12 Thắng cảnh Quảng Ngãi quê tôi
12 THẮNG CẢNH QUẢNG NGÃI Theo Non Nước Xứ Quảng của Phạm Trung Việt XB 1971,tái bản NXB Thanh niên 2003. Trước đây, từ năm 1750 cụ Đạm Am Nguyễn Cư Trinh khi nhậm chức ở Quảng Ngãi đã vịnh 10 thắng cảnh: 1. Thiên Ấn niêm hà (Ấn trời đóng trên sông) 2.Thiên Bút phê vân (Bút trời vẽ mây) 3. Long đầu hý thủy (Đầu rồng giỡn nước) 4. La Hà thạch trận (Trận đá La Hà) 5. Cổ Lũy cô thôn. 6. Thạch Bích tà dương (Bóng chiều Thạch Bích) 7, Hà Nhai vãn độ 8. An Hải sa bàn (Mâm cát An Hải) 9. Liên Trì dục nguyệt (Nguyệt tắm ao sen) 10. Thạch cơ điếu tẩu (Lão câu gành đá) và người đời sau thêm 2 thắng cảnh nữa: 11. Vu sơn lộc trường 12. Vân phong túc võ (Núi Vân đêm mưa).(1) Mới đây, tình cờ tôi có xem trên trang: nuiansongtra.net có 12 bài thơ luật Đường của thi sĩ Phạm Thiên Thư và cuối trang ghi khuyết danh (Chưa có tác giả) người cung cấp là anh Lê văn Công, Tôi lấy làm lạ vì tôi đã họa 12 bài thơ đó, tài liệu do anh Vũ Anh Sương chuyển cho tôi từ năm 2004. Không ngờ ông vua lục bát lại làm thơ luật Đường, rất hay với nhiều thi ảnh đẹp, Tuy nhiên có lẽ người cung cấp dữ liệu về thắng cảnh Quảng Ngãi không chính xác chăng? nên ông viết một số thắng cảnh chưa đủ đúng với tên gọi chính của nó như trong Non nước xứ Quảng của Phạm trung Việt ví dụ: Thạch bích tà dương thì Phạm Thiên Thư tạm dịch (Đá xanh nắng quái), Chữ thạch bích là vách đá chứ không phải đá xanh ; Thạch cơ điếu tẩu (Máy đá chim bay) là Lão câu gành đá, Giang phong túc võ và ông dịch gió sông mưa rụng, nhưng đúng là Vân phong túc võ v v. Phạm thiên Thư không biết cũng chẳng sao vì ông chỉ làm thơ khi liên tưởng, đâu phải người bản địa hay khảo cứu Quảng Ngãi, tôi nghĩ vậy nên họa vận với những tâm sự của tôi khi mới về thăm quê nhà tháng 3/ 2005 trở vào Sài Gòn. Up lên trang tôi các bạn đọc nhé. Sẽ úp từng ngày nhé, các bạn đón đọc NDT 1.Bài xướng: THIÊN ẤN NIÊM HÀ (Núi Thiên Ấn) Vuông vức in xanh núi Ấn trời Đóa hoa sớm tối bốc mù hơi Bốn phương quần tụ mây làm tổ Một nét thơ đề sông hướng khơi Cong vắt chùa xưa dầm nguyệt dãi Lô nhô tháp cổ lạnh sao rơi Có thầy đào giếng khơi dòng nước Biến mất vào Thiên Ấn độ đời Phạm Thiên Thư Bài họa, tất cả đều y đề THIÊN ẤN NIÊM HÀ (Ấn trời đóng trên sông) Lưu lạc nhiều năm giữa đất trời Quê nhà biền biệt chẳng tăm hơi Mây vươn đỉnh biếc chiều xuân hẹn Trăng rụng dòng trong sóng nước khơi Cổ Lũy cô thôn mùa lúa trĩu Niêm Hà Thiên Ấn tứ thơ rơi Ngày nay Du Tử về quê quán Thảo mấy vần thơ để lại đời Ngã Du Tử 2. Bài xướng: THIÊN BÚT PHÊ VÂN (Bút trời phê mây) Đất núi lên trời ngọn bút lông Viết mây năm sắc gió phiêu bồng Văn chương điệp điệp non hồng ngọn Phù thế phiêu phiêu liễu biếc lòng Đầu Phật ai chôn hằn nhật nguyệt Nóc chùa trời lấp nếp rêu phong Phê Vân Thiên bút mây cuồn cuộn Trời có hay đâu bút nặng lòng Phạm Thiên Thư Bài họa: Điểm lại chữ tâm bằng bút lông Trăm năm soi xét gánh tang bồng Bút trời cặm cụi tô mây rựng Mực ngọc ung dung thảo mấy dòng Chốn cũ rợp đường tà áo lụa Đồng xanh lộng gió ngọn nghinh phong Phê Vân Thiên Bút ta còn nợ Đất mẹ quê cha trọn tấm lòng Ngã Du Tử (Không hiểu sao ông lại dùng 2 chữ “lòng” ở vận chính, tôi thấy chưa được bèn đổi một chữ cho đẹp ra) ________________________----- (1) Trích Non nước xứ Quảng của Phạm Trung Việt
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2020 00:26:03 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
CHỜ NHỮNG HỒI SINH Còn những hồi sinh chờ phía trước Ngại gì em chút chua xót giao mùa Thềm đã mọc những mầm xanh nụ nõn Cây vươn cao cành sẽ lớn hơn xưa Đèn đã thắp lo sợ gì bóng tối Tiếng em cười thấm dải đất hồi sinh Tay mười ngón ôm choàng lên nổi nhớ Quê hương ơi, long lanh mắt đẫm tình Tay gầy guộc lật lại thời đã cũ Hạt cơm ngon rõ khó trước nổi đời Ngày mắt Mẹ đẫm buồn đầy tủi nhục Điệu ru hờn dân tộc đến tàn hơi … Thời thức dậy thơm mùi hương vạn phúc Áo nhân văn là lượt lại với người Và những hân hoan vừa mới khoác Ca dao vang mùa dân chủ đón mời Ngã Du Tử
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: