Lê Quốc Hùng
-
Số bài
:
14
- Điểm: 0
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 26.02.2007
|
Non nước Hùng Vương - Thơ tác giả Lê Quốc Hùng
-
11.03.2022 22:02:56
Non nước Hùng Vương Đền Hùng Thăng Long lẫm liệt Rồng tiên thi sỹ anh hào Sông núi mộng thơ linh kiệt Làm người tâm trí đức cao Say chơi thơ Đường mải miết Đường thi gia đình điểm sao Con là người có cội tìm về Mỗi lá cỏ cây xin được đề Gửi tấm lòng trinh tinh khiết nhất Ngày xưa thương nhớ đến đê mê Đền Hùng Hùng Sơn vời vợi đất Phong Châu Bốn phía sông ôm núi ngóng chầu Tam cấp uy nghi đền phụng Tổ Bách cây lồng lộng bóng che lầu Đường mây bậc bậc người lên viếng Lối gió lâng lâng kẻ nguyện cầu Nam quốc sơn hà Tiên Đế mở Cháu con thề giữ mãi dài lâu! Đế Minh Lộc Tục định Phong Châu Đất đóng kinh đô vạn đại sau Cổ kính lăng đền lưng núi ngự Oai linh địa thế hổ long chầu Chọc trời Tam Đảo Tản Viên thuẫn Khuấy nước Đà Lô Thao thuỷ mâu Bách Việt hà san Hùng kế nghiệp Mở mang bờ cõi đất chôn rau. Biển rộng trời cao đất Việt đây Sông Thao núi Tản ghi nơi này Bốn bề Cổ Tích cỏ cây mọc Tư phía Hy Cương đền miếu xây Tiên mẹ, Rồng cha ban phúc lớn Hồng con, Lạc cháu đội ơn dày Ngày xuân hội giỗ vua khai quốc Lừng lẫy thiên thu truyền tục hay. Đền Hạ Âu Cơ Quốc Mẫu thờ Tương truyền nhà gỗ trẹo ngày xưa Nôi sinh trăm trứng trăm trai tráng Đất mở bách miền Bách Việt sơ Con cháu soi trang bia đá tự Ông Bà lập quốc nước non giờ Trầm tư thiên tuế cây còn đó Vương vấn khói hương về cõi mơ Đền Trung ghế đá vẫn còn đây Thuở ấy Hùng Vương bàn cấy cày Tính quốc tính quân dựng giữ nước Xem trời xem đất gieo trồng ngày Dầy chưng bánh tết dâng tiên tổ Chức sắc vương công thưởng bậc thầy Cây cỏ trăm hoa hương tỏa ngát Ríu rít chim muông nhảy nhót bay Đền Thượng đỉnh non sương khói bay Uy nghi lộng lẫy giữa ngàn cây Kính Thiên Lĩnh Điện cầu trời đất Cột đá Thục Vương nguyện nước mây Hạt thóc khổng lồ thờ Thánh Lúa Anh hùng thơ ấu đuổi beo cầy Bốn nghìn năm ấy cao vời vợi Hoài niệm chín tầng Tiên Tổ xây. Mười tám đời vua lăng tẩm đâu? Hai Bà an nghỉ Hy Sơn sau? Còn đây một nấm HuyVương mộ Nguyên đó hài linh gốc cỏ au Thời Nguyễn xây lăng bát mái nhỏ Cháu con cúng rượu tuần hương sầu Bay lên ngọn khói mờ tâm niệm Chói lọi mặt trời trên đỉnh đầu. Đền Giếng dưới chân Nghĩa Lĩnh sơn Thờ hai công chúa Thủy Tinh hờn Ngọc Hoa lên núi khai dân trí Sương nắng cày voi cất tiếng đờn Về biển Tiên Dung xây phố cảng Mở đường hải ngoại phát ngư thương Còn đây Giếng Ngọc đâu người ngọc? Đã bốn ngàn năm hương khói vờn Tam Sơn Cấm Địa Tam Sơn cấm địa núi non chung Đã bốn thiên niên đất thánh Hùng Núi Trọc Vặn Sơn và Cổ Tích Tre pheo chò chỉ với chim muông Đại bàng thần diệt trừ tham độc Sinh vật linh đua nở lớn đông Sao có kẻ dã tâm chiếm đất Gẫy chân nhà cháy biết hay không? Cổ Tích cao vời Nghĩa Lĩnh Sơn Trăm voi hội tụ xanh trăm non Hổ chầu núi Tản Viên Tam Đảo Rồng phục Lô Đà Thao huyết son Tứ miếu rừng thiêng bay khói xạ Tam quan cổng rộng đón đàn con Người về người ở vấn vương mãi Dòng giống Rồng Tiên vạn đại còn Núi Trọc nghìn xưa, nay mọc thông Ai tìm khối đá cối xay chồng Kẻ trông bốn cõi cầu trời đất Người đợi mười phương nguyện núi sông Ngũ đại đồng đường lên chóp đỉnh Muôn đời chung hướng đến tâm lòng Đồng bào Hồng Lạc muôn xuân phát Non nước hòa bình thỏa ước mong Núi Vặn còn đây kim cổ xanh Chim muông ca hót rộn âm thanh Mơ màng tiếng hú gọi con nhỏ Văng vẳng lời hô thưa mẹ nhanh Mẫu tử quây quần bên cổ thụ Hươu nai tụ họp dưới cây cành Năm mươi nhánh lộc lên miền núi Nam Quốc Sơn Hà Bách Việt thành Khối Đá Thiêng Núi Trọc Khối tròn đá tối linh Các vua Hùng cung thỉnh Thiên đình Hạn khô ruộng, Mưa tuôn vàng ngọc Lòa lụt đồng, Thánh đuổi Thủy Tinh Loạn giặc loạn sâu đều tuyệt diệt Yên dân yên lúa lại hồi sinh Binh đao mấy độ ai cầu Đá Đình chiến Văn Lang hòa thái bình Nhớ cây chò Đền Hùng Đền Hùng Vương từng có cây chò Ngàn trượng vút cao trời đất cho Tán rộng mênh mông che hết thẩy Bao đời thi sỹ vịnh đề thơ Cây mọc từ thời vua mở nước Trông cây lại nhớ tay người trồng Bốn nghìn năm ấy xanh cành lá Bỗng mất một ngày không bão dông Theo cây chu đá lá chu đồng Răng sắt nào cưa cây Lạc Hồng Như cắt lòng người trăm đoạn khúc Đau này ai có xót xa không? Làng Cổ Tích Cổ Tích dưới chân Nghĩa Lĩnh lăng Khởi sinh muôn Cổ nước Văn Lang Cổ Đồ Cổ Sắc Cổ Đô... bạc Cổ Phúc Cổ Đường Cổ Trúc... vàng 4 Thập bát đời vua ở khai quốc Mười lăm bộ nước về chầu làng Bâng khuâng nhớ cội ngàn xưa ấy Còn mãi trăm voi hướng thánh đàng Chín Kẻ Cố đô Văn Lang Vi Trẹo Nuông Nang mở đồng nương Thậm Thình giã gạo tiến quân vương Kim Đơi luyện chữ Lạc Hầu đảm Cẩm Đội rèn quân Lạc Tướng đương Đồng Lú dạy dân trồng lúa nước Gát Tiên thi rể dựng lầu hường Kẻ Trầu kẻ Sủ dinh đồng thiếc 5 Đấu cật vua tôi kiến quốc cường Núi Voi Đầu Cộc Chín chín voi chầu Lăng Tổ Tiên Một voi bất nghĩa phát khùng điên Chạy đi đón giặc về dày mộ Hòng cướp tranh ngôi để tiếm quyền Tới Phú Lộc làng kiếm chém xuống Bay đầu Hùng Bạo sông vùi liền Xác thành núi đứng trơ trơ đó Đã bốn nghìn năm hối hận phiền Đâu cây Mộc Tinh? Đầu cộc Núi Voi vẫn đứng đây Đâu chiên đàn mọc Mộc Tinh cây Thét gào vượn khỉ phá Thần Lúa Làm hại Rồng Tiên tàn tháng ngày Ông Lạc Long Quân chặt gốc đổ Phép bùa thần chú tan tinh bay Núi non sơn cước thái bình mở Mẫu Tổ Âu Cơ dạy cấy cày Trống Đồng Đền Hùng Lộc Tục phát minh đúc trống đồng Các vua tiếp tục tạo điều mong Tượng hình đa dạng tư trường phái Thư hoạ thần kỳ bách Lạc Hồng Tiếng dũng ngoại xâm bay mất vía Âm hùng hồng thủy ngã lăn hồn Thanh hoà lễ hội vui già trẻ Nhạc khí nhiệm màu thánh núi sông Cây Thiên Tuế Đền Hùng Mỗi đông một chiếc lá vàng rơi Cuống dấu ghi thân thêm tuổi đời Nhân chứng nghìn năm trang quốc sử Sách biên trăm trận lửa binh thời Miếu lăng hủy diệt xan bằng địa Non nước hồi sinh dựng ngất trời Con cháu tháng ba hội giỗ Tổ Trước đền Thiên Tuế bóng xanh tươi Hồ Lạc Long Quân Núi Hùng hồ biếc Lạc Long Quân Tượng biển Người về mở dặm xuân Năm chục con theo đua vượt sóng Một trăm đời chẳng ngớt dừng chân Giết kình giành vịnh Hạ Long ngọc Đâm cáo được Tây Hồ nguyệt ngân Quần đảo Cát Vàng Trường Cát bạc Văn Lang muôn hải lý đông ngàn Tháng Ba chảy hội Tháng ba chảy hội đền Hùng Vương Đồi núi trập trùng trăm ngả đường Dốc sỏi hoa sim tim tím nở Mảnh nương nhành kiệu lơ thơ vươn Tam Quan vào cổng bậc trèo đá Ngũ quả vái đền nhang tỏa hương Lớp lớp đồng bào tưởng nhớ Tổ Tiên Rồng non nước bao là thương Mỗi bậc Đền Hùng Mỗi bậc Đền Hùng ai đã đi Hùng Vương mỗi chuyện kể thầm thì Ghẹo xoan khúc khúc ca hoa chữ Văn nghệ trang trang họa nhạc thi Phương thuật bài bài diệt tặc quỉ Sắt cầu quả quả thiêu kình kỳ Lên ba đánh giặc đã là muộn 7 Ngựa sắt ầm ầm phun lửa phi.. Mỗi bậc Đền Hùng ai đã lên Dưới cây hiển hiện bao người hiền Trăm thần khai quốc Việt Thường cổ Vạn vật lập nền sinh thái bền Dương Tử phân mao cỏ rẽ giới Điền Trì dậu gạo cây dào biên 8 Ước ao được hóa hải đường dại Gió bấc lửa hoa ấm núi Đền Mỗi bậc Đền Hùng ai bước lên Mây xanh thăm thẳm cõi cao thiên Bút thần mực thánh thần thư sách Voi chín ngà gà chín cựa tiên Thanh kiếm vàng nồi cơm bất tận Đùng Đà Đổng Cốt 9 sức vô biên Bốn thiên kỷ ấy phi tranh địa Quốc Mẫu hiện hình quân Thục tan Mỗi bậc lên viếng núi Hy Cương Đứng ở bốn đền lòng vấn vương Ông Thái Học tuyên thề phục quốc Giang Phu Nhân cầu nguyện noi gương Nghìn xưa nhi nữ quân vương ái Vạn hậu anh hùng mỹ nữ thương Dấu dấu hoa chân in bậc đá Tạc vào vạn kỷ Rồng Tiên trường Mỗi bước chân ai bậc núi Hùng Mỗi hồn thanh thản đến vô cùng Gió mây cây cỏ tiền nhân thấu Đồi núi đất trời Thượng Đế thông Người đục người trong người tối sáng Kẻ may kẻ rủi kẻ đen hồng Âu Cơ Đức Mẹ gương soi xét Qui chính bỏ tà theo Tổ Tông Mỗi bậc Đền Hùng ai đã qua Không nguôi bài học giữ sơn hà Vua tôi chung đúc hành nhân nghĩa Phụ tử luyện rèn kiến quốc gia Nước thái dân an cần có chữ Cơm no áo ấm ắt về ta Trừ tham trừ độc trừ ngang bạo Mất vía sài lang tự chạy xa Đền Hùng mỗi bậc một trang thơ Quá khứ tương lai vẫn hiện giờ Nam Quốc Sơn Hà một cội thực Kính Thiên Lĩnh Điện chín tầng mơ Tản Đà non nước chầu lăng phụng Hồng Lạc cháu con bái mộ thờ Tổ thánh tôn thần xây đại nghiệp Núi sông Bách Việt phất cao cờ Mỗi bậc Đền Hùng một áng văn Muôn đời con cháu lên tri ân Làm vua lập quốc nuôi trăm họ Mở núi khai sông dưỡng triệu dân Cùng cuốc cùng cày cùng đánh giặc Chung ăn chung ở chung ca xoan Ra đi để lại âm công lớn Vằng vặc một trời sao nghĩa nhân Mỗi bậc Đền Hùng sương khói mờ Lời ru vương vấn Mẫu Âu Cơ Hơi may mát mẻ con an ngủ Mai mốt khôn ngoan nước cậy nhờ Trong ấm ngoài yên trăm họ thái Dưới nhường trên kính bách dân thơ Trường sinh vạn đại nòi Hồng Lạc Vẳng tiếng ầu ơ trong gió thu Lê Quốc Hùng
|
|