Một thời tranh đấu - Hồi ký lịch sử
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 35 bài trong đề mục
frank 29.05.2022 00:14:01 (permalink)


Chương
 12


Chiến tranh tuyên truyền giữa Công Giáo Cứu Quốc và Việt Minh


 
Sau khi cuộc hội nghị giữa Pháp và Việt Nam tan vỡ ở Fontainebleau, Hồ Chí Minh đã lẻn tới nhà riêng của tổng trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet, ở Paris thủ đô Pháp Quốc, đêm ngày 14 tháng 9 năm 1946 để xin ký một thỏa ước tạm thời Modus Vivendi, thỏa ước này cũng không hơn gì bản hiệp định sơ bộ, theo đó Việt chỉ được công nhận là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp, và ngày 19 tháng 9 năm 1946 Hồ Chí Minh trở về Việt Nam trên chiến hạm Dumont d’Urville của hải quân Pháp, và ngày 24 tháng 10 năm 1946, Hồ Chí Minh tiếp Đức Cha Lê Hữu Từ và phái đoàn gồm cha Đoàn Độc Thư và tác giả tại Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội.
 
Ngay khi giáp mặt Hồ Chí Minh, Đức Cha Từ tấn công ngay, bằng những lời lẽ hết sức bộc trực, nhưng đầy lòng yêu nước, thương nòi:

‘Thưa Cụ, nỗi uất  hận của tôi về hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 chưa nguôi, thì nay cụ lại ký thêm thỏa ước Modus Vivendi, mà nội dung của nó cũng không hơn gì hiệp định sơ bộ, tôi cho đây là một hành bán nước nữa, nên tôi ước gì tầu Dumont d’Urville đắm ở dọc đường, để Cụ đứng về đến đất nước này nữa, hơn nữa tôi nhận thấy nhân dân trong nước cũng uất hận rất nhiều, họ chỉ muốn kéo ùa ra biển nhận chìm chiếc tầu chở Cụ và phái đoàn về nước, nếu chính phủ còn tái lầm lỗi, chính tôi sẽ huy động dân chúng đứng lên phản đối…
 
Hồ Chí Minh nhắc lại hai lần viếng thăm trước của Đức Cha Lê Hữu Từ, sau khi ông ấy ký hiệp định sơ bộ và nói:

Thưa Cụ, như tôi đã nói với Cụ lần trước rằng cái thế của mình phải quỳ mà đi tới độc lập, nay cái thế ấy bắt buộc ta phải bò mà đi tới độc lập. Xin Cụ cứ tin ở tôi một lần nữa. ‘

Đức Cha Từ trả lới:

‘Tôi có thể tin Cụ một lần nữa, nhưng việc các đoàn thể và đảng phái quốc gia đang bị chính phủ tiêu diệt thì Cụ nghĩ sao?’

Hồ Chí Minh nói:

‘Tôi vừa mới ở Pháp về nên chưa được rõ các  việc ấy, xin Cụ an tâm, tôi sẽ thu xếp.’

Tuy Hồ Chí Minh nói với Đức Cha Lê rằng sẽ thu xếp, nhưng chỉ 4 ngày sau khi tiếp phái đoàn Phát Diệm, Việt Minh bắt đầu việc loại trừ các phần tử quốc gia  trong chính phủ bằng một cuộc cải tổ Quốc Hội và Chính Phủ. Ngày 28 tháng 10 năm 1946, Quốc Hội Việt Minh họp tại nhà Hát Lớn Hà Nội khoảng 50 nghị sĩ thuộc  phe đối lập tức thuộc các đảng phái quốc gia vắng mặt không tới họp.

Các ông bộ trưởng thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Hội như  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trương Đình Tri cũng tự ý thoát lui, nên Hồ Chí Minh đã cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ngày 13 tháng 11 năm 1946,  gồm một số bộ trưởng gốc cộng sản như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Tạo, Hoàng Minh Giám v.v… và một số bộ trưởng khác có khuynh hướng độc  lập và chuyên viên. Tuy nhiên những lãnh tụ Cộng sản cốt cán như Hoàng Quốc Việt tức Hà Bá Cang,  Nguyễn Lương Bằng, Trưởng Chinh tức Đặng Xuân Khu, Trần Huy Liệu vẫn còn nắm những vai trò then chốt trong hậu trường chính trị.  
 
Trong thời gian  này, Việt Minh đã tăng cường chính sách khủng bố, thi hành dưới bàn  tay đồ tể của vô vàn cán bộ xu thời, mù quáng  và độc ác. Những hành động quá khích, kết quả thì ít, tai hại thì nhiều. Phương châm Đoàn Kết, Đại Đoàn Kết của Hồ Chí  Minh tự nó đã biến thành một kế hoạch loại trừ và phản đoàn kết đại quy mô là tiêu diệt các đảng phái cùng những người có tinh thần quốc gia, ngoài ra, những ban trinh sát, ám sát của Việt Minh mọc lên như nấm, thi hành những chỉ thị bí mật, đẫm máu, gây hoảng hốt trong tâm can người dân lành chất phác.

Nguyên tại địa phận Phát Diệm từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947 ước lượng đã có tới khoảng 5.000 người vừa công giáo và không công giáo đã bị chính quyền Cộng sản bắt giữ, trong số này có những người bị bắt vì có liên quan tới các đảng phái quốc gia, còn hầu hết đều là những người có giữ trách vụ trong các giáo xứ như trùm trưởng, nhân viên hội đồng giáo xứ, cán bộ lãnh đạo các tổ chức công giáo tiến hành và công giáo cứu quốc, hoặc liên đoàn công giáo, và chính tác giả: Nguyễn Đình Minh tức Nguyễn Đình Thư, Thanh Tra Công Giáo Vụ toàn quốc, đại diện ban chấp hành trung ương của Công Giáo Cứu Quốc trong Mặt trận Việt Minh, cũng bị an ninh quân đội Việt Cộng bắt giữ đem gửi ty Công An tỉnh Ninh Bình rốt trong sà lim hơn 3 tuần lễ, sau chính Trần Huy Liệu, một tay tổ trong tổng bộ Việt Minh can thiệp mới được thả tự do, mà không hề được cho biết bị bắt vì lý do gì!

Trước hành động Việt Minh đàn áp, bắt bớ nhân dân, nhất là đối với người công giáo, Đức Cha Lê Hữu Từ liền gửi thư cho Hồ Chí Minh, để phản kháng một cách hết sức mạnh mẽ và đòi chính quyền phải trả tự do cho những người bị bắt và bị giam cầm, mà không có lý do chính đáng hoặc không được đưa ra tòa án xét xử.

Trong thư phản kháng Đức Cha Lê vạch ra rằng:

‘Những hành động khủng bố, bắt giữ người dân lương thiện chỉ vì một lý do rất nhỏ mọn của cơ quan chính quyền đã làm cho dân chúng xao xuyến, hại đến tình đoàn kết dân tộc trong giai đoạn nghiêm trọng này. Những hành động ấy được coi như là đàn áp và gây chia rẽ tôn giáo, khiêu khích người công giáo…’
 
Biết rõ tính cương trực của Đức Cha Lê: nói là làm, Hồ Chí Minh vội vã và gửi ngay một phái đoàn đại diện chính phủ do Bộ trưởng bộ Lao Động Ngyễn Văn Tạo cầm đầu, tới Phát Diệm ngày mồng 3 tháng 2 năm 1947, rồi hầu như chưa yên tâm, Hồ Chí Minh lại gửi thêm bí thư riêng của mình là Vũ Đình Huỳnh và Đỗ Bá, nhân viên bộ Quốc Phòng về tới Phát Diệm ngày mồng 5 tháng 2 năm 1947, để chuyển lời xin lỗi của chính phủ tới Đức Cha Cố Vấn Lê Hữu Từ, đồng thời còn đem theo lệnh thả tự do ngay cho một số người bị bắt mà Đức Cha Lê đã can thiệp nhất là những giáo dân liên hệ tới vụ xung đột đẫm máu giữa Công An Việt Minh và Thanh Niên Công Giáo Cứu Quốc giáo xứ Văn Hải.
 
Tuy 2 phái đoàn đã tới Phát Diệm chỉ cách nhau có 2 ngày, nhưng Hồ Chí Minh vẫn chưa yên tâm, nên cử thêm linh mục Nguyễn Bá Trực, nhân viên thường trực Quốc Hội, cầm thư riêng của họ Hồ về Phát Diệm ngày mồng 7 tháng 2 năm 1947 nghĩ rằng một linh mục như cha Trực có thể dễ thông cảm hơn khi nói chuyện với một giám mục như Đức Cha Lê Hữu Từ.
 
Khi được tin báo Nguyễn Văn Tạo, bộ trưởng bộ Lao động chính phủ Hồ Chí Minh, cầm đầu một phái đoàn chính phủ về Phát Diệm, sau khi Hồ Chí Minh nhận được văn thư phản kháng của Đức Cha Lê về việc Việt Minh khủng bố và đàn áp nhân dân, tôi được Đức Cha Lê gọi vào tòa giám mục để trình bày cho ngài biết về Nguyễn Văn Tạo.

Trong gần một giờ đồng hồ thảo luận tôi có đề nghị một số kế hoạch từ việc tổ chức tiếp đón để phô trương lực lượng của tổ chức tự vệ Công Giáo Cứu Quốc hòng áp đảo tinh thần của phái đoàn chính phủ đến việc Đức Cha Lê tiếp kiến riêng Nguyễn Văn Tạo, không có phái đoàn tùy tùng, để nói lên tinh thần đoàn kết của toàn dân trong công cuộc chống Pháp dành Độc Lập.

Và đặc biệt về chủ trương đại đoàn kết giữa người công giáo và không công giáo của Phát Diệm để cảnh tỉnh bọn người có dã tâm đi tuyên truyền gây chia rẽ và để ngăn chặn những vụ ‘hạ cấp làm liều’ và ‘giáo hóa chưa phổ cập’ của các cấp trong chính quyền. Ngoài ra đây cũng là dịp để trả lời lá thư của Hồ Chí Minh viết cho Đức Cha Lê ngày 23 tháng 1 năm 1947, về lời phê bình của chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến khu III rằng Phát Diệm thiếu tinh thần kháng chiến.
 
Sau khi gặp 3 phái đoàn của chính phủ Hồ Chí Minh trong vòng 5 ngày, Đức Cha Lê có cho tôi biết là kết quả của những cuộc gặp gỡ tỏ ra rất tốt đẹp, không do những lời lẽ bóng bẩy đầy tính cách chính trị mà do ở những lời nói chân tình của một thầy dòng khổ tu thực lòng yêu Tổ Quốc, đã chinh phục được hoàn toàn tất cả các thành viên 3 phái đoàn, và trong một thông tư đề ngày 15 tháng 2 năm 1947, gửi cho các linh mục và giáo dân toàn địa phận Phát Diệm, Đức Cha Lê có gửi kèm theo phóng ảnh của 2 bức thư của Hồ Chí Minh gửi cho Đức Cha và ngài nhắc lại 3 điều:
 
1) Chúng ta, hơn ai hết, phải có tinh thần ái quốc, cao thượng mà tham gia việc kháng chiến. Lúc giặc chưa đến, phải hết sức chuẩn bị trong bình tĩnh, kỷ luật, tăng gia sản xuất để tiếp tế cho tiền tuyến, khi giặc đến gần phải sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh chính phủ để tác chiến.
 
2) Chính trị của chính phủ đối với tôn giáo, riêng với Công Giáo rất rõ ràng. Nên ta phải dè dặt đối với các tin phao đồn. Nếu đâu có những hành động trái ngược với thượng lệnh của chính phủ, xin cho tôi biết ngay để tôi can thiệp, chớ vội vàng để xẩy ra những việc đáng tiếc.
 

3) Đối với anh em bên lương, ngày nay ta càng tỏ tình đoàn kết để ngoại địch thấy rõ, trước nguy vong của Tổ Quốc, toàn thể đồng bào chỉ là một khối.
 

Để sửa soạn cho công cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, đồng thời để chứng tỏ Phát Diệm có tinh thần kháng chiến cao độ, ngoài việc ra thông tư vừa trình bày trên đây để nói rõ lập trường dứt khoát của giáo phận Phát Diệm đối với vấn đề kháng chiến chống Pháp, Đức Cha Lê lại ra chỉ thị các giáo xứ mở rộng những lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho Thanh Niên Công Giáo Cứu Quốc (TNCGCQ), tổ chức những cuộc họp bạn liên giáo xứ TNCGCQ, và lễ tuyên thệ cho cán bộ Công Giáo Cứu Quốc và nhất là xúc tiến mạnh hơn nữa việc mua võ khí để võ trang cho các tổ chức Tự Vệ CGCQ.
 
Vì số dân tản cư về vùng Phát Diệm một ngày một đông và họ hết sức nóng lòng theo dõi tin tức chiến sự ở các tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định v.v… để xem có hy vọng nào hồi hương hay không? Nên phủ bộ Việt Minh phủ Kim Sơn liền mở một phòng thông tin ngay ở nhà Cô Am ở giữa phố Thượng Kiệm, và mỗi thứ bảy vào buổi chiều phủ bộ Việt Minh lại mở một buổi tuyên truyền từ lầu gác hiệu Đông Thịnh gần cầu Phú Vinh giáp Phát Diệm.

Trong những buổi tuyên truyền chiều thứ bẩy Việt Minh thường đưa ra những luận điệu vu khống và xuyên tạc các hoạt động của Đức Cha Lê Hữu Từ và của người Công Giáo Phát Diệm, nên ngày 20 tháng 2 năm 1947, Đức Cha Lê ủy nhiệm cha Hoàng Quỳnh và cha Đoàn Độc Thư cùng một số thanh niên Phát Diệm đứng ra tổ chức phòng Thông tin Tuyên Truyền Công Giáo, trụ sở đặt tại nhà Cụ Trùm Nhật ở ngay giữa phố Phát Diệm.

Phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo được coi như chính thức hợp thức hóa mồng 8 tháng 3 năm 1947 bằng một lễ khánh thành thật long trọng dưới sự chủ tọa của Đức Cha Cố Vấn chính phủ với sự có mặt của đại diện cơ quan chính quyền, và đại biểu của các đoàn thể công cũng như tư cả đạo lẫn đời. Mấy ngàn dân chúng đứng  chật khắp đường phố và trên thuyền đậu ở sông Phát Diệm, phòng thông tin được mở cửa hàng ngày cho dân chúng  vào xem bịch báo, tranh ảnh và những bản tin chiến sự nhận qua radio mỗi ngày.
 
Mỗi chiều chủ nhật từ 5 giờ đến 7 giờ có chương trình phát thanh và tuyên truyền của phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo, đặc biệt câu chuyện hàng tuần của cha Đoàn Độc Thư tỏ ra hết sức hấp dẫn đối với quần chúng, trước  hết nhờ tài hùng biện nổi tiếng của ngài, sau nữa những câu chuyện thật rí rỏm vạch trần những mưu mô tuyên truyền ngày hôm trước trên lầu gác hiệu Đông Thịnh cách xa phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo khoảng độ 300 thước.
 
Để hiểu về cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền giữa Việt Minh và Công Giáo Cứu Quốc, xin trích ra sau đây những lời Đức Cha Lê đã viết về phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo trong quyển hồi ký của ngài.
 
Nhờ danh nghĩa cứu quốc, mà Phát Diệm đã lập  được các ngành như chính phủ Việt Nam; mọi nhân viên cũng hầu hết là người công giáo đưa ra, đừng kể Tự Vệ là ngành đã hoạt động đắc lực  nhất, thì ngành tuyên truyền cũng rất ảnh hưởng, lúc ấy cha Đoàn Độc Thư đứng đầu ban tuyên truyền, ngài đã khéo tổ chức để liên lạc với các xứ các xã để có lập trường và hành động thống nhất. Riêng tại Kim Sơn, Phát Diệm, có phòng thông tin, phát thanh các ngày chủ nhật ban chiều, Hễ có việc gì hoặc  Việt Minh tuyên tryền gì có hại ích chung, lập tức có tiếng của công giáo phản tuyên truyền lại phá tan hết mọi mưu mô của Việt Minh. Dân chúng cả giáo cả lương nhờ đó mà biết rõ sự thật, nên họ hưởng ứng với một lòng tín nhiệm khó tả hết; phòng thông tin Công Giáo  vừa bắt đầu nói thì dân chúng đến đến kín mít chật đường phố, không còn lối đi: vì các xứ xa gần đều cố gắng tới nghe tin tức chắc thật để về truyền lại. Trong  giờ truyền thanh những tiếng vỗ tay, những lời hoan hô vang động cả một góc trời…
 
Các buổi phát thanh Công Giáo thường là để vạch lối rõ cho dân khỏi lầm, hoặc cải chính lại những điều Việt Minh tuyên truyền sai bậy về Công Giáo, hoặc vẽ cách cho dân biết lối chất vấn cán bộ Việt Minh hay là thưa lại cho chắc lý…’

 
Trong sách Giám Mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm xuất bản tại Sài Gòn năm 1973, linh mục Đoàn Độc Thư, Giám đốc phòng Thông Tin và Tuyên Truyền  Công Giáo đã viết như sau:

‘Cái cảnh chen chúc nhau, giành giựt chỗ đứng đã nói lên sự tín nhiệm và tâm trạng  người dân lúc nào cũng muốn tìm về sự thật bất chấp mọi cản trở, đe dọa của những người nắm quyền thế. Đặc biệt hơn nữa, dân chúng từ những nơi xa Phát Diệm như Nam Định, Bùi Chu, thị xã Ninh Bình, Thanh Hóa… đã cơm đùm, cơm nắm đổ xô về Phát Diệm ngay từ chiều thứ bẩy để thăm trụ sở, lấy tin tức và mua báo Tiếng Kêu. Điều này làm cho chính quyền Cộng Sản bực tức không ít, nhất là sau mỗi buổi phát thanh, ngàn người như một, đồng loạt hô những khẫu hiệu: ‘Việt Nam Độc Lập Muôn Năm’, ‘Tự Do Tín Ngưỡng’, ‘Đả Đảo Cộng Sản’.
 
Mặc dầu chính quyền Cộng Sản cố tìm cách phá nhưng không phá nổi vì phòng Thông Tin Tuyên Truyền Công Giáo này là của Công Giáo Cứu Quốc, một tổ chức ở trong Mặt Trận Việt Minh đã được hợp phép hóa ngày 29 tháng 10 năm 1945.
 
Trong cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền, Đức Cha Lê Hữu Từ ủy nhiệm vụ cho cha Đoàn Độc Thư phát hành tờ tuần báo ‘Tiếng Kêu’ để phổ biến sâu rộng đường lối vừa Kháng Chiến vừa Chống Cộng của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, và tờ ‘Tiếng Kêu’ được Đức  Cha Lê hữu Từ xác nhận là tiếng nói chính thức của ngài giúp vào việc củng cố nền Độc Lập Tổ Quốc và thêm vinh quang cho Giáo Hội Việt Nam.
 
Cha Đoàn Độc Thư với danh nghĩa Công Giáo Cứu Quốc, thừa ủy nhiệm của Đức Cha Cố Vấn Chính phủ, xin phép chính quyền xuất bản tuần báo ‘Tiếng Kêu’, bất đắc dĩ Việt Minh phải cấp giấy phép, nhưng  với điều kiện tờ tuần báo Tiếng Kêu phải được kiểm duyệt trước khi phát hành, theo như luật lệ hiện hành. Việt Minh đã tìm đủ cách để phá tờ Tiếng Kêu bằng việc kiểm duyệt, nhưng ‘vỏ quýt dầy có móng tay nhọn’, cha Thư đã qua mặt việc kiểm duyệt  rồi mới được  phát hành bằng cách in ở cuối trang 4 như sau: ‘Đã Gửi Kiểm Duyệt’ thay vì chữ ‘Đã Kiểm Duyệt’, cuộc giằng co về vấn đề kiểm duyệt kéo dài một thời gian sau đó Đức  Cha Lê đòi chính quyền trao quyền kiểm duyệt cho văn phòng Cố  Vấn

Việt Minh đòi thu hồi giấy phép cho xuất bản tờ Tiếng Kêu cùng tịch thu nhiều ngàn tờ báo nhưng khi Tiếng Kêu càng khan hiếm thì dân chúng lại cố tìm bằng được để đọc và truyền tay cho nhau và việc rỉ tai tuyên truyền lại tỏ ra tai hại hơn nữa đối với Việt Minh.

Ảnh hưởng của cuộc ‘chiến tranh’ tuyên truyền nói lên lập trường chính trị của Đức Cha Lê Hữu Từ là vừa  Kháng Chiến vừa Chống Cộng theo tôn chỉ Phụng Sự Thiên Chúa và Tổ Quốc làm cho  Hồ Chí Minh phải gửi thư cho Đức Cha Lê đề ngày mồng 2 tháng 3 năm 1947, trong đó Hồ Chí Minh có nói là chính sách và mục đích của chính phủ chỉ có 3 điều:
 
(1) Làm cho dân khỏi đói, khỏi rét, khỏi dốt.

(2) Làm cho đồng bào tự do, tự do tín ngưỡng, tự do làm ăn.

(3) Làm cho tổ quốc độc lập.
 
Sau gần nửa thế kỷ cầm chính quyền, Việt Minh đã thực hiện được những gì?
 
   Đối với điều 1: Việt Nam hiện nay được liệt kê là một trong 5 nước nghèo nhất thế giới.
 
 Đối với điều 2: Từ khi Việt Minh cướp chính quyền cho đến năm 1985, nhân dân  Việt Nam đâu có tự do nhân quyền, và tự do tôn giáo

Đối với điều 3: Chúng ta có thể đồng ý là Việt Nam đã được độc lập, nhưng một nền độc lập nhân dân Việt Nam phải trả một giá quá đắt, với 2 trận chiến tranh làm cho hàng triệu con dân đất Việt bị thiệt mạng và đất nước bị tan tành, nhân dân lầm than đói khổ cho tới bây giờ chưa thoát ra khỏi.

Trong khi đó các quốc gia khác ở Á Châu, như Nam Dương, Mã Lai, Nam Hàn, Ấn Độ v.v.. trước đây là thuộc địa của đế quốc như Việt Nam mà nay những nước này đều dành được độc lập mà nhân dân của họ không hề phải đổ một giọt máu nào, mất một nhân mạng nào, hơn nữa lại có những nước trở nên giàu mạnh được gọi là những Con Rồng Vàng kinh tế trên thế giới, mà Việt Nam lại được coi là một trong những nước nghèo khổ nhất thế giới.

Như vậy Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đáng bị nguyền rủa vì đã hoàn toàn thất bại không mang lại cho được Tự Do và Hạnh Phúc cho nhân dân Việt Nam trong gần nửa thế kỷ cầm quyền binh trong tay, và bắt nhân dân Việt Nam phải trả một giá quá đắt cho một nền độc lập khập khễnh, hết làm đầy tớ cho Liên Sô, rồi làm đầy tớ cho Tầu bây giờ lại đang lăm le trở thành đầy tớ của tư bản Hoa Kỳ nữa!

(còn tiếp)
#16
    frank 31.05.2022 03:00:30 (permalink)


    Chương 13


    Giám mục Lê Hữu Từ - Thày dòng khổ tu


    Làng Di Loan thuộc tỉnh Quảng Trị, sinh quán của Đức Cha Lê Hữu Từ, Giám Mục địa phận Phát Diệm, một thời là Cố Vấn Tối Cao cho chính phủ Hồ Chí Minh. Làng Di Loan nổi tiếng anh hùng, can đảm bằng câu ca dao trong dân gian tỉnh Quảng Trị về cá tính của một số làng:

    Văn chương Xuân Mị
    Lý Sự Thị Khê
    Làm thuê Cam Phố
    Ở lỗ (truồng) làng Tùng
    Anh hùng Di Loan

    Đức Cha Lê Hữu Từ tốt nghiệp ở chủng viện An Ninh thuộc địa phận Huế, và sau khi chịu chức phó tế, ngài xin nhập dòng khổ tu Phước Sơn và chịu chức linh mục ngày 22-12-1928.

    Nam 1933, cha Anselmô, tên dòng của D/C Lê Hữu Từ, được cử lên làm Phó Bề Trên nhà dòng Phước Sơn và đến tháng 2 năm 1936, lãnh sứ mạng đi lập nhà dòng mới ở Châu Sơn, ở phú Nho Quan, tỉnh Ninh Bình thuộc địa phận Phát Diệm, nhưng mãi tới ngày mồng 6 tháng 9 năm 1936, bề trên Anselmô cùng 12 tu sĩ khổ tu mới đặt chân tới Châu Sơn với một vốn liếng tinh thần ‘khổng lồ’, nhưng tiền bạc chỉ vỏn vẹn có 12 đồng bạc, với một cây thánh giá và mỗi thầy dòng còn có thêm một cỗ tràng hạt nữa.

    Châu Sơn là một đồn điền cũ trong một vùng lam sơn chướng khí cách phủ lỵ Nho Quan 3 cây số, đồn điền này chỉ còn lại có mấy ngôi nhà lá và một căn nhà gạch bỏ phế hoang tán nhiều năm, khi được nhà Dòng mua lại. Cha Anselmô cũng 12 thầy chấp nhận mọi khổ cực, mệt nhọc và nghèo túng sống theo luật Dòng, các thầy phải sống như những người nghèo khổ nhất trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ, chân đi đất, tứ mùa bát tiết chỉ mặc bộ áo dòng bằng loại vải sô, đội nón vành được bọc vải, đêm ngủ trên một tấm phản bằng gỗ của mỗi người. Chỉ trong mấy tháng đầu khai phá, 4 tu sĩ đã bị chết vì bệnh sốt rét ngã nước.

    Đồn điền đã được trùng tu bằng những bàn tay, bàn chân chai đá của các thầy dòng, những cánh đồng đã được chính tay các thầy cuốc sỏi, phá rừng, làm rẫy, và sau mấy năm trời, Châu Sơn đã trở nên khang trang, rộng rãi và phồn thịnh đủ tiền đển xây dựng một thánh đường đồ sộ nguy nga mà lễ đặt viên đá đầu tiên được tổ chức vào ngày 18 tháng 2 năm 1937. Và sau ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945 quân đội Nhật Bản đảo chính thực dân Pháp, Châu Sơn lại trở thành một cơ sở của chiến khu của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đóng góp vào công cuộc đấu tranh dành Độc Lập cho Tổ Quốc Việt Nam, nhờ ở tinh thần ái quốc cao độ của cha bề trên Anselmô.

    Theo luật của dòng khổ tu Châu Sơn, trừ khi đọc kinh cầu nguyện, hay trừ trường hợp cần thiết, các tu sĩ ‘triệt khẩu’ cả tuần lễ, chỉ trừ ngày Chủ Nhật mới được phép nói chuyện tự do với nhau trong một giờ, tuy nhiên trong thời gian có cơ sở ấn loát của chiến khu Rịa di chuyển tới Châu Sơn, tôi thường tá túc trong nhà dòng ở khu vực dành riêng cho những người tới tĩnh tâm, tôi đã có nhiều dịp nói chuyện với cha bề trên Anselmô về những vấn đề liên quan tới công cuộc đấu tranh của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

    Tôi còn nhớ trong tuần lễ cuối tháng 7 năm 1945, cha Anselmô cho tôi biết về câu chuyện các linh mục địa phận Phát Diệm đến Châu Sơn trình cho ngài bức điện văn của Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Huế, báo tin cha Anselmô được chọn làm giám mục địa phận Phát Diệm, ngài có nói với các cha rằng:

    ‘Các linh mục Phát Diệm lầm lạc to, nếu không dám nói là điên khùng, khi chọn một thày dòng khổ tu chỉ có tài cuốc đất trồng cỏ'

    Và ngài tâm sự riêng với tôi’:

    Trong mấy chục năm sống chung dòng khổ từ Phước Sơn ra đến Châu Sơn này, cha chỉ đi chân đất và sống như người nghèo khổ nhất, nếu lãnh chức giám mục, phải đi giầy, không biết làm sao đi nổi đây’.

    Ngài tìm đủ cách vận động để khỏi phải lãnh trách vụ giám mục Phát Diệm, nhưng việc ngài xin Tòa Thánh tha cho đặc ân này đều bị thất bại.

    Mỗi khi cha Anselmô về Phát Diệm bằng thuyền cập bến ở phố Thượng Kiệm ngay trước cửa nhà chúng tôi, ngài thường cùng một thầy nữa mang một rá đầy quà toàn là bơ và phó mát, những sản phẩm của sở chăn nuôi của nhà dòng Châu Sơn, một món quà rất quý trong thời gian chiến tranh, gia đình tôi lúc đó chỉ có chúng tôi và một cháu bé gái còn nhỏ tuổi, nên mỗi lần ngài cho quả như vậy là họ hàng hai bên nội ngoại đều được hưởng.

    Một lần, tôi nhớ vào khoảng trung tuần tháng 9 năm 1945, sau khi Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cướp chính quyền ở Phát Diệm, cha Anselmô lúc này là Đức Giám Mục được chỉ định Lê Hữu Từ, lại tới cho quà một lần nữa, ngài nói với nhà tôi:

    ‘Chị Minh ơi, tôi cho mang lại chị ít quà, cây nhà lá vườn. Anh Minh có ở nhà không?’


    Và khi biết tôi không có ở nhà, cha Anselmô dặn lại ngài muốn gặp tôi ở nhà chung Phát Diệm vào buổi sáng ngày hôm sau.

    Ngày hôm sau tới gặp, ngài cho tôi biết ý của ngài muốn đề nghị với các Đức Giám Mục Việt Nam: Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục vận động để thế giới biết rõ người Công Giáo Việt Nam quyết tâm bảo vệ nên độc lập mới thâu hồi khỏi tay thực dân Pháp và đặc biệt gửi đến Đức Giáo Hoàng Piô XII một thông điệp xin Tòa Thánh ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, và kết quả là ngày 23 tháng 9 năm 1945. Đức Cha Nguyễn Bá Tòng đại diện cho Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục và Lê Hữu Từ, gửi một điện văn sang Tòa Thánh nguyên văn như sau:

    ‘Dân tộc Việt Nam chúng con qua sự trung gian của 4 giám mục xin đệ đến Đức Thánh Cha lòng thành kính sâu xa và xin Đức Thánh Cha chúc phúc, cầu nguyện cho nền độc lập mà dân tộc chúng con mới thâu hồi được và đang sẵn sàng bảo vệ nó với bất cử giá nào.

    Các Giám Mục Việt Nam nài khẩn Đức Thánh Cha, Tòa Thánh La Mã, các Đức Hồng Y, các Đức Tổng Giám Mục, các Đức Giám Mục và toàn thể Kitô hữu trên thế giới và nhất là nước Pháp, ủng hộ nền độc lập của Tổ Quốc yêu quý của chúng tôi.’

    Nhân danh Ủy Viên Liên Lạc với các tổ chức Công Giáo của Tổng Bộ Việt Minh, tôi đã gửi bản sao của bức điện văn này lên ngay Hà Nội cho Trần Huy Liệu, lúc đó là bộ trưởng Thông Tin Tuyên Truyền của chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, và Phạm Văn Đồng là bộ trưởng Tài Chánh, bức điện văn này đã được đưa ra trình bày trong một phiên họp của các bộ trưởng chính phủ tại Bắc Bộ Phủ, và được phổ biến trên toàn quốc. Tác giả Bernard Fall cũng có ghi bức điện văn này trong quyền sách ‘Le Viet Minh’ xuất bản tại Paris năm 1960.

    Hành động này của các giám mục Việt Nam chứng tỏ lòng hăng say của khối giáo dân Việt Nam trong công cuộc tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia dân tộc, và trong thời ấy, Việt Minh cũng nhận thấy Công Giáo là một lực lượng vô song, nên để lấy lòng giáo dân Việt Nam, chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh chọn ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày quốc lễ.

    Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thanh niên Công Giáo cùng với các giáo sĩ tổ chức một cuộc mít tinh được gọi là ‘khổng lồ’ tại Hà Nội. Ban tổ chức được lãnh đạo bởi Nguyễn Mạnh Hà, một chuyên viên kinh tế học, bộ trưởng bộ kinh tế trong chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đoàn Thanh Niên Lao Động Công Giáo (JOC Jeunesse Ouvrière Catholique), vì Nguyễn Mạnh Hà là con rể của lãnh tụ công sản Pháp Paul Marchais, có tiếng thân cộng, nên cuộc mít tinh được coi như để phát huy lòng ái quốc và tin cậy vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.

    Trong cuộc mít tinh này, tôi đứng ra mời tất cả các đoàn thể Công Giáo về tham dự đại hội của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc tổ chức tại Phát Diệm ngày 28 tháng 10 năm 1945, nhân ngày lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ.

    Ngày mồng 1 tháng 10 năm 1945, dân chúng Phát Diệm nồng nhiệt tiếp đón cha Anselmô Thađêô Lê Hữu Từ, từ dòng Châu Sơn về Phát Diệm nhận quyền cai quản địa phận, ngài đi trên chiếc xe hơi Simca Cinq màu xanh, 2 chỗ ngồi do anh Đoàn Hòa, con cụ trùm Nhật lái, (Đoàn Hòa sau này là em rể tôi , và hiện đang sống tại San Jose). Chiếc xe này do các anh em trong Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mua lại của cha Bề Trên chúng viện St. Sulpice ở Hà Nội, để mừng Đức Cha mới.

    Cuộc lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ được tổ chức một cách hết sức trọng thể tại nhà thờ chính tòa Phát Diệm, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng chủ phong với sự hiện diện của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn và các cha chính địa phận của các địa phận ở Bắc Việt, kể cả giáo phận Quy Nhơn, Huế, Vinh và Thanh Hóa. Riêng gia đình của Đức Cha Từ đến từ Di Loan gồm có ông Cố thân sinh, gần 80 tuổi, cha Lê Hữu Luyến là anh ruột, cha Lê Hữu Huệ là em trai, hai em gái là nữ tu Lê Thị Ân, Lê Thị Ứng và người em trai út Lê Hữu Hiến.

    Riêng các linh mục thuộc giáo phận Phát Diệm hầu như có mặt gần hết và giáo dân tham dự đông vô kể nhưng một điều đáng chú ý là trong lể phụ phong giám mục này không có mặt của các giám mục của các giám mục thừa sai người Pháp hay Tây Ban Nha và trong 10 giáo phận ở Việt Nam thời bấy giờ chỉ có 3 giáo phận có giám mục Việt Nam là Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long.

    Về phía chính quyền Việt Nam tham dự lễ thụ phong của Đức Cha Lê Hữu Từ, Cựu Hoàng Bảo Đại tức Cố Vấn Vĩnh Thụy đại diện đặc biệt của Hồ Chí Minh, chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam, và trưởng phái đoàn chính thức của chính phủ là Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Nội Vụ, Trần Huy Liệu, bộ trưởng Thông Tin Tuyên Truyền, Phạm Văn Đồng, bộ trưởng Tài Chính, Nguyễn Mạnh Hà, bộ trưởng Kinh Tế, và rất nhiều các quan chức khác.

    Sau lễ thụ phong, có cuộc phải chẩn cho dân nghèo, một cuộc mít tinh được tổ chức tại sân vận động sau chợ Năm Dân, để nhân dân bất kể lương giáo tới chào mừng Đức Tân Giáo Mục và phái đoàn của chính phủ.

    Ngoài việc đại diện chính quyền địa phương tiếp đón phải đoàn của chính phủ, tôi lại có dịp đặc biệt tiếp đón Phạm Văn Đồng, bộ trưởng Tài Chánh, đại diện Tổng bộ Việt Minh về tham dự lễ thụ phong và đại hội của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

    Phạm Văn Đồng về Phát Diệm ở nhà tôi trong 7 ngày liền nên chúng tôi đã có rất nhiều thì giờ hàn huyên về những chuyện đấu tranh cách mạng và chính trị, đặc biệt Phạm Văn Đồng rất chú ý đến những hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc cùng những thành tích cách mạng của Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh và những vấn đề liên quan tới giáo hội Công Giáo ở các địa phương.

    Một giai thoại đặc biệt vui mà chúng tôi không sao quên được là trong một buổi tối ở nhà chúng tôi, sau khi nói chuyện đã, tôi mời Đồng đi ngủ, anh ta ngồi lên giường nằm, nhà tôi liền kêu lên:

    ‘Eo ôi, sao anh Đồng bẩn thế, không rửa chân mà chỉ cọ chân không vậy à?

    Và gọi người nhà mang lên thau nước. Đồng liền trả lời:

    ‘Thôi mà chị Minh ơi, ở chiến khu lâu ngày nên bẩn quen rồi, mấy khi có thì giờ và có nước đâu mà rửa chân, nên xin phép chị để chân bẩn vậy để chui vào chăn ngủ đây. Bonne nuit nhé!

    Theo chương trình thì ngày hôm sau lễ thụ phong mới họp đại hội của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, nhưng đến chiều, sau cuộc Mít tinh ở sân vận động. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam cũng họp đại hội tại nhà nguyện trường các Thầy Giảng trong nhà chung với sự tham dự của 3 Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn và Lê Hữu Từ cùng các linh mục Tổng Đại Diện các giáo phận và một số giáo dân, đặc biệt có mặt của Nguyễn Mạnh Hà, bộ trưởng Kinh Tế và thủ lãnh của Thanh Niên Lao Động Công Giáo (JOC). Vì không thấy tôi có mặt ở đại hội nên cha Hoàng Quỳnh bảo anh Thứ ‘Ruông’ tìm tôi vào tham dự.

    Các vấn đề được đem ra thảo luận tại đại hội này là việc chính thức thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam và thông qua bán điều lệ, cùng thảo luận việc nên có một Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam hay có thêm cả Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc nữa. Khi tôi tới nơi, Nguyễn Mạnh Hà đang trình bày nhiều vấn đề để trong đó ông ta xác nhận rằng Mặt Trận Việt Minh là của đảng Cộng Sản và ông Hồ Chí Minh là đảng viên đảng Cộng Sản, mà Cộng Sản chủ trương thuyết vô thần, nên Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam không thể hoạt động trong Mặt Trận Việt Minh được.

    Đoàn Thanh Niên Công Giáo địa phận Vinh là đoàn thể hàng say nhất trong việc thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam và họ yêu cầu các giám mục cùng các cha tổng đại diện chỉ công nhận Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam không mà thôi.

    Sau đó tôi được đại hội mới lên trình bày về Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, trước hết tôi xác nhận là chúng tôi có biết rõ Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh có một thành phần chính là đảng Cộng sản Đông Dương, rồi sau đó tôi trình bày về quá trình hoạt động của Mặt Trận VNCGCQ đã được thành lập ngay từ năm 1942 cùng một thời với Mặt Trận Việt Minh, dưới thời Pháp thuộc chủ trương đánh thực dân Pháp lẫn Phát Xít Nhật Bản để dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam.

    Trong 3 người thành lập Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, có linh mục Tuyên úy Công Giáo Tiến Hành của địa phận Phát Diệm là cha Hoàng Quỳnh cùng với tôi và anh Trần Ngân tức Bằng Phong. Và linh hồn của mọi hoại động của Mặt Trận là cha Anselmô tức Đức Cha Lê Hữu Từ, ngài vừa mới được thụ phong giám mục ngày hôm nay. Ngài đã đóng góp rất nhiều vào công cuộc bành trướng của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc từ Bắc vào Trung Phần và Nam Phần Việt Nam. Và cơ sở của chiến khu của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được đặt ngay tại nhà dòng Châu Sơn, dưới thời Đức Cha Lê Hữu Từ là bề trên.

    Để kết thúc phần trình bày, tôi nói:

    ‘Xin các Đức Cha và các cha cùng quý vị hãy xem quyển điều lệ của Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, về chương hệ thống và tổ chức các đoàn thể Cứu Quốc. Trong chương này, không hề có tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, mà chỉ có đoàn thể Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc do Nguyễn Công Chính đứng đầu mà tôi biết rõ Chính là đảng viên đảng Cộng Sản và là phụ tá thân cận nhất của ông Nguyễn Mạnh Hà, lãnh đạo tổ chức Thanh Niên Lao Động Công Giáo (tức Jeunesse Ouvrière Catholique) ở Hà Nội.

    Sự hợp tác giữa Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và Mặt Trận Việt Minh chỉ là một hình thức liên kết trong công cuộc đấu tranh dành Độc Lập cho Tổ Quốc mà thôi’.


    Sau đó tôi quay sang các đức giám mục và các cha chính địa phận để thưa rằng:

    ‘Con còn nhiều điều cần phải trình bày riêng không thể nói ở đây được’

    Đại Hội của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam được tạm hoãn để các đức giám mục và các cha chính họp riêng với tôi.

    Trong phần trình bầy riêng này tôi đã vạch rõ mục đích chính của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc là thành lập các đoàn Tự vệ Công Giáo được võ trang, vì điều này mặc nhiên được phép của chính phủ vì chúng tôi đã được võ trang từ trước tức từ thời các chiến khu chống Pháp chống Nhật. Một khi các giáo xứ được võ trang, nhà thờ sẽ được bảo vệ và các giáo dân sẽ hãnh diện đóng góp vào công cuộc đấu tranh võ trang dành độc lập cùng với các đoàn thể khác của Việt Minh và không mang tiếng ‘theo Tây’.

    Đức Cha Lê Hữu Từ cùng cha Hoàng Quỳnh cũng trình bày kỹ càng về vấn đề này. Nhất là Đức Cha Lê Hữu Từ nói rõ về số súng đạn ngài mua được từ quân đội Nhật Bản và chính số súng đạn này đã võ trang cho những đơn vị tự vệ công giáo bảo vệ khu An Toàn Phát Diệm và biến thành Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo sau này.

    Kết quả là hai tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam hoạt động song song với nhau để truyền bá lý tưởng Công Giáo và lòng ái quốc trong đời sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội, cùng bệnh vực quyền lợi tinh thần và vật chất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và quyền lợi của quốc gia dân tộc.

    (còn tiếp)
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.05.2022 03:07:06 bởi frank >
    #17
      frank 01.06.2022 03:22:29 (permalink)


      Chương 14


       
      Giám Mục Lê Hữu Từ - Cố vấn chính phủ


      Ngay sau khi phái đoàn Việt Nam Công Giáo Quốc  do linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo vào gặp ông Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ Phủ, tôi liền từ Hà Nội về  Phát Diệm để phúc trình lên Đức Cha Lê Hưu Từ về cuộc gặp gỡ này, đặc biệt là vụ Đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và biến thành Hội Nghiên Cứu Mác Xít. Cũng như việc ký thỏa hiệp cộng tác giữa Việt Minh và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) do ông Hồ Chí Minh ký với cụ Nguyễn Hải Thần.Và việc ông Vũ Hồng Khanh cùng một số quân Việt Nam Quốc Dân Đảng từ Trung Hoa kéo về Hà Nội và nhất là việc báo của các đảng phái Quốc Gia đả kích rất mạnh Mặt Trận Việt Minh ở Hà Nội.

      Việc độ đốc D’Argenlieu, Cao Ủy của Pháp tời Sài Gòn với đoàn tùy tùng  và nhân viên, cùng việc quân đội Pháp tiến chiếm các thành phồ ở miền Nam Việt Nam. Và việc một phong trào chia rẽ Nam Bắc được phát động ở Sài Gòn, đòi tách rồi Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, đã được phân tách rất kỹ càng. Một điều gây nhiều chú ý là Đô Đốc D’Argenlieu, mới từ Pháp sang Sài Gòn nhậm chức Cao Ủy Pháp cũng là một thầy dòng khổ tu (Trappist) như Đức Cha Lê Hữu Từ.

      Được biết ngày 24 tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh ra Vịnh Hạ Long gặp D’Argenlieu và đến ngày 19 tháng 5 năm 1946, D’Argenlieu tới Hà Nội thăm Hồ Chí Minh, Việt Minh ra lệnh treo cờ, gọi là mừng ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, nhưng sự thật là treo cờ để tiếp đón D’Argenlieu Cao Ủy Pháp ở Việt Nam. Ngày 5 tháng 3 năm 1947, đô đốc D’Argenlieu giải ngũ, và trở về Pháp sống đời thầy dòng khổ tu như trước.

      Đức Cha Lê Hữu Từ tỏ ý muốn lên Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh, trước hết để đích thân cám ơn ông ấy đã cử phái đoàn chính phủ về dự lễ tấn phong giám mục của ngài và sau nữa để thảo luận về tình hình đất nước và ngài cử tôi lên Hà Nội ngay để gặp Phạm Văn Đồng, yêu cầu Đồng dàn xếp một cuộc tiếp kiến của ngài với ông Hồ Chí Minh.

      Ngày mồng 6 tháng 11 năm 1945, Đức Cha Lê Hữu Từ cùng với cha Nguyễn Gia Đệ (hiện nay ở Montreal bên Canada) đã tới Bắc Bộ Phủ, và Hồ Chí Minh đã tiếp phái đoàn hết sức nồng hậu và có vẻ chân thành. Sỡ dĩ tôi nói tới thái độ chân thành của họ Hồ đối  với phái đoàn, không biết là thật hay giả dối, vì trong câu chuyện nói với Hồ Chí  Minh, Đức Cha Từ đã tỏ ra sự chân thành của một thầy dòng khổ tu, nói thẳng và nói thật điều ngài nghĩ, và nhất là tỏ ra lòng hăng  say của ngài đối với công cuộc chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam. Ngài cũng không ngần ngại  kể luôn cả câu chuyện đô đốc D’Argenlieu, Cao Ủy Pháp cùng là một thày dòng khổ tu ở bên Pháp cùng một chi dòng với ngài.

      Sự tiếp đón nồng hậu của họ Hồ đối với phái đoàn, có thế do việc Phạm Văn Đồng phúc trình đầy đủ về thân thế, sự  nghiệp của Đức Cha Lê Hữu Từ và lòng hăng say của Công Giáo Phát Diệm nói riêng và Công Giáo Việt Nam nói chung đối với công cuộc chống Pháp dành độc lập cho đất nước. Đây là  những điều mà Phạm Văn Đồng đã nhận xét thấy và được nghe biết trong chuyến Đồng về Phát Diệm trong 6 ngày nhân dịp lễ tấn phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ và Đại Hội của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

      Trong cuộc tiếp kiến này, Hồ Chí Minh đã nhân danh chính phủ mời Đức Cha Lê Hữu Từ vào Hội Đồng Cố Vấn của Chính phủ sau Cựu Hoàng Bảo Đại, và hứa sẽ đáp lễ bằng một cuộc về viếng thăm Phát Diệm. Đức Cha Lê đã nhận lời mời của Hồ Chí Minh vào Hội Đồng Cố Vấn và ngài tỏ ra vẻ hân hoan được đón tiếp ông Hồ tại Phát Diệm.

      Cuộc vi hành của Hồ Chí Minh về Phát Diệm thăm Đức Cha Từ và phủ dụ đồng bào ở Phát Diệm đã diễn ra một cách hết sức đột ngột , và ngay đến Ủy Ban  Hành Chánh địa phương do Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lãnh đạo cũng không được thông báo gì hết. Khi ông Hồ về thăm Phát Diệm, tôi đang bận công tác tại Hà Nội, nên xin trích sau đây bài tường thuật của cuộc viếng thăm ấy, được ghi ở trang 86 trong quyển sách ‘Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm 1945 - 1954’, tác  giả là Linh mục Đoàn Độc Thư và Xuân Huy, xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn và hiện nay quyển sách này đã được tái bản ở Hoa Kỳ và có bầy bán ở các tiệm sách Việt Nam trên khắp các tiểu bang.

      ............................................
       
      ‘…Thấy tình hình căng thẳng giữa Công Giáo Phát Diệm và chính quyền (địa phương) có thể nguy hại đến chính sách của Việt Minh, nên Hồ Chí Minh, vẫn theo đuổi chính sách mềm dẻo đối với Công Giáo, đã thân về Phát Diệm thăm Đức Cha Lê và phủ dụ đồng bào.

      Ngày 25-01-1946 trời lạnh gió rét, cũng là ngày sau cùng của tuần tĩnh tâm hàng năm của các linh mục Phát Diệm. Ông bô Kế giữ cửa nhà chung Phát Diệm chạy vào trình Đức Cha:

       ‘Bẩm Đức Cha, có ông nào muốn vào hầu Đức Cha có việc gì, ông đội mũ, chống gậy, mặc áo bốn túi… Ông đã vào tới đây’.

      Đức Cha quay ra hô lên:

       ‘A! Cụ Hồ đã cho tin giãn không về  mà…’ (vì sau bức điện tín Ô. Hồ báo tin về thăm Phát Diệm, một điện tín khác nói: không biết có về được không?)

      Đức Cha đưa Hồ Chí Minh lên phòng riêng đàm luận. Trong khi đó các linh mục tụ hội tại nhà Công Đường (phòng khách của Đức Cha)  Dân chúng Phát Diệm được huy động đến chào mừng.

      Sau chừng 1 tiếng đồng hồ đàm luận. Đức Cha dẫn Hồ Chí Minh xuống Công đường để các linh mục chào. Hồ Chí Minh nói lời cám ơn rồi hô to ba lần:

      ‘Đức Chúa muôn năm’.

      Tiếp sau đó, dân chúng rước Đức Cha và ông Hồ ra nhà Hát Lớn để chào mừng. Đại diện các đoàn thể và dân chúng đọc lời chúc thọ. Các chúng sinh thuộc đại chủng viện và các thày giảng, đồng ca bài ‘Em không nghe mùa thu…’ (4 bè) mừng Hồ Chí Minh. Trước đó cha Nguyễn Gia Đệ độc ca bài ‘Hồ Chí Minh muôn năm’ bài ca do Vũ Đình Huỳnh, bí thư của ông Hồ mang từ Hà Nội về.

      Đáp từ, Hồ Chí Minh đứng lên dõng dạc nói:

      ‘Thưa Cụ Giám Mục và tất cả anh chị em đồng bào các giới.
      Mặc dầu buổi sơ khai, chính phủ bận rộn rất nhiều, tôi cũng dành thời giờ ưu tiên đích thân về thăm Cụ Tân Giám Mục khá kính và viếng cảnh Phát Diệm, nơi đã được mệnh danh là Địa Linh Nhân Kiệt.. Tôi rất mừng vì thấy anh chị em đồng bào ở đây đoàn kết và yêu nước… Tôi rất mừng vì thấy anh chị em không thể mỗi ngày tiếp xúc với anh chị em được nên tôi (để tay lên vai Đức Cha Lê) đặt cụ Giám Mục Từ làm cố vấn chính phủ của tôi. Có việc gì anh chị em cứ trực tiếp với Cụ Giám Mục Cố Vấn, cụ sẽ cho tôi hay và cùng giải quyết…’

      Hồ Chí Minh, với lối ăn mặc đơn sơ, giọng nói dõng dạc và cử chi tỏ ra thân mật nên đã cảm hóa được quần chúng đối diện, Chính tác giả đã nhìn thấy 2 cụ già rớt nước mắt vì cảm động khi ông Hồ bước đến cầm lấy tay và hỏi han sức khỏe.

      Thế là từ đó, Đức Cha Lê Hữu Từ chính thức là cố vấn chính phủ và được mọi người xưng hô là Đức Cố Vấn…’

      ......................................................................


      Lý do của cuộc thăm viếng Phát Diệm của ông Hồ Chí Minh cùng việc chính thức tuyên bố Đức Cha Lê Hữu Từ giữ chức cố vấn chính phủ và thái độ mềm mỏng cùng mị dân của họ Hồ là để làm dịu đi lòng căm phẫn của dân chúng Phát Diệm đối với cơ quan hành chánh tỉnh Ninh Bình trong vụ tuyên bố kết quả gian dối của cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 6 tháng giêng năm 1946.

      Trong cuộc bầu cử này tỉnh Ninh Bình là một đơn vị bầu cử theo liên danh. Liên danh của Công Giáo đưa ra gồm 4 ứng cử viên: linh mục Phạm Ngọc Chi, sau này là giám mục địa phận Bùi Chu và Đà Nẵng; linh mục Lê Nguyên Kỷ, mới chết cách đây mấy năm ở xứ Sao Mai, Chí Hòa Sài Gòn; cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ Công Giáo, sau này giữ chức Thứ Trưởng bộ Thương Binh; và ông Trần Văn Triêm, thầy giáo lớp Moyen II, của người viết, hiện nay đang tị nạn Cộng sản ở California, trong khi đó Mặt Trận Việt Minh cũng đưa ra một danh sách gồm 4 ứng cử viên: các ông Cầu, Cống, Đống, Vợi.

      Cuộc vận động bầu cử đã diễn ra rất sôi nổi và đúng ngày bầu cử Đức Cha Lê Hữu Từ cùng các linh mục và giáo dân nô nức đi bỏ phiếu. Theo kết quả sơ khởi thì liên danh của Công Giáo dẫn đầu số phiếu ở các huyện trong tỉnh, nhưng đến khi có quan hành chính tỉnh Ninh Bình tuyên bố kết quả thì liên danh của Việt Minh là các ông Cầu, Cống, Đống, Vợi trúng cử nhưng lại thêm 1 ứng cử viên của liên danh công giáo là cụ Ngô Tử Hạ.

      Cảm thấy có sự gian lận trong cuộc bầu cử, vì đây là cuộc bầu cử theo liên danh trúng,  không lý do gì một mình cụ Ngô Tử Hạ trúng  cử, trong khi 3 ứng cử viên khác lại không, nên Đức Cha Lê Hữu Từ cho đánh điện tín lên phản đối chính phủ, mặc khác ngài ra lệnh sửa soạn một cuộc biểu tình ‘đả đảo bầu cử gian lận’. Hồ Chí Minh  liền đánh điện tín trả lời và thông báo địa phương đã có sự  lầm lẫn trong việc cộng phiếu và linh mục Phạm Ngọc Chi được trúng cử, nhưng Đức Cha Lê đã đồng ý để cho linh mục Phạm Ngọc Chi từ khước sự trúng cử ấy.

      Tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đắc cử với 98% số phiếu, Võ Nguyên Giáp trúng cử ở Nghệ An với 97% số phiếu, cựu  hoàng Bảo Đại trúng cử ở Thanh Hóa. Đây là một cuộc bầu cứ một chiều, chỉ những lãnh tụ và người thân Việt Minh mới trúng cử, thái độ của hai đảng phái quốc gia là không phản đối và không tham gia cuộc bầu cử. Và Việt Minh đặc biệt dành 70 ghế dân biểu cho phe đối lập tham dự Quốc Hội không cần bầu cử. Việt Nam Quốc Dân Đảng nhận 50 ghế và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội nhận 20 ghế.

      Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến, Quân sự ủy viện Hội, ban Cố Vấn, ban Thường Trực Quốc Hội và Ủy ban đặc biệt Pháp Viện được trình diện trước phiên họp Quốc Hội đầu tiên vào ngày mồng 2 tháng 3 năm 1946.

      Cụ Ngô Tử Hạ  ngồi ghế Chủ Tịch Quốc Hội, Hồ Chí Minh vẫn giữ chức chủ tịch,  Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch, 4 bộ dành cho Việt Minh 4 bộ dành cho 2 đảng Việt Cách và Việt Quốc.  Bộ Quốc Phòng và Nội Vụ trao cho nhân vật trung lập là Huỳnh Thúc Kháng và Phan Anh, riêng Quân Sự Ủy Viên Hội do Võ Nguyên Giáp giữ chức chủ tịch và phó chủ tịch là Vũ Hồng Khanh. Cựu Hoàng Bảo Đại giữ chức cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh.

      Việc bầu cử quốc hội và thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia là một bước tiến cần thiết để họp thức hóa chính quyền Việt Nam đối với cả Trung Hoa lẫn Pháp quốc. Pháp lúc này đã chiếm được rất nhiều tỉnh ở Nam Bộ và miền Nam Trung bộ cùng vùng Cao nguyên và lăm le ra chiếm Bắc Việt với cuộc điều đình ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc để Pháp ra thay thế quân đội Trung Hoa tước khí giới quân đội Nhật Bản.

      Trong khi kêu gọi nhân dân đoàn kết chống Pháp dành độc lập, Hồ Chí Minh thường tiếp xúc bí mật với một thiếu tá người Pháp tên Sainteny, đã đến Hà Nội ngay sau ngày Việt Nam cướp chính quyền,  Họ Hồ tỏ ra thân thiện với người Pháp vì tin tưởng rằng đảng Cộng sản Pháp trong thời gian đã có ảnh hưởng  rất mạnh ở chính trường Pháp Quốc và ngày 16 tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh tiếp Sainteny và tuyên bố bằng lòng đàm phán với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp.

      Việc Hồ Chí Minh nhận định với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp là một nền độc lập khó hiểu và được dân chúng coi như là một hình thức Hồ Chí Minh ‘bán nước’ cho Pháp. Ngay đến Tổng Bộ Việt Minh cũng bất đồng ý kiến với lập trường này và các đảng phái quốc gia phân đối dữ dội gọi Hồ Chí Minh là phản quốc, cõng rắn cắn gà nhà.

      Việc thuyết phục Tổng Bộ Việt Minh chấp nhận lập trường Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp là điều không khó khăn lắm đối với Hồ Chí Minh. Riêng đối với các phái quốc gia, nguyên việc lập chính phủ Liên Hiệp  Kháng Chiến giữa Việt Nam và các đảng phái quốc gia, nhất là việc  Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng nhận chức phó cho Võ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân Sự Ủy Viên Hội trong đó có 9 ủy viên hỗn hợp để chuẩn bị về quân sự, đã làm giảm đi rất nhiều sự chồng đối và có thể nói là mọi sự bất mãn của phe quốc gia đã được dẹp bỏ. Nên Hồ Chí Minh có thể công khai tuyên bố sự thỏa hiệp với thực dân Pháp mà lúc này Việt Minh tuyên truyền là thỏa hiệp với người Pháp mới.

      Đây là một điều hết sức trớ trêu và đau lòng làm cho nhiều người đặt câu hỏi tại các đảng phái quốc gia đang từ chủ trương chống đối mọi thỏa hiệp với thực dân Pháp, bỗng nhiên các đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng ‘chui đầu’ vào chia nửa phần trách nhiệm với Việt Minh trong việc ký kết ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946, cái hiệp định sơ bộ ‘bán nước’ của Hồ Chí Minh cho thực dân Pháp.

      Trước đây Hồ Chí Minh chủ trương  điều đình trên nguyên tắc ‘Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp’ nhưng đến khi hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 được ký thì Việt Nam chỉ được Pháp công nhận là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tài chánh riêng trong Liên Bang Trung Ấn và trong Liên Hiệp Pháp.

       Rồi thêm một điều đau lòng nữa là về phía Việt Nam, chính phủ Cộng Hòa phải sẵn sàng thân mật tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế cho quân đội Trung Hoa theo như hiệp ước quốc tế… và Pháp được đóng quân tại các địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,  Nam Định, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cay, Hà  Giang, Lai Châu, Điện Biên Phủ, Huế, Tourane (Đà Nẵng).

      Trong thời gian Việt Minh, với sự đồng ý của hai đảng Việt Cách và Việt Quốc, điều đình với Pháp, thì tôi và anh Trần Ngọc Ngoạn (Cựu tu sĩ dòng Châu Sơn, một đảng viên Việt Quốc) được Đức Cha Lê Hữu Từ ủy lên Hà Nội liên lạc và tiếp xúc với cụ Nguyễn Hải Thần và các lãnh tụ đảng phái quốc gia, để đại diện ngài đặt thành vấn đề việc các đảng phái quốc gia hợp tác với Việt Minh trong công cuộc chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc.

      Chúng tôi đã thất vọng hoàn toàn vì sự chia rẽ, giành giật nhau, thiếu hẳn sự nhất trí của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, trong kế hoạch đương đầu với Việt Minh cũng như trong chủ trương chống thực dân Pháp.

      Khi được tin Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, tôi lại được hân hạnh tháp tùng Đức Giám Mục Lê Hữu Từ,  Cố Vấn Chính Phủ tới Bắc Bộ Phủ để phản đối ông Hồ và chính phủ.

      Gặp ông Hồ, Đức Cha Từ đã nói  một cách hết sức thẳng thắn:

      Cụ tranh đấu cho độc lập gì mà lại nhận nước Việt Nam tự do trong Liên Hiệp Pháp tức ‘au sein de l’Union Francaise’. Au sein theo tôi hiểu là trong lòng của Pháp, là bú sữa người Pháp. Các đảng phái quốc gia cùng toàn thể quốc dân đang lớn tiếng quy trách chính phủ đã phạm một tội tầy đình đối với lịch sử, với dân tộc, khi cụ ký Tạm Ước 6-3-46 rước Pháp vào Bắc Bộ. Họ châm biến tinh thần nội dung bản Tạm Ước, bới móc và mỉa mai lời thề của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Cụ đọc ngày 02-9-45 tại vườn hoa Ba Đình trước hàng vạn đồng bào với lời thề: thề không chỉ đường cho Pháp Bây giờ, hỏi ai đã công khai rước Pháp?’

      Trước những lời tấn công như vũ bão của Đức Cha Từ, họ Hồ mặt đỏ gay nhưng ông ta bình tĩnh trả lời:

      ‘Thưa Cụ, cái thế của mình bây giờ phải quỳ mà đi tới Độc Lập, xin Cụ cứ tin tôi đi.’

       Và Đức Cha Từ đáp lại:

       ‘Được, tôi tin Cụ lần này.’

      Trên đường về Phát Diệm, Đức Cha Từ nói với tôi:

       ‘Anh Minh ạ, Hồ Chí Minh đang bán nước, cái bán nước của Hồ Chí Minh là hòa hoãn với Pháp để tiêu diệt đảng phái quốc gia. Bởi vậy chúng ta phải làm thế nào để giúp đỡ họ’.

      Từ đây Phát Diệm đã vạch ra một con đường cùng các tôn giáo, đảng phái và toàn dân quyết chống đối Việt Minh, đồng thời tích cực chống thực dân Pháp dành độc lập cho tổ quốc Việt Nam.
       
       
      (còn tiếp)
       
      #18
        frank 03.06.2022 00:00:53 (permalink)


        Chương 
        15


        Phát Diệm, Bùi Chu chống tiêu thổ và tản 



        Ngay trong giai đoạn đầu của cuộc  kháng chiến chống Pháp, nhằm bảo tồn lực lượng, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Việt Minh đã chạy bán sống bán chết rời khỏi Hà Nội. Thôi thì mạng ai người ấy chạy, gia đình ai người ấy lo, tất cả đều cố gắng lẩn tránh làn đạn nóng của quân đội thực dân Pháp. Bộ đội Việt Minh cũng như các cơ quan chính quyền bỏ chạy trước nhất, nên dân chúng bỏ chạy theo, và vô cùng hoang mang khi được nghe Việt Minh tuyên truyền rằng hễ chạy được và thoát chết ấy là thắng lợi lớn vì đã bảo tồn được lực lượng.
         
        Ngoài việc tuyên truyền rằng hễ chạy được là thắng lợi, Việt Minh lãnh đạo dân Việt kháng chiến chủ trương tiêu thổ tản cư, để gọi là ‘bảo tồn lực lượng’ và tích cực thi hành chính sách ‘vườn không nhà trống’. Đô thị bị tàn phá, nhà cửa của dân chúng và mọi cơ sở công cũng như tư được phá bình địa, đường xá bị cắt xẻ, cầu cống bị phá hủy, của cải nếu dân chúng chưa kịp mang đi phải đốt cháy bằng hết.
         
        Dân phá nhà dân, dân quăng vứt đồ đạc của mình ra đường phố làm chướng ngại vật. Già, trẻ, trai, gái vác bị gậy tản cư theo lệnh của cán bộ Việt Minh. Có làm như vậy, người dân mới được coi là có lòng yêu nước,  mới là trung thành với Hồ Chí Minh mà mọi người đinh ninh là Người Cha yêu độc nhất của dân tộc Việt Nam. Trong đầu óc của người dân Việt vẫn phảng phất một hình ảnh của Hồ Chí Minh với lời thề thốt ái quốc: ‘Thế không đi lính cho Pháp! Thề không đưa đường, chỉ lối cho Pháp! Thề không tiếp tế cho Pháp.’
         
        Người dân ở các đô thị bị tiêu thổ tản cư, trong cảnh bị gậy có biết đâu đến sự thật phũ phàng là Người Cha yêu của dân tộc, đã thề thốt tại vườn hoa Ba Đình ỏ giữa thành phố Hà Nội, ngày tuyên ngôn Độc Lập mồng 2 tháng 9 năm 1945 rằng  ‘Không đưa đường cho Pháp, không chỉ lối cho Pháp’  lại chính là người đã ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3  năm 1946, bán nước cho Pháp, đưa đường  chỉ lối cho Pháp chiếm đóng một thành phố ở Bắc Việt, gây ra cuộc chiến tranh nghiền nát xương thịt nhân dân Việt Nam trong máu lửa đầy chết chóc và hoang tàn.
         
        Điều tệ hại nhất cùng khốn nạn hơn nữa đối với dân tộc Việt Nam là Công Sản Việt Nam đã xử dụng chính sách ‘Tiêu Thổ Tản Cư’, Vườn Không Nhà Trống’, trong công cuộc kháng chiến chống Pháp,  với xương máu của hàng chục triệu dân chúng Việt Nam thành một chư hầu của đế quốc Cộng Sản, với một chính sách cộng sản ngoại lai và sai lầm đã chìm đắm nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong cảnh nghèo khổ, dốt nát đến nỗi đến Việt Nam được liệt kê là một trong năm quốc gia nghèo khổ vào bậc nhất thế giới.
         
        Trong khi nước Việt  Nam bị tan tành vì cuộc chiến tranh chống để quốc Pháp gọi là để dành độc lập, nhưng chỉ đạt được một nền độc lập khấp khểnh, với đất nước bị chia đôi, miền Bắc theo Cộng Sản, miền Nam trở thành Việt Nam Cộng Hòa. Để rồi sau đó Việt Minh lại phát động một cuộc chiến tranh thứ hai, tương tàn và hết sức đẫm máu, gọi là chống Mỹ để thống nhất đất nước, biến nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc Cộng Sản Liên Sô, đẩy cho 2 triệu con dân đất Việt phải bỏ nước ra đi tị nạn cộng sản, trên khắp thế giới.
         
        Sau khi Cộng Sản Liên Sô bị hoàn toàn xụp đổ, Cộng Sản Việt Nam lại biến nhân dân Việt Nam, thành những kẻ ‘ăn xin’ viện trợ và đầu tư của tư bản thế giới để cứu nguy nền kinh tế đang dẫy chết, thì các quốc gia trước kia là thuộc địa của đế quốc Anh như Mã Lai, Nam Dương Quần Đảo, Ấn Độ v.v... đều đã đạt được nền độc lập quốc gia và tiến lên thành những quốc gia với nền kinh tế giầu mạnh và không hề phải trải qua một cuộc chiến tranh nào.

        Chỉ vì những lãnh tụ khôn ngoan của họ đã biết chủ trương một cuộc tranh đấu dành độc lập theo tinh thần quốc gia dân tộc, chứ không ngu dốt như các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã chạy theo đế quốc cộng sản để dành độc lập bằng hai cuộc chiến tranh đẫm máu.

        Trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Minh tại có những âm mưu ngoan cố lợi dụng chính sách Tiêu Thổ  Tản Cư song đôi với cảnh Nhà Không Vườn Trống để bần cùng hóa nhân, để dễ bề biến Việt Nam thành một quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản, đồng thời Việt Minh lại còn dùng chính sách Tiêu Thổ Tản Cư nhằm vào việc phá vỡ và phân tán khối dân chúng còn có nhà cửa, vườn tược thì họ còn sống quây quần với nhau thành một giáo xứ, một xóm, thôn cố định, không sợ bị phân chia, do đó họ đoàn kết với nhau thành một lực lượng, đồng tâm nhất trí dám chống đối mọi áp lực của Việt Minh.

        Việt Minh bắt đầu áp dụng chính sách Tiêu Thổ Tản Cư từ các đô thị ở miền Trung, từ quân khu Năm ra đến quân Khu Tư, riêng ở quân khu Ba, các đô thị ở tỉnh Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình v.v.. đã bị tàn phá bình địa, các  đô thị và làng xã trù phú ở hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu đã bị Việt Minh đặt vào danh sách cần phải tiêu thổ ngay và chúng cũng mở những chiến dịch tuyên truyền kêu gọi dân chúng chuẩn bị tiêu thổ tản cư.
         
        Nhưng Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ, đã phản kháng kịch liệt chính sách tiêu thổ tản cư và ngài chủ trương kêu gọi toàn dân cương quyết ở tại chỗ để chống giặc giữ nước, và người công giáo cũng như người không công giáo đã hưởng ứng nồng nhiệt lời kêu gọi của Đức Cha Lê Hữu Từ.
         
        Đứng trước sự phản kháng quyết liệt chính sách tiêu thổ tản cư, vườn không nhà trống của Đức Cha Lê  Hữu Từ, cố vấn chính phủ, Hồ Chí Minh ra lệnh cho chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh và Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình tổ chức một hội nghị mệnh danh ‘Hội Nghị Điền Thổ’ tại Nho Quan, triệu tập các điền chủ, thân hào nhân sĩ trong tỉnh để nghe lời giải thích với chính phủ về chính sách ‘Tiêu Thổ Tản Cư’ . Hội nghị này được coi là rất quan trọng vì ngoài việc giải thích về chính sách của chính phủ, hội nghị lại còn tổ chức một  cuộc họp giữa Hồ Chí Minh và Đức Cha Lê Hữu Từ.

        Vì lý do an ninh, tôi đã không tháp tùng Đức Cha Lê trong cuộc hội họp này ở Nho Quan, nên xin trích sau đây hồi ký của Đức Cha Lê Hữu Từ nói về việc cứu Phát Diệm và Bùi Chu khỏi bị phá hoại và tản cư:

        .................................................................................


        ‘Chương trình Cộng  Sản có nhiều giai đoạn, đầu tiên lấy lòng dân và lợi dụng để nắm chính quyền, rồi chia rẽ dân để Cộng Sản mạnh. Họ đã dùng mánh khóe để bề ngoài thì làm cho dân và là chính dân làm, nên họ đã lập ra các đoàn thể cứu quốc, song trong ấy có những cán bộ, từ Quốc Hội cho đến các đoàn thể điều là người của đảng Cộng Sản hầu hết.
         
        Như thế cũng chưa đủ, vì dân còn ở chung một nơi thì khối dân còn có lực lượng, nên họ bầy ra cách Tiêu Thổ Tản Cư, Vườn không Nhà trống, lấy lẽ cho khỏi tụi thực dân lợi dụng. Làm như thế thì cũng như phân sáp thời xưa, không còn ai biết tin ai nữa và hoàn toàn làm tay sai để bọn cộng sản điều khiển. Các làng bắt đầu phải phá hết các nhà ngói, rồi tập cư và sau tản cư thật, như tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa đã bị phá bình địa, rồi đến Ninh Bình, Phủ Lý cũng vậy..’
         
        ‘Khi nghe đồn cả Phát Diệm, Bùi Chu cũng sẽ đồng một số phận, tôi liền lên tiếng phản đối ngay và dân sự nhiều nơi hưởng ứng, Hồ Chí Minh thấy vậy liền lập cách mời tôi lên Nho Quan cùng với các thân hào, điền chủ, để thảo luận về đất ruộng. Họ cho xe camion đến Phát Diệm đón mọi người lên Nho Quan, đã có các vị cao cấp trong chính phủ đến đó, song họ giấu không cho biết có Hồ Chí Minh ở đó nữa.
         
        Có cả chủ tịch Ninh Bình về mời tôi, song các cha sợ Viêt Minh lập mưu giả ăn cướp phục kích để ám hại tôi dọc đường , nên tôi quyết đến gặp  để nói về việc tiểu thổ tản cư. Bề ngoài thì tôi nói rằng không đi, nhưng thực sự tôi đã thuê thuyền đi kín.  Lúc camion đến Nho Quan mà không có tôi thì Việt Minh cao cấp đi theo Hồ Chí Minh rất băn khoăn, lập tức cho canot đến mời cha xứ Vô Hốt xuống ngay Phát Diệm để mời tôi; thì vừa lúc ấy thuyền tôi đi qua Nho Quan lên thẳng nhà Dòng Châu Sơn’.
         
        Vừa tới Châu Sơn, làm lễ xong liền có ông chủ tịch Ninh Bình đến cùng với giấy Hồ Chí Minh mời tôi đến Nho Quan xơi cơm với ông’.
         
        ‘Thoạt trông thấy tôi, Hồ Chí Minh vội vàng chạy lại ôm lấy tôi cách thân thiết quá, khó tả; một tay bắt tay tôi, một tay ôm choàng lấy tôi, áp mặt vào mặt tôi và vỗ tay vỗ lưng tôi kêu bộp bộp, miệng nói: ‘Tôi nhớ Cụ quá, tôi nhớ Cụ quá! Đã lâu vì lửa đạn không gặp Cụ được, nhớ quá! Tôi cũng trả lời:  ‘Tôi cũng nhớ Cụ lắm, nhất là vì có nhiều việc cần gặp Cụ, nay được gặp Cụ tôi mừng lắm.’
         
        Song tôi không vỗ lưng  ông ta vì tôi chưa học lối ấy. Còn cuộc hội đàm giữa ông Hồ và tôi diễn ra ngay sau đó trong bầu không khí nhiều lúc gay go nhưng cũng gọi được là thân mật.’
         
        Lúc ăn cơm, họ dọn riêng một mâm cho tôi và ông Hồ, còn 6 bộ trưởng ngồi chung ở một mâm xa xa. Ông Hồ liền bảo:  ‘Các chú kéo mâm lên gần đây tiếp chuyện Cố vấn cho vui.’  Tôi cũng phụ họa: ‘Thì chỗ người nhà cả, các chú cứ tự nhiên ngồi xích lại đây.’
         
        Cơm xong họ mời lại một cái ghế phản (đi văng) có đặt sản hai cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện, nằm nghỉ trưa. Nằm sát bên nhau, ông Hồ nói chuyện dí dỏm thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi bằng một giọng run run ông nói: ‘Xin Cụ làm Baptêm (rửa tội) cho tôi để cùng làm con Đức Chúa’
         
        Nghe thế, tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói: ‘Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng nhưng vì là việc rất can hệ, cần phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự bị trước, nên để sau ta sẽ tính.’
         
        Câu chuyện đang vui vẻ, thấy bưng lên một đĩa khoai lang buộc, ông Hồ lột vỏ mời tôi. Chúng tôi cùng ăn vui vẻ.

        Sau đó, khoảng 3 giờ chiều, tôi đi với ông Hồ ra sân. Ở đây đã có mặt các thân hào nhân sĩ, điền chủ và dân chúng tập hợp  sẵn với độ ngót ngàn người.  Sau những tiếng  hoan hô, ông Hồ bắt đầu nói cho dân chúng biết tại sao phải tiêu thổ. Ông nhấn mạnh: ‘Tôi là chủ tịch do dân bầu, tôi là đầy tớ của dân, tôi phải làm ích cho dân; nếu ngày nào tôi không làm ích cho dân, dân có người khác xứng đáng hơn, thì tôi sẽ rút về vườn trồng rau…’
         
        Rồi ông đặt tay lên vai tôi vừa vỗ nhẹ vừa nói: ‘Tôi là chủ tịch của đồng bào, phần vì ở xa xôi, phần vì nhiều cớ tôi khó gặp được đồng bào, thì đây, có cụ Giám Mục Lê Hữu Từ là vị cố vấn của chính phủ và cố vấn riêng của tôi, tôi hoàn toàn tín nhiệm ngài; khi đồng bào không gặp được tôi thì đồng bào đã có ngài…’ Dân chúng hoan hô rất hăng hái..’
         
        Từ sau ngày gặp ông Hồ ở Nho Quan, 20-4-1947, tôi bắt đầu đi thăm các nơi thuộc Phát Diệm và Bùi Chu, lấy cớ là để nói cho dân biết ý ông Hồ, song thật sự để hô hào chống tiêu thổ tàn cư. Mọi nơi đều hướng ứng nhiệt liệt, có những nơi tôi chưa kịp đến thì đã cử phái đoàn nài nỉ tôi đến thăm và tổ chức đón rước rất long trọng; còn Việt Minh thì cố sức ngăn trở việc tôi đi thăm các nơi…
         
        Sau này Việt Minh áp dụng một lối mới hầu ngăn cản sự đi lại của tôi là xin tôi mỗi lần  đi tới đâu xin báo trước để sửa soạn đón tiếp Cố Vấn cho phải phép, nhưng thật ra là chặn việc tôi đi thăm vì nhiều nơi tôi làm giấy thông báo mà địa phương ấy không bao giờ được giấy cả, một đôi khi còn dàn bộ đội bên đường để hạch hỏi và đòi tước khí giới vệ sĩ của tôi… Trong chuyến đi hô hào cống tiêu thổ tán cư này, linh mục Hoàng Gia Huệ địa phận Bùi Chu đã tặng tôi bài thơ:’
         
        ‘Bạch trĩ lai Quần Phương
        Bách tính thoát tai ương
        Thanh niên tàng Phát Diệm
         Thử thị thánh nhân  hương.’

        ...........................................................................
         
         
        Sau cuộc họp với Hồ Chí Minh ở Nho Quan, Đức Cha Lê Hữu Từ mở một cuộc thăm viếng các xứ đạo ở bên địa phận Bùi Chu để nhân danh Cố Vấn Chính phủ, ngài ngăn chặn mọi công tác tiêu thổ, tản cư của Việt Minh,  và tôi được Đức Cha chỉ định phụ trách việc lập một đội vệ sĩ bảo vệ ngài và phái đoàn.
         
        Tôi cho đây là một trách vụ rất khó khăn, vì phải nghĩ tới việc đối phó với những cuộc oanh tạc, có thể xẩy ra do phi cơ chiến đấu của thực dân Pháp, thời này quân đội Pháp đóng quân ngay ở tỉnh lỵ Nam Định, cách Bùi Chu chỉ có dăm chục cây số.

        Sỡ sĩ lo ngại như vậy vì Đức Cha Lê Hữu Từ nổi tiếng là vị giám mục quyết liệt chống thực dân Pháp và việc bảo vệ cho Đức Cha Lê và phái đoàn lại càng khó hơn nữa vì phương tiện di chuyển được xử dụng là thuyền bồng chèo dọc qua kênh Cồn Liêu, đi từ Sông Đáy thuộc phủ Nghĩa Hưng sang tới Ninh Cường rồi một đoạn đường phải cuốc bộ. Riêng mình Đức Cha Lê là đi bằng cáng rồi lại xuống thuyền đi Bùi Chu.
         
         
        Kênh Cồn Liêu không rộng gì cho lắm, mà tổ chức Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc của các xứ đạo ở  hai bên bờ con kênh này, chưa được tổ chức hoặc chưa được huấn luyện thuần thục, nên không chắc gì có thể phụ giúp được nhiều trong trách vụ bảo vệ Đức Cha Lê và phái đoàn.  Mà nếu Việt Minh ở các làng xã dọc hai bên kênh Cồn Liêu tìm cách ám hại Đức Cha thì vấn đề bảo vệ lại càng trở nên khó khăn vô cùng, nhất là chúng tôi nhận được tin Việt Minh có ý tổ chức ám hại Đức Cha Lê trong chuyến thăm viếng Bùi Chu này.
         
         
        Cuộc thăm viếng Bùi Chu của Đức Cha Lê, cố vấn chính phủ dành được thắng lợi hoàn toàn, toàn thể lãnh thổ địa phận Bùi Chu đều không bị tiêu thổ kháng chiến và chính sách vườn không nhà trống của Viêt Minh đã thất bại.  Điều đáng mừng nhất đối với tôi là cuộc thăm viếng kéo dài một tuần lễ của Đức Cha Lê và phái đoàn tại rất nhiều địa điểm ở Bùi Chu đã kết thúc trong sự an lành.

        (còn tiếp)
        #19
          frank 05.06.2022 00:29:25 (permalink)


          Chương 16


          Các đảng phái quốc gia tranh đấu sát cánh với Tổng bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm



          Sau khi cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia ngày 13 tháng 11 năm 1946, Việt Minh đã thẳng tay khủng bố các đảng phái quốc gia, một số khác phải rút về hoạt động trong bí mật, và Phát Diệm không những được coi như nơi nương tựa an toàn nhất trong thời gian bị khủng bố mà Phát Diệm lại còn là nơi các đảng phái quốc gia chân chính có thể ‘bung’ ra nhiều hoạt động chống cộng sản ở các tỉnh kế cận như Nam Định, Bùi Chu, Thái Bình, Phủ Lý, Thanh Hóa, Vinh và Hà Nội.

          Trong số các đảng phái quốc gia hoạt động một cách rất đắc lực ở Phát Diệm phải kể tới đảng Đại Việt Duy Dân và Việt Nam Quốc Dân Đảng, tuy nhiên cũng có đảng đã mang lại cho Phát Diệm một số phiền nhiễu như đảng Dân Tộc, vì quá hăng say và chủ trương quá khích. Hơn nữa vì đảng viên đảng Dân Tộc được thâu nhận một cách bừa bãi, bị đối phương xâm nhập dễ dàng, nên đảng Dân Tộc là đầu mối cho Việt Minh tung ra nhiều vụ đàn áp như vụ Phúc Nhạc, Văn Hài.

          Ngoài ra chúng tôi cảm thấy không thể không nói tới đảng Xã Hội, vì chính đảng này đã để cho một số đảng viên phá vỡ chính sách chính trị rất khôn khéo của Đưc Cha Lê Hữu Từ là triệt để chống Cộng Sản, nhưng đồng thời hợp tác với Việt Minh chống thực dân Pháp để dành độc lập cho Tổ Quốc. Nhóm đảng viên Xã Hội này đã qua mặt Đức Cha Lê Hữu Từ, tìm cách bắt liên lạc với thực dân Pháp về chiếm đóng Phát Diệm như đầu cầu trong âm mưu gọi là ‘giải phóng’ tỉnh Nghệ An nhất là Xã Đoài, quê hương của nhóm những người này.


          Riêng đối với đảng Đại Việt Duy Dân, đảng này đã hoạt động rất mạnh ở Phát Diệm ngay từ khi bắt đầu tổ chức Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc năm 1946. Viết đến đây chúng tôi băn khoăn, và tự hỏi rằng không biết có nên đưa ra công khai một số hoại động của anh em Z (tên gọi tắt của đảng viên Duy Dân), đã diễn ra cách đây gần nửa thế kỷ ở Phát Diệm hay không?

          Vì từ xưa đến nay Duy Dân vẫn chủ trương ‘trùm chăn’, chưa chịu tham chính, tuy nhiên, tin tưởng rằng anh em Z, trên khắp đất nước Việt Nam, từ ngoài Bắc đến trong Nam cũng như ở hải ngoại, vẫn tiếp tục hoạt động một cách rất hăng say, kín đáo và hữu hiệu. Và chúng tôi thấy rằng trên chính trường Việt Nam ‘Sờ’ vào đâu cũng cảm thấy màu sắc Duy Dân, nên khi viết những câu chuyện của một thời tranh đấu cách đây gần nửa thế kỷ, chúng tôi chỉ xin được nói tới hai đảng viên Z đã quá cố mà chúng tôi rất kính phục.


          Hai vị này đã đóng góp rất nhiều vào việc phát triển đảng Duy Dân ở Bùi Chu và Phát Diệm và đặc biệt hai vị này đã giúp vào việc đảng Duy Dân tài trợ một ngân khoản rất lớn cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Phát Diệm trong kế hoạch mua võ khí ở Trung Hoa, và trong công tác di chuyển món tiền lớn này từ Bùi Chu về Phát Diệm. Một trong hai vị đã bị Công an Việt Minh sát hại, mà trong cuộc lễ an táng của vị này, một cuộc xô xát đẫm máu đã xẩy ra ở Phát Diệm hồi tháng 9 năm 1947, giữa Việt Minh và nhân dân Phát Diệm.

          Ngày từ khi thành lập chiến khu Rịa thuộc Mât Trận Công Giáo Cứu Quốc, xứ Hòa Lạc và họ Vinh Trung ở xứ Phát Diệm được coi là như hai chiến khu vững chắc mà Việt Minh Cộng sản không kiểm soát nổi, vì Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Hòa Lạc và Vinh Trung được thành lập sớm nhất và võ trang khá đầy đủ. Nên ngay sau khi Việt Minh bắt đầu đàn áp các đảng phái quốc gia, và sau cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 3 năm 1946, Hòa Lạc được chọn là nơi một số lãnh tụ Duy Dân về ẩn náu một thời gian. Cũng từ đây các hoạt động của đảng Duy Dân ‘bung’ ra rất mạnh ở các tỉnh miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt.


          Trong số những anh em Z tản cư về Hòa Lạc và Vinh Trung, người mà tôi kính phục nhất là ông Trần Thanh Đình, bí danh là ông Chùa, con cụ Cử Bồng Tiên, một vị khoa bảng danh tiếng ở tỉnh Thái Bình. Ông Đình đã đậu bằng cử nhân Luật Khoa thời Pháp thuộc, với bằng cấp này ông có thể gia nhập vào hàng ngũ quan lại thời thực dân Pháp. Nhưng ngược lại, ông chỉ thích ‘hoạt động cách mạng’ mà thôi, nên cả đời ông đã dấn thân phục vụ cho Tổ Quốc và Dân Tộc cho tới khi ông bị Cộng sản bắt giam và mang ra xử bắn ở Thủ Đức hồi năm 1976 về tội là lãnh tụ của đảng Đại Việt Duy Dân.


          Trong gần 30 năm hoạt động cách mạng sát cánh với ông Trần Thanh Đinh, ở ngoài Bắc cũng như ở trong Nam, tôi đã học hỏi được biết bao kinh nghiệm tranh đấu hào hùng của một đồng chí Duy Dân đáng mến và đáng kính phục này.


          Trong một cuộc họp của anh em Z ở Vinh Trung năm 1947, tôi có đưa ra vấn đề cần phải võ trang thêm cho các đơn vị Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm trong công cuộc không những chỉ chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, mà lại còn chống cả đảng Cộng Sản nữa.

          Vì tinh thần chống Pháp dành độc lập, nên Pháp Diệm quyết định không chấp nhận bất cứ một viên trợ võ khí nào của thực dân Pháp, thay vào số súng đạn do Pháp đề nghị viện trơ, tôi trình bầy cho anh em biết kế hoạch đã được sự đồng ý của Đức Cha Lê Hữu Từ là mua súng đạn ở Pak khoi, tức Bắc Hải. Đây là một tô giới của Pháp trước đây ở bên Trung Hoa, qua sự môi giới của một số thanh niên Công Giáo ở Trà Cổ, thuộc tỉnh Móng Cáy sát với biên giới Trung Hoa, thường đi lại buôn bán với Phát Diệm bằng thuyền buồm, vẫn được quen gọi là thuyền bát Trà Cổ.

          Một số Tầu Ô của người Trung Hoa đã được anh em thanh niên Trà Cổ móc nối và họ đã nhận lời cung cấp đủ mọi loại võ khí khá tối tân, nhưng điều kiện thanh toán thì chánh là phải trả bằng giấy bạc Đông Dương là loại giấy bạc do Ngân Hàng Đông Dương của Pháp phát hành và vẫn được lưu hành tại cựu tô giới Bắc Hải.

          Được biết trong thời này giấy bạc do Việt Minh phát hành đều được lưu hành song song với giấy bạc Đông Dương. Vấn đề được đặt ra là tìm đâu ra một số lớn bạc Đông Dương để mua súng đạn ở bên Tầu?


          Sau một hồi thảo luận ông Trần Thanh Đình và ông Tổng Văn Dung cho biết: ‘Chi bộ Duy Dân ở Bùi Chu có đủ quỹ để tài trợ 3 triệu đồng bạc Đông Dương cho việc mua võ khí cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm. Liền sau đó ông Dung và ông Lê Văn Chính ở Hòa Lạc được trao phó nhiệm vụ di chuyển số tiền 3 triệu đồng bạc Đông Dương này từ Quận Phương ở Bùi Chu về Phát Diệm để trao cho tòa Giám Mục Phát Diệm lo việc đưa ra ngoại quốc mua súng đạn.

          Hối xuất chính thức của một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan (cũ) của Pháp, như vậy 30 triệu quan (Franc) Pháp là một số tiền rất lớn thời bấy giờ. Việc đảng Duy Dân nhận tài trợ 3 triệu đồng bạc Đông Dương cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm đã được trình lên Đức Cha Lê Hữu Từ và ngài tỏ ra rất hài lòng về sự đóng góp này của đảng Duy Dân.

          Chiều ngày mồng 5 tháng 9 năm 1947, ông Tổng Văn Dung và ông Lê Văn Chính mang một bị chứa 3 triệu đồng bạc Đông Dương từ Hòa Lạc xuống Phát Diệm, khi qua đồn công an ở Trì Chính ngay gần cầu Kiến Thái, ông Chính mang bị tiền đi trước, ông Dung đội một mũ mầu trắng đi sau, công an Việt Minh liền nhẩy ra hô to: ‘Anh đội mũ trắng hãy đứng lại, nếu không tôi bắn’, nghe thấy vậy, ông Chính bước thật nhanh và mang bị tiền đi thoát được sang phố Thượng Kiệm. Ông Dung đã bị công an Việt Minh bắt giữ ngay.

          Ông Chính đã mang bị tiền vào ngay nhà chúng tôi ở phố Thượng Kiệm gần chân cầu Tri Chính, ông thở hổn hển cho tôi biết tin ông Dung bị công an bắt giữ. Đúng lúc ấy tôi đang bị cơn rốt rét ngã nước của chiến khu Rịa hành, nhưng trong trường hợp rất khẩn cấp như vậy, tôi vội vàng cùng ông Chính tới ngay tòa giám mục gặp Đức Cha Lê Hữu Từ báo tin cho ngài biết sự việc.

          Đức Cha liền viết văn thư cho liên lạc viên hỏa tốc cầm sang ty công an, yêu cầu trưởng ty tới gặp Đức Cha Cố Vấn Chính phủ, cùng thả tự do cho ông Tổng Văn Dung. Trong văn thư Đức Cha Lê xác nhận ông Dung là cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc do Cố Vấn chính phủ cử đi công tác ở Bùi Chu.


          Ty công an trả lời Đức Cha nói rằng trưởng ty Nguyễn Kiên Đạt đi vắng, và cho biết lý do ‘Tên Dung (mang giấy tờ tên Lê Văn Cương) hiện bị bắt giữ vì có báo cáo nói y là đảng viên đảng Duy Dân hoại động chống chính phủ tại xã Hòa Lạc.’


          Toàn thể các đơn vị chiến đấu của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc được lệnh báo động và sẵn sàng trong tư thế chiến đấu để giải thoát ông Tống Văn Dung. Hai trung đội tự vệ Công Giáo Cứu Quốc của Vinh Trung và Hòa Lạc được lệnh chuẩn bị đánh úp ty Công An ngay trong đêm, nhưng đến khuya, tòa giám mục nhận được một lá thư của trưởng ty Công An Nguyễn Kiên Đạt hứa sẽ thả tự do cho ông Dung sáng sớm hôm sau. Do đó việc đánh úp ty công an để giải thoát cho ông Dung được hoãn lại.


          Một giả thuyết được đặt ra là nếu Công An áp giải ông Dung đi Ninh Bình thì một là đi bằng canô theo sông Vạc từ bến ở Thượng Kiệm đi Ninh Bình và giờ canô khởi hành là 8 giờ sáng; hai là bằng đường bộ đi theo tỉnh lộ số 10. Kế hoạch được đặt ra là anh Trần Văn Xuân, sau này mang tên Nguyễn Văn Bình, cựu tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện thời đệ nhất Cộng Hòa, chỉ huy một trung đội tự vệ Vinh Trung lên phục kích ở đường cái quan Hồng Đức, chặn bắt giữ canô và giải thoát ông Dung. Trung đội thứ hai của Hòa Lạc dưới quyền chỉ huy của ông Lê Văn Phượng phục kích trên đường số 10 ở quãng cánh đồng trống ở giữa Tôn Đạo và Phúc Nhạc.

          Nhưng một điều bất ngờ đã xẩy ra là công an đã áp giải ông Dung lên Ninh Bình bằng cách canô chạy trên sông Vạc tới đường cái quan Hồng Đức tức bến đò Lá cách Phát Diệm 10 cây số, thì đúng lúc đó trung đội tự vệ Vĩnh Trung cũng vừa tới nơi chưa kịp phục kích để nổ súng ra lệnh canô phải ghé vào bờ.

          Anh Xuân sau đó báo cáo cho tôi biết là trông thấy ông Dung bị đẩy xuống sông, và công an bắn nhiều loạt súng hô hoán: ‘Tên Việt Nam nhẩy xuống sông’.

          Trung đội tự vệ Vinh Trung dàn ra dọc bên sông, hy vọng ông Dung bơi được vào bờ, đồng thời hai công an Việt Minh cũng bắt canô ghé vào Đò Lá, lấy một thuyền mủng bơi dọc bờ sông cố tình bắt lại ông Dung, nhưng kết cuộc 2 công an viên này bị trung đội tự vệ Vinh Trung bắt giữ. Cuộc tìm kiếm được chấm dứt vào buổi tối, vì tên công an bị bắt khai rằng: ‘Khi ông Dung nhẩy xuống sông, hai tay ông ấy bị còng ra đằng sau lưng, nên anh em cho rằng một khi tay bị còng ra sau lưng thì ông Dung khó lòng bơi nối được vào bờ’


          Tuy nhiên một số Tự Vệ Vinh Trung vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm dọc bên sông Vạc. Cho tới chiều ngày 7 tháng 9 năm 1947, khi chiếc canô do ông Tài Duyên lái từ Ninh Bình về Phát Diệm đến đầu xã Trì Chính, cảm thấy vật gì nặng vướng ở chân vịt, bác Tài Duyên liền kêu lên:

          Anh Dung, nếu đích là oan hồn anh luẩn khuất đâu đây thì anh nổi lên, tôi vớt đem về Tổng Bộ an táng’.

          Khi bác Tài Duyên cho ngừng máy canô lại, xác ông Dung nổi lên vướng vào bên hông canô và được loan truyền rất nhanh trong khối dân chúng Phát Diệm và mọi người đều tỏ ra phẫn uất về hành động dã man của Công An Việt Minh.

          Bác Tài Duyên là người hoạt động rất hăng say trong Tổng Bộ Tự Công Giáo Cứu Quốc ở đơn vị gần đập Phú Vinh năm 1954 di cư vào Sài Gòn và năm 1975, bác Tài Duyên được di tản sang tới đảo Guam, rồi lại trở về Sài Gòn bằng tầu Việt Nam Thương Tín và bác đã đón cả gia đình vượt biển sang Mã Lai và được định cư tại Hoa Kỳ, thuộc cộng đoàn Tam Biên ở Orange County, California, bác đã qua đời tại đây cách đây hơn mười mấy năm.

          Xác ông Dung đã được vớt lên tạm quàn ngay tại đầu cầu Trì Chính và được vị y sĩ thuộc bệnh viện Trì Chính khám nghiệm với sự hiện diện của đại diện ty Công An, các đại diện phủ hộ Việt Minh và Ủy Ban Hành Chánh phủ Kim Sơn, cùng ông thứ trưởng Bộ Thương Binh Ngô Tử Hạ và linh mục Trần Cao Đàm, giám đốc phòng chính trị Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc. Xác ông Dung được tẩm liệm và quàn tại điếm canh Phu Vinh để làm lễ quốc táng.


          Ngay buổi tối sau khi vớt được xác ông Dung, một cuộc họp rất quan trọng đã được triệu tập tại tòa giám mục Phát Diệm dưới quyền chủ tọa của cha Phạm Quang Hàm, bí thư của Đức Cha Lê Hữu Từ, để thảo luận về việc tổ chức lễ quốc táng ông Dung, một đảng viên đảng Đại Việt Duy Dân đồng thời là cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc. Nơi mai táng ông Dung đã được bàn cãi rất kỹ lưỡng, trước hết có đề nghị rằng sau các nghi lễ an táng chính thức do Đức Cha Lê Hữu Từ chủ tọa trước sự hiện diện của các cơ quan chính quyền Việt Minh và nhân dân Phát Diệm, quan tài sẽ được di chuyển về Hòa Lạc là quê quán của bà Dung để mai táng.


          Chính sách của Đức Cha Lê Hữu Từ trong vụ ông Tổng Văn Dung bị công an tàn sát là cố giữ hóa khí đối với chính quyền Việt Minh, nhưng cương quyết chống đối chính sách đàn áp của Cộng Sản, và cố tránh không để cho thực dân Pháp lợi dụng gây rối. Nên nhân danh là người được ủy nhiệm bảo vệ sự an toàn cho Đức Cha Cố Vấn, cùng phái đoàn chính phủ, tôi đã phản đối đề nghị di chuyển quan tài ông Dung về chôn ở nghĩa trang Hòa Lạc.

          Tôi viện lẽ rằng nếu đưa xác ông Dung về chôn ở Hòa Lạc, đám tang sẽ phải đi qua ty Công An ở đầu cầu Kiến Thái, là nơi ông Dung đã bị giam giữ và bị tra tấn tối hôm trước, chắc chắn dân chúng sẽ căm phẫn, nổi lên xông vào đập phá ty Công An, diệt trừ những tên công an tàn ác, nhất là tên trưởng ty công an Nguyễn Kiên Đạt là người đầu tiên không thể tránh được ‘búa tạ’ của nhân dân Phát Diệm về tội giết chết và hứa ‘cuội’ về việc thả tự do cho ông Tống Van Dung. Như vậy việc duy trì trật tự và giữ hòa khí đối với bọn Việt Minh sát nhân khó có thể thực hiện được.

          Sau hết, cha Hàm đề nghị chôn ông Dung ở đất thánh ‘Nhà Chung’ là nghĩa trang dành riêng cho các linh mục và tu sĩ của địa phận Phát Diệm, và đề nghị này đã được hội đồng chấp thuận.

          Tổng bộ tự vệ Công Giáo Cứu Quốc được trao trách nhiệm vận dụng quần chúng mọi nơi về tham dự lễ án táng và cho đây là một dịp để tỏ lòng căm phẫn của toàn dân phản đối chính sách tàn ác của Viêt Minh Cộng Sản. Đội Thanh NiênTiền Phong Phát Diệm phụ trách việc làm biểu ngữ với các khẩu hiệu khích động tinh thần quần chúng như: ‘Trưởng ty Công An Nguyễn Kiên Đạt phải đền mạng’ ‘Công An tàn ác và dã man đã giết cán bộ Công Giáo Tống Văn Dung’, ‘Đả đảo Cộng sản vô thần’, ‘Đả đảo tên công an Đạt giết dân lành’, ‘Vạn tuế Đức Cha Cố Vấn.’

          Các phố cùng các đường trong thị xã Phát Diệm đều đầy nghẹt người, không khí hết sức ngột ngạt, vì mọi người chỉ muốn ‘ăn thây uống máu bọn công an Việt Minh’ đã giết chết cán bộ công giáo Tống Văn Dung. Trong khí thế ‘dầu sôi lửa bỏng’ này, một nhân vật cao cấp của chính phủ Việt Minh là ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh, lại bị kẹt vào giữa đám đông dân biểu tình ở phố Thượng Kiệm.

          Một em bé trinh sát thuộc trung đội tự vệ Hòa Lạc khám phá ra rằng ông Huỳnh có đeo khẩu súng lục trong người, nên lệnh báo động được loan ra, đúng lúc anh em Tự Vệ bao vây bắt trói ông Huỳnh mà tôi đã quen biết trong mấy lần lên Bắc Bộ Phủ gặp ông Hồ Chí Minh. Tôi liền ra lệnh cởi trói và dìu ông Huỳnh vào trong nhà 4 tầng lầu của cụ Ngô Tử Hạ, ở ngay giữa phố Thượng Kiệm.

          Sau khi giải thích cho ông Huỳnh biết về những hành động tàn bạo của ty Công An địa phương đã giết một cán bộ của Công Giáo Cứu Quốc và khi ông Huỳnh cho tôi biết là khẩu súng lục của ông bị tự vệ tước khẩu súng về, và chỉ 5 phút sau tôi đã trao trả khẩu súng cho ông Huỳnh, và mời ông lên lầu nhà cụ Ngô để quan sát cuộc lễ an táng do Đưc Cha Cố Vấn Chính phủ Lê Hữu Từ chủ tọa.

          Đúng 3 giờ chiều, Đức Cha Cố Vấn cùng đoàn tùy tùng gồm các linh mục, các ‘ông già’ tràng Lý Đoán Thượng Kiệm và các đoàn thể đã tới địa điểm hành lễ an táng. Về phía chính quyền có mặt cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ của Phát Diệm, thứ trưởng bộ Thương Binh, đại diện ông Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Ái, phủ bộ Việt Minh đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình; Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Vệ Quốc Quân, và ông Nguyễn Cao Đàm phó chủ tịch Ủy Ban Hành Kháng Kim Sơn.

          Trong khi Đức Cha, mặc phẩm phục hành lễ, ngồi đợi dân chúng diễn hành trước linh cữu của ông Tống Văn Dung, một liên lạc viên chạy về báo tin cho tôi biết có cuộc xô sát giữa Công an và đoàn biểu tình ở trước ty Công An ở đầu cầu Kiến Thái, tôi liền quay sang báo cáo tin này với Đức Cha Lê và ngài bảo tôi đi xem sự việc ra sao.

          Tôi bảo anh Quý, có hỗn danh là Quý Chột, đưa cho tôi khẩu súng máy Thompson và khi đi qua trụ sở của phủ bộ Việt Minh, nhà cô Am ở phố Thượng Kiệm, tôi thấy lố nhố ở trên lầu trụ sở này mấy tên Việt Minh cầm lựu đạn trong tay, sẵn sàng thẩy xuống đám đông, dân chúng đứng đầy nghẹt dưới đường. Tôi liền bắn lên cửa sổ trên lầu trụ sở này một tràng súng máy, bắt đóng cửa sổ lại và ra lệnh dân chúng biểu tình bao vậy thật chặt.

          Tiếp tục tiến lên tới cầu Trì Chính, đeo súng lên vai để tỏ thiện chí hòa bình, khi tới giữa cầu tôi hô to lời yêu cầu muốn nói chuyện với đại đội trưởng Vệ Quốc Quân và tuyên bố: ‘Tự Vệ Công Giáo không đánh nhau với Vệ Quốc Quân, yêu cầu Vệ Quốc Quân hợp tác với nhân dân trừng trị bọn Công An sát hại dân lành’.

          Viên đại đội trưởng yêu cầu tôi ra lệnh giải tán dân chúng biểu tình lúc này đứng đầy khu vực quanh đồn Vệ Quốc Quân, trông thấy cảnh hết sức nguy hiểm cho dân biểu tình là nếu vệ quốc quân ném lựu đạn từ các lỗ châu mai trên lầu xuống thì một số lớn dân chúng sẽ bị thiệt mạng, tôi ra lệnh dân chúng vẫn tiếp tục bao vây nhưng rút xa ra ngoài ở phía Chợ Cói.

          Tiến lên tới cổng bệnh viện Trì Chính, tôi được báo cáo là cuộc đụng chạm ở ty Công An đã chấm dứt vì các Công An viên Việt Minh đã bỏ trốn hết trước uy lực như vũ bão của dân biểu tình, nhưng sau đó tôi biết sự thực là anh em Tự vệ ở Tự Tân do ông Quản Toản cầm đầu cùng với đoàn biểu tình đã tấn công vào trụ sở ty Công An trước, nhưng vì các công an Việt Minh đã rút lui, nên tình thế mới trở lại yên lành.

          Quay trở về khu vực hành lễ, tới đầu cầu Trì Chính, nhìn xuống tôi trông thấy cảnh hỗn độn, tan hoang đang diễn ra ở giữa phố Thượng Kiệm, thì ra dân chúng biểu tình đã tấn công đập phá tan tành trụ sở của phủ bộ Việt Minh, trên lầu và dưới nhà cùng ở sân sau 8 anh cán bộ bị dân chúng đả thương nằm dài trong vũng máu. Trên khắp các phố, một số thanh niên tay dao, tay lựu đạn cùng với dân biểu tình đang xông xáo đi tìm các cán bộ Cộng Sản để thanh toán. Dưới gầm một nhà sàn ở đầu phố Phú Vinh thấy lôi ra xác của một anh cán bộ cộng sản.


          Trước tình thế hỗn loạn này, tôi ra lệnh cho anh em tự vệ xử bắn tại chỗ những kẻ gây rối loạn hay cướp bóc, một mặt tôi ra lệnh cho dân biểu tình lánh mặt vào trong các nhà của dân chúng hay trong các đường hẻm, và các đường phố trong thị xã đều được đặt trong tình trạng thiết quân luật và một lệnh đặc biệt được loan truyền khắp nơi là khi thấy Vệ quốc quân xuống phố giữ trật tự thì mọi người đều hô to khẩu hiệu ‘Hoan Hô Vệ Quốc Quân,‘Đả Đảo Công An'. Mặt khác tôi lại xung phong lên gặp lại đại đội trưởng Vệ Quốc Quân và yêu cầu cho Vệ Quốc Quân xuống phố tái lập trật tự. Viên đại đội trưởng nhận lời yêu cầu của tôi và cho quân xuống phố giữ trật tự.


          Sau khi biết chắc Vệ Quốc Quân sẽ xuống phố để văn hồi trật tự, tôi liền vọt ngay về nhà cụ Ngô Tử Hạ, và nói cho Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh, biết về các sự việc xẩy ra, đúng lúc này cụ bà Ngô Tử Hạ mời chúng tôi ra ngoài bao lơn xem dân chúng Phát Diệm hoan hô Vệ Quốc Quân và đả đảo Công An. Vũ Đình Huỳnh tỏ ra rất xúc động và hứa với tôi rằng: ‘Ngay sáng sớm mai tôi rời khỏi Phát Diệm và tôi sẽ báo cáo lên ông Hồ Chí Minh biết rõ về những câu chuyện xẩy ra ở Phát Diệm’.

          Kết quả trông thấy là tên Nguyễn Kiên Đạt, trưởng ty Công An bị hạ tầng công tác và một bức điện văn của Hồ Chí Minh đánh về cho cơ quan hành chánh kháng chiến tỉnh Ninh Bình, đã lọt vào tay chúng tôi, qua một giáp điệp nhị trùng, Hồ Chí Minh nói rằng: ‘Dù một số cán bộ của chính quyền bị thiệt mạng, nhưng tuyệt đối không được ‘đụng’ tới Phát Diệm’, và tới tấp hết phái đoàn nọ đến phái kia được Hồ Chí Minh cử về trấn an Đức Cha Lê và nhân dân Phát Diệm, và khu an toàn Phát Diệm đã được công nhận.


          Trở lại vấn đề Vệ Quốc Quân xuống phố vãn hồi trật tự, đi đến đâu được dân chúng hoan hô đến đó nên họ chỉ còn có một việc phải làm là tản thương mấy anh cán bộ Việt Minh bị dân chúng ‘đập’ cho chết hoặc chết đi sống lại.


          Trở về nơi hành lễ an táng, linh cữu ông Dung vẫn còn nằm đó do anh em Tự Vệ Vinh Trung canh gác và tôi được báo cáo về các sự việc xẩy ra. Nguyên do là sau khi tôi được Đức Cha Lê bảo lên giải quyết vụ xô xát xẩy ra ở ty Công an, thì cha Đoàn Độc Thư vừa bước lên diễn đài để đọc bài điếu văn, ngài chưa kịp khai khẩu, thì một phát súng ‘bí mật’ phát ra, viên đạn ghim vào tường gạch rồi rơi xuống ngay gần chân Đức Cha Lê. Tin Đức Cha Cố vẫn bị mưu sát được loan ra, dân chúng bắt đầu náo động, cuộc lễ an táng được ngưng lại và tiểu đội hộ vệ được lệnh bảo vệ Đức Cha, cụ Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Ngọc Ái và trung đội trưởng Vệ Quốc Quân Nguyễn Văn Hoàn trở về tòa giám mục.


          Trên đường đi về tòa Giám Mục, Đức Cha Lê đi giữa khoác tay cụ Ngô Tử Hạ, bên trái là trung đội trưởng Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Ngọc Ái khoác tay cụ Ngô Tử Hạ, khi đi qua trụ sở Ủy ban Hành Kháng Kim Sơn ở nhà cụ Bố Chiểu, tên Ái định vùng chạy vào trụ sở này, nhưng bị dân chúng cản lại, nên chạy theo bám lấy cụ Ngô Tử Hạ. Bốn người đi thành hàng ngang, nhưng muốn vào khu an toàn phải đi qua cổng rào làng kháng chiến ở trước nhà cụ Hội Ngọc. Vì cổng này chỉ rộng đủ cho 3 người đi lọt, nên Nguyễn văn Ái bị lọt lại, liền bị cụ trùm Nhật lôi cổ quật nhào xuống đường, dân chúng nhào tới đánh đòn ‘hội chợ’ và cuối cùng bị thanh toán bằng một phát đạn súng lục.

          Khi trở về tòa giám mục để báo cáo tình hình, Đức Cha Lê hỏi tôi về trường hợp tên Ái bị đả thương đến chết và tôi được ủy nhiệm để giải quyết vấn đề này cho êm đẹp. Ngay khi được tin báo cáo là xác tên Ái bị vùi ở đống tro ở nhà Gạo, nơi đặt kho lẫm thóc lúa của nhà chung, tôi liền tới và thấy  xác tên Ái bị nhiều vết thương và thấy chỉ còn lại có chiếc quần lót thiếu quần dài. Lý do là khi kéo xác tên Ái từ cổng rào vào tới nhà Gạo, đường dài trên nửa cây số, chiếc quần dài đã bị vướng mắc, mất trên đường.

          Tôi ra lệnh phải tìm bằng được chiếc quần này, và xác tên Ái đã được chuyển sang nhà thương các bà Dòng Đức Bà Truyền Ciáo, xác được tắm rửa và thuốc đỏ được bôi trên các vết thương và băng bó cẩn thận. Sáng hôm sau một văn thư được Tổng Bộ Tự Vệ gửi sang phủ bộ Việt Minh báo tin: ‘Ông Nguyễn Ngọc Ái bị dân chúng đả thương nặng, được đưa vào nhà thương Phú Vinh cứu chữa, nhưng ông đã tắt nghỉ ngay lúc tối’ và yêu cầu phủ bộ cho người tới lãnh xác.

          (còn tiếp)
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.06.2022 02:20:24 bởi frank >
          #20
            frank 08.06.2022 00:09:47 (permalink)


            Chương 16 (tiếp theo)




            Tới sáng hôm sau tòa giám mục công bố một bản báo cáo về vụ xô sát xẩy ra chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm 1947, với chữ ký của Đức Cha Lê, Cố Vấn Chính Phủ, cụ Ngô Tử Hạ, thứ trưởng bộ Thuơng Binh và Nguyễn Văn Hoàn, trung đội  trưởng Vệ Quốc Quân, bản báo cáo chính thức đó được viết như sau:
             
             
            Chúng tôi, Giám Mục Lê Hữu Từ, Cố Vấn Chính phủ, Ngô Từ Hạ, đại biểu Quốc Hội, thứ trưởng bộ Thương binh, Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng Cảnh vệ Kim Sơn, tường thuật vụ xô xát xẩy ra tại Phát Diệm, chiều ngày 8 tháng 9 năm 1947 đúng như chúng tôi thấy.
             
             
            Nhân đồng bào Lê Văn Cương tức Dung bị Công an Kim Sơn bắt giải đi Ninh  Bình, rồi 2 hôm sau thấy xác trôi trên sông Vạt, đồng bào địa phương xin làm lễ an táng, nên lúc 2 giờ rưỡi chiều 8-9-47, cùng cụ Ngô Tử Hạ, thứ trưởng Thương Binh, ông Nguyễn Nguyễn Ngọc Ái, chủ tịch phủ bộ Việt Minh Kim Sơn và ông Nguyễn Cao Đàm, phó chủ tịch Ủy ban Hành -Kháng Kim Sơn, chúng tôi đi ra chợ Phú Vinh, nơi để xác ông Cương. Vì các đoàn thể từ hai mạn Đông Tây về rất đông nên phải đi lại xếp chỗ cho tiện.  Trong khi chờ đợi, chúng tôi ở gần xác ông Cương, trước điểm sở Phú Vinh. 
             
            Khi buổi lễ sửa soạn  bắt đầu thì đột nhiên nghe súng nổ, dân chúng đang đi, liền ầm ầm chạy. Rồi lại tiếp tiếng súng và một viên đạn rơi ngay gần chân tôi. Chúng tôi vội đứng lên tạm trú vào điếm sở. Vì thấy tình thế  càng nguy và dân chúng sôi nổi quá, sự nguy hiểm cho cụ thứ trưởng Ngô Tử Hạ, ông Ái chủ tịch, và ông trung đội Hoàn, nên linh mục Đoàn Độc Thư, thừa ý tôi, ra lệnh cho tự vệ phải bảo vệ tính mệnh cho các vị ấy. Hai ông Phan Văn Kim và Trần Văn Tuyển chỉ huy tự vệ, liền hô to với dân chúng: ‘Thừa lệnh Đức Giám Mục, anh em tự vệ và dân chúng phải bảo toàn tính mệnh cho cụ thứ trưởng, ông Ái, chủ tịch và ông Hoàn, trung đội trưởng’
             
             
            Thế rồi chúng tôi đi về mạn nhà chung, tôi đi trước, cụ Ngô Tử Hạ khoác tay hai ông Ái và Hoàn đi sau. Chúng tôi đi rất vội vàng. Nhưng được một quãng, ông Ái vùng vằng giằng tay ra lùi lại gần trụ sở Ủy Ban Kháng Chiến Kim Sơn. Vì tình thế quá nguy, nên chúng tôi mạnh ai nấy bước, về được đến nhà chung bằng yên. Đến khi chúng tôi tìm ông Ái thì mới biết trong khi ông lùi lại, ông bị dân chúng quá phẫn uất về việc định ám hại tôi, nên xông vào đánh  ông bị thương. Vì vết thương quá nặng, nên ông  đã tắt nghỉ tại nhà thương Phú Vinh ngay lúc tối. Nhờ bộ đội cảnh vệ giữ được trật tự, nên tình thế trở lại yên ổn rất mau. Cụ Ngô Tử Hạ được người nhà chung bảo vệ trở về nhà, còn trung đội Hoàn, nghỉ lại trong nhà chung một đêm, rồi sáng hôm sau trở về trại.
             
             
            Trong khi chờ mở cuộc điều tra, chúng tôi mong rằng thượng cấp hết sức khôn khéo để nhân tâm trở lại yên tĩnh và không có gì làm cho dân tình thêm phẫn uất.
             
             
            Làm tại Phát Diệm ngày 9-9-1947
            Ký tên: Giám Mục Lê Hữu Từ
                 Ngô Tử Hạ, thứ trưởng Thương Binh
                 Nguyễn Văn Hoàn, trung đội trưởng

             
            Trong bức thư luân lưu số 21 đề ngày 12-9-1947 của Đức Cha Lê Hữu Từ gửi cho các cha và các giáo hữu trên toàn địa phận Phát Diệm, ngài có ghi đầy đủ bản báo cáo nêu trên vì ngài e ngại rằng có nhiều tin đồn được loan truyền trong dân chúng không đúng sự thật và ngài viết thêm:
             
             
             ‘Như anh em đã thấy trong vụ xô xát này, tôi lâm vào tình thế rất hiểm nghèo,  nhưng Chúa và Đức Mẹ đã đoái thương gìn giữ tôi an toàn tính mệnh. Vì thế tôi xin anh em cùng với tôi hết lòng cám ơn Chúa và Đức Mẹ…’ và kết thúc bức thư luân lưu ngài xin những hội các bà, các trẻ con phải ra sức kêu xin Chúa cất các sự cheo leo đang đe dọa Giáo Hội Việt Nam.
             
             
            Ngay sáng hôm sau mồng 9 tháng 9, năm 1947, Việt Minh cử một số đoàn viên của nghiệp đoàn xe kéo dưới quyền anh Ninh (Rỗ) tới nhà thương Phú Vinh lãnh xác tên Nguyễn Ngọc Ái và đưa lên huyện lỵ Yên Mô để chôn cất. Được biết  lễ an táng được tổ chức trọng thể và dĩ nhiên Việt Minh cũng vận động nhiều dân chúng Yên Mô  tham dự và đưa ra khẩu hiệu: ‘Trả thù cho đồng  chí Nguyễn Ngọc Ái’ và nhiều người cho chúng tôi biết thêm là hầu như trên mộ chí của Ái, Việt Minh có cho khắc tên của 3 người mà chúng cho là thủ phạm gây ra vụ Ái bị dân chúng Phát Diệm  đập chết. Tin tình báo của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc cho biết Việt Minh đã điều động sư đoàn 304 về bao vây Phát Diệm nên lệnh báo động được ban hành, không những chỉ cho các đơn vị Tự Vệ Công Giáo tại Phát Diệm không mà thôi, mà lệnh này còn đặt tất cả mọi đơn vị Tự Vệ Công  Giáo ở các giáo xứ trong vùng, trong tình trạng báo động sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến.
             
             
            Riêng trong khu vực chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ như Vinh Trung, Vinh Ngoại, Vinh Chợ và Thượng Kiệm, và các khu vực khác cũng vậy, tất cả các đầu đường giong đều được rào kín lại hết, nhiều lũy tre và cây cối được hạ nằm xuống đầy đường như chướng ngại vật và mọi sự di chuyển của dân chúng trong khu xóm đều theo một hệ thống đường  gọi là ‘Chiến khu’, được thiết lập nối liền từ vườn nhà nọ sang vườn nhà kia  và các nhà ở khu phố đều đục tường thông sang nhà  bên cạnh, không một người lạ mặt nào có thể lọt vào được trong các khu  xóm.
             
             
            Ngoài những tự vệ được võ trang đều hăng hái xung phong vào các công tác bảo vệ tòa giám mục  chống lại mọi sự xâm nhập của bộ đội Việt Minh, tình hình Phát Diệm trở nên hết sức ngột ngạt và căng thẳng, nhưng chúng tôi rất yên tâm tin rằng tuy sư đoàn 304 của Việt Minh bao vây Phát Diệm một cách rất chặt chẽ nhưng chúng không dám tấn công vào Phát Diệm. Lý do  vì một tay gián điệp nhị trùng tên Trần Điển gốc người Trà Cổ ở Móng Cáy, tế tử của Phát Diệm, đã cung cấp cho chúng tôi một bản sao của một công điện  Hồ Chí Minh gửi cho Trần Lâm, chủ tịch Ủy ban Hành Chánh & Kháng chiến tỉnh Ninh Bình, ra lệnh ‘Tuyệt đối không được ‘đụng’ tới Phát Diệm’, bức công điện này được sao gửi cho một số cơ quan công quyền của Việt Minh. Sở dĩ  Hồ Chí Minh gửi công điện cấm bộ đội Việt Minh không được ‘đụng’ tới Phát Diệm, có thể vì họ Hồ đã được Vũ Đình Huỳnh báo cáo cho biết rõ những sự việc liên quan đến việc xô sát  xẩy ra ở Phát Diệm.
             
             
            Đúng vào thời gian này tình hình chính trị ở Việt Nam có nhiều biến chuyển rất quan trọng, nên lý do chính trong việc Hồ Chí Minh không dám cho bộ đội ‘đụng’ tới Phát Diệm là vì Cựu Hoàng Bảo Đại sau một thời gian ẩn mình, im lặng ở Hồng Kông lại đột nhiên tuyên bố, ngày 5 tháng 9 năm 1947, rằng ông sẵn lòng theo ý nguyện của nhân dân Việt Nam đứng ra lãnh đạo quốc gia một lần nữa. 
             
             
            Đến ngày 10 tháng 9 năm 1947, Cao ủy Pháp ở Đông Dương  thời bấy giờ là Bollaert tuyên bố tại Hà Đông rằng  Pháp ưng thuận về nguyên tắc cho Việt Nam độc lập, và Cựu Hoàng có chiều hướng nhận lời đứng ra điều đình với Pháp nên Hồ Chí Minh vội vàng ủy cho Trần Lâm chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Ninh Bình cùng một phái đoàn hùng hậu về Phát Diệm ngày 15 tháng 9, 1947 để trấn an Đức Cha Lê Hữu Từ.
             
            Trong cuộc yết kiến, ông Chánh án Tường đã trình với Đức  Cha Từ; ‘Biến cố ngày 8-9-47 chỉ là hậu quả của chế độ dân chủ trong buổi phôi thai. Cán bộ chính phủ kém mềm dẻo, hành động cách máy móc; dân chúng thì nông nổi chưa ý thức đủ bổn phận người dân trong một quốc gia mới dành độc lập, nên xin Đức Cha Cố Vấn truyền thả tự do cho các cán bộ bị bắt giam và giải tỏa tình trạng báo động.
             
             
            Phần chính phủ đã cho hạ tầng công tác ông trưởng ty Công an Kim Sơn Nguyễn Kim Đạt (người chịu trách nhiệm về việc thảm sát cán bộ công giáo Tống Văn Dung) và đã thuyên chuyển Đạt đi nơi khác. Một ngày gần đây Hồ Chí Minh sẽ gửi phái đoàn cao cấp về trình với Đức Cha Cố vấn một giải pháp có ích lợi cho cả đôi bên. ‘ Sỡ dĩ ông chánh án Tường được cử ra trình bầy với Đức Cha Lê là vì ông ta là người công giáo quê ở xứ Bích Tri tỉnh Hà Nam.
             
            Với việc Cựu Hoàng Bảo Đại tuyên bố với quốc dân ngày 18-9-1947 rằng đã từ ngôi báu vì hạnh phúc của dân; nay nếu dân muốn vời ra giúp việc điều đình với Pháp, thì cũng sẵn lòng đòi hỏi Độc Lập và Thống Nhất cho hợp với nguyện vọng chung; cộng thêm việc phái đoàn chính phủ Việt Minh về yết kiến Đức Cha Lê Cố Vấn với những lời lẽ khoan dịu sau vụ chủ tịch phủ  Việt Minh  Nguyễn Ngọc Ái bị nhân dân dập chết. Nên dân tình nói chung và dân Phát Diệm nói riêng đang chịu những áp lực của việc bị bao vây bởi sư đoàn 304, tỏ ra rất xôn xao và có nhiều tin đồn thổi bất lợi cho đường lối chính trị của Phát Diệm. Vì thế Đức Cha Lê đã cho lập nhiều phái đoàn đi tới các giáo xứ của địa phận để minh định lập trường của người Công Giáo trước thời cuộc đang biến chuyển mạnh với việc Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chấp chính. Theo đó người Công Giáo nên:
             
            -Bình tĩnh và sáng suốt để nhận định thời cuộc.

            -Sáng suốt nhận định các âm mưu của bọn phản động chia rẽ sự đoàn kết giữa lương và giáo.

            -Tôn trọng kỷ luật, khôn ngoan trong hành động đừng để Công Giáo mang tội với Tổ Quốc.
             
            Ngoài việc lập các  phái đoàn đến giáo xứ để giải thích Đức Cha Lê Hữu Từ còn minh định rõ lập trường của ngài đối với chính phủ Hồ Chí Minh trong bức thư luân lưu số 22 đề ngày 25-9-1947.
             
            ‘Cụ Hồ Chí Minh đã thấu hiểu mưu mô của bọn phản động. Cũng như tôi, Cụ đã đau lòng và lo ngại trước những việc đáng tiếc xẩy ra có hại cho sự đoàn kết giữa Công Giáo với Chính phủ.  Để hàn gắn và làm êm dịu ngay những vết  thương chia rẽ ấy, vừa đây, Cụ đã đặc phái ủy viên thân tín là cha Phạm Bá Trực, phó chủ tịch ban Thường vụ Quốc hội về thảo luận với tôi.’
             
            Đáp lại mối thịnh tình trước sau của Cụ đối với Công Giáo và riêng tôi, xin các cha truyền cho bổn đạo phải trọng kính và tùng phục chính phủ nơi các viên chức địa phương, phải hết lòng hợp tác trong những công việc có lợi cho Tổ Quốc, đừng hành động gì, đừng có thái độ khiêu khích bất cứ trong ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi kẻo rồi ‘cái sẩy nẩy cái ung’ hàn gắn không kịp’.
             
            ‘Nói tóm lại, tình thế hiện nay thật rất mực nghiêm trọng, nếu người Công Giáo không biết tôn trọng kỷ luật, không khôn ngoan trong hành động, có thể nên cớ cho Công giáo mang tiếng, mang tội với Tổ Quốc là điều tôi hết sức khuyên can và trừng phạt’.
             
            Được biết cha Phạm Bá Trực đã tiết lộ cho Đức Cha Lê Hữu Từ biết rằng: ‘Khi xẩy ra biến cố ngày 9-9-1847 mà Nguyễn Ngọc Ái bị chết, đa số nhân viên chính phủ muốn đem quân về làm cỏ Phát Diệm, nhưng Hồ Chí Minh đã cản lại, nói rằng: ‘Bây giờ ta đang xây nhà thì dĩ nhiên những đống gạch vụn bừa bãi phải có, khi xây xong thì hốt đi có khó khăn gì’.
             
            Trong bức thư luân lưu, Đức Cha Lê Hữu Từ cũng yêu cầu các cha nhắn nhủ anh em giáo hữu mệnh lệnh của ngài đã ban bố ngày 8 tháng 2 năm 1947: Cấm bổn đạo  gia nhập đảng phái chính trị. Sở dĩ có lệnh cấm này vì ngày 20 tháng 1 năm 1947, bốn thanh niên công giáo người làng Văn Hải và như Tân là Hạnh, Mão, Long, Quỳnh đã gia nhập đảng cộng sản và về làng Văn Hải quấy rối theo lệnh của Việt Minh, nên bị dân chúng uất ức đập chết cả 4 tên. Sau đó 60 người dân Văn Hải bị Việt Minh bắt giữ và tra tấn, nhờ có Đức Cha Lê can thiệp với Hồ Chí Minh nên mới được thả tự do.
             
             
            Trong những năm tranh đấu hào hùng nhất của Phát Diệm chống thực dân Pháp và Cộng Sản dưới quyền lãnh đạo của Đức Cha Lê Hữu Từ, các đoàn viên của hai đoàn thể cách mạng quốc gia Đại Việt Duy Dân Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hoạt động một cách rất đắc lực, hoàn toàn dưới danh nghĩa Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm.
             
             
            Tuy nhiên cũng có một số đảng viên của đảng  khác như đảng Dân Tộc lại hoạt động một cách quá hăng say, hơn nữa lại còn chủ trương bạo động quá khích ở một số xứ đạo.  Hơn nữa đảng Dân Tộc lại còn bị cán bộ Việt Minh xâm nhập, xúi làm bậy  và là đầu mối cho Cộng Sản tung ra nhiều vụ đàn áp tại Bình Sa và Phúc Nhạc.  Đức Cha Lê Hữu Từ cho là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”, gây ra những hoàn cảnh khó khăn. Trong thư luân lưu số 23 ngày 15 tháng 10 năm 1947, ngài viết như sau:
             
             
            ‘Từ ít lâu nay, sự an ninh trong địa phận, nhất là trong vùng Kim Sơn bị đe dọa và hầu như mất hẳn, làm cho các Cha và anh em sống những giây phút hồi hộp lo sợ, mà tôi rất đỗi đau lòng.’
             
            Trước hết ta phải nhận lỗi chúng ta. Vì trong giáo hữu cũng như nhà Đức Chúa Lời (tu sĩ) ít kẻ sống đúng tinh thần Phúc Âm, ít ăn năn đền tội mình và đền tội cho kẻ khác.
             
            Một cớ nữa do kinh nghiệm rút được ở những cuộc vây bắt Bình Sa (từ   ngày 4-10-1947) và Phúc Nhạc (từ ngày 7 tới 14 tháng 10-1947). Số là bọn người dùng danh nghĩa đảng phái lẩn lút vào dân lương thiện đã có những hành động quá khích như  cướp của giết người… Chính phủ đã nhiều lần yêu cầu tôi cộng tác để tiêu trừ bọn côn đồ. Dầu tôi chẳng muốn đem con bỏ chợ, nhưng vì là một công ích cho sự an ninh toàn dân, tôi không thể làm khác  hơn là thinh lặng một đôi lần.
             
            Tôi đau đớn vô cùng khi thấy đồng bào bị chồng chất  tai ương:  nào là phải hy sinh để trường kỳ kháng chiến, nào là bọn côn đồ bóc lột quấy nhiễu, rồi tiếp đến những ngày hoang mang sợ hãi khi công an bộ đội đến vây bắt côn đồ, sợ rằng ‘giặc chẳng bắt, bắt thầy tu’ lại còn thêm cái nạn tư
            thù thừa cơ báo oán…!
             
            Vì vậy xin các cha và anh em giáo hữu, đừng để bọn đó ln lút trong xứ trong dân, kẻo mai ngày sinh cớ xẩy ra những vụ khác to lớn hơn. Bọn chúng sẽ là những kẻ cõng rắn cắn gà nhà…’
             
            Việt Minh Cộng sản thường cho cán bộ xâm  nhập các xứ đạo dưới danh nghĩa đảng phái để hoạt động và xúi làm bậy rồi báo cáo về. Bởi vậy khi tới lúc phải triệt hạ thì Việt Minh đã có đủ dữ kiện và nếu Đức Cha Cố Vấn Lê Hữu Từ có hạch hỏi thì bằng cớ sẽ được tung ra. Vụ Phúc Nhạc với Cao Thắng là điển hình nhất mà chúng viện lý do là ‘bắt côn đồ’.
             
            Danh từ Côn Đồ, Viêt Gian và Phản Động thường được Việt Minh dùng để bắt giữ những người chúng muốn bắt: linh mục, tu sĩ Công Giáo hay các thượng tọa, đại đức, tu sĩ Phật Giáo, vẫn có thể trở thành côn đồ, việt gian, phản động dưới con mắt của Việt Minh.
             
             
            Tinh thần chống Cộng sản của dân chúng Phát Diệm, mỗi ngày một gia tăng có thể đưa tới sự kiện: nhiều sự xô sát có thể xẩy ra do tinh trạng báo động ở các xứ đạo mà Pháp có thể lợi dụng để tung quân về chiếm đóng Phát Diệm với lá bài Cựu Hoàng Bảo Đại trở lại chấp chính, và đặt Phát Diệm vào một tình thế rất khó xử, nên Hồ Chí Minh đã cử linh mục Phạm Bá Trực, quốc vụ khanh, lãnh đạo phái đoàn chính phủ , về yết kiến Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ, đệ trình một văn thư đưa ra giải pháp ‘gọi là có lợi cho cả đôi bên’.
             
             
             Theo đó Việt Minh đề nghị:  Vì tôn trọng và cảm mến tài đức của Cố Vấn, Hồ chủ tịch muốn được san sẻ một phần trách bằng cách nhường hẳn quyền cai trị toàn phủ Kim Sơn gồm 40 xã ấp, có 32 giáo xứ thuộc các tổng Như Sơn, Hồi Thuần, Hướng Đạo, Tự Tân và  Truy Lộc với khoảng 150 ngàn dân số. Các cơ quan hành chính, quân sự… của chính quyền rút đi hết, để Đức Cha Lê Cố Vấn toàn quyền tổ chức; ủy cho linh mục quốc vụ khanh toàn quyền đại diện Chủ tịch Chính phủ, tham khảo ý kiến Cố vấn và báo cáo về để Chính phủ quyết định….
             
             
            Đức Cha Lê Hữu Từ đã nhã nhặn từ chối đề nghị của chính phủ Việt Minh và cám ơn lòng tốt của ông Hồ Chí Minh, lý do viện ra để từ chối là vì ngài là Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo, trên cương vị Cố Vấn chính phủ, ngài tranh đấu không phải là mục đích tham quyền cố vị, nhưng vì trước hết là phục vụ Giáo Hội và Tổ Quốc, sau nữa là để bảo vệ cho quyền lợi của dân chúng bị áp bức.
             
             
            Tuy nhiên, để khỏi phụ lòng ‘tri kỷ tình thâm của Hồ Chí Minh’ Đức Cha Lê bằng lòng nhận một khu vực rất nhỏ, một nửa xã  Phát Diệm từ đường số 10 trở lên bề ngang rộng một cây số và dài 3 cây số, bao trùm họ Phát Trung và Phát thượng. Ba mặt được bao bọc bởi ba sông đào ngăn cách các họ đạo: Phát Ngoại, Lưu Phương, Vinh Trung, và Vinh Chợ. Tòa Giám Mục là trung tâm điểm và được đặt tên là Khu An Toàn Phát Diệm.
             
            Khu An Toàn Phát Diệm được hợp thức hóa trong một hội nghị triệu tập trụ sở của Ủy Ban Hành chánh, Kháng chiến Kim Sơn do linh mục quốc vụ khanh chủ tọa với đông đủ các cơ quan chính quyền địa phương cùng phủ hộ Việt Mnh và các thân hào nhân sĩ trong số đó có đại đức Trí Dũng, chùa Phổ Quang Đồng Đắc và linh mục Phạm Ngọc  Chi (sau này là giám mục).
             
            Trong Khu An Toàn Phát Diệm, Đức Cha Lê, Cố vấn chính phủ, có toàn quyền tổ chức những cơ sở cần thiết và nhân viên và cán bộ của chính quyền không được xâm nhập nếu không có phép của tòa Giám Mục.  Nhờ ở Khu An Toàn này biết  bao nhân vật trong các đoàn thể cách mạng quốc gia đã tránh được bàn tay độc tài, tàn ác của Cộng sản và cũng từ đây nhiều chiến dịch chống cộng sản đã được phát động lan tràn tới Miền Trung và vùng đồng bằng Bắc Việt.

             
            (còn tiếp)
            #21
              frank 10.06.2022 00:03:38 (permalink)


              Chương 17



              Những cuộc xô xát đẫm máu xẩy ra tại Phát Diệm



              Sau khi cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ đêm ngày 19-12-1946 Việt Minh thấy rằng cần phải đoàn kết toàn dân trong công việc kháng chiến chống thực dân Pháp thì mới có thể dành được độc lập và Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm cũng chủ trương rằng công giáo không thể không cùng đứng chung một chiến tuyến với toàn dân trong công cuộc chiến đầu dành Độc Lập cho Tổ Quốc

              Nhưng khốn nỗi công cuộc kháng chiến dành độc lập đó không còn giữ được tính chất liên hiệp quốc gia như trước nữa mà đảng Cộng Sản hầu như giữ độc quyền lãnh đạo chính phủ Việt Minh. Nên lập trường chính trị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc là người công giáo hợp tác cùng toàn dân trong công cuộc chống thực dân Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc nhưng triệt để chống cộng sản vô thần theo tôn chỉ Phụng sự Thiên Chúa và Tổ Quốc.

              Ngay trong thời kỳ kháng chiến, Việt Minh vẫn đề cao chủ thuyết Các Mác và Lêninít, báo Sự Thật, cơ quan tuyên truyền chủ nghĩa Mác viết: ‘Chúng ta cn phi nói ngay rng: ‘Cng sn là vô thn, và vô thn là thế nào? Là không tin có tri cũng như không tin có mt v toàn năng, toàn thin, to dng nên và sai khiến vn vt và loài người… vt cht là ngun gc ca nhng cm giác và ý nim và tư tưởng là sn phm ca vt chất…’

              Từ học thuyết Duy Vật của Các Mác suy diễn ra lý tưởng vô thần, vô tôn giáo của Cộng Sản, mà Lênin tổ sư của Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố: ‘Tôn giáo là thuc phin mê dân, tư tưởng đó là viên đá góc tường ca ch thuyết Mác Xít’, nên trong một bức thư gửi cho Đức Cha Lê Hữu Từ đề ngày 2-3-1947, Hồ Chí Minh viết: ‘Lý tưởng Duy Thn và hc thuyết Duy Vt không hp nhau là l tt nhiên…’ một khi lý tưởng Duy Thần của Công Giáo không thể hợp tác với lý tưởng Vô Thần, nên Cộng sản coi sự hợp tác giữa Công Giáo và Cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp dành Độc Lập cho Tổ Quốc, chỉ là giai đoạn.

              Trong khi Hồ Chí Minh đóng trò mềm mỏng thì cán bộ Cộng sản khắp nơi dở trò đàn áp Công Giáo. Một số nhân vật đầu não của tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, trong đó có chúng tôi đã bị Việt Minh bắt giữ một thời gian rồi thả ra mà không hề nói lý do tại sao lại có những cuộc bắt bớ ấy. Ngoài ra nguyên tại giáo phận Phát Diệm, từ năm 1946 đến những tháng đầu của năm 1947, khoảng 5,000 người vừa công giáo vừa không công giáo đã bị Cộng sản bắt giữ, đây chỉ tính trên những đơn xin can thiệp của thân nhân những người bị bắt giữ, gửi tới văn phòng Đức Cha Cố Vấn chính phủ ở Phát Diệm.

              Khi nhận được thư phản kháng quyết liệt của Đức Cha Lê Hữu Từ về việc chính quyền Việt Minh đàn áp nhân dân, Hồ Chí Minh cấp tốc gởi 3 phái đoàn về Phát Diệm trong 5 ngày, và mang lệnh thả tự do cho một số người bị bắt, sỡ dĩ Hồ Chí Minh có những hành động mau lẹ và nhượng bộ như vậy là vì tình hình chính trị của đất nước có chiều hướng thay đổi. Chính là việc Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lời yêu cầu của nhân dân sửa soạn đứng ra nói chuyện với Pháp và hơn nữa dân chúng Phát Diệm cương quyết chống lại mọi việc đàn áp của Công sản bằng võ lực, do đó nhiều cuộc xô sát đẫm máu đã xẩy ra tại nhiều nơi ở giáo phận Phát Diệm.

              Trước vụ ông Tống Văn Dung, một cán bộ Công Giáo Cứu Quốc bị Việt Minh hạ sát, gây ra vụ dân chúng Phát Diệm đả thương đến trí mạng chủ tịch phủ bộ Việt Minh Nguyễn Ngọc Ái và một số cán bộ. Ngoài ra một cuộc nổi dậy của dân chúng Văn Hải ở miền duyên hải Phát Diệm chống lại sự xâm nhập của Việt Minh đã làm cho 4 cán bộ cộng sản bị thiệt mạng.

              Xã Văn Hải đông dân và trù phú vào bậc nhất miền duyên hải Kim Sơn và thanh niên Công Giáo xứ Văn Hải rất hăng hái trong công cuộc chung, ông Chánh Bích giữ chức chủ tịch khu bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải với linh mục Vũ Hữu Văn là cố vấn chỉ đạo. Cha chính xứ Văn Hải là linh mục Nguyễn Thiên Khuyến, Ủy ban hành chính kháng chiến xã Văn Hải là ông chánh Văn và tất cả các ủy viên trong ủy ban đều là người công giáo cả.

              Xã Văn Hải có 4 ấp thì 3 ấp toàn tòng công giáo, ấp thứ 4 có ít người nhất thường gọi là ấp lương vì không có ai là công giáo cả. Ấp này nằm sát với xã Truy Lộc, một xã hoàn toàn theo Việt Minh, nên xã bộ Việt Minh Truy Lộc được trao trách nhiệm phải triệt hạ bằng được các tổ chức Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải trong 4 giáo xứ Văn Hải, Tân Khẩu, Tân Mỹ và Cồn Thoi.

              Du kích Việt Minh của mấy xã lân cận thường tổ chức những buổi thao dượt ở xã Vân Hải gọi là để cho du kích học tập sẵn sàng đối phó với trường hợp thực dân Pháp đổ bộ chiếm đóng Văn Hải, đây chỉ là một lý do để du kích sửa soạn xâm nhập. Việc này làm cho tinh thần giáo dân Văn Hải rất căng thẳng nên họ quyết chiến đấu bảo vệ xóm làng và nhất là bảo vệ giáo xứ và thánh đường. Và chúng tôi được ông Chánh Bích báo cáo đầy đủ về những hoạt động của du kích Việt Minh và để đề phòng mọi bất trắc, các đại đội Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở các xứ bộ miền duyên hải đều được đặt trong tình trạng báo động, và việc du kích quấy rầy dân chúng được thông báo cho Ủy ban Hành chánh Kháng chiến nhưng tỉnh không hề can thiệp.

              Khi được tin mật báo là du kích Việt Minh có chương trình mở cuộc ruồng bắt các linh mục chính xứ ở miền duyên hải và bắt giữ một số viên chức xã, vào dịp Tết Đinh Hợi (1947), và Văn Hải sẽ là thí điểm đầu tiên; ông Quản Mỹ, ủy viên xã đồng thời là chỉ huy đơn vị tự vệ công giáo cứu quốc Văn Hải, liền ra tay tấn công trước, bằng việc kéo nhau sang ấp lương phóng hỏa đốt cháy trụ sở xã bộ Việt Minh. Nên tối 5 giờ chiều ngày hôm sau thứ bẩy 20 tháng giêng năm 1947, du kích Việt Minh kéo nhau tới bao vây bắt ông Quản Mỹ trong nhà xứ Văn Hải.

              Trong khi du kích dẫn giải ông Mỹ ra khỏi nhà xứ, có linh mục Vũ Hữu Văn đi theo thì đúng lúc Hướng Đạo sinh, cắm trại ở khuôn viên bên cạnh nhà thờ, tưởng rằng du kích Việt Minh bắt giữ cha Văn, liền kéo chuông nhà thờ báo động dân chúng đến tiếp cứu và xông ra ném đá gạch vào bọn du kích. Ông thủ Tường múa song kiếm xông ra đấu với tên cán bộ Quýnh, ông bị chém đứt một tai, nhưng liền đó tên Quýnh, bị anh Mai hạ thủ bằng đòn sóc đánh vào hạ bộ, nằm chết dẫy đành đạch.

              Không ai bảo ai giáo dân ùa ra loạn đả bọn du kích đập chết 3 tên cán bộ khác là Hạnh, Mão và Long, một điều khá trớ trêu là phía du kích Việt Minh không thấy nói tên nào bị thương cả nhưng 4 người bị đả thương đến chết đều là người công giáo được dân chúng Văn Hải gọi là giáo gian, còn về phía dân chúng 9 người bị thương. Đến 12 giờ đêm, Việt Minh cho người tới thương lượng với linh mục Vũ Hữu Văn để một đại đội du kích tới thu lượm 4 xác chết.

              Sau khi giáo dân xung đột với du kích Việt Minh, người ta thấy cửa kính nhà thờ bị đập vỡ, một cánh cửa ra vào bị gẫy và 3 nơi đường Thánh giá bị bể rớt, nhiều người cho rằng Ninh Bình biết, nhưng hầu như tỉnh bộ Việt Minh cố ý lờ đi và những thiệt hại vật chất ấy do du kích Viêt Minh gây ra, nhưng có người khác cho rằng chính thanh niên Văn Hải đã gây ra mấy vụ đổ vỡ này để có chứng cớ buộc tội du kích Việt Minh đập phá nhà thờ.

              Giáo dân xứ Văn Hải sống một đêm hãi hùng lo sợ, nam phụ lão ấu hầu như thức trắng đêm đề phòng một cuộc trả thù của Việt Minh, 4 đại đội tự vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Tân Khẩn, Tân Mỹ, Như Tân và Cồn Thoi tới trợ lực cho anh em ở Văn Hải và chúng tôi ở trên Phát Diệm cũng đặt các đơn vị chiến đấu trong tư thế báo động sẵn sàng can thiệp nếu cuộc xung đột lan rộng. Trong khi đó Việt Minh cũng điều động quân tới bao vây kín xã Văn Hải, tới 9 giờ sáng, một phái đoàn của chính quyền tới xứ đường để thảo luận với linh mục Vũ Hữu Văn, cố vấn chỉ đạo Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc miền duyên hải.

              Trong khi cuộc thảo luận đang diễn ra ở xứ đường thì công an đổ người đi ruồng xét bắt giữ 40 thanh niên Công Giáo và ra lệnh phóng hỏa đốt cháy trụ sở xã Văn Hải. Nhưng công an chưa kịp ra tay nổi lửa thì lệnh báo động được ban ra dân Văn Hải đổ ra đầy đường ngõ, quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ xóm làng và giải thoát cho những người bị bắt, làm cho mấy cán bộ chính quyền cùng công an phải bỏ chạy thục mạng. Tuy nhiên khi kiểm điểm lại thì vẫn còn 13 giáo dân bị công an Việt Minh dẫn giải đi mất.

              Ngay trước cuộc xung đột xẩy ra Đức Cha Lê Hữu Từ cố vấn chính phủ đã được báo cáo rất đầy đủ về những hoạt động gây rối của du kích Việt Minh làm giáo dân Văn Hải phẫn uất đến cực độ, nên những việc đáng tiếc đã xẩy ra không ai kịp ngăn cản. Đức Cha Lê đã can thiệp thẳng với Hồ Chí Minh để xin tha cho những người bị bắt, đến ngày mồng 4 tháng giêng Đinh Hợi, Việt Minh thả tự do cho 3 người và dần dần thả hết tất cả 13 người, tuy Việt Minh không kiểm soát được xã Văn Hải, nhưng có tin cho biết gần 60 người dân bị Việt Minh bắt tỉa từng người một, khi có việc đi ra khỏi xã Văn Hải.

              Để trấn an các giáo dân đang hoang mang lo sợ, Đức Cha Lê, cố vấn chính phủ về Chánh đường Văn Hải dâng thánh lễ ngày chúa nhật 19 tháng 3 năm 1947, tháp tùng Đức Cha Lê có một phái đoàn của chính quyền Việt Minh gồm có Nguyễn Công Truyền, chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Ninh Bình, Đào Gia Lựu, trưởng ty Công an tỉnh và các viên chức của phủ bộ Kim Sơn. Nhiều ngàn giáo dân các giáo xứ miền duyên hải cũng kéo về Văn Hải tham dự cùng với các chủng sinh trường lý đoán Thượng Kiệm và trường thử Trì Chính.

              Trong bài giảng thuyết tại nhà thờ, Đứa Cha Lê nói với giáo dân Văn Hải: ‘…Trong biến c va qua, chúng con đã vì lm mà sát hi my người ca chính ph, đi vi Chúa đó là ti phm vào gii răn th 5, ‘Ch giết người’. Chúng con hãy ăn năn và đi xưng ti Chúa s tha th…’

              Sau thánh lễ, một cuộc ‘mít tinh’ đã được tổ chức để nhân dân miền duyên hải chào mừng Đức Cha Lê Cố vấn và phái đoàn của chính phủ, trước mặt nhiều ngàn giáo dân chúng, Đức Cha Lê đã lên diễn đài, hướng về phía phái đoàn chính phủ, chỉ vào mặt ông Nguyễn Công Truyền mà nói: ‘…Nguyên nhân gây ra v biến đng Văn Hi là do các ông gây ra, chính nhng h cp ca các ông đã làm nhng vic tht nhân tâm nên b nhân dân quá phn n, đã t đng vùng dy. May mà my cán b h cp ca các ông đã chu thay cho các ông, nếu không chính các ông là người phi chu hình phy ca nhân dân…’

              Rút kinh nghiệm đau thương ở vụ biến động Văn Hải và vụ ông Tống Văn Dung ở Phát Diệm, Việt Minh đã bị thất bại nặng nề vì nhiều cán bộ bị dân chúng nổi lên đả thương đến trí mạng, nên cuộc Việt Minh đàn áp Phúc Nhạc đã diễn ra theo chiều hướng có kế hoạch đàng hoàng. Tuy nhiên trong cuộc xung đột này cả 2 bên quần chúng và Việt Minh đều bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng vì cuộc đàn áp của Việt Minh có liên hệ tới những tổ chức của đảng Dân Tộc và Việt Nam Quốc Dân Đảng.

              Đảng Dân Tộc dưới quyền lãnh đạo của Cao Thăng và Cai Khoan hoạt động rất mạnh tại Phúc Nhạc, đặc biệt cả 2 người này đều là bạn học cùng lớp với tôi trong mấy năm ở trường các Sư Huynh Thiện Giáo ở Phát Diệm, Cao Thăng là bí danh của anh Trần Văn Lý sinh quán ở Phát Diệm. Khoan là người Phúc Nhạc, sở dĩ gọi là Cai Khoan vì Khoan là cai trong cơ ngũ Khố Xanh của Pháp thời trước. Trong thời gian Cao Thăng hoạt động ở Phúc Nhạc vẫn liên lạc thường xuyên với tôi trong công cuộc tranh đấu chung nên nhiều người lầm lẫn nói rằng đảng Dân Tộc và Duy Dân cũng là một.

              Chi bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Phúc Nhạc dưới quyền lãnh đạo của ông Tào sau này là quận trưởng quận Yên Khánh nên thường gọi là ông Quận Tào hoạt động rất đắc lực ở quận Yên Khánh trong đó có Phúc Nhạc, cũng như Cao Thăng và Cai Khoan, ông quận Tào cùng với anh Vi đều cùng phối hợp những hoạt động chống Cộng Sản với chúng tôi ở Phát Diệm. Trong thời gian sau này trong trận chiến Yên Cự Hạ nơi con trai tướng Pháp De Lattre de Tassigny chết, ông Quận Tào rất nổi tiếng với những trận du kích đánh vào hậu cần của sư đoàn 304 và 308 của Việt Minh và khi di cư vào Nam năm 1954 ông quận Tào định cư ở tỉnh Bến Tre và bị xe lôi đụng chết.

              Trở lại câu chuyện Phúc Nhạc bị bao vây trong gần 2 tuần lễ trước khi bị Việt Minh triệt hạ, nguyên là ngày mồng 6 tháng 10 năm 1947, tân chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Khánh Chiến tỉnh Ninh Bình là Trần Lâm cùng với trưởng ty Công an Đào Gia Lựu, tiểu đoàn trưởng Vệ Quốc Quân Trần Văn Khung đột nhiên xin tới thăm Đức Cha Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ vào khoảng 8 giờ tối, gọi là để Trần Lâm ra mắt Đức Cố vấn Chính phủ. Đồng thời để trình bầy về việc Phúc Nhạc bị hai đảng Dân Tộc và Việt Nam Quốc Dân Đảng lũng đoạn, gây ra nhiều rắc rối đối với chính quyền; phái đoàn cũng trình lên Cố vấn những tài liệu đã thâu thập được, chứng minh những hành động phi pháp của các phần tử gọi là ‘Côn Đồ’ ẩn náu trong khu bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phúc Nhạc.

              Trước những lời trình bầy buộc tội các ’Côn Đồ’ của phải đoàn tỉnh bộ Ninh Bình, Đức Cha Lê hiểu ngay rằng đây chỉ là những chứng cớ nại ra để triệt hạ Công Giáo, nên ngài trả lời: ‘Nếu qu tht có nhng hành đng không tt đy thì tôi cũng không dung th, nhng các ông phi thn trng, tránh vic làm thit hi ti tài sn và tính mnh ca dân lành’

              Ngay sáng sớm ngày hôm sau, một liên lạc viên của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã được cấp tốc phái đi báo tin cho khu bộ Phúc Nhạc biết mà đề phòng, nhưng phải mất tới gần 2 ngày liên lạc viên mới lọt được màng lưới dầy đặc bộ đội Việt Cộng bao vây Phúc Nhạc, chỉ cách Phát Diệm có 11 cây số.

              Khi nhận được tin, ông Tào và các anh em Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương tìm nơi ẩn náu, cho rằng ‘tránh voi không xấu mặt’, nhưng ngược lại cánh ông Cao Thắng và Cai Khoan và đảng viên đảng Dân Tộc nhất quyết cùng với khu bộ VNCGCQ tổ chức bố phòng, chiến đấu đến cùng.

              Hồi 4 giờ sáng ngày thứ bẩy mồng 9 tháng 10, bộ đội Việt Minh mở cuộc tấn công vây kín và bắt đầu xâm nhập vào khắp nơi cùng một lúc. Dân chúng được báo động ùn ùn kéo ra ứng chiến. Đến 6 giờ sáng, súng bắt đầu nổ, cuộc giao tranh diễn ra ác liệt kéo dài suốt cả ngày. Đến chập tối, sau khi đạn dược đã cạn và dân chúng bắt đầu mệt mỏi vì quân số quá ít không địch lại được với bộ đội, tuy nhiên cũng đã hạ được 20 tên vừa bộ đội vừa công an, dân quân rút về cố thủ ở khu thánh đường và tiểu chủng viện Phúc Nhạc, bộ đội Việt Minh đã làm chủ tình hình và dân quân bao vây kín hai địa điểm này.

              Cuộc bao vây kéo dài, mọi sinh hoạt trong xã Phúc Nhạc đều bị ngưng trệ: chợ cấm họp, các tiệm buôn đều đóng cả, nhà xử và tiêu chủng viện phải xuất gần hết lúa gạo trong kho lẫm để nuôi ăn hơn 1000 người bị kẹt trong vòng vây.

              Sau 11 ngày bao vây và 3 ngày lục soát, Việt Minh bắt dẫn đi 596 người và nhờ ở sự can thiệp tức thời của Đức Cha Lê, Việt Minh thả tự do hầu hết những người bị bắt và chỉ giữ lại 20 người, rồi sau đó thả thêm 7 người nữa. Còn 13 người thuộc thành phần lãnh đạo đảng Dân Tộc trong đó có Cai Thắng và Cai Khoan đã bị Cộng sản kết án tử hình và đem ra xử bắn tại Núi Cánh Diều ở Ninh Bình.

              (còn tiếp)
              #22
                frank 12.06.2022 02:46:44 (permalink)


                Ch
                ương 18


                Vit Nam Quc Dân Đng và Phát Dim


                 
                Trong những đảng phái tranh đấu sát cánh với Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm trong công cuộc chống Việt Minh và chống thực dân Pháp, Đại Việt Duy Dân và Việt Nam Quốc Dân Đảng được coi là những đoàn thể đã đóng góp đắc lực nhất.
                 
                Sau khi Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia và các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách Mạnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) phải rời Hà Nội ‘chạy’ sang bên Tầu, Phát Diệm trở thành nơi ẩn náu an toàn nhất cho mấy  trăm anh em Việt Quốc, và nhân dịp này anh em Duy Dân và Việt Quốc đã hợp tác chặt chẽ với nhau, sát cánh với Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc trong công cuộc tranh đấu chung.
                 
                Những thành tích cách mạng oanh liệt dưới lá cờ của Việt Nam Quốc Dân Đảng của những dân Phát Diệm, thuộc bậc tiền bối của chúng tôi, mà không thấy nói tới trong quyền VNQDĐ Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927--1945 của Hoàng Văn Đảo, như việc ông Nguyễn Thái Học về ẩn náu ở nhà ông Cai Tổng Sự ở Hướng Đạo năm 1929. Cũng như những chi tiết khác về ông Nguyễn Minh Luân, một thanh niên Phát Diệm, đoàn viên đoàn cảm tử của Ký Con Đặng Trần Nghiệp, người ném bom vào ngục thất Hỏa Lò ở Hà Nội và cũng là liệt sĩ cùng bước lên máy chém với liệt sĩ Ký Con Đặng Trần Nghiệp ở cổng ngục thất Hỏa Lò Hà Nội.  Chúng tôi mong được đóng góp  thêm vào Đảng sử VNQDĐ và mong nhận được những lời chỉ giáo để được tự hào về những thành  tích cách mạng của dân công giáo Phát Diệm, con cháu của những bực tiền nhân như cụ Tiên Điền Sứ Nguyễn Công Trứ và Cụ Sáu Trần Lục.

                Trong công cuộc cách mạng chống thực dân Pháp và Cộng sản, người Công Giáo Phát Diệm đã đấu tranh dưới mầu cờ của Việt Nam Quốc Đảng ngay từ ngày đảng ra đời giữa đêm lễ Giáng Sinh năm 1927. Khởi đầu, tỉnh đảng bộ Ninh Bình với chi bộ 13 người trong đó có 7 người là Công  Giáo, và hầu hết đều là người vùng Phát Diệm.
                Noi gương nhà cách mạng Phan Bội Châu chủ trương kết hợp dân tộc trong công cuộc chống Pháp dành Độc Lập cho Tổ Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã kết nạp nhiều người Công Giáo, nên trong số 13 liệt sĩ lên đoạn đầu đài ở Yên Bái sau cuộc Tổng Khởi Nghĩa 10-2-1930 thất bại, có 2 người Công Giáo.  Một trong số 2 người này là Lê Hữu Cảnh, cựu chủng sinh, người đã được Việt Nam Quốc Dân Đảng tín nhiệm cử lên thừa kế Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học, lãnh đạo Đảng cho tới ngày 10-7-1930 thì bị Mật Thám của Pháp bắt tại Hải Phòng.  Ông Nhượng Tống đã viết về Lê Hữu Cảnh trong sách Hoa Cảnh Nam như sau:
                 
                 Nhà anh (Lê Hu Cnh) vn theo Thiên Chúa Giáo, lúc tr anh chng nhng là mt hc sinh rt chăm hc mà còn là mt tín đ rt ngoan đo. Có l vì thế mà người ta trông thy anh rt hn h, khi hô xong câu: ‘Vit Nam vn tế’ ri đâm đu vào máy chém, Nếu Chúa đã hy sinh đ chuc ti cho nhân loi, thì anh cũng đã hy sinh vì gii phóng cho đng bào ch sao? Ai còn có th dâng mình cho Chúa và cho đt nước na hơn anh được.
                 
                Sau vụ thực dân René Bazin, chủ sở mộ phu cho các đồn điền cao su ở miền Nam Việt Nam và bên Tân Thế Giới (Nouvelle Caledonie), bị Việt Nam Quốc Dân Đảng ra lệnh ám sát và ngày mồng 9 tháng 2 năm 1929 tại Chợ Hôm ở phố Huế thành phố Hà Nội, 3 đoàn viên trong ban ám sát là Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân và Lê Thành Dị đã thi hành bản án bằng 1 phát đạn bắn vào má và một phát đạn vào cổ tên thực dân Bazin và hắn đã đền những tội ác của hắn. Sau đó cả ba ông Viên, Lân và Dị chạy tới nhà một đồng chí là Nguyễn Thái Trác ở Chợ Đuổi, tức đường Goussard và từ đó biến đi không để lại tông tích.

                Sau khi ám sát Bazin xong, một bản án được ghi trên ngực của hắn và có ký tên là Việt Nam Quốc Đảng, nên tụi mật thám Pháp ở Hà Nội điên cuồng tung ra một màng lưới dầy đặc truy tầm các lãnh tụ Việt Nam Quốc Đảng, nhưng Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học và mấy đồng chí trong đó có nhà  Sư tên Trạch, cả cô Giang lẫn cô Bắc, đều chạy thoát về ẩn náu ở  làng Hướng Đạo, tại nhà ông Trần Sự, lúc bấy giờ đang giữ chức  Cai Tổng của tổng Hướng Đạo,  chỉ cách thị xã Phát Diệm khoảng một cây số rưỡi, đồng thời ông Cai Tổng Sự cũng giữ cả chức chánh trương giáo xứ Hướng Đạo.

                Hướng Đạo là một xã gần hầu hết là người Công Giáo, và nhà ông Cai Sự rất rộng rãi, xây trên một thửa đất rộng 3 mẫu, và nhà có tới 7 chuồng trâu, hơn nữa lại là nhà an toàn cho các lãnh tụ VNQDĐ. Vì ông Cai Tổng Trần Sự là một trong 7 người Công Giáo trong chi bộ 13 người Tỉnh đảng Bộ VNQDĐ Ninh Bình đầu tiên, nên ông đã kết nạp được rất nhiều vị tổng lý trong vùng gia nhập vào các tổ chức của Đảng, trong số đó phải kể tới ông Cai Tổng Châu ở Lạc Thiện, ông Lý Cầu, chánh hương hội làng Lưu Quang, ông Giáp Úc ở làng Hướng Đạo, và ông Thơ Sáng ở Hòa Lạc là chú ruột của anh Trần Hữu Huyên hiện nay ở vùng Hoa Thịnh Đốn.
                 
                Sỡ dĩ trong suốt thời gian trốn tránh thực dân Pháp ở Hướng Đạo, ông Nguyễn Thái Học và các đồng chí được sự bảo vệ của cả  một màng lưới  các đồng chí thuộc giới tổng lý, tuyệt đối trung thành  với Đảng,  nên ngoài việc về ẩn nấu ở đây, nhiều cuộc hội họp cũng đã được ông Nguyễn Thái Học triệu tập với sự tham dự của Sư Trạch, cô Giang, Cô Bắc lại còn có các lãnh tụ VNQDĐ ở vùng Thanh Hóa, Nam Định và huyện Yên Mô ở tỉnh Ninh Bình cũng về họp nữa như Ông Cự, Ông Tú Kiều, Ông Cử Phương, cụ Cả Lữu v.v…

                Theo lời ông Trần Thiện, cháu của ông Cai Tổng Sự, hiện ở Houston, Texas, một thời giữ chức chỉ huy trưởng Tổng Bộ Tự vệ Công Giáo Phát Diệm trong khi cha Tổng Hoàng Quỳnh sang giúp địa phận Bùi Chu tổ chức  Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc, nói với chúng tôi là sau vụ Tổng Khởi Nghĩa ngày 10-2-1930 ở Yên Bái bị thất bại và 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, trong đó có Đảng trưởng Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài đền nợ nước. Ông Cai Tổng Trần Sự cũng bị mật thám của thực dân Pháp bắt giữ và đưa ra tòa xử án phát vãng chung thân lên nhà tù Lao Bảo ở miền rừng thiêng nước độc ở thượng du Trung Việt gần tỉnh Tchepone ở bên Lào và ông Cai Sự đã chết ở trong tù và gia đình đã cố công đi tìm xác, nhưng không thấy.
                 
                Trong khi về khám nhà ông Cai Tổng Sự, mật thám của thực dân Pháp đã bắt được nhiều ‘bom’  lửa làm bằng hộp thiếc  của trà Tầu Chính Thái và Ninh Thái, ngoài ra lại còn đủ các loại khí giới cũng rất nhiều tài liệu của VNQDĐ. Chúng đã đào xới tìm tòi tang chứng ở khắp vườn tược và ngay nền nhà cũng bị đào tung lên nữa.
                 
                Trong số thân nhân của ông Cai Tổng Trần Sự bị mật thám Pháp bắt có con trai cả của ông Sự là ông Cả Hanh và sau khi bị quản thúc tại gia suốt từ năm 1930 đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật Bản đảo chánh Pháp, việc trình  diện mới chấm dứt, nghĩa là mỗi tuần lễ phải lên trình diện ở huyện đường Kim Sơn. Và cứ đến các ngày lễ kỷ niệm  của VNQDĐ  hay của các nhà cách mạng Việt Nam là ông Cả Hanh phải ra nằm ngủ suốt đêm ở điểm canh làng Hướng Đạo.
                 
                Ngoài ra con rể và cháu của ông Cai Tổng Sự: Ông Ba Huyền, ông Phó Huế và Phó Tời cũng bị đầy ải chung thân, người đi Côn Đảo, người  lên Lao Bảo và tất cả 3 người này đều bị chết rũ tù. Riêng thân phụ ông Trần Thiện là cụ Chánh Nghị, chánh hương hội làng Hướng Đạo là em thúc bá của ông Cai Tổng Sự cũng bị Mật Thám Pháp bắt giam, sau nhờ sự vận động nên được Pháp trả tự do.
                 
                Làm cách mạng đánh Pháp dành độc lập cho Việt Nam vào thập niên 1930, việc tiên phải nghĩ ngay đến việc đánh chiếm Hà Nội. Có thể nói rằng ‘Ly được Hà Ni là ly được tt c’, cho nên ngay từ đầu Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đặc biệt chú ý đến các địa điểm chiến lược và cố gắng tuyên truyền vào các lớp Hạ Sĩ Quan người Việt Nam ở trong các thành của quân đội Pháp.
                 
                Nguyên chi bộ Không quân ở căn cứ Bạch Mai ngoại ô Hà Nội, Việt Nam Quốc Dân đã kếp nạp được 22 đảng viên, hầu hết đều là cai, đội do đội Môn tức Trần Văn Môn làm chi bộ trưởng. Còn ở hai trại thứ 4 và thứ 9 của linh Khố Đỏ trong thành (Citadelle) và trại binh Khố Xanh ở Đồn Thủy, không kể các binh đoàn, chỉ kể nguyên số cai và đội Khố Đỏ và Khố Xanh, đã có đến 200 người là đảng viên cán bộ VNQDĐ.
                 
                Sau ngày Nguyễn Thái Học bị bắt hụt ở Võng La thuộc tỉnh Phú Thọ, và sau hàng ngàn bom ở Bạch Mai và Thái Hà gần Hà Nội bị khám phá. Ở Hà Nội, Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ còn lại đoàn Ám Sát là đáng kể, và đoàn này được đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khắc Nhu, song người lãnh đạo chính thức là Ký Con Đặng Trần Nghiệp.
                 
                Sáng sớm ngày 10-2-1930, Lương Ngọc Tốn, trưởng ban ám sát từ Bắc Ninh sang Hà Nội, lãnh chỉ thị của Ký Con, khi nghe tin cuộc Tổng Khởi Nghĩa, khai mào vào buổi tối cùng ngày tại Yên Bái, Hưng Hóa và Lâm Thao, và sau khi hai người chia tay, Ký Con triệu tập 5 đoàn viên trong đoàn cảm từ: Nguyễn Văn Liên, Mai Duy Xứng, Nguyển Minh Luân, Nguyễn Bá Tâm và Nguyễn Quang Triều, đều là học sinh trường Bách Nghệ (École Pratique d’Industries) ở Hà Nội.
                Ký Con trao cho mỗi người một số bom và ra lệnh đúng 8 giờ tối phải ném vào những địa điểm:
                  
                20 trái ném vào tư thất của chính sở mật thám Arnoux.
                8 trái ném vào nhà pha Hỏa Lò
                2 trái ném vào sở Sen Đầm (Gendarmerie) của Pháp
                2 trái vào sở cảnh sát quận I
                2 trái ném vào sở cảnh sát quận II
                 
                Sau khi thi hành nhiệm vụ và hồi 9 giờ tối, các đoàn viên đoàn cảm tử về báo cáo công tác tại nhà của ông Đào Tiến Tường ở số 24 phố Hàng Giấy Hà Nội (Tài liệu đảng sử của VNQDĐ của Hoàng Văn Đào),
                 
                Đoàn viên đoàn cảm tử ném 8 trái bom vào ngục thất Hòa Lò là Nguyễn Minh Luân, một thanh niên quê ở Phát ngoại làng Phát Diệm, anh ruột của cha Nguyễn Gia Đệ, một vị chỉ huy nòng cốt của Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu  Quốc cùng với cha Hoàng Quỳnh, và ông Luân là chú ruột của ký giả Nguyễn Trọng, nguyên chủ tịch nghiệp đoàn ký giả Việt Nam trước năm 1975.
                 
                ‘Thanh niên Nguyễn Minh Luân là một sinh viên xuất sắc ở trường Bách Nghệ, trong khi theo học ở trường này ông đã học được cách chế bom, đừng kể việc sản xuất các dụng cụ và võ khí thông thường. Quả bom đầu tiên, mặc dù  không công phá mạnh như bom chế tạo ngày nay, nhưng cũng làm khiếp đảm bom thực dân Pháp, vì quả  bom đó nói lên sự uất hận của người Việt đối với bạo quyền Nhà nước bảo hộ Pháp.

                Những quả bom do ông Nguyễn Minh Luận tự chế và chính ông đã xử dụng để công phá một lỗ thủng ở tường ngục thất ‘Hỏa Lò’ giữa thành phố Hà Nội. Do lỗ hổng này, một số tù nhân chính trị đã trốn thoát được cảnh tù tội.
                 
                Ngay sau vụ bom nổ ở miền nơi làm cho dân chúng ở thành phố Hà Nội xôn xao, ông Nguyễn Minh Luân bị nghi ngờ, mật thám và chó săn của Pháp truy nã ông đã trốn thoát khỏi Hà Nội và chạy về quê quán là Phát Diệm.
                 
                Cha Nguyễn Gia Đệ nói:
                 
                 ‘Khi đó, tôi là người con th năm trong gia đình, mi vào quãng 9, 10 tui. Mt bui sáng tôi thc dy, đang khi nm ng  chiếc sp g  gian nhà ngoài, tôi thy mt người to ln đã nm bên, thì hóa ra ông anh  tnh chy v ng đ! Ông không có th l cnh chy trn  mt thám  đang  tm nã, ông ch  ăn sáng sơ sơ, ri ông đi ra khi nhà, và nghe ông chy xung Văn Hi, tìm đến nhà người  quen đ  tr, và đ tránh nhng  tay mt thám ca chính ph bo h đang lùng  bt.
                 
                By gi my ông lý trưởng các làng xã được cp báo và đ chó săn, hết sc truy nã đ lp công vi chính ph bo h. Ông anh tôi Nguyn Minh Luân được mt báo, nên liu mng chy v vùng Nam Đnh, ri chy tut lên min Bc: Cao Bng, Lng Sơn gì đó. Không bao lâu ông b l tông tích và b bt gii v Hà Ni, và b bt giam trong nhà pha ‘Ha Lò’.
                 
                Bị giam một thời gian, rồi bị thực dân Pháp đưa ra xử ở Hội Đồng Đề Hình và bị xử tù chung thân phát vãng đến xứ Guinée- một thuộc địa của Phát ở mạn Nam Mỹ Châu- nhưng vì đau yếu và bị sốt rét nên ông Nguyễn Minh Luân chưa phải lên đường đi ở tù chung thân. Trong khi chờ đợi để đi Guinée, Bà Cố, gọi là bà Cố vì có 2 người con làm linh mục là cha Nguyễn Định Tường và cha Nguyễn Gia Đệ, cứ mỗi lần đi canô từ Phát Diệm lên Hà Nội thăm con, bà Cố thường vào nhờ cha  Sở nhà thờ Chính Tòa Hà Nội, để nhờ ngài vào khám đường thăm nom ông Nguyễn Minh Luận, đem quà của bà Cố và nhất là lo giúp phần thiêng liêng cho người con.
                 
                Cha Đệ nói tiếp:
                 
                 ‘Nói đến đây, tôi nh li và cm phc tình m con vô cùng cm đng, mc dù con b tù ti. Ti vi chính ph Pháp bo h, nhưng đi vi đt nước qu là mt gương v tinh thn ái quc. M tôi thương con, nên c gng mi tun lên Hà Ni thăm con, không qun đường xa, không qun khó nhc. Tôi còn nh mi ln đi Hà Ni v, m tôi thường mua đu phng, bánh tây vi ko lc, có ln c cà rem đng trong bình thy đem v cho các con  nhà.
                Thế ri, mt hôm m tôi đi Hà Ni v, trông v mt su não, hi ra thì ông anh tôi, mang cơn bnh thương hàn quá nng, nên đã qua đi trong Ha Lò, trước nhng ngày phi đi tù  Guinée và trước khi chết, anh tôi đã lãnh các bí tích theo nghi l Công Giáo đy đ.’

                Tuy nhiên về cái chết của liệt sĩ Nguyễn Minh Luân theo sử gia Hoàng Văn Đào viết trong quyển ‘Việt Nam Quốc Dân Đảng Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954,’ trang 167 thì Đặng Trần Nghiệp tức Ký Con cùng 6 đồng chí là Lương Ngọc Tốn, Nguyễn Văn Nhi, Nguyễn Quang Triểu, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Trọng Bằng và Phạm Văn Khuê đã lên đoạn đầu đài đặt tại Cổng Ngục thất Hỏa Lò vào cuối năm 1930 để đền nợ nước, riêng Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Liên, và Mai Duy Xứng được Tổng Thống Pháp ân giảm từ án tử hình xuống khổ sai chung thân.

                Dù sao đi nữa, chúng tôi nghĩ cha Nguyễn Gia Đệ có thể hãnh diện hơn nữa để nói rằng: ‘Đời cách mạng của người anh tôi, mặc dù chưa có gì là công thành danh toại, nhưng ai cũng cho là một liệt sĩ chết vì quê hương, chết vì tinh thần quốc gia, nên đã được sử sách nhắc đến tên tuổi, mỗi khi nói đến Nguyễn Thái Học thì cũng nhắc đến Nguyễn Minh Luân, người anh thứ hai của chúng tôi.’

                (còn tiếp)

                #23
                  frank 14.06.2022 04:21:24 (permalink)


                  Ch
                  ương 19


                  Thuyn nhân đu tiên trong lch s t nn Cng sn



                  Cuộc đàn áp đẫm máu của Việt Minh đối với giáo dân ở Phúc Nhạc, sau 11 ngày bao vây và 3 ngày lục soát, Công an Việt Minh bắt dẫn đi 596 người và 13 người chúng đem ra xử bắn ở Núi Cánh Diều ở tỉnh lỵ Ninh Bình, là một điều làm cho chúng tôi phải suy nghĩ nhiều, để rút kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh sống còn đối với Cộng sản vô thần, khi Việt Minh coi thường những thiệt hại nặng nề về nhân mạng. Riêng đối với bộ đội không mà thôi đã có 20 người bị dân chúng Phúc Nhạc hạ sát, ấy là chưa kể tới con số thường dân bị mất mạng, nguyên một mình cụ Bá Thức, 70 tuổi, đã dùng kiếm chém gục 3 mạng bộ đội trước khi cụ bị hạ bởi một quả lựu đạn của Việt Minh tung nổ dưới chân.

                  Trong suốt thời gian Phúc Nhạc bị Việt Minh bao vây, tổng bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm theo dõi rất sát mọi biến chuyển và khi cuộc bao vây chấm dứt với 596 giáo dân bị bắt giữ, một cuộc họp đã được triệu tập ở tòa Giám Mục để rút kinh nghiệm hầu tìm giải pháp bảo vệ giáo dân khắp nơi. Và đặc biệt bảo vệ khu An Toàn Pháp Diệm chống lại mọi âm mưu của Việt Minh, bội ước lời hứa của Hồ Chí Minh về tính cách tự trị của khu, và nhất là đề phòng một cuộc bao vây khu An Toàn Phát Diệm.

                  Lúc này dân tị nạn cộng sản từ khắp nơi đổ về tá túc một ngày một gia tăng rất nhiều, dân số trong khu An Toàn đã lên tới hơn 30 ngàn người.

                  Đây thật là một bài toán khó có giải đáp về vấn đề cung cấp lương thực cho một số dân đông đúc như thế, nếu khu An Toàn bị bao vây trong nhiều ngày, như trường hợp ở Phúc Nhạc, ngoài ra chúng tôi cũng tính tới vấn đề phải hy sinh bao nhiêu nhân mạng để có thể bảo vệ được khu An Toàn, nếu một cuộc xung đột xẩy ra.

                  Dân chúng kể cả dân tị nạn đều cương quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ Phát Diệm chống lại cuộc đàn áp của bọn Cộng sản Việt Minh vô thần. Nhưng trên cương vị lãnh đạo, Đức Cha Lê Hữu Từ, các linh mục và chúng tôi đều hết sức cố gắng tìm ra những giải phát ôn hòa trước hết để bảo vệ nhân mạng cũng như tài sản của toàn dân.

                  Điều lo ngại nhất của chúng tôi là quân đội thực dân Pháp lợi dụng tình trạng bất ổn đem quân xâm chiếm Phát Diệm, như vậy người Cộng Giáo sẽ bị cáo buộc là giúp cho thực dân Pháp đạt lại chính quyền thuộc địa ở Việt Nam.

                  Trong một cuộc họp riêng với Đức Cha Lê Hữu Từ tại tòa Giám Mục để thảo luận về những phương sách bảo vệ Phát Diệm trong trường hợp Việt Minh gia tăng áp lực đòi kiểm soát khu An Toàn, dù rằng Hồ Chí Minh đã chính thức trao quyền cai trị khu vực này cho Đức Cha. Và rút kinh nghiệm ở bài học Việt Minh bao vây Phúc Nhạc đòi bắt giữ các ‘côn đ, chúng tôi đã tình nguyện cùng với một số chiến hữu khác có tên trên danh sách của Việt Minh nêu danh các ‘côn đ Phát Diệm cần phải diệt trừ, rút lui vào bí mật và nếu cần rời khỏi Phát Diệm đi lánh nạn Cộng sản ở nơi khác kể cả ‘dinh tê’ vào khu vực của Pháp như Hải Phòng chẳng hạn, để Việt Minh không còn lý do bắt ‘côn đ’ để tấn công.

                  Do đó khu An Toàn đã thực sự an toàn cho đến ngày 16 tháng 10 năm 1949 là ngày quân đội thực dân Pháp xâm chiếm Phát Diệm và vẫn còn an toàn cho tới ngày mồng 2 tháng 7 năm 1954 là ngày dân Phát Diệm bắt đầu rời khỏi Phát Diệm di cư vào Nam Việt Nam, khi Hiệp Định Genève chia đội đất nước được ký ngày 21 tháng 7 năm 1954.

                  Việc chúng tôi chấp nhận bỏ Phát Diệm ra đi để bảo toàn cho khu An Toàn Phát Diệm khỏi bị Việt Minh tấn công, đã làm cho Đức Cha Lê Hữu Từ ngỡ ngàng nhất là đối với mối tình đồng chí hướng thâm sâu giữa Đức Cha và chúng tôi trong những năm cùng nhau tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam trong tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Kể từ thời gian bí mật hoạt động dưới thời Phát Xít Nhật Bản tới thời gian công khai hợp tác với Việt Minh trong cuộc tranh đấu chống Pháp thực dân và nhất là trong công cuộc tranh đấu chống Cộng Sản vô thần bảo vệ Đức Tin.

                  Đức Cha Lê Hữu Từ đã từ chối đề nghị chấp nhận ra đi của chúng tôi vì ngài cho đó là một hy sinh quá to lớn và đầy hiểm nguy vì thành tích cách mạng chống thực dân. Pháp của chúng tôi. Ngài nói:

                  ‘Anh Minh, cha không mun quyết đinh ngay v vic anh chp nhn hy sinh ra đi đ bo đm an toàn cho khu An Toàn Phát Dim vì thy trước nhng khó khăn anh s phi chu vi bn thc dân Pháp mt khi anh ra ti Hi Phòng. Hãy đ cho cha cu nguyn, xin Chúa soi sáng cho quyết đnh ca cha và ngày mai hãy tr li gp cha.

                  Ngày hôm sau tôi đã trở lại gặp Đức Cha Lê Hữu Từ và ngài đưa cho tôi một tờ giấy viết thư của tòa Giám Mục để trắng mà ngài ký sẵn kèm theo cả ấn tín, ngài nói:

                  ‘Con hãy cm t giy viết thư mà cha đã ký sn đ con đánh máy và đin tên nhng người cùng đi vi con. Cu xin Chúa và Đc M phù h cho con,‘

                  Tôi rất cảm động cầm lấy tờ giấy viết thư mà Đức Cha đã ký sẵn kèm cả ấn tín và nói đùa lại rằng:

                  ‘Con cám ơĐc Cha đã tin tưởng nơi con mà ký sn cùng c n tín na. Con s dùng giy này đ viết thành mt văn t Đc Cha nhn bán Nhà Chung Phát Dim cho con’.

                  Đức Cha cười và nói:

                  ‘Con mun làm gì cũng được cha tin nơi con

                  Và tôi quỳ xuống hôn nhẫn của ngài và ngài ban phép lành cho tôi.

                  Trong cuộc ly biệt rất thân tình này tôi cũng đã thưa cùng Đức Cha về một người đồng chí hướng của tôi trong đảng Đại Việt Duy Dân hiện mới về tá túc tại khu An Toàn Phát Diệm là ông Lê Quang Luật, một người đã trở nên rất thân tín với Đức Cha Lê Hữu Từ và cha bí thư Phạm Quang Hàm, trong công cuộc chống Cộng sản vô thần tại Phát Diệm. Sau này ông Luật đã một thời làm thủ hiến Bắc Việt và bộ trưởng bộ Thông Tin trong chính phủ đầu tiên của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.

                  Danh sách 5 người đã được điền vào thơ giới thiệu bằng tiếng Pháp mà Đức Cha đã ký sẵn, trong số 5 người này thì 4 người được Việt Minh liệt kê là ‘côn đ Phát Dim’, với bộ ba Minh, Nguyên, Ngoạn và Thanh sau này là đại tá Thanh và một nhân vật khác nữa là ông Quản Bình, một ‘côn đồ’ có hạng chống Việt Minh Cộng sản ở cống Phát Diệm. Trong bộ ba của chúng tôi thì anh Lê Ngọc Ngoạn mới qua đời gần đây ở Sài Gòn.

                  Do sự móc nối của ông Quản Bình, chúng tôi đã rời khỏi Phát Diệm, lên thuyền bát đậu ở Núi Nẹ ở ngoài biển đông để đi Trà Cổ, một giáo xứ Công Giáo ở Móng Cáy sát với biên giới Trung Hoa. Sở dĩ gọi là thuyền bát vì những thuyền này chuyên chở chén bát và đồ sứ sản xuất ở Trà Cổ đi bán khắp nơi ở Bắc Việt.

                  Kéo buồm lên đi được một ngày thì thuyền phải vào tránh bão ở cửa Lạch Lác tức cửa sông Hồng Hà thuộc địa hạt Bùi Chu, trận bão kéo dài quá 5 ngày, chúng tôi thấy rằng nếu tiếp tục tránh bão ở đây lâu hơn nữa thì chắc chắn không thể thoát được khỏi tay tụi du kích Việt Minh ở vùng này, nên chúng tôi quyết định cử ông Quản Bình đi thuê một thuyền chài chuyên môn đánh cá ở cận duyên để trở về Phát Diệm, sửa soạn một cuộc vượt biên khác.

                  Các anh em Tự Vệ Cộng Giáo ở Ba Đê và Vinh Trung được báo động về sự trở về của chúng tôi nên chúng tôi được bảo vệ một cách hết sức cẩn mật trong mọi di chuyển từ Cồn Thoi về khu An Toàn Phát Diệm.

                  Tưởng rằng chúng tôi đã đi khỏi Phát Diệm rồi nên sự theo dõi của Công An Việt Minh có thể lơ là hơn, tuy nhiên chúng tôi nhận thấy rằng để bảo đảm cho khu An Toàn Phát Diệm khỏi bị Việt Minh quấy phá, chúng tôi cần phải rời đi ngay càng sớm càng tốt. Và phương tiện đi bằng thuyền bát là loại thuyền chuyên đi biển không có nữa nên chúng tôi phải thuê thuyền chài là thuyền đánh cá loại nhỏ chuyên đánh cá trong sông ngòi, không có cả đến cái la bàn để tìm phương hướng.

                  Ngày mồng 7 tháng 11 năm 1947, thuyền chúng tôi kéo buồm rời khỏi cổng Phát Diệm trực chỉ Lạch Đài, bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới lạ vượt biển khơi trong mùa thu đầy gió bão ở Vịnh Bắc Việt. Chúng tôi chỉ mong được thuận thuyền xuôi gió thoát khỏi tay tàn ác của quỷ đỏ Việt Minh. Lần ra đi này thiếu ông Quản Bình ở lại, không dám ra biển khơi bằng loại thuyền chài chuyên đánh cá trong sông. Và ông Bình đã được thay thế bằng anh Trần Văn Xuân ở Vinh Trung, và từ đây anh Xuân đã đội tên Nguyễn Văn Bình, sau này là quận trưởng quận Củ Chi và tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện dưới đời tổng thống Ngô Đình Diệm.

                  Khi đang thuận buồm xuôi gió ở ngoài khơi Diêm Điền thuộc tỉnh Thái Bình thì cột buồm cái của thuyền bị gẫy làm đôi, may lúc này trời yên biển lặng nên thuyền chỉ còn có cây buồm nhỏ và cuối cùng cũng lê lết được tới Đồ Sơn.

                  Trong đêm tối, trông thấy mấy ngọn đèn mờ mờ ảo ảo ở phía chân trời, biết là chúng tôi sắp tới Đồ Sơn, anh em chúng tôi đều sấp mình xuống cám ơn Thiên Chúa đã cứu giúp chúng tôi qua mọi hiểm nguy trên biển cả. Nhưng riêng tôi, tôi rất bàng hoàng lo âu vì chúng tôi sẽ nằm trong cảnh trên đe dưới búa, thoát được khỏi tay bọn quỷ đỏ nhưng từ đây lại phải sống với bọn quỷ trắng nổi tiếng tàn ác đối với những người cách mạng quốc gia.

                  Sau khi mặt trời mọc, thuyền chúng tôi kéo buồm lên kèm theo lá cờ trắng ở trên đỉnh cột buồm từ từ tiến vào bãi biển Đồ Sơn, trung tâm nghỉ mát thời trước. Chúng tôi đều ra đứng ở mũi thuyền, hai tay dơ lên và nước mắt chảy quanh vì cảm thấy nhục nhã vô cùng, nhớ lại những lời thề nguyền quyết chống Pháp đến hơi thở cuối cùng mà nay sắp sửa bước vào cuộc đời làm nô lệ cho Pháp.

                  Từ trên sườn đồi 4 chiếc xe thiết giáp chạy xuống bãi biển đón tiếp chúng tôi, và quân lính Pháp lố nhố khắp nơi trong thế sẵn sàng ứng chiến để đón những thuyền nhân tị nạn cộng sản tới Đồ Sơn xin sống nhờ dưới sự che chở của người Pháp. Còn gì nhục nhã hơn nữa!

                  Thuyền của chúng tôi được chỉ dẫn để cập vào cầu tầu và một trung úy người Pháp chỉ huy một tiểu đội binh sĩ tiến ra, tôi cũng bước lên cầu để trình bầy lý do tại sao chúng tôi tới đây và đưa cho ông ta xem lá thư giới thiệu của Đức Cha Lê Hữu Từ và từ đây chúng tôi coi mình là những thuyền nhân đầu tiên trong lịch sử của những người phải rời bỏ quê hương để tị nạn cộng sản.

                  Sau một hồi liên lạc vô tuyến về cấp chỉ huy, vị trung úy Pháp bảo chúng tôi theo ông ta về bộ chỉ huy. Khi rời khỏi con thuyền mỏng manh, chúng tôi không quên quay lại cám ơn ông bà Tiếp, chủ thuyền và quay sang người Trung úy Pháp để xin tiếp tế thêm nước ngọt và nếu được, một ít thực phẩm cho chiếc thuyền quay trở về ngay Phát Diệm.

                  Vì ngày chúng tôi tới Đồ Sơn là ngày 11 tháng 11, lễ Đình Chiến (Armistice) kỷ niệm ngày ký Hiệp Định Versailles chấm dứt trận Đệ Nhất Thế Chiến, nên người Pháp đều nghỉ và một số binh sĩ về Hải Phòng dự cuộc duyệt binh, nên chúng tôi được sống thảnh thơi trong câu lạc bộ của đơn vị đồn trú và tới tối lại được mời tham dự bữa tiệc mừng lễ.

                  Đây là lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh không được thưởng thức rượu vang chính cống của Pháp, nên bữa cơm đầu tiên này là một kỷ niệm không thể quên được. Sau khi đã hơi ngà ngà say và ăn những miếng bí tết thơm ngon, anh em chúng tôi nhắc với nhau rằng: ‘Đng quên T Quc Vit Nam và coi chng đng đ bơ sa làm m con mt’ . Những ngày đầu được người Pháp chính thức tiếp đón như vậy đấy nhưng những ngày sống với thực dân Pháp ở Hải Phòng là những chuỗi ngày đau khổ nhất trong đời người của chúng tôi.

                  Sáng hôm sau chúng tôi được dồn lên một chiếc xe GMC đưa về Hải Phòng, một điều làm cho chúng tôi hơi ngạc nhiên là một người hạ sĩ Pháp đến hỏi tôi là các anh muốn xuống xe tại đâu? Tôi cứ nghĩ rằng họ sẽ đưa chúng tôi về cơ quan an ninh làm thủ tục giấy tờ này khác, may mà chúng tôi đã có sẵn địa chỉ của cụ Giáo Mỹ, người đồng hương hơn nữa lại thân với cụ thân sinh của chúng tôi nên tôi trả lời xin cho chúng tôi xuống đường Chavignon, tức là ngõ Cố Đạo, số nhà 26,

                  Cụ Giáo Mỹ đã sinh sống lâu năm ở Hải Phòng và thời bấy giờ cụ giữ chức trưởng phố, nên trong những ngày đầu sống ở đây, chúng tôi cảm thấy thoải mái, nhưng đây chỉ là mấy ngày đầu tiên của một chuỗi ngày sống trong phập phòng, lo sợ dưới bàn tay sắt đá của sở mật thám nổi danh tàn ác của thực dân Pháp.

                  Nghĩ lại trong suốt cuộc đời tranh đấu của tôi lúc lên voi, lúc xuống chó, bắt đầu từ ngày dấn thân vào cuộc đời làm cách mạng chống Nhật, chống Pháp từ khi mới có 22 tuổi đầu, tới ngày phải sống ở Hải Phòng chịu khổ nhục vào tù ra khám của thực dân Pháp vì phải tị nạn cộng sản. Ngày mừng lễ sinh nhật thứ 27 của tôi diễn ra trong nhà pha Hỏa Lò Hải Phòng, đúng 14 ngày sau khi đổ bộ lên bãi biển Đồ Sơn.

                  Những khổ cực sống với Pháp khỗng xót xa bằng việc phải rời bỏ gia đình ra đi khi vợ tôi đang có mang 7 tháng con gái Mộng Tiên của chúng tôi bây giờ. Hai con gái đầu lòng của chúng tôi đã được sinh ra và chết khi còn nhỏ đều chỉ do một mình bà mẹ lo lắng mọi việc. Còn ông bố thì còn bận ‘đi làm cách mạng’ đâu có ở nhà.

                  Ngay đến ngôi nhà 2 tầng to lớn xây cất giữa phố Thượng Kiệm, tôi có góp được tí công sức nào đâu, họa chăng là mỗi lần từ chiến khu Rịa về phải di chuyển giữa đêm khuya để tránh tai mắt của mật thám Kempetai của Nhật, tôi chỉ được nhìn thấy mờ mờ ảo ảo trong sương khuya những bức tường đang được xây lên, hay lúc mái nhà đang được lợp ngói, cho tới khi gọi là cách mạng thành công, tôi được về tọa hưởng kỳ thành những công trình xây cất mà nhà tôi đã thực hiện.

                  Nhưng rồi chỉ trong một thời gian tôi lại dấn bước lên đường hay nói đúng hơn lên chiếc thuyền chài kéo buồm ra đi, trao mặc tương lai cho số phận, để rồi một ngày trong những năm tháng đầu năm 1950, chúng tôi lại lên thuyền buồm từ Hải Phòng trở về Phát Diệm. Lần này khác lần trước vì đồng hành cùng chúng tôi không còn anh Nguyên, anh Ngoạn hay Bình nữa mà là cả gia đình gồm 3 người với người con trai yêu dấu của chúng tôi còn đang nằm trong bụng mẹ.

                  (còn tiếp)
                  #24
                    frank 18.06.2022 05:11:09 (permalink)

                    Ch
                    ương 20


                    Thoát khi tay xích quỷ - Sa vào qu đo kh đau ca bch qu

                     
                     
                    Trong những ngày đầu tiên sống ở Hải Phòng dưới quyền cai trị của thực dân Pháp với một Hội đồng An Dân quản trị công việc hành chánh, tình hình an ninh của thành phố chưa có gì là khả quan, lệnh thiết quân luật vẫn kéo dài từ 9 giờ tối cho tới 5 giờ sáng, tiếng súng của du kích quân Việt Minh vẫn còn văng vẳng nghe thấy từ khu Lạch Tray hoặc quán Bà Mau. Nhiều đêm chúng xâm nhập  vào các khu phố sát trung tâm thành phố, nên việc cần phải làm ngay là xin thẻ căn cước để ít nhất có giấy tờ chứng thực nơi cư trú, hoặc xuất trình mỗi khi có cuộc  bố ráp của quân đội và cảnh sát Pháp thường xuyên xẩy ra trong giờ thiết quân luật.
                     
                    Dân số người Việt ở Hải Phòng đâu có bao nhiêu, tôi còn nhớ căn cước của tôi mang số 4,200, như vậy dân Việt Nam ‘dinh tê’ về thành cộng với những người ở lì lại thành phố trong năm đầu của cuộc chiến tranh Việt Pháp, vẫn còn quá ít. Nhiều nhà cửa ở một số khu phố vẫn còn để trống trơn vì chủ nhà còn di cư chưa trở về, tuy nhiên ban ngày phố xá ở trung tâm thành phố cũng có vẻ sầm uất khá, nhờ ở số người Tầu còn lại khá đông và nhiều dân ở ngoại ô kéo vào làm phu ở bến tầu Sáu Kho hay nhà máy xi măng Hải Phòng.
                     
                    Chỉ sau 2  ngày là chúng tôi đã có thẻ căn cước nhờ ở sự giới thiệu của cụ Giáo Mỹ, trưởng phố Cố Đạo và việc phải nghĩ tới là tìm kế sinh sống mà  không phải đi làm công cho thực dân Pháp, nên chúng tôi liền nghĩ tới việc sang một cửa tiệm giặt ủi trong một cái garage cũ ở ngay trước cửa nhà cụ Giáo Mỹ. Tiệm giặt ủi này do ông Lê Văn Chính chịu trách nhiệm điều hành và lấy tên hiệu là  Lạc Tân, chọn chữ Lạc để nhớ tới Hòa Lạc, một chiến khu đầu tiên của anh em Đại Việt Duy Dân ở Phát Diệm và cũng là một cơ sở võ trang của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.  Hòa Lạc cũng là quê ngoại của chúng tôi và của anh Tống Văn Dung, một cán bộ Công Giáo  Cứu Quốc bị Việt Minh hạ sát và do cái chết của anh Dung, một cuộc xô sát đẫm máu đã xẩy ra ở Phát Diệm.  
                     
                    Riêng về ông Lê Văn Chính, thường được gọi là cụ cai Chính, một ông anh thúc bá của chúng tôi, một thời làm Cai tổng ‘hét ra lửa’ ở tổng Quy Hậu, phủ Kim Sơn, chính ông Chính là người cùng với anh Dung mang 3 triệu đồng bạc Đông Dương của anh em Duy Dân ở Bùi Chu về Phát Diệm giúp quỹ mua súng đạn cho Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc.
                     
                    Trù  liệu rằng sẽ có nhiều anh em sẽ tới Hải Phòng sau này và nếu để xin giấy tờ cư trú và căn cước là quan trọng nên anh Lê Ngọc Ngoạn được cử nhận ngay chức thư ký trong văn phòng của khu phố Cố Đạo, và anh Nguyễn Văn Bình làm thư ký ở ty Căn cước của thành phố.  Sau này anh Bình gia nhập trường Võ Bị Đà Lạt và sau năm 1954 làm quận trưởng quận Củ Chi và được tổng thống Ngô Đình Diệm cử  làm tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện.
                     
                    Những ngày đầu tiên sống ở Hải Phòng, chúng tôi tìm quên sự đời bằng những bữa ‘nhậu’ uống chết thôi sau giờ thiết quân luật và để có rượu cùng mồi ‘nhắm’, anh Vị được cử đi làm ‘bồi’ ở Hotel de France ở dưới phố Tây. Cứ mỗi tối trước 9 giờ là anh Vị đi làm về mang theo vài ba chai rượu vang loạt thật ngon, cùng giăm mười miếng ‘bí tết’ và cuộc nhậu bắt đầu, uống cho tới khuya là anh Thanh, sau này là đại tá Thanh ở bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, bắt đầu hú và ca bài ‘chửi’ Hồ Chí Minh.
                     
                    Sống như vậy được 2 tuần lễ là tôi bắt đầu sa vào quỹ đạo khổ đau của bạch quỷ. Nguyên sáng ngày 25 tháng 11, 1947, một xe jeep sực đậu trước cửa tiệm giặt Lạc Tân, một trung sĩ người Pháp nhẩy vào gọi tên Nguyễn Đình Minh, tôi liền ra trình diện và ngay sau đó được đẩy lên xe đưa về Sécurité Militaire tức sở An Ninh Quân đội của Pháp ở Hải Phòng và cuộc thẩm vấn cùng tra tấn bắt đầu.
                     
                    Sau một hồi ngồi viết những lời khai về lý lịch, tôi thấy đại úy Vattier, giám đốc sở An Ninh quân đội mang ra một tập hồ sơ giầy cộm và một máy điện thoại kiểu  cổ loại có gắn một máy magnéto, Vattier nói có vẻ lịch sự mời tôi đứng sát bàn giấy, nhưng liền sau đó hắn rút ra hai sợi giây điện mắc vào hai dái tai của tôi xong rồi nối vào chiếc máy magnéto, tôi hiểu ra ngay đây là trò ‘quay điện’ và tôi được ‘hân hạnh’ chính đại úy Giám đốc An Ninh Quân Đội của secteur Hải Phòng tận tình tra tấn.

                    Tất cả những câu hỏi chung quy đều liên quan tới thời chúng tôi cướp quyền vào ngày 19 tháng 8 năm 1945, về những lời tuyên bố chống Pháp, chủ tọa lễ các dân Tây như André Dzu, Đội Đảng v.v.. tuyên bố từ bỏ quốc tịch Pháp. Rồi đến tài sản của Pháp gửi tại dòng Châu Sơn thời Đức Cha Lê Hữu Từ làm tu viện trưởng hoặc đồ đạc các vị sĩ quan Pháp, trưởng đồn khố xanh Trì Chính, bị tịch thu sau thời Nhật Bản đảo chánh Pháp ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945.
                     
                    Mỗi một câu hỏi của Vattier, dù tôi trả lời có hay không, đều theo bằng một vòng quay ‘magnéto ‘ của máy điện thoại làm cho choáng váng, chói óc và đau đớn vô chừng kể, mỗi lần hắn để tay vào cần quay là  tôi ‘lấy gân’ cố chịu đựng nhưng khi hắn quay đến hai vòng là người tôi giật bắn lên tới tận trần nhà.
                     
                    Khi hắn quay đến 3 vòng magnéto là tôi phát điên lên, giằng chiếc máy điện thoại ném ngay vào mặt hắn nói bằng tiếng Pháp: ‘Tao bt cn, mày c giết tao đi, khi cn phi quay đin tao’ . Vattier điềm tĩnh đưa chiếc điện thoại magnéto ra sau lưng tôi, và hắn tiếp tục tra khảo và quay điện cho tới khi tôi bất tỉnh, gục xuống đất, đến khi tỉnh lại, cuộc quay điện lại tiếp diễn và kết quả là tai tôi bị điếc, nên tôi vẫn phải đeo máy trợ thính cho tới ngày nay.
                     
                    Tra tấn làm cho tôi chết đi sống lại cho tới chiều gần tối, Vattier cho sĩ quan trực đem tôi lên xe jeep ném vào một sà lim ở nhà pha “Hỏa Lò’ thành phố Hải Phòng, nơi giam giữ hàng ngàn thanh niên trước kia là tự vệ thành hoặc tù binh Việt Minh hay dân lành bị Pháp bắt giam oan uổng. Đến khi tôi mở mắt tỉnh hẳn lại thì lạ lùng thay,  một số mặt quen thuộc của anh em Hướng Đạo Hải Phòng đang bao vây săn sóc cho tôi trong đó có anh Trần Văn Lịch, em của các anh Trần Văn Thao và Trần Văn Lược, tổng ủy viên cuối cùng của Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam trước ngày Sài Gòn thất thủ.
                     
                    Câu mở miệng đầu tiên tôi nói với anh Lịch là ‘Đói quá’ . Ra suốt một ngày bị quay điện lên quay điện xuống ở An Ninh Quân Đội, tôi không được cho ăn uống bất cứ thứ gì cả ngoài vài ngụm nước lã. Sau khi được ăn mấy miếng cơm nguội Lịch bảo tôi nghỉ đi cho khỏe để rồi ngày mai theo anh em đưa đi ra ngoài phố làm  ‘c vê’ thế là được an tâm sắp biến thành một tù binh được ‘ơn hu không phải nhốt trong sà lim. Và được đi ra ngoài làm phu phen cùng với mấy Hướng Đạo sinh được đi ra ngoài làm coi như anh em ruột thịt. Những anh em này đã bị nhốt hơn một năm rồi và Lịch đã trở thành cai tù có nhiều quyền trong đó có quyền cắt đặt những người đi làm ‘c vê’ ở các công sở trong thành phố.
                     
                    Nhưng sáng hôm sau, Vattier lại cho xe jeep xuống đón đưa về An Ninh Quân Đội và hắn bắt tôi ra sân ngồi nhặt cỏ. Khoảng độ gần 10 giờ sáng, tôi thấy bóng ông Già Thoại, một Thầy Giảng Phát Diệm được coi như đại diện của Đức Cha Lê Hữu Từ ở Hải Phòng. Ông Thoại đi vào văn phòng Vattier và một lúc sau khi ông đi ra, Vattier gọi tôi vào văn phòng và nói một câu cụt ngủn: ‘Xéo đi’, thế là sau một ngày chịu cực hình, tôi được bạch quỷ cho tự do, và không hề có một giấy phóng thích chi hết. Đây là chuyến tôi vào tù của thực dân Pháp lần thứ nhất.
                     
                    Trở về tiệm giặt Lạc Tân, nằm trên ghế bộ gọi là tỉnh dưỡng mà đầu lúc nào cũng nặng như bị búa bổ, trong tai lúc nào cũng như có 5, 10 con dế ca bài ca mùa hè. Nằm tỉnh dưỡng chưa được mấy ngày, tôi đâm ra chán nản nghĩ rằng chả nhẽ cứ ăn nhờ vào anh em, nên tôi bắt đầu nghĩ đến tìm việc làm, nhưng từ chối tất cả mọi công việc làm cho Tây, và cuối cùng tôi được giới thiệu làm công việc làm công việc đại diện thương mại cho cửa hàng bán tơ lụa của Tây, nhưng không phải là Tây thực dân mà là Tây đen, người Ấn Độ chủ cửa hiệu Neo Bombay ở phố Khách, Hải Phòng.
                     
                    Trước khi nhận việc ở Neo Bombay, bộ ba chúng tôi Minh, Nguyên, Ngoạn lại lâm vào cảnh quan tha ma bắt, được An ninh Quân đội tha, nhưng lần này lại do sở mật thám Pháp bắt với những tên Cẩm mật thám khét tiếng tàn ác với các nhà cách mạng Việt Nam như Delorge và Lartigue, chúng tôi bị bắt giữ vào một buổi tối đưa về Sở Mật Thám nhốt vào trong xà lim hết sức chật hẹp. Xà lim tôi bị đẩy vào đã có một thanh niên người Tầu nằm trong một chiếc bệ xi măng vừa đủ cho một người. Thế là suốt đêm tôi phải ngồi bó gối ngủ, muỗi nhiều và trời rất lạnh vì mùa đông đã tới ở đất Bắc Việt.
                     
                    Sáng hôm sau, nhìn qua lỗ tò vò của xà lim độ một gang và dài 2 gang tay, tôi đã trông thấy Ngoạn bị một anh Pháp lai điệu lên văn phòng và sau đó đưa xuống một chiếc hầm trú ẩn tránh bom xây bằng bê tông cốt sắt, hầm này được dùng làm nơi tra tấn và cách xa dẫy xà lim chúng tôi đang bị nhốt độ 10 thước.
                     
                    Chỉ một lúc sau là nghe thấy tiếng kêu thất thanh của Ngoạn phát ra từ trong hầm, chắc là Ngoạn đang bị tra tấn, điều này làm cho lòng tôi bồn chồn và lo âu. Tiếng Ngoạn la hét lại càng vang to hơn nữa, làm cho đầu tôi choáng váng sợ hãi, nhất là khi trông thấy Ngoạn được dẫn xuống xà lim, mặt mày sưng vù, bước đi khập khễnh. Ngay sau đó là đến lượt anh Nguyên bị hai tên Tây lai dẫn xuống hầm, rồi tiếng la tiếng hét lại vang dội rồi rên rỉ như heo bị cắt tiết.
                     
                    Đây là đến lượt tôi sắp bị tra tấn, tuy bụng run lắm nhưng cố giữ vẻ bình tĩnh khi trông thấy anh Tây lai xuống gọi tên tôi là Pierre Martin, mà tôi biết mẹ anh này là người quê ở làng Tự Tân, gần sát Phát Diệm. Tôi liền nghĩ ra mưu kế là  nhận đại tên Pierre này là họ hàng. Nên khi được đưa vào trong hầm,  Pierre chưa kịp ra tay đánh tôi thì tôi liền liến thoắng, nói ngay bằng tiếng Pháp: ‘
                     
                    Pierre, mày không biết tao có h hàng  vi mày à, m mày là ngườ làng T Tân, mà tao phi gi là cô h, không tin mày c v hi m mày và nói rng tao  Thượng Kim’.
                     
                    Tôi tin chắc rằng nếu Pierre có về hỏi bà mẹ của anh ta đi chăng nữa, thì chắc bà ta đã  rời khỏi Tự Tân đã mấy chục năm rồi, nên còn nhớ ai vào với ai!
                     
                    Mưu kế của tôi đã thành công và Pierre bảo tôi rằng:
                     
                     ‘Ông Cm Delorge ra lnh cho tao phi đánh mày đ hi v my đng phái quc gia chng người Pháp  Phát Dim, nhưng thôi, vì mày có h vi tao nên tao không đánh máy và chc na khi tr v xà lim, mày phi gi đò đi khp khnh chng t rng  tao đã đánh máy ri’.
                     
                    Thế là hắn đưa tôi vào ngồi trong góc hầm và từ chỗ này nhìn ra trông thấy nhiều cảnh tra tấn làm tôi đau lòng như cảnh một phụ nữ trông thật xinh đẹp độ 20 tuổi, đang bị 2 thằng thanh tra mật thám Pháp lại lột quần áo cho ra trần truồng, chúng lấy giây điện gắn vào 2 đầu nhũ hoa rồi móc vào máy magnéto để quay điện cô này giống y như cảnh tôi bị quay điện ở hai dái tai ở bên An Ninh Quân Đội vậy, trông thấy cảnh cô gái bị quật lên quật xuống làm cho tôi phát điên lên được.
                     
                    Cuộc tra khảo về các đảng phái quốc gia hoạt động chống Pháp ở Phát Diệm không có gì là đặc biệt vì hầu hết tụi mật thám đã biết về các hoạt động công khai của một số các đoàn thể này nên chúng tôi cho rằng những vụ tra tấn 3 người chúng tôi chỉ là đòn đánh phủ đầu của mật thám Pháp để mở đầu cho nhiều vụ tra khảo khác mà thôi. Và mật thám đã đưa ra lời cảnh cáo không muốn thấy chúng tôi ở quá đông ở tiệm giặt ủi Lạc Tân.
                     
                    Những cảnh tra tấn cực kỳ dã man của mật thám Pháp mà tôi đã chứng kiến làm cho tôi uất hận ngất trời và nhận biết rằng trong giai đoạn tới chính mình sẽ là nạn nhân và đây là chuyến vào tù của thực dân Pháp lần thứ hai.
                     
                    Bị giam 2 ngày 2 đêm, mật thám Pháp thả chúng tôi ra về và việc đầu tiên phải làm là di chuyển chỗ ở sang số nhà 38 ngõ Sơn Lâm, bên kia đại lộ Paul Doumer và tôi bắt đầu nhận việc làm đại diện (comparador) cho cửa hàng  bán tơ lụa Neo Bombay, chuyên việc đi giao thiệp với các nhà nhập cảng của Pháp để đặt hàng mới hay lãnh hàng về, vì ông chủ người Bombay của tôi không nói thạo tiếng Pháp lắm, và khi không đi ra ngoài thì đứng coi các cô xẩm bán hàng.
                     
                     Công việc kể rất nhàn hạ nhưng tôi lại bị một tai nạn nghề nghiệp tuy ‘khng khiếp’ nhưng rất êm đềm và vô cùng khó xử. Nguyên do là bà chủ của tôi lại là phụ nữ Việt Nam, người trông rất mệnh phụ đã có 2 con với ông chủ Bombay, ông này là người rất đàng hoàng nhưng bự con, buổi sáng nào cũng vậy ông đọc kinh và tắm gội theo luật của Ấn Độ giáo trên lầu ba từ sáng cho tới  gần trưa, cả nhà và cửa hiệu sặc mùi thơm của hương trầm Ấn Độ có vẻ hơi khét
                     
                    Trong khi không có việc bà chủ thường nói đủ thứ chuyên cà kê dê nghổng với tôi, rồi dần dà bà kể cho tôi nghe câu chuyện của đời bà, cắt nghĩa tại sao bà lại kết hôn với  ông chủ Bombay của tôi. Dĩ nhiên bà tâm sự rằng: tôi ly ông y ch vì di tn cư v, nhà b m đông con, túng thiếu nên đành phi hy sinh đ giúp đ gia đình và nht là giúp cho các em ăn hc, ri v..v….  Những câu chuyện bà chủ nói ra làm cho tôi bối rối vô cùng vì đã tiến tới mức được coi như tôi bị xách nhiễu tình dục, nhưng tôi đã thắng được bản thân của tôi và tôi tự hào đã thoát được mọi cám dỗ đối với một thanh niên 27 tuổi vì tinh thần cách mạng quốc gia đang  phải sống xa gia đình.
                     
                    Thế rồi một ngày sáng trời, một xe jeep của An ninh Quân đội lại tới hiệu Neo Bombay mời tôi lên gặp đại úy Vattier, không biết tại sao lần này ông này lại quá tử tế đối với tôi như vậy? Ông ta đưa cho tôi 100 đồng bạc và nói rằng:

                    ‘Tôi biết các anh thích ung rượu và nhu, vy cm s tin này v mua rượu’ đoạn ông ta mời tôi ngồi xuống đàng hoàng và nói với tôi: ‘Chúng tôi cn có mt người như anh, đ cm đu Hi Đng An Dân ca tnh Kiến An, anh nghĩ thế nào v công viy, tôi nghĩ chc vic này tt hơn là vic làm đi din thương mi cho hiu Neo Bombay nhiu.

                    Tôi rất ngạc nhiên về lời nói của Vattier, như vậy là họ vẫn kiểm soát tôi nên biết tôi làm ở Neo Bombay, hơn nữa ông ta lại mời tôi cầm đầu Hội Đồng An Dân tỉnh Kiến An. Được biết Hội Đồng An Dân là một cơ quan quản trị mọi công việc hành chánh, đứng đầu là một người Việt Nam làm việc dưới quyền của Pháp tại các tỉnh mà quân đội Pháp đang hành quân để chiếm đóng:  chức vụ này cũng được coi như tương đương với chức vụ tỉnh trưởng.
                     
                    Nhưng vì tôi đã thề nguyền không bao giờ làm việc cho Pháp, nên tôi đã thẳng thắn từ chối và nói rằng:
                     
                     ‘Thưđi úy Vattier, tôi cám ơđi úy đã ưái nghĩ  đến tôi, và đ ngh tôi vào chc v quý hóa là cm đu Hi Đng An Dân tnh Kiến An, nhưng tôi ngh tôi không đ tài cán đ nhn chc v quan trng như vy, nên xin cám ơđi úy:
                     
                    Và khi từ giã, đại úy Vattier nói một câu mà tôi có cảm tưởng đó là một lời cảnh cáo hay dọa nạt rằng:
                     
                    Tôi mun anh phi làm vic vi người Pháp, khi anh sng trên phn đt này ca chúng tôi.’
                     
                    Tôi lưỡng lự không biết có nên kể vụ đại úy Vattier, giám đốc sở An Ninh Quân Đội Pháp cho xe jeep triệu lên văn phòng để cho tiền về mua rượu rồi lại còn mời giữ chức vụ cao trọng, và sau  cùng cảnh cáo phải làm việc với người Pháp, được coi như lần tù thứ ba hay không?

                    Nhưng dù sao chăng nữa, tối hôm đó, tôi đã mua nhiều rượu vang và đồ nhậu, tôi muốn tiêu cho hết 100 đồng bạc của bạch quỷ cho, tôi nhớ giá rượu vang loại  thật ngon chỉ có 1 đồng 60 xu, chai 1 lít, anh em chúng tôi đã uống say bí tỉ, nhưng tôi không hề tiết lộ tiền mua rượu và đồ nhắm tự đâu mà có. Và tôi tuyên bố sẽ nghỉ việc ở hiệu Neo Bombay,  anh em đâu có hiểu lý do tôi muốn nghỉ việc ở đây là để tránh khỏi bị sa ngã!
                     
                    Tôi cũng không nói lý do tôi sẽ đi làm  ‘chức vụ’ cu ly ở  sở Xi Măng Hải Phòng vì  tôi đã từ chối lời mời của đại úy Vattier, giám đốc sở An Ninh Quân Đội khu Hải Phòng, ra cầm đầu Hội Đồng An Dân tỉnh Kiến An chỉ vì tôi đã thề nguyền không bao giờ đi làm cho thực dân Pháp.
                     
                    Cuộc đời ba chìm bẩy nổi của tôi với nhiều lần vào tù ra khám của mật thám Pháp được coi như một sự hãnh diện của đời cách mạng của tôi vậy.
                     
                      
                    (còn tiếp)
                    #25
                      frank 20.06.2022 00:00:33 (permalink)


                      Ch
                      ương 21



                      Hãnh diện về cảnh vào tù ra khám dưới thời thực dân Pháp



                      Các cụ xưa vẫn thường nói: ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại  ngoại’, Một ngày trong tù bằng một ngàn năm bên ngoài – thế mà các quân, dân, cán, chính của chúng ta, sau khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ năm 1975, đã phải chịu tù đầy trong trại cải tạo của bọn Công sản khốn kiếp, hết năm này đến năm khác.
                       
                      Trong số những ‘ngụy quân ngụy quyền’ bị tù đầy này, chúng tôi rất vui mừng được thừa tiếp, tại Houston, ngày 28 tháng 4 năm 1995, anh Nguyễn Quốc Quỳnh, một người bạn chí thiết của gia đình chúng tôi từ hơn nửa thế kỷ. Được biết sau khi đất nước chia đôi năm 1954, anh Quỳnh đã giữ chức tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị dưới Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, và khi đất nước bị rơi vào tay Cộng sản năm 1975, anh Nguyễn Quốc Quỳnh là đại tá, chỉ huy trưởng  Chiến Tranh Chính Trị của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở Đà Lạt và sau đó anh đã bị Cộng sản cầm tù trong trại cải tạo 12 năm. Anh chị Quỳnh đã tới Hoa Kỳ để đoàn tụ với các con  dưới diện Tù Nhân Chính Trị (H.O.) và anh chị đã tới Houston để thăm gia đình người em trai là Nguyễn Bỉnh Thiều.
                       
                      Trong bữa cơm thừa tiếp anh chị Nguyễn Quốc Quỳnh, chúng tôi được nghe câu chuyện tù đầy tại trại cải tạo của Việt Cộng: mỗi ngày anh Quỳnh chỉ phải gánh sơ sơ có 70 đôi nước mà thôi,  tính ra như vậy là trong 12 năm tù cải tạo, anh Quỳnh đã gánh trung bình trên 250 ngàn đôi nước. Ôi thực kinh khủng! Tôi cảm thấy hổ thẹn khi viết về những khổ đau tôi phải chịu dưới bàn tay của bọn mật thám Pháp, làm sao những khổ đau của tôi có thể so sánh được với số lượng ¼ triệu đôi nước mà anh Quỳnh đã phải gánh dưới bàn tay tàn ác, vô nhân đạo của bọn quỷ đỏ:  Cộng sản Việt Nam. Chịu khổ hình với thực dân Pháp, bọn chuyên đi đè đầu bóp cổ dân thuộc địa  là điều có thể được hãnh diện vì chống Pháp để dành độc lập cho Tổ Quốc, nhưng làm sao chúng ta có thể tha thứ được bọn quỷ đỏ là người Việt Nam, cùng một dòng giống con Rồng cháu Tiên, lại có thể xử tàn ác và vô nhân đạo như vậy.
                       
                      Anh chị Quỳnh và chúng tôi đã hàn huyên với nhau rất nhiều về thời cùng nhau tranh đấu chống Pháp, chống Nhật Bản, chống Việt Minh trong Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, khi đó chúng tôi mới chỉ là những thanh niên 24 tuổi và anh chị Quỳnh cùng nhà tôi kém tôi một tuổi, chúng tôi cũng nhắc lại câu chuyện cùng với phái đoàn MTVNCGCQ vào Bắc Bộ phủ gặp Hồ Chí Minh thời Chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia hồi năm 1946 và những hoạt động chống Cộng sản vô thần.
                       
                      Chúng tôi cũng nhắc tới câu chuyện cùng với anh Nguyễn Quốc Quỳnh tham gia  công cuộc cứu đói trong  trận đói kinh khủng năm Ất Dậu làm cho 2 triệu người Việt bị chết do chính sách chính trị vô nhân đạo của thực dân Pháp gây nên.
                       
                      Đứng trước những cảnh am em Hướng Đạo Cụ Sáu ở Phát Diệm có lần phải sắn tay áo lên để chôn hàng trăm xác của người bị chết đói, chúng tôi đã thề nguyền không bao giờ hợp tác với thực dân Pháp, nên khi phải tránh nạn Cộng sản ở thành phố Hải Phòng, tôi đã từ chối lời mời của Pháp không nhận chức chủ  tịch Hội Đồng An Dân tỉnh Kiến An mà chỉ nhận chức ‘cu ly’ ở sở Xi măng Hải Phòng để tỏ cho Pháp thấy là tôi đã có làm việc với người Pháp.
                       
                      Nhưng đâu có an thân, một ngày đẹp trời ở sở Xi măng Hải Phòng, tôi lại được ‘hân hạnh’ mật thám Pháp tới thăm một lần nữa và mời lên xe bịt bùng  để về nằm trong nhà đá của sở mật thám, lần này không đến nỗi bị biệt giam vào sà lim mà được rốt chung với hơn 20 tù nhân khác và ngày hôm sau được gọi lên văn phòng, chính lão ‘cẩm’ ác ôn Lartigue ôn tồn nói:
                       
                       ‘Chúng tôi ‘mời’ anh tới đây để anh viết cho chúng tôi bản kiểm điểm tất cả những công việc anh đã làm từ năm 18 tuổi’.
                       
                      Hắn chỉ cho tôi một bàn giấy để ngồi viết trong giờ làm việc, ngoài giờ đó là về trại giam và ăn cơm tù.
                       
                      Viết miệt mài trong cả ngày rồi cầm lên nộp, lão Lartigue lắc đầu bắt viết thêm nữa, rồi ngày nào cũng vậy, viết hết đầu cua tai nheo cho tới cuối tuần thì hắn bảo ‘Anh đã đẻ ra được quyển tiểu thuyết’ -Tu as pondu un roman’, lúc này không phải lên văn phòng viết nữa, nhưng chúng đâu có tha ngay, lúc nào cũng bảo chưa đọc xong và cuối cùng lão Lartigue chỉ định cho tôi làm cai tù, tôi nhớ có nói với hắn về câu ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại’ và dịch ra Pháp ngữ cho hắn nghe, và đành phải ngày ngày vác chìa khóa đi mở cửa các xà lim cho những người  bị giam giữ đi tiêu, đi tiểu rồi lại phụ trách cả vấn đề chia cơm tù nữa.
                       
                      Thế rồi, một buổi sáng sớm, tôi lên gặp người trực để lấy chìa khóa, mở cửa một xà lim mà đêm hơm trước người bị giam bị mấy thằng Pháp lai tra tấn suốt đêm, nghĩ rằng anh này chắc khát nước, nhưng khi mở cửa ra tôi thấy xác anh ta treo ở chấn song sắt của cánh cửa nhỏ xíu. Và từ đó một lệnh của các văn phòng đưa ra là tất cả những người bị giam phải nộp thắt lưng, dây giày và ngay đến giải rút quần của phụ nữ cũng phải nộp luôn để đề phòng những vụ tự tử tương tự có thể xẩy ra, và hễ cứ đến tối là tụi Pháp lại xuống khám các xà lim và phòng giam chung.
                       
                      Một buổi tối trời lạnh, tôi mặc một áo choàng (overcoat) bằng da thật đẹp, đặc biệt loại áo có thắt lưng mà tôi không đem nộp, trong khi làm phận sự của người cai tù, tôi đi mở cửa cho tụi Pháp lai khám trại, tôi sợ mất cái thắt lưng, nên tôi ném vào một xà lim nghĩ rằng qua mặt  được chúng, ai ngờ khi khám tới xà lim đó, tụi Pháp lại thấy có thắt lưng, người bị giam khai rằng; ‘Ông Cai tù vất vào đây chứ không phải của tôi’ .
                       
                      Hết chỗ chối cãi, một tên Pháp lai tên Dehaye bảo tôi lên văn phòng  và một trận đòn khủng khiếp diễn ra, không phải một mình thằng Dehaye đánh tôi mà thôi, một lô tụi ‘chó săn’ cả Pháp lai lẫn Việt Nam xông vào đánh tôi, và cuối cùng tôi bị chúng buộc một giây thừng vào chân phải và kéo treo lên xà nhà, bị treo chân như vậy trong gần 2 giờ đồng hồ. Đây thật là một trận đòn cực kỳ dã man của bọn mật thám Pháp, chỉ vì tôi muốn giữ lại một thắt lưng, và tôi đã bị mất chức cai tù, vì phải nằm mấy ngày đêm không nhúc nhích được vì trận đòn ác ôn này, và một tuần lễ sau, lão Lartigue gọi tôi lên văn phòng và thả tự do với điều kiện tôi phải lên trình diện mỗi chiều thứ hai.
                       
                      Cách đó 4 năm sau, tôi đã trả thù được trận đòn ác ôn treo chân tôi lên trong  2 giờ đồng hồ, là thằng Dehaye cũng có tên Việt là Đặng Hanh bị tôi đánh cho một tát tai nảy đom đóm mắt tại bến xe buýt Hải Phòng, tên này chỉ còn ấm ức nói:  ‘Tại sao trung úy đánh tôi?’ Tôi trả lời: ‘Mầy có nhận ra tao đã bị mày đánh và treo chân lên ở sở mật thám trước đây hay không?’
                       
                      Sỡ dĩ tôi đánh thằng Dehaye mà hắn không dám phản ứng là vì tôi đeo lon trung úy hải quân, đi xe jeep của hải quân Pháp có hai lính thủy Pháp hộ vệ, trong thời gian tôi thực tập trên chiến hạm LCI 101 để sửa soạn gia nhập trường huấn luyện sĩ quan hải quan hải quân Pháp (École Navale Poulmic). Nhưng một điều không nói ra là lon trung úy của tôi chỉ là lon của Hải Quân Tổng Bộ Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm mà thôi!
                       
                      Năm 1955, Pháp lai Dehaye trở thành thường dân vì quân đội Pháp đã rời khỏi Việt Nam và hắn bị bắn chết ở khu sở rác cũ đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nhiều bạn hỏi tôi có biết gì về vụ Dehaye bị bắn hay không? Thật sự, tôi không biết gì hết và tên Dehaye này là một tên mật thám ác ôn, khốn nạn nhất đối với rất nhiều người Việt Nam trước kia ở Hải Phòng. Còn riêng đối với tôi, trả thù hắn bằng cái tát tai ở bến xe buýt Hải Phòng, khi hắn còn đang tại chức thanh tra mật thám Pháp là đủ và hả dạ rồi. Và câu chuyện bị giam một tháng ở sở mật thám và bị treo chân 2 giờ đồng hồ là chuyến vào tù của thực dân Pháp lần thứ tư.
                       
                      Sau khi được thả tự do, tôi trở lại chỗ làm việc cũ ở phòng thí nghiệm sở Xi Măng Hải Phòng, và ông giám đốc Chemikoff, người Pháp gốc Bạch Nga vui vẻ nhận tôi làm việc lại, và mỗi ngày trách nhiệm của tôi là đi xuống các thuyền chở than đá từ Hòn Gai về  để lấy mẫu than về phòng thí nghiệm  đễ phân chất, ghi rõ tỉ lệ thán tố carbone. Tôi thấy các chủ thuyền chở than đối đãi với tôi một cách hết sức tử tế và kính trọng, mãi sau khi gần thôi việc ở sở này tôi mới biết rằng sở xi măng trả tiền mua than đá cho các chủ thuyền căn cứ trên kết quả của bản phân tích tỉ lệ thán tố do tôi ghi nhận.
                       
                      Làm việc với ông Chemikoff, giám đốc phòng thí nghiệm là một thích thú đối với tôi vì tôi được dịp học hỏi rất nhiều về hóa học và vật lý, nên tôi mê man làm việc và học hỏi nhờ vậy mà được cân nhắc lên làm phụ tá trưởng thí nghiệm chuyên về phân chất và thí nghiệm xi măng do nhà máy sản xuất. Tuy gọi là làm việc mê man không kể giờ giấc nhưng thực ra tôi phải làm như vậy để đền bù lại thời gian phải đi trình diện sở mật thám mỗi chiều thứ hai hàng tuần.
                       
                      Tuy phải đi trình diện thường xuyên như vậy nhưng đâu có yên thân, nguyên là một ngày thứ hai sau khi trình diện xong thì tôi được lệnh phải vào gặp ông ‘cẩm’ nổi tiếng ác ôn nhất là De Lorge, giám đốc phòng chính trị, hắn bảo tôi hắn muốn có những tài liệu này ở Hải Phòng vì những tài liệu đó đều để lại ở Phát Diệm.
                       
                      Tưởng nói thế  cho xong chuyện, nhưng lão De Lorge trở mặt đập bàn ầm ầm, áp đảo tinh thần tôi, rồi hắn đưa cho tôi tập giấy bắt tôi phải viết thư gửi về Phát Diệm để cho anh em của tôi phải trao các tài liệu đó cho người chỉ điểm của sở mật thám vẫn đi đi lại lại giữa Hải Phòng và Phát Diệm cầm ra và hắn nói tôi bị giam cho tới khi nào hắn nhận được tài liệu của Duy Dân thì tôi mới được thả tự do.
                       
                      Tôi bắt buộc phải viết thư cho anh Thanh, lúc này đã trở về hoạt động ở Phát Diệm, nói rằng: ’Các quan lớn ở sở mật thám Pháp cần xem các tài liệu của đảng Duy Dân, mong anh gửi ra Hải Phòng ngay, và chỉ khi nào các quan lớn nhận được, tôi mới được tự do.’
                       
                      Tôi cố ý dùng những danh từ ‘quan lớn’ và nói rõ cho anh Thanh biết là chỉ  khi nào các quan lớn nhận được tài liệu tôi mới được tự do, tôi dự đoán rằng anh Thanh biết rõ tình cảnh của tôi và hơn nữa tôi biết chắc chắn không khi nào anh em phổ biến tài liệu của đảng Duy Dân cho mật thám Pháp. Và tôi nghĩ rằng anh Thanh sẽ ngụy tạo một lô tài liệu Duy Dân giả hiệu và gửi ra cho Pháp để tôi được tự do. Sau này những điều tôi dự đoán đã xẩy ra đúng như vậy: lão De Lorge chỉ nhận được nhũng tài liệu vớ vẩn gọi là của Duy Dân do anh Thanh tạo ra.
                       
                      Đầy là lần thứ 5 thực dân Pháp giam giữ ở một trại giam quá quen thuộc đối với tôi ở sở mật thám Hải Phòng, liền khi xuống tới phòng giam chung, việc đầu tiên tôi phải làm là kiếm cơm nguội để ăn, vì giờ phát cơm  tù đã qua từ lâu, nghĩ rằng nếu đói bụng mà bị tra tấn ngay đêm đó là một cực hình, khó chịu đựng nổi.
                       
                      Qua một đêm ngủ ngon lành vì quen chỗ bị giam trước đó, ngày hôm sau tôi mới được anh em ở số 36 ngõ Sơn Lâm vào tiếp tế, lão De Lorge lại còn ra điều tử tế, hắn cho người báo tin mang nhiều sách vào cho tôi đọc vì hắn biết rõ tôi thích đọc sách. Nhưng tù vẫn là tù dù có sách để đọc, ngẫm nghĩ câu ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại  ngoại’ mà đau lòng và vô cùng uất hận tụi thực dân Pháp vì mất tự do.
                       
                      Nằm trong tù được mấy ngày thì lại bị cất nhắc lên làm cai tù lần nữa, vẫn cứ ngày ngày vác chìa khóa đi mở cửa các xà lim khi họ cần phải đi tiêu  đi tiểu, làm cai tù chỉ được một điểm là được ra ở ngoài  trời gần như suốt ngày trong hàng rào giây kẽm gai và đến tối là phải vào phòng giam chung. Nhiều khi là cai tù tôi được quyền mở cửa cho một số tù nhân nhẹ tội ở phòng giam chung được ra ngoài trời phơi nắng. Lệnh tù nhân phải nộp thắt lưng, rút quần hay dây giầy vẫn được áp  dụng, lệnh này đã tạo ra lắm cảnh buồn cười khi các tù nhân phụ nữ đi ra phơi nắng, người nào người nấy tay ôm quần chỉ sợ quần tuột, rồi mấy bà lại tổ chức đánh ô, cho các ông cùng đánh ô ké.
                       
                      Trong thời gian làm cai tù này, ông Trần Thiện là bạn thân và một thời là chỉ huy trưởng lực lượng tự vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm, thay cha Hoàng Quỳnh sang công tác ở Bùi Chu, bị mật thám Pháp bắt trên đường ‘dinh tê’ vào Hải Phòng và bị tống vào nhà giam cùng với tôi. Ông Thiện và gia đình hiện tị nạn cộng sản ở Houston.
                       
                      Tôi còn nhớ trong thời gian làm cai tù lần thứ hai này, vì chẳng có việc gì để làm ngoài việc ôm chùm chìa khóa đi  vòng vòng, nên tôi có nhiều thì giờ để săn sóc bộ râu mép cho thật bảnh, tuy không được phép mang dao cạo vào trong tù, nhưng những mảnh chai vỡ là con dao cạo tốt nhất để giữ cho mày râu của những bậc nam nhi tù nhân chúng tôi luôn luôn luôn được nhẵn nhụi và bảnh trai.
                       
                      Bị rốt như vậy đã gần một tháng và tinh thần trở nên hết sức cằng thẳng, tôi đánh liều lên văn phòng gặp lão cẩm De Lorge để than vãn câu ‘Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại’ và tôi dọa rằng nếu cứ bị giam như thế này mãi để chờ tin của người đưa thư, có lẽ tôi sẽ phẫn chí và tự tử. Được vài ngày sau, hắn ra lệnh thả tôi tự do và tôi cũng không biết rằng lão De Lorge này có nhận được tài liệu ‘giả hiệu’ của Đại Việt Duy Dân hay không?
                       
                      Sau khi được thả tự do và mật thám Pháp chẳng cấp cho bất cứ giấy tờ phóng thích nào cả, tôi trở lại Sở Xi Măng Hải Phòng gặp ông Chemikoff kể hết sự tình, ông này lại nhận tôi làm việc như cũ, nhưng chưa hết, không biết tôi có cơ duyên gì với sở mật thám Hải Phòng hay không? Mà đến ngày 28 Tết năm 1949, trong khi tôi đang thả bộ trên mấy phố tây của thành phố Hải Phòng thì đột nhiên có một người dí ngay súng lục vào hông, quay đầu lại tôi thấy anh ‘chó săn’ Lý Móm, người mà tôi quen biết sơ sơ khi hắn tản cư về Phát Diệm và sau này hắn lấy cô Lý Lệ Hà, nhân tình của cựu hoàng Bảo Đại khi ở Hồng Kông. Thời kỳ tản cư cô Lý Lệ Hà đã về tá túc ở nhà chúng tôi trong một thời gian. Tôi hỏi Lý Móm: ‘Gì vậy?’ Hắn vẫn dí súng vào hông tôi và bảo tôi theo hắn về sở mật thám, hắn buộc tôi là lính của Đức Cha Từ.
                       
                      Thế là tôi bị tên chó săn Lý Móm, một thanh tra mật thám ở Hà Nội gửi tôi vào nhà giam Hải Phòng trong một đêm giáp Tết. rủi cho tôi là anh mật thám trực đêm hôm ấy không biết tôi là ai, nên phải chờ cho tới sáng ngày hôm sau khi lão cẩm Lartigue tới, thấy  tôi bị giam liền ra lệnh thả tôi ra ngay.
                       
                      Như vậy là trong hơn một năm  trời ở  Hải Phòng tôi đã bị thực dân Pháp bắt giam 5 lần tất cả và đến hồi tháng 3 năm 1949 anh Pháp lai Pierre Martin, mà tôi nhận đại là có họ hàng trong lần bị bắt thứ hai, đến nhà chúng tôi ở số 36 ngõ Sơn Lâm báo tin cho biết là sở Mật Thám Hải Phòng đã bắt được một cán bộ cộng sản được biệt phái vào Hải Phòng để ám sát chúng tôi,  anh Pierre khuyên chúng tôi nên đề phòng cẩn thận và cho chúng tôi biết là từ lúc này trở về sau tôi sẽ không còn bị phiền nhiễu gì bởi bọn mật thám của thực dân Pháp nữa.

                      (còn tiếp)
                      #26
                        frank 20.06.2022 02:06:30 (permalink)


                        Ch
                        ương 22


                        ‘Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào’



                        Những dòng chữ này được viết đúng Ngày Mẹ Hiền 1995, trong bữa ăn sáng của gia đình, chúng tôi cảm động trông thấy 3 cháu nội: Thế Ngọc, Khôi Nguyên và Thiên Hương bưng vào 3 bình hoa tặng cho mẹ chúng là Mặc Bích để nói lên lòng thương yêu Mẹ trong ngày Lễ Mẹ Hiền, rồi chúng tôi lại được Khuất Phong và Mặc Bích tặng một cây cam lai quýt để trồng ngoài vườn đánh dấu ngày lễ Mẹ HIền 1995. Rồi sau đó nhận lời chúc tụng qua điện thoại của con gái Mộng Tiên của chúng tôi từ California  và chúng tôi cảm thấy sung sướng được sống trong tình thương yêu của gia đình.
                         
                        Điều này làm cho chúng tôi nhớ lại câu hát ‘Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào’ trong bài hát Lòng Mẹ của Ý Vân, nói lên lòng hiếu thảo của dân Việt Nam đối với mẹ cha, cũng như lòng thương yêu của mẹ cha đối với con cái, mà chúng ta lấy làm hãnh diện đóng góp vào Ngày Mẹ Hiền, một ngày lễ đáng ca tụng của nhân dân Hoa Kỳ.
                         
                        Tại đất tạm dung này, chúng ta hãnh diện về lòng hiếu thảo của dân Việt đối với mẹ cha, mà chúng ta có bổn phận phải bảo tồn và truyền dạy lại truyền thống tốt đẹp ấy cho thế hệ trẻ sau này. Nhưng một điều khác đừng bao giờ quên là  chúng ta đều là con cái của Mẹ Việt Nam, chúng ta không ngồi yên than thân trách  phận về một gia tài của Mẹ Việt Nam để lại cho con cháu hiện ở quê nhà, đang bị tang thương rách nát, lầm than khổ cực vì nạn cộng sản độc tài, tàn ác.  Và dù sống cách xa hàng bao ngàn dậm đường, lòng chúng ta luôn luôn hướng về Quê Mẹ và chúng ta nguyện cầu và hành động cho gia tài của Mẹ Việt Nam để lại, mau mau thoát khỏi gông cùm của bọn quỷ đỏ.
                         
                        Vì tham vọng bất chính của bọn quỷ đỏ muốn xích hóa gia tài của Mẹ Việt Nam, cách đây hơn nửa thế kỷ, nên gia đình chúng tôi phải sống xa cách  nhau và trong gần hai năm trời sống tị nạn cộng sản ở Hải Phòng, điều thắc mắc nhất là làm thế nào ‘bịt’ hết được tin tức không để lọt tới gia đình ở Phát Diệm biết được câu chuyện bị vào tù ra khám và bị tra tấn cực hình bởi bọn bạch quỷ.
                         
                        Chúng tôi không muốn để cho tứ thân phụ mẫu phải lo buồn về cuộc đời cách mạng ‘lên voi xuống chó’ của chúng tôi và ngay khi được báo tin là mật thám Pháp bắt được đặc công Việt Minh được biệt phái ra Hải Phòng để ám sát chúng tôi, và từ đây chúng tôi không bị phiền nhiễu nữa và đây mới là lúc an tâm để nhắn tin về Phát Diệm để gia đình vượt biển ra Hải Phòng đoàn tụ gia đình.
                         
                        Thế rồi một buổi chiều tối đẹp trời của mùa xuấn ấm áp năm 1949, nhà tôi và con gái vượt biển tới được Hải Phòng, và gia đình đã được đoàn tụ trong muôn vàn yêu thương sau gần 2 năm xa cách và đây cũng là lần đầu tiên bố được thấy mặt con gái Mộng Tiên lúc này đã được 17 tháng.
                         
                        Nói về cuộc ra đi gọi là đoàn tụ gia đình đầy hiểm nguy nay, chúng tôi nghĩ  không gì hơn bằng cách trích ra đây bài viết ’Vượt Trùng Dương’ mà nhà tôi là Tuyết Minh đã viết trong cuốn sách ‘Giòng Đời Xưa và Nay’ do nhà xuất bản Nguồn Ý phát hành năm 1991. Bài này được viết căn cứ trên cuộc hành trình gọi là đi đoàn tụ gia đình ở Hải Phòng, chỉ có tên là được đổi khác.
                         
                        ‘Ngước mắt nhìn lên nền trời mở rộng, chân mây gần ngay tầm mắt, nhìn ra vùng biển bao la, trời nước mênh mông một mầu xanh trong, ánh dương quang chiếu xuống mặt biển lấp lánh như rắc vàng.
                         
                        Tay bồng con, vai đeo chiếc bị cói, trong bị chỉ có vài bộ quần áo của hai mẹ con, không lấy gì làm nặng, nhưng con bé hay dẫy dụa vì suốt từ chiều hôm qua đến bây giờ, bé không được dắt di chơi, nên mẹ bé cứ phải đổi tay này qua tay kia cho đỡ mỏi.
                         
                        Màng lưới công an cộng sản ngày một tinh vi, bao vây xiết chặt, ngày  một cấp bách. Mùi (Tuyết Minh) được tin tới địa điểm gặp Thành (Nguyễn Đình Thư), cả hai, tay nắm tay nhau, Mùi chỉ kịp nghe Thành dặn cho biết tin sanh con trai hay con gái, Mùi chưa kịp nói gì, đã nghe có tiếng một người ra lệnh. “Không thể trì hoãn thêm một chút”. Cả bọn đã quay lưng lại. Mùi tần ngần nhìn theo. Được mươi bước, Thành ngoái cổ nhìn lại người yêu, trên môi nở một nụ cười tươi  trên khuôn mặt  đầy cương quyết, dày dạn phong sương với tia nhìn thắm thiết đầy yêu thương.
                         
                        Khi đã khuất bóng mọi người trở về nhà, Mùi nhìn xuống bụng đã được hơn tám tháng, chả mấy chốc nữa đến ngày sanh, rồi sẽ đưa tin làm sao cho Thành biết đây! Nàng bâng khuâng trở lại nhà chờ ngày đứa con ra đời.
                         
                        Bé Liên (Mộng Tiện) chào đời trong những tiếng súng gần xa vọng lại, mở mắt ra nhìn không có bố bên cạnh, bù lại có mẹ, có ông bà nội, ngoại đầy tình thương ấp ủ. Mùi cũng đỡ cô đơn; từ ngày có bé Liên, Mùi đem tình thương, nỗi nhớ trút vào con, cũng đỡ những lúc nhớ nhung xa cách Thành nhưng oái ăm thay, cứ ít hôm lại có trát đòi Mùi lên công an hỏi về Thành đi, ở đâu, làm gì?
                         
                         Bao giờ nàng cũng chối không biết. Đâu  chúng có dễ tin, khai thác bằng cách  bắt nọn, dọa dẫm, hứa hẹn, không kết quả, họ đưa những bạn của Thành ngày trước, bây giờ làm lớn, tới thăm hỏi mẹ con Mùi, khuyến dụ nàng liên lạc để Thành trở về hợp tác với chính phủ.
                         
                        Biết có ở lại cứ bị công an nay hỏi thăm, mai thăm hỏi, Mùi tìm đường bế bé Liên vào khu chiếm đóng, đi đường bộ, phải có giấy phép di chuyển, đi đường thủy là an toàn hơn, được một tổ chức đưa đi. Bí mật tới ngày tề tựu ở một địa điểm hẹn, rồi thuyền ra khơi bình yên.
                         
                        Những luống sóng vàng của mặt trời chiều tan dần trên sóng, hay là chìm xuống đáy sâu của biển cả. Trời và biển nhanh chóng hòa làm một trong bóng đêm. Biển không ngủ vẫn cồn cào trăn trở, làm tung bay tấm áo choàng mượn của trời sao. Bầu trời trong trẻo với muôn ngàn những vì sao xa xăm yên tĩnh. Cái yên tĩnh kia chính là cái chuyển động , chuyển động rất dữ dội mà đôi mắt con người với cuộc đời ngắn ngủi chẳng bao giờ nhận ra. Những con sóng bạc đầu chuyển động dữ dội, trải ra đến tận chân trời. Con thuyền nhỏ chỉ còn như chiếc lá nổi trôi trên  đại dương.
                         
                        Một cơn bão thổi tới, sóng gió nổi lên, nước tràn vào thuyền, cơ hồ đắm đến nơi. Trên ba mươi người trai tráng trong thuyền phần đông là các sinh viên tìm đường du học ngoại quốc, họ đổi nhau tát nước, chỉ có ba người đàn bà và mẹ bé Liên được miễn, nhờ người lái có kinh nghiệm, bình tĩnh, ông ta hạ buồm, lái gối đầu sóng đi theo chiều gió, thuyền dạt vào hòn đảo.
                         
                        Thoát chết, mọi người lên trên đảo; nhìn lại không ai mang được gạo, nước, đành nhịn đói, còn bé Liên khát chỉ biết khóc, tìm đâu ra nước bây giờ. Dưới bóng trăng mờ, một người đàn ông cứ cúi nhìn xuống đất, một lúc lâu, ông Quân đã tìm được nước, lấy một lá cây gấp thành phễu, để cho bé Liên uống, từ đây bé Liên không khóc và ngủ cho tới sáng. Mùi không hiểu ông Quân lấy nước ở đâu. Hỏi chỉ trả lời ‘miễn là có nước cho cháu uống cho khỏi khát’. Rồi Mùi cũng khám phá ra nước đã lấy ở vũng lớn bằng chiếc đĩa, hũm sâu xuống nhờ trận mưa lúc ban chiều còn đọng lại, biết làm sao hơn nhờ chút nước đó nhưng con nàng khỏi khát.’
                         
                        Thuyền đã  tấp vào Núi Nẹ gần Thanh Hóa và sáng sớm hôm sau, trời yên bể lặng, mọi người lại xuống kéo buồm trực chỉ cửa biển Đồ sơn. Vào khoảng 4 giờ chiều, một tầu tuần tiễu của hải quân Pháp bắt gặp ra  hiệu cho thuyền  vào Đồ Sơn và tất cả mọi người trong thuyền bị đưa lên bờ giam giữ trong những villa bỏ không lâu ngày, không có đồ đạc gì, các cửa sổ ra vào bị gỡ đi hết. Nhìn ra biển lại thấy tầu tuần tiễu áp giải thêm 3 thuyền nữa và thêm một số người nữa được đưa lên giam vào chỗ chúng tôi đang ở, trong số những người mới tới này có hai nữ tu của dòng Đức Bà Truyền Giáo.
                         
                         Một  chuyện nực cười xẩy ra là mọi người trên bờ trông thấy mấy anh lính thủy Pháp ‘cõng’ hai bà nữ tu từ thuyền lên bờ, nhưng có ngờ đâu một bà nữ tu được ‘tây’ cõng đó lại là cô ruột chúng tôi: Sơ Ine Thêm; may mắn hơn nữa, lính thủy Pháp lại chỉ định cô tôi ở căn nhà trống với chúng tôi.  
                         
                        Thấy hai bà nữ tu của một nhà dòng gốc ở thành phố Lyon bên Pháp, lính thủy Pháp tiếp tế ngay bánh mì và sữa tươi cho  hai bà, và cô tôi đã nhường ngay ly sữa và bánh mì cho bé Mộng Tiên, còn tất cả chúng tôi đành nhịn đói, nhịt khát cho tới ngày hôm sau.
                         
                        Qua một đêm trong căn nhà trống trải, khí trời oi ả, có hơi người muỗi đã kéo đến từng đàn táp vào mặt chúng tôi. Tôi bồng con dựa vào tường quạt đuổi muỗi và cô tôi đã ngồi bên tôi tôi suốt đêm quạt muỗi cho cả hai mẹ con tôi ngủ, tôi cảm động xin cô ngủ để tôi  quạt thay, cô không chịu; tôi nhớ lại khi chưa vào dòng tu, cô cũng từng nhịn quà để nhường cho các em đói khát.
                         
                        Gần 30 năm về sau, sau khi Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản Bắc Việt xâm lăng, cô tôi đã được thuyên chuyển từ nhà dòng ở Nha Trang, lên tận vùng rừng núi Cam An Nam cách xa Nha Trang hàng trăm cây số ngàn, để tiếp tục công cuộc truyền giáo. Nhà dòng phải tự lực mưu sinh để có thể nuôi nổi những người tàn tật, mù lòa câm điếc. Với số tuổi đời càng ngày càng chồng chất, sức khỏe của cô tôi có kém nhưng cô tôi vẫn vui vẻ hy sinh cho tha nhân, để rồi với tuổi đời 90, cô tôi ngã bệnh và bị bán thân bất toại, được chuyển về trụ sở chính của dòng ở Thủ Đức’
                         
                        Tôi muốn mượn lời kết luận của bài ‘Một Cuộc Đời Tận Hiến Cho Tha Nhân’ mà Tuyết Minh đã viết về đời của cô tôi, trong quyển sách Giòng Đời Xưa và Nay, trang 228: ‘Cô ơi! Cháu cảm thấy an lòng khi nói ra những lời tri ân cô, vì cô đã không bao giờ nói ra, cứ âm thầm làm những việc tốt lành cứu giúp tha nhân, đúng như câu trong sách Thánh: ‘Làm phúc tay mặt không cho tay trái biết’. Nhưng cháu không thể quên ly sữa mà cô đã nhịn đói khát cả ngày để nhường cho mẹ con cháu, suốt một đêm quạt muỗi cho mẹ con cháu ngủ. Cô là một tấm gương sáng cho nhiều người thuộc tỉnh Thanh Hóa, hồi tiền chiến và những người ở vùng Cam An Nam thuộc tỉnh Phú Khánh bây giờ chắc vẫn nhớ tới một bà dòng tước hiệu INÊ đã không từ chối ai cần đến bà và hiện giờ những người tàn tật đã được bà nuôi nấng săn sóc.’

                        Trong nhà dòng, cô tới vẫn được gọi là Mẹ Inê và trong ngày Mẹ Hiền 1995 này chúng tôi đã gửi vọng về Thủ Đức, nói cô tôi đang dưỡng lão, bài hát Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân với câu ‘Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào’ để nói lên lòng thương yêu trong gia tộc Nguyễn Đình chúng tôi.

                        (còn tiếp)

                        #27
                          frank 20.06.2022 02:47:57 (permalink)


                          Ch
                          ương 23



                          Mấy ai là kẻ không thầy
                          Thế gian thường nói đố mày làm nên

                                                                                     (ca dao)



                          Tại quê hương Viêt Nam chúng ta, khi nói tới đẳng cấp trong xã hội, các cụ thường dậy câu: ‘Quân, Sư, Phụ’ trước nhất là vua, nhì đến thầy học rồi mới tới bậc cha mẹ, và trên tường của các lớp học thường treo những biểu ngữ viết câu ca dao hay cách ngôn có ý nghĩa răn đời hay những lời nói, đáng làm mẫu mực cho người ta bắt chước, trong đó tôi nhớ tới câu: ‘Không thầy đố mày làm nên’, câu này được các thầy giải thích rằng nếu không học hỏi, không có thầy giáo dậy dỗ hay không ai chỉ bảo thì người ta làm chẳng nên người và câu ca dao: ‘Mấy ai là kẻ không thầy, Thế gian thường nói đố mầy làm nên’.
                           
                          Chúng tôi nhận được một lá thư từ Việt Nam gửi tôi, đọc lá thư này, chúng tôi rất cảm động nghĩ tới những thầy học cũ của chúng tôi cách đây hơn 60 năm ở trường Saint Thomas D’Aquin Nam   Định và Ecole de la Mission Phát Diệm, và chúng tôi muốn chia sẻ bức thư này với nhiều bạn học của chúng tôi ngày trước, cũng như với các bạn trẻ cùng lứa tuổi với con cháu chúng tôi đã một thời là cựu học sinh của hai sư huynh Jourdain và Francois ở các trường La San ở Phát  Diệm, Nam Định, Sóc Trăng và Sài Gòn.
                           
                          Bức thư đó được viết tại Nhà Hưu Dưỡng La San Mai Thôn ở  970 Sô Viết Nghệ Tĩnh, phường 28 quận Bình Thạnh, Sài Gòn đề ngày 6-5-1995, do sư huynh Francois viết như sau:

                          ‘… Chúng tôi hồi xưa đã cùng nhau về Phát Diệm hoạt động Tông đồ và công tác xã hội, nay về già, Frère Jourdain (Nguyễn Văn Thiên) thì 91 tuổi, tôi frère Francois (Lê Văn Sắc) thì 84 tuổi, lại được về cùng nhau sống trong Nhà Hưu Dưỡng. Song Frère Jourdain thì đôi mắt không còn ánh sáng như xưa nữa, ăn uống đi lại đều lại đều nhớ người khác phụ giúp. Thỉnh thoảng có cựu học sinh, hoc phụ huynh có dịp đến  thăm đều lấy làm xúc động. Vì đức tin, vì đã hiến thân cho Chúa trong nhà tu, nên chấp nhận hoàn cảnh này không dám phàn nàn, hằng giây hằng phút đều nhớ  Chúa, đều đọc kinh riêng.
                           
                          Luôn luôn ngài đòi lăn xe đưa ngài đến nhà nguyện đúng giờ giấc tham dự Thánh lễ mai sớm, chung với các Frères lần hạt mân côi buổi trưa, và chiều tham dự kinh Phụng Vụ tại nhà nguyện và có Frère Sắc đẩy xe lăn ngài về phòng riêng. Ngoài những giờ đó, Frère Francois còn lui tới thăm viếng tại phòng riêng chuyện vãn, thường kể chuyện ngày xưa, cùng nhau nhắc nhớ chuyện xưa ở Phát Diệm.

                          Chúng tôi nay sức khỏe đã yếu nhiều, tất cả do tuổi tác. Song Chúa cho chúng tôi sống đến tuổi này cũng là hồng ân của Chúa vì các sư huynh khác xưa dậy ở Phát Diệm, nay còn đâu!

                          Thế mà có người vẫn thương nhớ giúp đỡ như Anh Chị thật chúng tôi được an ủi rất nhiều…’;

                          Bức thư do thầy Jourdain ký nguệch ngoạc vì bị mù đôi mắt và frère Francois Sắc viết và ký tên.
                           
                           
                          Sư huynh Francois là thầy học cũ của tôi tại trường học nội trú St Thomas d’Aquin Nam Định năm 1932 và sư huynh Jourdain dậy tôi ở lớp  nhất trường Ecole de la Mission ở Phát Diệm năm 1935, tình thầy trò giữa sư huynh Jourdain và chúng tôi đã kéo dài trên nửa thế kỷ với biết bao kỷ niệm. Ngài đã không nề quản đường xá xa xôi cách trở lặn lội tới tham dự lễ cưới của chúng tôi, rồi cũng chính ngài đã đích thân đưa con trai chúng tôi vào học trường Taberd ở Sài Gòn khi chưa đủ tuổi. Tôi còn nhớ nói với ngài rằng: ‘Nếu cháu Phùng không được vào Taberd  năm nay, thì con không chơi với frère nữa’ rồi sư huynh Jourdain trả lời: ‘Anh Minh chuyên môn bắt nạt frère hoài à’!  Được tin Frère Francois mới qua đời năm 1998.
                           
                          Trong thời kỳ phôi thai mới thành lập Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc năm 1943, ngoài thân tình thầy trò, sư huynh Jourdain còn là một trong những đồng chí cách mạng đầu tiên của chúng tôi nữa, chính ngài đã cùng với chúng tôi chủ trương kế hoạch đánh phát xít Nhật Bản dành Độc Lập cho Tổ Quốc và hợp tác với quân lực của Đồng Minh có thể đổ bộ lên bờ biển Bắc Việt trong giai đoạn chót của Đệ Nhị Thế Chiến, và để thực thi kế hoạch này, chúng tôi đã triệu tập mở môt cuộc  hộp họp chính trị rất quan trọng, mà một trong những người tham dự là anh Lê Bá Kông, một giáo sư Anh văn trẻ tuổi thời bấy giờ, được cử giữ một chức quan trọng là sĩ quan liên lạc nếu quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ biển Bắc Việt. Anh Kông đã tị nạn tại Houston và mới qua đời năm 1998.
                           
                          Là một cựu học sinh của các sư huynh Lasan từ các lớp sơ học đến hết 4 năm trung học ở trường Puginier ở Hà Nội, tấm thân tình thầy trò với các sư huynh mỗi ngày một nẩy nở thêm mãi và tôi thường tiếp xúc với các sư huynh khi trường học St Joseph được mở cửa lại ở Hải Phòng hồi năm 1949 nên tôi được mời dạy Pháp văn ở trường  này cùng với hai anh  bạn nữa trong đó có anh Phạm Ngọc Lũy, một thời đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh hồi đầu thập niên 1989, anh Đỗ Trọng Nguyên, cựu dân biểu quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, anh đã bị Việt Cộng bắt đi cải tạo một thời gian và bị lòa hai con mắt, và hiện cư ngụ tại Canada.
                           
                          Sỡ dĩ, trong thời gian lánh nạn cộng sản ở Hải Phòng, tôi  nhận làm ‘nghề’ cu ly sở Xi Măng là để chứng minh với thực dân Pháp rằng tôi có làm việc với người Pháp sau khi từ chối một chức vụ lớn do họ đề nghị. Sau khi sở mật thám của Pháp bắt được một cán bộ Việt Minh xâm nhập vào Hải Phòng để ám sát chúng tôi, tôi không còn bị ‘quấy rầy’ bằng những cuộc bắt bớ liên miên và không phải đi trình diện với Pháp mỗi tuần như trước nữa, nên tôi đã nhận lời mời của  các sư huynh bỏ nghề ‘cu ly’ để đi dạy học, như vậy tôi sẽ có nhiều thì giờ sống gần gũi gia đình lúc này mới tới Hải Phòng sau gần hai năm xa cách.
                           
                          Cũng trong thời gian này, tình hình chính trị giữa Việt Nam và Pháp đã có nhiều thay đổi quan trọng. Sau nhiều tháng điều đình rất gay go giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và chính phủ Pháp Quốc, một thỏa ước Việt Pháp đã được công bố tại diện Elysée ở Paris, ngày mồng 8  tháng 3 năm 1949, với sự hiện diện của Cựu Hoàng, ông Trần Văn Hữu, hoàng thân Bửu Lộc và Vĩnh Cẩn.
                           
                          Đại cương thỏa ước 8-3-1949, quy định việc Pháp thừa nhận Việt Nam có tổ chức hành chánh riêng, tư pháp riêng, tài chánh riêng, quân đội riêng, và có quyền liên lạc ngoại giao với các nước Đông Nam Á, Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.
                           
                          Việt Nam hứa tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp, cho Pháp xử dụng các căn cứ quân sự; Việt Nam thuận tổ chức những cơ quan chung với các Quốc Gia Liên Kết: Mên, Lào, cử đại diện vào Hội Nghị Liên Hiệp Pháp và Thượng Hội Đồng Liên Hiệp Pháp.

                          Cao Ủy Pháp tại Đông Dương sẽ đóng vai trò trọng tài giữa các Quốc Gia Liên Kết, còn riêng phần Nam Kỳ sẽ tùy ý định đoạt số phận, nếu muốn tái nhập Việt Nam, và mãi đến ngày 23 tháng 4 năm 1949 Hội Nghị Nam Kỳ mới biểu quyết với đa số phiếu, công nhận sự tái nhập của Nam Kỳ vào   Quốc Gia Việt Nam sau nhiều cuộc tranh luận hết sức gay go.
                           
                          Đây chỉ là một bước tiến đáng kể của Quốc Gia Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại vì theo như thỏa ước Elysée này thì Việt Nam chỉ được tự trị trong  Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp, chứ chưa thấy gì nói tới sự độc lập cả, nên cuộc đấu tranh chống Pháp dành độc lập hoàn toàn cho Tổ Quốc Việt Nam vẫn còn phải thực hiện bằng được.
                           
                          Theo kế hoạch đấu tranh chung của Đại Việt Duy Dân Đảng, nhiều lớp huấn luyện chính trị do tôi chịu trách nhiệm tổ chức tại Hải Phòng cho những cán bộ Duy Dân ở trong khu vực quân đội Pháp chiếm đóng, gồm luôn cả những cán bộ ở khu vực Việt Minh kiểm soát  cũng vào Hải Phòng tham dự nữa. Do đó tôi phải di chuyển chỗ ở từ số 38 ngõ Sơn Lâm ra số 8 ngõ Cố Đạo, để có đủ chỗ mở lớp huấn luyện và chỗ cho gia đình tôi ở.
                           
                          Với số lương của một giáo viên trường St Joseph, làm sao đủ để trang trải mọi chi phí, dù có sự trợ cấp của một số anh em, nên tôi phải nhận dậy thêm tiếng Việt cho mấy người Pháp lập gia đình với mấy bà vợ Việt Nam, rồi tôi lại phải mở thêm lớp luyện Pháp văn cho những người đi thi Brevet. Công việc chữa bài thật đa đoan vất vả, cả hai vợ chồng chúng tôi  phải đấu sức để chấm bài mới xuể. Riêng đối với lớp luyện thi Pháp văn này tôi rất lấy làm hãnh diện vì đa số học sinh đều đậu bằng Brevet và sau này họ học thành tài và tình thầy trò được duy trì rất thắm thiết cho tới mãi về sau.
                           
                          Những lớp huấn luyện chính trị đã diễn ra rất sống động với các huấn luyện viên từ Hà Nội xuống như anh Trần Thanh Đình, anh Giang, anh Đức v.v.. và người ‘trụ trì’ các lớp này là anh Chính với biệt hiệu ‘Chính Tồ’, hình như anh Chính lúc này đang sống tị nạn cộng sản ở Canada. Những lớp huấn luyện này thường kéo dài 10 ngày và mỗi ngày đều có những giai thoại rất đặc biệt về ‘nhậu’ mà tôi còn nhớ, thường ra những bữa cơm ăn của anh em thật là thanh đạm chỉ có rau muống, muối mè, những mỗi buổi tối là những bữa nhậu không bao giờ quên nổi!
                           
                          Rượu uống thì thừa thãi vì từ trong Phát Diệm tiếp tế ra từng hũ ba xi đế loại ngon nhất, nhưng vì không có quỹ nên đồ nhậu lại toàn những loại đặc biệt khoái thẩu mà lại rẻ tiền nhất, như xẩu tức xí quách mua ở tiệm phở bên cạnh nhà  hoặc món chân bò luộc  bóp chanh muối. Đặc biệt  lắm thì thêm món thịt bê thui chấm tương cự đà.
                           
                          Đời sống của chúng tôi ở Hải Phòng có vẻ êm ả trong tình thân mật của những đồng chí cùng đấu tranh chống cộng sản dành độc lập cho Tổ Quốc, nhưng chính giai đoạn này nhiều tin tức chính trị của một tổ chức chính trị ở Phát Diệm do nhóm những người gốc địa phận Vinh, nhưng hoạt động ở Phát Diệm làm cho chúng tôi rất thắc mắc là nhóm này có những liên lạc chặt chẽ với cơ quan tình báo của thực dân Pháp thường được gọi là tổ chức Recherche Historique do thiếu tá Dupra lãnh đạo.
                           
                          Chủ trương của nhóm ông ‘già’ Vinh là dùng danh nghĩa của Đức Cha Lê Hữu Từ để cùng với Dupra vận động cho quân đội Pháp nhẩy dù xuống Phát Diệm, và dùng Phát Diệm như đầu cầu để quân đội Pháp đánh chiếm tỉnh Nghệ An là quê hương của nhóm này.
                           
                          Chúng tôi cũng được  biết rằng nhóm này che dấu mưu đồ của họ không cho Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Tổng Hoàng Quỳnh biết. Vì họ biết rằng chủ trương của Đức Cha Từ và Tổng bộ Tự vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm là nhất quyết chống trả mọi hành động xâm lăng của thực dân Pháp, đồng thời cũng tranh đấu chống Cộng sản nữa.
                           
                          Phát Diệm không muốn bị lợi dụng và bị buộc  tội làm tay sai cho thực dân Pháp, nên hành động chống Pháp của Đức Cha Từ và dân Phát Diệm đã được thể hiện ngay khi quân Pháp nhẩy dù xuống chiếm đóng Phát Diệm và Bùi Chu ngày 16 tháng 10 nắm 1949.
                           
                          ( còn tiếp)
                          #28
                            frank 20.06.2022 04:17:14 (permalink)


                            Chương 24



                            Tinh thần chống Cộng Sản mạnh hơn bao giờ hết


                                                                            
                            Trong hơn 2 năm sống lưu vong ở Hải Phòng  chúng tôi không hề mất liên lạc với Tổng Bộ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở Phát  Diệm vì thường xuyên có thuyền buồm liên lạc đi  lại giữa Phát Diệm và Hải Phòng. Tình thần chống Cộng Sản ấy đã được thể hiện một cách công khai với những biểu ngữ chống cộng sản được căng la liệt khắp nơi, mỗi khi Đức Cha Lê Hữu Từ đi thăm viếng các  giáo xứ trong vùng Phát Diệm, Bùi Chu và Thanh Hóa, nhân danh Cố vấn chính phủ Hồ Chí Minh đi thăm dân cho biết sự tình.
                             
                            Trong các cuộc du hành này, Đức Cha Từ hô hào toàn dân tham gia công cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, nhưng đồng thời ngài cũng hô hào toàn dân chống tiêu khổ kháng chiến. Vì ngài cho rằng tiêu khổ kháng chiến không ngăn chặn sư xâm lăng của thực dân Pháp, nhưng cộng sản sẽ thành công vì mục tiêu của chính sách tiêu thổ và tản cư của công sản là để vô sản hóa  nhân dân, để cộng sản Việt Nam đóng góp vào chủ trương không tưởng của đế quốc cộng sản tiến nhanh, tiến tới thế giới cộng sản đại đồng.
                             
                            Một sự kiện khác rất đặc biệt là ngoài việc Đức Cha Từ hô hào nhân dân hãy sáng suốt đừng nghe cán bộ cộng sản hạ cấp tuyên truyền tiêu thổ tản cư vì làm như vậy là trái lệnh và trái ý của Hồ Chủ Tịch, rồi ngài lại còn tuyên bố tha thuế cho dân thể theo ý của Hồ Chí Minh.
                             
                            Tại sao Đức Cha Từ lại tuyên  bố tha thuế cho dân ở các tỉnh Ninh Bình, Bùi Chu và Thanh Hóa, nơi ngài tới thăm viếng, sự kiện tha thuế này được ghi trên tờ tuần báo Đời Sống của Phát Diệm trong số 37 ra ngày 22 tháng 12 năm 1953, bài báo ‘Đức Cha Lê, vị lãnh đạo của chúng tôi ‘do Văn Quy viết về cuộc tiếp xúc giữa Đức Cha Lê Hữu Từ và Hồ Chí Minh như sau:
                             
                             ‘Tôi muốn biết rõ ý kiến của Cụ - lời Đức Cha Lê – trong vấn đề thuế, vì đã từ lâu nay có một số người mặc quần áo bộ đội, xưng mình là nhân viên của chính phủ, nhưng công việc của họ nguyên là đuổi theo dân vòi tiền thuế, hết thứ thuế này sang thứ thuế khác, không kể gì đến
                            -Thưa Cố vấn – ông Hồ đáp – đấy là những hành động nhiều khi quá khích của hạ cấp.
                            Thế nhưng Cụ nghĩ thế nào?
                            -Thưa Cố vấn, trong địa phương ấy (ám chỉ Phát Diệm, Bùi Chu, Thanh Hóa) tôi xin nhờ Cố vấn tùy hoàn cảnh định đoạt giúp chúng tôi

                            Được rõ ý Cụ Hồ như thế, Đức Cha Lê Hữu Từ đã chỉ thị cho các địa hạt phải tập hợp dân chúng cho đông, mỗi khi ngài qua một trụ sở. Rồi khi lên diễn đàn, ngài đề cao ý tưởng Cụ Hồ muốn nhờ ngài định đoạt  thay chính phủ để cứu dân. 

                            '.. xét những gian lao của đồng bào, tôi nhân danh chính phủ  và thể ý Cụ Hồ tha thuế cho dân, và từ nay hễ thấy những người mệnh danh hạ cấp của chính phủ về nhũng nhiễu trong các dân làng, thì đồng bào hãy khai trừ họ’.

                            Về sau người ta mới rõ những nhóm công an, hành chánh địa phương căm hờn vì câu tuyên bố tha thuế trên đây.’

                            Cũng trên tờ báo Đời Sống số 37, số đặc biệt mừng lễ Ngân Khánh Linh Mục của Đức Cha Lê Hữu Từ, cha Tổng Hoàng Quỳnh cũng viết một bài với đề tài ‘Đức Cha Lê và Phong Trào Tự Vệ Phát Diệm: như sau:
                             
                             ‘Tổng Bộ Cứu Quốc của anh em Công Giáo và cả khối giáo dân Bùi Chu – Phát Diệm thấy rằng ở trong Mặt Trận Việt Minh để dành độc lập cho Tổ Quốc, độc lập chưa thấy mà mặt nạ của cộng sản đã lộ ra: giết hại và cầm tù. Các trại giam Đầm Đùn, Yên Lai, Kim Tân chứa đầy trên 5,000 thanh niên Công Giáo và trùm trưởng.  Vậy Tổng bộ Công Giáo Cứu Quốc phải định rõ lập trường như sau:
                            -Đối nội: Bảo vệ tín ngưỡng, bảo vệ Tự Do và chống cộng sản với khẩu hiệu: ‘Giáo Hội Bất Diệt, Đả đào Cộng Sản’.
                            -Đối ngoại: Dành Độc Lập, chống ngoại xâm và đả đảo cộng sản với khẩu hiệu: ‘Việt Nam Độc Lập Muôn Năm, Đả Đảo Cộng Sản’.
                             
                            Lập trường đã được kết tinh bằng mấy khẩu hiệu ấy, được hô to trong các cuộc thi đua ái quốc, các cuộc mít tinh ngay trong khu Việt Minh do cộng sản lãnh đạo. Sở dĩ Phát Diệm có được lập trường cứng rắn, một quả cảm hiên ngang ấy, là do cái gương ‘bất úy tử’ của vị chúa chiên là Đức Cha  Lê Hữu Từ.
                             
                            Việt Minh đã dùng muôn phương ngàn kế để chống lại tinh thần chống cộng sản một ngày một lên cao của dân Phát Diệm. Chúng  đã thành lập Hội Liên Việt là tổ chức ngôi vi của đảng Cộng sản cũng như Mặt Trận Tổ Quốc của Việt Cộng ngày nay vậy, nên trong một hội nghị Liên Việt của tỉnh Ninh Bình họp ngày 29 tháng 2 năm 1948 với sự tham dự của linh mục Nguyễn Gia Đệ, bí thư tòa Giám Mục Phát Diệm hiện nay  đang tị nạn cộng sản ở Canada, cùng với Sa Môn Trí Đức ở chùa Phật Giáo ở Đồng Đắc, sau này là  Thượng Tọa Thích Trí Dũng, trụ trì tại chùa Nghĩa Trang Bắc Việt ở Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn.
                             
                            Trong cuộc hội nghị này Chủ Tịch  Mặt Trận Việt Minh tỉnh bộ Ninh Bình là Trần Dần đã giải thích về vai trò của đảng Cộng sản trong Mặt Trận Việt Minh như sau
                             
                            : ‘Trong Mặt Trận Việt Minh  có những thành phần là Cộng Sản nhưng không phải tất cả là cộng sản. Mặt Trận Việt Minh không chủ trương tiêu diệt tôn giáo vì trong Mặt Trận Việt Minh và Liên Việt có cả đại diện của các tôn giáo…’

                            Tuy Việt Minh muốn giải thích thế nào đi chăng nữa khối Công Giáo Phát Diệm và Bùi Chu vẫn cương quyết chống cộng sản vô thần đến cùng.
                             
                            Khu An Toàn  Phát Diệm được thành lập ngay từ năm 1947 khi nhiều vụ xung đột đã xẩy ra giữa các lực lượng võ trang của Tự Vệ Công Giáo với Công an, đặc biệt sau vụ biến động xẩy ra khi một cán bộ của Công Giáo là anh Tống Văn Dung bị Công an Việt Minh ám hại mà chúng tôi đã trình bầy ở phần trên. Khu An Toàn Phát Diệm là một cái gai nhọn đối với Việt Minh mà chúng tìm đủ cách để nhổ bỏ đi. Chính việc chúng tôi phải bỏ Phát Diệm ra tị nạn ở Hải Phòng vào mùa thu năm 1947 là để cho Việt Minh không còn lý do để phá bỏ khu An Toàn Phát Diệm.
                             
                            Sỡ dĩ tinh thần chống cộng sản của Phát  Diệm lên cao và mạnh mẽ vì dân Phát Diệm tin tưởng ở sự che chở của Đức Cha Lê Hữu Từ và có khu An Toàn làm nơi nuơng tựa  tránh được mọi sự đàn áp của công an Việt Minh, chính vì lẽ dó mà Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho tỉnh bộ Việt Ninh Bình và quân khu III phải phá cho bằng được khu An Toàn Phát Diệm.
                             
                            Thi hành lệnh của Hồ Chí Minh, Việt Minh cho bộ đội về đóng hầu như khắp vùng bao quanh Phát Diệm để yểm trợ cho âm mưu thi hành lệnh tiêu thổ và tản cư dân chúng Phát  Diệm, nói rằng quân đội thực dân Pháp sắp xâm lăng Phát Diệm. 
                             
                            Việc  đầu tiên chúng làm  là cho bộ đội đóng quân ở các nhà khu mặt phố Phát Diệm, Phu Vinh, Thượng Kiệm, Lưu Phương  và bên kia sông, nói là để tổ chức các ổ tác chiến chống Pháp, với ý định làm cho dân sợ hãi chiến tranh sắp đến mà tản cư đi các nơi khác. Nhưng đâu Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc lại để cho dân mắc mưu đó của Việt Minh. Những nhà nào có bộ đội đóng quân là Tự Vệ chiến đấu được phái tới gọi là để yểm trợ bộ đội trong khi tác chiến.

                            Thấy có Tự Vệ Công Giáo đến cùng đóng quân với bộ đội Việt Minh, dân chúng Phát Diệm lên tinh thần tuyên bố cùng ở lại nhà để hợp tác với bộ đội, và Tự Vệ để chiến đấu chống lại quân xâm lăng. Đã có nhiều lúc bộ đội Việt Minh và Tự Vệ Công Giáo ghìm súng nhìn nhau sẵn sàng nhả đạn tạo nên sự đối nghịch hết sức căng thẳng.

                            Và nếu tình hình đối nghịch càng gia tăng thì chuyện xung đột không thể tránh được và phần thua chắc chắn về phía bộ đội Việt Minh vì các ổ chiến đấu của chúng đều bị Tự Vệ Công Giáo và nhân dân  bao vây. Hơn nữa lối đóng quân như vậy là trái hẳn với chiến thuật du kích: bộ đội là cá và dân là nước. Như vậy không có dân tức không  có nước thì cá là bộ đội sẽ chết không kịp ngáp.
                             
                            Âm mưu ép dân chúng tản cư không thành công, chính quyền Việt Cộng lại đưa ra kế hoạch khác là theo lệnh cấp trên các nhà lầu và nhà  xây bằng gạch sẽ bị phá, viện lẽ rằng quân đội xâm lăng của Pháp sẽ dùng các nhà đó để đóng quân. Nhưng âm mưu này cũng bị thất bại luôn, vì dân chúng Phát Diệm công khai thách thức chính quyền cho người đến phá nhà của họ.
                             
                            Họ thề quyết sẽ sống chết với nhà cửa của họ và bất cứ ai tới để phá nhà sẽ bị ‘nướng’ sống ngay tại chỗ, âm mưu chính của Việt Minh tuyên bố phá nhà lầu và nhà xây là hy vọng dân nhà lá sẽ không can thiệp vào kế hoạch chính phủ chỉ phá nhà của người ‘có bát ăn bát để’ mà thôi, chứ dân nhà nghèo chính phủ không động tới.
                             
                             Nhưng dân chúng Phát Diệm đâu có dễ bị lừa như vậy, vì họ đều được biết trước rằng Việt Minh phá nhà lầu, nhà  xây xong rồi sẽ phá tới nhà lá,  một kinh nghiệm dân chúng các tỉnh lỵ Ninh Bình, Phủ  Lý và Thanh Hóa đã trải qua là các thành phố này đã bị Việt Minh phá bình địa cho tới nay sau gần nửa thế kỷ các thành phố này cũng chưa được tái thiết một cách xứng đáng.
                             
                            Tản cư dân chúng không được, tiêu thổ nhà cửa cũng không xong, Việt Minh liền quay ra đề nghị phá cầu Trì Chính là một chiếc cầu bê tông đúc cốt sắt ngang qua sông Ân dài tới 200 thước.
                             
                            Thanh niên Phát Diệm có biết bao kỷ niệm êm đềm với cây cầu này, ngay từ khi tôi còn nhỏ, cứ đến kỳ nghỉ hè là tôi theo anh tôi lên hóng mát ở cây cầu này mỗi  tối. Nơi đây là chỗ hội họp thường xuyên của hàng trăm thanh niên Phát Diệm.  Không có một câu chuyện gì đã xẩy ra ở Phát Diệm mà không được đưa ra bàn tán ở ngay cây cầu Trì Chính này, từ chuyện thể thao đến chuyện tài tử chiếu bóng nổi danh thời bấy giờ như Tino Rossi, Charles Boyer, Danielle Darrieux , chỗ này hát tân nhạc, chỗ kia hát cổ nhạc, dân ở dưới thuyền đậu trên sông hát ‘đối’ hay hát ‘trống quân’ với dân đứng trên cầu. 

                            Thời Pháp đến thời Nhật bản, nơi cây cầu này cũng là diễn đàn của cách mạng, của ‘chính chị chính em’ tôi còn nhớ khi tôi mới 12 tuổi, thân phụ tôi nói tối nay không được lên cầu Trì Chính vì là ngày cách mạng Nguyễn Thái Học và các đồng chí lên đoạn đầu đài, tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng nhớ là phố xá Phát Diệm mấy tối đó vắng tanh chỉ có lính Khố Xanh và ông Đồn người Pháp đi tuần tiểu trên đường phố. Và cũng từ chiếc cầu thân yêu này đã phát ra biết bao nhiêu cuộc đánh lộn giữa những dân ‘công tử’ Phát Diệm có số đào hoa.
                             
                            Nhớ lại những chuyện cũ xẩy ra trên cây cầu Trì Chính thơ mộng này, cách đây hơn nửa thế kỷ, làm cho chúng tôi đau lòng vì nhớ nhà, nhớ Phát Diệm, nhớ quê cha đất tổ, nhớ những kỷ niệm êm đềm nhất của tuổi thanh xuân. Và nay làm sao còn  hưởng lại được những giờ phút êm đềm ấy chỉ vì Cộng sản bất nhân nắm giữ chính quyền mà cây cầu Trí Chính ấy đã bị Việt Cộng đánh sập vào đầu năm 1948.
                             
                            Việc phá cầu Trì Chính cũng là một thâm ý của Việt Minh muồn cô lập hóa khu An Toàn Phát Diệm, vì phá cây cầu này mọi sự giao thông của Phát Diệm với tỉnh lỵ Ninh Bình hay đi các tỉnh khác ở Bắc Việt đều bị cắt đứt, và khu An Toàn Phát Diệm chỉ còn liên lạc được với  1/3  dân chúng ở phủ Kim Sơn. Và nếu quân Pháp xâm lăng vào Phát Diệm, Đức Cha Lê sẽ bị cô lập không còn đường rút lui.
                             
                            Sợ dân chúng Phát Diệm phản đối việc phá cầu và nhất là sợ Cố Vấn chính phủ can thiệp  nên Việt Minh cho người  nửa đêm về sáng phá trộm, đục nát chân cầu, rồi chủ tịch phủ bộ Việt Minh Kim Sơn phàn nàn và tâm sự với linh mục Đoàn Ngọc Thư, giám đốc Trung Tâm Tuyền Truyền  Công Giáo đại diện Đức Cha Lê Hữu Từ rằng: ‘Thật là cảnh trên búa dưới đe, cấp trên dạy phải phá cầu, cố vấn cản ngăn, để dung hòa tôi xin được phép đánh xập nhịp cầu giữa xuống sông và bù lại, một cây cầu nổi sẽ được bắc qua sông’.
                             
                            Lúc đầu cha Đoàn Độc Thư không đồng ý việc phá cầu, nhưng nghĩ rằng nếu cứ găng mãi, không nhường nhịn phần nào thì  khó tránh khỏi xung đột, nên cha Thư đã để cho họ (Việt Minh) phá cầu mà mình giữ được nhà cửa, họ kiếm được tí điểm với cấp trên v.v…’ Mặc dầu dân rất buồn tức nhưng hoàn toàn vâng lời Đức Cha Lê Hữu Từ.
                             
                            Ngày 15 tháng 8 năm 1948, Đức Cha Lê Hữu Từ đã mời các linh mục trong giáo phận về họp mặt tại trường Thần  Học Thượng Kiệm trong 2 ngày để nhận định tình thế và bàn kế hoạch thực hiện chung. Trong số 165 linh mục của giáo phận có 128 linh mục về dự họp. Theo  nhật ký của linh mục Nguyễn Gia Đệ ghi lại thì cha Hoàng Quỳnh đã nói về tình hình quân sự, ngài cho biết: ‘Lúc này (1948) chủ lực của Vi ệt Minh đã được tăng viện và quân đội được huấn luyện thuần thục nên những lực lượng nhỏ phải vì nể họ. Bởi vậy từ nay chiến thuật của ta (Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc) nhằm vào tranh đấu ‘lạnh’, tranh đấu cân não hơn; tuy nhiên nếu cần phải chết chúng ta vẫn dám chết’.
                             
                            Sở dĩ Việt Minh còn vì nể khối Công Giáo là vì có một khối đoàn kết mạnh mẽ, lại ảnh hưởng tới quốc tế. Khối tinh thần vững mạnh này được chứng minh qua những vụ đụng độ đã xẩy ra hồi năm 1947, (vụ anh Tống Văn Dung hay vụ Phúc Nhạc) nhất là việc tướng Hoàng Sâm của Việt Minh về tổ chức duyệt binh ở vận trường Ngô Gia Lễ ở ngoài Chợ Năm Dân, vào ngày 25 tháng 6 năm 1948. Việt Minh đã đem về các trung đoàn: CK 3, Thủ  Đô 48, Tất Thắng 34 (còn gọi là Hà Nam Ninh) và trung đoàn Tây Tiến 52.
                             
                            Một bọn ám sát cũng được điều động về Phát Diệm, gồm có: Biệt động đội do Vũ Đình Đề chỉ huy và Lạc Long của Công an, công tác nội thành. Tướng Hoàng Sâm đem đại lực lượng về Phát Diệm như vậy là vừa để thăm dò vừa nhằm gây thanh thế kháng chiến và đánh đòn cân não vào dân Phát Diệm. Đặc biệt là hỗ trợ cho kế hoạch triệt hạ khu An Toàn Phát Diệm.

                            Kế hoạch triệt hạ khu An Toàn Phát Diệm đã được Mặt Trận Việt Minh sắp đặt chu đáo, cha Hoàng Quỳnh kể tiếp:
                             
                            1)Một mặt sai tướng Hoàng Sâm, thay mặt Cụ Hồ về vấn an Cố vấn chính phủ và tổ chức một cuộc duyệt binh tại sân vận động Ngô Gia Lễ để lấy cớ hành động.

                            2)Mặt khác cho tên Thành là chủ tịch Liên Khu III về dự duyệt binh và xin tổ chức mít tinh ngay tại sân nhà thờ Phát Diệm, để giải thích đường lối kháng chiến của chính phủ. Đi theo tên Thành về Phát Diệm còn có một số đông dân chúng từ phủ Yên Khánh, Nho Quang và huyện Yên Mô.
                             
                            Sự sắp xếp này với mưu tính là gây rắc rối để bộ đội can thiệp thừa dịp triệt hạ khu An Toàn Phát Diệm, tịch thu khí giới và bắt giữ những người họ muốn bắt.
                             
                            Sau phần trình bầy của cha Hoàng Quỳnh, hội nghị các linh mục đã nhận định như sau:
                             
                            -Nếu không cho phép tổ chức mít tinh trong khu Phát Diệm là chống chính phủ, là phản loạn càng đủ lý do để Việt Minh triệt hạ khu An Toàn.
                            -Nếu cho phép tổ chức mít tinh thì họ sẽ cho cán bộ khiêu khích, gây rối, bộ đội cũng có cớ để dẹp loạn, thật là nan giải.
                             
                            Đức Cha Từ và các linh mục đều bồn chồn lo lắng, nhưng cha Hoàng Quỳnh vẫn bình thản và sau cùng đã hiến kế ly gián như sau:
                             
                            -Khi tướng Hoàng Sâm vào vấn an Cố Vấn chính phủ, Đức Cha Từ tiếp đón nồng hậu, rồi kéo vào phòng riêng nói nhỏ: ‘Thiếu tướng thay mặt Cụ Hồ về vấn an tôi. Tuy nhiên tôi thấy có mặt cả Chủ Tịch Liên Khu III cùng về một lượt và hình như để sai khiến thiếu tướng,  người chiến sĩ quốc gia, đi hộ tống cho một ông hành chánh, tôi thấy chướng quá, thiếu tướng nghĩ sao?

                            Cha Hoàng Quỳnh đề nghị thêm với Đức Cha Lê rằng: ‘Còn tên Thành, chủ tịch liên khu III, xin Đức Cha cứ cho phép hắn tổ chức mít tinh, con đã có phép.’ Kế hoạch của cha Hoàng Quỳnh được hội đồng địa phận chấp nhận, ngài liền triệu tập bộ tham mưu của Tổng Bộ Tự Vệ để hoach định  mưu lược hầu chuẩn bị sẵn.
                             
                            Quả nhiên tướng Hoàng Sâm trúng kế của cha Hoàng Quỳnh vì sau khi nghe ngài Cố Vấn nói như thế, Hoàng Sâm với bộ mặt tái mét vì tự ái, đã cam kết với Đức Cha Lê:
                             
                             ‘Bộ đội sẽ không có một hành động nào khác, ngoài việc về thăm sức khỏe Cố Vấn và để chứng tỏ lời cam kết, tôi sẽ cho bộ đội đóng xa khu An Toàn của Cố Vấn.’
                             
                             Nhờ vậy khi chủ tịch liên khu III yêu cầu tướng Hoàng Sâm cho đóng quân ở điểm nọ điểm kia, tướng Hoàng Sâm lờ luôn.
                             
                            Ngày duyệt binh được tổ chức  rầm rộ là vì Đức Cha Lê cho rất đông thanh niên Phát Diệm ra dự khán và sau đó chính đoàn thanh niên đã dẫn đầu  đoàn biểu tình kéo vào khu thánh đường Phát Diệm để họp mít tinh.
                             
                            Nhưng cuộc mít tinh mới qua được phần thủ tục mở đầu thì thanh niên Phát Diệm đã tự động rút êm về phục sẵn ở các vị trí định sẵn với súng ống, dáo mác sẵn sàng. Tất cả các gốc cây, các bụi rậm, chỗ nào cũng có người mai phục, đường phố bị cấm qua lại, cửa các nhà chỉ mở hé,  bên trong có sẵn người có khí giới trong tay.
                             
                            Bài diễn văn thứ nhất chấm dứt thì trên hàng ghế chủ tọa giao động, sự giao động lan dần xuống đám quần chúng tham dự, vì tất cả nhìn lại thấy dân Pháp Diệm đã không cánh mà bay đâu hết, chỉ còn lại toàn dân chúng người Yên Khánh, Nho Quan và Yên Mô. Cùng lúc đó, trinh sát đến báo cáo cả cuộc mít tinh nằm gọn  trong vòng vây của thanh niên Phát Diệm mà chỗ nào cũng đầy ắp người với võ khí, súng ống đều quay mũi cả về phía sân đang mít tinh. Tên Thành, chủ tịch liên khu III tái mặt, phập phồng, nhấp nhổm và hình như trông chờ đợi tới…
                             
                            Trong khi đó ở ngoài phố và vùng phụ cận  dân chúng được lệnh từ Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc, ra mời bộ đội vào nhà đãi nước, hỏi thăm tin tức v.v.. nghĩa là tất cả mọi người đều thi hành nghiêm chỉnh mật lệnh của cha Hoàng Quỳnh.
                             
                            Đợi mãi không thấy bộ đội tới tên Thành bèn cho rút ngắn chương trình mít dinh (lý do vì mệt) và không dám có cử chỉ nào có tính cách gây hấn. Trái lại còn ca tụng tinh thần ái quốc của Đức Cha Cố Vấn và của dân chúng Phát Diệm.
                             
                            Mưu kế của cha Hoàng Quỳnh đã hoàn toàn thành công và khu An Toàn Phát Diệm được bảo đảm hơn nữa.

                            (còn tiếp)
                            #29
                              frank 20.06.2022 05:00:53 (permalink)
                               


                              Chương 25


                              Cha Tổng Hoàng Quỳnh - Một linh mục - Một đồng chí cách mạng



                              Trong suốt cuộc đời tranh đấu vì Thiên Chúa và Tổ Quốc, tôi quên sao được những kỷ niệm hào hùng nhất là thời đấu tranh sát cánh với Cha Hoàng Quỳnh, một linh mục rất đáng kính phục, một đồng chí cách mạng thật anh hùng, can đảm và đầy mưu lược, một anh em trong tình huynh đệ Hướng Đạo Việt Nam.

                              Tôi được hân hạnh cùng sinh hoạt Thanh Niên Công Giáo khi ngài là chánh xứ Khoan Dụ trên miền rừng núi phía Bắc tỉnh Ninh Bình, cũng như thời gian ngài về Phát Diệm nhận chức Tổng Tuyên Úy phong trào Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm, rồi những ngày cùng nhau vác bị, chống gậy đi trại bay hướng đạo, thám du trong rãy núi Hoàng Sơn ở Nga Sơn, Thanh Hóa.
                               
                              Trong một ngày cắm trại ở núi Con Trâu, ở Nga Sơn, nơi có câu sấm của Trạng Trình: ‘Khi nào Trâu đứng giữa đồng, Mẹ con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi’, tôi đã nhận lời hứa hướng đạo Công Giáo của cha tuyên úy Hoàng Quỳnh, đặt tay trên cờ hướng đạo mà hứa’; ’Nhờ ơn Chúa, tôi xin lấy danh dự mà hứa: phụng sự Thiên Chúa, Giáo Hội và Tổ Quốc, giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào và tuân theo luật hướng đạo’.

                              Chính trong những trại hướng đạo này chúng tôi đã có dịp thảo luận với nhau về lời hứa phụng sự Tổ Quốc của Hướng Đạo Công Giáo, chúng tôi đã đặt thành vấn đề là hứa phụng sự Tổ Quốc nào đây?
                               
                              Trong thời Pháp thuộc, lá cờ duy nhất được treo ở trại là lá cờ Tam Tài của Pháp, bài hát quốc ca là bài La Marseiilaise cũng của Pháp luôn! Chúng tôi vẫn thắc mắc về lời hứa Phụng sự Tổ Quốc và chào quốc kỳ, một giải pháp tạm thời  được tìm ra là trong một cuộc cắm trại ở Núi Qua Châu, cũng ở Nga Sơn trong rẫy núi Hoàng Sơn, lá cờ vàng tượng trưng cho Tổ Quốc Việt Nam đã được kéo lên cột cờ của trại.
                               
                              Chúng tôi đã rớm nước mắt chào lá cờ tượng trưng cho tinh thần quốc gia của con người dân đất Việt, và trong tinh thần ấy Cha Quỳnh cùng với chúng tôi đã thảo  luận rất sâu rộng về việc phải làm để phụng sự Tổ Quốc Việt Nam, và chúng tôi đã cùng sát cánh với Cha Quỳnh dấn thân vào công cuộc cách mạng dành Độc Lập cho Tổ Quốc và Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ra đời, và trong tinh thần đoàn kết quốc gia dành Độc Lập cho Tổ Quốc, chúng tôi tự đặt Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Nam Đồng Minh Hội tức Việt Minh.
                               
                              Trong suốt quá trình cùng hoạt động với Cha Hoàng Quỳnh, tôi đã có rất nhiều dịp để nghe ngài tâm sự về đời sống linh mục mà tôi nhận xét quả thật ngài là một con người khôn ngoan và thánh thiện mà tôi rất kính phục, trước hết Cha Quỳnh đã kể cho chúng tôi nghe về tinh thần cách mạng của ngài trong đời sống một linh mục ‘an na mít’ trong giáo phận thuộc các cha thừa sai Paris.
                               
                              Theo thủ tục để lại từ thời Việt Nam bắt đầu được các linh mục thừa sai ngoại quốc tới giảng đạo, các linh mục người ngoại quốc đều được gọi là Cố và các linh mục Việt Nam được gọi là Cụ và khi có một ông Cố mới từ Pháp sang dù còn trẻ tuổi, nhưng theo tục lệ các cha Việt Nam dù già hay trẻ đều phải tới quỳ lạy 3 lạy và Cha Quỳnh là một linh mục Việt Nam đầu tiên chống đối việc lạy các ông Cố Tây này và có lẽ vì thế nên Cha đã bị đầy lên xứ Khoan Dụ, nơi khỉ ho cò gáy ở gần Chinê phía cực bắc của địa phận Phát Diệm.
                               
                               Mãi cho tới khi địa phận Phát Diệm được độc lập với vị Giám Mục tiên  khởi Việt Nam Nguyễn Bá Tòng, và các linh mục thừa sai ngoại quốc rời Phát Diệm vào Thanh Hóa, Cha Quỳnh mới  được gọi về Phát Diệm giữ chức tổng tuyên úy Phong Trào Công Giáo Tiến Hành  địa phận. Đồng thời ngài nhận lời làm tuyên úy liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu mà tôi là liên đoàn trưởng và cũng từ đây chúng tôi được hân hạnh cùng Cha Quỳnh và anh Trần Ngân tức Bằng Phong thành lập Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.
                               
                              Nói về đời sống linh mục của Cha Quỳnh, điều đáng kính phục nhất là ngài sống thật thánh thiện và nghèo khó, tôi còn nhớ mỗi lần đi cắm trại với đoàn hướng đạo ở trong rừng núi, điều chúng tôi luôn luôn nhớ là phải có sẵn đèn pin hoặc đèn bão để cho cha tuyên úy Hoàng Quỳnh đọc sách nguyện, nhiều khi tôi thấy anh em đã ngủ ngon trong lều thì lều Cha Quỳnh vẫn còn đèn sáng, nhìn thấy ngài vẫn còn đọc sách nguyện hay lần hạt mân côi.
                               
                              Tôi còn nhớ một lần đạp xe đạp từ Phát Diệm lên chiến khu Rịa, xe đạp của ngài bị đứt xích, tới quá nửa đêm mới tới trại, hì hục chữa xe tới 2 giờ sáng mà tới 5 giờ sáng đã thấy ngài đạp xe xuống núi để đến nhà thờ xứ An Ngải, cách Rịa 12 cây số để dâng lễ, và suốt thời gian ở chiến khu không sáng nào ngài không ‘hạ sơn’ xuống xứ ngài dâng lễ rồi lại trèo núi về sinh hoạt với anh em.
                               
                               Chúng tôi đã nhiều lần ‘cám dỗ’ ngài bỏ chuyện hạ sơn mỗi ngày tức bỏ chuyện dâng lễ mỗi sáng, ngài bảo chúng tôi đừng mất thì giờ ‘cám dỗ’ ngài. Tôi đã có nhiều dịp cùng đi hoạt động với ngài ở Miền Bắc cũng như ở Miền Nam Việt Nam trong nhiều ngày, điều lo lắng của ngài mỗi ngày là sáng mai sẽ dâng lễ tại nhà thờ nào và luôn luôn dành giờ để đọc sách nguyện và lần hạt Mân Côi, điều mà không bao giờ tôi th ấy ngài bỏ sót.

                              Nói tới chuyện ‘cám dỗ’ cha Quỳnh, tôi nhớ có một lần cùng đi với cha lên Hà Nội để vào gặp Hồ Chí Minh, cha và chúng tôi thường ở trụ sở của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, số 9 phố Lý Quốc Sử, xế cửa nhà  thờ chính tòa Hà Nội, chúng tôi thường đi đến quán Nghệ Sĩ ở góc phố bờ Hồ trước rạp ciné Philarmonic, để thưởng thức những màn trình diễn nhạc cổ điển do nhạc sĩ Diệp chơi vĩ cầm và Lê Văn Khoát chơi đại vĩ cầm.
                               
                               Cha Quỳnh cũng là người mê nhạc cổ điển tây phương, một hôm trông thấy một phụ nữ Hà Nội trông thật tha thướt và xinh đẹp đi bên hồ Hoàn Kiếm, tôi liền đùa hỏi ngài: ‘Cha trông thấy cô kia có đẹp không?’ Ngài liền ngước mắt lên nhìn rồi trả lời: ‘Quỷ, đừng cám dỗ tao,  ừ đẹp thật đấy’, nhiều lần ngài tâm sự với tôi về thái độ của ngài đối với phái đẹp, ngài không bao giờ nhận các cô là ‘con linh hồn’ và nếu các cô có vấn đề gì cần được dẫn dụ thì ngài bảo vào tòa giải tội, hoặc ra giữa nơi đông người để nói chuyện, không bao giờ ngài chấp nhận cho các cô ‘nỉ non’ chuyện này chuyện khác một cách ‘bâng quơ’ có tính cách cám dỗ.
                               
                              Điều cha Quỳnh áp dụng đối với phụ nữ cũng tương tự như một chỉ thị của Đức  Cha Lê Hữu Từ gửi tới tất cả các linh mục thuộc địa phận Phát Diệm, đề ngày 14 tháng 8 năm 1948, trong đó Đức Cha căn dặn các linh mục phải đề phòng các quỷ kế của Việt Minh phá hoại Giáo Hội, ngài viết như sau:
                               
                              ‘Hiện nay đang có một số người tìm hết cách làm hại chúng ta và chính phủ,  để gieo mối nghi ngờ giữa chúng ta và chính phủ, để làm cớ bó buộc chính phủ phải làm hại chúng ta và làm mất thanh danh chúng ta. Họ đã thi hành ở một vài nơi trong các địa phận khác ta, mấy quỉ kế này:

                              1/Dùng chính người công giáo lén lút giấu võ khí, lựu đạn, cờ tam tài, truyền đơn ủng hộ Pháp, phản đối chính phủ, vào nhà xứ, nhà thờ, nhà trường v.v.. rồi đi báo Công an, bộ đội, ủy ban kháng chiến để bắt quả tang.

                              2/Mạo thư có chữ ký chúng ta gửi cho người này người khác, nói những giọng điệu khiêu khích, đụng chạm đến chính phủ, ủng hộ đảng phái v.v.. rồi liệu cách khôn khéo cho các thư ấy lọt vào tay công an, bộ đội…

                              3/Dùng người phụ nữ giả vờ đạo đức đến xin dẫn dụ việc linh hồn, đến xin hầu, xin giúp việc này việc khác v.v.. để rồi phao lên tin này tin khác làm mất thanh danh chúng ta.
                               
                              4/Lợi dụng những cớ rất nhỏ mọn mà chia rẽ giáo dân khỏi chúng ta, hoặc chia rẽ giáo dân khỏi nhau, gieo mối thù oán…
                               
                              Vậy xin các cha rất cẩn thận đề phòng canh gác. Xin các cha triệt để giữ những điều tôi đã dặn về cách đối xử với phụ nữ. Tránh những cớ có thể sinh ra chia rẽ trong giáo xứ, nếu có điều gì chênh lệch ta hãy cố gắng dàn xếp cho ổn thỏa.  Thời  thế còn khó khăn lắm và có thể trở nên khó khăn hơn nữa, nên xin các cha khôn ngoan thận trọng và nhất là tăng thêm việc lành phúc đức, ăn ở thánh thiện hơn nữa để xin Chúa và Đức Mẹ che chở chúng ta.’
                               
                              Chúng tôi thiết nghĩ chỉ thị trên của Đức Cha Lê Hữu Từ gửi cho các linh mục ở Phát Diệm vào thời gian 1948, có thể đem áp dụng ngày nay ở Việt Nam khi Giáo Hội Việt Nam đang sống dước ách độc tài, đảng trị của bọn cộng sản vô thần và Cộng Đồng Giáo Dân Việt Nam ở hải ngoại cùng các linh mục lãnh đạo tinh thần cũng phải đề cao cảnh giác vì những quỷ kế kể trên, bọn cán bộ công sản nằm vùng ở Hoa Kỳ này, có thể đem ra áp dụng để làm suy yếu một lực lượng  chống đối cộng sản mạnh nhất.
                               
                              Có một lần Cha Quỳnh tâm sự rất thẳng thắn với tôi rằng:
                               
                               ‘Chúng tôi là linh mục nhưng chúng tôi cũng là con người như các anh, cũng có những thèm muốn, những đòi hỏi xác thịt như các anh vậy, chỉ khác một điều là chúng tôi giữ vững lời khấn hứa, xin các anh cùng chúng tôi cám ơn Chúa, nếu nguyện xin Chúa giúp chúng tôi ăn ở lọn lành, giữ được ơn nghĩa Chúa.’
                               
                              Những lời tâm sự thẳng thắn này của Cha Quỳnh giúp chúng ta thông cảm được các nỗi khó khăn của các linh mục, nhất là khi chúng ta đang sống ở trên đất Tự Do đầy cạm bẫy này.

                              Trong gần bốn chục năm hoạt động cùng với Cha Quỳnh, tôi kính phục sự thánh thiện, cũng như sự khôn ngoan xử thế và nhất là tinh thần nghèo khó của ngài, và chính nhờ ở tinh thần nghèo khó đó nên ngài đã được mọi người quý mến và khâm phục,
                               
                              Trong thời gian bị Việt Cộng giam tù ở khám Chí Hòa sau khi Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cha Hoàng Quỳnh đã phải trải qua một thời gian hết sức cực khổ, vì Cộng sản đã ngăn chặn mọi sự tiếp tế của giáo dân xứ Bình An. Trong ngục tù ngài đã sống gần như trần truồng vì quần áo rách nát hầu hết và tôi đã được nghe kể lại là trước khi chết ngài đã bị đói rét nên bị ám ảnh là làm sao được ‘gặm một đùi gà’. Cuối cùng Cha Hoàng Quỳnh đã chết trong ơn nghĩa của Chúa ngày 16 tháng 2 năm 1977.
                               
                              Cha Quỳnh đã vác thánh giá của ngài tới cùng, chắc ngài cảm thấy sung sướng vì ngài được chết như Chúa Cứu thế đã chết trần truồng trên Thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ. Xác của Cha đã được chôn trong một ngôi mồ vô danh trong khám Chí Hòa và Cộng sản đã cấm giáo dân xứ Bình An gần Sài Gòn không được làm lễ giỗ ngài vì chúng cho rằng: ‘Hoàng Quỳnh phản bội Tổ Quốc, phản bội nhân dân, nên mất linh hồi rồi, không được làm lễ giỗ nữa’. Đúng là giọng điệu láo khoét của tụi Cộng Sản vô thần!!!

                              (còn tiếp)
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 35 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9