Bùi Thị Xuân
Đào Trinh Nhất PHẦN THỨ NHẤT
I. Một vụ kiện lạ đời Vào khoảng năm Đinh Hợi (Tây lịch 1767), đời chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần, có một gia đình lạ, - họ tên gốc tích là gì không ai biết, - đến ở phường Tháo Mang gần kinh thành, cũng sắm khung cửi và làm nghề dệt như dân sở tại.
Phường Tháo Mang ở bên sông Phú Xuân, thuộc huyện Hương Trà, nằm giữa địa phận ba xã Nghi Xuân, Sơn Tây và Vạn Xuân. Cả phường có ba xóm, mỗi xóm tụ họp chừng vài chục nóc nhà. Dân cư đều làm nghề dệt, nghe tổ truyền của họ từ trước khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa. Họ chuyên dệt hàng tơ như cấp, địa, cải hoa khéo đẹp có tiếng. Có nhà kiêm dệt cả chiếu cói và buồm để bán cho dân chài ở các cửa bể Tư khách, Việt hải, dùng đi be rất chịu gió và bền.
Họ không hiểu sao cái gia đình mẹ góa con côi kia ở đâu mới đến, lại làm được nghề riêng của họ hầu như bí truyền lâu đời.
Thật thế, gia đình lạ ấy, làm chủ là một bà quả phụ độ ngoài bốn mươi tuổi, có hai đứa con nhỏ, chỉ hơn kém nhau một vài tuổi, thêm một mụ già nghễnh ngãng phục dịch.
Cách ít lâu, đứa con trai bị thương hàn chết, thành ra trong nhà còn lại ba người, trẻ già lớn bé toàn là đàn bà.
Thoạt tiên, quả phụ đem gia quyến đến phường Tháo Mang, thuê đất làm một ngôi nhà lá năm gian, rồi mua sắm khung cửi, bắt tay vào nghề dệt để mưu sinh. Nhất nhất mẹ con tự làm lấy, không thuê mướn thợ bạn như các nhà cùng nghề ở quanh xóm.
Người ta để ý không thấy ai tới lui nhà ấy bao giờ; trừ ra mỗi khi dệt xong một tấm hàng, bản thân quả phụ đem lên kinh thành bán, rồi mua tơ về dệt tấm khác; trong nhà quanh năm lặng lẽ như ngôi chùa, không nghe to tiếng, không năng đi lại xóm giềng, nhất là không mời xóm giềng qua lại nhà mình khi nào. Có kẻ hiếu kỳ, muốn tìm cớ hỏi chuyện nhà nghề, cốt đến dòm nom nội tình; quả phụ ra tận ngoài cổng niềm nở tiếp khách ngay ở giới hạn ấy rồi cáo từ trở vào, không hề mời khách vào trong nhà, dù là hàng xóm quen thân cũng vậy.
Những gót chân được bước qua ngưỡng cửa lần thứ nhất, là gót chân mấy người phu đòn lúc thằng con trai của quả phụ chết, đưa quan tài đến tẫn liệm và khiêng ra. Trong dịp quan trọng như thế, cũng chẳng thấy có bà con họ hàng nào đến hỏi thăm chia buồn. Các bà cùng xóm có chạy sang, quả phụ cũng ra cổng mời điếu thuốc miếng trầu ở đấy, và từ khước một cách rất khéo:
- Bà con có lòng tốt chạy qua hỏi thăm tôi xin cảm tạ. Tiếc vì trong nhà hẹp hòi luộm thuộm quá, nên không đám để phiền các bà quá bộ vào chơi, xin các bà lượng thứ.
Một tên phu đòn biết chữ lỗ mỗ, trở ra thóc mách với người ta rằng trong nhà treo mã đao với đoản kiếm tứ tung; chính giữa bày bàn thờ, chắc là bàn thờ chồng, ở trên vắt ngang bốn chữ
"Thệ báo phu cừu ” (Thề trả thù chồng) khá to, bên cạnh có những chữ nhỏ gì nữa, nhưng họ không đọc được.
Bấy giờ người ta mới xầm xì dị nghị về tung tích của gia đình này. Có lẽ vì bốn chữ ấy mà quả phụ không muốn cho ai bước chân vào nhà chăng? Trong sự sống cô độc hình như có điều gì bí mật, có cái tung tích mờ tối thế nào, cho nên cần phải giấu giếm với cả mọi người vậy.
Tuy nhiên, người đời bấy giờ, phần nhiều còn thuần hậu, ai nấy yên sống theo phận mình, giữ tôn chí “mặc chuyện thiên hạ” như câu cổ ngữ đã dạy:
các nhãn tự tảo môn tiền tuyết, mạc quờn tha nhân ốc thượng sương (ai lo quét tuyết rơi trước cửa nhà nấy đừng quản đến sương phủ trên nóc nhà người ta).
Tôn chí ấy, cầm giữ ngọn đèn thiện trong tâm con người ta thường sáng đều đều; không mấy ai có tính khốn nạn bới lông tìm vết, đi tố giác thiên hạ để kiếm chút công danh hoặc lĩnh một món tiền thưởng.
Huống chi quả phụ chỉ xử riêng với mình thì khắt khe, kín đáo nhưng xử với xóm giềng rất mực nhã nhặn, ân cần. Nhà nào có việc, bất cứ giàu nghèo sang hèn, bà đều thân hành đến thăm hỏi, đưa tặng quà cáp là thường, Thấy ai túng bấn, tự bà đem bạc tiền thóc gạo đến giúp đỡ, tùy theo sự cần dùng, mà không đòi hỏi bao giờ, dù người ta có giả lại cũng thoái thác không nhận.
Vì thế người ta kính trọng cuộc sinh hoạt bí mật của bà, lâu dần thành quen, không ai có ý dòm ngó soi bối gì cả. Họ bảo nhau rồi cũng chẳng đến cổng ngó nữa, khỏi làm phiền bà phải tất tả chạy ra tiếp rước. Chỗ bà ở được xem như một cấm địa.
Nhờ vậy, gia đình quả phụ được sống yên ổn trong phường Tháo Mang sáu bảy năm nay; nghĩa là đứa con gái bé mà số phận còn để lại cho bà mới có bảy tuổi; bây giờ cô đã 13.
Chẳng biết có phải đâu lúc tuổi cô mang con số 13 là số vận xấu hay không, nhưng thật đến năm Nhân Thìn ấy bà thân mẫu cô nằm vật vã trên giường bệnh thập tử nhất sinh, khiến cô xót thương vô hạn.
Tình cảnh mẹ đơn con chiếc thật không có giây phút nào buồn hơn!
***
- Con Mảnh của má đâu con?
Thưa má, con đây!... Con đang sắc thuốc gần được rồi, để con bưng lên má uống...
- Không, má không uống bây giờ đâu!... Con lên đây với má!
- Vâng, con đợi rót nước thuốc kẻo nó cạn mất; rồi con lên ngay.
- Để thuốc đó, giao cho mụ Trì coi giùm, con lên đây má bảo, mau!... Trời ôi! Con tôi ở đâu, gọi hoài không thấy...
- Con đây, thưa má!... Con đây... Con lên đây mà!
Nàng lật đật bưng chén thuốc lên, đặt bên giường mẹ nằm, rồi hai tay dịu dàng vuốt ve trên trán bà mẹ, trong ý vui mừng từ sáng đến giờ, bà có vẻ tỉnh táo, không nóng sốt li bì như mọi hôm.
Bà đăm đăm nhìn con, tình thương yêu phát lộ đầy trên hai mắt, dường muốn gói ghém tất cả nàng vào trong. Choàng ôm chặt lấy con, nâng niu và hôn lấy hôn để, bà vừa hôn vừa nói:
- Lạy trời Phật! Tôi thương yêu con tôi, không biết để đâu cho hết.
Đoạn bà tươi cười bảo con:
- Con đỡ má ngồi dậy, nào!
- Thôi, má cứ nằm nghỉ cho khỏe, ngồi dậy làm chi? Nàng trả lời và lấy ve dầu Khuất thần thoa hai bên thái dương cho mẹ.
- Ô! Con tôi thế có buồn cười không? Muốn cho mẹ uống thuốc mà không cho mẹ ngồi dậy thì uống thế nào?... Con cứ nâng đỡ má ngồi dậy chốc lát, má kể một truyện cổ tích cho mà nghe.
- Má nói truyện cổ tích? Nàng hỏi lại, có vẻ thích ý, vì bình nhật rất ưa nghe mẹ kể những tích xưa truyện cũ.
- Ừ, truyện cổ tích này hay lắm con ạ!
- Nhưng má đã mệt thế hơi sức đâu mà nói nhiều?... Con van má hãy để lúc khác, bây giờ má cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mới được.
- Không, hôm nay má nghe trong mình khỏe khoắn lắm; tự nhiên thấy muốn ngồi dậy chốc lát, một nói chuyện với con, không chừng nhờ thế má sẽ khỏi bệnh cũng nên... Con hãy chiều ý má!
Thuở nay không hề cãi lời trái ý mẹ bao giờ, nàng vội vàng đỡ mẹ ngồi lên, dựa lưng bên vách, rồi bưng chén thuốc để mẹ uống.
Bà uống thuốc xong, kéo nàng lại gần bên mình vuốt ve mái tóc nàng và nói:
- Giờ con ngồi cạnh má, má kể chuyện cho mà nghe. Hơi thở trẻ trung mát mẻ của con làm cho má thêm khỏe, thêm vui, được sống thêm ngày nào sung sướng ngày ấy...
- Nhưng, má kể câu chuyện nào ngăn ngắn thôi nhé!... Mấy ngày mà không ăn uống gì được, nên để hơi sức mà nghỉ thì hơn... Chuyện không kể lúc này, để dành lúc khác, chẳng sao!
- Không có lúc nào hơn là lúc này, con ạ! Nhất là câu chuyện sắp kể ra đây, má vẫn để dành trong trí bấy lâu, chỉ định lúc đến ngày giờ đáng nói thì nói cho con nghe; vả lại chỉ có thể nói với con, chứ không nói với ai khác hơn được...
Khi bà nói những câu này, trên gương mặt có vẻ buồn rầu, thảm đạm, và hai mắt âm thầm ứa lụy, nhưng bà lấy tay áo gạt đi; nàng vô tình, không ngẩng mặt lên, nên không trông thấy.
- Chuyện gì mà quan hệ lắm thế, hở má? Nàng hỏi và giục giã, Vậy thì má kể đi, con rất thích nghe, chỉ sợ má nói nhiều thì mệt thôi.
- Không, con đừng lo má nói mà mệt; trái lại, má có nói được mới thấy nỗi lòng thơ thới, tinh thần khỏe ra. Bởi vậy, con nên nghe chăm chú, giờ má kể đây.
Rồi thì bà chậm rãi nói câu chuyện gọi là cổ tích, một mạch từ đầu đến cuối, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại giây lát bởi một tiếng thở dài nhè nhẹ, hoặc tạm nghỉ đế lấy hơi.
“Ngày xưa, có nhà đó vốn dòng trâm anh, tư sản cũng khá, chỉ khác hơn thế gian, là mụ gia (mẹ chồng) với nàng dâu cùng cảnh góa bụa, ở chung với nhau.
Lạ hơn nữa, là nàng dâu con trẻ tuổi, có nhan sắc, thì giữ được tiết tháo trong sạch, tối ngày chịu khó làm ăn lam lũ, thờ chồng nuôi con, một mực điếc tai đui mắt trước những cử chỉ cám dỗ của quân vô lại quanh miền. Trong khi ấy, mụ gia đã gần răng long má hóp, lại sinh ra trắc nết đa tình, không chịu nổi cảnh sống lạnh lùng đơn chiếc, bèn ngấm ngầm tư giao với một tên thổ hào gần đấy. Ban đầu còn dâu bọc hẹn hò, sau mụ công nhiên rước tên thổ hào về nhà, thời thường tụ hội đãi đằng, bề ngoài rằng khách, nhưng trong là tình. Tên thổ hào lợi ở chỗ được người lẫn của, cho nên nó tìm hết cách làm vừa lòng mụ.
Nàng dâu thấy sự chướng tai gai mắt như thế, không thể chịu nổi, thường lấy lẽ phải trái, khuyên can mụ gia; mụ chẳng nghe thì thôi, lại trở mặt lấy quyền trưởng thượng, mắng nhiếc đánh đập nàng, cùng gian phu âm mưu trừ nàng không được, nhất định đuổi nàng đi ra khỏi nhà.
Nàng dâu cưỡng lại bằng lý thắng, không chịu tuân lời mẹ chồng.
Gái đĩ già mồm, mụ lên cửa công thưa kiện nàng dâu hư thân mất nết, làm nhục gia phong.
- Thế gian phu là đứa nào, mụ có biết không? Quan huyện hỏi.
- Bẩm quan, chúng tôi không rõ là đứa nào; mụ đáp. Vì nó cứ thậm thụt đêm khuya mới đến, tảng sáng thì đi, chúng tôi làm sao thấy mặt cho được? Tuy vậy, quan lớn đòi con dâm phụ lên tra hỏi khắc biết.
Quan đòi nàng dâu lên hỏi, nàng khai rõ tên họ gian phu và nói:
- Nhưng đây là nhân tình của mẹ chồng con... Chính nó cám dỗ mẹ chồng con, thường tới lui ám muội, gây nên tai tiếng, nhiều lần con van lạy khuyên can chẳng được, mẹ chồng con lại muốn đuổi con đi.
- Con ranh này! Nhân tình của mày, mày lại gắp lửa bỏ tay người, vu oan giá họa cho tao à?... Bẩm quan lớn thử xét: nó trẻ trung thế kia mới ở góa không nổi, thành ra có sự bướm ong chằng chớ, làm xấu cho tôi; chứ tôi đã già nua thế này, bảo còn ngoại tình, ai mà tin được.
Mụ day lại nói với nàng dâu:
- Mày ám muội với thằng gian phu đó những thế nào, cứ thú thật với quan lớn, để ngài châm chước cho, con ạ!
- Con lạy mẹ! Con xin khuyên mẹ bằng những lời mẹ vừa nói với con! Nàng dâu hậm hực nói.
- Nó là tình nhân của mày, đừng chối! Mụ già trừng mắt, nói với giọng nạt nộ, toan bề cả vú lấp miệng em.
- Của bà!... Nàng dâu trả lời rắn rỏi không vừa.
- Của mày!
- Của bà!... Nàng dâu đấu khấu với mụ già rồi ngoảnh mặt lên công đường: Bẩm quan lớn, xin quan lớn đòi tên gian phu đến đối chất thì biết.
- Trời cao đất dày ôi! Nhà tôi vô phúc mới có con dâu vu oan giá họa cho mẹ chồng thế này! Mụ gia vừa gào vừa khóc, làm như mình thật thà oan uổng lắm vậy.
- Vâng, nhà ta vô phúc mới có mụ gia làm lỗi, muốn đồ trút cho con dâu thế này, trời Phật có thấu cho không? Nàng dâu cũng khóc mếu, cũng nói to, chẳng nhường mụ gia chút nào.
“Mẹ chồng đổ triệt cho nàng dâu, nàng dâu một mực chối cãi và nói quyết là mẹ chồng; hai người đứng trước công đường đổ quanh cho nhau mãi, làm cho quan huyện bối rối, chẳng biết thực hư ở đâu mà phân xử. Ngài cho cả hai bên hãy về đợi bắt tên gian phu lên đối chất xem thế nào, bấy giờ sẽ hay.
“Hôm sau tên gian phu bị đòi lên huyện, lại khai một giọng khác:
- Bẩm quan lớn, sự thật, con không hề quen biết tư tình gì với một ai trong hai người này. Chẳng qua mẹ con nhà họ thù ghét lẫn nhau, rồi bịa chuyện ngoại tình, vu cáo cho con, thế thôi.
- Trong làng chẳng thiếu gì người, sao thiên hạ không đổ cho ai, lại chỉ đổ riệt cho mày? Quan huyện hỏi vặn.
- Bẩm, điều đó thật tình con không hiểu!... Tên gian phu trả lời một cách vẩn vơ cho xuôi chuyện.
- Ừ! để rồi xem mày có hiểu không?
“Quan huyện tức thời truyền đem cùm kẹp ra tra tấn. Đau quá, tên gian phu phải tự thú.
“Nhưng thằng khốn nạn, không tự thú có tư tình với mụ gia chính là sự thật, nó lại tiêu xưng bấy lâu quả có bí mật giao thiệp với nàng dâu. Chắc hẳn mụ gia với nó đã đồng tình như thế, cố buộc tội nàng dâu, để nhổ cây đinh trong mắt đi, chúng sẽ được tự do tới lui ân ái.
“Phải biết chúng khấu đồng từ, ông sư cùng chết; trong trí của quan phụ mẫu, nàng dâu tư tình với gian phu không còn phải nghi gì nữa.
“Tội nghiệp cho người thiếu phụ bị đánh khảo cũng một mực chối cãi, kêu mình mắc oan, nhưng quan huyện nào có chịu tin lời nàng và tra xét vụ án cho thật đến nơi đến chốn. Nàng chỉ bằng theo lời khai của mụ gia và gian phu, xử nàng phải cuốn gói đi ra khỏi nhà mẹ chồng từ nay.
“Tấn kịch không phải hạ màn ở chỗ ấy; đến đoạn sau mới có ý nghĩa, có thú vị.
“Nàng dâu tức mình, nhờ chú bác trong nhà làm hộ một tờ trạng lời lẽ cực kỳ thống thiết, rồi nàng thân hành lên quỳ trước công đường quan lớn thượng ty ở bản trấn mà khiếu nại.
“Quan án chấp đơn, liền tư về huyện lấy tập hồ sơ lệnh, đồng thời sức đòi hai bên nguyên bị và giải tên gian phu cùng lên công đường hậu thẩm.
“Ngài vốn là một vị đường quan rất thanh liêm chính trực, có tài đoán ngục xét án đã nổi tiếng; nhiều vụ án rắc rối như tơ vò, qua tay ngài đều gỡ đâu ra đấy, xét xử hết sức công bình. Có kẻ muốn cậy thần thế cách nào, cùng không thể xoay đổi ý hướng của ngài chỉ biết tôn trọng phép vua luật nước, bênh vực lương dân.
“Sau khi xem lại hồ sơ ở huyện đệ lên, ngài thấy ngay bên trong có lắm tình tiết mờ ám, khả nghi, chứng tỏ ra người nàng dâu quả tình là oan uổng.
“Ra trước công đường thẩm vấn, hai bên nguyên bị cùng tên gian phu đều một mực cung khai như lúc còn ở huyện; ai có lý sự nấy, không chịu thay đổi hay thụt lùi phân tấc nào. Quan án truyền cho nguyên bị cùng về, ba ngày nữa sẽ đến nghe lệnh phân xử.
“Buổi chiều trước hôm kỳ hẹn quan án sai lính đi gánh những đá cục, to có nhỏ có, đem về chất đống ở thềm công đường, như xếp một cảnh non bộ con con, trông thật lạ mắt. Hơn nữa, hai bên lại dựng hai con dao mã tấu sáng quắc. Ai cũng kinh ngạc, không hiểu ý quan lớn dự bị những đồ ấy để làm gì? Nếu bảo rằng để tra khảo tù phạm, thì nhà nước chẳng có sẵn những hình cụ roi, hèo, cùm, kẹp, là vật thường dùng ư? Một thầy thơ lại đánh bạo ngỏ ý muốn biết;
- Bẩm cụ lớn muốn dùng hình cụ mới lạ ấy, là ý thế nào?
- Phải, ta có việc dùng đến rất hay, rồi ngươi sẽ biết, quan án trả lời.
“Sáng hôm sau đăng đường, quan án gọi cả đôi bên quan hệ ra đứng thành hàng dưới thềm, và nói:
- Mấy người nhất định giữ lời cung khai hôm trước, phải không?
- Bẩm quan lớn, nhà chúng con chẳng may có đứa con dâu hư hỏng như vậy, thật không thể nào cho nó ở cùng một nhà được nữa! Mụ gia nói.
- Bẩm cụ lớn, con đã tự thú quả có tư tình với người thiếu phụ này; tên gian phu vừa nói vừa trỏ vào nàng dâu. Tùy lượng cụ lớn bắt tội thế nào, con phải chịu thế ấy.
- Trăm lạy quan lớn minh xét cho con nhờ: quả thật mẹ chồng con mưu mô với người ta để vu cáo hãm hại con; tình cảnh con hết sức đau đớn oan uổng! Nàng dâu nói mọi cách tức tưởi muốn khóc.
“Quan án nghiêm trang chăm chú nhìn vào mặt nguyên bị và nói:
- Thôi, ta nghĩ lại việc này bất tất phải tìm xét cho minh bạch trong hai mẹ con, ai là dâm phụ, ai không; nhưng đến gian phu thì đã rõ ràng nhất định là thằng mặt dày đứng đây, không còn phải nói. Ta biết mẹ con nhà ngươi đều là chỗ nho phong lương thiện tất cả, nguyên lai không phải là người hư thân trắc nết gì; chẳng qua nhất thời bị thằng mặt dày này tham tài hiếu sắc, cám dỗ khôn ngoan, khiến cho mẹ con sinh ra xích mích lẫn nhau; không có nó thì đâu có gây nên nông nỗi. Ta đã suy nghĩ đắn đo rất kỹ: tội lỗi hết thảy ở một mình nó, và chỉ một mình nó thôi!... Vậy thì dưới thềm sẵn có đá với dao đấy, hai mẹ con cứ việc đánh chết thằng khốn nạn đi cho ta!...
“Cách xử kiện lạ lùng của quan án làm cho tất cả công đường trên dưới đều ngẩn ngơ kinh dị đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai đoán được dụng ý ra thế nào?
“Thấy hai mẹ con nguyên bị cùng tần ngần, sửng sốt, quan án thúc giục với giọng cương quyết, tỏ ra một lệnh truyền, không thân hành không được:
- Ta bảo thật đấy! Hai mẹ con nhà ngươi phải vác đá mà đập bể đầu nát óc thằng khốn nạn, để nó phải chết trước mắt của ta trông thấy!... Cái thứ người chỉ chăm chăm quyến rũ đàn bà mà kiếm ăn cầu lợi, cứ đánh cho chết là xong; nó sống chỉ tổ làm hại cho phong hoa nhà nước, cho gia đình người ta. Nào, hai mẹ con ra tay đi xem!
- Nhưng rủi tay đánh nó chết thật, chúng con bị quan trên bắt phải thường mạng thì sao? Cả hai mẹ con đồng thanh nói.
- Không! Không! Mẹ con nhà ngươi không lo điều ấy; quan án trả lời. Bề nào cũng có ta đây chứng kiến bênh vực cho mà!... Cái mạng của thứ người như nó xá kể vào đâu mà phải thường?... Đập chết phứt nó đi, tức là làm ơn cho thiên hạ thì có!... Ta bảo hai mẹ con nhà ngươi cứ việc...
“Bấy giờ, hai người cùng chạy lại nhặt đá mà ghè vào thằng gian phụ chan chát, túi bụi. Nó né bên này, bị bên kia, đau đớn kêu la rầm rĩ.
“Sự thật, nàng dâu ôm lòng bực tức hờn giận đã lâu; bây giờ được quan trên cho tha hồ đánh nó, dù chết cũng không phải liên lụy gì, ta tưởng tượng đủ biết nàng mở cờ trong bụng, hả hơi thích ý đến thế nào? Bởi vậy, người ta thấy nàng hăm hở lấy những viên đá to nhất trong đám, nhè ngay đầu cổ mặt mũi thằng gian phu mà ném mà ghè, mà dần, mà đập, nghe tiếng huỳnh huỵch. Có thể nói mỗi viên đá từ bàn tay nàng dáng vào thân thế kẻ thù, dường như ký thác âm hưởng một tiếng gào minh oan, một nụ cười tuyết hận của nàng vậy.
“Đồng thời, mụ già cũng làm bộ hậm hực trợn trừng, cũng ra tay đập đánh như ai, nhưng thật thì mụ chỉ lượm mấy cục đá nho nhỏ, và dụng tâm giơ cao đánh khe vào bắp đùi vào mông đít chẳng hạn, là chỗ có nhiều thớ thịt che chở, ít đau. Thường tình, ai nỡ chính tay mình hành hạ da thịt người yêu phải chịu đau đớn?
“Cứ chỉ của hai người, từng ly từng chút, không hề lọt qua con mắt tố nhận của quan thẩm án thông minh chính trực. Muốn nghiệm xét cho thêm rõ ràng, ngài bảo hai mẹ con hãy ngừng tay ném đá”.
- Thôi, bây giờ mỗi người lấy đao chém một vài lát cho nó chết phứt đi, chứ ghè bằng đá mà mày dày mặt dạn nó vẫn trơ ra thế kia, tốn công vô ích.
“Lập tức, nàng dâu phăm phăm chạy lại lấy dao cầm tay; gương mặt xám ngắt sát khí, như muốn băm vằm kẻ thù ra trăm nghìn mảnh mới đã giận. Còn mụ già thì ngần ngừ, sợ hãi, run rẩy, không dám tiến bước đến chỗ để dao; chẳng thà ném đá, người yêu tuy đau mà còn được sống, chứ bảo cầm dao chém cho chết đi, mụ thật không nỡ.
“Nhận rõ trạng thái mụ đã tố giác chỗ yếu của mụ ra, quan tòa khoát tay và nói:
- Như thế là đủ, không cần phải thử nhiều hơn nữa. Ta đã tìm ra đích danh con dâm phụ rồi!... Lính đâu! Nọc con mụ này ra, đánh cho nó mấy chục roi, xem nó còn khéo gian ngoan vừa đánh trống, vừa ăn cướp nữa thôi?... Ta bảo có khôn hồn thì tự khai thật tình ra đi!
“Mụ sợ tái mặt, ôm mặt khóc nức nở, rồi đem hết sự tình từ trước đến sau, khai thật rõ ràng và xin nhận tội.
“Quan án xử tên gian phu phải đi sung quân, mụ bị phạt giam sáu tháng, còn nàng dâu thì được giải nỗi oan, và trở về nhà chồng như cũ.
“Bấy giờ người ta mới hiểu quan án cốt dùng mưu chước để tra cứu ra chân tướng của vụ án quan hệ phong hóa này; ai cũng phục ngài là minh đoán, xa gần nghe nói, đều cho một việc thống khoái. Không có ông minh quan khéo xét xử như vậy, mà chỉ dựa vào lời chứng tá man khai và dùng cách tra tấn lập uy, thì đứa có tội cứ ở ngoài vòng pháp luật, còn người trong sạch vô cố thì chịu oan uổng tai tiếng suốt đời!”
***
Sau khi kể xong, bà quả phụ lại hôn nựng cô Mảnh và hỏi:
- Câu chuyện cổ tích thế đấy, con nghe có thấy lý thú không?
- Ô! Chuyện hay lắm, má ạ! Cô Mảnh trả lời. Con nghe cảm động lắm, thật là tình cảnh người nàng dâu.
- Má đố con biết ông minh quan xử vụ án ấy, rồi sau thế nào?
- Má không nói nốt thì làm sao con biết được? Nhưng con đoán chắc ông mau được thăng quan tiến chức, có phải không, má?
- Trời ơi! Việc đời nào có luôn luôn thuận lẽ như con nghĩ thế đâu. Bởi vậy, ông minh quan ấy chính vì đã xứ vụ kiện mới nói mà bị chết oan... Để má kể nốt cho con nghe; nhất là vì lẽ ông minh quan ấy đối với má cũng như với con không phải người lạ.
Cô Mánh sửng sốt chưa hiểu còn má cô thì rơm rớm nước mắt.
II. Mối thù không đội trời chung
Mụ Tri bưng cháo lên, Mảnh nài nỉ mẹ ăn được hai lưng chén.
Bà tự thấy tinh thần thêm phần sảng khoái để nói nốt câu chuyện cần nói với con; nhất là câu chuyện lại cốt thuộc về tinh thần.
Day mặt chỗ khác, thở nhẹ một hơi dài, rồi bà nói chuyện tiếp:
- Vị minh quan ấy không được thăng quan tiến chức như con tưởng đâu. Trái lại, ngài vì quá đem công tâm xử vụ án nọ phải thiệt thân, con ạ!
- Má nói thiệt thân? Nàng hỏi lại với dáng sửng sốt. Làm gì xử một vụ án mà đến thiệt thân?
--Ừ, việc đời có trái nghịch bất nhân như thế mới nên chuyện, mới có mối thù bất cộng đái thiên, con ạ! Bà quả phụ trả lời con gái với nét mặt rầu rĩ và dằn nặng mấy tiếng mối thù bất động đái thiên, nhưng cô bé ngây thơ không hề để ý.
Rồi như có cục ức uất chận ngang cổ họng, bà nghẹn ngào một lát mới có thể nói tiếp, trong khi bàn tay xương xương vuốt ve mái tóc cô bé:
- Con hãy lóng tai, má kể nốt câu chuyện cho mà nghe nhớ!... Mụ gia khốn kiếp kia, đã hư thân mất nết, lại còn dám vừa đánh trống, vừa ăn cướp, sở dĩ một hai vu vạ cho nàng dâu, muốn đuổi nàng và lũ cháu thơ dại ra khỏi nhà, cho mình được tự do hành động, là vì mụ ỷ thế có họ hàng thân thích với kẻ gian thần đang có oai quyền hiển hách trong triều. Vì thế, mụ dám ngang nhiên đến cửa công thưa kiện vu cáo nàng dâu, cầm chắc quan nào cũng phải xử cho mình thắng...
- Hẳn là kẻ gian thần bắt buộc quan huyện xử cho mụ già được phép đuổi nàng dâu đi, có phải không má? Cô Mảnh đắc ý hỏi mẹ, làm như cô đoán trúng một câu đố mẹo vậy.
- Ừ, con nói trúng đấy. Khi việc kiện thưa đến huyện, mụ đã có bức thư riêng của gian thần đưa cho quan huyện, nên chỉ nắm chắc phần thắng từ trước. Quan huyện nào dám làm trái ý tể tướng đương triều? Trừ ra người khảng khái, tự trọng, thà treo ấn từ quan, chứ khỏng chịu làm một việc trái với lương tâm và công lý; nhưng mà hạng làm cha mẹ dân được như thế, con tưởng có mấy?... Lão huyện nọ sợ vía gian thần, chỉ xét hỏi chiếu lệ, rồi xử ức nàng dâu, phải cuốn gói đi ra khỏi nhà chồng. Trong ý lão định chắc nàng quê mùa, quan xử sao y thế, chả dám sinh sự gì nữa.
Không ngờ nàng là tay đáo để, làm đơn khiếu oan tới thượng ty ở bản trấn, tự nhiên vụ mụ già nàng dâu thuộc quyền vị minh quan xét lại. Bấy giờ mụ già mới hoảng sợ; phàm kẻ có hành vi ám muội vẫn ghê sợ ánh sáng, nhất là với ông minh quan này là ánh sáng không thể lấy gì đậy che được.
Mụ đến khóc lóc năn nỉ với gian thần, để nó lấy quyền thế tể tướng bắt buộc ông minh quan phải tha tên gian phu, chấm vụ án đi, và xử đuổi nàng dâu như huyện đã xử; không được như vậy thì xấu lây cả họ hàng, chắc mụ phải tự tử mất. Kẻ vai vế trong họ, mụ là bực trưởng thượng, nên chi gian thần phải kiêng nể. Mình là Thái sư Tể tướng trong triều, dù bà cô phạm tội giết người hay làm việc đại ác đến đâu mình cũng phải cứu vớt, huống chi là chuyện nhỏ mọn này?
Trong khi ông Minh quan đòi nguyên bị sắp đen công đường hậu chất, thì gian thần sai người đem thư đến bản trấn bảo ông bỏ vụ kiện ấy đi, không được xét xử lôi thôi. Trong thư có những lời đe dọa kín đáo khiến người tự trọng như ông không thể nhịn nổi.
Ông bèn viết thư phúc đáp cứng cỏi; đại ý nói rằng: “Phép là phép của triều đình, trong lúc có một tên dân kêu mình oan uổng, phận sự quan án tất phải thân minh công lý, trừng phạt tội nhân, không thể vì một lẽ gì để phép luật triều đình thiên vị ai hay khuất lấp đi được! Quốc pháp vô thân, thừa tướng cầm quyền nhà nước hẳn biết tôn kính bốn chữ thiêng liêng ấy hơn cả mọi người. Tôi chí biết làm chức vụ bằng lòng chi công, hầu không phụ ân triều đình ủy nhiệm bấy lâu và thừa tướng không mang tiếng rằng có một viên thuộc hạ bất lực; ngoài ra, tư tình tư ý là thế nào, quả tôi không biết”.
Thế rồi vụ án kết liễu bằng sự nghiêm phạt mụ gia và thằng tình nhân đồng lõa.
Gian thần nghe tin, giận đỏ mắt tía tai, nói với tả hữu:
- Ta phải giết chết thằng ấy mới được hả lòng!
Thằng ấy là trỏ vào ông minh quan đó, con ạ!
Bà quả phụ nói đến đây có dáng mệt mỏi, tiếng nghe hơi run; cô Mảnh khuyên mẹ hãy nằm nghỉ, còn câu chuyện lúc nào kể hết cũng được, nhưng bà không nghe:
- Dễ thường không có lúc nào khác nữa, con ơi!... Để mẹ kể hết, nếu còn được nghỉ ngơi, sẽ nghỉ một thể. Bây giờ thì mẹ thấy cần nói, nhất là câu chuyện có quan hệ đến con.
- Thật ư, má? Sao lại lạ thế? Nàng ngạc nhiên hỏi, có vẻ càng ngày càng chú ý.
- Quan hệ nhiều lắm, rồi con sẽ biết... Kẻ gian thần thù ghét ai, hắn không thiếu gì cách hãm hại. Quả nhiên, cách vài tháng sau, nhân phát giác một vụ tư thông ngoại quốc; phần nhiều người dính dấp vào vụ này là quan võ và quân lính. Họ chỉ vì oán tức gian thần lộng quyền hiếp vua, hại dân khổ nước, nên muốn vì nước trừ họa, song vây cánh nó đầy rẫy trong triều ngoài quận, họ tự liệu sức mình không thể làm nổi, bèn âm mưu với nhau, tính nhờ binh lực của nước láng giềng đe trừ quốc tặc. Nhưng bởi tai vách mạch rừng, mưu sự không kín, thành ra chưa kịp cử sự, đã có một người trong bọn lo sợ vạ lây, tham cầu phú quý, đến gõ cửa gian thần, tố giác đầu đuôi và đưa quyển sổ biên tên tất cả những người dự mưu.
Nội bọn bị bắt hạ ngục, không sót người nào.
Gian thần quyết định nhân lấy việc trọng đại này, gắp lửa bỏ vào tay người, để trả thù cho bà cô nó.
Con có biết nó làm thế nào không?
- Thưa má, con không đoán ra, cô Mảnh ngay thật trả lời. Nó gắp lửa bỏ vào tay người thế nào hở, má?
- Trời ơi! Thật là độc ác, thật là ai oán, con ạ!... Nó dỗ dành một viên quan võ trong bọn bị cáo nếu khai theo lời nó bày vẽ, thì nó làm phúc gỡ cho khỏi tội. Ở đời, chẳng thiếu gì kẻ hèn nhát, muốn gở tội mình, không ngần ngại vu oan giá họa cho người ta.Viên quan võ ấy, theo lời gian thần sai bảo, man khai rằng chính ông minh quan kia là người thủ xướng.
Gian thần lập tức ra lệnh bắt ông hạ ngục. Rồi thì nó dùng đủ thứ khổ hình, nào roi, nào vọt, nào kẹp, nào cùm, nào ngâm tay vạc dầu, nào dui lửa nướng thịt, một hai bắt buộc ông phải nhận mình khởi xướng ra cuộc âm mưu nguy hại triều đình, cố nhiên, ông không hề làm, và không dính dáng xa gần gì hết. Nó tra khảo ông tàn nhẫn đến nỗi ngất đi tỉnh lại, nát cả da thịt. Sự đau đớn làm ông mất trong ngục.
Muốn báo thù đến tận thây ma, gian thần làm giả một tờ di bút của ông tự thú tội mình, rồi vin lấy đấy mà cách hết quan chức, lại hạ lệnh nã tróc tới vợ con ông để phạt làm tôi tớ hầu hạ nhà quan, trong luật gọi là “sung vi quan nô”...
- Độc ác quá, má nhỉ! Cô Mảnh chận ngang lời mẹ và hỏi. Đã hành hạ ông quan chết, lại còn bắt vợ con ông đi làm đầy tớ?
- Thế đấy con ạ! Bà quả phụ thở dài và nói với giọng chua xót. Nó quyết làm cho gia quyến ông, cả người chết người sống, cùng phải nhục nhã khổ sở, thì mới cam tâm.
- Nhưng vợ con ông có bị bắt không hở má?
- Không, vợ con ông nhờ có người hảo tâm, bảo cho biết trước mà trốn thoát!... Nhưng mà mẹ góa con côi, thù chồng thù cha, tình cảnh đau thương ai oán lắm, con ôi!...
Bà nói tới đó, bỗng rú lên mấy tiếng “Trời hỡi trời”, rồi thì bao nhiêu con sóng bi sầu khổ hận chất chứa trong tâm, nhất thời trào lên, không sao đè nổi; bà gục mặt trên vai cô Mảnh mà khóc rưng rức, nghe rất thảm thiết não nùng.
Cô bé giật mình kinh ngạc, không hiểu ra sao, ôm chầm lấy cổ bà mẹ, tìm lời khuyên giải:
- Tại sao má khóc, hở má? Chuyện đời việc người, can gì mà phải thương tâm quá thế?
Bà ngẩng đầu lên, nhìn con bằng hai con mắt ứa lệ, tiếng nói nghe run rẩy bi thương.
- Con yêu dấu của mẹ ơi! Ông minh quan bị gian thần sát hại chính là cha của con đấy!
- Thế ư?... Sao từ hồi nào tới giờ má không kể chuyện cho con hay?
Nàng bất giác cảm động phụ tử tình thâm, cũng cất lên khóc.
Bà lấy vạt áo vừa lau nước mắt cho con, vừa nói:
- Bấy lâu má nghĩ chưa đến ngày giờ nên kể, là vì má còn khỏe mạnh mà con thì còn nhỏ dại... Lúc gian thần giết chết cha con rồi, truyền lệnh khẩn cấp bắt mẹ con ta, một người trong triều có lòng thương xót ba con trung trực thác oan, bí mật thông tin cho má hay; lập tức má biến tướng giả hình, đem hai con đi trốn vừa kịp... Trong bảy tám năm, má hai nách hai con thơ, đào nạn trong dân gian rồi đến ở phương này, nuôi nấng các con, phòng bị kẻ thù, không có miệng lưỡi nào kể hết được những nông nỗi đau khổ, lo sợ... Được ít lâu, thằng anh con mang bệnh chết, làm má càng đau khổ nữa. Đau khổ chừng nào, má lại nguyền rủa oán hận kẻ thù chừng ấy.
Nghỉ hơi giây lát, bà lại nói tiếp, không để cho con kịp xen vào một câu hỏi nào, làm như bây giờ sự nói là phương thuốc cần dùng cho sự sống còn lại của bà vậy.
- Má nói đây, con hãy nhớ cho kỹ nghe: cha con tên là Bùi Đắc Nhân, bị gian thần hãm hại giữa lúc đang làm quan Khám lý Quảng Nam dinh, còn gian thần tức là Trương Phúc Loan thái phó đương triều... Con đã nhớ chưa?
- Vâng, con nhớ rồi: Trương Phúc Loan, thái phó đương triều! Cô Mảnh đáp và hỏi luôn: chức thái phó to hay bé, má nhỉ?
- Chức to lắm, to nhất triều đình. Vì thế, nó mạo chiếu chỉ, lập ấu chúa để lộng quyền, muốn làm hại ai thì làm, không kể gì là công lý. Con nhớ cho kỹ: Trương Phúc Loan; nó là kẻ thù giết chồng má, giết cha con đấy; nó với ta một còn một mất, không thể cùng đội trời chung... Nỗi oan gia đình, mối thù giết cha, má đã kể lại cho con biết rõ thế rồi, bây giờ má muốn xin con một điều...
- Má muốn dạy bảo con thế nào, tự nhiên con phải vâng lời thế ấy, việc gì phải xin? Mánh nói. Má định bảo con việc gì?
- Việc này: má xin con phải thề độc một câu! Bà nói giọng rất cương quyết.
- Má bảo con thề?
- Ừ, con phải thề, để cho má được yên lòng nhắm mắt.
- Thề làm sao, thưa má?
- Con hãy đỡ má đứng lên, sẽ hay!
Trong khi cô bé chưa kịp cản trở mẹ đứng dậy, bà đã bước xuống giường, nhanh nhẹn, khỏe mạnh như người vô bệnh, thong thả đi lại góc nhà, lấy thanh mã tấu đang treo trên vách, rồi dắt tay Mảnh đến trước bàn thờ.
Lúc này trông bà uy nghiêm hiền hậu như một vị thiên thần: tay nàng ủ trên đầu con, tỏ dấu âu yếm bênh vực, tay kia cầm thanh mã tấu chỉ mũi lên tấm hoành phi và nói:
- Con xem bốn chữ nho này:
"Thệ báo phu cừu ” nghĩa là thề báo thù chồng, má cố treo ngay trên bàn thờ, để sớm tối ra vào, không giây phút nào quên cái thù cha con bị gian thần sát hại... Luôn tám năm nay, mỗi sáng thức dậy, má cũng sực nhớ mà trông thấy bằng tưởng tượng cái thảm cảnh cha con bị tra khảo tàn ngược tới chết trong ngục; rồi phướng phất như có oan hồn cha con đứng gần đâu đây, mặt mày thảm thương máu me nhễ nhại, kêu gọi má với hai con mà nói: Vợ con ta thế nào cũng phải trả thù cho ta!
Sở dĩ má dám mạo hiểm đến nương náu trong phường này, gần kề kinh thành, nghĩa là gần kề tai mắt kẻ thù, mà không sợ kẻ thù bất thần phát giác, là cốt có mục đích xem xét cử động của nó, phòng thừa cơ phi hành sở chí của mình cho dễ.
Nhiều khi má đóng vai thích khách, mượn cớ đi bán hàng dệt, vào tận biệt thự Phấn Dương, hễ được giáp mặt thằng Trương Phúc Loan, thì xông tới đâm nó một dao cho xong đời.
Con nên biết má đã dụng tâm học tập ít nhiều võ nghệ, nhất là phép sử dụng gươm đao, cốt để theo đuổi có một việc ấy, ngày đêm sớm tối chẳng bao giờ quên.
Một hôm, trời run rủi thế nào, má ôm một bọc hàng vào biệt thự Phấn Dương, tên gian thần gọi đem lại bên sập nó ngồi, chung quanh có năm bảy cô hầu non hầu hạ; nó ngồi, chễm chệ vểnh râu, nói năng lên mặt hách dịch, trông thấy mà đầy gan lộn ruột!
Trong một cuộn hàng gói sẵn một mũi dao găm thật sắc, như Kinh Kha ngày trước gói trong bức địa đồ Đốc Khương lúc đem dâng vua Tần Thủy Hoàng. Trước khi sắp mở đen cuộn hàng ấy, má đã vận hết tinh lực và can đảm, chỉ có việc mở ra đến con dao thì xuất kỳ bất ý túm lấy ngực kẻ thù mà đâm, trong ba bước lấy máu của nó không phải sự khó.
Nhưng má chợt nghĩ lại hai con còn nhỏ dại quá, mà bơ vơ côi cút ở đời, không ai chăm nuôi dạy dỗ thì làm thế nào? Vạn nhất thành công hay chăng, một thân má chết đã đành, lại còn lo đảng vụ chúng nó truy tầm đến tung tích hai con mà sát hại - ừ, thế nào chúng nó cũng phải giết, không kể gì các con đầu xanh vô tội - như thế thì vài giọt di huyết của cha con cũng mất nốt... Cái ý nghĩ ấy làm cho má bỗng dưng tay chân bủn rủn, hình như không cất nhắc nổi, đành xếp cuộn hàng kia ra một bên, mà thần sắc có hơi biến.
Không hiểu Trương Phúc Loan có nhận thấy hay không, chỉ nghe nó nạt hỏi:
- Sao còn cuộn hàng kia là hàng chi, mụ không mở cho ta xem?
- Bẩm cụ lớn, thứ hàng này xấu lắm! Má vội vàng trả lời, cố giữ nét mặt trở lại ung dung, trấn tĩnh. Nhà cụ lớn là nhà cao quý nhất thiên hạ, chả khi nào thèm dùng, cho nên con không dám mở ra.
Lúc về nhà, má nghĩ lấy làm ân hận mãi, sao khi ấy không hạ thủ đi cho rồi, e sợ sau trở lại chẳng có dịp được giáp mặt gian thần nữa.
Mảnh tuy mới có mười ba tuổi đầu, nhưng được mẹ khéo dạy dỗ từ khi còn tấm bé cho nên trí khôn nàng đã mở mang khác trẻ thường. Nhất là tấm lòng thương xót cha, khiến nàng nghe câu chuyện bà mẹ đang kể với tất cả chú ý. Muốn cho hiểu rõ đầu mối việc đại thù, nàng không bỏ qua một chi tiết nào hết, bởi vậy nàng hỏi:
- Ban nãy má bảo gian thần hãm hại cha con vào việc tư thông ngoại quốc để làm nguy hại triều đình, việc ấy thế nào hở má?
- Ừ, má quên nói rõ chuyện cho con nghe; bà quả phụ trả lời. Gian thần vu cáo cha con âm mưu làm nội ứng cho quân chúa Trịnh ở đàng ngoài, để lật đổ cơ nghiệp chúa Nguyễn ta ở đây; thế là tư thông ngoại quốc. Nó quyết buộc cha con vào tội chết và có thể hành hạ tới vợ con thân thuộc cho nên mới đặt chuyện tày đình như thế. Cũng vì đó mà mối thù của mẹ con ta càng to, con ạ, không báo không được.
Nhưng trời còn tựa nó hay sao không biết, mới xui khiến ra lúc má sắp đánh liều rút dao đâm nó thì chợt nghĩ thương hại các con.
Tức tối lắm, con ơi! Quả nhiên sau đấy có hai ba lần má đi lại biệt thự Phấn Dương, không một lần nào được thấy mặt kẻ thù. Còn những lúc nó đi đường, thì tiền hô hậu ủng, quân lính hộ vệ rất nghiêm, mình không làm gì nổi.
Rồi thì tới thằng anh con bất hạnh chết yểu; kế đó chính thân má phát bệnh lao suyễn, càng ngày càng trầm trọng, phải nằm liệt một nơi, quý hồ giữ kín được tông tích mẹ con mình là may, việc đại thù đành xếp lại một bên không hành động gì được nữa.
Bà mủi lòng quá, vừa nói vừa khóc. Đoạn, thắp hương cắm trên bàn thờ, đứng gục mặt lầm rầm khấn vái giây lâu, rồi mới day lại bảo Mảnh.
- Con hãy lạy đi. Bây giờ có anh linh ba con về làm chứng đấy. Con lạy rồi mẹ con ta lại nói chuyện.
Nàng như bộ máy thuần tòng, mẹ bảo là vâng lời ngay.
Giữa lúc ấy mụ Tri ở dưới bếp lên; nàng bảo mụ đi lấy chiếc ghế đẩu đem lại cho mệ ngồi, kẻo sợ đứng mãi mỏi mệt. Bà hôn con và nói:
- Con tôi biết thương yêu mẹ đến thế, mà tôi không được sống đời bao lâu nữa, đau đớn biết mấy! Mụ Tri ơi! Ở đấy nghe; đứng xích lại bên cạnh mẹ con tôi này... Con nên nhớ mụ Tri là người quản gia rất quý hóa của nhà ta trải hơn hai mươi năm, trong cơn an lạc hoạn nạn đều có nhau; sau này con phải coi mụ như một người mẹ nuôi vậy.
Giây lát, bà trịnh trọng nói tiếp:
- Con ạ, má tự biết bệnh tình đến lúc trầm trọng lắm rồi, chắc hẳn không được ở nhân gian bao lâu nữa, chỉ trong sớm chiều mai mốt không chừng... Việc đại thù của nhà ta, má chưa làm được, từ đây trở đi, trông cậy tất cả vào một mình con. Trước khi sắp nhắm mắt, má muốn con đứng trước bàn thờ này, vạch gươm xuống đất, phát thệ hai điều, cho má được yên tâm. Một mai xuống tuyền đài gặp mặt cha con, má có thế nói “Thế nào con ông cũng báo thù cho ông”.
- Má bảo con thề thế nào, con xin thề ngay! Mảnh nhanh nhẩu hỏi.
- Nhưng trước nhất con nên hiểu rằng những lời thề ở trước anh linh người chết, - nhất là người ấy lại là thân phụ của con, - có trời đất quỷ thần làm chứng, suốt đời phải giữ phải làm, nếu con sai lời thì trời đất quỷ thần trừng phạt ghê gớm đấy, nghe?
- Vâng, con biết. Phải thề làm sao, má cứ bảo đi!
- Điều thứ nhất, con phải thề suốt đời tâm tâm niệm niệm không đội chung trời với Trương Phúc Loan: hễ nó còn sống thì con tìm đủ cách trừ khử cho bằng được để báo thù giết cha; hễ nó chết rồi thì làm sao đào mả nó lên, đánh vào hài cốt nó, như Ngũ Tử Tư ngày xưa quật mả đánh thây Bình Vương, nước Sở vậy... Nào, con thề cho má nghe!
Nàng vâng lời, đón lấy thanh gươm ở tay mẹ, quỳ gối cúi đầu, rạch gươm xuống đất ba lần và nói:
- Tôi xin thề nguyện trọn đời tâm tâm niệm niệm vào việc trừ khử Trương Phúc Loan để báo thù cho cha tôi, nếu tôi sai lời, thì quỷ thần tru lục.
Nàng chưa dứt lời, một luồng gió mạnh thổi vào nhưng chân hương cháy tàn, làm bốc ngọn lửa lên; đó chỉ là hiện tượng vật lý rất tự nhiên, nhưng bà tin tưởng có quỷ thần làm ra thế, cho nên bà vội vàng đứng dậy chắp tay khấn vái rồi tươi cười nói với con:
- Đấy, con xem vong linh cha con có thiêng không?... Bốc chân hương, thế là tỏ ra cha con đã nghe lời con thề nguyền đấy!... Giờ đến điều thứ hai, con phải thề mai sau khôn lớn không được lấy chồng một người làm quan, làm lại, làm lính, hay là hưởng thụ bất cứ danh vị bổng lộc gì của triều đình này; hơn nữa, rồi đây có ai nổi lên tảo trừ gian tặc, đánh đổ triều đình ấy thì con phải hết lòng giúp sức cho người ta... Ấy là câu thề thứ hai, con hãy thề cho má nghe!
Cô Mảnh sửng sốt, ngập ngừng, tỏ vẻ lo ngại, suy nghĩ.
- Sao, con không dám thề câu ấy ư? Bà quả phụ nhìn sững con và hỏi.
- Thưa má, không phải con không dám, nhưng con nghĩ chuyện tương lai duyên số bởi ông trời đặt để, mai sau thế nào biết đâu, con lo chẳng biết tự mình có làm theo ý muốn được không mà thề... Vả lại, con nghĩ kẻ thù nhà mình chỉ là Trương Phúc Loan, nào phải chung cả triều đình sao mình lại thù vơ oán chạ đến thế?
Bà bảo con hãy đứng dậy để bà giảng nghĩa cho mà nghe:
- Con ơi! Má là người sắp ra đời, con là người gần vào đời, không bao giờ trứng khôn hơn vịt, con nên nghe lời má!... Phải, chuyện duyên số tương lai do trời làm chủ, mình có biết đâu?... Nhưng con người ta trước hết có lập chí cho vững, thì ông trời giúp cho... Còn nói rằng chỉ có mình Trương Phúc Loan là kẻ thù, can chi thù vơ oán chạ cả triều đình; vậy là con chưa hiểu lẽ nhân quả. Con nên biết rằng: một nước có gian thần làm việc bạo ngược với dân, mà triều đình không kiềm chế được, tức thị triều đình cũng có trách nhiệm. Bởi vậy đối với nhà ta, cả triều đình cũng là cừu địch, chứ không riêng một Trương Phúc Loan. Nếu sau này con lấy người chồng nào bất cứ làm quan, làm lính hay là hưởng thụ mảy may tước lộc của triều đình ấy, tức là đại bất hiếu, con đã nghe chưa?
Cô bé chưa kịp nói gì, bà đã nối lời:
- Ông ngoại con thuở trước tinh thông Kinh Dịch lắm; má còn nhớ có lần ông lấy Kinh Dịch bói toán tương lai vận nước việc đời, quyết đoán rằng đến năm thân năm dậu trở đi, thiên hạ sẽ tạo loạn, mà nói việc quý thần huyền diệu, cứ lấy ngay nhân sự mà xét cũng đủ biết: nước ta ngoài có cường lân dòm dỏ, trong thì quyền thần loạn chính, làm cho nhân dân sưu cao thuế nặng, khốn khổ trăm bề, hạn hán mất mùa, năm nào cũng có, người ta oán hận đã sâu, chẳng sớm thì muộn, thế nào cũng phải sinh loạn. Lúc bấy giờ nếu có người anh hùng ra định loạn an dân, dựng lại cuộc đời, thì con với chồng con phải giúp đỡ người ta... Đàn ông đàn bà cũng đều là người, đừng nghĩ đàn bà không làm nên sự nghiệp to lớn... Má từng kể sự tích Hai Bà Trưng cho con nghe rồi, con có nhớ không?
- Vâng, con nhớ... Má cắt nghĩa rõ ràng như thế, giờ con hiểu rồi.
- Thế thì bây con dám thề chứ?
- Vâng, con xin thề.
- Nào, con thề đi!
- Má nhắc lại câu thề cho con,
- Đây, má nhắc lại câu thề, con cứ y theo mà nói nhé: Tôi thề mai sau không lấy chồng là người có tước lộc gì của triều đình này, và ai phản đối triều đình đó thì tôi coi là bạn đồng chí, lấy nghĩa vụ giúp đỡ người ta.
- Con nhớ rồi, má ạ!... Má nghe con thề nhé!
Nàng lại vạch gươm xuống đất ba vạch, nghiêm chỉnh xướng lại câu thề, như bà mẹ vừa dạy; nàng nói to, rắn rỏi, phân minh từng tiếng một. Mụ Tri nghễnh ngãng mà cũng nghe rõ; mụ gật đầu hai ba lần, tỏ ý vui vẻ.
Bà quả phụ cũng thế, sau khi nghe con thề nguyền có vẻ thành thực, sốt sắng, bà vui mừng quá, nói cười múa chân múa tay như người điên; ôm con hôn lấy hôn để, day qua vỗ vai bá cổ mụ Tri, kéo bàn tay mụ đặt vào bàn tay con; kêu rú lên mấy tiếng “Thế là tôi xong việc, yên lòng”, rồi ngã lăn dưới đất.
Mảnh với mụ Tri cùng kinh hoảng; kẻ ôm mình, người đỡ chân, vội vàng khiêng bà lên giường.
Nàng để tay trên ngực mẹ, không nghe trái tim đập nữa: bà đã tắt thở.
III. Thạch Bi Sơn
Một bọn sáu bảy người buôn gánh, để bồ sọt ở bên đường, vào ngồi nghỉ trong một quán nước dưới chân Đại Lãnh (Đèo Cả, phân giới Phú Yên, Khánh Hòa).
Lúc ấy mới xế trưa.
Họ ngồi uống nước, nói chuyện gẫu, cốt đợi những người đến sau. Chừng nào tụ họp vài ba chục người, sẽ kết đội qua đèo một thể. Tuy họ thông thuộc đường núi như trầu thuốc đựng trong hồ bao, đến nỗi nhớ chôn trong trí từng gốc cây, từng mỏm đá, từng lối tắt có thể chui qua đường đèo vừa gần vừa mau, nhưng với sáu bảy người, họ không dám để bước vào khoảng chót vót, um lùm, có khi giữa trưa mà giáp mặt không trông thấy nhau, mây bay quanh mình nghi ngút.
Không phải họ sợ lâu la cướp bóc gì, họ sợ beo cọp.
Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận, đã thành tục ngữ.
Họ tán chuyện đã nhiều, chờ đợi đã lâu, có người mệt mỏi ngủ gà ngủ gật, phía bắc vẫn không thấy bóng người đồng bạn hay một khách bộ hành nào đi đến.
Ai nấy sốt ruột, thở dài:
- Mất cả thời giờ! Thế này thì không khéo chiều tối chẳng qua khỏi đèo!
- Hay là chúng ta cứ đi liều, xem nào? Một người xướng nghị với giọng miễn cưỡng.
- Phải, đi sáu bảy đứa với nhau để làm cỗ cho cọp nó xơi hử? Người khác trả lời. Chỗ này có tiếng cọp nhiều như chó con...
Một người có tuổi hơn nội bọn vội vàng bịt miệng người mới nói kia, và nhăn mặt, cằn rằn rằn:
- Chết!... Chết!... nghề buôn bán phải qua lại núi rừng, sao ăn nói chẳng từ tốn gì hết?... Phải nói là Sơn quân hay ông Ba mươi, chứ không nên xách mé... Ai nói gì, các ông nghe cả đấy!
- Bác chỉ khéo vẽ! Người bị trách vừa nói vừa cười. Gọi cọp bằng ông mà qua đèo một mình thì nó cũng xơi; trái lại, xách mé nhưng đi bọn đông, hắn ta đành lui trong bụi.
Mê tín chống với ngỗ nghịch, hai người sừng sộ lời qua tiếng lại, chỉ vì vấn đề lễ phép cùng chúa sơn lâm; bà chủ quán sợ họ đến dùng võ, không khỏi thiệt hại chén bát của mình, xen vào can ngăn:
- Này, các bác đừng cãi nhau nữa... Im mà nghe!... Có tiếng nhạc ngựa!
Mọi người làm thinh, mắt nhìn chăm chắm về phía Bắc, quả có tiếng nhạc ngựa nhong nhong, sắp sửa đến gần.
Giây lát, một người một ngựa đến trước quán dừng lại. Người ngồi trên mình ngựa nhẩy thót xuống.
Ngựa trông vạm vỡ, ra vẻ lương mã. Người rong rỏng cao, chưa đến ba mươi tuổi, mắt hơi xếch, hàm vuông và hô ra, dấu tỏ giàu nghị lực; mình nai nịt gọn ghẽ, lưng đeo cung tên và một bọc hành lý khá to, cạnh sườn dắt một thanh gươm dài, chuôi nạp sà cừ bóng lộn. Tướng mạo và khí giới đủ cho người ta nhận biết ngay là một tráng sĩ.
Khách thả ngựa một chỗ có nhiều cỏ non, rồi bước vào trong quán, niềm nở chào hỏi mọi người, tháo bọc hành lý trên vai xuống, đặt bên ghế ngồi, tươi cười và nói với bà lão chủ quán:
- Cụ bán cho tôi ba đọi nước rõ ngon, rõ đầy, nào!... Tôi đi luôn một hơi mấy trăm dặm đến đây, khát quá!
- Thưa ông, vậy chắc ông ở Phù Cát vô đây? Một người trong bọn lái buôn hỏi chuyện, còn những người khác ngồi lóng tai chú ý nghe.
- Xa hơn nữa! Khách đáp.
- Hay là Quy Nhơn phủ?
- Chính thế.
- Thế, ông đi suốt đêm ư?
- Tôi đi suốt đêm, một mạch.
- Con ngựa của ông quý hóa nhỉ, hắn là thiên lý mã?
- Vâng, cũng gần đâu đó... Các ông xem dáng nó có mỏi mệt tí nào không?
- Quả thế, ngựa trông như mới dắt ở tàu ra... Tôi nói khí vô phép, cả ông xem cũng ung dung, khỏe khoắn; nếu không có bụi bậm ở quần áo thì đố ai dám bảo ông đi đường xa đến đây.
- Vâng, có thể!
Khách gật đầu và mỉm cười, nói hai tiếng
có thể với vẻ tự hào, tự phụ.
Bọn lái buôn thấy khách, có tướng mạo lạ, nói năng lanh lợi mà tử tế, lại ở miền ngoài vào, cho nên họ càng mặn hỏi chuyện, quên lửng việc cần qua đèo.
- Nghe nói miền ngoài độ này có giặc giã hoành hành lắm, có phải không ông? Một người trong bọn hỏi.
- Không, có giặc giã nào đâu! Khách trả lời có dáng sửng sốt.
- Ông nói thật hay bỡn?
- Tôi nói thật đấy:
- Quái, hay là ông từ giã Quy Nhơn đã lâu ngày cho nên không biết?
- Không, xe chiều hôm qua tôi ăn cơm ở Quy Nhơn rồi mới nhảy lên lưng con Thần phong, tề một mạch đến đây.
- Lạ nhỉ! Hôm qua chúng tôi gặp một tốp người đào nạn; họ kể chuyện rằng Biện Nhạc ở ấp Tây Sơn nổi lên làm giặc, đã chiếm thành Quy Nhơn, đuổi quan lớn Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên chạy mất; cả Đạm Thủy Càn Dương cũng thất thủ rồi kia mà?... Việc quan hệ như thế, lẽ nào ông không biết; ông vừa ở Quy Nhơn lên đường hôm qua?
Khách uống một hơi, cạn tô nước sau cùng, trừng mắt xếch ngược, nói tiếng sang sảng như chuông:
- Thưa các ông, thật tôi chả biết có giặc nào hết... Tôi chỉ biết rằng: triều đình nhu nhược, để gian thần Trương Phúc Loan lộng quyền bại pháp, đồ khổ sinh dân, anh em ông Biện Nhạc họp đồng chí, khởi nghĩa binh, cốt trừ tàn khử bạo, cứu nước an dân; nếu các ông bảo những người ấy là giặc thì quả tôi không biết.
- Vậy thì Quy Nhơn quả thật đã thất thủ, thưa ông?
- Phải!... Nhưng tại sao các ông ân cần đến sự Quy Nhơn còn mất lắm thế?
- Tại là quê hương chúng tôi.
- À!... Rồi đây còn nhiều nơi khác sẽ về Tây Sơn, há phải một Quy Nhơn mà thôi ư?... Các ông chờ đấy mà xem!
Khách nói và đứng dậy khoác tay nải lên vai, sửa soạn đi.
Bọn lái buôn nhìn nhau, kinh ngạc. Người tiếp chuyện khách nãy giờ, sửng sốt hỏi:
- Giờ ông lại đi ngay.
- Vâng, tôi phải đi ngay, vì có việc khẩn yếu! Khách trả lời và hỏi lại. Từ đây tới Thạch Bi Sơn còn xa lắm không hè, các ông?
- Thưa không xa. Chỉ qua đèo này, rẽ sang phía tây nam là thấy Thạch Bi Sơn. Nhưng ông đến Thạch Bi Sơn thật à?
- Phải!
- Một người một ngựa, thế ư?
- Phải, tôi với con Thần phong!
- Nhưng trước hết là phải trèo qua Đại Lãnh?
- Phải, bây giờ tôi sắp trèo qua Đại Lãnh đây.
- Cũng một người một ngựa thế ư?
- Phải, tôi với con Thần phong!
Không phải ước hẹn, cả bọn lái buôn và con cái gia đình bà chủ quán, tất cả mười lăm miệng cùng thốt một tiếng kinh dị:
- Trời!
- Sao các người lại kêu Trời? Khách hỏi, tay thì sửa lại cái bọc mang trên lưng cho được thăng bằng, hai chân chỉ dợm bước ra khỏi quán.
Người lái buôn nhiều tuổi nhất đám mà ta đã biết, chắt lưỡi gọi giật:
- Này, ông ơi!
- Sao? Khách day lại hỏi.
- Chắc ông là người xa lạ, thuở giờ chưa đi lại con đường này bao giờ?
Vâng, có thế! Lần này là lần thứ nhất.
- Hèn gì ông không biết.
- Không biết thế nào cơ ông?
- Anh em chúng tôi bảy người đến đây từ lúc xế trưa, còn phải đợi mãi, không kết đội chừng vài ba chục người thì không dám qua đèo; là vì...
- Là vì thế nào? Ông nói thẳng cho tôi nghe với, chứ sao lại ngập ngừng thế? Khách hỏi dồn, có ý sốt ruột.
- Vì trên Đại Lãnh sơn quân nhiều có tiếng! Ông lái già trả lời, lộ vẻ sợ hãi trên mặt, nói hai tiếng
sơn quân nhỏ như nói thầm.
Khách cười gằn:
- Tưởng là gì? Cái đó tôi đã biết trước. “Cọp Khánh Hòa...” đã thành tục ngữ, tôi có lạ đâu!
- Cơ khổ! Lại còn núi Bia nữa! ông lái già nói tiếp. Chúng tôi lo ngại giùm ông, vì thấy ông là người hiền lành, bỡ ngỡ không biết.
- Thì ở núi Bia cũng nhiều cọp như trấu là cùng, chứ gì?
- Nào phải! Ở đấy có cái nguy hiểm khác... Trong thung lũng núi Bia lâu nay, có bọn thày trò Giáo Hiến kết lều lập trại, tụ tập xưng hùng; triều đình muốn tập nã mãi không được. Hai ba lần quan quân ở Phú Yên đạo lần mò đến, toan bề đánh bắt, đều bị thầy trò hắn ta giết sạch. Nay ông một mình một ngựa đi đến, chúng định chắc ông là công sai, cho ông một mũi tôn độc thì ông phải chết. Nguy nhất là chúng núp trong hang đá bụi cây, không khi nào cho ông thấy mặt mà hòng cự lại.
Khách lại cười gằn:
- Đa tạ hảo ý của ông. Tưởng là ông mách cho điều gì lạ kia, chứ điều đó tôi cũng thừa biết từ trước.
- Vậy ông cứ nhất định đi à? Ông lái già ân cần hỏi lại.
- Vâng, tôi phải đi.
- Một người một ngựa thế mà ngang nhiên qua Đại Lãnh thẳng đến Trạch Bi Sơn à?
- Cố nhiên!
- Trời ôi! Ông tự tin vào chỗ nào mà dám mạo hiểm thập tử nhất sinh như thế? Hãy đợi chốc nữa có đông người, rồi cùng đi với chúng tôi có được không?
- Cám ơn các ông, tôi phải đi ngay... Chỗ nào tôi tự tin ư? Thưa, tôi tin vào hai bạn đồng hành tả phù hữu bật, chả sợ gì cả.
Mọi người xúm quanh đều lấy làm lạ, không hiểu khách là công sai, là cường đạo, là tiên quỷ hiện hình, hay có bản lĩnh đến thế nào, mà đơn thân độc mã, dám hung hăng làm việc mạo hiểm như vậy? Họ băn khoăn lo ngại, tự nghĩ như mình sẽ có tội và lương tâm cắn rứt không yên, nếu để cho người này mạo hiểm, rủi có bề nào. Cái nghề đi lại núi rừng buộc họ giàu lòng đoàn kết và thương yêu cứu giúp lẫn nhau. Bởi vậy khi nghe khách nói có hai bạn đồng hành, tả phù hữu bật, họ nghĩ ràng khách điên, muốn tìm cách cố lưu lại, đợi chốc nữa hay qua sáng hôm sau cũng đành, có đông người kết bọn sẽ đi.
Một người níu áo khách và hỏi mát:
- Ông định tự tử à?... Trơ trọi đơn thân độc mã, hai bạn đồng hành là hai bạn nào đâu?
- Hai bạn tôi đây này!
Khách ung dung trả lời một tay trỏ vào cung tên đeo bên mình, một tay nắm lấy thanh kiếm. Rồi cười kha kha, nói tiếp:
- Với hai thằng bạn này, tôi đi một người một ngựa qua Đại Lãnh đến Thạch Bi Sơn, trăm phần trăm an toàn vô sự, chẳng hổ báo lâu la nào dám động đến lông chân mình mà lo! Các ông phải chờ đợi ai làm gì, cứ đi với tôi, tôi bảo hộ cho.
- Ông chắc bảo hộ anh em chúng tôi được vô sự ư?
- Đã bảo cứ đi với tôi mà! Hễ gặp hổ thì giết hổ chết tươi, gặp giặc thì chém giặc tại trận, dù có bao nhiêu đứa cũng mặc. Tôi cam đoan bảo hộ các ông, nếu có một sầy da tróc vảy bởi cọp hay lâu la tôi cho phép mấy người kia chặt đầu tôi đi!... Nào có đi thì ra đi, kẻo tối ngày mất?
- Nếu thế thì may phước quá, ông cho anh em chúng tôi đi theo với!
Bảy người lái buôn hớn hở chạy ra lấy gồng gánh, dõng dược lên đèo nhờ có tráng sĩ hộ vệ.
Họ đi trước, tráng sĩ cỡi ngựa theo sau cung tên cầm sẵn trong tay và gươm tuốt ra ngoài vỏ.
Thạch Bi Sơn, tục danh núi Bia, ở phía tây nam Đạt Lãnh, chân vi hơn mười dặm, hình thế sầm uất, đỉnh cao và phẳng, đứng xa trông như bức thành xây. Mạch núi chạy dài, phía ngoài ra đến bờ bể, phía trong tiếp giáp sơn mạch Bà Nam, nơi có hai nước mọi độc lập, thuở xưa vẫn triều cống là: Thủy xá quốc và Hỏa xá quốc.
Tương truyền vua Lê Thánh Tôn, năm Hồng Đức nguyên niên (1470), thân đem 20 vạn quân vào đánh Chiêm Thành, mở đất nước, lấy ngay núi ấy làm phân giới nước ta và nước Chiêm.
Nhà vua sai người lên tận đỉnh núi, mài đá khắc bia gồm có 16 chữ sau này:
'‘Chiêm thành qua đây, quân thua nước mất, An Nam qua đây, tướng chết binh tan . Vì thế, núi mới có tên là Thạch Bi Sơn hay núi Bia.
Tuy nhiên, văn bia lâu ngày đã mờ chữ mòn nét, không nhận ra được nữa, mười sáu chữ trên chỉ do truyền văn thể thôi, chưa chắc nguyên xưa có phải như vậy. Nhất là một việc quan hệ đến thế, không lẽ sử đời Hồng Đức và thi tập của Thánh Tôn ghi chép việc đi đánh Chiêm, không nói gì đến?
Nhiều người Tàu vào khoảng Đường Tống lại phỏng đoán rằng: đời Hán, Mã Viện sang đánh Giao Chỉ rồi lập đồng trụ phân giới ở trên núi ấy, rồi sau người Chiêm Thành nhổ đi.
Hình như đến đời Lê Thái Tôn người Chiêm mưu toan lấy lại đất Hóa Châu tức là đất Huế mà tiên vương họ đã dâng nhà Trần làm lễ cưới Huyền Trân công chúa, và định khiêng đồng trụ ra cắm ở Đèo Ngang, vì đó Thánh Tôn phải đem quân vào đánh rồi mài núi lập bia như trên đã nói.
Nhưng, chuyện bia đá này cũng như cột đồng kia, toàn là người sau ức đạc, chẳng ai biết rõ thực hư thế nào. Vì hình thể Thạch Bi Sơn hiểm trở quá, thuở nay không người nào dám in vết chân mình lên, không khám phá được dấu tích lịch sử có không, không có.
Thế mà trước bốn năm có câu chuyện chúng tôi đang kể đây nghĩa là vào khoảng năm Canh Dần (1770), có một người đem hai ba chục học trò đến ở thung lũng này mở trường dạy học, vỡ đất trồng màu. Thầy và học trò phần nhiều đem gia nhân quyến thuộc đi theo, tổ chức thành một thế giới riêng trong núi, tự nuôi tự trị lấy nhau, không chịu thuộc quyền triều đình quan phủ.
Người ấy tên là Trương Văn Hiến, vì chuyện dạy học, nên người ta quen gọi là giáo Hiến.
Hiến là anh em thúc bá, có người nói chính là em ruột ông Trương Văn Hạnh, là quan ngoại hữu ở triều Đinh vương. Tính ông rất cương trực, thấy Trương Phúc Loan lộng quyền nhiễu dân thái quá, không thể chịu nổi, trước ông còn can ngăn, sau âm mưu với một số đồng liêu đồng chí, định giết kẻ gian thần, sửa lại triều chính. Không may sự cơ bại lộ, bị Phúc Loan hãm vào tử tội và định tru di đến cả họ hàng bà con.
Lúc ấy Hiến đang ở Phú Xuân, sợ mang vạ lây, vội vàng đáp thuyền vào cửa Hàn, định nương náu ở Quảng Nam. Nhưng Phúc Loan nghe danh Hiến có học, lại giỏi cả võ nghệ, lo sợ Hiến sẽ phục thù, cho nên ra lệnh tập nã rất gắt. Các bến đò quán chợ đều yết thị, tả vẽ hình dáng, giao hẹn ai chặt đầu đem nộp, sẽ được một bước bố thụ ký lục; trái lại, ai mà giấu giếm, bị tội lăng trì, làng nào chứa chấp, sẽ bị triệt hạ.
Như Ngũ Tử Tư ngày xưa đi trốn nước Sở, một đêm bạc trắng cả đầu, Hiến lo sợ quá cũng thế: người đang trẻ mà trong mấy hôm biến ra bạc đầu hóp má, trông như ông lão. Hình dáng khác hẳn, không ai nhận ra.
Sợ nấn ná ở Quảng Nam, nguy hiểm, vì đảng vũ gian thần ở đây nhiều, Hiến đi bộ đêm ngày, tiến vào Quy Nhơn, cho thật xa xôi cách tuyệt.
Đem sở học ra làm sinh kế, Hiến mở trường dạy học tại ấp Yên Thái. Dân vùng này đang oán hận triều đình, cho nên dù người biết rõ tông tích Hiến, cùng không muốn tố giác lập công với gian thần; huống chi thấy Hiến tài gồm văn võ, làm thày học quanh vùng, ai nấy lại đem lòng kính mến, ra sức bảo hộ. Nhờ thế, Hiến được ở yên?
Học trò đến thụ nghiệp khá đông; ai muốn học văn hay học võ, đều được dạy dỗ chu đáo.
Cả ba anh em Nhạc, Lữ, Huệ, và danh thần dùng tướng của triều Tây Sơn sau này như đô đốc Trương Văn Đa, Đặng Văn Chân, thái phó Trần Quang Diệu đều là thụ nghiệp môn sinh.
Anh em Tây Sơn đến học độ ba năm. Nhạc chuyên học văn, Lữ và Huệ học võ. Nhất là Huệ, tướng mạo khôi vĩ, học tấn tới vượt cả mọi người, ông giáo Hiến rất yêu vì, càng gia công dạy bảo, thường khoe Huệ với người ta:
Chàng thiếu niên này, tương lai không biết đâu mà lường, chỉ tiếc rằng người e không thọ!
Nhân lúc bấy giờ dân gian có câu sấm ngữ
“Tây khởi nghĩa, bắc thu công”..Ông bảo riêng anh em Nguyễn - Nhạc:
- Các anh có lập chí cao xa gì không? Câu sấm “Tây khởi nghĩa” có lẽ ứng vào các anh là người ấp Tây Sơn đấy.
Chung cả học trò, ông thường khuyên ai nấy nên lập chí hướng cho to, lấy việc cứu thế an dân, trừ tà khử bạo, làm phận sự nam nhi, chứ đừng cầu những cái lợi lộc công danh tầm thường như thói thiên hạ.
Một cách gián tiếp, và mỗi ngày một tí, ông nhồi vào trí não học trò những tư tưởng cách mạng triều đình thử thời. Cái gánh thù nhà, ông tự biết không đương nổi, muốn đặt trên vai học trò.
Cũng vì thế, tông tích khả nghi của ông dần dần bay đến tai quan lại địa phương.
Sợ nguy đến nơi, ông vội vàng thu xếp giã từ Yên Thái để tránh đi nơi khác; ông nói:
- Đã thế, ta vào ở non xanh rừng rậm, thật biệt mù hiểm hóc, thử xem chúng nó làm gì được ta!
Có vài chục học trò tình nguyện đi theo ông; họ đem cả gia đình và khí cụ canh nông, nhắm mắt theo thay, hễ ở chỗ nào thì khai khẩn sinh nhai chỗ ấy.
Thế rồi không trống không kèn, ông dẫn ngót bốn chục người, cả học trò với gia nhân họ, đàn ông có, đàn bà có, vào ở trong thung lũng Thạch Bi Sơn.
Thầy trò xuất lực đốn cây dựng nhà vỡ đất trồng tỉa cày cấy, lập nên một nước riêng ở trong một nước, tự sinh sống đùm bọc nhau, không giao thiệp với ai, cũng không phục tòng phụ thuộc ai. Mỗi ngày, ngoài giờ làm lụng, ông giáo Hiến dạy học trò đánh quyền múa gươm, bắn cung cưỡi ngựa, quanh quân trong khoảng núi non mà mình làm chủ.
Những người đi buôn bán trên mọi thường qua lại đây, thày trò tuyệt nhiên không đòi tiền mãi lộ hay quấy nhiễu gì, nhưng nếu là người công sai hoặc binh lính ở đạo phú Yên, lò mò đến dò la khiêu khích, tất được để da gởi thịt lại núi Bia, mười kẻ chỉ về được một hai là phúc.
Trong vòng một năm, công cuộc xếp đặt đã thành cơ ngũ; Lều trại dựng lên san sát, hoặc một gia đình ở riêng, hoặc hai ba người ở chung với nhau; lương thực cũng ăn chung đổ lộn, gạo thóc có, ngô khoai có; hằng ngày học trò đi săn bắn, chim chóc và thịt thú rừng ăn không hết, còn thừa phơi khô.
Tóm lại thày trò lập riêng với nhau một thế giới tự chủ, hầu như đoạn tuyệt giao thiệp với bên ngoài, đến nỗi chung quanh Thạch Bi Sơn trở ra có việc biến chuyển gì thầy trò cũng không biết, và cùng không cần biết.
Khoảng năm Nhâm Thìn, có một bà lão dẫn một cậu trai trẻ đến, xưng là mẹ con, lạy xin thu nghiệp.
Bà lão độ sáu mươi ngoài, tai hơi nghễnh ngãng, nhưng cặp mắt còn tinh anh và tác người trông khỏe mạnh, nở nang, không ra dáng một người đã gánh bấy nhiêu xuân thu trên vai. Còn người trai trẻ mà bà nhận là con, diện mạo khôi ngô, tay chân mềm mỏng như con gái; xem dáng người và nét mặt dáng ngót đôi mươi, nhưng bà nói rằng cháu mới có 13 tuổi.
Hành lý của hai mẹ con chỉ có một cái bọc quần áo, cơm khô và hai chục nén bạc, xỏ vào cây đòn dài năm thước, chính bà lão vác trên vai. Thoạt trông, người ta tưởng là đòn tre, chừng nhìn kỹ mới biết là một cây gậy sắt, nặng đến năm sáu chục cân.
- Làm sao bà lão biết chỗ này mà đưa đến? Ông Giáo Hiến dòm kỹ tướng mạo hai mẹ con và hỏi. Mẹ già con bé thế mà dám xông pha rừng núi ư?
- Bẩm ông, chúng tôi nghe đại danh ông đã lâu; thoạt tiên tìm đến ấp Yên Thái, người ta chỉ dẫn vào đây. Vì lòng thiết tha mộ đạo tìm thầy cho con học, chúng tôi đánh liều xông pha, nhờ có trời Phật phù hộ, không ngại ngùng sợ hãi gì cả...
Ông Giáo Hiến chưa kịp hỏi thêm, bà lão đã nói tiếp:
- Vả lại chúng tôi có một bức thư người ta gửi trình ông.
- Không biết người viết thư là ai và trong nói gì, chỉ thấy ông Giáo Hiến xem thư rồi niềm nở hỏi chuyện, có vẻ tin cậy, thân mật:
- Thế cháu bao nhiêu tuổi?
- Bẩm ông, cháu còn nhỏ dại lắm, năm nay mới có mười ba...
- Trời ơi! Tác người đầy đặn thế mà mới có mười ba tuổi thôi à?
- Bẩm vâng, tuổi Tân Tỵ.
- Tên họ?
Bà lão làm bộ như đãng trí, một lát mới nói:
- Bẩm, cháu họ Bùi, con nhà côi cút, hiếm hoi, từ nhỏ vẫn gọi cháu là thằng Mảnh vì tôi là đàn bà dốt nát, không biết đặt thế nào cho hay. Bây giờ nhân tiện xin ông cho cháu một chữ làm tên.
- Bà sinh cháu ra ở đâu? Ông giáo Hiến hỏi.
- Thưa, ở Phú Xuân.
- Vậy thì đặt tên cho nó là Xuân, đệm chữ Văn hay chữ Phùng nghe hay hơn
- Đa tạ ông, ba chữ Bùi Phùng Xuân nghe hay lắm!
- Thế cháu đã học vỡ lòng chưa Xuân? Giờ ông Giáo hỏi người con.
- Bẩm cụ, cháu đã học được ít nhiều chữ nho! Chính Xuân trả lời.
- Bây giờ lại muốn kế tiếp học văn để thi cử chứ gì?
- Thưa không, cháu xin học võ.
Bà lão xếp hai chục nén bạc trên khay trầu, bảo con lạy ông Giáo Hiến hai tay và nói:
- Xin ông nhận lễ nhập môn, từ nay cháu là đệ tử ông, trăm sự nhờ ông dạy bảo, thân già này chỉ trông cậy có nó và tương lai có thể nào trông cậy hoàn toàn ở ông.
- Được rồi, đã có thư của bạn tôi giới thiệu, tôi vui lòng nhận cháu là môn sinh và dạy bảo nó tận tâm! Ông Giáo Hiến trả lời và tay gạt gói bạc ra. Nhưng còn tiền bạc thì bà thu về, tôi không nhận đâu. Ở đây, ai nấy xuất lực mà sinh sống học hành, có cần gì tiền bạc?... Còn bà, bà cũng ở đây với con chứ?
***
Thưa vâng, trước khi đến đây, tôi đã biết rõ cách thức sinh hoạt giáo huấn của ông thế nào rồi... Từ nay, mẹ con tôi xin làm dân Thạch Bi Sơn y như mọi người: cháu thì học ông, tôi thì xuất lực trồng cây cuốc đất mà sống, góp vào cuộc sinh tồn chung. Bởi vậy, tôi thành tâm dâng cả sự sản vốn liếng của tôi có bấy nhiêu đây, không phải để trả tiền học cho cháu, nhưng xin ông nhận lấy, để mua sắm khí cụ vật dụng gì cần dùng cho cuộc sinh tồn chung cả mọi người. Ví dụ cày cuốc trâu ngựa chẳng hạn. Tôi tưởng ông nên cho người lên xứ mọi mua trâu ngựa để khai khẩn thêm, hình như ở đây còn thiếu vật dụng ấy mà sự khai khẩn có thể được hơn... Nếu ông không nhận lòng thành này thì mẹ con tôi xin ra khỏi Thạch Bi Sơn ngay, người ta nói lòng thành cảm được thần minh, có lẽ bực kỳ tài cao sĩ như ông lại chẳng hiểu cho?
Bà lão nói rất thiết tha ân cần, mà lại có lý thành ra ông Giáo Hiến không thể từ chối.
Tuy vậy, ông phải trầm ngâm suy nghĩ, không hiểu mẹ con nhà này, tất có tung tích ẩn khúc thế nào, chứ không phải giản dị là “một người mẹ mộ đạo nghe danh muốn tìm đến cho con tòng học” như trong bức thư của người cố giao ở ấp Yên Thái giới thiệu.
Ông tự hẹn trong trí, để thong thả sẽ kéo tấm màn bí mật này lên.
Từ đấy, xã hội Thạch Bi Sơn thêm hai tên dân mới, là mẹ con Bùi Phùng Xuân, ở riêng một túp lều đầu núi. Hằng ngày, bà lão đi làm việc cày cuốc trồng tỉa như mọi người, bà làm như một tay lực điền mà tính ý lại vui vẻ, nên ai nấy đều kính nể, yêu mến.
Xuân thì chuyên việc học tập ở trường võ, sáng ý, chăm chỉ và rất chịu khó; ông Giáo Hiến thấy thế càng có lòng thương, hết sức dạy dỗ, cho chàng được chóng theo kịp các bạn đồng môn.
Chàng hơn được các bạn là biết chữ, thành ra tôn sư có thể đem những sách chuyên môn về việc binh nghề võ, như
Kiếm pháp bí truyền, Binh thư yếu lược và
Tôn tử thập tam thiên, giảng dạy kỹ lưỡng, khiến chàng vừa hiểu lý thuyết, vừa được thực hành, nhờ đấy mà công phu luyện tập mau thấy tấn tới hơn người.
Duy có tính nết nhu mì, điềm đạm, ít nói ít cười, lại hay cả thẹn: ví dụ trong khi thao luyện một bài kiếm, một đường roi chẳng hạn, hơi có chút nào lỗi lầm, đủ khiến chàng tự lấy làm thẹn thùng, đỏ mặt tía tai lộ vẻ kiều diễm như người con gái. Anh em bạn học lấy làm lạ báo nhau:
- Quái! Thằng Xuân có lẽ bà mụ lỡ tay hay quên kiếc thế nào, giá nặn nó là con gái thì phải hơn!
Tuy vậy, sự học của chàng không vì thế mà kém phần tiến bộ, xuất sắc. Nhờ ông thầy khéo cảm hóa, khuyến khích, không bao lâu chàng biến đổi khác hẳn, trở nên lỳ lợm, bạo dạn lạ thường, bạo dạn đến quên cả nguy hiểm.
Sau một năm rưỡi, Xuân tinh thông kiếm pháp, do công phu tập luyện ráo riết mà cũng do thiên tài góp vào một phần.
Những lúc Xuân múa kiếm, người ta chỉ thấy sắt chớp nhoáng chung quanh mình chứ không trông thấy người. Chàng lại có tài phóng thanh gươm đi cách xa đôi ba trăm bước, đâm trúng bất cứ vật gì mình nhắm làm đích. Bạn cùng học kiếm phải tấm tắc kính phục, bảo rằng trong bọn đồng môn được thầy truyền kiếm pháp, mấy năm về trước có Nguyễn Huệ, giờ thì có Phùng Xuân, mới đi tới chỗ tuyệt kỹ như thế.
Chàng cỡi ngựa bắn cung nỏ cũng thiện nghệ. Mỗi khi bạn học thao diễn nghề bắn với nhau, chỉ có dăm người với chàng bắn trúng hồng tâm luôn năm phát, còn những người kia chỉ trúng được ba bốn. Một hôm, người ta muốn thử tài, trỏ vào đàn chim đang bay, thách chàng bắn trúng con thứ ba. Ứng thanh, mũi tên vụt lên, bắn đúng con chim ấy ngã. Ông giáo Hiến vui mừng dạy dỗ được một người học trò giỏi như thế ông nói:
- Dưỡng Do Cơ tài bắn nhất đời Chiến quốc, chẳng qua cùng thế thôi.
Giữa lúc ấy, người tráng sĩ lạ lùng mà ta đã thấy, gia roi tế ngựa gần đến Thạch Bi Sơn.
IV. Con cọp làm mối
Sau khi bình yên qua đèo Đại Lãnh, khách cười nói pha trò với các ông lái:
- Nào, các ông kiểm lại da thịt xem có ai sứt mẻ gì để tôi xin lấy mạng thường mạng cho nào?
- Bẩm không ạ! Các lái đồng thanh đáp. Đa tạ ông hộ vệ anh em chúng tôi qua đèo được vạn sự bình yên... Thật là may quá, chẳng gặp ông thì không khéo chúng tôi phải ngủ đỗ lại bên kia đến sáng mai.
- Vậy thì bây giờ các ông cho tôi sống, để tôi đi việc tôi chứ?
- Bẩm không dám ạ, ông dạy quá lời!... Một lần nữa, chúng tôi cảm ơn ông và xin chúc ông đi công việc được như ý. Thạch Bi Sơn trông thấy kia, nhưng đường khuất khúc cũng hơi xa, ông đi kẻo trời sắp tối mất!
Thế rồi bọn lái buôn quảy bồ đi thẳng, còn khách thì thúc ngựa rẽ sang ngõ Thạch Bi Sơn.
Lúc ấy, mặt trời đã lặn, con Thần phong đang nện bốn vó đều đều trên đường núi gồ ghề, bồng dưng rúc đầu vào bụi rậm, miệng kêu hí dữ dội, còn hai chân sau thì hất đá tứ tung.
Khách nói cằn nhằn một mình, bất như ý:
- Thần phong vẫn thính mũi lắm!... Hẳn có chó rừng đây mà!
Quả nhiên, trong đám lau sậy cách xa trước mặt độ trăm thước, có tiếng rào rạt, ngọn cây ngả ra hai bên, chứng tỏ có một chú cọp chưa biết lớn nhỏ, đang rúc lau rẽ lá tiến đến phía khách rất nhanh. Con Thần phong đánh hơi từ xa, cho nên chúi đầu vào bụi, hất đá chân sau là để nghênh địch. Giống ngựa đi rừng gặp hổ bao giờ cũng thế.
Khách vội vàng nhảy xuống đất, nhưng chưa kịp rút gươm ra, thì một con cọp to lớn kinh hồn, nhanh như biến, đã vụt đến trước mặt.
Tấn kịch từ lúc con Thần phong đánh hơi, khách miệng nói lầm rầm, mình phóng xuống đất, cho đến khi con hổ vụt tới, nhà văn phải viết hết mấy chục hàng, nhưng sự thật lúc bấy giờ bay nhanh như gió, tất cả đồng thời phát hiện trong vòng nửa phút đồng hồ.
Cọp đã nhắm đúng độ xa thế nào không biết, vừa thò mặt ra ngoài đám lau, trong khi người bị ráng chiều rọi ngang giữa mắt chưa kịp nhìn thấy kẻ địch, thì đánh vụt một cái nhẹ nhàng như cơn gió thoảng, cọp lao mình đến nơi vừa vặn không xê xích hào ly nào.
Móng vuốt trương hết mãnh lực, hai tay cọp chụp lên hai vai người, vật người ngã ngửa dưới đất, đệ cả thân hình mấy trăm cân lên trên, miệng há thật to, phơi cả răng nanh nhọn hoắt và cái lưỡi mẹc gai, tưởng tượng như bộ máy nghiền đá, chỉ còn có việc ngoạm lấy đầu người mà nghiến nhẹ cũng đủ nát nhừ, hoặc thè lưỡi liếm qua trên mặt, là đủ lạng đi cả tảng,
Nếu ta được chứng kiến giây phút rùng rợn ấy, tất phải cầm chắc người chết mười mươi, không còn lấy người tí sinh vọng nào nữa. Cọp ngồi trên mình người, hai bàn tay bấu chắc lấy vai như đóng đinh vào thịt, còn cái miệng đáng khiếp với răng như đao, lưỡi, như nĩa kia chỉ còn cách xa gang tấc!
Nhưng nếu ta tưởng vậy, thì ra ta quên mất người còn hai cánh tay tự do. Nhất là hai cánh tay tráng sĩ, đã từng luyện tập cứng rắn như sắt. Ý chừng tráng sĩ cũng đã phòng bị có lúc bất ngờ hay là tất nhiên này, cho nên bên trong áo vải, có mặc một thứ đoản giáp hộ thân, từ vai xuống đến háng, có thể che chở được gươm đao đâm chém vô hại. Nhờ thế, bàn tay cọp bấu lấy vai tuy chắc, móng vuốt ghì vào tuy sâu, nhưng xương thịt người không bị tổn thương gì cho đến nỗi mất hết gân sức. Với hạng người ấy, trầy da đổ máu chỉ là chuyện rất tầm thường. Hai cánh tay tráng sĩ còn khỏe mạnh chán!
Tráng sĩ tính thế thủ thân cũng vừa vặn đúng, vừa vặn kịp. Giữa lúc cọp há miệng nhe răng, hạ gần xuống đến đầu mình, tráng sĩ đồng thời đưa hai cánh tay lên, vận hết tinh lực, bàn tay trái đặt ngay vào hàm răng dưới của cọp mà ghì kéo xuống còn bàn tay phải thì chống lấy hàm trên của má căng thẳng lên. Cọp nằm trên mình, mình nằm trên gươm, tráng sĩ chỉ còn hai cánh tay là khí giới tự vệ.
Tinh thần là lực lượng của tráng sĩ chỉ còn hai cánh tay và dồn hết vào đấy, có hai điều lợi: một là căng thẳng gân sức, bạnh hẳn miệng cọp ra bắt nó ngửa mặt lên cao, không thế cúi xuống nhìn và ngoạm lấy đầu người như ý nó muốn; hai là giảm bớt sức mạnh ở hai bàn tay cọp đang đè nén trên vai mình.
Nhưng cọp bị căng mồm đau quá, cái đầu cố sức lắc lư vùng vẫy để gỡ ra. Cọp cố sức gỡ chừng nào, hai cánh tay cứng như sắt của tráng sĩ lại cố càng cố ghì chặt thêm chừng ấy; nếu để buột tay ra thì chết.
Cọp dùng tới hai chân sau, muốn day đạp trên mình tráng sĩ, nhưng tráng sĩ nhanh nhẹn lấy bàn tay và đầu gối đỡ đòn được nhiều. Vả lại thiên tính giống cọp bao giờ cũng lo giữ thận nang kỹ lưỡng hơn hết các bộ phận khác trong thân thể, vì sợ thận nang hơi sây sát bị thương, sẽ nguy đến tính mạng. Người đi rừng biết được chỗ nhược của cọp như thế, cho nên chống cự với nó, thường nhắm vào đấy hơn cả.
Tráng sĩ cũng thế, cho nên cọp ta chỉ dùng sức mạnh hai chân sau một cách rất dè dặt, phòng xa, chứ không dám đem hết toàn lực.
Người và cọp cầm cự kéo nhau như thế đến nửa giờ đồng hồ. Cố nhiên người chưa biết làm sao gỡ mình thoát khỏi kẻ địch, mà cọp cũng tức tối, không tìm cách gì xơi được miếng mồi đã kề bên miệng.
Hai bên tương địch chỉ còn có cách chịu trận giữ miếng nhau, bên nọ chờ trên kia hở cơ một chút gì hay là sức đuối trước, thì mình nắm phần thắng. Chắc chắn người mau đuối sức hơn. Vì cọp đè trên mình, lại phải dùng sức hai cánh tay thái quá, có giỏi chịu đựng, chẳng qua độ nửa giờ đồng hồ nữa cũng được tự nhiên kiệt quệ, rời rã, để cọp phân thây xé xác cách nào tùy ý.
Nhất là cọp ta càng đau miệng, cái đau to như thúng cái, lại càng lắc lư để mong tháo gỡ, không chịu để yên giây phút nào. Lưỡi nó thè lè, nhểu cả nhớt rãi xuống mặt tráng sĩ; tiếng gầm hét ú ớ trong họng không phát ra được, tỏ vẻ giận uất kêu rên, nghe đủ lạnh tóc gáy.
Cọp muốn tháo gỡ miệng nó bao nhiêu, tráng sĩ phải dùng hết gân tay căng lên; tay ghì xuống bấy nhiêu, thành ra càng tốn hơi sức.
Quả thật, một chặp sau, tráng sĩ cảm giác gân sức mình đuối dần, mặc dầu khí phách vẫn hùng hồn, tâm trí vẫn tỉnh táo. Sự sống chết xem ra chỉ còn cách nhau gang tấc.
- Chết cha mi! Tao không giết được mi, không còn phải là hảo hớn ở đời!
Tráng sĩ tuy nghiến răng trợn mắt, thét lên những tiếng gắt gao hùng dùng với cọp như thế, nhưng thật sự mồ hôi đã đẫm ướt khắp mình, gân tay đã thấy mỗi phút suy nhược đi một vài phần, tự biết hơi sức không còn cầm cự dai dẳng được bao lâu.
Phút đồng hồ cuối cùng sắp sửa đến nơi, thắng lợi cho cọp, nguy hiểm cho người.
Hình như cọp nghe chừng người đã yếu sức, lại cựa quậy già. Bây giờ nó dụng lực cả đầu cổ, chân tay, mình mẩy; ý muốn cố kinh một vài hơn sức nữa là đủ kểt liễu tranh đấu, xơi ngon miếng mồi.
Tráng sĩ nghe hai cánh tay mình đã rời rã, không chịu vâng mạng lệnh của khí phách nữa; cơn phẫn uất bốc lên, tràn ngập trong lòng, muốn lừa miếng sau cùng, làm sao luồn được hai bàn chân vào dưới bụng cọp, tung hất nó văng ra, rồi mình vùng dậy rút gươm đấu võ với nó một phen, có chết cũng hả.
Nhưng cọp khôn lắm, không để cho địch thủ mình chơi được miếng hiểm ấy; nó ngồi thu vén đề phòng phía sau, trong khi hai hàm răng cố xoay đảo lấy lại tự do, còn hai bàn tay thì cố vấu mạnh vào vai người. Tráng sĩ thấy móng nhọn đã xuyên qua áo giáp mà cắm sâu vào da thịt, đau buốt cả người. Bấy giờ hai cánh tay thật là hoàn toàn mất hết gân sức, tráng sĩ chỉ còn có nước buông ra, đành phải chịu thua, chịu chết.
Giữa phút thiên nguy vạn hiểm, thập tử nhất sinh ấy, tráng sĩ nghe vun vút như từng luồng gió mạnh, kế tiếp thổi qua trên đầu mình; nhìn lên thì ra ba mũi tên thông luôn, từ đâu bắn lại không biết, đâm phập vào giữa miệng cọp mà không thấy động chạm gì đến bàn tay mình.
Cọp ta ằng ặc trong cổ, rú lên một tiếng nghe kinh khủng, rung chuyển cả thân thể, đồng thời máu trào ra miệng, rồi tự vật mình ngã lăn dưới đất, giãy giụa dữ tợn...
Tráng sĩ thoát thân, liền đứng phắt dậy, rút gươm cầm tay để giao chiến với cọp nếu nó còn có sức chồm lên vồ chụp mình. Giống ác thú này lúc bị thương gần chết vẫn còn sức mạnh đáng sợ.
Nhưng tráng sĩ đứng lên, chỉ vừa kịp tay rút thanh gươm, mắt trông ra phía trước xa xa thấy một người đang ghì ngựa từ trên sườn núi chạy xuống; thể là hai mắt hoa lên, chân tay bải hoải, muốn cố gượng mà không sao gượng được, mình lắc lư lảo đảo mấy vòng như người say rượu, rồi ngã nằm sóng sượt, bất tỉnh nhân sự.
Cầm cự với cọp lâu quá, tráng sĩ mệt đuối, không thế tự chủ được nữa.
Lúc ấy người cỡi ngựa mà tráng sĩ đã trông rõ từ trên núi chạy xuống, vừa vặn đến nơi.
***
Người cỡi ngựa là một chàng thiếu niên tuấn tú, nai nịt gọn ghẽ, bộ dạng trông như học trò, có vẻ con nhà quý phái, không đen đủi gân guốc như một người sinh trưởng ở chốn sơn lâm.
Chiều hôm, chàng theo lệ quen, quần ngựa chơi trong thung lũng Thạch Bi, Đại phế và Hải hồ; chú ý là tập cỡi ngựa, nhưng bao giờ cũng đem theo nỏ với đoản đao, hễ gặp chim muông thích ý thì săn bắn lấy thịt đem về ăn.
Lúc nãy, chàng buông cương cho ngựa đi bước một bên sườn núi gập ghềnh, bỗng nghe cách không xa, rõ ràng có tiếng cọp gầm gừ gióng một, như lúc nó đang ăn con nai con mền mà bị xương mắc cố vậy. Người quen ở rừng, nghe những tiếng ấy, chẳng những không sợ hãi tránh xa, lại còn tò mò mạnh bạo tìm đến; có khi vớ được cả cọp lẫn mồi của nó.
Thiếu niên dừng ngựa lại, nhìn quanh nhìn quất để tìm xem cọp ở chỗ nào; tới chừng đưa mắt xuống chân núi, nhận thấy phân minh một con cọp hình thể khá lớn, đang đè một người nằm dài trên cỏ, cái đầu thì hếch lên cao vì bị hai tay người chống thẳng. Cách xa trăm bước, một con ngựa bạch thà lỏng, quay cuồng ở bên lùm cây, rít lên từng hồi, dường như kêu cứu hộ ông chủ vậy.
Chẳng biết kẻ mắc nạn kia là ai, chỉ biết rằng người có hiệp khí lại mang ít nhiều võ nghệ trong mình, thà không bắt gặp thì thôi, đã trông thấy đồng loại đang bị ác thú áp đảo và lăm le cắn xé như thế, nghĩa phải ra tay cứu giúp, dù nguy hiểm đến mình cũng không từ. Thiếu niên nghĩ vậy, sát khí bốc lên mặt phừng phừng, lập tức thúc ngựa xuống núi.
Chính lúc ấy tráng sĩ nghe cánh tay mình đuối sức lắm rồi, sắp phải buông ra đến nơi.
Thiếu niên càng xuống gần, càng nhận thấy rõ hơn, trong trí suy tính:
- Sẵn nó há hốc miệng thế kia, ta tống ngay vài mũi tên vào đấy mà giải cứu người bị nạn, có lẽ nhanh hơn!
Nghĩ liền làm liền, chàng kềm ngựa đứng lại, đặt luôn ba phát tên vào cây nỏ, giương hết sức mạnh và nhắm rất trúng đích.
Cọp bị trọng thương, ngã ngay.
Mừng rỡ, đắc ý, chàng tế ngựa như bay đến chỗ ấy. Việc thứ nhất là cầm dao đâm bồi mấy phát cho cọp chết rốt, vì sợ giống thú dữ này thường có sức phản động ghê gớm, bị thương gần chết mà nó còn có thể chồm dậy vồ cắn người ta.
Muốn chắc dạ hơn, chàng lại vác mấy tảng đá to nện cọp vỡ đầu văng óc, bấy giờ mới để ý trên trán cọp có một đám lông trắng muột, lớn bằng hai bàn tay; dấu vết ấy khiến chàng gợi lại trí nhớ, bất giác tươi cười hớn hở, nói lầm rầm một mình.
- Hừ! Con bạch diện hổ đây mà! Tao theo dõi mi hèn lâu, không ngờ hôm nay gặp nhau ở chỗ này!
Thì ra mấy tháng nay, chàng với nhiều bạn đồng môn rình bắt con cọp này, nhưng nó đều vượt khỏi.
Xử trí con vật xong, vội vã chạy lại thăm nom người nằm nhoài cách đó chừng mười lăm thước.
Người vẫn nằm thiêm thiếp như người ngủ say.
Thiếu niên nâng đầu tráng sĩ nhẹ nhàng đặt trên gói hành lý cho êm. Thấy động đến mình, tráng sĩ mở bừng mắt ra, muốn nói nhưng còn mệt lả chưa nói được, chỉ nhìn thiếu niên bằng cặp mắt đăm đăm, tỏ vẻ cám ơn cứu mạng, và đưa một ngón tay tự trỏ vào miệng.
Thiếu niên hiểu ý, lập tức cầm cái nón lá chạy đi múc đầy nước suối đem đến cho tráng sĩ uống một hơi và xấp khăn ướt lau mặt, bấy giờ người thấy tỉnh táo khỏe khoắn trở lại ngay.
Tráng sĩ từ từ đứng lên, vươn vai mấy cái, cho giãn gân cốt rồi nắm lấy hai bàn tay thiếu niên, vồn vã nói:
- Đa tạ ân nhân!... Đa tạ ba mũi tên tiêu tai cứu khổ của ân nhân!
- Có gì mà ông phái khách khí quá thế! Thiếu niên vừa kéo tay ra vừa trả lời, có dáng không được mạnh bạo tự nhiên. Có gì mà gọi là ơn? Người ta ở đời cứu nguy giải ách cho nhau là sự rất thường.
- Chà! Con chó chết kia làm tôi phải cầm cự lâu quá!.., Tráng sĩ trỏ cái xác con cọp nằm dài gần đấy.
- Thế mà ông chẳng có thương tích sây sát tí nào, thật là anh hùng!
- Ồ! Tất cả móng nhọn của hai tay nó làm như đóng đinh vào vai tôi, nhưng may không đến nỗi tổn thương gì đáng kể! Tráng sĩ nói và chỉ vai áo cho thiếu niên xem. Có điều, nếu không nhờ ba mũi tên thần tình của ân nhân đến nơi vừa vặn giải thoát, thì chắc tôi sắp phải buông hai tay, để cho nó nhai ngấu tôi rồi. Một lần nữa tôi đa tạ anh... Mặc đầu bèo nước gặp nhau, anh cho phép tôi gọi bằng anh, cho được tỏ hết lòng thân thiết và biết ơn... Tôi rất mong đời tôi sẽ có dịp báo đền về cái đại ân cứu mạng hôm nay.
Thiếu niên đứng ngần người, làm thinh, chăm chú nhắm nhía giây lát, rồi nói với vẻ mặt tươi cười, dường như tìm ra một điều gì trong trí nhớ;
- Nếu tôi không lầm, thì tôi nên thôi xưng hô anh bằng tiếng ông như vừa rồi, mà anh thì phải gọi tôi là em mới đúng.
- Sao thế?... Sao thế?... Tráng sĩ hỏi dồn hai ba lần, sửng sốt.
- Anh hỏi tại sao? Thiếu niên trả lời. Tại anh là bực sư huynh của tôi, tôi đoán chắc như thế.
- Sư huynh?
- Phải, chúng ta cùng thụ nghiệp một thầy mà anh là hạng tiền bối của chúng tôi ngày nay. Trông mặt mà bắt hình dung, tôi tưởng tôi không sai lầm thì phải. Mà anh đến đây hôm nay là cốt đến thăm thầy.
Tráng sĩ nghe lấy làm kinh dị, chưa kịp hỏi lại, thiếu niên đã nhanh nhảu nói tiếp:
- Để tôi thuật chuyện cho anh nghe, vì sao tôi dám đoán già như thế. Sáng sớm hôm qua, thầy đang ngồi giảng nghĩa binh thư cho chúng tôi, bỗng có con chim khách đến đậu trên giàn hoa, kêu hót ríu rít. Thày xúc cảnh động tâm thế nào không biết, liền bảo tôi lấy Kinh Dịch đem lại cho thầy bói một quẻ. Thầy bói được quẻ “Mào quỷ động”, ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi, “Bẩm thầy, quẻ bói xấu hay tốt?”, chúng tôi đồng thanh hỏi, vì tính hiếu kỳ. - “Quẻ này xấu, nhưng nó động lại hóa tốt, thầy trả lời. Ta đoán chỉ sớm tối ngày mai, thể nào cũng có người đến đây, nhưng không phải lính tráng ở động Phú Yên đến rình mò rắc rối như mọi khi, mà ta phải đề phòng, e ngại; người sắp đến tất là người thân và đưa tin quan hệ thì phải!” Giây lát, thầy chắt lưỡi và nói thêm: Cứ theo quẻ ứng mà đoán, thì người ấy đi dọc đường phải mắc một cái nạn thế nào, rồi mới đến nơi.” - “Bẩm thầy, liệu chừng tai nạn có nguy hiểm gì không?” Chúng tôi lại hỏi, có ý muốn biết sự lạ kỳ cùng. - “Không nguy hiểm gì, bởi có người tình cờ giải thoát hộ”, thày ung dung đáp. Ấy là câu chuyện từ sáng hôm qua... Nay gặp anh trong trường hợp này, lại chợt nhớ thầy và xem tướng mạo anh, tôi định chắc là học trò cũ. Không phải thế, thì không ai dám đơn thân độc mã đen núi này làm gì!...
Tráng sĩ ngửa mặt lên núi, chắp tay xá vọng thinh không và nói:
- Lạy thầy! Thầy quả là bực thiên hạ kỳ tài ngày nay!
Đoạn, dạy lại thiếu niên:
- Phải, em đoán trúng đấy. Tôi là Trần Quang Diệu, môn sinh của thầy mấy năm về trước.
- À, thế thì em biết rồi! Thiếu niên nói và cúi đầu xá hai xá, tỏ ý kính phục. Bình nhật thầy nhắc đến tài năng anh luôn; thầy bảo chúng tôi rằng anh có tướng tài và dũng cảm lạ thường, có thể xông vào đám quân nghìn vạn người, lấy đầu thượng tướng như thò tay vào túi vậy... Hôm nay được trông thấy anh cam cự với con hổ to thế kia thì đủ biết.
Quang Diệu - vì chính là tên tráng sĩ - lắc đầu, nói giọng khiêm nhường:
- Thầy có lòng quá yêu mà nói thế thôi, tôi có tài cán nào dám đương những lời tán mỹ ấy. Chứng cớ là hôm nay không có em giải cứu, thì tôi bỏ đời vì hổ rồi! Em đến thụ nghiệp thầy từ bao lâu?
- Mới ngót hai năm.
- Trời ơi! Chưa đầy hai năm mà có bản lĩnh thế à? Vậy thì tương lai biết đâu mà hạn lượng... À quên tôi mải nghe chuyện mà quên hỏi quý danh.
- Em tên là Phùng Xuân, họ Bùi; thiếu niên nói nho nhỏ, như hơi có vẻ bẽn lẽn.
- Phùng Xuân?
- Vâng, Phùng Xuân, tên thầy đặt cho em đấy.
- Cái tên hay quá, nghe có vẻ yểu điệu như người... Ai thoạt nhìn có thể tưởng em là con gái...
- Thế à? Phùng Xuân hởi gượng, muốn đỏ ửng hai gò má, nhưng cố tự chế được ngay.
- Hay thật! Phùng Xuân nghĩa là gặp xuân; cây cỏ gặp xuân thi tươi tốt, cũng như người có bản lĩnh gặp thời loạn thì phải xông ra cứu dân giúp nước, dựng lên sự nghiệp oanh liệt ở đời... Em là người có bản lĩnh đồng môn, vừa có ơn cứu mệnh, vậy chuyến này em nên theo tôi xuống núi, tôi sẽ tiến cử cho...
- Đa tạ anh có hảo ý, nhưng còn tùy ở quyền thầy có cho mới được. Vả lại ý em còn muốn học thêm ít năm nữa cho giỏi, sẽ hay.
Quang Diệu trừng mắt, vỗ tay trên vai Phùng Xuân, khiến Phùng Xuân có cảm giác như luồng điện chạy khắp mình:
- Hừ! Thời thế này mà anh em ta không ra vẫy vùng oanh liệt thì còn đến bao giờ?... Em không đi, tôi cũng lôi em đi! Để tôi xin phép thầy cho. Thôi, bây giờ chúng ta lên núi, kẻo trời tối mất... Còn con vật kia thì vứt đi chứ?
- Ấy chết! Của quý sao lại vứt đi? Để tôi đem về lấy thịt cho anh em cùng ăn...
Phùng Xuân nói rồi nhờ Quang Diệu phụ lực với mình khiêng xác cọp để nằm vắt ngang trên lưng ngựa, tìm dây sắn buộc lại chặt chẽ.
- Anh lên ngựa đi, em xin hướng đạo, Phùng Xuân nói.
- Vậy chúng ta ngồi chung ngựa với nhau có được không? Quang Diệu kéo tay Phùng Xuân và nói. Con Thần phong của tôi khỏe lắm, cõng hai chúng ta thừa sức.
- Cám ơn anh, để tôi đi bộ. Tôi không quen ngồi chung ngựa, anh ạ!
Phùng Xuân nói và mỉm cười, đoạn nắm dây cương dắt con ngựa chở cọp, phăng phăng đi bộ trước dẫn đường, Quang Diệu cưỡi ngựa thủng thẳng theo sau.
Một chặp sau, hai người lên đến sơn trại.
Ông giáo Hiến vui mừng và cảm động, thấy một người môn sinh ở ấp Yên Thái ngày trước, đã chịu khó bạt thiệp vất vả, đến đây thăm thầy.
Học trò loan báo nhau, rồi cùng gia nhân tức khắc tụ tập ở nhà học, đổ xem người mới đến và nghe chuyện giết cọp. Họ tự nhốt mình trên núi đã mấy năm, cách tuyệt hẳn với thế gian, nay nghe có một người ở thế gian lên, mà người ấy lại là bạn đồng môn tiền bối, thêm có thủ đoạn cao cường như ta vừa thấy; tự nhiên ai cũng động lòng hiếu kỳ, kính mộ, thân ái, muốn đến chào hỏi trước, nhân tiện thăm dò nghe ngóng tin tức thế gian.
Trước khi vào bái yết thầy, Quang Diệu đã bị chào đón xúm xít tận cổng ngoài, và phải trả lời tứ phía, đủ thứ câu hỏi:
- Mùa màng vùng ngoài thế nào?
- Dân tình mấy năm nay có bớt khổ sở đói kém không?
- Thằng gian thần họ Trương đã chết chưa, hay nó vẫn còn sống để làm khổ dân?
- Thế nào, anh Võ Tòng đánh nhau với cọp nửa buổi mới hạ được nó à?
- Nghe nói ngoài ta gần đây có “giặc ó” nổi lên, là giặc gì thế? v.v.
Chính ông giáo Hiến cùng chạy ra sân, tươi cười vồn vã, ôm lấy Quang Diệu, thân mật như người cha cách biệt con lâu ngày mới gặp, rồi cầm tay chàng mà dắt vào trong nhà.
Quang cảnh nhà học lúc ấy tưởng tượng như một tiểu triều đình mà ông giáo Hiến là vua; mọi người đứng lố nhố, như bá quan văn võ thị lập bênh cạnh vua để tiếp kiến một vị sứ thần ngoại quốc đến dâng lễ cống.
Sự thật, Quang Diệu đến Thạch Bi Sơn với chức vụ gần như sứ thân.
Chàng mở tay nải, lấy ra năm tấm vải, bốn bao trà Tàu thượng phẩm, mười nén bạc, bày trên mâm gồ, trân trọng đặt trước mặt thầy, sụp xuống lại hay lạy, rồi hai tay nâng ngang mày, kính cẩn trình một bức thư. Cử chỉ ấy tỏ hết tinh thần lễ giáo phương đông, một người học trò kính trọng thầy học đến thế nào?
Ông giáo Hiến xem xong bức thư, nét mặt nở nang, hớn hở:
Ồ, giỏi nhỉ! Ông nói. Thế ra anh em Biện Nhạc đã xuất binh đánh ra miền ngoài rồi ư? Ta ở tít trong thâm sơn cùng cốc này, chỉ được nghe tin phảng phất.
- Dạ, bẩm thầy, đại binh Tây Sơn đã hạ được thành Quy Nhơn làm nơi căn bản; Quang Diệu đáp. Sau khi lấy xong Quy Nhơn thì đệ tử vâng tướng lệnh tức tốc vào đây báo tin với thầy. Hiện nay đại binh chắc đang giao chiến với quân triều ở khoảng Quảng Nghĩa Quảng Nam.
- Binh lực có khá không?
- Thưa, lúc đầu chỉ có chừng dăm nghìn, nhưng sau khi hạ thành Quy Nhơn, số quân tinh nhuệ tăng lên dư vạn, đã chia ra trung quân và tiền hậu tả hữu tất cả năm dinh. Dân tâm hưởng ứng như sấm vang nước chảy. Lại có quân khách “tàu ô” quy phụ nữa. Bởi vậy, thanh thể Tây Sơn rất mạnh, đại binh tiến đến đâu, có thể như quét lá chẻ tre đến đấy.
Việc nước thù nhà, tự ông giáo Hiến không làm được, nhưng bấy lâu ổng xuất lực đào luyện người khác làm; nay thấy chính học trò mình có thủ đoạn anh hùng như thế, ông đắc ý mừng thầm, vuốt râu cười ha há:
- Ừ, ta vẫn biết anh em Biện Nhạc có chí to lớn, nay thấy hiển nhiên, ta vui mừng lắm! Sự nghiệp tranh bá đồ vương của họ tất được thành tựu phen này, mà chính nhà ngươi sẽ dự một phần vẻ vang trong ấy, Quang Diệu ạ! Nhà ngươi cố lên.
Sau mấy lời cảm tạ thầy có lòng khuyến khích, Quang Diệu nói tới sử mệnh của mình:
- Bẩm thầy, chủ tướng Tây Sơn vì quân sự ràng buộc, giữa lúc nhất sơ, không thể rời bỏ mà đi. Bởi vậy đệ tử thay mặt lặn lội vào đây, trước là kính thăm thầy, sau là thành thật mời thầy hạ sơn để dạy bảo và giúp đỡ anh em chúng tôi, thì mới chắc làm nên được đại sự.
Ông giáo Hiến lắc đầu:
- Các ngươi đều là hạng thiếu niên anh tài, thừa sức làm nên đại sự, không phải phiền đến ai!... Ta là người thợ rèn đúc con dao, nhưng không thế tự mình làm con dao. Môn đồ ta làm nên việc lớn thế là vẻ vang cho thầy; còn sự xuống núi thì ta chịu thôi.
Quang Diệu ân cần nài nỉ đôi ba lần, ông cứ một mực từ chối:
- Nhà ngươi nên biết ta bây giờ tuổi già sức kém, bao nhiêu lòng công danh thế sự đã nguội lạnh lâu rồi. Sống chết ở núi Thạch Bi này, không có gì đánh đối được cái thú sống ẩn cư giảng học của ta... Này, trí khôn của Nhạc, anh dũng của Huệ, thêm những tay phò trợ cao cường như nhà ngươi, ta thấy trước đại sự tất thành. Có điều ta muốn nhà ngươi trở về, nhớ nói cho anh em Biện Nhạc biết rằng: thầy khuyên họ nên giữ tình huynh đệ tương thân, chớ vì lợi danh nghi kỵ mà sinh ra xích mích; hễ cốt nhục tổn thương ngờ vực lẫn nhau thì quân địch thừa cơ làm hại cho việc lớn của mình đấy...
Bỗng dưng ông ngừng lại, trầm ngâm giây lát, thở dài và nói tiếp:
- Nguyễn Huệ! Đáng tiếc cho Nguyễn Huệ! Con người anh tài cái thế, mà số không được thọ, buồn thay!
Quang Diệu thừa dịp, xin thầy chỉ bảo cho một hai câu về số mạng mình; ông giáo chạy đi lấy tập số tử vi những học trò cũ mà ông đã soạn ngày trước, mở lá số Quang Diệu ra xem, mỉm cười và nói:
- Số anh thì có vợ nay mai đấy, thầy mừng cho!
- Bẩm thầy, giữa lúc binh nhung bất trắc, con đâu dám mong tưởng sự lạ ấy? Quang Diệu đáp.
Mọi người đứng chung quanh, cười chúm chím, đưa mắt nhìn nhau, dường như muốn nói: “Con người thế kia thiếu gì con gái cầu lấy”.
Trừ ra Phùng Xuân vẫn đứng lặng lẽ nghiêm trang, không động thanh sắc.
- Thầy bảo thật đấy! Ông giáo nói. Dù anh không mong tưởng, nhưng duyên số đã định, ngay giữa lúc binh nhung, cũng vẫn thực hiện như thường... Vả lại, số anh có vợ cũng là anh hùng, chứ không phải là người tầm thường đâu!
- Thưa thầy, hậu vận con thế nào? Quang Diệu hởi.
- Hậu vận anh ư?...
Ông giáo nói mấy tiếng ấy rồi thôi, không muốn nói thêm nữa. Quang Diệu nài xin chỉ thị minh bạch, ông trả lời lảng ra:
- Ôi! Đại trượng phu đã có chí khí làm việc đời thì cứ hăng hái làm tới, cần biết hậu vận làm quái gì!
Đoạn, day lại nói với học trò:
- Sẵn có thời cơ, anh nào muốn tùy thế lập công thì đi!... Không thể chính mình đem tâm lực xuống giúp đỡ Tây Sơn, ta giúp cho nhiều ít nhân tài cũng thế.
Hôm sau cả thảy bảy người lạy tạ thầy rồi theo Trần Quang Diệu từ giã Thạch Bi Sơn; trong số ấy, Bùi Phùng Xuân là một.
V.Chiếc cũi có ma! Nửa đêm vào khoảng tháng 10 năm Tân Mão (1771), ở nhà thờ họ Hồ, ấp Kiên Thánh, huyện Phù Ly, thuộc Quy Nhân phủ có cuộc mật nghị bảy người: ba anh em họ Hồ là Nhạc, Lữ, Huệ và Khê, Thung, Lê, Toại, bốn tay thổ hào trong vùng.
Trên chiếc giường tre, bên đĩa dầu lạc thắp bấc leo lét, năm người trước đang ngồi uống trà Huế, nói chuyện mùa màng; Lê và Toại lững thững đến sau cùng, miệng cười hề hà chào hỏi mọi người và nói:
- Hôm nay chắc ông tuần biện được bạc, cho nên nửa đêm cũng cố mời kéo anh em đến đánh chén ăn khao, chứ gì?
- Vâng, người ta mới cho một cái đùi nai, tôi muốn họp anh em làm vui, nhân dịp để cho tôi từ biệt luôn thể! Nhạc trả lời, vì tuần biện lại Vân đồn là biện chức của mình.
- Tiễn biệt à? Lê sửng sốt hỏi lại. Ông nói bỡn anh em đấy chứ.
- Nói thật, thì phải nói là vĩnh biệt nhau mới đúng, Nhạc đáp.
- Gì mà to chuyện lắm thế?
- Vâng, chuyện to đến nỗi các ông không thể tưởng tượng nổi kia.
Rồi đó mâm rượu thịt nai bưng lên, bảy người quây quần, chén thù chén tạc rất vui vẻ. Ai giục hỏi chuyện gì mà tiễn biệt với vĩnh biệt, Nhạc chỉ cười gằn một cách bí mật mà không chịu nói ngay; hứa hẹn sau tiệc rượu sẽ hay, không thì nhạt mất hứng thú.
Nhạc là người hào ấm nhất đám, ăn cực khỏe, uống cực nhiều, mà thần thái vẫn tỉnh táo như thường.
Đến chén rượu cuối cùng, Nhạc rót thật đầy, tay nâng chén, mắt nhìn quanh mọi người và nói:
- Tôi xin uống chén này để vĩnh biệt tất cả anh em, vì sáng mai nhất định lên phủ để nộp mình vào ngục đây! Mà vào ngục nghĩa là tất chết, từ mai trở đi, chúng ta không trông thấy mặt nhau nữa.
Nói đoạn Nhạc uống một hơi cạn chén rượu to, nét mặt đầy vẻ buồn rầu cảm khái.
- Việc gì mà dữ dội thế? Khê và Thung đồng thanh hỏi. Bất quá là việc tiền thuế Vân Đồn, phải không?
- Phải, tôi thua bạc mất sạch cả rồi. Nguy quá! Nhạc nói và thở dài.
- Ừ, hèn nào hôm qua có thủ hạ của đốc trưng Đằng về ấp ta dò tầm xem bác có về đây không? Toại nói với giọng rên rỉ, tỏ vẻ rất thương hại Nhạc.
Khê, hay Huyền Khê, nhà giàu nhất vùng, vỗ vai Nhạc, hỏi:
- Số ấy bao nhiêu?
- Ngót năm nghìn quan, nghĩa là tất cả tiền thuế Vân Đồn mùa này! Nhạc đáp:
- Ồ, tưởng là gì?... Năm nghìn quan?... Đồ bỏ!... Để tôi trả đậy cho, việc quái gì mà sợ?
- Nhưng trả đậy thì tôi cũng vẫn phải tù, vẫn có tội, vì là chậm trễ tiền thuế của triều đình... Mà ông trả đậy cho tôi, có lẽ ông cũng bị liên lụy nữa; người ta sẽ buộc cho ông là đồng lõa xâm đoạt công ngân thì khốn!... Với quan Quốc phó Trương Phúc Loan, đừng nói chuyện chơi.
Nhạc vừa nói vừa đưa mắt xem xét thần sắc của mỗi người.
Không phải hẹn ước, cả Khê, Thung, Lê, Toại cùng lắc đầu và đồng thanh:
- Thế thì bây giờ biết làm sao?
- Làm sao à?... Thì làm giặc chứ còn sao nữa?
Ấy là tiếng nói rắn rỏi của Huệ, người em thứ ba của Nhạc, nãy giờ vẫn ngồi làm thỉnh.
Nhạc vội vàng bưng lấy miệng em:
- Ấy chết!... Em chớ nói càn! Phải nhớ rằng họ Hồ nhà ta bị chúa Nguyễn bắt làm tù dân, đày vô đây trải bốn đời rồi. Nếu vỡ chuyện này ra, chúng ta diệt tộc mất.
Huệ dằng tay anh ra, đứng phắt dậy, biện thuyết dõng dạc, tiếng sang sảng như chuông:
- Phải, tôi nói làm giặc! Nhất là có tiền trả đủ, cũng không khỏi tội, vậy thì không làm giặc còn đợi gì?... Vả lại, thời thế hiện nay, triều đình thì chia bè tôi gian, kỷ cương đổ nát, dân chúng thì sưu cao thuế nặng khốn khổ lầm than, chính là lúc những người thảo dã anh hùng như chúng ta phải tuốt gươm phất cờ nhảy ra kiến công lập nghiệp, tranh bá đồ vương.
Nhạc làm bộ ngăn can em, và chắp tay van lạy:
Thôi đi! Tôi van chú, nói càn rỡ vừa vừa chứ, tai vách mạch rừng, lỡ ra thì chết!... Mình là bọn dân đen áo vải, cứ cam số phận cho xong!
- Ô hay! Anh bảo phường áo vải thì không được xuất đầu lộ diện với đời à? Huệ trừng mắt cãi lại. Tôi xin hỏi tất cả các ông có ai cấm phường áo vải thì không được dấy lên, đảm đương cứu vớt sinh linh và làm nên thiên hạ đại sự? Cổ lai, thiếu gì phường áo vải có tài năng, chí khí, biết nhân thế thừa thời, chẳng lập nên đại nghiệp, hoàng bào long cổn đấy ư? Há Cao tổ nguyên là một anh đình trưởng đất Sái; dựng lên Minh triều là một thầy tu ở chùa Hoàng giác, cũng như là Lê Thái tổ nước ta chính là một bác nông dân ở Lam Sơn; xưa nay dựng được công to, lập nên nghiệp lớn ở đời, phần nhiều do hạng bố y vô lại như thế cả, ... Ngày nay, thiên hạ tao loạn, những người có thao lược tài trí như đại huynh, có ít nhiều cơ mưu vũ nghệ như anh Lữ và tôi, có thanh danh lực lượng như bốn ông bạn thân chúng ta đây, không đồng tâm hiệp lực, mưu đồ đại sự với nhau thì còn đợi lúc nào nữa?...
Huệ còn muốn nói nữa, nhưng Nhạc thấy chỗ mình muốn đợi chờ đã đến nơi rồi, cho nên khoác tay ra hiệu bảo em hãy nhường lời cho mình:
- Ừ, chú ba nói cũng có lẽ phải lắm đấy... Nhưng anh em ta ví bằng có vì sự thế bức bách, mà phải khởi binh làm liều chăng nữa, chỉ là việc riêng của anh em nhà ta, được ăn thua chịu, chứ sao lại nói gắp cả bốn ông bạn đây vào, biết các ông có đồng tâm hiệp lực với mình hay không?
Bốn người bạn ngẩng mặt nhìn nhau, trong khi Huệ trả lời anh nhưng kỳ thật là buộc họ vào phe một cách gián tiếp:
- Xin anh đừng lo. Em biết chắc bốn ông bạn thế nào cũng đồng tâm hiệp lực với ta, vì có hai lẽ cốt yếu. Một là thuở nay các ông vẫn đi lại thân mật với anh em ta, khắp làng xóm và cả địa phương này càng biết. Nhất đán chúng ta khởi binh, phản đối triều đình, dù các ông theo ta hay không theo, thì trước mắt hương lý quan lại, các ông cũng là đồng lõa: Chừng đó người ta tìm kiếm xem Biện, Nhạc ngày thường bạn bè với ai, đố khỏi các ông bị bắt bớ lôi thôi, tù tội chắc chắn, vì giữa đời tao loạn này, người ta có kể công lý là gì? Không theo, để chịu lấy tai vạ như thế, chăng thà đem tài góp sức cùng mưu đồ đại sự với chúng ta, để mai sau chia hưởng phú quý với nhau còn hơn. Các ông đều là người thông minh, hắn đã hiểu rõ chỗ lợi hại ấy.
Khê, Thung, Lê, Toại ngồi nghe Huệ nói cùng toát mồ hôi, trong trí biết rằng anh em họ mưu phản, định gắp cả bọn mình vào.
- Còn lẽ thứ hai thế nào, chú phân giải nốt cho nghe? Nhạc hỏi.
Huệ chậm rãi nói tiếp:
- Lẽ thứ hai là chúng ta xử sự, phải có danh chính ngôn thuận thì dân chúng mới theo. Việc gian thần Trương Phúc Loan mạo chữa di chiếu, bỏ Hoàng tôn Dương mà lập Định vương còn bé cho dễ chuyên quyền, thiên hạ đều biết. Mấy năm nay, Phúc Loan tham lam, bạo ngược, bóc lột của dân, khiến cho lòng người cừu oán lắm rồi. Nay chúng ta lấy cái danh nghĩa phù lập Hoàng tôn Dương và trừ diệt Trương Phúc Loan, mà dấy lên, thì trúng vào sở nguyện của dân. Mà làm như thế, tức là vì quốc gia, vì triều đình, nào phải là phản loạn gì đâu. Các ông bạn đây cùng ta đồng tâm hiệp lực, sẽ được tiếng trung thần nghĩa sĩ thì có, cho nên em biết thế nào mà các ông cũng hết sức giúp ta, cùng ta cộng sự.
Nghe đến đây, bọn Khê bốn người, thấy vững dạ, hết lo; ban nãy hồi hộp chừng nào, bây giờ sốt sắng tán thành chừng ấy, có ý thúc giục thêm:
- Ngẫm cho kỹ, anh ba Huệ nói phải lắm, ông tuần biện nên quyết định đi!
- Các ông giúp tôi một tay nhé? Nhạc hỏi và cười thầm, vì biết bọn này mám mồi công danh, trúng kế mình rồi.
- Vâng, ông cứ làm đi, chúng tôi xin tận lực giúp đỡ! Khẽ trả lời thay cho cả ba người kia. Nhưng phải tìm một chỗ địa lợi nào, chứ sờ sờ ở giữa đồng bằng này ư?
- Cố nhiên, tôi đã có chủ trương rồi: Nhạc nói. Chúng ta phải lên thượng đạo Tây Sơn, lấy đó làm căn cứ mới được.
- Ô! Thế là vạn toàn rồi còn gì nữa? Khê cười nói hể hả, một phần vì hơi men nồng nàn, một phần vì ý nghĩ công danh cám dỗ. Phải, thế là vạn toàn! Anh em mình có của, có người lại được cả nhân hòa, địa lợi thì việc tất thành!... ừ, làm đi! Ta làm ngay đi!... Chúng tôi vui lòng khuynh gia phá sản, để mộ quân, sắm khí giới, và xin tôn ông tuần biện làm minh chủ!...
Sự thật Nhạc đã có chủ trương khởi nghĩa sắp sẵn trong trí và bàn định với hai em rồi. Tiêu hết cả một vụ thuế Vân Đồn, Nhạc sợ bị tù tội, nghĩ không có cách gì hơn là vào núi làm giặc, chống lại triều đình. Nhưng còn lo mình không có tài sản để dùng vào việc binh lương khí giới, nhân thể làm cho to chuyện, thì chung quy là một tên lâu la vô nghĩa. Nhạc có chí khí thừa thời làm to, cho nên muốn gắp cả bọn Khê vào, bởi họ có địa vị danh vọng trong vùng, kẻ này là thổ hào sẵn có gia đinh, thủ hạ, người kia là cự phú, trong tay lắm thóc nhiều tiền, có thế giúp mình mưu đồ đa sự được.
Song, mặc dầu bình nhật giao tình, biết họ có sẵn lòng quên bỏ thân gia tài sản đi theo sở chí của mình không?
Nhạc bèn vận dụng mưu trí, bày ra tiệc rượu thịt nai, nói chuyện vĩnh biệt, rồi cho em là Huệ đứng lên nhập đề nói khích, trước thì dọa nạt bóng bẩy với mặt luật đồng lõa, sau thì nhử mồi công danh lợi lộc bằng việc tôn phù Hoàng tôn Dương; khiến cho bọn Khê hớn hở đưa đầu vào tròng, chứa chan hy vọng.
Một khi thấy họ đã tán thành nhập lõa rồi, Nhạc vừa tươi cười vừa móc trong túi áo lấy ra một tờ giấy đã viết sẵn từ hồi nào, đưa cho bọn Khê xem và nói:
- Ban nãy tôi muốn thử lòng các ông thế thôi, chứ đại trượng phu như chúng ta không thừa lúc này làm việc oanh liệt ở đời, chẳng uổng lắm ư?
Khê đưa gần đèn xem, rõ là tờ lộ bá do Nhạc thảo sẵn, định nay mai khởi binh thì truyền tống khắp các thôn ấp phủ huyện, hiệu triệu nhân tâm. Bên trong, đại ý kể tội Trương Phúc Loan hại dân loạn nước, rồi bày tỏ mục đích xướng nghĩa là tôn phù Hoàng Tôn Dương v.v... Dưới đứng tên cả bảy người: ba anh em Nhạc và bọn Khê, Thung, Lê, Toại.
Nhưng Khê lấy làm lạ:
- Quái, ba anh em ông họ Hồ, còn chúng tôi thì trừ ra ông Thung chính thật họ Nguyễn, người này họ Lê, người kia họ Trần, sao ông lại để họ Nguyễn tất cả thế này?
Không trả lời thẳng vào câu hỏi, Nhạc ung dung nói:
- Các ông có nhớ chúa ta họ gì không?
- Họ Nguyễn chứ gì! Toại và Lê cùng trả lời.
- Đất này ai mở mang làm chủ, đố các ông biết?
- Không chúa Nguyễn thì còn ai!
- Ấy đấy, sở dĩ tôi để ba anh em nhà tôi và các ông cùng họ Nguyễn cả, là muốn chỉ tỏ ra chúng ta ăn cây nào, rào cây ấy, người trong họ, lo việc chung, có thế dân chúng mới nô nức theo mình. Cái thuật chiêu dụ lòng người, phải thế mới được.
Cả bọn Khê gật gù khen mãi Nhạc là người thâm mưu cao kiến. Họ càng quyết tâm nhập đảng và giúp sức.
Bắt đầu ngay hôm sau, anh em Nhạc bỏ ấp Kiên Thành, kéo lên thượng đạo Tây Sơn, bí mật tạo lập dinh trại, xếp đặt quân sự; còn bọn Khê thì chuyên việc vận lương mộ người đưa lên.
Công cuộc tổ chức không đầy bốn tháng, nghĩa là bước qua tháng hai năm Thìn, ở thượng đạo Tây Sơn đã thành một căn cứ cách mạng, do Nhạc làm đầu. Lúc này, thủ hạ chưa có bao nhiêu, chỉ độ dăm sáu trăm người, nhưng do tay Huệ khéo luyện tập, dăm sáu trăm người ấy đều trở nên chiến sĩ không thể coi thường.
Mặc dầu lương thực quân gia, nhất nhất còn kém, Nhạc công nhiên truyền hịch đi các nơi, lên tiếng kêu gọi dân chúng và ra mặt kháng cự triều đình. Vì Nhạc tự tin vào tài trí anh em nhà mình, và lại triều đình hồi bấy giờ, dưới tay bạo tàn phá hoại của gian thần Trương Phúc Loan, đã tiêu hao mất cả nguyên khí thực lực, dù muốn đàn áp mình cũng chẳng đàn áp nổi.
Nghe tiếng Tây Sơn hiệu triệu dân chúng từ Quảng Nam vào Bình Thuận tìm đến quy phục mỗi ngày một đông. Nhất là Nhạc khéo mua chuộc nhân tâm bằng những thủ đoạn lấy của nhà giàu - hạng giàu bất nhân cho vay cắt cổ - giúp cho nhà nghèo, thành ra bọn này mang ơn cảm đức, rủ nhau đi theo như nước, hoặc làm tai mắt do thám hộ quân Tây Sơn.
Tiếng hào hiệp nhân nghĩa của Nhạc đồn khắp xa gần. Dân nghèo đói nội vùng, coi như một vị phúc tinh. Giờ họ tôn Nhạc là ông chúa trại Tây Sơn, chứ không dám gọi là Biện - Nhạc xách mé như trước.
Suốt năm Thìn, anh em Nhạc lo huấn luyện quân sĩ, tích tụ binh lương, chiêu nạp hào kiệt. Tiền thuế của Triều đình thu ở các tỉnh miền trong giải nạp ra kinh đô, thường bị quân Tây Sơn đón đường cướp mất.
Bọn vong mệnh bốn phương nghe tiếng, tìm đến theo càng ngày càng nhiều. Bạn đồng môn như Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh, Lê Đức Bảo, những tay lục lâm kiện tướng như Sơn quân, Kiều mộc, Tứ linh, Nhòng bay, người đem tài năng, kẻ góp thủ hạ, làm cho thanh thế Tây Sơn nổi dậy như sấm vang sóng cồn.
Binh triều đánh trận nào thua trận ấy. Quan địa phương lại sợ bóng vía Trương Phúc Loan, không dám tâu báo sự thật về triều, thành ra quân Tây Sơn cứ việc tung hoành và xây dựng thế lực một ngày một to, mà triều đình tuyệt nhiên không ngờ. Nếu có phong văn đến kinh sư, Phúc Loan cũng chỉ tưởng tượng anh em Biện - Nhạc vì sợ tội mà tụ bạ làm giặc cỏ thế thôi, không cần giới ý.
Dần dà đến cuối năm, cả mấy phố huyện xung quanh như Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viên, trở nên thuộc hạt của Tây Sơn cai trị và thu thuế bấy giờ triều đình mới xanh mặt đâm lo, thì lực lượng giặc đã hùng hậu lắm rồi, không chế ngự được nữa. Nhất là Nhạc khéo đánh vào chỗ tâm lý dân chúng là khởi binh để phù lập Hoàng Tôn Dương, thành ra có danh chính ngôn thuận được phần đông dân chúng cho là đạo binh trung nghĩa của nhà Chúa. Rất đỗi có nhiều toán binh triều vâng lệnh đi đánh giặc mà lại cuốn gói và đem cả khí giới theo về Tây Sơn.
Bước sang năm Tỵ, Nhạc tự nhận thấy nhân tài và thực lực trong tay mình có thể công nhiên đối đầu với triều đình được rồi, bèn dời cả dinh trại từ thượng đạo xuống hạ đạo, nghĩa là bỏ rừng núi mà xuống đồng bằng, và định kế hạ thành Quy Nhơn để làm căn bản.
Thành này là nơi xung yếu, cả bộ lẫn thủy, nhà dùng binh cần phải tranh đoạt trước hết, để mở đường ra Phú Xuân. Sau này năm bảy phen chúa Nguyễn Ánh và Tây Sơn huyết chiến ở Quy Nhơn chính vì lẽ ấy.
Hồi đó, thành trì Quy Nhơn rộng lớn và kiên cố, binh lực cùng nhiều. Nhạc nghĩ nếu đường trường tiến đánh thì e hao tổn công phu ngày giờ, không chắc trong năm ngày đã hạ được, mà triều đình phái viện binh đến, thủy bộ cùng đánh ập vào sau lưng mình và quan trong thành thừa thế đánh ra, thì mình nguy khốn. Chi bằng dùng mẹo thể nào mà lấy thành, như sấm vang chớp nhoáng, kẻ địch không kịp xoay trở, mới thật là thu công vạn toàn.
Lại dò biết quan Lưu thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên vốn người dũng mãnh thiện chiến, nhưng vô mưu và hay khinh địch, như vậy càng nên lấy mưu thắng hơn là lực thắng.
Nhạc ngồi trầm ngâm suy nghĩ chốc lát, gật gù cười nói một mình, đắc ý.
- Thôi, ta có mẹo bỏ thành Quy Nhơn vào trong túi rồi.
Lập tức sai quân đi chặt tre đóng ngay một chiếc cũi thật to; một mặt, đánh trống chiêu tập chư tướng họp ở đại trại nghe lệnh.
Nhạc ngồi giữa, trước mặt có thanh kiếm nạm sà cừ, và lá cờ vàng nho, một bên viết chữ “Quân lệnh” một bên chữ “Tiết chế” tức là chức vị của Nhạc do chư tướng đã suy tôn, để cầm đầu việc quân, quyền hành sinh sát như ý. Hơn hai mươi vị đốc chiến và giám quân lớn nhỏ đứng hàng dài hai bên, ai nấy đều mặc áo vải xanh, đao gươm cạnh sườn, trông rất nghiêm trang uy võ.
- Từ nay về trước, chúng ta không khỏi mang tiếng thảo khấu, nhưng từ nay trở đi, chúng ta là một đại quân: Nhạc nói một cách hùng dũng, có oai, rõ ràng một vị Thống tướng. Từ nay trở đi, chúng ta sẽ phải giao chiến với kẻ địch, một sống một chết, một mất một còn. Vậy ba quân lui tới, được thua quan hệ ở người làm tướng; các ngươi đã phó thác cái trách nhiệm nặng nề ấy cho ta, thì nhất nhất phải theo ta hiệu lệnh nghe!
- Xin vâng! Chư tướng đồng thanh đáp.
- Hôm nay là hôm chúng ta bắt đầu công nhiên xuất binh đối kháng triều đình, vậy tất cả anh em cùng nên gắng sức vì công việc chung, cho được thắng lợi ngay từ buổi đầu, để lấy sự may mắn cho toàn quân và lập uy danh với thiên hạ. Chính ta sẽ đem thân chịu phần nguy hiểm trước nhất, chứ không phải ta đây là ông tiết chế gan thỏ, chỉ biết đấy anh em ra trận, còn mình thì lủi lại sau đâu?
Nhạc nói và cười, nhìn quanh mọi người. Chưa ai kịp thốt lời nào, ông đã nói tiếp:
- Anh em nên biết thành Quy Nhơn như cái đầu con nai của binh triều, mà Đạm Thủy và Càn Dương tức là cặp nhung rất tốt, vì tiền bạc thóc gạo tích tụ ở hai nơi đó nhiều lắm. Trong chư tướng có ai tình nguyện đi lấy Càn Dương và Đạm Thủy hộ ta nào?
Nguyễn Thung và Trần Quang Diệu cùng xin đi. Nhạc bảo hai người gắp thăm, ai trúng nơi nào thì đánh nơi ấy.
Thung gắp trúng Càn Dương, còn Đạm Thúy về phần Diệu.
- Hai người muốn đi, phải lập quân lệnh trạng mới được; Nhạc nghiêm chỉnh nói. Hễ lấy không được thì phải chịu quân pháp đấy. Vì hai nơi ấy đối với Quy Nhơn có hình thế rất trọng yếu về mặt quân sự. Nhất ta có thể cản trở binh triều từ đại dinh Quảng Nam kéo vào. Thế, hai người có dám viết quân lệnh trạng không?
- Tôi xin ký cá hai tay! Diệu hăng hái nói.
Thung có vẻ hơi ngần ngại, nhưng thấy Diệu mạnh bạo nhận lời, tự nhiên mình cũng buộc phải nhận theo, chả lẽ lại tỏ ra mình yếu bóng vía.
Sau khi Trần Văn Ký, làm quân chính kỳ lục, thảo xong quân lệnh trạng cho Thung và Diệu ký tên rồi, Nhạc chi bảo cơ nghi tiến hành:
- Một người dẫn 200 quân...
- Chết nỗi, 200 quân thì đánh chác thế nào? Thung giựt mình, hỏi.
- Ồ! bằng ấy là nhiều lắm rồi; Nhạc mím cười và đáp. To đến như thành Quy Nhơn, mà đánh lấy nó cũng không cần tới bằng ấy quân kia mà! Rồi các ông xem tôi nói có thật không? Cứ nghe kế hoạch tôi dặn dò thì lấy được Càn Dương, Đạm Thủy như bỡn, có lẽ không phải đánh chác gì cả cũng nên. Mỗi người dẫn 200 thủ hạ, chặp tối nay lén đi rải rác theo đường tắt, đến ngoài thành Càn Dương và Đạm Thủy, tìm chỗ ẩn nấp kín đáo. Chờ tới đêm khuya, hễ trông về Quy Nhơn thấy đốt lửa làm hiệu, thì bấy giờ tất cả nổi dậy vừa tiến vào thành, vừa kêu cho to, hét cho lớn, làm như có mấy nghìn người vậy: “Bớ bà con! Bớ bà con!... Giặc Tây Sơn lấy mất Quy Nhơn rồi!.., Chúng nó đến kia kìa!.., Chạy mau kẻo chết!...” Tự nhiên binh triều đồn thủ trong thành phải kinh hoàng chạy ráo; dù có tốp nào chống cự, cũng chỉ vừa đánh vừa đào tẩu đấy thôi... Cốt nhất là sấn sổ tiến vào và kêu la cho lớn, sự thành công quan hệ ở đó... Rồi hai người phân binh giữ lấy thành trì kho tàng, đợi sáng hôm sau ta đến nghe chưa?
Diệu vẫn thản nhiên, trả lời đã nghe rõ; còn Thung thì hơi lo, vì nghe nói Càn Dương là đồn hiểm yếu nhất, binh triều thường đông nhiều, mà vô phúc cho mình lại gắp thăm trúng nó.
Thung lại sốt ruột, vì không nghe Nhạc nói gì đến sự đánh Quy Nhơn, chỉ thấy phân phát mình và Diệu đi lấy hai thành ở phía ngoài, cho nên muốn ở lại giây lát để hỏi cho rõ hắc bạch. Vả lại, Thung nghĩ bây giờ mới có xế trưa, công việc mình nhận làm, phải đợi chặp tối mới dẫn binh đi kia. Nhạc trông thấy, hỏi:
- Sao ông chưa về trại điểm binh và dự bị các thứ sẵn sàng?
- Tôi còn muốn lưu lại để xem quan Tiết chế điều độ việc đánh lấy Quy Nhơn ra thế nào? Thung trả lời.
Nhạc biến sắc, vì nghe những tiếng “để xem quan Tiết chế điều độ việc đánh lấy Quy Nhơn ra thế nào?”. Trong ý cho Thung nói thế là khinh mạn chủ tướng và nghi ngờ cả mưu lược tài năng của mình, là Nhạc, mà tướng sĩ đã tôn lên làm đầu. Ông muốn giết Thung ngay, nhưng chợt nghĩ lại hắn ta là người đồng chí buổi đầu, cho nên đành tạm nén giận, chờ mai sau có tội sẽ trừ đi cũng không phải muộn. Bởi vậy, ông cố hòa nhã sắc mặt và cười nói vui vẻ:
- À! Ông muốn chứng kiến tôi cắt đặt công việc đánh thành Quy Nhơn ư? Được lắm!... Ông xem tôi đã đóng sẵn cái cũi để nhốt tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên kia kìa?
Lúc ấy, lính vừa khiêng chiếc cũi đóng xong, đặt ở trước thềm.
Nội chư tướng không ai hiểu Nhạc dụng ý thế nào, trừ ra hai ba người đã lĩnh mật kế.
Cùng như đã dặn dò Thung và Diệu ban nãy, Nhạc truyền cho Huệ cùng hai viên phó tướng dẫn 100 quân cảm tử, giả làm dân buôn bán, nhưng trong bồ trong thúng đựng toàn gươm đao cùng các vật liệu dẫn hỏa, độ gần nửa đêm, lục tục kéo đến trước cửa thành, làm như thường dân chăm chỉ buôn bán chầu chực gà gáy hai dạo thì lính mở cửa thành cho mà vào vậy. Tuy nhiên, đêm nay họ sẽ thấy khác hẳn thường lệ: độ già nửa đêm, thấy cửa thành mở toang ra và có hiệu pháo, thì cứ việc xông vào, một mặt đốt lửa cháy bùng nhiều nơi, một mặt chia nhau đánh phá các dinh thự, kho trại; cũng phải vừa đánh vừa hò hét cho lớn, để đoạt hết khí phách binh triều, tự nhiên tan vỡ tẩu tán.
- Bẩm quan Tiết chế: người lĩnh trách nhiệm mở cửa thành cho quân ta vào, là ai? Thung hỏi có giọng thắc mắc.
- Thì tôi đây chứ còn ai? Nhạc trả lời rắn rỏi.
- Nhưng ngài phải làm sao vào thành trước để nửa đêm mở cổng cho quân ta tiến công chứ?
- Điều ấy cố nhiên!,.. Nhưng đó là việc quân cơ bí mật, về sau tự khắc các ông biết, giờ không thế nói trước. Chỉ biết rằng hiện tại ai có phận sự nấy phải lo, dù mạo hiểm hy sinh mấy cũng phải chịu... Tôi đã nói rằng tôi xin mạo hiểm hy sinh trước cả các ông, vì các ông đến chặp tối mới tiến binh, còn tôi thì tôi phải đi ra trận ngay bây giờ...
Nhạc nói đoạn tất tả vào hậu đường, giây lát trở ra với y phục bộ dạng khiến cho mọi người ngơ ngác, khó hiểu. Chủ tướng nói rằng phải đi trước ra trận ngay bây giờ, mà không mặc giáp trụ, không mang khí giới gì cả, trái lại, vấn khăn đầu rìu, áo cộc rách tả tơi, với chiếc quần thượng đẳng cháo lòng, trông rất ghê tởm.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, chưa hiểu ra sao, bỗng thấy Nhạc đứng dậy đi và nói:
- Thôi, các ông ở lại đi sau, việc tôi cần kíp, vậy xin đi trước, nghe!
- Quân đâu? Dắt ngựa ra cho quan Tiết chế? một viên tiểu tướng nhanh nhảu truyền lệnh.
Nhạc khoát tay ra hiệu bảo thôi:
- Không! Tôi không cần voi ngựa gì cả!
Thế rồi, trước vẻ kinh ngạc vô cùng của tướng sĩ, ông ung dung đi xuống thềm, chui vào ngồi bó gối trong cũi, và truyền mệnh lệnh cho mười mấy người đang đứng chầu chực xung quanh:
- Khiêng ta lên phủ lỵ Quy Nhơn!... Đi cho mau!
Hơn một năm nay, quan quân khổ sở về việc đánh Tây Sơn, tổn hao vất vả mà không thu được công trạng gì cả. Nhất là quan quân ở phú lỵ Quy Nhơn, vì Tây Sơn là đất thuộc hạt. Triều đình đã bổ ông Nguyễn Khắc Tuyên, chức tuần phủ, vào làm tướng lưu thủ thành Quy Nhơn, là trông cậy việc trừ diệt Tây Sơn, vì ông có tiếng dũng mãnh, thiện chiến. Nhưng ông cũng chẳng thu được kết quả gì hơn hai viên tướng lưu thủ trước, đã bị triệt hồi.
Còn tệ hơn nữa, là dưới trách nhiệm ông, quân Tây Sơn lại tràn lan thế lực to thêm và rộng thêm; mỗi lần ông đem binh đi tiểu phủ, là một lần tước lấy con số tốn hao, tiếng tăm bại trận.
Quan trấn thủ Quảng Nam dinh (lúc bấy giờ Quy Nhơn thuộc về dinh Quảng Nam thống hạt) thường tư giấy trách móc và đe dọa đủ điều khiến ông cảm thấy khó chịu như ngồi trên đệm nhồi đinh; hơn nữa, như người đã trót cưỡi trên lưng cọp, không thể nhảy xuống được nữa.
Mỗi khi nghe ai nhắc đến tên Biện Nhạc - mà hàng ngày có dịp nghe nhắc đến không biết mấy lần - ông giựt mình thon thót. Đến đỗi chưa tối, ông đã bắt đóng hết các cổng thành và sai lính canh phòng rất nghiêm mật, chính ông đêm đêm phải thân hành đi tuần, chỉ sợ quân Tây Sơn đến đánh thì khổ to!
Luôn ba tháng nay ông truyền rao treo thưởng cho quân dân sĩ thứ khắp vùng, hễ ai bắt sống hoặc chặt đầu Biện Nhạc đem tới nộp ông, sẽ được thưởng 2 nghìn quan tiền và ông tâu xin triều đình đặc cách bổ làm ký lục hay khám lý một dinh trấn. Khoản tiền 2 nghìn quan ở đời bấy giờ là tư sản một nhà giàu khá! Số tiền to ấy không phải của triều đình, mà là tiền của ông, vì ông là con nhà cự phú. Muốn cho khỏi bị quan trên luôn luôn trách vấn, nhân thế lập công to với triều đình, cho nên ông không ngần ngại vác tiền túi ra treo món thưởng to ấy, để khuyến khích những người mộ danh hám lợi sẽ cày cục bắt được Biện Nhạc hộ ông.
Buổi trưa hôm ấy, lính phủ đã đem tin phong văn bởi những bá tính đi chợ búa, đồn rầm lên rằng Biện Nhạc đã bị bắt hồi sáng; ông Nguyễn Khắc Tuyên khấp khởi mừng thầm, nhưng cũng còn bán nghi bán tín. Ông sai hai ba thủ hạ cưỡi ngựa đi thăm dò tin tức, chốc lát họ trở về đều bấm như nhau: Biện Nhạc quả bị quân dân ở Phù Ly lập kế bắt sống được ở một làng gần huyện lỵ, hiện đang giải lên phủ, chỉ nội buổi chiều đến nơi.
Giờ mùi, ông ra công đường ngồi chưa nóng chỗ, bỗng có tên lính từ ngoài cổng phủ, hớt hải chạy vào, vừa nói vừa thở:
- Bẩm... Bẩm quan lớn, hương lý và tuần đinh phường Đông An đóng cũi Biện Nhạc, giải đến phú rồi!
Mừng quá, ông nhảy đứng lên, hất đổ cả điếu tráp và khay nước trà Tàu mới pha chưa uống, không kịp xỏ chân vào giày, chạy hộc tốc ra ngoài công phủ lúc ấy, bọn người gọi là hương lý và tuần đinh phường Đông an (huyện Phủ Ly), kẻ khiêng cũi, người áp giải, lố nhố, đến mươi người, vừa vặn đến nơi. Sáu người áp giải, bộ dạng ra phết. Thầy lý và hương tuần trong tay đều cầm dao quắm, dáo mác, đế phòng bất trắc. Trông thấy quan phủ chạy ra, ai nấy vội vàng ngả nón, chắp tay vái chào sát đất.
Quan chạy lại bên cũi, nhìn vào trong rất kỹ lưỡng, rồi nổ cười như pháo:
- Ừ, thằng này chính phải Biện Nhạc đây mà!... Mi còn trốn lánh làm giặc nữa thôi?
- Bẩm lạy quan lớn, chúng con hết thời và biết tội nhiều lắm! Nhạc ngồi trong cũi làm bộ sợ sệt, trật khăn đầu rìu xuống, chắp tay vái lạy quan phủ và nói rất mực cung kính - Trăm sự nhờ quan lớn thương tình châm chước cho chúng con, được phận nào hay phận ấy.
- Tội mi dù có mấy đầu lâu, chết chém cũng vừa, chứ châm chước gì? Ông Tuyên bĩu môi trả lời Nhạc, rồi day lại hỏi bọn áp giải. À, thầy lý và mấy cha trương tuần giỏi lắm, ta khen cho; làm sao mà bắt được nó thế?
- Bẩm cụ lớn (người mặc áo địa, đội nón lông, tự nhận là thầy lý, chắp tay và nói),.. Bẩm cụ lớn, nhân thấycụ lớn hết lòng vì dân, trao thưởng rất hậu, anh em con vì phận sự mà cũng vì ham danh vụ lợi, bàn nhau đánh lừa Biện Nhạc vào phường chúng con, rồi chúng con bố vây, bắt được cả mấy thầy trò nó...
- Ủa, còn mấy đứa nữa kia ư, sao không giải lên một thể? Quan phủ hỏi.
- Bẩm vâng, còn bốn đứa thủ hạ nữa; thầy lý đáp. Nhưng trong lúc thảng thốt, anh em không kịp đóng cũi mà giải lên một lần, cốt giải tên thủ phạm lên trước. Còn bốn đứa kia hiện giam ở trong làng, canh giữ rất kỹ, xin để ngày mai giải nốt!... Bẩm cụ lớn, thày trò nó giỏi võ quá, trai tráng làng con họp lại bốn năm chục người, tử trận và bị thương đến ngoài chục mới bắt nổi thầy trò nó...
- Có thế, càng tỏ ra các người xứng đáng món tiền thưởng ta treo, và rồi xứng đáng chức vị triều đình sẽ ban cho, quan phủ vỗ vai thầy lý và nói. Thôi, bây giờ các ngươi khiêng cũi vào trại giam và ở chơi đây một đêm, ta khao thưởng cho. Công lao các ngươi đáng khen vô cùng!...
Nói đoạn, ông Tuyên đi kèm bên cũi, đưa vào trại giam, cắt hai chục tên lính canh phòng cẩn mật; lại truyền để riêng một gian buồng cạnh đó làm chỗ nghỉ ngơi cho bọn áp giải, và dặn lính hầu đối đãi họ tử tế.
Trở về công đường, ông trò chuyện rốt rít với nha lại, tỏ ý vui mừng vô hạn, vì trong trí ông cầm chắc, với sự bắt được Biện Nhạc, chẳng những từ nay nha lại binh lính ở thành Quy Nhơn có thể ăn ngon ngủ yên, mà về phần ông thì thăng quan tiến chức đến nơi. Cái gì chứ tổng trấn một dinh là việc nắm lỏng trong tay; đã có công to thế, lại thêm ít vàng bạc hối lộ Quốc phó Trương Thúc Loan, thì muốn nhảy một bước dài, về làm quan triều cũng được.
Ông khoa chân múa tay, nói cười hể hởi, gọi bọn hương lý tuần tráng phường Đông An lên lĩnh món tiền thưởng đã hứa, bảo họ ở lại dự tiệc khao quân tối nay; rồi truyền lệnh giục giã tất cả bộc dịch trong phủ, người thì mổ lợn vật bò làm tiệc, người thì phi ngựa đi đón phường tuồng hay nhất về phủ hát mừng. Ông nói tíu tít:
-Ta khao thưởng tất cả nha lại lính tráng một bữa thật hể hả say sưa... Ai uống được bao nhiêu, cho uống. Hứ, đời người được mấy găng tay, tội gì có dịp đáng khoái lạc thế này lại không tận hưởng cho thích!
- Bẩm quan, việc phòng bị vẫn nên cẩn mật; một viên thơ lại nói. Đồ đảng chúng nó có thể đánh thành cướp tù không chừng.
- Hừ, ngày mai thì giải tù đi ra kinh, lo gì? Ông Tuyên hất hàm và đáp. Vả lại, bên giặc có Biện Nhạc bày mưu lập kế mới đáng sợ; bây giờ bắt được thằng quỷ quái này rồi thì chúng nó chỉ còn là cái xác không hồn, muốn chôn lúc nào được lúc ấy... Nhưng đấy là chuyện ngày mai, hôm nay thì ta bảo đảm cho các ngươi cứ việc đánh chén thật say rồi trùm chăn ngủ kỹ.
Chiều tối hôm ấy, trong dinh quan ngoài trại lính, cỗ bàn linh đình; cứ bốn năm người một mâm, rượu ngon đồ nhắm tốt, người nào người nấy ngất ngưởng đánh chén, rất mực thống khoái.
Quan phủ vừa cầm chầu hát bội vừa uống rượu gật gù, vẻ tự kiêu tự đắc của ngài hiện ra từ cái nụ cười, ngón tay vuốt râu cho đến tiếng gọi quân hầu châm điếu. Thâm tâm ngài tự cho mình bắt được Biện Nhạc ngày nay, đối với quốc gia cũng có đại công như Hưng Đạo Vương dẹp giặc Nguyên hay Lê Thái Tổ bình định quân Minh, khôi phục xã tắc vậy.
Trong lúc đó, ở trại giam Biện Nhạc, bọn người áp giải, gọi là hương lý tuần tráng phường Đông An, hiệp với các thầy cai đội và lính canh, ngồi quây quần nhau sáu bảy mâm cỗ, chén chú chén anh, uống rượu hình như uống nước.
Bọn áp giải lại khéo nói chuyện ba hoa, thách đố các cậu lính uống thật say:
- Ô! Mấy khi dân làng với lính phủ được dịp họp nhau đánh chén vui vẻ như thế này?... Quan lớn đã ban cho, chúng ta cứ uống thả cửa, có chết cũng sướng đời.
- Uống rượu khi nào tới chết? Một cậu lính canh nói. Chỉ có say quá thì không ai gác tù cho!
- Các cậu cứ uống, có say thì chúng tôi canh gác hộ cho. Chính tay chúng tôi bắt sống đóng cũi Biện Nhạc giải lên cửa quan giam vào chỗ này, dù nó có ba đầu sáu tay, mọc lông mọc cánh, cũng không bay đi đàng nào được với chúng tôi!
Mấy thầy hương lý Đông An nói bè nhè và chuốc chén mời các cậu lính uống mãi. Đến cuối canh một, thì chén mâm bữa bãi, cả chủ lẫn khách ở trong trại giam đều say nằm ngổn ngang, như từng đống thịt mất hết tri giác. Có ba bốn cậu lính biết giữ gìn chức vụ, tự tin mình uống ít và tỉnh nhất thì cũng mắt hoa đom đóm, trông một người thành hai, đi thì chân nam đá chân chiêu, đến nỗi cầm khóa đi khóa buồng giam Biện Nhạc lại khóa trật ra ngoài.
Nhưng, sự thật, duy có chủ say, chứ khách chẳng say tí nào, hoặc khách chỉ giả đò say, như người giả chết bắt quạ vậy.
Nửa đêm, họ bấm nhau chỗi dậy, đi mở cũi cho Nhạc ra, trói ghì quân cánh lại, rồi chạy thẳng ra cổng thành đốt pháo làm hiệu, mở tung hai cửa cho binh Tây Sơn vào. Lúc ấy, lính gác thành môn cũng say mềm, không biết gì cả.
Nhạc, Huệ dẫn đầu toán quân cảm tử, hợp với bọn gọi là thần lý và thần đinh phường Đông An, đánh thốc vào đại dinh. Họ vừa đánh, vừa reo hò, vừa khua chiêng nổ pháo, vừa đốt lửa cháy lung tung, nhất thời làm rầm rĩ chấn động trong thành, quân dân không biết là giặc nhiều ít, chỉ có việc vờ lờ chạy trốn. Dân nghe giặc Tây Sơn vào thành là đủ khiếp vía, còn quân lính thì dở say, muốn đánh cũng chẳng đánh nổi.
- Thôi chết rồi! Ta mắc mưu thằng Biện Nhạc!
- Quan phủ Nguyễn Khắc Tuyên vẫn đang ngất ngưỡng cầm chầu hát bội, nghe tin cấp báo, chỉ vừa kịp tỉnh ngộ, nói câu tri bỉ tri kỳ ấy rồi bỏ chạy bán sống bán chết, thoát ra cửa hậu.
Nếu ngài không mau chân, tất bị Biện Nhạc nhốt vào cũi hắn còn ngồi ban nãy.
Không đầy một phần ba trống canh, toàn thành Quy Nhơn vô tay quân Tây Sơn chiếm lĩnh, dễ thường không tốn một giọt máu nào. Quá nửa đêm, cờ Tây Sơn phấp phới trên bốn cửa thành, và tiếng loa kế tiếp réo gọi bá tánh hồi gia yên nghiệp, vì quân Tây Sơn tơ hào vô phạm, cốt đến cứu dân.
Trước lúc đó, Trần Quang Diệu và 200 thủ hạ đã nấp sẵn ngoài đồn Đạm Thủy, nhìn thấy hiệu lửa ở phía Quy Nhơn, liền hô quân nhất tề sấn sổ đánh vào trong đồn, bắt sống được viên chủ tướng là Khâm sai Lượng, chém giết quá nửa binh triều trong cơn bất ngờ, mà thủ hạ mình chỉ có vài chục người tử thương.
Lấy xong Đạm Thủy, Diệu lên mặt thành trông sang Càn Dương (vì hai nơi gần nhau), vẫn thấy đuốc sáng lập lòe và nghe vẳng những tiếng reo hò dữ tợn, định chắc Nguyễn Thung đang phải giao chiến, chưa hạ được thành. Lập tức, Diệu đem một nửa quân chạy sang cứu viện.
Quả thật, Nguyễn Thung hành binh có hơi sai hiệu lệnh, khiến cho Đốc trưng Đang kíp gọi quân lính công ra cự chiến. Hai bên đánh sáp lá cà. Quân Đằng dùng rơm và đuốc tẩm dầu ném vãi như mưa, làm cho quân Thung chết cháy và bị thương đến quá nửa, tiếng kêu rên nghe thảm thiết. Thung toan rút tàn quân chạy trốn, bỗng thấy sau lưng quân Đằng xôn xao rối rít, lại nhận rõ tiếng reo hò là tiếng quân nhà, bèn liều chết đánh sấn tới, chuyển bại thành thắng. Thì ra Diệu đem cứu binh đến vừa kịp, đánh bọc phía sau binh triều một cách bất ngờ, bắt sống Đốc trưng Đằng và giúp Thung lấy được Càn Dương. Không có Diệu thì hẳn Thung phải bỏ chạy, tức thì quân Tây Sơn không chiếm được thành ấy theo như kế hoạch Nhạc định.
Bởi vậy, qua hôm sau Nhạc đến Đạm Thủy và Càn Dương để biên số tiền gạo quân mình đã lấy được, nhân dịp muốn hỏi tội làm sai tướng lệnh, chém Nguyễn Thung một lượt với bọn Khâm sai Lượng, Đốc trưng Đằng, may nhờ chư tướng xin hộ, Nhạc mới tha cho, nhưng hậm hực đe dọa:
- Nhà ngươi liệu hồn! Lần này ta hãy gửi cái đầu nhà ngươi ở trên cổ đấy, nếu sau còn vi phạm thì đừng có trách.
Lời nói giằn mặt ấy rồi trở nên thực sự, khi Nguyễn Thung lại trái tướng lệnh mà bại binh ở vùng Bình Thuận.
Nhưng đó là chuyện sau, giờ ta hãy biết Quy Nhơn, một nơi quân sự trọng yếu đã thành ra căn cứ vừng chãi của quân Tây Sơn, từ đấy họ dùng làm chỗ đạp chân mà đi ra, ngót ba chục năm hoành hành vô địch thiên hạ.
Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành chạy trốn về kinh lạy lục đút lót Trương Phúc Loan, kiếm chuyện nói gỡ tội rằng: trại giam có ma, ban đêm nó mở cũi cho Biện Nhạc thoát thân, rồi quân Tây Sơn nội ứng ngoại công mà hạ được thành, mặc dầu quan quân tử chiến - Thuở ấy người ta lấy chuyện cái cũi có ma làm một giai thoại. Nó không hạ chức hay buộc tội ông Tuyên chút nào, còn làm cho ông thăng thưởng là khác.
VI. Đục nước béo cò
Hạ xong Quy Nhơn hôm trước, hôm sau Nhạc nghĩ ngay đến ông thầy học cũ là người văn vô toàn tài, cơ mưu trì trọng, có ý muốn mời ra giúp anh em mình một tay, cho nên sai Trần Quang Diệu đem sính lễ vào Thạch Bi Sơn như ta đã thấy trước là tỏ lòng kính thầy, sau là thỉnh ông Giáo Hiến hạ sơn.
- Đại huynh muốn mời cụ hạ sơn làm quân sư chăng? Nguyễn Lữ hỏi anh.
- Không phải, Nhạc đáp. Quân sư là anh đấy chứ còn ai nữa, nhưng anh có một chủ ý khác.
- Chủ ý đại huynh thế nào?
- Ta có cái kế hoạch định tiến công cả phía trong phía ngoài một lượt, trên bộ cũng như dưới nước. Chiếm được Quy Nhơn thế này, lương thảo, khí giới, binh lực thêm phần hùng hậu, kế chung cả quân nhà sẵn có, thêm số binh triều mới hàng. Tại trong sớm tối nay mai có bọn Tập Đình Lý Tài đầu đảng giặc khách tàu ô, đem thủ hạ đến quy thuận ta, vậy thì sức ta có thể đồng thời tiến công hai mặt được lắm. Tình thể bây giờ, dụng binh cần phải thần tốc thì mới ăn to. Bởi vậy, ta muốn phân binh nhất tề công kích, mau chừng nào hay chừng ấy: ta định cùng tam đệ đánh thốc vào làm sao ra đến Huế cho thật chóng, không thì có kẻ phỗng tay trên mất.
- Hẳn đại huynh lo quân Bắc Hà? Huệ và Lữ cùng hỏi.
- Chứ sao! Nhạc cười và nói. Nếu như quân ta phải giao chiến dây dưa với bọn Nguyễn Cửu Dật, Tôn Thất Nghiễm, ở trước mặt, quanh vùng Quảng Nam, Quảng Nghĩa này, lại còn lo binh triều ở miền trong Phú Yên Gia Định sẽ kéo ra đánh sau lưng ta, thì ta phải day trở đối phó mệt xác và không thu được công to. Mà trong khi ấy chúa Trịnh vẫn là thế thủ với chúa Nguyễn thuở nay, sẽ thừa dịp trai cò mổ nhau mà ngư ông ở giữa thủ lợi, lấy mất Thuận Hóa trước ta còn gì? Hai em cứ nhớ lời ta nói để mà nghiệm xem, sự thể tất đi tới đó nếu ta lẹt đẹt chậm bước thua người. Ta muốn tiến công ra ngoài và vào trong cho nhanh là vì thế.
- Vậy em xin đương mặt trong; Lữ nói. Để cho đại huynh và tam đệ chuyên tâm mặt ngoài nhé!
- Cố nhiên, đó là chủ ý của ta. Song tính em hay thô bạo, khinh địch, một mình sợ không đương nổi một mặt. Chỉ lo ông nhậu rượu vào rồi làm liều làm lĩnh thì oan gia! Vì thế anh muốn có cụ Giáo Hiến giúp chú thì anh mới yên tâm, vì cụ có cơ mưu là lại thận trọng.
- Nhưng cụ đã già quách đi rồi, còn xông pha trận mạc sao được?
- Ấy chết. Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ, ta vẫn nói. Tuổi cụ già chứ mưu trí và võ nghệ cụ vẫn là siêu tuyệt hiện thời đây!
Nhạc nói đoạn giục giã Trần Quang Diệu đi.
Nhưng ông Giáo Hiến từ chối, lấy cớ mình già yếu, trí khôn kém phần sáng suốt, e sự bàn mưu tính kế có chỗ thất thố sai lầm, bất lợi cho đại sự, cho nên ông không đảm nhận cái vinh dự mà anh em Nhạc nghĩ tình thầy trò, để dành cho ông.
Thế ra ông quên mất việc giả thù của ông rồi ư?
Không, mối thù nhà ông, ông vẫn đóng đinh trong trí, có khi nào quên được? Song ông tự nghĩ một việc tử thù lại gồm công nghĩa ở trong tuy mình già yếu không làm nổi, mà đào tạo cho người khác làm hộ cũng thế, miễn được thành công kết quả. Chính thật anh em Nhạc quyết ý khởi binh chống cự chúa Nguyễn, có nhờ ông giáo hóa và khuyên khiến rất nhiều. Có người biết rõ tâm sự ông, nói rằng sở dĩ ông từ khước, chẳng phải vì lẽ già yếu, thật là vì lẽ ông biết rõ tâm cơ và vận số của anh em Tây Sơn: Nhạc tham lam mà đa nghi, Lữ thì vô tài, Huệ thì yêu tướng; công việc họ làm, trong trí ông đã dự đoán, bất quá chỉ sôi nổi chừng đôi ba chục năm rồi tắt, chứ không được thiên mệnh cho dựng nên đại nghiệp trường cừu. Bởi thế, ông không muốn dự vào; nghĩ mình có dự vào cũng chẳng làm sao chữa lại được thiên mệnh, thế thì yên thân ở ẩn, bàng quan cuộc đời còn hơn.
Mấy hôm sau, Diệu từ Thạch Bi Sơn trở về, với bức thư ông Giáo Hiến trả lời, không thể hạ sơn, Nhạc vỗ trán, thở dài:
- Thế thì quân thì quân ta phải chậm ngày giờ trường khu đại tiến ra Huế, tiếc thay!
- Chuyến này tôi đi, không đón được quân sư, nhưng có đem về được ít nhiều tráng sĩ! Diệu nói và giới thiệu bọn Xuân cả thẩy sáu bảy người theo mình.
Nhạc ân cần hỏi han tài nghệ và chí hướng của mỗi người. Đến Xuân, trước khi hỏi, Nhạc nhắm nhía giây lâu rồi vừa cười vừa nói:
- Anh này, trông tướng mạo như đàn bà, họa chăng để ở trong quân làm việc biên chác tiền gạo thì được, chứ ra trận ngửi mùi thuốc súng, không khéo chết ngất.
- Bẩm quan Tiết chế, người có vẻ như đàn bà thế mà một tay giết chết con cọp lớn bằng con trâu đấy!
- Quần thảo với cọp mà giết được nó hay thế nào? Nhạc hỏi lại.
- Thưa, anh ta bắn trúng vào giữa miệng cọp chết không kịp ngáp! Diệu trả lời.
Rồi Diệu đem chuyện mình vừa đến chân núi Bìa, bất ngờ bị cọp vồ ngã, nhờ Xuân bắn ba mũi tên hạ cọp tức tốc mà cứu được mình, kể lại đầu đuôi tỉ mỉ cho anh em Nhạc nghe.
...........(mất nửa trang, bài báo) Tham tán quân vụ, Đỗ Văn Hoảng khuyên can thong thả:
- Xin tướng quân cho đồn binh ở đây, phải dò xét tình hình quân giặc đã, rồi sẽ sang sông, không khéo ta hấp tấp thì mắc mưu dụ địch của chúng nó đấy.
- Đỗ quân lo xa như thế là phải! Nguyễn Cửu Sách nói.
Nhưng Cửu Thống lắc đau bĩu môi, tỏ ý chê hai người hèn nhát:
- Hừ! Các ông kém lịch duyệt chiến trận có khác! Quân giặc chỉ hư trương thanh thế xằng, giỏi đánh lừa Nguyễn Khắc Tuyên mà chiếm lấy Quy Nhơn, chứ bây giờ ra chỗ chiến trường, gặp người đã bạc đầu với thanh gươm yên ngựa như tôi thì chúng nó phải chết. Ngày mai quân ta cứ sang sông, để tôi phá tan chúng nó cho các ông xem. Nên ta không thừa thắng đánh rốc tới, còn chần chờ dò xét như ý các ông, thì giặc có thế xếp đặt cố thủ, còn gì!
Nói đoạn, Cửu Thống truyền lệnh cho tướng sĩ thu xếp canh tư đêm nay sang sông; tảng sáng qua bờ bên kia sẽ bắc bếp, thổi cơm ăn. Sở dĩ ông có hiệu lệnh gay gắt như thế, vì được tin thám báo chắc chắn rằng quân giặc đã chạy lui hết rồi, từ bờ sông cho đến mười lăm hai chục dặm vào mãi phía trong, tịnh không còn bóng dáng một quân ó nào.
Ông khinh địch làm cho hơn hai nghìn người chết oan uổng.
Binh triều qua sông xong xả, chưa hết canh tư, ai nấy mệt và đói, vội vã để chụm khí giới lại từng đống mò mẫm đi tìm những bờ ruộng, mô đất khô ráo để bắc nồi nấu cơm. Họ được chủ tướng nhồi sọ, tin tưởng quân giặc cách xa mình biệt mù, giờ này không ai có thể làm rộn bữa cơm của mình, thôi thì cứ nấu ăn thong thả ung dung; nhất là cần ăn no nê, mới cứng hai đầu gối mà đi đuổi giặc, có lẽ suốt ngày đến tối mịt mới lại được ăn không chừng.
Tội nghiệp họ rỡ cơm ra, chưa ai kịp và miếng nào, bỗng nghe tứ phía vang dậy pháo nổ trống hồi, nhất là những tiếng la ó mà họ đã quen tai: trước mặt, sau lưng, trên bộ dưới thủy, đồng thời bị giặc ồ ạt công kích bất ngờ, khiến họ hoảng kinh, không còn hồn vía.
- Chết cha rồi! Quân ó!
Họ hốt hoảng bảo nhau thế rồi cuống quýt xô đẩy lẫn nhau, mạnh ai nấy tìm đường chạy trốn, nhưng mà trời còn tối tăm, thần hồn nhát thần tính, làm họ quên cả phương hướng, đến nỗi tai mắt quay về phía nào cũng nghe thấy tiếng giặc hò hét và thấy bóng giặc lù lù tiến đến gần mình như giông, như gió.
Thật sự, chiều hôm trước quân Tây Sơn có rút lui khuất bóng ở Bến Vân rất xa, cốt tỏ ra mình khiếp sợ, để nhử cho Nguyễn Cửu Thống quyết định đem binh qua sông mà đánh. Đêm khuya, trước khi binh triều sang đò. Huệ thân dẫn bọn Diệu, Xuân, Tập Đình, Lý Tài và 1300 thủ hạ, người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, trở lại Bến Vân sắp đặt mai phục. Tập Đình Lý Tài cầm đầu 400 quân đại đạo, gồm cả người Tàu và Annam phục ở khu rừng cách xa bờ sông chừng một dặm. Xuân thì dẫn 400 tay nỏ, chia làm hai đội, trèo lên những cây to ở bờ sông, tên lắp vào nỏ sẵn sàng. Diệu cũng đem 40 người phân ra bốn toán, nằm phục bốn nơi, khít bên mé sông, phận sự là khua chiêng, đánh trống, luân phiên la hét để giúp thanh thế, và đem theo vật liệu hỏa công phòng thiêu hủy thuyền bè bên địch; công dụng trước hết của cách phục binh này là khiến bên địch trong lúc tăm tối mù mờ, tưởng tượng mình bị vây bọc đánh úp cả trên mặt sông, nghĩa là sau lưng. Còn Huệ chỉ giữ cho phần mình một trăm quân cảm tử, lâm thời sẽ ra hiệu nhất tề cử động và tiếp ứng cho cả ba mặt.
Việc mai phục Tây Sơn bố trí như thế, cố nhiên ông Nguyễn Cửu Thống chẳng hay biết tí nào, và cũng không hề ngờ vực. Trong thâm tâm khinh thị của ông chỉ những chắc mẩm quân Tây Sơn đã nếm mùi chua chát một trận đầu tiên, hắn sợ bóng vía ông mà trốn chạy biệt mù sơn dã đâu rồi. Nào dè quân giặc đón rước ông bằng sắt máu ở ngay bờ sông!
Để cho binh triều lên bờ thong thả rồi nấu ăn dở dang, bây giờ Huệ mới nổi pháp làm hiệu, tức thời ba bể bốn bên phục binh nổi dậy với trống vang pháo nổ liên thinh, tiếng người hò hét như sấm, thầy trò Cửu Thống hồn vía lên mây, sợ hãi lúng túng, không biết xoay sở thế nào, khác hơn là chạy trốn thục thân. Tình hình rối loạn không sao tả được.
Nhưng bảo họ chạy đâu? Sau lưng là trường giang, trước mắt thì ào ào những quân giặc múa đại đao sáng nhoáng, cứ việc đấm tả chém hữu hết sức hùng hổ, những tiếng reo hò “Tả lơ! Tả lơ!” của bọn thù hạ Tập Đình Lý Tài làm cho binh triều nghe danh khiếp đảm. Họ dẫm đạp chen lấn nhau, chạy cả xuống thuyền còn đậu bên bờ.
Khốn nạn, nhiều thuyền chìm nghỉm, vì số người nhảy bừa xuống đông quá. Quân sĩ ngoi ngóp rồi hụt hơi chết đuối, hoặc bám vào thuyền khác, làm phải chìm lây.
Những thuyền mở đôi chèo ra khỏi bờ, thì bị cánh phục binh của Diệu núp ở bụi lau bãi cỏ gần đấy, ném tung mồi lửa đốt cháy tưng bừng...
Thuyền nào chạy được xa tầm mồi lửa, thì bị mấy trăm tay nỏ của Xuân phục trên cây, bắn theo như mưa vãi. Thứ nỏ lợi hại gớm ghê, Xuân chế theo kiểu riêng của dân mọi Thủy xá quốc và Hỏa xá quốc, đầu mũi tên có thuốc độc, mà mỗi lần khẽ động vào cái lấy, đồng thời ba mũi tên vụt đi như biến, lại tỏa ra như chia ba; hễ một vật đã bị ngắm đích không trúng mũi này cũng trúng mũi kia, có khi trúng phắp cả hai, như chú cọp núi Bia đã cho chúng ta thấy rõ hiệu lực.
Những mũi tên này đuổi theo vật chết binh triều ở trên thuyền hoặc xô ngã xuống nước, tổn hại thêm một mớ khá to, không kém con số với đại đạo trên bờ.
Chính Nguyễn Cửu Thống bị một mũi tên độc trúng vào bả vai hại chết, còn hai tướng Sùng và Hoàng thì trút linh hồn ngay ở dưới thuyền. Các cụ lớn ta đã phải bỏ cả chiến mã ở lại trên bờ, hấp tấp chạy xuống thuyền để thoát thân, nhưng còn trương hoàng với lính áo nẹp đỏ che lọng và xách điếu tráp theo hầu, thành ra làm bia cho quân địch nhắm rõ mà bắn như mưa. Trừ ra Cửu Sách khôn hồn, nằm dán mình vào bên mạn thuyền, nên được vô sự.
Sáng ra, Tây binh nhận thấy quan quân cụt đầu lòi ruột nằm ngổn ngang trên bờ, chết đuối lềnh bềnh dưới nước nhiều quá, không biết bao nhiêu mà đếm, nhất là thấy bốn viên đại tướng của quan quân đã chết hai và nghe nói trọng thương một, cho nên để mặc tàn quân chạy trốn, không buồn đuổi theo nữa.
Tây binh với được hai cỗ súng thần công và vô số đạn dược, lương thực.
Huệ thích chí quá, lấy ngay con chiến mã lông trắng như tuyết của Cửu Thống bỏ lại, thưởng cho Xuân và nói:
- Quân ta đại thắng trận này là công lao chung cả anh em, nhưng mà sát hại được ba viên chủ tướng bên địch, thật là ở tài bắn của ngươi, vậy ta trộm lệnh quan Tiết chế, tặng người con chiến mã này đó!
Huệ lại nói tiếp, khôi hài:
- Chắc là hồi đó bà mụ ham đánh tứ sắc mà nặn nhầm, không thì bà phải nặn Xuân ra con gái kia đấy!...
Mọi người cùng cười ồ.
Xuân cúi đầu tạ ơn cho ngựa nhưng cốt để dấu vừng hồng mới mọc ở hai gò má.
Giữa khi ấy Nhạc đến Bến Vân. Thấy quân nhà thắng trận, theo như mưu lược mình đã định, Nhạc niềm nở ngợi khen chư tướng, rồi day lại nói với Huệ.
- Bây giờ anh em ta bắc nam hai ngả mỗi người đi một đàng nghe! Chú đánh trở ra, anh đánh trở vào...
- Đại huynh muốn lấy Phú Yên chứ gì? Huệ hỏi anh.
- Chính thế! Nhạc cười và đáp. Có lẽ phải vào tới Khánh Hòa Bình Thuận mới được.
- Quân ta nên thừa thắng, dẫn cả binh lực ở đây, hãy đánh thốc ra Quảng Nam chẳng hơn ư? Đã vội gì lo đến mạn trong? Trần Quang Diệu nói:
Huệ cũng nghĩ thế. Nhưng Nhạc lắc đầu:
- Em nên biết việc dùng binh phải lo toan kín đáo cả mọi mặt, mới nắm được cái cớ tất thắng ở phần mình. Binh lực chúa Nguyễn ở trong Gia Định to tát đáng sợ, nếu ta không chặn đường tiếp viện ấy để họ có thể kéo ra đánh thúc vào sau lưng ta thì nguy. Bởi vậy, anh quyết định chia binh làm hai: công việc tiến đánh Quảng Nam ủy thác cho em, ví bằng tiến được càng hay, không thì cố giữ thế thủ, đợi anh; còn anh thì mang bọn Lữ, Khê, và Thung vào chiếm lấy Khánh Hòa, Bình Thuận, để chận đường quân Nguyễn trong Gia Định không cho chúng ra cứu viện, thì ngoài này chúng ta mới dễ đắc chí.
Nói liền làm liền. Trong khi Huệ cầm chắc sự lây lất với quân Tôn Thất Nguyễn ở địa đầu Quảng Nam, Nhạc dẫn binh vào đánh mạn trong.
Không đầy ba tháng toàn cõi Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đều thuộc về
.... (mất một trang báo) Hôm ấy, Tĩnh đô vương đang ngồi với Đặng Phi, uống trà Tàu hảo hạng của một thuyền buôn khách vừa đem từ bên Tàu sang biếu. Nhận được mật tấu của Bùi Thế Đạt đưa đến, Tĩnh đô vương xem đến đâu nét mặt thay đổi đến đấy, mừng quá, hắt tay đổ vỡ cả bộ khay chén bằng ngọc và truyền bảo thị vệ tíu tít:
- Đi gọi quận Việp!... Đi gọi quận Việp!. Đánh trống... đánh trống... họp phủ liêu, mau lên.
Đặng Phi ngẩn người, tiếc bộ chén ngọc đã vỡ tan tành:
- Có việc gì mà vương thượng làm như người phát điên thế?
- Một tin đáng mừng ĩ... Một tin đáng mừng!... Trịnh Sâm múa tay và nói, tỏ vẻ mừng rỡ cực điểm.
- Gớm chết! Đặng Phi nói giọng nũng nịu. Ví rằng có hai tin đáng mừng như thế, thì không khéo vương thượng đốt cả vương phủ, giết cả vợ con chắc!... Trông bộ chén quý báu đã tan ra từng mảnh kia kìa!
Nàng nói rồi, làm bộ giận dỗi. Tĩnh đô vương phải vuốt ve, dỗ dành và nói:
- Ồ! Mấy cái chén ngọc là đồ bỏ; ái phi sẽ thấy trong tờ mật tấu này đem lại cho ta những của quý báu gấp nghìn lần, muôn lần.
- Nhưng mà tin gì thế Đặng Phi nhõng nhẽo gạn hỏi. Vương thượng phải nói cho thiếp nghe.
- Tin xứ đàng trong có nội loạn, ta phải nhân dịp này đánh lấy Thuận Hóa, để mở mang bờ cõi rộng thêm. Thuận Hóa quý hơn chén ngọc ức vạn lần, ái phi có biết không?
- Vâng, đất quý hơn ngọc; nhưng vương thượng định bỏ mẹ con tôi ở nhà để đem quân đi thân chinh đấy chăng? Đặng phi gục mặt trên vai chúa Trịnh vừa nói vừa giả đò khóc tấm tức.
- Đã có quận Việp, chứ ta rời xa ái phi sao được! Thôi, ái phi nín đi!
Tĩnh đô vương an ủi Đặng phi rồi đi ra triều đường, bàn việc chinh nam.
Việc xuất binh nhất định trong nửa buổi họp.
Lão tướng Hoàng Ngũ Phúc, tức Việp quận công, phụng mạng chinh nam, mùa đông năm ấy tiến binh qua Linh Giang, vào bờ cõi chúa Nguyễn, nghênh ngang như đi vào một chỗ không người. Vì tướng tài binh lực chúa Nguyễn lúc này không bằng mấy đời trước, còn lại được chút nào gọi là tinh binh mãnh tướng, đều rút vào phía trong cự chiến Tây Sơn, không phòng bị gì mặt bắc, bởi không ngờ đến sự quân Trịnh xâm lấn.
Ngũ phúc phao ngôn rằng vâng mệnh chúa Trịnh, đem quân Bắc Hà vào trừ gian dẹp loạn hộ nhà Nguyễn, chứ không có ý thèm muốn đất đai gì cà. Vào đến Quảng Trị, Bắc quân mới gặp mấy đạo Nam quân chống cự, nhưng để giặc giã vào sâu quá rồi, còn chống cự làm sao được nữa? Vả lại, sự thật Nam quân hồi ấy, không có mặt nào địch lại Ngũ Phúc, một tay đại tướng có đủ cả trí mưu và dũng lược.
Định Vương hiểu tình thế nguy, cùng mấy vị triều thần có lòng trung nghĩa, mật mưu bắt trói Trương Phúc Loan đem ra nộp Ngũ Phúc để cho Ngũ Phúc hết cớ tiến binh. Bản thân Phúc Loan cũng sai người đem một nghìn lạng vàng cùng nhiều đồ châu báu khác, đút lót Ngũ Phúc, mong được bao dung tha chết cho mình. Ngũ Phúc thu nhận Phúc Loan hối lộ nhưng cứ việc trường khu đại tiến vào Thuận Hóa.
Biết thế không còn trông cây ở cảm tình hay võ lực gì được. Định vương đành bỏ đô thành, dắt díu cung quyến chạy vào Quảng Nam. Nhưng ở đây có quân Tây Sơn đang tung hoành, chúa đã được cọp tha, lại sợ ma bắt, phải do đường thủy trốn vào Gia Định.
Bắc quân tiến vào, hạ thành Phú Xuân một cách dề dàng, mặc dầu có hai đạo binh thủy lục bên Nguyễn, do Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính án ngữ ở phía Quảng Điền.
Thành trì Phú Xuân của họ Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng xây dựng hơn hai trăm năm, bây giờ về tay quân Trịnh chiếm giữ.
Nhưng bản tâm chúa Trịnh là muốn thừa thời đoạt hết thổ địa họ Nguyễn cho tới Gia Định, để thống nhất bản đồ nước Nam, chứ không phải đến Phú Xuân thì thôi. Bởi vậy, tháng tư năm sau, Hoàng Ngũ Phúc lại tiến binh qua đèo Hải Vân, vào Quảng Nam.
Đến đây, quân Trịnh gặp quân Tây Sơn lấy danh nghĩa phò tá Hoàng tôn Dương để chống lại.
Nguyên mấy tháng trước, Đinh vương từ giã Quảng Nam chạy vào Gia Định, để người cháu là Nguyễn Phúc Dương đóng giữ ở huyện Hòa Vang, lo việc chống cự với quân Tây Sơn. Kế đó Tây Sơn phá tan quân Nguyễn, lấy được Quảng Nam, vừa gặp lúc quân Trịnh đang từ Phú Xuân kéo vào, Nhạc bèn lập kế bắt được Hoàng tôn Dương, tôn làm minh chủ, để dựa vào danh nghĩa ấy chống nhau với quân Trịnh.
Hai quân đại chiến ở làng Cẩm Sa, thuộc huyện Hòa Vang. Bọn khách Tập Đình Lý Tài làm tiên phong, quân sĩ toàn là người Quảng đông và dân mọi cao lớn, ai nấy cởi trần, bịt khăn đỏ, tay khiên tay phạng, lăn sả vào trận mà hò hét đâm chém cực kỳ táo tợn, tiền đội của Ngũ Phúc cự địch không nổi, bỏ chạy tứ tán.
Ngũ Phúc liền thét Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể đem quân thiết kỵ xông bừa ra trận, bộ binh nối gót tràn tới. Bọn Tập Đình Lý Tài thua chạy.
Trận này quân Tây Sơn tổn hại nhiều, Nhạc phải lui binh về giữ Biến Vân rồi đưa Hoàng Tôn Dương về Quy Nhơn.
Quân Trịnh thắng trận mà không dám đuổi theo, vì bị toán lính thiện xạ của Xuân đi đoạn hậu, quay lại bắn tên độc như mưa, cứu được tiền quân mình rút yên ổn. Quang Diệu nắm lấy tay Xuân, vồn vã ngợi khen mãi:
- Tài bắn của em năm xưa đã cứu tôi thoát khỏi con cọp ở núi Bia; phen này lại cứu cả đại quân nhà ta thoát khỏi hàng muôn con cọp Bắc Hà!
VII. Tấn tuồng bắt cá hai tay
Lúc này Tây Sơn lâm vào tình thế như chiếc đinh nằm giữa cái kìm: phía ngoài bị quân Trịnh đánh vào, phía trong bị quân Nguyễn đánh ra. Thật thế, Tống Phúc Hiệp tụ tập dân binh, đủ giựt lại ba đất Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, như đoạn trên đã nói, đang rần rộ tiến ra, muốn đánh ra tới Quy Nhơn là nơi căn bản sào huyệt của Tây Sơn.
Mặc dầu tướng tá phần nhiều là tay giỏi, quân lính cũng dũng cảm thiện chiến, Tây Sơn chưa đủ lực lượng chống cự cả hai mặt, cũng là cường địch. Đang muốn tung hoành thiên hạ, lại phải rút về ở một xó Quy Nhơn thật là sự vạn bất như ý. Nhiều tướng sĩ có vẻ lo ngại, nhất là thấy Nhạc chuyên vận của tiền châu báu lên Tây Sơn thượng đạo, mà sắc mặt vẫn nhởn nhơ trấn tĩnh, khiến cho người ta càng phân vân, không hiểu ra thế nào. Họ rủ nhau vào dinh vấn nạn Nhạc:
- Quân ta bây giờ trước mặt sau lưng cùng có cường địch, vậy quan Tiết chế định xử trí ra sao?
- Định xử trí ra sao à? Nhạc vừa nói vừa cười. Tôi định cùng các ông tĩnh dưỡng ít lâu, rồi chúng ta tung hoành trong thiên hạ, chứ còn định gì hơn!
- Không đánh chác gì cả ư? Các tướng hỏi lại.
- Phải không đánh chác gì cả. Để cho quân sĩ nghỉ ngơi một độ, sẽ hay. Anh em mình còn biết nghỉ ngơi, nữa là họ.
- Thế ra, ý ngài chủ hòa?
- Vâng, tôi định thế. Chắc hẳn các ông cũng đồng ý thì phải.
- Nhưng nên hòa với ai? Với Trịnh hay với Nguyễn? Tình thế chúng ta gần như nước Thục ở đời Tam quốc vậy.
- Các ông so sánh đúng mà sai! Nhạc nói ngắt lời chư tướng. Chúng ta khác hẳn nước Thục, là không bắc cự Tào Tháo, đông hòa Tôn Quyền.
- Nghĩa là hòa với cả hai?
- Chính thế, hòa cả với hai, để rồi ta giọt cho cả hai, mỗi chú một mẻ nên thân.
Nhạc cười ha hả, tỏ vẻ đắc ý, khiến chư tướng càng thêm kinh ngạc, xoắn xít hỏi gạn:
- Ngài nói lạ! Việc đời có thể nào bắt cá hai tay như thể được ư? Tất nhiên có một bên hiểu rõ cơ mưu của mình rồi lấy cớ ấy mà đánh, chứ không sao khỏi?
- Ơ! Các ông khéo lo! Ai đánh thì ta đánh với chứ sợ gì?... Nhạc đáp một cách tự nhiên. Tôi đã liệu định kỹ rồi, một khi đà hòa không bên nào có thể dở mặt làm gì được ta mà phòng sợ; rồi ra chính ta sẽ giở mặt với họ thì có. Chúng ta như anh chàng có hai cô nhân tình, làm sao chiều chuộng cả đôi, để rồi ruồng rẫy cả đôi sau khi chán chường thỏa mãn, thế mới giỏi chứ!
Đến đây, Nhạc ghé vào bên tai mấy người tướng lĩnh trọng yếu, nói nhỏ những gì không biết, liền thấy mấy người này đổi vẻ lo sợ ban nãy ra dáng tươi cười hớn hở, và chắp tay vái Nhạc lia lịa:
- Thật là cao mưu diệu kế. Chúng tôi bái phục ngài sát đất.
Khi chư tướng cáo từ, Nhạc dặn với lại:
- Các ông có nói chuyện cho nhau nghe, phải giữ bí mật nhở. Việc quân quốc hệ trọng, nếu để lọt qua tai vách mạch rừng thì hỏng bét đấy!
Qua hôm nay, Nhạc gọi Trần Văn Kỷ vào, trao cho ý kiến, bảo viết một bức thư rất khôn ngoan khẩn thiết, rồi sắp đặt vàng lụa, sai Phan Văn Tuế đem ra Quảng Nam trình Hoàng Ngũ Phúc. Trong thư Nhạc xin nộp đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn và Phủ Yên hàng chúa Trịnh và tình nguyện làm một viên tướng tiền khu, đem bản bộ binh mã đi đánh chúa Nguyễn.
Quân Trịnh vào đây, cốt đánh kẻ cừu địch là chúa Nguyễn, chứ không phải Tây Sơn, nay được Tây Sơn tự động quy thuận thì còn gì hay hơn. Nhất là Hoàng Ngũ Phúc đang có ý cướp lấy tất cả đất Gia Định của chúa Nguyễn, lại nghe tiếng anh em Nhạc là anh hùng hảo hớn; nay Nhạc xin về hàng, mà sự hàng ấy đem lại cho quân Trịnh được ba đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên, khỏi phải mất công đánh chác gì, còn thêm binh lực Nhạc đi mở đường cho mình vào Gia Định là khác. Vậy thì thu dụng anh em Nhạc chính là một việc lợi to. Ngũ Phúc bèn làm biểu xin chúa Trịnh phong Nhạc làm chức Tiên phong tướng quân, Tây Sơn hiệu trưởng.
Trịnh Sâm trả lời bằng lòng ngay và sai người gấp đem sắc chỉ vào nam.
Ngũ Phúc tiếp được thư sắc chúa Trịnh cho tiện nghi hành sự, liền gọi người mạc khách tin dùng là Nguyễn Hữu Chỉnh, giao cho công việc đi sứ Tây Sơn, đem cờ và kiếm ấn vào, phong Nguyễn Nhạc. Một mặt truyền lệnh cho quân sĩ đóng lại ở Châu Ô, không được tiến vội.
Nhạc khéo vờ vĩnh che đậy, đến nỗi Nguyễn Hữu Chỉnh có tiếng là người thắc mắc khôn ngoan, mà khi phụng mệnh đem sắc vào phong, ở Quy Nhơn trót tháng không biết gì về nội tình Tây Sơn.
Xong việc hàng Trịnh, khỏi lo đối phó mặt ngoài, Nhạc liền xoay vào mặt trong xin hàng chúa Nguyễn.
Chỉnh vừa lên đường trở về Quảng Nam, Nhạc lại sai Phan Văn Tuế đem lễ vào Phú Yên xin quy phục Tống Phúc Hiệp.
Ông vốn là dòng dõi họ Tống ở Thanh Hóa đi theo chúa Nguyễn - Hoàng tử khi mới được phong vào trấn thủ Thuận Quảng, đời đời nối nhau làm tướng và dốc lòng trung nghĩa với họ Nguyễn. Năm trước, từ Phú Yên vào Bình Thuận thì Tây Sơn chiếm mất, ông đứng ra phất cờ cần vương, tập hợp dân chúng đánh đuổi quân giặc, khôi phục thất địa và chống giữ ráo riết ở Diên Khánh, chẹn đường Tây Sơn không cho tràn lấn vào.
Tuy nghe tin quân Trịnh đã lấy Thuận Hóa và Định vương đã bôn ba vào Gia Định, Tống Phúc Hiệp vẫn không bỏ mặt trận Phú Yên, vì ông cho rằng giữ đấy là giữ cả miền nam; vả lại trước mắt ông, Tây Sơn mới là quân cường địch gớm ghê, đáng phòng bị gắt hơn quân Trịnh.
Nay bỗng nghe có sứ Tây Sơn sai vào, thoạt tiên ông lấy làm lạ, sau bất giác sinh nghi:
- Quái lạ! Mình với Tây Sơn vốn là cừu địch một sống một chết, tự nhiên nó sai sứ vào làm gì?
Ông tự vấn một mình như thế, rồi lại suy nghĩ hay là Tây Sơn đã hợp binh với Trịnh, muốn vì Trịnh du thuyết chiêu dụ ta chăng? Có lễ việc Tây Sơn vừa mới giao thiệp với Hoàng Ngũ Phúc, ông có nghe biết tin tức ít nhiều.
Muốn tỏ ra uy lực của mình, ông dàn quân sĩ, bày binh trượng cờ quạt, cực kỳ nghiêm túc, rồi mới tiếp sứ Tây Sơn.
Vừa trông thấy mặt sứ, Phúc Hiệp mắng hỏi phủ đầu, thái độ hết sức khinh ngạo, chẳng thèm đứng dậy đón tiếp gì cả;
- Thằng độc nhỡn kia! Mi vác mặt vào đây, muốn khua ba tấc lưỡi làm thuyết khách cho quân giặc Tây Sơn phải không?
Ông nói và đảo mắt chung quanh dường như muốn bảo sứ Tây Sơn rằng: Mi hãy xem quân gia khí giới của ta hùng cường là thế đấy!
Phan Văn Tuế, chột mắt, người xấu, nhưng là một tay mưu sĩ của Tây Sơn, vốn tính can đảm và có khâu tài, cứ việc ngang nhiên đi vào, liếc mắt nhìn gươm đao quân lính hai bên với dáng điệu khinh khỉnh, coi như vô vật, tiến đến tận trước mặt Phúc Hiệp, không chào không hỏi, cười gằn và nói:
- Chao ôi! Ở đời có kẻ chết đến sau lưng, mà còn đem những thứ dao mổ trâu và chọc tiết lợn ra khoe khoang, lại dám thịnh khỉ nạt nộ thiên hạ mới kỳ chứ!
Phúc Hiệp nóng tính như Trương Phi, nghe nói mỉa mai không chịu nổi, đùng đùng giận dừ, tuốt gươm đứng phắt lên điểm vào mặt Tuế, nói rất hung hãng:
Mi... Mi bảo ta chết đến sau lưng à? Bộ thầy trò Tây Sơn nhà mi dám vô đây nhổ được lông chân của ta thử coi!
Không giận, không kính, không đổi thần sắc, Tuế chỉ cười nụ, vừa khoát tay vừa nói, trỏ vào thanh gươm Phúc Hiệp đang múa may đe dọa...
Ai sợ thứ dao đàn bà bổ cau ấy thì sợ, Tuế này coi chẳng mùi vần gì đâu!... Tướng quân có lòng tốt, làm quà cho Tuế đem về cho cháu đào giun, chơi càng hay, không thì hãy bỏ nó vào tráp trầu kia rồi sẽ nói chuyện... Phải tôi bảo tướng quân chết đến sau lưng mà không tự biết đấy!... Sự thật không phải như thế hay sao? Nếu như mấy tháng trước, Tây Sơn chúng tôi không đánh ngăn quân Trịnh ở vùng Cấm Sa; nếu như chúng tôi không có lòng trung nghĩa với nhà chúa, mà hiệp mưu với Trịnh, mở tung đường Quảng Nghĩa Quy Nhơn cho quân Bắc Hà tràn vào, vậy thử hỏi xem hôm nay tướng quân có còn ngồi yên ở chỗ này mà hòng nạt nộ tôi và khoe võ lực với tôi hay là không?
Nghe mấy lời Tuế nói có lý, Phúc Hiệp xuôi tai đấu dịu:
- Nhưng mà nghe như vừa rồi thầy trò nhà ngươi có giao thiệp với quân Trịnh kia mà?
Câu hỏi ấy chỉ tỏ ra Phúc Hiệp cũng khéo do thám nhất cử nhất động của Tây Sơn; giá như người khác nghe nói trúng vào tim đen của mình như thế, tất phải luống cuống, nhưng Tuệ là tay ngoại giao giỏi thản nhiên đối đáp:
- Tướng quân có tai mắt để ở bên ngoài cũng khá lắm đấy, nhưng mới biết được một chưa biết được hai... Thật sự, quân Trịnh sai sứ vào chiêu hàng Tây Sơn thì có; họ ước hẹn cùng nhau chia đất chúa Nguyễn, nhưng mà chúng tôi không nghe.
- Là vì?... Phúc Hiệp ngắt lời Tuế và hỏi.
- Là vì chúng tôi nghĩa quân Trịnh là giặc, còn chúng tôi đối với chúa Nguyễn, dù sao cũng là con dân, không lẽ nào quen vua bỏ nước cha mẹ, đi cõng rắn cắn gà nhà cho đành!
- Vậy bây giờ các ông định ra thế nào?
Phúc Hiệp đổi giọng ôn tồn, mời Tuế ngồi đàm đạo và đuổi cả giáp sĩ lui ra. Tuế thấy Phúc Hiệp trúng kế rồi, chững chạc nói:
- Chủ tướng Tây Sơn chúng tôi chỉ vì nặng lòng trung nghĩa với nhà chúa ta mà từ khước quân Trịnh, cho nên sai tôi vào đây thuyết minh lợi hại, muốn cùng tướng quân giảng hòa hợp binh, cùng nhau đánh đuổi quân Trịnh là quân giặc chung, để khôi phục Phú Xuân, dựng lại nghiệp chúa.
Phúc Hiệp chưa kịp ngỏ ý, khả phủ ra sao, Tuế đã nói tiếp, có vẻ hãm dọa bằng danh nghĩa?
- Nếu tướng quân cố chấp không nghe thì chúng tôi thể tất phải đối phó quyết liệt, kỳ cho được việc mới thôi.
- Các ông sẽ đối phó ra sao có thể nói thực tình cho tôi biết không?
- Lúc bấy giờ có lẽ chúng tôi không từ chối mượn thêm sức quân Trịnh để đánh tướng quân đến cùng. Vì tướng quân phạm tội phản bạn triều đình. Vì danh chính ngôn thuận hiện nay ở phần chúng tôi.
Nghe nói mấy câu sau chót, Phúc Hiệp đỏ mặt tía tai, lại muốn sừng sộ:
- A! ông này dám nói phản bạn triều đình là tôi và danh chính ngôn thuận ở phần các ông?
- Phải, sự thế xoay đối, hiện nay việc thật là thế đấy! Tuế đáp một cách ung dung như thường. Vì sao? Vì mục đích chúng tôi khởi binh là cốt tôn phù Hoàng tôn Dương, mà Hoàng tôn Dương đã được chúa Trịnh lập làm đông cung trước khi ngài bôn ba vào Gia Định, và hiện thời đông cung đang ở trong quân Tây Sơn chúng tôi, chấp chường binh quyền. Chính vì việc lớn của Đông cung của nghiệp chúa, của nhà nước, tôi đi vào đây. Như thế rõ ràng chúng tôi có danh chính ngôn thuận, mà nếu tướng quân cự mệnh thì chẳng phải phản bạn triều đình là gì?
Phúc Hiệp ngẫn người, lặng lẽ ngẫm nghĩ giây lát, gật gù và nói:
- Lời ông nói rất phải. Nhưng việc tôn phù đông cung lấy gì làm bằng chứng cho tôi trông thấy chăng?
- Điều ấy có khó gì? Tuế đáp. Nếu tướng quân không tin thì xin mời quá hạ ra Quy Nhơn mà xem. Không thì tướng quân phái ai là người thân tín cùng đi với tôi; tôi cần trở về phục mệnh, kẻo đông cung mong đợi.
- Nếu quả như lời ông nói, thì tôi rất sẵn lòng cùng các ông cộng sự cần vương.
Tống Phúc Hiệp nói đoạn, niềm nở cầm giữ Phan Văn Tuế ở lại một ngày, đãi đằng trọng hậu, rồi hôm sau sắm sửa phẩm vật, sai Tôn Thất Chất cùng đi, tiếng là thỉnh an đông cung, nhưng có chủ ý muốn xem tình hình hư thực của Tây Sơn đã quyết định về việc bắt tay cộng sự.
Ta còn nhớ mấy tháng trước, quân Tây Sơn lập kế bắt cóc được Hoàng tôn Dương ở Câu Đê, Nhạc đưa về Hội An ít ngày; kế đến trận đánh Cầm Sa phải thua quân Trịnh, Nhạc rút binh về Quy Nhơn, cũng đem Hoàng tôn về theo.
Về đây, cốt lợi dụng Hoàng tôn làm bung xung để thu phục nhân tâm, Nhạc khoản đãi rất long trọng: dọn một dinh thự riêng cho Hoàng tôn ở, cắt một trăm tên lính túc vệ, luân phiên hầu hạ, mà thực là giám thị; lại đem con gái mình là Thọ Hương dâng làm Hoàng phi. Tóm lại, Nhạc tự xử như phận bày tôi trung thành và đãi Hoàng tôn như bậc vua chúa vậy. Mỗi việc quân chính, Nhạc giả đò bẩm mệnh Hoàng tôn rồi mới làm. Ai trông bề ngoài cùng phải tưởng rằng Tây Sơn thật lòng tôn phù chúa Nguyễn.
Nhạc lấy danh nghĩa Hoàng tôn đánh lừa Tống Phúc Hiệp, tức là trá hàng chúa Nguyễn, xin làm quân tiền đội đi đánh Hoàng Ngũ Phúc, khôi phục kinh thành Phủ Xuân.
Khi được tin cúa Phan Văn Tuế mật báo cho biết trước ràng có sứ của họ Tống sắp ra đến nơi, Nhạc xếp đặt nghi lễ tôn vương cực kỳ khéo léo, dù ai cũng phảỉ choáng mắt tin làm.
Dinh thự Hoàng tôn biến đổi ra một triều đình lâm thời. Cờ quạt, tàn lọng voi ngựa, lính tráng, bài trí rất mực oai nghiêm.
Hoàng tôn khăn vàng, áo vàng, ngồi chỉnh chện trên sập kê chính giữa, phía trong có bon chữ “Phụng thiên thảo tội” viết trên tấm vóc vàng, trước mặt có hương án để lư trầm và kiểm ấn, dấu hiệu uy quyền của Hoàng tôn. Bài ban, bên tả là Nguyễn Nhạc cùng tướng tá Tây Sơn, bên hữu là Tôn thất Chất và mất viên tùy tùng.
Nhạc cung kính mở lời, đại ý tỏ lòng trung thuận của tướng sĩ Tây Sơn và xin đặt mình dưới hiệu lệnh Hoàng tôn, mong sớm thu hồi Phú Xuân, khôi phục đại nghiệp.
Tôn Thất Chất cảm động nói:
- Minh công có lòng tôn phù như thể thật là quý hóa...
- Bẩm, đạo thần tử phải vậy! Nhạc trịnh trọng đáp.
Cuộc xếp đặt tiếp đãi của Nhạc làm Chất xiêu lòng. Sau khi Chất trở về Phú Yên, Tống Phúc Hiệp tin chắc Tây Sơn thực tâm hàng Nguyễn, giờ là quân một nhà, tôi một chúa với nhau rồi, không phải án binh phòng bị gì nữa.
Nếu ai để ý, hẳn nhận thấy trong buổi chầu tiếp sức trên đây, đủ mặt tướng tá Tây Sơn đứng bài ban sau lưng Nhạc, trừ ra Xuân.
Xuân cáo ốm.
VIII. Nguyễn Huệ chủ hôn
Tấn kịch tôn vương trá hàng đã diễn xong, chiều hôm sau ở vạn thuyền Thi lại tấp nập những ghe mành sửa soạn kéo buồm ra khơi, sau khi quan chức thủy quân Tây Sơn đã khám xét.
Trên bờ còn nhiều hành khách và đồ đạc hòm xiểng định xếp xuống ghe mà chưa xuống được; vì ghe nào cũng đầy cả rồi. Phần nhiều là thường dân muốn tránh nạn. Họ thấy quân Tây Sơn rút cả về Quy Nhơn, sợ chỗ này sẽ thành chiến địa dữ dội, cho nên muốn tìm đường tránh ra miền ngoài, hoặc vào Gia Định.
Quân Tây Sơn phòng xa vấn đề lương thực, cũng muốn bớt đi một ít miệng ăn, để mặc đàn bà trẻ con cùng những người già yếu tự tiện di cư, không hề ngăn cản duy hạng trai tráng có thể sung quân thì giữ lại. Hạng ấy đi trốn, nếu bị phát giác là xử chém ngay. Lắm kẻ phải trá hình cải trang đàn bà cho được thoát thân.
Bọn ghe mành tham lợi, thường có cách che chở giấu giếm hộ người ta đào thoát. Sự khám xét của thủy quân Tây Sơn tuy nghiêm mà cũng không xuể.
Chiều hôm ấy, mặt trời đã lặn, một người trai trẻ, khăn áo lượt ra dáng học trò, đi thơ thẩn trên bờ, thăm hỏi hết thuyền nọ đến thuyền kia, dòm ngó qua tốp người này sang tốp người khác, trông như có vẻ băn khoăn, ngơ ngác muốn tìm kiếm ai hay dò dẫm một sự gì vậy.
Đưa mắt ra hiệu, mấy người người lái mành thầm thì bảo nhau:
- Thám tử của quân ó đi dò la người trốn chứ gì? Một bác lái nói.
Các ngài còn nhớ quân ó là quân Tây Sơn.
- Không phải! Bác lái kia trả lời rắn rỏi một tỏ ra mình thạo đời tinh mắt hơn. Không phải! Anh chàng này chắc là một người muốn đáp thuyền đi trốn đây. Quần áo trông chững chạc lắm, ai vớ được mồi này hẳn bở,... Để tôi ướm hởi thử xem.
Nói đoạn, bác lân la đến cạnh thiếu niên, khẽ nói bên tai:
- Này, cậu nho muốn vào Gia Định hay ra đàng ngoài?
Thiếu niên ngẩng người, làm thinh.
Bác lái nói tiếp, lần này lại nói nhỏ hơn:
- Cậu cho hai lượng thôi, tôi cam đoan đưa cậu đi đen nơi, về đến chôn...
Bác nói thế nào? Thiếu niên sửng sốt hỏi.
- Vâng, tôi xin hai lượng là giá rẻ lắm đấy... Nếu cậu đi những mành kia, không khi nào chúng nói dám mạo hiểm với giá như thế... Nói riêng với cậu: trong hai lượng tôi cũng phải lễ thầy đội thủy quân hết một thì mới trôi việc chứ nào tôi có được ăn cả đâu!
Thiếu niên lẳng lặng, khẽ vạch tà áo cho bác lái ta thấy miếng tín bài sơn son đeo giấu bên sườn, trên có khắc bốn năm chữ gì không biết; làm bác tái mặt hoảng hồn, chắp tay vái lấy vái để:
- Trăm lạy quan lớn, thật là con dại dột hữu nhơn vô châu xin quan lớn tha thứ.
Người được tôn là quan lớn vội vàng đưa tay bịt miệng bác lái và nói cằn rằn nho nhỏ, có ý trách móc:
- Im mồm đi! Ai khiến nhà anh gọi tôi là quan lớn bé ở giữa chỗ này.
- Bẩm quan! Bác lái nói nhỏ và kiếm chuyện tâng công. Nếu quan muốn tìm bắt tụi đi trốn, con xin điểm chỉ... bẩm ghe nào cũng có một vài mống, duy có ghe con là không.
Thiếu niên cau mặt nói:
- Việc ấy mặc kệ nhà các anh không bận gì đến tôi... Đằng này chỉ cốt đi tìm người, chứ không phải đi bắt ai hết.
- Quan đi tìm người?
- Ừ, bà lão ngoài sáu mươi với người con, trai tráng độ mười tám đôi mươi, mặt mũi đĩnh ngộ... Từ trưa đến giờ anh có biết hai mẹ con người ấy có đáp thuyền không, bất cứ thuyền ra hay vô, và đáp thuyền nào, mách cho tôi biết, tôi thưởng tiền cho...
- Bẩm, quan nói người con bà lão là con trai, mười tám đôi mươi?
- Phải, anh ta vạm vỡ và đẹp người.
- Ồ, nếu thế thì con tướng quan tìm đến sang năm cùng không ra!...
- Tại sao vậy? Thiếu niên hỏi dồn, tỏ ra nôn nao, sốt ruột.
- Thưa, tại họ sợ chết, có dám ra mặt đâu! Bác lái đáp. Quan xuống mà xem, cả bấy nhiêu chiếc ghe, hành khách toàn là ông già trẻ nít, không thì con gái đàn bà, chứ không có lấy một người trai tráng nào dám đường hoàng xuất đầu lộ diện... Vì quân lệnh của các quan chúa trại Tây Sơn nghiêm lắm, họ chả dám chường mặt đáp thuyền, bị bắt thì chết... Có chăng, họ đã cải hình biến tướng, biết ai mà tìm?... Thật quả từ sáng cho đến bây giờ, con sục sạo chạy đi chạy lại, đủ hết mọi ghe, không thấy bà lão với một cậu con trai đáp ghe nào hết...
- Quái lạ! Hay là hai mẹ con đáp một chiếc ghe đã đi trước rồi?
- Không, nội nhật hôm nay chưa có chiếc nào dời bến đâu! Hay quan thử tìm trong đám hành khách con bỏ rơi kia xem.
- À, tôi đã tìm rồi, không có.
Thiếu niên nói rồi thở dài, trong trí vẩn vơ lưỡng lự, không biết bây giờ mình phải lui tới thế nào, tìm đâu cho thấy người mình định tìm? Người ấy nhất định phải đi đường thủy, chứ không thế nào đi đường bộ. Nhất là trong thư đề lại từ biệt, có nói đáp thuyền!
Bỗng sau lưng có tiếng người gọi déo dắt:
- Tôi đây! Anh Diệu nè!
Thiếu niên có dáng như một thư sinh mà ban đầu bác lái mành gọi là cậu, sau bẩm quan lớn, quan bé, không phải ai lạ, chính là Trần Quang Diệu một trong hàng kiện tướng Tây Sơn, chúng ta đã biết. Bốn chữ trên miếng tín bài Diệu để giấu bên trong áo, chỉ hé qua cho bác lái ta trông thấy, từ phải thay đối lễ mạo, ấy là bốn chữ
"Tây Sơn đốc chiến" dấu hiệu của mỗi viên bộ tướng ông mang trong mình, theo kỷ luật riêng.
Tiếng gọi đích danh làm cho bác lái và Diệu cùng day mặt lại và cùng ngạc nhiên, có điều mỗi đằng ý nghĩ một khác.
Bác lái cung kính vái chào rồi lảng đi, miệng lẩm bẩm nói lén:
- Ngỡ là gì?... Hẹn hò trai gái!...
Diệu chủ tâm đi tìm người bạn trai, khi ngoảnh mặt lại thấy là người con gái mặc y phục trắng, đầu trùm khăn vuông, nhanh nhẹn tiến đến chỗ mình đứng, trong trí lấy làm sửng sốt lạ lùng, suy nghĩ hay là cô ả nào đây nhận lầm chăng. Nhưng mà lầm thế nào được, cô gọi chính tên cái của mình kia mà?
Người con gái tiến đến bên, kéo khăn vuông trùm đầu xuống, nhìn Diệu mà cười, không nói năng gì, hình như muốn thử xem người đứng trước mặt có nhận ra mình không?
Diệu thoạt trông, tự nhiên kêu rú lên, vừa lạ vừa mừng:
- Trời ơi! Xuân đấy hử! Thế mà báo hại người ta thơ thẩn người ta đi tìm nãy giờ.
- Phải, chính nó! Thoạt tiên anh ngẩn người, không nhận ra tôi phải không?
Nàng đáp và cười rũ. Chẳng cần giới thiệu, bạn đọc thừa đoán nàng tức là Bùi Thị Xuân, người giả trang nam tử đi học ông giáo Hiến ở núi Bia, rồi theo Trần Quang Diệu xuống giúp Tây Sơn, làm tướng đạo quân cung nỏ bấy lâu, nay trở lại nguyên hình.
- Khéo làm trò khỉ! Diệu nhăn mặt trả lời, trong trí vẫn đinh ninh Xuân là bạn trai với mình. Sao tự nhiên chú phải cải trang đàn bà, ai thoạt trông chẳng phải bỡ ngỡ? Lúc đầu, tôi không nhận ra thật.
- Anh không hiểu vì lẽ gì ư?
- Vì lẽ gì? Diệu hỏi lại.
- Anh còn lạ gì tướng lệnh Tây Sơn đang săn bắt hạng tráng đinh ở lại sung quân, không cho xuất cảnh. Tôi không cải trang thế này thì đi lọt ra bể làm sao được?
- À phải, tôi quên!... Nhưng mà bỗng dưng chú đùng đùng bỏ việc quân mà đi, không nói lý do, không đến từ biệt, là nghĩa thế nào chứ?
Diệu nói vùng vằng có ý trách móc một cách nhẹ nhàng thân mật; Xuân đứng lặng giây lát, và thở dài nói:
- Đó cũng vì một lẽ riêng, chỉ có tôi biết, không tiện nói ra, anh ạ!
- Hừ, lẽ riêng?.., Lẽ riêng thế nào?... Không nói với ai, chứ không nói với tôi là người đã mang ơn chú cứu mạng...
- Ô! Cần gì phải nhắc mãi câu chuyện nhỏ nhặt ấy! Xuân ngắt lời Diệu.
- Sao lại không nhắc? Diệu cằn nhằn đáp. Nhắc lại để tỏ ra tôi với chú là bạn sinh tử quan hệ; nhất là chúng ta đã kết nghĩa anh em, lẽ riêng của chú không cho ai biết đã đành, há không nói thật với tôi được ư?
Xuân tần ngần chưa kịp nói gì, Diệu đã nói tiếp:
- Thật thế, chú đùng đùng bỏ việc quân mà đi thế này, làm cho tôi khó chịu đáo để; vì tôi đã đưa chú ở núi Bia xuống, tôi đã tiến cử chú... Người ta đang trọng dựng mình thế, sao tự dưng lại bỏ đi?... Sự đi hay ở của chú tôi đã chịu phần trách nhiệm không phải là nhỏ. Chú nên biết giữa lúc binh đao biển loạn này, người ta có thể dùng đại quyền trong tay, sai một vài toán lính đi đuổi theo lùng bắt chú, buộc cho vào tội đi theo địch quốc thì còn ra thế nào?...
- Anh nói chướng quá! Xuân cười gằn và nói, Tây Sơn đã hàng phục cả Trịnh lẫn Nguyễn, vậy thì còn địch quốc nào mà buộc tôi vào tội đi theo địch quốc được chứ?
Diệu vỗ vai bạn, trả lời:
- Ấy là tôi nói ví dụ mà nghe. Vả lại cũng chính là sự thật... Chẳng qua chú còn trẻ tuổi, không hiểu hết việc đời. Một khi người ta muốn gia tội cho nhau, có thiếu gì cách?... Trưa hôm nay, lúc được tin báo và thấy thư chú để lại từ biệt, ông Tiết chế định dùng quân lệnh cho đi nã tróc chú; nhưng tôi nhờ ông Huệ nói giùm, để tôi xin lĩnh trách nhiệm đi tìm chú đem chú trở về, không thì cũng được biết rõ chú bỏ đi tại vì lẽ chính đáng gì? Tôi hộc tốc đến trại chú ở, thấy quạnh hiu vắng vẻ, trước sau nào thấy bóng người, thì ra chú đã gói hành lý và đem bà lão mẫu lên đường từ hồi nào rồi... Tôi liệu định rằng chú muốn đi đâu, ra đàng ngoài hay vào đàng trong, đều bất tiện đi bộ, tất là đi đường thủy, cho nên tôi mò đến vạn thuyền này... May quá, gặp chú. Bây giờ thì tôi không để chú đi...
- Anh muốn bắt em chứ gì? Đây em xin vui lòng chịu trói! Xuân nói và chụm hai cổ tay đưa trước mặt Diệu, cử chỉ ấy như thay cả câu nói: Đây, anh định bắt em giải về cho Tây Sơn thì trói em đi.
Diệu trừng mắt:
- Không, tôi không bắt chú! Cơ khổ, sao chú lại tưởng cho tôi cái ý nghĩ quái gở như thế?... Cũng không khi nào tôi để cho ai bắt được chú nữa kia!
- Thế thì anh muốn cản trở, không cho tôi đi chứ gì?
- Cũng không! Ai có chí nấy, cản trở nhau làm sao được? Có điều anh em ta một ngày là nghĩa, tôi không muốn để chú đi một cách vô tình...
Diệu nói và trông ra bến hỏi Xuân.
- Hắn chú đáp thuyền rồi?
- Vâng, từ lúc này! Xuân đáp.
- Chiếc nào đâu?
- Anh cứ đem từ tay phải qua tay trái, chiếc đỗ hàng thứ năm, Xuân trỏ tay ra vạn thuyền và nói.
- Bà cụ ta cũng xuống thuyền rồi, hay còn đi đâu?
Diệu hỏi “bà cụ ta”, tức là trỏ vào mụ Tri, người quản gia trung tín của nhà họ Bùi mà Xuân vẫn nhận là mẹ trong mấy năm nay. Diệu chưa biết rõ tung tích, yên trí mụ Tri là thân mẫu của bạn thật.
Xuân nhanh nhảu đáp:
- Má tôi vẫn ngồi ôm gói hành lý dưới thuyền nãy giờ, chứ có đi đâu. Chính tôi, từ hồi xuống thuyền cũng ngồi giữ chỗ, không muốn thò chân lên bờ. Nhưng ban này dòm qua cửa sổ, trông thấy bóng anh đi lại tìm kiếm, thăm hỏi, tôi nghĩ không đành lòng ẩn mặt, cho nên mới bước lên đây.
- Thế à? Nếu không thì chú đi thẳng, không đoái hoài đến người bạn kết nghĩa kia đấy! Diệu vừa nói vừa cười. Nhưng mà thôi, không nói chuyện phiếm nữa. Tôi hỏi thuyền chú bao giờ ra khơi?
- Khuya nay họ mới nhổ neo, vì còn đợi nước; Xuân nói.
- Vậy thì bây giờ chú dẫn tôi xuống thuyền, mau lên!
- Anh xuống làm gì?
- Tôi đã nói không để chú đi một cách vô tình... Giờ ta xuống thuyền để tôi mời bà cụ, và xin phép cụ cho chú ở chơi trên bờ với tôi một chốc... Anh em ta dắt nhau vào quán rượu trong chợ kia, cùng uống một vài chén làm vui, nhân tiện nói chuyện. Nếu những lời tôi sẽ nói có thể lọt tai chú, thì chén rượu ấy để lưu chú ở lại; bằng không thì nó là chén rượu anh em từ biệt, để tiễn chú đi.
Nói đoạn, Diệu lôi kéo Xuân chạy xuống thuyền, năn nỉ cho bằng được mụ Tri đem cả hành lý lên bờ, rồi ba người cùng vào trong chợ gần đấy, tìm một quán rượu vắng vẻ làm nơi ăn uống, đàm đạo.
Trời đã xẩm tối.
Diệu gọi chủ quán lấy rượu và dọn riêng ở một chái nhà, cách biệt tai mắt khách hàng. Mụ Tri từ chối còn no, lảng đi chuyện trò vói vợ con chủ quán, để mặc hai người đối diện đàm tâm.
Nhà hàng lấy cá bể còn tươi vừa ở chài lưới đem lên hồi chiều, xào nấu mấy món gia vị để bán cho khách. Họ bảo nhau bọn này chắc là một gia đình khá giả, muốn tìm đường tị nạn, nhưng ghe nào cũng chật chỗ cả rồi; nhất là vì anh chồng còn trẻ thế kia mà định đi công nhiên, cho nên không tìm được ghe dám chứa. Cùng như bác lái kia lúc ban đầu, chủ quán định bụng chốc nữa sẽ thừa cơ dò la tình ý rồi bày mưu mách mối cho khách để kiếm tiền. Người vợ chủ quán muốn tỏ ra mình cao đoán hơn, nói nhỏ với chồng và mấy người đang ngồi gật gù đánh chén ở đầu ghế rằng: cô thiếu nữ với bà lão mới thật là khách sắp sửa đáp thuyền, còn anh chàng nọ xem ý như là nhân tình, đi theo để tình tự tiễn biệt đấy thôi. Mụ kết luận bên tai chồng:
- Tôi đoán thế không sai đâu, mình ạ! Chứ thời buổi này ai còn lạ gì... không lẽ một anh trai tráng, thế kia lại toan sờ sờ đáp thuyền ra đi, thì có mà khốn! Nhưng xem chừng hồ bao anh chàng no lắm, ba nó cứ việc dọn mâm rượu cho thật phủ phê vào, tha hồ tính tiền.
Mấy ông khách đầu ghế kiếm lời phỉnh khéo mụ quán, mong đến nậm rượu sau được mụ đong cho đầy đặn hơn:
- Chị ấy có mắt tinh đời thật, chúng tôi xin chịu, Phải, anh cứ việc thịnh soạn cho người ta mà tính tiền. Món bở này không đào thì uổng mất...
Nhưng chúng nhân đoán sai tán nhảm tất cả. Diệu với Xuân vào quán, không phải trai gái tìm chỗ tự tình, tiễn biệt, mà chỉ cốt lấy nơi nói chuyện anh hùng, bàn việc thời thế.
Hai người ngồi đối diện trên bục, bên cạnh hai tô trà Huế nóng sốt mà mụ chủ quán mới bưng vô cho khách giải khát trong khi chờ đợi làm cơm. Diệu lấy trong bọc ra gói thuốc lá Cẩm lệ và giấy quyến, mời bạn hút, nói rằng độ họ đánh trận với quân Trịnh ở vùng Cam sa, đã thừa dịp mua được ít bó thuốc lá giai phẩm này đem về làm kỷ niệm, gặp bạn chí thân mới đem ra thết đãi.
Xuân ngượng nghịu chối từ, lấy cớ mình khản cổ.
Trước khi bước vào chính đề, Diệu ngắt nhỏ vào cánh tay Xuân, đưa mắt ra ngoài chõng hàng và nói:
- Chú xem mấy thằng cha ngồi đầu chỗ ở ngoài kia chỉ trỏ xầm xì với nhau, chuyện gì thế, rồi đố chú biết?
- Thường tình họ thấy khách lạ thì dòm dỏ chứ gì? Xuân đáp.
- Không phải! Họ xầm xì ra điều anh em chúng ta là cặp trai gái tự tình với nhau đấy, vì chú cải trang thiếu nữ trông giống hệt và xinh đẹp lắm cơ. Mắt họ gà mờ, có biết đâu trong bộ tịch yếm khăn này, kỳ thật là một thiếu niên tráng sĩ...
Xuân cười thầm và nghĩ riêng trong trí:
- “Tội nghiệp nhỉ! Họ dễ thường không phải gà mờ, chính anh gà mờ thì có. Người con gái ngồi trước mắt sờ sờ mà vẫn không biết!” Xuân nghĩ bụng thế rồi thản nhiên nói:
- Họ nói gì mặc họ! Anh là trượng phu tráng sĩ mà còn bận lòng về mấy chuyện tiểu tiết thế ư?... Mà dù chúng ta chính thật trai gái ngồi nói chuyện với nhau đây thì có làm sao, anh nhỉ?
- Ấy chết! Chú này nghĩ lẩn thẩn... Ví dụ trong bọn kia có người nhìn nhận ra tung tích tôi là Trần Quang Diệu, rồi họ ngồi lê đôi mách, đồn nhau rằng hôm ấy, hôm nọ thấy Trần Quang Diệu đem gái vào một quán cơm chuyện trò chú thử tính xem còn gì là danh tiếng của tôi chứ?
Xuân biến sắc, đứng dậy:
- Nếu vậy, thì để tôi đi cho anh khỏi mang tiếng; tôi còn ngồi đây làm gì?
- Không, không, với chú lại là chuyện khác! Diệu cười nói và kéo tay bạn ngồi xuống. Tôi mất công đi tìm mãi mới bắt được chú, bây giờ phải hỏi cho ra lẽ, tại sao đang tự nhiên chú bỏ Tây Sơn mà đi? Nếu như cái lý chú phải thì tôi đi theo chú, vì chúng ta là bạn kết nghĩa, sống chết đi ở có nhau, ví bằng cái lý của tôi phải, thì tôi kéo áo chú trở về, chứ không khi nào tôi để chú đi một mình đâu!
Lúc ấy, chủ quán bưng mâm rượu vào, chào mời nịnh nọt rồi lui ra. Diệu toan đứng lên, đi mời mụ Tri vào ăn một thể, nhưng Xuân can lại:
- Thôi, tính bà cụ nhà tôi không chịu ngồi ăn chung thế đâu. Anh cứ để mặc bà tự do.
Bên ngoài, đối với Tây Sơn, mụ Tri đóng vai làm mẹ Xuân, nhưng bề trong vẫn giữ lễ chủ bộc, cho nên mụ đã kiếm cớ đi lảng vào trong xóm để tránh mặt.
Quả thật, Diệu với Xuân không cốt gì ăn uống; sau khi nhấp môi vài chén rượu gọi là, Diệu trịnh trọng nói:
- Chú Xuân ạ! Con người ta ở đời, có chí khí và bản lĩnh như hạng chú với tôi, nếu không muốn lập công danh sự nghiệp gì thì khỏi phải nói; ta cứ tìm lấy một chỗ ở ẩn, tự lực cày ruộng mà ăn, trồng vườn mà sống là xong. Trái lại, nếu ta có chí lập công danh sự nghiệp với đời, thì cuộc cách mạng của Tây Sơn thật đảng cho ta đem tài năng ra theo đuổi, giúp đỡ, cộng sự. Vì thế, tôi mới đem chú từ Thạch Bi Sơn xuống mà tiễn dẫn nhập đoàn. Bấy lâu, người ta đã đãi chú không bạc và anh em đồng sự đều có lòng mến yêu, vậy thì chú nên tự cho mình là gặp thời đắc sở lắm mới phải!... Thể mà bỗng dưng chú đùng đùng phủi áo đứng dậy, chẳng nói năng gì, lẳng lặng bỏ đi như tuồng trốn tránh là nghĩa làm sao?
Xuân ngồi cúi mặt thở dài, không nói gì cả.
Diệu nói tiếp với giọng ân cần năn nỉ:
- Ừ, tại làm sao tự nhiên chú bỏ đi chứ? Người ta có bạc đãi chăng? Không! Anh em đồng sự có lỗi gì với chú chăng? Cũng không! Nhưng chú đành dứt áo ra đi thế này, tất có một lẽ gì? Cái lẽ ấy, chú muốn giấu thiên hạ, nhưng nỡ lòng nào lại giấu tôi là người chú đã cứu mạng, là người đã cùng chú kết bạn tâm giao? Phải, không lẽ chú đi giấu tôi, vậy tôi van lơn chú phải nói thật cho tôi biết. Trước hết, tôi xin hỏi chú đi đây là có mục đích gì và định đi đâu?
- Tôi định ra Huế theo Hoàng Ngũ Phúc, anh ạ! Xuân trả lời đột ngột, như tất cả nồi hơi phẫn uất trong lòng tự dưng bùng lên.
- Chú muốn đi theo quân Trịnh? Diệu trố mắt hỏi lại.
- Phải, tôi muốn thế! Xuân đáp rất thản nhiên.
- Nhưng để làm gì?
- Để lập công trận cho họ rồi nhân đấy xin họ ban thưởng cho mình...
- À, đeo ấn phong hầu, truy tặng tổ phụ? Diệu đỡ lời bạn và hỏi.
- Không phải thế? Xuân lắc đầu nói. Tôi có ham mê gì những cái hư vinh.
- Thế thì chú muốn được ban thưởng gì? Cái phần thưởng chú muốn có ở quân Trịnh hẳn không thể mong được với Tây Sơn, cho nên mới bỏ chỗ này mà đi?
- Anh nói đúng. Chỉ có quân Trịnh mới cho tôi đạt cái sở nguyện ấy được.
- Ồ, sở nguyện gì mà lạ lùng khó khăn lắm thế, chú nói tôi nghe nào?
- Không, không lạ lùng khó khăn gì cả. Cái sở nguyện ấy là chính tay tôi được cầm dao chém đầu thằng gian thần Trương Phúc Loan; vì nó đã bị quân Trịnh cầm tù, thì chỉ có quân Trịnh có quyền cho tôi làm theo điều ước muốn.
Diệu nhìn Xuân và cười ngất, mặc dầu trong trí rất kinh ngạc vì nghe mấy câu Xuân vừa trả lời
Xuân thấy bạn cười, lấy làm khó chịu, cau mặt hỏi cách gay gắt:
- Anh cười... Hẳn anh cười sở nguyện của tôi là tầm thường, nhỏ mọn?
- Không phải thế đâu, chú đừng nghĩ lắm! Diện nín cười đáp. Tôi hiểu có chuyện oan gia cừu hận thế nào, cho nên chú cũng như nhiều người, muốn cho thằng gian thần Phúc Loan phải chết; nhưng tôi buồn cười chú bây giờ còn muốn được chính tay chặt đầu nó cho được hả giận.
- Tại sao lại không như thể được, hả anh? Xuân hỏi lại hơi vẻ sừng sộ kín đáo.
- Chú không biết thật à? Tại thằng Phúc Loan đã chết quách rồi, còn đâu!
- Anh nói thật hay bỡn?
- Tôi nói thật.
- Nghĩa là quân Trịnh đã xử trảm nó rồi? Nhưng tôi nghe nói Phúc Loan đã đem cả gia tài đút lót đổi mạng kia mà!
- Quân Trịnh chưa xử trảm Phúc Loan, nhưng Phúc Loan đã chết. Chú muốn báo thù chỉ còn có cách tìm đến chỗ chôn nó mà đào mả đánh thây, như cách Ngũ Tử Tư báo thù Sở Bình vương ngày xưa. Mả nó nghe đâu ở chặng Quảng Bình ấy, vì Hoàng Ngũ Phúc cho giải ra Thăng Long để xét án, khi đến Quảng Bình thì Phúc Loan mang bệnh chết tại đó...
Xuân tái mặt, đứng lặng cả người, tay buông đũa bát, thở dài:
- Thế ra trời không cho tôi lập giết thằng khốn nạn ấy để báo thù cho cha, trọn lời thề với mẹ, hử trời!
Rồi nhanh như biến, trong trí Xuân suy nghĩ và quyết định không cần phải giấu giếm chân tướng với tâm sự nữa, cho nên chẳng để Diệu kịp hỏi lại câu nào, Xuân đã dõng dạc nói tiếp:
- Anh Diệu ơi! Em có một câu chuyện riêng, bấy lâu vẫn giấu cả anh và mọi người, bây giờ sắp sửa biệt ly, mà có lẽ là vĩnh quyết, vậy em xin nói thật, anh tha lỗi?
- Được, chú cứ việc nói! Diệu uống cạn chén rượu và gật gù trả lời. Chú với tôi tuy là anh em kết nghĩa, nhưng tình thân như cốt nhục, còn có việc gì quan ngại. Tôi đã bảo nếu như cái lý của chú phải thì tôi cũng xin bỏ Tây Sơn, để cùng đi với chú kia mà!
- Trước hết từ giây phút này, anh không được gọi em là chú nữa nghe! Xuân mỉm cười nói.
- Sao... Sao thế? Diệu quắc mắt hỏi lại, đầy vẻ sửng sốt.
- Vì, chính thật em là con gái, anh ạ! Giờ này, với y phục này mới thật là bản tướng em... Bấy lâu em trá hình nam tử, chỉ để che mắt thế gian, nhiều khi vẫn muốn nói thật với anh, mà chưa có dịp.
Không sao tỏ hết được thần thái và tâm trạng Diệu trong giây phút vừa ngạc nhiên này. Chàng tê mê ngơ ngẩn cả người, đến nỗi muốn nói mà chưa biết nói thế nào cho đúng với trường hợp lạ lùng, ngoài hẳn tưởng tượng. Miệng chàng chỉ lầm rầm những tiếng “Thảo nào! Thảo nào!”, trong khi cặp mắt tinh anh và nẩy lửa kinh dị, nhìn sững người ngồi đối mặt.
Xuân cười và nói:
- Anh còn lạ mặt em lắm sao mà nhìn dữ thế?... Để em kể hết câu chuyện cho anh nghe!
Rồi thì với giọng chậm rãi dịu dàng, Xuân đem chuyện thân thế mình: con cái nhà ai? đối với Trương Phúc Loan có mối thù giết cha làm sao? Trước khi bà mẹ nhắm mắt, mình đã thề nguyền cầm dao chém đất thế nào? Giả trai lần mò vào núi Bia học võ nghệ ông giáo Hiến là có lập chí gì? Nhất nhất kể rõ cho Diệu nghe, không dấu tí nào.
Không đè nén được lòng bi thương, cảm khái, nàng - ta nên trả lại tiếng xưng hô ấy cho Xuân từ đây - khóc tấm tức và kết thúc với ý quyết định:
- Đấy, anh coi em đã lỗi mất lời thề thứ nhất đối với vong linh ba má em rồi!... Giờ còn có cách gì hơn là bắt chước Ngũ Viên ngày xưa là trả thù Sở Bình vương, như anh đã nói ban nãy, em phải làm sao đến chỗ chôn Phúc Loan, đào mả nó lên, đánh vào thây ma nó ít hèo, thì mới chuộc được lời thề, hả được lòng giận... Anh ơi! Cái thù cha mẹ chất nặng trong tâm hồn em từ mấy năm nay, không giây phút nào quên... Em không có anh trên em dưới nào mà hòng đổ trút công việc báo thù, tuyết hận ấy cho ai!... Thế thì phen này em muốn ra theo Trịnh lại càng là đắc sách, anh thử nghĩ xem!
Diệu vội vàng trụt xuống dưới đất, chắp tay vái nàng lia lịa và trịnh trọng nói:
- Cô thật là Mộc Lan đời nay: tôi xin chắp tay vái cô để tỏ lòng kính mộ một bực hiếu nữ anh thư mà bấy lâu tôi có mắt không thấy.
Nàng thẹn thùng luống cuống, gạt tay Diệu và kéo chàng ngồi xuống:
- Trời ơi! Anh chớ làm quá thế. Cho thiên hạ dòm ngó dị nghị chúng ta! Em đã thật tình nói rõ chân tướng và tâm sự cho anh biết rồi, giờ em van anh không được gọi em là cô đấy. Anh cứ coi em như đứa em út mà gọi bằng em, không thì em xuống thuyền ngay bây giờ, không nói chuyện nữa.
- Vâng, cô cho phép thì tôi xin gọi là em! Diệu thong thả đáp, đối vẻ mặt thân thiết bả lả ban nãy ra mạo kính cẩn. Thảo nào... Thảo nào từ trước ông Huệ vẫn ngờ ngợ em là đàn bà cải trang, té ra em là đàn bà thật. Lập chí của em đáng kính đáng phục quá. Nhưng tôi thành thật nói với em rằng: em muốn đầu Trịnh để theo đuổi chí hướng phục thù, rõ là thất sách, chả khác gì muốn bắt cá mà trèo lên cây cao. Em nghĩ sao lại có tư tưởng trái ngược thế không biết.
- Anh nói lạ! Hiện nay Trịnh ở Bắc Hà không phải hùng cường bậc nhất đấy ư? Chứng cớ rành rành là họ đánh có một trận mà hạ được kinh đô chúa Nguyễn dễ dàng như trở bàn tay. Em muốn toại chí phục thù, không nương bóng họ thì còn trông vào ai được bây giờ?
- Ấy chết! Thế là em định trèo cây tìm cá đấy.
- Vậy thì anh bảo em phải làm sao cho được toại chí?... Dù sao em cũng là đàn bà còn trẻ người non dạ, nghĩ chưa rộng, lo chưa xa, anh cứ thật tâm chỉ dẫn hộ em.
- Muốn được toại chí, em không phải đi đâu cả, cứ việc ở lại đây.
- Với Tây Sơn?
- Phải, với Tây Sơn. Em nên biết nhất trị, nhất loạn, nhất hưng, nhất suy, lẽ trời cuộc đời xưa nay tuần hoàn đắp đổi vẫn thế. Cổ lai không có ngôi vua nào, thế nước nào được vững bền thịnh trị mãi mãi. Phàm kẻ có thiên hạ, hễ trị quá thì kiêu, kiêu quá thì đầy, đầy quá thì đổ, là lẽ tự nhiên. Họ Trịnh xứ Bắc cũng như chúa Nguyễn trong ta, hưởng mãi thịnh trị và sinh ra kiêu mãn lắm rồi, bây giờ đến lúc dân tâm ngảnh mặt, thiên vận đổi thay; cuộc thắng của họ chẳng qua như ngọn đèn hết dầu, phừng lên một cái để rồi tắt rụi đấy thôi. Chúng ta cứ xem dân tâm nhân sự đủ đoán thiên vận sắp sửa đổi đời. Lâu nay dân tình lưu ly khổ sở ra sao, chẳng nói thì em cũng rõ. Đời này chính là đời loạn, dân khố trăm đường, ai nấy đều mong được thay tay đổi mặt làm chủ, để cho sự sống của họ sửa lại khác hơn, dễ chịu hơn. Thế là cải thiên mệnh lẫn nhân tâm cùng muốn từ giã hai họ Trịnh Nguyễn...
- Để chuyển sang họ Tây Sơn ư? Xuân ngắt lời Diệu và hỏi lại, dường như có ý ngờ vực.
- Chứ lại còn ai! Diệu trả lời một cách rắn rỏi, tỏ hết lòng tin. Gặp đời loạn lạc thế này, phàm người anh hùng hào kiệt đều muốn nói tuốt gươm đứng dậy, ra tay sửa lại cuộc đời, dựng lên đại nghiệp. Vì thiên hạ là của công ai có tài dẹp loạn yên dân thì người ấy làm chủ. Xưa nay làm nên việc lớn trong thiên hạ, bởi tay những hạng quần manh áo vải thiếu gì? Theo con mắt tôi nhận xét, mà tôi tự tin rằng nhận xét đúng, anh em Tây Sơn trại chủ tức là hạng anh hùng ứng vận ra đời, thế nào họ cũng lập thành đại nghiệp. Hễ tôi đoán sai, thì cho em khoét mắt cắt lưỡi tôi đi.
... Bởi vậy, tôi thế, mà em cũng thế, dù là trai gái, chúng ta đều có nhiệm vụ đóng góp với cuộc đời, chẳng gì chúng ta cũng có ít nhiều tâm huyết, ít nhiều tài nghề, cần phải xem xét việc đời và cân nhắc sự cử động mình cho đúng, chim khôn tìm cây mà để chân, người hiền tìm chủ mà giúp đỡ, chớ nên tháo thứ mà đi lạc nẻo lầm đường, mang tiếng con người bất trí, rồi ra hối hận không kịp. Ví như em đùng đùng bỏ đi, tính ra đầu Trịnh đó. Tôi xin khuyên em phải ở lại đây, đừng đi đâu hết.
Những lời biện luận xác đáng của Diệu chưa đủ làm cho Xuân phải chiết phục; nàng cười gằn và nói với giọng rất khó chịu:
- Tiền thân ông anh tôi dễ thường là Trương Nghị, Tô Tần! Anh khéo bênh vực tâng bốc anh em họ Tây Sơn như trời!...Họ có đại chí tranh vương đồ bá ở đời, thế sao lại khuất thần hàng Trịnh, nhận lấy cái chức Tây Sơn hiệu trưởng làm vinh?... Đã hàng Trịnh thì thôi, lại còn hàng Nguyễn nữa chớ! Thú thật với ông anh; tấn kịch tôn phù diễn ra ngày hôm qua, khiến em là đàn bà cũng thấy sượng sùng hết sức. Vì thế mà em phải cáo bệnh, không dám thò mặt ra bài ban hành lễ, chứ có đau ốm gì đâu. Cũng vì thế mà em phải tính nước cao chạy xa bay cho mau, nếu ở lại thì em lỗi đến lời thề thứ nhì của em nữa.
Đến đây, Diệu mới hiểu rõ nguyên do bí ẩn đã xui khiến Xuân bỏ Tây Sơn ra đi thế này; chàng cau mặt, nói như rên rỉ:
Chết nỗi! Em rõ lầm to!
- Trời đất ơi! Việc rành rành giữa thập mục sở tại như vậy, mà anh còn báo rằng em lầm ư?
- Phải, em lầm! Điều lầm của em to hơn cái đình. Con người ta trông thấy núi Thái sơn mà không nhìn rõ mây lông bay qua trước mắt là chuyện thế đấy.
Đoạn, Diệu kiễng mình, ghé vào bên tai nàng nói nho nhỏ, phòng sợ có ai rình rập nghe trộm:
- Này, việc quân cơ bí mật, tôi nói riêng cho em biết để tống khứ ngay sự hiểu lầm trong trí em đi nhớ!... Tây Sơn hàng Trịnh cùng như hàng Nguyễn chỉ là trá hàng, cũng như em đã trá hình ấy mà!
Nàng bâng khuâng như ngủ say mới tỉnh, hỏi lấy hỏi để:
- Thật thế ư?... Thật thế ư?...
- Phải, thật thế đấy! Diệu đáp. Con hổ trước khi muốn đánh, vẫn co mình lại để lấy đà mà phóng cho xa, vồ cho mạnh, em còn lạ gì? Anh em Tây Sơn chính là con cọp ấy. Họ không phải hạng người chịu cúi đầu làm thần bộc Nguyễn hay Trịnh đâu... Bữa trước, hàng Trịnh chỉ vì binh cơ bắt buộc, không thế không yên; hôm qua bày trò Hoàng Tôn Dương, chẳng qua là một kỳ kế cho được tạm thời lung lạc nhân tâm, để từ đồ lương sách đó thôi. Duy có ai nghĩ nông nổi mới tưởng là họ thất thế hàng thật... Rồi họ xoay ra phá Trịnh, đánh Nguyễn cho mà xem. Cái ngày ấy không xa, chúng ta nên tin chắc như thế. Tôi xem trong anh em họ, nhất là Nguyễn Huệ, anh hùng, khoái đạt, thao lược hơn người; sở chí ông ta rất to tướng lại không biết đâu mà hạn lượng... Việc phục thù em muốn, có thể ỷ thác các ông mà sẽ được như nguyện chắc chắn... Nhiều người mong mỏi tri ngộ như chúng ta còn không được thay; em đang ở trên cao gió mát, lại muốn tuột xuống, chui vào hang tối, chẳng phải là người bất trí lắm ư?
Một thiên thần, thuyết lợi hại của Diệu, vừa minh bạch vừa chân thành lay động Xuân tỉnh hẳn giấc mê, bất giác bẽn lẽn hối hận, mạnh bạo nhận lỗi mình nhất thời suy xét nông nổi:
- Chết chưa! Không có ngọn đèn cao minh của anh chỉ dẫn, tí nữa em bỏ đường quang đâm quàng vào bụi rậm còn gì!
Diệu cười, chăm chủ nhìn vẻ mặt nàng bẽn lẽn hối hận, càng tôn thêm nhan sắc ngây thơ, thùy mị. Trong trí chàng khấp khởi âm thầm những cảm giác từ kính đến yêu, từ yêu đến muốn. Chàng chợt nhớ lời cụ Giáo Hiến đã tiên đoán mình năm nay sẽ thấy lá thắm đề thơ, chỉ hồng buộc cẳng, mà vợ cũng là tay anh hùng, vậy thì hẳn ứng vào Xuân chứ còn ai?
Hai người như có giây thần ràng buộc, tương cảm tương thông; chính lúc ấy Xuân cũng ước mong cùng Diệu sống làm chim liền cánh, thác làm cây liền cành; được người bạn chung thân là Diệu; chẳng những nàng sung sướng vô cùng, mà cùng không lỗi với lời thứ ba trước khi bà mẹ nhắm mắt.
- Bây giờ em tính thế nào? Diệu hỏi với tất cả tình tứ ân cần.
- Còn gì nữa, anh chỉ bảo thế nào là phải, em xin vâng thế! Nàng dịu dàng đáp, tỏ ý phục tùng.
- Quân tử nhất ngôn. Ban này tôi đã nói rồi: hễ cái lý em phải thì tôi nguyện cùng em cùng bỏ Tây Sơn; trái lại, nếu cái lý tôi phải, thì em cùng tôi trở về. Thế em có nhận cái lý tôi phải hay không?
- Em chịu cái lý anh phải. Bây giờ vác mặt trở về xem ra khó coi thế nào ấy, anh ạ!
- Cơ khổ! Em không hiểu ông Huệ có lòng yêu mến tài em ra sao đấy... Lúc được tin báo rằng em bí mật bỏ trại ra đi, ông chẳng lộ thanh sắc với ai, chỉ gọi riêng anh đến và bảo: Anh Diệu, tôi ủy thác anh đi theo dõi Phùng Xuân, dỗ khéo hắn ta trở về đây? Con người niên thiếu hữu tài ấy, ta chớ nên để cho qua tay địch quốc, hay là có điều gì bất đắc chí mà phải mai một thân danh!” Đấy, em xem ông Huệ đối với em có thiện cảm đến như thế, huống chi bây giờ thêm biết rõ bản tướng và tâm sự em, hẳn ông là người có độ lượng rộng rãi, còn quý mến em hơn nữa... Em cứ trở về, đừng ngại.
- Vâng, em xin theo anh!
Nàng nói đoạn đứng phắt dậy, gọi mụ Tri xuống thuyền lấy hành lý, rồi cùng Diệu trở về Quy Nhơn.
***
Liền sáng hôm sau, Diệu cùng đi với Xuân đến đại trại Nguyễn Huệ, để một người thì phục mệnh, một người thì ra mắt với bộ y phục mới lạ. Cả hai vẫn là bộ tướng trực thuộc dưới quyền Huệ chỉ huy, như ta đã biết
Huệ vừa ở giáo trường về, lưng còn đeo kiếm, ngồi một mình ở chái đông đang mải cặm cụi nhìn bức họa đồ hành binh trải rộng trên mặt án thư, cốt xem hình thế sơn xuyên và đường xá từ khoảng Hải Vân quan ra đến kinh đô Phú Xuân, phòng nay mai lâm thời dụng binh cho được thông thuộc.
Sử dụng tâm ấy cho ta thấy rõ lời Diệu xét đoán rất trúng: anh em lập chí bay nhảy cao xa, chứ không khi nào chịu cúi đầu làm thần bộc Trịnh Nguyễn.
Lúc nghe tiếng động sau lưng có người tới, Huệ ngảnh lại chỉ vừa kịp trông thấy bóng Diệu, rồi lại để mắt vào họa đồ mà vừa nói chuyện, không lưu ý sau lưng Diệu còn có một cô thiếu nữ đứng khuất.
- Thế nào, anh Diệu? Anh không tìm ra tung tích Bùi Phùng Xuân mà dỗ hắn trở về ư?
- Bẩm, tôi...
Diệu vừa thốt ra được hai tiếng đã bị Huệ đỡ mất lời. Thiên tính Huệ nói năng rất nhanh nhẹn, mau mắn, thường khi nói chuyện với đôi ba người, mà mình Huệ đỡ bên này, chận bên kia, một mình nói gần hết cả buổi; người đối thoại nhanh lắm mới xen được một hai câu. Huệ lại thông minh khác thường; nhiều khi đồng thời cả trí, cả miệng, cả mắt, mà mỗi đằng một việc, đằng nào phân minh đằng ấy, không hề lộn xộn. Tức như lúc này miệng hỏi chuyện Diệu nhưng mắt cứ để vào địa đồ, trí cứ suy nghĩ quân cơ chiến lược. Có điều lúc nào cũng như người tiếc thời giờ, bận trí khôn, chỉ thích nghe nhanh, nói nhanh, đến nỗi Diệu mới chậm rãi thưa thốt được hai tiếng, Huệ đã cướp lời và nói tiếp lia lịa, vì tưởng Diệu nói thong thả dường như ấp úng thế ấy, là dấu tỏ công việc bất thành rồi:
- Thôi, tôi hiểu rồi! Chắc hắn đã mau chân tẩu thoát trước khi tôi bảo anh đi tìm chứ gì!
Rồi Huệ lại tiếp ngay:
- Con người tuổi trẻ có tài ấy đi mất, tôi lấy làm tiếc, anh nghĩ thế nào?
- Thưa, tôi cũng nghĩ đáng tiếc, Diệu trả lời xuôi xị cho qua chuyện.
- Tài thiện xạ của hắn đã có công lao với chúng ta rất nhiều, anh có nhớ không?
- Vâng, tôi nhớ lắm!
- Giá tỉ như hôm ở Thạch Bi sơn, anh không gặp được hắn thì chẳng còn đời?
- Quả thế.
- Ví dụ trận đánh ở Bán tân, chính tay hắn đã cắm mũi tên nhịp ba vào cổ bọn Đồ Văn Hoảng, chứ còn ai?
- Sự ấy thật có.
- Lại còn trận đánh với quân Trịnh ở Cấm Sa, không có hắn đem đội thiện xạ đi đoạn hậu rất táo gan đắc lực, thì hôm ấy binh nhà còn phải tổn hại nhiều?
- Vâng, ngài dạy chí phải!
- Một người thiện xạ như vậy, không ở lại giúp sức với chúng ta lúc này, thật uổng biết mấy!.,. Tôi định một mai đánh đuổi quân Trịnh mà phục sẵn vài ba nghìn tay cung ở chỗ này thì chúng nó phải chết như rạ, mấy thằng Quận Việp cũng chẳng còn hồn! Đây... Đây nè, anh lại gần, tôi chỉ cho mà xem!
Huệ nói và trỏ tay vào khoảng Lãng Cô ở trên địa đồ.
Lúc ấy, Huệ mới nghỉ nói trong giây lát, vì mãi chỉ dẫn Làng Cô hiểm yếu cho Diệu xem.
Thừa cơ Diệu mới được nói theo ý mình muốn:
- Bẩm tướng quân, tuy tôi không tìm được Phùng Xuân, như ý ngài đã đoán hồi nãy, nhưng đền bù lại tôi đã tìm ra một người khác, cũng niên thiếu, cũng anh dũng, cũng khôi ngô, lại cũng thiện xạ y thế, dám chắc không kém chút nào...
- Thật ư? Huệ chận lại hỏi, không đợi cho Diệu nói hết lời.
- Khi nào tôi dám nói sai với chủ tướng! Diệu ung dung đáp, có ý muốn khích phát tấm lòng bên tài hiếu dị của Huệ trước khi giới thiệu người đang đứng khuất sau lưng mà Huệ vô tình, chưa hay.
- Lạ nhỉ! Một người cũng thiện xạ như Phùng Xuân? Huệ hỏi với giọng sốt ruột.
- Vâng, còn lạ hơn nữa, là người này cũng tên là Xuân!... Diệu cứ thong thả nói, như tuồng đánh đố bí mật, vì Diệu với Huệ mặc dầu phân cách bởi danh vị chủ tướng bộ tướng, nhưng vẫn có tình bạn bè đồng học xưa kia, lại thêm được Huệ tin dùng ưu đãi, nên Diệu mới dám nói chuyện úp mở dóng một như thế.
- Ồ! Tên cùng là Xuân à? Huệ chấm câu hỏi bằng vẻ mặt sửng sốt. Nhưng người trong thiên hạ đồng tình, đồng danh thiếu gì? Hễ thỉện xạ thì được, trong quân ta đang cần nhiều tay bắn giỏi.
- Vâng, cũng tên là Xuân, chỉ có điều khác; đằng kia là Phùng Xuân thì đằng này Thị Xuân.
- Thì anh nói trắng là người ấy đàn bà có gọn chuyện không?
- Thưa, còn hơn nữa, người ấy là con gái còn trẻ măng, người hợp với tên, tên đúng như người.
- Quý hóa lắm!... Nhưng anh còn đợi gì không dẫn nàng đến giới thiệu với tôi?
Diệu nói và cười, rồi né qua một bên để cho Huệ ngảnh lại thấy Xuân tiến lên cúi chào lễ phép, không nói câu gì. Nàng trở lại thái độ e lệ vì bản tính, vì trường hợp:
Huệ sửng sốt nhìn nàng từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, rồi reo rầm lên, vừa mừng vừa lấy làm lạ:
- Ha! Ha!... Chính là Xuân chứ còn ma nào khác!
- Vâng, thưa tướng quân, chính là tôi! Xuân khép nép nói.
- Quái! Thế này là nghĩa thế nào? Huệ sửng sốt, nói lầm rầm như tự mình hỏi mình, nhưng mắt nhìn Diệu, ừ, thế này là nghĩa thế nào? Xuân bỏ trại đi là một chàng thiếu niên, bây giờ Xuân trở về là một người con gái?
- Bẩm chủ tướng, Xuân con gái mới thật phải là Xuân! Diệu nói.
- Thật ư?
- Vâng, ngài trông thấy thì biết.
Huệ nhìn sửng giây lát, vỗ tay nói cười ra vẻ đắc ý:
- Phải rồi!... Phải rồi!... Hèn nào từ trước ta vẫn ngờ ngợ Xuân chắc là con gái giả trai, nhưng ai cũng bảo ta hoa mắt, nghi bậy... Hôm vừa mới đây, trong nhà ta có cuộc đánh đố vì Xuân đánh đố ăn tiền: đại ca với tẩu tẩu ta một hai bảo ta nói láo, còn ta thì yên trí tin theo con mắt ta xưa nay nhận xét phán đoán người không sai bao giờ; ta nhất định Xuân là gái. Ta quả quyết đánh cuộc hôm nào khám xét mà coi, hễ ta thua cuộc thì chịu mất mười nén bạc... Mấy hôm, vì mắc bận việc quân, nên ta quên nhãng, không thì đã có vụ khám xét hư thực để ta thua cuộc chịu mình hai mắt không tinh, hay là ta đã ăn của đại ca và tẩu tẩu ta mười nén bạc rồi... Có lẽ Xuân nghe được câu chuyện đánh cuộc đó, mà bỏ trốn đi trước chăng?
- Thưa, không phải vì thế đâu! Diệu trả lời thay nàng. Sự thật, vì một lẽ quan hệ hơn nhiều kia.
Đoạn, với giọng nói rất bi tráng, Diệu đem hết gia tình oan khúc và những lời thề nguyền của nàng với bà mẹ trên giường hấp hối, kể lại một lượt cho Huệ nghe.
Trong khi Diệu thuật chuyện, nàng đứng dựa bên cột, cúi mặt khóc rấm rứt.
Huệ thấy trước mặt mình một người con gái còn nhỏ tuổi, con nhà lương thiện, côi cút, gặp cảnh nhà tan đời loạn thế này mà không chìm đắm, lại có lập chí lạ lùng, đáng kính, cho nên trong lòng cảm động chứa chan. Khi Diệu kể xong, Huệ yên ủi nàng bằng những lời rất thành thực, niềm nở, và hỏi chuyện ân cần:
- À! Tôi nhớ có được nghe nói việc oan của quan Khám lý hồi đó! Té ra cô là con ngài?
- Thưa vâng! Nàng gạt nước mắt và đáp. Tôi là con mà là con một còn sót lại. Việc cải trang mà đặt mình dưới bóng cờ tướng quân bấy lâu, thật là tình thế phải vậy, cúi xin tướng quân tha thứ...
Huệ ngắt lời nàng và nói:
- Không, không, cô không có điều lầm lỗi gì mà cầu xin tha thứ, trái lại, hiếu tâm và lập chí của cô, khiến ai là người có chút lòng khí khái, cũng phải kính nể. Điều sở nguyện của cô, cứ đặt vào Tây Sơn, sẽ không phải thất vọng đâu! Tây Sơn hứa giúp cô làm đúng cả mấy lời thề.
- Đa tạ tướng quân. Được vậy thì không những tôi mang ơn, mà vong linh thầy mẹ tôi cùng phải cảm khích.
Nàng chắp tay nói, rồi toan sụp xuống lạy tạ, nhưng Huệ gạt đi và hỏi:
- Từ nay cô vẫn phù tá việc quân cho chúng tôi được chứ?
- Vâng, tôi càng xin tận tâm hiệp lực hơn trước! Nàng trả lời rắn rỏi.
- Vẫn chỉ huy đội binh cung nỏ?
- Thưa vâng, nếu tướng quân vẫn lòng tin dùng ủy thác.
- Ổ! Tin dùng ủy thác một người có tài thiện xạ hiếm hoi như cô, bao giờ tôi cũng sẵn lòng. Nhưng mà...
Huệ đứng lại suy nghĩ; có ý phân vân về chỗ dùng một người thiếu nữ; trong quân, nhất là người thiếu nữ chưa chồng, e có điều vật nghị không tiện.
Như đón biết ý Huệ, nàng nói:
- Nhưng mà... Chắc hẳn tướng quân e ngại tôi là con gái độc thân.
- Chính thế. Cô tài thật, đoán trúng điều tôi đang nghĩ! Huệ đáp: Tài nghề cô vẫn là tài nghề ấy, duy có hình tích thì trước thế khác, bây giờ thế khác, làm sao?
- Thưa, tướng quân lo xa thế thôi, chứ đàn bà con gái cũng là người; đã là người thì cũng có phận sự với nước non giống nòi, y như đàn ông con trai. Nếu đủ nhiệt thành, đủ tài lực, đủ can đảm, người đàn bà cầm đầu một đội quân, xông pha trận mạc không được ư? Sử sách từng chép những hạng ấy, thiếu gì? Tôi tuy tài năng hèn mọn, đám quyết không khi nào phụ lòng tri ngộ của tướng quân.
- Phải, tôi vẫn biết thế. Có điều tôi đang nghĩ tìm một cách giải quyết lưỡng toàn thì hay hơn.
Huệ đưa mắt nhìn Diệu và mỉm cười nói tiếp, hỏi nàng:
- Cô gặp gia biến như thế, thì chắc khi xưa ở nhà chưa đính ước với ai?
- Bẩm chưa! Nàng bẽn lẽn đáp.
- Hay quá! Thế thì tôi có cách giải quyết lưỡng toàn rồi.
Trước vẻ sửng sốt bất ngờ của Diệu cũng như của nàng. Huệ chạy lại vỗ vai Diệu và nói với nàng cách trịnh trọng, vui vẻ, mà hầu như có một mạng lệnh bên trong:
- Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật, tôi xin tác hợp cho cô với Diệu trở nên đôi bạn... Thật là phải đôi vừa lứa, tráng sĩ - giai nhân... ừ, chiều nay tôi bẩm mệnh với ông Tiết chế, anh tôi, rồi tôi đứng chủ hôn cho hai anh chị. Cuộc gặp gỡ ở Thạch Bi Sơn, không phải ngẫu nhiên; ông trời xe duyên hai người từ đấy...
Diệu mừng thầm, nàng làm thinh. Làm thinh là dấu tỏ bằng lòng. Nhưng hai người chưa ai kịp ngỏ lời gì, Huệ đã nhanh nhẹn, tươi cười, nắm mỗi người một tay lôi đi và nói:
- À, việc quân nên giải quyết mau chừng nào hay chừng ấy... Không đợi đến chiều. Hai người đi theo tôi qua dinh Tiết chế ngay bây giờ để tôi bẩm mệnh cho xong... Nhân tiện để lấy mười nén bạc được cuộc, sắm lễ mừng Xuân với Diệu thành hôn.
IX. Ảo vải thêu rồng
Nguyễn Huệ đứng chủ hôn cho Diệu và Xuân rồi, vẫn giữ vợ chồng làm bộ tướng trực thuộc dưới quyền mình chỉ huy, hậu đãi tin dùng, có việc gì cũng bàn soạn, hỏi han, ủy thác, xem thân mật hơn anh em ruột thịt. Chẳng trách hai người cảm tình tri ngộ ấy, về sau tận trung cho đến phút cuối cùng, hăng hái lấy sức một cột chống đỡ trời nghiêng và đền đáp ân sâu bằng cách chết rất hùng tráng, rất bi thảm.
Lúc ấy, Tống Phúc Hiệp lại sai Tôn Thất Chất trở về Quy Nhơn, đem lễ vật dâng Hoàng tôn Dương, nhân tiện dò la thôi thúc Tây Sơn liên binh đánh Trịnh.
Nguyễn Lữ đang trông nom chế tạo hơn trăm chiến thuyền gần xong; nhiều chiếc đã đặt thần công đại bác lên trên và quân lính đã đem ra luyện tập thủy chiến. Còn trên bộ thì hàng ngày Nguyễn Huệ trần lực thao diễn kỵ đội cùng bộ binh. Nguyễn Nhạc dẫn Tôn thất Chất đi xem quang cảnh rộn rực trên bờ dưới nước rồi nắm tay Chất và nói ra vẻ thành thực:
- Đấy ngài xem, chúng tôi dự bị ráo riết, nhất định trong vòng hai tháng nữa thu xếp hoàn toàn thì đưa Đông cung hạ lệnh xuất sư, đồng thời tiến công cả thủy lẫn bộ. Chẳng những thu phục kinh đô Thuận Hóa, lại bỏ rọ hết thảy quân Trịnh, không cho một mống nào chạy thoát về Bắc Hà.
Khôn ngoan đủ cạnh, Nhạc lại sai Trần Văn Kỷ thảo sẵn tờ hịch đứng tên Đông cung để hôm xuất sư ngài sẽ báo cáo với thần dân, đưa cho Chất xem. Chất càng tin Tây Sơn thực lòng trung nghĩa, trở về Phú Yên kể rõ với họ Tống mọi sự mình được mục kích.
Tống thêm yên tâm vững trí, coi Tây Sơn là quân triều đình cùng thờ một chúa, làm một việc với mình, chẳng còn là kẻ thù nước địch như trước mà phải phòng bị.
Ông tin cậy vui mừng đến nỗi cho phép bộ hạ luân phiên về nhà thăm vợ thăm con, lại gọi phường tuồng vào trại hát suốt đêm cho sĩ tốt cùng ông giải trí.
Cai cơ Nguyễn Khoa Kiên nhất định vào can, vẻ lo lắng buồn rầu in rõ nét trên mặt. Tống đón đầu bằng giọng hài hước:
- Ông cai cơ có chuyện gì lo buồn như người mất trộm nàng hầu thế? Vào đây cầm chầu một lúc cho khuây nào!
- Bẩm, tôi đang lo nẫu ruột, còn bụng dạ nào nghe hát cầm chầu? Kiên nhăn nhó trả lời: Tây Sơn xảo quyệt lắm, tướng quân chớ nên quá tin!
- Ồ! Họ dốc lòng tôn phù, hiện đang dự bị binh mã sắp sửa khởi công quân Trịnh nay mai, ông không biết à? Tống hỏi lại, đầy vẻ tin cậy anh em Tây Sơn.
- Thưa, tôi có biết!.. Chúng nó dự bị để đánh Phú Yên ta trước đấy.
- Cơ khổ! Cứ lo đầu này, ngờ đầu kia như ông thì mất lòng hào kiệt trong nước, còn mong có ai xuất thân hiệp lực với triều đình chứ?... Tống hất hàm cười nói. Nào, ngồi đây nghe hát một lúc.
Nguyễn Khoa Kiên lắc đầu và thở dài đi ra cửa trại, gặp cai đội Nguyễn Văn Hiền, nín lại kể lể than vãn:
- Tống công bị anh em Biện Nhạc cho ăn bùa mê thuốc lú mất rồi, cái đầu anh em mình chưa biết còn gắn trên cổ được tới hôm nào?
- Bọn mình là võ tướng, hễ có giặc đến thì đánh! Hiền trả lời: Đánh mà thua thì ta chỉ có việc chết theo thành trì đất nước cho tròn danh tiết nam nhi, trả nợ cơm áo vua chúa. Chỉ có vậy thôi, can chi phải than vãn cho mất nhuệ khí.
- Đã đành rằng thế! Kiên trợn mắt tròn xoe và nói. Nhưng muốn đánh giặc cũng phải xếp đặt phòng bị thế nào, chứ để giặc đến rồi ta múa hai bàn tay không với chúng à. Đằng này, Tống công nhẹ dạ quá tin lũ Tây Sơn, giờ không phòng bị cóc khô gì cả mới là khó chớ!
- Nếu thế thì anh em là phải lấy quân bản bộ mà lo phòng bị riêng vậy.
- Bác nói rất phải, tôi cùng nghĩ thế.
Hai tướng từ giã nhau, ai lo phận sự nấy là canh phòng Tây Sơn, trái hẳn sở kiến nông nổi của Tống Phúc Hiệp.
Nhưng tự lực của họ khác nào muốn múc nước gáo tưới xe củi cháy, mà cũng muộn rồi.
Họ bố trí chưa xong, mờ sáng hôm sau đã thấy kỵ binh Tây Sơn, dưới hiệu cờ Nguyễn Huệ, đã kéo đến như nước tràn núi lở, reo hò đánh phá tưng bừng.
Tống Phúc Hiệp vừa kịp hốt hoảng chạy trốn. Binh Nguyễn bị đánh úp bất ngờ, mạnh ai nấy tìm đường tẩu thoát, nhất thời như ong vỡ tổ, tình cảnh sợ hãi rối loạn rất thương; họ chỉ dày đạp lẫn nhau mà chết khá nhiều, không cần giặc chém giết.
Văn Hiền và Khoa Kiên hấp tấp đem dăm sáu trăm quân bản bộ đến tiếp chiến, không khác gì tự dâng thịt trước miệng hùm.
Được chủ tướng treo gương khích lệ, binh Nguyễn kháng chiến cực hăng nhưng vì quả bất địch chúng, thêm khí giới kém thua tinh nhuệ, thành ra đánh nhau không đầy một giờ đồng hồ, chết dần chết mòn gần hết. Văn Hiền bị tướng khách Lý Tài chém chết tại trận.
Các trại kia nghe thế giặc mạnh quá, vội vàng rút lui vào mạn trong không dám kéo ra tiếp ứng.
Khoa Kiên đơn thân độc mã ở giữa vòng vây, còn múa tít siêu đao, tá xung hữu đột, ngã mấy chục quân Tây Sơn, mở được một huyết lộ mà chạy.
Trần Quang Diệu thúc ngựa đuổi theo gần sáu dặm đường vào hẻm núi non, Khoa Kiên chẳng may vì ngựa ngã vật mình xuống đất, mới bị bắt sống.
- Tức chết được!... Tao bị chúng bay bắt đây là do thiên mệnh, chứ không phải tự tao hèn nhát, bất tài! Khoa Kiên trợn mắt nghiến răng nói với quân Tây Sơn bắt trói.
Nguyễn Huệ thấy Khoa Kiên khôi ngô anh dũng bèn động lòng, nghe Diệu tấp tắc khen Kiên ở trận chiến đấu như con hổ dữ, nên Huệ càng thương tiếc, muốn thu làm bộ tướng mình:
- Nhà ngươi chịu hàng, ta tha chết cho! Huệ niềm nở nói khi thấy lính giải Kiên đến dưới thềm.
Kiên trừng hai mắt đầy tia máu, hàm râu vểnh ngược, nói lớn:
- Thằng chết bầm kia! Tao, Nguyễn Khoa Kiên có hề sợ chết mà cầu mi cho sống?... Vả lại, có ba lẽ đáng chết, mi đã bắt được tao, thì giết ngay tao đi, không phải nói gì lôi thôi...
- Ba lẽ đáng chết là ba lẽ gì, thử kể nghe nào? Huệ ung dung hỏi và giữ nét mặt hòa nhã, không vì Khoa Kiên hỗn xược mà nổi giận như thường tình mọi người.
- Tao là võ tướng triều đình, có một phần trách nhiệm giữ đất này, mà giặc kéo đến, tao không đánh không được: một lẽ đáng chết. Tao vẫn biết bọn Tây Sơn hay trá hàng, cho nên thường khuyên can Tống công phải dè chừng, phòng bị chúng bay, nhưng can không đắt, trí sáng bằng thừa, ấy hai lẽ đáng chết. Tao vẫn tự phụ là tiếng dũng sĩ, thế mà phen này thất thế để chúng bay bắt sống được, không kịp tự sát cho được toàn danh, ấy là ba lẽ đáng chết. Có ba lẽ đáng chết như thế, tao có sợ chết ham sống, ưa hầu thèm công danh tước lộc của bây ư. Thôi, bay giết ngay tao đi, mau lên... Không thì đưa gươm đây, tao tự đâm cổ ở đây cho bay xem!...
- Nghĩa sĩ!... Nghĩa sĩ!... Huệ gật gù khen ngợi và ra hiệu cho đao phủ dẫn Kiên đi chém cho toàn danh tiết.
Đao phủ giải Kiên đi mấy bước Huệ to tiếng bảo quân sĩ:
- Quân bay đưa gia quyến ông cai cơ về Quy Nhơn cấp dưỡng tử tế nghe!
Huệ sai chém, nhưng vẫn thiết tha mến tiếc, cho nên cố ý để khởi việc chiếu cố gia đình, hoặc Kiên có cảm động hồi tâm mà chịu hàng chăng?
Kiên nghe rõ ràng, song cứ điềm nhiên đi thẳng, không thèm ngảnh cổ lại tạ ơn cũng chẳng có vẻ cảm động, tỏ ra mình đã vì việc nước mà không tiếc thân, lại không đoái tiếc cả gia quyến vậy.
Đi ra gần khỏi viên môn, một trong hai người đao phú cũng động lòng kính mến, thương hại hay sao không biết, nói rầm rì bên tai Kiên với giọng khuyên bảo hơn thiệt:
- Ông này gàn quá, không biết thời thế!... Cứ chịu hàng phục đi, có phải khỏi chết, lại được sung sướng tấm thân?...
Kiên tức lộn ruột, quắc mắc trông lẫm liệt ghê sợ, cả tiếng mắng nhiếc:
- Đồ khốn nạn!... Mi cũng là con dân chúa, mi khuyên tao hàng giặc à?
Trong khoảng chớp mắt, Kiên vừa cựa mình, đứt cả dây trói, chụp lấy mã tấu trong tay người đao phủ hàng, chém bừa đầu người ấy và thừa trớn lia ngã người kia, rồi ù té chạy.
Cửa dinh nhất thời náo động, kẻ la ó, người rượt theo, nhưng không ai dám đến gần vì Kiên khỏe quá, lại có khí giới trong tay, đã quay lại cướp thêm được một ngọn mác của đám truy binh và đâm mấy người trọng thương.
Chỉ còn cách độ bốn năm trăm thước nữa thì đến một khu rừng rậm rạp, nếu Kiên chạy được vào đấy là thoát thân mất tích, truy binh không thể tìm ra.
Nhưng giữa lúc ấy Bùi Thị Xuân vừa về đến viên môn, hỏi rõ sự tình, liền giật lấy cung tên của một người lính gác, tế ngựa đuổi theo, giương cung đặt tên nhắm rất đích xác, bắn trúng vào đùi Kiên đau quá, phải ngã phục xuống, không chạy được nữa.
Quân sĩ lại dẫn vào trước mặt Huệ.
Khuyên nhủ quy hàng đà không chịu nghe, lại giết quân lính người ta mà chạy trốn, ai cũng đoán chắc phen này Kiên sẽ được thấy chủ tướng Tây Sơn tháo đê thịnh nộ và tự tay chém lấy đầu Kiên, không cần đến lính đao phủ.
Mọi người sửng sốt vô cùng, khi trông Huệ lại đón tiếp Kiên bằng nụ cười và nhan sắc hòa nhã hơn trước:
- Ta khen nhà ngươi đáng là kẻ hảo hớn đời này!... Giờ nên ta rộng lượng, tha cho mà về, thì nhà ngươi tỉnh sao?
Kiên trả lời rất quật cường:
-Thì ta lại chiêu tập binh sĩ đánh nhau với Tây Sơn các ngươi chỉ chết, còn phải toan tính gì nữa.
Huệ cười, bảo viên giám quân trao cho Kiên một cây lệnh tiễn và nói:
- Đó, nhà ngươi cầm lệnh tiền này đi bình yên; ta cho một con ngựa mà đi!
Không nói không rằng, ý chừng có vẻ tự thẹn, Kiên lẳng lặng rảo bước ra ngoài viên môn, cỡi ngựa đi thẳng.
Tướng sĩ đều ngơ ngác nhìn nhau, sửng sốt về cử chỉ lạ của Huệ. Có người hỏi tại sao không chém phứt cho rồi, lại thả cọp về rừng là nghĩa thế nào?
Huệ ung dung đáp:
- Các ngươi lấy làm quái lạ, chỉ vì không chịu suy rộng nghĩ xa đấy thôi. Ta tha nó về để bảo nhau cho biết uy đức Tây Sơn; hoặc vị thế mà trong bọn chúng nó đâm ra nghi kỵ lẫn nhau, ta cũng có lợi... Phải, ta biết Khoa Kiên là một hổ tướng bên địch, nhưng các người thử nghĩ xem cái nhà đã dột nát lung tung, sắp đổ đến nơi, dù có một vài tày lá mới đậy che, một vài cây tre tốt chóng đỡ cũng không ăn thua vào đâu?... Nhất là ta rất thương người tài, muốn họ tâm phục, chứ không muốn đa sát. Vả lại bây giờ, ta thả cho đi, nay mai lại tóm cổ nó cũng không khó kia mà!
Bây giờ mọi người mới hiểu chỗ dụng tâm của Huệ là cao.
Tây Sơn thừa thắng đuôi theo binh Nguyễn và quét sạch từ đấy vào mãi Bình Thuận, mỗi chỗ đều phân binh trấn thủ, đặt quan cai trị.
Tiện đường, Huệ dẫn vợ chồng Quang Diệu lên núi Bia thăm ông Giáo Hiến. Thầy trò gặp nhau rất vui vẻ. ông Giáo Hiến vẫn yêu mến Huệ nhất trong đám môn đồ, lại có nhỡn lực biết Huệ là bậc anh hùng, sau này tất làm nên sự nghiệp hiển hách.
Vừa gặp dịp mới săn được con heo rừng, ông đem ra khao đãi tướng Tây Sơn. Trong lúc thầy trò đánh chén, ông hào hùng nói với Diệu:
- Năm nọ ta đoán tiền định cho ngươi rồi có vợ cũng tài giỏi, có sai đâu nào. Mà tưởng ai lạ, té ra Xuân cũng là học trò ta, hồi còn thụ nghiệp ở đây ta đâu ngờ là con gái giả trang... Thế là hợp cơ trời đấy! Vợ chồng anh em tận tâm phù tá Huệ nghe.
- Bẩm thày, vợ chồng con đã thề nguyền với nhau điều đó! Diệu và Xuân đồng thanh nói.
Trước khi sắp từ biệt, Huệ cũng hiếu kỳ, yêu cầu ông Giáo Hiến xem tướng số cho mình, thử coi hậu vận thế nào? Ông lắc đầu và nói:
- Người ta bảo “quý nhân bất tướng” còn phải xem xét gì nữa!,.. Có điều lão có mười sáu chữ này, để sau mà nghiệm...
Tức thời ông cầm bút viết 16 chữ sau này đưa cho Huệ:
“Nội huých vu tương Ngoại ngữ kỳ vũ Lưỡng tiểu tương thừa Thập hậu hữu tứ” - Huệ đón lấy xem đi xem lại không hiểu gì cả, xin thầy giảng nghĩa rõ ràng cho nghe, nhưng ông Giáo Hiến dồn cả nỗi buồn vào trong tâm, gượng cười và nói:
- Ông cứ giữ lấy, để sau nghiệm xem, lão không dám tiết lộ thiên cơ, sự trời bắt tội... Cố lên! Tiền đồ của ông to lắm đấy!
Mười sáu chữ trên chỉ là ẩn ngữ của ông Giáo Hiến nói về vận số họ Tây Sơn. Hai câu trên chắc là ám chỉ vào việc anh em Nhạc Huệ bên trong, sẽ có chuyện lục đục tới đánh nhau, nhưng bên ngoài thì sẽ chống cự cường địch, có lẽ trở về trận Quang Trung hoàng đế đại phá quân Thanh sau này. Còn hai câu dưới, ông tiên tri tới chỗ mai sau Huệ xưng đế, kỷ nguyên Quang Trung, rồi truyền cho con là vua Cảnh thịnh, cả hai đời chỉ được 14 năm là hết; mà trên chữ Quang và dưới chữ Cảnh đều có chữ “tiểu”, thể là “Lường tiểu tương thừa”.
Kể ra ông thật đáng là một bực cao ấn kỳ nhân đương thời, hình như tinh thông về Lý học của ông Trạng Trình. Đến sau chúa Nguyễn Ánh ra đánh Quy Nhơn, nghe đồn tiếng ông, sai người đi tìm, thì núi Thạch Bi trở lại hoang vu, tung tích ông đâu mất không biết. Có người nói ông bỏ đấy mà vào tận trong xứ mọi Thủy xá, Hỏa xá. Người khác kể chuyện khi ông thấy vận Tây Sơn suy và chúa Nguyễn chắc nắm phần thắng, ông thở dài và nói: “Ta đã thề bao nhiêu năm nay không chịu làm dân Nguyễn chúa, bây giờ lẽ nào để họ làm nhục được ta ư?”, thế rồi gieo mình xuống bể mất tích.
Sau khi Huệ thắng binh Nguyễn ở miền trong về, Nhạc sai người báo tin thắng trận cho Hoàng Ngũ Phúc biết, nhân thể xin chúa Trịnh phong thưởng cho em mình chức vị gì đó lấy danh diện với ba quân.
Trịnh Sâm lập tức phong Huệ làm Tây Sơn hiệu Tiên phong tướng quân.
Đó là Nhạc theo đuổi chính sách tam hòa phía Bắc, che được chuyên tâm đánh phá chúa Nguyễn ở miền nam rồi sẽ hay. Trong tướng sĩ vẫn có nhiều người chưa thấu rõ thâm mưu viên lược ấy, cho là Tây Sơn tự hạ quá; tưởng là chức gì chứ Tiên phong tướng quân hay to hơn thế nữa, ông Tiết chế (tức là Nhạc) tự phong cho em không được ư, hà tất phải chờ có tờ giấy vàng đóng ấn chúa Trịnh mới là vinh?
Huệ nghe chỉ cười nhạt, nói riêng với Quang Diệu:
- Cái chí của chim hồng, lũ sẻ kia làm sao hiểu nổi!
Thật thế, cử chỉ Tây Sơn giả vờ quy thuận, chẳng những gắn chắc lòng tin của chúa Trịnh, lại giúp họ được lợi thêm đất nữa.
Nguyên lúc bấy giờ quân Trịnh đóng ở Châu ổ, địa đầu Quảng Nghĩa, bị lam chướng dịch lệ vật chết rất nhiều. Đến tháng chạp năm Ất tị (1775), Hoàng Ngũ Phúc thấy bộ hạ mình chết hao chết mòn nhiều quá, lấy làm lo sợ, lại chính mình cũng mắc phải bệnh lị, bèn viết thư khẩn thiết và sai ngựa cấp truyền chạy ra Thăng Long, xin chúa Trịnh cho rút quân về giữ Thuận Hóa. Còn Quảng Nam thì giao cho Tây sơn trấn thủ, vì anh em họ đã tỏ hết lòng trung thuận đáng tin.
Trịnh Sâm chuẩn y ngay. Hoàng Ngũ Phúc tuổi già bệnh nặng, chỉ kịp rút binh về đến thành Thuận Hóa để thở hơi cuối cùng.
Ngũ Phúc vừa nhắm mắt, thì Hoàng Đình Thế từ Bắc Hà trở vào đến Thuận Hóa
[1], vâng lệnh chúa Trịnh sai đi ngày đêm thuốc men vào cho, và nếu bệnh không thể cứu, thì hỏi han Ngũ Phúc về quốc gia đại kế sau này.
Đinh Thể hộc tốc chạy vào bên giường, ném tọt bọc thuốc xuống đất, bưng mặt khóc hu hu tiếng rất thảm thiết, làm não nề ruột gan tất cả mọi người:
- Trời cao đấy dày ôi!... Tôi đi chậm hết mấy giờ, để lầm lơ mất việc lớn nhà nước rồi còn gì?... Trời hỡi trời!
Có lẽ Ngũ Phúc chỉ mới bắt đầu trạng thái chết giả, chưa phải tắt hơi thật, cho nên khi có những tiếng náo động gây nên bởi mọi người chung quanh, khiến ông hồi tỉnh, từ từ mở mắt trông thấy Đình Thế đứng gào khóc bên cạnh. Ông nhẹ nhàng hỏi:
- Hẳn nhà ngươi vâng lệnh chúa thượng sai vào?
- Bẩm vâng!... Đình Thế gạt nước mắt và nói, nét mặt hớn hở. Lão tướng quân đã lai tỉnh!... May quá, thiếu chút nữa tôi có tội to với quốc gia, không biết đến đâu!
- Chúa thượng sai nhà người vào tất có việc trọng yếu gì?
- Vâng, trọng yếu lắm. Trước hết là đem thuốc của ngự y bào chế, ban cho tướng quân...
Ngũ Phúc ngắt lời Đình Thế, thở dài và nói; lời nói bây giờ minh bạch, rắn rỏi, hầu như một người vô bệnh vậy:
- Phiền nhà ngươi chuyển tấu hộ tôi muôn vàn cảm tạ thâm ân chúa thượng; nhưng bệnh ta đã vào tận cao hoang rồi, còn thuốc men nào kịp nữa, dù cho với những tay danh y như bực Cao Hoãn, Hoa Đà ngày xưa.
Ta vừa tắt thở trước khi nhà ngươi bước chân vào, không hiểu sao tự dưng tỉnh lại, có lẽ trời khiến ta thế, vì việc quốc gia hậu sự, chúa thượng có lòng tin yêu ban hỏi ta.
- Vâng, quả thật có thiện ý bên trong... Đình thể đáp. Chúa thượng có một việc khẩn yếu, muốn hỏi riêng tướng quân.
Ngũ Phúc khoát tay đuổi tả hữu ra ngoài hết, chỉ lưu lại một viên tòng quân thơ lại tin cẩn xưa nay, để ghi chép những lời cơ mật sắp nói và ký tên đóng ấn làm bằng, gửi Đình Thể mang về dâng chúa Trịnh.
- Nào, chúa thượng truyền hỏi những gì, nhà ngươi cứ việc nói đi! Ngũ Phúc mở lời sau khi thấy tả hữu lui ra khỏi buồng mà viên thơ lại đã chạy theo gài then đóng cửa cẩn thận.
...............(mất một số báo) Huệ tiến binh đến Gia Định đánh có một trận, Lý Tài, Tân chính vương và Thái thượng vương, mỗi người tháo chạy một đường. Thừa thắng, Huệ ruổi quân đến Long Xuyên, Vĩnh Long, bắt được cả ba người đem giết. Tàn binh chúa Nguyễn vỡ chạy tan nát, chỉ nghe tiếng quân Tây Sơn đã đủ khiếp vía.
Sử chép Nguyễn Huệ bốn lần đánh Gia Định, trận này là lần thứ nhất.
Lúc bấy giờ, nhân tâm trong Nam thương mến chúa Nguyễn, vẫn ngấm ngầm cừu địch với Tây Sơn, chỉ đợi cơ hội là quật khởi. Huệ dò biết rõ ràng như thế, cho nên sau khi hạ được Gia Định rồi, muốn xin anh cho mình ở lại trấn thủ miền nam, phòng giữ thế lực chúa Nguyễn. Nhưng mà Nhạc không nghe, vội vàng ra lệnh triệu về; thâm ý là sợ để em hùng trấn một phương, quyền to thế lớn, sau này khó trị. Thói đời vẫn thế, anh em ruột thịt, khi còn hàn vi nghèo khổ với nhau thì không sao, song đến lúc chung lưng đấu cật, làm nên có ruộng trước vườn sau, nhà ngói cây mít, cái mối tham lam nghi kỵ cũng theo đó mà nảy ra.
Thông minh, thao lược, Huệ hẳn biết ý của ông anh như thế, cho nên khi tiếp được lệnh Nhạc triệu về, chỉ cau mặt thở dài một cách kín đáo, rồi truyền cho ba quân sửa soạn lên đường, chứ không than phiền bàn nói gì cả. Trần Quang Diệu hỏi:
- Việc bình định Nam kỳ sự thật chưa xong, sao Thượng công đã vội rút quân về?
Có lệnh của Đại vương; Huệ đáp.
- Ông tướng cầm binh ở ngoài, có khi mệnh vua không tuân cũng được, Thượng công không biết sao? Ta rút binh về hôm nay thì ngày mai đồ đảng Chúa Nguyễn nổi lên như ong lập tức; bấy giờ lại phải trở vào đánh dẹp mất công.
- Nhà ngươi nói phải, ta cũng biết thế, nhưng mà có lệnh của Đại Vương.
Diệu toan nói nữa, nhưng Bùi Thị Xuân ở đằng sau khẽ kéo vạt áo chồng, ra hiệu bảo thôi.
Liền ngày hôm ấy, Huệ giao kiếm ấn cho Đô đốc Chu ở lại giữ thành Gia Định, rồi cùng Lữ đem đại binh trở về Quy Nhơn.
Mùa xuân năm sau, Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc ngầm bảo tướng sĩ bộ hạ dâng biểu khuyến tiến, rồi lập đàn làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Đế kỷ nguyên là Thái Đức.
Người áo vải ở ấp Tây Sơn tiêu chằng tiền thuế nhà nước, bây giờ mặc áo hoàng bào; thống trị ngót mười triệu dân, từ bên này đèo Hải Vân cho đến mũi Cà Mau.
Thái đức Hoàng đế đóng đô ngay ở thành Đồ bàn đã tu bổ năm trước, nay đổi tên là Hoàng đế thành, giáng chỉ phong cho ngự nhị đệ Nguyễn Lữ làm Tiết chế, ngự tam đệ Nguyễn Huệ làm Long nhương tướng quân; trở xuống các quan văn võ đều được phong thưởng, tùy theo công lao trận mạc bấy lâu.
Giữa lúc làm lễ đăng quang, quần thần đang bài ban triều hạ, bỗng thấy một đoàn chim cắt, từ trên nóc nhà Thái cực điện bay ra, mổ nhau kêu inh ỏi. Duy có một con bay vụt lên cao, còn mấy con kia bay ra ngoài bể. Những người có tâm cơ, đều cho đấy là một điềm đáng nên suy nghĩ.
Chiều hôm ấy, Hoàng đế ban đại yến cho tất cả nội cung, ngoại triều và thủy bộ chư quân.
Dự yến xong, trở về bản dinh, Quang Diệu có vẻ ngà ngà say, vừa cởi áo mũ nhìn vợ và gật gù hỏi:
- Thế nào? Em có lấy làm thích khẩu với bữa yến Ngài ngự ban cho hôm nay không?
- Phát ngấy thì có!... Thị Xuân trả lời vắn tắt, gương mặt không vui.
- Ừ, có thể, phát ngấy!... Toàn là sơn hào hải vị, tôi không thích... Tôi chỉ thích ngồi trên mình ngựa ăn cơm nắm với muối tiêu đã quen đi rồi.
- Không, em không phát ngấy vì nhiều sơn hào hài vị đâu! Chỉ phát ngấy vì trông thấy cái mặt Biện Nhạc thế mà cũng vua với chúa...
Giá có sét đánh khít ngay bên tai, Quang Diệu cũng không giật mình khiếp vía cho bằng nghe vợ mới nói mấy câu bất ngờ ấy. Chàng tỉnh rượu hẳn, vội vàng đưa tay bưng lấy miệng Thị Xuân, không để cho nàng nói hết câu:
- Trời ơi! Tai vách mạch rừng, em muốn vợ chồng ta chết chém à?
Đoạn, chàng ghé bên tai hỏi:
Tại sao em có ý nghĩ hằn học như thế?... Nói cho tôi nghe, nhưng nó khe khẽ chứ, tôi van em đừng có gây nên tai họa vô ích!
Thị Xuân vâng lời chồng, nói khẽ, nhưng nếu có người rình ngoài sân, chắc cũng nghe rõ:
- Mình nghĩ không bực bội sao được? Giá như người ta, đã xưng hoàng xưng đế như vậy, tí nào cũng phải tấn phải tấn phong cho em mình tới quốc công hay là vương tước cũng đáng. Nhất là người em như ông Huệ, đã lập bao nhiêu công lao chinh chiến mới dựng lên cơ nghiệp này!... Hừ!... Long nhương tướng quân? Chức tước ấy quý báu gì? Nó không xứng với công lao ông Huệ một chút nào!... Tôi xem ra Nhạc nham hiểm, tham lam, có ý nghi kỵ em; lúc thành công phú quý không muốn cùng em chung hưởng... Thế nào rồi cũng có cuộc xung đột cho mà xem. Mình không nhớ bốn chữ “Huynh đệ huých tường” của cụ Giáo Hiến ư?... Tôi nghĩ ông Huệ bị bạc đãi mà bực thay!... Rồi đây chúng ta cũng nên tôn ông lên làm hoàng đế không được sao?
Mấy lời Thị Xuân nói, như liều thuốc đánh thức Quang Diệu sực tỉnh cơn mê, bắt chàng suy nghĩ, phải chịu rằng nàng nhận xét đúng.
X. Con diều biển cất cánh về Nam
Quả như lời Quang Diệu đã tiên đoán: Tây Sơn lấy được Nam kỳ lần đầu, mà không để Nguyễn Huệ ở lại xếp đặt mọi việc nội trị, phòng thủ, chỉ cốt lấy thóc gạo tiền bạc rồi về, giao cho một hai viên tướng bất tài giữ thành Gia Định, thành ra những tôi trung nghĩa của chúa Nguyễn có thể nổi lên chống cự và làm nên to chuyện.
Sau đó Nguyễn Huệ lại vào đánh Gia Định ba lần nữa và một lần phá tan quân Xiêm ở Mỹ Tho, kế võ công thật hiến hách, nhưng mà cơ sở và thanh thế của Nguyễn vương Phúc Ánh đã bắt đầu xây dựng chắc chắn ở đất Nam Kỳ, trở nên đối địch với Tây Sơn rồi. Tuy lúc sơ khởi, Nguyễn vương hay bại trận mặc lòng, nhưng thế lực về tinh thần thì càng ngày càng mạnh; dần dần lấn được Tây Sơn ở miền Nam.
Thế là nhất thời thất sách, Tây Sơn phải mất công đánh dẹp luôn mà vẫn không hoàn toàn làm chủ được cả xứ Đồng Nai, lại còn chậm trễ cả cuộc tiến ra miền Bắc.
Vua Thái Đức lên ngôi được hơn bốn năm có con diều biển bay về Hoàng đế Thành, bấy giờ Tây Sơn mới có cơ hội Bắc tiến. Con diều biển ấy tên là Nguyễn Hữu Chỉnh.
Chỉnh là người Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, khôn ngoan giảo hoạt từ bé, lúc đi học văn ông thầy đã nói: “Thằng này về sau là bầy tôi giỏi ở đời trị; nếu gặp đời loạn, nó sẽ là một tay gian hùng đáo để” tuổi trẻ đỗ hương cống, Chỉnh lại học binh thư võ nghệ, định theo đuổi con đường này cho đi tới công danh sự nghiệp to tát ở đời.
Nhưng hai ba khoa đi thi tạo sĩ không đỗ, Chỉnh bực mình không học nữa, lần mò được làm môn hạ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, tỏ ra người túc trí đa mưu, Ngũ Phúc đem lòng yêu mến và rất tin dùng.
Ta còn nhớ hồi Ngũ Phúc vâng mệnh chúa Trịnh vào đánh Thuận Hóa, Chỉnh đi theo trong quân, giúp đỡ nhiều mưu hay chước lạ, và có dịp đem kiếm ấn bằng sắc vào Quy Nhơn phong chức Tây Sơn Hiệu trưởng cho Nguyễn Nhạc.
Chỉnh làm quen với anh em Tây Sơn từ đó. Lúc đưa trở về, Chỉnh đã nói với Ngũ Phúc:
- Tôi xem anh em Tây Sơn có khí phách ngang tàng, không chịu ở dưới thiên hạ. Nhất là Nguyễn Huệ chí khí khác thường có tài thao lược hơn cả hai anh!
Ngũ Phúc biết rõ rài năng tâm địa Chỉnh, cho nên khi hấp hối trên giường bệnh ở thành Phú Xuân, đã căn dặn Hoàng Đình Thế về tâu chúa Trịnh nên trọng dụng Chỉnh, không thì giết đi, chớ để hắn qua tay địch quốc, sinh sự bất lợi cho nước nhà.
Không biết Hoàng Đình Thế nói với chúa Trịnh thế nào chỉ biết Ngũ Phúc qua đời rồi, Chỉnh về Nghệ An quê nhà, theo Hoàng Đình Bảo, làm chức tham quân, trông nom tuần phòng mặt biển. Chỉnh tài thủy chiến, đánh dẹp bọn hải khấu khiếp sợ, nhân đấy có tên là con diều biển, không mấy chốc được phong Bằng tĩnh hầu.
Sau chúa Trịnh Sâm với Hoàng Đình Bảo ra Thăng Long, giao cho quyền chính, vì chúa đã nhất định bỏ con trưởng, lập con thứ, con của Đặng phi, cho nên muốn đặt tương lai người con thứ ấy vào lòng trung thành hộ vệ của Đình Báo. Tội nghiệp Trịnh Sâm không ngờ mình đang mở cửa đón rước nội loạn vào trước rồi ngoại xâm đến sau.
Tháng mười một năm Nhâm Dần (178?) một người môn hạ Chỉnh là Hoàng Viết Tuyến ở Thăng Long về Nghệ, bộ mặt hớt hơ hớt hải, đầy vẻ lo buồn. Tuyên mới bước chân vào, Chỉnh đã cười và hỏi đón:
- Trông cái bộ mặt anh đủ biết ngoài kinh sư mới có chuyện chi lạ phải không?
- Bẩm, có thế! Tuyển thở dài đáp. Chuyện nguy biến to chứ không phải lạ mà thôi.
- Thế nào? Chỉnh hỏi vồ vập, biến sắc.
- Thưa, máu nhuộm vương phủ, xác đầy kinh sư! Tuyển tóm tắt thời cuộc Thăng Long bằng tám tiếng ấy, ngồi phịch trên chiếc ghế đẩu, nghỉ hơi giây lát rồi mới nói tiếp. Tĩnh đô vương (tức Trịnh Sâm) vừa mới nhắm mắt xong, kiêu binh Tam phủ nổi lên giết Tôn đô vương Trịnh Cán (con Đặng phi) lập Đoan Nam vương Trịnh Khải. Nhiều đại tướng triều thần bị chúng sát hại, thây nằm ngổn ngang phủ đường, thấy mà ghê khiếp!... Khắp kinh thành đang xôn xao đẫm máu vì kiêu binh, thì tôi bỏ trốn về đây, báo tin cho ông hay...
- Khổ quá, Huy quận (tức Hoàng Đình Bảo, tước phong Huy quận công) không trấn áp nổi bọn lính làm loạn ư? Chỉnh ngắt lời hỏi.
- Trời ơi! Chính Huy quận nhu nhược mà gây nên cuộc đại biến này, bị kiêu binh làm thịt phanh thây trước nhất.
- Thật à?
- Vâng, mắt tôi trông thấy loạn quân xả Huy quận ra làm năm bảy mảnh ở dưới chân voi, đầu một nơi, mình một nẻo... Bọn khởi loạn lại lùng bắt tất cả vây cánh đồ đảng Huy quận mà giết, bất cứ xa gần. Chúng nói phát cỏ phải bứng cả rễ, bởi vậy, tôi nghe có tên ông ở trong số “trảm thảo trừ căn” ấy nữa... Thấy sự tình nguy cấp cho ông, nên chi tôi phải lật đật về đây báo tin, để ông liệu cách đối phó với thời cuộc làm sao cho thầy trò ta cùng được an toàn.
Cống Chỉnh thoạt nghe, hoảng sợ tái mặt, nhưng lại đổi ngay sắc mặt tỉnh táo:
- Ồ! Đại trượng phu gặp lúc biến thì phải tìm cách chống trả cuộc đời, tự toàn lấy thân, chứ khi nào chịu để ba thằng lính đắc chí ấy làm hại được mình!... Nhà ngươi cứ lẳng lặng theo ta, không phải hỏi gì hết.
Tức thời, Chỉnh cưỡi ngựa vào thành, yết kiến Vũ Tá Giao, trấn thủ Nghệ An, cung kính vái chào và nói:
- Việc đại biến vừa phát ở kinh sư, chắc hẳn tướng quân đã biết?
- Vâng, tôi cũng vừa mới được nghe; Tá Giao trả lời. Nhưng tại sao hôm nay phải đến đây lại bầy vẽ lễ mạo quá thế?
Chỉnh ung dung nói tiếp:
- Nếu vậy thì hôm nay không phải Nguyễn Hữu Chỉnh đến ra mắt Vũ Tá Giao mà chính là Khoái Triệt đến nói lẽ lợi hại với Hàn Tín, chẳng hay tướng quân có vui lòng hay không?
Tá Giao nhìn Chỉnh sửng sốt:
- Có lẽ ông là Khoái Triệt đời nay, nhưng tôi đâu dám sánh với Hàn Tín! Tuy vậy, lẽ lợi hại thế nào, xin ông bảo cho biết.
Không úp mở gì hết, Chính nói thẳng:
- Sự thể thiên hạ ngày nay, người có địa vị như tướng quân, nếu biết tự lập thì còn, hễ do dự thì chết. Việc triều đình rối nát và loạn đảng đắc chí thế nào, tướng quân đã rõ; chúng đã quyết định tẩy trừ vây cánh gần xa của Huy quận, tôi với tướng quân cùng ở trong số đó... Vậy tướng quân nên nhanh bước đi trước người ta thì hơn, ngồi đợi cho lũ tiểu nhân kia ám hại được mình, chẳng hóa bất trí; sao bằng tướng quân giữ ngay lấy đất Hoan Châu này mà xưng vương tự hùng; một mặt ta đóng đại binh ở Hoàng Mai để ngăn đường quân địch, một mặt bảo Hoàng Đình Thế giết Phạm Ngô Cầu mà giữ lấy đất Thuận Hóa để làm thanh viện cho ta, còn về mặt bể thì Chỉnh này xin đảm đương vô sự. Như thế là tướng quân chia phân thiên hạ, giữ được lâu dài, không hơn luồn cúi bọn cừu địch, mà tính mạng treo ở trong tay chúng ư? Cổ lai, những người dựng lên cơ nghiệp đồ vương, phần nhiều bởi khéo lựa cơ và biết thừa thời; nay chính là thời cơ rất tốt, tướng quân chớ nên bỏ qua.
Tá Giao lắc đầu lia lịa:
- Thôi, thôi, ông bảo tôi làm phản triều đình mà giữ đất xưng vương, thật tôi không dám!
Chỉnh muốn thuyết một câu trót:
- Này, thủa xưa Khoái Triệt hiến kế xưng vương đất Tề mà Hàn Tín không biết nghe, quả nhiên về sau Hàn Tín bị giết đấy!... Địa vị tướng quân ngày nay cùng tương tự, nên nghĩ cho kỹ.
- Tôi nghĩ kỹ rồi! Tá Giao đáp.
- Nghĩa là chờ bọn cừu địch hạ lệnh bắt về Thăng Long thì về?
- Phải, tính mạng sinh tử, tôi đành nhờ trời! Tá Giao nói thế rồi hỏi lại Chỉnh. Còn ông thì ông tính thế nào?
Chỉnh làm bộ bưng chén nước uống cho kịp thời giờ suy nghĩ xoay đổi mưu mô trong trí, rồi thản nhiên trả lời:
- Tôi thành tâm phù trợ tướng quân lên bực chí tôn chí quý, tướng quân không khứng nghe thì thôi. Còn tôi thì nội ngày mai tôi xuống thuyền đi ra Thăng Long...
- Chết! Ông ra Thăng Long để tự đưa thịt vào miệng hùm ư! Tá Giao ngắt lời Chỉnh và hỏi lại, kinh ngạc.
- Vâng, tôi ra để tự thú với bọn cừu địch, vì đằng nào cũng chết. Thà rằng tự thú trước, chúng còn lượng tỉnh mà nới tay cũng nên, chứ ở đây chờ đợi lệnh bắt, thì thế nào cũng không còn đầu lâu. Huống chi tôi ra tự thú chẳng những may ra tự cứu được mình lại cứu cả tướng quân nữa.
- Ủa! Ông này nói nghe lạ quá! Lại cứu được cả tôi!
- Có lạ gì? Tôi ra trước mặt chúng, sẽ nói ngay thật rằng có kẻ khuyên tướng quân giữ đất Hoan Châu làm phản, nhưng tướng quân nhất định không nghe, như vậy là tỏ lòng tướng quân trung nghĩa với triều đình và tán thành việc làm của kiêu binh Tam phù, tất nhiên chúng hoan hỉ tha giết tướng quân, lại còn trọng dụng thêm không chừng.
Nói đoạn, Chỉnh vái chào đi thẳng, không đợi cho Tá Giao ngỏ lời cảm tạ hảo ý của mình hay là hỏi gì thêm nữa.
Trở về dinh, Chỉnh hối hả Viết Tuyển dọn sẵn hai chiếc thuyền to, túc trực ở bên, để ra Bắc có việc quan.
Viết Tuyển biết tính khí Chỉnh độc đoán, không muốn hỏi cặn kẽ, cứ việc lẳng lặng đi sắp sẵn thuyền bè, theo lời đã dặn.
Nửa đêm hôm ấy, Chỉnh đem cả gia quyến, hành lý và bọn Viết Tuyển tùy tùng thân tín hơn hai chục người xuống thuyền ra lệnh nhổ neo dời bến lập tức. Chỉnh không quên lớn tiếng truyền bảo thủy thủ trước lúc khởi hành:
- Mùa này đường ra Bắc Hà thường có sóng gió to, chúng bay liệu xem buồm lái cho tử tế nghe!
Trên bến dưới thuyền, ai cũng định chắc Bằng lĩnh hầu đi ra Bắc thật. Trong bọn thuộc hạ có nhiều người ra tận nơi sụt sùi tiễn biệt, vì họ tin rằng trưởng quan họ đi ra Thăng Long phen này hẳn là dữ nhiều lành ít, một đi không về. Vũ Tá Giao cũng thân ra tiễn, nhưng kỳ thật là muốn thám thính hư thực; lúc về cười ha hả, nói với mọi người:
- Thế mà người ta vẫn ca tụng cống Chỉnh khôn ngoan nhất đời này?... Tôi cho là thằng chí dại... Chẳng thế lại tự nhiên đi ra kinh sư cho chúng làm thịt!
Thì ra Chỉnh đánh lừa được cả mọi người, bắt đầu từ bọn thủy thủ trở đi.
Lúc thuyền ra cửa Hội Thống, Chỉnh bảo lái sang tay phải, nghĩa là đi vào Đàng trong, bấy giờ ai nấy đều chưng hửng, biết Chỉnh cốt lập kế thoát thân, nói một đàng, đi một ngả.
- Ngài đưa chúng tôi đi đâu đây? Viết Tuyển đánh bạo hỏi.
- Đưa các ngươi đi đến chỗ yên ổn phú quý, chứ còn đi đâu! Chỉnh cười nói. Ta đã bảo cứ nhắm mắt đi theo ta.
- Có lẽ vào Huế với Phạm Ngô Cầu?
- Ai thèm nương nhờ bọn vô dụng ấy?... Vả lại, Phạm Ngô Cầu, Hoàng Đình Thể không ưa gì ta.
- Hay là vào Đồng Nai?
- Không! Không đi xa quá thế đâu. Chỗ này còn gần hơn, ta cho nhà ngươi đoán xem.
Còn gần hơn thì là Quy Nhơn, nhưng không lẽ ngài đi vào Tây Sơn?
- Sao lại không có lẽ? Chính thật ta định vào Tây Sơn đây. Ai biết dùng tài năng mình thì mình đến với họ, miễn là có nơi cho mình dương mi thế khí ở đời... Tây Sơn được ta sẽ đãi như khách quý, vì họ có con mắt sáng hơn chúa Trịnh và hạng Vũ Tá Giao.
- Nhưng sao lúc đi, ngài lại phải thanh ngôn là đi ra Bắc?
- Ồ! Nhà ngươi thơ ngây đến thế kia ư? Không lập mưu
thanh đông kích tây như vậy, Vũ Tá Giao có thể tâng công với bọn kiêu binh Tam phú mà sai người trói ta giải ra Thăng Long còn gì!... Rồi ta sẽ cho tất cả chúng nó một bài học, bấy giờ mới tiếc xưa kia sao không biết dùng cái tài vá trời lấp biến của thằng Chỉnh này!
Chỉnh nói và nghiến răng, ngảnh mặt nhìn về hướng Bắc, hai con mắt như nảy lửa ức uất, hằn thù, đến nỗi trong trí đã sắp sẵn cơ mưu một ngày kia sẽ đem ra thi hành cho hả, dù phải mượn tay nhờ sức thiên hạ về dày xéo gia hương cố quốc cũng là.
Giữa lúc con diều biển vỗ cánh bay vào nam, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng ngự đệ Nguyễn Huệ đã đánh thắng chúa Nguyễn Ánh một trận rất lớn ở Thất Kỳ giang, vừa mới từ Gia Định ban sư về Quy Nhơn được một tuần.
Hôm đó, Long Nhương tướng quân đang ngồi trong phủ, xem những giấy tờ quan hệ việc binh, chợt thấy tên lính vào bẩm có Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà mới vào, đến xin ra mắt.Vừa mừng vừa lấy làm lạ, Huệ quên cả giày dép, vội vàng chạy ra cổng phủ đón rước, tay bắt miệng cười, rất mực niềm nở:
- Kính chào tiên sinh!... Cái túi khôn đệ nhất xứ Bắc vào đây hẳn không phải một sự ngẫu nhiên!
- Con người bốn bể không nhà đâu dám đương lời đại tướng quân quá tặng! Chỉnh vái chào lễ phép và nói. Tôi là kẻ đắc tội ở cố hương, đến phải đem thân bô đào, thật không thể nhận mình là cái túi khôn.
- Tuy vậy, tiên sinh bỗng dưng chiếu cố, tất có nhiều việc hay chỉ giáo cho chúng tôi.
- Hai tiếng chỉ giáo, tôi cũng không dám lĩnh. Chỉ xin tự đem tài hèn sức mọn vào đây nương dựa vào uy đức của Hoàng thượng và chờ nghe hiệu lệnh tướng quân sai khiến đấy thôi.
Huệ ân cần dắt Chỉnh vào công đường nói chuyện chốc lát, rồi thân dẫn vào cung bái kiến Thái Đức hoàng đế.
Trước khi dẫn kiến, Huệ để Chỉnh ngồi ở chái điện, vào nói riêng với anh rằng Chỉnh là bực tài trí xứ Bắc, nếu ta muốn Bắc tiến thì nên lợi dụng hắn, vậy xin lấy khách lễ tiếp đãi, để lưu hắn ở đây, một mai tất sẽ vì ta hiệu lực. Nhưng Chỉnh là người gian hiểm, phản phúc, lại hay tự phụ, tưởng trong thiên hạ không còn ai bằng mình, cho nên trước hết ta phải tìm cách dè chừng, hạ bớt kiêu khí của con người ấy xuống, khiến phải thiếp phục thì mới dùng được việc.
Thái Đức hoàng đế cười nói:
- Sở kiến của ngự đệ rất hợp ý ta... Nhỡ là ai, chứ Cống Chỉnh thì ta thừa biết, năm xưa phụng mệnh đem sắc phục vào đây, Chỉnh làm bộ khúm núm bước vào ta có dịp đàm đạo với nó luôn ba hôm, đã thấy rõ gan ruột nó lắm rồi. Hiền đệ đưa nó vào đây!
Chỉnh làm bộ khúm núm, bước vào, toan sụp lạy, vua Tây Sơn vội vàng đưa tay đỡ lên và nói:
- Tiên sinh là bực đại hiền thượng quốc, tôi như là một chư hầu tiểu bang, đâu dám nhận lễ của tiên sinh!
Đoạn, sai lính đặt ghế một bên ngự tọa mời Chỉnh ngồi. Vua Tây Sơn nói tiếp:
- Mới hồi nào mà nay trông dung nhau tiên sinh tiều tụy đi nhiều, không được phong quang như xưa, ý chừng gần đây phải lo nghĩ việc nước nhiều lắm?
Cả người nói thù tạc nhã nhặn, mà ở trong có vô số mũi kim châm vào tâm sự riêng của Chỉnh, khiến Chỉnh tự thấy sượng sùng khó chịu, ngồi điếng lặng giây lát mới dám mở lời:
- Tâu ngài, kẻ viễn thần này tài học kém cỏi, không có chỗ thi thố ở quê hương, cho nên phải bộ bá vào đây, mong được hiệu lực nhiều ít, chẳng dám có xa vọng gì khác hơn.
- Ồ! Sao tiên sinh tự khiêm quá? Tiên sinh đã hạ cố vào đây, tức là quốc tân của chúng tôi, xin cho thời thường nghe lời giáo huấn.
Tức thời, Thái Đức hoàng đế chiểu theo nghi lễ đời Chiến quốc bên Tàu ngày xưa, phong Chỉnh làm
Khách khanh, truyền dọn một dinh thự rộng rãi cho Chỉnh ở, và cắt riêng năm chục tên lính hầu hạ. Lại sai đem vải lụa cùng các thứ vật dụng ở trong cung ra ban cho, ân lễ cực kỳ trọng hậu.
Hôm sau, vua Tây Sơn bày đại yến ở điện Tập hiền để khao thưởng các tướng sĩ chinh Nam mới về, nhân thể khoản đãi Chỉnh.
Rượu được vài tuần, một người ngồi ở hữu ban cất tiếng nói:
- Thuở nay vẫn nghe Bằng Lĩnh tiên sinh tự phụ là trí sĩ đất Bắc Hà, không ai bì kịp. Nhưng cứ theo việc xét người, thì tiên sinh, bất trí vô cùng. Không được chúa Trịnh tin dùng ở bên tả hữu, đến nỗi phải bất đắc chí với một chức quan xa xôi ở trấn Nghệ An. Tới khi kiêu binh Tam phủ hoành hành, để giết cả vây cánh Huy quận, tiên sinh khuyên Vũ Tá Giao kéo cờ tự lập ở xứ Nghệ không được, phải đem thân đi lưu lạc nương nhờ nước khác; may gặp được chúa ta nhân từ thu dụng, nếu không thì chưa biết tiên sinh phải trôi nổi đến đâu? Như thế mà tự phụ trí sĩ, tôi không hiểu tiên sinh trí ở chỗ nào?
Đình Thể cúi xuống bên gối, nói nhỏ chỉ vừa đủ nghe, trong khi viên thơ lại, sửa soạn giấy mực, làm việc tốc ký:
- Chúa thượng biết tướng quân là bực lão thành ưu quốc, về hậu sự nhà nước tất nhiên tướng quân hiểu sâu biết rõ hơn cả mọi người. Cho nên chúa thượng sai tôi đi đêm ngày vào đây cho kịp trước khi tướng quân thành thần, để hỏi quốc gia hậu sự, tướng quân sở kiến lợi hại thế nào, xin cứ trực tình, tâu gửi... Chúa thượng chỉ cần hỏi có thế, nhưng xem tướng quân nhọc mệt quá rồi, không biết còn đủ trí sáng và sức khỏe để tỏ bày mọi việc theo ý ngài muốn chăng?
- Được... Được... Ta cảm thấy mình ta lúc này tỉnh táo và khỏe khoắn trở lại, dường như cái chết muốn buông tha ta vậy.
Ngũ Phúc nói đoạn, ngước mắt nhìn về phía bắc, chắp tay vái ba vái rồi lại vòng tay xếp đế trên ngực, khoan thai nói tiếp:
- Ta phụng mạng chinh nam, công việc dở dang chưa xong, lại phải lui binh về đây mà từ giã cõi đời, trong lòng ta thật lấy làm băn khoăn, ân hận... Nhưng việc ở đây ta không quan tâm lo nghĩ cho bằng việc ở Bắc Hà, nơi căn bản đại nghiệp của chúa thượng... Quốc gia hậu sự?... Ta không thấy có việc gì đáng nguy ngập đề phòng cho bằng Tam phủ kiêu binh
[2]... ừ, cái họa kiêu binh như con hổ đói chỉ chực vồ cắn người, đáng sợ lắm đấy. Phàm là quân lính, khi nhà nước biết cách dạy dỗ, kiềm chế, thì họ rất đắc lực cho triều đình, quốc gia; nhưng một khi để họ ỷ thế cậy công, kiêu căng trái phép, thì việc gian ác đến đâu chúng cũng dám làm rất khó ngăn cản, vì chúng quá đông, trong tay sẵn có khí giới... Ta còn sống ngày nào, còn có thế lấy mình làm con đê ngăn cản tai vạ, nước lụt ấy cho quốc gia; chỉ e sau lúc ta chết rồi, kiêu binh lại sẽ thừa cơ quật cường bạo động, chẳng hạn bên trong dựa vào thế lực chốn cung vi, bên ngoài a dua với lũ tranh quyền hiếu danh, nổi lên làm loạn, có thể rung động tới căn bản nhà nước, chứ không phải chuyện chơi đâu!... Nhà ngươi nên nhớ lời ta, khẩn khoản tâu bày chúa thượng về việc quốc gia, đại kế đó... Ấy là trung can nhiệt huyết cuối cùng của ta đối với Chúa thượng... Thánh nhân đã dạy: con chim sắp chết, tiếng kêu ai bi, người ta sắp chết, lời nói ngay thật!... Giờ có hai cách, một là giải tán họ đi các trận, hai là tìm cách kiềm chế phòng bị hẳn hoi. Không vậy thì mầm họa còn mãi, một mai nó lại đột phát lên, sự nguy hiểm không biết làm sao mà lường trước được!
- Vâng, lão tướng quân thật là thâm mưu viễn lược, tôi xin tâu bày cặn kẽ với chúa thượng! Đình Thể gật gù nói. Chính tôi cũng từng lo nghĩ nhiều về việc ấy.
Còn chén sâm thang để gần chỗ nằm. Ngũ Phúc bảo viên thơ lại, đổ cho vài thìa, nằm lặng nghỉ hơi chốc lát, rồi lại nói tỉnh táo:
- Ta còn một chuyện quan hệ, suýt nữa quên mất... Ban nãy, một người cao rộng, làm bộ khép nép đi ra sau cùng, nhà ngươi có để ý không?
- Thưa, có phải cống Chỉnh cử Nghệ? Đình Thể trả lời:
- Chính hắn đấy!
- Lão tướng quân suy nghĩ về người ấy thể nào?
- Nhà ngươi không hỏi ta cũng định nói. Chỉnh có tướng gian hiểm phản phúc, nhưng chính là bực kỳ tài hiếm có ở nước ta hiện nay. Vậy sau khi ta chết, nhà ngươi trở về, nhớ tâu chúa thượng nên vời ngay Chỉnh ra Thăng Long mà dùng... Điều cốt yếu là đã dùng hắn thì nên trọng dụng, cho hắn được thi thố tài năng; nếu không trọng dụng thì nên tìm cớ mà giết đi... Chớ để con người ấy chạy theo địch quốc thì tất đa đoan sinh sự, trở nên mối hại cho nước nhà...
Ngũ Phúc nói đến đó thì kiệt sức, nằm điếng lặng giây lâu, lại mở mắt hồi tỉnh, gọi viên thơ lại đưa cho xem tờ chép những lời đã nói, tay cầm bút run run, viết được tám chữ
"Thần Hoàng ngũ Phúc lâm chung cần tấu ". Thế rồi thở hắt ra một hơi nhẹ, hai mắt từ từ nhắm lại, mà diện mạo có vẻ tươi sáng, như người lấy làm hài lòng đã xong công việc ở đời và trọn phận sự với vua chúa vậy.
***
Quân Trịnh rút về Thuận Hóa rồi, Tây Sơn thống trị toàn hạt Quảng Nam, không phải mất một mũi tên, nhiễu một giọt máu nào cả.
Lúc này đất nước ta thành ra thế tam phân đỉnh túc rõ ràng;
nước Trịnh ở Bắc Hà,
nước Nguyễn trong Gia Định,
Tây Sơn chiếm một giải đất chạy dài từ đèo Hải Vân vào đến Bình Thuận, giống như nước Thục Hán ở giữa Ngụy với Ngô đời Tam quốc; nhưng có điều khác, là nước Thục này không phải suy vi, mà lại có thế mỗi ngày hùng cường sắp nuốt cả hai nước kia.
Hai năm Bính Thân và Đinh Dậu (1776 - 1777), Nguyễn Nhạc lo sửa sang nội trị, rèn tập quân lính, chiêu mộ lưu dân, tu bổ thành Đồ Bàn của nước Chiêm Thành cũ, tự xưng là
Tây Sơn vương, định ra triều nghi, quan chế, phong chức tước cho mọi người; tóm lại quy mô xây dựng nghiễm nhiên thành một nước riêng.
Trong thời gian ấy, chỉ có một lần Nguyễn Lữ phụng mạng vào đánh lấy được thành Sài Gòn, rồi tạm bỏ, chỉ thu hết thóc gạo trở về Quy Nhơn. Ngoài ra, Tây Sơn không có việc động binh, dụng võ nào khác, với Trịnh hay với Nguyễn cũng vậy.
Những tướng tá mong được chiến trận đề lập công danh, khuyên Nhạc nên xuất sư Bắc phạt, thì Nhạc mỉm cười gạt đi:
- Các ngươi thích được chém giết thế kia ư? Mấy năm trước đã chém giết mãi chưa chán à? Giờ chúng ta ngồi yên mà hưởng cảnh thái bình, phú quý với nhau chẳng hơn!
- Chúa công dạy thế, thật là có lòng chí nhân đối với tướng sĩ nhưng chúng tôi nhàn cư lâu ngày, không cầm thương lên ngựa, ra trận giết giặc, thấy sao không vui!... đô đốc Đặng Văn Châu nói:
- Các ngươi muốn được vui thì để nay mai ta cho vào cứ Đồng Nai, tha hồ chém giết!
- Bẩm vương thượng, thế còn mặt Bắc?
- Không nói chuyện ấy vội! Nhạc vừa nói vừa nhìn quanh ban văn ban võ, hình như có ý tìm một người, ừ, không nói chuyện ấy vội. về mặt Bắc, hiện thời ta chỉ cần dùng một cái lưỡi như lưỡi Phan Văn Tuế chẳng hạn, chưa muốn phiền đến thanh gươm của các ông.
- Vâng, Tam quốc đời nay phải đổi nước cờ bắc hòa Tào Tháo, đông cự Tôn Quyền, ấy đó là sở định của chúa công? Tán lý Trần Văn Năng hỏi.
- Phải, chính thế đấy! Nhạc cười nói ra vẻ đắc ý. Chủ kiến của tôi mấy năm nay chưa thay đổi mà! Ông Tán ý thuộc truyện Tam Quốc nhỉ!... Phiền ông tháo một tờ biểu ra Bắc Hà đi! Nhưng trong biểu chớ có xưng là Tây Sơn vương nhé!...
Đoạn Nhạc giữ Trần Văn Năng ngồi lại, tức tịch ngỏ bày ý tứ, sai viết tờ biểu gửi ra Thăng Long, lời lẽ rất khiêm tốn, xin chúa Trịnh phong cho mình làm
Quảng Nam Trấn thủ sứ, để vì họ Trịnh làm hàng rào che chống Đàng trong.
Sứ giả Tây Sơn đến Thăng Long, vãi tiền bạc châu báu ra đút lót từ Đặng phi cho tới cận thần, nội thị. Lúc nào triều kiến, lại kẻo thêu dệt, tỏ ra Nguyễn Nhạc hết lòng sợ uy mến đức, khiến cho Trịnh Sâm vui vẻ tưởng thật, không nghi gì hết. Vả lại, lúc ấy Trịnh Sâm đang buồn vì mới mất Hoàng Ngũ Phúc, thêm phần chán ghét chiến tranh lập tức hạ chiếu, phong Nhạc làm chức
Quảng Nam Tuyên phủ đại sư, Cung quận công. Một lần nữa, Nhạc lại được yên tâm không phải lo ngại mặt Bắc, đề dồn cả lực lượng vào việc đánh Gia Định, diệt trừ chúa Nguyễn.
Trong những lúc Tây Sơn lặng lẽ tự xây thế lực, làm con hổ co mình lại để chực vồ xa, như ta đã thấy trên đây, chúa Nguyễn Định vương nương náu trong Nam kỳ, nhờ có mấy tay hào kiệt Trung nghĩa mộ binh tôn phù. Đông cung Dương, tức là Hoàng tôn Dương mà Nguyễn Nhạc đã gả con gái cho thừa dịp trốn khỏi Quy Nhơn, lần mò vào Gia Định với Định vương, viên tướng khách Lý Tài theo Tây Sơn lúc đầu, năm trước theo Nguyễn Huệ vào đánh Phú Yên, sau Huệ giao cho trấn giữ thành này, chỉ vì Lý Tài làm sai tướng lệnh mà để mất di chiếu theo quân pháp, không khỏi bị chém. Hắn ta sợ lộ, bèn phản Tây Sơn chạy vào miền Nam, chiếm thành Sài Gòn, tôn Đông cung lên làm
Tân chánh vương. Định vương làm
Thái thượng vương mộ binh tập trận, tích thảo dồn lương, ra mặt chống cự Tây Sơn và thề nguyền khôi phục cơ nghiệp chúa Nguyễn.
Người ta kể chuyện cho Nguyễn Huệ nghe, có ý lo ngại Lý Tài kiêu dũng, khó bề trừ nổi; Huệ cười và nói:
- Thằng bất nhân ấy, tôi chỉ cho cái đầu nó ở tạm trên cổ đến ngày nào tôi vào Đồng Nai!
Cuối năm Đinh Dậu, Nhạc sai Lữ và Huệ đem đại binh vào đánh Gia Định, thủy bộ cùng tiến, thanh thế như Thái sơn đè quả trứng.
- Bẩm phải! Một người lính đáp.
- Anh biết đích con nào là con của vườn ngự uyển không?
- Thưa có, chính con có buộc sợi dây nhiễu đỏ dưới chân, đang lòng thòng xuống nhành cây, trông thấy rõ ràng đó.
Tức thời hai mũi tên vụt đi như biến, mấy trăm con mắt cùng trông thấy hai con công ngã từ trên nhành cây lao xuống, sống chết chưa rõ. Con thứ ba thì kêu thảm thiết và bay đi mất.
Nữ Dưỡng Do Cơ thúc giục bọn lính:
- Mấy anh chạy ra ôm vào đây, mau! Tôi nhằm vào chân, cả hai chỉ què thôi, không chết đâu!... Tiếc thay tôi không đem theo ba mũi tên để sửa nối con kia!
Lính ôm hai con công vào, nhất nhất đúng như lời nữ tướng đã thanh minh, Chỉnh thành thật thán phục:
- Người đàn bà có tài cung nỏ như thế, gọi là Nữ Dưỡng Do Cơ cũng đáng.
- Ấy là Bùi Thị Xuân, nữ tướng duy nhất trong quân đội Tây Sơn đấy! Huệ giới thiệu tên nàng với Chỉnh, còn bản thân nàng thì đã lặng lẽ ra khỏi cung môn ngay sau khi làm xong công việc tướng lệnh sai khiến.
- Thưa, có phải người cầm đầu toán lính cung thủ đã giết hại nhiều quân Trịnh trong trận Cẩm Lệ?
- Phải, dưới trướng tôi không có hai người.
Rồi đó vua tôi quan khách lại ngồi vào tiệc, uống rượu nói chuyện vui vẻ.
Sau một hồi lâu, Thái Đức hoàng đế trông hút ra ngoài, thấy hai tên lính đeo mã tấu, dẫn một người đóng gói và trói thúc ké đi qua trước cổng mình liền sai thị vệ triệu vào đe hỏi:
- Bay dẫn thằng này đi đâu thế? Vua Tây Sơn phán hỏi:
- Muốn tâu bệ hạ, lữ thần đưa nó đi chém! Một trong hai người lính quỳ tâu.
- Nó là người ở đâu?
- Bẩm ở Đàng ngoài.
- Vô đây từ bao giờ, làm công việc trong quân ta?
- Bẩm hoàng thượng: hắn vô Quy Nhơn ba bốn năm nay; ban đầu bơ vơ đói rách quan Vận lương sứ trông thấy thương hại, vì xét ra là con nhà khác, có học ít nhiều bèn cho hắn vào một chức biên số trong kho.
- Thôi, chắc nó trộm cắp binh lương phải không? Vua Tây Sơn cười nói. Một trăm người vào làm chỗ binh lương, khó chọn lọc được nửa số liêm khiết thật thà.
- Tâu bệ hạ: Quân số xét ra nó phạt tội nặng hơn thế nhiều. Một là gấp ghé tư thông với ngoại địch; hai là phụ bạc vong ân người cứu vớt mình, cho mình có việc làm, có cơm ăn; vì thế Quân bộ kết án trảm quyết.
- Ồ! Tưởng là tội gì nhẹ thì quả nhất sinh phúc miễn tử cho, nhưng đến tội gấp ghé tư thông ngoại địch, phụ bạc ân nghĩa người ta thì chém quách là phải!... Để những người ấy sống ở đời làm gì vô ích. Thôi, bay dẫn ra pháp trường hóa kiếp cho nó đi!
Bọn lính đao phủ dạ vâng một nhịp, rồi dẫn tội nhân đi ra. Chỉnh đưa mắt nhận thấy tội nhân không có vẻ gì buồn rầu sợ hãi sắp phải chết chém, mà trên gương mặt đao phủ cũng không thấy có sát khí chút nào, trong ý càng tin chắc chỉ là một trò Tây Sơn bày ra để rung cây nhát khỉ, một dằn mặt mình đấy thôi. Quả nhiên, Chỉnh trông theo hút thấy đao phủ dắt tội nhân ra khỏi cung môn thì mỗi đàng đi một ngả, sau khi ai đóng vai tuồng nấy đã xong.
Sự thật, những trò dằn mặt Tây Sơn cốt đặt ra để răn he Chỉnh không phải vô ích. Từ đấy, Chỉnh làm quan ở triều Tây Sơn, rất mực trung thành, chăm chỉ; có những trí mưu gì đều tuôn ra hết, chỉ cầu được Thái Đức hoàng đế và Nguyễn Huệ tin dùng.
Nào sửa sang triều nghi, định lại quan chế; nào đóng chiến thuyền, rèn tập thủy quân; lại mở trường Thái học và đặt phép thi cử để kén chọn nhân tài, bao nhiêu chính lệnh mới, chế độ mới, Tây Sơn thi hành từ năm Nhân Dần trở đi, đều do Chỉnh trù mưu hiến kế và một tay xếp đặt kinh doanh hết thảy.
Chỉnh trung thành với chức vụ đã hai ba năm, tuy được vua Tây Sơn tin yêu trọng đãi, ngôn thính kế tòng, nhưng trong thâm tâm Chỉnh vẫn lo sợ nơm nớp. Là vì bọn văn võ đồng liêu, không ưa mình rất nhiều, thường dòm nom kẻ vạch từ ly từ chút, bất cứ lúc nào Nguyễn Nhạc có thể nghe lời sàm tấu mà trở mặt giết Chỉnh như chơi. Phe thù nghịch luôn luôn có có nói với Nguyễn Nhạc rằng Chỉnh tuy làm quan ở Tây Sơn, nhưng bụng dạ không khi nào quên bỏ cố hương ở Bắc Hà, không khi nào vô tình với chủ cũ là chúa Trịnh. Đã ở Quy Nhơn lâu ngày, nội tình Tây Sơn thế nào Chỉnh thừa hiểu rõ, một khi biến tâm, bỏ Tây Sơn mà trở về Trịnh thì nguy cho Tây Sơn lắm thay!
Thấy phe thù nghịch rình rập đánh mình bằng trận đòn ngầm ấy, Chỉnh ngày đêm lo nghĩ phòng bị, chỉ mong có cơ hội gì chứng tỏ mình đã tuyệt tình với Trịnh rồi.
Người em rể Chỉnh từ Bắc Hà vào, trong trí đinh ninh rằng thế nào cũng được ông anh vợ tiếp rước niềm nở, không ngờ mới bước chân vào dinh, liền thấy người chí thân chờ đợi bằng bộ mặt cực kỳ lạnh lẽo, nghiêm khắc.
Chỉnh quắc mắt hỏi.
- Mi vô đây làm chi?
- Thưa, tôi vô thăm anh! người em rể đáp, lấy làm lạ thái độ Chỉnh đối với mình.
- Ai báo cho mi biết ta ở trong này mà vô thăm?
- Lâu nay anh làm quan lớn ở triều Tây Sơn, tiếng tăm vang dậy xứ Bắc, còn ai mà không biết!
- Hừ! Bây giờ chúng nó mới biết thằng Chỉnh không phải vô dụng nhỉ?...
Chỉnh nhìn người em rể với cặp mắt sát hạch gay gắt và nói tiếp:
- Tuy vậy, mi vô đây tất có kẻ sai khiến, chứ không được ngẫu nhiên?
- Bẩm, có thế!
- À! Ta muốn biết ai sai mi?
- Bẩm, chúa Trịnh.
- Thật à? Chỉnh nói và đảo mắt tứ phía, xem có ai rình nghe không.
- Vâng, chúa căn dặn tôi vô nói với anh nên nghĩ tình cố quốc, trở về sẽ được trọng dụng tức thời, Em nghĩ anh nên về là phải, ai nỡ bỏ quê cha đất tổ, đem tài trí đi phục dịch thiên hạ như thế cho đành?...
Vô phúc cho người em thổ lộ những câu tâm sự ấy, vừa lúc mấy thầy thơ lại bước vào, đem giấy tờ đến hầu chữ quan. Chỉnh thấy trong lòng rạo rực cảm xúc khi nghe em rể nhắc đến cố hương và chúa Trịnh có tình đoái tưởng, nhưng ngoài mặt phải làm ra vẻ giận dữ, vì có mấy kẻ làm chứng bất ngờ:
- Mi là thằng ngu, có chết cũng đáng đời! Mấy năm nay tao chịu ơn tri ngộ rất hậu của đức hoàng đế Tây Sơn, chứ có phải là bầy tôi chúa Trịnh đâu, mà chúa Trịnh sai mi vô đây thuyết tao!... Chẳng qua số phận em gái tao đến ngày phải góa bụa, cho nên mới xui mày lần mò đến chỗ này tự tìm lấy cái chết!... quân đâu? Đưa thằng này ra cổng dinh chém đi cho tao!
Tội nghiệp người em rể run sợ, mặt không còn máu, bị quân sĩ lôi kéo đi, còn ngoái cổ lại kêu gào van lơn, xem Chỉnh có hồi tâm tha thứ cho chăng? Nhưng Chỉnh không thèm đoái hoài, lại thét mắng theo:
- Mi chết, đừng oán hận tao!... Có khôn thiêng thì oán hận đứa nào sai khiến mi dại dột vào đây ấy!
Thảm họa của kẻ này thường làm hạnh phúc cho người kia. Cái chết cùa người em rể giúp Chỉnh được lòng tín nhiệm hoàn toàn của vua Tây Sơn. Thế là Chính tỏ mình đoạn tuyệt quan hệ với Trịnh; những kẻ ganh ghét không còn chỗ nào vạch lá tìm sâu đe hại ngầm Chỉnh được nữa. Từ danh nghĩa khách khanh nghiễm nhiên bước lên quyền vị đệ nhất mưu sĩ; phàm việc quân cơ quốc chính, vua Tây Sơn đều hỏi Chỉnh rồi mới thi hành.
Nhân đấy, Chỉnh khuyên Tây Sơn nên đánh Thuận Hóa để mở mang bờ cõi ra phía bắc; Thái Đức hoàng đế cho là phải, nhưng xét chưa có cơ hội thuận tiện.
Qua đầu năm Bính Ngọ (1786) Chỉnh đang bóp trán suy nghĩ mưu chước lấy đất Thuận Hóa, bỗng có tin báo tướng Trịnh trấn thủ Thuận Hóa là Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như và Võ Vĩnh Thành đi sứ vào Quy Nhơn.
Mừng quá, Chỉnh bở dở bữa ăn vội vàng vào tâu vua Thái Đức:
- Tây Sơn ta có cơ hội lấy Thuận Hóa rồi!... Việc thành bại quan hệ ở hai viên sứ quan. Sắp đến nay mai, xin Hoàng thượng cho tiếp đãi cực trọng hậu, hạ thần sẽ có diệu kế ở trong.
Vua Tây Sơn y lời, sai đón rước và khoản đãi bọn Phu Như hết sức long trọng; nay mở yến diên, mai mời đi thưởng hoa trên núi, tuyệt nhiên không đả động gì tới việc Thuận Hóa. Phu Như đợi Chỉnh gợi chuyện ra trước, nhưng Chỉnh cũng một mực làm thinh, chỉ than vãn mình được Tây Sơn hậu đãi bấy lâu mà chưa lập được công lao gì đền bù lại.
Sau rốt, Phu Như phải thú thật rằng Phạm Ngô cầu sai mình với Vô Vĩnh Thành vào đây là cốt dò la ý hướng Tây Sơn để mà phòng bị, nhưng Phạm Ngô Cầu là thằng bất tài. Tây Sơn muốn lấy Thuận Hóa lúc này dễ dàng như chơi. Đoạn, Phu Như đem nội tình Thuận Hóa, kể hết với Chỉnh.
- Nhưng ở đấy còn có Hoàng Đình Thể cũng là một tướng tài, không nên khinh thị. Chỉnh nói.
- Phải, Đinh Thể là tướng tài, nhưng bất hợp với Ngô Cầu, chẳng làm được trò gì đâu mà lo! Phu Như đáp.
- Thế bác ở trong giúp cho tôi một tay nhé?
- Xin vâng! Tôi biếu cố nhân món quà Thuận Hóa đấy, cố nhân ra mà lấy. Ngô Cầu là người mê tín và hiếu danh, ta cứ đánh vào chỗ yếu đó, bắt nó bỏ rọ lúc nào xong lúc ấy mà!
Chỉnh hiểu ý cả cười, tức khắc xin vua Tây Sơn quyết định việc cử binh đánh Huế.
XI. Đám chay đổ máu
Phạm Ngô Cầu, tướng trấn thủ Thuận Hóa, phong tước Tạo quận công, ngồi chỗm chệ trên chiếc sập gỗ trắc, dựa lưng vào gối xếp; bốn tên lính mặc áo nẹp đỏ cầm gươm trần đứng túc trực bốn phía; hai người thị nữ xứ Huế xinh đẹp, trẻ măng, thay phiên nhau phe phẩy chiếc quạt lông và hầu điếu đóm trong khi một thầy đội vòng tay bẩm báo việc quan ở trước mặt. Trông rõ khí tượng một vị quan lớn hách dịch, quyền thế. Thanh kiếm Thượng phương nạm vàng tua đỏ, treo bên chỗ ngồi, càng chứng tỏ quyền thế quan lớn thêm to; ấy là dấu hiệu của bực đại tướng, nguyên nhung, được phép tiện nghi hành sự, tiền trảm hậu tấu.
- Thế nào, chú đội! Ngô cầu hất hàm nói mà cặp mắt lồng trong mục kính không thèm ngó lên. Việc ta giao cho chú xét hỏi người đạo sĩ lạ lùng ấy đã xong chưa?
- Bẩm cụ lớn, xong rồi! Thầy đội chắp tay nói kính cẩn từng tiếng. Hôm nay, chúng con vào hầu cốt để phục mệnh.
- Thế ư?
-Dạ.
- Vậy, người đạo sĩ ấy có chỗ nào tung tích khả nghi không?
- Không thì sao luôn trong mấy ngày hắn ta lảng vàng ở quanh dinh ta, như có vẻ muốn dòm hành gì thế?... Chú có khám xét kỹ trong người hắn không?
- Bẩm, đó là việc chúng con lưu ý trước nhất. Khám kỹ từ trong người cho đến tay nải tùy thân và cả nhà trọ nữa, ngoài ra mấy quyển sách kinh tán bốc phệ, tuyệt nhiên không có lấy mảnh sắt hay một chéo giấy nào tỏ ra hình tích đáng ngờ. Xét ra đạo sĩ chỉ là một nhà tu hành, chuyên môn về thuật số...
- Ấy chết! Không khéo chú bị chúng nó giả trang lừa dối đấy! Ngô Cầu ngắt lời thầy đội và nói. Đời này chúng nó quỷ quyệt lắm, bộ áo cà sa có thế giấu mặt thật của một tên gian tế, một kẻ mưu sĩ bên địch mà mình không ngờ. Vậy chú có tra hỏi hắn ta là người ở đâu?
- Bẩm, chính người ở xứ Sơn Nam, vì thế không có chỗ nào ngờ được là gian tế hay mưu sĩ bên địch trá hình! Thày đội chậm rãi đáp. Chúng con đã xét tung tích đạo sĩ quả người Sơn Nam, bỏ nhà đi tu từ hồi còn nhỏ, lần mò vào Ngũ Hành Sơn, ở trong hang núi học đạo trải ba chục năm, giờ mới hạ sơn, lấy nghề thuật số mưu sinh, tìm cách trở về quê quán.
- Nhưng có điều ta lấy làm băn khoăn lạ lùng nhất, là sao hắn ta cứ tối ngày vơ vẩn ở trước dinh này, mắt dòm lên trời, khi reo, khi cười, khi vỗ tay mừng rỡ, khi nói gì lầm rầm một mình, làm như thằng điên, là nghĩa thế nào?... Mà không phải một chốc một lát, kỳ thật suốt bảy tám hôm nay, hôm nào cũng thế. Vì đó ta cho là đáng ngờ, truyền lệnh cho chú nã tróc, xét hỏi cho ta. Thế chú có hỏi và tại sao có những cử chỉ kỳ quái ấy không?
- Bẩm, có ạ!... Đạo sĩ thủ thật rằng từ hôm đến thành Phú Xuân này, liền trông thấy những vầng mây ngũ sắc, cuồn cuộn từ trên không trung, tỏa xuống nóc dinh trấn thủ, cho nên ngày nay ông ham mê đứng xem, nhận thấy vượng khí trời đất chung tụ ở đây, khiến ông không sao đừng được vui mừng, đến nỗi có những cử chỉ kỳ quái trước mắt thiên hạ...
- Ha! Ha! Chú bảo rằng ông đạo sĩ trông thấy những vầng mây ngũ sắc? Ngô Cầu hớn hở cười hỏi và bây giờ mới ngước mắt lên nhìn thầy đội.
- Dạ, ông nói trông thấy rõ ràng.
- Những vầng mây ấy tỏa xuống nóc dinh Trấn thủ ta đây?
- Dạ, ông tả hình dạng như nhưng rồng phượng che phủ lấy dinh này, mà con mắt kẻ thường không thể nhận thấy.
- Thật thế?
- Bẩm vâng, chúng con không dám nói sai tí nào; cụ lớn tự hỏi đạo sĩ khắc biết.
- Ừ, chứ đi dẫn ông ta lên đây cho ta hỏi chuyện ngay, nhé! Ngô Cầu bảo thầy đội và giục quân hầu sửa soạn pha nước, rồi tự nói rầm rì một mình. Quái lạ! Thảo nào đêm hôm nọ ta nằm mộng thấy mặt trời rơi trúng đỉnh đầu ta, lửa bắn tung tóe. Chắc hẳn là giai triệu đây!
Ngô Cần làm tôi chúa Trịnh, đã phong tới bực quận công, đại tướng, phú quý tột vời, nhưng không phải là con người tự biết mình chỉ gặp thời dựa thế mà lên, chẳng có tài đức gì; con người không tri túc, trong lòng chứa đầy tham vọng cao quá tầm sức, ngấm ngầm muốn trèo lên đến ngôi đại vương, chư hầu nghênh ngang vua chúa, một cõi như ai kia. Cho nên khi nghe nói đạo sĩ trông thấy vượng khí chung tụ ở dinh mình, Ngô Cầu khấp khởi mừng thầm, tưởng chắc thiên vận đã đến, muốn giáp mặt đạo sĩ để hỏi cho rõ.
Đạo sĩ theo chân thày đội khúm núm bước vào đến trước mặt Ngô Cầu, hai mắt nhìn sững từ trên mái nhà xuống đến sập Ngô cầu ngồi, đầu gật gù, miệng tấm tắc không ngớt, trong lúc chính Ngô cầu cũng sửng sốt về trạng thái của đạo sĩ, chưa kịp hỏi han gì, đạo sĩ đã sụp mình xuống đất, lạy lấy lạy để, vừa lạy vừa nói lia lịa:
- Trăm lại đại vương! Nghìn lạy điện hạ!... Thật quả khí thiêng chung đúc, mây lành giáng lâm... Đó, đó, ngũ sắc tường vân từ trên trời tỏa xuống, xuyên qua mái nhà, phù khắp một vùng, quanh sập đại vương điện hạ đang ngồi, không ai trông thấy, nhưng bần đạo trông thấy rõ ràng: sắc mây tuyệt đẹp, báo ứng, điềm lành...
Đạo sĩ còn một nói nhiều nữa, nhưng Ngô cầu vội vàng gạt đi:
- Ồ! Đạo sĩ chớ có nói nhảm, ta là đại tướng khâm mệnh của triều đình thì có, chứ phải đại vương điện hạ gì đâu!... Mời ông ngồi chơi uống nước nói chuyện.
- Bẩm ngài, hiện thời ngài là đại tướng, nhưng nay mai sẽ tiến phong đại vương. Đạo sĩ lại vái dài Ngô Cầu và nói.
- Chết nỗi! Mệnh trời đã xếp đặt đâu đó an bài, ông đừng nói chuyện cuồng dại mà đắc tội sát thân cả núi đấy, biết không? Ngô Cầu nói ra vẻ nghiêm nghị, nhưng trong bụng thì đắc ý thầm.
- Tâu đại vương, thiên mệnh một khi đưa đến, người ta muốn chối từ cũng chẳng được nào! Tống Thái Tổ khi xưa không phải là một viên đại tướng ở triều nhà Chu đấy ư? Nhưng đến lúc Trần Kiều binh biến, tướng sĩ cứ khoác áo hoàng bào vào mình, rồi la bá tung hô vạn tuế, vậy là trở nên thiên tử. Nay ngài nam chinh bắc phạt, lập công với triều đình đã nhiều, Lê Hoàng và Trịnh vương nghĩ đến công lao ấy, có thể tấn phong vương tước cho ngài, để làm phiên vương chư hầu ở đất Thuận Hóa này, bần đạo dám quyết là việc phải có, vì thấy tường vân hiến hiện đây kia.
Ngô Cầu nghe khoái ý, tiếp đãi đạo sĩ hết sức niềm nở. Bấy lâu vẫn ôm cái mơ ước thầm kín là được phong vương ở một nơi nào, nay nghe đạo sĩ nói trúng tim đen, không khác gì gãi vào chỗ ngứa.
- Ông bảo tường vân năm sắc từ trên tỏa xuống quanh chỗ tôi ngồi, nhưng sao tôi và mọi người không thấy gì cả? Ngô Cầu hỏi căn vặn, có ý còn ngờ vực.
Đạo sĩ ung dung đáp:
- Chỉ có mắt bần đạo mới nhận thấy được thôi.
- Tại sao thế?
- Bẩm ngài, bần đạo tu hành ở chốn danh sơn động phủ trải ba chục năm, ngày nào cũng trông mây nhìn trời để luyện thần nhỡn, cho nên quen mắt đi... Những sự vật mà người phạm tục không thấy, bần đạo thấy rõ.
- Nhưng sao tường vân đã hiện, lại không cho ai cũng có thế trông thấy như hai năm rõ mười?
Câu hỏi thắc mắc và đúng lý luận của Ngô Cầu làm cho đạo sĩ hơi lúng túng về sự trả lời. Nhưng kẻ dụng tâm không thiếu gì cách nói. Đạo sĩ mỉm cười, đầu gật gù, làm như đang chú ý xem mấy câu đối sơn treo cột, song thật ra để hoãn thời giờ, suy nghĩ câu đáp:
- Thưa ngài, tường vân khi ẩn khi hiện, vốn là tùy theo điềm lành cao hay thấp, ít hay nhiều...
- À, có chỗ phân biệt như thế? Ngô Cầu ngắt lời, hỏi.
- Vâng, đám tường vân này ẩn, cho nên ngài sắp được lên ngôi phiên vương, nếu như nó hiện rõ để ai cùng trông thấy được, thì ngài đã là chân mệnh thiên tử, chứ không phải vừa.
Ngô Cầu được bom hót trúng tim thích chí quá, vuốt râu cười ha hả, day mặt sang phía tả, gọi một cô thị nữ châm thuốc.
Giữa lúc ấy, đạo sĩ bỗng dựng phắt lên, hấp tấp đến bên cạnh Ngô Cầu, nhìn tròng trọc vào gò má bên hữu, rồi chép miệng chắt lưỡi, thở vắn than dài:
- Châu cha! Tiếc quá!... Tiếc quá!
Ngô Cầu giựt mình và lấy làm lạ, nhìn sững đạo sĩ, hỏi dồn:
- Có chuyện gì mà ông thở dài và nói tiếc quá, như thế?.,. Tiếc là tiếc cái gì?
- Vâng, tiếc thật! Đạo sĩ vừa nói vừa lắc đầu, như người có ý nghĩ không được thỏa mãn. Vâng, tiếc quá, thưa ngài... Té ra tại cái nám đen này giờ ngài day mặt tôi mới trông thấy... Ồ, thảo nào!...
Trước thái độ lạ lùng vả lời nói giống một của đạo sĩ, Ngô Cầu lo ngại, hồi hộp, giục thị nữ đem gương ra tự so, cặp mắt âu sầu, bàn tay xoa đi xoa lại trên gò má:
- Ừ, chỗ này có cái nám đen này có can hệ gì không hả, ông?
- Can hệ lắm! Đạo sĩ đáp, dằn từng tiếng nói. Chính nó làm cho ngài trắc trở chậm trễ trên đường công danh phú quý.. Đừng có nó thì ngài đã tấn tước phong vương lâu rồi.
- Thế à?
- Vâng, chính thế!... Bần đạo xem xét tướng mạo người ta không sai bao giờ.
- Liệu có cách gì tiêu trừ nó đi được không?
- Thưa có.
- Vậy ông làm sao tiêu trừ nó đi hộ tôi nhé, tôi xin báo đáp cực hậu. Nhưng mà cách tiêu trừ thế nào?
- Bẩm ngài, bần đạo nghĩ ra đấy chỉ là một vầng sát khí, bởi xưa nay ngài cầm quân đi nam chinh bắc phạt, không khỏi chém giết nhiều...
- Ồ, tôi làm việc vua quan, phận sự bắt buộc, chứ nào có phải bản tâm? Ngô Cầu chận lời đạo sĩ mà tự chữa mình.
- Đã đành rằng thế! Đạo sĩ cười nói. Nhưng mà bao nhiêu hờn oan quỷ đói cũng phụ thác quanh quẩn bên ngoài, để cầu siêu độ. Cái nám đen từ đó hiện ra. Bây giờ chỉ có cách tiêu trừ, là đặt một đàn chay thủy lục bảy đêm ngày thật linh đình long trọng, để tụng kinh siêu độ cho những vong hồn chiến sĩ, tự nhiên ngài được tấn phong vương tước chỉ trong sớm tối. Nếu không đúng như vậy, thì ngài cứ cho kê đầu bàn đạo trên thớt mà chặt nghiến ổi... Ngài còn lạ gì, việc đời thường khi trở ngăn bởi một cớ rất nhỏ, hai đàng vẫn có liên lạc quan hệ mà người ta không dè. Ví dụ ta đi đường, chỉ một cái gai nhỏ tí, cắm vào gót chân, đủ khiến ta phải khập khễnh mà đi chậm lại, chừng nào nhổ được nó ra mới có thể lẹ bước tiến mau. Cái nám đen trên gò má ngài tức là mũi gai nhỏ tí đó!
Mấy lời đạo sĩ giảng giải vừa khôn khéo vừa xuôi tai, như gãi đúng vào chỗ ngứa của Ngô Cầu là người kiêu căng, tham vọng mà lại mê tín dị đoan. Giờ thấy nét mặt Ngô Cầu trở lại tươi tỉnh, hớn hở, đầy vẻ tự cao, tự đắc:
- Ha ha! Tưởng là việc khó khăn thế nào, chứ làm đàn chay siêu độ thì ta có thể nay nói mai làm được ngay. Vậy công việc thiết lập đàn chay, tôi ủy thác cả cho ông, ông trông nom giúp tôi nhé!... Quân lính bộ hạ của tôi đó, tha hồ ông sai khiến phục dịch!... Đồ mã phải làm đủ thứ!... Ta lập cả đàn Mông Sơn, phá ngục!... Vời hết thảy tăng ni ở Thiên Mụ và các sơn môn về đây!... Tóm lại, tôi không ngại sự tốn kém cứ việc làm đàn chay thế nào thật lớn, thật sang, thật trọng thế, chẳng những siêu độ vong hồn, lại cho tất cả binh sĩ nhân dân ở thành Phú Xuân này, cùng được lễ bái, cùng được bố thí, sao cho xứng đáng là một đám chay của quan Trấn thủ đứng làm, mà người ở đây thuở giờ chưa hề được thay...
Đạo sĩ trước làm bộ từ chối công việc tổ chức mà Ngô Cầu định giao cho mình, sau nài nỉ mãi thì mới chịu nhận:
- Bần đạo muốn xây đắp đàn trường tứ phương ngũ hành ở ngay trước dinh, cho ra vẻ một đàn chay của bực vương công quyền quý nhất đời... Thể tất phải dùng đến binh sĩ, cờ xí, gươm dáo, để bố trí cho cực uy nghiêm, nhưng e quân sĩ không chịu tuân lệnh một thầy sãi thì làm thế nào?...
- Điều ấy ông chớ lo! Tôi sẽ hiệu lệnh tất cả tướng sĩ bộ hạ phải thuộc quyền ông sai phái, cắt đặt, kẻ nào bất tuân thì có quân pháp.
- Nếu vậy thì bần đạo xin phụng mệnh. Nay mai ngài trèo lên tột bực tôn vinh hiển hách ở đời, bần đạo chỉ xin ngài nhớ công lao hôm nay mà cho một ngôi chùa nho nhỏ làm chỗ tu hành, để trọn đời ôm chân nấp bóng ngài, thế là mãn nguyện.
Ngô Cầu vui cười hể hả, không ngần ngại khôi hài với một thầy tu:
- Cứ việc tận tâm tận lực giúp tôi đi!... Một mai ông muốn rước cả chị Hằng xuống ở chung cho đỡ buồn, tôi cũng cho ngay.
Đoạn, lại nói tiếp:
- Ông tính xếp đặt đám chay này vào khoảng nào thì có thế cứ hành được?
- Bẩm, xin nhất định vào chầu hạ thần tháng 5 này! Đạo sĩ tính đốt ngón tay rồi trả lời nhanh nhẹn.
Hôm ấy là 27 tháng 5 năm Bính Ngọ; đàn chay linh đình của Phạm Ngô Cầu thiết lập đã đến ngày thứ năm hay thứ sáu, rộn rực cả thành Phú Xuân.
Bộ binh và thủy binh Tây Sơn đông như kiến, hiện như ma, nhanh như gió, rần rộ đến sát chân thành, giữa lúc bên trong: chuông trống đàn chay đang inh ỏi, hàng trăm vị sư đang tụng kinh ê a. Phạm Ngô Cầu đang lạy nghi ngúp, quân sĩ đang say sưa vì được nghỉ ngơi, mệt mỏi vì đã phục dịch.
Nếu đội quân canh gác không nhanh tay kịp đóng cửa thành lại, thì dễ thường quân Tây Sơn vào thẳng đến trước đàn chay, bấy giờ người ta mới biết.
Nguyên từ hôm Nguyễn Phu Như đi sứ vào Quy Nhơn đem nội tình Phú Xuân kể cho cống Chỉnh nghe; cống Chỉnh liền khuyên vua Tây Sơn nên thừa cơ hội này phát binh đánh úp lấy Thuận Hóa, đế mở mang thêm rộng bờ cõi. Thái Đức hoàng đế y theo lời tâu ấy, lập tức phong ngự đệ Long nhương tướng quân Nguyễn Huệ làm nguyên soái, Tổng thống quân vụ; phò mã Võ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc; Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, dẫn binh thủy lục, phân làm ba đội cùng tiến đánh Phú Xuân.
Nam quân - tức quân Tây Sơn - khởi hành ngày 13 tháng 5, đến ngày 24 thì bộ binh qua Hải Vân quan; đối với phương pháp giao thông và cuộc hành binh ở đời bấy giờ, như vậy kế là nhanh chóng Hoàng Nghĩa Hồ, tướng Trịnh giữ đồn An Nông là đồn địa đầu, bị đánh bất ngờ tất cả bốn mặt, chết gục trên mình voi sau khi chiến đấu đã kiệt lực. Nam quân chẹn đường chém giết và bắt trọn Bắc quân, không để một tên nào chạy thoát ra Phú Xuân cáo cấp. Thành ra Nam quân ung dung đến thẳng trước mặt thành trì.
Đang lễ hì hụp, nghe dưới đàn chay xao xuyến, bộ hạ chạy xuôi chạy ngược, kêu gọi nhau ràng quân tiền đội giặc Tây Sơn đã tới đóng trước thành, Ngô Cầu xám ngắt mày mặt, líu lưỡi, luống cuống cả người, vội vàng chạy xuống dưới đàn, suýt vấp ngã hai ba lần, đụng ai níu người ấy lại mà hỏi dồn hởi dập, thở chẳng ra hơi:
- Chết chưa!... Giặc... giặc đã đến chân thành ta, thật... thật à?
- Dạ, bẩm cụ lớn, thật thế!... Chúng nó đến đen như kiến ở trước cửa thành kia kìa!... Xin cụ lớn hiệu lệnh, kháng chiến thế nào không thì hỏng mất,
Một viên vệ úy trả lời Ngô Cầu thế rồi vội vã cắm đầu chạy miết về trại. Ngô Cầu lại gọi giựt người khác mà hỏi:
- Trời ôi! Quân giặc có cánh bay từ trên mây sa xuống ư?
- Bẩm, không biết chúng nói ở trên trời hay ở đâu sa xuống, chỉ biết chúng nó hiện đóng hằng hà sa số ở chân thành, đang trí súng thần công, sắp sửa khai pháo...
Người bị hỏi là một viên xuất đội, trả lời xong rồi cũng tìm đường chạy nốt.
Tất cả đàn chay rối rít, mạnh ai nấy chạy. Các ông sư bà vãi ôm áo cà sa cùng chuông mõ, tính quýnh tẩu tán như vịt. Quân sĩ phần nhiều uể oải, đi không muốn vững, vì đã phải khó nhọc phục dịch mấy hôm. Lắm chú vênh váo bướng bỉnh như Tam phủ Kiêu binh ở Thăng Long, bàn nhau thoát thân cửa hậu, chả tội gì đánh nhau với giặc mà chết.
Thấy tình hình rối loạn, lòng quân tan lìa, càng bối rối hoảng sợ già, lại không biết lâm cơ ứng biến thế nào, chỉ thấy mặt tái không còn sắc máu, chân thì run lẩy bẩy, vừa đi chập choạng vừa hô gọi líu tíu:
- Quân ta lên cả mặt thành ứng chiến, mau mau!... Đi tìm ông Phó tướng lại đây cho ta!... Còn ông đạo sĩ đâu? Bay mời ngay vào dinh để tao sai bói một quẻ, xem việc hành binh cát hung ra sao cho biết!...
Tình cờ, Phó tướng Hoàng Đình Thể vừa đến nơi, đã nai nịt chỉnh tề, cốt tìm Ngô Cầu để bàn việc quân và chờ tướng lệnh. Nghe rõ mấy lời sau chót Ngô Cầu vừa mới thốt ra. Đình Thể cười gằn và nói:
- Chết rồi! Giờ khắc này mà ông còn mơ tưởng ông đạo sĩ nữa à?... Đạo sĩ gì? Nó là tay gian tế của quân giặc sai đến Phú Xuân trước để xem xét binh tình, và bày trò dị đoan để trác ông đó... Bây giờ chỉ có việc kháng chiến đáo để, không thì chết tươi cả lũ!
Ngô Cầu trợn mắt tròn xoe, dấu tỏ bất bình về khoản Đình Thể buộc tội đạo sĩ, nhưng không muốn cãi nhau về chuyện đó vội, hãy lo cắt đặt việc quân khẩn cấp hơn:
- Ta phân binh ra làm ba, tôi ở trong giữ thành, ông đem quân ra ngoài đối địch với giặc nhé!
- Thưa ông, đấy là tướng lệnh, hay chỉ là một ý kiến nói giả tỉ mà nghe thế thôi? Đình Thể cau mặt hỏi, có ý hậm hực, vì bấy lâu vẫn khinh ghét Ngô Cầu.
- Đấy là tướng lệnh, không phải chuyện chơi! Ngô Cầu trả lời quyết liệt.
- Vâng, tôi xin đem quân ra ngoài thành đối địch! Đình Thể nói và quắc mắt nhìn Ngô Cầu chăm chăm. Nghĩa là ông đem cái chết mười phần chắc mười, đặt lên mình tôi đấy!... Được rồi, Đình Thể này quyết chiến với giặc đến cùng, đâu có sợ chết. Thôi xin chào ông, để tôi đi làm việc nghĩa vụ; tình thế khẩn cấp lắm rồi.
Đình Thể nói đoạn, day gót đi liền.
Giữa lúc ấy, súng thần công của Nam quân ở ngoài bắn vào trong thành đùng đùng, đốt cháy nhà dân và dinh thự nhiều chỗ.
Mấy hôm trước lũ trên rừng đổ về như tháo, mặt nước sông Hương dâng lên cao, súng thần công Nam quân đặt trên thuyền chiến, có thể nhắm bắn vào thành rất trúng đích.
Tuy vậy, đạo binh Hoàng Đình Thể dựa lưng vào thành, đánh nhau với Nam quân ở trên bộ cực kỳ anh dũng, khiến Nam quân không thể lại gần mà hòng hãm thành. Có khi Đình Thể lại bắn chìm một hai chiến thuyền Nam quân ở trên sóng Hương, mà súng thần công của đạo binh Ngô Cầu đặt trên mặt thành bắn ra, rõ ràng được thế trên cao đánh xuống, lại không ăn thua gì; đạn chỉ rơi xuống nước lõm bõm, làm khổ bầy cá vô tội thì có.
Xông pha mũi tên hòn đạn, Đình Thể ngang nhiên cưỡi voi đi lược trận ở trên mé sông, nhận rõ cống Chỉnh ngồi trên một chiếc thuyền chiến đi xuôi, cất tiếng gọi to và nói:
- Chào ông cống Chỉnh, đi đâu mà vội vàng thế?... Ông đi rước voi thiên hạ về dày đạp mồ mả ông bà, tàn sát anh em đồng loại thế này, anh hùng đấy nhỉ?
Chỉnh nghe nói đâm họng, có ý hổ thầm, lại trông rõ Đình Thể, không nói năng gì cả, chỉ ra hiệu cho quân thủ hạ bắn phóng lên bờ một loạt độ dăm chục mũi tên, và hối thủy thủ chèo thuyền cho mau, đi thẳng.
Tối hôm ấy, Huệ với Chỉnh tới bản doanh đóng ở Phủ Cam, thương lượng quân sự:
- Viên tướng Bắc quân cưỡi voi đó, tên là gì? Huệ hỏi Chỉnh. Người đã có tuổi mà tôi xem rõ là một tay thiện chiến đáo để.
- Bẩm thượng công, hắn là Hoàng Đình Thể, tôi biết. Chỉnh đáp.
- Có phải là bộ tướng của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, từng theo ông này vào Quảng Nam, đã giao chiến với quân ta ở trận Cẩm Lệ năm xưa?
- Thưa, chính là hắn ta.
- À, Đình Thể là một trong số năm hổ tướng Bắc Hà, có tài thiện chiến nổi tiếng, tôi nhớ hình như người Đàng ngoài đã gọi hắn là “Lão tướng Hoàng Trung”, có phải thế không?
- Bẩm có thể.
- Nếu vậy thì ta phải tìm cách trừ thằng cha ấy trước, mới có thể mau hạ được thành Phú Xuân... Mấy hôm nay hẳn ta kháng chiến rát quá!.. Tiên sinh hẳn có diệu kế để nhổ cây đinh trong mắt, lể mũi gai cản đường ấy đi?
- Thượng công chẳng hỏi, chính tôi cũng đã có ý muốn bẩm báo về chuyện đó. Thưa, Phạm Ngô cầu là phường nhút nhát bất tài, thì nghiễm nhiên ở ngôi chủ tướng, còn Hoàng Đình Thể lão thành thiện chiến, lại phải phụ thuộc dưới quyền một kẻ thua kém mình đủ mặt.
Đình Thể vẫn tấm tức âm thầm bất phục Ngô Cầu. Hai người chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng nhau. Sự tình éo le ấy giúp sức cho ta, chỉ thi hành một kế phản gián là đủ vật ngã cả đôi...
- Kế phản gián thế nào mà vật ngã cả đôi? Huệ hỏi săn đón, nóng nảy muốn biết.
Chỉnh ghé bên tai nói nhỏ mấy câu, làm cho Huệ hớn hở, vỗ tay cả cười:
- Hay!... Kế ấy hay thật! Vậy tiên sinh viết cho bức thư ngay đi!
Lập tức cầm bút đặt giấy, Chỉnh viết loay hoay một lát xong bức thư, xem đi xem lại mỉm cười đắc ý, rồi trao tay cho Huệ và nói:
- Bẩm, thư tôi viết đây, nhưng sự thành bại còn phải quan hệ ở cách truyền đạt cho khéo mới được:
Huệ tiếp lấy bức thư đọc qua, cũng mỉm cười đắc ý, khoan thai hỏi Chỉnh:
- Theo ý tiên sinh, cách chuyến đạt nên làm thế nào thì hơn?
- Tôi nghĩ nên bắn theo mũi tên là diệu hơn cả. Chỉnh đáp.
- Ồ!... Nếu thế thì lại phiền đến “Nữ Dưỡng Do Cơ” của ta chứ còn ai?
- Ngài có đem theo trong quân?
- Có!... Có!... Thuở nay không có khi nào đi chinh chiến mà nàng không theo quân!
Huệ nói rồi, sai người đi triệu ngay Thị Xuân đến cho Chỉnh dặn dò cách thức và bảo chỗ đưa thư.
Tang tảng hôm sau, trời còn mờ mờ, chưa thể nhận rõ mặt người, Thị Xuân buộc thư vào mũi tên sẵn sàng, cỡi ngựa đen trước nam môn, réo gọi ông Hoàng Đình Thể, có thư của cống Chỉnh gửi đây này, ra mà nhận lấy. Quân sĩ trên thành, nhắm chừng tiếng nói mà bắn xuống rào rào, chứ không trông thấy ai cả. Bấy giờ Thị Xuân mới đặt tên vào cung, nhắm rất thân thiết, bắn lên vọng lâu, mũi tên cắm chặt vào cột giữa; thế rồi nàng tế ngựa chạy.
Vọng lâu cửa nam là chỗ Ngô Cầu vẫn ngồi giám trận, ốp quân giữ thành.
Bức thư đáng lý đưa cho Đình Thể đã lọt vào tay Ngô cầu.
Quân canh nhổ lấy bức thư, đánh thức Ngô Cầu dậy để trình. Ngô Cầu ra trước ngọn đuốc, xem bức thư vắn tắt sau này:
“Đồng Châu Hoàng tướng quân túc hạ. Túc hạ đã hiểu rõ thời thế và thể tất lòng tất của tôi, mà tình nguyện hiến thành, vậy xin y ước đêm mai, trước giờ tý, mở cửa thành cho Nam quân tiến vào. Túc hạ thừa cơ lấy đầu Ngô Cầu làm lễ tiên kiến, ấy là quân công thứ nhất. Đệ đã sai người về Quy Nhơn, tâu xin Tây Sơn hoàng đế sắc phong túc hạ là Phủ Xuân vương, trấn giữ Thuận Hóa đời đời. Cố nhân Hữu Chỉnh bái thư. ” Ngô Cầu xem xong, vừa tức vừa sợ, càu nhàu nói một mình:
- À!... Thằng khốn nạn này mưu mô hiến thành đầu hàng, bán đầu ta cho giặc! Nhưng quyền chủ tướng ở ta, ta đóng chặt cửa thành thì nó lấy gì mà hiến?
Đoạn, suy nghĩ trong trí:
- Đình Thể mà hàng thì còn lấy ai chống với quân giặc?.., Vả lại, Tây Sơn binh ròng thế mạnh quá, chống cự cũng chẳng được nào!... Chi bằng ta cho người dò ý Tây Sơn nếu họ chịu theo điều khoản ta xin, thì ta cũng hàng trước cho xong.
Dưới chân thành, hai bên vẫn xung sát dữ dội. Những tiếng súng nổ, quân reo, loa truyền, trống giục, làm rung động cả dòng nước Hương Giang, vách tường Phú Xuân. Đình Thể ngồi trên mình voi đốc chiến, lấy sức một chọi năm, giết hại Nam quân vô số. Nhiều lần Nam quân ồ ạt phá thành, đều bị bộ hạ Đình Thể tung máu thịt ra đánh lui. Quân hai bên chết nằm ngổn ngang, từ chân thành ra đến bờ sông, và trên mặt nước, chỗ nào ràng có. Trời tháng năm nóng nực, người ta mải miết đánh nhau luôn mấy đêm ngày rồi, bỏ mặc tử thi chẳng ai lượm lặt chôn cất, mùi hôi thối xông lên ghê tởm.
Xế chiều Đình Thể hết cả đạn dược, sai người gõ cửa thành xin thêm đạn dược và binh tiếp tế. Ngô cầu giả điếc làm ngơ, không nói gì hết, chỉ truyền quân lính canh gác các cửa thành kỹ lưỡng, chớ để một tên quân nào của Đình Thể lọt vào.
Quân sĩ chết dần mòn thuốc đạn thì đã hết, mà đợi mãi không thấy viện binh trong thành ra, Đình Thể chạy đến nam môn nhờ lính gác mở cửa cho mình vào gặp mặt chủ tướng Ngô cầu.
Lính gác trả lời bằng một loạt súng bắn xuống. Một quả đạn trúng vào chân con voi Đình Thể cưỡi. Voi đau kêu rống và chạy, viên quản lượng kềm mãi mới được.
Đình Thể ngảnh mặt trông lại, thấy kỳ đài trong thành đã treo cờ trắng bay phất phới, sóng giận dâng đầy ruột gan, thúc voi trở về mặt trận, gọi bộ tướng Vô Tá Kiên, và đốc chiên Nguyễn Trọng Đang, ứa nước mắt nói:
- Thằng phản quốc, thằng hèn nhất Phạm Ngô Cầu đã treo cờ đầu hàng quân giặc rồi các ông ạ!... Các ông tự xử lấy mình thế nào tùy ý, còn cha tôi thì quân giặc sẽ bới thấy xác ở chỗ này!
- Chúng tôi xin chết theo tướng quân.
Mặt mũi nào phụ nước mà hàng giặc cho đành? Võ Tá Kiên và Nguyễn Trọng Đang cùng nói:
Lúc ấy thuyền Chỉnh đậu khít mé sông, Chỉnh ngồi chễm chệ trên mui thuyền đốc chiến, giữa bốn cây lọng xanh và lá cờ lệnh oai nghiêm trước gió, sai lính bắc loa réo gọi Đình Thể chiêu hàng:
- Bớ lão tướng Hoàng Đình Thể!... Đầu hàng thì ta tha chết cho!
Đình Thể gầm thét như con hổ đói, muốn vồ lấy thịt cống Chỉnh mà nhai ngấu cho đã thèm:
- Phản tặc cống Chỉnh ơi! Mi cõng rắn về cắn gà nhà, để xem có được trọn đời an hưởng phú quý không, nhớ!
Đồng thời miệng nói, tay ra hiệu cho hai người con lấy cung tên nhắm thẳng cống Chỉnh bắn luôn mấy phát; cống Chỉnh phải cúi rập mình xuống để tránh tên.
Thế rồi ba cha con Đình Thể và Trọng Đang, Tá Kiến chia nhau mỗi người một ngả, đông xung tây đột, hò hét đánh giết, Nam quân tới đâu rạp đó. Nhất là Đình Thể giục voi xông bừa vào trận, tay múa trường đao, chém bên tả, đâm bên hữu, dũng mãnh đáo để, Nam quân không dám lại gần.
Một chặp, thế cô lực kiệt, quanh mình chỉ còn vài chục thủ hạ,
Đình Thể biết thế không đánh được nữa, nếu chậm thì bị giặc bắt sống, liền rút gươm đâm cổ tự sát trên lưng voi, sau khi hét rống mấy tiếng: Trời hại ta! Trời hại ta!
Hai người con trọng thương giữa trận, đều bị Nam quân bắt sống. Trọng Đang và Tá Kiên cùng chết trong đám loạn quân.
Sáng hôm sau, Nguyễn Huệ chỉnh tề đội ngũ, uy nghi hùng tráng, rần rộ kéo vào trong thành Phú Xuân.
Ngô Cầu bày bàn hương án phía trong cửa chính, mặc áo thụng xanh, thân ra đón trước đầu ngựa Nguyễn Huệ, vái rạp đến đất, trình những sổ bộ kho tàng và đinh điền xứ Thuận Hóa.
Huệ niềm nở an ủi Ngô Cầu, bảo hãy về dinh ở yên chờ lệnh.
Nam quân vào thành tìm người Thanh Nghệ mà chém giết, bất cứ là quân sĩ hay thường dân, vì cho là một tụi với kiêu binh Tam phủ đã làm loạn xứ Bắc. Thêm cư dân trong thành cũng bị vạ lây, số quân dân Bắc Hà chết oan đến một hai vạn, nhuộm đỏ mặt đất Phú Xuân.
Cống Chỉnh trông thấy thảm trạng ấy mà không dám mớ miệng nói gì để cứu với anh em đồng hương, cho nên càng bị người Bắc Hà khinh bỉ thù ghét.
Không để việc quân trễ nải một phút nào, Huệ lập tức phái một đạo binh ngay hôm ấy lên đường, tiến ra đánh lấy hai đồn Cát Doanh và Đông Hải, nghĩa là lấy hết địa giới của Nguyễn chúa khi trước. Thành ra Tây Sơn trở nên lân quốc Bắc Hà.
Riêng phần Ngô Cầu thấy chủ tướng Tây Sơn đối với mình tử tế, trong dạ khấp khởi mừng thầm, tưởng chắc bề nào họ cũng nghĩ lại công mình hiến thành quy thuận, mà để cho ở nguyên chức Trấn thủ xứ này và tặng thêm quả ấn phiên vương.
- Nếu vậy thì chỉ có cuộc diện thay đổi thôi! Ngô Cầu nghĩ thầm trong trí. Còn ta vẫn nghiễm nhiên là ta, mà lời đoán vận mệnh của ông đạo sĩ hôm nọ cũng vẫn là!...
Nửa buổi hôm sau, có lệnh triệu Ngô cầu đến hành dinh của Hữu quân đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh có việc.
Đến nơi, thấy trước thềm bày sẵn một cái cũi to và binh lính rộn rịp, Ngô Cầu tái mặt, giựt mình, chưa kịp chào hỏi gì đã nghe Chỉnh gọi đích danh mà nói nghiêm nghị như là truyền lệnh:
- Phạm Ngô Cầu! Chui vào cũi kia để người ta đưa đi Quy Nhơn!
- Đi Quy Nhơn làm gì? Ngô Cầu run và hỏi, thừa hiểu số phận đợi mình ra sao.
- Cứ vô đó sẽ biết! Chỉnh đáp vắn tắt,
- Thế ra Tây Sơn các ngươi phụ ước với ta ư?
- Ước gì mà phụ?
- Ta đã giao hẹn hiến thành quy hàng thì phong tước thiên vương, vẫn trấn thủ Thuận Hóa; chính các ngươi đã nhận điều ấy với người mà ta sai đến thương thuyết hôm trước?
- Có lẽ người ông sai đi, đã nghe lầm thế nào đấy! Chỉnh nói và mỉm cười. Phong ông làm Diêm vương, chứ phiên vương hãy còn bé. Thôi, chui vào cũi đi, đừng nói nhiều!
Ngô Cầu khóc rống, mắng chửi cống Chỉnh thậm tệ. Rốt cuộc đành phải vào cũi để cho người ta đưa về Hoàng đế thành, làm lễ hiến phù trước nhà Thái miếu.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.12.2022 05:21:48 bởi Ct.Ly >