TẬP THƠ HAY NHẤT CÓ LỜI BÌNH – Phạm Ngọc Thái
- MẤY LỜI DẪN GIẢI - Đó là tập sách dày khoảng trên hai trăm trang xuất bản, lấy tên: "Tập thơ HAY NHẤT & NHỮNG LỜI BÌNH" Do thi nhân Phạm Ngọc Thái lựa chọn, biên soạn từ trong các tác phẩm đời thi ca của mình – Cũng có thể coi tập sách là một sự cô đúc tinh túy... của Tuyển phẩm “Minh chứng về chân dung một thi hào dân tộc” mà chúng tôi đã cho đăng trên Web. Việt Nam Thư Quán này: http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=897650 Nguyễn Thị Hoàng
Hiện bản thảo tập thơ đang được tác giả gửi đi các công ty sách, nhà xuất bản trong nước và cộng đồng Việt ở hải ngoại – Tìm nơi com măng phát hành? Để bản rộng rãi ra thị trường cho quảng đại quần chúng có điều kiện thưởng thức. Thơ ca Hồ Xuân Hương chỉ vẻn vẹn trong vòng 50 bài – Bà vẫn được đánh giá thuộc chân dung hàng đại thụ, trong mấy nhà thơ lớn nhất Việt Nam: Nguyễn Du - Nguyễn Trãi – Hồ Xuân Hương (Dựa theo tác phẩm “Ba thi hào dân tộc” của Xuân Diệu) Tác phẩm “Tập thơ hay nhất và những lời bình” của Phạm Ngọc Thái tuy chỉ một tập sách vừa phải, nhưng đó lại là cả ngọn thi sơn sừng sững – Một tượng đài thi ca tự do hiện đại hàng đẳng cấp cao, để lại cho nền văn học nước nhà. Một tuyệt phẩm thi ca có một không hai trong đương đại - Chính tác giả cho đăng trọn vẹn dưới đây. Mời quí vị cùng các nhà phê bình lý luận văn học đọc và suy ngẫm. Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:51:37 bởi Nhân văn >
PHẠM NGỌC THÁI Tập thơ HAY NHẤT và NHỮNG LỜI BÌNH LỜI GIỚI THIỆU Thi phẩm gồm 65 bài thơ tự do hiện đại, tinh hoa nhất được chọn lọc trong đời thi ca Phạm Ngọc Thái – Trong đó 27 bài có lời bình thơ đặc sắc, thơ hay lấy từ các tác phẩm đã xuất bản của anh: - Phạm Ngọc Thái phê bình và tiểu luận thi ca 2013 - Chân dung nhà thơ lớn thời đại 2014 - Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam 2019 Riêng về phần thơ: Trong 65 tình thi, một phần lớn đã được rút ra trong tập "64 bài thơ hay", Nxb Hồng Đức 2020 - Chỉ có một bài "Mấy lời trăng trối đầu xuân" là tác giả mới sáng tác, còn lại số bài khác trích từ "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019. Có thể nói, 65 tình thi là 65 viên ngọc bích với những cung bậc khác nhau: Đa sắc, đa dạng và phong phú… phản chiếu trong sự nghiệp thi ca của anh. Dù là thơ tình hay thơ đời, hầu hết đều đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nghệ thuật, cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Trần Việt Thịnh - Nghệ sĩ phim truyện của Đài truyền hình Việt Nam, trong bài "Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sỹ" đã viết: " Nếu thơ ca là một ngôi đền kì vĩ và cao sang, thì Phạm Ngọc Thái là một tín đồ của không nhiều tín đồ trong ngôi đền đó. Thơ anh hầu hết là thơ tự do, ít tuân theo niêm luật, song nó chứa đựng nhiều mặt của cuộc sống... Anh mượn thơ như một công cụ để lý giải sự đời. Thơ anh bao gồm nhiều đề tài, thể loại. Thể loại nào cũng đậm đà, sâu sắc đến lạ kỳ!". Về thi pháp - Những người tìm hiểu sâu về thơ Phạm Ngọc Thái thì thấy không hề giống Xuân Diệu, Huy cận hay Thế Lữ... mà ảnh hưởng nhiều của Hàn Mặc Tử. Đậm chất dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu... và tính triết lý trong thơ Chế Lan Viên. Số bài thơ tình lại phảng phất giọng điệu thi ca (qua bản dịch Thúy Toàn) của thi hào Nga vĩ đại Pushkin. Với thi phẩm "Tập thơ hay nhất và những lời bình" này - Tác giả đã chủ định chọn lựa cho đầy đủ thơ viết qua các thời kỳ với mọi góc cạnh cuộc đời: Hạnh phúc, khổ đau, đam mê, sung sướng... Có lúc lại rơi vào tâm trạng dầy vò, trăn trở. Đôi bài tác giả đã sáng tác từ những năm tháng chiến tranh, nơi chiến trường máu lửa, khi mà nhà thơ còn là một người lính. Thơ viết trong thời kỳ ở nước ngoài, thơ tình, thơ đời, thơ quê hương đất nước, thơ khóc con... Song chiếm đa phần về thơ hay Phạm Ngọc Thái, chính là mảng thơ tình: Hình ảnh thơ huyền thẳm, ý nghĩa sâu xa - Ngay vào đầu tập, tác giả đã giới thiệu liền “Bảy bài thơ tình hay hàng đỉnh” của đời thơ mình. Đó là các bài: Sáng thu vàng, Nhìn trăng nhớ em, Váy thiếu nữ bay, Em về biển, Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối, Anh đứng nhìn theo bóng chim câu, Người đàn bà trắng. Đọc bảy bài thơ tình hàng tuyệt phẩm thi ca này, đã cuốn hút, hứa hẹn với người đọc: Về một tác phẩm thi ca rất đáng chiêm ngưỡng, thưởng thức. Tôi đã từng bình luận về thơ hay xưa nay, rằng: “Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, thơ của mọi thời đại - Đó là loại thơ có hàng đẳng cấp cao nhất. Không kể Kiều bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay trong thi đàn xưa nay, như: Đèo ngang của BHTQ / Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương / Thương vợ - Tú Xương / Thu điếu - Nguyễn Khuyến / Tràng Giang - Huy Cận / Tranh lõa thể - Bích Khê / Tương tư - Nguyễn Bính / Đây thôn Vỹ Dạ; Mùa xuân chín; Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử / Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH. / Thuyền và biển - Xuân Quỳnh...”. "Tập thơ hay nhất và những lời bình" của Phạm Ngọc Thái thuộc loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm đó! Một tác phẩm thi ca hay và tầm vóc, điển hình nhất của thi nhân - Xin được giới thiệu cùng bạn đọc thưởng lãm. Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:53:13 bởi Nhân văn >
A. BẢY BÀI THƠ TÌNH HAY HÀNG ĐỈNH SÁNG THU VÀNG Tặng Bích Đào Gặp lại em một sáng thu vàng Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố Với trời xanh, hồ xanh gió Gió đưa làn tóc em bay Sáng thu này trĩu cả hàng cây Đô thành dịu mát Ông lão ngồi bên gốc cây, bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời Bà xúc tép váy khều khào nước. Một thời xa lắc Em nghiêng chao về một thời xa. Người con gái đã thành chính quả! (phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha) Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà... Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở... Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu. Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn. Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang Những con đường xưa tắm hơi em Môi em cười... hoa lá nát đau thêm Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh. Một mùa thu lá lá Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan. NHÌN TRĂNG NHỚ EM Tặng Ánh Tuyết Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ Chúng mình đến với nhau không còn thơ bé Nhưng lòng tha thiết yêu thương Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng Cả tới khi không còn trăng nữa Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ Đưa anh vào giấc mộng ru đêm Để cùng nhau say cảnh thần tiên Cho quên hết biển đời ngang trái Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi Chân trời sẽ lụi tàn nếu chẳng có tình em Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn Đêm nằm thao thức vấn vương. Thần thánh hiện hình trong một mảnh trăng em Dìu anh qua phong ba, bão táp Giữa giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt Anh bay về ôm lấy em thương. Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến Chẳng đảng phái nào sánh được hơn. Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con" Sống mãi muôn đời dù thay bao chủ nghĩa Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm. VÁY THIẾU NỮ BAY Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên Nguyễn Du * Váy thiếu nữ bay để ngỏ Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở Tìm vào cung cấm của em... “Bờ bãi con người” em trổ hoa trái ngọt Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm. Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian Có phải đó khúc quân hành nhân loại Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh. Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý! Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang. EM VỀ BIỂN Quê em thành phố biển Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả... Xô mãi bờ với lá thông reo Người thiếu nữ ấy, dần thành cát trắng Mang nỗi niềm, không biết đã đi đâu? “Bờ bãi đời người” - Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen, chân Phật Tổ! Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu. Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu... Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ, ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh. Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây! Nhớ những buổi đón em, bên cổng trường sinh ngữ Tóc nửa bạc rồi. Chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.10.2022 19:02:48 bởi Nhân văn >
ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI Em nói với tôi rằng: “Muốn có một đứa con…” Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm Năm tháng dáng hình em hiển hiện Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi! Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm. Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu. Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu Nhưng ta đã bên nhau, sưởi ấm mùa đông rét Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh. Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em! Chỉ hóa kiếp mình, tiếp cuộc trường sinh Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ Với mối tình nồng thắm của em yêu. Nếu giây phút nào, em lạc bến cô liêu Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau. Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc Khi tuổi già, có vợ vẫn cô đơn. Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu. ANH ĐỨNG NHÌN THEO BÓNG CHIM CÂU Tặng người nữ sinh của thời yêu Mấy chục năm rồi, em ở đâu? Ơi, người con gái của thời yêu Chiều nay thành phố trong mưa lạnh Anh đứng nhìn theo bóng chim câu. Kìa! Dáng hình xưa lại hiện về Gót thon bước nhẹ dưới đường quê Gió bay mái tóc hương thơm ngát Để cả trời xanh phải đê mê. Tiếng hát ai đưa vọng bên hồ Đã xa năm tháng hãy còn mơ Mắt em thăm thẳm soi làn nước Tận đáy hồn anh cứ ngẩn ngơ. Chiều nay mà ngỡ buổi chiều nao Vẫn đến trường em lối cổng vào Đón cô thiếu nữ xinh xẻo ấy Chạy đến bên anh tủm tỉm chào. Thôi thế, hết rồi - Bé yêu ơi! Bụi cát lầm lên phủ cuộc đời Giá em mãi tuổi đôi mươi nhỉ Và anh cũng đừng vội già người. Mấy chục năm trời, em ở đâu? Anh đứng nhìn theo bóng chim câu… NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy... (Kỷ niệm Bích Đào) Chiếc mũ trắng mềm, em đội bàu trời Khóm mây trắng bay, nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Em đi, về... chao những hàng cây Hồ gió thổi, lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Xoã ngang vai mái hất tơi bời. Nỗi niềm thao thức Những đêm trăng nước... Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Đường xưa đó về đây, em ơi! Những con đường đã đầy xác lá rơi Xác ve, xác gió và xác của mưa. Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi, suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau. Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:55:09 bởi Nhân văn >
LỜI BÌNH CHO CÁC BÀI THƠ HAY HÀNG ĐỈNH “SÁNG THU VÀNG” MỘT THIÊN TÌNH CA TUYỆT HAY (Bài thơ xem ở trên) Lời bình: “Sáng thu vàng” được sáng tác trong khoảng không gian thiên nhiên, bên câu chuyện tình như truyền thuyết. Đó là một buổi sáng đô thành dịu mát, có: Ông lão ngồi bên gốc cây, bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời Chữ "vói" nghe như tiếng sáo trúc réo rắt vút lên trong mùa thu. Ở bên hồ, bà xúc tép "váy khều khào nước...". Đô Thành hôm nay đang ngày càng trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, thương mại hoá, thị trường kinh tế hoá. Song, tình thơ lại gợi cho ta nhớ về một Hà Nội của ký ức đã xa xưa. Sang đoạn thơ ba, câu chuyện tình mùa thu thực sự mới được bắt đầu - Nhưng nó đươc nối với đoạn thơ thứ hai, bằng hai câu: Một thời xa lắc Em nghiêng chao về một thời xa Cả một mùa thu nghiêng chao theo người con gái, nhắc lại một thời đôi trai gái từng hạnh phúc yêu nhau. Hình ảnh của người con gái hôm nay được hiện lên: Người con gái đã thành chính quả! Có nghĩa, giờ đây nàng đã thành một người đàn bà trẻ. Như qui luật sinh nở của tạo hoá: Thiếu nữ năm xưa đã khai hoa, kết trái. Hai chữ "chính quả" nghe như có cả tiếng kinh nguyện của chùa chiền, báo về sự đắc đạo của nàng. Một sự chuyển hoá từ tiết trinh sang tiết hạnh. Có lẽ lúc này khi gặp lại người tình xưa ấy, lòng nhà thơ đã vấn an nơi chốn cửa thiền, nên ngôn ngữ thi ca mới chứa chất tính phật đài như thế. Cả đến câu sau khi anh miêu tả: Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha Năm tháng tất thảy đều không tránh khỏi qui luật rêu phong. Nói đến khối tình trần tục mà thơ đượm màu sắc phật. Ta hãy nghe tác giả tả về nàng: Đôi mắt em bóng trúc bay xoà... Đây là đôi mắt đẹp của mùa thu thăm thẳm, mơ màng. Bóng trúc phủ trong đôi mắt, thơ trừu tượng. Hai chữ "bay xoà" mang màu sắc ảo rợp lên. Hình tượng thơ từ trong cảm rung, thần xuất mà thành. Còn: Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở... Để nói lên cả tấm thân, làn da, vóc dáng đến tâm hồn nàng toát ra một vẻ đẹp dịu dàng, mơ mộng như trăng. Tác giả hạ một câu kết đoạn: Nghe không gian, đổ vỡ cả mùa thu! Ta nghe như có tiếng mùa thu rơi, đổ sập từ trên trời cao xuống. Tức là trái tim và tâm hồn chàng đang tan vỡ! Có thể coi đoạn thơ thứ ba này là thần cốt, điểm hội tụ chói sáng của tình thơ. Nó chứa đầy ngọc bích trong hình ảnh, ngôn ngữ, đưa “Sáng thu vàng” lên tầm vóc của một bài thơ mùa thu đặc sắc. Những đoạn bốn-năm-sáu sau đó, phát triển cùng với những kỉ niệm xưa và nỗi lòng tan nát của nhà thơ. Mùa thu vàng trống vắng, xa xót bay rợp bóng xuống ngổn ngang: Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn. Tình yêu thiếu nữ như một cánh rừng hoang ư? Hay thiếu nữ đi… để lại trong anh cả một cánh rừng hoang? Nghĩa là, trái tim chàng cũng đã đi theo người con gái mất rồi! Ở đoạn thơ thứ năm: Môi em cười, hoa lá nát đau thêm Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh. Hoa lá đến mức độ phải héo hắt, nát đau trước đôi môi người đàn bà trẻ - Thì không biết đôi môi em hấp dẫn, chan chứa đến mức nào !? Đều là những hinh ảnh tượng trưng. Về nghệ thuật: “Sáng thu vàng” được xây dựng theo nhịp điệu như một cánh võng mùa thu. Làn điệu thơ chuyển dần - Đầu tiên thì đưa nhẹ: Với trời xanh, hồ xanh gió Gió đưa làn tóc em bay... Người con gái tóc xoà bay trong gió. Giọng thơ ru uyển chuyển. Sang đến đoạn bốn và năm, cánh võng được đẩy lên bay bổng: …Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông …Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang Một cánh võng mùa thu chứa trong lòng nó mọi điều về mối tình đôi trai gái. Đến đoạn cuối thả xuống một mùa thu xòa ra, đầy lá: Một mùa thu lá lá Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Nơi gặp gỡ em ngày xưa giờ đây quạnh vắng, cỏ dại mọc đầy lên - Để rồi tác giả kết bài: Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan... Chẳng ai nuốt được mùa thu cả !? Chữ “nuốt” đầy sắc thơ siêu thực. Em đi để cả mùa thu trống vắng còn ở lại, hay đã mang theo mùa thu đi mất rồi? Ai có thể trả lời - Không ai cả, vì chính tác giả cũng không thể trả lời. “Sáng thu vàng” phảng phất phong dáng của trường ca. Một mùa thu của tình yêu, toả bóng xuống thi ca. Tuyết Thúy (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:56:03 bởi Nhân văn >
"EM VỀ BIỂN" MỘT MỐI TÌNH ĐẦY LỆ Lời bình: Bài thơ kể về mối tình của một cô nữ sinh trường với nhà thơ, nỗi thơ đầy nước mắt: Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. "biển" ở đây là thành phố quê hương của người con gái (như trong tựa đề bài thơ đã viết), nhưng hình ảnh biển còn là biểu tượng của bãi-biển-đời-người hay là tình-em-biển-cả: Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả Xô mãi bờ với lá thông reo Cái hàng thông năm tháng đứng trên bờ biển hát, hữu tình và da diết của thiên nhiên với con sóng xô nát bờ, khắc khoải mãi về người trinh nữ. Một biển cuộc đời đầy sóng bão, người sống trong nó và... nó có thể nghiền nát con người: Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng Mang nỗi niềm không biết đã đi dâu? Người con gái ấy đã đi không trở lại. Hình ảnh "cát" trong bài thơ này mang màu sắc thơ siêu thực, tức là dạt vào trong chốn cát bụi đời người... Tôi xin phân tích về đoạn thơ ba: “Bờ bãi đời người” - Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen, chân phật tổ! Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu. Tình yêu của em đưa ta về nơi thánh thiện. Em chính là cả toà sen nát bàn phật tổ của đời anh! Thế mà, trên "bờ bãi đời người" thân phận em vẫn nổi chìm như kiếp rong rêu. Thì ra tình yêu không chỉ mang cho ta hạnh phúc, mà còn là bi kịch đớn đau trong cuộc đời. Đây là bốn câu thơ hay nhất bài, hình tượng đã đạt đến điểm đỉnh, khái quát nội dung tư tưởng của toàn bài để đưa tấm phẩm bích Em Về Biển vào trong miếu mạo của thi ca. Đoạn thơ tiếp: Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh. Tình cũ như ngọn đèn càng khêu càng cháy. Người con trai cũng như cây thông mòn mỏi mãi, năm tháng dần thành mục ải... thì mối tình trong trắng thơ ngây, thơm mát như ban mai của người con gái xưa lại hiện về xoa lên nỗi đau của lòng anh. Hình bóng người sinh nữ cứ lặng lẽ, âm thầm mà cào xé tưởng như những trận bão lòng không dứt. Em Về Biển tuy không đi sâu vào miêu tả tấm thân bên trong của người con gái, hồi ức chỉ phục lại những ấn tượng có tính điển hình, như: Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại Hay là: Những nát tan vòm ngực đã thương đau Nghĩa là không thấy những hình ảnh yêu thương trần tục xuất hiện trong tình thi này, chỉ có những hương vị thơm tho, thanh thoát, nên thơ... nhưng vẫn đầy cảm xúc da diết, mộng mơ mà năm tháng không phai nhoà trong anh. Đời hiện hữu mà tình yêu lại là ảo ảnh. Cuộc sống chỉ còn là một bãi cát vô vi, trắng phau để những trận bão tố lòng anh thổi mãi không thôi. Đến đây một mảng thơ hiện thực được tràn vào, tình thơ lại càng thêm tha thiết: Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi! Anh còn đây, Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ... Những buổi đón người yêu bên cổng trường... gợi lại bao nhiêu kỷ niệm để nói về một thời đôi trai gái đã say đắm yêu nhau. Ta có thể mường tượng, bóng trăng huyền diệu thuở ấy, bước chân em đi nhè nhẹ, những chiếc lá rơi khẽ khua lên xào xạc. Ôi! Tấm thân của người con gái như một tảng thiên thạch trinh trắng vô vàn, cuốn hút cả những linh hồn. Chạm vào thiên thạch ấy, mọi sức mạnh đều tiêu tan mềm nhũn để tan hoà thành nước. Ánh mắt, đôi môi, cả cặp "tuyết lê" trắng ngần, trinh khôi của người thiếu nữ tựa như đôi mỏm núi kỳ vĩ nhô lên làm nên luỹ thành sừng sững nghìn năm, là thiên kiệt tác nhân sinh của loài người. Khi ta áp môi hôn, khi đôi bàn tay man dại của tạo hoá đặt vào đó, nó nóng hổi và huyền thoại... Nhà thơ đã từng sống qua nửa thế kỉ, chứng nhận bao điều lớn lao cùng những điên đảo xẩy ra trong thế giới loài người, để cuối cùng anh lại quay về, chỉ ngợi ca người yêu bất tử hơn mọi thứ trên đời. Thế mà đời người như bóng câu bay qua trong vòm trời vô định, tất cả đều tan vỡ lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Như những dòng thơ kết thúc trong Em Về Biển này : Tóc nửa bạc rồi, chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! Mái tóc sương nhà thơ soi xuống dòng sông vô cùng, vô tận của thời gian, lẫn nhoà trong tiếng gió mưa phủ kín đất trời. Năm tháng qua đi lặng lẽ mà héo úa, như bao chiếc lá vàng rơi rụng xuống, phủ lên trên những hồi ức về người con gái xưa một nấm mồ tình. Phương Tuấn (Trích tập “PNT phê bình & tiểu luận thi ca”, 2013)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:56:58 bởi Nhân văn >
“ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI” MỘT KIỆT TÁC THƠ TÌNH Lời bình: "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" chia thành chín khổ, ba mươi sáu câu. Cảm xúc dồn dập chảy trào ra trong trái tim nhà thơ. Bắt đầu bằng lời thổ lộ của người tình gái với ước muốn của nàng: Em nói với tôi rằng: "Muốn có một đứa con…" Trong tình yêu của người đàn bà, mong muốn có một đứa con là ước nguyện máu thịt cả cuộc đời. Ở bài "Hai sắc hoa ti-gôn", nữ sĩ T.T.KH từng mô tả hình ảnh của người tình trong mộng. Nàng nhớ về thưở xa xưa, chàng đã bộc lộ tình yêu thương với mình: Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, Thở dài trong lúc thấy tôi vui, Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!” Còn bài "Anh sẽ về theo dòng lệ em tiếc nuối": Đó không phải chỉ là khát vọng riêng của ái nữ, mà đã hòa vào dòng yêu thương tha thiết của chàng. Ta nghe, nhà thơ bộc bạch niềm tâm tư ấy: Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm Năm tháng dáng hình em hiển hiện Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi! Nàng trở thành ngọn lửa để sưởi ấm trái tim chàng. Với nhà thơ, đây là mối tình của “buổi hoàng hôn cuộc đời", lại phải sống cách xa nhau. Nhà thơ đã than: Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát Và anh thổ lộ: Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm Câu chuyện tình có vẻ lâm ly. Anh yêu nàng mãn đời, mãn kiếp, cho tới khi chỉ còn một nấm mồ xanh cỏ - Chà, tình thật đắm say. Những dòng thơ chảy ra từ trái tim, trở thành câu chuyện tình không khác gì truyền thuyết. Ngẫm rằng, họ thương yêu nhau không chỉ đến bạc đầu, mà sang kiếp khác vẫn còn yêu: Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu. Sợ người yêu khi đó sẽ tủi lòng vì phải sống trên đời một mình? Chàng an ủi: Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét Anh hôn lên đôi môi em, như một vầng trăng khuyết Thấy cả bàu trời du ngoạn cõi hồn xanh Ví đôi môi người yêu tựa một vầng trăng khuyết, đẹp quá! Hình ảnh đầy tính mỹ học, huyền thẳm. Lại nữa, anh hôn lên đôi môi em thấy cả bàu trời du ngoạn: Thơ thăng hoa tới tột đỉnh. Ở trong bài thơ "Người đàn bà trắng" - Nhà thơ Phạm Ngọc Thái từng đem hình ảnh trời đất để tả người yêu, rất hay: Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Trong đời thi ca Phạm Ngọc Thái, bài thơ "Người đàn bà trắng" rất có tiếng tăm trên văn đàn - Song, theo tôi: Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối", có thể còn hay và hấp dẫn hơn? Độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng đều có khả năng sống trường cửu với nền văn học nước nhà. Nói về đoạn thơ thứ tư: Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt Giọt nước mắt đàn bà có thể làm xiêu đổ anh hùng? Trong truyên Kiều: Khi Từ Hải chết đứng, hai mắt mở trừng trừng không nhắm lại được. Phải đến lúc Kiều đến ôm chàng mà than: Khóc rằng: "Trí dũng có thừa, "Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! "Mặt nào trông thấy nhau đây? "Thà liều sống thác một ngày với nhau!" Dòng thu như dội cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra. Còn trong thiên tình ca này, nhà thơ lại ru em, rằng: Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em. … Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ Với mối tình nồng thắm của em yêu. Chàng sống mãi trong tình yêu của nàng. Họ gắn bó, cảm thông cuộc đời của nhau: Anh thương em, đời gặp cảnh bèo dâu Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc Khi tuổi già, có vợ vẫn cô đơn. Đọc đoạn thơ thứ bảy giống như một lời trăng trối, tôi bỗng liên tưởng tới những vần thơ nổi tiếng của thi hào Nga vĩ đại Pushkin, khi Người nhắn gửi tới người tình: Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn Em thầm thì hãy gọi tên lên Và hãy tin còn đây kỷ niệm Em vẫn còn sống giữa một trái tim. (Một chút tên tôi đối với nàng) Hay thi nhân Hàn Mặc Tử, để lại những lời trăng trối cuối cùng cho người yêu: Anh trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây Còn em sao chẳng hay chi cả Xin để tang anh đến vạn ngày (Trút linh hồn) Nhà thơ Phạm Ngọc Thái thì viết: Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu! Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau Tưởng như trên đời này cũng chỉ yêu nhau đến thế là cùng. Đoạn thơ kết cũng thật cảm động: Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu... Dòng thơ đã đưa ta đi đến cõi vĩnh hằng của tình yêu! Tôi thiết nghĩ: "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, xứng đáng là một thiên kiệt tác thơ tình bất tử của ngàn năm văn hiến Thăng Long. Nguyễn Thị Xuân (Trích tập “PNT Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN”, 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:58:31 bởi Nhân văn >
“NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG” MỘT BÀI THƠ TƯỢNG TRƯNG ĐIỂN HÌNH Lời bình: Những đêm hoang vắng, sâu thẳm trong không gian mênh mông, lòng nhà thơ vẫn âm thầm, khắc khoải nhớ về mối tình đã qua: Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em! Người đàn bà ngậm cả vầng trăng... Những ngôi sao trên vòm trời xa xôi kia, ngọn gió đêm vô tình... nó cũng hiu hắt như nỗi vắng vẻ, trống lạnh của lòng chàng. Tác giả gọi em là "Người đàn bà trắng", thực ra khi ấy em vẫn còn là một thiếu nữ. Từ chiếc mũ vải trắng mềm một thuở nào người yêu thường đội lệch trên đầu, lẫn vào trong khóm mây. Khóm mây đó lại vờn bay trên mái tóc nàng - Tất cả đã trở thành ấn tượng để nhà thơ mô tả về hình ảnh người đẹp: Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Đó là đôi mắt của mùa thu huyền diệu. Bích Khê cũng từng mô tả về đôi mắt đẹp của người mỹ nữ trong bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng của ông, rằng: Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường... Nó chìm ngập một thế giới, chiếu rọi vào ngõ ngách tâm hồn của thi nhân sáng bừng lên. Hay như Xuân Diệu tả về đôi mắt người yêu cũng thật kỳ ảo: Mắt em thăm thẳm như màu gió Thơ cũng vàng trong như nắng hanh Ta trở lại với bài Người Đàn Bà Trắng: Đôi mắt em đong những áng mây /- Như thể đã bao lần nhà thơ từng phiêu du trong đôi mắt ấy. Tác giả lấy hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc mà mô tả, quyện với mái tóc nàng trong mây bay, gió cuốn, hiển hiện dưới bàu trời cao vời vợi. Sang khổ thơ thứ hai - Hình bóng người thiếu nữ hiện lên trong một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ: Em đi, về... chao những hàng cây Hồ gió thổi lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa đất trời, có gió thổi, cây đưa... Vẫn chiếc mũ vải trắng mềm xưa mà em thường đội lệch, che lên khuôn mặt đẹp như một vầng trăng. Cái bờ hồ gió thổi ấy chứng kiến bao nhiêu kỷ niệm, những tháng năm anh đã sống êm đềm trong hạnh phúc tình yêu. Giờ đi lại trên con đường đã qua, anh như nghe thấy cả khúc tình ca đang sống lại. Mái tóc người con gái xưa vẫn bay trên đôi vai trần trắng của nàng: Xoã ngang vai mái hất tơi bời Bồi hồi trong kí ức, hồn nhà thơ tựa con đò mộng lạc vào nơi bến vắng. Chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa... cùng những chiếc lá vàng rơi phủ xuống trong trời đất: Đường xưa đó về đây em ơi! Những con đường đã đầy xác lá rơi Xác ve, xác gió và xác của mưa. Tiếng lòng nhà thơ cất lên gọi vọng tình em. Con đường giờ đây hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian. Con đường mà người con gái đã đến với cuộc đời anh. Năm tháng cứ trôi nhưng hình bóng em không phai nhoà. Hình ảnh đoạn thơ nghe như trong giấc mộng: xác gió, xác mưa, đã đầy xác lá, xác ve... trôi. Tưởng như cái bờ hồ gió thổi đó ngàn năm sau vẫn còn quyến luyến bóng hình người yêu ở đấy, mãi mãi trong trái tim thương nhớ của nhà thơ. Xin trở lại để phân tích sâu thêm về khổ thơ thứ ba: Nỗi niềm thao thức Những đêm trăng nước... Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Hình ảnh đã được cách điệu hoá: Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! /- Biểu tượng thơ mô tả tuy mang màu sắc trừu tượng nhưng vẫn rất gợi cảm. "Chùm trinh em hát...": Nó đã mang cái của nàng bay lên! Suy cho cùng vũ trụ và thế giới đều tồn tại, sinh ra ở đó. Vừa vĩ đại và man dại. Nếu không có cái chỗ thiên thai ấy của người đàn bà thì không có cả linh hồn lẫn sự sống, cũng không có ý nghĩa gì về lịch sử của thế giới này. Còn câu thơ: Người đàn bà ai mà định nghĩa? Đại văn hào Lép-Tônxtôi - Ông là một thiên tài xây dựng hàng trăm tính cách về đàn bà có những mẫu mực khác nhau. Người từng nói những câu đại ý rằng: Không thể đưa ra những nguyên lý có tính khuôn mẫu nhất định đối với người đàn bà, chỉ có những sự tìm tòi, tìm tòi và tìm tòi mãi... Nàng không thể nào định nghĩa được trong sự tồn tại của đời ta? Câu thơ treo trên đầu ta như một câu hỏi vĩnh cửu, lại như thể một định mệnh. Tôi bình khổ thơ thứ năm: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau. Là một mảng thơ đời, đã triết lý về những mâu thuẫn giữa tình yêu và cuộc sống của nhà thơ với người-đàn-bà-trắng. Đó cũng là một nghịch lý cuộc đời: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /- Còn anh cũng không đầy mình để làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng, cô đơn, rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Hay, cái con-đường-lông-ngỗng-trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp, nhưng để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá! Cái hay của khúc triết lý trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng là đã được viết như đời. Dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ không kết thúc bằng sự bi thảm. Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tại, dù là theo chiều gió cuốn cuộc đời. Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch tình-đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm máu tim, được bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu. Đây là một trong hai mảng thơ xương cốt nhất - Mảng thơ thứ nhất như trên đã nói, chính là khổ thơ thứ ba: Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! Cùng với khổ thơ thứ năm này - Làm thành nền tảng, như tim óc, tuỷ sống cho cả tình thi. Nhà thơ vẫn thiết tha khao khát gặp lại người thiếu nữ: Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Bài thơ được kết thúc bằng một câu thơ đẹp nhất về nàng: Người đàn bà ngậm cả vầng trăng... Đây là một câu thơ siêu thực chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà trẻ hay chính nàng là một vầng trăng? Cái vầng trăng ấy của nàng nó cứ nguyên thuỷ như hang động thời tiền sử, lại huyền bí như thánh linh. Nhưng chao ôi, dù gì thì nàng cũng "ngậm" cả cái vầng trăng của nàng rời bỏ nhà thơ để đi rồi! Những tháng năm buồn nhớ người yêu, anh đã viết ra thiên tình ca Người Đàn Bà Trắng bất hủ này để lại cho thế gian. Trần Đức (Trích tập “ PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:59:18 bởi Nhân văn >
B. CÁC BÀI THƠ HAY KHÁC ĐẤT NƯỚC TÔI YÊU Ta nằm xuống thảm cỏ quê hương Hát một bài ca về Đất Mẹ Sông, núi, bàu trời qua bao thế hệ Vẫn ngọt ngào như câu ca dao. Mẹ đã nuôi ta trong mưa nắng dãi dầu Ta lớn lên thành người con đất nước Dân tộc tôi gặp nạn nhiều và cũng nhiều tủi cực Nhưng rất giàu yêu thương bao la. Việt Nam ơi! Ta gọi tên hai tiếng của ông cha Qua 4.000 năm dân vẫn còn nghèo đói Hết giặc ngoại xâm, lại lũ quan tham giày xới Đánh thắng bao quân thù mà mãi chửa “tròn Nhân”. Ôi, đất nước ta yêu quí vô ngần Thế kỉ XXI rồi, người ơi! Chẳng lẽ cứ câu ca dao "ngày tám tháng ba" hát mãi. Hãy mở thật rộng cửa trời Mỹ, trời Âu Vừa lấy thế chống giặc phương bắc tràn vào Vừa mở mang kinh tế. Ông cha ta đã dậy rồi: "Dân trị tức pháp trị" Không có gì bằng "khai dân trí"! (*) Ôi, đất nước tôi yêu! Ta sống làm người của non sông. Chết làm ma đất nước. Dẫu chưa theo được bước chân cường quốc Hãy thương lấy ngọn cỏ quê hương Đói khát, khổ nghèo, lòng nguyện thủy chung Không theo gót Tàu Bang hại giống nòi, dân tộc Để con cháu muôn đời không ô nhục. Tháng 6.2018 (*) Lời của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh EM SỐNG MÃI BÊN ANH . Tặng Ánh Tuyết " Thế giới bảy tỉ người, sao anh lại yêu em " Tiếng em nói nghẹn ngào, tha thiết Hỡi ái nữ của dòng sông nước xiết Người đàn bà chung thủy đời anh. Em dịu dàng như một vầng trăng Cứ xoa vuốt lòng anh rồi biến mất Nỗi nhớ tràn đầy mà trăng lại khuyết Thì có bao giờ em tròn hẳn lên đâu. Không thể đến với anh để sống bạc đầu Chỉ biết hẹn em làm vợ trong tiểu thuyết Anh sẽ mang em theo sơn hà bất diệt Những trang thơ sống mãi ngàn thu. Đêm ngẩng nhìn thấy bóng trăng lu Trăng em trong anh lại soi vằng vặc... Ơi, cái vầng trăng khuyết! Sáng hơn cả ánh trăng rằm. Em vẫn về lấp lánh giữa sao băng Da diết, cồn cào nỗi nhớ Anh vẳng nghe trên Sông Tiền sóng vỗ Ngày đêm không lặng tiếng bao giờ. Rồi một mai… ta khuất để vào hư Thơ anh viết cho em còn ca mãi Người đàn bà của một trái tim huyền thoại Bay qua mọi chủ nghĩa tới vạn niên. - Hà Nội mùa này nhiều mưa gió lắm anh... Anh nhớ giữ ấm mình: Em bảo thế! Sống giữa cù lao (*) tháng năm đầy bão gió Cứ lo cho anh hoài, người chốn thủ đô. Em là vầng trăng và cũng là thơ Ta muốn hỏi vũ trụ cùng sự sống: Em ở chỗ nào trong chân trời khát vọng Của đời ta, nơi thế giới con người. Anh đã yêu gần hết kiếp rồi Người đàn bà nay mang theo, dành em tất cả Trong ngôi mộ ta mai sau, hậu nhân hãy nhớ! Đặt thêm tấm ảnh Nàng, cạnh bóng hình ta. Một mối tình đưa ngát hương hoa Em sống mãi bên anh, thơm mát cõi thiên hà... (*) Ngày ngày em đi phà qua con Sông Tiền để về đến cù lao Lợi Quan: Nơi em sống.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 18:00:09 bởi Nhân văn >
KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ… Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi? Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát? Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi! Hỡi những hàng cây xanh! Những con đường lá đổ! Chỉ dùm ta đôi gót đỏ thời thiếu nữ em xưa Kỷ niệm về, trái tim đau thổn thức Chỉ dùm ta. Nào, chỉ giúp ta đi! Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát Giờ đây trong lá nẻo trời nào? Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu? Con đường ta đi có bao đôi trai gái Ai cũng một thời yêu, em nhỉ! Để xa nhau, Để được nhớ, được buồn, được khóc, Được nghe quanh đời, những tiếng lá bay theo. Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng… Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống Và một mối tình, ta đã tặng cho hết thảy trăng sao. Lời bình: TÌNH TRONG KÝ ỨC Nhà thơ Phạm Ngọc Thái nhớ về kỷ niệm với một thiếu nữ. Năm tháng qua đi, lá rụng hết lớp này đến lớp khác: Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng Gió cứ trôi, không hữu hạn bến bờ Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ... Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? Nhà thơ không biết. Chỉ còn lại trăng sao trên trời với trái tim mồ côi, những làn mây trắng và tiếng lá bay đi xa, xa mãi: Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát Giờ đây trong lá nẻo trời nào? Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu? Tình yêu ấy hát trong hư vô và trăng sao, dưới những hàng cây xanh, bên những con đường lá đổ. Đoạn cuối tình thơ được điệp lại như muốn níu kéo mối tình đã qua đi: Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng… Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo Quấn trong tiếng lá rụng và bóng trăng hư ảo trên trời: “ Khoảng trôi trong lá “ là một bài thơ tình da diết, được viết bằng thứ ngôn ngữ giàu hình tượng, mang màu sắc trừu tượng. Vẳng ra từ trong ký ức và trái tim thương nhớ của nhà thơ! Lắng trong tình ý thi ca… sẽ làm xao động trái tim ta. Phương Loan (Trích tập “PNT phê bình & tiểu luận thi ca”, 2013)
CÓ MỘT KHOẢNG TRỜI Có một khoảng trời để thương, để nhớ Là khoảng trời ở đó có em Những bóng cây trên đường phố thân quen Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc. Có một khoảng trời không ai thấy được Dẫu đêm nào chớp cũng loè lên Có ánh chớp không kéo theo tiếng sét Mà rung ngân, rung ngân trong tim… Khoảng trời gió thổi xót đêm Hoá sắc cầu vồng nối hai miền thương nhớ Cây tình yêu lớn theo cấp số Ngược trời về cho ta gần ta. Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa (xa thật đấy mà cũng gần thật đấy) Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy Thổi về phương em giữa chiều gió nổi Hạt vô tư còn lại, những tàn tro. CHẾT CŨNG CHỈ NHƯ GIẤC NGỦ
Không than vãn, lòng chẳng hề hối tiếc Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong! Cũng chỉ như giấc ngủ mơ màng Đời sống vậy, đủ rồi! Em yêu mến. Nghiệp đã làm xong, chẳng còn chi vương vấn Tình cũng tàn, năm tháng kiếp phôi pha Thì em ơi! Ta nằm xuống dưới mồ Thanh thản chết, có gì đâu phải nghĩ. Hồn thi sĩ, xin mang thơ gửi đời làm tri kỷ Chốn trần gian sẽ ngợp áng thơ ta Chỉ chia tay có thân xác thôi mà Tình yêu ta còn muôn đời bất tử! Cõi thế gian: Âu cũng kiếp đoạ đày phận số Tiếc làm chi? Sống mãi chỉ mệt thân Mãn nguyện rồi, cần chi nữa phân vân Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”! Ta đã yêu em suốt đời trong hư ảnh Dù có thời cũng sung sướng, đê mê Nhưng tình em khác gì những chiếc lá bay kia? Để năm tháng dài, hoang ru ta nơi bến lạnh. "Tình và tiền"! Tiếng nói đó làm trái tim đàn bà hưng phấn Phụ nữ cả thế giới này, họ quí như nhau Nhưng nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu Giọt lệ thi nhân, anh rỏ lên những trang thơ đời, làm liều thuốc ngủ. Lời bình: MỘT BÀI THƠ TRĂNG TRỐI Trước khi từ giã cõi đời ở Gành Ráng (Qui Nhơn), thi nhân Hàn Mặc Tử đã để lại những lời trăng trối: Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây Còn em sao chẳng hay chi cả Xin để tang anh đến vạn ngày (Trút linh hồn) Xuân Diệu thì nhắn nhủ lại đời, rằng: Hãy để cho tôi được giã từ Vẫy chào cõi thực để vào hư Trong hơi thở chót dâng trời đất Cũng vẫn si tình đến ngất ngư Pushkin thi hào Nga vĩ đại đã viết: Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết! Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi… “Chết cũng chỉ như giấc ngủ” của Phạm Ngọc Thái, cũng thuộc dạng bài thơ trăng trối như thế! Hồn thi sĩ, xin mang thơ gửi đời làm tri kỷ Chốn trần gian sẽ ngợp áng thơ ta Chỉ chia tay có thân xác thôi mà Tình yêu ta còn muôn đời bất tử! (đoạn thơ ba) Thi nhân thản nhiên để chuẩn bị cho mình đi vào cõi vĩnh hằng. Bài thơ đạt đến sự chí lí về cả nghĩa và tình. Ngay mấy câu mở đầu, ta thấy tâm trạng nhà thơ coi cái chết rất nhẹ nhàng: Không than vãn, lòng chẳng hề hối tiếc Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong! Cũng chỉ như giấc ngủ mơ màng Đời sống vậy, đủ rồi! Em yêu mến. Mặc dù anh viết: Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong! /- Nghe có vẻ như rũ bỏ? nhưng không phải. Sở dĩ lòng Người sẵn sàng ra đi thanh thoát vậy, ở trong đoạn thơ hai đã giải thích: Nghiệp đã làm xong, chẳng còn chi vương vấn Tình cũng tàn, năm tháng kiếp phôi pha Thì em ơi! Ta nằm xuống dưới mồ Thanh thản chết, có gì đâu phải nghĩ. Vâng, thêm một lần nữa, Phạm Ngọc Thái đón nhận cuộc đi vào vĩnh cửu… thật ung dung. Bởi anh biết, sự nghiệp thi ca cùng tên tuổi anh để lại cho đời... sẽ không bao giờ chết. Nhà thơ có nằm xuống dưới mồ, thì đâu phải “tất cả đã là xong”? – Như Pushkin từng nói: Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết! Thi nhân coi cuộc ra đi đó chỉ như là một giấc ngủ mơ màng. Bài thơ đi sâu lý giải về đời: Cõi thế gian: Âu cũng kiếp đọa đày phận số Tiếc làm chi? Sống mãi chỉ mệt thân Mãn nguyện rồi, cần chi nữa phân vân Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”! (đoạn thơ thứ tư) Một quan niệm phật giáo. Nói về hai chữ “kinh thánh” – Trong bài “Khúc xuân tuổi bảy mươi”, tác giả cũng viết: Đi giữa mùa xuân đã thấy vĩnh cửu ở trên đầu Cõi Phật rước ta về đất thánh… Nghĩa là, cuộc đi này của thi nhân không phải để… chết? Mà Người hóa mình vào “kinh thánh” đó thôi! Cuộc đời gồm cả “tình yêu và cuộc sống” – Bài thơ tràn sang lĩnh vực “tình”: Ta đã yêu em suốt đời trong hư ảnh Dù có thời cũng sung sướng, đê mê (câu 17-18) Trong đời thường từ tư tưởng, tình cảm đến đời sống thực? Ai cũng quan tâm đến tiền bạc. Nhưng với người phụ nữ thời hiện đại thì, tiền bạc chỉ đạo họ về mọi phương diện: Kể cả lĩnh vực... tình! Cái quan niệm “một mái nhà gianh, hai trái tim vàng” cổ xưa lắm rồi! Thời nay, tuy cũng có nhưng rất hiếm.Tình thì tình, họ yêu trước hết phải là… tiền! “tiền” gần như là một chủ nghĩa, một lý tưởng sống của người phụ nữ bây giờ. Bởi vậy, những chàng thi sĩ với tâm hồn lãng mạn, mộng mơ, chỉ giàu tình mà nghèo tiền? Rất dễ bị rơi vào “bến cô liêu”! Thi nhân viết: "Tình và tiền"! Tiếng nói đó làm trái tim đàn bà hưng phấn Phụ nữ cả thế giới này, họ quí như nhau… Nhưng nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu! Tức là, những tình yêu chỉ xây dựng trên nền tảng theo “tiếng gọi của trái tim” như của các nhà thơ, hầu hết trước sau cũng… tan vỡ! Nên Người mới than: Nhưng tình em khác gì những chiếc lá bay kia Để năm tháng dài, hoang ru ta nơi bến lạnh… (câu 19-20) Thơ tình Phạm Ngọc Thái phần lớn được sáng tác từ các mối tình xưa. Thi nhân sống lại trong thơ bằng những kí ức của tình yêu. Cái thời mà người chồng là một nhà thơ nghèo, được bà vợ vẫn thủy chung như vợ của Tú Xương, Nguyễn Khuyến? Là chuyện rất... xưa. Thuở ấy, Tú Xương tự than trong bài thơ “thương vợ” nổi tiếng của ông rằng: Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không! Tất cả thơ tình Phạm Ngọc Thái hoàn toàn xuất phát từ sự rung động trái tim (ngoài phạm trù tiền), cảm xúc mà thành, cho dù tan vỡ vẫn đẹp. “Chết cũng chỉ như giấc ngủ” không chỉ là một bài thơ có tính tự sự bản thân? Nó đã mang cả ý nghĩa thời đại, trong mối quan hệ giữa “tình và tiền” của đời sống xã hội. Phản ảnh nhân sinh quan tác giả. Bài thơ ôm trùm rất nhiều mặt, giữa riêng tư với tính hiện thực xã hội. Khúc chiết và hay. Có những câu thơ đột biến: Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”! Huyền bí mà hiển linh. Nhiều người cho rằng, câu thơ: “Nhưng nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu” là hay nhất! Để rồi tác giả buông một câu tự xoa dịu lòng mình: Giọt lệ thi nhân, anh rỏ lên những trang thơ đời làm liều thuốc ngủ. Và bài thơ đã kết thúc ở đó! Việt Phương (trích “Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN” 2019)
TIẾNG ANH GỌI Viết theo giọng "thơ điên" Hàn Mặc Tử Ta gọi tên em trong bao la trời đất Tên một loài hoa thơm nhất quê hương khắp núi rừng tới miền sông nước mênh mông Chính trong tim ta, tên em còn vọng mãi... Ta đi tìm em với tâm hồn hoang dại Từ lúc chim ca đến mãi đêm thâu Em ở đâu? Em ở đâu? Nàng thôn nữ mặc chiếc áo xanh màu cỏ biếc. Ôi rồ dại! Hỡi linh hồn rồ dại! Đi tìm hoài mà có bóng em đâu Sông trăng kia cũng hóa vũng máu đào Cùng với huyết của tim ta loang chảy. Ta bay qua các nóc nhà cao ngất trời Hà Nội Về miền quê đồng trắng, nước mênh mang Những bóng dừa, khóm trúc thắm màu xanh Mà chẳng thấy em ta ra đón đợi? Ôi thượng đế! Tâm hồn con chới với Trên núi cao ngã nhào xuống vực sâu Người sinh ra con làm anh thi sĩ chốn bèo dâu Sao còn bắt chịu nỗi đớn đau, trong bể ái tình máu lệ. Thời gian hãy trôi đi! Trôi nhanh đi! Đừng chậm trễ Cuốn cả thân ta, linh hồn ta... vào cõi tha ma Trí não ta đã tàn, đâu còn phải là ta Ừ cũng được. Ta sẽ làm ma bất tử! Anh còn tim em ở kiếp sau, em nhé! Nhớ chờ anh, đừng trốn bỏ như nay Anh sẽ bế bồng em, giống thuở vẫn còn trai Dành cho em cả tình yêu chung thủy. Tiếng anh gọi! Có nghe thấy không, em yêu quí? Rền vang bàu trời, sâu thẳm đại dương Về với anh đi em! Ta cùng bay khắp nhân gian Hòa tiếng thơ ngân, hai trái tim chung nhịp điệu. LÀM MA EM VỢ Viết theo quan điểm phật giáo trong Kiều của Nguyễn Du * Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi " kiếp" Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật! Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”! Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ… (*) Anh ở vì chưng trả nợ đời. …… (*) Nàng Kiều trẫm mình trên sông Tiền Đường muốn quyên sinh, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Theo thuyết bản mệnh Phật giáo trong Kiều của Nguyễn Du: “ Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! ”. - Câu thơ này ý muốn vấn an linh hồn em: Em đi coi như đã trả hết nợ đời rồi, đó em! Lời bình: VIẾT THEO THUYẾT BẢN MỆNH CỦA KINH THÁNH “Làm ma em vợ” là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này: Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp" Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi... Hai câu mở đầu cách thức cảm xúc của tác giả, giọng điệu tựa như những lời khóc van khi đưa đám trong dân gian. Ta xem trong câu hai, nửa vế đầu viết: " Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói:"... nhưng sống thế càng ôi" - Như thế là ngay trong một câu thơ đã đưa ra hai nhận định về cả lẽ sống và cái chết của người em vợ. Chết như nó thì dở, thì hèn. Còn sống mà sống kém, sống tệ như vậy cũng…? - Bởi đây là bài thơ khóc trước vong linh em, có thể trách nó về sự chết uổng, chết phí... thì còn được, nhưng nếu đem cả cách sống tệ ra trách móc trước mồ mả em, e sẽ trở thành bất nhẫn? Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn? Ý thơ muốn đặt ra một giác độ nhìn nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội, mà ở đoạn cuối tác giả có nói: Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi... Bởi vậy để đỡ cho hai câu thơ khóc rất thật đầu tiên ấy, nghĩa tử là nghĩa tận, lệ của nhà thơ đã nhỏ xuống, anh xót xa thắp nén hương lòng khấn cầu cho vong hồn em sớm được siêu thoát: Anh thắp cho em một nén nhang đời Và lễ tạ: Nam-mô-di...phật! Dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi, yên nghỉ nơi suối vàng. Ý tưởng bao trùm tình thi đã được tác giả khai phá ngay từ câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thứ nhất: Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp" Ba chữ "tự giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng của lớp chúng sinh. Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra khỏi "kiếp sống", thật là bi thương! Nhìn theo quan điểm nhân đạo, suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi. Tiếng kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia? Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại chữ "kiếp" ấy một lần nữa: Em ơi: Chữ “kiếp” trước chữ “người”! Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính vì nỗi đau đời đó! Tôi bình sang đoạn thơ hai: Người sống đưa chân người chết đây Đầu bạc làm ma mái xanh này Cái lời tiễn người đã chết ở đây nó ngược cảnh: đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh, nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi ai của cuộc sống. Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục, cha mẹ già hay ông bà tính khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai, để nói lên nỗi xót xa đối với người em: Mẹ, cha...queo quắt còn ham thọ Em nhởn thanh xuân lại vội quay. Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền với "nhởn thanh xuân" (nhởn nhơ tuổi thanh xuân): nghĩa thơ có ý trào lộng. Ngôn ngữ, nhịp điệu hợp với sự cúng điếu của cảnh khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ, tủi nhục, đắng cay mà vẫn sống đó? Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc gì phải phẫn chí tìm cách quyên sinh! Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái theo quan điểm của nỗi kiếp đoạn trường, nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du. Bởi vậy, tác giả đã kết: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... Anh ở vì chưng trả nợ đời. Để cho rõ ý nghĩa hàm súc của hai câu cuối đó, xin liên hệ đôi nét về thân phận nàng Kiều: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành: Làm cho sống đoạ thác đầy Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! ( Kiều ) Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình! Bởi 15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình: Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru? Để mà yên thân nơi cửa chùa: Đã đem mình bỏ am mây... Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than: Nói chi kết tóc xe tơ Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời... Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con gái rằng: Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây? Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân trong trắng, ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu, tình sâu nặng đến thế, mà vẫn chưa đủ trả? Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái tấm thân mình, như nàng đã nói: Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa... Để mà đền nốt cho chàng Kim. "Món nợ kiếp người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng. Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ, câu thứ ba của đoạn thơ này: Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em! Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu? đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau cho vong hồn người em nơi chín suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời hiện đại này! Ta trở lại với câu thơ đầu tiên: Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp" Lời khóc tang của bài Làm Ma Em Vợ là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp nhân gian: Anh ở vì chưng trả nợ đời. Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung sướng gì đâu? Bao khổ nạn ê chề, chẳng qua vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi anh cũng đi thôi! Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật để thắp cho đứa em tội nghiệp, cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống trần ai đây, một nén nhang đời! Đào Viết Minh (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG . Thơ viết trên thư gửi về cho vợ Trong một phố nghèo, có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em: Đôi mắt ấy màu đen. Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (1) Đêm hồ nước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Cung thành xưa dấu đại bác còn. (2) Ôi quê hương! Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên, tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Ai biết chiều nay người vợ trẻ Đứng mong chồng bên đứa con thơ Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu! Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy! Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Berlin, 2.1989 (1) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở Hồ Tây, gặp ông Nguyễn Trãi. Những vần thơ đối đáp của hai người còn truyền tụng đến ngày nay. (2) Hình ảnh mặt thành Thăng Long trông ra phố Cửa Bắc, Hà Nội: Đến nay vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. Lời bình: NGHĨA VỢ CHỒNG VÀ TÌNH QUÊ HƯƠNG THA THIẾT Truyền kể lại rằng : Trong một khu phố nhỏ có người vợ trẻ cùng đứa con thơ, ngày tháng chờ chồng ra đi nơi đất khách vì miếng cơm manh áo: Trong một phố nghèo, có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về… như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen. Một bài thơ về quê hương. Những hình ảnh rất thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát. Từ căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng đa chùa, cái quán báo trong phố, đến cảnh sóng nước Hồ Tây... được gợi lại bằng câu chuyện cổ của nàng Thị Lộ từng bán chiếu gon, đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người - Hình ảnh mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ: những đêm trăng hồ, những chiều lá sấu, lá me rơi... Cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa, vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết: Cung thành xưa dấu đại bác còn (câu thơ 10) Đó là một bức tranh quê. Tiết tấu thơ đầy chất trữ tình. Những hình ảnh sinh sống trước đây, nhà thơ nhớ lại: Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Người chồng ấy vẫn đau đáu nhớ về nơi vợ con đang trông đợi: Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy! Cái miền quê một thuở nào, theo anh ra trận trong cuộc chiến tranh xưa: Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Bài thơ được viết trong nỗi nhớ mong hiu hắt của kẻ đang lưu lạc ở xứ người. Đó là những tiếng nói yêu thương, xao xiết thường tình chốn dân gian, càng làm cho tình thơ thêm tha thiết: Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga... Cái tiếng hát đời thường ấy: Có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo, hoặc tiếng gọi đò trên dòng sông trong đêm vắng... Nó máu thịt như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn, ngày tám tháng ba. Có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng của những người thân, ngày ngày ta vẫn từng nghe đâu đấy, vọng lên thảng thốt: Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Rồi bay đi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Bài thơ Tiếng Hát Đời Thường, một tình thi da diết máu tim, khép lại ở đó. Phạm Thành Công (Trích từ tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
SÁNG XUÂN NAY
Sáng xuân nay không chít khăn tang, không mang áo cưới Gió đi đâu, không thấy thổi trên đường Thơ nằm khóc trong nấm mồ êm ái Anh chỉ ngồi thầm lặng bên em. Hương phảng phất bay lên từ mái tóc Tình trắng tinh như ngửa đôi bàn tay Đôi mắt em hóa thành mây, trôi đi mất Hồn anh chao dưới những lá cây rơi. Cứ yên lặng! Ông lão Giăng Van Giăng yên lặng… (*) Tôi cũng như ông, chỉ thấy lá vàng thôi Người đàn bà ấy đẹp giống cô Cô Dét Nàng yêu tôi, nhưng nàng đã đi rồi! Em về nơi bờ-bãi-con-người Anh trở lại viết thơ tình rồi rót lệ Đời là thế! Thế thôi, đời là thế! Mối tình mình chẳng thể cưới, cũng không tang. … (*) Trên đời này có bạc bẽo nào hơn cái bạc bẽo đối với lão Giăng Van Giăng cơ chứ? (tiểu thuyết " Những người khốn khổ" của Victor Hugo). Gặp lại em buổi sáng xuân ấy. Ngồi bên em giây lát - Tôi lại nhớ tới cái lão Giăng Van Giăng kia! Lão có khác tôi không? KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay. Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non... (*) Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm khoảng-đời-con. Bóng ngàn than, huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Mai chết rồi làm nước tắm cho em Mùa hè 1997 Viết tại Hồ Núi Cốc (*) Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc! Lời bình: MỘT BẢN TÌNH ĐAM MÊ MAN DẠI Vào một đêm mưa gió. Không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận. Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời chàng là được sống bên nàng. Một niềm đam mê man dại. Có phải chăng: Con người sinh ra trên thế gian này, chỉ tình yêu gái trai là bất diệt! Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị. Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa chàng về cõi cực lạc, vô biên. Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc được dựng lên bên câu chuyện tình bất hủ trong truyền thuyết của Nàng Công, Chàng Cốc vọng về. Và… chính giữa đêm mưa gió, tình thi diễm lệ ấy đã ra đời! Gọi là "Khóc bên Hồ Núi Cốc" nhưng bài thơ không phải là tiếng khóc, mà là một khúc tình ca: Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc Gửi hồn theo dòng nước trôi thây... Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo, hoang vắng. Nhà thơ đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của thi nhân. Mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba: Gió gào thét trong lặng chìm tim óc Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc một thế giới tĩnh lặng của tim óc con người (bên trong), cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả tình yêu trong nó. Đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng: Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay... Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên. Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của "Khóc bên Hồ Núi Cốc" chỉ là bức tranh ảo. Bởi ấn tượng từ kí ức, cồn cào trong trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể, mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca, đâu phải là một bi kịch tình. Những yếu tố cảm xúc của bài thơ này, theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, hoà phối với dòng thơ lãng mạn. Ngôn ngữ, hình tượng hàm súc, cô đọng. Sang đoạn thơ hai, là sự liên kết giữa câu chuyện huyền thoại xưa, nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái – Với câu chuyện đời nay: Nước mắt Nàng Công khóc tan ra suối Cốc chết bên sồi lại hoá thành non... Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ quyết quyên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng hoá thành non. Tình yêu là ý nghĩa tồn tại của đời ta: Nhưng để làm gì khi tình vô vọng? Chút hương nàng vẫn ấm “khoảng đời con”! Ba chữ "khoảng đời con" ở đây mang theo ý nghĩa ẩn dụ. Ý nói rằng, không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy, thử hỏi: Sự sống tồn tại trên trái đất này để làm gì? Không có sáng tạo hay tiến bộ xã hội nữa. Không có ý nghĩa của cái "khoảng đời con", thì cũng không có sự vĩ đại !? Người than cho câu chuyện tình của nàng Công, chàng Cốc trong trời đất? Cũng là để than cho chính mình. Mượn người xưa mà nói nỗi đời nay. Ý, tình cứ rền xiết lên nhau, như hai câu trong đoạn thơ cuối: Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm Tôi bình sang đoạn ba - Đoạn thơ máu thịt nhất của bài: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ Mà miệng còn muốn Cắn Vú người yêu! Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu. Khi mưa gió phủ táp xuống hồ núi, nghe như tiếng của câu chuyện tình xưa đang nghiền xé: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /- Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau. Nghĩa là, trời đất cũng để tang cho những linh hồn son sắt của tình yêu! Nói về thủ pháp nghệ thuật sáng tác của tác giả trong đoạn thơ ba: Lấy ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, nuôi một câu thơ thật - Thật và rất đời. Chính là câu thơ hai trong đoạn: Mà miệng còn muốn Cắn Vú người yêu! "máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu. Thơ ngả sang màu siêu thực. "Bức phù điêu" đã được sáng tác trong thiên nhiên kì vĩ kia? Bởi có máu và nước mắt của đôi trai gái tắm vào trong nó - Nghĩa là cả trong bất hạnh đau thương, tình yêu cũng là bản tình ca bất hủ… trong vũ trụ và cuộc sống con người. Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời. Chế Lan Viên đã định nghĩa về thi ca: Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ. (trích di cảo CLV - Bờ bên kia ) Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới của nó! Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ hai của đoạn: Nếu không có "Vú người yêu”? Thử hỏi - Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa, để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này: Nếu không có Vú Người Yêu, thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? "Cắn Vú người yêu…" là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ. Hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng. Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca, đưa bài thơ đi xa trên bến-bờ-thi... Chỉ xin nói thêm một chút nữa về câu thơ cuối cùng: Mai chết rồi làm nước tắm cho em... Xuân Diệu thì nói rằng: Anh không xứng là biển xanh Nhưng cũng xin làm bể biếc Còn đây, tác giả lại viết: "mai chết rồi làm nước tắm…" - Phải, con người có thể làm bao chuyện phi thường? Lên cả vũ trụ mà chinh phục sao hoả, sao kim… Sáng tạo những phát minh khoa học vĩ đại… Chế ra cả tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử, đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu - Ấy thế mà, liệu còn gì có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh… hay chỉ một bồn nước trong nho nhỏ, tắm cho cuộc đời và thân thể của người yêu? Đấy, nhà thơ của bài "Khóc bên Hồ Núi Cốc" này chỉ muốn kết tình thơ ở đó !? Diễm Loan (Trích tập “PNT phê bình & tiểu luận thi ca”, 2013)
NỖI TRĂN TRỞ
NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG Viết trong đám người xuất khẩu lao động ở nước ngoài. * Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp Rời quê qua bên kia biển sóng Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Đạo lý có hoá thừa, đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên. Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (1) Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương, lọc sàng từng đống rác (2) Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều Cứ để cho tất cả lãng quên !? Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại Bông đại ở quảng trường, hương vẫn giăng tơ Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua Những năm tháng, không bẩn đấy cũng rộm vàng khói cột Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật Đánh một đoá hồng vàng, trao đứa con thơ Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ Một chút nữa với bạn bè thân hữu Và khi đó, tóc có ngả mầu chút xíu Dù cho tất cả đã quên tôi !? Nước Đức, đêm 11.9.1989 (1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: "Còn chút vàng mười mang ra bán nốt" (2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki. Lời bình: CẢNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI Vào mấy thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút. Đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới đảo loạn. Sang thập niên 90 Xô Viết Nga tan vỡ, rồi hàng loạt các nước trong phe XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bàu trời. Như trong bài “Trở về” của tập thơ “Người đàn bà trắng”, Nxb Thanh niên 1994 – Phạm Ngọc Thái đã viết: Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác Bốn bể chân trời lạc khói sương... Bấy giờ, nhà thơ còn là một cán bộ ngành ngoại thương Việt Nam. Anh được điều động từ trong nước ra nước ngoài, tham gia công tác quản lý một đơn vị xuất khẩu lao động. Đó chỉ là thực cảnh của những đám dân dã đi tha phương kiếm sống. Những trăn trở riêng chung của tác giả trước một thực tế đầy phức tạp? Để vào một đêm “Nỗi trăn trở người đi tìm vàng” đã ra đời: Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp Rời quê qua bên kia biển sóng Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi Bài thơ phác lên một bức tranh được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu. Những lớp người này, phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ. Tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách quê người thì thật kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Nó đã thuộc vào hàng là những lớp chúng sinh, tận cùng đáy xã hội rồi: Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống... Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót: Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên. Sử dụng những cụm từ như: giả dại, làm ngơ, mách qué, vân vi... mà vẫn giữ được phong cách của dòng thơ trữ tình chính thống, bản sắc thêm đậm đà chất văn học dân gian. Người đã phải hoá mình thành giả dại, ngây ngô, cười cợt... mà sống. Nén mình nuốt cái "đạo lý có hoá thừa" kia đi, tự nhận chìm bản thân như là không tồn tại để lãng quên. Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Đó là sự mở đầu bi hài của cuộc sống trong Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng này. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả, của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó như thế nào: Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1) Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác...(2) Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Câu (1) - Sử dụng ý thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/- "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán? thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều. Còn câu (2): Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác... Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri! Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri! Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái. Vậy là - Thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được: Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác Nhưng giá vàng tính cũng như nhau. Nó đã phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Ý thơ thật xót xa. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, nền đạo lý bị tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Đây là những câu thơ hay nhất bài, như lời một nhà bình thơ đã nhận xét: Nó có thể đạt đến những câu thơ trở thành kinh điển! Thông qua sự trăn trở bản thân, tác giả đã khai thác vào nỗi lòng, tâm linh của những người lao động, đưa tính nhân bản thơ lên đến tột cùng: Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ Chút thơm thảo: đoá phù du ngắn ngủi Sự khao khát những chiều hương lý trong kỉ niệm, nhớ đến những bông đại nơi quảng trường quê hương - Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy, càng thấy sự phũ phàng thực tế mà những kẻ đi tìm vàng đã phải chịu đựng. Kịch tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau như hài kịch: Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ... Câu thơ điệp trở lại hai lần để nhấn mạnh, thật là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội... dù cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng. Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: “Nỗi trăn trở người đi tìm vàng” phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết. Một tấn đời! Bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc và tính điển hình xã hội - Trong một giai đoạn với rất nhiều biến động xẩy ra trong nước, và cả trên thế giới. Khánh Hòa (Trích từ tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: