Linh Mục, Người là Ai III
Linh Mục, Người là Ai III
[font="%value"]
LUẨN QUẨN [font="%value"]
- Cha mà không biết đức tin là gì à; thế cha đi tu làm chi? [font="%value"]
- Có lẽ, Chúa không tử tế gì với tôi vì tôi vẫn chưa biết đức tin là gì. Ai đó nói phét sao cũng được. Tôi không dám nói phét; vì chân đau, nó cứ đau; sử dụng đức tin để chữa vẫn không khỏi. Chúa không chữa, vì có bao giờ Ngài nói Ngài chữa đâu mà cứ đổ cho đức tin chữa, đức tin cứu; trong khi tôi vẫn không biết nên không sử dụng được đức tin để chữa cho chân mình khỏi đau. Cha Lành cố nén lòng, thấp giọng chầm chậm trả lời, lặp lại điều ngài mới viết gửi tới một bà sơ thân quen đã lâu nay. [font="%value"]
Bốn người nơi bàn nhậu ngay bên cửa sau căn nhà bốn phòng. Căn nhà được thiết kế gọn hẹp cho giới bình dân cư ngụ, không phòng đọc sách, không "Family room." Cửa chính ở giữa, bên phải là phòng khách; bên trái, một phòng nhỏ để thừa khoảng trống từ phòng khách thông xuống phòng ăn được ngăn cách bằng bức tường chia hai phần trước và sau bên trong căn nhà. Phần sau, bên cánh trái nơi làm phòng ăn, một cửa dịch, hai cánh bằng kiếng. Dàn bếp bên cánh phải nối tiếp với hành lang nhỏ chia đôi hai phòng ngủ còn lại và phòng lệch về phía trước bên phòng khách. [font="%value"]
Bên ngoài cửa kiếng phía sau, một khoảnh sân tráng xi măng không lớn lắm, cỡ 40' x 24', còn ngổn ngang dao, thớt, chậu, rổ nilon nhỏ,. vẫn đang chờ đợi được rửa sạch và sắp xếp gọn gàng nơi bếp trong nhà. Chiếc bếp gaz hãy còn nóng hổi nâng chiếc chảo vương dầu mỡ sau khi xào lòng ruột mớ ốc biển mới được Lương đem về lúc trưa. Một con mèo mun mập mạp thoải mái nằm xoãi sát vách tường, gần đám xoong chảo, dao thớt, nhẹ nhàng liếm láp mớ lông óng mượt chứng tỏ được nuôi dưỡng bằng thức ăn thừa nơi bàn ăn thay vì đồ ăn khô mua ở chợ. [font="%value"]
Sáng hôm ấy, Khung dậy sớm vì không ngủ được, bước ra sau nhà hưởng không khí mát mẻ buổi sớm; có lẽ tối trước nhậu với mấy người bạn quen biết, lỡ vui nên quá chén lăn quay ra ngủ khi bữa nhậu chưa kết thúc nên sáng sau thức dậy sớm hơn mọi ngày. Một con mèo đen nhỏ chạy tới cạ cạ vào chân, miệng kêu meo meo ra vẻ thân thiết, ráng chừng muốn được vuốt ve. Không hiểu con mèo đen nhỏ này từ đâu tới, chắc chừng ai đó đem bỏ rơi. Khung đem nó vô nhà lấy miếng cá chiên của bữa nhậu tối hôm qua còn thừa cho ăn. Con mèo nhỏ hình như đói lắm, ăn lấy ăn để như sợ hết phần. Và từ đó, nhà Khung đã trở thành tổ ấm cho con mèo quanh quẩn ra vào, nương tựa. [font="%value"]
Người ta thường nói, "Mèo vô nhà thì khó, chó vô nhà thì sang." Khung biết thế nhưng ngẫm nghĩ, con mèo mun lại được cho rằng có đặc tính trừ tà, khó với sang gì không biết nhưng ít nhất nó có thể trị mấy con rắn nhỏ hoặc những con chuột nhắt xưa nay vẫn quanh quẩn nơi miếng đất rậm rạp cây cối không biết của ai giáp ranh phía cuối đất nhà anh. Con mèo lớn nhanh như thổi, nghịch ngội, chạy nhảy không lúc nào ngơi. Cả buổi sáng, chỉ với một trái banh lông đã cũ không biết kiếm được từ đâu, chắc tại khu vườn râm rạp hàng xóm do nước mưa trôi tới, nó hất tới, chạy theo vồ trái banh lúc đang lăn; có khi banh đang lăn nhanh vì bị hất mạnh, con mèo rượt theo với hết tốc độ của mình rồi chộp và lăn cù theo đà trớn trong khi hai chân trước vẫn khư khư ôm lấy banh. [font="%value"]
Mới ba tuần từ ngày con mèo nhỏ nhập cư mà đã thấy nó lớn như thổi; thân mình mềm mại với bộ lông óng mượt do được nuôi dưỡng bằng đồ ăn tươi hải sản. Khung không làm biển, không đánh tôm, bắt cá như mấy người bạn quen, nhưng mang máu nghệ sĩ, thích đờn nhạc, hát hỏng nên cuối tuần thường tổ chức nhậu với mấy người bạn có ghe đánh tôm. Đồ nhậu do họ mang tới, tôm, cá, ghẹ, tôm tích, mực, chẳng thiếu thứ chi. [font="%value"]
Những ngày tháng lạnh trước Giáng Sinh cho tới đầu tháng năm dương lịch, nhân ngày giờ rảnh không đi biển, họ lại dùng ruột hàu, sò, câu nhệch, cá hánh từ ngoài khơi vô vịnh kiếm ăn nên những bữa nhậu cuối tuần luôn được tiếp nối. Dĩ nhiên, những tay nhậu thường rất rành nấu nướng. Thì nào có chi đâu, một con cá hánh cỡ bẩy, tám pounds, đánh vẩy, mổ bụng, cắt lát, rửa sạch, quăng vào nồi nước dấm đang sôi, trong đó hãnh, dầu ăn phi thơm lừng, cà chua, vài lát dứa, nếu có thêm dưa cải chua càng tốt, rồi mắm, bột ngọt nêm nếm cho vừa miệng, thì chỉ trong vòng mười lăm phút sau đó, anh anh, tôi tôi đã có thể nâng chén chia phần. [font="%value"]
Rất ít khi họ chiên cá cuốn bánh tráng vì cá nấu nhanh và gọn hơn. Thử hỏi, cá hánh vừa chín tới được nhấm nháp kèm theo miếng rượu, còn gì có thể thi vị hơn trong cuộc đời. Chưa hết đâu, mực xào khế thêm vài trái ớt, lá thơm đủ loại; nhệch phơi hoai hoái nướng trên bếp than hồng, chấm nước mắm, tiêu, sả, ớt, mùi thơm át cả mùi rượu, còn gì khoái hoạt hơn. Những con tôm to như ngón tay cái, nào luộc, nào nướng phết bơ, nào cá gỏi ăn với nước giấm mẻ theo kiểu bắc kỳ, kèm theo lá mơ, hành hoa, lá thơm đủ loại; tiên trên đời cũng thèm rõ rãi. Đôi khi, món bò lúc lắc xào với tiêu và tỏi, được xếp trên lớp rau cải, xà lách xoong, hay rau cải cúc, rau càng cua, thái cỡ đốt ngón tay trộn với nước chanh, tỏi, gừng đâm nát, muối, dầu olive kèm thêm vài lát ớt thái mỏng, rồi nào ngò ôm, mùi ta, mùi tàu, rau răm, trộn lẫn, hương vị bốc lên ngào ngạt, thì dù có ốm liệt giường cũng được mùi vị bổ xung thừa năng lực mà tiến tới bàn nhậu; bí lắm, rau cải bắp thái mỏng cũng được. Ngón ăn chơi thần tiên trên đời đem lại những niềm vui đơn giản ly anh, chén tôi tạo thêm niềm phấn khởi, hỏi những ai vô tình bỏ lỡ có bao giờ không tiếc nuối. [font="%value"]
Mớ ốc biển được Lương đem về khá nhiều; những con ốc cỡ nắm tay, hơn kém. Vỏ ốc trắng ngà, viền quanh miệng ốc những gai chắc nịch, gần đầy chiếc rổ rộng vành miệng rộng cỡ ba gang tay. Chẳng biết có chuyện gì xảy đến bên hàng xóm cạnh nhà khi Khung mới khêu được hai ruột ốc chuẩn bị thái mỏng xào khế với bông chuối trong khi cha Lành và Thiết đang ngồi nói chuyện ở bàn ăn; Lương phụ với Khung chuẩn bị phi hành tỏi. Khung và Lương vội bước tới bên hàng rào nghe ngóng vì nhà hàng xóm cũng là người Việt thân quen. Lúc trở lại, thấy con mèo mun dễ thương, gần mé sân, đang vui vẻ thưởng thức bộ lòng ruột một con ốc mới được đặt trên thớt lúc nãy. [font="%value"]
- Ah! Con mèo này hỗn, dám nhậu trước các ông. Khung la con mèo. [font="%value"]
- Không sao đâu, ốc nhiều mà. Lương an ủi, một con ốc thì ăn thua gì. [font="%value"]
- Nhưng... [font="%value"]
- Nhưng nhưng, cậu cậu cái gì nữa. "Dạy con từ thuở còn thơ; dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về;" không để ý dạy nó thì coi chừng có ngày mất ăn! [font="%value"]
- Dạy làm sao đối với con vật! [font="%value"]
- Dễ mà! Lấy mấy nan tre hay cành cây nhỏ, bó lại nơi tay cầm; khi thái thịt hay làm cá, con mèo thường quanh quẩn rình cơ hội ăn cắp. Như vậy, cứ giả đò lơ là, khi nó thấy không gì để ý đe dọa mới từ từ rón rén tiến gần chiếc thớt ngửi ngửi định tha miếng thịt hay miếng cá, thì quất cho nó một cái. Vài lần như thế thành thói quen, nó sẽ không dám bén mảng đến nữa. Nhà tôi, con mèo nằm canh chiếc thớt trên đó có miếng thịt đang thái dở, không biết bà xã có chuyện chi bỏ đó; con chó chạy đến định ngoạm, và thế là lãnh cú tát trời giáng của con mèo, kêu ẳng ẳng. Không tin, cứ thử rồi sẽ biết, chẳng có chi cần lý luận. Lương giải thích. [font="%value"]
- Con mèo này kể cũng được việc dẫu nghịch như giặc. Từ ngày có nó cỡ hơn tháng, đã thấy nó công một vài chú chuột xoai xoai, con rắn dài cỡ hơn gang tay, nhưng lại không ăn chúng, mà cắn chết để ngay mép sân, coi như trình diện công sức, trong khi thịt, cá, tôm, ốc, sống sít lại bao nhiêu cũng không vừa. [font="%value"]
- Vậy là tốt rồi; để ý dạy nó chỉ cần vài lần ông sẽ thấy. Để tôi đi lấy nước mắm và bột ngọt. [font="%value"]
- Có thơm đã gọt sẵn và cà chua, cần tàu trong tủ lạnh, ông đem ra đây chuẩn bị xào, nhớ đừng quên củ hành tây, củ gừng nữa. [font="%value"]
- Có dầu hào không? [font="%value"]
- Có chứ, đầy đủ các phép bí tích nơi tủ lạnh. [font="%value"]
- Có định luộc thêm tôm cho thịnh soạn hơn một chút không? [font="%value"]
- Luộc tôm ở trong nhà, khi ông xào ốc, tôi sẽ luộc với gia vị crawfish; chừng nhậu xong một ly sẽ có tôm luộc cho nóng sốt. Ông nhớ mang đôi đũa bếp và chiếc bai tráng trứng mà đảo ốc. Nhiều ốc lắm, gần đầy chảo. [font="%value"]
- Có ớt không? [font="%value"]
- Sao có thể thiếu; ớt tươi nơi góc vườn đó. [font="%value"]
Mười lăm phút sau, bốn người đã ly anh, chén tôi vui vẻ san sẻ đĩa lớn ốc xào trông đến bắt mắt. Giữa màu ngà ngà pha nâu xám miệng ốc, những miếng ớt đỏ, cà chua cùng với thơm vàng, chen lẫn màu xanh nhạt của những cọng cần tàu, thơm thơm mùi vị thuốc bắc hòa với mùi ta, rau răm, nước mắm nguyên chất tự nhà làm lấy, cộng thêm hương rượu ngâm thuốc bắc, chẳng mấy hồi nâng thêm lòng vui vẻ, vui vẻ vì chất men rượu gợi niềm phấn khởi nơi lòng ruột tuổi sồn sồn. [font="%value"]
- Nước mắm này ông làm bao lâu rồi? Thiết hỏi Khung. [font="%value"]
- Mới có bốn tháng, kể từ ngày mở hồ, Lương mang về cỡ ba chục pounds cá phân, chẳng biết ăn sao cho hết nên tôi đem ủ mắm. [font="%value"]
- Mới bốn tháng sao mà ăn ngon thế, lại thơm nữa. [font="%value"]
- Cá phân chỉ là những con cá nhỏ nên mau phân hóa; nhất là vào những tháng nóng này. Nếu muối mắm bằng những con cá lớn; ít nhất cần một đến hai năm vì mỗi năm chỉ có sáu tháng được gọi là nóng đủ để cá phân hóa. [font="%value"]
- Có lần tôi ủ một phi năm mươi lăm gallons, lấy nilon bịt kín ba lớp, dùng giây cao su quấn quanh cho chắc, tránh ruồi muỗi dây dưa đẻ trứng, một muối, năm cá. Chời ơi, ít bữa sau, cỡ hai ba tuần chi đó, mấy miếng nilon bịt miệng thùng căng phồng lên gần muốn nứt ra. Cũng may, nó chưa nổ; và rồi sáu tháng sau, tôi mở ra định bụng lọc lấy ít mắm ăn thử. Vừa mới tháo hết lớp giây thung cột quanh miệng, lạy Chúa tôi nó thối chịu không nổi. Tôi phải đào lỗ tiễn đưa công lao làm mắm của mình. May mà hàng xóm chiều hôm đó, cuối tuần đi chơi hết. Nếu không lại vãi tội ra. [font="%value"]
- Thế ông làm mắm cân lượng ra sao và có phải bỏ thêm gì vô không? Bởi ngày còn nhỏ ở Việt Nam tôi có cơ hội ra Phan Thiết chơi, thấy người ta phải rang gạo cho cháy rồi trộn với cá và muối hột đoạn bỏ vào chum có cái nùi để ủ mắm mà. [font="%value"]
- Thì rửa sạch, để ráo, một muối bẩy cá, thêm vào một muỗng cà phê "Baking soda" và quên đi là xong. [font="%value"]
- Tại sao lại phải có baking soda. [font="%value"]
- Cái ông này sao mà ngây thơ cụ đến thế. Ông có nghe thấy mấy nhà hàng lớn bị kiện vì khách ăn trúng thực bao giờ không; trong khi báo chí, youtube đã một thời ồn ào về hãng xưởng ở Việt Nam công nhân ăn trưa trúng thực hàng loạt. Đồng ý rằng vấn đề nước non ở Việt Nam không được khử trùng kỹ lưỡng, nhưng cũng nước non đó người ta sử dụng tại nhà riêng sao không việc gì mà nơi các hãng xưởng lại phát sinh trúng độc. Nói rằng thịt cá ươn bị ướp chất độc như phân hóa học hoặc muôn thứ khác nhưng chắc chắn trước khi nấu, công ty nấu nướng cũng cho nhân viên rửa ráy kỹ càng chứ. Baking soda có công dụng giúp cá phân hóa mau hơn và khử những chất độc nếu có nơi thực phẩm, hơn nữa, phần nào còn giảm mùi hôi. [font="%value"]
- Giảm cái gì, nó hôi chịu không được nên tôi phải chôn cả một thùng năm mươi lăm gallons thì phải bao nhiêu baking sođa mới đủ. [font="%value"]
- Tại ông kỹ lưỡng quá nên uổng phí chẳng những công sức mà còn tiền muối, tiền bao. May mà không có ai gọi cảnh sát là phúc đức lắm rồi, than chi nữa. Đúng là tội lỗi bởi thiếu hiểu biết mà ra. Lần sau nếu có ủ mắm thì nên nhớ phải cho nó hở hơi mới được. Dĩ nhiên, cá phân hóa sinh ra mùi hôi, không để mùi phân hóa thoát đi, chắc chắn lại thêm thùng nữa đem chôn. [font="%value"]
- Bộ ông muốn ăn mắm bọ sao! [font="%value"]
- Bây giờ đang nửa tháng 9, ông có thể thử được, nội tháng 12 ông sẽ có mắm ăn. Đừng thử nhiều, cỡ 30 pounds cá phân nhỏ, ra Walmart mua một chiếc thùng 5 gallons và cái nắp. Đục một lỗ ở nắp vừa để ráp thêm đầu ren của ống nhựa nửa inch đoạn nối thêm 2 góc vuông cho nó cụp xuống tránh nước mưa rớt vô và để thoát hơi. Ba chục pounds cá thì cần 4 pounds muối và bốn muỗng cà phê baking soda, đảo đều đoạn đậy kín để ngoài trời nơi nhiều nắng. Quên nó đi, cỡ giữa tháng 12 là có mắm ăn. [font="%value"]
- Thế nó không bốc mùi hôi sao? [font="%value"]
- Cá trộn muối phân hóa từ từ, ngoại trừ đứng gần mới cảm thấy mùi hôi vì nó được thoát ra từ từ. Thử sẽ biết. [font="%value"]
- Bà xã của tôi không biết nghe ai nói bảo phải mổ cá làm sạch sẽ mới có mắm ngon. [font="%value"]
- Dĩ nhiên, đó là tuyệt nhất nhưng rất mắc mỏ và ít nhất phải cỡ hai năm mới có thể có mắm ăn, ngoại trừ thái nhỏ cá ra để muối cho mau phân hóa. Và như vậy, một galon mắm giá lên tới cả hơn trăm dollars. [font="%value"]
- Tôi cũng định làm mắm cá để bán nhưng tính tới, tính lui thấy không bõ công. [font="%value"]
- Ông làm đi, chúng tôi tặng không cá phân cho ông. [font="%value"]
- Cảm ơn lòng tốt của ông nhưng nếu tính theo kinh tế, xin cá mắc hơn đi mua. [font="%value"]
- Ông nói gì, xin cá mắc hơn mua? [font="%value"]
- Tôi đã tới hãng cá, giá bán sỉ chỉ 58 cents một pound; vị chi một tạ cá chỉ hơn kém 127 dollars được xe chở tới nhà và nếu tính ra thành quả, cứ 20 pounds cá sẽ được 1 gallon mắm gốc sẽ phải chi 15 dollars tiền cá, tiền muối, ấy là chưa tính công sức muối cá, tiền thùng, tiền bình đựng mắm. Ông thử tính coi, nếu đi lấy cá phân, mỗi lần ông mang về cho tôi được bao nhiêu pounds? Cứ tính 400 trăm pounds một chuyến, ghe ông đậu cách xa bãi đậu xe, phải nhờ người đi ghe chuyển cá, vậy một chuyến chở 400 pounds cá trị giá lên tới bao nhiêu, nào tiền xăng, nào nhanh nhất cả nửa ngày rửa cá đổ vô thùng chứa, công sức người làm, người chuyển cá, cộng lại ít nhất phải hơn trăm, mà nào dễ chi kiếm người làm chỉ một đôi tiếng đồng hồ. Vả lại một tuần mới có được 400 pounds thì bao lâu mới đủ 8 tôn cá cho bõ công muối trong một năm. Hơn nữa còn mang thêm mối nợ ân tình, tiền bạc nào trả cho nổi. Bộ vợ con ông là gỗ đá hay sao mà có thể chấp nhận chồng, bố mình bỏ công sức làm chuyện bao đồng chẳng lợi lộc gì! Ông biết đấy, năm ngoái Tuấn lấy cá phân cho tôi, hắn đi về hằng đêm để vợ bán tôm lẻ; ngày thì vài chục pounds, ngày nhiều nhất là 400 pounds cá phân đem về cho tôi và vợ nó nhảy quay lên, nhờ mẹ vợ nói với tôi đừng lấy cá phân nữa. Vừa tổn vừa phiền lại mang thêm món nợ ân tình cả đời trả không xong. Mua cá, một chuyến xe chở tới 8 tôn đông đá, giải quyết hai ngày sạch sẽ; xin cá, cả mùa tôm bận rộn tổn ải, có thể nói mắc gấp ba lần lại không có giờ thảnh thơi làm việc khác. Mua cá, tiền trao, cháo múc, chẳng phải nợ nần ai. [font="%value"]
- Nơi tàu đánh tôm, thì cá phân lối nào cũng đổ xuống biển, thay vì đổ đi giác cuối mà đem về, mắc mớ gì đến các bà mà phải ồn ào rối lên. [font="%value"]
Nói qua, nói lại, rượu đã được châm thêm vào ly đợt hai khiến lòng ruột của các máy nói sừng sừng, không cần e dè lời ăn tiếng nói. Thiết, dẫu ít nói mà cũng nhịn không được nên lên tiếng nhận định. [font="%value"]
- Thì ông về mà thuyết minh với bà xã của ông xem bà ấy trả lời thế nào. [font="%value"]
Xưa nay Thiết rất ít khi ý kiến, ý bọ giữa những đấu khẩu của bạn bè lúc đang ăn nhậu. Cùng lắm, hắn chỉ trả lời qua loa, chung chung tránh đụng chạm bởi ngại mất lòng bè bạn. Cuộc sống gia đình của Thiết tương đối thoải mái. Vợ Thiết trước khi lập gia đình là cô giáo tiểu học tại đất Mỹ; hai người sinh hạ được tám người con, năm trai, ba gái, ăn học thành đạt. Bẩy người đã lập gia đình, chỉ còn bé gái út đang học đại học. Ngay từ ngày vừa đến đất Hoa Kỳ, Thiết học và hành nghề sơn sửa xe hơi. Lắm sáng kiến, làm việc lanh lẹ nên được mấy hãng bán xe lớn ưa chuộng. Vài năm sau mở tiệm sơn sửa xe, sau đó hai vợ chồng tậu thêm tiệm bám tạp hóa và cây xăng. Trời thương, do làm ăn uy tín, cẩn thận, và tiệm bán tạp hóa lại tọa lạc ngay gần lối vào hai hãng đóng tàu lớn; chỉ mười lăm năm sau vợ chồng Thiết đã mua thêm được hơn hai chục căn nhà cho thuê. [font="%value"]
Làm việc nơi tiệm sơn sửa xe từ bẩy giờ sáng tới bốn giờ chiều, Thiết đóng cửa tiệm, tắm rửa và lái xe đến tiệm tạp hóa thay thế cho vợ. Trong thời gian này, anh kiểm điểm hàng hóa và gọi cho các hãng cung cấp cho ngày hôm sau như xăng, bia, nước ngọt, và những món hàng lặt vặt. Mười giờ đóng cửa tiệm và về tới nhà sớm nhất cũng hơn kém mười giờ rưỡi đêm. Ăn uống, nghỉ ngơi, coi tin tức, thời tiết và có thể đi ngủ sớm nhất cũng là mười hai giờ khuya. Sáu giờ sáng thức giấc, bẩy giờ hơn kém anh đã có mặt để mở cửa tiệm sơn, sửa xe. Có điều, con cái anh chị ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành, đứa lớn thúc giục, khuyến khích các em học hành, làm bài nhà trường. Cũng may, những căn nhà cho thuê đã được sửa chữa cẩn thận ngay sau khi mua nên hơn mười năm tiếp nối êm ả mang lại lợi tức. [font="%value"]
Dẫu là người Việt với phong hóa điều hành gia đình thấm nhuần nơi dòng máu, người vợ điều hành mọi mặt trong gia đình, và người chồng lo làm lụng cung cấp ngân sách chi tiêu, nuôi dưỡng con cái. Hai vợ chồng Thiết, mỗi người coi một cửa tiệm nên ngân sách được phân biệt rõ ràng cho tiện việc điều hành tránh cảnh rắc rối giấy tờ, thuế má. Sau trận hồng thủy Katrina, vợ Thiết không muốn làm tiệm tạp hóa nữa vì thu nhập kém do một hãng đóng tàu lớn đóng cửa. Thêm vào đó, tiệm sơn sửa xe cũng đã bán lại cho người khác mấy năm trước. Thiết chỉ lo việc cho thuê nhà cửa nên có nhiều giờ rảnh đàn đúm, nhậu nhoẹt với mấy người bạn quen biết quanh vùng. [font="%value"]
- Không hiểu các ông thế nào; riêng tôi, nhà tôi không bao giờ đặt vấn đề về công việc tôi làm thế nào. Những gì bà ấy làm thì bà ấy lo, việc của tôi, tôi lo, không mắc mớ chi tới bà ấy. [font="%value"]
- Bởi vậy cho nên đã có lần xuýt chết cóng. Lương nhắc chuyện. [font="%value"]
- Nào có lạ chi, cái gì càng đẹp lại càng độc. [font="%value"]
- Ông nói sao, đẹp mà lại độc? [font="%value"]
- Thì cứ nhìn thực tế, càng đàn bà đẹp lại càng chảnh, càng khó chiều, khó tán. Chiếc xe mắc tiền càng phải cẩn thận gìn giữ, lau chùi; vợ đẹp khó giữ vì lắm kẻ nhòm ngó, đong đưa; chả thế mà mấy ông làm tàu đánh tôm phải bỏ nghề. [font="%value"]
- Tôi nghĩ, muốn cho gia đình êm ấm phải có đức tin mới ổn. Lương buông lời nói đang khi gắp miếng ốc chấm vô đĩa mắm ớt. [font="%value"]
Lời nói của Lương khiến cha Lành buột miệng, [font="%value"]
- Ông nói sao, cái gì đức tin khiến gia đình êm ấm? [font="%value"]
- Cha đi tu mà không biết đức tin là gì à; thế cha đi tu làm chi? [font="%value"]
Không biết bao nhiêu lần cha Lành bị câu hỏi "Cha đi tu làm chi?" hoặc đại khái như thế, dường như cố ý gỡ gạc thế bí của những người quen biết khi gán ép một kết luận tâm linh nơi tôn giáo vào thực tại hữu vi, thế tục. Anh không suy nghĩ để tìm phương cách xây dựng gia đình, phải sống thế nào, đối diện với những khó khăn xã hội liên hệ tới cuộc sống gia đình, tâm lý hiểu biết, ước muốn, tình cảm của người phối ngẫu, giáo dục con cái, ngân sách chi tiêu. liên hệ với những người chung quanh và ảnh hưởng của họ tới gia đình mà mường tưởng đức tin của anh sẽ giữ được cho gia đình êm ấm thì coi chừng sự đổ vỡ chẳng sớm thì chầy sẽ ập tới. Đức tin của anh là gì, làm sao áp dụng vào cuộc sống nhân sinh, làm sao sử dụng đức tin để có thành quả thế tục mình mong muốn xưa nay là điều không tưởng bởi có biết đức tin là gì đâu; mà có lẽ anh chỉ dùng danh hiệu đức tin cho có vẻ con nhà "có đạo" khiến người nghe cứng họng hầu kiếm chác chút hãnh diện mơ tưởng chứng tỏ mình là con người đứng đắn. [font="%value"]
Cha Lành im tịt; lại thêm một lần vấp phạm vì đã buột miệng lên tiếng mà quên lời răn đe từ phúc âm, "Của thánh đừng cho chó; chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6). Dẫu đã nhiều lần vấp phạm nên đã nghiệm được câu nói thoạt nghe như kỳ cục, bất thường, đối với những người thiếu hiểu biết hoặc không muốn biết thì khóa cái miệng lại, nói ra cách nào cũng bị coi thường, lên án. Bị những lời nói coi thường, lên án vì đối tượng gỡ thế bí cho đỡ sượng mặt; thế mà lại không dằn được lòng nóng sốt nên buột miệng. Cha Lành tự nhủ nên cố nén lòng im lặng. [font="%value"]
Nơi chốn quen biết, lâu lâu hay đàn đúm với họ ăn nhậu mỗi khi được mời, những lời nói bộc trực, ngang ngửa ít khi bị đặt thành vấn đề, nhất là khi chén rượu đã ngà ngà. Khi sứa sứa với hơi men, nào ai để ý tới lời ăn tiếng nói, có chăng nói cho có việc nói, nói cho qua, cho hả hơi men. Cha Lành không đặt vấn đề hơn thua với họ nhưng ngược lại, những lời nói vô tình do họ phát biểu tựa những chiếc vồ đập vào màng tang, những tiếng sét đánh thẳng nơi tâm tư trong nỗi thao thức ngày này qua tháng nọ âm ỉ, dằn vặt, luôn thúc đẩy tâm hồn, hình như cố ép tâm tư ngài phải lo giải quyết nghiêm chỉnh mong có được nhận thức đúng đắn sao cho có được sự hài hòa am hiểu thỏa mãn lòng khát khao tiềm ẩn nơi tâm tư. [font="%value"]
Đức tin là gì? Tại sao mọi người hồ hởi chấp nhận đức tin một cách dễ dàng, hài hòa, phải tin vào Chúa, phải tin vào đức Kitô, phải tin vào giáo hội, mà ngài lại chỉ cảm thấy hình như danh hiệu đức tin được mọi người chấp nhận chẳng khác gì niềm tin tưởng, hy vọng, ước mơ, trông cậy, quả đối nghịch với lời phúc âm đặt nơi miệng đức Giêsu, "Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con;" và lại được mọi người tin theo cho là đức Giêsu làm phép lạ. Nói rằng, cho rằng ngài làm phép lạ thế sao ngài lại cứ đổ thửa đức tin chữa, đức tin cứu. Vậy thực sự đức tin là gì? Có được chỉ một định nghĩa đức tin nơi thư Hipri, đoạn 11, "Tin là cách thức chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy;" vì nhờ đó các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho. Bởi tin, ta hiểu được là các thế giới đã được xếp đặt bởi lời Thiên Chúa cho nên không phải do tự những vật hữu hình đã phát ra điều người ta thấy được." (Hipri 11: 1-3; Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn). [font="%value"]
Nơi cuốn The New Oxford Annotated Bible with Aprocrypha thì lại được viết, "Now faith is the assurance of things hope for, the conviction of things not seen. For by it the men of old received divine approval. By faith we understand the world was created by the word of God, so that what is seen was made out of things which do not appear” (Hebr. 11:1). Nơi cuốn Dictionary of the Bible do John L. McKenzie, S.J, được viết, "Mordern Catholic theology defines faith with St. Thomas Aquinas as 'the act of the intellect when it assents to divine truth under the influence of the will moved by God through grace' (II. II. q, 2 a. 9). This somewhat strictly intellectual concept of faith was developed in the intellectualistic theology of the medieval period, and the controversies arroused by the Reformation teaching on faith as an act of confidence led Catholic theology to the emphasize still more the intellectual quality of faith. The biblical understanding of faith, which is antecedent to these movement, is not so severely intelectual; it has some intellectual content, but biblical faith viewed as a whole is a more comprehensive psychic act than the faith defined by St. Thomas" (Diction of the Bible; John L. McKenzie, S.J.; Catholic Book; New York; 1965; p. 267). [font="%value"]
Nơi bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn chỉ dùng chữ "Tin," trong bản tiếng Anh lại dùng chữ "Faith;" nơi phúc âm dùng "Đức tin, lòng tin." Vậy "Đức tin" là gì mà lại có thể chữa, có thể cứu. Nơi Ca Dao Bình Dân tiếng Việt có câu, "Nói ra thì bảo rằng ngoa, không nói lại bảo người ta rằng đần." Là một linh mục, đã bao năm, tâm tư cha Lành luôn bị khắc khoải với thực thể được phúc âm nói tới với danh hiệu "Đức tin," (Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con) với nghĩa bình thường được mọi người chấp nhận như là sự tin tưởng nơi Chúa, nơi Đấng Tối Cao. Lục lọi nơi trí nhớ, đâu có nơi nào ở bất cứ cuốn sách chi có tác giả nào dám viết cứ tin tưởng vào một đấng nào đó thì sẽ đạt được điều mình mong muốn đâu. Như vậy, xét ra, Nguyễn Thế Thuấn dùng chữ chính xác hơn nơi Oxford Bible. "Tin là cách thức chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy," sự thể này đúng với tâm lý, tâm tư ước mơ, mong muốn, ước vọng nhưng chỉ là ước mơ, mộng tưởng, nghĩ rằng nếu thế nọ, nếu thế kia thì mình sẽ dạt được điều gì đó, chưa thực hiện hữu, mới chỉ là hy vọng. [font="%value"]
Phúc âm nói rõ ràng, "Đức tin con chữa con" (Mc. 10:52) chứ không nói, con tin, con sẽ được. Nơi bản tiếng Anh, "Now faith is the assurance of things hope for, the conviction of things not seen," đã đánh đồng nghĩa "Faith, đức tin" với nghĩa của sự tin tưởng, hy vọng, ước vọng, ước muốn. Cũng chỉ vì muốn phân định rõ ràng nhận thức thực dụng thực thể "Đức tin" và thực thể của sự tin tưởng, một đàng mang năng lực chữa lành và một dàng vẫn còn trong mơ tưởng, hy vọng, mà cha Lành đã trả lời thư của sơ Ngân, rất thực với tâm trạng khắc khoải nơi tâm tư mình. Hình như có niềm ăn năn nào đó vì e có thể bị hiểu lầm hoặc làm phiền sơ Ngân do ngài đã dám đánh động tâm tư sơ đặt lại vấn đề đức tin. Khi nhận được email từ sơ Ngân, ngài đã trả lời không do dự. [font="%value"]
Cha Lành Kính quí, [font="%value"]
Con mới đi Bắc Ninh dự lễ các chị Đức Mẹ Hiệp Nhất được Thánh Bộ Tu Sĩ chấp thuận cho thành lập Hội Dòng, Hiện ngoài Bắc lạnh lắm, nên con chỉ ở 1 tuần. vừa về thì được email của chị con nói cha "hỏi" về con !!! [font="%value"]
Nay con xin trình diện cha đây. [font="%value"]
Cha vẫn khỏe ạ? Cha về hưu rồi chắc có nhiều thời gian để làm những điều cha muốn mà trước đây chưa làm được cha nhỉ. [font="%value"]
Hiện con không còn ở Nha Trang nữa, năm 2020 thấy dịch covid tràn vào Nha trang, do sức khỏe con không tốt nên bề trên tạm cho về Sài Gòn chờ dứt covid rồi trở lại Nha Trang, ai ngờ covid càng ngày càng căng, thêm các em dân tộc nội trú nơi đây lần lượt bị nhiễm covid do các em không ý thức về việc lây lan của bệnh mà cứ tủm tụm trò chuyện dù có bạn đang nhiễm khi vắng các sơ [font="%value"]
Năm học 2021-2022 các sơ chỉ dám nhận 46 em, mặc dù ít nhưng các sơ rất mệt, do lo sao cho có thực phẩm cho cả nhà trong thời gian cách ly, vì dịch bệnh, kinh tế mọi người mọi nơi suy giảm nên các em không có việc làm và các ân nhân cũng không giúp được như trước. Lo nhất khi các sơ cũng bị nhiễm covid. May mà mọi người qua khỏi, nhưng di chứng hậu covid làm sức khỏe của các sơ bị suy kém nhiều... [font="%value"]
Dù cuối 2020 về Sài Gòn, nhưng chưa có quyết định rõ ràng nên con vẫn làm việc với các sơ ở Nha Trang. [font="%value"]
Sau đó thấy ở Nha Trang không đảm bảo cho sức khỏe của con, Năm 2021 bề trên cho ở lại Sài Gòn luôn rồi. [font="%value"]
Nhờ được ở Saigon, và gần nhà chị con nên con thường ghé về chơi với chị, nhưng chỉ được thời gian ngắn thì chị bị nhiễm covid và qua đời, ngày 10/08/2021... Giờ ở VN chỉ còn có mình con, Bên Mỹ, Chị Lánh càng ngày càng yếu, thêm anh con, gần 85 tuổi nằm liệt gường, không rằng không nói, không còn nhớ gì.... [font="%value"]
Vài hành kính thăm cha và "báo cáo" tình hình hiện tại của con. Nói sống ở Sài thành cho oai vậy chứ, cộng đoàn con (có 3 soeurs) nằm giữa xóm lao động; lúc nào cũng ồn ào, đêm cũng như ngày đều có những trận cãi vã, chưởi bới, những buổi nhậu nhẹt kèm theo to tiếng và xô sát... [font="%value"]
Con kính chúc cha nhiều sức khỏe và bình an. [font="%value"]
Kính thư [font="%value"]
Sr. M. Gioanna Ngân. [font="%value"]
Và ngài đã trả lời, [font="%value"]
Tôi vừa đi ăn về. Nhờ một bà già 83 tuổi, mẹ của người quen biết, tôi đã quen gia đình này ba mươi mấy năm, khi còn là thày xứ; nhờ bà ta mua một con vịt đã làm sẵn bán nơi tiệm, về nấu thuôn ăn bún với bắp cải thái nhuyễn để mừng vợ chồng anh chị ta, con trai, con dâu, và đứa con nhỏ mới chết hụt sau vụ hỏa hoạn tiêu tan căn nhà, nhưng không ai việc gì, anh ta chỉ bị bỏng nơi cánh tay và té khiến chân bị đau. [font="%value"]
[font="%value"]
Hãy còn sống thì tạ ơn Chúa ban cho mình những hồng ân phải chịu khổ thêm mà thôi. Dù sao, và dẫu cho thế nào, không ai muốn hưởng mặt Chúa vội. Tôi đã retired, chân đau, nhưng đành chịu, vì Chúa có bao giờ tử tế với tôi đâu, Ngài làm theo ý Ngài, chứ đâu theo ý tôi nên biết nói sao hơn bởi Chúa có tai đâu mà nghe lời tôi cầu theo ý mình. [font="%value"]
[font="%value"]
Hiện giờ, tôi chỉ còn một ước mơ, viết thêm một cuốn truyện theo kiểu tự sự kể về hành trình nghiệm xét (theo thánh Phao Lô) về câu phúc âm, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài" (Mt. 6:33) và phân định hai chủ thuyết, "Chúa Giê su chuộc tội loài người" và Tin Mừng đức Giê su rao giảng. [font="%value"]
[font="%value"]
Thế thôi, cũng quá đủ cho kiếp làm người; không hiểu Chúa muốn thế nào. Nếu Chúa không thích thì cất tôi về càng sớm càng tốt. Chúa thích thì chỉ thêm khốn khổ cho thân xác mà thôi; tôi không có gì để phàn nàn, kêu ca, bởi ý của Chúa không phải là điều mong muốn của tôi. Ngài muốn thế nào, xin vâng theo như vậy, đành chịu khốn khổ cho qua kiếp người. [font="%value"]
[font="%value"]
Không hiểu nơi nhà dòng, khi retired, các sơ thế nào, tôi retired, muốn ăn ngủ lúc nào tùy ý, không ăn cũng được, chẳng ai bắt ăn. Không ngủ cũng chẳng ai bắt ngủ. Thích viết, ừ thì viết, thích làm nhạc cũng ok tùy mình. Chỉ một điều, cái chân nó đau không theo ý mình, đổ cho Chúa, nó càng đau thêm. Dùng đức tin chữa trị, không khỏi nên cứ mò mẫm sao có thể sử dụng đức tin cho hợp với lời phúc âm đặt nơi miệng đức Giê su, "Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con." Thế mà bao lâu nay, tưởng rằng mình có đức tin nhưng thực ra không biết nó là gì nên không sử dụng được. [font="%value"]
[font="%value"]
Có lẽ, Chúa không tử tế với tôi vì tôi vẫn chưa biết đức tin là gì. Ai đó nói phét sao cũng được. Tôi không dám nói phét vì chân đau, nó cứ đau; sử dụng đức tin để chữa, không khỏi. Chúa không chữa, vì có bao giờ Ngài nói Ngài chữa đâu mà cứ đổ cho đức tin chữa, đức tin cứu trong khi tôi vẫn không biết nên không sử dụng được đức tin. Amen. [font="%value"]
[font="%value"]
Cầu chúc Sr. an vui. [font="%value"]
Hiểu đức tin là gì mà không sử dụng được thì cũng như cuội. Cứ theo phúc âm, đức tin chữa, đức tin cứu chứ không phải, có bệnh, cứ tin tưởng được chữa lành thì tự nó lành không phải đi gặp bác sĩ hay thầy thuốc. Đức tin chữa chứ không phải mơ ước hay hy vọng. Hy vọng được chữa lành tất nhiên chưa lành; chẳng khác gì ước muốn dẫu thực lòng hay không. Phải hiểu đức tin là gì, thế nào, thực hành ra sao để có thể sử dụng. Có chiếc xe mà không biết lái thì phải học lái xe. Có đức tin mà không biết sử dụng thì phải học cách sử dụng. Nơi phúc âm, bà bị loạn huyết (Lc. 7:50) đưa tay đụng đến áo đức Giêsu với ý định, ước muốn được khỏi bệnh nên được chữa lành. Tất nhiên, ai bị bịnh cũng thực sự có ước muốn được lành mạnh, còn hành động đưa tay đụng đến áo muốn nói về điều gì, sự thực hành nào nơi cõi nhân sinh. Phúc âm không nói bà bị loạn huyết ăn chay hãm mình, ăn năn đánh tội, hay có hoạt động, hành động hành hạ chính mình, mà chỉ một ước mong cùng cực được lành bệnh mà thôi. [font="%value"]
Nghe một người bạn kể, anh ta tham dự nhiều nghi thức chữa lành. Linh mục chữa lành không ăn uống gì suốt ngày hôm đó, chỉ ăn sau khi đã thực hành chữa bệnh cho người khác; những người được chữa lành không phải kiêng khem gì. Lại có ông khác nói; có một người bạn lính, công giáo, chưa hết bậc trung học, cuộc đời lắm thăng trầm, đôi khi lăng nhăng vợ nọ con kia. Làm ăn rất may mắn, có lần khi lái xe cố vượt ngang qua đường rầy lúc xe lửa đang trờ tới, bị xe lửa tông, ông bị kẹt trong xe, khó khăn lắm mới lấy ông ra được trong khi ông bị thương nặng nề. Ở nhà thương, thân xác ông bị mổ nhiều chỗ, ngay cả nơi trung tâm thần kinh sau gáy; sau khi khỏi phải đi xe lăn. Và lần đó, về Việt Nam, được người nhà mang tới tham dự giờ kính lòng Chúa thương xót ở Nhà Bè. Vì tới trễ, không vô trong được nên người nhà ông để ông bên ngoài và chỉ mấy phút sau, chưa đọc được mười kinh, ông thấy người nóng bừng và được khuyến khích từ cõi vô hình đứng lên. Ông đứng lên đi khỏi, bỏ lại xe lăn và gậy chống. Nghe nói, sau này ông rất có lòng tin vào Lòng Chúa Thương Xót. [font="%value"]
Một ông thầy, chuyên viên chữa trị liệt tay, liệt chân, đau ngang thắt lưng, hoặc cổ không quay ngang quay ngửa được giải thích, nếu bệnh nhân tỏ ý không tin tưởng thì đừng bao giờ chữa cho họ. Sự tin tưởng của bệnh nhân giải quyết năm mươi phần trăm trong sự điều trị. Điều này chứng tỏ ý định, ước muốn mang năng lực phụ giúp sự điều trị chứ không phải ước muốn được điều trị; cha Lành thầm đặt vấn đề nhưng không nói chi vì tâm trí ngài đang cố tìm hiểu để phân định cho rõ ràng sự liên hệ hoặc khác biệt giữa đức tin và ý muốn, ước vọng, cũng như hy vọng mà xưa nay thường bị hiểu lầm là ý định, và được cho là đức tin. Phải bắt nguồn từ đâu, nơi khía cạnh nào. Dẫu nơi những trường hợp được chữa lành nơi phúc âm đều nói lên ý muốn mạnh mẽ nhưng không nơi nào phúc âm nói đến Chúa chữa, Chúa cứu mà chỉ đơn giản, “Đức tin, lòng tin của con cứu chữa con.” Phúc âm nói gì về điều kiện để được chữa lành? Thực tế minh chứng điều kiện gì? Tại sao những người ngoại giáo được chữa lành nhiều hơn người tin theo đức Kitô? Tại sao những người mang danh tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Kitô khó đạt thành những ước vọng được chữa lành. Tất nhiên, ai mang bệnh trạng mà không thực sự muốn được chữa lành. Phỏng ý muốn, ước vọng của người ngoài Kitô giáo tin vững vàng vào Thiên Chúa, vào đức Kitô hơn là những ai xưa nay, nay xưa được nghe rao giảng tin vào Chúa, hoặc đức tin nơi Kitô giáo? [font="%value"]
So sánh nơi hai bản dịch Kinh Thánh của Nguyễn Thế Thuấn và Oxford. Người ta đã đánh đồng “Tin” và “Đức tin, faith.” Tin vào một sự việc đó là niềm tin. Sự việc được nghe nói hoặc đang diễn tiến có thế đúng với suy nghĩ, niềm tin tưởng, ước vọng và cũng có thể hoàn toàn khác với ước muốn do điều kiện hoàn cảnh, bối cảnh thực tại ảnh hưởng. Tin vào lời nói của ai đó chỉ nói lên hy vọng, ý nghĩ cho lời nói đó là đúng sự thực, hoặc hy vọng vào điều gì đó sẽ xảy ra đúng với suy luận và ý nghĩ của mình chứ không mang quyền lực khiến chuyện xảy ra theo ý nghĩ của mình. Đức tin chữa, đức tin cứu có nghĩa đức tin mang quyền lực chữa lành, không đòi hỏi người được chữa lành tin vào ai, theo tôn giáo nào. Phúc âm nói gì, phải bắt đầu từ đâu? Câu nào nơi phúc âm khuyến khích cho bước đầu của sự nhận biết đức tin? Phương pháp nào để suy nghiệm lời Chúa qua phúc âm? “Thời buổi đã mãn, hãy ăn năn hối cải và tin vào phúc âm” mang nghĩa gì? Ăn năn hối cải được dịch từ tiếng Hy lạp “Metanoia” mang nghĩa thay đổi hướng đi, thay đổi chiều hướng suy tư, làm sao áp dụng vào suy nghiệm? Thời đức Giêsu đã có danh hiệu phúc âm chưa? Phúc âm được viết từ năm 70 đến 100 sau Công Nguyên, vậy “Phúc âm” nơi đây mang nghĩa gì, phỏng đó là lời rao giảng của Ngài. [font="%value"]
Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43). Vậy Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì? Tại sao phúc âm được viết, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33)? Không có bất cứ định nghĩa nào về Nước Trời cũng như về Thiên Chúa nơi Phúc âm nhất lãm mà chỉ có một định nghĩa, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” nơi phúc âm Gioan. Phúc âm Gioan là những kết quả suy nghiệm của người suy tư. Tại sao, cách nào để Phao lô đạt tới nhận thức, “Anh em không biết sao, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa, và anh em không thuộc về mình nữa” (1Cor. 6:19). Tại sao, lý do gì Phao lô khuyên, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” Thần khí của Thiên Chúa nơi mình là thế nào, hoạt động ra sao? Khinh thị là thế nào? Điều lành là làm sao, thế nào, nơi nghiệm xét? Và điều dữ là gì nơi suy tư? Tại sao Phao lô lại nói, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Nơi Tăng Nhất Tập của Phật học cũng có 10 lời khuyên không nên tin theo trong khi nghiệm chứng. Phỏng Phao lô cũng đã được đào luyện theo đạo học Đông Phương nên áp dụng nghiệm chứng, được dịch là nghiệm xét nơi Tân Ước? [font="%value"]
Mười điều không nên tin theo nơi Tăng Nhất Tập đó là, “Đừng tin điều gì do kinh sách. Đừng tin điều gì do tập quán lưu truyền. Đừng tin điều gì vì được người ta nhắc đi nhắc lại. Đừng tin điều gì do bút tích của thánh nhân. Đừng tin điều gì do người ta tưởng tượng ra rồi gán cho thần phật nói. Đừng tin điều gì vì uy tín của thày dạy. Nhưng hãy tin vào điều các con đã từng trãi, đã kinh qua và suy xét cho là đúng, có lợi cho các con và kẻ khác. Lòng tin ấy sẽ thăng hoa đời con, và các con hãy lấy đó làm tiêu chuẩn.” Xét thế, chẳng nên tin vào bất cứ gì, ngoại trừ chính mình nghiệm xét, cho dù truyền thống cũng như niền tin mọi người tin theo. Hèn chi Phao lô nói “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian.” Thế theo đức Kitô là thế nào; đức Kitô nói gì qua phúc âm? [font="%value"]
Phúc âm nhất lãm do những cộng đồng Do Thái viết hơn kém hai ngàn năm trước; các học giả Kinh Thánh cho rằng viết về cuộc đời của Chúa Giêsu, nhưng nếu phân tích, sắp xếp các câu nói nghịch thường thành những phần tử giống nhau tùy theo lời phát biểu thì rõ ràng Phúc âm nhất lãm dùng những lời khôn ngoan từ ngàn xưa ráp lại, mượn đức Giêsu làm danh hiệu để chỉ đường nghiệm xét. Hèn chi có những câu nghịch thường, “Ai có tai thì nghe,” “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta,” “Nếu mắt phải các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi.” Làm sao áp dụng những câu nói này nơi hành trình nghiệm xét? Tại sao so sánh yêu cha mẹ hơn yêu Chúa? Sao có thể yêu Chúa hơn cha mẹ hữu hình, thân thiết nhân sinh? Yêu là thế nào, tâm tình ra sao giữa tâm linh và thế tục, hữu vi? [font="%value"]
Lý do gì phúc âm khuyên, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa?” Tại sao không nói tìm kiếm Thiên Chúa trước khi tìm kiếm Nước Thiên Chúa? Sự công chính của Thiên Chúa là thế nào trong khi “Ngài sai mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ, và làm mưa khắp trên kẻ ngay cũng như người ác?” Lành, dữ, thiện, ác dưới mắt Thiên Chúa như thế nào? Tất cả đều giống nhau? Sao lại có quan niệm Chúa thưởng kẻ lành và phạt kẻ ác? Phỏng lành dữ, thiện ác chỉ được xét theo quan điểm hữu vi? Đối với tâm linh như thế nào, được coi ra sao? “Kẻ nhìn người nữ để thỏa mãn lòng dục thì đã phạm tội ngoại tình với nó trong lòng,” chỉ về năng lực của ý định, ước muốn, tham vọng? [font="%value"]
Suy nghĩ kiếm đầu mối tìm hiểu về đức tin theo phúc âm đã dẫn tâm trí cha Lành lan man dây dưa tới nhiều vấn đề liên hệ về quan điểm nào đó phát sinh từ nơi những câu phúc âm.Tất cả cứ như thi đua dồn đọng lại chẳng khác gì đám mây mù xoay vần áp đảo thúc dục tâm trí ngài gỡ rối. Dĩ nhiên, muốn gỡ rối, phải tìm đầu mối. Đâu là đầu mối gỡ rối tâm tư? Cha Lành nhắm mắt, thoải mái dựa lưng nơi thành ghế nơi nhà thờ vắng lặng của đêm tối. Đức tin, đức tin, đã hai ngàn năm hơn kém được ghi rõ ràng nơi phúc âm sao vẫn bị hiểu đồng nghĩa với niềm tin, ước vọng? [font="%value"]
Tại sao Phao lô khuyên nghiệm xét mọi sự trong khi không nên dựa trên hay lệ thuộc bất cứ gì, ngay cả truyền thống? Nguyên tắc và nguyên lý nào có thể áp dụng nếu trường hợp suy nghĩ sai lầm? Ý nghĩ, ước muốn sai lầm nơi trường hợp nào? Phỏng có phải chỉ khi ý nghĩ, ước muốn trở thành hiện thực? Nếu ý nghĩ không được nói ra thì sai lầm ở đâu mặc dầu nó hiện hữu? Thế thì ý nghĩ dẫu có năng lực khuyến khích thực hiện nhưng nếu không thực hiện sẽ không gì được gọi sai lầm, nhưng tại sao phúc âm lại nói đến phạm tội ngoại tình trong lòng? Do ước muốn thỏa mãn lòng dục! Như vậy, ý nghĩ, suy tư không có ước muốn, không có thực hành thì không đúng, không sai. Nghiệm xét là sử dụng suy tư, ý nghĩ để nhận định chứ không mang bất cứ ước muốn, hành động nào. [font="%value"]
Nghiệm xét mọi sự, suy nghĩ, suy tư về mọi vấn đề để tìm hiểu, không lệ thuộc bất cứ ý định, ước muốn, quan điểm, truyền thống nào. Thế sao còn nói, “Điều gì lành hãy giữ lấy, hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” Trong suy tư, ý nghĩ đã không có ước muốn sao còn có điều gì được gọi là lành hoặc là dữ? Lành là thế nào, dữ là sao trong suy tư? Phỏng những gì có thể chấp nhận được, hợp với suy tư là lành và những gì không hợp lý, hợp tình là dữ, không nên chấp nhận? “Nghiệm xét mọi sự; điều gì lành thì giữ lấy, hãy kỵ điều dữ dưới bất cứ hình thức nào;” có nghĩa phải tự mình ên suy tư, suy nghĩ, không nên bám víu vào bất cứ gì; điều gì, lý lẽ nào hợp với suy tư, lý luận thì giữ và những gì không phù hợp với suy tư cần phải bỏ qua. [font="%value"]
Có phải vì thời thánh Phao lô chưa có phúc âm nên suy tư của ngài không lệ thuộc phúc âm? Ngài chết năm 68 sau công nguyên mà mãi tới năm 70 phúc âm mới được bắt đầu viết; hèn chi những câu nói trong phúc âm không được nhắc tới. Vậy nhờ đâu lại có câu, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20)? Nghiệm xét, nghiệm xét, không lệ thuộc bất cứ điều gì, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào.” “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự nơi mình nên “Đừng dập tắt Thần Khí” Thần Khí đã ở nơi mình sao lại nói chớ dập tắt. Ai biết đã có Thần Khí mà lại có thể cố dập tắt? Như vậy có nghĩa đã có mà không nhận ra, không biết sử dụng, hoặc coi thường; chẳng khác gì phúc âm nói “Đức tin con chữa con, cứu con” nhưng đã chẳng biết đức tin là gì thì sao có thể chữa, sao có thể cứu! Lại còn “Khinh thị các ơn tiên tri;” ơn tiên tri là hồng ân rao giảng lời Chúa. Khinh thị ơn tiên tri tất nhiên không nhận biết, coi thường lời Chúa, không chịu tìm hiểu, đào sâu, không suy nghĩ, suy tư về lời Chúa muốn nói gì với mình, không nghiệm xét lời Chúa. Hèn chi lại nói, “Đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự.” [font="%value"]
Nghiệm xét mọi sự sao lại còn, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thức người phàm, theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô” (Col. 2:8). Thế nào là theo đức Kitô? Mục đích cuộc đời của đức Kitô là rao giảng Tin Mừng, vậy Tin Mừng đức Kitô rao giảng là gì mà lại nói “Không theo đức Kitô,” có nghĩa không theo Tin Mừng Nước Trời. Theo đức Kitô là theo thế nào? Cuộc đời mình đâu giống cuộc đời đức Kitô, khác hoàn toàn về điều kiện, môi trường, tâm lý, sinh lý, trạng thái tâm hồn, nói theo là theo thế nào, điều kiện gì? Mình thích ăn phở, Chúa Giêsu vào thời đó có phở đâu mà ăn mà nói thích với không, hoặc theo với không theo. Và như vậy cần phải nhận biết Tin Mừng mà Ngài rao giảng trước. Nhưng sao phúc âm lại nói, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33)? [font="%value"]
Thánh Phao lô trên đường Damacus kiếm tìm những người tin theo đức Kitô đem về giam giữ, bỏ vào ngục và ngài bị đức Kitô bắt cóc để rồi trở thành người nhiệt thành, hăng hái rao giảng về đức Kitô. Ngài đã nhận được gì, ngộ được chi mà nói theo đức Kitô. Theo là thế nào nơi cuộc đời này, hơn hai ngàn năm sau. Theo đức Kitô, theo đức Kitô! Đức Kitô đã giảng dạy gì,“ Nơi Marcô được viết, “Sau khi Gioan đã bị nộp thì đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa mà rằng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15). Tin Mừng, Tin Mừng, danh hiệu mà đức Giêsu nhắc đến là thứ gì? [font="%value"]
Đã chẳng biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì, lại đụng phải ngôn từ hối cải. Theo ghi chú nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước xuất bản năm 1994 tại Sàigòn do 14 học giả Kinh Thánh biên soạn, được viết, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giêsu còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố.” (KT Tân Ước; 14 Học giả Kinh Thánh; Sàigòn, VN; 1994; tr. 184) [font="%value"]
Giời! Tin Mừng đức Giê su rao giảng là gì vẫn chưa biết, lại lòi thêm ra ghi chú, ghi cô về hối cải, hối rau. Nếu hối cải, hối canh được dịch tử ngôn từ Hy Lạp và có nghĩa là nghĩ khác trước, thay đổi chiều hướng suy tư, thì cũng đồng nghĩa với nghiệm xét mọi sự chứ nào khác chi đâu. Thế Tin Mừng là gì mà đức Giêsu muốn con người suy nghĩ khác thường, khác trước về nó. Ôi! Chỉ giới thiệu cái ngôn từ bánh vẽ khiến đầu óc cứ rối tung lên. Suy nghĩ khác trước là suy nghĩ thế nào? Thay đổi chiều hướng thì thay làm sao? Chiều hướng nào cần thay đổi; suy nghĩ khác là khác sự gì? Vậy từ xưa tới nay điều gì thường được suy nghĩ mà phải nói đến khác trước? Ah! Thánh Phao lô loan báo, “Quả vậy, đức Kitô không sai tôi đi thanh tẩy, mà là rao giảng Tin Mừng, không phải bằng sự khôn ngoan của khoa ngôn ngữ, kẻo thập giá của đức Kitô bị ra hư không, trống rỗng. Vì chưng, lời giảng thập giá đối với những kẻ đang hư đi là một sự điên rồ; còn đối với chúng ta, những người đang ở trên đường cứu thoát, lại là quyền năng của Thiên Chúa” (1Cor. 1:17). Thánh Phao lô rao giảng quyền năng của Thiên Chúa? Sao lại gọi là Tin Mừng? Tin Mừng Nước Trời là quyền năng của Thiên Chúa? [font="%value"]
Và tiếp theo, Phao lô lại nói, “Vì chưng trong khi Do Thái đòi có dấu lạ, và Hi lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh thập giá, cớ vấp phạm cho Do thái, sự điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đối với những ai được kêu gọi dù là Do Thái hay Hi lạp, lại là chính đức Kitô quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor. 1:22-24). Nói như thế này là bù trớt, lại phản phúc âm. Nơi phúc âm, đức Giêsu đương đường công bố nhiệm vụ của Ngài là rao giảng Tin Mừng (Lc. 4:43). Phao lô rao giảng vị Kitô chịu đóng đanh; thế mà dám hô lên Tin Mừng. Đức Giêsu nào có bao giờ rao giảng về sự đóng đanh của Ngài đâu? Có lẽ, chính vì mọi người được Phao lô rao giảng về đức Kitô chịu đóng đanh nên phúc âm mới phải dùng động từ “Metanoia” để khuyến khích con người suy nghĩ khác trước để tìm ra Tin Mừng đức Giêsu rao giảng. Nhưng, phải suy nghĩ làm sao để nhận biết Tin Mừng của đức Giêsu? [font="%value"]
Phao lô đề nghị nghiệm xét mọi sự; phúc âm quyết đoán, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa;” qua phúc âm, đức Giêsu rao giảng Tin Mừng. Quả là, “Lắm thầy thối ma, nhiều cha con khó lấy chồng.” Đề nghị nào cũng hay; lời khuyên nào cũng đúng; và sự rao giảng lại càng tuyệt vời, nhưng tất cả chỉ khiến tâm trí cha Lành bối rối như bố vợ bị đấm, ngọng luôn, chẳng biết nghĩ thế nào. Thôi, về ngủ; ngài thầm nghĩ, không ngủ được thì coi chừng thấy thiên đàng, dẫu chưa cần nói đến Tin Mừng. Và ngài đứng dậy ra khỏi nhà thờ. [font="%value"]
Không khí mát lạnh của thời gian muộn màng ban đêm khiến ngài cảm thấy đầu óc sảng khoái. Ngài chợt nhớ, hình như có câu phúc âm nào đó cũng nhắc nhở chẳng nên để ai lừa dụ, "Các ngươi hãy coi chừng đừng để ai lừa gạt các ngươi; vì sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta mà đến nói rằng: 'Đức Kitô chính là ta, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người" (Mt. 24:4-5). Chợt giật mình vì thấy tâm trí lại bị luẩn quẩn nơi câu phúc âm; cha Lành đành dứt khoát ngó lên trời sao giằng giặc chiêm ngưỡng những điểm sáng sao giữa màn đêm tăm tối cho đầu óc thảnh thơi trước khi bước vô nhà xứ. [font="%value"]
Ngang qua văn phòng, cha Lành muốn đọc bài phúc âm của ngày thứ tư lễ tro năm C để ít nhất có đủ thời giờ suy nghĩ chuẩn bị cho bài giảng. Đại ý bài phúc âm nói về hãy để ý tâm tư thầm kín của một người thay vì hình thức bên ngoài. Lòng mình thế nào, không nên tỏ vẻ cho bất cứ ai biết; bởi chỉ mình biết, Chúa biết là đủ. Bài phúc âm chủ nhật hôm qua, chủ nhật 8C thường niên, nói về thành quả thế nào tùy thuộc thực trạng sự thể sự vật hay sự việc, “Mù có thể dẫn đàng cho mù được không, cả hai sẽ không lăn cù xuống hố cả sao? Môn đồ không lẽ hơn thầy; hoàn bị là kẻ sẽ được như thầy. Sao ngươi thấy được mảnh dằm nơi mắt anh em ngươi mà cái xà trong mắt ngươi thì lại không để ý” (Lc. 6:39-41)? Cha Lành tự hỏi, cái xà trong mắt mình là gì? Lời phúc âm thứ tư lễ tro khuyên hãy để ý đến hình thức lối sống bên ngoài; không nên giả hình hoặc phô trương. Hình tượng bên ngoài cứ như bình thường. Phúc âm nói về những sự thể diễn tiến trong tâm hồn. Thế sao lại có câu, “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Giacôbê 2:17). Lời Chúa nói về hoạt động tâm linh, nơi tâm hồn, tâm tư. Thế việc làm của tâm hồn là gì, cha Lành thầm nghĩ, thì nghiệm xét, tìm kiếm Nước Thiên Chúa, tìm kiếm Tin Mừng, và ngủ. Và ngài bước qua phòng ngủ. [font="%value"]
Ở đất Mỹ ăn chay mắc mỏ hơn ăn uống bình thường; rau, tôm, cá mắc hơn thịt lại không có luật kiêng rượu bia; nên năm ngoái nhóm nhậu mời ăn cơm trưa ngày thứ tư lễ tro, cha Lành được chia phần cho một con tôm hùm khá nhỉnh luộc nước crawfish, nghe nói một con tôm sống như thế những hăm mấy dollars. Lý do, đối với nhóm nhậu thì thiếu gì lý do để nhậu. Nhưng bữa cơm chay trưa ngày thứ tư lễ tro, cái nhóm bán trời không văn tự này có hai thành viên mới trúng mánh. Hai tên có tàu to đi biển, may mắn hốt được mấy mẻ tôm lớn, bán được bộn bạc, nhất là vào thời buổi giá cả xăng dầu tăng, đồ ăn thức uống tăng theo. [font="%value"]
Thì lấy mớ tôm lớn nấu mồi cũng được, nhưng dân biển rả nhậu tôm cá quá thường do đó bày ra ăn chay bằng tôm hùm. Là người Việt, cơm là món chính, thức ăn thuộc thành phần phụ giúp cho trôi miếng cơm nên luật ăn chay không ăn thịt đã là điều ngày ấy cha Lành còn đang là chủng sinh lên tiếng diễu cợt. Và một thày bạn thách đố, ông muốn thay đổi giáo luật thì ráng học làm giáo hoàng mà đổi luật kiêng thịt thành luật kiêng cơm. [font="%value"]
Công nhận nhóm nhậu trưởng giả học làm sang nấu tôm hùm tuyệt thật. Chẳng những luộc tôm với nước luộc crawfish mà lại còn xẻ bụng con tôm ra, phết bơ, đoạn cho vào lò nướng. Cha Lành không dám đua chen với những tên hũ chìm vì ăn xong phải lái xe về nhà xứ bởi còn một số việc phải làm. Một con tôm hăm mấy đồng bạc mà chay tịnh gì; ngài trả lời anh chủ tầu ngồi cạnh khi cố níu kéo ngài dùng tiếp cơm chay. Chợt nhận ra đang hồi ức bữa cơm chay thứ tư lễ tro năm ngoái, cha Lành thầm đếm theo hơi thở để đi vào giấc ngủ. [font="%value"]
[font="%value"]
NGHIỆM XÉT MỌI SỰ [font="%value"]
Nhớ lại bài phúc âm ngày thứ tư lễ tro được trích từ đoạn 6, câu 1 đến câu 6 cộng thêm câu 16 đến câu 18 của phúc âm Matthêu. Đại ý nói về tránh bày tỏ hình thức bên ngoài mà đặt nặng về tâm tình, nhận thức bên trong. Sự thể này mới giải thích đúng đắn ý nghĩa câu, “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Phúc âm dùng những sự việc thế tục thường ngày để nói về hành trình tâm linh, tâm tư nơi một người. Hoạt động chính yếu của một tâm hồn chính là suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét. Hèn chi Phao lô nhấn mạnh về nghiệm xét mọi sự. Nghiệm xét về những gì, điều quan trọng nhất, phúc âm nhắc nhở, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài;” cha Lành thầm nghĩ, sự công chính của Thiên Chúa quá nghịch thường đối với nhận thức thế nhân vì “Ngài sai mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Thế sao lại có câu, “Chúa thưởng người lành và phạt kẻ dữ.” [font="%value"]
Hèn chi Phao lô khuyến khích nghiệm xét mọi sự. Nếu nhận thấy lành dữ, thiện ác nơi thế giới bên ngoài, hữu vi, thế tục coi chừng cũng chưa thể nói được gì vì những hành vi này còn lệ thuộc ý định, tâm tư, tình cảm và nhiều phương diện liên hệ đến người thực hiện. Chẳng thế mà nơi xã hội pháp trị, người ta đòi hỏi đầy đủ chứng cớ rõ ràng. Hơn nữa, có những trường hợp nhiều khi mắt thấy, tai nghe, vẫn bị nhận định sai lầm. [font="%value"]
Trường hợp bà Hanh chẳng hạn. Bà Hanh khoảng chừng năm mấy, chưa tới sáu chục, chồng đã qua đời hơn mười năm, bốn người con đã lớn, ăn riêng ở tây. Bà làm ở hãng tôm chờ ngày nghỉ hưu. Nhà bà ngay cạnh gia đình ông Thung, rất thân thiết với họ. Ông Thung có con tàu trung bình, cỡ bốn mươi lăm, năm chục feet đi biển cùng với thợ hàng tuần mới vô bán tôm. Gặp thời kỳ lạnh ghe tàu không ra khơi nên ở nhà chuẩn bị dã võng. Con cái đã yên bề gia phận, ở nhà buồn chán nên bà Thung nhận công việc giặt giũ khăn trải giường, khăn tắm cho một motel cỡ năm mươi phòng. [font="%value"]
Hôm bà Hanh nghỉ việc ở hãng tôm, đi coi đứa cháu chẳng may bị bệnh bất thường cho bố mẹ nó đi làm ở cách tiểu bang, tiếng đồn nổi lên là ông Thung cùng bà Hanh đưa nhau vào khách sạn. Mấy người quen xì xào bàn tán ầm lên nơi hãng tôm. Người nhìn thấy đoan chắc minh chứng đã thấy hai người đi cùng xe và bước vào cùng một phòng của khách sạn tỏ tường hồi sáu giờ chiều hôm ấy. Có người để ý tìm hiểu sự thật ra sao thì sau này được biết, hôm đó bà Thung đi làm bị ốm nên chủ khách sạn dành cho một phòng nghỉ dưỡng. Chiều ấy bà Hanh không thấy bà Thung nên hỏi và được ông Thung cho biết vợ ốm đang nghỉ tại khác sạn nên không về và ông đang định đi thăm. Bà Hanh nói muốn đi thăm bà Thung cùng ông và hai người tới thăm chiều ấy. Cha Lành thoạt nghe chuyện cũng không cảm thấy lạ lùng chi; vì nơi đất nước tự do này, những chuyện trai gái bồ bịch, ăn ở tự do nhan nhản đầy trước mắt. Ngài thường dùng ngôn từ đánh thuê để chỉ việc làm linh mục nơi giáo xứ người Mỹ. [font="%value"]
Nơi đất nước này, người ta lên tiếng, ủng hộ, chống đối phá thai nhưng lại không đặt vấn đề giáo dục sinh dục. Nếu không tự do ăn ở với nhau thì sao có thai mà phá. Nào ai nghờ người ta lên tiếng, biểu tình ủng hộ, chống phá chỉ vì nhờ đó có công việc nhẹ nhàng để làm thay vì tối mặt làm những công việc nặng nhọc kiếm tiền. Mặc đầu làm việc cho giáo xứ Mỹ nhưng thường ăn cơm tối tại một gia đình người Việt nên những chuyện tréo cẳng ngỗng do sự cách biệt văn hóa đã tạo nên, ngài nghe đầy tai. Có khi được những cặp cha mẹ đứng tuổi, cỡ bốn mấy, năm chục, ưu tư về vấn đề đạo nghĩa của con cái, ngài chỉ trả lời, sau này, các ông các bà đừng ngạc nhiên khi thấy con cái mình không đi nhà thờ nhà thánh. Tất nhiên, con cháu các ông các bà chắc chắn sẽ có cuộc sống thoải mái hơn mình bây giờ, làm nhiều tiền hơn, cuộc sống vững vàng hơn nên nếu thấy đi nhà thờ không ơn ích gì, tất nhiên chúng không tham dự nữa. Mình là linh mục, nói ra ngượng miệng nhưng đó là thực trạng cuộc đời, giải thích cũng vô ích. Rõ khổ, cha Lành nghĩ. Theo đạo, không suy tư mà cứ như cái máy đọc kinh, tới nhà thờ cho xong bổn phận thì biết giải thích làm sao. Càng cố giải thích, giải nghĩa mong người ta nhận thức hơn thì càng du mình vấp phạm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Đã nhiều lần vô tình vì lòng tốt mà vấp phạm câu này nên cha Lành cũng phải ớn, không dám chân thành giải thích. Đối với những người không muốn hiểu biết, chỉ muốn được an ủi cho yên lòng, và những người không đủ khả năng hiểu biết thì có giải thích, giải mã thế nào chăng nữa, những gì mình nói ra đều mang kết quả phản cảm. Không thế sao có câu, “Mỗi cha một lý đoán.” [font="%value"]
Mình đang suy nghĩ gì vậy, cha Lành tự hỏi. Mục đích của tối nay là nghiệm xét tại sao bài phúc âm thứ tư lễ tro lại không ghi hết những câu số 7 tới câu 15 về cầu nguyện. Phúc âm dạy cầu nguyện rất ngắn gọn, “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời. Ước gì danh cha hiển thánh. Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin cho chúng con hôm nay có bánh ngày này. Xin tha tội nợ chúng con như chúng con cũng tha khách nợ, và chớ để chúng con thử thách, nhưng xin cứu lấy chúng con thoát khỏi quỷ dữ.” (NT Thuấn). Thế sao lại được khuyên cầu nguyện liên lỉ, không ngừng, lặp đi lặp lại liên lỉ chẳng khác gì niệm mantra của Đông Phương giúp định tâm. [font="%value"]
“Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời,” sự hiện hữu bao gồm hữu hình và vô hình. Thiên Chúa vô hình được gọi là ở trên trời nào có chi lạ. “Ước gì (Chúng con nguyện) danh Cha hiển thánh,” chúng con mong ước mọi thế nhân nhận biết Cha, nhận biết Thiên Chúa. Hèn chi phúc âm minh định, “Tiên và hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời,” làm gì có mình mà tất cả chỉ là hoạt động của Thiên Chúa. Chính Ngài đang hoạt động. Có thể nói mình chỉ như cây bút, Chúa viết sao thì viết, và dẫu cây bút vẽ ra chữ nhưng tác giả viết chứ cây bút đâu biết viết. Chính Thiên Chúa thực hiện công việc của Ngài nhưng thế nhân nhận định theo hữu vi, thế tục nên không nhận biết. Phần đầu kinh nguyện “Lạy Cha” chỉ mang một ý nghĩa ước mong mọi người nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi tạo vật, nơi mọi người. Nếu đã nhận thức được như thế, phần hai của lời cầu nguyện kể như không cần thiết vì có mình đâu mà phải cầu, phải xin. Xét thế, ngôn từ “Cầu nguyện” mang nghĩa nhận thức, nghiệm xét, suy tư, suy nghĩ về thực thể Thiên Chúa. “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.” [font="%value"]
Thiên Chúa là gì, có vị thế, liên hệ nào nơi sự hiện hữu bao gồm hữu hình và vô hình của con người? Mình là linh mục Công Giáo lại đặt vấn đề như vậy, nếu ai đó biết được họ sẽ cho rằng mình thế nào, có khùng không! Thì đừng bao giờ nói ra, cha Lành tự nhủ. Nghiệm xét mọi sự là đặt lại mọi vấn đề trong tâm tư để có được triệt để nhận thức chứ không đặt vấn đề đúng, sai, phải, trái. Nơi tâm tư, chỉ có sự hiện hữu vô hình chứ không có đúng, có sai, có phải, có trái. Mình được dạy, Thiên Chúa ở khấp mọi nơi, làm sao minh chứng. Tại sao phúc âm lại nói “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” mà không nói tiên vàn hãy tìm kiếm Thiên Chúa? Phúc âm Gioan đặt nơi miệng đức Giêsu, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gioan 14:6). Nếu để ý và đã đọc một ít về đạo học Đông Phương, phúc âm Gioan rõ ràng là thành quả của tâm hồn nghiệm chứng, suy tư, suy nghiệm về cuộc đời Chúa Giêsu. Có lẽ, ngày ấy, tâm trí con người mới chỉ nhận thấy và cho rằng sự sống là cội nguồn mọi sự. Thực ra, trước khi có sự sống, phải có sự hiện hữu, cứ theo nhận thức lý luận mà nói, phải được hiểu sự sống là sự hiện hữu vì sự chết cũng có sự hiện hữu dẫu là vô hình. Nói rằng sự chết hữu hình chỉ là chuyển biến sang vô hình; nơi trường hợp sống hữu hình nhưng chết tâm linh thì sự chết tâm linh vẫn hiện hữu. Phỏng sự chết tâm linh này có được chuyển đổi, biến đổi theo sự chết hữu vi, hữu hình hay không. Có thể dùng lý giải Luân Hồi của Ấn học, Atman, linh hồn nếu chưa thức ngộ thực thể của mình chính là một phần của Thượng Đế để trở nên làm một với Ngài thì sẽ được cho cơ hội, kiếp sau làm người để nhận thức cho tới khi nào ngộ thì trở về làm một với Ngài. [font="%value"]
Nói rằng Thiên Chúa là cội nguồn hiện hữu nên Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi sự hữu hình cũng như vô hình. Tư tưởng dầu vô hình vẫn có sự hiện hữu và như vậy mới có thể nói Thiên Chúa hiện hữu và hoạt động nơi tạo vật. Dùng ngôn từ “Tạo vật” lại phát sinh ý nghĩ tạo dựng nơi Kinh Thánh, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.” Thiên Chúa là chính sự hiện hữu vì không có sự hiện hữu sẽ chẳng có gì. Gốc của mọi sự, mọi vật chính là sự hiện hữu. Trong khi ngôn từ tạo dựng thường bị hiểu lầm là kiến tạo một sự thể, một sự vật khác; vấn đề được đặt ra là sự hiện hữu nơi vật được tạo dựng lại là chính sự hiện hữu của Thiên Chúa. Như vậy, nơi câu, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” nên được hiểu là Thiên Chúa hiện thể thành con người theo hình ảnh của Ngài. Cha Lành chợt giật mình khi nghĩ tới đây. Mình có phạm thượng không? Mình có lộng ý nghĩ khi nhận thấy mình là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh không? Vậy sự hiện hữu của mình là gì? Thế sao lại có câu, “Tất cả nên một,” cần gì phải nên, mà tất cả là một mới đúng. Nơi Đông Phương học có công án, “Cái một sinh cái hai; cái hai sinh cái ba; cái ba tạo thành vạn vật” có lẽ hình như có gì trắc trở vì cái một bao gồm âm dương thì có nghĩa cái một bao gồm cái hai chứ sao lại sinh. Cái một bao gồm cái hai, đối diện với cái ba là thực trạng biến chuyển, phát sinh vạn vật chứ làm gì có cái hai. Vậy công án, “Cái gì sinh cái một” trả lời làm sao? Có lẽ đành phải trả lời như công án uống trà. Ngôn bất tận ý, bất như cảm nhận. [font="%value"]
Cha Lành cảm thấy nghiệm xét về Thiên Chúa mang đầy vẻ mông lung về sự lập luận hiện thực của hiện hữu được gọi là cái một bên Đông Phương. Nhận thức bên Đông Phương nói lên thực trạng hiện hữu âm dương nhưng đâu có bao gồm sự thể không âm, không dương mà khoa vật lý phân tích về điện tử gọi là newtron. Thực thể hiện hữu bắt nguồn từ đâu, Thiên Chúa, Cái Một ở đâu ra nào ai biết. Chẳng lạ gì, Thomas Aquinas đã gióng lên tiếng chuông nhưng bị lờ đi không ai dám nhắc tới, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói gì về Thiên Chúa, và tất cả những gi chúng ta nói về Ngài chỉ là tưởng tượng.” Vậy bởi đâu Phao lô nói lên, “Anh em không nhận biết sao; thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa?” [font="%value"]
Nhận biết có mình, có sự hiện hữu của mình, hoặc nói cách khác, mình hiện hữu thì tất nhiên mình mang sự hiện hữu. Thiên Chúa chính là sự hiện hữu nơi mình thì nói rằng mình là đền thờ của Thiên Chúa cũng có nghĩa Thiên Chúa hiện thể nơi mình hoặc mình là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Mình có dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa không? Cha Lành lại giật mình. Phạm thượng, không, Kinh Thánh nói. Vậy mình phải sống thế nào? Giá trị con người đâu phải chỉ là hình thức bên ngoài, tri thức, nhận thức mà tự nó đã huyền nhiệm, là hình ảnh của Thiên Chúa. Vậy những điều không nên không phải, vô tình hay cố ý lầm lỗi thì sao? Thế khi con người phạm tội, mà Chúa ngự trị nơi con người thì Chúa có phạm tội với con người không? Thiên Chúa không thể phạm tội được vì Chúa là quyền lực hiện hữu nơi con người, Chúa không kiến tạo những gì được gọi là tội lỗi. Vậy tội lỗi là gì trước mặt Chúa? Coi chừng tội lỗi là sự sử dụng sai hồng ân được ban cho. Như vậy, tội lỗi do hành động sai mục đích của hồng ân được ban tặng. Không phải được ban tặng mà là năng lực của sự hiện hữu, năng lực của Thiên Chúa nơi mình. Không có năng lực này, con người không thể tiếp tục; không có sự hiện hữu, chẳng có gì; không có năng lực là người, không suy nghĩ được như loài người. [font="%value"]
Năng lực hiện hữu này da dạng, nơi tạo vật; vì bất cứ gì có thể nhận biết được đều cần phải có sự hiện hữu. Biết được tư tưởng, tất nhiên tư tưởng đã có sự hiện hữu. Xét thế, Thiên Chúa hiện diện, Quyền Lực Hiện Hữu hiện diện mọi nơi mọi chốn, hữu hình cũng như vô hình. Có lẽ đây là lý do có câu nói, “Tất cả chỉ là một.” Tất cả trong hành trình biến chuyển và hoạt động của Thiên Chúa. Chẳng có gì gọi là mình. Mình là hoạt động của Thiên Chúa. Nơi trường hợp viết lách, mình chỉ giống như cây viết. Không ai nói cây bút viết mà là tác giả viết, Chúa viết. Như thế, cuộc sống của mình chính là hoạt động của Thiên Chúa. Thánh Phao lô nói, “Tôi sống nhưng không phải tôi mà chính đức Kitô sống trong tôi,” là nghĩa này. [font="%value"]
Đức Kitô là hiện thể của Thiên Chúa rao giảng Tin Mừng Nước Trời; mình là hiện thể của Thiên Chúa để làm gì? Đức Kitô là hiện thể của Thiên Chúa làm người; mình thì sao? Mọi vật, mọi loài, từ tư tưởng đến hành động, mọi sự hiện hữu đều là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Mọi sự đều là hiện thể của Thiên Chúa thì mình là một với muôn loài, là một trong sự hiện hữu của tất cả. Như vậy, sự liên hệ của mình với muôn loài không thể phân chia bởi tất cả là một. Lối sống, ý nghĩ, ước mơ, tham vọng, quan điểm, suy tư của mình ảnh hưởng trực tiếp tới sự hiện hữu của muôn loài, của tất cả tạo vật. Hèn chi bên Đông Phương nói tất cả chỉ là một; cái một sinh cái hai. [font="%value"]
Đông Phương đối diện với thực trạng hiện hữu hữu vi nói lên đặc tính, hoặc tính chất hiện hữu. Từ gốc hữu vi lần mò về nguồn gốc của sự hiện hữu của muôn loài. Sự thể hiển nhiên, có giống đực, giống cái hòa hợp để tiếp tục sinh sôi này nở. Cây cối thì có hoa, nhị đực, nhị cái; thế nên nói cái một bao gồm cái hai. Con người gồm đàn ông, đàn bà; con vật gồm con đực, con mái. Đối diện cái ba là diễn trình sinh sống, diễn trình hiện hữu. Còn tiến hóa như thế nào lại tùy thuộc ảnh hưởng muôn điều kiện chung quanh. Sự hiện hữu tràn ngập từng giây, từng phút. Nhận biết hay không đều lệ thuộc nhận thức của con người. Con người có chịu nhận thức hay không? [font="%value"]
Câu hỏi “Con người có chịu nhận thức hay không?” khiến tâm trí cha Lành khựng lại. Đã bao lâu nay, ngài thầm nghĩ, đã có cơ hội học hành; mà mãi cho tới nay mới đặt lại vấn đề Thiên Chúa là gì, liên hệ với mình như thế nào. Có cơ hội học thần học, chăm chuyên nơi sách vở, hết tư tưởng này tới nhận thức nọ; tranh đấu suy tư để nâng cao nhận thức mà vẫn mù mờ thì đại đa số quần chúng, đại đa số con người chỉ chăm chuyên mưu sinh, phải lo lắng kiếm miếng cơm manh áo, rồi nào phương tiện sao cho cuộc sống nhân sinh thoải mái hơn; những nhu cầu thiết yếu, lo cho tương lai, cho con cái; rồi nào danh vọng, ham muốn vô cùng, thì còn lúc nào, cơ hội nào đặt vấn đề nhận thức, nhận ngủ. Con người quá bận rộn với cuộc sống hữu vi; hơn nữa, những suy tư nếu có thì do đã quá quen đối diện nhu cầu nhân sinh cần phải thực tiễn giải quyết, nên không để ý đến nhu cầu tâm linh, nỗi thao thức tiềm ẩn. Vả lại, sự suy tư dẫu nâng cao nhận thức nhưng luôn bị phiền hà giải quyết nhu cầu nhân sinh thực tiễn nơi cuộc sống nên thường bị lãng quên. Có thể nói, được mấy người tự đặt câu hỏi mình là ai, mình thế nào; mình thực sự là gì đối với cuộc đời này. Đáng tội, người ta còn phải lo cho miếng cơm manh áo ngày mai, rồi danh vọng, rồi xe cộ, nhà cửa, đồ ăn, thức uống, thuế nọ, tiền kia, ăn mặc sao cho hợp thời, lịch sự, thì làm sao còn thời giờ để ý đến nỗi khát vọng, thao thức bẩm sinh; vì chúng chẳng đem lại giải quyết thực tế nào hầu thỏa mãn nhu cầu cuộc sống. [font="%value"]
Nhà Phật gọi sự thiếu suy tư về thực thể con người là “Vô minh;” phúc âm gọi “Kẻ chết” (Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng). Câu phúc âm được gợi về nơi tâm trí khiến cha Lành thầm nghĩ mình đã chết bao năm qua mà không biết; đúng là xác chết biết thở. Không suy tư, không đặt vấn đề về thực thể hiện hữu của mình chỉ là xác chết biết thở. Nỗi đau lòng vì vô tình bỏ lỡ cơ hội suy tư đã bao lâu khiến cha Lành cảm thấy ăn năn vì sự ngu muội của mình. Chúa có chấp không? Mình có cơ hội, được cho cơ hội suy tư, nhưng đã vô tình không sử dụng. Lý do gì khiến mình vô tình không sử dụng hồng ân suy tư? Đâu ai nói cho biết. Phúc âm nói gì? Ngài tự hỏi. Phúc âm chỉ khuyến khích cầu nguyện. Ah! Ngài giật mình, thế ra cầu nguyện là suy tư chứ không phải vớ vẩn như những gì được giải thích. Suy tư mới có thể liên tục, liên lỉ; suy tư lúc nào cũng được, dẫu đang làm bất cứ việc gì. Không suy tư thì vô minh; không suy tư thì không thăng tiến nhận thức, suốt đời ngu muội. Ah! Tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được tha. Chời! Cha Lành tự diễu, đã bao lâu nay mình mang tội phạm đến Thánh Thần mà không biết. Chúa nghĩ gì nhỉ? Cha Lành tự đặt câu hỏi. Thì Chúa biết, Thánh Thần biết chứ mình sao biết. Cha Lành suy nghĩ ngang ngang cò bứa. Chúa hiện thể nơi mình; Thánh Thần hiện thể nơi mình mà không biết thì làm gì có mình mà biết. [font="%value"]
Phải đặt vấn đề lại, ngài thầm quyết định. Mình có dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa không? Nếu chấp nhận thì phải thế nào, phải suy nghĩ, suy tư về những gì, phúc âm nói gì. Liên hệ của Thiên Chúa với mình thế nào? Linh hồn mình là gì, sao chứng minh có linh hồn? Liên lạc bằng cách nào? Vì đâu Lão học có câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu?” Nguyên lý nào Ấn học phát sinh chủ thuyết Luân Hồi? Tại sao Phật học chỉ có thuyết Nhân Duyên trong khi lại quan niệm Chân Như vẳng lặng, tĩnh tịch và mọi sự phát sinh, diễn biến do ước vọng, dục vọng? Cần có nhận thức về các đạo học thế nào? [font="%value"]
Đọc một số sách vở thuộc đạo học Đông Phương, chẳng hạn Phật học, Ấn học, Lão học, cha Lành thấy điểm chung của các đạo học chính là nói về có một quyền lực tối thượng dù được mệnh danh là gì như Thiên Chúa nơi Kinh Thánh, Brahma nơi Ấn học, Đạo nơi Lão học, Chân Như nơi Phật học, đang hiện diện và hoạt động nơi vạn vật. Quyền Lực Tối Thượng này được các vị chiêm nghiệm suy tư, giãi bày nghiệm chứng của họ theo nhiều chiều hướng và cảm nghiệm khác nhau. Có thể dùng thí dụ một gia đình có mấy người con. Giả sử nếu đưa cho người mẹ và mỗi người con một chiếc bút và một tờ giấy để mỗi người viết về nhận định của mình về người chồng, người cha của mình. Tất nhiên, người mẹ sẽ có những lời lẽ về chồng mình hoàn toàn khác biệt với những người con và tương tự như thế, nhận định của những người con về bố của mình cũng rất khác nhau, đôi khi có tiểu tiết đối nghịch. [font="%value"]
Câu nói của Thomas Aquinas, “Thiên Chúa, Thượng Đế là Đấng không thể dò thấu; chúng ta không thể nói gì về Thiên Chúa; và tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Nào khác chi “Đạo khả đạo phi thường Đạo.” Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi tạo vật thì nào khác chi Brahma hoạt động nơi mọi loài hoặc tất cả đều là hoạt động của Thượng Đế, Đấng Chí Tôn, Brahma. Thế nên có thể nói, sự khác biệt giữa các đạo học chỉ là cảm nhận, cảm nghiệm về Quyền Lực Hiện Hữu Tối Thượng qua những khía cạnh và chiều hướng khác nhau tùy thuộc nghiệm chứng, nghiệm xét của các vị chân nhân, các nhà chiêm nghiệm. Sở dĩ các kinh sách khó hiểu vì ít nhất ba sự thể. 1/ Thực thể, đối tượng chiêm nghiệm không thể thực chứng. 2/ Không thể diễn tả bằng lời nói hay ngôn ngữ, không giải thích tiến trình nghiệm chức mà chỉ ghi lại kết quả, 3/ Khuynh hướng vọng ngoại của độc giả. [font="%value"]
1/ Không thể dò thấu, không thể nghĩ gì về Thiên Chúa, Thượng Đế; Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Nói như thế hãy còn coi Thiên Chúa, Thượng Đế, Đạo, Brahma, Chân Như là đối tượng bên ngoài, tất nhiên không thể nào đụng chạm tới được nên chỉ có thể nói về những gì không phải là thực thể ấy. Nếu nhìn Thượng Đế là sự hiện hữu đang hiện diện và hoạt động nơi chính mình cũng không thể nói được gì vì mình cũng chưa hay không biết mình là gì, là ai, biến chuyển như thế nào. Đâu lạ gì, bất cứ ai hồi tâm nghiệm xét mà ngộ được công án, “Tôi là ai” thì đã thức ngộ. Không thể thực chứng Thượng Đế do những danh hiệu được các tông phái, hay giáo phái mệnh danh không phải là Thượng Đế mà chỉ là danh hiệu. Thí dụ, con người, cái nhà, cái xe. Giả sử đem một xác chết, một cái nhà, một cái xe, mổ xẻ, phân tán hết để tìm thì cũng không thấy phần nào nơi thân xác hoặc cái nhà, cái xe được gọi là thân xác hay cái nhà, cái xe. [font="%value"]
2/ Hồi tâm nghiệm xét, nghiệm chứng, hay chiêm nghiệm thuộc về nhận thức cá nhân; thêm vào đó nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu do đó cũng không thể giãi bày hay nói lên được gì. Nơi trường hợp thực chứng, thí dụ, cắn miếng ớt hiểm. Người cắn miếng ớt dù có giải thích thế nào thì người nghe cũng không thể cảm nhận được vị giác thực sự như người cắn miếng ớt. Nói dễ hiểu hơn, không thể chỉ nghe giải thích về bữa ăn mà có thể no bụng. Bởi đó, các kinh sách được viết một cách ám định mà không giải thích về kết quả của nghiệm chứng hoặc thực chứng đối với những sự vật, sự thể tâm linh và được ám định qua sự thể hữu vi. Nghĩ đến đây, cha Lành cảm thấy hình như câu phúc âm, “Đức tin con chữa con” nói về thực chứng, chỉ người được chữa lành nhận thức được; ngoài ra không ai có thể cảm nghiệm bất cứ gì. [font="%value"]
3/ Sở dĩ đọc kinh sách đạo học thấy khó hiểu vì kinh sách không được viết để giãi bày mà chỉ nói về nhận thức kết cuộc, cảm nghiệm sự thể, sự việc nơi tâm tư. Độc giả, hành giả cần thời gian suy nghiệm, suy xét xem sự thể được nhắc đến đối với mình thế nào. Nếu đọc kinh sách đạo học giống như đọc truyện, hoặc các sách giáo khoa thì sẽ không hiểu được gì và còn có thể cho rằng những điều được nhắc đến không tưởng, nghịch thường bởi đầu câu nói, chỉ về việc này và câu kết luận lại thuộc về phương diện khác. [font="%value"]
Chợt nhận ra tâm tư đặt vấn đề về sự thể kinh sách đạo học khó cho con người nhận thức, cha Lành vội điều chỉnh lại suy tư. Mục đích là nghiệm xét thực thể chính mình liên hệ với Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu nơi mình thế nào, mà cứ nghĩ lang thang. Cái gì suy nghĩ lang thang, cha Lành thầm hỏi. Nghiệm xét hay nghiệm chứng cũng chỉ là suy tư mà suy tư hay lệch hướng đi vào ngã rẽ. Câu nào nơi phúc âm nhắc nhở nên thế nào. Mình mới đặt vấn đề về câu nói Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu cũng như câu “Đạo khả Đạo phi thường Đạo.” Không dò thấu thì sao có thể nhận biết, nhận thức “có Thiên Chúa.” Nói rằng Chân Như vẳng lặng, tĩnh tịch, chưa nhận biết Chân Như là gì sao có thể đặt vấn đề vẳng lặng, tĩnh tịch. Nhưng nếu nói rằng, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài,” thì muốn biết về Thiên Chúa cần phải biết hình ảnh của Ngài, tức là biết chính mình trước. Thế tại sao phúc âm khuyến nhủ, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài?” [font="%value"]
Đông Phương học cho rằng, con người là tiểu vũ trụ; muốn biết đại vũ trụ cần phải nhận biết tiểu vũ trụ trước. Ấn học cho rằng linh hồn một người được gọi là Atman, là một phần của Brahma, Thượng Đế, và tất cả mọi sự đều là hoạt động của Thượng Đế, dù một nhịp đập của con tim, một hơi thở, tư tưởng, ước muốn nơi một người. Tất cả là hoạt động, hành động của Brahma, Thượng Đế trong tiến trình biến chuyển, tiến hóa vĩnh cửu. Những lý luận biên khảo kinh viện theo lối biện chứng Tây Phương chỉ dùng tư tưởng thế nhân, thế tục, hữu vi, ráp nối minh chứng một chiều. Nói rằng ăn ớt tốt cho bộ lòng ruột vì ớt mang khả năng chữa lành những vết thương nơi bộ ruột, và rồi mọi sự được viết về ớt đều mang lợi ích cho con người trong khi quên hoặc lờ đi thực tại rất nhiều người không ăn được ớt. Ah! Hèn chi phúc âm khuyến khích nên có lối nhìn đa dạng, “Hãy nên thiện toàn như Cha các ngươi trên trời là Đấng thiện toàn vì Ngài sai mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ, và làm mưa khắp trên kẻ ngay cũng như người ác?” [font="%value"]
Nói rằng ý dân là ý trời chỉ hợp cho phương diện thế tục. Nếu quan niệm Thiên Chúa, Thượng Đế, là cội nguồn của mọi sự hiện hữu, tất nhiên, cần phải biết về sự hiện hữu ngay nơi mình. Lão học có lý nơi trường hợp nhận định muốn biết đại vũ trụ nên biết tiểu vũ trụ. Thế mình là ai, thế nào. Câu nào nơi phúc âm ám định về sự thể con người trong thực thể một người. Tại sao câu “Ai có tai thì nghe” được lập đi lặp lại bẩy, tám lần nơi phúc âm. Ai có tai thì nghe; ai có tai để nghe thì nghe. Nghe gì? Tai không để nghe thì chẳng lẽ để đeo hột xoàn khoe khoang sự giàu có. Nhiều người dùng tai như nơi để trang trí hoặc biểu hiệu cho khuynh hướng nào đó. Mình thì không. Tại sao lại nói “Ai có tai thì nghe?” Một sự thể hiển nhiên được nhắc đi nhắc lại để làm chi? Tai thì để nghe, ai không biết như thế; ai không sử dụng tai để nghe. Những ai có tai mà không thể nghe chỉ là những trường hợp bất thường. Tại sao lại đặt vấn đề “Thì nghe?” Chẳng lẽ có nhiều trường hợp không nghe, hoặc nghe như không nghe. Dẫu không nghe hoặc không muốn nghe nhưng bất cứ gì vang tiếng động như tiếng gió, hoặc những âm thanh bất cứ loại gì, tai đều nghe. Vấn đề lại là người nghe có chú ý tới hay không. Cái tai dĩ nhiên nghe hết mọi sự sao lại nói “có tai” hoặc “có tai để nghe thì nghe?” Cái tai tự nó có nghe được không? [font="%value"]
Tự hỏi rồi giật mình vì câu hỏi, cha Lành ngỡ ngàng bởi sao mình lại nghĩ ra câu hỏi như thế. “Cái tai tự nó có nghe được không?” “Ai có tai thì nghe,” nếu đặt vấn đề cái tai tự nó có nghe được không thì câu phúc âm không nói về cái tai mà nói về cái gì dùng cái tai để nghe. Cái tai không thể tự nghe vì khi linh hồn thoát ra khỏi xác, cái tai hết nghe. Cái tai chỉ là phương tiện cho linh hồn nghe. Thế linh hồn của mình là gì, thế nào? Kinh nghiệm sống minh chứng tất cả ngũ quan, thân xác, cuộc đời một người đều chấm dứt khi linh hồn ra khỏi xác. Như vậy, ngũ quan, thân xác, cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho hồn hoạt động, sinh hoạt. Tư tưởng, ước muốn, ý định, tham vọng, dục vọng đều phát xuất từ linh hồn bởi bộ óc thuộc về vật chất và vật chất không phát sinh được tư tưởng, ước muốn. [font="%value"]
Đông Phương học gọi linh hồn là Thượng Đế nội tại. Kinh Thánh nói Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Ấn học cho rằng linh hồn, Atman là một phần của Đấng Chí Tôn. Nhưng Phật học lại nói về nhân duyên, không đặt vấn đề về linh hồn; trong khi du nhập lý thuyết luân hồi bên Ấn học. Lý thuyết luân hồi cũng có điều hợp tình hợp lý của nó. Nếu Atman nơi một kiếp người chưa ngộ được thực thể của mình thì sẽ được cho cơ hội hay kiếp khác đến khi nào ngộ được thực thể của mình là một với Thượng Đế thì trở về với Ngài, hết luân hồi. Tất cả, dù thế nào cũng chỉ là lý thuyết, cặn bã, sản phẩm của các vị chiêm nghiệm. Mình thì sao, linh hồn nơi mình mà không biết, không chứng minh được thì nên biết thứ chi. [font="%value"]
Còn đòi hỏi gì nữa, cha Lành tự vấn. Vậy chứ tại sao Phao lô dám đoan chắc, “Anh em không biết sao, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa, và anh em không thuộc về mình nữa” (1Cor. 6:19). Và nếu nhận thức Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu thì linh hồn là sự hiện thể của Thiên Chúa qua dạng thức vô hình; thân xác cũng là sự hiện thể của Thiên Chúa, hiện thể của Quyền Lực Hiện Hữu dưới dạng thức nhân sinh; và như vậy, sự sống nơi một người thuộc về linh hồn vì khi linh hồn ra khỏi xác thì được gọi là xác chết. Sự sống là biểu hiệu của linh hồn hay chính là linh hồn? Phỏng nơi nhận định này, phúc âm Gioan được viết, “Ta là đường, là sự thật và là sự sống?” Tất nhiên, dẫu xác thân không còn sự sống, sẽ được đem chôn vùi và bị mục nát trở thành đồ ăn, thức uống cho loài giòi bọ hay chuyển biến thành chất khí nào đó phỏng có được gọi là chuyển biến thành vô hình không? Linh hồn ra khỏi xác, sự sống ra khỏi, biến khỏi xác; vậy phỏng linh hồn là sự sống nơi một người. Thánh Thần là sự sống nơi một người? [font="%value"]
Có thể so sánh, linh hồn điều hành, hoạt động, nơi một người chẳng khác gì người lái xe và chiếc xe. Nhưng khi người lái xe ra khỏi xe dăm ngày, đôi tháng, lúc trở lại, chiếc xe vẫn còn đó. Linh hồn ra khỏi xác chẳng bao lâu thì xác tan nát. Sự so sánh này kệch cỡm bởi chiếc xe không có sự sống, chỉ có sự hiện hữu vật chất khác với sự hiện hữu sinh động của thân xác. Hơn nữa, sự hiện hữu của người lái xe và sự hiện hữu của chiếc xe hoàn toàn khác biệt, tách rời. Sự hiện hữu của linh hồn và sự hiện hữu của thân xác là một, là chính hiện thể của Thiên Chúa. Xác và hồn của một người dẫu là hai thành phần khác biệt, một vô hình, một hữu hình lại là một trong hiện thể của Thiên Chúa nên mới là một bất khả phân ly, chỉ phân ly khi linh hồn ra khỏi xác. Nghĩ đến đây, cha Lành chợt nhận ra đoạn phúc âm nói về sự kết hợp của hôn nhân, dầu nói rằng cả hai người nên một xác thịt, nhưng hình như lại ám định về sự kết hợp của linh hồn và thân xác. Phúc âm nói vậy nhưng không phải vậy. Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ, Thiên Chúa hiện thể nơi xác và hồn. Chỉ có xác và hồn mới nên một bất khả phân ly! Vậy sao có trường hợp quỷ nhập, ma đùa, bùa, ám, thư, ngài, ảnh hưởng đến hồn và thân xác con người. [font="%value"]
Cha Lành lại chợt nhận ra tâm trí muốn xiêu chiều về ngã rẽ nên tự điều chỉnh suy tư. Làm sao, cách nào Phao lô có thể đoan chắc, “Thân xác, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em,” là chuyện của Ngài. Nhưng linh hồn nơi mình, của mình là gì, đóng vai trò nào nơi cuộc đời của mình mới là chuyện của mình. Mình có sự sống, sự hiện hữu không? Sự sống, sự hiện hữu nơi mình là gì, liên hệ đến linh hồn mình ra sao? Linh hồn mình chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mình. Nếu linh hồn chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mình, thì nó đâu phải là của mình mặc dầu nhận vơ nó là của mình vì không có sự hiện hữu, sự sống thì làm gì có sự thể được gọi là mình. Sự sống, sự hiện hữu là chính Thiên Chúa. Thế sao mình có thể suy nghĩ, tính toán, nhận thức? Làm gì có mình mà nói mình nhận thức! Ngay cái sự sống, sự hiện hữu được tạm gọi là của mình đã không phải thuộc về mình thì cho rằng mình suy nghĩ, mình nhận thức chỉ là nói bậy, nói tào lao. Hèn chi Phao lô phân xét, “Và anh em không thuộc về mình nữa.” Không có mình thì thuộc về mình thế nào. Có điều, Phao lô gán ép, “Anh em đã được mua chuộc giá cả hẳn hoi.” (1Cor. 6:20) Vớ vẩn, mua gì, chuộc gì! Phao lô muốn gán ép sự sống, sự hiện hữu của con người vào giá máu của đức Kitô, “Chúng tôi rao giảng một đức Kitô chịu đóng đanh” (1Cor. 1:23). Đúng là đang nói về thực thể hiện hữu, thực thể sự sống, linh hồn nơi thân xác sinh động của con người lại gán ép vô quan điểm nhận thức riêng tư. Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa mà cứ vơ quàng bắt lọn, cho rằng Ngài chết vì tội lỗi loài người. Tin Mừng đức Giêsu rao giảng thì không thèm biết lại cứ nói tào lao. Vậy trước khi đức Giêsu rao giảng thì không có loài người ư? Và người ta không có linh hồn tự lúc được sinh ra ư? Mình đang tranh luận gì vậy? Thánh Phao lô quan niệm thế nào, nói sao, là chuyện của ngài. Mình đang suy tư, nghiệm xét về linh hồn và liên hệ của linh hồn với thân xác, với Thiên Chúa mà! Ok, ngưng, cứ trật duột hoài, cái thiên chúa nội tại, sự sống, sự hiện hữu, linh hồn này suy tư lung tung. Làm gì có mình mà nói lung tung. Hiện thể của Chúa lung tung thì Chúa lung tung. Mắc mớ gì tới mình! Lại cái mình, làm gì có mình, chỉ nghĩ lung tung. Biết nói sao đây Chúa ơi. Cha Lành thở dài, đứng dậy ra khỏi nhà thờ. [font="%value"]
Nhận thức mình là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh với sự thể có mình và không có mình cứ luẩn quẩn nơi tâm trí. Nhận thức và hiện thực hữu vi phỏng có thể tách rời thành hai sự thể riêng biệt để nhận định? Không có thực tại hữu vi sao có nhận thức! Cho dù nhận thức thế nào thì cũng cần có thực tại hữu vi. Nhận thức là thành quả của suy tư, nghiệm xét phát xuất từ linh hồn không khác gì ý định, ước muốn. Dẫu ước muốn bị ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện tâm sinh lý của thực tại hữu vi nhưng vẫn phát xuất từ linh hồn. Nhận thức lệ thuộc ước muốn hay không? Nếu không có ý định, ước muốn sao có nhận thức. Tuy nhiên, nhận thức có mình hay không có mình không lệ thuộc ước muốn, ý định. Mình đang luẩn quẩn gì vậy? Cha Lành thầm nghĩ. Mình đang đặt vấn đề sao có thể thực sự nhận ra thực thể của mình. Tất nhiên, không có mình, sẽ không có nhận thức nhưng mình là gì, thực thể mình thế nào thì cứ luẩn quẩn với sự hiện hữu của nhận thức và hiện thực của chủ thể được gọi “cái mình.” Ah! Cái mình là hiện thể của Thiên Chúa thì tại sao không giữ nguyên tên gọi của nó mà còn bày ra cái mình hay con mình. Có mình hay không có mình chỉ là danh hiệu khiến tâm trí luẩn quẩn. Như vậy, đã bao lâu nay, con người vẫn luẩn quẩn chưa nhận thực được thực thể mình là gì, thế nào mà cứ lệ thuộc suy luận hữu vi, “Tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu” (Decart) trong khi không dám đặt vấn đề sự hiện hữu là gì và phát xuất từ đâu. Lại suy nghĩ vớ vẩn, cha Lành chợt nhận ra mình đang suy nghĩ lung tung, nên ngài đành tự nhủ, con người dám đặt vấn đề nhận thức về thực tại hiện hữu của họ hay không là chuyện của họ, và ngài chợt nhận ra câu nói nơi phúc âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37). Câu này nói về hiện trạng suy tư, nghiệm xét. Nếu không để ý, suy tư sẽ đi vào ngã rẽ. Lại lung tung, ngài chợt nhận ra mình đang liên tưởng đến câu phúc âm. Thôi, ngưng, ngài thầm quyết định và tiếp tục bước về nhà xứ. [font="%value"]
Bài giảng chủ nhật thứ 8 thường niên năm C đã được giảng năm 2001 được in ra để đọc lại chuẩn bị viết bài giảng cho chủ nhật tới. [font="%value"]
CHỦ NHẬT 8C 2001 (Lc. 6: 39-45) [font="%value"]
Bài Phúc Âm hôm nay bao gồm khá nhiều vấn đề cần được để ý. Điểm thứ nhất đó là môn đệ và thầy dạy. Dĩ nhiên trong khi đang còn học hỏi, nếu môn đệ bằng thầy dạy hoặc hơn thì đã không cần thầy. Thêm vào đó, nếu vị thầy dạy đã mù tối thì cả thầy lẫn trò được Phúc Âm gọi là “Cả hai sẽ sa xuống hố” nơi lãnh vực nhận thức, chẳng khác gì hai người mù không thể dẫn dắt nhau vì đã không thể định hướng và cũng không biết đâu là đường lối di chuyển. Xét theo khía cạnh tâm linh, mù tối có nghĩa thiếu nghiệm chứng, không để tâm nhận thức về Tin Mừng Nước Trời. Tất cả những gì chúng ta học theo và lặp lại những ý niệm về Thiên Chúa, Nước Trời, v.v
”chỉ là lý thuyết, hoặc kiến thức” được tạm gọi là biết mà thôi. Những sự hiểu biết này không đem lại lợi ích gì cho phần rỗi hoặc hành trình đức tin hay hành trình nhận thức Tin Mừng. Những kiến thức, những sự giải thích về Chúa, về phép bí tích v.v., chẳng khác gì sự giải thích về nước uống, không thể giúp ích được bất cứ ai. Bởi vậy, là người Công Giáo, sự nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời, sự suy tư những lời nghịch thường nơi Phúc Âm, sự để tâm nhận thức về những câu nói nơi Kinh Thánh chẳng khác gì hành động uống nước. Lẽ tất nhiên, nước nóng lạnh, ngon ngọt ra sao người uống tự biết, không thể giải thích cho bất cứ ai. Như vậy, bất cứ ai không nghiệm chứng Kinh Thánh, không để tâm nhận thức Tin Mừng Nước Trời đều được gọi là những người mù tối về phương diện tâm linh. Do đó, nếu đã không suy nghiệm Kinh Thánh, đã mù tối, thì có dẫn dắt ai cũng chỉ có thể giúp họ sa xuống hố mà thôi. Xét thế, học trò của những kẻ mù tối dẫu hơn thầy, bằng thầy, hay kém thầy thì cũng chỉ cùng thầy cứ hố mà sa. Tuy nhiên, đọc nơi Kinh Thánh và nhất là bốn Phúc Âm, chúng ta sẽ gặp phải những câu nói hoặc câu truyện được gọi là dụ ngôn mang đầy tính chất nghịch thường nếu xét theo ý nghĩa từ chương hoặc luân lý và kiến thức thế tục. Những câu nói, câu truyện này đòi hỏi sự để tâm nghiệm chứng mới có thể nhận thức được ý nghĩa thâm trầm soi sáng và dẫn dắt tới sự nhận thức Tin Mừng Nước Trời. Ai đã để ý suy tư về Kinh Thánh sẽ nhận thực được ý nghĩa tại sao Phúc Âm Gioan đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa ra đui mù” (Gioan. 9:39). Vấn đề thứ hai đó là cái đà nơi mắt mình và cái rác nơi mắt kẻ khác. Phúc Âm khuyên nhủ, “Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.” Tự nghiệm chứng về bản thân, bất cứ ai trong chúng ta cũng không khác gì những phe cánh hoặc những vị được chọn để ứng cử tổng thống vì chúng ta thừa khả năng cho rằng mình nhìn rõ ràng và thích bới móc chiếc rơm hay cọng rác nơi mắt mọi người chung quanh. Các ứng viên tổng thống chỉ bới móc phe đối nghịch trong khi chúng ta thích thú, thêm phần hãnh diện bới móc mọi người và biến họ thành những phe đối nghịch. Và giả sử ai đó bị chúng ta xía tới đã âm thầm nín nhịn hoặc coi chúng ta như những tên cùi hủi không nên đếm xỉa tới thì chúng ta lồng lộn, tức tối cho rằng mình đã bị coi thường, và thế rồi càng ngày càng trở nên cay cú đối với người đó. Chúng ta đã không dám nhìn nhận chiếc đà nơi con mắt mình, sự thể được Phúc Âm gọi là giả hình. Dẫu lời Phúc Âm có phần nào không hợp với thực tế khi cho rằng, “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu,” tuy nhiên, đây chỉ là sự ám định gợi ý để nhấn mạnh điểm then chốt về thực thể tâm ý liên hệ tới cung cách cũng như thái độ của một người vì đầy trong lòng mới tràn ra bên ngoài. Lời Phúc Âm giải thích rõ ràng, “Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành nên phát xuất sự thiện, và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác.” Suy như vậy, sự xét đoán của mình về người khác thế nào thì chính mình như thế ấy. Những người chê bai, moi móc kẻ khác là những người đang chứng minh chính họ như vậy. Khổ nỗi, xưa nay chúng ta đã được dạy dỗ về quá nhiều điều tốt lành cao vời đến độ không ai thực hiện nổi do đó phát sinh mặc cảm tự ty, tội lỗi, không nhận ra sự thánh thiện nơi mình. Bởi đó, chỉ còn cách kiếm đủ mọi lý lẽ, nhận định để chứng minh người khác không ra gì hầu có cảm tưởng mình tốt lành. Phỏng cái đà trong con mắt chúng ta lại chính là kết quả học hỏi với những vị thầy mù tối hay chăng? Vẫn biết rằng, nếu đã ở tận đáy vực thẳm thì chẳng có gì phải sợ hãi lo lắng sẽ rơi xuống hố. Từ lý luận này, quý ông bà anh chị em nên để ý, bởi không còn nơi nào, lối nào đi xuống, chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất là đi lên ngoại trừ những ai e sợ trèo cao té đau. Tuy nhiên, trong hành trình tâm linh, không có nơi nào cao hơn vực thẳm nơi chính mình. Chúng ta cần đào bới tận đáy tâm hồn để kiếm căn nguyên đã tạo nên cái đà nơi con mắt. Kinh nghiệm thực tế cũng như tâm linh cho chúng ta biết, càng đào sâu thì càng không sợ té vì chẳng lẽ có ai đó té ngược lên trời? Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự thánh thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa chính là sự thánh thiện. Thiên Chúa chia sẻ sự thánh thiện của Ngài nơi tạo vật. Căn nguyên sự hiện hữu của chúng ta phát xuất từ sự thánh thiện này. Chúng ta được sinh ra từ cội nguồn thánh thiện là chính Thiên Chúa. Đào bới nơi nội tâm, càng sâu bao nhiêu, Thiên Chúa càng hiển hiện rõ cho chúng ta nhận biết bấy nhiêu. Bởi vậy, những kẻ mù tối là những ai không biết mình thế nào, không dám đào bới nơi tâm hồn mình mà chỉ lo xóc mách người khác để che đậy, để nhận chìm chính mình. Thế nên, bất cứ ai đào bới, nghiệm chứng nơi tâm hồn mình thì sự thánh thiện của Chúa sẽ phát ra ngoài miệng. Những ai che đậy, miệng họ sẽ phát xuất điều ác. Amen. [font="%value"]
Bài giảng này chỉ khuyến khích nghiệm xét để nhận thức tâm tư mình thế nào. Do đó ngài soạn bài giảng mới của bài phúc âm 8 C thường niên với chủ đích giải thích về phương pháp nghiệm xét. [font="%value"]
Thoạt vừa mới nghe hoặc đọc bài phúc âm vừa được công bố, ai cũng đều cảm thấy bài phúc âm nói lên thực trạng con người nơi những trường hợp nào đó chẳng khác gì những câu tục ngữ ca dao nơi kho tàng văn hóa thi ca bình dân của tiền nhân người Việt. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy những gì được phúc âm nhắc đến đều thuộc về thành phần tâm ý, tâm tư, tính chất, thực trạng con người trong khi thi ca bình dân người Việt chỉ nói lên tính chất khách quan của sự thể hữu vi nơi cuộc sống; chẳng hạn, "Cha nào con nấy, đời cha ăn mặn, đời con khát nước, hay làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng," hoặc, "Cây khô tưới nước cũng khô, vận nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo," hay tệ hơn nữa, "Gánh cực mà đổ lên non, còng lưng mà chạy cực còn theo sau." [font="%value"]
[font="%value"]
Đọc nơi Kinh Thánh, chúng ta thấy khá nhiều điều khôn ngoan được ghi chép lại nhưng nếu để ý so sánh, lời phúc âm thâm trầm và sâu sắc nếu không trầm tư suy nghĩ, nghiệm xét, quả rất khó cho một người nhận thức được sự khôn ngoan của Lời Chúa muốn nhắn nhủ đến bất cứ ai. Thử nêu lên trường hợp nơi câu, "Ai có tai thì nghe, hoặc ai có tai để nghe thì nghe." Lời phúc âm chẳng những nói một lần nhưng những tám lần nơi ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca, ba phúc âm này thường được gọi là phúc âm nhất lãm vì có nội dung tương tự giống nhau. Bình thường, mới thoạt đọc hoặc nghe câu, "Ai có tai thì nghe," ai cũng thế, cho dù mấy nhà biên khảo hoặc chuyên viên Kinh Thánh cũng đều ngớ người và cho rằng phúc âm nói chơi chơi, diễu cợt, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn đối với những người tin theo. Thử hỏi, ai là người không có tai và tai thì dùng để nghe chứ chẳng lẽ được dùng để trang trí cho có vẻ giống người. Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề, cái tai có thể tự nó nghe được không thì sự việc hoạt động của cái tai trở nên vấn nạn thách đố bất cứ ai cần phải chìm sâu tâm tưởng để suy tư hầu giải quyết thách đố nơi câu nói tầm thường đơn giản đó. Có điều lạ, chúng ta không thể thấy bất cứ sách vở của bất cứ nhà khôn ngoan, hiền triết nào chứa đựng câu nói ngớ ngẩn như thế nơi cõi loài người. [font="%value"]
Đa số, ai trong chúng ta cũng một đôi lần tham dự hoặc nghe thấy hay đối diện sự thể người chết mà chúng ta thường gọi là đám ma. Ai cũng đều nhận biết, khi linh hồn ra khỏi xác thì được gọi là xác chết và tất cả ngũ quan, tri giác của người chết đều đóng lại; mắt không thể nhìn, miệng không thể nói, tai không thể nghe, và bộ óc hết hoạt động. Ai cũng kinh nghiệm và thực chứng nơi đời mình, nơi thân xác mình và đó là mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Thế nhưng khi hồn thoát ra khỏi xác, óc không còn suy nghĩ được bất cứ gì, tai hết nghe, miệng hết nói. Sự thể này chứng tó thân xác, ngũ quan, tri giác một người, ngay cả cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho linh hồn của người đó hoạt động. Bởi vậy, câu nói đơn sơ, nghịch thường nơi phúc âm, "Ai có tai thì nghe" thách đố bất cứ ai đặt vấn đề để nhận thức cái gì dùng tai của mình để nghe, dùng mắt của mình để nhìn, dùng miệng của mình để nói, và dùng óc của mình để suy nghĩ. Câu nói ngờ nghệch khiến chúng ta coi thường còn khơi động sự thách đố mỗi người đặt vấn đề về sự hiện hữu của mình, sự liên hệ giữa hồn và xác, sự nhận biết linh hồn của mình thế nào, làm sao hay cách nào chứng minh hay nhận biết linh hồn đồng thời dẫn đến suy tư, tìm hiểu sự liên hệ của Thiên Chúa đối với linh hồn của mình, với cuộc sống nơi dương thế của mọi người. [font="%value"]
[font="%value"]
Thiển nghĩ, mới thử nêu lên một đôi nhận xét câu nói đơn giản thường bị coi ngờ nghệch, chúng ta đã thấy Lời Chúa khuyến khích chúng ta đặt lại mọi vấn đề về thực thể nhân sinh của mình. Sự thể của việc tìm hiểu để nhận thức về chính mình, chúng ta sẽ nhận ra, tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, tham vọng, quan điểm của một người đều phát xuất tự linh hồn và thân xác hay tất cả những gì thuộc về thân xác chỉ là phương tiện cho hồn của mình hoạt động. Bởi đó, lời phúc âm nói lên thực trạng tâm hồn, thực trạng của linh hồn một người đồng thời nhắc nhở chúng ta, muốn nhận biết, nhận thức phúc âm, phải đi con đường hẹp, con đường nhận biết chính mình. Sự khôn ngoan nơi thi ca bình dân chỉ nói lên được, "Cha nào con nấy" hoặc "Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng;" những sự thể ngoại lai ảnh hưởng con người của chúng ta. Phúc âm nói thẳng tâm hồn chúng ta, "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây." [font="%value"]
[font="%value"]
Thử xét thêm trường hợp khác. Ai cũng nhận thấy, nơi Cựu Ước, nơi cuốn Cách Ngôn thường được coi là những lời khôn ngoan do vua Salomon để lại và ngay nơi Kinh Thánh cũng minh định vì Salomon không xin tiền tài, danh vọng, và quyền năng thế tục nên Chúa ban cho ông sự khôn ngoan mà dẫu người của những thế hệ trước ông hoặc sau ông không ai sánh bằng. Đọc nơi Cách Ngôn, chúng ta thấy có ba câu, "Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói." Câu thứ hai, "Đừng đàm luận với kẻ ngu xuẩn, kẻo cả con nữa, con cũng sẽ trở nên giống nó." Và câu thứ ba, "Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, kẻ ngu xuẩn sẽ trở về với sự điên rồ của nó." Ba câu này thật là tuyệt vời, khuyên con người đừng dây dưa, liên hệ với những ai không chịu suy tư để thực sự nhận biết chính mình thế nào, thực sự ra sao. Tuy nhiên, đừng vội nhận định, thử nghe một câu nơi phúc âm, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi." Nếu đem ráp cả ba câu khôn ngoan nơi Cách Ngôn làm một cũng không thể nào so sánh với câu phúc âm. [font="%value"]
[font="%value"]
Lời Chúa qua bài phúc âm vừa được công bố nói với chúng ta, "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Nếu tâm hồn mình ngu muội do không chịu suy tư, nghiệm xét lời phúc âm thì con người của mình, cả linh hồn và xác không phương nhận biết ơn cứu độ, không phương nhận biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng. "Môn đồ không trọng hơn thầy; nếu môn đệ được giống như thầy thì kể là hoàn hảo rồi." Lời Chúa, lời phúc âm dẫn đường chỉ lối cho con người nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết thực thể hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Một sự thể tối cao, tối quan trọng chính là hiện thể của Chúa nơi mình mà chúng ta chưa để tâm suy nghiệm để nhận thức. Đâu phải phi lý mà phúc âm khuyến khích, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và các sự khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33). [font="%value"]
[font="%value"]
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Nước Thiên Chúa hay Nước Trời không đến một cách nhãn tiền và người ta không thể nói này ở đây hay ở đó vì Nước Trời ở giữa các ông, ở trên các ông và ở trong các ông. Nước Thiên Chúa hay chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người dù người đó nhận biết hay không. Thiên Chúa là sự sống nơi mình, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mình. [font="%value"]
[font="%value"]
Bởi vậy, phúc âm nói, "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây; người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện, vì kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác nên phát xuất điều ác; và lòng đầy, thì miệng mới nói ra." Linh hồn mình ngay thẳng, công chính, luôn suy tư nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi mình thì tất cả sẽ trở nên công chính từ lời ăn tiếng nói, suy tư, đến hành động. Mình nhận thực ra không có gì mà mình làm cả mà chính Chúa đang thực hiện công việc của Ngài, mình chỉ là phương tiện. Bởi vậy, dẫu muốn phạm tội cũng không thể vì có mình đâu mà phạm. [font="%value"]
[font="%value"]
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta để tâm suy tư, suy nghiệm, suy nghĩ về thực thể con người của chính mình, linh hồn mình thế nào, ra sao, liên hệ với Thiên Chúa như thế nào. Chính sự nhận biết, nhận thức này sẽ hướng dẫn cuộc đời mình trên hành trình đức tin, hành trình nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Amen. [font="%value"]
Lời phúc âm nói thế thì đành viết giảng như thế nhưng câu, "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây; người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện, vì kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác nên phát xuất điều ác; và lòng đầy, thì miệng mới nói ra;” Lại thách đố tâm trí ngài đặt vấn đề, hành vi xấu phát xuất tự tâm hồn, linh hồn, mà linh hồn là hiện thể của Thiên Chúa thì phải được hiểu thế nào. Điều hiển nhiên, tâm hồn bị lệ thuộc, bị ảnh hưởng bởi tham sân si. Tham sân si là thành quả của ham muốn thế tục, mà ham muốn phát xuất tự linh hồn. Thế nên, thiếu nhận thức do không suy tư sẽ bị coi là kẻ dữ, tích đầy lòng ác. Mình còn đang luẩn quẩn trong nhận thức về linh hồn thì sao có thể giúp người ta nhận thức được thực thể chính họ. Cha Lành thở dài. [font="%value"]
Ý định, ước muốn, tham vọng, phát sinh từ linh hồn. Thân xác, cuộc đời chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động. Như vậy có thể nói, cuộc đời một người chính là thời gian hay cơ hội cho linh hồn học hỏi để thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Ấn học giải thích có lý nơi điểm này. Linh hồn là hiện thể của Thiên Chúa, Quyền Lực Hiện Hữu, gốc gác của mọi sự hiện hữu. Như thế, nói rằng linh hồn có cuộc sống vĩnh cửu cũng không sai; do đó, khi cuộc sống xác thân qua đi, linh hồn vẫn theo đuổi ước muốn, ý định đang mang. Suy như vậy, một người có thể biết trước được linh hồn mình sẽ thế nào sau khi xác thân chết; tiếp tục theo đuổi ước muốn thế tục hay trở về làm một với Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng là Thiên Chúa. Ah! Như vậy sự mất trí nhớ của tuổi già, không còn ham muốn bất cứ sự gì phải là hồng ân để linh hồn được thanh thoát khi xác thân đã không còn có thể giúp gì cho sự thăng tiến tâm linh. Cha Lành chợt tỉnh từ miên man suy tư. Ngủ, ngủ thôi, muộn rồi, ngài thầm nghĩ, và đứng lên bước qua phòng ngủ. [font="%value"]
Nhưng tại sao phúc âm Gioan lại có câu, “Bao nhiêu kẻ đến trước Ta hết thảy đều là trộm, là cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng” (Gioan 10:8). Những tiên tri, những người rao giảng lời Chúa trước thời đức Giêsu sao lại bị gọi là trộm cướp? Bị gọi thế vì lý do, nguyên nhân nào? Rao giảng lời Chúa thì trộm điều gì, cướp cái chi? Chẳng lẽ mục đích rao giảng của họ đã không đúng? Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, các vị ấy rao giảng luân lý thế tục, mười điều răn. Không rao giảng Tin Mừng Nước Trời mà rao giảng cách sống luân lý thế tục là phường trộm cắp, trộm cắp theo phương diện nào? Hèn chi điều quan trọng nhất phúc âm khuyến khích, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.” Nước Thiên Chúa là gì? Không đến một cách nhãn tiền (Lc. 17:20), ở giữa các ông (Lc. 17:21), ở trên các ông (Lc. 11:20). Không có bất cứ định nghĩa nào về Nước Thiên Chúa nơi phúc âm. Thế nên, muốn biết Nước Thiên Chúa cần phải nghiệm xét, suy tư để nhận thức thực thể Thiên Chúa. Muốn biết Nước Thiên Chúa lại cần biết mình thực sự là gì, liên hệ với Thiên Chúa ra sao, đại khái cần suy nghĩ. Như vậy, mục đích rao giảng phải là nói cho con người biết phương cách suy tư, nghiệm xét để nhận thức Thiên Chúa thế nào. [font="%value"]
Đọc Cựu Ước, tất cả các sách nơi Cựu Ước quy về một điểm, có một quyền lực tối thượng được gọi là Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi muôn vật, muôn loài, hữu hình cũng như vô hình. Trong khi, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu; chúng ta không thể nói gì về Thiên Chúa, và tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng” (Thomas Aquinas) giống như nơi Lão học, “Đạo khả đạo phi thường Đạo.” Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài (KN 1:27). Muốn nhận thức, muốn biết Thiên Chúa thế nào cần được nghiệm chứng từ chính mình. Vấn đề lại là, mình có thực sự nhận thức được mình là hình ảnh của Thiên Chúa không. Như vậy, rao giảng không phải là giải nghĩa, giải thích lời Kinh Thánh theo nghĩa từ chương, luân lý thế tục, mà nói, chỉ cho con người nhận biết và thực hành nghiệm xét, nghiệm chứng, suy tư, suy nghiệm lời Chúa. Không chỉ cho người ta phương pháp nghiệm xét mà giải thích lời Chúa theo nghĩ từ chương, luân lý thế tục bị gọi là phường trộm cắp. Trộm cắp cơ hội thức ngộ của dân Chúa. Mình thì sao? Có tiếng còi hú của xe cảnh sát vang vọng giữa đêm khuya; mình đang suy nghĩ gì vậy, cha Lành tự hỏi, ngủ thôi, phường trộm cắp hay tiên tri cũng đều “được Chúa chọn.” Mình phải ngủ, một… hai…, cha Lành dồn tâm ý đếm theo nhịp thở. [font="%value"]
Bước ra gian cung thánh lật sách chuẩn bị lễ, lời kinh giáo dân vang vang, ngân nga, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn” (Sách Kinh Địa Phận Hà Nội; Kinh Đô ấn quán; TX, USA; (?) Tr. 31), khiến cha Lành chợt cảm thấy nỗi ấm ức nào đó khó diễn tả. Sáng nay, chủ nhật 8C thường niên, cha Lành được mời dâng lễ cho một cộng đồng Công giáo người Việt nên ngài đã soạn bài giảng trước. Khi soạn giảng, ngài đã đọc qua các bài đọc của thánh lễ. Bài đọc II ngắn gọn, được trích từ thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô (1Cor. 15:54-58). Câu “Nọc của sự chết là tội, mãnh lực của tội là lề luật,” đã đánh động tâm trí và ngài đã định bụng sau lễ chủ nhật dành giờ suy tư vì câu hỏi chợt đến, tội là gì; vậy nếu không có lề luật thì sao, và lề luật tự đâu mà có! Lúc này, lại một lần nữa lời răn đe nơi câu kinh, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn,” thổi bừng lên trong tâm trí câu hỏi, “Có phải không thông công cùng hội thánh là tội?” Vậy những dân Chúa trước khi giáo hội xuất hiện giờ đang ở đâu? Đã nhiều lần nghe giáo dân đọc Kinh Ngày Chủ Nhật trước lễ ngài cũng đôi khi để ý tới câu này, nhưng thầm nghĩ, họ đọc thì đọc vậy theo thói quen nào có ai đặt vấn đề gì đâu. Nếu có ai để tâm suy tư về những lời kinh mình đọc thì đã gọi điện thoại hoặc gặp mặt phân bua nên ngài lờ đi, không nghĩ tới cho đỡ phiền. Không nghĩ tới, vì nếu suy nghĩ, đặt vấn đề về câu kinh, lỡ buột miệng nói tới coi chừng vãi tội. Chúa nghĩ gì thì đó là chuyện của Chúa; mình nghĩ gì nếu không giống kẻ khác coi chừng trở thành nấc thang cho họ bước lên đài danh vọng. Cứ trông gương Anthony De Mello, S.J. thì biết; một đức Giêsu dám “Đem của thánh cho chó” nên bị đóng đanh, đau lắm, chẳng dại gì; cha Lành tự nhủ dằn lòng cho qua. [font="%value"]
Tâm trí còn chưa thoát khỏi thao thức suy nghĩ về tội, nay lại đối diện với lời kết án ngu ngơ nơi kinh đọc ngày chủ nhật, cha Lành cảm thấy một áp lực vu vơ nào đó thúc đẩy tâm trí cần suy tư. Tuy nhiên, chỉ còn ít phút trước lễ, ngài cần định tâm dâng thánh lễ nên dồn tâm trí vào lời nguyện đầu lễ sau khi mở sách, “Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa ban cho thế gian được hướng dẫn theo trật tự bình an của Chúa,…” tại sao không tìm cách sống mà xin, ngài lại thầm nghĩ, mặc dầu thái độ vẫn như bình thường. Đây chỉ là kiểu cách phát biểu lời cầu, quay lưng bái nhà tạm và ngài trở vào phòng mặc áo lễ trong khi tự dặn lòng thái độ nên trầm tĩnh, nghiêm trang, cùng dân Chúa dâng lời tán tụng. [font="%value"]
Thì lễ nào không giống nhau ngoại trừ mấy bài đọc và lời giảng, nên cha Lành rất để ý khi soạn giảng. Thánh lễ được gọi là thánh bởi vì thánh lễ là nghi thức biểu hiệu sự đồng tâm nâng hồn hòa nhập vào thực tại hiện hữu tối cao của Thiên Chúa đang hoạt động và hiện diện mọi nơi mọi chốn, cha Lành quan niệm. Sự tán tụng, tuyên dương, tuyên xưng được ám định qua những bài đọc nếu không được tâm hồn hòa nhập vô thì cũng như không. Bài phúc âm được coi và được gọi là lời Chúa như đã được loan truyền, nhưng đối với cha Lành thì lại là phương cách chỉ dẫn con người dùng tâm trí suy tư, suy luận về thực thể hiện hữu của Thiên Chúa liên hệ với con người; đồng thời từ suy nghĩ lời Chúa con người nhận ra thực thể là một của mình với Thiên Chúa. Như vậy, thánh lễ là nghi thức tuyên dương, tuyên xưng sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi tạo vật. Gọi là tạo vật theo thói quen vì sự hiện hữu của Thiên Chúa chính là sự hiện thể của Ngài. Đây là lý do cha Lành để tâm soạn giảng cũng như cử hành thánh lễ. Điều khiến ngài thao thức đó là, qua những trầm tư suy nghiệm về phúc âm, ngài phát hiện phúc âm chỉ dẫn phương cách suy tư, nghiệm xét về thực thể con người liên hệ trong sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa. Trong khi nơi trường thần học, sự giảng dạy theo lối kinh viện Tây Phương, đem Chúa ra mổ xẻ theo quan niệm tri thức thế tục tùy thuộc nhận định một cách kỹ thuật, từ chương thiếu nghiệm xét nếu nói theo ngôn từ của Phao lô. [font="%value"]
Thánh lễ được cho rằng diễn lại cuộc khổ nạn của đức Kitô với quan niệm này người tham dự hay cử hành chỉ mang tâm tình cảm nhận ơn huệ từ sự khổ nạn của đức Kitô theo Phao lô mà không cần biết gì về mục đích đức Kitô đã thực hiện, rao giảng suốt cuộc đời của Ngài. Mình theo đức Kitô hay theo Phao lô, cha Lành thường thầm tự hỏi. Đức Kitô rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Phao lô rao giảng đức Kitô chịu đóng đanh. Tại sao đức Kitô rao giảng Tin Mừng, lại sai các môn đồ rao giảng về Nước Thiên Chúa, trong khi các giáo phái thuộc Kitô giáo khuyến khích mọi người rao giảng phúc âm mà tất cả chỉ tuyên xưng, tuyên dương theo Phao lô, tuyên dương đức Kitô chịu chết chuộc tội cho thiên hạ, “Hỡi anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em, Tin Mừng tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã chịu lấy, và trong đó anh em hiện còn đứng vững, và cũng nhờ đó mà anh em đã được cửa thoát, nếu lời lẽ tôi đã dùng để rao giảng cho anh em, anh em vẫn còn giữ, bằng không anh em đã tin một cách vô lối. Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:1-3). Mục đích cuộc đời đức Kitô là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, vậy Tin Mừng đức Kitô rao giảng là gì, sao không thấy sách vở, các vị tiến sĩ thần học, tu đức học, giáo luật, kinh thánh nào nói tới. Có lần nói chuyện với một vị giáo sư kinh thánh mới được bổ nhiệm dạy nơi một trường thần học, cha Lành “ngứa miệng” đặt vấn đề Tin Mừng đức Kitô rao giảng là gì thì được trả lời “chính là đức Kitô.” Nghe được như thế, cha Lành im tịt vì giật mình bởi đã vô tình nhắc tới nỗi thao thức bao lâu nay do suy tư, kiếm tới kiếm lui nơi sách vở cũng như internet mà vấn đề vẫn như bóng chim tăm cá. [font="%value"]
Bởi nhận thức được phúc âm chỉ dẫn phương pháp suy tư nên cha Lành soạn giảng chỉ chú trọng về những câu nói coi bộ nghịch thường nơi phúc âm thay vì học theo chỉ dẫn của những lý thuyết thực hành về giảng giải được quảng bá nơi kinh viện thần học. Tâm ý là thế nhưng khi đối diện với những câu, “Hãy để kẻ chết chôn xác kẻ chết của chúng,” “Nếu mắt phải ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng nó đi,” “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng là môn đệ Ta,” thì dù giải thích thế nào cũng như cuội, bởi người nghe chỉ để mà nghe rồi quên tuốt luốt, quên ngay khi vừa nghe, trong khi lại thích thú với những câu truyện diễu, do không thử thực hành. Những câu phúc âm kỳ cục này nói về thực nghiệm khi suy tư, nghiệm xét, nghiệm chứng thực tại diễn tiến nơi tâm hồn mà người ta không để tâm suy tư thì sao có thể nhận thức. Nhiều khi nghe người này, người kia nói cha này giảng hay, cha kia nói tuyệt vời, cha Lành lại vô tình hỏi hay thế nào, được kể lại chuyện cười này, lối nói dí dỏm kia, mà cảm thấy đau lòng. [font="%value"]
Người ta tin tưởng Chúa giúp, Chúa soi sáng mà sao đã hai ngàn năm trôi qua, dân Chúa vẫn còn chưa biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì, vẫn còn mù tối. Nói rằng ý định của Chúa như thế thì ai biết được ý Chúa là thế nào. Nói rằng đức Kitô đến để cứu độ, rao giảng hầu giải thoát con người khỏi sự mù tối mà nhận thực được thân phận, thực thể của mình cùng liên hệ với Thiên Chúa, thì bị hiểu lầm cứu thoát khỏi án phạt do lỗi lầm nhân sinh. Nơi sự hiện hữu của Thiên Chúa, không có gì được gọi sai lầm, thường được phát biểu là Thiên Chúa không tạo sự chết, tội lỗi, chỉ có sự sống, sự hiện hữu, thế mà cứ mơ ước thoát khỏi hay được tha thứ lỗi lầm, tha thứ sự chết thì tha thứ điều gì, có đâu mà tha? Mình chính là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh, Chúa phạt mình, Chúa phạt ai? Vậy điều được gọi là lỗi lầm, tội lỗi, cần được nhận định như thế nào và phát sinh từ đâu? [font="%value"]
Lễ xong, cha Lành không bắt tay chào giáo dân mà đi thẳng vô phòng áo thay đồ lễ, đoạn lái xe rời nhà thờ. Ăn nói làm sao, cách nào để khuyến khích dân Chúa suy tư, suy nghiệm phúc âm, ngài thầm tự hỏi. Người ta không suy tư, không để ý đến tâm linh có phải vì không quen hoặc không để ý, trong khi rất giỏi tính toán, suy nghĩ giải quyết những trường hợp sinh sống thế tục? Hai ngàn năm trôi qua, tại sao Tin Mừng đức Giêsu rao giảng vẫn chưa được phanh phui? Vì chưa đến thời điểm con người được biết? Chúa muốn gì? Tại sao chỉ những hành vi đạo đức, luân lý được cổ võ thay vì khuyến khích suy tư, nghiệm xét tâm linh? Cha Lành thở dài khi đưa tay lấy hộp thuốc lá, bỗng lại chợt tự hỏi, đã chắc gì nhận định của mình là đúng mà dẫu đúng đã chắc chi hợp thời điểm. Thực thể nhận thức của dân Chúa diễn tiến ra sao đâu tùy thuộc nhận thức của mình. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người. Suy nghĩ, ước muốn nơi con người đều phát xuất từ Thiên Chúa, giải thích, suy luận sao đây. Ước mong, thao thức nơi mình cũng chính là sự hoạt động của Ngài, nghiệm làm sao, xét làm sao. Làm gì có mình nghiệm xét, nhận thức. Cứ rối mù lên, thôi, việc của Chúa hãy để Chúa làm; cha Lành rít hơi thuốc, thở dài đẩy nỗi phiền muộn ưu tư theo làn khói. Ngài cảm thấy tâm tư chùng xuống, dẫu sao, mình cũng chỉ là con người đầy giới hạn, lòng thầm cảm nhận nỗi chật hẹp gò bó, áp lực tạo nên do đầu óc suy tư hạn hẹp của mình. [font="%value"]
Chiếc xe thể thao xinh xinh chạy phía trước hơi chao đảo, đôi khi lấn đường ranh phân đôi hai chiều khiến cha Lành nhẹ đạp thắng cho xe chạy chậm lại tạo thêm khoảng cách; coi chừng người lái xe phía trước phê phê hoặc hơi nặng men bia rượu nào đó. Nhận định và hành động cảnh giác này thổi bay ưu tư tâm trí. Chợt điện thoại reo, [font="%value"]
- Yes sir; cha Lành liếc qua màn Ltd của chiếc phone lỗi thời. [font="%value"]
- Could you say mass at six thirty PM at St. Joseph’s Church on Wednesday, and I will help you on distributing Ash? [font="%value"]
- What’s going on man? [font="%value"]
- You don’t have to give long homily. Make it as short as possible. [font="%value"]
- Ok. [font="%value"]
Một cha xứ người Mỹ gọi. Một tuần trước, ngài đã gọi điện thoại nhờ đồng tế và xức tro cho giáo dân vào buổi tối ngày thứ tư lễ tro nhưng không biết có chuyện gì ngài thay đổi chương trình, nhờ cha Lành dâng lễ lại nhấn mạnh giảng càng ngắn càng tốt. [font="%value"]
Về tới nhà xứ, cha Lành chưa kịp ngồi xuống ghế đã vội vớ lấy cuốn bài đọc, rở bài phúc âm thứ tư lễ tro, thầm nghĩ tại sao cha bạn lại nói giảng càng ngắn càng tốt vì có bao giờ mình giảng quá mười phút đâu. Ai mà lạ gì, giáo dân đâu ai muốn nghe giảng dài, chẳng thế mà đã có những lời diễu cợt, giảng dốt, giảng dai, giảng dài, giảng dại, giảng không bãi đáp. Hơn nữa, dẫu sao, là người Việt, sang tới đất Mỹ lúc đã đứng tuổi, thì dù cho cố gắng để ý học hành bằng tiếng Mỹ, thực tập bằng cách học theo, lập lại kiểu phát âm của người Mỹ, thì suốt đời vẫn là thứ ngọng đối với dân bản xứ nên cha Lành đâu dám huênh hoang về cái ngôn ngữ thứ hai của mình. Hơn nữa, tiếng Mỹ quỷ quái, người Mỹ không viết theo kiểu nói và ngược lại, chẳng bao giờ nói theo kiểu viết. Rồi nào thành ngữ, tiếng lóng, nói một đàng, ám chỉ một nẻo, nào kiểu nói miền Bắc, lối phát âm miền Nam. Nhớ lại lúc mới nhập học năm thứ hai trường thần học tại Louisiana, sáu tháng đầu, suốt một “Semester,” cha Lành khốn khổ làm quen với giọng miền Nam nước Mỹ. [font="%value"]
Bài phúc âm được chọn cho Thứ Tư Lễ Tro đại khái khuyến cáo đừng giả hình để tạo sự ngưỡng mộ của người khác nơi những lối ăn chay, cầu nguyện. Tâm tư mình thế nào, mình biết, Chúa biết do đó tránh bất kỳ hình thức phô trương nào. Bài phúc âm đã nói rõ ràng, ai nghe, đọc cũng hiểu, đâu cần phải giải thích, giải nghĩa gì. Cha Lành lấy tờ giấy, gấp lại, xé ra làm hai, thầm nghĩ, ghi mấy điểm nhắc nhở người ta để ý thực hành e khi giảng có thể quá chú ý về điều đang nói mà trở thành giảng dai giảng dại chăng. [font="%value"]
- Tôi thực tâm nghĩ rằng, dẫu tôi dùng giọng Việt Mỹ công bố phúc âm, mọi người cũng nhận biết phúc âm khuyến khích chúng ta nên như thế nào nơi tâm tình chay tịnh và cầu nguyện trong mùa chay. [font="%value"]
- Thứ đến, tôi đề nghị, nếu gia đình nào trong chúng ta không có những bữa ăn chung hằng ngày, cố gắng sắp xếp sao cho có được bữa ăn chung toàn gia đình vào buổi sáng hay tối. [font="%value"]
- Mỗi ngày trong mùa chay, tính toán công việc sao cho chúng ta có được đôi phút ghé qua nhà thờ hồi tâm xét lại tâm tư của mình. [font="%value"]
- Và cuối cùng, nhớ tham dự đàng thánh giá mỗi ngày thứ sáu trong mùa chay này. [font="%value"]
- Tôi đề nghị, chẳng nên đặt vấn đề nhiều, cứ thử thực hành đơn giản như thế và kiểm điểm lại tâm tư mình, mọi người sẽ thấy sự lạ lùng chuyển biến nơi chính mình. Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà anh chị em. [font="%value"]
Quả là đạo đức thế tục, nhưng không biết người ta có để ý hồi tâm, suy tư về giá trị tâm linh của lối sống đạo đức của họ hay không. Đành chấp nhận chỉ có thể nói như thế. Đâu phải phi lý mà phúc âm đặt nặng vấn đề tránh bày tỏ hình thức bên ngoài trong khi mục đích lại đặt vấn đề về suy tư, cảnh giác thái độ ngoại hình. Tại sao phúc âm không nói huỵch toẹt, rõ ràng, là nên suy tư, nghiệm xét, mà lại kín đáo nhắc nhở nên xét lại tâm tư thay vì chẳng nên trình diễn, phô bày hình thức bên ngoài. Vậy mới là phúc âm, cha Lành tự trả lời. [font="%value"]
Ghé qua ăn trưa vào thứ năm, bà cụ nhờ coi mấy bánh xe hình như bị thiếu hơi sau khi ăn. [font="%value"]
- Bà có đồ đo hơi không? [font="%value"]
- Đồ đo hơi là cái gì? [font="%value"]
Cha Lành không trả lời, mở cửa xe của mình lấy chiếc bơm điện dùng bình ác qui và đồ đo hơi, lòng thầm nghĩ, chính mình đã đưa cho bà cả năm trước với cả cái bơm điện mà bây giờ bà không biết đồ đo hơi giỏ xe là gì; thôi, lấy đồ của mình cho nhanh hơn, đoạn bảo, [font="%value"]
- Bà nổ máy xe đi, [font="%value"]
Mới đi tới đi lui được mấy bước, chân ngài bắt đầu đau nên im lặng, đo và bơm hơi hai bánh xe bên người lái, sau đó bấm nút hạ kiếng xe bên phải để đưa bơm qua bên kia vì dây điện không dài đủ nếu bắt vòng qua mui xe. Vừa bơm hơi xong, chân đau không muốn bước mà chỉ muốn ngồi, cha Lành ráng ngồi nơi tay lái quấn dây điện máy bơm đoạn bước về xe nổ máy de ra đường. [font="%value"]
- Làm sao để lên kiếng xe, thưa cha, bà cụ hỏi với. [font="%value"]
Ngài nghe thấy nhưng im lặng quành xe lái đi, lòng thầm nghĩ, để cho bà có cơ hội thử tới, thử lui để tìm ra nút điện đưa kiếng xe lên. Bà cụ đã 86 tuổi. Sự kiện này khơi dậy nơi tâm tư ngài thói quen dân Chúa thường không suy nghĩ hoặc không dám đặt vấn đề về những điều được giảng giải mà chỉ nghe cho qua, có chăng, chỉ thuộc lòng lời kinh bổn đã được dạy từ hồi nhỏ. Những kinh đọc nơi nhà thờ hoặc vài kinh đặc biệt do gia nhập hội đoàn nào đó và chấp nhận đọc hằng ngày theo nội qui thì lại cũng chỉ đọc như chiếc máy, không cần biết những câu kinh mang ý nghĩa gì. Giáo hội là dân Chúa, công đồng Vatican II đã rõ ràng công bố từ năm 1965, mà dân Chúa không đặt vấn đề thì sự thăng tiến của giáo hội sẽ đi về đâu, thầm hỏi mà ngài không dám nghĩ tiếp. [font="%value"]
Chiều đến, lúc rửa chén bát của tối hôm qua ăn trễ nên vội đi ngủ do về muộn bởi lễ xức tro lúc sáu giờ rưỡi tối và hơn một tiếng lái xe về nhà; ngài chợt nhận ra, sự suy tư cũng cần được từ từ phân định mỗi vấn đề chẳng khác gì rửa chén bằng tay thay vì bằng máy. Tư tưởng, nhận thức cần được phân định rõ ràng từng vấn đề một, không thể ù xọa mọi sự cùng lúc như chiếc máy rửa chén vì tâm trí mình không phải chiếc máy rửa chén. Cảm thấy vui vui khi so sánh tâm tư của mình với chiếc máy rửa chén, ngài chợt nhớ lại có lần ghé thăm một linh mục bạn; cha bạn tâm sự, mình giặt đồ, phải bỏ xà phòng vô máy giặt mới có thể tẩy sạch những vết dơ nơi quần áo thì nếu muốn tẩy sạch lỗi lầm, mình cũng cần những điều kiện nào đó mới tẩy sạch tội lỗi mình được. Cha Lành ngang ngang nói, thì đã có Chúa chết để đền bù cho tội lỗi mình những hai ngàn năm trước rồi thì còn cần gì tới thứ gì để tẩy rửa nữa. Cha bạn nhìn cha Lành lên tiếng, [font="%value"]
- Ông dám nói vậy à? Cứ làm bừa đi rồi đổ cho Chúa đã tẩy rửa mình; vậy Chúa ăn mình có no được không mà nói tào lao. Giáo dân nghe được thì ông giải thích thế nào? [font="%value"]
- Thế phép giải tội để làm gì? [font="%value"]
- Tội thì được tha nhưng vạ phải giải quyết. Chẳng may bị thương ngoài da dẫu được chữa lành vẫn còn vết sẹo, đâu thể nào lành lặn được như trước. [font="%value"]
- Bị lừa rồi bác ơi, chẳng những bác mà cả toàn bộ Kitô giáo, chẳng riêng gì Công giáo nhà bác đâu. [font="%value"]
- Ông nói lừa gì? [font="%value"]
- Thế bác có biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì không? [font="%value"]
- Sao ông lại hỏi câu ngớ ngẩn vậy? Vậy ông không đọc phúc âm hay sao, không giảng phúc âm mỗi khi dâng thánh lễ à, mà đến lúc này lại đặt vấn đề Tin Mừng. [font="%value"]
- Giêsu ma lạy Chúa tôi, cha Lành diễu theo kiểu lời than của mấy người dân quê. Đức Giêsu được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Nơi phúc âm Marcô được ghi, ngài phán, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15; NTThuấn). Đồng thời, phúc âm cũng ghi rõ mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43); vậy bác nói Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là phúc âm, mà phúc âm được viết từ năm 70, mãi sau khi Ngài đã chết những ba mươi mấy năm thì Tin Mừng Ngài rao giảng là thứ gì mà nói là phúc âm. Tôi muốn nói là vào thời đức Giêsu rao giảng chưa chắc đã có danh hiệu “Phúc âm” dẫu phúc âm có nghĩa Tin Mừng. Tôi nghĩ, ngôn từ, danh hiệu phúc âm được ghi nơi phúc âm Marcô mang nghĩa “Lời ta nói, lời ta rao giảng,” hay nói cách khác là “Tin Mừng Nước Trời.” Vậy Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa do đức Giêsu rao giảng là gì? [font="%value"]
- Bộ Tân Ước không nói gì về Tin Mừng hay sao mà ông cố bới bèo ra bọ về Tin Mừng đức Giêsu rao giảng với phúc âm! [font="%value"]
- Tôi không bới bèo ra bọ nhưng muốn phân định cho rõ ràng Tin Mừng đức Giêsu rao giảng và Tin Mừng thánh Phao lô công bố là đức Giêsu chịu chết để chuộc tội cho loài người; mà đã hai ngàn năm qua tất cả các giáo phái thuộc Kitô giáo rao giảng, không riêng gì giáo hội Công giáo nhà bác đâu. Bác đã thấy con bọ tôi bới từ bèo phúc âm to lớn và khác biệt với bèo Phao lô chưa? [font="%value"]
- Ông nói sao mà lại cho rằng Tin Mừng do thánh Phao lô rao giảng? [font="%value"]
- Bộ bác không nhớ thánh Phao lô công bố sao, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Co r. 15:3). Đức Giêsu nhắc đến chứ có bao giờ rao giảng về sự chết của Ngài đâu. Vậy điều được gọi là Tin Mừng Nước Trời hay Nước Thiên Chúa Ngài rao giảng là thế nào. Cái con bọ này trốn kỹ quá, những hai ngàn năm rồi đấy bác ạ. Các nhà học giả Kinh Thánh có dám đặt vấn đề đâu mà phúc âm cũng không có định nghĩa về Tin Mừng Nước Trời là gì, đến ngay Nước Thiên Chúa cũng không có định nghĩa thì đến học thật còn cứng họng phương chi học giả. [font="%value"]
- Thì mình đã được dạy rằng phúc âm là lời của Chúa, là lời rao giảng của đức Giêsu. Bộ ông không tin phúc âm là lời Chúa ư? Vậy đức tin của ông để đâu? [font="%value"]
- Bác lại nói đến đức tin thì coi chừng lại vãi tội ra. Đã lâu nay tôi khốn khổ vì cái định nghĩa mù mờ, đánh lận con đen về đức tin nơi thư Hipri. “Tin là cách thức chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy;" (Hipri 11: 1; Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn). Giời, làm sao có thể chiếm hữu những điều còn trong hy vọng mà lại gọi là tin. Vớ vẩn, cứ hy vọng có được vài triệu dollars rồi tin là sẽ có thì tiền nó tự động bò vào túi được à, mà dám gọi là chiếm hữu. Cái đức tin của nhà bác chiếm hữu điều trong hy vọng mộng tưởng đến thế đấy. Phúc âm nói rõ, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con,” chứ không nói hy vọng con sẽ được khỏi hoặc hy vọng bác sĩ chữa lành bệnh cho con. Tôi thấy, người ta đều hiểu lầm đức tin là niềm tin, hay mơ ước, hoặc hy vọng. Đức tin mang năng lực tự nó. Niềm tin, ước vọng, hy vọng chẳng khác gì mơ tưởng, mộng tưởng. Cái gì, điều gì đã hiện thực thì không cần phải tin vì tin hay không, nó vẫn là nó, nó đã xảy ra, nó hiện hữu. Hy vọng nó xảy ra, tin rằng nó sẽ xảy ra không phải là đức tin mà chỉ là mơ ước hoặc ước muốn. [font="%value"]
- Thôi dẹp đi, Tin Mừng với đức tin cũng không quan trọng bằng cái bụng. Ông muốn về nhà xứ ăn trưa với tôi hay ra tiệm ăn phở? [font="%value"]
- Nước phở ở đây họ có bỏ đường vô không? [font="%value"]
- Nào ai biết, đôi khi ghé vô vì lỡ việc quá bữa ăn nên ăn cho qua chứ tôi có bao giờ hỏi. Ông bị tiểu đường hay sao mà sợ? [font="%value"]
- Dạ không, nhà cháu lịch sự lắm, nhất là sợ cảnh sát phạt nên không dám làm bậy trên đường phố, nhưng đôi lần ăn phải nước phở thiên hạ bỏ đường vô, ăn không được nên hỏi mà thôi. Ừ thì ra quán phở khuyến khích thiên hạ kinh doanh cũng không sao. [font="%value"]
Úp chiếc tô vào rổ chén bát, chiếc nồi nhỏ nấu cháo đậu xanh và chiếc muỗm vô nơi của chúng sau khi trướng nước nóng, cha Lành thầm tự hỏi tối nay mình ăn gì. Món ăn sáng thường bán ở McDonald “Bake and egg and cheese” chợt gợi về nơi tâm trí, cha Lành nghĩ, giờ này gần tối ai mà bán đồ ăn sáng. Ngài rất ít khi ăn sáng vì cho rằng mất quá nhiều công sức và thời giờ để chuẩn bị. Ăn thì tối đa mười phút, nhưng nấu nướng ít nhất hơn kém cả nửa giờ, vị chi gần tiếng đồng hồ; rồi nào rửa chén đĩa, xoong, chảo đâu phải chỉ mấy phút. Thêm nữa, kinh nghiệm cho thấy, nếu ăn sáng, đánh thức chiếc dạ dày đang ngủ yên dậy làm việc, thì mười một giờ trưa, lòng ruột đã kêu réo. Không ăn sáng, có nhịn đến một hai giờ chiều cũng không sao, nên ngài có được thói quen không ăn sáng ngoại trừ cà phê. Cứ thử tưởng tượng, mới ngủ dậy, sau khi đánh răng, rửa mặt, mà có ly cà phê kèm theo điếu thuốc phì phà sẽ cảm thấy thoải mái tuyệt vời thế nào. [font="%value"]
Nghĩ đến món ăn sáng, cha Lành nhớ lại có lần người quen kể, đã xin làm tại một tiệm McDonal sáu tháng vì muốn học cách chiên khoai tây mà cuối cùng cũng không biết cách nào, ướp tẩm ra sao để chiên khoai tây dòn được như ở tiệm. Chợt nhớ lại sự kiện này khiến ngài liên tưởng đến bí mật hay điều kiện gì khiến dân Chúa không để tâm nghiệm xét phúc âm. Hai ngàn năm trôi qua mà Tin Mừng đức Giêsu rao giảng vẫn bị bịt kín không thấy tác giả nào đặt thành vấn đề, có chăng chỉ được ù xọa cho rằng bốn phúc âm là Tin Mừng đức Giêsu rao giảng, và mới rồi, lại được vị giáo sư thần học cho rằng Tin Mừng Nước Trời chính là đức Giêsu. Đã bao năm qua, các chuyên viên Kinh Thánh, các học giả Thánh Kinh nơi sách vở đều dương đường công bố, viết lách, và cho rằng phúc âm viết về cuộc đời, sự giảng dạy, sự khổ nạn, và sự sống lại của đức Giêsu. Rồi phim nọ, ảnh kia, kịch bản, những hoạt cảnh thương khó, đàng thánh giá, nhan nhản khắp nơi, nhưng Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa Ngài rao giảng như thế nào thì không ai đặt vấn đề, chẳng ma nào để tâm tới. [font="%value"]
Tại thánh Phao lô rao giảng “Chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh thập giá,” (1Co r. 1:23) hay tại dân Chúa không đặt vấn đề. Dân Chúa tin vào đức Giêsu hay tin vào Phao lô? Dân Chúa có bao giờ tự nêu ý kiến phản biện để xác định cho rõ ràng điều mình tin tưởng? Hai ngàn năm qua giáo hội giảng dạy như thế, mình cũng được dạy chẳng khác chi; tại sao mấy vấn đề này cứ luẩn quẩn làm phiền tâm trí mình. Nói ra không được; bởi không giống bất cứ ai lại khiến họ lo sợ vì đã cách nào đó khơi động, làm chao đảo niềm tin đã được dạy bảo, loan truyền từ bao đời xa xưa để lại thì, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng khốn.” Hai ngàn năm trôi qua, niềm tin của dân Chúa là thế, nào có chết, có thiệt hại đến ai đâu, cha Lành nghĩ, mắc mớ chi tới mình. Nhưng, tại sao nó cứ quẩn lấy mình, làm phiền tâm tư? Dẫu sao, mình chỉ là một tên tị nạn, tiếng Anh tiếng u ngọng trếu ngọng tráo; người ta, tiến sĩ nọ, học giả kia, đủ thứ chuyên viên học thuật, rồi thần học gia, triết lý gia, bác học nọ, sử học kia, còn không ai lên tiếng mà mình thì cứ như phải bỏng, tâm tư lồng lộn lý luận này, nhận định kia chi cho phiền lòng. Chúa muốn gì nơi mình. Một Tin Mừng Nước Trời đã treo đức Giêsu trên thập giá. Bộ mình muốn bị ném đá tơi bời sao? Cha Lành thở dài, quên khuấy cả hương vị ấm nóng của món ăn sáng chợt vừa gợi đến, rời nhà bếp bước vô phòng làm việc ngồi trước chiếc máy tính. [font="%value"]
Đã nhiều lần ngài lục lọi nơi bốn phúc âm kiếm tìm định nghĩa Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời, tự hỏi lòng cố mò xem có câu nào được coi như ám định về thực thể được mệnh danh là Tin Mừng Nước Trời không, mà những lời phúc âm cứ như ngây, như ngô, chẳng có được chút gì dù chỉ là ánh sáng mù mờ, lóe rạng đánh động nỗi thao thức của tâm trí rối beng không khác gì đêm ba mươi bước vô rừng rậm. [font="%value"]
Thiên Chúa ngự trị nơi mình, Thánh Thần cũng ở nơi mình. Tại sao Phao lô đoan chắc, “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính đức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20) mà lại tuyên xưng, “Chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh thập giá,” (1Co r. 1:23)? Phao lô bị đức Giêsu “bắt cóc” trên đường tới Damascus kiếm tìm những kẻ tin theo Ngài để bắt bớ. Phỏng lối rao giảng của Phao lô cũng thuận theo lối ca tụng, tuyên dương thế tục, tuyên dương về một người, tuyên dương chủ đích, hay thành quả người đó chủ trương; trong khi Sứ Vụ Các Tông Đồ chỉ ghi lại Phao lô nghe tiếng nói, “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? Ông nói: Thưa Ngài, Ngài là ai? Tiếng rằng: Ta là Giêsu, ngươi đang bắt bớ. Song hãy chỗi dậy ma vào thành; sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (CV. 9:4-6). Điều này minh chứng, bắt bớ những người tin theo đức Giêsu là bắt bớ chính Ngài. [font="%value"]
Đàng khác, theo phúc âm, đức Giêsu sai các môn đồ đi rao giảng Tin Mừng chứ không nhắc nhở gì tới tuyên dương hay tuyên xưng sự khổ nạn của Ngài, “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tầy thì sẽ được cứu; còn ai không tin thì sẽ bị luận tội” (Mc. 16:15-16). Có phải vì đức Giêsu bắt cóc Phao lô nên Phao lô rao giảng về Ngài thay vì rao giảng theo điều Ngài rao giảng, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa? Gõ bàn phím tìm tới, tìm lui đến khi tự hỏi lý do tạo sao thánh Phao lô rao giảng về đức Giêsu, cha Lành giật mình chợt nhận ra đang suy nghĩ trật đường rầy. Mục đích là nghiệm xét câu phúc âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33), Phao lô giảng gì thì kệ ông ta, ai theo là chuyện của họ. Quay lại, quay lại, ngài tự nghĩ. [font="%value"]
“Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Gioan 4:24). Phúc âm Gioan là kết quả nghiệm xét, nghiệm chứng. Nghiệm xét, nghiệm chứng là hoạt động, hành động suy tư. Thờ phượng trong Thần Khí là thế nào? Cha Lành trầm tư, chăm chăm nhìn màn ảnh gõ tiếp. Những định nghĩa nơi net khiến tâm trí ngài càng cảm thấy mông lung hơn. Nơi bản dịch Kinh Thánh của Lm. Nguyễn Thế Thuấn lại viết hoa hai chữ “Thần Khí.” Nơi Kinh Thánh, những chữ được viết hoa, hoặc là tên riêng, địa danh; nếu không thuộc về những trường hợp này, bất cứ danh hiệu nào tự nhiên được viết hoa có nghĩa “Thiên Chúa.” “Thờ phượng trong Thần Khí” là thờ phượng thế nào? Thiên Chúa nơi mình thì Thần Khí của Thiên Chúa cũng ở nơi mình. Dĩ nhiên, không có mình thì chính Thần Khí thờ phượng. “Thờ phượng trong Thần Khí,” trong Thần Khí thờ phượng, cha Lành lẩm bẩm. Thử xem nơi bản dịch tiếng Anh, ngài thầm nghĩ, đưa tay lấy cuốn The New Oxford Annotated Bible, kế bên trên bàn viết. [font="%value"]
“God is spirit, and those who worship him must worship in spirit and truth” (Gioan 4:24). Sao họ không viết hoa chữ “Him,” thầm hỏi, ngài lật xem năm xuất bản của cuốn sách. Năm 1962, Cựu Ước được trích từ năm 1952; có lẽ học giả kinh thánh đã lớn tuổi nên không để ý ngữ pháp sau này. Như vậy có thể hiểu, Thiên Chúa là thần khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật. Có gì đâu mà dùng ngôn từ kỳ cục. Tại sao không viết, Thiên Chúa vô hình nên những kẻ thờ phượng phải suy tư, nghiệm xét để nhận thức, nhận biết, thực thể hiện diện của Ngài nơi mình. Có thế thôi mà dùng ngôn từ, “Thờ phượng trong thần khí,” cha Lành thầm nghĩ, ngôn từ của hai ngàn năm trước mà! [font="%value"]
Thiên Chúa là thần khí; Thiên Chúa vô hình, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì Nước Thiên Chúa, Nước Trời là gì, phúc âm nói sao? Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Thiên Chúa nội tại; Thiên Chúa hiện thể. Nước Thiên Chúa, Nước Trời. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến, hãy hối cải và tin vào phúc âm. Nơi các bản dịch tiếng Anh dùng từ “At hand” có nghĩa đang hiện diện, hiện thực, trờ tới. Phúc âm nói gì về Nước Thiên Chúa, Nước Trời? Gần đến, gần bên, “At hand,” là thế nào? Lý do gì hoặc có ẩn ý nào nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước có lời giải thích động từ “Hối cải” được dịch từ tiếng Hy Lạp, “Metanoia?” Thay đổi chiều hướng, thay đổi lối suy tư, là thay nơi phương diện nào? [font="%value"]
Nhiều vấn đề dồn dập tới khiến cha Lành cảm thấy rối như tơ vò. Từ từ, cơm ăn từng miếng, việc làm từng phần, rửa chén bằng tay thì phải rửa từng cái, ngài tự dặn lòng. Xem phúc âm nói gì về Nước Thiên Chúa, Nước Trời. [font="%value"]
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:2; 4:17). “Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5:3). “Không phải mọi kẻ nói với Ta, “Lạy Chúa, lạy Chúa,” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta” (Mt. 7:21). “Nước Trời đã gần bên” (Mt. 10:7) “Quả thật, Ta bảo các ngươi, trong những kẻ sinh bởi người nữ, chưa một người nào lớn hơn Gioan Tẩy Giả đã chỗi dậy, nhưng người nhỏ hơn (nhất) trong Nước Trời lại lớn hơn ông” (Mt. 11:11) “Và nếu Satan lại xua trừ Satan, thì ra nó chia bè chống lại; vậy làm sao nước của nó sẽ vững được. Và nếu Ta nhờ Bêelzebul mà trừ quỉ thì bè phái các ngươi nhờ ai mà trừ quỉ. Bởi thế, chính họ sẽ xét xử các ngươi. Ví bằng Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:26-28) “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất… Các ví dụ về Nước Trời: Người gieo giống; cỏ lùng; hạt cải; men bột; kho tàng (Mt. 13:10-55) “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng được tháo cởi trên trời” (Mt. 16:19) “Quả thật Ta bảo các ngươi: giàu có khó mà vào được Nước Trời. Ta lại bảo các ngươi, lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời” (Mt. 19:23-24) Mướn thợ làm vườn (Mt. 20:1-16) “Quả thật, tôi bảo các ông, quân thu thuế, lũ đàng điếm qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa” (Mt. 21:31) Dự đám cưới mà không mặc áo theo nghi lễ (Mt. 22:2) “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít” (Mt. 22:14) “Vậy thì hãy trả của hoàng đế cho hoàng đế, và của Thiên Chúa cho Thiên Chúa” (Mt. 22:21) “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). “Và Tin Mừng này về Nước Trời sẽ được loan báo khắp thiên hạ để làm chứng trước mọi dân tộc. Và bấy giờ cùng tận sẽ đến” (Mt. 24:14) “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày giờ nào chủ các ngươi đến” (Mt. 24:42) Câu truyện mười nàng trinh nữ (Mt. 25: 1-…). [font="%value"]
Chú tâm đọc cho hết phúc âm Matthêu thì cũng mệt phờ người, mỏi cả mắt, và lưng ê ẩm; đồng thời hai tay cũng gần như tê dại vì gõ bàn phím ghi chép. Cha Lành nghĩ nên pha ly cà phê uống cho tỉnh táo hơn đồng thời hoạt động đôi chút cũng được coi như tạm nghỉ. Mới bước tới cửa bếp, ngài mới chợt nhớ vẫn chưa ăn uống gì đồng thời ngó lên chiếc đồng hồ, gần 12 giờ đêm. Sáu tiếng đồng hồ như ngây như ngô, quên trời quên đất, quên cả chính mình; thế là gần 11 tiếng chưa ăn, do đó ngài đành phải đổi ý định, chiên hai cái trứng, nướng miếng bánh mì, cắt thêm miếng “Ham,” thuận tay đun ấm nước sôi uống thay cà phê vì e không ngủ được sau khi ăn; vả lại còn hai phúc âm Marcô và Luca nữa, đành để tối mai, ngài định bụng. [font="%value"]
Bưng đĩa trứng, bánh mì nướng, thịt, kèm theo chiếc xiên tới bàn viết cho tiện việc vừa ăn, vừa đọc, ngài tiếp tục miệng nhai, mắt ngó; mười ngón tay cũng hùa theo gõ bàn phím mỗi khi gặp câu nào nơi phúc âm Marcô nói về Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Mới ghi được ba câu, nhai chưa được mấy miếng, chiếc ấm réo ầm lên nơi bếp. Dù không muốn cũng phải đứng lên vì tiếng kêu réo nơi chiếc ấm nước đang sôi chẳng khác gì tiếng kèn xe cứu hỏa, không khoan hòa, nhân nhượng, không chịu cảm thông cho bất cứ ai dù đang bận bịu chuyện gì quan trọng đến mấy; nó cứ gào thét chẳng khác chi kẻ đang ngồi trên lửa; thì nó đang ngồi trên lửa, cha Lành thầm nghĩ trong khi vội chân bước tới nhà bếp. [font="%value"]
Trong khi mang ly nước về phòng làm việc, ngài thầm nghĩ, sáu tiếng mới đọc hết phúc âm Matthêu (KT. NTThuấn), vị chi một giờ đọc được cỡ 18 trang; phúc âm Marcô chỉ có 40 trang, hai tiếng tất phải xong; bỏ ra năm phút ăn lẹ rồi đọc tiếp và có thể lên giường vào hai giờ sáng. Kể ra cái miệng nhai cũng lẹ, chưa hết năm phút, mọi sự đã hoàn tất, ngài để tạm chiếc đĩa trong đó chỉ còn chiếc xiên chơ vơ lên chồng sách; tay kia vớ lấy ly nước đưa lên miệng. Nóng quá, đành đọc tiếp, chờ nước nguội, ngài thầm nhủ, và tiếp tục dán mắt nơi cuốn Thánh Kinh. [font="%value"]
“Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). “Còn ai lộng ngôn đến Thánh Thần thì không được tha thứ cho đến đời đời” (Mc. 3:29). “Và Ngài nói với họ, đã ban cho các ngươi mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn mọi sự chỉ ban cho những kẻ ở ngoài trong câu ví để, họ nhìn lấy nhìn để mà không thấy; họ nghe lấy nghe để mà không hiểu; kẻo họ trở lại mà được dung thứ” (Mc. 4:11-12). Nước Trời giống như người gieo giống. Cây lên tự nó người gieo cũng không biết (Mk:4:26). “Có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng” (Mk. 9:1). “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì hãy móc nó đi, thà ngươi chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không chết và lửa không tắt.” (Mc. 9:46-47). “Quả thật, Ta bảo các ngươi, ai không nhận lấy Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ không vào được trong đó” (Mc. 10:15) “Những người có của khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao!... Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa” (Mc. 10:23;25). [font="%value"]
Đi ngủ, ngài quyết định dẫu lòng còn muốn đọc cho xong phúc âm Luca. Mình hư quá, khi nhìn đến góc dưới bên phải của màn ảnh, 2:23 AM, đã không để ý đến sức khỏe, phải đi ngủ trước 11 giờ khuya, nhiều lần ngài tự dặn lòng, nhưng cứ như một thói quen dễ học khó chừa, lần nào cũng châm chước thêm mấy phút; chỉ mấy phút mà đôi khi kéo dài đôi ba tiếng là chuyện thường. Đưa tay lấy ly nước, ly nước nóng đã trở thành lạnh ngắt. Một hơi uống hết ly nước, lòng ngài lại chợt nhắc nhở, mình cần uống nhiều nước may ra bù đắp phần thiếu ngủ. Nhưng, cần đọc lại một lần những gì đã được ghi từ phúc âm Matthêu và Marcô, cha Lành đã vội quên giờ giấc, dồn tâm trí theo cặp mắt đang chăm chăm vào màn ảnh. [font="%value"]
Tại sao Nước Trời đã gần bên, đã “at hand” mà lại còn nói, “Nhưng người nhỏ hơn nhất trong Nước Trời lại lớn hơn ông?” Nếu cho rằng Nước Trời là nơi dành cho những linh hồn tốt lành sau khi xác thân đã chết thì sao lại nói Nước Trời gần bên, at hand. Mà đã gần bên, at hand, thì đâu liên hệ gì đến sau khi chết! Ah! Nhưng lại có câu, nếu, ”Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28). Như vậy, Nước Trời lại là một thực thể vô hình bởi gần bên, at hand, và ở trên, mà người ta đã không nhận biết. Vừa chỉ đọc lại mấy câu được ghi về Nước Trời, Nước Thiên Chúa từ phúc âm Matthêu, tâm trí cha Lành lại đã chìm vô suy luận, lúc vô tình mắt nhìn vô góc phải phía dưới màn ảnh thấy đã 3:14AM; ngài đành nuối tiếc đứng dậy. Đi ngủ, Nước Trời đành để Chúa lo, mình phải đi ngủ vì 6:30AM phải dậy chuẩn bị cho lễ 7:30AM, cha Lành đành dứt khoát. [font="%value"]
Tại sao “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” (Mt. 13:10); trong khi lại nói, “Quả thật Ta bảo các ngươi: giàu có khó mà vào được Nước Trời. Ta lại bảo các ngươi, lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời” (Mt. 19:23-24)? Có lại được cho thêm mà không giàu à? Giàu mà khó vào được Nước Trời tại sao mọi người đều ước ao? Cần ngủ, phải ngủ, và nên ngủ, nhưng khi đặt mình xuống giường, tâm trí cha Lành vẫn cứ luẩn quẩn với mấy câu phúc âm nghe bộ nghịch thường. Và lại chợt nhận ra mình đang tiếp tục suy nghĩ, ngài đành theo thói quen, để ý đếm theo hơi thở 1… 2… 3… Người ta cố gắng tìm hiểu để thực hành cầu nguyện liên lỉ; cha Lành khốn khổ chịu đựng mối liên tục suy tư. Ai biết nghịch cảnh là hồng ân chúng ta không muốn chấp nhận? Phỏng điều chờ không đến và điều xảy đến là điều không hề chờ đợi, có thể là hiện thực? Thì ra cầu nguyện lại chính là suy tư, nghiệm xét! [font="%value"]
Bài phúc âm sáng thứ sáu sau thứ tư lễ tro nói về vấn nạn sự khác biệt thực hành ăn chay của đồ đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đồ của đức Giêsu khiến gợi lại nơi tâm tư cha Lành câu nói của bài phúc âm thứ năm, “Nếu ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày và hãy theo Ta” (Lc. 9:22). Chối bỏ chính mình là thế nào? Chối bỏ điều mình ham muốn hay mơ ước, thói quen, tập quán, quan niệm, đặt lại vấn đề, thay đổi chiều hướng, nghĩ đến đây cha Lành chợt nhớ đến lời giải thích của ngôn từ Hy lạp “Metanoia” được dịch thành hối cải. Như vậy, hối cải là suy tư, nghiệm xét, đặt lại vấn đề những gì mình thường quen ấp ủ, quan niệm. Phúc âm được hiểu theo nghĩa từ chương kiến tạo lắm điều rắc rối, ngài thầm nghĩ. Hèn chi thánh Phao lô khuyến khích nghiệm xét mọi sự. Nghiệm xét mọi sự thì không lệ thuộc những gì mình ấp ủ, quan niệm, đồng nghĩa với chối bỏ chính mình. Ăn nói, giảng giải sao đây! Cha Lành thầm nghĩ, tâm tư đối diện với thế bí thúc đẩy lời phúc âm trở về, “Của thánh đừng cho chó; chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Hèn chi phúc âm phân định rõ, “Này, Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa đàn sói; hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16). Nếu so sánh cuộc đời mình như chiên vào giữa đàn sói thì không đúng và nghịch thường vì dân Chúa tốt lành, thánh thiện. Họ rất chân thành với niềm tin tưởng, cũng như xả thân giúp góp cho nhà thờ, tôn trọng các đấng bản quyền, cứ nhìn vô các giáo xứ thì biết. Vậy phúc âm nói về tính chất “Đàn sói” nơi dân Chúa thuộc về phương diện nào? Cha Lành suy tư, nghiệm xét lời phúc âm với tâm tư công bình, không thiên vị. Lời phúc âm thâm trầm nhưng cần được nghiệm xét hợp lý, hợp tình. Đồng ý rằng, không có vấn đề đúng, sai, phải trái, trong suy tư nhưng nếu không hợp lý, hợp tình, không thể chấp nhận được. Đối với những người không muốn hiểu biết, không muốn suy tư bị phúc âm coi là đồ thú vật, như chó, như heo. Công nhận, phúc âm dùng chữ nặng thật, cha Lành thầm nghĩ. Nhà Phật dùng chữ khá thanh lịch, “Vô minh.” Ah! Chó, heo, là thú vật thì sói cũng là thú vật. Tính chất bạo hành, ăn thịt của sói đối với chiên, tính chất bạo hành nào của dân Chúa đối với các môn đồ, với những người rao giảng Tin Mừng. giống sói? Tại sao dân Chúa bị coi là sói, nơi phương diện nào? Sói có ăn thịt đồng loại mình không? Kẻ được sai rao giảng lời Chúa như chiên vào giữa đàn sói! [font="%value"]
Đâu đó câu phúc âm hiện về, “Nếu thế gian ghét các ngươi thì hãy biết rằng, nó đã ghét Ta trước các ngươi. Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thế gian đã yêu dấu như của riêng nó; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian, và Ta đã chọn các ngươi giữa thế gian; bởi vậy mà thế gian ghét các ngươi” (Gioan 15:18-19). Được chọn hay không được chọn thì mình vẫn phải sống giữa thế gian. Phúc âm Gioan là kết quả của chiêm nghiệm; tại sao lại đặt vấn đề yêu ghét trong khi phúc âm Matthêu lại nêu lên tính chất sói của dân Chúa, của thế gian? Môn đồ Gioan Tẩy Giả hạch hỏi vì môn đồ của đức Giêsu không giữ chay tịnh giống họ. Môn đồ của đức Giêsu không theo lề luật người Do Thái. Nơi phương diện nào “Của thánh đừng cho chó”? Oh! “Người biết không nói, kẻ nói không biết” (Lão). Điều mình nghiệm xét được không nên nói ra vì không thể giải thích. Nói ra, đem của thánh cho chó, quăng châu ngọc trước miệng heo. Bị nó quay lại cắn là đúng. Nói lên những điều mình nghiệm chứng đâu được ai chấp nhận vì nghiệm chứng của mình không phải của người khác. Thế gian, thế gian, suy nghĩ theo thế tục, hữu vi, phúc âm không được viết để giải thích mà là để nghiệm chứng, nghiệm xét; mình đã biết điều này từ lâu mà sao cứ còn luẩn quẩn giải nghĩa, giãi bày; cha Lành thầm nghĩ. [font="%value"]
Giải nghĩa lời Chúa theo thế tục, hữu vi được coi là phường trộm cướp, chận đường thức ngộ của dân Chúa, bị coi là chận người ta lại không để người ta vào Nước Trời, cướp cơ hội nhận thức Nước Trời của họ, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). Còn lời nào nặng hơn! Nhưng dân Chúa không quen suy nghĩ, suy tư về tâm linh dẫu rất giỏi suy nghĩ toan tính cho cuộc sống nhân sinh! Bổn phận của những người rao giảng là gì? Chợt nhớ nơi đâu đó có lời giải thích, “Nhiệm vụ của các tôn giáo chính thức phải là phương tiện dẫn dắt con người trên hành trình thức ngộ, giải thích cảm nghiệm thức ngộ, và trình bày diễn tiến thức ngộ” (Mây Bay Về Ngàn; Lã Mộng Thường; Litho Printers; MO; 2019 ; tr. 62). Mình phải để ý khi soạn giảng, cha Lành thầm nhủ. Nghĩ thì nghĩ thế, quyết tâm là vậy nhưng dẫn dắt thế nào, ăn nói làm sao nếu người ta không quen suy tư. Giảng giải đâu phải là chế tạo những gói mì ăn liền mà dù có mì ăn liền mà không ăn sao có thể no bụng. Mùa chay, nói người ta kiêng thịt, ăn chay hãm mình thì được chứ đề nghị họ suy tư về linh hồn của chính họ thì họ có dám đặt vấn đề linh hồn là gì đâu. Có lần, nói chuyện về chỉ dạy mấy người dưới tay hàn chì ống nước bằng đồng vào mùa đông tại thành phố Roanoke, Virginia, USA, người anh cha Lành đã thốt lên, “Không thể mổ đầu bò mà nhét óc chó vào được.” Năm sau khi gặp lại, không nhớ nói về chuyện gì, ông lại thêm, “Cho dù có nhét óc chó vào đầu bò thì con bò cũng không thể sủa gâu gâu.” Cha Lành chỉ biết im lặng nghe khi lái xe. [font="%value"]
Số là vào mùa đông năm ấy, hệ thống nước của thành phố bị bể; đang nửa đêm lạnh giá cỡ -40 độ F, ông bị gọi đi sửa vì ống nước bể. Ông là cai coi hơn mười nhân viên dưới tay. Gọi được bốn nhân viên đi làm thì tới hiện trường đã hơn hai giờ sáng. Nào sai người đi khóa mạch nước, kẻ thì đào đất nơi ống bị bể, người chuẩn bị ống nối, đồ hàn. Đến khi hàn, nhân viên hàn tới hàn lui ba bốn bận nước vẫn bị xì. [font="%value"]
- Nhìn tao hàn đây, ông hàn cho nhân viên coi để học theo. Ống nước được mối hàn hoàn chỉnh và ông trao đồ hàn cho nhân viên hàn tiếp. Nhưng vẫn không được. [font="%value"]
- Anh hơ nóng phía trên trước đoạn hơ phía dưới ống lúc bỏ chì phải không? [font="%value"]
- Sao chú biết? [font="%value"]
- Thì có chi đâu, hơ phía trên ống cho nóng và hơ phía dưới, hơi lửa làm ống nóng đều. Nhân viên của anh không để ý, hơ phía dưới trước đến khi hơ phía trên thì phía dưới nguội rồi, chì gặp lạnh sao chảy vô được. [font="%value"]
Làm sao giải thích cho dân Chúa thực hành nghiệm xét. Làm sao giải thích để họ có thể thực nghiệm, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21). Làm sao giải thích, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8)? Truyền thống, truyền thống, nói theo thánh Phao lô, dân Chúa sẽ đưa mình tới giám mục thì vãi tội ra; coi chừng lại bị đội cho chiến nón rối đạo thì tanh bành ơn gọi, ơn kêu. Linh mục chẳng khác gì chiếc lưỡi giữa hai hàm răng, hàm răng lời Chúa và hàm răng tôn giáo. “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu,” cha Lành ngậm ngùi. Khôn như con rắn, thấy dân Chúa luẩn quẩn nơi nhận thức thế tục mà cắn răng, im miệng cho lòng ruột nôn nao, bức xúc, tâm tư liên lỉ dày vò. Chân thực như chim câu, mới vô tình nói lên điều nghiệm chứng thì lại đem của thánh cho chó. Ôi! Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Bị trói lại mà đánh, có khen hay chịu đòn thì đã bị chịu đòn. Có những niềm riêng cả đời dấu kín, đành chấp nhận cả đời câm nín. Không hiểu đức Giêsu ngày xưa cảm thấy thế nào khi chỉ vì một câu nói mà dân chúng muốn đẩy Ngài lên triền đồi để xô xuống! Ôi câu nói thần thánh, “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng thương xót” (Lc. 6:36). Thương xót giúp ích gì cho những tâm hồn luẩn quẩn trong vòng nhận thức hữu vi, thế tục. Cha Lành thở dài; dân Chúa đã hai ngàn năm mà lời phúc âm vẫn còn là huyền nhiệm. Phải làm sao, ngài tự hỏi. [font="%value"]
Nhiệm vụ của các tôn giáo chính thức phải là phương tiện dẫn dắt con người trên hành trình thức ngộ. Dẫn dắt thế nào trong khi sự nhận thức không thể cầu mà chỉ có thể ngộ. Ngộ làm sao khi chẳng suy tư. Giải thích thực hành suy tư tất nhiên chỉ có thể dùng ngôn ngữ nói về sự thực hành. Nói thế nào, giải thích làm sao để người nghe có thể thực tập, thực nghiệm, áp dụng nơi hành trình suy tư, nghiệm xét. Đã có những lần nói chuyện với một vài người quen tương đối có tâm tư rộng mở, khuyến khích họ để ý suy nghĩ đến bất cứ câu phúc âm hoặc câu nói nào coi bộ ngang ngang nghịch thường, cha Lành cố dùng ngôn từ và thí dụ mộc mạc, thông thường hầu mong họ thử. Ngài dùng kinh nghiệm thực nghiệm suy tư của mình để minh chứng; chẳng hạn, trong suốt 11 năm, câu nói “Người biết không nói, kẻ nói không biết” nơi Lão học cứ luẩn quẩn nơi tâm trí. Đồng thời cũng trong thời gian đó, những câu khác, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng” (Huệ Thi), hoặc, “Một cộng một ít nhất bằng ba,” hay “Cái bóng của Thượng Đế là Quỉ Vương,” và, “Con người đâu phải là vị thánh, cũng đâu phải là con thú. Và bất hạnh thay, kẻ muốn làm thánh lại làm con thú.” (Blair Pascal), v.v… ngài còn nói rõ hơn, những câu nói coi bộ ngang ngang ngửa ngửa, bất thường này tất cả nói về chính mình nơi phương diện nào đó, không nói gì về bất cứ những chi được nhắc đến. Cứ để tâm trí luẩn quẩn suy nghĩ đến câu nào đó; tới khi tâm trí bị dồn vào góc tối suy tư, sự thức ngộ sẽ bùng lên gọi là ngộ. Nhưng, đã những mấy năm, đôi khi gặp lại họ, vẫn chẳng chi mới lạ; có chăng, chỉ được nghe thấy những thăng tiến, phiền hà hữu vi, thế tục họ đã đối diện trong cuộc sống nhân sinh. Biết nói sao hơn, im lặng và chờ, ấy là những người tương đối có tâm hồn rộng mở, phương chi đại đa số dân Chúa! Hèn chi đã có lời phát biểu, nhận thức không thể cầu, chỉ có thể ngộ. Nghĩ đến đây, cha Lành tự hỏi, phỏng câu nói của Blair Pascal, “Con người đâu phải là vị thánh, cũng đâu phải là con thú. Và bất hạnh thay, kẻ muốn làm thánh lại làm con thú,” lại đang nói lên thực trạng nơi mình. Suy tư để đạt thức ngộ hay không tùy thuộc người ta, mắc mớ gì mình mà để phiền hà đến tâm tư, biến thành thú tính! Ngài lại chợt tự hỏi, phỏng để tâm tư suy nghĩ luẩn quẩn tới câu nói bất thường nào đó được phúc âm gọi là cầu nguyện liên lỉ, hay kiếm tìm nơi câu, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33)? [font="%value"]
Nhiệm vụ đầu tiên là phương tiện dẫn dắt con người trên hành trình thức ngộ vẫn khó thể thực hiện do không sử dụng suy tư nơi phương diện tâm linh, phương chi nói đến giải thích cảm nghiệm thức ngộ. Nghe giải thích, khuyến khích suy tư nhưng không thực hành thì chẳng khác gì nghe trình bày về lợi ích của thực phẩm nhưng không ăn. Có lần gặp bác sĩ quen để lấy kết quả việc thử máu. Bác sĩ viết cho toa thuốc và nói đùa một câu, “Mua thuốc về để trên kệ, nó không chữa được bệnh đâu.” Vị bác sĩ này là giáo dân nơi giáo xứ đầu tiên cha Lành được sai về làm phó, đã có lần nói chuyện với ngài và được biết nhận định của ngài về “thuốc tây” và “thuốc bắc, thuốc nam.” Ngài đưa lên nhận định rằng, thuốc tây chỉ giải quyết cấp thời, đau đâu, trị đó và phát sinh thêm phản ứng phụ. Chỉ thuốc bắc hay thuốc nam mới trị cái gốc, nguyên nhân phát sinh bệnh nào đó. Nói cho đúng, cha Lành thử máu để biết mình thiểu thừa thế nào; giải quyết, trị bệnh bằng thuốc tây tất nhiên tạo thêm phản ứng mới nơi cơ thể. [font="%value"]
Không thực hành suy tư thì sao có cảm nghiệm. Sự việc giải thích cảm nghiệm sao có thể thực hiện để “hành giả,” người suy tư, so sánh mà nhận biết rõ ràng hơn về thực thể nơi hành trình suy tư để điều chỉnh hay am hiểu thâm sâu hơn về thực nghiệm nghiệm xét. Lời giải thích, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô” (Col. 2:8), chỉ có thể nhận biết để thực hành nơi diễn trình nghiệm xét, suy tư. Không suy tư, nghiệm xét, không đặt vấn đề để giải quyết nơi tâm tưởng, không phản biện, chắc chắn không thể nào sử dụng, áp dụng, hay ít nhất hiểu được những lời này nói về phương diện nào. Thánh Phao lô dạy, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-21), và dẫu ngài đã đoan chắc, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20), nhưng được mấy ai thực sự nhận biết, “Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em;” không nhận biết cũng bởi không suy tư, không nghiệm xét; mà nếu có ai dám hùng hồn tuyên xưng, tuyên dương thì lại coi chừng bị chụp cho chiếc mũ phạm thượng. [font="%value"]
Nhớ lại có lần sơ coi lớp giáo lý thêm sức nhờ cha Lành đến nói chuyện với các em về ân sủng bí tích. Trong bài nói, ngài nhắc nhở các em để tâm cảm nhận lời chào đầu tiên khi linh mục cử hành thánh lễ hoặc các nghi thức, “Chúa ở cùng anh chị em,” và chúng ta thưa, “Và ở cùng cha.” Ngài giải thích đây là Tin Mừng Chúa Giêsu công bố cho mọi người và đó cũng là danh hiệu của Ngài, “Emmanuel” có nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người. Thiên Chúa ở đâu thì Thánh Thần, Thần Khí của Chúa ở đó. Thế nên thánh Phao lô minh xác, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Hai ngày sau, nhân được mời tới ăn cơm tối nơi một gia đình nọ, bà chủ gia nói với ngài rằng sơ quản giáo lớp giáo lý thêm sức than rằng, “Vậy mình là Thiên Chúa à”? Cha Lành chỉ biết im lặng nghe, không nói năng chi. Sơ quản giáo đã kêu lên như thế thì nói sao với giáo dân đây. Cũng không sao, vì lời than của sơ đã không đến tai giám mục. Đâu phải phi lý mà có câu, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng khốn.” Nhận thức dân chủ một cách sai lầm cũng làm phiền tâm tư con người. [font="%value"]
Nói rằng, tin rằng, nghĩ rằng, Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình là chuyện thường nơi đầu môi chót lưỡi những người cho rằng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Kitô, nhưng suy tư, nghiệm xét để thực sự nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình thì được những ai; cha Lành thầm nghĩ. Chính ngay mình, hiểu, biết, tin, nhận thực, nhận thức rõ ràng, nhưng thực sự cảm nhận vẫn còn mông lung. Nói theo thánh Phao lô, nếu thực sự cảm nhận, “Tôi sống nhưng không phải tôi mà chính đức Kitô sống trong tôi,” (Galatians 2:20) thì nhiều sự thể đã xảy ra, dẫu, “Sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành” (Rom. 7:19). Ôi, cái chân đau, nó vẫn đau. Phỏng chấp nhận bị đau vì chạy chữa hoài vẫn chưa khỏi là tâm tình sự dữ lại thi hành? [font="%value"]
[font="%value"]
Vừa mới hé môi nói về thực thể Tin Mừng đức Giêsu rao giảng với lớp giáo lý thêm sức đã khiến sơ quản giáo nhảy quay lên thì sao còn cơ hội trình bày diễn tiến, hành trình nhận thức, hành trình thức ngộ với bất cứ ai. Có lẽ, chẳng những sơ mà coi chừng đại đa số dân Chúa cũng chỉ hiểu nhầm cầu nguyện là “Thưa chuyện cùng Chúa” cho dù chẳng biết Chúa là gì, thế nào, liên hệ với mình ra sao. Cầu nguyện cùng Chúa chính là suy tư, nghiệm xét xem Chúa là thế nào, liên hệ với mình ra sao để có được nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Không dám chấp nhận thực thể hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình thì cầu nguyện với ai, với sự tưởng tượng của mình do nghe theo tuyên truyền, quảng bá thế nọ, thế kia, nơi phương diện bày tỏ ước muốn để được yên lòng tạm bợ trong viễn tưởng Chúa nghe, Chúa nhận lời thì nào lợi ích chi! Nói làm sao, giảng giãi cách nào, cha Lành thầm hỏi mà tâm tư chùng xuống trong khi lời phúc âm dội lại, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài" (Mt. 6:33). Hãy biết thương xót; thương xót có năng lực khuyến khích người ta suy tư được không? [font="%value"]
Sau khi ăn cơm mời vào buổi chiều nơi một gia đình bày vẽ sinh nhật của một đứa trẻ trai cỡ mười một, mười hai tuổi, cha Lành trở về ngồi vào bàn viết nơi văn phòng. Nhớ lại, khi thằng bé đến bên chào ngài, ngài nói lời chúc mừng sinh nhật nó và nhẹ nhàng hỏi, con có muốn đi tu làm linh mục không. Thằng bé đơn sơ hỏi, đi tu thì lương tháng được bao nhiêu? Ngài thấy hơi lạ vì thằng nhỏ này quá thực tiễn, nên trả lời, cỡ một ngàn đồng một tháng. Vừa nghe thấy thế, thằng bé bất chợt nói, “Cheap,” con không đi tu đâu. Bố mẹ thằng bé cũng đã năm ba lần gặp cha Lành, hiểu được tính cách binh dị thượng vàng hạ cám của cha nên chỉ cười trong khi người bố hướng về ngài nói, đấy chỉ là tiền lương tòa giám mục trả, còn những thứ tiền khác nữa chứ, thưa cha? [font="%value"]
- Tòa giám mục phải nhận tiền từ giáo xứ gửi về chứ làm gì có tiền mà trả. Lương linh mục là do giáo xứ trả mà. [font="%value"]
Đối diện với cuộc sống hiện thực nên dân Chúa tính toán, nhận định giỏi giang; ngay cả một đứa bé đã biết cân nhắc thiệt hơn cho cuộc đời sau này. Nhưng sao… Vừa nghĩ tới đó, ngài chợt nhận ra mình đang để tâm trí chu du ngoài mục đích. Còn những hai phúc âm nữa, không biết có thể xong tối nay chăng, ngài thầm hỏi trong khi đưa tay ấn nút bật máy tính, đồng thời nghĩ cách sao có thể đọc và ghi lại nhanh hơn. Bản Kinh Thánh tiếng Anh trong máy vi tính thì ngôn từ quá cổ. Bản tiếng Việt của 14 nhà học giả in tại Sàigòn, ngôn từ coi bộ thiếu trang nghiêm. Lên net kiếm bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn. [font="%value"]
“Và vương quyền của Ngài sẽ vô cùng vô tận (Lc. 1:33). “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43). “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc. 6:20). Người nhỏ nhất trong Nước Trời vẫn lớn hơn Gioan Tẩy giả (Lc. 7:28). “Ngài rảo qua các thành, các làng, mà rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc. 8:1). “Đã được ban cho các ngươi biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa còn chỉ ban cho những người khác những câu ví” (Lc. 8:10). “Và Ngài sai họ đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:2). “Ngài tiếp đón họ, nói cho họ về Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:11). “Ta nói thật với các ngươi, trong những kẻ có mặt, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:27). “Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; còn ngươi hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:60). “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau thì bất kham với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). “Hãy chữa các kẻ ốm đau trong thành; hãy bảo họ, ‘Nước Thiên Chúa đã gần bên các ngươi’” (Lc. 10:9). “Vào thành nào người ta không tiếp đón các ngươi thì hãy ra công trường mà nói, ‘Ngay bụi trong thành các người dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin rũ trả lại. Song xin các người hãy biết điều này, Nước Thiên Chúa đã gần bên” (Lc. 10:11). “Bằng Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Lc. 11:20). “Song hãy tìm kiếm Nước của Người và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Lc. 12:31). “Nước Thiên Chúa thì giống như cái gì? Ta sẽ lấy gì mà so sánh! Thì cũng in như hạt cải người nọ vất vào vườn mình; nó lớn lên và thành một cây và chim trên trời nương náu nơi cành nó” (Lc. 13:18-19). “Nước Thiên Chúa thì cũng in như men bà nọ lấy mà vùi vào ba rá bột cho đến khi tất cả dậy men” (Lc. 13:20). “23 Có người nói với Ngài: "Thưa Ngài, ít người được cứu thôi phải không?" Ngài nói cùng họ: 24 "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì Ta bảo các ngươi: Có lắm kẻ sẽ tìm cách vào, nhưng không thể được." (Lc. 13:23-24) “20 Biệt phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến, Ngài đáp lời và nói: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, 21 người ta sẽ không nói được: "Này ở đây" hay: "Ở đó" vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20-21). "Hãy để mặc các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những người như thế. 17 Quả thật, Ta bảo các ngươi: ai không đón nhận lấy Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì không vào được trong đó!" (Lc. 18:16-17). "Nhũng người có của khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao! 25 Vì lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa". 26 Các kẻ nghe mới nói: "Thế thì ai còn có thể được cứu?" (Lc. 18:24-26). "Quả thật, quả thật, tôi bảo ông ai không bởi Trên sinh ra thì không thể thấy được Nước Thiên Chúa" (Gioan 3:3). "Quả thật, quả thật, tôi bảo ông, ai không sinh ra bởi Nước và Thần khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa. 6 Sự gì sinh ra bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh ra bởi Thần khí là Thần khí” (Gioan 3:5-6). "Nước tôi không thuộc về thế gian này, Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của tôi đã cố chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Ấy vậy Nước tôi không thuộc chốn này" (Gioan 18:36). [font="%value"]
12 giờ 07 phút nửa đêm, cha Lành nhìn màn ảnh đầy những câu phúc âm được ghi lại bằng cách copy từ bản được trình bày trên net. Không có bất cứ định nghĩa nào rõ ràng về Nước Trời hoặc Nước Thiên Chúa, mà chỉ những câu mang ý nghĩa ám định. Phải sắp xếp lại thành những phân định tương đương mới có thể xác định rõ ràng hơn về tính chất cũng như đặc tính của Nước Trời theo phúc âm; cha Lành thầm nghĩ, phỏng hai tiếng có thể xong không? Nhưng mình chỉ kiếm định nghĩa và đặc tính Nước Trời mà, phân định để làm chi. Đọc lại, chỉ cần những câu liên hệ hoặc ám định Nước Trời thế nào thôi, chẳng hạn, Nước Trời giống như hạt cải, men dậy bột, ở đâu, và điều kiện để vào Nước Trời, không lang thang, mất giờ quá, ngài quyết định. [font="%value"]
NƯỚC TRỜI – NƯỚC THIÊN CHÚA theo phúc âm. [font="%value"]
Không một định nghĩa nào về Nước Trời, Nước Thiên Chúa sao lại phát sinh danh hiệu “Thiên đàng?” Ngày còn nhỏ mình được dạy thiên đàng là “Nơi thanh nhàn, vui vẻ vô cùng,” được hưởng “Mặt Chúa,” mà các ông trùm dạy bổn cũng chẳng bao giờ nói lên được Chúa là thế nào. Các cha cũng chỉ lặp đi lặp lại Chúa phán thế này, Chúa phán thế kia. Rồi phải ăn năn, hối cải, hy sinh, lập công chuộc tội để sau khi chết khỏi phải sa hỏa ngục, nhưng dù được tha hết tội vẫn còn vạ nên sẽ bị giam giữ nơi luyện ngục tới khi nào trả hết vạ mới được vào thiên đàng. Rồi nào những chuyện linh hồn hiện về xin tha thứ hoặc ăn năn khóc lóc, muôn thứ như có ý răn đe, khuyến khích sống sao cho tốt lành hơn để được hưởng mặt Chúa. Cũng chẳng ai, sách vở nào viết về linh hồn là thứ gì nơi một người, hoặc làm cách nào có thể biết mình có linh hồn. Các cha cũng chẳng bao giờ giải thích; muôn thứ cứ như tự trời rơi xuống. Nào mỗi cha một lý đoán; cha nói phải nghe; khi cha mặc áo lễ giảng giải thì lời nói nặng ký hơn, quan trọng hơn. Phải đi lễ nơi xứ mình, đi lễ nhà thờ khác không thành. Bà sơ thì dạy rằng nơi cửa hỏa ngục có chiếc đồng hồ nó kêu tích tắc đời đời, đời đời tích tắc, mà cũng không bao giờ minh chứng có thiên đàng, hỏa ngục, và ngay cả linh hồn là thế nào cũng không, chỉ nhồi nhét vào tâm não người ta những viễn tượng sau khi chết thế nào để rồi khuyên bảo, khuyến khích sống cho đẹp lòng Chúa. [font="%value"]
Nhớ lại khi mới nhập trường thần học Notre Dame tại Lousiana, trong một lớp học về bí tích, khi cha giáo vừa ngưng thao thao bất tuyệt nói về bí tích hôn phối; thày Lành giơ tay hỏi, [font="%value"]
- Thưa cha, vậy bí tích hôn nhân là do giáo hội lập ra? [font="%value"]
Cha giáo nghiêm mặt, [font="%value"]
- Từ nay không được hỏi như thế. [font="%value"]
Thầy Lành lạnh sương sống, mới bị đuổi khỏi nhà dòng SVD vì năm thứ tội trời mây trăng nước mà thày chỉ nhớ được ba tội nặng nhất là chống Mỹ (Anti American), ngang ngạnh (Stubborn), và sống cô lập, ít tham gia sống chung với anh em. Thì nào có chi đâu, có lần cha bề trên (Rector) cư xá gọi thầy vô khuyên nên sống như thế này, như thế kia, dành giờ vui chơi chia sẻ với anh em trong khi thầy đã lớn tuổi vì vượt biên muộn, tiếng Anh tiếng u kém cỏi phải cày muốn chết; thiên hạ đọc 10 phút, thày phải lật tự điển tra tới tra lui cả giờ. Cái ngôn ngữ quỉ ma, lúc học ESL thì chỉ những tiếng đi chợ, chào hỏi, mà khi học thần học thì nguyên những chữ dài cả gang tay, Chúa có bao giờ dựng nên đâu mà đặt vấn đề dành giờ vui chơi, chia sẻ. Lòng luôn băn khoăn lo lắng học hành, không chịu khó cày, học không được lỡ bị đuổi vì dốt thì tại mình, đâu phải Chúa không chọn. Và ở nhà dòng thì anh cũng như tôi, bề trên bề dưới cũng là người. Lý thuyết “Vâng lời trọng hơn của lễ” không có chỗ đứng nơi tâm hồn thầy Lành có lẽ vì thầy quen tự lực cánh sinh từ bao lâu nay nên thẳng thắn trả lời bề trên, [font="%value"]
- Thưa cha, con nghĩ những đề nghị này là cho chính cha. Năm nay con đã 36 tuổi, tiếng Anh kém, con cần chăm chỉ học hành và nên biết phải sống thế nào. [font="%value"]
Thế là thầy bị đội cho chiếc nón anti American [font="%value"]
Sau một năm rưỡi ESL, bập bẹ tiếng chợ búa thì biết, nhưng ngôn ngữ thần học thì lật tự điển, mà giáo sư thần học lại nói nhanh như gió thoảng; bước vào trường thần học thầy Lành chỉ được cho phép lấy tám giờ một tuần cho khóa học ba tháng của năm học đầu tiên. Một năm chỉ học ba khóa thế là năm đầu thầy Lành thiếu bốn giờ. Ba tháng hè của năm thứ nhất thầy Lành dồn hết năng lực tra tự điển của một cuốn sách tiếng Anh về thần học chuẩn bị cho năm tới. Khóa học ba tháng đầu cho năm thứ hai thần học, thầy Lành ghi danh 15 giờ cho một tuần. Giám học tại chung cư chỉ cho phép học 12 giờ. Thày ghi danh 12 giờ và tham dự thêm ba giờ nơi môn học khác để rồi khi được giáo sư ký giấy chấp thuận đã học xong đem trình giám học trả tiền, và bị kết án “Stubborn.” [font="%value"]
Bị cha giáo trả lời như răn đe một đứa con nít, thành Lành đỏ mặt, im tịt, nhưng lòng ấm ức vì không thấy sự thần thánh nào nơi phép bí tích hôn phối. Nếu con người bày ra thì con người có thể thay đổi tùy thuộc quan niệm và sự chấp nhận của con người theo thời gian và nơi chốn sao cho hợp lý và hợp tình. Có những quan niệm cổ xưa chẳng hạn, “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng; hoặc đa phu, hay vâng lời trọng hơn của lễ một cách mù quáng” phỏng còn được chấp nhận vào thời buổi ngày nay? Nơi kinh ngày chủ nhật, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn,” có còn được chấp nhận là chân lý không, hay giáo dân đọc thì cứ đọc, không cần để tâm suy tư, nghiệm xét đã đang đọc những gì? Nín nhịn cho qua, thầy Lành dặn lòng nhưng vẫn ấm ức. [font="%value"]
Lúc này đối diện với câu phúc âm nghiệm chứng được đặt nơi miệng đức Giêsu, "Nước tôi không thuộc về thế gian này, Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của tôi đã cố chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Ấy vậy Nước tôi không thuộc chốn này" (Gioan 18:36), cha Lành dẫu đã từ lâu biết người ta hiểu lầm Nước Trời, Nước Thiên Chúa là “Thiên đàng,” một nơi chốn nào đó theo nghĩa hữu vi, thế tục, nơi đó Chúa, các thần thánh được tưởng tượng nơi cõi vô hình đang ngự trị. Sự liên tưởng này dẫn tâm trí cha Lành nhớ có câu nói nào đó, “Mấy con vật, chúng sẽ cho rằng Thượng Đế có bốn chân.” Thiên Chúa là sự sống, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gioan 14:6), là sự hiện hữu nơi mọi sự, vô hình cũng như hữu hình. Nước Trời, Nước Thiên Chúa vô hình, không thuộc về thế giới hữu hình, thế tục này. [font="%value"]
“Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). “Nước Trời đã gần bên” (Mt. 10:7) Nước Thiên Chúa đã gần bên” (Lc. 10:11). Ví bằng Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28). “Bằng Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Lc. 11:20). “Biệt phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến, Ngài đáp lời và nói: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: "Này ở đây" hay: "Ở đó" vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20-21). [font="%value"]
Nước Thiên Chúa “Đã gần bên,” “At hand,” “Đã đến trên các ngươi,” “Ở trong các ông,” vậy thì “Cái thiên đàng” thanh nhàn vui vẻ vô cùng, sáo ngữ tưởng tượng, ở đâu? Cái đồng hồ, tích tắc đời đời, đời đời tích tắc được treo ở chỗ nào như đã được mấy sơ dạy ngày xưa? Nước Thiên Chúa ở trên, ở trong, ngay nơi các ông là thế nào? Có câu nói nào đó dạy rằng, không thể kiếm tìm Thiên Chúa bất cứ nơi đâu vì Thiên Chúa ngay trước mặt mình. Quái, trước mặt sao chẳng thấy; không lẽ mình mù tối. [font="%value"]
“Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). Còn câu nói nào nặng hơn không? Ký lục và Biệt phái thuộc giai cấp rành rẽ luật thờ phượng nơi Do Thái giáo tại sao lại bị gọi là “Khóa Nước Trời, chận người ta lại, các ngươi sẽ chẳng vào,” lại còn “Chẳng để cho vào” những người khác? Họ đã rao giảng những lề luật thế tục, hữu vi, nhân sinh? Hèn chi Phao lô nói, “Nọc của sự chết là tội, mãnh lực của tội là lề luật,” (1Cor. 15:56). Vậy lề luật của Chúa là gì? “Ngài sai mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ, và làm mưa khắp trên kẻ ngay cũng như người ác” (Mt. 5:45). Vậy những ai được vô Nước Thiên Chúa, và với điều kiện nào? Biệt phái và Ký lục đã sống thế nào, đã thực hiện những gì đối với dân Chúa mà bị kết án nặng nề, “Khốn cho các ngươi?” Họ giả hình nơi phương diện nào? [font="%value"]
ĐIỀU KIỆN VÔ NƯỚC TRỜI, [font="%value"]
NƯỚC THIÊN CHÚA [font="%value"]
“Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5:3). “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc. 6:20). Hèn chi người ta thường hiểu ngôn từ khó nghèo nơi phúc âm là khó nghèo vật chất trong khi ai cũng ước mơ hay muốn trở nên giàu có của cải thế gian. Thế nên, có những người hô hào, tuyên xưng đạo này, đạo kia là đạo của người nghèo khó vật chất để rồi kiến tạo nên tổ chức, hội giúp người nghèo. Người nghèo đâu ai có ước muốn nghèo khó; có chăng chịu khó, chăm chỉ làm việc để có đời sống dễ thở hơn, ăn chắt để dành sao cho có dư đề phòng lúc bất cập. Nói cho đúng, người nghèo nơi phương diện vật chất muốn được giàu có. Ngược lại với tâm trạng này, người nhiều tiền, lắm tài sản, vì phải đối diện với phiền hà của sự giàu có nên mơ ước tâm trí thảnh thơi, không phải lo nghĩ, không bị vướng bận tâm tư vì lo lắng bảo vệ gia tài, của cải. Nhận định thực trạng tâm tư như thế, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, chỉ người giàu có, lắm của cải, gia tài vật chất, điền sản nọ, tàu thuyền kia, hoặc dinh thự, hầm mỏ hái ra bạc, bận rộn công việc điều hành, tính toán hơn kém trong việc tranh đấu nơi thương trường xấp nổi bất chợt theo thời cuộc mới ước mơ có được tinh thần, tâm tư của người nghèo khó, sáng vác cuốc ra đồng mang theo giỏ cơm mắm muối ăn trưa, tối về tắm rửa thêm bữa “Vỗ bụng rau bình bịch” rồi đánh một giấc tới sáng không gì phiền hà lo lắng. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, hữu vi, thế tục, chỉ những người giầu có mới mơ ước có được tinh thần nghèo khó. Những người nghèo khổ nơi phương diện vật chất, hai tay không vày lỗ miệng đều mơ ước trở nên giàu có. Thế tại sao phúc âm lại được viết, “Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5:3); trong khi phúc âm Luca rất đơn giản, rõ ràng, ngắn gọn, “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc. 6:20)? [font="%value"]
Lật cuốn Kinh Thánh, bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, được ghi chú, “Tinh thần khó nghèo: nghèo khó, khiêm nhượng, sẵn sàng chịu lấy Nước Thiên Chúa cũng như những kẻ nhỏ hèn hay những người rốt hết. Mt. nhắm vào tinh thần, nhưng như Luca cho thấy Chúa khuyên dạy nhiều lần nghèo khổ thực sự” (Kinh Thánh; Bản dịch Lm. Nguyễn Thế Thuấn; Dòng Chúa Cứu Thế; TP/HCM; VN; Tân Ước; tr. 19). Nơi cuốn The New Oxford Annotated Bible thì được viết, “Poor in spirit: Those who feel in deep sense of spiritual poverty” (1973). Trong khi nơi cuốn Matthew, cuốn sách thứ 26 của bộ Anchor Bible, trang 46, “Poor in spirit “lại được dịch là “Humble in spirit.” Sau khi giải thích từ ngôn ngữ nọ qua tiếng nói kia, đoạn ghi chú được kết luận, “The poverty described is that of the man fully conscious of the poverty of all human resource, and knowing his need and desire for God.” Nói rằng con người nhận ra căn gốc hiểu biết của mình thiếu sót nên thấy cần nhận biết về Chúa thì đã ít nhất hơn hai ngàn năm rồi, sự nhận ra thiếu sót của mình thì nhiều (đa thọ đa nhục) nhưng nhận thức về Chúa thì vẫn mông lung. Không nhớ đã đọc nơi đâu, “Poor in spirit” là một thành ngữ có nghĩa đơn sơ, chất phác, chăm chăm chú chú tìm tòi, lục lọi, bới móc như đứa trẻ nhỏ chơi chán món đồ chơi bèn kiếm cách tháo tung ra xem có những thứ gì bên trong đến độ phá hỏng cả đồ chơi. Theo nghĩa này, có thể hiểu rõ hơn câu phúc âm, “Hãy để mặc các trẻ và đừng ngăn chúng đến với Ta; vì Nước Trời thuộc về những người như thế” (Mt. 19:14). Như vậy, câu này có nghĩa, phúc cho những người khao khát, chăm chú kiếm tìm Nước Thiên Chúa vì Nước Trời là của họ; chẳng lệ thuộc gì đến giầu, nghèo vật chất mà lại là những người chăm chú thực hành câu phúc âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). [font="%value"]
Nhưng tại sao lại có câu, “Quả thật Ta bảo các ngươi: giàu có khó mà vào được Nước Trời. Ta lại bảo các ngươi, lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời” (Mt. 19:23-24)? Lại có cú lừa nào đây! Chẳng lẽ người giầu có đều xấu xa hết; mà dù giầu có, Chúa đâu đặt thành vấn đề vì đứa nào không là con cái của Ngài; ai không là hiện thể của Ngài nơi cõi đời này? Đọc nơi sách vở, có vị học giả Kinh Thánh giải thích, nơi thành thánh Jerusalem, chỗ buôn bán thú vật để cúng tế theo luật Môi sen ngày xưa, có hàng rào chung quanh. Nơi hàng rào này có nhiều cửa ra vô và có một cửa rất hẹp, được người ta gọi lóng là cửa lỗ kim. Vì cửa này nhỏ nên những con lạc đà chở hàng quà không thể đi qua được, phải tháo hết mọi sự trên lưng lạc đà người ta mới dẫn được nó lách qua. Và thế là có đấng thần học (Linh mục) đã uyên bác rao giảng rằng hàng quà nơi lưng lạc đà chẳng khác gì tiền của, tài sản đối với chúng ta. Hơn nữa, có ai chết mà có thể đem theo thứ gì đâu, vào đời tay trắng thì ra đi cũng trắng tay; có bỏ vàng bạc, tiền của vô nấm mồ thì chỉ phiền hà cho người sống; vì không coi chừng sẽ bị trộm đào mất lại phiền hà đến xác chết nơi nấm mồ. [font="%value"]
Cha Lành nghĩ, cho dù là cổng lỗ kim hay lỗ của chiếc kim may thì lạc đà cũng không thể nào qua được. Có câu nào đó nơi phúc âm nói, “Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt. 6:21; Lc. 12:34). Cha Lành tự hỏi, kho tàng của mình ở đâu, tiền lương linh mục thì bỏ ở nhà băng, xe đang đậu dưới nhà xe, quần áo người làm giặt ủi xếp trong tủ phòng ngủ; chiếc máy vi tính thì đang sử dụng; mà lòng dạ mình có ở nơi bất cứ thứ gì lúc này đâu. Nó đang luẩn quẩn với mấy câu phúc âm để tìm biết những điều kiện nào mới có thể được vào Nước Trời. Nó đang lúng túng với câu phúc âm nghịch thường định đánh lừa mình, cho rằng người giầu có không thể vào được Nước Trời chẳng khác gì con lạc đà không thể nào chui qua lỗ kim, dù bất cứ lỗ kim nào, lỗ kim gọi lóng nơi thành Jerusalem hay lỗ kim dùng để may vá. “Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó,” cha Lành lẩm bẩm thành tiếng. Thử đọc ngược lại, ngài nghĩ, lòng ruột ngươi để nơi nào thì kho tàng ngươi ở đó. Chỉ một chiều, không thể áp dụng cho bất cứ trường hợp nào khác. Nhưng lòng trí mình đang muốn tìm hiểu ý nghĩa ám định của câu phúc âm. Ngài chợt giật mình vì ngôn từ “Kho tàng” mang nghĩa ước muốn, ý định. À thì ra thế, ước muốn, ý định của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó. Ước muốn, ý định phát xuất từ linh hồn và linh hồn thúc đẩy thân xác hành động. Linh hồn muốn làm giàu thì thân xác và cả cuộc đời một người sẽ quyết chí làm giàu. Như vậy, kẻ nào ước muốn giàu có thì khi chết rồi, hồn vẫn theo đuổi ước muốn này. Hèn chi phúc âm nói, “Lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời.” Người ước muốn giàu có, danh vọng thế gian thì khó vào nước trời hơn con lạc đà chui qua lỗ kim vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó. Không lạ gì phúc âm nói, Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5:3). Phúc cho những kẻ chăm chăm chú chú tìm kiếm Nước Thiên Chúa vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó. [font="%value"]
Câu phúc âm khiến cha Lành khó đặt vấn đề để suy tư vì rất nghịch với tâm lý bình thường hay nhận thức đạo đức căn bản của con người; đó là câu, “Quả thật, tôi bảo các ông, quân thu thuế, lũ đàng điếm qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa” (Mt. 21:31). Những người thu thuế thời đó bị coi thuộc loại tội lỗi vì họ làm việc cho người Roma đang cai trị, đè đầu đè cổ người Do Thái. Lũ đàng điếm thì khỏi nói, dù thời đại nào hay nơi chốn nào cũng đều bị mọi người khinh khi, coi rẻ, thuộc hàng tội lỗi. Nhưng lý do gì, nơi phương diện, và điều kiện nào phúc âm đặt giá trị “vào Nước Thiên Chúa” của họ bên trên hay vượt qua các vị thượng tế và hàng niên trưởng nơi dân Do Thái thời đó? Vẫn biết rằng, những phát biểu nơi phúc âm không kiêng nể hoặc tránh né đụng chạm đến bất cứ vị thế nào nơi xã hội nhân sinh chẳng khác gì các lối nói nơi các đạo học Đông Phương, mà nhiều khi còn quá quắt hơn. Chẳng hạn, “Của thánh đừng cho chó; châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy, đối với những người không chịu mở rộng tâm trí suy tư để đón nhận hay đối diện với thực tại diễn tiến bất ngờ hầu thăng tiến nhận thức, hoặc những người không muốn suy tư thì không nên đàm luận hay tranh cãi với họ; cho dù với thiện ý cùng ước vọng giúp họ thăng tiến nhận thức, và dẫu cố gắng hết sức để giãi bày, cũng đều bị coi thường hay lăng mạ như nơi sách Cách Ngôn khuyên nhủ, “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói” (CN. 23:9). Nơi sách Cách Ngôn, ngôn từ được dùng “Ngu xuẩn” để chỉ những ai không chịu suy tư, quả là quá nặng nề. Phúc âm coi người ù lì, không chịu hoặc không dám mở rộng tâm hồn để suy tư hoặc cho rằng mình không có khả năng suy tư là thứ con vật, loại người chấp nhận hay cho rằng mình không có linh hồn nên không sử dụng suy tư để nhận thức thực sự thực thể mình thế nào, là gì. [font="%value"]
Tại sao phúc âm nặng nề khinh khi các vị thượng tế và hàng niên trưởng của dân Do Thái thời đó? Họ là những bậc vị vọng trong dân chúng mà phúc âm quất thẳng, vuốt mặt không nể mũi, giáng đòn nên thân không thương xót. Dẫu vị thế thế tục của họ nơi tôn giáo cao trọng, được dân chúng kính nể, nhưng phúc âm xếp hạng họ dưới quân thu thuế và lũ đàng điếm. Tại sao, nguyên nhân nào, cha Lành lạnh lòng rở Kinh Thánh. Cho dù là linh mục, ngài đã phải mò mẫm đọc một số kinh sách nơi đạo học Đông Phương; chẳng hạn, Đạo Đức kinh, Nam Hoa Kinh, Bhagavad Gìta, kinh Viên Giác, kinh Đại Niết Bàn, Pháp Bảo Đàn kinh, v.v… Lý do, Kinh Thánh phát xuất từ Israel, thuộc miền Trung Đông, tất có liên hệ rất nhiều với Đông Phương. Một điều khiến ngài ngạc nhiên đó là có một đôi câu được ghi nơi phúc âm thấy đã có sẵn nơi đạo học Đông Phương; chẳng hạn, nơi Ấn học có ghi lại câu truyện Ramakrishna vô một ngôi đền cổ hơn kém hai ngàn năm trăm về trước và ông chứng ngộ công án, “Cha ta và ta là một.” Nơi phúc âm Gioan cũng có câu này. Hoặc câu, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” nơi Lão học; nơi phúc âm Luca cũng có câu, "Và này có những người cuối hết sẽ nên đầu hết, và có những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết" (Lc. 13:30). Lão học cũng có trước thời điểm phúc âm được viết ít nhất cỡ năm trăm năm. [font="%value"]
Do sự nhận biết các kinh sách đạo học thường là sự nối kết các công án, kết quả của những nghiệm chứng, hoặc nghiệm xét, nói theo Phao lô, lại với nhau nên cha Lành không quá ngạc nhiên khi suy tư về phúc âm dẫu mấy lần giật mình khi đối diện với những câu phúc âm nghịch thường; chẳng hạn, “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng nó đi” (Mt. 18:9); Hay, "Bởi đó Ta bảo các ngươi: mọi tội lỗi và lộng ngôn sẽ tha cho người ta, còn lộng ngôn đến Thần khí sẽ không tha được. 32 Và ai nói lời nghịch đến Con Người, điều đó sẽ tha được cho người ấy; còn ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ không tha được cho người ấy, thời này cũng như thời sẽ đến" (Mt. 12:31-32). Lên net xem các vị học giả quảng diễn thế nào, cha Lành đọc mà cảm thấy tức thay cho dân Chúa, ngài lẩm bẩm, đúng là “học giả.” Thì có gì đâu, không suy tư thì suốt đời ngu muội, Chúa làm sao có thể giúp, kẻ không suy tư nhận thức được mà tha với không. Nghĩ như vậy, ngài nhận ra điều kiện thiết yếu để nhận thức phúc âm chính là suy tư, suy nghĩ, đặt vấn đề, mà nơi sách vở mệnh danh bằng những ngôn từ đao to búa lớn, nào là nghiệm chứng, suy nghiệm, thánh Phao lô lại gọi là nghiệm xét. [font="%value"]
Lật Kinh Thánh xem lý do gì khiến phúc âm nhận định nặng nề về các vị thượng tế và hàng niên trưởng; đoạn phúc âm trước đó nói về thái độ hai người con. Người con trưởng trả lời không muốn làm theo lời của cha khi được hỏi, nhưng suy nghĩ lại, anh ta thực hiện điều cha bảo mình; trong khi người con thứ trả lời cho vừa lòng cha thì lại không làm gì. Các vị thượng tế và hàng niên trưởng không tin, không thực hiện hối cải “Metanoia” theo lời rao giảng của Gioan Tẩy giả, mà chỉ thực hành nhiệm vụ và nghi thức theo truyền thống Do Thái. Phúc âm kết án thái độ không tin của các vị thượng tế và hàng niên trưởng. [font="%value"]
Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng hồi tâm kiểm điểm lại tâm hồn mình để mở rộng lòng đón nhận hồng ân Chúa. Tất nhiên, tin theo Gioan Tẩy Giả hay không là chuyện thường và quyền riêng cá nhân. Có lẽ có điều gì nơi các vị thượng tế và hàng niên trưởng đã thực hiện hay đã giảng dạy chứng tỏ họ đã không suy tư để nhận thức hoặc khuyến khích người khác hồi tâm đối diện chính bản thân. Đọc phúc âm, nếu để tâm nhận định xem lời phúc âm nhắc nhở hoặc khuyến khích người đọc về phương diện nào, bất cứ ai cũng nhiều khi ngỡ ngàng về những kết luận của dụ ngôn, hay thấy chới với vì những câu nói nghịch thường chuyển hướng, kích thích tâm hồn độc giả đối diện với thực trạng nào đó, nghe như có vẻ ngược với bất cứ hiện trạng thế tục nào. Chẳng hạn, “Một môn đồ khác thưa Ngài. ‘Lạy Ngài, xin cho phép tôi lui về trước đã để chôn cất cha tôi.’ Nhưng đức Giêsu bảo người ấy, ‘Cứ theo Ta, và để kẻ chết chôn cất người chết của chúng’” (Mt. 8:21). Nơi cuộc đời này, có bao giờ hiện trạng với câu trả lời, “Cứ theo Ta, và để kẻ chết chôn cất người chết của chúng” nghịch thường như thế có thể xảy ra. Phúc âm nhấn mạnh hay dùng những kết luận rất đối nghịch với lối suy tư, nhận thức bình thường để khích thích tâm hồn độc giả phải suy tư, và nếu đọc phúc âm mà không đặt vấn đề, không suy tư, nghiệm xét, coi chừng sẽ có nhận định phúc âm nói điều không tưởng. [font="%value"]
Hồi tâm suy tư để nhận thức thực thể con người mình thế nào, thực trạng ra sao, đại khái trực diện đối diện tâm hồn của mình. Nếu để tâm suy xét, người đọc phúc âm sẽ nhận rõ được điều này. Nơi câu, ‘Cứ theo Ta, và để kẻ chết chôn cất người chết của chúng’” (Mt. 8:21), cũng ngôn từ chết được hiểu hai nghĩa, thân xác chết, linh hồn ra khỏi xác, và chết về đường tâm linh. Các vị thượng tế và hàng niên trưởng bị phúc âm xác định thua quân thu thuế và lũ đàng điếm có lẽ cũng như chúng ta. Suy tư, tính toán mưu sinh thì tuyệt vời như không dám đối diện với chính mình hầu nâng phần thực thể nhận thức về bản thân. Trạng thái chạy trốn chính mình, không dám đối diện chính mình để nhận thức mình thực sự như thế nào bị phúc âm coi như kẻ chết, “Để kẻ chết chôn cất người chết của chúng.” Dẫu không thể đoan chắc suy tư, nghiệm xét sẽ đưa chủ thể đạt tới thức ngộ vì sự thức ngộ không thể cầu, chỉ có thể ngộ, nhưng chắc chắn, suy tư, nghiệm xét sẽ nâng cao nhận thức của một người. Không dùng suy tư, nghiệm xét nơi hành trình tâm linh có thể được coi như khinh chê hồng ân suy tư, sẽ không bao giờ nhận thức được. Đối với thực trạng không suy tư, nghiệm xét, phúc âm gọi là tội phạm đến Thánh Thần; vì nếu không sử dụng suy tư hầu thăng tiến nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin, thì suốt đời ngu muội. Thử hỏi, nói rằng, tuyên xưng rằng tin vào Chúa thì tin thế nào. Cho rằng, hay nghĩ rằng, hoặc tin rằng mình có linh hồn thì linh hồn mình là gì, nó giống thứ chi, tốt lành, thánh thiện ra sao, làm sao minh chứng được mình có linh hồn? Suy tư tâm linh hay không, cứ thử trả lời linh hồn mình thế nào thì biết. Sự suy tư là hành động của tâm hồn; suy tư, sẽ biết; chẳng khác gì ăn thực phẩm mới no bụng. Không ăn, dẫu biết thực phẩm tốt lành thế nào thì đói vẫn hoàn đói. [font="%value"]
Cha Lành lan man nghĩ mà cảm thấy đau nơi tâm tưởng. Lời phúc âm gợi về, “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng hay thương xót” (Lc. 6:36) khiến ngài tự hỏi, chết lặng cả tâm hồn vì cảm thấy thương xót phỏng giúp ích gì cho những “Kẻ chết?” Phải làm sao, phải làm sao, và nơi giới hạn nào. Ôi câu phúc âm thần thánh cứ chọc chạch mình hoài! [font="%value"]
[font="%value"]
Mọi người tin rằng mình có linh hồn nhưng đã không bao giờ tự hỏi, tự đặt vấn đề linh hồn mình là gì, nó thế nào, hình dáng ra sao, mà chỉ mù mờ chấp nhận rằng mình có linh hồn. Cũng thế, được dạy rằng tin vào Chúa, và nghĩ mình tin vào Chúa. Và thế là hết, thế là được gọi có đức tin dẫu chẳng biết Chúa là gì, đức tin là gì. Nói đến bất cứ điều gì liên hệ đến luân lý, đạo đức, thì cứ mang Chúa ra như con ngáo ộp để hù dọa nhau, không bao giờ dám thử phản biện, vì không dám suy nghĩ, không dám đặt vấn đề. Chính cái linh hồn nơi mình mà không biết, không bao giờ đặt vấn đề để tự nhận thức thì nói chi đến Chúa. Dân Chúa khốn khổ như vậy, bị phúc âm gọi là “Kẻ chết” mà có bao giờ nhận biết đâu. Và giả sử có ai dám nói lên khúc mắc thực trạng nhận biết về Chúa, về chính mình, thì coi chừng lại chụp cho họ cái mũ rối đạo, không có đức tin. Đến khổ, chụp cho người khác chiếc mũ nào thì chính mình là như thế vì chỉ quân ăn trộm mới nghĩ người khác có tâm ý ăn trộm. [font="%value"]
Làm sao, làm thế nào, “Người ta không thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vào được,” lời nói của ông anh lại một lần nữa trở về. Dân Chúa không phải đầu bò; họ tốt lành, thánh thiện. Vậy chứ tại sao họ rất tuyệt vời nơi chuyện tính toán, điều hành cuộc sống, lại không để ý suy tư về tâm linh mà chỉ mở rộng lòng để chấp nhận, nhai lại như con vẹt những gì phải tin, không phản đối, không đặt vấn đề để suy tư, không dám phản biện, không dám nói lên nhận định của mình. Không dám nói lên nhận định, nhận thức của mình vì e “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng khốn;” cũng như mình, nói lên những điều không giống những gì người ta đã được dạy dỗ sẽ bị đội cho chiếc nón cối rối đạo. Đã bao lâu, lý thuyết “Không rửa tội, không được vào nước thiên đàng” hoành hành nơi tâm não dân Chúa? Tại sao ngày nay, nơi kinh đọc ngày chủ nhật, vẫn còn chứa đựng câu, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn; mà linh hồn là tính thiêng liêng?” [font="%value"]
Suy tư tâm linh chỉ dồn tâm trí con người vào bế tắc và không có câu trả lời thiết thực ảnh hưởng đến cuộc sống nhân sinh. Nhận biết linh hồn mình là gì, thế nào, nhận biết Thiên Chúa ra sao không thể nào nhận thức trong một sớm một chiều mà đòi hỏi bền tâm kiên vững suy tư hết ngày này sang ngày khác, thời điểm này đến thời điểm kia; cho đến độ tâm trí bị dồn vào góc tối tâm linh, may ra nhờ cơ hội hay động lực nào thúc đẩy mới ngộ được; mà đa số thì chẳng bao giờ ngộ. Thế sao phúc âm đề nghị cầu nguyện liên lỉ. Người ta có hiểu cầu nguyện liên lỉ là thế nào đâu. Xưa nay, nay xưa, chỉ được dạy “Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa” trong khi không biết Chúa là gì thì nói chuyện với ai. Thế nên, cầu nguyện bị đánh đồng với cầu xin, nói lên những ước muốn thế tục cho dù được coi là thánh thiện. Đâu phải đơn giản gì đến nỗi Blair Pascal hô lên, “Con người đâu phải là vị thánh, cũng đâu phải là con thú. Và bất hạnh thay, kẻ muốn làm thánh lại làm con thú.” Và cũng đâu phải bỗng nhiên tự trời rơi xuống quan niệm, “Vâng lời trong hơn của lễ.” Người ta không quen suy tư tâm linh vì không được nghe nói về suy tư tâm linh là thế nào. Chẳng lạ gì nơi xứ sở Ái Nhĩ Lan đã có thành ngữ, “Dân Chúa sẽ tìm đường xuống hỏa ngục nếu được rao giảng về hỏa ngục.” [font="%value"]
Thành ngữ của các đấng Ái Nhĩ Lan hiện về nhắc tâm tư cha Lành tự hỏi, mình rao giảng lời phúc âm thế nào. Đã có những lần nhờ người khác đọc và cho ý kiến sau khi viết bài giảng, lúc nhận được trả lời “Cha giảng như vậy thì ai mà hiểu,” cha Lành vội viết lại bài giảng nương nghĩa thế tục, nhưng lòng hậm hực vì khinh chê bài giảng vừa được viết lại trong lòng thầm than không biết phải thế nào để thúc đẩy dân Chúa suy tư tâm linh. Đem lời phúc âm sống động giảng cho “Kẻ chết” thì nào khác gì “Đem của thánh cho chó,” có bị chê trách thì cũng ráng mà chịu. Ai mượn đi tu làm linh mục; ai mượn nghe lời xúi dại của Chúa. Chúa đâu có cái miệng để nói; ước mơ thánh thiện biến thành án phạt đày ải tâm tưởng; ai cũng tưởng oai vọng lắm! Cha Lành tự diễu. Đã nhiều lần ngài nghĩ, nếu Nước Trời ở trong, ở trên, ở giữa các ông” và như men dậy bột, như hạt cải tự vươn lên thì nhận thức về Nước Trời nơi dân Chúa tới thời điểm tự phát triển, mắc mớ gì tới mình. Chẳng làm linh mục thì đi làm thuê kiếm sống; nghề nào cũng là nghề; đúng là lo chuyện bao đồng, thương bò không có hàm răng! Nhưng nghĩ thì nghĩ thế mà nỗi thao thức sao cho dân Chúa phát triển suy tư hầu nhận thức thực thể con người liên hệ với Thiên Chúa cứ triền miên ám ảnh, thách đố tâm tư. Có lẽ cho đến khi nhắm mắt lìa đời ngài cũng chưa thể nào thoát ách thao thức này; vì suy tư là hành động nội tâm, hành động của lòng khát khao muốn tự nhận biết chứ không phải những lời giải thích tựa gói mì ăn liền giả tạo làm êm dịu nỗi sợ hãi con đẻ của ước mơ thế tục. [font="%value"]
TỘI PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN [font="%value"]
Đã bao lâu rồi, người ta gán ép đức Giêsu vào màn ảnh của một Thiên Chúa xa vời, đầy quyền năng, tràn trề nhân tính. Một Thiên Chúa yêu thương con người vô bờ bến, đồng thời cũng chẳng nề hà phạt con người trầm luân nơi hỏa ngục đời đời. Đồng thời, cũng theo Phao lô, treo nải chuối chín mọng tuyệt vời là sự thương khó, chịu chết của đức Giêsu cứu chuộc loài người, mà vẫn không xóa được cái hiện hữu đời đời hỏa ngục. Phỏng những gì có thể hiện hữu ngoài sự hiện hữu tối thượng là Thiên Chúa? Vậy hỏa ngục nơi nao? Phỏng Nước Thiên Chúa ở giữa các ông thì các ông đang ở Nước Thiên Chúa? Thiên Chúa là cội nguồn, gốc gác của mọi sự hiện hữu; hỏa ngục cũng thuộc về trạng thái của sự hiện hữu thì hỏa ngục cũng ở trong Thiên Chúa! Vậy hỏa ngục là gì? [font="%value"]
Ngoài Thiên Chúa, nguồn cội của sự hiện hữu thì chẳng có gì. Đọc đâu đó, có nhà thần học nêu lên quan niệm, hỏa ngục là nơi vắng bóng Thiên Chúa. Ối giời, cái nhà ông học giả này nói tào lao thiên tướng. Nếu đã vắng bóng Thiên Chúa, vắng bóng cội nguồn hiện hữu thì có cái gì; vớ vẩn, chính cái tư tưởng, lý thuyết không tưởng “Vắng bóng Thiên Chúa” của ông ta cũng đã là hiện hữu của Thiên Chúa thì sao mà vắng. Đúng là học giả chứ chưa học thiệt. Vậy thì sự cầm buộc đời đời được phát sinh từ đâu trong khi Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương con người vô bờ bến. Nếu được gọi là Chúa phạt thì sao có thể yêu thương vô bờ bến. Luẩn quẩn! Phúc âm nói gì? Có thứ gì nơi phúc âm mà không được tha? Nơi phúc âm Marcô được viết, "Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng,và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha..Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời" (Mc. 3: 28-29); "Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha”( Lc. 12:10). Nói phạm đến Thánh Thần là gì? Thiên Chúa hiện thể nơi mình; Thánh Thần ngự trị nơi mình, nói phạm là thế nào? Sao có thể nói phạm? Nơi sự thể hữu vi, phạm đến thân xác là sự hủy hoại; nơi lãnh vực tâm linh thì hủy hoại điều gì? Phạm đến Thánh Thần! Phạm đến Thánh Thần, khinh chê Thánh Thần, không nhận biết Thánh Thần, không nhận biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa, khinh chê hồng ân của Thiên Chúa, không nhận ra sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Tại sao không nhận ra? Tại không suy nghĩ, không suy tư, không nghiệm xét? [font="%value"]
Giời! Không suy tư, nghiệm xét được coi là khinh chê hồng ân. Mình đã chân thực nhận ra và chấp nhận mình là hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức nhân sinh chưa? “Vậy mình là Thiên Chúa à?” Lời của sơ quản giáo lớp thêm sức được gợi về. Không dám chấp nhận, không dám nhận thức về thực thể hiện hữu của mình cũng là khinh chê hồng ân của Thiên Chúa. Không suy tư, nghiệm xét là khinh chê hồng ân suy tư, hồng ân của Thánh Thần, phạm đến Thánh Thần. Không suy tư, nghiệm xét thì suốt đời ngu muội. Không suy tư, không thể nhận thức, sẽ không bao giờ thoát khỏi thực trạng tâm thức tối tăm, không bao giờ được tha. Tội phạm đến Thánh Thần là tội không suy tư, suốt đời, đời đời ngụp lặn nơi tình trạng u tối, hỏa ngục u tối, hỏa ngục thiếu nhận thức về thực thể chính mình, thực thể Thiên Chúa nơi mình, tội phạm đến Thánh Thần. [font="%value"]
Đâu ai cầm giữ mình thì đâu cần được tha. Chính mình cầm giữ mình nơi lãnh vực tối tăm vì không suy tư được gọi là không được tha. Lại câu phúc âm khác trờ tới; “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt. 16:19). Nơi bản dịch Nguyễn Thế Thuấn nghe phê hơn, “Ta ban cho các ngươi quyền năng trên trời, dưới đất. Điều gì các ngươi cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc; điều gì các ngươi tháo cởi dưới đất thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời.” Xét như vậy thì bị cầm buộc hay không, được tha hay không lệ thuộc nơi chính mình có suy tư, nghiệm xét hay không. Tội phạm đến Thánh Thần, tội không suy tư, nghiệm xét. Hỏa ngục giam giữ những tâm hồn chính là sự u tối bởi thiếu suy tư, thiếu nghiệm xét. Ôi, cái hỏa ngục lửa sinh, lửa riêm sao có thể hiện hữu trong Thiên Chúa. Cái hỏa ngục hữu vi, nhân sinh tưởng tượng, thiếu nghiệm xét đã khiến dân Chúa mù tối. Ai tạo nên cái hỏa ngục này khiến đã hại tâm hồn dân Chúa từ đã bao lâu và còn hại đến bao lâu. Không suy tư, nghiệm xét, sẽ tạo nên những tội lỗi bởi ngu dốt mà ra! [font="%value"]
Đọc bài phúc âm tuần IV C mùa chay khiến tâm tư cha Lành rúng động. Thì có gì đâu, chân trái ngài đau, chỉ đi lại chừng 5 hay 7 phút là nó bắt đầu nhức mỏi, không vội ngồi xuống thì khốn khổ. Vô tình, vì lý do nào đó hoặc cố thử xem nó chịu đựng đi lại được bao lâu, chỉ cần thêm một, chưa tới hai phút là lãnh đủ; nó buốt kinh khủng; cố cắn rảng chịu đựng, tay vuốt bắp chân từ mắt cá ngược lên hoặc từ đầu gối trở xuống, nó vẫn cứ như có thứ gì ép nghẹt tạo nên đau buốt cực kỳ khốn khổ. Đi bác sĩ tây y, sáu lần mổ hết chân phải rồi thông chân trái. Nhớ lại lần hẹn để mổ lúc 7 giờ rưỡi sáng; đồng thời phải dàn xếp với nhà thương ở lại sau khi mổ thêm một ngày vì không có người lái xe chở về. Chẳng biết lý do gì, y tá gọi lại đổi giờ hẹn vào 5 giờ rưỡi sáng. Từ nhà tới nhà thương cần một tiếng rưỡi lái xe; vị chi, muốn có mặt ở nhà thương lúc 5 rưỡi sáng thì phải thức dậy muộn nhất phải là 3 giờ sáng; trong khi chân đau không ngủ được; có thiếp được một lúc thì cũng hơn 3 giờ sáng thì sao mà lái xe. Cha Lành quyết định ngưng hẹn, muốn dời lại ngày khác cho rộng thời giờ lái xe. [font="%value"]
Hai ngày sau đó, ngài lại có hẹn với một bác sĩ khác gần nhà để thử máu. Bác sĩ gần nhà đề nghị ngài tới gặp một bác sĩ khác có thể dùng ống thông nơi mạch máu thay vì mổ. Không hiểu thực sự vị bác sĩ này ra sao sau khi được chụp hình, xem xét qua hết máy này rồi đến máy kia và chỉ nhận được cuộc hẹn vào tháng tới. Tối ngày ôm chân, đứng cũng đau, nằm cũng đau, và chỉ ngồi mới đỡ đau. Ngủ ngồi không được, nằm thòng chân xuống bên cạnh giường không chịu nổi, ngài đành phải gọi lại bác sĩ mổ. Hết mổ chỗ này, thông mạch máu chân trái, lại thông chân phải; càng mổ càng đau, càng thông càng khốn khổ. Rồi người này bấm huyệt, kẻ kia châm cứu, chân đau cứ đau, không để ý bước thêm vài bước thì đành ôm chân chịu trận, vuốt lên vuốt xuống cũng phải nín thở chịu đau hơn kém nửa tiếng. [font="%value"]
Gặp lang tây mổ xẻ càng đau nhức thêm, tới lang ta châm cứu, bấm huyệt, chứng nào vẫn tật nấy; tuy nhiên, có bệnh đành vái tứ phương, nghe người bạn dùng lá cây ngải cứu vo viên nho nhỏ bỏ trên miếng gừng đốt cho thông máu. Cha Lành đành chấp nhận thử đốt, nên phải ở lại nhà người bạn một tuần, và hứa nếu ở lại qua cuối tuần, đem theo rượu, chén, sách, dâng lễ tại nhà nên ngài đọc bài phúc âm chuẩn bị mấy ngày nữa dâng lễ. [font="%value"]
Bài phúc âm rất bình thường, kể về chuyện người con hoang đàng, ai cũng biết. Nhưng đến phần cuối, khi cha Lành đọc đến đoạn người con cả tốt lành lên tiếng trách người cha vì đã chiêu đãi đứa con hoang đàng tiêu tán tài sản được chia cho, đến lúc cùng khốn trở về ăn bám thì lại được đón tiếp nồng hậu. Câu trả lời của người cha, "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã mất, mà nay lại tìm thấy" (Lc. 15:31-32). “Tất cả những gì của cha đều là của con;” nếu mình là hình ảnh của Thiên Chúa, là hiện thân của thực thể hiện hữu tối thượng thì tất cả những gì thuộc về thực thể tối thượng chỉ là một. Ngu muội vì không suy tư, nghiệm xét, cũng là mình; không nhận biết thực sự thực thể hiện hữu của mình, cũng là mình; không dùng được đức tin để chữa chân đau cũng là mình; hình ảnh của Thiên Chúa cũng là mình; đứa con hoang đàng, ngu dốt tiêu phí gia tài cũng là mình. Mình là một với tất cả mà tất cả vẫn chưa nhận biết thực thể hiện hữu đang vận chuyển, biến đổi thì mắc mớ gì phải phiền hà; hãy lo nhận thức thực trạng hiện hữu của mình đến tận cùng, việc đến sẽ đến! [font="%value"]
Thế đức Giêsu đến để rao giảng gì và để làm gì? Tất nhiên, đã rõ ràng nơi phúc âm, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43); hay nơi Phúc âm Marcô ghi lại đức Giêsu nói, "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận, để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi" (Mc. 1:38). Nước Thiên Chúa còn chưa được nhận biết thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa hãy còn xa riệu vợi. Mình là hiện thể của Thiên Chúa mà chưa phân định được Nước Thiên Chúa là gì thì sao có thể nói chuyện đến Tin Mừng Nước Thiên Chúa; cha Lành thầm nghĩ. [font="%value"]
Nước Thiên Chúa hay Nước Trời không đến một cách nhãn tiền và người ta không thể nói này ở đây hay ở đó vì Nước Trời ở giữa các ông (Lc.17:20), ở trên các ông (Lc. 11:20) và ở trong các ông. “Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được"; “Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men" (Lc. 3:19;21). Nước Thiên Chúa đã tự triển nở như men trong bột, như hạt cải phát triển trưởng thành thì đâu cần ai phải lo lắng chăm sóc. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu tối thượng nơi mọi sự thì có gì phải đặt vấn đề phát triển. Thế nên, nếu nói về phát triển Nước Thiên Chúa tức là nói tới sự nhận thức nơi dân Chúa về Nước Chúa, Nước Trời, phát triển về nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người. Mà Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi sự thì Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nói cách khác theo ngôn từ nhà đạo, đó là Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa thì ngài rao giảng gì? Đâu là, hay thế nào là Tin Mừng được đức Giêsu rao giảng? [font="%value"]
Lật lại phúc âm Marcô, “Sau khi Gioan đã bị nộp thì đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa mà rằng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15). Marcô và Luca cũng chỉ nói mục đích Ngài được sai đến là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa chứ chẳng nơi nào trong phúc âm nói lên Tin Mừng Nước Thiên Chúa đức Giêsu rao giảng là gì. Dẫu mang danh hiệu là “Phúc âm” có nghĩa tin vui, tin mừng, nhưng cả bốn phúc âm đâu nói gì về điều đức Giêsu mệnh danh là Tin Mừng như nơi câu, “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Hối cải thì được dịch từ động từ Hy Lạp, “Metanoia,” mang nghĩa hãy thay đổi chiều hướng suy tư, hãy suy nghĩ khác thường. Thay đổi chiều hướng suy tư thế nào; suy nghĩ khác thường là suy nghĩ làm sao? Vì bốn phúc âm được viết từ năm 70 cho đến năm 110 mà các học giả Kinh Thánh cho rằng ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca, đều viết về cuộc đời, sự sinh ra, giảng dạy, chịu khổ nạn, và sống lại của đức Giêsu; trong khi phúc âm Gioan là phúc âm kết quả của nghiệm chứng, nghiệm xét thực thể hiện hữu của đức Giêsu. Nếu cho rằng 4 phúc âm đều là tin mừng đức Giêsu rao giảng sao không thấy Ngài (đức Giêsu) nói rằng ba mươi mấy năm sau, hãy tin vào lời Ta nói mà chỉ ngắn gọn, “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Như vậy, ngay lúc Ngài còn sinh thời rao giảng, danh hiệu Tin Mừng rõ ràng có nghĩa điều gì Ngài nói. Vậy điều Ngài nói là những gì? [font="%value"]
Đàng khác, ít nhất mình biết được hai câu nơi phúc âm đã có trước thời phúc âm được viết, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” (Lão) và, “Cha ta và ta là một” (Ấn); đồng thời những câu nghịch thường cứ nhan nhản trêu ngươi người đọc chẳng khác gì ép buộc họ phải suy tư, nghiệm xét, mới có thể chấp nhận được. Phải suy nghĩ khác thường thế nào mới biết được Tin Mừng Nước Thiên Chúa mà Ngài rao giảng? Tin Mừng, lời Ta nói, cha Lành thấy tâm trí đối diện với màn chắn lớn; màn chắn này thách đố ngài đào bới, vạch cho ra cái gì là Tin Mừng. Không nhớ có lần đọc nơi nào, trong một bài viết, đức cha Bùi Tuần có nhắc đến vấn đề thay vì rao giảng Tin Mừng thì lại rao giảng tin buồn. [font="%value"]
“Ai có tai thì nghe,” giời, những 8 lần, (Mt. 11:15; 13:9; 43; Mc, 4:9; 23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Mục đích của Ngài là rao giảng Tin Mừng mà sao quất ngon ơ, “Ai có tai thì nghe” nghĩa là thế nào? Linh mục giảng ở nhà thờ, phải soạn tới, soạn lui; căn từng chữ, liệu từng câu cho khỏi mích lòng dân Chúa; thế mà Chúa lại khơi khơi phán, “Ai có tai thì nghe.” Hèn chi các học giả Kinh Thánh đành chấp nhận ngậm hạt thị, không ai dám hó hé đặt vấn đề cái gì là Tin Mừng đức Giêsu rao giảng. Cha Lành nhẹ mỉm cười thầm nghĩ, đến mình học thiệt, có cặp tai đàng hoàng, mà mò mãi chưa ra phương chi học giả, những kẻ không có tai vì phải tuân theo truyền thống; rồi nào giáo luật, Thánh Kinh, tông truyền với cánh truyền, bởi “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn.” Ôi, có biết linh hồn là gì đâu mà có tai với không có tai, tông truyền với giống truyền! [font="%value"]
Chẳng những thế, Tin Mừng gì mà lại thách đố, "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt. 10:37-38), hay, “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc. 6:40-42). Không hiểu các vị học giả, chuyên viên Kinh Thánh nhận thức thế nào; mà những điều răn dạy, thách đố như thế này lại được cho rằng đó là tin mừng, tin vui. Thử hỏi, tâm tình của những người thấy cái rác, cái bụi nơi mắt người khác nhưng không nhận biết cái xà trong con mắt mình cảm thấy thế nào khi đọc hay nghe những lời này? Phỏng chúng có làm tâm hồn họ phấn khởi, hớn hở hay chăng mà lại được gọi là tin mừng? [font="%value"]
Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì mà lại khuyến khích, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì hãy móc nó đi, thà ngươi chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không chết và lửa không tắt” (Mk. 9:46-47), hay, “Những người có của khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao!... Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa” (Mc. 10:23; 25). Có ai thực hiện những lời dạy này trong cuộc đời không. Ngay những bậc vị vọng rao truyền lời Chúa, lời phúc âm, không thấy ai chột ít nhất một mắt, hoặc cụt một bàn tay; vậy họ không bao giờ vấp phạm? Hoặc những lời này chỉ được viết cho vui hay để hù thiên hạ? Hơn nữa, tin mừng chi mà cắt đứt hy vọng của những người giàu có. Phỏng những người có của ăn, của để có cảm thấy vui vẻ khi nghe hoặc đọc những lời này không? Phúc âm là tin mừng hay tin buồn cho những người giàu có, hoặc đem lại phấn khởi hay án phạt cho các đấng, các bậc rao giảng lời Chúa vì đã không thực hiện như lời dạy nơi phúc âm? [font="%value"]
Vậy Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là thế nào, có đem lại niềm phấn khởi, hồ hởi cho tâm hồn dân Chúa không? Có đem lại phương cách kiến tạo niềm vui cho người giầu có chăng? Phúc âm, Kinh Thánh, câu nào nói về hay liên hệ đến Tin Mừng đức Giêsu rao giảng? Cha Lành ngẩn ngơ nhìn màn ảnh dầy đặc những chữ từ phương trình vi tính của Kinh Thánh Tân Ước. Bắt đầu bằng phúc âm Matthêu, ngài thầm nghĩ. [font="%value"]
Phương trình phúc âm lấy xuống từ net lại sắp xếp phúc âm Luca đầu tiên. Cha Lành đọc được, “Sứ thần liền nói: ‘Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả,và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời,và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận’. Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: ‘Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!’ Sứ thần đáp: ‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’” (Lc. 1:30-35). Đoạn phúc âm này hơi nghịch thường không hiểu vì dịch giả không để ý hay phúc âm cố ý được viết vậy hầu đánh động sự chú tâm của độc giả. Nơi phần trên, phúc âm Luca được viết, “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 1:27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc. 1:26-27); thế mà khi được truyền tin, Maria lại trả lời, “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng.” Đã đính hôn mà lại còn nói tôi không biết đến việc vợ chồng. Thêm vào đó, xã hội Do Thái thời bấy giờ theo phong tục đa thê; cha Lành nghĩ, sao hai ngàn năm trôi qua, biết bao bản dịch Kinh Thánh mà sự thể chẳng hợp lý, không hợp tình sao vẫn còn nằm chình ình ra đó? Truyền thống nào, luật lệ nào ngăn cản, hay vì người ta không còn coi Kinh Thánh là căn bản hộ giúp cho niềm tin của họ! Thì nói gì tới đức tin! [font="%value"]
Phúc âm Luca và Matthêu đều nhắc tới con trẻ sẽ được đặt tên là Giêsu; thế mà nơi đoạn 1, câu 23 của phúc âm Matthêu được ghi, “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’" (Mt. 1:23). Tên Ngài là Giêsu, mắc mớ gì phải thêm câu, “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Đàng khác, không ai có quyền gọi tên người khác theo điều mình thích, mà người ta chỉ có thể đặt và gọi danh hiệu người khác theo chức vụ hoặc thành quả người ấy đạt được hay sự nghiệp người ấy mang. Chẳng hiểu bản chính phúc âm Matthêu được viết thế nào; tuy nhiên, câu nói, “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en,” coi chừng cần được ghi lại là, “Người ta sẽ gọi con trẻ là emmanuen,” và như vậy, emmanuen là danh hiệu của đức Giêsu. Danh hiệu Emmanuen này có thể là do tước vị của Ngài, công việc ngài thực hiện, hoặc thành quả Ngài đạt được trong cuộc đời đem lại lợi ích cho những người khác. [font="%value"]
Đọc phúc âm, ai cũng biết rõ ràng, mục đích cuộc đời của đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Danh hiệu của Ngài là Emmanuen, có nghĩa, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” cha Lành ngồi chết lặng, trầm ngâm. Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, mà danh hiệu của Ngài là Emmanuen, có nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta;” tất nhiên, Ngài rao giảng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” và như vậy, Tin Mừng Nước Trời là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Kinh Thánh nói thế nào? Ngài tự hỏi, và rồi cũng tự trả lời, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (Kn. 1:27); con người là hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức nhân sinh. Hình ảnh của Thiên Chúa, hiện thể của Thiên Chúa, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, chỉ khác ngôn từ và lối trình bày nhưng ý nghĩa là một. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Nói theo Đông Phương học, linh hồn là Thượng Đế nội tại. Như vậy, câu giáo đầu nơi mỗi nghi thức, “Chúa ở cùng anh chị em,” “Và ở cùng cha,” chính là lặp lại Tin Mừng Nước Thiên Chúa đức Giêsu đã rao giảng. Thiên Chúa ngự trị nơi quí ông bà, anh chị em và nơi tôi, nơi mọi người; Emmanuen, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã mất, mà nay lại tìm thấy" (Lc. 15:31-32). Lời phúc âm ngày chủ nhật tuần IV C mùa vọng dường như đang hét vào bên tai cha Lành, “tất cả những gì của cha đều là của con.” Nhưng mình ngu quá, không biết cách nào mà sử dụng hồng ân đã sẵn có, hồng ân hiện hữu, hồng ân sự sống. Mình vẫn an vui nơi hỏa ngục mù tối thì còn nói gì tới thương xót với thao thức! [font="%value"]
Nguyên tắc nào, cách nào để Phao lô đạt tới nhận thức, “Anh em không biết sao, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa, và anh em không thuộc về mình nữa” (1Cor. 6:19). Tại sao, lý do gì Phao lô khuyên, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21). Có lẽ Phao lô được hấp thụ bên đạo học Đông Phương nơi Tăng Nhất Tập cho hành trình nghiệm xét nên đề nghị, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Không để bất cứ gì ảnh hưởng tâm trí khi nghiệm xét, nhưng sao Phao lô lại nói, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:1-3). [font="%value"]
Như vậy, nhận thức được, “Anh em không biết sao, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa, và anh em không thuộc về mình nữa” (1Cor. 6:19) là do nghiệm xét, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21), với một tâm trí hoàn toàn tự do, không lệ thuộc bất cứ gì, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Tuy nhiên, chủ thuyết, “Chúng tôi rao giảng một đức Kitô chịu đóng đanh” (1Cor. 1:23), thì Phao lô lại rao giảng theo truyền thống, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:1-3). Có lẽ cũng chính vì lý do truyền thống này mà các học giả, chuyên viên Kinh Thánh đã không dám áp dụng “Hối cải” theo nghĩa gốc của động từ “Metanoia” nơi tiếng Hy Lạp. [font="%value"]
THỰC TRẠNG DIỄN TRÌNH SUY TƯ [font="%value"]
Bất cứ ai đã dám liều mạng nghiệm xét hầu thỏa mãn nỗi thao thức bẩm sinh về thực thể hiện hữu, cũng như liên hệ của mình với Thiên Chúa đều nhận biết rõ ràng, và đó là nhận thức của mình không giống với bất cứ nhận thức nào của người khác; có chăng, nhận thức của mình chỉ có những điểm tương đồng nào đó nếu đem so sánh với nhận thức của họ. Hơn nữa, chính vì nhận thức chỉ có thể ngộ, chứ không thể cầu. Mà đã ngộ thì “Người biết không nói,” không thể nói ra được phương chi giải thích. Hơn nữa, nơi phương diện, hành trình nhận thức, chỉ có thể diễn giải cho hành giả, người nghiệm xét, nhận xét về hành trình tâm thức của mình hầu nhận biết nên thay đổi hay tiến tới nơi hành trình nghiệm xét hay không, chứ không thể có bất cứ phương pháp nào bất biến như phương thức khoa học hay kỹ thuật, cứ thực hiện giống như thế sẽ đạt được kết quả nhất định nào đó. [font="%value"]
Từ đó, tâm trí người “Ngộ” có được niềm an bình như phúc âm minh xác, “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Gioan 14:27). Tâm trí, tâm tưởng người nghiệm xét nhận biết rõ ràng điều mình nhận thức nên có được nỗi an bình không giống mà vượt hẳn nỗi bình an nhân sinh mọi người mơ ước; nỗi anh bình được phúc âm nhắc đến nơi Matthêu, "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt. 10:34-36). Đây là thực trạng tâm trí được nhận định theo nghĩa thế tục, hữu vi khi đem so sánh với thực trạng nhận thức nơi hành trình nghiệm xét. Thực trạng nhận thức nơi tâm thức nghiệm xét rất đối nghịch với nhận định hữu vi, thế tục. Nhận thức nơi tâm tưởng, nói cách khác, nhận thức tâm linh nếu đem ra giãi bày không thể nào phù hợp với cảm nhận thế tục nơi thực trạng tâm tưởng, không thể hòa đồng, chẳng khác gì “Ông nói gà, bà nói thóc,” hoặc “Người biết không nói, kẻ nói không biết” (Lão). Thế nên, phúc âm minh định, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Người nghiệm chứng, nghiệm xét, không thể giải thích, giãi bày nhận thức của mình, mà chỉ có thể giãi bày hành trình nghiệm xét mà thôi. Nhưng nơi tôn giáo, đối với tổ chức thế tục, sự giảng giãi chẳng khác gì loại “Mì gói ăn liền;” giáo dân, tín đồ, muốn có được gì thực tiễn áp dụng nơi cuộc sống hữu vi, nên tưởng rằng cứ tuân theo, thực hành theo, những phương thức, hành động một cách máy móc là có thể đạt tới niềm ước mơ mơ tưởng. Xin thưa, nhận thức là căn nguyên kiến tạo hoạt động của linh hồn, và hoạt động của linh hồn là ước muốn, ý định, tham vọng. Chính những ước muốn, ý định, tham vọng phát xuất tự linh hồn dẫn dắt các hoạt động của con người. Không nghiệm xét, suy tư, hành động lệ thuộc ước muốn, tham vọng hữu vi đều mang thành quả tổn hại đến diễn trình thức ngộ của tâm hồn. Đây là lý do tại sao phúc âm lên tiếng, “Nếu mắt phải các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi” (Mc. 9:46). Bất cứ những gì ngăn cản hoặc làm hại đến hành trình nhận thức của một người khi nghiệm xét đều cần dẹp bỏ, vì nếu không sẽ làm hại đến hành trình nhận thức của người đó. [font="%value"]
Dĩ nhiên, nhận thức không phải là phương tiện giúp cuộc sống thế tục của một người giầu có hoặc dễ thở hơn nơi cuộc sống nhân sinh. Nhận thức chỉ phơi bày rõ ràng thực trạng thực thể hiện hữu của một người. Nhận thức là thành quả suy tư phát xuất tự linh hồn; chính những thành quả này dẫn dắt, tạo năng lực cho một người nơi hành trình suy tư cũng như lối sống hay sinh hoạt của một người. Hoạt động, phản ứng của một người khi đối diện với thực tại nhân sinh tùy thuộc nhận thức của người đó. Những câu nói nơi đạo học đều là thành quả của nhận thức thường được dùng lối phát biểu hữu vi, nhân sinh, thế tục để ám định nên nếu được hiểu theo nghĩa từ chương, những câu nói này thường có vẻ rất nghịch thường chẳng hạn, “Đi xa tức là về gần” (Lão), “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi” (Phúc âm), “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì dù có ít cũng bị cất đi” (Phúc âm), hay, “Cha ta và ta là một” (Ấn). [font="%value"]
Những câu nói coi bộ nghịch thường này dùng ngôn từ hữu vi, thế tục, nói về sự thể, sự việc diễn tiến tâm linh chứ không nói gì về cuộc sống nhân sinh theo nhận định từ chương thông thường. Hãy xét câu, “Đi xa tức là về gần;” thử hỏi trong đời một người, đi xa nhất là khi nào? Xin thưa, đi xa nhất là khi chẳng bao giờ về nữa, khi chết và được đem chôn. Tuy nhiên, lúc ấy cũng là thời điểm linh hồn trở về với bản nguyên của nó. Câu nói chỉ về diễn tiến của linh hồn, thuộc về tâm linh. Nơi câu phúc âm, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi;” trong khi suy tư, nghiệm xét, bất cứ gì, tri thức, quan niệm, luân lý, đạo đức, chủ thuyết, “cách vật trí tri,” truyền thống, ảnh hưởng đến sự suy tư, nói cách khác, ảnh hưởng đến hành trình nghiệm xét phải được gạt bỏ. Tâm trí lúc này chỉ đối diện với sự thể, thực thể diễn tiến suy tư, không lệ thuộc bất cứ gì; vì sự thể suy tư tự nó không đúng, không sai; nó hiện hữu nơi tâm trí người suy tư được gọi là “Hành giả.” Thí dụ, suy tư về sự thể câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Nhiều câu hỏi được đặt ra về những trạng thái cuộc đời có thể phù hợp với câu nói. Tại sao người biết không nói; nơi trường hợp nào kẻ nói được gọi là không biết? Ngày này qua tháng kia, cứ để câu nói luẩn quẩn trong tâm trí đồng thời cố suy diễn bằng bất cứ cách nào, nơi trườn hợp nào. Cuối cùng đến giai đoạn nào đó, sự suy tư trở ngược về chính mình, và sẽ nhận thấy đã bị câu nói đánh lừa nơi trường hợp mình yêu thương ai đó nhưng “không thể” nói ra, hoặc giãi bày cho bất cứ ai để họ có thể yêu thương người đó như chính mình. Đồng thời, mình càng giãi bày lý nọ, lẽ kia, hoặc dùng bất cứ kiểu cách, phương thức nào, hầu người nghe yêu thương người đó như chính mình, thì chỉ khiến người đó rối trí thêm. Thực ra, câu nói ngang ngang ngửa ngửa đúng ra là, “Biết nhưng không nói ra được, và càng giải thích càng chẳng giải thích được gì.” [font="%value"]
“Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì dù có ít cũng bị cất đi.” Mới nghe, hoặc đọc thì tưởng câu nói chỉ về tiền bạc, tài sản, hoặc lợi ích gì trong cuộc sống nhân sinh. Suy tư cho chán chê, quanh đi quẩn lại cứ rối mù lên, cho đến lúc tâm tư đối diện với khoảnh tối không lối thoát, sự việc, hành trình, diễn trình của hành động nào đó trở thành cơ hội cho tâm tư nhận biết. Càng làm, càng thực hiện công việc gì thì càng phát triển khả năng, tài năng thực hiện công việc đó. Nơi hành trình suy tư, nghiệm xét; mới đầu, tâm tư chẳng khác chi rợ vào rừng, không đầu mối, không ngong ngách giải đáp. Tuy nhiên, cơm ăn từng miếng, việc làm từng phần, càng bền chí nghiệm xét, càng dần sang tỏ. Ngược lại, cho dù bất cứ công việc nào ngày xưa đã quen làm mà bỏ bẵng thì khả năng, tài năng thực hiện công việc ấy dần mất đi. Sự suy tư, nghiệm xét cũng thế. Càng suy tư, tâm trí càng phát triển nơi hành trình nhận thức, nhưng nếu ngưng không suy tư, sẽ lụt khả năng nhận thức. Chợt cha Lành tự hỏi, mình đang nghĩ gì vậy, mục đích là tìm kiếm nguyên nhân tại sao người ta không suy tư để nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng, mà lại suy nghĩ lung tung, vớ vẩn! [font="%value"]
Phao lô nghiệm xét và đã suy ra phương thức cũng như điều kiện tâm trí nên theo trong diễn trình nghiệm xét, nhưng lại rao giảng về đức Kitô chịu đóng đanh theo truyền thống. Nơi những chương trình đào luyện các nhà thuyết giảng, hoặc những vị chăn dắt những đoàn chiên của Chúa, gốc gác của mọi nghi thức thờ phượng đều được đặt trên nền tảng ơn cứu độ theo như Phao lô loan truyền, Chúa Giêsu nhập thể để chết vì và chết cho tội lỗi của loài người. Ơn cứu độ được định nghĩa, giãi bày rõ ràng, giải thoát con người khỏi ách tội lỗi. Ách tội lỗi này phát sinh từ đâu. [font="%value"]
Tội là gì mà phải chính Thiên Chúa làm người mới có thể giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi? Đã nhận biết được sự tội, tội lỗi; tất nhiên, tội lỗi có, mang, sự hiện hữu, mà ngoài Thiên Chúa, sẽ không có gì hiện hữu. Thế không có luật thì có gì được gọi là tội chăng trong khi luật lệ chỉ là phương cách kiến tạo an sinh xã hội loài người và cũng chỉ áp dụng cho con người. [font="%value"]
Câu chuyện “Tội Tổ Tông,” bị hiểu theo nghĩa từ chương khiến lời Kinh Thánh trở nên ngây ngô, tức cười, vừa cười, vừa tức, bởi không hợp lý, chẳng hợp tình, nhưng cứ như là chuyện thật theo lối nhìn nhân sinh, thế tục. Ai ở đó thời điểm ấy đề ghi chép lại và nếu có người ghi chép lại thì người ghi chép mới là người thứ nhất, cha Lành thầm nghĩ. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài thì sự được gọi là lầm lỗi, bất tuân mà ăn trái cấm cũng chỉ là cớ để giải thích sự biến chuyển nơi dòng sinh hóa của loài người. Ai không muốn thăng hóa, phát triển cho có cuộc sống vươn lên? Ai không muốn cuộc đời mình thăng tiến nên muốn thử. Phát triển, thăng tiến tất nhiên cần xóa bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới hoặc dứt bỏ lề thói cũ mà kiến tạo lối sống mới. Phỏng tội bất tuân của bà Evà chính là hồng ân thăng tiến nơi con người? Thế nên, sự cứu rỗi con người khỏi tội lỗi coi chừng lại là thành quả của nhận thức Kinh Thánh theo nghĩa từ chương của truyền thống. [font="%value"]
Nhưng lý do gì đã khiến Phao lô rao giảng theo truyền thống “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:3); thay vì, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Có lẽ phải đọc lại những thư của thánh Phao lô xem sao, cha Lành thầm nghĩ. Coi chừng, Phao lô nhận thức được phương cách nghiệm xét từ đạo học Đông Phương nhưng vẫn còn e, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng khốn,” nên không dám phát biểu theo nhận thức cá nhân; bởi thời đó nhận thức con người vẫn chưa đạt khả năng chấp nhận nên đành tạm dùng vỏ bọc “Theo lời Kinh Thánh.” [font="%value"]
Suy nghĩ đến đây, cha Lành mờ mờ nhận thấy rõ hơn lý do tại sao dân Chúa không quen suy tư về tâm linh. Con người luôn lầm lỗi bởi không nhận ra sai lầm sẽ không có tiến bộ, nếu nhận định cuộc sống theo lối nhìn hữu vi, nhân sinh, thế tục. Chủ thuyết, lý thuyết, Chúa Giêsu xuống thế làm người chuộc tội cho thiên hạ, giải thoát con người khỏi tội lỗi, cứu vớt con người thoát bãi lầy lầm lạc, để rồi kiến tạo niềm tin được Chúa cứu chuộc khỏi những sai lầm thế tục, nhân sinh; do đó niềm tin bị hiểu thành đức tin nơi phúc âm. Mọi sự đã được sự khổ nạn, sự chết, và sự sống lại của Chúa bao quát hết; nên bổn phận đóng góp vào sự cứu chuộc của Chúa chỉ là cố gắng sống sao cho hài hòa với luân lý, đạo đức thế tục, được coi như hoạt động của niềm tin để tâm tưởng được an bình trong mơ ước hưởng phúc thiên đàng mường tưởng, hầu tránh cảnh bị phạt nơi một hỏa ngục kinh khiếp như được giãi bày theo tâm tưởng nhân sinh. [font="%value"]
Niềm ước mơ được giải thoát trong niềm tin được Chúa cứu khiến tâm trí an bình nơi thân phận con người đang phải đối diện với muôn ngàn thách đố, khó khăn, rắc rối của cuộc đời; nỗi thao thức tâm linh dần bị khỏa lấp thành ra “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (Mt. 25:29). Có lẽ, chính vì thế, “Đức tin con cứu côn, đức tin con chữa con” biến thành niềm tin Chúa chữa, Chúa cứu. Phúc âm nói về một đức tin mang đầy quyền lực chữa lành bị gán ép thành niềm tin vào Chúa và kiến tạo nên cầu xin, cầu khẩn thay vì tìm hiểu để nhận biết và sử dụng đức tin. Câu phúc âm, "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc. 15:31) lại lần nữa đánh động tâm tư cha Lành. Quyền lực của Thiên Chúa ngay nơi mình mà không biết sao sử dụng! Mình chỉ có niềm tin, chưa thực sự nhận biết đức tin thế nào! Phỏng đây là giới hạn thân phận làm người, hay tại mình chưa thực sự nghiệm xét? [font="%value"]
'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15), mọi người đều được kêu gọi “Hãy hối cải,” hãy đặt lại vấn đề, hãy suy nghĩ khác thường, hãy thay đổi lối suy tư, nhưng sao lại còn có câu, “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít” (Mt. 22:14). Ngôn từ “Được chọn” khiến người đọc hoặc nghe cảm thấy dù mình cố gắng làm gì chăng nữa, thành quả không thuận theo ước muốn của mình. Thực ra, theo những sách vở được viết về tự thuật của các vị chân nhân, hoặc thánh nhân, nơi hành trình nghiệm chứng, nghiệm xét, hành giả sẽ không đạt thành bất cứ gì vì điểm đến ngay tại nơi mình. Được gọi là thành quả chỉ là nhận thức, ngộ được thực thể mình là gì mà thôi, nên không có gì gọi là đạt thành, đạt tới hay đạt được. Trãi dài theo giòng đời, biết bao người đeo đuổi hành trình tâm linh nhưng chỉ một số vị thức ngộ được biết đến tên tuổi, còn bình thường không ai được nghe đến bao giờ; đồng thời, không phải cứ chìm đắm trong suy tư, nghiệm xét mà có thể thức ngộ. Nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu. Cũng có lẽ chính vì thế, Tin Mừng đức Giêsu rao giảng, cho tới ngày nay, vẫn như chưa được biết. [font="%value"]
Dẫu biết suy tư rất khó, nhưng, “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (Mt. 25:29). Thêm vào đó, niềm tin đã có Chúa quan phòng, lo liệu, đã có Chúa là đấng cứu độ nên chỉ cần tin vào Chúa được hiểu là có đức tin nên sự suy tư, nghiệm xét không được cổ võ thành ra sự suy tư “Cũng bị lấy đi.” Sự “Bị lấy đi” này không phải tự ý người tin theo ỷ lại, lười lĩnh, nhưng do bởi chẳng những đã không được cổ võ mà còn bị tuyên truyền, khuyến khích, cổ võ, một niềm tin bị đánh đồng với đức tin; không phải lo lắng, ưu tư, đặt vấn đề, không phải suy tư, nghiệm chứng, nghiệm xét chi, chỉ “Tin vào Chúa,” Chúa sẽ quan phòng và giải quyết cho hết mọi sự. Tuy nhiên, được khuyến khích, cổ võ tin vào Chúa, tin vào đức Kitô, nhưng Chúa là gì, liên hệ với mình thế nào thì “Người tin,” tín đồ, không biết; chẳng khác gì tín đồ, “Hành giả,” người tin theo, tin rằng mình có linh hồn, nhưng thử hỏi linh hồn “của” mình là gì, liên hệ với cuộc sống, thân xác của mình thế nào thì không biết gì vì chưa bao giờ nghĩ tới, chưa bao giờ đặt vấn đề để suy tư, chưa nghe ai nói cho biết. Hơn nữa, dù được ai nói cho biết linh hồn của mình thế nào thì đâu phải mình biết, mình cảm nhận về linh hồn mình. Tất nhiên, muốn biết về linh hồn của mình, nơi mình, thì cần được đặt vấn đề để suy tư, nghiệm xét. Chỉ tin rằng mình có linh hồn thì cũng chẳng khác gì biết thực phẩm nào đó mang lại lợi ích nhưng không ăn. Dĩ nhiên, không ăn, không thể no bụng. “Thuốc mua về để nơi tủ thuốc sẽ không khỏi bệnh;” một lần nữa, câu nói của vị bác sĩ quen trở lại nơi tâm trí cha Lành. Lại thở dài, nỗi thao thức ước mơ dân Chúa nhận biết Chúa thế nào đối với bản thân, đối với cuộc đời, đối với những thăng trầm, âu lo, gắng sức xây dựng cho cuộc đời dễ thở hơn nơi cõi nhân sinh, cho lòng an bình, cho ước mơ, ước muốn nhỏ bé hằng ngày hầu đem lại niềm vui an định cuộc đời luẩn quẩn dồn về nơi tâm trí, đến khổ, ngài thầm nghĩ, dân Chúa miên tục đối diện “Tội phạm đến Thánh Thần,” tội không sử dụng hồng ân suy tư, nghiệm xét trong niềm tin mà nào ai biết! [font="%value"]
Không biết linh hồn của mình là gì, liên hệ tới thân xác, cuộc đời của mình ra sao; chỉ cho rằng, tin rằng mình có linh hồn, lại sợ bị phạt sa hỏa ngục, và lại cũng không nhận thức được hỏa ngục là thứ gì; sao dân Chúa khổ thế! Tin vào Chúa, tin vào đức Kitô, nhưng chẳng biết Chúa là gì, liên hệ với mình ra sao, thì tin gì? Tin vào đức Kitô, nhưng đức Kitô rao giảng gì cũng không “cần biết,” và cứ đinh ninh rằng mình tin là đủ. Cha Lành lại một lần nữa chợt nhận ra mình đang suy nghĩ lung tung. Thì đã hơn kém hai ngàn năm đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa mà dân Chúa vẫn không biết Chúa là gì, không biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì, chỉ tưởng tượng thiên đàng là nơi không phải đối diện với những khốn khổ cuộc đời, rồi cầu xin thế nọ, cầu xin thế kia chẳng khác gì xin cho được trúng số nhưng đã chẳng bao giờ mua bất cứ tấm vé số nào. [font="%value"]
- Xin cha cầu nguyện cho con trúng số. Không cần phải độc đắc, trúng kha khá là được, cỡ vài triệu đô thôi. [font="%value"]
Trong một bữa cơm tối, cha Lành được mời; chị chủ nhà khá dễ thương, cỡ bốn mấy, năm chục, có ba cháu đang học đại học; chị ta làm nơi văn phòng cho một hãng sản xuất, lương giờ hơn hai chục. Chồng chị ta là kiến trúc sư đã lâu cho một phi trường lớn, lương lậu không tệ. [font="%value"]
- Tôi mà cầu cho trúng số được thì tội gì tôi cầu cho ai; mà chị có mua vé số không đó? [font="%value"]
- Cha đang cầu cho mặt trời mọc ở đàng Tây đó à? [font="%value"]
- Gì mà đàng Tây với đàng Đông! [font="%value"]
- Cha mà cầu cho nhà con trúng số thì mặt trời mọc ở đàng Tây. Đôi khi con muốn thử thời vận xem thế nào, mua mấy tấm vé số “Power Ball,” mà còn bị nhà con nói là phí phạm. Thì cha cũng biết đó, con và nhà con đi làm, chỉ có ba cháu ăn học nên đôi khi con mua một vài vé số bởi thấy độc đắc những mấy trăm triệu nên thử thời vận cho vui, thế mà cũng bị cằn nhằn. Con nói với nhà con, lời Chúa phán, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” (Mt. 13:12). Gia đình con, Chúa ban cho cũng được gọi là có của ăn, của để; mà Chúa lại phán rằng kẻ có thì được cho thêm, nếu không thử sao có thể được thêm. Thế mà nhà con lại cho là phí phạm. [font="%value"]
- Thì ông đừng cho bà ấy biết, hoặc lỡ vô tình để lộ cho bà ấy biết thì ra Walmart đó, mua cặp “Ear plugs.” [font="%value"]
- Anh ấy nói tào lao đó cha. Anh ấy mua vài vé số mà mỗi vé là 5 số chứ đâu phải một. Cha xem, năm vé mà mỗi vé 5 số vị chi 50 đồng dư cho cả gia đình ăn một ngày mà thử với vận. Kẻ có thì được cho thêm gì. Chưa được cho thì đã mất toi hoi ra đó thì thêm nếm ở đâu! [font="%value"]
- Thế chị nghĩ câu phúc âm, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” (Mt. 13:12) Chúa muốn nói gì? [font="%value"]
- Thưa cha, lời Chúa ai mà hiểu được. Con đi nhà thờ cả đời đâu bao giờ nghe thấy cha nào giảng giải về câu này đâu! Đọc phúc âm thì con thấy, nhưng đọc thì đọc mà phúc âm nói gì đâu. Các môn đồ đang hỏi tại sao Chúa dùng dụ ngôn mà không giải thích thì Chúa lại nói kẻ có thì được cho thêm, còn kẻ không có thì dù có ít cũng bị cất đi. Nó đã không có thì lấy gì mà cất, sao lại còn đặt vấn đề có ít với có nhiều! [font="%value"]
- Chị nói đúng. Chị không nghe thấy cha nào giảng về câu phúc âm này vì chị chỉ đi nhà thờ những ngày chủ nhật. Đoạn phúc âm có câu này chỉ được đọc vào thứ năm của tuần mười sáu thường niên, chứ không có trong ngày chủ nhật. Vậy chị có bao giờ thử đặt vấn đề tại sao phúc âm lại được viết ngang ngửa như thế không. Tôi muốn nói, yêu cầu anh chị đừng coi tôi là linh mục, tôi mới có thể nói chuyện được. Chị nghĩ thế nào, cứ nói ra thế ấy; chị nói chị đọc phúc âm; tôi nghĩ, chắc chắn chị thấy, lắm lúc phúc âm viết rất nghịch thường, đang nói đàng nọ, lại xọ đàng kia, không đâu vào đâu, ngang ngược nghe không chịu được. Trở lại câu phúc âm ngang ngửa, “Kẻ có thì được cho thêm;” chị nghĩ thế nào? [font="%value"]
- Thưa cha, nghĩ gì mà nghĩ; lời Chúa thì con dám nghĩ gì mà cha nói nghĩ với suy. Lời Chúa thì phải tin chứ. Các cha đã dạy rằng, “Chúng ta phải tin với giáo hội,” cha là linh mục của Tin Lành hay sao mà xúi dại con nghĩ với suy! [font="%value"]
- Giêsu ma, cha Lành diễu theo kiểu mấy người dân quê, thì tôi đã yêu cầu đừng coi tôi là linh mục thì mới có thể nói chuyện được. Tôi đang nói chuyện với anh chị chứ có giảng giải gì đâu mà tin lành với tin dữ. Tôi chỉ muốn biết, chị có bao giờ nhận thấy có lý do nào đó khiến câu phúc âm nói ngang ngược như vậy không. Còn vấn đề “Chúng ta phải tin với giáo hội,” chị có biết giáo hội là gì không đã, rồi mới có thể tính đến chuyện tin hay không. [font="%value"]
- Thì giáo hội là các đấng các bậc trong hội thánh dạy mình nên mình phải tin theo. [font="%value"]
- Chị nói như thế, cha Lành gắp miếng vòi voi được thái mỏng ngâm trong tô đá, chấm vào đĩa nhỏ bột cải pha xì dầu, trong khi nói, bỏ vô chén, đoạn nâng ly rượu, vẫn chưa uống, nói tiếp, hình như chị chưa đọc, hoặc chưa nghe về định nghĩa giáo hội là gì của Công Đồng Vatican II, nếu tôi không lầm. Công Đồng Vatican II định nghĩa giáo hội là dân Chúa. Chị có biết dân Chúa là ai không. Là hết mọi người; ai cũng là dân Chúa vì ai cũng có linh hồn. Như vậy, chị nói tin với giáo hội là tin thế nào? Tin với mọi người dù người đó không theo Công giáo, hoặc người đó vô thần? Từ định nghĩa này mới phát sinh ra chủ thuyết rao giảng Tin Mừng; mà Tin Mừng đức Giêsu rao giảng hai ngàn năm trước vẫn chưa được biết thì tin với giáo hội là tin thế nào. Bởi đó, tôi mới hỏi chị nghĩ gì về câu nói nghịch thường, “Kẻ có thì được cho thêm.” [font="%value"]
- Sao chỉ có câu đó mà cha bới ra lắm thứ vậy; mà con đã trả lời là con đâu dám nghĩ chi về lời Chúa rồi mà. [font="%value"]
- Chị không dám suy nghĩ về lời Chúa thì truyền bá gì. Giáo hội dạy chị phải tin với giáo hội đồng thời truyền bá Tin Mừng, truyền bá phúc âm. Thế thì giáo hội nhà chị khuyến khích chị truyền bá cái gì. Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì thì không biết. Phúc âm thì không dám nghĩ gì bởi phải tin với giáo hội; mà giáo hội khuyến khích, cổ võ chị truyền bá, rao giảng phúc âm; trong khi chị thấy phúc âm nói ngang ngang, ngửa ngửa, thôi thì cứ lờ đi cho xong chuyện là tốt nhất, nếu có thể nói như vậy. Nói đến đây, cha Lành hớp miếng rượu, nước rượu Hennessey màu nâu lóng lánh nơi chiếc ly thủy tinh trông thật đẹp mắt; chất rượu đằm đằm, nhưng thua rượu thuốc, ngài thầm nghĩ, đoạn gắp miếng vòi voi bỏ vô miệng. Chất ngọt của miếng vòi voi lành lạnh hòa lẫn vị cay vừa của hạt cải pha xì dầu cộng hưởng mùi thơm của rượu Hennessey nhè nhẹ xông lên mũi trong khi chờ nghe phản ứng của chị chủ nhà. [font="%value"]
Đâu dễ chi gặp được người dám thẳng thắn nhận định sự thể tâm tình với thực thể nhận biết. Cha Lành nêu lên vài điểm dồn chị này vô ngõ bí nhận định sự việc mong thúc đầy chị ta đặt vấn đề suy tư. Thái độ của ngài coi bộ vô tình nêu lên sự nghịch thường được rao truyền nơi thực tế đã chẳng thể nào khuyến khích hay thúc đẩy dân Chúa chung tay thực hiện. [font="%value"]
- Cha nói sao, anh chủ nhà lên tiếng, phúc âm là lời Chúa, là Tin Mừng; sao cha lại nói Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng. Vậy phúc âm không phải là Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng à? [font="%value"]
- Có lẽ đến lúc này ông bà đã biết tại sao tôi đề nghị đừng coi tôi là linh mục thì mới có thể nói chuyện được. Từ đầu đến giờ, nhiều vấn đề chúng ta chỉ nhắc đến phớt qua, bị coi như ai cũng biết, cũng tin nhưng thực ra chúng ta đã chẳng để ý đặt vấn đề, chẳng suy tư để thực sự nhận biết như thế nào. Trước hết, chị muốn tôi cầu nguyện cho chị trúng số trong khi không bao giờ mua số mà còn ngăn cản ông ấy mua số. Thứ đến, chị không dám suy nghĩ về lời phúc âm mà chỉ thấy nó ngang ngang, nghịch thường, đã có lại được cho thêm. Tiếp đến là vấn đề tin vào Chúa; tin là thế nào; Chúa là gì, thế nào, liên hệ với chúng ta ra sao, không ai biết. Thế rồi, phúc âm là gì; Tin Mừng đức Giêsu rao giảng liên hệ đến quy luật “Phải tin với giáo hội,” đồng thời lại còn truyền bá Tin Mừng trộn lẫn rao giảng phúc âm trong khi không dám suy nghĩ phúc âm. Tôi muốn thách đố, nói rằng thách đố coi bộ quá khoa trương, khích tướng; thôi, đơn giản hơn, tôi có một câu hỏi, ông hay bà, cũng như tôi, như mọi người, chúng ta mỗi người đều tin rằng mình có linh hồn. Vậy linh hồn mình là gì, liên hệ với thân xác mình, với cuộc đời mình ra sao. Đấy, nói rằng tin mình có linh hồn thì tin thế nào. Ông bà có thể chứng minh mình có linh hồn được không? Nếu không biết linh hồn mình là gì thì tin Chúa là tin thế nào. Giáo hội dạy tin Chúa ra sao. Chúng ta đã quá quen với những mệnh danh, ngôn từ, danh hiệu, mà không suy nghĩ, đặt vấn đề, tưởng rằng tin mà chẳng biết mình tin gì. Thực tâm mà nói, coi chừng chúng ta vô thần bởi chẳng biết mình tin chi cả, dẫu ai cũng hữu thần. [font="%value"]
- Cha nói sao, vô thần là vô thần; sao cha lại nói chúng ta vô thần dẫu ai cũng hữu thần. Chị chủ nhà thấy cha Lành nói quá ngang, lên tiếng hỏi. [font="%value"]
- Như vậy là chị đã suy tư, suy nghĩ rồi. Tuyên dương, tuyên xưng tin vào Chúa mà không biết Chúa là gì thì tin vào đâu? Không vô thần chẳng lẽ tin vào ngẫu tượng! Như vậy, điều kiện ắt có và đủ để có thể nói tin cần suy tư, suy nghĩ. Mà chị lại nói, “Phải tin với giáo hội” trong khi giáo hội là dân Chúa; ai không là dân Chúa; ai không có linh hồn; vậy tin với giáo hội là tin thế nào? Đến chính ngay linh hồn của chị mà chị không biết nó là gì thì nói rằng tin có linh hồn thì tin cái gì, phương chi nói rằng tin vào Chúa. Chị không dám suy nghĩ, suy tư về lời Chúa, về phúc âm thì chị tin cái gì. Tôi không thách đố chị đâu, tôi đang nói về chính tôi đó. Có bao giờ chị nghe thấy ai giải thích hay chứng minh về linh hồn chưa hay chỉ chấp nhận. Cần gì phải trúng số, cứ tin mình có bạc tỷ thì chị cần gì trúng vài triệu. Chẳng lẽ cứ tin mình có linh hồn thì có linh hồn hay sao. Vậy tin vào Chúa thì tin thế nào. Không vô thần thì đã biết cái linh hồn mình là gì; Chúa là thế nào; đâu cần phải nói rằng tin hay nghĩ rằng tin. Nghe giảng giãi về phúc âm chẳng khác chi nghe giải thích về món ăn, sẽ chết vì đói bởi không ăn. Hơn nữa, giảng giãi, giải thích phúc âm coi chừng lại khiến người ta tưởng rằng họ nhận biết phúc âm, nên không cần suy nghĩ phúc âm. Nói như thế chị hiểu tại sao phúc âm có câu, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13). Không suy tư, suy nghĩ lời phúc âm thì truyền bá cái gì? Nhưng lời phúc âm nói về ai vậy? Xin thưa, nói về tôi đó, nói về các đấng các bậc rao giảng phúc âm đó. Phúc âm được viết để người ta suy tư, suy nghiệm, nghiệm chứng, nghiệm xét, nếu nói theo thánh Phao lô, chứ phúc âm không được viết để giải thích, giải nghĩa; bởi vì giải thích, giải nghĩa sẽ chận người ta suy nghĩ, suy tư, chận đường người ta thức ngộ. Cha Lành xổ một hơi; tất cả những thao thức dồn nén từ bao lâu nay có dịp hùng hổ bung ra. Có điều, cặp vợ chồng này đã biết cha khá lâu lại không lạ gì thái độ bình dân, thượng vàng hạ cám của ngài, không chê trách, chọc chạch ai, cho dù mấy đứa nhóc cũng được ngài tôn trọng. [font="%value"]
- Vậy nếu không giảng giãi phúc âm thì nói cho người ta hiểu về điều gì? Chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Ông bà có bao giờ đọc vài cuốn sách chẳng hạn Lão Học Tinh Hoa, Phật Học Tinh Hoa, Tinh Hoa Đông Phương Học, hay Kinh Viên Giác, Kinh Đại Niết Bàn, Pháp Bảo Đàn Kinh, Hành Trình Về Đông Phương, hoặc Á Châu Huyền Bí, Ai Cập Huyền Bí, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời, Cái Cười Của Thánh Nhân, Badga Gita, hay mấy cuốn của Anthony De Mello v.v… [font="%value"]
- Cha nói gì mà dữ thế, giờ nào mà đọc. Cha xem, đi làm tối mặt, rồi khi về đến nhà thì nào nấu ăn, ăn uống, khi mấy đứa còn nhỏ phải kèm cho chúng làm “Home works,” cuối tuần có được ngày nghỉ phải dọn dẹp nhà cửa, sân trước, cổng sau, lại nhiều khi làm “Over times” ngày thứ bẩy, có leo lên giường thì cũng hơn mười một giờ khuya. Cha coi, cái nhà bốn phòng này chỉ thu dọn sơ sơ cũng hết cả ngày, rồi còn giặt giũ quần áo. Phiền nhất là gấp, treo quần áo, may nhờ mấy đứa đã lớn, con thoát được món lẩm cẩm lỉnh kỉnh này là phúc lắm rồi. Cha tưởng tụi con có thừa giờ đi mây gọi gió như cha hay sao mà có cơ hội đọc những sách ma quỷ ấy? Chị chủ nhà than thở. [font="%value"]
- Con có đọc cuốn Hành Trình Về Phương Đông thấy tác giả viết cũng có lý, và một đôi cuốn, Cái Cười Của Thánh Nhân, Lão Học Tinh Hoa, Phật Học Tinh Hoa, hay Tinh Hoa Phật Học gì đó, do cụ Nguyễn Duy Cần viết; con cũng đọc cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh, nhưng cuốn Thánh Kinh thì chỉ đọc phần Phúc Âm vì muốn biết phúc âm viết như thế nào để xem các cha giảng ra sao mà thôi. Nhưng hình như Phúc Âm cũng được viết lắm lúc khiến con ngỡ ngàng chẳng khác gì cuốn Đạo Đức Kinh. Có điều lạ là thường thì các cha giảng phúc âm áp dụng vào đời sống bình thường nhiều khi không hợp lý, hợp tình. Xin lỗi cha, con chỉ đưa lên thí dụ, không phê phán. Chẳng hạn, các cha giảng rằng Thiên Chúa yêu thương loài người vô bờ bến thế sao lại có cái hỏa ngục đời đời kiếp kiếp, phản luận lý, không hợp khoa học. Cha đừng nghĩ con chê trách, coi thường, nhưng nhiều khi các cha giảng linh tinh, bài phúc âm nói một đàng, các cha giảng một nẻo. Ngay đến như nơi Youtube, những chuyện diễu không đâu vào đâu cũng dám đem đăng trên đó trong khi giảng lời Chúa. Con nói rất thật, không tin cha vô Youtube sẽ thấy. [font="%value"]
- Có phải ông thấy các cha giảng dai, giảng dài, giảng dở, giảng dại không? Tôi là linh mục, nói chuyện với một số người quen dám ăn dám nói nên nghe đầy tai mà. [font="%value"]
- Thế vậy trường thần học dạy những gì mà các cha giảng tùy ý thích. Ngày còn nhỏ, con nghe mấy người lớn nói gì đâu, hình như mỗi cha một lý đoán. Chị chủ nhà hỏi. [font="%value"]
- Chị đã bao giờ nghe thấy câu, các cha là đức chúa trời ngôi thứ tư chưa? [font="%value"]
- Có một lần, thưa cha. Hôm ấy, có ông Tùng, lúc rượu ngà say, ông ấy nói như thế, con chỉ nghe hóng được. [font="%value"]
- Thế anh chị, cha Lành đổi lối xưng hô cho có vẻ thân thiện, có khi nào thử đặt vấn đề về bài phúc âm được công bố trong lễ, nên được áp dụng thế nào nơi cuộc sống của mình không? [font="%value"]
- Cha nói sao, chúng con phải tin với giáo hội thì dám suy nghĩ gì. Lời cha giảng là lời Chúa phán mà còn suy với nghĩ gì. [font="%value"]
- Đôi khi con cũng đặt vấn đề nhưng lời phúc âm quá nghịch thường khiến không biết đàng nào đúng, đàng nào sai, cứ rối tung lên. Suy đàng này không thuận, nghĩ đàng kia, chẳng thể áp dụng thì đành nghe sao biết vậy và quên đi cho đầu óc thanh thản, uống vài lon bia, thoải mái hơn. Cha nghĩ coi, làm sao áp dụng câu, “Lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời” (Mt. 19:24) thì sao mà suy. Chẳng hạn như chúng con, sang được bên này, có cơ hội học hành, làm lụng; nếu so sánh với biết bao người bên Việt Nam, tất nhiên được coi là giàu có, thì cách nào cho được rỗi. Chúng con đâu ăn chận, hà hiếp ai để được giàu có. Thà rằng hút sách, vợ nọ con kia vì lắm của, nhiều tiền, không gì đáng nói. Đàng này, lo làm tối mặt, ăn chắt để dành khi hữu sự cũng bị một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến ngăn chận không cho vào Thiên Đàng thì còn gì để suy, còn gì để nghĩ; đến mua mấy tấm vé số còn bị vợ cằn nhằn, phương chi ăn chơi đàng điếm, hòng gì có cơ hội. [font="%value"]
- Vậy anh có thấy mình thánh thiện không? Cha Lành hỏi chận khi ông chủ nhà đang nói. [font="%value"]
- Thánh hay không thì con không dám nói; nhưng nghĩ lại, lắm lúc cũng hối tiếc vì có những dịp phạm tội nhưng không dám. Anh vừa diễu vừa mỉm cười. Cũng may, Chúa gửi bà thánh nhà con đến coi chừng con. [font="%value"]
- Thế anh đã biết sau khi chết mình sẽ ra sao không? [font="%value"]
- Chắc chắn con nghĩ, hỏa ngục không có chỗ cho con xuống, nhưng luyện ngục thì không thể qua. [font="%value"]
- Tại vì giàu có sao? [font="%value"]
- Con không thích cái luyện ngục, nhưng không chấp nhận giàu có khó vào nước thiên đàng. Con nghĩ, Thiên Chúa không thể phi lý như thế. Nhiều lần đi xưng tội, con không biết phải xưng tội gì. Cha xem, muốn phạm tội cũng phải có cơ hội. Đàng này, không có cơ hội thì sao mà phạm. Lạy Chúa tôi, điều khó khăn nhất đối với con là làm sao bới ra tội để mà xưng mới phiền. Không đi xưng tội với các con thì nghe vợ cằn nhằn rát cả tai, nào là không làm gương, không làm kiếng, mà vào tòa giải tội thì chẳng biết nói gì. Có giáo luật buộc người không có tội phải chịu phạt vì không bày ra cơ hội để phạm tội không, thưa cha; anh nói diễu trong khi mỉm cười. [font="%value"]
- Có chứ, tội ngu dốt đã không suy nghĩ bày cơ hội. [font="%value"]
- Cha chỉ cho con đi, nhà con còn khó hơn các cha nữa đó. [font="%value"]
- Em khó thế nào? Mời bạn bè về ăn nhậu, đưa cả con bé thơ ký ngộ nghĩnh, thân thiết coi đến chướng mắt, ngồi sát ngay bên mà còn nói không có cơ hội. [font="%value"]
- Ngộ nghĩnh theo con mắt của em chứ làm sao có thể so sánh với em, thì cơ hội đâu thể phát triển. Hơn nữa, nó chỉ là đứa con nít, mới hăm mấy tuổi, chỉ hơn thằng con lớn của mình hai tuổi thì cơ hội ở đâu. Chẳng lẽ có cơ hội mà không vấp phạm cũng là một tội! [font="%value"]
- Sự việc này chứng tỏ chị suy nghĩ, tưởng tượng quá giỏi, giỏi hơn sự thật. Vậy “Lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời” (Mt. 19:24) như anh chị thì phải giải quyết cách nào? [font="%value"]
- Cha là linh mục rao giảng lời Chúa thì cha biết chứ tụi con sao mà biết. [font="%value"]
- Tôi e rằng nếu giải thích, chính sự giải thích sẽ ngăn chận sự suy tư của anh chị. Đây là lý do tại sao phúc âm có lời lên án, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13). Nghe hoặc đọc câu này, ai cũng tưởng vì Ký lục và Biệt phái giả hình nên bị lên án. Nhưng không, giả hình nơi câu này được giải thích đó là “Vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại.” Thế nên, nếu giải thích sẽ chặn sự suy tư của anh chị. Điều tôi muốn nói là chính sự suy tư là chìa khóa cho con người nhận thức về Chúa, về linh hồn của mình, về Nước Trời. Nhưng thay vì giải thích, tôi đặt vấn đề để anh chị trả lời, anh chị có thể chấp nhận được không? [font="%value"]
- Mời cha, con sẵn lòng. Anh chủ nhà nói. [font="%value"]
- Còn chị, chị có đồng ý không? [font="%value"]
- Đâu còn cách nào nữa cha. Cha định đổ bùn sang ao sao? [font="%value"]
- Tại sao chị nói tôi đổ bùn sang ao? [font="%value"]
- Thì thay vì cha nói thì tụi con phải nói. [font="%value"]
- Chị nhận định và lý luận quá sắc bén. Thôi được, tôi chỉ muốn hỏi trong phúc âm có câu nào nói về lòng dạ con người không? [font="%value"]
- Có chứ, “Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt. 6:21). [font="%value"]
- Vậy anh chị có biết lòng dạ của anh chị bây giờ ở đâu không? [font="%value"]
- Thì đang nói chuyện với cha chứ còn ở đâu. Chị chủ nhà nhanh miệng. [font="%value"]
- Chứ không phải ở gia tài, ở cái xe, cái nhà, ở nhà băng à? [font="%value"]
- Chẳng lẽ phúc âm viết sai? Chị chủ nhà thắc mắc. [font="%value"]
- Có thể ngôn ngữ thay đổi hoặc dịch thuật không đúng. Anh chủ nhà lên tiếng, chứng tỏ sự hiểu biết rộng rãi. [font="%value"]
- Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng nếu áp dụng vào sự việc chúng ta đang nói chuyện thì câu này phải được hiểu thế nào mới hợp lý, hợp tình, có thể chấp nhận được. [font="%value"]
- Cha dám thay đổi lời Chúa. [font="%value"]
- Tôi có nói gì đâu; tôi chỉ muốn phải hiểu thế nào cho hợp lý hợp tình, hợp thực tại mà thôi. Thử hỏi, lòng dạ anh chị đang ở đây thì cái gì, điều gì, mục đích, nào của anh chị đang ở đây? [font="%value"]
- Như vậy có thể nói, ý định, ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó. Anh chủ nhà nói. [font="%value"]
- Anh có thể kết nối với câu người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim không? [font="%value"]
- Kết nối thế nào thưa cha? À, để con xem. Ước muốn, ý muốn của ngươi, ước muốn giàu có khó vào Nước Trời hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Có lý; có lý. Sao cha có thể nghĩ được như vậy? [font="%value"]
- Anh muốn nói gì? Chị chủ nhà thắc mắc. [font="%value"]
- Tuyệt thật, phúc âm nói vậy nhưng không phải vậy; hèn chi, hèn chi, phải đặt vấn đề. Anh chủ nhà hình như không nghe thấy vợ hỏi; do tâm trí còn đang tập trung nơi câu phúc âm. À, à, phải ráp thêm câu vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó. Phúc âm nói về ước muốn, ý định. Sao cha nghĩ ra được sự giải thích câu phúc âm phi lý như thế? [font="%value"]
- Suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét. Có điều, anh chị nên để ý, phúc âm nói về hiện trạng tâm tư, tâm hồn bằng cách dùng sự việc hữu vi, thế tục nơi cuộc sống nên khi đọc hoặc nghe thấy đầy vẻ phi lý, ngỡ ngàng. [font="%value"]
- Cha nói vậy nghĩa là sao? Chị chủ nhà hỏi cha Lành. [font="%value"]
- Cha nói phúc âm nói về hiện trạng nơi tâm tư con người. Muốn hiểu phải suy tư, đặt vấn đề, vì phúc âm dùng sự việc thực tại để nói về tâm linh. Chẳng hạn câu nói, “Lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời” (Mt. 19:24) nếu đem ráp nối với câu, “Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt. 6:21), sẽ được hiểu thành, những người ước muốn giàu có, danh vọng thế tục này thì khó vào nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim; vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó. Câu phúc âm nói về ước muốn giàu có mà bị rút gọn, cắt bớt khiến người đọc phải suy nghĩ, suy tư. Thưa cha, vậy sao các cha chỉ giải thích về lòng tham sân si của người giàu có? [font="%value"]
- Đâu phải người giàu có nào cũng tham lam vơ vét của người khác một cách bất công! Tôi không chấp nhận nghĩa đơn thuần từ chương của câu nói nên suy nghĩ; cũng như anh chị. Nói đúng ra, anh chị đặt vấn đề và suy ra nhận thức về câu phúc âm chứ tôi chỉ đặt câu hỏi bình thường mà thôi. Đọc phúc âm mà không suy tư, nghiệm xét thì kể như vô ích. Hiểu phúc âm theo nghĩa từ chương lại càng minh chứng phúc âm nói những điều không tưởng. [font="%value"]
- Sao cha không nói cho người ta biết? [font="%value"]
- Chị đi mà nói. Chị có nhớ lúc bắt đầu bữa ăn, chị một mực chấp nhận phải tin với giáo hội nên không dám suy nghĩ gì về lời Chúa mà. [font="%value"]
- Cha nói, giải thích phúc âm là chặn người ta suy nghĩ, vậy nhiệm vụ linh mục của cha phải làm sao mới đúng? [font="%value"]
- Nhiệm vụ của linh mục cũng chính là nhiệm vụ của các tôn giáo. Mà “Nhiệm vụ của các tôn giáo chính thức phải là phương tiện dẫn dắt con người trên hành trình thức ngộ, giải thích cảm nghiệm thức ngộ, và trình bày diễn tiến thức ngộ” (Mây Bay Về Ngàn). Biết thì biết thế nhưng điều kiện ắt có và đủ của con người lại chính là suy tư. Thử nhìn lại chính anh chị thì biết, anh chị suy tư, tính toán cho cuộc sống một cách tuyệt vời; ai cũng thế, nhưng nơi khía cạnh tâm linh thì lại chẳng bao giờ để tâm đến. Nói rằng tại người ta không suy tư cũng không đúng vì người ta rất giỏi nơi địa hạt này, thế sao họ không suy tư về tâm linh; chẳng hạn, họ cũng như anh chị, chỉ nghĩ, chỉ tin rằng mình có linh hồn chứ không đặt vấn đề linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với cuộc sống ra sao. Đồng thời, anh chị theo đạo mà có bao giờ thấy cha nào minh chứng cho mọi người biết mình có linh hồn hay không? Linh hồn nơi mình mà không nhận biết thì nói đến Chúa càng không biết hơn. Thế thì nói lên, tuyên xưng tin vào Chúa thì tin thế nào? Như vậy có phải quan niệm, “Phải tin với giáo hội” đã ngăn chận dân Chúa suy tư từ bao đời nay không? Nhận định như thế, câu phúc âm, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13), nói về giới nào vậy? Giả sử anh chị thử đặt mình vào vị thế linh mục, anh chị sẽ cảm thấy thế nào? Đấy, không suy tư, suy nghĩ, được lời Chúa tung hô như thế đấy; nên chẳng lạ gì, nếu tôi không lầm thì những tám lần, phúc âm nhắc nhở câu, “Ai có tai thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9; 43; Mc, 4:9; 23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). [font="%value"]
- Nhiều lúc suy nghĩ về các cha, con thấy, cả như gia đình con thì các cha khá nhàn rảnh, sáng dâng lễ, rồi cả ngày thảnh thơi, tối đi ngủ sớm bởi không bận bịu vợ con. Đâu như chúng con làm lụng tối mặt, về tới nhà còn muôn thứ việc, rồi đình đám, cưới hỏi, tang ma, nay sinh nhật người này, mai kỷ niệm thành hôn người khác. Lắm lúc con nghĩ, biết vậy ngày xưa mình đi tu quách, nay tha hồ thảnh thơi. [font="%value"]
- Các cha anh thấy chứ không phải ông cha này đang ngồi đây. Bộ anh nghĩ, hiểu được lời phúc âm lên án mà yên thân được à? Còn gì nặng hơn câu, “Khốn cho các ngươi?” Thực ra, “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.” Nhiều khi tôi mơ ước mình thà không biết, chỉ làm nhiệm vụ linh mục như một người đi làm thuê, tất nhiên tha hồ thảnh thơi; nhưng mấy câu phúc âm chẳng khác gì ma đùa, quỷ ám, làm phiền tâm tư không lúc nào ngưng. [font="%value"]
- Vậy cha nghĩ được gì về linh hồn? Chị chủ nhà đặt vấn đề. [font="%value"]
- Linh hồn nơi chị thì chị biết, mắc mớ gì đến tôi, và làm sao tôi biết được linh hồn của chị. [font="%value"]
- Con muốn nói về làm cách nào để biết chứ không hỏi cha về linh hồn con thế nào. [font="%value"]
- Nói như thế chị đã nhận ra khả năng suy tư của chị chưa? Có điều, tôi phải nói trước. trong suy tư, tư tưởng phát sinh không đúng không sai, và khi suy tư, tâm tư không lệ thuộc bất cứ điều luật, quan niệm, lý thuyết, ý hướng nào. Nghĩa là hoàn toàn tự do, tự do tuyệt đối. Tôi thử đặt vấn đề, chúng ta thường được nghe và kinh nghiệm, con mắt để nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ, đúng không? [font="%value"]
- Đó là điều tự nhiên. [font="%value"]
- Thật không? [font="%value"]
- Miệng con đang nói với cha, mắt con đang nhìn thấy cha chẳng lẽ không thật. [font="%value"]
- Như vậy chị thực dụng minh chứng mắt chị nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Chị còn cách nào minh chứng chắc chắn hơn không? [font="%value"]
- Ủa, chẳng lẽ con nói sai? [font="%value"]
- Vậy chị đã bao giờ tham dự đám ma nào chưa? [font="%value"]
- Con chỉ hỏi về phương pháp nào để nhận biết về linh hồn, cha bới ra mắt, miệng, tai, óc, giờ lại thêm đám ma, đám cưới. Hèn chi người ta nói, “Muốn nói ngoa làm cha mà nói.” Tâm tư chị chủ nhà hình như cởi mở hơn khi thấy cha Lành dám thố lộ nỗi thao thức, thêm vào đó lại lang bang bày chuyện không đâu vào đâu. [font="%value"]
- Tôi chỉ hỏi chị có bao giờ tham dự đám ma chưa; chị không trả lời lại cho rằng tôi nói ngoa. Vậy chị đã dự đám ma bao giờ chưa? Chỉ đơn giản trả lời có hoặc không là đủ. [font="%value"]
- Thưa cha rồi ạ. Chẳng những một lần mà nhiều lần. [font="%value"]
- Vậy nơi đám ma, cái miệng người chết còn nói được không; tai còn nghe được không; mắt có nhìn được nữa không, và bộ óc có còn suy nghĩ được không? [font="%value"]
- Cha nói gì kỳ, miệng còn nói được sao lại gọi là chết. [font="%value"]
- Chết là khi linh hồn ra khỏi xác. Thế là cái miệng hết nói, tai hết nghe. Như thế cái miệng, cái tai, mắt, óc, chỉ là phương tiện cho cái hồn nghe, nói, nhìn, nghĩ, đúng không. Nói cách khác, ngũ quan, tứ chi, thân xác, và cả cuộc đời của mình cũng chỉ là phương tiện cho cái hồn hoạt động. Tôi có thêm câu hỏi nữa, chị đơn thuần nghĩ sao trả lời như thế được không? [font="%value"]
- Mời cha cứ việc hỏi. [font="%value"]
- Một cộng với một là mấy? [font="%value"]
- Cha có cho con là khùng không mà hỏi một cộng một là mấy. [font="%value"]
- Chị không biết hay không muốn trả lời. Tôi đâu đặt vấn đề khùng hay điên, hay chị cho rằng tôi khùng nên hỏi câu ấy! Vậy một cộng một là mấy? [font="%value"]
- Thưa cha, một cộng một là hai ạ. [font="%value"]
- Chắc không? [font="%value"]
- Thưa chắc như bắp ạ. [font="%value"]
- Vậy một cái xác cộng với một cái hồn là mấy? [font="%value"]
- Chẳng lẽ không là một. [font="%value"]
- Nếu cái hồn không, chẳng ai biết được. Nếu cái xác không hồn, đem chôn. Nhưng hồn nhập vô xác, lại phát sinh ra ước muốn, ước mơ, tham vọng, ý thích, lẽ yêu, điều ghét. Tựu chung gọi là tâm trí. Và như thế, một cái hồn cộng một cái xác ít nhất phải là ba. Chị khùng hay tôi khùng. [font="%value"]
- Cha nói chuyện dễ như vậy sao con chẳng bao giờ nghĩ tới. Anh chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Tại chúng ta phải tin với giáo hội. Cha Lành giải thích. [font="%value"]
- Vậy cha không tin với giáo hội à. Chị chủ nhà hỏi. [font="%value"]
- Tôi nhảy rào; bởi vì một câu nói khùng khùng điên điên. [font="%value"]
- Vì một câu nói là sao, thưa cha? [font="%value"]
- Trước khi vô năm thứ nhất thần học tại CTU, Chicago, tôi mua cuốn Lão Học Tin Hoa do cụ Nguyễn Duy Cần viết tại một tiệm sách Việt Nam ở Chicago. Ngay trang đầu nơi góc phải phía dưới được in câu nói, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri,” được dịch là, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Tôi nhớ rõ vào năm 1983. Câu nói đó cứ như thách đố tâm trí tôi vật lộn với nó; trong khi tôi đọc hết cuốn sách mà chẳng hiểu cụ Duy Cần viết gì. Thời gian cứ trôi, tôi đọc đi đọc lại cuốn ấy bốn lần vì không có sách mới để đọc mà cũng chẳng hiểu gì. Cái câu quỷ ma đó cứ ám ảnh tôi bất cứ lúc nào tâm trí không bị bận rộn với bài vở. Tôi chịu chức linh mục năm 1988 và được sai đi làm phó cho một giáo xứ người Mỹ. Năm 1992, tôi được sai về một giáo xứ có cỡ ba mươi gia đình người Việt, và chỉ một tháng và hai mươi bốn ngày sau, tôi lại nhận bài sai làm phó cho một giáo xứ người Mỹ khác. Thế rồi, mãi tới năm 1994, tức là 11 năm, sau khi đọc cuốn Lão học tinh hoa lần thứ năm, tôi mới chợt ngộ được câu, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri” nói gì. Thế rồi, tôi kiếm một loạt sách viết về đạo học Đông Phương đọc tiếp. Và cũng từ đó, tôi thấy phúc âm được viết ngang ngược hơn bất cứ sách vở nào nơi đạo học Đông Phương; đồng thời tôi cũng nhận ra phúc âm là những công án được ghép lại thành truyện dùng đức Giêsu như bung xung làm đề tài để chỉ dẫn hành trình thức ngộ nhưng không dám nói gì hết; có điều, những bài giảng sau đó, tôi chú trọng về nhận thức phúc âm, tránh giải thích phúc âm theo nghĩa đạo đức hay luân lý. [font="%value"]
- Kết quả ra sao, thưa cha. Chị chủ nhà vội hỏi. [font="%value"]
- Thì còn làm sao, tôi chỉ nghe được những lời phê bình rằng không ai hiểu tôi giảng gì, hoặc tôi giảng khó hiểu mà thôi. Có lần bài phúc âm nói về thánh Gioan Tiền Hô thực hiện phép rửa nơi sông Jordan và đức Giêsu đến để chịu phép rửa, tôi nói cho thiên hạ biết, phép rửa Gioan Tẩy Giả thực hiện không phải là bí tích rửa tội Công giáo. Và cũng bởi vì biết người Việt mình đã được dạy ai không được rửa tội thì không được vào nước thiên đàng; tôi nói trong bài giảng rằng phúc âm không ghi lại Chúa Giêsu rửa tội cho bất cứ ai, ngay cả thánh Giuse. Giêsu, lạy Chúa tôi, sau này nghe thấy có người nặng nề phản đối ngay sau lễ trong bữa nhậu ban trưa của nhóm họ. [font="%value"]
- Cha có giải thích gì không? Chị chủ nhà hỏi. [font="%value"]
- Giải thích gì được với dân Chúa. Chị đi lễ ngày chủ nhật không thấy kinh đọc rang rang, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn” sao? Người ta đọc thuộc lòng, nào có suy nghĩ gì đâu. Chúa đâu giúp họ suy nghĩ dược. [font="%value"]
- Con nghĩ, không phải dân Chúa không suy nghĩ mà là không có ai khuyến khích họ đặt vấn đề. Chị chủ nhà đưa ra nhận định. [font="%value"]
- Giảng ở thánh lễ đâu giống nói chuyện với anh chị như thế này; mà muốn người ta chú ý thì phải nói những câu khác thường sao cho đánh động tâm tư họ. Tuy nhiên, thực thể dân Chúa nào có đồng nhất. Ngồi nơi những hàng ghế có những người đáng bậc thầy mình; đồng thời lại có những bà già nhai trầu không biết ký ngay cả tên của mình. Nhiều khi tôi nghĩ, thì mình cố gắng hết sức là được, Chúa không xét kết quả mình làm được bao nhiêu vì đã hai ngàn năm qua đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, mà mãi cho tới bây giờ, Tin Mừng Ngài rao giảng vẫn chưa được nhận biết thì mình có thể làm được chi. Nhìn lại những công cuộc khuyến khích, cổ võ truyền bá phúc âm thì cũng chẳng khác gì Biệt phái và Ký lục, chỉ mang thêm án phạt mà thôi. Nếu nói theo niềm tin đang được loan truyền thì đức Giêsu có nhập thể thêm bao nhiêu lần để chết vì tội lỗi loài người cũng không thể nào giải thoát con người hết tội được. [font="%value"]
- Cha nói sao, sự khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu không thể xóa hết tội của loài người. Chị chủ nhà nhanh nhẩu tỏ bất đồng quan điểm. [font="%value"]
- Cha nói khó hiểu hơn phúc âm. Anh chủ nhà chầm chậm nói. Như vậy, lỗi đâu phải tại dân Chúa mà tại nơi các nhà rao giảng phúc âm. [font="%value"]
- Tội cả hai, cha Lành thở dài; lời phúc âm kết án không tha một ai. Các nhà rao giảng đã không suy tư, nghiệm xét, mà cứ trình bày phúc âm chẳng khác gì những bài học luân lý thế tục. Nơi khác, phúc âm nêu lên tội phạm đến Thánh Thần, “Ta bảo các ngươi: Mọi sự sẽ được tha cho con cái loài người, mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều chúng lộng ngôn; 29 còn ai lộng ngôn đến Thánh thần, thì không được tha thứ cho đến đời đời, nó mắc một tội bất diệt” (Mc. 3:28-29). [font="%value"]
- Thưa cha, tội phạm đến Thánh Thần là tội cho rằng Chúa Giêsu dùng quyền lực của Beelzebul, chúa quỷ để trừ quỷ mà. Chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Chị có biết nơi con cái loài người tội nào không được tha không? [font="%value"]
- Là tội phạm đến Thánh Thần. [font="%value"]
- Thánh Thần ở đâu, sao có thể phạm? [font="%value"]
- Chúa ở đâu, Thánh Thần, Thần Khí Chúa ở đó. [font="%value"]
- Vậy Chúa ở đâu, cha Lành hỏi. [font="%value"]
- Hay, anh chủ nhà chợt lên tiếng. Câu hỏi của cha coi bộ rất thường nhưng cả là một câu hỏi lớn lao không ngờ. [font="%value"]
- Tại sao anh nói câu hỏi lớn lao không ngờ? [font="%value"]
- Thưa cha, từ nãy đến giờ con để ý theo dõi câu chuyện, thấy cha chỉ đơn giản đặt vấn đề về những phương diện căn bản, chứ không nhắc nhở chi đến những chuyện lớn lao. Mà nói cho đúng thì những chuyện căn bản ấy lại là gốc gác, cho tất cả những lý thuyết, những nguyên tắc suy tư. Thí dụ, cha vừa hỏi Chúa ở đâu. Muốn biết Chúa ở đâu thì phải biết Chúa là gì; muốn biết Chúa là gì thì cần phải biết mình là ai vì “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.” Muốn biết mình là ai thì lại cần biết linh hồn mình thế nào. Thế tại sao lúc nãy, khi nói đến một cộng một là ba cha không nhắc gì tới Thiên Chúa ba ngôi; ba ngôi là một Chúa, và một Chúa ba ngôi? Đùng một cái cha hỏi Chúa ở đâu, không lớn lao là gì! [font="%value"]
- Vậy là anh biết Chúa ở ngay nơi mình. Vậy nếu Chúa ở ngay nơi mình, Thánh Thần cũng ở ngay nơi mình thì sao mình có thể phạm đến Thánh Thần, tội không được tha, chẳng lẽ tự tử, mà đâu ai dại gì tự tử ngoại trừ những tâm hồn điên loạn! [font="%value"]
- Thưa cha, chị chủ nhà lên tiếng, vậy tội là gì? [font="%value"]
- Cho đến lúc này, chị không vâng lời giáo hội nữa à? Đang nói chuyện này, xọ sang chuyện kia. Từ nay, coi chừng chị sẽ phải nghe nhiều lời đàm tiếu. Nhớ đừng chấp họ nghen; vì họ đang nặng nề vấp phạm đến Thánh Thần; ơn cứu độ của Chúa Giêsu vô bổ đối với họ. Riêng câu hỏi tội là gì thì chị cần nghe cho rõ; tôi sẽ nói chầm chậm để bắt kịp suy tư của chị. Thiên Chúa là cội nguồn của quyền lực hiện hữu. Nơi phúc âm Gioan được viết, "Ðàng và sự thật, sự sống, chính là Ta.” Hai ngàn năm trước loài người chỉ mới nhận ra sự sống là gốc gác. Trước khi có sự sống mình có thể nhận thấy, tất nhiên đã có sự hiện hữu. Thiên Chúa là sự hiện hữu nơi muôn loài; tư tưởng cũng là sự hiện hữu nên chúng ta có thể nhận biết. Ngoài sự hiện hữu tất nhiên không có gì. Tội lỗi cũng là một sự hiện hữu; hỏa ngục cũng là sự hiện hữu. Thế nên, tất cả những gì phạm đến hay ngăn cản nhận thức hiện hữu được coi là tội. Thánh Thần ngự trị nơi mình, Thần Trí cũng là Thánh Thần bởi vậy ai cũng được bẩm sinh với hồng ân suy tư, hồng ân của tâm trí, của linh hồn. Không sử dụng hồng ân tức là khinh chê; bởi thế, không sử dụng hồng ân suy tư tức là khinh chê hồng ân suy tư. Không suy tư thì suốt đời ngu muội. Như vậy, tội phạm đến Thánh Thần là tội không suy tư tâm linh và hình phạt là sự ngu muội, được gọi là không được tha. Chị đã hiểu tội là gì chưa? [font="%value"]
- Như vậy hỏa ngục cũng ở trong Chúa vì cũng có sự hiện hữu. Chứ vậy sao lại có định nghĩa hỏa ngục là nơi vắng bóng Thiên Chúa? [font="%value"]
- Không biết cái vị sáng lập ra hỏa ngục lúc còn sinh thời đã có cơ hội trãi nghiệm nó chưa. Tôi nghĩ, ngày đó vị ấy chưa chết nên vẫn còn trong hỏa ngục mà không biết nên còn có thể rao truyền. Về sau, một số học giả bảo vệ cho cái hỏa ngục trong khi không biết Chúa là gì lại cứ tưởng tượng Chúa giống như một ông thần ngu ngơ nhận của đút lót bằng những lời ca tụng cầu xin nên cổ võ cho cái lý thuyết hỏa ngục ngoài Chúa. Ngoài Thiên Chúa, ngoài sự hiện hữu sẽ chẳng nói được gì. Chị rối đạo chưa? Chị bị rối đạo, hay đạo bị rối, có lẽ chị đã có câu trả lời. [font="%value"]
- Thưa cha, con tin với giáo hội nên không thể rối được bởi giáo hội là hội thánh nên có rối cũng là thánh. [font="%value"]
- Cảm ơn chị thánh. Nói theo sự tuyên truyền của ba trẻ Fatima, nhìn thấy trái đất rẽ ra để lộ cái hỏa ngục lửa sinh, lửa diêm; vậy thì đến ngày nào đó, một trái bom nguyên tử nổ tung, phá tan cái trái đất này, thế là hết hỏa ngục vì hỏa ngục sẽ không còn điểm tựa mà hiện hữu. Cha Lành thấy chị chủ nhà rất nhanh có được thái độ tự nhiên thoải mái phát biểu với giọng điệu vui vẻ, đầy sáng kiến luận lý thoát khỏi tâm tư lệ thuộc nên nói tiếp. Tuy nhiên, dù sao con người thì luôn luôn lầm lỗi, mà hội thánh là tổ hợp những con người; do đó, hội thánh gốc gác cũng từ hội tội vì nếu không có tội thì không được hưởng ân huệ cứu chuộc của Chúa Giêsu. Mà không được hưởng ân huệ cứu chuộc thì không thể là thánh. Tôi không thể hiểu được tại sao hội thánh lại cứ tuyên xưng, cáo mình là phường tội lỗi. Chị có biết có thành ngữ nơi đất nước Ái Nhĩ Lan không” [font="%value"]
- Thưa cha, thành ngữ gì? [font="%value"]
- Không biết đấng nào đó người Ái Nhĩ Lan phát minh ra nhận thức, “Dân Chúa sẽ tìm đường xuống hỏa ngục nếu được rao giảng về hỏa ngục.” Mình là con người lầm lỗi thì đúng, nhưng quá nhấn mạnh về tội lỗi thay vì nhận biết hồng ân, sự thánh thiệc của Thiên Chúa nơi mình có lẽ không nên; đôi khi bị phản ứng ngược, dân Chúa được nghe riết tâm tư sẽ biến thành vô cảm với tội lỗi thì chẳng mang lại lợi ích gì mà coi chừng chỉ càng ngày càng chìm sâu trong tội lỗi chẳng khác gì mấy con giòi bọ được con nhặng đẻ ra, sung sướng vui vẻ nơi thân xác xình thối của con chuột chết. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài thì không để tâm phát triển cái hình ảnh tuyệt vời đó, lại cứ hô ầm lên mình xấu xa tội lỗi để giả mù sa mưa. Hội thánh mà cứ được quảng cáo thành hội tội thì coi chừng đang quảng cáo một cách dề bỉu, khinh thường ơn cứu độ của Chúa. [font="%value"]
- Cha nói sao, khinh thường ơn cứu độ của Chúa? [font="%value"]
- Thế chị có biết mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu không? [font="%value"]
- Thưa cha, từ ngày còn nhỏ con đã được dạy, Thiên Chúa yêu thương loài người vô cùng nên sai con một của Ngài là Chúa Giêsu nhập thể xuống trần gian chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. [font="%value"]
- Đủ rồi, đủ rồi. Chúa đã chết để chuộc tội cho thiên hạ từ hai ngàn năm trước nên có gì mà phải suy nghĩ, có gì phải lo âu, cứ tự nhiên an hưởng cuộc đời vì đã có bảo hiểm tuyệt vời là cái chết của Ngài từ xa xưa, chắc ăn như bắp, không thể sai trệch như một cộng một là hai. [font="%value"]
- Cha đi tu làm linh mục cũng đúng. Anh chủ nhà im lặng theo dõi từ nãy giờ lại lên tiếng chen vô. Lần đầu tiên con nghe thấy danh hiệu mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu. Xưa nay con chỉ được nghe dạy dỗ là Chúa Giêsu được sai đến cứu độ trần gian. Chỉ với mấy câu suy luận của cha về sự chết của Chúa là bảo hiểm cứu độ khiến đầu óc con hình như nổi lên sự e ngại chính mình đã không nhận ra lỗi lầm của mình. Thưa cha… [font="%value"]
- Tại vì anh theo đạo, tin theo chứ không biết mình tin gì nên không thể nhận ra lỗi lầm thực sự của mình. Anh có dám chân thực chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa không? [font="%value"]
- Thưa cha, nếu thực sự chấp nhận, thực sự nhận thức, thực sự cảm nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa thì sao mà có thể sống bon chen với đời! [font="%value"]
- Như vậy, theo đạo, tin theo lời dạy của người khác là an toàn. Dẫu có tin theo sai lầm thì cũng không phải tại mình vì mình đâu phải chịu trách nhiệm. Trách nhiệm đúng, sai, phải, trái, đổ lên đầu người rao giảng; còn mình thì cứ giả mù sa mưa, lạm dụng bất cứ lý thuyết, quan niệm nào có lợi cho cuộc sống, và cũng đem lại an bình tâm tưởng dẫu chỉ là giả tạo cho qua tháng ngày. Tất nhiên, Chúa chết thì Ngài đã chết, mình được hưởng hồng ân cứu độ một cách nhưng không, tha hồ thoải mái. [font="%value"]
- Thế sao cha nói đến mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu? [font="%value"]
- Anh đọc phúc âm mà có lẽ không để ý. Phúc âm nói rõ, mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43), và điều quan trọng nhất phúc âm nêu lên lại là “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33). Có bao giờ anh đặt vấn đề đức Giêsu đã rao giảng điều gì không? Có bao giờ anh đặt vấn đề Nước Trời là gì chưa để mà tìm kiếm? [font="%value"]
- Đúng rồi, cha nói tụi con theo đạo không sai chút nào. Đọc phúc âm thì đọc chơi chơi như đọc truyện kiếm hiệp, cho dù thấy phúc âm được viết nhiều khi khác thường thì cứ cho rằng đầu óc mình giới hạn chưa thể hiểu nổi, nói đúng ra không thể hiểu được lời Chúa nên lờ đi cho qua. Ai ngờ, cha mới nêu lên hai câu mà đã thấy như hét vào tai. Chẳng lẽ, các cha, các đấng bản quyền trong giáo hội không đặt vấn đề về những điều này? [font="%value"]
- Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Anh thử vô net, gõ tên Anthony De Mello, S.J. xem sẽ đọc được gì. Các vị ấy phải giữ mình gọn ghẽ trong giới hạn truyền thống; nếu trật ra ngoài chút xíu sẽ bị đội cho chiếc nón cối rối đạo hay lạc giáo to tổ bố và mất cái ghế chức vị của mình, xin lỗi, nói tục tằn nhưng thực tế một chút, trong khi ghế thì ít mà đít thì nhiều; cuộc đời nhân sinh là thế và không thế thì không được. Anh tưởng các vị ấy được đúc bằng đất nên không cần ăn uống mà vẫn có thể đứng vững vàng trên chiếc bệ ngoài trời không hề suy chuyển, tắm mưa chịu nắng, bị sương gió ngày này qua tháng khác dập vùi sao. Lẽ đương nhiên, là người thì sao thoát khỏi tham sân si; cái chức quyền, cái oai vọng hấp dẫn tuyệt vời với bất cứ ai dù ở nơi nào và thời đại nào. Tôn giáo phát xuất từ đạo học nhưng tham vọng thế tục nhảy vô cũng chỉ vì tôn giáo là tổ chức nhân sinh thì đành phải theo, phải lệ thuộc tham vọng, lề thói nhân sinh. Không theo lề thói nhân sinh thì nào ai biết tới. Tôi hỏi anh một câu đơn giản, nếu anh dám chân thực trả lời, nhiều chuyện sẽ được sáng tỏ. Anh thấy hệ thống tôn giáo dân chủ hay quân chủ? [font="%value"]
- Thưa cha, chắc chắn là quân chủ. [font="%value"]
- Chị nghĩ sao? [font="%value"]
- Sao cha có thể bới ra lắm thứ thế? [font="%value"]
- Có lẽ tại tôi tôn trọng Thánh Thần, không dám coi thường hồng ân của Ngài. Nhưng chị chưa nói nhận định của chị mà, lại cứ đấu tôi. [font="%value"]
- Thì tôn giáo cũng như gia đình, rõ ràng quân chủ. [font="%value"]
- Thưa cha, con nghĩ, anh chủ nhà lên tiếng; tôn giáo thuộc về tâm linh dẫu cần nhu cầu phát triển nhưng nhận xét cho kỹ, con thấy hình như toàn trị, coi chừng, ngu dân để trị. [font="%value"]
- Anh dám có nhận định như thế à; thử hỏi, không có thì lấy gì mà cho, mà rao giảng. Dù sao, đạo học đã xuất hiện vài ngàn năm qua; chẳng hạn phúc âm, ít nhất đã hai ngàn năm, mà cho đến bây giờ vẫn được coi như huyền nhiệm thì có thể nói chi. Anh không sợ bị họ kết án xuống hỏa ngục vì đã dám nói như thế sao? [font="%value"]
- Con chỉ học theo cha thôi, không dám coi thường hồng ân của Thánh Thần. Con đang cảm thấy tiếc nuối vì biết cha những mười mấy năm rồi mà chỉ vì kính nhi viễn chi con đã lỡ mang trọng tội khinh chê hồng ân của Thánh Thần, nên từ nay ăn năn hối cải không dám nữa. [font="%value"]
- Còn chị thì sao? [font="%value"]
- Cha làm đức tin của con lung lay. [font="%value"]
- Nói hay, tôi nói miệng tôi, đức tin của chị là gì chị có biết không; đúng là thuộc giòng Evà. [font="%value"]
- Con thuộc phái nữ mà, giống bà Evà thì có chi lạ. [font="%value"]
- Vậy chị có chấp nhận tội tổ tông không? [font="%value"]
- Làm gì có tội tổ tông, tội ngay nơi mình, ai cũng giống ai nên gọi là tội tổ tông để tránh né. Cha thông minh thật; cảm ơn cha nhá. [font="%value"]
- Sao phải cảm ơn, bổn phận của tôi mà, nhưng tại sao chị phải cảm ơn? [font="%value"]
- Cha nói ngang như cua nhưng hợp lý hợp tình, kích thích con phải suy nghĩ. [font="%value"]
- Chị không sợ rối đạo à? [font="%value"]
- Con đã rối từ bao lâu nay nào có sao đâu; rối vì tin theo. Đúng rồi, lúc nãy anh ấy nói tôn giáo là toàn trị, giờ con mới nhận ra. [font="%value"]
- Vậy chị không sợ rối vì đã rối mà vẫn chưa sao thì chị biết Chúa là gì chưa, và đã suy luận ra Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì chưa? [font="%value"]
- Hỏa ngục cũng ở trong Chúa thì Chúa là sự hiện hữu nơi mọi sự, nhưng Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng thì chưa. [font="%value"]
- Thế chị không chấp nhận bảo hiểm cứu độ à? [font="%value"]
- Con đã chấp nhận bao lâu nay rồi nhưng bây giờ lại đặt vấn đề Chúa cứu độ con thoát khỏi sự gì đã vì tội lỗi cũng là sự hiện hữu mà nếu thoát khỏi tội lỗi thì lọt ra ngoài Chúa không hợp lý lẽ nhận thức sự hiện hữu thì lấy căn bản nào mà suy tư. [font="%value"]
- Ai suy tư? [font="%value"]
- Hay, sao cha có được câu hỏi nghịch thường như vậy! Ai suy tư! Chẳng hiểu sao, câu hỏi của cha gợi về tâm trí con câu phúc âm, “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Ðấng đã sai Ta, không lôi kéo nó” (Gioan 6:44). Thiên Chúa là chính sự hiện hữu nơi con thì Thần Khí nơi con suy tư; như vậy linh hồn con là thần khí của Chúa; hèn chi bên đạo học Đông Phương gọi linh hồn là Thượng Đế nội tại. Như vậy, thưa cha, chẳng gì được gọi là có mình, vì mình là sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi dạng thức con người trong hành trình biến chuyển vô cùng của tạo vật, mà tạo vật lại là hiện thể của Thiên Chúa, của quyền lực tối thượng dưới những dạng thức khác nhau. Hình như, thưa cha, Kinh Thánh dùng ngôn từ không chỉnh, câu, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” có lẽ nên được viết thành, Thiên Chúa hiện thể thành con người theo hình ảnh của Ngài. [font="%value"]
Cha Lành cảm thấy ngạc nhiên vì suy luận quá nhanh của anh chủ nhà nên cảm thấy vui vui. Thần Khí của Chúa phải làm việc như thế; câu phúc âm nơi Marcô hiện về nơi tâm trí ngài, 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15), nên lên tiếng hỏi, [font="%value"]
- Thế anh đã tìm ra được Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì chưa? [font="%value"]
- Con mới chợt nghĩ được như thế chứ chưa kịp suy luận về Tin Mừng. [font="%value"]
- Thì cũng thế thôi. Tin Mừng đức Giêsu rao giảng đâu có ra ngoài Kinh Thánh. Tin Mừng đức Giêsu rao giảng được mệnh danh là Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời. [font="%value"]
- Vậy Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì, thưa cha? [font="%value"]
- Anh muốn tôi phạm tội phải không? [font="%value"]
- Thưa cha tội gì? [font="%value"]
- Tội ngăn chận người ta suy tư, tội cướp cơ hội thức ngộ của người khác, tội giải thích lời Chúa, giải thích Kinh Thánh, giải thích phúc âm theo nghĩa từ chương, tội khuyến khích người ta phạm đến Thánh Thần, coi chừng, sự khát khao nhận thức của anh trở thành cớ cho tôi vấp phạm. [font="%value"]
- Sao cha lại bới ra lắm thứ tội thế? Chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Coi chừng chị muốn xúi dục tôi trở thành Biệt phái hoặc Ký lục, cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết, không để Thánh Thần làm việc, ngăn cản Thiên Chúa dẫn dắt con người. [font="%value"]
- Thưa cha, lại chị chủ nhà phát thanh, anh ấy hỏi Nước Thiên Chúa là gì thì đâu mắc mớ gì tới tội nọ tội kia, rồi lại Biệt phái, ký lục với cốc lục. [font="%value"]
- Thôi được rồi, anh chị không muốn động não thì thử trả lời xem, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi sự và chúng ta được dạy, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì Nước Thiên Chúa là gì? [font="%value"]
- Chẳng lẽ Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa? Anh chủ nhà nói. [font="%value"]
- Vậy “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” là gì? [font="%value"]
- À, tiên vàn hãy nhận biết Thiên Chúa là gì. Tiên vàn hãy động não. Cảm ơn cha, chỉ có vậy mà con không biết. Đúng là tội lỗi bởi sự thiếu hiểu biết, thiếu động não mà ra. Hèn chi có câu, “Đa thọ, đa nhục,” nhục bởi vì không suy tư. [font="%value"]
- Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài; Thiên Chúa hiện thể thành con người nơi thế giới nhân sinh; Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người. [font="%value"]
- Hình như, thưa cha, nơi phúc âm có câu gì đó, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. [font="%value"]
- Nơi phúc âm Matthêu, đoạn 1, câu 23, được viết, “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Bản dịch NNThuấn). [font="%value"]
- Thưa cha, tên Ngài là Giêsu, tại sao lại nói người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel? [font="%value"]
- Câu này được trích từ sách tiên tri Isaiah đoạn 7 câu 14, “Cho nên chính Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này cô nương sê thụ thai và sinh con, và bà sẽ gọi tên con là Immanuel.” [font="%value"]
- Thưa cha, nói rằng “Người ta sẽ gọi Ngài” mới đúng; chứ nói rằng “Người ta sẽ gọi tên Ngài” có lẽ không hợp. Tên của Ngài là Giêsu, mà người ta gọi Ngài là Emmanuel thì Emmanuel là danh hiệu của Chúa Giêsu. Con làm công việc vẽ những căn công sở lớn lao, vài chục tầng, rộng rãi, những bãi đậu xe hết tầng trên đến tầng dưới nên người ta gọi con là kiến trúc sư, thì kiến trúc sư là danh hiệu của con chứ tên con đâu phải là kiến trúc sư. Thế nên, danh hiệu của Chúa Giêsu là Emmanuel, được dịch là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi, tất nhiên có liên hệ đến công việc của ngài, liên hệ đến Tin Mừng Ngài rao giảng. [font="%value"]
- Dĩ nhiên, danh hiệu nói lên sự việc một người thực hiện, hoặc thành quả cho quần chúng được hưởng lợi ích, hay mục đích người đó theo đuổi. Danh hiệu không giống biệt danh, cá tính. Danh hiệu mang nghĩa ảnh hưởng đến nhân quần; còn cá tính hay biệt danh nói về tính chất hoặc thói quen của một người được người khác nhận biết cho dễ phân biệt. [font="%value"]
- Theo cha nghĩ thì Emmanuel là danh hiệu hay là biệt danh của Chúa Giêsu? [font="%value"]
- Mục đích, cũng như công việc của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, và như anh suy đoán, thì danh hiệu của Ngài tất nhiên liên hệ tới Tin Mừng Ngài rao giảng. Thế nên Emmanuel là danh hiệu của Ngài chứ không phải là biệt danh hay tên ám chỉ tính chất con người của Ngài. Quan niệm Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể nào khác chi lối nói Thiên Chúa hiện thể làm người. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi sự thì nhập thể và hiện thể như nhau. Nói rằng nhập thể thường có nghĩa một sự thể bên ngoài trở thành. Nơi trường hợp đã sẵn có, sẵn hiện hữu thì hiện thể đúng nghĩa hơn. Do đó, ngôn từ nói lên quan niệm, nhận thức tùy thuộc người suy tư, suy nghĩ. Như vậy, nếu chúng ta quan niệm Thiên Chúa là một Đấng xa vời với loài người, sai Chúa Giêsu xuống thế làm người thì nói là Chúa Giêsu nhập thể làm người. Nếu nhận thức của anh về Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu nơi mình thì phải nói Chúa Giêsu là Thiên Chúa hiện thể làm người. [font="%value"]
- Cảm ơn cha, nói rằng Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài có nghĩa Thiên Chúa hiện thể thành con người theo hình ảnh của Ngài vì Thiên Chúa là sự hiện hữu, sự sống nơi mình. Như vậy, Chúa Giêsu chỉ lặp lại lời Kinh Thánh và đó là Thiên Chúa hiện thể thành mọi sự, nghĩa là mọi sự ở nơi, ở trong Thiên Chúa; mọi sự là một chứ không phải nên một. Là một vì tất cả, sự vật hữu hình cũng như vô hình đều là sự hiện hữu của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau nơi hành trình biến chuyển vô cùng. Hèn chi phúc âm được viết, Nước Thiên Chúa ở trong, ở giữa, ở trên các ông. Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở trong, ở giữa, và ở trên; hay nói gọn hơn sẽ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Như vậy, Emmanuel là danh hiệu của Chúa Giêsu và công việc, mục đích Ngài rao giảng chính là nói cho người ta biết Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi sự. Như thế, Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Quyền lực hiện hữu là Thiên Chúa nơi mọi người. Sao mọi tín hữu Kitô giáo đều được dạy là Chúa Giêsu được sai đến, chịu khổ hình, chịu chết để chuộc tội cho loài người, thưa cha. [font="%value"]
- Sao anh không hỏi thẳng Chúa Giêsu mà lại hỏi tôi. [font="%value"]
- Cha là chúa Kitô thứ hai mà. Chị chủ nhà chen vô. [font="%value"]
- Vậy anh chị không là chúa Kitô thứ hai, là hiện thể của Thiên Chúa, hiện thể của sự hiện hữu, sự sống nơi thế giới loài người ư! [font="%value"]
- Cảm ơn cha, anh chủ nhà nói. Như vậy, Tin Mừng Nước Trời do Chúa Giêsu rao giảng nói lên thực thể hiện hữu cao trọng của mọi sự chứ không phải chỉ nói về loài người. Biệt phái và Ký lục bị phúc âm kết án là phải, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13). Thưa cha, sao phúc âm kết án họ nặng thế; chỉ giảng giải sơ sơ mà, tin theo hay không tùy người nghe chứ họ đâu có quyền bắt người ta tin theo. [font="%value"]
- Nếu anh nghĩ như vậy, thử so sánh sự rao giảng của Biệt phái và Ký lục với những tổ chức tôn giáo ngày nay anh sẽ nhận ra. Nói chỉ có thế và cha Lành im lặng, từ từ hớp miếng rượu, đoạn lấy mì bỏ vô bát và dùng môi múc nước từ chão lẩu chan vào bát. [font="%value"]
- Sao cha không nói tiếp; chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
Ngài vẫn tỉnh queo lấy thêm ít rau nơi chão lẩu bỏ vô bát mì, từ từ ăn. Nhẹ ngẩng lên nhìn chị chủ nhà ngài hỏi nhẹ, [font="%value"]
- Chị muốn tôi nói gì? [font="%value"]
- Thì nói về tôn giáo và Biệt phái. [font="%value"]
- Chị muốn tôi trở thành Biệt phái hay Ký lục? Chị không nhớ anh chị đã nói là “Ngu dân để trị” à? Hay chị muốn tôi trở nên kẻ cướp? [font="%value"]
- Sao cha lại nói kẻ cướp? [font="%value"]
- Là kẻ ăn cướp cơ hội thức ngộ của người khác. [font="%value"]
- Cha nói đúng, anh chủ nhà nhẹ nhàng nói. Người ta rao giảng lời Chúa theo nghĩa từ chương, thế tục dưới dạng đạo đức và luân lý chẳng khác gì ban phát những gói mì ăn liền khiến dân Chúa tưởng rằng chỉ thực hành theo những lời giải thích thế tục là được cứu rỗi, cứu độ, được giải thoát khỏi những hình phạt như được răn đe; thế nên tín đồ không sử dụng suy tư để có được nhận thức về thực thể chính mình, về Thiên Chúa, về Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng. Đã từ lâu, con tin rằng phúc âm là lời Chúa Giêsu rao giảng về Tin Mừng Nước Trời; trong khi lại thấy phúc âm có những câu nghịch thường, không hợp lý, chẳng hợp tình, không thể áp dụng vào cuộc sống; chẳng những thế, phúc âm còn có những câu nghịch đạo lý nhân sinh. Đối diện với những trường hợp này, con đã nhiều lần tự hỏi, như vậy mà được gọi là Tin Mừng sao, khiến lòng luôn ấm ức vì có nỗi thao thức nào đó đánh động tâm tư chẳng chịu ngưng. Con nghĩ, được gọi là Tin Mừng thì điều được công bố phải làm cho lòng ruột, tâm tư con cảm thấy thảnh thơi, vui sướng hơn, chứ sao lại cứ như răn đe hoặc khuyến khích làm chuyện trái đạo lý nhân sinh. Nhìn vào thực tế, làm sao áp dụng câu, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì hãy móc nó đi, thà ngươi chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không chết và lửa không tắt” (Mc. 9:46-47). Thử hỏi làm sao áp dụng câu này nơi cuộc sống một người? Con thấy các đấng các bậc, các vị thuyết giảng, rao giảng phúc âm, mục sư, linh mục, có ai cụt tay hay chột mắt đâu; chẳng lẽ họ không bao giờ phạm tội. Thế nên lòng con ấm ức, Tin Mừng gì mà kỳ cục, phải được gọi là tin buồn mới đúng. Cảm ơn cha đã dự bữa tối với vợ chồng con, đã thách đố, khuyến khích con suy tư về một đôi câu nơi phúc âm. Thật là tuyệt vời, con cảm nhận được lời phúc âm nói về nỗi an bình mà thế gian không cho được. Có nên nói nữa không cha, con thấy không thể nói đúng được những gì con cảm nhận. Con cũng chợt cảm nhận được ý nghĩa câu nói “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri.” Thôi thì, con nghĩ, im lặng để an hưởng sự cảm nhận của lời Chúa là hay nhất. [font="%value"]
- Có lẽ bây giờ anh đã hiểu được Chúa Giêsu đến cứu độ chúng ta khỏi sự gì rồi phải không? [font="%value"]
- Vâng thưa cha, Ngài rao giảng Tin Mừng để giải thoát con người khỏi sự ngu muội, nhưng lại phải suy tư. Nhưng tại sao phúc âm không dạy con người suy tư, thưa cha. [font="%value"]
- Có chứ, thách đố chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa tức là ép chúng ta phải suy tư. Thêm nữa, nơi thư thứ nhất của thánh Phao lô gửi giáo đoàn Thessalônikê nói rất rõ phương pháp để suy tư được gọi nghiệm xét, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21), và nơi thư Côlôsê dạy về trạng thái tâm tư khi nghiệm xét, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). [font="%value"]
- Ah! Hình như cũng nơi thư nào đó của thánh Phao lô có câu gì đó nói mình là đền thờ của Thiên Chúa, cha có nhớ không? [font="%value"]
- Câu đó nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corinthians, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). [font="%value"]
- Hèn chi cha nhắc đến tội phạm Thánh Thần. Sao thánh Phao lô viết ra được như thể, thưa cha? [font="%value"]
- Thì ngài nghiệm xét mọi sự. [font="%value"]
- Cha làm ơn nhắc lại câu gì đó nói nghiệm xét… [font="%value"]
- Nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalonians, thánh Phao lô viết, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21). [font="%value"]
- Điều dữ là điều gì trong khi suy tư, nghiệm xét, thưa cha? [font="%value"]
- Anh mê thánh Phao lô rồi phải không. Có điều, người ta đã không để ý; đó là bất cứ tư tưởng, ý nghĩ, nhận định, nhận thức nào phát sinh trong khi suy tư đều không đúng, không sai; vì chúng là sự hiện hữu. Chúng bị hay được coi là đúng, sai, phải, trái chỉ khi nào được nói ra, được thực hiện nơi thế giới hữu vi, nhân sinh, thế tục. Được gọi là điều dữ trong suy tư có nghĩa không hợp lý, hợp tình, không chấp nhận được hoặc làm phiền đến dòng lý luận, không thuận phản biện. Đây là lý do tại sao phúc âm có câu, “Nếu mắt phải các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi” (Mc. 9:46). [font="%value"]
- Con hiểu rồi, những câu phúc âm nghịch thường nói về diễn trình, hành trình suy tưởng, hành trình tâm linh. Giời, hèn chi không thể áp dụng vào thực tại; hèn chi ngăn cản vào Nước Trời. Còn câu gì ở thư Côlôsê nói về theo đức Kitô thưa cha! [font="%value"]
- Nơi thư Côlôsê dạy, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). [font="%value"]
- Như vậy, truyền thống cũng không có chỗ đứng trong khi suy tưởng, có nghịch với giáo hội không, thưa cha. Thế sao các cha thường nhắc đi nhắc lại là “Chúng ta phải tin với giáo hội.” [font="%value"]
- Anh quên là trong khi suy tưởng, mọi ý nghĩ đều không đúng, không sai, chúng hiện hữu. Vấn đề chỉ là lợi và hại, hợp lý hợp tình đối với suy tư; thánh Phao lô gọi là điều lành hãy giữ lấy, và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào. [font="%value"]
- Thưa cha, hình như thánh Phao lô học nơi đạo học Đông Phương. Nếu con nhớ không lầm, nơi cuốn sách nào đó của bên Đông Phương có nhắc đến 10 điều không nên tin. Hình như tên cuốn sách là Tăng Nhất gì đó. [font="%value"]
- Đúng, nơi cuốn Tăng Nhất Tập có đề nghị, “Đừng tin điều gì do kinh sách. Đừng tin điều gì do tập quán lưu truyền. Đừng tin điều gì vì được người ta nhắc đi nhắc lại. Đừng tin điều gì do bút tích của thánh nhân. Đừng tin điều gì do người ta tưởng tượng ra rồi gán cho thần phật nói. Đừng tin điều gì vì uy tín của thày dạy. Nhưng hãy tin vào điều các con đã từng trãi, đã kinh qua và suy xét cho là đúng, có lợi cho các con và kẻ khác. Lòng tin ấy sẽ thăng hoa đời con, và các con hãy lấy đó làm tiêu chuẩn.” [font="%value"]
- Con thấy nơi đạo học Đông Phương, các tác giả, dịch giả dùng ngôn từ nghiệm chứng, thực chứng thì nơi thư thánh Phao lô dùng nghiệm xét, tiếng Anh dùng chữ “Test.” Và thay vì nói đàng tả, rõ ràng, nơi thư thánh Phao lô được dùng “Thể thống người phàm, cách vật trí tri” có thể làm khó cho người tìm hiểu. [font="%value"]
- Anh nói cũng đúng, nhưng sự khôn ngoan đâu phải của riêng ai; chân lý đâu thuộc về chỉ một dân tộc nào. Tất cả các kinh sách đạo học chỉ là những tập ghi lại kết quả hay thành quả nhận thức một cách ám định và chỉ những ai suy tư, nghiệm xét mới có thể nhận thức được. Nhận ra như thế, anh hiểu tại sao khi anh nói tôn giáo ngu dân để trị, tôi không có ý kiến gì; vì dẫu tôn giáo phát sinh từ đạo học nhưng tôn giáo chỉ là những tổ chức nhân sinh bao gồm đủ mọi thành phần tín đồ. Điểm chung của tôn giáo là lòng khát khao nhận thức thực thể con người liên hệ với thực thể cội nguồn của sự hiện hữu dù được mệnh danh dưới bất cứ danh hiệu nào. Thử hỏi, dẫu những bậc trí thức, khoa bảng mà không suy tư thì sao có thể nhận thức, sao có thể ngộ được. Chẳng hạn rõ ràng, mỗi người chúng ta tin có linh hồn mà sao đã bao triệu triệu năm, con người vẫn chỉ chấp nhận mình có linh hồn nhưng không sách vở nào được viết minh chứng về linh hồn. Nơi Đông Phương, dẫu gọi linh hồn với danh hiệu khác chẳng hạn “Tâm, cái tâm, thượng đế nội tại, linh tính” thì cũng diễn tả theo lối ám định để những ai suy tư, nghiệm xét nhận biết. Thế nên, vấn đề căn bản được nhận ra chính là làm cách nào để con người sử dụng suy tư tâm linh chứ không phải giải thích kiến thức. Tôi thử hỏi anh, đã bao lần tham dự những hội họp, nghi thức, tĩnh tâm, tĩnh huấn, thuộc các tổ chức tôn giáo anh đã nghe thấy lời cổ võ nghiệm xét, suy tư không. Có thể rằng người ta tránh nói đến sự thực nghiệm này vì e đụng chạm tự ái thính giả, hoặc cũng có thể chính diễn giả, các vị rao giảng, lý thuyết gia đã không suy tư, nghiệm xét mà chỉ như chiếc máy ghi âm phát lại những kiến thức, coi kinh sách đạo học như những tri thức tác phẩm thì biết nói sao đây. Cha Lành thở dài. [font="%value"]
- Nhưng thưa cha, sao chúng con được dạy là Chúa Giêsu được sai đến để chịu chết chuộc tội cho nhân loại. [font="%value"]
- Vậy theo anh, Chúa Giêsu được sai đến để làm gì? [font="%value"]
- Con có nên học theo lối trả lời của cha không? [font="%value"]
- Anh muốn nói là tại sao không hỏi Chúa Giêsu mà lại hỏi anh phải không? [font="%value"]
- Cha biết con còn rõ hơn con. [font="%value"]
- Anh bị lừa rồi, tôi hỏi là theo nhận định của anh về sự kiện Chúa Giêsu đến thế gian chứ tôi không hỏi lý do Chúa Giêsu nhập thế. [font="%value"]
- Hèn chi cha là linh mục, chị chủ nhà im lặng đã lâu chợt lên tiếng, đúng là mỗi cha một lý đoán. [font="%value"]
- Chị phân tích câu nói của chị coi tại sao chị lại nói mỗi cha một lý đoán. [font="%value"]
- Thưa cha, cha hỏi theo nhận định của anh ấy thì không lệ thuộc bất cứ kinh sách, lý thuyết, nhận định, tri thức, kiến thức nào thì sao mà trả lời. Không, xin lỗi cha, đúng rồi, câu trả lời phải là nếu xét theo khía cạnh nhận thức thì Chúa Giêsu thức ngộ quá cao. Hèn chi phúc âm khó hiểu. [font="%value"]
- Phúc âm được viết do tổ hợp một cộng đồng chứ không phải do một người dẫu được đặt tên một vị. Chẳng khác gì tôi hỏi một đàng chị trả lời một nẻo mà chỉ có thể trả lời cách đó. Phúc âm là diễn trình kết nối những công án dùng Chúa Giêsu làm đề mục để chỉ dẫn hành trình thức ngộ, hành trình nghiệm xét được gọi là hành trình đức tin vì cao điểm của phúc âm chính là đức tin, quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Tuy nhiên, biết thì tạm gọi là biết thế nhưng làm sao để sử dụng được đức tin, quyền lực của Thiên Chúa nơi mình thì tôi chưa biết. Đó là thực trạng nơi tôi; người khác thì tôi càng không biết. [font="%value"]
- Thì cầu nguyện, cầu xin. Chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Với ai? [font="%value"]
- Thì với Chúa, chứ cha còn muốn cầu với ai. [font="%value"]
- Tôi tưởng chị cầu xin với vị thánh nào chứ với Chúa thì Chúa ở nơi mình nghĩa là sao? [font="%value"]
- Như vậy là bày tỏ điều mình muốn với chính mình, anh chủ nhà lên tiếng, tức là sử dụng quyền lực của ý định, ước muốn. [font="%value"]
- Phúc âm được viết, "Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta. Vậy các người hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi. Và này Ta sẽ ở với các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28:18-20), anh chị nghĩ thế nào về câu này. [font="%value"]
- Thưa cha, đây là mệnh lệnh của Chúa để thiết lập giáo hội và Chúa hứa luôn luôn hiện diện với giáo hội cho tới tận cùng. Anh chủ nhà trả lời. [font="%value"]
- Nhà anh chị có cuốn Kinh Thánh không? [font="%value"]
- Có chứ, thưa cha, để con lấy. [font="%value"]
- Chị làm ơn, cha Lành nói. [font="%value"]
Khi chị chủ nhà mang cuống Kinh Thánh dầy cộm, bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn đến bàn ăn, cha Lành nói tiếp, [font="%value"]
- Chị làm ơn mở đoạn cuối của phúc âm Matthêu, đoạn 28, câu 18, và đọc lên xem thế nào. [font="%value"]
Chị chủ nhà lật sách, im lặng đọc, đoạn lên tiếng, [font="%value"]
- Thưa cha, tại sao Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cũng đồng bản tính với đức Chúa Cha, là một, mà lại nói, "Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta,” Chúa là Thiên Chúa thì ai có thể ban? Nói thì nói nhưng mắt chị vẫn chăm chăm nhìn vào mấy hàng chữ của cuốn Kinh Thánh. [font="%value"]
- Chị hỏi tôi thì tôi hỏi ai! “Vậy các người hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi. Và này Ta sẽ ở với các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28:18-20); Chị đọc lớn tiếng. [font="%value"]
- Thưa cha, nếu con không lầm thì trong cả bốn phúc âm, không có câu nào nói Chúa Giêsu rửa tội cho bất cứ ai; chỉ có Gioan rửa cho Chúa Giêsu; thế sao Ngài sai môn đồ đi thanh tẩy cho người khác. Thưa cha, vậy thánh Giuse có được rửa tội không thưa cha, và ai rửa cho ngài; thế sao chúng con được dạy ngày còn nhỏ rằng không được rửa tội thì không được vào nước thiên đàng. Vậy thánh Giuse hiện giờ đang ở đâu? Sao có bài hát lại gọi “Thánh cả Giuse quyền cao sang, rầy đang no đầy ơn phúc trên ngai vàng?” Anh chủ nhà đặt vấn đề. [font="%value"]
- Hình như mấy câu này được viết thêm, chị chủ nhà ngập ngừng giáng một câu, chứ nói rằng, "Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta,” thì phi lý luận. Nếu nói rằng Chúa Giêsu được ban thì chỉ minh chứng Chúa Giêsu không phải Thiên Chúa mà chỉ như chúng ta. [font="%value"]
- Tại sao chị lại nói như thế? [font="%value"]
- Thưa cha, vì nếu Thiên Chúa là chính sự hiện hữu, sự sống nơi mình thì Chúa Giêsu cũng thế; một Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi Chúa Giêsu cũng chính là Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Tất nhiên, quyền năng của Thiên Chúa hoạt động nơi Chúa Giêsu cũng chính là quyền năng đang hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Như vậy, như vậy… [font="%value"]
- Như vậy mình là Thiên Chúa à? [font="%value"]
- Mình là hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức nhân sinh, hiện thể của quyền lực sự sống, sự hiện hữu, nào có khác chi Chúa Giêsu, anh chủ nhà đế vô. Thêm nữa, nói theo bên đạo học Đông Phương, linh hồn của mình là Thượng Đế nội tại, thì nói rằng, "Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho,” hay đã có sẵn nơi các ngươi, cũng chỉ là cùng một lối phát biểu nhưng khác ngôn tử. Anh chủ nhà đỡ lời vợ. [font="%value"]
- Anh có thể minh chứng được không?” [font="%value"]
- Hình như phúc âm cũng có câu, “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời." [font="%value"]
- Như vậy nghĩa là sao? Cha Lành hỏi tiếp. [font="%value"]
- Thưa cha, chị chủ nhà hỏi, câu anh ấy nói cha có nhớ ở đâu không? [font="%value"]
- Chị thử rở phúc âm Matthêu đọan 16 xem có không. [font="%value"]
Chị chủ nhà rở sách và đọc, [font="%value"]
- “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 16:19), đoạn nói, đây là Chúa ban quyền cho thánh Phêrô mà, thưa cha. [font="%value"]
- Chị thử đặt lại vấn đề ai có quyền cầm buộc và sự cầm buộc này ai là người chịu cầm buộc thì sẽ thấy. Nếu người nào, hay đấng bậc nào, ngay như cha mẹ chị, giả sử, ra điều kiện, ngay bây giờ, bắt buộc chị phải bỏ anh ấy và các con chị thì chị có chấp nhận bị cầm buộc bởi điều kiện này không? [font="%value"]
- Thưa cha, đâu có ai ra điều kiện vớ vẩn như thế. [font="%value"]
- Tôi nói là giả sử, vậy sao người ta ly dị đầy ra đấy, ít nhất cỡ năm mươi phần trăm. [font="%value"]
- Đó là người ta không thể chấp nhận sống với nhau được nữa vì bất cứ lý do nào đó. [font="%value"]
- Vậy ai có quyền cầm buộc, bắt họ phải ly dị? [font="%value"]
- Họ muốn, họ chịu đựng không được nữa chứ đâu ai bắt, đâu ai cầm buộc. À, thưa cha, chính ước muốn của họ. [font="%value"]
- Ước muốn của họ bắt nguồn từ đâu? [font="%value"]
- Từ sự không chịu đựng được thực tại cuộc sống. [font="%value"]
- Đấy là nguyên nhân, nhưng quyết định, ước muốn phát xuất từ đâu, nếu không phải từ linh hồn. Nhận thức thực thể này, anh chị thấy, ước muốn, ý định của anh chị dẫn dắt cuộc đời anh chị; nói cách khác, anh chị chỉ bị cầm buộc bởi ước muốn của mình. Thế nên, khi xác thân trở nên già yếu, không giúp cho linh hồn thực hiện được những ước muốn và phải bị đào thải, gọi là sự chết, thì linh hồn vẫn tiếp tục theo đuổi ước muốn của mình. Nói cho đúng, những gì chúng ta theo đuổi khi còn sống, linh hồn vẫn tiếp tục theo đuổi khi thân xác đã chết. “Điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời," đúng chưa? [font="%value"]
- Sao cha dám phân tích những câu nói phúc âm một cách riêng biệt, không tùy thuộc cơ cấu của đoạn văn như thế? [font="%value"]
- Nếu không thế, sao có thể chấp nhận được, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”? Tôi đã giải thích, phúc âm được viết do những cộng đồng dân Chúa chứ không phải là tác phẩm của một người. Phúc âm bao gồm những công án được sắp xếp và dùng Chúa Giêsu như đầu mục để dẫn dắt con người nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin; thế nên có những kết luận rất nghịch thường vì những câu công án này là thành quả của nghiệm chứng, nghiệm xét, suy tư. Không đặt vấn đề, không suy tư, sẽ thấy phúc âm nói những điều không tưởng. [font="%value"]
- Hèn chi cha nhắc đến nghiệm xét và điều kiện của tâm trí khi suy luận, nghiệm xét, qua thư của thánh Phao lô. Thưa cha, sao thánh Phao lô không phải giữ luật “Chúng ta phải tin với giáo hội”? Bộ ngài đã được rửa tội nhưng không giữ luật Công giáo à? [font="%value"]
- Anh chị có biết thánh Phao lô theo đạo nào không? [font="%value"]
- Ngài đạo Do Thái bị quất ngã ngựa, được Chúa Giêsu sai đi rao giảng cho những người ngoại; nên ngài được gọi là vị thánh của dân ngoại mà. Con nghĩ, nếu không có ngài, chúng ta đâu biết được Chúa Giêsu; vì các tông đồ chỉ được sai đi rao giảng cho những con chiên lạc của Israel mà thôi. À, thời kỳ đó chưa có đạo Công giáo. [font="%value"]
- Thế anh có biết tại sao các môn đồ chỉ được sai đi rao giảng cho người Do Thái không? [font="%value"]
- Thưa cha, nơi phúc âm Matthêu, các môn đồ được sai đi rao giảng cho muôn dân mà! [font="%value"]
- Hèn chi chị chỉ được gọi là bà vợ ông kiến trúc sư chứ không phải là kiến trúc sư. [font="%value"]
- Con… [font="%value"]
- Bộ tôi nói không đúng sao? Vậy chị có thể giải thích tại sao nơi bữa tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu phải làm phép lạ biến nước thành rượu không? [font="%value"]
- Tại người ta thiếu rượu. [font="%value"]
- Không đúng, tại chị không biết uống rượu. [font="%value"]
- Sao lại là tại con, ngày đó con còn chưa có trứng mà. Chị chủ nhà thấy cha Lành diễu nên cũng lý luận. [font="%value"]
- Chị không biết uống rượu nên chị không trả lời được thì cũng là điều tự nhiên. Sở dĩ Chúa Giêsu phải biến nước thành rượu vì rượu ngon hơn nước lã. [font="%value"]
- Con nghĩ, vì được viết thêm, chứ người ta thiếu rượu mắc mớ gì tới đức Mẹ. Đàng khác, câu truyện tiệc cưới Cana chứng tỏ cho mọi người biết quyền năng của Chúa Giêsu một cách đương đường giữa công chúng trong khi những chuyện cả thể hơn, Ngài đều ngăn cấm các môn đồ không được nói cho ai biết. [font="%value"]
- Vậy thì tại sao Chúa Giêsu chỉ sai mười một tông đồ đi rao giảng cho người Do Thái? [font="%value"]
- Tại các ông ấy dốt, không đủ khả năng đấu hót với dân ngoại. Anh chủ nhà mỉm cười trả lời. [font="%value"]
- Tôi nghĩ, có lẽ các tông đồ của Chúa còn bị nặng nề ảnh hưởng bởi luật Do Thái, không dám suy tư, không dám nghiệm xét. Nói cho đúng, không suy tư, không nghiệm xét vì không biết gì về nhận thức nơi đạo học Đông Phương chẳng khác chi chúng ta. Thôi được rồi, nhờ chị rở phúc âm thánh Luca, đoạn 10, đọc từ câu 25 đến hết câu truyện. [font="%value"]
Chị chủ nhà rở Thánh Kinh và đọc, [font="%value"]
Thỉnh vấn về điều răn trọng nhất [font="%value"]
25 Và này một luật sĩ đã chỗi dậy, và muốn thử Ngài thì nói: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp?" 26 Nhưng Ngài nói cùng người ấy: "Trong Lề luật đã viết gì? ông đọc làm sao?" 27 Ðáp lại người ấy nói: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi, và hết trí khôn ngươi, và đồng loại ngươi như chính mình". 28 Ngài nói với người ấy: "Ông đã trả lời cách chí lý. Hãy làm thế và sẽ được sống". [font="%value"]
Ví dụ người Samari nhân hậu [font="%value"]
29 Người ấy muốn biện chính cho mình thì nói cùng Ðức Yêsu: "Nhưng ai là đồng loại của tôi?" 30 Tiếp lời, Ðức Yêsu nói: "Người kia từ Yerusalem xuống Yêricô, và đã sa vào ổ cướp; chúng lột hết áo xống và đánh nhừ tử người ấy, đoạn chúng bỏ mặc người ấy nữa sống nữa chết mà đi mất. 31 Tình cờ, một tư tế nọ cũng xuống theo con đường ấy, nhưng thấy người kia, ông tránh một bên mà đi qua. 32 Cũng vậy một Lêvit đến nơi, thấy thế cũng tránh một bên mà đi qua. 33 Một người Samari nọ, nhân đi qua đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, 34 tiến lại mà ràng buộc thương tích người ấy, sau khi đã đổ dầu và rượu; đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy. 35 Sáng hôm sau, rút hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo: "Ông hãy săn sóc người ấy, và phải tiêu pha gì thêm, thì chính tôi, vòng về, tôi sẽ trả ông". 36 Vậy theo ý ông, thì ai trong ba người ấy đã nên đồng loại của người sa vào ổ cướp?" 37 Ông ấy đáp: "Kẻ đã xử nhân nghĩa với người ấy". Ðức Yêsu nói với ông: "Cả ông nữa, hãy đi và làm như thế!"(Lc. 10:25-37). Thưa cha hết; chị chủ nhà nói. [font="%value"]
- Hai đoạn phúc âm này, anh chị nghĩ thế nào? Cha Lành hỏi. [font="%value"]
- Thì rõ ràng Chúa Giê su dạy thực hiện những hành động yêu thương, thưa cha, chị chủ nhà nói. [font="%value"]
- Anh nghĩ thế nào? [font="%value"]
Anh chủ nhà trầm ngâm suy nghĩ, rõ ràng đoạn phúc âm này kể về chuyện một người hỏi phải làm gì để được sống đời đời. Lề luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương đồng loại như mình; lại được minh chứng hành động của người Samari giúp người bị nạn, mà ngài lại còn hỏi, chắc có ẩn ý gì. Anh im lặng suy nghĩ, nhưng không biết suy nghĩ thế nào, đành trả lời. [font="%value"]
- Thưa cha, đoạn phúc âm nói lên rất rõ ràng về yêu thương, từ lề luật đến câu chuyện người Samari tốt lành và lời dạy hãy làm như thế. Xưa nay con vẫn được nghe giảng hãy kính mến Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, có đôi lần con tự hỏi tại sao thầy tư tế và thày Lêvit lại tránh đi và không giúp đỡ kẻ gặp nạn. Có cha lên án thầy tư tế khiến con nghĩ vậy cha đang giảng là ai, không là tư tế thì là gì, và rồi cũng bỏ qua. Nói cho đúng, con đã chẳng nghĩ được điều gì khác. Phỏng nơi trường hợp đối diện với nỗi khốn cùng của kẻ khác mà không đưa tay hay tìm cách giúp đỡ có thể là một lỗi phạm không, thưa cha. [font="%value"]
- Vậy đoạn phúc âm này kể về vị tư tế và thày Lêvi để làm gì, có họ hay không có họ nào có dính dáng chi đến câu chuyện đâu! Vậy mà phúc âm gán vô, tất phải có lý của nó. Khi anh tính toán một công trình, anh có thừa hơi mà thêm vào những sự không cần thiết không? Chủ nhân một công trình muốn được vẽ vời thế nào là chuyện của ông bà ta, nhưng anh có vẽ những gì ngoài điều đã được đặt vẽ không? [font="%value"]
- Cha muốn nói đến vị tư tế và thày Lê vi? Cha đặt vấn đề có lý, đang nói về yêu thương lại gán ép thêm vị tư tế và thày Lê vi vô tích sự. Phúc âm được viết bởi một cộng đồng chứ không phải một tác giả, một nhà văn; gán ép thêm vô để làm gì. Thưa cha, tại sao vị tư tế và thày Lê vi lại tránh sang một bên mà đi qua, không ngó ngàng gì đến người nửa sống, nửa chết bên đường? [font="%value"]
- Anh chị đang chạy xe trên đường, gặp người đi bộ hoặc gặp người xin đi nhờ xe mà không biết gì về họ, anh chị có cho họ đi nhờ không? [font="%value"]
- Không đâu cha, lỡ ra thì sao. Con nghe nói đã có nhiều chuyện chẳng nên đã xảy ra vì cho đi nhờ xe. Có ông kia, thấy chị nọ đứng bên đường xin đi nhờ xe, dừng lại, cho chị ta lên xe và sau đó chị ta cởi phanh áo ra tống tiền, nếu không gọi cảnh sát nói ông ta làm nhục; và thế là ông ta phải trả giá cho lòng tốt của mình trăm mấy bạc. Lại cũng có người bị đánh và xe bị cướp. Ngày xưa, con cũng cho một số người đi nhờ nhưng từ khi nghe thấy những chuyện chẳng nên, đành thôi, dẫu lắm lúc cảm thấy họ đáng thương. [font="%value"]
- Thế thì anh không thực hành yêu thương đồng loại như chính mình. [font="%value"]
- Đành chấp nhận mình vô cảm thôi, thưa cha. Ngay đến những người cầm bảng xin tiền tại những ngã ba, ngã tư đèn đỏ hay lối rẽ có đèn lên xa lộ, thấy họ đáng thương nhưng sống nơi đất nước này mà phải xin tiền là điều phi lý. Con nghe nói, có những người “Homeless” là kỹ sư, bác sĩ lận, nhưng coi chừng cho tiền họ chỉ làm hư họ đi nên cứ lờ đi dẫu thấy họ rất cảm thương. Nhưng nếu con không lầm, hình như có điều luật gì ngăn cản vị tư tế và thày Lê vi nơi phúc âm. [font="%value"]
- Anh nói đúng, đó là luật nhơ uế. Đọc nơi sách Lê vi và sách Nhị Luật anh sẽ thấy; những con vật chết ngoài trời đều bị coi là nhơ uế; ai đụng đến cũng bị nhơ uế. Người chết cũng là nhơ uế. Dù cho mẹ vị tư tế chết, nếu vị tư tế đang trong thời kỳ hành sự nhiệm vụ cũng không được bước vào căn nhà có mẹ vị tư tế qua đời vì căn nhà đó đã trở thành nhơ uế. Vị tư tế và thày Lê vi họ biết lề luật nên phải giữ. [font="%value"]
- Như vậy đoạn phúc âm này được viết chống lại luật nhơ uế; nói cho đúng, tất cả những gì, luật lệ nào, ngăn cản con người thực hiện lòng yêu thương đều đáng bị xóa bỏ, không nên có. Kể ra phúc âm viết quá thâm trầm. [font="%value"]
- Thưa cha, cầu nguyện liên lỉ là cầu nguyện thế nào? Chị chủ nhà bỗng hỏi. [font="%value"]
- Có phải chị đang đọc thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalônikê không? Trong bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn được viết là “Đừng ngớt cầu nguyện” mà. [font="%value"]
- Cha nói đúng, con chỉ đổi ngôn từ cho thêm vẻ văn chương thôi. Nhưng đừng ngớt cầu nguyện hay cầu nguyện liên lỉ là cầu làm sao. [font="%value"]
- Có phải mấy câu tiếp theo là “Đừng dập tắt thần khí. Đừng khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự” phải không? [font="%value"]
- Cha nói đúng, sao cha nhớ giỏi thế? [font="%value"]
- Chẳng giỏi gì đâu, tôi cày nó tới lui chẳng biết bao nhiêu lần nên nhớ thôi. Cứ theo lời thư thì cầu nguyện liên lỉ theo chị nói là ca tụng Thiên Chúa trong mọi dịp. Tuy nhiên, muốn ca tụng Chúa thì lại cần phải biết Chúa là gì; nghĩa là phải suy tư. Nếu chị để ý, chỉ suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét, một vấn đề gì mới có thể suy tư liên lỉ được. Do đó, tôi đề nghị, chị hãy suy nghĩ về bất cứ câu nói nào đã đánh động tâm tư chị, suy nghĩ cho đến tận cùng khi nào có được giải đáp hợp lý, hợp tình mới thôi. Nghĩa là khi tự chị thực sự nhận thức được câu đó, chị sẽ thấy mọi sự được phơi bày nơi nhận thức của chị. Thí dụ, câu nói của Huệ Thi, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Hoặc câu phúc âm, “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày giờ nào chủ các ngươi đến” (Mt. 24:42). Những câu nói loại này sẽ dồn tâm trí chị vào góc tối suy tư, hay đến khi chị không thể suy nghĩ được gì nhưng cứ đối diện với nó. Sẽ tới lúc nào đó, sự việc gì hoặc điều chi chẳng khác gì cơ hội đánh thức tâm thức chị cảm được nó, chị sẽ thức ngộ. Nói thì chỉ có thể nói vậy; tôi thử đưa ra thí dụ, chị có nhớ dụ ngôn mười nàng trinh nữ không? [font="%value"]
- Nhớ chứ thưa cha, năm nàng được gọi là khôn ngoan, năm nàng bị gọi là khờ dại. [font="%value"]
- Tại sao năm cô bị gọi là khờ dại? [font="%value"]
- Tại họ ngủ quên nên để đèn cháy hết dầu. [font="%value"]
- Tại sao hết dầu? [font="%value"]
- Tại họ không đem dầu theo. [font="%value"]
- Tại sao không đem dầu theo. [font="%value"]
- Tại họ đâu có ngờ chàng dể đến trễ. [font="%value"]
- Tại sao không ngờ? [font="%value"]
- Tại không suy nghĩ. [font="%value"]
- Vậy thì dụ ngôn mười nàng trinh nữ chủ đích khuyến khích người đọc về sự gì? [font="%value"]
- Phải suy nghĩ, suy tư. Không suy tư bị gọi khờ dại. [font="%value"]
- Dễ mà, thử câu phúc âm khác, "Và này có những người cuối hết sẽ nên đầu hết, và có những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết." [font="%value"]
- Câu phúc âm này ở đâu, thưa cha? [font="%value"]
- Chị thử rở phúc âm Luca đoạn 13 câu 30 xem. [font="%value"]
Chị chủ nhà in lặng đọc một lúc, đoạn nói, [font="%value"]
- Đoạn phúc âm này khuyên đi con đường hẹp mà sao lại cuối hết sẽ nên đầu hết và đầu hết sẽ nên cuối hết! [font="%value"]
- Chị có biết cửa hẹp là thế nào không? [font="%value"]
- Thưa cha, con nghĩ có lẽ cũng giống như câu, “Lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời" (Mt. 19:24) phải không cha? [font="%value"]
- Thế chị có biết có mấy điều, mấy sự thể trên thế giới này Chúa không biết không? [font="%value"]
- Thưa cha, nhiều chứ; Chúa ở nơi mình, mình không biết thì Chúa cũng không biết. [font="%value"]
- Thì cứ như con đà điểu rúc đầu vào bụi rậm để tưởng được an toàn và để cả thân mình đồ sộ bên ngoài cho người ta tóm lấy là giải quyết được hết mọi sự sao! [font="%value"]
- Sao đang nói đến những sự Chúa không biết cha lại tả cảnh con đà điểu rúc đầu vào bụi rậm? [font="%value"]
- Tôi nói đến con đà điểu tôn giáo ấy chứ; cứ tin tưởng vào bụi rậm cứu độ, tưởng rằng lòng mình cảm thấy yên ổn một cách giả tạo thì mọi sự đã được giải quyết an toàn. [font="%value"]
- Thưa cha, phúc âm nói cửa hẹp mà. [font="%value"]
- Bụi rậm không hẹp hơn cửa hẹp à? [font="%value"]
- Từ lúc nói chuyện đến giờ, con thấy hình như cha dùng phương pháp đỡ đẻ của Plato hay Aristotle để khích tướng hay thách đố suy tư. Nhưng cái cửa hẹp phúc âm đề nghị này mông lung quá, con không biết đường nào mà suy. Anh chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Phúc âm đâu nói chi chuyện người khác mà dùng chuyện người khác nói về chính mình, ngay nơi tâm tư, ngay nơi lòng mình. Thế điều gì nơi anh khó nhất đối với chính anh? Tiền bạc, gia tài, nhà cửa, những gì ngoại thân đều là phương tiện trong cuộc sống; đôi khi dẫu khó khăn lúc này nhưng vẫn có thể giải quyết lúc khác. Thế anh có bao giờ đặt vấn đề mình là người thế nào chưa? Chắc chắn anh đã có lần đọc được câu, “Kẻ thù tệ hại nhất của tôi là chính tôi.” Coi chừng điều bình thường nhất lại là điều khó nhất nơi cuộc đời trong diễn trình suy tư, nghiệm xét. [font="%value"]
- Cha nói thế con mới nhớ lại, có lần đọc nơi đâu đó nói công án lớn nhất lại là câu hỏi đơn sơn nhất “Tôi là ai?” [font="%value"]
- Gọi là công án hay cửa hẹp thì cũng chỉ là một danh hiệu mà thôi. Cái cửa hẹp thênh thang ngay nơi chính mình mà không lọt qua được, không thực sự nhận biết được thì sao có thể suy tư, nghiệm xét bất cứ gì ngoài mình. Cầu nguyện hỏi Chúa thì Chúa cũng không trả lời được vì Ngài không có cái miệng ăn nói giống như mình. Miệng của Chúa chính là sự suy tư, nghiệm xét của mình. [font="%value"]
- Nhưng thưa cha, sao phúc âm lại nói, “Có lắm kẻ sẽ tìm cách vào, nhưng không thể được" (Lc. 13:24). Chẳng lẽ họ không biết họ là ai! Chị chủ nhà nói. [font="%value"]
- Chị đã bao giờ thử trả lời câu hỏi “Tôi là ai” chưa. Đâu phải vô lý mà có người cho nó là công án lớn nhất. Tôi chỉ thử đưa ra một thí dụ, nếu nghe bất cứ ai nói về hay giải thích bằng bất cứ kiểu cách hay thí dụ nào về món vòi voi chấm bột hột cải pha với xì dầu, chị có thể no bụng được không. Không sách vở nào có thể giải thích, giải nghĩa giúp chị nhận thức về chính chị được. Đâu phải đơn giản mà phúc âm nói hãy chọn con đường hẹp và có lắm kẻ sẽ tìm cách vào nhưng không thể được. Thực ra, những câu coi bộ ngờ nghệch, nghịch thường, nhưng chính tính chất ngờ nghệch ấy đã không được suy tư mà bị giải thích theo nghĩa thế tục, hay theo nghĩa đạo đức, luân lý đã bị phúc âm lên án là khóa Nước Trời lại, không để người ta váo. Nói cho đúng, giải thích không được, suy tư cũng không được mà chỉ thực hành mới có thể được. Tôi đề nghị, lúc nào đó, chỉ có mình chị, lấy một tờ giấy, vạch một đường từ trên xuống dưới chia tờ giấy ra làm hai. Một bên, chị viết tất cả những gì về chị được chị cho là thánh thiện, tốt lành từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Bên kia, chị cũng viết xuống tất cả những gì chị cho là không nên không phải của chị, từ ý nghĩ, lời nói, đến những hành động vô tình hay có chủ đích. Tôi bảo đảm với chị, nếu thực tâm và chân thành với lòng mình làm việc này, chị chưa viết xong đã bị té ngửa. Nhớ ngồi trên chiếc ghế dựa có nệm kẻo lăn đùng xuống sàn nhà lại tốn tiền gọi xe cấp cứu. Tôi nói vậy thôi, thử sẽ biết. Và nếu thử, tôi nghĩ, chị sẽ ngộ được điều bất thường chi đó. [font="%value"]
- Thế cha thử chưa? Nét mặt chị chủ nhà tươi vui vì lối nói thẳng thừng diễn tả diễn tiến phản ứng bất thường của người bị sốc của cha Lành. [font="%value"]
- Chưa thử mà tôi dám nói phét à! Chị cứ thử thì biết. [font="%value"]
- Thưa cha, chẳng lẽ mình không biết về chính mình, anh chủ nhà hỏi giọng nghi ngờ. [font="%value"]
- Có điều, khi viết những nhận định về chính mình, không nên giải thích bất cứ gì để bào chữa, không cần biết lý “gio” lý trấu chi hết. Mình cần phải là một vị quan tòa vô tư. Những gì được viết ra không biện bạch mà cần thẳng thắn, đơn giản ghi lại. Tôi nói trước, nhớ ngồi trên ghế có dựa bọc nệm kẻo lăn đùng trên nền nhà thì khổ. Nghe thì chơi chơi vậy, cứ làm thì biết. [font="%value"]
- Nhưng thưa cha, tại sao phúc âm lại nói, “Có lắm kẻ sẽ tìm cách vào, nhưng không thể được" (Lc. 13:24)? [font="%value"]
- Thì cũng như mọi người. [font="%value"]
- Là sao thưa cha, chị chủ nhà hỏi. [font="%value"]
- Ai cũng nghĩ rằng mình biết rõ về mình hoặc chẳng hạn nghĩ rằng mình có linh hồn nhưng chẳng biết linh hồn mình là gì, hay cầu nguyện với Chúa nhưng không biết Chúa thế nào đối với mình. [font="%value"]
- Chẳng lẽ đó là thực tại nhân sinh. [font="%value"]
- Lần sau gặp lại, chỉ sẽ có câu trả lời. [font="%value"]
- Nhưng sao phúc âm lại có câu, "Và này có những người cuối hết sẽ nên đầu hết, và có những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết," hoặc kỳ cục hơn với câu nói, “Kẻ có thì được cho thêm,” thưa cha. [font="%value"]
- Câu “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” ở phúc âm Matthêu. Nếu tôi không lầm thì đoạn 25 câu 29. Câu này khuyến khích anh mua số mà. [font="%value"]
- Nhưng sao lại đã có còn được cho thêm mà không có còn bị giựt mất. Đã không có thì giựt cái gì? [font="%value"]
- Chị nhảy vô câu phúc âm, đóng bất cứ vai trò nào trong đó sẽ thấy. Phúc âm nói về chính mình mà! [font="%value"]
- Thế nào là đã có nơi một người, khả năng, tài năng, hiểu biết, sức khỏe, suy tư, suy nghĩ. Được cho thêm là sao cha? Chẳng lẽ tự nhiên mà có được, biết được? [font="%value"]
- Làm mà có được cũng có nghĩa được cho thêm. Ngôn từ hữu vi đối với phúc âm chỉ là mượn tạm. Chẳng hạn, câu phúc âm nơi Matthêu, “Mọi quyền năng trên trời, dưới đất được ban cho Ta.” Đã là Thiên Chúa thì cần gì phải ai ban; nhưng phúc âm dùng ngôn từ theo kiểu ấy để thách đố người ta suy tư. [font="%value"]
- Nhưng có mà lại được ban cho thêm, không có lại bị giựt mất, Chúa gì mà kỳ vậy. Đúng là Chúa kỳ cục. [font="%value"]
- Không phải Chúa kỳ cục đâu. Chính chị kỳ cục mà không để ý thôi. Tôi thử hỏi chị, năm nay chị bao nhiêu tuổi. Xin lỗi chị. Người ta nói là không nên hỏi tuổi phụ nữ nhưng tôi phải hỏi. [font="%value"]
- Con năm nay 51 tuổi rồi. [font="%value"]
- Ủa tôi tưởng chị cỡ ba mấy, bốn chục thôi chứ! Hôm nọ gặp chị đi với thằng con lớn ở Walmart, tôi tưởng chị là em nó. [font="%value"]
- Nhiều người nói con là con gái của nhà con mà, có gì lạ đâu. [font="%value"]
- Có vợ đẹp hình như mau già phải không anh? Cha Lành quay sang anh chủ nhà diễu. [font="%value"]
- Cũng có nhiều người tưởng nhà con là chị của đứa con gái thứ nhì của con. Thế là con không có vợ mà có bốn đứa con, hai trai, hai gái. [font="%value"]
- Vậy chị có nhớ khi chị còn nhỏ, má chị thường vá áo cho chị mỗi lần áo bị rách không. Ông cụ bà cụ đang ở bên này phải không, và bà cụ có còn may vá gì nữa không? [font="%value"]
- Không đâu cha, quần áo bên này rẻ mà, may vá còn mắc hơn ra chợ mua, lại đỡ mất thời giờ. Hơn nữa, đã lâu không rờ đến kim chỉ nên mẹ con quên hết và nhà cũng không có kim chỉ nữa. [font="%value"]
- Và chị có bao giờ thử may cắt gì không. [font="%value"]
- Không đâu cha. Một chiếc áo mới có mười mấy đồng bạc. Nếu cắt và may thì phải mấy tiếng, có khi cả ngày, nên con không bao giờ nghĩ đến may vá. [font="%value"]
- Vậy giả sử nếu còn ở Việt Nam, có lẽ bà cụ sẽ may vá giỏi lắm phải không? [font="%value"]
- Có lẽ thế vì trăm hay không bằng tay quen mà cha. [font="%value"]
- Thế sao bà cụ lại không may vá được nữa? [font="%value"]
- Không làm nữa thì lụt nghề. Cha muốn nói không thực hiện thì bị giựt mất? Chị chủ nhà dường như giựt mình. [font="%value"]
- Chị nói chứ tôi đâu nói gì. “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất.” Cha Lành lặp lại câu phúc âm, lòng cảm thấy thán phục sự thông minh của chị chủ nhà. [font="%value"]
- Bao lâu nay con cứ khúc mắc vì lời phúc âm nói ngang ngang, kỳ cục, đến bây giờ mới thấy có lý, nhưng lối ráp nối, sắp xếp nơi phúc âm chẳng khác gì lấy “Râu ông cắm cằm bà.” Như vậy hèn chi, con xin lỗi cha, các cha ở nhà thờ giảng linh tinh. [font="%value"]
- Chị nói linh tinh là thế nào; các ngài rao giảng lời Chúa mà. Cha Lành gợi ý may ra chị ta nói thêm. [font="%value"]
- Vâng, các ngài rao giảng lời Chúa theo luân lý thế tục, lấy “Râu ông cắm cằm bà.” Các ngài chê bai vị tư tế mà không nhận thức được rằng mình đang là vị tư tế hành lễ. Các ngài chê năm cô trinh nữ thiếu khôn ngoan trong khi chính các ngài không suy tư về lời Chúa nên cứ rao giảng lời Chúa thành những điều không tưởng, chẳng hợp tình, hợp lý, và không thể áp dụng vào cuộc sống; khiến giáo dân tưởng rằng chỉ nghe qua cho biết là đủ. [font="%value"]
- Thì tôi đã nói rồi, cha đứng giảng trên này; nơi những hàng ghế gồm đủ mọi thành phần từ tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư cho đến bà già nhai trầu không biết ký dù chỉ tên của mình thì giảng cái gì, rao truyền lời Chúa thì rao làm sao; trong khi phúc âm nói ngang nói ngửa, nói đến độ nghịch thường. Thế chị có muốn đi tu làm linh mục không. Chưa làm linh mục thì ước mơ được chọn làm linh mục; khi làm linh mục rồi thì mục chứ không linh. Đâu phải đơn giản mà phúc âm có câu, ”Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói; hãy ở khôn như con rắn, và chân thực như chim câu”(Mt. 10:16) Có là hổ giữa đàn sói mà con hổ câm thì cũng đành tắc họng phương chi chân thực, ngờ nghệch như chim câu. Hãy hiểu và thông cảm cho các ngài cũng như chính mình đã bao năm rồi vẫn vui vẻ, an bình trong tội phạm đến Thánh Thần. Cho tôi hỏi một câu, nếu anh chị đặt mình vô vị thế của Chúa Giêsu, anh chị sẽ có phản ứng như thế nào khi thấy những môn đồ của mình công bố lời phúc âm một đàng, rao giảng một nẻo. Nên phong thánh cho họ hay tống cổ họ khỏi chức vị tư tế? Lời nói của cha Lành đầy vẻ ngậm ngùi. [font="%value"]
- Thưa cha, thế sao phúc âm cũng có câu, kẻ cuối hết trở nên đầu hết? Chẳng khác gì ba mươi tháng tư, “Thằng khôn chạy trốn, thằng ngu dạy đời”? [font="%value"]
- Ủa, chị có viết văn, hay làm thơ gì không? [font="%value"]
- Thưa cha, những ngày còn con gái, con có tập tễnh làm thơ nhưng từ khi có ba đứa con thơ con đành chấp nhận cho dù có ít cũng bị giựt mất; may ra mất hết, cuối hết sẽ trở nên trước hết. [font="%value"]
- Thì nội tướng mà vẫn phải đi làm thì không đầu hết chẳng lẽ trên hết. Mà cũng đúng, còn ai hơn mình nữa đâu mà không trên hết. [font="%value"]
- Cha nói đúng đó; trẻ nhà con ba đứa chỉ biết vâng lời mẹ chúng nó mà thôi, còn bố thì coi như củ khoai, không coi bố ra gì. Anh chủ nhà đế vô. [font="%value"]
- Anh còn muốn gì nữa? Anh coi chúng như con riêng của anh không bằng; còn hơn con riêng nữa, cứ như những anh em hoàng tộc, muốn gì được nấy, coi chừng sau này chúng hư đi chỉ vì anh sợ không hợp với lời tiền nhân, “Con hư tại cha, cháu hư tại bà.” [font="%value"]
- Chúng mà coi bố mẹ như anh chị em thì tuyệt nhất, như vậy sự phát triển về tri thức và nhận thức mới có thể tới độ tuyệt đỉnh; bởi vì chúng có thể thổ lộ tất cả những khúc mắc, ưu tư, cũng như quan điểm, nhận thức, ước mơ, tưởng tượng. Chị có nhớ câu nói của Albert Einstein, “Đừng nghe những ai có những câu trả lời mà hãy nghe những người mang đầy khúc mắc.” Bọn trẻ chỉ thật lòng chia sẻ với bạn bè của chúng. Chị muốn gì hơn khi con cái chị coi bố mẹ chúng như những người bạn. Đó là phương pháp giáo dục tuyệt vời nhất trong tất cả các lối giáo dục. Cảm ơn anh đã có tư thái tuyệt vời ấy với con của anh. [font="%value"]
- Sao cha biết được những điều ấy? [font="%value"]
- Tôi còn biết hơn một chút nữa cơ, chị biết, “Muốn nói ngoa làm cha mà nói” nên tôi phải cày. Có điều, tôi báo trước, đừng ngạc nhiên nếu sau này con cái anh chị không đi nhà thờ. Anh chị hiểu sao thì hiểu. Vậy câu chị muốn hỏi là câu gì? À, kẻ cuối hết sẽ trở nên đầu hết. Câu này hình như ở cà ba phúc âm, "Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết" (Mt. 19:30; 20:16; Mc. 13:30; Lc. 10:30). [font="%value"]
- Thì cuộc đời là thế, sóng sau đè sóng trước; học sau sẽ biết nhiều kiến thức, kinh nghiệm hơn nên sẽ có vị thế cao hơn. Anh chủ nhà dùng kinh nghiệm nhân sinh thực tế giải đáp. [font="%value"]
- Nếu anh làm linh mục, giảng lời Chúa thì quả hợp thời; nhưng làm sao áp dụng lời Chúa để con cái anh tiếp tục có niềm vui mà đi nhà thờ thì coi chừng. Hai ngàn năm rồi mà lời Chúa vẫn còn như huyền nhiệm thì giải quyết cách nào? [font="%value"]
- Anh ấy nói cũng có lý và đúng với thực tế đấy chứ. Chị chủ nhà diễn giải. [font="%value"]
- Nhưng sao mấy linh mục mới chịu chức lại cứ phải làm phó với bài sai đầu tiên? Hoặc các sĩ quan mới ra trường trừ bị chỉ được đeo lon chuẩn úy thay vì làm tướng, làm tá; ngoại trừ hiện dịch từ võ bị quốc gia thì mới được đeo lon thiếu úy; kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, phỏng có thể hợp tình, hợp lý nơi những trường hợp này. Có lẽ, anh chị đã quên một điểm quan trọng, là phúc âm viết ngay nơi chính mình trong trạng thức nào đó. [font="%value"]
- Mà làm cách nào cha bới ra được lắm giải đáp thế; đó mới là điều quan trọng con cần biết. Chị chủ nhà tỏ vẻ thao thức điểm căn bản, nguyên tắc cho suy luận. [font="%value"]
- Tôi nói rồi mà chị không để ý đó chứ. Hãy suy tư về bất cứ câu nói nào đánh động tâm tư, hay thách đố tâm tư chị cho đến tận cùng. Khi tự mình chị nhận thức được chỉ cần một câu, mọi sự sẽ được giãi bày rõ ràng. Chị đã thực hiện đâu; vì làm sao tôi có thể giải thích về nước để chị hết khát. Chị phải uống nước, muốn no bụng phải ăn; bởi không ai ăn dùm hay uống dùm cho mình được. Thôi được, thử trả lời tôi vài câu hỏi. [font="%value"]
- Trước hết, chị đã bao giờ cắt cỏ sân nhà chị chưa, tôi thấy nghệ thuật cắt tỉa cỏ cây gọn ghẽ, đẹp mắt, coi bộ lành nghề lắm đó. [font="%value"]
- Anh ấy chứ, con là nội tướng mà, đoàn quân của con oai hùng lắm, nào dao nào thớt, đũa lớn đũa nhỏ, rổ to, rổ bé, nồi niêu, xoong, chảo đầy đủ mọi thứ. [font="%value"]
- Hèn chi anh ấy mũm mĩm, có chạy bộ một ngày vài chục mai vẫn không thể nào son sẻ như tôi được. [font="%value"]
- Con phải ăn dù đã nhất quyết “Diet” cho nó son sẻ, nhẹ người mà nào có được. Cha xem, đồ ăn thức uống tuyệt vời hơn ở nhà hàng, lại vợ mình nấu cho mình ăn; cho nên dù thế nào chăng nữa cũng phải hy sinh, ép mình ép xác mà ăn cho hết, thà hư bụng mình còn hơn phí của trời, uổng bao công sức bà xã nấu nướng. Chúa cũng phải hiểu sự hy sinh chẳng đặng đừng của con. Nếu con không hy sinh thưởng thức những món ăn tuyệt vời đó, lỡ ngày mai không được ăn nữa thì sao. [font="%value"]
- Ấy, vừa có con gái nhớn xinh xắn, lại nấu ăn giỏi giang nó khổ vậy đó nên tôi đi tu quách. Chắc hẳn khi còn độc thân anh đã phạm lỗi lầm không suy nghĩ về sự thể chẳng đặng đừng lúc này. Đúng là tội lỗi bởi thiếu suy tư, nghiệm xét mà ra. [font="%value"]
- Cha nói đúng. Cha biết nỗi khổ của con hơn con. Chúa gửi cho con thiên thần bản mệnh ưu ái thì đành chịu vậy chứ kêu ca thì phụ lòng Chúa, mất cả đàng nọ lẫn đàng kia. [font="%value"]
- Vậy thì tôi hỏi anh chị, lần đầu nấu ăn hoặc lần đầu cắt cỏ anh chị thấy kết quả ra sao? [font="%value"]
- Ngày xưa con chỉ lo đi học, chị chủ nhà lên tiếng, việc nấu nướng mẹ con bao quát hết. Cha biết, sang đến đây thì nhà con có bếp gaz. Chiều hôm ấy, năm con đang học lớp 11, không hiểu bà bạn mẹ con có chuyện gì gọi điện thoại nhờ mẹ con giúp. Trong lúc mẹ con vừa đổ trứng vào chảo để chiên, mẹ con nói con coi bếp chiên trứng, đừng chiên khô quá ăn xác mất ngon và ra khỏi nhà. Chỉ độ 10 phút sau mẹ con trở lại thì chảo chiên trứng đen thui, khói mù mịt. Mẹ con chỉ mắng yêu, bố cô, con gái lớn mười bảy tuổi rồi mà vẫn chưa biết chiên trứng. Chảo trứng cháy khiến con nhớ đời. [font="%value"]
- Còn anh, cắt cỏ lần đầu thế nào. Cha Lành hỏi anh chủ nhà. [font="%value"]
- Thưa cha, ra trường với bằng kỹ sư kiến trúc, con đi làm được hai năm nên có tiền đặt cọc mua căn nhà này. Con thích có sân sau rộng rãi để trồng bông, ngắm cảnh; thầm nghĩ, cắt cỏ thì ăn thua gì và nhân tiện có chiếc máy cắt cỏ đẩy tay do chủ nhà cũ để lại. Căn nhà này kỳ đó mới xây được một năm, không hiểu gia đình chủ cũ có chuyện gì mà chuyển về California, hình như ông ấy được mời làm cai cho một hãng của người anh em bên đó. Căn nhà bốn phòng nơi miếng đất nửa mẫu anh còn gì tuyệt vời hơn. Mới mua được một tuần chưa kịp dọn vô thì cỏ đã vội tốt tươi. Thế là chiều hôm ấy đi làm về, con đem máy ra cắt cỏ. Giật bứt hơi, máy không thèm nổ, con phải mở buzi lau chùi, cắt được đám cỏ phía trước chẳng khác gì cóc gặm. Dân văn phòng nhàn hạ nên yếu ớt. Mới đẩy máy cắt cỏ cỡ nửa tiếng mà đã thở như bò. Thế là con ra tiệm Lowe’s bợ ngay một cái máy đề và ngồi lên trên cho thoải mái, cắt tới cắt lui vẫn còn khỏe re. [font="%value"]
- Vậy bây giờ, sau mấy chục năm cắt cỏ, nấu nướng, anh chị thấy thế nào? [font="%value"]
- Thì có gì đâu cha, trăm hay không bằng tay quen, nào chi đáng nói. [font="%value"]
- Như vậy, lần đầu tiên, lần trước hết, kết quả tệ hại nhất và sau vài chục ngàn lần nấu nướng, vài ngàn lần cắt cỏ trong thời gian qua, kết quả tuyệt vời nhất thì có thể so sánh thế nào? [font="%value"]
- Ồ, con hiểu rồi. Kẻ sau hết trở nên trước hết. Giời, phúc âm nói vậy hèn chi được gọi là huyền nhiệm. Huyền nhiệm vì thiếu suy tư, suy nghĩ. Kẻ trước hết cũng là mình, sau hết cũng là mình. Cha nói đúng, phúc âm nói về chính mình. Cảm ơn cha, cha làm linh mục cũng không sai. Nhưng sao con nghe người ta nói lúc cha mới chịu chức, cha bảo Chúa chọn lầm, đức cha truyền chức lộn. [font="%value"]
- Thì anh chị thấy tôi có vẻ linh mục không. Đã có người nói tôi không có tư cách linh mục. Đôi khi tôi cũng tự hỏi mình là linh mục à! Có điều lạ là tôi không thấy mình có quyền hành, cao trọng gì cả, cứ cảm thấy mình đi làm thuê mà thôi. Anh chị thử nghĩ coi, giáo dân đóng tiền trả lương cho tôi, nhà thì nhà của giáo xứ chứ nhà gì của tôi, giáo xứ cũng bao quát hết, từ miếng ăn đến điện nước, bảo hiểm, bảo kê thì không làm thuê thì làm gì. Lãnh lương của dân Chúa thì phải làm công cho dân Chúa chứ ai bỏ tiền thuê người ngồi chơi xơi nước. Mà việc của linh mục là gì, là rao giảng lời Chúa và thực hành các phép bí tích. Có gì quyền năng đâu! Dân của Chúa tin vào Chúa nên thái độ tôn trọng mình chứ mình chỉ là người làm thuê thì oai vọng gì. Thử hỏi, muốn rao giảng lời Chúa thì phải làm sao? Làm sao có thể áp dụng lời Chúa nơi cuộc đời mình mà lời Chúa qua phúc âm thì ngang như cua, đang nói đàng này bẻ quẹo lối khác khiến tối tăm mặt mũi lúc soạn giảng. Thêm nữa, ngày xưa ở trung học,, tôi theo ban B, toán lý hóa, nên nếu suy tư không hợp lý, hợp tình, thì không thể chấp nhận được nên đành phải nhảy rào kiếm lối thoát. Mới đầu, kiếm đâu chẳng thấy, chỉ thấy những kinh sách ngang như cua, nhưng như phúc âm đã nói, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật;” càng đắm mình vô kho tàng có những câu ngang ngang, nghịch thường ấy, vô tình lối ăn nói của tôi cũng ngang tàng theo như anh chị thấy đó; nên bị người ta cho rằng không có tư cách linh mục cũng chẳng oan gì. Tuy nhiên, tôi phải là tôi, không thể là ai khác. Tôi thử hỏi anh chị một câu, anh chị theo đạo, đi lễ, đi nhà thờ cả đời, vậy đức tin của anh chị là gì có thể trình bày cho tôi hiểu được không. Ấy, anh chị đã biết Chúa là gì, linh hồn mình là thế nào, Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là gì rồi mà dẫu tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào đức Kitô phỏng có biết là mình tin thế nào không phương chi đức tin. Đôi khi tôi nghĩ, Chúa chọn lầm mà còn bị phiền hà như thế; nếu Chúa không lầm thì còn khốn khổ nữa. [font="%value"]
- Thưa cha, thế vậy cha không tin Chúa Giêsu được sai đến chuộc tội cho loài người à? [font="%value"]
- Có chứ, nhưng nói là tin là thế nào? Bộ cứ nói là mình tin Chúa chuộc tội cho mình thì Chúa chuộc tội cho mình à? Mà phúc âm nói sao? Tôi đâu có mù chữ, nên tôi không muốn bị chìm ngập trong tội phạm đến Thánh Thần. Tôi thử hỏi, chị nói rằng chị tin vậy chị thực sụ tin hay chị tin theo lời người ta tuyên truyền. Anh nghĩ thế nào về 10 điều không nên tin nơi cuốn Tăng Nhất Tập của nhà Phật, cũng như lời đề nghị của Phao lô, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Nếu đứng vào địa vị một linh mục, anh chị mới thấy nỗi thống khổ của thao thức nhận biết lời Chúa qua phúc âm là thế nào. Còn gì khốn nạn hơn lãnh lương làm thuê, lãnh lương rao giảng Tin Mừng mà vẫn chưa biết Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng hai ngàn năm trước là gì để công bố cho dân Chúa. Đồng ý rằng dân Chúa nhận biết hay không là chuyện của họ, nhưng mình là linh mục thì phải biết. Chẳng những phải biết mình tin gì mà còn phải biết Chúa Giêsu được sai đến để rao giảng gì. Nói rằng, tuyên xưng rằng tin vào Chúa, tin vào dức Kitô mà không biết Chúa là gì, liên hệ tới mình ra sao; linh hồn mình là gì; Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là gì thì rao giảng gì, có xứng đáng lãnh lương của dân Chúa không. Thử hỏi, còn gì khốn nạn hơn lừa đảo dân Chúa, rao giảng linh tinh để kiếm miếng cơm ăn. Chúa không dốt như mình tưởng có thể đánh lừa được đâu. Thôi thôi, càng nói càng bực thêm. Vậy chị nói chị tin rằng Chúa Giêsu được sai đến chịu chết để chuộc tội cho loài người thế sao cái tội phạm đến Thánh Thần sẽ không bao giờ được tha? Chị tin rằng đã có Chúa chuộc tội sao phải ăn chay, hãm mình đánh tội, sao phải thế nọ, phải thế kia. Phỏng cố gắng không phạm tội lại phạm vào tội khinh chê ơn cứu độ. Thế ơn cứu độ của Chúa cứu thoát mình khỏi cái gì. Vậy đức tin của chị là gì? Thấy chưa, càng nói thì chỉ càng vãi tội ra mà thôi. [font="%value"]
- Thôi thôi, con không muốn làm linh mục nữa đâu. May mà có cha giải thích con mới hết tiếc nuối mơ ước sai lầm của mình. May mà con lỡ bước lầm đường có vợ chứ làm linh mục như cha lo chuyện bao đồng thấy mà mệt. Dân Chúa tin hay không đâu phải trách nhiệm của cha; cha lo làm chi cho phiền. Con thấy các cha khác, oai vọng, thảnh thơi, đi đánh golf, đi câu sông, câu biển, vui thú cuộc đời. Cha thì tâm tư cứ chìm vô nào linh hồn là gì, Chúa là thế nào, Tin Mừng, Tin Vui, vật lộn với mấy câu phúc âm ngang ngửa, thật là phiền hà tâm sức. Có phải vì không có việc gì làm nên cha bới ra cho có việc cho đỡ buồn. Cha quên câu nói, “Thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên.” Xin lỗi cha, nói như cha thì đâu mấy ai dám dâng mình cho Chúa nữa. [font="%value"]
- Anh nhắc đến câu “Dâng mình cho Chúa,” đã từ lâu, tôi tự hỏi, dâng mình cho Chúa để làm chi? Chúng ta thường nghe được câu trả lời là để cứu rỗi các linh hồn. Thử hỏi, họ có biết họ trả lời gì không! Họ không biết linh hồn của họ là gì thì họ có thể cứu linh hồn ai. Dâng mình cho Chúa mà không biết Chúa là gì thì dâng mình cho ai? Họ dâng mình cho Chúa hay dâng mình cho chính họ, cho vinh quang của họ. [font="%value"]
- Thưa cha, lần đầu tiên con nghe cha đặt vấn đề Tin Mừng do Chúa Giêsu rao giảng. Xưa nay, nghe trên radio, xem trên truyền hình, giờ tới internet, các vị thuyết giảng Kitô giáo đều rao giảng rằng Chúa Giêsu được sai đến thế gian chịu chết chuộc tội cho loài người. Chẳng lẽ họ không biết họ rao giảng gì; hay họ cũng không biết Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng ngày xưa? [font="%value"]
- Nói đúng sự thật, ngay từ thời còn nhỏ, tôi cũng đã được dạy dỗ như thế. Nơi trường thần học, tôi cũng được dạy như thế; và như anh nói, nghe nơi radio khi lái xe hoặc đôi khi coi thấy trên tivi và Youtube bây giờ và lúc này, người ta vẫn rao truyền, tuyên xưng như thế. Nhưng kể từ khi nhận thức được câu, “Người biết không nói, kẻ nói không biết,” rồi đọc thêm một số kinh sách đạo học Đông Phương; đặc biệt nơi cuốn Hành Trình về Đông Phương mà anh đã đọc; phần nói về những con lươn biển, mình gọi là con nhệch ấy, tất cả mọi con lươn biển trên thế giới đều được sinh đẻ tại hai hòn đảo, một ở phía đông North Carolina thuộc Hoa Kỳ, và một tại đảo Bermuda. Rồi khi lớn tới độ 6 inches, loại nào, giống ấy cắm đầu, cắm cổ tìm về quê hương xứ sở của bố mẹ chúng. Do đó, chúng ta không hề thấy một con nhệch xứ Pháp bơi lội tại Mỹ, và cũng không thể có bất cứ con nhệch ngoại quốc nào bơi lội tại biển rả, sông rạch nước mặn tại Việt Nam. Tôi tự hỏi, quyền lực nào dẫn dắt những con nhệch tí hon này về quê hương, sinh quán của bố mẹ chúng nếu không là chính quyền lực sự sống hiện hữu bẩm sinh nơi chúng. Sau đó, tôi mua cả bộ sách bằng tiếng Anh của Blair Spaulding đọc và mới biết bộ sách này chỉ là sách giả tưởng; mà tác giả là một người Mỹ sinh sống tại Texas, Hoa Kỳ. Nơi cuốn thứ nhất được dịch thành, Hành Trình về Đông Phương, tác giả dùng quan điểm vật lý để minh chứng có một quyền lực siêu việt hiện diện và hoạt động nơi mọi loài dẫu mọi loài bị ảnh hưởng bởi phong thổ, khí hậu, phong tục tập quán v.v.. [font="%value"]
- Sau khi kinh qua một số kinh sách cũng như tự thuật, hồi ký, và một vài tác phẩm được viết giải thích kinh sách thuộc đạo học Đông Phương, tôi nhận thấy những giải thích mang đầy tính chất hữu vi, thế tục, dựa theo đạo đức, luân lý nhân sinh một cách gượng ép nên suy tư về từng câu nói ngang ngửa nơi kinh sách đạo học. Chẳng hạn nơi Đạo Đức kinh có câu, “Đi xa tức là về gần;” hoặc “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu;” hay những công án nhà Phật. Nơi cuốn Cái Cười của Thánh Nhân do cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần biên soạn, có hai câu làm tôi tối tăm mặt mày; đó là, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương;” và, “Thượng Đế và quỷ vương là một.” Quay cuồng với những kinh sách đạo học Đông Phương một hồi, tôi để tâm đọc Tân Ước, mới thấy phúc âm còn ăn nói kỳ cục hơn. [font="%value"]
- Năm 1990, khi tôi đang làm phó nơi một giáo xứ người Mỹ, vì muốn hiểu rõ hơn về phúc âm, tôi nhờ trường tiểu học tại đó đặt mua cho tôi bộ Anchor Bible ngày ấy bộ sách còn chưa in hết, dưới danh nghĩa của trường vì chỉ phải trả nửa giá tiền. Những kiến giải của các học giả Kinh Thánh truy tầm từ nguồn gốc nơi ngôn ngữ Hy Lạp cũng không thỏa mãn nỗi thao thức nào đó nơi tâm tư. Tháng sáu năm 1997, sau khi nhận được trăm cuốn Câu Hỏi Lãng Quên do nhà in Xuân Thu tại Los Alamitos, CA, USA gửi về đem biếu lung tung, tôi bắt đầu viết cuốn Mây Bay Về Ngàn. Cuốn này tôi trình bày rảo qua một số điểm chính yếu nơi Phật học, mục đĩch khuyến khích độc giả suy tư tâm linh; đồng thời cũng phớt qua Ấn học, Điểm Đạo Ai Cập, Lão học. Đến cuối năm 1997 thì tôi đã viết xong phần Phật học; chợt tôi tự hỏi, khi đến phần phúc âm, tôi phải viết thế nào. Viết bậy viết bạ, trình bày phúc âm dưới quan điểm đạo đức, luân lý thế tục nhân sinh, ai sẽ lãnh nhận những lầm lỗi do hiểu biết từ chương của tôi? Thế nên, tôi quyết định ngưng không viết và để thời gian suy tư, nghiệm chứng về những câu nói và những dụ ngôn ngang ngửa nơi phúc âm. [font="%value"]
- Khi còn ở trường thần học, tôi cũng đã nhận thấy sự trùng lập của những câu nói và dụ ngôn nơi phúc âm nhất lãm nhưng không có giờ suy nghĩ nhiều đồng thời có những suy tư, nhận thức khác lạ cũng không dám nói lên hoặc trình bày với giáo sư bởi xưa nay, nay xưa tôi đã bị nổi tiếng vì những tư tưởng không giống với những người đồng thời. [font="%value"]
- Cha thử cho thí dụ được không; xin lỗi cha, con ngắt lời. Anh chủ nhà trầm tĩnh nghe bỗng lên tiếng. [font="%value"]
- Thì có gì đâu, mọi người từ xưa tới nay, thày cũng như trò, cha cũng như giáo dân, các vị rao giảng, thuyết giảng của Kitô giáo đều bình thường, vui vẻ chấp nhận câu chuyện tội tổ tông là hợp lý luận, hợp tình suy tư để rồi truyền tội ấy cho con cháu là chúng ta. Tôi lại không thấy nó hợp lý, hợp tình chút nào và lại khó chấp nhận. Tôi chỉ nghĩ, giả sử bố tôi làm điều phạm luật phải đi tù thì đâu có liên hệ gì đến tôi, và đâu tôi phải đi tù thế cho bố tôi. Suy xét câu chuyện tội tổ tông, bà Evà có lẽ lúc ấy ham vui nên có bầu, thèm của chua, lại muốn lắm thứ, đầy tham vọng, nào muốn lên bằng Đức Chúa Trời, nào đòi nam nữ bình quyền, nào muốn biết đủ thứ. Nhưng khi đạt được ít nhất hiểu biết mọi sự, bà lại đổ tội cho con rắn xúi bẩy, không dám trực diện nhận lỗi lầm do tham vọng của mình. Cái thứ lầm lỗi này thì rõ ràng ở nơi tôi, nơi anh, nơi chị, nơi mọi người. Mà vì nó ở nơi mọi người thì đặt tên cho nó hay gọi nó là tội tổ tông hay tội gì thì cũng chỉ là cái tên gọi. Tôi có viết thành bài giảng và giảng trong một lễ nơi nhà trường khiến mọi người tá hỏa. Vừa theo đoàn đâng lễ bước ra khỏi cửa nhà nguyện, cha giám thị đi sau tôi nói nhẹ một câu khiến tôi lạnh người, “Bài đọc như thế mà dám suy luận như vậy,” nhưng may mắn không sao, tôi vẫn còn là linh mục cho tới lúc này. [font="%value"]
- Rồi sao thưa cha? Chị chủ nhà muốn biết thêm. [font="%value"]
- Chị muốn biết sao giăng về chuyện gì? [font="%value"]
- Về chuyện luẩn quẩn, ngang ngửa nơi phúc âm. [font="%value"]
- Chị dùng ngôn từ luẩn quẩn quả là chính xác. Quả thực, tôi đã bị luẩn quẩn tự suy tư minh chứng sao cho có nhận thức hợp lý, hợp tình có thể chấp nhận được những sự thể tự trời rơi xuống mà chẳng sách vở nào rành rẽ đề cập tới. Các tác giả nơi những tác phẩm cứ hồ hởi chấp nhận và hô lên tin, tin, và tin nơi những mệnh danh trống rỗng nơi tôi; chẳng hạn linh hồn, Thiên Chúa. Đức Giêsu nơi phúc âm thì lại càng ngang ngược hơn, phán những lời thần thánh; trong khi tôi chỉ là một sinh vật nhỏ bé đầu óc đầy khát vọng muốn nhận biết rõ ràng mình là gì trong cõi nhân sinh đối diện đầy thách đố, ước muốn, tham vọng này. Điều gì tôi cũng muốn biết. Tin vào Chúa thì tin thế nào; Chúa là thế nào; Chúa liên hệ với tôi ra sao. Tôi có linh hồn thì linh hồn tôi là gì, liên hệ với thân xác, cuộc đời tôi ra sao. Tôi phải tìm cho ra trong khi đọc phúc âm thì đối diện với những câu nói nghịch thường khó bề am hiểu; những dụ ngôn lại càng khiến đầu óc rối tung hơn. [font="%value"]
- Thế là tôi ghi chép, phân tích, sắp xếp những câu nói cùng những dụ ngôn mang cùng ẩn ý theo thứ tự thành một câu truyện có thể chấp nhận được. Câu truyện mà tôi sắp xếp thành, lại là một câu truyện chỉ dẫn diễn tiến thực hành hành trình suy tư để nhận biết Nước Trời vì nơi phúc âm không có bất cứ định nghĩa nào về Nước Trời; trong khi nơi phúc âm Matthêu lại khuyến khích tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Tôi nhận ra một điều, và đó là nếu không hiểu gì về đạo học Đông Phương, sẽ không thể hiểu được phúc âm nói gì. Đồng thời tôi cũng nhận ra, vì đọc đạo học Đông Phương, lại chúi mũi vào phúc âm, lâu dần bị ảnh hưởng; nên cái miệng tôi ngoa lắm. Do đó bị chê trách cũng là chuyện thường; dẫu lòng tôi rất thiện tâm, nhưng những lời nói ra thì đôi khi quá quắt; mà tôi có nói chi đâu, tôi chỉ lặp lại những điều nhận thức được nơi đạo học và phúc âm mà thôi. [font="%value"]
- Con thấy cha nói có gì quá quắt đâu. Chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Thưa cha, anh chủ nhà tiếp theo, nếu con nhớ không lầm, con đã đọc được nơi đâu đó câu nói, “Bất cứ gì mình nói không giống quan niệm của một tổ chức cũng làm người trong tổ chức đó khó chịu.” Và nếu con không lầm thì cha rất thẳng thắn, đồng thời cũng hơi nóng tính; xin lỗi cha, cho con nói đúng những gì con cảm nhận chứ con không phê bình. Sở dĩ thẳng thắn, theo con nghĩ, trong suy tư nếu nhân nhượng sẽ không có được nhận thức đúng đắn. Thêm vào đó, sự nóng tính nơi cha là một ân huệ phát sinh từ nỗi thao thức, ước muốn dân Chúa nhận biết, nhận thức chứ không chấp nhận một cách mù mờ để được yên lòng cho qua. Chính những điều cha đặt vấn đề, thoạt đầu cũng khiến con rúng động; mặc dầu con không nói năng chi mà chỉ im lặng nghe cha nhắc đến. Con thầm nghĩ, con chỉ là một giáo dân, theo đạo; con muốn nhấn mạnh chữ theo đạo, mà còn cảm thấy e sợ mình đã tin sai. Con nói tin sai cũng không đúng vì con tin theo lời rao giảng, truyền bá từ nhỏ đến giờ, đúng sai tùy thuộc những lời rao giảng, tuyên xưng. Đàng này, cha là một linh mục, mang sứ vụ rao truyền lời Chúa, rao truyền phúc âm mà thấy sự tin tưởng của dân Chúa chỉ là tin theo, nghe sao biết vậy; như cha nói, chẳng biết tin là thế nào, cứ nghĩ rằng mình tin vào Chúa mà chẳng biết Chúa là gì. Như chính con đây, con nghĩ rằng, cho rằng, chấp nhận tin vào Chúa mà thực tâm con cũng không biết tin vào Chúa là tin thế nào nên khi nghe thấy cha đặt vấn đề Chúa là gì, linh hồn mình là gì, tin là thế nào, con cảm thấy e sợ, nhưng lại không biết mình e sợ nỗi gì. Tuy nhiên, con cảm thấy, từ nay trở đi, con sẽ phải đặt lại nhiều vấn đề. Chắc chắn, con sẽ làm theo cha nói, lấy giấy ghi rõ ràng những gì con có thể nhận biết về con. Nhưng thưa cha, đó chỉ là những đúng, sai, phải trái tùy thuộc đạo đức và luân lý nhân sinh đâu dính dáng gì tới nhận thức. [font="%value"]
- Tôi xin ngắt lời anh. Anh nói đúng, những nhận định anh viết xuống tùy thuộc nhận định đạo đức cá nhân và luân lý nhân sinh. Nhưng, không biết tôi có nên nói ra không vì coi chừng nói ra chỉ làm hại anh chứ không đem lại lợi ích chi. [font="%value"]
- Xin cha cứ nói, vì nếu cha không nói thì con đã không được nghe từ xưa rồi; nên nếu cha nói ra, hy vọng con biết thêm được, chỉ có lợi chứ làm sao có thể hại hơn không nói. Anh chủ nhà lý luận. [font="%value"]
- Lý thuyết của nhận định thì là thế nhưng nơi hành trình, diễn tiến nhận thức lại không thế. Nói như vậy cũng không nói được gì mà phải dùng câu phúc âm mới chính xác. Anh chị còn nhớ câu phúc âm lên án Biệt phái và Ký lục không, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13). Tôi không nghĩ Ký lục và Biệt phái giả hình; cũng như những sự rao giảng, tuyên xưng, của các vị thuyết giảng nơi Kitô giáo là không chỉnh. Thế mà họ bị phúc âm kết án “Khốn cho các ngươi,” phỏng còn lời nào nặng nề hơn không? Thử hỏi, “Khóa Nước Trời chận người ta lại” là thế nào? Tại sao lại nói, “Những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào”? [font="%value"]
- Bây giờ con mới hiểu tại sao cha nhảy rào; tại sao cha đặt vấn đề Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng; tại sao cha nêu lên nhận thức về Thiên Chúa, về linh hồn. Anh chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Sao cha đang nói về Biệt phái và Ký lục, anh lại nói sang chuyện khác. Chị chủ nhà chất vấn chồng. [font="%value"]
- Em làm ơn giải thích vấn nạn ngài nêu lên về sự kết án Biệt phái và Ký lục thì sẽ biết. Ký lục và Biệt phái họ đâu làm gì sai, nhưng những sự rao giảng của họ đã khiến dân Chúa ngụp lặn trong ngu muội cũng như chúng ta. Thay vì khuyến khích dân Chúa nhận thức, họ đã giải thích lời Chúa theo nghĩa từ chương dưới quan điểm đạo đức và luân lý nhân sinh khiến dân Chúa không thoát ra được. Bây giờ em đã hiểu tại sao cha dùng ngôn từ theo đạo và nêu lên vấn đề khuyến khích, cổ võ dân Chúa suy tư, nghiệm xét, để thăng tiến nhận thức chưa? Con nói như thế có đúng không cha? [font="%value"]
- Vậy anh còn muốn tôi nói thêm về làm bản tự kiểm tra chính mình không? [font="%value"]
- Con nghĩ vẫn nên vì con cần biết. Con xin trình bày lý do; chẳng hạn trước khi con vẽ hay tính toán, con cũng cần biết ít nhất phần nào kết quả. Đàng này, bản kiểm tra chỉ là nhận định dưới nhãn quan cá nhân về đạo đức và luân lý về chính mình, nào có soi sáng thêm cho mình chút nào đâu. Con muốn biết thêm để nhận định kết quả cho chính xác hơn. [font="%value"]
- Anh đọc một số sách vở viết về quan điểm nhận thức đạo học Đông Phương tất nhiên anh quen thuộc với ngôn từ “Ngộ” rồi phải không. Tôi nói ngôn từ chứ không nói trạng thái. Ngộ hay nhận thức có cùng một nghĩa mà nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu. Nếu tôi nói ra, coi chừng tôi chận tâm thức anh lại, nói cách khác, cướp cơ hội thức ngộ của anh; chẳng khác gì Biệt phái và Ký lục đối với dân Chúa. Cứ thử thực hiện, anh sẽ biết. Làm cái này dễ hơn tính toán một tòa nhà. [font="%value"]
- Vậy con không biết vẽ thì nó dễ hơn cái gì, thưa cha? [font="%value"]
- Nó sẽ khó hơn cầu nguyện. Cha Lành mỉm cười nói. Chị quên rằng phúc âm gọi nó là cửa hẹp; cũng may chị để ý đến hình dáng nên nghĩ rằng dễ qua. Thực ra, nó chính là hành động giải đáp công án “Tôi là ai” đó. Tôi nói ra phương pháp thực tiễn chứ nếu không, đã biết bao thức giả, ngủ giả cả đời vẫn không giải nổi, đành chấp nhận sống để dạ, chết đem theo mà thôi. Tuy nhiên, cái ngộ của anh thì anh biết, cái ngộ của chị thì chị biết; riêng tôi không biết và không muốn biết. [font="%value"]
- Thưa cha, thế sao thánh Phao lô nói hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào? Chị chủ nhà hỏi. [font="%value"]
- Có phải chị sợ đối diện với những gì không nên không phải nơi chính chị? Không dám đối diện, vạch mặt chỉ tên nó lên thì sao nhận thực được mình là ai. Nơi lời khuyên dụ, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21), “Hãy kỵ điều dữ” có nghĩa bất cứ những gì làm phiền đến suy tư như thói quen, ước muốn, mối lợi nơi tâm tưởng nhảy vô, thì không lệ thuộc chúng. Điều khiến tôi ngạc nhiên đó là tại sao hay cơ nguyên nào khiến thánh Phao lô nói lên, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Nơi Đông Phương học, linh hồn, cái tính, cái tâm là Thượng Đế nội tại. Và như chúng ta đã biết, Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Thánh Phao lô nói huỵch toẹt ra nhưng không minh chứng trước khi phúc âm được viết. Tôi định dành thời gian đọc lại năm thư mục vụ của thánh Phao lô xem có kiếm được tại sao ngài nhận thức được như thế, mà vẫn chưa thực hiện được. [font="%value"]
- Con nghĩ, hình như cha áp dụng phương pháp nghiệm xét của thánh Phao lô, nếu con không lầm. [font="%value"]
- Tôi chỉ nhận ra phương pháp và điều kiện tâm trí lúc nghiệm xét của thánh Phao lô sau khi tìm ra những điều kiện tâm trí nơi hành trình nghiệm chứng phúc âm. Nói cho đúng, thuở ban đầu, học về phúc âm, đọc phúc âm, đã khiến đầu óc tôi quay mòng mòng. Cũng như anh, tính toán cơ cấu của một đồ hình phải theo rất nhiều nguyên tắc, điều kiện. Nơi bậc trung học, tôi theo ban toán, lý hóa nên suy tư cũng bị ảnh hưởng nguyên tắc lý luận. Mới đầu, đọc kinh sách đạo học thấy thật ngỡ ngàng và phi lý đồng thời những giải thích của các nhà chú giải đúng, hợp nơi trường hợp này lại trật lấc nơi trường hợp khác. Thí dụ, một chú giải nơi cuốn nào đó về câu Lão học, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết,” được một vị sư nào đó đưa ra thí dụ của hành khách trên chuyến đò qua sông. Người đầu tiên thường được xếp ngồi đàng sau lái và người cuối cùng bước lên chuyến đò khi khách đã đầy thì ngồi ngay đầu mũi con đò. Thế nên, khi con đò ghé bến bên kia sông, người lên đò sau cùng sẽ lên bờ trước. [font="%value"]
- Mới đọc thì hiểu và chấp nhận ngay. Tuy nhiên, có lần tôi phải qua phà nơi Louisiana; con phà có hai cửa và không quay đầu như con đò qua sông thời xưa; do đó, xe nào xuống phà trước sẽ lên bến trước không phù hợp với câu “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết.” [font="%value"]
- Mãi cho đến năm 1994, như tôi đã nói, chợt ngộ ra câu, ”Người biết không nói, kẻ nói không biết,” tôi phân tích diễn trình suy tư của mình và nhận ra những câu nói nơi kinh sách đạo học đều nói về tâm tư, nhận thức xảy ra ngay nơi mình nên để tâm lục lọi nơi tâm tư mỗi khi chứng công án hay câu nói ngang ngược nào đó. [font="%value"]
- Thưa cha, tại sao người biết không nói? Chị chủ nhà nhanh miệng. [font="%value"]
- Giời, chị hỏi vậy thì tôi biết trả lời sao! Nó là một công án mà giải thích thì chắc chắn là cướp cơ hội suy tư của chị; nói cách khác, cướp cơ hội thức ngộ của chị, chẳng khác gì giải thích phúc âm. Bộ chị muốn tôi bị kết án như Biệt phái chăng? [font="%value"]
- Thưa cha, phúc âm là lời Chúa, còn câu nói này đâu phải lời Chúa thì đâu dính dáng gì đến Biệt phái, lại còn kết án. Chị chủ nhà khá thông minh. [font="%value"]
- Tôi đã nói mà chị còn phân biệt. Phúc âm là sự nối kết các công án từ ngàn xưa để lại, và dùng đức Giêsu làm đề mục hầu dân Chúa suy tư, nghiệm xét để nhận biết thực thể chính mình, thực thể Thiên Chúa và liên hệ của Thiên Chúa với mình nên được gọi là lời Chúa. Nói rằng lời Chúa hằng sống hoặc lời hằng sống có nghĩa những lời này, những công án này cần được suy tư hay là thách đố, hoặc khuyến khích, kích thích suy tư để dân Chúa nhận thức hay ngộ được thực thể mình thế nào. Không nên giải thích công án vì công án là đề mục suy tư, nghiệm xét. Thế nên giải thích là ăn cướp. [font="%value"]
- Cảm ơn cha đã giải thích nhưng ăn cướp đâu không thấy; mà con sẽ bị khốn khổ thì ngay trước mắt. Cha không giúp nhà con hiểu được công án này, con nói là hiểu chứ không dám nói đến ngộ, thì ngay khi cha vừa bước ra khỏi cửa nhà con; thế là con bị lên đoạn đầu đài. Anh chủ nhà phân trần. [font="%value"]
- Anh chị có biết hội thánh cũng được gọi là hội tội vì sao không? Thường thì lời giải thích sẽ là hội thánh bao gồm dân Chúa; mà dân Chúa là những con người quy tụ lại trong cùng một niềm tin. Dĩ nhiên, con người thì luôn lầm lỗi nên hội thánh cũng là hội tội. Tuy nhiên, từ lời than vãn của anh, tôi mới nhận ra cái tội lớn lao của hội thánh là giải thích phúc âm. Phúc âm là những công án được gán ép lại hầu dân Chúa suy tư, nghiệm xét; mà thay vì khuyến khích dân Chúa suy tư lại giải thích tức là cầm giữ dân Chúa trong tội phạm đến Thánh Thần, và cũng giống như anh nói, ngu dân để trị, hoặc cướp cơ hội thức ngộ của dân Chúa. Anh có biết nguyên tắc chữa lành trong hệ thống tâm linh không? Muốn chữa lành bệnh tật cho ai thì người chữa phải mở rộng lòng, tâm ý chấp nhận để bệnh tật của bệnh nhân truyền sang mình. Thôi được, tôi đành chấp nhận nỗi thống khổ của anh truyền sang tôi, đành chịu tội cướp cơ hội thức ngộ của anh chị. Vậy tôi hỏi chị, chị có thực sự biết chị thương anh ấy và các con của chị thế nào không? [font="%value"]
- Bộ con thương anh ấy và các con của con mà không biết à. Cha hỏi gì kỳ cục. [font="%value"]
- Chị biết chắc chị thương anh ấy và các con của chị không? [font="%value"]
- Dạ thưa biết chắc ạ. [font="%value"]
- Vậy chị có thể giải thích lòng yêu thương chồng và các con của chị cho tôi để tôi có thể thương anh ấy và các con của chị như chị yêu thương họ được không? [font="%value"]
- Thưa cha, thương thì thương chứ giải thích làm sao được. [font="%value"]
- Chị biết nhưng không thể nói được, mà càng giải thích càng chẳng nói được gì. Người biết không nói, kẻ nói không biết là chính chị. Câu ấy đâu có nói đến ai. Chị thấy chưa, từ nay, chị sẽ không bao giờ suy nghĩ đến ý nghĩa của câu nói ấy nữa. Tôi đã phạm tội ăn cướp cơ hội suy tư của chị, cướp cơ hội thức ngộ của chị chẳng khác chi các tôn giáo đã cướp cơ hội suy tư, cơ hội thức ngộ của tín đồ. [font="%value"]
- Bây giờ con mới hiểu hội tội là thế nào. Nhưng, chúng con tin theo lời hội thánh dạy vì điều luật phải tin với hội thánh thì sao, thưa cha. [font="%value"]
- Thì phạm đến Thánh Thần, khinh chê hồng ân suy tư, nghiệm xét nên chẳng biết mình tin gì, chẳng hiểu tin là thế nào, chẳng hiểu Chúa là gì, linh hồn mình là gì, chết rồi linh hồn mình sẽ đi về đâu, và sẽ là vô thần vì không biết mình tin gì, dẫu rằng mình hữu thần. [font="%value"]
- Thưa cha, vậy sao không thấy các cha có bao giờ giải thích, hay khuyến khích nghiệm xét như thánh Phao lô khuyên nhủ. Và nếu nghiệm xét theo thánh Phao lô thì làm sao tin với giáo hội. [font="%value"]
- Có đấy chứ! Nói chung, Kitô giáo, bao gồm Chính Thống, Công giáo, Anh giáo, Tin Lành v.v…, đại khái tất cả những tín đồ tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào đức Kitô, tin theo điều cốt cán thánh Phao lô rao giảng, nhưng không thực hành nguyên tắc tâm linh thánh Phao lô đề xuất; vì nói tin theo, tin vào, đặt niềm tin nơi đâu, hoặc có đức tin, thì ai không nói được, hay nghĩ rằng mình tin. Nhưng thực hành để biết mình tin thế nào, tin gì thì không. [font="%value"]
- Cha nói sao, vậy đi nhà thờ, cầu nguyện, chiêm niệm, là gì; tín đồ bày tỏ lòng tin của mình bằng những cách ấy. Sao cha nói không thực hành? [font="%value"]
- Đi nhà thờ, cầu nguyện, chiêm niệm, suy niệm là những hành động bên ngoài theo nghi thức chứng tỏ tin theo chứ chưa chắc đã biết mình tin gì. Có chăng, chiêm ngắm, suy nghĩ, suy tư và niệm chú thì may ra đá động tới bên riềm nơi hành trình tâm linh. Thực hiện chiêm ngắm và suy niệm dẫu nâng tâm hồn, tâm tư hòa nhập với thực tại diễn trình tâm linh nhưng cũng vẫn trong giới hạn tin theo. Thí dụ, tham dự nghi thức thờ phượng, lần hạt, đọc kinh. Khi anh chị tham dự nghi thức thờ phượng, chẳng hạn thánh lễ, lòng dạ của anh chị lúc ấy thế nào. Lúc anh chị lần hạt, đọc kinh chung với mọi người nơi nhà thờ, lòng dạ, tâm trí anh chị lúc ấy ra sao. Khi anh hoặc chị lần hạt một mình, anh chị có suy tư, nghiệm xét gì không. Tôi thử hỏi thêm một câu khác để anh chị tự trả lời với chính mình. Gia đình, con cái anh chị có bao giờ đọc chung kinh tối hay kinh sáng không. Trường hợp đọc chung kinh tối hay kinh sáng, lòng dạ anh chị lúc ấy ở đâu, thế nào, có suy tư, nghiệm xét không hay chỉ lặp lại những lời kinh như chiếc máy catsette hoặc nơi Youtube mà lòng dạ đang bay bổng nơi đâu; đọc thì cứ đọc theo thói quen thuộc lòng, nhưng lòng dạ trống rỗng, và thường thì đang để tâm về việc nào đó. Lần hạt, đọc kinh chẳng khác gì niệm mantra để định tâm, chiêm ngắm, suy nghĩ về sự thể được gọi mầu nhiệm, nói theo ngôn từ, danh hiệu tôn giáo, nhưng tâm có định đâu. Tôi thử so sánh lần hạt, đọc kinh với chiếc tổ chim trống rỗng, chim đã bay đi hết. [font="%value"]
- Cha nói sao, so sánh lần hạt, đọc kinh với tổ chim? [font="%value"]
- Thì lúc đọc kinh, lần hạt, tâm tư mình chẳng khác gì những con chim đã ra ràng bay đi mãi đâu đâu mà miệng mình đang tụng niệm những lời kinh chẳng khác chi chiếc tổ chim trống rỗng. Anh chị thử nhớ lại coi. Nơi “Kinh ngày chủ nhật” thường đọc ngay trước khi lễ, có câu, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn; mà linh hồn là tính thiêng liêng,” có đúng không. Câu kinh này phản nghịch lại với niềm tin của bất cứ tôn giáo nào mà sao vẫn còn được đọc. Như vậy, có khác gì tổ chim trống rỗng không? [font="%value"]
- Cha nói thế con mới nhớ; thường ngay khi gia đình bắt đầu đọc kinh tối, ba con lên tiếng làm dấu thì mẹ con miệng đọc theo đồng thời đi rà soát lại các cửa nẻo xem đã khóa chắc lại chưa. Có lần, khi ba con vừa lên tiếng, “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần,” thì anh con nói, “Khoan đã, bố để mẹ xem lại các cửa đã đóng chặt chưa rồi hãy bắt đầu.” Nhưng, chứng nào vẫn tật nấy, cứ bắt đầu đọc kinh là mẹ con đi rà soát cửa nẻo. Riêng gia đình con, con thấy đọc kinh chung thật bất tiện vì không thể nào ấn định được giờ chung do nhiều chuyện bất thường phải giải quyết nên không bao giờ chúng con đọc kinh gia đình vào buổi tối. Cha xem, lúc chúng nó còn nhỏ ở nhà, đứa học bài này, đứa làm bài kia, rồi chồng con phải tính toán vẽ cái này, gọi chuyện kia thì sao mà kinh với đọc sách; ấy là chưa tính đến những chuyện đám xá, party, partiếc. Chị chủ nhà giãi bày. Thế cha nói sao về tin theo thánh Phao lô? Thánh Phao lô nhắc nhở, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa” đúng với Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng thì tin theo có gì sai đâu! [font="%value"]
- Thế anh chị đã thực sự nhận biết Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình chưa? Thiên Chúa là gì anh chị đã cảm nhận được chưa hay chỉ nghĩ theo. Kinh Thánh nói, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (KN 1:27), anh chị có dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa không? Vì chúng ta tin theo nên lặp lại những gì được dạy dỗ như cái máy chứ lòng ruột nào có biết, nào có nhận thức chi đâu! Đấy, đức tin của chúng ta như thế đấy. Miệng tuyên xưng tin vào Chúa mà không biết Chúa là thế nào thì tin làm sao! Ôi, uổng công Chúa Giêsu chuộc tội. Chúa Giêsu đến chuộc tội cho những chiếc máy phát thanh vô cảm! [font="%value"]
- Sao cha lại nói uổng công Chúa Giêsu chuộc tội; mà lúc trước cha lại nói mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chị chủ nhà nêu lên điểm đối nghịch. [font="%value"]
- Có phải anh chị được dạy là Thiên Chúa sai Chúa Giêsu đến thế gian chịu chết để chuộc tội thiên hạ không? Quan niệm này do thánh Phao lô rao giảng cũng như được giãi bày nơi phúc âm thánh Gioan. Có điều, phúc âm thánh Gioan là thành quả, kết quả của nghiệm chứng, nghiệm xét, suy niệm về cuộc đời của Chúa Giêsu. Riêng quan niệm Chúa Giêsu đến thế gian chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ được thánh Phao lô rao giảng trước khi phúc âm được viết; mà gốc gác của Kitô giáo được đặt trên nền tảng Tân Ước nhưng đa phần luật lệ, lời khuyên răn, áp dụng theo các thư. [font="%value"]
- Thưa cha, thế sao sự rao giảng, truyền bá phúc âm được khuyến khích? Chị chủ nhà đặt vấn đề. [font="%value"]
- Câu trả lời là phản ứng ngay chính nơi chị. Truyền bá, rao giảng phúc âm thì truyền bá thế nào; in ra, bán, biếu, cho không; mà cho dù có đọc thì cũng không hiểu phúc âm nói gì thì truyền bá, rao giảng phúc âm sẽ ra sao. Đồng ý rằng, khuyến khích, giúp phương tiện để người ta biết đến phúc âm, như nhà anh chị có cuốn Kinh Thánh để an lòng mình tin theo Chúa, nhưng thử hỏi, qua bao ngày tháng, anh chị dành ra được bao nhiêu giờ để đọc chứ chưa nói đến mấy phút một ngày. Hơn nữa, đọc Kinh Thánh, đọc phúc âm cũng như đọc truyện tưởng tượng, hoặc nghĩ rằng những sự việc được ghi chép là chuyện thật phỏng đem lại lợi ích gì nơi cuộc đời, nơi phần rỗi, nơi nhận thức của anh chị. [font="%value"]
- Thì ít nhất cũng giúp mình có lương tâm ngay chính hơn, sống tử tế hơn. [font="%value"]
- Đó là luân lý, đạo đức nhân sinh. Vậy phần rỗi, vậy ơn cứu độ của Chúa thì thế nào đối với mình nếu mình không biết Thiên Chúa là gì, linh hồn mình là gì, ơn cứu độ là chi, cứu mình, độ mình khỏi sự gì. [font="%value"]
- Thưa cha, ơn cứu độ của Chúa cứu thoát mình khỏi tội lỗi. [font="%value"]
- Mình cứ làm bừa đi rồi tin rằng, nghĩ rằng, đã có Chúa cứu thoát khỏi phải trả giá cho những sai lầm phỏng có hợp lý, hợp tình không. Đàng khác, như anh chị được dạy, ơn cứu độ của Chúa là ơn nhưng không. Vậy cố gắng sống tốt lành, tránh phạm lỗi lầm có phải là hành động từ chối, khinh chê ơn cứu độ của Chúa không. Thử hỏi, nói rằng vì con người mình tội lỗi nên Chúa phải xuống thế chịu chết chuộc tội cho mình có hợp lý, hợp tình không. Nếu hỏi tội là gì thì ú ớ hay chỉ có thể nói là phạm đến luật của Chúa. Vậy luật của Chúa là gì thì lại càng không biết bởi chẳng biết Chúa là gì thì sao có thể nói luật của Chúa là gì. Tôi có câu hỏi, hơi kỳ cục, vậy hai con chó lấy nhau ngoài đường kia có luật lệ nào lên án chúng không? Và giả sử loài người không được sinh ra với khả năng truyền giống thì sẽ thế nào. Vậy những luật lệ nhân sinh phát xuất từ đâu? Truyền bá phúc âm mà không hiểu phúc âm nói gì thì truyền bá chi? Chúa Giêsu đến rao giảng Tin Mừng vậy Tin Mừng Ngài rao giảng là chi. Tin theo Chúa Giêsu mà không biết Tin Mừng Ngài rao giảng thì tin theo thế nào? Tin theo Ngài thế nào theo lời phúc âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37)? Làm sao áp dụng lời phúc âm vào cuộc sống nếu hiểu, nếu rao giảng phúc âm theo nghĩa từ chương, thì sao được gọi là Tin Mừng? Tất nhiên, muốn rao giảng phúc âm, muốn truyền bá phúc âm cần phải am hiểu phúc âm, cần nghiệm xét, suy tư, cần áp dụng, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào,” (1Thes. 5:19-21) với điều kiện tâm trí, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô” (Col. 2:8). Suy tư, nghiệm xét thì không; thực hành thì chỉ tin theo trong khi không biết tin theo gì. Cứ hô ầm lên rằng tin theo thì được gọi là có đức tin à? Đức tin là gì cũng chẳng biết; mình là ai cũng không biết; Chúa thế nào, linh hồn mình là chi lại càng không biết thì tin theo là sao? Phỏng cứ tin rằng Chúa chuộc tội cho mình thì được ơn cứu độ chăng? Cứu độ khỏi thứ gì? Khỏi tội. Cố gắng không phạm tội lại cho rằng khinh chê ơn cứu độ. Ôi, thân phận dân Chúa chẳng khác gì chiếc lưỡi giữa hai hàm răng; trên đe dưới búa cũng chỉ vì tin theo. [font="%value"]
- Thế sao cha bảo là tin theo thánh Phao lô mà không biết Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng? Chị chủ nhà gỡ gạc. [font="%value"]
- Tin theo thánh Phao lô là tin rằng, cho rằng Chúa Giêsu được sai đến hay tự đến chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ như thánh Phao lô rao giảng, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh,” (1Cor. 15:3) để rồi cho rằng phúc âm viết về cuộc đời của Chúa Giêsu, nhập thể, rao giảng, chịu thương khó và sống lại như các học giả và chuyên viên Kinh Thánh đã loan truyền, viết nơi sách vở; đồng thời cũng ù xọa cho rằng phúc âm chính là lời dạy của Chúa Giêsu. [font="%value"]
- Thưa cha, phúc âm có nghĩa tin mừng, mà Chúa Giêsu rao giảng tin mừng thì phúc âm là lời giảng dạy của Chúa Giêsu không đúng sao?” Lại cũng chị chủ nhà hỏi, còn anh chủ nhà vẫn âm thầm im lặng nghe cha Lành nói, mang vẻ suy nghĩ lung lắm. [font="%value"]
- Chị quên rằng phúc âm được viết từ năm 70 sau công nguyên đến năm 100 sao. Phúc âm Gioan được viết từ năm 90 đến năm 110. Thánh Phao lô tử đạo vào năm 68, tôi dùng ngôn từ tử đạo, chứ thực ra ngài bị kết án vì rao giảng đức Kitô chịu đóng đanh. Dĩ nhiên, có nhiều yếu tố, nguyên nhân liên hệ đến cái chết của ngài chẳng hạn chính chị, chính em; nhưng dưới mắt Kitô giáo thì ngài được tuyên xưng là tử đạo. Nói cho đúng, tử vì rao giảng đức Kitô, vì khuyến khích dân Chúa nghiệm xét. [font="%value"]
- Cha nói sao, ngài bị tử đạo vì khuyến khích dân Chúa nghiệm xét. [font="%value"]
- Đó là một trong những điểm mà tôi nghĩ tới thôi vì thực ra, sách vở viết thế nào tôi không đọc bởi cho dù họ viết ra sao cũng bị thiên vị. Chị thử nghĩ coi, tại sao ngài khuyên nhủ nghiệm xét mọi sự mà đồng thời lại công bố, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:3). Mắc mớ gì mà phải nhắc tới, “Điều mà tôi cũng đã chịu lấy.” Thử bình tâm suy luận, có thể rằng nhờ nghiệm xét, không để bất cứ lý thuyết, truyền thống, cách vật trí tri nào đánh bã, ảnh hưởng tới suy tư của mình sao lại phải tuyên xưng, “Tôi cũng đã chịu lấy?” Chịu lấy từ ai nếu không từ truyền thống người phàm, nếu không từ tổ chức gọi là “Giáo hội tiên khởi.” Tất nhiên, nghiệm xét mọi sự thì không tin theo ai hết, không tin bất cứ lời rao truyền, hay từ quan niệm nào. Nghiệm xét mọi sự nghịch lại với “Chúng ta phải tin với giáo hội.” Phỏng trong những thư của ngài có câu nào nói đến giáo hội thời đó bào chữa, hay bảo vệ, hoặc có hành động, tuyên cáo nào đứng về phe thánh Phao lô không. Như vậy, câu được thêm, “Điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh,” nói lên có sự chỉnh đốn nào từ giáo hội tiên khởi ấy về lời khuyên nhủ “Đừng dập tắt Thần Khí, mà nghiệm xét mọi sự” với một tâm trí, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô” (Col. 2:8). Quyền lực, vị thế, và tham vọng thế tục đối với con người mạnh mẽ hơn bất cứ gì. Nó lớn lao hơn ngay cả niềm tin vào Thiên Chúa, bởi có biết Chúa là gì đâu. Thử tự hỏi chính mình, đã “Nghiệm xét mọi sự” sao lại phải hô lên “Điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy.” Sao không nói tôi đã nghiệm ra được, ngộ được, suy tư được, hay chính đức Giêsu đã mật truyền cho tôi mà lại tuyên xưng “Điều mà tôi cũng đã chịu lấy.” [font="%value"]
- Thưa cha, anh chủ nhà chợt lên tiếng, thánh Phao lô nói ngài đã chịu lấy theo lời Kinh Thánh. [font="%value"]
- Kinh Thánh có câu nào định nghĩa Thiên Chúa là gì không dẫu tất cả các sách nơi Cựu Ước đều minh chứng chỉ một điểm, và đó là có một quyền lực tối thượng được gọi là Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi tạo vật. Tân Ước cũng không có bất cứ định nghĩa nào rõ ràng về Thiên Chúa là gì. Bởi thế mới cần nghiệm xét, cần suy tư; mà nguyên tắc suy tư, nghiệm xét lại bất chấp tất cả, không tin ai hết, không để ai, lý thuyết, chủ thuyết, hoặc kinh sách nào lừa dụ thì mắc mớ gì phải nói đến Kinh Thánh. Đã nghiệm xét mọi sự, đừng dập tắt Thần Khí, không để cách vật trí tri làm mồi đánh bã mà lại xưng hô “Điều mà tôi cũng đã chịu lấy” là thế nào? [font="%value"]
- Sao cha không tìm hiểu cho rõ ràng chuyện gì đã xảy ra mà chỉ lý luận phỏng đoán? Chị chủ nhà chen vô. [font="%value"]
- Biết thêm cho rõ ràng nào được lợi ích gì hay chỉ trở nên bia cho người ta nhắm tới. Tôi phải im lặng để giữ cái nồi cơm của tôi chứ, giữ cái vị thế linh mục của tôi thay vì đi làm thuê kiếm miếng cơm ăn. Thời thế, thế thời phải thế. Anh chị thử nghĩ coi, cho dù minh chứng được chắc chắn, tôi cũng không ngu dại gì nói lên sự thật vì như thế tôi sẽ bị những kẻ mù mờ tin theo ném đá, biến tôi thành bậc thang cho họ bước lên đài danh vọng. Anh chị vô net xem, Anthony De Mello đã được xưng tụng như thế nào? Tôi dại vừa chứ không ngu quá. Thế nên, thà nghiệm xét để vui thú với sự nhận định tưởng tượng còn hơn kiếm tìm sự phiền hà cho mình. [font="%value"]
- Thưa cha, con xin lỗi nêu lên ý kiến, con nghĩ, có thể rằng thời đó giáo hội tiên khởi đang bị bách hại, các đấng bản quyền dưới con mắt nhà cầm quyền Roma cũng bị coi như những người dân thường có niềm tin vào Chúa Giêsu và những lời giảng dạy của Ngài, và cũng đang bị theo dõi, bắt bớ. Con nghĩ, thánh Phao lô ở trong tù chắc có lẽ cũng không ai dám đến thăm vì chắc chắn sẽ bị vạ lây, phương chi công khai lên tiếng bênh vực. Kinh nghiệm cho con thấy, ở những chế độ độc tài, nhà cầm quyền kiến tạo nhiều tổ chức để theo dõi dân chúng hầu đè bẹp bất cứ mầm mống nào có thể phát sinh chống lại hay lật đổ họ. Đối với những chế độ độc tài, nguyên tắc “Giết lầm hơn tha sót” được triệt để thi hành; hơn nữa, thời đó dân Do Thái đang bị người Roma cai trị. Vừa bị thể chế độc tài đàn áp lại lệ thuộc dưới ách đô hộ của ngoại bang; hơn nữa, thánh Phao lô là công dân Roma, bị gán ép cái ách bội phản chế độ chắc chắn đè nặng trên thân phận ngài, lại càng ngăn cách ngài với bất cứ ai. Có lẽ chính vì thế không thể có bất cứ ai bảo hộ hay bênh vực cho ngài. [font="%value"]
- Tôi cũng nghĩ thế, nhưng vấn đề ở đây là nhận thức sự thể niềm tin. Tính theo thời điểm các thư mục vụ của ngài thì hai thư gửi giáo đoàn Thessalonia được viết vào năm 52; trong thư thứ nhất, thánh Phao lô khuyên nhủ, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21). Lời minh định của ngài, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:3) nơi thư gửi giáo đoàn Côrintô được viết vào năm 57. Cũng trong thư này có lời minh xác, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Tôi nghĩ, nhờ nghiệm xét nên ngài đã nhận thức được Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người. Qua quá trình suy tư, nghiệm xét, và nếu tôi không lầm, nhờ kiến thức nghiệm chứng bên Đông Phương, năm 62 ngài tổng hợp điều kiện tâm trí khi nghiệm chứng, nơi thư gửi giáo đoàn Côlôsê với câu, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Từ những phát biểu theo thứ tự thời gian như thế, tôi mới nghi ngờ đã có sự phiền hà do sự đối nghịch giữa niềm tin, quan điểm nhận định, và phương pháp suy tư, nghiệm xét. Hơn nữa, như anh đã nhắc đến sự thể, “Bất cứ gì mình nói không giống quan niệm của một tổ chức cũng làm người trong tổ chức đó khó chịu,” thì có lẽ thời giáo hội sơ khai rất khó mà có thể chấp nhận để mọi người nghiệm xét mọi sự. Nào có lạ gì, nơi văn hóa Việt cũng có câu, “Ông bẩy mươi học ông bẩy mốt” thì thánh Phao lô qua con mắt thủ cựu của tổ chức tin theo đức Kitô, với sức học và tầm hiểu biết tương đối hạn hẹp; hơn nữa, nguyên tắc nghiệm chứng, nghiệm xét quá ư mới lạ, mới đến nỗi khiến người ta e ngại đi lạc đường, lạc lối niềm tin, ngay như đối với chúng ta sau hai ngàn năm, thì thánh Phao lô bị o ép nên đã phải gán ép niềm tin truyền thống vào Kinh Thánh thì cũng chẳng có chi lạ lẫm. Điều lạ theo tôi thấy, lại ở nơi chúng ta, những người tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào đức Kitô nơi thế kỷ 21 này vẫn chưa nhận ra Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng. Không thể hiểu Chúa muốn gì mà hai mươi thế kỷ đã qua, con dân Chúa vẫn còn ngụp lặn trong tội phạm đến Thánh Thần. [font="%value"]
- Thưa cha, chị chủ nhà lên tiếng. Cha nói con dân Chúa ngụp lặn trong tội phạm đến Thánh Thần nhưng đâu phải lỗi ở họ; họ tin theo những lời giảng dạy, truyền bá mà. Cha nói đúng, phương pháp nghiệm xét của thánh Phao lô quả thực đối với con chẳng khác gì trái bom nguyên tử nổ nơi tâm trí, tâm tư. Trước hết, con đã được dạy, “Chúng ta phải tin với giáo hội,” thì tự mình nghiệm xét không bị lệ thuộc bất cứ gì dù truyền thống, dù sự giảng dạy của ai, dù nơi sách vở nào, chẳng khác chi nói con đã tin sai dẫu đã được nghe cha phân giải về Thiên Chúa, về linh hồn, Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng, và hơn nữa về niềm tin truyền thống nơi Kitô giáo rằng Chúa Giêsu được sai đến chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Con nghe cha nói tới đâu, sững sờ tới đó và mối nghi ngờ con đã tin sai bùng lên. Nhưng con được giáo dục, dạy dỗ như thế, như cha nói là tin theo. Thưa cha, xưa nay, đúng là miệng con, những hành động tham dự thánh lễ, tham dự các nghi thức tôn giáo, hy vọng minh chứng con có niềm tin vào Chúa nhưng thực tâm, con không biết mình tin gì. Con nghĩ, coi chừng mình vô thần như cha nói. Xin lỗi cha, đây là điều rất thật nơi lòng con, nếu có gì sai, cha tha thứ cho con. [font="%value"]
- Chị có biết sự gì sai nhất trong cuộc đời không? [font="%value"]
- Cha nói trong cuộc đời thì thiếu gì thứ sai sao con biết sai nhất. [font="%value"]
- Điều sai lầm lớn lao nhất trong cuộc đời một người là không thấy mình sai; bởi vì kẻ thù độc hại nhất của mình lại là chính mình. Không thấy mình sai sao có thể nhận biết kẻ thù của mình. [font="%value"]
- Thưa cha, anh chủ nhà nói, như vậy, con thấy nói rằng phúc âm là tin mừng thì không chỉnh, nhưng sao con chưa bao giờ nghe nói đến Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng? [font="%value"]
- Thì tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần như nói lặp, bộ anh không nghe thấy sao. [font="%value"]
- Con muốn nói lần đầu tiên con nghe cha phân biệt. [font="%value"]
- Trung thực mà nói, tôn giáo là tổ chức nhân sinh bao gồm nhiều thành phần nên sự hiểu biết không đồng đểu. Tôn giáo bắt nguồn từ đạo học do những đấng lâm phàm nhập thể. Gọi là nhập thể cho có vẻ tôn trọng; thực ra, các đấng lâm phàm được sinh ra với sự thức ngộ quá cao so với tri thức con người bình thường. Những vị lâm phàm giảng thuyết, giãi bày cho người đồng thời rồi ra đi thường không để lại bút tích, dấu vết gì. Những người tin theo mới tụ họp lại kiến tạo thành tổ chức nhân sinh cùng một niềm tin theo được gọi là tôn giáo. Trãi qua thời gian, những thức ngộ được ghi chép lại gọi là kinh sách, và tôn giáo dùng kinh sách làm gốc gác kiến tạo nghi thức cho tín đồ tuân theo. Dĩ nhiên, vì tín đồ bao gồm nhiều thành phần hiểu biết khác nhau nên kinh sách bị hạ cấp cho người tin theo dễ nhận biết. Đọc nơi cách sách đạo học, hay Kinh Thánh, phúc âm, chúng ta thấy, kinh sách là tổng hợp kết quả của những thức ngộ như thành quả của nghiệm chứng. Mà nghiệm chứng, suy tư thuộc về tâm linh, nhận thức. Tuy nhiên, chỉ mới nói đến hai ngôn từ, “Tâm linh,” và “Nhận thức,” tôi thấy, ít ai thực sự hiểu biết và thực dụng chúng một cách rành rẽ. Cầu xin tôi nghĩ sai, nhưng thực tế minh chứng, người ta suy tư, tính toán lối sống, công việc, lợi ích rất giỏi, nhưng suy tư, nghiệm xét, nghiệm chứng tâm linh, thì dường như quá xa lạ. Cũng chính vì tham vọng phát triển tổ chức tôn giáo, càng ngày càng phải tìm cách hạ cấp lý thuyết, chủ thuyết đạo học sao cho dễ hiểu, dễ được chấp nhận hơn đối với đại chúng; đồng thời, vì đã quá thân thương với sự tính toán, nhận biết nhân sinh, thế tục, đạo học thường được hiểu biết và giảng giải theo nghĩa từ chương, dưới quan điểm đạo đức, luân lý. Anh chị có thể thấy nơi Youtube, có những người nói về ngày tận thế dựa theo Kinh Thánh. Không biết anh chị có nghe biết hoặc đã tham dự “cái” gọi là “Bói Kiều” bao giờ chưa! Người ta dùng cuốn truyện Kiều của Nguyễn Du để bói, để kiếm miếng cơm, manh áo. Thế mà cũng có khối người tin, khối người chi tiền. Phương chi kinh sách đạo học, mờ mờ, ảo ảo, được viết theo kiểu ám định nơi phương diện tâm tư, nhận thức nào đó của con người. Cũng đã muộn quá rồi, chúng ta có nên đàm luận tiếp nữa hay không. Ngày mai thứ bẩy, anh chị có phải làm “Over time” không? [font="%value"]
- Thưa cha không, anh chủ nhà trả lời. Nếu có con cũng không làm vì dẫu tiền bạc thì ai cũng cần nhưng con nghĩ, vợ chồng ở nhà cho dù chỉ nhìn nhau vẫn cần hơn. [font="%value"]
- Cha có dùng cà phê không, thưa cha? Uống cà phê cho tỉnh, nói cho phê. [font="%value"]
- Vậy chị muốn nghe về chuyện gì? Chị cho tôi một ly cà phê đen và đường là được. [font="%value"]
- Cha có muốn dùng thêm sữa bột hoặc sữa đặc có đường không? [font="%value"]
- Sữa đặc có đường uống ngon hơn, chị làm ơn. [font="%value"]
- Cha đợi con đôi phút đun nước và con làm cho cha một “Cái nồi ngồi trên cái cốc.” [font="%value"]
- Chị sang Mỹ năm nào? [font="%value"]
- Thưa cha năm bẩy lăm. [font="%value"]
- Thế sao chị biết cái nồi ngồi trên cái cốc. [font="%value"]
- Lần đầu tiên nghe thấy, con không nhớ ai diễu, con ngớ ra, lúc biết, con cười đến chảy nước mắt. Đến tận giờ mỗi lần pha cà phê, con vẫn còn cảm thấy vui vui vì sự ngố tầu của cán ngố. Chị chủ nhà vừa rót nước sôi từ bình nấu bằng điện vào chiếc phin vừa kể; đoạn đem cái nồi ngồi trên cái cốc kèm theo chiếc muỗm và bình nhỏ đựng sữa đặc để trên bàn trước mặt cha Lành. [font="%value"]
- Anh cũng uống một ly nha; chị chủ nhà hỏi chồng. [font="%value"]
- Em pha thì anh phải uống, hy sinh mà uống để chứng tỏ lòng hiếu thảo với vợ; chứ nếu không uống bây giờ, mai em không pha nữa thì lấy gì mà uống. [font="%value"]
- Lần đầu tiên tôi nghe được ông tán bà ấy giỏi ghê. Vậy chứ ngày xưa, trước khi cưới, ông tán bà ấy bằng cách nào. [font="%value"]
- Con đâu dám tán cô ấy, thưa cha. Con tán bố mẹ cô ấy trước; khi ông bà đã ăn đèn, con bất chiến tự nhiên thành. [font="%value"]
- Chỉ còn thiếu cái đuôi, chị nhẹ nhàng nói trong khi bỏ cà phê vô phin. [font="%value"]
- Anh ấy ma giáo lắm hả chị? [font="%value"]
- Thưa cha, con ngoan ngoãn với nhà con lắm. Cha thử nhìn con coi; nhà con nấu nướng bao nhiêu; con phải ép mình ép xác ăn hết bấy nhiêu. Phải ăn cho hết nếu không e nhà con không nấu nữa thì làm sao có những món ngon mà ăn. Hơn nữa, thà hư bụng mình còn hơn hư của Đức Chúa Trời; nên mỗi ngày con cứ mũm mĩm ra. Nói của đáng tội, tại nhà con nấu ăn ngon quá. [font="%value"]
- Bộ chị có mối thù với mấy nhà hàng sao? [font="%value"]
- Có gì đâu cha, đi ăn ở nhà hàng mình đâu biết họ bỏ những thứ gì cho mình ăn. Ăn ở nhà, mình biết mình ăn những gi nên con không thích đi ăn tiệm. Vừa nói, chị vừa mang ly cà phê đen và chiếc muỗm đặt trên bàn trước mặt anh. Trở lại khu bếp, chị pha một ly trà cho mình. [font="%value"]
- Bây giờ, chị muốn nghe thêm chuyện gì? [font="%value"]
- Thưa cha, cha có thể phân biệt Tin Mừng truyền thống và Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng được không? [font="%value"]
- Trước tiên, cần định nghĩa danh hiệu hay ngôn từ. Tin là lời nói, điều, sự việc, vấn đề được nghe tới, mang tới. Mừng là vui vẻ, phấn khởi, hồ hởi, hạnh phúc. Cuốn Kinh Thánh đang ở trước mặt chị bao gồm Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước gồm nhiều sách, chẳng hạn sách Khởi Nguyên, Xuất Hành, Nhị Luật, Lê Vi, Dân Số, các sách Tiên Tri, v.v… Tân Ước gồm có 4 phúc âm, Matthêu, Marcô, Luca, và Gioan cùng với Tông Đồ Công Vụ, cách thư và sách Khải Huyền. Danh hiệu “Phúc Âm” cũng có nghĩa “Tin Mừng.” Phúc âm, theo ngôn từ có nghĩa lời hạnh phúc, chúc phúc. Kitô giáo lấy phúc âm làm gốc; nói cách khác, tất cả các giáo phái thuộc Kitô giáo, nghĩa là những giáo phái tuyên xưng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu đều phát xuất từ phúc âm, lấy phúc âm làm chuẩn. Thế nên, Phúc Âm thường được gọi là lời Chúa. [font="%value"]
- Danh hiệu Tin Mừng thường được hiểu là Phúc Âm. Dẫu mỗi phúc âm là sản phẩm của một cộng đồng kiến tạo nên qua phúc âm, các vị học giả có thể phân tích, giải thích đặc tính cộng đồng đã kiến tạo, đã viết ra phúc âm ấy theo lời truyền khẩu vì theo các học giả Kinh Thánh, ba phúc Matthêu, Marcô, và Luca có nội dung tương tự như nhau nên được gọi là Phúc Âm Nhất Lãm và được viết vào khoảng từ năm 70 đến năm 100 sau Công nguyên. Riêng phúc âm Gioan thì từ năm 90 đến năm 110. [font="%value"]
- Đồng thời, cho đến hiện nay, các học giả Kinh Thánh đều cho rằng, hay quan niệm rằng phúc âm nhất lãm viết về cuộc đời của Chúa Giêsu, sự giáng sinh, giảng dạy, chịu khổ nạn và sống lại của Ngài. Phúc âm Gioan là thành quả của chiêm nghiệm về nguyên thủy và cuộc đời Chúa Giêsu. [font="%value"]
- Nếu anh chị hỏi những Kitô hữu Tin Mừng là gì, họ đều cho biết đó là phúc âm được đức Giêsu giảng dạy hai ngàn năm trước. Nhưng những sự quảng bá, rao truyền thì họ lại rao truyền về đức Giêsu được sai đến chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ. Thế nên, Tin Mừng đối với họ là Chúa Giêsu được sai đến cứu độ nhân loại. Hỏi cứu độ, giải thoát họ khỏi sự gì thì được trả lời là khỏi tội lỗi. Điểm tôi muốn tóm tắt là, Tin Mừng đối với tín hữu là Phúc Âm nhưng rao truyền về đức Kitô chịu đóng đanh như thánh Phao lô minh xác, “Vì chưng trong khi Do Thái đòi có dấu lạ, và Hi lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh thập giá, cớ vấp phạm cho Do thái, sự điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đối với những ai được kêu gọi dù là Do Thái hay Hi lạp, lại là chính đức Kitô quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor. 1:22-24). Và nơi thư gửi giáo đoàn Côrintô ngài minh xác, “Vì tiên vàn, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta theo lời Kinh Thánh” (1Cor. 15:3). Đây là gốc gác tôn giáo nhà anh chị tin theo và đang được rao giảng, loan truyền. [font="%value"]
- Nơi phúc âm nhất lãm, chúng ta đọc được, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43); hay nơi Phúc âm Marcô ghi lại đức Giêsu nói, "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận, để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi" (Mc. 1:38). Nơi phúc âm Matthêu thì được viết, “Và Ngài rảo khắp xứ Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, và rao truyền Tin Mừng về Nước Trời, và chữa lành mọi tật nguyền, bịnh hoạn trong dân” (Mt. 4:23). [font="%value"]
- Chúng ta thấy, phúc âm nhất lãm nói lên mục đích cuộc đời của đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Thế thì tin theo Ngài, chúng ta tin theo lời Ngài rao giảng hay lời Phao lô công bố? Vậy Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng là gì, muốn biết chúng ta cần suy tư, nghiệm xét. [font="%value"]
= Cha thưởng nhắc đến những ngôn từ nghe rất quen tai như suy tư, suy nghĩ nghiệm chứng, nghiệm xét, hành trình, lại thêm mấy câu của thánh Phao lô, hoặc nơi phúc âm, nhưng mới thử tưởng tượng áp dụng chúng thế nào trong khi suy nghĩ, suy tư, thì lại cứ cảm thấy luẩn quẩn, rối tung lên, khiến đầu óc bị dồn vào ngõ bí. Cha có thể giải thích cách nào để dễ dàng áp dụng chúng trong hành trình và diễn tiến suy tư được không. Chẳng hạn con nghe tới, nghe lui, không biết bao lần ở nhà thờ về “Hành trình đức tin.” Vậy hành trình đức tin là gì, phải làm gì, thực hiện những gì để có được đức tin. Chị chủ nhà lên tiếng. [font="%value"]
- Nói làm sao đây, chị tưởng tôi là cuốn tự điển sống hay chiếc máy nói. Nói không được, chẳng khác gì câu, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Bởi vì đa số nếu không muốn nói hầu hết những ngôn từ này chỉ về tâm trạng, tâm thức nơi một người qua những trạng thái hoặc trường hợp khác nhau. Một điểm rõ ràng là chúng nói về những sự vật, sự việc nhân sinh thế tục nhưng ám định về diễn tiến suy tư, được gọi là tâm linh. Chúng nói về sự thực hành bằng cách suy nghĩ để tìm ra ý nghĩa, kết luận, hoặc thực thể suy nghĩ hợp lý, hợp tình, hợp với tâm trạng của mình. Tôi chi có thể đưa ra thí dụ và các câu hỏi để thực tập chứ giải thích vô ích. Đây là lý do tại sao các kinh sách thường được viết bằng cách ráp nối các công án hay dụ ngôn. Chị có thể nói lên câu nào đó đang luẩn quẩn, làm phiền tâm trí chị được không? [font="%value"]
- “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày giờ nào chủ các ngươi đến.” Chị chủ nhà lên tiếng không ngập ngừng. [font="%value"]
- Chị có biết câu này nơi đâu không? Chị thử rở phúc âm Matthêu, đoạn 24 xem, hình như gần phẩn cuối. [font="%value"]
Chị chủ nhà rở Kinh Thánh và đọc lên, [font="%value"]
Phải canh thức và sẵn sàng [font="%value"]
"Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt. 24:37-44). [font="%value"]
- Chị nghĩ thế nào là tỉnh thức? [font="%value"]
- Là luôn luôn cầu nguyện, xin Chúa soi sáng. [font="%value"]
- Giêsu ma, chị cầu nguyện thế nào khi ngủ, khi ai đó vô tình nói câu nào đó chạm đến tự ái khiến chị bực điên lên? Chị cầu nguyện thế nào khi gọi điện thoại bảo thằng con về nhà với bố mẹ ngày lễ tết mà nó viện cớ nọ, việc kia không về. Chị nhớ nhá, thằng con của chị chứ không phải con hàng xóm. Phúc âm nói về tâm trạng, suy tư. Trong lúc suy tư, nhiều chuyện xảy đến nơi tâm trí để chị sắp xếp, nhận định, chọn lựa tiếp tục suy tư, được gọi là diễn tiến hay hành trình suy tư, hành trình đức tin, nghiệm xét. Tỉnh thức ở đây có nghĩa suy nghĩ, suy tư, đặt vấn đề, nhận thức, nhận định. [font="%value"]
- Ngày Chúa đến là ngày nào? [font="%value"]
- Thưa cha, ngày Chúa gọi về, ngày mình chết. [font="%value"]
- Chị sợ chết lắm sao? [font="%value"]
- Thưa cha, ai chẳng sợ! [font="%value"]
- Chị làm ơn để ý, Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu. Chúa không tạo dựng hoặc trong Chúa không có sự chết. Đối với con người, sự chết xác thân chỉ là sự chuyển đổi, biến đổi của sự hiện hữu và linh hồn không chết. Vậy đối với linh hồn, ngày Chúa đến là gì? [font="%value"]
- Là ngày gặp Chúa. Ngày gặp Chúa là ngày chết; chẳng lẽ con sai. [font="%value"]
- Vậy khi trả lời những câu hỏi của tôi liên quan đến câu “Người biết không nói, kẻ nói không biết” lúc chị nhận ra, thời điểm chị cảm nhận ý nghĩa của nó thì được gọi là gì. [font="%value"]
- Là hiểu biết. [font="%value"]
- Bởi trả lời những câu hỏi tôi đưa ra, khi chị cảm nhận được ý nghĩa câu nói thì được gọi là hiểu biết. Nhưng khi tự mình chị đặt vấn đề hết cách này đến trường hợp, phương diện kia mà cảm nhận được câu nào hay công án nào đó muốn nói gì nơi tâm trạng, tâm trí của chị thì được gọi là thức ngộ, ngộ, gặp Chúa. Thế nên, ngày giờ gặp Chúa là thời điểm thức ngộ. Vậy thì hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức là gì? [font="%value"]
- Chẳng lẽ hãy suy tư, thưa cha. [font="%value"]
- Tất cả những câu nói nghịch thường, ngang ngửa nơi phúc âm đều nói về trạng thái, thực hành, thực nghiệm, hành trình, diễn tiến suy tư, nghiệm chứng, nghiệm xét. [font="%value"]
- Cha nói thêm về nghiệm xét. [font="%value"]
- Ngôn từ nghiệm xét cũng chỉ là suy tư, suy nghĩ. [font="%value"]
- Vậy cha làm ơn giải thích sự thực hành của câu nghiệm xét của thánh Phao lô; sao nghe cha nói thì dễ quá mà tự mình áp dụng thì đầu óc cứ mịt mù. [font="%value"]
- Chị thử đưa ra một câu khác đang khiến chị khúc mắc. [font="%value"]
- “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi.” Nếu ai cũng thực hành câu này thì trở thành thế giới người chột. [font="%value"]
- Vấp phạm là sao? [font="%value"]
- Là làm điều chẳng nên. [font="%value"]
- Thế nào là làm điều chẳng nên khi suy tư? Nên nhớ, tâm trí chúng ta đang nơi diễn trình, hành trình suy tư. Dù mắt mũi, tai họng, ham muốn, đam mê, lợi ích, lợi lộc cũng không gì dính dáng đến. [font="%value"]
- Nhữn ý tưởng, ý thích, ham muốn. [font="%value"]
- Ham muốn làm gì, ảnh hưởng gì tới suy tư? [font="%value"]
- Làm trật đường tới điểm mình nhắm tới. [font="%value"]
- Đó là cớ vấp phạm, thì lờ chúng đi, để chúng tới, tự sinh, tự diệt, hướng tâm trí mình vào điểm tới. Đừng chiến đấu, cố gắng diệt trừ hay đuổi chúng đi. Nhận biết chúng như những viên đá bên đường, mình tiếp tục hành trình suy tư. Nhiều khi mình bị chúng dẫn dắt suy tư theo lung tung. Ngay khi nhận ra, trở lại định hướng. Tôi nhắc lại, tất cả những gì xảy đến trong khi suy tư, nghiệm xét làm lệch hướng suy tư, nhận biết và lờ chúng, để chúng tự sinh tự diệt, không diệt, không tranh đấu, không cố gắng tránh thoát. Giả sử đứng trước một bức tường, chị chửi mắng, lăng nhục nó, nhưng nó cứ im lặng, không đáp trả thì cuối cùng chị cũng tự ngưng thôi. Còn gì nữa không? [font="%value"]
- Thưa cha, thế câu, “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài" (Mt. 6:33). Tìm là tìm ở đâu; không biết nơi nào thì biết sao mà tìm. [font="%value"]
- Tìm ngay nơi tâm tư của chị, là suy tư về Nước Thiên Chúa, là cần biết Thiên Chúa là gì, cần đọc phúc âm xem phúc âm nói gì về Thiên Chúa, về Nước Thiên Chúa, cần suy tư, nghiệm xét. Khi chị để tâm, dồn hết tâm tư suy nghĩ chuyện gì, thì trong khi ngủ, dẫu chị không để ý nhưng vẫn suy tư. Sự thể này phúc âm dùng ngôn từ cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện liên lỉ là suy tư liên tục, chỉ những ai thực hành suy tư mới nhận ra. Nơi suy tư nhân sinh, thế tục, đôi khi chị tính toán chuyện gì mãi không ra, nhưng sau một giấc ngủ, coi chừng chị có cách giải quyết. Mà suy tư, nghiệm xét phát xuất tự linh hồn, nên khi thân xác nghỉ ngơi, linh hồn chị vấn làm việc. Thế nên đối với câu, “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài,” tất nhiên, muốn biết Nước Thiên Chúa thì cần phải biết Thiên Chúa trước. Phân tích câu nói thành từng phần rồi suy tư giải quyết. [font="%value"]
- Thưa cha, chẳng hạn như câu, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37), nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước chú giải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu Ngài tuyệt đối, hơn cả tình cảm với cha mẹ. Sao có thể yêu Chúa hơn yêu cha mẹ được. [font="%value"]
- Có phải cuốn đó do mười bốn vị học giả Kinh Thánh ở Việt Nam biên soạn và được in tại Sài Gòn năm 1994 không? [font="%value"]
- Thưa cha vâng. [font="%value"]
- Bởi vì họ là học giả. [font="%value"]
- Cha nói như vậy là sao? [font="%value"]
- Vì họ không học thiệt. [font="%value"]
- Thế nào là học thiệt, chị chủ nhà cười hỏi vì biết ngài chơi chữ. [font="%value"]
- Chị đang học thiệt đó; chị đang đặt vấn đề, chị đang suy tư, đang đối diện với diễn biết tâm tư chứ không xét đến thực tại nhân sinh. [font="%value"]
- Vậy là thế nào cha? [font="%value"]
- Tôi đề nghị, chị nhảy vào câu nói, đóng bất cứ vai trò nào để nhận định, suy nghĩ cách giải quyết. Tỉ dụ, đóng vai cha mẹ xem sao. [font="%value"]
- Con cái không yêu thương, không biết gì đến cha me; chị chủ nhà lẩm bẩm. Thưa cha thì buồn, thì nản, trách cứ đứa con thế thôi, rồi cũng có sao đâu, con nó có cuộc sống riêng của nó; đó là lẽ tự nhiên, thưa cha. [font="%value"]
- Vậy chúng có đi đúng đường hướng đạo đức nhân sinh bình thường không? [font="%value"]
- Đúng hay không thì mình cũng là mình, chỉ buồn cho thân phận thôi thưa cha. [font="%value"]
- Tôi hỏi có đi đúng đường hướng không chứ không hỏi tâm tình của chị. [font="%value"]
- Ah! Cha nói đúng, con phải móc mắt rồi. [font="%value"]
- Bây giờ, chị đóng vai người con bất hiếu, vai kẻ nào. [font="%value"]
- Thưa cha, con hiểu rồi. Câu phúc âm không nói gì về yêu thương, cha mẹ, mà nói về thực trạng suy tư, những diễn biến trong suy tư, hoặc suy tư theo ngã rẽ, trật hướng, những gì ảnh hưởng đến tâm trí mình. [font="%value"]
- Chị có thể giải thích câu phúc âm đó không. [font="%value"]
- Thưa cha, trong lúc suy tư, nghiệm xét, bất cứ gì làm phiền hay làm trệch đường hướng tiến đến mục đích suy tư thì không nên theo, phải lờ đi. [font="%value"]
- Bây giờ chị đã hiểu học giả và học thật chưa. [font="%value"]
- Thưa cha, như vậy là câu ghi chú thiếu nghiệm xét, suy tư. [font="%value"]
- Họ có suy tư đó chứ, nhưng suy tư trong giới hạn nhân sinh, tâm lý, luân lý, đạo đức bình thường, suy tư theo nghĩa từ chương của câu nói, không vượt lên được. [font="%value"]
- Có câu truyện phúc âm này con thấy hơi khó chấp nhận, cha giúp con giải quyết được không? [font="%value"]
- Câu truyện gì? [font="%value"]
- Thưa cha, câu truyện ông chủ vườn nho thuê thợ làm vườn. [font="%value"]
- Chị nhớ nơi phúc âm nào không? Hình như nơi phúc âm Matthêu đoạn 20, 21 gì đó. [font="%value"]
Chị chủ nhà rở Kinh Thánh và đọc, [font="%value"]
Dụ ngôn thợ làm vườn nho [font="%value"]
20:1 "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi". Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất". Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt". Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao?Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?" 20:16 Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. ("Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít".)(Mt. 20:1-16). [font="%value"]
- Chị thấy dụ ngôn này khác thường ở điểm nào? [font="%value"]
- Nơi câu “Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít.” [font="%value"]
- Đây là ghi chú của học giả mà. [font="%value"]
- Vậy học thiệt thì sao, thưa cha? [font="%value"]
- Thì chị phả trả lời, phải đưa ra nhận định. [font="%value"]
- Thưa cha, con có thấy được chọn thì ít đâu, ai cũng được trả công dầu có vẻ bất công. [font="%value"]
- Thế chị không áp dụng câu phúc âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37) sao. [font="%value"]
- Thưa cha, Kinh Thánh viết như vậy mà. [font="%value"]
- Khi suy tư, chị có toàn quyền lựa chọn, quyết định. Chị chính là quan tòa phán quyết bất cứ thế nào cũng được miễn sao hợp tình, hợp lý đối với tâm tư của chị. Chúa cũng không xen vào được. Chúa cũng phải tôn trọng nhận xét của chị vì nếu nó hợp với Chúa thì không hợp với chị. Bất cứ gì không hợp với nhận xét, nhận định của chị, vứt bỏ, vứt ngay. Đây là diễn trình tâm linh do chị làm chủ, những tư tưởng, chọn lựa, nhận định của chị không đúng, không sai, chỉ hợp hoặc không hợp với suy luận, suy tư của chị mà thôi và không ai, không thần thánh nào đụng chạm đến được. Thế nên, thấy nó vô lý thì cứ vất ngay đi, lờ đi như không có. Đây là lý do tại sao thánh Phao lô khuyên, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). [font="%value"]
- Theo dức Kitô là theo làm sao cha? [font="%value"]
- Là chịu đóng đanh, chịu lo sợ đến đổ mồ hôi máu ra, là ăn chay, hãm mình, ăn năn đánh tội; đánh nơi mình đau quá không chịu được thì đánh người khác. [font="%value"]
- Thưa cha, con hỏi thật mà. [font="%value"]
- Thì tôi cũng nói thật theo tôn giáo nhà chị mà. [font="%value"]
- Thôi, cha học thiệt, đừng làm học giả nữa. [font="%value"]
- Theo đức Kitô là theo những câu ngang ngược, nghịch thường nơi phúc âm. Xưa nay người ta thường tin theo những nhận định của học giả Kinh Thánh và cho rằng phúc âm là lời giảng dạy của Chúa Giêsu mà. [font="%value"]
- Sao cha không theo? [font="%value"]
- Vậy mà cũng hỏi, tại tôi học thiệt. Thôi, trở lại sự bất công của ông chủ vườn nho. Điểm được chú ý, hay đặt vấn đề là chuyện gì? [font="%value"]
- Tiền công, công sức làm việc, thời gian làm việc, [font="%value"]
- Tiền công thì ai cũng bằng nhau nên sự bất công không liên hệ. Còn hai vấn đề, công sức làm việc và thời gian làm việc. Chị thử đặt mình vào người làm việc xem sao. [font="%value"]
- Công sức tùy thuộc điều kiện cơ thể và khả năng nhưng người làm thuê đã chấp nhận tiền công. Chỉ còn vấn đề thời gian. [font="%value"]
- Mười năm trước, chị nấu nồi cơm cùng loại gạo như chị nấu hôm nay, giá trị của cơm nấu hôm nay có hơn giá trị của nồi cơm nấu 10 năm trước không? [font="%value"]
- Giá trị của cơm đối với bữa ăn như nhau. [font="%value"]
- Chị có biết câu “Bụt nhà không thiêng” mang nghĩa gì không? [font="%value"]
- Mình coi thường những gì mình có, coi thường khả năng của mình. [font="%value"]
- Thế còn câu, “Liệu bò đo chuồng” mang nghĩa gì?” [font="%value"]
- Thì coi chừng mà tiêu pha trong cuộc sống sao cho tránh cảnh bất cập. [font="%value"]
- Hai câu này được biết đến cả ngàn năm trước hay hơn. Vậy sự nhận biết của người xưa về hai câu này có hơn giá trị của sự nhận biết của chị ngày nay không. [font="%value"]
- Thì cũng thế thôi. [font="%value"]
- Chị đang sử dụng Iphone đó phải không? Phải mất bao lâu chị mới hoàn toàn biết sử dụng nó từ khi mua về. [font="%value"]
- Cho đến nay, vẫn còn nhiều phương diện con chưa biết sử dụng nó. [font="%value"]
- Chị có nó bao lâu rồi? [font="%value"]
- Gần hai năm. [font="%value"]
- Thế anh ấy có dùng Iphone không? [font="%value"]
- Có chứ thưa cha. [font="%value"]
- Anh ấy dùng Iphone lâu chưa? [font="%value"]
- Hình như trước con mấy năm. [font="%value"]
- Chỉ nói về một phương diện dùng Iphone, giả sử gọi phone cho một người nào đó, anh ấy bấm số gọi và chị bấm số gọi; vì anh ấy sử dụng nó lâu hơn thì giá trị của công việc bấm phone có đáng giá hơn việc chị bấm phone không? [font="%value"]
- Thưa cha, bấm phone thì ai bấm cũng thế dù mới sử dụng hay sử dụng đã lâu, có gì mà so sánh giá trị hơn kém. [font="%value"]
- Nếu chị thay thế sự việc bấm phone bằng sự thức ngộ thì thế nào. [font="%value"]
- Cha muốn nói, anh chủ nhà lên tiếng chen vô, sự thức ngộ ngang bằng nhau, dù trước thời gian hay phải dùng nhiều công sức suy tư hoặc mới gặp đã ngộ. [font="%value"]
- Phải mười một năm, tôi mới hiểu được câu nói “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Thoạt đầu khi mới nhận biết, tôi thương tiếc mười một năm luẩn quẩn với câu nói đó. Nhưng đọc đây đó, tôi biết được rất nhiều người nghiền ngẫm, suy tư, và cuối cùng cũng đành sống để dạ, chết đem đi; không hiểu câu đó nói gì. Tôi thử nêu lên câu khác của Huệ Thi, “Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” [font="%value"]
- Cha nói gì, sao lửa mà không nóng. [font="%value"]
- Câu này là của Huệ Thi được ghi nơi cuốn Nam Hoa Kinh. Có lần tôi mua cuốn Đạo của Người Quân Tử do cụ Nguyễn Hiến Lê biên soạn. Nơi phần phụ chú, cụ ghi mấy chữ, “Lửa thì không nóng; không ai hiểu câu này nói gì.” Tôi đọc được, mất hình như cả tuần mới nghiệm được nó và nhận ra cụ Nguyễn Hiến Lê chưa ngộ được câu này. [font="%value"]
- Khi nào chị tự ngộ được chỉ cần một câu ngang ngược, bất cứ câu nào, chị sẽ biết nó nói gì. Vậy chị đã hiểu được dụ ngôn thợ làm vườn nho muốn nói gì chưa? [font="%value"]
- Cha nói chi lăng quăng, con làm sao hiểu nổi. [font="%value"]
- Hay để cho chị ấy suy nghĩ một tuần, anh hãy giải thích được không. Cha Lành nói với anh chủ nhà. [font="%value"]
- Cha nói nhà con giải thích gì? [font="%value"]
- Thì dụ ngôn người làm vườn nho. Thôi, hãy để họ làm vườn. Bây giờ trở lại Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng và niềm tin Chúa xuống thế chuộc tội. [font="%value"]
- Trước hết, tôi muốn nhắc qua phúc âm. Phúc âm thường được các học giả và đa số dân Chúa cho rằng đó là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Qua một vài câu phúc âm chúng ta vừa đặt vấn đề, chứng tỏ những câu nói ngang ngược, những dụ ngôn dẫn dắt và thúc đẩy con người suy tư, nghiệm xét để nhận biết, nhận thức về Thiên Chúa, về Nước Thiên Chúa, về Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng. Từ phúc âm, chúng ta biết được Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thế nên, từ nay, tham dự thánh lễ, xin để tâm đến câu vị chủ tế chào mọi người, “Chúa ở cùng anh chị em” và chúng ta thưa, “Và ở cùng cha.” Đây chỉ là lặp lại Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng mà đã bao lâu nay không được để ý. [font="%value"]
- Nếu đem so sánh Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng với quan niệm Chúa xuống thế chịu chết chuộc tội nhân loại thì sẽ nhận ra nhiều sự nhận định khác lạ ít ai để tâm đặt vấn đề. Trước hết, chúng ta thấy phúc âm nói về có những ghi nhận dân chúng hay những người tin theo lời Ngài giảng dạy thời đó cho rằng Ngài sẽ kiến tạo một vương quốc nhân sinh và Ngài sẽ là vua dân Do Thái, nhưng Ngài đã trả lời, "Nước tôi không thuộc về thế gian này, Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của tôi đã cố chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Ấy vậy Nước tôi không thuộc chốn này". 37 Philatô nói với Ngài: "Vậy thì ông là Vua sao?" Ðức Yêsu đáp: "Ông nói đó: Tôi là Vua! chính vì lẽ này mà tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng tôi" (Gioan 18:36-37). Chúa Giêsu đâu cần làm chứng cho chính Ngài nhưng nói lên, rao giảng, và làm chứng cho sự thật, và sự thật này chính là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel.” Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi sự. Lời rao giảng của Ngài, Tin Mừng Nước Thiên Chúa, sự thật Ngài nói cho mọi người nhận biết; đó là Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi tôi, nơi anh chị, nơi mọi người. Sự thật này nói lên vị thế cao trọng của con người trước mặt Thiên Chúa. [font="%value"]
- Thử nhận đinh Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng đem lại lợi ích tâm linh và ảnh hưởng thế nào đến con người. Trước hết, con người là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Con người là hoạt động của Thiên Chúa nơi diễn trình biến chuyển hiện hữu vô cùng của Ngài. Vấn đề chỉ là chúng ta có dám chấp nhận mình là hiện thể của Chúa hay không. Nếu chúng ta thực sự nhận chân được mình là hiện thể của Thiên Chúa đang hoạt động nơi cõi đời này, thái độ, tâm tình của chúng ta phải nên như thế nào cho xứng với vị thế làm người, là hình ảnh của Chúa trong cuộc đời. Lời Kinh Thánh, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài,” hay nói rằng, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hoặc, “Linh hồn là Thượng Đế nội tại” thì cũng đồng một ý nghĩa, chỉ khác cách phát biểu. Chúng ta có dám thực sự chấp nhận sự thật này không? [font="%value"]
- Xét về quan điểm “Chúa Giêsu tự đến hay được sai đến chịu chết để chuộc tội cho loài người,” quan điểm này không giúp chi cho con người nhận ra vị thế thực thể thân phận của mình; nó chỉ giống như gói mì ăn liền đem lại nỗi an bình giả tưởng hầu làm êm dịu lương tâm e ngại phải đối diện với tội vạ, lầm lỗi, thiếu sót nhân sinh. Lẽ dĩ nhiên, con người thì luôn lầm lỗi, cầm dao cắt vào tay tất nhiên đau. Nói rằng đã có Chúa chết cho và xóa hết tai vạ do lầm lỗi mình tạo nên thì chẳng khác chi cầm dao cắt vào tay mình với niềm tin Chúa chịu đau thay cho mình và mình sẽ an toàn. Nếu ai tin được như thế, cứ thử cầm dao cắt vào tay thì biết. [font="%value"]
- Nói rằng tội tổ tông là tội lớn lao nên Chúa phải xuống thế để chịu chết chuộc tội cho loài người chứng tỏ thiếu nghiệm xét, suy tư, mà chỉ nhắm mắt diễn giải lời Kinh Thánh theo nghĩa từ chương. Phỏng cái tội bất tuân giả tưởng đó không ở nơi mọi người? Và giả sử bà Evà có thật sự bất tuân như lời Kinh Thánh, thì tội đó sao có thể lớn lao hơn cái tội chính con cháu, dòng dõi của bà, giết Con Một của Thiên Chúa? Thêm nữa, hiểu Kinh Thánh, hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương, chỉ chứng minh sự khổ nạn chịu chết của Chúa Giêsu không rửa sạch được tội ngu muội, tội không suy tư, nghiệm xét, tội phạm đến Thánh Thần như phúc âm được viết, “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Mọi sự sẽ được tha cho con cái loài người, mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều chúng lộng ngôn; còn ai lộng ngôn đến Thánh thần, thì không được tha thứ cho đến đời đời, nó mắc một tội bất diệt " (Lc. 3:28-29). [font="%value"]
- Cho rằng Chúa Giêsu được sai đến để chuộc tội cho thiên hạ tức là đã chấp nhận mình không suy tư, không nghiệm xét lời Kinh Thánh, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (KN 1:27). Coi lời Kinh Thánh như truyện giả tưởng viết cho vui, coi các học giả như những con rôbốt bằng đất thiếu bộ nhớ AI (Artificial inteligence). Nào Chúa có coi mấy cái tội lỗi nhân sinh là gì đâu, “Ngài sai mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ, và làm mưa khắp trên kẻ ngay cũng như người ác” (Mt. 5:45); và lại càng không hiểu tội lỗi là gì, tội phạm đến Chúa, phạm đến Thánh Thần là tội như thế nào. Sự thể này chứng minh quan niệm hạn hẹp nhân sinh khinh dễ nhận thức dân Chúa, nếu không muốn nói là lừa đảo; gốc gác của mọi tính chất kiêu ngạo, tôi mọi cho ham hố quyền lực thế tục mà quên rằng, tuyệt đối quyền lực phát sinh tuyệt đối sa đọa. [font="%value"]
- Anh chị thử nghĩ coi, cái lý thuyết “Một Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi hy sinh Con Một mình” chỉ có thể xảy ra trong tưởng tượng. Mình là cái thá gì, và làm gì có mình mà Thiên Chúa hữu vi yêu thương đến như thế. Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con, và Thiên Chúa Thánh Thần là một và con người cũng là một với Thiên Chúa thì sao có thể dùng yêu thương làm tiêu chuẩn cho sự cứu chuộc. Có thể so sánh sự thể tâm trí một người điên loạn, chấp nhận mình bị đày ải khốn khổ và chấp nhận chết để kiếm lại một con chó hay con mèo bỏ đi hoang, hoặc cắn lại chủ chỉ vì yêu thương con vật không? Ấy, lối suy nghĩ hữu vi, nhân sinh, thế tục nó hợp lý hợp tình như thế đấy. Vậy mà đã hai ngàn năm Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng vẫn bị bịt kín! [font="%value"]
- Sao cha không nói cho dân Chúa biết. Chị chủ nhà lên tiếng, có vẻ bức xúc. [font="%value"]
- Tôi đã giải thích rồi mà chị quên, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng khốn.” Thử hỏi chị, dân Chúa tin theo chứ đâu dám suy tư, phản biện. Được mấy người trong dân Chúa nhận biết câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Chị có đọc vụ án Luthero chưa hay đọc trên internet về Anthony De Mello. Nhiều lần tôi tự hỏi, mắc mớ gì mình phải đặt vấn đề cho phiền hà tâm tưởng. Hai ngàn năm qua, biết bao học giả, biết bao tiến sỹ Kinh Thánh, rồi thần học gia, chiêm nghiệm gia, trí thức, trí ngủ nơi Kitô giáo, đâu ai dám lên tiếng nhận định, đặt vấn đề. Đến ngay tâm tư chị vẫn còn bị trói buộc bởi câu, “Phải tin với giáo hội” mà. Không nhớ tôi đọc nơi đâu được lời nghi vấn, “Thiên Chúa tạo dựng con người hay con người tạo dựng Thiên Chúa?” Hơn nữa, cũng có câu nói khác, “Nếu con vật có thể suy tưởng về Thiên Chúa, nó sẽ nghĩ Thiên Chúa có bốn chân.” Suy đi cũng phải nghĩ lại, với tham vọng phát triển tôn giáo nên cần hạ thấp hay diễn giải đạo học theo nghĩa từ chương, dùng quan điểm “Chúa Giêsu chịu chết chuộc tội thiên hạ” đánh vào tâm tình khiến người ta dễ chấp nhận, điều kiện chỉ là tin theo; món bảo hiểm “nhưng không,” ai không thuận chấp nhận. Thêm vào đó, chị có biết câu, “Râu ông cắm cằm bà” mang ý nghĩa gì và phát xuất từ đâu không? Chị thử nói coi. [font="%value"]
- Thì đó là làm chuyện lộn xộn, ù xọa, không đúng sự việc. [font="%value"]
- Đồng ý rằng câu “Râu ông cắm cằm bà” có ý nghĩa riêng của nó, nhưng nó đã bị rơi vào trường hợp “Ông nói gà, bà nói thóc.” Thực ra, nó đã được phát sinh từ sự lặp lại có lẽ do cặp tai nghễnh ngãng từ câu, “Dâu ông ném tằm bà.” Câu nói diễn tả tình ý đậm đà của người ta, lại bị chuyển thành sự diễn tả chuyện lộn xộn, ù xọa. Thiển nghĩ, bởi vì cho rằng phúc âm là tin mừng, là lời dạy của Chúa Giêsu nên không ai đặt vấn đề Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng là gì. Khi nào dành riêng giờ đọc lại Phúc Âm Nhất Lãm và để ý, chị sẽ thấy, tin mừng sao lại bẩy, tám lần thách đố, “Ai có tai thì nghe,” hoặc, “Ai có tai để nghe thì nghe.” [font="%value"]
Cha Lành nhìn chiếc đồng hồ trên vách phòng ăn nói, [font="%value"]
- Thôi, quá muộn rồi, tôi phải về soạn giảng. [font="%value"]
- Cha còn cả ngày mai nữa mà, chị chủ nhà nói. [font="%value"]
- Phải soạn giảng tối nay để ngày mai có giờ suy nghĩ thêm nếu có gì cần chỉnh sửa. Năm giờ chiều mai tôi phải dâng lễ rồi. Cảm ơn anh chị đã cho ăn nhờ. Chúc anh chị một đêm an lành. [font="%value"]
Ra về mà ngài tự hỏi sao tối nay mình nói nhiều thế, hy vọng từ nay anh chị ta suy nghĩ nhiều hơn. [font="%value"]
Nơi phòng ăn, chị chủ nhà hỏi chồng, [font="%value"]
- Cha nói gì một tuần nữa anh mới nên giải thích? [font="%value"]
- Câu chuyện tiền công một đồng bạc. Một tuần nữa hãy hỏi vẫn chưa muộn mà! Hãy tỉnh thức, anh nháy mắt trêu chị, ý nói hãy suy nghĩ! [font="%value"]
Lã Mộng Thường.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2022 06:02:40 bởi lamongthuong >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: