Những mảnh đời - Tuyết Minh

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 34 bài trong đề mục
Tác giả Bài
frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Những mảnh đời - Tuyết Minh - 28.10.2022 00:07:12
 
 


Nh
ững Mảnh Đời

Tuyết Minh


Lời Giới Thiệu



Trên văn đàn Việt Nam hải ngoại hiện nay. Nữ sĩ Tuyết Minh đã mở cho mình một lối đi riêng: những bài ngắn, gọn với một nội dung xây dựng của bà là những lời khuyên bảo chân thành cho mọi giới, từ trẻ đến già. Nhìn quanh gia đình, rồi nhìn qua các địa hạt trong xã hội, Nữ sĩ Tuyết Minh đã mang những ý tưởng tốt đẹp của bà để xây dụng cho mọi người. Lần này, chúng tôi xin được hân hạnh giới thiệu tác phẩm thứ ba của bà cũng trong tâm tình và ý thức xây dựng đáng ca ngợi đó.

Mở đầu tuyển tập là bài nói về “thiên chức làm mẹ”. Chúng tôi thấy Nữ sĩ Tuyết Minh đã nhận lãnh thiên chức đó suốt cuộc đời bà vì bà là một bà mẹ hiền. Nhờ sự giáo dục chân thành và tế nhị của bà mà con, dâu, rể của bà đã thành đạt tốt đẹp, xứng đáng là những người đứng ra góp phần công đức cho xã hội mới.

Với ý thức Thiên-Chúa-giáo, bà Tuyết Minh muốn lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc để đo mọi sự việc ở đời. Và bà đã nói đến “niềm tin” với tất cả sự chân thành của lòng mình. Bà viết: “Tôi tin có Đấng Tối Cao ở trên trời là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những người lành cũng như kẻ dữ và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Đấng chí công vô tư sẽ cải biến cái họa thành may, đời này sẽ nối tiếp đời sau”.

Về gia đình, Nữ sĩ Tuyết Minh muốn Tình và Nghĩa phải đi đôi. Bà nói: “Cái đẹp của ông cha chúng ta luôn luôn bảo vệ hạnh phúc gia đình bằng sự hy sinh, nhẫn nại, nếu tình chẳng còn thì cũng vẫn ở với nhau, sửa chữa cho nhau để giữ nghĩa vợ chồng”.

Bà cũng đã vẽ chân dung người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Trưng, bà Triệu, bà Lê Chân, bà Bùi Thị Xuân, cô Nguyễn Thị Giang… và kết luận: “Người phụ nữ Việt Nam qua các thời đại có đủ đức tính anh dũng, bất khuất đảm đang, trung hậu, đức hạnh. Những bản tính này đã có từ lâu, người trước làm gương cho người sau, là căn bản cho dân tộc Việt và giúp cho sự gìn giữ và trưởng tồn của người Việt chúng ta.”

Nữ sĩ Tuyết Minh đã ca ngợi nhiều đức tính tốt như: tha thứ, có tâm hồn bao dung… mà cũng đã nói đến những thói xấu của người Việt Nam chúng ta, như đố kỵ, ghen tuông, lợi dụng nhau, mê tín, có ý hướng mất gốc… Tuy nhiên, dù là khen hay chê, lời lẽ của bà cũng hiền hòa, thân ái, không nặng tay đả phá bao giờ.

Nhận xét chung, chúng tôi thấy Nữ sĩ Tuyết Minh đã có lối kể chuyện thật đơn giản, ôn hòa, không nâng ai mà cũng không ghét ai, chỉ khách quan mà góp một lời thân ái. Bà cũng không có thái độ dậy đời mà chỉ mong đem tâm tư của mình mà xây dựng cho đời.

Vườn hoa mà Nữ sĩ Tuyết Minh vun quén vừa đẹp vừa ngát hương. Truyện bà kể có những nét đẹp rất tự nhiên không quá phong lưu, đài các như hoa lan, hoa quỳnh, mà có cái đẹp rực rỡ như ánh mặt trời của hoa hướng dương, cái nét thanh cao của hoa huệ, hoa cúc.

Bước chân vào khu vườn này, lòng ta tự nhiên thấy rộn rã như ánh dương vui. Ý thức chân thành và tình cảm thâm thúy đã làm cho ta lưu luyến mãi như một làn hương vĩnh cửu…


Mùa Xuân năm Giáp Tuất, 1994

Xuân Tước

 
1-     Chị Cu

 
 
Làng Thành Đức khá lớn, nhân số có 2000 người, chia làm ba thôn. Thôn thượng, thôn trung và thôn hạ. Thôn hạ người làng quen gọi là xóm chợ vì có ngôi chợ sầm uất dưới bóng mát của mấy cây đa cổ thụ. Những cây này không biết đã mọc lên tự bao giờ vì trải mấy đời người mới có thể có gốc cây lớn như vậy, chu vi của gốc bằng ba người ôm cũng không hết.
 
Mỗi bên gốc cây có một ngôi miếu nhỏ, trong miếu lúc nào đèn nhang cũng nghi ngút do mấy bà mấy cô đi chợ qua lại khấn vái, kêu cầu cho được buôn may bán đắt. Đằng sau miếu dựa vào gốc cây đa là những ống bình vôi được xếp một ngày một cao thêm. Những ống bình vôi này là của người trong làng khi không còn dùng đến đã đưa đến đây để xếp lên.
 
Xóm chợ còn điểm lợi nữa là tọa lạc sát đường cái quan. Chạy song song với đường cái là một con sông lớn rất thuận tiện cho trên bến dưới thuyền, hàng hóa từ chợ bốc xuống thuyền chở đi nơi khác hay ngược lại hàng từ dưới thuyền bốc lên chợ rất tiện lợi. Chung quanh chợ là những cửa tiệm bách hóa, cứ cách mấy tiệm lại có một con ngõ hẹp chạy vào xóm, những xóm này là nơi cư ngụ của những người không làm nghề buôn bán.
 
Nhà tôi cũng ở trong một ngõ hẻm, tuy gần chợ nhưng chúng tôi chỉ tới chợ khi nào cần mua bán, còn qua lại giao thiệp đã có hàng xóm với nhau. Bên cạnh nhà tôi là nhà ông bà Cầu, cả hai nhà đều có vườn, ruộng lúa cấy hai mùa và ngoài nghề làm ruộng còn nuôi tằm, ươm tơ. Gia đình tôi thân thiết với nhà ông bà này không phải chỉ vì ở sát cạnh nhau mà vì còn có tình thắm thiết qua lại giúp đỡ nhau khi có nhiều việc.
 
Ông bà Cầu khác với ba mẹ tôi. Chỉ có bà Cầu và các con làm việc nhà. Làm nhiều quá không xuể thì mướn thêm người làm, còn ông Cầu thì không mó tay vào việc gì ở trong nhà. Vả lại ông ít khi ở nhà, ông đi buôn hàng chuyến. Tuy không có cửa tiệm nhưng ông có một cái nhà kho chứa hàng, mỗi lần ông đi mua về, hàng chở bằng thuyền hay bằng cả chuyến xe vận tải được chất vào kho. Hàng vừa được phu khuân vác xếp vào kho xong, ngày hôm sau đã thấy tấp nập kẻ ra người vào.
 
Những người đến trước là những chủ tiệm quanh chợ, vì ở gần họ đã biết có hàng mới về. Rồi lần lượt những người ở xa như đã được báo trước kéo đến, chỉ trong ít ngày là  bán hết. Vào cuối thập niên 30 sang 40, đường giao thông còn ít, báo chí thông tin chưa phổ biến rộng rãi nên các nhà buôn tỉnh nhỏ hay ở các phủ, huyện muốn có hàng bán lẻ, phải tự tới cửa hàng bán buôn hay nơi sản xuất để mua. Vì vậy nên những chủ tiệm đến nhà ông Cầu mua và đặt hàng mới rất tiện cho họ, khỏi phải đi tìm mua hàng những nơi quá xa như từ Sàigòn hay gần như từ Hà Nội.
 
Ông bà Cầu lớn tuổi hơn ba mẹ tôi và có hai người con gái lớn hơn chị em tôi nên chúng tôi gọi bằng chị Lan, chị Huệ. Còn ông bà ta chúng tôi gọi là bác Cầu. Bác Cầu trai vẻ người phương phí, lanh lợi hoạt bát, nước da bánh mật, trán cao mắt sáng, miệng cười tươi có duyên. Tiếng nói sang sáng, bác nói và viết thông thạo cả hai thứ chữ Pháp và chữ Nho. Bác rất vui tính và hay nói đùa với chúng tôi, nhất là hai em tôi còn nhỏ mỗi lần sang nhà bác đều được bác bế nựng rồi tìm quà phát cho chị em tôi. Nhà bác ít người lại sẵn qua vì bác luôn luôn có khách, họ đến là mang quà nên chị em chúng tôi hay sang nhà bác chơi.
 
Chúng tôi thích thú nhất là những ngày bác đưa hàng về. Chúng tôi được bác cho nhiều bánh lại còn quà. Con gái thì lọ dầu thơm, chiếc lược nhựa để cài đầu. Con trai được quả bóng hay túi bi đủ mầu. Sau khi phát quà xong bác đuổi các em tôi đi chơi, tôi ở lại giúp các chị soạn đồ hay được sai vặt. Rồi bác ngồi làm việc  với các chị, chỉ dẫn từng món hàng về giá cả. Giá được viết sẵn ra giấy để các chị cứ việc theo đấy mà bán hàng thay bác, khi nào cần mới phải hỏi. Còn bác phải tiếp khách, không phải là khách mua hàng mà là những ông khách lạ. Những ngày bác ở nhà là những ngày khách khứa ra vào, ở lại ăn cơm hay ngủ lại, truyện trò nhộn nhịp rất vui vẻ.
 
Trái lại bác Cầu gái là người nghiêm nghị, ít nói, chăm chỉ làm ăn. Bác rất chiều bác trai. Ngày nào bác trai ở nhà có khách đến ở lại ăn cơm bác làm cơm đãi khách bao giờ cũng thịnh soạn. Tôi thường hay sang giúp bác và các chị những việc lặt vặt như bóc hành, tỏi, lạt rau, chẻ rau muống ăn với chả giò v.v… Tôi không bao giờ  thấy bác kêu ca gắt gỏng, phàn nàn trong lúc  bác có rất nhiều việc cần phải làm.
 
Cuộc sống cứ đều đều trôi, ngày này cũng giống như ngày khác. Tôi đã lớn hơn theo với thời gian. Một hôm tôi thấy em tôi chạy về nói bên nhà bác Cầu có đông người mà chị Lan, chị Huệ đang khóc ở dưới bếp. Nghe em nói tôi sửng sốt, cảm thấy có việc gì quan trọng lắm, vội chạy sang xem. Mọi người có vẻ đăm chiêu, nói rất sẽ. Cả ba mẹ tôi cũng có mặt nơi đây.
 
Tôi chỉ nghe họ nói với nhau, ông Cầu bị hậu bối (ngày nay gọi là ung thư), không chữa được đâu. Hai hôm sau bác vĩnh viễn ra đi. Bác Cầu gái than khóc thảm thiết, hai chị Lan, chị Huệ cũng khóc như mưa như gió, chị em tôi cũng mủi lòng khóc theo. Thấy người ta chít khăn trắng chúng tôi cũng xin mỗi người một chiếc khăn trắng  theo sau quan tài đưa bác đến nơi an nghỉ.
 
Đám tang bác Cầu rất lớn, có cờ ngũ hành, có ban tây nhạc, có hội bát âm và rất đông người đi theo quan tài. Tại nghĩa địa trước khi hạ huyệt có ba ông khách lạ đọc điếu văn kể tiểu sử của bác. Bác đã giúp đỡ nhiều người, bác bước vào thương trường không những giúp gia đình mà còn mục đích giúp đỡ được nhiều người chỉ có tổ quốc biết đến (vào thời Tây cai trị ít ai dám nói yêu nước.)
 
Suốt một tuần lễ, cứ về đến chiều nhà bác Cầu gái lại nhộn nhịp có nhiều người hàng xóm hay bạn bè tới nhà đọc kinh cầu cho bác. Có cả một ông đồ ngâm những câu đối, trướng bằng chữ Nho.
 
Một hôm tôi sang nhà bác Cầu thăm chơi như thường lệ, tôi rất ngạc nhiên thấy một người đàn bà lạ mặt còn rất trẻ, đẹp, bế một thàng bé con chừng một tuổi, đang múc từng muỗng bột đút cho đứa bé ăn. Bà mẹ trẻ này trên đầu cũng chít khăn tang mà tôi chưa hề gặp trong đám tang bác Cầu. Một lúc  sau bác Cầu gái nhìn tôi mỉm cười và nói:
 
-Cháu có  muốn bế thằng cu, để chị Cu cho nó ăn xong sẽ cho cháu bế.
 
Tôi cám ơn bác, trong lòng thich lắm. Tôi nhìn thằng cu bụ bẫm khôi ngô trông giống bác Cầu giai quá. Từ hôm đó tôi hay sang chơi để bế thằng cu, mỗi lần tới tôi chỉ thấy bác Cầu gái bế hay đặt thằng cu ngồi bên cạnh, còn chị Cu phải làm suốt ngày. Chị làm bếp, xay lúa, giã gạo, hay cho heo ăn, không thấy chị ngồi chơi hay bế thằng cu. Như tôi đã nói, vì bác Cầu gái là người nghiêm nghị, ít nói nên không ai dám hỏi bác Cầu chị Cu từ đâu đến, có họ hàng gì không và ở đây đến bao giờ. Cũng không thấy chị trò truyện với ai vì có ai thấy được chị đâu mà nói truyện.
 
Mẹ con chị Cu ở nhà bác Cầu chứng một năm thì biến mất. Một hôm tôi sang nhà bác Cầu với chủ ý muốn bế thằng cu đi chơi như mọi khi. Không thấy thằng cu đâu tôi hỏi bác Cầu, bác chỉ cười trả lời nó không ở đây nữa. Thẫn thờ tôi về nhà, hỏi mẹ tôi có biết mẹ con chị Cu đi đâu và chị Cu là người thế nào?
 
 Mẹ tôi nói riêng cho tôi biết theo lời bác Cầu gái, khi bác trai gần chết, bác có nói với bác gái, bác có một người con trai ở với mẹ nó. Người đàn bà này là con nhà tử tế. Bác xin bác gái bỏ qua lỗi lầm cho bác và xin thương bao bọc cho mẹ con thằng cu. Vì thế bác gái cho đón về nhà, còn bây giờ mẹ con chị Cu đi đâu không ai biết. Mẹ tôi cũng nói việc nhà của ai không nên tò mò.
 
Rồi tôi cũng quên luôn chuyện mẹ con chị Cu sau năm cuối của thập niên 30 đó. Tới năm 1954, gia đình tôi theo làn sóng người di cư vào Nam tìm đất sống. Thói thường họ hàng làng xóm quen rủ nhau lập nghiệp và ở gần nhau cho vui. Thời đệ nhất cộng hòa, dân di cư được chính phủ ưu đãi cho thành lập các trại định cư; được giúp vốn, giúp kỹ thuật làm ăn nên sầm uất lợi nhuận.
 
Nhu cầu và đòi hỏi tiện nghi gia tăng, một số người có óc buôn bán đưa hàng hóa đến bán tận nơi cho những người định cư. Một bà hàng xóm người làng trước kia làm nghề buôn hàng kiểu này, một hôm  đi bán hàng về, bà sang chơi thăm tôi và nói mới gặp mẹ con chị Cu. Tôi hỏi thăm và bà cho biết:
 
-Tôi đang đi trên đường phố Nha Trang bỗng nghe có tiếng người gọi hỏi: “Bà có phải người ở xóm chợ làng Thành Đức không?”
 
Tôi hỏi lại:
 
-Sao bà biết?
 
Bà ta nói:
 
-Tôi gặp bà trước kia hay lại nhà bà Cầu cùng xóm, nếu tôi nhớ không lầm.
 
Rồi bà ta mời tôi về nhà gần đây, giữ ở lại ăn cơm. Tôi lân la hỏi xin cho biết lai lịch để xưng hô vì trước kia tôi chỉ được nghe người nhà bà Cầu gọi là chị Cu. Bà ta cười nói:
 
-Bây giờ tôi già rồi. Bà muốn biết, tôi kể cho nghe về cuộc đời của tôi còn bây giờ bà muốn gọi tôi là chị Cu cũng không sao!
 
Cả hai chúng tôi cùng cười với danh từ chị Cu. Chị nói tiếp:
 
-Tôi có chân trong một hội kín giữ liên lạc nên hay tiếp xúc với ông Cầu. Ông là người có uy tín trong tổ chức của chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều kính trọng về đức độ, về tài năng tháo vát của ông. Riêng tôi càng phục ông ấy hơn vì sự giúp đỡ chỉ bảo giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ. Tôi đặt hết tin tưởng vào ông khi gặp việc khó khăn. Tiếp xúc với ông ta nhiều, từ lòng kính phục tôi tiến sang lòng kính yêu. Tôi yêu ông ta phải nói là say mê. Trước khi bày tỏ tình yêu của tôi, tôi đã biết rất rõ về gia đình ộng; ông ta tuổi lại còn gấp đôi tuổi tôi, nếu nói ra tất cả nhiều người cho là tôi đặt tình yêu không đúng chỗ.
 
Qua nhiều đêm suy nghĩ những bất trắc lợi hại, bất chấp dư luận tôi thấy không thể kìm hãm được tình yêu phát xuất tự con tim tôi. Tôi tự tìm đến ông ta để thổ lộ tình yêu và muốn dâng hiến cho ông trọn vẹn. Nói bà đứng cười, ông ấy lấy làm ngạc nhiên và từ chối mối tình của tôi, khuyên bảo tôi nên đặt tình yêu đúng nơi đúng chỗ, đừng lãng mạn bồng bột. Ông nói:
 
-Tôi không thễ đáp lại tình yêu của cô, vì tôi đã có gia đình, có tôn giáo khác với tôn giáo của cô. Tôi phải giữ về lòng chung thủy, chỉ có thể có một vợ một chồng.
 
Ông khuyên tôi nên quên truyện này và vẫn coi nhau là đồng chí. Ông còn khen tôi đẹp thiếu gì người có danh phận đến cầu thân. Tôi ra về lòng buồn phiền nhưng nhất quyết chỉ yêu có một lần. Rồi tôi chỉ để tâm tìm dịp tạo điều kiện để gặp gỡ ông. Tôi cũng biết ông yêu tôi lắm, nhưng là con người lương tâm đạo đức vẫn giữ ranh giới giữa ông và tôi. Còn tôi quan niệm yêu là cho tất cả nên tôi cứ bám sát ông.
 
Nhân một chuyến vào Nam, tới Sàigòn không có nhà quen chúng tôi phải thuê phòng ngủ để hôm sau đi công tác. Qua chuyến này tôi có mang. Từ đây ông đã có bổn phận với vợ với con, tôi đã toại nguyện chờ ngày sinh con; khi có con trai ông ấy quá sung sướng nói với tôi là đã đạt được ước vọng lớn nhất trong đời. Công việc đòi  hỏi ông ấy phải di chuyển luôn luôn, không bao giờ ở lại với mẹ con tôi quá tuần lễ và cũng không đi đâu lâu quá một tháng.
 
Tôi đang chờ ông ấy về để tổ chức ăn đầy năm cháu như đã dự định, sẽ mời đông đủ bạn bè họ hàng bên tôi thì được tin ông mất đã an táng tại quê nhà. Tôi như bị sét đánh ngang tai, không ngờ hạnh phúc mình được hưởng quá ngắn ngủi, thương cho con tôi côi cút còn thơ. Chúng tôi lấy nhau không chính thức, tôi chưa bao giờ về quê ông ấy, nên tôi không dám đưa con về cư tang.
 
Hơn một tháng sau ngày ông ấy chết, bà cả cho người tới đón mẹ con tôi về chơi. Ở được ít lâu, tôi nghe dư luận mấy người con gái con rể nói ra nói vào với bà cả, để mẹ con tôi ở đây sẽ sinh rắc rối, sợ tôi đòi chia gia tài. Tôi có nói cho họ biết mẹ con tôi về đây có ý cư tang ít lâu cho trọn tình nghĩa. Tôi không mong chia gia tài cho con tôi, đừng nghĩ oan. Tôi ở tới giỗ đầu năm rồi hôm sau tôi thu xếp bế con đi. Bà cả có đưa chân mẹ con tôi một món tiền nhưng tôi không lấy.
 
Tôi đưa con về Hà Đông buôn bán nuôi con. Tôi cũng được an ủi chút ít do bạn bè và các đồng chí của ông hay đi lại thăm nom giúp đỡ mẹ con tôi. Tôi đã nuôi con một mình thành nhân như ý tôi. Tôi tin vong linh ông cũng vui mừng thấy con trai độc nhất của chúng tôi đã thành danh.
 
Qua câu truyện của bà Cầu tức chị Cu, trước mặt bà hàng xóm tôi tỏ lòng quý mến, kính phục bà Cầu là người quả quyết, giữ lòng trung trinh, ngay thẳng, có tấm tình yêu chân thành bền vững, không bị bả lợi danh cám dỗ. Tình yêu chổng đã dồn sang cho con tận tụy nuôi nấng, dậy dỗ cho con nên người. Ôi văn hóa Việt Nam tiền nhân để lại đã tác dụng nên những con người Việt đáng quý, đã giữ vũng năm đức tính cao quý nhân, nghĩa, lể, trí, tín.
 
Tôi tự hẹn với lòng một ngày nào sẽ ra Nha Trang thăm mẹ con bà Cầu tức chị Cu. Tôi rất ân hận chưa kịp đi thăm bà Cầu thì biến cố ngày 30 tháng 4 ập đến. Tôi không biết mẹ con bà Cầu hiện giờ ở đâu. Nếu đọc được những giòng trên đây, hy vọng bà Cầu hay ông Cơ liên lạc với người viết.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2022 02:47:36 bởi Ct.Ly >

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 28.10.2022 23:05:40
                       


  2-    Chị Em

 
 
Năm 1978 là năm Cộng sản thu tiền các thương gia Tầu muốn xuất ngoại. Chỉ có người Tầu được đi bán chính thức, người Việt mình muốn đi phải tìm cách móc nối với người Tàu Chợ  Lớn để mua giấy, dĩ nhiên là giấy giả. Y phục phải mặc theo kiểu Tầu, bước lên xe ở Chợ Lớn, người nào không biết nói tiếng Tàu cứ ngồi yên rồi đi thẳng xuống tầu ra biển. Người Việt đi theo chỉ thấy người Tầu nói líu lo, không thấy ai nói tiếng Việt hay mặc y phục Việt nên không nhận ra nhau.
 
Tầu tới Mã Lai không được phép đổ bộ, vẫn thả neo gần bờ biển, mọi người chưa được lên bờ mà thực  phẩm mang theo đã gần cạn, bánh quả cho trẻ con đã không còn. Thằng Thăng con bà Vinh nhìn thấy đứa nhỏ có chiếc bánh nên nó quay lại đòi mẹ kiếm bánh cho nó, khóc nói tiếng Việt ầm ĩ, làm mấy bà người Việt chạy lại chỗ bà Vinh chào hỏi nhau mừng rỡ. Họ hỏi thăm nhau không dứt như gặp bạn thân lâu ngày không gặp.
 
Ồn ào lúc đầu rồi ai nấy về chỗ mình, họ còn lo cho ngày mai, chưa được bước chân lên bờ, sợ bị trả về Việt Nam. Bốn bà không có đàn  ông đi theo, chỉ đi với các con đều cùng một hoàn cảnh. Họ liên kết với nhau, có điều gì xảy ra hay ai biết thêm điều gì họ đều loan báo cho nhau biết, giúp nhau trên bước đường lữ thữ, bàn tính chuyện xa việc gần khi hằng ngày gặp nhau.
 
Cuối cùng tất cả mọi người trên tàu Hải Hồng đều được đi định cư tới các nước. Bốn bà được đi định cư ở Mỹ. Họ liên lạc với nhau, dần dà họ tìm cách ở gần nhau, rủ nhau đi học, đi tập lái xe, đi làm. Cuối tuần họ gặp nhau, ăn uống lần lượt mỗi nhà và tâm sự góp ý kiến với nhau để chia buồn vui. Hôm nay đến lượt chị  Vinh kể chuyện về cuộc đời của chị cho chúng tôi nghe:
 
-Tôi là con một thương gia có đồn điền cà phê ở Ban Mê Thuột. Sau khi thôi học tôi trông coi quán cà phê cho bố mẹ. Tôi gặp chồng tôi lúc bấy giờ đeo lon đại úy là vì ngày nào anh cũng lái xe Jeep đến quán tôi, bất kể giờ giấc. Có khi ngồi chưa nóng chỗ anh đã phải đi. Có tối ngồi lại rất khuya mới chịu về. Tôi vẫn nghi ngờ anh chàng người Bắc di cư, đeo lon đại úy vẫn nói chưa vợ, nhưng lâu dần nghe anh nói mãi cũng lọt tai. Bố mẹ tôi thấy anh ăn nói lễ phép nên các cụ cũng bằng lòng.
 
Sau đám cưới nhà tôi cứ nay đây mai đó đi hành quân luôn. Chồng tôi thấy vợ con ở gần mặt trận nguy hiểm nên bàn với tôi mua nhà ở Sàigòn để con cái đến tuổi đi học cho tiện.  Nhà tôi có dịp có giấy phép về Sài gòn thăm vợ con còn tôi trông nom con cái.
 
Rồi tin dồn dập xảy đến. Mất Phước Long. Mất Ban Mê Thuột. Đà Lạt chạy xuống, ngoài Trung chạy vào. Từng ngày, từng giờ hoang mang, người ta tìm cách xuất ngoại còn tôi cứ bồn chồn chờ tin tức chồng rồi sẽ liệu. Ngày 30 tháng 4, cổng Dinh Độc Lập bị xô đổ, dép râu dẫm khắp nẻo đường, mẹ con tôi chán ngán hết hy vọng gặp chồng gặp cha. Thấy người ta tìm đường ra ngoại quốc, tôi muốn đi lắm nhưng chưa được tin nhà tôi sống chết ra sao nên không đành lòng đi.
 
Gần một năm sau tôi dò la mới biết nhà tôi bị bắt đưa ra Bắc. Được giấy thăm nuôi, tôi mua đủ thứ thực phẩm, thuốc men đi cùng mấy bà bạn cũng thăm nuôi như tôi. Người nào cũng tay xách vai mang, lên tầu xuống xe còn sợ bị mất cắp, cướp giật, phải canh chừng cho nhau. Hết đường xe, chúng tôi phải đi bộ trèo đèo, lội suối mới tới nơi rừng sâu núi thẳm gặp được chồng, được cha.
 
Gặp nhau được mấy phút nhà tôi chỉ nói với tôi, hãy coi như anh đã chết, em về lo liệu cho tương lai các con, đưa chúng ra khỏi nước càng sớm càng hay. Tõi ừ ào cho qua. Với cái quán cà phê vỉa hè, tôi chỉ cầu ngày hai bữa cho năm mẹ con cũng khó đủ. Để dành  chút ít để đi tiếp tế thăm nuôi nhà tôi, lấy đâu ra vàng mua chỗ cho năm mẹ con đi ra nước ngoài.
 
Vào một buổi chiều trời mưa vắng khách, có hai ông bà dắt đứa con trai chừng 10 tuổi, quần nâu áo nâu đúng là người Bắc mới vô, tôi mời họ vào quán uống nước. Nhìn ông bà khách, tôi có linh tính như là người  quen mà mình chưa nhớ ra. Tôi vồn vã hỏi thăm quê ở đâu? Vào Nam có họ hàng hay có việc gì? Người đàn bà cũng chăm chú nhìn tôi. Bà ta nói:
 
-Chúng tôi ở làng Mông Hữu, Kiến Xương, Thái Bình. Tôi có người em trai vào Nam từ năm 1954, đi học sĩ quan Đà Lạt. Tôi vào đây cốt dò la tin tức em tôi còn sống hay chết.
 
Tôi không kìm nổi đột ngột hỏi ngay:
 
-Bà có phải là chị Hiển không?
 
-Phải, tôi tên cái là Hiển. Sao bà hỏi tên tôi?
 
-Vậy chị là chị Hiển, chị của anh Vinh chồng tôi!
 
Chúng tôi mừng quá ôm nhau khóc tức tưởi. Vì trước kia nhà tôi nói về gia đình ở ngoài Bắc có hai người chị.  Một đã lấy chồng, con chị Hiển ở nhà với bố mẹ, ở Mông Hữu, Kiến Xương, Thái Bình. Bây giờ nghe người nói đúng tên quê quán, tôi nhận liền không còn hồ nghi. Tôi mời anh chị về ở với tôi để tâm sự. Trong câu chuyện tôi phàn nàn về ý nhà tôi muốn đưa các cháu đi xuất ngoại để lo cho tương lai các cháu. Biết đến bao giờ tôi mới mua nổi chỗ đi, ít nhất mỗi đầu người phải có ba cây vàng, mà đã chắc gì đi một lần là được.
 
Ngày hôm sau anh rể tôi muốn dẫn con đi thăm người bà con trong Chợ Lớn. Chị Hiển kêu khó chịu muốn ở nhà. Chị nói hôm nay mợ nghỉ bán hàng một bữa, đợi các cháu đi học nhà chỉ còn hai chị em, chị muốn nói cho tôi biết nhiều điều không muốn cho anh biết. Chị kể:
 
-Ông bà Bá Lân, bố mẹ chị và Vinh, chồng em là người hiền lành hay giúp đỡ người nghèo. Gia đình nhà theo nghề nông, nuôi tầm, gặp thời phong đăng hòa cốc được mùa luôn mấy vụ, bố mẹ tậu thêm ruộng mua thêm vườn, trở nên giầu có tiếng trong vùng. Từ khi Việt Minh cướp chính quyền, không khí có vẻ ngột ngạt cho những nhà có bát ăn bát để, còn những nông dân chất phác hồ hởi như rồi ra sẽ được chia ruộng, chia nhà không ai phải đi làm mướn cho ai.
 
Vì chưa biết thời thế ra sao, với bản tính lo xa, bố mẹ bán dần đồ đạc, thóc lúa, bí mật đi mua vàng còn bề ngoài làm ra vẻ nhà sa sút. Cuối năm 1952, nhà nước thu thuế nông nghiệp, giảm tô, bố mẹ định đi Hà Nội sống qua ngày và ở gần Vinh đã lên học ở Hà Nội từ trước. Nhưng đã quá muộn, khi thấy bố mẹ bán từ cái nồi đồng, mâm thau, ủy ban trong làng đã cắt du kích canh chừng. Mỗi lần ra chợ cũng bị chúng theo dõi.
 
Cuối năm 1953, đội cải cách về làng, gần tới Tết  mà chẳng còn ai nghĩ đến sắm sửa ăn Tết. Mở mắt ra đã nghe tiếng trống ếch, một lũ thiếu nhi quàng khăn đỏ vừa hát vừa đi từ đầu làng đến cuối làng trong các xóm: “Cắt đứt là cắt đứt, dứt khoát là dứt khoát, không vương vấn giai cấp địa chủ, kiên quyết đánh đổ địa chủ”. Cả làng bao phủ một sự sợ hãi ngột ngạt.
 
Chị muốn quên cũng không quên nổi, buổi chiều hãi hùng 23 tháng Chạp năm đó. Xã cho triệu tập nhân dân đến hội trường để bàn về thuế công, thương, nông nghiệp, tới nơi mới biết là tòa án nhân dân đấu tố. Hội trường lập trên khoảnh đất trống đầu làng, bên trong đã có sẵn giây thừng, hèo, gậy và nhiều dụng cụ tra tấn khác. Những người thiếu thuế không kể thiếu nhiều hay ít đều bị bắt điều tra quỳ ở sân trước hội nghị để tra khảo. Chủ tịch cuộc họp chỉ hỏi có một câu: “Tại sao ngoan cố không chịu nộp thuế?” hoặc nếu nộp không đủ: “Ai xúi mày không nộp đủ thuế?”
 
Chúng đánh đập, cùm kẹp, tra tấn cho đến lúc nạn nhân chịu không nổi đuối sức gật đầu. Nếu không gật đầu, nạn nhân bị tra tấn suốt đêm cho đến chết. Đến lượt bố mẹ, bị tên đứng tố là tá điền nhà. Nó hỏi điều gì phải thưa, gọi nó bằng ông nông dân và xưng con với nó. Nó quát gọi bố bằng thẳng, rồi đánh đập túi bụi. Bố gục xuống chết trong đêm đấu tố đó. Mẹ ngất đi lúc lâu mới hồi tỉnh. Khi xin xác bố về nhà, tên chủ tịch ra lệnh chỉ được bó chiếu mà chôn. Nhà bị tịch thu, mẹ và chị bị đuổi ra đường, đứng nhìn sáu gia đình kéo tới chia nhau đồ đạc trong nhà.
 
Cuối cùng chúng cho xuống ở chuồng heo cuối vườn, chị phải cắt hàng rào lấy lối ra đường. Xin mãi chúng mới vất lại được cho đôi chiếu rách để mẹ nằm ngả lưng. Cũng may đã tính trước, mẹ đã giấu được dưới chuồng heo mấy bao gạo và một rương quần áo che bằng những đồ phế thải và củi nên được chúng cho ở chuồng heo là mừng rồi. Chị sau đó đi mò cua, bắt ốc, làm thuê sống qua ngày che mắt chúng.
 
Vừa nhục vừa buồn, thương chồng nhớ con rồi lo lắng cho chị đời sống sẽ ra sao, mẹ sinh bệnh rồi mất năm tháng sau ngày bố chết. Trước khi qua đời, mẹ có chỉ chỗ chôn giấu được ít vàng cũng ngay chỗ chuồng heo. Mẹ dặn sau này gặp được em lấy lên chia nhau làm vốn sinh nhai.
 
Chị lập gia đình lấy anh Sáu là con bác Hai Sinh người cùng xóm. Chỗ chuồng heo khi trước anh chị sửa sang thành ngôi nhà nhỏ, mua mấy thước đất chung quanh để cấy chút rau, nuôi gà, anh chị làm ăn cũng đủ sống.
 
Nghe mợ nói ý cậu Vinh muốn mợ đưa các cháu đi nước ngoài cho chúng học hành, chị sẽ trở về đào số vàng bố mẹ để lại lên để mua chỗ cho mợ và các cháu đi. Bây giờ chị tính thế này. Mợ ngỏ lời mời anh chị vào Nam làm ăn buôn  bán dễ thở hơn ở ngoài Bắc. Chúng ta chung nhau thuê căn phố mở hàng cơm bình dân. Có cớ rồi, anh chị trở về Bắc bán nhà, chị sẽ lấy sổ vàng bố mẹ chôn mang vào đây.
 
Sau mấy ngày ở chơi anh chị Sáu, Hiển trở về Bắc thu xếp bán nhà. Trở lại Nam, chị mang số vàng đào lên chia làm ba phần, chị lấy một phần, một phần chị đưa cho tôi để mua chỗ mà đi, một phần chị nói giữ lại để tiếp tế dần cho anh Vinh.
 
Chị em tôi bí mật thu xếp xong, tôi vào Chợ Lớn tìm mối đóng vàng để mua giấy rồi may áo Tàu cho mẹ con tôi. Lúc đi tôi đưa ra ba cây vàng chị Hiển đã giao cho tôi ra trước mặt anh Sáu nhờ anh chị tiếp tế thăm chồng thay tôi. Đi đến nơi bình yên, tôi sẽ đưa tin và gửi quà về. Anh chị đưa chân mẹ con tôi tới khi lên xe. Chị Hiển khóc hứa sẽ làm hết các điều tôi dặn. Tôi yên lòng tin vào tấm lòng thương em của chị. Bằng cớ dù túng thiếu đến đâu chị cũng không dám tiêu đến số vàng bố mẹ trối trăn lại, cũng không nói cho chồng biết, chờ khi tìm được em mới nói.
 
                              ***

Tính chị em thương yêu nhau thắm thiết từ trong tâm. Dù ở dưới chế độ cộng sản đói rách, man trá, tham lam, người chị vẩn giữ một lòng thương em, không thay đổi. Và như thế mới biết rằng sự độc ác, điêu tàn, gian ngoa của cộng sản cũng không thể nào làm lay chuyển được bản tính tốt lành, chân thật của con người như tình gia đình yêu thương đùm bọc của chị Hiển đối với người em trong câu chuyện kể của chị Vinh.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 29.10.2022 23:06:54
 
 
 
3-     Tha Thứ


 
 
Bổn phận của người Công giáo là mỗi ngày chủ nhật phải đi tham dự thánh lể để thờ lạy Đức Chí Tôn, nên số giáo dân đi lễ trở nên đông đúc hơn vì có nhiều người Việt mới tới, có khá nhiều người muốn có chỗ ngồi thoải mái, cần phải đi sớm, ai đi trước ngồi trên không phải chen lấn, ghế nhà thờ kể theo hình móng ngựa. Ngồi hàng ghế giữa quan sát được cả hai bên tả hữu vì thế tôi thích ngồi hàng giữa với ý muốn gặp những người đồng hương mới tới Hoa Kỳ, nếu lại là bạn hữu thì ôi thôi, tâm tình tranh nhau mà thố lộ.
 
Bên phía hữu nơi kê chiếc đàn dương cầm, trước mấy hàng ghế dành riêng cho các nữ tu và ban ca vịnh do các nữ tu huấn luyện, trong số các nữ tu thường gặp trong các ngày lễ, hôm  nay lẫn vào đây là một khuôn mặt khác, nổi bật với khuôn mặt trái soan, nước da bánh mật sạm nắng, thân hình thon nhỏ ngồi bất động, chỉ có đôi mắt hiền từ trong sáng, ngước nhìn lên chăm chú để hết tinh thần trong suy tư, cách biệt với ngoại vật, nghiêm trang thánh thiện. Trong ký ức ngờ ngợ như có vẻ thân quen với người nữ tu, tôi chú tâm xem lễ xong sẽ ra trước, đừng đón ở cửa nhà thờ.
 
Sơ Tâm đã nhận ra tôi trước, rảo bước lại ôm tôi, cả hai chúng tôi nhìn nhau, hơn 30 năm rồi còn gì, xa nhau quá nửa đời người, thật là cuộc hội ngộ hi hữu, cần phải nói với nhau thật nhiều không tiện, tôi ép bằng được đón Tâm về nhà tôi, tôi không ngờ Tâm đã cải đạo và bây giờ trở nên bậc nữ tu khả kính. Tôi hỏi Tâm kể cho tôi biết về mẹ Tâm, các chị, anh và các em Tâm bây giờ sống ra sao với chế độ cộng sản tàn nhẫn ở quê hương. Sơ Tâm kể cho tôi nghe.
 
“Từ ngày mẹ Tâm khám phá ra biết cô Hoa lợi dụng tình bạn năng lui tới thăm nom, là có ý tìm dịp gặp ba Tâm để đưa ông cụ vào mê hồn trận, lung lạc làm cho ba mê say cô, không còn nghĩ đến tỉnh tào khang, đến đàn con nhỏ dại có bổn phận phải nuôi dậy. Cả hai người, ba và cô Hoa, rủ nhau bỏ nhà ra đi, đang tâm phá nát gia đình, cướp chồng, cướp cha, cướp của, để vợ và các con lâm cảnh nghèo nàn, thiếu thốn. Từ đây mẹ của Tâm phải làm ăn ngược xuôi, âm thầm mưu sinh nuôi các con ăn học, nhà ở phải đi thuê, đồ đạc bán dần, mẹ Tâm không còn vẻ là một mệnh phụ, phu nhân của một bác sĩ như xưa.
 
Một mùa đông ảm đạm, vì quá lao tâm lao lực, mắc bệnh trầm trọng, thuốc không có, nằm trên một cái giường ọp ẹp, chỉ còn da bọc xương, gương mặt đau khổ, hơi thở khò khè, biết mình sắp đến giờ tạ thế, mẹ của Tâm gọi tất cả năm người con, hai trai ba gái đứng hai bên giường, chị cả lớn nhất mới có 14 tuổi, em trai út mới lên 3, nào em tôi có biết gì đâu, nó chỉ khóc phụng phịu, nghe mấy đứa trẻ hàng xóm, nô đùa ngoài sân, nó chạy ra, mẹ tôi làm hiệu giữ nó lại, khi tôi nắm được em đưa vào bên cạnh mẹ, bà cụ nằm lấy tay nó và nói với chúng tôi:
 
-Trước khi mẹ chết, mẹ chẳng còn gì để lại cho các con, nhưng mẹ phải trối trăn, các con có thương mẹ, hãy nhớ kỹ những điều mẹ nói sau đây. Bởi vì đâu mà mẹ con ta ra nông nổi này, nghèo, thiếu thốn đã mấy năm nay, một mình hết sức xoay sở, dè sẻn, làm lụng vất vả không đủ nuôi các con ăn học, thiếu thốn từ quần áo, sạch sẽ, gia đình ta bị nhiều người khinh khi. Các con lớn còn nhớ không? Ba mẹ và các con đang sống hạnh phúc, đầy đủ, ba các con đi làm, mẹ ở nhà làm đủ bổn phận một người vợ, người mẹ, không có làm điều gì trái ý ba và các con: đối với họ hàng, lối xóm, chưa xẩy ra điều gì làm mất lòng ai.
 
Trong lúc mẹ đang sống hạnh phúc, trong những bạn học cùng trường với mẹ trước kia. Hoa là người bạn gái ở gần nhà mình nhất, chắc các con còn nhỏ, hay đến thăm chơi trò truyện với mẹ, mỗi lần đến bao giờ cũng thân  hơn nên mỗi khi đến, mẹ thường giữ cô ta ở lại chơi ăn cơm với ba mẹ, và bao giờ cũng chờ ba con đi làm về mời ăn cơm.
 
Mỗi khi đến chơi, cô ta hay đi một mình và lần nào cũng nói về gia đình cô, phàn nàn về chồng cô ta hay cờ bạc, mê đi nghe hát, xem tuồng, lại còn bồ bịch với đào hát này đến đào hát kia, làm cho cô ta thật khổ sở, lương cuối tháng đưa về không đủ tiêu, gia đình thiếu trước hụt sau, mang công mượn nợ, cô ta kêu ca thì người chồng lạm ỷ vào quyền của mình đi làm có lương phải chi tiêu, cho xứng với địa vị của mình, rồi quát mắng chửi bới, đổ tại cô ta hoang phí, không biết gì về nội trợ, chỉ biết ăn sẵn, rồi cô phàn nàn với ba mẹ: “Cứ như thế này tôi không chịu nổi, sẽ phải ly dị để thẳng cha ấy lấy ai thì lấy.”
 
 Mẹ lấy tình bạn khuyên cô ta nên nhẫn nại, chiều chuộng, khuyên chồng cô bớt cờ bạc, hàn gắn gia đình nhất là cô ta đã có ba đứa con nhỏ dại, phải chăm sóc nuôi dưỡng, và nên tự xét mình xem có điều khuyết điểm nào, hãy tự sửa mình cho hoàn hảo rồi hãy trách người ta. Từ hôm mẹ khuyên cô ta, ít thấy cô ta tới nhà mình, rồi vì công việc bổn phận, mẹ cũng quên đi, lúc nào nhớ tới cô ta, mẹ lại nói với ba, lâu nay cô Hoa ít lại đây chơi, nghe xong ba các con chỉ ừ ào cho qua.
 
Rồi một hôm, có một người bạn nói cho mẹ biết Hoa đã ly dị chồng, mà cũng không nhận con về nuôi. Thật tội nghiệp, người chồng là một công chức, sáng sớm đem con đi gửi hàng xóm, đến chiều đi làm về lại đi đón con, cảnh gà trống nuôi con thật là ái ngại. Còn Hoa bây giờ khác trước nhiều lắm, son phấn, quần áo toàn thứ đắt tiền, chỗ nào có hội họp, đình đám đều có mặt, mẹ cũng chỉ nghe qua rồi bỏ.
 
Ít lâu sau, mẹ nhân thấy ba con hay đi sớm về tối, cuối tuần lấy cớ đi chơi với người nọ người kia, hay có bệnh nhân đau nặng cần ở lại nhà thương, mẹ vẫn tin ba các con vì nghề nghiệp nên không có ý nghi ngờ. Cho đến một hôm, ba con nói với mẹ nên ký giấy bán một số ruộng ở nhà quê và ngôi nhà đang ở để lấy tiền hùn vốn mở bệnh viện tư, mà ba làm giám đốc, như vậy ba không phải làm việc tư, như vậy ba không phải làm việc dưới quyền ai, bây giờ hãy tạm thuê căn nhà nhỏ rồi ít lâu sau, có lời nhiều mình sẽ tậu ngôi nhà lớn hơn ngôi nhà này.
 
Mẹ không một chút nghi ngờ, ký giấy bán ruộng, bán nhà, tìm nhà đi thuê, buổi sáng hôm sau dọn nhà, vì ba đi làm ở nhà thương, nên chỉ có một mình mẹ ở nhà thu dọn đồ đạc. Việc đầu tiên mẹ làm là đi lấy sổ vàng và bạc ba mẹ để dành từ lâu nay, trong số đó có cả các đồ nữ trang, thì ôi thôi! Tất cả đã không cánh mà bay, mẹ chỉ còn biết chờ ba con về để hỏi, may ra ba có cất nơi khác mà không nói cho mẹ biết, thế rồi mẹ cứ ngồi chờ, cho tới khuya cũng không thấy ba các con về.
 
Mẹ sốt ruột như có sự gì không ổn xẩy ra cho mẹ, mẹ dặn người làm coi các con, thuê xe kéo tới bệnh viện, ở bệnh viện mọi người đều biết mặt mẹ nên mẹ cứ đi thẳng tới phòng ba làm việc, mẹ không gõ cửa mở cửa vào, thấy con Hoa ngồi gần ba đang to nhỏ. Bất thần mẹ xông vào nắm lấy con Hoa, miệng hét lớn làm mọi người đổ xô đến, ba gỡ tay mẹ để con Hoa chạy biến mất, rồi ba quát đuổi mẹ về. Mẹ thấy ba các con, vì mê đắm con Hoa nên không còn nghĩ gì đến tình vợ chồng, đến đàn con dại. Mẹ uất ức ngất đi, khi tỉnh dậy thấy mình nắm trong phòng hồi sinh, có mấy cô y tá và bà sơ Nguyên hết sức an ủi mẹ, mẹ không bao giờ quên ơn mấy người này mỗi khi đến.
 
Từ đấy ba các con không có trở về nhà nhìn vợ nhìn con nữa, còn con Hoa nghiễm nhiên ra vào bệnh viện chỗ ba các con làm việc, nó lại hay phách lối, mọi người đều chứng kiến cảnh bỉ ổi bất nhân đối với mẹ con mình và họ đều tỏ thái độ xem thường ba các con, chỉ còn thiếu điều tẩy chay. Có thể vì xấu hổ nên khi bị tụi VC nằm vùng móc nối, sẵn có nhiều tiền trong tay, ba đem con Hoa trốn ra khu và sau đó lại đi ra làm việc ở Hà Nội. Từ đó mẹ không còn biết nhiều tin tức của ba nữa.
 
Mẹ tự trách mình vì quá tin bạn, cứ để nó lui tới hoài và không theo sát ba các con ở bệnh viện, nên mới ra nông nỗi này, thật đúng như lời các cụ xưa thường nói:
 
Tin bợm mất bò
Tin bạn mất vợ (chồng) nằm co một mình.
 
Âu cũng là bài học để các con nhớ, không nên quá tin ai, phải tìm hiểu mọi việc xẩy ra. Mẹ muốn nói nguyên nhân của việc gia đình mình bị tan nát để các con hiểu và lấy đó làm gương sau này. Nguyện vọng sau cùng của mẹ trước khi chết là các con phải trả thù cho mẹ, đây là mối thù không đội trời chung, mẹ đã không làm được và nay đã kiệt sức sắp lìa trần, các con hãy thay mẹ trả thù, làm cho con Hoa đau đớn ê chề, hay làm cho nó chết thì mẹ mới hả lòng.”
 
-Mẹ tôi nói nhiều, quá mệt, ngất đi và ngày hôm sau mẹ tôi đã vĩnh biệt ra đi – rồi Sơ Tâm nói tiếp: -Một bác sĩ phu nhân đang sống trong hạnh phúc, vật chất đầy đủ, vì quá tin để bạn cướp mất tình yêu, mất chồng, mất hết tài sản đến nỗi mẹ con lâm vào cảnh sống nghèo khổ, nheo nhóc, nhục nhã thì sự thù hận trở nên quá lớn, tôi không dám trách mẹ tôi đã trối trăn cho các con trả thù hộ me, vì mẹ tôi khổ sở trông thấy trước cảnh chị em chúng tôi đều còn nhỏ tuổi trở nên côi cút, tan đàn sẻ nghé mà oán hận đối với người đã gây ra cảnh này cho chúng tôi.
 
Sau khi mẹ chết, họ hàng hai bên và bà con lối xóm đến thăm hỏi, lo việc  chôn cất  bằng việc bán tất cả những gì có thể bán được để trang trải mọi chi phí. Rồi họ hàng bàn nhau chia chị em chúng tôi ra, để mỗi người nhận lãnh một cháu về nuôi và họ chỉ nhận những cháu có thể giúp được việc nhà, trật ra còn hai em nhỏ tuổi nhất chẳng ai chịu nhận cả vì họ sợ rằng nuôi tốn cơm mà chẳng giúp được việc gì.
 
 Trong lúc ngặt nghèo như vậy, chúng tôi chỉ biết ôm nhau mà khóc, thật Thiên Chúa giúp chúng tôi, đúng lúc  này Sơ Nguyên đến cùng với một sơ khác nữa, trông thấy cảnh họ hàng tranh dành chia chúng tôi ra để nhận về nhà giúp việc, sơ Nguyên nói:
 
-Tôi đến hơi muộn, tôi xin thưa với bà con cô bác trong hai họ là khi bà bác sĩ còn sống, tôi đã hứa với bà, nhận đón tất cả các cháu mồ côi về để nhà dòng chúng tôi lo nuôi nấng và dậy dỗ, cho các cháu ăn học đến thành tài. Vậy để giữ được lời hứa ấy, chúng tôi xin họ hàng đồng ý để chúng tôi lãnh các cháu mồ côi về.
 
Tất cả họ hàng đều đồng ý vì đỡ được gánh nặng nuôi cháu mồ côi, và kết quả là ba chị em gái về với sơ Nguyên ở dòng nữ, còn hai em trai về sống trong dòng các sư huynh.
 
Sơ Nguyên đáng kính đã tới đúng lúc để cứu chúng tôi, ơn ấy chị em chúng tôi muôn đời ghi nhớ. Sơ là một nữ tu tự nguyện đến giúp việc ở bệnh viện nơi ba chúng tôi làm việc trước đây, bà làm việc không biết mệt, luôn luôn có mặt an ủi giúp đỡ các bệnh nhân hấp hối, trước hết vì lòng tha nhân, sau nữa cũng là dịp tốt để truyền giáo. Bà đã chứng kiến cảnh mẹ tôi bắt ghen, bà đã an ủi mẹ tôi khi biết rõ gia cảnh  chúng tôi bị khánh kiệt, nhục nhã, bà đã để ý giúp đỡ về vật chất cũng như về tinh thần, chăm sóc mẹ tôi khi bị lâm bệnh nặng cũng như khi hấp hôi, và sau hết nhận chúng tôi về nuôi và cho ăn học đàng hoàng.
 
Tất cả chị, anh em chúng tôi đã được hai nhà dòng nam nữ, chia nhau nuôi ăn ở, học hành cũng y như các học sinh nội trú phải trả tiền, không có gì phân biệt hơn nữa nhà dòng lại còn may sắm cho chúng tôi dư quần áo, vật dụng cho đời sống nội trú, nhiều khi lại còn hơn các bạn bè chúng tôi nữa. Khi chúng tôi đã khôn lớn, hiểu biết, chúng tôi được tự do chọn lựa tôn giáo để theo, và tất cả chúng tôi đều tình nguyện tòng giáo, và vì lòng cảm phục các sơ và ưa thích đời sống tu trì, tôi và em gái tôi đã trở thành nữ tu, hai em trai, một là linh mục, một là sư huynh, duy chỉ có chị cả chúng tôi lập gia đình được ba cháu đã lớn.
 
 Năm 1976, sau khi miền Nam bị xâm chiếm, và thông thương giữa hai miền được thống nhất, chị cả đưa tin cho chúng tôi hay là có người quen cho chị địa chỉ của ba chúng tôi ở Hà Nội. Chị cả nhắc chúng tôi lời trối trăn của mẹ trước khi chết là phải trả thù, và hỏi chúng tôi còn nhớ hay không? Lòng chị cả vẫn còn mang nặng mối hận thù đối với cô Hoa, người đã làm cho gia đình chúng tôi tan nát, mẹ chúng tôi chết trong cảnh nhục nhằn đau khổ, và chị quyết tâm thi hành lời mẹ dặn, và không thể tha thứ cô Hoa được.
 
Chị em chúng tôi lâm vào cảnh vô cùng khó xử, lời mẹ dặn trả thù vẩn còn văng vẳng bên tai trong suốt 20 năm qua, nhưng nay chúng tôi, hai chị em là nữ tu, hai em trai là linh mục và sư huynh Công giáo, làm sao có thể trả thù cho mẹ được đây! Lời Thiên Chúa dậy trong tám mối phúc thật: “Phúc cho kẻ hòa thuận vì sẽ được gọi là con Thiên Chúa”, mỗi ngày trong kinh nguyện vẫn đọc: “Tha kẻ dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta”, Theo Tân Ước, Chúa dậy: “Các người đã nghe lời dạy răn: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Nhưng ta bảo các người: đừng chống cự với người ác. Trái lại, hễ ai tát má bên phải ngươi, ngươi hãy đưa má kia cho họ nữa.” (Mat-Thêu 5, 25-42).
 
 Nên chúng tôi chỉ còn biết khuyên và an ủi chị cả, xin chị hãy quên đi và hãy tha thứ. Lấy lương tâm mà xét, sự việc đã qua hơn 20 năm, mẹ chúng ta đã chết, các em đã được nuôi ăn học, tất cả đều trưởng thành, thấm nhuần tinh  thần bác ái của đạo Công giáo, nên chúng em chỉ biết cám ơn Thượng Đế đã thương chúng ta, và xin chị cả hãy quên đi và tha thứ cho cô Hoa.
 
Sau đó, các chị em cử tôi đi Hà Nội thăm ba chúng tôi; được phép nhà dòng, xin đủ giấy tờ, tôi đã tới Hà Nội tìm được địa chỉ thăm ba tôi. Tôi rất xúc động khi thấy ba tôi, người già trước tuổi, yếu đau, vấn an rồi tôi nhìn nơi ba tôi ở, tôi không thể ngờ trong một căn phòng trệt chật hẹp, trước kia là nhà để xe của một Pháp kiều, được chính phủ “ưu ái” chỉ định cho ở, sau khi dâng cúng cho đảng  một số tiền lớn là cả gia tài của ba mẹ tôi trước đây, mà ba tôi đã lấy đi bằng hết, nghe lời dụ dỗ của cô Hoa để làm vốn và tiêu dùng.
 
Chính phủ gọi là đãi ngộ ba tôi có bằng chuyên môn y khoa bác sĩ và dâng cúng một số tiền mới được căn phòng nhỏ bằng phòng chứa đồ phế thải của nhà ba tôi trước kia, đồ đạc độc nhất là một cái phản ọp ẹp, hai cái chõng tre thất kế cao hơn mặt đất chừng một gang tay. Phản là nơi ngủ của ba tôi và cô Hoa, còn hai chõng tre cho hai em con cô Hoa nằm, một cái bàn gỗ tạp, bốn ghế cũ là nơi để tiếp khách và cũng là bàn viết của ba và bàn học của hai em. Chừa một góc phòng làm bếp, khi thổi nấu khói tỏa đầy nhà, mọi người phải ra ngoài hè, trừ người nấu bếp.
 
Sau khi tôi chào, cô Hoa đưa hai em còn nhỏ lại giới thiệu nhận chị em, cô nhìn tôi với bộ mặt hối hận cô hỏi tôi:
 
-Cháu còn giận cô không?
 
Tự nhiên, tôi nhớ lời mẹ tôi và nét mặt đau khổ khi hấp hối, lòng tôi bừng bừng một nỗi xót xa, cay đắng khó trả lời quá, tay tôi vột nắm lấy mẫu ảnh. Chuộc tội, mà tôi, một nữ tu, luôn luôn đeo trong người không bao giờ rời, tôi phải nuốt mối uất hận, nhìn nét mặt đau khổ của ba, và sau một phút, tôi trả lời:
 
-Cháu không còn giận cô nữa, vì ba và cô đã chịu hình phạt rồi, nếu có biết hối lỗi. Mẹ cháu đã chết trong đau khổ, nhục nhằn, nghèo khó, bù lại tất cả các cháu đã ăn học thành công, có một đời sống đầy đủ. Bây giờ, cháu lại thương ba, thương cô, các em phải sống thiếu thốn, cả về tinh thần lẫn vật chất.
 
Sau câu nói của tôi, ba tôi ứa nước mắt nhìn tôi tỏ vẻ biết ơn. Cô Hoa, nước mắt vòng quanh, nắm lấy tay tôi mà nói:
 
-Cô cám ơn cháu, cám ơn lòng từ tâm của cháu, cô hối hận, xấu hổ với các cháu, nhờ cháu chuyển lời xin lỗi đến các chị em cháu. Xin hãy tha thứ cho cô, thật là quả báo, cô đã bị trừng phạt ngay từ ngày bỏ nhà ra Hà Nội,  và vẫn còn đang bị trừng phạt, hiện nay ba và cô phải sống thiếu thốn, nghèo nàn, bệnh hoạn, tủi nhục, đấy là cái giá cô phải trả vì lầm lỗi của cô.
 
Từ giã ba và tất cả nhà, tôi đã về Huế để kịp ngày nghỉ đã hết. Tôi gặp lại chị và các em tôi, nói rõ hiện tình ba đau ốm, mẹ con cô Hoa sống trong thiếu thốn. Cô Hoa gửi lời xin lỗi tất cả, các em tôi tỏ lòng thương hại, tha thứ, duy chị cả tôi vẫn ấm ức, nói những lời mạt sát cô Hoa. Tất cả chúng tôi yên ủi chị và xin chị nhớ lời dạy của chúa mà mẹ bề trên Nguyên thường nhắc đi nhắc lại là hãy tha thứ:
 
“Hãy tha kẻ dể ta, hãy nhịn kẻ làm mất lòng ta”
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 04.11.2022 00:23:19

 


  4-     Trở Về

 
 
 
Thoái khỏi cuộc sống chung ở chung cư, kiếm được căn phòng nhà lớn, nhỏ, cũng đủ tiện nghi theo tiêu chuẩn bản xứ, chỉ cần có mảnh vườn để trồng ít rau thơm, những thứ rau thường hay ăn như ở nhà hoặc các thứ cây trái như ý thích, đấy cũng là ý muốn của nhiều người di tản. Sống xa quê hương nhớ nhung đủ thứ lại thèm mỗi buổi chiều khi từ tiệm, hay công sở, hãng xưởng trở về nhà muốn trút bớt mệt nhọc, khó chịu vì những toan tính so kè, kèn cựa, ganh tị, hách dịch, vu oan nói xấu phát xuất từ xếp, đồng nghiệp, khách hàng, ta tạm quên mọi phiền toái đó, ra ngắm khu vườn nhỏ của mình do tay mình xới đất, trồng cây, vun bón.
 
Nhìn những luống hoa, luống rau xanh mát làm cho tâm hồn ta hòa đồng với thiên nhiên, với rau trái. Ta cảm thấy thích thú, thư thái và yêu đời hơn. Thỉnh thoảng mang những rau trái  biếu những người bạn còn ở chung cư không có đất trồng. Nhìn nét mặt rạng rỡ của bạn ta cũng thấy vui và thoải mái trong lòng biết bao!
 
Tôi đưa ý tưởng trên đây nói với bà Hinh, người bạn chúng tôi quen nhân dịp cuối tuần đi chợ Việt Nam mua thực phẩm. Bà Hinh là người đàn bà trẻ đẹp, thuần hậu, nghiêm nghị. Nụ cười của bà rất hiếm trên môi, lúc nào cũng phảng phất nỗi buồn ẩn trong đôi mắt xa xăm. Chúng tôi trở nên thân mật, hay tới thăm nhau vì mỗi nhà đều có vườn hay góp ý chỗ nào nên trồng hoa, chỗ nào trồng rau, trồng cây cho có mỹ thuật, rút kinh nghiệm bổ cứu cho nhau về trồng tỉa. Bà Hinh thường nắm tay tôi cám ơn về sáng kiến giúp bà làm vườn mỗi khi rảnh  rỗi để bà không còn thì giờ buồn về những việc đã qua hay hiện tại. Lần gặp gỡ hôm nay, tôi thoáng thấy nét buồn trên mặt bà Hinh, tôi an ủi:
 
-Chị có công việc làm tốt, các con ngoan hiền đi học, đi làm, yêu mến và vâng lời chiều mẹ. Tôi ít thấy gia đình nào được hạnh phúc như chị, còn việc tình cảm riêng tư tôi không dám tò mò.
 
Bà Hinh đáp:
 
-Tôi ít giao thiệp với ai. Đi làm về là săn sóc con cái, dọn dẹp nhà cửa. Hạnh phúc của tôi đặt hết vào các con tôi. Từ ngày tới đây bà là người bạn độc nhất. Để tôi kể cho bà nghe về chuyện đời tôi.
 
Và bằng một giọng nhỏ nhẹ, bà Hinh kể cho tôi nghe:
 
Chúng tôi lấy nhau do cha mẹ đôi bên thoả thuận sau khi kén chọn rồi nói cho chúng tôi biết, không có sự ép buộc, nhầm lẫn. Chúng tôi sống với nhau rất hạnh phúc. Chúng tôi theo ngành hành chánh, tôi buôn bán thêm lợi tức. Gia đình cũng sung túc. Khi sanh tới cháu thứ năm tôi bị xuất huyết hơi nhiều nên phải tỉnh dưỡng một thời gian. Cũng là lúc tôi nghe nhiều người nói về chồng tôi bắt bồ với một nữ đồng nghiệp. Thoạt đầu tôi chưa tin hẳn những sau nhiều ngày đi làm về muộn, hay vắng mặt đôi ba lần, tôi cật vấn chồng tôi thì anh ấy nại cớ đi vắng vì công việc vụ, việc nhiều phải ở  lại sở làm thêm hoặc lúc thì bạn bè rủ đi chơi v.v….
 
Không khí trong nhà ngày thêm ngột ngạt, giữa hai vợ chồng gặp nhau chỉ nói móc họng nhau. Mọi khi bữa cơm chiều vui vẻ, bây giờ mỗi người chỉ muốn ăn cho mau đứng lên. Các con tôi vừa ăn vùa lấm lét nhìn bố, nhìn mẹ. Chúng không dám cười đùa như mọi khi. Tôi không còn muốn  săn sóc quần áo cho chồng như mọi khi. Chỉ khổ các con tôi, mỗi khi chàng cần thứ gì không có sẵn là các con tôi bị rầy la mắng chửi, có khi anh ấy còn tiện tay đánh chúng.
 
Mấy bà bạn còn bầy cho tôi nên phấn son, sửa soạn đẹp để kéo lại tình yêu và đừng để thua kém người bồ của nhà tôi. Họ bảo người ta ăn diện sang trọng làm đàn ông dễ mê say. Tôi vốn tính căn cơ, ít son phấn và cũng không thích ăn mặc lòa loẹt nhưng bị các bạn thúc bách tôi cũng thử thay đổi xem sao. Nhưng kết quả ngược hẳn lại!
 
 Chồng tôi cho là tôi đổi tính thích ăn chơi, chưng diện và đâm nghi ngờ ghen tuông là tôi có bồ nên lại càng có cớ bỏ tôi biền biệt, lương tháng cũng không đưa về. Người ta xúi tôi đánh ghen, tôi nghĩ làm vậy xấu người, xấu mình có ích gì đâu. Chồng mình mới là đích, mới là kẻ phản bội, mới là thủ phạm. Sau tôi còn nghe người ta bảo cô này tỉ tê với chồng tôi là tôi thay lòng đổi dạng, cô xúi chồng tôi đuổi tôi ra khỏi nhà.
 
Sự chịu đựng có hạn, tôi thương các con tôi có bố cũng như không nên tôi chờ lúc tan sở gặp chàng nhắc chàng con đau hãy về nhà thăm con và để nói chuyện dứt khoát. Tôi hiểu khi người ta đổi lòng đặt tình yêu chỗ khác rất khó kéo lại. Thực tâm tôi không muốn bỏ chồng nhưng liệu thấy có níu kéo cũng không được. Tôi cũng tự ái không khóc lóc, than vãn  hay xin xỏ điều gì, tôi chỉ hỏi anh ấy có muốn ở lại với gia đình, vợ con hay muốn ly tan. Tôi chưa nói hết câu, anh ta đã hùng hổ bảo:  “Muốn chơi nước thượng hả? Hãy tự xét mình có xứng đáng là người vợ hiền, mẹ thảo hay không? Hay chỉ biết ăn diện, đua đòi, đàn đúm, bỏ con…”
 
 Anh ta chưa nói hết câu tôi đã điên lên phản ứng lại ngay. Tôi quát lại: “Đừng có thách, đi  tìm con điếm kia đi!” Thế là cả hai xô vào nhau… Bây giờ nhớ lại lúc đó cả tôi và chồng tôi như người điên. Các con tôi khóc om xòm, hàng xóm kéo tới khuyên  can hai bên. Tôi gọi các con tôi lại giải thích cho chúng hiểu là chúng tôi không thể chung  sống với nhau được nữa, các con muốn theo ba hay theo má? Ngày mai tôi sẽ trả nhà lại cho chủ nhà. Còn chồng tôi, lời cuối cùng anh ta nói với tôi là: “Cô muốn đi theo đứa nào thì đi, để các con lại đây cho tôi!”
 
Hôm sau hắn đi làm việc như thường lệ. Còn tôi xúc tiến các việc xin giấy chuyển trường cho các con, trả nhà thu xếp công việc trong ba hôm thì xong. Trong mấy hôm ấy tuy không nói ra nhưng tôi mong chồng tôi trở về nói vài câu hòa giải để được hàn gắn. Nhưng cho đến lúc mẹ con tôi lên xe, tôi vẫn đảo mắt nhìn xem có thấy bóng chồng tôi không.

Gần 20 năm vợ chồng, con cái không gặp nhau, không thư từ, tin tức. Một người quen cho tôi biết sau khi mẹ con tôi bỏ đi, chồng tôi ở với người đàn bà đó, cô này đã khống chế anh ta, cô ta còn dèm pha đặt điều tôi đi buôn bán rồi lang chạ với nhiều người. Nhiều lần anh định về thăm con cũng bị cô ta tìm cách ngăn cản.
 
Phần tôi lúc đầu vì quá giận dữ và cũng tự ái nên không đòi hỏi chồng chu cấp nuôi con. Thấy tôi gặp cảnh không may, mấy người quen mách mối, tôi buôn đi bán lại những hàng viện trợ Mỹ. Công việc này cũng hợp với khả năng, tôi kiếm được nhiều tiền và bận bịu với công việc nên cũng ít nghĩ tới người chồng phản bội.
 
Gần ngày 30 tháng 4, 75  tôi thấy người ta di tản, tôi cuống cuồng nhìn đàn con nhỏ rồi sẽ ra sao. Đi hay ở, biết bàn với ai? Tôi nhớ tới người chồng phản bội và ước gì gặp lại để cùng bàn tính và tôi sẽ tha thứ hết mọi lỗi lầm của anh. Nhưng tôi cũng chẳng gặp lại nên đành liều dẫn đàn con nhỏ xuống tàu theo mọi người rồi đến đâu hay đến đó.
 
Tới Mỹ tôi lo đi học, đi làm, ổn định được đời sống, ít phải lo lắng như hồi còn ở nhà. Khổ nỗi ngoài giờ đi làm về thấy mình đơn độc, không họ hàng, người quen. Nhiều giấc ngủ tôi triền miên bị ám ảnh vì quá khứ. Những giấc mơ cứ dẫn dắt về những ngày chúng tôi bắt đầu chung sống,  những lúc vui mừng khi chồng tôi được lên lương, anh mua đồ chơi cho các con, mua vải đẹp tặng tôi. Chúng tôi bàn định chuyện tương lai, những dự định đi chơi, con cái… Tôi còn mơ cả những lúc chúng tôi cãi nhau, đập phá đồ đạc. Thức dậy tôi rất khổ sở.
 
Mới đây tôi nhận được thư của người nhà gửi từ Việt Nam kể có gặp chồng tôi và kể tình cảnh anh ấy. Họ còn cho địa chỉ anh ta. Sau 30 tháng 4 chồng tôi không còn việc làm, cô vợ bỏ anh. Anh ta bị đi học tập một thời gian đến khi trở về không  nhà không cửa, không vợ con. Anh ta phải ở nhờ ngoài hàng ba nhà bếp một người bà con ở Phú Nhuận. Và tôi đã nghĩ đến việc trở về tìm anh ta, tôi rất phân vân sợ mất việc. Tôi cũng chưa biết sẽ giải quyết thế nào.
 
                                 ***

Đúng một tháng sau bà Hinh trở lại. Và câu chuyện bà kể như sau:
 
-Tôi tìm đến khu Phú Nhuận theo địa chỉ trong thư. Tôi gặp chủ nhà, họ nói gần tối anh ấy mới về. Chúng tôi gặp nhau bỡ ngỡ như hai kẻ xa lạ. Chúng tôi không nhắc gì đến chuyện ngày xưa, chỉ nhắc đến con cái, công việc học hành của chúng. Tôi đưa xấp hình các con cho nhà tôi xem. Anh ấy rất cảm động. Anh rất ít nói, tôi hỏi câu nào anh ta trả lời câu đó.
 
Tôi đưa quà anh cũng từ chối, rủ anh đi chơi anh cũng không. Anh chỉ trả lời vắn tắt rằng anh rất xấu hổ vì những tội lỗi đã qua, anh không còn xứng đáng là người chồng, người cha thiếu bổn phận không giúp đỡ vợ con, không nuôi nấng dạy dỗ các con chỉ vì mê say nghe lời xúi dục không phân biệt phải trái. Anh chỉ còn biết ăn năn tội, không muốn nhận một ân huệ nào của vợ con. Anh rất mừng khi thấy vợ con sung sướng do tôi lo lắng, quán xuyến. Anh xin lỗi tôi về những nghi ngờ xưa kia.
 
Tôi cũng xin chồng tôi hãy quên quá khứ, chuyện cũ đừng nhắc lại chỉ thêm buồn. Phần tôi cũng nhận lỗi nóng nẩy, không biết nhẫn nại chịu đựng nhau để đi đến đổ vỡ.
 
Trong hai tuần lễ đầu tôi nói thế nào anh cũng không chịu nhận một chút quà hay sự giúp đỡ của tôi dù tôi biết anh thiếu thốn đủ thứ. Gia tài chỉ có mỗi chiếc xe đạp cũ, mỗi buổi sáng đeo trên xe đủ đồ nghề tới Lăng Cha Cả gần Tân Sơn Nhất chữa bất cứ cái gì người ta đem đến như nồi bẹp, ấm sứt quai, chậu thủng… Tôi nhẫn nại hòa đồng xuống mức sống của anh để anh khỏi mặc cảm. Tôi thật khổ tâm đến mức chán nản về sự cố chấp của anh.
 
Rồi một buổi tối tôi kể lại những giấc mơ từ ngày xa nhau tôi cứ miên man bị ám ảnh như một cuốn phim quay lại cả cuộc đời chúng tôi đã chung sống trước kia. Khi tôi ngừng nói thì anh tươi cười nhìn tôi và cũng kể lại là anh cũng có những giấc mơ như vậy. Và bà biết sao không, anh nói với tôi:
 
-Thiên Chúa đã kếp hợp chúng ta, không có gì chia rẽ được chúng ta nữa.
 
Anh đã nhận những đề nghị của tôi mua  một căn nhà nhỏ trước khi tôi về. Tôi sẽ thu xếp để các con tôi có dịp về thăm ba chúng. Tôi trở về vào đúng ngày lễ Valentine.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 04.11.2022 22:31:51
 


 5-    Lợi Dụng
 
 
 
Đầu tháng vào ngày chủ nhật chúng tôi hay đi shopping sắm sửa quần áo hay mua bán vật dụng cần phải có, luôn thể đưa các cháu nhỏ đi chơi và cũng là dịp để gặp  thêm người quen. Những  người mới tới thường thích đi shopping sắm đồ và xem các cửa hàng lạ mắt quây quần trong một khu rộng lớn.
 
Đang mải la cà khu bán quần áo, tôi gặp một ông chống nạng cùng đi với một người đàn ông còn trẻ cũng đang lựa quần áo như tôi. Tuy không quen nhau nhưng biết là người Việt Nam, chúng tôi đều mỉm cười chào nhau. Khi thấy vết sẹo ở cằm ông ta, tôi chợt nhớ như đã gặp ông chống nạng này ở đâu.
 
Vào thời kinh tế kiệm ước mùa thu của ông tổng Ngọc, nhà cửa, thực phẩm leo thang, giới thương phế binh, quả phụ tử sĩ phải sống theo đồng lương cố định không đủ, nhiều người bị đuổi nhà. Không chỗ trú ẩn, không nơi buôn bán, nghĩ đến thân phận hẩm hiu đã hy sinh  một phần thân thể cho tổ quốc, một số bất mãn rủ nhau đi “cắm dùi”. Họ không phạm vào của tư nhân nhưng họ dựng lều các vỉa hè, đất công làm mất vẻ tráng lệ của thành phố, và như thế họ mới buộc được chính phủ đãi ngộ, ưu tư đến họ được.
 
Đứng trước cửa nhà, tôi đang theo dõi mấy người thương binh dựng quán dựa vào bức tường phía bên kia đường thì có một ông chống nạng vai đeo túi vải tách rời sau khi nói truyện với mấy người bạn thương binh. Ông băng qua đường đứng lại trước cửa nhà tôi nói muốn xin một ly nước lạnh. Tôi mời ông vào nhà láy nước uống. Trông vẻ mặt bơ phờ, tôi hỏi ông đi đâu. Ngần ngừ một lúc ông ta nói: “Tôi vừa ở nhà thương ra, định về quê ở Bến Tre, tiền xe không đủ bà có thể giúp tôi chút ít?”
 
Tôi có hỏi thăm gia đình nhưng ông ta từ chối khéo: “Tôi không còn nhớ và cũng không muốn nhớ lại những gì  đã qua!” Sau khi nhận số tiền nhỏ, ông cảm ơn và hứa khi nào có dịp tới đây để cám ơn bà một lần nữa. Tôi cười nói xin ông hãy quên đi.
 
Cho đến bây giờ gần 20 năm tình cờ gặp lại, ông chống nạng nhận ra tôi, vui vẻ, vồn vã và mời tôi lại hàng nước gần đây và kể chuyện.
 
“Tôi vẫn nhớ ơn không quên bà đã giúp tôi có tiền xe về quê. Hôm nay được gặp lại bà tôi rất lấy làm sung sướng. Bây giờ bình tĩnh rồi để tôi kể câu truyện ngày xưa bà muốn biết.
 
Học xong trường làng, ba má  cho tôi lên Sài gòn ở nhà cô tôi để đi học. Ba má tôi thỉnh thoảng mới lên thăm tôi, còn tôi không dám về quê vì vùng tôi ở gần như xôi đậu. Ban đêm cộng sản   làm chủ, ban ngày của quốc gia. Năm tôi thi trượt tú tài hai, tôi nhập ngũ đóng đồn gần Bảo Lộc. Lúc rảnh rỗi chúng tôi lấy xe rủ nhau đi xuống Đình Quán, hay ngược tới Đà Lạt. Gặp quán là chúng tôi xà vào uống nước, quán nào có cô gái xinh xinh đều là mục tiêu của chúng tôi.
 
Phần nhiều quán nào cũng có các cô ngồi thu tiền, chúng tôi tuổi trẻ chẳng suy nghĩ gì sâu xa nên gặp cô nào chúng tôi cũng tán. Riêng tôi nhờ có bông mai trên áo, tôi được một cô thu ngân tên là Lý tỏ vẻ săn sóc, chiêu đãi hơn những người khác. Lâu dần tôi cũng thấy thương cô ta thật tình. Ông bà già cô ta cũng săn đón quý hóa tôi; nhân một dịp tôi ở lại họ đãi tôi một bữa cơm thịnh soạn và ngỏ ý muốn mời ba má tôi lên chơi lo thu xếp cho tôi và Lý. Thực là dịp may, tôi vội viết thơ mời ba má tôi lên xem mặt con dâu tương lai và cưới vợ cho tôi.
 
Ba má tôi tin tưởng ở tôi, lại được ông bà xui khéo chiều, đón rước nên ba má tôi cũng bằng lòng.  Đàng gái lấy cớ xa xôi cho làm đám cưới ngay,  tốn bao nhiêu ba má tôi bỏ tiền để nhờ  đàng gái lo liệu. Vả lại  ở quê tôi không được an ninh nên vợ chồng tôi không cần phải về quê chào họ hàng. Vợ tôi vẫn được ở nhà coi quán bán hàng giải khát. Bên cạnh là cửa hàng bán gạo của bố mẹ vợ. Thấy cửa hàng người ra vô mua gạo vui vẻ, ba má tôi nghe lời ông già vợ tôi rủ hùn vốn để mở lớn hơn. Lại có lợi để cho vợ chồng chúng tôi trông nom luôn thể.
 
Ba má tôi thực thà dễ tin ngay, về nhà bán ruộng thu xếp được bao nhiêu đưa cho xui gia buôn bán.  Mỗi lần ba má  đi thăm chúng tôi, thấy những xe chở gạo đầy ắp ông bà rất mừng. Nghe xui gia nói buôn bán muốn khuếch trương vốn bao nhiêu cũng thiếu, ba má tôi lại về gom góp đưa thêm vốn.  Đến khi không còn vốn góp thêm, ba má tôi ngỏ ý với xui gia lấy tiền lời ra để tiêu. Ông bà xui bèn hoãn binh rằng hàng còn bán chịu chưa thu được tiền, bán đến đâu phải đặt trước mua hàng, ở Sàigòn họ mới chịu cho hàng lên.
 
Còn tôi từ ngày lấy vợ, trừ ngày đi hành quân vắng, ngày nào có mặt ở văn phòng là có việc gia đình nhà vợ can thiệp. Nói là có ít hàng ở Sàigòn lên xin bỏ qua. Tôi chẳng biết hàng gì những tính cả nể nhắm mắt theo lệnh bố vợ xin tha! Nếu không thuộc  thẩm quyền tôi, bố vợ tôi lại lôi tôi đi lên cấp trên xin, kèm theo quà cáp. Tôi rất khổ tâm, phản đối bố mẹ vợ đôi lời là có màn vợ tôi chu chéo khóc lóc. Tôi lại mềm lòng muối mặt làm theo ý bố vợ. Cũng vì vậy tôi bị tiếng xấu, bị chỉ trích làm giầu cho bố vợ một cách phi pháp. Cấp trên dù thân cũng đành phải đổi tôi đi hành quân trên Ban Mê Thuột.
 
Tôi muốn đưa vợ con đi theo nhưng vợ tôi không chịu, lấy cớ không bỏ được cửa hàng. Con lại đẻ thiếu tháng, thằng bé hay đau yếu phải ở gần ông bà ngoại trông nom giúp đỡ. Tôi nói xa con tôi nhớ lắm mà con khỏe mạnh có thấy đau yếu gì đâu. Vợ tôi cũng vẫn không đi. Tôi cũng đành chịu vì biết tính vợ tôi lỳ lắm.
 
Tôi ở trên Ban Mê Thuột được ít lâu, bất thần được dịp về Sài gòn vì quân vụ. Trên đường đi, tôi ghé qua nhà thăm vợ con. Không kịp báo trước, tôi về thẳng cửa hàng vì vợ tôi vẫn thường ở đây. Cửa hàng đóng, tôi sang nhà ông bà ngoại thấy một người đàn ông lạ mặt đang bế con tôi. Chưa kịp có phản ứng gì, bà ngoại nó ở dưới nhà tất tưởi chạy lên bế vội thằng bé, miệng hỏi thăm tôi mới về. Bà giới thiệu người đàn ông lạ mặt, nói là người cháu họ ở xa đến chơi thăm ông bà. Tôi hỏi vợ tôi đi đâu thì bà trả lời tới nhà người bạn mua hàng. Bà nói huyên thuyên những chuyện chẳng ăn nhập gì, rồi hối tôi tắm rửa thay quần áo nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Tôi nóng lòng muốn gặp vợ, tự nhiên tôi có cảm tưởng có việc gì người ta không muốn cho tôi biết. Chơi với con một lúc, đến giờ phải đi, tôi không kịp gặp mặt vợ, vội vàng hôn con rồi chào ông bà nhạc ra xe.
 
Chuyến đi này tôi rất ân hận vì không được gặp mặt vợ. Về đến nhiệm sợ, tôi nhận được thư ba má tôi phàn nàn. Nói tin tưởng ở xui gia và vợ chồng con nên bao nhiêu vốn tom góp hùn vào để con dâu trông coi, hơn hai năm nay không chia được đồng lời nào, bây giờ muốn rút vốn ra ông bà xui nay  khất mai hoãn, ý không muốn trả, còn bảo cũng như ba má chia phần cho vợ chồng con. Bây giờ quê không thể ở được, ba má tính dọn lên Sài Gòn cho các em con đi học. Ba má không còn tiền, mọi sự trông vào con nói ông bà xui trả vốn lại cho ba má..
 
 Xem thư ba má tôi vô cùng đau khổ, thương ba má tôi vất vả. Tôi phải năn nỉ xin phép đặc biệt được hai ngày về thăm vợ con. Tôi nói với ông bà nhạc trả lại vốn cho ba má tôi phải dọn về Sài Gòn ở.  Họ cũng  nói một giọng điệu như đã trả lời  ba má tôi là buôn bán thua lỗ, bị Việt Cộng cướp và vợ con tôi đau yếu  luôn phải lấy ra ăn xài. Tôi tức ứ lên đến cổ, không còn biết phải làm sao vì ba má tôi đưa tiền, tin nhau nên không có viết giấy tờ hay có ai làm chứng. Còn vợ tôi đổi thái độ luôn. Từ lúc gặp tôi cho tới lúc tôi ra xe, vợ tôi tỏ ra lạnh nhạt, ít nói cũng chẳng buồn hỏi thăm tôi. Bố mẹ vợ tôi nói vuốt, bây giờ chưa sẵn tiền, rồi ra sẽ thu xếp ít nhiều gửi trả ba má tôi sau. Đây là lần cuối cùng tôi gặp lại bố mẹ vợ.
 
Tình hình trở nên sôi động, tôi phải đi hành quân liên miên. Trong một cuộc hành quân, tôi bị  thương, lúc mở mắt tỉnh dậy mới biết mình đang ở nhà thương Cộng Hòa và bị mất một chân. Tôi gặp được ba má và các em tôi đầy đủ. Má tôi nói có đưa tin cho vợ con tôi biết. Tôi thưa ba má xin tha tội cho tôi vì khờ dại quá tin để người ta lợi dụng làm thiệt lây cho ba má mà mất tiền. Tôi xin hãy quên đi tất cả vì lần về thăm vợ con, gặp người đàn ông lạ mặt bế con và thái độ của vợ tôi, tôi đã đặt dấu hỏi và điều tra.
 
Tôi được biết trước khi lấy tôi Lý đã có bầu với một người có vợ. Họ cố ý chài tôi lấy Lý để làm bức bình phong. Tôi quá tin không chịu xem xét kỹ lưỡng nên mới vấp phải tay chuyên lợi dụng và làm tay sai cho Việt Cộng. Tôi không bị thủ tiêu là may. Bây giờ họ giầu có rồi nên cần cắt đứt với một con rể tàn tật.
 
Lúc lành bệnh ra khỏi bệnh viện, tôi gặp được bà giúp cho tiền xe về quê hôm đó. Ba má tôi đón tôi với lòng thương cảm không bao giờ trách tôi nửa lời vì tôi mà mất sạch vốn liếng. Chúng tôi  cả gia đình sau đó về Long An sống đắp đỗi qua ngày. Tới 30 tháng 4, 75 chúng tôi ra đi tìm tự do, tìm đất sống. Bây giờ tôi và các em tôi đều có nghề chuyên môn. Còn gia đình nhà vợ giầu có cũng chẳng giữ được bao lâu khi cộng sản tràn vào miền Nam.
 
                               
                              ***
 
Lợi dụng phát xuất từ những người có lòng tham lam. Người ta lợi dụng quyền uy ban phát chia chác chức tước cho những người bất tài tham nhũng để thu lợi. Người ta lợi dụng những người hiền lành thật thà dễ tin để làm điều bất chính mờ ám. Xưa và nay, dù  với hạng người nào, giữ chữ tín cũng là điều quan trọng. Nhiều người chỉ biết lợi dụng nói cho được việc. Lấy được tiền của người ta xong rồi ù lỳ không giữ lời hứa. Đây là những người thiếu đạo đức, thiếu lương tâm, những người này không biết rằng không ai sống mãi ở đời và sẽ có lúc “lưới trời lồng lộng” và “ác giả sẽ ác báo”.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 05.11.2022 22:01:08
 
 
 
6-     Tâm Hồn Bao Dung
 
 
 
Thói đời ai cũng thích cho người ta khen mình tài giỏi, đạo  đức v.v… Còn khi nói tới người khác, lời khen thì ít, lời chê thì nhiều. Người ta chỉ nhìn phiến diện  nên sự khen chê ít khi công bằng, có khi việc  đáng khen lại bỏ qua không khen, mọi việc sơ sót thì chê bai làm lớn truyện, rồi dư luận xuyên tạc, thêm mắm thêm muối, bớt đầu thêm đuôi, cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, phán đoán một cách bất công chỉ vì yêu hay ghét bộ mặt đẹp, xấu, lời nói khéo chiều ý người bị hàm oan mang tiếng xấu thiệt thôi. Nếu bình tĩnh xét về tình người mà mình bất bình, sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như mình nghĩ; cho đến khi người hay bị chỉ trích nằm xuống bây giờ mới được minh oan, công tội dư luận sẽ công bằng hơn, nhưng người quá cố còn nghe hay cãi được nữa đâu.
 
Khi người Việt tị nạn mới tới Hoa Kỳ, tại các trại chuyển tiếp người còn ít, nhiều gia đình cứ tưởng dành được căn phòng rộng rãi cho gia đình thoải mái tạm trú chờ người bảo trợ để đi định cư, nhưng mỗi ngày các chuyến máy bay đổ xuống thêm nhiều người nữa và được phân phối vào các phòng, không ai có quyền dành riêng cho gia đình mình mà phải ở chung, nên người tới trước ở giường tầng trệt, ở sau phải trèo lên giường tầng trên, loại giường nhiều tầng của trại binh, người lớn tuổi ở tầng dưới, trẻ em thích leo trèo  ở giường tầng trên. Vì cảnh tị nạn vừa lo vừa buồn, dù ở chật chột, ồn ào nhưng người ta dễ thông cảm nhau, ít có cảnh dành giật đồ dùng, thực phẩm; nếu cần được giúp đỡ giấy tờ, hỏi thăm tin tức, tìm thân nhân, trẻ lạc, ai ai cũng sẵn sàng giúp đỡ chỉ bảo những điều họ biết.
 
Theo luật lệ không một người tị nạn nào được ra khỏi trại để đi định cư nếu không được người bảo trợ tới lãnh ra, nên việc được bảo trợ đã trở thành một vấn đề lo âu đối với dân tị nạn vì biết ai, nhà thờ nào tới lãnh gia đình mình đi định cư đây?  Luật lệ lại cũng ấn định rằng người tị nạn được phân tán khắp nơi trên toàn cõi Hoa Kỳ, nên người thì đi miền Bắc lạnh lẽo cô đơn, kẻ đi miền Nam ấm áp ẩm thấp, người ở thành thị, kẻ ở đồng quê.
 
Nhiều gia đình gặp được người bảo trợ có lòng nhân ái, giúp đỡ tận tình, tìm chỗ ở, công ăn việc làm nhiều người không may gặp phải người bảo trợ  lợi dụng lãnh dân tị nạn về giúp việc nhà hay làm trong nông trại, phần nhiều không hợp với khả năng và thù lao không tương xứng, nhiều gia đình bị lâm vào cảnh sống dở chết dở không khác gì dân nô lệ ngày trước;  có một gia đình được ông sĩ quan cố vấn đơn vị  ngày trước tới bảo lãnh đưa về cho ở giữa một vườn cam rộng bao la, hoàn toàn bị cô lập, muốn ra ngoài nhưng không có xe, không thuộc đường, mỗi tuần được tiếp tế thực phẩm một lần, cả gia đình bị phân công chăm sóc trại trồng cam, đời sống tị nạn tưởng thật bi đát nhưng rồi gia đình này cũng thoát ra khỏi, lần về trại Fort Chaffee xin tái nhập vào trại, để rồi lại chờ người bảo trọ khác. Hầu hết người bảo trợ (sponsor) đều là người tốt, thương người tị nạn bơ vơ, số bảo trợ “thực dân” chỉ có một hay hai người mà thôi.
 
Câu truyện bảo trợ của gia đình này được loan truyền khắp trại nên bà con chuẩn bị kỹ lưỡng, học hỏi kinh nghiệm để rồi ngồi chờ, ai là người tới bảo trợ gia đình đi định cư đây? Tuy lo âu đấy nhưng ai cũng vui mừng vì tới được đất tự do, thoát được nạn cộng sản tức là thoát cảnh ngục tù, đói khổ, mỗi người tị nạn đều đem theo một tâm trạng não nùng, ít có gia đình nào đi được toàn vẹn; có gia đình thiếu cha, thiếu mẹ, thiếu chồng, thiếu con, thiếu anh, thiếu em, rồi lan man nghĩ tới cả thiếu bạn bè, hàng xóm, thân thuộc.
 
Nhiều người tị nạn chỉ thoát đi được một mình, cả gia đình bị rớt lại nên sống trơ trọi ở trại; có gia đình bà mẹ mang đi chín người con, đứa trẻ nhất còn đang bú sữa mà ông chồng bị kẹt lại, hỏi bà ấy lo âu đến mức nào? Nhưng rồi đời sống tị nạn cũng được ổn định dần dần, nhờ ở lòng từ tâm của các nhà thờ, lòng thương người rất đánh kính phục của dân chúng Hoa Kỳ, và cũng nhờ ở lòng bao dung của chính những người tị nạn biết bao bọc nhau “lá lành đùm lá lách”.
 
Trại chuyển tiếp đã được đóng cửa, dân tị nạn Việt Nam đã được định cư trên khắp nước Mỹ kể cả tiểu bang Alaska, nơi lạnh lẽo nhất cũng có hàng chục gia đình định cư và chẳng bao lâu dân mình tìm cách về ở gần nhau, tụ lại ở những nơi ấm áp hơn, những nơi công ăn việc làm sẵn, những nơi có trường học tốt cho con cái, nên hiện nay đời sống của gần triệu người Việt trên đất Hoa Kỳ này đã thấy thịnh vượng không kém bất cứ sắc dân nào khác và có vẻ trội hơn nữa, nhiều khu buôn bán của người Việt đã mọc lên ở khắp nơi như Little Saigon ở California, Houston, San Jose, Chicago v.v..
 
Dân tị nạn Việt làm ăn khá giả ở Hoa Kỳ thì cũng do đó, nhiều đoàn thể được thành lập, cơ quan truyền thông như báo chí, đài truyền hình, phát thanh phát triển mạnh; đời sống được ổn định nên có nhiều bộ mặt tốt cũng như xấu, đố kỵ nhỏ nhen cũng được phơi bầy nên mới có nhiều dư luận bàn ra tán vào, nhưng cộng đồng người Việt vẫn sống an hòa tuy cũng có một vài khi sóng  gió nổi lên. Trong công cuộc  định cư người tị nạn Việt Nam, khi mà nguồn những người, cũng như nhà thờ bảo trợ khan hiểm dần, thì các hội thiện nguyện vẫn tiếp tục lo việc  định cư, nhưng cũng là lúc các hội đoàn của người tị nạn bắt tay vào việc đóng góp giúp người đồng hương an cư lập nghiệp.
 
Ngay những năm đầu tiên của chương trình tị nạn gần 400 anh em trong binh đoàn Nhẩy Dù ở Fort Chaffee được bảo trợ ra định cư ở một tỉnh miền Trung Hoa Kỳ, với kế hoạch nhận ra từng toán 4 người một, sau khi tìm được việc làm, mua được xe hơi, thì mỗi người trong toán lại bảo trợ 4 người khác nữa, rồi cứ thế nhân lên, công việc làm ăn ở tỉnh này đã được một hội đoàn lo liệu rất sẵn nhưng vấn đề khó khăn là nếu không có xe hơi riêng thì không thể đi làm được vì hệ thống xe bus không thuận lợi, mà thành phố thì lại qúa rộng. Vậy làm thế nào để anh em mua được xe, vừa mới ra định cư, công ăn việc làm chưa vững, anh em đâu có đủ “credit” để mua xe dù là  xe cũ, mấy ai có tiền sẵn để trả tiền cọc.
 
Để giải quyết nỗi khó khăn này, ông P., giám đốc chương trình tìm việc làm đã xung phong, bất chấp thân sơ, đứng ra bảo lãnh (co-sign) mua hơn 200 xe cho dân tị nạn trong đó có anh em Nhẩy dù, nhiều người nghĩ rằng đây là một hành động liều lĩnh, nhưng ông P. tỉnh bơ nói rằng “Giúp được là tôi giúp để cho anh em được lạc nghiệp”, và kết quả vô cùng đẹp đẽ là anh em đều trả tiền đầy đủ có đi ở tiểu bang khác cũng vẫn trả tiền.
 
Các hội thiện nguyện đưa ra người tị nạn về tỉnh này định cư, có hội chỉ cấp cho mỗi đầu người một ngân khoản 200 mỹ kim, thế là hết và phải lo liệu lấy, lạ nước lạ cái, tiếng nói không thông nhiều người còn biết xoay xở ra sao, sau khi tiêu hết tiền lại phải chạy đến ông P. là có công ăn việc làm, không có chỗ ở ông đưa về nhà riêng tạm trú, ai có việc gì cần nhờ đến ông P. ít khi bị từ nan; đã một lần, một thanh niên tị nạn dở điên dở khùng lang thang ngoài đường phố, ông P. bắt gặp đã dám đưa về nhà nuôi dưỡng, dù trong lúc đó ở nhà còn mấy cô con gái lớn chưa lập gia đình, rồi chính anh thanh niên điên được  nuôi nấng ấy, thừa lúc cả nhà đi làm đi học, ăn cắp một cây đàn guitare điện đáng giá 500 đồng mang đi bán lấy 30 mỹ kim để đi uống la de. Ông P. chỉ cười trừ và tiếp tục giúp đỡ hết người này đến người kia.
 
Nhưng nhân vô thập toàn, ông bà và các con lớn vẫn phải đi làm, số thu có hạn, mà khi ông giúp tha nhân vì lòng thương, ông đã không lượng được khả năng tài chánh trong nhà, rồi lại vướng vào vụ bảo lãnh vay tiền hộ bạn bè, nên có lúc đã không giữ được chữ tín đổi với người khác. Nhiều người không hiểu được công việc ông đã làm một cách vô vị lợi, nên khi còn sinh thời ông P. cũng bị dư luận nói xấu nhiều tốt ít.
 
Nhưng khi nghe tin ông P. đau nặng, nhiều người đã tới tỏ tình, thăm hỏi hơn, cụ thể hơn, đám táng của ông đã có mấy trăm người tới nghiêng mình tỏ ý biết ơn ông, trong số đó có nhiều cặp vợ chồng cùng con cái đến chịu tang vì chính ông đã đứng chủ hôn giúp gầy dựng gia đình, nhiều người đã nhờ ông tìm công ăn việc  làm và đừng bảo lãnh mua xe. Nếu căn cứ vào dư luận mà xét đoán thì ông P. khi nằm xuống đã không có cảnh được ưu ái như trên.
 
Người cộng sản đã đặt thông tin, tuyên truyền dối trá lên hàng đầu, gây dư luận xấu cho người quốc gia, họ đã thành công vì kiên nhẫn cứ nói đi nói lại, gieo vào đầu óc mọi người mãi, rồi từ hoài nghi dần dần đến tin tưởng sự dối trá là thật, nên người quốc gia đã có câu “Nói như Vẹm”.
 
Người ta rất sợ dư luận nếu mình làm trái và không nên sợ dư luận khi sự thật bị bóp méo. Trong lịch sử nước Việt, vì dư luận, biết bao nhiêu vị trung quân ái quốc, những vị chính nhân quân tử, anh hùng hào kiệt đã bị thất sủng, bạc đãi, ô danh rồi được lịch sử phục hồi danh dự. Những người nghe dư luận bàn tán không đủ khách quan suy xét, nhận chân thực giả, lại xu thời, đã làm thiệt hại cho đại cuộc, cho đất nước, cho những người chân chính có tinh thần bao dung.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 06.11.2022 21:46:22



  7-     Nhớ Về Người
 Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa

 
 
Đọc trên BNS Tự Do lời kêu gọi của Hội Cựu Trợ Thương Phế Binh Việt Nam tại Hoa Kỳ; “Hỡi các chiến hữu tha hương và đồng bào ruột thịt, có còn nhận diện được chúng tôi? Hay thương tích, đói khổ đã thay dạng đổi hình! Xin hãy hướng về quê hương với câu “Lá lành đùm lá rách”. Làm cho tôi vô cùng cảm xúc, nhất là khi được đọc bản báo cáo về tài chánh và danh sách ân nhân cùng danh sách Thương phế binh đã được cứu trợ với đầy đủ chi tiết như địa chỉ, mức độ tàn phế cùng hình ảnh càng làm cho chúng tôi thêm tin tưởng rằng ít nhất ở nơi hải ngoại này nay đã có những đoàn thể của Thương phế binh của VNCH cũ của chúng ta đang phải chịu biết bao khổ cực ở quê hương Việt Nam dưới chế độ hà khắc và bạo tàn của cộng sản.
 
Nói về Thương phế binh làm cho tôi hồi tưởng lại những cảnh tượng đau thương của cuộc chiến tranh bạo tàn mà bao nhiêu thanh niên tuấn tú, con yêu của quốc gia dân tộc đã hy sinh nơi chiến trường, mang những tật nguyền, bệnh tật và trở thành phế nhân bị ruồng bỏ sau khi Sàigòn thất thủ; nghĩ tới thảm cảnh người mất tay, cụt chân, đầu mình máu me, kẻ tỉnh, người mê, đau đớn kêu rên xót xa, làm cho cha mẹ, vợ con, anh chị thương lo đau xót, âm thầm chia sẻ. Còn cảnh những người không có thân nhân ở gần, lúc tỉnh lại ngơ ngác nhìn không thấy ai là người trong gia đình, tủi thân cắn môi thở dài, khi nhìn người thương binh bên cạnh được vây quanh thăm hỏi, có bánh quà của người thân mang lại.
 
Chính phủ ưu tiên săn sóc, nhà thương có đầy đủ thuốc men  dụng cụ, có nhiều bác sĩ, nhân viên y tế cũng nhiều, nhưng số thương binh hàng ngày đưa về hết lớp này đến lớp khác, nhất là những năm cường độ cuộc chiến ác liệt kéo dài. Những người có phận sự săn sóc ưu tiên cho những thương binh mới tới và tình trạng thương tích cần được săn sóc hơn.
 
Những bệnh binh đã qua thời kỳ nguy hiểm còn phải ở lại dưỡng thương, được chia ra ở nhiều phòng: những người được xuất viện nhường chỗ cho những người mới càng ngày càng đông. Không khí Sài gòn nóng nực ít khi mát mẻ, nhiều thương binh cụt chân, thiếu tay không thể tự mình di chuyển và cần có ai giúp đỡ đưa ra sân hay ngoài hàng lang hóng gió hoặc đổi khí trời.
 
Phòng thương binh tê liệt lại còn ái ngại hơn nhiều. Khí  trời nóng bức, nằm lâu mỏi mình, không giở được mình, bị ngứa không gãi được, không ai giúp đỡ, có nhiều khi cố lăn lóc trên giường, lăn ngã xuống đất không ai nâng đỡ dậy, trông thât thảm hại. Nếu có được đầy đủ xe lăn cho những người còn tay sử dụng được để tự di chuyển ở trong trại hay ra ngoài hành lang thì đỡ biết mấy.
 
Vào những năm 1967, 1968, các chị em bạn hàng ở các chợ Phú Nhuận, Tân Định, Bà Chiểu  ở Sàigòn – Gia Định quyên góp tiền mua được một số xe lăn giúp anh em thương phế binh; các bà trong hội Phan Sinh đóng góp vào sự an ủi các thương binh bằng cách phân công cho nhau lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm hỏi và việc chính là giúp việc gội đầu, rửa mặt và chăm sóc các thương binh không có thân nhân giúp đỡ.
 
Mỗi chiều thứ sáu trong tuần, tôi thường theo bà Ba, người hàng xóm hội viện hội Phan Sinh lên Tổng Y Viện Cộng Hòa tham gia công tác gội đầu, rửa mặt cho các thương binh nằm điều trị tại đây. Tại ngay cổng Y viện, số người tới thăm bệnh binh rất đông, người nào cũng mang xách gói lớn gói nhỏ, sau khi làm thủ tục kiểm soát các gói quà để phòng gian. Thấy tôi ngơ ngác đứng nhìn xếp hàng, bà Ba kéo tay tôi đi vào theo lối cổng xép, sát cạnh cổng chính, vì thấy tôi lạ mặt, người lính gác cửa chặn hỏi theo thường lệ: “Các bà đi đâu?” Bà Ba nhanh nhẩu trả lời: “Tôi dẫn thêm bà này đi gội đầu”,  người lính mỉm cười nhường chỗ cho chúng tôi quá.
 
Tới hành lang gian phòng xếp để đồ, tôi thấy có mấy bà đang đứng chờ cho đủ người, rồi các bà phân công từng nhóm ba người một khu, mang thau nhôm, gáo múc nước, khăn lông, xà bông. Nhóm của tôi phụ trách giúp gội đầu các thương binh trong phòng hồi sinh, một người đi lấy nước, người bưng thau không để hứng nước dưới đầu người thương binh, một người vừa dội nước, xát xà bông, vừa chà sát phải thật khéo  tay tránh không để nước và xà bông thấm vào vết thương, người đi lấy nước trở lại đổi thau nước đó đi đổ.
 
Thương binh nào mới ở phòng cấp cứu ra, máu trên đầu người thương binh khô lại dính với tóc bết vào da đầu khó gội, phải xấp nước cho tan máu, hay gỡ máu khô ra, mùi máu, mùi bùn đất để lâu có mùi hôi tanh, nhiều khi  phải gội đi gội lại nhiều lần mới hết máu hết đất. Nhiều thương binh chưa có thân nhân kịp tới, sau khi được gội đầu, rửa mặt, được lau khô, đặt nằm ngay ngắn trên giường, nếu còn tỉnh táo nói được câu “Cám ơn”, nhiều người còn quá mệt mỏi, chỉ mở mắt nhìn chúng tôi tỏ vẻ dễ chịu hơn, rồi nhắm mắt lại hoặc thiếp đi.
 
Trong các phòng khác cũng vậy, những thương binh không bị thương trên đầu, nhưng cụt chân, mất tay, lại không có thân nhân giúp đỡ và không tự mình làm lấy được, mỗi khi trông thấy các bà hội Phan Sinh mang thau nước tới họ đều tỏ vẻ vui tươi, mong chờ. Sau phần gội đầu rửa mặt, một số bà phải ra về, còn một số khác ở lại chờ tới giờ phát cơm; các bà lấy phần ăn cho những thương binh không di chuyển được. Nhà thầu thường chỉ mang tới hàng lang các phòng và các bệnh binh phải ra lãnh phần cơm, nên có nhiều trường hợp thương binh mất phần ăn của mình.
 
Có một ngày bà Ba đưa tôi sang khu tê liệt, tới giừng của một anh đang ngồi, trước mặt anh khay cơm vẫn còn nguyên, bà Ba vội kéo tay tôi lại, nhìn anh ta thấy anh mất cà hai tay và bà Ba tự động lấy muỗng xúc cơm đưa vào miệng anh ra vừa nói “Để tôi giúp anh”, chờ cho tới khi anh ta ăn và uống nước xong tôi mới hỏi: “Nếu hôm nay không có chúng minh giúp đỡ, anh ấy làm sao ăn được cơm?” Bà Ba trả lời: “Anh ta phải đợi người bên cạnh ăn xong mới tới giúp cho anh ta ăn được.”
 
Tới một phòng khác thăm một thương binh mất cả hay tay, vết thương chưa lành, dáng người mệt mỏi, nét mặt đau khổ, bên cạnh giường một em bé 12 tuổi, vẻ mật ngây thơ đứng cạnh bố, tôi không hỏi ông ta nhưng hỏi qua em bé, cháu nói: “Mẹ cháu ở đây từ hôm bố cháu bị thương, bây giờ hết tiền với lại ngày mùa, mẹ cháu phải về làm mùa xong, có tiền mới lên đây. Mẹ cháu để cháu ở lại đây tới bữa lấy cơm cho bố con ăn.”
 
Ngoài hàng lang dẫy phòng kế, một anh thương binh hỏng một mắt, cụt một tay đang được cắt tóc; rất nhanh, bà Ba dúi vào tay anh một số tiền, rồi kéo tay tôi đi thật nhanh. Tôi quay lại nhìn người thương binh miệng há hốc, tỏ vẻ cảm động, không nói được lời nào và bà Ba cũng chẳng nói gì. Chúng tôi đi khuất tầm nhìn của anh thương binh, bà Ba mới kể cho tôi nghe: “Người vợ anh ta từ ngoài Trung đưa hai đứa con  vào thăm chồng thăm cha được một ngày, người vợ bỏ hai con lại cho chồng rồi trốn đi. Người thương binh vội nhắn mẹ già vào để đưa hai con về nuôi, nhà bà cụ nghèo quá nên hôm nay tôi có ít tiền biếu anh ta để gửi về cho mẹ già nuôi cháu. Thật tội nghiệp!”
 
Một trường hợp khác khiến chúng tôi vô cùng cảm động. Một cô gái trẻ đẹp đi với người chị tới thăm ý trung nhân bị thương đang nằm tại Tổng Y Viện Cộng Hòa; tới nơi gặp người chồng tương lai nằm trên băng ca theo sau là bà mẹ già của anh ta; người chị cô này hỏi thăm, bà mẹ anh thương binh vừa khóc  vừa nói: “Em nó bị thương, chân bị cưa cụt tới háng, ngoài ra còn nhiều vết thương nữa”. Nghe bà cụ nói xong người chị chào bà cụ và kéo cô em ra về ngay. Cô này vừa khóc vừa nói với chị: “Chị về trước đi, để em ở lại giúp bà cụ và người em yêu, khi nào anh ấy lành mạnh em mới về.”
 
Người chị nhất định bắt em về, từ  lời nói ngọt đến nói xẵng: “Anh ấy với em chưa cưới hỏi, bố mẹ chưa bằng lòng, họ hàng chưa ai biết, em lấy người tàn phế hay sao?” Cô em nhất quyết ở lại chăm sóc người yêu và cô chị đành phải bỏ ra về một mình. Nghe đâu ít lâu sau, khi anh thương binh xuất viện, lành mạnh tuy cụt một chân, hai người đã được bố mẹ cho làm đám cưới.
 
Ôi! Những người thương phế binh anh hùng dũng cảm, lăn xả nơi tiền tuyến, không may đã phải đổi xương máu và một phần thân thể cốt để giữ cho hậu phương được tự do, an bình, riêng mình phải chịu tàn phế, đau khổ cả cuộc đời còn lại. Thật là bất công, nếu những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa cũ đang phải trầm luân đau khổ từ tinh thần đến vật chát ở quê nhà, không nhận được những sự giúp đỡ tối thiểu của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nên nhưng nỗ lực của Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh Việt Nam tại Hoa Kỳ quyên góp tiền gởi về giúp đỡ đồng đội là một điều đáng khen ngợi và bổn phận của chúng ta là phải tích cực yểm trợ các công tác cứu trợ này.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 08.11.2022 04:25:01
 
 
8-   Ông Hai An
 
 
 
Nhập gia tùy tục, sống ở một xứ thực tế như nước  Mỹ, trừ trẻ con và người già yếu, mọi người đều nghĩ đến làm việc. Làm việc gì? Ở đâu? Những người học hành đầy đủ, có nghề có nghiệp, có người hướng dẫn, ra đời dễ dàng tìm việc làm. Những thanh nên, thiếu nữ mới lớn lên, vì lười, vì thích ăn chơi, vì môi trường kích thích xấu xa làm những tâm hồn non dại thiếu người chỉ bảo bị sa đọa, hư hỏng, bỏ học, bỏ hành, gây ra nạn băng đảng, trộm cướp.
 
Nhiều người đã viết sách, báo nhắc nhở trách nhiệm phụ huynh về sự giáo dục con cái và để ngăn ngừa, sửa chữa nhưng chưa được phổ biến rộng rãi, hoặc những người có tấm lòng vàng, mạnh thường quân lưu tâm đến vấn đề trẻ em hư hỏng, chỉ hoạt động trong âm thầm, không cần nói ra để lấy tiếng khen. Một trong những này mà tôi biết là ông bà Hai An.
 
Theo bạn tôi nói về ông bà Hai An, bà đi bán hàng, ông làm công nhân ở một hãng như mọi người. Họ không dư dả, nhiều tiền của nhưng lòng bác ái có thừa. Ông bà An đã làm được những việc mà nói ra chắc nhiều người không tin. Ông bà đã khuyến dụ giúp đỡ đưa được một số em đi bụi đời trở về đời sống lương thiện, đi học, đi làm. Rất ít người biết đến những việc làm cao cả và đẹp đẽ này. Khi biết chuyện tôi đã mang lòng cảm phục ông bà và đã nhờ người bạn để dẫn tôi đến giới thiệu và gặp ông bà An vào ngày cuối tuần.
 
Không kiểu cách, không khách sáo, ông bà Hai An đã đưa chúng tôi sang phòng bên cạnh gặp các em có thành tích, quá khứ bất hảo và giờ đây đang trú ngụ nơi nhà ông bà, coi gia đình này như nơi hạnh phúc, an toàn. Các em từ tuổi 15 tới 20, vẻ mặt  em nào cũng vui tươi khỏe mạnh. Nhân ngày nghỉ các em đang sửa soạn rủ nhau đi câu cá.
 
Tôi hỏi:
 
-Sự thúc đẩy nào đã khiến ông bà làm công việc giúp đỡ các em bỏ nhà ra đi, trong khi ông bà còn phải trông coi con cái của mình?
 
Ông An cười trả lời:
 
-Chúng tôi chỉ có lòng thành thực, yêu mến các em. Gặp em nào muốn rời xa băng đảng chúng tôi coi các em như người thân và mời về ở với chúng tôi.
 
Tôi muốn hiểu rõ hơn và hỏi ông bà Hai An về một trong những trường hợp của các em này. Ông An kể:
 
-Một hôm tôi ở trong chợ ra, đang xếp đồ vào trong xe, nghe tiếng cãi nhau trong chiếc xe đậu kế bên rồi tháy một em khoảng 16, 17 tuổi bị bốn cậu con trai khác trong xe đẩy xuống và phóng xe chạy đi mất. Em này đứng nhìn theo, vẻ mặt cau có, tức tối, buồn thảm. Tôi đoán chừng cùng một bọn với nhau mà bỏ cậu này đứng lại một mình. Có chuyện gì đây. Tôi lại gần cậu trai, tươi cười hỏi:
 
-Em không đi với các bạn em à? Em đợi họ trở lại hay đợi ai khác?
 
Cậu ta không trả lời, trân trối nhìn tôi, vẻ mặt vẫn còn những nét khó chịu, tức giận. Tôi hỏi tiếp:
 
-Em cần về đâu, anh đưa em về?
 
Vẻ mặt cậu ta bắt đầu dịu lại và trả lời:
 
-Em không có chỗ nào để về cả.
 
Tôi đã hiểu phần nào tình cảnh những em như em này và đề nghị về nhà tôi chơi. Nhìn tôi từ đầu đến chân rồi như cái máy, cậu ta bước vào xe ngồi cạnh tôi không nói gì. Tôi lái xe về nhà, trên đường đi, tôi hỏi cậu ta có đói không? Vẻ mặt em này lúc đó bắt đầu tươi hẳn lên vì từ sáng chưa có gì vào bụng. Tôi lái xe ngang qua McDonald và mua hai chiếc Big Mac cho tôi và cậu ta cùng ăn. Về đến nơi, nhà tôi ra mở cửa đón, tôi nói với nhà tôi:
 
-Chú em đây mới gặp, anh mời về nhà mình chơi.
 
Tôi nói cho em này biết chúng tôi có mấy em khác cũng hoàn cảnh như em ở đây với chúng tôi và nếu em muốn, cũng có thể ở lại như vậy. Thấy vợ chồng tôi vui vẻ, lại còn mấy người bạn nữa để làm bạn, cậu ta sung sướng nhận lời ngay. Nhà tôi hỏi về gia cảnh, cậu ta nói:
 
-Nhà em đông người, có tới tám anh chị em. Em là con thứ năm trong gia đình. Bố mẹ em đều đi làm, chúng em đi học chiều mới gặp nhau. Người về trước, kẻ về sau, ai đói tự động tìm cơm mà ăn. Bố mẹ cũng không để ý đến, chỉ trừ khi nào bị đau không ăn cơm  hay bỏ học bố mẹ mới hỏi đến. Em muốn ăn xài, nhưng bố mẹ không cho, nói đi làm có tiền thì mua mà ăn mà mặc. Em thiếu thốn nhiều thứ, cần có tiền. Ở lớp có mấy đứa rủ em đi chung với chúng nó, kiếm tiền dễ ợt. Em bỏ nhà, bỏ học theo chúng đi lang thang. Chúng dậy cho biết cách ăn cắp, đi ăn cướp, bán ma túy.
 
Hôm nay chúng đi mua những thứ cần thiết để lên đường sang tiểu bang khác vì ở đây động rồi. Chúng bảo em đi theo nhưng em thấy nhớ nhà định về lại nhà lấy ít quần áo. Vừa nói ra, chúng nó nhao nhao lên phản đối, có đứa đòi đánh rồi đẩy xuống xe. Chúng nói cho mầy chết đói rồi chúng lái xe đi luôn. Em nhớ nhà nhưng bỏ học bỏ nhà đã mấy tháng không dám về gặp ai. Bố mẹ gặp lại chắc sẽ đánh chửi, em chưa biết sẽ ở đâu, may gặp chú đưa về đây cho ở lại, em sẽ đi kiếm việc làm.
 
Chúng tôi nói với em này:
 
-Em sẽ ở cùng phòng với sáu em nữa, vậy kêu em là Bảy!
 
Chúng tôi giới thiệu Bảy làm quen với mấy em khác. Các em đến trước dẫn dắt người đến sau, đưa đi học trở lại, sắm quần áo, sách vở đầy đủ.
 
                           ***
 
Chúng tôi biết với tuổi này, các em chưa đủ trí khôn, suy nghĩ sâu xa, chỉ thích chơi, thích phiêu lưu, không muốn bị kìm hãm. Chúng tôi chủ trương tìm hiểu từng em về hoàn cảnh, tính tình, sở thích, cái tốt cũng như cái xấu để dần dần dụ lại về đường ngay. Ngoài ra còn phải đề phòng những em có tính năng động quá cao, như không kiếm được việc làm, bị mạt sát, không thỏa mãn điều gì hay thất vọng, dễ đưa đến tự vẫn hay lại bỏ nơi này đi phiêu lưu lần nữa khi chúng tôi chưa đủ thời giờ để dẫn dụ họ ở lại. Có khi tôi phải xin nghỉ vài ngày để ở nhà  tổ chức ăn uống, đi chơi, chiều về hát hỏng, đàn địch, nói truyện vui để tạo ra không khí ấm cúng gia đình và sinh hoạt cho cả nhóm.
 
Chúng tôi quan niệm sửa đổi con người phải sửa từ cái nhỏ, phải hòa mình tìm hiểu họ. Ngoài ra phải biết lượng sức mình để họ từ từ vào khuôn phép. Như tập dần cho họ giữ trật tự, giữ vệ sinh, giữ giờ ăn, giấc ngủ, sửa lại lời nói thô bỉ, tập cho họ cử chỉ lễ phép hơn.
 
Chúng tôi cũng tìm dịp thích hợp để nói chuyện về những thành công của người này, người khác để kích thích họ, nói về lòng nhân, nghĩa, giữ gìn chữ tín. Cũng phải tránh để không chạm đến tự ái họ, chỉ là câu truyện, không phải dậy họ. Dần dà chúng tôi hướng về  tâm linh, nói về đời người, về kiếp người ngắn ngủi chóng qua. Chúng tôi cũng đưa các em đó vào các đoàn thể tổ chức tôn giáo, có các sinh hoạt. Các em thích thú gia nhập, tìm hiểu về tôn giáo và giao du bạn bè trong giới này. Có em gặp được ý trung nhân vì hoạt động với nhau và hiểu nhau. Cách đây mấy hôm, chúng tôi đã tổ chức đám cưới cho một em như thế.
 
Tôi hỏi ông bà Hai An:
 
-Ông bà có lần nào bị thất bại không?
 
-Có chứ! Có thành công thì cũng có thất bại. Thường do vì tôi thiếu lưu tâm đến ảnh hưởng bên ngoài quá mạnh hay do chúng gặp lại bạn cũ trong băng đảng đến dụ dỗ bỏ đi. Châm ngôn của chúng tôi là hãy đến với những em đang đi sai đường, đừng vội kết tội, đe dọa, trách móc họ vì tâm hồn họ cần có sự an ủi, nâng đỡ, săn sóc cả tinh thần lẫn vật chát. Sau đó từ từ hướng dẫn họ, từ việc nhỏ đến việc lớn và mong mỏi thành công trong việc dẫn họ trở lại  đường ngay lẽ phải.
 
                               ***
 
Tôi cảm phục về việc làm này của ông bà Hai An. Họ quả thật là người có lòng quảng đại, lưu tâm đến sự giúp đỡ giới trẻ. Ước mong có được nhiều người bắt chước ông bà này để săn sóc, dậy dỗ con em để nạn băng đảng không còn lộng hành được nữa và những thanh thiếu niên lầm đường lạc lối có cơ hội trở thành những người tốt, hữu ích trong xã hội.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 10.11.2022 01:44:38
 
 
 
9-   Con Nuôi
 
 
 
Cuối năm các cửa hàng buôn bán lớn nhỏ, các công ty đều tính sổ xem lời nhiều, lời ít, hòa hay lỗ vốn, kiểm kê hàng còn lại, rút kinh nghiệm cho biết thứ hàng nào bán chạy, được khách hàng ưa thích.
 
Cửa hàng bà Viết bán chạp phô linh tinh đủ thứ. Người ta đưa đến cửa hàng của bà gửi bán, bất cứ thứ gì bà cũng nhận bán lấy lời. Điều này cũng tiện cho những người làm thủ công nghệ tại gia hay nhà it người ăn không hết đưa các thứ rau đậu, hột gà, hột vịt v.v.. đến bán không phải nộp thuế. Hai bên mua bán chỉ cần kiểm điểm số lượng, giá bán rồi hẹn kỳ trả tiền vào ngày nào hoặc khi đưa hàng mới lấy tiền hàng cũ. Bà Viết giữ được sự tín nhiệm với mọi người nên việc làm kiểm kê sổ sách kết toán đối với bà dễ dàng. Mua bán sòng phẳng, đến đâu bà trả tiền hết luôn không thiếu chịu món hàng nào.
 
Cửa hàng chạp phô của bà Viết ở khu Hòa Hưng, sát Sàigòn. Gia đình ngoài bà chỉ có thêm một cậu con trai nhỏ và một người làm giúp việc. Đời sống nơi đây cũng bình thân nên ông Viết an tâm để vợ con ở hậu phương an toàn. Mỗi khi sau cuộc hành quân được nghỉ phép, ông Viết về thăm vợ con, cuộc sống rất hạnh phúc.
 
                            ***
 
Đang chú mục  vào cuốn sổ, nghe tiếng động, bà Viết quay ra nhìn. Ông Viết đã tiến vào tận bên bà, miệng cười tươi hỏi:
 
-Con đâu em?
 
Bà Viết mừng rỡ nhìn chồng. Bà hơi ngạc nhiên khi thấy tren tay ông bổng một đứa trẻ. Ông Viết một tay bế đứa bé, một tay nắm tay vợ âu yếm. Đứa trẻ ngủ say sưa trong tay ông Viết. Ông trao đứa nhỏ cho vợ và nói:
-Anh nhặt thằng nhỏ này về để em nuôi.
 
Bà Viết gọi người làm ra giúp bà cho đứa bé ăn và dục chồng đi rửa mặt, thay quần áo nghỉ ngơi để rồi còn chơi với thằng Nhân, con ông bà cũng trạc bằng tuổi đứa bé mà ông Viết vừa mang về.
 
Sau đó ông Viết thuật lại cho bà nghe lai lịch đứa nhỏ. Ông kể: Cách đây một tuần khi đi hành quân ở quận Bung-Hô, đến nơi chỉ thấy hoang tàn. Bọn Cộng sản trước khi rút lui đã đốt cháy cả làng, để lại nhiều  thây người chết. Bên cạnh những xác chết đó, một đứa trẻ đang bò, miệng khóc đã khàn tiếng, Nghĩ rằng bố mẹ nó đã chết hay đã chạy đi để thằng bé lạc lõng nơi này nên ông đưa về nuôi cùng với con mình cho nó có cha có mẹ.
 
Nghe chồng kể, bà Viết cũng thấy thương đứa bé và đặt tên cho nó là Đức. Bà cũng cho ăn mặc như thằng Nhân. Lúc mới về nhà bà, thằng Đức gầy gò, bẩn thỉu và xấu xa, nhưng ít lâu sau được sự chăm sóc của mẹ nuôi nó như lột xác và trắng trẻo hẳn ra. Hai má nó bụ bẫm, hồng hào và khỏe mạnh. Nó như cây mọc ở đất tốt. Cả hai trẻ Nhân và Đức cùng đi học với nhau. Ông bà Viết không phân biệt con nuôi, con đẻ, mà cũng không bao giờ nói với ai là có con nuôi.
 
Hai trẻ lớn lên được học hành dậy dỗ trong sự bao bọc của bố mẹ, tuy bà Viết hơi buồn khi hai đứa con mang học bạ về nhà, bao giờ thằng Đức cũng hơn điểm thằng Nhân. Nhưng chưa bao giờ Đức tỏ ra tự phụ là giỏi hơn anh Nhân. Nó vẫn kính trọng anh, nhiều luc bị anh bắt nạt, sai bảo hay mắng mỏ nó vẫn chịu phận làm em. Nhiều lần bà Viết phải can thiệp bảo Nhân không được bắt nạt em quá vậy. Càng lớn Đức càng to lớn, vạm vỡ. Nó tỏ ra lanh lợi khôn ngoan, ngoài giờ đi học về nhà còn giúp đỡ bà Viết làm lợi cho cửa hàng.
 
Từ khi sinh nở thêm bốn lần nữa, sức khỏe bà Viết trở nên yếu kém, Đức đã phải thay mẹ điều khiển cửa hàng, nhất là những lúc bà đau yếu nhiều. Trong khi đó Nhân cậy mình là anh cả, chẳng giúp việc gì trong nhà, chỉ nay xin tiền, mai xin tiền đi chơi với bạn bè.
 
                              ***
 
Chiến tranh đã mang lại sự đau khổ cho tất cả mọi người. Đau khổ trở nên một thứ định mệnh của nhân loại. Và định mệnh đó đã đến với gia đình ông bà Viết.
 
Ông Viết tỉnh lại ngơ ngác thấy chân tay băng bó, trong người thì đau đớn, mệt mỏi và chán chường. Ông nhìn quanh thấy Đức chứ không thấy vợ và các con khác đâu cả. Ông hỏi:
 
-Mẹ, anh Nhân và các em con đâu cả?
 
-Mẹ bị đau và mệt vì buồn rầu. Con xin mẹ ở nhà để con đi thay. Anh Nhân vừa đi ra ngoài, để con gọi anh. Anh vẫn đi đi về về đưa tin cho mẹ và lấy thêm đồ cần dùng. Tất cả nhà ở  đây khi người ta đưa bố tới bệnh viện. Bố cần gì đã có con.
 
Nhìn Đức, ông Viết buột miệng nói nhỏ: “Con nuôi mà tốt còn hơn con đẻ”. Dù ông nói sẽ nhưng Đức cũng nghe thấy. Chàng đứng lặng một lúc. Những nghi vấn đã có từ lâu chứ không phải đến ngày hôm nay mới có. Đã có lần sang nhà hàng xóm bên cạnh, ông chủ nhà khen chàng đẹp trai rồi nói với người đứng bên: “Con nuôi mà hiếm thấy có người được tốt lành nên ông ta coi như con đẻ.” Bây giờ hôm nay chính miệng ông Viết nói ra mình là con nuôi. Đức tự hỏi: “Bố mẹ mình ở đâu?” Còn sống hay đã chết? Tại sao mình lại là con nuôi?” Đức nhớ lại từ lúc hiểu biết thấy bố mẹ vẫn yêu quí mình như anh Nhân, như các em, có khác gì đâu. Chàng định khi nào bố mẹ hết đau yếu sẽ hỏi cho biết, bây giờ hãy chu toàn bổn phận đã.
 
Trong thời gian ông Viết nằm dưỡng thương Nhân và Đức thay phiên trông coi và hầu hạ ông Viết thay cho mẹ vì bà Viết còn phải trông coi cửa hàng và mấy con nhỏ. Mỗi ngày bà chỉ có mặt một lúc rồi về lo công việc.
 
Ông Viết trở về nhà trên chiếc xe lăn. Đời quân ngũ của ông chấm dứt. Còn đâu những lúc xông pha nơi trận chiến, hồi hộp tranh thủ từng mô đất, lựa chọn thế công thế thủ, bảo vệ được cứ điểm, chia ngọt xẻ bùi với anh em đồng đội, thuộc cấp rồi cuối cùng còn hiến cho tổ quốc một phần thân thể. Thực tế hiện tại thật phũ phàng! Còn giúp được gì vợ con, gia đình nữa? “Lực bất tòng tâm”. Hay chỉ đem lại cho vợ con một gánh nặng, một xót xa thương cảm.
 
Đang là một con người đầy năng lực, chí phấn đấu cao, ông không muốn ai tỏ ý thương xót ông trước những thương tật hiện tại nên không sao tránh khỏi sự cáu kỉnh, khó chịu. Bà Viết và các con bảo nhau phải cố sức chiều chuộng theo ý ông nhưng cũng không giải tỏa được sự buốn chán từ trong tâm hồn ông Viết.
 
Bà Viết nghĩ chỉ có Đức có thể làm ông nguôi ngoai nên bà hỏi con:
 
-Đức à, con nghĩ có cách nào làm cho bố bớt buồn khổ và bằng lòng với số phận đã an bài?
 
-Cho con ít tiền đi mua sách, con sẽ tìm cách làm bố khuây khỏa.
 
Chàng tìm tới hiệu sách chọn một sổ sách về tâm lý học, khảo cứu, tôn giáo, chính trị, đưa về để ông Viết xem. Khi có thì giờ rảnh, Đức thường bàn luận hay hỏi ông về những điều trong sách mà chàng chưa hiểu thấu đáo. Các em đi học về, Đức bắt các em vào kể chuyện trường học, chuyện học hành của chúng cho ông Viết nghe. Trong bữa cơm thì tìm những câu chuyện vui để cả nhà vừa ăn vừa nói chuyện.
 
Dần dần ông Viết chấp nhận tình trạng thương tật của mình và an phận. Bà Viết thầm cám ơn Chúa Trời đã cho bà người con nuôi hiếu đễ, giỏi giang. Mỗi khi bà gặp chuyện khó nghĩ phải hỏi Đức, nhờ Đức giải  quyết. Đứa con nuôi nay hơn hẳn những đứa con đẻ của bà về cả tinh thần lần thể xác.
 
                             ***
 
Chiến tranh ngày một ác liệt và lan tràn khắp nơi. Nghe radio loan tin mất Phước Long, Ban Mê Thuột, triệt thoái Cao nguyên, là một cấp chỉ huy, ông Viết hiểu địa hình, địa thế, biết tình thế lâm nguy gần kề. Ở Sàigòn nơi ông ở, cứ nay xuống đường,  mai xuống đường phản chiến, tố tham nhũng những người chóp bu, ăn chơi hưởng thụ, không biết chia sẻ khổ đau với những người đem thân bảo vệ cho họ an hưởng.
 
Một đêm, ông Viết trải bản đồ ngồi tính toán. Quá nghĩ ngợi, sẵn chứng đau tim, ông gục ngủ vĩnh viễn bình an trên tấm bản đồ tổ quốc thân yêu.
 
Nhìn người cha nuôi khí phách, đầy lòng vị tha mà anh hằng kính yêu tuy những ngày cuối cùng của ông sống mà không giúp được vật chất gì cho gia đình nhưng ông vẫn là một quyền uy, một cột trụ cho gia đình nương tựa. Đức hiểu từ nay bổn phận chàng phải thay thế ông, vẫn là một phần nào vì bà Viết hay đau yếu, công việc hàng đã phải cáng đáng quá nhiều. Qua bậc đại học, Đức hiểu phải kiếm thêm tiền mới đủ cho gia đình chi tiêu vì  trông vào cửa hàng không đủ nuôi sáu con ăn học.
 
 Đến tháng 4, 1975, cuộc đổi đời ập đến. Mọi người hoang mang đi hay ở, đi đâu bây giờ? Ở lại chứng kiến kẻ thắng mà ngu xuẩn chỉ biết tàn phá như bầy thú hoang chứ không biết xây dựng, ăn gian nói dối, ức hiếp người ngay thẳng. Đức bàn với mẹ nuôi phải đi tìm tự do mới có tương lai. Bà Viết không chịu đi ngay lấy lý do bố mới nằm xuống chưa đủ trăm ngày, chưa ráo mồ, để ông Viết cô quạnh, không đành lòng đi. Bà cho rằng người ta sống được thì mình cũng sống được.
 
Đức không đành để mẹ và các em ở lại, vả lại không có chàng bà Viết sẽ lúng túng. Bà Viết chỉ biết bán dần đồ đạc nuôi các con. Đức học hỏi ở bà tài tháo vát, buôn đi bán lại, chàng nay như cột trụ của gia đình. Mọi người trong nhà trông vào tài tháo vát may rủi của Đức trong lúc mọi việc kiếm sống mỗi ngày một khó khăn hơn.
 
Trong lúc xông xáo đi mua bán, Đức vẩn để ý tìm đường vượt biên và để dành tiền mua vàng. Dịp may đến khi có phong trào bài Tàu, người Việt gốc Hoa tổ chức nhiều tàu lớn như chiếc Hải Phòng vượt biên, bảo đảm an toàn hơn. Đức bàn với bà mẹ nuôi. Bà Viết lo làm sao nổi mua chỗ cho cả nhà 7 người. Mỗi người phải mất 3 cây vàng, làm sao bà lo được? Cuối cùng còn thiếu bao nhiêu Đức phải làm giấy nợ để khi đến nơi an toàn đi làm trả sau.
 
                              ***
 
Tới đất tạm cư, Đức đứng mũi chịu sào tìm nơi ở, tìm chỗ học cho các em, chỗ làm cho anh Nhân. Chỉ có mình bà Viết ở nhà lo cơm nước. Gia đình thật đầm ấm.
 
Năm tháng dần trôi, anh Nhân lấy vợ và tách ra ở riêng. Các em đã lớn vừa đi học vừa đi làm. Bà Viết vẫn nhắc nhở Đức về chuyện lập gia thất để cho bà yên lòng. Nhiều cô lui tới làm thân với các em gái Đức nhưng Đức chỉ xem họ như các em mình. Đức vẫn thường nói: “Khi tất cả các em tôi có gia dình hết cả, tôi sẽ rời khỏi nhà này, không ai phải lo cho tôi”.
 
Ngày người em cuối cùng lên xe hoa, Đức khuyên bà Viết nên lần lượt luôn phiên ở với các  con ít lâu vui hơn. Rồi  chàng mời tất cả anh em ăn bữa cơm trước khi từ giã. Chàng nói với mọi người, với bà Viết:
 
-Con là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trên đường. May mắn được bố bắt gặp, cưu mang, thương con và không quản vất vả đưa về cho mẹ nuôi. Mẹ cũng thương con như  bố và nuôi dưỡng không phân biệt con nuôi, con đẻ và cũng chẳng bao giờ cho ai biết con là con nuôi. Con biết được điều này từ ngày bố ở nhà thương, trong lúc nửa tỉnh nửa mê bố nói ra con mới hay. Con biết rõ nguồn gốc còn yêu quý và kính trọng bố mẹ hơn nữa.
 
Con học được ở mẹ tính thật thà, tháo vát, học ở bố lòng quảng đại và kiên nhẫn. Lòng vị tha của bố mẹ là tấm gương cho con học làm người. Công ơn nuôi dưỡng con chỉ mong báo đáp được chút nào. Nay tất cả chúng con đã lớn khôn, mẹ không cần phải lo cho con nào nữa. Con biết mẹ chỉ còn thắc mắc về con chưa lập gia đình. Mẹ đừng lo cho con, con đã ý thức phải tạo cho mình một lý tưởng, một mục đích để theo đuổi là tìm đến hạnh phúc chân thật và trường  cửu. Con nhận ra đời này chỉ là nơi tạm gửi, nơi thử thách. Con đã chọn một viện tu. Con xin bái biệt mẹ, chia tay với tất cả anh em.
 
Bà Viết thấy mắt mình nhòe đi. Bà không biết mình khóc vì thương cảm cho đứa con nuôi hiếu thảo hay mừng cho Đức đã tìm được hạnh phúc vĩnh cửu.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 11.11.2022 02:31:20
 
 
 
10-   Niềm Tin
 
 
 
Bà Biền đang lom khom nhổ cỏ vườn, thỉnh thoảng đứng lại đưa tay lên quệt nước mắt trộn với mồ hôi, miệng thở dài lẩm bẩm: Chúa ôi! Vì tội lỗi con hay ý Chúa muốn mà con khổ quá thế này!
 
Năm1953, chưa phát động đấu tố mà khí thế cách mạng vô sản hung bạo rung chuyển bao trùm mọi nơi. Những người có chút ít ruộng nương cũng như những người có nhiều điều lo âu tìm cách cất giấu những gì có thể cất giấu được.Còn những người xưa nay không có ruộng đất chỉ đi làm thuê cấy mướn đều hồ hởi bàn tán bao giờ mình được chia đất, chia nhà, chia ruộng, chia đồ đạc của những nhà giàu, những cường hào ác bá, những người đã cướp của nhân dân làm giầu, theo lời cán bộ nói.
 
Ở thôn quê nhà nào có từ 10 mẫu ruộng trở lên đã bị liệt vào hàng khá giả, có khi trông bề ngoài ai có căn nhà cao ráo sạch sẽ, thêm cái sân lát gạch trước nhà để ngày mưa phơi lúa phơi rơm, dân làng đã đôn lên là nhà giầu.
Có khác gì với nhiều người trong xóm, ông bà Biền bắt đầu gây dựng gia đình với 5 sào ruộng công điền làng chia cho theo ước lệ 3 năm một lần. Cả hai ông bà hiền lành, siêng năng, chịu cơ cực, chịu khó làm hết việc nhà lại đi làm thuê cho người hay hái dâu, nuôi tầm quanh năm không có ngày nghỉ. Mùa này đủ một ít, mùa sau dư thêm ít nữa, “tích tiểu thành đại”, để rồi năm nay tậu một mẫu ruộng, sang năm mua thêm mẫu nữa do sự cần cù, sẻn nhặt mà có, không như những người “bóc ngắn cắn dài”, làm sao có dư để làm giầu, tậu được điền sản.
 
Ông bà Biền đã nghe nhiều người nói: “Cách mạng về sẽ lấy hết nhà cửa, ruộng vườn”. Ông bảo với bà:
 
-Việc gì phải lo, mình ăn ngay ở lành, vất vả, sẻn nhặt mới có. Mình có đi nói dối, lường gạt ai, đè đầu bóp cổ ai đâu. Xóm làng hòa thuận, không để ai phải thiệt vì mình, ai cần đến không nhiều thì ít mình vẫn giúp đỡ mọi người.
 
Nghe ông nói vậy, bà Biền vì tính lo xa vẫn lén lút bán lúa, bán gia súc để có món tiền phòng khi hữu sự.
 
Bình, con trai duy nhất của ông bà Biền gửi học ở tỉnh lỵ Thanh Hóa, viết thư xin phép  bố mẹ gia nhập quân đội quốc gia. Anh không dám trở về nhà, sợ bị cản trở không đi được nữa. Nhận được thư của con, ông bà lo lắng; thương con, bà nhất quyết đi thăm con, cho con ít tiền và ông bà Biền có ngờ đâu đó cũng là ngày vĩnh biệt giữa đôi vợ chồng già. Lặn lội đi bộ từ Quảng Xương tới Thanh Hóa, trên con đường từng quãng bị đắp  mô, bị đào cắt khúc để cản trở địch quân, khi gặp con bà muốn con trở về nhà. Nhưng Bình cương quyết nói:
 
-Má để con đi gia nhập quân đội quốc gia làm tròn nghĩa  vụ trai thời loạn, sống chết theo Thiên ý. Nếu con trở về với bố mẹ, đã chắc gì được ở nhà, có khi con bị chết tủi nhục vì chúng có thể ghép con vào tội làm gián điệp cho người Pháp, vừa bị hạ nhục vừa bị khổ.
 
Bà Biền ở lại chơi với con được ba ngày. Bình phải từ giã mẹ lên xe theo đơn vị. Trước ngày đi, bà Biền dặn con nhắc đi nhắc lại một điều: bất luận làm việc gì cũng phải gìn giữ sự thật thà, và chiến thắng sự thật chính là đức bác ái với niềm tin mãnh liệt vào Đấng Chí Tôn che chở sẽ biến cái họa thành cái may.  “Con hãy tâm niệm, nhớ kỹ lời mẹ dặn khi nhớ đến bố mẹ”.
 
Nhìn theo con cho đến khi xe chạy xa mới trở về. Đi chưa được  mấy bước, chị hĩm Ba, người hàng xóm vẫn được bà Biền hay giúp đỡ, vẻ mặt đầy hốt hoảng, kéo bà vào gốc cây gần đấy, nói sẽ:
 
-Bà không về nhà được nữa đâu. Sau khi bà ra khỏi nhà được chừng 4 giờ, du kích tới vây nhà, họ bắt ông đưa đi. Nhà cửa bị niêm phong, có người canh gác bên ngoài. Họ nói chờ bà về sẽ bắt luôn. Còn ông, qua hôm sau đoàn đấu tố lập tòa án nhân dân kết án ông là địa chủ ác ôn, lại có con làm gián điệp cho Pháp. Sau  khi tuyên án, chúng đã bắn ông tại chỗ.
 
Không nói được câu nào, bà Biền từ từ khuỵu chân đầu gối như rời ra, bà ngã xuống đất. Chị hĩm Ba moi trong túi bà Biền lọ dầu nóng (đi đâu bà cũng đề phòng mang theo) xoa lên đầu, cổ, chân tay. Một lúc sau, bà hồi tỉnh. Chị hĩm Ba đưa bà Biền về nhà trọ quen. Chị nói bà bị cảm cần phải ở lại tỉnh dưỡng mấy ngày rồi sẽ về. Cả hai không dám nói hở việc nhà. Bà Biền nhờ chị hĩm Ba trở về nhà lấy cho bà gói vàng, bạc bà đã cất giấu dưới chuồng heo và nhờ anh chồng chị lo liệu chôn xác ông Biền.
 
Vài ngày sau, chị hĩm Ba đem số vàng bạc còn thừa sau khi chi phí chôn cất ông Biền đưa lại cho bà Biền. Bà Biền chia đôi số tiền và vàng đền ơn chị hĩm Ba một nửa. Chị từ chối không lấy. Chị nói:
 
-Từ xưa đến nay mang ơn ông bà giúp đỡ đã nhiều, chẳng may ông bà gặp cảnh khổ hận, từ đây bà không còn nhà cửa, nơi nương tựa, rồi bà sẽ đi đâu?
 
Không phải đợi lâu, bà Biền trả lời ngay:
 
-Mấy hôm nay, tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Vì ông nhà tôi bị sát hại, tôi không muốn trở về quê nữa, chỉ thêm khổ cực. Còn chút ít tiền đây tôi sẽ tìm vào vùng quốc gia tìm con tôi. Tôi sẽ gặp con tôi.
 
Chị hĩm Ba cũng nói:
 
-Bà về vùng quốc gia là phải. Cháu trở về bàn với chồng cháu sẽ tìm cách vào vùng quốc gia sinh sống. Cách mạng nói rằng sẽ sung sướng, có tự do, bình đẳng mà cháu chỉ thấy người này bị bắt, người kia bị tù, bị giết vì thù oán hay vì có tiền có của, làm mọi người đêm ngày lo sợ, chưa biết lúc nào đến lượt mình.
 
Bịn rịn mãi rồi cũng phải chia tay. Bà Biền là người biết suy tư tuy không có học nhiều. Tâm hồn ngay thẳng, cương quyết, bà tự nghĩ chồng đã bị sát hại rồi còn làm gì được. Đau buồn, khổ lụy chỉ làm cho mình mất sức, dễ đau yếu, đâu có còn ai giúp đỡ. Mình phải tự cứu mình, còn hy vọng tìm con là một nhiệm vụ sẽ phải làm. Gặp được con đời mình còn có mục  đích. Và bà cố gắng không khóc, không than vãn, tìm cách ra Hà Nội.
 
Việc đầu tiên bà tim tới thánh đường cầu xin: “Lạy Chúa xin hãy ban cho con được sự bình an trong tâm hồn để thay đổi những gì có thể thay đổi được. Để chấp nhận những gì không thể được và sáng suốt nhận biết được sự khác biệt những sự việc đó.”
 
Ra khỏi thánh đường bà tự nghĩ: đi đâu, ở đâu, rồi lấy gì mà ăn. Phải tìm nơi quán chợ, gầm cầu ngủ qua đêm, rồi đi làm thuê làm mướn, ăn đói ăn khát mà tự lực, tự trọng còn hơn là đi ăn xin, ăn bám xã hội dù có người quen, người làng, có thể tá túc được. Bà đi tới từng cửa tiệm, từng nhà xin việc làm, bất cứ việc gì có thể làm được, miễn có tiền sống qua ngày. Và một hôm bà được một nhà sang trọng mướn làm công việc trong nhà, có chỗ ngủ.
 
                              ***
 
Một buổi chiều, ông chủ nhà bắc ghế ra vườn ngồi đọc sách. Ông nhác thấy người giúp việc nhổ cỏ vườn có cử chỉ hơi lạ, thỉnh thoảng ngừng tay quệt nước mắt hay mồ hôi, miệng lẩm bẩm nói gì. Ông gọi người đàn bà lại hỏi chuyện. Người giúp việc thưa:
-Tôi tên Biền, quê ở Quảng Xương, Thanh Hóa, tránh nạn cộng sản tìm về miền quốc gia. Việc chính là đi tìm con tôi. Chồng tôi bị xử tử. Chúng buộc là thành phần tư bản ác ôn. Tôi thoát chết vì hôm đó tôi đi Thanh Hóa gặp con tôi. Cả hai mẹ con tôi không tính đến việc sẽ xảy ra. Con tôi nói đến căn cứ yên ổn sẽ viết thơ cho bố mẹ biết. Bây giờ tôi không còn biết con tôi ở đâu mà tìm.
 
Ông chủ nhà hỏi:
 
-Người ta buộc ông là nhà tư bản, bà giầu có sao không đem theo của cải mà chạy người không đến nỗi khổ nhục này.
 
-Thưa ông, người ta buộc như vậy. Thôn quê có căn nhà sạch sẽ, có mấy mẫu ruộng họ cho là nhà giầu, là tư bản. Thực ra hàng năm ăn tiêu rồi có dư chút ít, tôi có phòng bị mua được ít vàng và ít tiền. Khi xảy ra tai nạn, tôi có nhờ được người lối xóm lấy được ít tiền và vàng tôi giấu. Họ có lấy được hết và đưa cho tôi. Tôi chia một nửa mà người hàng xóm  không  chịu lấy. Trong khi đi tìm con tôi, tôi gặp bao nhiêu người túng thiếu, khổ cực, tôi đã chia sẻ cho họ. Bây giờ hết cả, phải kiếm việc làm nuôi thân. Còn việc tìm con tôi, tôi tin rồi cũng sẽ gặp nếu tôi còn sống.
 
-Cảnh khổ của bà thật đáng thương. Nếu hôm nay tôi không hỏi về tình cảnh của bà đâu ai biết bà có tâm sự não lòng như vậy. Bà tới đây cả tháng tôi chưa nghe ai trong nhà này biết về quá khứ khổ cực của bà. Bà không buồn hay sao?
 
-Thưa ông, là người đâu phải gỗ đá, tôi cũng buồn, cũng lo lắng cho đời mình và lo lắng về con tôi hiện giờ ra sao. Nhưng tôi phải tự khắc phục để tìm lấy yên ổn cho tâm hồn trong công việc. Vùi đầu vào công việc cũng chưa tránh được sự xao xuyến, phải tìm nó trong nội tâm là hãy quên những lỗi lầm người ta làm cho mình.
 
-Tôi thấy bà là người hiền lành, biết thương yêu mọi người, biết nhường cơm xẻ áo cho người thiếu thốn mà sao ông Trời ở bất công với bà như vậy?
 
=Không, ông đừng nghĩ như vậy. Tôi tin có Đấng Tối Cao ở trên trời là đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những người lành cũng như kẻ dữ và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Đấng chí công vô tư sẽ biến cái họa thành cái may đời này sẽ nối tiếp đời sau. Tôi đã sống bằng niềm tin.
 
-Như vậy bà không phải là người thôn que. Bà đã có đi học và đọc sách nhiều?
 
-Thưa ông, là người sống ở thôn dã, tôi đi học biết đọc biết viết rồi thôi. Tôi không có được đọc sách nhiều ngoài một quyển Thánh kinh của tôn giáo tôi theo. Tôi đặt niềm tin vào tôn giáo và giữ những điều hay như trong sách đã dậy.
 
-Tôi thành thực phục bà. Đang sống trong tình trạng nghèo khổ cùng cực mà có tinh thần đáng quý hơn cả người khôn ngoan, tài trí mà thủ đoạn độc hại lẫn nhau. Hơn cả người giàu sang, phú quý mà lại lừa đảo, bất trung, hơn cả người uy quyền, thế lực mà lại hà hiếp, hối lộ.
 
                            ***
 
Năm 1954, theo đoàn người vào Nam, bà Biền đã gặp lại người con trai duy nhất đã là một chiến sĩ chiến đấu lừng danh với lòng quả cảm, có tâm hồn vị tha như lòng bà mong ước. Niềm tin mãnh liệt của bà đã biến cái họa thành cái may.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 11.11.2022 22:20:01
 
 
 
11-    Tinh Thần Tự Lập
 
 
 
Trời đã bắt đầu vào thu nhưng còn nắng như mùa hè, lại ít mưa. Lâu mới có được cơn mưa ngắn, nước không đủ thấm làm mềm đất như những năm trước. Năm ngoái nhiều ngày mưa lớn, mưa dai làm nhà nào trồng  rau rất sung sướng, hả dạ vì cây gì cấy cũng dễ sống, lên nhanh không phải tưới nước. Chúng tôi cũng như một số người bạn đồng hương giống nhau ở chỗ nào cũng có vườn, hoặc rộng  hoặc hẹp để cấy các thứ rau  thơm thông dụng, giàn bầu, giàn bí hay mướp, tùy mỗi người một sở thích  và những thứ cây này ít phải chăm bón, tưới.
 
Mỗt buổi chiều đi làm về, ai cũng thích ra ngắm mảnh vườn nho nhỏ, xinh xinh, nhổ cỏ, vun tưới hay ngắt mấy ngọn rau thơm làm đồ gia vị. Còn muốn ăn nhiều những thứ rau khác phải tới mua ở chợ vì vườn nhà trồng chỉ có hạn, không đủ.
 
Nhưng ít lâu nay chúng tôi không cần phải ra chợ để mua rau nữa. Mỗi tuần, ít nhất hai lần, hoặc buổi sáng hoặc buổi chiều, khu nhà chúng tôi có một chiếc xe bán rau đến tận nơi để bán. Xe rau này bán không thiếu một thứ rau nào ở quê nhà mình vẫn ăn. Thôi thì đủ thứ rau: rau muống, rau đay, mồng tơi, cải soong, rau dền, tần ô, cải thìa, cải làn, cải bẹ. Các thứ trái cũng có đủ như bí xanh, bí đao, mướp đắng, mướp hương, khổ qua. Chúng tôi khỏi phải đi chợ xa, mất nhiều thì giờ, lại vừa được giá rẻ vừa được rau tươi. Thật là tiện lợi!
 
Xe rau này do hai ông bà cụ già đưa đến. Họ vừa bán rau vừa thu tiền, lúc nào cũng vui vẻ dễ dãi với khách hàng. Ai muốn mua thứ gì trên xe không có sẵn, cụ ông lấy sổ tay biên tên người khách và hẹn lần sau sẽ đưa tới. Là khách hàng quen, lại thấy ông bà cụ chiều khách vui tính, tôi tò mò muốn tìm hiểu về hai người. Một hôm tôi hỏi:
 
-Nhiều rau thế này, các cụ đi mua lại rồi đưa đi bán hay các cụ trồng lấy?
 
Cụ ông trả lời:
 
-Chúng tôi tự trồng lấy để bán nên mới được giá rẻ. Nếu đưa tới chợ bán buôn cho họ thì nhanh và tiện nhưng không được bao nhiêu. Chúng tôi chở đi bán rong mất nhiều thời giờ nhưng được giá hơn. Các bà mua rau của chúng tôi vẫn được giá rẻ hơn ở chợ và rau tươi hơn.
 
Toi hỏi thêm:
 
-Các cụ tới đây đã lâu chưa? Mà sao đã già, các cụ còn phải đi làm?
 
Ông cụ kể:
 
-Chúng tôi tới đây được hơn hai năm do các con tôi bảo lãnh. Tuy các con tôi không muốn chúng tôi làm việc nhưng chúng tôi thích làm, thích tự lập. Chúng tôi thấy nghề trồng rau  dễ làm, không cần học hỏi gì nên thích hợp cho chúng tôi.
 
Chắc bà muốn biết trước kia tôi làm gì mà bây giờ lại quay đi làm nghề trồng rau? Thú thật với bà, ngày xưa tôi là công chức, sau đi dậy học, cần rau thì ra chợ mua, có bao giờ để ý đến chuyện trồng rau. Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi cũng may mắn các cháu đã lớn cả, chúng tôi bán chác đồ đạc, tom góp cho các cháu đi vượt biên. Chúng tôi ở lại để nếu không may bị bắt, bố mẹ còn ở ngoài lo liệu giải cứu.
 
Rất may mắn, các cháu đến nơi an toàn; sau đấy chúng lần lượt gửi quà về giúp chúng tôi. Vì  vậy ở nhà chúng tôi cũng đầy đủ và sung sướng, lại còn thừa được để giúp họ hàng bạn hữu.
 
Được đi đoàn tụ với các con chúng tôi hết sức vui mừng. Chúng tôi nghĩ các con tôi gửi quà, đồ dùng máy móc đủ tiện nghi về nhà vậy, sang xứ văn minh nhất thế giới này, chúng tôi sẽ còn hưởng đủ sang trọng, tiện nghi hơn như thế nào nữa. Nhưng sang đến đây chúng tôi mới khám phá ra và hiểu rõ. Ở đây, nhà cửa, ăn mặc đầy đủ tiện nghi theo với nếp sống của một nước văn minh, nhưng phải đi làm để lấy tiền cuối tháng trả bill. Tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền xe… Có cái gì là sở hữu vĩnh viễn đâu?
 
Trước kia, các con tôi thường xuyên gửi quà về giúp là do lòng hiếu thảo, phải dè sẻn bớt tiêu mới có, chứ không phải đã có nhiều tiền để gửi về như chúng tôi đã tưởng lầm.
 
Thấy các con đi làm vất vả, chúng tôi tự nghĩ không muốn ỷ lại vào các con khi mình còn có thể làm được gì để giúp con hay ít nữa mình cũng tự túc được. Vả lại tôi tuy 65 tuổi nhưng còn khỏe, minh mẫn. Bà nhà tôi 63 tuy yến hơn tôi nhưng bà ấy cũng không muốn ngồi yên. Thế là chúng tôi bàn nhau nghiên cứu cách tự kiếm việc làm.
 
Việc đầu tiên là tôi phải đi học lái xe. Nguyên các việc không biêt lái xe là đã làm phiền các con tôi nhiều: đi lễ nhà thờ, đi thăm họ hàng, bạn hữu, mua bán, chúng phải chia nhau để đưa chúng tôi đi. Bất tiện hơn cả là khi chúng tôi muốn đi thì các con bận việc, khi có thì giờ đưa đi thì chúng tôi không muốn đi. Lấy được bằng lái xe rồi đi tìm việc mới biết khó vì tuổi tác, người ta chê tuổi cao.
 
Tôi không chê việc gì, có việc là chúng tôi nhận làm, từ việc cắt cỏ đến làm cho các chợ. Bà nhà tôi cũng đi làm: muốn tiện việc cùng đi chung, tôi kiêm được việc lau nhà cho các công sở về đêm. Khi hết giờ tan sở là lúc hai chúng tôi bắt đầu làm tới sáng hôm sau. Được ít lâu nhà tôi phàn nàn phải bỏ đi lể hàng ngày vào buổi sáng, làm thiếu sót phần tâm linh sửa soạn cho cuộc sống đời sau. Vào tuổi già chúng tôi như thế không thể tự tha thứ được. Các con tôi cũng không muốn chúng tôi phải đi khuya về sớm, mất giấc ngủ dễ ngã bệnh.
 
Chúng tôi thôi làm mới nghĩ ra cách trồng rau không cần giờ giấc bó buộc, bán cho người mình để kiếm lời. Sẵn có xe, biết lái nên chúng tôi cứ cách vài ngày lại chở rau tới các đầu đường bán cho các bà. Vừa được rau tươi, lại giá rẻ hơn ở chợ mà các bà đỡ phải tới chợ tìm mua. Làm nghề này chúng tôi ung dung thoải mái không phải phiền đến ai.
 
Các con tôi hay thắc mắc bố mẹ còn phải kiếm sống nên tôi phải giải nghĩa cho chúng hiểu: Các con bảo lĩnh cho bố mẹ, theo luật, bố mẹ chưa được hưởng trợ cấp, các con có bổn phận phải nuôi nấng, khi đau yếu cũng phải trả phí tổn. Bố mẹ thấy các con đi làm về, cuối tháng trả các thứ bill, còn dư giả chút ít cũng phải chia ra tháng này sắm thêm đồ dùng, tháng tới sắm thêm thứ khác. Ngoài ra các con phải để dành cho các cháu sau này lớn lên vào đại học tốn kém, cũng như xưa kia bố mẹ để dành cho các con đi học vậy.
 
Còn điều khác nữa chúng tôi nghĩ trong lòng không nói ra. Nên tránh cho các con tôi nếu dâu hay rể tôi có tính quá dè sẻn, thấy vợ hay chồng phải chu cấp cho bố mẹ tất nhiên sẽ khó chịu. Tuy lịch sự không nói ra ngoài nhưng trong lòng bất mãn tìm cớ gây sự trong gia đình. Đây là một nguyên cớ làm con mình khổ giữa bên hiếu bên tình, có khi vì thế mà tan vỡ gia đình. Vì thế mà vợ chồng già chúng tôi hết sức tránh không muốn làm hay nói điều gì chạm đến tự do hay tổn thương đến tự ái các con.
 
Chúng tôi còn sung sướng hơn ở chỗ đã tự làm ra tiền, còn thừa được bao nhiêu gửi về bên nhà giúp anh em họ hàng bạn hữu, không phải ngửa tay nhờ đến các con. Nếu các con muốn là tự ý giúp thêm thôi.
 
                               ***
 
Nghe hai ông bà cụ già kể truyện thật hấp dẫn, tôi rất phục tinh thần tự lập của các cụ có thừa. Đã giúp coi sóc các cháu, các cụ lại tự trồng tỉa, kiếm hoa lợi để tiêu, lại còn tiền gửi về giúp đỡ những người ở nhà. Hai cụ bán rau kể trên đáng tiêu biểu cho tinh thần tự lập của người Việt mình.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 12.11.2022 23:31:44
 
 
 
12-   Hay Nói
 
 
 
Hay nói cũng là một thứ bệnh, nhiều người mắc phải, đàn ông cũng như đàn bà. Đàn bà nhiều người mang tiếng là ngồi lê mách lẻo, trước thì nói truyện người ta, rồi lân la nói đến truyện của mình, thường thì chỉ khoe cái tốt, cái hay của mình, cũng có người lẩn thân kém trí không đã nói cả truyện xấu của mình, khoe cả truyện “ăn chè” lắt léo đáng khinh, làm cho người nghe phải phì cười, nhăn mặt.
 
Như vậy vẫn còn hơn một bậc, đối với những người đem truyện của người ta ra nói, nếu là truyện có thực, còn có thể tha thứ được, chưa đủ, còn thêm mắm thêm muối, đặt thêm truyện nghi ngờ, đổ vấy cho người mà họ không ưa. Họ cứ theo đà tưởng tượng, mà nói đầu cua tai nheo như nước chẩy qua tai, không biết phân biệt thật hư, rồi cứ thế người này nói với người kia, và câu truyện trước khi tới tai người, đã bị bới đầu thêm đuôi. Nếu một người  nào đó thắc mắc tìm ngược tới nạn nhân, sẽ thấy chẳng có gì đáng nói, vì sự thật đã bị bóp méo.
 
Nói xấu người khác, người ta chỉ biết nói cho thích khẩu, đã không nghĩ tới hậu quả, hay có nghĩ tới đấy, nhưng không kìm hãm nổi cái miệng bẻo lẻo, rồi bị nạn nhân chất vấn, lôi ra phân bua chửi bới, vì bị làm nhục, mang tiếng, thiệt hại tới thanh danh, và người nói xấu có khi bị phản ứng bằng thủ đoạn tàn nhẫn, như một kẻ thâm thù.
 
Có người hay đặt điều nói xấu người khác, hạ người ta xuống tận bùn đen, cố ý để nâng cái tôi lên, tốt hay giỏi hơn mọi người vì ghen những thành công, những việc làm hay của người. Có biết đâu, vì nói xấu người và khoe mình, đã làm cho người bị nghe, vì lịch sự không tỏ ý phê bình, nhưng trong lòng người bị nghe đã nhận xét đâu là sự thực, hiểu dã tâm người đi nói xấu thiên hạ, đã lắc  đầu khinh bỉ mà không muốn nói ra.
 
Cũng vì hay nói, rồi sinh thêm lòng ghen tị, thấy người ta làm ăn giầu có, đi phao vu người ta làm giầu  bất chính, tham lam, lường gạt, lừa đảo, lươn lẹo, buôn bán đong đẩy bán vơi, buôn đồ quốc cấm, bới móc điều xấu tưởng tượng từ dời xa xưa của gia đình người ta, có ý để khách hàng nghi ngờ, hết tín nhiệm, không muốn giao thiệp.
 
Thấy gia đình người ta êm ấm hạnh phúc, cũng nghi ngờ xuyên tạc; như anh chị Lương, hai người đều không làm cùng sở, chồng làm phía bắc, vợ làm phía nam. Anh Lương người đẹp trai, cao ráo, khỏe mạnh, tính tình cởi mở, hay cười hay nói chơi, ai gặp cũng dể có cảm tình, ai nhờ anh việc gì có thể làm được anh liền giúp ngay. Nên trên đường đi làm tới sở, ai không co xe, hay bị hư xe, anh sẵn lòng cho đi nhờ; nên trong sở làm có mấy bà mấy cô lợi dụng tính tốt hay giúp đỡ của anh, đã nhờ anh đưa đi đón về,  nên giờ về nhà của anh chẳng bao giờ đúng, về sớm là lúc ít người nhờ, về muộn là có thêm người nhờ; có người còn lợi dụng tính dễ dãi của anh, nhờ anh đưa đi mua bán, lúc về nhà quá muộn, vừa đói vừa mệt, lại bị vợ càu nhàu, lời qua tiếng lại, đĩa bay bát vỡ là thường. Vì tính cả nể, anh Lương cũng biết người ta lợi dụng, nhưng không nỡ từ chối khi có người nhờ.
 
Khi không làm được việc gì giúp đỡ ai, tâm trạng con người rất khó hiểu, họ sinh lòng nghi ngờ cho rằng hay anh muốn lợi dụng các bà các cô, chứ đâu có phải do lòng tốt, họ bàn tán, gán ghép, xuyên tạc, người khác nghe cho là truyện thật, rồi đồn thổi, một người nói ra, mười người phụ họa.
 
Chị Lương đã không phân biệt được dư luận một chiều, anh Lương nghĩ mình ngay thẳng nên không biện giải, trung thực đấy nhưng không đánh đổ được lòng nghi kỵ của vợ bị ảnh hưởng bởi dư luận đồn thổi. Dư luận độc hại cứ thêm nay một tí, mai thêm một tí làm cho đôi vợ chồng trẻ đi đến xô xát, thách thức nhau.
 
Vì bị ảnh hưởng đời sống quá tự do ở Mỹ, chị Lương cũng kiếm bạn trai đi chơi để cho chồng biết mình cũng không kém gì và trêu tức nhau cho bõ ghét, rồi việc gì đến phải đến, anh chị đưa nhau ra tòa. Anh Lương nói một câu: “Vì dư luận, vợ tôi hiểu nhầm tôi, tôi đành chịu”. Từ đấy một thanh niên yêu đời, vui vẻ anh Lương không còn muốn tiếp xúc với ai nữa, anh đã hạn chế sự giao thiệp với nhiều người.
 
Nhiều ông hay nói, có kém gì các bà, có khi vì hay nói vô tình đã làm tan nát gia đình người ta. Đàn ông đã hay hồ nghi nhất là lại nghe bạn mình nói, dù biết là nói chơi, họ vẫn thắc mắc hồ nghi. Một đôi tân hôn, qua ngày nhị hỉ đã nổi sóng gió, chỉ vì trong bữa ăn cưới, một anh bạn vừa cười vừa nói: “Tưởng cô dâu là ai, chứ cô này tôi đã từng biết cái chưa ai biết”, khi anh bạn nói cái điều vô ý thức, do cái bệnh thích nói, anh đã không lường được việc gieo tai họa cho đôi tân hôn sớm tan vỡ. Đến khi anh biết vì câu nói mà hạnh phúc của bạn đã tan vỡ, thì quá muộn, trong tâm anh từ đây đã mang niềm hối hận, một oán hờn của bạn. Thật lãng nhách vì hay nói.
 
Bệnh hay nói không phải chỉ có giới trẻ mới mắc, ngay những người trông bề ngoài đáng kính, như một số mệnh danh chính khách, có lúc vì nói nhiều, đã sơ hở tiết lộ bí mật, làm thiệt hại đến nghề nghiệp, gia đình và cả quốc gia nữa. Những người chưa làm đã khua chiêng, đánh trống, hội họp tuyên bố ầm ỹ, nói những câu có tính cách đao to búa lớn. Trong những bữa ăn uống linh đình, các vị này trịnh trọng đưa ra những chương trình không tưởng, làm như thiên hạ không ai bằng mình. Đấy là những người không làm nên việc gì, là những người không hiểu rõ môi trường đi tới, có thích nghi được vai trò  mình đóng hay không?
 
Cho nên người ta phải biết quên mình, biết hòa mình vào trong quần chúng, chấp nhận sự may rủi, khi muốn đạt được công cuộc giúp đỡ tha nhân. Khi chỉ biết nói nhiều về cái ta, làm lấy tiếng cho được nổi danh, đó chỉ là biểu hiệu của lòng ích kỷ, cái dục vọng xấu xa đê tiện, kiêu căng khoe mẽ. Những người chỉ nói mà không bao giờ làm, thấy ai làm được còn tìm cách phá phách, ghen tị. Thật là bỉ ổi!
 
Trái lại, những người không bao giờ nói trước, khi làm việc gì có suy nghĩ tính toán, cẩn trọng, tiến tới  vì tổ quốc, vì tha nhân, thương đồng bào đang lầm than đói khổ, sống trong lo sợ, bị chà đạp, bị làm thân nô lệ bị tù đầy muôn phần  đắng cay mà họ âm thầm tìm đồng chí, dám nghĩ dám làm, trở về quê hương những  mong phá đồi bạt núi, trừ loài tàn ác để cứu đồng bào giải phóng quê hương như các anh chị Trần Mạnh Quỳnh, Trần Thị Hương, Lê Thiên Quan, Lê Trọng Quang, Lê Quanh Trình và Bùi Gia Liêm đã dám làm. (trong vụ Bọ Sắt).
 
Các anh hùng trên, tuy không thành công nhưng thành nhân, hành động của các anh chị mới đây ở Sàigòn thật đáng kính, đã được đồng bào tôn vinh, ngưỡng mộ, một gương sáng cho những ai có tấm lòng khắc khoải, ưu tư, mong chóng giải phóng quê hương.
 
Căn bệnh hay nói, nếu muốn chữa, phải biết kìm hãm như cố nhân đã dậy: “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. “Trước khi nói, phải quay lưỡi bẩy lần”, nói những lời đáng nói, cần nói, biết tự trọng, biết giữ phẩm giá, biết phục thiện và nghe nhiều nói ít.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 15.11.2022 01:48:29



13-   Mất Gốc


 
 
Một hôm tôi đến thăm người cháu ở tiểu bang Washington, lâu ngày gặp lại nhau, đôi bên mừng rỡ, trên đường từ phi trường về đến nhà biết bao truyện bên nhà, bên này, kẻ ở người đi, kẻ còn người mất ngậm ngùi tiếc thương.
 
Tới nơi chưa vào nhà đã nghe vọng ra tiếng đàn tiếng hát ầm ĩ, khi người cháu đón tôi vào nhà, đồng thời gọi các con ra chào tôi, chỉ nghe có tiếng “Hi” của cả xấp nhỏ, một hai đứa lớn giơ tay bắt tay tôi, tất cả nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên lạ lùng như một người từ hành tinh nào tới, chính tôi cũng ngạc nhiên nhìn tất cả có bộ mặt xấc láo  khiến người gặp thiếu cảm tình.
 
Chúng tôi ngồi trong phòng khách nói truyện, mấy đứa nhỏ này chạy đi chạy lại nghịch ngợm, hát hỏng, có lúc ngồi vào ghế đối diện với tôi mà chân gác lên bàn, miệng nhai kẹo, tay dở hình coi trong sách, tới khi ăn cơm cũng theo lối Mỹ, ăn bằng dao nĩa.
 
Từ lúc tôi  tới  nhà này, tất cả vợ chồng con cái nói với nhau bằng tiếng Mỹ, trừ tôi không hiểu hết được tiếng Mỹ, nên chỉ có hai người đối thoại với nhau bằng tiếng Việt. Khi tôi muốn hỏi xấp nhỏ điều gì bố nó phải thông ngôn, có thể mấy đứa lớn hiểu và còn nói được ít tiếng Việt, theo lời bố chúng nói vì bỏ lâu ngày không nói tiếng Việt nên chúng quên hết.
 
Khốn thay! Chính bố mẹ chúng muốn chúng phải giống như Mỹ, nghĩa là ăn, nói, cách giao tiếp như người Mỹ. Theo người cháu tôi lập luận: mình tới đây, nhập tịch làm công dân Mỹ nên tập theo phong tục, lề lối ăn ở phải như người Mỹ, vì mình đã nhận nơi đây làm quê hương thứ hai của mình.
 
Hiểu được tâm trạng của  cháu tôi nên tôi nói:
 
-Theo nhận xét của dì, nhân tiện muốn góp ý với cháu, Cả một tập thể người Việt phải đi tị nạn bắt đắc dĩ, phải bỏ lại tổ quốc thân yêu, bỏ lại nhà cửa sự nghiệp, biết bao công của, mồ hôi nước mắt  mới tạo nên được. Đau lòng bỏ lại mồ mả tổ tiên, nhưng vẫn còn một an ủi là tuy mất vật chất nhưng vẫn còn tính thần mang theo là tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, cùng với phong tục nói chung là văn hóa ưu việt của giòng giống Việt Nam mà ông cha chúng ta đã có công gìn giữ, truyền lại từ đời này sang đời khác hàng mấy ngàn năm nay, dù trong thời kỳ đen tối nhất của lịch sử: hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm mất chủ quyền thời kỳ Pháp thuộc.
 
Dù bọn thống trị tàn bạo dùng muôn phương nghìn kế cũng không làm sao xóa nổi nền văn hóa cổ truyền của nòi giống Việt, mình vẫn giữ được phong tục tập quán bằng vào những lời nói truyền khẩu để lại cho từng thế hệ. Phải cố gìn giữ văn hóa Việt, bảo vệ giống nòi Việt và không để ngoại bang diệt được ý chí mãnh liệt của người mình.
 
Chúng ta may mắn đến trú ngụ tại một quốc gia mệnh danh là văn minh nhất thế giớ, giầu mạnh với nền kỹ nghệ tân tiến, được hưởng đầy đủ quyền lợi và so với tất cả tự do như Hoa Kỳ hiện nay, nhưng phong tục tập quán ở đây có nhiều điều tốt cũng như có nhiều điều xấu, dĩ nhiên “nhập gia tùy tục, quá giang tùy khúc”, chúng ta cần phải tìm hiểu, học hỏi cái hay, nên tránh cái xấu, mà trong việc học hỏi cái hay có vẻ khó học, chứ học cái xấu thì lại quá dễ cũng y như bệnh hay lây phải cảnh giác để xa lánh.
 
Chúng ta có trách nhiệm bảo tồn văn hóa Việt, gìn giữ những phong tục tốt của người mình. Văn tự Việt, tiếng nói Việt cần được phát huy và nuôi dưỡng trong cộng đồng nói chung và trong gia đình nói riêng, và dùng nó làm căn bản cho đời sống Việt nơi đất khách.
 
Sau đây là một câu truyện có thực xẩy ra ở tiểu bang Oregon, một ông trước đây là cảnh sát ở một tỉnh gần Sàigòn tên là Đ., sau 5 năm đến định cư ở Mỹ, ông Đ. được tuyên thệ vào quốc tịch Hoa Kỳ, ông liền đổi tên thí dụ như John Smith. Vì là người Hoa Kỳ mới, Đ. bỏ sở cũ và xin sở mới, tại đây cũng có một số người Việt làm, có người đến chào hỏi làm quen bằng tiếng Việt, ông Đ. quay đầu lại, nếu gọi là Đ. thì lờ đi như không phải là mình. Anh em người Việt ở đây cho hắn một bài học bằng cách lại gần rồi nói mánh nói khóe, đào cha, đào mẹ hắn lên mà chửi. Đ. chỉ còn đỏ mặt quay đi và cuối cùng bỏ sở này luôn.
 
Đây chỉ là trường hợp của một người hợm mình, nhưng chính con cháu chúng ta cũng đang ở trong trường hợp này vì đi học trường Mỹ, bạn bè Mỹ, ăn đồ Mỹ chúng cũng tưởng chúng là Mỹ luôn, nhưng tóc chúng vẩn đen, dù cho nhuộm nâu đi chăng nữa, mũi chúng vẫn tẹt, mắt vẫn xếch, làm sao đổi giống được. Đến khi vào đời, xin đi làm, chúng vẫn bị xã  hội này liệt là dân Á Châu, có đi lấy bằng lái xe chúng vẫn bị ghi là giống Á Châu và lúc đó chúng sẽ bị  mặc cảm nặng và ảnh hưởng đến tương lai của chúng. Những con người quá vọng ngoại không còn biết liêm sỉ là gì, không biết hãnh diện về nòi giống của mình, về 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt, cái hay không học chỉ thích học những cái dở của người như vậy thật đáng buồn.
 
Sau khi nghe tôi nói, vợ chồng người cháu chỉ mỉm cười không đáp. Tôi hiểu chúng cho những lời tôi nói không còn hợp thời, không biết hội nhập thăng tiến.
 
Cháu tôi vẫn thường xuống thăm nhưng có một lần, vào một buổi đẹp trời, hai dì cháu bắc ghế ra sân sau ngồi uống trà nói chuyện, tôi hỏi người cháu:
 
-Xếp nhỏ bây giờ chắc lớn lắm, việc làm ăn và học hành của chúng ra sao?
 
Cháu tôi trả lời:
 
-Cách đây 8 năm, hồi đó dì lên chơi chúng còn đang học tiểu học và trung học, bây giờ cháu lớn nhất đã lập gia đình, hai cháu học đại học và các cháu nhỏ học trung học. Cháu còn nhớ dì có nói nhà cháu Mỹ  hóa nhanh quá, không biết rồi sau sẽ ra sao? Có còn là người Việt nữa  hay không, đúng như dì tiên đoán, cháu rất buồn, lỗi ở cháu không suy nghĩ chín chắn, vợ chồng cháu hiếu thắng muốn cả gia đình hội nhập mau chóng thành người Mỹ, nên từ lời nói, cách ăn mặc, giao tiếp từ trong ra ngoài bắt chước người Mỹ không biết phân biệt cái hay cái dở.
 
Tất cả các cháu đi học từ tiểu học đến trung học, chúng đều tự coi mình như những bạn bè người Mỹ của chúng, chúng về kể lại không muốn làm bạn với các người Việt đồng tuổi, cho bọn đó lạc hậu và buồn cười, có vẻ xa lạ không giống những tụi Mỹ bạn chúng nên chúng không chơi.

Hậu quả đến với gia đình cháu là con gái lớn cặp bồ đưa bạn trai về nhà không cần bố mẹ biết bố mẹ có bằng lòng hay không? Nói nhiều thì chúng cho là lạc hậu không giống người Mỹ, rồi thuê nhà riêng ở với bồ và thay bồ như thay áo, cho thế mới là sống theo kiểu Mỹ. Chúng cháu khuyên bảo, nó trả lời thích thì ở với nhau, không thích thì xa nhau, đâu có gì quan trọng, theo như người Mỹ, người ta coi việc bỏ nhau rất thường. Cháu bây giờ thấy nhục nhã và hối hận vì không biết dậy dỗ con cái theo nền nếp của ông cha, lấy nhân nghĩa lể trí tín làm trọng, để đên nỗi nay nó hư thân mất nết, làm nhục gia phong.
 
Hai cháu trai học trên đại học về nhà phàn nàn chúng bị mặc cảm, vì trong lớp học hay có cuộc  mạn đàm, những tụi Mỹ bạn học đều tự hào về dòng giống của chúng, đứa thì nói tới nguồn gốc Pháp, đứa thì gốc Hy Lạp, chúng nói về xứ sở của ông cha chúng trong khi mấy thằng cháu chẳng biết gì mà nói vì chúng nó có bao giờ được đọc sách vở tiếng Việt, có bao giờ được nghe nói lịch sử oai hùng của tổ tiên chúng, và nỗi khổ tâm nhất của chúng là Mỹ không ra Mỹ, mà Việt cũng chẳng ra Việt, nên chúng cảm thấy bị đứng ngoài lề, không gia nhập vào các hội sinh viên Việt Nam vì không biết nói tiếng Việt, chúng cảm thấy thật lạc lõng.
 
Tôi cũng cố tìm lời an ủi cháu và nói cho biết rằng khi dân Việt tị nạn tới Mỹ, ngay những năm đầu chính phủ Hoa Kỳ chủ trương phân tản người Việt đi khắp các tiểu bang cho nhanh theo chính sách trước kia đối với người da trắng mới tới xứ này từ rất nhiều chủng tộc và quốc gia khác nhau. Họ đã đồng hóa những người di cư tới Hoa Kỳ bằng chiến thuật gọi là “melting pot” có thể gọi là nồi súp, nghĩa là người Pháp, Anh, Hy Lạp, hay Ba Lan v.v.. di cư tới Hoa Kỳ chỉ một thời gian họ không còn giữ được danh tính chủng tộc của họ được và đều biến thành người Mỹ, nhưng vì là người da trắng nên việc đồng hòa dễ hơn. Ngược lại khi dân Á châu di cư tới Hoa Kỳ thì  họ lại sống tụ tập với nhau, do đó mới có Chinatown, Koreatown, và Little Saigon. Nên chuyện hội nhập trở nên dễ dàng vì có cả cộng đồng người Việt ở khắp nơi hướng dẩn và giúp đỡ những người mới tới.
 
Cháu tôi là nạn nhân của chính sách đồng hóa  cấp tốc của chính phủ Hoa Kỳ vào thời gian đầu của cuộc tị nạn tới Hoa Kỳ, nhưng bổn phận của chúng ta là phải dậy cho lớp trẻ lòng yêu quê cha đất tổ, một ngày rất gần đây quê hương chúng ta cần bàn tay của chúng để tái thiết lại đất nước đang bị đói khổ, và cũng cần dậy chúng niềm xác tín hãnh diện vào dòng giống oai hùng Lạc Việt.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 15.11.2022 23:15:56
 
 
 
14-   Mê Tín
 
 
Nói đến mê tín dị đoan, người ta nghĩ đến các dân tộc có trình độ bán khai, những miền thôn quê hẻo lánh, ít được tiếp xúc với văn minh khoa học, không nên trách họ còn mê tín dị đoan. Ngay những người ở thành thị, người có học thật đáng trách vì họ không chịu tìm tòi học hỏi, vẫn còn vướng vào truyện mê tín vô lý, đưa đến những hành động dã man, bất công, nhẫn tâm, lại còn bị thiệt hại đến trước mắt.
 
Một bà mua được căn nhà mới, mời thầy biết xem phong thủy đến coi hướng và cách xếp đặt trong nhà  sao cho được làm ăn thịnh vượng, và giữ được ông chồng mà bà mới chinh phục được tuy ông này đã có vợ cái con cột.
 
Ông thầy đi coi nhà trong, nhà ngoài, đằng trước đằng sau, trầm ngâm một lúc thầy phán: “Nhà có hai lối vào, một cửa chính và bên cạnh nhà để xe có vườn, không nên đi của chính, hãy làm con đường nhỏ bên nhà để xe, đục cửa hông nhà làm cửa chính đi vào nhà, trong nhà lò sưởi phải đi từ phòng khách lại phòng ăn, bịt chỗ lò sưởi cũ rồi đặt bàn thờ thổ địa vào đấy.”
 
Gia chủ hậu tạ, cám ơn thầy, lo tìm thợ sửa nhà theo ý thầy đã chỉ dẫn. Làm ăn thịnh vượng chưa thấy, đã mất số tiền sửa nhà, di chuyển lò sửa và đặt bàn thờ thổ địa không đúng chỗ trông kém mỹ thuật dưới con mắt khách tới nhà. Ít tháng sau, bà chủ phải bỏ nhà đi theo giữ chồng mới bị đổi đi làm ở tiểu bang khác. Rồi chẳng bao lâu, người chồng hờ quay về với vợ con, bà đành sống độc thân bất đắc dĩ, không còn nguồn lợi tức nào khác, nên ngôi nhà của bà bị ngân hàng xiết nợ, niêm phong bán đấu giá.
 
Sau đây là một trường hợp khác. Một hôm, chúng tôi nhận được thiệp mời của người bạn mời ăn mừng tân gia, tới nơi gia chủ dẫn khách đi xem nhà, ra vườn trước vườn sau, nhìn vị trí căn nhà ở giữa khu đất, chung quanh nhà trồng toàn cây ăn trái có giá trị như: hồng, lê, cam, táo v.v… chỉ trừ một khoảng đất nhỏ để trồng rau. Ai ai cũng đều tấm tắc khen căn nhà mát mẻ vì chung quanh có nhiều cây lớn, tàn cây che mái nhà, hoa lá xum xue, trên cây các giống chim bay truyền hót líu lo, một cung đàn thiên nhiên, một cảnh thần tiên mơ mộng giữa chốn thị thành, rất hợp cho những tâm hồn thi nhân, những cụ già nhiều tuổi nhàn rỗi ra ngắm cây coi nhìn hoa trái, nghe tiếng chim hót để dưỡng tính tình.
 
Ít lâu sau, có dịp chúng tôi tới thăm nhà bạn vấn an các cụ thân sinh của bạn; tới nơi chúng tôi hết sức ngạc nhiên, một quanh cảnh trơ trọi khác lạ, từ cổng vào tới nhà, biết bao cây ăn trái đều bị đẵn tận gốc,  cũng còn may cho các cây ở đằng sau nhà vẫn còn. Ông bạn cho biết, các cụ đi xem bói, người ta nói nếu để cây ăn trái mọc trước nhà, bao nhiêu lợi lộc tiền vào nhà sẽ bị cây trái chấn hết lộc, nên phải chặt đi.
 
Vì nền kinh tế suy thoái, nạn thất nghiệp gia tăng, ông bạn chúng tôi mất việc, dù cây trước nhà đã chặt hết, một thiệt thòi cho các cụ già mỗi khi nhìn ra trước nhà chỉ thấy ánh mặt trời chói chang chiếu qua khung cửa, còn đâu bóng mát cho các cụ ra gốc cây nhìn những chùm quả sai trái.
 
Trường hợp một gia đình sanh đứa con thứ ba thì cũng thời gian đó ông bố mất việc làm, bà mẹ bèn đi xem bói, thầy bói phán: “Thằng con thứ ba tuổi nó khắc cả bố lẫn mẹ, làm ăn có nhiều trục trặc, sẽ gặp nhiều tai nạn.” Nên thằng bé bị bố mẹ hất hủi, nhưng nó lại là đứa bụ bẫm, thông minh và dễ thương, rồi công việc làm ăn của bố mẹ đều trôi chẩy và phát đạt, nên dần dà thằng bé hết bị hất hủi vì bố mẹ nó đã hồi tỉnh.
 
 Bố mẹ mê tín đi xem bói xem tướng, bị thứ bất nhân lấy tiền xúi dại: gia chủ bị đứa con lộn giống, nó là ma quỷ đầu thai, để nó ở nhà không ra gì, nhiều tai nạn sẽ xẩy ra v.v… Cách đây ít lâu ở Orange County bên California, một bà mẹ bế con bị mù, quá đau khổ thương con, vào hai giờ sáng lái xe  ra xa lộ 22 đặt con giữa đường chờ có xe đi tới, lao đầu vào xe cùng chết với con.
 
Trước 75, một hôm tôi tới thăm người bạn, gặp một em bé rất xinh lễ phép, dáng dấp một nữ sinh. Người bạn cho biết em này mới tới làm được ít lâu, em nói nhà em cũng khá giả bố mẹ em không bắt đi làm, em tự ý xin đi vì biết bố mẹ em tin bói toán lắm, thầy bói nói em ở nhà chỉ mang lại xui xẻo cho cha mẹ, làm khổ cha mẹ, em thương bố mẹ lại tủi thân nên em đi làm, lâu lâu nhớ nhà chỉ về thăm chốc lát rồi lại đi.
 
Trái lại những trường hợp trên, có bố mẹ là những người thức thời thương con tàn tật hơn đưa con khác, một nhà quý tộc có khách đãi cơm bao giờ cũng tự tay dắt người con bất bình thường, ngồi cạnh ông, ông thường nói cháu đã gánh tất cả những cái không hay cho cha mẹ và anh em nó, ông bắt tất cả nhà phải chiều chuộng và yêu quý người con này.
 
Một vị phu nhân sang trọng đi đâu cũng dắt cô con gái đi một bên, em này vừa có tật vừa ngây ngô, bà thường nói tôi  thương cháu hơn những đứa con khôn ngoan xinh đẹp.
 
Mỗi khi họp việc làng người ta thường hỏi đùa ông cựu chánh tổng, hôm nay họp việc làng không thấy bà chị ông đâu? Ông chỉ cười. Mỗi khi có đám giỗ, đám cưới, người ta mời ông chánh tổng phải mời cả bà chị khiếm thị cùng đi với ông, nếu mời một mình không bao giờ ông đi; khi ăn ông xin để bà chị ngồi cạnh để giúp bà chị lấy thức ăn như ở nhà ông hầu bà chị rất chu đáo. Trước khi bà mẹ chết đã trăn trối ông phải trông nom thương lấy người chị chẳng may khiếm thị, ông uốn nắn vợ con ông cũng phải thương yêu người chị bất hạnh này.
 
Ôi cao quý thay! Đáng phục những người có tâm hồn cao thượng, đã hiểu biết, nhận xét bằng lòng với những thân hình bất toàn mà Thượng Đế đã gửi đến cho mình, xem thường những lời chế riễu, chê bai đàm tiếu của người độc ác vô lương tâm.
 
Để những người hồ đồ hay nghi ngờ xin xem Phúc Âm Gioan có chép: Môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: Thưa Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó để nó phải sinh  ra mù lòa vậy? Ngài đáp lại: Chẳng phải tại nó hay cha mẹ nó phạm  tội, song để nơi nó công việc Thiên Chúa được hiển tỏ.
 
Thượng Đế dựng nên vũ trụ, vạn vật muôn loài ở trong một vườn rộng rãi bao la có đủ mầu sắc tốt xấu. Nếu như Thượng Đế chỉ tạo một giống hoa hồng thơm ngát chắc chẳng ai để ý đến vẻ đẹp mùi thơm hoa hồng, nếu không có giống hoa  khác  mầu, không có mùi hay mùi khó ngửi, nếu không có các thứ cây trái chua, chát, đắng, cay, chúng ta mới nhận thấy trái cam, nho, quít, hồng là quý là ngon để chúng ta vừa ăn vừa tấm tắc khen.
 
Nếu mọi người đều giỏi như nhà vật lý học Edison, anh hùng như Napoleon, như đại đế Nguyễn Huệ, còn đâu nữa để chúng ta khen ngọi, cố gắng bắt chước. Có Chung Vô Diệm xấu xa cũng có Tây Thi đẹp tuyệt trần cho chúng ta khen ngợi.
 
Đây là ý Thượng Đế đã an bài. Dù một cái tóc trên đầu rụng xuống cũng do ý Thiên Chúa tác tạo.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 16.11.2022 23:18:38


  
16-   Đố Kỵ
 
 
 
Dù là bạn đồng học cùng học một thầy, cùng đem thân đi cầu công danh ở nước Ngụy, vì bản tính xấu, ghen tài Tôn Tẫn hơn mình mà Bàng Quyên vừa phỉnh nịnh vừa dèm pha nhẫn tâm triệt hạ Tôn Tẫn bằng cách chặt chân để Tôn Tẫn không thể thi thố tài năng. Chưa vừa lòng, Bàng Quyên còn dụ Tôn Tẫn truyền lại sở học về chiến lược, chiến thuật rồi sau đó sẽ thủ tiêu Tôn Tẫn. Trời không bỏ người hiền đức  nên người hầu của Tôn Tẫn là Thành Nhi do Bàng Quyên sai đến để do thám hành động của Tôn Tẫn, đã nói rõ lòng nham hiểm của chủ mình là Bàng Quyên. Trong cảnh cá chậu chim lồng cùng đường chưa biết cách nào để thoát thân, chợt nhớ lại khi từ giã thầy học là Quỷ Cốc Từ tiên sinh có trao cho mình bức cẩm nang lúc tiễn biệt, Tôn Tẫn liền mở ra xem.
 
Đó là một bức lụa mầu vàng, bên trong chỉ viết một chữ “Cuồng”. Tôn Tẫn hiểu ý ngay. Chiều hôm ấy bọn thủ hạ đem cơm đến. Tôn Tẫn đập đổ, tròn mắt nói lớn: “Chúng đem thuốc độc hại ta.” Miệng Tôn Tẫn lảm nhảm chửi rủa mà đôi mắt đỏ hoe, lúc cười lúc khóc. Bàng Quyên còn nghi hoặc, sợ Tôn Tẫn tìm kế đánh lừa, mới sai người khiêng Tôn Tẫn đặt vào chuồng lợn bẩn thỉu. Ít lâu sau Bàng Quyên cho là Tôn Tẫn đên thật, không còn để ý đến nữa. Từ đó, thả lỏng Tôn Tẫn mặc ý ra vào. Ít lâu sau ông Mặc Địch tìm cách cứu được Tôn Tẫn đưa về sinh quán là nước Tề. “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Bàng Quyên đã bị hàng trăm mũi tên ghim vào mình, phải tự rút gươm kết liễu đời mình ở trận Mã Lăng. Lòng ghen tỵ đã làm mù quáng lương tâm, không phân biệt phải trái.

 
                               ***
 
 
Trước năm 1954 tại một làng thuộc miền Trung châu Bắc Việt có hai chi họ Phạm và Trần chênh lệch về chức quyền, giầu có. Chi họ Trần ngày một giầu có hơn, con cháu trong họ đi học, phần nhiều có chức phận trong làng có, hàng tổng có. Tới thời kỳ phân chia quốc cộng đã rõ, những người đàn ông con trai chi họ Trần đều phải bỏ cửa nhà bỏ làng lánh nạn, gia nhập phong trào quốc gia. Chỉ còn lại một cụ già trên 60 tuổi với một số người đàn bà ở lại canh tác  giữ nhà.
 
Trong khi họ Phạm nổi lên một người làm chánh tổng có quyền trong tay. Tên chánh tổng này được dịp phô bày lòng ghen tỵ của y. Theo dư luận người làng từ trước đến giờ cả hai chi họ không có thù oán, tranh cạnh việc gì. Nhưng viên chánh tổng vẩn ghen tức khó chịu vì họ Trần có nhiều người có danh phận, có tiền của hơn chi họ nhà hắn. Nên được dịp chỉ còn ông cụ già trên 60 tuổi là cụ Sáu phải hấng chịu những tích lũy đê tiện của hắn.
 
Y cho đào một lỗ đủ chôn quan tài trong phần đất nghĩa địa thuộc chi họ của y, rồi la lối bị mất trộm  ngôi mả tổ, rồi vu cáo đổ vạ cho ông cụ Sáu là thủ phạm với những lời nhục mạ đê tiện áp đảo với mục đích cả họ Trần phải nhục nhã hàng phục hắn, tạ lỗi với món tiền lớn. Nhưng cụ Sáu đã phản công một cách quyết liệt đưa ra trước pháp luật trong lúc tình thế đã xoay chiều, ban ngày quốc  gia ban đêm cộng sản, mọi người tìm cách tới thành phố Hải Phòng chờ tầu vào Nam.
 
Cũng đúng với câu “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, chi họ Trần và gia đình cụ Sáu vào Nam đã gặp lại những người đàn ông con trai, người nào cũng có danh phận trong hàng ngũ quốc gia, hay còn ít tuổi  trở thành sinh viên. Tất cả chi họ đều làm ăn khá giả.
 
Trái lại tên chánh tổng họ Phạm làm ăn không ngóc đầu lên được. Trong một chuyến xe từ Pleiku về Sàigòn dọc đường bị khám hành lý của viên chánh tổng có ít dây đồng y mua về Sàigòn để bán, bị chức trách nghi là Việt Cộng, y bị bắt tra tấn; sau khi được tha về nhà từ đây y bị khủng hoảng tinh thần cho tới chết năm 1975.
 
Thời nay người ta ghen tỵ trong tất cả các lãnh vực. Bạn làm ăn chắt chiu mua được căn nhà lớn, người ta khó chịu, tìm tòi xoi mói, lấy tiền ở đâu ra? Đi buôn lậu, đong đầy bán vơi, lường đảo mới có thể mua được căn nhà như vậy chứ? Nếu là người buôn bán, người ta kết tội như vậy. Bạn học hành khá có công việc làm tốt, người ta thèm muốn địa vị của bạn mà không thể được vì bất tài, người ta ghép bạn vào hạng hèn chỉ biết cúi đầu nịnh bợ mới có được địa vị đó.
 
 Bạn làm được điều gì tốt được nhiều người biết đến, người ta khó chịu tìm cách phá, phao vu chia rẽ, người ta dùng đủ mọi hình thức để hạ nhau chống báng, thóa mạ, đặt điều bêu xấu nhau bất kể đến những nguyên tắc giáo điều Công bằng, Bác ái, Từ bi và thật tình người ta đã cố quên đi những quyền lợi cộng đồng, vì người ta chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, đã để mất gốc đạo lý thuần phong. Sự băng loại luân lý  đã tràn vào đời sống xã hội. Kẻ bất tài háo danh tìm cách làm nhục người khác để giá trị mình được nâng cao, kẻ gian manh chừng nào lại làm ra vẻ ngay thẳng chừng nấy, cũng như kẻ nịnh khéo léo không khác gì kẻ trung hậu.
 
Người đố kỵ quên rằng càng đố kỵ thì tạo ác càng nhiều, mà ác nhiều dễ bị tiêu diệt. Làm trăm điều lành, tạo trăm điều nhân chưa thấy đâu, chỉ làm một điều ác, phạm một điều bất minh là tai hại đến ngay, và tai hại hơn nữa là đã làm đau lòng xót dạ và mất  niềm tin của những người có thiện chí đang làm hay sắp làm những điều công ích.
 
Chúng ta đã may mắn thoát ách cộng sản tới đất tự do; không có lý dựa vào hai chữ tự do để làm hại nhau, để nói những lời phỉ báng mạ lỵ vu khống không còn nhân tính.
Chúng ta hãy cố gắng thúc đẩy nhau để trở về cái căn cốt tình thần đạo đức, hãy trở về với tình tự dân tộc, yêu thương đoàn kết để xây dựng lại những gì đã băng hoại, đổ vỡ, mất mát, ly tan.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 18.11.2022 01:31:53
 
 
17-   Ghen

 
 
Nói đến chữ ghen có nhiều kiểu, nhiều cách. Ghen bóng, ghen gió, nhẹ nhàng thôi, ghen tức tối quá đến phát điên, phát cuồng. Có khi ức quá đến ngất lịm đi cả giờ, ghen bồng bột phải nói ra, nhẹ thì nói cạnh nói khóe, nói xa nói gần ám chỉ người mình ghen, tệ hơn, đặt điều nói xấu, kéo bè kéo cánh chỉ trích người ta.
 
Ghen gì mà nhiều thế: ghen người ta đẹp hơn mình, giỏi hơn, thành công hơn, giàu có hơn, cửa hàng buôn bán sầm uất hơn, nhà lớn hơn, xe đẹp hơn, ăn mặc trang sức đồ mắc tiền, bất luận thứ gì người ta hơn mình cũng phát sinh lòng ghen. Có khi ghen cả với những người đạo đức có lòng tốt hay làm việc xã hội giúp đỡ tha nhân được nhiều người quý mến, đưa rước, ca ngợi. Đã ghen tất ghét đi với nhau. Có khi ghét cả đến bố mẹ, các con của người hơn mình. Những thứ ghen kể trên có thời gian rồi thôi. Như ở xa ít khi gặp, lâu ngày không ai nói tới, hay nói chán không có người hưởng ứng sẽ thôi.
 
Ước gì những người hay ghen biết giữ bình tĩnh, suy nghĩ một chút hay đặt những người hơn mình làm đối tượng tìm hiểu để kích thích, cố gắng bắt chước tiến tới sẽ bằng hay hơn người thì lúc đó xã hội mới có cơ thăng tiến.
 
Còn thứ ghen ghê gớm, nguy hiểm hơn các thứ ghen kể trên là ghen về tình. Khi yêu không được đáp ứng, ghen với người được yêu. Nhiều người tỉnh ngộ khi không được yêu, cũng khổ chút ít ban đầu rồi đi tìm tình yêu khác, khó gì đâu! Còn một số kém nhận xét đổ ghen tương lên đầu người được yêu, tìm cách gây sự hạ nhục được tình địch, có dịp cho người đàm tiếu chẳng lợi ích gì.
 
Đau đớn hơn là những cặp vợ chồng lấy nhau, yêu nhau, đang sống hạnh phúc nhưng chỉ vì công việc, nghề nghiệp phải giao thiệp với người khác phái, có cơ hội, sẵn môi trường, thêm ma đưa lối quỷ đưa đường đã lỗi đạo vợ chồng. Lòng thủy chung tạm thời cất một chỗ, dấu vợ, dấu chồng, đi ăn chè nên mới có những cuộc đánh ghen, bắt ghen như các trường hợp điển hình ngày xưa. Thời cận đại trong Nam nổi tiếng có cô Quờn đổ xăng đốt chồng, ngoài Bắc ông huyện Trường tham sang bỏ người yêu đã nuôi mình ăn học thành tài bị 18 nhát dao thái thịt. Ở Sàigòn, vụ vũ nữ  Cẩm Nhung bị hủy sắc đẹp vì bị tạt nước cường toan. Còn nhiều cảnh đánh ghen tàn nhẫn có thương tích, kết cục kẻ chết hay bị tàn tật, kẻ vào tù tan nát gia đình không được lợi chút gì mà cái ghen tức vẫn không giải tỏa được.
 
Một nhà cách mạng đầy lý tưởng, yêu nước, yêu đồng bào, trên bước đường lữ thứ tạm thời dừng chân một nơi chốn, gặp nàng, mê nàng. Đi đâu, ở đâu vẫn mang nặng một bông hồng yêu kiều nhỏ bé, dịu dàng, có hồn thơ, lãng mạn, giỏi đàn hát. Nhưng muốn xây dựng với người yêu phải chịu một điều kiện: từ bỏ người vợ cả như ý đàng gái đòi hỏi.
 
Lần này trở về nhà, chàng quyết liệt từ giã người vợ nhà quê mà cha mẹ đã cưới hỏi cho chàng, người vợ mà chàng đã chung sống, yêu vợ cho tới lúc nghe tiếng gọi non sông đành dứt áo ra đi. Quy cố hương, thăm phần mộ, thăm mẹ cha, thưa với song thân và từ giã người vợ vì không muốn dối gạt.
 
Tới nhà, chàng vừa để hành lý xuống cũng là lúc vợ chàng vừa đi làm ngoài đồng về. Nàng gặp chồng mừng mừng tủi tủi lại vừa xốn sang e thẹn. Nhìn người vợ lam lũ trong bộ quần áo phai bạc, rách vá qua mấy câu hỏi thăm lẫn nhau, vợ chàng đã tất tưởi lo cơm nước, thu dọn hầu hạ bố mẹ chồng chu tất.
 
Nhìn ánh mắt cha mẹ vui vẻ về con dâu, chàng khựng lại, trong lòng nổi lên niềm cảm thương ân hận dâng lên trong lòng, chàng hiểu rằng mình có lỗi. Đêm ấy chàng đã xin lỗi người vợ tào khang, nàng chỉ cười không hề lục vấn lỗi chàng ra sao, nàng biết chồng nay đây mai đó khỏi sao có lúc vướng mắc trong lúc cô đơn, đang theo đuổi lý tưởng, nếu nàng tỏ ý ghen dằn vặt, cũng không giữ nổi chồng mà có thể làm cho chồng khó chịu cho rằng vợ mình nhỏ nhen thiếu tấm lòng bao dung và sẽ không còn muốn trở về gặp vợ như thế chỉ có mình bị thiệt.
 
                                   ***
 
Sau ngày 30-4-75 biết bao gia đình đau khổ chia ly, thương nhớ cũng đành cắn răng, chồng đi trước, hay vợ mang con đi trước với hy vọng sẽ xum họp gặp lại nhau ở đất tự do. Chẳng có ai tính trước hay học được chữ ngờ. Một mệnh phụ phu nhân có tài buôn bán vì công việc luôn luôn di chuyển, ông chồng công chức lương đủ ông tiêu xài theo lời ông, bà cũng chiều ông để cho ông hoa lá chút ít không sao vì bà làm ra nhiều tiền, bà chỉ cần người ta nể vì chức tước của ông. Khi chạy nạn bà còn mải lo đi thu tiền, hối ông đem cậu con trai lớn đi trước, bà sẽ đi sau với con gái nhỏ, khi tiễn chân xuống tầu bà gặp bà bạn cùng đi một chuyến tầu, nhưng tự tin còn làm ra tiền đi đâu ông cũng cần  có bà, bà yên trí trở về đi chuyến sau.
 
 Cách mấy tháng sau ông ra phi trường đón bà có cả cậu con trai, em gái ông lại cả bà bạn gái ngang nhiên đứng cạnh ông, bà chưa hiểu ra sao, người em gái ông kéo chị dâu ra nói nhỏ và mời bằng được đưa chị dâu và các cháu về nhà em gái của ông, để gỡ thế bí cho anh, con trai kể lại ở với bố và dì ghẻ đi học về đói bụng gặp lúc dì đi vắng, tới tủ lạnh đã được giấy niêm phong không được lấy đồ ăn, chỉ có ăn bánh mì, cơm nguội uống nước lã. Bà có ngờ đâu trong khi đi công việc vắng ở nhà người chồng cũng là bạn học trước kia đã cùng người bạn gái của bà khéo nói khéo chiểu âm mưu lừa dối bà.
 
Khinh dã tâm của bạn và sự nhu nhược của chồng, bà đặt niềm tin vào các con tái tạo cuộc đời bên các con đã thành công. Ngày cậu con  trai ra trường với bằng bác sĩ y khoa, bà để con trai mời bố đến dự. Ông bố với vẻ mặt ngượng ngập không dám nhìn bà đang hưởng hạnh phúc bên các con đã thành công, bà không nhắc đến việc đã qua, hiểu ông đang hối hận vì tội phản bội vợ con, còn bị hàng ngày cong lưng làm nuôi vợ hai và lũ con riêng của nàng. Cũng là một cách ghen trả thù người chồng bội bạc.
 
                             ***
 
Ở trong tù ai mà không thương vợ nhớ con, mỗi khi được thăm nuôi vui thích không vì có đồ ăn tiếp tế mà còn mong muốn được gặp mặt vợ bây giờ không còn vẻ tươi  trẻ,  đẹp để biến mất đã đổi sang  nét mặt khắc khổ lo âu, đen đủi xấu xa, lam lũ chạy ngược chạy xuôi mới có đồ tiếp tế cho chồng. Lòng ông chùng xuống xót xa, thương biết mấy người vợ trẻ vì lo cho chồng mà thành thân tàn xấu xa già trước tuổi. Ngày ông được về đoàn tụ mừng chưa thỏa, vợ chồng lo xa sợ ông bị bắt lại, bà lại một phen chạy vay giật gấu vá vai đi vay đi mượn cho đủ số tiền mua một chỗ cho ông xuất ngoại trước, cầu mong ông đi thoát hiểm tới nơi tự do đi làm kiếm tiền gửi về để trả nợ và mua chỗ cho mẹ con bà đi sau.
 
Ông tới nơi tự do bình an, có việc làm thảnh thơi, vật chất tiện nghi đầy đủ, nhưng im vắng quá nhớ nhà nhỏ vợ nhớ con thui thủi một mình, trẻ chưa qua già chưa đến, đợi chờ vợ con mỏi mòn con mắt lại thêm tối xem truyền hình, sách báo như khuyến khích phơi bày để kích thích, ở vào nơi thừa tự do thiếu luân lý.
 
Đi chợ đi làm lại hay gặp các bà có trường hợp như chồng còn ở tù, mất tích v.v.., đồng cảnh tương lân, rủ nhau góp gạo thổi cơm chung nương tựa nhau lúc tắt lửa tối đến chờ ngày vợ con, chồng con tới, chúng ta sẽ chia tay, lúc  đầu người ta đều có lòng tốt hiếu tình cảnh nhau, với tấm lòng cao thượng trong sáng. Khốn thay cái ngày xum họp của ông, của bà mong chờ biết đến bao giờ. Xa mặt cách lòng, cái sự yêu thương thuở ban đầu ấy dần dần tàn phai.
 
Không ngờ chương trình đoàn tụ kẻ trước người sau cũng đến lượt và vợ của ông, chồng của bà tới đoàn tụ. Ông cứ ngay thẳng nói cho vợ biết trước ông đang sống chung với một bà. Ông còn bàn tính trong lúc đầu chưa có chỗ dung thân, chưa có công việc phải tá túc với người đàn bà đến sau này vì người đi trước đã có sẵn nhà cửa. Vả lại, ở với người ta ít tình nhiều nghĩa, còn phải nghĩ tới việc trả ơn cho thanh thỏa. Hãy tạm thời ở chung với nhau, ít lâu sẽ thuê nhà ở riêng.
 
Chân ướt, chân ráo mới tới, lạ nước lạ cái, tiếng nói phong tục chưa hiểu ra sao bà vợ cả bấm bụng vui vẻ chịu lép một bề. Anh chồng tham lam này cứ tưởng lâu dần các bà quen nhau thương nhau như ông thương cả hai bà. Nhưng ông không nhớ câu “Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ”. Qua cả năm, bà vợ cả cố gắng học hỏi tìm được việc  làm có thể tự túc. Cái bọc ghen anh ách trong lòng cần được tháo bỏ cho hả hê.
 
Một hôm bà kiếm sẵn con dao thật bén, nấu một nồi nước sôi để sẵn chờ chồng và vợ hai đi làm vừa về tới nhà, bà bưng nồi nước sôi dội vào người vợ hai, người chồng chưa kịp phản ứng đã bị bà cầm dao đâm vào bụng người chồng tham lam, rồi bà ung dung ngồi chờ cảnh sát tới. Người chồng đành nhận hết lỗi tại mình để trả nghĩa, dứt tình, đưa người vợ nhỏ đi biệt phương khác.
 
Nếu bà vợ cả chịu nghe bạn khuyên biết nhẫn nhịn trì chí, khi mình đã tự túc kiếm nhà ở riêng không lệ thuộc vào chồng và vợ nhỏ, dần dà sẽ lôi kéo bằng êm đềm nhỏ nhẹ nhắc  lại mối tình thơ lúc ban đầu nghĩa tào khang, vợ cái con cột rồi có lúc chàng hiểu không thể tham lam mãi được phải dứt khoát mới có hạnh phúc gia đình mãn đời.
 
                             ***
 
Một số người đã ghen một cách khôn ngoan, có lợi kể cả các ông và các bà. Khi biết vợ hay chồng đã chia sẻ tình yêu, dối gạt mình, ai mà không đau khổ muốn lục vấn, chửi bới, đánh đập cho bõ tức, nhưng họ kịp thời chịu đựng nhẫn nhục, thứ nhất để bảo vệ hạnh phúc cho con,  giữ được thanh danh, cứu vớt lấy người yêu chẳng may sa ngã. Đã biết chắc chắn vợ hay chồng đã phản bội mình, nhưng cứ giả tảng như mình không hay biết. Vì người có tội bao giờ cũng sợ người lòng ngay. Hãy đem tấm lòng cao thượng đối xử lại, chiều chuộng, yêu quý, săn đón hơn, lo dậy con cái, chu toàn nhà cửa phải ngăn nắp, sạch sẽ, tạo dịp nói chuyện với vợ, chồng thật vui vẻ.
 
Bàn bạc dự tính công việc làm ăn có vẻ phấn khởi, cần nhất kiểm soát tài chính liệu cách nắm giữ một cách khôn khéo. Ngoài giờ đi làm hay công việc gì cần còn phải đi sát với vợ hay chồng, đừng để họ tạo cơ hội đi hay ở một mình… Chỉ một thời gian có một lúc chồng hay vợ cảm thấy tấm lòng bao dung cao thượng của chồng hay của vợ, sẽ xấu hổ nhìn lại tình nhân của mình đã chỉ là hạng ăn chơi sa đọa, lợi dụng tình, tiền thật bỉ ổi, chỉ khéo nói, khéo mơn trớn phơi trần bộ mặt xấu xa làm họ tởm lợm, hối hận biết ăn năn tội quay về quỳ xuống dưới chân chồng hay vợ xin lỗi xin tha thứ.
 
Sự khôn ngoan rộng lượng chỉ thiệt một tí nhất thời nhưng rồi sẽ giữ được thế thượng phong, giữ được hạnh phúc bền vững, các con không bị thiệt thòi xấu hổ về cha mẹ chúng.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 18.11.2022 22:54:00
 
 
18-    Nước Mắt Chảy Xuôi
 
 
 
Ở Việt Nam, hầu như ai ai cũng nói muốn đi Mỹ, vì sinh sống dễ dàng, cho Mỹ là nơi tiền rừng bạc bể, đời sống đầy đủ tiện nghi, Mỹ có nhiều cái hay nhất thế giới, được tự do ăn chơi sung sướng.
 
Trên thế giới biết bao nhiêu người mong mỏi được di cư vào Mỹ, nhập cảnh công khai hay đi lậu, mỗi năm hàng mấy trăm ngàn người Mễ hay Nam Mỹ vượt biên giới trốn lậu vào Mỹ, hàng trăm người Tàu phải trả mỗi người mấy chục ngàn Mỹ kim để vượt biển trong bốn, năm tháng giời trên những con tầu chở hàng cũ kỹ, bị Hải quân Mỹ bắt ngoài khơi Mễ Tây Cơ và bị trả về nước.
 
Mỗi năm người ta chờ có cuộc rút thăm của Sở Di Trú Hoa Kỳ, trông vào sự may mắn hi hữu được vào nước Mỹ như người trúng số độc đắc, thế mới hiểu được vào đất Mỹ không phải là dễ, còn biết bao thuyền nhân còn đang chờ đợi ở trại tỵ nạn, mong muốn được chấp nhận cho nhập cảnh vào đất Mỹ.
 
Theo nhận xét chung của một số người, việc được nhập cảnh vào đất Mỹ rất thích hợp cho những người trẻ tuổi có tinh thần cầu tiến, muốn học hỏi và nghiên cứu về kỹ thuật, khoa học tân kỳ cũng như huấn nghệ của Mỹ, vì họ sẽ có phương tiện và được chỉ dậy đến nơi đến chốn và rất tận tình, sự ước muốn học hỏi của giới trẻ này rất chính đáng và đáng khen ngợi.
 
Từ sau ngày Sàigòn thất thủ năm 1975 đến nay, gần một triệu người Việt Nam đang sinh sống ở đất Mỹ, chúng ta tới xứ này qua các chương trình tị nạn cộng sản, chương trình đoàn tụ gia đình, chương trình Mỹ lai, và hiện nay chương trình H.O. (Humanitarian Operation) cho các tù nhân trại học tập của cộng sản. Đối với các cộng đồng khác ở Hoa Kỳ, cộng đồng Việt Nam đoạt được nhiều  thành công nhất trong vấn đề hội nhập vào xã hội Mỹ, kể cả việc giới trẻ thành công tột bực trong ngành học vấn cũng như trên thương trường.
 
Khi còn ở quê nhà trước đây, qua sách vở, báo chí cũng như được tiếp xúc nhiều với người Mỹ, chúng ta cũng được biết qua về đời sống ở Hoa Kỳ, và không lấy gì làm xa lạ lắm, nhưng trong những năm đầu của cuộc đời tị nạn, biết bao những tin đồn thổi về đời sống của dân tị nạn ở đây làm cho người trong nước quá ư xôn xao, vì những tấm hình chụp một ngôi nhà trông có vẻ hết sức tráng lệ đối với con mắt người Việt ở trong nước, và dân tị nạn khoe mình là chủ nhân, rồi lại cảnh đứng bên cạnh một chiếc xe trông thật láng cóong và bắt mắt, nói rằng xe của tôi đấy.
 
Người bạn của chúng ta nói đúng sự thật, vì đúng anh ta là chủ nhân của cả nhà lẫn chiếc xe, nhưng có một điều anh ta không biết nói hết là chiếc xe nhà như biệt thự đó còn phải trả tiền hàng tháng trong 15 hay 30 năm nữa, cũng như chiếc xe đẹp không kém xe của Tổng thống Thiệu trước kia, nhưng còn phải trả tiền hàng tháng 3 hay 4 năm nữa.
 
Ông bà cụ Tham từ trên máy bay bước xuống đã có bao nhiêu người đứng đón, con cháu, họ hàng, bạn hữu xúm xít hân hoan; những con mắt trìu mến nhìn không chớp, những bàn tay nắm lấy, ôm lấy nhau không muốn bỏ, người này hỏi, người kia nói, không kịp trả lời. Những chiếc xe hơi đi đón, chu choa sao đẹp thế! Ngồi dựa vào ghế bọc nhung, bọc nỉ êm ái dễ chịu mát mẻ, nhìn ra ngoài hai bên đường xe chạy ngược xuôi vun vút, nhà cửa đường xả rộng rãi sạch sẽ như lau, cái gì cũng lạ mắt.
 
Về tới nhà bước vào trong  phòng khách, một bình hoa đồ sộ, to đẹp, trên bàn ly tách bày sẵn với các thứ nước ngọt đủ các màu tím, trắng, đỏ, các cụ chưa quen, qua màn giải khát, đi xem nhà, các cụ tấm tắc khen sang trọng quá, đưa tới phòng ngủ dành cho các cụ, chiếc giường nệm trắng  mới tinh, rồi màn cửa mầu cửa mầu vàng, tường sơn màu xanh lơ, các con đã dành cho bố mẹ, cái gì cũng mới lạ, các cụ sững sờ nhìn. Một bữa ăn thịnh soạn mừng ngày đoàn tụ có đủ anh em, bà con thân thuộc, bạn hữu ở các nơi xa tụ về, ăn uống, chúc mừng, hàn huyên đủ truyện bên nhà và ở đây, rồi ai nấy giải tán trở về để ngày mai còn đi cầy, đi làm.
 
Trước khi đón hai cụ tới Mỹ, các con trai gái hội ý thuê sẵn căn chung cư để các cụ ở và chia nhau phụng dưỡng và thăm hỏi mỗi ngày về chiều sau khi đi làm, hai ngày cuối tuần cũng lần lượt thay phiên nhau đưa bố mẹ đi chơi, đi lễ nhà thờ, đi ăn hiệu, đi shopping, muốn mua sắm tùy thích các con trả tiền, nhưng các cụ vẫn kêu buồn.
 
Mấy tháng sau, người con trai nói không thể góp hơn, ngoài số tiền góp trả tiền nhà, và đề nghị các cụ về ở chung với anh ta, để dành số tiền thuê nhà gửi về. Cụ ông không thèm trả lời lại phán thêm: “Bố cần 5000 Mỹ kim gửi về cho thằng cháu đích tôn cưới vợ.”  Cụ gọi điện thoại cho ba cô con gái ở các tiểu bang khác bảo phải gửi tiền về cho  cụ: cô thứ nhất gửi  về 100 Mỹ kim, nói mới bị thất nghiệp, ông bố chê ít nói: “Đồ bất hiếu, đừng có về nhìn mặt tao”.  Cô thứ hai gửi cho bố 500 đồng, ông bố chê ít nói: “Mày đi làm mỗi  tháng  bao nhiêu mà gửi ít như vậy.” Cô gái thứ ba chưa kịp gửi, nghe tin bố chửi hai chị cũng ớn vì buôn bán ế ẩm, chẳng dư được nhiều, lây đâu mà gửi, rồi cũng bị bố gọi điện thoại nói: “Nữ sinh ngoại tộc là đúng, bố mẹ còn trông mong gì!”
 
Rồi hàng tháng, ông bố vẫn điện thoại  bắt các con góp tiền vì thơ bên nhà gửi sang, con này mua nhà, con kia sửa nhà, ông anh đau, bà em phải vào nhà thương, cháu này cần chiếc Honda, cháu kia thiếu xe Cúp. Cụ không cần biết các con cụ đang lo mất việc lấy gì mà trả  bill, các cháu vào đại học, không đủ tiền trả học phí phải đi vay, con trai và con dâu cãi nhau om xòm, gia đình có thể tan vỡ vì các món tiền phải cung ứng cho bố mẹ.
 
Một câu truyện khác là ông anh phàn nàn với các em, vì gia đình mình không đi được  hết, ở nhà còn chị, mấy em đã lớn, tưởng đón được bỏ mẹ sang đây xum họp, đỡ lo cho bố mẹ lúc tuổi già. Bây giờ các cụ kêu buồn, hết nhớ nhà, nhờ các con còn kẹt lại, phàn nàn rầu rĩ hết ngày này sang ngày khác đòi về, anh em phải dè sẻn, dành dụm để có tiền cho bố mẹ về thăm nhà; ở nhà chẳng được bao lâu, hết hạn thông hành, lại phải về Mỹ.
 
Được mấy tháng  các cụ lại đòi về, vậy lấy đâu ra tiền cho các cụ về chơi luôn mãi; mỗi lần về, tiền vé máy bay khứ hồi, lại còn tiền đưa về giúp những người ở nhà, mà đưa ít tiền các cụ giận dỗi, người con nói: “Biết thế này, thì không dám đón bố mẹ sang đây, mà cứ gửi tiền về để các chị em phụng dưỡng bố mẹ, như vậy các cụ tiêu sướng hơn ở Mỹ.”
 
Còn mấy trường hợp khác, đón được bố mẹ tới xum họp được ít lâu là gia đình người con tan vỡ. Các nhân vật này đã không tiên liệu được rằng: một số người bị kẹt ở lại sống với cộng sản, vì tình trạng thiếu thốn, phải tranh đấu để sống, đã bị nhào nặn từ tâm hồn đến thể chất, cách nghĩ, lời nói khác trước.
 
Nhiều cụ khi tới đây, mang theo cách sống, nề nếp phong tục như khi ở nhà xưa kia, có cụ tới hôm trước hôm sau đã xem xét hỏi han ngay về chi thu trong gia đình các con, thậm chí còn đòi các con tòng phục như các con khi còn nhỏ, những người con quá hiếu thảo, muốn chiều ý bố mẹ, lại chạm vào quyền tự do của vợ hay chồng, do đó mới một số gia đình có thể đi tới tan vỡ, chờ cho đến lúc các cụ hiểu ra, đã không kịp cứu vãn được hạnh phúc cho gia đình các con.
 
Một số các cụ thức thời, tính tình dễ dãi, thương con, không muốn phiền các con, các cụ tự động dành công  việc gì có thể làm được giúp các con, không đòi hỏi, không nề hà, không phân biệt con dâu, con gái, con trai, con rể, chỉ mong gìn giữ hạnh phúc cho các con là hơn cả.
 
Các cụ đã ý thức nối tiếp được tinh thần cổ truyền, như xưa các cụ đã dựng vợ gả chồng cho các con xong là các cụ bàn tính về hậu sự. Xã hội mình là xã hội nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, ăn tiêu còn dư dả, chỉ biết tậu ruộng, tậu vườn, tùy nhà giầu có, khá giả, các cụ đưa tích sản ra phân chia, quan trọng hơn là phần để lại dưỡng thiệm. Phần hương hỏa được lấy ra 1/20; phần dưỡng thiệm lấy 1/10 của tích sản, còn lại mới chia cho các con, trai hai gái một, nhà đất nơi bố mẹ đang ở về phần con trai.
 
Khi viết chúc thư, bố mẹ và các con đều ký tên ở dưới, người nào không biết viết thì điểm chỉ, bố mẹ sẽ cất chúc thư này đi, tới khi bố mẹ chết mới chiếu theo chúc thư thi hành việc phân chia, lúc đó các con mới được làm của riêng; cũng có trường hợp tích sản được phân chia trước cho các con nhưng phần dưỡng thiệm và phần hương hỏa, bố hay mẹ còn sống vẫn hưởng dụng; về phần dưỡng thiệm ông hay bà muốn giao cho con hay cháu canh tác lấy hoa lợi phụng dưỡng hay bán đi tùy ý, còn phần hương hỏa sẽ thuộc về người con trai cả rồi sẽ truyền lại cho cháu đích tôn, không ai được quyền bán phần hương hỏa vì phần đó hàng năm được dùng để sinh lợi lấy tiền cúng giỗ và sửa sang phần mộ.
 
Sỡ dĩ xua kia các cụ để phần dưỡng thiệm lại trước khi chia phần cho các con, vì không muốn phiền đến con phải nuôi dưỡng hay muốn ăn tiêu gì thì tùy ý,  con nào khéo chiều hơn, các cụ sẽ ở với. Nhưng ở đất Mỹ này, hiển nhiên là các cụ cũng muốn lo xa, khi tuổi già sức yếu bệnh tật, nếu không phòng xa, phải phiền đến các con, dĩ nhiên các con hiếu thảo và cũng là bổn phận phải phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, nhưng tránh sao khỏi có sự bất đồng ý kiến hay thiếu sót vụng về của nàng dâu, chàng rể, làm cho các cụ đau lòng, chưa kể gặp phải ở với hạng người này mà không có của, thì phải làm lụng, lo dọn dẹp, nấu cơm, coi cháu như người làm không công, đến lúc đau yếu, không còn làm được công việc gì nữa, không hiểu những người con này sẽ đẩy bố mẹ đi đâu?
 
Cho nên khi các cụ đến ở xứ Mỹ này, phải lo cho đủ giấy tờ, lãnh được tiền già, và có thể sống tự lập không phải nhờ đến con cái.
 
Đối với các cụ mời tới, tiếng nói chưa biết, chưa hết hạn bảo lãnh, tiền già chưa được lãnh, nếu gặp phải cảnh không nhờ được con cháu thì phải nhẫn nhục cho qua ngày. Ca dao có câu: “Mẹ thương con biển hồ lai láng, con thương mẹ kể tháng kể ngày” và nước mắt chỉ có chảy xuôi, nước mắt chảy ngược thì hiểm lắm thay!
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 20.11.2022 23:56:49
 


19-    Tâm Hồn Đẹp Xưa Và Nay

 
 
 
Nói về sắc đẹp ai cũng thích cũng mê, từ cổ đến kim có biết bao văn sĩ, thi sĩ viết về cái đẹp, làm thơ ca tụng sắc đẹp; những áng văn hay những bài thơ tuyệt bút với chủ đích ca tụng sắc đẹp của người phụ nữ như cụ Nguyễn Du tả về hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
 
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành..
 
Quan niệm về sắc đẹp mỗi người có con mắt thẩm mỹ riêng: đẹp lành mạnh, đẹp ẻo lả, nước da trắng xanh, nâu hồng, bánh mật hơi đen, người cao, thấp, lớn, nhỏ, dáng đi khoan thai, nhanh nhẹn… cộng với sự ăn nói khéo léo, biết chiều chuộng người, đấy chỉ là những sự nhận xét hời hợt bên ngoài.
 
Hiếm có những người vừa đẹp vừa tài hoa, thực sự mấy ai thoát khỏi câu “Hồng nhan bạc mệnh” như Ngọc Hân công chúa. Quỳnh Như tiểu thư… để lại ngậm ngùi thương tiếc cho những ai nhắc tới.
 
Trong bất cứ những buổi hội họp đông người nào, khi có người đẹp tới thì tất cả mọi người đều để ý tới, bắt kể già trẻ, nhiều ông, nhất là thanh niên đeo theo người đẹp để làm quen, để được nói chuyện cho như vậy là hân hạnh, để rồi được chiều chuộng, sẵn sàng chờ người đẹp nhờ cậy và sai bảo!
 
Biết mình đẹp được nhiều người để ý và theo đuổi, nhiều cô lại càng lấy điệu, làm kiêu làm bộ, khó dễ với những anh chàng không có tài nịnh bợ, kém bộ mã bên ngoài, không giầu sang, kém địa vị. Nhiều chàng trai vì quá si mê, cầu cạnh rước được người đẹp về làm vợ, mà không có những nhận xét trước về đức tính của mình để chỉ biết ăn chơi phung phí, ích kỷ, đua đòi và có nhiều người ham mê cờ bạc đến nỗi phá tan gia tài, hết tiền xui chồng làm bậy để lấy tiền đi đánh bạc nữa và đã có trường hợp, người chồng vì quá thất vọng và phẫn uất nên đành tự vẫn.
 
Những người tính tế nhận thấy cái đẹp phải phát xuất tự tâm hồn ra sắc diện: hồn nhiên, tươi vui, lễ độ, hòa nhã, biết lui tới, biết giúp đỡ người kém mình, thẳng thắn không a dua, xiểm nịnh, không phô trương, chỉ tiêu biết tùy gia phong kiệm.
 
Ở đời nhân vô thập toàn, những người đẹp về tâm hồn mà trong tứ đức được ba: Công, Ngôn, Hạnh, về Dung có phần kém nhiều hay ít. Buồn thay cho các người này, chẳng may gặp phải người chồng chỉ biết nhìn vẻ đẹp bề ngoài mà quên và coi thường đức tính người vợ.
 
Phạm lỗi bất trung, nhiều ông chỉ muốn thỏa mãn quyền làm chồng, không ly dị, nhưng coi người vợ không nhan sắc như một công cụ chỉ biết sinh con đẻ cái, lo việc cửa nhà và hầu hạ chồng con; tệ hơn nữa, nhiều ông chồng coi người vợ không xứng đáng đối với mình khi ra khỏi nhà.
 
Các bà vợ đáng quý này, không phải là không hiểu sự khinh khi của người chồng, họ tự ái không nói ra, không phàn nàn phản kháng tích cực, họ muốn được êm cửa êm nhà, giữ cho con cái hưởng cuộc sống thanh bình trong tuổi ấu thơ, họ nhẫn nại mong người chồng hãy có dịp so sánh nhận ra đức tính của vợ như trường hợp ông Hứa Doãn, thời xưa vâng lời cha mẹ lấy phải người vợ không nhan sắc và có thể gọi là xấu.
 
Sau khi đậu tiến sĩ, một hôm ông ngồi chơi nhìn bà vợ một lúc, đâm ra bực mình, hất hàm hỏi “kháy” vợ với một giọng đầy bực tức khinh bỉ “Đàn bà có bốn đức, bà có được mấy đức?” Nếu phải người khác bị chạm tự ái, chắc đã xẩy ra to chuyện, nhưng bà vợ vẫn dịu dàng, lể phép trả lời như sau: Thưa lang quân, đàn bà có bốn đức: công, dung, ngôn, hạnh, thiếp nay chỉ kém về dung (nhan sắc) mà thôi. Nhưng, thưa lang quân, thiếp nghe kẻ sĩ có 100 hạnh, dám hỏi lang quân được mấy hạnh?”
 
Hứa Doãn hết sức ngạc nhiên thấy tài ứng khẩu của vợ, lại càng phục tính điềm đạm của bà, ông hối hận về thái độ bất nhã của mình.
 
Nhưng đã trót lỡ nên cũng phải đáp: “Kẻ sĩ có trăm hạnh… tôi có đủ cả trăm”. Bà vợ nhìn chồng tủm tỉm cười và trả lời: “Trăm hạnh của kẻ sĩ thì chữ Đức đứng hàng đầu, thiếp thấy lang quân hiếu đức không bằng hiếu sắc, sao lại bảo có đủ cả trăm?”
 
Hứa Doãn cảm thấy câu nói của vợ có lý, ông cả thẹn và lảng sang chuyện khác. Từ  đó ông tìm thấy ở bà vợ mình có nhiều đức tính đẹp.
 
Khi ông ra làm quan, bà cùng giúp chồng trong công việc trị dân, đến đâu dân tình cũng sợ oai ông nhưng mến đức của bà. Từ đấy tuổi càng cao, ông càng trọng bà như người khách quý vậy.
 
Ông Tú Xương, một thi sĩ thông minh tột bực, văn hay chữ tốt, chuyên làm thơ văn quốc âm. Tính tình hào phóng, cầm kỳ thi họa ông đều thông thạo cả, nhưng vì tính ngông nghênh, bướng bỉnh  nên bao lần đi thi, ông đều bị đánh hỏng nên sống đói nghèo nàn, nhưng nhờ bà vợ hiền nội trợ, giỏi dân, đảm đang, quán xuyến tất cả công việc của chồng. Thi sĩ nhờ đó mà vẫn sống nhàn nhã dù trong cảnh nghèo túng. Cảm thương người vợ hiền, ông đã bộc lộ trong lời thơ:

 
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
 
 
 
Hỏi đời có mấy vợ chồng được như ông bà Hứa Doãn, như hai cụ ông, cụ bà Tú Xương, biết sống đức độ, biết nhường nhịn thương yêu nhau, nhất là biết trọng cái đẹp trong tâm hồn, biết hợp tác, biết đề cao, biết thán phục phẩm giá đức độ của vợ mình, của chồng mình.
 
Gia đình nào được người cha đáng kính, người mẹ đáng phục như trên thì đây là cả một bài học luân lý, giáo dục thực tế bằng gương sáng của bố mẹ để cho các con noi theo.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 22.11.2022 01:17:15
 
 
 
20-   Tu Là Cõi Phúc
 
 
 
Bà Thành dừng xe trước cửa, vào nhà gặp bé Liên, bà hỏi:
 
-Anh Thăng đâu con? Mẹ cần anh khuân đồ vào cho mẹ.
 
Bé Liên trả lời:
 
-Thưa mẹ, anh Thăng còn đang khuân đồ giúp bà Rose. Để con đi gọi anh về. Anh vừa giúp ông John kê bàn ghế xong lại chạy sang giúp bà Rose.
 
Thăng có tính hay giúp đỡ mọi người từ khi còn nhỏ. Bất luận ai nhờ việc gì, có thể làm được. Thăng vui vẻ giúp liền. Vì vậy hàng xóm hay nhờ đến cậu, ngày cuối tuần, các ông bà đi chợ, mua đồ, cần khuân vác, đều nhớ đến Thăng. Không người này nhờ thì người kia gọi, ngày nghĩ  ít khi Thăng được đi chơi. Mẹ và các em trong nhà phàn nàn: “Có ai bắt buộc đâu? Có ai trả tiền đâu? Cứ ăn cơm nhà vác ngà voi!”
 
Thấy con dễ tính, tốt bụng quá, bà Thành phải dặn cả nhà nếu có ai hỏi Thăng phải trả lời Thăng đang bận hay đi vắng, để cho Thăng học bài, nghỉ ngơi, người ta lợi dụng Thăng nhiều rồi!
 
Thăng học giỏi, đẹp trai, khỏe mạnh, ít nói. Từ khi lên đại học Thăng bị các cô bạn gái tấn công, đi chơi chung hay tìm dịp để nhờ Thăng đưa về. Tính cả nể, giúp người làm Thăng  khó từ chối. Trong số này có Lan hay đòi Thăng đưa về một mình, rồi tìm cách yêu cầu Thăng đưa về nhà giới thiệu với bà Thành và các em.
 
Lan sau đó hay lại nhà Thăng chơi luôn và thân với Liên, em Thăng, Lan xinh đẹp, khôn ngoan gây cảm tình nhiều với mẹ và các em Thăng, họ thường giữ Lan ở lại ăn cơm. Thăng trái lại mỗi khi Lan lại chơi thường tìm cớ vào phòng đóng cửa lại học, có việc gọi mới ra.
 
Trong bốn năm học dự bị y khoa, cuối tuần nào Thăng cũng phải chờ Lan về nhà. Hôm sau Lan đã có mặt tại nhà Thăng chơi với Liên. Các em đòi đưa đi chơi chung với Lan, Thăng đều kiếm cách từ chối, viện cớ học bài hay phải đi tham gia công tác xã hội, không có thời giờ.
 
Đến hè, Thăng không về nhà. Nói phải tìm chỗ yên tĩnh để học. Thăng tới xin ở trong một tu viện. Có ai biết đâu Thăng đã hướng về tâm linh, tìm hiểu những nguyên lý sâu xa. “Đời sống trăm năm của con người, so ra có nghĩa lý gì với sự đời đời. Thân xác có nghĩa gì khi cát bụi lại trở về với cát bụi”.
 
Khổ nỗi Thăng là con lớn trong gia đình, còn nhiều em. Bố mẹ đi làm nuôi các con ăn học, sợ tuổi già sức yếu, trông vào Thăng để lo tiếp cho các em. Thăng biết vậy, cố sức học hành để làm vui lòng cha mẹ. Chàng tâm niệm phải lấy xong bằng bác sĩ y khoa để cha mẹ yên tâm và có phương tiện thực thi lý tưởng sau này.
 
Lan không nản lòng với sự thờ ơ của Thăng, chỉ coi Lan là bạn của em gái mình, không hơn không kém. Liên quý Lan, muốn Lan là chị dâu mình nên tìm cách khen Lan đẹp, hiền, ngoan. Nhà Lan giầu, có tiệm vàng lớn, Lan thường biếu Liên những đồ trang sức đánh giá. Liên có lần nói với Thăng:
 
-Anh Thăng ơi! Anh lấy chị Lan em không phải nghĩ ngợi gì với quà chị Lan cho em nhiều quá đây!
 
Thăng không bằng lòng nói:
 
-Em không nên lấy quà của Lan! Nhà mình nghèo không có tiền mua đồ trang sức cho em, em chờ đến khi anh làm có tiền, anh sẽ mua cho em. Anh muốn em trả ngay những đồ đắt tiền đó. Có sự gì cần mà phải mang ơn người ta!
 
Chẳng những cho Liên nhiều thứ, Lan còn đưa mẹ đến chơi làm quen với bà Thành rồi hai bà đi lại, biếu xén lẫn nhau, coi nhau như đã nhận làm thông gia. Thăng càng ngày càng khó nghĩ, cảm thấy không nói thẳng ý nghĩ mình, đã kéo dài quá lâu sẽ làm mọi người ngộ nhận chuyện lấy Lan là việc dĩ nhiên.
 
Hết mùa hè năm ấy. Thăng gửi đơn xin thực tập các nhà thương. Nhiều chỗ nhận nhưng Thăng chọn nhà thương ở xa. Bố mẹ Thăng không vui nói:
 
-Từ lâu con đã biết bố mẹ suy xét kỹ, Lan được người  được nết. Trước khi con đi thực tập xa hãy lo liệu làm đám cưới!
 
Thăng trả lời:
 
-Xin bố mẹ đừng bận tâm. Con không nghĩ đến chuyện lập gia đình. Các kỳ hè mấy năm rồi con vào tu viện để học cho yên tỉnh. Con đã tìm hiểu về tâm linh và dứt khoái tự nguyện dấn thân theo con đường con đã chọn, vẫn nằm sâu trong tiềm thức con: “Tu là cõi phúc”.
 
Thăng vừa dứt, bố Thăng đã nhăn mặt quát:
 
-Mày điên hay sao mà đi tu!
 
Mẹ Thăng khóc kể lể:
 
-Con không biết thương bố mẹ hay sao? Lo cho con ăn học để thành bác sĩ, con lấy vợ có con như người ta, bố mẹ cũng được mát mặt chứ!
 
Các em Thăng cũng nhao nhao lên phản đối. Thăng thấy cả nhà không bằng lòng phải hứa lấy xong bằng bác sĩ rồi hậu tính.
 
Lan không gặp được Thăng trước ngày đi đánh nhờ Liên  đưa thư. Thăng cũng chẳng buồn mở xem vì thừa biết nội dung, chỉ viết thư đáp lại vỏn vẹn một câu: “Tình yêu của tôi đã trót hiến dâng lên Chúa Chí Tôn”.
 
Lan khổ sở vì tình yêu một chiều, không được đáp ứng, quá buồn sinh ra xanh xao gầy ốm. Bố mẹ Lan xót con nên tìm cách gán ghép Lan với Thiện, một kỹ sư mới ra trường. Thời gian sau cùng vẫn là liều thuốc hay nhất. Lan vui vẻ trở lại và đám cưới giữa Lan và Thiện được bố mẹ Lan tổ chức thật linh đình, trọng thể.
 
Các bạn Thăng ai cũng chê cười Thăng là thằng điên, khờ dại đã từ chối không nhận những mối tình thơ mộng, những người đẹp như hoa sẵn lòng dâng hiểu. Thăng chỉ cười tự nghĩ:
 
“Riêng tôi sự điên, khờ dại là sự khôn ngoan tôi đã chọn lựa. Các bạn có biết tôi không bị cột chặt, hạn chế, lòng tôi thanh thản không phải lo nghĩ về chuyện vợ con, không lo mất việc làm, không phiền hà đến ai. Nhìn cuộc đời thênh thang trước mặt, ai cần gì tôi sẵn lòng giúp đỡ. Làm cho người khác sung sướng là tôi sung sướng. Sau khi lấy xong mảnh bằng bác sĩ như đã hứa với cha mẹ, tôi sẽ theo đúng tâm nguyện là vào dòng tu, nơi tập thể của những người cùng chí hướng với tôi là dâng cả cuộc đời mình cho Thượng Đế”.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 22.11.2022 23:36:39



21-   Lễ Giáng Sinh

 
 
 
Hàng năm vào ngày 25 tháng Chạp dương lịch, khắp nơi trên thế giới, người Công giáo cũng như một số người không Công giáo, ai nấy đều hân hoan mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm Chúa Cứu Thế sinh ra tại Belem cách đây gần 2000 năm. Miền Bắc Việt Nam sau mùa gặt lúa đã được phơi khô cất vào nhà, rơm rạ đã lên đống, miền quê sinh sống về nghề nông nên người ta ước lượng số thu hoạch được nhiều, ít để chi tiêu vào dịp lễ, tết. Gần ngày lễ các bà đi chợ sắm sửa mua vải về may sắm áo quần mới cho cả nhà, gà vịt trữ sẵn hay chung nhau giết con heo để ăn mừng lễ.
 
Một tuần trước lể mọi người trong xứ đạo rộn rịp hào hứng, các thanh niên tới các xóm xin chặt tre và làm đèn ông sao, người đi mua giấy rơm, kẻ đi kiếm trái cây xanh già lấy nhựa hòa với bột than phết vào giấy phơi khô cho cứng để làm hang đá.
 
Ngày 24, đèn ông sao đã được chăng đầy chung quanh nhà thờ, một đèn ông sao thật lớn bán kính ít nhất cũng phải dài 2 thước tây, ở nhà quê không có điện người ta phải dùng đèn cầy cắm trong lồng đèn được treo trên nóc tháp chuông nhà thờ. Đến lễ nửa đêm 24 rạng 25 tháng 12, nhà thờ nào cũng chưng bầy bộ tượng Sinh Nhật trong hang đá. Nơi máng cỏ Belem nhân loại đã tìm thấy ơn giải thoát mà nguyên tổ Adong và Eva đã làm mất. Chúa Kitô đã sinh ra vì tội lỗi nhân loại.
 
Trong máng cỏ ngoài Chúa Hài Đồng, tượng Mẹ Maria, tượng thánh Giuse còn có một số thiên thần bằng giấy đang bay lượn ca hát tung hô vinh quang Thiên Chúa, trên cánh đồng Behthelem trong đêm Giáng Sinh mà tiếng hát từ trời cao đã được phổ thành những bản nhạc bất hủ từ trời cao đã vọng lên như để nhắc nhở loài người nhớ tới cảnh thần tiên ngày trước mà tổ tiên của ta đã đánh  mất, và tượng ba vua phương Đông đến dâng vàng, nhữ hương và mộc được, một số mục đồng với chiên, bò. Bên ngoài nóc hang có một ngôi sao có đuôi dài, đây là ngôi sao dẫn đường cho ba vua đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.
 
Sau lễ trọng nửa đêm nhưng các ông bà già vẫn ở lại dự hết lễ thứ 3, trời gần về sáng mới chịu ra về, những người trẻ, thanh niên thiếu nữ xong lễ thứ nhất, vội vã vui vẻ ra về, để còn chè chén nói truyện, ca hát tới sáng. Ở Bắc Việt Nam về cuối năm khí hậu rất lạnh, không ai muốn ra khỏi nhà, chỉ vui trong gia đình, ngồi quanh bếp than với cái thú chuyện gẫu, cời than nướng ngô khoai, đậu phụng.
 
Ở miền Nam Việt Nam trước 1975 không khí mùa Giáng Sinh đã có vẻ nhộn nhịp ngay từ ngày đầu tháng 12. Tại một số đường phố Sàigòn, đặc biệt là khu chung quanh nhà thờ Đức Bà, nhà thờ Tân Định, Thị Nghè v.v… Người ta bầy bán những bộ tượng Sinh Nhật với máng cỏ, hang đá làm bằng giấy cứng và giấy trang kim rất đẹp, những cây thông giả hoặc thật và nhất là những đèn ngôi sao Sinh Nhật khung làm bằng tre, dán giấy đủ màu lại dán thêm những ông sao nhỏ làm bằng giấy cứng, ngay ban ngày nhìn những ngôi sao này trông lộng lẫy huy hoàng huống là ban đêm có thêm ánh điện xanh đỏ càng thêm phần rực rỡ biết mấy.
 
Những người ở Sàigòn và vùng phụ cận có đạo Công giáo hay không cũng tới tấp rủ nhau đi mua đèn Sinh Nhật để treo trước cửa nhà, cây thông về trang hoàng trong phòng khách. Cũng bắt chước tập tục Tây phương, nhiều người còn đi mua quà biếu nhau, nhất là quà biếu cha mẹ đôi bên cho các con như đã hứa với chúng trước đây mấy ngày, quà được gói các thứ giấy mầu thắt nơ thật đẹp, quà của các con  trong nhà được treo vào các cảnh thông hay để dưới gốc thông, đợi đến đêm Noel, đi lễ về bấy giờ bố mẹ mới phát quà cho các con. Nhìn các em bé hăm hở khi nhìn thấy được món đồ chơi mà chúng mong ước từ lâu. Đêm Noel những gia đình giầu có cũng quen lệ mở tiệc Réveillon  để thiết đãi bạn bè.
 
Từ khi cuộc chiến miền Nam sôi động, các nhà thờ không làm lễ Sinh Nhật vào nửa đêm như trước. Các linh mục cử hành thánh lễ vào khoảng 9, 10 giờ đêm. Vào dịp này các cô các cậu lợi dụng mừng lễ đua nhau chưng diện bảnh bao hết mức, từ chiều trước khi hành lễ họ rủ nhau đi bộ đi xe lũ lượt lượn quanh các phố gần nhà thờ. Sau giờ lễ họ rủ nhau đi ăn chơi tưng bừng từng đoàn từng lũ, chỗ nào cũng đông nghẹt người, không khí Sàigòn hồi bấy giờ vui hơn Tết.
 
Những người chua thấu hiểu được tinh thần của mùa Giáng Sinh, đã lạm dụng dịp lễ mừng để tiêu xài phung phí, thi đua trưng diện quần áo. Xin nhớ rằng Chúa Hài Đồng đã sinh ra nơi hang đá hèn hạ, trong cảnh cơ bần. Nên chỉ ai có tâm hồn đơn sơ, trong sạch, ngay thẳng mới có thể tiếp nhận được sự bình an thật sự của Thiên Chúa, như lời của các vị thiên thần hát mừng Chúa trong đêm Giáng Sinh. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Mỗi người trong chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để Chúa Hài Nhi được sinh xuống, mỗi người hay bầy tỏ tình yêu của mình cho Đấng đã được sinh ra để cứu chuộc nhân loại. Được như vậy ngày lễ Sinh Nhật mới có ý nghĩa.


 
Chuông Giáng Sinh


 
Những nhà theo đạo Công giáo đã rộn ràng sửa soạn đón mừng lễ Giáng Sinh trước hàng tháng. Không những họ dự trữ mua thực phẩm để ăn trong mùa Giáng Sinh mà còn may sắm quần áo mới cho những người trong gia đình, chăng hoa, treo đèn và trang hoàng nhà cửa. Đặc biệt một bộ sinh nhật đặt dưới cây thông có đủ tượng Chúa, Đức Mẹ, ông Thánh Giuse, Ba Vua, một ít mục đồng, ít thiên thần bằng giấy treo trên nóc hang đá. Cạnh hang đá là những gói quà bố mẹ định cho các con sau khi đi lễ về. Đây là dịp trẻ con nao nức mong đợi nhất trong năm. Chúng sẽ được quần áo mới, gói quà, đồ chơi mới, được ăn những thu hành với bữa cơm thịnh soạn.
 
Dũng đang ngồi xay bột để nấu cho em ăn hàng ngày. Nó quay cối xay bằng đá nặng quá với sức của thằng bé lên 8 tuổi. Nó phải xay xong rá gạo đã xấp nước từ sáng. Trước lúc mẹ ghẻ nó ra đi có dặn khi về phải xay xong và trông chừng đừng để em Loan đưa em bé ra khỏi nhà, cả hai sẽ phải đòn. Bé Loan, em Dũng, 6 tuổi được giao cho việc giữ em bé.
 
Dũng vừa xay bột vừa nhờ lại lúc còn học ở trường, chỉ mong tới giờ ra chơi với các bạn để chơi bi, đá dế, đá bóng, và nhiều trò chơi vui khác. Sau khi mẹ nó chết ít lâu nó có mẹ mới, rồi thêm em bé. Nó không được đi học nữa, phải ở nhà để mẹ mới sai vặt. Đã vậy nó còn bị đánh mắng luôn, không được ăn quà hàng ngày như khi mẹ nó còn sống. Nhìn thấy em Loan phải coi em bé, tự nhiên nó nhớ mẹ, thương em. Nhỡ khi  mẹ ghé về gặp em bé khóc thì cả hai anh em đều bị đòn vì không biết dỗ cho em bé nín. Có khi anh em nó còn bị phạt không được ăn cơm.
 
Bỗng nghe có tiếng đập cửa, tiếng gọi. Nó biết thằng Thạch tới. Thạch là bạn học cùng lớp với nó khi còn đi học. Cả hai cùng đi về với nhau vì nhà Thạch cũng gần nhà nó. Thạch hỏi vọng vào xem có mẹ ghẻ Dũng ở  nhà không. Dũng trong nhà cũng nói vọng ra: “Không!” Thạch bước hẳn vào trong nhà. Nó đưa gói xôi với ít đường cho Dũng và bảo:
 
-Mẹ tôi bảo hai anh em Dũng ăn hết đi, đừng để mẹ ghẻ trông thấy.
 
Bà Toàn, mẹ Thạch, đã biết rỏ tình cảnh hai anh em Dũng Loan hay bị mẹ ghẻ chửi mắng, bỏ đói nên bà hay sai Thạch về chiều lấy cớ sang chơi với Dũng để tiếp tế khi nắm cơm, khi chiếc bánh.
 
Được dịp nhà không có ai. Thạch ở lại chơi với anh em Dũng. Nó khoe tối nay cả nhà đi lễ nửa đêm rồi về ăn rè-vây-ông, sau đó sẽ đi chơi xa, lâu mới về. Nó rủ:
 
-Dũng, Loan có đi lễ với tôi rồi về nhà tôi ăn, có nhiều món ngon lắm. Nhất là đến nhà thờ viếng hang đá lớn, trong có những con bò, con lừa to như thật, cỡi được, có đèn ông sao sáng lắm. Có nhiều đèn đủ màu, trông mê lắm. Lại nghe hát thật vui tai.
 
Cả hai anh em Dũng nghe Thạch kể thích quá muốn đi nhưng nghĩ một lát. Dũng trả lời:
 
-Chắc mẹ tôi không cho đi đâu, uổng quá!... Hay Thạch cứ chờ, đợi cho mẹ ngủ rồi chúng tôi lẻn ra đi.
 
Thạch trả lời:

-Khi chuông nhà thờ báo hiệu gần lễ nửa đêm, tôi tới đón ở ngoài đường rồi mình cùng đi.
 
                       ***
 
Vừa bước chân vào nhà, cũng là lúc con bé giật mình thức giấc, khóc ầm ĩ. Nghe tiếng con khóc, chị Nghi, mẹ ghẻ của Dũng và Loan, đã quát:
 
-Chúng mày làm gì để em khóc?
 
Không cần biết hay nghe Dũng Loan nói đầu đuôi tại sao em khóc, chị Nghi đã tát bé Loan, dúi đầu nó vào cạnh giường, sưng trán, chảy máu miệng. Chưa đã, chị lấy roi quất Dũng vì tội để em khóc. Chị còn đe tối nay không cho chúng ăn cơm.
 
Tội nghiệp cho hai đứa bé, chúng bé nhỏ chẳng có tội tình gì, chỉ vì cái mầm độc ác của những người mẹ ghẻ như một thứ bệnh truyền từ đời nọ đến đời kia, mà nạn nhân là những trẻ em không may bị mẹ chết sớm. Hay những người mẹ không còn lương tri, mê dục vọng bỏ con cho chồng nuôi. Có những người cha thiếu trách nhiệm, lại sợ vợ, hay trái lại có những người đàn bà không biết thương yeu, bảo vệ con, mà chỉ nghĩ đến dục vọng của mình, đem con đến ở với người đàn ông khác để nó hành hạ con mình như đã từng xảy ra hằng  ngày trên đất văn mình. Báo chí đã đăng những vụ bố ghẻ trói con của vợ ở ngoài trời tuyết lạnh rồi lấy thuốc lá đốt cháy dí vào người em nhỏ để thương tích đầy mình hoặc còn nhiều cách hành hạ dã man khác mà chưa được phát giác.
 
Sau khi dỗ con nín khóc, chị Nghi bế con đi ngủ, mặc cho hai đứa con chồng nhịn đói. Cũng may trước đó chúng đã được ăn gói xôi của Thạch đưa đến. Đợi một lúc không nghe tiếng mẹ ghẻ gọi hay tiếng em khóc. Nhà im phăng phắc. Xa xa  có tiếng chuông nhà thờ vọng lại. Dũng nắm tay Loan và sẽ bảo em: “Chúng ta đi nhà thờ với anh Thạch. Mẹ ngủ rồi không biết đâu.”
 
Hai anh em ra khỏi nhà. Thạch đứng đợi sẵn ở ngoài. Cả ba cùng đi tới nhà thờ. Chúng dự lễ xong, viếng hang đá, xem đèn, mải mê quên về. Bà Toàn đi lễ về tới nhà không thấy con, phải trở lại nhà thờ tìm con. Gặp anh em Dũng đi với Thạch, nó xin mẹ cho anh em Dũng Loan về nhà ăn rề-vây-ông. Thạch còn kể hôm nay anh em Dũng Loan bị mẹ ghẻ phạt.
 
Ăn mừng lễ, thu dọn xong, hai ông bà Toàn nhìn hai đứa bé mồ côi trán sưng, môi miệng còn rớm máu mà thương xót. Hai ông bà cùng nổi lòng thương như nhau nên quyết định đưa cả hai đứa bé mồ côi cùng đi vượt biên lúc này. Đêm lễ Giáng Sinh người ta chú trọng vào ăn nhậu say sưa nên việc canh phòng ơ hờ. Toán vượt biên quyết định ra đi sau lễ nửa đêm. Nghe nói được đi xa, được ăn no, cả hai bé mồ côi hồ hởi, sung sướng, nhất là ra khỏi nhà không còn bị đánh, bị bỏ đói.
 
Sang đến bến bờ tự do, ông bà Toàn thương hai đứa bé mồ côi như con ruột. Chúng học giỏi, ngoan ngoãn. Khi lớn, đi làm, có tiền Loan vẫn nhớ đến em bé nên mỗi năm vào dịp Giáng Sinh, Loan lại mua đồ gửi cho bố đồ chơi cho em.
 
Phần Dũng đã lấy được bằng kỹ sư chuyên về computer. Chàng đi làm với ý nghĩ có tiền trả nghĩa ông bà Toàn đã cưu mang hai anh em và coi như con. Dũng hay ưu tư tìm hiếu về số phận con người. Khi một người bạn hỏi về anh, Dũng trả lời:
 
-Trong khi đi làm ở sở, tôi gặp người manager kiêu ngạo, tự ái, tự tôn, tự đại. Có những người làm cùng bên tôi, người thì lười biếng, người thì mở miệng ra chỉ nói chuyện dục vọng xác thịt, người thì có tình tham lam, hay cờ bạc. Phần đông họ đố kỵ, ganh tỵ, hiềm khích, nói hành nói xấu để chia rẽ. Họ hận thù, ghen ghét nhau. Quyền lực của sự tối tăm của cuộc sống vật chất đang muốn lấn át đi những con người đang được ánh sáng Chúa Kitô chiếu soi.
 
Rồi một hôm tôi đến thăm một nhà mồ côi, thấy một bé gái ngồi trong cái chậu không có quần áo chờ để tắm. Bé kêu lạnh quá. Tự nhiên trong lòng tôi hiện lên một ý nghĩ: “Mình phải làm gì đây?” Tôi nhớ lại lúc bé khi ở quê nhà, sau khi mẹ tôi chết, hai anh em tôi đã từng bị đói, bị lạnh và bị dì ghẻ đánh chửi. Em tôi đói chỉ khóc  và sẽ gọi tôi: “Em đói quá, rét quá anh Dũng ơi!” Tôi bảo em chờ mẹ ghẻ đi khỏi, chạy sang nhà bà Toàn xin cơm cho em.
 
Mỗi khi nhớ lại đoạn đời anh em tôi đã qua cũng như tình cảnh các em mồ côi ở trại, tôi không sao quên được. Tôi bị ám ảnh về câu hỏi mình phải làm gì đây? Tôi đi làm ở sở về computer, khi làm việc trên màn ảnh điện toán hay nổi lên hàng chữ “Dũng phải làm gì?” Tôi xóa đi, một lúc sau hàng chữ lại nổi lên. Mỗi khi nghe tiếng chuông nhà thờ tôi lại nhớ đến quãng đời thơ ấu đã qua, và cũng cùng lúc đó hiện tượng tôi cảm nhận khi ngồi vào bàn máy điện toán và những hàng chữ “Tôi phải làm gì?” lại hiện lên.
 
Lễ Giáng Sinh tới tôi viếng hang đá Belem ở trong nhà thờ, tôi đã cầu nguyện nhiều, quyết dâng mình cho Chúa, trở thành linh mục, đạt được tâm nguyện và chú ý đến hoàn cảnh các trẻ em mồ côi.
 
                                 ***
 
Tiếng chuông đổ dồn một hồi, lễ nửa đêm vừa dứt. Những con chiên ngoan đạo kéo nhau ra về lòng đầy tràn ơn phúc của Chúa. Người thanh niên trẻ tuổi năm nào nay đã đạt được ý nguyện là hiến dâng trọn mình cho Chúa và sống hết lòng phụng sự tha nhân.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 24.11.2022 03:09:18
 22-    Tìm Một Hướng Đi  
 
 
 
Nghe tin ông bạn thân đau đã lâu, hỏi thăm qua điện thoại, không bao giờ có thể giải tỏ hết tâm tình tri kỷ, phải dành một dịp thuận tiện mặt đối mặt, vui buồn thổ lộ tâm can và chúng tôi đã tới thăm bạn.
 
Nghe tiếng chuông, chủ nhà, anh Kh. tự ra mở cửa đón chúng tôi. Nhìn nhau ngạc nhiên, chúng tôi hỏi anh đã khỏe, sao nghe nói anh ít khi ngồi dậy được. Chúng tôi mừng rỡ, chào hỏi nhau qua phút đầu hồi hộp. Có sẵn nước sôi ở bình thủy, anh tự pha trà mời các bạn uống, anh nói:
 
-Các anh chị điện thoại đến thăm, tôi mừng rỡ nên khỏe hẳn ra, hôm nay mời các bạn ở chơi lâu để tôi có dịp nói nhiều truyện, nhất là người như tôi đang mang trong mình thứ bệnh nan y và biết rõ hạn kỳ sống không lâu nữa, ở vào cái tuổi tri thiên mệnh, không già không trẻ, như mọi người yêu đời, nói đến sự chết, cũng sợ hãi như ai, sau khi đi bác sĩ thử nghiệm, đã khuyên tôi ở nhà tỉnh dưỡng. Nên tôi có nhiều thì giờ rỗi rãi để suy nghĩ.
 
Nhớ lại những việc mình đã làm từ khi hiểu biết, đang làm và dự định làm sau này, anh Kh. nói:
 
-Lúc nào tôi cũng hăng say làm việc, lúc thành công đã vậy, lúc thất bại không ngã lòng, và tôi gặp rất nhiều cơ hội may mắn, danh vọng có, tiền của có, chẳng  hơn ai, nhưng cũng không kém nhiều người. Về tín ngưỡng tôi đã bỏ nhiều thì giờ, lúc nhàn rỗi, để tìm hiểu các đạo giáo có nhiều người theo, tới nhà thờ, nhà chùa, và tìm hiểu qua sách nói về đạo giáo, tôn giáo nào cũng có hay cái tốt, có cả mê tín, hay là điều siêu nhiên, xem để biết, chằng có chủ ý niệm nào, tóm lại tôi là người vô tín ngưỡng, xin đừng hiểu lầm, tôi không có vô gia đình, vô tổ quốc như người “cộng sản tam vô” đâu.
 
Đây là điều chính tôi muốn nói cho các anh chị biết về tôi, trong lúc tỉnh dưỡng, quá nhàn rỗi, tôi nhớ lại tất cả các việc tôi đã làm: vất vả, khó nhọc, lo lắng, để có được những cái mình muốn, hay không muốn và bây giờ đã qua, chẳng còn để lại chút dư âm; lo lắng, sợ sệt, sung sướng hay tiếc nuối cũng vô ích, mọi sự đã ra hư không, và bây giờ phải làm gì? Sửa chữa lại, rồi sẽ ra sao?
 
Dịp dưỡng bệnh nay có sẵn thì giờ cho tôi nhớ lại, tìm hiểu nội tại: để sống ra sao? Theo phương hướng nào, có mục đích để tiến tới không? Con đường nào mình đi, có đúng không?  Hay phải xoay chiều làm khác, nghĩ khác. Phải tìm đáp số, vì thời gian qua mau, người ta đã nói cuộc đời “ví tựa đào hoa sớm nở tối tàn” hay nhanh như “bóng câu qua cửa sổ”.
 
Các danh nhân, các bậc anh hùng để lại những chiến công oanh liệt, dẹp giặc cứu nước, bậc  vĩ nhân quân tử để lại những gương hiếu, trung, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, các nhà khoa học dầy công sáng tạo những tiện nghi cho đời sống nhân dân thăng tiến. Các bậc trên đã được vinh danh, suy tôn một thời, hậu thế còn có dịp khác lời, đều đã qua.
 
Với sự nhận xét hẹp hòi của tôi, cũng phải nhìn lên trời cao, tinh tú, mặt trời, mặt trăng bao la, địa cầu là hành tinh nhỏ bé mà còn gồm biết bao bể khơi, núi non hùng vĩ, danh lam thắng cảnh, hiện tượng kỳ bí, mà các nhà khoa học trên thế giới chỉ biết chiêm ngưỡng trước đấng sáng tạo vô biên.
 
Nên tôi đã trở về suy tư: phải có một đấng Thượng Đế đã tạo dựng ra vũ trụ và muôn vật, mà loài người là tác phẩm tuyệt hảo, giống mình hình ảnh Thượng Đế (theo như Kinh Thánh, sách Sáng Thế) và đặc biệt Thượng Đế đã ban cho loài người có linh hồn, sống động, có sự hiểu biết để quản trị muôn loài, muôn vật. Thượng Đế đã ban cho con người nhiều ưu điểm, thì bên cạnh cũng cho ẩn phục những nhược điểm. Đó là bản tính yếu hèn, vị kỷ, đam mê hưởng thụ, lười biếng, tham lam, ác độc, ghen tỵ, lừa đảo, tranh dành nhau, xâu xé nhau vì quyền lợi, mưu mô cho dục vọng bất chính, ngụp lặn trong sự tội lỗi.
 
Và hơn hết, Thượng Đế cũng ban cho loài người hơn các loài khác, có lương tâm, khôn ngoan, biết phân biệt: điều phải nên làm, điều trái nên tránh. Để  biết rõ hơn là Thập giới của Thiên Chúa giáo mà Thượng Đế đã dậy loài người tóm thâu với hai ý chính: Phải thờ phượng, cảm tạ Thượng Đế và thương yêu mọi người.
 
Tôi tin rằng những người hưởng thụ sung sướng trong giầu sang bởi dành giật, mưu chước, khủng bố, đe dọa, ức hiếp, phỉ báng người khác, họ không biết quay lại, nhìn những đau khổ của người khác do họ gây nên, họ cũng không nhớ câu “ác quả ác báo”.
 
Những người phải chịu nghèo hèn, thiếu thốn, bất công, đau khổ ở đời này chẳng có gì tồn tại, cuộc đời rất ngắn chóng qua. Đấng Tạo hóa khi cho loài người ra khỏi lòng mẹ thì ai cũng như ai, cũng như đến khi vào lòng đất và hành trang mang theo gồm bên phúc, bên tội. Vậy sự thưởng công và đền tội là quyền của Thượng Đế chí công.
 
Muốn tìm một hướng đi hoàn hảo, phải tìm về cội nguồn là những điều Thượng Đế đã in trong lương tâm của mình, đã giải bầy trong Thập giới răn, y đấy mà  theo sẽ cảm thấy trong tâm hồn được bình an, vui sống; hiện giờ với căn bệnh nan y, tôi không nghĩ đến lúc chết rồi sẽ ra sao, không lo sợ vì mình đã nghĩ đúng, làm phải và sống hay chết cũng là cuộc đời nói tiếp vĩnh cửu.
 
Cám ơn các bạn đã đến thăm tôi, nghe tôi nói về ngả rẽ cuộc đời của tôi.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 24.11.2022 03:24:39
 
 
 
23-   Quan Niệm Hôn Nhân Xưa Và Nay
 
 
Gặp năm làng chia lại công điền, cứ ba năm chia lại một lần, là lúc các con trai tới tuổi 18 được vào số chia điền. Lúc này cũng là dịp bố mẹ nghĩ rằng con trai mình đã lớn, phải đi tìm vợ cho con, tìm người về đỡ đần công việc  trông coi nhà cửa.
 
Tìm vợ cho con đây là một việc quan trọng. Anh con trai nào cũng nghĩ muốn tìm người đẹp, nhưng quyền ở bố mẹ lại nghĩ khác. Đẹp càng hay nhưng theo ý bố mẹ con dâu phải là người hay làm, hiền thục, ngoan ngoản, dễ bảo, hiểu biết việc làm như đi cấy, làm  ruộng ngoài đồng, chăn tầm, hái dâu, se tơ, kéo chỉ ở nhà thêm nghề dệt cửi, buôn bán càng hay. Con người phải khỏe mạnh, có tướng sai con mắn đẻ, phải là con nhà khá giả, môn đăng hộ đối, giòng giống, họ hàng bề thế. Những ý kiến trên bố mẹ nói với bà mai, chuyên đi làm mối để tìm đám nào hợp ý với bố mẹ đàng trai, rồi mới đi nói với đàng gái.
 
Các cô thiếu nữ mới lớn lên đã có người dòm ngó. Cha mẹ thương con cũng muốn chọn được rể hiền và xuôi gia phúc hậu cho con mình ấm thân, đỡ khổ. Nhưng biết đâu mà kén cá chọn canh, hầu như mối lương duyên đã định từ tiền kiếp. Các cô biết vậy nên thường hay hát câu:
 
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
 
Trông vào phần số may rủi, 12 bến nước, biết bến nào đục bến nào trong. Quanh năm ở trong nhà làm việc dưới sự chỉ dậy của mẹ, cũng được theo mẹ ra chợ mua bán. Một năm có đôi ba lần trong làng, hàng tổng mở hội đình đám hay ngày Tết các thiếu nữ mới có cơ hội được phép ra khỏi nhà, cũng là dịp các cậu đi tìm các cô, xa xa thấy bóng hồng nào dám nói gì. Cũng có một đôi khi có cặp táo bạo hẹn hò gặp lại. Chỉ có đằng trai mới dám về thưa với cha mẹ xin đi cưới vợ. Còn các cô chỉ biết yêu trộm, nhớ thầm, không bao giờ dám nói ra khỏi miệng, dù nói với mẹ cũng không dám.
 
Do bởi hủ tục quái đản “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng từ), bọn hủ nho thấy có lợi cho họ nên đã tuân theo bắt chước bọn đô hộ Bắc phương tròng lên đầu lên cổ người đàn bà, con gái phải cực khổ như thân nô lệ. Khi đi lấy chồng, bước ra khỏi cửa nhà mình sợ số mệnh đen tối đã phát khóc. Bà mẹ cũng khóc theo, một phần vì nhớ cha mẹ, anh chị em đang ở cùng nhà, nay phải đến ở một nơi xa lạ với những người chưa hề quen biết. Nhất là người chồng ngày cưới mới biết mặt. Còn đẹp, xấu, tính nết ra sao chưa rõ.
 
Gặp được nhà cha mẹ chồng hiền lành, tử tế, người chồng hiền hậu, có lòng bao dung, đi lấy chồng là gánh vác giang sơn nhà chồng. Gặp gia đình chồng hiền lành, không phải gồng mình mà gánh, ăn mặc đầy đủ, còn có lúc được nghỉ ngơi. Ngày giỗ Tết còn được phép về thăm cha mẹ và gia đình mình, được nở mày nở mặt với xóm làng rằng có phúc hơn người.
 
Người con gái nào không may, số phận hẩm hiu, than thở với bố mẹ thì lại nghe câu “đá gà bán cho người ta rồi, phải sao chịu vậy” thì ôi thôi, trăm đắng nghìn cay! Thức khuya dậy sớm hầu hạ bố mẹ chồng, ông bà chồng, các em chồng. Người xưa có câu: “Giặc bên  Ngô không bằng bà cô bên chồng.” Cứ cúi đầu mà nghe những câu chửi rủa, nhiếc móc của mẹ chồng vì tiếc của đã mất món tiền cưới nàng dâu về. Lỡ dại chống đối gì với các em chồng sẽ bị mẹ, em túm vào xúi giục chồng lôi ra đánh rất vô cớ.
 
“Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng
  Mất tiền mua gỗ thì bố lấy giăm.”
 
Người con gái bị hành hạ ngược đãi. Bố mẹ, anh em, họ hàng nhà người con gái dù có biết cũng ngậm đắng nuối cay, thương cho con cho cháu, phải làm lơ không can thiệp. Theo phong tục, con gái đã làm dâu nhà người ta là thuộc quyền sở hữu của nhà chồng rồi.
 
Đến khi sắp có con, không còn làm việc được nhiều, lúc bấy giờ bố mẹ chồng sợ phải nuôi thêm cháu mới cho vợ chồng con trai, con dâu ra ở riêng. Nhiều người phụ nữ đã thốt lên: “Ngày ra riêng là ngày hạnh phúc nhất đời tôi,” và bây giờ bố mẹ người con gái mới dám giúp đỡ con mình.
 
Cha mẹ các cô có khi chỉ vì một lúc hứng tửu trong bữa tiệc mà các ông chồng đã hứa gà con cho nhau khi hai bà vợ chồng mang bầu. Hai người cùng để con trai hay con gái thì thôi, nếu một bên đẻ con trai, một bên đẻ con gái vì lời hứa đã kết thành thông gia từ đây. Đợi khi lớn, cha mẹ cứ tự tiện lo làm lễ thành hôn cho đôi trẻ, bất kể chúng có bằng lòng hay không. Có bệnh tật bẩm sinh cũng mặc vì đôi bên cha mẹ đã hứa, nên đàng trai hay đàng gái vẫn phải cắn răng chịu đựng.
 
Đàng trai tuy vâng lời phải cưới vợ nhưng gặp phải người vợ không  vừa ý, họ phản ứng ngay bằng cách có quyền cưới thêm một cô vợ khác mà họ chọn, hay đi ngang về tắt cũng chẳng sao. Chỉ có đàng gái là thiệt, cắn răng mà chịu cảnh “đồng sàng dị mộng” một cách kín đáo. Có người phản ứng bằng cách bỏ nhà ra đi, tuy cũng sợ mang tiếng cho cha mẹ. Nhiều cảnh túng quẫn, tự hủy thân cho toát nợ đời. Ảnh hưởng khốc hại như vậy mà người đời vẫn không qui kết tội cho bố mẹ đôi bên.
 
Quan niệm hôn nhân ngày nay đã cởi mở nhiều. Tầm nhìn cùng sự hiểu biết thêm vào không khí tự do ở xứ này, các bậc cha mẹ không còn câu nệ câu “Nam nữ thụ thụ bất thân” như xưa. Trai gái đã được cắp sách đến trường học chung. Họ quen nhau khi đi học lúc nhỏ, lớn lên tìm hiểu nhau. Nhiều đôi giao tình đằm thắm năm bẩy năm sau mới làm đám cưới.
 
Đôi bên cha mẹ bằng lòng hay không cũng không cản nổi họ. Thời nay, lấy nhau rồi vì đời sống không cần dựa vào bố mẹ, họ sống tự lập kiếm nhà ở riêng, không có cảnh làm dâu, làm rể, hay phải hầu hạ bố mẹ chịu lụy đến các em chồng. Sự thăm hỏi, giúp đỡ tùy vào lòng hiếu thảo, không có sự bắp ép giả tạo của nàng dâu, chàng rể nữa.
 
Một số bậc cha mẹ vẫn tồn cổ, chưa chịu cởi mở theo thời, còn muốn thi hành quyền làm cha mẹ, bắt các con lấy chồng theo ý mình. Họ tự chọn cho con cái người có bằng cấp, có sản nghiệp lớn, với thâm ý sau này được nhờ và về danh tiếng, tiền bạc các con giúp đỡ. Họ không tính xa hơn vì dễ gì mà dâu rể đem danh lợi san sẽ cho bố mẹ? Gặp phải người xa hoa, cờ bạc, liệu họ có giữ được lâu như hiện tại không? Không được như ý là các cụ mắng chửi con bất hiếu. Vì áp lực của bố mẹ, nhiều cô cậu yêu nhau đành chờ thời gian để bố mẹ nghĩ lại.
 
Các thanh niên nam nữ ngày nay đều được đi học, sự hiểu biết về hôn nhân dưới con mắt của họ không phân biệt về tuổi tác cách biệt nhiều ít, không phân biệt bằng cấp, tiền bạc, giàu nghèo. Họ yêu nhau vì cùng lý tưởng, hợp tình hình. Về duyên dáng, hiền lành đức độ, vui vẻ ở người nữ hòa hợp với vẻ hùng tráng, cương quyết, bao dung và cởi mở ở người nam. Họ không quan niệm chữ trinh tuyệt đối vì có bao trường hợp như bị hiếp, bị tai nạn… đã xẩy ra trước đây. Một câu chuyện điển hình dưới đây như sau:
 
Bưởi còn nhỏ cũng được đi học, biết đọc biết viết, làm đủ bốn phép tính. Cha mẹ xem thế là tạm đủ, bắt Bưởi nghỉ học ở nhà giúp mẹ làm việc vặt. Lớn lên có nhan sắc dễ coi, rồi bà mai làm mối một đám nhà giầu lại con một. Hiếm hoi, tất nhiên họ quý người. Bố mẹ nàng bằng lòng vì nhà trai giầu có. Bố mẹ Bưởi chỉ nói qua loa cho nàng mới biết đã đến tuổi phải lập gia đình. Hôm làm lễ nàng mới biết mặt người chồng tương lai. Người đâu mà xấu trai quá, tóc quăn, da đen, mắt trắng dã, môi thâm xì, vẻ mặt thì lầm lì. Bưởi chán quá khóc với mẹ và không muốn lấy người này. Mẹ nàng còn dỗ ngon dỗ ngọt, nhưng bố nàng quắc mắt lên quát: “Đã nhận lễ rồi, không nói đi nói lại được nữa.” Mặc cho Bưởi khóc lóc, đám cưới cử hành với đầy đủ lễ nghi, có họ đưa họ đón vui vẻ.
 
Đưa chân họ hàng về hết. Hân, chồng Bưởi, nói:
 
-Em thay áo, xuống nhà thu dọn với anh, đừng để mẹ phải làm.
 
Và đến khuya Bưởi mới được đi ngủ. Hôm sau nhị hỷ, trước khi đi mẹ chồng nói:
 
-Vợ chồng con đi sớm ăn cơm rồi  về ngay còn phải đi trả đồ mượn hôm cưới các con.
 
Bưởi đã bước chân vào một nhà tù. Còn hơn thế nữa, nhiều việc quá nàng không làm kịp, ngoài hai bữa nấu ăn, nàng còn phải trông coi việc cho heo, gà ăn, tưới bón một vườn rau. Ở nhà với cha mẹ Bưởi cũng phải làm nhưng còn có mẹ và các em giúp cùng làm.  Ở nhà chồng không có ai giúp, một mình nàng làm không hết việc, còn bị mẹ chồng chửi mắng là lười biếng, không biết làm ăn, chỉ là đồ ăn hại. Mỗi lần nghe mẹ chồng chửi là mỗi lần người chồng nắm lấy vợ tay đấm chân đá, đánh túi bụi cho mẹ hắn hà tức. Lại còn cấm nàng kêu khóc và dọa nếu còn kêu khóc còn đánh thêm.
Được vài tháng, quá khổ sở sau một trận đòn như hằn như thù, những lời nhục mạ của mẹ chồng, của chồng. Bưởi đã không còn nhẫn nhịn được nữa, nàng nói:
 
-Không bằng lòng thì cho tôi về nhà cha mẹ tôi.
 
Sau câu nói của Bưởi, bà mẹ chồng bắt người chồng tàn nhẫn đuổi nàng ra khỏi nhà, đưa về trả cho bố mẹ Bưởi. Không những thế họ còn đòi tiền phí tổn đã cưới nàng.
 
Bưởi về nhà nhưng cha mẹ nàng không cho ở, bắt phải về lại nhà chồng. Quá nhục nhã, cay cực, nàng trốn đến ở nhà người bà con. May mắn có chuyến vượt biên, người bà con thương tình đưa nàng đi luôn tới Hoa Kỳ bình an.
 
Sang đến Hoa Kỳ, Bưởi được đi học, đi làm. Trong một bữa giỗ ở nhà người đỡ đầu, Bưởi gặp lại Bân, người quen ở cùng xóm đã tới Mỹ từ 1975. Cả hai đều mừng rỡ vì bạn quen từ nhỏ. Họ đã kể hết cho nhau nghe về cuộc đời họ đã trải qua. Từ tình bạn thắt chặt dần dần đã trở thành tình yêu. Những người quen biết ai cũng mừng cho đôi này sớm trở thành vợ thành chồng.
 
Sau đó không lâu bố mẹ Bân sang  được Hoa Kỳ đoàn tụ. Bân mừng gặp được bố mẹ nhưng khi Bân thưa với bố mẹ để xin cưới Bưởi, cha mẹ chàng gạt đi, không bằng lòng. Ông bà cho rằng Bưởi đã có một đời chồng rồi, không lấy được. Ông bà tìm đám khác cho Bân nhưng người nào Bân cũng từ chối. Chàng cương quyết nói: “Con không lấy người mà con không yêu. Bắt con lấy người ta về ‘đồng sáng dị mộng’, chẳng bao lâu sẽ bỏ nhau.” Thế là chàng đầu sông Tương, nàng ở cuối sông Tương.
 
Sắp sang thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn những bậc cha mẹ cố chấp, thương con mà vẫn chưa hiểu được lòng con. Họ chưa theo kịp trao lưu tiến hóa, chưa phân biệt nổi sự lợi hại trong tâm hồn người có tình yêu chân chính.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 01.12.2022 01:16:12
 


24-   Vội Giận Mất Khôn

 
 
 
Giờ nghỉ trưa các bà các cô kéo nhau xuống cafeteria ai không ăn cũng tới để góp truyện, thôi thì đủ thứ truyện, truyện mình truyện người. Chị Yên nhìn quanh khắp lượt cất tiếng hỏi:
 
-Hôm nay sao thiếu bóng chị Thi?
 
-À, cô Thi hôm nay xin nghỉ để ra tòa xin ly dị với chồng. – Bà Tùng trả lời rồi nói luôn một thôi: -Tôi đi ăn cưới đám cô Thi, cách đây hơn một tháng nay chứ lâu la gì, các cô các cậu thay đổi vợ, đổi chồng như thay áo, câu truyện chẳng  có gì quan trọng cũng đòi bỏ nhau, chẳng còn ra thể thống, khuôn phép gì. Đôi này lấy nhau, biết nhau, quen nhau từ ba, bốn năm nay, đâu cha mẹ có ai ép uống gì hay nhầm lẫn gì cho cam, họ đã tìm hiểu cẩn thận rồi mới cưới.
 
 Đám cưới thật linh đình, nhà gái đòi nhà trai mọi thứ theo đúng lễ nghi, phong tục y như ở quê nhà, ai cũng công nhận cô dâu chú rể thật xứng đôi, cô dâu ở đây ai cũng biết, người không đẹp lắm nhưng có duyên, ăn nói vui vẻ, hòa nhã, học hết bậc trung học, có công ăn việc làm, không đua đòi cặp bồ này đến bồ khác khi quen Tạ trong một buổi đi picnic. Thời buổi bây giờ, cô Thi được kể như là một thiếu nữ đứng đắn: còn anh Tạ khá đẹp trai, khỏe mạnh, đậu kỹ sư rồi mà vẫn vừa đi làm, vừa đi học, con người có chí cầu tiến, cha mẹ cũng khá giả không cần sự giúp đỡ của anh, và chỉ muốn anh Tạ lập gia đình, có nhiều mai mối, không có đám nào hợp ý cha mẹ hay ý anh Tạ cho đến lúc gặp cô Thi. Cả hai đều để ý tìm hiểu nhau, nói cho nhau biết tính nết, ý niệm về hôn nhân gia đình có thể chấp nhận được.
 
Thi thường nói về ý của mình muốn có người chồng biết thương yêu, chiều chuộng tạo lập gia đình, có nhà có xe riêng, không chung đụng với ai, không muốn ai làm phiền tới mình.
 
Còn anh Tạ là con người có tình cảm, muốn sống với đại gia đình, giữa cha mẹ và các em; tính tình cởi mở, trước khi cưới vợ Tạ vẫn hay đi dự đình đám, hội hè, giao thiệp với các bạn, quen biết nhiều các bà các cô, đôi khi có thư từ, hen hò, gặp nhau để tìm hiểu, ý anh Tạ muốn tìm người vợ hiền, nội trợ để có một gia đình hạnh phúc trường cửu, không phải là hạng người chỉ ăn chơi qua đường rồi thôi. Nghĩ mình là một người ngay thẳng không cần phải giấu giếm ai, nên sự giao thiệp giữa hai phái, Tạ vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, đến các thư từ viết cho cô nọ kia anh vẫn giữ lại không thấy gì đáng hủy bỏ.
 
Sau khi cưới, Thi đã toại nguyện vì bố mẹ Tạ là người thức thời bằng lòng cho đôi vợ chồng trẻ mua nhà ở riêng, có xe riêng như ý Thi mong ươc, hơn nữa Tạ cũng rất yêu chiều Thi.

Rồi một hôm, trong khi thu xếp các đồ đạc trong phòng ngủ, lôi các đồ của Tạ ra Thi bắt gặp một số phong bì có cả hình ảnh, có cái Thi nhận thấy được là của bạn bè hay họ hàng của Tạ, nhưng có nhiều thư của bạn gái của Tạ mà Thi không biết. Thế là cơn ghen vô lý  của Thi từ từ kéo đến, chờ Tạ có mặt ở nhà đã đem từng bức thư, từng chiếc hình ra chất vấn Tạ, còn bẻ quặt những điều không có, không đáng nói.
 
Thật là vội giận mất khôn. Phần Tạ đã hết lời giải thích cho rằng mình ngay tình, việc đã qua không còn nhớ hay để ý làm gì. Nhưng Thi cố chấp cho rằng đời sống trước kia của Tạ trụy lạc, rằng nàng đã nhầm và bị lừa dối. Tạ không còn xứng đáng làm chồng Thi, như vậy không còn mong ăn đời ở kiếp với nhau. Thi như con thú dữ, không còn biết nghe lời giải thích của Tạ. Rồi từ cãi và đến xô xát không còn tránh được, chỉ vì Thi nói dai, mà tâm lý đàn ông phần nhiều không muốn phải nghe những lời thô tục và nói dai rất dễ làm cho họ nổi sùng.
 
Sau một cuộc cãi và xô xát đập phá tan hoang nhà cửa. Tạ bỏ đi chơi đến nhà bạn bè, cho đỡ cơn tức, nếu được người bạn tốt khuyên giải an ủi, dẹp bớt tự ái, nóng giận rồi cũng sẽ qua đi trở lại đời sống bình yên; chẳng may gặp ông bạn quá lãng mạn và thiếu suy xét lại bảo Ôi, không hợp thì bỏ, thiếu gì người, ta tìm cô nào thích hợp, chiều theo ý mình thì lấy có sao đâu”.
 
Đến lúc hết cơn nóng, bình tĩnh nghĩ lại. Tạ trở về nhà, căn nhà trước kia ngăn nắp sạch sẽ, bây giờ hoang vắng, đồ đạc xô lệch, ly chén bể vỡ đầy dưới sàn nhà, cơm nước không có, bóng Thi không còn, làm cho Tạ bực bội trở lại.
 
Tạ ra khỏi nhà thì Thi cũng gấp quần áo trở về nhà cha mẹ với sự bực bội ghen tức; trong mấy ngày xa nhau, cả hai không ai chịu dẹp bớt tự ái tìm lại nhau, bây giờ ai cũng có lý do để đưa nhau ra chỗ xin hủy bỏ hôn ước.
 
-Nếu vậy cả hai đều bị thiệt thòi – lời của bà An sau khi nghe hết câu truyện, bà An nói tiếp: -Này nhé, cô Thi chịu thiệt thòi hơn, vì sau khi lấy chồng cô đã trở thành đàn bà, còn đâu là trinh nữ, nếu lấy chồng khác cô bị tụt xuống một bực, mà đã chắc gì lấy được người nào bằng người chồng trước, mà cũng còn may là chưa có con, nếu có con vừa làm khổ con vừa làm khổ chính mình vì phải nuôi con và còn khó lấy chồng nữa.
 
Còn về anh Tạ cũng thiệt nhiều, nhất là về phương diện vật chất, vì một khi ly dị, cô Thi được quyền lấy nhà giữ xe, và về phương diện tinh thần, khi đi lấy vợ khác anh sẽ hồ nghi sự lựa chọn của mình, lấy cô Thi chắc chắn như thế mà còn phải bỏ nhau, hơn nữa anh bị mang tiếng là người chơi bời, quá khứ không ra gì nên bị vợ bỏ, những cô có đức hạnh hay hiền hậu không muốn lấy anh, rồi anh tìm được thể nào người cũng không hơn cũng phải bằng cô Thi, và như vậy cả anh Tạ lẫn cô Thi đều bị thiệt thòi chỉ vì vội giận mất khôn.
 
Sau đây là một câu truyện không giống nhau truyện cô Thi và anh Tạ, mới lấy nhau mà đã bỏ nhau, mà cả đôi vợ chồng có ăn học, có địa vị, nghề nghiệp vững chắc, đủ con trai con gái, chúng đều ăn học sắp thành tài. Chỉ vì quá tự ái, nóng nẩy nên hạnh phúc gia đình của đôi vợ chồng đã bị tan vỡ làm cho các con bị thiệt thòi và khổ sở, câu truyện như sau:
 
Hai nhân vật chính trong câu truyện này tạm gọi là bà A và ông B, cả hai gia đình đều là bạn bè và đồng nghiệp hơn nữa lại rất thân với nhau. Bà A người thật đẹp và duyên dáng nhưng tính hơi lẳng lơ, giao thiệp rộng rãi, có khá nhiều bạn bè  nam cũng như nữ, hơn nữa bà A lại là người thích ăn diện và bê tha cờ bạc, nhiều khi đi Las Vegas chơi bài hết ngày này sang ngày khác, nên lắm tiếng đồn thổi đến tai ông A, làm cho ông này bực tức và xấu hổ nên để trả đũa ông ăn chả vì bà ăn nem, rồi mỗi ngày một quá nên hai ông bà A thỏa thuận chia tay hợp pháp, do đó bà được hưởng món tiền lớn do việc chia của sau khi ly dị.
 
Sống trong cảnh độc thân bất đắc dĩ, bà A rắp tâm tìm cách chinh phục con mồi mới, và bà không thấy ai hơn là chính ông B bạn thân của gia đình và đồng nghiệp với chồng cũ của mình, bà đưa hết sở trường, chiều chuộng ông B và bà đã thắng, chỉ vì bà B là chủ một hàng vàng, bận rộn cả ngày, ít thì giờ săn sóc chồng con, hơn nữa bà đâu có ngờ người bạn gái thân thiết của mình lại dã tâm cướp chồng mình và ông chồng đạo mạo mà bà tin tưởng từ xưa tới nay lại sa ngã mau chóng như vậy.
 
Vì tính nóng nẩy, bà B không kìm hãm nổi con ghen tức, gây truyện cãi lộn và đánh nhau với chồng cũng đòi ly dị. Ông B sẵn tính tự ái lại bị bùa mê, đâm ra mù quáng và bị bà A xúi dục, ông đem tất cả nhà cửa, xe cộ cùng những gì có giá sang tên cho bà A hết, rồi lúc đó mới chịu ly dị với vợ. Bà B tự ái cũng không kém, nghĩ rằng mình buôn bán làm ăn, có thể tự tạo nuôi các con ăn học đến thành tài, nên không cần tới cả của cải lẫn sự giúp của ông chồng.
 
Nhưng chẳng bao lâu vì quá buồn rầu lo nghĩ, công việc làm ăn của bà bị thất bại, gia sản bị tiêu tàn đến nỗi nay phải sống cảnh thiếu trước hụt sau. Ông B thấy cảnh lầm than của vợ cũ và con cái, nhưng khốn thay cô vợ mới này  nắm hết quyền chi thu, ông không có gì để giúp đỡ con cái nên quá hối hận ông B phát bệnh đau yếu, muốn gặp các con cũng không được vì bà vợ mới ngăn cản và ông B đã chết trong cảnh buồn phiền và phẫn uất nhưng đã muộn. Bà vợ mới ông B không tổ chức ma chay gì hết và cho hỏa táng, thuê người ném tro tàn xuống biển Thái Bình Dương, rồi bà này lại đi cặp bồ là người Hoa Kỳ. Đây lại là một cảnh thảm thương gây ra bởi tính tình nóng nẩy, thiếu suy nghĩ và tự ái nên hạnh phúc gia đình có trong tầm tay bị tan vỡ.
 
Hôn nhân là một khế ước giữa hai người nam nữ đã trao cho nhau cả thể xác lẫn tình yêu, cả hai trở nên một trong hạnh phúc độc hưởng “Mình với ta tuy hai mà một”. Vợ chồng tương kính nhau, tôn trọng ý kiến của nhau, thảo luận để đi đến quyết định phải lễ. Hạnh phuc rất dễ đổ vỡ, phải biết săn sóc đề phòng, đừng quá tin  vào tình bạn, người xưa có câu “Tin bạn mất vợ nằm co ro một mình”. Đời nay cảnh tin bạn mất vợ mất chồng không phải là ít.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 01.12.2022 01:19:06
 
 
 
25-   Gia Đình Đau Khổ
 
 
 
Trên một chuyến xe lửa từ Sàigòn ra Qui Nhơn ngồi cạnh tôi là một ông bạn đồng hành đã đứng tuổi. Với vẻ mặt vui tươi, ông hỏi thăm chúng tôi đi tới đâu. Khi biết cùng lộ trình và đường còn dài, chúng tôi cả hai bên nói truyện hết xa đến gần, đến truyện thời sự thế giới, trong nước, nhân tình thế thái. Cuối cùng bây giờ tôi còn nhớ lại câu truyện mà ông bạn đồng hành đã kể:
 
Tôi có ông bạn thân là ông Tham T. Cả hai ông bà đều là con nhà gia giáo, đã có hai người con trai khá khôi ngô và thông minh. Bà vợ ông Tham T. người đẹp, khôn ngoan, buôn bán giỏi. Ông Tham T. trông ngoài con người có vẻ đạo mạo nhưng thiếu đứng đắn, hay nghe chúng bạn nay đi nghe hát cô đầu, mai đi vũ trường.
 
Giới công chức thời đó hay đua đòi bắt chước, người tỏ ra đứng đắn “cơm nhà quà vợ” lại bị những bạn đồng nghiệp túm vào chế giễu rằng cù lần, sợ vợ, không văn minh, họ tìm đủ cách cho phải sa ngã như họ, họ mới hả hê. Biết được ông Tham T. hay đi ngang về tắt, bà Tham T. đổ ghè tương rất mạnh, bà thiếu khôn ngoan, không biết cách chiêu hồi ông, bà chỉ biết đi bắt ghen, chửi nhau, đánh nhau, rồi một hôm quá tức, bà chửi ông lại móc thêm đến bố mẹ ông ra mà chửi. Đây là một cái cớ quá sức chịu đựng của ông vì bà Tham đã nói động tới bố mẹ ông nên ông Tham T. dứt khoát bỏ bà vợ tào khang.
 
Biết mình quá nóng, nói lỡ lời, bà đã nhờ họ hàng và bè bạn thân với ông Tham để bà xin lỗi nhưng đều vô ích, -ông bạn đồng hành với tôi nói: “Chính tôi là bạn rất thân cùng nói giúp, vì bà Tham trong cơn nóng giận tức tối đã trót lỡ lời, xin hãy bỏ qua, hàn gắn lại gia đình, thương đến các con”. Ông Tham dứt khoát trả lời: “Nếu bát nước đổ xuống đất mà hốt lên được, tôi sẽ nghe lời anh”.
 
Hết hy vọng, bà Tham T. ôm mối hận, đành buôn bán nuôi con một mình. Lịch sử tái diễn, xưa Cao Tôn Lý trị đời Đường, mê gái loạn luân với người sư nữ nguyên là  thiếp của bố, lập nàng làm Võ Hậu, rồi bị bà này đè đầu cưỡi cổ giết cả cậu ruột của vua vì lời can ngăn không bằng lòng cho lập làm hoàng hậu, giết cả hoàng hậu, giết con, nắm lấy quyền chính làm nhiều điều càn dở, tai ác… Ông Tham T. đã có cớ bỏ vợ con, tha hồ tự do không phải kiêng dè ai, không còn phải nghe tiếng mè nheo; chả bao lâu ông cưới người vợ thứ hai, nguyên là một cai gà ở vũ trường mà ông quen biết từ trước.
 
 Cô này quỷ quyệt, đáo để nắm được yếu điểm của chồng nên ông Tham T. chỉ còn biết đưa lương về để cô vợ đi đánh bạc, la cà ngày đêm, không còn biết đến nhà cửa, chồng con ra sao. Đều đặn, mỗi năm cô sản xuất cho ông Tham một đứa con; đẻ xong cô để con ở nhà mặc người vú nuôi và người chồng. Con có bị yếu đau, ăn đói mặc rách cô cũng không cần. Vì thương con, ông Tham ngoài giờ đi làm phải thay vợ trông coi con cái nhà cửa; cái khổ tâm nhất cho ông Tham T. là  trong sáu đứa con của người vợ sinh ra, ông không biết đứa nào là con của ông, bỏ thì thương vương thì tội, ông đành phải nuôi chăm sóc mấy đứa nhỏ như nhau. Ngay cô vợ của ông cũng không biết đứa nào là con của ông vì đêm nào cũng đi đánh bạc tới khuya mới về, và cô sống một đời rất buông thả.
 
“Trước đây một ngày, tôi có đến thăm bạn” lời ông bạn đồng hành nói – Bây giờ ông Tham T. quá thất vọng, đau khổ, hối hận vì lầm lỡ, vì tính thích chơi bời, cố chấp, bỏ mồi bắt bóng, bây giờ phải sống trong đau khổ, ân hận, lo lắng, thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất, vì mù quáng không biết phân biệt, không chịu tìm hiểu, không đủ nghị lực uốn nắn người vợ để cho vợ xỏ mũi mà chịu nhục nhã – Đây là câu truyện xẩy ra trước 1975.
 
Cảnh trên lại cũng tái diễn ở nơi hải ngoại này, với những ông trẻ lẫn ông gìa, trông ngoài phong độ có thừa, tài giỏi về nghề nghiệp nhưng lại thiếu tài trị gia. Mấy bà vợ cũng con nhà thế giá nề nếp, học hành dở dang, được bố mẹ đủ tiền nuông chiều, ăn chơi đủ mùi. Lấy chồng có bằng cấp cao, có địa vị, nghề nghiệp vững chắc, kiếm lắm tiền đủ cho các bà tiêu xài ăn chơi. Nếu là người có lương tâm, có đức hạnh, sống một đời an nhàn, đầy đủ để hưởng cảnh một gia đình hạnh phúc và góp phần cùng chồng xây dựng thăng tiến xã hội thì thực là hữu ích cho quốc gia. Nhưng than ôi! Trông ngoài thì vậy mà không phải vậy.
 
Người chồng chỉ là một bức màn che cho họ làm những điều bỉ ổi, gia đình đối với họ chỉ là nơi tạm nghỉ những lúc mỏi mệt, đau yếu.
 
Họ là người có tài nói khéo, nói như rót vào tai người nghe, có đủ cách cớ để đi khỏi nhà mà người chồng chỉ cười để vợ đi, hay có nghi kỵ trong lòng nhưng nể vợ không muốn nói ra, sợ làm phật ý vợ, hay muốn nói rõ hơn thì người vợ đã nũng nịu, vuốt ve: “Em chỉ đi với người mách mối mua món hàng, chạy áp phe, mua nhà, mua đất bán lấy lời, chung nhau mở nhà hàng, đi thăm bạn bè, họ hàng….”
 
Những lời đồn nói xa gần, người chồng cũng có nghe biết, nhưng vì danh dự, vì địa vị, cứ nhắm mắt làm ngơ, giả câm giả điếc không tin; lâu ngày những người biết rõ hành vi của bà vợ, không ai muốn nói cho người chồng hèn nhát biết, họ chỉ cười riêng với nhau.
 
Một điểm đặc biệt của bà vợ này là được lòng nhiều người; gặp ai bà cũng vui vẻ xã giao, để che đậy hành vi xấu. Những ai biết cũng không nỡ mạt sát ra mặt. Có về đến nhà thì ôi thôi! Gặp chồng bà đóng kịch tuyệt hảo, vui tươi chiều chuộng ông từng ly từng tý, thu dọn nhà cửa, làm cơm ngon lành đúng với bổn phận một người nội trợ giỏi. Nhưng một hai ngày sau bà lấy được tiền, những món tiền ông dành dụm chắt chiu từng đồng không dám tiêu, chỉ để cung phụng cho bà rồi bà đem đi nuôi những kép già kép trẻ mà bà mê say.
 
Những ngày bà bỏ nhà đi khỏi, ông chồng đi làm về lụi cụi vào bếp nấu nồi cơm điện ăn hai ba ngày, muối ít dưa để ăn dần.
 
Những người con lớn đều vừa đi học vừa phải đi làm, không còn được hưởng lợi tức của bố, vì người cha quá hèn yếu trước người vợ vô lương tâm, đem hết tiền của chồng làm ra đưa cung phụng đám nhân tình, phung phá, cờ bạc nên nợ nần quá nhiều, cho đến một ngày ông chồng phải tuyên bố vỡ nợ.
 
Có nhiều đàn ông  bạc nhược, muốn giữ thể diện hy vọng tiến thân cầu công danh, nhưng nếu những người này may mắn nắm được chính quyền trong tay thì thật là đại họa cho quốc gia và xã hội vì có những bà vợ mê cờ bạc, mê kép, cần tiền tất phải tham nhũng vì sẵn lợi khí trong tay là điều khiển những ông chồng bạc nhược sẵn sàng tuân theo ý bà vợ. Đã không đủ năng lực tề gia, còn dám có cao vọng trị quốc, nên nước mình đã tan nát, mất hết tiềm lục quốc gia bởi những gã đàn ông yếu hèn và bà vợ vô hạnh.
 
Biết người biết mình, tế nhị uốn nắn khi mới lấy nhau, trong thời kỳ hương lửa đương nồng nói gì, muốn điều gì, người phối ngẫu sẽ còn đang chiều chuộng, dễ nghe theo. Gặp phải người phối ngẫu bệnh hoạn, dâm dật, vô lương tâm, mình phải chủ động, cương quyết giữ cho phải đạo, làm gương cho người phối ngẫu noi theo.
 
Làm nghề gì cũng vậy, việc đi về cũng có thời khóa biểu, phải kiểm soát một cách khéo léo người phối ngẫu và dùng những lời nhẹ nhàng để cảm hóa khi cần, đừng quá nóng giận mất khôn, đừng quá yếu lòng chiều theo lời ỏn thót, đừng để người phối ngẫu lợi dụng cảm tình qua mặt một lần, quen đi lâu ngày sẽ làm tới nữa, riết hồi trở thành thói quen, bệnh hoạn và  tới khi không còn chịu nổi  nữa là đi tới tan vỡ, chỉ còn cách chia tay hay ngậm đắng nuốt cay một mình, hay phẫn hận quá đi tới cảnh sát nhân tàn tạ cuộc đời.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 01.12.2022 01:23:22
 
 
 
26-   Nghĩa Vợ Chồng
 
 
 
Ở đời người ta thường nói tình nghĩa vợ chồng, it khi nói nghĩa vợ chồng không, nhưng điều cao quý nhất  và đẹp đẽ nhất trong  đời sống lứa đôi cổ truyền Việt Nam là nếu tình chẳng còn thì đành hy sinh giữ lấy nghĩa vợ  chồng vậy và dồn hết tình yêu ấy cho con cái với hy vọng “cóc chết ba năm quay đầu về núi”.
 
Lụa, đang ngồi đan áo, hai tay thoăn thoắt đan rất nhanh với ý nghĩ đến lễ Sinh Nhật sẽ lên Đà Lạt thăm bà cô, và làm quà biếu cô cái áo và khăn quàng  đáng đan, chắc cô thích lắm vì nhiều lần cô tỏ ý muốn mặc áo và khăn quàng mầu mận đỏ . Vì mải mê đan, Lụa không nghe tiếng mẹ gọi, làm bà Hải phải gọi đến lần thứ hai, nàng mới để ý tới vội vàng bỏ kim đan và len xuống, chạy vội lên nhà trên, thấy bố mẹ đang ngồi bàn chuyện gì có vẻ kín đáo nhưng nét mặt của hai vị đều rạng rỡ vui vẻ. Lụa khoanh tay thưa:
 
-Con đang mê mải  đan áo cho cô  Nhung, nên không nghe tiếng mẹ gọi. Thưa bố mẹ có điều gì dậy bảo.
 
Ông Hải nhìn con bảo ngồi lại gần và bà Hải nói:
 
-Ngày mai nhà có khách đến chơi, ông bà An Thịnh có tiệm bán xe đạp ở Ngã Sáu sẽ cùng con trai là Trung úy Đạt, mới được nghỉ phép, đến thăm bố mẹ, nên mẹ nói để con thu xếp nhà cửa gọn ghẽ sạch sẽ, mua ít trái cây ăn chơi và lau chùi bộ đồ trà tầu cho sẵn sàng.
 
Lụa nghĩ “À ra vậy, có người đến xem mắt mình” và e thẹn, nàng bước xuống nhà dưới.
 
Ông Hải là một công chức gương mẫu, giáo dục con cái trong vòng lể giáo nghiêm túc, ông thường dậy các con không được tự ý đi chơi nếu chưa có phép của bố mẹ và đặc biệt với Lụa, khi còn đi học ông thường khuyên nhủ phải đoan trang, đừng có trò truyện với các cậu con trai học trò theo đuổi tán tỉnh, nhất là trên đường từ trường học về đến nhà sau khi tan trường. Trong số những cậu học trò tán tỉnh Lụa có cả Đạt, trước khi nhập ngũ học trường sĩ quan Thủ Đức, nên khi nghe bố mẹ nói tới Đạt, Lụa mỉm cười nghĩ thầm: “Lại anh chàng này.”
 
Sau khi ông bà An Thịnh đưa Đạt đến chơi nhà và có sự đồng ý của bố mẹ Lụa nay có dịp nói chuyện với Đạt để tìm hiểu nhưng vì Đạt là một sĩ quan bận việc quân ngũ nên ít có dịp để hai người gặp nhau, còn đối với đôi bên cha mẹ, chỉ  nhìn bề ngoài, thấy đôi trẻ xứng hợp, môn đăng hộ đối, nên cứ tiến hành công việc cưới xin, chờ ngày nghỉ phép tới, Đạt được về là làm lễ thành hôn.
 
Sau lễ thành hôn, Đạt lại trở về quân ngũ, đôi bên cha mẹ vui vẻ hả hê có con rể có chức phận, con dâu vừa đẹp vừa ngoan, có ăn học, biết lễ độ.
 
Tình hình mặt trận càng ngày càng sôi động, nhiều vùng mất an ninh. Đạt muốn đưa Lụa đi theo, nhưng vì ở vùng hỏa tuyến Đạt phải luôn luôn đi hành quân, di  chuyển khắp nơi nên đôi bên bố mẹ cản ngăn không muốn để Lụa đi vào nơi hòn đạn mũi tên rất nguy hiểm, nhất là trong lúc Lụa đã cấn thai cần gìn giữ hơn.
 
Ngày 30 tháng 4 là ngày lo sợ hoang mang cho mọi người vì mặt trận đã tới sát gần Sàigòn, Lụa tay ôm con, tay dọn đồ lo lắng cho chồng, không biết Đạt có về nhà hay xiêu bạt đi đâu xa. May mắn thay, hình bóng Đạt hiện ra trước cửa, giục giã Lụa bế con ra xe cho mau, nàng không kịp đem theo nhiều thứ đã sắp xếp sẵn.
 
Thoát hiểm đưa được vợ con đến chốn tự do an toàn, đôi vợ chồng đã lấy lại được sự bình tĩnh, vừa đi học vừa đi làm. Sẵn căn bản học vấn, cả hai đều kiếm được việc làm hợp với khả năng, từ nay không còn phải xa cách nhau.
 
Cũng vì khi còn ở nước nhà hay phải xa cách nhau, đôi bên chưa có dịp tỏ hết cái hay, cái dở của nhau, mà những ngày nghỉ phép ở nhà ngắn ngủi gần nhau. Lụa nhận thấy chồng mình là người thô tục từ cử chỉ đến ngôn ngữ. Đạt thường sỗ sàng hay sổ nho với vợ. Lụa cho rằng ở trong quân ngũ, Đạt thường quen thói nói sỗ sàng vói thuộc cấp, nên nàng cũng nhịn cho qua.
 
Đến đất tự do không còn có sự cản trở nào khác, bản tính có cơ hội bộc lộ. Trước kia Lụa chi tiêu trong gia đình phải chờ lương của chồng đưa về, bây giờ cả hai vợ chồng cùng đi làm, lương bổng xấp xỉ nhau, cùng đi làm về tới nhà, Lụa đã vội vàng vào bếp làm cơm dọn sẵn trên bàn, mời Đạt vào ăn; nhiều khi chàng còn đang xem báo, coi tivi chưa chịu ăn ngay bắt phải chờ không thèm nghe nói. Có khi Lụa đang nói thì Đạt ngắt lời, hay đang lúc nói nửa chừng chưa hiểu ra sao, đứng dậy bỏ đi làm việc gì không đúng hẹn mà chẳng thèm nói tại sao, có khi Lụa lấy cho cái gì chậm một chút là khó chịu, quát tháo, tức giận. Rồi muốn Lụa làm việc gì, không thèm nói tử tế, cứ như ra lệnh đúng với câu “chồng chúa vợ tôi”.
 
Lụa rất buồn vì trước kia mình không có dịp tìm hiểu, bây giờ phải bình tĩnh chịu đựng, tìm cách đối phó để giữ cho không khí trong gia đình được êm ấm. Để chứng tỏ mình là người mẹ  hiền, vợ thảo, hiểu biết, mỗi khi Đạt la ó, quát tháo, Lụa kiên nhẫn bình tỉnh ăn nói sẽ sàng và có cử chỉ đàng hoàng, tỏ ra người lịch sự không thèm tranh chấp  thói thô lỗ, ăn miếng trả miếng.
 
Lụa hy vọng mình kiên nhẫn chịu đựng ít lâu Đạt sẽ hiểu thấy cử chỉ lễ độ của vợ tất nhiên sẽ dịu dần và thành thói quen. Nhưng tính thô lỗ, quen thói phũ phàng của Đạt không giảm, có khi trước mặt bất cứ người lạ hay người quen Đạt cũng không biết giữ thể diện cho vợ, mà Lụa dù tức tới mấy cũng cố nhịn để khỏi mất mặt, chạm tự ái tới chồng. Nàng nghĩ mình nói ra những lời cay độc chẳng có ích gì lại càng làm cho người ta chê cười, không đem lại kết quả. Lụa đổi cách đối phó, không lẽ cứ cúi đầu nhẫn nạn chịu nhục phục tùng chồng mãi sao được.
 
Mỗi khi xẩy ra việc gì mà Đạt làm tới, Lụa không thèm trả lời, cứ làm hết bổn phận cái gì đang làm, cần làm mới nói, hỏi và giữ im lặng không thèm nhìn mặt. Đúng như Lụa dự đoán, nàng im lặng tỏ ra như khinh, coi như không có Đạt ở nhà, nhưng Đạt không biết phục thiện, chàng cảm thấy mất mặt, sau  một hồi tuôn ra những lời thô bỉ, đập phá ít đồ đạc, Đạt xách xe ra đi trước mặt mấy đứa con còn nhỏ.
 
Lụa rất buồn nhưng không tiếc gì vì đã biết Đạt có bóng hình nào chen vào xúi bẩy chàng bỏ vợ con ra đi. Lục tự túc nuôi con, cảm thấy tâm hồn được nhẹ nhõm hơn.
 
Chẳng được bao lâu, hết tiền hết tình, Đạt buồn nản sống cô quạnh một mình, hối hận về tính độc đoán, thô tục của mình nên không dám trở về nhà nhìn con nhìn vợ mà bấy lâu nay chàng coi thường, đối xử một cách bất công cho rằng vợ phải có bổn phận hầu hạ mình.
 
Nhớ con Đạt đến trường chờ các con ra để nhìn, gặp những đứa con ngoan ngoãn. Một thằng con nhỏ bá cổ bố nói: “Chúng con muốn bố về với chúng con lắm, nhưng bố không được làm cho mẹ buồn”. Lời nói của thằng nhỏ làm cho Đạt xấu hổ, ân hận, tiếc nuối hạnh phúc gia đình với người vợ lý tưởng có tâm hồn cao thượng biết tha thứ nhịn nhục, có ý muốn cải đổi tâm tính mình: biết lịch sự, hòa đồng, dịu dàng với vợ mà mình đã coi thường không biết phục thiện.
 
Thiếu mái gia đình, Đạt lang thang đi không định hướng nên mới gặp tai nạn xe bị thương trầm trọng và được đưa cấp cứu vào bệnh viện.
 
Cơm chiều xong, như thường lệ Lụa đang giúp con xem bài vở thì chuông điện thoại kêu, nói có người tên Đạt ở số điện thoại này bị thương vì tai nạn xe đang nằm mê man trong bệnh viện. Lụa liền hối  hả đem các con vào ngay nhà thương tìm tới phòng cấp  cứu thấy Đạt đang nằm bất tỉnh, băng bó đầy người. Nàng nhỏ lệ tự nghĩ một phần đời của mình sống với Đạt, phải chịu nhục nhã khinh bỉ, với cái tính phách lối thô lỗ, không chung tình, thật đáng giận, nhưng nghĩ lại không tình yêu cũng còn con cái nghĩa chung sống với nhau đã có ba mặt con, nay gặp bước gian nan, hãy đem tình thương giúp đỡ an ủi. Lụa xin nghỉ dài hạn ở sở làm để có thì giờ săn sóc Đạt.
 
Trong phòng cấp cứu, Đạt rất cảm động khi tỉnh lại, nhận ra Lụa đang săn sóc mình với lời an ủi dịu dàng, cử chỉ trìu mến. Đạt chỉ còn ứa nước mắt xin lỗi mong Lụa quen quá khứ nối lại tình xưa để chàng có cơ hội chứng tỏ lòng phục thiện, và biết ơn.
 
Hôn nhân là một khế ước giữa hai người nam và nữ, đã trao cho nhau cả thể xác lẫn tình yêu khiến cả hai trở nên một trong hạnh phúc gia đình như hợp với câu: “Mình với ta như hai mà một”.
 
Nhưng nhiều khi những việc không đâu rất tầm thường mà cả hạnh phúc gia đình bị tan vỡ chỉ vì một lời nói, một cử chỉ, một việc làm vô ý thức.
 
Cả đôi bên không chịu tìm hiểu, không biết tha thứ, không nghĩ đến hậu quả sẽ tác hại cho cả hai bên, nhất là để cho con cái mình thiếu tình thương phụ tử hay mẫu tử, thiếu an ủi, dậy dỗ khi còn thơ ấu.  Nên cái đẹp của ông  cha chúng ta là luôn luôn bảo vệ hạnh phúc gia đình bằng sự hy sinh, nhẫn nại, nếu tình chẳng còn thì cũng vẫn ở với nhau, sửa chữa cho nhau để giữ nghĩa vợ chồng.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 01.12.2022 01:39:01
 
 
 
27-   Mấy Đời Bánh Đúc Có Xương
 
 
 
“Ông Quang ơi! Tại sao ông ghét, ông thù hằn những người có phòng nhì? Có mắc mớ, có thiệt hại gì đến ông đâu?”
 
Nhiều người quen biết ông Quang đã trêu chọc ông như thế. Và ông Quang đã trả lời cho họ hiểu tại sao:
 
-Tôi thương những bà có chồng bị phụ bạc, thương những đứa nhỏ gặp phải dì ghẻ ác độc. Tôi khinh những người đàn ông có mới nới cũ, bất công, mù quáng, bỏ bê con cái khốn quẫn, đói rách, để cho dì ghẻ hành hạ con mà không dám bênh vực. Vì chính tôi đã là nạn nhân. Và tôi không bao giờ quên được quãng đời thiếu thốn đã chịu đựng nhiều khổ ải tại gia đình.
 
Bố tôi quê ở Bắc Ninh  là con nhà khá giả ở miền quê. Sau khi đỗ bằng tiểu học Pháp Việt, ông bà nội gửi bố tôi lên Hà Nội học. Sau khi ông nột tôi chết, bà nội bảo bố tôi về quê làm ruộng lấy vợ. Nhà có 10 mẫu ruộng, cũng đủ sống, rồi làm lý trưởng, chánh tổng cũng danh giá chán. Bố tôi chê cô gái bà nội chọn cho bố tôi là quê mùa, nhất định không chịu về. Giữa bà nội và bố tôi vì thế xảy ra xích mích. Bà nội tôi không gửi tiền ăn học nữa và bố tôi phải nghỉ học kiếm việc làm với chân thư ký kế tòa án, ngày xưa kêu là ông phán.
 
Nhân ngày nghỉ, một người bạn rủ bố tôi về quê ở Hưng Yên ăn giỗ. Bố tôi gặp mẹ tôi bán tiệm tạp hóa ở đây và ông bị tiếng sét ái tình ngay. Bố tôi ngỏ lời cầu hôn nhưng ông bà ngoại tôi không chịu, lấy cớ người làm việc ở tỉnh thành dễ bị sa đọa, người nhà quê không thích ứng được. Ông bà ngoại tôi nhất định không gả nên mẹ tôi chỉ còn cách trốn nhà theo bố tôi lên Hà Nội. Bố mẹ tôi ở với nhau không được cả hai bên nội và ngoại công nhận, nên không có hôn lễ, không có ai  chứng nhận, không có cả hôn thú. Yêu nhau có bao giờ nghĩ ai sẽ phản bội ai mà cần bảo vệ quyền lợi.
 
Mẹ tôi là người biết buôn bán nên việc chi tiêu trong nhà không cần đến lương của bố, còn nuôi thêm người giúp việc bế em nấu nướng. Anh em chúng tôi được cưng chiều, ăn mặc không thiếu thứ gì, Mẹ tôi chiều bố tôi muốn tiêu gì cũng không để ý.
 
Mấy ông bạn cùng sở thấy bố tôi có tiền hay rủ bố tôi đi chơi đi hát, đi nhảy. Mẹ tôi không bằng lòng kêu ca phàn nàn lại bị những người bạn xấu của bố tôi nói khích, chê  bố tôi sợ vợ, không dám đi chơi chỉ ở nhà với vợ con. Lâu dần, bố tôi  nghe lời mấy ông bạn xấu nết này, ngày nào cũng theo họ đi du hí, ngụp lặn trong chốn ăn chơi, không còn biết đến vợ con. Mẹ tôi không can nổi đành buông xuôi.
 
Mẹ tôi buồn rấu, lo nghĩ, lại bị buôn thua bán lỗ chi tiêu nuôi các con, bố tôi không cho, bắt mẹ tôi đi buôn bán tiếp. Tiền vốn buôn của mẹ tôi đã cạn dần tiêu vào tiền thuốc, tiền ăn hết. Bố tôi bắt mẹ tôi ở riêng ở căn phòng nhỏ gần bếp lấy cớ sợ lây bệnh lao và chỉ cho đủ tiền mua gạo, mua thức ăn.
 
Một hôm bố tôi về nhà bảo bà giúp việc lau nhà cửa, thu dọn sạch sẽ, thay khăn giường mới, cắm hoa tươi, Bố lại dẫn anh em tôi đi mua quần áo mới, giầy mới.
 
Ngày Chúa nhật hôm ấy, mẹ tôi gọi chúng tôi vào phòng nói chúng tôi ở nhà đừng đi đâu chơi, mẹ nhìn các con mẹ mới đỡ buồn. Mẹ chịu nhục nhã vì các con mà sống. Tôi hỏi mẹ tôi sao lại khóc. Mẹ tôi nấc lên nói: “Hôm nay bố đưa dì hai về làm mẹ tủi thân nên mẹ khóc!” Ba mẹ con đang nói chuyện với nhau, tôi nghe tiếng pháo nổ trước cửa, chạy ra xem. Bố tôi khóac tay một người  đàn bà khác cùng mấy người bạn trên xe bước vào nhà. Họ chia nhau ngồi vào bàn ăn, bố tôi đã thuê người bầy sẵn.
 
Sau này tôi mới biết, bố hay đi hát đã mê cô Huệ tức dì hai, là cô đầu ở Khâm Thiên. Cô này bắt bố tôi phải cưới đàng hoàng để lấy mẽ với bạn bè, lấy le với bồ cũ. Mấy người bạn của bố tôi gọi anh em tôi vào nhưng bố đuổi anh em tôi xuống bếp ăn với u già.
 
Từ ngày có dì hai, bố tôi hay đánh mắng chúng tôi, nhất là những lúc dì hai sai tôi làm gì mà tôi không làm bị bố đánh thật đau, bắt phải lễ phép với dì, gọi dạ bảo vâng, thưa gửi. Rồi dì hai lấy cớ tôi lớn, cho u già nghỉ việc, bắt tôi nghỉ học ở nhà nấu cơm, quét nhà, giặt quần áo, làm những việc trước kia u già làm. Bố và dì hai đi ăn cơm tiệm, chỉ đưa tiền đủ để mua gạo, củi, nước mắm. Mẹ con tôi sống thật thiếu thốn đủ thứ. Cũng may thỉnh thoảng bạn buôn của mẹ tôi và mấy bà hàng xóm thương tình tới giúp đỡ thăm nom yên ủi mẹ con tôi.
 
Cuối năm 1946, tự vệ thành tới nhà đục vách tường thông sang các nhà  hàng xóm để phòng đánh nhau. Bố bảo mẹ tôi dẫn anh em tôi đi lánh nạn còn bố tôi đi với  dì  hai. Mẹ con chúng tôi không biết đi đâu, muốn về với ông bà ngoại, sợ ông bà còn giận. Mẹ tôi nghĩ bà nội còn một mình thấy cháu nội cũng mừng nên kiếm đường tới nhà bà nội.
 
Trái với sự mong muốn, bà nội tôi lạnh nhạt hỏi loạn lạc về quê biết làm gì mà ăn. Bà cho mẹ con tôi ở một gian nhà nhỏ sát bếp.
 
Hai tuần lể sau, bố tôi cũng đưa dì hai về ở với bà nội. Khác với mẹ tôi, di hai ăn mặc sang trọng, đem theo quà về biếu bà nội, vải lụa, giày dép đủ cả nên bà nội vui vẻ hỏi han và dọn căn phòng nhà trên cho bố và dì hai ở, bắt mẹ con tôi làm cơm cho bố và dì hai ăn. Tôi tức quá chảy nước mắt. Mẹ tôi an ủi: “Thôi con nhẫn nhục mấy hôm nữa mẹ sẽ dẫn con về ở với ông bà ngoại. Loạn lạc chắc ông bà cũng tha thứ cho mẹ.”
 
Một bà hàng xóm tốt bụng tới thăm thấy cảnh bất công, an ủi mẹ tôi. Mẹ tôi nói:
 
-Tôi bị bệnh không thuốc uống, còn phải hầu cơm nước cả nhà. Tôi lượng sức không biết có kịp đưa các con tôi về Hưng Yên nương náu ông bà ngoại không? Tôi có viết sẵn địa chỉ nhà bố mẹ tôi, nếu chẳng may tôi chết, xin bà làm phúc chỉ đường cho các cháu hay có thể hơn thế nữa, nhờ bà nhắn tin cho bố mẹ tôi đưa người đến đón các con tôi đi. Tôi biết các con tôi ở với bố và bà dì ghẻ chúng sẽ bị đánh chửi và sẽ khổ đến thế nào nếu tôi chết.
 
Sau buổi nói chuyện với bà hàng xóm, mẹ tôi có vẻ bình thản hơn. Mẹ tôi nói: “Chờ về với ông bà ngoại các con sẽ được đi học, ăn mặc đầy đủ hơn.” Mẹ tôi lại gói sẵn quần áo, giấy tờ làm hai gói, một lớn một nhỏ và dặn chúng tôi không được nói cho ai biết.
 
Hai ngày sau, buổi sáng định mệnh hôm ấy, mẹ tôi ra cầu ao bưng rá gạo, Nhìn mẹ tôi đi không vững, tôi nói mẹ tôi chờ tôi nhúm lửa xong sẽ ra vo gạo cho. Than ôi! Đâu còn kịp, một tiếng kêu “ùm”, tôi nhìn ra, mẹ tôi đã nằm sấp trên hòn đá cầu ao, rá gạo rơi chìm xuống nước. Tôi gọi, mẹ không nói gì. Tôi lấy hết sức  kéo mẹ tôi đứng lên, dìu mẹ vào bếp. Nhìn mặt mẹ tôi xanh vì lạnh, tôi lấy chiếu phủ lên người cho mẹ tôi. Bà nội tôi nghe tiếng kêu chạy ra thấy mẹ tôi đánh đổ gạo xuống ao, bà tru tréo quát ầm phải xuống ao mà vớt  gạo lên. Dì hai cũng chạy ra nói thêm: “Mẹ mày không dám lội  xuống ao, thằng Quang phải xuống vớt gạo lên.” Tôi đang ngồi bên mẹ, lòng quặn đau thương mẹ, nghe thế tôi tức quá nói:
 
-Nước lạnh lắm, tôi không lội xuống ao được. Dì xuống mà vớt gạo.
 
Tôi vừa nói xong, dì hai quát lớn:
 
-Đấy, anh nghe con anh nói với tôi già giẻo như vậy đấy.
 
Bố tôi ra sân tát tôi mấy cái chúi đầu xuống  vào chiếc bàn làm gẫy chiếc răng cửa. Tôi khóc chạy vào bếp cạnh mẹ tôi. Mẹ tôi mở mắt nhìn máu miệng tôi chảy ra, chỉ nắm chặt lấy tay tôi rồi nấc lên mấy cái và từ từ nhắm mắt lại. Tôi không biết mẹ tôi đã chết, nắm lấy tay mẹ tôi hồi lâu thấy lạnh dần. Bà nội tôi mang gạo khác ra gọi mẹ tôi không thấy đáp mới phát giác ra mẹ tôi đã chết. Bà nội tôi gọi ầm ĩ mọi người. Hai anh  em tôi nghe mẹ tôi chết chúng tôi cứ ôm mẹ mà khóc. Tôi không còn biết sợ bố nữa, vừa khóc vừa chửi dì hai vì dì hai mà mẹ tôi chết. Vì có đông người, bố tôi không dám đánh tôi, chỉ bắt tôi im không được nói gì. Tôi thương mẹ quá, liều rồi, cứ tiếp tục chửi dì hai.
 
Ngày hôm sau, người ta đưa mẹ tôi đi chôn, quan tài là chiếc phản cũ mà mẹ tôi vẫn nằm. Người ta cưa phản đóng lại thành áo quan. Bà nội thắt khăn trắng lên đầu hai anh em tôi, đi theo quan tài có bố và cả bà hàng xóm tốt bụng cùng đi với anh tôi ra nghĩa địa. Tôi thấy bà ta cũng khóc, mắt đỏ hoe.
 
Lấp đất xong, mọi người ra về, còn hai anh em tôi không chịu về. Bố tôi nói sẽ thay mẹ thương các con hơn. Tôi trả lời: “Bố ác lắm, bố bắt mẹ phải hầu di hai nên mẹ chết”. Bà hàng xóm chen vào nói: “Ông Phán  về trước để tôi khuyên các cháu đi về sau.” Bố tôi đi khỏi, bà ta sẽ nói với tôi.
 
-Bác đã nhờ người đưa tin cho ông bà ngoại cháu biết. Trong mấy hôm nữa sẽ có người đến đón các cháu. Cháu không được nói cho bà nội và bố cháu biết. Khi nào thấy bác tới nhà xin hỏi bà nội miếng trầu thì cháu dắt em cháu ra sau vườn chui qua hàng rào đứng sẵn  ngoài đường chờ bác.
 
Chúng tôi về nhà, sau đó suốt mấy ngày chúng tôi ngồi trước hè đợi bà hàng xóm. Bà nội hay bố bảo làm gì tôi còn làm. Dì hai tôi coi như người thù, gọi hỏi tôi không trả lời, bố chửi tôi cũng mặc kệ.
 
Tới ngày thứ năm sau ngày mẹ tôi chết, chúng tôi mới thấy bà hàng xóm tới xin bà nội tôi miếng trầu. Hiểu ý, tôi dắt em tôi ra vườn sau chui rào ra đường đứng chờ. Một lúc bà hàng xóm đi với một bà nữa tới, đưa cho tôi một gói nói là cửa mẹ tôi gửi trước và nói đi theo bà này về với ông bà ngoại. Hai anh em  tôi chỉ nói được câu cám ơn. Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa gặp lại và cũng không biết đến cả tên bà hàng xóm tốt bụng.
 
Chúng tôi theo người đẫn đường về đến Hưng Yên. Ông bà ngoại tôi hỏi, tôi kể mẹ yếu đau làm sao cho đến lúc chết. Bà ngoại khóc thương mẹ, lại trách ông ngoại quá nghiêm khắc không chịu cho người đi tìm mẹ. Đền bù lại, ông bà ngoại yêu chiều săn sóc anh em chúng tôi, lo lắng cho chúng tôi mọi sự.
 
Năm 1954, hiệp định Genève ra đời, ông bà ngoại đưa cả nhà vào Nam. Lúc đầu khó khăn, ông bà vẫn cho chúng tôi đi học. Đến tuổi động viên, tôi đi học sĩ quan Đà Lạt, mấy năm sau em tôi xong Tú tai hai đi dậy học, lập gia đình. Hai ông bà ngoại đã già, nhìn chúng tôi an ủi tấm lòng và nói:
 
-Các cháu đã thành danh, đã có gia đình. Ông bà đỡ ân hận với mẹ các cháu, vì đã bỏ bê mẹ các cháu chết tức tưởi ngày trước.
 
Mỗi khi nhớ lại thời thơ ấu chịu nhiều đắng cay, thương mẹ chịu nhục nhã, tôi lại thù người dì ghẻ ác độc, khinh ghét những người đàn ông mê muội để cho dì ghẻ hành hạ con mình. Tôi thề trong đầu không bao giờ để con tôi phải chịu cảnh đó, thà tôi chịu  ở góa nếu nhà tôi chết sớm.
 
Như câu ca dao: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng.” Tôi thường khuyên trong họ hàng, bạn bè có ai chẳng may gặp cảnh vợ chết sớm, hay cảnh cơm chẳng lành, canh không ngọt, hãy thương đến đàn con dại, nuôi dậy cho chúng học hành khôn lớn biết tự túc, đủ trí khôn góp mặt với đời, rồi hãy nghĩ tìm người thay thế làm chủ gia đình.
 
Kinh nghiệm riêng cho tôi thấy những người đàn ông bạc tình khinh bạc người vợ đầu đời, đến khi lấy người vợ thứ hai thường là xấu người, xấu tính, dữ dằn, hay ăn hiếp chồng. Âu cũng là quả báo cho những người đàn ông đã phụ rẫy người vợ hiền lành nết na đầu đời của mình như trường hợp bố tôi vậy.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 01.12.2022 01:51:41
 
 
 
28-    Thiên Chức Làm Mẹ
 
 
 
Thiên Chúa dựng nên muôn vật, trong các loài thụ tạo, chỉ có loài người được Chúa ưu đãi, có linh hồn thiêng liêng hợp với thể xác trở nên con người, đã được qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn đón nhận tin mừng cứu rỗi, trên con đường lữ hành về nước Cha trên trời, ở trần thế loài người còn có một trọng trách truyền sinh.
 
“Sinh con cái không phải là đáp lại nhu cầu nối tiếp giống nòi, nhưng là ước muốn tăng trưởng nhiệm thể; giáo dục con cái là huấn  luyện những kẻ thờ phượng Đức Chúa Cha cách trung thực… Gia đình là tế bào của Hội Thánh”. Chân lý này làm thấy rõ sự cao cả và sức mạnh của gia đình:
 
1-Nói tiếp Hội Thánh Chúa Giêsu đã thiếp lập ở trần gian.
 
2-Hiện diện  của Chúa là chủ gia đình thực sự.
 
3-Thừa tác vụ tư tế trong gia đình là vai trò của người cha… (Đường Hy Vọng) và vai trò của người mẹ trong việc giáo dục con cái cũng là một thiên chức không kém phần quan trọng.
 
Đôi với con ngay từ khi còn thơ ấu, mẹ là thần tượng là tất cả của con. Nói đến tình yêu con của người mẹ, nó bao la thắm thiết, cụ thể; thấy con đau yếu, mẹ cảm  thấy như chính mình bị đau, con gặp cảnh khổ não, lòng mẹ cũng lo buồn không yên, nếu như mẹ chịu đau chịu khổ thay được cho con. Yêu con, lòng người mẹ không những lo sức khỏe của con, còn bé mong cho con ăn nhiều chóng lớn, biết đi biết nói, mỗi tuổi mỗi khôn, đồng thời còn phải dậy con “từ thuở lên ba”.
 
Nếu người mẹ chỉ lo chăm sóc cho con về mặt vật chất, ăn mặc mua sắm đầy đủ, cũng cho con đi học, nhưng phó mặc nhà trường về phương diện giáo dục con cái, lơ là về mặt tinh thần thì thật là một thiếu sót trầm trọng trong thiên chức làm mẹ.
 
Sự dậy dỗ, săn sóc về mặt tinh thần, cũng cần phải được phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm và đạo đức mới có được đời sống quân bình.
 
Giáo dục con cái
 
Đọc truyện xưa nói về Mạnh mẫu, mẹ của thầy Mạnh Tử, bà là một bậc hiền mẫu. Để con khỏi phải nhiễm tính xấu những đứa bé láng giềng, bà đã đổi chỗ ở ba lần. Một hôm, thầy Mạnh Tử mê chơi bỏ học, để cảnh tình con, bà đã bẻ gẫy khung cửi đang dệt vải. Bà chỉ cho con biết sự học dở dang không khác nào khung cửi bị hủy đi; nhờ đó Mạnh Tử đã hối ngộ và cố gắng chăm chỉ học hành, để rồi trở thành bậc thánh hiền. Rút kinh nghiệm của câu truyện xưa, chúng ta thấy sự giáo dục con cái chúng ta ở trên đất Hoa Kỳ, nơi có đời sống vật chất thừa thãi, đầy chước cám dỗ đưa con cái chúng ta đến chổ hư hỏng, sa đọa, một số bà con mình đã lơ là ít chú trọng đến việc giáo dục con em; dậy dỗ thiếu phương pháp, nên đã tạo ra nhiều tệ trạng.
 
Đối với học đường ở Hoa Kỳ, người ta chỉ chú trọng tới vấn đề học vấn và không hề nói tới vấn đề dạy dỗ về phương tiện tinh thần hay luân lý như ở quê hương chúng ta, nên bổn phận của cha mẹ lo giáo dục cho con cái ở trên đất nước này trở nên hết sức  quan trọng và chúng ta cần theo dõi và kiểm soát từ việc học hành đến cả những bạn bè của chúng, mỗi chiều đi học về nên xem bài vở, khuyến khích con bằng cách thưởng tiền hay quà tùy ý, nếu phiếu điểm mỗi tháng trường gửi về được xếp hạng tốt, nếu kém thì bị cúp hay cho tiền thưởng ít đi, cốt khuyến khích chúng chăm chỉ học hành, nếu con kém thông minh thì hãy an ủi và khuyên chúng chăm chỉ hơn.
 
Đừng bao giờ so sánh con mình với con người khác hay bạn bè nó; làm như vậy là miệt thị con cái làm cho con dễ bị tự ti mặc cảm. Ngay đến việc sửa trị những lỗi lầm hay hỗn láo, chúng ta cũng nên hết sức cẩn thận và bình tĩnh, đừng bao giờ nên dọa con như: “Bố mày biết truyện này bố sẽ giết mày” hoặc ngay đến việc đánh đòn bằng roi vọt cũng phải hết sức tránh, đã có người cha bị rắc rối với pháp luật và bị buộc tội hành hạ trẻ con.
 
Lại cũng có trường hợp nhiều bà mẹ quá thương con, biết con có tính xấu, bỏ học, nói dối, ăn cắp vặt, đã không dậy dỗ lại còn che chở, giấu nhẹm không cho chồng biết để tìm cách sửa chữa, để buông xuôi, đã phải hứng chịu những đứa con mất nết, không có tương lai và còn gây tội ác nữa.
 
Xử công bằng với con cái
 
Yêu con cái, tình thương phải đối xử đồng đều, không thiên lệch, con hơn con kém, không bao giờ nên chế riễu nói con dốt, con xấu, hay có tật gì nhưng phải nói cho khéo, thí dụ như da nó đen thì bảo đen một tí mà đen dòn, có duyên, trắng mà vô duyên có hơn gì, hay nếu con có mặt bèn bẹt, phinh phính thì nói thế mà trông phúc hậu đấy ít người có. Nếu con chậm chạp thì nói chậm mà chậm chắc làm đâu được đấy còn hơn là nhanh nhẩu đoảng nếu là con gái, còn nếu là con trai thì nói đâu cần đẹp, chỉ cần khỏe mạnh, rắn chắc tướng đó là tướng anh hùng, cứ chịu khó học hành giỏi, giúp đỡ những người yếu đuối nghèo nàn sẽ được nhiều người quý mến, đừng để con có mặc cảm thấy bị thua thiệt sẽ tủi thân bất mãn.
 
Lời ngọt thì lọt đến xương
 
Khi con hư nên tìm nguyên nhân sự thiếu sót dậy dỗ của mình, tiên trách kỷ hậu trách con.
 
Khi các con có lỗi, ta đừng la lối mắng chửi, hãy gọi vào phòng kín, tránh cho nó khỏi xấu hổ với anh chị em, cắt nghĩa cho con hiểu không nên nói hay làm như vậy sẽ làm buồn lòng cha mẹ, người ngoài khinh chê con gái cần nhắc nhở cho biết ở đất Hoa Kỳ này, con gái họ tự do, ăn mặc hở hang, tự do hưởng thụ, nhưng người Việt mình phải kìm hãm bản thân, tránh mọi cám dỗ dẫn đưa vào con đường tội lỗi.
 
Thấy con cãi lại cho là vô lễ, bất hiếu rồi bạ đâu  mắng đó, chê bai, day dứt, những cái không đáng nói lại nói gắt gỏng, chẳng hạn nó cười thì chê nó toe toét, nó không cười thì bảo nó lầm lì, đi nhanh thì bảo đi nhanh như ăn cướp, đi chậm thì bảo đi như rùa bò, không ăn diện thì bảo nó đần, ăn diện thì bảo nó lẳng lơ.
 
Quá nghiêm khắc áp dụng quy tắc chặt chẽ, không cho phép con cái được tự bào chữa và cũng không thèm nghe chúng nói, ra lệnh bắt chúng phải theo không được có ý kiến, tất cả sẽ làm cho chúng bất mãn. Trái lại, cha mẹ hãy tha thứ, hãy lắng nghe, khuyến dụ và hướng dẫn các con tin tưởng làm điều phải, ôn tồn an ủi chúng, sẽ cảm thấy được yên ổn phấn khởi, thoải mái.
 
Hoa Kỳ là nước đa chủng, từ nhỏ cha mẹ không khuyến khích con cái học tiếng mẹ đẻ, học biết về lịch sử, văn hóa, giống nòi, không biết gốc  gác từ đâu đến, sẽ bị mặc cảm với những bạn khác chủng tộc, bị người gán cho câu “mất gốc”, còn gì tủi nhục hơn.
 
Hãy để nhiều thì giờ kiểm soát, hướng dẫn, ăn uống và cầu nguyện chung trong gia đình. Người mẹ có đặc điểm hữu hiệu hơn người cha: sẽ sàng, ngọt ngào và nước mắt. Nhưng phương pháp hữu hiệu nhất của các bà mẹ Công giáo là kiên trì cầu nguyện nhiều như bà thánh Monica xưa, kiên nhẫn cầu nguyện cho người con lãng tử quay về với Chúa, sau trở nên  một bậc đại thánh  là thánh Augustinô.
 

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 01.12.2022 02:10:18



29- Góp Ý




Trong cái chết đi tìm lẽ sống, trong tâm tư chúng ta hầu hết là hoang mang, sợ hãi, lo âu. Lo bất trắc xảy ra dọc đường, lo mình sẽ đi về đâu, rồi ra mình sinh sống bằng việc gì? Có hợp với khả năng mình không? Có khổ cực lắm không? Đấy là những cái lo riêng cho bản thân mình, còn lo cho vợ chồng, con cháu, cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu, ai đi được, ai không, ai thất tán nơi nào?

Còn ai kẹt lại, bị bắt bị chết bởi bọn đồng chủng mất hết lương tri, dã man tàn bạo cưỡng chiếm miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Và trong chúng ta ít ai nghĩ rằng tới sống trên phần đất mới sẽ hoàn toàn đảo ngược với nơi mình đã được sinh ra và lớn lên, nơi mình đã hưởng thụ nếp sống di truyền văn hóa đã sẵn có từ nghìn xưa để lại. Quá giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Nơi đất mới này, học hiểu được tiếng người nói của người ta đã là khó, còn nề nếp phong tục dị biệt là khó khăn.

Phải tìm hiểu để theo những cái hay cái tốt, loại bỏ cái dở, cái xấu của họ. Nước Mỹ có tiếng văn minh nhất thế giới, mà cái dở cái xấu của họ cũng không thua kém nhiều nước, như lời một đấng khả kính, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, khi tới Mỹ đã nhận xét: Nước này thiếu luân lý! Và chúng ta cũng có nhiều nếp sống cũ rích, nhiều thói xấu cần loại bỏ. Khi đã yên bề nghề nghiệp sinh sống, bậc làm cha mẹ ai cũng lo lắng đặt sự giáo dục con cái lên hàng đầu. Đó là bổn phận tự nhiên do mình thương yêu con mình.

Một khác biệt đáng kể là khi còn ở nước nhà, phần đông gia đình chỉ có người cha đi làm từ sáng đến chiều, hoặc ở ngoài đồng, ở công sở, xưởng hãng, hoặc mặt trận triền miên, ít khi ở nhà gặp con. Việc dậy dỗ con cái đều do bà mẹ, trừ trường hợp phải cần đến uy quyền người cha.

Một số nhỏ gia đình ở thành thị, các bà mẹ có trình độ học vấn cao, còn lại nói chung các bà phần nhiều chỉ biết đọc biết viết nên các bà ở nhà làm việc nội trợ, coi sóc nuôi con, cơm nước quần áo cho con. Con cái đi học, uốn nắn từ bé đến lớn luôn luôn trực tiếp dưới tay mẹ dậy dỗ chỉ dẫn nên người, nên ở nhà ít khi xẩy ra trường hợp con cái chống đối cha mẹ, bỏ nhà ra đi, để các bà mẹ phàn nàn khóc lóc có con hư hỏng.

Trái lại, trên phần đất văn minh quá tự do này, chúng ta không tiên liệu, đề phòng hết được những hậu quả sa ngã hư hỏng của con chúng ta, đã làm cho biết bao gia đình tan nát, cha mẹ đau khổ vì con.

***

Trong một buổi hội thảo có rất đông các bà mẹ, nhiều trường hợp khác nhau đã được đưa ra để góp ý kiến, mổ xẻ, lấy kinh nghiệm giúp đỡ, học hỏi lẫn nhau như sau:

Trường hợp A.

Con trai tôi 13 tuổi, nó hay bỏ học đi chơi. Nhà trường cho biết học bạ nó kém quá, mỗi khi bố nó xem giấy nhà trường gửi về là đánh mắng. Nó có quá nhiều thói hư tật xấu. Tham ăn, nói dối, ở nhà có cái gì hở ra là nó ăn cắp. Cả nhà ai cũng ghét, mỗi khi có quà bánh, tôi không chia cho nó thì nó cướp của em, anh nó ăn. Bây giờ nó bỏ nhà đi chẳng buồn tìm nó về. Nhiều lúc nghĩ lại cũng thương con dù nó hư xấu mấy cũng là con đứt ruột đẻ ra.

Phải nói đây là lỗi ở cha mẹ trước. Bà yêu con không đồng đều thiếu công bằng. Mỗi khi bà chia quà, vì ghét con có nhiều tính xấu bà đã không chia cho nó như các anh em khác. Nó tức, thèm ăn, thì nó cướp quà của anh em. Bà đã gây cớ cho con bà thêm tính xấu. Cũng như những lần bà mua quần áo đồ chơi đã không xử với nó như những đứa con khác, càng ngày em này sẽ càng thêm bất mãn. Tính xấu đã không chừa lại càng gia tăng thêm. Còn bố thấy con học kém hay bỏ học là chỉ biết đánh mắng, nên con bà chán nản. Không lạ gì có người rủ bỏ học theo vào băng đảng ăn cắp ăn cướp là nó theo ngay. Để có tiền mua những thứ từ trước nó muốn bố mẹ đã không cho nó.

Lòng mẹ giận con vì con xấu tính, nhưng vẫn thương con Bà muốn cứu đời con hãy đi tìm năn nỉ nó trở về. Cả hai ông bà phải cộng tác với nhau. Ông nên đưa cháu đi chơi, cho đi xem đá bóng, đi xem xinê phim lành mạnh, ra bãi biển, cắm trại nơi thiên nhiên. Trong những ngày đi chơi nên kể chuyện anh hùng liệt nữ đã làm việc nghĩa tốt lành, cứu giúp tha nhân. Hãy làm cho tinh thần nó sảng khoái thích thú, đừng nhắc đến lỗi lầm của nó. Đi mua những thứ nó thích, quần áo đồ chơi. Thỏa mãn nó, tỏ ra quý mến yêu chiều rồi đưa trở lại trường học như trước. Nhiều khi bà còn phải dùng đến nước mắt mà lung lạc nó.

Trường hợp B.

Con tôi bỏ nhà ra đi, có nên gọi nó trở về hay không? Thà mất đi một đứa con còn hơn gọi nó về để nó làm gương xấu cho các em bắt chước sẽ hư hết. Một bà góp ý như sau: Nên đón con bà về ngay. Thứ nhất, cả hai ông bà nên tự hỏi, trong đời sống hằng ngày, ông bà đã lỗi lầm thiếu sót điều gì để đến nỗi con phải bỏ nhà ra đi? Tại bố, tại mẹ, hay tại cả hai?

Khi đón con về, ông bà hãy đón với thái độ bình tĩnh, vui vẻ, coi như con đi chơi xa trở về. Ăn uống truyện trò thân mật như thường. Một hai ngày sau, bà hãy đưa con vào phòng kín, tránh đừng để các em nó biết. Bấy giờ hãy hỏi han khuyên bảo, phân tích tỉ mỉ lợi hại, khuyên bảo những điều nên và không nên làm, dẫn dụ, khuyến khích nó hãy làm gương tốt cho các em bắt chước.

Trường hợp C.

Một bà phàn nàn, chỉ vì một câu nói tôi đã mất con. Tôi có người bạn gái chơi thân với nhau từ lâu. Mỗi lần tới nhà bạn con tôi hay đi theo, ngược lại bạn tôi cũng đưa con gái lại nhà tôi chơi. Bố mẹ đôi bên thân nhau thì con cái đôi bên cũng chơi quen biết nhau. Tôi biết bạn tôi muốn kết thông gia với tôi, nhưng tôi không ưng ý cô gái con người bạn nên không nói gì. Một hôm con trai tôi về nhà với cái xe bị bẹp, méo mó. Cháu xin tiền để sửa xe, tôi hỏi tại sao. Con tôi trả lời: Đến nhà người bạn tôi chơi, họ giữ lại ăn cơm, lúc ra về vì đường tối xe bị xô vào gốc cây. Tôi quá giận, nói tại sao không về nhà ngay lại đến nhà bạn tôi và cấm từ nay không được đến đấy nữa. Mẹ bảo không nghe lời mẹ thì cút xéo đi đâu thì xéo. Nói xong tôi bỏ đi. Tôi không ngờ nó xếp quần áo vào va li rồi đi luôn.

Tôi cũng tưởng nó giận đi lên trường học vì nó ở lưu trú trong trường. Ít lâu sau tôi mới biết người bạn tôi thừa cơ có xích mích giữa mẹ con tôi, bà ta đưa con gái đến cám dỗ nó, đưa nó về mua chiếc xe mới, tổ chức đám cưới linh đình lấy con gái bà ta. Từ đấy nó nghe lời mẹ vợ và vợ, không trở về nhà nhìn nhận bố mẹ nữa. Tôi nói câu truyện của tôi để các bà rút kinh nghiệm đề phòng những người gian ngoan, tìm cách chia rẽ tình mẫu tử, lợi dụng tình bạn đưa con gái đến rũ quyến con tôi vì biết tôi không muốn kết thông gia với họ.

Trường hợp D.

Một bà xin giúp ý kiến: Con tôi sắp ly dị, tôi là mẹ chồng phải khuyên các con tôi ra sao?

Một bà góp ý như sau: Một hôm con dâu tôi tới gặp tôi, nói con sắp xin ly dị. Con không chịu được chồng con nữa. Tôi sửng sốt hỏi tại sao.

-Chồng con khó tính hay chửi con lắm. Con đi làm về nhà đã mệt, còn phải vào bếp làm cơm, hì hục nấu những món ăn chồng thích. Làm xong, dọn ra bàn mời anh ấy vào ăn, đã không ăn lại còn mắng chửi. Rồi cứ nằm xem báo, xem truyền hình cho chán, con nói thì gây sự. Nói con cứ ăn đi rồi đi đâu thì đi. Trêu tức con mãi, con không nhịn được nữa, phải ly dị thôi.

Tôi gọi con trai đến hỏi, tại sao chúng con định ly dị. Con tôi trả lời. Vợ con nói dai, nói dai lắm. Con đi làm về mệt, muốn nằm nghỉ một lúc, tắm rửa mát mẻ sẽ ăn cơm. Đằng này vợ con dọn cơm xong là bắt ăn ngay, rồi nói sốt ruột không chịu được. Gây gỗ với nhau hoài, nó muốn ly dị cũng chẳng sao. Cho đỡ mệt lỗ tai!

Tôi gọi cả hai tới, tôi vừa khóc vừa nói:

“Má hiểu cả hai con cùng có lỗi. Con phải hiểu vợ con đi làm về cũng mệt như con. Vì thương yêu con, đã phải vào bếp làm cơm dọn sẵn cho con ăn. Con phải cảm ơn lòng tốt của vợ con mới phải”

Quay sang con dâu tôi nói:

“Má nghĩ con nên nói ngắn, nói ít đi. Con nên hiểu, người đi làm về đang mệt, chưa kịp tắm rửa cần phải nghỉ ngơi chút ít. Đã mệt lại phải nghe nhiều lời cáu bẩn dễ làm cho chồng con nổi nóng. Hai con hãy suy nghĩ mà làm hòa.”

Vài hôm sau, con dâu tôi lại cám ơn:

“Má nói nên bây giờ anh tốt với con lắm! Giúp con làm bếp, dọn bàn rửa chén. Cái gì bây giờ chúng con cũng cùng làm với nhau.”

Trường hợp E.

Con trai, con gái đến tuổi có nên cấm chúng giao thiệp với bạn trai, bạn gái không?

Muốn cấm cũng không được. Ở đây, chúng học trường Mỹ, giao thiệp giữa trai gái rất thường. Chúng đến tuổi không thể cấm chúng giao thiệp tìm bạn luyến ái được, nhưng mình phải để ý theo dõi cố vấn cho chúng. Như thấy con mình có bồ, mình không nên ra mặt cấm, hãy khuyến khích nên có nhiều bạn để so sánh tìm hiểu, xem người nào có nhiều tính tốt hợp với mình hơn. Đừng chỉ chú ý một người sẽ không nhận thấy được người đó tốt ở chỗ nào, xấu ở chỗ nào.

Cha mẹ cũng cần biết những người bạn của con mình thuộc thành phần nào, tính nết ra sao? Hỏi ý kiến con rồi góp ý, ngăn chặn thành phần xấu đừng để con mình bị bạn xấu lôi kéo.

***

Các trẻ em đến tuổi đi học là tuổi dễ cảm nhận, thích tìm hiểu. Chúng như tờ giấy trắng, người lớn làm gì, nói gì, hành động ra sao, sẽ in vào trí não chúng tuy chưa hiểu gì. Người lớn dắt đi lối nào nào, trẻ em đi theo lối đó vì ngây thơ chưa phân biệt được phải trái, khi lớn lên vẫn không quên được lời nói hành động của người lớn.

Vậy chúng ta hãy tự giáo dục bản thân mới có đường lối giáo dục con cái được. Hãy làm tấm gương tốt cho con cái noi theo.

Nếu bố mẹ hay nói dối, có tính tham của người, con cái sẽ bắt chước trở thành ăn trộm ăn cướp.

Nếu bố mẹ hay cờ bạc nghiện rượu, nói lảm nhảm, các con sẽ bắt chước, coi khinh lời nói của bố mẹ.

Nếu bố mẹ bất trung với nhau, gây gỗ, chửi bới nhau, có khi giận cá bằm thớt, đổ sự tức giận lên đầu các con, đừng trách các con phẫn hận bỏ nhà đi theo băng đảng, hút nghiện.

Nếu bố mẹ không hy sinh để nhiều thời giờ coi sóc con cái, về sau sẽ hối hận vì thiếu sự chăm nom dậy dỗ chúng.

Nếu bố mẹ hà khắc, cấm cản, tham lam, bủn xỉn, chúng rất dễ sa ngã vào tay những kẻ lợi dụng bằng lời nói ngọt ngào.

Trên đây là những góp ý khác nhau trong cuộc hội thảo. Rất mong sẽ có thêm nhiều cuộc hội thảo đầy bổ ích thích thú như trên.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 02.12.2022 02:39:46
 



30-   Bình Quyền

 
 
Nước Mỹ là nơi văn minh nhất, giàu nhất, giỏi nhất, đủ tiện nghi nhất, cái hay cũng nhất, cái dở cũng nhất, và cũng tự do nhất thế giới. Tuy nhiên, giới phụ nữ Mỹ chưa thỏa mãn, cho là vẫn còn chưa bình quyền với nam giới, nên phải đòi thêm nữa cho bằng được, vì người đàn bà có thua gì đàn ông đâu. Tất cả các ngành, nghề đều có đàn bà, các ông làm được thì đàn bà cũng làm được.
 
Chỉ phiền một chút là Thiên Chúa, khi tạo dựng trời đất, đã để cho người đàn  ông xuất hiện trước, rồi mới lấy xương sườn cụt của đàn ông để dựng lên đàn bà, và truyền cho hai người ở với nhau, thương yêu nhau như thân mình, và trở nên như một vậy. Chỉ khác biệt bên ngoài, người đàn ông lớn con, có sức mạnh hơn đàn bà, vì vậy việc làm nặng nhọc cần đến sức mạnh của đàn ông, việc nhẹ nhàng cần đến bàn tay mềm yếu khéo léo của đàn bà. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài không có nói đàn ông có quyền hơn, cũng không nói đàn bà phải phục tùng đàn ông, nhưng rồi loài người cứ vẽ thêm truyện, để bắt nạt lẫn nhau.
 
Hồi tưởng lại khi còn nhỏ, nàng nhớ khi được bố dẫn đến trường nơi anh nàng đang học, rồi năm sau em nàng đến tuổi cũng đi học ở đây, học được vài năm, biết đọc biết viết, biết làm bốn phép toán cộng, trừ, nhân, chia. Rồi mẹ bắt ở nhà, nói: “Con gái không cần học nhiều, biết đọc biết viết là đủ, hãy ở nhà giúp mẹ coi em, tập rửa bát, quét nhà và để mẹ sai vặt.” Trong lúc đó, anh và em trai vẫn đi học, đúng là các cụ trọng nam khinh nữ, như người ta thường nói.
 
Không được đến trường học nữa, cũng nhớ trường, nhớ bạn, trong những giờ chơi cùng với bạn rủ nhau đánh chuyền, đánh chắt, chơi ú tim. Tuy nhiên tuổi trẻ cũng chóng quên; ở nhà có công việc mới cũng luôn chân luôn tay hợp với tuổi nhỏ; lớn dần, việc theo tuổi, mẹ sai đi chợ mua đồ, ra vườn làm cỏ, hái dâu nuôi tầm; lớn hơn nữa, lại tới xóm trên học se chỉ, kéo sợi, quay tơ, học dệt vải, ngày mùa ra đồng trông coi người làm trồng, cấy, gặt hái.
 
Vào mùa thu, công việc nông tang đã dãn, tuổi nàng đã cặp kê, các bà mai mối họat động ráo riết, hết đưa đám này đến xem mặt lại đến đám kia, gia đình nào cũng khoe là tốt là hay, các bà mẹ đàng trai hay chọn con gái nhà khá giả, biết làm ăn, có nghề, biết buôn bán thì hay nhất, nếu cô nàng trông dễ coi, không cần đẹp lắm, mà ăn nói nhẹ nhàng nữa thì cũng thật hợp ý. Tin đi mối lại, rồi bố mẹ cũng chọn được một đám theo ý bố mẹ, không cần biết con gái nhà mình có bằng lòng hay không, nếu không bằng lòng thì cô gái cũng chỉ phản đối một cách tiêu cực, bù lại bố mẹ hứa cho thêm ít tiền làm vốn hay mua cho đồ trang sức theo ý thích, là cô gái cũng bằng lòng luôn.
 
Rồi một ngày đẹp trời, nàng đã lên xe hoa về nhà chồng với họ trai đón, họ gái đưa, cuộc đời có nhiều ngã rẽ, nàng làm dâu một gia đình buôn  bán, mà nàng chưa hề học buôn học bán; nhưng chẳng làm sao hết, len lỏi vào nghề rồi cũng biết, làm ăn có thời có vận; gặp may, vợ chồng hứng khởi, chồng đi mua vợ ở nhà bán hàng, buôn có khi lãi, có khi lỗ, không ai nói ra nói vào, như chồng lên mặt khi có lời hay vợ bẳn gắt khi thua lỗ, vì họ hiểu cùng làm, cùng chịu, cùng hưởng.
 
Nhiều khi nàng tự hỏi, có phải phong tục trọng nam khinh nữ đã có từ hồi Bắc thuộc, người Tầu đã du nhập phong tục Tam Tòng (tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử tòng tử, có nghĩa là ở nhà thì phục tòng bố mẹ, đi lấy chồng thì phục tòng chồng, khi chồng chết thì phục tòng con) buộc lên đầu lên cổ người phụ nữ Việt Nam, nên đàn ông thấy lợi đã cố duy trì hủ tục này để cho phụ nữ các thế hệ sau phải chiụ sự bất công.
 
Theo phong tục Việt Nam trước đây, cha mẹ thường chỉ cho con trai đi học, mong sau này đỗ đạt làm nên danh phận, rạng rỡ tông môn, con gái đi lấy chồng không giúp được gì cho cha mẹ. Nhưng xét về tình yêu thì cha mẹ vẫn thường yêu trai cũng như gái. Tuy không được đi học nhà trường, ở nhà người con gái được mẹ dậy cho biết tề gia nội trợ, biết thêu, may, đan, dệt, buôn bán hay một nghề phòng thân, như mẹ thường nói “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Cha mẹ thường quan niệm rằng con gái khi đi lấy chồng, hãy làm trọn bổn phận của người mẹ hiền, vợ thảo, xứng đáng là “nội tướng” trong gia đình, vì người xưa thường nói “lệnh ông không bằng còng bà”, vì bà giữ tay hòm chìa khóa, có quyền thu quyền phát, nên thường thường đàn ông không cần phải nghĩ đến việc nhà, vì đã có bà chu toàn lo liệu tất cả.
 
Nam nữ bình quyền có nghĩa là cả hai: vợ cũng như chồng, trở nên như một, thì người chồng có cớ gì dám khinh người vợ và người chồng phải ý thức được rằng vợ mình là một con người có cảm tình, trí khôn và những mong ước cao vời như bao người khác. Thời xưa, không nghe thấy ai nói giới phụ nữ đòi hỏi bình quyền, vì trên thực tế nam nữ vẫn quyền ngang nhau, kính trọng nhau, đó là lẽ tự nhiên.
 
Theo vận nước, trôi nổi tới đất văn minh nhất thế giới, có tự do, có quyền bình đẳng, người ta không còn biết tương nhượng, biết lui tới, biết nhẫn nhịn nhau; việc gì cũng đưa tới pháp luật giải quyết. Tại nước Mỹ cũng như tại quê hương hiện giờ, nền tảng gia đình của chúng ta đang nứt rạn trầm trọng và có cơ đổ vỡ tận gốc rễ. Viễn ảnh gia đình mỗi ngày thêm mù mịt tăm tối.
 
Con trai con gái đến tuổi trưởng thành, việc lo dựng vợ gả chồng là quyền và bổn phận của cha mẹ, nhưng ở xứ này, cha mẹ còn có quyền gì đâu nữa trên con cái, khi chúng đủ 18 tuổi. Chỉ có lấy kinh nghiệm  mà dìu dắt, khuyên bảo, đưa ra những câu truyện gia đình đã đổ vỡ, để làm gương cho con em học hỏi. Các cô các cậu đứng trước cửa, trong cửa, hay đã qua cửa đại học mặc lòng, nhưng vẫn chưa đủ kinh nghiệm tìm người bạn đời, mà lại còn tự phụ cho mình đủ khôn ngoan; nhưng gặp phải đối phương, trông có mã đẹp bề ngoài, hay kém nhan sắc nhưng biết nói khéo, nhẹ nhàng, hiểu được tâm lý, chiều chuộng đối phương theo ý thích, như thích đi ăn ngon, mặc đẹp, thích âm nhạc, thích khiêu vũ, thích đi chơi, mà cô cậu cho là đã gặp được ý trung nhân, cho đây là tiếng sét ái tình.
 
Nhưng có biết đâu đối phương chỉ nhằm vào túi tiền, địa vị, nghề nghiệp, bảo đảm cho một cuộc sống đầy đủ xa hoa. Vì đã có chủ đích, họ sẽ không từ bỏ một phương cách nào đã nắm chắc linh hồn chàng hay nàng. Họ khéo che đậy tính xấu, đóng kịch một người con gái ngoan hiền, nết na, hoặc một chàng trai hào hiệp, phóng khoáng, có tư cách, có tinh thần cầu tiến.
 
Họ ngụp lặn trong tình yêu, họ hồ hởi đưa nhau về giới thiệu với gia đình dù cha mẹ, anh em, họ hàng hay bạn hữu, có người biết về quá khứ không tốt, hay vì hở một lời nói, một cử chỉ, hành vi, mà gia đình nhận biết sự giả tạo của cô, cậu, mà muốn ngăn chặn, khuyên bảo cũng vô ích, họ vẫn tiến tới, viện vào quyền tự do kết hôn.
 
Qua tuần trăng mật, trở lại cuộc sống thực tế, trút bỏ mọi giữ gìn, cô, cậu hiện nguyên hình, mọi tính tốt, xấu đều bộc lộ, nếu không chiều được tính xấu, không nhịn được lời lỗ mãng, tục tĩu, hoặc thiện chí không được đáp ứng, viện vào quyền tự do và bình đẳng, không ai trói buộc được gì, nên đi đến chia rẽ là cái chắc, và nguyên nhân đưa đến gia đình tan vỡ cũng có rất nhiều.
 
Cặp A và  B, đôi bên cha mẹ rất vừa lòng cho là môn đăng hộ đối, mọi việc  cưới hỏi đều theo tục  lệ và tổ chức thật linh đình. Chàng là chuyên viên mới ra trường, trẻ đẹp, công việc làm vững chắc và lương cao và có cao vọng lấy cô nào trẻ đẹp càng hay nhưng phải là con nhà giầu và có công ăn việc làm. Cô B. hội đủ điều kiện nhưng tiền lương kỹ sư của cô ít hơn lương của chàng A. Sau khi cưới hỏi xong chàng bắt nàng vừa đi làm vừa đi học  thêm để có công việc tốt hơn. Tiền lương cô B đưa về chàng nắm hết. Ngoài công việc ở sở và sau khi đi học về, cô B phải lo hết việc nhà: cơm nước, quần áo, lau chùi dọn dẹp chỉ một mình cô làm, chàng chẳng hề giúp một tay, lại còn dở trò vũ phu, thượng cằng chân hạ cẳng tay mỗi khi không vừa lòng. Chịu không thấu, nên cô B đành chia tay trở về nhà cha mẹ.
 
Cặp T. và H., chàng đang học trường y khoa sắp ra bác sĩ, gặp nàng H. con cưng của người bạn của cha mẹ, nàng đẹp, nhỏ nhẹ, khéo nói, kéo chiều, nên hai người yêu nhau. Đám cưới của T và H đã diễn ra một cách khá nhanh vì đôi bên cha mẹ đều là bạn với nhau.

Cưới H. về, bố mẹ chồng chiều chuộng nàng dâu, mua xe thật sang, sắm nhiều đồ trang sức đắt tiền; nhưng chỉ ít lâu sau, cô H. bắt đầu bộc lộ bản tính lăng loàn và nhất là thích đi ăn đi chơi, ban ngày đi đánh quần vợt, tối về đòi chồng đưa đi ăn rồi đi khiêu vũ. Chàng T. đầu tiên còn chiều vợ nhưng chỉ một ít lâu sau, vì bài vở nhiều, và gác trực nhà thương cũng mất nhiều thì giờ, nên chàng T. và nhà chồng đành chịu thua không chiều được nữa, nàng H. vẫn đi chơi một mình.
 
Đi lắm có ngày gặp ma và nàng đã ngã vào tay của người làm nhà hàng. Ra tòa xin ly dị, nàng lấy được xe, giữ được hết nữ trang và đồ đạc bố mẹ chồng sắm cho, và về sống với người tình mới. Vì chỉ nghĩ đến ăn chơi, ích kỷ cho sướng thân nên chỉ được ít lâu cũng trở thành thân tàn ma dại, không còn dám nhìn đến người chồng cũ, đã công thành danh toại, có một tương lai đầy hứa hẹn.
 
Anh P. và chị K. thương nhau, ban đầu chiều nhau lâu dần nhàm quen, bản tính chồng chúa vợ tôi thừa hưởng của bố anh từ ở quê nhà đã ngóc đầu dậy ở đất tự do này. Anh đi làm về, chi tiền cho vợ như người làm công, việc nhà không bao giờ giúp vợ, dù con đói khóc đòi ăn, vợ cũng cứ phải hầu anh cho đầy đủ. Thậm chí vợ mới sanh con yếu ớt, anh lại muốn ăn đồ Việt Nam, chị phải bế con ra để anh lái xe tới chợ, một mình vợ vào mua đồ khệ nệ khuân đồ ra một mình, anh không giúp một tay.
 
Chi K. hiểu cái cảnh ăn nhờ chồng, theo cái ý nghĩ hẹp hòi của chồng, khổ cực nhục nhã, chị âm thầm chịu đựng chờ con lớn khôn, mới đi gửi nhà nuôi trẻ, chị đi làm kiếm được nhiều tiền hơn anh, cảnh chồng chúa vợ tôi không còn tái diễn, luật bình đẳng tự nhiên mà có, không cần đòi hỏi.
 
Khi lấy nhau không có cha mẹ cố vấn, hay không nghe lời cha mẹ, họ hàng thân thích, hoặc bạn hữu đã biết trước những khuyết điểm và thấy tình hình không hợp nhau, nên khuyên can, nhưng quyết đi tới hôn nhân và do đó đời sống gia đình của nhiều cặp đã bị đổ vỡ.
 
Có nhiều nơi, nhất là các nhà thờ Công giao đã mở những lớp dự bị hôn nhân cho các thanh niên nam nữ sửa soạn bước vào đời sống gia đình; những lớp này thường kéo dài 6 tháng, nên đôi trẻ có thì giờ để hiểu biết  nhau hơn. Những lớp dự bị hôn nhân này thường có những chương trình học hỏi chung rất đặc sắc để giúp cho đôi trẻ nhận thức được tình cảm của mình đối với người bạn đời để cùng sống với nhau trọn đời trong ân sủng của Thiên Chúa.
 
Các cụ ngày xưa không xóa được phong tục trọng nam khinh nữ, nhưng đã khôn ngoan trang bị cho con gái đức tính tốt, và học nghề nghiệp trước khi lập gia đình, nên con gái các cụ đã trở thành người chủ phụ,  nội tướng, nắm được quyền tay hòm chìa khóa trong gia đình, làm cho ông chồng phải nể, phải kính trọng, khỏi cần phải tranh đấu cho nam nữ bình quyền.

frank
  • Số bài : 1438
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Những mảnh đời - Tuyết Minh - 02.12.2022 03:07:48
 
 
 
31-   Chân Dung Người Phụ Nữ Việt Nam Qua Các Thời Đại
 
 
 
Từ cuối đời nhà Triệu đến đời nhà Ngô hơn một ngàn năm, người mình phải cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu. Cho đến năm 43, hai bà Trưng nổi lên đánh quân Tàu, thu được 65 thành trì, nhưng chỉ tiếc rằng quân mình ô hợp, lực lượng còn trong thời kỳ phôi thai, chưa kịp chỉnh đốn quân mã. Đối thủ lại là tay danh tướng từng trải, đoàn quân Việt bị phá vỡ, hai bà thế cùng phải gieo mình xuống sông Hát Giang tự vận.
 
Sử gia Lê Van Hưu nói rằng, Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết xấu hổ với người đàn bà họ Trưng (Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim).
 
Nguyên hai bà Trưng là con gái một vị Lạc tướng ở huyện Mê Linh làng Hạ Lôi, thuộc tổng Yên Lãng tỉnh Phúc Yên. Bà Trưng Trắc có chồng là ông Thi Sách bị Thái thú Tô Định bắt giết. Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà cùng với em bà là Trưng Nhị đứng lên quy tụ anh hùng hào kiệt chỉ huy đại cuộc. Nhị vị nữ anh hùng Trưng Vương đầu tiên đã mở trang sử độc lập cho giống nòi mà dân Việt Nam mỗi  khi nhắc đến đều  tỏ lòng kính phục.
 
Ngoài hai bà Trưng, những vị nữ danh tướng dưới cờ hai bà Trưng còn có nhiều người:
 
-Bà Hoàng Thiệu Hoa người ở huyện Gia Hưng tỉnh Thanh Hóa. Bà tổ chức nghĩa quân, mua sắm gươm đao, tích trữ lương thảo, khi nghe tin hai bà Trưng nổi dậy đã kéo quân về dưới cờ. Được khen thưởng công trạng, bà nói: “Tôi chỉ làm nhiệm vụ cứu dân, chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề khác.” Câu nói bất hủ không màng danh lợi của bà đã được ghi vào sử sách.
 
-Bà Phùng Thị Chính là một danh tướng túc trí đa mưu. Bà có sức khỏe phi thường; trong một trận đánh giặc Tàu, bà đang có thai gần kỳ sinh vẫn lên ngựa xông ra trận. Đang khi đánh, bà chuyển bụng lâm bồn, đẻ con ngay ở mặt trận. Bà lấy áo bọc con buộc vào người rồi lại tiếp tục đánh quân địch lui, bà mới trở về. Bà là vợ ông Đinh Lượng người làng Phú Nghĩa thuộc tỉnh Sơn Tây. Khi nghe tin hai bà Trưng  hiến mình cho tổ quốc, bà cũng tự vận theo.
 
-Bà Lê Chân người làng An Biên, huyện Đông Triều thuộc tỉnh Hải Dương. Cha bị hại về tay Tô Định, bà xin gia nhập vào đội nghĩa binh của hai bà Trưng, giữ chức Tiên phong. Bà lập được nhiều chiến công oanh liệt. Khi hai bà tuẫn tiết bà cũng tự trầm chết theo.
 
-Bà Cao Nhự ở làng An Bồi, phủ Kiến Xương thuộc tỉnh Thái Bình. Xuất thân nơi miền duyên hải, bà được hai bà Trưng tin dùng giao lãnh đạo thủy quân. Bà đánh đâu được đấy, lập được rất nhiều công trạng. Chẳng may hai bà thế cùng lục kiệt, bà Cao Nhự cũng cùng hai bà nhảy xuống sông để bảo toàn danh tiết.
 
                               ***
 
Năm 248, sau hai thế kỷ bà Triệu đã theo gương hai bà Trưng. Bà là một thiếu nữ trên 20 tuổi, ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, tên là Triệu Thị Trinh. Bà còn có những tên khác là Triệu Trinh Vương, Triệu Trinh, Nhụy Kiều tướng quân. Tên Triệu Ẩu là do giặc Tàu đặc ra để miệt thị bà. Bà mồ côi cha mẹ từ thuở bé, ở với người anh là Triệu Quốc Đạt.
 
Bà có chí anh hùng, có sức mạnh, có mưu lược nên hàng nghìn tráng sĩ theo bà vào núi để thao luyện   quân mã, mưu cuộc khởi nghĩa. Buổi đầu ông Triệu Quốc Đạt không tán thành, khuyên can bà thì bà trả lời: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, chém cả tràng kình ở biển Đông, quét bờ cõi để cứu dân khỏi khổ ải, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp cho người ta.” Sau khi ông Triệu Quốc Đạt bị đầu độc chết, bà bị cô thế thua sút trước lực lượng của giặc, bà lui quân về xã Bồ Điền tỉnh Thanh Hóa và tuẫn tiết tại đó.
 
                              ***
 
Trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh của vua Lê Lợi, có chuyện của nữ ca kỹ Kim Oanh. Nàng là người làng Đào Xá, huyện Tiên Lữ thuộc tỉnh Hưng Yên, có sắc đẹp lại hát hay và cũng là một công dân yêu nước. Mặc dù chân yếu tay mềm nhưng nàng tiêu diệt giặc bằng mưu trí.
 
Một buổi tối nọ bọn giặc mời nàng vào đồn ca hát, nàng vận động khả năng phục rượu  cho bọn lính Tàu say túy lúy. Một mặt nàng đã mật báo cho các dũng sĩ mai phục quanh vị trí giặc, rồi dụ chúng cho nàng cột túi ngủ cho chúng vì giặc Tàu sợ muỗi chui vào bao để ngủ. Xong nàng ra mở cửa đồn cho nghĩa quân xung phong vào tiêu diệt giặc. Câu truyện nữ ca kỹ Kim Oanh được truyền đi khắp nơi như một bài hịch tướng sĩ trong đại cuộc kháng Minh.
 
                                ***
 
Những thế kỷ tương đối gần đây có các nữ danh nhân Việt Nam như vào đầu thế kỷ thứ 18 có bà Đoàn Thị Điểm. Bà người làng Hiếu Phạm, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ. Bà còn nhỏ đã nổi tiếng thần đồng vì có 6 tuổi đã đọc được bộ sử ký Tư Mã Thiên. Khi có sứ Tầu sang bà giả làm người bán quán rượu, ở bên ghế bà ngồi để nhiều sách vở. Sứ Tàu mới ra một câu đối rằng: “An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh” có ý xấc và chọc ghẹo (nghĩa là An Nam một tấc đất, chẳng biết mấy người cày).
 
Bà bèn đối lại ngay rằng: “Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất” (nghĩa là nước Bắc (Tàu) các vị đại phu do đường ấy mà ra cả). Các sứ giả chịu tài và cũng lấy làm thẹn.
 
Bà có soạn tập Chinh Phụ Ngâm diển nôm thành điệu song thất lục bát, nguyên văn chữ Hán của ông Đặng Trần Côn. Năm 30 tuổi, bà mới kết duyên với ông Nguyễn Kiều. Khi chồng chết, bà mở trường dậy học, năm 70 tuổi bà mới từ trần.
 
Bùi Thị Xuân là vợ danh tướng Tây Sơn, ông Trần Quang Diệu. Bà người làng Xuân Hoa, xã Bình Phú quận Linh Khê tỉnh Bình Định. Bà là một nữ tướng rất dũng cảm, lập được nhiều chiến công và có độ lượng, không bao giờ bà giết những quân đã thua chạy hay đầu hàng.
 
Ngọc Hân Công chúa con vua Hiến Tôn nhà Lê khoảng cuối thế kỷ 18. Vua Hiển Tôn gả bà cho ông Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung. Năm 1792 vua Quang Trung tạ thế, bà mới ngoài 20 tuổi. Văn chương bà để lại rất nhiều nhưng bị mai một tất cả, chỉ còn bài tế vua Quang Trung và bài Ai Tư Văn là nhưng áng văn chương thật hay.
 
Huyện Thanh Quang (không ai biết tên thật) ở làng Nghi Tàm, huyện Hoàng Long tỉnh Hà Đông. Bà lấy ông Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, đã để lại những bài: Cảnh Chiều Thu, Qua Đèo Ngang, Thăng Long Hoài Cổ, Chơi Chùa Trấn Quốc, là những bài nổi tiếng nhất.
 
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương nguyên quán làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Sớm mồ côi cha, được mẹ cho theo dõi bút nghiên, được ít lâu bà phải thôi học. Nhờ ở tự tu tự học, bà nổi tiếng hay chữ và hay làm thơ trào phúng hào hước. Thi  phẩm của bà người sau sưu tầm lại thành một tập gọi là Xuân Hương Thi tập.
 
                              ***
 
Những nữ danh nhân nổi tiếng trong thời chống Pháp cũng rất nhiều.
 
Mai Đình Ý, thường gọi là bà Tú Ý, là con gái của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Bà là nữ thi sĩ nổi danh đương thời có lòng ái quốc, vận động tổ chức thuộc phòng trào Cần Vương.
 
Tám không ai biết tên thật, khi vào yết kiến ông Phan Đình Phùng, nói là con gái ông Hoàng Phúc một nhà cách mạng Cần Vương ở Quảng Bình đã chết. Cô là người quả cảm mưu trí, thường giả làm người bán rượu lừa những người lính tập để lấy súng. Sau cô được cụ Phan phái đi xuyên rừng qua Xiêm mua thuốc  súng đạn được, cô đi được bốn năm chuyến rồi thất tung.
 
Đào Thị Mai con vị mưu sĩ Đào Duy Đức ở Thái Nguyên. Cô là nữ điệp viên có hạng trong chiến khu Bãi Sậy. Đến khi thất thế cô hướng dẫn đưa cụ Nguyễn Thiện Thuật và em là ông Hai Kế tạm xuất bôn qua Trung Hoa. Sau cô vào tu ở chùa Thương Tích Quang ở Hàng Châu pháp danh là Diệu Thanh.
 
Cử Hanh, chồng là tri huyện Thủy Đường, có một con trai là Nguyễn Cao, mới được 7 tháng thì ông Cử Hanh chết. Lúc đó bà mới 22 tuổi, là hoa khôi của tỉnh Bắc Ninh, tuy có nhiều nhà quyền quý theo đuổi bà vẫn cương quyết không tái giá.
Ở làng có tên lý tưởng giầu có nhất tỉnh Bắc Ninh, tìm đủ cách mai mối không được, một hôm gặp bà ở ngoài đường hắn dùng sức mạnh làm ẩu sờ được nhũ hoa. Bà cho đó là cái điểm nhục nhất đời. Sau đó bà phải ôm con đi lánh nạn nơi xa. Cách mấy năm sau con đã hơi khôn lớn, bà trở lại làng cũ.
 
Nhân ngày giỗ chồng bà sửa soạn bữa tiệc mời họ hàng làng xóm tới, có cả tên lý tưởng. Vừa lễ chồng xong, bà chỉ mặt tên lý trưởng nói: “Đồ ác bá, mi lợi dụng cường quyền ép ta, đón đường toan hiếp ta. Đã 6 năm nay ta ngậm tủi hờn mang dấu tay ghê tởm của mi. Ta sống nhục nhã đến nay là vì con ta còn quá nhỏ không để nó bơ vơ được. Nay nó có thể nối dõi được rồi, nên hôm nay ta quyết đi theo chồng ta cho trọn tiết phải đạo. Ta tố cáo hành động dâm ác của mi trước họ hàng làng xóm. Đây dấu tay nhơ uế của mi ta trả cho mi.” Lập tức ba rút con dao bén nhọn, thản nhiên rạch áo, cắt lìa cặp nhũ hoa ném vào mặt tên lý trưởng trước sự kinh hoàng của mọi người. Trước khi tắt thở, bà nắm tay Nguyễn Cao (sau này là Tán Cao) trăn trối: “Mẹ đau đớn lìa con, con ở lại cố gắng lập thân với đời. Giòng nhà ta là giòng máu trung trinh tiết liệt.”
 
Ấu Triệu, tên thật là Lê Thị Đàn, người xã Thế Lai tỉnh Thừa Thiên, con gái cụ Lê Xuân Uyên, một nhà tiền bối cách mạng bị Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Thiên. Trong lúc bà đi tiếp tế cho cha đã lọt vào mắt ông Đốc phủ họ Đinh người Nam kỳ, lúc đó là công chức cao cấp ở tòa Khâm Sứ, Bà nhận lời lấy làm lẽ ông Đốc  nhưng buộc ông ông Đốc phải tìm cách giải cứu ông cụ khỏi tù. Khi ông Đốc phải đổi về Sàigòn, bà không đi theo, ở lại nuôi cha già và tiếp tục chí hướng của cha làm cách mạng. Năm 1912, bà là đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị. Năm 1916, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội do vua Duy  Tân lãnh đạo bị thất bại, bà Đốc bị Pháp bắt. Bị giam ở nhà lao Phủ Thừa, mặc dù chúng tra khảo dã man, bà cương quyết không khai ra một ai. Nhân một lúc lính gác ngủ say, bà xé áo làm giây treo cổ tự sát.
 
Nhà chí sĩ Phan Sào Nam bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự đã dựng một bia đình hình vuông mặt tiền có bốn chữ Hán “Ấu Triệu bi đình”. Hai bên trụ là một câu đối quốc văn: “Tổ nhân soi nghĩa giây lưng trắng – Dạ sắt lòng sen nét má hồng.”
 
Đặng Thị Nhu là bà ba Đề Thám, anh hùng dân tộc hùm thiêng Yên Thế. Bà cũng bày binh bố trận, đầy đủ mưu cơ chính trị cũng như quân sự. Vị anh hùng chọc trời khuấy nước Đề Thám đã trông cậy rất nhiều vào tài ba lỗi lạc của vị nữ lưu anh kiệt ấy. Trong nhà bà dắt con gái là Hoàng Thị Thế 8 tuổi chạy theo ông Đề Thám trong rừng tỉnh Bắc Giang thì cả hai mẹ con đều bị bắt. Cuối năm 1909, trên chiếc tầu binh Pháp từ Hải Phòng đi Guyane, bà Đặng Thị Nhu cắn lưỡi tuẫn tiết trước hơn 40 chiến sĩ anh hùng Yên Thế đang ngậm ngùi sa lệ.
 
Trần Thị Quy hiệu Thiệu Trưng, người làng Tương Lộc, quận Tân Bình tỉnh Vĩnh Long, con cụ Trần Phước Định và bà Bùi Thị Lang. Bà xuất ngoại định sang Nhật đi tới Sơn Đầu bị chính quyền tại đây trục xuất. Trở về Quảng Châu, bà gặp cụ Phan Bột Châu giao trách nhiệm về nước hoạt động cho phong trào Đông Du. Bà bị mật thám bắt rồi thả, ba lần chịu nhiều cực hình tra tấn, bà vẫn không cung khai một đồng chí nào. Bà đấu tranh gian khổ cho cách mạng, suốt đời hiến thân cho dân tộc.
 
Thị Nghè, vợ một ông Nghè đã chết từ lâu, sinh sống tại Thị Nghè gần Sàigòn. Khi thấy một chiếc  tàu Pháp tiến vào sông Thị Nghè đổ  quân lên bộ, bà kêu gọi nhân dân nam nữ tổ chức thành một nhóm du kích, đón đường giết giặc Pháp trong nhiều trận kinh hồn. Quân Pháp bị giết khá nhiều, nhưng bà bị chết trong trận du kích chót. Nhân dân tại đây đã đặt tên vùng này là Thị Nghè để nhớ người phụ nữ dũng cảm có tấm lòng yêu nước cao độ.
 
Nguyễn Thị Giang, người làng Đồng Vệ, phủ Vĩnh Tường tỉnh Bắc Giang, là nữ đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là người vợ chưa cưới của đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Bà là một người dân tận trung với nước, một người vợ tận nghĩa với chồng.
 
Bắc, cô Vân, cô Tám, bà Chánh Toại đều là nữ đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị bắt, bị tù đầy và bị thủ tiêu.
 
Các bậc hiền phụ có rất nhiều và nổi tiếng như bà Tú Xương, bà Phan Bội Châu, bà Sương Nguyệt Ánh….
 
                             ***
 
Từ ngày bọn quỷ đỏ gieo tang tóc trên đất nước Việt Nam, đã có biết bao nhiêu bà hiền phụ dũng cảm, đầy đức tính chưa được nêu danh vì còn trong vòng kiềm tỏa. Những bậc hiều phụ đánh kính trọng, chồng bị cộng sản bắt giam trong trại học tập, sống eo hẹp thiếu thốn, phải nuôi con nhỏ dại, cha mẹ già đau yếu, kiếm đủ cách để thăm nuôi chồng nơi núi thẳm rừng sâu. Bà nào nhan sắc mặn mà còn bị cán bộ nay đòi mai ép, nhiều trường hợp xảy ra có bà phải chui qua cửa sổ nhảy sang mái nhà bên cạnh rồi nhảy xuống đất, bất kể sống chết để bảo toàn danh tiết.
 
Người phụ nữ Việt Nam qua các thời đại có đủ đức tính anh dũng, bắt khuất, đảm đang, trung hậu, đức hạnh. Những bản tính này đã có từ lâu, người trước làm gương cho người sau, là căn bản cho dân tộc Việt và giúp cho sự gìn giữ và trường tồn của người Việt chúng ta.
 

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 34 bài trong đề mục