MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC
THƠ SÂU NẶNG NỖI KIẾP NGƯỜI Đào Viết Minh LÀM MA EM VỢ Viết theo quan điểm Phật giáo trong Kiều của Nguyễn Du Em kết liễu. Tự giải thoát mình khỏi " kiếp" Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật! Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”! Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*) Anh ở vì chưng trả nợ đời. (*) Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo trong Kiều của Nguyễn Du: Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! - Câu thơ ý muốn vấn an linh hồn em: Em đi, coi như đã hết nợ đời rồi đó em
Bài bình trích trong "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại"
Tác phẩm đã xuất bản 2014 Lời bình: Theo nhận định của các nhà nghiên cứu văn học: “Làm ma em vợ” thuộc một trong năm bài thơ, đứng vào hàng đỉnh của Phạm Ngọc Thái: - Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối - Người đàn bà trắng - Anh đứng nhìn theo bóng chim câu - Làm ma em vợ - Tiếng hát đời thường Đó là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này: Em kết liễu. Tự giải thoát mình khỏi "kiếp" Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi... Hai câu mở đầu cách thức cảm xúc của tác giả, giọng điệu tựa như những lời khóc van khi đưa đám trong dân gian. Ta xem trong câu hai, nửa vế đầu viết: " Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói:"... nhưng sống thế càng ôi" - Như thế là ngay trong một câu thơ đã đưa ra hai nhận định về cả lẽ sống và cái chết của người em vợ. Chết như nó thì dở, thì hèn. Còn sống mà sống kém, sống tệ như vậy cũng…? - Bởi đây là bài thơ khóc trước vong linh em, có thể trách nó về sự chết uổng, chết phí... thì còn được, nhưng nếu đem cả cách sống tệ ra trách móc trước mồ mả em, e sẽ trở thành bất nhẫn? Tôi xin trích những lời của Hoài Thanh khi nói về cái chết của Hàn Mặc Tử trong Thi Nhân Việt Nam, ông đã viết: " Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ chết rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn". Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ - Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn. Muốn viết một bài thơ khóc tang sâu sắc thì phải nói đến cả nghĩa sống và cái chết. Huống hồ tính nhân bản trong thi ca, nó đòi hỏi phải đặt ra một giác độ nhìn nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội cũng như cộng đồng, mà ở đoạn cuối tác giả có nói: Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi... Bởi vậy để đỡ cho hai câu thơ khóc rất thật đầu tiên ấy, nghĩa tử là nghĩa tận, lệ của nhà thơ đã nhỏ xuống, anh xót xa thắp nén hương lòng khấn cầu cho vong hồn em sớm được siêu thoát: Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di...phật! Trách là trách những người thân đang sống quanh không cứu vớt được nó? Trách thực tế cộng đồng không đủ sự nhân ái cần thiết đưa nó ra khỏi bờ vực thẳm? Nhưng thôi, dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi, yên nghỉ nơi suối vàng. Nhưng ý tưởng bao trùm tình thi đã được tác giả khai phá ngay từ câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thứ nhất ấy: Em kết liễu. Tự giải thoát mình khỏi "kiếp" Ba chữ "tự giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng của lớp chúng sinh. Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra khỏi "kiếp sống", thật là bi thương! Nhìn theo quan điểm nhân đạo, suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi. Tiếng kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia? Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại chữ "kiếp" ấy một lần nữa: Em ơi: Chữ “kiếp” trước chữ “người”! Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính vì nỗi đau đời đó! Tôi bình sang đoạn thơ hai: Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Cái lời tiễn người đã chết ở đây nó ngược cảnh: đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh, nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi ai của cuộc sống. Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục, cha mẹ già hay ông bà tính khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai, để nói lên nỗi xót xa đối với người em: Mẹ, cha...queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền với "nhởn thanh xuân" (nhởn nhơ tuổi thanh xuân): nghĩa thơ có ý trào lộng. Ngôn ngữ, nhịp điệu hợp với sự cúng điếu của cảnh khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ, tủi nhục, đắng cay mà vẫn sống đó? Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc gì phải phẫn chí tìm cách quyên sinh! Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái theo quan điểm của nỗi kiếp đoạn trường, nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du. Cho nên tác giả đã kết: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... Anh ở vì chưng trả nợ đời. Để cho rõ ý nghĩa hàm súc của hai câu cuối đó, xin liên hệ đôi nét về thân phận nàng Kiều: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành: Làm cho sống đoạ thác đầy Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! ( Kiều ) Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình! Bởi 15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình: Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru? Để mà yên thân nơi cửa chùa: Đã đem mình bỏ am mây... Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than: Nói chi kết tóc xe tơ Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời... Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con gái rằng: Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây? Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân trong trắng, ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu, tình sâu nặng đến thế, mà vẫn chưa đủ trả? Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái tấm thân mình, như nàng đã nói: Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa... Để mà đền nốt cho chàng Kim. "Món nợ kiếp người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng. Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ, câu thứ ba của đoạn thơ này: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em! Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu? đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau cho vong hồn người em nơi chín suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời đại hiện đại này! Ta trở lại với câu thơ đầu tiên: Em kết liễu. Tự giải thoát mình khỏi "kiếp" Lời khóc tang của bài Làm Ma Em Vợ này là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp nhân gian: Anh ở vì chưng trả nợ đời. Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung sướng gì đâu? Bao khổ nạn ê chề, chẳng qua vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi anh cũng đi thôi! Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật để thắp cho đứa em tội nghiệp, cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống trần ai đây một nén nhang đời! Đào Viết Minh (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.04.2021 22:23:50 bởi Nhân văn >
NGHĨA VỢ CHỒNG VÀ TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG Phạm Thành Công TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG Thơ viết trên thư gửi về cho vợ Trong một phố nghèo, có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen. Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (1) Đêm hồ nước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Cung thành xưa dấu đại bác còn. (2) Ôi quê hương! Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên, tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Ai biết chiều nay người vợ trẻ Đứng mong chồng bên đứa con thơ Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu! Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy! Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Berlin, 2.1989 (1) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở Hồ Tây, gặp ông Nguyễn Trãi. Những vần thơ đối đáp của hai người còn truyền tụng đến ngày nay. (2) Hình ảnh mặt thành Thăng Long phố Cửa Bắc Hà Nội: Đến nay vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. Bài viết trích trong "PNT * Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN", 2019
Lời bình: “Tiếng hát đời thường” cũng thuộc trong năm bài thơ hàng đỉnh của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - Truyền kể lại rằng : Trong một khu phố nhỏ có người vợ trẻ cùng đứa con thơ, ngày tháng chờ chồng ra đi nơi đất khách… vì miếng cơm manh áo: Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về… như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen. Một bài thơ về quê hương. Những hình ảnh rất thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát. Từ căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng đa chùa, cái quán báo trong phố, đến cảnh sóng nước Hồ Tây... được gợi lại bằng câu chuyện cổ - (*) Nàng Thị Lộ từng bán chiếu gon, đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người: Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*) Đêm hồ nước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Qua hình ảnh mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ: những đêm trăng hồ, những chiều lá sấu, lá me rơi... Cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa, vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào: Thành Thăng Long thất thủ, tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết: Cung thành xưa dấu đại bác còn (**) (câu thơ 10) Đó là một bức tranh quê. Tiết tấu thơ đầy chất trữ tình. Rồi những hình ảnh sinh sống trước đây, nhà thơ nhớ lại: Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Người chồng ấy vẫn đau đáu nhớ về nơi vợ con đang trông đợi: Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy! Cái miền quê một thuở nào, theo anh ra trận trong cuộc chiến tranh xưa: Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Bài thơ được viết trong nỗi nhớ mong hiu hắt của kẻ đang lưu lạc ở xứ người. Đó là những tiếng nói yêu thương, xao xiết thường tình chốn dân gian, càng làm cho tình thơ thêm tha thiết: Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga... Cái tiếng hát đời thường ấy: Có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo hoặc tiếng gọi đò trên dòng sông trong đêm vắng... Nó máu thịt như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn ngày tám tháng ba. Có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng của những người thân, ngày ngày ta vẫn từng nghe đâu đấy, vọng lên thảng thốt: Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Rồi bay đi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Bài thơ Tiếng Hát Đời Thường, một tình thi da diết máu tim, khép lại ở đó. Phạm Thành Công
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2021 21:26:02 bởi Nhân văn >
EM VÀ MÙA THU Đình Bồng Nguyên GV Trường THPT Hoàn Kiếm Hà Nội PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG Tà áo trắng em đi qua phố Mùa thu rơi phủ mắt anh Tà áo trắng của người sinh nữ Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng. Chỉ còn lại con tim rớm đỏ Áo quệt vào, máu rỏ hai tay… Ôi, mùa thu mùa thu êm ả Sao lòng anh tơi tả thế này? Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ Áo trắng in ngang trời - sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu? Anh cũng có một thời bên áo trắng Cũng bế bồng và cũng đã ru em! Cái thời ấy chìm vào xa vắng Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang. Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ Câu thơ nẩy những bông hoa buồn Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ Em đi rồi, anh chết cả mùa đông.
. Trích trong Tập "PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014
Lời bình: Nếu như bài thơ Thời Áo Trắng là sự hoài cảm những kỷ niệm về một thời đã qua, thì “Phố thu và áo trắng” lại là những cảm xúc tình yêu của nhà thơ bật ra, da diết cùng các em sinh nữ. Có một buổi nhà thơ đang đi trên phố, bỗng nhiên anh bắt gặp những tà áo trắng các nàng phấp phới bay lướt qua anh. Trái tim Phạm Ngọc Thái xốn xang, tưởng chừng chỉ muốn vỡ tung ra: Tà áo trắng em đi qua phố Mùa thu rơi phủ mắt anh Tà áo trắng của người sinh nữ Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng Đó là những chiếc áo dài trắng mà các nữ sinh mặc vào buổi khai trường mùa thu. Nhìn những cánh hoa phượng đang rơi xuống đất, lòng anh chạnh nhớ lại những ngày đã cùng em cắp sách đến trường! Anh khóc hoa phượng đỏ hay anh khóc cho chính anh đây? Câu thơ: Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng /- Đã ra đời như thế! Vậy, tà áo trắng này là áo trắng thực và phố này cũng là phố thực. Nó khác với thành phố ở bài Thời Áo Trắng, là hình ảnh mang màu sắc tượng trưng. Nhà thơ nấc lên: Chỉ còn lại con tim rớm đỏ Áo quệt vào, máu rỏ hai tay... Ôi mùa thu, mùa thu êm ả Sao lòng anh tơi tả thế này? Nếu như trong Thời Áo Trắng diễn tả: Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh! /- Chỉ là khe khẽ, xao xiết... Thì ở bài “Phố thu và áo trắng”, mức độ day dứt cào xé trái tim người thi sĩ mạnh hơn. Anh bàng hoàng nhớ về một thưở từng ôm ấp, yêu thương người thiếu nữ? giờ như con dao cứa sâu mãi vào anh. Mùa thu của đất trời vẫn êm ả trong xanh, nhưng mùa thu trong anh… còn đâu sự yên lành, êm ái của thuở xa xưa ấy: Áo trắng in ngang trời, sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu? Hình ảnh lưỡi dao cào nát cả trái tim mùa thu, là một biểu tượng đã được thăng hoa. Nó đẩy nỗi tình thơ cao lên - Còn hình ảnh: Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ... Quyện giữa mùa thu và áo trắng thành một bức hoạ tình. in lên nền trời thật huyền ảo, mộng mơ. Cái cảnh vài cánh bướm vàng bay bơ vơ… chính là hồn của nhà thơ đang lang thang - Bộc lộ về khát vọng tình yêu của một con người đã bước vào tuổi hoa niên? Tuổi trẻ qua đi, nhưng tâm hồn và trái tim thi sĩ thì cứ trẻ mãi. Anh bồi hồi tưởng lại những năm tháng vẫn từng ân ái bên em: Anh cũng có một thời bên áo trắng Cũng bế bồng và cũng đã ru em Cái thời ấy chìm vào xa vắng Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang... Ôi, tình yêu cuồng nhiệt và nóng bỏng? Giờ chỉ còn là những tháng năm lạnh lùng của buổi hoàng hôn. Anh nghĩ đến cái thời từng ôm ấp tấm thân em mềm mại, trẻ trung trong vòng tay? Những khoảnh khắc đó đã trở thành kỉ vật thiêng liêng, cùng thời gian trôi vào trong quá khứ của đời anh. Nó lý giải cảnh ngộ vì sao khi gặp những tà áo trắng đi qua, lòng nhà thơ lại cảm xúc mãnh liệt đến thế! Như Nguyễn Du đã viết: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? Phút gặp lại trăm mối ngổn ngang với sự tan vỡ của lòng người thi sĩ: Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ Câu thơ nấy những bông hoa buồn Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ Em đi rồi, anh chết cả mùa đông. Nói là: " thôi đừng hát..." - thực ra anh vẫn muốn hát mãi về tình yêu! Mỗi mùa thu đến, một lần lòng anh thêm tan nát. Mùa đông tới, trái tim nhà thơ Phạm Ngọc Thái chắc sẽ càng hiu hắt, cô đơn !? Đình Bồng ( Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, Nxb Văn hóa Thông tin 2014 )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.04.2021 18:52:21 bởi Nhân văn >
CHÙM THƠ CHỌN 2 PNT Trích Tập "64 bài thơ hay", 2020
KHÓC HÀN MẶC TỬ
Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết Khóc gió mưa, cây cỏ đến chân trời Khóc tạo hoá: Từ thiên và địa Rồi khóc người: Đời, con tạo quay chơi... Hàn Mặc Tử ơi! Ớí, Tử ơi! Sống chơi vơi cũng giống người Khác chi là con chim cánh lá Giọt thơ này hoà lệ máu tôi rơi. Nơi Tử nằm trong mồ hoa thơm nở Đầu Tử gối lên sườn sóng gió Với sao sương vằng vặc trăng ngàn năm Nỗi đau đè nặng cõi dân gian. Hỡi biển Đông, núi cao Gành Ráng Thơ của Tử mai sau còn sáng láng Sóng nước non, non nước vỗ ngày đêm Quạnh hiu buồn, rờn rợn bóng thi nhân. Ngồi đọc Tử, tim vỡ toang máu đỏ Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió Chúa ở đâu? Thượng đế có trên đời? Người Thơ Xưa hoá chốn nao rồi… Thì tham vọng vinh quang: Ai chẳng muốn? Ngu cũng buồn. Tài lại lắm tai ương. Giữa đời - Nhiều khi phải cười nhăn răng mà sống Thương nhau để mặc lệ rơi tuôn. Tử dù đau nỗi đau ngang bể Nhưng đã có bao người khóc Tử Suy cho cùng: Tuyệt đến thế thì thôi Trên này nhiều chuyện lắm, Tử ơi! Rót mắt thành thơ, khóc Tử lại khóc đời Chúng tôi đang quần cuộc sống Có khi phải tập nén mình như bánh nén Thỉnh thoảng cũng thương nhau, phần lớn chỉ đấu tranh. Niềm sướng đau, khôn dại dại khôn Em gái - Nhà thơ - Nhà chính khách Tuốt tuồn tuột mấy ai không bất trắc Buồn làm chi? Đời, sắc sắc không không. Đời vậy mà. Người thế, chuyện thế gian Suy cùng lý, chẳng gì phải chán Lại thương Tử không được dự phần bon chen, xô lấn Giây phút khóc cho nhau, hoá hạnh phúc lớn trên đời! Hàn Mặc Tử ơi! Ới, Tử ơi! Bao đêm nghiền ngẫm chữ thơ Người Châu rỏ đầm đìa trang giấy trắng Bay về Gành Ráng đẫm hồn tôi. Thắp nén nhang chùa, tôi khấn anh Tài hoa xuất sắc, vóc giai nhân Vung tay búng bút xô báu ngọc Chữ thơ như tuyết, máu lênh đênh. Qui Nhơn biển sóng vỗ mây lừng Tài này, phận ấy! Những bi thương Nay đã yên mình khe nước ngọc (*) Hẹn nhau mai mốt, bữa tương phùng. Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết Khóc gió mưa, hoa cỏ lẫn sao sương Tử có nghe! Thơ Người, tôi viết tiếp Cúi lậy không gian cả tám phương. …. (*) Ý thơ của Hàn Mặc Tử NGƯỜI THÔN NỮ QUÊ HƯƠNG Tặng Ánh Tuyết Em thơm thảo tựa nàng tiên trong cổ tích Dịu mềm như áng mây bay Hồn anh trôi theo khúc thơ say Dẫn em qua mùa thu hoang dại. Cánh chim bằng anh, bốn phương gió xoáy Về chân trời rộng mênh mông Vẫn ghi lòng nhớ tới em thương Cõi vô thường, tình trao anh trọn vẹn. Bình dị chốn người, cao xa khát vọng Trái tim anh không có vách ngăn Tất cả cho đời! Tất cả cho em! Như gió mây, không tôn vinh đảng phái. Với quê hương, em là hoa trái Bốn mùa thơm ngát hương thơ Nếu sông núi này không có em ta Mọi lẽ sống sẽ trở thành vô lý! Anh từng qua cả cuộc chiến tranh thế kỷ Vật lộn đời trần, đổ máu vì chủ nghĩa Tìm đến nghiêng mình trước mộ phần Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du Nguyện sống suốt đời để lưu danh đến thiên thu... Nếu mai sau... Người lập cho tôi ngôi miếu, khói hương đưa Xin cứ mặc rêu phong, gió mưa bao phủ Chàng thi sỹ lang thang, yêu tận cùng xứ sở Nay chẳng làm được gì. Tạ lỗi trước nhân gian Chỉ có mỗi trái tim này, dành để thương em! NHỮNG KỈ NIỆM BÊN CON Tặng con Phạm Bảo Long (viết năm con lên 4 tuổi) * Vằng vặc sân đền Vầng trăng trong, mái chùa cong, bóng đa. Nhớ sớm sớm, bố đèo con đường thênh thang gió hát Chiều đón con qua đường lá vàng rơi (cái tên phố mà con chưa thuộc) Gió Hồ Tây thổi, gió Hồ Tây. Bóng nhỏ lon ton Bố dắt con ra hồ cá nổi Bờ cỏ đẫm sương mai Con đứng đợi, bố mò Một nhúm tép cũng vui nhà, vui cửa. Bố đã cùng con qua bao đường phố Hiệu kem Bốn Mùa, quán phở Hoè Nhai Cố Đô xưa - Hà Nội hôm nay Trong ánh mắt con thơ thành Thăng Long rêu phủ. Cái quán báo thường ngày bố đưa con vào đó Cổng chùa cũ giã nhàu mưa gió Tường nhà cũng bạc mầu vôi… Có cần chi nhiều lắm, con ơi: - Thế cũng đủ hai điều Thiện Mỹ! Đời bình dị - Mái tường sạt đổ Lẽ sống giản đơn, mâu thuẫn chất chồng. Vằng vặc sân đền Vầng trăng trong, mái chùa cong, bóng đa Bạc trắng nửa phương trời xa lạ. Mẹ đã nuôi con những tháng năm nghèo khổ Đi làm về chạy chợ kiếm thêm Đêm cảm hàn không đủ sức ôm con Ngày gượng dậy, lo từng bữa gạo Sáng vội đưa con đến trường mẫu giáo Nước mắt nhoà trên hồn trẻ ngây thơ! Trăng vẫn đấy! Bố nửa vòng xa xứ sở Quán - Cổng - Thành xưa đứng quạnh thầm. Con chưa hiểu nhiều, mai sẽ lớn khôn Không chỉ có trăng trong, còn nước mắt Không chỉ có ngày vui, còn cay cực Cũng theo con lớn từng ngày. Ôi, vầng trăng vằng vặc đêm nay Những kỉ niệm êm đềm khao khát lạ! Rồi mai mốt Bố sẽ lại đưa con đường thênh thang thuở đó Chiều đón con qua đường lá vàng rơi (cái tên phố mà con chưa thuộc) Gió Hồ Tây thổi, gió Hồ Tây... Karl-Marx-Stadt * 1988 "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019
PHÚT CÔ LIÊU, DỪNG LẠI NGÓNG NGƯỜI XƯA Em xưa đó - Tình tao khang tha thiết Anh không thể tìm ở bóng xuân nay Cánh chim hải hồ ta lang thang bay Anh lại gọi? Nghe không, em yêu quí! Đứng trên đỉnh thi sơn kỳ vĩ Thấy tim mình rỉ máu xuống thẳm sâu Vết thương em đau. Anh cũng đau. Người đàn bà trẻ vùng sông nước. Duyên kỳ ngộ giữa đường tan tác Em vẫn là tình cuối của đời ta Năm tháng phôi pha. Kỷ niệm cũ không nhòa. Vóc hình em, ta mãi còn cất giữ. Em là áng thi ca của hồn thi sĩ Người vợ hiền trong mộng mị ta mơ Mang tình em xây cả Đài Thơ Cho muôn sau đời ngưỡng vọng. Bao giây phút cuồng say, tình nóng bỏng Đã cùng anh ân ái những canh khuya Mất em rồi. Năm tháng, gió mưa Lời hứa cũ tạc lòng anh khuya sớm. Trời Hà Nội sáng nay nắng ấm Mà trong ta vẫn rét cóng, Cưng ơi! Em từ miền quê ấy xa xôi Có khắc khoải, nhớ về anh thuở trước? Đường thiên lý một mình ta mải bước Phút cô liêu dừng lại, ngóng người xưa. TÌNH CHẾT RỒI! GIỮ LẠI CHO THƠ Anh viết về em như truyền thuyết Tình chết rồi! Giữ lại cho thơ… Bởi ta yêu trong viễn tưởng, cao xa Đã hóa nàng trở thành Nữ Thánh! Trong thơ anh, bóng hình em đẹp lắm! Chợt giật mình: Có được gì đâu? Rồi nhân gian sẽ ca mãi đời sau Nơi cuộc sống bọt bèo, em lên Đài Bất Tử! Nếu mai nhớ về ta, hỡi nàng thôn nữ Đến bên mồ, dành ít lệ tiếc thương Than nghĩa đời từng với gã tình lang Đau thân phận, chàng thi nhân tội nghiệp. Ta đi đây! Cưng ở chốn trần gian, héo hắt Phút giây buồn thì hát khúc tình xưa Kẻ cùng em trong một mối duyên hờ Chỉ còn gió cõi thiên thu, trôi vô tận… BIỂN HÁT Biển tít tắp sao sóng còn vỗ mãi Anh nhặt chút tình vương lại thời xa Treo hồn lên nửa vành trăng lấp Thả lòng bay lặng bến bơ vơ. Biển có thể không biết mình hóa sóng Để cho bờ chìm đắm giữa lênh đênh Em có thể không còn nhớ đến... Như làn mây trôi mãi vô tình. Biển ba phần cho trái đất tươi xanh Em trong anh một mùa thu huyền ảo Khi anh hóa hàng phi lao trong sóng bão Là đã hòa biển cả với cô đơn! Trời đêm nay không mưa nhưng mà gió Gió đêm nay không mạnh nhưng mà xô Trăng đêm nay hơi vàng, xao và động Anh lại nằm nghe biển hát ngày xưa… TRĂNG LẶN Trăng đã chán trời nên đi mất Cứ hững hờ, tiêng tiếc, phân vân... Em có chán anh giống vầng trăng không biết? Mất trăng rồi còn lại trời đêm Biển vỗ vào anh. Biển vỗ vào em. Em hoá đá ! Để sóng ghềnh ôm mãi Năm tháng, nắng mưa: Đá vẫn còn nguyên đấy ! Anh phong ba, anh nhẫn nại suốt đời Bài thơ tình còn viết, em ơi ! Đá vẫn đá - Người vẫn người, không thể khác Biển hư vô cả những khi cầm bút Xé rách lòng cho cánh thơ bay Mất một vầng trăng lại mọc một vầng trăng Sóng khốn khổ hôn mãi hòn đá trắng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:31:57 bởi Nhân văn >
NHỮNG AI SO DÂY CÙNG NGUYỄN DU Trần Đức Nguyên CB Viện ngôn ngữ & văn hóa dân gian Tác giả TRẦN ĐỨC
Trong văn đàn ngàn năm Văn hiến đến nay, có hai nhà thơ đã dám... "so dây" cùng Nguyễn Du? * Một là nhà thơ Tố Hữu - Ông từng viết: Hỡi người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng Người * Nhà thơ thứ hai Phạm Ngọc Thái - Tập "64 BÀI THƠ HAY". Nxb Hồng Đức 2020 trong bài "Ta khóc cho ta", vị ấy cũng viết: Quan san muôn dặm sơn hà Nguyễn Du người trước, tôi là người sau Hay là: Người Đường Cổ – Tôi Tân Thơ Ngàn năm văn hiến xin thưa cùng Người. Bài thơ "Ta khóc cho ta" này còn được in trong TUYỂN THƠ CHỌN LỌC Phạm Ngọc Thái, 2019 (tr.260-261). Vậy ta xét xem vị nào so dây được với đại thi hào Nguyễn Du vĩ đại của thi ca Việt Nam - Còn vị nào... đứt dây? Nhà thơ Tố Hữu
TRƯỚC HẾT NÓI VỀ TỐ HỮU Ngay bây giờ ở Việt Nam nhà nước xã hội XHCN vẫn đang tồn tại, nhưng mấy ai còn muốn đọc thơ Tố Hữu nữa đâu? Tôi nghĩ rằng: Nếu ở nhà trường, trẻ con không phải học rồi thi cử thơ Tố Hữu, có lẽ: Tố Hữu mãi mãi sẽ đi vào quá khứ và thơ ông phủ đầy bụi... Trong khi đó: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương - Hoặc các thi nhân lớn thời tiền chiến, đặc biệt là thơ sáng tác trước cách mạng của họ: Hàn Mặc Tử ( thơ trăng và thơ điên) - Chế Lan Viên ( Điêu tàn và cả Di cảo) - Xuân Diệu (Thơ thơ, Gửi hương cho gió) - Huy Cận (Lửa thiêng) - Nguyễn Bính (Chân quê), vẫn đang được lưu hành trên văn đàn, báo chí - Họ vẫn có thơ để tồn tại ngàn năm đấy chứ! Mai sau, chắc chỉ khi nào văn đàn điểm lại về môt thời cách mạng, người ta mới lại nhắc đến thơ và cả tên ông: Một cái bóng đã... tàn !? - Sao so sánh nổi với kiệt tác KIỀU bất hủ muôn đời - Tác phẩm mọi thời đại... của Đại thi hào Nguyễn Du cơ chứ? Vậy là cung đàn thơ Tố Hữu đem so với Cụ Nguyễn đã... đứt dây. Chẳng qua khi đó… CNXH không chỉ Việt Nam mà cả trên thế giới đang ở vào thời kỳ hưng thịnh. Thời thế xã hội đã đưa ngài ấy lên đỉnh cao chót vót của danh vọng - Một nhà thơ nhưng nắm quyền lực chính trị rất lớn! Mỗi bài thơ, mỗi tác phẩm của ông đều được đài, báo chí cùng các phương tiện truyền thông tung hô, ca ngợi lên tít tận chín từng mây - Tố Hữu mới ngất ngưởng mà ca rằng: Khúc vui xin lại so dây cùng Người Thế, Tố Hữu có phải là người cuồng vọng không? - Không! Tố Hữu không phải cuồng vọng, ông ấy chỉ "ngộ tưởng"... cho mình là một nhà thơ vĩ đại mà thôi. PHẠM NGỌC THÁI THÌ SAO? Khi buông ra những câu thơ: Quan san muôn dặm sơn hà Nguyễn Du người trước, tôi là người sau .... Người Đường Cổ – Tôi Tân Thơ Ghê đấy chứ !? Giờ ta xem sao - Trong mối quan hệ cá nhân với xã hội? giữa Tố Hữu và Phạm Ngọc Thái: Hai con người có hai cuộc đời thi ca hoàn toàn trái ngược nhau - Khi Tố Hữu tự ca mình như thế, là lúc ông ấy đã trở thành một ông quan cách mạng lớn, rất lớn! Đứng trên đỉnh cao danh vọng và quyền lực, đang mở ra cho ông một con đường thi ca thênh thang, thì... PHẠM NGỌC THÁI: Ta hãy nghe nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên GV trường ĐH sư phạm, viết về nhà thơ: "Trên biển cả mênh mông đầy giông bão của xứ sở thi ca mịt mù kia... Phạm Ngọc Thái đơn thương độc mã, không ô lọng che dù, không người nâng đỡ... Người chiến binh đã qua cả một giai đoạn dài của cuộc chiến tranh xưa, giờ trên con đường thiên lý của sự nghiệp thi ca, con chiến mã vẫn từng bước, từng bước... rồi phi lên tận đỉnh ngọn thi sơn của thi ca hiện đại Việt Nam.". Hay như cô giáo Nguyễn Thị Xuân - GV trường THPT Ba Đình, Hà Nội - Trong bài tiểu luận "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá", đã viết: "Gần mười năm chinh chiến trên chiến trường Tây Nguyên Nam Bộ, khi đất nước hòa bình rời quân ngũ trở về... lại rơi vào cảnh ngộ đau thương: Cả gia đình nhà thơ lúc đó sống ở phố Khâm Thiên, Hà Nội - Một con phố bị bom Mỹ dội bom B52 tàn phá, hủy diệt thủ đô trong 12 ngày đêm, tháng 12/1972. Ngôi nhà của gia đình bị trúng bom và người cha anh đã chết trong đống bom kinh hoàng, trấn động địa cầu ấy. Chỉ còn lại bà mẹ già đau khổ với hai đứa con (hai em trai của nhà thơ) còn dại. Người chiến binh ấy khi hết chiến tranh trở về cố hương thì chính gia đình mình lại bị nhà tan, cửa nát. Bản thân anh tuy may mắn thoát chết ngoài chiến trường, mang được cái xác trở về cũng... thân tàn, ma dại - Mười năm chinh chiến nghiệt ngã và bom đạn: Bị thương ba lần, ba lần đổ máu. Sức ép bom vào ngực, trở thành căn bệnh "tắc nghẽn phổi mãn tính" phải dùng thuốc khó thở đến hết đời. Mắc thêm căn bệnh chảy máu bên trong, phải cắt bỏ 2/3 dạ dầy.". Và cô giáo Xuân kết luận: - Đấy, tất cả chùm lên cuộc đời còn lại của một chiến binh khi đất nước đã hòa bình. Tưởng rằng: Những hoàn cảnh khốn cùng ấy sẽ đè bẹp người chiến binh ấy xuống?... Nhưng không! Với chí khí, nghị lực phi thường và đầy khát vọng của một thanh niên Hà Nội từ thưở còn 18, lại được tôi luyện thử thách qua cả một cuộc chiến tranh: Người chiến binh ấy đã vượt lên, đè bẹp tất cả để vươn đến chân trời cuộc sống hằng mơ ước - Phạm Ngọc Thái đã chiến thắng! Trong ba mươi năm lao tâm vào sáng tác thơ văn, vẫn phải cùng gia đình lăn lộn cuộc sống đời thường vì miếng cơm, tấm áo - Đến nay, anh đã cho ra đời đúng 13 tập sách: Trong đó có 2 cuốn tiểu thuyết, 11 tác phẩm là thơ và bình luận. Đồng thời tham gia cùng Hội nghệ sĩ sân khấu Thủ đô - Quốc gia... sáng tác thành công 5 vở kịch nói sân khấu lớn, nhỏ - Tuy nhiên, thi ca mới là tầm vóc, chân dung văn học căn bản của Phạm Ngọc Thái. Tôi trở lại với vấn đề: PHẠM NGỌC THÁI CÓ THỂ TRỞ THÀNH NGUYỄN DU CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VIỆT NAM HAY KHÔNG? Hay cũng sẽ "đứt dây"... như Tố Hữu? Cũng nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng nhận xét: - Năm 2014, tác giả cho xuất bản tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" - Tác phẩm dầy 372 trang, gồm 120 bài thơ tình và 34 bài viết của các tác giả khác bình thơ hay Phạm Ngọc Thái... Tập sách ra đời đến nay đã hơn sáu năm, giữa văn đàn của thủ đô ngàn năm Văn Việt. Tiếp đến mùa xuân 2019, tại Nxb Thanh niên, anh lại cho ra đời tác phẩm "Phạm Ngọc Thái * Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" - Các tập sách có tầm vóc đó của anh, đến nay vẫn hiên ngang phát quang trong đương đại. Nhất là khi anh xuất bản "Tuyển thơ chọn lọc * Phạm Ngọc Thái", với hơn 200 tình thơ chọn ra trong đời thi ca tác giả: Đó chính là một tuyển thi ca tầm vóc - Rồi tập "64 BÀI THƠ HAY", Nxb Hồng Đức 2020, kết tụ lại những thi phẩm tinh túy nhất trong đời thi ca của nhà thơ... Qua tháng năm "con đại bàng thi ca Phạm Ngọc Thái" vẫn tung cánh bay, ngày càng cao, càng bay xa... Tác phẩm "Chân dung nhà thơ lớn thời đại" vẫn sừng sững giữa văn đàn của đất ngàn năm Thăng Long, khẳng định chân giá trị đích thực đối với nền văn học. Trên biển cả thi ca... "thân cô - thế cô", cánh buồm đơn độc Phạm Ngọc Thái vẫn giương lên vững chãi mà lao về phía chân trời. Trải qua hàng chục năm, không chỉ là việc Phạm Ngọc Thái đã cho xuất bản mấy trăm bài thơ trong các tập sách, thơ anh đăng trên các trang mạng cũng nhiều. Anh đã được nhiều độc giả ở văn đàn ca ngợi thơ hay!... (chỉ một số kẻ sĩ mang lòng đố kỵ, phán bậy, nói xằng). Sự nghiệp thi ca Phạm Ngọc Thái hiện nay, trên văn đàn phải thừa nhận đã nhiều tiếng vang và tầm vóc. Nhưng việc Phạm Ngọc Thái có trở thành một "Nguyễn Du của thi ca hiện đại Việt Nam" hay không? Có lẽ vẫn phải để thời gian phán xét? Xưa nay, có mấy bậc cao nhân lúc đương thời tên tuổi đã được công nhận đâu? Đến như Nguyễn Du lúc đương thời Người cũng phải than: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ( 300 năm sau nhân thế liệu có người khóc Tố Như không? ) Bao bậc tài danh của nước ta cũng thế thôi. Khi sống thì thân phận bị lụt lội... như Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến cả đời lúp túp trong mái nhà tranh chốn quê mùa. Tới khi chết rồi đời mới vinh danh để trở thành những bậc thi nhân danh giá: Tác phẩm và tên tuổi lưu truyền tới ngàn thu. Trên thế giới không ít bậc vĩ nhân số phận cũng như vậy: Đại thi hào Walt Whitman của nước Mỹ chẳng hạn? Thời ông đang sống, tác phẩm "lá cỏ" của Người bị nhiều văn sĩ ở nước Mỹ dè bỉu, chê bai: Nào là thấp kém, thông tục, tầm thường... Thậm chí có kẻ còn phê phán là tập thơ rác rưởi, dâm tục... Lúc đầu bản thảo tập thơ ông không thể tìm được nhà xuất bản? Ông đành phải tìm đến nhà in tư nhân nhỏ... để cho cuốn sách ra đời. Có nhà thơ tên tuổi của nước Mỹ thời đó, ông gửi biếu? Để tỏ rõ thái độ của minh, nhà thơ này đã xé đôi cuốn sách, rồi mới gửi bưu điện trả lại cho ông. Dư âm xấu về cuốn sách "lá cỏ" ấy còn kéo dài mãi tới những năm sau. Người duy nhất tin vào tương lai của tác phẩm "lá cỏ" chính là bản thân Whitman.Trong bài thơ viết về thành phố New York, ông dự báo: - Hỡi thành phố, sẽ có lúc Người trở nên nổi tiếng ,Vì ta đã sống và viết ở đây... Ông đã đúng! Chính tập Thơ "lá cỏ" đưa Walt Whitman trở thành Đại thi hào - Ông đã được phong là người sáng lập ra nền thơ ca mới của Mỹ. Trở lại vấn đề: Liệu Phạm Ngọc Thái có trở thành một Nguyễn Du của thi ca hiện đại việt nam không? * Hay cũng sẽ "đứt dây" như Tố Hữu? Hoặc chỉ trở thành: Một Hàn Mặc Tử - Hồ Xuân Hương - Tú Xương - Nguyễn Khuyến - Xuân Diệu - Huy cận? Bản thân tôi cũng chưa dám khẳng định - Dù Phạm Ngọc Thái đã rất có tiếng trên văn đàn là thơ hay! Được dư luận của nhiều người nhận định: "Nhà thơ viết thơ tình hay nhất thời nay"! Chắc rồi thời gian sẽ có lời giải đáp thích đáng - Nhưng đến khi nào thì chưa biết? Rất có thể sẽ như nhiều bậc tiền nhân xưa: ĐỂ ĐẾN KIẾP SAU ĐỜI TRUY PHONG... Chỉ có Thượng Đế mới biết được điều này !? Trần Đức
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2021 19:08:39 bởi Nhân văn >
CẢNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI Khánh Hòa (Nữ văn sĩ tự do) NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG . Viết trong đám người đi lao động ở ngoại quốc * Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp Rời quê qua bên kia biển sóng Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống. Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên. Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1) Tôi tìm chắt những bụi vàng, như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác...(2) Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều Cứ để cho tất cả lãng quên !? Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ… Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ. Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua Những năm tháng không bẩn đấy, cũng rộm vàng khói cột Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật! Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ Một chút nữa với bạn bè thân hữu Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu Dù cho tất cả đã quên tôi !? Nước Đức- Đêm 11/9/1989 (1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: " Còn chút vàng mười mang ra bán nốt" (2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki. Lời bình: Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút. Đời sống dân tình nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90 Xô Viết Nga tan vỡ, rồi hàng loạt các nước trong phe XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời. Như trong bài “Trở về” của tập thơ “Người đàn bà trắng”, Nxb Thanh niên 1994 – Phạm Ngọc Thái đã viết: Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác Bốn bể chân trời lạc khói sương... Bấy giờ, nhà thơ còn là một cán bộ ngành ngoại thương Việt Nam. Anh được điều động từ trong nước ra nước ngoài, tham gia công tác quản lý một đơn vị xuất khẩu lao động. Đó chỉ là thực cảnh của những đám dân dã đi tha phương kiếm sống. Những trăn trở riêng chung của tác giả trước một thực tế đầy phức tạp? Để vào một đêm “Nỗi trăn trở người đi tìm vàng” đã ra đời: Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp Rời quê qua bên kia biển sóng Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Bài thơ phác lên một bức tranh được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu. Những lớp người này, phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ. Tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách quê người thì thật kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Nó đã thuộc vào hàng là những lớp chúng sinh, tận cùng đáy xã hội rồi: Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống... Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót: Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên! Sử dụng những cụm từ như: giả dại, làm ngơ, mách qué, vân vi... mà vẫn giữ được phong cách của dòng thơ trữ tình chính thống, bản sắc thêm đậm đà chất văn học dân gian. Người đã phải hoá mình thành giả dại, ngây ngô, cười cợt... mà sống. Nén mình nuốt cái "đạo lý có hoá thừa" kia đi, tự nhận chìm bản thân như là không tồn tại để lãng quên. Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Đó là sự mở đầu bi hài của cuộc sống trong Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng này. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả, của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó như thế nào: Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1) Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác...(2) Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Câu (1) - Sử dụng ý thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/- "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán? thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương giá đổi chua chát hơn nhiều. Còn câu (2): Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác... Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri! Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri! Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái. Vậy là - Thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được: Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Nó đã phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Ý thơ thật xót xa. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, nền đạo lý bị tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Đây là những câu thơ hay nhất bài, như lời một nhà bình thơ đã nhận xét: Nó có thể đạt đến những câu thơ trở thành kinh điển! Thông qua sự trăn trở bản thân, tác giả đã khai thác vào nỗi lòng, tâm linh của những người lao động, đưa tính nhân bản thơ lên đến tột cùng: Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ Chút thơm thảo: đoá phù du ngắn ngủi Sự khao khát những chiều hương lý trong kỉ niệm, nhớ đến những bông đại nơi quảng trường quê hương - Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy, càng thấy sự phũ phàng thực tế mà những kẻ đi tìm vàng đã phải chịu đựng. Kịch tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau như hài kịch: Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ... Câu thơ điệp trở lại hai lần để nhấn mạnh, thật là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng: Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật! Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ Một chút nữa với bạn bè thân hữu... Vậy nếu khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái có phải tự chất vấn về mình: Những năm tháng không bẩn đấy, cũng rộm vàng khói cột Thì cũng giống như cảnh mà Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/- Làm sao ta có thể lên án được, bởi những con người đó đã phải đổi cả một phần nhân cách cần thiết chỉ vì lương tri. Những việc làm của họ là xuất phát từ lương tri của lương tri. Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: “Nỗi trăn trở người đi tìm vàng” phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết. Một tấn đời! Bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc và tính điển hình xã hội - Ở trong một giai đoạn với rất nhiều biến động xẩy ra, cả trong nước và trên thế giới. Khánh Hòa (Trích từ tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2021 22:08:06 bởi Nhân văn >
NUỐI TIẾC TÌNH YÊU THUỞ BAN MAI Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm Nguyễn Thị Hoàng
CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ Em mang màu phượng đỏ ra đi... Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ Xác ve còn bám ở thân cây. Con đường phượng đỏ đêm nay Mây lãng du bay trời xanh vô định Những cánh hoa rung trong hoài niệm Nghe lòng thổn thức đâu đây! Phượng đã cháy lên một thời Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi! Con đường tình đẫm giọt sương rơi Gió vẫn xạc xào vi vút thổi Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy Thì đâu còn phượng để anh ru? Em đã mang màu phượng ấy ra đi... ( Bài viết trích trong tập "PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014 )
Lời bình: Bài thơ rất đáng yêu. Nó gợi lại kỷ niệm mối tình của nhà thơ với một người sinh nữ đã xa xưa. Tôi hình dung thấy bước chân anh đang lang thang trên cái hè phố nhỏ: Có hàng phượng vĩ, con đường… Anh vẫn cùng người thiếu nữ năm nào dạo bước bên nhau: Em mang màu phượng đỏ ra đi... Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ Xác ve còn bám ở thân cây Hẳn đó là những năm tháng tươi đẹp và hạnh phúc của đời anh. Cô nữ sinh kia chắc cũng phải xinh xắn lắm? Nghe anh mô tả, những kỷ niệm êm đềm từ thưở còn con gái trong tôi, dù đã xa xôi cứ dồn về làm nghẽn trái tim. Thế mà… cái con đường có em yêu đã bao đêm đi bên anh, giờ đây chỉ còn vương lại những xác ve đã chết khô, bám trên những cành phượng cũ. Nó cũng cô đơn như chính anh. Tuổi trẻ đi qua để lại bao nuối nhớ về những kỷ niệm tình. Bởi cái màu hoa phượng đỏ cháy rực trời vào những ngày hè thân thương ấy, giờ đây em đã mang đi mất rồi… chỉ để mình anh trơ trọi ở lại với những nhớ thương? Ngay bắt đầu vào bài, nhà thơ đã mô tả: Em mang màu phượng đỏ ra đi... Sang đoạn hai - Phạm Ngọc Thái vẫn lan man cảm xúc trên con đường của kỷ niệm tình. Nhưng giờ đây: Mây lãng du bay trời xanh vô định Những cánh hoa rung trong hoài niệm Những đám mây phiêu diêu vẫn bay qua con đường. Bầu trời heo hút, vô vi… lại gắn với khoảng đời tươi đẹp, hạnh phúc nhất của nhà thơ. Hiu hắt quá! Màu hoa phượng đỏ, cũng chỉ còn là màu trong hoài niệm. Câu thơ ảo mà khoáy vào lòng người? Phải chăng như Chế Lan Viên đã viết: Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ Bởi cái màu ảo ấy là màu của những nhớ thương, hoài vọng, thiết tha. Mặc dù nhà thơ đang đi trên con đường rất thật để làm bài thơ này, như anh viết: Con đường phượng đỏ đêm nay... Chúng đều là thật cả : Từ làn mây đến khoảng trời xanh… Nhưng vào trong cảm xúc của Phạm Ngọc Thái đã trở thành màu của trừu tượng, mênh mang, day dứt khôn nguôi: Nghe lòng thổn thức đâu đây... Trái tim nhà thơ đang giằng xé trên con đường ấy - Đến đoạn thứ ba, như người bừng tỉnh trong giấc mộng. Thơ được đẩy cao lên và xa xót: Phượng đã cháy lên một thời Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi! Đành rằng qui luật của thời gian, không ai tránh được sẽ sự già cả, tàn úa… nhưng ta vẫn thấy chua chát quá! Dường như tất cả đang sụp đổ xuống trái tim anh. Đôi trai gái còn thanh xuân hồi ấy, nay đã biến thành ông bà già… mất rồi - Có lẽ nhà thơ đã khóc? Đó là sự chia ly vô cùng, vô tận của kiếp người. Đời người, mấy ai là không phải nuối tiếc mối tình đầu? Bài thơ không chỉ làm rung động trái tim của các lứa trẻ, ngay cả những người đã bước vào tuổi hoa niên, đọc thơ anh chắc cũng không khỏi xao lòng. Đoạn thơ kết: Con đường tình đẫm giọt sương rơi Gió vẫn xạc xào vi vút thổi... Để khắc sâu hơn, nhấn mạnh hơn về sự trống vắng. Dù ta chẳng biết vì lý do gì? Tại sao mối tình của nhà thơ với người con gái ấy bị tan vỡ? Lỗi do ai? Chỉ thấy anh biện hộ với lòng mình: Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy Thì đâu còn phượng để anh ru? Khiếp, nhà thơ Phạm Ngọc Thái ơi! Sao anh tham lam thế? Người ta lấy nhau bây giờ chỉ đẻ có hai đứa, nuôi được chúng nên người cũng đã bở hơi tai rồi, đằng này anh lại đòi những "...sinh năm, đẻ bảy" cơ đấy? Nói vậy thôi, chứ thơ vẫn là thơ mà. Viết thế nên câu thơ lại thêm phần thi vị và hay hơn. Tất cả sự diễn tả ý nghĩ, hình ảnh... cũng chỉ để hoài tưởng về cái màu phượng vĩ của tình yêu năm xưa. Đến cuối cùng nhà thơ trở lại với câu thơ đầu tiên, và kết ở đó: Em đã mang màu phượng ấy ra đi... Chính là tư tưởng của toàn bài: Bộc lộ sự nuối tiếc tình yêu trong sáng, say đắm thời thanh xuân. Thơ giàu cảm xúc, thanh tao và mộng mơ. Ngôn ngữ bình dị nhưng vẫn mang vẻ đẹp mỹ học… mà tạo thành bài thơ hay. Nguyễn Thị Hoàng ( Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014 )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2021 21:30:20 bởi Nhân văn >
MỘT KỲ TÁC THI CA Anh Trần NS sân khấu & điện ảnh HN XEM TRANH BÁN LOÃ THỂ Tưởng nhớ bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng của thi nhân Bích Khê Nàng để hở một vòm trời tuyệt mỹ Thế giới là đây! Cuộc sống là đây! Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình, ra từ trong bụng. Lui xuống dưới nàng, một rừng sâu um tùm che hang động Lên trên nàng, đôi mỏm núi trắng vô biên Thân thể nàng tràn đầy hương nhụy phấn Thiếu nữ khỏa thân mình: Hơn bao lời hoa mĩ phát ngôn. Em như gió trăng mà rung động cả vua chúa, thánh thần Cuộc sống cần em! Đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử? Khi em cởi ra nhiều: Điểm báo thế giới càng hiện đại văn minh (*) Nhưng điều đáng đớn đau, là tính nhân loại… Con người cũng ngày càng nhiều dã tâm, gây tội ác? (**) …….. (*) Thế giới càng hiện đại văn minh thì khuynh hướng triển lãm thân thể của các thiếu nữ càng phát triển, tới mức gần như cởi truồng. (**) Nhà văn Nga Ai-Ma-Tốp đã cảnh báo trong tác phẩm "Đoạn đầu đài" nổi tiếng của ông rằng: Thế giới, cái ác vẫn lấn át cái thiện và con người hiện đại còn ác hơn con sói. Lời bình: Bài thơ viết rất "nghệ" và táo tợn! Táo tợn đến mức đọc lên hơi rợn người, nhưng chính lại càng làm cho tình thơ thấm thía, hàm chứa. Thí dụ: Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình, ra từ trong bụng Sâu sắc và hay. Ý của câu trên ta thấy rõ rồi. Còn câu dưới: Nhưng đẻ cả chiến tranh và hoà bình, ra từ trong bụng không phải chỉ muốn nói rằng: Em có khả năng mang thai trong bụng, rồi sinh đẻ. Tất nhiên là ra con người… và giống người ấy, sẽ mang đến cả chiến tranh và hoà bình !? Mặc dù phải có cả đàn ông thì em mới đẻ được. Nhưng trong ý nghĩa nhân sinh, người ta thường chỉ nói về đàn bà. Ở một phạm trù rộng hơn, tức là: "Tình yêu và đàn bà" sinh ra cả khổ đau lẫn hạnh phúc? cũng như chiến tranh và hoà bình? Ta hay nói, thơ Hồ Xuân Hương tả tục nhưng mà thanh. Xin lấy vài thí dụ : Quân tử có thương thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay (Quả mít) Hay là: Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngáy lỗ trôn tôi (Con ốc nhồi) "mân mó" rồi "ngó ngoáy" - hình tượng như búa bổ, đọc mà "sợ" đấy chứ? Chẳng qua người đã có danh thì nói cho có vẻ nguỵ biện thế thôi, thực ra bà chỉ mượn hình ảnh quả mít, con ốc nhồi để tả thẳng vào cái tục đó! Có chăng thì nên nói: Thơ Hồ Xuân Hương tả trần tục nhưng ngôn ngữ siêu đẳng. Trở lại với bài “Xem tranh bán loã thể” của Phạm Ngọc Thái - Sau hai câu đã nói trên, tác giả miêu tả về cái đó: Lui xuống dưới nàng, một rừng sâu um tùm che hang động Lên trên nàng, đôi mỏm núi trắng vô biên... Hình ảnh thơ như thế không phải là không sướng và hay sao? Bích Khê thì miêu tả: Hai vú nàng! Hai vú nàng! chao ôi Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động (Tranh loã thể) Nhưng trong bài "Xem tranh bán loã thể", tác giả không chỉ dừng ở sự miêu tả. Thơ được phát triển một cách sâu sắc: Em như gió trăng mà rung động cả vua chúa, thánh thần Cuộc sống cần em! Đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử? Có thể nói, thơ đã đi đến tận cùng về tính nhân loại. Trở lại với mấy câu thơ trên, ta còn thấy hình ảnh hàm chứa cả tính vũ trụ: Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình, ra từ trong bụng Ngay câu thơ đầu tiên của bài, cũng mang ý nghĩa liên kết giữa cuộc sống với thế giới: Nàng để hở một vòm trời tuyệt mỹ Thế giới là đây! Cuộc sống là đây! Rồi tác giả kết luận về cái kiệt tác thiên thai mà tạo hoá đã đúc trên thân thể người đàn bà ấy: ... Hơn bao lời hoa mĩ phát ngôn! Câu thơ: Cuộc sống cần em! Đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử? Ngôn ngữ nghe có vẻ to tát nhưng hợp cảnh, hợp tình, nên khi đọc ta vẫn thấy nhuần nhuỵ, tự nhiên. Bài thơ còn mang ý thức lên án chiến tranh sâu sắc. Nó cô đúc tới mức, mỗi câu thơ như một nút bấm để bắn ra những tia lửa… vừa mang ý nghĩa nhân sinh, vừa khái quát tính xã hội. Ta hãy nghe những câu cuối: Khi em cởi ra nhiều: Điểm báo thế giới càng hiện đại văn minh (*) Nhưng điều đáng đớn đau, là tính nhân loại… Con người cũng ngày càng nhiều dã tâm, gây tội ác? (**) Vì những câu thơ này nhà thơ đã có chú giải sâu sắc - Xin xem lại lời chú giải ở trên (cuối bài thơ). Có thể nói: “Xem tranh bán loã thể” là một thi phẩm rất sâu sắc tính nhân loại. Nó xứng đáng là một kỳ tác thi ca! Bài thơ còn có khả năng sống trường cửu với thời gian, cũng như nền văn học nước nhà. Anh Trần ( Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại” 2014 )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.08.2021 17:43:42 bởi Nhân văn >
CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ TÌNH HAY Hoàng Thị Thảo Hồ Tây ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY Tình để lại vết thương không lành được Soi mặt hồ, in mãi bóng thời gian Em hiền dịu trái tim từng tha thiết Người con gái anh yêu, nay hóa khói sương tan. Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt Hạnh phúc qua như một cánh chim bay Nông nỗi đời người để đâu cho hết Tình thơ ngây. Tình sao mãi thơ ngây... Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm Đôi mắt từ xa đã nhận ra người Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm Giờ ở đâu, người con gái xa xôi? Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi Anh ở đây. Vẫn bên Hồ Tây, mây trôi... Bài viết trích trong tập "PNT Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: "Anh vẫn ở bên Hồ Tây" là bản tình ca viết về mối tình trong trắng thuở sinh viên, dù mối tình đó đã trở thành dĩ vãng: Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm Đôi mắt từ xa đã nhận ra người Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm Người ta thường nói: Tình yêu có giác quan thứ sáu. Bởi vậy nhìn thấy hình bóng người yêu từ xa, đã nhận ra nhau ngay. Thế mà: Giờ ở đâu, người con gái xa xôi? Anh thổn thức vọng gọi em xưa... trong nỗi trống vắng, cô đơn? Tôi đã đọc nhiều thơ Phạm Ngọc Thái: Không ít bài anh đã nhắc đến hình ảnh người nữ sinh này. Bài nào cũng da diết, nhớ thương. Liệu đây có phải cũng chính là cô nữ sinh trường Sư phạm Ngoại ngữ, trong bài Em Về Biển của tập "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009? Ở tựa đề của bài “Em về biển” ấy, anh có ghi: - Kỷ niệm KA. người sinh nữ trường SPNN năm xưa, quê hương thành phố biển. Em Về Biển cũng là một bài thơ tình khá hay. Bài đó, có một đoạn tác giả đã nhắc đến việc đón người yêu bên cổng trường: Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây, em hỡi! Anh còn đây Nhớ những buổi đón em, bên cổng trường sinh ngữ Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay... Nhưng Em Về Biển anh đã viết từ năm 1993, khi mái tóc mới bạc nửa phần (như lời thơ) - Còn bài Anh Vẫn Ở Bên Hồ Tây này, thì tác giả lại vừa sáng tác trong năm 2012. Khi nhà thơ đã qua cái tuổi lục tuần. Chắc nay, tóc nhà thơ phải bạc gần hết rồi? Thế mới biết, tâm hồn thi nhân trẻ mãi không già. Hồ Tây chẳng phải chỉ là nơi nhà thơ sinh sống. Ở đó còn ghi nhận bao nhiêu kỉ niệm tình yêu của đời anh !? Mỗi khi qua lại bên hồ, không tránh khỏi những giây phút chạnh nhớ về tình cũ... mà lòng xa xót. Bởi vậy mới vào thơ, anh đã thốt lên: Tình để lại vết thương không lành được Soi mặt hồ, in mãi bóng thời gian Hình ảnh người con gái lại hiện về làm xao động trái tim anh: Em hiền dịu trái tim từng tha thiết Người con gái anh yêu, nay hóa khói sương tan Hình ảnh "hoá khói sương tan"... là một biểu tượng về cát bụi cuộc đời. Tình yêu thiêng liêng vậy? Hình ảnh cô nữ sinh cũng hiền dịu và anh tha thiết đến thế? Vậy mà giờ đây, tất cả chỉ còn là sương khói. Ngôn ngữ thi ca của Phạm Ngọc Thái sử dụng, thuộc loại ngôn ngữ hình tượng hội hoạ. Bình dị nhưng vẫn thanh thoát, hàm súc. "Anh vẫn ở bên Hồ Tây" là một bài thơ tình cảm động. Vết thương tình dẫu chỉ là vô hình, nhưng nó lại có thể khoét sâu vào trái tim, tâm hồn làm cho ta đau đớn. Lòng anh lưu luyến cả một thời tuổi trẻ đã qua đi. Sang đoạn hai, thơ càng được khắc sâu hơn: Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt Hạnh phúc qua như một cánh chim bay Nông nỗi đời người để đâu cho hết Tình thơ ngây. Tình sao mãi thơ ngây... Tôi nghĩ, người con gái kia khi nghe được những lời thơ này, chắc phải xúc động lắm! Nhà thơ đã trải qua gần trọn một đời, nên cái "nông nỗi đời người" ở đây: Ý muốn nói về sự mất mát của tình yêu, cuộc sống! Càng thấy quí những hạnh phúc đã trôi đi. Cô gái ấy giờ đây đâu còn trẻ? nhưng trong kí ức nhà thơ, em vẫn trong trắng, tươi mát thuở nữ sinh. Câu thơ: Tình thơ ngây. Tình sao mãi thơ ngây? /- là vậy. Trong tình yêu có biết bao sự tan vỡ, chẳng ra đâu vào đâu? Có khi cả hai người cùng yêu nhau tha thiết, ấy vậy mà... chỉ vì một lý do vớ vẩn, cũng tan? Chính thế nên vào đoạn thơ thứ hai này, lòng tác giả mới thổn thức: Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt /- Nghĩa là, những năm tháng yêu em là thời gian hạnh phúc nhất đời anh. Đó là sự luyến tiếc tình yêu tuổi trẻ? Ngỡ đã vụt trôi tựa một cánh chim bay... Sau đó tác giả có nhắc lại về những buổi đón em bên cổng trường, như đã nói ở trên. Cuối cùng anh kết: Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi Anh ở đây. Vẫn bên Hồ Tây, mây trôi... Hình ảnh gió Hồ Tây thổi cùng những làn mây trôi...: Là biểu tượng về những tháng năm qua và cuộc sống heo hút của nhà thơ. Hình ảnh hai câu thơ rung rinh, sinh động và hàm chứa. Nhờ hai câu kết này mà bài thơ được viên mãn. Ý nghĩa nói về “tình yêu và cuộc đời” vừa cát bụi... vừa mãi mãi... Như văn sĩ Nguyễn Đình Chúc, cũng từng bình luận về câu cuối cùng này: Anh ở đây. Vẫn bên hồ Tây, mây trôi... Những làn mây trôi kia? Không chỉ nói về cảnh thiên nhiên hoang vu... Nó còn biểu thị cho cả khoảng thời gian trôi. “Anh vẫn ở bên Hồ Tây” là một bài thơ tình hay. Cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Dường như trên mỗi dòng thơ, đều có máu tim của nhà thơ đang rỏ xuống. Hoàng Thị Thảo ( Trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN”, 2019 )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.04.2021 21:44:37 bởi Nhân văn >
CHÙM THƠ CHỌN 3 PNT TRÁI TIM TAN VỠ Tặng người nữ sinh Trường SPNN năm xưa Em có biết, trái tim anh tan vỡ! Chẳng phải do em, chẳng lẽ lại do mình? Chuyện đã qua rồi, sau mấy mươi năm Tóc lạt bóng thì tình càng sống lại. Ôi, tình yêu cái thời còn khờ dại Lấp lánh trăng sao, tưới mát tựa mưa rào Lòng ngơ ngẩn như ngàn vạn mũi dao Chém vào tim cho máu trào, ngực xé. Làn môi em ngọt thơm đến thế Làn môi người sinh nữ đáng yêu ơi! Em dịu dàng, thơ mộng giữa mây trời Đã bao lần cùng anh say đắm nhụy. Trái tim anh nay đã thành hoang phế Mơ em về, sống lại những khát khao Cho linh hồn đang chết lại tươi màu Anh ôm ấp cả dáng hình thuở ấy! * Một thời trai yêu nhiều biết mấy Đậu lại còn đôi bóng – Chính là em! Phút cuối cùng em tha thiết đến bên Anh rũ bỏ như một thằng điên loạn. Không! Một thằng ngu, khờ vì ngạo mạn Em trẻ xinh mềm mại biết bao nhiêu Một người vợ: với chồng, sẽ rất mực thương yêu Sao lỡ bỏ? để suốt đời tiếc nuối. Anh đã chết vạn lần, hồn đau nhói Phí cả đời trai từng bão táp, phong ba Một chữ “yêu” thành dài dặc, lê thê Em ơi! Trái tim vỡ rồi, làm sao còn vá lại? * Nhớ buổi ấy cùng nhau đêm trăng sáng Ánh mắt thơ xinh mà chứa bầu trời Nụ hôn nào còn đọng trên môi Anh xin uống cạn bầu em trắng mịn. Đi dưới trăng, hai đứa lòng bịn rịn Em áp vào anh như hoa ép vào tim Một vũ trụ ngát hương, trao cho anh đón nhận. Hết rồi, em ơi! Chắc sẽ làm em giận Ngay từ lúc anh quay đi… Trước hững hờ, giờ đau khổ nhường ni Một người vợ! Lẽ ra, với đời ta là tốt nhất. Thôi, đành để quỉ sa tăng moi gan, móc mắt Lỗi lầm này giá đắt quá, em ơi! Ta ngửa mặt kêu lên cùng với đất trời Bằng trái tim tan vỡ! EM NGHE
Em nghe trong sương khuya Cứ im ắng... thầm thì... đằm thắm... Em nghe trên phố vắng Bác xích lô già yên lặng ngủ trong xe Em nghe nơi cỏ hoa Lời ân ái lũ bướm vàng chiều còn vương phấn Em nghe dẫu đã thành dĩ vãng Tiếng của ngày xưa, đôi ta… TẠ TỘI TRƯỚC TÌNH YÊU Tặng người sinh nữ yêu dấu của đời tôi Đã xa lắm! Tình xưa bùng cháy lại Thuở mơ màng đâu còn nữa, em ơi! Tóc anh nay nhiều sợi bạc rồi Em ở tận phương trời, biệt tích. Nhớ những đêm trăng cùng nhau dạo bước Nụ hôn nào đang dính giọt sương đêm Người nữ sinh, anh không thể quên Dù đã yêu bao nhiêu lần khác. Tình đổ vỡ. Trái tim anh tan nát! Tháng năm qua, hàn vá được đâu em? Đời trôi đi, trăm nỗi u phiền Cuộc sống phong trần. Tình nhạt nhòa, tẻ ngắt. Có lỗi lầm không sao xóa được Là phút giây, anh gạt bỏ tình em Ánh mắt thơ xưa tha thiết nhìn anh Vết thương cũ xiết mãi lòng đau nhói. Em hiển hiện, người thiếu nữ dịu dàng biết mấy Bao áng thơ ta từng viết về em Nhìn thấy không gái ơi? Mảnh trăng khuyết bên thềm Ta thao thức gọi tên nàng, trong hoang vắng. Anh quì xuống giữa không gian sâu thẳm Tạ tội với đất trời! Vì đã bội phản cuộc tình em. TRONG MƯA Mưa rơi nhẹ như là tóc ấy Giống dải lụa mềm quấn nỗi buồn bay Mưa rơi khẽ như hoa vậy Vỗ vào đêm hoá các nốt đàn gày. Em có thầm nghe mưa bay ngoài đó Em có buồn, khi gió thổi đêm đêm Đứng trong mưa, hồn anh tràn bão tố Mưa rơi vào anh, tan ra nơi em xa không? Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại Về bên anh mái tóc rối tơi bời Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy Dẫu chỉ thấy còn bong bóng, vỡ đầy môi… EM TẮM Anh ngắm nhìn em tắm Tấm thân trần mênh mông Biển tình tràn say đắm Em của anh biết không? Tấm thân em bảo vật Do tạo hóa sinh ra Dành cho anh yêu đó! Mãi còn ở tít xa... Tấm thân em trắng ngần Từng đường viền anh ngắm Hai bầu sữa thơm lành Chờ ngày anh uống cạn. Ngã ba em suối ngọt Chảy róc rách bên trong Có rừng xanh bao bọc Chờ ngày anh vô thăm. "Em đêm nhớ, ngày mong Tan nát cả cõi lòng"... Em bảo anh như vậy Anh lại càng thương em! Giữa đất trời bão giông Tình ta còn cách trở Nhưng trong trái tim anh Cưng vẫn nằm ở đó! Anh nhìn em yêu tắm Qua màn hình za-lô Hãy chờ ngày anh đến Tặng em cả trời mơ... ĐÊM TRUNG THU VÀ ĐỨA ĂN MÀY
Trước đứa ăn mày, tất cả chúng ta Hoá Thánh! Nó đói lòng, cúi lậy rất từ bi Đêm trung thu, đèn hoa giăng sáng Không che nổi cái bóng gầy đi của đứa ăn mày. Nó còn địu một bé em còm cõi Ăn mày từ thuở khai sinh Hai đứa ăn mày, mặt lạnh như trăng Hoà phối cảnh vào bức tranh xứ sở… Tôi đang đắm hồn say tìm thi tứ Gặp cảnh tình, lòng bỗng rối ren Biết trên đời còn lắm nỗi thương tâm Cố trốn quên, cũng không trốn nổi. Dưới gầm trời này, có phải đã muôn năm như vậy? - Kẻ cần cơm bên những đứa cần vàng... - Lũ cần tình thương, sống lẫn giống bạo tàn... Và gộp lại, gọi chung là Nhân Thế !? Con chim thơ ngửa cổ lên trời cao để Hót chơi hay là vứt bút đi? SÁNG XUÂN NAY
Sáng xuân nay không chít khăn tang, không mang áo cưới Gió đi đâu, không thấy thổi trên đường Thơ nằm khóc trong nấm mồ êm ái Anh chỉ ngồi thầm lặng bên em. Hương phảng phất bay lên từ mái tóc Tình trắng tinh như ngửa đôi bàn tay Đôi mắt em hóa thành mây, trôi đi mất Hồn anh chao dưới những lá cây rơi. Cứ yên lặng! Ông lão Giăng Van Giăng yên lặng… (*) Tôi cũng như ông, chỉ thấy lá vàng thôi Người đàn bà ấy đẹp giống cô Cô Dét Nàng yêu tôi, nhưng nàng đã đi rồi! Em về nơi bờ-bãi-con-người Anh trở lại viết thơ tình rồi rót lệ Đời là thế! Thế thôi, đời là thế! Mối tình mình chẳng thể cưới, cũng không tang. … (*) Trên đời này có bạc bẽo nào hơn cái bạc bẽo đối với lão Giăng Van Giăng cơ chứ ? (tiểu thuyết " Những người cùng khổ" của Victor Hugo). Gặp lại em buổi sáng xuân ấy. Ngồi bên em giây lát - Tôi lại nhớ tới cái lão Giăng Van Giăng kia! Lão có khác tôi không?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:35:11 bởi Nhân văn >
VỀ TẬP "64 BÀI THƠ HAY" VÀ NHỮNG TINH HOA Nguyễn Thị Xuân GV Trường THPT Ba Đình, Hà Nội Nguyễn Thị Xuân Cuối mùa đông vừa qua, nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã cho ra đời tập thơ mới, với tên đề: "64 BÀI THƠ HAY", Nxb Hồng Đức 2020. Tổng quát về tập thơ, nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm viết: ... " 64 bài thơ hay là hay theo các cung bậc khác nhau. Hầu hết được rút ra từ trong "Tuyển thơ chọn lọc" đã xuất bản 2019... Trong đó có số bài hay vọt lên thành những đài thi ca tuyệt hay! ". Vâng, đúng thế! Đó đều là những viên ngọc thi ca lung linh ánh sáng với những sắc màu khác nhau, phản chiếu trong sự nghiệp văn chương của nhà thơ. Vào thời gian trước, khi anh soạn thảo một tập sách với tên đề: "50 BÀI THƠ HAY NHẤT" đăng trên các trang mạng tìm nơi xuất bản? Cũng cô giáo Nguyễn Thị Hoàng viết lời giới thiệu, dẫn giải: " Tập sách: Phạm Ngọc Thái với 50 bài thơ hay nhất này, chính là 50 bài thơ tinh hoa nhất được trích ra từ Tuyển Thơ Chọn Lọc 2019 tầm vóc của anh - Từ thi pháp thơ hiện thực đến tượng trưng pha siêu thực... thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi ca huyền thẳm, đặc sắc ". Thực ra, 50 bài thơ hay nhất ấy đều nằm trong tập "64 BÀI THƠ HAY" này. Theo tôi, có thể nói: Với 64 bài của tập... là thơ hay các kiểu, đa sắc, đa dạng, sinh động và phong phú. Nhiều bài trở thành những đài thi... có khả năng sống trường cửu tháng năm. Một khi nước non còn thơ ca, thì những áng thi ấy còn vang vọng mãi. Nói đến đây tôi chợt nhớ tới thiên tài Pushkin Nga từng viết: Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết! Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi Dĩ nhiên cỡ thiên tài khổng lồ như Pushkin - Ông không chỉ là một đại thi hào của riêng dân tộc Nga, mà còn của cả nhân loại này. Ông được mệnh danh là mặt trời thi ca của nước Nga. Phạm Ngọc Thái chỉ nói riêng với nước non thôi - Vậy liệu Nhà thơ có thể trở thành: Một mặt trời thi ca? Một mặt trăng? Một vì sao?... Hay sẽ là gì... trong dòng thơ hiện đại Việt Nam? - Xin dành để hậu thế mai sau phán xét. Thi phẩm "64 BÀI THƠ HAY" đã được anh cho đăng nguyên bản trên website Việt Nam Thư Quán ở nước ngoài - Bạn đọc nào muốn thưởng lãm, mở theo link sau: http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=892394 Một nhà văn bình luận thơ anh, nhận xét: " Thơ Phạm Ngọc Thái sâu như biển cả, rung rinh tựa lá hoa ngàn... Được viết bằng một thứ ngôn ngữ hình họa pha màu sắc triết học ". ( Trích trong tập "Phạm Ngọc Thái nhà thơ lớn thời đại", 2014 ) Thí dụ: Trong bài "Em về biển" diễn tả tình yêu của người con gái, anh viết: Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ em dựng cả tòa sen chân Phật tổ! Hình ảnh "bờ bãi đời người" để nói về tình yêu gái trai trong chốn nhân gian, chứ không phải nơi lầu son của cung vua, quận chúa. Tình yêu em thánh thiện đưa ta đi vào cõi tòa sen của Phật: Ý nghĩa khúc thơ đã nâng giá trị tình yêu lên chót đỉnh trong cuộc sống con người - Tôi nghĩ: Hai câu ấy đã có dáng của một đài thơ. Khó có thể tìm được một hình tượng nào nói về tình yêu cao hơn? Bài "Người đàn bà trắng" lại nói về phẩm giá của người đàn bà: Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Ý là, không thể định nghĩa được giá trị của nàng trong cuộc sống con người. Tôi không dám đem so sánh về hình tượng mà cụ Nguyễn Du đã miêu tả của nàng Kiều: Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên Viết ra chỉ để lấy hình ảnh mà liên hệ - Phạm Ngọc Thái cũng đã miêu tả về của nàng: Người đàn bà ngậm cả vầng trăng Cô giáo Hoàng phân tích: " Chữ NGẬM mang màu sắc thơ siêu thực: Ngậm cả vầng trăng /- Một thiên tạo đang nép trong tấm thân người đàn bà, hay chính nàng là một vầng trăng ". Hình ảnh thơ huyền thẳm, ý nghĩa về tình yêu sâu xa trong đời sống nhân sinh. Nói về nỗi quạnh vắng, cô đơn của tuổi hoa niên: Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng Vừa đơn côi mà không đơn côi Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi... (Một góc Hồ Tây) Hình ảnh "cái lá vàng" rơi vào chỗ người con gái vẫn ngồi bên anh năm xưa? Nghe nó hiu hắt, xót xa của cái tuổi về chiều. Rồi anh kết: Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu Trong sân gạch sư già quét lá Bước người đi thầm lặng cõi hư hao... Ta và người cõi mộng khác chi nhau? Cảnh tình của nhà thơ bây giờ cũng giống như cái bóng hư hao của nhà sư già kia, cứ chiều chiều ra quét lá rơi ở sân chùa. vẳng lên trong tiếng mõ buông - Nhà thơ Nguyễn Khôi (Hội nhà văn Hà Nội), từng khen: " Thơ trữ tình Phạm Ngọc Thái HAY vì anh luôn bám vào cuộc sống đang sinh sôi... Còn thơ tình thì như mưa rơi vào miền kí ức sâu thẳm": Nghe không em lại mưa lên phố Bao năm rồi. Chiều ấy cũng mưa rơi Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ Mối tình thời trinh nữ xa xôi (Em ơi! Thành phố lại mưa) Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại Về bên anh mái tóc rối tơi bời Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi (Trong mưa) Về thơ đời - Hình ảnh người quét lá đêm khuya trên đường phố, được nhà thơ mô tả với tấm lòng thương cảm: Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim (Cô quét lá đêm hồ) Người trở nên bơ vơ như cái bóng trăng trên trời: Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa... Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng Cô quét lá đêm hồ... khe khẽ vào khuya... Trần Việt Thịnh - Nghệ sĩ phim truyện của Đài truyền hình Việt Nam, trong bài "Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sỹ" đã viết: " Nếu thơ ca là một ngôi đền kì vĩ và cao sang, thì Phạm Ngọc Thái là một tín đồ của không nhiều tín đồ trong ngôi đền đó. Thơ anh hầu hết là thơ tự do, ít tuân theo niêm luật, song nó chứa đựng nhiều mặt của cuộc sống ". Anh mượn thơ như một công cụ để lý giải sự đời: Đời bình dị - Mái tường sụp đổ Lẽ sống giản đơn, mâu thuẫn chất chồng (Tập "Có một khoảng trời" 1990) Hay là: Đời chỉ thế, có gì quan trọng Đừng cao siêu cũng đừng quá coi xoàng (Tập "Người đàn bà trắng" 1994) Anh viết nhiều sắc màu, đủ cả. Về nỗi nhọc nhằn của người con xa xứ, anh viết: Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên. (Nỗi trăn trở người đi tìm vàng) Anh xót xa cho người em vợ vừa lìa bỏ cõi trần. Bài thơ được viết theo quan điểm phật giáo trong Kiều của Nguyễn Du: Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ (*) Anh ở vì chưng trả nợ đời (Làm ma em vợ) (*) Phật giáo nóí: Người ta sinh ra là để trả nợ đời, chỉ khi chết mới hết nợ. Câu thơ trên, nhà thơ muốn an ủi linh hồn người em nơi chín suối: Em đi, coi như đã trả hết nợ đời đó em! Anh cảm thương với những người con gái sống kiếp giang hồ, bán thân nuôi miệng... mà anh gặp trên bãi biển Nha Trang: Em bán xoài đi đêm trên cát trắng Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang .... Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng" Tóc còn xanh, em bán kiếp đời trôi Xoài em thơm, hương tỏa mát thân người Ai mua xoài? Còn ai có mua em? (Em bán xoài) Anh thương cho một đứa trẻ ăn mày: Trước đứa ăn mày, tất cả chúng ta Hóa Thánh Nó đói lòng, cúi lậy rất từ bi (Đêm trung thu và đứa ăn mày) Người nghệ sĩ kết luận: "Thơ anh bao gồm nhiều đề tài, thể loại. Thể loại nào cũng đậm đà, sâu sắc đến lạ kỳ". Về thi pháp thơ Phạm Ngọc Thái - Những người tìm hiểu sâu về thơ anh đều thấy: Nó không hề giống Xuân Diệu, Huy cận hay Thế Lữ... mà ảnh hưởng nhiều của Hàn Mặc Tử, đậm chất dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu... và tính triết lý trong thơ Chế Lan Viên: Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! (Người đàn bà trắng) Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ... Áo trắng in ngang trời - Sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu (Phố thu và áo trắng) Số bài thơ tình lại phảng phất giọng điệu thi ca (qua các bản dịch) của thiên tài Nga vĩ đại Pushkin: Ta lại bước lang thang trên phố vắng Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi Tiếng hát xưa đưa, bờ hồ gió thổi Bóng với mình đi mãi tới ban mai .... Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến, đã chia tay... (Đêm nay trời lại không mưa) Văn sĩ Nguyễn Đình Chúc trong tiểu luận về chân dung, đã viết: " Chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tinh hay đến thế! Thơ ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim những người yêu thơ - Phạm Ngọc Thái thực sự là một hiện tượng thơ ca hiếm có của đương đại này ". (Trích "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", 2014) Tập "64 BÀI THƠ HAY" của anh lần này, hầu hết đều là những áng thơ tinh hoa được tác giả chọn lọc: Là một tác phẩm thi ca quí giá đối với nền văn học hiện đại nước nhà. Hà Nội, năm Tân Sửu 2021 Nguyễn Thị Xuân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.04.2021 19:23:48 bởi Nhân văn >
PHẠM NGỌC THÁI NGƯỜI HAI LẦN THI SĨ Trần Việt Thịnh NS phim truyện Đài truyền hình VN Có một triết gia từng nói: "Hạnh phúc của đời người là được sống và làm những gì mình yêu thích!" - Phạm Ngọc Thái là một người như thế! Anh yêu thơ, say thơ và làm thơ khá nhiều. Tôi biết đến thơ anh từ những năm 70 của thế kỉ trước, và cảm thấy anh thực sự hạnh phúc với công việc mình làm. Nếu thơ ca là ngôi đền kì vĩ và cao sang, thì có thể coi anh là một tín đồ của không nhiều tín đồ trong ngôi đền đó. Thơ anh hầu hết là thơ tự do, ít tuân theo niêm luật, song nó chứa đựng nhiều mặt của cuộc sống. Anh mượn thơ như một công cụ để lý giải sự đời: Đời bình dị - Mái tường sạt đổ Lẽ sống giản đơn mâu thuẫn chất chồng... (Tập thơ Có Một Khoảng Trời) Hay là: Đời chỉ thế có gì quan trọng Đừng cao siêu cũng đừng quá coi xoàng (Tập thơ Người Đàn Bà Trắng) Anh viết nhiều, sắc mầu đủ cả. Ngay từ thưở còn chiến tranh, anh cũng có những bài thơ tình hình ảnh chứa chan: Sao em không tắm nắng trên đồi Không gội đầu dưới suối Quấn làm duyên quanh cành cụt chơ vơ... Ta gọi tên em: Hoa phong lan, em ơi - có nghe! (Người chiến sỹ và hoa phong lan) Về nỗi nhọc nhằn của những người con xa xứ, anh viết: Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi ... Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên! (Nỗi trăn trở người đi tìm vàng) Anh đã đau nỗi đau của sự đời lắm éo le mà có thật. Những ngày tha hương, ở xa quê anh viết nhiều thơ về vợ con, tôi thích cái tứ: Có một khoảng trời để thương để nhớ Là khoảng trời ở đó có em! Những bóng cây trên đường phố thân quen Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc... (Có một khoảng trời) Anh xin làm một chiếc lá, mà đây là lá nhớ, lá mong... của một thân cây trên con phố quen thuộc ở quê mình. Nhất là tập thơ “Rung động trái tim”, Nxb Thanh niên 2009, một thi phẩm rất đặc biệt của anh. Viết về thiên nhiên - hình tượng đẹp lại giàu chất đời sống phong phú, còn về tình yêu đôi lứa thì với cách nhìn mang màu sắc triết lý nhân sinh: Bờ Bãi Đời Người - Cuộc Sống Tình Yêu Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật tổ! (Em về biển) Anh thương một đứa trẻ ăn mày: Trước đứa ăn mày tất cả chúng ta Hoá Thánh! Nó đói lòng cúi lậy rất từ bi.... (Đêm trung thu và đứa ăn mày) Rồi anh xót xa cho người em vợ vừa lìa bỏ cõi trần: Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay (Làm ma em vợ) Để nói về nỗi tình trước cảnh người quét rác đêm, anh viết: Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa… Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya (Cô quét lá đêm hồ) Thơ anh bao trùm nhiều đề tài, thể loại, mà loại nào cũng đậm đà sâu sắc đến lạ kỳ. Mảng thơ tình anh viết khá hay và rất trội: Cái tiếng ếch kêu hoang mà yêu mến Để cuộc đời đang sến bỗng xôn xao Với đôi hồn ong bướm nghiêng chao Hóa mây trắng trôi mãi vào vô định (Tiếng ếch) Anh cũng thường sử dụng những hình ảnh rất đời để nói về nỗi quạnh vắng của tình yêu, câu thơ vẫn không kém phần dung dị và hay: Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi... (Một góc hồ Tây) Ngay trong bài Người Đàn Bà Trắng khá nổi tiếng của anh, có những câu thơ hình tượng đạt đến sự hoàn bích: Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy... Hay là: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi, suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo “Con đường lông ngỗng trắng” Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau! Để rồi trào theo dòng cảm xúc, tác giả kết thúc bài thơ: Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em Người đàn bà ngậm cả vầng trăng... Nó không giống Xuân Diệu hay Thế Lữ, có chăng phảng phất đâu đó của thơ Hàn Mặc Tử. Có chút cay chua Hồ Xuân Hương hoặc âm hưởng của Uýt-Man (nhà thơ Mỹ). Có những bài anh lại viết theo phong cách rất Tú Mỡ trong cách nhìn về hiện tại: Bà chủ quán bước ra ngoài đón khách Bóng nàng đi dẫm bẹp cả hoàng hôn... (Bà chủ quán) Lâu lắm rồi, thi đàn của ta vẫn còn hiếm lắm những bài thơ hay để ca lên được, thăng hoa lên được thi vị tính chất của cuộc đời... qua sự chắt lọc của người nghệ sĩ - mà Phạm Ngọc Thái là một nghệ sĩ giầu chất men say. Thơ anh đọc không dễ hiểu ngay? Song, đọc đi đọc lại ta mới thấm cái sâu xa lí lẽ con người trong cuộc tồn sinh. Anh muốn đi đến tận cùng của sự việc - Mà thơ ca đạt đến độ này thực khó !? Miệt mài như con ong, anh chắt chiu cho từng trang viết. Có lúc tưởng chừng sự thái quá làm anh nhập thiền vào cõi thi ca. Thơ anh nay đã có nhiều tiếng vang và được nhiều người biết đến, cũng mong rằng trong thời gian tới tầm vóc chân dung anh sẽ được đánh giá đầy đủ hơn. Đã vào cái tuổi hoa niên có lẻ cùng với Tuyển thơ anh để lại cho đời cũng sung mãn rồi, nhưng thấy anh vẫn còn say sưa lắm! Tôi tin, thơ và cả những bài bình thơ của anh sẽ giúp cho bạn đọc cảm nhận đầy đủ hơn về lẽ Chân Thiện Mĩ ở đời! Nữ thi sĩ Nga On Ga Béc Gôn có viết: - Trong số nghề nghiệp và nghệ thuật tác động vào tâm hồn con người, không có sức mạnh nào vừa khoan dung vừa tàn nhẫn hơn thơ. Không có công việc nào tự nguyện và đầy đủ hơn công việc phục vụ thơ. Không có tình yêu nào được đền đáp hơn tình yêu thơ - Và bởi vậy người nào yêu thơ là hai lần thi sĩ. Phạm Ngọc Thái là một người như thế! Trần Việt Thịnh (Trích “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.04.2021 22:18:43 bởi Nhân văn >
BẢN TÌNH XÔ NÁT CHIỀU HOÀNG HÔN CUỘC ĐỜI Như ý MỘT GÓC HỒ TÂY
Anh đến mình anh trong chiều muộn Nhặt thơ tình ở một góc Hồ Tây Ngắm mặt gương hồ vào chập tối Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi. Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng Vừa đơn côi mà không đơn côi... Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi. Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố Mõ chùa buông, thay tiếng nói của tình yêu! Trong sân gạch sư già quét lá Bước người đi thầm lặng cõi hư hao. Chiều Hồ Tây - Chiều Tây Hồ lộng gió Ta và người: cõi mộng khác chi nhau? Người quên hết! Còn ta yêu tất cả, Trong tiếng lá bay… chầm chậm bóng ta theo... Bài viết trích trong tập "PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại", 2014
Lời bình: Thỉnh thoảng ta bất chợt bắt gặp cái bóng mặt trời khuất muộn trong cảnh chiều chập choạng, giống như bóng trăng sáng trắng vừa hơi viên mãn, vừa như ảo. Phạm Ngọc Thái đến bên hồ, một người một cảnh trăng nước vơi đầy: Anh đến mình anh trong chiều muộn Nhặt thơ tình ở một góc Hồ Tây Ngắm mặt gương hồ vào chập tối Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi. Rõ ràng cái bóng mặt trời như bóng trăng sáng hơi bàng bạc kia, đã hòa điệu với tâm hồn và nỗi lòng u uẩn của nhà thơ. Khi anh nhìn lên, đọt mây bay ngang qua ấy cũng mang màu phớt trắng: Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng Nhưng tại sao lại "lơ đễnh"? Bởi vì tâm trạng của nhà thơ lúc ấy: Vừa đơn côi mà không đơn côi... Nó chơi vơi, nửa vời. Lơ đễnh đấy mà đâu có phải là lơ đễnh? Tình thơ da diết như muốn níu kéo một hồi ức nào đó đã xa xăm, vẫn còn tha thiết ở trong anh. Sau đó tác giả có nhắc đến một người con gái nào đó, nhưng hình như không phải là một cô gái cụ thể, hay một cái tên cụ thể? Đó là nỗi khao khát của một con người đang bước vào tuổi hoa niên: Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi Nó không chỉ còn là cảnh chiều trời đất nữa, mà là buổi hoàng của cuộc đời anh. Hình ảnh chiếc lá vàng lại rơi vào đúng chỗ ngồi của người con gái năm xưa, đằm thắm mà xót xa. Thì có mấy ai đã vui mãi, yêu mãi được suốt đời? Hạnh phúc gái trai mà nhà thơ từng có, theo thời gian nay đã trôi vào dĩ vãng. Buổi hoa niên của đời anh trở nên vô vi, hư ảnh. Nhà thơ đi giữa cuộc đời như một cái bóng. Thế giới này với anh đã trở thành vô nghĩa rồi chăng? Hình ảnh “Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi” là một câu thơ hay! Nhưng buồn hơn nữa, giữa cảnh chiều tà người nước vơi đầy ấy, thì tiếng mõ chùa lại vang lên? Từ chiếc lá vàng rơi thay vào chỗ ngồi của người yêu đến tiếng mõ chùa, như một bản sám hối cuộc đời. Tạo cho bài thơ Một Góc Hồ Tây từ một bản tình xô- nát mơ mộng pha thêm chút thê lương. Đáng lý ra tiếng nói bên nhà thơ phải là tiếng nói ngọt ngào, âu yếm của người con gái, thì giờ đây chỉ còn vẳng lên tiếng cầu nguyện của chùa chiền: Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố Mõ chùa buông theo tiếng nói của tình yêu! Trong sân gạch sư già quét lá Bước người đi thầm lặng cõi hư hao. Cái cây đa bên phố cũng trở nên "gù", thật đầy bóng phật đền. Phố xá trong thời buổi kinh tế thị trường mà cảnh cứ như chiều thôn quê. Lòng nhà thơ đã bay vào chốn cửa thiền. Rồi lại hiện ra bóng của nhà sư già đang quét lá sân chùa? Thì giữa hai cảnh đời: một bên là anh thi sĩ cô đơn, với một người đã trốn tránh nơi trần tục để đi tu - Hai mà như một. Cảnh tình thật hư hao, có mà cũng hoá không, đến hàn huyên nơi cửa phật nhưng lòng vẫn nuối nả tình trai gái. Trong tiếng lá bay… chầm chậm bóng ta theo... Lòng anh mênh mang, u hoài như những chiếc lá đang bay. Mặt sau của tình thơ chứa cả một khát vọng tình yêu! Những hình ảnh cảnh chiều lễnh loãng, bóng đa gù bên phố, mặt trời cũng giống như vầng trăng sáng nhạt và bóng người hư hao... tạo cho bài thơ tựa như một bức tranh thủy mạc. Tình mà đời, tất cả đều quyện trong một buổi chiều hoàng ở bên hồ, buồn tẻ, chênh vênh, bởi cõi lòng nhà thơ đang cô đơn, vì thiếu vắng bóng em yêu. Như ý (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.05.2021 18:46:53 bởi Nhân văn >
TÌNH TRONG KÝ ỨC Phương Loan Nhà văn Phạm Ngọc Thái thời còn chiến tranh
KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng Gió cứ trôi, không hữu hạn bến bờ Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ... Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi? Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát? Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi! Hỡi những hàng cây xanh! Những con đường lá đổ! Chỉ dùm ta đôi gót đỏ, thời thiếu nữ em xưa… Kỷ niệm về trái tim đau thổn thức Chỉ dùm ta. Nào, chỉ giúp ta đi! Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát Giờ đây trong lá nẻo trời nào? Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu? Con đường ta đi có bao đôi trai gái Ai cũng một thời yêu, em nhỉ! Để xa nhau, Để được nhớ, được buồn, được khóc, Được nghe quanh đời những tiếng lá bay theo. Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng… Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo Nhưng vẫn đó: Em , anh - cuộc sống Và một mối tình, ta đã tặng cho hết thảy trăng sao. PHẠM NGỌC THÁI
Bài viết trích trong tập "PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại", 2014
Lời bình: Nhà thơ Phạm Ngọc Thái nhớ về kỷ niệm với một thiếu nữ. Năm tháng qua đi, lá rụng hết lớp này đến lớp khác: Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng Gió cứ trôi, không hữu hạn bến bờ Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ... Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? Nhà thơ không biết. Chỉ còn lại trăng sao trên trời với trái tim mồ côi, những làn mây trắng và tiếng lá bay đi xa, xa mãi: Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát Giờ đây trong lá nẻo trời nào? Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu? Tình yêu ấy hát trong hư vô và trăng sao, dưới những hàng cây xanh, bên những con đường lá đổ. Đoạn cuối tình thơ được điệp lại như muốn níu kéo mối tình đã qua đi: Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng… Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo Quấn trong tiếng lá rụng và bóng trăng hư ảo trên trời: “ Khoảng trôi trong lá “ là một bài thơ tình da diết, được viết bằng thứ ngôn ngữ giàu hình tượng… mang màu sắc trừu tượng. Vẳng ra từ trong ký ức và trái tim thương nhớ của nhà thơ! Lắng trong tình ý thi ca sẽ làm xao động trái tim ta. Phương Loan (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.05.2021 18:43:51 bởi Nhân văn >
HỒI ỨC TÌNH YÊU THUỞ SINH VIÊN Đình Bồng GV Trường THPT Ba Đình, Hà Nội THỜI ÁO TRẮNG Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Những bông hoa mùa xuân thôi không nở Đi dưới bóng điện đêm, lòng sẽ rất buồn. Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách Mắt em cười mùa thu xanh lên! Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh! Trả lại cho anh một thời áo trắng Đã đi qua và... đã đi qua... Với cả dòng sông trôi mơ mộng Lá lá rụng vàng, tóc tóc hóa sương pha. Nghe gió thổi hàng cây vi vút Em biển xanh xa mãi vô cùng… Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng. Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Bài viết trích trong tập "PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại", 2014
Lời bình: Tiếng vọng từ trái tim nhà thơ về một khoảng xa xăm. Mỗi khi động vào lòng anh lại quặn lên đau nhói. Phải chăng đó chính là hoài cảm của nhà thơ, tình yêu với một người con gái của thuở ban mai, đã xa xưa? Những kỷ niệm trong sáng mà êm đềm, da diết: Trả laị cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Em đi rồi.../- Thực ra sự đi này, là sự rời bỏ tình yêu tuổi thanh xuân của người con gái với cuộc đời anh, khi đã về chiều. Người thiếu nữ đi... để lại cả một thành phố hiu hắt vì buồn. Cái thành phố có trái sấu rụng, lá me rơi và những tháng năm tuổi trẻ? Giờ chỉ còn hoài niệm. Đó cũng là thành phố trong “hồi ức tượng trưng” !? Thành phố của tình yêu mà không có người yêu - Tất cả lùi vào dĩ vãng… để lại cái bóng của nhà thơ, bước vào buổi hoa niên cuộc đời. Anh lang thang trong khoảng vắng. Lòng thảng thốt kêu lên: Trả lại cho anh... Hai câu thơ đầu là cả một khúc tình ly biệt: Sự ly biệt bởi quy luật tàn úa của thời gian. Rêu phong tháng năm, phủ lên trên trái tim tình vẫn tha thiết thương yêu. Khi xưa còn em: Trên bầu trời thành phố, đêm đêm đầy những ánh sao xa, ánh điện sáng lung linh. Hàng cây bên đường thì nở hoa thơ mộng. Thế mà hôm nay: Những bông hoa mùa xuân thôi không nở Đi dưới bóng điện đêm, lòng sẽ rất buồn Sang đoạn thơ hai: Những kỉ niệm từ ánh mắt, tiếng cười và bao hình ảnh xưa của người con gái lại hiện về: Mắt em cười mùa thu xanh lên! Hay là: Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh! " khe khẽ nát" - Ta nghe như những mảnh trái tim nhà thơ đang tan vỡ, khi tà áo trắng của em động vào. Âm thanh phát ra khe khẽ, nhưng lòng người thì thổn thức, quặn thắt. Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh! Là hình tượng của câu thơ hay! Nó hé ra những ham muốn. Khao khát được tìm tòi, lần cởi… những gì có bên trong người con gái? Một sự ham muốn trong mối tình đầu, về cả tâm hồn và thể xác người yêu. Thời Áo Trắng là một bài thơ tình chớm nở thuở ban mai. Cái thời còn ngồi trong giảng đường đại học, vẫn cùng em cắp sách đến trường: Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách Mắt em cười mùa thu xanh lên! Đoạn thơ ba: Âm hưởng tiếng vọng của người con trai với người con gái, cứ vang vọng mãi. Nỗi thơ đã được đẩy cao lên. Lòng nhà thơ bàng hoàng: Trả lại cho anh một thời áo trắng Đã đi qua và... đã đi qua... Với cả dòng sông trôi mơ mộng Lá lá rụng vàng, tóc tóc hoá sương pha Trên con đường đời, mái tóc sương của nhà thơ cứ ngày bạc phai thêm. Anh càng không thể nào níu kéo lại được cái "thời áo trắng" cho mình nữa? Lặng lẽ đứng nhìn mà nuối tiếc. Những người con gái đã chia ly, họ đâu còn quấn quít màng về tình yêu đối với nhà thơ? Chỉ còn lại những mùa thu tàn… và lá vàng rơi… ngày ngày phủ dày mãi lên cuộc đời anh. Đoạn thơ đã kết ở đó! Nhà thơ Chế lan Viên cũng từng thốt lên: “Chiều rồi! Phải, chiều rồi!...” . Tình thơ áo trắng này đã được viết ra trong cái cảnh vào chiều của đời người như thế! Những câu thơ bay ra từ trong tâm trạng thảng thốt và trái tim rỉ máu, tưởng như lệ đã đẫm cả hồn thơ. Sang đoạn thơ thứ tư: Những âm thanh hoài cảm ấy vọng cả đất trời: Nghe gió thổi hàng cây vi vút Em biển xanh xa mãi vô cùng... Anh đứng lặng một mình bên bờ biếc Những âm thanh kêu bổi hổi trong lòng. Những âm thanh ta không nghe thấy, nhưng lại rền xiết trong trí não ta. Một cảnh biển đầy sóng (thơ tượng trưng), để diễn đạt thời gian và không gian của tình yêu trong cuộc đời. Tình thơ đã được kết tụ lại hóa mình vào trong biển, vào cây, vào vũ trụ, thành hương, thành gió bay đi. Đến cuối cùng, hai câu thơ đầu lại được tác giả hạ xuống để kết bài: Trả lại cho anh một thời áo trắng Em đi rồi, mai thành phố cô đơn! Giờ đây cái thành phố tình yêu đã trống vắng, buồn tẻ và đầy thương nhớ? Nhưng khúc tình ca "thời áo trắng" của Phạm Ngọc Thái thì sẽ còn vang mãi... Đình Bồng (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2021 17:33:41 bởi Nhân văn >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: