay, tiếp:
- Anh cứ thử đi với tôi một lần rồi sẽ rõ!
Nguyễn lẳng lặng đứng dậy, đi theo ông.
Hai người rón rén lần theo mương nước phía sau nhà chị Hằng.
Nhờ ánh trăng mười rằm lọt qua mái lá soi vô bên trong, Nguyễn nhận ngay ra anh chồng tâm thần bại liệt yếu ớt của chị Hằng đang nằm úp mặt vô tường, thút thít khóc. Phía giường bên kia, một gã đàn ông to như một con hổ đang thản nhiên xoay mặt chị Hằng về phía gã. Người đàn bà hi hí cười, riết chặt lấy gã đàn ông...
Nguyễn chợt hiểu, khẽ bấm vô tay ông Hai, ra hiệu rút êm.
Về tới ngõ nhà mình, ông Hai mới nói khẽ:
- Trên đã giúp vợ chồng nó xoá được đói. Nhưng bây giờ...
Nguyễn khờ khạo hỏi:
- Thì sao?
Ông Hai thở dài:
- Con Hằng biểu nó hết đói cơm đói áo, nhưng vẫn bị  nhiều thứ đói khác làm tình làm tội. Tỉ dụ như đói… À, mà cứ đà này thì gia đình nó sẽ lại rơi vào vòng luẩn quẩn thôi…
- Mấy chú không có cách nào giúp chị ta tỉnh ngộ sao?
- Tôi tin là có cách chớ .
- Nhưng sao tổ dân phố chưa báo cho phường biết chuyện này?
- Cực lắm anh ơi! Khổ nỗi là tay Tư cũng đã có vợ con rồi. Nhưng miệng cứ leo lẻo nói là nó giúp đỡ con bé vô tư lự. Chúng tôi sẽ gặp riêng hắn để đem ra lời khuyên nhủ trước đã. Bởi nếu chuyện này vỡ lở ra, cả hai đều sẽ gặp rất nhiều rắc rối. Chưa nói đến chuyện pháp luật mà chỉ nói tới vợ tay Tư thôi, con mụ ấy dám xé xác cả thằng chồng lẫn con Hằng ra làm trăm mảnh lắm!
Nguyễn thừ người, tay vô tình vò nát bài văn, ném xuống mương. Mặt nước sóng sánh ánh trăng. Y như  một tấm gương bị vỡ vậy...


                 
 
                     XÍ MÈN
     
Có thể tôi đã là một trong những người có tài viết thơ hay nhất thế giới. Chỉ với những lá thơ màu hồng đẫm nữ tính viết vội trong chừng nửa giờ đồng hồ mà mấy bữa trước tôi đã làm cho nhà bà Xí Mèn nườm nượp những đàn ông ra vô.
Người vô gườm gườm nguýt người ra. Người ra, tuy cố tỏ ra lịch sự, song miệng thì vẫn lầu bầu rủa kẻ ngó mình bằng ánh mắt chẳng mấy thiện cảm.
Người ra, là ông Năm Xà Lỏn, chồng cũ của bà Xí, ba ruột của cô Oanh và cô Phượng. Ông Năm về ở với bà Xí Mèn từ  năm 1977, chung sống với nhau ba năm. Rồi cho rằng mình bị dồn vô cảnh nghèo khó là do vợ, ông Năm đã bỏ nhà đi tìm cuộc sống mới. Lưu lạc chán, ông dừng chân ở quận 8, sống với một người đàn bà khác. Mười tám năm qua, ông hầu như không hề tới thăm con một lần nào.
Còn người vô là ông Trâu Què, dượng kế của hai cô gái. Ông Năm bỏ đi được vài ba năm thì ông này khập khiễng chống nạng tới sống với bà Xí Mèn. Gần đây, cậy mình trẻ hơn vợ tới mười tuổi, ông Trâu lấy cớ bịnh tật chẳng chịu làm ăn gì ngoài việc tối ngày đi nhậu trong các quán cóc. Dù đã có thêm một bé gái trong lần đi bước nữa, nhưng chán cảnh anh chồng vô tích sự, bà Xí tức giận, đuổi ông Trâu ra khỏi nhà. Nghe nói, hôm bị vợ đuổi, ông Trâu cười hơ hớ, tí tởn biểu tôi rằng ông rất mừng khi thoát được cái nợ đời.
Hai người đàn ông mặc com lê xanh, thắt cà vạt tím, ôm trên tay hai bó hoa thắm đỏ đến nhà bà Xí Mèn hôm ấy là bạn của cô Sáu, em ruột ông Năm, đang cư trú tại Anh. Một người tên là Ming, trạc 30 tuổi. Theo lời giới thiệu trong thơ cô Sáu gởi về trước đó thì Ming đã có vợ, ba con. Vợ Ming là một phụ nữ gốc Xcốtlen đã bỏ anh ta. Qua thơ, anh ngỏ ý rất muốn lấy Oanh. Người đàn ông thứ hai có tên là Pôn. Cứ theo như anh ta từng kể thì trong một lần tới thăm Ming, biết Oanh có một cô em gái khá xinh, Pôn bèn nhờ bạn giới thiệu giùm. Cũng như Ming, mấy tháng nay anh ta đã gởi thơ cho Phượng và nhận được thơ trả lời của cô khá đều đặn, chỉ không hay những lá thơ màu hồng đó đều do một tay tôi viết hộ, thương hộ ...
Hai chàng rể ngoại quốc ôm hoa bước vô cửa. Lúc này, tôi bỗng thấy vẻ mặt tươi roi rói của ông Trâu và ông Năm ló ra. Ông Trâu tay đưa ra phía trước, vồn vã:
- Mời hai anh vô chơi. Qúy hoá qúa à!
Nghe ông Trâu kêu ngọt xớt, ông Năm khẽ biểu:
- Ông làm ơn vô coi hai đứa trang điểm xong chưa? Rồi biểu có hai anh đây tới chơi, nghe!
Tuy lộ ý không vui nhưng ông Trâu vẫn  cố từ  tốn nói:
- Ông Năm rót nước mời hai anh xơi giùm nha! Tui sẽ kêu hai đứa ra liền à...
Lúc ấy, bà Xí Mèn mới từ chợ về. Ông Năm te tái chạy ra, tay đỡ lấy cái giỏ, miệng liến thoắng:
-  Má sấp nhỏ vất vả quá! Để tui đỡ cho một tay.
Những lúc khác, chắc hẳn Năm Xà Lỏn đã bị một cái tát tóe máu mắt rồi. Nhưng trong tình thế hiểm này, bà Xí Mèn chỉ còn biết bấm bụng, tươi cười:
- Chào anh Ming, anh Pôn! Chắc vất vả lắm hai anh mới kiếm được nhà chúng tui?
Rồi thấy ông Trâu đang thập thò trước cửa buồng, không biết làm thế nào, bà Xí hạ giọng bảo:
- Cảm phiền ông kêu giùm mấy ly cà phê đá...
Ông Trâu chưa kịp làm theo lời bà Xí thì ông Năm đã chạy sang quán cà phê, lễ mễ bưng về mấy ly cà phê. Hai cặp mắt nhìn nhau nảy lửa. Nhưng tôi biết hoàn cảnh  không cho phép họ to tiếng với nhau. Cả hai cùng mỉm cười.
- Mời ông ra dùng cà phê chơi với...chúng tui - Ông Năm thản nhiên nói.
- Dĩ nhiên. Tụi tui... Rất, rất hân hạnh được ông... ghé qua chơi! Ông Trâu cũng vừa cười vừa nói to.
Tôi cảm thấy lo hộ cho bà Xí bởi thấy Ming và Pôn có vẻ hơi ngẩn người ra, lộ rõ vẻ bối rối.
Mời họ ngồi xuống ghế, ông Năm ngầm giới thiệu bằng cách hỏi:
- Cô Sáu nhà tui bển vẫn mạnh chớ anh Ming?
- Dạ, thưa...ba, cô con vẫn mạnh ạ. Cổ có thơ riêng cho ba đây...
- Thôi được, thôi được. Tui mừng quá. Ai ngờ con em tui nó giỏi quá ha. Chọn liền cho tui hai chàng rể đáng mặt rể a!
Bà Xí ngoắc mắt:
- Được rồi. Ông để chuyện mấy đứa nhỏ đó tui lo! Bây giờ, ông về lo chuyện nhà đi...
Ông Trâu cười hi hi nhìn ông Năm bước ra cửa.
Lúc ấy, tôi thấy ông ta chạy vội ra đầu cầu Tân Thuận, chặn ông Năm lại.        
Tưởng họ sẽ to tiếng với nhau, tôi vội chạy theo để lựa lời khuyên can. Nhưng tôi đã đoán sai. Khi tới nơi, tôi thấy ông Trâu đang giúi vô tay người chồng cũ bạc tình của vợ hai trăm ngàn và nói:
- Bà ấy biểu ông mà còn qua quậy như thế nữa, một xu lẻ cũng không có phần đâu nghe!
- Giỏi ha! Để coi ai cho ai tiền nào! Không có tui, thử  hỏi có ai thèm ngó tới các người? Tui thì...
- Thì làm gì nào? Ông mà quậy, tui sẽ không nể mặt, nói cho thằng Ming, thằng Pôn biết rõ về ông cho bõ ghét a! Nhớ lấy!
Câu đe dọa có vẻ hiệu nghiệm. Ông Năm cười gượng, nháy mắt với tôi rồi đút tọt tiền vô túi, đi về phía một quán nhậu quen thuộc.
Chờ cho ông Năm khuất hẳn, ông Trâu cười nụ, thò tay vô túi nắn nắn xấp tiền hai trăm ngàn đồng mà ông vừa ăn chặn được, rẽ nhanh vô một tiệm ka rao kê.
Hai hôm sau, tôi gặp ông Năm trong lúc ông đang nài nỉ chị tôi cho vay ba trăm ngàn. Vay tiền xong, ông kêu Oanh và Phượng sang, biểu:
- Nghe nói người đẹp vì lụa vì là. Bao năm nay ba chưa may cho các con cái áo nào. Bữa nay ba có chút lòng...
- Nhưng ba kiếm đâu ra tiền?  Phượng hỏi.
- Vay nóng cô Hai chị chú Ba đây chớ đâu. Rồi, chờ có tiền các con cho là ba sẽ thanh toán lại cho cổ liền à...
Nghe nói thế, hai cô gái nhìn tôi với vẻ ngượng ngập, xịu mặt xuống, bỏ về nhà.
Ở bên kia, ông Trâu Què đang ngồi trước cửa, thấy Oanh và Phượng, ông bèn đứng dậy, ngọt ngào:
- Dượng đã bớt tiền nhậu mua cho mỗi đứa một cái bóp đầm đây nè, đẹp không? Không có công đẻ nhưng cũng có công nuôi à...
Hình như  bà Xí Mèn biết hết mọi chuyện. Nên lúc hai người đàn ông trở lại, tôi nghe rõ tiếng bà la huầy huầy:
- Các ông không xứng là ba sấp nhỏ. Đừng tới đây quậy nữa; để tui yên bề lo  cho chúng!
- Bà nói nghe không lọt tai, chúng nó không phải là con tụi tui sao?
Rồi, không nói không rằng, cả hai ngã vật ra nền nhà, đánh một giấc. Ai mà đi chấp với hai thằng say?
Bỏ sang nhà chị tôi, bà Xí nói với tôi và chị tôi rằng bà rất lo lắng. Chiều nay, hai chàng rể tương lai sẽ tới nhà bà để bàn chuyện cưới xin.  Bà hỏi, nếu chúng tôi ở địa vị bà thì sẽ phải làm như thế nào đây để hai chàng rể không biết gia cảnh nhà vợ như thế này? Bà biểu  chị tôi, nếu bà có tiền thì việc tống Năm Xà Lỏn và Trâu Què chẳng khó khăn gì! Chỉ ngặt một nỗi là, bà vừa rân rấn nước mắt vừa kể, vào ngày hôm trước, Năm Xà Lỏn và Trâu Què đã gặp bà và khăng khăng đòi bà đưa trước cho mỗi người một ngàn đô la. Không thì, họ hù dọa thế, sẽ phá tan đám cưới kép này cho mà coi!
Mọi chuyện tưởng như đã xong và đám cưới của Ming và Oanh được tổ chức khá linh đình.
Sau đám cưới, Ming mua cho Oanh một chiếc xe Dream.          
Bữa đôi vợ chồng trẻ đi Đà Lạt hưởng tuần trăng mật, Trâu Què và Năm Xà Lỏn say khướt, cùng một lúc lảo đảo bước vô nhà bà Xí. Kẻ giữ tay lái miệng lè nhè kể công sinh thành, khăng khăng đòi dẫn xe đi. Kẻ níu yên xe leo lẻo nói câu dưỡng dục, cố sức kéo chiếc xe lại. Rồi không ai chịu ai, hai kẻ say lao vào nhau, cái xe đổ nghiêng, đè lên người họ.
Bà Xí Mèn van lơn đủ ngón. Nhưng cả hai người đàn ông cao thượng đều nói, đại để: nếu sau ngày Oanh xuất cảnh, cái xe kia không được chia ra làm ba phần bằng nhau thì chớ có trách tụi này ác, nghe chưa, tụi này đã báo trước rồi đó, nghe chưa!
Riêng Pôn, không hiểu vì lẽ gì, đã chủ động bỏ về nước. Giấc mộng xuất dương của cô Phượng vì thế cũng tắt ngấm theo. Cô chẳng còn lý do nào để mà tơ tưởng tới anh chàng mang tên ngoại quốc xa lạ kia nữa.
Còn tôi, tôi đúng là một người gặp may mắn? Than ôi, ở đời chẳng có cái dại nào giống cái dại nào! Bây giờ thì tôi đã sáng mắt ra. Tôi biết mình sẽ còn phải viết tiếp những lá thơ màu hồng cho ai đó.
Khổ thay là cái nghiệp viết! Quen tay rồi, biết làm sao bây giờ?
 
 
                                 NỤ CƯỜI
     
Người này bảo Phất đi bỏ mối bột ngọt, bị các con nợ giật hết vốn. Người kia lại rỉ tai cho những kẻ ham nghe chuyện vặt rằng Phất mê đề đóm, cờ bạc cuối tay gặp vận đen. Tệ hại hơn cả là cái tin nửa hư nửa thực nói Phất mua đất xây nhà cho Dâng, một người đàn bà Huế vỡ hụi, trốn quê vào Nam kiếm sống. Anh ta bị cô ả lừa lấy hết tiền bạc mà há miệng mắc quai, không dám kêu ca lấy nửa lời. Uất ức trước quyết định bán nhà trả nợ của chồng, vợ Phất đã chết bất đắc kì tử trong nhà tắm. Pháp y kết luận, thuốc độc đã xéo nát ruột gan người tự  vẫn.
Dâng nghe tin, sợ quá, bỏ gánh bún bò đến nhà một người bạn gái có chồng đang làm chủ thầu xây dựng, ngỏ ý muốn xin đi làm ở một nơi thật xa. Anh chồng người bạn đồng ý để  cô đi nấu ăn cho một tốp thợ đang cất nhà dưới Cần Giờ.
Ở xứ biển heo hút này, nước ngọt rất khan hiếm. Cả tuần, những người thợ xây mới được tắm rửa một lần thoải mái. Cuối ngày, họ chỉ quây quần, bầu bạn với vài xị rượu đế. Sau đó, lăn ra sàn nhà đầy xà bần, ngủ say như chết trên những tấm cốp pha.
Thi thoảng, để lấy lòng anh tổ trưởng, Dâng tươi cười nhấp môi một li mắt trâu rượu do anh tự tay rót cho. Rồi cô thu xếp chỗ ngủ cho mình trong góc một cái nhà tắm không biết đến bao giờ mới có nước. Tuy nhiên trong cái bập bềnh của hơi men, cô vẫn cảm thấy rờn rợn mỗi khi ngửi thấy mùi mồ hôi nằng nặng của những người đàn ông phảng phất xung quanh. Riêng có một lần, Dâng bị các anh ép cho tới say khướt. Sáng dậy, cô ngơ ngác, rồi giật mình  tự  hỏi:
- Đêm qua, làm như thế nào mà mình lần về được cái nhà tắm nhỉ?
Tháng chín.
Cô lấy làm lạ khi thấy ngực mình mỗi ngày một căng lên, còn núm vú thì tự nhiên thâm lại. Trong lòng hình như lúc nào cũng khát khao một điều gì mơ hồ mà không dám gọi tên ra. Nhưng mà với ai? Cô điểm mặt từng người thợ, thăm dò. Họ chỉ cười cười, mắt hướng về phía anh tổ trưởng.
Đêm hôm rằm, anh tổ trưởng khẽ khàng đến ngồi xuống bên cô. Lay cô dậy, anh khóc, anh van cô tha thứ  cho kẻ ăn trộm tình. Ban đầu Dâng còn chần chừ. Nhưng sau đó, cô nghiêm mặt, đẩy anh ta ra.
Anh tổ trưởng cúi mặt, bỏ ra ngoài hút thuốc lào sòng sọc. Chừng nửa giờ sau, anh ta thở dài, phủi chân, ngả người trên một tấm ván, ngáy pho pho...
Trốn khỏi bệnh viện, nơi người ta vừa hút ra giọt máu bất đắc dĩ, Dâng vẫy một cái xích lô. Gọi xe mà cô chẳng biết mình sẽ đi đâu. Có lẽ cô sẽ ra ga tàu hoả. Cô sẽ về nhà? Rồi đến đâu thì đến! Thịt người ai có thể ăn?
Dâng lảo đảo lên xe. Cô ngồi thu lu, ôm lấy bụng, mặt mày sây sẩm. Người đạp xích lô vội nhảy xuống đất, đưa tay đỡ cô ngồi ngay ngắn lại.
Đúng lúc ấy, cái nón che kín nửa mặt người đàn bà bị gió lật ra phía sau. Người đạp xe thảng thốt kêu :
- Dâng! Trời ơi, sao lại ra nông nỗi này?
Trân trân nhìn anh ta, Dâng chỉ kịp gọi: “Anh Phất...” rồi lả người, mắt nhắm nghiền, ngã vào nệm xe.
Đứa con lớn của Phất thấy bố chở một người đàn bà rũ rượi gục trên xe, vội chạy lại giúp bố đỡ khách xuống. Nhưng khi nghe nói: “Cô Dâng đấy!” thì nó lùi lại, nhìn xoáy vào cái miệng đang há ra của người đàn bà. Mặt bà ta trắng nhợt, lộ rõ vẻ ngạc nhiên. Vẻ mặt này nó đã một lần trông thấy? Đúng thế! Đó là vẻ mặt của người mẹ xấu số hôm bố nó bế ra từ nhà tắm như bồng một đứa trẻ.
Khác chăng là cô Dâng còn biết khóc? Thằng bé nghĩ, lúc này nó cũng có thể khóc được lắm chứ! Vì sao ư? Có lẽ chỉ vì bố nó chăng? Miệng ông ta méo xệch. Nhưng rõ ràng, đấy là một nụ cười!
 


 
                              TRÚNG SỐ
 
Bữa nay, trong lúc vắng khách, đậu xe dưới tán bàng mát rượi nhà bà Tư, Bụi cứ ngậm ngùi ngẫm mãi về sự may rủi của một vài người trúng số. Nhà ông Bảy cà phê cây mận vô bạc tỉ, đi lãnh tiền thưởng mừng quá hoá chủ quan nên mất xe; vừa mới có tiền đã coi tình như cỏ rác, ép con gái phải bỏ người yêu nghèo lấy một tay trọc phú giàu có, đẩy cô bé vô đường cùng tự giận. Hay như bà Tám trong hẻm, từ khi xênh xang vàng bạc, chỉ lo đề đóm, gặp người quen không thèm chào hỏi, giờ phải đi mua ve chai đắp đổi qua ngày... Rặt những chuyện buồn quá trời quá đất à! Mà Bụi nào có hơn gì họ? Cũng là cái số ăn mày, dù thế nào cũng chỉ là một thằng ăn mày! Biết làm sao với cái số? May mà vẫn còn cái xích lô chung thủy! Dù Bụi đã từng hắt hủi nó...
Chuyện của Bụi bắt đầu từ hôm chở một bà khách qua bến đò Tân Thuận. Còn nhớ bữa ấy, Bụi đã phì cười khi thấy bà lão Tư mé sông tay cầm một chiếc roi mây, quất đen đét xuống đất, ngay trước bàn thờ  ông Thần Đất và ông Thần Tài. Thấy ông Địa bằng đất nung vẫn nhăn ra cười, bà lão rên rỉ:
- Ông còn cười cái nỗi gì mà cười nào? Ông ăn ở thế mà công bình a ông Địa? Cả ông thần Tài râu trắng kia nữa! Sáng nào tui cũng mua cà phê cho các ông uống, mua thuốc lá ba số năm cho các ông hút, chỉ mong các ông cho trúng số đổi đời mà các ông cứ ngoảnh mặt làm ngơ là cớ làm sao?
Hai vị thần bằng đất nung sơn mầu sặc sỡ, vẫn im lặng. Sự im lặng đáng sợ ấy làm bà Tư càng thêm tức khí. Run lẩy bẩy, bà nhấc từng ông một ra khỏi ban thờ, dọa mai mốt mà vẫn không chịu phù hộ cho người thành tâm dâng cúng, thì, dù có thiêng tới cỡ thần thánh, các ông cũng khó mà thoát khỏi đòn bà!
- Lúc đó tui không kiêng dè nữa đâu nha. Tui oánh thiệt đó nha!
Bụi hỏi thêm chị điện thoại công cộng gần đó mới rõ nguyên do bà lão buồn. Cũng tại vé số mà thôi! Bữa nào bà Tư cũng có năm, hoặc bảy ngàn. Tiền ấy, do cô con gái út nghèo nhưng hiếu thảo chắt bóp biếu vào mỗi buổi sớm để má ăn quà. Bà lão bóp mồm bóp miệng, chỉ mua một ngàn xôi bắp ăn cho đỡ đói. Bà bớt tiền ra mua một ly cà phê đen, một điếu thuốc lá ngoại để cúng thần, cầu mong các ngài phù hộ cho mình và con cháu. Còn bao nhiêu, bà đem mua vé số ráo trọi! Đủ mọi số ứng với các loài: chuột, trâu, hổ, mèo, rắn, dê, gà, chó, heo, ốc, gián, nhện,... ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, năm cũ qua, năm mới tới, mong mòn cả mắt mà bà chưa hề gặp hên. Hỏi như thế làm sao không giận, không dám đem cả ông thần Đất, ông thần Tài ra đánh đòn?
Bụi kêu lên, ngao ngán:
- Trời ơi! Bà lão lẩn thẩn rồi? Ai lại đi mơ đổi đời nhờ trúng vé số?
Biết vậy mà mấy bữa trước, Bụi vẫn mắc vào lưới của một giấc mơ hão huyền của số phận mới kì chớ! 
Bữa ấy, mới sáng sớm, thằng bé vé số đã có vẻ mệt mỏi, ngồi phệt xuống hè phố, ngay trước cửa nhà má vợ Bụi. Thấy thằng bé, bà Chín vừa múc cháo đầu heo cho khách vừa bâng quơ:
- Đêm qua tui nằm mớ thấy con gà. Gà bươi đất kiếm mồi, được con giun dài ơi là dài! Điềm này linh với số nào đây?
- Số hai tám - Liên, vợ Bụi nói.
Chen ngang lời vợ, Bụi cười hề hề:
- Vậy tui mua cho má một cặp nguyên nghe!
- Mày nói lạ ha! Ấy là tao giỡn vậy, chớ tao mõi đâu ra tiền?
- Thôi được! Tui liều thử theo số má mớ một phen coi hên cỡ nào!
Bụi vừa nói, vừa móc tay vô túi cái quần jean cũ kỹ đã cắt cụt tới gần đầu gối, lấy tiền ra kiểm. Vừa vặn sáu ngàn. Đủ mua ba tờ vé số...
Thằng bé bán vé số không gặp hên. Tập vé của nó không có số nào ứng với con gà trong mơ. Nó gãi đầu gãi tai, biểu:
- Con gà còn nhỏ, con thấy người ta biểu bữa nay số về con heo kia. Chú cứ thử vận một lần coi! Con cũng chỉ còn một số con heo thôi chú. Mua giúp con đi, chú!
Bụi chép miệng:
- Chưa sáng đã gặp xui! Thôi thì mua cho chú mày một con heo. Chiều tao vô cửa độc đắc, nhớ tới mà lãnh thưởng, nghe con! Còn bây giờ ấy à, xéo!
Thằng bé không xéo. Nó nhăn răng ra cười:
- Chú nhớ nha! Số bốn bảy hên cực đó! Chiều con sẽ còn quay lại cho chú coi!
Liền sau lúc thằng bé bán vé số đi khỏi, Bụi phải chạy một cuốc xuống Chợ Lớn. Rồi ba cuốc tiếp theo tới các điạ điểm cách xa nhau hàng chục cây số như chợ Bà Chiểu, bến xe miền Đông, sân bay Tân Sơn Nhứt. Mệt tưởng đứt hơi! Vì thế, Bụi không về nhà ngay. Anh mua hai xị rượu, một dĩa gỏi vịt, đánh xe ra bến đò ngang, định bụng  rủ  ông lái cùng nhậu chơi. Ai ngờ, Bụi vừa đậu xe, đã thấy thằng bé bán vé số chạy lên phía trước, nhăn nhở cười. Thằng quỷ ám! Phải mắng cho nó một trận mới hả dạ được...
Nhưng kìa, Bụi có nghe lầm không đây? Mà anh cảm thấy rủn cả người? Miệng há hốc, tai âm u tiếng  thằng bé léo nhéo:
- Chú gì ơi, chú trúng số rồi! Số ...số ...cận ... độc đắc!
- Đâu? Để tao coi !
Thằng bé chưa kịp nói hết câu, Bụi đã giằng nghiến lấy cuốn sổ dò số nhàu nát từ  trên tay nó; mắt anh hoa lên, tay lật loang loáng,  lần theo từng dãy số.
- Trúng! Tui trúng con bốn bảy rồi! Độc đắc! Ba má ơi...
Rồi, như bị hút mất hồn, không kìm được mình, Bụi nhảy cẫng lên:
- Hết khổ, hết nghèo rồi! Ha, ha, ha.... Này thì nghèo...
Cùng với tiếng “này” hả hê,  Bụi đẩy mạnh chiếc xe xích lô thân thuộc về phía trước. Bị hất mạnh đột ngột, chiếc xe chổng hai bánh lên trời, lật ngược, rối lăn tùm xuống kinh Tẻ. Sau đấy, anh quay đầu, chạy một mạch về nhà, đưa tấm vé số cho vợ. Sung sướng tột độ, anh ngửa cổ, dốc ngược  xị rượu vô miệng...
Liên chạy ra phố, đi đọ vé. Chừng mười phút sau, chị lử khử trở về, mặt cau có, miệng xì xì:
- Rõ là trông gà hoá cuốc? Chỉ trúng an ủi thôi ông mãnh ạ. Vậy mà đã rầm rầm cả lên! Người ta đang tới đầy nhà xin tiền kia kìa!
Đúng vậy. Trong chuếnh choáng hơi men, Bụi vẫn nhìn rõ những gương mặt của những người thân. Đông nhất là lũ cháu...
Cầm tấm vé số Liên vừa trao lại, Bụi vụt chạy ra quầy số ông Ba Tam ở đường Xóm Chiếu đổi lấy tiền. Những ba trăm ngàn! Dẫu chưa đổi đời, nhưng cũng là một món tiền to! Đối với anh, đó quả là  một món tiền trong mơ...
Không chần chừ một giây, Bụi xỉa tiền, đưa cho Liên một trăm ngàn, biểu sắm lấy một đôi bông tai vàng mười tám.  Số còn lại, anh biếu bà ngoại, má vợ, cho các em, các cháu mỗi người năm ngàn ăn quà vặt! Ăn khoai, ăn hủ tiếu, chẳng dư một chầu no sao!
Hôm sau, Bụi biểu Liên nghỉ một buổi hàng, đưa cả nhà đi ăn cơm tiệm bình dân cho bõ tiếng vừa trúng số. Tới bữa chiều, do hứng khởi, Bụi kêu quá số tiền mình có ba chục ngàn. Không có tiền trả, Liên đành bấm bụng, đến tiệm vàng Kim Hiếu bán đôi bông mới sắm, lỗ mất mười lăm ngàn. Bụi chắc lưỡi:
- Thôi thì cho hết luôn!
Vậy là vợ chồng, con cái được hưởng thêm một ngày vui vẻ nữa!
Ngày huy hoàng vụt qua như bóng nắng. Phải quay lại với đời thường thôi! Ngao ngán, Bụi thất thểu lội xuống kinh Tẻ, lặn hụp một hồi, vớt chiếc xích lô lên. Hên quá, chiếc xe tuy bị bám đầy bùn nhưng vẫn còn nguyên! Nước lạnh khiến Bụi nổi cả da gà; anh rùng mình, chợt nghĩ:
- Giả tỉ có kẻ nào đó đã vớt cái xe lên đem bán đi rồi, không biết vợ chồng, con cái mình sẽ sinh nhai bằng cách nào a?
Ờ, mà trong cuộc đời cát bụi này có bao nhiêu kẻ ngu nhỉ? Bụi ngu hay khôn? Liệu từ cái ngu này, có cái khôn nào đang lấp ló nảy mầm không?
 
 
                               MƯỜI KHOAN
 
Anh tên là Mười Khoan. Dáng hộ pháp, nặng tám chục kí lô. Bắp tay, bắp chân anh cuồn cuộn, loang loáng mồ hôi. Trông anh bổ củi đã cả con mắt. Cây búa tạ vung lên, phập xuống nhịp nhàng, củi tóe ra thành đống xung quanh.
Ngày nào cũng vậy, mới tám giờ sáng Mười Khoan đã vội vã gom củi, bó lại, chất vô đống rồi phủi tay vô quần, hất hàm nói với đứa con gái lớn trông vựa một câu muôn thủa:
- Trông hàng cho ngon nghe! Ba về nhà uống nước!
Con bé nguýt ba nó một cái dài:
- Uống nước? Uống mà phải đóng cửa?
Mười Khoan cười hề hề, vừa đi vừa vắt cái áo bạc phếch lên vai:
- Chuyện nhỏ!
Những lúc vui, gặp bạn bè, Mười Khoan thường nháy nháy mắt, giỡn:
- Khoan này hổng phải tạm ngưng đâu nghe. Là mũi khoan đó!
Chà chà, khoan mười mũi một lúc thì đến tường bê tông cũng sập…
Khác với chồng, chị Tư Ốm, vợ Mười Khoan, thiệt là ba má đặt tên đâu trúng đó, có tới bốn cái ốm. Mặt chị hóp lại, hai mắt lỗ đáo, lúc nào cũng lờ đờ như người thiếu ngủ. Thân hình chị cứng nhắc, phía trước ngực cũng như sau lưng đều thẳng đuột. Mười Khoan biểu khỏi lo, đã có hãng Trump phụ giúp, khiếm khuyết của vợ anh cũng chẳng đến nỗi nào. Chân tay chị có vẻ như hơi dài, nổi đầy gân xanh. Nhưng người gầy là thầy mọi thứ đó nghe, năm trước mới nghe chị sanh, bẵng đi một thời gian lại đã nghe chị đang có bầu. Cây khế, cây ổi, cây me quanh nhà chả mấy khi đủ trái cho chị Tư đỡ bị ói khan…
Trời cho vợ chồng anh Mười tới mười đứa con. Tuy ít học nhưng bù lại, đứa nào đứa nấy tròn trùng trục như cối đá lỗ, lăn ra đâu là ngủ đó, ăn chỉ thấy ngán chứ chẳng mấy khi biết no. Anh Mười mê mải bổ củi, đến cái quán nhậu cách nhà có mấy căn anh cũng chẳng chịu hạ cố ghé qua nâng lên đặt xuống dăm ba ly cùng bè bạn. Anh chỉ mê nước chanh nóng chị Tư chế mỗi khi anh bỏ vựa về nhà giải khát. Ồ, cũng chả tốn kém là bao, ngày anh Mười về nhà sáu bảy lượt mà cũng chỉ xài bốn năm trái chanh, một trăm gam đường trắng…
Anh Mười cưng vợ, không chịu cho chị Tư đi làm. Mà anh có cho chị cũng không đi nổi. Đứa con này của chị vừa mới ráo máu đầu, đứa kia lại đã ló ra. Chúng mè nheo, quanh quẩn níu áo, đòi cho ăn, đòi tắm rửa, đòi đi ị khiến chị Tư tối mặt tối mũi. Dĩ nhiên, đối với một người đàn bà ít nhan sắc như chị, như vậy cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Vậy mà bỗng nhiên chị Tư không chịu yên phận, một mực nằng nặc đòi ly dị chồng. Anh Mười Khoan há hốc mồm, ú ớ không nói được câu nào vì quá kinh ngạc. Bà con chòm xóm thì biểu chị khùng. Không khùng sao lại chê chồng? Mà chê chồng thế nào? Chê người chỉ biết say mê bổ củi kiếm tiền! Chê người bắt chị phải ăn nhiều, uống nhiều: “ Uống thật nhiều thuốc bổ vô nghe em, cho nó khoẻ”. Nghĩa là chê người thương mình hết mực! Chà, lòng người nông sâu ai dò cho hết? Hay là chị phải thằng cha nào? “Trời ơi, đừng có đặt điều oan cho vợ tui”, anh Mười thề, “Nó hổng phải lòng ai hết, có lẽ nó đoạ chết à? Cho nên nó mới đòi bỏ tui. Mà nó học ở đâu cái thói đó chớ? Nó hổng học ở đâu hết, chắc nó nghe đứa nào xúi khôn xúi dại thôi. Rằng người ta có cả trăm con vẫn còn chia tay vì không hợp kia kìa. Ở đâu à? Ở trong sách tập đọc của con Út Sáu nhà mình chớ ở đâu! Đấy, nó có một mớ lý này lý kia, nghe lạ huơ lạ hoắc à. Nghe tối cả tai”…
Rồi đến ngày Tòa kêu hai vợ chồng anh Mười Khoan đến hòa giải. Trên đường đi anh Mười biểu vợ:
- Làm thế khó coi quá, khó coi quá, ta về đi.
Chị Tư hặc:
- Về là về thế nào, ý tui đã quyết, búa đã chém vô củi, có trời cản. Nói hoài, nói hoài, anh có chịu nghe tui đâu. Tại anh cả đó chớ…
Tòa hỏi chị Tư lấy anh Mười Khoan có được hạnh phúc không?
Chị trả lời:
- Dạ thưa, tụi tui có tới mười đứa lận…
Tòa hỏi tiếp:
- Chị Tư còn thương ảnh không?
Chị Tư nói:
- Thương! Thương dữ lắm chớ! Không thương mà…
Tòa lại hỏi anh chị có hay cãi nhau, đánh nhau, có gì trái ý nhau không?
Chị Tư hạ giọng:
- Dạ, thưa Tòa, ngày nào tụi tui cũng tự dưng đánh nhau vài trận. Còn cãi nhau thì không, vì cứ mỗi lần tui định cãi, hay định kêu lên cho lũ trẻ tới cứu, ảnh đã đưa bàn tay hộ pháp ra bịt vô miệng tui rồi. Mà không kêu được thì lại thấy cái không hợp, không thích tự dưng biến ráo trọi hết. Xong rồi mới thấy ấm ức. Ấm ức lắm, bị bắt buộc, bị ăn hiếp, làm sao không ấm ức. Ức thế nhưng lúc thấy ảnh cười hề hề tự dưng tui lại bỏ qua cho luôn…
Tòa gặng:
- Chị Tư đã bỏ qua sao còn khăng khăng đòi bỏ anh Mười?
Chị Tư bỗng hét lên:
- Không, ảnh cứ vậy, cứ vậy! Tui hết chịu nổi rồi! Tui dứt khoát …
Tòa hỏi anh Mười có đúng thế không?
Anh Mười chỉ gãi đầu, biểu:
- Nhà tui nó chỉ nói đúng trở lên. Tui thấy tui sai nhưng hổng biết sai đâu. Mong Tòa chỉ giùm đâu sai để tui sửa. Sai đâu sửa đó. Còn sai đó sửa đâu thì Tòa lại chỉ. Tui chỉ  mong Tòa chớ có cho vợ tui nó bỏ tui…
- Vậy thì - Tòa lại hỏi chị Tư- Ảnh đã nói thế, chị có chịu ly dị nữa không?
Chị Tư  mếu như cười:
- Sao Tòa lại vừa nói vừa cười, như vậy là có ý gì. Tòa bênh anh Mười phải không? Tòa mà bênh ảnh thì tui sao qua mặt được Tòa? Tòa nói sao tui cũng theo Tòa. Nhưng mà- chị Tư  tiếp- Tui đòi Tòa phải bắt anh Mười…
Tòa ngạc nhiên:
- Anh ấy có tội gì mà bắt? Luật pháp ta bắt người đâu dễ thế. Mà Tòa bắt anh Mười, chị Tư ở với ai, ai nuôi con cho ảnh?
- Không- Chị Tư bẽn lẽn- Tui nói là bắt ảnh không được tự ý bỏ vựa củi về nhà ngày mấy lượt thôi. Ảnh đâu có uống nước…
Tòa hỏi anh Mười có chịu làm theo ý chị Tư không. Anh Mười lại gãi đầu, biểu:
- Dạ thưa, được, được, tui làm được…
Sau lần được Tòa hoà giải thành, chị Tư rút đơn. Anh Mười Khoan thì cứ vô tư  cười hề hề, biểu nhứt định sẽ tự kềm chế không về nhà uống nước nữa. Dành hết thời gian để làm việc, ngày anh bổ tới năm tạ củi. Nhà đã dư dả, con cái học hành tấn tới nên chị Tư mừng lắm.
Bây giờ, ban ngày bổ củi ở vựa đã đời, tối về nhà, ăn cơm xong là anh Mười lên giường lăn ra ngủ. Trời ơi, người đâu mà vô tâm vô tính, cứ ngủ như chưa bao giờ được ngủ vậy! Ngủ lắm thế khác chi bỏ mất nửa cuộc đời?
Thương chồng, chị Tư lại lay lay đánh thức anh dậy. Cực quá mình hà, cả ngày mình không được uống nước. Hay là tui đi mua cho mình tô phở nha! Có tí nước tí cái cho dễ nuốt. Hồi này mình có vẻ xuống sức. Tội nghiệp, tội nghiệp thiệt, chị chép miệng...


 

                              BÀ NỘI

 
Mấy hôm trước, lúc cả nhà ngồi quây quần uống trà sau bữa điểm tâm, ông tôi bảo tới mùng 8 tháng 8 này, bà nội vừa tròn 88 tuổi. Bố tôi vui vẻ nói đùa, nếu biết thêm giờ sinh nữa thì dãy số tính tuổi bà sẽ là bốn con số 8. Anh Trương tôi lấy máy tính ra, vừa cười cười vừa bấm bấm rồi bảo, trên thế giới, trong 4 tỉ người, số người 88 tuổi chỉ có khoảng vài chục triệu.
Hình như chỉ nghe được con số vài chục triệu, bà tôi giãy nảy lên. Lấy đâu ra vài chục triệu? Tiền có phải vỏ hến ngoài bãi đâu mà xúc được nhiều thế? Chẳng qua cũng là bóp mồm bóp miệng, ăn chắt để dành từ các khoản quà sáng, trầu cau, tiền mừng tuổi. Bao nhiêu năm ròng cũng chỉ gom góp được vài triệu mà thôi. Ơ, nhưng mà sao cái gì cũng quy ra triệu nhỉ. Vua Ngô ba mươi sáu lọng tàn vàng, chết xuống âm phủ có mang theo được đâu?
Bà tôi bảo chắt bóp thế là để về quê.
- Tôi nói thật đấy, tới ngày ấy, tôi cứ lên tàu tôi về. Tiền nó đưa tôi về. Tôi chả phiền ai, chẳng xin ai một xu. Chả ai ngăn cản được tôi. Tôi thích làm gì, cho ai, cứ mặc xác tôi!
Nói tới đây, bà giật giọng hỏi ông:
- Tôi hỏi thật, ông có còn muốn về quê tìm cái Tí, cậu No, cậu Đủ với tôi nữa hay không? Hay là ông quên?
Tôi biết những cái tên bà vừa nhắc khiến ông phải đau lòng lắm. Vì có một lần, do tò mò tôi đã hỏi bố người có tên là Tí ấy là ai, bố trả lời: “ Bác ấy sinh trước bố một đốt, mất lúc còn nhỏ. Giả tỉ còn sống thì năm nay bác nhỏ được gọi là bác cả và cũng đã 70 ”. Ít lâu sau, nghe ông bà chì chiết nhau, tôi biết thêm, bác nhỏ chính là người con mà ông tôi đã cho đi lúc ông bị ốm liệt giường, số phận đã cận kề bên cái chết. Cậu No, cậu Đủ, em ruột của bà, chết trong nạn đói năm Ất Dậu, giỗ  ngày 18 tháng 3 âm lịch.
Ông nội nghe bà hỏi mà sắc mặt cứ nhợt dần:
- Tôi đâu có quên! Lúc nào bà muốn thì tôi đi với bà!
Nét mặt dịu xuống, bà quay sang phía tôi, hạ thấp giọng:
- Thôi, chả nói chuyện này nữa. Cháu có rảnh thì đưa bà sang thím Quỳnh một tí.
- Bà ơi, sao hôm nay bà đi chơi sớm thế?
- Không, chơi đâu mà chơi. Bà nhờ thím ấy mua hộ ít trầu cau.
- Sao bà không sai mẹ cháu mua. Trầu cau chợ nào chả vậy?
- Ai bảo thế, trầu mẹ cháu mua nhạt lắm. Cả cau nữa, cứng quèo như mo nang...
Mẹ tôi nháy mắt:
- Phải đấy, tiện đường đi học, con chở bà qua thím. Bà nhớ thằng Tri đấy mà.
Bà không trả lời, xách giỏ đựng trầu cau ra trước cửa ngồi chờ sẵn.
Lúc thím Quỳnh rót nước mời bà, bà hạ giọng bảo:
- Tôi sang để nói với chị một chuyện. Để lâu trong bụng không chịu được!
Thím Quỳnh lộ rõ vẻ lo lắng. 
- Là nhờ chị nói chú Hoàng bàn với mấy chị em cho tôi về quê!
- Có ai làm bà mếch lòng phải không?
- Chả có gì sất. Tôi chỉ muốn về quê. Mấy đứa em tôi còn đang nằm kia...
- Ai nằm kia hả bà? – Thím Quỳnh lạc giọng hỏi.
- Còn ai nữa? Cậu No, cậu Đủ chứ còn ai? Năm đói...
Thím Quỳnh thở phào nhẹ nhõm:
- À, chuyện ấy...
Chuyện ấy tôi cũng rõ vì đã được nghe bà kể nhiều lần.
Thím Quỳnh băn khoăn, hỏi:
- Bà ơi, ở quê giờ còn ai mà về?
- Ai bảo chị thế. Còn làng còn nước thì thế nào tôi cũng tìm được con bé.
Nói tới đây, như chợt nhớ ra điều gì, bà đột ngột hỏi:
- À này, từ sớm tới giờ, chị đã thấy bà Tư  qua đây chưa?
- Dạ, ba lần rồi ạ.
Thím Quỳnh vừa dứt lời thì bà Tư đã lên tiếng:
- Tôi đây, tôi đây. Gớm, mong bà mãi, cứ tưởng hôm nay bà bận.
- Bận gì mà bận. Tôi chỉ ấm ức thôi!
- Thôi bà ạ, khổ cả đời rồi. Bây giờ có thêm một tí cũng chả hề hấn gì.
- Vưỡn biết thế, dưng cái tâm nó không được yên.
- Sao vậy bà?
- Sao với giăng gì. Tôi có tới năm đứa con, đứa nào cũng có dăm ba cái nhà. Tôi hỏi chúng nó lấy tiền đâu mà mua lắm thế. Đứa nào cũng bảo con hơn cha là nhà có phúc, bà lẩm cẩm rồi, hỏi làm gì? Hỏi làm gì à? Tôi là mẹ chúng nó, tôi phải cất nhời, chứ người ngoài có cạy răng tôi cũng chẳng mở miệng. Mà cái ông già nhà tôi ấy, càng ngày càng tệ bà ạ.
- Thật à?
- Ông ấy bảo tính tôi khó như mẹ ranh, nắng mưa thất thường thế chỉ tổ khổ con cháu. Cơm sung không nhớ cháo rền, ông ấy trách tôi không lo việc nhỡn tiền, lúc nào cũng chỉ tưởng tới những chuyện đâu đâu, người sống không màng chỉ nghĩ tới người chết. Đã vậy, lúc nào cũng hỏi tiền. Ngỡ như tôi có cả núi tiền ấy. Không có tiền mà bạ cái gì ông ấy cũng mua. Bà xem, đi ăn sáng về, ông ấy ngứa tay mua cho tôi nào xôi, nào chè, lại thêm cả hộp sữa nữa. Tôi tham ăn tục uống hay sao mà ông ấy trêu tức tôi? Cả cái con Loan vợ thằng Hai nữa…
- Bà vẫn khoe con dâu cả bà đảm đang lắm kia mà?
- Đã đành là vậy. Nhưng nó nấu món gì cũng cứng như đá ấy bà ạ. Con dâu thời nay chả mấy đứa biết chiều mẹ chồng, đến miếng ăn vào mồm cũng chỉ biết chém to kho mặn. Đã thế, bữa nào nó cũng dẻo mồm dẻo mép khen ngon lắm, ngon lắm bà ạ. Vụng chèo khéo chống, nó cứ lanh cha lanh chanh, gắp sấn gắp sổ bỏ thức ăn vào bát tôi. Tôi bực lắm, gắp trở lại, thì nó lại cười hì hì bảo nó là nàng dâu thương mẹ chồng nhất. Con với cái, tôi đang tính xin vào nhà dưỡng lão cho khuất mắt chúng nó. À mà tôi phải về thôi, chuyện dạy dâu con nói cả tháng cũng chả hết.
Bà với giỏ trầu cau, ngoắc quai nón vào khuỷu tay.
- Rảnh bà lại sang chơi nhớ - Bà Tư nói với theo.
Bà nội mới ra tới giữa sân thì chị Dương chở thằng Lương tới chơi. Chị dựng xe, bế thằng  bé hai tuổi xuống, dắt nó tới trước mặt bà:
- Con ạ, ạ hai cụ đi...
Trên đường đi, thằng bé đòi ăn kem nhưng chị Dương không cho nên nó vẫn còn giận. Nó nhăn mặt, vùng vằng:
- Ứ ạ!
- Hỗn! - Bà bảo.
- Ứ hỗn !
Rồi nó lăn ra đất ăn vạ:
- Kem, ăn kem, đi ăn kem kia. Hu hu...
Chị Dương dỗ ngọt:
- Con ạ cụ đi rồi cụ cho đi ăn kem.
- Kem, ăn kem, hu hu...   
Thằng bé lồm cồm bò dậy. Nó hướng đôi mắt đẫm nước về phía cụ chờ đợi. Tôi đoán thế nào bà nội tôi cũng chiều lòng thằng chắt qúy. Nhưng tôi đã lầm. Thay vì bế nó lên dỗ dành, bà tôi đột nhiên đưa tay đẩy thằng bé ra xa:
- Con cháu còn chẳng ăn ai, huống hồ chắt với chít!
Thằng bé khóc thét lên.
- Đội chúng nó lên đầu thế này thì hư hết. Lúc đó mới trắng mắt ra hả!
Chị Dương tím mặt, sợ dẹt cả mắt...
Ôi bà nội tôi!
Ngày xưa, khi tôi đỗ đại học, bà thưởng năm chục. Năm ấy anh Trương thi trượt tốt nghiệp bổ túc văn hóa vẫn được một trăm. Bà bảo thưởng anh đá bóng giỏi. Cũng vậy, các em họ tôi ai cũng được bà thưởng với những lí do rất đặc biệt. Cái Huyền thì được thưởng vì chăm tắm hơn trước. Cái Thoa đã bớt đái dầm. Thằng Tri chóng lớn. Vô lý như thằng Được, quấy mẹ nó như ranh, khóc oe oe cả ngày mà cũng được nhận thưởng. Thưởng cái gì?
- Vì nó khóc rất to. Khóc dai thế tức là phổi nó khỏe, sau này thế nào nó cũng được làm thầy giáo cho mà xem. Chả thưởng cho nó lúc này thì còn chờ tới lúc nào nữa?
Còn bây giờ, hình như bà không mấy bận tâm đến chuyện ai vui ai buồn nữa? Liệu bà có biết tôi và chị Dương đang buồn? Không phải vì thằng Lương bị đau? Mà vì một điều khác!       
Tôi đã đọc ở đâu đó, trẻ con là những thiên thần nơi trần thế. Tâm hồn non tơ, tinh khiết của chúng mới bắt đầu hé mở đón nhận những bụi bặm của cuộc sống. Còn người già, chìm trong cả núi ký ức, họ không hề biết tạo hóa đang quay ngược thời gian, giúp cho họ trẻ lại ngoài ý muốn.
Tôi còn được nghe người ta nói, người già hay cả nghĩ trước mọi sự quan tâm. Nó làm họ ý thức rõ hơn mình đã thừa ra. Vì vậy, họ thường làm mếch lòng những người xung quanh. Để sự quyến luyến kia nhờ đó mà vơi dần đi? Để được thanh thản đi vào cõi vĩnh hằng mà không hề tiếc nuối gì? Điều này thực sự là một niềm an ủi lớn đối với tôi. Nhờ nó mà tôi cắt nghĩa được những cách ứng xử lạ lùng của bà nội. Tôi hiểu vì sao chẳng ai nỡ giận mà chỉ cố gắng làm đẹp lòng bà. 
Từ tối hôm ấy bà nội tôi bệnh nặng, cả nhà phải luân phiên nhau vào bệnh viện chăm sóc bà. Trong những ngày ấy, khi nằm bên cạnh bà, không hiểu sao tôi đã mơ thấy một giấc mơ thật kỳ lạ. Trên  nền trời tháng giêng lất phất mưa bụi giăng trắng xóa, tôi thoáng thấy bóng bà chập chờn giữa bao nhiêu là yếm thắm, áo mớ bảy mớ ba và những dải thắt lưng xanh biếc. Nét mặt bà tôi tươi như hoa, sáng rỡ lên trong đám hội làng Thượng…


 
                              THỜI GIAN
 
Chủ nhật, ông Bằng rủ vợ đi siêu thị. Ông muốn mua tặng bà một cái áo dài.
Trong siêu thị, trước gian hàng tơ lụa, hai vợ chồng hoa cả mắt, chẳng biết chọn mua tấm lụa nào.
Ông Bằng thích màu đỏ, bảo màu ấy vừa sang trọng vừa hợp với làn da trắng hồng của bà. Bà lắc đầu, nói màu đỏ sang nhưng sáng quá, những người tầm tuổi năm mươi liệu có nên để cho người khác chú ý nhiều đến mình nữa không.
Lựa mãi, hai vợ chồng chọn được một tấm lụa màu xanh cẩm thạch in hoa mai trắng. Ướm thử lên người, bà Bằng trông mình trong gương như đang độ ba lăm ba sáu. Thấy bà tỏ vẻ ưng ý, ông Bằng vờ chê: “Trông già lắm! Hay ta chọn màu khác?”.
Bà Bằng chiều ý chồng, với tay lấy tấm lụa màu tím trên giá xuống. Thoáng nhìn một người phụ nữ có tuổi mặc một chiếc áo dài màu tím tay dắt một ông lão tóc bạc trắng đi ngang qua, bà Bằng nghĩ, nếu ta cũng may một cái như thế, ta sẽ đẹp hơn người kia gấp mười lần. Ông Bằng quay mặt sang hướng khác, khẽ lắc đầu bảo vợ: “Lòng dạ bà cần gì phải dùng màu tím nói giúp nhỉ?”.
Nghe chồng nói thế, bà Bằng xếp tấm lụa tím vào giá, lựa tiếp tấm lụa màu hồng. Rồi màu mận chín…
Lúc bà Bằng quyết định lấy tấm lụa màu vàng phai thì chồng bà bảo ông sẽ mua tặng bà tất cả những tấm lụa bà đã lựa.
Người ta chả nên chỉ mặc một màu áo. Khi này màu này, khi kia màu kia, cũng một người thôi mà thành những bốn năm người, như vậy có phải thú vị không. Ông Bằng nhẹ nhàng nói với vợ như vậy.
Tất nhiên, bà Bằng đã đỏ mặt lên vì sung sướng. Không phải vì bà thích chưng diện mà vì bà muốn chiều chồng. Bà muốn sửa sai nữa. Trong mấy chục năm chung sống, có với nhau ba mặt con, bà chỉ may hai cái áo dài. Bà đâu biết ông Bằng thích vợ mặc áo dài đến thế. Vả lại, trước đây, trăm thứ tiền đều trông vào đồng lương còm của ông, làm gì có điều kiện mà nay áo này mai áo kia.
Hai vợ chồng đem năm tấm lụa ra quầy tính tiền. Cô nhân viên cho từng tấm lụa chạy qua máy và gói lại. Nhận hàng và tờ hóa đơn xong, ông Bằng cười: “Chỉ hết có chín trăm ngàn thôi sao? Chả bù cho ngày xưa!”.
Ngày xưa là cái ngày ông Bằng mới ra trường. Hưởng lương tập sự mỗi tháng bốn mươi tám đồng. Nộp hai mươi hai đồng cho bếp ăn tập thể, năm đồng mua xà phòng, kem đánh răng, năm đồng tiêu vặt, mỗi tháng ông tiết kiệm được mười sáu đồng. Muốn tặng vợ sắp cưới một tấm lụa Hà Đông, ông Bằng phải dồn tiền tiết kiệm ba tháng mới đủ. Còn bây giờ? Một tháng lương, chưa tính thu nhập từ việc dạy học thêm ở trung tâm luyện thi đại học, ông Bằng có thể tặng vợ cả một tủ áo dài. Thời đại bĩ cực thái lai, sướng thật! Chỉ tiếc lúc cần diện lại chả có mà diện!
Vợ chồng ông Bằng hớn hở bước ra cửa siêu thị.
Hai người cảm thấy rất ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ mặc áo dài tím đang đứng cạnh ông lão tóc bạc nở một nụ cười lịch thiệp, cúi đầu chào họ.
- Ông Bằng! Ông…
Ông Bằng đứng sững lại, lúng túng:
- Ô, bà Dung…
Rồi quay sang phía vợ, ông nói với bà Dung:
- Đây là bà xã nhà tôi!
- Chào chị! Bà Dung nhẹ nhàng nói, rồi tiếp: - Ông xã nhà tôi điếc đặc mấy năm rồi, xin giới thiệu với anh chị.
Ông lão tóc bạc hả hả mấy tiếng rồi chợt nhớ ra phép lịch sự, ông chìa tay về phía vợ chồng ông Bằng:
- Rất hân hạnh! Rất hân hạnh! Cám ơn!
Ông Bằng và bà Dung hỏi thăm địa chỉ của nhau, hẹn hôm nào rỗi rãi sẽ lại thăm nhà.
Sau đấy, họ chia tay.
Sau hơn ba chục năm trời gặp lại, cả hai đều không tỏ ra xúc động.
Nhưng trên đường về nhà, ông Bằng không nói thêm với vợ một lời nào nữa.
Bà Dung cũng vậy, xuống xe, bà dắt chồng vào nhà và chạy luôn vào buồng tắm.
Bà để cho nước xối ào ào nhưng không tắm. Bà soi gương. Rồi bà khóc!
Bà khóc vì cách xử sự cao thượng của bà với ông Bằng hồi còn trẻ, qua năm qua tháng, là hoàn toàn chính xác, không có gì phải đáng hối tiếc, ân hận nữa.
Nếu ngày đó bà, một người đàn bà hơn ông tới chín tuổi, đồng ý lấy ông, liệu bây giờ ông ấy có được hạnh phúc? Liệu ông ấy, chứ không phải là ông lão nhà bà, có hãnh diện  dắt bà đi siêu thị sắm những bộ áo dài lụa hay không?
Bà khóc. Khóc cho bộ áo dài màu tím, màu mà thuở trai trẻ ông Bằng rất thích.
Cuối cùng, bà Dung lau nước mắt, mỉm cười. Bà thấy mình vẫn rất đẹp, nhất là lúc bà cười.
Rồi vừa cười bà vừa nghĩ thầm, nhất định trong những tấm lụa ông Bằng đã mua cho vợ, thế nào cũng có  một tấm màu tím…
 
                    


 
                              ÔNG QUANG
 
Có thể đấy là một sự thật. Người ta xì xào với nhau đó là một chuyện lạ. Tiền không phải từ trên trời rơi xuống. Việc người ta từ bỏ tiền quả là một chuyện khó tin. Vậy mà ông Nguyễn Quang lại dám cả gan từ bỏ tiền. Hình như vì danh? Còn nghe phong thanh, thì vì một người đàn bà!
Riêng ba người con trai của ông Quang thì vẫn một mực khăng khăng khẳng định đó là chuyện bình thường. Đối với họ, những chuyện lạ xung quanh ông Quang nhiều tới mức không thể kể xiết. Vì thế, bây giờ có thêm một chuyện khác thường nữa cũng chỉ là chuyện vặt, có gì đáng nói?
Thì đấy, ai đã từng biết ông Quang, hẳn sẽ không thể nào quên được nét mặt tươi roi rói của ông hôm ông đứng trước quan tài vợ. Người ta thì khóc, ông lại cười...
Có người véo vào tay ông nhắc nhẹ, xin ông giữ cho phải phép, ông Quang cảm ơn rồi bảo:
- Ông thử nhìn bà nhà tôi đang cười hay đang khóc đã?
Người kia trả lời:
- Bà ấy đang ngủ!
Ông Quang nở một nụ cười:
- Chả lẽ tôi lại khóc toáng lên để bà ấy thức dậy?
Lo đám cho vợ xong, ông Quang gọi ba người con tới và bảo:
- Bây giờ bố ở với vợ chồng anh chị cả. Riêng cái biệt thự đứng tên bố...
Ông dừng lời nửa chừng, đưa mắt nhìn thẳng vào mặt từng người con.
Người con cả từ tốn nói:
- Con không có ý kiến.
Người con thứ hai nhẹ nhàng:
- Con cũng vậy. Còn chú út?
Người con út cười:
- Giàu con út, khó con út, cái biệt thự này ba nên cho con. Vì lúc này riêng con chưa có nhà. Tuy nhiên...
- Tuy nhiên thế nào? Ông Quang hỏi.
Người con út thưa:
- Tuy nhiên sau này nó vẫn là của bố. Bố cho ai con cũng không thắc mắc, kể cả trường hợp con vẫn chưa có nhà.
- Thế thì tốt! Ông Quang nói: - Đúng là con nhà văn!
Mấy hôm sau, ông Quang viết di chúc. Nội dung chính là trao quyền thừa kế ngôi biệt thự cho người con trai cả. Ông đọc tờ di chúc cho vợ chồng họ nghe. Cả hai cùng mỉm cười, không nói gì. Dĩ nhiên, họ chăm sóc ông Quang không thể chê vào đâu được. Sáng phở tái, phở xào, cà phê, thuốc ba số năm tùy thích. Trưa, chiều thì bia bọt, thịt thà, cá mú, hoa trái ông thích thứ gì được chiều thứ nấy ngay. Người con dâu cứ luôn mồm nhắc :
- Con cái khá giả, bố chả phải lo!
Vậy mà tới năm thứ ba, ông Quang bỗng giở chứng. Ông bảo:
- Ở nhà các con sướng thật. Nhưng nó bằng phẳng quá, bố chả còn xứng là nhà văn nữa. Ba năm không viết nổi một dòng thì là cái giống nhà văn gì? Thôi, bố sang ở với vợ chồng thằng hai!
Vợ chồng người con thứ hai dọn riêng cho ông Quang một phòng. Trong phòng có sẵn cả máy vi tính để ông gõ.
- Nhà văn bây giờ ai còn viết bằng tay? Phải gõ, gõ bàn phím bố a. Thay từ, đảo câu, đảo đoạn tiện lắm bố ạ!
Ừ thì gõ! Văn bản đầu tiên ông gõ lại là bản di chúc trao quyền thừa kế căn biệt thự cho vợ chồng người con thứ hai. Gõ rồi in ra, đặt trên bàn. Nhưng khi mở máy, ông Quang thấy bản di chúc đã bị xóa. Quái lạ, mình đã “xây vờ ét” cẩn thận rồi mà! Thôi, mặc kệ, viết lại vậy! Ít lâu sau, bản di chúc lại bị xóa một lần nữa! À, có đứa nào nó cố ý xóa đi đây! Ông Quang để ý và bắt gặp thằng con trai đang mở máy. Nó xóa, nó xóa thật! Ông đứng sau lưng con, vỗ vai, gặng hỏi:
- Không muốn lấy nhà, hả?
Thằng con cười:
- Chưa tới lúc! Bố đừng viết nữa. Nhà con nó hiểu lầm!
Hiểu lầm cái gì? Ông Quang ngẩn người ra, cười phá lên và lại ngồi vào bàn máy. Ông gõ. Gõ một cái truyện ngắn. Người ta khen hay. Ông gõ nữa. Người ta chê dở. Thì lại gõ, lại hay, lại dở. Tức lộn cả ruột, ông quyết định dọn tới nhà người con trai thứ ba.
Vợ chồng người con trai thứ ba mới mua được một căn nhà nhỏ. Tuy nhiên, ông Quang vẫn có một phòng viết. Con dâu ông mua một chồng tập học sinh và một tá bút bic để trên bàn viết cho bố chồng. Lần này, ông Quang lại viết di chúc và để trên bàn. Người con dâu trông thấy tờ giấy, cầm lên chăm chú đọc. Mặt chị ta tự nhiên xịu xuống. Chị buồn buồn nói với bố chồng:
- Bố bỏ tờ giấy này đi. Con sợ nó làm hỏng nhà con! Không có nó, chúng con vẫn chăm bố tốt như tất cả mọi người thì hơn!
Rồi giữ đúng lời hứa, hai vợ chồng họ lo cho ông Quang chẳng thiếu một thứ gì. Mà lúc nào hai vợ chồng cũng vui như tết, cười hi hi cả ngày...
Ở đời sướng quá hóa rồ, ba năm sau ông Quang lại giở chứng. Ông gọi các con lại, thông báo ông đã lấy lại căn biệt thự đang cho thuê và sắp cưới vợ.
- Con chăm cha không bằng bà chăm ông. Vả lại bố chả muốn đứa nào phải vất vả vì bố. Ý các con thế nào?
Ông Quang nhìn khắp lượt, chờ đợi sự phản đối kịch liệt của các con trai và con dâu.
Người con cả vẫn từ tốn nói:
- Con thấy bố nói có lý.
Người con trai thứ hai nhẹ nhàng:
- Con đồng ý với bố. Lúc nào cũng vậy! Còn chú út?
Người con trai út bảo:
- Bao giờ bố cũng quyết định đúng. Ý bố trùng với ý con!
Ông Quang nổi giận:
- Sao không có đứa nào phản đối? Các con muốn bố chết nhanh hơn phải không?
- Bố chưa hiểu chúng con! Người anh cả điềm tĩnh nói.
Ông Quang vặn:
- Cho nhà không đứa nào lấy. Bảo lấy vợ, không có đứa nào ngăn. Các con không biết ghen cho mẹ sao? Không sợ mang tiếng sao?
- Bố ạ! Người con thứ hai dịu dàng: - Nhờ không lấy nhà của bố mà chúng con, kể cả chú út đây, ai cũng có nhà cửa đàng hoàng cả.
- Còn ghen thì chúng con không. Biết đâu đi bước nữa, bố sẽ lại viết hay như ngày xưa? Người con trai út vừa cười vừa nói.
Người con trai cả tiếp:
- Bố kết hôn đàng hoàng thì bọn con sợ gì tai tiếng. Chả lẽ hạnh phúc lại đem lại tai tiếng?
Ông Quang rơm rớm nước mắt, hét lên:
- Nhưng không có chuyện bố lấy vợ thật. Đó chỉ là chuyện bố bịa ra để thử các con!
Người con dâu cả hỏi:
- Vậy chuyện cái di chúc cũng là chuyện bịa phải không bố?
- Không, đó chỉ là chuyện tưởng tượng. Bố đã tưởng tượng ra các con không đúng như trong thực tế! Vậy nên...
Người con dâu thứ hai sốt ruột:
- Bố sẽ giải quyết việc ấy thế nào?
- Bố sẽ bán!
Người con dâu út đoán:
- Và chia đều cho chúng con phải không?
- Không! Ý các con thế nào?
Ba người con trai đồng thanh đáp:
- Bố cứ quyết theo ý bố. Bố bao giờ cũng đúng!
Và, đúng là tiền không bao giờ từ trên trời rơi xuống. Nhà văn Nguyễn Quang đã bán căn biệt thự ông được nhà nước cấp và cho hóa giá năm 1996. Ông cho mỗi người con ba trăm triệu. Ông lại gửi vào tài khoản của viện dưỡng lão năm trăm triệu để viện chăm sóc những người già cô đơn, trong đó có nghệ sĩ Lý Đào, người đàn bà hơn ông chín tuổi mà ông hằng ngưỡng mộ.
Còn ba tỉ đồng, ông giao cho Hội nhà văn thành phố lập qũy tài trợ tài năng viết văn trẻ. 
Thật may cho Hội nhà văn!
Đương nhiên không phải vì món tiền lớn kia.
Mà quan trọng hơn, ông Nguyễn Quang vốn là một nhà văn nổi tiếng!
Nếu không thì…
 
 
 
 
 


 
                              CON RỒNG
       
Không hiểu sao, xa quê đã hơn ba chục năm ròng, thi thoảng tôi lại nằm mơ thấy con rồng cụt đầu chầu trước cửa miếu thờ Thành Hoàng cuối làng tôi. Giấc mơ khiến tôi nảy ra ý định về quê xin phép các vị bô lão trong làng cho được đứng ra tu bổ lại con rồng. Nhưng nhiều mùa gió bấc đã thổi qua mà tôi vẫn chưa thực hiện được ước nguyện nhỏ bé của mình. Nên lòng cứ canh cánh khôn nguôi một nỗi niềm…
Nhớ thuở lên chín, tôi đã nghĩ con rồng cụt đầu kia chỉ là thân của một con rắn. Cũng tại cái trò chơi của trẻ mục đồng túm lấy vạt áo sau của nhau nối thành một hàng mà “Rồng rắn lên mây; gặp cây núc nác...”; tại thầy khai tâm của tôi nữa, trong nhiều bài học chữ Nho, người cứ dạy: “Đất vuông nên chữ nào cũng tượng bốn phương. Hoành ngang, tung dọc cũng chỉ do một nét rồng tạc mà nên thôi”; và tại cả trời bắt tháng bảy năm nào làng tôi cũng mênh mông trong những cơn nước nổi. Nước ngoài sông Hồng, sông Đào, sông Ninh cao hơn mực nước sông Ngọc phía trong đê cả thước. Vậy mà mưa vẫn cứ đổ xuống tầm tã, trắng trời trắng đất. Chẳng mấy chốc đồng ruộng đã thành một biển nước, sóng ì oạp vỗ vào chân luỹ tre làng. 
Con đường hai bên lát đá tảng xanh dọc theo xóm Đá cũng đã bị ngập quá đầu gối, đi từ  nhà này đến nhà kia phải dò dẫm lần từng bước một. Bố tôi nhìn lên cao xanh. Một dải mây đen hình phễu dốc ngược xuống chân trời phía biển Đông mỗi lúc một thấp hơn. Người thở dài:
- Rồng vẫn chưa hết quẫy!
Theo đà nước rút, con đường làng lộ dần dáng một dải lụa đào. Nhưng bố tôi chỉ một mực bảo đấy là hình một con rắn. Rắn đồng chiêm, bơi qua những ao hồ chi chít, trườn thẳng ra đồng. Ở quê, rắn là một loài hữu ích. Con mồi ưa thích nhất của loài bò sát này chính là chuột. Nghe nói thịt rắn ngon như thịt gà giò, rượu mật rắn ngâm ba năm có dư sức nóng để làm tan một vết bầm trên da thịt người sau vài ba lần xoa bóp. Riêng nọc rắn, nghe bố kể, nếu biết dùng đúng liều lượng, người thầy thuốc có thể làm trái tim chỉ còn thoi thóp đập rộ lên trở lại. Nghe thế, chứ mắt tôi chưa hề thấy người quê tôi, kể cả ông Cử nổi tiếng về tài bắt rắn và chữa rắn cắn, chiết được nọc rắn qúy hiếm kia. Bố tôi hay bảo, rắn không phải và cũng chẳng bao giờ thành rồng được. Nhưng nó tượng nên rồng. Thường thì xưa nay vật hay con vật được dùng tượng nên cái thiêng liêng bao giờ cũng chỉ là cái thực, gần gũi quá nên thấy bình thường đấy thôi. Vậy nên, đi trên đường làng, hỏi có mấy ai đã biết đất dưới chân mình được vượt lên cách nay hàng mấy ngàn năm có lẻ? Càng không biết đường cong đường thẳng ẩn chứa điều thâm sâu nào!
-  Con có biết vì sao như thế không?
Bố tôi đã hỏi vậy vào đúng ngày tôi bước sang tuổi mười tám. Thấy tôi lúng búng như ngậm hạt thị trong miệng, người cười:
- Đường cong xui con ngó nghiêng có con bé nào khau kháu không đấy. Đi đi! Gật đứa nào thì về thưa, bố sắm trầu cau tới dạm ngõ cho!
Tôi chưa kịp đi hết những con đường cong trong làng đã phải đi thẳng ra chiến trường. Tiễn tôi tới miếu thờ Thành Hoàng, bố tôi dặn:
- Làng quê chính là nơi hồn xứ sở nương mình đấy con ạ. Đi không hết trời đất, nhớ quay về làng cũng chưa muộn!
Hôm ấy tôi đã tròn mắt ngạc nhiên về lời dặn dò lạ lùng này. Nhưng rồi lẫn vào trong cuộc đời dâu bể, câu nói kia không ít lần đã giúp tôi thấy được cả những gương mặt người lấp loáng như những mặt sông. Có một năm, nước sông Hồng lại cao tới mặt đê. Sóng tung bọt trắng y như một con rồng đang giỡn nước. Dưới trăng suông tháng chín lạnh se, lúc nhìn ngược về phía thượng lưu, tôi có cảm giác như nó đang cố bám lấy núi Tản Viên để không bị trôi tuột ra biển cả. Hôm sau đơn vị tôi chuyển quân đi chống lũ lụt bằng trực thăng. Dù bị say lên say xuống nhưng tôi vẫn còn đủ sức để thoáng thấy sông Hồng đang chòng chành trong vũ trụ bao la. Đúng hơn là nó đang nhảy múa. Tản Viên là cái đầu con kì lân, sông là dải lụa đỏ, hai bên bờ bãi vạn vật cùng tạc hình vây rồng dựng ngược. Trời đất cũng biết chơi trò muá lân con trẻ chăng?
Tôi đã mang dòng sông chòng chành trong tâm tưởng ấy đi khắp mọi miền đất nước. Còn nhớ con sông Thạch Hãn như con rồng trúng thương, vọt lên khỏi mặt nước bởi  bom từ  máy bay B52 ném xuống hay hàng ngàn trái pháo bầy ngoài biển Cửa Việt bắn vào. Vượt sông Hương, sông Thu Bồn, sông Tranh, sông Đồng Nai... tháng Tư năm bảy năm, chúng tôi đã tiến sát vào Sài Gòn. Lần đầu tiên được nhìn thấy tấm bản đồ của thành phố, tôi đã giật thót người vì ngỡ ngàng. Thế đất thế sông nơi đây cũng mang dáng một con rồng vắt đuôi ra biển Cần Giờ. Đầu rồng chính là dải đất nội thành. Quận Tư nằm ở vị trí hàm rồng...
Về sau, trong những dịp ngồi ô tô chạy như bay trên quốc lộ Một, quốc lộ Năm và nhiều con đường thênh thang khác của đất nước, tôi hay có cảm giác mình đang được cưỡi trên lưng những con rồng. Chúng như gối đầu vào nhau, mà những thành phố, thị xã, khu công nghiệp là những cái đầu mỗi ngày một lớn thêm ra. Ý nghĩ này khiến tôi hay mỉm cười một mình bởi bất chợt nhớ lại ngày bố tôi vào Sài Gòn thăm con cháu, tôi đã đưa người vào dinh Thống Nhất. Người đã ngồi thử  vào chiếc ghế có chạm hình rồng và lấy làm mãn nguyện lắm. Buổi tối, vào những lúc tôi làm việc trước máy vi tính, bố tôi rất thích ngồi bên cạnh con để hỏi về cái máy lạ mà người quen miệng gọi nôm na là “cái máy bác học”. Nào là máy có chứa các loại kiến thức ghi bằng các thứ chữ Hán, chữ  Ấn  Độ, chữ Ả Rập, chữ Pháp, chữ Anh Mỹ và các thứ chữ khác nữa không. Nào là máy có mách cách làm cho dân giàu nước mạnh, có làm cho con người được hạnh phúc hơn không? Tôi đã trả lời là có. Rồi tôi say sưa nói thêm cho người biết về nhiều công dụng kì diệu của máy tính. Tôi còn nhớ, lúc tôi truy cập vào một chương trình của mạng Internet cho bố xem, người đã lặng đi, miệng khẽ lẩm bẩm:
- Thánh thật! Thánh thật! Giá mà...
Cuối năm Kỷ Mão, nhờ gió bấc nhắc khéo nhiều lần, tôi đã thu xếp được ít ngày để trở lại thăm đồng chiêm. Bố tôi khẽ vuốt chòm râu đã bạc như mây từ  lâu, mắt nhìn chăm chắm vào mái đầu đã điểm sương khói của tôi, khoe:
- Từ  ngày con về lần trước, làng mình cũng có một chút đổi thay. Đi trên đường làng đã trải đá hoặc rựa đường, con có thấy thích không? Nhưng theo ý bố, thú nhất vẫn là...
Người ngừng lời, bảo tôi dắt tới miếu Thành Hoàng. Cái miếu xưa vẫn rêu xanh muôn thuở. Duy có con rồng năm nào, như có một phép mầu lạ lùng, đã mọc lại đầu. Hai bố con không ai bảo ai cùng ngồi xuống bên cạnh con vật bằng đá. Biết tôi quá đỗi ngạc nhiên, bố tôi quay sang, hỏi khẽ:
- Con xem các nét chạm trên thân rồng có thể hiện được hoa văn xưa không?
Tôi nhìn kĩ từng nét trên thân con rồng đá và nói:
- Có, đây đúng là những nét chạm khắc phỏng theo đời nhà Lý. Nhưng đầu con rồng...
Thấy tôi có vẻ ngập ngừng, bố tôi thăm dò:
- Riêng cái đầu không tạc theo các mẫu rồng thuộc bất cứ một triều đại vua nào phải không?
- Thưa, đúng ạ. Mà tại sao làng lại làm như thế, hả bố?
Bố tôi không trả lời vào câu tôi hỏi mà lại kể:
- Sau khi đưa con rồng cụt đầu ra táng ngoài cồn Rùa, các cụ bô lão trong  làng chụm đầu vào bàn bạc và sai thợ đá làm ra con rồng này. Con có nhận ra cái đầu nó có chỗ nào khác lạ không?
Tôi ngờ ngợ, đoán:
- Đầu con rồng hợp nhiều nét truyền thống của các hình mẫu rồng của tất cả các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn...Có điều nó còn mô phỏng...
Bố tôi mở to mắt, miệng hơi há ra chờ đợi.
- Nó phỏng theo dáng cái máy vi tính ở nhà con. Phải không, bố?
- Không hẳn thế! Nhưng mà con đoán cũng gần đúng rồi đấy! Bố tôi nói rồi kể tiếp- Con rồng ở miếu thờ Thành Hoàng làng mình bị đạn đại bác phạt cụt đầu từ  năm giặc Pháp còn đóng bót ở chợ Cổ Gia. Hòa bình mới được mấy năm nước lại có chiến tranh. Các con ra mặt trận cả, người ở lại cũng chẳng còn thời gian để mà nghĩ đến việc tạc lại đầu cho con vật thiêng liêng ấy nữa. May mà dịp vào Nam thăm con, bố mới sực nghĩ ra...
Tôi hỏi:
- Và bố  đã về bàn với các cụ tạc hình con rồng này?
Bố vuốt râu, cười ngất ngưởng:
- Ừ, cái máy ấy nhắc bố nhớ lại lời người xưa rằng con người hơn nhau cốt chỉ ở cái đầu. Người học hỏi nhiều mới mong bằng và vượt qua người khác được. Bố nghĩ những nét chữ do con người tạo ra đều mang những kích thước rồng thu nhỏ lại. Vì vậy, con rồng làng ta có đủ cả xưa nay, cổ kim hòa quyện, hỗ trợ cho nhau, âm dương hòa hợp, vượng khí làng ta nhờ đó mà sẽ khá dần lên chăng!
Nghe lời bố, tôi xúc động thực sự:
- Con đã hiểu ra vì sao con rồng thiêng này lại mang dáng đầu người rồi bố ạ. Nhưng còn hồn quê? Cái hồn quê mà ngày xưa bố thường nói với con ấy! Giờ nó ở đâu?
Bố tôi nhìn tôi như hồi tôi còn bé tí và cười:
- Bố thấy nó ở ngay chỗ này. Bởi con chẳng đang bên cạnh bố đấy sao?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2019 19:42:21 bởi Nguyễn Quốc Văn >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9