MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC
PHẠM NGỌC THÁI NHÀ THƠ CCB TÀI NĂNG CÓ CUỘC ĐỜI HOẠN NẠN VÀ SÓNG GIÓ Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm Nguyễn Thị Hoàng Trong đời thường: Anh là một người chồng, người cha giàu tình yêu thương và chăm sóc gia đình - Ngoài xã hội với bạn bè, anh sống rất chân thành, trung thực, không vụ lợi. Ngày ngày cùng người vợ bươn trải làm ăn, lo cơm áo đời thường. Đặc biệt rất yêu và chăm sóc con cái... cả đến khi chúng đã lớn rồi. Trong cuộc đời - Phạm Ngọc Thái chỉ đam mê sáng tác văn học, nhất là thơ. Nghệ sĩ phim truyện truyền hình Việt Nam Trần Việt Thịnh, với bài " Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ ", viết về anh: " Nếu thơ ca là ngôi đền kì vĩ và cao sang, thì có thể coi Phạm Ngọc Thái là một tín đồ của không nhiều tín đồ trong ngôi đền đó. Anh viết nhiều sắc màu, đủ cả. Thơ anh bao trùm nhiều đề tài, thể loại, mà loại nào cũng đậm đà, sâu sắc đến lạ kỳ. Nó không giống Xuân Diệu hay Thế Lữ, có chăng phảng phất đâu đó của Hàn Mặc Tử... pha tính triết lý Chế Lan Viên, có chút cay chua của Hồ Xuân Hương hoặc âm hưởng của Walter Whitman (nhà thơ Mỹ). Thơ anh không dễ hiểu. Song, đọc đi đọc lại mới thấm cái sâu xa, lí lẽ con người trong cuộc tồn sinh...". (Trích tập" Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", 2014 ) Có thể nói, Phạm Ngọc Thái là con người "rất thi sĩ" nhưng... cũng "rất lính"! Đúng thôi: Anh là một CCB đã từng trải qua cả một giai đoạn dài suốt chục năm trong cuộc chiến tranh máu lửa, trên chiến trường miền Nam. Như Nguyễn Thi Xuân - GV Trường THPT Ba Đình, Hà Nội bình luận: " Với mười năm chinh chiến nghiệt ngã và bom đạn: Ba lần bị thương, ba lần đổ máu - Mảnh pháo vẫn còn găm sót lại trong người, không lấy ra được? cứ giở giời lại đau. Sức ép bom vào ngực, trở thành căn bệnh "tắc nghẽn phổi mãn tính" phải dùng thuốc khó thở đến hết đời. Cũng bởi mưới năm sống nơi chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ "rừng sâu, nước độc" ác liệt và cực khổ, mắc thêm căn bệnh chảy máu bên trong... phải cắt bỏ 2/3 dạ dầy ". Khi cả nước hòa bình giải ngũ trở về quê hương, mang theo một tấm thân vẫn đầy di tích chiến tranh: thương vong và bệnh tật. Những tưởng đã được sống phẳng lặng, bình yên? Nhưng nào có được. Số phận nghiệt ngã - Gia đình Phạm Ngọc Thái khi đó sống ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Con phố mà thời chiến tranh bị Mỹ đem bom B52 rải thảm trong 12 ngày đêm năm 1972, với dã tâm hủy diệt để biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá. Ngôi nhà gia đình cùng hàng trăm ngôi nhà khác trong phố bị bom san phẳng. Người cha của anh đã bị chết vùi trong đống bom ấy. Còn lại bà mẹ già và hai người con (hai em trai nhà thơ), chưa đến tuổi trưởng thành. Cửa nhà tan nát... được thành phố dựng tạm cho căn nhà lợp bằng giấy dầu, trát vôi vữa. Thế là trở về với một tấm thân không lành lặn, thoát chết ngoài chiến trường, nhà thơ lại phải cùng người mẹ già lao vào kiếm sống nuôi gia đình. Song, Phạm Ngọc Thái là một con người có chí khí rất quyết liệt: Ngày ngày phải lao động kiếm tiền sinh nhai. Anh vẫn quyết chí theo học hàm thụ tại trường Đại học ngoại thương, rồi trở thành người cán bộ của ngành ngoại thương Việt Nam - Vì năm 1967, nhà thơ đã phải bỏ dở cuộc đời sinh viên trường đại học, lên đường vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Tưởng rằng vượt được đến thế rồi, cứ vậy mà sống? Nhưng Phạm Ngọc Thái lại có ham vọng lớn trên con đường văn chương, đặc biệt là thi ca: Ngày đi làm, tối về viết văn, làm thơ... theo đuổi cả ngành sân khấu kịch bản, viết tiểu thuyết. Cứ thế, kể từ khi xuất bản tập thơ đầu tay: "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - Đến nay cũng ngoài 30 năm, anh đã cho xuất bản: - 11 tác phẩm thơ và bình luận văn học - 2 tiểu thuyết - 5 kịch bản sân khấu ( 2 dài, 3 ngắn ) Hiện là Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu thủ đô. TÓM LƯỢC QUA CÁC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Con đường văn chương Phạm Ngọc Thái cũng đầy gập ghềnh, sóng gió. Năm 1994 anh cho xuất bản tập thơ thứ hai "Người đàn bà trắng", Nxb Thanh niên. Tuy tập thơ vẫn còn nhiều khiếm khuyết, nhưng cũng có ít bài rồi trở thành đặc sắc và hay, như: Người đàn bà trắng, Tiếng hát đời thường, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng... Sau khi tung tập "Người đàn bà trắng" rộng rãi ra văn đàn, Phạm Ngọc Thái mới biết rằng: Con đường thi ca không phẳng phiu, đơn thuần như anh tưởng? Về bối cảnh xã hội: Từ các văn sĩ đến Hội nhà văn: Tính cách và nhận thức thơ ca ở đương thời cũng còn rất tạp-pí-lù, trắng đen lẫn lộn? Dù có làm được nhiều thơ hay đi chăng nữa, thì chân dung cũng chỉ đắm chìm trong sương khói... mịt mù... Nghĩ vậy, anh quyết định dừng lại không vội xuất bản tiếp. Một mặt lao vào sáng tác (cả thơ và kịch), đồng thời chọn những bài thơ đặc sắc, đem photo để tung vào trong đương đại. Chủ yếu ở những hội văn chương, báo chí và sinh viên trong các trường đại học tại thủ đô. Chơi tự do hết tệp này đến tệp khác - Những năm tháng đó, tên tuổi cùng thơ ca Phạm Ngọc Thái nổi lên nhiều trên văn đàn Hà Nội. Thiên hạ mang thơ anh đi lan ra các tỉnh thành khác. Cứ thế 15 năm sau, Phạm Ngọc Thái mới cho xuất bản tập thơ thứ ba: "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009 - Đến 2012 anh thu gom lại số đã sáng tác chưa xuất bản, tới gần 300 bài thơ tự do hiện đại, cho ra tiếp tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hóa - Thông tin. Từ đấy Phạm Ngọc Thái viết được nhiều thơ hay và cho xuất bản liên tục: - Phê bình và tiểu luận thi ca 2013 - Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại 2014 - Thơ tình sinh viên 2015 Tập thơ này do một Công ty sách com măng xuất bản, bán ra thị trường. Nhà thơ được hưởng tiền nhuận bút. - Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam 2019 Đồng thời cùng với thi ca, anh cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tiên: - Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm 2019 Tiểu thuyết cũng do một công ty sách com măng xuất bản. Nhà thơ được hưởng tiền nhuận bút. Nhưng bất ngờ một tai họa đau đớn đã giáng xuống cuộc đời Phạm Ngọc Thái? Đứa con trai thứ của anh mới 27 tuổi đầu, vừa tốt nghiệp tấm bằng thạc sỹ, đang làm việc ở FPT bị đột quị... qua đời vào ngày 22.7.2019 - Nỗi đau quá lớn vượt qua sức chịu đựng của nhà thơ. Anh ngất đi... sống lại nhiều lần... Khi tỉnh, e mình đột ngột đi xa - Phạm Ngọc Thái vội vã làm bản thảo và cho xuất bản "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019 - Một tuyển thơ dầy 368 trang với hơn 200 bài, chọn lọc từ trong đời thơ tác giả. Sau khi sách ra đời. Vào ngày 26.12.2019, nhà thơ viết một lá thư tâm huyết kèm với tác phẩm, gửi tới tay ông Chủ tịch cùng Ban chấp hành HNVVN và ngài Viện trưởng "Viện văn học Việt Nam". Tác giả khẳng định về tầm vóc tác phẩm của mình. Lá thư có đoạn viết: " Đánh giá về Tuyển Thơ Chọn Lọc? Với nhận thức bản thân, tôi tin chắc chắn rằng: Trong dãy thi sơn có nhiều ngọn, tôi đã lên đến điểm đỉnh một ngọn "Hy-ma-lay-a" kỳ vĩ gì đó !... Nhất là thơ tình, của thi ca hiện đại Việt Nam ". Hay là: " Nay tôi đã ngoài 70 xuân, sức khỏe cũng không tốt, chắc chẳng còn sống bao lâu nữa? Nếu để cho tôi nói lên tiếng nói từ trong thẳm sâu tâm tư của lòng mình, thì tôi xin nói rằng: Trong văn hiến nghìn năm Thăng Long của nước nhà, nếu nền thơ cổ Việt Nam đã có một Nguyễn Du - Thì thơ ca hiện đại Việt Nam cũng có Phạm Ngọc Thái - Vâng, tôi tin chắc như vậy! ". Trở lại với vấn đề về đứa con trai đã mất của anh? Đau thương, quằn quại chùm lên cuộc đời - Nhưng với sức sống mãnh liệt của một chiến binh: Một lần nữa tinh thần sáng tác văn chương Phạm Ngọc Thái lại vùng lên... Trong vòng đôi ba tháng, anh đã hoàn thành để xuất bản cả một tập thơ 45 bài: "CHA KHÓC CON", Nxb Hồng Đức 2020 - Với tâm nguyện của một người cha, đau đớn vì mất đứa con yêu: Phạm Ngọc Thái muốn đưa con vào trang sách, để đứa con trai của anh được sống mãi cùng non sông, đất nước. Đó là một TÁC PHẨM THƠ KHÓC viết bằng máu và nước mắt, mà nhà thơ đã để lại cho nền văn học nước nhà. Cùng trong năm, một tiểu thuyết nữa của Phạm Ngọc Thái lại ra đời: - Bộ tiểu thuyết hai tập "Chiến tranh và tình yêu", 2020 Do một công ty sách liên kết với NXB Hồng Đức phát hành trong quân đội và bán ra thị trường. Cuối năm 2020, Phạm Ngọc Thái cho xuất bản tiếp tập thơ: "64 BÀI THƠ HAY" - Theo anh nói, là tập thơ cuối của đời anh. Như thế trong vòng hai năm 2019 - 2020, Phạm Ngọc Thái đã cho ra đời 6 tác phẩm văn học (4 thơ, 2 tiểu thuyết). CUỘC ĐỜI NHÀ VĂN QUYẾT LIỆT ĐẦY SÓNG GIÓ Đúng là một chiến binh. Trong đời thường và cả trên lĩnh vực văn chương, dù gặp phải bao hoạn nạn, ngăn trở... nhưng sức chiến đấu thì thật mãnh liệt. Phạm Ngọc Thái cũng rất tài hoa. Nhấn mạnh về mấy tác phẩm: - Năm 2014 anh cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", Nxb Văn hóa - Thông tin: Tác phẩm dầy 372 trang với 120 bài thơ tình, 34 bài tiểu luận của các tác giả là những văn nghệ sĩ và nhà giáo bình thơ đặc sắc và hay cùng chân dung anh. - Đến 2019 nhà thơ lại cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên. Bình luận về hai thi phẩm có tầm vóc này, Nguyễn Thị Hoàng tôi đã nhận định: "Tập Nhà Thơ Lớn thời đại" của anh ra đời đã hơn sáu năm, giữa văn đàn của Thủ đô ngàn năm Văn Việt... Đến nay vẫn hiên ngang phát quang trong đương đại. Ngày càng được khẳng định chân giá trị của tác phẩm. ... Qua tháng năm, con đại bàng thi ca Phạm Ngọc Thái vẫn tung cánh bay, ngày càng cao, càng bay xa !? ". Và nhấn mạnh: " Phạm Ngọc Thái đơn thương độc mã, không ô lọng che dù, không người nâng đỡ - Người chiến binh đã qua cả một giai đoạn dài cuộc chiến tranh xưa? Giờ trên con đường thiên lý của sự nghiệp thi ca, con chiến mã lại từng bước, từng bước... rồi phi lên tận đỉnh ngọn thi sơn của thi ca hiện đại Việt Nam". ( trích tiểu luận "Tập 64 BÀI THƠ HAY và sự nghiệp thi ca Phạm Ngọc Thái" - Nguyễn Thị Hoàng ) Đó chinh là tầm vóc "Tuyển thơ chọn lọc" 2019 và chân dung tập "64 bài thơ hay", Nxb Hồng Đức 2020 của anh. THÁI ĐỘ BAN CHẤP HÀNH HNVVN VỀ TÁC PHẨM THƠ CA PHẠM NGỌC THÁI HNVVN là một tổ chức văn chương cấp quốc gia. Ban chấp hành cũng là những người được ăn lương nhà nước, để làm việc quốc gia - Nhất là ông Chủ tịch, người lãnh đạo cao nhất HNV. Hàng năm vẫn lấy nhiều tỷ tiền của nhân dân, lo cho hoạt động Hội - Đương nhiên cần có ý thức, trách nhiệm quán xuyến về sự phát triển, hưng vong... đối với nền văn học đương thời của cả nước. Nhưng dưới thời nhà thơ Hữu Thỉnh làm Chủ tịch Hội nhà văn? Khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái cho xuất bản, phát hành những tác phẩm thi ca sừng sững trong xã hội: - PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại 2014 - PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam 2019 Ban chấp hành và kể cả những nhà thơ sừng sỏ, danh tiếng nhất đương thời của HNVVN - Không một tiếng phủ nhận, phản bác lại trên báo chí !? Chính nhà thơ đã gửi đến tận tay ông Chủ tịch và Ban chấp hành: Tác phẩm "Tuyển thơ chọn lọc" 2019, kèm với lá thư khẳng định tầm vóc thi nhân lớn của anh, đối với nền thi ca đất nước - Và từng nói: Nhà thơ Phạm Ngọc Thái sẵn sàng đối diện với Ban chấp hành... để khẳng định về "chân dung nhà thơ lớn thời đại" của mình cơ mà? Ông Chủ tịch Hữu Thỉnh vẫn im hơi, lặng tiếng. Việc ngài Chủ tịch nhất định bưng tai, bịt mắt, lảng tránh như thế? Trước lời đề nghị chính đáng của một nhà thơ, khẳng định về tầm vóc tác phẩm của mình (ít nhất là có giá trị đối với nền văn học quốc gia): Không những thiếu tính nhân văn với cá nhân nhà thơ, còn thế hiện sự chưa có đầy đủ trách nhiệm với cả nền văn học đất nước. Sự yếu kém của một văn sĩ già còn nhỏ mọn. Nếu cần xác định, xin lấy chân dung thơ của các nhà thơ tên tuổi hàng đầu của HNVVN đương thời - Đưa ra qua báo văn nghệ và website của HNVVN - So với chính chân dung nhà thơ Phạm Ngọc Thái? Chỉ cần với hai tác phẩm: 1. "Tuyển thơ chọn lọc" 2019 2. Tập thơ " 64 bài thơ hay", 2020 - Tôi đảm bảo rằng, chân dung thi ca của các nhà thơ HNVVN đương thời sẽ thấp hơn Phạm Ngọc Thái !!! Hãy coi lại bản thách đấu HNVVN của Phạm Ngọc Thái đã đăng trên vài chục trang mạng trong nước và Cộng đồng người Việt ở Hải ngoại nhiều năm trước - Anh đã thách đấu cả 50 nhà thơ có tên tuổi nhất của HNVVN đương đại đó! Đây là bản được nhà thơ cho đăng trên một website lớn của người Việt ở Hoa Kỳ. Mời mở ra đọc: http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?&m=316059&mpage=8 Nửa thế kỷ nay - Theo tôi: Về thi ca, chưa nhà thơ nào của HNVVN đương thời có thể vượt qua nổi chân dung của cố nữ sĩ Xuân Quỳnh !? Tôi cũng chưa thấy có vị nào viết được một bài thơ thật hay, tầm vóc sống trường cửu mọi thời đại như bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Bà tuy vẫn mới chỉ là một "nhà thơ sáng giá", chưa đạt được tầm vóc nhà thơ lớn - Nhưng cũng đã để lại cho nền văn học nước non một mảng thơ. Nguyễn Thị Hoàng tôi từng viết: - Những bài thơ tuyệt hay trong thi đàn xưa nay. Không kể KIỀU bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay như: Đèo Ngang của BHTQ; Làm Lẽ, Cảnh Thu - Hồ Xuân Hương; Thương Vợ - Tú Xương; Thu Điếu - Nguyễn Khuyến; Tràng Giang - Huy Cận; Tranh Lõa Thể - Bích Khê; Tương Tư - Nguyễn Bính; Đây Thôn Vĩ Dạ, Mùa Xuân Chín, Bẽn Lẽn - Hàn Mặc Tử; Hai Sắc Hoa Ti Gôn - TTKH.; Thuyền Và Biển - Xuân Quỳnh.... Thơ hay bậc nhất của nền văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm như thế! Vượt qua mọi thời đại - Đó là loại thơ thuộc hàng đẳng cấp cao nhất. Trong tập "64 BÀI THƠ HAY" của Phạm Ngọc Thái - Phải có tới 5 bài vào loại rất hay hàng đỉnh, tương tự tầm những thi phẩm vô giá của ngàn năm văn hiến: . Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối / Anh đứng nhìn theo bóng chim câu / Người đàn bà trắng / Làm ma em vợ / Tiếng hát đời thường. Vài chục bài cũng vào loại hay, xuất sắc: . Khoảng trôi trong lá / Em về biển / Em bán xoài / Đất nước tôi yêu / Khóc bên Hồ Núi Cốc / Váy thiếu nữ bay / Chuyện về hai ngôi mộ cha con mai sau / Anh vẫn ở bên Hồ Tây / Khóc Hàn Mặc Tử / Trước Núi Mỹ Nhân / Em ơi! Thành phố lại mưa / Nghe tin em sốt / Phố thu và áo trắng / Một góc Hồ Tây, v.v... Số bài khá khác cũng rất súc tích, giàu hương sắc... đều thuộc trong dòng thơ có khả năng sống trường cửu thời gian. Chưa nói đến cả "Tuyển thơ chon lọc", Nxb Hồng Đức 2019 của anh, với trên 200 bài thơ chọn trong đời thi ca, rất nhiều những áng thi xuất sắc - Dựng lên như cả " Trường thành thi ca" đối với nền thơ hiện đại Việt Nam. - Đấy, tôi đố cả Ban chấp hành của HNVVN hiện nay - Từ nhà thơ cách tân Nguyễn Quang Thiều - Thần đồng, nhà viết "Chân dung và đối thoại" Trần Đăng Khoa... Phủ nhận được giá trị tầm vóc lớn của tập "64 BÀI THƠ HAY" Phạm Ngọc Thái !? Tôi cũng khẳng định, với những tác phẩm thi ca để lại cho nền văn học: Phạm Ngọc Thái đã đạt đến tầm bậc "Chân dung nhà thơ lớn thời đại". Rất lớn! Không phải nhà thơ cũng có điều kiện, mang lại danh thơm cho cả nền thi ca hiện đại của nước nhà sao? Như Đại thi hào Walt Whitman nước Mỹ - Chính Ông cũng đã mang lại danh thơm cho cả nền thơ ca Mỹ đó thôi. Thưa Tân chủ tịch HNVVN Nguyễn Quang Thiều! - NHÀ THƠ CCB PHẠM NGỌC THÁI hiện ngụ tại Ngõ 83 phố Quán Thánh, Hà Nội * Số ĐT 038 302 4194 đã nói: Sẵn sàng đối diện với Ban chấp hành HNVVN và Ban Tuyên giáo Trung Ương của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - Qua các tác phẩm đã xuất bản, để khẳng định chân dung nhà thơ lớn của mình, đối với nền thi ca hiện đại nước non. Viết tại Thăng Long năm Tân Sửu, 2021 Nguyễn Thị Hoàng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2021 12:24:22 bởi Nhân văn >
MỘT TUYỆT PHẨM THI CA Nguyễn Đình Chúc VÁY THIẾU NỮ BAY Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên Nguyễn Du * Váy thiếu nữ bay để ngỏ Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở Tìm vào cung cấm của em... “Bờ bãi con người” em trổ hoa, trái ngọt Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian Có phải đó khúc quân hành nhân loại Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý! Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang. Lời bàn: Có nhà thơ nào đã ví "cái" của người thiếu nữ như một cổng trời, qua cổng trời đó là vào một động thiên thai. Hay như cách tả của bà Hồ Xuân Hương: Của quí của chị em thật trăm hình vạn trạng? Nhiều bài làm ta phải sởn gai óc. Thí dụ trong bài "Động Hương Tích": Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom Khi thì bà mượn cái quạt để tả về "chỗ ấy": Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa... Giờ ta đến với thơ của Phạm Ngọc Thái: Bài "váy thiếu nữ bay" này, anh lại ví cái của em là cả một... “khoảng trời”: Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong Đến thiên nhiên cũng phải ngưỡng mộ mà say đắm: Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở Tìm vào cung cấm của em... Cũng đúng thôi! Trái tim ta khi cảm xúc còn rung động, huống hồ thiên nhiên? Nhưng điều mà tôi muốn nói ở đây, viết ra câu thơ như thế là... tác giả đã mạnh bạo. Từ câu trước dùng hình tượng gợi cảm: Gió réo rắt, nắng bồn chồn /- Câu sau lại rất đời: Tìm vào cung cấm của em... Đọc lên ta thấy gai gai... nhưng ngẫm kỹ thì sướng thơ. Sang đến khổ thứ hai, thơ mang theo tính triết lý: “Bờ bãi con người” em trổ hoa, trái ngọt Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Trong nhân sinh quan ta thấy: Rõ ràng nhà thơ đứng về phía nhân gian. Ca ngợi tình yêu, sự sống ở chốn cộng đồng. Câu thơ: “Bờ bãi con người” em trổ hoa, trái ngọt/- Nghĩa là vậy. Ta thường nói, sở dĩ tác phẩm của Nguyễn du sâu sắc, bất hủ - Bởi Người đã có hàng chục năm phải sống lăn lộn nơi dân dã, thấu hiểu nỗi tình kiếp chúng sinh mà viết nên... Kiều! Tôi nghĩ, một quan điểm rất cơ bản trong thi ca, chính là thái độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ như thế nào? Nó có ý nghĩa rất quyết định tới tấm vóc của một bài thơ hay, cũng như tác phẩm văn chương. Xin trở lại bài Váy Thiếu Nữ Bay. Câu thơ vừa nói trên ý rằng, ở nơi "Bờ bãi con người...": Em như hoa trái của sự sống. Sự sống mà không có hoa, trái... thì chẳng có gì hết, sẽ chỉ như cái xác chết. Sau đó để làm rõ hơn về giá trị nhân phẩm về “cái” của em, nhà thơ viết: Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Vậy là, hơn một lần... Tác giả lại bộc lộ quan điểm, “cái” của em còn cao hơn, đáng giá hơn hàng bậc đế vương kia !? Sau đó, nhà thơ vẫn tiếp tục miêu tả về của quí của em, nhưng ở mức độ rộng và cao hơn: Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài. điện ngọc Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm... Dùng hình tượng ví như "lâu đài, điện ngọc" ta cũng dễ hiểu. Cụ Nguyễn Du cũng từng ví của Kiều: Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên Còn về ý nghĩa tiến hoá vạn vật trong vũ trụ của thế giới nhân quần, khởi thuỷ và muôn năm cũng là... ở trong “cái ấy” mà ra cả: Sự sống của nhân loại. Nền văn minh, tiến bộ thế giới đều phải bắt đầu từ đấy !? Về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Còn tác giả muốn mượn cách nói như thế, để hàm ý những gì nữa... thuộc trong lĩnh vực chính trị xã hội? Thì có lẽ, mai sau đời sẽ bàn thêm. Nghĩa là câu thơ: Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm /- Mang theo cả ý nghĩa xã hội và tính vũ trụ của thi ca trong đó. Sang khổ thơ ba: Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian “Cái” mà đã dấu trong chiếc váy bay của người con gái... lại bao trùm lên cả hồn thời đại, làm say đắm thế gian !? Không phải chỉ bây giờ, từ xa xưa đến mai sau vẫn thế - Rồi tác giả buông ra một câu hỏi: Có phải đó khúc quân hành nhân loại? Để anh chốt lại trong câu thơ kết đoạn: Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh Ngay từ thuở thiên thai, khi mà người đàn bà còn chưa biết mặc váy... “cái” đó đã có rồi. Nó mãi mãi là một bích phẩm bất hủ nhất... của cả tạo hoá lẫn xã hội con người. Thơ đã mang màu triết học. Nghĩa kết vào nhau rất chặt chẽ. Sang khổ thơ cuối cùng – Nhà thơ tung ra một lời phán quyết: Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý! Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang... Câu thơ cuối đã khoá lại bài thơ: Nó mang theo một lời triết lý có ý nghĩa xã hội !? Xin phân tích đôi nét - Bước đầu, tác giả đưa ra một sự lý giải về sự sống: Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh Nghĩa là từ cá nhân tới xã hội phải nhờ có "cái ấy" mới có thể tồn tại và phát triển. Tất nhiên cách nói trong thi ca cũng chỉ có ý nghĩa biểu tượng. Hàm ý thi ca Phạm Ngọc Thái trong bài thơ này, luôn luôn mang theo tính phản biện có ý nghĩa xã hội? Tác giả đã phát triển sự biện luận ấy thế nào: Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Nói là phàm tục, cũng là phàm tục. Nhưng nếu nói "cái" ấy tiên thánh? Thì cũng là tiên thánh - Chẳng thế mà nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã viết những câu thơ bất hủ về tình yêu với người đàn bà: Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ. Bởi vì với ý tưởng chân chính, khát vọng tình dục… cũng là đỉnh cao của sự thăng hoa trong tình yêu con người. Cái hạnh phúc vô giá. Niềm đam mê vô tận. Nó vừa tạo nên những sướng vui, đồng thời cũng là nguồn gốc của nỗi đau đớn. Nó mang đến ý nghĩa thánh thiện, đức nhân ái và bao dung. Nó chính là hạt nhân của tình lứa đôi. Cho nên Puskin đã nói một câu nổi tiếng, rằng: "Chỉ có tình yêu mới đẩy lùi tội ác"! Ở đây tác giả nhấn mạnh về tình yêu gái trai nơi nhân gian, mà anh gọi là "Bờ bãi con người...". Như trên đã nói, câu cuối cùng đã chốt lại cả bài thơ: Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang... Đó là ngòi bộc phá nổ để bảo vệ cho toàn bộ ý tưởng của bài. Nào là: … Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại … Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm … Mênh mông bầu trời say đắm thế gian … Một khoảng trời nghiêng ngửa Chỉ để bảo vệ một chủ thuyết của tác giả: Ca ngợi cái kiệt tác mà tạo hoá đã sinh ra trên tấm thân người đàn bà - Thì từ khi có vũ trụ cùng thế giới con người đến nay, có cái gì được coi là vĩ đại hơn "cái" của đàn bà ấy đâu? Dù nhân loại có tiến triển đến hàng triệu năm nữa, nó vẫn vĩ đại nhất! "Váy thiếu nữ bay" xứng đáng là một đài thơ. Một tuyệt phẩm thi ca của Phạm Ngọc Thái. Nguyễn Đình Chúc (Trích "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN", 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.10.2021 15:44:51 bởi Nhân văn >
MỘT BÀI THƠ THẦN SẦU QUỈ KHÓC ThS. Anh Nguyễn Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia ĐỘNG BƯỚM Phút say đắm tột cùng, em mở toang động bướm Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma. Có ai chưa em đã vào khai phá? Để bướm vẫy vùng, bướm thoả ước ao Và khi ấy, em sẽ không còn là trinh nữ "Bờ bãi đời người" bướm vẫn lượn như sao. Thân nhi nữ, một thế giới mênh mông hoang dại Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt Lạc vào vườn em, trái cấm ngọt hương tươi. Tình yêu từ đâu anh không biết? Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim! Nhưng yêu nhất là bướm em, có sức chinh phục diệu huyền Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ... Bướm của em trên đời mãi còn quí giá Đến lúc cần bướm lại sinh con Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em. Nam-mô-a-di-đà! Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: Đây là một bài thơ tượng trưng. Suốt bài thơ, ta thấy hình tượng gồm toàn những yếu tố tượng trưng "tương ứng cảm quan". Khuynh hướng này do nhà thơ Pháp Charles Baudelaire, một trong những bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu vào cuối thế kỉ XIX khởi xướng. Theo Baudelaire, sự liên kết giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Biểu tượng đó phản ảnh một cách tương ứng sự vật, nhưng không phải do lý trí sắp đặt, mà dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan hay tâm linh, gọi là cảm quan. Tôi phân tích đoạn thơ thứ nhất: Phút say đắm tột cùng, em mở toang động bướm Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ "Bướm" đã trở thành một biểu tượng ở chốn dân gian, để chỉ "cái" của người đàn bà. Tác giả dùng hình ảnh "động bướm" làm tượng trưng: Ý như đó là "cái hang" ở trên nàng. Ta hãy nghe Bà Hồ Xuân Hương tả về "cái hang" của chị em, qua bài "Động Hương Tích": Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom... Hay bài "Hang Cắc Cớ": Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn Tôi không thể bình quá sâu hình ảnh của câu: Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn /- Bởi phân tích ra nó sẽ bẩn... làm hỏng thơ của bà. Nhưng đọc ta có thể hiểu: khi bà tả "kẽ hầm rêu mốc...", là nói về khe ngách bên trong của bướm bị dơ. Vậy còn "cái gì trơ toen hoẻn"? Phải chăng là... "nhân bướm"? Ví dụ thêm một tình thi khác, bài "con ốc nhồi": Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi "bóc yếm" là hình ảnh mô phỏng về sự ve vuốt, xoa nắn vòm ngực, phía trên người con gái - Còn "ngó ngoáy lỗ trôn", hình tượng tả sự nghịch ngợm bộ phận dưới v.v. Ở đây, nhà thơ Phạm Ngọc Thái diễn tả cái bướm đã có từ thời tiền sử: Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ /- Nghĩa là nó do tạo hóa đúc tạc nên. Đến câu thơ 11-12 nhà thơ còn láy lại một lần nữa: Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt Lạc vào vườn em, trái cấm ngọt hương tươi Bướm của em như hoa trái đất trời, "ăn" vào là nhớ mãi. Từ nguyên thuỷ đến bây giờ chẳng cần tiến hoá thêm, thế mà: Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn Ngay từ buổi thiên thai cái "động bướm" ấy đã hoàn bích rồi. Ai nhìn thấy hay chỉ cần nghĩ tới... cũng phải hưng phấn, rạo rực trong lòng. Đến câu thơ thứ tư, hình tượng thơ còn mang theo tính triết học: Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma. Bướm em vừa siêu phàm tựa thánh tiên, lại vừa như có ma quỉ: Làm ta say mê, thần tượng và khát vọng. Nhưng cũng có khi vì si mê quá hoá mù quáng, như bị "ma dẫn lối quỉ đưa đường"... tự huỷ hoại cuộc đời mình. Tức là, tình yêu mang đến cho ta niềm hạnh phúc vô biên, đưa tâm hồn ta hoan lạc ở chốn bồng lai, lại cũng có thể làm cho trái tim ta đau khổ, tan vỡ vì thất vọng! Đến đoạn thứ ba, tác giả tiếp tục phát triển: Thân nhi nữ, một thế giới mênh mông hoang dại Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều Cái thế giới mênh mông hoang dại đó, thuộc hình ảnh thơ trừu tượng. Tác giả miêu tả sự toàn bích của tấm thân người nhi nữ từ trong ra ngoài, để khẳng định sự vĩ đại của tạo hoá! Cho dù xã hội loài người có phát triển hàng vạn năm nữa, văn minh tiến bộ đến đâu... cũng không thể so sánh nổi. Trong sự vĩ đại đó, thì việc sinh thành ra "bướm" đàn bà là điều kì diệu nhất: Một thiên kiệt tác! Quay trở lại với đoạn thứ hai, nhà thơ buông ra một câu hỏi: Có ai chưa em đã vào khai phá? Nghĩa là em đã hiến dâng cái của em cho người đàn ông nào chưa? Sau đó chính anh lại tự giải nghĩa: Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao Đâu có phải chỉ một mình người con trai sướng? Bởi khi hiến dâng cho tình yêu, cũng chính là khát vọng của người con gái để trở thành... đàn bà: Khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ “Bờ bãi đời người” bướm vẫn lượn như sao... Thơ đã đi sâu vào phạm trù đời sống mà diễn tả. Dĩ nhiên là đời sống ấy phải có cả đàn ông, nhưng thường trong nhiều phạm trù, người ta chỉ thiên nói về nữ tính. Nếu không có cái bướm đàn bà, cuộc sống của ta sẽ không còn nghĩa lí. Đến đây, tôi xin nói đôi nét về một số bài thơ khác dạng tương tự như "Động bướm" - Phạm Ngọc Thái có một số tình thơ lãng mạn vào loại khá kỳ dị. Có thể kể ra vài bài đặc sắc, nổi lên như: Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt; Xem tranh bán loã thể; Váy thiếu nữ bay - "Động bướm" chỉ là một bài điển hình trong số những tình thi đó. "Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt" - Tả về hình ảnh người yêu khoả thân trong đêm tối: Ta gặp nhau chỉ trong chốc lát Giữa đêm tối anh lần vào em thăm thiên thai... "thiên thai" chính là cái ấy! Vậy "giữa đêm tối anh lần vào thăm thiên thai của em..." để làm gì? chẳng nói thì ai cũng biết. Thơ tả vào dục vọng mà vẫn rất mềm mại, đáng yêu. Hay là: Hôn đôi trái em tưởng mình du ngoạn khắp không trung Chơi dỡn nguyệt một thiên đường tuyệt thế Mong trời cứ đêm để cùng em vui chút nữa. Hạnh phúc trong tình yêu hoà trong niềm sướng vui cùng thân thể người yêu. Nhà thơ tả thẳng vào sự khoái cảm, nhưng khi đọc ta vẫn không thấy sượng. Hình ảnh "Hôn đôi trái em..." diễn tả sự say sưa, man mê đôi tí người yêu? lại ngỡ như mình đang du ngoạn, bay bổng giữa không trung. Hoặc là hình ảnh "chơi dỡn nguyệt", giây phút tột cùng khoái lạc trong quan hệ nam nữ - Để rồi tác giả buông một câu khẳng định: Đàn bà đẹp nhất là ở trong đêm tối Để nhớ nhau suốt đời... Ta lại nhớ tới câu ca dao trong dân gian: Dao đâm vào thịt thì đau Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời Cuối bài tác giả đã kết: Đêm tắt đèn thành ánh sáng của thơ tôi! Câu thơ bộc lộ một thái độ. Có thể nó hàm chứa về một phản ứng nào đó có ý nghĩa xã hội? Như ta thường nói về bà Hồ Xuân Hương, rằng: Tư tưởng bên trong thơ của bà là bộc lộ một thái độ phản kháng sự đè nén, hủ lậu của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Thì đây, chính câu thơ là sự bùng nổ... có tính xã hội của nhà thơ? Tôi nói sang bài "Xem tranh bán loã thể" - Bài thơ đã được nghệ sĩ Anh Trần bình là một kỳ tác thi ca! Có những câu khi đọc lên ta cảm thấy gờn gợn... Không phải nó tục mà vì tác giả dùng hình ảnh, những từ ngữ quá thực. Nhưng cái quá thực ấy lại chứa chất cả tính nhân loại và mang màu sắc triết học, thành thử câu thơ sâu và rất hay nữa. Thí dụ: Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình ra từ trong bụng. Nghệ sĩ Anh Trần đã phân tích những câu thơ đó, như thế này: - Sâu sắc và hay. Ý của câu trên ta thấy rõ rồi - Người đàn bà là hoa, là ý nghĩa tồn sinh của cuộc sống xã hội và nhân loại. Nhưng còn câu dưới? Không phải chỉ muốn nói rằng, em có khả năng mang thai trong bụng rồi sinh đẻ, tất nhiên là ra con người. Rồi giống người ấy sẽ mang đến cả chiến tranh và hoà bình. Mặc dù phải có cả đàn ông thì em mới đẻ được. Ở một phạm trù rộng lớn hơn, tức là: Tình yêu và đàn bà sinh ra cả khổ đau lẫn hạnh phúc, cũng như chiến tranh và hoà bình. Cho nên mới nói: Thơ Phạm Ngọc Thái cô đọng và rất sâu sắc! Khi tác giả tả thẳng: Lui xuống dưới nàng một rừng sâu um tùm che hang động Lên trên nàng đôi mỏm núi trắng vô biên Vẫn là tả về vú và bướm, nhưng sử dụng phương pháp biểu tượng. Cái ở bên dưới là một hang động, muốn vào nó phải đi qua một khu rừng sâu rậm rì, um tùm. Còn cái ở trên là đôi mỏm núi trắng xoá, vô biên - Nghĩa là vú của nàng như cả bầu trời vậy. Trong những bài thơ kỳ dị ấy, đặc biệt là bài "Váy thiếu nữ bay" - Anh Nguyễn Đình Chúc khi bình đã ca ngợi là Tuyệt phẩm thi ca! Bài thơ mô phỏng về cái bên trong cái váy của người thiếu nữ, nhưng được nhà thơ đi sâu về ý nghĩa đời sống xã hội để diễn tả: “Bờ bãi con người” em trổ hoa, trái ngọt Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Sau đó phát triển rộng sang tính nhân loại: Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian... Hay là: Có phải đó khúc quân hành nhân loại Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh Bọc chứa cả tính vũ trụ: Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm Ta hãy nghe tác giả kết bài: Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang Nó được cất giữ một ý tưởng rất mạnh mẽ. Nhân sinh quan xã hội của nhà thơ. Ngòi nổ trong câu thơ cuối đó phát hỏa làm cháy bùng cả bài, và bảo vệ luận thuyết của tác giả - Ca ngợi cái kiệt tác mà thượng đế đã sinh ra trên thân thể người đàn bà! Nó là ngọn nguồn, khởi điểm cho cả chính trị và triết học. Ý tình thơ thật súc tích, càng vào sâu càng thấy hay! Tôi trở về với bài "Động bướm" - Tác giả tả về cái bướm? Nhưng không phải phải chỉ để cho sướng... cho khoái... mà thơ còn ôm chứa tính nhân bản sâu sắc. Xin trở lại với đoạn thơ thứ tư. Gớt đã viết: "Khởi thuỷ là hành động" - Nhưng ở đây có lẽ phải nói: "Khởi thuỷ là tình yêu"! Anh tự hỏi: Tình yêu từ đâu anh không biết? Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim! Để rồi anh triết lý ở hai câu thơ sau đó: Nhưng yêu nhất là bướm em, có sức chinh phục diệu huyền Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ... Ta có thể mường tượng hình tượng về những con bướm, mà bướm đây là bướm cái - Cứ đêm đêm nó lại vờn bay quanh ta trong phòng ngủ, để làm gì? Đấy, tác giả tả về cảnh chăn gối vợ chồng hay trai gái. Suy cho cùng, nếu em chẳng có bướm thì thế giới này sẽ hoá rồ, hoá dại và... cũng chẳng làm gì có tình yêu !? "Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ..." /- Hình ảnh của câu thơ ý nhị, dí dỏm, gây cho ta sự khoái cảm trong tâm hồn. Một biểu tượng đời thường ở chốn phòng the. Ban ngày thì chị em thường cài then, khoá trái… để đêm đêm mới mở cửa, rút then... cho anh em vào tha hồ khám phá. Đoạn thơ xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn tình yêu. Tất cả đều bắt đầu từ... bướm: Nhưng yêu nhất là bướm em, có sức chinh phục diệu huyền Lời thơ diễn đạt có vẻ nôm na, chân chất, vẫn ý nhị và sinh động. Nhà thơ kết luận: Bướm của em trên đời mãi còn quí giá Đến lúc cần bướm lại sinh con Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em. Nam-mô-a-di-đà! Cái "bướm" ấy không phải chỉ mang lại cho ta sự sung sướng và hạnh phúc? Bướm còn để sinh con, bảo tồn nòi giống! Nghĩa là, không có bướm thì không có giống nòi - Mới thấy, giá trị nhân sinh của bướm thật là cao cả! Bằng các yếu tố của thơ tượng trưng, nhà thơ đã đi sâu vào thế giới tâm linh để mô tả. Từ cái tên đã có trong dân gian, phát triển sang phạm trù tình yêu rồi đời sống xã hội con người. Một tình thi chỉ xoay quanh về "cái" của người đàn bà mà nói được đủ điều, sâu sắc, thăng hoa - Thiết nghĩ, nó đã đạt vào loại, là một bài thơ thần sầu quỷ khóc vậy! Anh Nguyễn (Trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN ", 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2021 21:22:41 bởi Nhân văn >
MỘT THIÊN TÌNH CA MÙA THU Tuyết Thúy SÁNG THU VÀNG Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió (Kỷ niệm Bích Đào) Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay... Sáng thu này trĩu cả hàng cây Đô thành dịu mát Ông lão ngồi bên gốc cây, bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời Bà xúc tép váy khều khào nước… Một thời xa lắc Em nghiêng chao về một thời xa. Người con gái đã thành chính quả (phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha) Đôi mắt em bóng trúc bay xoà... Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở... Nghe không gian, đổ vỡ cả mùa thu! Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang Những con đường xưa tắm hơi em Môi em cười, hoa lá nát đau thêm Thời gian trôi… cuộc sống buồn tênh. Một mùa thu lá lá Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Người đàn bà! Em nuốt mùa thu tan... Lời bình: “Sáng thu vàng” được sáng tác trong khoảng không gian thiên nhiên, bên câu chuyện tình như truyền thuyết. Đó là một buổi sáng đô thành dịu mát, có: Ông lão ngồi bên gốc cây, bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời Chữ "vói" nghe như tiếng sáo trúc réo rắt vút lên trong mùa thu. Ở bên hồ, bà xúc tép "váy khều khào nước...". Đô Thành hôm nay đang ngày càng trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, thương mại hoá, thị trường kinh tế hoá. Song, tình thơ lại gợi cho ta nhớ về một Hà Nội của ký ức đã xa xưa. Sang đoạn thơ ba, câu chuyện tình mùa thu thực sự mới được bắt đầu - Nhưng nó đươc nối với đoạn thơ hai, bằng hai câu: Một thời xa lắc Em nghiêng chao về một thời xa Cả một mùa thu nghiêng chao theo người con gái, nhắc lại một thời đôi trai gái từng hạnh phúc yêu nhau. Hình ảnh của người con gái hôm nay được hiện lên: Người con gái đã thành chính quả! Có nghĩa, giờ đây nàng đã thành một người đàn bà trẻ. Như qui luật sinh nở của tạo hoá: Thiếu nữ năm xưa đã khai hoa, kết trái. Hai chữ "chính quả" nghe như có cả tiếng kinh nguyện của chùa chiền, báo về sự đắc đạo của nàng. Một sự chuyển hoá từ tiết trinh sang tiết hạnh. Có lẽ lúc này khi gặp lại người tình xưa ấy, lòng nhà thơ đã vấn an nơi chốn cửa thiền, nên ngôn ngữ thi ca mới chứa chất tính phật đài như thế. Cả đến câu sau khi anh miêu tả: Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha Năm tháng tất thảy đều không tránh khỏi qui luật rêu phong. Nói đến khối tình trần tục mà thơ đượm màu sắc phật. Ta hãy nghe tác giả tả về nàng: Đôi mắt em bóng trúc bay xoà... Đây là đôi mắt đẹp của mùa thu thăm thẳm, mơ màng. Bóng trúc phủ trong đôi mắt, thơ trừu tượng. Hai chữ "bay xoà" mang màu sắc ảo rợp lên. Hình tượng thơ từ trong cảm rung, thần xuất mà thành. Còn: Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở... Để nói lên cả tấm thân, làn da, vóc dáng đến tâm hồn nàng… toát ra một vẻ đẹp dịu dàng, mơ mộng như trăng. Tác giả hạ một câu kết đoạn: Nghe không gian, đổ vỡ cả mùa thu! Ta nghe như có tiếng mùa thu rơi, đổ sập từ trên trời cao xuống. Tức là trái tim và tâm hồn chàng đang tan vỡ! Có thể coi đoạn thơ thứ ba này là thần cốt, điểm hội tụ chói sáng của tình thơ. Nó chứa đầy ngọc bích trong hình ảnh, ngôn ngữ, đưa “Sáng thu vàng” lên tầm vóc của một bài thơ mùa thu đặc sắc. Những đoạn bốn-năm-sáu sau đó, phát triển cùng với những kỉ niệm xưa và nỗi lòng tan nát của nhà thơ. Mùa thu vàng trống vắng, xa xót bay rợp bóng xuống ngổn ngang: Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn. Tình yêu thiếu nữ như một cánh rừng hoang ư? Hay thiếu nữ đi rồi để lại trong anh cả một cánh rừng hoang? Nghĩa là, trái tim chàng cũng đã đi theo người con gái mất rồi! Ở đoạn thơ thứ năm: Môi em cười, hoa lá nát đau thêm Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh. Hoa lá đến mức độ phải héo hắt, nát đau trước đôi môi người đàn bà trẻ - Thì không biết đôi môi em hấp dẫn, chan chứa đến mức nào !? Đều là những hinh ảnh tượng trưng. Mỗi đoạn lại được níu giữ bằng những câu thơ sâu sắc ấy! Bởi vậy tuy là thơ viết phóng túng, tự do mà cảm xúc vẫn đằm đìa, cô đọng. Chỗ này, chỗ khác trong suốt tình thi... Khung cảnh thiên nhiên được phục hiện, bao quanh đôi tình nhân. Như ở cảnh gặp nhau đầu tiên: Gặp lại em một sáng thu vàng Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố Tiếp đến cảnh sau: Sáng thu này trĩu cả hàng cây "…trĩu cả hàng cây", tức là một mùa thu chin... đang trĩu xuống. Đến đoạn bốn thì tình thơ trào lên dào dạt: Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Tựa như nhà thơ đang ở bên một bờ biển xanh đầy sóng, thổn thức nhớ đến người yêu. Cảnh gợi lại những con đường đôi trai gái dẫn nhau đi ngày xưa: Những con đường xưa tắm hơi em Và: Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Những câu này thuộc thơ trừu tượng? Cảnh có mà không có. Nó chỉ được gợi lên trong tâm thức mà thôi. Về nghệ thuật: “Sáng thu vàng” được xây dựng theo nhịp điệu như một cánh võng mùa thu. Làn điệu thơ chuyển dần - Đầu tiên thì đưa nhẹ: Với trời xanh, hồ xanh gió Gió đưa làn tóc em bay... Người con gái tóc xoà bay trong gió. Giọng thơ ru uyển chuyển. Sang đến đoạn bốn và năm, cánh võng được đẩy lên bay bổng: …Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông …Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang Một cánh võng mùa thu chứa trong lòng nó mọi điều về mối tình đôi trai gái. Đến đoạn cuối thả xuống một mùa thu xòa ra, đầy lá: Một mùa thu lá lá Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Nơi gặp gỡ em ngày xưa giờ đây quạnh vắng, cỏ dại mọc đầy lên - Để rồi tác giả kết bài: Người đàn bà! Em nuốt mùa thu tan... Chẳng ai nuốt được mùa thu cả !? Chữ “nuốt” đầy sắc thơ siêu thực. Em đi để cả mùa thu trống vắng còn ở lại, hay đã mang theo mùa thu đi mất rồi? Ai có thể trả lời - Không ai cả, vì chính tác giả cũng không thể trả lời! “Sáng thu vàng” phảng phất phong dáng của trường ca. Một mùa thu của tình yêu, toả bóng xuống thi ca. Tuyết Thúy (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2021 19:09:53 bởi Nhân văn >
MỘT TÌNH THƠ MƯA HAY VÀ MỘNG Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm Nguyễn Thị Hoàng EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA Nghe không em lại mưa lên phố Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ Mối tình thời trinh nữ xa xôi Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở Say như mơ và mộng như thơ Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ Thành phố lại mưa… Có nghe không em? Con chim trời, cá nước Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua Tình êm dịu bên em mơ màng quá Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa Tiếng mưa rơi não nề thao thức Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan Bèo dạt sông trôi, buồm anh không bến đỗ Chân trời vương vấn dải mây lan Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em? Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang... Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: Nhà thơ Phạm Ngọc Thái có một "chùm thơ tình trong mưa" rất nổi tiếng. Ở chùm thơ đó, tôi thích nhất bài “Em ơi! Thành phố lại mưa” này: Nghe không em lại mưa lên phố Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi Ta nghe thấy tiếng mưa rơi rất mau và bóng người con gái từ thuở nào đó? Nói về hình ảnh người yêu trong mưa, ở một bài khác anh viết: Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại Về bên anh mái tóc rối tơi bời Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi (trong mưa) Đọc thơ mưa của Phạm Ngọc Thái, sao mà nhớ da diết về thuở ấy! Thuở của thời thiếu nữ đang yêu: Mưa rơi lên tóc, ướt vai và ướt cả áo em. Tôi cũng thấy bồi hồi không khỏi chạnh lòng, khi nghe giọng thơ anh: Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ Mối tình thời trinh nữ xa xôi… Theo ý trong bài, thiếu nữ đó tác giả đã gặp vào những năm tháng phong trần, dâu bể cuộc đời. Không phải thời vẫn còn mộng mơ trên giảng đường đại học: Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ Nhưng những thông tin về đời tư tác giả bộc lộ qua các tác phẩm và dư luận? Thời trai trẻ của nhà thơ, từng trải qua cả cuộc chiến tranh ngoài chiến trường. Vậy phải chăng, cô thiếu nữ của bài “Em ơi! Thành phố lại mưa” này: Anh đã gặp và yêu sau cuộc chiến tranh? Khi từ đời lính trở về. Cuộc đời đang trong một nỗi buồn, trống vắng bởi cô đơn - Như lời thơ đã viết: Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ Một người lính trận lăn lộn qua cả cuộc chiến. Tuổi trẻ phải vùi trong bom đạn, lại có tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ? Hẳn khi gặp một nàng thiếu nữ duyên dáng, trẻ xinh... Trái tim ắt phải rung động mãnh liệt lắm! Tình yêu ấy giúp cho tuổi trẻ nhà thơ tưởng đã cỗi cằn, nay sống lại: Thuở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở Say như mơ và mộng như thơ Theo năm tháng được biết thì bài thơ tác giả sáng tác đã vào cái tuổi cập kề lục tuần rồi. Nghĩa là đến mấy mươi năm sau, vào một chiều thành phố mưa rơi? Đã đánh thức trái tim anh, trở về với mối tình xa xưa: Thành phố lại mưa... Có nghe không em? con chim trời, cá nước Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua Hình ảnh "con chim trời, cá nước" ở đây, muốn nói về sự xa cách và tình yêu đã trôi vào dĩ vãng. Như con chim bay trên bầu trời mênh mang. Con cá ở ngoài sông xa tít tắp. Dẫu thế, bên tai anh vẫn văng vẳng tiếng yêu thương ngày nào tựa khúc mưa chiều dìu dặt. Em có nghe thấy và còn nhớ tới không? Trái tim thi nhân thổn thức hoà lẫn trong tiếng mưa thành phố, để cõi lòng bật lên thảng thốt: Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa... Những dòng thơ trào ra nỉ non, tha thiết: Tiếng mưa rơi não nề thao thức Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan Bèo dạt sông trôi, buồm anh không bến đỗ Chân trời vương vấn dải mây lan Lòng người thì hoang vu với vài đám mây trôi. Tất cả hoà quyện nhau để khắc hoạ tình yêu ở trong mưa. Tôi xin phân tích đoạn cuối cùng: Ôi cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch... Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em? Các văn nghệ sĩ thường hay nói: Cuộc sống như một cái sân khấu lớn. Ở trên đó, mỗi con người là một nhân vật hay một vai diễn? Có phải vậy nên nhà thơ Phạm Ngọc Thái mới viết: Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch… Tôi nghĩ: Chẳng qua chỉ vì mối tình đã tan trong tiếc nuối, nên tác giả mới buông ra lời ca thán như thế? Bởi vì, nếu mối tình xa xưa ấy cũng chỉ như màn kịch thật - Và nhà thơ với người con gái cũng chỉ là vai diễn? Thì sự chia tay là tất nhiên, khi cái sân khấu đã đóng màn và tình yêu đã hết. Đằng này, mấy chục năm trôi qua nhưng lòng nhà thơ vẫn còn lưu luyến đến thế? Tưởng như máu tim anh vẫn đang rỏ xuống mỗi dòng thơ... Anh đã quá yêu người con gái đó nên mới buông ra lời qui tội cho cuộc sống đó thôi! Với những dòng tri kỷ ở trong thơ, hẳn cô gái cũng rất yêu anh - Vậy, vì sao cả hai người cùng yêu nhau mà mối tình lại tan? Ta không biết. Chỉ biết tác giả đã phân bua: Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em? Tôi còn nhớ bài thơ "Hoa huệ" của nhà thơ Bế Kiến Quốc (1949-2002), đã viết: Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng Sao bóng hoa trên tường lại đen? Em đừng nhìn đi đâu thế em Anh không biết vì sao, ai có lỗi... Ở đây, hình ảnh của bông hoa đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Bông hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng kia là thật. Nhưng tất nhiên bóng của nó hắt lên tường sẽ thành... đen. Ý nhà thơ muốn nói: Tình yêu có hai mặt - Nếu mặt trước của nó là hạnh phúc, niềm vui sướng và đam mê say đắm - Thì mặt sau của tình yêu lại là nỗi đau khổ vô hạn khi tan nát. Sẽ trở thành bi kịch, thất vọng của cuộc đời. Nhưng chính nhà thơ Bế Kiến Quốc cũng không lý giải nổi mối tình của mình đẹp thế, sao lại vỡ? Ông xa xót mà thốt lên: Anh không biết vì sao, ai có lỗi... Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi Sao bóng hoa trên tường lại đen? Xin trở về với bài thơ “Em ơi! Thành phố lại mưa” - Khi mối tình không thành mà chẳng lý giải nổi vì sao? nhà thơ cũng chỉ biết than: Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em? Phải chăng bởi duyên trời, hai người không có phúc phận được sống bên nhau? để cho con tim năm tháng phải dày vò, tiếc nuối? Để những chiều mưa rơi thành phố - Anh thi sĩ lại thổn thức vì thương nhớ người yêu, mà sáng tác lên những áng tình ca bất hủ để lại cho đời. Bài thơ đã được kết: Anh đứng giữa trời mưa, làm những vần thơ xao xác Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang Cũng không phải người con gái kia là cánh chim hoang đâu, chính là lòng nhà thơ vất vưởng, vô vi như một bóng chim hoang. Tư duy thơ sâu. Ngôn ngữ, hình ảnh sinh động. Làn điệu nhụy nhàng mà không rơi vào sự bóng mượt nhàm chán. “Em ơi! Thành phố lại mưa” là một bài thơ tình mưa hay và mộng. Nguyễn Thị Hoàng (Trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại”, 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.04.2021 17:26:58 bởi Nhân văn >
CHÙM THƠ CHỌN 5 PNT NGHĨ VỀ HÀ NỘI Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng Những ngọn đèn, ô cửa mùa đông Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỉ niệm Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp Rùa. Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự Của những đôi trai gái bên bờ Tà áo trắng em bay, một thời thiếu nữ Theo anh hoài tới tận lúc già nua Hà Nội mới mà như là cổ tích Phía nhà ga đoàn tầu đến rồi đi Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi Ai trở về, và ai sắp chia ly? Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa… HÀNG CÂY LÁ ĐỔ Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió Ta lang thang qua lá đổ hàng cây… Bản tình xưa em hát ở đây Nơi ngày nay, xác các con thiên nga đã chết Ôi, hàng cây! Cùng ta... bao đêm từng tha thiết Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ! Xin rụng một bông buồn lắt lay GIÓ SẼ MANG TÌNH TA BAY MUÔN PHƯƠNG Tặng Đỗ Thị Ánh Tuyết Anh hôn em, hôn mãi chẳng muốn thôi Em lại muốn gửi tình theo cơn gió Gió mang tình đi muôn phương: Em bảo thế! Người đàn bà đẹp như bông hoa tươi. Có một buổi cùng anh giữa đất trời Em lại hỏi: Em phải nằm bên nào, anh nhỉ? Ở bên trái thì thuận hơn, anh ạ! Ôi, em của tôi - Thật đáng yêu, cưng ơi! Tình yêu em tựa thiên thai buổi sớm Tâm hồn hương ngát nhụy hoa thơm Anh đã qua sắp hết đời trần thế Bỗng cháy rực trời... tuổi hoàng hôn... Người đàn bà, nếu ta thiếu em Như trời kia thiếu vòm xanh để sống Em mới hoàn mỹ lòng khát vọng Anh mang về đưa lên tận cung trăng Một mai kia trong thế giới vĩnh hằng Có em bên. Nàng tiên sa hạ giới... Kiếp vô thường là nơi ta tạm gửi Nhớ giữ chặt anh mà theo tới chân mây Có Đức Phật Như Lai với Bồ Tát đón mời... Ta sẽ có chỗ ngồi trên Đất Thánh Hậu thế tưởng niệm ta. Đời ngưỡng vọng. Đặt lên mồ em những đóa hoa thơm. Là người tình chung thủy của thi nhân Đốt ngọn lửa yêu trong tim anh. Buổi chiều tà lạnh giá. Anh đền cho em cả biển tình anh đó! Cùng trời xanh để em sống muôn năm Có thể một ngày !? Trên sông nước Tiền Giang Gò Công quê em, đời xây đài kỷ niệm Với bóng em bên anh, nụ cười trìu mến Một tấm hình đẹp nhất giữa quê hương Gió sẽ mang tình ta bay muôn phương… CÓ MỘT KHOẢNG TRỜI Có một khoảng trời để thương, để nhớ Là khoảng trời ở đó có em Những bóng cây in trên đường phố thân quen Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc Có một khoảng trời không ai thấy được Dẫu đêm nào chớp cũng loè lên Có ánh chớp không kéo theo tiếng sét Mà rung ngân, rung ngân… trong tim! Khoảng trời gió thổi xót đêm Hoá sắc cầu vồng nối hai miền thương nhớ Cây tình yêu lớn theo cấp số Ngược trời về cho ta gần ta Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa (xa thật đấy mà cũng gần thật đấy) Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy Thổi về phương em giữa chiều gió nổi Hạt vô tư còn lại… những tàn tro… NHÌN TRĂNG NHỚ EM Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ Chúng mình đến với nhau không còn thơ bé Nhưng lòng tha thiết yêu thương. Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng Cả tới khi không còn trăng nữa Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ Đưa anh vào giấc mộng ru đêm. Để cùng nhau say cảnh thần tiên Cho quên hết biển đời ngang trái Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi Chân trời sẽ lụi tàn nếu chẳng có tình em. Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn Đêm nằm thao thức vấn vương. Trăng không còn. Em vẫn hiện lên... Dìu anh qua phong ba, bão táp Trong giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt Anh bay về ôm lấy trăng em. Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến Chẳng đảng phái nào sánh được hơn. Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con" Sống mãi muôn đời dù thay bao chủ nghĩa Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm. BÀI CA XỨ SỞ Con tàu vô tư cứ chạy Qua cánh đồng nước Đức, những hàng cây Có một con tàu cũng đang chạy trong tôi Tiếng nghiến rít trên đường ray máu rỏ ! Tôi muốn viết bài ca xứ sở Không kêu than mà hát giữa lòng đau Quê hương tôi yêu ! Tổ quốc tôi yêu ! Đất có nghèo đâu, sông núi có nghèo đâu ? Nền văn hiến cũng ngàn năm phong nhụy Đến hoa lá bốn mùa mưa gió Biển xanh trời... cá đầy khơi... Tính mẹ cần cù từ buổi mới xa nôi Khi chống gậy còn lựa từng bông thóc lép Cha đánh giặc về lại bền tay cầy cuốc Nắng xém ruộng chiêm, lúa xanh đồng Em gái mười năm chung thuỷ chờ chồng Bông hoa tặng ai hương xa vậy ? Cái cửa sổ ngỏ cô nhà hàng phố "Mà hương thầm thơm mãi bước người đi"… (*) Con tàu tôi vẫn chạy lắc lư Dẫy phố tôi lớn lên, còn nhỏ nghèo lắm bụi Ngôi chùa cổ mái cong, vườn đầy cỏ dại Bức tường ngăn nay đã xanh rêu Bóng mẹ còng một đời còng mãi Thân cò khuya tần tảo những đêm đêm Mẹ trở về, mẹ trở về… trong nỗi cô đơn Thắp nén nhang chồng Lấy nước mắt xoa lòng già héo. Em ở lại với con ở lại Anh ra đi tấm áo bát cơm Đau xé ruột vẫn đành rời đất ! Tôi đi giữa quê người Những thành phố đèn nê-ông chói mắt Nhớ quê nhà dãi nắng, dầm sương Giàu đất, giàu người, giàu bể, giàu non Người ơi người ! Tình thương đừng vợi cạn… Viết trên chuyến tầu lên Berlin 29.12.1988 (*) Thơ của Phan Thị Thanh Nhàn ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA Trời không mưa, áo em đâu có ướt Chỉ ướt lòng em, cô gái nhỏ của anh Em ngả vào anh mà hình như có khóc? Tiếng con tim thật rõ bên mình. Mùa thu đã qua, ta nghe lá rụng Buổi cuối cùng em đến để chia tay Ngày mai em lấy chồng, phải xa vĩnh viễn Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi! Kìa không mưa mà áo anh lại ướt Mùa thu đi. Sao nắm mãi bàn tay… Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát Bao năm trời… hồn anh vẫn mưa bay? Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ Phố vắng em buốt giá cả canh dài Em dại lắm, lấy chồng làm chi vội? Đưa em sang sông rồi, lòng mới biết đã yêu ai! Ta lại bước lang thang trên phố ấy Đến mỗi gốc cây, có vệt cũ em ngồi Tiếng hát xưa đưa, bờ hồ gió thổi Bóng với mình đi mãi tới ban mai Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến, đã chia tay…
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.08.2021 11:28:10 bởi Nhân văn >
MỘT BẢN TÌNH ĐAM MÊ MAN DẠI Diễm Loan KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*) Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Mai chết rồi làm nước tắm cho em... Hồ Núi Cốc, đêm 9.7.1997 (*) Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc! Lời bình: Vào một đêm mưa gió. Không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận. Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng. Một niềm đam mê man dại. Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị. Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên. Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc được dựng lên bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về. Và chính giữa đêm mưa gió, tình thi diễm lệ ấy đã ra đời! Gọi là "Khóc bên Hồ Núi Cốc" nhưng bài thơ không phải là tiếng khóc, mà là một khúc tình ca: Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo, hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba: Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc một thế giới tĩnh lặng của tim óc con người (bên trong), cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả tình yêu trong nó. Đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng: Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay... Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả: Rõ màu trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên. Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của "Khóc bên Hồ Núi Cốc" chỉ là bức tranh ảo. Bởi ấn tượng từ kí ức, cồn cào trong trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể, mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca, đâu phải là một bi kịch tình. Những yếu tố cảm xúc của bài thơ này, theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, hoà phối với dòng thơ lãng mạn. Ngôn ngữ, hình tượng hàm súc, cô đọng - Không viết chảy tràn theo tình cảm như nhiều thi nhân trong phong trào "thơ mới", thời tiền chiến ở nước ta. Sang đoạn thơ hai, là sự liên kết giữa câu chuyện huyền thoại xưa, nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái – Với câu chuyện đời nay: Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non... Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ quyết quyên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng hoá thành non. Tình yêu là ý nghĩa tồn tại của đời ta: Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con! Ba chữ "khoảng đời con" ở đây mang theo ý nghĩa ẩn dụ. Ý nói rằng, không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy, thử hỏi: Sự sống tồn tại trên trái đất này để làm gì? Không có sáng tạo hay tiến bộ xã hội nữa. Không có ý nghĩa của cái "khoảng đời con", thì cũng không có sự vĩ đại !? Người than cho câu chuyện tình của nàng Công, chàng Cốc trong trời đất? Cũng là để than cho chính mình. Mượn người xưa mà nói nỗi đời nay. Ý, tình cứ rền xiết lên nhau, như hai câu trong đoạn thơ cuối: Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Tôi bình sang đoạn ba - Đoạn thơ máu thịt nhất của bài: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Khi mưa gió phủ táp xuống hồ núi, nghe như tiếng của câu chuyện tình xưa đang nghiền xé: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /- Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau. Nghĩa là, trời đất cũng để tang cho những linh hồn son sắt của tình yêu! Nói về thủ pháp nghệ thuật sáng tác của tác giả trong đoạn thơ ba: Lấy ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, nuôi một câu thơ thật - Thật và rất đời. Chính là câu thơ hai trong đoạn: Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! "máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu. Thơ ngả sang màu siêu thực. "Bức phù điêu" đã được sáng tác trong thiên nhiên kì vĩ kia? Bởi có máu và nước mắt của đôi trai gái tắm vào trong nó - Nghĩa là cả trong bất hạnh đau thương, tình yêu cũng là bản tình ca bất hủ… trong vũ trụ và cuộc sống con người. Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời. Chế Lan Viên đã định nghĩa về thi ca: Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ. (trích di cảo CLV - Bờ bên kia ) Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới của nó! Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ hai của đoạn: Nếu không có "vú người yêu", thử hỏi - Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa, để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này: Nếu không có vú người yêu, thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? "Cắn vú người yêu…" là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ: Hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng. Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca, đưa bài thơ đi xa trên bến-bờ-thi... Chỉ xin nói thêm một chút nữa về câu thơ cuối cùng: Mai chết rồi làm nước tắm cho em... Xuân Diệu thì nói rằng: Anh không xứng là biển xanh Nhưng cũng xin làm bể biếc Còn đây, tác giả lại viết: "mai chết rồi…" - Phải, con người có thể làm bao chuyện phi thường? Lên cả vũ trụ mà chinh phục sao hoả, sao kim… Sáng tạo những phát minh khoa học vĩ đại… Chế ra cả tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử, đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu - Ấy thế mà, liệu còn gì có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh… hay chỉ một bồn nước trong nho nhỏ, tắm cho cuộc đời và thân thể của người yêu? Đấy, nhà thơ của bài "Khóc bên Hồ Núi Cốc" này chỉ muốn kết tình thơ ở đó !? Tùy đời suy ngẫm. Diễm Loan (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.09.2021 17:53:25 bởi Nhân văn >
SỰ THĂNG HOA CỦA BUỔI TÌNH CHIỀU Kiều Tuấn CHIỀU HOÀNG HÔN Chưa đi đến tuổi già Mà yêu hoàng hôn đỏ Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao... Soi mặt nước xanh veo Trầm tư và lặng lẽ Đàn muỗi phố đã kêu Quanh bàn nơi quán nhỏ Chiều đang buông dần chiều Sợi tóc mình ngơ ngác Có nên bạc hay không? Tuổi trẻ sợ già nhanh Giờ điềm nhiên đến lạ Cái màu hoàng hôn đỏ Cháy như là khai sinh! Ôi, hoàng hôn hoàng hôn Trái tim là bất diệt! Ngày mai anh có chết Cũng nhẹ như lá vàng Hồn mây gió lang thang Mà đầm đìa mưa bão Đời, tư lợi không tham Chán trò danh bốc hão Mang suối tóc của em Đi rồi yêu vĩnh viễn Anh sẽ hoá rừng thông Ngàn năm reo cát, sóng... Lời bình: Vào một chiều trước khi trời tối, bóng hoàng hôn chiếu hắt trên nền trời qua làn mây xa đỏ rực. Nhà thơ ngồi trong một cái quán nhỏ bên phố, ngẫu cảnh tình mà viết ra: Chưa đi đến tuổi già Mà yêu hoàng hôn đỏ Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao... Con người sớm yêu bóng chiều hoàng hơi cô liêu này, hẳn cõi lòng cũng đã đi vào độ sâu lắng của cuộc đời. Nhưng đây là cảm xúc trước cái mầu đỏ cháy rung rinh như sắp muốn nổ tung trong trời đất, hoà cùng tâm trạng bồi hồi, suy tư của nhà thơ: Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao... Bắt đầu vào thơ nó đã tiên báo về sự bùng nổ của nội tâm tác giả. Sang đoạn hai: Có một cái gì đó hình như hơi đìu hiu, quạnh quẽ đã hắt lên trong hồn anh: Soi mặt nước xanh veo Trầm tư và lặng lẽ Rõ ràng sự trầm tư lặng lẽ này đã không hề còn trầm lặng? Xung quanh thì: Đàn muỗi phố đã kêu Quanh bàn nơi quán nhỏ Chiều đang buông dần chiều Những con muỗi kêu vo ve ở ngoài đời khi nó đốt ta đến khó chịu, nhưng được đưa vào trong thơ lại trở thành hình ảnh rất thi vị - Tạo cho Chiều Hoàng Hôn nằm trên một bức phông cảnh đời rất thực. Đời sống ấy đang thường nhật. Những nét thơ phố này càng làm cho tình thơ thêm sống động. Đến đoạn ba thì nỗi lòng sâu kín nhất trong tác giả như mạch suối ngầm được bắn oà ra: Sợi tóc mình ngơ ngác Có nên bạc hay không? Nhân cách hoá mái tóc nhà thơ là câu thơ hay! Nó ấp ủ tâm tư thầm kín của tác giả chạnh nuối về thời tuổi trẻ? Khi nhà thơ tự hỏi: Có nên bạc hay không?/- Có nghĩa là, chính đầu anh đã chớm bạc mất rồi. Phải chăng cũng như Xuân Diệu đã viết: Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi... tình non sắp già rồi! Nhưng không, bên một chút buồn vừa thoáng qua lòng tác giả - Ta lại thấy một mảng đời khác đang xô đến, vụt phá trong tâm hồn. Đó chính là cái nửa cuộc đời chiều đang khai hoa, kết trái và đầy niềm tin yêu đẹp đẽ: Cái mầu hoàng hôn đỏ Cháy như là khai sinh! Để lòng nhà thơ bình thản, ung dung mà đón nhận tuổi hoa niên của đời mình. Sở dĩ tác giả đã có một triết lý sống an nhiên, thanh thản… còn xuất phát từ một nỗi lòng sâu xa khác? Trong đoạn thơ sau đó đã nói tới: Hồn mây gió lang thang Mà đầm đìa mưa bão Đời, tư lợi không tham Chán trò danh bốc hão. Anh trở về với sự yên tĩnh thanh tao để sống cho trọn nghĩa. Nếu có phải từ giã cõi trần ai này, thì lòng cũng chỉ nhẹ thoảng như một làn gió bay… Một bóng chiều hoàng dần tắt, sau một ngày đã đốt hết mình để nắng. Khi trái tim anh đã đập trọn vẹn với đời: Ôi, hoàng hôn hoàng hôn Trái tim là bất diệt! Ngày mai anh có chết Cũng nhẹ như lá vàng Hình ảnh chiếc lá vàng rơi mang ý nghĩa của sự vô vi, cát bụi. Song điều đáng nói ở đây, bao trùm lên cả chính trị, triết học là “tình yêu và cuộc đời”! Chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già. Nó đã được vụt lên trong bốn câu thơ kết, tạo thành một bức phông cảnh hoàn bích nhất của bài: Mang suối tóc của em Đi rồi yêu vĩnh viễn Anh sẽ hoá rừng thông Ngàn năm reo cát, sóng... Đó chính là bản tuyên ngôn của “Chiều hoàng hôn”: Bài ca “tình yêu và cuộc sống”! Cát và sóng - Phải, trên biển cả mênh mang trường tồn vô định kia? nó xoá đi bao hạnh phúc lẫn khổ đau của con người. Cát cứ xoá… Nhưng ngàn năm thì sóng vẫn xô… vẫn vỗ… vẫn thét gào trên biển cả - Sự sống mãi mãi còn tồn tại. Bản tuyên ngôn về tình yêu bất hủ đã kết lại tình thơ. Nó đi về phía mặt trời, mặt trăng của sự sống vĩnh hằng, bất diệt! Kiều Tuấn (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.04.2021 12:56:37 bởi Nhân văn >
NỖI ĐỜI TRONG CHỐN NHÂN QUẦN Hoàng Ngọc CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ Một đêm hồ nước đầy sương gió Người đi không rõ mặt người Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng Em thầm thì quét lá, bên tôi… Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim! Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ Trong cõi lòng tôi buồn triền miên Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa… Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng Cô quét lá đêm hồ, khe khẽ vào khuya. Lời bình: Vào một đêm sương gió. Nhà thơ đã gặp "cô quét lá" bên hồ nước (chính là người quét rác trong phố khuya) - Đó là những con người lao khổ. Cuộc sống cũng giống như những chiếc chổi tre ngày tháng quét lê trên đường, mòn vẹt dần đi: Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim! Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy kêu xiết vào trái tim người thi sĩ, và những giọt thơ từ trong anh rơi ra. Thông qua bức chân dung "Cô quét lá đêm hồ"… Nhà thơ muốn phản ánh cuộc sống, cùng nhân ảnh của những con người lao động trong cõi dân gian. Giữa khối lòng buồn, tình buồn của tác giả - Nhưng lại ở trong cõi mộng: Nó mơ mộng đến mức, hình ảnh cô quét lá trên đường hóa thành như tiên nữ từ trong tranh bước ra… lặng lẽ đi vào bến bờ thi: Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ Trong cõi lòng tôi buồn triền miên Tấm hình bức chân dung trở thành siêu thực. Cảm giác vừa xa xót, vừa mộng mơ hòa quyện trong tâm hồn tác giả, như ở đoạn thơ hai ta vừa phân tích : Tạo thành nhân cốt rất đời của bài thơ! Sở dĩ tôi nói “nhân cốt đời", bởi vì: Nếu ta phân tích tới hai câu đầu của đoạn thơ thứ ba, sẽ lại gặp một nhân cốt khác nữa? Nhưng nó đã là hình ảnh mang tính tượng trưng, ra khỏi bến trần ai thường tình: Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa… Nhà thơ tâm sự: Nhìn sâu vào trong đêm đó… giữa anh và cô quét lá đêm hồ ấy, như có hai khoảng đời cách biệt? Một đằng anh thi sĩ mộng mơ, còn em lại đang quét lá rơi. Nói một cách khác, em đang lao động kiếm tiền vì miếng cơm manh áo, còn tâm trí nào mà cảm đồng với những xúc cảm lãng mạn của nhà thơ? Chung quanh tiếng lá cây reo nghe bình thản một cách lạnh lùng. Bóng trăng trên đầu cũng trở nên nhợt nhạt, côi cút trong cả khoảng không gian vô tận, vô bờ… Cô quét lá có cô đơn không? Nhà thơ không biết! Em cứ thầm thì lặng lẽ quét, chẳng hề để ý đến sự có mặt của anh lúc đó. Nhà thơ thấy chính lòng mình cô đơn. Câu thơ: Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Đã ra đời như thế! Bóng trăng trên đầu đã được hóa thân để kết hợp với câu thơ dưới: Con nai vàng chết bóng thu xưa... Nhưng vì sao lại có cảnh con nai vàng bị chết giữa bóng của rừng thu? Từ nỗi đời mà ra. Hình ảnh cô quét lá cứ quét ngày, quét tháng như chiếc chổi tre… năm tháng mòn vẹt dần đi - Còn con người những kẻ bần khổ ấy làm gì có "nhân ảnh" trong xã hội? Họ làm gì có tâm trí mà mộng với sầu như cố thi nhân Lưu Trọng Lư, mơ đến cảnh bóng con nai vàng của Tiếng Thu kia? Thế là từ cảnh ngang trái của đời nảy ra ý ngược thơ: Con nai vàng trong rừng thu phải chết !? " Con nai vàng ngơ ngác / Đạp trên lá vàng khô " /- Trong thơ cố thi nhân: Nó bọc chứa cả thế giới huyền ảo như cổ tích, nằm bên trong tình thơ - Còn hình ảnh "con nai vàng chết" của bài thơ "Cô quét lá đêm hồ" này: Ý nghĩa xã hội lại nằm bên ngoài tình thơ. Nó phản ánh sự mất mát, cả giá trị đời sống cũng như tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nâng tầm vóc của bài thơ cao lên! Tôi xin quay trở lại bình đoạn thơ mở đầu: Một đêm hồ nước đầy sương gió Người đi không rõ mặt người Miêu tả cảnh trời sương gió (nghĩa đen), để phản ảnh cảnh lầm lụi gió sương của những con người lao động (nghĩa bóng). Hình ảnh hồ nước: Biểu tượng về nước non xứ sở, mảnh đất mà mồ hôi họ đã tắm vào trong đó. Thế mà họ lại: Người đi không rõ mặt người… Đấy chính là nhân ảnh của nhân gian? Chẳng khác nào những kiếp phù du - Nghĩa là, bài thơ không dừng lại ở thân phận cô quét lá. Nhà thơ đã chạnh lòng nghĩ đến những kiếp đời của chốn nhân quần. Cái lớp người thời nào mà chẳng phải chịu những sự bất công? Sống vật vã suốt đời chỉ để lo miếng cơm, manh áo. Đến cuối bài, hình tượng nhân ảnh mờ mịt này, còn được tác giả nhắc lại một lần nữa: Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng Suốt dọc bài thơ: Từ không gian gió sương đến cuộc sống con người, cái chổi tre, vầng trăng, rồi cả bóng con nai vàng... đều là những hình ảnh làm biểu tượng. Ta hãy nghe tác giả tả về cảnh liễu hồ: Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng Em thầm thì quét lá, bên tôi! Cái tiếng liễu đìu hiu ru quanh hồ vắng, bên những bước đi âm thầm của cô quét lá: Cảnh ấy, đời ấy... như Nguyễn Du đã viết: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Đã được hòa tấu bằng một giọng thơ lắng đọng và hơi hiu hắt. Có lẽ chỉ những rặng liễu kia đã cùng thức để cảm đồng với nhà thơ mà lặng lẽ ru cuộc đời cô quét lá? Đưa ta vào khoảng không gian thật mơ hồ : Nửa thực, nửa không. Nhà thơ xót với nỗi đau đời mà hóa buồn chăng? Chính trong tâm trạng ấy, cô quét lá đêm hồ thành thơ rơi vào cõi lòng anh. Ở ngoài kia, xa kia… Cô quét lá vẫn đang lặng lẽ quét, lặng lẽ đi, khuất dần vào trong sương tối. Khoảng không gian giờ đây, chỉ còn nghe thấy những vần thơ của thi nhân !? Vẫn vọng lên ở đó… với bóng trăng ngàn thu cô đơn soi mãi trên đầu, đi vào cõi muôn năm. Hoàng Ngọc (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.04.2021 17:40:45 bởi Nhân văn >
MỘT BẢN TÌNH MƯA NGỌT NGÀO Thảo Hoàng MƯA BAY TRONG TIẾNG CHUÔNG
Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện Nam-mô-a-di-đà! Trong khúc mưa bay âm vang trời đất Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... Vi vút tầng cao con lá rụng Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ Chân ta bước dưới khuông trời thành phố Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ. Thoắt tình đã vào xa vắng Mình anh với bóng nhớ hoài em Hồn như cánh chim vô định Mái tóc em bay, làn mưa mênh mang Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức? Kia không gian thao thiết gót chân mềm Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm. Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: Trong làn mưa bay thành phố, có một người thi sĩ đang lang thang nhớ bóng người yêu: Vi vút tầng cao con lá rụng Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ Chân ta bước dưới khuông trời thành phố Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ Đọc đến những từ "con lá rụng": Hình ảnh của những chiếc lá đang chao hiu hắt giữa tầng không - Tôi bỗng liên tưởng đến câu thơ trong KIỀU của Nguyễn Du: Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường Đây là hình ảnh của vầng trăng cô quắt, khi nhớ bóng người đi xa. Mảnh trăng cô độc ấy: Nửa thì lọt qua song cửa soi lên chiếc giường chăn đơn, gối chiếc của Kiều - Nửa dõi theo cái bóng đã khuất dặm trường của chàng Thúc Sinh ở tận phương trời. Trở lại với bài "Mưa bay trong tiếng chuông" - Tuy hình ảnh ở bài thơ của Phạm Ngọc Thái không đến mức sầu muộn, thê lương như hình tượng câu thơ trong Kiều? Song, những "con lá rụng..." đang bơ vơ bay giữa khuông trời đêm cô đơn kia, cũng làm cho lòng ta xốn xang cùng với nhà thơ. Những tiếng sóng bên hồ lao xao vỗ theo bước chân anh. Cảnh mưa đó lại được hoà tấu bằng sự đồng vọng của tiếng chuông chùa buồn. Đó cũng chính là tiếng lòng thương nhớ của anh thi sĩ, với người con gái đã xa xăm. Ba cái cảnh: Trời mưa, tiếng chuông và sự cô đơn - Tạo nên một bản tình xô-nát âm vang trong trời đất. Giọng điệu thi ca ngân nga: Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ Tôi trở lại với đoạn thơ đầu: Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện Nam-mô-a-di-đà! Trong khúc mưa bay âm vang trời đất Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... Suốt bài thơ, làn mưa và tiếng chuông chùa cứ thao thiết trong nhau, hoà vào tâm tình của người thi sĩ. Cái tiếng chuông thỉnh lên lời cầu nguyện "nam-mô-a-di-đà" ấy: Phải chăng cũng là tiếng khắc khoải nguyện cầu, thao thiết trong anh? Anh đi trong khúc mưa bay với một tâm hồn trống trếnh, chơi vơi: Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... /- Sự mơ màng như thể đang dẫn người đến bên cửa phật. Một bài thơ tình ở chốn thánh thần, làm cho tình thi vừa thân thương lại thêm màu huyền hoặc. Đến đoạn thứ ba thì người mới thực sự tả về em: Thoắt tình đã vào xa vắng Mình anh với bóng nhớ hoài em Hồn như cánh chim vô định Mái tóc em bay, làn mưa mênh mang. Bóng người con gái hiện ra cũng rất hư hao. Chỉ nhìn thấy trong làn mưa, mái tóc em đang vương bay. Tâm hồn nhà thơ thì như “cánh chim vô định" - Nghĩa là mông lung, không có bến bờ, cõi vô cùng. Một tâm hồn lạnh lẽo, cô liêu! Hình ảnh thơ như ẩn, như hiện... đưa ta hút sâu vào cùng tâm trạng nhà thơ. Cũng chẳng khác là bao với tâm trạng của kẻ nhớ người ở tận phương trời, trong Chinh Phụ Ngâm: Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây Hình tượng thơ của bài "Mưa bay trong tiếng chuông" được sử dụng đầy chất hội hoạ: Hồn vô định, mưa mênh mang, khúc mưa bay, vọng giữa mưa đêm, khuông trời, gió... trăng... dìu dặt, người và bóng, bản nhạc thơ.... Không gian thực mà ảo. Hiện tại và quá khứ đan xen trong nhau, để nói về nỗi tình da diết của nhà thơ với người thiếu nữ đã xa. Tôi xin bình sang đoạn thơ cuối cùng: Ôi, tiếng chuông gảy lên bao kí ức? Kia không gian thao thiết gót chân mềm Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm. Những kỉ niệm trong kí ức tràn về theo tiếng chuông. Hình ảnh người con gái từ câu thơ: Mái tóc em bay, làn mưa mênh mang /- Đến đây, nhà thơ nhớ lại những ngày cùng dạo bước bên người yêu: Kia không gian thao thiết gót chân mềm /- Cả bóng trăng khuya, con gió dặt dìu, tiếng chuông và làn mưa... cùng hoà trong bản tình xô-nát bên hồ ấy: Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm... Hai câu cuối thật hay! Với giọng thơ khoan nhặt, cả bản tình như được tắm vào trong vũ trụ của cuộc sống và tình yêu con người. "Mưa bay trong tiếng chuông" như có tiếng ru êm ả thấm vào hồn ta, cho lòng ta say. Một cái say thâm trầm, da diết. Ngôn ngữ và làn điệu tha thiết. Hình ảnh lại hư hao như ở chốn bồng lai, cõi phật! Cuốn hút cảm nhận của ta đắm chìm vào trong đó. Trong đoạn thơ cuối: Từ gió, ánh trăng, làn mưa đêm và tiếng chuông chùa... ẩn hiện với bóng hình và bước chân thiếu nữ - Đó là một bản tình ca đằm đìa, xao xiết dưới gió trăng! Như câu thơ đã kết: Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm Một bản tình mưa thật ngọt ngào. Thảo Hoàng (Trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN”, 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2021 17:11:48 bởi Nhân văn >
MỘT TƯỢNG THẦN THỦY CHUNG Trương Vũ Tiến Đảo Hòn Chồng ở biển Nha Trang (Ảnh: ST)
TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN (1)
Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang, gần Hòn Chồng. Truyền kể: Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó nhiều năm tháng, chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là một tướng cướp trẻ , dẫn theo một đạo quân cướp bể. Thuyền bè của họ bị bão biển đánh đắm. Đi đã không về. Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ... Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay. Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời. Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ (xin lỗi những mảng đời ta đang có Đôi lúc thèm được bám rêu xanh). Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông Ta, con chim đã trúng bao vết đạn Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn Chốn vô cùng. Ta muốn hỏi Mỹ Nhân? Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại “Cây thánh giá cuộc đời" anh đặt dưới chân em! Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long Anh nguyện với nàng cả đời vui thú Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi! Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy Đã kể tôi nghe, chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy! Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay... Lời bình: Đứng trên Hòn Chồng vào buổi sớm mai, mặt trời lan toả những ánh nắng vàng rực rỡ. Nhìn ra một dải núi nằm giữa biển Nha Trang - Người ta thấy nổi lên đôi gò núi, giống như đôi gò vú của một nàng thiếu nữ. Nàng đang ngả mình phơi nắng. Triền núi xanh thoai thoải làm nên thân thể nàng. Khe núi xanh chạy dài xuống mặt sóng, như mái tóc nàng xoã ra biển. Người Sài Gòn lên chiêm ngưỡng cảnh đẹp, gọi là Núi Mỹ Nhân! Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là viên tướng cướp trẻ của một đạo quân cướp bể. Trong một chuyến đi xa, thuyền bè của họ đã bị bão biển đánh đắm. Xác dạt vào bờ hoá thành bãi sỏi đá. Hiện vẫn còn dấu tích tại đó: Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ... Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay. Cái bóng nàng Mỹ Nhân vẫn nằm ở đó để làm một tượng thần trong trắng. Giữa chốn đời thường xô bồ mà tạc vào năm tháng: Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời Những ngày sau chiến tranh. Nhà thơ đã lên đây. Anh còn là một người lính từng trải nghiệm cả tuổi trẻ của mình, trong chiến trận đầy máu lửa. Bài thơ đã được anh nhớ lại để viết vào gần 20 năm sau đó. Đứng trước tượng thần Mỹ Nhân trong trắng kia - Anh chính là sự minh chứng của lịch sử. Những thương tích chiến tranh, dù bao bom đạn đã bắn vào thân thể cũng chỉ là nỗi đau thể xác, nhưng nỗi đau nơi nhân tình thế thái này đã bắn vào cả trái tim, tâm hồn anh… còn đau đớn nặng nề hơn. Đó mới chính là vết đạn ngàn thu, bao giờ lành lại được? Cho nên, dừng chân nghỉ lại trước bờ biển đầy sóng gió mênh mang, ngước nhìn nàng Mỹ Nhân - Anh mới thốt lên rằng: Ta, con chim đã trúng bao vết đạn Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân? Anh muốn ngả vào lòng nàng, trong vòng tay êm ái của tình yêu nàng. Phải! Chỉ có nàng, chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa bớt được vết thương sâu nhói tận trái tim anh: Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ. Nhưng trong cuộc đời thực này: Tình yêu của nàng Mỹ Nhân âu lại cũng chỉ là mộng ảo? Dẫu vậy, anh vẫn muốn ngủ trong tình yêu ấy để quên đi chốn nhân tình thế thái. Quên hết đi cái cõi đời mệt mỏi, hỗn loạn và đầy rẫy những lo âu: Xin lỗi những mảng đời ta đang có Đôi lúc thèm được bám rêu xanh... Tôi xin đi sâu phân tích vào đoạn thơ thứ năm của bài: Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại... Hình ảnh của đỉnh núi Mỹ Nhân nằm giữa biển khơi xanh, chờ người chồng đi xa mãi, không trở về? Tình của nàng chỉ có vầng nguyệt tháng năm soi tỏ. Dù sông cạn, đá mòn, nàng vẫn thuỷ chung. Ôi, sự hoang dại tạo hoá chẳng phải là đỉnh cao hùng vĩ muôn đời, trong thế giới hỗn mang mà chúng ta đang sống hay sao? Đó cũng là chính kiến của nhà thơ trứơc thần tượng vĩnh hằng! Sự thần tượng tình yêu với người đàn bà đã được tác giả dồn nén vào trong câu thơ cuối đoạn: “Cây thánh giá cuộc đời" anh đặt dưới chân em! Người Nhật thì đặt thanh gươm trên đầu người đàn bà. Người Pháp lại đặt thanh gươm dưới chân người đàn bà. Cho nên, nhà thơ mới phát biểu quan niệm, chính kiến của mình về sự tồn tại trong thế giới này: “Cây thánh giá cuộc đời" anh đặt dưới chân em!/- Đến đây tình thơ đã được đẩy cao lên ý nghĩa thời đại, hình ảnh thơ bốc lửa và cháy sáng. Cùng với đoạn thơ thứ sáu, làm thành hai đoạn thơ trung tâm, cốt lõi nhất của bài. Tôi phân tích tiếp về đoạn thơ thứ sáu ấy: Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi! Đàn bà, đúng là cuộc sống không thể thiếu được họ. Thiếu họ, cuộc đời ta sẽ trở nên hoang tàn, vô nghĩa. Nhưng chính đàn bà cũng đem đến cho ta bao mệt mỏi. Có nhiều khi ta chỉ muốn vào quách trong chùa để đi tu, sống cho yên. Có họ và không có họ đều dở cả. Họ là thiên đường trong cuộc đời ta, nhưng cũng là âm phủ. Họ vừa là tiên nữ, lại vừa là quỉ dạ xoa. Chả trách, thi sĩ Tản Đà đã từng một thời tìm đường lên núi định tu tiên, dứt bỏ chốn hồng trần. Nhưng rồi ông vẫn lại phải quay về với cõi đời thường, để sống tiếp cuộc đời chán chường với bao nỗi đoạ đầy. Vì lẽ đó, đứng trước đỉnh núi Mỹ Nhân thanh cao, nhà thơ mới thốt lên: Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long Anh nguyện với nàng cả đời vui thú Tình chan chứa, hình ảnh sinh động làm cho bài thơ sâu sắc nghĩa đời, gắn liền vào cuộc sống. Trước Núi Mỹ Nhân thật sự là một bích phẩm. Tình thơ đã đạt đến độ viên mãn để lưu lại cho nền văn học nước nhà. Trương Vũ Tiến (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2021 17:38:26 bởi Nhân văn >
CHÙM THƠ CHỌN 6 PNT CỬA QUÁN Bà chủ quán bước lên xe mô-đéc Đeo kính gọng vàng Những cô gái ngồi ở lan can Mặc toàn váy ngắn Mùa thu rơi sau kính… Anh thi sĩ hoá thằng gù Nhà thờ Đức Bà Pa Ri! KÍ ỨC MÙA THU Mùa thu khuấy lên bao kí ức Xác thời gian trôi trên tóc em Em đi trong trăng… mùa thu thổi gió… Lá vàng rơi mênh mông Em đi qua mùa thu không gian Trăng rãi đồi con gái Nhớ đến lâu cái hương con gái Nó thơm say và rất nhẹ nhàng Đường dạo ấy trên đồi trăng sáng Đêm chia tay em dúi cả vào anh Để bóng lạc suốt đêm ngoài phố Mây lãng phiêu mãi không về… Giờ đây chắc trên đồi thông đó Gió vu vi và trăng vu vơ Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió Mùa thu lang thang chẳng bến bờ. TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN (2) Em nằm trong tiếng sóng vỗ bao la Làm núi đợi! Lặng im cùng năm tháng Tình yêu ấy hoá tượng thần trong trắng Khi thế giới ta thay đổi đủ sắc màu Bóng em nằm vời vợi cao siêu Chối bỏ hư danh và không tính toán Thiên thai ấy - Cuộc sống xô bồ này Đâu là lẽ sống? Máu trong người với đá, thứ nào hơn? Em là cái đích cuối cùng, ta hướng đến triệu năm Triệu năm nữa chắc chỉ là ảo ảnh Tình yêu văn minh: Gia tốc hợp, gia tốc tan Đỉnh núi Mỹ Nhân ơi! Ta quấn lên đầu nàng thêm một vành khăn trắng… Ta từng yêu em ta cả tâm hồn bão loạn Để cuối cùng thân số vẫn cô đơn! Ta từng say bằng thứ rượu whisky choáng váng Tỉnh lại rồi xin quì gối trước sơ nguyên Ta đã yêu em cả trong phản bội Với tình yêu không thể gì đánh đổi Vì trần đời là thế, nàng ơi! Chỉ có mỗi trái tim Vừa hoá đá cho thơ. Ta vừa phải làm Người! Hồ Tây
THIẾU NỮ ĐI TRONG CHIỀU MÂY
Hoàng hôn buông tím đổ mặt hồ Gương nước xôn xao với nhà thơ Lá bay xào xạc khua vọng gió Một cõi lòng ai tận bến mơ Em đi bảng lảng bên Hồ Tây Đôi mắt huyền trong gió heo may Dáng em mềm mại như nhành liễu Cô gái chiều mây khuất đám cây Tiếng mõ chùa buông nơi ngả vắng Thiếu nữ nghe mà vẫn lặng thinh Để cả lòng ai thầm vương vấn Nào phải mình anh bước cô đơn? Ôi, Hồ Tây! Chiều mây sương buông Thiếu nữ đi rồi, trời khóc không? Thơ anh từng giọt tan trong nước Hồn trôi vào gió, tới nơi em… Cửa Đền Quán Thánh
TIẾNG ẾCH (*) Tối đó, tôi nhớ tới ông hoàng tử thi ca Xuân Diệu: Với những vần thơ tình một thời, còn sống mãi trong nền văn học nước nhà. * Đêm nghe tiếng ếch vọng đền sang Mấy đám mây đàn bay lang thang Nguyệt cũng cười tình đi tứ xứ Sân nhà có kẻ đứng trông trăng Đêm nghe ếch trầm trầm hồ nước Buồn như con trống cô đơn Tóc ai vương trong gió êm đềm Tình năm ấy, em về quyến luyến… Cái tiếng ếch kêu hoang mà yêu mến Để cuộc đời đang sến bỗng xôn xao Với đôi hồn ong bướm nghiêng chao Hoá mây trắng trôi mãi vào vô định Em đã đi! Rất xa, không thể nào cứu vãn Anh nhặt lên đôi mảnh vỡ, hoang tàn Cái tiếng ếch lẫn vùi vào bụi cát Giọt thơ lòng Anh xoã tóc Áp môi hôn... …… (*) Đêm mưa gió. Cái tiếng ếch vọng sang từ đền Quán Thánh, bên kia Hồ Tây… nghe thật não nùng. Trên đầu bóng nguyệt trôi nhàn nhạt. Đêm hoang xơ. Em lại về với tôi: Mái tóc em bay, tình em quyến luyến… giữa một đống tro tàn, đổ nát cuộc đời. Hồn mây trắng tôi trôi mãi vào nơi vô định. TÌNH THƠ GẶP LẠI Ở TÂY HỒ Em trút lá hay hoa rụng cánh Nước hồ xanh ngắt cả mùa đông Hỡi người con gái thời xa vắng Sớm mai này, anh gặp lại em Cái tuổi học trò ngủ quên vào gió cát Sáng Tây Hồ đánh thức lại trong nhau Anh xin được đưa em về bến hát Phơ phơ mây đã bám hai đầu Nếu có thể anh sẵn sàng đánh đổi Cả cuộc đời để lấy lại em Em vẫn trẻ như hồi thơ dại Vô tư nhè nhẹ tựa vầng trăng Anh vẫn ngủ giữa lòng em, em biết đấy ! Tháng năm qua, một cuộc chiến chinh dài Bao dĩ vãng xanh thềm rêu gió thổi Lửa bỏng chân trời xé nát cuộc đời trai Anh đã đi những miền quê xứ sở Gặp những con người và những yêu thương Tình trong trắng trong lòng không xoá nổi Bụi thời gian rơi rã xuống tâm hồn Xin giữ lại xinh tươi thời con gái Tạo hoá cho mình để mà yêu ! Gặp nhau vẫn biết rồi xa mãi Xa bao nhiêu càng nhớ bấy nhiêu Xin giữ lại dấu hoen, trên làn môi nước mắt Vòm ngực đàn bà lắm lúc có xanh xao Những kỉ niệm như thu về, lá trút Ta hôn nhau mưa đẫm trắng hai đầu Anh lặng lẽ hớp lấy từng sợi nắng Giọt mưa tuôn hay lệ em rơi ? Tình em thắm hay lòng em rã cánh Hồ xanh ơi, ướt hết cả đông rồi ! Ba mươi năm… thời gian trôi qua trôi... Anh quì xuống giơ hai tay đón lấy Những cái lá: lá xanh, lá vàng Những cái lá như mầu hoa lửa cháy Của một đời người con gái đã tàn phai TRONG BÓNG CÂY NGỦ ĐÊM Anh thức dậy khi bóng cây còn ngủ Lòng đơn côi chợt nhớ về em Những nhà ga như có ai mở cửa Con tầu chuyển bánh…một mình anh ! Quán cô quạnh... suốt đời nghe gió hú Trăng chết đuối rồi... trắng dại... đang trôi... Mây lang thang dưới chân trời bão tố Thành phố chìm trong đêm xa xôi Em trở lại mong manh như huyền thoại Vuốt ve trái tim đau nhói của anh Nghe xáo động âm vang thành phố Bằng hồi chuông nơi Thánh-đường-trắng-trinh Trong bóng cây ngủ đêm Có một loài hoa không ngủ ”Loài hoa yêu” xếp đầy cánh hoa đau Hương đã theo anh và con tầu chuyển bánh Đến vô cùng mà chẳng biết đi đâu ? Anh khốn khổ cầm tù con tim khốn khổ Nó muốn bay đi, được âu yếm như xưa Tiếng quả lắc đồng hồ ném thời gian ra gò gió Rồi hát ca trên các bãi vô vi Trong bóng cây ngủ đêm... Nghe cả sinh sôi cùng tàn rữa Bướm mộng mơ về đậu mắt môi em Những ô cửa bật tung, tiếng còi vẫn rú Và con tầu chuyển bánh đến xa xăm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:40:02 bởi Nhân văn >
KHÁT VỌNG CỦA TUỔI HOA NIÊN Ngọc Bích ĐÊM TÓC ĐÁ Nửa đời tóc hoá thành đá cả Rụng vãi thềm đầy phủ quanh trăng Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ Mà nay gò mả, ma rừng… Tai nghe tóc ve bên bà gái goá Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu Có của nhà vẫn còn ham tơ nhú Ngồi chẳng yên. Hồn, dạ cứ vi vu Trên kia nguyệt không quần như đã... Đêm thơm chùa. Trắng dã tấm thân nga Trinh tiết thời nay em mở cửa Ngai vàng còn “dưới” cái em ta! Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: Dường như ban đầu - Nhà thơ chỉ có ý định viết chơi. Mái tóc thời tuổi trẻ của anh, đã từng dan díu với bao nàng thiếu nữ xinh đẹp. Thế mà giờ đây: Nửa đời tóc hoá thành đá cả Rụng vãi thềm, đầy phủ quanh trăng Chỉ còn biết ve vãn bên các bà gái goá. Buồn đến chảy nước mắt: Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ Mà nay gò mả, ma rừng… Đau xót lắm chứ! Nhưng câu thơ sau thì lại thật thi ca: Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu Nhịp thi ca khá uyển chuyển và phong hoa. Tuy mô tả những dòng nước mắt lã chã rơi xuống mùa thu của đất trời, nhưng lời thơ du dương. Nó đối lập với câu thơ khốc liệt trên mà tạo thành tứ hay. Ta hãy đọc lại cả hai câu: Tai nghe tóc ve bên bà gái goá Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu Sự chuyển đổi giọng và nhịp của những câu thơ như thế, mang nhiều tính nhạc. Kết hợp với nghĩa thơ gây một âm hưởng của sự rung cảm trái tim, đưa thi phẩm trở thành một bản thơ trữ tình. Những câu thơ rơi được tác giả nhặt lên ấy, hoà với dòng lệ đời chảy xuống mùa thu xao xiết buồn: Mùa thu của tình yêu… muốn được mơn trớn, vuốt ve: Có của nhà, vẫn còn ham tơ nhú Ngồi chẳng yên. Hồn, dạ cứ vi vu Đành rằng “của nhà” thì lúc nào cũng sẵn! Song, trong dân gian thường nói: Trai nào mà chẳng ham của lạ cơ chứ? Chẳng phải chỉ của lạ mà còn thích em trẻ nữa. Bởi vậy, dù bước vào tuổi hoa niên, thi sĩ vẫn còn “ham tơ nhú…” là vì thế! Nhưng đọc lên, ta chẳng những không chê trách mà còn cảm đồng với nhà thơ. Sang đoạn thơ cuối của bài – Được biết, nhà thơ Phạm Ngọc Thái cùng gia đình ở ngay bên đền Quán Thánh, nên mới có hình bóng chùa chiền trong bài thơ này. Nhưng hình tượng “chùa” ở đây, còn để nói về tính thiền của thi ca. Lúc này nhà thơ đã luống tuổi. Cái tuổi ham thú cảnh sống thiền, hương khói chốn phật đài. Song tác giả lại là một anh thi sĩ, tâm hồn lãng mạn. Bởi vậy, cái hình bóng nguyệt ở trong đêm chùa này đã được hóa thân, để hòa hợp với tâm trạng khao khát tình ái của người: Trên kia nguyệt không quần như đã Đêm thơm chùa, trắng dã tấm thân nga Hình ảnh “trắng dã” là để biểu tượng cho sự khỏa thân của nguyệt – Ý của câu thơ là: Vào đêm chùa thơm hương khói. Nhìn lên thì thấy chị Hằng Nga lại đang cởi truồng… bay trên bầu trời. Nếu ta bóc câu thơ ra, có nghĩa: Sau một cuộc tình trăng gió… Chị Nguyệt trên không trung vẫn chưa kịp mặc quần? Nên mới để lộ cả tầm thân “trắng dã”. Hình ảnh của hai câu này rất hay! Thông qua cảnh để diễn tả khát vọng tình yêu của thi nhân. Thơ đọc chẳng những không thô mà vẫn tạo thành thi vị. Có thể coi “Đêm tóc đá” là một bài thơ tình lãng mạn, ẩn chứa một nỗi lòng hiu hắt và khát vọng tình yêu !? Của một con người khi bước vào tuổi hoa niên: Tuổi của sự cô liêu! Nhưng ngòi bộc phá của bài thơ lại nằm ở câu thơ kết? Nó chứa cả tính “nhân tình thế thái”: Ngai vàng còn “dưới” cái em ta! Một câu thơ cay độc rất Hồ Xuân Hương !? Mang cả ngai vàng vua chúa… đặt dưới “cái” của đàn bà - Ngai vàng là biểu tượng cho quyền lực tối cao của một chính thể: Suy cho cùng, chẳng có cái gì bằng… “cái ấy” của đàn bà. Ý trong nghĩa đen: “cái ấy” là khởi điểm cho cội nguồn của sự sống - Tức là khởi điểm cho cả chính trị và triết học… Về nghĩa bóng: Câu thơ bọc chứa một ý nghĩa xã hội. Chính câu thơ kết ấy? Đã nâng tầm vóc thi phẩm “đêm tóc đá” lên cao trong hàng bậc của thi ca. Ngọc Bích (trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN” 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2021 17:46:00 bởi Nhân văn >
TIẾNG HÁT TÂM TÌNH CỦA ĐÔI TRAI GÁI Ngọc Trâm THÔNG VÀ BIỂN Cuộc sống như đoàn tàu nghiền ta tan nát Con sông thời gian, có mùa thu xanh và bèo cỏ dềnh trôi Anh đứng làm cây thông trên đá, sỏi Vi vu kêu... tình thiếu nữ qua rồi! Cuộc sống - Tình yêu: Trái tim ta vĩnh cửu! Kéo đoàn tàu chạy ngược phía hư không Tháng năm xa… Em hoá biển vô cùng Cùng dấu trong lòng “một loài hoa” tan vỡ! Biển thì xô. Thông suốt đời quạnh quẽ Thân xù xì, nắng héo, mưa giông Gió khát màu trắng tinh da nguyệt Cái thời vú biển hãy còn non… Thời con gái em lưu lại an-bom Đừng buồn nhé! Thành đá chẳng bao giờ già cả Anh vẫn ngủ giữa hồn trinh nữ Nhìn tóc mình biết tóc em phai Vỗ mãi anh thành cát mất thôi Tình chỉ mộng. Đời cũng là hư ảo Biển xa xót, dịu dàng và sóng bão Lời anh ru như gió thổi mây ngàn... Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014
Lời bình: Cây thông trên bờ biển là hình tượng người con trai. Biển ở đây, chính người con gái ấy! “Thông Và Biển” là tiếng hát tâm tình, thủ thỉ của người con trai với người con gái: Cuộc sống như đoàn tàu nghiền ta tan nát Con sông thời gian, có mùa thu xanh và bèo cỏ dềnh trôi Vào đầu bài thơ, ta nghe như có tiếng của đoàn tàu chạy xình xịch - Tác giả mô tả về sự hung dữ của cuộc sống, giống như một đoàn tàu nghiền đời ta thành tan nát. Sang câu thơ thứ hai là hình ảnh về "Con sông thời gian...": Nhịp thơ được trải ra như mặt sóng chảy tràn xuống nhẹ dần, đỡ lấy sự rền xiết của câu thơ thứ nhất. Hình ảnh "mùa thu xanh" làm biểu tượng cho niềm vui sướng, êm ả, hạnh phúc. Còn cảnh "bèo cỏ dềnh trôi" để nói đến những vật vã, tạp nhạp, bức bối đời thường. Đó là hai hình tượng tương phản, lấy trong thiên nhiên để biểu thị cho những mâu thuẫn của đời sống. Đọc lên lời thơ vẫn êm và nhẹ. Cảnh vật có ánh sáng đang cùng chảy trôi trên con sông thời gian. Con sông cuộc đời. Nỗi tình sâu lắng bên trong những hình ảnh, lời thơ. Vậy chỉ bằng hai câu thơ mở đầu - Tác giả đã khái quát về năm tháng và sự sống. Đây là một bài thơ tình được viết ra từ trong cõi lòng và trái tim đang bị dầy vò bởi sự cô đơn: Anh đứng làm cây thông trên đá, sỏi Vi vu kêu... tình thiếu nữ qua rồi! Nhà thơ vọng hát về mối tình xưa. Ta bỏ cách đoạn hai. Tôi bình trước đoạn thơ ba: Biển thì xô. Thông suốt đời quạnh quẽ Thân xù xì, nắng héo, mưa giông Tình yêu không bao giờ yên lặng? Cũng như biển cả cứ gào thét, xô vỗ xung quanh cây thông đứng quạnh quẽ suốt đời. Năm tháng để lại sự mỏi mòn, trống vắng và nuối tiếc trong lòng anh. Chàng chai sạn, xù xì như thân của cây thông, chịu đựng trong "...nắng héo mưa giông": Gió khát màu trắng tinh da nguyệt Cái thời vú biển hãy còn non Rõ ràng đây là thời nhớ về thuở em còn trinh nữ, qua hình ảnh của biển cả. Cái làn gió khát khao đang mơn man xung quanh "màu trắng tinh da nguyệt" kia: Chẳng phải cũng như ngày nào chàng vẫn từng mơn man xoa trên... đôi "tí" của người yêu? Bởi vì ngay câu sau đó, hình ảnh “vú biển” bỗng nhiên được nhảy vào trong thơ. Nếu như cả bài thơ người con gái được hoá thân thành biển, thì đến đây… Chất đời tràn vào hình tượng biển, trả lại thân thể cho người con gái ấy! Thuộc lối thơ " thi cảm tượng trưng". Lại nói về biển mà có...vú, thật siêu hình. Lại còn là thời "vú biển hãy còn non"? Như trên đã nói, thời ấy em vẫn còn trinh nữ. Từ biển, người trinh nữ đi ra - Vú nàng nguyên khôi, non tươi như hoa trái. Như thế, hai câu thơ trong cặp hình ảnh đồng điệu này, diễn tả chung về một biểu tượng: Đôi vú của người yêu! Thơ trở thành có da, có thịt. Đó là những cảm xúc đã mang sự ham muốn về thân thể của người yêu. Tình thơ mãnh liệt hơn. Nếu ví như ánh sáng qua một chiếc gương kính hội tụ - Thì hình ảnh của hai câu thơ ấy chính là điểm hội tụ, phản quang ánh sáng của cả bài. Tình thơ trở nên xao xuyến, có hồn và có xác. Làm cho mối tình trong “Thông và biển” thêm sống động. Tôi xin quay trở lại để bình vào đoạn thơ hai: Cuộc sống - Tình yêu: Trái tim ta vĩnh cửu! Kéo đoàn tàu chạy ngược phía hư không Tháng năm xa… Em hoá biển vô cùng Cùng dấu trong lòng “một loài hoa” tan vỡ! Loài “hoa tan vỡ” ấy chính là "hoa trái tim"! Ngàn năm thông đứng reo với tiếng sóng biển gào bằng trái tim của cả đôi trai gái. Chẳng phải để tạc tình yêu ấy vào trong đất trời đó sao !? Cho nên: Cuộc sống - Tình yêu: Trái tim ta vĩnh cửu! Và hình ảnh đoàn tàu ở câu thơ mở đầu, giờ quay trở lại trong đoạn thơ này. Cái đoàn tàu cuộc sống đó cứ nghiến rít mãi trên đường ray cuộc đời, mà họ đang đi về phía hư không. Tháng năm chỉ còn nghe tiếng sóng biển vỗ vô cùng... Trái tim đôi trai gái thành tan nát. Đến đoạn thơ thứ tư - Hình ảnh người con gái đã tạc vào năm tháng mà hoá đá: Thời con gái em lưu lại an-bom Đừng buồn nhé! Thành đá chẳng bao giờ già cả Năm tháng trôi qua… Họ không còn trẻ, nhưng tình yêu vẫn đó như đôi trống mái giữa biển khơi. Em mãi mãi trắng trong với mối tình trinh nữ giữa hồn anh: Anh vẫn ngủ giữa hồn trinh nữ Nhìn tóc mình biết tóc em phai Cây thông tháng năm trên bờ đầy sỏi đá cuộc đời, để nghe sóng biển gào thét quanh mình: Cô đơn, khát vọng và xót xa! Đến cuối bài, tình thơ trở về với làn điệu ru lòng biển xanh: Vỗ mãi anh thành cát mất thôi Tình chỉ mộng. Đời cũng là hư ảo Biển xa xót, dịu dàng và sóng bão Lời anh ru như gió thổi mây ngàn... Không có tình yêu cuộc đời thật mà ra ảo và năm tháng hoá hư vô. Bên bờ sóng vỗ khi thì xa xót như lòng biển… khi dịu dàng như người yêu… nhưng có lúc biển lại gào thét đầy sóng bão. Đây là đoạn thơ kết có sức rung động, đưa trái tim ta vào hoan lạc trong một bờ bến vô vi. Dẫu vậy, thông vẫn cứ đứng reo bên biển, gió núi, mưa ngàn để hát mãi về tình em. Nó hát rằng: Trong sự tồn tại của đất trời, vũ trụ cùng thế giới: Tình yêu gái trai là bất tử! Ngọc Trâm (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2021 18:41:26 bởi Nhân văn >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: