Tiểu thuyết 2 tập: CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU - Phạm Ngọc THái
Thay đổi trang: << < 4 | Trang 4 của 4 trang, bài viết từ 46 đến 53 trên tổng số 53 bài trong đề mục
Nhân văn 21.09.2020 18:29:50 (permalink)
 
 
                                                          41-
 
      Hà Nội – đêm Giáng sinh 1972, rất đông người dân đi sơ tán trở về tỏa ra từ các phố. Họ tin ngày Chúa giáng sinh, Mỹ sẽ không ném bom. Quả thế thật, sau đợt rải thảm B52 hôm 24/12 – Mỹ đã ngừng ném bom 36 giờ như lời tuyên bố của Tổng thống Níchxơn. Hà Nội vắng tiếng bom sau 7 ngày chiến đấu ác liệt, cuộc sống người dân thủ đô lại trở về với vẻ đẹp thanh bình vốn có.
      Thời tiết mùa đông mà Hà Nội ấm áp lạ thường. Từng tốp thanh niên, học sinh, sinh viên ùa về thủ đô đi chơi Giáng sinh. Phố Khâm Thiên – nơi sinh sống của rất nhiều người công giáo, nhộn nhịp trở lại. Khu phố nằm xa các cơ sở quân sự, nên dân chúng tin rằng ở đây an toàn. Các gia đình công giáo lũ lượt trở về, mong được đón ngày Chúa ra đời.
      Đêm Giáng sinh – phố Nhà Chung bừng sáng. Người người kéo nhau về Nhà Thờ Lớn. Đường phố tấp nập như chiến tranh không hề hiện hữu trên mảnh đất này. Bên trong Nhà Thờ Lớn: đèn, nến lung linh. Tiếng chuông ngân vang. Cha xứ làm lễ mong ước thái bình cho con dân. Mọi người đều hướng đến Chúa cầu nguyện… 
      Thu nghĩ về những năm tháng không xa? Mỗi khi mùa Giáng sinh tới, cứ đi qua phố Nhà Thờ và những con phố nhỏ quanh Bờ Hồ, lòng cô lại nhớ đến nao lòng. Những kỷ niệm đã qua bên các bạn bè thân thiết và Hoàng…
      Khi ấy họ vẫn còn là học sinh cuối cấp, thường có cái thú thích lang thang trong những đêm đông, nhất là đêm Giáng sinh để ngắm nhìn Hà Nội, ngắm nhìn những con phố đẹp nhất thủ đô ven Hồ Gươm.
      Đêm nô-en năm nay – Một đêm nô-en lịch sử, giữa cuộc oanh tạc khốc liệt của không quân Hoa Kỳ vào Hà Nội. Bên cạnh Thu chỉ có Lan, người bạn gái thân thiết từ nơi làm việc tận tỉnh xa về. Họ cùng đi chơi với nhau trong đêm lễ này. Thúy, bạn cả hai cô cũng hứa sẽ về? nhưng vì công việc đột xuất của cơ quan ở nơi sơ tán, lại không về được.
      Thu và Lan hòa nhập vào dòng người dạo chơi đêm Giáng sinh. Gió hun hút thổi từ Hồ Gươm lùa vào các con phố họ qua. Lang thang đêm vô định… với cảnh áo mỏng manh nhưng chẳng ai thấy rét. Hai người bạn gái cứ đi loanh quanh qua những con phố gần nhà thờ, vừa để cảm nhận không khí đêm lễ, vừa rủ rỉ nói chuyện về những kỉ niệm thời xưa.
      Người đến lễ đông nghịt. Vào Nhà Thờ Lớn, ai nấy bước đi nhẹ nhàng, nói khẽ khàng để không làm ảnh hưởng tới cái không khí trang nghiêm, đón chờ giờ khắc điểm: Chúa giáng sinh! 
      Cây thập tự trên nóc tháp nhà thờ đạo chĩa mũi nhọn chọc thẳng lên khoảng không, đổ bóng xuống mặt phố phía cửa trước, nơi có một vườn thánh nhỏ. Bên trong những hàng song sắt bao quanh vườn thánh, Đức mẹ đồng trinh khoác chiếc áo choàng màu đá, đang ẵm Chúa hài nhi. Trên mặt Đức mẹ thoáng gợn vẻ ưu tư, tạc nên hình tượng tình mẫu tử.
      Chuông rền rã… Thu ngắm nhìn ngôi nhà đạo cổ kính, uy nghiêm. Nhà Thờ Lớn Hà Nội được khánh thành đúng vào lễ Giáng sinh năm 1887, là sự tiêu biểu và đặc trưng nhất của nghệ thuật kiến trúc thời trung cổ. Những mái vòm uốn cong, rộng, hướng lên đỉnh trời đón ánh sáng. Bên trong là kiến trúc Gôtic. Lối kiến trúc này, luôn cho người xem ấn tượng về một không gian tôn giáo uy nghiêm.
      Khi nghe ca đoàn hát thánh ca, tiếng ca trầm hùng hòa với tiếng đàn oóc-gan, đàn dương cầm… ta như thấy mình bay theo Chúa vào không gian sâu thẳm, bí ẩn, linh thiêng. Sau những lời thỉnh đạo trầm ấm, âm vang của Đức cha chỉ giáo về ngày Chúa ra đời, mọi người thấy tâm mình sáng lên như được khai minh. Đêm Giáng sinh, đêm Chúa ngự trên trái đất này đã đem lại cho con người một niềm an ủi, mỗi khi gặp những khổ đau, có niềm tin vào những điều tốt đẹp trên đời.
      Kể từ thời phục hưng đến nay, ngày Lễ Giáng sinh không còn chỉ là riêng của những người thiên chúa giáo – Giáng sinh đã trở thành ngày Lễ quốc tế, ngày lễ của gia đình. Mọi người thuộc các thế hệ về tề tựu bên nhau, thể hiện tình yêu thương. Trẻ con sẽ là những thiên thần lên ngôi trong mùa lễ hội. Những thiên thần ấy đi vào giấc ngủ, cùng với hình ảnh “ông già tuyết”  leo vào từ ống khói… mang cho chúng món quà mà chúng mong đợi nhất. Hát vang bài hát Jingle Bells, một thông điệp của mùa Lễ Giáng sinh.
      2013 năm trước đây, Đức Chúa Jesus Christ – Đấng cứu thế đã giáng sinh để cứu chuộc rất nhiều lầm lỗi của loài người: theo giáo lý Thiên chúa. Thời gian trôi qua, bản tính xấu xa của con người không những không mất đi, mà còn hoành hành dữ dội và ngang ngược hơn. Không còn cách nào khác, Đức Chúa Trời đã phải cho con mình đầu thai xuống trần thế, để gánh bớt tội lỗi cho con người. Như vậy, Chúa Jesus đã giáng sinh để gỡ bỏ lỗi lầm, giải bớt những hiềm khích, khuyên răn con người làm điều phước đức mà hưởng ân huệ của Chúa.
      Chúa dậy con người rất nhiều điều: Chúa bảo con người phải biết sống vì người khác, Chúa đem đến cho con người sự lạc quan vui sống, khuyên nhủ con người hãy giữ vững đức tin: “Hãy xin sẽ được - Hãy tìm sẽ gặp -  Hãy gõ cửa, sẽ mở cho”. Chúa còn kêu gọi: “Hỡi dân ngoại, hãy đồng vui cùng dân Chúa” – để người mạnh, kẻ yếu phải hòa hợp nhau. Chúa còn khuyên con người luôn hướng tới sự công bình. Phước cho những kẻ làm cho con người hòa thuận, vì sẽ được gọi là “con Đức Chúa trời”.
      Nếu tìm hiểu thêm ý nghia của Lễ Giáng Sinh, chúng ta sẽ thấy nhiều điều thú vị: truyện về ngày sinh của Chúa Jesus, có tên bằng tiếng Anh là Nativity. Chúa Jesus do Đức Mẹ Đồng Trinh tự nhiên mang thai mà sinh ra. Sự thụ thai này do quyền lực thần diệu của Thượng Đế, tạo ra trong bà Mary còn đồng trinh. Chúa Jesus được sinh ra trong một chuồng ngựa (stable) tại Bethlehem và được đặt trong máng cỏ (manger), vì lúc đó trong nhà trọ không còn phòng trống nào. Sau đó Chúa Jesus được Đức mẹ Mary và chồng của bà là Joseph nuôi nấng tại Nazareth – một thành phố ở phía bắc Israel. Khi được mười hai tuổi, Chúa Jesus đến giáo đường ở Jerusalem, và đã làm kinh ngạc các giáo sư về môn Mosaie Law với sự hiểu biết của ngài.
      Khi lớn lên, Chúa Jesus chọn được mười hai Tông Đồ cùng ngài đi khắp nơi ở Palestine để giảng đạo, chữa bệnh và thực hiện các phép lạ - Đó là phép “Loaves and Fishes” (những ổ bánh mỳ và những con cá).
      Chuyện phép lậ này được người ta truyền lại: Khi Chúa Jesus thuyết giảng ở một đám đông, trong lúc họ rất đói. Người ta chỉ tìm thấy 5 ổ bánh mỳ và 2 con cá –  Chúa Jesus làm phép trên 5 ổ bánh mỳ và 2 con cá này, rồi ra lệnh cho các đệ tử của ngài phân phát đồ ăn cho tất cả mọi người. Sau khi mọi người được phát đầy đủ đồ ăn và ăn đã no nê, người ta thấy 12 chậu đồ ăn vẫn còn đầy.
      Nhờ việc đi rao giảng lời của Thượng Đế mà ngài đã có rất nhiều tín đồ, đồng thời cũng nhiều kẻ thù. Cuối cùng, Chúa Jesus bị tên Judas Iscariat phản bội. Sau đó, bị Potius Pilate – người lãnh đạo dân Do Thái lúc bấy giờ kết án và chính quyền La Mã đóng đinh trên Thập Tự Giá. Những người Thiên chúa giáo tin là ngài đã cải tử hoàn sinh, và sự phục sinh này là để cứu vớt các linh hồn.
      Những tục lệ cổ truyền về Lễ Giáng sinh bắt nguồn từ sự trùng hợp ngày sinh của Chúa, với ngày lễ kỷ niệm về nông trang và mặt trời vào mùa đông (winter Selstice) của những người không theo đạo thiên chúa. Vào dịp này, người ta trang hoàng nhà cửa bằng cây lá xanh tươi và hoa, đèn rực rỡ. Trẻ con và người nghèo được trao quà tặng.
      Lửa, đèn và nến là vật tượng trưng của sự ấm cúng cùng sự sống. Nó luôn liên hệ với các lễ lạc vào mùa đông, của cả những người theo đạo thiên chúa và các đạo khác. Từ thời trung cổ: cây thông – một loại cây vạn liên thanh, là biểu hiện cho sự sống và không thể thiếu trong Lễ Giáng sinh.
      Tính đến năm 1972, ngày Chúa ra đời cách đã 1969 năm. Chúa nhân từ đã cứu rỗi bao chúng sinh lầm đường, lạc lối. Những người có đạo tin Chúa luôn mang lại sự tốt lành, nên họ ít khi làm điều ác.
      Rời Nhà Thờ Lớn, Thu và Lan lặng lẽ đi bên nhau với bao tâm sự. Thu nói với Lan:
-  Phố Nhà Thờ là phố của những người nghiền cà phê đấy! Lan có nhớ, những năm trước đây khi hội của chúng mình đi chơi đêm nô-en, Hoàng vẫn rủ các bạn vào uống cà phê trên hè phố Nhà Thờ?
      Lan phụ họa theo:
-  Ừ, Hoàng thường nói: uống cà phê chỉ ngồi ở hè phố Nhà Thờ mới thú!
       Vui chân đến phố Nhà Thờ, muốn uống cà phê người ta có thể vào trong một cái quán mình thích, hoặc ngồi ngay ở hè phố mà thưởng thức. Con phố ruột của dân nghiền cà phê Hà Nội, rất gần Hồ Gươm. Cà phê phin… từng giọt, từng giọt sóng sánh. Người uống cũng từng ngụm, từng ngụm nhẹ nhàng như trong mơ. Phố ngắn và nhỏ nên cũng thật dễ điểm mặt, nhớ tên những “địa chỉ vàng” của các quán cà phê ngon.
      Hai người bạn gái đi chậm lại. Họ nhìn vào một cái quán nhỏ bên phố, mà trước đây Hoàng hay rủ các bạn vào. Nghe thấy tiếng khẽ thở dài của Thu, Lan hỏi:
-  Thu nhớ Hoàng lắm, phải không?
-  Thế là Hoàng đi cũng đã được hơn năm năm rồi, Lan nhỉ!
      Thu nói: “Chiến tranh và sự xa cách, có bao nhiêu điều đã đổi thay.”.
-  Cả tình yêu và nỗi nhớ nhung nữa chứ!
      Lan nhìn bạn tủm tỉm cười: “Lan thì thấy, chúng mình từ biệt nhau như vừa mới hôm qua thôi.”.
-  Còn Thu lại thấy như mình đã trải qua cả cuộc đời vậy.
-  Chỉ có Thu là thay đổi nhiều quá!
      Lan bảo vậy.
-  Chúng ta đều khác đi cả
      Thu đáp và tiếp lời bạn:
-  Nếu bây giờ còn nói: Mỗi chúng ta đều đã trưởng thành? đã lớn lên? - Lan không thấy: nói vậy có phần hơi trẻ con, mà còn buổn cười nữa! Bởi chúng mình đang trải qua cả một cuộc chiến tranh…
      Thu vẫn say sưa giải thích:
-  Sự biến đổi về cuộc sống, đã cho mỗi chúng ta thêm rất nhiều hiểu biết, cũng như sâu sắc hơn cả về tình yêu.
     Lan có vẻ ngạc nhiên nhìn Thu, rồi bật lên cười khanh khách:
-  Nhưng Lan chẳng có ai để mà yêu sâu sắc… để mà nhớ… mà thay đổi cuộc sống…
      Thu chợt hiểu. Cô nắm chặt tay bạn tỏ sự cảm thông:
-  Tại cậu kén quá đấy!
      Hai người bạn gái vui vẻ bước vào trong quán. Đêm khuya, cơn gió thổi về se lạnh. Họ ngồi bên nhau cầm trong tay tách cà phê nóng, hơi bốc lên nghi ngút. Ngày trước, khi Hà Nội chưa có chiến tranh, vào ngày lễ nô-en này phố rất đông. Các văn nhân, nghệ sĩ thường hay đến đây. Họ ngồi với nhau bên tách cà phê để nghĩ sự đời, ngắm người, ngắm cảnh đêm lung linh trong những ánh đèn. Năm nay, Hà Nội đang có bom nên vắng đi nhiều.
      Tiếng chuông nhà thờ lại âm vang trong khuya, người đi chơi nô-en đã tản về các phố. Thu và Lan cũng rời khỏi quán đi về phía Bờ Hồ. Tòa báo Hà Nội Mới của Thu nằm ở ngay đầu phố, sát với Hồ Hoàn Kiếm. Họ đi qua những chùm bóng điện đủ màu kết thành hoa, theo gió chao đi chao lại. Những ngọn đèn pha từ các trận địa tên lửa và pháo cao xạ phòng không, chiếu những đường sáng trắng, đan nhau chi chit giăng khắp bầu trời.
      Bên bờ Hồ Gươm, những chùm rễ xi treo lơ lửng đang cố đưa những đầu rễ trắng nõn khỏa xuống dòng nước xanh. Sóng xô đến dồn chúng vào sát chân hồ. Thu dừng lại, cúi xuống nhặt mấy hòn đá nhỏ ném thia lia trên mặt nước. Viên đá nhảy lướt lên mặt sóng, vạch thành một đường dài lấp loáng ra tít ngoài xa. Hòn thia lia gợi cho cô nhớ lại kỉ niệm xa xưa, những ngày đã cùng anh đi dạo. Lan thì nhặt mấy chiếc lá to thả xuống hồ. Những cánh lá bập bềnh trôi như những chiếc thuyền câu nhỏ xíu.
      Có những khoảnh khắc, hai người bạn cùng im lặng. Lòng họ đang lắng lại, đuổi theo những tâm trạng riêng của chính mình.
-  Thu có nhớ, đêm nô-en cuối cùng trong đời học sinh của chúng ta không?
       Tiếng nói của Lan kéo Thu ra khỏi sự suy tư.
-  Cũng bờ hồ này, cây cối, đường phố, con người… vẫn quen thuộc như ngày nào, Lan nhỉ?
      Thu trả lời bạn.
-  Nhưng lại thiếu đi nhiều đứa bạn, phải không Thu?
-  Ờ, đúng vậy. Khi ấy, chúng mình đều bước ra đời, mỗi đứa một nơi, lại chiến tranh nữa…
-  Nghĩa là Thu lại đang nghĩ về Hoàng?
      Lan nói vẻ ý nhị, cô khẽ mỉm cười trong đêm. Thu không để ý, vì mải đắm mình vào một thế giới đang bộn xộn trong cô. Giây lát, Thu khẽ bảo:
-  Đêm nô-en năm nay, Thu cảm thấy có một cái gì đó thật mới mẻ. Như trong cái màn đêm yên tĩnh của phố cổ kia, là cả một ngọn núi lửa. Ngọn lửa ấy sẵn sàng phá vỡ cái vỏ bọc yên ả của nó. 
-  Thì chiến tranh mà…
       Lan nói.
-  Cả ở trong trái tim mỗi con người chúng ta nữa, Lan ạ!
-  Bởi vì Thu đang nghĩ tới người yêu! Chứ còn trái tim Lan, chẳng có ngọn núi lửa nào cả? chẳng có gì hết.
-  Không, ý Thu không phải chỉ nói riêng về chuyện tình cảm ấy. Chúng ta đang đứng ở trong cuộc chiến của cả dân tộc, mà Lan?
-  Tất nhiên.
       Lan dừng lại không nói gì nữa. Thu nắm lấy tay Lan, hai người đi tiếp về phía tòa soạn báo. Trong canh khuya, thành phố đã im ắng như thể một bến đò đang đợi khách. Người ta nghe rõ tiếng lăn tăn của con sóng láng lên bờ. Thỉnh thoảng một đợt gió xào qua dẫy me xanh cạnh hồ, làm bay đi mươi cánh lá. Cảnh tượng như ở bến sông quê, chốc chốc người lái đò lại chui đầu ra khỏi mui thuyền, đôi mắt thoáng chút lo âu nhìn lên bờ đợi khách? Rồi lại rụt đầu vào trong khoang. Ở đó, được thắp một ngọn đèn dầu chỉ vừa đủ ánh sáng. Ngọn đèn như một đốm lửa có hai mầu: mầu xanh nhọn ánh lên thành búp ở phía trên, nửa đỏ lại phình ra giống một nậm rượu nhỏ phía dưới. “Đêm Hà Nội trong chiến tranh mà cứ như huyền thoại” – Thu nghĩ vậy.
      Thành phố trong đêm uy nghiêm như một thần tượng, vừa mang vẻ huyền bí thiên nhiên, vừa có cái dấu ấn của sự giáo điều cổ xưa. Thỉnh thoảng vẫn có chuyến xe chở đầy ắp người sơ tán, chạy về phía cửa ô. Tiếng còi tàu ở nhà ga thét lên một hồi dài, báo hiệu nó chuẩn bị rời bánh đi đến các tỉnh xa. Mấy chiếc xe nhà binh kéo theo những khẩu pháo lớn, nước thép còn mới. Trên xe, những chiến sĩ đội mũ sắt ngồi thành hai hàng. Họ giơ bàn tay ngang mặt chào các đồng chí của họ, cũng đang ngồi trên chiếc xe khác nhưng đi ngược chiều. Thỉnh thoảng có chiếc xích lô chở đôi, ba người khách, bác lái phải gò mình lên thành xe đạp hối hả về phía cuối phố. Lẻ tẻ vài người đi xe đạp, vội vã phóng thật nhanh về nhà hay đi đâu đó.
      Trời cũng nửa đêm trở về sáng. Những ngọn đèn trong đêm lễ vẫn lung linh, nhưng nhà hai bên phố thì đóng cửa im ỉm. Đã đi đến cổng của báo Hà Nội Mới, hai người bạn gái chia tay nhau. Lan rẽ xuống phố Bà Triệu, nhà cô ở phía đó. Thu mở cổng tòa soạn, bước vào trong cơ quan.
 
                                                         *
 
      Vì sao nhỉ? – Vi sao đến lúc này, nhiều nhà khoa học vẫn cứ trằn trọc mãi câu hỏi: “Man, who are  you?” (con người,  anh là ai?), mà sẽ còn bao nhiêu thập kỉ nữa, khi những thành tựu khoa học như những ánh chớp liên tiếp chiếu sâu vào cái màn đen huyền bí của thế giới, thì câu hỏi đó vẫn có thể là một “cơn sốt”. Cơn sốt khoa học sẽ chùm lên từ thế hệ này qua thế thế khác, không dừng lại. Con người chỉ đi tìm cho đúng cái bóng của mình: Man, who are you?
      Còn Thu, đêm nay cô thấy rõ lắm! Anh chị em của cơ quan, giờ này đều đã ngủ say cả. Chia tay với Lan đêm nô-en về nghỉ trong tòa soạn, Thu cứ bồn chồn, miên man bao tâm trạng. Dường như thể những vì sao trong vũ trụ rộng lớn kia, chúng bay lên từ trái tim cô. Chỉ trong một khoảnh khắc thôi, khoảnh khắc của ánh chớp ấy… Thu đã chứng nhận được cả thế giới đó. Cứ như một công trình phát minh, cô nhận thức ra và nó làm cho cô vui sướng.
      Tham gia trong những ngày cứu hộ, đào bới, tháo dỡ hầm sập cứu người ở bệnh viện Bạch Mai, Thu mới cảm thấy ý nghĩa thiêng liêng của giống nòi. Đất nước trở nên cao cả và thân thiết biết bao? Chưa bao giờ Thu thấy yêu thương dân tộc mình đến thế! Có ngồi nghe những nhà đạo đức giảng hàng trăm bài chính trị, cũng chẳng bằng chính bản thân mình khi đã hòa vào để cứu các nạn nhân bị bom vùi. Những lúc nhìn anh chị em phải quằn quại trong đống gạch đá đổ, lấp… Người thì thoi thóp, người không bao giờ còn quay trở về với sự sống được nữa? Thu chỉ chực òa lên khóc. Lòng cô đau như chính người thân ruột rà máu mủ gặp nạn. Có một ý nghĩa về cuộc sống còn lớn hơn cả tiếng khóc ấy, bùng lên trong trái tim cô…
-  Ôi, sự sống! Sự sống mới quí giá làm sao?  
      Phải ở trong hoàn cảnh khốc liệt đó? Phải chính mắt mình chứng nhận sự tàn ác, dã man của kẻ thù? – Mới thấy hết được ý nghĩa thiêng liêng của tổ quốc! Tình yêu quê hương đang chảy trong dòng máu của cô. Phải chăng đấy cũng là một trong những đáp án, mà cần trả lời câu hỏi kia: “Man, who are you?” - Con người, anh là ai? Con người là quê hương, là đồng bào, dân tộc trong dòng máu của ta, của cha mẹ cho ta – Chẳng phải đúng thế sao !?
      Thu cảm thấy hạnh phúc, vì mình đã đóng góp được một chút công sức nhỏ bé cho quê hương, cùng đồng bào của cô khi gặp nạn: và đấy chính là những gì cô thấy mình lớn lên, cảm thấy tự hào. Cô đã cùng với dân tộc, với nhân dân… có mặt trong lúc quê hương đang rơi vào thảm họa đẫm máu nhất – để bảo tồn nòi giống, tổ quốc mình! Đó cũng là trang sử hào hùng, chói lọi của non sông. Lòng cô đầy phấn kích.
      Thu vùng dậy lấy giấy viết thư cho anh. Phải, Thu sẽ chia sẻ với anh những gì mà cô đã trải qua, cả những tâm tư thầm kín nhất trong đêm lễ nô-en này.
      “Hoàng thân yêu,
      Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng là mối tình đầu và cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc khi đã làm với anh điều ấy…”.
      Viết đến đây, Thu dừng lại. Cô mỉm cười thầm với chính mình, vì đã viết những dòng như thế cho anh trên thư. Phải, tới giờ nhớ lại những giây phút đó… lòng cô vẫn còn thấy bồn chồn. Nghĩ tới ngày sẽ được mặc bộ đồ cưới thiêng liêng của người con gái, bao nhiêu cảm xúc lại chảy tràn trong đầu óc Thu? Cô muốn viết tất cả nó ra.
      “ngày cưới…”: cái niềm hạnh phúc chợt đến với Thu như nghẹt thở, chói ngợp trong tâm hồn – Ôi, cuộc sống? Cuộc sống đầy mẫu thuẫn nhưng mới kì diệu làm sao! Phải chăng đến đây, ta mới hoàn thiện được câu hỏi: Man, who are you? – Chẳng phải, ta đã tìm được chân lý của cuộc sống đó sao? Không thể có một hình tượng nào, một lí thuyết nào sáng tỏ hơn được chân lí ấy! Cô lại cúi xuống viết tiếp những dòng thư cho anh.
      “… Đấy, nó đấy anh ạ! “ – Thu vẫn miên man… Tuy mới chỉ là những ý nghĩ đến thôi, cô đã thấy hạnh phúc lắm rồi!
      … Khi em mơ một chiếc váy mặc trong ngày lễ cưới, thì thấy cuộc sống đã mở ra trước mắt cả bầu trời. Em cũng ước muốn một gian phòng nhỏ xinh xắn trên phố, trong hạnh phúc của tình yêu! Phải thế không anh?
       Không giống những nhà khảo cổ đã khai quật từ trong các tầng lớp địa chất nằm sâu dưới đất… một cái sọ người nguyên thủy, hay mấy mảnh xương vụn… mà tìm ra nguồn gốc của loài người? cũng chỉ để trả lời cho câu hỏi: Man, who are you? – Con người, anh là ai?
       Nhưng rõ ràng đêm nay, Thu đã nắm được một cái gì đó thật thiêng liêng, kì diệu của cuộc sống! – Cũng như những người phụ nữ khác, Thu sẽ  có con. Khi đất nước đã hết chiến tranh, cô cùng với các con sống một cuộc sống bình thường, yên lành bên anh.
      Đấy, nó đấy! Cô muốn ôm chặt lấy cái hạnh phúc ấy. Như thể đó là một cánh chim, nếu buông tay ra thì cánh chim sẽ mang chân lý của cô bay đi mất.
      Câu hỏi: “Con người, anh là ai”? chẳng phải ta đã trả lời được nó đấy sao! Những gì đang tồn tại, đang phát triển: cả hy vọng và sự hy sinh… suy cho cùng đều nẩy sinh từ trong đó. Cô đã nhận thức được nó từ trái tim cô, trong tâm hồn, trí não của một người phụ nữ giữa đêm lễ Giáng sinh này – Thu muốn viết tất cả những ý nghĩ hỗn độn ấy ra với anh, chẳng cần sắp xếp.
      Thu lại tự vấn mình: khỉ, mình toàn viết linh tinh. Giờ ta sẽ kể về đêm nô-en đi chơi với Lan, cho anh nghe. Cô viết:
       “Em và Lan, chúng em lượn mấy vòng từ phố Nhà Thờ ra Bờ Hồ rồi rẽ vào một cái quán nhỏ. Cái quán mà năm xưa có cả anh, ta hay vào đó uống cà phê trong đêm lễ, anh còn nhớ không? Đúng đến giờ khắc thiêng liêng thì bọn em len vào trong nhà thờ, xem mọi người làm lễ và cầu nguyện cho một Giáng sinh an lành.
      Sau khi dự lễ ở nhà thờ, bọn em còn lang thang thâu đêm… rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho anh đây! Cái Lan nó tạt về nhà, hẹn mai thế nào cũng đến tòa soạn báo ở với em vài ngày. Nó xin nghỉ phép năm, anh ạ! Chỉ tội nghiệp nó, chưa tìm được anh chàng nào thay thế, vẫn một bóng cô đơn! Chúng mình tuy rất xa nhau, nhưng vẫn còn có nhau… phải không anh?”.
      Thu nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng về phía trời xa. Cô lại nghĩ: nếu giờ ta đặt ra câu hỏi với anh: Chiến tranh liệu còn lâu nữa không? – chắc là anh sẽ trả lời: Chẳng còn lâu nữa đâu, em ạ!  Mặc dù anh với em đều hiểu, thực tế còn ở cách xa với ước muốn của mình một khoảng cách, không phải là ngắn. Cô lại viết tiếp:
      “Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! – Thì cô gái nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con… sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh!  
      Cái chân lí về hạnh phúc đơn giản vậy thôi! Nhưng chính chân lí ấy đã giúp cho cô gái nhìn thấy cả thế giới kia, trong trái tim nhỏ bé của mình, trái tim của một người đàn bà…”.
      Lá thư viết cho anh đã dài năm trang giấy pơ luya màu hồng. Ngày mai, chắc là vừa đêm lễ nên Hà Nội vẫn còn yên, Thu sẽ tranh thủ mang ra hòm thư ngoài phố gửi, để anh sớm biết tin. Trời cũng đã gần sáng, cơn buồn ngủ kéo đến trĩu mắt, Thu áp mặt lên lá thư và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.  
 
 
#46
    Nhân văn 21.09.2020 18:31:57 (permalink)
     
     
                                                                     42-
     
          36 giờ ngay sau Giáng sinh một ngày – vào lúc 22 giờ 40 phút đêm 26.12.1972, hàng chục tốp pháo đài bay B52 của Mỹ từ đảo Guy Am, sân  bay Cò Rạt – Thái Lan như những quái vật bay vào rải thảm xuông phố Khâm Thiên, Hà Nội. Con phố dài 1.200 mét nổi tiếng là sầm uất và đông dân, phải oằn mình hứng chịu một trận mưa bom khốc liệt. Tiếng nổ rền vang liên tiếp, khói bụi mịt mù, rừng rực cháy. Ngồi ở dưới hầm, người ta nghe thấy từ xa tiếng máy bay vào lớn dần, ầm ầm như cối xay lúa, kéo theo hàng tràng những tiếng nổ long trời, mặt đất rung chuyển. Tất cả tối sầm lại và chao đảo mạnh. Cảm giác sức công phá của nó có thể làm sập mọi căn hầm trũ ẩn. Đèn phố vụt tắt, chìm trong những tiếng bom kéo dài như sấm.
         Trời mới quá nửa đêm, Thu cùng với Lan và một số phóng viên của báo Hà Nội Mới, vội phóng xe đạp chạy đến phố Khâm Thiên. Lan khi đó, đã đến chơi và định ở với Thu vài ngày trong tòa soạn. Họ đến đầu đường, một khung cảnh tang thương hiện ra trước mắt – Cả tuyến phố đã bị B52 xới tung, hàng trăm người đang đào bới, tìm kiếm người thân bị chôn vùi.
         Nhà hai bên phố bị sập, đổ ra phía ngoài đường. Bên trong phố, thay cho những ngôi nhà là những hố bom nằm la liệt, nhiều nhà bị thổi bay. Cảnh tang thương, không gì tả hết. Thu cùng các bạn và cả những người cứu hộ đang chạy đến, tất cả đều phải gạt nước mắt để đi nhặt xác người vương vãi khắp nơi, rồi lại lao vào đào bới để cứu các nạn nhân đang kêu khóc trong đống đổ nát.
         Cả phố Khâm Thiên khét lẹt khói bom. Ngay ở Ngõ Chợ, tiếng khóc, tiếng gào thét đến điên dại bên dẫy xác đang chờ khâm liệm. Nhìn cảnh đau thương ấy, toàn thân Thu run lên… vừa kinh hãi, vừa trào dâng sự căm uất quân thù. Cô nắm chặt lấy tay Lan. Hai người con gái lao mình vào cùng với mọi người cứu nạn. Lúc này, anh em trong nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới đã tản đi mọi chỗ. Họ sục sạo tìm những ai còn thoi thóp sống, và thu nhặt xác nạn nhân đã chết.
         Tiếng khóc cha, khóc mẹ, khóc con và những người thân cứ rền rĩ vang lên. Xa xa, người ta vẫn nghe thấy tiếng máy bay Mỹ còn đang tiếp tục ném bom xuống ngoại thành Hà Nội, về phía Hà Tây.
         Nhang đèn cắm dọc con phố. Người ở phố Khâm Thiên đã đi sơ tán, nghe tin đài báo, vội vã trở về. Họ phải kìm nén nỗi đau, với mọi phương tiện vội xông vào đống đổ nát để cứu người và tìm kiếm thân nhân.
         Dưới ngôi nhà… phía trước đã bị đổ sập, tiếng một em bé thất thanh gọi  dưới đống gạch vỡ: “Mẹ ơi, bế con ra với!” – người mẹ phía trên gào lên kêu mọi người đến giúp. Thu cùng với Lan và những người gần đấy lao tới. Cuốc, xẻng… không có, mọi người dùng tay đào bới, nhặt từng viên gạch vứt ra ngoài. Cả bàn tay đến toác máu. Ở dưới, tiếng bé đã lạc đi vì gọi mẹ, khiến không ai cầm được nước mắt. Một nắp hầm trú ẩn đã hiện ra. Người ta cậy lên thì thấy đứa bé đang nằm trong tay một bà già đã chết, nhưng may đứa bé vẫn còn sống. Người mẹ mừng quá khóc và sướng… lao vào ôm lấy con. Thu gỡ đứa bé ra khỏi tay bà già, đưa cho người mẹ. Người mẹ mừng mừng, tủi tủi… ôm chặt lấy con, như sợ bom Mỹ lại đến cướp con chị đi một lần nữa.
         Nghe chị thổn thức kể lại: Đó là cháu Hà – Tối hôm 26/12, khi nghe còi báo động có máy bay Mỹ đến. Căn hầm trong nhà thì nhỏ, chỉ chứa được hai người. Để con an toàn, chị đã đưa con cho bà thím bế xuống hầm, rồi đậy nắp hầm lại, chạy ra trú ở căn hầm bên ngoài phố. Chị không ngờ, bom đã rơi đúng ngôi nhà khiến nó đổ sập. Rầm bê tông, gạch ngói và đồ đạc đè lên nắp hầm làm cho bà thím chết tại chỗ. Bé Hà được bà thím bế trong lòng nên vẫn còn sống.
         Chứng kiến khung cảnh tang thương của cả con phố, khiến những người dân đã không còn biết sợ. Rất có thể máy bay Mỹ sẽ quay lại để thả tiếp một loạt bom khác, nhưng lòng căm thù dâng lên cao độ tạo thành một khí thế hào hùng. Những ai còn sống sót đều lao ra đường, nhặt những bàn tay, những khúc xương của người thân, của bà con hàng phố… giờ đây đã bị bom Mỹ xẻ làm hai, ba mảnh hoặc xé vụn xác. Có mảnh vắt trên cây bàng, cây sấu và vương vãi khắp nơi. Họ dùng những khúc tre gập đôi để gắp các mảnh xương, thịt cho vào từng thúng lớn. Xác người nằm dọc theo hàng cây. Những cỗ quan tài của thành phố đã được đưa tới chất ngổn ngang trên bờ hè, biến cả khu phố trở thành một nghĩa địa đau thương.
          Hầu như toàn bộ phố Khâm Thiên, giờ chỉ còn là một đống gạch vụn. Đêm vẫn còn tối, chỉ nhìn thấy những cái bóng lờ mờ của những người đi cứu hộ. Loạn xạ khắp nơi là tiếng than, kêu gào và gọi nhau. Người sống bới tìm người chết trong tuyệt vọng.
         Xung quanh Thu, mọi người vẫn ra sức làm. Chưa khi nào, cô thấy mình phải hứng chịu một nỗi đau lớn như vậy? Nỗi đau ra ngoài tầm tưởng tượng, ngoài tất cả các sách vở mà cô từng được đọc. Cả dẫy phố dài vẫn loang lổ cháy, loang lổ tiếng khóc trong mưa. Các ngôi nhà bị hơi bom phạt đi bay mất nóc, như những con thuồng luồng to khủng, há miệng sâu hoắm. Ngay hàng cây lớn hai bên phố cũng bị phạt, đổ gục xuống. Mùi khói bom, mùi gỗ cháy và cả mùi máu cứ xộc thẳng lên óc người. Cảnh tượng thật khủng khiếp.
         Bỗng Thu nhìn thấy một thanh niên đang chạy như điên dại từ đầu phố, vụt qua chỗ cô. Anh ta vừa chạy vừa ngã dúi dụi vì vấp phải xác những người chết. Đến khoảng giữa phố, cách chỗ Thu không bao xa… thì anh thanh niên quì gập xuống và gào thét gọi người thân? Tiếng của anh vang lên, đập vào cùng những tiếng kêu ai oán của bao người khác. Thu và mấy người cứu hộ vội lao về phía người thanh niên đang vật vã… trên một đống đổ nát. Bên cạnh là một hố bom sâu hoắm tới chục mét. Đó chính là khu vực ở đầu ngõ Sân Quần. Bom đã bốc cả một khu ngõ sang nơi khác.
         Ai nấy cuống cuồng cùng người thanh niên đương hoảng hốt dùng cuốc xẻng, dùng tay hoặc bất cứ thứ gì có thể làm được, bới tìm vào những hố, ụ?
          Người thanh niên đó tên là Cầu. Anh Cầu vừa đào bới, vừa kể lể cho mọi người nghe. Tiếng của anh nấc lên vì nghẹn khóc, giọng lạc đi vì không tin nổi sự thật đang diễn ra ở cả khu phố và có gia đình anh trong đó. Chỗ hố bom sâu chính là chiếc hầm trú ẩn tập thể ở trong khu ngõ gần sát nhà anh, chứa hơn 40 người: có cả vợ con anh, hai đứa cháu con bà chị gái và chú em ruột. Chỉ riêng gia đình anh đã 5 người với mấy chục con người trong hầm, bị bom đánh bay cùng đất đá. Mọi người cùng anh Cầu vẫn tiếp tục đào bới xung quanh hố bom, hy vọng tìm được xác những người thân của anh và các nạn nhân trong đó.
         Anh Cầu cho biết đêm đó khoảng 9 giờ tối, anh đi trực chiến tại xí nghiệp in Hà Nội - 75 Hàng Bồ. Ở nhà chỉ có vợ con anh và mấy người trong họ hàng. Vào lúc gần 10 giờ đêm, tiếng còi báo động thành phố rú lên, sau đó đèn phố vụt tắt. Tiếng máy bay B52 ù ù rền rĩ trên đỉnh đầu. Khi đó anh Cầu đang làm nhiệm vụ trực chiến, thấy mặt đất rung chuyển, hơi bom phả phần phật từ cách đó cả cây số. Những tiếng nổ kéo dài, rồi các đám cháy lớn bùng lên sáng rực một góc trời. Nhìn về phía phố Khâm Thiên, bụng dạ anh cồn cào không yên. Một cái gì linh tính báo cho anh biết… sự khủng khiếp đã xẩy ra? Tới quá nửa đêm nghe tin đài báo, Mỹ đã dội bom đánh khu phố Khâm Thiên, nơi gia đình anh ở. Anh hoảng hốt vồ lấy chiếc xe đạp lao nhanh về nhà. Khói đạn, gạch đá ngổn ngang cả con đường…
          Đào bới mãi, mọi người cũng giúp anh Cầu tim được người vợ. Chị chỉ còn được nửa thân người phía trên, nên mới nhận ra. Sau đó lại tìm thấy thi thể người con trai, đã rách bươm vì bom thổi. Còn những người khác thì tan vào trong đất đá, không nhận ra được nữa.
          Đôi bàn tay Thu đã phồng rộp và rớm máu, nhưng cô vẫn lao vào cùng mọi người tìm kiếm, mong cứu được những ai còn sống sót. Thu đã mượn được một chiếc thuổng. Cô dùng thuổng để bẩy, để xăm vào trong đống đất đá. Có lần, khi mũi thuổng của cô thọc sâu xuống đất, thì như có một bàn tay vô hình nào đó níu chặt lấy, không thể rút lên được nữa. Từ trong kẽ đất đá… Thu nghe thấy một tiếng kêu yếu ớt. Thu la toáng lên: “Ôi, có người! Đây có người, bà con ơi!”. Mọi người gần đấy nhao nhao nói:
    -  Đâu? Người ở đâu?             
    -  Ở đây! Hình như bên dưới có người đang giữ mũi thuổng của tôi?
          Nói rồi, Thu để nguyên mũi thuổng không dám lắc mạnh, sợ làm bị thương người ở dưới. Cô và mấy người cùng lao vào dùng tay bới, nhặt những tảng gạch vứt ra xa. Phút chốc hiện ra bóng một người đàn ông, tay đang giữ chặt thuổng, mồm vẫn thều thào: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!”. Thu cùng một anh thanh niên đỡ người đàn ông ra.
          Đó là ông Nguyễn Văn Tụng, trú trong một chiếc hầm cá nhân của vườn nhà, cũng ở khu ngõ Sân Quần. Ông Tụng kể: khi nghe còi báo động, ông giục người con trai và cô con dâu ra trú trong căn hầm tập thể của ngõ đã được xây vững chãi, thì tất cả đều bị chết. Riêng ông chạy xuống cái hầm cá nhân làm tạm của nhà bằng ống cống. Bom dội xuống, mọi thứ đột nhiên tối sầm lại sau một tiếng nổ lớn. Ông đã ngất đi rất lâu, cho đến khi tỉnh dậy… Ông chỉ nghe thấy tiếng người nói, tiếng bước chân lộp bộp trên đầu mình.
         Lúc này, mặc dù rất hoảng nhưng ông không thể kêu để cho mọi người biết được? Đợi mãi, tưởng như mọi hy vọng đã hết… thì đột nhiên, ông thấy một mũi thuổng chọc thẳng sát bên đầu mình. Ông chỉ còn biết níu chặt lấy – Nhát thuổng của Thu đã cứu sống ông.
         Nghe ông Tụng nói, lòng Thu cảm động trào nước mắt. Trong đêm tối, cô nở một nụ cười sung sướng. Cô vừa cứu thêm được một người dân vô tội nữa về với quê hương, dù gia đình nhà ông không được cái may mắn đó.
         Trời đã rạng sáng, những người thân của các gia đình ở phố Khâm Thiên biết tin, trở về càng đông. Chung quanh là tiếng than khóc với những vành khăn tang trắng xóa, không khí đậm mùi hương cúng. Chỉ trong một đêm, hàng trăm gia đình phải chịu cảnh sinh ly, tử biệt. Không ít gia đình chẳng còn ai sống sót. Thành phố tan hoang, ngập trong ngút trời khói lửa.
         Thu, Lan và nhóm phóng viên báo với hàng trăm người dân cùng những người cứu hộ - Họ đang đi trong cuộc hành trình tang tóc, đau thương của dân tộc. Thu khẽ nói:
    -  Lan ơi, Thu hãi quá! 
         Cô nắm chặt tay bạn và lại cầm chiếc thuổng, lao tiếp cùng mọi người tìm bới. Những khu nhà gác trước đây, giờ chỉ còn lại các mảng tường. Có mảng đổ xuống nham nhở, có mảng còn đang lung lay… nó có thể sập xuống bất cứ lúc nào? Nhưng những người đang đi làm công việc cứu hộ ấy, không ai còn thấy sợ hãi nữa. Bao tiếng kêu yếu ớt vọng lên từ dưới lòng đất, từ trong đống đổ nát… đang chờ họ đến cứu.
         Mùi cháy, khói bom, mùi máu dồn đặc không gian. Tiếng khóc, tiếng kêu than, tiếng chân chạy, tiếng gọi nhau… oang oang trong khói lửa. Trời sáng dần, nhìn cảnh tượng tàn phá của B52 càng ghê rợn hơn. Đứng ở đầu đường có thể nhìn thấy cuối phố vì đã bị san phẳng. Nhang đèn cắm dọc con phố. Có bộ phận còn đi gom nhặt của cải , giấy tờ vương vãi để tìm cách trả lại cho gia đình có người đã mất. Cả những chiến sĩ dân phòng, rồi công an kéo đến lao vào để cứu hộ.
          Bỗng mọi người nghe thấy một tiếng đổ ầm xuống rất mạnh của một bức tường. Đất trời chao đâỏ, không gian mù mịt, bụi đất đen đặc cả một góc phố… rồi tiếng la hét: “Tránh ra! Tránh ra! Tường còn đang đổ đấy…”. Những người đang đào bới gần bức tường đã đổ, vội chạy tán loạn ra ngoài.
         Tiếng kêu thất thanh của Lan vang lên:
    -  Ôi, cái Thu bạn của em và mấy người nữa vẫn đang còn ở trong đó. Các anh, các chị ơi!
         Tiếng Lan như khóc: “Cứu! Cứu! Họ chết mất? các anh, chị ơi! Thu ơi!”. Nghe tiếng kêu của Lan, một người con trai – phóng viên của tòa soạn báo hốt hoảng hỏi:
    -  Thu cũng ở trong đó à?
         Mọi người hò nhau vội chạy vào, bê những tảng gạch chuyền tay nhau vứt ra xa. Lan vừa khóc và vội vã cùng mọi người tìm cách giải phóng cho nhanh bức tường sập. Một lúc sau, họ cũng tìm thấy ba cái xác nằm gần sát nhau, bị những tảng gạch đè sập xuống. Lan chạy đến, nức nở ôm lấy người bạn gái gọi:
    -  Thu ơi! Thu ơi! Bạn của em và họ bị chêt hết rồi các anh, các chị ơi!
         Hai cô gái khác cùng chết với Thu đã được anh em cứu hộ bế ra ngoài, để vào chỗ xác các nạn nhân chờ người thân đến nhận. Người con trai, phóng viên của báo chạy tới bế Thu lên. Lúc này, người ta thấy Thu khẽ mở đôi mắt yếu ớt nhìn Lan và mọi người. Lan ôm lấy bạn khóc nấc lên:
    -  Thu ơi! Có nghe thấy lan nói không? Thu ơi!
         Môi Thu hé nở một nụ cười từ biệt. Miệng cô muốn nói với Lan điều gì đó, nhưng không nói được. Mắt Thu từ từ nhắm lại. Cô chết không chảy một giọt máu. Chiếc áo hoa sáng màu của Thu bám đầy bụi đất và khói bom. Toàn thân cô vẫn còn nóng hổi trên tay Lan và người phóng viên của báo.
     
                                                         *
     
         Vào lúc 2 giờ sáng đêm 26.12.1972, Đài truyền thanh Hà Nội phát đi một bản tin đặc biệt: “Trừng trị tội ác man rợ của đế quốc Mỹ ném bom B52 hủy diệt khu phố Khâm Thiên, quân và dân thủ đô đã bắn tan xác 5 “pháo đài bay”. Có chiếc rơi ngay xuống khu vực Ngọc Hà, giặc lái nhẩy dù ra bị tóm cổ gần bãi chiếu bóng Khương Thượng”.
         Đêm 26/12 là một đêm đau thương đối với cả dân tộc, nhưng cũng là một trong những đêm hào hùng nhất của quân và dân thủ đô trong cuộc chiến tranh vệ quốc, quyết sống mái với B52 của Mỹ.
         Đêm ấy, mặc dù không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn không xuất kích được, nhưng những người lính tên lửa một lần nữa đã nhứng minh bản lĩnh và tầm vóc của mình. Tính ra trong đêm 26/12, số tên lửa phóng lên tăng gấp 1,7 lần so với đêm 18/12 – đêm đầu tiên của trận Điện Biên Phủ trên không, cũng là đêm bắn rơi nhiều B52 nhất. Chỉ trong một đêm đầy máu và nước mắt ấy, 11 máy bay Mỹ bị tan xác, trong đó có tới 8 pháo đài bay B52.
         Người Mỹ mang bom trút xuống đầu những em nhỏ, những người mẹ chưa từng biết cây súng là gì? Người Mỹ đã phải lĩnh đủ đòn trả thù của những người chiến sĩ bảo vệ thủ đô, bảo vệ niềm tin và sự sống của dân tộc mình. B52 của Mỹ chưa từng bị rơi ở đâu cho tới khi vào Hà Nội.
         Nhà sử học Dương Trung Quốc đã nói: “Sau khi dừng bắn một ngày, trong lúc người dân đang vui tết nô-en, nhất là đồng bào thiên chúa… thì bị B52 Mỹ tập kích. Chính trận tập kích ấy dẫn đến sự thảm sát cả khu phố Khâm Thiên ở trung tâm Hà Nội. Đó là một tội ác rất man rợ của đế quốc Mỹ.”.
         Đúng thế, chỉ trong một đêm cả 17 khối phố đổ sập, 6 khối phố hầu như bị hủy diệt hoàn toàn. Phá và làm hư hại gần 2.000 ngôi nhà, trong đó 534 ngôi bị thổi bay hoặc bị phá tan tất cả. Nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, cả ngôi đình Tương Thuận – di tích lịch sử, rạp hát, nhiều cơ sở sản xuất đã tan hoang. Trận bom làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em - làm cho 178 cháu trở thành mồ côi và 290 người nữa bị thương.
         Dã man nhất là chúng đã trút bom xuống nơi toàn dân thường vô tội. Chỉ trong một đêm, hàng trăm gia đình phải chịu cảnh thảm khốc. Những tang thương đó không gì xóa nổi. Một tội ác của kẻ thù chưa từng có trong lịch sử loài người. Ném bom khu dân cư Khâm Thiên là đỉnh điểm của chiến dịch linebacker II, với mưu tính tàn bạo của Chính phủ Hoa Kỳ trong việc cố giành lợi thế trên bàn đàm phán Hiệp định Pa Ri.
         Việc ngừng ném bom ngày Giáng sinh 1972 chỉ là cái bẫy. Bởi hệ quả của việc Mỹ ngừng ném bom, rất nhiều người dân thủ đô đi sơ tán đã trở về nhà: để chơi nô-en, để lấy thêm nhu yếu phẩm, lương thực mang đến nơi sơ tán. Họ còn nấn ná tí chút ở lại gia đình chưa kịp đi – thì ngay sau ngày 25/12 đó, không quân Mỹ cấp tập ném bom trở lại.
         Trong một đêm, Mỹ đã huy động tới 105 lần chiếc B52 và 90 lần chiếc máy bay chiến thuật. Cả khu phố nổi tiếng đông dân với các con ngõ mang cái tên thân thương như ngõ Hòa Bình, ngõ Đại Đồng, Đoàn Kết, Văn Chương… đã bị san phẳng. Các khối phố 42,43,45,47… chỉ còn là một đống gạch vụn.
         Ngay hôm đó, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội – Bác sĩ Trần Duy Hưng cũng đã có mặt, tham gia cùng nhân dân đào bới, tìm kiểm người bị nạn. Thành phố cũng đã huy động hàng loạt ô tô đến, chiếu đèn pha giúp cho việc cứu người. Cả Hà Nội không ai ngủ được. Bà con sơ tán ở ngoại thành và các vùng quanh đó cũng không ngủ. Họ chạy ra cánh đồng, bờ đê nhìn về nơi có vầng ánh sáng, đó là lửa bom đang đốt cháy Hà Nội.
         Sáng hôm sau người phát ngôn Bộ ngoại giao – trung tâm đầu não của nước Viêt Nam Dân chủ Cộng Hòa, lên tiếng cực lực phản đối không quân Mỹ đánh vào Hà Nội – thì Đài Hoa Kỳ phát đi lời biện minh của Bộ ngoại giao Mỹ rằng: Mỹ chỉ đánh vào khu vực thuộc tỉnh Hà Đông? Họ ngụy biện bằng cách đưa ra sự nhầm lẫn thật quá lố bịch.
          Sau trận bom, người ta cũng thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến hiện trường. Ông đã biểu lộ sự xúc động trước nỗi đau quá lớn.
         Sau này, một Đài tưởng niệm Khâm Thiên được dựng trên nền ba ngôi nhà số 47, 49, 51 đã bị bom Mỹ xóa sổ đêm ấy, với tấm bia mang dòng chữ “Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ” – và một bức tượng bằng đồng, tạc hình một phụ nữ bế trên tay đứa trẻ đã chết vì bom Mỹ. Bức tượng đã sáng tác từ nguyên mẫu là chủ nhân ngôi nhà 51 này: Máy bay Mỹ rải thảm B52 đêm 26/12 đó, đã làm chết toàn bộ 7 người của một gia đình, trong đó người con dâu đang mang thai sáu tháng. Khi những người cứu hộ lôi được họ ra khỏi hầm, cơ thể vẫn còn ấm nhưng không ai sống sót… vì hơi bom tạt vào hầm quá mạnh.
         Ngày nay thành phố vẫn để khuyết nơi đó như bỏ ngỏ một vết thương chiến tranh, nhắc nhở mãi tội ác của giặc Mỹ ngày nào. Một vết sẹo trên con phố lương tri vẫn còn nhức nhối trong nỗi đau con người về chiến tranh – để mãi mãi nhen lên ước vọng hòa bình cho toàn nhân loại.
         Theo Bách khoa toàn thư: Trong 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”: Quân chủng Phòng không – Không quân cùng quân và dân miền Bắc Việt Nam đã bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 và 42 máy bay chiến thuật khác. Tiêu diệt và bắt sống hàng trăm phi công Mỹ.
         Cuộc tập kích chiến lược qui mô lớn bằng B52 của không quân Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng… nhằm đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá: Đã phá tan hoang nhiều khu phố, làng mạc. Đánh sập 5.480 ngôi nhà, trong đó có gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga…giết chết 2.368 dân thường và làm bị thương 1.355 người khác – Trong 12 ngày đêm, Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật, dội xuống hơn 100.000 tấn bom.
         Riêng Hà Nội, Mỹ thả xuống 10.000 tấn bom – tương đương quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hiroshima… nhưng cuối cùng chúng đã bị thất bại hoàn toàn. 
         7 giờ sáng ngày 30.12.1972, Ních Xơn buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và họp lại Hội nghị Pa Ri về Việt Nam.
         Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pa Ri đã được kí kết. Chính phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng độc lập , chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cam kết sẽ không dính líu về quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam. Cam kết rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ về nước.
         Báo Le Monde (Pháp) đã gọi cuộc ném bom B52 rải thảm của Mỹ vào Hà Nội là “Hành động kinh tởm, có thể sánh với các cuộc ném bom tàn sát của phát xít Đức”.
         Trong lòng nước Mỹ, báo chí truyền thông cũng “nổi sóng” lên án Chính quyền Ních Xơn – Thời báo New York viết: “Chủ trương ném bom Hà Nội là một sự lừa dối hay sự ngây thơ của chính quyền?” và phê phán “Bằng hành động này, Nixon đã làm cho nền văn minh Mỹ sụp đổ… trở thành đất nước của những kẻ dã man”.
         Báo Bưu điện Thành Louis viết: “Mỹ càng ném bom thì sự phẫn nộ của dư luận càng tăng. Nhiều người tin rằng: Chính phủ Mỹ đang cố tình sát hại hàng loạt dân thường trong một chiến dịch khủng bố.”.
         Báo tin hàng ngày Chicago nhận xét: “Đưa máy bay B52 rải thảm lên đầu người dân Hà Nội là điều sỉ nhục đối với mọi người trên trái đất”.
         Thời báo Los Angeles viết: “Đây là tội ác gieo rắc chết chóc và kinh hoàng không thể tha thứ được, là hành động bất chấp mọi lí trí.”.
         Chủ tịch Công Đảng Anh Roy Jenkings gọi cuộc ném bom B52 xuống Hà Nội là “hành động mất lòng người nhất trong lịch sử loài người”.
         Thậm chí, Thủ tướng Thụy Điển Olop Palme còn coi “tội ác của Mỹ có thể sánh với các cuộc tàn sát man rợ nhất của bọn Đức Quốc Xã trong Đại chiến thế giới lần thứ hai”.
         Gieo gió phải gặt bão – Hành động tàn bạo man rợ của đế quốc Mỹ, đã bị cả loài người có lương tri phẫn nộ lên án.
     
     
    #47
      Nhân văn 21.09.2020 18:34:54 (permalink)
       
       
                                                            CHƯƠNG XII.
                     CHIẾN TRƯỜNG TÂY NGUYÊN
                              NHỮNG NĂM CUỐI
       
                                                          43-
              Sau khi Hiệp định Pa Ri đã kí ngày 27.1.1973 – Ngày 2.3.1973, một Hội nghị Quốc tế về Việt Nam đã được triệu tập tại Pa Ri, gồm đại biểu các nước: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp và bốn bên tham gia kí kết Hiệp định, cùng bốn nước trong Ủy ban giám sát và Kiểm soát quốc tế (Ba Lan, Canada, Hungari, Inđônêxia) với sự có mặt của ông Tổng thư kí Liên Hợp Quốc. Tất cả các nước tham gia vào hội nghị này đều đã kí vào bản Định ước, công nhận về mặt pháp lý quốc tế của “Hiệp định Pa Ri” về Việt Nam, bảo đảm cho hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh.
           Tuy ngày 29.3.1973, người lính Mỹ cuối cùng đã rời khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ còn QLVNCH đơn độc chống lại liên quân: Quân đội nhân dân Việt Nam từ miền Bắc tràn vào và QGP miền Nam. Song Mỹ vẫn giữ lại hơn hai vạn cố vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, trực tiếp viện trợ cho chính quyền Sài Gòn… tuy mức độ đã ít hơn trước rất nhiều.
           Được cố vấn Mỹ chỉ huy và vẫn nhận được sự viện trợ của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pa Ri. Họ huy động gần như toàn bộ quân lực tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” để bình định, lấn chiếm vào vùng đã được cộng sản giải phóng.
            “Hiệp định Pa Ri” thực chất là giải pháp cuối cùng mà Mỹ phải chấp nhận. Cuộc đàm phán tại Pa Ri bắt đầu từ năm 1968 – cuối thời kì Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng thống Richard Nixon, nhưng không đạt được tiến độ nào cả. Đến cuối nhiệm kì I của Ních Xơn, quá trình đám phán được ghi nhận là quá trình vừa đánh vừa đàm. Mặt trận quân sự quyết định diễn biến của mặt trận ngoại giao.
            Ních Xơn bất chấp cả dư luận quốc tế, thực hiện cuộc rải thảm bom B52 để san phẳng Hà Nội và đưa Bắc Việt Nam trở về thời kì đồ đá, nhưng vẫn bị thất bại. Chính phủ Mỹ mới buộc phải chấp nhận kí Hiệp định Pa Ri, nhằm rút lui trong danh dự.
           Trên thực tế không có ngừng bắn với toàn bộ lãnh thổ miền Nam, kể từ 24 giờ (giờ GMT) ngày 27.1.1973 - Ngay từ 28.1.1973, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đưa ra kế hoạch ‘tràn ngập lãnh thổ”: thực hiện các cuộc tấn công ồ ạt vào các vùng do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam kiểm soát, nhằm lợi dụng tâm lí chủ quan của QGP khi hiệp định vừa có hiệu lực. Thiệu điên cuồng kêu gào tiếp tục chiến đấu để tiêu diệt cộng sản. Ông ta nói: Sẽ không tha cho bất kì một người cộng sản nào! Áp dụng tất cả mọi hoạt động, từ hành quân đánh phá đến biện pháp cảnh sát và hành chính, để đập tan chính quyền cách mạng.Thiệu hung hăng đe dọa kết án tử hình tất cả những ai – Bao gồm xã trưởng, ấp trưởng, quận trưởng và tỉnh trưởng, khi họ có bất kì quan hệ nào ủng hộ, thỏa hiệp với chính quyền cộng sản.
           Chính quyền Sài Gòn đã xúc tiến bố trí thế trận và binh hỏa lực, đánh phá vào vùng quân cách mạng kiểm soát với qui mô chưa từng có. Trước hết, họ điều Hồ Ngọc Cẩn là đại tá Sư đoàn 21 – Tên này trước đây đã được Mỹ chọn sang Hoa Kỳ học, đưa về làm tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Tăng cường nhiều sĩ quan quân đội cùng công an, tình báo, gián điệp… thực hiện kế hoạch đánh phá này. Tập trung lực lượng quân hỗn hợp đông, có lúc lên tới 75 tiểu đoàn – gồm Sư đoàn 21, một số trung đoàn của Sư 9, sư 7 bộ binh, biệt động quân, thiết đoàn, pháo binh, không quân. Huy động rất nhiều các tiểu đoàn bảo an của các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Rạch Giá, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc… chưa kể dân vệ, phòng vệ, dân sự tại chỗ cùng lực lượng khá lớn công an, mật vụ rải khắp các khu vực. Mở nhiều cuộc càn quét chà đi xát lại, sử dụng bom pháo rất ác liệt – Như khu vực Cái Nai (Long Mỹ), Bà Lớn (giáp Vĩnh Hòa Hưng – Gò Quạo – Rạch Giá). Tuyến Lai Hiếu (Cần Thơ) chỉ trong 18 ngày đêm , địch đã bắn 40.000 quả pháo vào một khoảng dài không quá bốn cây số, không quân ném bom tới hàng trăm phi vụ.
           Chính quyền Thiệu thực hiện những cuộc càn quét dài ngày với nhiều thủ đoạn tàn bạo, vừa để đánh phá các vùng của QGP vừa để tạo thành lá chắn phòng thủ đầu não ở Sài Gòn. Trong năm 1973, QLVNCH tiến hành gần 10.000 cuộc hành quân càn quét trên toàn bộ lãnh thổ miền Nam, lấn chiếm ở các vùng tranh chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên; 350.000 cuộc hành quân cảnh sát, bình định trong vùng chúng kiểm soát. Ra sức củng cố và tăng cường lực lượng quân sự nhằm làm cho quân VNCH lớn mạnh, đủ sức để dối phó với QGP cũng như quân chủ lực từ miền Bắc tràn vào. Chỉ tính trong năm 1973, chính quyền VNCH đã bắt thêm 240.000 lính. Ngoài ra thu thập thêm 130.000 quân đào ngũ, rã ngũ… đưa tổng số quân thường trực lên tới 710.000 tên. Điều đó chứng tỏ âm mưu gây chiến ở miền Nam Việt Nam của chính quyền Thiệu vẫn không thay đổi.
            Chỉ tính từ 28/1 đến 28.3.1973, QLVNCH đã vi phạm lệnh ngừng bắn tới 67.762 vụ. Riêng trong năm 1973, địch đóng thêm 500 đồn bốt, chiếm thêm 70 xã, kiểm soát thêm 650.000 dân.
           Nhưng nếu nói: chỉ có chính quyền Sài Gòn đã vi phạm hiệp định ngừng bắn kí kết ở Pa Ri, thì cũng thật quá đáng – Về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cộng sản Bắc Việt thì sao? – Bộ chỉ huy QGP cũng liên tiếp mở các cuộc tiến công, phản công, kết hợp các cuộc nổi dậy của nhân dân trong vùng do VNCH kiểm soát. Một mặt đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Thiệu, mặt khác mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam có lợi cho chính quyền cách mạng.
           Ở ngoài Hà Nội, Trung ương Đảng cộng sản chủ trương huy động tất cả các ngành, các địa phương tranh thủ thời cơ Mỹ đã rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, chính quyền Thiệu thì suy yếu, bị cô lập, hoang mang – miền Bắc dồn sức chi viện đột xuất sức người, sức của cho miền Nam. Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường tối đa quân đội, vũ khí hạng nặng để thực hiện mở nhiều mặt trận tấn công tổng lực vào QLVNCH. Rất nhiều những binh đoàn thiện chiến tiến vào miền Nam.
           Khi Hội nghị Pa Ri chưa được kí kết, con đường mòn Hồ Chí Minh  dọc theo Tây Trường Sơn tuy đã vươn dài đến Tây Nguyên, tổng cộng chiều dài là 11.230km nhưng mới chỉ đủ sức cho các loại xe nhỏ, chưa đủ năng lực cho các loại xe tăng, pháo, tên lửa hạng nặng qua lại – Sau Hiệp định Pa Ri, Hội đồng Chính phủ ở Bắc Việt đã ra quyết định số 243/TTg: xây dựng, củng cố, mở rộng đường chiến lược Trường Sơn. Nhà nước giao cho quân đội làm, đã huy động hàng chục ngàn bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân, kĩ sư… ngày đêm san đèo, phá núi, chuyển đá, đắp đường để xây dựng một hệ thống đường rộng lớn ở cả phía Đông Trường Sơn. Con đường có đủ khả năng đảm bảo cho các loại xe vận tải cỡ lớn, các loại xe chiến đấu hạng nặng chạy dọc cả hai chiều với tốc độ cao, trong suốt bốn mùa mưa nắng. Con đường chiến lược Trường Sơn đó đã dài tới 20.000km.
           Dọc theo con đường Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000km đường ống dẫn dầu, kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, và một hệ thống đường thông tin liên lạc hữu tuyến đến tận các chiến trường. Không chỉ đảm bảo sự liên lạc trên các mặt trận ở miền Nam Việt Nam, mà còn nối liền từ chiến trường về Hà Nội.
           Thông qua đường vận tải chiến lược ở Đông và Tây Trường Sơn đó – Trong một thời gian ngắn sau ngày kí kết Hiệp định Pa Ri, Bắc Việt đã chuyển ra mặt trận 200.000 bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ,  chuyên môn kĩ thuật phục vụ cho chiến đấu. Hơn 25 vạn tấn vật chất như vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực…
           Nghĩa là, tranh thủ thời cơ có hiệp định đình chiến, Bắc Việt cũng đã tăng cường tối đa cho chiến trường. Theo thống kê của một cơ quan ngôn luận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: chỉ tính từ sau ngày đình chiến 27.1.1973 đến tháng 9.1973, Bắc Việt đã tung thêm vào miền Nam 2 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn pháo binh, 1 sư đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn thiết giáp, 1 trung đoàn công binh… với trên 10 vạn cán bộ, chiến sĩ.
           Nhờ có sự chi viện tổng lực của Bắc Việt, cho nên chỉ trong năm 1973: Bộ đội chủ lực ở mặt trận miền Nam đã lên đến 10 sư đoàn, 24 trung đoàn và 102 tiểu đoàn vừa bộ binh và binh chủng . Các sư đoàn chủ lực đều được biên chế đủ 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh và các tiểu đoàn, đại đội binh chủng trực thuộc. Mỗi tiểu đoàn được biên chế trên dưới 400 quân, trung đoàn biên chế từ 1.800 đến 2.000 quân. Sau khi kí kết hiệp định – Bộ đội chủ lực trên chiến trường miền Nam đã được tổ chức tới cấp quân đoàn. Không chỉ cơ động linh hoạt trên địa bàn quân khu của họ, mà có thể phối hợp chiến đấu với các quân đoàn khác, trong chiến dịch có ý nghĩa chiến lược.
           Ngoài ra, các lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích trong chiến trường, cũng được củng cố và tăng cường chưa từng thấy – để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công, chớp thời cơ quật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
           Nghĩa là, không chỉ riêng chính quyền Thiệu vi phạm hiệp định đình chiến đã được kí kết, dù có sự giám sát của Ủy ban Quốc tế - mà cả Cộng sản Bắc Việt cũng vi phạm hiệp định. Sự thực thì sau Hiệp định Pa Ri 27.1.1973, tình hình trên chiến trường miền Nam có lúc tạm thời lắng đi, nhưng chưa bao giờ thật sự được bình yên.
       
                                                             *
       
           Tháng 9 năm1973, Tiểu đoàn hỏa lực D16 trực thuộc Mặt trận Tây Nguyên do Đại úy Nguyễn Hoàng là tiểu đoàn trưởng - được Bộ tư lệnh B3 điều động, phối hợp cùng với Trung đoàn 48 Sư 320, mở cuộc tiến công vào căn cứ Chư Nghé, phía tây Pleiku.
           Tiểu đoàn16 vẫn giữ nguyên bốn đại đội hỏa lực như trước: Đại đội cối 82mm, Đại đội hỏa tiễn DKB, Đại đội rốc két B41 và Đại đội 4 pháo cao xạ phòng không, gồm hai loại pháo 37ly – 14ly5.
            Đưa tiểu đoàn hành quân trên đường Quốc lộ 19, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng ngồi trong ca bin một chiếc xe chở pháo 37ly của Đại đội 4. Quốc lộ 19 là con dường chủ yếu ở hướng tây Gia Lai. Các loại xe tăng, ô tô, xe chở pháo có thể hành quân cứu viện rất dễ dàng nhưng rất khó giữ bí mật, nên tiểu đoàn của anh phải đi trong đêm. Trung đoàn bộ binh chủ yếu là xuyên rừng, họ có thể hành quân ban ngày. Mặc dù máy bay địch không nhiều như trước, nhưng thỉnh thoảng vẫn có mấy chiếc trinh sát L19 hoặc OV10 bay lượn trên bầu trời thăm dò.
           Ngoài Tiểu đoàn hỏa lực D16 đi phối thuộc - Trung đoàn chủ công E48 còn được Bộ tư lệnh tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng T-54 của Trung đoàn 273, 4 khẩu 120mm của Tiểu đoàn 14, lựu pháo 122mm của Tiểu đoàn 47 -  Trung đoàn 675.
           Con đường quốc lộ trong thời chiến cũng chẳng bằng phẳng gì, bom đạn đánh nham nhở. Xe pháo vừa đi vừa phải lựa mà vẫn cứ nhẩy xóc tung lên,  như muốn hất tất cả người ngồi trên xe văng ra ngoài. Đoàn xe chở pháo D16 vẫn mải miết chạy trong đêm tối đến vị trí chiếm lĩnh trận địa, là một khu rừng gần căn cứ Chư Nghé.
           Mặc dù vào mùa mưa nhưng thời tiết trong đêm tạnh ráo, gió hai bên rừng ùa vào ca bin mát rượi. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lại miên man với những dòng suy nghĩ. Trước giờ xuất trận của người lính, thường họ nghĩ đủ điều về quê hương và các người thân ở xa.
           Do biến động của chiến trường - Sau Hiệp định Pa Ri, chiến sự vẫn diễn ra ngày càng ác liệt. Nguyễn Hoàng đành phải gác chuyến đi phép, mà trước đây có dự định sẽ bố trí cho anh về thăm gia đình ở quê. Khi đó anh đã viết thư báo tin về cho Thu. Sau đấy anh cũng đã nhận được thư của Thu, cô vui lắm và báo tin cho anh biết: Ông bà Giáo nói, khi anh về phép sẽ tranh thủ tổ chức đám cưới cho anh và cô.
           Trong thư, Thu còn kể cho anh nghe bao nhiêu chuyện về Hà Nội, những người thân và bạn bè. Ai cũng mong ngày về phép của anh. Cô nói với anh rằng: Ngày cưới cô sẽ chọn mặc một bộ váy cô dâu đẹp nhất, dù là thời chiến. Rằng, lòng cô tràn ngập một niềm vui hạnh phúc! Thế mà, đùng một cái mọi sự thay đổi? Không phải chỉ với riêng anh, hầu như kế hoạch cho cán bộ, chiến sĩ đã vào chiến trường nhiều năm về quê nghỉ phép, đều phải hoãn lại hết.
           Rồi lại đến cuộc đánh phá ác liệt của không quân Mỹ rải thảm bom  B52 vào Hà Nội, hồi cuối năm 1972. Hoàng đã nghe tin về Khâm Thiên, khu phố gia đình anh sống ở đó bị bom san phẳng, người chết rất nhiều. Trước khi bước vào trận đánh Chư Nghé này, anh đã nhận được thư của thằng Lâm – em trai anh, nó báo: Nhà bị bom đánh tung hết, nhưng ông bố với bà dì ghẻ nhà anh cùng vợ chồng anh Thành và các cháu đã đi sơ tán cả, nên không ai việc gì. Nó còn nói, gia đình cũng đã được thành phố giúp đỡ dựng lại một căn nhà bằng tre nứa, lợp giấy dầu ở tạm. Bởi thế, anh cũng tạm yên lòng. Chỉ có điều, Hoàng không hề nhận được thư của Thu, nên chẳng rõ tình hình về cô và ông bà Giáo ra sao? Anh nghĩ, chắc cũng chẳng ai việc gì - vì nhà Thu ở phố Hàng Bông không bị bom đánh, với lại… trước đó cô đã đưa ông bà Giáo về quê sơ tán cả.
           Mặc dù Hoàng vẫn biết, thư từ quê hương gửi ra chiến trường bị bom đạn dọc đường nên cũng hay thất lạc? nhưng lòng dạ anh vẫn bồn chồn, không yên – chứ anh không thể ngờ rằng: người bạn gái thân thiết của anh, cô sẽ không bao giờ còn có thể viết thư cho anh được nữa.
           Đoàn xe pháo của Tiểu đoàn 16 vẫn đang lầm lũi tiến về phía căn cứ Chư Nghé. Họ sẽ đến vị trí chiếm lĩnh trược khi trời sáng, như kế hoạch hợp đồng với Trung đoàn 48. Cũng còn phải vài ba tiếng nữa mới tới nơi.
           Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lại nhớ đến những tháng năm đầu tiên đời quân ngũ, khi còn là một chiến sĩ xạ thủ đại liên: vào mùa xuân 1968, Trung đoàn 209 của anh cấp tốc nhẩy lên xe ô tô tiến vào chiến trường Tây Nguyên… cho tới chiến dịch lần này. Anh cũng chẳng còn nhớ là mình đã qua bao nhiêu trận đánh, vượt qua bao con rừng, con núi, đánh bao nhiêu cứ điểm địch - Chỉ có điều, anh không hiểu là tại sao mình vẫn còn sống?
           Ở chiến trường, cái chết diễn ra đơn giản, thường tình quá! Người lính chỉ biết “đánh” và khao khát có ngày mình được trở về quê hương, khi tổ quốc đã bình yên! Anh từng chứng nhận bao nhiêu máu những người chiến sĩ đã đổ và cả máu chính mình. Hoàng cũng đã hai lần bị thương, rồi lại trở về chiến đấu.
           Trăng sao vằng vặc. Anh nhìn các pháo thủ của tiểu đoàn, những chiếc bóng đang ngồi yên lặng trên cỗ xe pháo. Có lẽ giờ phút này, nhiều anh em cũng trong những ý nghĩ riêng tư như anh - để khi bắt đầu trận đánh, họ chỉ biết bóp cò và lao mình vào lửa đạn. Chiến tranh là thế!
           Hoàng lại nhớ vào hồi đầu năm 1973, khi đó anh còn là một đại đội trưởng. Đại đội của anh được cử đi làm nhiệm vụ phá ấp, giành dân ở Buôn Hồ, Đắc Lắc. Chỉ chờ kí Hiệp định đình chiến Pa Ri xong, là QGP thừa cơ chiếm đất, chiếm dân chứ không phải địch? Khi vừa mới kí hiệp định, thì những người lính của cả hai bên ngồi với nhau chuyện trò, đi bắt cá, bắt tép nấu ăn cùng nhau. Đánh bóng chuyền với nhau vui vẻ… thậm chí là rất thân thiết nữa. Thế rồi, chẳng được bao lâu – Hai bên đều được lệnh lấn chiếm nhau. Chiếm đất, chiếm dân và sẵn sàng đánh nhau.
           Cả hai bên đều vi phạm, đều phá vỡ hiệp định đã kí kết.
           Khi ấy, đại đội của anh được một đơn vị nữ biệt động địa phương, cùng phối hợp đánh địch. Ở Buôn Hồ, cây gai xấu hổ dằng dịt, mà bộ đội thì chẳng có găng tay, găng chân gì… bị gai xấu hổ cào tóe máu. Đêm đến các cô gái dân tộc bắt nằm chung, một nam một nữ ngủ với nhau. Họ nói, đó là lệnh của huyện, nhằm đánh địch ở thế chân kiềng? Chị em thì thông thạo tình hình, lại tỉnh giấc… dẫu đang nằm mà có giặc đến, có thể thúc anh em dậy đánh địch ngay.
           Bộ đội thì nhiều tân binh mới vào. Không ít cậu chưa hề có mảnh tình nào vắt vai, thậm chí chưa biết mùi phụ nữ là gì? Các anh lính trẻ ấy cứ ngần ngại, không dám nằm chung với chị em. Vốn con gái bản rất chân thật, đôn hậu, nhưng cũng rất bạo. Có cô nói: “Nếu các anh không nằm, bọn em sẽ báo cáo huyện”!
           Thế rồi, thời chiến nên cũng dễ. Vậy là, cứ một nam, một nữ nằm chung nhau. Chẳng hiểu, có cậu nào đêm đến mầy mò chị em không? Chứ… lần này Đại đội trưởng Nguyễn Hoàng nghiêm túc lắm! Anh còn phải gương mẫu với anh em. Cô gái nằm cạnh anh trẻ măng, mới 18 tuổi, da trắng nõn như trứng gà bóc. Đêm đến, cô ấy cứ quờ sang anh. Anh lại phải nhẹ nhàng gỡ tay của cô ra. Hoàng hết sức kìm nén mình. Anh biết, giá anh muốn… cô ấy cũng sẽ đồng ý cho anh ngay! Nhưng anh vẫn tự nhủ, không được thả lỏng mình… Người con gái của Buôn Hồ, Đắc Lắc ấy có vẻ giận dỗi anh? vì… anh cứ thờ ơ. Cô ta quay mặt đi và nằm xa anh một chút, nhưng rồi chỉ được một lát, cô ấy lại quay vào quàng tay qua ngực, ôm lấy anh mà ngủ.
           Giờ nghĩ lại, Hoàng tự mỉm cười với mình trong đêm. Anh cũng thấy hoài của? nhưng kỉ luật của người lính là phải tự giác. Với lại, anh là một chỉ huy cơ mà? Phải nghiêm túc chứ!
           Sau một thời gian, đại đội anh được lệnh chia tay với chị em đội biệt động trở về Đắc Tô – Tân Cảnh, chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Khi chia tay nhiều cô đã khóc, cứ như là phải chia ly với người yêu ra chiến trường.
           Đoàn xe pháo của tiểu đoàn đã rời khỏi Quốc lộ 19, tiến vào con đường mới làm cắt qua rừng. Bóng trăng cũng đã khuất, chỉ còn ít đốm sao đêm hiu hắt sáng. Gió rừng vẫn thổi. Khi đoàn xe dừng lại, họ còn trông thấy bóng những con thú, hình như là giống hoẵng vụt chạy vào trong rừng sâu. Người lính trinh sát dẫn đường đến báo cáo với tiểu đoàn trưởng là, đã đến vị trí chiếm lĩnh. Hoàng xuống xe và ra chỉ thị cho từng đại đội triển khai trận địa như kế hoạch chuẩn bị trước. Lúc đó cũng gần 5 giờ sáng.
           Chư Nghé là một căn cứ biên phòng của QLVNCH, còn gọi là Lệ Ninh do Tiểu đoàn 80 đóng giữ. Phía đông cách Thị xã Pleiku khoảng 70km, được nối bằng Quốc lộ 5A. Căn cứ nằm trên một quả đồi độc lập hình củ khoai lang, kéo dài từ đông sang tây. Chia thành hai khu, liên kết với nhau bằng hệ thống giao thông hào và lô cốt, được Mỹ xây dựng từ năm 1965. Có trận địa pháo 105mm, xe tăng và thiết giáp M-113 phòng thủ xung quanh.
           Phía tây nam có sân bay Sùng Thiện cho máy bay vận tải C130 hạ cánh tiếp tế lương thực, đạn dược. Quanh căn cứ có 14 lớp hàng rào thép gai các loại, chăng dầy đặc. Ở giữa chúng có gài mìn, chạm vào là nổ. Vừa là mìn nổ sát thương vừa là mìn chiếu sáng, để phát hiện khi QGP tiến đánh.
           Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng chỉ lên tấm bản đồ trải dưới đất, chỉ dụ những lời căn dặn cuối cùng với các ban chỉ huy đại đội, đang đứng vây quanh anh. Sau đó mọi người trở về đơn vị tiếp tục làm công tác chuẩn bị trận đánh cho thật tốt, chờ lệnh nổ súng.
           Đúng 13 giờ ngày 22.9.1973, lệnh nổ súng bắt đầu. Các loại hỏa lực của D16 như hỏa tiễn DKB, cối 82mm cùng pháo lớn của trung đoàn pháo mặt đất, đồng loạt bắn mãnh liệt vào căn cứ Chư Nghé. Những khẩu pháo 85mm nòng dài, lựu pháo 122mm và pháo D74 từ dẫy núi phía bắc, ngắm bắn trực tiếp ở cự ly 1-1,5km – Đường đạn mạnh nên mỗi phát pháo bắn, một lô cốt hay ụ pháo của QLVNCH bị nổ tung.
           Sau ít phút bất ngờ, địch đã bắn trả lại rất dữ dội. Các loại pháo 105mm, pháo xe tăng và thiết giáp từ trong căn cứ bắn ra. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng ra lệnh cho cả pháo cao xạ 14ly5 của đại đội 4, hạ nòng thấp trực tiếp bắn vào các cùm hỏa lực của địch, còn pháo 37 ly sẵn sàng đón máy bay địch đến ứng cứu. Căn cứ Chư Nghé trong phút chốc bị cầy xới tung lên, khói đạn mù mịt, chìm trong những tiếng nổ như sấm dậy. Lính biệt động quân của Tiểu đoàn 80 QLVNCH hoảng hốt, gọi điện về trung tâm xin cho máy bay tới ném bom giải nguy và pháo từ các nơi bắn chi viện.
           Về phía QGP – Đồng thời cùng lúc các loại pháo bắn áp đảo, những đại đội bộ binh mở đường của E48 – F320 từ các hướng nhất loạt xông lên phá hàng rào, mở cửa cho lực lượng chủ lực quân của trung đoàn tràn vào trong cứ điểm.
           Ở hướng chủ yếu - chỉ chưa đầy 10 phút, Đại đội 3 của Tiểu đoàn 1 - E48 đã phá bung 9 lớp hàng rào bên ngoài, với loạt mìn định hướng ĐH30 quét sạch lớp hàng rào cản, mở ra một con đường trơ nền đất đỏ chạy dọc từ chân lên đến lưng đồi. Họ lại tiếp tục xông lên phá tiếp khối hàng rào cuối cùng…
           Song từ những ụ lô cốt của Tiểu đoàn 80 biệt động QLVNCH, bắn trả lại rất quyết liệt. Chúng dùng trung liên và đại liên quét vào hai bên đội hình,  tiểu đoàn chủ công E48 không sao tiến lên được. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lệnh cho hỏa tiến DKB – rốc két B41 – cối 82mm và pháo cao xạ hạ thấp nòng tập trung bắn, dập tắt hỏa lực địch. Một khoảng trống đã được mở ra, các đại đội của tiểu đoàn chủ công E48 ào ạt xông lên cứ điểm.
           Địch ở trong căn cứ gào thét gọi điện về Sài Gòn xin cứu viện khẩn cấp, nhưng lúc này vẫn chưa thấy một chiếc máy bay nào của chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đến tiếp ứng cho cứ điểm của chúng đang bị nguy khốn – Sau Hiệp định Pa Ri, quân Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, nên máy bay của không lực VNCH cũng ít hẳn so với ngày trước. Pháo tầm xa của chúng ở các vùng khác bắn về, nhưng chỉ dám bắn ở vòng ngoài - vì lúc này bộ đội đã tiến vào phía trong. Nếu chúng bắn vào sâu bên trong, thì không phải chỉ mình QGP mà cả lính VNCH cũng chết.
            Tiểu đoàn 80 biệt động quân của địch cho 4 chiếc xe tăng từ trong cứ điểm lao ra, chúng dùng súng 12ly8 trên xe bắn xéo quét về phía cửa mở để chặn QGP. Các hỏa lực của D16 và E48 liền nổ súng bắn cháy ngay 1 chiếc bên phải, rồi 1 chiếc khác tiếp tục bị rốc két B41 bắn trúng nẩy tung lên, bốc cháy ngùn ngụt.   
           Đúng lúc, hai tốp máy bay gồm 6 chiếc AD6 của không lực VNCH ầm ầm bay tới. Tốp bay đầu bổ nhào đánh bom vào trận địa pháo 85mm và lựu pháo 122mm ở phía bắc. Tốp thứ hai ném bom xuống khu vực bộ binh đang xung phong. Pháo cao xạ 14ly5 và 37ly nhất loạt nổ súng bắn máy bay. Phi công địch vội vàng bốc lên cao, trút bom bừa bãi xuống những cánh rừng xung quanh. 1 chiếc AD6 trúng đạn bốc cháy kéo theo một vệt khói đen dài, đâm chúi đầu rơi cách đấy chưa đầy cây số.
           Được sự yểm trợ mạnh mẽ của cả pháo mặt đất, pháo cao xạ và xe tăng T-54 – các đại đội bộ binh của Trung đoàn 48 từ các hướng vọt xung phong lên cứ điểm. Lính biệt động QLVNCH chết như ngả rạ. Tuy vậy, các đơn vị bộ binh của E48 cũng thương vong và hy sinh một số không nhỏ. Hai chiếc xe tăng còn lại của địch đã bị hỏa lực QGP bắn cháy nốt.
           Ở hướng đông nam và tây bắc cứ điểm, bộ đội chủ lực của trung đoàn 48 được hai xe tăng T-54 hộ tống cũng xông lên như vũ bão… làm cho cả căn cứ Chư Nghé của VNCH rối loạn. Khói lửa mịt mù…
           Lại có hai tốp máy bay khác của địch bay tới. Nhưng lần này kéo theo tốp AD6 là tốp máy bay cường kích F101. Các trận địa pháo cao xạ của D16 lại đồng loạt nổ súng. Những đường đạn như những vệt lửa đỏ đan kín một vùng trời. Những tiếng bom nổ như sấm động, đất đá tung lên cùng khói bom đen đặc. Bỗng có tiếng thét vang lên từ một trận địa pháo:
      -  Máy bay cường kích trúng đạn rồi! F101 bốc cháy rồi, anh em ơi!
           Người ta nhìn thấy một chiếc phản lực bị trúng đạn cao xạ 37ly nổ ngay trên trời, rồi một đám lửa lớn với thân hình khổng lồ của nó ngùn ngụt cháy, rơi ngay xuống khu rừng bên cạnh. Nhưng một quả bom của địch cũng đã ném trúng vào một trận địa pháo 37 của đại đội 4, làm toàn bộ tiểu đội pháo hy sinh - Chiến tranh và chết chóc là tất yếu! Địch vẫn đến trút bom như điên cuồng. Chúng hốt hoảng, vội vã quăng bừa bãi ra ngoài rừng… 
           Ở hướng tây nam của Chư Nghé – Được sự yểm trợ của tốp xe tăng T-54, một tiểu đoàn bộ binh Sư 320 đã xông lên tiêu diệt 1 đại đội lính biệt động khác của QLVNCH, khi chúng đang bảo vệ sân bay Sùng Thiện. QGP đã chiếm được sân bay rồi chiếm cả cầu sắt, đánh thẳng lên khu A – kết hợp với Trung đoàn 48 tiêu diệt toàn bộ Tiểu đoàn 80 biệt động quân VNCH và làm chủ Chư Nghé.
           Từ ba hướng – Bộ binh, xe tăng, hỏa lực pháo Việt Cộng đã chia cắt địch ra từng mảng, đánh chiếm chỉ huy sở tiểu đoàn. Đến 16 giờ cùng ngày, tên đại úy chỉ huy căn cứ Chư Nghé đã phải kéo cờ trắng xin hàng. Trận đánh Chư Nghé của Sư 320, cùng phối thuộc với các đơn vị pháo trực thuộc Bộ tư lệnh B3 kết thúc thắng lợi.
           QGP tổng kết đã thu ở đây 50 tấn đạn pháo, một khối lượng lớn vũ khí và các loại trang bị phương tiện chiến tranh của chính quyền VNCH. Trận đánh mở ra một vùng giải phóng rộng lớn: suốt một dải từ tây Kon Tum đến tây Gia Lai, chiếm thêm hàng vạn dân. Ngoài ra, QGP còn nối thông hành lang vận tải chiến lược ở phía tây với miền Đông Nam Bộ. Mở rộng hậu phương vùng giải phóng làm hậu thuẫn cho cuộc tổng tiến công, trên toàn bộ chiến trường Tây Nguyên sau đó.
           Trong việc phá vỡ hiệp định đình chiến ở Pa Ri - chiến thắng Chư Nghé cũng đã góp một thành tích đáng kể, một chiến công lớn của cả Mặt trận giải phóng miền Nam và Chính phủ cộng sản Bắc Việt.
           Khi tiếng bom và tiếng súng ngừng, người ta thấy trên nóc nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng biệt động QLVNCH, tung bay một lá cờ nửa đỏ, nửa xanh của QGP - Còn ở mặt đất thì bom đạn cầy xới nát bét, ngổn ngang đất đá cùng xác quân lính cả hai bên.
            Bộ phận làm công tác thương binh liệt sĩ của Sư đoàn 320, hối hả lao vào để giải quyết hậu quả: quân nhân nào bị thương còn đi được, anh em quân y sẽ băng bó sơ cứu, rồi theo người chỉ dẫn về phẫu tuyến sau chữa trị. Thương binh nặng thì được lực lượng tải thương đưa lên một chiếc võng bạt, cáng về phẫu. Các đơn vị đều đi thu nhặt xác anh em chiến sĩ bị tử trận để chôn cất.
           Tiểu đoàn trưởng D16 Nguyến Hoàng, sau khi ra chỉ dụ cho các đại đội pháo làm công tác thu dọn chiến trường – Anh vội vã cùng với người chính trị viên tiểu đoàn xuống đại đội 4 cao xạ, nơi có khẩu đội pháo 37ly bị trúng bom và những chiến sĩ trong khẩu đội pháo hy sinh. Xác của các anh em đó, bom đánh tan tác hết. Khẩu pháo thì bị gẫy chỉ còn lại một khối thép cong queo, văng đi xa đến bẩy tám chục mét…  nằm chỏng chơ ghếch cái đầu súng lên trời.
           Chiến sĩ đại đội 4 tỏa đi thu lượm những mảnh xương thịt của đồng đội. Mười cái xác của một khẩu đội pháo, không một thi thể nào còn nguyên vẹn. Chỗ này thì tìm thấy một cánh tay, chỗ khác một nắm tóc dính trên mảng da đầu. Máu loang đen bùn đất. Anh em tìm hết mọi ngách, cũng chỉ được một ít. Họ chia chỗ thịt và xương của những người chiến sĩ đã chết ấy, cho vào bốn cái túi vải để mang ra bìa rừng gần đó, chôn thành bốn ngôi mộ… rồi  đánh dấu các ngôi, ghi lại sơ đồ để sau này người ta đi tìm lại.
           Cán bộ và chiến sĩ trong tiểu đoàn, ai nấy đều bùi ngùi và xót xa – nhưng chiến tranh, cái chết đến thường nhật, đơn giản vậy! Lòng họ đau, song nước mắt họ đã cạn… không còn để khóc nữa. Đồng chí chính trị viên tiểu đoàn D16 đứng trên đầu hàng quân của đại đội 4, anh cất tiếng hô làm lễ mặc niệm trước bốn ngôi mộ mới chôn xong.
           Vừa lúc, trên Bộ tư lệnh Mặt trận B3 gọi điện xuống cho Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng: tuyên dương công trạng chung của tiểu đoàn hỏa lực đã chi viện đắc lực cho Trung đoàn 48, Sư 320 giành thắng lợi lớn… và đặc biệt đại đội pháo cao xạ C4, đã bắn rơi 2 máy bay phản lực của không lực VNCH. Bộ tư lệnh nói, rồi sẽ xét công trạng cấp những tấm huân chương xứng đáng , để ghi nhận công lao của các cán bộ và chiến sĩ trong tiểu đoàn – Đấy, chiến công của những người lính ở ngoài chiến trường đã phải đổi bằng bao xương máu như thế!
           Tiểu đoàn trưởng Nguyến Hoàng, anh đã từng qua bao nhiêu trận đánh… chứng nhận bao nhiêu sự hy sinh, mất mát – Thế mà giờ đây đứng trước bốn ngôi mộ, được chôn cất chỉ bằng một nắm xương thịt đã nát vụn bọc lại trong bốn chiếc túi vải, lòng anh trào lên nỗi đau vô hạn…
           Ôi, chiến tranh! Phi nghĩa hay chính nghĩa, phải định nghĩa như thế nào cho đúng đây?
           Sau chiến thắng – Bộ tư lệnh B3 chỉ thị cho Nguyễn Hoàng, để toàn bộ khu vực cứ điểm Chư Nghé cho Sư đoàn 320 bộ binh cai quản, còn anh lại dẫn tiểu đoàn trở về khu giải phóng Đắc Tô – Tân Cảnh, để củng cố đơn vị và chuẩn bị cho những trận chiến đấu tới.
       
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.09.2020 18:36:02 bởi Nhân văn >
      #48
        Nhân văn 21.09.2020 18:38:28 (permalink)
         
         
                                                                   44-
         
             Hoàng nhận được tin Thu chết, vào lúc tình hình chiến trường miền Nam diễn ra rất căng thẳng. Chiến dịch Tây Nguyên đang gấp rút tiến vào cuộc tổng tiến công, trong mùa xuân năm 1975.
              Sau bao nhiêu ngày tháng chờ đợi, cuối cùng anh cũng nhận được thư – nhưng đó là thư của Lan, cô bận gái học cùng lớp với hai người. Thư của Thu viết cho anh vào đêm nô-en 1972, cũng được gửi kèm trong đó.
             Hoàng nghe tin Lan báo tin Thu chết như sét đánh ngang tai. Người tiểu đoàn trưởng đã từng trải qua hàng trăm trận mạc, chứng kiến bao nhiêu cái chết đầy nước mắt của đồng đội, tưởng như không thể khóc được nữa – Thế mà, giờ đây đọc vội lá thư của Lan báo tin trong lúc đang chuẩn bị cho tiểu đoàn bước vào một trận đánh mới quyết liệt, nước mắt anh chỉ muốn trào ra. Toàn bộ con người anh run rẩy. Hoàng cố ghìm lòng mình, bình tĩnh trở lại chỉ đạo tiểu đoàn. Người chiến sĩ liên lạc trẻ tuổi nhìn thủ trưởng đọc thư, thấy thái độ của thủ trưởng hơi bất thường, ngỡ ngàng định hỏi? nhưng rồi lại thôi. Hoàng vội nhét cả hai lá thư vào túi áo ngực của chiếc áo quân nhân màu xanh anh đang mặc. Chiếc áo đã nhàu, bám đầy dấu vết của tháng năm và bom đạn. Anh gượng mỉm cười bảo với cậu liên lạc, báo cho ban chỉ huy các đại đội đến để anh phổ biến nhiệm vụ trận đánh tới.
             Đó là vào những ngày đầu tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn hỏa lực D16 nhận được lênh của Bộ tư lệnh B3, cùng các đơn vị trung đoàn pháo mặt đất, tiểu đoàn đặc công, xe tăng… đi phối thuộc với sư chủ lực bộ binh 320 – Đánh địch trên Quốc lộ 14 -19 ở phía nam và đông Pleiku.
             Nhiệm vụ của họ là chặn đứng các đoàn xe quân sự địch và tập kích một số chốt QLVNCH xung quanh khu vực Kon Tum, Gia Lai ở phía Bắc Tây Nguyên, nhằm chia cắt hoàn toàn con đường mà quân VNCH đi tới Buôn Ma Thuột, để cô lập Buôn Ma Thuột với Pleiku, Kon Tum. Vừa tạo thế nghi binh lừa địch, cho rằng: QGP sẽ đánh Pleiku, Kon Tum – nhưng thực chất là mở cuộc tấn công quyết liệt vào Buôn Ma Thuột. Chiến dịch Tây Nguyên lịch sử này, sẽ làm bàn đạp cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy đánh chiếm vào Sài Gòn của toàn miền. 
             Khoảng 17 giờ ngày 5/3, một đoàn xe địch gồm 15 chiếc từ Pleiku vào Buôn Ma Thuột bị các chiến sĩ Trung đoàn 9 chặn đánh, diệt 8 xe quân sự:  trong đó có 2 xe tăng, 2 xe GMC, thu 1 pháo 105mm, bắt sống 30 tên vừa sĩ quan và binh lính.
             Trung đoàn 48 Sư 320 được tăng cường 2 pháo 105ly, 3 pháo 85ly và hỏa lực của tiểu đoàn 16 – tiến công một căn cứ quân sự quan trọng của địch nằm án ngữ ngã ba đường 14 và đường 7, cách Pleiku hơn 60km về phía nam.
             Sau 1 giờ 20 phút chiến đấu ác liệt, Trung đoàn 48 và các đơn vị pháo trên không – mặt đất đã làm chủ trận địa: Diệt 1 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội cảnh sát dã chiến và cơ quan chi khu. Bắt 121 tên, thu 200 súng: có 2 khẩu pháo 105ly, 18 xe quân sự cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác.
             Cũng thời gian đó, Trung đoàn 64 đánh vào 1 chi khu quân VNCH ở quận lỵ Buôn Hồ (Đắc Lắc). Chưa đầy hai tiếng, trung đoàn đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch: gồm 1 tiểu đoàn bảo an, 1 đại đội cảnh sát dã chiến cùng toàn bộ hệ thống bọn ác ôn; thu 3 pháo 105ly, 2 cối 106,7mm, 2 xe quân sự và những vũ khí, trang bị khác. Giải phóng hoàn toàn Quận lỵ Buôn Hồ.
             Đó là những chi khu mạnh nhất của QLVNCH trên quốc lộ 14, đã bị tiêu diệt. Con đường 14 nối giữa Bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai) và Nam Tây Nguyên bị cắt đứt. Buôn Ma Thuột cô lập hoàn toàn.
             Trung đoàn 25 QGP cũng được lệnh của Bộ tư lệnh B3, tổ chức phục kích đánh địch… cắt đứt con đường số 21 ở phía đông Buôn Ma Thuột - nối liền với Nha Trang.
             Sư đoàn 10 QGP tiếp tục tấn công một số cứ điểm khác, vây bọc và bảo vệ Buôn Ma Thuột. Phá vỡ thế trận phòng thủ QLVNCH. Địch tan tác, những kẻ thoát chết tìm đường chạy về Buôn Ma Thuột.
             Đến ngày 8/3, Tây Nguyên đã bị cô lập với vùng đồng bằng ven biển ở Trung và Nam Bộ. Trừ đường 7 rất xấu đã lâu không sử dụng – QGP bỏ ngỏ… im lặng, lạnh lùng một cách đáng sợ, dường như là để đón lõng, chờ địch đến?
             Nghĩa là, thế trận để tiến công – cũng là kế nghi binh của Mặt trận B3: làm cho Bộ tổng tham mưu QLVNCH tưởng rằng QGP sẽ đánh lớn ở Pleiku - Kon Tum (Bắc Tây Nguyên), thì họ lại chuẩn bị đánh vào Buôn Ma Thuột ở Nam Tây Nguyên.
             Thiếu tướng Phạm Văn Phú – Tư lệnh Quân đoàn II QLVNCH chỉ huy vùng cao nguyên, đến lúc này mới biết: tất cả những cuộc rối bời ở Pleiku, Kon Tum vừa qua chỉ là chiến trường phụ và nghi binh của QGP – Buôn Ma Thuột mới là mặt trận chính, nhưng đã quá muộn.
             Trung tướng Hoàng Minh Thảo – Tổng tư lệnh Mặt trận B3, lệnh khẩn cấp cho các sư đoàn chủ lực như Sư 10, 320 và Sư 316 là các sư đoàn rất mạnh của quân đội Bắc Việt mới vào, cùng các trung đoàn pháo, tiểu đoàn hỏa lực D16 của Đại úy Nguyễn Hoàng và đơn vị đặc công, xe tăng trực thuộc Mặt trận – gấp rút về quanh Buôn Ma Thuột dàn binh, mở cuộc tổng công kích sắp bắt đầu.
             Chính trong những giờ phút quyết chiến điểm đó, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lại nhận được lá thư từ hậu cứ phía sau gửi đến. Thư báo tin về người bạn gái thân yêu nhất của anh đã chết, trong trận không quân Mỹ rải thảm bom B52 vào Hà Nội. Đại úy Nguyễn Hoàng lòng đau như cắt. Anh dằn mình xuống để lao vào trận đánh.
             Lúc này, đoàn xe của Tiểu đoàn 16 đang mở hết tốc lực trên con đường 14 đã được khai thông, hướng về phía Buôn Ma Thuột chạy tới. Tuy con đường bị tàn phá bởi bom đạn rất xấu, nhưng đoàn quân cả người và pháo vẫn rầm rập băng qua.
             Tình hình chiến trận nóng bỏng thôi thúc người chiến binh phải vượt lên cái đau của chính mình. Nỗi uất hận trong lòng anh ngùn ngụt như lửa cháy, biến thành mối căm thù vô hạn với quân giặc. Giờ đây, Nguyễn Hoàng như không còn biết đến sự kinh hoàng trong chiến tranh là gì nữa? Mối hận riêng tư hòa quyện vào trong tư tưởng, tăng thêm sự quyết chiến của một người chiến sĩ cách mạng. Phía trước là quân thù, anh phải tiêu diệt chúng để trả thù cho đồng đội và những người thân nơi quê hương anh. Hoàng nghĩ tới hai người con gái tha thiết yêu anh, đều đã chết bởi chiến tranh. Kẻ thù đã cướp đi cả hai người con gái thân thương đó trong cùng một năm 1972 đẫm máu. Như có ngọn lửa bốc lên rừng rực thiêu đốt cả thể xác và tâm hồn  người lính trận.
             Con đường tới Buôn Ma Thuột không có nhiều chướng ngại về địa hình như Kon Tum. Trên thực tế, quanh Buôn Ma Thuột cũng không có nhiều vành đai phòng thủ liên tục của QLVNCH. Một số vành đai lại bị QGP quét vãn… mở cho họ một con đường tiến quân rất thuận lợi. Hai bên đường đi rất nhiều đồn điền cà phê, đồn điền cao su san sát nhau. Bộ đội có thể lợi dụng ngụy trang. Tuy tiến quân bằng pháo và chiến xa không dễ, nhưng đã được những trung đoàn công binh của mặt trận dọn đường trước. Những cánh rừng già, thì họ cưa đi các gốc cây lớn… nhưng không để cho cây bị đổ nên máy bay trinh sát không phát hiện thấy. Khi xe pháo hoặc chiến xa của quân chủ lực phải rời đường quốc lộ băng theo đường rừng, chỉ cần cho bộ phận đi trước ủi sập cây, rồi tiến thẳng về phía thị xã dễ dàng.
             Thị xã Buôn Ma Thuột có khoảng 60.000 dân, nhiều thắng cảnh đẹp, nhiều gỗ quí – Nhưng giờ đây đâu phải là lúc bảo tồn những thứ quí hiếm ấy? Công binh họ chỉ cần biết phải dọn một con đường tốt nhất, thuận lợi nhất để bộ đội tiến vào đánh.
             Buôn Ma Thuột nằm giữa ngã ba hai con đường chiến lược 14 và 21, là một căn cứ án ngữ huyết mạch giao thông ở Nam Tây Nguyên. Từ Buôn Ma Thuột có thể đi lên các tỉnh phía bắc nối liền Pleiku, Kon Tum, Phú Bổn… Phía nam đi Quảng Đức, Phước Long. Phía đông tới Nha Trang và dễ dàng đi xuống Đông Nam Bộ - Sài Gòn bằng cả đường không, đường bộ.
             Buôn Ma Thuột có một vị trí chiến lược quan trọng như thế, cho nên chiếm được sẽ làm bàn đạp tấn công, tạo thế thuận lợi cho cả mặt trận của toàn miền.
             Theo đúng kế hoạch của Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên – Các binh đoàn chủ lực của QGP đã đến vị trí tập kết vòng quanh Buôn Ma Thuột, như giờ đã qui định. Vào lúc mờ sáng ngày 8/3, Tiểu đoàn 16 của Nguyến Hoàng cũng đã vào vị trí – Tất cả đều chuẩn bị xong, chỉ còn chờ lệnh của Bộ tư lệnh B3 khai hỏa chiến dịch, là nổ súng.
             Đúng 2 giờ 3 phút sáng ngày 10.3.1975, trận đánh vào Buôn Ma Thuột bắt đầu – Mở màn là những trái đạn pháo 130ly, sau đó đến các loại pháo khác thi nhau dội xuống thành phố. Phố xá lúc đó vẫn đang say giấc ngủ giữa đêm trường, choàng tỉnh dậy vì những tiếng nổ long trời, đinh tai, nhức óc. Ban chỉ huy QLVNCH đặt tại dinh tỉnh trưởng Đắc Lắc đóng ở Buôn Ma Thuột, khi đó là Đại tá Nguyễn Trọng Luật cùng với Đại tá Vũ Thế Quang – Lúc này mới vội vàng từ ở trên lầu hai chạy xuống hầm chỉ huy. Đó là một căn hầm lớn được xây bằng bê tông cốt thép rất kiên cố, có thể chống được đạn pháo. Trong hầm có đầy đủ máy móc truyền tin để liên lạc với các đơn vị trực thuộc, cũng như với cấp trên tận trung ương Sài Gòn.
             Đại tá Nguyễn Trọng luật vội vã lệnh cho pháo binh tiểu khu và pháo binh Sư 23 QLVNCH đóng ở Buôn Ma Thuột phản pháo lại mãnh liệt. Từ các hướng, các loại đạn pháo của Cộng quân vẫn tới tấp nã vào các trọng điểm thành phố. Tiếng pháo nổ của đôi bên vang rầm trời. Những mảng lửa pháo xiết vào nhau nổ bùng trên các nóc nhà và đường phố… không khác mấy cuộc đại chiến đã diễn ra ở mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh hay Kon Tum vào năm 1972.
             Khi màn đạn pháo của cả hai bên có vẻ đã thưa dần, thì từ các hướng – các sư đoàn bộ binh QGP như Sư 320, 316 và Sư 10 cùng với 1 trung đoàn quân giải phóng địa phương, 1 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháo và Tiểu đoàn hỏa lực D16… Tổng cộng khoảng 50.000 chiến binh, ồ ạt tiến công vào thị xã.
             Người ta diễn tả về khung cảnh đêm mở màn trận huyết chiến Buôn Ma Thuột, như thế này: Khi pháo binh QGP gầm lên nổ súng đè đầu quân địch xuống. Bọn chúng đối phó một cách hoảng hốt, bối rối…thì xe tăng và những binh chủng cơ giới của các sư đoàn chủ lực Bắc Việt bật đèn sáng trong đêm, mở hết tốc lực chạy trên con đường quân sự đã được những trung đoàn công binh chuẩn bị sẵn. Họ dũng mãnh tiến thẳng, tiến mạnh về các mục tiêu đã được xác định trong kế hoạch.
             Trận pháo bắn khởi đầu kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ, làm tê liệt sức đề kháng của các trung đoàn tinh nhuệ QLVNCH được bố trí trong căn cứ. Chưa bao giờ QGP lại dồi dào pháo bắn đến như vậy.
              Khi diễn ra trận đánh vào Buôn Ma Thuột – kể cả cơ quan tình báo lớn nhất của thế giới là “Sie” cũng không hề hay biết. Có thông tin cho hay: Trung đoàn công binh của Cộng sản Bắc Việt đã ủi sẵn đường cho xe tăng chạy từ biên giới vào Buôn Ma Thuột, với tổng số chiều dài con đường là 336km – Thế mới thấy yếu tố bí mật của Cộng quân trong trận đánh này, đã làm tốt đến thế nào.
             Theo một tài liệu của giới nghiên cứu lịch sử: Tây Nguyên là một chiến trường cơ động có vị trí hết sức quan trọng. Từ chiến trường này sẽ có nhiều lợi thế phát triển xuống phía nam theo đường số 14, hoặc phát triển sang hướng đông đến những vùng đồng bằng Nam Bộ, theo các trục đường 19, 7 và 21.
             Ở Tây Nguyên - QLVNCH có sư đoàn bộ binh chủ lực là Sư 23 (ba trung đoàn 44, 45 và 53), 7 liên đoàn biệt động quân (4, 6, 21, 22, 23, 24, 25). Các liên đoàn này có quân số tương đương 10 trung đoàn.
        -  36 tiểu đoàn bảo an.
        -  4 thiết đoàn xe tăng và thiết giáp (với 371 xe).        
        -  8 tiểu đoàn pháo binh: 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175ly.
        -  Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn tổng hợp - vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
             Cùng các kho dự trữ đạn dược các loại, đủ khả năng cung cấp cho quân đoàn chiến đấu trong hai tháng.
             Do đánh giá sai ý đồ của QGP, cho rằng: Năm 1975 họ chưa đủ sức đánh vào thị xã và thành phố, nếu có đánh – bộ đội cũng chỉ đánh ở Bắc Tây Nguyên (tức là Pleiku, Kon Tum…). QLVNCH đã tập trung lực lượng giữ Pleiku, Kon Tum – còn Buôn Ma Thuột ở Đắc Lắc thì rất sơ hở, càng vào sâu trong thị xã lực lượng càng mỏng.
             Theo một tài liệu của VNCH: Tướng Phú tư lệnh Quân đoàn II, đồng thời phụ trách vùng Tây Nguyên vẫn đinh ninh cho rằng: mục tiêu chính của QGP là đánh Pleiku, Kon Tum – nên đến khi nổ ra cuộc ác chiến Buôn Ma Thuột, lực lượng phòng thủ của địch ở đây chỉ có 1 tiểu đoàn của trung đoàn 53, 1 tiểu đoàn của trung đoàn 45 thuộc Sư 23 – còn đại bộ phận chủ lực của sư 23 vẫn đóng cả ở Pleiku, Kon Tum cùng với hai tiểu đoàn địa phương quân.
             Tự thủ Buôn Ma Thuột như xe tăng, thiết giáp, pháo binh và các cụm hỏa lực trên các chốt cũng rất thấp – phải đương đầu với một lực lượng hùng hậu của QGP tiến công vào Buôn Ma Thuột có tới ba sư đoàn chủ lực cùng nhiều chiến xa, thiết giáp, pháo binh các loại, cao xạ phòng không, đặc công…
             Cũng theo một tài liệu từ phía VNCH, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên: Về quân bộ binh QLVNCH (kể cả biệt động quân, lính bảo an và phòng vệ), chỉ vào khoảng 4.000 quân phải chống chọi với 40.000 cộng quân – Nghĩa là, cứ 1 lính VNCH phải đánh nhau với 10 chiến sĩ QGP (thực ra lực lượng QGP tiến đánh vào Buôn Ma Thuột còn lớn hơn thế nhiều) – cho nên, họ nhanh chóng đè bẹp sức đề kháng của QLVNCH.
             Kể cả khi cuộc chiến nổ ra dữ dội, sự ứng cứu của các máy bay chiến đấu so với trước đây đã yếu đi rất nhiều. Từ khi Mỹ rút quân và cắt giảm viện trợ, những phương tiện chiến tranh của Chính phủ VNCH còn rất thấp. Trong khi đó lực lượng pháo cao xạ phòng không của QGP tiến đánh Buôn Ma Thuột: ngoài pháo 37 và 14ly5 của tiểu đoàn hỏa lực D16, còn các trung đoàn pháo cao xạ phòng không khác của mặt trận. Họ giăng lên bầu trời Buôn Ma Thuột cả một màn đạn lửa dầy đặc. Các loại máy bay cường kích QLVNCH đến ứng cứu khiếp đảm, ném bom bừa bãi rồi bỏ chạy.
             Tiếp đó, một trung đoàn đặc công đánh vào sân bay Hòa Bình (hay còn gọi là phi trường Phụng Dực), khu kho và khu hậu cứ của Trung đoàn 53 – trung đoàn chủ lực của Sư 23 QLVNCH đóng ở Buôn Ma Thuột. Những tiếng xung phong của QGP vang lên từ các ngả tiến vào thành phố.
             Quân lính VNNCH từ các chiến hào, các lô cốt bắn ra quyết liệt. Người ta chứng kiến máu của cả hai bên đã đổ tràn, người ngã xuống đầy thành phố. Súng bắn tăng M72 của sư 23 QLVNCH cũng được kích hoạt để bắn vào các cỗ xe tăng T-54 của QGP, đang dũng mãnh dẫn đầu những sư đoàn bộ binh. Các họng đại liên M60, 12ly7 của địch cũng bắn xối xả vào biển cộng quân đang tràn đến để đè bẹp chúng. Cũng có giây phút, các trung đoàn QGP phải chững lại vì sự chống trả dữ dội của quân VNCH. Nhưng dù lớp người này ngã xuống, thì lớp người sau của QGP vẫn xông lên… với sự yểm trợ của các loại hỏa tiễn cầm tay như DKB, H-12 và B41. Không thể đếm được cuộc thảm sát này với cả hai bên. QGP huy động tối đa các chiến xa, xe tăng vào trận. So với các trận đánh năm 1972, lần này pháo binh và bộ binh QGP phối hợp nhịp nhàng hơn. Những chiếc xe tăng bao bọc bộ binh, lia những khẩu súng lớn như không tiếc đạn về phía quân VNCH, để cho bộ binh ào xông lên chiếm các cứ điểm.
             Đến 3 giờ 30 phút sáng, Trung đoàn 198 QGP trực thuộc mặt trận đã chiếm được khu kho thành phố. Các trung đoàn bộ binh khác cũng được sự hộ tống của xe tăng T-54 và các loại hỏa tiễn, tiến đánh thẳng vào Sở chỉ huy Sư 23 QLVNCH. Những sư đoàn bộ binh cộng quân từ các hướng, thì khống chế Sở chỉ huy tiểu khu, trung tâm thông tin, doanh trại thiết giáp cùng một số trận địa pháo QLVNCH.
             Toàn thành phố Buôn Ma Thuột chìm trong cơn bão lửa kinh hồn. Những tiếng gào thôi thúc xung phong nghe cũng ghê rợn, như kéo theo nó là cả đoàn âm binh dưới địa ngục. Tiếng la hét cận chiến của cả hai bên, vang vọng hãi hùng giữa đêm khuya.
             Một phi trường của máy bay trinh sát L-19 cùng với Đài truyền tin đã hoàn toàn lọt vào tay QGP. Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, cộng quân tiến sát vào khu căn cứ QLVNCH. Họ tung lựu đạn vào hầm làm nhiều binh lính và sĩ quan bị thương hoặc tử vong. Quân VNCH vẫn chống trả lại rất quyết liệt. Chúng cũng đẩy lùi không ít các cuộc xung phong của QGP. Tuy vậy, với binh lực hùng hậu của các sư đoàn, trung đoàn chủ lực QGP – Họ đã tràn lên như vũ bão.
             Khoảng 5 giờ sáng, pháo binh các sư đoàn QGP và pháo binh chiến dịch từ xa tiếp tục pháo kích vào thành phố. Sau đó các đại xe tăng có bộ binh tràn theo, bật đèn pha mở hết công suất vượt qua các tuyến phòng thủ QLVNCH, đánh thẳng vào trung tâm thị xã.
             Hướng tây nam có trung đoàn 174, trung đoàn 149-148 của Sư 316 đánh vào một số chốt, khu kho đạn, Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc đóng ở Buôn Ma Thuột.
             Hướng tây và đông thị xã có trung đoàn 24, trung đoàn 2 – 3 của Sư 10 với 2 đại đội xe tăng đi kèm, đánh thẳng vào chỉ huy sở của Sư 23 QLVNCH, khu quân y, khu truyền tin và một loạt cứ điểm khác bảo vệ thành phố. Mặc dù có mấy chiếc xe tăng bị sa lầy và bị máy bay VNCH bắn hỏng, nhưng họ vẫn tiến công mãnh liệt.
             Hướng đông bắc có trung đoàn 95 - Hướng đông nam có trung đoàn 149 tấn công lên cứ điểm Chư Blom, điểm cao 582, đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491 để tiến vào trung tâm thị xã. 
             Khoảng 7 giờ sáng, người ta đã thấy các đơn vị Sư 320 có mặt ở sâu trong thành phố, đánh nhau với Trung đoàn 53 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 45 thuộc Sư 23 QLVNCH.
             Xe tăng QGP và chiến xa VNCH cùng lăn bánh xích rầm rầm trên đường phố. Các đơn vị địa phương quân của VNCH bố trí xung quanh dinh tỉnh trưởng, làm thành một bức tường chắn bảo vệ. Khói lửa mịt mù… Quân VNCH tan tác – Nhưng về phía QGP, 5 chiếc xe tăng T-54 cũng bị ống phóng M-72 của Trung đoàn 53 địch bắn cháy, bộ đội bị hy sinh và thương vong cũng nhiều.
             Trên bầu trời Buôn Ma Thuột, những chiếc máy bay trinh sát L19 của Quân đoàn II do Tướng Phú gửi đến, bay chỉ điểm cho các phi cơ VNCH đánh bom. Pháo binh địch bắn rất dữ dội vào khu vực QGP đã chiếm đóng, thậm chí bắn vào cả chỗ hai bên đang hỗn chiến - Ta và địch đều chết. 
             Ở hướng tây, 8 chiếc A37 thuộc Sư 6 QLVNCH tại sân bay Đà Nẵng đến ném bom, làm thương vong nhiều chiến sĩ giải phóng, trong đó Sư đoàn 10 bị tổn thất nặng nề nhất. Tuy vậy, vẫn không làm chậm lại tốc độ tấn công như bão táp của họ. Tiếng thét xung phong của họ làm choáng ngợp các đường phố.
             Ở hướng tây nam, Đại tá Vũ Thế Quang liên tục khẩn cấp gọi cho Tướng Phú – Tổng tư lệnh Quân đoàn II VNCH, kêu gào cho máy bay đến cứu. Nhiều tốp AD6 – VH1 không vận của Sài Gòn từ nhiều nơi kéo đến, bu trên bầu trời Buôn Ma Thuột.
             Lưới lửa những cỗ pháo cao xạ phòng không 37ly - 14ly5 của D16 và cả 57ly của trung đoàn pháo thuộc Bộ tư lệnh B3, cùng hiệp đồng đánh một trận ròn rã như trong phim mô tả về các cuộc chiến tranh thời đại chiến.
             Theo một nguồn tin báo cáo phía VNCH: ngay trong ngày 10/3 đầu tiên, 6 chiếc AD6 của chúng đã bị bắn hạ cùng với 1 máy bay quan sát O.1, 2 máy bay trinh sát L19, 3 chiếc trực thăng vận tải CH47 và 7 chiếc máy bay VH1 của Sư đoàn 2 không quân VNCH trúng đạn. Có 3 chiếc cố bay được ra ngoài thị xã, nhưng chỉ 2 chiếc thoát còn 1 chiếc bị rơi giữa đường.
             Cơn bão lửa của pháo cao xạ trên không đó, làm cho những tên giặc lái nhà nghề QLVNCH phải bạt vía, kinh hồn. Chúng vội vàng đến ném bom lung tung rồi bay đi mất hút. Một A37 trong khi ném bom ngăn chặn 10 chiếc xe tăng của QGP, đã hốt hoảng ném hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền tin Sư 23 QLVNCH, làm mất liên lạc với Bộ tư lệnh Quân đoàn II.
             Tuy nhiên, QGP cũng bị nhiều tốp máy bay VNCH ném bom, oanh tạc vào đội hình, gây nhiều thương vong và tử trận - Song họ vẫn đẩy lùi, đè bẹp các lực lượng phản kích của Sư 23. Họ tiếp tục đánh chiếm các khu cư xá sĩ quan, khu tiếp vận, sở ngân khố, sở chỉ huy, nhà lao, khu tham mưu truyền tin…
             Người ta đã diến tả: tiếng rít của những hỏa tiễn và các loại đạn pháo, nhất là đạn pháo 130ly khủng khiếp như xé cả không gian. Những tiếng nổ cứ liên tục kéo dài, có thể làm vỡ tung tất cả các cửa kính, rung chuyển thành phố như một cuộc động đất. Thị xã Buôn Ma Thuột như một con tàu cứ chìm đắm dần và chao nghiêng trong bão tố.
             Nói về tiểu đoàn hỏa lực D16 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng chỉ huy – cả pháo cao xạ đánh trên không cùng các đại đội cối 82mm, hỏa tiễn DKB và rốc két B41, đã đánh một trận thật tơi bời khói lửa. Cuộc chiến kéo anh lao vào đến mức, anh gần như không biết sự tồn tại của mình. Tưởng chừng như máu tim anh, tình yêu và sự căm thù giờ phút đó đều trút thành làn đạn dội xuống đầu quân địch – Bầu trời Buôn Ma Thuột sẽ mãi mãi ghi vào lịch sử, của cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam trong mùa xuân năm 1975 này.
             Cuộc chiến càng kéo dài thì tổn hại của đôi bên càng cao. Xác giặc và ta phơi đầy đường phố. Ít nhất cũng phải tới 10 chiến xa của QGP bị bắn hạ.
             Vào khoảng 16 giờ ngày 10.3.1975, QGP đã làm chủ phần lớn thị xã Buôn Ma Thuột – ngoại trừ khu vực Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 QLVNCH và lẻ tẻ ít khu vực khác địch còn cố sống chết cầm cự, cũng chỉ là đang thoi thóp trấn giữ.
             Trong thành phố tiếng nổ đã thưa dần, nhưng cảnh hoang tàn thì không sách nào tả hết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt. Những đống lửa lẫn tro tàn và bụi khói bao phủ khung trời thành phố như một màn sương đục. Mặt đường lổ loang những dấu đạn pháo cầy cùng với hố bom. Những vũng máu và thây người. Kẻ bị thương và kẻ chết hỗn độn của một thế giới nửa sống, nửa chết.
             Cho đến chập choạng 6 giờ tối ngày 10.3.1975, trận chiến tạm kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Gợi cho người ta cái cảm giác của một bãi chiến trường tàn cuộc, lạnh lẽo rợn người.
             Đêm 10/3, các đơn vị QLVNCH còn lại trong thị xã co cụm vào một số cứ điểm còn cố giữ lại được: như Chỉ huy sở Sư 23, khu nhà ga của phi trường Phụng Dực, Đài phát thanh. Đại tá Vũ Thế Quang liên tục điện về Bộ chỉ huy QLVNCH xin viện binh đến ứng cứu.
             Sáng 11/3, Sư đoàn 320 QGP tiếp tục tiến công những cụm chốt còn lại tận sâu trong thị xã, trong làn mưa bom điên cuồng của những tốp máy bay A37. Thiếu tướng Phú – Tổng tư lệnh Mặt trận cao nguyên của VNCH điện đến lệnh cho Đại tá Nguyễn Trọng Luật và Vũ Thế Quang , bằng mọi giá phải chiếm lại được Chỉ huy sở của tiểu khu Đắc Lắc ở Buôn Ma Thuột.
             Phía đông và nam, các tiểu đoàn địa phương quân VNCH cố trấn giữ và bảo vệ kho đạn của Sư đoàn 23 – Trong khi đó, tại một khu vườn cà phê phía tây Buôn Ma Thuột, một tiểu đoàn của Trung đoàn 53 – Sư 23 cùng với 1 thiết đoàn kỵ binh QLVNCH và 2 tiểu đoàn biệt động quân, lập chiến tuyến cố bảo vệ Bộ tư lệnh mặt trận Buôn Ma Thuột của Đại tá Quang. Các loại pháo QGP vẫn tiếp tục dội xuống đó. Cả hành dinh của Bộ tư lệnh VNCH rung lên, khói đạn và đất đá mù trời. Chiếc xe jeep của Đại tá Nguyễn Trọng Luật bị trúng một trái đạn pháo nổ tan tành. Cũng may Đại tá Luật không có trong xe. Đại tá Quang vốn là một chiến binh thuộc lính nhẩy dù, ông ta cũng đã từng tham chiến hàng trăm trận – lúc này vẫn cố bám riết chỉ huy quân Cộng hòa, chống đỡ với cộng quân đang rầm rập tiến vào.
             Sư đoàn 320 đã từng được mệnh danh là “Sư đoàn Điện Biên” cùng với các chiến xa QGP, trước sự chống trả liều chết của quân VNCH, vẫn chưa thể làm chủ hoàn toàn tình thế. Số lượng thương vong và tử trận của cả hai bên đều không đếm nổi. Sư đoàn 316, chủ lực hàng đầu của Bắc Việt vẫn chưa thể tiến qua nổi sự chống trả chí mạng của Tiểu đoàn 3 – Trung đoàn 53 bộ binh Cộng hòa.
             Cuộc ác chiến Buôn Ma Thuột tiếp diễn với cường độ nóng đỏ và khốc liệt. Những người lính trẻ của Cộng quân vẫn ào ạt xông lên, dù hàng trăm cán binh Bắc Việt đã phải ngã xuống… nằm phơi xác trên chiến trường. Theo một nguồn tin, lúc này đã có thêm 13 chiến xa T-54 nữa bị bắn cháy ở đây.
             Có người lính VNCH sống sót trong trận chiến Buôn Ma Thuột về kể rằng: Sư đoàn 316 chủ lực của QGP đã dùng đến cả súng phun lửa, một loại súng sát thương rùng rợn… dội ầm ầm lên các tuyến phòng thủ của QLVNCH.
             Đại tá Luật ngồi trong chiếc xe thiết giáp M113 với một xạ thủ VNCH điều khiển cây đại bác không giật 106ly, chỉ huy đội quân VNCH xả súng đương đầu với các binh đoàn chủ lực QGP và cả một đoàn chiến xa tiến đến. Những chiến xa này đã sử dụng loại đại bác 100ly. Họ nã súng và bắn sập tư dinh của tên tỉnh trưởng ở Buôn Ma Thuột. Thanh toán xong dinh tỉnh trưởng, các chiến xa T-54 lại yểm trợ cho các trung đoàn bộ binh đánh tới tấp.
             Khoảng 10 giờ sáng 11/3, những trung đoàn bộ binh QGP và đoàn chiến xa T-54 đã gầm rú tiến đến Bộ tư lệnh hành quân QLVNCH. Đại tá Luật cùng với người xạ thủ khẩu pháo 106ly (lúc này khẩu pháo đã bị cộng quân bắn hỏng), phải bỏ chiếc xe M113 chạy vào trong một khu cây rậm ẩn trú.
             Đoàn xe tăng QGP, những khối sắt phụt khói đen nghịt với tiếng bánh xích kêu nhức óc, trong tiếng hô xông lên của các binh đoàn Bắc Việt làm rung chuyển cả trời đất. Khi họ tiến vào cách cổng Bộ tư lệnh 250 mét, rồi 200 mét… làm ông đại tá Luật căng thẳng, thót tim nhìn đoàn quân cộng sản lướt qua.
             Đại tá Quang vẫn đang chỉ huy QLVNCH trong Bộ tư lệnh hành quân, còn hy vọng một chút cuối là các phi cơ phản lực A37, AD6, F5… được Tướng Phú lệnh cho bay đến giải tỏa chiến trường. Ít nhất cũng làm chậm tốc độ tấn công của QGP. Những chiếc máy bay trinh sát L19 bay lượn vòng trên bầu trời Buôn Ma Thuột, chỉ điểm cho phản lực ném bom.
             Đại úy Nguyễn Hoàng Tiểu đoàn trưởng D16, lệnh cho đại đội pháo cao xạ bắn quyết liệt vào bọn giặc nhà trời. Những khẩu pháo 37ly giật nòng rung lên, khạc những chùm đạn lửa vây lấy các máy bay cường kích VNCH, làm chúng hoảng hốt ném bom vung vãi.
             Trộn lẫn trong tiếng xung phong của QGP là những tiếng kêu la, tiếng chửi rủa của quân địch… bị chính bom, đạn pháo của chúng đánh lạc vào đội hình. Ít nhất phải có gần chục chiếc phi cơ các loại bốc cháy. Một số rơi tại chỗ, một số cố bay đi rồi cũng bị rơi dọc đường.
             Một chiếc A37 xà xuống bỏ bom, nhưng hốt hoảng ném ngay lên nắp hầm của Đại tá Quang -  Bộ tư lệnh Mặt trận VNCH. Một tiếng nổ ầm thật khủng khiếp. Mặt đất bị chấn động rung rinh, đất đá tung lên cao hàng trăm mét… như ngày tận thế của kẻ địch – Số phận của Bộ tư lệnh QLVNCH đã được định đoạt. Trung tâm hành quân bị phá hủy gần như hoàn toàn. Những  máy móc truyền tin, liên lạc đều tiêu tan theo mây khói. Đại tá Quang may mắn chỉ bị thương nhẹ.
             Nguyễn Hoàng trong giây phút nhìn chiến sự và máy bay thù bôc cháy, anh mỉm cười sung sướng. Tự nhiên trong cảm nhận, anh cùng đồng đội đã có sự trả thù đích đáng… cho cả Hà Nội và người bạn gái của anh. Anh thấy một chút mãn nguyện trong lòng. Những ý nghĩ về quê hương, về Thu chợt thoáng qua, rồi cuộc chiến máu lửa lại cuốn anh vào. Các khẩu cao xạ D16 và trung đoàn pháo vẫn tiếp tục nhả những quầng lửa lên bầu trời Buôn Ma Thuột, vây lấy máy bay thù.
             Lại nói về số sĩ quan trong Bộ tư lệnh QLVNCH trúng bom, bị thương và tử vong gần hết. Đại tá Quâng và mấy kẻ còn đứng dậy được, buộc phải chạy tháo thân ra ngoài. Chúng gặp Đại tá Luật – Hai ông đại tá cố dìu nhau cùng một số binh sĩ sống sót, chạy di tản về hướng suối Bà Hoàng ở phía tây thành phố.
             Mất sở chỉ huy lại bị vây đánh từ nhiều phía, số đơn vị còn lại của QLVNCH cố gắng chống cự để chờ viện binh đến? nhưng tới 11 giờ ngày 11/3, Sư đoàn 316 QGP đã làm chủ thị xã – chỉ còn một liên đoàn biệt động quân thiếu với ít tàn binh của trung đoàn 53… vẫn cố giữ chốt phòng ngự cuối cùng tại sân bay Hòa Bình. Chúng hy vọng tướng Phú sẽ điều không quân đến, đổ quân chi viện và cứu vớt.
             Lúc này, hai ông đại tá Quang và Luật nhập vào một đoàn quân sĩ thất trận đang tìm đường chạy tháo thân. Vọng theo họ là tiếng loa của QGP kêu gọi đầu hàng. Rồi hai vị đại tá mỗi người chạy một ngả – Đại tá Quang thì lần mò xuôi theo hướng đông nam xuống Nha Trang, nhưng cũng không thể đi thoát, bị QGP bắt trên đường quốc lộ 21. Còn Đại tá Luật chọn đi về hướng tây, cùng với khoảng 20 binh sĩ và ông phó tỉnh trưởng theo cùng. Khi đang ẩn trú trong một vườn cà phê để chạy tiếp, cũng bị QGP bắt tại đó.
             Như thế là cả hai ông đại tá chỉ huy cao nhất QLVNCH ở Buôn Ma Thuột, đều đã bị bắt làm tù binh – vào lúc 2 giờ sáng ngày 12.3.1975.
             Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - đồng thời cũng là Tổng tư lệnh QLVNCH, lệnh cho tướng Phú phải có ngay kế hoạch viện binh giải tỏa Buôn Ma Thuột? Tướng Phú một mặt điều động hai trung đoàn 44 và 45 còn lại của Sư 23 để ném xuống thị xã, một mặt huy động tối đa sư đoàn không quân 6 thuộc Quân đoàn II tại Đà Nẵng và Cần Thơ, vừa yểm trợ cho cuộc hành quân giải cứu vừa chi viện cho lực lượng còn lại trong Buôn Ma Thuột, để phản kích lại.
             Lúc 13 giờ 10 phút ngày 12/3, hơn 100 máy bay trực thăng đủ loại, kể cả loại hạng nặng CH-47 Chinook được huy động dùng cho việc đổ quân, cùng với 81 máy bay cường kích A1, A37, F5  ném bom và bắn phá yểm trợ.      Đích thân Thiếu tướng Phạm Văn Phú trên chiếc phi cơ hạng nhẹ U-17 bay trên bầu trời Buôn Ma Thuột, chỉ huy cuộc phản kích tái chiếm lại thị xã.
             Chiều tối ngày 12/3, sau đợt một đổ quân của QLVNCH trót lọt – Sáng ngày 13/3, 145 chiếc trực thăng tiếp tục chở quân của trung đoàn 44 và một tiểu đoàn còn lại của trung đoàn 45, ném xuống mấy điểm cao bao quanh thị xã, hợp với số quân bên trong phản công lại QGP.
             7 giờ 7 phút sáng ngày 14/3, khi hai trung đoàn 44 – 45 QLVNCH còn chưa kịp triển khai đội hình tác chiến, đã bị các trung đoàn của ba sư 320 , 316 và Sư 10 QGP cùng với hai tiểu đoàn xe tăng từ nhiều phía ồ ạt tiến công.
             Đến 12 giờ trưa ngày 14/3, tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 45 và 1 tiểu đoàn lính bảo an VNCH bị đánh tan. Tiểu đoàn còn lại vừa đánh vừa lui. Tới 8 giờ 15 phút sáng 16/3, cũng bị diệt nốt. Toàn bộ ban chỉ huy trung đoàn bị bắt làm tù binh.
             Ngày 17.3.1975, Bộ tư lệnh Mặt trận B3 điều động trung đoàn đặc công 198 cùng mấy trung đoàn Sư 316 - 320 mở đợt tổng công kích vào số còn lại của Trung đoàn 53 QLVNCH và liên đoàn biệt động quân đang cố thủ tại sân bay Hòa Bình.
             Đến 11 giờ 30 phút ngày 17/3, sân bay Hòa Bình bị QGP chiếm và toàn bộ trung đoàn 53 bị xóa sổ. Khi đó Trung đoàn 44 QLVNCH đến ứng cứu,  cũng liên tục bị các trung đoàn chủ lực QGP đánh và tiêu diệt trong cùng ngày đó.
             Trận phản kích định tái chiếm lại Buôn Ma Thuột của VNCH đã hoàn toàn thất bại. Tuy trận chiến tại Buôn Ma Thuột phải đến ngày 17.3.1975 mới kết thúc, nhưng ngay từ lúc 13 giờ chiều ngày 15/3, thì cuộc di tản của Quân đoàn II đóng giữ tại Tây Nguyên… đã bắt đầu rút chạy trong sự cập rập, vội vã.
             Sau khi VNCH bị thất thủ tại Buôn Ma Thuột – Vào lúc 11 giờ ngày 14.3.1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập cuộc họp với bốn tướng tổng tư lệnh ở bốn vùng chiến thuật trên chiến trường miền Nam Việt Nam, trong đó có tướng Phạm Văn Phú – Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định bỏ cao nguyên, vì ông cho rằng: Trong tình trạng thiếu quân viện, QLVNCH không đủ khả năng bảo vệ lãnh thổ, nên phải bỏ vùng cao nguyên rừng núi, tập trung lực lượng bảo vệ vùng biển duyên hải và đồng bằng – có thế mới giữ được thành phố Sài Gòn? Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Tướng Phú phải thực hiện lệnh di tản với toàn bộ quân lực còn lại, ra khỏi vùng cao nguyên.
             Mặc dù Tướng Phú có thỉnh cầu xin thêm máy bay cho Sư đoàn 6 không quân của Quân đoàn II, và bổ xung quân số bị tổn thất ở Buôn Ma Thuột, tăng thêm viện từ một đến hai lữ đoàn để phòng giữ Kon Tum, Pleiku – sau đó sẽ phản kích để chiếm lại các vùng đã mất?
             Tổng thống Thiệu bác bỏ đề nghị của ông ta, với lý do “không còn quân tăng viện và cộng sản có thể còn đánh mạnh hơn năm 1972”. Tổng thống Thiệu chỉ thị cho tướng Phú phải chấp hành lệnh di tản ngay. Khi tướng Phú trở về Pleiku thì các sĩ quan trong ban chỉ huy đã thực hiện cuộc di tản, rút chạy khỏi cao nguyên trước đó một ngày.
             Cuộc di tản vì thiếu tổ chức, không có kế hoạch chu đáo của một đội quân đã đại bại, nên nó diễn ra một cách hỗn loạn trên đường số 7 – vì Tổng thống Thiệu và các tướng lĩnh cho rằng: con đường số 7 tuy xấu nhưng sẽ gây được bất ngờ cho đối phương.
             Nói về con đường số 7 – còn gọi là “Liên tỉnh lộ 7B”: Từ Pleiku theo quốc lộ 14 về hướng Buôn Ma Thuột khoảng 40km, sẽ gặp đầu mối đường Liên tỉnh lộ 7B. Từ đây con đường lộ 7B dài hơn 200km, xuyên qua rừng núi hiểm trở , đi qua thị xã Phú Bổn (đèo Cheo Reo)… rồi đến thành phố Tuy Hòa thuộc Phú Yên, là một tỉnh ven biển vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
             Con đường đất này uốn lượn theo các đồi cao, có chỗ thì men sông và qua suối cạn. Nhiều đoạn đường đã bị sụt lở vì mưa sói mòn, hay cây cối đổ chắn ngang. Ba chiếc cầu chính trên con lộ này là Phú Thiện (50m), Lê Bạc (600m) và Cà Lúi (40m)… lâu ngày không sửa chữa, tu bổ bị hư hao, gẫy đổ - vậy mà giờ đây nó phải chịu đựng cả quân binh lực của Quân đoàn II với hơn trăm ngàn quân lính và sĩ quan, gần 4.000 chiếc xe đủ loại, hàng ngàn quân xa – chiến xa hạng nặng. Kể cả những chiến xa M-48 nặng gần 50 tấn đi qua. Chạy theo họ, còn hơn 260.000 dân hoảng hốt với tất cả mọi phương tiện có được, tạo nên một cuộc triệt thoái hỗn loạn. Một cuộc di tản khổng lồ, như nước chảy đổ về phương nam.
             Một số sĩ quan, binh lính đóng ở vùng cao nguyên đã bỏ đội ngũ, công chức thì bỏ cả nhiệm sở về lo chạy cho gia đình. Ngay cả CIA cũng di tản người Mỹ ra khỏi Pleiku, vì theo họ đánh giá: Thị xã này cũng giống như một thùng thuốc súng.
             Nhiều nhà quân sự bình luận rằng: Chính cuộc rút chạy của QLVNCH ra khỏi vùng cao nguyên đó, là một trong những nguyên nhân gây ra thảm họa lớn nhất trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, của Chính phủ VNCH.
             Về phía QGP – 20 giờ tối ngày 16.3.1975, Bộ tư lệnh Mặt trận B3 đã ra lệnh cho Sư đoàn 320 lập tức truy kích địch trên Đường 7. E64 của sư đoàn là đơn vị đầu tiên được điều động, đã cắt rừng suốt đêm hành quân trên 110 chiếc xe ô các loại đuổi theo, lập chốt chặn đánh địch bỏ chạy. Phối hợp với Sư 320 là một tiểu đoàn xe tăng của Trung đoàn 273, một trung đoàn pháo binh, tiểu đoàn hỏa lực D16, một trung đoàn pháo cao xạ phòng không khác và hai tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên.
             Ngày đầu cuộc di tản diến ra có vẻ thuận lợi – Sang ngày 16/3,  khi một đơn vị thiết giáp đi đầu trong đoàn xe quân sự VNCH dài đến hơn 2.000 chiếc, kèm theo  gần 2.000 phương tiện giao thông của dân chúng bị kẹt cứng lại, tại bến phà Sông Ba?... làm mồi cho cả làn mưa pháo của QGP dội xuống.
             Sông Ba là một trong những con sông lớn nhất ở miền Trung, con sông duy nhất ở nam Trung Bộ vượt qua được dãy Trường Sơn, thông lên đến tận Tây Nguyên. Với câu ca dao:
                            Sông Ba chảy xuống Đà Rằng
                            Ai thương Đắc Lắc cho bằng Phú Yên
             Phần thượng lưu của sông Đà Rằng gọi là Sông Ba – như thế là, phần hạ lưu của Sông Ba từ Đồng Cam đổ ra biển ở phía nam thành phố Tuy Hòa, thì có tên gọi sông Đà Rằng. Vậy, sông Đà Rằng thuộc một phần của Sông Ba.
             Sông Ba phát nguồn từ dãy núi Ngọc Rô cao 1.500m trên cao nguyên Kon Tum, chảy qua các tỉnh Kon Tum, Gia Lai rồi vào địa phận Phú Yên. Ở phần thượng lưu thì nhiều ghềnh thác, nhưng đến hạ lưu khi vào địa phận Phú Yên: lòng sông lớn, nhiều phù sa tạo ra những làng mạc trù phú.
             Lại nói vể cuộc di tản hỗn độn của QLVNCH – Các sĩ quan và binh lính đem theo cả gia đình, họ hàng cùng với nhân viên dân sự chen chúc nhau trên con đường ngập cỏ, bụi cây, đất đá lổm chổm… đã rơi vào tình thế cực kỳ náo loạn. Không phải chỉ có riêng đạn pháo của QGP bắn, mà họ còn bị chính máy bay VNCH bắn nhầm, tạo nên một cảnh tượng hãi hùng trong cuộc hành trình đầy nước mắt. Thậm chí khi các cây cầu bị phá hủy, đoàn xe dồn ứ lại, các xe quân sự vẫn lao đại qua sông rồi chìm nghỉm.
             Chỉ có được 1/5 – 1/6 trong số 260.000 dân, 3 tiểu đoàn trong số 8 tiểu đoàn QLVNCH chạy thoát về vùng duyên hải. Số binh lính và dân thường tử nạn nhiều không đếm nổi.
         
                                                                 *
         
             Sau khi đã chiếm trọn vùng cao nguyên, gồm có Buôn Ma Thuột, Kon Tum và Pleiku – QGP muốn tiến về vùng biển duyên hải để chiếm Khánh Hòa, Phú Yên và Qui Nhơn… thì bằng mọi giá họ phải chiếm được Khánh Dương. Khánh Dương là một thị trấn nhỏ thuộc Khánh Hòa, một tỉnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ: phía bắc giáp Phú Yên – tây bắc giáp Đắc Lắc – tây nam giáp Lâm Đồng – nam giáp Ninh Thuận – và phía đông giáp Biển Đông.
             Khánh Dương trong khung cảnh đồi núi ở độ cao khoảng 1.000m, bao quanh bởi những khu rừng già hùng vĩ, cạnh Quốc lộ 21 – nối liền vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột với vùng duyên hải.
             Quanh Khánh Dương là những bản Thượng của dân tộc thiểu số sinh sống hiền hòa, cùng một số gia đình binh sĩ VNCH theo bước chân di hành về đây. Cách Khánh Dương đi về hướng đông không bao xa theo Quốc lộ 1, chính là Đèo Cả ở tỉnh Phú Yên.
             Ngày 20.3.1975, Sư 320 QGP trên đường truy kích địch ở Quốc lộ 7, cùng với 3 trung đoàn pháo binh và pháo cao xạ phòng không, Tiểu đoàn hỏa lực D16, 1 trung đoàn xe tăng T-54, 1 trung đoàn đặc công… tràn xuống đánh vào căn cứ Khánh Dương của QLVNCH. Chiến địa Khánh Dương khi ấy, đã có Sư 10 được Bộ tư lệnh Mặt trận B3 điều đến bài binh bố trận từ trước.
             Lại nói về phía quân VNCH – Để án ngữ QGP tràn xuống các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa… nên đã phòng thủ ở Khánh Dương là: Trung đoàn 40 thuộc Sư 22; Lữ đoàn 3 gồm 5 tiểu đoàn cả quân bộ binh, nhảy dù và pháo binh; 1 đại đội trinh sát; 2 tiểu đoàn địa phương quân thuộc chi khu Khánh Hòa và 1 chi đoàn thiết giáp M113.
             Lúc 12 giờ 15 phút ngày 21/3, QGP nã gần 100 viên đạn pháo vào phi trường Khánh Dương. Khoảng 35 chiếc trực thăng và máy bay trinh sát L19 đang đỗ trên phi trường, vội bay lên để tránh đạn. Hai đại đội địa phương QGP từ khu rừng trong chân núi tràn lên để tiến vào phi trường. Lúc này trực thăng của địch nhả đạn bắn xuống khu rừng dọc chân núi như mưa, chỉ vô tình mà họ bị thương vong rất nhiều, nằm chết la liệt trong rừng.
            17 giờ 45 phút, 1 trung đoàn Sư 10 QGP tấn công Trung đoàn 40 bộ  binh của Sư 22 VNCH ở phía tây Khánh Dương. Quân của Trung đoàn 40 bị thiệt hại khá nặng, thương vong và tử sĩ chưa rõ thật chính xác – nhưng về Cộng quân, theo số liệu từ VNCH: Họ đã diệt khoảng gần 100 chiến sĩ, bắn cháy 2 xe tăng và 2 cộng quân bị bắt làm tù binh.
             Sang ngày 22/3, QGP dốc toàn lực tấn công vào phòng tuyến Khánh Dương. Sư 10 và Sư 320 từ trên Đường 7 tràn xuống, đánh vào Lữ đoàn 3 nhảy dù và các trung đoàn pháo binh, xe tăng…
             7 giờ 30 phút, QGP nã một trận pháo nữa kinh hồn với hàng nghìn quả đạn pháo các loại vào Trung đoàn 40 của Sư 22 địch và 2 tiểu đoàn địa phương quân phòng thủ ở phía tây Khánh Dương. Sau đó Sư 10 với xe tăng yểm trợ đã mở cuộc tấn công quyết liệt, chia cắt binh lực QLVNCH ra từng mảnh nhỏ mà đánh. Qua một giờ giao tranh, 3 tiểu đoàn địa phương quân VNCH bị thương vong và tử trận quá nửa. Số tàn quân chạy về mạn Khánh Hòa. Trung đoàn 40 của Sư 22 bị tổn thất nặng, phải lùi về tận đỉnh đèo.
             Bộ tư lệnh Sư 22 QLVNCH sợ Sư 10 QGP sẽ vòng đường đèo theo Quốc lộ 420 đánh vào Nha Trang, nên đã điều động Trung đoàn 40 với hơn hai ngàn chiến binh còn lại, cấp tốc hành quân theo đường Khánh Hòa để chặn cộng quân. Như thế ở mặt trận Khánh Dương, Lữ đoàn 3 nhảy dù phải cầm cự quyết liệt.
             9 giờ sáng, pháo đại bác 122ly QGP nã vào quận Khánh Dương, sau đó với 12 chiếc xe tăng cùng Tiểu đoàn hỏa lực D16 và tiểu đoàn pháo cao xạ yểm trợ cho sư đoàn chủ lực bộ binh, tấn công vào trung tâm căn cứ Khánh Dương.
             9 giờ 30 phút, mặt trận Khánh Dương tan tác. Các binh lực VNCH bỏ chạy. Lữ đoàn 3 nhảy dù cùng các tiểu đoàn biệt động, địa phương quân co cụm lại chống trả. Trên địa phận đèo Khánh Dương, cộng quân tràn ngập.
             Ngày 23/3, Sư đoàn 320 QGP đánh mạnh vào tuyến phòng ngự của Lữ đoàn 3 nhảy dù. Ban chỉ huy Lữ đoàn 3 khẩn cấp kêu gọi Bộ tư lệnh QLVNCH cho phi pháo oanh kích vào đoàn chiến xa của QGP, lúc này khoảng 20 chiếc đang tràn đến, nã đạn vào đội hình của chúng.
             Khi đó đoàn quân di tản của Quân đoàn II ở con đường 7 kéo theo mấy chục ngàn dân chúng trên cao nguyên, đang bị ùn tắc bên bờ phía bắc con Sông Ba gần thành phố Tuy Hòa, thuộc tỉnh Phú Yên – cách Sài Gòn khoảng 560km về phía nam. Bị pháo QGP bắn, số thương vong và bị chết cả quân lính lẫn dân thường không kể xiết.
             16 giờ 30 phút, nhiều chiến xa của cộng quân và cả đoàn xe kéo đại pháo đánh vào quận lỵ Khánh Dương về phía tây bắc, rồi phía đông nam, phía bắc. Không quân của không lực VNCH yểm trợ cho Lữ đoàn 3 nhảy dù, ném bom và bắn xối xả vào đội hình của các trung đoàn, sư đoàn QGP. Pháo cao xạ của Tiểu đoàn 16 và trung đoàn pháo phòng không của Mặt trận Tây Nguyên đã bắn cháy gần một chục chiếc trực thăng, 3 chiếc A-37, 1 F5 và 2 máy bay trinh sát L19 của VNCH.
             Khánh Dương cũng trở thành một mặt trận đẫm máu, người và vũ khí của QGP tổn hại ở đây cũng nhiều… mặc dù phía QLVNCH đang trên đà đại bại.
             Ngày 28/3, một đoàn xe tiếp tế thực phẩm và đạn dược cho Lữ đoàn 3 nhảy dù, đã bị một đơn vị phục kích của cộng quân đánh tan trên Quốc lộ 21, dưới chân đèo Phượng Hoàng sát Khánh Dương.
             Ngày 30.3/1975, mặt trận Khánh Dương bùng nổ lần thứ hai. Pháo binh QGP đủ loại dập lên chiến tuyến phòng thủ của địch. Các sư đoàn chủ lực cộng quân, kể cả Sư 316 – sau khi làm chủ sân bay Hòa Bình ở Buôn Ma Thuột, đã tách ra một cánh quân tràn xuống đánh địch rút chạy trên Quốc lộ 7, giờ cũng dồn về tấn công ở mặt trận Khánh Dương này.
             Cộng quân tập trung toàn binh lực với số quân gấp 10 lần quân VNCH, đánh ồ ạt vào Lữ đoàn 3 nhảy dù với quyết tâm chiếm cứ điểm Khánh Dương để mở con đường xuống Khánh Hòa. Lực lượng kỵ binh với 15 chiếc thiết vận xa M113 của địch cũng đã bị mất hơn nửa. Khi đó cả thiết đoàn 21 chiến xa M-48 của Quân đoàn II, trên tỉnh lộ 7B cũng đã bị đánh tan tác.
             Những xe tăng T-54 to lớn của QGP ào ạt nhả đạn xông tới áp đảo đội quân VNCH. Lữ đoàn 3 nhảy dù từng có một thời lừng lẫy trên mặt trận Quảng Trị năm 1972, đã từng dựng lại ngọn cờ ba sọc của VNCH trên dãy tường thành đổ nát khi đó – bây giờ cũng đang hứng chịu làn pháo 130ly loại lớn của QGP làm tan tác đội hình. Xe tăng và các đoàn quân của những sư đoàn chủ lực QGP ào lên đông như kiến. Xác những chiến binh VNCH ngã gục khắp mặt đèo nham nhở bị cầy phá của đạn pháo.
             Ban chỉ huy Lữ đoàn 3 nhảy dù kêu gào Tướng Phú – Tổng tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên của QLVNCH xin thêm viện gấp, nếu không thì Lữ đoàn 3 sẽ bị tiêu diệt? Tướng Phú trả lời hiện không còn viện binh, yêu cầu Lữ đoàn 3 cố cầm cự để xin lên Bộ tư lệnh ở Sài Gòn. Tướng Phú gọi điện về Bộ tham mưu QLVNCH ở Sài Gòn, xin viện binh gấp… nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời không có viện binh, yêu cầu tự thủ đến cùng.
             Tướng Phú vội cho hai phi tuần khu trục đến yểm trợ cho mặt trận Khánh Dương, để giải tỏa bớt áp lực lên cánh quân nhảy dù. Đây chính là những trái bom cuối cùng của QLVNCH ném xuống chiến trường cao nguyên.
             Trên 20 chiếc A-37, hơn một chục trực thăng vũ trang, 3 phi đội F5 cùng với máy bay trinh sát bay đến mặt trận Khánh Dương, yểm trợ cho Lữ đoàn 3 và số quân còn lại đang cố cầm cự.
             Đại đội pháo cao xạ của Tiểu đoàn 16 dàn trận địa phía tây bắc, cùng với các tiểu đoàn cao xạ khác của QGP, từ các phía nhả đạn bắn như mưa lên bầu trời. Máy bay địch bốc cháy ngùn ngụt, kéo theo những làn khói đen phủ khắp các khu rừng.
             Chiều tối 30/3, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hoàng được Bộ tư lệnh B3 gửi điện xuống khen ngợi chiến công của các chiến sĩ pháo thủ trong tiểu đoàn đã hợp đồng chặt chẽ với các tiểu đoàn cao xạ khác đánh một trận ròn rã, xuất sắc, bắn tan xác nhiều máy bay của không lực VNCH.
             Một chiếc A37 vì hốt hoảng dưới làn mưa đạn pháo QGP , đã dội cả bom laser lầm vào đội hình của Lữ đoàn 3 nhảy dù làm nhiều chiến binh VNCH tử thương.
             Trận đánh diến ra ác liệt trên con đèo cao hơn 1.000 mét ấy, không thể cản được cả đoàn xe tăng và bộ binh dầy đặc của QGP tràn lên cao điểm. Quân số của Lữ đoàn 3 nhảy dù của địch giảm xuống chỉ còn khoảng 20%. Các lực lượng biệt động và địa phương quân thì hầu như đã bị tiêu diệt. Lữ đoàn 3 nhảy dù hoàn toàn mất sức chiến đấu. Bộ phận thông tin chỉ còn nghe thấy hiệu lệnh cuối cùng của tướng Phú gọi đến, lệnh cho tàn quân của Lữ đoàn chạy di tản về hướng nam. Tàn quân ấy khi chạy về được đến Nha Trang thì cũng chỉ còn ¼ - 1/5 quân số. Họ cứ rút dần đến đâu thì cộng quân tràn theo tới đó.
             Tuy nhiên, QGP cũng bị tổn thất nhiều: gần chục chiếc tăng T-54 bị máy bay và đạn pháo QLVNCH bắn cháy, với hàng trăm chiến sĩ của các sư đoàn chủ lực bị thương và tử trận. Mặc dù vậy họ vẫn xông lên đánh quân thù tan tác, giành trọn vẹn chiến thắng ở mặt trận Khánh Dương này.
             Sau chiến thắng, Bộ tư lệnh B3 chỉ để một bộ phận nhỏ của sư đoàn chủ lực bộ binh cùng với Tiểu đoàn hỏa lực D16 ở lại giữ và cai quản đèo Khánh Dương – còn tất cả vẫn tràn theo đuổi giặc, xuống các tỉnh đồng bằng hướng về phía Sài Gòn.
         
         
        #49
          Nhân văn 21.09.2020 18:40:37 (permalink)
           
           
                                                                  *
           
               Nhìn lên bầu trời Khánh Dương, Tiểu đoàn trưỡng Nguyễn Hoàng trong tâm trạng thật khó tả. Khi chiến cuộc tạm thời yên tĩnh, thì trong anh lại trào lên một nỗi buồn. Lá thư anh đã nhận được của Lan kèm với thư của Thu từ Hà Nội gửi vào đầu chiến dịch, vẫn đang nằm trong túi áo ngực anh. Cứ mỗi lần thay quần áo, lá thư lại được truyền từ chiếc áo này sang chiếc áo khác.  Dường như nơi trái tim anh ngày đêm vẫn ấp ủ nó.
               Hôm vừa nhận, khi vừa bóc thư Lan thì anh mới thấy thư của Thu – Lúc đó lòng anh như một cậu bé con, nhảy cẫng lên vì vui sướng? Anh đã chờ đợi mãi, giờ thì lá thư của người bạn gái thân yêu đã ở trước mặt anh đây! Lúc đó - anh tự nhủ với mình, nén lòng để đọc thư của Lan trước. Anh muốn kìm lại niềm hạnh phúc… đọc thư của Thu sau. Ai ngờ…
               Lan báo tin về cái chết của Thu đang làm nhiệm vụ cứu nạn ở phố Khâm Thiên, trong trận giặc Mỹ rải thảm bom B52 đánh vào Hà Nội – Lòng anh rụng rời. Đôi bàn tay anh cầm lá thư đọc cứ run lên, chỉ chực tuột rơi xuống đất. Nước mắt đã khô đi trong cuộc chiến đầy máu này, bỗng phút giây lại muốn trào ra…
               Khi ấy, trước sự ngạc nhiên tò mò nhìn người thủ trưởng của cậu liên lạc? Hoàng đã làm vẻ thản nhiên gập cả hai lá thư lại cho vào túi áo, rồi vội chạy đi chỗ khác. Anh không muốn cho ai biết nỗi đau thương quá lớn đã đến với mình? Trái tim anh chỉ muốn vỡ tan. Sau khi phổ biến nhiệm vụ và ra chỉ thị cho các ban chỉ huy đại đội, để họ trở về đơn vị làm công tác chuẩn bị bước vào chiến dịch – Anh lặng lẽ tim một nơi khuất, trấn tĩnh lại rồi bóc thư của Thu ra đọc. Bức thư dài đến năm trang giấy pơ luya mỏng màu hồng…
               Hoàng nhìn lên dòng chữ đầu tiên:
               “Đêm nô-en 1972, Hoàng thân yêu của em!...” – Thì ra, đó là lá thư Thu đã viết cho anh vào đêm nô-en, sau khi đi chơi với Lan về… chưa kịp gửi thì cô bị chết sau đêm đó. Anh không thể đọc nổi nữa, tưởng như trên đời này không thể còn nỗi đau nào lớn hơn? Rồi anh lao vào trận đánh - Thế mà, cũng đã ngót một tháng trời. Bao lần đã muốn tranh thủ mở thư ra xem, nhưng rồi anh lại không dám đọc…
               Nay mặt trận Khánh Dương đã yên lắng, lòng người tiểu đoàn trưởng cũng trấn tĩnh trở lại. Đêm trên đỉnh đèo trời đầy sao. Bàn tay anh run run, lấy phong thư của Thu từ trong túi áo ra. Chiếc áo quân nhân nhàu nhĩ bám đầy khói súng đạn. Anh đọc thư dưới ánh sáng của chiếc đèn pin chiến lợi phẩm. Những dòng chữ tràn đầy tình yêu thương mà người bạn gái đã thức trắng đêm nô-en, để viết cho anh. Người chiến binh đã dầy dạn bom đạn ác liệt và sự hy sinh, cố nén lòng mình đọc hết trang thư.
               Gió đêm vẫn thản nhiên thổi phần phật trên đỉnh đồi chinh chiến. Đọc xong, anh gấp cùng với lá thư Lan, để vào một cái túi ni lông nhỏ cho khỏi ướt, rồi lại cẩn thận cho vào trong túi áo ngực. Phong thư của người con gái yêu thương cứ nằm trong túi áo như thế, theo anh vào chiến trận, ngày đêm ấp ủ trái tim anh.
               Bao kỉ niệm ở quê hương, những ngày thơ ấu, những đêm học bài cùng nhau… trở về sống trong kí ức người tiểu đoàn trưởng. Nhìn cảnh đêm của  đèo Khánh Dương sau một trận chiến kinh hoàng, anh lại nhớ đến hình ảnh Hòn Vọng Phu trên đỉnh Đèo Cả: người vợ đang bồng con ngóng chồng là một chinh phu - Nó đâu chỉ là hình ảnh của thời đã xa? Người thiếu phụ vẫn ở đó, không phải là cũng đang nhỏ lệ… nhìn những người lính VNCH thất trận và tử nạn... và những giọt lệ đó, cũng còn để nhỏ cho bao người chiến sĩ của các binh đoàn chủ lực Bắc Việt, các đồng đội của anh đã rời bỏ thành phố, làng xóm thân yêu vào chiến trường… để không bao giờ còn có thể quay trở về quê hương được nữa - Ôi, cuộc chiến tranh đầy chết chóc này?
               Lòng người tiểu đoàn trưởng cứ thắt lại, nghĩ về mọi thứ. Anh nhớ đến câu thơ của người thi sĩ là một chiến binh, đã viết từ thời kháng chiến đánh Pháp:
                          … Không chết người trai nơi khói lửa
                               Mà chết người gái nhỏ hậu phương
               Hoàng nghĩ đến cả hai người con gái đã yêu anh, đều đã chết vì chiến tranh. Một là người con gái bản quá thơ ngây, thì tử trận ngay trên chiến trường Tây Nguyên, chết trên bàn tay anh – Một nữa là người bạn gái thời ấu thơ, bị chết trong cuộc chiến tranh tràn đến cả quê hương. Tại sao người chết không phải anh cơ chứ, mà lại là hai người con gái thơm ngát như hai bông hoa ấy ?!
               Ôi, chiến tranh! Chiến tranh và tình yêu. Nó vốn là hai phạm trù hoàn toàn xung khắc nhau. Trong chiến tranh… tình yêu nẩy nở mãnh liệt hơn, cao cả và thiêng liêng, song nó cũng phải chấp nhận một hậu quả đau đớn, xé nát những trái tim yêu thương. Lòng Hoàng trào lên bao cảm xúc…
               Trời đã gần sáng. Cậu liên lạc đã ngủ được một giấc, chợt dậy không thấy thủ trưởng đâu? chạy ra giục anh vào ngủ. Khu nhà dã chiến của viên sĩ quan Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 3 nhảy dù QLVNCH, nay lấy làm chỗ ở tạm cho ban chỉ huy tiểu đoàn hỏa lực D16.
               Hoàng lững thững bước theo cậu liên lạc. Anh vẫn không muốn để cho ai biết về sự cố đau xót của mình. Cậu liên lạc chỉ thấy thủ trưởng đọc thư rồi lặng lẽ, nên cũng không dám hỏi.
           
                                                                 *
           
               Nói về cuộc rút chạy của đoàn quân VNCH trên con đường 7 – Trong số gần 400.000 người kể cả các sĩ quan, binh linh VNCH  và dân chúng trên Tây Nguyên di tản theo xuống đồng bằng, thì chỉ còn non ¼ là đến nơi, số còn lại tan rã hoặc chết chóc. Như đánh giá của Hoa Kỳ, sự tổn thất trong cuộc tháo chạy tán loạn đó, vượt qua mọi sự đo lường.
               Sau trận chiến Buôn Ma Thuột và thảm họa trên đường 7, Quân đoàn II do tướng Phú làm tổng tư lệnh gần như bị xóa sổ. Nó thực sự không còn hiện hữu của một binh lực chiến đấu, với qui mô đã có của nó nữa.
               Các nhà quân sự phương Tây bình luận: Thất bại trong cuộc rút lui của Quân đoàn II QLVNCH trên đường số 7, kèm theo những tổn thất rất nặng nề về cả quân sự và dân sự. Ít nhất ¾ lực lượng của Quân đoàn II bị tử trận và đào ngũ, hoặc bị bắt sống làm tù binh.
               CIA tại Sài Gòn thì nhận xét rằng: Số tài sản quân sự gồm xe tăng M-48 Patton, xe bọc thép M-113, đại bác M-107, HM-3 (155mm),  HM-2 (105mm) bị phá hủy hoặc rơi vào tay QGP lên đến con số hàng nghìn.
               QGP miền Nam Việt Nam cho biết: Chỉ sau 8 ngày cuối chiến dịch Buôn Ma Thuột, họ đã loại khỏi vòng chiến 28.514 sĩ quan và binh lính VNCH – Trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 bị bắt làm tù binh (779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng). Họ đã thu giữ và phá hủy 17.183 súng các loại với 79 khẩu pháo từ 105 trở lên, phá hủy và thu giữ hơn 2.000 xe quân sự (207 xe tăng và xe bọc thép), bắn rơi 44 máy bay, thu và phá 110 chiếc phi cơ khác của không lực VNCH.
               Về phía QGP (trong những ngày truy kích trên Đường 7) – chỉ bị 56 người chết và hơn 100 người bị thương.
               Con đường 7B hiểm trở, đổ nát ấy đã thành một con lộ kinh hoàng. Những cái chết vì bom đạn và những trận mưa pháo, cái chết vì đói khát, kiệt lực gục ngã dọc đường (cả quân lính và dân tình) – Có một kí giả đã viết: Thật thương tâm khi mục kích cả người dân phải di tản bằng đôi chân. Họ không có khả năng di tản bằng xe hơi, xe vận tải hay bất cứ một phương  tiện chuyên chở nào. Chiếm đa số bao gồm cả phụ nữ, trẻ em, người già. Họ đi tất tả như chạy. Có khi không có được một giọt nước để làm dịu cơn khát như cháy cổ. Không thể đếm được bao nhiêu trẻ em đã ngã xuống trên đường đi, bao nhiêu cụ già bơ vơ phải đứng lại dọc đường, không cất bước đi được nữa…
               Liên tỉnh lộ Pleiku – Phú Bổn – Phú yên trở thành con đường máu dài hơn 200 cây số, là nơi chôn vùi hàng ngàn dân tình và trẻ thơ vô tội. Người ta đã mô tả lại những hình ảnh bi thương trong cuộc rút chạy của đoàn quân thất trận ấy, kéo theo hàng chục vạn dân tình ở con đường số 7 định mệnh rằng:
               Trên đỉnh Đèo Cả có tảng đá rất lớn. Người bên dưới nhìn lên, rất giống hình dáng một thiếu phụ đang bồng đứa con nhỏ đứng nhìn ra biển, trông ngóng người chinh phu còn đang chinh chiến ở chiến trường xa – Gọi là “Hòn Vọng Phu” hay còn gọi là “Núi mẹ bồng con”.
               Đèo Cả thuộc Phú Yên cách Khánh Dương không bao xa về hướng đông, dọc theo Quốc lộ 1. Nói về sự tích Hòn Vọng Phu theo truyền thuyết của dân gian:
               … Trong thời tao loạn, có hai anh em ruột vì chạy giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và cô gái gặp nhau – vì không nhận ra nhau là anh em ruột, nên đã thương yêu và kết duyên vợ chồng. Sinh hạ được đứa con và ăn ở với nhau rất hạnh phúc. Thế rồi vào một ngày… người chồng gội đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần mò câu chuyện: người chồng mới vỡ lẽ, vết sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ. Người chồng đau khổ và ân hận, không dám nói cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con lên núi chờ cho đến khi hóa đá…
               Họ nói rằng: Người thiếu phụ sẽ còn mãi mãi đứng đó giữa trời mây lồng lộng gió, kêu gào thảm thiết – Để nhỏ lệ nhìn những đoàn quân lính của VNCH, hàng chục ngàn những chiến binh u sầu, cúi đầu chạy mãi về phương nam. Một chuyến đi không biết bao giờ trở lại? và không bao giờ có thể trở lại.
               Hòn Vọng Phu chắc chắn sẽ không còn được trông thấy bóng dáng của những người lính VNCH, ngược trở về con đường Đèo Cả này nữa. Nàng sẽ vĩnh viễn đứng ở đó bế con thổn thức trông theo đến ngàn đời, trong nước mắt và đau thương.
               Thiếu tướng Phạm Văn Phú – Tổng tư lệnh mặt trận cao nguyên của VNCH, vì cuộc di tản hỗn loạn và đẫm máu đó, kéo theo sự sụp đổ của toàn  Quân đoàn II, đã bị chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quản thúc tại gia ở Sài Gòn – Một tướng lĩnh QLVNCH đã từng xông pha trên nhiều chiến trường lớn: Lào 719, Thừa Thiên – Huế mùa hè 1972, cũng đã từng có phen làm cho các đơn vị QGP phải tan tác… giờ ngồi đếm từng ngày trong phút cuối cuộc đời mình với sự giam giữ.
               Về phía QGP – Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên từ ngày 10/3 đến ngày 24.3.1975 đã làm rung chuyển, đảo lộn thế trận của Chính phủ VNCH. Giải phóng cả một vùng Tây Nguyên rộng lớn với hơn 60 vạn dân. Diệt toàn bộ quân đoàn II… khiến cho cả QLVNCH trên chiến trường miền Nam hoảng sợ. Đã biến từ thắng lợi chiến dịch thành thắng lợi chiến lược, cho cả cuộc chiến tranh giải phóng của Đảng Cộng sản ở Hà Nội.
               Từ thời chiến tranh Đông Dương 1945 – 1954, người Pháp và Việt Minh đều coi Tây Nguyên là mái nhà, cái chìa khóa của Đông Dương. Mất các căn cứ cơ bản phòng thủ cao nguyên, mà trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động nào khả dĩ có thể xoay chuyển tình thế, QLVNCH sẽ rơi vào vòng nguy biến. Các tỉnh vùng duyên hải miền Trung lại tiếp tục bị QGP tấn công chiếm lĩnh.
                Quyết định bỏ Tây Nguyên để rút các lực lượng QLVNCH còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển, của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với các tướng lĩnh ngày 14.3.1975 tai căn cứ quân sự Cam Ranh , là một sai lầm chiến lược, gây ra sự đại bại của cả một quân đội – Nó mở đầu cho sự sụp đổ không tránh khỏi của chính thể VNCH.
               Thừa thắng, các sư đoàn chủ lực của cộng quân ào ạt tấn công, đánh chiếm Quảng Trị ngày 19.3.1975.
               10 giờ 30 phút ngày 25/3, QGP tiến vào Huế. Ngày 26/3, giải phóng hoàn toàn thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên.
               Trong cùng thời gian, QGP đánh chiếm hàng loạt các vùng: giải phóng thị xã Tam Kỳ (24-3), Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai (26-3)… tạo thành một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía nam.
               Đà Nẵng – thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ và QLVNCH rơi vào thế cô lập. Khi đó dân chúng ở cố đô Huế hoảng hốt ùn kéo chạy về Đà Nẵng. Chính lúc ấy, Tổng thống Thiệu lại cho toàn bộ sư đoàn dù và lữ đoàn thủy quân lục chiến về bảo vệ Sài Gòn, vì ông ta sợ bị đảo chính.
               Sáng ngày 29/3, QGP từ ba phía bắc – tây – nam tiến vào thành phố. Hơn 10 vạn binh lính VNCH dồn ứ chạy về đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Thành phố Đà Nẵng nguy cấp? Chính phủ VNCH đã phải dùng máy bay di tản cố vấn Mỹ và phần lớn lực lượng QLVNCH.
               Ngày 30.3.1975, thành phố Đà Nẵng hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát của cộng quân. Năm sư đoàn bộ binh cùng các lực lượng không quân , hải quân, địa phương quân và nhiều lực lượng tổng trù bị - Tổng cộng gần 300 ngàn quân VNCH đã tan rã.
               Theo thống kê của Chính phủ VNCH: 1 tỷ đô la vũ khí, đạn được cùng với 16 tỉnh, 5 thành phố lớn của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu- tức là 1/3 lãnh thổ, trong vòng 15 ngày đã lọt vào tay QGP. Chính phủ VNCH đứng trên đà sụp đổ.
               Chiến thắng bất ngờ không đổ nhiều xương máu, không phải gian khổ nhiều – Cộng sản Bắc Việt quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến đánh vào đầu não VNCH ở Sài Gòn ngay trong mùa xuân 1975. Sớm hơn dự định mà đáng lẽ theo kế hoạch, phải để tới năm 1976 mới thực hiện.
           
           
           
          #50
            Nhân văn 21.09.2020 18:55:45 (permalink)
             
             
                                                      CHƯƠNG XIII.
             
                           TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG
                          CỦA CUỘC CHIẾN TRANH
             
             
                                                                            45-

             
                  Mỹ ra sức xây dựng QLVNCH thành một đội quân mạnh nhất Đông Nam Á: với số quân trên 1 triệu 10 vạn tên, được tổ chức thành 4 quân đoàn gồm 13 sư đoàn và nhiều lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn; 1.850 máy bay các loại; 1.588 khẩu pháo; 2.074 xe tăng; 1.611 tầu chiến cùng hàng triệu tấn vật tư chiến tranh, được đưa vào miền Nam Việt nam trước và sau khi kí hiệp định Pa Ri. Đấy là chưa kể tới các lực lượng bảo an, dân vệ cũng được trang bị đầy đủ. 
                 Sau khi kí hiệp định phải rút quân ra khỏi miền Nam, nước Mỹ lại chìm ngập vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, không chỉ kinh tế mà còn nhiều mặt khác. Xã hội bị rối loạn. Nội các trong chính phủ Mỹ ở Nhà Trắng thì phân hóa, chia rẽ sâu sắc, nhất là vụ bê bối Oatơghết.
                 Ngày 1.8.1974, Tổng thống Ních Xơn buộc phải từ chức, càng đẩy nước Mỹ vào sự rối ren. Viện trợ quân sự của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn bị cắt giảm nghiêm trọng: từ 1.614 triệu USD năm 1972-1973, giảm xuống 1.026 triệu USD năm 1973-1974 và 701 triệu USD năm 1974-1975.
                 Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vấp phải những khó khăn không thể khắc phục nổi: đạn thiếu, hỏa lực chi viện giảm gần 60%; máy bay, xe tăng, và nhiên liệu thiếu; sức cơ động giảm 50% - Buộc Thiệu phải kêu gọi QLVNCH chuyển sang tác chiến theo kiểu con nhà nghèo, cố bảo vệ những lãnh thổ đang còn chiếm giữ được. Những thế trận bố trí bị phân tán ở nhiều nơi, chúng không thể nào chống đỡ nổi sức tấn công như vũ bão, nổi dậy của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, trong cuộc tổng tiến công trên toàn chiến trường.
                 Ở miền Bắc – Ngay từ những ngày đầu tháng tư năm 1975, trên tất cả các nẻo đường đi vào miền Nam đều sôi động vì người và xe. Các loại máy bay vận tải, máy bay lên thẳng cũng được sử dụng để chở quân, chở đạn dược vào chiến trường. Hầu như toàn bộ lực lượng vận tải của nhà nước Bắc Việt, đều được huy động để phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh này, một chiến dịch lớn nhất trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam Việt nam.
                 Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng cùng sự thắng lợi của QGP trên khắp chiến trường, đã đẩy QLVNCH vào tình thế tuyệt vọng. Tinh thần sĩ quan và binh lính quân đội VNCH bị suy sụp. Bộ máy chính quyền của Tổng thống Thiệu tan rã. Chiến lược chiến tranh bế tắc, chính Mỹ cũng phải thừa nhận rằng: Tình thế của QLVNCH ở Sài Gòn là không thể chống đỡ nổi.
                 Hoảng sợ trước nguy cơ chính quyền Sài Gòn sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn – Ngay từ ngày 18.4.1975, Tổng thống Mỹ Giêrôn Pho đã ra lệnh di tản gấp người Mỹ còn lại ra khỏi Sài Gòn, bằng lực lượng không quân và hải quân Mỹ.
                 Ngày 21.4/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức, trao quyền lại cho Phó tổng thống Trần Văn Hương để có tính chất “hợp hiến”, rồi sẽ chuyển nhượng lại cho Dương Văn Minh – Người mà họ cho rằng: Cộng sản Bắc Việt có thể chấp nhận thương lượng.
                 Vào chiều 25.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu cùng với gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam chạy sang Đài Loan = với sự hộ tống của trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ Martin. Người ta đồn rằng: trong khoảnh khắc cuối cùng tồn tại của nhà nước VNCH, khi chạy sang Đài Loan, Nguyễn Văn Thiệu đã mang theo 16 tấn vàng? Là ngân khoản dự trữ của Chính phủ VNCH cất trong ngân hàng quốc gia Việt Nam.  Vào tỷ giá thời điểm tháng 4 -1975, số vàng này gồm 1.234 thỏi, trị giá 220 triệu đô la Mỹ.
                 Nhưng theo “Bách khoa toàn thư” mở qua Wikipedia đã ghi chép: Thực ra Nguyễn Văn Thiệu có kế hoạch chuyển số vàng này ra nước ngoài với sự giúp đỡ của Mỹ… là có thật, nhưng kế hoạch này đã bất thành – Do ông Thiệu phải từ chức tổng thống, trước khi kế hoạch được thực hiện.
                 Trở lại với diễn biến trên chính trường miền Nam vào tháng 4-1975, giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh. Mặc dù thế, Chính phủ Mỹ vẫn cố tìm cách cứu chính quyền VNCH, dưới sự đôn đốc sốt sắng của Tướng Mỹ Phrêđêrích Uâyen, là viên tướng bốn sao đã phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam tháng 3-1973. Không thể lảm gì hơn trước sự thất vọng về chính quyền Thiệu, ông ta chỉ có thể “xem xét những khả năng mà Mỹ có thể làm, để ủng hộ cho Chính phủ VNCH”: Một khối lượng vũ khí Mỹ viện trợ cấp tốc bằng đường hàng không, từ Băng Cốc – Thái Lan sang.
                 Quân VNCH gấp rút xây dựng phòng tuyến từ Phan Rang trở vào, hòng cố giữ đến mùa mưa… để có thời gian khẩn trương lập ra một kế hoạch, củng cố và tăng cường lực lượng, chuẩn bị cho trận đọ sức mới với QGP và chủ lực Bắc Việt đang ào ạt tiến vào chiến trường miền Nam.
                 Ở khu vực Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của VNCH – Họ bố trí những lực lượng lớn, khống chế những đường dẫn vào thành phố. Trên mọi hướng dầy đặc các sư đoàn, lữ đoàn bộ binh, lính dù, thiết giáp và huy động ba sư đoàn không quân trực tiếp chi viện. Họ còn đặt những chướng ngại vật, ngăn cản đường tiến công của xe tăng, bộ binh QGP.
                 Nhưng với thế tiến công mãnh liệt đang tràn khắp chiến trường miền Nam, những trận bão lửa dữ dội của các binh đoàn chủ lực QGP ào ạt tiến về Sài Gòn. Họ tiếp tục giải phóng hàng loạt các tỉnh Phan Rang, Bình Thuận, Xuân Lộc, Bà Rịa… Những trận chiến quyết tử - Trước hết là hướng đông, hướng QLVNCH tập trung nhiều lực lượng và kháng cự điên cuồng. 
                 Lần lượt những cứ điểm quan trọng của VNCH phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn, nhanh chóng bị tiêu diệt.
                 17 giờ ngày 26.4.1975, cuộc tiến công lớn vào Sài Gòn, tiếng súng mở màn cho Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Tất cả 5 cánh quân lớn của các binh đoàn chủ lực QGP tiến vào, xiết chặt vòng vây xung quanh Sài Gòn.
             
                                                               *
             
                 Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh – Bộ tư lệnh chiến dịch đã giao cho Quân đoàn ba, Binh đoàn Tây Nguyên đảm nhiệm hướng tiến công phía tây bắc  Sài Gòn. Thực hiện mệnh lệnh, Binh đoàn Tây Nguyên chỉ thị cho Sư đoàn 316 vây chặt và tiêu diệt quân VNCH ở khu Trảng Bàng, nằm ở phía đông nam tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 320 có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở căn cứ Đồng Dù, thuộc huyện Củ Chi – được mệnh danh là “cánh cửa thép” án ngữ phía tây bắc Sài Gòn. Sư 10 phối thuộc thêm 1 tiểu đoàn xe tăng, pháo trên không và pháo mặt đất “+” với Trung đoàn 64 của Sư 320, cùng 1 trung đoàn đặc công… sẽ thọc sâu tiến đánh vào trung tâm nội đô Sài Gòn. Trên đường đi trung đoàn đặc công có nhiệm vụ đánh địch giải phóng Cầu Bông và Cầu Sáng, thông đường cho đại quân tiến vào Sài Gòn. Sư 320 và 316 sau khi đã tiêu diệt quân địch ở Đồng Dù và Trảng Bàng xong, cũng lập tức tiến quân đánh vào Sài Gòn.
                 Đồng Dù là một căn cứ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn, nằm trên trục đường số 1: Sài Gòn đi Tây Ninh, cách Sài Gòn 30km về phía tây bắc. Đây là một căn cứ hỗn hợp với qui mô lớn. Diện tích rộng gần 7 km2. Chu vi gần 8.500m có hình bầu dục, xung quanh là vùng trắng bằng phẳng, trống trải và hoang tàn. Căn cứ Đồng Dù được Mỹ xây dựng từ năm 1966 khá kiên cố, làm hang ổ cho Sư đoàn 25 Mỹ - được mệnh danh là “tia chớp nhiệt đới”. Nơi xuất phát các cuộc hành quân “tìm diệt” QGP và các lực lượng vũ trang cách mạng ở vùng miền Đông Nam Bộ. Sau khi Hoa Kỳ buộc phải rút quân, sư đoàn “tia chớp nhiệt đới” Mỹ bàn giao lại cho Sư đoàn 25 QLVNCH – một sư đoàn chủ lực mạnh của chúng. Nếu QGP không tiêu diệt được căn cứ Đồng Dù, thì nó sẽ là bàn đạp để quân VNCH phản kích vào sau lưng, bên sườn các binh đoàn QGP khi thọc sâu đánh vào Sài Gòn.
                  Không xa Đồng Dù – Quốc lộ 1 chạy từ Trảng Bàng về Sài Gòn, phải vượt qua cánh đồng lúa rộng mênh mông. Giữa có một cái cầu không dài lắm, gọi là Cầu Bông. Phía bắc nó, trên đường 15 lại có một cái cầu nhỏ khác: Cầu Sáng. Cả hai đều ngắn nhưng rất ác hiểm. Ở các đầu cầu, hai bên đường là ruộng lầy, địch đã đặt sẵn những khối thuốc nổ lớn. Vận động giữa đồng trống trên con đường độc đạo này, xe tăng và các loại xe cơ giới khác của bộ đội sẽ là những tấm bia di động rất tốt, cho các khẩu pháo bắn tằng của QLVNCH bố trí sẵn trên các mỏm đồi, hay trong rìa làng gần đấy.
                 Trung đoàn đặc công của binh đoàn Tây Nguyên có nhiệm vụ phải đánh chiếm bằng được Cầu Bông và Cầu Sáng. Liên quan rất mật thiết với kế hoạch tấn công Đồng Dù của Sư 320 và tiến thọc sâu vào Sài Gòn của Sư đoàn 10 – chỉ cần phối hợp không chặt chẽ, nổ súng không đúng thời cơ là đối phương sẽ quật lại ngay.
                 Nếu đánh chiếm hai cầu sớm, quân địch ở Đồng Dù sẽ tung xe tăng ra phản kích vào đặc công. Ngược lại, nếu đánh Đồng Dù sớm và khi cứ điểm này có nguy cơ bị tiêu diệt – địch sẽ phá sập cầu, làm ngăn trở đường tiến công vào Sài Gòn của các sư đoàn chủ lực QGP. Bởi vậy, sau khi các trinh sát viên đi điều tra ban ngày, đến tận nơi xem xét kỹ lưỡng về báo cáo lại – Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định thời cơ đánh chiếm Cầu Bông và Cầu Sáng, là lúc Sư đoàn 320 đã siết chặt vòng vây Đồng Dù, nhốt chặt Sư đoàn 25 QLVNCH trong căn cứ.
                 Trung tá Nguyễn Hoàng, trung đoàn trưởng một trung đoàn pháo hỗn hợp (cả pháo cao xạ đánh trên không và pháo mặt đất), trực thuộc Binh đoàn Tây Nguyên – Anh đã được phong vượt cấp sau trận đánh đèo Khánh Dương. Trung đoàn pháo hỗn hợp của anh được Bộ tư lệnh binh đoàn điều động, cùng một tiểu đoàn pháo mặt đất 155mm và tiểu đoàn xe tăng,  phối hợp với  Sư 320 đánh và bằng mọi giá phải tiêu diệt căn cứ Đồng Dù.
                 Nhiệm vụ của họ thật nặng nề, vì một căn cứ QLVNCH lớn , kiên cố như Đồng Dù - mà theo chỉ thị của Bộ tư lệnh chiến dịch, phải tấn công và dứt điểm trong vòng sáu tiếng đồng hồ.
                 Vào trung tuần tháng 4-1975, Sư 320 và các đơn vị phối thuộc đều đã đến vị trí tập kết bên bờ Tây Sài Gòn thuộc huyện Củ Chi, cách Đồng Dù từ 10 đến 15km.
                 Trước ngày bước vào trận đánh khoảng một tuần lễ, trung đoàn trưởng pháo Nguyễn Hoàng và những sĩ quan các đơn vị phối thuộc đã cùng trung đoàn trưởng pháo E48 – trung đoàn chủ công Sư 320, đảm nhiệm hướng đánh chủ chốt ở phía tây bắc căn cứ, đi trinh sát cứ điểm Đồng Dù. Khoảng 8-9 giờ tối thì họ xuất phát, có du kích Củ Chi và anh em trinh sát dẫn đường.
                 Đêm không trăng, nhưng không gian vẫn sáng lên nhờ những vầng sáng đô thị và khu dân cư phía xa. Khi đoàn trinh sát ra khỏi nơi tập kết một đoạn, thì bắt đầu chỉ toàn là trảng trống. Đường bằng, người sau bám người trước đi rất dễ. Cuối cùng họ đến một cánh rừng cao su, lại bám nhau đi qua rừng. Ra khỏi rừng cao su, chợt bừng lên một vùng không gian rộng mênh mông. Căn cứ Đồng Dù hiện ra choáng ngợp ngay trước mặt họ, cách chỉ chừng bảy-tám trăm mét. Một cảm giác rất lạ trào dâng trong lòng những người sĩ quan QGP ấy, nhất là đối với trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng.
                 Nhìn những ánh điện sáng dọc rào căn cứ, anh có cảm giác như những cột đèn đường trong sân bay Bạch Mai ở Hà Nội, ngày  anh còn ở nhà. Ngay thẳng hướng chỗ họ đứng, có một cái chòi gác cao đến 15m, mắc đèn pha rọi sáng cả một vùng không gian. Nhìn rõ cả những lớp rào bao quanh căn cứ. Có một cảm giác cứ như đánh trận giả vậy: Tưởng như thằng địch đang ngồi trên chòi gác cũng nhìn thấy mình? Hóa ra không phải. Từ vùng sáng nhìn ra rừng cao su cũng chỉ thấy mờ mờ… chính vì thế mà cả đoàn trinh sát lọt vào sát lớp hàng rào, địch vẫn không biết.
                 Hàng đèn cao áp bảo vệ xung quanh căn cứ sáng rực, trông Đồng Dù như một thành phố quân sự. Thỉnh thoảng địch lại bắn ra một chùm pháo sáng, soi rõ từng con kiến. Bộ đội khi tiến vào chiếm lĩnh trận địa dù ở ngoài các hàng rào, cũng phải rất cẩn thận. Chỉ sơ suất để chúng phát hiện hoặc gây ra tiếng động, là bị lộ ngay.
                 Theo như thông báo của Binh đoàn Tây Nguyên: Lực lượng QLVNCH trong căn cứ lúc này có Bộ tư lệnh sư đoàn 25, Ban chỉ huy trung đoàn 50 – với tiểu đoàn 2/50, một chi đoàn xe tăng thiết giáp, một tiểu đoàn pháo hỗn hợp, mấy tiểu đoàn bộ binh trực thuộc  và các tiểu đoàn khác như công binh, thông tin, vận tải, quân y cùng Ban chỉ huy của căn cứ Củ Chi cũng ở đây. Tổng cộng quân số khoảng 3.000 tên – trang bị 34 xe tăng và xe bọc thép, gần 5.000 khẩu súng các loại (trong đó có 18 khẩu pháo lớn: 4 khẩu loại 175mm được mệnh danh là “vua chiến trường”).
                 Bên ngoài có nhiều lớp rào kẽm gai, cùng với hệ thống lô cốt và các bãi mìn được bố trí dầy đặc. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, sư trưởng sư 25 QLVNCH đóng ở trong căn cứ Đồng Dù. Y thường hô hào quân lính phải tự thủ đến cùng.
                 Sư đoàn 320 QGP được Bộ tư lệnh chỉ thị, phải tiến công và chiếm Đồng Dù trước 11 giờ ngày 29.4.1975 – để mở đường cơ động cho mũi đột kích của Quân đoàn 3 Tây Nguyên, tiến vào nội đô và đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu VNCH…
                 Trời sang nửa dêm về sáng, cái ánh sáng của ngọn đèn pha đã trở nên vàng nhạt, nhòa dần vào trong không gian. Trong cảnh còn tranh tối tranh sáng, đoàn trinh sát Sư 320 nhìn rõ tên lính gác đứng trong cái chòi trên cao, nhưng chắc nó chưa phát hiện được gì ở bãi đất trước mặt? Một lát lại có một tên lính khác lên thay gác, thằng kia tụt xuống đi vào phía trong căn cứ. Đoàn trinh sát cũng từ từ rút ra ngoài trở về nơi tập kết, chuẩn bị cho trận đánh sinh tử vào đôi ngày tới.
                 Suốt ngày 28/4, anh em chiến sĩ Sư đoàn 320 và những đơn vị đi phối thuộc, bước vào chuẩn bị lần cuối cùng trước khi ra trận. Họ đều biết rằng: Trận chiến ở căn cứ Đồng Dù lần này là trận đánh ác liệt nhất trong tuyến phòng thủ phía tây bắc Sài Gòn của QLVNCH. Những người du kích Củ Chi nói cho họ nghe: Năm xưa bộ đội giải phóng cũng từng đánh vào Đồng Dù, căn cứ của Sư đoàn 25 “tia chớp nhiệt đới” Mỹ, đều bị thất bại.
                 Nhưng với thế tấn công như bão táp của QGP hiện nay, đang tiến vào hang ổ cuối cùng, đầu não của Chính phủ VNCH tại trung tâm Sài Gòn – những người chiến sĩ đều rất tin vào thắng lợi đã ở trong tầm tay của cách mạng. Hạnh phúc chung và riêng đang chờ đón mỗi người lính trận khao khát hòa bình, mong sớm được trở về với quê hương, gia đình. Có thể trong cuộc chiến ác liệt tới, không ít người trong số họ sẽ phải ngã xuống và không bao giờ được hưởng niềm hạnh phúc lớn lao ấy? nhưng họ vẫn bình thản để bước vào trận đánh.
                 Giây phút thiêng liêng này, họ nhớ đến hình ảnh của những chiến sĩ cảm tử quân ở thành Hà Nội năm xưa: khi bước vào trận đánh cảm tử để bảo vệ thành phố, mỗi người đều mang trên cánh tay phải của mình tấm băng đỏ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
                 Những người lính giải phóng đều nói với nhau: “Trận này sẽ ác liệt lắm đấy!” – Tuy thế, hầu như không có anh em nào sợ hãi, hoảng hốt. Người thì nói cười để bầy tỏ thái độ của mình, nhưng cũng có anh em thì lặng lẽ… Song nhìn trong mắt họ đều thấy biểu thị một thái độ quyết liệt, trước khi bước vào trận chiến sinh tử này.
                 Trận đánh mà Bộ tư lệnh đã chỉ thị cho họ, chỉ trong sáu tiếng phải tiêu diệt hoàn toàn một căn cứ lớn, kiên cố. Trận đánh mà họ sẽ phải đánh theo chiến thuật tiến công thật nhanh, phải đập tan sự kháng cự của địch từ vòng ngoài, không cho chúng co cụm với các căn cứ khác để ứng cứu cho nhau.
                 Sáng nay, cả Sư đoàn 320 và các đơn vị đi phối thuộc đều làm lễ xuất quân. Một cái lễ thiêng liêng của người lính trước khi vào một trận đánh lớn, một trận đánh quyết tử - chỉ được thắng không được bại, dù phải hy sinh bao nhiêu. Tất cả từ sĩ quan cho tới mỗi chiến sĩ, họ đều thay một bộ quân phục mới, được phát bổ xung trước đó khoảng mươi ngày.
                 Trong chiến tranh, sự sống và cái chết với người lính là chuyện thường nhật, chẳng ai dám nói mạnh. Huống chi lần này? Họ không bi quan, song… nếu có phải chết, cũng được chết trong bộ quần áo mới. Mỗi người đều viết tên, đơn vị và quê quán của mình lên một tờ giấy, rồi cho vào túi ni lông cất nơi túi áo ngực. Ai hy sinh hay bị thương thì nằm lại, sẽ có du kích địa phương giải quyết, còn đơn vị cứ chiến đấu đến bằng chiến thắng.
                 Ở trung đoàn pháo hỗn hợp – sau khi làm lễ xuất quân, chiến sĩ của các đơn vị đều trở về vị trí tập kết, để tiếp tục làm công tác chuẩn bị thật kỹ càng. Các sĩ quan trong ban chỉ huy tiểu đoàn và đại đội nán lại ít phút ở Chỉ huy sở trung đoàn, để nghe Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng huấn thị về trận đánh một lần cuối.
                  Người trung đoàn trưởng trải tấm bản đồ Đồng Dù lên mặt đất- tấm bản đồ do ban trinh sát của sư đoàn gửi đến. Nó chi tiết về  từng lô cốt, ụ pháo, chỉ huy sở sư đoàn 25 QLVNCH trong căn cứ, từng khu gia binh và hệ thống phòng thủ của địch. Chưa lần nào với pháo lớn, kể  cả cao xạ phòng không mà lại đánh như lần này? Các tiểu đoàn pháo đều phải đánh cơ động theo bộ binh, không công sự - Họ biết dánh như thế rất ác hiểm, sự thương vong và hy sinh nhiều hơn là điều không tránh khỏi? song do yêu cầu của trận chiến, phải tấn công cùng sư bộ binh 320 theo hai  hướng chính.
                 Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng trực tiếp phụ trách một cánh quân lớn của trung đoàn pháo - cùng E48, trung đoàn chủ công Sư 320 đánh vào hướng tây bắc… còn một tiểu đoàn pháo do người tiểu đoàn trưởng chỉ huy, phối hợp với E9 đánh hướng tây nam, thứ yếu. Thực ra trung đoàn pháo của anh cũng đã phải phân tán mấy đại đội, đi phục vụ bộ binh đánh ở vòng ngoài và đánh khu Tràng Bảng phía Tây Ninh, do đồng chí trung đoàn phó chỉ huy, để không cho địch kéo về ứng cứu.
                 Đêm nay họ sẽ xuất quân đi vào trận đánh. Khi ban chỉ huy tiểu đoàn cùng các đại đội của trung đoàn đã trở về đơn vị - Lúc này, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng mới giở ba lô lấy bộ quần áo mới ra. Anh lại mở túi ngực chiếc áo quân nhân màu xanh đã cũ đang mặc, lấy ra phong thư của người bạn gái đã cất kỹ trong một cái túi ni lông mà anh luôn luôn mang theo bên người: khi đi ngủ, lúc vào trận đánh… Mỗi lần giở thư của Thu ra đọc, lòng người chiến binh vẫn có một cảm giác xúc động khôn nguôi. Lần này, anh đặt thêm vào trong chiếc túi ni lông một mảnh giấy ghi tên tuổi, địa chỉ trung đoàn, quê quán… như mọi anh em chiến sĩ đã làm. Mảnh giấy đó, anh kẹp cùng với lá thư của Thu và cả của Lan, rồi lại cất cẩn thận vào trong túi ngực của chiếc áo mới. Như thế - Hoàng nghĩ: Dẫu trong trận đánh tới này, chính anh có phải ngã xuống trên chiến trường? thì trong chiếc túi áo bên trái tim anh, vẫn ấp ủ tình yêu của người bạn gái để ra đi! Nếu ai đó khi thu lượm tử sĩ, mở túi áo ra… không phải họ chỉ biết anh là ai? mà còn thấy cả lá thư của Thu đã theo anh. Người ta sẽ gửi tất cả về nhà. Linh hồn của anh sẽ cùng với người yêu ở nơi quê hương xứ sở, mãi mãi bên nhau yên giấc ngàn thu.
                 Ý nghĩ ấy, làm cho Hoàng cảm thấy thanh thản lạ thường – như không phải anh đang bước đến một trận chiến sinh tử và đầy máu lửa, mà chính anh đang cùng đồng đội bước giữa một mùa xuân đầy hoa lá xanh tươi. Anh lặng lẽ với niềm tâm tư bùng nổ trong lòng, đón chờ giờ xuất phát tiến vào trận đánh.
                 Cơm chiều xong, mỗi người trong trung đoàn pháo của trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng đều được nhận một túi cơm, kèm một ít thịt rang thay ruốc, chuẩn bị tiền nhập trận. Trận này, cũng như anh em chiến sĩ bộ binh Sư 320, họ không cần mang theo những phương tiện làm công sự như hồi đánh địch trên Tây Nguyên. Ba lô, súng đạn cá nhân đều phải mang theo hết – mà hành trang khi ra trận của người lính cũng chỉ có thế! Nếu họ có về thế giới bên kia, thì cũng mang tất cả theo. Không biết có bao nhiêu chiến sĩ như anh,  còn mang theo cả lá thư đẫm tình yêu thương của người bạn gái quê hương, người vợ chưa kịp làm lễ cưới: một lá thư dài năm trang giấy pơ luya màu hồng, đầy máu và nước mắt mà em đã thức trắng đêm nô-en để viết cho người yêu.
                 Vào quãng 10 giờ tối, sau khi bộ binh đã xuất phát được khoảng một tiếng – như hợp đồng với Bộ tư lệnh sư đoàn, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lệnh cho toàn trung đoàn xuất phát. Các tiểu đoàn đều có du kích Củ Chi và trinh sát dẫn đường. Bóng những người lính với các cỗ xe pháo chạy rì rầm… rì rầm… trong đêm.
                 Bộ binh thì triển khai phía hàng rào ngoài cùng, cách lô cốt địch cũng khoảng gần 300 mét – còn những đơn vị pháo có ngụy trang cẩn thận, vị trí tiền nhập của họ cách xa khu căn cứ tới một cây số theo đường chim bay.
                 Không gian đêm vào trận lần này, có một cảm giác lạ kỳ?  Trời không trăng nhưng các vì sao vẫn lấp lánh soi rõ khu căn cứ Đồng Dù, sừng sững choáng ngợp hiện ra trước mắt.
                 6 giờ 30 phút ngày 29.4.1975, lệnh nổ súng bắt đầu. Pháo binh của Binh đoàn Tây Nguyên và sư đoàn dồn dập trút bão lửa xuống Đồng Dù trong hơn một tiếng đồng hồ, rồi xe tăng và cả những cỗ cao xạ phòng không của trung đoàn pháo ào ạt lao hết tốc lực tiến về tuyến xung phong. Các loại pháo của địch trong căn cứ cũng xối xả bắn ra. Những tiếng nổ gầm trời, đinh tai, chát chúa. Không gian Đồng Dù chìm trong một cơn bão lửa.
                 Các hướng được lệnh tiến công. Bộ binh xung phong, dùng bộc phá mở cửa. Hướng tây bắc, mũi tiến công chủ yếu của Trung đoàn 48 – phải mở được hai cửa mở, để cho bộ đội tràn vào trung tâm căn cứ.
                 Ở cửa mở số 1 – sau khi Tiểu đoàn 1 dùng bộc phá phá được hai lớp hàng rào bên ngoài, địch phát hiện được hướng cửa mở nên phản ứng mạnh. Chúng điều xe tăng, bộ binh ra bịt cửa mở… đồng thời các máy bay phản lực A37 và trực thăng vũ trang, từ các nơi khác đến ứng cứu, bu kín bầu trời Đồng Dù. Chúng ném bom, bắn pháo cối và cả đạn pháo hóa học vào đội hình Sư đoàn 320, nhất là đội hình tiến công của Trung đoàn 48. Hỏa lực từ các lô cốt địch trong căn cứ cũng bắn ra dữ dội.
                 Ở hướng chủ yếu phía tây bắc, mới phá được hai lớp hàng rào ngoài cùng. Tiểu đoàn 1 đã ba lần tổ chức cho bộ đội tiến lên phá tiếp hàng rào, nhưng đều bị hỏa lực địch cản lại. Bộ binh hết lớp này ngã xuống, lớp khác lại xông lên… mà vẫn không sao mở tiếp được hàng rào. Mặc dù bộ đội rất quả cảm nhưng hy sinh quá nhiều.
                 Các đại đội được lệnh tập trung bắn yểm trợ cho bộ phận mở hàng rào, để họ mang bộc phá tiến lên. Các chiến sĩ B40 – B41 thì tấn công tuyến lô cốt ngoài cùng. Khẩu đội súng cối nã đạn vào các ụ pháo bên trong. Địch điều một chiếc xe tăng M48 ra bịt hướng cửa mở.
                 Nếu quan sát kĩ thì thấy, Đồng Dù địch xây rất ác chiến. Bao toàn bộ căn cứ ở phía trong hàng rào là một con đê đất cao, chừng mét rưỡi. Bên trong bờ đất có một con đường quai chạy sát cạnh, sau đó chúng mới xây lô cốt và các công sự. Ngoài các loại như DK và cối từ công sự, lô cốt bắn ra. Trên đầu thì máy bay ném bom, bắn pháo, súng máy đại liên của địch lia sát mặt đất – còn chiếc xe M-48 như cái lô cốt di động, dùng pháo tăng bắn thẳng vào đội hình QGP rất mạnh.
                 Chưa có trận đánh nào lâm vào cảnh bi đát thế? Đánh trên cao nguyên, có nhiều vật che khuất nên tầm quan sát của địch hẹp, bộ đội lại có nhiều thứ che đỡ để tiến công, không có cái kiểu bị địch khống chế thế này.
                 Được sự chi viện quyết liết của các hỏa lực, những chiến sĩ ôm bộc phá tiếp tục dâng lên tiến công. Thêm một lớp hàng rào nữa bị tiện đứt, nhưng những người chiến sĩ đó cũng đã phải ngã xuống. Tình hình càng trở nên căng thẳng. Địch vẫn tới tấp cho máy bay phản lực A37 đánh bom vào phía sau đội hình QGP.
                 Trung đoàn 48 phải lệnh cho đại đội xe tăng đi cùng vào tham gia đột phá. Nhưng chiếc tăng đầu vừa chớm tới cửa mở, đã bị súng chống tăng của địch bắn cháy. Chiếc thứ hai thì bị bắn tung xích ngay từ hàng rào ngoài. Đại đội trưởng xe tăng trực tiếp chỉ huy chiếc thứ ba lao lên, dùng pháo trên xe tiêu diệt được một số hỏa điểm của địch – khi đó Tiểu đoàn 1 mới mở được thêm mấy hàng rào, tiến sâu hơn vào phía trong.
                 Các đơn vị cao xạ phòng không 37 – 57mm của trung đoàn pháo vẫn nổ súng rất mãnh liệt. Những đường đạn lửa trên bầu trời săn đàn chim sắt QLVNCH, như giăng một lưới võng lửa. Người ta đã nhìn thấy các đống lửa từ thân những chiếc máy bay bùng lên. Những chiếc A37 và trực thăng vũ trang trúng đạn tạo thành các đám cháy lớn, kéo theo các cột khói đen xì vội bay đi… rồi đâm đầu xuống ở phía xa. Tuy thế, những con chim sắt vẫn điên cuồng lao xuống như một lũ thiêu thân. Dường như những tên giặc lái của chính quyền VNCH cũng hiểu rằng: đây là những ngày cùng của chúng. Không đánh cũng chết, cho nên chúng lao vào như thí mạng vậy. Bầu trời căn cứ Đồng Dù lửa đạn trên không, lửa đạn mặt đất, bom và pháo nổ cùng đất đá… ầm ầm…
                 QGP lúc này chưa mở được hết hàng rào mà thương binh, tử sĩ đã nằm la liệt trên mặt đồi. Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lập tức ra lệnh cho đại đội pháo tiểu cao 14l5 vọt tiến lên qua bộ binh, cùng chiếc xe tăng thứ ba (hai chiếc đầu đã bị địch đánh hỏng), bắn áp đảo vào các ụ pháo, các ổ hỏa lực và lô cốt địch. Bấy giờ, các chiến sĩ bộ binh dùng hỏa lực B40 – B41 và hỏa tiễn cá nhân DKB dập mạnh… tập trung bắn cháy được chiếc M-48 của địch. Nhờ thế anh em trong đội phá hàng rào, tiếp tục lao lên dùng bộc phá và mìn định hướng phá thêm được mấy lớp hàng rào nữa.
                 Trận chiến vẫn rất ác liệt. Ngay trung đoàn pháo của Trung đoàn trưởng Nguyễn hoàng, vì đánh trên không-mặt đất không có công sự, nên cũng đã bị thương và hy sinh một số. Mới đánh cửa mở chưa vào được bên trong mà hàng trăm chiến sĩ đã phải bỏ mạng.
                 Cùng lúc đó ở phía cửa mở số 2 – là mũi của Tiểu đoàn 3 tiến công cũng rất cam go. Ngay khi có lệnh, bộ phận phá cửa mở đã mưu trí dùng mìn liên kết phá tung được 5 lớp hàng rào ngoài cùng. Lập tức hỏa lực từ các lô cốt địch bắn ra dữ dội. Xe tăng loại M-41 của chúng lợi dụng sự che chắn của tường đất, nã pháo ngăn chặn khiến nhiều chiến sĩ đánh bộc phá bị thương. Tình hình chiến đấu vô cùng căng thẳng. Địch vãi đạn như trấu vào đột phá khẩu. Mặc dù hy sinh như vậy, nhưng không ai do dự. Lớp này ngã xuống, lớp khác lại xông tới.
                 Một chiếc xe tăng của địch từ trong tung thâm chạy ra, bắn chặn các chiến sĩ đang ôm bộc phá lao lên. Đội hình bộ phận mở cửa của tiểu đoàn bị ùn lại, nguy hiểm vô cùng. Nhiệm vụ cấp bách lúc này là phải tiêu diệt xe tăng địch. Một chiến sĩ liền nẩy ra sáng kiến: anh dùng súng tiểu liên nổ một loạt vào tháp pháo của chiếc tăng. Khi chiếc tháp pháo vừa quay về phía anh để nã đạn, thì người chiến sĩ đó lách sang một bên để tránh. Cùng lúc chớp thời cơ, một chiến sĩ khác sử dụng khẩu B41, nhằm vào chiếc xe tăng địch bóp cò. Chiếc tăng bốc cháy, sáng rực một góc trời. Người chiến sĩ đặt bộc phá xông lên, đặt bộc phá vào lớp hàng rào thứ sáu. Một tiếng nổ long trời, chuyển đất. Cửa mở toang… Lúc này cũng gần 7 giờ 30 phút sáng.
                 Ở phía cửa mở số 1 – Hai hàng rào cuối cùng vẫn chưa phá được, bộ đội thì thương vong và hy sinh quá nhiều. Đồng chí Trung đoàn phó của E48 đi theo với Tiểu đoàn 1 chủ công ở hướng tây bắc, liền điện về Sở chỉ huy sư đoàn báo cáo và xin chỉ thị. Lập tức ở đầu máy bên kia, Sư đoàn trưởng 320 ra mệnh lệnh:
            -  Đồng chí Trung đoàn phó nghe đây! Thời gian còn rất ít, không được do dự nữa. Bằng giá nào cũng phải mở thông cửa mở, nhanh chóng tiêu diệt căn cứ Đồng Dù – để các binh đoàn chủ lực tiến vào đánh trung tâm Sài Gòn. Tôi sẽ cho pháo binh chi viện, kiềm chế bớt hỏa lực của địch.
                 Và ông ra mệnh lệnh, giọng kiên quyết:
            -  Còn anh đã có kinh nghiệm mở cửa qua nhiều trận đánh, nhất là kinh nghiệm mở cửa đánh vào căn cứ Chư Nghé năm 1973. Anh phải trực tiếp đưa bộ đội vào giải quyết nốt hai hàng rào cuối cùng. Còn tiểu đoàn trưởng và cán bộ đại đội phải nắm chắc bộ đội, giữ liên lạc với xe tăng… khi cửa mở thông là xông lên đánh chiếm đầu cầu ngay.
                 Khi đó, người tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 rất băn khoăn: Việc đưa bộ đội lên đánh hàng rào thuộc lính cảm tử. Trong trường hợp đánh vào cứ điểm như đánh Đồng Dù này, thì chết nhiều sống ít. Bởi vậy anh đề nghị với người trung đoàn phó, để anh thay. Nhưng đồng chí trung đoàn phó nhất định không nghe, lắc đầu nói:
            -  Không! Sư đoàn trưởng đã giao nhiệm vụ đích danh cho tôi. Điều đó chứng tỏ quyết tâm của Bộ tư lệnh rất quyết liệt. Anh là tiểu đoàn trưởng nắm bộ đội chắc hơn tôi. Khi tôi đã mở thông cửa mở, anh phải chỉ huy bộ đội xung phong chiếm đầu cầu, tiến công vào trung tâm căn cứ ngay.
                  Nói rồi, người trung đoàn phó vẫy tổ bộc phá trườn theo mình. Họ trườn lên phía trước từng mét một. Súng đại liên, 12ly7 và súng máy đủ loại cào xé trên lưng họ. Bò được dăm mét thì một chiến sĩ trong tổ bộc phá trúng đạn, hy sinh ngay tại chỗ. Đồng chí trung đoàn phó quay lại chỉ kịp vuốt mắt người chiến sĩ ấy… rồi ra lệnh cho một chiến sĩ khác ôm lấy quả mìn tăng đẫm máu, gỡ lấy ra từ trong tay người lính đã chết, tiếp tục bò lên. Khi quả mìn đã được đặt đúng ở vị trí hàng rào cuối cùng  - Trung đoàn phó lệnh cho điểm hỏa, rồi cả tổ chạy về phía sau.
                 Mìn nổ. Tiếng reo hò của những người chiến sĩ ở phía dưới vang lên! Tiểu đoàn trưởng D1 lập tức lệnh cho bộ phận xung kích ào ạt xông lên đánh chiếm đầu cầu. Sau đó là đại đội thọc sâu của tiểu đoàn cùng tăng và pháo tràn qua như một cơn lốc, tiến vào trung tâm căn cứ.
                 Nhưng lúc này, các xạ thủ B40 – B41 bị thương vong gần hết, lực lượng tiểu đoàn cũng còn lại rất mỏng. Trung đoàn 48 phải báo cáo sư đoàn, đưa thê đội dự bị là Tiểu đoàn 2 cùng với 8 chiếc tăng, vượt qua hướng cửa mở số 1 vào tham gia tiến công.
                 Ở hướng tây nam, hướng thứ yếu – E9 của sư đảm nhiệm, gồm ba tiểu đoàn: D4 – D5 và D6 (lúc này D6 là thê đội dự bị), cùng 1 tiểu đoàn của trung đoàn pháo đi phối thuộc.
                  Theo như hợp đồng trận đánh: Hai lớp hàng rào ngoài cùng ở hướng tây nam này, đã được anh em công binh cắt phá trước. Sau đó, họ đặt mìn định hướng sẵn cho 4 lớp hàng rào tiếp theo, có liên kết bằng dây nổ để nổ đồng thời khi có lệnh điểm hỏa. 
                 Lúc này, đội đánh bộc phá của D5 xông lên phá nốt hai hàng rào cuối để mở cửa, thì bị hỏa lực địch từ trong các bờ công sự bắn ra rất dữ dội. Trên không, phản lực A37 bắn cối, súng 12ly8 và trực thăng vũ trang dùng đại liên quét vào đội hình. Ngay phút đầu đã có một số thương vong.
                 Vào khoảng 6 giờ sáng, địch cho một trung đội từ cổng chính ra tập kích, bị bộ đội của D4 tiêu diệt một số, số còn lại vội chạy tụt vào căn cứ. Ngay sau đó, địch cho một đại đội lính bảo an tiến ra đánh vào sau lưng D4, lại bị một đại đội khác của D4 phản công. Chúng bỏ chạy tán loạn…
                 Lúc 7 giở sáng, đài kĩ thuật sư đoàn cho biết: Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 50 QLVNCH ở khu Xóm Mới, một làng gần Đồng Dù, chuẩn bị đến phản kích.
                 Đội bộc phá vẫn chưa thể phá nốt hai hàng rào cuối để thông cửa mở, mà thương vong gần hết. Hai lớp hàng rào cuối cùng này, địch lại dùng loại hàng rào vướng chân cao đến 40 phân, độ rộng chừng 5 mét, có lên chi viện cũng không thể vượt qua được. Tình hình trở nên căng thẳng.
                 Trung đoàn đã phải đưa đội bộc phá mở cửa thứ hai lên, cũng là lúc Tiểu đoàn 3/50 QLVNCH bất ngờ từ trong vườn cao su thuộc Xóm Mới, tiến đến phản kích vào sau lưng E9 QGP. Ban chỉ huy E9 cho đại đội súng máy 12ly7 cùng các chiến sĩ trong D5 dùng AK, phóng lựu và cả lựu đạn phản công lại.
                 Tự nhiên trời đổ mưa to. Trong mưa bóng quân địch lù lù tiến đến. Chúng kèn sát vào nhau, vừa tiến vừa bắn như đổ đạn về phía cộng quân. Đội súng máy cao xạ 12ly7 của E9 bóp cò, lính VNCH chết như ngả rạ, tên nọ chồng lên tên kia. Lính bộ binh của D5 QGP từ hai bên đánh thọc vào, tiêu diệt cả tiểu đoàn 3/50 QLVNCH. Tuy thế, bộ đội của E9 cũng thương vong không ít, tới ngót trăm người tử trận.
                 Địch lại cho máy bay phản lực đến ném cả bom hóa học, trực thăng vũ trang thì dùng pháo cối, súng đại liên bắn quét vào đội hình – Lúc này, pháo cao xạ 37ly của trung đoàn pháo cùng súng máy cao xạ 12ly7 của E9 đồng loạt vươn nòng nhả đạn săn máy bay VNCH, làm thành cả một bầu trời lửa. Mấy chiếc A37 và trực thăng trúng đạn nổ tan tành. Có chiếc thì lê xác bay đi… kéo theo cả dải khói đen ngòm, ngùn ngụt cháy. Địch vẫn điên cuồng, pháo từ nơi khác bắn đến như mưa vào đội hình E9. Sư đoàn 320 đã phải tung cả D6 là thê đội dự bị của E9, cùng một đại đội xe tăng T-54 vào tham chiến. Họ vòng sang hướng tây bắc – khi đó, hai cửa mở (cửa mở 1 và 2) của Trung đoàn 48 đã thông, nhập cùng với D4 của E9 cũng đã vòng sang đây, tập trung đánh vào tung thâm cứ điểm.
                 D5 của E9 cũng đã phá được hai lớp hàng rào cuối cùng ở hướng tây nam – các mũi đồng loạt tiến công tất cả các mục tiêu của căn cứ Đồng Dù.
                 Lúc đó, nhìn ra ngoài ở hướng cửa mở phía tây bắc – người ta đã thấy đoàn quân của Sư đoàn 10, Tiểu đoàn 64 - F320, xe tăng và các tiểu đoàn xe pháo khác ầm ầm kéo qua ngay cổng chính của Đồng Dù. Đoàn quân theo đường Quốc lộ 1 vượt qua Cầu Bông để tiến thẳng về nội đô Sài Gòn.
                 Ở đây, đã diễn ra trận chiến rất quyết liệt – Một thiết đoàn xe thiết giáp QLVNCH bị Sư 316 QGP đánh tan tác ở khu Trảng Bàng, tháo chạy rút qua Cầu Bông. Chúng bị ngay tổ chốt của tiểu đoàn đặc công chặn lại. Từ phía sau, Trung đoàn 64 – F320 và 9 chiếc xe tăng T-54 dồn đánh thốc tới. Địch tán loạn lao bừa xuống sông. Trên mặt đường, tiểu đoàn xe tăng của binh đoàn thọc sâu ung dung diệt từng cái một. “ngụp lặn” dưới vũng bùn sâu 28 chiếc tăng và xe bọc thép cùng hàng chục chiếc GMC của tiểu đoàn thiết giáp QLVNCH bị tan xác, không một chiếc nào chạy thoát.
                 Nói về trận chiến ở khu Trảng Bàng, cách Đồng Dù mười cây số về phía bắc -  Sau những ngày chốt chặn, bao vây, áp sát… Sư đoàn 316 đã chuyển sang tấn công như vũ bão. Trước đó địch đã bị pháo binh QGP dần cho bốn ngày liền, nên chúng nhanh chóng tan rã từng mảng. 2 trung đoàn QLVNCH đóng tại đây, 1 liên đoàn bảo an, 1 chiến đoàn thiết giáp… tan tác. Có bộ phận thì chạy về Đồng Dù tụ hội với Sư đoàn 25 VNCH. Thiết đoàn xe tăng kéo qua Cầu Bông thì bị đánh diệt như đã nói.
                 Con đường qua Cầu Sáng trên Quốc lộ 15 vào Sài Gòn, tuy được trung đoàn đặc công giải phóng nhưng cũng đã bị địch đánh sập. Bởi vậy, tất cả lực lượng của Binh đoàn Tây Nguyên vào Sài Gòn đều phải tiến theo Quốc lộ 1 đi qua Cầu Bông.
                 Quay trở lại với trận chiến đang tiếp diễn ở Đồng Dù – Phía tây bắc khi cửa mở đã được thông, đồng chí Trung đoàn phó cùng với Tiểu đoàn trưởng D1 dẫn đầu bộ đội xông lên, tràn qua cửa mở tiến vào đánh chiếm các mục tiêu.
                 Tiểu đoàn 2 là thê đội dự bị, sau khi được trung đoàn tung vào căn cứ cùng đội xe tăng, đã nhanh chóng hợp với D1 đánh chiếm khu Truyền tin, chiếm Sở chỉ huy của Sư 25 QLVNCH.
                 Ở cửa mở 2 – Tiểu đoàn 3 cũng xung phong lên đánh chiếm tuyến công sự thứ nhất. Địch đưa xe tăng chặn, bị hỏa lực đánh lui. QGP ào ạt xông lên đánh chiếm tuyến công sự thứ hai, diệt liền một lúc mấy xe tăng địch, rồi tụ hội cùng Tiểu đoàn 1 đánh chiếm trận địa pháo, Sở chỉ huy của Trung đoàn 50 VNCH, phát triển sang đánh chiếm khu thiết giáp và sân bay.
                 Đúng lúc này, Trung đoàn 46 cũng thuộc Sư 25 QLVNCH - nhưng đóng ở Trảng Bàng, bị Sư 316 QGP đánh, chạy về tụ lại cứu nguy cho Đồng Dù. Địch lại cho phản lực A37 và trực thăng vũ trang đến đánh pháo, quét 12ly8 vào đội hình QGP.
                 Đạn cao xạ 37 – 57ly của trung đoàn pháo từ khắp các hướng Đồng Dù bắn lên như đổ lửa. Tiếng máy bay trúng đạn nổ như bom trên bầu trời, bốc cháy. Trận chiến cả trên không và mặt đất rất quyết liệt. Ta và địch cùng thương vong, chết ngả rạ không đếm xuể.
                 Khi bộ đội đang phải căng lực lượng quân VNCH ra đánh, thì từ mấy hướng bỗng thấy cả một thê đội QGP – không biết từ đâu tràn tới? có cả  đoàn xe tăng T-54 đi kèm. Họ vừa lao đến vừa nã đạn, nã pháo vào đội hình Trung đoàn 46 Sư 25 VNCH. Đội quân của địch nhanh chóng bị tan tác. Một số thì chết, số tháo chạy… lại bị bộ binh của Trung đoàn 48, F320 dùng AK tiêu diệt – Thì ra, đó chính là D6, thê đội dự bị của E9 mà sư đoàn tung tiếp vào để chi viện. Lúc này, D4 và D5 của Trung đoàn 9 cũng đồng thời tiến đến cùng hợp đồng đánh vào trung tâm căn cứ Đồng Dù.
                 Lực lượng tham chiến của Sư 320 bây giờ quá hùng hậu, nhanh chóng áp đảo Sư 25 và toàn bộ quân VNCH trong căn cứ. Cả đoàn xe tăng T-54 của binh đoàn QGP gầm thét xé trời, xé đất… bắn pháo diệt các ổ đề kháng của địch.
                 Toàn bộ khu căn cứ Đồng Dù nhốn nháo. Sư đoàn 25 QLVNCH hoàn toàn mất chủ động. Các tiểu đoàn, trung đoàn Sư 320 lệnh cho bộ đội tổng xung phong. Tiếng bộ đội hò hét như một dàn pháo nổ. Từ các hướng vọt xông lên! Phía trong cứ điểm địch, lúc này chỉ còn vài loạt đạn lẻ tẻ bắn ra yếu ớt, rồi im bặt.
                 Trời bỗng lại đổ mưa. Mưa rất to. Nước chảy mạnh lênh láng tràn vào các hầm hố của Sư 25 QLVNCH. Các chiến sĩ QGP cũng ướt lẹp nhẹp, nhưng bây giờ hình như mưa chẳng còn làm ảnh hưởng tới họ. Họ vẫn hò hét và xông lên, chiếm hết mục tiêu này đến mục tiêu khác.
                 Mưa lại đột ngột dừng. Trời quang, trong veo. Ở Đồng Dù, đất thịt pha cát nên thấm rất nhanh. Bộ đội và xe tăng vẫn ầm ầm tiến sâu vào bên trong căn cứ, dài đến hơn 100 mét. Một cảnh tượng gây xúc động mạnh và cũng thật xót xa lòng – Không phải chỉ xác chết của lính VNCH mà cả xác bộ đội, đều nằm la liệt dọc theo hai bên cửa mở vào bên trong. Nhiều chiến sĩ nằm thân vắt ngay trên miệng hố công sự, nửa người dưới chìm trong đất cát vì cơn mưa, chỉ còn nửa phần trên nhô lên… súng văng bên cạnh.
                 Thảo nào, ở hướng cửa mở phía tây bắc của Trung đoàn 48… có lúc bị tắc, xe tăng cũng ùn lại không lên được – thì ra, họ không dám tiến vì sợ chẹt lên đám xác của bộ đội nằm chết chồng lên nhau.
                 Đã thấy địch phất cờ trắng xin hàng. Bọn địch trong công sự cũng không bắn ra phát nào nữa. Khi vào sâu, thì dù trắng phất nhiều hơn. Song chỉ thấy toàn lính, chắc các sĩ quan của Sư 25 QLVNCH đã chạy hết.
                 Bỏ qua các đám lính xin hàng ấy, những mũi tiến công của các trung đoàn vẫn theo hướng trung tâm tiến thẳng vào trong. Có chỗ đến hàng trăm tên ngồi trật tự trên bãi trống, khua dù trắng. Chỗ khác thì gặp rất nhiều tên bị thương xếp thành hàng, hai tay giơ cao qua đầu. Một đôi chỗ thấy cửa hầm sâu, gọi hàng vài tiếng không thấy gì? Bộ đội quăng thủ pháo, ném lựu đạn vào. Tiếng nổ long óc trong lòng đất, rồi họ tiến đến chỗ khác.
                 Tên chuẩn tướng Lý Tòng Bá, sư trưởng sư 25 “tia chớp nhiệt đới” của VNCH cùng các sĩ quan trong Bộ tham mưu, tháo chạy vào rừng cao su bên ngoài căn cứ Đồng Dù. Chúng vứt bỏ quân hàm, ra đường định bắt xe khách chạy về Sài Gòn, nhưng không đi thoát. Sau đó, nghe loa gọi hàng của đội nữ du kích Củ Chi, lục tục kéo nhau ra trụ sở đóng tạm của Ủy ban chính quyền cách mạng, để đầu thú. Phải đến mấy chục tên, cả sĩ quan và binh lính.
                 Đúng 11 giờ ngày 29.4.1975, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Sư đoàn 320 tung bay trên nóc Sở chỉ huy của Sư đoàn 25 QLVNCH. Mở tung cánh cửa hướng tây bắc, để Binh đoàn Tây Nguyên tiến thẳng về Sài Gòn.
                 Sau khi toàn bộ quân VNCH trong căn cứ Đồng Dù bị diệt, bị bắt và tan rã – Sư đoàn 320 và các trung đoàn, tiểu đoàn đi phối thuộc hoàn toàn làm chủ căn cứ. Họ tiến về tụ hội ở một khu gia binh. Nơi ở của lính Sư 25 QLVNCH. Nhà nào cũng thấy vứt bừa bãi đồ đạc. Quang cảnh của một sự tháo chạy vội vã. Các chiến sĩ kéo vào một khu nhà của quân tiếp vụ rất lớn, giống như một cửa hàng bách hóa ở ngoài Bắc vậy. Hàng hóa nhiều vô kể, đủ loại, nhìn hoa cả mắt. Có rất nhiều thứ mà những người lính không biết là cái gì? Lính trận thời chiến lại vừa thắng lớn mà…Họ xả AK bắn tan tành. Những món quen thuộc, thiết thân như thuốc ru bi queen thơm và hút say rất nhiều, đường sữa và đồ hộp… lính thi nhau khuân ra cửa. Khuân ra rồi vứt lại vô số, vì mỗi anh lính có tham cũng chỉ mang theo được một ít. Nhiều anh còn khui cả những chai bia 33 cổ rụt ra uống. May không thấy anh nào say cả.
                 Các chiến sĩ trong trung đoàn pháo của Trung đoàn trưởng Nguyễn hoàng, được dịp tự do thả phanh, kéo nhau đi tảo thanh. Sau một trận thắng lớn ròn rã, những người lính còn sống qua cuộc chiến, mặt anh nào cũng rạng rỡ. Chủ yếu họ chỉ lấy đồ ăn như thịt hộp, gạo sấy và thuốc lá… cho vào túi sài dần.
                 Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lững thững đi bách bộ trong căn cứ Đồng Dù rộng mênh mông. Anh nhìn các chiến sĩ, khẽ nở một nụ cười trên môi. Là một người lính trận từng trải, nên anh rất hiểu các chiến sĩ của mình: Hãy để cho họ tự do nhởn nhơ trong giây lát…
                 Chiều nay, anh vừa nhận được chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân đoàn: Trung đoàn pháo của anh cùng với một bộ phận bộ binh của Sư đoàn 320, sẽ ở lại đóng quân bảo vệ căn cứ Đồng Dù – còn đại quân của sư đoàn cùng trung đoàn xe tăng, đặc công và các đơn vị trực thuộc khác… và Sư đoàn 316 vừa mới giải phóng khu Trảng bàng – Tất cả gấp rút tiến về nội đô… hợp cùng các quân đoàn của toàn miền, để kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử này.
                 Ai muốn nghĩ gì thì nghĩ, ngày mai họ lại vào trận dánh - Làm sao mà biết được: trong trận đánh tới, ai vẫn còn sống… ai sẽ lại phải ngã xuống?
                 Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng thong thả rút một điếu ru bi queen, quẹt lửa châm hút. Đó cũng là một chiếc bật lửa ga bằng i-nốc của Mỹ. Anh thả một vòng khói thơm lên trời, khoan khoái.
                 Tối đó, các chiến sĩ của trung đoàn pháo ngủ lại trong căn cứ. Anh nuôi lấy gạo của quân VNCH đã thu được ra nấu cơm. Gạo Thái, hạt dài, ngon tới mức nấu lên chỉ cần rưới tí nước mắm, chén bốn-năm bát không biết no. Thức ăn không cần nấu, vì đã có đồ hộp: thịt gà, thịt lợn, cá – loại hộp 200 gam lấy của địch. Ai muốn ăn bao nhiêu tùy thích. Ăn xong, ngồi uống cà phê, hút thuốc lá thơm của quân tiếp vụ VNCH.
                 Trung đoàn trưởng Hoàng chỉ triệu tập cấp chỉ huy tiểu đoàn và các đại đội để hội ý… còn toàn bộ chiến sĩ cho họ nghỉ xả hơi. Không hội họp, không rút kinh nghiệm gì hết. Đêm đó, những người chiến sĩ trải ni lông ngủ bên ngoài. Họ không ngủ trong nhà để đề phòng bất trắc…
                 Chỉ trong vòng 5 tiếng đồng hồ chiến đấu, Sư 320 QGP đã đập tan toàn bộ Sư 25 QLVNCH – diệt 500 tên, bắt làm tù binh 2.269 tên: Trong đó có chuẩn tướng Lý Tòng Bá – sư đoàn trưởng, đại tá - sư đoàn phó và một số sĩ quan trong ban tham mưu sư đoàn. Thu 4.909 khẩu súng các loại: 9 đại bác 175, 155, 105mm; 100 máy thông tin; thu và phá hủy 423 xe quân sự, kể cả xe tăng và xe bọc thép.
                 Người ta không biết thật chính xác số máy bay của không lực VNCH bị bắn rơi trong trận chiến Đồng Dù ? vì khi đó, chiến trường toàn miền đồng loạt nổ súng, nên những máy bay địch bị trúng đạn rơi rất nhiều, tứ tung khắp nơi. Nhưng theo quan sát của các xạ thủ pháo cao xạ trong trung đoàn pháo: Họ đã bắn trúng và làm bốc cháy hàng chục máy bay, cùng với 2 máy bay đã thu được tại sân bay của căn cứ.
                  Như thế, chỉ trong một ngày tiến công, Quân đoàn Tây Nguyên đã đập tan tuyến phòng thủ, quét sạch một hệ thống đồn bốt trên hướng tây bắc Sài Gòn – ngoài việc tiêu diệt toàn bộ Sư 25 chủ lực của QLVNCH, một chiến đoàn thiết giáp: trong đó có một thiết đoàn xe tăng, cùng các liên đoàn biệt động, liên đoàn công binh và toàn bộ lực lượng bảo an, biệt kích dù, cảnh sát… mở toang cánh cửa vào Sài Gòn – Gia Định.
                 Mặc dù, họ cũng đã phải trả một giá rất đắt. Máu đổ ngập trời, ngập đất. Không kể số thương vong lớn, đã phải có hàng trăm, hàng trăm chiến sĩ của sư đoàn, trung đoàn và các tiểu đoàn đã bị hy sinh ngay bên cửa ngõ Sài Gòn.
                 Đêm Đồng Dù. Lúc này những thương binh, tử sĩ trong trận chiến vừa qua – kể cả của QGP và xác binh lính VNCH đã được đơn vị tải thương của sư đoàn, cùng với sự hỗ trợ của du kích huyện Củ Chi… đã chuyển hết đi nơi khác.
                 Trời đã về khuya. Trong một khu nhà gác ở căn cứ, trước đây là trụ sở ban chỉ huy một  trung đoàn thuộc Sư 25 QLVNCH, nay dùng tạm làm nơi ở cho ban chỉ huy trung đoàn pháo của Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng. Xung quanh khu nhà, các chiến sĩ đều đã đi ngủ cả. Chỉ còn thấp thoáng bóng những người lính gác của các đơn vị, đang bồng súng đi đi… lại lại…  làm nhiệm vụ cảnh giới. Thỉnh thoảng vài con chó chạy rông kêu ăng ẳng trong đêm. Chúng đi tìm những cái xác chết của người lính VNCH còn bỏ  sót lại, rồi gọi nhau đến nhậu. Giống chó bẹc-giê cũng thường thích ăn thịt sống. Chiến tranh mà… “được làm vua, thua làm giặc” – nhưng dù là người bên nào thì cũng là máu thịt của dân tộc mình cả thôi? Ý nghĩ ấy chợt đến làm xót xa trong lòng người Trung đoàn trưởng Nguyễn hoàng.
                 Đêm nay, anh không sao ngủ được. Lúc này, anh vẫn chưa thể biết rằng: cái đêm 29.4.1975 này, lại chính là đêm cuối cùng của cuộc chiến tranh. Hồi chiều hôm, khi trận chiến vừa kết thúc. Nguyễn Hoàng đi xuống một đại đội pháo cao xạ 37ly làm công tác thương binh, tử sĩ – là đại đội pháo bị thương vong nặng nề nhất trong trung đoàn của anh. Do trận địa bị trúng bom của máy bay phản lực A37, khi đang tiến vào phía cửa mở hướng tây bắc của căn cứ. Không kể bị thương, hàng chục xạ thủ pháo đã phải hi sinh.
                 Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng vẫn còn nhớ, trong túi áo của một người chiến sĩ đã tử trận, có một lá thư mới viết cho người yêu chưa kịp gửi – Hẹn ngày chiến thắng sẽ trở về? Người lính trẻ ấy quê ở Thanh Hóa. Máu trên thân thể anh tràn ra thấm đỏ cả lá thư – Người chiến sĩ ấy mãi mãi đã ra đi, không bao giờ còn có thể trở về… để thực hiện lời hứa của mình với người yêu được nữa. Chắc người vợ chưa kịp cưới của anh, vẫn đang mòn mỏi chờ đợi ở quê nhà?
                 Bất giác trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng cũng sờ lên túi áo mình, lá thư của Thu viết cho anh vẫn còn nguyên trong đó. Anh lại nhớ tới một câu thơ:
                                Máu tim anh nhuộm đỏ đất anh nằm…
                 Câu thơ ấy của tác giả nào không biết? Phải, người chiến sĩ ấy đã nằm xuống, tuy không phải là nơi “chôn rau, cắt rốn”, nhưng cũng là mảnh đất quê hương Việt nam của anh. Máu tim những người chiến sĩ cũng như máu tim dân tộc, hết đời này qua đời khác đã chảy ra… nhuộm đỏ cả mảnh đất quê hương.
                 Giờ ngồi một mình trong gian phòng của chỉ huy sở, người trung đoàn trưởng khẽ thở dài. Anh lại giở lá thư của người yêu ra đọc. Anh đã đọc không biết đến bao nhiêu lần, gần như thuộc làu cả lá thư mà Thu viết cho anh. Những trang giấy pơ luya màu hồng cũng đã bị hơi nhàu đi. Lá thư mà người bạn gái viết cho anh trước ngày vĩnh viễn ra đi, vào cái đêm nô-en… trong chuỗi 12 ngày đêm khủng khiếp nhất của loài người – 26 tháng 12, đêm đi cứu hộ khu phố Khâm Thiên tang tóc và kinh hoàng ấy!
                 Bàn tay anh vẫn run run cầm lá thư của người yêu. Khi thì anh xem đoạn này, lúc đọc đoạn khác. Mở đầu trang thư với dòng chữ quen thuộc của người con gái, lòng anh đã trào lên một nỗi xúc động: “Hoàng thân yêu của em!” – Anh cố ghìm lòng mình bình tĩnh. Lần này anh mở ra đọc lại một trong những trang… vừa làm cho lòng anh tê tái và cũng thân thương khô tả. Thu đã viết:
                 “… Hoàng thân yêu,
                 Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng chính là mối tình đầu và cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh trọn vẹn những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc vì đã làm với anh điều ấy!
                 Nghĩ đến anh là em lại thấy lòng mình bình yên và ấm áp, dù đêm mùa đông giá lạnh, phải sống xa anh cả nghìn cây số. Em ngồi viết thư cho anh đây, một mình em một bóng cô đơn. Tình yêu anh đã nâng đỡ em rất nhiều trong những vấp váp đầu đời, đấy anh!
                 Đêm nô-en này cũng là đêm nô-en thứ sáu, anh không có mặt ở nhà, để cùng em đi lễ nhà thờ. Năm nay, em đi chơi đêm lễ với Lan, anh ạ! Hai đứa cũng tâm sự với nhau bao nhiêu điều về cuộc sống. Ôn lại những kỉ niệm xưa khi cùng nhau cắp sách, có cả anh.
                 Ôi, Cứ nghĩ đến những ngày tới anh về phép, lòng em lại bồn chồn khôn tả? Em mong đợi ngày đó biết chừng nào. Khi đó đôi ta sẽ chính thức trở thành chồng, thành vợ - phải không anh? …”.
                 Cứ mỗi lần đọc đến đây, Hoàng lại thấy run bắn người. Anh như muốn òa khóc nấc lên, tựa một đứa trẻ con. Anh trấn tĩnh lại và để nguyên lá thư trên bàn, lặng lẽ bước ra ngoài căn phòng.
                 Đêm khuya ở Đồng Dù, sương rơi lạnh nhiều. Phải, anh đã hứa với người yêu ở chốn quê hương về một chuyến đi phép, nhưng do tình hình chiến sự ngoài chiến trường… nên đã không thực hiện được lời hứa đó. Cũng như người chiến sĩ trẻ với lá thư thấm đầy máu kia, không bao giờ có thể thực hiện được lời hứa của mình – rằng: “Ngày chiến thắng, anh sẽ về với em…”.
                  Ngày  chiến thắng thì có, nhưng không bao giờ anh có thể trở về cùng em được nữa? Ôi, đó là nỗi đau tang thương của cả dân tộc này.
                 “Tình yêu và chiến tranh” – Đó là hai phạm trù hoàn toàn trái ngược nhau. Đi trong đêm Đồng Dù trước ngày chiến thắng, mà trong sâu thẳm của lòng người trung đoàn trưởng bao nhiêu tâm trạng.
                 Anh lại nghĩ đến người con gái bản đã yêu anh và chết trên tay anh – Tình yêu của cô cũng thật là cao thượng và bao la. Chiến tranh đã cướp đi của anh cả hai người con gái đó, mỗi người một vẻ nhưng đều đẹp như hoa của đất trời.
                 Khi Hoàng trở về phòng đi ngủ thì trời cũng đã gần sáng. Sớm mai, tuy trung đoàn pháo của anh đóng lại ở Đồng Dù, nhưng trận chiến trong Sài Gòn chắc chắn sẽ rất ác liệt. Hàng trăm, hàng nghìn người lính vẫn còn tiếp tục phải ngã xuống… để giành lấy sự chiến thắng cuối cùng của cuộc chiến tranh này.
             
            #51
              Nhân văn 21.09.2020 18:59:19 (permalink)
               
               
                                                                        *
               
                   Sáng ngày 30.4.1975, khu căn cứ Đồng Dù trở nên vắng lặng. Chỉ  còn lẻ tẻ mấy đơn vị bộ binh và trung đoàn pháo ở lại. Bốn quân đoàn chủ lực mạnh nhất của QGP và Quân đội nhân dân Việt Nam, đã tiến đến siết chặt vòng vây quanh thủ đô Sài Gòn. Những đợt pháo kích nã vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu và khu Bộ tư lệnh các binh chủng của QLVNCH. Rồi Dinh Độc Lập – tức Phủ tổng thống của Chính phủ VNCH, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát.
                   Thực ra, ngay từ đêm 28-4 rạng ngày 29-4, tất cả các cánh quân của QGP đã được lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch, đồng loạt tổng công kích vào trung tâm thành phố, và đánh chiếm các cơ quan đầu não của Chính phủ VNCH.
                   Chiều hôm 28-4 đó, phi công Nguyễn Thành Trung chỉ huy một phi đội lái 5 chiếc máy bay phản lực A37  thu được của địch, ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất, gây nỗi kinh hoàng cho toàn bộ QLVNCH.
                   10 giờ 45 phút ngày 30.4.1975, hai xe tăng tiến thẳng vào ủi sập cổng Dinh Độc Lập. Một binh đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn II QGP tiến công vào trong dinh, bắt toàn bộ bộ máy của Chính phủ VNCH.
                   Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30.4.1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh vừa nhậm chức hôm 28-4, phải lên Đài phát thanh đọc lệnh ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện. Nguyên văn bản tuyên bố đầu hàng đó như sau:
                   “Nhân danh Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, tôi Đại tướng Dương Văn Minh kêu gọi toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy bỏ súng và đầu hàng vô điều kiện với Quân đội giải phóng miền Nam. Tôi tuyên bố giải tán tất cả các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương.”.
                    Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh đã chính thức kết liễu bộ máy Chính phủ VNCH cũng như hệ thống QLVNCH.
                   Vào thời khắc này, những chiến sĩ trong các đơn vị đóng quân lại trên căn cứ Đồng Dù, đều tụ tập quây quần dưới những chiếc loa phóng thanh, để nghe tin chiến sự từ thủ đô Sài Gòn báo về.
                   Tin cách mạng chiến thắng… Sài Gòn đã hoàn toàn giải phóng… như những hành khúc hùng tráng làm náo nức lòng các quân nhân. Như tiếng sấm nổ vang trời, dậy đất. Hơn ai hết, những người lính chiến trường trào lên một niềm vui bất tận.
                   Hạnh phúc lớn quá, tưởng có thể vỡ tim! Họ hò reo vui sướng như những đứa con nít, chạy nhảy khắp Đồng Dù, vừa chạy vừa hét to lên:
              -  Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng! Hòa bình rồi! Hòa bình rồi!... anh em ơi! Đồng bào ơi!...
                     Những người chiến sĩ ôm lấy nhau hạnh phúc. Nhiều người đã khóc. Lòng những người lính chiến trường thổn thức vì hạnh phúc đến bất ngờ. Họ muốn gào to lên, gọi vọng về quê hương:
              -  Cha ơi! Mẹ ơi! Vợ con và những người thân yêu của ta ơi! Chiến tranh đã kết thúc rồi. Hòa bình rồi!
                   Và họ lại nhảy, lại khóc. Những người lính chiến ấy, lại sờ lên đầu mình: “vẫn còn” – Bấy giờ, họ mới tin rằng: mình vẫn còn sống…
                   Bỗng nhiên nỗi buồn lại ập đến. Họ nghĩ tới bao nhiêu người đồng đội của mình, chỉ vừa mới hôm qua thôi… đã ngã xuống trên mảnh đất đầy máu này, trước ngày chiến thắng. Không bao giờ những người lính ấy, còn được trở về cùng những người thương yêu ở quê hương nữa. Nghĩ vậy, lòng họ xót xa vô hạn. Không ai bảo ai, tất cả lặng lẽ bỏ mũ đứng như trời trồng giữa khoảng không gian mênh mông, để vĩnh biệt những người đồng chí đã hi sinh.
                   Như thế, trải qua 55 ngày đêm trong cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975 của QGP, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. QGP đã loại khỏi vòng chiến đấu 1,1 triệu quân VNCH, làm tan rã lực lượng phòng vệ dân sự gồm hơn 1 triệu tên, đánh đổ toàn bộ hệ thống chính quyền. Cũng trong sáng 30-4 này, Đại sứ Martin và những người Mỹ cuối cùng đã rời khỏi miền Nam Việt Nam – Có nghĩa là, “chủ nghĩa thực dân mới” của  đế quốc Mỹ, từng xây dựng ở miền Nam Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua, đã kết thúc.
                   Buổi trưa ngày 30.4.1975, trên căn cứ Đồng Dù nắng chói chang như đổ lửa. Trong gian phòng của Ban chỉ huy trung đoàn pháo, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lặng lẽ đứng bên cửa sổ nhìn ra xa. Anh thấy cả một bầu trời đỏ như một dòng sông máu. Máu của những chiến sĩ cách mạng đi làm nhiệm vụ giải phóng từ mấy chục năm nay, máu những đồng đội anh vừa ngã xuống hôm qua bên cửa ngõ Sài Gòn, và cả máu của bao chiến sĩ vừa chết ngay trong trận chiến sáng nay, ở nội đô thành phố được coi là “hòn ngọc viễn đông” này.
                   Không! Không phải chỉ có những dòng máu ấy, mà còn cả máu của hơn một triệu người lính VNCH cũng hòa vào trong đó? Những người lính trận của QLVNCH, họ cũng đã phải chết rất tang thương – Họ đâu phải là kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh? Họ cũng là con em của dân tộc này! Chỉ có kẻ gây ra cuộc chiến tranh mới có tội, và phải bị lên án tới muôn đời. Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng vẫn miên man suy nghĩ – Trong dòng sông loang đỏ kia, còn cả máu của những người thân và đồng bào ở thành phố và những làng thôn nơi quê hương anh… cũng đã phải đổ xuống vì chiến tranh.
                   Nghe nói, vài tháng sau khi cuộc chiến kết thúc – Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng đã xin giải ngũ trở về thủ đô Hà Nội. Anh tiếp tục theo học trường Đại học ngoại thương , rồi trở thành một anh cán bộ của ngành ngoại thương quốc tế. Sống cuộc đời bình lặng trên thành phố quê hương mình.
               
                                                               PHẠM NGỌC THÁI
               
              #52
                Nhân văn 21.09.2020 19:03:09 (permalink)
                 
                 
                                                  MỤC LỤC                                                Trang
                 
                Chương VIII (B):  Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (tiếp)……           -
                Chương IX:  Cái chết của người con gái bản …………………
                Chương X :  Hà Nội cuộc sơ tán vô tiền khoáng hậu …………
                Chương XI :  Hà Nội 12 ngày đêm ……………………………
                Chương XII :  Chiến trường Tây Nguyên những năm cuối ……
                Chương XIII :  Trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh ……
                 
                 
                                       TÁC GIẢ
                 
                                 Nhà văn
                          PHẠM NGỌC THÁI
                Sinh:  17- 01-1949
                NR: Ngõ 83, phố Quán Thánh, Hà Nội
                ĐT:    038 302 4194
                . Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Thủ đô
                 
                       NHỮNG TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
                 
                A-  Thơ và bình luận văn học:
                 
                *   Có một khoảng trời                  1990
                *   Người đàn bà trắng                  1994
                *   Rung động trái tim                   2009
                *   Hồ Xuân Hương tái lai            2012
                *  Phê bình & tiểu luận thi ca       2013
                *  Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại     2014
                *  Thơ tình viết cho sinh viên      2015
                *  Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại VN   Xuân 2019
                *  Tuyển Thơ Chọn Lọc - Phạm Ngọc Thái                             Đông 2019
                *  Cha khóc con                            2020
                 
                 
                 
                 
                       KỊCH BẢN SÂN KHẤU ĐÃ SÁNG TÁC:
                        
                *   Bản án dưới mồ                                    -  Kịch dài
                *   Người nhạc trưởng và dàn hợp xướng     -  Kịch dài
                *   Mối tình hoa hồng bạch                         -  Kịch ngắn
                *   Chuyện ở quán gốc đa                          -  Kich ngắn
                *   Cánh cửa quốc tế                                 -  Kich ngắn
                 
                 
                        TIỂU THUYẾT:
                 
                *  “Cuộc chiến – Hà Nội 12 ngày đêm”    -  Nxb Hồng Đức 2019
                *   “Chiến tranh và tình yêu”     ( hai tập )    Nxb Hồng Đức 2020                
                 
                      Viết nhiều bài phê bình, lý luận thi ca, chân dung văn học… đăng trên các báo và những trang mạng Việt.
                 
                                                       NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
                Địa chỉ: 65.Tràng Thi - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
                                               Email:  nhaxuatbanhongduc@yahoo.com
                Điện thoại : 024.39260024   Fax :024.39260031
                 
                 
                Chịu trách nhiệm xuất bản
                Giám đốc
                BÙI VIỆT BẮC
                Chịu trách nhiệm nội dung
                Tổng biên tập
                LÝ BÁ TOÀN
                Biên tập
                NGUYỄN KHẮC OÁNH
                                                                               Bìa
                                                                      HS:   Mạnh Quân
                                                                      Trình bày: Phương Anh
                                                                      Sửa bản in:  Viết An
                 
                                                        ……………………………………….
                             Liên kết xuất bản: Công ty TNHH Trung tâm sách
                                và Thiết bị thư viện Số 83 Lý Nam Đế -  Hà Nội
                 
                 
                ------------------------------------------------------------------------------
                    In 1.000 cuốn, khổ 13 x 19 cm,  Tại Công ty Cổ phần Văn hóa Hà Nội
                 Địa chỉ: 240 Minh Khai, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội
                          Giấy xác nhận đăng ký xuất bản Số: 442-2020 / CXBIPH/38-08/HĐ
                Số quyết định xuất bản 720/QĐ – Nxb.HĐ, ngày 29-04-2020
                           In xong và nộp lưu chiểu quý II năm 2020  
                 
                                   Mã    ISBN: 978-604-9916-69-4
                 
                 
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.10.2020 17:12:24 bởi Nhân văn >
                #53
                  Thay đổi trang: << < 4 | Trang 4 của 4 trang, bài viết từ 46 đến 53 trên tổng số 53 bài trong đề mục
                  Chuyển nhanh đến:

                  Thống kê hiện tại

                  Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                  Kiểu:
                  2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9