XÁC NHẬN CHÂN DUNG ĐẠI THI HÀO PNT QUA LĂNG KÍNH NGÀN NĂM THĂNG LONG
XÁC NHẬN CHÂN DUNG ĐẠI THI HÀO THI CA HIỆN ĐẠI VN PHẠM NGỌC THÁI QUA LĂNG KÍNH ĐỐI CHIẾU NHỮNG THI PHẨM NỔI TIẾNG NGÀN NĂM THĂNG LONG Tuyển phẩm bình luận này do Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên GV Trường ĐH sư phạm soạn ra - Nhân văn chỉ là người post lại Nguyễn Thị Hoàng Nguyễn Thị Hoàng từng viết một bài bình luận: "PHẠM NGỌC THÁI CÂY ĐẠI THU - ĐẠI THI HÀO CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VN" Tiểu phẩm ấy cũng đã được gửi tới "Quốc hội & Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" Ngày 4.9.2021 - Theo email các cơ quan: Văn phòng Quốc hội - Ban chấp hành Đảng QH - Ban chấp hành Công đoàn QH - Hội nhà báo QH - Ban Tuyên giáo Trung ương - Lãnh đạo văn phòng QH... Cùng số tổ chức khác trong Chính phủ. (Nội dung như sau" * Trước hết xin trả lời câu hỏi? Tại sao lại kết luận: A. PHẠM NGỌC THÁI CÂY ĐẠI THỤ ĐẠI THI HÀO CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VN
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái Tôi từng bình luận: Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, tồn tại muôn đời trong nền văn học nước nhà - Đó là loại thơ có đẳng cấp cao nhất! Không kể Kiều bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay trong thi đàn Thăng Long xưa nay, như: Đèo ngang của BHTQ / Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương / Thương vợ - Tú Xương / Thu điếu - Nguyễn Khuyến / Tràng Giang - Huy Cận / Tranh lõa thể - Bích Khê / Tương tư - Nguyễn Bính / Đây thôn Vỹ Dạ; Mùa xuân chín; Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử / Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH. / Thuyền và biển - Xuân Quỳnh / ... Những thi phẩm thật hay của Phạm Ngọc Thái đối với ngàn năm văn hiến Thăng Long, khoảng chục bài: * Sáng thu vàng / Em về biển / Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối / Anh đứng nhìn theo bóng chim câu / Người đàn bà trắng / Váy thiếu nữ bay / Chuyện về hai ngôi mộ cha con mai sau / Nhìn trăng nhớ em / Khóc Hàn Mặc Tử... (Xem trong tập “64 bài thơ hay”) Nói về những bài thơ đặc sắc khác của anh thì nhiều lắm! Nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc, trong tiểu luận: “Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ tình lớn của dân tộc”, đã viết: - Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh được hòa trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Điển hình là thuyết " tương ứng cảm quan" của nhà thơ tương trưng bậc thầy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) lúc đó chủ xướng ". ( Trích Tập " Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại ", 2014 ) Chưa từng có thi nhân nào trong ngàn năm văn hiến Thăng Long viết được nhiều thơ hay như thế, nhất là thơ tình. Mỗi bài hay một vẻ nhưng đều vụt ra từ trong sự rung động sâu sắc - Xin kể ra vài chục bài tiêu biểu: * Khoảng trôi trong lá; Em bán xoài; Em sống mãi bên anh; Đất nước tôi yêu; Mẹ quê hương; Người thôn nữ miền sông nước; Tiếng hát đời thường; Làm ma em vợ; Phố thu và áo trắng; Xem tranh bán lõa thể; Trước Núi Mỹ Nhân; Khóc bên Hồ Núi Cốc; Cô quét lá đêm hồ; Em ơi! Thành phố lại mưa; Anh vẫn ở bên Hồ Tây; Một góc Hồ Tây; Con đường phượng đỏ; Nghe tin em sốt; Ký ức mùa thu; Vĩnh biệt con yêu; Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ; Đêm tóc đá; Em là người tình của lính; Đêm nay trời lại không mưa; Biển hát; Sáng xuân nay; Tạ tội trước tình yêu; Trái tim tan vỡ; Thời áo trắng ... Chưa nói đến cả "Tuyển thơ chon lọc", Nxb Hồng Đức 2019 của Phạm Ngọc Thái? Một Tuyển thơ dày 368 trang với trên 200 bài thơ chọn trong đời thi ca, là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực đến tượng trưng pha màu sắc thơ siêu thực... Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo ra vô vàn những áng thi huyền thẳm, đặc sắc. Dựng lên như cả " Trường thành thi ca" đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. Đều thuộc trong dòng thơ có khả năng sống trường cửu với thời gian. KẾT LUẬN: Trong ngàn năm văn hiến Thăng Long, chưa có thi nhân nào để lại được cho nền thi ca của nước nhà, một Tuyển Thơ tầm vóc cao và hay như thế! Trừ Kiều bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du. NÓI THÊM VỀ TẬP THƠ “CHA KHÓC CON”, Nxb Hồng Đức 2020. Do một nỗi đau đột ngột đến với cuộc đời? Ngày 22.7.2019 đứa con trai yêu quí của thi nhân mới 27 tuổi xuân, bất ngờ bị đột quị - Lòng người cha đau đớn, tưởng như không còn đủ sức chịu đựng. Trong sự đau thương vô bờ, những dòng thơ, trang thơ khóc con được viết bằng máu và nước mắt của một người cha thi nhân kiệt xuất ấy, trào ra... Và... Phạm Ngọc Thái đã để lại cho nền văn học nước nhà một thi phẩm “khóc" vào hàng hay-hiếm-độc-lạ - Có thể nói: Đó là một "Tuyệt phẩm thơ khóc" vô giá, có một không hai trong ngàn năm Thăng Long. B. NHẤN MẠNH CÁC TÁC PHẨM TRONG SỰ NGHIỆP VĂN HỌC Nói về sự nghiệp văn học của Phạm Ngọc Thái - Hơn ba mươi năm vừa công tác và lăn lộn cuộc sống mưu sinh, vừa lao mình vào sáng tác. Đến nay, anh đã cho ra đời gần hai mươi tác phẩm các loại: - 11 tác phẩm thơ và bình luận văn học - Hai tiểu thuyết: * Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm
* Chiến tranh và tình yêu - Bộ tiểu thuyết hai tập, có tính lịch sử về cuộc chiến tranh đánh Mỹ của dân tộc. - 5 vở kịch nói sân khấu: Hai dài ba ngắn. Ở lĩnh vực nào Phạm Ngọc Thái cũng đạt được tác phẩm có tầm vóc. * Năm 2014 anh cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại": Tác phẩm dầy 372 trang với 120 bài thơ tình, 34 bài tiểu luận của các tác giả là những văn nghệ sĩ, nhà giáo... bình thơ đặc sắc, thơ hay và chân dung. * Đến 2019 nhà thơ lại cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên. Với hai thi phẩm tầm vóc này, Nguyễn Thị Hoàng tôi nhận định: " Tập Nhà Thơ Lớn của anh ra đời đã bảy năm (tính đến 2021), giữa văn đàn của Thủ đô ngàn năm Văn Việt - Đến nay vẫn hiên ngang phát quang trong đương đại. Ngày càng được khẳng định chân giá trị của tác phẩm. ... Qua tháng năm, con đại bàng thi ca Phạm Ngọc Thái vẫn tung cánh bay ngày càng cao, càng bay xa ". Và nhấn mạnh: " Phạm Ngọc Thái đơn thương độc mã, không ô lọng che dù, không người nâng đỡ - Người chiến binh đã qua cả một giai đoạn dài cuộc chiến tranh xưa? Giờ trên con đường thiên lý của sự nghiệp thi ca, con chiến mã lại từng bước, từng bước... rồi phi lên tận đỉnh ngọn thi sơn của thi ca hiện đại Việt Nam". C. NHÀ THƠ CCB TÀI NĂNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ANH HÙNG Phạm Ngọc Thái thời chiến tranh Thi nhân Phạm Ngọc Thái là một CCB từng chiến đấu cả chục năm trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ, qua các Trung đoàn 209, Sư 312, Quân đoàn 1 - Trung đoàn pháo 40 - Trung đoàn 48, Sư 320, Quân đoàn 3 Tây Nguyên. Anh đã theo trọn cuộc chiến tranh đánh Mỹ, đến tận ngày giải phóng Sài Gòn 30.4.1975. Mỹ rút về nước. Anh thuộc lớp sinh viên, trí thức yêu nước của những năm sáu mươi thế kỷ trước, tự nguyện từ bỏ mái trường đại học, theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, lên đường cầm súng ra chiến trường đánh giặc. Ngót mười năm chiến trận: Nhà thơ cựu chiến binh Phạm Ngọc Thái đã ba lần bị thương, ba lần đổ máu. Anh được tặng thưởng 5 huân chương chiến công và kháng chiến, danh hiệu dũng sĩ cùng nhiều hình thức khen thưởng. Kính thưa: Quốc hội và Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Trong bối cảnh hiện nay, Trung ương đang tập trung hết sức vào công cuộc phòng chống đại dịch covid-19. Song, chúng tôi gửi để thông báo cho Quốc hội và Chính phủ biết rằng: - Nền thi ca hiện đại của ngàn năm văn hiến Thăng Long chúng ta hôm nay, đã có Đại Thi Hào !!! Thi nhân Phạm Ngọc Thái lại là một CCB của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Anh đã cống hiến cả tuổi trẻ và máu xương mình cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc! Anh xứng đáng được Nhà nước và Chính phủ quan tâm !? Hơn nữa, với chân dung của một Đại thi hào, một khi đã được Nhà nước và Chính phủ vinh danh – Thi nhân còn mang đến cho nền văn học hiện đại của Việt Nam chúng ta hôm nay, niềm tự hào đối với cả thế giới này. Viết tai Thủ đô của ngàn năm Thăng Long 9.2021 Nguyễn Thị Hoàng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.07.2022 17:42:05 bởi Nhân văn >
BẨY BÀI THƠ TÌNH HAY HÀNG TUYỆT PHẨM THI CA CỦA PHẠM NGỌC THÁI (Trích tập “64 bài thơ hay”, Nxb Hồng Đức 2020) Nguyễn Thị Xuân Cô giáo Nguyễn Thi Xuân - GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội đã giới thiệu, về "Bảy bài thơ tình hay hàng tuyệt phẩm thi ca" của Phạm Ngọc Thái. Nhà giáo Tuyết Nga - GV Trường ĐH Khoa học Xã hội Nhân văn còn nhận định: - Phạm Ngọc Thái người viết thơ tình hay nhất thời đại !!!
Nhà giáo Tuyết Nga Trước hết xin giới thiệu với bạn đọc Bảy hàng thơ tình bất hủ đó !!! Rồi tới Nguyễn Thị Hoàng sẽ có những phân tích sau: 1. SÁNG THU VÀNG Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió (Kỷ niệm Bích Đào) Gặp lại em một sáng thu vàng Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố Với trời xanh, hồ xanh gió Gió đưa làn tóc em bay... Sáng thu này trĩu cả hàng cây Đô thành dịu mát Ông lão ngồi bên gốc cây, bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời Bà xúc tép váy khều khào nước Một thời xa lắc Em nghiêng chao về một thời xa
Người con gái đã thành chính quả! (phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha) Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà... Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở... Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ Và trái tim cũng không còn.
Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang Những con đường xưa tắm hơi em Môi em cười... hoa lá nát đau thêm Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh
Một mùa thu lá lá Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan… 2. NHÌN TRĂNG NHỚ EM Tặng Ánh Tuyết Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé Nhưng lòng tha thiết yêu thương Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng Cả tới khi không còn trăng nữa Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ Đưa anh vào giấc mộng ru đêm Để cùng nhau say cảnh thần tiên Cho quên hết biển đời ngang trái Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi Chân trời sẽ lụi tàn nếu chẳng có tình em Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn Đêm nằm thao thức vấn vương Thần thánh hiện hình trong một mảnh trăng em Dìu anh qua phong ba, bão táp Giữa giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt Anh bay về ôm lấy em thương Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến Chẳng đảng phái nào sánh được hơn Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con" Sống mãi muôn đời dù thay bao chủ nghĩa Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm. 3. VÁY THIẾU NỮ BAY Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên Nguyễn Du *
Váy thiếu nữ bay để ngỏ Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở Tìm vào cung cấm của em “Bờ bãi con người” em trổ hoa trái ngọt Đến đế vương cũng khum gối cầu mong Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian Có phải đó khúc quân hành nhân loại Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý! Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang. 4. EM VỀ BIỂN Quê em thành phố biển Em về biển để vùi vào trong cát Nỗi buồn nước mắt Những nát tan vòm ngực đã thương đau. Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả... Xô mãi bờ với lá thông reo Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng Mang nỗi niềm, không biết đã đi đâu? “Bờ bãi đời người” - Cuộc sống tình yêu Trái tim nhỏ, em dựng cả toà-sen chân Phật Tổ! Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu... Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải Đôi gót đỏ, ánh mắt nhìn thơ dại Đã thổi thành bão tố ở trong anh Hàng bạch đàn năm xưa còn đó Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây! Nhớ những buổi đón em, bên cổng trường sinh ngữ Tóc nửa bạc rồi. Chỉ thấy gió mưa bay... Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi! 5. ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI Em nói với tôi rằng: “Muốn có một đứa con…” Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm Năm tháng dáng hình em hiển hiện Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi! Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em! Chỉ hóa kiếp mình, tiếp cuộc trường sinh Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ Với mối tình nồng thắm của em yêu Nếu giây phút nào, em lạc bến cô liêu Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc Khi về già, có vợ vẫn cô đơn. Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu. 6. ANH ĐỨNG NHÌN THEO BÓNG CHIM CÂU . Tặng người nữ sinh của thời yêu Mấy chục năm rồi, em ở đâu? Ơi, người con gái của thời yêu Chiều nay thành phố trong mưa lạnh Anh đứng nhìn theo bóng chim câu Kìa! Dáng hình xưa lại hiện về Gót thon bước nhẹ dưới đường quê Gió bay mái tóc hương thơm ngát Để cả trời xanh phải đê mê Tiếng hát ai đưa vọng bên hồ Đã xa năm tháng hãy còn mơ Mắt em thăm thẳm soi làn nước Tận đáy hồn anh cứ ngẩn ngơ Chiều nay mà ngỡ buổi chiều nao Vẫn đến trường em lối cổng vào Đón cô thiếu nữ xinh xẻo ấy Chạy đến bên anh tủm tỉm chào Thôi thế, hết rồi - Bé yêu ơi! Bụi cát lầm lên phủ cuộc đời Giá em mãi tuổi đôi mươi nhỉ Và anh cũng đừng vội già người Mấy chục năm trời, em ở đâu? Anh đứng nhìn theo bóng chim câu… 7. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy... Tặng Bích Đào *
Chiếc mũ trắng mềm, em đội bầu trời Khóm mây trắng bay, nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Em đi, về... chao những hàng cây Hồ gió thổi lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Xoã ngang vai mái hất tơi bời Nỗi niềm thao thức Những đêm trăng nước... Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Đường xưa đó về đây, em ơi! Những con đường đã đầy xác lá rơi Xác ve, xác gió và xác của mưa. Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi, suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.10.2022 19:00:35 bởi Nhân văn >
THẨM ĐỊNH NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA PHẠM NGỌC THÁI QUA LĂNG KÍNH CÁC THI PHẨM NỔI TIẾNG TRONG NGÀN NĂM THĂNG LONG
Nguyễn Thị Hoàng Nguyễn Thị Hoàng từng bình luận về thi ca như sau: - Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, tồn tại muôn đời với nền văn học nước nhà. Thơ của mọi thời đại - Đó là loại thơ có đẳng cấp cao nhất, như:
Đèo ngang của BHTQ / Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương / Thương vợ - Tú Xương / Thu điếu - Nguyễn Khuyến / Tràng Giang - Huy Cận / Tranh lõa thể - Bích Khê / Tương tư - Nguyễn Bính / Đây thôn Vỹ Dạ; Mùa xuân chín; Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử / Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH. / Thuyền và biển - Xuân Quỳnh / ...
Nghĩa là: Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thi ca, hoặc một bài thơ hay? Trước hết, phải nhận định bài thơ đó có khả năng tồn tại, sống lâu dài với ngàn năm văn hiến Thăng Long hay không? Nếu bài thơ hoặc tác phẩm thi ca mà không có khả năng sống trường cửu với thời gian: Đó chỉ là thứ thơ để cổ động phong trào, văn nghệ nhất thời, rồi sẽ ra... "rác" - Hay như Gớt nói, tầng tầng bụi phủ... Bởi thế những bài thơ hoặc tác phẩm tôi đem ra minh chứng trong này, đều thuộc loại thi ca có khả năng sống mãi với nền văn học của nước nhà. I. THƠ MÙA THU TUYỆT HAY CỦA NGÀN NĂM THĂNG LONG Có hai bài thơ mùa thu nổi tiếng nhất xưa nay trên văn đàn nước Việt !!! Thơ mùa thu thời hiện đại, tôi chưa thấy có bài nào vang lên được như thế? 1. "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo. 2. "Cảnh thu" Hồ Xuân Hương: Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa, Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ, Xanh om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ, Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
BÀI THƠ MÙA THU HAY NHẤT CỦA PHẠM NGỌC THÁI SÁNG THU VÀNG
Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió
(Kỷ niệm Bích Đào)
* Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây,
bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa
Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.
Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh
Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan… * So với hai bài thơ trên của cố nhân, thuộc loại "thơ mùa thu" hay nổi tiếng trong ngàn năm Thăng Long - Bài "Sáng thu vàng" của thi nhân Phạm Ngọc Thái ? Theo con mắt của Nguyễn Thị Hoàng nhìn nhận, cũng hay ngang ngửa không kém !!! Xứng đáng là hậu duệ đối với các bậc cao nhân của tổ tiên ta. ( Xin mở ngoặc nói thêm: Có một bài thơ mùa thu nữa cũng rất nổi tiếng trong ngàn năm Thăng Long? Đó là bài "Tiếng thu" của cố nhà thơ Lưu Trọng Lư - Trong "Thi nhân Việt Nam" Hoài Thanh đánh giá nó hay vào hàng thi ca nhất! Nhưng rất tiếc, "Tiếng thu" trên thi đàn, có nhiều dư luận cho rằng bài thơ đã sao cóp từ một bài thơ của Nhật? Nhất là từ khi có bài viết của nhà bình thơ Vũ Quần Phương đăng trên báo "Người Hà Nội" ( cũng hơn chục năm nay) nói rằng: Theo GS Phan Cự Đệ cho biết, hình ảnh con nai vàng đạp trên lá vàng khô - Hình tượng đẹp nhất của bài thơ, lại là hình tượng can nai rừng... trong một bài thơ của nữ sĩ người Nhật từ thế kỷ XVI - Cho nên đến nay trên báo chí, người ta không còn nhắc đến bài thơ "Tiếng thu" của cố nhân Lưu Trọng Lư nữa ). Bài "Tiếng thu" đó như sau: Em không nghe mùa thu dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ? Em không nghe rừng thu lá thu kêu xào xạc, con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô? PHẠM NGỌC THÁI CÒN VÀI BÀI THƠ MÙA THU NỮA CŨNG RẤT HAY ĐỀU TỎA ĐƯỢC HƯƠNG SẮC TRÊN THI ĐÀN THĂNG LONG
1. KÝ ỨC MÙA THU Mùa thu khuấy lên bao ký ức Xác thời gian trôi trên tóc em Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió Lá vàng rơi mênh mông. Em đi qua mùa thu không gian Trăng rãi đồi con gái Nhớ đến lâu cái hương con gái Nó thơm say và rất nhẹ nhàng. Đường dạo ấy trên đồi trăng sáng Đêm chia tay em dúi cả vào anh Để bóng lạc suốt đêm ngoài phố Mây lãng phiêu mãi không về… Giờ đây chắc trên đồi thông đó Gió vu vi và trăng vu vơ Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió Mùa thu lang thang chẳng bến bờ.
"Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019 2. PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG Tà áo trắng em đi qua phố Mùa thu rơi phủ mắt anh Tà áo trắng của người sinh nữ Anh nhìn xác phượng khóc rưng rung. Chỉ còn lại con tim rớm đỏ Áo quệt vào, máu rỏ hai tay… Ôi, mùa thu mùa thu êm ả Sao lòng anh tơi tả thế này? Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc Lang thang vài cánh bướm bơ vơ Áo trắng in ngang trời - sét đánh! Lưỡi dao nào cào nát tim thu? Anh cũng có một thời bên áo trắng Cũng bế bồng và cũng đã ru em Cái thời ấy chìm vào xa vắng Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang. Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ Câu thơ nẩy những bông hoa buồn Thôi, đừng hát để ướt lòng thiếu nữ Em đi rồi! Anh chết cả mùa đông.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.07.2022 12:48:03 bởi Nhân văn >
II. THƠ KHÓC TANG LƯU TRUYỀN TRONG NGÀN NĂM THĂNG LONG Khóc Dương Khuê Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau; Kính yêu từ trước đến sau, Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời? Cũng có lúc chơi nơi dặm khách, Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo; Có khi từng gác cheo leo, Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang; Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp, Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân. Có khi bàn soạn câu văn Biết bao đông bích, điển phần trước sau. Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn, Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời; Bác già, tôi cũng già rồi, Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là! Muốn đi lại tuổi già thêm nhác, Trước ba năm gặp bác một lần; Cầm tay hỏi hết xa gần, Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can, Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác mấy ngày; Làm sao bác vội về ngay, Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời. Ai chẳng biết chán đời là phải, Sao vội vàng đã mải lên tiên, Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua. Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai, ai biết mà đưa; Giường kia treo cũng hững hờ, Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở, Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương; Tuổi già hạt lệ như sương, Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan! Nguyễn Khuyến A. THƠ KHÓC TANG HAY BẬC NHẤT THỜI HIỆN ĐẠI CỦA PHẠM NGỌC THÁI KHÓC HÀN MẶC TỬ Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết Khóc gió mưa, cây cỏ đến chân trời Khóc tạo hoá: Từ thiên và địa Rồi khóc người: Đời, con tạo quay chơi... Hàn Mặc Tử ơi! Ớí, Tử ơi! Sống chơi vơi cũng giống người Khác chi là con chim cánh lá Giọt thơ này hoà lệ máu tôi rơi. Nơi Tử nằm trong mồ hoa thơm nở Đầu Tử gối lên sườn sóng gió Với sao sương vằng vặc trăng ngàn năm Nỗi đau đè nặng cõi dân gian. Hỡi biển Đông, núi cao Gành Ráng Thơ của Tử mai sau còn sáng láng Sóng nước non, non nước vỗ ngày đêm Quạnh hiu buồn, rờn rợn bóng thi nhân. Ngồi đọc Tử, tim vỡ toang máu đỏ Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió Chúa ở đâu? Thượng đế có trên đời? Người Thơ Xưa hoá chốn nao rồi… Thì tham vọng vinh quang: Ai chẳng muốn? Ngu cũng buồn. Tài lại lắm tai ương. Giữa đời - Nhiều khi phải cười nhăn răng mà sống Thương nhau để mặc lệ rơi tuôn. Tử dù đau nỗi đau ngang bể Nhưng đã có bao người khóc Tử Suy cho cùng: Tuyệt đến thế thì thôi Trên này nhiều chuyện lắm, Tử ơi! Rót mắt thành thơ, khóc Tử lại khóc đời Chúng tôi đang quần cuộc sống Có khi phải tập nén mình như bánh nén Thỉnh thoảng cũng thương nhau, phần lớn chỉ đấu tranh. Niềm sướng đau, khôn dại dại khôn Em gái - Nhà thơ - Nhà chính khách Tuốt tuồn tuột mấy ai không bất trắc Buồn làm chi? Đời, sắc sắc không không. Đời vậy mà. Người thế, chuyện thế gian Suy cùng lý, chẳng gì phải chán Lại thương Tử không được dự phần bon chen, xô lấn Giây phút khóc cho nhau, hoá hạnh phúc lớn trên đời! Hàn Mặc Tử ơi! Ới, Tử ơi! Bao đêm nghiền ngẫm chữ thơ Người Châu rỏ đầm đìa trang giấy trắng Bay về Gành Ráng đẫm hồn tôi. Thắp nén nhang chùa, tôi khấn anh Tài hoa xuất sắc, vóc giai nhân Vung tay búng bút xô báu ngọc Chữ thơ như tuyết, máu lênh đênh. Qui Nhơn biển sóng vỗ mây lừng Tài này, phận ấy! Những bi thương Nay đã yên mình khe nước ngọc (*) Hẹn nhau mai mốt, bữa tương phùng. Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết Khóc gió mưa, hoa cỏ lẫn sao sương Tử có nghe! Thơ Người, tôi viết tiếp Cúi lậy không gian cả tám phương. PHẠM NGỌC THÁI (*) Ý thơ của Hàn Mặc Tử. Từ khi thi nhân tạ thế tới nay, có tới cả trăm bài thơ khóc về Người, song không bài thơ khóc nào hay và thấm đẫm tình thế thái như thi nhân Phạm Ngọc Thái đã khóc.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.07.2022 13:03:27 bởi Nhân văn >
B. TẬP THƠ "CHA KHÓC CON" HAY ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ TRONG NGÀN NĂM THĂNG LONG CỦA PHẠM NGỌC THÁI NÓI VỀ TẬP THƠ “CHA KHÓC CON”, Nxb Hồng Đức 2020. Do một nỗi đau đột ngột đến với cuộc đời? Ngày 22.7.2019 đứa con trai yêu quí của thi nhân mới 27 tuổi xuân, bất ngờ bị đột quị - Lòng người cha đau đớn, tưởng như không còn đủ sức chịu đựng. Trong sự đau thương vô bờ, những dòng thơ, trang thơ khóc con được viết bằng máu và nước mắt của một người cha thi nhân kiệt xuất ấy, trào ra... Và... Phạm Ngọc Thái đã để lại cho nền văn học nước nhà một thi phẩm “Cha khóc con" ( 45 bài) vào hàng hay-hiếm-độc-lạ - Có thể nói: Đó là một "Tuyệt phẩm thơ khóc" vô giá, có một không hai trong ngàn năm Thăng Long. Mở link sau đọc tập thơ: http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=892593 Con Phạm Ngọc Bảo
( 7.3.1992 - 22.7.2019 )
ĐÂY LÀ BÀI TÁC GIẢ LẤY LÀM TỰA ĐỀ CHO CẢ TẬP THƠ
CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU . Con PHẠM NGỌC BẢO Đột quị 22.7.2019 ( tức 20.6 năm Kỷ Hợi ) Gió vi vút ngàn năm thổi vọng Khói sương chiều quấn quít bay đưa Kể rằng: Ngày xửa ngày xưa Có hai cha con nhà thơ, hồi còn sống... * Trời Hà Nội. Cha hay dắt con ra Hồ Tây chơi lắm Vọng bên chùa Trấn Quốc tiếng nam-mô Qua bốn mùa, ngày tháng thoi đưa Đứa bé lớn khôn rồi trở thành sinh viên, thạc sỹ Hai thế hệ ở trong cùng thế kỷ Người cha dần cũng già đi Con lại đỡ cha, chăm sóc sớm khuya Nam mô a di đà Phật! Nghĩa phụ tử trên dòng sông nước Việt Bóng trời Nam in dấu ngày đêm Mây bay, gió thổi triền miên Tình cha con mãi thiêng liêng sống còn. Bỗng một hôm bão giông, sấm sét Cắt người con ra khỏi người cha Lá vàng thì vẫn còn kia Đầu xanh đã bỏ, chia ly trọn đời. Nỗi đau uất rụng rời trời, đất Vì khóc con, cha ngất nhiều phen Hận đời, giận cả địa thiên Đã sinh thượng đế, sao còn ác tâm? Người cha những kêu Quan Âm, Phật Tổ Giúp một tay nâng đỡ sinh linh Dù không cứu được đứa con Thì xin Người đón về trên niết-bàn. Người cha thề ra tay hay bút Viết đoản thiên tuyệt tác lưu danh Con mình vào với sử xanh Bao giờ non nước tan tành mới tan Một đời đã dọc ngang thi phú Hẹn về bên Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du Miếu thờ tôi ở thiên thu Mong hậu thế cho con thơ cùng vào. Vài lời trăng trối trời cao Nay xin để lại rồi chào, tôi đi... Xác người cũng chẳng còn chi Gió đưa đôi mộ vu vi vọng hồn "Tình cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"... Cha PHẠM NGỌC THÁI NHỮNG BÌNH LUẬN VỀ TẬP THƠ "CHA KHÓC CON" 1. Cô giáo Nguyễn Thị Xuân - GV trường THPT Ba Đình viết: - Tập thơ gồm 45 bài, dầy 132 trang sách xuất bản - Đã đươc viết bằng máu và nước mắt của một ngươi cha, khóc đứa con trai yêu quí bị chết vì đột quị khi mới 27 tuổi đời! Chính nỗi đau tột cùng đã tạo nên những cảm xúc tột cùng trong trái tim của người cha: Người cha ấy lại là một "thiên tài thi ca" hiện đại Việt Nam - Bởi vậy thi phẩm "Cha khóc con" của anh đã trở thành một Tập thơ khóc tang "độc nhất vô nhị" trong thiên cổ. 2. Nhà nghiên cứu Hội văn học Nam Hà - Trang chủ Trần Mỹ Giống bình luận: "Xuyên suốt tập thơ 45 bài là cảm xúc tình cảm sâu sắc của người cha khóc con mệnh yểu với rất nhiều góc độ khác nhau, vô cùng cảm động bởi cảm xúc hết sức chân thật của tác giả. Xưa nay khóc cha, khóc vợ, khóc con… cũng đã được một số tác giả thể hiện bằng thơ, nhưng để có cả một xê-ri (45 bài) khóc con trong một tập thì có lẽ, đến giờ, chỉ có nhà thơ Phạm Ngọc Thái làm được - Chắc chắn, Phạm Ngọc Thái phải là một người cha yêu con sâu nặng chân thành và có năng lực thơ ca thực sự lớn! Mới làm được nhiều bài thơ đa tình, đa cung bậc, đa góc độ, khía cạnh mà bài nào cũng rung động người đọc như vậy. 3. Nhà thơ cội gạo Hội nhà văn Hà Nội Nguyễn Khôi, nhận định:
"Thơ khóc nổi tiếng xưa có Đông Hồ khóc vợ, Tương Phố khóc chồng, Tam Nguyên Yên Đổ khóc con... Nay thi sĩ Hà Thành Phạm Ngọc Thái thống thiết khóc con... Hy vọng lưu danh thiên cổ !?" DẪN GIẢI VỀ MẤY NHÀ THƠ NGÀN NĂM THĂNG LONG: 1. ĐÔNG HỒ: Đông Hồ (10 tháng 3 năm 1906 - 25 tháng 3 năm 1969), tên thật Lâm Tấn Phác, tự Trác Chi, hiệu Đông Hồ và Hòa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh. Ông được đánh giá là một nhà giáo, nhà thơ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam. Ông là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ của ông), Lư Khê và Trúc Hà. Đông Hồ sinh tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Thuở nhỏ ông vốn tên là Kỳ Phác, sớm mồ côi cha mẹ, nhờ bác ruột là Lâm Hữu Lân nuôi dạy và đặt tiểu tự cho ông là Quốc Tỉ, tự là Trác Chi. Nhà ông, tổ tiên truyền mấy đời, đều ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, là một thắng cảnh trong Hà Tiên Thập Cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ ông đã lấy hiệu Đông Hồ. NHỚ VỢ HIỀN Chăn gối cùng nhau những ấm êm,
Bỗng làm ngọc nát, bỗng châu chìm.
Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm,
Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm.
Hình dạng mơ màng khi thức ngủ,
Tiếng hơi quanh quẩn nếp y xiêm.
Bảy năm vui khổ, nghìn năm biệt,
Sớm gió chiều mưa lắm nỗi niềm. Đông Hồ 2. BÀI THƠ "KHÓC CHỒNG" NỔI TIẾNG CỦA NỮ SĨ TƯƠNG PHỐ Giọt lệ thu Bao giờ quên được mối tình xưa Sinh tử còn đau mãi đến giờ Giấc mộng tìm nhau tìm chẳng thấy Mênh mang biển hận, hận không bờ Trời thu ảm đạm một mầu Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em Trăng thu bóng ngả bên thềm Tình thu ai để duyên em bẽ bàng Sầu thu nặng lệ thu đầy Vì lau san sát hơi may lạnh lùng Ngổn ngang trăm mối bên lòng Ai đem thu cảnh bạn cùng thu tâm. Tương Phố Từ nỗi đau riêng, nữ sĩ Tương Phố đã viết nên ‘Giọt lệ thu’ bất hủ trong văn đàn Việt Nam. Nữ sĩ Tương Phố sinh ngày 14/7/1900 ở Bắc Giang, nguyên quán ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Bà có tên thật là Đỗ Thị Đàm. Do bà chào đời tại Đồn Đầm xã Phượng Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang nên bà được đặt tên là Đàm để nhớ địa danh ấy (chữ Đàm nghĩa Hán văn là Đầm). TRÍCH BÀI THƠ NỮA TRONG TẬP "CHA KHÓC CON" PHẠM NGỌC THÁI
VĨNH BIỆT CON YÊU . Tưởng niệm con Phạm Ngọc Bảo ( 7.3.1992 - 22.7.2019 ) Bố nhỏ lệ, nhìn con đi biệt tích Dòng đau buồn cắt tự máu tim cha Con ơi con ! Khi con vĩnh biệt bố, mẹ ra đi Thế là hết đời người cha già đau khổ. Già chưa chết mà đầu xanh đã bỏ Ở thiên đàng, con hãy đợi cha lên ! Bố con mình sẽ ôm ấp nhau tới nghìn năm Cha không bao giờ rời con ra nữa. Thôi con ạ ! Kiếp người là bể khổ Con đi rồi, trút gánh nặng vào cha Đứa con yêu, cha thương nhất cõi sơn hà Vài dòng thơ. Cha cầu nguyện vong hồn con siêu thoát. Cha vẫn nói: Con là linh hồn của người cha bất diệt ! Nay linh hồn bỏ đi rồi, cha sẽ sống sao đây ? Trăm lậy con yêu ! Bố quì xuống trước vong linh con, muốn nói rất nhiều Nhưng nghẹn đắng, không thể cất lời khôn được nữa. Viết mấy dòng thơ. Bố, mẹ tiễn con về nơi yên nghỉ 27 năm trời con sống với mẹ cha, bỗng chốc hóa tiêu tan Cha có ở lại chốn trần gian, cũng chỉ là nắm thân tàn Hãy đợi cha, nhanh thôi con yêu ! Sẽ đến ngày cha con ta đoàn tụ. Thơ bố viết, lệ tuôn dòng máu đổ Cái cõi trần khốn kiếp này, tiếc làm chi ! Thôi thì con đi trước. Bố trả nốt tí nợ đời, rồi cũng ra đi Bố sẽ bế ẵm con như thuở còn rất nhỏ. 27 năm sống trên cõi đời. Bố nhìn vận con xấu số Lòng người cha trăm nhát dao đâm Khi con sống, không phút giây nào... Cha mẹ ngừng chăm sóc, thương con Nay con mất, chỉ còn biết sụp lậy trước vong linh... oán than số kiếp... Mấy dòng thơ vĩnh biệt con ! Bố viết ra từ máu và nước mắt Một lần cuối trong đời, run rẩy nhìn khuôn mặt đứa con yêu Hãy đợi bố nghe con ! Rồi bố sẽ đến bên con một sớm, một chiều... Đọc tại tang lễ con 15h... ngày 25.7.2019
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.07.2022 18:51:30 bởi Nhân văn >
III. ĐỐI CHIẾU VỚI NHỮNG THI PHẨM NỔI TIẾNG CỦA HÀN MẶC TỬ Về thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh đã viết trong "Thi nhân Việt Nam": " Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đây.... Vườn thơ của Người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh". Trong tập "Máu hận và cuồng điên", Hoài Thanh viết: "... Trăng, toàn trăng, Một ánh trăng gắt gao, ghê tởm, linh động như một người hay đúng hơn như một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng rú ghê người... Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được... Một tác phẩm như thế.... nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn". Trong thi ca của ngàn năm Thăng Long, Hàn Mặc Tử có ba bài thơ tuyệt hay: "Mùa xuân chín", "Bẽn lẽn" và nổi tiếng nhất là bài.... ĐÂY THÔN VĨ DẠ Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay... Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra... Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà? Hàn Mặc Tử "ĐÂY THÔN VĨ DẠ" CỦA HÀN MẶC TỬ MỘT BÀI THƠ TƯỢNG TRƯNG RẤT MẪU MỰC (Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng viết) Nói về “Đây thôn Vĩ Dạ” (1938) của Hàn Mặc Tử, cũng được viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu - Từ thuyết “tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ Pháp bậc thầy khởi xướng: Thơ diễn tả theo phương pháp loại suy qua quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, thể hiện mọi sự vật bằng biểu tượng. Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng dựa vào cảm thụ từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên ngôn ngữ thi ca nhiều khi mang tính ảo… Những hình ảnh tượng trưng theo thuyết “tương ứng cảm quan” đã xuyên suốt bài thơ của thi nhân - Thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX. Sở dĩ thi phẩm được đánh giá tầm vóc cao như thế (mặc dù cả bài chỉ có 3 khổ, 12 câu), chính vì tính chất tượng trưng ảo huyền của nó. Như Chế Lan Viên từng có suy lý về thơ rằng: Bên kia bờ hư ảo – Bờ thơ (trích Di cảo) Xin phân tích vài nét để làm rõ những yếu tố tượng trưng của bài thơ: * KHỔ THƠ ĐẦU – Bắt đầu vào thơ, thi nhân nhớ lại lời của Hoàng Cúc (người thôn nữ mà Người đã yêu): Sao anh không về chơi thôn Vĩ /- Rồi cảnh quê được hiện lên: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Đó là cảnh thôn hương của nàng, như: hàng cau trong nắng mới; vườn ai mướt xanh như ngọc… Tất cả hiện lên từ trong hồi ức Người – Song, đến câu thơ cuối của khổ: Lá trúc che ngang mặt chữ điền Cảnh ở đây không còn thuần túy chỉ là hồi ức nữa? Hình ảnh thơ qua tư duy thi nhân đã chứa ý nghĩa tượng trưng bên trong? ... “lá trúc” là biểu tượng về làng quê – “mặt chữ điền” theo cách nói của người Phương Đông, chính là biểu tượng cho gương mặt người đàn ông: “mặt chữ điền” - Ý của câu thơ: Thôn Vĩ với thi nhân giờ đây đã hoàn toàn cách biệt (che ngang), không còn gần gũi được như xưa - Nghĩa là, giữa ông và nàng đã hoàn toàn xa cách. Vậy là, cũng bằng hình ảnh tượng trưng nhưng cảnh thơ ôm bọc cả tâm tư, thế giới nội tâm ở bên trong: Con người, cuộc đời, tình yêu? Tất cả đã bị… “cắt ngang” – Chính nhờ những yếu tố tượng trưng sâu xa ấy, tầm vóc thơ càng thêm cao và hay. * KHỔ THƠ HAI – Nói về duyên phận giữa thi nhân và nàng (chỉ là tình yêu đơn phương), giờ đây Người lại lâm bệnh hiểm nghèo, tình càng bẽ bàng, hẩm hiu - Hàn Mặc Tử đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên làm tượng trưng, diễn tả về nỗi lòng Người: Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay... Nghĩa là, em đi đường em… anh đường anh... Duyên phận của đôi ta hết rồi, chỉ đến vậy thôi. Lòng thi nhân buồn rầu ví như dòng nước trôi lặng lờ… hay những bông hoa bắp phật phờ lay bên sông – Chỉ là những hình ảnh tượng trưng mà thơ chứa chất nỗi tình. * KHỔ THƠ CUỐI - Xin nói một chút về hai câu thơ kết: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? “ sương khói mờ nhân ảnh” vừa là cảnh thực nơi thi nhân đang sống heo hút, khói sương… để chữa bệnh ở Gành Ráng, Qui Nhơn – Đồng thời cũng là hình ảnh tượng trưng về thân phận của Người lúc này: “ nhân ảnh mịt mờ như sương khói” – Tâm trạng thi nhân rơi vào nỗi xót xa, trước sự lãng quên của người đời. Sau đó Người buông ra một câu hỏi: Ai biết tình ai có đậm đà? /- Liệu nàng còn nhớ đến ta không ? Bài thơ kết thúc ở đó. Thơ giàu cảm xúc, ai oán mà đằm thắm, chứa chan, thấm đầy lệ. Sở dĩ “Đây thôn Vĩ Dạ” trở thành một áng thi nổi tiếng và được đánh giá cao vậy, chính do nghệ thuật tinh hoa như thế! Ngôn ngữ, hình tượng thơ kết hợp nhuần nhuyễn trong thi pháp của dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” mà tôi vừa nói trên. LIÊN HỆ THI PHÁP BÀI “NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG” CỦA PHẠM NGỌC THÁI . Với “Đây thôn Vĩ Dạ” nổi tiếng của Hàn Mặc Tử Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG Người đàn bà đi trong mưa rơi Chứa một trời thầm như hoa vậy... (Tặng Bích Đào) Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc Đôi mắt em đong những áng mây Người đàn bà trắng! Em đi - về... chao những hàng cây Hồ gió thổi lệch vành mũ đội Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội Xoã ngang vai mái hất tơi bời Nỗi niềm thao thức Những đêm trăng nước... Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai ! Người đàn bà ai mà định nghĩa? Đường xưa đó về đây, em ơi! Những con đường đã đầy xác lá rơi Xác ve, xác gió và xác của mưa Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau! Vết thương lòng không dễ đã lành đâu Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Khúc thơ tình anh lại viết về em Người đàn bà ngậm cả vầng trăng... Phạm Ngọc Thái (Trích Tập 64 BÀI THƠ HAY, Nxb Hồng Đức 2020) Bình luận về “Người đàn bà trắng”, nhà nghiên cứu văn học Trần Đức – Nguyên CB Viện ngôn ngữ và văn hóa dân gian đã viết: “Người Đàn Bà Trắng là một bài thơ tình hay, điển hình, viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Châu Âu. Những yếu tố thơ tượng trưng xuyên suốt khắp bài…”. Tôi xin tập trung phân tích cho rõ nét thi pháp thơ tượng trưng của thi phẩm "Người đàn bà trắng", để thấy mối tương đồng với thi pháp thơ tượng trưng trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ" Của Hàn Mặc Tử. * KHỔ THƠ ĐẦU - Khắc họa chân dung "Người đàn bà trắng" (Tác giả gọi em "người đàn bà", thực ra khi đó em vẫn là một thiếu nữ), anh đã lấy những hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc để miêu tả: Đôi mắt em đong những áng mây, huyền thẳm… Em đi, chiếc mũ vải trắng mềm đội lệch... mây trắng vờn bay trên mái tóc, v.v… Tất cả hình hài nàng đều được tả qua ấn tượng của nhà thơ. Điểm ở thi đàn xưa nay - Thi nhân Bích Khê tả ánh mắt của nàng mỹ nữ trong bài thơ “Tranh lõa thể” nổi tiếng: Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường Xuân Diệu thì mô tả: Mắt em thăm thẳm như màu gió Đều là những hình ảnh tượng trưng. * CÁC KHỔ THƠ SAU - Hình ảnh người thiếu nữ hiện lên trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ: Em đi chao cả những hàng cây bên hồ; gió và nắng tắm lên tấm thân em; mái tóc xoã ngang vai… Tả cảnh nhưng tình thơ rất gợi cảm. Giờ đây trên con đường đã qua, bồi hồi trong ký ức... Nhà thơ chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa – Thiên nhiên trở nên hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian: Đã đầy xác lá, xác ve... cùng xác gió, xác mưa… Khúc tình ca xưa êm đềm sống lại, trong tiếng gọi vọng của thi nhân: Đường xưa đó về đây, em ơi! Hoặc là diễn tả về tố chất người đàn bà trong nàng, hình ảnh thơ được cách điệu: Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai Người đàn bà ai mà định nghĩa? Biểu tượng mô tả tuy ảo, trừu tượng nhưng gợi cảm, xoáy vào trong cảm thức người đọc: Đúng là người đàn bà không thể nào định nghĩa được, trong vũ trụ và cuộc sống con người? Khái niệm thơ mở ra cả một thế giới về đàn bà. Khó có nhà thơ nào tả về người đàn bà sâu xa được như thế. * KHỔ THƠ NĂM - Triết lý về cuộc sống và tình yêu. Thơ được viết như đời: Dù mối tình tan vỡ làm cho cả hai trái tim đều đau đớn? (vì sao tan vỡ thì ta không biết), nhưng: Em không thể trở thành hòn vọng phu mà hóa đá; Anh cũng không đầy mình làm cái anh chàng Trương Chi tương tư nàng Mỵ Nương rồi chết... Hoặc chung tình như nàng Mỵ Châu – chàng Trọng Thủy, nhảy xuống biển tự tử - Thần tượng thì đẹp, nhưng "cuộc sống và tình yêu" trở nên bi đát quá. Họ vẫn phải sống và tồn tại, dù suốt cuộc đời: Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau Khác với các tình thơ khác là thế, khi miêu tả sự chung thủy của các mối tình. Tuy vậy, cũng không làm cho ý nghĩa trong tình yêu của họ xấu đi. * KHỔ THƠ CUỐI – Nhà thơ khắc khoải nhớ về người thiếu nữ xưa? Hình ảnh thiên nhiên đã được nhân cách hóa: Những đêm sao buồn, những đêm gió khát Hình ảnh “sao buồn, gió khát” đều mang ý nghĩa của thơ tượng trưng. Cuối cùng bài thơ đã được kết thúc bằng một câu hình tượng nhất về Nàng: Người đàn bà ngậm cả vầng trăng Chữ “ngậm” mang màu sắc thơ siêu thực: “ngậm cả vầng trăng” – Một thiên tạo đang nép trong tấm thân người đàn bà… hay chính nàng là một vầng trăng !? “Người đàn bà trắng” là một thiên tình ca về "tình yêu và đàn bà" rất mẫu mực của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, viết theo thi pháp thơ tượng trưng thật hay! Tính chất tượng trưng giữa ảo và thực này cũng rất rõ trong bài thơ “Người đàn bà trắng” của Phạm Ngọc Thái. Tôi đã phân tích trên - Thực ra, Hàn Mặc Tử chính là một trong những thần tượng thi ca của Phạm Ngọc Thái. Anh đã chịu ảnh hưởng về hình tượng tư duy thơ của ông khá nhiều. Không ít độc giả và các văn sĩ đã phát biểu rằng: Phạm Ngọc Thái là một phiên bản của thi nhân Hàn Mặc Tử. Đọc trong bài thơ "Khóc Hàn Mặc Tử cũng được in ở tập "64 BÀI THƠ HAY" thì rõ, anh đã viết: Ngồi đọc Tử, tim vỡ toang máu đỏ Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió... Hay là: Tử có nghe! Thơ Người tôi viết tiếp Cúi lậy không gian cả tám phương Chính bài thơ "Người đàn bà trắng" đã chịu ảnh hưởng về thi pháp tượng trưng từ những bài thơ hay điển hình như "Đây thôn Vĩ Dạ" hay "Mùa xuân chín của thi nhân họ Hàn. Nếu tìm hiểu sâu về thi ca và cuộc đời Phạm Ngọc Thái thì thấy: Thơ anh không hề giống với Xuân Diệu, Huy Cận hay Thế Lữ... Mà ngoài Hàn Mặc Tử, anh còn chịu ảnh hưởng cả tính triết lý của thơ Chế Lan Viên - Đối với các thi nhân nước ngoài, anh chịu ảnh hưởng nhiều nhất về giọng điệu thi ca của nhà thơ thiên tài Nga vĩ đại Pushkin, qua bản dịch của Thúy Toàn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2023 16:49:58 bởi Nhân văn >
THI PHÁP THƠ HÀN MẶC TỬ QUA "Mùa xuân chín" MÙA XUÂN CHÍN Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi… Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây… Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? Hàn Mặc Tử Trong tập "Phê bình và tiểu luận thi ca", Nxb Văn hóa - Thông tin 2013 - Khi bình bài thơ "Mùa xuân chín " này, Phạm Ngọc Thái đã viết: “Mùa xuân chín” được rút ra từ thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm)... Nhưng đã xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy! Tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp mà HMT đã ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX (dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, Nxb Văn học 1992), là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy - Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng. Về thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập “Những bông hoa ác” nổi tiếng. Ông đã được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng. Baudelaire đã từng định nghĩa trong “Tương ứng”, một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau: Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó những cột sinh linh Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ, Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng … Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng. Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ… Thuyết “Tương ứng trí năng” – Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết “Tương ứng trí năng” của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire. Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng:“Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire…”! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng “Tương ứng cảm quan” của Baudelaire. Trở lại với Mùa Xuân Chín – Những câu thơ: “hổn hển như lời của nước mây”, “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, rồi cả đến câu thơ cuối cùng: “sông trắng nắng chang chang”… đều là những hình ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. ĐỐI CHIẾU VỚI NHỮNG BÀI THƠ HAY MANG MÀU SẮC THƠ TƯỢNG TRƯNG CỦA PHẠM NGỌC THÁI ( Trích trong tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" ) 1. KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ... Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi? Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát? Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi! Hỡi những hàng cây xanh! Những con đường lá đổ! Chỉ dùm ta đôi gót đỏ thời thiếu nữ em xưa… Kỷ niệm về trái tim đau thổn thức Chỉ dùm ta. Nào, chỉ giúp ta đi! Bài hát năm xưa... bên anh em đã hát Giờ đây trong lá nẻo trời nào? Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu? Con đường ta đi có bao đôi trai gái Ai cũng một thời yêu, em nhỉ! Để xa nhau, Để được nhớ, được buồn, được khóc, Được nghe quanh đời những tiếng lá bay theo. Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng… Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo Nhưng vẫn đó: em , anh - cuộc sống Và một mối tình ta đã tặng cho hết thảy trăng sao. * Khi bình bài thơ này nữ sĩ Phương Loan đã viết: ... " Tác giả nhớ về kỷ niệm với một thiếu nữ. Năm tháng qua đi, lá rụng hết lớp này đến lớp khác. Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? Nhà thơ không biết! Chỉ còn lại mặt trăng trên trời với trái tim mồ côi, những làn mây trắng và tiếng lá cứ bay đi xa, xa mãi:
Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát
Giờ đây trong lá nẻo trời nào?
Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng
Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu?
Tình yêu ấy hát trong hư vô và trăng sao, dưới những hàng cây xanh, bên những con đường lá đổ. Khúc tình ca được điệp lại như muốn níu kéo về mối tình đã qua đi:
Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng…
Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
Quấn trong tiếng lá rụng và bóng trăng hư ảo trên trời: “Khoảng trôi trong lá" là một bài thơ tình da diết máu tim, được viết bằng thứ ngôn ngữ giàu hình tượng mang màu sắc thơ trừu tượng, vẳng ra từ trong ký ức thương nhớ của nhà thơ". Phạm Ngọc Thái trong chiến tranh 2. EM BÁN XOÀI . Viết về người con gái sống kiếp giang hồ đã gặp sau chiến tranh 1975 * - Anh trai mua xoài cho em đi? Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang! Em bán xoài đi đêm trên cát trắng Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh. Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách… Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm! Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm. Linh hồn treo ngoài thế giới em đi Trên những cành dừa hay trong đám mây qua? Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“ Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi Xoài em thơm. Hương toả mát thân người... Ai mua xoài? Còn ai có mua em? Các cô gái đi đêm như các cột đèn Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy... Biển ru ta và ta ru em Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm. LỜI BÌNH: Đó là những thân phận lạc loài, nổi trôi trong bể tình thế thái này. Linh hồn gần như không có nơi bám víu, nhỏ bé và yếu ớt, trong cả biển đời đầy sóng bão: Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
Tác giả tả về cái thế giới mà các cô gái đang đi, đang sống trong đó? Chính là thế giới của chúng ta, nhưng sao nó thật hãi hùng:
Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi...
Phải chăng cái thế giới đó cứ muôn đời vùi dập lên những kiếp cảnh chúng sinh? Phải chăng bài thơ chính là tiếng gào thét, lên án sự tàn ác còn tồn tại trong cộng đồng? Nó giống như con bạch tuộc cứ bủa vây đám dân tình, những lớp người nghèo hèn sống hôm nay không biết đến ngày mai ??? Mặc dù sự tồn tại của thế giới đó chính phải nhờ vào hương thơm trái xoài và sự tươi mát của những người con gái kia:
Ai mua xoài? Còn ai có mua em? Thơ từ những hình ảnh hiện thực chuyển sang siêu thực, cuối cùng chỉ thấy một bờ cát trắng là tồn tại. Những giọt thơ buồn của nhà thơ rơi lên các linh hồn bèo bọt ở chốn nhân quần:
Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách...
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi Bài thơ được kết thúc trong những lời ru, sự cảm đồng của hàng dừa quê hương cùng với nỗi lòng tác giả, bên người con gái bán xoài:
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm. (Trích lời bình của Trần Ngọc Lâm)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.07.2022 17:48:20 bởi Nhân văn >
Nói về "Tuyển thơ trăng", hay "Máu hận và cuồng điên" của Hàn Mặc Tử - Như Hoài Thanh đã từng viết: Đọc thơ Người như đi vào một thế giới rộng rung rinh... càng vào sâu càng hun hút. Không gian dày đặc toàn trăng cả Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng Như bình luận của đời: Một nhà thơ thiên tài nhưng yểu mệnh, một kiếp nhân sinh quá ngắn ngủi lại lắm thương đau. Nhưng có lẽ do những bi thương của cuộc đời dành cho số phận mà từ đó những tinh hoa phát tiết, làm nên những thi phẩm bất hủ sống mãi với thời gian. Trong cái nhìn tổng thể về gia tài thơ ca của Hàn, có thể nhận ra những hình tượng chủ thể mà thi nhân nói đến nhiều: Trăng, máu, cuồng điên... Nhưng đằng sau hiện tượng mật đắng, máu cuồng, hồn điên và đau thương bi hận, thì "trăng" là tư tưởng, hình ảnh xuyên suốt, đậm nét trong thi ca của Người - Bởi thế mới nói rằng: Người đã để lại cho nền văn học của nước non một "Tuyển thơ trăng" bất tử !!! NÓI VỀ "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" PHẠM NGỌC THÁI Vào mùa đông 2019, thi nhân đã cho xuất bản: " TUYỂN THƠ CHỌN LỌC ", một tác phẩm thi ca hiện đại - Sách dày 368 trang với 215 bài thơ tự do hiện đại các loại. Nói về tầm vóc của một tác phẩm thi ca lớn: Nó "lớn" không phải vì độ dầy của tập sách, cũng chưa phải vì số lượng bài "thơ tuyển chọn" nhiều... mà vì cái HAY có được trong các bài thơ, tạo nên Tầm Vóc Lớn của tác phẩm. ( Xin mở ngoặc nói thêm: Bên cạnh Đại thi hào Nguyễn Du và Nguyễn Trãi - Dựa theo tác phẩm " Ba thi hào dân tộc " của Xuân Diệu - Thơ ca Hồ Xuân Hương chỉ vẻn vẹn trong khoảng năm mươi bài, nhưng Bà vẫn được đánh giá thuộc mấy nhà thơ lớn nhất của Việt Nam ). " Tuyển thơ chọn lọc " Phạm Ngọc Thái là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực, đến tượng trưng, nhiều bài pha trộn màu sắc thơ siêu thực - Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi ca giàu cảm xúc, huyền thẳm, sâu sắc. Nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc, trong tiểu luận với nhan đề: PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG MỘT NHÀ THƠ TÌNH LỚN CỦA DÂN TỘC, đã viết: " Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh được hòa trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Điển hình là thuyết " tương ứng cảm quan" của nhà thơ tương trưng bậc thấy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) lúc đó chủ xướng. ". ( Trích Tập " Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại ", xuất bản 2014 ) Đặc biệt là thơ tình của anh, nhà văn Nguyễn Khôi viết: "...Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn tới vài trăm bài.... Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu đã vượt lên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê... ". Hơn hai trăm bài thơ tự do hiện đại trong "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái rất phong phú và đa sắc. Tôi chưa thấy có nhà thơ nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế ! Nếu thống kê thì phải có tới mấy chục bài đạt loại thơ tình thật hay, có khả năng sống trường tồn trong nền văn học nước nhà. Mỗi bài hay một vẻ nhưng đều có thể làm rung cảm trái tim đời ! CHÍNH TÁC GIẢ KHẲNG ĐỊNH VỀ TÁC PHẨM CỦA MÌNH Khi " Tuyển thơ chọn lọc " ra đời - Ngày 26.12.2019, nhà thơ đã gửi một lá thư ( kèm theo tác phẩm ) cho ông PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện văn học Việt Nam cùng Ban chấp hành HNVVN - Khẳng định về tầm vóc "Tuyển thơ chọn lọc" của mình ! Lá thư dài hai trang giấy - Cuối thư, viết như sau: "... với "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái - Nay tôi đã ngoài 70 xuân, sức khỏe cũng không tốt, chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa? Nếu để cho tôi được nói lên tiếng nói từ trong thẳm sâu tâm tư của lòng mình, thì tôi xin nói rằng: Trong văn hiến nghìn năm Thăng Long của nước nhà, nếu nền thơ cổ Việt Nam đã có một Nguyễn Du - Thì thơ ca tự do hiện đại Việt Nam, cũng có Phạm Ngọc Thái: Vâng, tôi tin chắc như vậy! Đó chính là "Tuyển thơ chọn lọc" này.... ". Đây không phải là lời tuyên bố chung chung trong cộng đồng ? Mà là tuyên bố của nhà thơ, trước ông Viện trưởng Viện văn học VN... với bao nhiêu tiến sĩ, giáo sư của Viện - Một cơ quan đầu não Quốc gia nghiên cứu về văn chương ! Đồng thời, trước Ban chấp hành với hàng trăm nhà văn, nhà thơ HNVVN. Với “Tuyển thơ chọn lọc” - Phạm Ngọc Thái có chân dung một ngôi sao sáng của thi ca đương đại Việt Nam - Một đại thi hào của nền văn học hiện đại trong ngàn năm Thăng Long của nước nhà
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.07.2022 18:14:44 bởi Nhân văn >
IV. HAI SẮC HOA TI GÔN BÀI THƠ NỔI TIẾNG QUA CÁC THỜI ĐẠI Hai Sắc Hoa Tigôn Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc Tôi chờ đến với yêu đương. Người ấy thường hay vuốt tóc tôi Thở dài trong lúc thấy tôi vui Bảo rằng: "Hoa dáng như tim vỡ Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi". Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì Cánh hoa tan tác của sinh ly Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng Là chút lòng trong chẳng biến suy". Đâu biết lần đi một lỡ làng Dưới trời gian khổ chết yêu đương Người xa xăm quá, tôi buồn lắm Trong một ngày vui pháo nhuộm đường. Từ đấy thu rồi thu lại thu Lòng tôi còn giá đến bao giờ Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ Người ấy cho nên vẫn hững hờ. Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời Ái ân lạt lẽo của chồng tôi Mà từng thu chết, từng thu chết Vẫn giấu trong tim bóng một người. Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ Và đỏ như màu máu thắm phai. Tôi nhớ lời người đã bảo tôi Một mùa thu trước rất xa xôi Đến nay tôi hiểu thì tôi đã Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi. Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu Gió về lạnh lẽo chân mây vắng Người ấy sang sông đứng ngóng đò. Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng Trời ơi! Người ấy có buồn không? Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ Tựa trái tim phai, tựa máu hồng? Tác giả: TTKh THỬ ĐIỂM QUA THƠ PHẠM NGỌC THÁI TÌM NHỮNG BÀI CÓ PHONG DÁNG TƯƠNG ĐỒNG
Trong tập "Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN", Nxb Thanh niên 2019 - Khi bình bài thơ "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối", cô giáo Nguyễn Thị Xuân - GV trường THPT Ba Đình Hà Nội nhận định đó là một kiệt tác thơ hiện đại !? Bài thơ như sau: ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI Tặng TT. Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con" Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm Năm tháng dáng hình em hiển hiện Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi. Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm. Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu... Thì đời này - em ạ, có trớ trêu Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét Anh hôn lên đôi môi em, như một vầng trăng khuyết Thấy cả bàu trời du ngoạn cõi hồn xanh. Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em! Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ Với mối tình nồng thắm của em yêu! Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau. Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn. Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu... PHẠM NGỌC THÁI Chiều thu năm Mậu Tuất Hà Nội 6.9.2018
CÔ GIÁO NGUYỄN THỊ XUÂN BÌNH NHƯ SAU: Có lẽ đã qua hơn nửa thế kỷ, từ khi trên thi đàn Việt xuất hiện bài thơ tình nổi tiếng: "Hai sắc hoa ti-gôn" của một nữ sĩ ẩn danh, gọi tắt là T.T.KH - Đến nay, lại mới có một áng thơ tình của một nhà thơ đương đại, trong giới văn chương rất quen biết, đó là Phạm Ngọc Thái ! Thơ ca của anh trên văn đàn cũng được nhiều độc giả ngưỡng mộ. "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" mà anh mới cho ra đời trên các trang mạng Việt, đã được đông đảo bạn đọc đón nhận và ca ngợi. Nói một cách công minh: với những ai yêu thích thơ ca, kể cả người khó tính nhất cũng phải khen. Là một nhà giáo làm công tác văn chương, vì quá yêu thích bài thơ tình này - Tôi xin được mang chút kiến thức văn học để luận bình bản tình ca, với độ hay tôi đánh giá là một thiên kiệt tác thơ tình. Cô giáo Nguyễn Thị Xuân - GV trường THPT Ba Đình Hà Nội còn phân tích rất sâu său sắc: " Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" được chia thành chín đoạn, cả thảy ba mươi sáu câu. Tức là, một bài thơ khá dài. Cảm xúc thơ dồn dập chảy trào ra trong trái tim thi nhân, được bắt đầu bằng lời thổ lộ của người tình gái qua ước muốn của nàng. Đọc thơ ta tưởng cứ như là câu chuyện tình đêm khuya, thường phát trên Đài tiếng nói Việt Nam: Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con" Trong tình yêu của người đàn bà, mong muốn có một đứa con... là ước nguyện máu thịt với cả cuộc đời. Ở trong bài "Hai sắc hoa ti-gôn" nữ sĩ T.T.KH cũng từng mô tả hình ảnh của người tình trong mộng, một thưở xa xưa đã bộc lộ tình cảm yêu thương với mình, rằng: Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, Thở dài trong lúc thấy tôi vui, Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ, Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!” Còn trong bài "Anh sẽ về theo dòng lệ em tiếc nuối": Đó không phải chỉ là tâm tình, khát vọng của ái nữ khi nàng mong muốn có một đứa con kỉ niệm mối tình chung của hai người, mà cũng đã hòa trong dòng lệ yêu thương của chàng. Ta nghe, nhà thơ bộc bạch niềm tâm tư sâu kín ấy: Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm Năm tháng dáng hình em hiển hiện Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi ! Nàng đã trở thành ngọn lửa để sưởi ấm trái tim chàng. Đây là mối tình của buổi "chiều cuộc đời", và lại phải sống cách xa nhau - Như tác giả viết: Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn Tóc cũng bạc đôi phần dẫu tim còn khao khát Và anh thổ lộ: Người thục nữ tôi yêu những năm cuối cuộc đời Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm. Câu chuyện tình có vẻ lâm ly. Anh yêu nàng mãn đời, mãn kiếp, cho tới khi chỉ còn là một nấm mồ xanh cỏ - Chà, thơ thật là đẫm lệ ! Tình đời của dòng thơ này chảy ra thấm đẫm máu tim và chất chứa tính nhân văn... trở thành một câu chuyện tình không khác gì truyền thuyết. Với một nhà thơ dành cả cuộc đời để sáng tác thi ca như anh - Tôi thiết nghĩ, không mong ước gì hơn thế nữa ! Thiết tưởng, bất cứ nhà thơ nào cũng phải ao ước mình sáng tác được một bài thơ như vậy. Ngẫm rằng, họ thương yêu nhau không chỉ đến bạc đầu, mà hóa thành kiếp khác vẫn còn yêu". Phạm Ngọc Thái còn một bài thơ nữa, dung dáng cũng từa tựa như phong cách của "Hai sắc hoa ti -gôn" - Ở bài thơ tình này, Nhà giáo Tuyết Nga đánh giá là một thiên tuyệt tác thi ca - Đó là: NGƯỜI THÔN NỮ MIỀN SÔNG NƯỚC Nén hương lòng anh tưởng niệm mối tình em Bóng trúc vắng, làng quê xanh viễn vọng Giọt lệ đắng em hòa cùng anh uống Chốn xa vời người lữ khách đứng dừng chân. Xin để lại cho đời vài khúc ca ngân Nghìn năm sau - Thế nhân ơi, hãy nhớ ! Tấm hình ta cùng nàng một thưở Và cuộc tình nước mắt lẫn yêu thương. Anh không thể mang em theo trọn kiếp thi nhân Giúp em vượt qua đời bể dâu khốn khổ Mai có đến gặp lại anh bên nấm mồ nơi chân trời, xứ sở Xõa tóc mà than khóc cõi dương gian... Anh vẫn chờ em ở dưới suối vàng Ta hãy quên đi thế giới đầy bạo loạn Để cùng em kết trăm năm tình bạn Của tình yêu tự trái tim anh ! Anh vẫn thương em dù duyên phận bẽ bàng Chẳng phải vì em, chẳng phải anh không muốn Nhưng em ạ ! KIỀU đã nói rồi, đó là bể sống... Tình giữa trần ai, nước mắt trộn cơm chan. Dẫu phải biệt xa... anh có hạnh phúc đâu em ? Vẫn biết đời em cũng hòa dòng lệ đắng Ừ, thì trang nam anh khinh thường kiếp nạn Chỉ thương em là phận nữ nhi. Hãy vững bước lên em vào thế giới của ca thi Sẽ giúp em quên mọi điều sầu muộn Anh chỉ tiếc không thể dìu em tới bến... Mong đất trời có Thượng đế đỡ em đi !? * Thơ viết đã dài mà chẳng thỏa nỗi tình si Ta lại cất tiếng gọi tên em: - Người thôn nữ miền sông nước... Mai dân tộc có đặt ta nằm ở nơi nào, dưới gầm trời tổ quốc Hãy đưa mộ nàng về chôn cạnh nấm mồ ta. Để con cháu đời đời cất cao bản tình ca " Không có chiến tranh, chỉ có tình yêu bất diệt ! " Anh sẽ nâng hình em bay trên đất trời nước Việt Vượt qua mọi chủ nghĩa tới muôn năm. Hãy đi cùng anh, mình không chết đâu em Kinh thánh đã dậy rồi: nay chỉ là "cõi tạm" Khi biết vượt qua đủ buồn đau, khổ nạn Mới vào được ngôi đền... - Tòa Thánh của tình yêu ! Ôi ! Người thôn nữ anh thương Cuộc tình mình dù đắng đót bao nhiêu Nhưng hãy nghe lời anh: - Ta được nhiều hơn mất... Đã giúp em nhìn ra nghĩa sống trong bể đời khốn kiếp Vượt lên bão táp, phong ba. Em hãy hòa nước mắt vào viết những bản tình ca Nó vĩ đại hơn các luận ngôn đảng phái Ta sẽ là ánh sao băng trên thiên hà sông núi Anh đợi đón em về trong thế giới bên kia. Tuyết Nga - GV Trường ĐH Khoa học Xã hội Nhân văn NHÀ GIÁO TUYẾT NGA BÌNH: Đây là thiên tình ca từ biệt của một mối tình, một cuộc chia tay đầy nước mắt, song... xem ra hai người vẫn đang còn yêu nhau rất tha thiết ! Vậy, vì một lý do nào đó ta không biết ? Như lời chàng đã than: Anh vẫn thương em dù duyên phận bẽ bàng Chẳng phải vì em, chẳng phải anh không muốn Nhưng em ạ ! KIỀU đã nói rồi, đó là bể sống... Tình giữa trần ai, nước mắt trộn cơm chan. (câu 17 - 20) Nhà thơ đưa câu chuyện của nàng Kiều ra đây để vấn an cho cuộc tình, cũng chỉ có tính chất phóng dụ đó thôi! ta đi vào khổ thơ mở đầu: Nén hương lòng anh tưởng niệm mối tình em Bóng trúc vắng, làng quê xanh viễn vọng Giọt lệ đắng em hòa cùng anh uống Chốn xa vời người lữ khách đứng dừng chân. Đọc bốn câu thơ này, tôi bỗng liên tưởng tới bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, đã viết gửi cho người con gái ở phương trời xa: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thi nhân nhớ đến những hình ảnh về thôn hương, nơi nàng Hoàng Cúc đã ở... Trong bài thơ "Người thôn nữ miền sông nước", Phạm Ngọc Thái cũng nhớ về quê em: Bóng trúc vắng, làng quê xanh viễn vọng "xanh viễn vọng" là màu xanh của sự cách biệt nghìn trùng, xa vời vợi. Hình ảnh " trúc" trong câu thơ của Hàn Mặc Tử: Lá trúc che ngang mặt chữ điền /- là biểu tượng về làng quê. Còn "mặt chữ điền" tượng trưng cho khuôn mặt người đàn ông theo nghĩa cổ phương đông - Câu thơ ý nói đến sự cách ngăn giữa thi nhân với nàng Hoàng Cúc, cả về không gian và trong tình đời. Bài thơ của Phạm Ngọc Thái cũng nói tới biểu tượng "bóng trúc vắng" - Ta chưa biết hình ảnh bóng trúc ở đây, có mối liên hệ thân thiết như thế nào với người thôn nữ miền sông nước kia ? Ý nhà thơ muốn nói rằng: "bóng trúc" ấy với anh giờ đây mãi mãi thành xa cách - Hai cái mảng màu giữa "bóng trúc vắng" và "làng quê xanh viễn vọng" kết hợp với nhau... để diễn tả về sự chia ly giữa anh và nàng, cả về không gian và tình yêu - Tạo nên một sự cách ngăn thăm thẳm. Bài thơ có 12 khổ 48 câu: Hai khổ thơ ba và bốn, nói về sự ân hận trong lòng nhà thơ: Anh đã không thể giúp cho người yêu thoát ra khỏi nỗi khổ đường đời, chỉ đành hẹn với em sẽ chung tình ở kiếp sau: Anh vẫn chờ em ở dưới suối vàng Ta hãy quên đi thế giới đầy bạo loạn Để cùng em kết trăm năm tình bạn Của tình yêu tự trái tim anh! Những dòng thơ ấy thể hiện tình yêu tha thiết trong trái tim chàng, một tình thương trọn vẹn trước sau không thay lòng đổi dạ. Lòng thi nhân da diết bên hình bóng người yêu đến mức độ, mai nếu chết đi vẫn mong được đời chôn chung bên mộ nàng. Chàng hẹn kiếp sau, sẽ cùng nàng kết duyên trăm năm chồng vợ. Đức nhân ái của con người đứng trên mọi tuyên ngôn đảng phái. "Người thôn nữ miền sông nước" không chỉ là một áng thơ tình sâu lắng, nó còn thấm đẫm tính triết luận cõi nhân sinh... mang dáng dấp của một bản hùng ca về "tình yêu và cuộc sống" ! Em hãy hòa nước mắt vào viết những bản tình ca Nó vĩ đại hơn các luận ngôn đảng phái Ta sẽ là ánh sao băng trên thiên hà sông núi Anh đợi đón em về, trong thế giới bên kia. Nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã để lại cho văn đàn Việt một thiên tình ca trác tuyệt, mang tính nhân văn xã hội sâu sắc.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.07.2022 17:00:04 bởi Nhân văn >
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái vừa điều trị ở viện về - Xin đăng mấy bài thơ anh mới làm ở viện !!! Rồi sẽ tiếp tục đăng bài của Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng
TÂM SỰ THỜI THƠ CA NHƯ GIẺ RÁCH Trót đam mê rồi giấc mộng văn chương Vào cái thời thơ ca như giẻ rách Nhiều kẻ làm thơ, người xem lại ít Thiên tài lạc lõng cõi trân ai Bọn đầu trò thì buôn, lắm loại loai choai Giữa đời thường thi nhân thành thất thểu Cao niên đấy mà vẫn đành sống yểu Hổ trong lồng cũi đó thôi !... Cứ vẫy vùng gầm vang trời đất Rồi tới ngày ta xé toạc không trung Sẽ hiền lành về bên Phật ở Tây Thiên Cùng các thánh mây vờn, gió hát Nơi trần thế khói hương tưởng nhắc Làm ngôi miếu bên đường như Lý Bạch xa xưa Rêu phủ bốn mùa, vắng vẻ hoang sơ Với non nước muôn đời không thẹn hổ Thôi, sướng cũng đã nhiều dẫu còn lúc khổ Sắp hết đời vẫn cố kiếm tiền nong Bù cho vợ, con những năm tháng hoài trông Rồi thanh thản ta đi vào kiếp khác Sức đã kiệt, tháng năm gần hết Trông chờ vận lộc trời ban Đem một mảng văn? Mấy chục năm ròng viết lách chốn trần gian Nhượng bớt cho đời. Thánh thần ơi phù hộ !!! Xin để lại thời sau vài lời lỗ mỗ... Bệnh viện E 20.7.2022 CHUYẾN TÀU NHANH Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa (Hồ Xuân Hương) * Dòng suối trong em trào ra từ khe đó Dưới một hang sâu. Nguyệt đỏ. Rừng xanh Nhớ khi buồn em mở để anh xem Hẹn tới lúc anh vào khai phá . Của trời đất dầu to em vừa cả Ai cũng có thời ăn chả, ăn nem Mỗi em lại có một vị riêng Cái của ấy chẳng bao giờ thấy đủ. . Kéo váy toang ra nhẹ nhàng em nằm ngửa Đùi giang cánh hạc tựa trời xanh Một lỗ buông mành cây lá phủ Gang dài em hút tuột vào trong. . Mắt nhắm lim dim. Chôn khẽ động... Khoảnh khắc tan tành cả "em, anh" Sống ở trên đời mà sướng thế Tội gì? Em nhỉ "chuyến tàu nhanh"... . 22.7.2022 THÔI QUÊN HẾT, ĐẤY CHÍNH LÀ HẠNH PHÚC Thơ viết ở bệnh viện Cái kiếp người, cần chi mà nuối tiếc? Nghe hiên nhà hây hẩy gió mùa thu Suy cho cùng, sướng khổ tựa cơn mơ Lúc sướng như tiên, khi lâm hoạn nạn. Đời ta - Thuở trai trẻ vùi trong bom đạn Thoát chết về vượt được lên mây Cánh đại bàng vùng vẫy ngút trời bay Ngẫm sống thế, một đời thôi cũng thỏa. Đậu đến đỉnh thi sơn, xưa nay trong thiên hạ Sánh với tầm mấy bậc cao nhân Về già lại bệnh tật liên miên Sa cảnh mất con, rơi vào hoạn nạn. Tim đau đớn, than mình xấu phận Tại trời hành hay bởi số không may Chốn vô thường họa, phúc ai hay Đời cát bụi, biết bao người thế cả !? Nay đã thành một kỳ nhân thế kỷ Mai ngày non nước ghi tên Kiếp-ta-bà mà sống mãi với quê hương Trên trần thế mấy kẻ đời làm nổi. Ta từng qua "một cuộc người" như phong ba, bão dội Giữa trần gian dựng ngọn núi vô biên Ngàn năm sau danh tiếng vẫn còn thiêng Thôi quên hết, đấy chính là hạnh phúc !!! 19.7.2022 TÌNH CHA CON TỰA NƯỚC NON Tội tình quá, con trai ơi ! Rơi nước mắt Đã bao lần cha khóc thương con Chỉ ước mình có thể chết luôn Theo con đi, quên hết đời trần thế Bao năm sống trong lòng cha ấp ủ Chăm cho con, dậy dỗ lớn khôn Ôi, cái tình máu mủ Thiêng liêng hơn cả ngọn cao sơn. Trái tim cha dày vò, con có biết? Bảo ơi ! Về với cha những đêm khuya khoắt, buồn thương Cố giúp để cho lòng cha thanh thoát Hết kiếp rồi cha sẽ đến với con. Con ơi con ! Cõi người sao khổ thế? Tình cha con sống mãi tựa nước non. 24.7.2022
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.08.2022 17:12:21 bởi Nhân văn >
V. THƠ HAY NGÀN NĂM THĂNG LONG ĐỐI CHIẾU TRONG ĐƯƠNG ĐẠI Nguyễn Thị Hoàng Nguyên GV Trường ĐH sư phạm Nguyễn Thị Hoàng Kể từ 1975 đến nay, sau khi nữ sỹ Xuân Quỳnh của HNVVN tạ thế: Bà đã để lại cho ngàn năm Thăng Long một bài thơ tình tuyệt hay: “Thuyền và biển” – Ngót nửa thế kỷ rồi mà có tới nghìn nhà thơ chuyên nghiệp, không thấy nhà thơ nào viết nổi một bài thơ thực sự HAY như thế nữa ??? Theo con mắt thơ của tôi: Kể từ ông Hữu Thỉnh - Nguyên Chủ tịch HNVVN bốn khóa; Vũ Quần Phương - Nguyên Chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thủ đô, Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN; Nhà thơ Vân Long - Cựu giám đốc NXB Hội nhà văn; v.v... Cả HNVVN đương đại, không nhìn thấy gượng mặt nào khả năng có nổi “Một Tập Thơ” để lại cho nền văn học như cố nữ sĩ Xuân Quỳnh !!! Dù Bà mới chỉ đạt là một nhà thơ sáng giá, chưa được là nhà thơ lớn. Mà đã là nhà thơ? Lúc chết đi, không có thơ để lại cho đời - Nghĩa là “Chân dung = 0”. Hy vọng có nhà thơ Nguyễn Duy (Ông đã bỏ ra khỏi HNVVN từ lâu) – Mai đây may chăng có thể để lại được cho đời một mảng thơ lục bát rất riêng của ông !? Tầm vóc cũng chưa cao. Xin giới thiệu “Chùm bảy bài thơ tình độc đáo & Hay hàng đỉnh” của nhà thơ Phạm Ngọc Thái (Trích tập “64 bài thơ hay”, Nxb Hồng Đức 2020)
1. NHÌN TRĂNG NHỚ EM
Tặng Ánh Tuyết
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn nếu chẳng có tình em
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương
Thần thánh hiện hình trong một mảnh trăng em
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Giữa giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt
Anh bay về ôm lấy em thương
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến
Chẳng đảng phái nào sánh được hơn
Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"
Sống mãi muôn đời dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm.
2. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
Người đàn bà đi trong mưa rơi
Chứa một trời thầm như hoa vậy...
Tặng Bích Đào
*
Chiếc mũ trắng mềm, em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay, nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi, suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
3. VÁY THIẾU NỮ BAY
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
Nguyễn Du
*
Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào cung cấm của em
“Bờ bãi con người” em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm
Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang.
4. EM VỀ BIỂN
Quê em thành phố biển
Em về biển để vùi vào trong cát
Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.
Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả...
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm, không biết đã đi đâu?
“Bờ bãi đời người” - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ, em dựng cả toà-sen chân Phật Tổ!
Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu
Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu...
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ, ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh
Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây!
Nhớ những buổi đón em, bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi. Chỉ thấy gió mưa bay...
Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
5. ANH VẪN VỀ
THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
Em nói với tôi rằng: “Muốn có một đứa con…”
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi!
Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu
Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em!
Chỉ hóa kiếp mình, tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu
Nếu giây phút nào, em lạc bến cô liêu
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn.
Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu.
6. ANH ĐỨNG NHÌN THEO
BÓNG CHIM CÂU
. Tặng người nữ sinh của thời yêu
Mấy chục năm rồi, em ở đâu?
Ơi, người con gái của thời yêu
Chiều nay thành phố trong mưa lạnh
Anh đứng nhìn theo bóng chim câu
Kìa! Dáng hình xưa lại hiện về
Gót thon bước nhẹ dưới đường quê
Gió bay mái tóc hương thơm ngát
Để cả trời xanh phải đê mê
Tiếng hát ai đưa vọng bên hồ
Đã xa năm tháng hãy còn mơ
Mắt em thăm thẳm soi làn nước
Tận đáy hồn anh cứ ngẩn ngơ
Chiều nay mà ngỡ buổi chiều nao
Vẫn đến trường em lối cổng vào
Đón cô thiếu nữ xinh xẻo ấy
Chạy đến bên anh tủm tỉm chào
Thôi thế, hết rồi - Bé yêu ơi!
Bụi cát lầm lên phủ cuộc đời
Giá em mãi tuổi đôi mươi nhỉ
Và anh cũng đừng vội già người
Mấy chục năm trời, em ở đâu?
Anh đứng nhìn theo bóng chim câu…
7. SÁNG THU VÀNG
Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió
Tặng Bích Đào
Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây,
bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa
Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.
Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh
Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan…
PHẠM NGỌC THÁI
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.10.2022 07:29:51 bởi Nhân văn >
VI. THƠ VIẾT VỀ VỢ NỔI TIẾNG CỦA TÚ XƯƠNG THƯƠNG VỢ Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên, hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa, dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc: Có chồng hờ hững cũng như không! Thi phẩm đầu tay của Phạm Ngọc Thái là Tập thơ "Có một khoảng trời": Đây là tập thơ anh viết ở nước ngoài khi còn công tác ở ngành ngoại thương VN - Vào năm 1988, anh được Bộ ngoại thương biệt phái sang Cộng hòa dân chủ Đức (lúc đó Đông Đức chưa bị mất vào tay Tây Đức), làm công tác quản lý các đội Hợp tác xuất khẩu lao động ra nước ngoài kiếm sống. Vào năm 1990 trong chuyến về phép ở quê nhà, anh cho xuất bản tập thơ trên 20 bài chuyên viết về vợ con. Đó là tập "Có một khoảng trời" - Ta hãy nghe lời một nhà thơ viết những lời giới thiệu về tập thơ của anh: " Một người làm thơ chuyên về một vấn đề lao động hợp tác như tập thơ có trên tay tôi đây, mới thật là hiếm. Phạm Ngọc Thái đã đem đến cho tôi một tình cảm sôi động, với nhiều mâu thuẫn chứa chất trong tâm hồn thơ anh. Xa nước là một nỗi luôn ám ảnh, khiến người thơ nghĩ về số phận của nhiều con người rời bỏ quê hương, gia đình và rời bỏ nhiều thứ khác trong những năm tháng của đời mình để đi kiếm sống. Bao nhiêu vật vã tưởng chừng như chính họ - Con người trong cuộc đi này khó có thể vượt qua nổi ! Tôi quen Phạm Ngọc Thái cũng đã đến mươi năm – Thái làm thơ lâu rồi. Những bài thơ từ những năm còn là chiến sĩ binh nhì, xông pha lửa đạn ở Trường Sơn thời chống Mỹ. Thái làm thơ về chiến tranh, thơ về đời sống thường nhật. Đọc những bài từ bẩy, tám năm trước đây: Tôi đã bắt gặp một tâm hồn có nhiều rung động, đau đáu không yên về nỗi bất công mà anh không chịu được – Thơ ấy, ngày ấy Thái làm ra còn hơi sớm. Bây giờ có dịp, nhiều bài thơ trong tập “Có một khoảng trời” đã bộc lộ rõ cái khả năng không yên ấy. “Người đi tìm vàng” để rồi chính họ đã đánh mất bao điều thường tình nhất. Những hình ảnh, cảnh tượng hiện đang từng giây phút diễn ra kinh khủng, ở những nơi của Người đi kiếm sống đó. Không cần phải nói ai cũng rõ cả: Nhưng vấn đề mà thơ Thái đặt ra lại thuộc phạm trù khác cần phải bàn “về một cuộc ra đi”… Qua hình ảnh những người thân thuộc – Nỗi khắc khoải nhớ nhà, nơi dẫu có đi đến phương trời nào – Nếu anh còn là anh thì không dứt lòng được với quê hương. Hơn hai mươi bài thơ – Phần lớn Thái dành tình cảm cho đứa con trai và người vợ hiền của mình. Đọc bài nào tôi cũng thấy Thái hiện lên khá điển hình ở những xúc động nhiều suy tưởng – Vấn đề thơ Thái đặt ra mang được cái tầm có ý khái quát cao, và nhiều câu hỏi về số phận mỗi con người hiện nay - bằng tinh thần trách nhiệm của người cầm bút. ( Trích giới thiệu tập “Có một khoảng trời”, Nxb Hà Nội 1990 ) VŨ XUÂN HOÁT Nhà thơ HNVVN Xin trích một bài thơ đặc sắc Phạm Ngọc Thái đã viết về người vợ của mình: TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG .Thơ viết trên thư gửi về cho vợ Trong một phố nghèo có người vợ trẻ Vẫn đón con đi, về... như thường lệ Vóc em thanh cũng thể mùa xuân Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen Ngôi nhà nhỏ bên đền Gốc đa, quán báo Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*) Đêm hồ nước trăng soi Chiều lá me, lá sấu Cung thành xưa dấu đại bác còn (**) Ôi quê hương! Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Ai biết chiều nay người vợ trẻ Đứng mong chồng bên đứa con thơ Giọt lệ cháy xót lòng, mang sắc xanh thu! Tuyết bạc quê người... Xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy! Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... 2.1989 (*) Gợi lại câu chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở Hồ Tây, gặp ông Nguyễn Trãi. Những vần thơ đối đáp của hai người còn truyền tụng đến ngày nay. (**) Là hình ảnh mặt thành Thăng Long Cửa Bắc, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. Anh Phạm Thành Công - Một độc giả đương thời đã bình bài thơ "Tiếng hát đời thường", có đoạn viết như sau: ... Tiếng Hát Đời Thường là một bài thơ về quê hương. Những hình ảnh rất thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát. Từ căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng đa chùa, cái quán báo trong phố đến cảnh sóng nước hồ Tây... đã được gợi lại bằng câu chuyện cổ. Nàng Thị Lộ từng bán chiếu gon đã gặp ông Nguyễn Trãi và những vần thơ đối đáp giữa hai người. Qua bao hình ảnh mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ. Những đêm trăng hồ, những chiều lá sấu, lá me rơi. Cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa, vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào - thành Thăng Long thất thủ, tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Đó là một bức tranh quê, tiết tấu thơ đầy chất trữ tình. Rồi những hình ảnh sinh sống hàng ngày trước đây mà nhà thơ nhớ lại: Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội. Người chồng ấy vẫn đau đáu nhớ về nơi vợ con đang trông đợi: Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau... Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy! Cái miền quê một thuở nào theo anh ra trận trong cuộc chiến tranh xưa: Miền đã theo tôi vào suốt Trường Sơn Hành quân rừng già, võng treo sườn gió... Bài thơ được viết trong nỗi nhớ mong hiu hắt của kẻ đang lưu lạc ở xứ người. Đó là những tiếng nói yêu thương, xao xiết thường tình chốn dân gian, càng làm cho tình thơ thêm tha thiết: Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca Con sẻ hót mênh mông đồng nước Người hát rong hát vui sân ga... Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát Anh hát cho đời... Anh hát em nghe... Cái tiếng hát đời thường ấy có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo hoặc tiếng gọi đò trên sông trong đêm vắng. Nó máu thịt như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn ngày tám tháng ba. Cũng có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng của những người thân. Ngày ngày ta vẫn từng nghe ở đâu đấy vọng lên thảng thốt, để rồi bay đi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời... (Trích tập "PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại", Nxb Văn hóa - Thông tin 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.09.2022 22:01:07 bởi Nhân văn >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: