Giòng Đời Xưa và Nay - Tuyết Minh
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 32 bài trong đề mục
frank 06.07.2022 02:55:40 (permalink)


Giòng Đ
i Xưa và Nay


Tuyết Minh



Vài Giòng Cm Nghĩ


Cuốn sách “Giòng Đời Xưa và Nay” gồm có những loạt bài của tác giả, Bà Tuyết Minh, đăng trên Bán Nguyệt San Tự Do ở Houston, Texas. Tờ báo là mảnh vườn nhà mà gia đình bà đã mỗi người mỗi tay cùng với thân hữu bốn phương gày được từ hơn một chục năm nay để cung ứng cho nhu cầu văn hóa cho độc giả, ban đầu ở địa phương, về sau lan ra nhiều nơi xa khác.

Bà Tuyết Minh khiêm nhường, không tự cho rằng mình viết văn. Bà cầm bút để kể truyện. Truyện của bà gọi mộc mạc là “Giòng Đời Xưa và Nay”.
Như một lời tâm sự, bà thổ lộ:

“Mười hai năm lưu lc nơi x người, lc lõng trong đi sng văn minh và hoàn toàn d bit, tôi thy mình đang nép dn sang bên l cuc sng. Tôi luôn luôn quay v vi dĩ vãng…. (Làng Tôi, trang 46).

Hiện tượng cầm bút để “quay về với dĩ vãng” có thể nói là một hiện tượng đang xảy ra với nhiều người trong đám lưu dân Việt Nam ở hải ngoại. Tinh thần hoài cổ trước cảnh đời dâu bể lại càng sâu sắc hơn với những người có tuổi đời chồng chất. Bà Tuyết Minh là một trong những người này. Độc giả thấy bà đã kể giòng ký ức của mình trở ngược về đến năm 1927 khi bà mới lên 5 với một vụ cướp ở miền quê mà gia đình bà là khổ chủ. (Tình Bạn Đồng Môn). Bà còn nhớ mãi sự việc một tên cướp “bt mt, chân qun xà cp vi đen đng chn ca. Nó tát tôi mt cái tht mnh đ đ tôi quay lơ ra đt.”

Tâm hồn của bà cũng như bao nhiêu người dân Việt tỵ nạn xứ người “chỉ có một ước vọng trở về quê hương yêu dấu”. Truyện “Làng Tôi” của bà đã giới thiệu cho độc giả những nét khá độc đáo sắc sảo về một “ngôi làng ở bên bờ sông Đáy, thuộc phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.”

Sanh vào đầu thập niên 20, bà Tuyết Minh hiện đang ở lớp tuổi thất thập nên bà đã chứng kiến nhiều cảnh thay đổi của xã hội Việt Nam qua những đợt canh tân và xáo trộn của thời cuộc Pháp thuộc, Nhật thuộc, thời Việt Minh, thời Quốc Gia và Cộng Hòa miền Nam, giai đoạn đầu của thời định cư tại Mỹ… Do đó, những mẫu chuyện đời xưa và nay của bà cứ trải dài qua những mốc thời gian trên từ quá khứ đến hiện tại.

Những mẩu chuyện của Bà Tuyết Minh phần lớn là những ký ức của bà về những nhân vật có thực bằng xương bằng thịt sống chung quanh bà trong tầng lớp xã hội trung lưu tiểu tư sản như cụ giáo Nhàn (Đất Có Tuần, Nhân Có Vận), ông Phán Chi (Thành Kiến Trọng Nam Khinh Nữ), cụ Tống Địch, ông bà Ấm, Phán Tâm tòa Thống Sứ Hà Nội (Chung Thủy), giáo sư Dự và vợ là Bình (Mới và Cũ) v.v… và rất nhiều người khác.

Câu chuyện phần lớn đều là những cảnh cư xử thái độ ăn ở trong khung cảnh ngang trái của gia đình trước ảnh hưởng của những biến chuyển của xã hội bên ngoài: chồng trụy lạc theo đào đĩ, vợ bỏ gia đình học thói mới ăn diện nhảy nhót. Đôi khi, câu chuyện lại hướng về những chàng thanh niên âm thầm hoạt động cách mạng chống Pháp, chống Nhật, chống Cộng Sản, nhưng gương hy sinh âm thầm nhẫn nhục của những ông cha, bà mẹ, người vợ.

Truyện “Giòng Đời Xưa Và Nay” có hai điểm mà ai cũng nhận thấy dễ dàng:

-Truyện viết theo một lề lối cổ điển, chân phương, thực thà, không đưa ra những khúc mắc thầm kín về tâm lý con người, những sự kiện bất ngờ trong đường hướng dựng truyện.

-Truyện luôn luôn “có hậu” vì đoạn kết được gói trọn trong cảnh “trở về”, “đoàn tụ”, sự hối hận của người lầm lỡ, sự tha thứ bao dung của gia đình.

Với chủ trương “văn dĩ tái đạo”, bà Tuyết Minh kể truyện đời xưa và nay không phải để kể truyện giải trí cho độc giả mà muốn đưa ra một suy gẫm của chính bà về một đường lối xử sự mà nghĩ rằng phù hợp với lý tưởng và truyền thống văn hóa của dân tộc (luân lý răn dậy). Chủ trương “văn dĩ tái đạo” của bà Tuyết Minh có thể được minh chứng qua một định nghĩa mà chúng tôi tìm thấy trong cuốn Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ:

“Truyện ngắn: hay đoàn thiên tiểu thuyết, chuyện một hay vài người trong khoảng thời gian của đời họ gồm những việc vui, buồn, éo le, gay cấn, đọc trong vài mươi phút mà có thể học hỏi được việc đời”.

Trước những cảnh xô xát đụng chạm giữa hai nền văn hóa cũ và mới, thái độ của bà Tuyết Minh là Dung Hòa. Bà đả kích thành kiến “Trọng Nam Khinh Nữ” hay “Chồng Chúa Vợ Tôi” của giới hủ nho, nhưng lại đề cao vai trò hy sinh nhẫn nhục, hiều hậu, quả cảm, quán xuyến của những phụ nữ Việt Nam. Bà không chủ trương mù quáng đâm đầu vào nếp sống mới phóng đãng trụy lạc như một số thanh niên Việt Nam đã làm trong giai đoạn của tinh thần bơ vơ không chí hướng của thập niên 30 sau thoái trào của những đợt văn thần khởi nghĩa hay cách mạng. Bà nhắc đến vai trò thầm lặng quả cảm của vài thiếu phụ Việt Nam có chồng hoạt động cách mạng bí mật qua hành động làm giao liên hay buôn súng lậu (Người Nữ Chiến Sĩ).

“Tính tình kín đáo, thêm sc khe do dai, ch đã đem nhng truyn đơn, nhng ch th được ngy trang du kín trong vành khăn đi đu, trong thùng lúa gánh go. Bước chân ch đã đi khp vùng Thái Bình, Nam Đnh, Ninh Bình, Thanh Hóa, đ chu toàn công tác mà anh em giao phó”.

Câu chuyện của bà Tuyết Minh kể có thể nói là toàn những chuyện nhân hậu và đầy tính chất xác thực… Người đọc có cảm tưởng rằng những chuyện bà kể là những đoạn ký ức của bà về những người đã sống chung quanh bà trước đây hoặc là … (biết đâu?)  về một giai đoạn sống của đời bà…

Riêng tôi, thành thực mà nói, hãy bỏ qua nhiều đoạn truyện mà tình tiết dựng truyện mộc mạc về tâm lý của các nhân vật, tôi lại rất thích thú và hồi hộp đọc vài mẩu chuyện đời đầy xác thực kể trên trong cuốn “Giòng Đời Xưa Và Nay”.

Đọc truyện bà Tuyết Minh, tôi thấy không phải đang thưởng thức một món kỳ trân hay sơn hào hải vị mà đang ăn một món ăn thuần túy được hương vị quê hương, đơn sơ nhưng khẩu vị thật là thấm thía.

B.S. Lê Văn Lân


-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------



Mc Lc


-Tình yêu thương truyền thống của dân Việt

-Đất có tuần, nhân có vận

-Thành kiến trọng nam khinh nữ

-Chung Thủy

-Người hiền phụ

-Mới và cũ

-Chuyện bất ngờ đêm ba mươi

-Người mẹ Việt Nam

-Người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa

-Làng tôi

-Tình yêu và nghĩa vụ

-Tình kháng chiến

-Một kinh nghiệm năm Ất Dậu

-Chính sách theo đuôi của Cộng Sản

-Người nữ chiến sĩ

-Vượt trùng dương

-Một giai thoại

-Đời người hai thế hệ

-Tu là cõi phúc

-Hai ngả đường

-Mẹ chồng nàng dâu xưa và nay

-Lỗi thời

-An phận

-Hối hận

-Biết mình biết người

-Hối bất cập

-Sáu mươi lăm năm

-Mội điểm son của phụ nữ Việt Nam

-Hy sinh tất cả cho con cháu

-Người bạn năm xưa

-Tình bạn

-Tình bạn đồng môn

-Hội nhập

-Đi tìm ảo ảnh

-Cậu ấm cô chiêu

-Sự công bằng trong tình thương yêu con cái

-Nạn thiếu niên tự tử, một vấn đề của cha mẹ

-Tình yêu

-Niềm tin

-Trách nhiệm cha mẹ

-Một cuộc đời tận hiến cho tha nhân




1 - Tình yêu thương - Truyn Thng Ca Dân Vit


Từ ngàn xưa, theo một số các nhà sử học, Việt tộc đã có chế độ mẫu hệ. Từ trước năm Chu, các bộ lạc du mục từ phía Bắc tràn qua sông Dương Từ, với sức mạnh săn bắn khống chế súc vật, đã lấn át được các chi bộ Bạch Việt, đem phong tục của họ áp đặt trộn lẫn với văn hóa Bách Việt làm của mình.

Sẵn tính độc tài, anh hùng cá nhân, họ đưa ra những ước lệ tự tôn. Hoàng Đế có tam cung lạc viện, các quý tộc quan lại có nhiều thê thiếp và thị nữ phục vụ. Giá trị của người đàn bà thời đó bị hạ thấp xuống đến một mức tồi tệ. Đại triết gia Khổng Phu Tử đưa ra học thuyết Quân Sư Phụ và Tam Tòng Từ Đức. Ảnh hưởng lan rộng, chế độ mẩu hệ mai một từ đó.

Ngược lại, chúng ta hãy tìm hiểu tổ tiên ta khi lập ra chế độ mẫu hệ cũng có nhiều lý do. Thứ nhất, người đàn bà nhiều tình cảm và bộc lộ nhiều hơn đàn ông. Người đàn bà hay chiều chồng con, ăn nói nhỏ nhẹ, răn dậy cảm hóa con bằng tình thương, nên ta thường thấy nhiều gia đình con cái yêu mẹ hơn cha, kính sợ cha hơn mẹ. Mỗi khi yếu, buồn khổ điều gì, hay cần tiền, vẫn nói hay than thở với mẹ trước vì vẫn tin mẹ sẽ che chở, giúp đỡ. Người con nào cũng tin vào sự bao dung của người mẹ.

Tình mẹ thương con không bờ bến. Người mẹ còn đem nước mắt ra cảm hóa chồng, dù người chồng có lầm lỡ hay lạc đường. Người đàn bà đã đem tình yêu thương mà cảm hóa, thu phục và thứ tha. Theo truyền thuyết, tổ tiên ta là Rồng Tiên. Rồng biểu hiệu cho ý chí cương quyết, hùng mạnh. Tiên là biểu tượng cho quả tim không thù hận, có nhiều tình cảm, nặng lòng yêu thương, hay tha thứ. Có lẽ đó cũng là một lý do phát xuất ra chế độ mẫu hệ.

Tình yêu thương của dân Việt là một truyền thống. Dân ta giàu tình cảm, tuy không bộc lộ ra ngoài nhiều. Từ một ông vua quyền uy nhất nước tới người cùng đinh nghèo nàn, dốt nát, đều biết đến tình yêu thương. Từ phạm vi nhỏ hẹp nhất trong gia đình với bà mẹ nghèo nhà quê khi bóc khoai đã nhường cho con ăn ruột còn mình ăn vỏ.

Người cha không có học, ăn đầu tôm nhường thân tôm ngon cho con ăn. Đó chẳng phải là tình yêu hay sao? Tình yêu thương lan tràn tới xóm làng. Hàng xóm giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi khi có đám ma chay, cưới hỏi, ăn khao… người ta tự động kẻ ít người nhiều đem tiền gạo, đồ vật để mừng, phúng điếu, giúp nhau một cách gián tiếp, để phòng khi nay người, mai ta.

Những khách bộ hành nhỡ độ đường đêm hôm khuya tối, không gặp quán trọ dọc đường (thôn quê rất hiếm quán trọ) gõ cửa xin tá túc qua đêm, khách ít khi bị từ chối. Chủ nhà nhiều khi còn lo bữa ăn cho khách độ đường, rất chu đáo. Về thời nhà Lý, vua Thái Tông một hôm khi tiết trời vào đông, mưa phùn gió bấc, rét căm căm, quay lại thấy công chúa đứng hầu bên cạnh mặc đồ ngự hàn còn cảm thấy lạnh, ngài chạnh lòng thương, ái ngại cho những tù nhân phải giam cầm trong ngục liền phán: “Ta yêu dân như yêu con.” Rồi truyền thị vệ mang áo ấm phát cho tù nhân.

Có yêu thương là có tha thứ. Dùng sức mạnh mà trị người không bằng lấy ân đức mà cảm hóa người. Dầu người ở ác ta vẫn lấy điều thiện mà xử thế. Tình yêu thương mở rộng cánh cửa, mở rộng vòng tay để đón kẻ sai lầm về chốn bình an, tốt lành. Tình yêu có sức mạnh lớn lao mà không có gì có thể cương nổi. Tổ tiên ta gần năm ngàn năm dựng nước, bảo tồn nòi giống với căn bản đùm bọc yêu thương. Thời nào có tình yêu là thời thịnh trị, dân được an cư lạc nghiệp.





2 - Đt có tun - Nhân có vn


Trong gia đình, mỗi người con một tính, xu hướng khác nhau, tiến theo nghề nghiệp, sở thích của mình. Dù đi làm ăn phương xa, gần, hoàn cảnh giàu nghèo, sung sướng hay khổ cực, lận đận cách nào tất cả những con người ấy khi nghĩ về cha mẹ đang ở quê nhà nơi mình đã sinh ra, được nuôi nấng và dậy dỗ đến trưởng thành, đều có một tâm thành mong muốn cha mẹ được sống khỏe mạnh nơi quê hương.

Khi biết quê tổ mình bất an, dù khác chính kiến, mỗi người đều gạt tỵ hiềm cùng nhau trở về vấn an cha mẹ, bảo tồn quê hương, đấy là văn hóa nền tảng lấy gia đình làm gốc, lấy tổ quốc làm trọng.

Dù 1000 năm đô hộ bởi phương Bắc, trăm năm bảo hộ bởi quân Pháp, văn hóa Việt vẫn tồn tại. Tại ương vận nước chưa hết nên một cơn hồng thủy bởi nhóm mặt người lòng thú đem lý thuyết ngoại lai cưỡng trùm lên dân tộc, hòng tiêu diệt nền văn hóa cổ truyền mà các bậc tổ tiên đã có công gìn giữ. Chúng bắt toàn dân theo chủ thuyết tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. Nhưng hồn dân tộc linh thiêng, chúng không thể nào đào tận gốc, bóc tận ngọn được.

Năm 1954, nghe theo lời tuyên truyền hồ hởi, nước nhà độc lập, gia đình cụ giáo Nhàn ở lại. Cụ nghĩ rằng vào Nam chẳng biết sẽ sinh sống ra sao. Ở đâu cũng đất nước mình, lại còn mồ mả, ông bà tổ tiên đưa đi không được, để lại sao đành, lấy ai hương khói, phụng thờ.

Duy, người con thứ hai sau khi đỗ tú tài vào học trường sĩ quan Đà Lạt ở trong Nam. Sau năm 54, gia đình cụ mất liên lạc với Duy. Từ đấy bặt tin tức. Cuối năm 1975, cụ giáo và người cháu nội trai khăn gói quả mướp từ Hà Nội vào Sàigòn tìm con. Tới nơi mới biết con cụ đã bị bắt đưa đi học tập. Cụ cố chạy chọt lo lót, cuối cùng người con đã được về.

Gia đình hội ngộ sau bao năm xa cách. Cụ đã tâm sự với con như sau: “Năm 54, ba và các bạn thân thuộc ở lại đều ngỡ ngàng về chính sách cộng sản tai quái, độc ác mà chẳng dám nói ra. Ba lại thấy những người trí thức bằng cấp đấy mình từ ngoại quốc kéo về cùng với số khoa bảng ở nhà hồ hởi gia nhập chính phủ. Lúc đầu mọi người tin tưởng và rồi tất cả đã chui đầu vào rọ, biết ra đã muộn không có lối thoát.

Dù đói khổ ba vẫn sống trong hy vọng chờ quân đội miền Nam sẽ đánh ra giải phóng miền Bắc. Không ngờ gông cùm miền Bắc đã trói buộc cả miền Nam. Sống bây giờ là hỏa ngục, đời ba chẳng còn bao lâu nữa, gặp con thế là đủ. Ba phải trở về Bắc, con phải hết sức khôn khéo tìm cách ra đi, và hãy tâm niệm lời ba dặn, con hãy dậy cháu cũng như ba đã dậy con những điều trước năm 54.

Ba nhắc lại lần nữa: Yêu người là nhân, giúp người là nghĩa, kính trọng người là lễ, hiểu biết để xử thế sáng suốt là trí và thành thực là tin. Năm đức tính cao quý của người mình, con cháu hãy cố giữ lấy, dù ở đâu người ta cũng kính nể mình. Một điều nữa về anh con và một số người mà ba biết, con thắc mắc là phải. Chỉ vì thân phận cá chậu chim lồng, bị buộc chân buộc cẳng, muốn thoát ra cũng không được.” Chỉ vào người cháu nội, cụ nói:

- Vẫn biết tuổi già có cháu là niềm an ủi, giúp đỡ nhưng ba đã chịu đựng hơn hai mươi năm nay, chúng đầy ải chiếm đoạt tất cả những gì chúng trông thấy từ vật chất đến tinh thần. Chúng bắt nói theo, làm theo, viết theo ý chúng, nhưng còn một thứ quí nhất trong lòng người chúng không hướng dẫn được là tình yêu, tình người, yêu thương giúp đỡ nhau trong bí mật, trong câm nín. Con cứ yên tâm đem cháu đi, đưa được mầm non nào thoát ách nô lệ, ra nước ngoài là dành lại tinh hoa cho đất nước sau này. Ba rất hy vọng con cháu rèn tâm luyện trí hướng về tổ quốc đang đau khổ tủi nhục trong đói rét.

Gió đã đổi chiều, đất có tuần nhân có vận, hải ngoại cũng như nội địa người người đều mong thời thế xoay đổi. Chủ nghĩa cộng sản đến ngày mạt vận. Tại Nga Sô chúng đã lung lay, Ba Lan, Hung Gia Lợi đã nắm được thời cơ. Một Walesa tiêu biểu cho các nước chư hầu trong quỹ đạo Liên Sô. Chúng ta đang chờ một Walesa Việt Nam nổi lên thanh toán chế độ quá khích đó đi.

Với chí nhẫn nại, cương quyết, tinh thần dân tộc còn tiềm tàng trong lòng mọi người mọi người ở nhà và hải ngoại, một ngày không xa sẽ liên kết, quật khởi quét sạch loài quỷ đỏ, kiến thiết lại quốc gia, đem no ấm và thanh bình cho dân tộc.


(còn tiếp)
#1
    frank 11.07.2022 23:04:24 (permalink)

    3- Thành Ki
    ếTrng Nam Khinh N


    “Thân em như tm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”


    Chỉ với hai câu trên đã bộc lộ phần nào cái hình ảnh và thân phận người đàn bà Việt Nam trong xã hội ngày xưa. Thế nhưng địa vị của người phụ nữ trong gia đình Việt thật là quan trọng. Người đàn bà đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng một gia đình và đồng thời dựa vào những căn bản đạo đức - ảnh hưởng Nho học, lễ giáo - mà bảo vệ gia đình.

    Phải nói rằng người phụ nữ Việt là một dũng tướng. Quẳng vào cổ một loạt chữ, nào là nhẫn nhục, chịu đựng, hy sinh, nhưng kiên cường, can đảm, xông pha, phấn đấu trong những trận chiến của cuộc đời để bảo tồn gia đình mình.

    Dù giầu, dù nghèo, người con gái thời xưa phải lo làm lụng đầu tắt mặt tối. Từ những công việc đồng áng, đến những việc trong nhà, chợ búa, về đến nhà là kín cổng cao tường; bên con trai, cha mẹ lo tìm người kén chọn xong nhờ người mai mối. Thường đến khi cưới cô dâu mới biết mặt chú rể.

    Người con gái biết giữ giá trị của mình, dù biết người con trai hào hoa phong nhã, chữ nghĩa đầy mình, cũng đành ấp ú trong lòng vì tự ái. Chỉ có cơ may run rủi một ngày đẹp trời tới coi mắt xin cưới theo đúng phong tục, lể nghi cổ truyền.

    Từ khi giống du mục phương Bắc tràn xuống đô hộ nước mình đã đem chế độ độc tôn áp đặt, cai trị, nhất nhất phải theo chúng, cả đến cái dở dựa vào Tống Nho: tròng vào cổ người phụ nữ. Phải tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, để người đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp, biến người đàn bà thành nô lệ. Cho nên đã đi lấy chồng, người đàn bà nào cũng mong có con phòng khi người đàn ông không còn coi ra gì, trông vào con làm niềm an ủi, khi về già nhờ vào con.

    Tuy nhiên, với giòng giống kiên cường, tinh thần bất khuất, theo phong tục mẫu hệ, cái ách tam tòng ngoại lai do phương Bắc đưa lại cũng không ảnh hưởng là bao. Phần nhiều các gia đình vẫn theo truyền thống Việt Nho, giữ nghĩa trung dung bình đẳng (hai chữ bình đẳng bất thành văn). Có câu:

    “Lệnh ông không bằng cồng bà”

    Bà vẫn là chủ gia đình, còn đối ngoại ông vẫn là chủ nhân. Con cái vẫn phụng thờ “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn đổ ra.” Những răn đe của cha chưa chắc ảnh hưởng bằng lời khuyên lơn của mẹ. Người xưa thường bảo “Phúc đức tại mẫu” là thế. Người đàn bà vẫn là chủ phụ trong gia đình, điều khiển công ăn việc làm, coi sóc, nuôi nấng, dậy dỗ con cái.

    Còn những công việc nặng nề, lo toan, giao dịch ngoài xã hội vẫn thuộc về người đàn ông phải gánh vác. Người chồng vẫn là chủ nhân ông. Sự phân chia, phối hợp thật nhịp nhàng. Xã hội cổ xưa vẫn sống trong sự hòa hợp, tương kính trong vòng lễ giáo. Thời đó nhiều ông cũng lợi dụng cưới thêm có khi tới hai hay ba bà, nhưng bao giờ cũng được bà vợ cả đồng ý. Những bà vợ sau đều dưới quyền bà vợ cả. Với sự tính toán theo chế độ nông nghiệp, có thêm người giúp đỡ công việc đồng áng.

    Những bà vợ lấy thêm này cũng được nhà chồng đem trầu cau dẫn cưới đành hoàng và phải nộp “cheo” theo tục lệ từng làng như đôi bên mang chùm cau, chai rượu đến trình trước mặt ông tiên chỉ (người có uy thế nhất làng) để được danh chính ngôn thuận rồi mới làm đám cưới. Như thế đủ thấy quyền hạn của người đàn bà ra sao trong gia đình Việt Nam.

    Người xưa nói như sau: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Khi còn nhỏ trẻ con như tờ giấy trắng, ông bà (nếu còn), cha mẹ hướng dẫn con cái dậy dỗ điều hay, lẽ phải. Khi dần lớn khôn, có bạn bè, rồi đi học hay ở ngay trong trường đời lúc phải giao thiệp, tiếp xúc với nhiều hạng người tốt đã đành, gặp người xấu mình có đủ năng lực cảm hóa được người ta, đưa về chính đạo, làm cho mình hân hoan thầm nghĩ biết ơn về nền giáo dục gia đình của mình.

    Đấy là con người biết giữ phẩm giá, hay trái ngược lại đã bị tha hóa dần rơi vào vực thẳm trụy lạc đến mất nhân cách, đưa khổ nhục về cho chồng, vợ con, làm ô danh tới ông bà, cha mẹ, dân tộc. Thời xưa cũng như ngày nay, dù những người quan cao, chức cả, những mệnh phụ hét ra lửa, khạc ra tiền, thiếu nhân cách, người ta cũng chỉ nể sợ ngoài mặt, sau lưng vẫn bị dư luận khinh miệt.

    Cũng như ngày nay chẳng ai yêu quý gì những bà, những ông thiếu bổn phận làm con, làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, dù họ có bằng cấp đầy mình, chức tước cao, kiếm tiền nhiều, họ tự kiêu với cái họ có, thử hỏi họ đã giúp gì cho tha nhân, cho tổ quốc? Không thể đánh giá con người bằng vỏ bề ngoài là thế! Viết đến đây tôi lại nhớ đến một mẩu chuyện xưa như sau:

    Ông bà Phán Chi có bốn con: hai trai, hai gái. Con lớn nhất mới 12 tuổi. Gia đình sống trong cảnh đầm ấm, hạnh phúc. Ít lâu sau ông Phan hay đi sớm về khuya, có đêm không về nhà. Vợ có hỏi, trước ông còn cớ nọ, cớ kia. Dần dần ông không thèm trả lời, mặc bà cơm đợi canh chờ. Rồi sự gì sẽ đến đã đến. Một hôm ông đưa về nhà một người thiếu phụ ăn diện chải chuốt, hợp thời trang, giới thiệu với bà là một người bạn, hối hả đi làm cơm để thết đãi, bà Phan Chi vẫn vui vẻ tiếp đãi lịch sự. Được đà cứ mấy ngày ông lại dẫn bà bạn này về nhà để bà phải hầu.

    Tuy hiền nhưng bà đã hiểu dã tâm của chồng và người đàn bà kia tìm cách lấn dần. Một ngày kia ông dở trò vũ phu, thẳng tay đuổi bà đi khỏi nhà. Sức chịu đựng chỉ có hạn, ngay tối hôm đó chờ cho các con ngủ say, ông cũng đang trong giấc điệp mơ màng, bà dựng đầu ông dậy, lấy tay ấn vào trán chồng và bảo:

    “Tôi lấy anh có họ đưa họ rước. Anh cùng tôi lễ trước bàn thờ gia tiên nhà tôi để xin các cụ chứng giám lòng thành, rồi lại làm lễ trước mặt cha mẹ tôi. Cha mẹ tôi chước giám không bắt anh phải lên gối, xuống gối, nhưng sau ba vái anh đã hứa vợ chồng sẽ bắt chước tiên nhân tạo lập hạnh phúc gia đình cho đến mãn chiều xế bóng. Nay ăn ở với nhau đã bốn mặt con, trai có, gái có, anh trở mặt muốn đưa người khác về thế chỗ tôi.

    Này! Tôi nói cho anh biết, nếu muốn ngày mai anh hãy mời đôi bên cha mẹ họ hàng đến đây chứng kiến để các con chúng ta không phải chịu cảnh không cha hay thiếu me, để mọi người nhìn thấy bộ mặt của anh để định lại giá trị, tư cách, nhân phẩm của anh. Còn người đàn bà đó tôi không cần biết, không là gì với tôi cả. Tôi hạn cho tới ngày mai anh phải dứt khoát.”

    Dĩ nhiên, ông Phán Chi cũng hơi lùi. Sau đó bà kể với tôi như sau:

    “Tôi không khóc, không một lời van xin, cứ coi như tình yêu không còn, nhưng còn bổn phận phải bảo tồn thanh danh, chăm sóc con cái, kỳ vọng vào chung. Tôi cũng xoay sở các nghề thủ công từ làm bánh trái đến may thêu, kiếm thêm để bù vào chỗ anh ấy đã rút đi. Với sự cương quyết tôi vẫn giữ cho không khí gia đình bình thường như chưa hề có chuyện gì xẩy ra, các con tôi vẫn ăn học hồn nhiên. Ngày ngày chóng qua, nước trở về nguồn, lá trở về cội, nhưng hạng người ăn chơi đua đòi không đủ tiền cung phụng, tự nó sẽ rời bỏ để tìm nguồn tài trợ khác.”

    Từ câu chuyện này và có lẽ hàng trăm câu chuyện khác tương tự tôi mới thấy xã hội mình rất trọng lễ giáo dù có xẩy ra những sự ngang tai, trái mắt, sự chống đối chỉ thu hẹp trong gia đình một cách âm thấm, tích cực, vẫn có kết quả.

    Vận nước suy vi, chúng ta phải tha hương tị nạn, hội nhập vào miền đất mới, văn hóa mới với thành ngữ “Nhất đàn bà, nhì trẻ em, thứ ba là chó, thứ tư mới đến đàn ông.” Hy vọng chị em phụ nữ vẫn giữ được tinh thần Việt Nho, bình đẳng trong tâm hồn, tương kính như tân, trọng về tư cách, quý về tâm hồn đạo đức, phục về biết giữ phẩm giá con người.




    4- Chung Thủy


    Cuối thu gió heo may rải đồng êm dịu, mát mẻ. Mấy chậu cúc đại đóa vươn những nhánh cây bụ bẫm, xanh mướt, hứa hẹn những bông cúc lớn vàng ứng đầy chậu. Tay cầm cái chép vun đất vào từng gốc cây, trong trí óc suy tư, buồn bã, cụ Tổng Địch nhớ lại xưa khi Tâm, con trai cụ, còn bé. Mong con lớn lên đi học, cụ hết lòng chăm sóc, dậy dỗ con trong tinh thần lễ giáo, đâu có buông tha thái quá. Nay Tâm đã công thành danh toại phải tự hiểu và tự giữ lấy thân. Cụ nay đã già cũng muốn tâm hồn được thanh thản, sống thoải mái những ngày còn lại.

    Tiếng thở dài vọng từ trong nhà. Cụ bà da mặt nhăn nheo theo thời gian, thân hình gầy yếu chậm chạp bê mủng lúa ra sân cho gà ăn. Vừa đi vừa lấm bấm, phàn nàn vì nhớ cháu đã nhắn cho con dâu đưa cháu nội về với cụ và cũng để giúp trông coi vụ mùa ít lâu. Ngờ đâu con mình vì xa vợ, nghe theo bạn bè, có cơ hội sa ngã. Giận con, thương dâu, thương cháu, cụ nghĩ cũng phải một thời gian con mình sẽ nghĩ lại “Nước chảy về nguồn, lá rụng về cội.”

    Tâm là con một, tuy nhà không giàu có, dư thừa nhiều nhưng với sự tần tiện, bố mẹ cũng đủ cung ứng cho Tâm đi Hà Nội học sau khi đã tốt nghiệp trường phủ nơi sinh quán. Kỳ hè về nghỉ ở nhà, ông bà cụ Tổng đã để ý chọn Mai là người cùng làng, cũng là con nhà gia giáo, khuôn phép. Nàng hiền lành, thùy mị rất xứng đôi với Tâm. Tâm cũng rất hoan hỉ được bố mẹ chọn cho mình người phối ngẫu có nhan sắc, đức hạnh. Tuy chưa học xong nhưng nhà neo người, ông bà Tổng nuốn có cháu sớm nên xin nhà gái cho cưới theo tục lệ.

    Năm sau học xong, Tâm được bố làm ở phủ Thống Sứ Hà Nội. Đôi Tâm-Mai sống rất hạnh phúc. Đứa con trai đầu lòng càng làm tăng hạnh phúc lứa đôi. Hai cụ Tổng Địch sống hiu quạnh ở quê nhà nên lâu lâu Mai lại đưa con về chơi với ông bà nội cho đỡ nhớ. Tới vụ mùa, Mai thu xếp về quê nhà coi sóc, giúp đỡ cho bố mẹ chồng. Những dịp xa vợ con, bạn bè hay rủ Tâm đi chơi, tới nhà các bạn tập đàn, tập hát.

    Trong số đó bạn bè thường rủ Tâm đến nhà Yến. Bố mẹ Yến là người mê cờ bạc đến sa sút Chẳng làm ăn gì chỉ trông vào các khách tới nhà chơi, cờ bạc, tài bàn, xóc đĩa, tổ tôm, để lấy tiền hồ bởi vậy các con ông bà không được dậy dỗ, muốn sống buông thả thế nào cũng được. Con trai, con gái lớn xuýt xoát bằng nhau. Học hành lấy lệ và đua nhau ăn diện. Họ thường tổ chức khiêu vũ, mời các bạn tới nhà đàn hát hay rủ nhau đi chơi.

    Chi phí đã có những ông bạn xộp chia nhau gánh chịu. Nay anh này mai anh khác. Rồi đến lượt Tâm cũng tỏ ra hào hoa, rộng rãi. Vợ con ở quê nhà, không phải mang tiền về nên sẵn tiền Tâm hay rủ bạn kéo tới nhà ông bà Ấm để gặp bọn Yến, Xuân, Lan. Cô nào cũng ăn diện theo thời trang, nhan sắc khéo tô điểm lại vui vẻ săn đón. Lâu dần Tâm cảm thấy ngày nào không đến gặp các cô lại thấy nhớ nhung, bứt rứt.

    Thâm tâm ông bà Ấm biết gia đình chỉ sống bằng nghề cờ bạc bấp bênh, con cái lấy gì học đến nơi đến chôn. Con gái khó kiếm được chồng hẳn hòi như ý nên mỗi lần Tâm đến chơi, cả nhà Yến săn sóc chiêu chuộng. Trái cây, bánh mứt, lời ngon ngọt, ánh mắt đưa đẩy làm cho Tâm say mê. Đi làm về ngày nào cũng phải tới gặp Yến. Đến nỗi cuối tháng lĩnh lương xong là vội vàng đưa Yến đi ăn, đi sắm sửa.

    Yến biết rõ tình cảnh của Tâm và nàng thừa hiểu hết vụ mùa, vợ Tâm lại trở về nên Yến toan tính để chiếm đoạt Tâm. Tới lúc chín mùi, Yến ra điều kiện Tâm phải về nói với bố mẹ xin cưới nàng sau khi ly dị Mai. Tâm tuy rất mê Yến nhưng tình nghĩa với vợ nào kém gì. Năm năm chung sống với người vợ hiền lành, đoan trang, nào có tội tình gì. Chỉ vì nàng giữ bổn phận làm dâu, ngày mùa mang con về phụ giúp bố mẹ, lấy cớ gì mà phụ nàng. Còn thằng Chính nữa. Làm sao xa con cho đành. Để cho cha mẹ biết lại làm cực lòng các cụ.

    Thừa biết các cụ là người nghiêm túc, bảo vệ gia phong, không dễ gì lay chuyển lại thêm Tâm lần khần không quyết định dứt khoát bỏ được vợ cả, Yến càng thôi thúc. Nàng làm đủ hết mánh khóe mê hoặc, nói đã có thai, không thể để cho gia đình bị nhục nhã vì nàng. Tâm bối rối đành theo ý để mặc ông bà Ấm và Yến thu xếp làm đám cưới âm thầm với sự phụ giúp của mấy người bạn lãng mạn. Dĩ nhiên ở quê nhà cha mẹ Tâm và Mai nào hay biết.
    Yến ngang nhiên dọn về chung sống với Tâm. Khi ngày mùa đã hoàn tất. Mai viết thư cho Tâm hẹn ngày đem con về Hà Nội. Nhận được thư Tâm rất bối rối muốn thuê nhà riêng cho Yến, nhưng nàng không chịu nại cớ thuê thêm nhà tốn tiền, chờ Mai tới sẽ hay.

    Ít hôm sau khi Tâm còn ở sở, Mai về đến Hà Nội thuê xe về nhà. Đến nơi ngỡ ngàng khi thấy Yến. Người đàn bà đó đã nhận mình là chủ nhà và xác nhận nàng ta là vợ Tâm. Lấy Tâm chính thức, có cưới xin đàng hoàng và khuyên Mai nên về quê nhà an phận. Yến sẽ cấp dưỡng cho mẹ con nàng. Còn như cố chấp không chịu sẽ chỉ mang lấy thua thiệt vào thân.

    Trước những lời đe dọa của Yến cộng thêm với sự hỗ trợ của mấy người đàn bà to lớn, dữ dằn túm lại chửi bới, hùng hổ như muốn ăn tươi nuốt sống mẹ con Mai, Mai đứng lặng trong tỉnh cảnh phũ phàng, ngỡ ngàng không ngờ Tâm thay lòng đổi dạ để người đàn bà này đuổi mẹ con nàng ra khỏi nhà. Biết mình cô thế, không họ hàng thân thích, Mai đành chờ Tâm về có ba mặt một lời sẽ hay.

    Gần đấy có người bạn Tâm hiểu rõ tình cảnh, ái ngại cho Mai nên khuyên Mai tạm lánh sang nhà mình và đồng thời đưa tin cho Tâm. Không thể đương đầu nói với bọn nặc nô mà Yến đã bố trí sẵn, Mai đành nghe theo dắt con vào nhà bạn. Vừa đau khổ vì bị làm nhục vừa thêm tinh thần quá căng thẳng, thể xác mệt nhoài sau vụ mùa làm lụng vất vả, Mai sinh bệnh ốm mê man. Tâm được tin muốn đến thăm nhưng bị Yến quỷ quyệt bủa vây không rời chàng một bước. Sáng chiều Yến đưa đón tận sở, lại còn bóng gió nếu làm mất mặt bố mẹ nàng sẽ không yên với Yến. Một mặt nàng ve vuốt, chiều chuộng, rủ Tâm đi ăn đi chơi để không có thì giờ nghĩ đến vợ con.

    Từ hôm ở Hà Nội về quá uất ức Mai ốm mãi vẫn chưa khỏi. Nàng còn tự trách mình về giúp vụ mùa quá lâu, không ai săn sóc, cơm nước, ở nhà một mình buồn, có người rủ rê, lại được chiều chuộng, mê hoặc khó mà cưỡng nổi, sa ngã là vậy. Dù Tâm được giáo dục, dậy dỗ trong một gia đình nghiêm túc nhưng mình cũng phải bình tĩnh, nhẫn nhục chờ đợi. Một thời gian Tâm sẽ suy nghĩ lại, tranh chấp làm gì, nóng nẩy rùm beng chưa biết sẽ đi đến đâu, chỉ thấy làm cực lòng cho cha mẹ đôi bên. Tốt hơn nên tỏ ra cao thượng. Nghĩ như thế nàng mỉm cười thấy lòng thơ thới, dễ chịu.

    Từ đó sức khỏe phục hồi, nàng tìm việc làm, nuôi tằm, hái dâu, làm vườn, cấy rau, săn sóc con, trông coi việc nhà, giúp đỡ bố mẹ chồng. Công việc chiếm trọn thì giờ từ sáng đến chiều, nàng không để tâm nghĩ ngợi. Nay chỉ lấy công việc làm vui. Có ai hỏi thăm chuyện gia đình nàng chỉ nói lảng sang chuyện khác. Vả lại con người đã sa ngã đổi thay, còn đâu là tình yêu.

    Tình yêu không thể đi xin hay quỵ lụy, khóc lóc mà lấy lại được. Tình yêu từ đáy lòng phát xuất ra ngoài. Khi tình yêu vào tay người khác, mình có ý lấy lại chỉ là thứ tình miễn cưỡng. “Cóc chết ba năm quay đầu về núi.” Ngày kia châu về hiệp phố, lúc ấy gia đình mới bền vững. Phải có nếm trải sự đời, cay đắng điêu đứng rồi mới nhận chân được giá trị đâu là người vợ tâm hồn lý tưởng, người vợ se sua ăn chơi, cờ bạc, lêu lổng chỉ là hạng tạm bợ.

    Hai cụ Tổng Địch biết chuyện rất giận dữ và buồn phiền. Các cụ gửi thư thống trách bắt Tâm phải trở về với gia đình nếu không các cụ từ bỏ không nhìn mặt. Thư nào tới cũng bị Yến chận vất đi không cho Tâm biết. Tâm sống ngụp lặn trong cuộc sống buông thả, ăn chơi. Lương tháng đem về không đủ cho Yến chi tiêu và giúp đỡ bố mẹ mình. Ngày Tết đến, Tâm muốn về thăm cha mẹ, vợ con, nhưng trong túi chẳng còn đồng nào đành theo sự chi phối của Yến. Ăn chơi trác táng mãi sức khỏe hao mòn. Tâm ngã bệnh phải vào nhà thương Phủ Doãn.

    Tiền không có phải nhờ các bạn đồng sở phụ giúp. Yến lơ là thăm nom vì còn mải đi nhảy nhót, cờ bạc. Tiền không còn thì tình cũng hết. Tâm một mình nằm trên giường bệnh cô độc mới hối hận đã không giữ lời cha mẹ dậy: bảo trọng thân thể, giữ ngũ luân, ngũ thương. Ân hận vì mê muội theo đuổi lấy cô gái ăn chơi, phá tan hạnh phúc gia đình, bỏ vợ bỏ con, bất hiếu với cha mẹ, bỏ bổn phận thăm nom cấp dưỡng, còn mặt mũi nào trở về quê nhà mình nhìn người thân.

    Đang lúc phẫn hận, tâm hồn xao xuyến lại có mấy người bạn đến thăm khuyên anh viết thư tạ lỗi bố mẹ và vợ để được tha thứ. Như vậy có chết cũng an tâm.

    Được tin, Mai vội đi Hà Nội không nghĩ giận hờn mà chỉ mong tới gặp chồng săn sóc cho chàng đỡ tủi. Gặp lại vợ trong hoàn cảnh đau yếu, túng thiếu, Tâm xót xa, hổ thẹn muốn xin tạ lỗi. Mai vội vàng gạt đi không muốn nhắc đến chuyện đã qua, chỉ khuyên nhủ chồng an lòng dưỡng bệnh. Phấn khởi được vợ săn sóc, tha thứ, Tâm hồi phục mau chóng. Đến lúc khỏe hẳn, hai vợ chồng quyết định đưa nhau về quê sống với bố mẹ.

    Sự nhẫn nhục, chịu đựng của người đàn bà Việt Nam thật đáng ca ngợi. Cái giá mà Mai đã phải chịu đựng rồi cũng được đền bù xứng đáng. Cứ giữ lòng thủy chung, trọn vẹn với tình nghĩa, vừa phải với lòng mình, không hổ thẹn với người.

    (còn tiếp)
    #2
      frank 12.07.2022 22:34:15 (permalink)

       
       
      5-   Người Hiền Phụ



      Có những câu chuyện qua đi không bao giờ nhớ đến nhưng cũng có những chuyện in sâu mãi trong tâm trí tôi không quên được. Câu chuyện xẩy ra đã lâu khi tôi còn trẻ. Dạo đó tôi hay theo mẹ tôi xuống đường Trương Minh Ký thăm cô chú tôi. Một lần, hôm đó cũng vào sau bữa trưa, mẹ tôi và cô đang nói chuyện ở phòng khách, chợt có tiếng chuông reo ngoài cửa. Người khách mới đến là một thiếu phụ khoảng ngoài 30, trông hãy còn trẻ lắm trong  chiếc áo cánh đơn sơ và quần đen ngả mầu. Cô tôi tiếp bà ta và câu chuyện về sau được cô tôi kể lại như sau:
       
      Cô chú tôi vốn làm nghề thầu xây cất nhà cửa. Công việc bận rộn, người làm ra vào luôn luôn. Trong số nhân công có anh Tám thợ mộc mới vào làm, coi người hiền lương vậy mà nổi lòng tham ăn trộm hết những đồ nữ trang của nhà chủ là cô tôi. Và người đàn bà đến hôm đó là vợ anh ta. Trong bộ cánh giản dị, nghèo nàn, bà ta đến gặp cô tôi để kể về chồng mình.
       
      Vẻ mặt thiểu não, cứ đứng nguyên chỗ, sau khi cô tôi nhắc mời lần thứ ba chị ta mới ngồi xuống ghế ở góc nhà. Chị ta tự nhận là vợ anh Tám thợ mộc rồi kể lể. Cách đây hơn tuần lễ khi anh cai thợ về nói chị mới biết chồng chị đã ăn trộm nhà chủ và đi biệt không có về nhà. Chị ráng chờ đợi xem chồng chị có đưa về vàng, bạc hay món đồ ăn trộm chị sẽ giữ lại để đem trả cho chủ. 
       
      Cho tới hôm qua, chồng chị về nhà với hai bàn tay trắng, thân hình tiều tụy sau khi đi cờ bạc nhẵn túi. Vốn tính máu mê cờ bạc, đi làm được bao nhiêu cũng  cờ bạc, ở nhà có vật gì đáng giá cũng cầm bán để cờ bạc, khuyên nhủ năn nỉ cũng vô hiệu, chị chỉ đành đi làm rau cháo nuôi con một mình. Thấy anh em rủ đi xa, hy vọng chồng sẽ bớt cờ bạc, không ngờ mê muội sinh ra ăn trộm, chị rất lấy làm xấu hổ,  nhà không có vật gì đáng giá có thể đem bán lấy tiền trả đền ông bà chủ.
       
       Nói xong, hai mắt chị rớm rớm nước mắt, thò tay vào bên trong áo bà ba, chị tháo ra chiếc dây chuyền vàng nhỏ đang đeo cổ, chị nghẹn ngào nói đây là chiếc dây chuyền khi đi lấy chồng bố mẹ đã cho hôm cưới, chị vẫn đeo ở cổ dù túng thiếu mấy cũng không dám bán, cho đến bây giờ thấy chồng đi ăn trộm là phạm tội, chị ân hận không có đủ để đền trả những món đồ chồng đã ăn trộm, chỉ còn chiếc dây chuyền đáng giá này trừ được bao nhiêu còn lại xin tha thứ cho chị, nếu sau này khá giả chị kiếm được sẽ xin trả lại vì biết ông bà chủ phải làm cực khổ mới có.
       
      Không cầm chiếc dây chuyền, cô tôi vui vẻ nói:
       
      “…chúng tôi không truy tố anh ấy, cũng  không lấy dây chuyền của chị, hãy đeo vào cổ, chị cứ yên tâm về nhà đi làm nuôi con không phải nghĩ đến sự trả lại nữa, tôi quý ở tính ngay thẳng của chị đã nghĩ đến anh ấy phạm tội, có ý đền trả lại cho chồng, cũng ít người được như chị.”
       
       Chị Tám rất cảm động cám ơn cô tôi một lần nữa để xin phép ra xe cho kịp chuyến xe về Cần Thơ. Mẹ và cô tôi cứ ngồi nhìn theo chị Tám vừa thầm nghĩ và phục một người đàn bà nhà quê sống lam lũ thiếu thốn, bên trong tấm áo bà ba cũ kỹ ẩn giấu một tâm hồn ngay thẳng trong sáng, nếu đem so sánh còn cao hơn một bậc với những mệnh phụ phu nhân phủ đầy gấm vóc hạt xoàn đá quý, nhưng lại chỉ bao bọc một tâm hồn bệnh hoạn, chỉ biết xúi chồng tham nhũng ăn hối lộ. Đó cũng chỉ là một hình thức ăn trộm, ăn cướp!

       
       
      6-  Mới và Cũ

       
       
      Suốt trong mấy chục năm đầu dưới sự cai trị của Pháp, những tư tưởng dân chủ do các triết gia Pháp như Rousseau, Voltaire, Montesquieu đề xướng  bên trời Âu đều bị người Pháp dấu nhẹm. Giới quan lại xuất thân trong Nho giáo, sống xa rời người dân, mặc nhiên  vạch rõ giai cấp. Chỉ riêng giới sĩ phu thức thời lúc đó mới thấy được hiểm họa của chính sách đô hộ của người Pháp, các cụ tự ý mở trường để phổ biến những kiến thức Tây phương mới mẻ (1907). Chính quyền bảo hộ dĩ nhiên chống đối và giam giữ những người mở trường.
       
      Tuy thế luồng sóng canh tàn đã bắt đầu manh nha từ thời kỳ đó. Năm 1917, Pháp mở trường Albert Sarraut ở Hà Nội, bỏ thi cử khoa bảng năm 1917, mở thêm trường Cao Đẳng Hà Nội năm 1918. Cùng lúc đó cụ Phan Bội Châu, tấm gương sáng ngàn đời, truyền bá lý tưởng dân chủ. Tiếp nối với phong trào Đông Du (1905-1939) và rồi Việt Nam Quốc Dân Đảng, phong trào canh tân bừng lên mạnh mẽ trong giai đoạn  này. Thế hệ mới này được đào tạo ở các trường Pháp–Việt.
       
      Năm 1927, ông Nguyễn Thái Học và một số đồng chí thành lập Nam Đồng Thư Xã, một nhà xuất bản ở Hà Nội, để hoạt động, truyền bá tư tưởng dân chủ qua sách vở và báo chí. Phương tiện đó cũng chỉ được phổ biến hạn hẹp ở các thành phố, ít khi về đến thôn quê vì dân ta thời đó hãy còn bị nạn mù chữ.
       
      Đến các làng mạc, phong trào này chỉ ảnh hưởng trên một thiểu số những gia đình khá giả. Luồng gió mới đó đã được các thanh thiếu niên đón nhận nhiệt liệt. Các thanh niên thay áo dài bằng âu phục gọn ghẽ, các thiếu nữ bỏ khăn  quấn tóc bằng vấn tóc trần hay đổi mới nhanh hơn chút nữa bằng cách búi gọn sau gáy. Những chiếc quần lụa trắng tươi sáng thay thế quần lĩnh tỉa. Áo dài có tà thay bằng áo kiểu Lemur…

      Từ những sự thay đổi bên ngoài đó đến những thay đổi sâu xa bên trong, tôi muốn nhắc đến những người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn đó. Không phút chốc mà vứt bỏ những lễ giáo xưa nay ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo để bước sang tân học của Tây phương.
       
      Phái nam có thể dung nạp dễ dàng không như người phụ nữ Việt với bản chất rụt rè, kín đáo. Nhất là trong đời sống gia đình làm thế nào để dung hòa giữa cái mới và cũ hầu bảo tồn hạnh phúc gia đình nói riêng, phát huy tinh thần đạo đức, làm đẹp mẫu người đàn bà Việt Nam nói chung. Từ những ý nghĩ đó, tôi nhớ lại câu chuyện dưới đây của một người bạn thuở đó.

                                        ***

      Trên một chuyến xe lửa từ Ninh Bình ra Hà Nội tình cờ tôi gặp một người đồng hương với dáng điệu u uất, đôi mắt buồn bã nhưng cương nghị. Một lúc khá lâu tôi mới nhận ra Bình. Đã lâu lắm từ lúc lập gia đình đến nay mới gặp lại. Những ngày tháng còn trẻ đã qua lâu lắm rồi. Chúng tôi trao đổi với nhau những câu hỏi thăm thông thương để hâm nóng  lại tình bạn nhạt dần với thời gian. Và trên suốt chặng đường dài tôi đã được  nghe tâm sự Bình, tâm sự của một người đàn bà Việt Nam trong buổi giao thời ấy, với rất nhiều kính phục.
       
      Dự, chồng của Bình là một giáo sư, sinh trong một gia đình theo nếp sống quan liêu, hấp thụ văn minh Tây học, có kiến thức đấy nhưng là một thứ kiến thức bao gồm kiêu hãnh, tôn trọng về văn bằng, chức tước, vẻ sang trọng hào nhoáng bên ngoài.
       
      Bình xuất thân từ một gia đình Nho giáo, tuy có được cắp sách đến trường nhưng nàng chỉ được học  hết bậc tiểu học (vì ở thôn quê với quan niệm cổ xưa: con gái không cần học nhiều), sau đó ở nhà giúp đỡ gia đình. Tuy thế Bình rất thích học hỏi, thích đọc sách báo để trau dồi kiến thức. Những tờ báo như Trung Bắc, Tân Văn, Ngọ Báo, Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay, Vịt Đực, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Thứ Bảy… Những thay đổi, những ý tưởng mới mẻ Bình đã đọc, đã biết đến.  Về mặt kiến thức, Bình không thua kém chồng nàng bao nhiêu, chỉ không tân học như chồng mà thôi.
       
       Nhưng nếp sống gia đình quả có nhiều khác biệt. Những dịp giỗ, Tết, hôn, tang, khi về thăm nhà Bình cứ phải nghe Dự chồng nàng chê bai về nếp sống thôn quê. Từ họ hàng đến anh chị em đều bị Dự chê. Người này bị chê gàn, kẻ kia cổ hủ. Bình biết Dự chê có chỗ đúng chỗ sai. Quan niệm đời sống thành thị và thôn quê khác nhau (Bình kể với tôi đến đó bằng giọng bùi ngùi mang ít nhiều chua chát). Chẳng gì những lời chê bai của chồng cũng chạm tự ái nàng. Bình chỉ muốn sống đơn thuần, binh dị, không gò bó.
       
      Trái lại về nhà chồng, mỗi khi gặp ai hay ra ngoài tiếp xúc đều phải nói năng cẩn thận, ý tứ, cư xử theo một nếp sống mới như ý cả nhà chồng. Dự xét nét từ  cách ăn mặc, coi nàng như một người kém hiểu biết. Dự rất ít khi đưa nàng đi đâu cùng đường, như sợ làm tổn thương danh giá mình. Dự hấp thụ những tư tưởng Tây phương mới mẻ một cách dễ dàng. Sự khác biệt giữa hai vợ chồng cũng khá nhiều. Với tâm hồn chất phác nhưng có ý chí quật cường. Bình ẩn nhẫn chịu đựng.
       
       Nàng tìm cách đi buôn bán, có lẽ đó là lối thoát duy nhất. Gặp thời vận nàng buôn bán mỗi ngày một khá. Khi có tiền tự nhiên nhiều kẻ nể vì, vì  đã chịu sự giúp đỡ. Anh chị em trong họ và ngay chính Dự chồng nàng cũng phải phục sự thành công của nàng. Nhưng đời sống ít nhiều vẫn còn bị những va chạm giữa “mới và cũ”. Bình đứng ngập ngừng ở bên ngoài, nhìn những đổi mới của xã hội với đội mắt dè dặt. Nàng cũng tự ép mình để học khiêu vũ, may mặc theo kiểu này, kiểu nọ để đi với chồng trong những buổi tiếp tân.
       
       Bình thấy khổ sở không phải vì không thích xa hoa nhưng vì nàng thấy mình không thể hợp với đời sống đó. Nàng nghĩ đến những đứa con còn nhỏ dại. Bình cũng thừa hiểu không theo kịp đà tiến đổi mới, không kiểm soát hành vi chồng nàng, có thể một ngày kia Dự sẽ bị sa ngã chỉ vì ham muốn những cái mới lạ. Nhưng nàng chỉ để ý cầm chừng, miễn Dự đừng sa ngã tới mê muội là được.

      Một hôm Bình về quê ngoại thăm bố mẹ, Nàng hỏi cụ Tú:
       
      -Thưa Thầy con phải xử như thế nào?
       

      Bình kể cho cha mẹ nghe những dị biệt giữa hai nếp sống. Từ cách ăn mặc, đi đứng đến lời ăn tiếng nói. Còn nói gì đến những ý nghĩ, suy tư.
       
      Cụ Tú đã khuyên Bình nên “dung hòa”, cố giữ được gia phong, đạo đức, Có đạo đức, có quân bình hầu giữ vững được hạnh phúc gia đình. Bà cụ Tú thêm vào:
       
      Con hãy kiên nhẫn Bình ạ.  Một câu nhịn chín câu lành.
       
      Bình kể với tôi như sau. Khi về sống trong gia đình nhà chồng, nàng phải mặc quần trắng, áo mầu. Đi đâu cũng phải son phấn. Nhưng khi về thăm gia đình mình Bình phải thay áo mầu bằng áo nâu, quần đen như khi còn con gái ở nhà. Sau đó mới dám ra chào bố mẹ. Hai cuộc sống cứ đối chọi nhau. Mỗi khi Bình sơ hở điều gì, chị em nhà chồng lại dè bỉu: “đồ nhà quê” hay “ở trong lũy tre nào biết gì”, “Biết gì” đây có nghĩa là không biết chưng diện theo lối mới, nói năng cư xử phải theo lối mới, bàn về luyến ái pha màu sống sượng mới hợp thời trang. Phải biết hát, biết thưởng thức âm nhạc…
       
       Bình đã cố gắng dung hòa để mà sống. Không biết Dự có bao giờ biết đến nỗi khổ tâm của nàng không? Bình qua những kinh nghiệm và hiểu biết đó nàng giáo dục con cái một cách cởi mở không gò bó trong nền nếp cũ giả tạo nhưng cũng không qúa phóng khoáng chạy theo cái mới lố bịch để đi đến chỗ sa đọa. Bình dậy con lấy khuôn phép đạo đức làm nền tảng.
       
      Dự qua đời sau một cơn bạo bệnh bất ngờ. Trong những giây phút cuối cùng Dự cũng yên lòng ra đi vì biết vợ sẽ chu toàn mọi bổn phận cho gia đình. Mặc dù những dị biệt không sao thay đổi được giữa Dự và Bình nhưng sự ra đi vĩnh viễn của Dự đã làm Bình đau đớn không ít.
       
      Tôi thấy được sự buồn bã, cô đơn của Bình. Tôi thầm khâm phục nàng. Bình đã biết dung hòa giữa cái mới và cái cũ, đã quân bình được tinh thần đến vật chất. Nàng đã biết chọn cái hay của nếp sống cũ cũng như mới để mà hòa hợp cho chính mình và rồi nuôi dưỡng thế hệ con cái nàng cũng dựa vào sự hòa hợp đó.
       
      Viết đến đây trên xứ người tôi tự hỏi không hiểu người phụ nữ Việt Nam sang đến xứ này có bị giằng co, xung đột giữa cái mới và cũ như cách đây mấy chục năm chúng tôi đã trải qua chăng? Liệu cái hay, cái đẹp của ta và của người có được dung nạp để bổ túc cho nhau không hay ta chỉ nhặt cái dở của người để làm băng hoại đi nền đạo đức cổ truyền của người Việt Nam?
       
       
      ( còn tiếp)
       
      #3
        frank 13.07.2022 22:28:17 (permalink)

         


        Chuyện Bất Ngờ 
        Đêm Ba Mươi

         
         
        Dựng chiếc xe đạp ngoài hè, Hải máng chiếc mũ lên mác, cởi áo veste vắt tạm vào ghế, vừa ngồi xuống để cởi giầy, miệng hỏi:
         
        -Các em đâu u già?
         
        Một bà già chừng 60 tuổi đang bưng thau nước để lên kỷ với câu mời:
         
        -Cậu ra rửa mặt, em Quỳ nóng đầu đang ngủ trong phòng. Hùng chơi bên hàng xóm.
         
        Hải chặc lưỡi:
         
        -Trời nóng quá. Tối nay có thể mưa. U đã cho em uống thuốc gì chưa? Thôi được để tôi xem có cần uống thuốc gì hay phải đưa đến phòng mạch bác sĩ.
         
        Hải vội vàng rửa mặt xong vào phòng thăm con. Sờ trán con bé cũng không nóng lắm. Trở về phòng khách chàng ngồi phịch xuống ghế nhìn vào khoảng không thở dài. Từ ngày Nhung bỏ nhà ra đi, các con nhớ mẹ chúng khóc bỏ cả ăn. Ban đêm đang ngủ giật mình thức giấc không thấy mẹ lại khóc  inh ỏi,  dù có u già dỗ ngọt, dọa dẫm ông ba bị, ông ngoáo ộp… cũng chỉ tạm một lúc, hay có khi khóc quá mệt chúng ngủ thiếp đi. Chúng có ngủ thì chàng mới ngủ được.
         
        Mỗi chiều đi làm về, Hải tự tay tắm rửa cho con, thay quần áo, cho con ăn. Chúng ăn xong chàng mới ăn. Phần dọn dẹp u già lo. Chàng dẫn hai con ra phố chơi. Vừa đi vừa trả lời những câu hỏi ngây thơ của con. Chàng sợ nhất buổi tối khi các con nhớ mẹ chúng lại hỏi: “Bố ơi mẹ đi đâu không về. Con muốn mẹ.” Từng câu từng câu làm chàng như đứt từng khúc ruột.
         
        Bốn năm về trước sau khi đậu vào ngành hỏa xa, Hải được bổ làm trưởng một ga thuộc tỉnh Ninh Bình. Cuộc sống đã yên, chàng nghĩ đến chuyện lập gia đình. Tin đi mối lại mấy đám do cha mẹ họ hàng kiếm tìm Hải đều không bằng lòng. Được mới đi phù rể cho người bạn ở Hà Nội lại là một dịp để tìm ý trung nhân. Cũng đúng, phù dâu, phù rể, người nào cũng đẹp như là đám tiên đồng, ngọc nữ giám phàm. Các cô các cậu được dịp múa môi, chú ý làm quen bắt cầu. Không bao lâu lại tới đám cưới Hải - Nhung.
         
        Đang sống trong khung cảnh nhộn nhịp nay sinh nhật này mai lại có tiệc mừng hay tiễn chân luôn có dịp để khiêu vũ vui chơi là dịp các bà, các cô, khoe khoang kiểu tóc, mầu áo, bây giờ theo chồng về sống ở một phủ lý nhỏ bé, buồn hiu. Nhung như con chim bị nhốt trong lồng, buồn bực, chán ngấy cả bổn phận làm mẹ,  làm vợ. Hải cũng hiểu tâm trạng của nàng nên cũng luôn đưa nàng về Hà Nội cho nàng vui chơi.
         
        Tuy nhiên với công việc. Hải không thể chiều mãi được, khuyên nhủ mong nàng giữ bổn phận chăm sóc con cái làm vui. Nhưng chẳng được mấy ngày, ham chơi, ỷ lại vào sắc đẹp nàng lại ra đi với một số tiền lấy của chồng đem theo ăn tiêu. Hết tiền, bồ bịch bỏ rơi, lang thang không biết về đâu. Nhung nhìn quanh, chỉ còn ít ngày nữa đến Tết, người ta đi mua bán sắm sửa quà cho bố mẹ, quần áo mới cho con hay kéo nhau về quê ăn Tết.
         
         Nàng chạnh nghĩ đến mình. Cũng có nhà, có gia đình chồng con đầm ấm vui vẻ mà không dám về. còn mặt mũi nào giáp mặt chồng con nữa. Chỉ vì mình bồng bột, dại dột nghe theo những lời tán tỉnh nịnh hót với hạng người lẻm mép phỉnh gạt đến nỗi thân tàn ma dại. Ôi! Thương con làm sao, nhớ con làm sao! Nhung thấy quay quắt đau khổ quá sức. Làm cách nào được gặp các con bây giờ?
         
        Trời về chiều oi ả. Con đen vần vũ tới. Sấm chớp ầm ầm. Gió thổi ào ào làm các cánh cửa sổ mở ra đóng vào kêu lách cách. Trời tối sầm với những đám mây đen giăng kín. Mỗi khi có tia chớp lóe mới nhìn rõ cảnh vật bên ngoài. Cơn mưa trút xuống thật nhanh Hải vội vàng đi đóng lại các cửa cho khỏi hắt nước vào nhà. Càng về đêm mưa càng lớn. Ít khi có cơn mưa lớn về cuối năm như hôm nay nhất là vào ngày 30 Tết. Đưa các con đi ngủ xong, chàng ngồi trầm ngâm nghĩ sáng mai là mồng một Tết phải bỏ tiền sẵn vào phong bì để lì xì cho các con và u già rồi đưa chúng đi chúc Tết các nhà bạn bè lối xóm quen thuộc.
         
        Có tiếng động như vật gì xô vào cửa làm Hải giật mình. Chàng kéo màn cửa nhìn ra ngoài, một người đàn bà ngã gục trước cửa. Hải gọi u già ra phụ với chàng vực người đàn bà vào nhà. Trong ánh sáng căn phòng Hải ngỡ ngàng nhìn người đàn bà đang nằm hôn mê. Nhung! Sao ra nông nỗi này.
         
        Chàng dục u già lấy quần áo ra thay cho Nhung và đưa nàng vào phòng. Thoa dầu nóng, đắp mền và ngồi chờ Nhung hồi tỉnh. Bụng đói lại gặp cơn mưa, quá mệt mỏi nên Nhung kiệt sức. Một lúc sau nàng tỉnh dậy, u già như đã hiểu vội đưa bát cháo ép nàng ăn. Nhung ứa nước mắt nói với u già:
         
        -Tôi muốn gặp chồng con lần này rồi tôi đi ngay không dám phiều u nữa đâu.
         
        Từ lúc đưa Nhung vào nhà thấy nàng tiều tụy, quần áo lôi thôi, đúng là cảnh đường cùng mới trở về, Hải trong lòng rất giận nên giao cho u già săn sóc rồi ra phòng khách ngồi ôm đầu bóp trán suy nghĩ. Mình không bạc đãi nàng. Đang sống trong cảnh hạnh phúc gia đình với chồng con, nhàn nhã không phải làm gì, bếp nước, săn sóc con cái đã có u già. May mặc tự ý, thế mà không biết an phận, đua đòi khiêu vũ mới ra người văn mính, đam mê ánh sáng  đèn mầu, bị người mê hoặc rủ rê đến nỗi bỏ con bỏ chồng, bây giờ tàn tạ thật lòng có hối chưa?
         
        Trong lòng Hải vừa giận vừa thương, xô ghế đứng dậy vào trong phòng nhìn hai con đang ngủ. Thằng Hùng nằm xoay ngang tay nắm lại như đang nghịch vật gì. Con bé Quy hé miệng cười mơ, môi đỏ thắm, mặt bụ bẫm hồn nhiên như hai thiên thần nằm ngủ. Nếu như sáng mai thức dậy, hai con mình biết mẹ nói trở về nhà mà không được gặp, chúng sẽ khóc hơn đòi gặp mẹ, biết nói sao với các con. Không trách ngoài mặt trận không khó bằng tự thắng mình. “Muốn thắng phải biết tự kềm chế mình, biết tha thứ cho người. Vì các con, ta quyết định quên lỗi lầm của nàng”.
         
        Hải bước sang phòng bên thấy Nhung đã ngồi lên, chàng tười cười hỏi:
         
        -Em đã thấy khỏe lại chưa?
         
        Nhung ứa nước mắt nức nở nói không thành lời:
         
        -Em biết tội đã nhiều. Em hối hận đã bỏ anh và các con ra đi tìm những cuộc vui phù phiếm, sa chân vào vòng tội lỗi, không còn mặt mũi nào dám trở về. Quá nhớ con em trở về từ sớm nhưng không dám ra mặt cứ núp hết chỗ nọ đến chỗ kia để nhìn con. Không ngờ lại gặp cơn mưa, phần vì nhịn đói từ sáng mệt quá nên em ngất đi lúc nào không biết. Xin anh tha lỗi và cho phép em nhìn và hôn hai con một lần nữa rồi xin từ biệt. Em xấu hổ biết mình không xứng đáng là vợ của anh và là mẹ của hai con.
         
        Nhung nói chưa hết câu Hải đã vội vàng nắm hai bàn tay lạnh giá của nàng và nói:
         
        -Em đã hối hận và trở về, anh rất mừng cho  các con.
         
        Chàng yên lặng một lúc và nói tiếp:

        -Từ nay có em ở nhà săn sóc dậy dỗ con cái. Trước đây không có em dù anh săn sóc chiều chuộng cách mấy chúng vẫn cảm thấy thiếu tình mẫu tử. Chúng ta hãy quên đi quá khứ vì con. Hãy bắt đầu một cuộc sống mới, cứ coi như em đi xa, vắng nhà một thời gian bây giờ mới về.
         
        Được lời như cởi tấm lòng, Nhung ngẩng mặt lên nhìn chồng bắt gặp đôi mắt trìu mến của chàng, biết chàng đã tha thứ. Nàng cúi đầu nói nho nhỏ:
         
        -Em cám ơn anh đã lấy lượng bao dung tha thứ lỗi lầm cho em. Từ nay em quyết tâm sửa đổi tính nết xứng đáng là người vợ ngoan của anh,  mẹ hiền của các con.
         
        Hải vui vẻ nắm tay Nhung sang phòng các con. Chàng đánh thức các con dậy. Mẹ con ôm nhau trong vui sướng, sum họp.


                                         ***

        Gia đình là nền tảng của dân tộc, của xã hội. Vận nước lâm nguy, “Nhân tài như sao buổi sớm, tuấn kiệt như là mùa thu”. Trông vào các gia đình có ổn cố, bố mẹ biết an phận, sống chung thủy với lòng thương vô biên của cha mẹ với sự giáo dục thận trọng, con cái mới có môi trường tiến để phát xuất nhân tài.
         

         
         
        Người Mẹ Việt Nam

         
         
        Trong ánh nến lung linh, khói nhang nghi ngút mở tỏa trên bàn thờ. Đàn cúi đầu lặng nhớ đến mẹ. Người mẹ đáng kính, hình bóng thân yêu, quí trọng đó đã nằm yên nghỉ mãi mãi. Hơn bao giờ cả. Đàn mơ được bé nhỏ lại, được trở về với mẹ, sống bên mẹ, bên sự yêu thương đùm bọc êm ấm của mẹ mình.
         
        Đàn mồ côi cha từ thuở lên tám. Bao nhiêu tình yêu  và niềm tin mẹ chàng đặt hết vào Đàn và đứa em gái chàng, Hiền. Trong trí nhớ của đứa trẻ lên tám dạo đó và cũng như lúc này đây khi đã trưởng thành, mẹ chàng tượng trưng cho sức mạnh vô biên; tâm hồn mộc mạc, bình dị đó mang một niềm tin tuyệt đối vào những hiếu, nghĩa, trung, tín, những điều đã thâm nhập, ăn sâu vào tâm khảm bà mặc dù mẹ chàng không biết chữ nghĩa. Bà đã ở đây, bôn ba dầm sương dãi nắng nuôi con khôn lớn.
         
        Đàn chợt thấy cay mắt, lòng nhói đau khi nhớ đến mẹ đã hy sinh, cố công dạy bảo, khuyến khích Đàn đi học để được như ngày nay, để được nở mặt nở mày với xóm làng.
         
        Mẹ đã ru chàng bằng những câu ca dao đượm tình người, tình quê hương. Đàn đã ngủ yêu trong vòng tay mẹ với những câu vè, câu hát ca tụng những gương sáng, những điều hay lẽ phải. Bà đã dậy dỗ Đàn qua chính những công việc, cách hành sử của bà. Những ngày giỗ chạp Đàn và em gái  thường theo mẹ đi tảo mộ tiên nhân. Trong nhà dù nghèo khó nhưng lúc nào mẹ chàng cũng giữ bàn thờ tổ tiên sạch sẽ, tươm tất.
         
         Có miếng gì ngon cũng đặt lên bàn thờ chồng, nhường cho con. Trong tâm hồn đơn sơ ấy, bà đã không biết dùng những lời văn hoa, cầu kỳ để dậy dỗ anh em chàng nhưng chính những việc làm của bà đã là gương sáng cho anh em Đàn noi theo.
         
        Đàn còn nhớ như in căn nhà mà chàng đã sinh ra và lớn lên ở thôn Đoài. Căn nhà nhỏ ba gian, hai chái, mái lợp rạ, sàn đất nện lâu ngày xậm mầu và phẳng lì. Mẹ chàng trồng đủ loại rau từ rau đay, mồng tơi đến xu hào, cải bẹ… Trong nhà, bàn thờ tổ tiên đặt ngay ngắn ở căn chính giữa. Bộ bàn ghế bằng gỗ tạp màu nâu cạnh đấy. Bức mành trúc theo với thời gian bóng loáng treo ở cửa ra vào.
         
         Vào những ngày Đông lạnh căm căm, gió lùa qua phên cửa đập phần phật. Ba mẹ con Đàn trùm chiếu nằm ủ trên giường tre ọp ẹp góc phòng. Mặc dù nghèo khổ nhưng tình thương của mẹ đã bao trùm tất cả. Dạo ấy chắc cũng nhiều người ngấp nghé nhưng mẹ chàng đã nghiêm mặt quay lưng đi mặc cho những lời đùa cột, tán tỉnh của bọn trai trong làng. Bao nhiêu tình thương mẹ chàng đã dồn cả cho anh em Đàn.
         
         Nhà chàng nằm sát cạnh trường học làng. Cụ đồ Phủ đã luống tuổi, lều chõng đôi ba phen không thành, bất đắc chí về làng mở trường dậy trẻ. Tiếng thày đồ giảng bài vang vang cả ngày. Có lẽ Đàn cũng thấm nhuần không ít. Dạo Đàn còn nhỏ, mỗi lần mẹ chàng thấy giấy có chữ rơi ở dưới đất hay ở ngoài đường, bà đều lượm về và kính cẩn đốt đi. Dù không có học nhưng lòng kính trọng chữ nghĩa thánh hiền của bà thật đáng ca ngợi.
         
        Mẹ chàng thường khuyên bảo Đàn không được nghịch hay xé giấy học  làm diều thả chơi. Lúc còn ấu thơ, Đàn nào hiểu được ý nghĩa những lời mẹ khuyên răn. Hình ảnh mẹ cúi đầu nghiêm trang đốt những mảnh giấy mầu ngà với những đường nét số, ngang của mực đen, nói lên được cái lòng kính trọng,  niềm tin mãnh liệt. Đàn tự nghĩ mình đã không theo được mẹ để dậy những đứa con chàng như vậy.
         
        Câu chuyện khác xẩy ra đã lâu lắm nhưng mỗi lần nhớ đến Đàn đỏ mặt ngượng ngùng vì lầm lỗi đã phạm, đồng thời cũng đau lòng vì đã làm buồn lòng mẹ. Năm ấy vợ chồng sinh đứa con thứ sáu. Đàn mất chân thư ký nhà in ở trên tỉnh, nhà lâm vào cảnh túng quẫn. Trở về làm ruộng quần quật suốt ngày cũng không  đủ nuôi  cả nhà. Trong cơn túng bẩn, cảnh nghèo khó đã đẩy Đàn vào một hoàn cảnh xấu xa.
         
        Lòng tham che mở mắt. Đàn quên cả những lời dậy bảo cha mẹ, quên cả con người thẳng thắn của mình, chàng đã lấn ruộng người, cắt lúa của người làm của mình. Việc vỡ lỡ, đến tai mẹ chàng. Bà lưng khòm xuống theo với năm tháng khắc khổ, lập cập đi ra tận bờ ruộng lôi Đàn về trước bao cặp mắt dòm ngó, xì xào của xóm làng. Trong cơn giận, mặt bà nhăn nhúm tưởng như già thêm đến hàng chục tuổi, miệng lập bập không nên lời.
         
         Bà bắt chàng nằm rạp xuống trước bàn thờ tổ tiên, vụt được mấy roi rồi quỳ xuống khóc. Đàn chưa bao giờ sợ hãi và ăn năn đến như thế. Nhìn dòng nước mắt tuôn rơi trên khuôn mặt già nua sạm nắng của mẹ, chàng cũng chảy nước mắt theo. Chỉ mong mẹ mình vụt thêm nhiều hơn cho đỡ giận. Mẹ chàng kể lể chàng đã làm nhơ danh tiên tổ. Bà quỳ  xuống lạy bàn thơ tổ tiên rồi tự vả vào mặt mình, buông lời tạ lỗi với tiên nhân. Bao nhiêu tội của Đàn bà nhận cả và tự trách mình không biết dậy bảo con.
         
        Hình ảnh đó ghi mãi trong tâm hồn Đàn, những lúc này, giờ đây nhớ đến mẹ, Đàn chỉ mong được có mẹ gần bên, để được nghe mẹ chỉ bảo, dậy dỗ, để thấy mình may mắn đã có mẹ. Nhìn đứa con trai lớn 12 tuổi đang thiêm thiếp ngủ trên phản. Đàn mong có ngày con khôn lớn chàng sẽ kể lại câu chuyện đó cho con nghe để nó thấy rằng người mẹ Việt Nam với truyền thống Nho học là một gương sáng ngàn đời.


        (còn tiếp)
        #4
          frank 14.07.2022 23:50:57 (permalink)


          9-  Người Phụ Nữ Việt Nam 
          Trong Xã Hội Xưa


          Dưới làn sương mở trắng như sữa đục, trời vẫn còn lạnh giá. Tuy hết đông đã sang xuân, sau ba ngày Tết nghỉ ngơi, những người nông phu Việt Nam cả đàn ông lẫn đàn bà lại trở ra đồng làm việc tối  ngày, những tiếng gọi nhau ơi ới đi làm mỗi khi họ đi qua một nhà trong xóm.
           
          Đàn ông đi cầy, đàn bà kéo bứa, đàn ông đi giật lùi chia mạ để đàn bà cấy xuống. Phải cúi lon khom suốt  ngày, khi mỏi cổ đau lưng cũng chỉ đứng thẳng lên một hai phút rồi lại cố cấy đuổi theo để kịp người chia mạ.
           
          Chiều về tới nhà người đàn bà vội vã thổi cơm tối, một tay ôm con một tay đun bếp. Suốt ngày mẹ đi làm, đến lúc thấy mẹ về chúng mừng rỡ chạy lại để được mẹ bồng đứa nhỏ, đứa lớn theo từng bước, đấy là những người đàn bà có cha mẹ già ở nhà coi cháu, hay có con lớn trông em ở trông nhà, hay không còn gởi được con cho ai để đi làm đồng thì đã có việc ở nhà.
           
           Ngoài việc nuôi con nhỏ bao việc làm khác: nuôi heo, nuôi gà, chăn tầm, hái dâu, cấy các thứ rau mùa nào thứ đó, xay lúa giã gạo, quán xuyến mọi việc từ nhỏ tới lớn đúng nghĩa hai tiếng nội trợ.
           
          Trong lúc người đàn ông đi làm về thong thả đi tắm, trút đi sự nhơ nhớp, khó nhọc, ung dung ngồi hút  thuốc lào, hay kiếm chút rượu nhâm nhi với trái ổi, trái khế xanh chờ vợ con làm cơm dọn sẵn. Đấy là cảnh sinh hoạt thông thường của các gia đình miền quê trước đây.
           
          Cũng việc nặng nhẹ, vất vả đàn ông, đàn bà đều làm, không bên nào thua bên nào, các bà có tính cần kiệm, dẻo dai còn kiêm luôn những việc vặt nhẹ nhàng mà các ông ít khi làm được.
           
          “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã đẻ ra biết  bao tệ đoan, để thành tập tục hạ thấp nhân phẩm người đàn bà xuống bởi bọn hủ nho phương Bắc khi đô hộ nước ta, đem quàng lên cổ người đàn bà với danh nghĩa tam tòng: “tại gia tòng  phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã đẻ ra những tục dã man như tảo hôn, thừa tự…
           
          Ở thôn quê con gái 12 hay 13 tuổi đã gả chồng, hơn chồng từ 5 tới 10 tuổi là thường với nghĩa cưới con dâu về để khỏi mượn người làm, có người hầu con mình như rửa mặt, rửa chân, dẫn đi học thầy đồ, rồi chăn trâu cắt cỏ lại còn bị hành hạ đánh đập là khác. Ngược lại nhà người con gái đã thách cưới lấy món tiền công sinh dưỡng.
           
          Những bất công đối với phụ nữ thường xẩy ra cũng chỉ vì thành kiến trọng nam khinh nữ. Con trai được đi học  tới nơi tới chốn. Mẹ, vợ, chị, em dù chịu cực, cốt để người đàn ông được học. Về phái nữ thua thiệt không được đi học dù nhà khá giả có thể cho con đi học được, họa hiếm có gia đình cho con gái học tại nhà vì cha hay  anh có mở trường dậy học . Bởi thiếu học vấn nên người phụ nữ khó ngóc đầu dậy, bị nam phái dùng phong tục, luật lệ cưỡng bức.
           
          Từ lúc cha mẹ gả chồng, đời người phụ nữ bắt đầu bước vào cuộc đời gò bó bởi phong tục, về làm dâu nhà nào may mắn được bà mẹ chồng hiền lành, có lòng nhân ái. Không may gặp phải bà mẹ chồng nhỏ nhen bắt khoan bắt nhặt từng tý, bởi trước kia bà cũng đã từng bị bà mẹ chồng của bà hành hạ đủ điều, bây giờ đem ra áp dụng trả thù vào con dâu.
           
          Cho nên đã đi lấy chồng, người phụ nữ thường mong chóng có con, nhất là con trai để được nể vì trong gia đình, còn phòng khi người đàn ông cưới vợ lẽ, mua hầu non không còn coi mình ra gì thì lúc ấy trông vào con làm niềm an ủi, khi về già nhờ cậy vào con.
           
          Người phụ nữ chẳng may không có con trai thật đáng buồn phải nghĩ đi tìm người thừa tự về nuôi, thường là con trai thứ của người em hay anh chồng.
           
          Một cảnh bất công về thừa tự người viết khi còn bé đã được chứng kiến. Cụ đồ Thước không có con trai nhưng có ba con gái. Thời kỳ tàn Nho cụ không kịp thi cử mong xuất chính, lui về làm ruộng, xưa nay chỉ  quen cầm bút, nên mọi chi tiêu trông vào tay bà cụ tần tảo, quán xuyến mọi việc.
           
          Theo phong tục cụ nhận người cháu con ông anh họ làm thừa tự, anh này không chịu về ở với cụ vì nhà anh khá giả hơn nhà cụ. Khi đau yếu, hay ngày Tết anh ta không đến thăm viếng chú thím mà anh ta nhận làm thừa tự. Trước khi cụ đồ mãn phần, thuốc men chạy chữa tốn kém bà cụ và các con đem hết ruộng còn lại bán đi và sang tên cho ông anh người con rể đề phòng khỏi lọt vào tay ông thừa tự.
           
          Tới khi bà cụ mãn phần, đưa tin  cho người thừa tự và họ hàng. Tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ mới thấy ông thừa tự tới. Đó là một người vào trạc 40 tuổi, đầu quấn một vòng tròn bằng rơm bện, mặc áo quần bằng vải màn thưa, trái sống xổ gấu, tay cầm gậy tre, tới trước quan tài, đứng cúi đầu im lặng một lúc, quay ra anh ta đi từ trên nhà xuống tới bếp xem xét một lượt. anh ta nói như ra lệnh phải làm những gì về việc ma chay, cắt đặt các người em gái, em rể những việc phải làm.
           
          Anh ta tự coi mình là chủ nhà, tuy nhiên trong lúc tang gia bối rối đau buồn, các người con gái, con rể không ai nói gì để giữ hòa khí vì các việc đã được lo liệu xếp đặt sẵn sàng từ trước, tới khi an táng xong trở về nhà, theo cổ lệ có ngã heo làm cỗ đãi những người vất vả, lấm tay phục dịch nhà đám và họ hàng con cháu. Khi ăn uống xong, ông thừa tự gọi các người con gái lại hỏi, bắt phải đưa văn tự về đất đai, ruộng nương nhà cửa, đồ đạc trong nhà xem còn những gì. Khi biết không còn sơ múi gì ông chỉ nói mấy câu đe dọa vu vơ trước khi ra về và từ đó không thấy trở lại nữa.
           
          Một vụ khác, gia đình một ông bác không có con, nuôi cháu, con người em ruột từ khi còn nhỏ; tới khi ông bác chết rồi, người thừa tự này lộng hành đuổi luôn bà bác ra khỏi nhà, hàng xóm thương tình làm đơn lên huyện để xin phân xử vì nhà bà này  khá giả có điền  sản nhà cửa do hai vợ chồng vất vả và tạo dựng vì tục lệ mà bị thằng cháu bất nhân đuổi bà đi để chiếm lấy sản nghiệp.

          Có gia đình bà vợ cả có con gái không có con trai, nhà lại khá giả, chiều theo ý chồng cưới thêm vợ nhỏ cho chồng với ý muốn có con trai để nối dòng. Có ông tới năm thê bẩy thiếp. Người vợ nào may mắn sinh được con trai sẽ được cả nhà chồng cưng chiều; ỷ vào có con trai, cô vợ trẻ lên mặt, lần hồi nắm quyền chi thu trong gia đình, có lấn lướt những người vợ khác. Nhưng không thay thế được địa vị người vợ cả, nếu người chồng vẫn mực thước không quá thiên vị.
           
          Còn về tài sản sau khi phân chia cho các con trai gái rất cách biệt, dĩ nhiên nhà cửa sẽ về phần con trai, nhưng tiền bạc ruộng nương, có nhiều nhà chia cho con gái bằng một phần mười con trai, lấy cớ có con gái đã đi lấy chồng theo họ nhà chồng, của cha mẹ để lại như hương hoa cho bao nhiêu biết bấy nhiêu, không có quyền đòi chia.
           
          Biết thân phận thương con gái các bà mẹ thường gây vốn để sẵn cho các con gái. Phần nhiều các cô đã đi lấy chồng có nhà ở riêng hay lấy cớ về thăm cha mẹ vẫn kèm mục đích về bòn rút của bố mẹ với sự đồng lõa của bà mẹ. Biết vậy các chị dâu, em dâu thấy chị, em về thăm bố mẹ, họ đã hội ý nhau canh chừng. Nhưng khi bà mẹ đã đồng lõa thì thiếu gì cách để qua mặt ông bố già. Cũng lắm khi đổ bể chỉ nghe bố chửi ít câu.
           
          Nói về khả năng ý chí người phụ nữ cũng không thua kém gì người đàn ông. Hai bà Trưng, bà Triệu những vị anh thư tài ba xuất chúng, bà Huyện Thanh Quan, bà Hồ Xuân Hương thi văn trác tuyệt, cô Bắc, cô Giang liệt sĩ quên mình vì nước.
           
          Sau này tiếp xúc với văn mình Âu Châu các hủ tục bị đào thải, chị em phụ nữ được cởi mở hơn, cũng theo học các ngành chuyện môn như nam giới nên chúng  ta  đã có nữ bác sĩ, kỹ sư, đốc học, luật sư, nha sĩ, các thương gia, kỹ nghệ gia do các bà điều khiển. Với đà hăng say tiến lên ở xứ có đầy đủ tự do, hy vọng chị em phụ nữ vẫn giữ được tinh thần Việt Nho, bình đẳng trong tâm hồn, trọng về tư cách, quý về tâm hồn đạo đức, phục về biết giữ phẩm giá con người.
           

           
          !0-  Làng Tôi
           
           
          Mười hai năm lưu lạc nơi xứ người, lạc lõng trong đời sống văn minh và hoàn toàn dị biệt, tôi thấy mình đang nép dần sang bên lề của cuộc sống. Tôi luôn luôn quay về quê hương yêu dấu. Những hình ảnh, những kỷ niệm của một thời đã qua lại sống động hơn bao giờ cả. Nhớ lại những ngày xưa cũ, những hình bóng, những gì thuộc về quá khứ, cho tôi cái cảm giác trẻ trung, đầy sinh lực của thuở thiếu thời. 
           
          Tất cả những hình ảnh đó tôi muốn được ghi lại, lưu lại trên những hàng chữ sau để nhắc nhở cho con cháu tôi cái đẹp, cái hay của quê hương tôi, của phong tục, lề thói ấy. Và cũng để nhắn nhủ cùng con cháu tôi rằng cái tình quê hương, tình gia đình,  tình người ấy quyến luyến và sâu đậm vô cùng.
           
          Làng tôi ở bên bờ sông Đáy, thuộc phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Miền này nguyên trước đây chỉ là nơi lau sậy hoang vu. Đến mùa mưa, nước lũ đổ từ sông Hồng Hà chảy vào sông Đáy, rồi những đợt sóng bể Thái Bình dồn vào mà bồi đắp dần lên theo năm tháng. Tôi không nhớ đích xác vào năm nào, nhà vua cử ông Nguyễn Công Trứ làm chức Doanh Điền Sứ, chiêu mộ dân cư đến đấy khẩn điền, lập nghiệp.
           
          Trong số đó có cụ tổ 4 đời của tôi đã từ làng Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định di cư đến đây. Với tài tổ chức, óc thông minh phi thường, ông Nguyễn Công Trứ đã khai khẩn vùng này từ một nơi hoang vu, khó trồng trọt, thành một miền trù phú, thịnh vượng.  Lúc đầu khi đất hãy còn nhiều phèn, người ta trồng cói để làm chiếu. Dần dần, những lớp phù sa bồi đắp nhiều, mới thay thế sang trồng lúa.
           
          Làng tôi ở trung tâm phủ Kim Sơn. Làng hình chữ nhật. Dân làng đã góp bao công sức để đắp con đường chính, giữa trải đá dăm, hai bên lót đá thước. Dọc theo đường chính, con sông đào An Giang uốn khúc chạy song song rất nên thơ và cũng là niềm hãnh diện cho dân làng vì đã đổ bao nhiêu mồ hôi, sức lực  để tạo nên.
           
          Tôi còn nhớ cây đa già cỗi trồi lên trên mặt đất vươn mình với năm tháng. Ở giữa gốc đa hũng vào một lỗ khá lớn, và không biết từ bao giờ dân làng đã xây một ngôi miếu nhỏ ở chân cây đa. Trong thờ bài vị bà Mỵ Nương công chúa. Hàng tháng vào ngày 1 và 15, người trong làng và những dân làng lân cận thường lui tới cầu xin. Bên phải cây đa là Văn Miếu thờ Đức Khổng Phu Tử, bên trái là ngôi chùa cổ kính lúc nào cũng hương tỏa nghi ngút. Mặt tiền của ngôi chùa hướng về đường cái. Trong chùa chia làm ba gian, gian chính giữa thờ Phật, hai gian bên thờ các vị thần khác. Không khí lúc nào cũng trang nghiêm và đầy vẻ kỳ bí với những nhang, hương khói tỏa mịt mờ, thêm vào những tiếng ngân nga tụng kinh của vị sư già.
           
          Vào đến làng, nhà cửa được chia ra ngăn nắp. Làng tôi chia làm 5 xóm. Mỗi xóm bề dài độ 250m, bề ngang 200m. Các xóm cách nhau bằng một con đường nhỏ và một rãnh nhỏ để khi mưa có lối thoát nước. Xóm nào nhiều nhà khá giả chung nhau lát đá làm đường đi lại, còn xóm nào kém hơn thì vẫn để nguyên đường đất. Mỗi nhà ngăn cách nhau bằng hàng dậu hớp hay xương rồng cắt ngắn tới tầm tay với.
           
           Nhà nào cũng có sân để phơi lúa khi vào mùa, phía sau có ao nuôi bèo, thả cá, nước ao để uống và cũng để tắm giặt. Những nhà  khá xây bể hứng nước mưa để ăn chứ không dùng nước ao. Quanh bờ ao, những khóm trúc lá xanh mướt, thân vàng óng ánh, xào xạc vào những trưa hè rực nắng. Cạnh đó nhà nào cũng có mảnh vườn nho nhỏ để trồng rau đủ loại.
           
          Giữa làng là ngôi nhà thờ Công Giáo. Dân làng tôi phần lớn theo đạo Công Giáo nên đã lập thành xứ đạo. Nơi đây có hai vị linh mục trông coi và phát triển đạo giáo. Các vị đã lập một trường tiểu học cho những con em trong làng đến học, không phân biệt trai gái hay đạo giáo nào. Vì thế mà nạn mù chữ đã giảm thiếu tối đa.
           
          Tiến vào sâu nữa đến nơi trồng lúa. Những ruộng lúa nằm liên miên nhau. Mỗi gia đình tùy theo giầu hay nghèo mà có nhiều hay ít ruộng. Tận cuối làng là nghĩa địa, tuy đơn sơ nhưng nói lên cái tình gắn bó với nơi  mình sinh trưởng. Người ta sinh ra, lớn lên và rồi cùng nằm xuống trên cùng một phần đất đó. Tôi thấy bùi ngùi và cảm động khác thường khi nhớ đến làng tôi, nơi tổ tiên mình còn nằm đó.
           
          Dân làng tôi sống về nghề nông và một số làm nghề nuôi tằm. Ruộng ở đây một năm chia làm hai mùa. Vào cuối tháng mười âm lịch, người ta chọn hạt lúa tốt, ngâm trong nước độ 3 ngày cho hạt lúa nẩy mộng. Sau đó đưa ra rắc vào một khu riêng biệt. Những khu ruộng này đã được cầy bừa thật kỹ, nước ngập xâm xấp.
           
          Sau hai tháng, người ta nhổ lên, cất bằng đi một phần ba lá cây, rồi chuyển sang các khu ruộng khác mà trồng cho có hàng lối, từ cây này sang đến cây kia cách độ 30cm. Đi cấy lúa phần đông là phụ nữ, quần xắn cao bên trêm đầu gối vì ruộng bao giờ cũng ngập  nước  đã lên tới đầu gối. Người cấy lúa phải cúi mình mới cắm được thân cây lúa nên tay lúc nào cũng phải thường xuyên ngâm dưới nước bùn. Khi cấy cứ phải cúi mình vừa đi thì cấy mới nhanh.
           
          Người ta phải cầy bừa thật kỹ trước khi trồng lúa. Cảnh cầy bừa thuở xưa là một hình ảnh đặc biệt, khó phai mờ trong trí nhớ tôi. Người ta thuờng bắt đầu cầy bừa từ khi trời sáng rõ cho tới khi mặt trời lặn hẳn không còn có thể làm việc được nữa vì những người đi làm lúc ấy không có đồng hồ. Công việc này người đàn ông cáng đáng. Khi cầy bừa, họ cầm cầy và một sợi dây buộc từ cái cầy tròng vào cổ trâu để nó kéo đi. Người giữ cầy chỉ điều khiển cho con trâu đi thẳng.
           
          Vào những ngày nóng oi ả, cảnh người và trâu đi cầy trông mới nặng nhọc làm sao! Mầu đất, mầu da người sạm nắng, thân trâu lấm đầy đất ì ạch lê bước, tất cả cho thấy cái cực nhọc của người nông dân xứ tôi. Nhà nào không nuôi được trâu thì phải dùng hai người đàn ông khỏe mạnh đến cầy thay trâu. Quả thật bao mồ hôi, công khó đổ xuống đổi lấy thóc gạo!
           
          Cho tới tháng năm là mùa gặt lúa. Sau đó lại tiếp tục vụ lúa thứ hai để kịp gặt hái vào tháng 10. Mùa gặt ở xứ tôi rất nhộn nhịp, vui vẻ mặc dù nặng nhọc. Về chiều vào khoảng 4, 5 giờ, người ta ra đầu làng để thuê thợ gặt lúa, hay thợ đập lúa. Những người này tụ lại thành từng nhóm từ 3, 5 hay 10, 15…
           
          Người đi thuê tùy theo nhu cầu thuê nhóm nhiều người hay ít. Tiền công thợ cũng tùy từng ngày, nếu ít người thuê mà thợ nhiều thì giá rẻ và ngược lại. Khi đã ngã giá xong, những người thợ nào ở gần nhà chủ thuê thì xin về nhà mình ngủ để sáng mai tới sớm làm việc, còn những thợ ở xa tới, theo chủ về nhà tá túc qua đêm. Sau đó thuyền phải sửa soạn sẵn, nếu nhà nào không có sẵn thuyền thì phải đi thuê. Thuyền lớn hay bé tùy thuộc vào số ruộng sắp gặt.
           
          Từ 3 giờ sáng, cơm đã phải xếp sẵn vào những nồi đồng lớn, nước vối cũng được trữ sẵn. Những nhà khá giả cho thợ ăn còn khá, cơm bao giờ cũng có đĩa cá hoặc tôm kho mặn, một chén mắm tôm, đĩa cà ghém không bao giờ thiếu trên mâm. Đôi khi có thêm được đĩa rau bằng thân cây chuối thái mỏng trộn với lá rau thơm. Thế là thịnh soạn lắm. Những nhà kém hơn chỉ có cho thợ ăn cơm với cà ghém và mắm tôm.
           
          Khi thợ tới ruộng gặt thì trời cũng vừa hừng sáng. Người ta bắt đầu làm việc cho đến lúc mặt trời đứng bóng, tức là vào giữa trưa. Ở nhà quê thường tính giờ theo mặt trời, ít nhà có đồng hồ. Thiên nhiên đã ban cho cái đồng hồ để tất cả mọi người sử dụng. Bấy giờ mọi người nghỉ tay, quây quần trên bờ ruộng để ăn trưa. Bao giờ nhà chủ cũng mang theo cơm nước sẵn.
           
          Lúa cắt xong, được gom vào từng đống. Bấy giờ thợ bắt đầu gom vào từng bó lớn. Những đoạn tre vót nhọn hai đầu, gọi là đòn xóc, thọc vào hai bó lúa hai đầu, được thợ gánh ra thuyền để chở về nhà. Kế đến là đập lúa. Công việc này đòi hỏi hai người làm. Cứ một người dơ néo lên, lại một người đập néo xuống, hạt lúa rụng chẩy xuống chung quanh. Khi đập đã rụng hết, người ta xoay ngược tay lại,  những cọng rơm được hất ra sau lưng.
           
           Công việc còn lại dành cho chủ nhà hay trẻ con vì chỉ còn việc lặt vặt. những lọn rơm được mang ra sân phơi khô rồi chất đống ở ngoài vườn dành cho trâu bò ăn những lúc không có cỏ và cùng để đến mùa đông dùng trải nằm cho ấm. Thời bây giờ chỉ trừ các nhà quan và một số nhà giầu mới có chăn và đệm bông. Người ta đã không bỏ phí một cái gì. Bao nhiêu công lao đổ xuống rồi cũng được tận dụng tối đa.
           
          Khi tôi còn nhỏ được đi xem Văn Miếu đôi lần. Sau này Hán học mất dần ảnh hưởng, các cụ túc Nho cũng lần lượt quy tiên, những bậc tiếp nối đã không còn duy trì tục lệ này nữa. Tôi còn nhớ, thường ba ngày sau Tết Nguyên Đán, các bậc khoa bảng và những người có địa vị ở các làng trong địa hạt Kim Sơn đều được đưa rước với những lá cờ ngũ hành, với những tàn, lọng, chiêng, trống, hội bát âm, tới Văn Miếu.
           
          Khi tụ tập đông đủ, vị nào đỗ khoa bảng cao nhất hay là một vị hưu quan có phẩm hàm cao nhất sẽ lên tế đầu tiên. Sau đó mọi người lần lượt lên lễ, giữ tục cúng bái ba lần. Sau lễ, mọi người sang những gian bên cạnh bàn thờ, gọi là nhà giải vũ, ăn trầu, uống nước. Các cụ bàn về việc cải cách trong làng, trùng tu Văn Miến. Một số các cụ khác ngồi bình thơ rất là tao nhã. Ngoài sân dân làng đấu vật, múa quyền, đánh cờ tướng rất vui vẻ. 
           
          Làng tôi đặc biệt có tục yến lão. Thường sau ba ngày Tết, các cụ chức sắc họp nhau bàn định ngày tổ chức yến lão. Trích một món tiền trong quỹ của làng, các cụ trong hội đồng làng phân công, thuê người làm bánh giầy bằng bột nếp không nhân, đặt trên miếng lá chuối xanh cắt tròn, to bằng chiếc đĩa lớn. Kẻ đi thuê ban chèo (có khi phải đi xa hàng 15, 20 km mới kiếm được ban chèo). Người đi mua luồng cây về dựng nhà, rạp. Thường hay tổ chức ở sân nhà ông lý trưởng hay cai tổng.
           
           Ông trương tuần có nhiệm vụ đốc thúc các tráng đinh, tuần phu tới các xóm trong làng mượn những vật dụng cần thiết. Sáng sớm hôm sau, như đã ấn định, những đàn ông, con trai tề tựu ở cuối sân rạp, chia  nhau kẻ giết trâu, người mổ heo. Một số  các bà, các cô phụ nhau làm cỗ. Những lọng, cờ xí được dựng lên trước rạp, bay phất phới trông có vẻ uy nghi và trịnh trọng lắm.
           
            Hội bát âm, hội kèn tây cũng đã có mặt sẵn sàng. Ban chèo cổ cũng góp mặt. Hội đồng chức sắc tụ họp ở trước cửa. Ban hương hội có nhiệm vụ đi thỉnh các cụ lão ông, lão bà từ 60 tuổi trở lên đến dự yến lão. (Mấy ngày trước các cụ đã được mõ làng đến tận nhà mời).
           
          Các cụ đã sửa soạn kỹ lưỡng. Cụ ông  nào có ống điếu đẹp, cụ bà nào có hộp trầu đẹp, đều đã có cháu trai hay gái bưng theo bên cạnh. Các tráng đinh cầm lọng xanh theo sau che thật trịnh trọng. Theo sau các cụ là các chức sắc trong làng.
           
          Đám rước kéo tới sân chùa ở đầu làng. Các cụ được mời vào nhà giải vũ uống trà xanh, chuyện trò ít phút, rồi đám rước lại quay trở về nhà rạp dự  tiệc do làng khoảng đãi. Một bánh pháo đại quang nổ ròn mừng tuổi các cụ. Không khí có vẻ trang nghiêm nhưng không kém phần nhộn nhịp, vui vẻ. Cứ bốn cụ vào một cỗ, xong mới đến dân làng.
           
           Sau khi ăn uống xong, ông Chánh hương hội mời các cụ tới đầu nhà rạp để lấy bánh giầy (được phủ giấy đỏ) do dân làng kính tặng. Đây là lễ lộc để các cụ chia cho con cháu. Sau bữa tiệc, thu dọn sạch sẽ để thay vào đó là sân khấu cho các ban chèo giúp vui. Mọi người cười đùa vui vẻ, một ngày hội đã qua.
           
          Những cảnh tượng đó giờ đây chỉ còn lại trong ký ức tôi. Đó là những tiếng vang của một thời. Làng tôi, nay dưới gông cùm của Cộng Sản không biết tiêu điều thế nào? Những tục lệ cũ nay có còn được giữ không? Hay tất cả đã biến đổi dưới bàn tay tàn bạo của Cộng Sản?
           
           Tôi thấy đau lòng và tủi hổ với tiền nhân vì đã thiếu sót trong  việc gìn giữ từng tấc đất mà tổ tiên đã để lại, cũng như những tập tục ngàn xưa nay cũng bị quên lãng dần. Xin được một ngày nào đó không xa sẽ trở lại quê hương, một quê hương với những khuôn mặt rạng rỡ, vui sướng của tự do.  
           
           
          (còn tiếp)
          #5
            frank 17.07.2022 22:39:16 (permalink)


            11-  Tình Yêu và Nghĩa V


             
             
            Chiều xuống chầm chậm bóng hoàng hôn đang đi dần vào tranh tối trang sáng. Cũng như mọi chiều, sau bữa ăn khi người u già đang thu dọn bát đĩa để đi rửa Hiền bần thần trông ra cửa, kẻ đi người lại,  nhưng nàng có nhìn thấy gì đâu. Như có một sức quyến rũ, nàng với cái áo the thâm mặc vào rồi dắt xe đạp ra đi. Thấy động, người u già quay lại nhìn nàng ái ngại nói một câu:
             
            “Thôi mợ bớt buồn. Đi chơi gần gần rồi về, giời sắp tối rồi.”
             
            Đã hơn tháng nay, từ hôm con gái độc nhất về bên kia thế giới, sau năm tháng oằn oại trên giường bệnh một mình nàng săn sóc thuốc men, ai nói thuốc hay ở đâu củng tìm cho bằng được, trong lúc vẩn phải theo dõi thời cuộc dù không theo chồng đi kháng chiến. Rồi như thành lệ, chiều nào nàng cũng lên nghĩa địa viếng mộ con cho đến tối mới đạp xe về. Trong trí Hiền suy nghĩ mung lung không còn định hướng, không còn thiết tha đến việc gì, lúc nào cũng nhớ đến con, thương con.
             
            Với chứng sốt rét rừng mắc phải trong thời kỳ ở chiến khu, Tân phải đi Hà Nội chữa bệnh. Đại đội anh chỉ huy được mệnh lệnh lên đường vào Nam diệt địch, cùng lúc phái xuất sự nghi ngờ, những lá đơn bay về Bắc Bộ Phủ tố cáo anh là địa chủ, muốn xưng bá đồ vương; biết con ốm nặng, được tin con chết, cũng đành lánh  mặt nuốt hận.
             
            Cũng như thời kỳ hoạt động ở chiến khu, lúc ẩn lúc hiện chỉ cần tránh Nhật tránh Pháp với tụi chó săn của họ. Bây giờ  đối đầu với cả một màng lưới nhân dân, chiêu bài cứu quốc, diệt tri phủ, cường hào, ác bá, việt gian, nhưng người ta chưa dám làm mạnh ngay với các đảng phái quốc gia vì quân đội Tầu sang giải giới quân đội Nhật.
             Hiền ở nhà trông con cũng như trước kia đã gìn giữ đường dây liên lạc khi chồng còn ở chiến khu. Bây giờ anh em họ vẫn tìm cách liên lạc với nàng để biết diễn tiến. Nếu có tin gì phải gấp đưa tin để Tân biết mà đối phó. Biết con ốm nặng nàng đưa con gởi bà nội săn sóc, tự mình phải đi báo tin cho Tân. Sáng sớm hôm sau ra bến  xe hỏi không còn chỗ ngồi, nàng trèo lên chốc  mui xe. Hiền phải hứa với lơ xe chịu trách nhiệm nếu ngã. Tới tỉnh lỵ, Hiền đi chuyến xe hỏa tốc hành cũng không có chỗ ngồi vì các toa chở đầy chật quân đội Tầu. Hành khách người Việt và hành lý đều bị dồn lên chốc mui tầu hỏa cho tới Hà Nội.
             
            Gặp lại nhau ở phố Ngô Quyền, Tân và Hiền chỉ biết nhìn nhau thông cảm. Tân nói sơ cho Hiền biết đã tìm hiểu, chế độ này phi nhân theo chủ nghĩa tam vô không thể hợp tác được dù nước đã được độc lập, anh có chủ định hãy trở về với con. Sáng hôm sau Tân Hiền chia tay nhau. Hiền lên xe hỏa. Lần trở về có chỗ ngồi không như lúc đi phải trèo lên chốc mui xe hỏa rất nguy hiểm khi xe chạy qua những cảnh cây mọc xòe ra hai bên đường.
             
            Xe hỏa chạy quá chậm, vào tới bến xe  hơi lại hết chuyện về. Hiền nóng lòng muốn về ngay khi nghĩ đến con. Hiền lang thang tìm phương tiện để về, may mắn gặp người bạn cùng nhỡ xe như nàng, hai người bàn nhau thuê đò tuy biết rằng phải đi suốt đêm mới tới nhà. Chặng đường dài 27 cây số, về tới nhà vừa lúc con nàng chỉ còn chờ gặp mẹ để nhìn lần cuối cùng.
             
            Thời gian qua, tiếc thương cũng lắng đọng với  sinh hoạt hàng ngày. Hiền đã trở về với mực sống bình thường, thỉnh thoảng có dịp đi thăm hỏi tiếp xúc với bà con thân thuộc mấy làng chung quanh, gặp những anh dân quân tự vệ, tinh thần có thừa, khí giới chỉ có mác và gậy.
             
            Nhà Hiền ở mặt phố, tiện việc  mua đi bán lại về ngũ cốc. Nhưng một hôm bà bạn bên cạnh giới thiệu với Hiền một bà cùng đi với một người Tầu nhận là chồng vì thiếu tiền mua hàng muốn bán khẩu súng của quân đội Tầu để bán lại cho các tổ chức quốc gia vì đây thuộc khu an toàn.
             
            Đi mua rất dễ, cứ tới chỗ các chú nằm hút á phiện để điều đình, rồi sẽ có những cần xé đựng đủ từ súng máy các hạng được lôi từ gầm giường ra để mà chọn tùy thích, nhưng chuyển vận về cứ điểm  là  cả một khó khăn. Khi ra khỏi chỗ mua ngay giữa Hà Nội rất có thể một tên lính Tầu nào cũng có quyền khám bất cứ người Việt nào đi đường. Hiền cũng đã chuyển được mấy chuyến trót lọt.
             
            Một hôm vào buổi sáng như thường lệ, Hiền đang ngồi ăn bát cao ban long chưng với mật ong ở trên lầu, nghe tiếng đập cửa, nàng chạy xuống mở cửa. Có hai người công an, một mang súng đòi vào khám nhà. Hiền giang tay cản lại và hỏi có sự vụ lệnh mới cho vào khám. Hai tên đành để lại một người có súng đứng lại, tên kia về đồn lấy giấy, thừa lúc còn một người, Hiền đi nhanh lên lầu nhét vội bức thư vào bát cao, quay lại người cầm súng đã theo lên.
             
            Anh ta hỏi:
             
            “Chị nhét giấy gì vào bát?”
             
            Ngay lúc đó, nàng múc miếng cao có mảnh giấy bỏ vào miệng cố nuốt khỏi cổ. Nàng trả lời:
             
             “Tôi ăn cao.”
             
            Anh chàng kia vẫn nghi ngờ nhưng cũng chẳng có cách nào làm hơn. Khi người thứ hai đưa lệnh đến khám nhà. Hiền ung dung dẫn họ đi khám, vì miếng giấy Hiền nuốt đi là một bức thư khất nợ của người trung gian đưa súng đi bán chưa lấy được tiền.
             
             Sau khi ký biên bản hai người công an đi khỏi. Hiền quay vào nhà trong với vẻ chán nản lẩm bẩm một mình. Trong Nam quân Pháp theo gót quân Anh đi giải giới để thu hồi lại chính quyền, chính phủ chưa có biện pháp nào đối phó thu hồi lãnh thổ tiến lên độc lập hoàn toàn, chỉ rình rập hòng tiêu diệt các người quốc gia, đưa ý hệ ngoại lai áp đặt làm khổ dân chúng. Biết đến bao giờ mới có hòa bình.
             
             
              
             
            12-  Tình Kháng Chiến

             
             
            Mùi thất thểu đi trong sương sớm, tay cầm chiếc nón ơ hờ, chẳng nghĩ đến đội lên đầu che sương sợ cảm lạnh như mọi khi có việc đi đâu buổi sớm mai. Một tay nàng xách chiếc giỏ mây nặng chĩu, từ tối hôm qua đã cẩn thận xếp tất cả quần áo, gương lược, những thứ cần dùng với dự định phải đi xa, lâu hàng tháng mà ngày về chưa nhất định.
             
            Từ đầu làng nàng nghĩ tới quãng đường từ đây tới ga Phủ Lý không đi bộ nổi với cái giỏ nặng nề, bụng ì ạch thất thểu thế này bao giờ mới tới ga. Vừa may có một chiếc xe kéo trờ tới, nàng trả giá cho mau không cầu kỳ kèo bớt một thêm hai miễn tới ga cho sớm, sợ gặp người quen lại hỏi thăm đi đâu, mất công nói  quanh. Tới ga lại phân vân không biết nên đi Hà Nội hay xuôi Nam Định, còn quanh quẩn ở lại Phủ Lý dễ gặp người quen. Dù sao ở Nam Định cũng có chú thím buôn bán ở đấy, tới nhà chú thím tá túc và nhờ chú thím giúp đỡ che chở. Đã nhất định, Mùi lấy vé xuôi Nam đến nhà chú thím.
             
            Người ta thường nói: “đàn ông vượt biển có đôi, đàn bà vượt cạn cút côi một mình.” Ngày mình sinh chắc gì Quang về kịp, vả lại chàng có biết được mình ở đâu mà tìm. Người ta nói khôn ba năm dại một giờ, đúng vào trường hợp của mình, đã nghĩ kỹ nhưng không tính xa, dù cách mạng kể là thành công, những giá trị cổ truyền nề nếp, và thủ tục môn đăng hộ đối vẫn tồn tại chưa thể một sớm một chiều dứt khoát được. Tiếng còi tầu báo hiệu tầu tới ga cắt ngang ý nghĩ đưa Mùi về thực tại.
             
            Cũng như bao nhiêu thanh niên thiếu nữ hăng say tham gia cách mạng còn trong bóng tối, đuổi Pháp, chống Nhật, được tuyển chọn đi học lớp huấn luyện, là một vinh dự trong lòng ai nấy phấn khởi sục sôi bầu nhiệt huyết, dù khi đi học phải tự túc đem theo hành lý cá nhân, quần áo thuốc men tiền bạc. Cùng đi trong tổ Mùi nhận được Quang người cùng làng. Trước đây Quang đi học ở Hà Nội, ít khi gặp, dịp hè và ngày Tết Quang mới về làng.
             
            Chàng thuộc gia đình vọng tộc, tuy biết nhau nhưng không giao tiếp, bây giờ theo cách mạng không phân biệt giai cấp, vì tình người làng nên Mùi Quang dễ thân nhau; trong kỳ thụ huấn, sau khi cơm chiều hay giờ nghỉ, hai người rủ nhau đi dạo thơ thẩn trao đổi tâm tình, ý hợp tâm đầu có lúc rủ nhau đi dạo thơ thẩn, ý hợp làm đầu có lúc rủ nhau vào rừng bẻ hoa tìm trái sim.
             
            Giao tình đi đến chỗ keo sơn hứa hẹn, cách mạng thành công sẽ tổ chức lễ kết hôn, dự tính của đôi thanh niên phấn khởi khi ngày 19-8-1945 cũng như gần hầu hết mọi người hân hoan nghĩ đến lúc nước nhà độc lập được tự do, hạnh phúc tràn ngập. Trong tâm trạng náo nức cả hai khi quá yêu nhau đã cho nhau cả tâm hồn lẫn thể xác, rồi cả hai đều bàn về thưa với đôi bên cha mẹ lo liệu lễ hôn nhân sớm hơn ý định. Nhưng không ngờ đã vấp vào bức tường thành kiến.
             
            Khi Quang về thưa với bố mẹ ngỏ ý muốn lập gia đình, ông bà Phán mừng rỡ đều nói đã tìm sẵn một chỗ môn đăng hộ đối, vì thấy Quang còn bận nay học  lớp này mai bổ túc lớp kia, bây giờ có thì giờ rảnh rỗi nên lo bề gia thất để bố mẹ an lòng, đám này vừa đẹp người, tốt nết  con nhà giầu, dòng dõi, lấy vợ phải xem tông lấy chồng xem giống, bố mẹ đã xem xét cân nhắc cẩn thận, vậy tìm bà mai để còn đi coi mắt rồi bố mẹ đặt trầu luôn.
             
            Quang ù tai khi mẹ nói xong, và chàng xin tìm lấy người hợp ý với mình. Chàng thưa với bố mẹ đây là một đồng chí đã đi học với nhau, hiểu nhau và đã yêu nhau, không  cần phải con nhà sang trọng giầu có. Ông bà Phán đã nổi sùng, phản đối khi Quang trình bầy, nhất định phải theo ý ông bà, cho Quang nghĩ lại sẽ làm lễ hỏi. Đôi ba lần nài nỉ ông bà Phán nhất định không bằng lòng. Không lay chuyển nổi ý bố mẹ, Quang chán nản xin đi hoạt động nơi xa.
             
            Trước khi đi xa, Quang tìm Mùi tạ lỗi, hứa sẽ không lấy ai cho chờ  khi nào bố mẹ nghĩ lại mới trở về nhà. Mùi chỉ biết khóc cho mối tinh dang dở nhưng không hề trách Quang. Nàng tự tin sẽ giải quyết được, phàn nàn làm chi cho vô ích. Mùi sẽ không để bố mẹ mang tiếng vì mình, muốn Quang khỏi bận tâm lo nghĩ, Mùi chỉ ân cần dặn dò Quang theo đuổi lý tưởng chung. Nàng lấy địa chỉ một người bạn làm chỗ liên lạc sau này.
             
            Lâu ngày gặp lại cháu, chú thím các em nàng đón nàng rất vui vẻ và niềm nở giữ Mùi ở lại chơi với các em. Biết chú thím sống ở thành thị đã lâu có tâm hồn cởi mở không cố chấp, Mùi kể rõ tình cảnh éo le của mình. Vì sắp có con kết quả của tình yêu mà Thượng Đế đã ban tặng nàng trân quý muốn gìn giữ để sống với con, bất chấp trở ngại chỉ cần giữ tiếng cho bố mẹ, không lý do gì dám phá hủy một sinh mệnh, nhờ chú thím giúp đỡ.
             
            Mùi rất tin tưởng vào sự khôn ngoan với chương trình lo toan của bà thím. Bây giờ Mùi hãy ẩn nấu nơi nhà chú thím tránh mặt mọi người không tiếp xúc với ai cho tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Trong thời gian chờ đợi, bà thím kín đáo làm quen hỏi thăm để biết có ai hiếm muộn muốn nuôi con nuôi. Rồi bà cũng tìm được trong số khách hàng, ông bà Cận cả hai vợ chồng hiền lành, tử tế nhà khá giả đã luống tuổi không con cái cũng đang ao ước muốn nuôi con nuôi, đến nhờ bà thím tìm dùm.
             
            Mùi đã hạ sanh con trai rất kháu khỉnh được chú thím đón về săn sóc đã khỏe mạnh. Ít hôm sau bà thím tin cho ông bà Cận đến nhận con nuôi, trong lúc ấy Mùi phải tránh mặt. Nhân tiện bà thím khuyên bà Cận nên nuôi vú sữa tốt hơn cho ăn sữa bò và có người săn sóc  cho thằng nhỏ, ông bà Cận rất hài lòng nhờ bà thím giúp cho trót, được lời rất hợp lý, hai ngày sau bà thím dẫn một người đàn bà nhà quê đến xin làm vú em, từ đây, mẹ con Mùi không còn phải xa nhau với danh nghĩa u nuôi.
             
            Ông bà Phán đã nhiều lần viết thư cho người đi tìm Quang về vì ông bà trót nhờ người làm mai, đàng gái đã nhận lời chỉ còn chờ Quang. Nhưng chàng không về, ông bà không biết từ chối cách nào cho khỏi ngượng. Thỉnh  thoảng ông bà suôi lại cho con gái là  cô Mai đem quà biếu ông bà Phán thăm hỏi sức khỏe. Độ này bà Phán đau yếu luôn, ít lâu nay không đi đâu được, sức khỏe kém dần, cô Mai lại năng lui tới có ngày nấn ná, phải ở đêm để giúp bà Phán, thấy bà một yếu năng ông Phan cho tìm Quang về gấp.
             
            Được tin lòng như lửa đốt,  Quang trở về thăm mẹ. Thấy mẹ gầy đét, nằm dán xuống giường lòng chàng ân hận đã lâu không về thăm mẹ, tối hôm đó bà Phán lên cơn đau dữ dội cơ hồ không chịu nổi qua đêm, khi hồi tỉnh bà gọi các con để trối trăng việc nhà, bà ứa nước mắt nắm tay Quang và nói mẹ muốn con hứa với mẹ một điều để mẹ yên lòng nhắm mắt. Quá thương cảm, Quang hứa với mẹ muốn điều gì con cũng chiều mẹ được, bà Phán tươi nét mặt dịu dàng nói mẹ muốn con lấy cô Mai người mà bố mẹ đã cẩn thận chọn cho con, trong lúc con đi vắng Mai vẫn tới săn sóc mẹ, con phải biết ơn Mai. Quang bàng hoàng không ngờ chàng  hứa với mẹ một điều trái với lòng mình đã ân cần khi chia tay với Mùi, tuy nhiên chàng không nỡ nói lại khi mẹ đang thập tử nhất sinh.
             
            Gặp thầy gặp thuốc bà Phán đã hồi phục, ông bà Phán bắt đầu tấn công ép Quang tới thăm nhạc gia, để còn tiến hành tới hôn lễ. Hoãn binh chi kế, Quang nói còn bận ít ngày nữa mới về được. Quang đã biết được mẹ con Mùi đã có nơi ăn chốn ở tạm thời tránh tiếng xấu cho Mùi và gia đình Mùi khỏi bị đàm tiếu, cho thời gian sẽ giải quyết dần. Không ngờ nhân dịp mẹ ốm Quang phải hứa ẩu, khi gặp Mùi sẽ nghĩ ra sao, giải quyết thế nào cho tròn bên hiếu bên tình.
             
            Nhờ người bạn làm quen tìm cách móc nối, Quang có dịp tới nhà ông Cận kín đáo gặp lại Mùi và nhìn thấy con mà không dám nhận, thấy Mùi đóng vai người làm, trong lòng rất thương cảm vẫn đinh ninh tự hứa không bao giờ phụ Mùi chỉ chờ hoàn cảnh thuận tiện.
             
            Gặp Mùi lần này chàng phàn nàn thấy mẹ quá đau yếu đã không cẩn thận, hứa ẩu với mẹ chỉ còn cách  kéo dài thời gian, lòng anh lúc nào cũng chỉ có bóng hình Mùi và con. Thấy Quang quá khổ sở, thân hình tiều tụy gầy xác xơ, Mùi rất cảm động, rồi nàng bình tĩnh bảo Quang:
             
             “Hãy nghe em, em đã nghĩ kỹ không muốn để anh kéo dài tình trạng này mãi. Tình chúng ta dang dở em không phàn nàn tại anh hay tại em. Em cám ơn tấm lòng chung thủy của anh, theo em tình yêu rất cao cả, bao la. Trên hết tình yêu của em hướng về đấng tối cao, về cha mẹ anh chị em, về tình bạn bè đâu chỉ có tình yêu vợ chồng không. Vì yêu anh chỉ muốn cho anh được hạnh phúc, giữ được chữ hiếu, anh nên vâng lời cha mẹ lấy Mai hay coi Mai như em, còn em nấn ná nuôi con ít lâu nữa sẽ xin vào ở tu viện.”

            Quang ngạc nhiên cảm động với những lời nói của Mùi. Phục nàng có tâm hồn cao thượng với tính quả quyết đã không còn oán trách chàng còn mở đường cho chàng giữ tròn chữ hiếu.

            (còn tiếp)
             
            #6
              frank 18.07.2022 23:24:42 (permalink)
               
              13-  Một Kinh Nghiệm Năm Ất Dậu
               
               
              Trong cuộc sống máy móc và hiu quạnh ở xứ người, ngoài niềm an ủi bên cạnh con cháu, tôi vẫn có niềm vui nho nhỏ mỗi khi nhận được thư ở bên nhà. Những cánh thư mỏng dính nhưng mang nặng tình người. Vui khi cầm thư nhưng những giòng chữ, những mẩu tin trong thư thường làm tôi buồn bã và bận tâm rất nhiều. Mỗi dòng chữ như nhắc nhở rằng tôi đầy đủ quá, rằng tôi may mắn quá. Còn những người ở lại? Riêng lá thư ngày hôm nay của một vị cao niên gởi sang từ miền Bắc đã làm tôi bâng khuâng và buồn bã. Trong thư ngài nhắc đến tình hình đói khổ ở miền Bắc, có đoạn như sau:
               
              “Ở bên này kỳ vừa qua vì mất mùa hai vụ liền, nhân dân đói lắm, có  nhà từng tuần không được một bữa cơm chỉ có ăn rau, nhiều nhà ba, bốn ngày mới được một bữa cơm, còn nguyên ăn sắn, ăn khoai.”
               
              Cái nghèo, cái đói bao giờ cũng đi liền với nhau. Nhớ đến những lời lẽ trong thư tôi thấy gai người. Tôi vẫn còn nhớ như in trận đói năm Ất Dậu 1945 ở quê nhà miền Bắc mà số người tử vong lên đến 2,000,000 người.
               
              Khoảng thời gian đó, miền Bắc mất mùa, cả vụ chiêm lẩn vụ mùa. Sợ quân đội Mỹ và đồng minh đổ bộ lên Việt Nam sau khi chiếm Phu Luật Tân, Nhật Hoàng hạ lệnh cho thực dân Pháp thu mua lúa gạo để quân đội Nhật tích trữ trên vùng núi và nhiều nhất là trên vùng Chinê. Nhật đòi thực dân Pháp nộp cây đay và các cây kỹ nghệ phục vụ nhu cầu chiến tranh. Chính phủ Pháp ra lệnh hủy bỏ ruộng lúa để trồng đay thay vào đó. Tất cả chiếm hơn một triệu mẫu đất. Pháp dựa trên sự đòi hỏi của Nhật, thu gấp bội lúa gạo.
               
              Các tổng lý, cường hào ác bá dựa vào lệnh thu mua lúa gạo của quan đội Nhật và Pháp đã chèn ép dân nghèo bằng cách áp dụng triệt để lệnh thu mua để làm giầu. Các kho lúa gạo do các nhà giầu tích trữ đều vơi dần vì Nhật và Pháp thu mua lúa gạo dựa trên diện tích trồng cây. Trong khi đó, Mỹ và đồng minh phong  tỏa miền biển Trung Hoa (Mer de Chine) bằng cách không tập, phá các cầu cống trên đường xe lửa Xuyên Việt. Các tầu ngầm Mỹ ở ngoài khơi phong tỏa vận tải bằng đường biển.  Kết quả là trong miền Nam không có than đốt phải dùng lúa gạo thay than đốt các nồi xúp de nhà máy đèn Chợ Quán. Trong khi ngoài Bắc thừa than đốt nhưng lại thiếu lúa gạo.
               
              Chính phủ Pháp đã áp dụng chính sách kìm kẹp người dân Việt bằng cách gây nạn đói. Từ ngày quân đội Nhật Hoàng xâm nhập Trung Hoa qua ngả Lạng Sơn 1940, trong khoảng năm 1943 tới năm 1945, với ý đồ kìm hãm và khống chế người quốc gia có tư tưởng chống Pháp. Pháp đã dùng “cái đói” làm khí giới trị dân.  “Chính sách dạ dầy” thành hình dưới bàn tay quân Pháp để trị dân Việt. Khi đã đói người ta chỉ nghĩ đến cơm gạo, sức đâu mà nghĩ đến việc dành lại chủ quyền.
               
              Thế nhưng cũng chính trong giai đoạn đen tối đó, “Phong trào cứu đói” đã được lập nên. Từ các miền quê, người ta kéo ra các tỉnh, nhất là Hà Nội, nơi có phong trào khất thực do các đoàn thể hướng đạo và thanh thiếu niên chủ trương.  Họ đi quyên cơm gạo ở các nhà khá giả rồi phân phát cho người đói khổ. Riêng tại vùng duyên hải Bắc Việt, miền quê tôi, tôi đã chứng kiến rất nhiều chết vì rét, vì đói. Tôi còn nhớ, theo các cụ lớn tuổi dạo đó thì chưa có năm nào mùa đông lại lạnh như năm đó. Các gia đình khá giả bảo nhau tự động rút phần ăn bữa. Phần còn lại, nắm làm nhiều nắm nhỏ, lén lút đem chia cho các em nhỏ hay người già cả.
               
              Lý do thật  giản dị nhưng cũng đáng thương, những người còn khỏe cứ trông thấy cơm, gạo, ngô, khoai, bất kỳ cái gì có thể ăn được, họ đều xô vào cướp giật. Tình cảnh thật thảm thương. Các đoàn thể, các tôn giáo họp lại lập ủy ban cứu tế. Các anh em hướng đạo sinh và thanh niên lập đoàn khất thực. Nhiều nhà nấu cháo để phân phát. Nhưng vì số người đói khổ quá đông và để tránh sự xô đẩy, tránh cướp, nên mỗi khi phân chia họ phải đóng cổng, khoét một ô nhỏ chỉ vừa đủ đưa lọt bát cháo cho từng người.
               
              Sang đầu năm 1945, nạn đói tới giai đoạn khủng khiếp nhất. Ngoài đường phố, hai bên vỉa hè, trẻ con, người lớn, già, trẻ, rách rưới, tiều tụy, nằm, ngồi la liệt trước cửa từng nhà kêu khóc. Thảm cảnh chưa từng thấy. Và cứ thế, mỗi ngày số người chết đói, chết rét càng tăng. Có ngày khoảng trên hai cây số, dọc theo đường phố, anh em hướng đạo sinh đã thu nhặt tới 70 xác chết. Có nhiều hôm số tử vong lên quá nhanh, chôn không kịp, mùi hôi bay đi khắp nơi, càng thêm vẻ thê lương và kinh hoàng. Các anh em trong ban khất thực còn khỏe mạnh phụ giúp khiêng xác chết đem chôn tập thể.
               
               Một hôm, tôi  nhớ không rõ, các thanh niên phát giác có một thuyền buồm chở gạo từ trong Nam ra qua cửa đồn Kim Đài. Các thanh niên thuộc ủy ban cứu đói kéo nhau tới phủ áp lực viên tri phủ Tr.N.T. tịch thu số gạo đó. (Sau ngày 9-3, quân đội Nhật đánh úp quân Pháp, trao quyền cho chính phủ Trần Trọng Kim, sự kiểm soát của người Pháp không còn nữa). Các thanh niên thu được 100 tạ gạo cộng với số lúa quyên được của các nhà giầu. Tuy nhiên với số lúa gạo này mà đem phân phát cho số người trong hàng trăm làng thì chẳng khác gì muối bỏ biển.
               
              Một phương pháp hữu hiệu nhưng cũng được chọn với rất nhiều đắn đo, suy tính; anh đoàn trưởng của ủy ban cứu đói quyết định đưa ý kiến nên cứu sống một số thanh niên còn khỏe với lý do: để đến mùa gặt tới còn có người đi gặt lúa vì chỉ còn hai tháng nữa là đến mùa gặt. Với số lượng lúa gạo hiện có, họ trù tính có thể cứu sống chung, 1,000 người cho đến mùa gặt.
               
              Muốn thế phải tập trung họ lại để nuôi. Vì nếu phát gạo về từng nhà, họ sẽ đành lòng ăn một mình, sẽ nhường phần cho cả cha mẹ, vợ con, vợ rồi đành chịu chết cả. Các anh suy tính nếu những người này không chịu chết cả. Các anh suy tính nếu những người này  không được cứu kịp thì chỉ trong vòng một, hai tuần lễ sẽ chết cả. Theo như kế hoạch, ủy ban thanh niên cứu đói chia nhau đi vào các làng tuyển chọn những người tương đối còn khỏe mạnh đưa về tập trung trong trại lập ở khu giáo xứ P.D.
               
              Các thanh niên này sức khỏe kém nhiều vì quá đói. Ngày đầu chỉ cho ăn cháo loãng sau đó là cháo đặc, một vài ngày sau mới cho ăn cơm. Khi họ đã lại sức, ủy ban bắt đầu phân chia công việc. Buổi sáng tập thể dục, chia nhau đi tát ao, bắt cá ở những ao được chủ cho phép. Hoặc đi rỡ nhà mà ủy ban đã mua về để làm củi và cất thêm nhà cho những người tới sau. Một số thì xay lúa, giã gạo. Gạo để nuôi người lớn, tấm cám nuôi trẻ em. Riêng trại trẻ em đặt ở khu chợ Nam Dân. Tổng số trại viên của hai trại khoảng 1,000 người lớn, 300 trẻ em (cả trai lẫn gái). Tất cả được nuôi và bảo bọc cho tới vụ gặt tháng 5 mới giải tán.
               
              Chính sách thực dân của quân Pháp thật dã man và tàn bạo, để lại cho trong lòng dân Việt nỗi oán hờn khó quên. Thực dân Pháp và cộng sản quá là giống nhau. Chính quyền cộng sản nói là đem tự do, no cơm ấm áo cho dân. Thế nhưng thử hỏi, bước chân cộng sản đi đến đâu dân đói khổ đến đó. Tự do, no ấm chỉ có trên đầu miệng lưỡi của người cộng sản, chỉ là chiếc bánh vẽ để dụ người dân.
               
               Dân miền Bắc một lần mặc vào tròng Cộng Sản, cái tròng càng ngày càng thắt chặt, và để rồi 21 năm sau dân miền Nam cũng lại cùng nhau số phận với miền Bắc. Đấy lá “thống nhất” và “giải phóng” theo kiểu Cộng Sản. “Thống nhất” để dân miền Nam cũng khổ như miền Bắc. “Giải phóng” để miền Nam không còn tự do nữa mà phải chịu kìm kẹp dưới gông cùm cộng sản như miền Bắc. Xem thế đủ biết chính quyền cộng sản đã sao y nguyên văn “chính sách dạ dầy” để trị dân của người Pháp để lại.
               
               
              14-  Chính Sách Theo Đuôi Của Cộng Sản
               
               
              Tờ  Văn Nghệ Tiền Phong số tân niên đến tay tôi vào những  ngày đầu năm Mậu Thìn. Lại thêm một cái Tết nơi xứ người, một cái Tết thiếu vắng rất nhiều thứ, rất nhiều ý nghĩa. Không còn những cảnh họ hàng, bạn bè lui tới chúc Tết nhau, thiếu đi cái không khí nhộn nhịp nhưng không kém phần nghiêm trang của ngày Tết, và tệ hơn nữa là ở bên này địa cầu, sống gửi nơi đất người mà lòng còn nặng trĩu tình với quê hương. Cùng với ngày 30-4-1975 với bước chân dầy xéo của Cộng Sản, những người như tôi phải bỏ nước ra đi, long đong nơi xứ người, còn kẻ ở lại bị tước đoạt tự do và ý nghĩa của cuộc sống.
               
              Đọc những dòng chữ, những mẫu tin vắn về thể thao trong tờ Văn Nghệ Tiền Phong, tôi thấy ngao ngán và cay đắng làm sao! Ngày nay ở quê nhà, từ Bắc chí Nam, từ thành thị đến thôn quê, thể thao được cổ võ kịch liệt. Khắp nơi đều có tổ chức những giải đá bóng, bơi lội, bóng rổ v.v… Thể thao được nêu cao và hoan hô hết mình (dĩ nhiên chỉ có người cộng sản hoan hô!!!) cho dù người dân chỉ còn da bọc xương và với cái dạ dầy lép xẹp. Lại thêm một đường lối ru ngủ thanh niên – tôi tự nghĩ -  có khác gì thực dân Pháp ngày trước đâu? Thanh thiếu niên là mầm mống chống đối nguy hiểm nhất. Và bài học ru ngủ, ve vuốt được áp dụng để người dân quên đi nỗi thống khổ, uất ức đang lan tràn sâu xa khắp nơi, ngày một lớn  mạnh.
               
              Giai đoạn từ 1940 – 1944, dưới thời toàn quyền Decoux với “Phong trào thể thao và thanh niên” được trao cho Jean Ducouroy tổ chức. Thể thao thời đó được cổ võ rầm rộ khắp nơi. Các trường huấn luyện viên thể dục được thành lập. Jean Ducouroy về tận các phủ, huyện, khánh thành sân vận động để thu hút thanh niên. Các tổng lý có nhiệm vụ đốc thúc các thanh niên đi đón rước rất ồn ào và phải  hát bài quốc ca Pháp là bài La Marseillaise, kế đến hát bài ca tụng chánh phủ Pétain. Có nỗi uất ức nào  cho bằng nỗi uất của dân bị trị?
               
              Bài quốc ca là bài hát thiêng liêng của một nước lại cũng không có. Thật  là chua chát và mỉa mai thay! Không phải chỉ giới thanh niên mới cảm thấy cái nhục nhã đó, thế nhưng thành phần thanh niên với sức sống mạnh mẽ của tuổi trẻ, với bầu nhiệt huyết, với hăng say, dễ bị khích động, bầy tỏ lòng bất mãn mạnh hơn tuy chỉ ngấm ngầm chứ chưa dám công khai.
               
              Tôi còn nhớ không đích xác lắm nhưng vào khoảng năm 1943, cụ Nguyễn Văn Tố nguyên giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội đã thành lập phong trào Tuyền Bá Quốc Ngữ với sự phụ giúp của tổng thư ký phong trào là ông Nguyễn Hữu Đang (sau này Nguyễn Hữu Đang bị Cộng Sản thanh trừng) và nhóm thanh thiếu niên hướng đạo đầu tiên ở Việt Nam (tráng đoàn Lam Sơn). Mục đích của phong trào là quảng bá chữ quốc ngữ, nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ cho những tầng lớp thấp kém, chống  nạn mù chữ.
               
              Thế nhưng bên trong, phong trào cố đưa vào, thức tỉnh người dân thấy nỗi chua cay  của thân phận nhược tiểu; nung nấu lòng bất mãn, ý chí phấn đấu đề phòng một ngày dành lại độc  lập cho xứ sở. Các thanh niên đã vào tận các làng để truyền bá chữ quốc ngữ. Các vở kịch với nội dung đấu tranh được các anh em hướng đạo dựng lên với thâm ý nhắc nhở người dân đến nỗi nhục nhã, cay đắng của dân Việt dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Viết đến đây tôi vẫn còn cảm thấy vẫn còn nhớ đến những giây phút mà máu nóng trào lên mặt, bừng bừng với những tức tối, uất ức khi phải hát bài quốc ca Pháp.
               
              Trở lại với phong trào thanh niên và thể thao do Pháp đề xướng để ru ngủ thanh niên thời đó, để dân Việt quên đi nỗi hậm hực, bất mãn mà bắt tay với Pháp. Nhưng đề tài thi đua có giải thưởng đánh vào lòng yêu chuộng thể thao và tinh thần ganh đua của thanh niên. Và dĩ nhiên dân trí càng thấp càng dễ trị, càng dễ bảo. Bao nhiêu năm sau, người cộng sản Việt Nam hay nói cách khác đó là loại người Việt Nam đã quên hay chối bỏ nòi giống mình, loại người không đáng được khoác vào hai chữ Việt Nam, cũng đã lập lại chính sách cũ rích từ thời Pháp thuộc để lại mà thống trị dân mình.
               
               Nhưng người công sản có biết đâu bài học đó đã lỗi thời và dù sao dưới thời Pháp thuộc, dân tình nhưng cũng không đến nỗi như ngày nay. Người dân Việt bị lột hết từ thể xác đến tinh thần. Thể thao thế nào được với manh áo rách, với dạ dày lép kẹp, với nỗi uất ức đang tiềm tàng chất chứa trong tim phổi, chỉ chờ ngày bừng lên, ùa ra phá tan mọi xiềng xích, dành lại quê hương.
               
               Ở bên này địa cầu, câu hỏi được đặt ra: Cộng Sản lập lại bài học của thực dân để trị mình, thế liệu người dân Việt, người Việt quốc gia ở quê nhà có dùng những phương tiện, những đường lối như ngày xưa cha ông chúng ta đã dùng để đánh đuổi thực dân ra khỏi đất nước? Những phong trào kháng chiến ở quê nhà đã được nhắc đến, đã mang lại niềm an ủi và hy vọng vô biên cho những người ở trong nước cũng như những người đang lang thang lưu đầy trên khắp địa cầu.
               
               Ngày trở về với quê hương yêu dấu, không còn gông cùm cộng sản sẽ không xa. Tôi mong đến ngày đó biết bao cho dù tóc đã ngả mầu, nhưng còn thế hệ con tôi, cháu tôi… và tôi vẫn cứ hy vọng, hy vọng một ngày mai tươi sáng cho quê hương tôi, dân tộc tôi.
               
              (còn tiếp)
               
              #7
                frank 20.07.2022 00:18:17 (permalink)
                 
                 
                15-  Những nữ chiến sĩ

                 
                 
                Vào một buổi chiều cuối Thu năm 1980, tôi gặp lại vị Thượng tọa Phật giáo cao cấp tại một tiệm thực phẩm Việt Nam ở miền Tây Nam Hoa Kỳ. Sự gặp gỡ một người đồng chí trên phần đất xa lạ này đã là một niềm an ủi; hơn thế nữa giữa tôi và ngài có mối thâm giao đặc biệt. Chúng tôi nhắc lại những chuyện xưa, những khuôn mặt cũ của một thời hoạt động sôi nổi trong những năm trước năm 1954. Cả một quãng đời xa xưa lại được khơi dậy trong trí nhớ hôm qua. Tất cả những hình bóng, sự việc ấy như mới ngày hôm qua.
                 
                Trong những khuôn mặt của ngày đó tôi nhớ đến chị Cúc, một thiếu phụ can trường, đầy lòng quả cảm, đã hết lòng với cách mạng chống Pháp, chống Nhật cũng như chống Cộng Sản. Tất cả cũng chỉ vì hai chữ tự do và lòng trung trinh với đất nước.
                 
                Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho học trung lưu ở thôn dã, chị Cúc đã được nuôi dưỡng và thấm nhuần sâu xa ảnh hưởng của Nho giáo. Chị góa bụa năm 23 tuổi. Cả một gánh nặng đè trên vai người góa phụ cô đơn phải lo chu toàn một gia đình gồm bà mẹ chồng, ba cô em và bốn đứa con thơ. Chị buôn tần bán tảo sớm hôm để lo cho gia đình. Không những thế, hàng xóm láng giềng túng thiếu cũng được chị tận tình giúp đỡ. Mang tấm lòng của mình để đối với người, ai cũng quý mến chị. Cuộc đời chị bình thản trôi đi cùng năm tháng.
                 
                Vào năm 1931, người anh thứ hai của chị Cúc, một đảng viên của Việt  Nam Quốc Dân Đảng qua đời, để lại trong gia đình, nhất là chị Cúc một mối ngậm ngùi khó quên. Cơn phẫn uất giặc ngoại xâm được chị nung nấu từ thuở còn son trẻ, chỉ chờ dịp bộc phát. Chị đã hết lòng giúp đỡ những đồng chí cũ của anh mình. Thời kỳ đó bọn cộng sản trá hình được người dân hỗ trợ và hưởng ứng nhiệt liệt, chị Cúc cũng hăng hái đóng góp với một lòng yêu nước thiết tha va lòng thù ghét giặc Tây.
                 
                Trong khoảng thời gian từ 1944-1945 trở đi, lúc mà vận mệnh nước nhà ta lâm vào cảnh đen tối, rên xiết dưới sự kèm kẹp của quân Pháp cũng như quân Nhật, bước chân ngoại xâm đi đến đâu để lại uất hận trong lòng dân Việt đến đó. Miền Bắc năm ấy nạn đói hoành hành, cả triệu người ngã gục, trong khi miền Nam dư thừa lúa gạo nhưng không chuyển vận ra Bắc được vì đường xa khó khăn, thêm vào đó do sự không tập của đồng minh Anh Mỹ. Quân Nhật lại thu mua tích trữ hết lúa gạo đề phòng chiến tranh lan rộng.
                 
                Trong khi thế sôi sục của cuộc chiến, lòng căm giận, thù ghét bọn ngoại xâm của dân ta đã bàng bạc khắc nơi, hun đúc lòng ái quốc, khích động lòng nhiệt thành với đất nước, và đã tạo nên một sức mạnh vô hình lôi kéo, liên kết người dân Việt với nhau để đẩy quân ngoại lai ra khỏi quê hương. Các đảng phái cách mạng đã tựa vào lòng dân và sự hỗ trợ tích cực của người dân, bí mật hoạt động. Đó là niềm an ủi vô biên cho những người con nước Việt thuở đó, nặng lòng với quê hương chỉ mong đánh đuổi quân Nhật, giặc Tây.

                Ngày 6 tháng 3 năm 1945, Cộng Sản hiện nguyên hình, ngang nhiên ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, mặc cho người dân Việt ngỡ ngàng, cay đắng vì đã đặt niềm tin nơi chúng. Chị Cúc cũng lâm vào cảnh huống đó. Những đảng phái cách mạng bí mật chống Cộng Sản được dân chúng lén lút yểm trợ. Người anh cả của chị Cúc đặt cứ điểm giao liên tại nhà chị để liên lạc, tiếp  đón các chiến hữu thuộc Duy Dân Đảng.
                 
                Ngôi nhà tranh nghèo nàn của chị đã là một bức bình phong che đậy dưới mắt công an. Người thiếu phụ mảnh mai đó chẳng quản gian lao, nguy hiểm, đưa những chiến sĩ cánh mạng Duy Dân (sau khi chị giúp cải trang thành những nông dân lam lũ, chèo thuyền, gánh lúa theo chị) từng chặng đường, tiếp tế cho các tổ chức bí mật ở những nơi lân cận.
                 
                Với tài tháo vát, lòng can đảm, chị thường tình nguyện đi trước thám thính, dẫn đường để các chiến sĩ tới nơi chỉ định an toàn. Với bao sức sống, lòng nhiệt thành, chị đã dâng hiến cho cách mạng hết cả. Tính tình kín đáo, thêm với sức khỏe dẻo dai, chị đã đem những truyền đơn, những chỉ thị được ngụy trang, dấu kín trong vành khăn đội đầu, trong thúng lúa, gánh gạo. Bước chân chị đã đi khắp vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, để chu toàn công tác mà anh em giao phó. Chị đã lấy niềm vui hoàn tất sứ mạng là phần thưởng cho chính mình.
                 
                Năm 1947, thời kỳ Việt Minh truy lùng các đảng phái quốc gia gắt gao. Anh Dung một nhân vật quan trọng của Duy Dân đang bị bắt giam ở đồn Trì Chính Anh em giao cho chị nhiệm vụ đưa tin mãi tận vùng Bồng Tiên, Thái Bình, liên lạc với ông Miếu, một lãnh tụ cao cấp của Duy Dân Đảng và đồng thời cũng là bạn học của anh Dung để tìm cách đánh úp, giải cứu anh Dung. Dọc đường, công an du kích khám xét, canh gác cẩn mật, nhưng  chị vẫn thoát được.
                 
                 Chưa kịp giải cứu, ngay đêm đó Việt Minh đã thủ tiêu anh Dung một cách cực kỳ dã man sau khi đã tra tấn anh bằng những hình cụ độc ác.
                 
                Có lần chuyển tài liệu về vùng Nam Định, chị bị công an chận đường, chị ứng biến rất nhanh nhẹn, bình tĩnh, nên vượt mọi khó khăn. Đôi lúc chị còn giúp anh em bằng cách nhận những số tiền lớn (dĩ nhiên là tiền giả) để mua tơ lụa hay các loại hàng hóa khác, bán đi để trộn chung với tiền đang lưu hành. Vào thời kỳ đó khó mà có thể đi quyên góp được, những tiền đó dùng để nuôi các chiến sĩ.
                 
                Không một  gian nan, nguy hiểm nào mà chị từ chối. Ngay cả những khi phải lội qua sông để chuyển tài liệu, đi đường bộ hay đường thủy đều bị khám gắt gao, chị Cúc đã phải lội qua sông Đáy, miệng ngậm ống đu đủ, chị bơi dưới đám lục bình, cứ như thế mà thoát được sang bên bờ Nghĩa Hưng. Công tác giao phó hệ trọng và nguy hiểm nhưng hết lòng với cách mạng nên chị xem thường những hiểm nguy.  Người góa phụ can trường đã nuôi nấng, tiếp tế cho những chiến sĩ cách mạng với tất cả tấm lòng đơn sơ, niềm tin mãnh liệt vào cách mạng, vào chủ nghĩa quốc gia.
                 
                Năm 1954 với đoàn người lũ lượt vào Nam, chị và gia đình ra đi với hai bàn tay trắng nhưng mang theo cả một bầu nhiệt tâm. Chị cương quyết vào Nam vì không thể sống chung với Cộng Sản. Đến vùng đất mới, chị lên vùng cao nguyên, sau lại về miền Tây (vùng Chợ Mới), cuối cùng chọn vùng Quang Trung làm nơi sinh sống. Đến năm 1975, một lần nữa chị lại lìa bỏ quê hương ra đi sang tận phần đất tự do bên này địa cầu. Ngày nay với số tuổi 80 cận kề, đôi mắt kém sáng nhìn ra trời tuyết phủ trắng xóa của miền Bắc Mỹ mà ngậm ngùi cho những ngày qua. Có vị nào trong Duy Dân Đảng nay phiêu bạt xứ người  còn nhớ đến người thiếu phụ mảnh mai đã hết lòng trung kiên với cách mạng ngày nào không?
                 
                                               ***
                 
                Tôi viết những dòng này với tấm lòng thành kính và xin được tôn vinh người nữ chiến sĩ kể trên. Chị là một tấm gương sáng, một hình ảnh mẫu mực tuyệt đẹp của người đã quên mình vì nước, đặt tình yêu tổ quốc lên trên hết mọi sự. Chị đã tận hiến cho đất nước tất cả tài vật, sinh lực, mà không đòi hỏi một danh  lợi phù phiếm nào. Quê hương chúng ta mãi mãi tồn tại với những người con yêu như chị Cúc, cho dù dưới đã tâm tàn độc của bọn Cộng Sản vẫn không sao biển cải được con dân Việt, đất nước Việt.
                 
                  

                 
                16-  Vượt Trùng Dương

                 
                 
                Ngước mắt nhìn lên nền trời mở rộng, chân mày gần ngay tầm mắt, nhìn ra vùng biển bao la,  nước mênh mông một mầu xanh trong, ánh dương quang chiếu xuống mặt biển lấp lánh như rắc vàng. Tay bồng con, vai đeo chiếc bị cói, trong bị chỉ có vài bộ quần áo của hai mẹ con, không lấy gì làm nặng, nhưng con bé hay dẫy dụa vì suốt từ chiều hôm qua đến giờ bé không được dắt đi chơi, nên mẹ bé cứ phải đổi tay này qua tay kia cho đỡ mỏi.
                 
                Màng lưới công an cộng sản ngày một tinh vi, bao vây xiết chặt, ngày một cấp bách.  Mùi được tin tới địa điểm gặp Thành, cả hai, tay nắm tay nhau, Mùi chỉ kịp nghe Thành dặn vói “cho biết tin sanh con trai hay con gái”. Mùi chưa kịp nói gì, đã nghe có tiếng một người  ra lệnh. Không thể trì hoãn thêm một phút, cả bọn đã quay lưng lại. Mùi tần ngần nhìn theo. Được mười bước, Thành ngoái cổ lại nhìn người yêu, trên môi nở nụ cười tươi trên khuôn mặt đầy cương quyết, dầy dạn phong sương với tia nhìn thắm thiết đầy yêu thương.

                Khi đã khuất bóng mọi người, trở về nhà, Mùi nhìn xuống bụng đã được hơn tám tháng, chả mấy chốc nữa đến ngày sanh, rồi sẽ đưa tin làm sao cho Thành biết đây! Nàng bâng khuâng trở lại nhà chờ ngày đứa con ra đời.
                 
                Bé Liên chào đời trong những tiếng súng gần xa vọng lại, mở mắt ra nhìn không có bố bên cạnh, bù lại có mẹ, có ông bà nội, ngoài đầy tình thương ấp ủ. Mùi cũng đỡ  cô đơn; từ ngày có bé Liên, Mùi đem tình thương nỗi nhớ trút vào con, cũng đỡ những lúc nhớ nhung xa cách Thành nhưng oái ăm thay, cứ ít hôm lại có trát đòi Mùi lên công an hỏi về Thành đi, ở đâu, làm gi. Bao giờ nàng cũng chối không biết. Đâu chúng có dễ tin, khai thác bằng cách bắt nọn, dọa dẫm, hứa hẹn; không kết quả, họ đưa những bạn của Thành ngày trước, bây giờ làm lớn, tới thăm hỏi mẹ con Mùi, khuyến dụ nàng liên lạc để Thành trở về hợp tác với chính phủ.
                 
                Biết có ở lại cứ bị công an nay hỏi thăm mai thăm hỏi, Mùi tìm đường bế bé Liên vào khu chiếm đóng, đi đường bộ, phải có giấy phép di chuyển, đi đường thủy là an toàn hơn, được một tổ chức đưa đi. Bí mật tới một ngày tề tựu ở một điểm hẹn, rồi thuyền ra khơi bình yên.
                 
                Những luồng sáng vàng của mặt trời chiều tan dần trong sóng, hay  chìm xuống đáy sâu vào biển cả. Trời và biến nhanh chóng hòa làm một trong bóng đêm. Biển không ngủ vẫn cồn cào trăn trở, làm rung  bay tấm áo choàng mượn của trời sao. Bầu trời trong trẻo với muôn ngàn những vì sao xa xăm yên tĩnh. Cái yên tĩnh kia chính là cái chuyển động, chuyển động rất dữ dội mà đôi mắt con người với cuộc đời ngắn ngủi chẳng bao giờ nhận ra. Những con sóng bạc đầu chuyển động dữ dội, trải ra đến tận chân trời. Con thuyền nhỏ chỉ còn như chiếc  lá nổi trôi trên đại dương.
                 
                Một cơn bão thổi tới, sóng gió nổi lên, nước tràn vào thuyền, cơ hồ đắm đến nơi. Trên ba mươi người trai tráng trong thuyền phần đông là các  sinh viên tìm đường du học ngoại quốc, họ đổi nhau tát nước, chỉ có ba người đàn bà và mẹ bé Liên được miễn, nhờ người lái thuyền có kinh nghiệm, bình tĩnh, ông ta hạ buồm, lái gối đầu sóng đi theo chiều gió, thuyền dạt vào hòn đảo, thoát chết, mọi người lên trên đảo; nhìn lại không ai mang theo được gạo, nước, đành nhịn đói, còn bé Liên khát chỉ biết khóc, tìm đâu ra nước bây giờ.
                 
                Dưới bóng trăng mờ, một người đàn ông cứ lom khom cúi nhìn xuống đất, một lúc  lâu, ông Quân đã tìm được nước  đưa tới cho Mùi, bằng chiếc lá mít đầy nước, gấp theo hình phễu, để cho bé Liên uống, từ đây bé không khóc và ngủ cho tới sáng. Mùi không hiểu ông Quân lấy nước ở đâu. Hỏi chỉ trả lòi “miễn là có nước cho cháu uống cho khỏi khát.”  Rồi Mùi cũng khám phá ra nước đã lấy ở vùng lớn bằng chiếc dĩa, hũm xâu xuống nhờ trận mưa lúc ban chiều còn đọng lại, biết làm sao hơn nhờ chút nước đó nhưng con nàng khỏi khát. Sáng hôm sau mọi người được biết thuyền đã trấp vào núi Nẹ gần Thanh Hóa. Chiều hôm sau vào cửa biển Đồ  Sơn tới Hải Phòng.
                 
                Gia đình trùng phùng sau hơn hai năm biệt ly xa cách. Thanh không còn phải lo về vợ con bị liên lụy vì mình. Nghỉ ngơi ít ngày, sẵn óc buôn bán, Mùi đi làm quen dò la tìm hiểu về đường thương mại. Thành và Mùi đã ổn định được đời sống. Mùi tự đảm nhiệm hết việc nhà. Thành trở về với quốc gia dân tộc, người nào việc đó thời gian qua mau.
                 
                Biến cố 20-7-1954, Hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước. Đoàn người di cư vào Nam, các nơi đổ dồn về hải cảng Hải Phòng ngày một đông. Chẳng đặng đừng Mùi quyết định bán tất cả những gì sau bẩy năm kiến tạo, cũng như lần vượt biển trước, lần này có khác là Mùi đã đem theo được số vốn,   đồ dùng xếp chặt trong hai vali, bé Liên có nhiệm vụ nắm tay em đi theo mẹ xuống tàu vượt biên vào Nam.
                 
                Được tiếp đón ở trại Cầu Kho với giang sơn rộng một chiếc chiếu giải. Hai tuần lễ sau, Thành mới tìm gặp được vợ con. Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, Thành với một số anh em với ý chí lật ngược ván cờ, ở  lại đến phút cuối, không tìm được đáp số, đành phải âm thầm thu thập hơn 3000 tráng sĩ tránh nạn vào Nam. Có thực mới vực được đạo, đôi Thành Mùi quyết tâm nỗ lực xây dựng lại cơ đồ, đất hứa chỉ dành cho những ai có ý chí; gặp may mắn, họ đã thành công.
                 
                Vận nước ngày một suy tàn, quốc biến 30-4-1975 xẩy ra bất ngờ, hoang mang lo âu, 21 năm xây dựng cơ đồ, một lần nữa lại biến thành công dã tràng xe cát. Đã có kinh nghiệm sống chung và hiểu rõ loài quỷ đỏ, không cần tuyên truyền khuyến khích mọi người đổ ra đi tìm lẽ sống trong cái chết. Cũng như hai lần trước, ông bà Thành lại ra bờ biển làn thứ ba; khác hai lần trước, các con họ đều đã lớn, đã tự túc.
                 
                Rồi gặp nhiều người cùng cảnh ngộ ở Guam, rồi Orote Point, không còn cảnh hồi hộp nhìn biển man mác mông mênh biết đâu là bờ, mà lại được lên máy bay đi tuốt tới Mỹ, một nơi văn minh bậc nhất thế giới. Cuộc đời mới bắt đầu từ ngày mỗi ba lần xếp hàng đi lấy phần ăn, gọi điện thoại tìm bà con thân thuộc, có người bảo trợ ra khỏi trại mới là thực sự vào đời đi làm đi học để hòa đồng với ngôn ngữ, tập tục, luật lệ, văn hóa mới, nhất nhất đều khác với văn hóa lề thói khi còn ở nhà, riết rồi lâu ngày cũng quen.
                 
                Còn trong lòng có ai quên được nơi chôn nhau cắt rốn, tuy phải chạy từ bỏ nơi sinh tới vùng tạm chiếm, vào đến trong Nam đâu cũng là đất nước của mình, người đồng chủng, không có cảnh ăn đậu ở nhờ đất nước người  như cái cảnh chạy nạn lần này. Chưa quá ba lần, ông bà Thành lại hăm hở gây lại sự nghiệp lần nữa với ý chí chờ dịp trở về phục hồi đất nước.
                 
                Suốt năm mươi năm từ những ngày còn trẻ đến nay hai mái đầu đã bạc, Thành và Mùi sóng vai bên nhau trên suốt con đường đời gian nguy có nhau, thành đạt có nhau. Thuận vợ thuận chồng, cùng hun đúc lý tưởng và xây dựng gia đình. Nay chỉ còn một ước mơ duy nhất là nước nhà thanh bình, không còn Cộng Sản để có thể trở về quê hương an hưởng tuổi già.

                (còn tiếp)
                #8
                  frank 21.07.2022 00:14:54 (permalink)


                  17-  Một Giai Thoại

                   
                   
                  Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Nhật dưới cách đô hộ của giặc Tây rồi Nhật, khí thế tranh đấu dành tự do, độc lập rất hăng say. Mặc dù những hoạt động chỉ ngấm ngầm và bí mật tựa vào lòng dân yểm trợ thêm vào tinh thần yêu nước, hăng say của toàn dân. Các lớp huấn luyện được mở để tuyển chọn và đào tạo thêm cán bộ những địa điểm huấn luyện phải di chuyển luôn để bảo mật. Trong một buổi lễ khai mạc cho lớp huấn luyện và tuyên truyền, một nhà cách mạng lão thành có tới dự và cụ đã phát biểu ý kiến như sau:
                   
                  -“Có anh chị nào xem Đông Châu Liệt Quốc hẳn còn nhớ truyện Ngô Khởi. Tôi xin kể vắn tắt như sau: Ngô Khởi là học trò giỏi của thầy Tăng Sâm.  Ngô Khởi là người hiếu học và rất chăm chỉ. Theo học thầy Tăng Sâm được mấy năm, sau thầy Tăng Sâm biết Ngô Khởi còn mẹ già ở nhà không người phụng dưỡng, có ý nhắc Ngô Khởi về quê thăm mẹ. Ngô Khởi nghe nhưng không về thăm mẹ. Đến khi được người đưa tin mẹ chết. Ngô Khởi chỉ ngửa mặt lên trời kêu ba tiếng rồi cúi xuống tiếp tục học chứ không về cư tang.
                   
                  Thấy vậy, thầy Tăng Sâm phải kêu lên rằng: “Nước không nguồn phải kiệt, cây  mất gốc phải chết. Người quên  ơn bất hiếu với cha mẹ, tổ tiên, không đáng là người”. và đuổi Ngô Khởi ra khỏi trường. Y quay sang học võ. Quan đại phu nước Tề là Điền Cư nghe tiếng Ngô Khởi là người ham học, thử tài thấy ứng đáp trôi chảy nên có lòng yêu mà đem con gái gả cho.  Quan đại phụ nọ chỉ nghĩ đến tài mà không xét đến đức hạnh để sau khỏi hối tiếc.
                   
                  Khi có dịp cầu công danh Ngô Khởi đã nhẫn tâm chém đầu vợ mà lập công danh. Một con người bất hiếu, dứt tình mẫu tử đi tìm công danh, đến khi mẹ chết cũng không về cư tang, báo hiếu. Đối với vợ là người sát cánh với mình lúc khó nghèo cũng như lúc hiển vinh, đầu áp tay gối thế mà đã bất nghĩa, táng tận lương tâm giết vợ, kết cục cũng chết khốn nạn vì danh lợi phú quý, để lại tiếng xấu muôn đời không rửa được.
                   
                  Cũng một đích tìm bạn, hãy xem người ta có hiếu mới có trung, có trung mới trọn được nghĩa. Bỏ ngoài nhân diện tìm xem kẻ ấy đối với cha mẹ có chu toàn về tinh thần lẫn vật chất theo khả năng không? Người có hiếu mới có trung với nước, yêu tha nhân, yêu tổ quốc, có chí hướng bảo toàn trật tự công cộng tiến tới nước giầu dân mạnh, được an cư lạc nghiệp.
                   
                  Mà đã có trung tất có nghĩa, không nỡ bỏ anh chị em đồng chí. Lúc gặp hoạn nạn, nguy cơ, tận tình giúp đỡ. Đã một lòng trung trinh với đất nước tất phải có nghĩa khí, hết tình bằng hữu với anh em. Kẻ đã có lòng hiếu thuận với bậc sinh thành mới có lòng trung. Mà đã có trung phải có nghĩa.
                   
                  Đến khi các  anh chị lập gia đình cũng nên thận trọng tìm người phối ngẫu. Cũng đi từ tiêu chuẩn đó, nên tìm xem người đó có hiếu thuận với cha mẹ không. Ắt về sau nghĩa vợ chồng sẽ bền vững, đối với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ sẽ có kính mến lễ độ.”
                   
                  Người hiếu  thuận với cha mẹ, biết quên mình để đẹp lòng cha mẹ, cái đức tính yêu người, hết lòng vì người khác sẽ giúp cho trọn chữ trung và cũng từ đó mà giữ được trọn cái nghĩa. Như cái cây có cội, có nguồn vững chắc thì càng ngày cây càng xanh tươi, xum  xuê đơm bông đơm trái. Cây mà mất gốc lấy đâu căn bản mà được nuôi dưỡng, sẽ chết lần chết mòn, héo khô và tiêu tan đi.
                   
                  Ở vào bối cảnh giữa hai gọng kìm Nhật và Pháp, chúng đều tung màng lưới chó săn truy lùng chúng tôi với đầy đủ phương tiện, phải thận trọng lắm mới  giữ được bảo mật. Khi kết nạp được rất nhiều người  theo, dời đi chiến khu, khí thế hăng say. Tuyển thì nhiều mà chọn thì ít. Có người tối nay mới cho biết sơ qua mấy điều, sáng mai đã rỉ tai cho nhiều người biết. Chưa đóng góp được gì đã làm anh em thêm lo âu. Chọn người trong bất cứ lãnh vực nào cũng thật khó khăn, phải kiên nhẫn tìm hiểu. Thật là cả một nghệ thuật!
                   
                  Vận nước suy vi, lánh thân nơi xứ người, phần đông chúng ta đều kỳ vọng vào ngày trở về trên quê hương thanh bình, không còn bóng dáng, gông cùm của bọn quỷ đỏ. Với truyền thống anh hùng, đánh Tống đuổi Mông, dẹp Mãn Thanh, bình Chiêm Thành, ta hãy hướng về cố quốc đem ý chí hun đúc cho con em thành những kẻ hữu dụng cho đất nước. Để mai này tạo thành một hậu thuẫn mạnh mẽ cho những người Việt  đang ở quê nhà nuôi ý chí đấu tranh, vùng lên đạp đổ Cộng Sản dành lại một quê hương Việt Nam yêu dấu, một ngày huy hoàng không xa nữa. Ta sẽ xây dựng một Việt Nam hùng cường trên đất nước thương yêu đầy tình người.
                   
                   
                   
                   
                  18-  Đời Người Hai Thế Hệ

                   
                   
                  Từ đàng xa bóng người đàn bà đã rõ dần, trên vai quảy đôi quang gánh với hai chiếc thúng, dáng người nhỏ thó, nước da rám nắng chưa phủ hết được mầu trắng hồng trên đôi gò má. Trên đầu lúc nào cũng có chiếc khăn vuông thắt mỏ quạ che được nửa trán bên trên, áo cánh mầu nâu non, quần thâm, phục sức gọn gàng, thoăn thoắt. Loan đi thẳng vào trong chợ tìm đến khu bán gạo, lúa, đi qua mỗi chỗ đều nghe tiếng mời chào mua hàng, nàng chỉ chú ý tìm những thứ cần mua nhất là cám để kịp bữa heo ăn.
                   
                  Sau ngày nhị hỷ “lại mặt”, đã hơn ba tháng chưa một lần trở về thăm bố mẹ. Bà Nhã trăn trọc mãi khó ngủ, thở dài chép miệng, tưởng rằng gả nơi gần để con sẽ dễ bề thăm viếng. Hôm qua nghe bà hàng xóm bán đậu hũ kể phiên chợ nào cũng gặp Loan đi chợ. Hôm nay là phiên chợ tổng, bà náo nức đi chợ sớm để gặp con và mua đồ. Với chiếc nón đội lên đầu bà muốn đi sớm cho đỡ nắng, và đứng đón con ngay đầu chợ dễ gặp hơn. Thoáng thấy con gái từ đằng xa đang kẽo kẹt trên vai, gánh nặng hai thúng cám bên trên chất đầy các thứ thực phẩm.
                   
                  Cả hai mẹ con gặp nhau mừng rỡ, Loan hạ gánh xuống nàng chỉ kịp hỏi thăm mẹ về bố và các em ở nhà có được khỏe. Loan bảo:
                   
                  “Con nhớ nhà, nhớ hết mọi người chưa tìm được dịp về thăm nhà, vì nhà chồng giao cho nhiều việc phải làm, con phải về, lỡ gặp ai quen họ mách con la cà sẽ phải nghe chửi.”
                   
                   Cả hai mẹ con nhìn nhau mủi lòng, bà Nhã chỉ kịp nhét vào túi con mấy đồng bạc và tấm bánh nếp đã mua sẵn, Loan nhận tấm bánh còn mấy đồng tiền nàng gửi lại để mẹ  mua quà cho các  em, vội vã xin phép mẹ đi về. Dù lâu ngày không gặp, bà Nhã đành nuốt nước mắt nhìn con gái gánh đồ nặng chĩu đè trên hai vai nhỏ bé, trong lòng xót xa, bà chép miệng than: “Cũng là số phận trời định”, ông bà đã kén chọn tìm nơi môn đăng hộ đối, hai nhà xui gia cách xa nhau nếu không phải chờ đò qua sông thì chỉ một giờ đồng hồ đi bộ, tiện cho con nàng về thăm bố mẹ.
                   
                  Không ngờ Loan gặp bà mẹ chồng  tình tình hẹp hòi, quá khắt khe. Từ khi có con dâu bà bắt Loan làm hết các việc ở nhà từ sáng đến tối, ngoài hai bữa nấu cơm cho gia đình, vớt bèo quậy cám cho đàn heo, thái dâu cho cả chục nong tầm ăn, thu dọn quét tước với bao nhiêu việc không tên. Loan phải dậy sớm khi chưa ai thức giấc, đi ngủ sau hết mọi người. Những lúc quá nhớ bố mẹ các em, nàng trốn ra bến đò bên sông nhìn về bên kia sông  nơi xa xa có cha mẹ các em và chỉ âm thầm khóc, để rồi trở về nghe mẹ chồng  mắng nhiếc là đồ lười biếng, chậm chạp, đần độn, dốt nát…
                   
                  Tú, chồng nàng, thương vợ phải làm đầu tắt mặt tôi, xin mẹ thuê người làm đỡ thì được bà mỉa mai:
                   
                  “Tốn công tốn của lấy người về để làm, chứ không phải lấy người về nuôi cho ăn chơi, tôi chưa  đến nỗi như người ta. Mua mâm thì đâm cho thủng, mua gỗ thì bổ lấy giầm.”
                   
                   Biết không lung lay được mẹ,  trước bà cũng sống cảnh làm dâu chịu cực như thế nào giờ đây bà có dịp trút hết thù hận lên đầu con dâu, nên chàng chỉ âm thầm làm giúp vợ khi không có mẹ mình và an ủi vợ chịu đựng hết một năm bố mẹ sẽ cho ra ở riêng. Hiểu nỗi khổ tâm bên tình bên hiếu, với sự khuyến khích của chồng. Loan vui vẻ khi bà mẹ chồng gặp sự bất mãn hay đau yếu và lòng yêu chân thành dần dà, bà cảm thông được lòng tốt của con dâu và đã yêu mến đáp lại không còn cách biệt như trước.
                   
                  Ông bà yêu thương con dâu coi sóc các cháu giúp đỡ vợ chồng Loan từ công việc nhỏ tới công việc lớn.
                   
                  Loan đã nhiều  lần nhận được tiếng khen của họ hàng, làng xóm với câu vợ hiền dâu thảo một  nhà đầm ấm có phúc. Thế mới biết tình yêu cảm hóa được cả những  tâm hồn cứng rắn và khắc nghiệt. Sự nhẫn nhục, chịu đựng đã mang lại cho Loan một phần thưởng  quý báu: sự thông cảm và yêu thương. Nàng đã cảm hòa được bố mẹ chồng bằng tình yêu chân thật.
                   
                    -------------------------------------------------------------------------------------------------------

                                          
                   
                  Phan trầm ngâm trước ngọn đèn nghĩ mãi không biết sẽ thoát bằng cách nào. Suốt buổi tối nói thế nào bố mẹ chàng cũng không chấp nhận để chàng lấy Tuyên. Bố chàng phán rắng:
                   
                   “Theo sách tướng người đàn bà mắt lộ tròng trắng hơi hung nhiều hơn lòng đen, nhìn ai căng căng cái mặt, đấy là con người bạc bẽo, hỗn láo, không thể chấp nhận.”
                   
                  Mẹ chàng than là  con giai trưởng trong nhà, mẹ cần nàng dâu gương mẫu cho các em sau này bắt chước đừng để mẹ phải mang tiếng “nàng dâu mẹ chồng” cho người ngoài đàm tiếu. Chàng cứng họng hết nói được gì. Trong khi Tuyên không còn dấu được cái bụng ngày một lớn. Bị thôi thúc cấp bách. Phan đi vấn kế với những ông bạn vong niên, nhờ các bạn giúp đỡ. Cũng có đám cưới rước dâu với sự đạo diễn của các bạn. Bố mẹ chàng tặc  lưỡi đành để nước chảy xuôi dòng, công nhận trường hợp bắt đắt dĩ.
                   
                  Là người con có hiếu, Phan cũng biết cưới Tuyên là chống lại ý bố mẹ nhưng lương tâm thúc đẩy không thể bỏ con do mình tác tạo, chàng hy vọng sau này hướng dẫn vợ theo nếp sống nhà mình để bố mẹ được vui lòng. Muốn tránh đụng chạm, sau khi cưới xin phép bố mẹ ở riêng ngay.
                   
                  Với người đàn bà thiếu căn bản giáo dục, đúng như bố Phan đã nói. Tuyên may mắn gặp được người chồng có lương tâm lại là người hiếu đễ nhưng nàng đã không nhận nghe theo chồng xử sự lấy cảm tình nhà chồng, lại hỗn láo chống lại hết mọi người trong nhà chồng, thậm chí có hôm Tuyên nói hành về mẹ chồng với bà hàng xóm:
                   
                   “Lần tới bà ấy còn nói đến tôi, tôi sẽ đánh lại cho bà chừa.”
                   
                  Bà hàng xóm sửng sốt khi nghe thế và đã khuyên nàng không nên hỗi láo, lỗ mãng quá, nếu xảy ra mọi người sẽ coi nàng như một quái vật, và sẽ chịu hậu quả khốc liệt dễ dàng mất chồng mất con.
                   
                  Chàng chịu đựng người vợ lăng loàn, hỗn xược, khổ cả một đời, thương bố mẹ chỉ lẳng lặng đi một mình, ân hận đã không nghe bố mẹ, bồng bột lúc  tuổi trẻ lao đầu vào yêu đương, làm tình nhân thì dễ, xây dựng hôn nhân lấy vợ cần có kinh nghiệm của bố mẹ. Nhiều lúc Phan không chịu đựng được muốn bỏ đi cho khuất mặt, nghĩ lại thương con, còn bổn phận giáo dục đàn con, mẹ chúng kể như bỏ.
                   
                  Đó chính là hậu quả của tự do luyến ái. Đến năm 75, cả gia đình cũng di tản sang Mỹ. Với người vợ bất nhân, thiếu giáo dục, người chồng nhu nhược đã đành lòng để vợ xua đuổi mẹ già ra khỏi nhà lấy cớ bà hủ lậu đi dậy tiếng Việt cho các cháu.
                   
                  Di tản cùng đoàn người bỏ nhà bỏ nước ra đi lòng đau như cắt, đã biết con dâu chẳng được thuận thảo, song muốn dựa vào tình gia đình, trông thấy con, thấy cháu sưởi ấm tâm hồn già cỗi khi gần đất xa trời, quá tủi nhục, bà cụ tới tá túc với người cháu ở tiểu bang khác, xa cách những con bất hiếu.
                   

                  Hậu quả như người đời thường nói: “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”. Lần lượt những đứa con của Tuyên lớn lên đi làm có lương cao, nhưng bỏ những thăm nom hay giúp đỡ cho bố mẹ chúng, sống sa đọa, hỗn láo với tấm gương mẹ chúng đã đối xử với ông bà nội của chúng. Hãy làm trước những điều tốt cho người mới mong người sẽ làm những điều mình muốn.



                   
                  ------------------------------------------------------------------------------------------------------




                  Nghe tiếng chân đi quay lại thấy Huệ cô em chồng ôm một mớ quần áo dơ tới để bên cạnh, cộng với một thau đầy quần áo Kim đang giặt từ bấy giờ chưa xong, đã thấy mỏi tay, mỏi lưng với cái bụng đã sang  tháng thứ bẩy, mỏi mệt gắng làm không dám nghỉ. Mọi người  ăn điểm tâm xong, chồng nàng tới sở làm việc, các em tới trường học. Bây giờ bố mẹ chồng mới dậy, Kim chống tay đứng lên cho đỡ tê chân và phụ giúp u già thu dọn sạch sẽ mới bày đĩa bánh bột nếp nhân thịt mà Kim đã làm từ sáng sớm, ông bà Tú ưa ăn thứ này.
                   
                  Từ ngày về làm dâu, Kim vẫn phải làm bánh mỗi buổi sáng và chỉ làm có hai chiếc bánh riêng cho bố mẹ chồng. Cũng như u già, Kim phải làm suốt ngày trừ hai bữa cơm, cứ như một cái máy chạy đều.
                   
                  Dần dà các em gái đi lấy chồng ở riêng hết, người em trai đã không được bố mẹ ưng thuận lấy người mình yêu cùng bỏ nhà đi nốt, còn lại vợ chồng Kim là con trưởng, bố mẹ chồng vẫn giữ nếp sống cổ lệ khó nếp hẹp hòi, chồng nàng hằng ngày đi làm ngày nghỉ đi xoa mạt chược các nhà bạn, hay tổ chức chơi ở nhà chẳng cần biết đến cực nhọc của vợ, coi nàng như cái máy đẻ, một người giúp việc không lương.
                   
                   
                  Suốt ngày quần quật làm việc hầu hạ bố mẹ chồng, con, bạn bè tới lui, thậm chí muốn may mặc phải xin tiền chồng chi cho từng chiếc áo, chồng nàng đã theo ý bố mẹ giữ tiền, sợ Kim lén lút đưa về giúp bố mẹ nàng.
                   
                  Ông bà Nghị sau khi đi dự đám cưới của Loan về có phàn nàn với Kim, Loan xinh đẹp thùy mị như vậy lại đi lấy chồng nhà quê sẽ vất vả làm sao có hạnh phúc.
                   
                  Bố mẹ Kim rất hãnh diện đã kén con rể làm công chức, ở thành phố văn minh rồi ra con mình danh giá, ăn trắng mặc trơn. Hồi mới cưới, Kim thỉnh thoảng còn được về thăm bố mẹ, hãnh diện về phục sức, quần trắng áo màu.
                   
                  Bố mẹ nàng chỉ có tiếng, hồi môn không có, ít lâu sau thấy nàng chỉ có bề ngoài, nhà chồng bắt đầu coi thường nàng chỉ là công cụ phụ thuộc và phải hầu hạ tất cả mọi người nhà chồng, bất mãn khổ nhục chỉ âm thầm khóc một mình khi bà mẹ chồng bắt khoan bắt nhật, chồng lại không biết giúp đỡ, an ủi, nghe mẹ  chê bai, không lối thoát nàng tự an ủi chờ các  con khôn lớn và bố mẹ già chẳng sống bao lâu, đời mình sau này nhờ cậy vào con, ép mình trong khuôn khổ để giữ tiếng cho bố mẹ mình khỏi nghe những tiếng đay nghiến là con nhà mất dậy.
                   
                  Bố mẹ họ hàng ai cũng mừng cho nàng lấy chồng công chức, một bước lên bà, lên xe xuống ngựa ăn trắng mặc trơn. Thực ra chỉ có bề ngoài, khi ra khỏi  nhà  được ăn mặc tươm tất để giữ giá trị cho chồng, về nhà thân phận nàng không hơn người vú em, hơn 50 tuổi mới hết cảnh làm dâu được tự do dễ thở một chút, lại chạy tỵ nạn tới nước người, phong tục tập quán xa lạ, thế hệ này thuộc về con cháu.
                   
                  Nay đã có con dâu và con rể, cháu nội cháu ngoại đủ cả, nàng chịu đựng đã quen không thể bắt chước các cụ ngày xưa được, hãy quên những gì đã qua. Nàng dễ dàng hòa đồng với các con, cả dâu lẫn rể.
                   
                  Tới đất văn minh thừa thãi vật chất ở vào thế hệ khác biệt không nên đưa cương vị bố mẹ, mình phải đem kinh nghiệm tùy thời mà áp dụng đừng có câu nệ coi trọng tự do các con, hãy đối xử như bạn, thông cảm, yêu thương chúng, giúp đỡ làm những gì mình có khả năng làm được dù con dâu con rể. Nhân vô thập toàn, có làm lỗi hãy lắng nghe giải thích, chín bỏ làm mười không phân biệt, thương yêu, đối xử đồng đều trong gia đình lúc nào cũng đầy hòa khí yên vui.
                   
                   
                   (còn tiếp)
                  #9
                    frank 27.07.2022 23:10:37 (permalink)


                    19-  Tu Là Cõi Phúc



                    Trời đã hừng đông, gió lay nhẹ màn cửa, thoang thoảng mùi hương hoa nhài trước cửa sổ. Hạnh vươn vai lắc mình làm mấy động tác thể dục có vẻ khoan khoái, trằn trọc suốt đêm khó ngủ, vì lạ nhà cũng có, lại thắc mắc có chắc mình đỗ không. Ở nhà bố mẹ đang chờ tin cũng lo cho mình lắm đây.  Chiều hôm qua mệt chỉ ăn qua loa bây giờ Hạnh mới cảm thấy đói. Chàng mặc quần áo rủ mấy bạn trọ cùng phòng, áy náy không biết mình có  đỗ không.
                     
                    Vào thập niên 30 các tỉnh lân cận phải tới Nam Định thi lấy bằng Tiểu học Pháp Việt. Mấy cậu kéo nhau tới trường người nào cũng muốn xem trước, phải chen lấn để tìm tên. Hạnh tìm thấy tên mình đứng thứ 34, chàng hồi hộp tim đập liên hồi, mặt bừng đỏ vì sung sướng chen ra khỏi đám đông. Hạnh bị các bạn túm vào hỏi thăm, chúc mừng. Từ giã các bạn chàng về nhà trọ lấy đồ để còn kịp ra chuyến tàu thủy chạy đường Nam Định-Trì Chính.
                     
                    Lấy vé xong Hạnh vội vã xuống tàu vừa kịp tàu nhổ neo. Hạnh tìm được chỗ ngồi cạnh cửa sổ, gió mát thổi lồng lộng, từng lớp sóng nho nhỏ vỗ vào mạn tàu, tiếng hành khách nói chuyện hỏi thăm nhau vui vẻ. Trong lòng Hạnh hân  hoan, mong cho chóng tới nhà gặp bố mẹ nhất là mẹ dù yếu, mệt chắc cũng bắt em Mến nấu sẵn nồi canh rau đay với trứng cáy và nồi cơm gạo tám xoan mềm dẻo thơm ngát để con trai mẹ ăn vì biết con thích ăn canh rau đay. Nghĩ đến đây Hạnh sung sướng mỉm cười một mình rồi miên man phác họa. Qua kỳ hè mình sẽ theo anh Phước đi Hà Nội học, Nam Định còn vui như vậy, được ở Hà Nội học sẽ có nhiều cái vui lạ nhiều chỗ để du ngoạn…
                     
                    Mẹ Hạnh đau yếu đã lâu mắc một trong tứ chứng nan y cũng vì quá lao tâm lao lực, một năm hai vụ làm ruộng, rồi lại bôn ba nay chợ gần mai chợ xa bán buôn kiếm lời để có đủ tiền trả cho các con ăn học nơi xa , hy vọng tương  lai các con hơn người làm rạng rỡ cho gia đình. Ác hại định mệnh chẳng để cho bà chờ các con thành công, tuy nhiên cũng có một yên ủi, Phước con trai cả tòng sự sở Công Chánh đã có gia đình.

                    Tới nhà Hạnh khựng lại thấy mấy em gái không chạy ra đón anh vui vẻ, mà mắt em nào trông cũng buồn thảm, đi thẳng vào trong nhà Hạnh muốn cất tiếng gọi mẹ, quay lại thấy bố mặt có vẻ khắc khổ tư lự ra dấu hãy im lặng. Hạnh cầm lấy tay mẹ, bà mở mắt ra nhìn sẽ nói Phước, Hạnh thay mẹ săn sóc các em rồi từ từ khép mắt lại lần sau hết. Hạnh ôm lấy mẹ nức nở, các em chàng xô vào kêu khóc ầm ĩ, họ hàng lối xóm phải lôi anh em chàng ra ngoài.
                     
                    Sau khi an táng mẹ xong, Hạnh buồn, ít đi chơi nhớ lời mẹ dặn săn sóc dậy các em học hè. Tuy anh chị Phước đều nói muốn Hạnh đi Hà Nội học có anh chị giúp đỡ. Hạnh vẫn phân vân vì biết thiếu mẹ chàng là thiếu người tháo vát, còn bố chỉ trông vào mấy mẫu ruộng sẵn có lợi tức không đủ cung cấp cho Hạnh đi học xa. Ít lâu nay Hạnh thường giao tiếp quen thân với một linh mục bản xứ, linh mục có lần tỏ ý muốn kết nạp Hạnh vào bậc tu trì, thời gian này là để Hạnh tìm hiểu phân tách đời sống trần thế và đời sống linh thiêng.
                     
                    Dù thương tiếc cách mấy, thời gian qua cũng làm cho lòng người dịu lại, như bát nước nóng nguội dần,  ông Phúc thường phàn nàn trẻ chưa qua gìa chưa tới, từ ngày bà Phúc qua đời ông Phúc buồn cũng đi tối ngày. Mấy ngày nay tự dưng ông rất vui vẻ săn sóc hỏi han các con, ông phàn nàn không ai giúp đỡ lo cơm nấu nước giúp để anh em Hạnh đỡ vất vả, ý ông muốn tục huyền để có thêm người giúp đỡ ông, ông cũng được các ông chú bà bác tán thành giúp ông lo việc cưới hỏi.
                     
                    Từ ngày có thêm bà kế mẫu lo việc nội trợ với tính tình hiền lành trong gia đình vui vẻ, không khí ấm cúng, Hạnh không phải lo cho các em nên quyết định tìm hướng đi cho bản thân, tiếp tục học hành, tu luyện tâm linh do ông linh mục dìu dắt, gia đình không phải phụ giúp. Một bữa com thịnh soạn được bà kế mẫu làm để tiễn  chân Hạnh trước khi bước vào tu viện quyết tâm học hành theo con đường đã chọn.
                     
                                                     ***
                     
                    Gần ngày Tết hầu như mọi người đi buôn đi làm ăn xa gần đều thu xếp sắm sửa về quê ăn Tết hàng năm như một thông lệ. Các chuyến xe hàng đều chật ních hành khách, hàng hóa. Tránh sự đông đúc, Phước để vợ  con về quê trước mấy ngày, còn chàng đợi tới ngày 29 áp Tết mới về. Chuyến xe định mệnh, đường trơn xe chở nặng tránh không kịp chiếc xe bò trước mặt, xe đổ, Phước bị tử thương.
                     
                    Sau khi chồng chết được ít lâu, Trang không biết làm gì đủ nuôi con, từ trước chỉ trông vào lương chồng, có dành dụm được ít vốn ăn mãi cũng phải hết, đành đưa ba con về tá túc với gia đình nhà chồng. Vốn sinh trưởng ở nơi thành thị, quen ăn trắng mặc trơn, ép  mình gò bó cho mãn tang chồng. Trang xin phép ông bà Phúc trở về Hải Dương lo cuộc sống mới bước thêm bước nữa, các con gởi lại ông bà nội, các cô em chồng trông coi, khi an phận sẽ đón con đi sau.
                     
                    Ông bà Phúc cũng hiểu con dâu còn trẻ gặp cảnh góa sớm, thương các cháu mồ côi còn nhỏ cũng chấp nhận nuôi cháu cùng với các con bà kế cũng nhỏ như nhau, trẻ con vốn ưa trẻ con, chúng cũng không muốn theo mẹ, lâu vài tuần Trang về thăm đưa quà hay quần áo mới về cho chúng.
                     
                    Nhi em Trang, năm nay 16 tuổi, tuổi mộng mơ, tuổi ô mai, thích ăn vặt. Trong ban Đồng Vọng hát thánh ca, tiếng Nhi hát như thông reo, như chim hót, được nhiều người  ái mộ, nổi tiếng hát hay nhất trong ban hát, ngoài giờ học hành là Nhi hát ở trong phòng, trong nhà tắm, dưới bếp, ngoài vườn chỗ nào cũng nghe tiếng Nhi nhí nhảnh vui tươi như mùa xuân bất tận với khuôn mặt trái xoan, nước da trắng hồng luôn mỉm cười để lộ hàm răng trắng đều với hai lõm đồng tiền duyên dáng ở hai bên má, ai gặp cũng có cảm tình như đã thân thương từ lâu.
                     
                    Muốn đổi không khí kỳ hè nay Nhi xin bố mẹ cho theo chị Trang về miền quê thăm cháu ở lại chơi lâu hơn mọi khi. Sau kỳ hè Nhi lên lớp phải học nhiều không được đi chơi nữa.
                     
                    Từ ngày Hạnh vào nhà tu ít khi có dịp về nhà, nhân dịp hè xin phép về thăm nhà và xem các em học hành ra sao; thấy các em cần kèm thêm toán, các cháu Lan, Thanh nên cho học vỡ lòng. Nhi nói với chị ở nhà tập cho cháu Lan học để có cớ ở lại chơi lâu. Phòng khách dùng làm lớp học một bên Hạnh kèm các em học toán, một bên Trang và Nhi dạy các cháu.
                     
                    Nhi hay nói hay cười ầm ĩ pha trò trêu các cháu, nhưng vẫn để ý liếc nhìn Hạnh tìm cớ để hỏi Hạnh. Trái lại Nhi chỉ tìm dip gặp Hạnh, không thấy Hạnh nàng như thấy thiếu một cái gì. Lần đầu tiên từ lúc gặp Hạnh nàng trở nên e thẹn hết vẻ tự nhiên, mặt đỏ bừng, băng khuâng, rộn ràng như gặp một người mà mình đã từng mong ước từ lâu. Sau một tuần lễ chơi với các con coi là quá lâu Trang xin phép ông bà Phúc trở về.
                     
                    Nhi cũng không có cớ gì ở lại, liếc mắt tìm Hạnh thấy chàng đang chú ý đọc sách, nghe tiếng chị Trang và Nhi chào, Hạnh vội đứng lên nói: “Chúc chị và cô đi bình an”. Lòng Nhi chùng xuống, buồn vô căn cớ như luyến tiếc, nàng vội ôm từng cháu để hôn từ biệt. Trên  đường trở về Trang như đoán biết với tuổi dậy thì Nhi đã để ý vương vấn tuy chưa nói ra, trong khi chuyện trò Trang có ý muốn chặn trước nên bảo em:
                     
                     “Tu là cõi phúc, tình là dây oan, mọi người ở nhà ai cũng cho là chú Hạnh có căn tu, tính quả quyết nghiêm nghị, có tinh thần hướng thượng ai cũng nể vì, ở nhà có chuyện gì cũng chờ chú Hạnh về để bàn hỏi.”
                     
                    Hôm ở nhà Hạnh về, dáng dấp người trai thanh tú nghiêm nghị tay lúc nào cũng có quyển sách như đã khắc sâu trong lòng, vang vang tiếng Hạnh giảng bài cho em, ôi dễ thương làm sao, mấy lần tìm cách gợi chuyện mà anh chàng khéo lẩn tránh, người sao dè sẻn lời nói, không chịu được thật đáng ghét, người ta có căn tu chị Trang đã nói thế. Thôi! Quên đi vậy! Cứ nhớ tới hắn còn học sao được,  bố mẹ muốn mình cố gắng vài năm nữa lấy xong bằng Sơ học Pháp Việt còn đi dậy học giúp đỡ bố mẹ.
                     
                    Từ đó Nhi để hết tâm trí vào việc học, tuy nhiên lúc nào cũng nhớ tới anh chàng đẹp trai thông minh chỉ biết hỏi thăm chị Trang những câu  vớ vẩn. Năm sau Nhi đỗ xong, được Nha học chánh bổ dậy tiểu học một huyện miền duyên hải.

                    Nhiều mối manh, những người theo đuổi, bạn đồng nghiệp cũng có, Nhi đều từ chối bằng thái độ lãnh đạm thờ ơ, chưa để một ai lọt vào mắt xanh, trong lòng Nhi luôn luôn nhớ tới Hạnh với niềm kính trọng. Chưa bao giờ Nhi gặp  Hạnh để nói đến tiếng yêu thì làm sao  Hạnh hiểu được mình.
                     
                    Nghĩ vậy Nhi quả quyết đi gặp Hanh. Một sáng Chúa nhật mùa thu khi trời mát mẻ, nắng vàng dịu dịu gió nhẹ nhàng tung bay tà áo khách  bộ hành làm lòng người phấn khởi khoan khoái. Nhi ra phố thuê xe tới tu viện, trên đường đi Nhi miên man nghĩ khi gặp Hanh mình sẽ nói gì, Hạnh có chịu tiếp mình không?
                     
                    Xe dừng trước tu viện, Nhi hồi hộp khi bấm chuông chờ vài phút, một ông lão già mở cửa mời Nhi vào phòng khách. Nhi nhờ ông già thông báo có người em muống gặp thầy Hạnh. Nói xong Nhi thấy thẹn nhận là em chắc Hạnh ngạc nhiên lắm. Không lâu Hạnh ra phòng khách ngơ ngác nhìn vì Nhi đứng khuất một góc phòng, bốn mắt gặp nhau Hạnh hết sức ngạc nhiên còn Nhi lúng túng quên những điều định nói. Hạnh lên tiếng chào:
                     
                    “Cô Nhi, cô đi chơi có việc gì cần không? Nghe nói cô  đi dạy học .”
                     
                     “Vâng, hôm nay ngày nghỉ em đến thăm thầy, em tới nhờ thầy  giúp em học vì em muốn học thêm.”
                     
                     Hạnh linh cảm có điều gì không ổn, chàng từ chối ngay:
                     
                     “Xin cô hiểu cho nơi tu viện lề luật rất nghiêm, tôi còn đang đi học chưa biết gì nhiều để chỉ thêm cho cô.”
                     
                    Nhi tủi thân rơm rớm nước mắt nhìn Hạnh, Hạnh  liếc nhìn tảng lờ như không để ý, chàng nhìn ra sân như cầu cứu có ai gỡ khỏi cảnh khó xử này, nhác nhìn thấy ông bõ già đi qua chàng gọi ông già chờ. Chàng lấy cớ thoái thác chào Nhi rồi vội vàng bước đi.

                    Nhị tự trách mình không nói được hết ý nghĩ,  làm thế nào cho Hạnh hiểu mình đã yêu chàng, ngặt vì trong tu viện khó gặp được chỉ có viết thư dễ nói hơn cả. Thư viết đã nhiều mà không có hồi âm.
                     
                    Mấy ngày sau Hạnh được thư đọc mấy câu đầu biết là thư của Nhi chàng vất luôn vào sọt rác, chàng nghĩ xem rồi sẽ vấn vương mà trả lời càng nguy hiểm, tạo thêm hy vọng cho người ta, để cắt đứt chỉ có tránh không nên gặp, không trả lời đành mang tiếng thiếu lịch sự.
                     
                    Mấy tháng sau bố cho  em gọi chàng về gấp, trên giường thân hình ông Phúc chỉ còn da bọc xương, hơi thở khò khè, nằm thiêm thiếp, nghe tiếng động mở mắt ra nhìn thấy Hạnh,  hai giọt nước mắt tràn ra khóe mắt, ra hiệu cho Hạnh tới gần ghé tai sát mặt ông.
                     
                    “Bố biết mình không còn sống được bao lâu, trong nhà sa sút, có ít ruộng cũng phải cầm bán để uống thuốc. Tiền mất, bệnh không khỏi, các em chưa có đứa nào giúp đỡ.”
                     
                    Hạnh ngắt lời:
                     
                    “Bố yên trí, con đã biết tình cảnh nhà con đã có chú ý, xin phép tạm trở về nhà nhận trách nhiệm phụ với dì con trông coi săn sóc, nuôi nấng các em, các cháu đến khi trưởng thành, sau đó con sẽ trở lại viện tu, nhà dòng đồng ý cho phép”.
                     
                    Ông Phúc qua đời ít lâu sau, Hạnh đi Hà Nội nộp đơn. Nhờ có bằng Tú Tài Hạnh được nhận vào làm sở Bưu Điện. Trừ chi phí ăn ở, còn lại Hạnh gởi hết về nhà để bà kế mẫu chi dùng cho gia đình. Thấy Hạnh ở một mình, các bạn đồng nghiệp hay đến rủ chàng đi chơi. Từ chối mãi không được, cũng có lần phải đi cho biết chốn thị thành hay mua những đồ dùng cần thiết.
                     
                     Bạn bè biết nếu nói đi Khâm Thiên sợ nhất định chàng từ chối dù anh em nổi giận, phải về một mình chàng cương quyết giữ vững lập trường. Đã biết tính Hạnh như vậy, nhưng các bạn thích đùa dai, một hôm vào ngày nghỉ các bạn kéo đến nhà Hạnh rủ đi chia buồn với một đồng nghiệp. Hạnh tưởng thật vội ăn mặc chỉnh tề lên xe cùng đi, loanh quanh một lúc, xe kéo tới Khâm Thiên vào nhà hát ả đào.
                     
                     Có âm mưu từ trước, vào khỏi cửa họ khóa trái cửa ra vào. Hạnh chịu trận ở lại. Suốt đêm hôm đó, nghe hát, chứng kiến những cử chỉ sàm sỡ, lời nói tục tằn, về khuya họ cử hai cô đào trẻ đẹp nhất đến vuốt ve, rủ rê, tận tình cách mấy cũng bị Hạnh  từ chối. Làm quá, Hạnh nổi quạu, sau cùng chàng lấy tràng chuỗi ra nhắm mắt lại không thèm nghe, không nhìn nữa. Biết Hạnh giữ được đạo đức, có tâm hồn cao thượng, từ đó các bạn đồng nghiệp nể trọng không còn trêu chọc nữa.
                     
                    Trang thương em biết Nhi chưa quên Hạnh lại biết nay Hạnh trút áo nhà tu rồi nên một hôm Trang đến thăm Hạnh báo cho Hạnh biết muốn đưa các con các con về nuôi ăn học để đỡ gánh nặng cho Hạnh, khuyên Hạnh lập gia đình, và Nhi vẫn còn chờ. Hạnh mỉm cười đáp:
                     
                     “Cám ơn chị, em đã dâng trọn tình yêu cao cả cho đấng chí tôn, ngoài ra không có điều gì làm em say mê. Các cháu về với chị, nhưng con bà dì hay đau yếu các em còn nhỏ, trách nhiệm em đã nhận với bố, phải chu toàn hoàn hảo.”
                     
                    Đời sống ở ngoài tự do, không ai buộc phải giữ, nhưng Hạnh đã tự hứa nghiêm khắc với bản thân giữ tiết độ, tránh được cạm bẫy ngoài đời. Tất cả các em cùng cha khác mẹ lần lượt lập gia đình. Thấy đã hoàn tất trách nhiệm. Hạnh trở về tu viện. Năm 1955 cha già Hạnh vẫn hồn nhiên tay dao, tay cuốc cùng đồng bào làm rẫy thuộc xứ đạo trên Cao Nguyên.
                     
                    (còn tiếp) 


                    #10
                      frank 28.07.2022 23:01:13 (permalink)
                       


                      20-  Hai Ngả Đường

                       
                       
                      Cuối Xuân sang Hạ, khí trời còn mát dịu. Bên kia bờ ao, khóm tre xào xạc lay động trong tiếng gió, lung linh in bóng trên mặt ao, nước trong soi bóng mầu hồ thủy. Ông Khán Thâu từ trong nhà đi qua sân đất nện ra cầu ao rửa mặt. Cầu ao bắc bằng một phiến đá nhẫn dài chừng hai thước tây. Bề ngang từ 30 tới 40 phân. Phần nhiều ở nhà quê mỗi nhà đều có ao riêng trước nhà dùng để tắm rửa giặt giũ. Nhà nào không có xây bể lớn chứa nước mưa, người ta dùng nước ao để nấu ăn, uống. Ao còn để thả bèo làm đồ ăn nuôi heo, hoặc thả rau muống rất tiện lợi cho gia đình có thức dùng.
                       
                      Đợi ông Khán dưới cầu ao bước lên, Bìm, cô gái lớn trong nhà khệ nệ bưng rổ bát từ trong bếp ra cầu ao để rửa sau khi cả nhà đã dùng cơm, uống nước xong. Tự động mỗi người có công việc phải làm, ông Khán dắt trâu đi làm đồng, bà Khán cắp thùng đi chợ sau khi đã dặn dò các con nhỏ đi học. Bìm và Lạch, hai con gái lớn đã nghỉ học ở trường làng. Sau khi học biết đọc biết viết, bây giờ ở nhà giúp đỡ bố mẹ.
                       
                       Con gái đã lớn phải tập công ăn việc làm như nuôi tầm, kéo chỉ, nuôi heo, nuôi gà, giúp đỡ cha mẹ để có đồng ra đồng vào, sắm sửa thêm quần áo cho tươm tất. Đã có mấy bà hàng xóm xì xào ươm tiếng mối manh. Cả hai chị em đã được cắp sách đi học, ít khi phải làm đồng, trừ hai vụ gặt lúa nên da trắng mắt, tay chân không bị chai đá. Từ ngày ươm tơ, xe chỉ, dệt vải, phụ mẹ hái dâu, nuôi tầm, băm bèo cho heo.
                       
                      Bìm hiền lành, ít nói, làm nhiều thay mẹ quán xuyến mọi việc trong nhà. Nàng là mẫu người nội trợ hiền thục, không đua đòi,  đỏm dáng và biết an phận. Lành sắc sảo, lanh lợi lại hay nói bông lơn, pha  trò. Nàng nói năng lưu loát, vui  vẻ, chưa thấy người  đã nghe thấy tiếng. Tính lại thích đọc truyện. Lạch hay mua hoặc mượn tiểu thuyết về xem rồi tưởng tượng như nhìn thấy trước mặt những nhân vật trong truyện.
                       
                      Lạch ước ao được mặc quần áo trắng, áo mầu, vấn tóc trần, quấn khăn san, âu phục hợp với trào lưu đổi mới văn mình, chứ không thể giam hãm ở với bố mẹ nơi quê mùa, bùn lầy nước đọng, chỉ biết thái dâu, băm bèo, ươm tơ, dệt củi, hai mùa ra đồng cắt lúa cho phí đời người.
                       
                      Các làng quê vào hội bao giờ cũng có hát chèo. Tối nào nghe có tiếng trống hát chèo thế nào Lạch cũng rủ cho bằng được chị Bìm và các bạn cùng đi xin phép bố mẹ cho đi. Trong làng nhà ai có tiệc, có đám, có cô đầu tới hát giúp vui. Lạch cũng lân la đến giúp làm bếp để còn nghe hát, nhìn các cô đầu chưng diện với vẻ thèm khát.
                       
                      Ông bà Khán Thâu thường nhắc nhở các con hãy noi theo nếp sống sẵn có của gia đình, giữ lấy nghiệp nhà, bắt chước cái hay của người, đi đâu ăn mặc “xứng kỳ đức”, tiếp xúc với ai, hãy giữ thái độ ôn nhu trên kính dưới nhường, đừng có mơ mộng giàu sang bắt chước mấy bà, mấy cô ở thành thị.
                       
                      Những kẻ thành thị, thỉnh thoảng có dịp về quê thăm họ hàng, viếng tiên tổ, họ ăn mặc mốt mới, nói năng kiểu cách. Có người giữ đúng cương vị, phẩm giá nghề nghiệp, có người  lại xe xua, lố lăng, ỷ lại vào tiền của chồng, của bố mẹ mà phách lối hợm hĩnh. Phải biết phân biệt, hiểu người, biết mình mà xử sự, học hỏi để giữ tư cách cho mình, tiếng thơm cho bố mẹ.
                       
                      Những điều khuyên dạy trên chỉ có Bìm nhập tâm lặng lẽ nghe theo. Lạch khi nghe không có cử chỉ phản đối nhưng Lạch cho rằng bố mẹ ở nhà quê, ít đi đến đâu, ít đọc sách, không biết theo thời tiết lên, đầu óc cổ hủ ăn sâu, mọc rễ đã bao nhiêu đời, chỉ biết ăn chắc mặc bền, có phản đối cũng vô ích. Với căn bản nề nếp gia đình, mình không thể sống khác được. Nói năng, ăn mặc, củ chỉ phải theo quy luật ở nhà. Muốn sống theo ý mình chỉ có cách thoát ly khỏi gia đình.
                       
                      Tháng ngày qua mau, ông bà Khán thấy hai con gái đã lớn cùng để ý chọn lựa người cùng làng hay trong tổng cùng đã từng quen biết. Dù thân sơ cũng phải có người làm mai. Bìm là chị đi lấy chồng trước. Chồng Bìm là người hiền lành, lễ độ, học hành tuy ít nhưng hiểu biết, giữ đủ bổn phận làm con làm chồng, làm cha, gây dựng một tiểu gia đình hạnh phúc.
                       
                      Theo nghiệp nông tang, chồng làm ruộng, vợ canh cửi, an phận thủ thường, không mơ những sự quá tầm tay, bằng lòng với những gì mình có. Với đức tính cần cù, nhẫn nại, tích tiểu thành đại, một ngày kia nếu muốn cũng có thể trở thành một tiểu thương, hay một xí nghiệp nhỏ để tiến lên góp mặt với mọi người.
                       
                      Thấy chị lấy chồng ở nhà quê, chỉ biết an phận, Lạch hay chê bai anh chị quê mùa ở làng mãi rồi ra cũng như ông xã xệ, lý đình dù mà trong các báo chí thời đó hay vẽ hí họa với lời chú thích diễu cợt. Vài năm sau kế tiếp đến lượt Lạch. Ông bà Khán lại thêm một lần đắn đo, suy nghĩ, chọn lựa.
                       
                      Trường tiểu học làng quay mặt ra chợ, cách một đường. Trước giờ dậy học buổi sáng hay giờ học trò ra chơi. Tiếp hay nhìn xem người đi chợ mua bán. Chàng thường thấy một cô gái quê mang theo chiếc thúng nhỏ, dáng người thanh tú, trắng trẻo, xinh xắn, nét mặt vui vẻ hay cười nói với mấy người bán hàng.  Lâu dần hình dáng người thiếu nữ đã thu hút chàng từ lúc  nào. Lâu lâu không trông thấy bóng cô gái, lòng lại thấy bâng khuâng, xốn xang, nhớ nhung.
                       
                      Tiếp tìm cách hỏi thăm mấy người quen và nhờ người dẫn tới nhà ông bà Khán xin được làm quen với cô Lạch. Từ khi Bìm đi lấy chồng, Lạch nhận việc đi chợ để có cớ mỗi khi qua trường học thì dĩ nhiên đôi bên cùng liếc hai lòng cùng ưa. Chơ tới kỳ hè, đôi bên cha mẹ tổ chức đám cưới cho các con. Họ hàng đôi bên ai cũng khen đôi tân hôn xứng đôi vừa lứa.
                       
                      Hết kỳ nghỉ hè, Tiếp đưa Lạch đi thuê nhà để còn nhận nhiệm sở. Đến ngày nghỉ mới dẫn vợ đi giới thiệu các đồng nghiệp công chức, ty sở để làm bạn. Thấy mình có chút địa vị, có lượng, được chồng chiều, Lạch theo đòi bắt chước các vợ bạn chồng đua nhau chưng diện, nay kiểu áo Lemur, mốt  lại bồng vai nguýt góc kiểu Cát Tường, tập hát, tập khiêu vũ. Nhiều lần nàng đi chơi về trễ. Tiếp đi làm về không còn được ăn những bữa cơm dẻo, canh ngọt như hồi mới lấy nhau.
                       
                      Với số lương khiêm tốn đi dậy học, không đủ cho vợ chi tiêu, ăn mặc, nói chi đến sự để dành cho các con ăn học sau này, hay gặp lúc đau yếu. Tiếp đưa ý nghĩ tính toán khuyên vợ chi tiêu dè sẻn, đừng hoang phí vô ích, bóc ngắn cắn dài, chưa hết tháng đã hết tiền. Thấy vợ ham chơi theo chúng bạn khó đổi tính, chàng xin đổi về miền quê hẻo lánh để không còn môi trường cho Lạch đua chơi.
                       
                      Chỉ được ít lâu, Lạch đã không cảm thông được với chồng, không biết an phận mà nay tìm cớ này, mai tìm cớ khác  gây gỗ với chồng, trách chồng không biết tiến thân, giao du với những người quyền thế mới có cơ hội tìm được danh lợi. Lạch đã chán với cảnh công chức nghèo nàn sống bên cạnh người chồng mẫu mực, lúc nào cũng chỉ nói đến đạo đức, tiết kiệm. Lúc nào cũng muốn mình phải nhu thuận, ăn mặc nho nhã.
                       
                      Lạch dù yêu chồng nhưng vẫn không chịu được. Muốn sống theo ý mình phải thoát ly tìm cuộc sống mới nếu Tiếp không chịu sống nơi thành thị, đô hội Tiếp không ngạc nhiên khi Lạch đưa ý kiến trên, chàng chỉ cay đắng trả lời không thể từ bỏ nhiệm vụ cao quý chàng đã chọn dù phải sống đạm bạc nơi hẻo lánh, quê mùa.
                       
                      Ý nghĩ thoát ly tìm cuộc sống xa hoa làm cho Lạch mù quáng. Nhân dịp đầu năm có người bạn rủ đi xem hội Lim, Lạch đã gặp nhà thầu khoán Kiên, một sở khanh chính hiệu được phủ bên ngoài bởi lớp vỏ lịch thiệp, giàu có. Lạch sa chân vào đường tội lỗi, vào cuộc sống bê tha nơi vũ trường.
                       
                       
                                                         ***
                      Vào một ngày cuối năm 1954, trước cửa chợ Bến Thành, một tình cờ đưa đẩy hai chị em Bìm-Lạch gặp nhau. Nay hai người đã trạc trên dưới 40 tuổi. Một người phục sức nho nhã, còn người kia thì phấn son lòe loẹt, kệch cỡm. Sau phút ngỡ ngàng, cả hai chị em ôm nhau mừng rỡ vừa cảm động sa nước mắt. Lạch hỏi:
                       
                      -Bố mẹ có di cư vào đây không hả chị?
                       
                      -Bố mẹ đã mãn phần sau khi em bỏ nhà ra đi được mấy tháng. Cũng vì những lời đồn thổi, đàm tiếu và cũng vì quá nhớ thương em nên ngã bệnh. Còn gia đình chị và hai gia đình em trai đều theo đoàn người di cư vào Nam. Mỗi người tìm kế sinh nhai theo ý thích. Em Sự hiện giờ làm rẫy ở Gia Kiệm, em Thành làm vườn ở Đà Lạt. Phần anh chị cũng tạo được cửa hàng tạp hóa buôn bán ở Phú Nhuận, cũng tiện cho các cháu đi học.

                      Nghe hết câu, người em ông lấy chị khóc nức nở Lạch vừa nhớ thương cha mẹ, phần tủi nhục, cay đắng. Sau một lúc nàng lấy lại bình tĩnh và nói với chị:
                       
                      -Em rất mừng mọi người trong nhà đều yên phận làm ăn. Riêng em rất bẽ bàng vì đã rẽ ngang cuộc đời đi tìm xa hoa, phù phiếm, danh lợi viễn vông. Em đã không tự lượng tài sức mình, ỷ vào người nên chuốc lấy lừa gạt, sa đọa rồi cuộc đời đưa đẩy em thành vũ nữ chuyên nghiệp. Từ vũ nữ, đến sau em trở thành một cai gà lừa lọc đê tiện. Em như con thiêu thân sống về đêm. Những đêm khuya canh tàn, cô đơn, dầu khổ sở hối hận em cũng chẳng mặt mũi nào trở về. Em thật dại dột, có chồng có con không biết an hưởng hạnh phúc gia đình, không chịu sống như mọi người. Bây giờ có bị khổ sở một mình cũng đáng để đền tội. Em đã làm nhơ danh gia đình. Cũng tại vì em mà bố mẹ mất sớm. Xin chị và các em cứ coi như em đã chết rồi.
                       
                      Bìm thương em và ái ngại cho Lạch. Nàng chỉ biết rơm rớm nước mắt ôm em. Bịn rịn mãi rồi cũng phải chia tay. Lạch đi rồi mà Bìm vẫn ngẩn ngơ nhìn theo và xót xa cho thân phận em mình. Nhưng ít nhất Lạch cũng đã tìm ra lỗi lầm của mình và biết ăn năn. Bố mẹ mình tuy đã khuất núi nhưng chắc cũng thương xót và tha thứ cho em. Bìm mong em tìm được sự bình an cho tâm hồn.
                       
                      Xa xa bóng Lạch nhỏ dần và biến mất ở cuối chân trời.
                       
                       
                      (còn tiếp)
                      #11
                        frank 29.07.2022 22:33:05 (permalink)


                        21-  Mẹ Chồng Nàng Dâu Xưa Và Nay


                         
                        Thời xưa:


                        Qua Tết Trung Thu, khí trời không còn oi nồng, luôn có những cơn gió mát, ánh nắng hanh vàng, trời trong xanh, trong lòng thư thái, cha mẹ nhìn con trai con gái đến tuổi trưởng thành liền nghĩ ngay đến bổn phận phải lo cho các con, cây cà ra hàng, con gái dễ hơn chờ người tới mối manh, nhưng con trai phải đi tìm, ở gần không  có không hợp, ai mách  có xa  cũng cứ đi,  kén con dâu thông thường ai cũng muốn mấy ai có đủ bốn đức tính đó, được đàng nọ hỏng  đàng kia, hay con nhà giầu sang thiếu các đức tính trên vẫn làm lóe mắt những người có tính tham giầu, người đời thường gọi là bọn “đào mỏ”, số người đào trúng mỏ vàng, mỏ bạc hơi ít, nhiều người cay đắng đào phải mỏ đất, trống rỗng đành ngậm bồ hòn làm ngọt, bây giờ chỉ có cách trả thù vào người con dâu. Những nàng con gái xấu số  gặp phải cảnh này, dù có đủ đức tính tốt mặc lòng, vẫn phải chịu búa rìu của nhà chồng, vì hồi môn cô dâu không có nên hành hạ cho bõ tức.
                         
                        Nhiều gia đình đã chọn được con dâu theo ý muốn như môn đăng hộ đối. Đôi bên vui vẻ thỏa thuận chọn ngày lành tháng tốt, các tiết mục tuần tự như tiến, hết vấn danh, đến nạp sính lễ cưới được tổ chức linh đình, đôi bên họ hàng vui vẻ, đưa đón nàng dâu về nhà chồng.
                         
                        Có người được vài tháng, có người chỉ vài ngày sau khi cưới. Bà mẹ chồng ngồi tỉnh sổ lẩm nhẩm trong miệng, hiện vật  và tiền mừng không đủ mua trà bánh cho cơi trầu ăn hỏi, nói gì đến bữa cưới. Nếu nhà khá giả không phải đi vay mượn, những bà dễ tính sẽ bỏ qua, trường hợp phải đi vay mượn, cầm cố chi vào đám cưới, nhà gái lại thách cưới hơi nhiều để lấy le. Người con dâu bỗng không phải hấng hết tất cả thù hận của nhà chồng. Cha mẹ đẻ, anh em, họ hàng vì cố tục, có hưởng chút trà bánh hay bữa cỗ đã qua rồi, chẳng có ai chia sẻ nỗi đắng cay với cô dâu.
                         
                        Nàng chỉ âm thầm, tủi nhục đắng cay chịu đựng những câu “cha mẹ mi xin cho lắm, hãy về mà bảo bố mẹ mi trả nợ cho mi, tưởng quý giá, giỏi giang gì, chỉ là bị thịt rước đồ ăn hại về được tích sự gì”. Thế là xuôi gia đã thành oan gia, cô chẳng còn được phép về thăm cha mẹ, chỉ còn việc nai lưng ra làm để cho mẹ chồng trả nợ. Sau khi bà mẹ chồng chửi nàng dâu đã chán, cô em hay chị chồng để thêm “mất tiền mua mắm thì đâm cho thủng, mất tiền mua gỗ thì bổ lấy giăm”,  trong khi người con dâu làm quần quật, không hề mở miệng trả đũa câu nào.
                         
                        Có bà mẹ chồng tế nhị rất khéo, điều khiển moi tiền con dâu như: “mẹ vừa đi qua chợ người ta bán tôm trứng tươi ngon lắm, thịt bò làm tái hay xào cải làn ba nó thích ăn đấy, chợ hôm nay có cá tươi lớn không có nhiều, đi mua ngay sợ hết”, bà dặn hết những thứ gì muốn mua, nhưng tai hại bà mẹ chồng không đưa tiền, chỉ giục con dâu đi chợ cho mau, tất nhiên nàng phải bỏ tiền túi ra. Còn đang trong cảnh ăn chung chưa làm ra tiền, phải về nhà xin tiền cha mẹ mình là cái chắc.
                         
                        Có bà mẹ chồng văn minh hơn thử con dâu rất oái oăm, hôm nay mẹ muốn ăn canh rau gạo, nàng dâu không hiểu nhưng không dám hỏi lại sợ bà chửi là ngu, băn khoăn tìm hiểu mãi không được đành phải nhớ bà hàng xóm chỉ dùm, bà trả lời tôi chưa bao giờ nghe ai nói về rau gạo, một lúc bà mới luận ra. Cháu ra chợ mua ít tôm chà, ít bánh đa khô đưa về ngâm bánh đa trong nước cho mềm rồi thái nhỏ như thái rau, giã tôm mà nấu, đấy là canh gạo.
                         
                        Trong khi chờ đợi được ra ở riêng, may mắn có người chồng đi làm có lương đưa về phải chia tứ lục, còn luôn đón ý biếu xén quà bánh thứ gì bố mẹ chồng thích. Bà thường nói đời bà đi làm dâu còn khổ nhiều hơn.
                         
                        Trên đây là bối cảnh  làm dâu thời cận đại. Quen với nếp sống gò bó theo truyền thông với tinh thần đi lấy chồng là đi gánh vác giang san nhà chồng. Đã biết trước cảnh làm dâu của các bậc lão thành, những cảnh khắt khe nhục nhã đau khổ kể trên, các cô vẫn trông vào số phận may rủi, chấp nhận sự ngược đãi của nhà chồng, chỉ mong có con làm nguồn an ủi, cố chịu đựng giữ vững nền tảng gia đình, giữ được thanh danh cho gia đình đôi bên. Nhiều bậc hiền phụ đã thể hiện đức tính thương yêu, khoan hòa khéo xoay chuyến được lòng mẹ chồng trở lại thương yêu, không còn phân biệt giữa con dâu hay con gái.
                         
                         
                        Thời Nay:

                         
                        Biến cố đổi đời, chúng ta đang sống trên đất nước văn minh vật chất tiến bộ nhất thế giới, nhưng giữa hai nền văn hóa Mỹ, Việt khác nhau, một số gia đình có con trưởng thành phàn nàn, hết quyền dựng vợ gả chồng cho con theo ý mình vậy, chúng tự tìm hiểu yêu nhau rồi mới cho cha mẹ biết. Gặp cảnh như trên có cha mẹ đã mất cả con lẫn dâu chỉ vì quá nóng chửi một câu “không nghe mẹ thì xéo khỏi nhà”. Nếu bà dùng kế hoãn binh tìm hiểu dẫn dụ đưa ra những kinh nghiệm, tìm khuyết điểm của đối phương, chứng cho thấy không nên hấp tấp để đưa đến tan vỡ sau này.
                         
                        Có gia đình còn giữ được phong tục ở chung. Gặp bà mẹ chồng còn nệ cổ, độc tài coi con dâu như người phụ thuộc, nhất nhất phải theo ý bà, bắt bẻ  từng lời nói, chỉ trích từ cách phục sức, bà rất khó chịu khi thấy đôi vợ chồng trẻ bộc lộ tình cảm yêu đương trước mắt, bà cho rằng con dâu đã dành hết tình yêu của con trai bà, sự đố kỵ đưa đến ý nghĩ con trai bà không còn yêu mẹ, lại kèm thêm lời nói cử chỉ sơ hở vô tình của con trai, bao nhiêu tức tối thù ghét bà đổ lên đầu con dâu, rồi nói xấu, chèn ép xui bẩy con trai ghét vợ, vì ghét con dâu, bà đang tâm phá hạnh phúc của con trai.
                         
                        Cả hai vợ chồng trẻ và bà mẹ nếu không tỉnh táo kịp thời sửa chữa đem bình an lại trong gia đình, tình trạng ngột ngạt lâu dần sẽ đưa đến sự bất mãn cho nàng dâu, phải thoát ly khỏi gia đình, ly dị là một lối thoát. Ly dị gia tăng, gia đình nhà chồng đã can dự một phần là thế.
                         
                        Trách nhiệm người chồng rất nặng, phải biết khéo xử giữa mẹ và vợ, thiên về mẹ cũng không được, vợ sẽ hờn oán, bênh vợ cũng không nên, sẽ làm cho mẹ càng cay, bao nhiên tức tối sẽ đổ lên đầu con dâu, cho rằng  con mình đã yêu vợ nó hơn mà bỏ mẹ, tức nước vỡ bờ có thể đi đến xô xát náo loạn không hàn gắn nổi.
                         
                        Người chồng thức thời phải tìm hiểu biết nguyên nhân sự bất hòa giữa mẹ và vợ. Nếu người vợ có làm phải mặc lòng, cũng đừng ra mặt bênh vợ ngay, hãy từ từ xoa dịu vợ bằng những nụ cười, vuốt ve khi không có ai, bằng lời nói dịu ngọt như “em vì yêu anh nên nhịn mẹ cha cho qua, rồi người sẽ hiểu khi hết nóng, cha mẹ già hay khó tính, chiều các cụ một tí cho qua không ai cười”, người ngoài còn khen mình là dâu thảo và “sóng  trước đổ đâu sóng sau đổ đấy”, sau này các con cũng sẽ chiều lại em như mình đã chiều cha mẹ.

                        Biết rõ ràng vợ mình trái, cãi lại bố mẹ chồng, người chồng phải lấy lượng bao dung huấn luyện lại người vợ, cắt nghĩa từng cử chỉ, lời nói, xử sự phải khéo, kiên nhẫn, hướng dẫn nâng đỡ từ từ sửa chữa cho hợp với giáo dục gia đình nhà chồng. Không may anh nào gặp phải cô nàng ở nhà cha mẹ quá nuông chiều tâng bốc, trở thành tính kiêu hợm, lăng loàn, ỷ tiền, ỷ tài, ỷ sắc. Gặp được người chồng hết lòng thương yêu nhưng phải cao tay ấn cương quyết mới hóa giải nổi, giữ được hạnh phúc.
                         
                        Một số các cô dâu trẻ đang sống trong xã hội tự do, sau khi lập gia đình vẫn giữ được nền giáo dục thích nghi với nếp sống nhà chồng tôn trọng yêu quý cha mẹ chồng như cha mẹ mình vì có yêu chồng mới quý cả cha mẹ chồng, giữ được hạnh phúc trong tinh thần hài hòa, đã làm gương tốt cho thế hệ tiếp nối.
                         
                        Nhiều gia đình cảm nghiệm được phong tục phóng khoáng tự do ở đây đã đối xử với dâu, rể thực tình quý hóa, tôn trọng tự do của các con dâu như con gái. Sống trong trạng thái quá ư suy tôn vật chất tự do, cha mẹ nên cộng tác bảo tồn lấy giá trị tinh thần hòa đồng vun xới cho các tiểu gia đình được hạnh phúc vững bền là nền móng an  ninh phú cường cho tương lai quốc gia.
                         
                        Ước mong giới trẻ chúng ta vẫn giữ được sự tôn kính hiếu thảo với cha mẹ đôi bên. Bậc cha mẹ cũng nên dung hòa với nếp sống mới để phần nào bảo tồn được văn hóa Lạc Việt. Khi đôi bên giữa cha mẹ và con cái đối xử với nhau lấy tình yêu làm căn bản sẽ hóa giải được tất cả tị hiềm.
                         
                         
                         (còn tiếp)

                        #12
                          frank 30.07.2022 21:57:30 (permalink)
                           


                          22-  Lỗi Thời


                           
                           
                          Đồng hồ báo thức bằng một bản nhạc êm dịu như muốn ru hồn người nghe ngủ lại, nhưng quen giấc, nghe hết bản nhạc, Tùng đã tỉnh hẳn không muốn ngủ thêm dù biết hôm nay là ngày nghỉ. Chiều hôm qua, trước khi về bà xếp đã chúc anh đi chơi vui vẻ nhân dịp đi nghỉ hè.
                           
                          “Vui làm sao nổi”, chàng lẩm bẩm nói ra ý nghĩ. Hết tiền, hết nghỉ hè, hết bạn, hết bồ, đi đâu bây giờ. Vợ con giận bỏ đi khỏi nhà, chàng chẳng quan tâm. Muốn đi cứ việc đi, càng rảnh tay, đã có mấy bợm nhậu rủ nhau lại ăn uống, xong kéo nhau đi du hí. Còn đàn bà thiếu gì, có tiền cái gì cũng có, khỏi lo, không vướng mắc với vợ con, khỏi đưa tiền chợ, khỏi sắm quần áo, đồ chơi cho con, đi ăn chơi tiêu pha thả cửa. Kỳ lương lĩnh về chả được mấy ngày hết nhẵn, cuối tháng các bill gởi về hết tiền trả, điện thoại, gas, nước, đe dọa bị cắt. Thế mới biết không có người nhắc nhở, kìm hãm, nâng đỡ, có ngày bị gậy đến nơi.
                           
                          Sao căn nhà có vẻ hoang lạnh quá! Mọi khi thức dậy đã nghe tiếng lũ con hò la ầm ĩ chàng khó chịu, mẹ chúng luôn dỗ dành hay đe dọa cũng chỉ im được một lát, bây giờ chàng vừa nhớ con lại thèm nghe tiếng chúng  hò hét.
                           
                          Sáng nào Thu cũng làm điểm tâm sẵn cho chàng. Cuối tuần đi chơi với bạn bè, quần áo đã được ủi sẵn treo ở trong tủ. Chàng thích đi chơi với bạn bè để tự do đi nhảy nhót, du hí, nhậu nhẹt nhưng nếu có vợ con đâu có được, phải đưa chúng đi tắm biển, ra công viên hay đi mua sắm quần áo, đồ chơi cho chúng, chỉ vì thế nên ít khi Tùng đi với vợ con.
                           
                          Đã vậy nhiều hôm còn đưa các bạn về nhà, bắt vợ đi mua những món các bạn chàng ưa ăn, rồi nhậu nhẹt say sưa, ăn tục nói bậy, chan giãi bừa bãi; trong lúc ấy Thu đã kín đáo dồn các con vào một phòng chia giờ cho chúng học bài, xem tivi, chơi với nhau để tránh cho các con khỏi nghe những tiếng tục tĩu, thấy cảnh bừa bãi lộn xộn ở phòng ăn. Còn nàng thì thật tội nghiệp, Tùng sai lấy cái này, tìm cái kia, còn hạch sách món này không ngon, món kia dở, chê làm dốt, làm giảm giá trị nàng trước mặt bạn bè. Cái cảnh “chồng chúa vợ tôi” như hồi còn ở nước nhà sang đây vẫn tái diễn.
                           
                          Thu là con người chịu đựng, nhiều người phải khen nàng ít nói, mẫn cán, hiểu biết, nàng giữ đầy đủ bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ. Cuối tháng, Tùng đưa tiền lương về nàng chỉ dùng, tính toán từng món nào cần phải mua, thứ gì nàng có thể làm lấy để dùng để ăn, cần kiệm còn để dành, nàng nghĩ các con lớn lên phải tiêu nhiều nên hay dự trữ. Có tháng chồng nàng không đưa tiền về đủ, lấy cớ vui bạn bè phải chi. Ít lâu nay Tùng không đưa tiền về cho Thu như thường lệ mà chỉ đưa nhỏ giọt, cho rằng đưa nhiều Thu lấy bớt ra giúp bố mẹ nàng còn kẹt lại. Nên vợ có phàn nàn chàng lại cả giọng lấn át, độc đoán cho rằng mình làm ra tiền, vợ chỉ là phụ thuộc.
                           
                          “Con giun xéo lắm cũng quằn”, Thu không thể để tình trạng kéo dài. Dù thương con còn nhỏ, muốn tự tay ở nhà chăm sóc con cái, nàng cũng phải bắt chước như nhiều gia đình người Mỹ ở đây, cả hai vợ chồng đều phải đi làm. Nàng đem con đi ký nhi viện, học lái xe, tìm việc làm, đưa tiền về chi tiêu trong gia đình, và giúp đỡ cha mẹ, anh em ở nhà.
                          Tùng đã không thông cảm với vợ, vẫn lớn lối đòi vợ phải đưa hết tiền cho mình giữ, vẩn bắt vợ phải phục tòng, hầu hạ, vô tình đến nỗi con ốm, cũng chỉ một mình vợ săn sóc, đêm con khóc chàng cũng mẳng không biết dỗ con, để mất giấc ngủ. Tùng gắt gỏng:
                           
                          -Mai người ta còn phải đi làm sớm. Sao không dỗ nó?
                           
                          Nhịn mãi cũng không chịu đựng nổi. Thu cũng đáp lại:
                           
                          -Tôi cũng đi làm như anh, con trẻ đau yếu thì nó khóc, nó quấy. Giữ làm sao được. Anh không săn sóc đỡ tôi thì chớ, còn kêu ca, chỉ ích kỷ biết sướng một mình, người đâu mà thiếu hiểu biết, thiếu bổn phận không giúp đỡ vợ con, chỉ biết mắng chửi tồi tệ, như thế ở với nhau làm sao nổi.
                           
                          Như bị gai châm vào ruột, chạm tự ái, anh chồng vũ phu ban ngày uống say bị mất giấc ngủ, vùng dậy miệng chửi, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, không còn nghĩ đến  tình nghĩa tào khang, lấy sức mạnh đàn áp mù quáng hắt đổ gia đình êm ấm.
                           
                          Quá uất hận và để cho chàng mở mắt ra, Thu chờ chồng đi làm nàng thu xếp đưa con đến nhà ông chú họ xin tá túc ít ngày để kiếm nhà khác. Thu kể lại tính tình lạc hậu của chồng để chú cắt nghĩa khuyên bảo Tùng hiểu trách nhiệm làm chồng, làm cha, hợp với đời sống ở đây, không còn khi dễ vợ con, lúc ấy nàng sẽ về sum hợp.
                           
                          Hồi tưởng lại những chuyện đã qua chàng thở dài, chép miệng nghĩ ở nhà trước kia bao nhiêu năm vợ chồng vẫn sống như vậy có sao đâu nào, phải một mình chàng bắt nạt vợ, người ta cũng  thế cả có ai nói gì đâu. Tuy thế Tùng vẫn thương con, yêu vợ. Tùng nghĩ chắc vợ chỉ đem con đến tá túc nhà ông chú họ chứ không đi đâu khác. Mình phải nhún một chút mới  xong.
                           
                          Đến nhà người chú vợ.. Tùng tần ngần đứng ngoài cửa một lúc nhưng nghĩ đến những đứa con, đến Thu, chàng vào gặp ông chú. Tuy trong bụng nghĩ thế nhưng ngoài mặt Tùng vẫn nói hăng:
                           
                          -Nhờ chú bảo vợ cháu phải đem con về, không có phép bỏ nhà ra đi như thế.
                           
                          Ông chú chỉ lạnh lùng trả lời:
                           
                          -Vợ chồng đối xử với nhau thế nào mà phải tạm cách ly? Tôi chưa hiểu rõ câu chuyện đầu đuôi thế nào.
                           
                          -Chú biết đấy, ở nhà từ xưa đến nay, từ đời ông đời bà, cháu vẫn nghe nói có bao giờ vợ dám hỗn với chồng, bảo sao nghe vậy, người vợ phải phục tòng chồng, giữ đức tam tòng. Bây giờ sang đây, vợ cháu kêu không đủ tiền tiêu, gửi con đi làm; từ ngày đi làm có tiền lại sinh ra tác quái, con cái để nghịch ngợm khóc lóc, khách khứa tới cơm nước cũng chẳng chịu làm hẳn hoi, cháu có rầy la thì cãi lại, rằng đi làm về mệt, rồi giận dỗi, không còn giữ được bổn phận làm vợ, như trong sách cổ đã nói. Người đàn bà mà đấng Tạo Hóa đã rút ra từ xương sườn người đàn ông mà dựng lên. thì phải thuộc về người đàn ông chứ. Chú bảo nhà cháu phải mang con về nhà.
                           
                          -Tôi không bênh cháu tôi, nhưng anh lỗi thời lạc hậu quá, ý tưởng của anh lùi về quá khứ, thiếu đạo đức gia đình, anh đã viện dẫn câu sách cổ mà anh không hiểu rõ, vậy tôi xin nhắc lại và lý giải để anh hiểu rõ về đoạn sách này. Đấng Tạo Hóa khi dựng lên loài người, đã dựng người đàn ông trước với vóc dáng cứng cáp, to lớn khỏe mạnh, đến người đàn bà, đấng Tạo Hóa rút lấy xương sườn người đàn ông gần nơi trái tim và  bao bọc trái tim, xương sườn ở giữa thân người đàn ông không trên không dưới, mà dựng lên, người đàn bà mềm mại, thanh tú và yếu đuối để cho biết họ là kết quả của yêu thương.
                           
                          Nên người đàn ông mới nói: “Nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi”. Nàng sẽ đội danh là đàn bà vì đã được rút ra từ đàn ông. Bởi thế đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắng khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác. (Theo sách Khởi Nguyên. Đây là một nửa thân mình tôi và đã làm một nửa thân mình thì phải bình đẳng). Nếu nửa thân ấy lạc lõng nơi đâu cũng cần phải  tìm về với bổn phận, phải bao bọc, che chở, nâng đỡ, an ủi.
                           
                          Nên dòng Việt tộc thuần túy xưa kia thuận theo ý trời mới có chế độ mẫu hệ, cốt ý ngăn chặn những anh đàn ông hay ỷ sức mạnh làm càn. Còn các bà mang danh chủ phụ, nội tướng nhưng đâu có dành quyền các ông. Ngoài ra những trường hợp hãn hữu như Lý công chúa, hai bà Trưng, bà Triệu, gặp cơn quốc biến, đứng lên phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
                           
                          Vận nước đổi thay, giống du mục tràn vào đem quàng ách tam tòng vào cổ giới phụ nữ, nhưng chỉ có bọn thiểu số hủ nho thiếu đạo đức mới viện vào tam tòng áp chế phụ nữ, còn phần đông những gia đình chân chính, đạo đức vẫn giữ sự bình đẳng, tương kính, gia đạo yên vui. Vả lại trách nhiệm người phụ nữ ở trong nhà nặng nề. Ngoài việc nuôi con còn lo cơm nước, giặt giũ thu dọn, dậy dỗ con cái, kim chỉ khâu may, quay tơ dệt cửi, hợp tác với đàn ông như chồng cầy vợ cấy, buôn ngược bán xuôi đồng lao cộng tác bao bọc lẫn nhau. Có mấy ai giở thói vũ phu “chồng chúa vợ tôi” để đến nỗi người đời khinh bỉ coi như hạng người thiếu nhân phẩm.
                           
                          Chúng ta đang sống trên phần đất tự do, mọi người đều có quyền bình đẳng, “quá giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, chúng ta không thể viện dẫn thói tục, cổ hủ truyền khấu, sai lạc, đem áp dụng cổ tục mơ hồ vào đời sống hiện tại thì thật là lỗi thời và lạc hậu. Thời gian qua anh đã sống, không nhiều thì ít, tạm bợ với những đàn bà khác, anh có nhận thấy trong số những hạng người này đã ai có những đức tính cần kiệm biết lo cho gia đình, hay chỉ biết có du hí điếm đàng, xảo ngôn, dụ khị để moi tiền đàn ông làm phương châm, hay làm bạn với  những người ăn tục nói khoác, bừa bãi nham nhở chỉ là cặn bã của xã hội, rồi kéo nhau vào vòng tội lỗi. Nếu không có một sức thu hút mãnh liệt của người có nhân phẩm cản lại.
                           
                          Anh đã có một kho tàng quý giá mà không biết, vì anh chưa nhận chân được giá trị người phối ngẫu của anh, biết lo cho anh từ miếng cơm, manh áo, xếp đặt thu vén nhà cửa, chăm lo con cái, chia sẻ khi vui lúc buồn, đồng lao cộng tác, người ta đã ý thức được là một nửa thân mình, nên mới hy sinh và chịu đựng đến như vậy.
                           
                          Nếu anh đã ý thức người vợ anh là một nửa thân mình ấy lạc lõng nơi đâu, cần phải đón về với bổn phận bao bọc, che chở, an ủi, tương kính như tân, yêu mến với tình yêu thắm thiết như chính thân mình vậy. Có thế gia đình mới đầm ấm, hạnh phúc con cái thấy đó làm gương.
                           
                          Tùng yên lặng nghe lời khuyên của ông chú vợ. Chàng như người tối tìm được ánh sáng. Bao lâu nay, chàng đã mù quáng không thấy được những đức tính hiếm có của người vợ hiền, chàng đã bôi nhọ, chà đạp nhân phẩm nàng. Tùng tự hứa với mình sẽ sửa đổi cải thiện lại đời sống, một đời sống mới mà trong đó chàng và Thu sẽ cùng nhau xây dựng một mái gia đình hạnh phúc trong tình thương yêu vĩnh cửu.
                           
                           
                          (còn tiếp)
                          #13
                            frank 31.07.2022 22:16:04 (permalink)


                            23- An Phận



                            Khác với mọi ngày, hôm nay Thắm đến trường xin nghỉ học từ giã cô giáo từ giã các bạn. Hai hành mi ánh lên hai giọt nước sắp trào ra khỏi mắt, thế là hết những ngày hồn nhiên vô tư chỉ biết có sách, có bạn nô đùa.

                            Sau một thời gian dài đau ốm, thuốc men, mẹ nàng mang chứng bại xuội, nàng phải nghỉ học ở nhà giúp cha trông coi các việc thay thế mẹ. Tuy ít tuổi nàng đã tỏ ra người lanh lẹ biết tháo vát giúp cha trong công việc hàng ngày, hay phải thay cha đi đây đi đó. Mỗi khi xong nhiệm vụ cha giao phó, trở về nhà nàng rất phấn khởi nhìn cha gật đầu vui vẻ nghe nàng trình bầy công việc đã làm xong.

                            Ngày tháng qua mau, thân hình trí khôn tuần tự nẩy nở. Nàng tự biết mình không đẹp, chẳng đến nỗi xấu. Cũng một đôi khi nghe các người lối xóm, thân thuộc hay trong họ hàng thầm thì nói nàng xấu, không đẹp bằng cô nọ cô kia, nói gì bây giờ, khi có người mách lẻo rằng người ta nói nàng xấu, cũng có hơi khó chịu thật, rồi bỏ qua nàng tự an ủi, thôi kệ mình cứ giữ nết na, làm hết bổn phận những gì mình làm được, an phận là hay hơn cả.

                            Nhớ lại thỉnh thoảng cha nàng nói với người trong nhà: “Nó đẹp đấy không xấu đâu”, cha nói con gái cha đẹp nết, giỏi giang đấy, người cũng không xấu đâu. Nàng yên trí, vui vẻ khi nhớ đến các câu nói đó và nét mặt hiền từ, trìu mến của cha.

                            Ít lâu nay hay có những ông bà khách đến chơi với cha mẹ Thắm nhiều hơn thường lệ. Truyện khi to khi nhỏ, vui vẻ nhìn nàng gật đầu lúc ra về. Lại nghe mẹ nói với cha năm nay con mình đã 20 tuổi, còn non nớt gì. Cha chỉ đáp:

                            “Nó đi nhà mình như thiếu một cánh tay, phải sắp xếp lại, tập cho các em nó theo gương chị, mà rồi đến đâu hay đến đó, có con gái lớn đâu giữ mãi ở nhà được.”

                            Cha mẹ nàng cũng nói qua cho nàng biết, rồi tuần tự nhi tiến. Cha mẹ nói sao con nghe làm vậy. Bên đàng trai người ta chỉ kén người đảm đang, nết na, hiền thục, “cái nết đánh chết cái đẹp, tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

                            Ngày cưới nàng hồn nhiên lộng lẫy trong bộ áo cưới, đôi mắt tinh anh sắc sảo, vẻ mặt hiền thục ung dung sánh vai chàng rể lễ trước bàn thờ tổ tiên.

                            Cũng như phần đông những cặp vợ chồng khác do cha mẹ đôi bên đã kinh nghiệm kén chọn, tìm hiểu sắp xếp rồi nói cho con biết. Thắm, Hạnh lập gia đình trên tiêu chuẩn này. Họ đã sống hạnh phúc trong sự tương kính lẫn nhau. Tách khỏi đại gia đình đôi bên, Hạnh, Thắm đem hết khả năng, nỗ lực xây dựng gia đình, đào tạo nên nếp sống phong lưu, ổn cố. Rồi khi đã có tiền lại muốn có danh, Hạnh thích bắt chước nhiều người xu thời muốn có danh, có tiếng, kẻ vì người nể, Hạnh cần giao thiệp nhiều bạn bè. Thuận tiện hơn cả là đến các vũ trường vừa được ăn chơi, lại dễ gặp nhưng người có chức tước, địa vị và cũng là chỗ cho các poule de luxe giăng bẫy bắt địa các chính khách tập sự.

                            Thắm hiểu tính Hạnh là con người xu thời, háo danh, hay a dua phô trương, thích bề ngoài, dễ tin, nói nhiều làm ít nhưng bản tính rất tốt. Tâm lý con người ta một số hay thèm khát thích đi tìm của lạ. Ăn món gì ngon mặc lòng lâu ngày quen miệng cũng vẫn thấy nhàm chán muốn đi tìm thứ khác tưởng ngon ăn thử mùi vị lại không bằng thứ mình ăn thường nhưng mặc dù thế vẫn thích đi tìm của lạ, không ngon nhưng đẹp, khéo tô, khéo điểm, trông mát mắt lắm, vuối ve, xoa nắn, nói như rót vào tai là nghề của nàng.

                            Khi đã mềm lòng, bị lung lạc với mánh khóe kích thích bằng nước mắt, cả một chuỗi hồng nhan bạc mệnh, bị lừa, bị gán nợ hay cảnh nhà sa sút hay gì gì đi nữa, nhờ bóng tùng quân ra tay tế độ với người trầm luân, rồi thương vì tình cảm, vì sắc. Thấy đã chín mùi bắt sang thế công, nàng lấy điệu tỏ ra tư cách, biết giao thiệp với người sang, chỉ có nàng cặp với chàng sẽ tăng uy tín giá trị cho chàng, vì nàng đẹp biết ăn vận theo thời trang lịch sự.

                            Chàng muốn giao thiệp với những người vị vọng, nàng tìm cách đưa chàng tới làm quen ở khiêu vũ trường, ở các party, chiều đúng sở thích, gãi đúng chỗ ngứa nàng nói gì bảo gì mà chàng chẳng nghe. Không thế đưa nàng về thế cho cái “nửa thân mình” được thì phải làm thế nào cho khuân hết tài sản dâng hết cho nàng vậy.

                            Thuyết chồng chúa vợ tôi, phu xướng phụ tùy đã ăn sâu vào phái nam. Đàn ông họ vẫn lấn lướt, ích kỷ có dịp tỏ ta độc đoán muốn đi đâu lâm gì. Hạnh đã nhiều lần chi tiêu cho những yến tiệc thù tạc không đâu. Thắm còn chịu đựng, bây giờ Hạnh lại ngang nhiên lấy những món tiền lớn ra khỏi nhà không đủ lý do, tất phải vấp vào bức tường cương quyết của Thắm; tiền tài là huyết mạch, phải bảo vệ cho các con với bất cứ giá nào, những gì tự tay mình gầy dựng lên. Hạnh không trách cứ Thắm được điều gì.

                            Thắm giữ im lặng như không có điều gì xẩy ra, không còn cộng tác như trước thì hãy coi như tôn trọng tự do riêng của Hạnh vậy, cần giữ trong gia đình có không khí vui vẻ để các con an tâm học hành. Nàng lấy hai chữ an phận, tìm an ủi, tìm hạnh phúc bên các con và trong công việc làm. Nàng không nghe các bà xui giục, có hành động hạ cấp nhỏ nhen đi chửi nhau, hay đánh ghen, liệu có kéo về được tinh yêu của chàng đã bị di chuyển tới chỗ khác. Một khi người ta giữ chặt, muốn lấy lại ngay rất khó, chờ đợi sẽ có biến cố là lẽ tất nhiên, vì tình yêu cũng có căn bản, đặt không đúng chỗ rất dễ tan. Bấy giờ không mong cũng quy khứ lai hồi.

                            ***

                            Một mầu xanh lam mờ xương, những rặng núi ngút ngàn chạy dài thăm thẳm, gió hiu hiu thổi nhẹ những lá trà xanh còn đọng sương mai. Những cánh đồng trà thoai thoải chạy dài, trong đó nhấp nhô những bóng hình ẩn hiện, tiếng cười nói rổn rảng của các cô, các bà tay đang thoăn thoắt hái lá bỏ vào gùi đeo sau lưng, thỉnh thoảng lại rộ lên một tràng cười vui.

                            Thắm nhìn cảnh vật không biết chán, trong lòng êm ả như reo vui. Nàng đi hết vườn trà này sang vườn trà khác, không ngớt hỏi han trò chuyện với từng người.

                            Mặt trời đã lên cao nhiệt độ càng tăng, đi nhiều mỏi chân nên thấm mệt. Nhìn bao quát cả nương chè xanh chạy mút mắt, nàng quay ngược chiều trở về nhà, còn sửa soạn bữa cơm trưa. Sau khi đã kiểm soát khu nào còn bỏ sót, nhắc cho người ta tới hái nốt phần còn lại.

                            Thanh thản thư thái với công phu tự mình đã thực hiện được một sự nghiệp đáng kể, đã giúp được nhiều gia đình có công ăn việc làm, người nào cũng nhìn nàng với con mắt cảm phục và kính trọng.

                            Từ lúc khai phá được một khu đất rừng trồng lên cây trà xanh hái được lá, thái, ủ phơi, sấy, vô bao đòi hỏi nhiều công việc nặng nhẹ, phải biết công bằng phân công tùy tài năng sở trường, từ người lớn đến trẻ con việc mới chạy đều.

                            Mức lời gia tăng, nàng trích ra phân chia giúp đỡ những gia đình đông con, ốm đau, hiếu, hỉ, không trừ ai khi cần nàng giúp đỡ về vật chất hay cần yên ủi về tinh thần trong các thôn ấp lân cận, ai cũng cảm mến. Trong gia đình các con học hành tiến triển, ngoan ngoãn, tuy đã lâu thiếu bóng người chồng, người cha, nhưng nàng đã khéo tránh cho các con những âu lo thiếu thốn, kích thích tạo tạo cho có không khí vui nhộn trong nhà.

                            Thắm tìm được niềm vui trong sự giúp đỡ người khác. Tạo cho người khác niềm vui chính là mang lại cho mình niềm vui. Nàng kiêu hãnh vì đã gạt bỏ mọi đau buồn riêng tư mà tìm một hướng đi mới cho mình, gây dựng tương lai cho các con và giúp đỡ thêm bao người khác, Phần thưởng đó còn lớn lao gấp bội, bù lại vào những mất mát riêng tư.

                            (còn tiếp)
                            #14
                              frank 02.08.2022 00:02:44 (permalink)



                              24-   Hối Hận

                               
                               
                              Trời đã sáng. Ánh mặt trời rọi qua ô cửa sổ những tia nắng ấm áp. Tỉnh giấc đã lâu mà Nam chưa muốn dậy ngay. Chàng nằm nghĩ tới chương trình của ngày nay. Trong đầu anh phác họa hết cảnh này, chỗ kia, khiêu vũ hay đi xoa mạt chược, còn áp phe cũng phải đi, gọi bọn đó đi ăn rồi mới tính được.
                               
                              Nhớ lại hồi nhỏ cứ việc nằm ngủ muốn dậy giờ nào cũng được, không ai dám gọi. Nhà có bốn chị, hai em đều là gái, một mình là trai, được bố mẹ chiều chuộng. Còn bé muốn chơi thứ gì cũng có, dù nhà chẳng dư giả gì lắm, ba mẹ cưng chiều, có khi phải bớt tiền quà của chị, em để mua đồ chơi cho chàng. Hầu như mọi người có bổn phận phải chiều chàng, học hành thi cũng tạm được, ở nhà luôn luôn được nghe những lời khen học giỏi, ai cũng tâng bốc nịnh hót rằng chàng sau này, công danh phú quý không ai bằng; nghe những lời phỉnh chàng cũng khoái lắm  mặc dù vẫn hiểu những lời nói kia chỉ để làm vui lòng cha mẹ chàng.
                               
                              Học ít chơi nhiều nên cha mẹ Nam phải tìm cách hối lộ, chàng mới đỗ được mảnh bằng tú tài. Nam không học tiếp vì cho rằng mình cũng đã giỏi chẳng kém gì ai. Chàng theo bạn đi vào chốn ăn chơi, bố mẹ không đủ sức cung phụng, chàng phải xoay sở, gia đình chàng không còn gì để moi, tìm cách nói dối lừa gạt họ hàng bạn bè của bố mẹ rốt cuộc bố mẹ phải chạy vay để trả nợ cho con.
                               
                              Nam ăn chơi mù quáng, không còn nghĩ đến sự đau khổ của bố mẹ rốt cuộc càng ngày càng sa đọa. Với một ít thông minh, lanh lợi, chàng nghĩ được nhiều mưu mô lừa đảo, tráo trở, nhập với bọn lưu manh đánh lừa những người ngây thơ có tính tham lam, chạy áp phe, mua hàng lậu, hay đóng kịch với bộ y phục hợp thời trang, lái chiếc xe hơi bóng lộn  (xe đi thuê), giữ bộ mặt đăm chiều, nghiêm chỉnh đôi khi sửa lại chiếc kính gọng vàng trông có vẻ một nhà mô phạm trí thức, nói năng nhỏ nhẹ, hòa nhã, gặp ai mà chả dễ mến. Những bà góa, những cô gái ham hố yêu đời, những cô thất tình kèm theo tư trang, đều là những miếng mồi ngon, lần lượt sa vào bẫy của bọn lưu manh táng tận lương tâm trong ê kíp của chàng.
                               
                              Nam nhìn lên bàn nhớ ra mẩu giấy người bạn hẹn gặp anh ở nhà thờ 10 giờ sáng hôm nay, có lẽ tiễn đưa bố anh bạn mới chết. Thôi đành gác mọi chuyện đi ăn sáng để tới nhà thờ còn kịp dự lễ chia buồn với tang gia.
                               
                                                              ***
                               
                              Nhìn mấy khuôn mặt thương cha tha thiết của mấy người con, mắt người nào cũng có ngấn lệ, Nam sực nhớ đến bố mẹ. Đã lâu rồi chàng không có liên lạc gì với bố mẹ, không biết các ngài khỏe yếu ra sao. Mình tệ thật, ỷ vào các chị em, bỏ nhà ra đi hưởng thụ một mình đầy đủ tiện nghi, bố mẹ có đói rách cũng không biết.
                               
                              Đang lan man nghĩ, Nam chợt nghe: “Thân cát bụi lại trở về cát bụi.” Tiếng ông linh mục vẳng tới tai  chàng, Nam giật mình nhìn lên ông đang tiếp tục nói. Loáng thoáng chàng nghe thấy nói đến tha thứ, ăn năn, chừa cải, đến linh hồn không chết, cái xác trong hòm kia đang nằm bất động, đến cuộc sống mới vĩnh viễn sung sướng,  đến ngôi nhà trong sáng của Chúa. Chàng cảm thấy có một thúc đẩy truyền cảm lôi cuốn chàng chý ý nghe ông nói.
                               
                              Cái thánh thiện ở linh mục như lây sang chàng. Nam mơ màng một cuộc sống không tội lỗi. Và bỗng chàng muốn ăn năn sám hối, muốn bỏ hết thói xấu tật hư, muốn chuộc lại tất cả bê bối cũ, những thứ làm cho anh lao đầu vào vòng tội lỗi, những kiêu căng, hợm mình. Và tất cả yếu hèn của Nam trong quá khứ là ỷ lại vào cha mẹ, ỷ lại vào tiền của cha mẹ, ỷ lại vào huyền thoại những lời người ta tâng bốc nịnh nọt, cho là anh có tài ai cũng kinh phục anh, có đi đến đâu không nhỉ?
                               
                              Nhìn vị linh mục anh đem lòng cảm phục, kính mến, khi nghỉ đến cả một đời thánh thiện, hy sinh hãm mình, không vợ không con, không ăn ngon, không mặc đẹp, lúc nào cũng chỉ bộ áo đen, đem cả cuộc đời khấn nguyện làm tôi Chúa, giúp đỡ tha nhân bằng lời nói, bằng hành động.
                               
                              Như những tội đồ mới ăn năn sám hối chàng thành khẩn nghĩ đến tội lỗi đã qua và hiện tại. Mà   con  đường linh mục nói nghe sao quá dễ dàng. Chỉ cần một phút giây an năn cũng làm cho linh hồn trước kia bê bối nay cũng được trong lại như pha lê, cũng được thư thái trường cửu. Anh cũng nối đuôi dài theo đoàn người ra nghĩa trang.
                               
                              Tiếng kinh cầu lẫn tiếng khóc nho nhỏ của con cháu, anh em người quá cố nghe thê lương, não nuột. Nam thấy trống quá và buồn quá, trống như lỗ huyệt mới đào. Một vài thập niên qua nữa sẽ đến lượt mình cũng buồn như vậy. Bỗng chàng nhớ lại tất cả cái nhảm nhí đời mình. Và như có phép lạ chàng thấy thèm khát những gì trong lành.  Trong lành như bông huệ trong vòng hoa tang được dựng chung quanh quan tài. Mỗi người đã ném bông lên chốc quan tài và huyệt được lấp kín lại. Lát sau mọi người tản mác ra về.
                               
                              Chàng lang thang một mình trong nghĩa địa. Vẫn còn văng vẳng trong tai câu: “Thân cát bụi lại trở về với cát bụi”.
                               
                              Có linh hồn hay không nhỉ, chàng thầm nghĩ. Rồi theo đà chàng tự đặt câu hỏi tiếp theo. Còn nếu không có linh hồn. Chàng thấy mình bí lối trong đà suy nghĩ mông lung. Nhưng rồi chàng tìm ra câu trả lời, chàng mỉm cười. Nếu không có linh hồn thì tha hồ cho người ta ăn chơi, lừa đảo, tàn ác bất chấp cản trở nào.
                               
                              Như một lần đã nghe nói ở đâu “Trời công bằng tuyệt đối, không thưởng phạt đời này thì phải có thưởng phạt đời sau”.
                               
                              Tính bướng bỉnh của chàng lại nổi lên. Sợ Thiên Chúa nhưng không muốn ỷ lại vào ai để tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, cũng không muốn nhận những điều mà nhiều người thường nói đến, vậy mình tìm gì đây? Rồi chàng thấy rằng chỉ có công bình và bác ai, giữa người với người vì tất cả tội lỗi đều do chỗ thiếu công bình và bác ái với người khác, chính thân xác mình đã và đang hưởng thụ là một bất công.
                               
                              Chàng cảm thấy trách nhiệm và sám hối. Chàng nghĩ rằng có nhiều người đã đi trước còn biết nhiều hơn, họ đã từ bỏ cái cũ, tìm một lối đi sáng hơn, thật hơn. Nam nhìn thẳng và tự nghĩ đời ta phải bắt đầu lại từ đây cũng chưa muộn. Cần dứt khoái bỏ hết những gì dùng mưu gian trá lấy không của người ta. Việc đầu tiên là trở về với cha mẹ để xin lỗi và xin được tha thứ.
                               
                               (còn tiếp)
                               

                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 32 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9