TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ BÀ GIÁO VÂN
CHƯƠNG 1. RỦI MAY THẾ THỜI
Bà giáo Vân ngồi viết kiểm điểm trong phòng Công an P. Tân Định, mắt kính tỏ trễ xuống cánh mủi làm toát lên vẻ mặt phúc hậu và hiền lành, Người Trưởng phường đi ngang qua cửa, chợt khựng lại quan sát, rồi anh quay về phòng có chiều suy nghĩ: Có phải là cô giáo cũ của mình? Không thể, cô từ Quảng làm sao vào bán chợ trời được, cả đời cô dạy học, đã mấy mươi năm từ tấm bé đến trung học mình biết rõ, dấu hỏi lớn được gợi lên trí chàng, có lẽ nào? - Này, Đ/c xuống phòng tiếp dân xem thử người phụ nữ mang kính viết kiểm điểm xong chưa? Nhớ rót nước mời bà đàng hoàng nhé. - Dạ, Báo cáo: rõ, Cậu Công an viên nhanh chân ra khỏi phòng Bà giáo Vân và cậu công an vào phòng trưởng công công an. - Báo cáo, bà đã viết xong, em gửi đ/c xem. Sơn – Trưởng công an Phường xem tường trình, anh ta khựng lại chừng vài phút. - Đ/c ra ngoài, tôi làm việc với bà. Rõ, anh công an viên vội vàng ra ngoài. Bà Vân sợ hải như kẻ tội đồ lớ ngớ chưa biết xử sự sao, tay chân luống cuống như thừa thải ra, Thời gian yên lặng lạ thường… - Thưa bà, bà ở Quảng Ngãi à, bà có biết mua bán đồ tàng dư Mỹ Ngụy là phạm tội? - Thưa ông, dạ, tôi biết nhưng không còn cách nào khác. Ông thông cảm cho! - Bà bán được bao lâu, trên vỉa hè rồi? - Tôi bán mới hơn hai tuần, - Trước đây bà làm nghề gì? - Dạ, dạy học - Sao lại bán đồ tàng trử nhất là áo của lính Mỹ? - Rất tiếc, tôi không có ý định ấy, là áo quần thôi chứ nào phải đồ quốc cấm. - Có thông báo trên các nẻo đường cả, Phường đã dán thông báo tất cả các con đường lớn trong địa bàn, xe lưu động vẫn sáng chiều loa phóng thanh thường kêu gọi. - Tôi tưởng là vũ khí mới như vậy, lần đầu mong ông tha tội, tôi đã hứa trong bản tường trình. Ông đọc hết sẽ rõ. - Tôi đã đọc rồi, trước bà dạy ở đâu, sao lại một giáo viên bán chợ trời, chắc có lý do gì, bà cứ nói, chúng tôi xem xét, báo cáo. Nỗi sợ hải đã đi qua, sau khi đối thoại với người trưởng phường, tuy vậy bà đang chuẩn bị cho mình câu trả lời an bình nhất, kẻo không bị giam giữ tại phường như cô Thủy người bày vẻ bà bán mua. - Thưa ông, thú thật cả đời tôi từ ngày ra trường đến nay chỉ dạy học, tôi dạy từ năm 1957 đến 75, sau đó thì gia đình khó quá, nên nghe lời các bạn vào trong này kiếm tiền phụ giúp cho con cái, nghe nói là nếu nỗ lực cũng đỡ hơn quê nhà, các cháu còn đi học. ba mấy nhỏ bệnh chẳng làm gì kiếm ra tiền. - Thôi được, bà cứ nghỉ ở đây, chiếc áo Pylajacket, các em đã lập biên bản rồi, chúng tôi phải giữ làm chứng từ để báo cáo lên trên. Sơn bước đến kéo hộc tủ, bỏ vào, bà giáo Vân nước mắt lưng tròng. - Thưa ông, gia sản bây giờ chỉ còn cái áo đó, tôi mua hết cả túi tiền tôi có được, nếu không thông cảm cho, làm sao tôi có vốn bán mua để sống nơi này, đừng nói chi gửi về cho con! - Lệnh trên đã vậy, không thể trả lại được cô à, Cô cũng thông cảm cho. Tiếng kẻng hết giờ làm việc để chuẩn bị cho bửa cơm chiều vang lên, Rất xin lỗi cô. Cô đợi ở đây. * * * Buổi chiều Thành phố Sài Gòn vẫn còn náo nhiệt, quán xá vẫn thường lệ, hàng quán vẫn mở, những người bán buôn trên phố vẫn bình yên, chỉ có bà là lo lắng, ngày mai tiền vốn đâu để tiếp tục với tháng ngày ở Sài Gòn quá xa lạ này, nhà chú em tạm tá túc cũng lần lửa chạy ăn, chứ đâu khá giả gì, Mọi suy nghĩ của bà gói gọn trong mấy chữ: “làm sao và tiền đâu”. Chiếc xe SS 50 xoáy nòng đang bon trên đường bỗng nhẹ ga, ghé vào quán chè trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận Sơn lên lề và dừng hẳn, bà giáo Vân lại hoang mang, không hiểu tại sao? - Mời cô vào uống nước hay ăn chè. - Thôi, cảm ơn, tôi không quen ngồi quán xá. - Cô cứ bình tĩnh, em là Sơn đây, cô vào đây em nói chuyện. - Bà giáo Vân trong bụng mừng thầm Bà chủ quán vồn vả: - Chào ông Sơn trưởng phường, mẹ ông vào thăm con hả? - Không chị à, đây là cô giáo cũ vào thăm. Chị cho tôi hai ly chè đậu đen nhé. Bây giờ trạng thái lo âu không còn nữa, rủi may có thể đổi chiều trong tích tắc, bà mạnh dạn như sắp được may mắn, bà thầm cảm ơn trời đất còn giun ruỗi, biết đâu học trò xưa của mình? Ông bà ta quả không sai: Biết đâu trong rủi có cái may, biết đâu. Quả như dự đoán, Sơn kéo ghế mời cô ngồi: - Thưa cô, Khi nãy trong cơ quan em đã ngờ ngợ là cô nhưng em hơi lạnh lùng vì ở nơi đó dẫu thân sơ đều như vậy, cô phạm tội anh em đã lập biên bản, em trưởng đơn vị đã biết, nếu em tha cho thì không thể, xin lỗi cô lần nữa, làm việc phải như vậy. Bây giờ, ở nơi này em vẫn là đứa học trò ngoan của cô như ngày nào. Cộ đừng ngại, thời gian quá xa rồi. Khi ra phố em trọ học trung học, em vẫn nhớ hình ảnh của cô, mỗi lần chủ nhật đạp xe về thăm nhà, em vẫn bắt gặp hình ảnh cô. Khi vào Sài Gòn, vừa đi học vừa làm đủ thứ việc để kiếm sống và học tập, nên ít có dịp về quê. Chữ ký của cô em vẫn nhớ đừng nói chi tên họ cô, Sơn nói tiếp. - Cô uống nước đi, em biết là cô có thể trách em, nhưng lòng em chân thật vậy. Như người thầy gặp lại trò xưa, bà giáo quên luôn là người mới vừa ra từ phường công an, bà ôn tồn như người mẹ, - Cô cảm ơn em, đã còn nhìn cô là người dạy em thuở ấu thơ, bây giờ ở quê hình như đã không được như vậy, em à. Các em đôi lúc có suy nghĩ khác. - Em nghĩ mỗi người một khác cô à, có thể cô quên, nhưng em thì nhớ, không nhớ ơn cô sao được, ngày cô đi dạy lúc nào cô cũng đem theo cặp cây đan len và mấy búp len trong giỏ, lúc rảnh cô đang thoăn thoắt mà không cần nhìn, vẫn quan sát chúng em làm bài, các em thành người đàng hoàng cũng từ các thầy cô chỉ dạy từ khi tấm bé. Em nhắc lại kỷ niệm tuyệt với em cho cô nhớ. Bà giáo hân hoan và nói, với cô hơn 17 năm cô đứng lớp, vả lại đã hơn 20 năm rồi còn gì, làm sao cô nhớ các em được, lúc các em còn bé tí, bây giờ hình dáng thay đổi, các em là ông nọ bà kia, chỉ có học trò nhớ thầy cô. - Dạ, một ngày mùa đông, em mặc chiếc áo cụt tay phong phanh, năm ấy lạnh quá, cô tặng em chiếc áo len, cổ trái tim màu xám chính tay cô đan cho em khi cô kết xong tại lớp, em cảm động vô cùng, từ đó, cha mẹ em bao giờ cũng xem cô như người ân nhân. Khi em học trong Sài Gòn em còn kể với các bạn, và em tự hào về cô giáo cũ dạy lớp hai, và không ngờ cô và em được gặp nhau tại xứ người. Mọi chuyện xin cô bỏ qua, em sẽ viết thư về cho cha mẹ em, kể lại chuyện này. - Cảm ơn em, hóa ra em là con Chú Quỳ, ở xóm trong. Cô nhớ rồi, bà Vân rất xúc động, chút nghẹn ngào trong huyết quản bởi lòng chân thành của cậu học trò cách đây đã bao nhiêu năm cô cũng chẳng rõ, em rất chăm chỉ và có trách nhiệm với lớp, với bạn, thời ấy đã là phó lớp. Đã gần vài tiếng đồng hồ trôi qua, cuộc trò chuyên chừng như cón dài, nhưng Sơn gọi tính tiền và xin cô gửi lại tiền cô đã mua chiếc áo, Bà giáo Vân nghẹn lời chưa biết nói sao, Sơn đã lên tiếng: - Bây giờ em làm ra tiền, còn cô và gia đình hoàn cảnh hơi khó, em xin cô đừng ngại, đây là tấm lòng của học trò cũ, chỉ vậy thôi cô à, có dịp em sẽ còn gặp cô, mời cô. Bây giờ em phải về cơ quan. Chiếc xe Honda 67 bon bon chạy trên đường về nhà trọ của bà giáo, ánh đèn điện rực sáng, người mưu sinh buổi tối vẫn bình yên lầm lũi công việc áo cơm của mình, Thành phố này luôn náo nhiệt vậy, Từ sau ngày thống nhất đây là lần đầu bà ngồi lại trên chiếc gắn máy chạy trên đất Sài Gòn. Cả đêm hôm ấy bà không ngủ được, thao thức và trằn trọc, cuộc gặp gỡ lạ thường, khi tiếng rao của cháu bán bánh mì sớm “ Bánh mì nóng giòn” làm bà thức dậy chuẩn bị cho ngày mới.
CHƯƠNG 2: VUI BUỒN
Sau khóa sư phạm cấp tốc của chính phủ mới, chính phủ Ngô Đình Diệm bà được bổ nhiệm về quê hương, một huyện nhà Quảng Ngãi, nhiệm sở đầu tiên bà dạy ở đó ba niên khóa thì chuyển về quê quán sau khi phục vụ theo yêu cầu công tác xa ba năm của chính quyền, Từ đây bà dạy mãi cho đến khi nước nhà thống nhất 1975. Sau năm 75 bà vẫn dạy tiếp với tư cách giáo viên lưu dung của chính quyền mới Cộng hòa miền Nam Việt Nam cho đến khi nghỉ hè niên khóa 1974 -1975, bà mới có giấy báo nghỉ việc. Gần 20 năm trên bục giảng với chừng ấy thế hệ chim non tung cánh ra trường tung bay trên khắp bầu trời quê hương, có em may mắn đỗ đạt thành danh, làm quan, có em kém may làm lính, làm nông, làm thợ, thời chiến tranh rất vất vả, cuộc chiến tương tàn kéo dài quá, tuy vậy bà vẫn ngày ngày với chiếc xe đạp sườn đầm con bướm dong ruổi trên khắp đường làng quê, lúc nào cũng chiếc áo dài thướt tha đi về, ở một làng xa của thành phố nhỏ hầu như ai cũng biết và yêu mến. Vì vậy, cả địa phương ấy đã gọi: Bà giáo Vân, cái ưu điểm của bà giáo dạy ở bậc tiểu học nên hầu như tất cả học trò huyện nhà đều biết, dù có thành danh hay không. Buổi gặp Sơn, tối về thao thức không ngủ được, hình ảnh biết bao nhiêu học trò bà giáo nhớ cứ lãn vãn trong đầu như thước phim chiếu chậm, Sơn là người bà lục lạo nhiều nhất trong tiềm thức đã ngủ trong chừng ấy năm với cơm áo lận đận sau bao mùa dời đổi, có lẽ hai mươi năm rồi còn gì. Đâu chỉ là Sơn, cậu học trò bà dạy 2 năm liền lớp 2 và 3, còn cả em nó nữa Phong, Vũ con chú Quỳ, gia đình tuy nghèo nhưng từ tâm, sau khi Sơn nhận chiếc áo len bà giáo đan tự nguyện tặng cậu học trò nhỏ nhắn nhưng chăm chỉ và siêng năng, lúc nào sách vỡ cũng sạch sẽ, trong lúc các em cùng lớp sách vỡ xốc xếch, bìa vở cuốn trông thảm hại, bài vỡ chu đáo, nhất là bài tập ở nhà, em làm phó lớp 2 năm liền. Năm ấy, sau vụ lụt Nhâm thìn, nhà cửa trong xóm cù lao ấy hầu như ai cũng bị dòng nước cuốn trôi về biển, cũng nhờ chú Quỳ biết dùng chiếc ghe chút xíu – một phương tiện làm cá của riêng chú vào mùa lụt nên chú đã cứu vớt nhiều cho anh em và bà con lân cận, từ ấy ai cũng mến. Các gia đình di tản ra đồi ông Trợ tránh lụt, nơi cao ráo không ngập lụt, có cả hiên nhà rộng nấu cơm nước đàng hoàng, thỉnh thoảng bà giáo đem gạo, mắm cứu khổ nên cả xóm cù lao ai cũng biết bà giáo Vân. Đến mùa đông, lạnh giá hơn mọi năm trước, Sơn đi học trong bộ áo quần đồng phục phong phanh, đến trường Sơn co ro trong lớp, bà đan chiếc áo len xám ngắn tay tính cho con mình, chỉ còn kết hai mảnh áo lại là thành chiếc áo pullover ngắn tay, cổ trái tim, bà vui sướng vì thành quả của mình, sắp có quà cho đứa con trai yêu mến với chiếc áo lạnh đã cũ từ anh nó truyền lại, bà khấp khời trong lòng, có lẽ niềm hạnh phúc khi thấy đứa con yêu cười vui sướng vui khi có áo mới. Nhưng bỗng trong chốc lát, cô giáo Vân gọi Sơn lên hỏi tại sao, Sơn lễ phép trả lời “Nhà em bị lụt cuốn trôi hết, nhà em không ai còn áo ấm, nên em đành phải chịu lạnh đi học”, thế là bà đã mặc chiếc áo mới tinh ấy cho Sơn không chút phân vân, Sơn cảm động đến chảy nước mắt, nói cảm ơn cô giáo không nên lời. Hôm sau, bà lại đan chiếc áo khác cho con trai, với bà chỉ trong vài ngày là có chiếc áo mới màu cánh dán sẫm cho con bà, nó vui sướng khi có chiếc áo mới như bà suy nghĩ. Nó vui sướng khoe với các chị anh nó và chúng bạn cùng lớp. Lời hẹn cho con áo mới coi như đã xong và bà cũng chẳng còn nhớ chiếc áo len năm nào tặng cho em Sơn, thời gian miệt mài đi qua như con nước sông cứ lặng lờ chảy xuôi về biển cả. Mãi sau nầy bà giáo mới hay em Sơn đã vào Sài Gòn học trong đó, thường đứa trẻ học chăm ngoan, sau nầy hiếu để và có danh phận hơn những đứa lười biếng và thường quậy phá trong lớp, đó là nhận định của bà đến khi bà không còn đứng trên bục phấn trắng bảng đen nhà trường. Kinh nghiệm bao giờ cũng tương đối đúng nhiều hơn. Bà thường dạy các con bà về đạo đức, bằng cách kể những câu chuyện về đạo lý trong các kỳ nghỉ hè, khi chúng mãi đùa vui trong không gian của làng quê trước mỗi kỳ tựu trường trở lại niên khóa mới, chính vậy nên nhà bà giáo con cái ai cũng đứng trên bục giảng, làm kỹ sư tâm hồn. Các con bà sau này cũng có mấy người đồng nghiệp với bà. Chẳng những em Sơn biết ân nghĩa, cái lớn hơn là em vẫn yêu mến cô giáo cũ – người đã đặt nền móng tri thức cho em từ sơ khai, thuở còn thơ, dù bây giờ biết cô rất khó. Biết đạo lý, em xứng đáng làm quan trong xã hội còn đang hỗn độn về mọi mặt, sau cuộc khủng hoảng đói kém một thời của sung túc bị đỗ nát tan tành, chưa biết ngày nào thoát khỏi đói nghèo áo cơm, đừng nói chi đến ấm no hạnh phúc.
CHƯƠNG 3: MỘT CẢNH HAI QUÊ DẠY HỌC
Sau năm 1964, vùng chiến sự càng ngày càng đến gần nhà bà giáo, khi trận Gò Vừng nổ ra ở Nghĩa Hành, ông giáo - chồng bà bắt đầu nghĩ đến chuyện ra phố, để tránh sự nguy hiểm của súng đạn lẫn những cán binh của Mặt trân Giải phóng Miền Nam buổi tối thường lẽn về các vùng lân cận bắt bớ. Đầu năm 1965 bà nhờ một phụ huynh tín cẩn tản cư trông nhà giúp, gia đình ấy chấp nhận. Chiến tranh bao giờ cũng khổ đau, hầu như gia đình nào cũng một cảnh hai quê, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn và mọi sinh hoạt của mỗi người, mỗi gia đình nhanh chóng thích nghi, sinh hoạt nhà bà giáo cũng vậy. Nhà bà giáo có 3 gian, nhà trên thờ phụng bà đã chất các đồ đạt còn lại và khóa kỹ, gia đình người ấy chỉ ở 2 gian: nhà ngang và nhà bếp, vẫn rộng thênh. Ông bà giáo về phố ở căn nhà nằm trên đường Quang Trung, đối diện trường Nam tiểu học. Quảng Ngãi thời trước 1975 có hai trường đặc biệt, một trường tiểu học dành riêng cho nam, một trường tiểu học cho nữ. Cứ mỗi mỗi sáng, lúc 6 giờ bà giáo vẫn đều đặn đến bến xe lam bằng chiếc xe đạp đầm của bà, di chuyển từ phố về Nghĩa Hành bằng xe Lam, xuống bến xe bà lập tức đạp xe về trường bà dạy cách bến xe chừng 3 km trước giờ trống trường báo hiệu vào lớp chừng 15 phút, bà đã có mặt tại văn phòng, thời biểu đều đặn dù mưa hay nắng, đông hay hè, đến nổi các tài xế bến Quảng Ngãi phải kính phục trong suốt thời gian dài đi dạy, hầu như bà chưa bao giờ trễ chuyến 6 giờ. Sau giờ dạy bà về nhà ở quê và làm việc, hay nhắc nhở cũng như thăm đồng lúa, đặc biệt vào mùa gặt bà phân công đi coi đập lúa để chia phần những đám ruộng bà cho người người làm rẻ ruộng, có những năm nhiều thửa gặt cùng lúc, bà nhờ các con bà đã lớn về trông coi, sau 4 giờ chiều là trở lại phố Quảng Ngãi, bởi sau nầy buổi tối ở quê bà mất an ninh sợ nguy hiểm cho các con. Cậu Dũng, con bà cũng thỉnh thoảng được bà “lệnh” về quê coi đập lúa, dự buổi chia phần những lần như thế cậu khấp khởi trong lòng vì sẽ được tha hồ tự do tung tăng trên cánh đồng tít tắp, lúa chín vàng trĩu nặng, mùi rạ mới của các thửa ruộng vừa gặt như quyến rũ chàng, những tổ chim Manh manh – chim manh manh thường làm tổ trên ngọn lúa, đàn con sẽ nở trước khi lúa gặt, nhưng lâu lâu còn lại sót trên ngọn lúa vài tổ chim, có khi còn cả trứng hay chim non đem về nuôi, bao giờ người gặt cũng cho Dũng, mỗi lần như thế Dũng lại lân la trò chuyện với các thợ gặt lúa, người gặt ở quê bao giờ cũng nể nang những người ở phố, họ hỏi đủ chuyện về sinh hoạt và học tập của gia đình Dũng, những trận cười giòn khi có niềm vui vang vang trong nắng gió bay theo cánh đồng như giục giả tính hồn nhiên đôn hậu của Dũng, vì những lẽ đó Dũng rất thích về làng mỗi dịp có kỳ nghỉ. Buổi trưa, khi gánh cơm đã ra đến, mọi người nghỉ tay, rửa vội mặt mày tay chân rồi quây quần trên miếng ny lon in hoa dài đã bày biện, sắp sẵn “bửa cơm đồng”, ôi chao, Dũng cũng được cùng ngồi chung mâm, những món “rất nhà quê ấy” như các tràu nướng dầm nước mắm, canh khoai, canh mướp hương, cá diếc nấu lá gừng… còn vương vấn mãi trong tâm trí Dũng, cho đến sau này. Vùng quê Nghĩa Hành có tập tục khá lạ là ăn nửa buổi, hay ăn xế - hai bửa ăn phụ ấy vào nửa buổi sáng và chiều, lúc thì nồi khoai mì, lang, lúc thì chè hay bánh tráng nướng cuống với rau muống, chấm mắm hoặc đặt cả con mắm cái ở giữa rồi ăn, khá lạ, ngon, vì vậy nếu ai là dân xứ Nghĩa Hành đi xa cũng nhớ hương vị bình dân mộc mạc của người nông dân quê nhà. Những người nông dân chơn chất ấy họ rất tình cảm, trọng nhân nghĩa và tốt bụng, bao giờ khi chia phần và trả công cuối ngày cho họ bằng những ang lúa Dũng cũng rộng tay cho người. Vì vậy, những chủ làm rẻ ruộng thích được bà giáo phân công Dũng về coi đập lúa. Mùa cá lia thia, Dũng thường cùng bạn trang lứa đi bắt đem về phố nuôi và chơi đá cá lia thia, bắt cá cũng phải hiểu về nó, thường mùa lia thia sinh sản làm tổ, tổ là bọt của chính đôi vợ chồng cá làm nên để trú ẩn trong mùa sinh sản, hình như có tiết ra dịch vị gắn kết nên tổ rất bền, lỡ có cơn mưa rào cũng không thể tan được, với kinh nghiệm của bậc đàn anh, thường bọt lớn có cá to, khi thấy bọt nghiêng dòm, nếu thấy có cá là be bờ đắp và tát nước ra từ từ, chú cá sẽ không thoát đâu được, cá lia thia sọc ngang trên mình càng to, thắm, miệng lớn, đuôi càng dài là khỏe lắm, lì đòn chính vì vậy khi bắt được cá lớn là các bạn nhỏ rất khoái chí. Tuổi thơ con trai ai đã từng sống nơi thôn dã sẽ cảm nhận được điều nầy. Trong đời người ai đã từng xem đá cá lia thia mới thấy thú vị làm sao, loài cá rất dũng mãnh, thường trước khi thả chung một bình để cá đá, chúng được đặt kề nhau để vè, khi vè nhau, đuôi được bung thật lớn, hai miệng áp sát nhau như muốn cắn đối thủ, nếu như đá gà người chơi úp sát lồng để vè, và người chơi kinh nghiệm sẽ đoán biết mà bắt độ với nhau, thì đá cá cũng vậy. Trái bóng nuôi cá cũng đẹp, hồi ấy các nhà khá giả đều mua nó, nghe nói rằng trên các tàu thủy có nhiều. Ông giáo vì yêu mến Dũng cũng mua cho Dũng trái bóng thủy tinh ấy, nó được đặt trên giá gỗ khá đẹp, con cá nhất của Dũng bao giờ cũng được ở trong đó trên bàn học, và Dũng thường bắt muỗi, ruồi cho nó ăn, quan sát cá ăn cũng thú vị lắm, khi con mồi bỏ vào trên mặt nước lập tức nghe dao động, cá từ dưới ngắm thẳng và đớp con mồi chính xác. Mỗi chiều bà giáo về gia đình sinh hoạt bao giờ cũng trước tối, lúc thì trái mít, lúc buồng chuối, quả thơm… lúc nào trên baga xe cũng có, vì vậy các con bà thường ngồi trước nhà đón mẹ về, bà đến nhà các con rộn rã reo vui, Mẹ đi dạy về. Đời của bà giáo lặp đi lặp lại như thế, con của bà mỗi ngày một lớn trong niềm yêu thương, trìu mến của gia đình. NGÃ DU TỬ/ SGVN (Còn nữa)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2021 11:35:09 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
CHƯƠNG 4: MÙA TỰU TRƯỜNG XƯA
Dũng còn nhớ kỹ, năm học ấy cậu được mẹ dậy sớm hơn mọi hôm, Dũng trong bộ đồng phục quần sọt xanh dây treo, áo sơ - mi trắng cụt tay vai mang cặp nhựa vàng, chân đi sandal trắng được ông giáo mua tận phố, bảnh bao lắm, có lẽ cậu hân hoan như tác giả Thanh Tịnh viết trong Tác phẩm Quê Mẹ. “…Con đường nầy tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi thấy lạ: Hôm nay tôi tôi đi học…” Bà giáo áo dài màu vàng nhạt, vạt trước có thêu đôi chim đang bay khá đẹp, dắt tay Dũng. Hôm trước bà đã căn dặn với Dũng thật rõ ràng “Kể từ ngày mai con sẽ bắt đầu vào trường tiểu học như các anh chị học trò của mẹ, con sẽ thấy môi trường học đường rất tuyệt vời, ai cũng bắt đầu từ môi trường học đường ấy, con cố gắng học tập tốt, đừng để các bạn buồn lòng vì mẹ là cô giáo của nhà trường, con hiểu chứ, Cậu chỉ dạ thật to” . Trên con đường làng ấy em cũng đi lại lắm lần, thật sự em cảm thấy lâng lâng nỗi sung sướng của một em sắp chính thức bước vào lớp một ngưỡng của trường tiểu học Nghĩa Hưng. Quang cảnh rất náo nhiệt của trường sau ba tháng hè của các em được gặp lại thầy cô bè bạn làm rộn rã lòng cậu học sinh lớp một, có lẽ đây đây là sự thiêng liêng nhất của các em mới vào học năm đầu tiên. Nhóm phụ huynh sau khi dắt con vào trường tận tay giao con mình cho thầy cô giáo còn lãng vãng ngoài cổng thường chuyện trò xì xào, bỗng ba tiếng trống Thùng, thùng, thùng báo hiệu mùa khai giảng cho năm học mới bắt đầu. Không gian nhà trường như yên lặng hẳn lại, quang cảnh như trang nghiêm hẳn lên, lá quốc được buột sẵn dưới cờ, hai anh học sinh lớp năm, lớp lớn nhất trường với tư thế sẵn sàng khi được hiệu lệnh. Các thầy cô được ngồi ghế bày trước các hàng học sinh thẳng tắp, lớp trưởng đứng phía tay phải của mỗi lớp. Thầy Hiệu phó với áo sơ - mi dài tay, có nút kiểu trên cổ tay áo, cà vạt màu đỏ sọc vàng xéo rất oai vệ điều khiển chương trình. Thầy ra hiệu lệnh, Tất cả chú ý: Nghiêm, Chào cờ… Chào, không gian yên lặng đến tịch mịch lạ thường, thầy tiếp Quốc ca, từ máy được phát ra vang vang cộng hưởng cùng lời hát của các anh chị lớp lớn “ Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng, cùng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên” …lòng yêu nước làm trỗi dậy từ mỗi người hiện diện trong không gian, lá quốc kỳ được từ từ kéo lên, khi đến đỉnh cột, hai anh chị học sinh cột dây vào trụ cờ, là tiếng thầy hiệu trưởng vang vang trong gió: “Kính thưa quý thầy cô cùng các em học sinh của nhà trường thân mến…” tiếng thầy sao đầm ấm, hiền lành như lan tỏa niềm giáo huấn cao cả cho mỗi học sinh, đến khi lời kết thúc. Dũng với cảm giác khó tả lần đầu được dự phần, sau đó các học trò được lớp trưởng hướng dẫn vào phòng, thầy cô giáo đã đứng sẵn trước lớp chào các bạn nhỏ. Sân trường trở lại yên lặng đến lạ thường, các thầy cô bắt đầu một năm học mới với trách nhiệm cao cả "kỹ sư tâm hồn của giáo dục học đường". Hồi trống bải trường vang lên, cô giáo Vân sau khi cho học sinh lớp mình ra ghé phòng đón Dũng, hai mẹ con trở về nhà, vừa đi vừa trò chuyện: - Mẹ ơi, con rất vui hôm nay có thêm mấy người bạn, và biết mẹ nữa. - Hôm nay, cô giáo con dạy cái gì? Cô giới thiệu tên cô cho các con biết chưa? Cô có giới thiệu, nhưng con quên rồi, ngày mai con sẽ hỏi lại, cô chỉ cho chép thời khóa biểu và viết 24 chữ cái cho cả lớp chép. - Con thấy vào trường có vui ko? - Dạ, vui - Con cố chăm ngoan để mẹ còn hãnh diện với nhà trường nhé - Dạ NDT (còn tiếp)
CHƯƠNG 5: HỒI HƯƠNG
Ngày Quảng Ngãi giải phóng 24/3/1975, chính quyền Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam kiểm soát rất kỹ lưỡng những quân cán chính cùng những người làm việc cho chế độ cũ. Mọi người làm việc cho chính quyền ngày trước hoang mang co rúm khi có người lạ đến nhà hỏi thăm, tâm lý sợ hải bao trùm trong các con phố. Trước đây, mọi người vui vẻ đối đãi với nhau, nhưng từ ngày giải phóng mọi việc hình như thay đổi, chẳng ai trò chuyện cùng nhau chỉ lầm lì xem xét. Những người sĩ quan quân đội từ cấp úy trở lên, cán bộ từ cấp trưởng phó phòng lớn nhỏ thời trước có máu mặt đều trình diện và bắt tập trung quản thúc rất chặt chẽ, những người dính dáng đến chế độ “ngụy” bị tập trung học tập cải tạo tư tưởng trong phường, xã ít ngày rồi mới trở về sinh hoạt. Sài Gòn lúc bấy giờ chưa được giải phóng, lệnh của Ủy ban Quân Quản (UBQQ) tỉnh: Tập trung tất cả học sinh trung học phổ thông để động viên các bạn dọn dẹp những bề bộn của đường sá, khi thông thoáng xong, nhà trường mới có lệnh động viên nhập ngũ vào quân đội nhằm tiếp viện quân cho cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn để giải phóng thành đô. Ai xung phong, đăng ký là trở thành người lính rất nhanh chóng, hôm qua còn mặc áo học sinh, vài hôm sau lên đường đổi bộ đồ bộ đội là chiến sĩ . Nếu sau giải phóng thành đô ai muốn học tập quay trở lại trường, ai muốn cống hiến cho Cách mạng sẽ được cho tiếp tục vừa học, vừa công tác. Những thanh niên học sinh hăng hái tòng quân đi vào Nam rất nhiều, Ngày các bạn lên đường băng rôn, biểu ngữ rợp trời có các nữ sinh tiễn các anh lên đường giải phóng Sài Gòn. Những bản nhạc như Giải phóng miền Nam, Bác cùng chúng cháu hành quân… rầm rập như nhịp đi của các bạn học sinh sôi nổi. Tuổi trẻ là như thế. Cuộc chia tay nào cũng đầy những giọt nước mắt, nhất là các bạn có người yêu… Bên cạnh đó, các nhà phố bỏ trống được UBQQ tiếp quản và được phân phối cho cán bộ cách mạng tiếp nhận, tất cả gia đình ngụy quân, ngụy quyền được lệnh hồi hương tái thiết quê hương, cuộc đổi thay từ đó bắt đầu. Nhà ông bà giáo Vân cũng không ngoại lệ ấy, phải trở về quê quán phương tiện di chuyển chủ yếu là xe đạp hoặc “xe cộ”. Xe cộ là loại xe có 2 bánh xe hơi, kết nối với cặp cần lái rất dài, có thanh ngang chắc chắn, người cầm lái là người khỏe mạnh, để ghìm được vận tốc xe khi lên hoặc xuống dốc, bởi nó không có bộ phận thắng, phía sau vài ba người đẩy, lúc lên dốc đẩy ứ hơi, lúc xuống dốc trì kéo lại, nếu không dễ bị nguy hiềm, diện tích mặt sàn ván chừng 1m2 x1m8, vì vậy đồ đạt chất rất nhiều. Trên các đường giao thông bấy giờ đâu đâu cũng có những chuyến xe cộ* dọc đường trở về quê quán, hầu như xe gắn máy không còn của cá nhân nào lưu hành, (nếu có giấu giếm chưa phát hiện thôi) tất cả bị tịch thu cho nhà nước, hoặc nhà nước mượn để phục vụ. Xe lưu hành trên đường, thỉnh thoảng có vài chiếc do công tác của chính quyền quân quản ngược xuôi quan sát, hay kiểm tra trên đường khi nghi ngờ. Trên đường từ phố về đến quê quán mỗi đoạn đường một địa phận xã đều có du kích đội nón tai bèo tuần tra trên đường, súng AK có dây mang trên vai, tay đặt vào cò súng với tư thế sẵn sàng, mỗi lần “cộ” gặp các anh chị ấy đi ngược chiều là xanh mặt, sợ lắm. Đang chuyện trò bỗng dưng không ai bảo ai im lặng, lầm lũi đẩy cộ. Mỗi lần chuyến cộ đi qua là thở phào nhẹ nhõm. Trên đoạn đường 12km, qua 6 xã với nhiều người du kích như thế, các bạn cứ tưởng tượng, cũng chỉ là con người sao lại sợ đến vậy? Trong 4 ngày gia đình bà Giáo đi bộ cả trăm cây số về ra, mệt đừ đẫn nhưng chẳng ai dám thuê mướn dù có tiền. Một điều khá lạ lùng trong công cuộc giải phóng, ai thời ấy có hồi hương cũng cảm nhận được điều khác lạ so với trước đây. Sau 4 ngày hồi hương, hầu như ai trong nhà bà giáo cũng bệnh, thuốc men thì trời ơi, các nhà thuốc tây, thuốc gác đều im ỉm đóng cửa, chỉ còn nhờ đến ông y tá trong xóm, một thời gian ngắn là quay về với thuốc xông, cảm mạo, thương hàn, thổ tả, trầy sướt … gì cũng kiếm thuốc nam, thuốc bắc uống, ôi chao, sự cơ cực manh nha. Ông giáo, ngày ấy chưa đi học tập, ông là công chức quốc gia, dạy thêm trung học tư thục nữa, lại quý sách, ông chở mấy thùng sách từ phố về làng cả gia đình mệt nhoài vì nhiều thùng sách của ông, (một số đã bỏ lại ngoài phố) đến khi chính quyền xã thông báo kiểm tra và đi tịch thu sách vỡ đồi trụy tàn dư của Mỹ ngụy để lại, ông sợ hãi quá, lật đật “chụm sách” để nấu nướng thay chụm củi, trong ánh lửa bập bùng ấy, ông cau mặt với tang thương thở dài, lẫm bẫm “Không biết mai này, sách vỡ sẽ ích gì cho cháu con và ông trầm tư thở dài, đọc câu thơ của cụ Tam Nguyên “sách vỡ ích gì cho buổi ấy/ Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”, đợi tối xuống, ông cùng các con “đem chôn sách” – ông chọn loại sách thuần văn học thôi, bỏ vào các bao phân hóa học bằng ny lon trong và dày, may kín đầu, cẩn thận sợ mối mọt ông còn rắc vôi chống mối mọt. Lại chuyện hy hữu nữa trong công cuộc giải phóng miền Nam. * * * Hòa bình, sự ao ước của mỗi người nhất là những người tham gia quân đội bởi lẽ những người lính ra chiến trường họ luôn đối diện với cái chết trong tích tắc vì thế ước mơ lớn nhất của họ là hòa bình, nhiều, nhiều lắm những thi sĩ, nhạc sĩ miền nam đã viết trong nỗi niềm khát khao ước mơ của những người lính trực tiếp tham chiến: “Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn anh trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao, vui cùng ruộng nương…hay: rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa, rồi anh sẽ đón cha mẹ về, rồi anh sẽ sang thăm nhà em với miếng cau, với miếng trầu ta làm lại từ đầu… ” thậm chí tuổi thanh xuân của đời người cũng mất đi chỉ đối diện với chiến tranh tàn khốc, khổ đau, sinh tử chia lìa, mỗi ngày đi qua biết bao nhiêu sinh mạng hừng hực tuổi trẻ đã gục ngã vì súng đạn vô tình, bởi chiến tranh gây ra, đại đa số là người lính bước ra từ đồng quê, ai không yêu mến quê hương mình nhất là từ thơ bé đến thành niên đã lớn lên từ quê nhà có quá nhiều kỷ niệm với mảnh đất chôn nhau cắt rún, ước mơ trở về với làng mạc để xây dựng kiến thiết là điều rất thật của họ lúc quê hương gánh quá nhiều đau thương, đỗ nát chỉ vì chiến tranh. Sau đó không bao lâu, ngày 30/4/1975 Tổng thống Dương Văn Minh, người mới nhận chức vụ chẳng bao lâu ra lệnh đầu hàng, từ đó đất nước thống nhất về địa lý, như vậy non sông liền một dãi. Quảng Ngãi cũng như toàn miền Nam tất cả đều tổ chức khai giảng năm học mới, may thay, ở Nghĩa Hành cơ sở vật chất các trường thời VNCH cũng đủ dung chứa cho số học sinh từ phố trở về “mái nhà xưa” nông thôn, tất cả các học sinh rút hồ sơ trường cũ về quê quán nếu muốn tiếp tục sự học thì nộp cho trường mới, bèn không coi như bỏ cuộc, biết bao nhiêu học sinh vì thống nhất ấy đã bỏ học, với nhiếu lý do và hoàn cảnh khác nhau của mỗi gia đình. Con bà giáo Vân tiếp tục sự học sau khi trở về bản quán, Dũng trở về “đăng ký” trường huyện quê nhà sau bao năm học tập ở phố, ngày lên đăng ký khai báo rất kỹ lưỡng, nhất là lý lịch cá nhân có chính quyền thị thực hẳn hoi, chữ của người cán bộ xem xét, chứng thực ngoằn ngoèo như trang sử Việt hết trang lý lịch cá nhân và những người thân thiết trong gia đình được Ban giám hiệu nhà trường chăm sóc rất cẩn thận. Nếu ai cảm thấy rắc rối, thì bỏ học, biết bao các bạn cùng lứa rơi vào hoàn cảnh “giả từ bảng đen và chữ nghĩa cùng bạn bè” một cách oan uổng, chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp phổ thông. Ban đầu, Dũng cũng bị Ban giám hiệu lâm thời không cho phép học tập, có lẽ cũng tại cái lý lịch ngoằn ngoèo. Dũng thất vọng và buồn lắm, về nhà tâm sự với bà giáo, bà giáo có lên trường gặp ban giám hiệu, thì ra ông Hiệu trưởng nhà trường là bạn bà lúc nhỏ cùng học với nhau trước khi ông tập kết ra bắc tiếp tục giảng dạy. Sau đó, rất may Dũng được tiếp tục và tốt nghiệp phổ thông năm đầu tiên của thời thống nhất bắc nam. Ngã Du Tử/SG (Còn nữa)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.06.2021 08:43:22 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
CHƯƠNG 4: MÙA TỰU TRƯỜNG XƯA Dũng còn nhớ kỹ, năm học ấy cậu được mẹ gọi dậy sớm hơn mọi hôm, Dũng trong bộ đồng phục quần sọt xanh dây treo, áo chơ-mi trắng cụt tay vai mang cặp nhựa vàng, chân đi sandal trắng được ông giáo mua tận phố, bảnh bao lắm, có lẽ cậu hân hoan như tác giả Thanh Tịnh viết trong Tác phẩm Quê Mẹ. “…Con đường nầy tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi thấy lạ: Hôm nay tôi tôi đi học…” Bà giáo áo dài màu vàng nhạt, vạt trước có thêu đôi chim đang bay khá đẹp, dắt tay Dũng. Hôm trước bà đã căn dặn với Dũng thật rõ ràng “Kể từ ngày mai con sẽ bắt đầu vào trường tiểu học như các anh chị học trò của mẹ, con sẽ thấy môi trường học đường rất tuyệt vời, ai cũng bắt đầu từ môi trường học đường ấy, con cố gắng học tập tốt, đừng để các bạn buồn lòng vì mẹ cũng là cô giáo của nhà trường, con hiểu chứ, Cậu chỉ dạ thật to” . Trên con đường làng ấy em cũng đi lại lắm lần, thật sự em cảm thấy lâng lâng nỗi sung sướng của một em sắp chính thức bước vào lớp một ngưỡng của trường tiểu học Nghĩa Hưng. Quang cảnh rất náo nhiệt của trường sau ba tháng hè của các em được gặp lại thầy cô bè bạn làm rộn rã lòng cậu học sinh lớp một, có lẽ đây đây là sự thiêng liêng nhất của các em mới vào học năm đầu tiên. Nhóm phụ huynh sau khi dắt con vào trường tận tay giao con mình cho thầy cô giáo còn lãng vãng ngoài cổng thường chuyện trò xì xào, bỗng ba tiếng trống Thùng, thùng, thùng báo hiệu mùa khai giảng cho năm học mới bắt đầu. Không gian nhà trường như yên lặng hẳn lại, quang cảnh như trang nghiêm hẳn lên, lá quốc kỳ được cột sẳn dưới cờ, hai anh học sinh lớp năm, lớp lớn nhất trường với tư thế sẵn àang khi được hiệu lệnh. Các thầy cô được ngồi ghế bày trước các hàng học sinh thẳng tắp, lớp trưởng đứng phía tay phải của mỗi lớp. Thầy Hiệu phó với áo sơ mi dài tay, có nút kiểu trên cổ tay áo, cà vạt màu đà rất oai vệ điều khiển chương trình. Thầy ra hiệu lệnh, Tất cả chú ý: Nghiêm, Chào cờ…Chào, không gian yên lặng đến tĩnhh mịch lạ thường, thầy tiếp “Quốc ca”, từ máy được phát ra vang vang cộng hưởng cùng lời hát của các anh chị lớp lớn “ Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng, cùng lòng cùng đi hy sinh mở đường khai lối vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên nào anh em” …lòng yêu nước trổi dậy từ mỗi người hiện diện trong không gian, lá quốc kỳ được từ từ kéo lên, khi đến đỉnh cột, hai anh chị học sinh cột dây vào trụ cờ, là lúc tiếng thầy hiệu trưởng vang vang trong gió. “Kính thưa quý thầy cô cùng các em học sinh thân mến của nhà trường…” tiếng thầy sao đầm ấm, hiền lành như lan tỏa niềm giáo huấn cao cả cho mỗi học sinh, đến khi lời kết thúc. Dũng với cảm giác khó tả lần đầu được dự phần, sau đó các học trò được lớp trưởng hướng dẫn vào phòng, thầy cô giáo đã đứng sẵn trước lớp chào các bạn nhỏ. Sân trường trở lại yên lặng đến lạ thường, các thầy cô bắt đầu một năm học mới với trách nhiệm cao cả kỹ sư tâm hồn của giáo dục học đường. Hồi trống bải trường vang lên, cô giáo Vân sau khi cho học sinh mình ra về, ghé phòng đón Dũng, hai mẹ con trở về nhà, vừa đi vừa trò chuyện: - Mẹ ơi, con rất vui hôm nay có thêm mấy người bạn, và biết mẹ nữa. - Hôm nay, cô giáo con dạy cái gì? Cô giới thiệu tên cô cho các con biết chưa? Cô có giới thiệu, nhưng con quên rồi, ngày mai con sẽ hỏi lại, cô chỉ cho chép thời khóa biểu và viết 24 chữ cái cho cả lớp chép. - Con thấy vào trường có vui ko? - Dạ, vui - Con cố chăm ngoan để mẹ còn hãnh diện với nhà trường nhé - Dạ CHƯƠNG 5: HỒI HƯƠNG Ngày Quảng Ngãi giải phóng 24/3/1975, chính quyền Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam kiểm soát rất kỹ lưỡng những quân cán chính cùng những người làm việc cho chế độ cũ. Mọi người làm việc cho chính quyền ngày trước hoang man lo sợ khi có người lạ đến nhà hỏi thăm, tâm lý sợ hải bao trùm trong các con phố, trước đây, mọi người vui vẻ đối đãi với nhau, nhưng từ ngày giải phóng mọi việc hình như thay đổi, chẳng ai trò chuyện cùng nhau chỉ lầm lì xem xét. Những người sĩ quan quân đội từ cấp úy trở lên, cán bộ từ cấp trưởng phó phòng lớn nhỏ thời trước có máu mặt đều trình diện và bắt tập trung quản thúc rất chặt chẽ, những người dính dáng đến chế độ “ngụy” bị tập trung học tập cải tạo tư tưởng trong phường, xã ít ngày rồi mới trở về sinh hoạt. Sài Gòn lúc bấy giờ chưa được giải phóng, lệnh của Ủy ban Quân Quản (UBQQ) tỉnh: Tập trung tất cả học sinh trung học phổ thông để động viên các bạn dọn dẹp những bề bộn của đường sá, khi thông thoáng xong, nhà trường mới có lệnh động viên nhập ngũ vào quân đội nhằm tiếp viện quân cho cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn để giải phóng thành đô. Ai xung phong, đăng ký là trở thành người lính rất nhanh chóng, hôm qua còn mặc áo học sinh, vài hôm sau lên đường đổi bộ đồ bộ đội là chiến sĩ . Nếu sau giải phóng thành đô ai muốn học tập quay trở lại trường, ai muốn cống hiến cho Cách mạng sẽ được cho tiếp tục vừa học, vừa công tác. Những thanh niên học sinh hăng hái tòng quân đi vào Nam rất nhiều, Ngày các bạn lên đường băng rôn, biểu ngữ rợp trời có các nữ sinh tiễn các anh lên đường giải phóng Sài Gòn. Những bản nhạc như Giải phóng miền Nam, Bác cùng chúng cháu hành quân… rầm rập như nhịp đi của các bạn học sinh sôi nổi. Tuổi trẻ là như thế. Cuộc chia tay nào cũng đầy những giọt nước mắt, nhất là các bạn có người yêu… Bên cạnh đó, các nhà phố bỏ trống được UBQQ tiếp quản và được phân phối cho cán bộ cách mạng tiếp nhận, tất cả gia đình ngụy quân, ngụy quyền được lệnh hồi hương tái thiết quê hương, cuộc đổi thay từ đó bắt đầu. Nhà ông bà giáo Vân cũng không ngoại lệ ấy, phải trở về quê quán phương tiện di chuyển chủ yếu là xe đạp hoặc “xe cộ”. Xe cộ là loại xe có 2 bánh xe hơi, kết nối với cặp cần lái rất dài, có thanh ngang chắc chắn, người cầm lái là người khỏe mạnh, để ghìm được vận tốc xe khi lên hoặc xuống dốc, bởi nó không có bộ phận thắng, phía sau vài ba người đẩy, lúc lên dốc đẩy ứ hơi, lúc xuống dốc trì kéo lại, nếu không dễ nguy hiềm, diện tích mặt sàn ván chừng 1m2 x1m8, vì vậy đồ đạt chất rất nhiều. Trên các đường giao thông bấy giờ đâu đâu cũng có những chuyến xe cộ* dọc đường trở về quê quán, hầu như xe gắn máy không còn của cá nhân nào lưu hành, (nếu có giấu diếm chưa phát hiện thôi) tất cả bị tịch thu cho nhà nước, hoặc nhà nước mượn để phục vụ. Xe gắn máy lưu hành trên đường, thỉnh thoảng có vài chiếc do công tác của chính quyền quân quản ngược xuôi quan sát, hay kiểm tra trên đường khi nghi ngờ. Trên đường từ phố về đến quê quán mỗi đoạn đường một địa phận xã đều có du kích đội nón tai bèo tuần tra trên đường, súng AK có dây mang trên vai, tay đặt vào cò súng với tư thế sẵn sàng, mỗi lần “cộ” gặp các anh chị ấy đi ngược chiều là xanh mặt, sợ lắm. Đang chuyện trò bỗng dưng không ai bảo ai im lặng, lầm lũi đẩy cộ. Mỗi lần chuyến cộ đi qua là thở phào nhẹ nhõm. Trên đoạn đường 12km, qua 6 xã với nhiều người du kích như thế, các bạn cứ tưởng tượng, cũng chỉ là con người sao lại sợ đến vậy? Trong 4 ngày gia đình bà Giáo đi bộ cả trăm cây số về ra, mệt đừ đẫn nhưng chẳng ai dám thuê mướn dù có tiền. Một điều khá lạ lùng trong công cuộc giải phóng, ai thời ấy có hồi hương cũng cảm nhận được điều khác lạ so với trước đây. Sau 4 ngày hồi hương, hầu như ai trong nhà bà giáo cũng bị bệnh, thuốc men thì trời ơi, các nhà thuốc tây, thuốc gác đều im ỉm đóng cửa, chỉ còn nhờ đến ông y tá trong xóm, một thời gian ngắn là quay về với thuốc xông, cảm mạo, thương hàn, thổ tả, trầy sướt … gì cũng kiếm thuốc nam, thuốc bắc uống, ôi chao, sự cơ cực manh nha. Ông giáo, ngày ấy chưa đi học tập, ông là công chức quốc gia, dạy thêm trung học tư thục nữa, lại quý sách, ông chở mấy thùng sách từ phố về làng cả gia đình mệt nhoài vì nhiều thùng sách của ông, (một số đã bỏ lại ngoài phố) đến khi chính quyền xã thông báo kiểm tra và đi tịch thu sách vỡ đồi trụy tàn dư của Mỹ Ngụy để lại, ông sợ hãi quá, lật đật “chụm sách” để nấu nướng thay chụm củi, trong ánh lửa bập bùng ấy, ông cau mặt với tang thương thở dài, lẫm bẫm “Không biết mai này, sách vỡ sẽ ích gì cho cháu con và ông trầm tư thở dài, đọc câu thơ của cụ Tam Nguyên “sách vỡ ích gì cho buổi ấy/ Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”, đợi tối xuống, ông cùng các con “đem chôn sách” – ông chọn loại sách thuần văn học thôi, bỏ vào các bao phân hóa học bằng ny lon trong và dày, may kín đầu, cẩn thận sợ mối mọt ông còn rắc vôi chống mối mọt. Lại chuyện hy hữu nữa trong công cuộc giải phóng miền Nam. * * * Hòa bình, sự ao ước của mỗi người, nhất là những người tham gia quân đội bởi lẽ những người lính ra chiến trường họ luôn đối diện với cái chết trong tích tắc vì thế ước mơ lớn nhất của họ là hòa bình, nhiều, nhiều lắm những thi sĩ, nhạc sĩ miền nam đã viết trong nỗi niềm khát khao ước mơ của những người lính trực tiếp tham chiến: “Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn anh trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao, vui cùng ruộng nương…hay: rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa, rồi anh sẽ đón cha mẹ về, rồi anh sẽ sang thăm nhà em với miếng cau, với miếng trầu ta làm lại từ đầu… ” thậm chí tuổi thanh xuân của đời người cũng mất đi chỉ đối diện với chiến tranh tàn khốc, khổ đau, sinh tử chia lìa, mỗi ngày đi qua biết bao nhiêu sinh mạng hừng hực tuổi trẻ đã gục ngã vì súng đạn vô tình, bởi chiến tranh gây ra, đại đa số là người lính bước ra từ đồng quê, ai không yêu mến quê hương mình nhất là từ thơ bé đến thành niên đã lớn lên từ quê nhà có quá nhiều kỷ niệm với mảnh đất chôn nhau cắt rún, ước mơ trở về với làng mạc để xây dựng kiến thiết là điều rất thật của họ lúc quê hương gánh quá nhiều đau thương, đỗ nát chỉ vì chiến tranh. Sau đó không bao lâu, ngày 30/4/1975 Tổng thống Dương Văn Minh, người mới nhận chức vụ chẳng bao lâu ra lệnh đầu hàng, từ đó đất nước thống nhất về địa lý, như vậy non sông liền một dãi. Quảng Ngãi cũng như toàn miền Nam tất cả đều tổ chức khai giảng năm học mới, may thay, ở Nghĩa Hành cơ sở vật chất các trường thời VNCH cũng đủ dung chứa cho số học sinh từ phố trở về “mái nhà xưa” nông thôn, tất cả các học sinh rút hồ sơ trường cũ về quê quán nếu muốn tiếp tục sự học thì nộp cho trường mới, bèn không coi như bỏ cuộc, biết bao nhiêu học sinh vì thống nhất ấy đã bỏ học, với nhiếu lý do và hoàn cảnh khác nhau của mỗi gia đình. Con bà giáo Vân tiếp tục sự học sau khi trở về bản quán, Dũng trở về “đăng ký” trường huyện quê nhà sau bao năm học tập ở phố, ngày lên đăng ký khai báo rất kỹ lưỡng, nhất là lý lịch cá nhân có chính quyền thị thực hẳn hoi, chữ của người cán bộ xem xét, chứng thực ngoằn ngoèo như trang sử Việt hết trang lý lịch cá nhân và những người thân thiết trong gia đình được Ban giám hiệu nhà trường chăm sóc rất cẩn thận. Nếu ai cảm thấy rắc rối, thì bỏ học, biết bao các bạn cùng lứa rơi vào hoàn cảnh “giả từ bảng đen và chữ nghĩa cùng bạn bè” một cách oan uổng, chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp phổ thông. Ban đầu, Dũng cũng bị Ban giám hiệu lâm thời không cho phép học tập, có lẽ cũng tại cái lý lịch ngoằn ngoèo. Dũng thất vọng và buồn lắm, về nhà tâm sự với bà giáo, bà giáo có lên trường gặp ban giám hiệu, thì ra ông Hiệu trưởng nhà trường là bạn bà lúc nhỏ cùng học với nhau trước khi ông tập kết ra bắc tiếp tục giảng dạy. Sau đó, rất may Dũng được tiếp tục và tốt nghiệp phổ thông năm đầu tiên của thời thống nhất bắc nam.
LÀM RUỘNG ĂN CƠM NẰM
Gia đình Bà Giáo Vân cùng con cái trở về với nguyên thủy nhà nông, cấy lúa và làm vườn, thu nhập chính để sinh hoạt cuộc sống từ hoa lợi ruộng vườn. Hợp tác xã nông nghiệp ra đời và tất cả ai cũng ký vào sổ tự nguyện hiến ruộng đất cho hợp tác xã để cùng chung tay kiến thiết đất nước sau vài mươi năm chiến tranh tan hoang, ai không ký sẽ mời về xã học tập để “quán triệt đường lối cách mạng, không còn người bóc lột người”, nghĩa là bình đẳng trong lao động chia điểm, ai làm công điểm cao được chia lúa nhiều và ngược lại. Kết quả là cả vụ hè thu cả gia đình bà giáo Vân được chia 2 bao lúa 100 kg cho 8 nhân khẩu đã đăng ký hộ tịch, hộ khẩu. Nghĩa là trong nửa năm chi tiêu tất cả cho cuộc sống chỉ có 100 ký lúa, cuộc sống trở nên khó khăn đến độ khủng hoảng đói nghèo. Thỉnh thoảng trong dân gian lại xì xầm vài câu đồng dao nghe đến thê lương về chuyện hợp tác xã và phân phối nhu yếu phẩm: “Hợp tác hợp te, có 2 mét vải (cả năm) không che được cái l…” Buổi tối hôm ấy, sau khi lãnh lúa về nhà, các con bà tỏ ra phật ý, thậm chí giận dữ, trong bữa cơm chiều “làm cả mấy tháng trời lãnh bấy nhiêu ký lúa làm sao sống được, cách mạng kiểu gì mà càng ngày càng đói kém, rách nát”, bà giáo Vân biết và rất chua xót nhưng nói như điều đình với các con: - Lúc trước kia, gia đình chúng ta ai cũng có lương hướng, đời sống khá giả, bây giờ thời thế thay đổi về làm nông, nhà mình ai cũng yếu, các con không quen làm, không được như các gia đình nông dân thuần chất, phải chịu vậy thôi các con, mẹ đâu muốn vậy, để xem sao rồi sẽ tính. - Cả mấy nhỏ trong nhà đều thương mẹ nên thôi, không nói nữa Bà giáo Vân tiếp: - Có lẽ phải tìm phương hướng khác kiếm sống, chứ thế này mãi làm sao sống nổi được các con. Mẹ và chị Thanh – người chị lớn nhất trong gia đình bà biết đan áo len, “hay là con ra phố xem thử có bạn bè hay ai có thể giúp chúng ta đan len bỏ mối ở phố Quảng Ngãi, nghe đâu mấy ông cán bộ miền Bắc vào giải phóng miền nam mỗi dịp tết nhứt, lễ lộc hay về thăm nhà mua làm quà cho gia đình ngoài ấy, mùa đông ngoài bắc lạnh dữ lắm”. Rét tháng ba, bà già chết cóng. - Để ngày mai con ra phố hỏi thăm, có thể vậy, chứ làm ruộng cả ngày 4 điểm cả nhà mình chắc chết. Chị Thanh đề nghị. - Phải đấy con à, con sắp xếp đi nhanh, biết đâu còn có cửa sống. Chưa hết, nếu như các đô thị và thành phố cải cách công thương nghiệp nhằm đánh vào giới giàu có tư sản thì nông thôn toàn miền Nam có loại thuế nông nghiệp, nhắm vào những nhà giàu có, khá giả đa phần làm cho chính quyền cũ nhằm cào bằng đời sống với nhau, từ đó, tiếng ta thán bắt đầu trong xã hội miền nam mới vừa được giải phóng càng lúc càng lan xa, tiếng oán than càng ngày càng mạnh hơn. Người dân nơm nớp lo sợ, lo sợ nghèo đói và bệnh tật vì đói thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, chiến tranh đi qua, không còn đạn bom, chết chóc, nỗi mừng vui ấy chưa được tày gang thì dân tình đang gánh chịu đói nghèo, cùng cực. Một dấu hỏi lớn toàn miền Nam về việc giải phóng, Giải phóng là thế này ư? Từ cuộc sống bị kèm kẹp với Mỹ Ngụy mà áo cơm no đủ, phương tiện đủ đầy, trong nhà phố ai cũng có quạt điện, bàn ủi điện, rề-sô nấu bằng dầu lửa rất tiện dụng, phương tiện xe gắn máy đầy đường, thậm chí người giàu có còn xe hơi, hồi hương về cơm không có ăn, một bửa ăn cho bảy tám người chỉ có lon gạo và cả ang củ lang hoặc củ mì. Nhà nghèo khó bắt đầu ăn củ chuối. Người dân nghèo bấy giờ ai cũng hiểu, tuyệt nhiên chắng ai dám hé môi đề nghị với chính quyền mỗi lần họp dân vào buổi tối mà chính quyền thường gọi “Mít-ting” Chế độ tem phiếu như phía bắc bắt đầu thực hiện cho dân miền Nam chưa quen với nổi gian truân ấy làm tăng thêm sự đói nghèo cùng cực, hình như chính quyền cũng thấy được điếu ấy, sau đó có chiến dịch động viên khuyến khích các gia đình đi kinh tế mới, chính quyền có hổ trợ 3 tháng gạo cho những gia đình tự nguyện rời quê quán vào nơi xa xứ lạ, gọi là: Đi kinh tế mới mục đích cho dân đến nhiều vùng nông thôn đất rộng người thưa để khai hoang vỡ hóa phục hồi kinh tế tái thiết đất nước, người dân Nghĩa Hành nói chung cũng rầm rập lên đường. Buổi tiển đưa có cờ xí, cán bộ xã tập họp nói lời chia tay, chúc các hộ dân vào nơi xa làm ăn sung túc. Có nhiều người khóc như mưa, tưởng chừng chẳng biết bao giờ được trở về cố quận, bởi từ nhỏ tới lớn họ chưa biết đến thị xã Quảng Ngãi, đừng nói chi đến Tây Nguyên hay Nam bộ. Có lẽ họ nghĩ đến giải phóng cái bao tử cho chính gia đình họ hơn là những gian nguy khác, nhất là các anh ngày trước đi lính hoặc các công chức nhỏ. Cặp tình nhân có lẽ mặn nồng yêu thương, cầm tay nhau rất chặt lúc đoàn xe chuẩn bị khới hành, chàng thẹn thùng, nhưng chẳng biết có gặp được nhau nữa không nên vội vả hôn cô ấy thật dài, Ngày ấy hôn nhau như thế người ta thấy chắc xấu hổ lắm? Đôi bàn tay còn giữ chặt, trong lúc người cán bộ địa phương hối hả thổi còi cho đoàn xe từ từ lăn bánh. Lúc ấy, anh vội vàng vừa chạy vừa vẫy tay chào người yêu lật đật nhảy tót lên xe. Nỗi chia ly lặng lẽ của hai người, bàn tay vẫy của cô ấy nhạt nhòa dần khuất khi xe chạy qua khúc quanh. Có lẽ tâm trạng hai người như hình ảnh của Nguyễn Bính trong Bóng người trên sân ga: “Có lần tôi thấy một người yêu/ tiễn một người yêu một buổi chiều/ ở một ga nào xa vắng lắm/ họ cầm tay họ bóng liêu xiêu” Nhờ vậy mà mấy năm sau nhiều gia đình vào Tây nguyên và Nam bộ ngày một khá giả hẳn lên, thỉnh thoảng vẫn có người về báo lại sinh hoạt và đời sống trong đó, và rồi mỗi lúc một nhiều gia đình người theo chân người đi trước tiếp tục cuộc di cư về kinh tế giải phóng cái đói. * * * Bà giáo Vân dậy sớm hơn mọi ngày, nồi cháo heo cho vài chú lứa trong chuồng đã xong, coi như của để dành của gia đình bà phòng lúc hoạn nạn, chị Thanh đã cùng bà đi mua tận thôn dưới hai chú heo khá xinh đẹp màu đen đốm trắng, giống lai Thái Lan. Trời vừa sáng rõ, mùa hạ tiết trời nóng bức, ánh nắng sớm đùa giỡn trên cành cây kẻ lá làm háo hức chị Thanh bởi chị sẽ được ra phố gặp bè bạn cùng lớp, cùng trường. Chị ăn vội miếng cơm nguội chiều tối còn để dành, lót lòng để kịp lên đường gặp bạn bè cũ một thời học sinh áo dài trắng muốt sân trường, thỉnh thoảng chuyện trò chị vẫn tự hào là nữ sinh Nữ Trung Học. Kể từ trở lại quê nhà, chị chưa bao giờ được mặc lại áo dài nào, mặc dù trong tủ chị còn những ba bốn cái, có chuyện gì mới mặc áo dài, vô lẽ chị lại làm người mẫu tới lui trong nhà rồi mất công giặt cất lại để kỷ niệm thuở học trò thơ mộng của mình. Trên chiếc xe đầm của bà giáo Vân ngày nào ngược xuôi trên đường vẫn còn tốt, chị hý hững chào cả nhà rời thật nhanh ra ngõ, lên đường làm sứ giả ngoại giao. Cành cây trong sân nhà lung linh trước gió đầu ngày như giục chị bước mau, thôi thúc nhất là sẽ có thêm tiền để sinh hoạt cho đỡ khổ đau những bao tử lép kẹp của các em thời thiếu đói. CHƯƠNG 6: CÂU CHUYỆN ÁO LEN Bà giáo Vân giục Dũng mau đi nhanh kẻo trễ, sau bửa ăn vội mấy củ khoai mì còn bốc khói. Dũng và bà giáo đi sớm, chiếc xe đạp Dũng chở bà giáo gò lưng với vận tốc khá nhanh, sợ trạm thuế vụ trên huyện dòm ngó, chăm sóc sẽ khổ. Con đường độc đạo từ Nghĩa Hành xuống phố giờ đó đã có cả đoàn người thồ củi xuống phố để bán, đôi chân thoăn thoát nhịp nhàng hàng một xuyên qua ánh nắng sớm bình minh rất đẹp như bức ảnh đoàn duyệt binh ngày trước, chỉ khác là ảnh đoàn duyệt binh oai vệ, còn đoàn người đẩy củi trông thảm hại, những bước chân vội vả chạy theo ánh dương cho kịp buổi chợ mai ngoài tỉnh. Một thời củi đắc như tôm, củi không cung cấp đủ nhu cầu cho dân thành thị, từ ngày giải phóng đến giờ cây xăng không còn bán như trước, dầu lửa được bán trong cửa hàng chất đốt qua gián tiếp, có tiền cũng không mua được phải có tem phiếu hoặc giấy giới thiệu của nhà nước vì vậy củi là chất đốt chủ lưc. 6.30 giờ Dũng và bà giáo Vân đã đến chợ huyện, Dũng tăng tốc để vượt qua trạm thuế may ra các anh thuế vụ chưa có mặt để làm khó. Chạy trời không khỏi nắng mưa, chú thuế vụ trông trẻ con lắm thổi còi, chỉ vào trạm. Dũng phải tấp vội sát trạm: Bà và anh chở gì vậy? người nhân viên hỏi. Cháu à, cô đan ít áo len ra phố cho người thân. Bà giáo trả lời - Mở ra xem, hàng lậu phải không? hắn lạnh lùng phán - Chỉ là áo len đan thôi à, cháu thông cảm cho cô đi, người ngoài ấy đang đợi, sợ trễ hẹn họ không nhận là toi công hai mẹ con đan đác hơn cả tuần lễ. - Không được đâu, bà đợi chờ trưởng trạm đến giải quyết. Cháu chỉ làm biết giữ lại, cho hay không là của trưởng trạm. Tiếng cậu ấy lạnh tanh, khô khan, hình như cậu oắc con ấy tỏ ra quyền uy với người dân trăm nổi sợ sệt, đến nổi bà giáo như người thất thần, rồi nghẹn ngào: - Cháu cho cô và em đi đi, đây là công đan đác kiếm ít để đổi gạo, không phải buôn bán gì, cả nhà đang trông vào mấy cái áo nầy. - Không được đâu cô đến hai chục cái, chỉ có đi buôn chứ làm gì nhiều dữ vậy? Bà chờ trạm trưởng giải quyết nhé. Cậu xốc tận đáy giỏ cùng với Dũng đếm từng cái một. Dũng tỏ ra bực tức lắm nhưng cũng đành lòng nghe lời bà giáo xếp lại từng cái một bỏ vào ngay ngắn trong giỏ, thận trọng đặt lại tấm giấy chắn bụi lên trên, và quay mặt thì thầm nỗi tức giận. Biết rằng không còn cách nào khác là đợi chờ người có trách nhiệm cao hơn. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua Dũng những tưởng như cả ngày, mặt trời càng lên cao, nắng gắt dần, thỉnh thoảng ngọn gió sớm làm mát cũng hạ nhiệt, hy vọng cũng bớt dần trong lời năn nỉ sau cùng. Đành lòng đứng đợi cùng mẹ. * * * Người trưởng trạm cũng đã đến, anh ta dựng chiếc xe đạp vào hông sau trạm vội vả bước vào, người nhân viên báo cáo thành tích ngay: Báo cáo đ/c, sáng nay em bắt 2 người có nghi ngờ buôn lậu? Không ngó ngàng đến nhân viên, cậu trưởng trạm hỏi nhanh: - Buôn lậu gì vậy? - Áo len - Áo len à, Mặt hàng này không thấy trong danh sách quy định, nhưng để tôi xem. - Dạ, Bà giáo Vân nghe vậy mừng thầm, nhưng mấy ông thuế vụ là “cha mẹ” bắt là bắt, chỉ lập biên bản và tịch thu, còn hàng hóa đi đâu về đâu thì chả biết? nước mắt người dân ở nơi nầy đọng thành vũng lớn nhận chìm những mảnh đời cơ cực, nghèo khó. - Chào cán bộ, bà giáo Vân nhẹ nhàng - Dạ, chào cô, cô buôn bán gì vậy? Người cán bộ mau mắn Hoàn cảnh éo le này có người lễ phép chào cô, lòng bà khấp khởi mừng như bắt được may mắn. Bà nghĩ thầm ít nhất cũng biết lễ, chắc có học hành. Anh tiếp: - Chắc cô quên, em là học trò của cô khi học tiểu học - Vậy à, cô quên, lâu quá cô không nhớ - Em là Huế, học lớp hai, lúc thầy Hồng làm hiệu trưởng, khi cô dạy ở Nghĩa Lộc. - Vậy à, hơn 18 năm bây giờ cô không nhớ nỗi, lòng bà chợt dâng lên niềm vui khó tả. - Nhưng cô buôn bán thứ gì vậy? - Em à, bây giờ nhà nước không cho cô dạy nữa, cô đan ít áo len bỏ dưới phố cho người ta bán, kiếm ít tiền cho các em ăn học, khó khăn lắm em, em thông cảm cho cô nhé. - Dạ, em biết, sao cô ra nông nổi này? - Chuyện đời dài lắm em à, cô xin em cho cô đi kẻo trễ người ta không lấy là toi cả, cơm áo cho cả nhà bây giờ trong cái giỏ này, cô trông chờ vào em. Huế có chút ngậm ngùi, ngó vào trong gọi người nhân viên ra, và bảo: - Đây là cô giáo cũ của anh, hơn nữa áo len người ta đan đác gia công không phải mặt hàng cấm lưu thông, nhà em cần mua chiếc áo ấm lúc cần thiết đã có những người như cô, lần sau loại hàng này không phải hàng cấm em nhé. - Dạ, rồi em lặng lẽ đi ra ngoài. Cảm ơn em, khi khác cô trò gặp nhau cô sẽ nói chuyện với em, em là chef ở đây? - Dạ, chính quyền phân công em làm việc ở đây. Em chào cô Chia tay Huế, hai mẹ con lại tiếp tục lên đường. Dũng hớn hở hẳn ra, giả sử nếu không phải anh Huế, chắc là xong giỏ len, thời này chẳng luật lệ gì, ông chef có quyền lắm, cũng may nhà bà giáo còn có phước. Hai mẹ con trên chiếc xe bon trên đường hình như nhanh hơn. Nắng gay gắt hơn, gió nhẹ trên con đường mùa hạ không làm phật lòng Dũng, ve sầu bắt đầu khúc nhạc hạ làm hân hoan lòng Dũng dù ngược gió, bà giáo Vân ngồi sau xe bắt đầu suy nghĩ về người học trò cũ mà bà không nhớ nỗi mảy may. Tất cả phần còn lại của 20 chiếc áo ấm đều thuận buồm, mát mái, người thanh nữ - Thủy, học trò cũ của bà giáo Vân bây giờ là người chủ của cửa hàng - Thực ra đây là nơi đan áo len có bày mấy chiếc áo len ngắn, hay dài tay để người đặt mua chọn lựa, nhưng thật thân tín, thời bây giờ không cho phép ai mở bán, chỉ có nhà nước. Sauk khi kiểm hàng, Thủy vui vẻ đưa tiền cho bà, còn căn dặn: - Cô à, tuần sau cô ráng cho 30 chiếc nhé, mấy ông cán bộ phía bắc độ này mua nhiều hơn trước, em đã “thêm tiền len trong đó” coi như tạm ứng trước cho cô khỏi phải “chạy vạy”, em hiểu ở nhà quê khó khăn về tiền bạc, vay mượn đâu ra. - Cảm ơn em, cô và em đi mua ít len đây. - Dạ, gặp lại sau cô nhé, gửi lời thăm Thanh, Thủy căn dặn nhỏ mấy điều về mua len, bà giáo gật đầu rồi lên xe Dũng, cô còn nói vọng theo nhớ điều em dặn nhé, kính chúc cô bình an và may mắn. * * * Bà giáo chào người phụ nữ đứng trước đúng số nhà nhà mặt tiền đường Ngô Quyền, người chủ nhà có vẻ nghi ngờ hỏi: - Cô tìm ai? - Cô có phải là Thu không? Bà giáo hỏi nhỏ - Dạ, Đúng rồi, có việc gì không? Thủy là học trò cũ của tôi có nói cô để lại ít búp len về đan áo cho em Thủy, như có điều gì sắp xảy ra,Thu dắt bà, hai người vào trong nhà khá lâu nhỏ to trao đổi, bán mua len cũng sợ quản lý thị trường nên ra vẻ cẩn thận lắm. Sau ngày thống nhất mua bán cái gì hình như người ta cũng sợ bị bắt, Dũng chẳng hiểu nổi mua và bán rất lương thiện và giản đơn vậy nhưng nếu gặp người có quyền mọi việc dễ bị rắc rối, hoặc bị tịch thu, cẩn thận vẫn hơn lại điều nữa Dũng thấy lạ lùng. Buổi chiều về, với giỏ len đầy. Dũng dựng chiếc xe đạp, lên phản nằm suy nghĩ điều xảy ra trong ngày, Thỉnh thoảng anh cười nói với chính mình thời cách mạng mọi chuyện dổi thay mau chóng thật, người ta giải phóng kiểu gì mà mua và bán lương thiện thôi cũng phải bí mật, điều ấy dễ trở thành tệ hại sau nầy. Từ đó, Dũng thường quan sát và suy nghĩ những điều mắt thấy tai nghe để rút cho mình những điều có thể tốt nhất. Mãi đến khi tiếng bịch bịch của sân bóng trong làng làm anh chợt tĩnh và nhanh chóng đạp xe lên sân banh. Chị Thanh là người vui nhất, bởi chị nghĩ như thế là cơm áo trong nhà sẽ được cải thiện, các em cùng cả nhà sẽ bớt đói khổ, tưởng tượng đang vây quanh trí chị như san sẻ niềm vui cùng chị và bà giáo Vân. Chuyện trò đến khi Dũng chào mẹ và chị đá banh về, chị mới rời khỏi phòng chuẩn bị bữa cơm chiều cho cả nhà quây quần NGÃ DU TỬ (Còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.07.2021 00:06:39 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
CHƯƠNG 7: ÔNG GIÁO VỀ NHÀ
Chiếc xe đạp thồ chở ông giáo về đến nhà, lòng ông khấp khởi mừng không tả nỗi. Con Vện vẫy đuôi mừng quan sát ông, tuyệt nhiên không sủa một tiếng, có lẽ nó biết chủ của nó dù đã vài năm xa cách. Đứng trước hè ông gọi: Mình ơi, mình ơi... Không có tiếng trả lời, nhà vắng vẻ, ông đi thẳng vào, trên bàn chiếc bình tích để trong ủ dừa còn ấm, ông ngồi xuống mở nắp rót ly nước cho người chở thuê: - Mời anh uống nước và trả tiền xe. Người chạy xe uống ừng ực, có lẽ rất khát nước bởi hành trình cũng khá dài và quá xế, nắng còn gay gắt, anh ta cảm ơn ra về, ông giáo không quên tặng thêm ít tiền gọi là uống nước dọc đường. Trong căn nhà rộng, trống, ông ngồi suy nghĩ vẩn vơ. Quái lạ này, vợ con sao không có trong, các cửa mở toang, ông hết lên nhà trên lại sang nhà ngang và rồi xuống bếp, bước ra sau, căn nhà có vẻ trống vắng và vườn tược um tùm hơn, có lẽ ít được chăm bón, chỉ có con Vện đi sát với ông, ngồi xuống vuốt ve và vỗ về, nó ngoan ngoãn nằm, đuôi vẫn ve vẫy nhìn thẳng vào mắt ông như lắng nghe: “Này vện, con người khôn ngoan nhưng ác độc nhất hành tinh này, họ làm đủ mọi thứ dù tàn nhẫn nhất cùng với đồng loại để bảo về cho quyền lực, thế nhưng loài chó thì khác hẳn, nó yêu mến chân thành, dù chủ nó thế nào. Trầm ngâm một lúc.Ông đọc một đoạn văn của luật sư Georges Graham Vest (1830-1904) mà ông thích và thuộc long như bày tỏ lòng cảm ơn với Vện, chính ông bắt từ nhà người bạn khi trở về quê quán không lâu trước lúc ông đi học tập “Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn. Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động, một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta” (1). Bà giáo Vân về, trông thấy ông ngồi trên bàn độc trước mặt có ly nước ngồi đăm chiêu, với thân hình tiều tụy và đầy ghẻ chốc, mủ bắt đầu bung vỡ ra trên áo, bà quá xúc động: - Mình…, Mình… - Mình à, tôi mới được về Và bà khóc rất tự nhiên tiếng khóc vừa vui mừng của đoàn viên xen lẫn với nổi buồn sau chiến tranh mà chỉ có bà (có thể ông nữa) mới hiểu, nó như trận lũ tâm hồn bị nén lại bởi thời gian giờ mới có cơ hội làm trôi đi, trôi đi tảng đá muộn phiền đã ầm ỉ, tích tụ trong lòng bà từ ngày thay đổi. Đợi bà khóc xong, lần đầu tiên trong đời ông chứng kiến bà khóc để nỗi niềm trôi đi như một gánh nặng – ‘Lần đầu tiên người vợ hiền bật khóc/ như tưới trôi nỗi căm giận trong hồn/ Ta cúi mặt che nỗi buồn trước mặt/ hơn vạn lần tiếng dậy của môi hôn’ ông ôn tồn : - Mình à, tôi bệnh quá, người ta cho về, cùng với tôi trong chuyến này có một người nữa, đồ đạt tôi gửi lại cho các anh em còn ở lại, tôi chỉ đem về tấm thân và giao nộp lại cho mình. - Sao ghẻ lỡ đầy mình vậy ? - Nhờ ghẻ lỡ mới được về, họ sợ tôi chết trong trại, mới vậy! - … Thôi, mình ngồi ở nhà, tôi ra báo với mấy con, tụi nó đang trồng lang dưới đám đất gieo mạ ngày trước. - Chiều rồi, để các con làm cho xong đi, chắc tụi nhỏ cũng sắp về. - Chẳng lẽ trên ấy thiếu ăn lắm à ? - Mình còn phải hỏi, thèm thịt, thèm mắm như trẻ nhỏ thèm mẹ đi chợ về, các anh em đi lao động đốn vác cây, hoặc ra sản xuất tăng gia gặp con châu chấu bắt ngay, ngắt đầu rút ruột là bỏ vào miệng nhai, nhiều anh em mùa đậu phộng thu hoạch gánh về, lúc nghỉ mệt lắc vài trái nhai cho đỡ đói, tối về cán bộ kiểm điểm thật xấu hổ ‘đói ra quỷ ra ma’… - Trời đất, sao tàn tệ dữ vậy? - Còn hơn thế nữa, tàn nhẫn. Ánh nắng chiều vàng rực của ngày hạ, xuyên qua cành phượng ta đỏ, vàng phía tây nhà làm rực rỡ thêm cảnh sắc của vườn nhà, cơn gió chiều nhẹ nhàng như thổi vào luồn sinh khí mới, trong nhà ông bà giáo đang ngồi đối diện nhau cùng gặm nhấm cái hạnh phúc đơn giản trùng phùng sau bao ngày xa cách, mà bà chưa được một lần thăm bởi cách trở quan san. Chợt ngoài ngõ tiếng con cái lao xao về sau buổi làm trở về, bà định ra báo, nhưng bà giáo nói thêm : - Trước mắt phải chữa bệnh cho ông, bây giờ nhà thiếu thốn đủ thứ, tôi và các con sẽ cố gắng, bên cạnh bồi bổ để ông lại sức, ông làm gì cứ việc tự do, ông về là tụi nhỏ mừng lắm, chỉ có Dũng là tương đối khỏe nhất nó đại diện sức mạnh nhà mình, nhưng cũng thư sinh trói gà không chặt, mọi cái đều thuê mướn hết, hơn nữa vụ đánh thuế nông nghiệp đến 500 gánh lúa phải dùng tiền mua lúa giao nộp cho nhà nước nên chẳng còn gì trong nhà. Vừa rồi bán bộ bình tách Nhật bổn, ngày xưa ông mua ở Sài Gòn để có tiền xoay xở cho cả nhà. Bà giáo ngưng hẳn vì xúc động như có lỗi với ông. - Không sao, còn về được nhà là may, người còn của còn mình à, tôi tưởng đã bỏ mạng nơi ấy, không thấy được mặt mình và các con, nhưng may là được về cùng ngồi với mình. Lát nữa sẽ gặp các con. Trước mắt bà nấu giùm tôi nồi nước tắm đi cả ngày đường giờ bắt đầu thằng ghẻ nó hành hạ. Ông nhỏ nhẹ - Trời đất, khắp mình mẫy ông chỗ nào cũng vậy, mẹ cha ơi, lần đầu tiên trong đời bây giờ tôi mới thấy hình hài ông, sao đến nông nổi nầy, làm sao chịu nỗi. Bà nói vừa đủ nghe, và chíp miệng thở than * * Sau buổi cơm chiều đoàn viên rất xôn xao nỗi mừng vui lẫn muộn phiền cùng nhiều câu chuyện kể của ông giáo và gia đình, ông đi nghỉ. Dũng đã quét dọn lại, lau chùi sạch sẽ để cha nằm, chiếc chiếu từ ngày ông đi đã được cuốn lại, cất cẩn thận trên đầu tủ trên chái Tây, đâu đó xong nói vọng xuống nhà ngang, ‘cha ơi, lên nhà trên ngủ nghỉ đi, cả ngày chắc cha mệt lắm rồi lại bệnh hoạn’ Tuy rất mệt nhưng khi tắm xong ông cảm thấy nhẹ và khỏe, ông như còn muốn trò chuyện cùng gia đình nhưng tuổi tác và sức khỏe không cho phép, cũng đã hơn 21g ở nhà quê vắng vẻ nên nằm xuống là ngủ ngay, mặc dù bên dưới nhà còn xôn xao tiếng cười vui vì cha mới được về từ trại cải tạo như thể từ cõi chết trở về. Bà giáo nói nhỏ với các con, sợ ông còn tỉnh giấc: ‘tối nay bắt con gà trống choai để mai nấu với đậu đen cho cha mày tẩm bổ nghe, bắt làm sao cho nó không kêu, sợ làng xóm biết… phiền phức lắm. Chị Thanh hiểu ý, mỗi tối người ta thường rình nhà, bởi buổi sáng nào cũng còn dấu dép cao su dười gốc nhãn trước nhà. Chị bắt con gà hay quá, nó kêu oát rồi im bặt, có lẽ nó cũng hiểu tâm sự chị: ‘vật dưỡng nhân’ trong thâm tâm chị chẳng phải vậy, các em đã sẳn sàng nên chừng ba mươi phút là con gà được nằm gọn trong nồi cháo, và Dũng đã cùng em đào lỗ chôn ruột và lông, nghĩ đời mà ngán cho đời, làm con gà tẩm bổ cho cha cũng sợ. Sau 75 hình như ai cũng hoài nghi, tại sao? Nhân tâm ly tán, tình dân tộc chia lìa, ấy là chắc chắn. Không hiểu nỗi nhưng đó là sự thật. Từ ngày ông giáo về chi phí trong nhà bà giáo tăng đáng kể về tiền thuốc men, bà giáo và chị Thanh đan đác nhiều hơn, cũng may, Thủy dưới phố có gian bán nên áo len có bao nhiêu cũng tiêu thụ được, nhờ vậy nhà bà giáo đỡ hơn, cật lực hơn, chạy đua với thời gian, đôi tay bà không ngưng nghỉ, thoăn thoắt cặp cây đan đến độ bà chẳng cần dòm, cũng chẳng có lỗi nào, đúng là trăm hay không bằng tay quen. Khi ông giáo về người ta đến thăm và trò chuyện nhiều hơn, trà và thuốc lá lúc nào cũng phải có trong nhà, để ông tiếp chuyện, hơn nữa ông đã nghiện từ thời ông còn làm việc, tính ông giáo từ xưa vậy. Nghe ông kể từ khi vào trại thèm thuốc anh em chia nhau từng hơi thuốc mà thương, có lúc một điếu thuốc đến những năm người hút, có nhúm trà ngồi quây quần uống cho đến nước trong veo, cũng may những người gần gủi và khá giả gửi vào rồi chia nhau nên bây giờ ông vẫn còn thói quen ấy. CHƯƠNG 8 : CUỘC TRÒ CHUYỆN THÚ VỊ Sau bữa cơm trưa, Dũng không làm gì, nằm nhà đọc sách, nó thích đọc sách khi rảnh rỗi đang đọc Tự do đầu tiên và cuối cùng của Krishnamuti đến chương Tín ngưỡng, đoạn mở đầu : ‘Tín ngưỡng là kiến thức có mối quan hệ rất thân thiết, nếu ta có khả năng thông hiểu hai vấn đề này thì chúng ta có thể thấy dục vọng hoạt động như thế nào và hiểu được những khía cạnh phức tạp của nó’. Ông giáo thấy cần trao đổi vài ý với con, sau khi nghe bà giáo nói về Dũng rất nhiều, ông bèn gọi Dũng : - Dũng à, xuống đây cha nói chuyện với con tí. - Dạ, anh cẩn thận xếp miếng giấy nhét vào trang sách làm dấu trang đã đọc và xuống nhà ngang ngồi cùng ông. Ông rất điềm đạm: - Con à, chuyện không đi học đại học cũng không là chuyện ghê gớm, bình thường thôi, đừng buồn phiền lắm, Biết bao nhiêu người sau cuộc đổi thay lịch sử họ còn rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã dữ dội, con không thể tưởng tượng nỗi, thế nhưng ấy chỉ là hoàn cảnh tạm thời, tất nhiên sẽ thay đổi, nhưng đòi hỏi phải có thời gian, có khi phí cả đời người, đành phải chập nhận. Bây giờ ví như trong một ly nước với đủ các loại đất, cát, sạn đang được khuấy động với cường độ cao, đến lúc nào đó sẽ ngưng hẳn, nước trong sẽ ở trên cùng, thứ nặng nhất sẽ nằm dưới cùng đó là quy luật tự nhiên, nhưng thời gian sẽ làm ổn thỏa mọi chuyện, con còn trẻ đời các con còn dài, tương lai còn phía trước đây chỉ là một thử thách của con, đừng chán nản hãy nỗ lực cho ngày mai, đời người ai cũng có những trở lực nhất định. Cha biết con buồn vì không được vào giảng đường như chúng bạn, mỗi đời người có mệnh số của nó, nhưng đây chỉ là bước đầu con hãy cố gắng đừng chùng bước trước nghịch cảnh. Các em con nữa chưa chắc như con… Cha biết con sẽ làm được, không phải cứ ở trường đại học bước ra mới thành công. Nhân loại rất nhiều người như vậy con à, con đọc nhiều cũng hiểu điều này phải không? Con đã học hết chương trình phổ thông ấy là may mắn, con hãy bình yên ý thức suy nghĩ để đi tiếp chặng đường còn lại, cha biết chắc rất khó khăn, khó khăn là thước đo nghị lực và ý chí của mỗi người, hãy dũng cảm con nhé. - Dạ, con sẽ suy nghĩ và cố gắng trong điều kiện có thể. Ông trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp: - Cha mẹ nào trên thế gian này cũng mong con mình sẽ là nhân tố tốt để phụng sự cho bản thân, gia đình, nhân quần và xã hội, vấn đề là mỗi cá nhân phải giữ được nhân cách, danh dự của mình, điều này khó lắm con à, sau này con sẽ hiểu hãy cẩn thận trong ý thức và sự làm việc mai này. Bây giờ cả miền Nam chứ chẳng phải mỗi gia đình ta hay cá nhân con, Sự tồn tại và phát triển là cả hành trình đời người, Cõi đời này ai không bước qua gian nan thử thách mà thành công, phải không ? con suy nghĩ tìm một phương hướng con nghĩ là đúng và con cứ mạnh dạn bước đi trong ý nghĩ của con, có thể đúng, có thể sai, sau đó chính con điều chỉnh, như vậy mới tiến bộ và phát triển tốt. Thời trước, quốc gia không bao giờ cho phép một ông trưởng ty bổ nhiệm con cháu mình vào cơ quan đó. Chiến tranh kết thúc là chuyện mừng rồi, con đã chứng kiến chiến tranh, nó hủy diết tất cả, chỉ cần tích tắc đã thay đổi, một trái pháo nổ xuống sống và chết như chơi, ai cũng mong hòa bình, nhất là những người lính trực tiếp tham gia chiến tranh, họ khao khát cháy bỏng mong yên bình trở về với đời sống an lành không có tiếng súng, nhằm xây lại quê hương, chiến tranh đã làm hoang phế, chỉ vậy thôi. Thế nhưng sau khi kết thúc chiến tranh lẽ ra họ phải được hưởng sự bình yên, nhưng tất cả ngược lại, chẳng những không bình yên lại rơi vào hệ lụy thảm thương đến nỗi cả gia đình và dòng tộc họ gánh chịu khổ đau, Tại sao? Có thể chế độ sai lầm rất nhiều điều cũng bởi họ vì bảo vệ cái chính quyền mới lấy được của miền Nam nên họ còn lúng túng chưa hiểu nguyên tắc quản trị nên đẩy những người tài ba của đất nước rơi vào hoàn cảnh dỡ chết dỡ sống, làm tang thương cả nửa nước, nếu như họ tĩnh ngộ biết trọng người tài, nghe lời phải, lấy nhân trị cha nghĩ sẽ khác, nhưng thôi, chuyện đã qua rồi, như cha đây, là một công chức hạng trung, dạy tư thục thêm một đời tận tụy phụng vụ cho người, cho đời, để sống đàng hoàng trước xã hội, chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày như bây giờ, thế mà cũng phải học tập cải tạo, mà sự thật có cái gì để học tập, chỉ lao động chân tay, tuy chưa phải khổ sai thôi chứ ngày đến tối rừng với núi đốn củi, trồng rau, nuôi heo bò, sống không ra sống trong trại cải tạo, thèm thịt đến nổi bắt châu chấu ăn, trông như dã thú, mà con biết không toàn những người quan quyền, cán bộ cũ trí thức ngày trước đời sống rất vương giả, giá như nếu những người chiến thắng cứ cho họ làm việc theo chuyên môn trở lại với sự quản lý nhân văn, có tình thương đồng bào thôi có lẽ quê hương, đất nước sẽ khác hơn rất nhiều. Cho nên có một nhà thơ viết ‘Mỗi đời sống phải trả bằng nước mắt/ mỗi mặt trời trả giá một hoàng hôn’ câu thơ nầy rất hàm súc. - Dạ, với đầu óc non nớt chưa hiểu, chưa có nhận định như ba, nhưng con cũng biết những vấn nạn cha trình bày. Nhưng cha ơi, tại sao chế độ ngày trước người cha làm ty trưởng chính phủ không cho bổ nhiệm con hay người thân vào làm cùng nhiệm sở? - Con đặt vấn đề tại sao như vậy là cha vui, người ta đã nghiên cứu thấu đáo về nguyên tắc ấy, quan hệ tình cảm khắn khít giữa cha con, vợ chồng và anh em và cả dòng tộc nữa bao giờ cũng có tình cảm, trên thế gian này ai không có tình cảm, vì vậy khi bổ nhiệm một người thân dưới quyền chắc chắn sẽ có thiên vị, cất nhắc dù cho người ấy bất tài hơn, để tránh những sai lầm ấy, chính phủ VNCH không cho phép, vậy thôi. Bản chất của con người là tham lam và ích kỷ, luôn tạo phe cánh thân hữu, nếu không ngăn chặn điều ấy sẽ tạo nên khủng hoảng tâm lý cho những người tài ba, có trách nhiệm biết phụng sự cho xã hội, cho đời. Dũng lặng yên nghe những lời tâm sự của người cha, người thầy, như lời vàng. Bất chợt có tiếng chó sủa ngoài nhà, thì ra người cùng làng đến thăm, Dũng vội đi nhường chỗ cho ông giáo và người láng giềng. - Chào anh, nghe anh mới về tôi ghé thăm. Chú Năm Mẫn nói: - Chào chú Năm, tôi mới về mấy tuần rồi, cả nhà khỏe cả hả chú ? Ông giáo nói - Thấy anh về nhà là vui rồi, tuy sức khỏe không được khỏe như trước. - Về tới nhà là phước chú à, tôi tưởng bỏ xác ở rừng rồi không về được tới quê nhà. - Có gì dữ vậy, anh? - Mấy ngày trước khi về tôi sốt cao, nằm li bì, ăn không được, đi không nổi luôn, tôi tưởng mình không qua, tôi có nói với các anh em trong trại, nếu có mệnh hệ gì báo cho người nhà tôi, rồi bỗng có ông y sĩ trong trại xuống khám và cho ít thuốc cầm cự, cả tuần, sau đó tôi có lệnh được phóng thích, có lẽ họ sợ tôi chết trong trại thì phải, cầm giấy ra trại mừng hết lớn, anh em trong trại cầu mong tôi sẽ kịp về được gặp vợ con cũng an lòng. Khi tiễn tôi về ai cũng bùi ngùi, xúc động đặc biệt. Tình yêu anh em trong trại lớn lắm, lúc hoạn nạn mới thấy hết cái tình của những người đồng cảnh ngộ. Ai có hoàn cảnh ấy mới hiểu. Hôm nay thế này là đỡ lắm, nhờ có thuốc trụ sinh của chú y tá quân đội cũ còn lại ở xóm trên, sự bồi bổ của gia đình, ơn trời và phước đức ông bà chú à. - Thì ra vậy, Giờ anh tính sao ? - Tính với toán gì chú, bây giờ vợ con tôi thêm gánh nặng nữa, ở trại có gánh nặng của trại, về nhà có gánh nặng của nhà, vừa thêm nhân khẩu, vừa thuốc men, trăm sự nhờ nhà tôi và các con. Chú uống nước đi. - Dạ, sau khi hòa bình lặp lại tưởng đoàn tụ, ai ngờ ly tán, mạnh ai nấy lo cho mình, kẻ đi Nam, người vào trại, kẻ vượt biển tìm tự do…biết bao tang thương anh hả? Theo suy nghĩ anh đất nước rồi sẽ ra sao? Trầm ngâm một chút, ông giáo nói: - Nếu không kịp thời thay đổi cách trị nước rất khó bình yên, cổ kim đến giờ muốn muốn bình phải an dân, người miền Nam vốn họ có sẳn tự do, dân chủ và khai phóng, đột ngột bị nhốt vào rọ họ cảm thấy ngột ngạt khó thở, như vậy sẽ cựa quậy, nếu những người lãnh đạo tìm ra phương kế tốt sẽ an được, còn ngược lại thì khó với cách nầy, thời gian rất lâu. Có thể vài ba mươi năm. Chiến tranh kết thúc là niềm vui lớn cho dân tộc, thế nhưng chính sách mãi kìm hãm và cho cán bộ quân cán chính chế độ cũ, người ta cho là ngụy rồi bắt phải học tập cải tạo, chẳng biết khi nào về. Họ đâu phải người có án, nếu có án thì án gì? Phục vụ cho tổ quốc, dân tộc là điều đương nhiên của một công dân ái quốc, không phụng sự trốn tránh mới là người có tội. Bất cứ người công dân tốt nào trên hành tinh có tổ quốc đều như thế cả, thế nhưng khi chính quyền mới chiến thắng lại áp đặt những người phụng sự cho chế độ miền Nam là có tội, ấy là sai lầm lớn, lý của kẻ mạnh, lý của người chiến thắng, cái sai lớn đó sẽ có nhiều vấn nạn về sau, nên‘tiến bộ’ mới cho về, bằng không thì ở trại mãi không biết kêu đâu. Thế nào là tiến bộ cũng thật mơ hồ, nghĩa là nói sao hay vậy gọi là tiến bộ, chó nói mèo cũng ừ, là tiến bộ sao? Chú thấy rồi, ấy là sự thật làm sao có giải pháp hợp lý được, phải không? Chú 5 gật, gật đầu có vẻ đồng ý nhận định ông giáo vừa nêu, và tiếp: - Anh nghĩ thế nào về mai sau ? - Chú nhớ bức tranh dân gian Đông Hồ: Đám cưới chuột chứ? - Dạ thấy, nhưng sao anh lại nói đến đám cưới chuột ? - Về tự nhiên, mèo là bắt chuột, ăn thịt chuột. Thế nhưng ở đây, dân Việt ta đứng trên xa quan điểm Khổng giáo, ngang tầm với Thích Ca, Giesu đừng nói chi chủ nghĩa Mác- Lê trả thù giai cấp. Nó hàm súc và nhân văn, một triết lý tuyệt vời của Việt tính. Mèo như bậc quyền năng sinh sát vẫn hạ mình xuống làm chủ lễ cho vợ chồng nhà chuột khi chuột thật sự có nhu cầu, đến nộp mạng và xin ngài Mèo, làm chủ lễ đám cưới, suy nghĩ và quyết định làm chủ lễ để cho đại gia đình nhà chuột thỏa mãn khát khao được hạnh phúc, duy trì nòi giống, rất nhân văn, đó không phải là bài học cho người Việt sao? Tôi nghĩ một câu chuyện của người Việt xưa đâu thua kém, thậm chí còn hơn cả La Fontaine – ông vua của ngụ ngôn nữa. - Cha mẹ ơi, anh nói em mới biết từ hồi nào đến giờ cứ xem thấy vui thôi chứ nào tìm hiểu căn nguyên chi đâu, người xưa tuyệt quá anh hả, cảm ơn anh mở thêm kiến thức cho em, trong cả chiều. Chiều đã xuống tự khi nào, đàn trâu bò đi ngang trước nhà kêu lên vài tiếng ụm bò, các anh chị thợ cày, thợ cấy dắt nhau hàng đoàn lũ lượt trở về sau một ngày vất vả ngoài đồng áng. Buổi chiều nơi thôn dã bình yên lạ thường, thỉnh thoảng cơn gió chiều đem lại sản khoái cho sự oi bức mùa hạ, chú Năm Mẫn mới chịu chào ra về. Tiễn chân chú, ông giáo đưa ra tận hè nhà. Cả chiều ấy, bà giáo đã lặng yên, chăm chỉ ở phòng bên hoàn thành vạt áo len, bà nhoẽn miệng cười thật tươi khi sản phẩm đã xong, chờ các con ngoài ruộng trở về quây quần bên nhau trong bữa cơm ấm áp sau ngày làm đồng. Nói với ông giáo: - Ông à, bây giờ lòng người đổi thay nhanh chóng lắm, ông cẩn thận mới về chưa hiểu đâu, ông nói chuyện trong cách sống, đừng nói quan điểm, chuyện tai vách mạch rừng làm sao hiểu được lòng thiên hạ, lỡ rắc rối thì khổ. Như hiểu và cảm thông, ông vẫn ôn tồn: - Bà à, chú Năm trước là nhân viên của tôi, lòng chú chân thành, từ tâm tôi nghĩ chú không đến nỗi nói bậy, làm bậy, nghi ngại là đúng nhưng với người nào, chứ ai cũng nghi làm sao có người để chuyện trò, thời nào cũng còn có người tốt, kẻ xấu, cần nhất là biết và hiểu. - Tôi chỉ nhắc chừng ông để ông nhớ thôi. Thời này nhiều kẻ táng tận lương tâm lắm, không như trước đây, đạo đức và luân lý như giềng mối cho gia đình và xã hội. Làng dưới, chú Tư cảnh sát cũ mới về có 3 tháng bị chính quyền bắt lại, không biết lý do gì, cả huyện ai cũng biết. nghe đâu chú Tư bị người ta phỉnh phờ vào tổ chức gì đó. - Vậy à. Ông giáo phân vân… Bọn nhỏ i ới về đến ngõ, ông bà giáo không nói nữa, vội quay về chuẩn bị cho thành viên nhà bữa cơm chiều, nhà quê chỉ sinh hoạt buổi chiều, đến tối có khi đi họp thanh niên, nông dân, phụ nữ đủ việc, có thể đến cả nửa đêm mới về đến nhà, không đi họp phải có lý do chính đáng, hội đoàn người ta quản lý rất chặt chẽ. (…) NDT (còn nữa)
CHƯƠNG 9 : BÀ GIÁO ĐI HỌC TẬP Sáng hôm ấy rất đặc biệt, đặc biệt hơn mọi ngày hai anh xã đội địa phương cầm giấy mời đến nhà ông bà giáo Vân, một người mang súng AK còn người kia đội nón cối loại nón của bộ đội, nhưng ở Xã hình như cán bộ mới được đội loại nón ấy, trên vai có mang xà – cọt màu đà, có bút sắt đóng mở như cặp tắp vào nhà bà giáo. - Trong nhà có ai không ? Một người hỏi to - Ai vậy, có. Bà giáo Vân vừa nói, vừa bước ra. - Có phải là cô giáo Vân? Người mang xà - cọt hỏi - Dạ, đúng rồi, Tôi là Giáo Vân. - Chào bà, UBND xã có giấy triệu tập mời bà xuống xã làm việc vào 8 giờ sáng mai. - Dạ thưa, có vấn đề gì không cán bộ? - Không biết cô à, tôi được lệnh đem giấy triệu tập mời bà, còn việc khác sẽ có chính quyền, mong bà đi đúng giờ. - Vào nhà uống nước đã các ông, nhà có sẵn trà thơm. Miễn cưỡng các ông cán bộ vào nhà, sau khi ngồi vào bàn, bà Vân rót 2 tách nước nước: - Mời 2 ông dùng nước, có chuyện gì mà triệu tập, tôi không biết xin hỏi các ông, các ông biết nói giúp để còn chuẩn bị cho chu đáo. - Dạ, không rõ, chúng tôi chỉ biết đi mời đúng người thôi. - Vậy à, tôi cả đời đi dạy, chỉ biết gõ đầu trẻ chính hiệu, ăn lương có làm gì khác đâu. - Chúng tôi không biết, bà đọc giấy mời sẽ rõ. Cảm ơn bà đã mời nước, tôi còn vài công việc giải quyết trong sáng nay, xin phép bà giáo, chúng tôi cần phải khẩn trương. Tiễn 2 ông cán bộ ra khỏi cổng nhà, bà linh cảm chuyện không hay, muốn hay không cũng phải xuống xã ngày mai. Bà ra phía sau, ông giáo đang chuẩn bị chẻ lạt để bó mạ cho ngày cấy hái vụ hè thu, gặp ông giáo bà nói: - Ông à, xã mời tôi, triệu tập ngày mai, không biết chuyện gì? người đi mời có mang theo súng trường. Ông bà cùng vào nhà như có điều hệ trọng lắm. Ngồi trên bàn nước, bà mở giấy ra, đây ông à, nội dung thế này… hổng biết có chuyện gì ông? - Chắc là có vấn đề rồi, đem theo 3 ngày ăn, bà nhớ tôi hồi ấy không, cũng như vậy, chỉ 7 ngày ăn nhưng gần 2 năm mới về, may là tôi sắp chết, chứ không biết đến bao giờ. - Tôi, cũng chẳng hiểu nổi lý do gì nữa, ông à. Sợ các con lo không nổi cuộc sống khổ cực, có hai mẹ con đan len cũng chằm đắp được, tôi đi rồi không biết các con ra sao? Ông thì từ hồi nào đến giờ có biết làm gì đâu, mọi chuyện áo cơm tôi quán xuyến hết. Làm sao đây ông? Ông nói với con Thanh nó quán xuyến nghe. - Ừ, ừ…Nguy rồi đây, tôi mới về chưa kịp hoàn hồn đến phiên bà, không biết thế nào nữa, lấy phước Trời mà đong thôi, mà thật lạ cả đời bà dạy học cả huyện này ai cũng biết, cũng hiểu như vậy, nhưng tại sao? Ông giáo miên man khá lâu nói. Buổi tối cả nhà ngồi lại, chung quanh là con cái, tuy chẳng hiểu điều gì thực sự sẽ xảy ra nhưng chắc chắn là tin chẳng lành. Ai cũng buồn thiu. Con bé út khóc òa sợ mẹ đi lâu không về, hoặc về rất lâu như cha, ai cũng vỗ về nó. Cả đời bà giáo Vân làm người đưa đò, nhất là trong chiến tranh biết bao hiểm nguy nào pháo kích, nào chiến trận… không bao giờ từ nan, chăm chỉ như ong cứ đều đặn đến lớp từ phố về quê cho các em nền móng kiến thức ban đầu của cuộc làm người mong mai sau phục vụ cho xã hội như câu châm ngôn trên vách các trường chưa xóa nhòa trong ý thức của các em học sinh thời ấy: Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời. * * Buổi sáng hôm ấy, Dũng chở bà xuống UBND xã, một túi xách vải Jean đựng 5 lon gạo, ít lương khô cho 3 ngày ăn và túi lớn Air VN đựng đồ đạt cá nhân, nhất là cái mền len và mùng tuyn. Cả nhà chẳng ai thiết đi làm gì, đưa mẹ đi tập trung về xã, con vện đứng buồn hiu, nó cũng có nổi buồn, đừng tưởng loài chó không biết buồn, lặng lẽ quanh chân bà giáo Vân, không rời nửa bước, bà buồn lắm, cúi mặt quyệt dòng nước mắt chảy xuống má. - Sao gia đình mình khổ thế này, Tôi đi nghe mình, - Mẹ mầy ráng cẩn thận, bảo trọng. Lành dữ khó lường! Cả nhà không khóc nhưng mắt nào cũng đỏ hoe. - Mẹ ráng cố gắng nghe mẹ, các con chờ mẹ. Có lẽ, trong đời chưa có cuộc cuộc tiễn đưa nào buồn hơn, bởi có đi đâu về đâu cũng biết được thời gian và nơi chốn, còn cuộc tiễn đưa nầy không biết bà giáo sẽ đến đâu? Dũng chở mẹ qua khúc quanh, bà giáo Vân còn nhìn lại hình dáng cha con không chớp mắt, đến khi ngôi nhà mờ đục trong nước mắt lưng tròng trên người bà. Bà nói với Dũng: - Con à, con là lớn trong nhà, ba con đã lành ghẻ và sức khỏe có vẻ đỡ hơn trước nhiều, nhưng còn yếu lắm sẽ còn những di chứng, chị Thanh mẹ đã dặn dò cả rồi, nổ lực cùng chị nhắc nhở các em, cố gắng đến trường kiếm chữ nghĩa, cả đời cha mẹ mong các con có chữ nghĩa thôi, mẹ biết bây giờ gia đình chúng ta khổ sở lắm, nhưng rồi cũng sẽ qua, mẹ đi chưa biết khi nào về, phải cần kiệm tối đa chờ mẹ về. - Dạ, con biết phải làm gì. Dũng ở lại cùng những người có thân nhân đi tập trung trong chuyến này trong sân UBND xã, phụ nữ duy nhất chỉ có bà Giáo, đến khi mọi người vào tập trung bên trong, các ông du kích yêu cầu tất cả ra về. Dũng còn nấn ná bên ngoài dây thép gai rào chắn, đến khi vắng ngắt mới nặng nề đạp xe về nhà. Trưa hôm ấy, ông giáo buồn nằm một mình, chưa biết san sẻ nỗi niềm cùng ai, bà giáo đi rồi hình như ông trống vắng chưa có chỗ dựa tinh thần, chỉ có Dũng có thể chuyện trò, nhưng nó còn có việc, còn suy tư, ông cũng ngại. Dũng thao thức, Tại sao mẹ lại tập trung để học tập, chắc phải có lý do? Nhưng đầu óc anh suy luận cũng chẳng thể hiểu. Suốt cả đời bà chỉ dạy tiểu học, cho đến khi chế độ Cộng hòa kết thúc, bà mới thôi dạy, chẳng lẽ dạy học, đầu tư kiến thức cho thế hệ kế tục cũng có tội sao? Mở trang sách nhưng tất cả quay cuồng, mịt mờ, khi suy nghĩ vấn đề gì tất cả bị phân tâm, không thể tập trung dù một trang giấy. Dũng bèn xuống cùng cha, chỉ cha mới có thể hiểu và cho mình biết. Cha ơi, nghe tiếng Dũng, ông lên tiếng: - Có gì không, con? - Con phải hỏi cha cho bằng được, tại sao mẹ cũng tập trung đi học tập, sáng nay con nghe ngóng ở xã, hiểu rằng mẹ có thể đi cải tạo xa, tại sao đi dạy học cũng có tội, chế độ cách mạng kiểu gì, ai làm việc cho chính quyền cũ cũng có tội, họ không hiểu rằng “mọi công dân đều phải được học hành mới thành người tốt cho xã hội, đó là giềng mối cơ bản về đạo đức, tri thức để xã hội ổn định và phát triển muôn thuở, là cội nguồn của dân tộc Việt Nam, không biết họ là dân tộc gì? “Mọi sự tốt hay xấu trong xã hội đều do giáo dục mà ra cả” như Johnlock từ thế kỷ 15 đã nói. - Ngoài Bắc cũng được học tập, nghĩa là trên hành tinh nầy quốc gia nào cũng thế, có thể ngoài ấy học theo chính sách Trung Cộng hay Nga Sô nên có lẽ họ chỉ dạy cho con người tính chiến đấu, tình yêu chủ nghĩa cách mạng cộng sản, lòng hận thù về giai cấp, lòng thù hận chính là tinh xà, là ác quỷ nó mất đi tính người. Con người cốt lõi là tình thương yêu, là nhân văn, tình dân tộc nghĩa đồng bào. Cái cao quý nhất của đời người là tình yêu thương chân thành và danh dự trách nhiệm của một người trước gia đình, xã hội, dân tộc và tổ quốc. Nếu mãi suy nghĩ theo số ít nhóm cai trị thì đào sâu tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Giải phóng có nghĩa là làm cho tự do hơn, thoát khỏi sự gò bó chật hẹp, tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, chứ nào phải trả thù giai cấp. Một sai lầm không thể hiểu nổi của giới cầm quyền phía Bắc. Lịch sử sẽ không tha thứ vấn đề này. Mẹ con là một nhà giáo có uy tín của huyện này, có thể là đảng Dân chủ của ông Tổng thống Thiệu, ai làm cho chính phủ cũ cũng là đảng viên Dân chủ, nhưng đó chỉ là hình thức thôi. Cha cũng vậy, nghĩa là công chức chính phủ đều là đảng dân chủ cả, chỉ là hợp thức hóa công chức, không biết mấy ông này suy diễn thế nào? - À, có thể vậy, con hiểu rồi. Như vậy cả người miền Nam Việt Nam phải vào tù. Vô lý thật. - Lý của kẻ chiến thắng có súng, thế thôi, con đừng nhọc tâm chuyện này nữa, chẳng lợi lộc gì. Con đã lớn rồi, như chim đủ lông đủ cánh bay thẳng vào cuộc đời. Cuộc đời rất công bằng ai thật thà, nổ lực, chăm chỉ sẽ có đời sống tốt, còn những giả dối, lọc lừa có thể trước mắt họ có tiền bạc và danh vọng nhưng chắc chắn sẽ hệ lụy và khổ đau về sau, cổ nhân có câu ‘Lưới trời lồng lộng’ là vậy. Bây giờ, chưa phải là thời vì quá nhiều nghịch cảnh, Không sao, khi còn khó nhọc, chưa có thời lập thân đồng thời lập chí, nhất là danh dự, phải gìn giữ và chăm bón bởi danh dự chính là nhân cách của con người, điều này khó nhất trong cuộc làm người con à. Như vỡ lẽ, Dũng nắm bắt được một số ý niệm, để vào đời với ý thức sống tốt đẹp và làm người xứng đáng. Dũng tính hỏi đôi điều nữa, nhưng thôi. * * Đã 2 tuần trôi qua không biết bà giáo Vân đến phương trời nào, dấu hỏi trong đầu của cậu thanh niên là tại sao? Dũng bức bối lắm, bèn muốn nói cùng cha, nhưng có lẽ thấy ông buồn rười rượi chẳng tha thiết gì cũng thương, nên nấn ná chưa đặt vấn đề. Buổi cơm chiều đông đủ, Dũng bèn mạnh dạn nêu lên : - Cha à, lý do gì mà người ta bảo đem theo 3 ngày cơm mà bây giờ mẹ biền biệt không biết đến nơi đâu, hay là cha xuống xã hỏi thử. Trầm ngâm một lúc lâu, ông nói : - Cha còn bị quản chế, khó nói lắm, các con xuống xã hỏi thử mẹ bây giờ ở đâu, còn biết mà liệu tính. - Thôi được, ngày mai con sẽ xuống xã hỏi mấy ông cán bộ thử thế nào? Dũng nói. - Đúng vậy, em là thanh niên hỏi để cả nhà biết, các chị em không ai bằng em, cố gắng nhé, nhưng tránh tranh cải với cán bộ xã, em nhé. Chị Thanh nói - Em hiểu mà… Sáng ấy, Dũng xuống xã áo quần chỉnh tề, mang dép cao su vào tận bàn của vị cán bộ xã. - Anh đi đâu, có việc gì ? một cán bộ hỏi - Thưa anh, tôi xuống hỏi mẹ tôi bà giáo Vân, vài tuần trước được UBND xã có giấy triệu tập mang theo 3 ngày ăn, đến hôm nay, gia đình không biết đi đâu, mong anh trả lời giúp - Không rõ anh à, xã chúng tôi đã chuyển bà lên huyện, như thế không còn trách nhiệm, anh chịu khó lên huyện hỏi. - Thưa anh, khi xã triệu tập, mẹ tôi chấp hành, lẽ ra phải thông báo cho gia đình. - Chuyện ấy xã không rõ, tôi bảo anh lên huyện mà hỏi nhé. - ??? Quá bực tức, UBND xã triệu tập, nhưng khi hỏi họ không có trách nhiệm với dân, trả lời qua loa đã chuyển lên huyện, hình như họ coi chuyện ấy bình thường, hồi ấy vấn đề hành chánh không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là quản lý người, tất cả hệ thống quản lý rất chặt chẽ, từ tổ, ấp hội đoàn rất mạch lạc một ai tới lui địa phương người ta đều biết, có lẽ chính quyền mới chưa biết quản trị, nhưng công việc quản lý phải nói rất tuyệt, những năm tháng mới giải phóng hầu như vậy, người dân cố dò dẫm tìm ra để giúp đỡ cho thân nhân mình ‘máu chảy ruột mềm’ mà, có khi mấy tháng sau mới biết chính xác, bởi người thân nhắn nhủ cho gia đình để thăm là chính. Cuối cùng Dũng phải ra về, cả buổi sáng coi như công toi. NDT (Còn tiếp)
CHƯƠNG 10 : ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ
Chờ đợi tin mẹ vả hỏi thăm, lần hồi cũng biết mẹ đã ở trại tập trung cải tạo. Lũ con bà thắc mắc hoài, cả cuộc đời mẹ – Bà Giáo Vân mãi chăm chỉ và dành trọn thời thanh xuân và trung niên chăm sóc dạy dỗ cho các học trò bé con, người uốn măng non cho có nề nếp để mai sau thành tre cứng cáp về đạo đức làm người, người bắt những bậc thang đầu đời cho các thế hệ bé con đi đến khung trời kiến thức và đạo đức mai sau, ngoài ra quán xuyến, chăm sóc cho gia đình với bổn phận và trách nhiệm, bà đâu có làm gì nên tội tình mà học tập, vô lý hết sức. Trong nhà không thể tìm ra câu trả lời hợp lý. Nhưng đó là sự thật. Biết nói sao bây giờ, cứ phải tìm cách giải quyết trước mắt. Suối Bùn, thuộc xã Hành Tín. Xưa kia, cây cối còn um tùm hoang sơ, đường sá hiểm trở không người qua lại muỗi mòng, rắn rết, vắt, ngay cả thú dữ ... đã làm cho địa điểm vùng này hoang vắng lắm và hai bên cư dân bị ốm đau, đến nỗi, dân gian có câu : “Bất ẩm Thiên Xuân khê”, nghĩa là không uống nước khe Thiên Xuân, rất độc nhất là thuốc khai quang vẫn còn trong những năm sau chiến tranh. Câu nói ấy vẫn còn lưu ở vùng phía bên tây dãy núi. Trước năm 1975 dường như là vùng của quân đội cách mạng hoạt động và kiểm soát 100% . Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không bén mảng đến bao giờ. Sau năm 1975 có trại cải tạo cho quân cán chính của chính quyền cũ chức sắc nhỏ, bà Giáo Vân bị đưa lên ấy, không biết vì phạm tội gì. Chị Thanh cùng với những người nhà bị triệu tập hôm ấy hò hẹn để đi thăm mẹ. 4 giờ sáng chị đã chuẩn bị chu đáo những vật dụng cần thiết để hành trình chuyến vượt núi trèo đèo thăm mẹ. Dũng cũng chuẩn bị cho chị loại đèn lon, đèn làm bằng lon sơn Bạch Tuyết có vòi xe đạp để luồn tim và liên kết với lon sữa bò, bên trên ngay vòi có đục lỗ để thoát khí bằng vòi xe đạp có ốc siết chặt để thắp đi đường khi trời tối, ánh sáng yếu ớt dẫu sao cũng đỡ hơn không đèn. Sau chiến tranh kết thúc, mọi thứ còn lại quá ngỗn ngang, người ta bắt đầu khai khẩn làm ruộng rẫy, thỉnh thoảng vẫn còn tiếng nổ ì đùng của đạn bom còn sót lại người chết và bị thương do khai khẩn, đó là nổi đau lớn di chứng còn lại của chiến tranh, chẳng ai muốn nhưng hoàn cảnh xảy ra phải chịu. Các bãi mìn lớn chung quanh đồn bót đã có lực lượng công binh quân đội rà soát đào lấy, mục đích hạn chế tối đa có thể, nhưng làm sao hết hẳn được, các trái đạn mồ côi còn rơi vải trên khắp đất nước. thỉnh thoảng vẫn có tiếng ì đùng nổ làm chấn động không gian, một tai nạn thương tâm xảy ra ít nhất một mạng người bị thương hay thương vong.. Qua cầu Cộng Hòa đi chừng 5, 7 cây số nữa đến suối Bùn. 4 bạn bè tập trung lại gửi xe đạp, ở quán che tạm bên ngoài, rồi đùm túm gánh gồng vào trại. người quản lý nhận các giấy tờ thăm nuôi thân nhân, ngồi chờ đợi gặp. Qua khoảng trống chị thấy trong đoàn người ra gặp người nhà ai cũng cầm theo một cái bao nhựa, tất cả là đàn ông, chỉ có mẹ là đàn bà, dáng ai cũng gầy còm, chị nhận ra mẹ ngay, 10 h 00 mẹ ra, người cán bộ gọi chị vào gặp, thấy mẹ chị khóc òa, nói không ra lời, chị vốn đa cảm từ nhỏ, tiếng khóc mất toi gần năm phút, người cán bộ tới bên chị, nhắc nhở “chị có 30 phút để thăm hỏi” thôi nhé, chị như tỉnh ra, xin lỗi và rồi mẹ con chuyện trò: - Cha con và các em ở nhà có sống nổi, nhà mình còn đan áo để kiếm thêm, cha con đỡ hơn không? Một loạt nhiều câu hỏi chung quanh gia đình... - Tất cả bình thường mẹ ơi. Mẹ trong này có đói không? Bà đưa ngón tay lên trước miệng làm dấu, nghĩa là đừng hỏi vậy, bà nói nhỏ: - Mẹ ở dưới bếp trong tổ nấu ăn và tăng gia, sản xuất nên có cơm không đến nổi đói. Câu chuyện linh tinh xoay quanh gia đình, chủ lực là lo lắng cái ăn cho nhà và sức khỏe công việc của gia đình, loay hoay cũng hết giờ. Cán bộ cai quản nhắc nhở: “chị và cô còn năm phút, chị lật đặt lon lương khô, bịch thuốc tây, thuốc chống nước, kem, bàn chải đánh răng và nói “con ghi sẳn trong từng món, mẹ cẩn thận ở lại học tập, đừng lo lắng gì cho nhà, từ ngày mẹ đi hình như các em đứa nào cũng siêng hơn, làm việc và hội họp chăm chỉ hơn”. Bà giáo bỏ gọn tất cả đồ vào bao, chị Thanh chào bà rồi ra về, mắt bà rưng rưng nhìn theo. Chị Thanh rất xúc động lúc chia tay bà, chị quay lại nhìn mẹ khi bà trở lại trại, chị quệt nước mắt trước khi bước ra khỏi nơi ấy, dù vậy mắt vẫn đỏ hoe. Cả 4 người trở về nhà, trên đường về tuy nắng gắt, nhờ có gió nên chẳng ai cảm thấy mỏi mệt, hàng đôi sánh nhau chuyện trò trên con đường dài và hẹp còn khá hoang vắng. Chập choạng tối chị Thanh về tới nhà, con Vện chạy tận ngõ đón chị vào nhà, nó hớn hở vẫy đuôi, ve vãn cùng chị vào nhà, mắt ngóng như trông chờ một tin lành truyền đi từ chị, ai bảo loài chó không thông minh, nó hiểu cảm xúc buồn vui của con người, trời đất đã ban tặng cho loài người một con vật sát cánh biết đồng cam cộng khổ với chủ. Tuyệt vời vậy nên cả nhà ai cũng cưng quý nó. Cả nhà xúm xít hỏi thăm mẹ, đứa nào cũng mừng vì mẹ bình an và khỏe mạnh, nhất là cha, ông hỏi chị Thanh: - Mẹ con thế nào, có khỏe không? - Con nói chuyện với mẹ gần 30 phút, nơi ấy chỉ cho thời gian nhất định 30 phút thôi, mẹ ổn, được cái mẹ ở dưới bếp, mỗi sáng trưa có nhiệm vụ cắt rau lan xắt để nấu cháo heo chăm đàn heo, công việc không khổ sở và nhất là gần bếp ăn nên không đói. - Vậy là được rồi, cha chỉ sợ lao động nặng, mẹ sức yếu đói ăn có thể bệnh tật, chướng khí dễ mất mạng. - Mẹ hỏi sức khỏe cha nhiều nhất, Cha giữ gìn sức khỏe lỡ bệnh không có mẹ nhà, mệt lắm và thăm các em, chăm ngoan làm việc chờ mẹ về. - Con có hỏi lý do gì mẹ bị cải tạo không? - Dạ không, thôi cha. Mẹ bình an là được rồi mai mốt cũng biết thôi. - Ừ, số trời, họa vô đơn chí, rồi ông trầm ngâm, nhìn xa xăm như có điều gì suy nghĩ. Cuộc thay đổi quá lớn, đang bình yên bỗng chốc xáo trộn, không ai có thể lường được số mệnh là vậy. Ai cũng lo lắng nhưng rồi cũng chẳng giải quyết được gì. NGÃ DU TỬ (còn nữa)
CHƯƠNG 11: Từ ngày bà giáo đi, ông giáo có vẻ buồn hơn, tuy vậy ông vẫn cứ chăm chỉ làm lặt vặt trong vườn. Ông giáo gần như một nông dân thuần chất, buổi sáng chỉ uống chè lá xanh, thỉnh thoảng có khách ông mới chế bình trà Tàu, thuốc lá vấn rồi ngồi trước nhà đan đác, hoặc cuốc đất trồng tỉa cho vui, chỉ áo may–dô, quần đùi gần trưa mới vào nhà. Sách vỡ không còn để đọc, bao tử đấu tranh liên tục nên ý thức bây giờ là cơm củ ‘khi cái củ mì to hơn thần thánh/ đừng nói chì đạo lý và lương tâm’, ông dè xẻn lời nói với mọi người lạ, chỉ trò chuyện với con cái, thỉnh thoảng có người bạn thân từ ngày trước ghé thăm mới trò chuyện cởi mở. Gia bần trí đoản quả chẳng sai tí nào. Còn mỗi chị Thanh đan áo, cứ mươi ngày xuống tỉnh một lần đem áo len xuống, kiếm ít tiền, mua len về đan, đắp đổi qua ngày, chờ mẹ về. Đời sống chật hẹp ở làng quê, nơi cắt rún chôn nhau sao nghẹt thở ê chề, ngao ngán nhất là không có tiền chi tiêu, vài đứa em nhỏ học đến lớp chín, cũng không được đậu vào lớp 10 trường phổ thông, không thể đi học tiếp được. Sự tàn nhẫn của chế độ đối với gia đình có người học tập lúc bấy giờ là vậy, khi còn tuổi được học không cho học chỉ vì cha mẹ các em làm việc cho chính phủ trước, mấy ông cán bộ già thì học bổ túc, chữ viết chưa ngay, ngược ngạo thế nhưng kiểm tra cứ lên lớp như thường. Một năm ba bốn lớp, họ học được cái gì? Biết bao sự oan uổng cho các em học giỏi và chăm ngoan là nạn nhân của chế độ sau 1975. Út nhỏ thi vào mười khi xem danh sách không có tên, nó về khóc tức tưởi, em không thể không đậu, giá như nhà trường cứ không cho em thi từ đầu, đàng này ‘cũng lều cũng chõng cũng đi thi’. Đại vô lý nhưng làm gì được khi người ta cố tình không cho đi học, nó chỉ biết khóc tức tưởi cho nhẹ nỗi oán giận. Rồi đây, lịch sử sẽ nhắc lại, phê phán điều tồi tệ nầy, lẽ ra không thể xảy ra, nếu người cầm đầu chính phủ có trí óc hiểu biết và trái tim độ lượng hơn. Ông giáo phải nói chuyện với nó mấy ngày, mới nguôi giận và trở về với ruộng đồng, vườn tược. May thay, tiếng khóc đã trôi đi những muộn phiền và rồi cũng đứng dậy nổi để sống với tuổi thanh xuân. Tuổi trẻ xốc nổi nhưng nỗi buồn cũng qua nhanh và bắt đầu với con đường mới. Con đường có lẽ gian nan, đầy bất trắc nhưng thế gian đâu có con đường nào trải đầy hoa hồng. Út đã bắt đầu như thế . CHUYỆN CỦA ÚT Mùa xuân năm ấy, cái tết cận kề còn vài mươi ngày nữa là đến tết. Út nãy ra ý nghĩ : Chị à, hay là chị mượn cho em ít tiền, em sẽ làm gánh hàng bánh bán ở 2 chợ, chợ huyện và chợ chiều. Khởi đầu cho một cô bé dễ thương vừa bước vào cổng phổ thông trung học bị chế độ chắn ngang bởi cổng rào lý lịch, cả nhà ai cũng mủi lòng. Ngắn cổ kêu chẳng thấu trời. Thương em, chị Thanh cũng chìu lòng dù biết rằng khung trời ấy lắm nhọc nhằn gian nan. - Em thích bán buôn à? Chị thanh nói - Chị à, chẳng lẽ nằm nhà, làm nông thì phụ thôi chứ em yếu đuối, học hành chẳng được, các anh chị còn quá vất vả, không như nhà người ta, gia đình mình không ai được vào làm cho nhà nước, em làm để phụ giúp thêm cùng các anh chị nên em nghĩ vậy. Tính trách nhiệm của Út có thừa, trả lời chắc nịch. Tối ấy, ông giáo và cả nhà ngồi lại, ông nói với các con : - Các con rất có trách nhiệm với bản thân và gia đình, đó là niềm vui lớn của cả nhà, cha đã nói với Dũng khi mới về, có thể rồi đây gia đình sẽ khó hơn, các em con chưa chắc như con, cả đời cha mẹ chỉ làm công chức, cứ nghĩ rằng các con sau nầy đứa nào cũng có chỗ đứng trong xã hội để phụng sự với năm tháng miệt mài chăm chỉ ở ghế nhà trường, bao giờ cha mẹ cũng tin như thế. Nhưng dòng đời không được toại nguyện, các con đều bị tai nạn của chế độ, chỉ vì cha mẹ làm việc cho chính quyền trước, cha không biết làm gì đành bất lực, nhìn các con mà xót cả lòng. Ý thức tự lập, tự chủ, tự cường, là ý thức đẹp, song con Út còn nhỏ quá, cha nghĩ Út nên suy nghĩ chín chắn. - Con vẫn biết còn nhỏ so với tuổi ra đời, nhưng ở nhà làm bánh, rồi chở xuống chợ bán không đến nổi không làm được, cha tin đi. Trường đời sẽ dạy con sống tốt hơn, công việc sẽ có thu nhập. Con sẽ làm được. Dũng ngồi lắng nghe, bây giờ mới tiếp lời: - Con sẽ phụ với em chạy vòng ngoài, cố gắng hết sức mình để Út có điều kiện viết nên câu chuyện gánh hàng bánh, biết đâu sẽ được cha à. Chị Thanh thấy sao, công việc chị đan áo, em phụ chị đi lấy len và đem áo xuống phố cho chị Thủy, mươi ngày mới một lần, thời gian trống rất nhiều. - Ừ, vậy cũng được cha à, biết đâu thời không cho Út, trời đất sẽ cho Út. - Trời đất kỳ diệu lắm, khép cổng này ắt sẽ cổng kia. Từ hôm ấy, Út bắt tay vào công việc mới, nó thận trọng ghi vào sổ những thứ cần mua, về nhà chăm chỉ với công việc, quần quật cả ngày nào đỗ bánh thuẩn, làm bánh nỗ, bánh bó, bánh phục linh, bánh in, mứt gừng, mứt bí… tất thảy khá đẹp. Vốn nhà có truyền thống làm bánh đẹp, ngon nên tất cả bánh mứt, nhìn cũng thấy bắt mắt. Ngày 14 tháng chạp năm ấy, nó khai trương, ngày hôm đó nó đã đặt ba dĩa bánh trên bàn thờ để cha cúng rằm, nhờ cha vái luôn cho nó khai trương thuận buồm xuôi gió, hàng bán nhanh, mua mau bán đắc gánh hàng bánh, nó tin một cách kính cẩn. Hai nừng bánh với chiếc giỏ nhựa to đan bằng dây nhựa mua tận phố rất chắc chắn, Dũng phụ chở cái bàn, ghế ngồi, và những dụng cụ phụ liệu. Hai anh em lên chợ huyện rất sớm, làm thủ tục đăng ký chỗ ngồi đã sẵn từ vài hôm trước, nên nhanh chóng có quày bán, Dũng và Út bài trí khá gọn gàng, xinh xắn trong vài mươi phút là xong. Dũng ra xa quan sát hồi lâu thấy có vài người mua, lòng cũng hân hoan rộn rã cùng cô em Út, dù sao thành quả ban đầu cũng có tay mình chăm bón. Thỉnh thoảng trông thấy cô em nhoẽn miệng cười nói với khách hàng, có lẽ nó mời mọc, rồi chợt nghĩ : ‘Nó sẽ quên đi nỗi buồn không được đến trường cùng chúng bạn, mà một thời Dũng đã cay đắng trải qua’. Bất chợt nó lại nhẫm đọc bài Chợ tết của Đoàn văn Cừ, người họa sĩ vẽ bằng ngôn ngữ bức tranh chợ tết đẹp của làng quê Việt: “Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trên ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh. Người mua bán ra vào đầy cổng chợ” Chợ huyện là nơi nhộn nhịp bậc nhất của vùng quê trung du Nghĩa Hành, ngày thường đã náo nhiệt huống chi chợ Tết, tinh sương đã rộn rã, nào gà vịt, trái cây, rau quả đã bày biện trước chợ, tiếng ồn ào của người mua kẻ bán, làm tưng bừng một góc huyện, bên trong cổng chợ hàng bánh nhiều thêm, trong đó có hàng bánh của cô Út, có lẽ người chủ hàng nhỏ nhất chợ. Hôm đó, nó mặc bộ đồ mới chị Thanh vừa mua dưới chợ tỉnh về trông càng rạng rỡ, người xinh xắn được điểm tô thêm bộ áo quần bông mới trông có vẻ đài các hơn, rất tiếc người đi chợ chẳng có anh thanh niên nào, nếu có chắc hẳn phải chú ý. Dũng không về nhà, ghé ra quán cafe ngồi chờ từ sáng đến trưa, lần đầu tiên trong đời uống cafe cả buổi chờ đợi hết buổi chợ, trời ơi, nó dài như cả năm. Người chủ quán cafe cũng vui vẻ không muộn phiền gì, hết khách còn ra bắt chuyện với Dũng, nhờ vậy cũng thấy vui. Tan buổi chợ mới vào dọn về, Buổi trưa, mùa xuân năm nay về sớm không khí mát dịu hơn mặc dù mặt trời đứng trưa, hai anh em đi song song, con đường vắng người, chuyện trò về buổi chợ, nó hưng phấn kể chuyện, không ngờ buổi chợ đầu tiên nhưng đắc hàng. Nó vui lắm. Mẻ lưới đầu tiên trong nghề bán bánh khá đầy đặn nó huyên thuyên với Dũng trên con đường gần 3 cây số, đến ngõ quanh vào nhà lúc nào cũng không hay. Tranh thủ về nhà ăn cơm trưa, rồi còn phải chạy xuống chợ chiều cho kịp khai trương buổi chợ làng. So với chợ huyện, chợ làng ít người hơn, tuy vậy vẫn đông đúc hơn ngày thường hơn nữa hàng bánh tết ít hơn so với chợ huyện, đây là lợi thế. Sau khi bày biện xong, Út thuê tấm du du che nắng - du du như một cái dù người ta dùng ống tre liên kết với tre đan, bên trên lợp các bao nhựa, hay bao gai, hoặc tấm vải thường người ta dùng để che nắng, sau người ta phủ bên trên tấm ni - long để che mưa bất ngờ, mỗi khi có chỗ ngồi cố định. Dũng cố gắng quan sát và so sánh, cũng nhờ vậy Dũng biết được cảnh náo nhiệt của chợ làng quê mình. Chiều xuống hẳn, mặt trời đã khuất phía sau rặng cây, tia nắng yếu ớt hình như còn luyến tiếc nhân gian cũng nhạt dần, nhạt dần, rồi yếu ớt xuyên qua tàn cây kẻ lá. Hoàng hôn bén lên cơn gió chiều thổi nhẹ làm mát tâm hồn Dũng mới xuống phụ dọn cùng cô em Út. “Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống mào thâm như cục tiết, Một người mua cầm cẳng dốc lên xem. Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh” Rồi anh em thong thả ra về, chiều đã sụp vào tối, làng quê lại tĩnh mịch, cảnh vật êm đềm và vắng vẻ. Ánh trăng vàng to như cái đĩa đã lên như chứng kiến niềm vui mới của hai anh em nhà nó trò chuyện trong buổi đầu vật lộn với cuộc đời. Buổi tối, cả nhà huyên thuyên rôm rả câu chuyện của Út, nó hồn nhiên kể lại bán mua, rồi bung vỡ giòn tan tiếng cười, từ lâu lắm, cả nhà ông giáo mới có niềm vui chung từ chuyện gánh bánh tết của cô Út, đến đêm cả nhà phụ vào làm bánh, bổ sung thêm hàng đã bán được đến quá nửa đêm mới xong. Mùa Tết nguyên đán năm ấy gia cảnh nhà ông Giáo bớt ảm đạm, hơn nữa có ông về trồng hoa như thú tiêu khiển để quên những muộn phiền, trồng hoa giúp người mỗi ngày chăm hoa tính kiên trì, nhẫn nại và tâm hồn vui hơn. Giáp tết, nào thược dược, vạn thọ, hường từ trong sân vườn nhà ra tận ngõ rực rỡ sắc màu hồng của hoa, cổ đồng của thược dược, cánh sen bông lớn ông vui lắm, cả nhà cùng vui lây. Tết năm đó Út mua cho cha bộ Pyjama để ông mặc trong nhà cho lịch sự khi có khách đến thăm nhà, ông vui lắm. Tuy bộ đồ chẳng bao nhiêu tiền nhưng nó là cả tấm lòng của con cái thời khó khăn nhất của lịch sử đời ông. Ông mừng rỡ với nụ cười dung hậu. Và nó cũng lì xì cho anh Dũng xấp vải quần ximili màu xám tro mua lại từ hợp tác xã phân phối, quần màu đầu tiên từ khi giải phóng đến giờ, năm ấy Dũng mặc quần ấy đi chơi cùng bè bạn suốt mấy ngày tết, có lẽ Dũng tự hào với đứa em bằng mồ hôi tạo nên món quà này. Nó không quên gửi lên cho mẹ bộ đồ để mẹ có thay đổi trong dịp thăm cận tết. Nó xầm xì bàn bạc trao đổi với chị Thanh làm sao mua 1 chỉ vàng để hộ thân. Sau 1975 tất cả hàng vàng đều không được hoạt động, cả tỉnh chỉ có duy nhất hàng vàng quốc doanh, các thị trấn chỉ có trao đổi chui, mua bán vàng là cả vấn đề, nếu thuế vụ thầy có thể lập biên bản tịch thu. Chỉ là mua bán thôi nhưng thế đó. Cuối cùng, Út cũng làm được 2 chiếc nhẫn mỗi chiếc 5 phân, ai cũng công nhận nó lanh lợi biết đổi tiền thành vàng để dành phòng thân khi bất trắc. Cả nhà ai cũng khâm phục. Truyền thống nhà ông bà Giáo Vân năm nào cũng cúng từ giao thừa cho đến mùng bốn tết, mới tiễn đưa ông bà, con cháu, bà con tề tựu về nhiều, ông Giáo mới về người đến chúc tết thăm hỏi đông hơn. Anh Hai con cậu phía ngoại sĩ quan cũ khi học tập xong năm nay cũng về dâng hương, cúng ông bà, xong ông Giáo và anh Hai trò chuyện. Nghe anh mới về, dù em cũng còn quản chế, tết họ cho phép thăm hỏi nhưng không được đi khỏi huyện, vì vậy em về mừng tuổi ông bà, và tiện thể thăm anh. - Cảm ơn em, anh cũng vậy nhưng anh chẳng muốn đi đâu, chị mầy mới vừa gọi đi, em biết rồi chứ? - Em có nghe, anh thì đi mới về, đến phiên chị nhưng chị sao vậy, anh có biết lý đo gì không? - Không nghe họ nói lý do, ngày xuống xã chỉ nói đem theo 3 ngày ăn, rồi từ đó đến nay - Như kiểu bọn mình đem theo 7 ngày ăn, đi học tập vậy, rồi vài ba năm mới về. - Ừ, một chính sách mà em. - Bên hành chánh của anh thì sao chứ bên quân đội em căng lắm anh, - Bên nào cũng vậy thôi, một chính sách mà ra có khác chi, bên anh nhờ các ông quận phó cũng như các viên chức dũng cảm cải lý với ông cán bộ trông coi, ông nào trình độ cũng lèm nhèm nên đuối lý. Khi đuối lý có một câu duy nhất “Lệnh cấp trên vậy, chúng tôi thi hành” là xong việc. Một hôm, ông giáo sư dạy Pháp văn bệnh, ông ấy bệnh sốt rét như anh, khi cán bộ tập trung bắt di chuyển đốn cây, ông ấy báo cáo xin nghỉ vì sốt rét, cán bộ không cho, bắt phải đi, đi một đoạn ông ấy gục ngã, người run cầm cập, mặt xanh như nhái cán bộ hoảng hốt, có bác sĩ Quý trong đội lên xem xét nói là ông ấy sốt rét cấp tính, rất nguy hiểm có thể chết vì kiệt lực nếu tiếp tục, cán bộ không thể cho đi được đề nghị cán bộ cho về nghỉ, cả đoàn phản ứng dữ dội, cuối cùng phân công 2 người cán về, từ đó ai báo bệnh cũng được nghỉ. Người Bắc có câu “mền nắn rắn buông” quả không sai. - Trong quân đội em còn dữ dội hơn, bởi bọn em dân bộ binh lâm trận sinh tử dài dài, đâu có ngán anh, ép quá là bọn em phản ứng ngay, không như công chức các anh cả đời cọ giấy, nhát như thỏ, tụi nó biết nhược điểm đó nên công chức nghe anh em nói lại bị ép hơn. - Mà thôi, chuyện cũng đã qua rồi, anh em mình đã về, đến hôm nay còn hàn huyên là phước rồi, em biết không, tưởng anh bỏ mạng nời rừng thiêng rồi chứ, ai ngờ nhờ sắp chết mới được về, ghẻ từ nách đến chân, chỗ nào cũng có, cộng với sốt rét rừng, kiệt sức mê man bất tỉnh, một tuần sau đột ngột có giấy ra trại. Mừng như ngày trước đậu vào đệ thất trường công lập, anh nhớ em Quân ở trong xã này, ngày ra coi bảng ở trường trần Quốc Tuấn có tên trong danh sách trúng tuyển vào trường trung học đệ nhất cấp công lập, em chạy bộ thẳng từ trường về nhà hơn 15 cây số báo tin: “con đậu rồi” - Dễ sợ vậy anh, ngày ấy đậu được vào trường công lập tự hào lắm. Anh tính sao bây giờ? - Tính với toán gì em, về báo hại may mà có chị chưa đi nên bồi bổ và chăm sóc mới ổn được. Bây giờ bả đi không biết khi nào về, tết buồn hiu, hết buồn nỗi mình đến buồn nỗi vợ. Còn em tính sao? - Cũng bế tắc như anh thôi, các con em còn nhỏ, có mấy sào vườn và mấy sào ruộng chăm chỉ lật đất ăn rồi hãy hay. - Vậy thôi, lấy phước trời mà đong. Thời cuộc luôn đổi thay, thích nghi là chuyện không dễ tuy vậy trời đất hay lắm rồi cũng từ tốn đi qua như hết đông ảm đạm là xuân khoe sắc hương hoa phơi phới tâm hồn nhân gian. Chúng ta là những công dân lạc loài, không có quyền làm người, của một giai đoạn lịch sử, chưa biết rồi đây tất cả những con người phục vụ cho chế độ VNCH sẽ về đâu, nguồn nhân trí lớn sẽ mai một, sẽ trở thành những nông phu hay có thể là một loại phu khác, anh cảm thấy thật tiếc quá cho lực lượng ấy, giá như chất xám đó được tôn trọng thì việc cống hiến để tái thiết nước nhà có lẽ sẽ nhanh hơn, buồn cho sự thanh cao trở thành trần trụi và dung tục, không biết các người cầm quyền có nhận ra, hiểu ra. - Em tin mọi sự rồi sẽ qua đi trong giai đoạn mông muội. - Đúng vậy, lịch sử đã đi qua, nào các triều đại bên Tàu từ Tam hoàng sang Ngũ đế rồi Đường, Tống đến Thanh và Mao chúng ta thấy quá rõ, có điều chính thể bây giờ Việt Nam ta lại bám chặt vào nó, nên khó lòng thoát khỏi vòng kim cô quấn chặt trên bộ đầu các ông lớn chính quyền Việt. Đây là bài toán khó giải quyết, phải có một minh quân hiển hiện may ra mới trục căn số bí hiểm này. Trong kinh dịch có câu rất hay “cùng tất biến, biến tất thông” không thế hệ này thì thế hệ khác cũng tìm ra đáp số thôi, tuy nhiên rất phụ thuộc vào thời gian và dũng khí của người cầm quyền. Mau hay chậm là vấn đề nhận diện lại lịch sử và có phương hướng đúng, nếu phúc đức của non nước nhà chắc không xa và ngược lại. Anh Hai gật gù, trầm ngâm và có vẻ bi quan: - Đa số những cán bộ phường xã loàng xoàng quá, chỉ chạy núi về học vỏ vẻ lớp ba, lớp năm, có hiểu biết gì về hành chánh, quản trị cũng làm chủ tịch, bí thư. - Mới chiếm được miền Nam nên nhân sự rất thiếu thốn, nhất thời phải vậy thôi, nhưng sau khi ổn định sẽ thay thế người có kiến thức chuyên môn hơn, sở dĩ họ hống hách làm ra vẻ ta đây bởi từ trên núi về lại không hiểu biết nên ra oai là thường tình của những kẻ cỏn con ấy, em đừng quan tâm chuyện đó, một vài năm sẽ loại ra thôi, đó là tất nhiên khách quan, vấn đề cần quan tâm là chính sách hậu chiến thế nào, ra sao, quyết sách nào phù hợp nhất cho miền Nam, liệu họ có bao dung và nghĩ suy đúng. - Hình như họ trả thù dân Nam phải không anh, chứ cả dân Nam mình hiền lành, nhân văn từ người lính tham chiến như bọn em sống nay, chết mai ai cũng muốn hòa bình để có cuộc sống bình yên. - Có thể như vậy, vì sao? Nếu như có hiệp thương hòa bình tình hình sẽ khác đi rất nhiều, đàng này là sự chiến thắng của chính quyền Hà Nội, trong công cuộc chiến thắng miền Nam sự phản ứng quá dũng cảm của quân đội miền Nam khiến cho binh sĩ và chính quyền Bắc Việt tức mình, đó là mẫu số chung. Nếu nhà cầm quyền hiểu được sự duy lý ấy, có chính sách độ lượng và bao dung hơn thì xương máu và mạng người dân Nam sẽ không đỗ ra sau khi kết thúc cuộc chiến. Anh nghĩ ấy là sai lầm rất lớn của cả bộ đầu chính quyền phía Bắc. Lịch sử từ cổ chí kim sẽ thanh lọc để đi đến sự thật khi có những luận chứng biện minh. - Anh nói hay quá, có thể lắm, vậy họ sẽ xét lại. - Đúng thế, Mấy mươi năm nay, đầu óc họ toàn là duy lý và tệ hại nhất là chủ thuyết vô thần, khi không có thần thánh ngự trị và họ có thể làm bất cứ điều gì, thậm chí điều ác độc bởi thiếu triết lý nhân quả và siêu nhiên, nghĩa là thiếu niềm tin Trời đất, ấy là hiển nhiên. Triết học đã minh chứng hùng hồn rồi, con người rất nhỏ bé trong mênh mông vũ trụ, tự nhiên có quy luật của nó, cân bằng trong nhân thế là quy luật của tự nhiên. Sự trả thù không thể hóa giải được thù hận. Chỉ có tâm từ bi, tính khoan dung, lòng độ lượng mới giải quyết vấn đề này, đó là mấu chốt. Hiểu ra nguyên lý ấy thì nhanh, còn cứ mãi khư khư ôm lấy sự hống hách, tự mãn càng lâu. Nếu như nhà cầm quyền biết nghĩ lại và có giải pháp phù hợp chắc sẽ được. Không ngẫu nhiên mà người ta đặt bệ thờ Thích Ca Mâu Ni, Giesu…đã từ hàng ngàn năm nay, nếu như các đạo giáo ấy không lợi lạc gì cho loài người, phải không nào? Chính vì vậy họ phải xét lại thôi không chóng thì chầy. - Cảm ơn anh, đã cho em hiểu thêm thế sự, giờ em ra ngoài để xem mấy cây hồng và thược dược, lúc vào em thấy trước nhà thích lắm. Hai anh em cùng dạo ra khu vườn rộng, còn rất um tùm hoang dại, phía phải là vườn mì ta xanh um đầy sức sống, rồi quay vào trong sân, nắng xuân không gay gắt, cơn gió nhẹ mơn man trên tóc cảm nhận tự do là thật sau bao ngày nghẹt thở trong trại, mới đó cũng 6 tháng trôi qua, anh em vừa lững thững vừa nói chuyện, cặp phượng ta rực rỡ một vàng, một đỏ bên cạnh là cây mai tứ quý thân hình cao ỏng ẹo, chỉ lác đác hoa cánh lớn to, nó cũng vừa đi qua cơn bệnh sâu rầy thân, ông giáo nhờ người ta phun thuốc đã vài tháng, nó như thân ông và có ít hoa cũng vui trước sự hồi sinh của chính nó. Trước lan can là mấy cây hồng, vạn thọ và thược dược bông khá nhiều, như điểm tô căn nhà ngói mái đã lên rêu với thời gian, lòng hai người vui trong mùa xuân đầu tiên được tự do trên bản quán. Ngã Du Tử/SG ( Còn tiếp)
Chương 12: SUY NGHĨ VÀO NAM Mơ ước ngày về vinh quang nên đành phải ra đi, đó là ý thức của bất cứ người nào trong điều kiện và hoàn cảnh khó khăn và bất an. Dũng đã 3 đêm trằn trọc, nếu thế này thì mãi mãi không làm được điều gì, Mình không thể làm nông được, có thể làm một nghề để sống, nhất nghệ tinh nhất thân vinh, thà như thế còn hơn. Làm nghề cần nơi nhiều người, hoặc thị xã hay thành phố. Đâu phải cứ ở quê nhà khốn khổ thiếu điều kiện sống, không phát huy chính mình là yêu quê. Từ việc ra đi hay ở quê nhà, suy nghĩ ấy cứ thao thức, rồi thao thức ấy lại đánh thức dậy ý thức, Tuy vậy nó cũng chưa vội, hỏi lại vài người có ủng hộ nó không. Chiều đã xuống, sau buổi làm ruộng trở về, ra nhà thằng bạn thân, quây quần với nhau bằng con gà giò và 3 xị rượu thuốc, tứ trụ bằng hữu ngồi quây quần cũng rộn ràng ra phết. Chủ nhà Viên cả chiều làm con gà với nồi cháo nghe thơm phức, nó tuyên bố khá trịnh trọng: - Các bạn của chúng ta, Hôm nay Dũng hẹn với tao, gọi mấy anh em thân tín để Dũng gặp mặt và có lẽ không lâu Dũng vào Nam, chuyến đi lập nghiệp phương xa, tao và nó cũng đã nói chuyện nhiều lần, lòng nó thì chí quyết rồi, xét cho cùng thằng nầy trói gà không chặt làm sao ở nhà làm nông kiếm điểm mà sống được, cả ngày đi đập lúa Hợp tác xã có 4 điểm tương đương gần 1kg lúa. Với tao thì nó nên đi Sài Gòn. Đó là lý do để ngồi lại. Vậy thôi dô đi. 4 đứa cụng ly vào, đồng thanh hô: Chúc thành công, mong may mắn, và nốc hết nghen. Thằng Tư hay triết lý nó lên tiếng: - Dũng à, mày suy nghĩ kỹ chưa? Chứ tao nghĩ mày nên thi lại, mầy học tốt mà, lúc đó căng lý lịch quá, bây giờ cũng đỡ hơn hồi mới giải phóng, thằng Văn mới vào cao đẳng, cha nó cũng cải tạo, mầy biết chứ? Nếu đậu, tao giúp mày gặp anh X lo cắt khẩu cho. Tướng mầy chỉ làm công chức nhà nước thôi, tao chân thành với mày, thế thôi. Dũng ngồi suy nghĩ, mời anh em một ly, rồi nói: - Đã ba, bốn năm rồi còn gì? Cảm ơn mầy, không làm công chức cũng sống nổi, tao nghĩ vậy, hổng có gì quan ngại. Thằng Thiệt tính ít nói, cũng chen vào: - Tao thì nghĩ như thằng Dũng, chả lý không làm công chức, chết ư? Đâu thể như vậy. Cuộc đời dài, đời là cả chuyến hành trình, cứ đi mọi sự ra sao rồi hãy hay. Thôi uống rượu đi, gặp nhau thời gạo châu củi quế như thế nầy là sướng rồi, nào dô đi, uống cho đời bớt khổ. Cả bọn cùng nâng ly. Ở nhà quê cũng thú vị lắm, 3 xị rượu thuốc của ông già thằng Viên để dành lúc ăn cơm uống kích thích tiêu hóa cũng đi sạch, nhưng mấy đứa còn hưng phấn lắm, Thằng Tư xung phong “tao đi lấy tiếp về chơi cho đã bửa nay” nhất là hôm nay có Dũng, coi như phụ thêm tiễn bạn lên đường, cả bọn ồn ào “mời bạn nhổ neo lên đường”. Ôi chao, nó vét sạch mấy đồng trong túi làm tiếp 3 xị nữa, thanh niên chúng tôi mới tập tành uống rượu nhưng khoái chí chẳng mấy chốc đứa nào cũng đa đã, hát hò, ngâm thơ, đọc thơ, rồi bàn thơ không khí càng vui khi tiệc sắp tàn, đứa này quan điểm này, đứa kia quan điểm nọ, nói chung quá vui. Đến khi chiếc đồng hồ treo tường Rado gõ 9 tiếng, ngoài kia trăng thượng tuần chếch về tây, có lẽ tới đây cũng được rồi. Cả bọn chia tay. Dũng và Thiệt song hành cùng nhau về nhà. Trên đường, ánh trăng lờ mờ thượng tuần còn sót, đủ soi đường cho hai người bạn cộc cạch con ngựa sắt già nua trên đường về nhà.
NDT (Còn Nữa)
TRÒ CHUYỆN VỚI ÚT Đang ngồi trước lan can nhà đọc sách, đến hồi hấp dẫn Mã Siêu đang ví Tào Tháo, Tào chạy thục mạng, nhân vật thừa tướng ấy sao Dũng ghét đến vậy, đoạn này làm Dũng tức cười: “Cắt râu, vứt áo nực cười sao/ Một trận Đồng Quan bạt vía Tào”. Thấy Út trong nhà ra, Dũng bèn gọi: - Út ơi, tới anh nói cái này tí. - Dạ, nó ngoan ngoãn đến ngồi bên cạnh, có chuyện gì vậy ông anh? - Nè, anh nói với em vấn đề quan trọng. - Anh nói đi. Có lọt mắt xanh cô nào à? - Không, việc ấy anh đâu cần nói với em, lộ mục tiêu còn gì - Vậy chuyện gì? Anh - Có thể anh vào Sài Gòn, em nghĩ sao? - Anh đi là tốt hơn, nhưng vào ở đâu, làm gì? Chứ vào lông bông cũng chẳng được chi, mình nghèo chứ đâu như người ta, hơn nữa nhà chẳng có ai, mẹ thì đi chưa về, có anh là trụ cột, có anh nhà vẫn đỡ hơn. - Tất nhiên rồi, nhưng anh xấu hổ quá, thanh niên lực lưỡng chẳng làm được gì, cứ mãi cuốc đất lật cỏ ở đây làm sao phát triển được, anh không thể trở thành một nông dân được em à, hơn nữa bạn bè anh đứa nào cũng có danh phận cả. - Trước mắt là vậy, nhưng cha nói trước sau gì cũng thay đổi. - Cha nói chung thôi, chứ biết đến bao giờ, - Em nói vậy thôi chứ cái đó tùy anh, cũng như em thích tự lập mở hàng bán bánh, ban đầu cơ cực thiệt nhưng bây giờ cũng thoải mái hơn, ít nhất có tiền tiêu xài, hết mùa bánh lại bán buôn thứ khác rồi cũng sống được, dù sao cũng không phải làm nông. - Chính vậy, anh ra đi mới biết được, rủi quê nhà, may đất khách, biết đâu vậy, phải không em? - Ừ, thì anh cứ thử vận đi, anh nên nói với cha và cả chị em nữa. - Dĩ nhiên là vậy rồi, đây là việc hệ trọng chứ nào phải chuyện chơi. Thôi, anh thăm dò em có đồng ý không trước, vậy là anh có thể, hôm trước anh gặp mấy đứa bạn thân anh, tụi nó cũng ủng hộ. CÙNG CHỊ THANH Chị vui vẻ khi anh bạn dưới phố lên thăm, nhà có sẳn miếng mít mật ráo đải bạn, anh chị trò chuyện ở nhà trên, khi tiễn anh ấy về, chị lại với Dũng: - Anh ấy trước đây quen với chị, từ ngày giải phóng hỏi thăm bạn chị mãi hôm nay mới tìm được nhà, tội nghiệp ảnh ghê, đi lạc gần xế mới ghé đến nhà mình được, ăn miếng mít chắc nhớ đời, có lẽ một là ngon, hai là đói nữa. - Ba là được gặp chị phải không? Dũng ghẹo chị, chị cười cơ hồ niềm hạnh phúc trong mắt chị như nói lên điều ấy. - Hồi ấy anh là cái đuôi sau chị, nhưng chị vô tình lại cũng không thích, hôm nay anh tìm đến tận nhà nên cảm động, nhân kỳ nghĩ hè của khóa sư phạm toán, ít hôm vào trường, năm nay là ra trường. Em thấy anh ấy sao? - Anh lịch sự, ông giáo tương lai mà. Chị à, em có vấn đề nầy cần trao đổi với chị. Em nói đi: - Chị à, chắc em vào Sài Gòn chị ơi, ở ngoài nầy em không thể làm gì được, “chả lẽ ta đâu mãi thế này” em không thể trở thành một nông dân được, chị nghĩ sao? - Chị chưa nghĩ gì cả, trước mắt mẹ còn trong trại, chị, em và Út xoay xở để sống và đi thăm mẹ, mỗi tháng một lần và cả cha cũng phải lo, nhà mình bây giờ đâu phải như trước, có em phụ, sau mẹ về hãy tính cũng được. Trầm ngâm, nhìn xa xăm trên nền trời xanh biếc, mây tan biến vạn phù vân như mỗi cuộc sống biến hóa, Dũng nói: - Em trước mắt làm vớ vẫn gì đó, nhưng không thể làm có tiền bạc giúp gì cho cha và mẹ, ngược lại còn báo nữa, nếu vào trong ấy may ra làm được tiền cần kiệm gửi về còn hơn. Không có tiền chẳng giúp gì được, vô tích sự quá chị à. Chính những bức bối này em mới nghĩ đến đi xa làm việc, có thể lập nghiệp trong đó. - Em ráng đi, đợi mẹ về hãy hay, nhà có em là sức mạnh, người ta ăn hiếp cũng không dám, chắc mẹ cũng về chứ phụ nữ mà, cả đời là nhà giáo cả xã, cả huyện nầy ai không biết bà Giáo Vân, chắc mấy ông nhà nước nầy bắt lầm hơn bỏ sót. - Em chỉ nói với chị chứ đi cũng phải có đủ điều kiện tối thiểu. Phải đắn đo, nào phải giải trí. - Chị cũng thấy ngột ngạt, nhưng chị là phận đàn bà con gái khi nào đối đế không chịu nổi, dẫu sao cũng cơm củ qua ngày, chưa có ý gì. Tuy nhiên nơi nào thong thả bình yên ấy cũng là nơi cần trú ngụ. Đời sống con người xét cho cùng là an, làm việc đủ tiền bạc để sống, không nhất thiết phải giàu có. - Nghèo thường đi đôi với hèn, cũng may nhà mình cũng thừa hưởng được ơn phước tiên tổ nên ai cũng coi trọng danh dự, tư cách trước cuộc sống. Chính lẽ đó em mới thao thức, cố gắng tìm hướng đi hợp lý cho hoàn cảnh mình. Mọi khởi đầu đều gian nan, tuy nhiên ở quê thì quá khó, họ không cho mình bất cứ vị trí nào làm sao biết được khả năng bởi chế độ lý lịch quá khắc nghiệt. Em nghe nói Sài Gòn không như thế, cởi mở và thoải mái hơn, chính vậy nên em hy vọng vào nơi ấy có điều kiện để thi thố với người. - Chị cũng hiểu vậy. Thôi chiều quá rồi, chị còn lo nhiều việc, em suy nghĩ thận trọng rồi bàn bạc với cha, cha mình thấu đáo lẽ đời, trải nghiệm có thừa, nhưng mọi việc nên sau khi mẹ về là tốt nhất. Chị đi rồi, Dũng trở lại với căn phòng nhà trên đặt mình xuống tấm phản, gác tay lên trán suy nghĩ chuyện cuộc đời, tưởng tượng viễn cảnh trong suy nghĩ non nớt của mình. Ôi chao cả trời ước mơ thực hiện của nó lung linh nhảy múa, ước mơ nào cũng đẹp tội lệ gì không ước mơ. Giá như mọi cái cứ bình thường trôi đi như những người khác ắt sẽ không có những thao thức, đàng này càng ngày càng bế tắc, sự đơn điệu đến nổi nhàm chán, không biết rồi mình sẽ đi đến đâu? Chị Thanh nói cũng có lý, chậm tí cũng không sao, ở nhà còn giúp gì với gia đình, mẹ cha nuôi mình thân dài vai rộng, cho mình kiến thức, lúc này đang cần mình, tại sao lại ra đi? Chi bằng chờ khi mẹ thật sự bình yên trở về. Chắc mẹ về sớm thôi, nào mẹ có tội tình gì mà về lâu. Quyết định vậy thuận cả đôi đàng. VỚI CHA Đối với Dũng đây là sự việc hệ trọng trong đời mình, người anh tin tưởng nhất là cha. Cha với đời sống đạo hạnh, gương mẫu, nhiều trải nghiệm về cuộc đời nhất là kiến thức từ sách vở, ông rất am tường về địa lý và sử ký, bởi ông là giáo viên cấp 2 sử địa, khi phân tích một vấn đề khá chặt chẽ, hợp lý nên Dũng rất kính phục. Có điều ông rất từ tốn và ít nói. Trong cuộc chuyện trò ông hay lắng nghe, khi ai cần hỏi điều gì ông chân thành, hiểu đến đâu nói đến đó, không bao giờ võ đoán. Ông thường nói với Dũng “Biển học mênh mông không ai đủ kiến thức để nói hết những vấn đề, người chân thành biết đến đâu nói đến đó, nhất là không được võ đoán, sự võ đoán nào cũng dẫn đến hàm hồ”, Dũng là con trai nhưng nhìn ông như một thần tượng, điều gì không thông Dũng hỏi, ông cũng phân tích mạch lạc, sau này chỉ mong cầu một nửa như ông cũng đủ sống với đời. Dũng ngần ngại, mấy ngày nay muốn trao đổi với cha nhưng chưa thuận tiện, chiều nay, “vầng trăng mở hội” cho Dũng, ông đang bắt mấy con sâu, khi đêm về một vài chú sâu từ đâu bỗng nhiên xuất hiện, ông gọi Dũng ra: - Con thấy gì trong mấy nhánh cây này không? - Cha nói giỡn với con, thì phải? - Thật chứ. - Con đâu thấy gì, ngoài mấy bông, ý ba là hoa đẹp chứ gì? Con tính hời hợt, không để ý lắm. - Đó là vấn đề, đây là bài học mà ít ai để ý, quan tâm, chỉ có người trồng hoa mới biết, mới hiểu, loài sâu ban ngày khi ánh dương lên nó trốn biệt, đợi đến đêm mới bắt đầu tung hoành, sáng ra lá đã bị ăn sạch, trời đất sinh vậy, tuy nhiên khi quan sát tường tận người ta hiểu rằng vì tự tồn nó phải hành động về đêm, bóng tối, nên người đời ví những kẻ thiếu nhân cách, ăn trong bóng đêm, bóng tối không đàng hoàng là sâu bọ. Nếu quan sát kỹ sẽ bị lộ diện, đây nè, con có thấy chú sâu đang chăm chỉ ăn, ông rọi ánh đèn pin, lập tức mọi hành động dừng lại, nó nằm yên con thấy không. Quá trình trồng hoa người nông dân tìm được lý lẽ ấy, mọi sự nếu chú tâm quan sát cũng thú vị lắm. Con người cũng vậy, bóng đêm sẽ đồng lõa với kẻ vô lương, kẻ vô lương ấy tưởng rằng không ai biết sự mờ ám trong bóng đêm đó, tưởng ai cũng dại dột, nhưng không, ấy chỉ là sự nông cạn của chính kẻ vô lương mà thôi. Mọi hành vi sai trái, gian dối ấy sẽ có ngày phơi bày. Không mau thì chậm tùy kế sách của người quản lý. Phải không con? - Dạ, cha hay quá, mới trồng hoa mà cũng hiểu để bắt sâu. - Người trước đã chỉ dạy hết rồi, có điều chịu học và thực nghiệm hay không mà thôi. Cha cũng chẳng tài giỏi gì, chính sự siêng năng chăm sóc cây hoa từ lúc ươm hạt cho đến khi ra hoa rực rỡ là một quá trình công phu tu dưỡng, cần mẫn của người trồng hoa, nếu con liên tưởng cũng như nuôi dạy con cái, phải biết để ý, nâng niu, chăm sóc, mạnh tay cây sẽ gãy hoặc tổn thương, khó trở lại bình thường. Con cái sau nầy sẽ là hoa thơm trái ngọt cho đời cần lắm bàn tay che chở, chăm bón và nâng niu. Cha mẹ nào ý thức được như vậy thì kết quả tốt là đương nhiên và ngược lại. Dũng thấy vui vì bài học trồng cây, bắt sâu. Anh bắt chuyện: - Cha à, nếu ta sống trong môi trường mà mọi nẻo đi chính quyền đong đưa bít lối, nhưng không dám nói rạch ròi, vẻ ra đủ thứ nào trọng dụng nhân tài, ưu tiên người hiền, cha nghĩ thế nào? - Một chính phủ tốt là phụng sự cho dân, cho nước mục đích chính quyền là làm cho nhân dân giàu có sung túc, dân giàu nước mới mạnh, không thể có chiều ngược lại, mọi lý thuyết là màu xám, cây đời mãi mãi xanh tươi đó là nguyên lý ngàn đời. Ông nào lên làm lãnh đạo cũng nói liêm chính, cần kiệm, chí công, vô tư nhưng nhìn tổ chức một sự việc, xa hơn là một nhiệm kỳ người tinh tế, dân chúng sẽ thấy ngay. Nói rất dễ, làm thật khó, không có gì qua mặt được nhân dân, nhân dân là tổng hợp trí tuệ của nhiều tầng lớp người, người dân họ không nói thôi, chính phủ giỏi luôn lắng nghe lời phải. Con đã đọc cả kim cổ chắc con cũng hiểu những triều đại lừng lẫy của nhân loại dù ở thể chế nào cũng lo cho dân, yêu thương dân. Vua quan như cha mẹ là vậy. Đó là cốt lõi của vấn đề trị nước, khuyến khích học tập, căn cốt là đạo đức, người đạo đức tiết chế được lòng tham, không tham của phi nghĩa, phi nhân. - Cha à, con có suy nghĩ này, con muốn tỏ bày cùng cha, nếu có gì bổ trợ cha giúp con - Con cứ nói, cha sẽ hết lòng với tàn lực của cha - Con nghĩ bây giờ con khó tiến thân, bởi khắc nghiệt về chủ nghĩa lý lịch, con muốn vào Nam, theo con được biết người trong Nam còn phóng khoáng và rộng mở hơn, xin việc làm không đến nổi khó khăn như quê mình, cha nghĩ sao về vấn đề này. Với con không chấp nhận làm ruộng Hợp tác xã kiểu này. Không thể một mùa lúa lương chỉ 100kg lúa. Chẳng lẽ cả đời gắn bó với đường cày, lưỡi cuốc. Ông thở dài, suy tư rồi tiếp: - Con định chừng nào có thể - Con nghĩ chắc mẹ cũng sớm về thôi, sau khi mẹ về thì con nhổ neo lên đường. - À được, vậy là tốt, con hãy chuẩn bị từ bây giờ, mọi sự chuẩn bị đều chu đáo hơn. - Dạ, ý cha thì sao? - Cha chưa biết tính sao, đợi mẹ con về. Đi chuyến đi này có thể như ở ngã 3 đường, con chọn hướng ấy. Hệ trọng lắm con à, bẻ lái của con thuyền có thể tốt hoăc không, chính vì vậy phải tìm hiểu, ít nhất là con thấy đúng, khi thấy đúng là quyết tâm. Sự đam mê và lòng quyết tâm đã là một nửa của thành công. Ánh trăng trải đầy trong vườn nhà bỗng rực rỡ, lung linh lạ thường. Tiếng con Vện sủa người ngoài ngõ làm tan biến sự tĩnh mịch trong không gian yên bình của hai cha con, ông giục “thôi vào nhà nghỉ đi con, ngày mai còn những việc cho ngày mai” Dũng nằm suy nghĩ lời cha dạy, bất chợt niềm vui còn đọng lại trong lòng anh: Cha thật tuyệt vời, cần mẫn và ý chỉ trong công việc của chính ông, dù chỉ là thú vui. NDT (Còn nữa)
NGÀY GẶT Ông đội trưởng Hợp tác xã sản xuất chiều ấy xuống nhà bà Giáo, gặp Dũng báo: - Ngày mai nhà cháu 2 công gặt, tập trung sớm tại miếng ruộng rộc của ông bà Giáo Vân, cháu cuốc ải kỳ rồi, nhớ chưa? - Dạ, ruộng cha mẹ cháu mà, nhớ rồi, 6 giờ có mặt cùng thợ gặt. Tối ấy ngủ sớm, Dũng sợ đến muộn sẽ trừ điểm công. Ngày ấy cái gì cũng sợ. Sáng, ông đội trưởng điểm danh, thợ gặt cùng ông xuống đám ruộng rộc bà giáo Vân, lúa chín nhưng nước còn rất nhiều, đến nổi thợ cắt phải đặt lúa gặt được trên chân ngựa, người ôm lúa chỉ việc tới ôm lên bờ. Dũng được phân công ôm lúa, suốt lúa trên đám ruộng cao phía trên. Ban đầu lúa gần bờ còn thong thả, hơn nửa buổi mặt trời lên cao gió thu nhè nhẹ, do bị liên tục ướt áo nên hơi lành lạnh, bắt đầu xa bờ lại bì bõm lội nước, rủ cả giò. Khi đuối sức, dù ngán thuốc lá nhưng Dũng cũng lấy bịch thuốc rê thủ sẵn mở ra vấn, còn mời mọc các anh nữa, nòi hút thuốc cũng ăn lang, có lúc 4 người ôm lúa ngồi vấn thuốc phì phèo, ông đội trưởng nhắc nhở, còn bảo Dũng, không mời thuốc nữa, Mệt và đói, nỗi cáu, Dũng cự: - Mời thuốc mà chú cũng không cho, thể hiện tình đoàn kết cùng anh em bà con thôi mà. - Làm mà hút thuốc hoài, hao công - Ôm lúa ướt lạnh nên thèm thuốc chú à. - Chú để ý cháu, mỗi lần đến bờ là mở thuốc hút, còn mời mọc nữa. - Anh em thích thì hút, cháu có ép ai đâu, chú nhiều chuyện quá. Hơi bực, chú ấy đòi cho Dũng nghỉ, anh em can: - Thôi chú à, hút thuốc chút mà có ảnh hưởng gì , Dũng nó yếu, anh em đi làm đi Dũng cũng không vừa, phản kháng: - Chú cho tôi nghĩ chỉ vì ôm lúa vào bờ hút thuốc à, có ảnh hưởng gì vụ gặt? Tôi vẫn làm việc bình thường, xin lỗi chú nghe, chỉ là ông đội, chú đã như vậy, mai mốt thành ông nào nữa chắc là cháu chạy trốn thôi. Có nhiều người đồng tình với Dũng, cuối cùng ông đội cũng im, không nói nữa, ông đi tới nhóm thợ gặt của các cô. Có người yêu mến Dũng nói: - Thằng Dũng chưa quen công việc này lắm, chú phải hiểu vậy, nó vui vẻ và hoạt bát, có Dũng cả bọn tôi vui, tuy năng suất làm chưa bằng các anh nông dân khác. Xả lả, ông đội rời đi nơi khác đứng quan sát, công việc vẫn tiếp diễn. Có lẽ ông tưởng oai lắm ra vẻ ta đây, nhưng thấy chẳng ai đồng tình với ông, sau đó không nói gì thêm. Buổi chiều hôm ấy, thửa ruộng cũng gặt xong, ông đội tập trung thợ gặt và chấm công, người nào cũng 8, 9, 10 điểm, duy nhất chỉ có Dũng 5 điểm. Tỏ vẻ bất bình, Dũng ý kiến: - Các anh chị trong buổi gặt nghĩ sao khi ông đội cho tôi 5 điểm. Một đồng minh của Dũng bày tỏ: - Dũng cũng làm hết trách nhiệm của buổi gặt, thậm chí cũng xong sớm, anh cho điểm như vậy là không công bình. Ông hơi mất bình tĩnh, nói: - Tôi đã quan sát thực tế buổi gặt, cho điểm như vậy là khách quan, không thiên vị, cũng không ép ai. Dũng từ tốn, nói rất mạch lạc: - Thưa ông đội, chú phải biết năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nương nhau, con béo kéo con gầy, chú làm vậy là không công tâm, đành rằng tôi không bằng tất cả các anh, các chị ở đây, tôi là người chưa quen công việc, tôi đã cố gắng hết mình trong sức lực của tôi, ít nhất chú phải thấy được điều đó, chú trả thù tôi ư. Tất cả ở đây ai có ý kiến gì, tôi sẽ ghi nhận. Anh Dung, người trực tính nói thẳng thắn: - Tôi đồng ý với Dũng vừa nói, phải chi gặt về muộn, sáng chú đã nói, nếu gặt sớm sẽ thưởng điểm, đàng này chú lại cho điểm Dũng như vậy, tôi thấy chú ép thằng nhỏ vừa rời ghế nhà trường, tập tành làm nông. Không nên vậy, theo tôi nó phải được 7 điểm. Cả bọn hoan hô vỗ tay: Đồng ý Ông đội còn ý gì nữa không, cả tập thể đang lắng nghe. Ông có vẻ bất bình, nhưng tôn trọng tập thể, ông nói: - Thôi được, tôi tôn trọng tập thể, cho em 7 điểm, lần sau cố gắng lên cho bằng mọi người. Giải tán. Trước khi về nhà, Dũng mở bịch thuốc còn lại mời các anh hút thuốc, từ từ đã đàng nào cũng lên đường về nhà tắm rửa, hút cho đời bớt khổ, chứ bổ béo chi. Ngồi xuống quây quần nói chuyện trong tự do không ai kiểm soát. Anh Dung nói: - Không có anh nói vô em không thêm được 2 điểm đâu, ông đội mình mới được bầu làm đội trưởng, ông ấy hăng hái lắm, muốn lấy lòng bề trên, làm như vậy mất hết tình cảm láng giếng, mà toàn là bà con anh em hết, anh không muốn thế. - Cảm ơn anh đã ủng hộ em, tuy em chưa quen với việc nhưng anh thấy đó, em rủ cả giò, lội bì bõm suốt ngày, đây là lần đầu tiên trong đời em ráng hết sức, sự nỗ lực mới đáng trân trọng, ông đội mình không thấy điều ấy, muốn ép em vì tự ái vặt. Thôi Dũng ơi, ai cũng hiểu việc này, em không cần nói. Cả bà con nhóm thợ gặt từ các bà cho đến cánh đàn ông đều thấy và hiểu, ai nhỏ nhen cũng biết rồi. Trên sân bóng của làng đã có tiếng lịch bịch, bất chợt Dũng nói lớn: - Ai về cứ về, ai thích bóng đá lên sân bóng thôi đã bắt đầu rồi, xong công việc có quyền giải trí, ai thích cùng tôi, aller thôi. Cả bọn đứng dậy, Dũng và vài người thanh niên di chuyển về hướng sân bóng. Sân banh đã thành 2 phe, có thêm vài người vào nữa chia đều hai bên, cuộc tranh tài lại tiếp tục. Sân bóng làng là thửa đất cao, người ta trồng hoa màu, xong thu hoạch nhóm thanh niên ở làng chôn khung thành 2 bên, thường mỗi chiều, xong công việc thường nhật dân trai tráng trong làng tụ hội về để chơi bóng. Buổi sang bằng có nhiều anh em cùng nhau làm cho có sân bóng luyện tập, môn thể thao này thanh niên trong làng ai cũng thích, cùng nhau hùn tiền mua bóng và vòi bơm, ai thích cứ vào sân, ngoài ra trên sân của HTX nông nghiệp còn có một sân bóng chuyền nữa, cũng gần nhau. Nếu bóng đá đủ số lượng trên sân, người đến sau ghé về sân bóng chuyền, nếu hôm nào đủ cả số lượng, người đến sau phải chờ đợi điền khuyết khi có người nghỉ chơi, khá lịch sự không giành giựt nhau. Đây là điểm nổi bật của thanh niên ở làng này. Có khi còn mời mọc các đội bạn ở thôn cận kề so tài với nhau, bên thua chung nước mía, kể ra đó là phần thưởng cho sự ganh đua, bên thua thắng đều vui cả, nhờ vậy mà phong trào thể dục thể thao của làng cũng rôm rả lắm. Khi xã nhà có hội thi đua, làng ta cũng đạt giải hoặc quán quân hay á quân, vì vậy quỷ bảo trợ bóng đá bao giờ cũng có sẵn 100kg lúa, có việc là xuất lúa ủng hộ, thanh niên rất hài lòng về tinh thần này, nhờ vậy phong trào bóng đá nơi đây khá mạnh so với các làng khác. Dũng còn nhớ trong ngày hội thao của xã, nhân mừng ngày Quốc khánh 2/9 anh cũng là một cầu thủ trong đội bóng thôn, ngày đó ban tổ chức thôn bắt buộc mỗi cầu thủ phài có quần đùi trắng, áo may-dô xanh, giày ba ta trắng, tất trắng đồng phục để thi đấu, Dũng năn nỉ cô Út mua cho, Út rất hào hứng chi tiền vì anh mình cũng có tên trong đội bóng làng, Thậm chí Út còn ra xem trận bóng đá ấy và cổ vũ nhiệt thành khi có đội nhà thi đấu, May quá, kỳ hội thao trong xã, làng ta á quân, được trao cờ kỷ niệm, được thưởng 30 kg lúa. Về thôn ăn mừng chiến thắng có cả trưởng thôn và phân hội trưởng thanh niên lên chúc mừng, oai lắm. Cờ kỷ niệm ấy còn lưu giữ trên văn phòng thôn, được treo trên tường khá trân trọng. Xong buổi đá bóng chiều ấy, Dũng và người chú họ kề tuổi nhau đi về chung đường tâm sự. Chú cũng thương mến Dũng, mỗi lần đi làm thủy lợi hay làm công ích chú thường cùng Dũng chung tổ, chú hay giúp Dũng gánh vác công việc nặng, có gì vui buồn cũng tâm tình, trao đổi. Từ ngày hồi hương đến giờ Dũng và chú chơi thân với nhau. Nghe nói cháu định đi vào Nam hả? chú hỏi. - Cháu cũng định vậy chú à. - Mẹ cháu còn ở trại đi sao được, đến tháng ai đi thăm? - Chị Thanh có thể quán xuyến, nếu có việc, bằng không đợi mẹ cháu về. - Ở quê mình, chú thấy viễn cảnh chẳng sáng sủa gì, làm ruộng thì không thể nổi rồi, tạm thời thôi, đi là thượng sách - Cháu cũng nghĩ vậy - Nhà chú chỉ có mỗi ông đi học tập cải tạo mà còn vậy, nhọc nhằn quá, nhiều lúc điên đầu huống chi nhà cháu. Có thể chú sẽ đi bộ đội, sau nầy may ra còn có cơ hội. Chứ dỡ dỡ ương ương kiểu này cũng ngán ngẫm, không biết ngày mai sẽ ra sao. Một xanh cỏ hai đỏ ngực, đời lính sa trường chỉ vậy thôi. - Cháu cứ nghĩ chẳng lẽ mình cả đời trở thành nông dân, thanh niên thế này mà mọi con đường đi tới hình như bế tắc, khai thông chưa được. 3 năm quân sự ở chiến trường nếu bình an cũng qua vèo, sau đó trở về còn cơ hội, phải không? - Ok chú, sống chết mỗi con người có một hạn kỳ, nghe nói mặt trận Tây Nam cũng dữ dội lắm, đâu thua gì mặt trận phía Bắc Trung Quốc. - Nghe đài, đọc báo thì lờ mờ vậy, chỗ nào cũng chiến trường, cũng súng nổ. Xông ra mới hiểu được, nghe ngóng chẳng thể nào định hình được. Với chú không ngại. - Vậy là chú ngon lành, bản lĩnh chú có dư, mấy bạn họp thanh niên niên tuần rồi nghe phong phanh chuẩn bị đầu quân vào lính ra chiến trường là ngán ngẫm, lo lắng. - Có lẽ chúng ta chứng kiến chiến tranh từ nhỏ đến lớn, mới ngưng tiếng súng, yên ả chưa bao lâu lại tòng chinh, nên sợ. Chú chả sợ gì, bất quá làm liệt sĩ, thậm chí chiến sĩ vô danh ai cũng một lần chết, ít ra cũng vinh quang là con dân Việt bảo vệ tổ quốc. Thời Việt Nam Cộng Hòa cũng vậy, nếu thi rớt tú tài chú đi ngay không ngại ngần, dứt khoác không trốn tránh trách nhiệm với tổ quốc. Nhưng may, thời trước chưa mặc áo lính. - Chiến tranh kinh khủng quá chú hả, đang vui vầy bàn bạc, một trái pháo, tất cả đều im bặt, xác người ngỗn ngang, rờn rợn cho người sống sót, có đôi lúc cháu nghĩ, tại sao người ta gây ra chiến tranh, phải chăng vì lòng tham lam chiếm hữu? và như thế những cổ máy sản sản xuất vũ khí giết người kinh hoàng, người ta tự hào với văn minh cơ khí, sự văn minh nào cũng dẫn đến sự phục vụ nhân loại, đàng này hủy diệt sao gọi là văn minh? Ai là người trả lời câu hỏi đúng cho nhân loại khi các cổ máy giết người nhân loại mãi phát triển không ngừng, nào vũ khí hạch tâm, nào vũ khí hóa học. Một Hiroshima, Nagasaki nước Nhật của thế chiến II đã tan hoang, mấy mươi năm sau chưa kịp hồi sinh, những di chứng hãy còn đó, các nhà khoa học cũng thấy được cơ mà? Có lẽ nào trò chơi này không ngưng nghỉ. - Đó là những toan tính của các ông lớn, không hàng hóa nào lãi nhuận cao bằng vũ khí chiến tranh. Thời nào trong nước buôn vua cũng lãi cao chất ngất, Lã bát Vi đã hiểu điều ấy tự nghìn xưa. Chiến tranh càng nhiều vũ khí sát thương mạnh càng đắc giá, có lãi nhuận nào cao bằng. Hôm nào cháu qua nhà chơi, từ ngày cha chú học tập về ông ấy cũng thích trò chuyện, nhưng bây giờ chẳng có ai, đôi lúc ổng buồn quá, ngồi ngó ra, vốn thể chất không khỏe lại mới về từ chốn rừng thiêng nước độc nên có vẻ mệt mỏi u hoài. Sắp đến nhà rồi, chú cháu chia tay, chú đi tắt ngõ này cho gần, còn ngủ nghỉ, mai có công việc, dù gì chúng ta cũng phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình, đó là cứu cánh duy nhất bây giờ. - Vậy chú nghe, thú vị quá, hôm nay chú cháu mình sau một ngày làm, cháu lội ruộng ôm lúa, còn chạy mấy mươi phút trên sân bóng lẽ ra mỏi mệt lắm nhưng ngược lại, tinh thần hưng chấn nghe khỏe hẳn ra. Tạm biệt chú Đàn trâu bò của các gia đình có lẽ cuối cùng trong ngày cũng đã từng đàn lũ lượt về, để lại đám bụi mờ đang đưa chiều vào tối, cảnh quê yên ắng, vài nóc nhà tranh chòng chành những ụm khói như luyến tiếc một ngày đã qua, cố gắng vấn vương ôm ấp nóc nhà tranh, sao thơ mộng quá. Đàn chim trên trời cao có lẽ bay về tổ vẽ nên bức tranh chấm phá của tầng cao mây trắng yên bình đến lạ thường. Dũng lững thững về nhà. * * Chị Thanh đi thăm bà Giáo Vân vừa về đến đầu ngõ, con Vện chạy u ra mừng đuôi chạy theo xe, có lẽ nó cũng hiểu được hành vi của của chị Thanh, thong thả vào nhà chị không quên vuốt đầu nó như cảm ơn, nó ngoan ngoãn nằm xuống nghe ngóng sự trao đổi của chị với ông Giáo. - Sao con, mẹ có khỏe không? Sắc diện con thấy thế nào? - Dạ, mẹ khỏe, sắc thái cũng như lần trước, mẹ có vẻ ốm hơn, da sạm nắng. Có tin mừng là mẹ nói, “hình như sắp được về” - Cũng đã gần vài năm rồi còn gì! Ông dùng tay bấm đốt, thì ra ông tính từng ngày khi bà Giáo rời nhà, từ khi bà Giáo Vân rời nhà, ông ít nói, trầm mặt hơn, u hoài hơn. Gần 40 năm ông cùng bà Giáo chung sống với nhau, biết bao nhiêu kỷ niệm trong đời với bà Giáo. Thời Việt Minh, ông bà nội đem trầu cau và sính lễ cưới bà giáo về, từ đó bà làm dâu trưởng trong nhà, quán xuyến mọi việc trong gia đình nhà chồng, lúc ấy ông giáo vẫn còn tiếp tục đi học, ngày ông ra Huế đi thi trung học, bà tiễn chân ông đi những 3 cây số, đến chợ huyện mới quay về, lúc ấy ông bà đã có vài người con. Bà luôn khuyến khích ông học tập, thành quả ông có được, công của bà giáo không nhỏ, ngày ông đậu trung học, cả nhà làm heo cúng mừng, ông nội hãnh diện với bè bạn ông lắm, và vui nhất là bà Giáo bởi trong cái huyện này có vài người đỗ đạt, bà tự hào cũng phải thôi, ngày ấy “mỗi con chữ là một đồng vàng” đâu phải ai cũng có điều kiện học tập như bây giờ. Gia đình nào khá giả, giàu có mới cho con đi học, nếu muốn học nữa sẽ phải ra tận Hà Nội hoặc vào Sài Gòn. Như ông giáo đã có gia đình nên không thể đi, ông chỉ có thể chọn một, sau đó ở lại. Và ông nói tiếp: - Phụ nữ đi học tập rất khó khăn, cho đến bây giờ cha cố tình suy nghĩ tại sao, lý do gì mẹ con đi, nhưng tuyệt nhiên cha không biết vì sao? - Thôi cha, suy nghĩ chi, đàng nào mẹ cũng đi rồi, chờ ngày mẹ về sẽ rõ thôi, chắc cũng có lý do, có lẽ mẹ cũng sắp về. - Cha chỉ mong như thế, thời gian cứ mài miệt đi qua, không chờ đợi ai, có thể nào cứ mãi vậy, mỗi thời đi qua là một đổi thay. Con vào nghỉ đi, cả ngày từ 4 giờ sáng đến giờ chắc mệt rồi, tất cả chúng ta đều ráng thêm một chút. Sự khuỳnh trương của thể chất cũng như trí tuệ kỳ diệu lắm. Cha tin mọi sự cũng qua đi, bão tố rồi cũng bình lặng, gió nổi cũng qua nhanh, cơn mưa nào rồi cũng tạnh nhường chỗ cho mặt trời quang đãng, có đi qua ngày gió mưa thời cuộc mới quý và trân trọng phút bình yên đời mình con à. - Dạ, con nghỉ tí và tắm rửa. Trên đường về mắc mưa, cha à Trời vẫn còn u ám, cơn mưa ngày đã tạnh, phía đông lộ đường chân trời trong sáng báo trước ngày tới sẽ nắng ấm áp, rồi mai tất mầm mới lên xanh, đời lại trở về với sự bình yên cùng trời đất trời bao dung trước cuộc đời còn lam lũ, khó khăn. NDT (còn tiếp) CHƯƠNG 12 BÀ GIÁO VỀ
CHƯƠNG 12 Cầm tờ giấy ra trại, bà mừng quýnh. Chào và cảm ơn người cán bộ đưa giấy phóng thích. Về đến tổ tăng gia bà kịp chào hỏi những người thân và thu xếp và gửi đồ đạt cần thiết cho vài người đã từng giúp bà trong thời gian học tập cải tạo, họ cảm ơn và chúc mừng cũng như tạm biệt bà, được về vui vầy với gia đình. Bà lật đật ra về Bà ra khỏi trại không quên nói lời tạm biệt với những người quen gặp gỡ. Chúc tiến bộ mau về với gia đình. Vào mùa mưa đường sá lầy lội, trơn trợt do phù sa, bà đi bộ một quãng khá xa trại, thỉnh thoảng ngoái nhìn lại định có ai cùng đường xin quá giang. Một chiếc Honda Dame phía sau giảm tốc độ, dừng ngay trước mặt bà. - Hôm nay cô được về đoàn tụ cùng gia đình, vui quá hả cô. Cô ngồi lên em chở cô về. - May quá, cảm ơn em. Nếu không phải ra tuốt ngoài đường lộ mới có xe thồ. - Sáng nay, trong danh sách những người về đoàn tụ với gia đình có tên cô, nên em tranh thủ ăn trưa sớm để đón cô, em không được phép đón cô trong đó sợ lãnh đạo biết, kiểm điểm. - Em tốt quá, ơn này cô sẽ nhớ. - Ơn nghĩa gì cô, em được thế này cũng bắt đầu từ các thầy cô, chở cô về khúc đường có nghĩa gì, ngày em đi học cô rèn luyện em cùng các bạn buổi đầu đời, công sức ấy mới to tác. Xe chạy chậm vì đường trơn, thỉnh thoảng băng qua vài đoạn đường bùn, vài vũng nước đọng, nước tung tóe anh cố gắng giữ tay lái cẩn thận, sợ rủi té, không hay. Bà Giáo ngồi sau, tay ghì chặt baga. Qua vũng nước lớn, anh bảo: - Cô ôm chặt bụng em đỡ nguy hiểm hơn, đường trơn trợt lắm cô à. Mùa nầy đi lại khó khăn hơn mùa nắng, cẩn thận cô nhé. Sau khi ôm chặt anh, có vẻ chắc chắn, an toàn hơn anh bắt đầu tăng tốc. Bà Giáo tiếp tục cuộc chuyện trò, bà hỏi: - Em quê ở đâu, có học cô à. - Ngày cô mới vào trại, gặp em đã nói với cô rồi, chắc cô quên. Em luôn chú ý đến cô để bảo vệ thầm lặng - Xin lỗi em, ngày mới lên cô sợ quá, cô không nhớ nổi nữa, thỉnh thoảng chỉ gục đầu chào. - Em là Lộc, ở Nghĩa Lộc, khi em học lớp 3 cô dạy em. - Vậy à, hồi ấy lâu quá rồi, làm sao cô nhớ. - Cô không nhớ cũng đúng thôi, ngày tuổi còn thơ chúng em bé tí dưới mắt cô, bây giờ bọn các em đứa nào cũng sức dài vai rộng. - Thời gian thoắt qua vèo, bây giờ là cán bộ đàng hoàng. - Cô biết không, trí nhớ của em cũng được cô à. Các thầy cô trường tiểu học em vẫn nhớ. Lộc đọc phanh phách tên các thầy cô dạy từ lớp một đến lớp năm những giáo viên trường bà Giáo dạy, thậm chí có thầy bà quên, nhờ Lộc mà bà gợi nhớ các đồng nghiệp cũ của nhà trường. - Không biết quý thầy ở trường tiểu học Nghĩa Lộc giờ có còn ai ở đó không em? - Dạ, không thấy ai cô à, - Cô dạy 3 năm ở Nghĩa Lộc, rồi thuyên chuyển về quê, nên ít gặp các thầy cô ở đó. Thời trước thỉnh thoảng họp giáo viên toàn quận thì có, sau nầy cô cũng ít họp trên ấy nên cũng không biết, nhất là sau 75 không còn gặp thầy cô nào nữa. - Có lẽ các thầy cô đi làm ăn xa. - Còn em, sau tiểu học, em học ở đâu? - Sau em thi Trung học không đậu em học tư thục, hồi đó đậu được trung học công lập khó quá cô à. Cũng may, mẹ em tần tảo chỉ mong em có chữ nghĩa sau nầy biết sống với đời, vì vậy em cũng cố gắng học tập, đến lớp 10 em hoạt động cách mạng, khi thống nhất, em chuyển qua làm trong đó mãi đến giờ. Em đậu tú tài xong, mấy năm nay theo học khóa sĩ quan về công tác tại đây. - Vậy hả, mừng cho em, tuổi trẻ chỉ có học tập mới tiến thân em à. - Dạ, Chiếc xe bây giờ bon bon trên đường. Hai cô trò vừa đi vừa nói chuyện, đoạn đường đến nhà dần thu hẹp, đã qua đèo Eo Gió chuẩn bị tới Nghĩa Hành, cảnh vật thay đổi nhiều, mới vài năm mà nhà cửa hai bên đường có vẻ đông đúc hơn, và lòng bà cũng bắt đầu cuộc đổi thay sau những ngày kiềm tỏa trong trại, bà càng hớn hở khi sắp được đặt chân vào ngôi nhà cả đời bà gắn bó, mong mỏi ấy sắp hiển hiện. Sự đổi thay hai bên con đường lùi lại theo chiếc xe lao về phía trước, để lại vệt bụi mù của con đường đất bà đã từng đi lại nhiều lần. Quá trưa, bà Giáo trở về ngôi nhà thân yêu, niềm vui ấy rộn ràng chợt nước mắt sướng vui bỗng lưng tròng khi quay về chốn cũ. - Em đã đến nhà cô, vào nhà uống nước, nhờ thế này em mới biết nhà cô. Nghe tiếng bà, ông Giáo vội vả bước ra. Lộc cúi đầu : - Chào thầy Ông gật đầu, rồi vội vả : - Mời em vào nhà, quý hóa quá, em đã đến nhà vào uống nước. - Dạ, Hình như là thầy giáo cũ, thời trung học thì phải, hay là người giống người? Lộc thoáng suy nghĩ, gạt chân chống dựng xe bước vào nhà. Cửa nhà trên mở toang, ông giáo đã mặc bộ Pyjama, đem theo bình thủy nước lên và mở tủ thờ lấy bình và mấy tách trà, pha trà rót 2 tách nước khói nghi ngút tỏa, ông trân mời ân nhân đã chở bà về : - Em uống nước đi, tôi vừa pha, trời se lạnh, uống cho ấm bụng - Dạ, mời thầy Hai người cùng uống, thường nhật ông chỉ uống trà buổi sáng, hôm nay có khách ông uống thêm buổi trưa, may là ông chợp mắt trước khi bà nhà về, uống nghe ngon. Bà Giáo cũng đã đem nải chuối chát, ngày hôm qua ông đã đốn đem vào nhà. Nải chín nhất được cắt ra, mang lên, bà mời: - Em ăn chuối đi, cũng quá trưa rồi, em ăn trưa sớm, chắc đói bụng rồi, của ít lòng nhiều em à. - Bà đưa Lộc, cùng ông nhà, bà cũng một trái, có lẽ đã đói, từ sáng giờ bà không bỏ bụng thứ gì, khi người ta mừng vui thường ít thấy đói. Cả 3 cùng ăn. Bà giới thiệu với ông : - Mình à, đây là Lộc, học trò cũ tôi thời tôi dạy ở Nghĩa Lộc, bây giờ em là cán bộ trại giam. Em biết tôi hôm nay về nên ra tận đầu đường đón tôi, một nghĩa cử rất đáng trân trọng. - Cô trò gặp nhau trong hoàn cảnh éo le, may là em biết đạo lý, nên em giữ được chữ nghĩa, chữ tình, quý thay. - Thầy à, với em, việc chính quyền là của chính quyền, cô có vấn đề chính quyền cho học tập, cô học tập tốt được giám định cho về, với em cô là cô giáo cũ - người bắt bậc thang học tập cho em thuở đầu đời ai cũng từng được đi qua, em quý trọng thầy cô. - Thời nào cũng vậy, đạo nghĩa thầy trò vốn quý cha mẹ cho hình hài, thầy cô bồi đắp kiến thức, ca dao Việt có nhắc nhở học trò ‘trọng thầy mới được làm thầy’ em à. - Hình như thầy cũng dạy học? - Tôi là công chức chánh ngạch, dạy thêm tư thục thôi. - Thầy dạy sử địa phải không? - Đúng rồi. Sao em biết - Em đoán thôi - Hồi em học Quảng Ngãi Nghĩa Thục, cũng may thời đó có trường không học phí, nhà nghèo nên khó lắm thầy à, mẹ em cố gắng tảo tần cũng đủ tiền trọ và tiền ăn. Thầy dạy môn sử địa, giáo sư dạy em giống thầy lắm - Tôi có dạy Quảng Ngãi Nghĩa Thục mấy niên khóa, môn sử địa. - Xin lỗi thầy, Có phải thầy C… ? - Phải, em có học tôi à - Hồi ấy, em học Thu Xà, sau ra Nghĩa Thục thầy có dạy, em học được 2 năm lớp 8 và 9, sau chuyển trường vì sợ lộ bí mật - Thì ra vậy, - Thầy chỉ dạy em có một năm, em ngờ ngợ từ khi vào nhà đến giờ. Hồi ấy thầy vẽ bản đồ và chữ viết rất đẹp. Em thích nhất là vẽ đến đâu thầy giảng đến đó. Bây giờ thầy ốm và già đi nhiều, nên em không nhận ra liền, khi em nói chuyện mới thấy giống. Ồ, tình cờ em lại được gặp thầy cũ, biết được thầy cô, quý quá, thầy bây giờ không dạy nữa sao? - Nghỉ rồi em à. Định nói gì thêm, nhưng rồi ông bỏ lững… - Thầy à, cô đã đầy đủ mọi tư cách công dân, có điều còn quản chế, thời gian tới mong cô chấp hành tốt chính sách địa phương, thầy động viên cô, thầy nhé - Vâng, cảm ơn em. Bà Giáo cũng thấy vui vì Lộc cũng là học trò cũ của ông. Thầy cô, thời chiến tranh ở phố, hòa bình mới hồi hương về quê. - Em ăn chuối đi, Chuối chín cây ngon, bà Giáo đưa thêm, nhưng Lộc từ chối. - Dạ, vừa rồi cô, em vừa ăn trưa trước khi ra đi, hơn nữa em còn về quê thăm mẹ, gần cả tháng em chưa về, nơi làm việc không xa nhưng trở ngại đường sá, nên em cũng ít được về thăm mẹ. Khi nào có dịp em ghé thăm thầy cô, thỉnh thoảng em vẫn công tác xuống địa bàn các xã, thuận tiện em ghé thăm. Bây giờ em xin phép về nhà. Bà Giáo nói : - Cô cảm ơn em rất nhiều, đã giúp cô đến tận nhà, chỉ có học trò cũ có tình nghĩa mới như vậy thôi, chúc em làm việc tốt, xứng đáng một cán bộ mẫu mực với cuộc đời này, em nhé. Lộc kính cẩn bắt tay ông giáo và cúi chào bà giáo ra về. Hai ông bà tiễn Lộc tận xe, khi xe khỏi ngõ ông bà mới quay vào. Mình chưa ăn trưa phải không? Cơm còn ít, ghế củ lang, mấy con ở nhà rất tiết kiệm, xuống ăn đỡ, chiều mấy nhỏ về mua thêm cái gì. Khi mình đi rồi, cũng được là con Thanh tháo vác từ việc Hợp tác xã, công ích, thủy lợi và cả đoàn thanh niên của tụi nó cũng hoàn thành. Bà Giáo mang cơm lên nhà ngang trên chiếc bàn nước cùng chén mắm cái, con mắm còn đỏ hỏn, bà ăn ngon lành, ông có cảm giác như mình ngày trở về khi ra trại được ăn cơm như bà bây giờ. Bà Giáo nói : - Ăn chén cơm với mắm cái ở nhà ngon đáo để, ngon hơn cả những bữa tiệc thịnh soạn khi hội họp tổ chức. Tuy trên đó tôi không đói cơm, sát cái bếp ăn, nhưng về nhà không khí hoàn toàn thoải mái, không như trên trại. Khi tôi ở đó tôi thường tưởng tượng về mình, và hiểu thêm chế độ học tập cải tạo mặc dù đây mới chỉ là trại của những người cấp bậc thấp. - Ở đời khi thực nghiệm rồi, có thể không nói cũng hiểu, huống chi tôi đã kể cho mình. Sự cảm nhận có khi còn thú vị hơn lời kể. Nè, mà mình à, mình bị tội gì vậy, họ có cho mình biết không ? - Có chứ ông, ban đầu khi mới lên ngày nào họ cũng bắt tôi cũng khai tường trình về dạy học, có gì khai nấy. Cán bộ quản giáo nói tôi khai không đúng sự thật, họ đã biết hết. Tôi không hiểu được. - Chiêu thức ấy, hình như có lớp lang cả rồi. - Hôm sau bắt tôi khai lại, lần sau cũng vậy đến lần thứ mấy tôi cũng chẳng nhớ - Cuối cùng thì sao ? - Trời ơi, ông nghĩ xem, họ đưa một tờ danh sách cán bộ, viên chức ngành giáo dục cũ các trường trong huyện, trong đó có tên tôi là bí thư đảng Dân Chủ. Tôi giải thích với họ rất nhiều lần, đối với thời Quốc gia, đảng Dân chủ là hợp thức hóa công chức thôi, nghĩa là ai là công chức ăn lương chính phủ thì mặc nhiên là thành viên đảng Dân Chủ. Họ không tin. Nhiều lần như vậy, tạm thời họ để đó sưu tra lại. - Sao hồi đó mình nhận, các thầy Hiệu trưởng, phó lẽ ra để mấy thầy đảm nhiệm chứ! - Năm 1972, sau vụ mùa hè đỏ lửa, chiến sự bắt đầu ác liệt có mấy thầy lại bị động viên vào lính, ông Hiệu trưởng nhà dưới phố nói : ‘Cô Vân à, cô làm bí thư giúp cho nhà trường nghe, chỉ là ghi cho có tên, thỉnh thoảng đi họp tí chứ chẳng có gì, tôi ghi vào danh sách nộp lên trên nhé cô’. Tôi chỉ vâng vâng, dạ dạ, cứ nghĩ các thầy nhà dưới phố lại đàn ông, khi có việc đến chiều mất an ninh lo về sớm vẫn tốt cho các thầy hơn. Đâu biết bây giờ mấy ổng truy ra. - Đảng Dân Chủ của ông Thiệu ghi tên cho có lệ, chứ chẳng hoạt động gì, cả năm tôi họp một lần chứ chẳng làm gì ra trò. Có lẽ mấy ông bây giờ suy diễn như đảng Cộng Sản tưởng chặt chẽ dữ dội, mật thiết lắm, khi tìm hiểu được sự thật họ cho về. - Tôi nghĩ vậy. Mình biết không, ban đầu họ tưởng tôi cũng như mấy ông huyện ủy thời nay nên hành xác không chịu nổi. Cả đời mình chỉ biết tới bọn trẻ con chăm nom, uốn nắn các em mai sau thành người hữu dụng cho xã hội. Nghề giáo, nhất là giáo dục tiểu học trách nhiệm hướng dẫn tư cách làm người mai sau ngay lúc còn non. Coi như một tai nạn mình à. - May thay, mình cũng được về sớm, nếu không dây dưa cũng mệt, mình cũng chẳng biết đâu mà lần, mình chỉ là nạn nhân thôi. Cảm ơn trời đất, dù gì mình cũng còn diễm phúc. Thôi mình đi nghỉ tí đi, chiều bọn nhỏ về, mừng lắm, trông mẹ về từng ngày. Tiếng í ới của bọn nhỏ trong nhà sau buổi hoàn công trồng lang HTX cho một gia đình trong đội đã hoàn thành, bọn nhỏ còn trò chuyện ngoài ngõ, bà Vân nghe xôn xao tiếng người nói cười ra đứng trước cửa. Thấy bà, tụi nhỏ như ong vỡ tổ : Mẹ đã về, lập tức chạy vù vào quên cả bạn còn ngoài cổng ngõ. Chiều xô dần vào tối, mùa đông ngày ngắn, mặt trời chưa sập sau núi đã nhá nhem tối, lời nỉ non của loài dế bắt bầu khúc giao hưởng tự tình, khúc nhạc muôn thuở của nông thôn nghe có gì da diết nhưng cũng thê thiết lắm. Buổi tối, cơm nước cùng chồng con nhìn đôi mắt đứa nào cũng hân hoan, vui vẻ, không khí nhộn nhịp ngày đoàn viên, bà vui khôn xiết sau gần hai năm học tập cải tạo. Hai năm trong ấy sao dài quá, nhớ gia đình kinh khủng, bà chưa bao giờ xa nó dù thời vàng son nhất trong những ngày dạy học, thậm chí đồng nghiệp bà cứ khuyên bà nên đi chơi xa đâu đó một chuyến như Nha trang, Sài Gòn, Vũng Tàu…cho rộng tầm mắt, chỉ vì yêu gia đình bà lần lửa chẳng đi. Cả đời dạy học, kỳ nghỉ phép nào bà cũng chỉ tranh thủ về Đà Nẵng thăm cha mẹ già, có thể dẫn thêm đứa nhỏ nào về thăm vài ba ngày, rồi lật đật quay về mái ấm gia đình. Có lần ông Giáo đi công tác Sài Gòn nhân bà được nghỉ phép năm đó, song vì yêu con, bà cự tuyệt lời đề nghị của ông ‘nên đi một chuyến Sài Gòn để biết thủ đô hoa lệ, bà dứt khoác không đi. Chị Thanh, sau khi nghe mẹ kể sự gian khổ trong những ngày ấy, chợt chị hỏi : - Mẹ à, họ bắt mẹ học tập vì lý do gì vậy? Bà chỉ trả lời ngắn gọn : - Ừ thì đi dạy cho chế độ cũ cũng đã có tội với chính quyền mới. Không ít thì nhiều. Dũng lại tỏ ra bất bình, chen vào : - Đi dạy cũng có tội à? Mấy ông này kỳ cục hết sức, Đi lính, chỉ huy hay lính trực tiếp chiến đấu thì thôi được đi, đàng nào cũng gián tiếp hoặc trực tiếp bắn giết với nhau, đàng này đào tạo cho con người mai sau thành người cho xã hội cũng có tội, không thể nào chấp nhận, thật là vô lý. - Nghĩa là lúc mẹ là giáo viên có tham gia đảng phái cùa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. - Hồi đó ai công chức cũng vậy mà, sao những người khác lại không - Vì mẹ có chức sắc hơn. Nhưng thôi, mai mốt con sẽ hiểu, nổi oan này không phải riêng cha mẹ, mà cả miền Nam con à. Lịch sử vẫn còn đó. Chị Thanh nói vào : Mẹ cũng học tập cải tạo nhưng về thấy đỡ hơn cha nhiều, không bịnh hoạn, sức khỏe cũng ổn, vậy là mừng rồi em à, làm sao mình hiểu được. Có mẹ về mẹ tính chuyện, con cũng đã cố gắng quán xuyến trong thời gian mẹ đi, ít ra con cũng đã hoàn thành sứ mạng. Út giỏi lắm mẹ à, có miếng canh, miếng cá cho cả nhà cũng nhờ Út cả, nếu không có Út chắc cuộc sống tồi tệ hơn. Bà Vân quay sang nói với Út : - Bây giờ, mẹ về mới thấy hết sự trưởng thành của Út, cha nói đúng. Thời không cho Út may mắn thì đời cho vậy, mẹ cảm ơn con đã phụ giúp gia đình và cả mẹ nữa, những lần chị Thanh thăm mẹ đều nhờ vả tiền con làm ra tuy không nhiều những cũng đủ trang trãi trong những tháng ngày nhà mình lao đao. Nếu không có gánh hàng xén của con có lẽ không được thế này. - Mẹ à, buổi sáng con mua bán ở Hơp tác xã mậu dịch, chiều con về xuống chợ bán, quần áo cả nhà lúc tết toàn là hàng HTX, vì vậy bán buôn cũng tạm được, con làm vài năm, nếu có chút tiền bạc con vào Sài Gòn, nghe các anh chị về nói mà ham. Người ta không câu nệ lý lịch như ngoài mình, ai giỏi kiểm tra sát hạch được là vào làm, có năng lực là tiến thân được. Tất nhiên là con cán bộ còn ưu tiên cất nhắc, đó là chính sách của chế độ này. Con có thể học lại và thi để cho chính quyền biết, con vẫn đọc sách và xem bài thường xuyên mẹ à. Anh Dũng cũng đã nói là ảnh sẽ vào Nam, ngoài nầy với lý lịch thế nầy thì cả đời ăn tro mò trấu. Con ủng hộ ảnh. - Bây giờ, nhà mình thất thời, thất thế cha mẹ chẳng làm được gì, không thể nhờ vả được ai, ngày trước mẹ cha giúp đỡ biết bao người ở cái xã nầy ra phố học tập, ở trọ phố học tập, nhưng họ chớ hề biết ơn nghĩa, họ dững dưng. Thế đời nó vậy. cha mẹ chẳng biết thế nào chỉ cậy ở các con. Mẹ vẫn tin hoàng thiên hữu nhãn. Hai mẹ con nhỏ to tâm sự đến khuya mới nghỉ ngủ, ngày mai con còn làm việc và mẹ cũng cả ngày đường chưa thẳng lưng. Ngoài trời gió mạnh thêm, chuyển mưa. Có thể trời mưa lớn, mưa cho trôi tất những muộn phiền về với biển để hóa thân trở thành những thắm tươi cho cuộc đời, mở ra một chương mới cho đất nước đẹp đẽ hơn, có lẽ trong thâm tâm người ai cũng mơ như thế, nhất là bà Giáo Vân. Mọi ngôn ngữ bất lực trong thời đại này, chỉ có bao tử là dữ dội, tất cả tranh đấu cho từng miếng ăn để tự tồn, một khi bao tử lép kẹp, con người chỉ duy nhất nghĩ đến miếng ăn. Bản năng lặng lẽ quay về trên mỗi thể thân. Tất cả ai qua đã đi qua đoạn đường này mới thấu thị. Phương thức giải quyết thế nào mỗi người tự tìm thấy trong chính mình, bà Giáo Vân mãi hoài suy nghĩ, tìm cho mình sự phù hợp nhất chỉ mong sao giải quyết được vấn đề cơm áo, chẳng đơn giản chút nào trong những ngày sắp tới. CHƯƠNG 13 HÀNH TRÌNH
CHƯƠNG 13 HÀNH TRÌNH Nỗi suy tư dài của Dũng đã tỏ bày cùng gia đình, từng lời khuyên sự dặn dò, bây giờ Dũng không bận rộn lắm với gia đình. Gánh hàng xéncả sự buôn bán của Út cũng dần đi vào nhịp nhàng, nếu đầy đủ phương tiện là Dũng lên đường. Dù sao Dũng cũng vài lần thăm dò Sài Gòn, nhớ lần thứ nhất ngày vào nhà chú đi mua gạo của thành phố này. Hôm ấy 4 giờ sáng, gia đình chú đã gọi Dũng và chú em chút xíu đang học lớp năm, tội lắm nó bé tí cùng đi với anh Dũng, nhà đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục nào hộ khẩu, sổ mua gạo... Thằng nhỏ mắt nhắm mắt mở nhưng cũng hiểu phải có gạo mới mong thoát khỏi cảnh ăn mì và bo bo, nó ngán tới đầu, nó nói mà Dũng thương quá chừng. Đã 4 ngày liên tiếp nhà cứ luộc mì, chiên mì hoặc cháo bo bo. Nhà không ai rảnh cả nên Dũng xung phong coi như đi thực địa tìm hiểu và trải nghiệm. Đến cửa hàng lương thực Phụ Nữ, trời còn tối, nhờ ánh điện của các trụ đèn gần đó nên cũng thấy quang cảnh mua lương thực HTX, Dũng và em đến chừng 4 giờ 30, sớm như vậy cũng đã có vài mươi người sớm hơn. Mỗi người tùy theo cách thích của mình mà xí chỗ, người đặt cái ghế xếp, người đặt cục gạch, hòn đá… tựu trung là làm dấu đánh số thứ tự. Xong đến quán cafe cốc gần đó ngồi nhâm nhi cafe đợi sáng …mua gạo. Chỉ vậy thôi, nhưng khi đúng 7 giờ 00, Ba cô mậu dịch viên cùng một chú áo xanh mở cửa hàng, các bạn tưởng tượng những cục gạch, ghế xếp dài ngoằn như con trăn khổng lổ chừng trăm mét, có điều ai nấy vào vị trí đã định sẵn, không chen lấn ồn ào, gây gỗ. Bắt đầu lật sổ và lần lượt nghe gọi tên. Đến phiên sổ gạo nhà chú thím cũng gần 9 giờ sáng, hai anh em về nhà với 9kg gạo được mua phân phối mừng ghê gớm, coi như mất 6 tiếng đồng hồ để mua được 9kg gạo. Thằng em có vẻ hả hê lắm : ‘Em chắc là phải mua được mà, anh đi chuyến này hên quá, mấy khi trước cha và em đi mua đâu có được, còn vài người đến phiên mình, cô mậu dịch báo hết hàng đành phải về chờ nhập hàng’. Dễ sợ vậy à. Sài Gòn như thế này làm sao người dân chịu được Dũng nghĩ kiểu này thì biết bao giờ tiến triển được như xưa. Ngày trước, gạo các đại bài, đại lý, các chợ đầy ắp, chỉ cần 5 phút là gạo tới tay, tất cả nhanh gọn, Vải vóc ư? Đầy đất chật bãi, hàng nội ngoại tha hồ chọn lựa Anh, Mỹ, Pháp, Nhật, Ấn …muốn bao nhiêu mét cũng được, chỉ có tiền hay không. Suy nghĩ vẫn vơ, sắp đến nhà chú, Chợt nhớ lại mấy thằng bạn thân ở quê, với lời hứa hôm trước Dũng đạp xe ra tận thằng Viên chào tạm biệt, nó cũng buồn buồn, rủ vài người nữa ngồi lại với nhau. Lần nầy không rượu chè gì, may là nơi ấy cũng có quán cafe, cả bọn cùng dắt nhau ra cô chủ cũng chút xíu như Út nhà Dũng vậy và cũng trở ngại học tập vì rào cản lý lịch, bèn xin ra góc vườn trên đường lớn mở quán cafe, em ấy cũng biết Dũng, quán nhỏ nhưng cũng có nhạc, nơi bọn nó thường hò hẹn với nhau, kể ra ở quê ngày đó thuộc dạng xịn, mới có casette và đủ các loại nhạc ‘cấm’ thời ấy. Thằng Viên khoái Trịnh Công Sơn và Vũ Thành An nó bảo cô chủ quán : - Cho 3 ly cafe và 3 ly nhạc. Trước khi pha café cô ấy ấn nút, nhạc trịnh du dương vừa đủ nghe, nếu có cán bộ kiểm tra cô năn nỉ cũng không sao, nói chung cô chủ quen với cán bộ bởi các anh thường uống chịu. Bấy nhiêu đã đủ tiền, từ lâu Dũng nếu có mở đài nước ngoài nghe lén cũng rè vì sóng radio lúc được lúc không, đây là âm thanh cassette, thật tuyệt cả ba đắm chìm trong tiếng hát Khánh Ly, café đã bưng lên mùi ngào ngạt, có nước đá trong ly khác ai thích tùy ý, ôi chao, sao giống các quán lớn ngoài phố hoặc tận thị trấn. Không ngờ đến ngày sắp rời quê thằng bạn lại cho mình thưởng thức, mà hình như lâu lắm rồi mới có cảm giác lạ này. Ba thằng đều thích thú, Dũng chợt lên tiếng: - Ôi trời, nơi quê mùa tĩnh mịch vẫn có một chủ quán xinh đẹp lại sành điệu nhạc thế này, bây giờ mới có cảm giác lạ. Cô chủ vui tính: - Lạ hả anh, tự chưa quen thôi, Sành gì anh, đây là máy ông anh mua lại của người bạn ngoài phố, anh ấy vào học ở bách khoa Sài Gòn, nên các băng từ anh cho luôn, em đâu biết nhưng nghe cũng thấy hay, em biết anh Dũng mà. - Sao em biết, em học với em anh, có vào nhà anh rồi, nhưng anh không để ý, em cũng như Út nhà anh, tai nạn lý lịch nên xin mẹ mở quán kiếm tiền tiêu thôi anh à, chả lẽ cứ xin tiền mua sắm, nhất là con gái. - Anh hiểu, Rất tuyệt em à, những người như em rất có trách nhiệm cho chính mình và cả gia đình anh rất trân trọng. - Anh quá khen, chứ buồn lắm anh à, cứ mỗi sáng, mỗi chiều các bạn em đi học về em tủi thân lắm, cái khổ của các em là không được đi học nữa, hơn một năm em ở nhà làm ruộng HTX cảm thấy không chịu nổi. Nếu được tiếp tục năm nay em cũng thi tốt nghiệp, may mẹ em cố gắng chạy vay mượn cho ít vốn em nổ lực bán rồi hãy hay anh à. Nghe anh sắp vào Sài Gòn em mừng cho anh, vào Sài Gòn may ra mới thoát kiếp, chứ ở quê mình khó bề lắm. Trông anh nghệ sĩ quá, làm sao sống nổi nơi quê này. Thằng Viên tranh thủ chen vào: - Bộ tao không nghệ sĩ hả mày? - Anh Viên là nghệ sĩ, nhưng anh thì lạ gì, anh Dũng bây giờ mới tới quán, em khen tí mai mốt ảnh về còn ghé café chứ? Anh thắc mắc quá à. Cả bọn cười xòa. Có cô chủ quán vui tính dễ bắt chuyện có lẽ trai thanh gái lịch nơi này sẽ đến ủng hộ. Làm ruộng coi vậy chứ nhàn rỗi, bận rộn thời vụ, xong nhàn nhã lắm. Ngồi nghe nhạc nhấm nháp ly café, ngon. Cảm giác thú vị, tiết trời se lạnh ngồi trò chuyện với nhau còn gì bằng. Viên nói: - Khi nào cậu đi, Sài Gòn có những điều mà không nơi nào có được, nó là hiệp chủng quốc, dân tứ xứ vào sinh sống chẳng ai để ý ai, ai làm nấy ăn nên thị phi ít, hơn nữa ai siêng năng chăm chỉ là có đời sống, làm gì cũng kiếm tiền được, bất kể ngành nghề nào. Hơn nữa nó là nơi thanh lọc tốt nhất, những con người thực sự làm việc mưu cầu cuộc sống, nó không dung chứa những kẻ lười biếng và ỷ lại. Có những người vào với tài sản rất nhiều nhưng không biết cũng rụng rún chạy về, ngược lại kẻ tay không nhưng chăm chỉ nổ lực thời gian sau cũng khá. Cuộc sống nơi đó là trường ganh đua khốc liệt nhất, ai không đủ bản lĩnh chịu đựng sẽ bỏ cuộc. Tao hy vọng với óc tiến thủ, khôn ngoan và khéo léo tao nghĩ mầy có thể trụ được. Gian nan buổi đầu là chắc rồi, nhưng tốt nhất đừng nản chí, bỏ cuộc. Đừng ỷ lại còn đường quay về mà hãy coi như không chỗ quay về mới thành công. - Tao cũng nghĩ như mầy, vấn đề đầu tiên là quên cái ta của mình, cứ lao vào làm, nếu chưa được, kiếm công việc khác phù hợp. - Mầy phát thảo về vấn đề nơi ấy, những dự định? - Một nơi thênh thang mà mình chưa hiểu làm sao phát thảo nổi. Chỉ khi nào có công việc thật lúc ấy mới tính, ai cũng vậy. Mãn ngồi nghe 2 đứa thân nhau nói chuyện, nhận diện hết vấn đề, nó nói thêm vào: - Ông chú tao khi trước chỉ là thông dịch viên, của đơn vị quân đội ông theo sĩ quan Mỹ thông dịch, Ban đầu nhà nước nghi ngờ CIA bắt đi cải tạo hơn 2 năm, sau khi cải tạo về hết quản chế ổng đi kinh tế mới Long Khánh, nhưng chạy thẳng vào Sài Gòn, buổi đầu thuê xích lô đạp kiếm sống, sau ổng bắt mối dạy đàm thoại, bây giờ ổng ngon lành lắm. Năm ngoái tao vào ông dẫn tao uống café dưới Sài Gòn và dạo phố, thấy ổng tiêu tiền tao hoảng, ổng tâm sự: ‘Sài Gòn là nơi dễ kiếm tiền nhất và tiêu tiền cũng vậy’. Mình nghe sướng lắm, nhưng vào tuần lễ chơi mất mẹ khoảng tiền lớn rồi về. Từ đó mình không có ý vào đó. Nếu Dũng vào mình nghĩ cậu nên học lại Anh ngữ, vì nơi đó là trung tâm giao lưu các nước với nhau, nếu may có thể khá lên. - Ok Mãn, cũng là một ý hay. Tán hưu tán vượn cũng mất cả chiều, các nữ sinh cũng từng đoàn lũ lượt về băng ngang qua quán, cô chủ quán ngồi nhìn những bạn trang lứa đi học về, mắt em đẫm buồn thăm thẳm trong lỗ đen phận người không còn hoa mộng như các bạn cùng thời nuối tiếc một thời học sinh đã qua. Dũng chạnh lòng cùng nỗi niềm cô bé ấy. Dũng đến bên, nói vừa đủ cho cô bé ấy nghe: - Em à, mỗi người có một định mệnh, em cũng thôi buồn đi, biết đâu sau này em cũng khá giả, thậm chí giàu có, ai biết được ngày sau. Buôn bán có niềm vui bán buôn. Việc gì đã qua đừng tiếc chi nghen. Nhìn tích cực vào tương lai. Hy vọng nhé. - Dạ, cảm ơn anh. Mong anh may mắn trong chuyến vào Nam sắp tới. - Cảm ơn em. Viên Mãn ơi, cũng chiều rồi, Thôi ta cũng chia tay, cuộc chơi nào rồi cũng qua, chưa biết khi nào tao đi, nhưng nếu không gặp nữa cũng chẳng sao, mình đã chuẩn bị một chuyến hành trình dài hơi cho chính mình. Cả bọn ra về, chúng tôi chia tay nhau. Hoàng hôn đã về trên mảnh đất quê, cánh đồng xuân thì con gái mơn mỡn xanh, gió nhẹ tạo làn sóng lúa tít tắp chạy về chân trời vô tận. Cảm ơn bạn bè, cảm ơn cô bé chủ quán. Dũng đạp xe bình yên quay về.
* * Buổi chiều hôm ấy, khi về nhà Dũng đã nói chuyện cùng gia đình là vào Nam, chuyến đi này rất quan trọng trong cuộc đời, ai cũng khuyến khích. Cha mẹ còn cẩn thận nhớ viết thư về để cả nhà an tâm, buồn vui gì cũng viết để ở nhà biết tin. Cố gắng làm việc, vạn sự khởi đầu rất gian nan, đừng nản chí bỏ cuộc. Dũng hứa với cả nhà rằng, dù gì anh cũng phải ở trong ấy cho bằng được, rồi mỗi thời mỗi khác, anh sẽ lập nghiệp trong đó. Trước khi ra đi, cha anh còn dặn dò rất cẩn trọng: - Đừng thấy khó mà mau chân lui, mọi sự không dễ dàng, nhất là đối với người chính trực và thật thà, thiện lương ai cũng mến, cũng quý, một sự giúp đỡ là một quý hóa, phải biết cảm ơn và nhớ ơn, con nhé. Cha tin ở con. Chia tay cả nhà, anh bịn rịn và lưu luyến, cuối cùng Dũng ra khỏi nhà, anh không dòm lại. Lòng cương quyết mách bảo hãy mạnh dạn bước tới phía trước. Chuyến tàu hỏa Bắc Nam kéo còi vào ga, người ta tiễn đưa nhau í ới lên xuống tàu, Dũng còn đợi người xuống chưa vội lên, một mình làm cả cuộc phân ly. Anh thấm thía với nỗi niềm Nguyễn Bính, tâm sự sao giống anh quá: Có lần tôi thấy một người đi Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì Chân bước hững hờ theo bóng lẻ Một mình làm cả cuộc phân ly. Chuyến tàu kéo hồi còi dài, tạm biệt sân ga, nó da diết quá, Dũng ngồi trên ghế sát cửa sổ phía trái, sau hồi còi của người chef ga, nó bắt đầu xình xịch lăn bánh. Bỏ lại quang cảnh náo nhiệt hổn độn của sân ga. Những bãi mía tít tắp, những cánh đồng xanh rì bất tận, nối đuôi nhau. Làng quê anh dù thế nào cũng tô một màu xanh muôn thuở đến kỳ cùng. Người nông dân yêu quê chỉ biết chăm bón những mầm xanh hy vọng, họ là những người thầm lặng nhưng bao giờ cũng đem lại bình an và no ấm nhất trên đất nước này, có điều họ chưa bao giờ được chăm sóc chu đáo. Dường như cả đời họ chỉ chăm chỉ với mảnh vườn, miếng ruộng, miếng đất, công lao to tát thế, nhưng mấy ai ngồi lên đỉnh cao nghĩ đến để bênh vực quyền lợi cho lớp người lương thiện, tình nghĩa này, đây là nghịch lý có thật. Bao giờ họ mới thật sự được công bằng trong xã hội? Ngồi cạnh bên Dũng là cô gái có khuôn mặt tròn, mái tóc vừa phủ ngang vai, chiếc băng đô hồng đẩy mái tóc làm lộ vầng trán rộng, đôi mắt tròn như hạt nhãn, lông mày lá liễu mảnh không xén tỉa tự nhiên, áo sơ mi hồng quần tây khá đơn giản, có vẻ thật thà. Anh làm quen để chuyện trò: - Xin lỗi, em về đến đâu? - Em vào Sài Gòn để học tập. - Vậy à, hay quá, anh cũng vào Sài Gòn. Vậy là có bạn để nói chuyện cho vui, chắc em không từ chối. - Quý quá anh à, em chỉ có mỗi mình, lần đi thi vào đại học cha dẫn, lần này em vào trường, nên tự đi. Có anh đồng hành là vui. - Anh vào có chuyện gì hay học tập? Một chút xốn xang với Dũng, tuy nhiên anh vẫn bình thản: - Rất tiếc, anh không bước đến giảng đường như em được, anh vào kiếm việc làm. - Vậy à, - Em vào nhập học, mùa nầy là mùa tựu trường của các tân sinh viên, em học ngành gì? - Em học sư phạm. - Hay quá, cô giáo tương lai. - Ngành này ít chi phí nhất nên em chọn, mẹ cha nghèo mà anh. - Nghề giáo cao quý, cha mẹ và các chị anh cũng nghề giáo thời trước, có điều bây giờ không còn dạy nữa. - Sao vậy anh, chắc lương bỗng không nhiều nên chuyển nghề? - Không, chính quyền mới cho nghỉ. Đoàn tàu vào hầm bỗng dưng cả hai lặng im, khi ánh sáng bị nhận chìm vào bóng tối, ít nhất ai cũng phản ứng tùy theo thái độ nhân sinh quan của mỗi con người. Sau khi qua 9 đường hầm liên tiếp Dũng trầm tư. Đời là một hành trình liên tiếp tối sáng, ai khôn ngoan sẽ giữ được ánh sáng dài lâu hơn. Băng qua đất Bình Định, nhiều tháp cổ của Chiêm Thành còn sót lại, ánh sáng vàng của hoàng hôn nhòa nhạt, hình như tháp cổ Chiêm trầm mặc hơn với thời gian đã phủ dày trên đồi cao, vùng thấp. Khúc bi hận của cổ tháp chắc đã một thời oanh liệt, chỉ còn trơ vơ như phế tích buồn vọng về nỗi tiếc thương một thuở. Thời gian sẽ bào mòn từng lớp hưng phế trên cõi đời, có cái gì trường cửu với thời gian. Đến Diêu Trì, một ga lớn trung chuyển, đoàn tàu nghỉ lại lâu hơn để tiếp nước và nhiên liệu, Ánh đèn điện trên các trụ đèn rực sáng, bụng đói Dũng mời cô ăn cơm, cô ta có vẻ ngập ngừng: - Anh mua ăn đi, mẹ đã chuẩn bị cho em cả vài ngày ăn đường, nào cơm và bánh gói, em định mời anh. - Được rồi vậy anh mua cơm gà cùng nhau ăn, ngày mai sẽ tính tiếp. Tôi lấy một hộp cơm và 2 đùi gà lên trên toa xe, chia cho cô ấy một. Cô không quên bỏ qua cho tôi một ít thịt heo chà bông. Cả hai cùng ăn. Nhìn lon cơm đầy ắp và những món lương khô tôi lại nhớ hình ảnh mẹ tôi trước khi đi học tập. Cũng như thế, người nhà quê bao giờ cũng chu đáo chuẩn bị cho người đi xa. Chắc là tiết kiệm và vệ sinh hơn. Chúng tôi kể nhau nghe những kỷ niệm thời học trò, những ngày bắt đầu chập chững bước vào đời buổi giao thời, tuy em nhỏ hơn tôi 4 lớp nhưng cũng đủ hiểu những cơ cực mà gia đình cũng như em đã đi qua. Bất chợt cô hỏi: - Sao anh không tiếp tục học? Tiềm thức 4 năm trước chợt sống lại, Dũng muốn chôn quá khứ không may ấy, nổi hoài thai lớn là vào Nam để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn thôi. Tuy vậy, anh cũng giải thích đại khái: - Ngày ấy anh cũng được đậu vào trường đại học, nhưng lúc ấy còn khó khăn về rào cản lý lịch nên anh không thể tới được giảng đường, mơ ước không như ý, ngày ấy anh cũng buồn lắm, nhưng làm sao được, hình như là mệnh số. Coi như một tai nạn trong đời cùng chung số phận với các bạn cùng hoàn cảnh như anh. - Em hiểu rồi, quê em cũng có những trường hợp như thế. Em cũng thấy tiếc và thương các anh chị ấy. - Chuyện đã qua, anh chẳng tiếc rẻ nữa, chỉ mong về sau đừng có điều ấy xảy ra ở các thế hệ tương lai. Ai có khả năng học tập hãy cho các em bước vào ngôi trường lớn để mai này tự tin bước ra giúp đời, chớ nên cắt tức tưởi sự học trong lúc các em muốn học tập. - Dạ, đúng vậy. Anh à, xin lỗi anh, em bắt đầu buồn ngủ, khi hôm nôn nao quá không ngủ được, nhiều suy nghĩ cho chuyến đi hôm nay, chuyến đi quyết định cuộc đời em cho tương lai. Đồng hồ trên tay cũng Dũng cũng đã chỉ 21 giờ. Em ngủ, Dũng một mình nhìn ra cảnh vật hai bên, ánh trăng soi rất thơ mộng, cảnh trí về đêm cũng lung linh lạ thường, ngồi trên tàu nhìn cảnh vật lướt qua thú vị lắm. Thỉnh thoảng tàu qua chiếc cầu đang làm, tàu chạy rất chậm mặt sông lấp loáng ánh trăng, thấy yên bình lạ thường. Dũng gục đầu trên bàn, cũng thiếp đi. Khi tiếng rao hàng í ới của những người bán hàng rong trên tàu anh mới thức dậy. Ga Nha Trang. Ngày trước Dũng có ghé đến đây mấy lần, Thành phố đẹp, dân cư còn thưa thớt, bãi biển dài nước trong xanh, đẹp vô cùng, một thành phố biển đẹp nhất Việt Nam. Dũng cũng đã mơ chọn nơi nầy làm quê hương, nhưng không có ai quen biết nên cuối cùng anh chọn Sài Gòn, Thức giấc Dũng vẫn còn ngái ngủ, anh gọi chị bán café cho 2 ly, một đen và một sữa nóng, Anh hớp ngụm café cho tỉnh táo và đốt điếu thuốc thơm, ối chà nó ngon làm sao. Khi cô em giật mình dậy, Dũng mời ly café sữa: - Em uống café đi, anh mới mua còn ấm, uống cho tỉnh táo. - Em không quen uống café - Thì bắt đầu là vừa, vào Sài Gòn học tập em sẽ biết, người Sài Gòn uống café là nét đặc trưng văn hóa, buổi sáng mọi con đường đều có, hình như người sài Gòn già trẻ gì cũng uống café. Anh thấy cũng hay. - Đây là lần đầu em được uống café anh mời. - Đặc biệt café sẽ làm sản khoái và tỉnh táo. - Em sợ ghiền lắm. - Trời ạ, em uống tí café mà sợ ghiền cái nổi gì. Ghiền café là cả quá trình dài. - Anh à, Sài Gòn dễ sống không? - Anh cũng chưa rõ, các anh chị trước anh nói rằng dễ sống lắm, chỉ cần siêng năng và chăm chỉ tìm cái ăn cái mặc không khó. Chính điều nầy nên hôm nay anh mới có chuyến đi này. Ga Bình Triệu là ga cuối cùng của Thành phố nhộn nhịp bậc nhất này, anh nấn ná giúp cô em xuống tàu, ra khỏi ga an toàn, gọi xe ôm cho cô bé mới quen, dặn dò người xe ôm nhớ đến đúng địa chỉ. Cô cảm ơn chia tay anh, hẹn gặp lại. Một cảm giác thoải mái, mới 10 giờ sáng, Dũng vội băng qua đường thuận chiều về sài Gòn, ngồi lại uống cafe sát đường. Sài Gòn lúc nào cũng vậy, nhộn nhịp vô cùng, anh xe ôm bên ngoài ga, có lẽ muốn chở tôi về, khi đã hết hành khách của chuyến tàu Bắc Nam, anh ghé bàn tôi, nói vừa đủ nghe. - Em về đâu anh chở về, anh xe ngoài bến đi giá phải chăng, thấy anh có vẻ đàng hoàng, Dũng nói : - Anh chở về Phú Nhuận bao nhiêu ? - Đoạn nào em ? - Khoảng giữa Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận. - Em cho anh mười đồng. - Ok, anh đợi em hút thuốc xong, tính café rồi đi. Chiếc xe lạng lách qua dòng người đông đang xuôi ngược, Dũng ngồi sau cũng ớn, bấm bụng anh tài xế: - Chậm thôi anh, nguy hiểm quá, dễ gây tai nạn lắm - Không sao đâu em, anh chạy quen rồi. - Cẩn thận vẫn hơn, nhanh tí có khi khổ cả đời. Cuối cùng anh vẫn đến đúng địa chỉ cô em gái, Dũng bước vào nhà, Một chuyến đi không đến nổi cực khổ như chuyến xe đò năm trước ròng rả suốt ba ngày đêm, về tới nơi mặt mày đen như cột nhà cháy, áo trắng bám bụi than thành màu đen, từ đó Dũng thề không đi xe than nữa. NDT (Còn tiếp) CHƯƠNG 14 BƯƠNG CHẢI XỨ NGƯỜI
CHƯƠNG 14 BƯƠNG CHẢI XỨ NGƯỜI Huỳnh Kim học trò cũ của bà Giáo Vân, từ Sài Gòn về thăm cha mẹ, nghe cô Vân đi học tập đã về, chị dự định lên nhà thăm hỏi, lần lửa mãi vẫn chưa đến thăm bà, tình cờ gặp bà Giáo đi trình diện quản chế ở xã về, bước ra khỏi cổng UBND, chị chào thật to: - Chào cô, cô đi đâu đây? Bà Giáo Vân chững lại vài phút nhận diện Huỳnh Kim: - À, cô đi trình diện về - Cô làm gì mà trình diện, cả đời đi dạy cũng trình diện ư? - Ừ thì mình làm việc cho chế độ cũ mà em, nghĩa là có tội - Vô lý quá cô, em về có nghe cô bị đi học tập đã ra trại, tính ghé thăm cô và gia đình, nhưng chưa tới được, may quá gặp cô ở đây. Mời cô qua bên kia nói chuyện chút, lâu quá cô. Hai cô trò bước sang quán bên cách không xa cổng UBND, chị Kim kéo ghế mời cô : - Mời cô ngồi, cô à em mới từ Sài Gòn về thăm cha mẹ, vài hôm nữa em vào - Vậy à, cô trình diện đợt này là đủ thời hạn quản chế, nhà nước cho tự do, khi học tập về chế độ quản chế cũng nghiêm ngặt lắm, đúng ngày giờ hẹn là phải trình diện, ai vắng là công an xã lên nhắc nhở mời ngay. Họ sợ chuồng đi nơi khác Cho 2 chai nước ngọt. Chị Kim gọi nước, cô chủ đem ra 2 chai nước và 2 ly nước đá, chị rót vào ly : Mời cô, vừa uống vừa nói chuyện cô nhé, Bà Giáo Vân gật đầu rồi tiếp : - Em về bao lâu rồi, làm ăn trong đó được không em - Cô à, Trong đó khác lắm không như ngoài mình, em nghe lời chị bạn, xuống Sài Gòn bán đồ cũ, buổi sáng xuống Tân Định vốn liếng chỉ mấy đồng vậy mà em cầm cự mấy năm, vừa đi thăm ông xã, vừa nuôi em ngon lành, - Cô đã hết quản chế, hay là cô làm đơn xin đi làm ăn trong đó, em giúp cô với. - Được thôi cô à, không khó gì cả, chịu cực tí may mắn cũng đỡ khổ, cô gửi về các em nuôi thầy và các em cũng đủ, càng sớm càng hay cô à, Sài Gòn bây giờ các gia đình khá giả ngày trước chỉ bán đồ mà ăn cầm cự thôi, có gì cô vào nói với Dũng, em và Dũng cũng thỉnh thoảng gặp nhau. Em thương nó lắm chân ướt chân ráo vào Sài Gòn nên buổi đầu cũng khó xoay xở. - Nó cũng quyết chí vào đó lập nghiệp, có gì em giúp nhé. - Dạ, cô khỏi lo, vài tuần là nó lên, có gì hay là em trao đổi với nó. - Vài hôm nữa cô xin giấy vào Sài Gòn thăm và làm ăn. - Có gì cô bảo nó chở lên em. - Ông xã em về chưa ? - Dạ, chưa cô. Trong Nam cũng dễ chịu so với phía Bắc, con bạn em có ông xã học tập ngoài Nghệ An, mỗi lần ra tốn kém, người dân ngoài ấy họ nhìn người Nam chẳng thân thiện, mỗi lần đi về nó kể nghe mà muốn khóc. Khắc nghiệt lắm. Thôi vậy cô nhé, em về nhà đã cũng trưa rồi, ba em bảo đi về sớm còn ăn trưa cùng gia đình. - Ừ, thôi em về, tạm biệt em. Hẹn găp nhau ở Sài Gòn. Ông Giáo ngóng từ sáng đến giờ, không biết sao trình diện lâu đến thế, ông suy nghĩ vẩn vơ…Hay là có chuyện gì nữa đây? Ông hơi sốt ruột đi ra đi vào, ngồi bàn uống nước nhìn thẳng ra ngõ đã trưa lắm rồi. Bà về, ông cười, hỏi thật nhẹ: - Có chuyện gì không, mà lâu vậy, mình? - Hôm nay, anh em tôi trình diện đông lắm mình à, tập trung lại ông cán bộ xã ‘diễn thuyết’ mong các bà con anh em về chăm chỉ làm ăn, chính quyền cách mạng bao giờ cũng mong sự hòa hợp của anh em chế độ cũ, cố gắng làm ăn tái thiết để nước giàu dân mạnh, đừng nghe lời xúi giục của phản động. Khi ra về, gặp cô học trò cũ bày vẻ tôi vào Sài Gòn làm ăn, nghe khá lắm mình à, một mình em làm vậy mà nuôi chồng học tập và 2 đứa con đàng hoàng, hay là tôi xin đi vào Sài Gòn vài ba tháng. Nếu được, xin gia hạn tiếp. Mình thấy sao? Và cô ấy còn gặp thằng Dũng nhà mình hoài, có gì khó nó cũng lên trên ấy nhờ giúp đỡ, chị em nó cũng thân thiện, Dũng nhà mình ngoại giao giỏi ghê, nó đã sắm được xe đạp rồi, ở Sài Gòn không có phương tiện đi lại là thua. - Tùy mình, đi cũng được, biết đâu có cơ hội hơn, hơn nữa xem thằng Dũng nó thế nào? Ở quê sao tôi thấy ảm đạm quá, mịt mờ quá. Tối ấy, bà Giáo Vân không ngủ được, thao thức việc đi Sài Gòn tìm kế sống, thâm tâm bà chưa muốn, nhưng càng ngày kinh tế càng kiệt quệ, nỗi khốn cùng trong nhà là thật nên một liều ba bảy cũng liều. Bà quyết định ngay trong đêm. Buổi sáng quây quần bên nồi khoai lang vừa thu hoạch hôm qua, khói nghi ngút tỏa, cả nhà ăn uống vui vẻ với nhau, bà nói với các con : - Mẹ đã bàn với cha rồi, giờ nói thêm với các con, chắc mẹ vào Sài Gòn có cô học trò cũ giúp mẹ làm ăn, nếu may cũng kiếm tiền gửi về thêm chi tiêu. Ở nhà càng ngày càng lún sâu vào khốn cùng, cái đói đã lăm le, các con nghĩ sao? Chị Thanh mau miệng : - Mẹ đi cũng hay cha à, biết đâu sẽ cải thiện được, con giờ cũng thay mẹ quán xuyến được gia đình, biết đâu vận may của nhà ta Út cũng đồng ý như chị Thanh : - Đây là cơ hội cha à, mẹ vào đã có người dẫn dắt, buôn bán đâu khó khăn gì, con tỷ mình con biết, chỉ có bán buôn mới phù hợp với nhà mình trong thời này, ai cũng chân yếu tay mềm, làm sao có thể sống nổi, hơn nữa có anh Dũng trong đó 2 mẹ con đùm bọc, con nghĩ sẽ ổn Ông Giáo nãy giờ nghe các con sôi nổi bàn tán, rất có lý. Hay là ngày mai Thanh xuống xã gửi đơn xin tạm vắng, độ này Thanh đã quen biết nhiều người trong cái xã này rồi, con có thể giúp mẹ. Cha bây giờ thừa thải, kiến thức không thể đổi gạo, mắm không làm gì được cho nhà mình, cái quan trọng là tồn tại, các con thương cha mẹ như vậy cha cũng vui rồi. Mình viết thư cho Dũng trước khi đi để còn đón bà nữa, thư tín bây giờ cũng chậm trễ, chắc nó vui lắm khi có mẹ vào cùng nhau hiệp sức. Chị Thanh gửi đơn xuống xã, anh phó chủ tịch nhận đơn, bảo : - Cô mới hết quản chế một tuần lại lo vào Nam, có việc gì vậy, em? Chị biết anh thăm dò, nên cũng than thở : - Anh à, gia đình bây giờ anh biết mà, khó khăn lắm, mẹ em vào trước là thăm các con, sau là bương chải xứ người có thể kiếm sống, chứ làm ruộng thì thua trắng. - Mình nổ lực lên chứ làm ruộng đâu như công chức được. Thôi để đơn đó, anh xét cho. Ba hôm nữa xuống lấy nhé. - Cảm ơn anh. * * - Trên vé tàu mấy giờ xuống ga, con? Ông Giáo hỏi chị Thanh - 11 giờ cha à, - Vậy ăn cơm sớm, con chở mẹ xuống trước chừng một tiếng cho chắc, thà xuống sớm ngồi chờ còn hơn, rủi trên đường trở ngại, ông giáo lo xa. - Dạ, Sáng nay con và Út đưa mẹ ra ga, cha ở nhà Bà giáo cẩn trọng đưa ông ít tiền để dành mua trà thuốc phòng các con chưa có kịp, bà biết tính ông cái gì chứ thuốc với trà không có ông ngóng như trẻ ngóng mẹ về chợ, trước khi đi bà dặn dò ông : - Mình à, tôi đi mình cẩn thận ở nhà giúp các con, làm gì trong vườn nhà thôi, đừng đi đâu xa, đi nhứ chim cũng cần có nhiều người nghe mình. Chỉ có bà là hiểu ông nhất, phải thôi, ông bà giáo đã sống chung mấy mươi năm sao không hiểu được. Tính ông mê kiểng và nhứ chim, mỗi lần đi nhứ về ông kể lại cho bà nghe nhiều lần bà hiểu được sự đam mê. Bà Giáo chưa bao giờ cản ngăn thú chơi ấy, thậm chí khuyến khích ông cho khuây khỏa nỗi buồn. Thừa nhận ông giáo làm cái gì cũng đẹp, gene khéo léo được ông nội truyền lại, ông đan đác cái gì cũng tuyệt, từ trái lờ cá, cho đến cái nơm, cái mủng, rổ…Cây kiểng nào ông uốn nắn cũng tuyệt, nhất là làm lồng chim nhứ, tùy theo loài chim mà mỗi lồng đều khác nhau, từ cái đấu chim ăn đến cầu chim không ai chê vào đâu được. Chuyện cái cầu chim đã thấy ông công phu thế nào. Khi ông nhìn thấy cây xanh quít có cầu đẹp, ông chặt, uốn bằng lửa rồi tỉ mỷ gọt lại, đâu đó mới bắt vào lồng, Dũng thấy ông làm cầu chim đã phục sát đất. Dũng có một thời theo ông đi nhứ chim cu đất, sau khi chọn thế chim nhảy ông cẩn thận dùng câu lim cắt hết các nhánh chung quanh, chỉ để nhánh đối diện với chim lồng, chim bên ngoài chỉ duy nhất phải đậu nhánh ấy, khi chim lồng gù thúc, con chim ngoài cũng không kém, nó cũng hùm hổ thúc, gù nghe đã tai lắm. Con chim ghét nhau tiếng gáy là vậy. Nó vờn với nhau khá lâu, hình như tiếng gáy đã làm con chim ngoài tức tối, nó nhảy bổ vào để đá con bên trong, chiếc bẫy lưới oan nghiệt sập xuống đã tóm gọn chú chim trước vài phút còn gương oai diễu võ ta đây. Nghề chơi cũng lắm công phu. Ông giáo ồn tồn : - Mình khỏi lo tôi biết phải thế nào. Mình an tâm và cẩn thận tiền bạc trên tàu xe. - Tôi chỉ nhắc mình thôi. Thôi tôi đi mình nhé. Lần này bà giáo đi ông không lo lắng, bởi ông biết chắc vào trong gặp con cháu. Chuyến tàu hỏa Bắc Nam, đến trễ so với giờ của điều độ chạy tàu gần tiếng rưỡi. Cô Út và chị Thanh đưa mẹ lên tàu, bà Giáo còn dặn dò: - Cha các con vô tư lắm, các con thường hỏi han nhé, tính ổng không hỏi là không nói, mẹ biết tính cha, nhớ chăm sóc bửa cơm cho ông. - Mẹ an tâm cứ đi, đừng lo nghĩ các con đứa nào giờ cũng sỏi cả rồi, vào đến nơi nhớ gửi thư về cho biết tin, mẹ nhé. Đoàn tàu kéo hồi còi dài rồi lăn bánh, bà ngoái nhìn các con, những bàn tay vẫy những bàn tay làm bà xúc động rơi nước mắt, lòng người mẹ nào chẳng thế, cực chẳng đành mới xa nhà chứ với từng tuổi nầy, nếu như không túng quẩn dễ gì bà rời quê quán bương chải kiếm ăn nơi quê người xa lắc, xa lơ, không được ở gần ông để chia sớt buồn vui. Thời thế vậy cũng phải chấp nhận, cuộc đời có những bước ngoặc tình cờ nhưng phải nương theo cho phù hợp từng hoàn cảnh mình. Một đời bà Giáo phụng sự từ tuổi trẻ đến xế chiều, nếu không thay đổi có lẽ bà cũng được an nhàn trong tuổi già bóng xế, chứ nào phải bôn ba đi cầu thực phương xa, rồi đây sẽ ra sao nữa khi cả một đàn cháu con chưa được bình yên, còn lận đận, thương bà thì ít thương con thì nhiều. Thời gian còn những một ngày một đêm trên tàu, bà lục lạo tiềm thức coi như thước phim đời mình mở lại để tự kiểm, để cảm nhận một đời đã qua. Thời bấy giờ, cuối thập niên 49 - 50 của thế kỷ trước bà học Quốc học Huế là vinh hạnh, dễ gì con gái được học Tây học, bà chợt thương ông ngoại - người rất cầu tiến trong cách dạy dỗ con cái, hoàn toàn không theo khuynh hướng Nho gia, cho con gái đi học, thời bấy giờ nhiều người khá giả, giàu có còn dè biểu ông rằng không thức thời, con gái làm gì cho đi học nhiều, biết viết biết đọc đã hơn khối người ở cái huyện, cái tỉnh này, ông chỉ trả lời qua loa với họ: ‘Kệ anh à, học tập bao giờ cũng tốt hơn’. Ngày bà vào trường Quốc Học chình ông ngoại dẫn bà đến tận nơi, sau khi tìm chỗ trọ học ổn định, vào trường bắt đầu học tập ông mới về. Từ đây bà đã một mình lo liệu, xong 4 năm trung học bà mới quay về. Ông ngoại nghĩ rằng bấy nhiêu cũng đủ với xã hội thời ấy, hơn nữa tiền bạc cũng vơi đi nhiều. Còn lại cho các cậu em nữa. Ngày ấy, chính ông ngoại cũng ra tận nơi đón bà về sau khi dự lễ bế giảng. Hèn chi bà Giáo yêu kính ông ngoại cũng phải. Rồi lấy chồng, rồi vào sư phạm cấp tốc, rồi dạy học, rồi nuôi chồng đi học, nếu không phải là bà Giáo, ông Giáo không thể đậu tú tài. Công đức ấy thật đáng nể vì. Ngoài ra bà còn dìu dắt, bổ trợ các em bên chồng học tập, cô chú nào cũng được chính bà khuyến khích. Các chú cô kính trọng bà cũng phải đạo. Rồi thời thế thay đổi, rồi học tập cải tạo, rồi bây giờ tha phương cầu thực. Ôi chao, đời người cũng lắm vui buồn, biến đổi không ngừng. Giá như sau 1975 ông bà nghe lời người nói phải vào thẳng Sài Gòn có lẽ mọi sự đã hoàn toàn khác, vì khi đó tiền bạc hãy còn. Một quyết định đúng có thể nhiều thế hệ không đến nổi phải hy sinh tốn sức lực quá nhiều, đó là cái giá phải trả cho sự sai lầm, thiếu quyết đoán. Nhưng mọi sự đã rồi, làm sao. Thực tại là còn phải làm việc để tồn tại, ôi, cái nợ đời còn dài, không biết khi nào hết lận đận, bôn ba. Đôi lúc bà cũng tự an ủi rằng mọi sự trên đời được sắp đặt bởi ông Trời, vì thế mà bà chẳng oán than gì, bằng lòng với phần số mình. Cũng may là như vậy không bị ức chế bởi tâm lý. Và rồi, đúng trưa hôm sau bà Giáo cũng đã đến Sài Gòn, xuống ga cuối cùng Bình Triệu. Ga Bình Triệu là nơi dân anh chị tứ xứ, cũng như các người thất thế tụ về để kiếm sống bằng đủ các loại nghề từ bốc vác, cò vé, cò xe ôm, vận chuyển… tất cả đều có luật lệ bất thành văn, ai trong cõi ấy mới hiểu một trật tự bài bản, ông ‘trùm’ có đầy đủ quyền lực với những thành viên. Thế giới nào cũng có quy luật riêng chẳng qua không thực chứng nên không thể hiểu được. Dũng và bà Giáo Vân bước ra, các anh xe ôm chèo kéo, mời mọc ghê lắm, Dũng khoác tay tất cả, chỉ trả lời vỏn vẹn: Cảm ơn, có người đón rồi. Tất cả họ không theo nữa. Thấy lạ, khi ra ngoài cổng bà giáo hỏi: - Sao con tỉnh bơ vậy. - Những người chạy xe ở đây họ rất tâm lý, ai ngập ngừng họ sẽ theo đuổi tới cùng, họ nghĩ chắc chắn sẽ đi được, có thể ngại giá cả đắc đỏ quá chăng, để đi cho được chuyến xe ấy, còn nếu thấy không phải là họ quay lại để kiếm khách khác. Bao giờ cuốc xe bên trong cũng đắc đỏ hơn xe bên ngoài, bởi họ phải đóng thuế. Đâu phải ai cũng vào được bên trong đâu mẹ. - Vậy à Dũng đón mẹ về khi bà còn lóng ngóng bước ra ga. Lần này là lần đầu tiên bà được đi xe đạp trên thành phố hoa lệ đông đúc này, chính con bà chở về nhà cô Tám vui vầy với vài đứa cháu ngoại, mà bà thường nhắc nhưng mãi hoài chíp miệng vì xa xôi quá khó có dịp thăm hỏi. Cơ ngơi gia đình nhỏ của cô cũng làm bà vui. Nhà riêng khá dài và rộng nằm trong con hẻm trung tâm của thành phố, có gác suốt từ đầu đến cuối, đủ rộng để bà có thể ngủ nghỉ nơi đây. Hơn nữa không xa so với chỗ của chị Huỳnh Kim là bao nhiêu. Một điều thuận lợi vô cùng. Gia đình cô Tám mừng lắm, chiều hôm ấy nhà cô dượng Tám vui như tết, đầy đủ cả các con ở Sài Gòn quy tụ, gia đình cô dượng Tám nhất là các cháu ngoại quấn quít bà, một điều lạ là cháu nhỏ chưa hề biết mặt bà ngoại, nhưng khi cô dượng giới thiệu đây là bà ngoại từ Quảng Ngãi vào thăm ba mẹ và các con, chúng nó thân thiện như người nhà đã từng. Sợi dây thiêng liêng tuy vô hình nhưng bắt được tầng số máu mủ ngay. Đất trời kỳ diệu là vậy. Bửa tiệc tương đối thịnh soạn, nào vịt quay, gà luộc, bánh mì… Cảm nhận bà rất vui, hạnh phúc, nếu như các con bà ở ngoài ấy làm gì có được trong thời buổi gạo châu củi quế này, tuy cô dượng Tám còn khó khăn nhưng cung cách Sài Gòn là vậy, hình như cũng đã ít nhiều ảnh hưởng. Ngày mai có ngày mai lo, rất thoải mái. GẶP GỠ NGƯỜI NỔI TIẾNG Trời quang mây tạnh, vào đông nhưng nắng ấm, hình như Sài Gòn không có mùa đông thì phải, cơn mưa đã tạnh hẳn. Bà Giáo giục Dũng: - Tạnh mưa, nắng lên rồi con à, đi đến vài chỗ để mẹ thăm, ngày mai mẹ còn đến chỗ chị Huỳnh Kim. - Dạ, con cũng đã xong, Xuống ngay thôi Dũng chở mẹ qua chú Tám, bà không quên đem theo tí quà quê với mạch nha và đường cục – Đường cục được nấu bằng lò mía 4 chảo, khi đường tới người ta đỗ vào muổng, có hình chóp nhọn, phía đáy có lỗ tròn khi đem về phải rút mật, mẹ biết chú thích món quà quê nầy lắm. Trước khi đi mẹ chỉ đem quà 2 món ấy, bà rất rõ cả nhà ai cũng thích. Đến nhà chú Tám khá sớm. Con trai chú reo lên : - Ồ, bác Hai gái và anh Dũng đến cha à. Chú bước vội ra cửa, đón vào, trên chiếc giường thấp tự tay chú đóng một ông khách cùng ngồi với chú, bà giáo và Dũng cúi đầu chào vị khách, xong. Chú giới thiệu ngay: - Đây là nhà thơ Phạm Thiên Thư và đây là bà chị dâu cả tôi, thời trước dạy học, vào thăm, đi với con chị. - Chào thi sĩ, tôi nghe anh qua nhà tôi, nhà tôi mê anh lắm, ông ấy cũng thích văn chương. Tháng lương nào cũng mua 4,5 đầu sách. Bà Giáo nói - Hồi trước, anh quân đội hay làm việc hành chánh? chị - Nhà tôi làm công chức, dạy thêm tư thục anh à - Anh có bị gì không ? chị - Dạ, cũng có anh à Chú Tám chen vào cho rõ ràng, tính chú ngang tàng lắm, không úp mở - Anh chị tôi, ai cũng mới cải tạo về, ảnh sắp chết mới được về, còn chị về năm ngoái, hết quản chế mới được đi xa. Ông Phạm Thiên Thư, có vẻ ngạc nhiên lắm, him hip mắt, tay vẫn còn điếu thuốc Đà lạt đen hút dỡ - Ồ, chị cũng bị chính quyền bắt đi à? - Dạ - Mấy năm chị? - 22 tháng anh à - Trời ơi, chị đi dạy thôi mà. Ở ngoài liên khu 5 tôi nghe nói dữ lắm. Sài Gòn coi vậy cũng đỡ hơn miền trung nhiều họa sĩ hả - Sài Gòn cái gì cũng sướng anh Thư à, ngoài quê tôi nghe các cháu nói mà thương, có khách đến thăm làm con gà đãi người ta cũng sợ, giống thời Việt Minh quá anh à - Sợ gì họa sĩ - Sợ mấy anh du kích biết được báo cáo lên trên, nói rằng còn khả năng nên làm khó. Anh về viết đề tài này nhé, chắc đăng báo được. Chú cười sảng khoái lắm. - Ông thi sĩ thun mũi cùng cười, dễ sợ anh hả, chắc mười năm nữa viết được! Quay sang Dũng ông hỏi:- Còn cháu học ở đâu? - Dạ, cháu xếp bút nghiên rồi, nhưng không tòng quân ra trận, đang lang thang Sài Gòn kiếm việc, chưa biết sao đây chú à, chú nhà thơ lớn, quen biết nhiều, giới thiệu cháu với. - Anh biết viết văn làm thơ không à? Có lẽ ông nói vừa đùa, vừa giỡn, nhưng Dũng thì khác : - Dạ, cũng viết lách chập chững, nhưng chi vậy chú? - Có bài thơ nào đọc tôi nghe với, dân miền Trung, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi làm thơ dữ lắm họa sĩ à. Dũng lần đầu biết được nhà thơ lớn, vốn đã mê Động Hoa Vàng, Ngày xưa Hoàng Thị… của ông thời trung học, hôm nay được kỳ ngộ với ông trong nhà chú, nên cũng bình tĩnh, ngày trước nghe mấy cái tên ấy, Dũng tưởng tượng dữ dội lắm, trông được thấy, được nghe, được hầu chuyện, hạnh phúc lắm. Bây giờ người bằng xương bằng thịt ngồi trước mặt, Dũng sung sướng vô cùng, nên cũng thích đọc cho nhà thơ lớn nghe, bạo dạng nói : - Dạ, có chứ. Chú và chú Tám cho phép thì cháu đọc, có gì nhờ chú giúp cháu để tiến bộ. - Đọc đi mới biết, chú Thư chỉnh lại cho, chú Tám nói : - Cháu đọc nhé, bài thơ cháu viết trước khi vào Sài Gòn, định lập nghiệp luôn ở đây, Dũng hơi run, cố gằn giọng, từ tốn vừa đọc, vừa quan sát chú Thư : ‘Nát gan quyết một lần đi, Mai sau còn được điều gì hương hoa Bóp tim bái biệt sông Trà Lời nguyền xin tạc lời cha nạm vàng Ngữa nghiêng thời cũng bật ngang Ai ngang tôi để cung đàn lạt giây Mùa khô rát nát nắng dân cày Ta còn mải miết so giây tơ lòng’ - Hay, hay lắm. Tâm sự quá. Còn trẻ mà làm bài thơ đọc nghe sướng ghê. anh có năng khiếu, hồi ấy chắc học văn chương giỏi? - Dạ không, Cháu học chuyên toán, tú tài ban toán. - Ngộ hả, tôi tưởng anh dân ban văn chương, có thời gian cứ viết để trang trải nỗi lòng mình, biết đâu anh sẽ cũng như tôi, như các người khác, sóng sau cao hơn sóng trước là thường tình. Có điều ai mê văn chương không giàu đâu nhé, nó là nghiệp chứ chẳng phải nghề. Rồi ông cười nhẹ nhàng, hiền lành, đôn hậu. - Dạ, không dám, với chú Phạm Thiên Thư, cháu cho là thiên tài thi ca, nhất là lục bát. Lời trong Động Hoa Vàng cháu đọc nhiều lần, cha cháu ổng cũng giảng giải thêm điều gì ổng cảm nhận, còn cháu chưa hiểu hết hàm súc ý của chú. Nhưng rất mượt mà, ngôn ngữ tuyệt đẹp. chưa thấy ai bằng. - Tôi hồi ấy là tu sĩ, nhiều thời giờ cho kinh sách, nhưng bây giờ chẳng làm gì cả, thỉnh thoảng cũng trang trải nỗi lòng trên giấy. Chú Tám xen vào - Cháu à, chú Thư là nhà thơ tài hoa cả miền Nam ai cũng biết, có điều để nói chuyện hỏi thăm với mẹ cháu tí. - Dạ, Dũng xuống nhà sau nói chuyện với các em, mẹ nói chuyện với chú và chú Thư, tranh thủ còn về nữa mẹ à. Chú Thư có lẽ muốn biết thêm về buổi đầu giao thời của miền trung nên chú hỏi bà Giáo : - Chị à, vậy chị có biết tại sao người ta cho đi cải tạo. - Dạ, cũng có lý do chứ anh, chẳng là lúc lộn xộn thời cuộc, người ta bắt đầu chuẩn bị cuộc di tản lịch sử có lẽ nhà thơ cũng đã biết, các thầy đến trường thưa dần, và những ngày sau không đến trường nữa. Trước vài tháng, thầy Hiệu trưởng họp hội đồng trường giao tôi quyền Hiệu trưởng, biên bản thiết lập xong là tôi điều hành nhà trường. Hơn nữa, tôi là bí thư Dân chủ ngành giáo dục huyện thời ấy. Có lẽ chính quyền nghĩ khác nên mới bị học tập, phụ nữ như tôi sáng từ phố về quê tới lớp dạy, về nhà gần đó, chiều có khi ra văn phòng cùng các giáo viên, rồi chiều xong tôi về phố. Lo gia đình, con cái đông anh à. Cha các cháu làm trên ty, có khi tối mịt mới về. - Thì ra, chắc họ nghi ngờ thôi - Dạ, đúng vậy anh, sau lên trại tôi mới biết chính xác là vậy. Chứ khi triệu tập tôi cũng không biết mình có tội gì. Tôi hoang mang vô cùng. Nội cái chức bí thư ‘hữu danh vô thực’ ấy mà cả năm trời tôi khổ sở biết bao nhiêu. - Miền trung gay go quá họa sĩ hả. Chú Tám nói tiếp : - Nếu như anh chị tôi vào Sài Gòn chắc không đến nổi như ngoài quê đâu, miền Trung nhất là liên khu 5, anh Thư biết chứ: gay go nhất nước. - Biết, thời Việt Minh đã nổi đình nổi đám rồi, sau 1975 cũng vậy. Đây là lần đầu tiên tôi biết một cô giáo dạy học bị học tập cải tạo gần 2 năm. Không tưởng tượng ra nổi. Chú Tám tiếp : - Chị vào thăm các cháu rồi về hay có tính gì nữa không chị? - Ngoài đó, từ khi hồi hương về đến giờ chỉ tốn tiền, còn bao nhiêu tôi túc mục thuê mướn cải tạo lại mảnh vườn hoang hóa mấy mươi năm, sau khi vợ chồng tôi cải tạo về nhà không còn gì cả chú à, tôi định theo đứa học trò trong nầy bán quần áo chợ trời, để kiếm sống, bế tắc quá chú. Cả 2 ông ngồi tặc lưỡi, có vẻ cảm thông, chú Tám lên tiếng : - Tất cả những người làm việc cho chế độ cũ tại Sài Gòn nầy bây giờ người nào cũng trở thành bá nghệ, người chợ trời đa số, bán đồ nhà hầu hết, xích lô, xe đạp ôm… Nghe đến đây bà Giáo biết ngồi thêm cũng mất thời giờ, còn phải về, nên đứng dậy: - Chú Tám à, ở đây cũng đã vài tiếng đồng hồ rồi, tôi còn đi qua cô Một thăm tí, xin lỗi chú và nhà thơ tôi phải đi, không có thời gian nhiều, mong thi sĩ và chú thông cảm. Có tí quà quê gửi chú và các cháu cho vui. Tôi đi đây - Dạ, chị có việc, chị đi. Tôi và anh Thư còn ngồi chơi lâu. Bà Giáo cúi chào rồi cùng Dũng ra về. Dũng không quên : - Thưa chú Tám và chú Thư, cháu về. Hôm nào một mình cháu qua nói chuyện một bửa với nhà thơ lớn mà cháu kính phục. Chú Thư cười ung dung : - Được, tôi cũng thích anh. Chị và cháu đi nhé. Dũng chở bà Giáo sang nhà cô Một. Nhà cô kín cổng cao tường, Dũng nhấn chuông. Không có tiếng thưa. Lại nhấn chuông lần hai. Có tiếng thưa bên trong. - Ai đó? Cô mở cửa bước ra: - Ồ, chị Hai, mời chị và cháu vào. Hai chị em đi song song nói với nhau. Dũng đi sau. Cô rót hai cốc nước lọc đặt trên bàn. Cô ngồi sát bà Giáo. Dũng ngồi đối diện. - Mời chị và cháu uống nước. - Cảm ơn cô. Bà giáo nói - Chị vào bao lâu rồi, chị ở đâu ? - Tôi mới vào hôm qua, hiện ở bên nhà vợ chồng con Tám. - Vậy hả? - Nghe nói ở Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận. Em cũng chưa qua. - Ừ, - Chị vào thăm hay tính làm ăn gì trong này - Trước là thăm các cháu, sau chị tính ở trong này kiếm sống. - Nghe nói ngoài mình cực quá hả chị - Làm ruộng phải cực thôi cô, mà các con tôi yếu đuối chưa quen, khó sống quá. - Chị à, Bây giờ ai cũng vậy. - Sài Gòn còn dễ chịu chứ ngoài ấy chẳng những cực mà cách sống cũng gay go. Chính quyền coi mình như công dân hạng hai. Từ ngày hồi hương đến giờ người không ra người, ngợm không ra ngợm, lây lất, tội mấy nhỏ nhà tôi lắm cô, chúng nó không được vào cấp III, Tôi sợ thằng Út cũng sẽ không vào được nên gửi đi Đà Nẳng để học và được vào trường cấp III. - Anh Hai ra sao chị, từ ngày anh về đến giờ sức khỏe thế nào? - Tưởng anh chết trong trại chứ! Anh về ốm nhách, mình đầy ghẻ chốc, cô không bao giờ tưởng tượng nổi đâu? Tội lắm cô. Bây giờ thì cũng ở nhà làm lặt vặt. - Hồi trước anh chỉ là Đội trưởng đội công tác, mỗi lần anh công tác Sài Gòn về nhà em chơi, Anh hai và ông xã nhà em hợp tính, say sưa nói chuyện em mới biết, mãi sau này, hình như năm 1973 anh mới lên ty phó mà ngoài ấy họ làm gì đưa anh đi tuốt núi cao. Chắc ảnh thực thà khai báo quá. Có sao khai vậy, bọn họ căn cứ ấy mà phân loại cho đi. - Tôi cũng hổng biết cô à. Ảnh thì thật thà quá đổi. - Anh Bảy, chị Chín, anh Mười nữa ra sao chị? - Chú Mười trụ dưới phố cũng đỡ, còn chú Bảy, chị Chín hồi hương cũng như gia đình tôi thôi, nhưng đỡ hơn vì chính quyền không chiếu tướng. - Sau 75 gia đình mình lao đao quá, phải chi hồi ấy anh chị vào đâu đến nỗi. - Chuyện đi qua rồi cô à, có nói cũng chẳng được gì nào, bây giờ có giúp được gì không chứ nhắc làm chi, cô. Chẳng qua tai nạn thôi, mình cũng phải chịu. - Chị ở lại ăn trưa, có thể ông xã em về, nói chuyện với chị cho vui. Ảnh hay hỏi thăm anh chị. - Thôi cô à, để tôi và Dũng về chiều nó còn đi kiếm việc. Các cháu chờ cơm, tôi nói trưa về. - Vậy thôi, chị về hôm nào chủ nhật chị ghé có nhà em nói chuyện bữa. Ông xã nhà em chủ nhật mới nghỉ. - Tôi vào thăm có tí quà quê gửi gia đình cô cho có tình. Bà Giáo cùng Dũng ra về, - Dạ, cảm ơn chị. Cô khéo miệng, từ nãy cô say sưa nói chuyện với mẹ, xin lỗi cháu. Dũng nói: - Dạ, không sao cô à, Dũng và mẹ chào cô ra về. Buổi trưa Sài Gòn vẫn nhộn nhịp, hai bên đường hàng me với bóng mát tuyệt vời, đúng như Nguyên Sa viết: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Nhưng không còn em mặc áo lụa Hà Đông thôi. Ngoài đường lũ lượt các học sinh ra về, có điều Sài Gòn cũng chẳng còn chiếc áo dài nữ sinh thướt tha trong nắng như thời Hoàng Kim . Xe đạp trên đường dày cuội, từng tốp hai ba thong thả đùa giỡn trên đường phố. Đúng là: tuổi học trò hồn nhiên như áo mới/ thuở vô tư trong trắng trước hiên đời. Có lẽ các em chưa bao giờ nghĩ cuộc sống vào đời gay go thế nào như Dũng bây giờ. Thong thả Dũng đạp xe chở mẹ, đi qua những những con đường nhựa bon bon, những dãy cao ốc tráng lệ, trào dâng cảm xúc rồi đây ta cũng đồng hành cùng người Sài Gòn. GẶP CHỊ HUỲNH KIM Đạp xe tà tà trên đường Hai Bà Trưng chở mẹ đi trong buổi sáng sau khi café với người bạn, lòng anh sảng khoái. Cầu Kiệu và chợ Tân Định nhiều kỷ niệm với Dũng. Nhớ khi mới vào Sài Gòn chân ướt chân ráo, buổi tối có vài người bạn cùng quê học đại học trong này, tình cờ hôm ấy gặp nhau, ngồi với nhau ở quán cóc Trương Tấn Bửu, làm vài xị rượu với tí khô cá Nam bộ, nói chuyện huyên thuyên thời đi học, ngày trước Dũng cũng đã từng được đặt cho cái tên rất tự hào “con ngựa chiến của lớp” khi anh nhận giải toán concours nhất toàn trường” mà đại tá tỉnh trưởng Ngô Văn Lợi trao tặng. Cha Dũng là thầy dạy ở trường ngồi dự bên dưới dự lễ trao giải, ông rất tự hào về con trai mình. Phần thưởng chở cả chiếc xích lô. Ngồi nhớ lại cũng cũng đủ làm vui trên bước đường tiếp tục hành trình gian nan. Tụi nó còn phải về ký túc xá, cuộc hội ngộ ngắn ngủi sau bao nhiêu năm không gặp. Mỗi đứa có một cuộc đời riêng chẳng ai giống ai, khi rời tổ ấm học đường, đàn chim tung cánh bay đi, mỗi con chim tự tìm cho mình một hướng bay, nhưng tình bạn thời trung học tuyệt làm sao mỗi khi có dịp ngồi lại. Dũng về nhà chú Tám, trò chuyện sôi nổi cùng chú về chuyện nhà, chuyện đời, ôi chao đủ thứ cả, say sưa tranh luận với chú quên cả thời gian. Đến 22 giờ tối. Chợt chú bảo: “Tối nay, công an khu vực xét nhà, cháu chịu khó đi ngủ chỗ khác nếu không, phiền lắm”. Dũng hoảng, còn chỗ nào nữa mà về ngủ, đồng hồ trên tay đã 22 giờ 30. Định thần lấy chút bình yên. Chẳng sao, ghé về chợ Tân Định café, xem quang cảnh chợ đêm, nghĩ vậy nhưng cũng buồn. Giá như sớm hơn đã đạp xe về Quận 8. Cuốc bộ xuống chợ, quán cóc café đêm Dì Tư của chợ Tân Định chưa có ai, Dũng ghé vào kêu ly đen, ngồi suy nghĩ chuyện trên đời. Nếu mình cũng vào được học như tụi nó giờ này cũng đã cùng bè bạn có lẽ vui lắm. Riêng chuyện đi cắt hộ khẩu nhập vào trường đại học, có thể viết được truyện ngắn hay tiểu thuyết, nhiêu khê vô cùng. Khi họ cố tình không cho đi học hình như có 1001 lý do, tuổi trẻ tức giận và nông nổi cự cải với chủ tịch xã, sém tí nữa bị nhốt. Thời ấy chẳng có luật lệ gì, ông chủ tịch xã là vua một cõi, chớ dại mà làm ông nổi giận. Cũng may là Dũng biết dừng lại. Một bài học chua xót nhớ đời và khi biết chắc cổng đại học đóng sầm và khóa chặt (không phải do nhà trường), từ ấy Dũng mới không bận tâm, không suy nghĩ về nó. Tìm hướng khác, tự an ủi mình: nhiều đường đến La Mã chứ đâu chỉ duy nhất một con đường. Mông lung suy nghĩ, dì Tư đem ly café đến làm cắt mạch suy nghĩ. Có thuốc gì không em? - Dạ, dì cho thêm 3 điếu Hoa mai. Dì mang ra tính tiền luôn, ở đây ai cũng vậy, dân chợ mà biết bao nhiêu người đem hàng rau củ quả tới uống rồi đi. Không lấy trước không thể nhớ. Đêm ấy, Dũng ngồi từ 11giờ khuya đến sáng, đúng là chợ đầu mối, sinh hoạt ban ngày lẫn ban đêm, không lúc nào ngủ. Lần đầu trong đời không có chỗ tá túc qua đêm được chứng kiến. Quan sát mới thấy thú vị, xe hàng đến, người tài xế ghé quán dì Tư thoải mái café, thuốc lá. Tất cả hàng hóa nhịp nhàng tuần tự đến ai, bao nhiêu chỉ có một người ghi ghi chép chép và phân phối, được kéo đi bằng xe đẩy cùa đội quân cửu vạn chuyên nghiệp. Mọi thứ đâu vào đó. Lần sau mọi người trả tiền đợt trước, lấy hàng đợt sau. Cứ tiếp diễn như thế, nhưng chặt chẽ. Xong xuôi tài xế đánh xe đi, nhường chỗ cho người khác, tuần tự, trật tự từ một người có trách nhiệm ở chợ. Tản sáng, những chiếc xe cá nhân lần lượt tải hàng về các chợ lẽ cũng nhịp nhàng, mỗi người bao nhiêu thanh toán và rời đi. Rác ư? Một đống ứ hự công nhân vệ sinh chợ tập trung dọn dẹp. Tất cả rất bài bản, nhịp nhàng. Đúng 6 giờ sáng là trả mặt bằng sạch sẽ cho buổi chợ mới bắt đầu. Những khuân vác, những giao dịch ban đêm rút về, ngủ nghỉ vì cả đêm làm việc cũng đủ thu nhập để sinh hoạt. Dũng chợt nhớ bài học trong English for today III: Living in the big city, khi quan sát anh mới hiểu được văn sĩ ấy có lý. Sống ở thành phố lớn, thành phố không bao giờ ngủ. Văn là lý, thật đúng y như rằng. Một trải nghiệm tuyệt vời nếu như không có buổi tối khó hôm ấy làm gì anh hiểu được sự nhộn nhịp về đêm của một chợ lớn Tân Định, Sài Gòn. Dũng chở mẹ xuống chị Huỳnh Kim, lúc chị đang loay hoay trải miếng ny long sắp xếp, bày biện mấy chiếc áo quần cũ. Dũng đợi cho xong, khi người bán café đem cho chị ly café sữa nóng, Dũng mới lên tiếng: - Chị Huỳnh Kim, nghe gọi chị ngước mắt lên - Ui, chào cô và chào em. Em đậu xe vào uống café sáng đã rồi hãy đi em à. - Dạ. - Cô uống gì à, hay là bạc xỉu cô nhé, - Đúng rồi chị, mẹ em thiếu sữa mà. Em ghé chị café kho trong hẻm gọi luôn cho chị Kim, nhớ xin 2 cái ghế xếp. Bà Giáo và chị đã an tọa trên chiếc ghế. Trên vỉa hè Hai bà Trưng tiếp tục các phụ nữ bán chợ trời dần dần choáng cả cái vỉa hè. Mỗi diện tích 1.2 X 1.6 met bằng cả thửa ruộng mật, ở miền quê. Những gia đình ở chế độ trước cũng nhờ vậy mà mà nuôi con ăn học, khỏi cảnh “chà đồ nhôm” hằng ngày một đi không trở lại. Có điều cảnh giác đội cờ đỏ Phường đi chiến dịch dọn dẹp trật tự, các bà sợ đội này lắm, mỗi khi có lập tức trong vòng 2 phút mọi người túm lấy 4 chéo ny long vào hẻm, im thin thít. Chiến dịch đi xa còn ngoái đầu nhìn lại, mong anh đừng quay về mà khổ cánh chị em. Đoàn cờ đỏ đi qua, yên ắng, người ta lại dọn ra, các phụ nữ gọi là “Du kích miếng ăn” vừa bán kiếm sống vừa phải trông chừng, cảnh giác đội trật tự cờ đỏ này. Café trò chuyện với chị Kim chừng 30 phút, Dũng nói: - Chị à, cho mẹ em tập sự, giúp mẹ em nghe, ngày trước chị là học trò, bây giờ chị làm “cô giáo” bày vẻ mẹ em, ít nhất vài ba ngày cho thông thạo rồi mới ra chiến trường chị nhé. - Ừ, em khỏi lo, để chị lo cho, thằng này lanh bà cố, cô à. Bây giờ để Dũng đi làm, cô ở đây với em, chung quanh ở đây đều là chiến hữu, phía phải em là chị vợ Đại úy Vinh sư đoàn 18 bộ binh, người huấn luyện em, bây giờ anh nằm dưỡng lão ở Bố Lá. Nhà chị bên trong hẻm, nếu hữu sự là mấy chị em lủi vào hậu cứ trong đó, nước có sẵn cứ ngồi nhìn ra, chiến trường yên thì trở lại chinh chiến. Phía trái em là bà đầm Trung úy Thành sư đoàn 9 bộ binh, hiện tại ở Cà Tum, Bổ Túc, Tây Ninh không biết chừng nào thoát cổng. Chung quanh đều là đồng nghiệp phe ta hầm bà lần xí cấu. Còn đây là cô giáo cũ tiểu học của Kim, người vừa ra “cổng” ở tận miền trung quê mình. Cả dãy này đều như vậy cả cô à. Tuy không đồng nghề thời trước nhưng đồng nghiệp thời nay. Chị Kim giới thiệu khá hài hướt. - Bà Giáo gục đầu chào các đồng nghiệp tương lai. Cả bốn người cũng nhoẽn miệng cười tươi, nụ cười đầy cảm thông nhau. Dũng chào mẹ, chào các chị và chị Kim: - Mẹ ở đây với chị Kim, chiều con về đón mẹ, rồi Dũng nhổ neo lên đường. Nắng Sài Gòn lại ấm, chợ Tân Định nhộn nhịp hẳn lên, người tấp nập trên đường. Thành phố này là vậy từ hồi nào đến giờ. Lại nói về bà Giáo Vân như đoạn mở đầu, sau khi tập sự ba ngày cùng với các chị ở vỉa hè Tân Định bà đã chứng kiến được sự mua bán, cung cách bán mua, trao đổi hàng hóa, những đợt truy quyét đường phố của công an phường cùng với đội cờ đỏ ít nhiều cũng hiểu qua sự vụ việc. Thật ra cũng không khó như bà tưởng tượng khi ở quê nhà. Ba ngày dãi nắng dầm mưa, thực chứng trên vỉa hè Tân Định, Sài Gòn bà Giáo cũng rút ra kinh nghiệm và cách đối phó cho chính mình. Nhất là lúc có đội cờ đỏ truy quét đi qua. Sau ba ngày tập sự nhờ chị Huỳnh Kim hướng dẫn, bà đã tự kiếm ăn, thỉnh thoảng vẫn dành dụm gửi về nhà phụ nuôi ông Giáo. Thời gian vèo qua, qua tuần thứ ba, bà bị đội cờ đỏ bắt về phường. Kể từ chiếc áo jacket, Bà Giáo gặp lại được người học trò cũ của bà đương là trưởng Công an phường Tân Định mà hôm sau đó bà kể lại cho các chị em bán đồ cũ, từ đó ai bán trên dãy vỉa hè Hai Bà Trưng cũng nể nang bà. Một hôm bà đang lom khom trải tấm ny long bày hàng bán, rồi ngồi đợi khách, một phụ nữ mặc áo dài ngồi trên xích lô, người xích lô chạy rà rà theo qua hàng bán đồ cũ. Thời bấy giờ áo dài dường như là xa xỉ, không phù hợp với sinh hoạt xã hội. Bởi ai cũng mặc đồ bộ. Sau 1975, cán bộ nữ giới phía bắc vào Sài Gòn, cũng như toàn miền Nam công tác hầu như chẳng ai có áo dài, các công sở chỉ toàn là quần đen áo cụt bà ba, hoặc quần tây kaki màu xám giống kiểu bộ đội, áo sơ - mi, dép nhựa, thậm chí các giáo viên cấp III, giảng viên đại học hay cán bộ thành phố cũng vậy, không thấy bóng dáng chiếc áo dài thanh lịch thướt tha. Chỉ cách ăn mặc của phụ nữ như thế đủ hiểu ngoài ấy thế nào, dù người ta có nói gì đi nữa, cũng không qua mắt được người Nam. Tuyệt nhiên mất tích chiếc áo dài thanh lịch không biết lý do! Tại sao có người mặc áo dài ngồi trên xích lô chễm chệ, một điều rất lạ. Ai cũng dòm ngó vào. Có lẽ chị đi dự đại lễ đám cưới của gia đình? Xích lô dừng trước hàng bà Giáo. Người phụ nữ bước xuống gật đầu chào bà, bà Giáo vồn vả bước ra. - Chị bán gì vậy? Người phụ nữ chưa trả lời bước tới trước bà Giáo, thầm thì: - Cô mua chiếc áo dài này không? Vừa nói chị vừa mở ra, hộp đựng áo bằng cạc tông màu trắng rất sang trọng chứng tỏ có giá trị. - Mua chứ cô. - Đây là chiếc áo dài của bà Thiệu, sau 75 người giúp việc của ông bà Tổng thống đã đem đến nhà em nhiều thứ lắm, em mua khá nhiều, nhưng bán lần hồi sắp hết. Áo dài này em rất thích vì bà Thiệu thường mặc khi tiếp xúc các chính khách hay cùng Tổng thống đi dự đại lễ quan trọng. Em tiếc lắm, nhưng kẹt quá, hôm nay đám cưới con đứa em ruột, chẳng lẽ làm anh chị không có quà, nên em quyết định bán. Nếu cô mua em để lại. Có thể mai mốt em có tiền ghé chuộc cũng được coi như cô giữ tạm thời. Giọng chị có vẻ tha thiết. Bà giáo ngập ngừng, không biết thế nào, thực giả ra sao? Bèn ngoắc chị Huỳnh Kim, chị vợ Đ/úy Vinh và chị Tr/úy Thành. Ba người bàn bạc bạc ngay tại chiến trường, cuối cùng ai cũng xúi bà Giáo lấy. Bà Giáo ủy quyền cho chị Kim giải quyết ngay tại mặt trận. - Khi nãy chị nói với cô 5 phân, (bấy giờ vàng chui với giá 49đ/ chỉ), thời nầy chẳng ai mua áo dài làm gì, hàng nằm lâu lắm may ra mới có người mua chị à. 20 đ đi chị, nếu được cô mua cho, giá vậy là cao, chúng tôi cũng là vợ anh em sĩ quan quân đội cũ, biết giá trị nó nên mua liều, chứ chị đi sang hàng khác mấy em không biết giá trị mua chị chừng 5, 7 đồng. Chị ấy có vẻ ngần ngại, phân vân, cò kè với chị Huỳnh Kim: - Hồi ấy em mua cả lượng vàng đó chị à. - Hồi ấy khác, bây giờ khác chị à, chị không tin mang đi nơi khác mà hỏi. Em chắc chắn luôn bán buôn ở đây em hiểu mà - Chị gửi thêm 2 đ trả anh xích lô. Từ sáng anh chở tôi từ Q1 sang Phú Nhuận, được không? - Được không cô? quay sang bà Giáo chị hỏi - Tùy em định liệu. - Thôi được, chị ngày trước làm gì? Chị Huỳnh Kim hỏi - Tôi dạy văn, ở Văn khoa. - Ô, chị giảng sư đại học à - Vâng Chút ái ngại đồng hoàn cảnh, chị Kim đồng ý. Khi cầm lấy chiếc áo có vỏ ngoài rất sang trọng với dòng chữ: Kính tặng bà Tổng Thống, chị Kim cũng mừng cho cô. Trước khi đi, chị ấy còn nói: - Cảm ơn chị, tôi sẽ gặp lại các chị. CÂU CHUYỆN CHIẾC ÁO DÀI Buổi trưa hôm ấy, vào nhà chị vợ Đại úy Vinh cùng ăn trưa, chị trực nhớ lại hình như lúc đặc cách tại mặt trận bà Thiệu mặc chiếc áo này chăng? Chị mở tủ lấy mấy tấm hình màu polaroid của ông xã trong đó có vợ chồng Tổng Thống. Nói với bà Giáo: - Cô à, em thấy áo này hoa văn giống áo bà Thiệu mặc kỳ đặc cách nhà em lên đại úy, cô xem nè, rồi cả ba xúm xít xem kỹ lưỡng mấy tấm hình có chiếc áo. - Có thể lắm cô à. Mấy vệt phía trước ngực áo giống quá, chẳng qua là màu sắc không giống thôi vì nước ảnh xuống màu. Chị Thành cũng xen vào - Có thể đúng lắm cô à, em cũng đồng ý với chị Vinh, chị Thành. Chị Huỳnh Kim có vẻ đắc ý. Đến khi bà Giáo Vân cầm tấm hình, bà săm soi, ông Tổng thống đang gắn cái gì trên ngực, anh Vinh đặt tay lên trán chào, oai vệ quá. Lật phía sau có dòng chữ “Kỷ niệm, Ngày Tổng thống gắn galon Đại úy, 1973”. Bà quay sang chị Vinh: - Anh Vinh xinh trai và oai vệ quá, chắc hồi ấy chị Vinh sung sướng lắm. Nét chữ cũng lã lướt, bay bướm quá. - Dạ, anh ấy hồi trẻ đẹp trai cao lớn, khi đó em đang học trường Luật, mỗi lần về phép anh ghé trường Luật, đón em dạo phố mấy đứa bạn em thấy ảnh phong độ đứa nào cũng nói em có phước có bồ điển trai và biết ga lăng lại hào hoa nữa. Bọn em cưới nhau năm 73. Sau ngày anh thăng chức được nghỉ phép anh về mang theo mấy tấm ảnh đó cô à, Năm 1975 anh rủ em đi, chỉ cần lên sân bay là đi thôi, em thương cha mẹ em nên cản, cuối cùng anh cũng nghe em ở lại, bây giờ cực quá mỗi khi đi thăm anh, về cứ nói với bạn bè ngày trước đứa nào cũng nói tao có phước, bây giờ cực trần thân. Nhiều khi thương anh ghê. Em thường xuyên đi thăm, cứ một tháng đi một lần. - Ở đây ai cũng vậy mà, sông có khúc người có lúc. Bà Giáo an ủi. Chị Thành chen vào: - Cô à, chị Vinh làm như chị cực lắm, ông xã em tuốt Cà Tum, Bổ Túc, Tây Ninh nhưng tận biên giới Việt Miên mỗi lần đi về vài ngày đường, nhất là lội rừng vào đến chỗ anh thăm thẳm chiều trôi, em còn chưa nói gì. - Em Thành à, cô cũng có đứa con sư đoàn 9, đang ở Cà Tum, Bổ Túc. Khi nó về quê thăm đầu năm 74 nó chỉ thiếu úy thôi, mấy lần Dũng con cô đi thăm, cô ước được đi thăm nó một lần nhưng chưa được, khi nào em đi cho cô đi theo với. Nhớ nhé. Bà Giáo nói - Dạ được cô à. - Hôm ấy, nếu được cô và em Dũng đi cùng. - Em, cứ vài tháng là tiếp tế, em mới đi hôm trước, sau lúc cô bị bắt mời về phường vụ chiếc áo jacket. Cũng mới đây thôi mà - Cô nói để cho lần sau, em báo trước cô chuẩn bị. Từ ngày nó đi biền biệt đến giờ chỉ có thằng Dũng xông xáo biết đường thăm nuôi, cô cũng đã nói với nó, nhưng cứ lần lửa hoài, chỉ biết gửi thư tay cho nó đỡ tủi thân. Chị Kim nãy giờ nghe đến Năm cô con cô Vân, chợt nói: - Cô à, em nghe Dũng nói, là có thăm anh Năm em, nhưng bao lâu nay em quên hỏi thăm cô. Năm ở Cà Tum, Bổ Túc cũng gần mà cô, đây lên đó khoảng 150 cây số à. Không khó đi, cô cũng nên đi một chuyến. - Dũng nó biết, cô chưa bao giờ đi cả. Kỳ này có Thành đi tháp tùng một lần thăm con, chắc nó mừng lắm. - Dĩ nhiên rồi cô, ai trong trại cũng vậy thôi. Thân nhân lên mừng lắm. - Khi nào em Thành đi cô sẽ cùng đi cho bằng được. Tóm lại là cô Giáo Vân hôm nay có chiếc áo dài bà Tổng thống là cả bọn vui. Sau này đấu giá chắc nhiều tiền cô à. Biết đâu điều ấy sẽ xảy ra. Làm sao mà biết được. Phải chi cô dư dã, em nào muốn lấy cô nhường lại, biết đâu. Nhiều người nổi tiếng khi mất đi, người đời sau đấu giá, có khi cả gia tài đời người. - Huỳnh Kim, hay là em lấy đi gửi cho cô uống café thôi, ý đó cũng hay, có em mau miệng mới có chiếc áo này, chưa biết đúng sai thế nào nhưng chị thấy gần giống với tấm hình trong bức ảnh của anh Vinh, chị nghĩ xác suất trên 60% đúng. Chị Vinh nói với Kim Đến lượt chị Thanh: - Kim không lấy tao lấy đừng ân hận nhé, Kim với Thanh cũng thân nhau, 2 ông xã cùng học một khóa Quang Trung, cả hai đều 2 mai. Thỉnh thoảng cũng đi ăn uống chung nghe nhạc hay xem phim. - Để suy nghĩ nhé, đây là số của cô, nên để cho cô, chứ lấy thì ok có gì đâu. Ý chị Vinh sao? - Cô đã nói rồi, cô còn khó làm sao cô bỏ ra gần 5 phân, chắc gì bán được liền, em lấy đi gửi cô 5 phân coi như kỷ niệm một thời chợ trời với bọn mình lúc thay đổi. Huỳnh Kim nói: - Hay là chị Vinh lấy đi, chị có tấm hình em nghĩ ai thích mua cũng có bằng chứng. Với con mắt tinh của em là đúng áo bà Thiệu mặc lúc trong ngày trao huy chương cho anh, hay đó chị à. Với tụi em bỏ ra 5 phân để đầu tư bây giờ là lớn, nhưng với chị bình yên mà. Mai mốt anh về, chị khoe với anh. Bà Thiệu tặng chị, anh hết hồn cho coi. - Bây giờ chị hỏi thật tình nhé nghĩa là không ai lấy phải không? Thành, ý em thế nào? - Em với Huỳnh Kim nhà cửa đâu có, tha phương chạy cơm gạo. Chị lấy hợp lý nhất. Quay sang bà Giáo, cô à vậy em lấy cô nhé, coi như một kỷ niệm. - Ừ, các em nói phải, dù gì em cũng khá nhất ở đây, lại có nhà cửa và cả bức hình, mai mốt nếu có người mua lại họ cũng vững tin hơn, bằng chứng rõ ràng, còn không ai mua em nói sau chuyến đi ấy bà Thiệu tặng cho phu nhân đại úy Vinh cũng vinh dự vậy. Hơn nữa, cô giảng sư Văn khoa nói là sẽ một ngày trở lại để chuộc, cô nghĩ cũng có thể xảy ra. Chị Vinh đưa lại 5 phân cho cô Giáo Vân, hôm ấy coi như lời lãi được khá nhiều. Bà Giáo mừng rơn trong bụng lần đầu được như thế. Cả ba cùng dời đô ra tiếp tục bán mua buổi chợ chiều. Buổi chiều Dũng chở mẹ về, bà Giáo kể lại, Dũng cũng mừng lắm: - Mẹ à, bán chợ trời cũng như đi câu vậy, có khi ngồi cả ngày chẳng có mẻ lưới nào, song được một mối cũng sống được cả tuần, vì vậy người ta mới sống nổi với thời đại này. Con biết mẹ vất vả, nhưng làm sao bằng quê mình, làm trần thân cật lực cả ngày như con có 800 gram lúa, quy ra tiền có bằng ly café trong này. Sài Gòn dù sao cũng sống dễ là vậy. - Con à, ghé chợ Phú Nhuận mẹ mua thứ gì cho các cháu, từ ngày vào đến nay chưa mua gì làm quà cho nhà anh chị Tám, để các cháu mừng bà ngoại. - Phải đấy mẹ, hôm nay mẹ trúng mánh mà. - Tổ cha mầy. Dũng dừng trước quày trái cây, từ khi nào đến giờ bây giờ bà Giáo mới có dịp vào trong chợ Phú Nhuận, trời ơi mùa đông mà trái cây phong phú quá, đủ cả các loại trái cây, nếu như ngoài quê cùng lắm là chuối và mừng quân. Thì ra miền Nam quá ư sung sướng, chỉ làm ra tiền là khó còn mọi sinh hoạt đời sống quá tuyệt vời. Bà mua 2 kg xoài cát Hòa Lộc, về tráng miệng buổi tối. Hôm ấy, cô dượng Tám cũng vui nghe bà kể lại mua chiếc áo dài “bà Thiệu”, câu chuyện làm rôm rả không khí trong nhà. Khi cả nhà vừa ăn xoài khen đáo để, vừa trở lại đề tài áo dài. - Cũng có thể lắm chứ mẹ, phải chi có tiền cũng nên để lại kỷ niệm mẹ hả. Cô Tám nói - Ừ, mẹ cũng nghĩ vậy, nhưng bây giờ tiền để đối phó với đời sống là quan trong nhất. Khi chị Vinh gửi tiền mẹ mừng nhưng không dám ra mặt, sợ các chị coi thường, nói vậy chứ mình cũng phải giữ kẻ con à, mình nghèo mình biết. May là chị Huỳnh Kim cũng giúp mẹ và các chị cũng yêu thương. Bà Giáo thấy cuộc đời bôn ba bương chải Sài Gòn xứ người cũng có những thú vị. NDT (Còn tiếp) Chương 15: BỨC THƯ CỦA MẸ
Chương 15: BỨC THƯ CỦA MẸ Kể từ khi vào Sài Gòn kiếm sống, đành rằng cũng đắp điếm được áo cơm, còn giúp chút ít về nhà, nhưng đã quá nhiều những chua xót, từng tuổi này không gần được với ông. Nhiều lúc cũng muốn quay về, nhưng thực sự tiến thoái lưỡng nan. Buổi chiều bà về sớm hơn mọi hôm, chợt nhớ ông, nhớ nhà. Bà viết thư cho ông: Mình và các con à, Thấm thoát cũng đã mấy năm tôi vào Nam, lăn lóc kiếm sống ở xứ người, cuộc sống cũng dần bớt cơ cực về tiền bạc, đắp đổi được, đôi lúc tôi nghĩ lại cũng thấy nỗi buồn tê tái. Từng tuổi này còn phải bôn ba, bương chải, không cùng ông tâm sự, trong ngôi nhà của chính mình để được đầm ấm cùng nhau. Tôi biết, con cái không thể như tôi và mình mặc dù chúng nó đứa nào cũng yêu thương, giúp đỡ. Người luống tuổi như mình xa nhau lâu sao khó quá. Tôi suy nghĩ hoài nhưng chưa biết khi nào mới hội đủ điều kiện hoặc là vào trong này hoặc về lại quê nhà. Về quê thì sống ra sao khi không có cái gì để thu nhập, ruộng vườn thì cũng phải thuê mướn, tiền đâu, chẳng lẽ mỗi lần khó cứ xin con cái, phải chi các con khá giả, đằng này cũng chạy hụt hơi để có cái ăn cái mặc, còn ở trong này thì cứ canh cánh lo ngoài ấy không biết ông thế nào? Các con có đủ nhẫn nại để chăm sóc ông. Tôi định về thăm khi tết sắp tới. Ngày giáp tết trong này bán mua cũng ít hơn, người ta lo sắm sửa tết. Qua 20 tôi về với ông trong mấy ngày tết để nhang khói ông bà cùng ông, nếu thong thả qua tết tôi lại vô. Thanh và Út thế nào, có lạc quan sống không, mình cố khuyến khích nó nhé. Mình nhắc các con chăm chỉ giữ mảnh ruộng, ruộng nhà mình giai giai ngạn ngạn, bây giờ nhà nước chỉ để cho mỗi miếng ấy, cố gắng, cấy hái thu hoạch để lấy lúa ăn. Có thiếu thốn gì tôi và Dũng cố gắng gửi về trang trải. Nguyện ơn trên phò hộ cho mình và các con mạnh giỏi Yêu thương mình và các con” Thân yêu, Tôi Ra ngoài, đường phố vẫn đông đúc, náo nhiệt. Thành phố năng động bậc nhất này mọi thứ vẫn qua đi từng giờ đến kinh khủng, cơn mưa bất ngờ ồn ào trút nước, cả dòng người áo mưa khoác vội, mười lăm phút rồi qua đi, nắng lại lên. Một bóng mẹ già còm cỏi gánh quang gánh oằn vai ve chai, lầm lũi từng bước chậm chạp, phận người trần gian cứ chập chùng đi qua mắt bà không ngưng nghỉ. Ôi chao, thì ra thành phố đầy đủ cả thượng vàng hạ cám đều hiện diện với nhiều cung bậc khác nhau. Sang giàu và nghèo khó hai mảng tương phản lúc nào cũng song hành tồn tại. Bức tranh cuộc đời rõ nét nhất ở những thành phố nầy. * * Năm 1986, cả nước bắt đầu cuộc đổi mới lịch sử, đã 11 năm qua mọi hình thái kinh tế bao cấp HTX hình như nghẹt thở ở nông thôn lẫn thành thị, nổi nhọc nhằn và loay hoay cải thiện kinh tế chẳng thay đổi khá hơn, ngược lại bế tắc. Thành phố này bắt đầu thông đường tiếp vận kinh tế, lương thực nông sản từ miền tây, miền đông được cung cấp trở lại, các chốt kiểm soát dần bải bỏ, hàng hóa có vẻ đầy lên, các chợ lớn hầu như hàng hóa sầm uất hơn, các hoạt động kinh tế tư nhân bắt đầu départ trở lại, các quày hàng bán hợp tác xã dần dần mất đi rất yên lặng. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cung cách thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Kinh tế nhà nước vẫn chủ đạo, kinh tế tư nhân còn nhỏ lẽ, từ từ thôi chứ biết sao bây giờ, dù vậy vẫn có sự tiến bộ rõ rệt. Người dân bắt đầu vận hành theo ý thức và suy nghĩ mình, chừng một năm sau cải thiện đời sống rất nhiều trên các đô thị miền Nam, cái ăn cái mặc dần được cải thiện. May thay. Một bài học lớn cho miền Nam là chỉ có trở lại với kinh tế thị trường theo quy luật cung cầu may ra mới cải thiện, kinh tế bao cấp đã làm khổ toàn dân, thậm chí đói khát trầm trọng. Năm đó là năm cuối cùng bà Giáo Vân rời Sài Gòn để về quê để được cùng ông thân mật chuyện trò trong ngồi nhà của chính mình. Không nơi nào trên trần gian yên ắng và tự do bằng nhà mình – Đó là chắc chắn dù chật hẹp và nghèo khó đến đâu. Bà quay về chốn cũ trong sự bình yên ấy. NDT (Còn tiếp) CHƯƠNG 16
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: