Nghiệm Xét Phúc Âm năm C
lamongthuong 19.12.2022 22:43:42 (permalink)
 
NGHIỆM XÉT PHÚC ÂM năm C

   
CHỦ NHẬT 1C MÙA VỌNG 2000 (Lc. 21:25-28, 34-36)

Thêm một lần chúng ta nghe Lời Chúa nơi Phúc Âm thánh Luca nói về những hiện tượng đáng sợ sẽ xảy đến nếu hiểu theo lối nhìn thế tục, mắt trần có thể nhìn thấy và tai mọi người có thể nghe được, "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ vì các tầng trời sẽ rung chuyển." Nếu nói rằng những lời của Đức Giêsu được ghi lại nơi Phúc Âm chỉ được dành riêng cho những người sống đồng thời với Ngài thì sự thể rõ ràng qua lịch sử thế giới minh chứng đã chẳng có những chuyện này xảy ra suốt hai ngàn năm qua.
 
Nếu nói rằng lời Phúc Âm chỉ dành cho chúng ta thời nay, điều hiển nhiên thật quá may mắn cho bao nhiêu người đã qua đi nơi khoảng thời gian hai mươi thế kỷ đã đi vào quá khứ. Thêm vào đó, bởi không thực tâm suy nghĩ, đặt vấn đề, và nghiệm chứng để rồi chấp nhận và giải thích lời Phúc Âm theo quan điểm thế tục, cho dù dưới khía cạnh luân lý hoặc tâm lý hay bất cứ chiều hướng tư duy nào, chúng ta đã vô tình minh chứng Lời Chúa chỉ là những câu nói đe dọa suông, chẳng khác gì rung cây nhát khỉ. Hơn nữa, nếu lại cũng cho rằng lời Phúc Âm nói về ngày sau hết, đã hai mươi thế kỷ đi vào quên lãng thì thêm một thế kỷ nào có chi quá dài, chúng ta lại cũng vô tình khuyến khích giới trẻ tha hồ tự do thực hiện những gì họ thích vì về già sẽ ăn năn hối cải cũng chưa muộn.
 
Tuy nhiên, nếu suy nghiệm về bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe theo ánh sáng Tin Mừng Nước Trời, Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi con người, nơi mọi vật, mọi loài thì những viễn ảnh về ngày Chúa đến được nhắc tới nơi Phúc Âm chính là lối nói ám định diễn tả về trạng thái nhận định nơi tâm thức của bất cứ ai theo đuổi lời xác quyết cũng nơi Phúc Âm Luca, "Và Ta bảo các ngươi: Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho" (11:9).
 
Mọi người đều biết nằm lòng, điều quan trọng nhất mà Phúc Âm đề nghị đó là, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và các điều khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33). Tìm kiếm Nước Thiên Chúa có nghĩa luôn luôn để tâm suy nghiệm sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình từng giây từng phút. Dù trong lúc lái tàu đánh tôm hay cào sò, hoặc nấu nướng, làm những công việc bếp núc, dù khi chuyện vãn hay lái xe đi nơi này nơi kia, hay thực hiện bất cứ công việc gì, tâm trí chúng ta luôn luôn để ý nhận thức chính Thiên Chúa đang thực hiện công việc nơi mình. Lâu dần chúng ta sẽ đạt tới trạng thái bỏ ngỏ, thay vì mình cố gắng bỏ công sức tính toán, chúng ta chỉ thực hiện những gì cần, nên, phải và đáng làm...
 
Nói cách khác, chúng ta thực sự nhận thức được mình chỉ là công cụ cho Thiên Chúa thực hiện chương trình của Ngài nơi cuộc đời mình. Đây chính là trạng thái mà thánh PhaoLô đã diễn tả nơi thư gửi tín hữu Galat, "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (2:20). Lời Chúa qua bài Phúc Âm khuyên chúng ta, "Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con... Vậy chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn có nghĩa luôn luôn nhận thức sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình.
 
Dùng ngôn từ Thiên Chúa có vẻ quá xa vời, đơn giản hơn, nếu bất cứ ai, lúc nào cũng để ý rằng con tim đang đập, lá phổi đang thở... chính quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình..., chỉ một thời gian không lâu, người đó sẽ cảm nhận được nhiều sự lạ từ xưa tới nay vẫn thường xảy đến nơi cuộc đời nhưng đã vì vô tình nên không để ý. Nói cách khác, nếu con tim chúng ta ngưng đập hoặc lá phổi không thở, thì dù cho trời sập cũng không thành vấn đề.
 
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta nên luôn luôn nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người.
 
Hôm nay chúng ta cũng mừng kính thánh Phanxicô Xaviê mà chúng ta tôn vinh làm quan thầy cộng đồng. Có lẽ chúng ta đều biết thánh Phanxicô Xaviê được mệnh danh là Tông Đồ Ấn Độ. Ngài sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê thuộc tỉnh Navarre ở Tây Ban Nha. Thuở ban đầu, ngài được sai làm việc tại Bồ Đào Nha, sau đó rao giảng đạo Công Giáo nơi Ấn Độ vào năm 1541. Năm 1549 ngài qua Nhật truyền giáo và năm 1552 ngài qua Trung Hoa với mộng ước truyền bá Phúc Âm. Ngài đã chết vì cảm lạnh nơi vùng bờ biển Sancian của Trung Hoa vào ngày 02 tháng 12 năm này. Câu than thở thời danh của ngài trước khi chết đó là, "Lạy Chúa tôi, còn nữa, còn quá nhiều người chưa biết Chúa." Ngài thuộc dòng Tên nên tôi nghĩ, không ít thời nhiều chúng ta, ai cũng nhận biết phương pháp tu đức của thánh Ignaxiô thành Loyola đã là động lực giúp ngài hăng say truyền giáo.
 
Phương pháp tu đức này mang chủ đích tìm hiểu ơn gọi của chính mình được chia làm nhiều giai đoạn. Nguyên tắc căn bản đó là mọi ơn gọi đều mang giá trị như nhau vì đó là ơn gọi của Chúa nơi từng người. Thứ đến, một người cần nhận biết chính mình bằng cách tự chân thành nhận định về chính mình. Con người mình thực sự như thế nào, ham thích những gì, không chấp nhận điều chi, ước mơ, điều mong muốn thầm kín nhất của mình ra sao. Sau đó, tự đặt vấn đề giá trị về những lối sống nơi cuộc đời theo nhãn quan cá nhân để có nhận định rõ ràng mình thực sự muốn có cuộc sống sau này theo con đường nào... Nói tổng quát, phương pháp này chính là tự nhận thức về bản thân để nhận ra ơn gọi, nhận ra con đường mình nên theo đuổi nơi cuộc đời hữu hình.
 
Cộng đồng chúng ta nhận thánh Phanxicô Xaviê làm quan thầy nhưng phương pháp nhận thức về bản thân của thánh nhân có lẽ chúng ta ít khi, hoặc nói cách khác, chúng ta không cần học theo... Cũng như biết bao người, chúng ta nhận quan thày cho vui, cho ra vẻ Công Giáo, và để có ngày mừng lễ thêm phần xôm tụ hơn may ra cuộc đời bớt buồn tẻ chút nào chăng.
 
Thêm vào đó, chúng ta đã lựa chọn vị thánh truyền giáo làm quan thày nhưng nếu tôi không lầm thì chúng ta đã chẳng dám có ý nghĩ chứ chưa nói đến bất cứ chương trình gì hầu thực hiện hoặc giúp đỡ công việc truyền giáo. Hôm nay, chúng ta mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, không hiểu thánh nhân nghĩ gì! Phỏng ngài có thể chia bớt cho chúng ta chút nào niềm hăng say của ngài khi còn sinh thời hoặc cũng đành bó tay vì muốn cho nhưng không ai thèm mở lòng đón nhận. Amen.
 
 
CN2C MÙA VỌNG (97-98)
 
Quí ông bà, anh chị em trong Đức Kitô,
 
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe nhắc lại lời Tiên Tri Isaia giải thích về phép rửa xám hối cầu ơn tha tội thánh Gioan Tẩy Giả thực hiện trong tiến trình rao giảng của ngài. Lời tiên tri dùng những hình ảnh tự nhiên mọi người đều có thể nhận thấy để ám chỉ sự chuẩn bị lòng người cho ơn cứu độ, Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi" (Lc. 3:4). Đâu là phương pháp thực tiễn để chúng ta chuẩn bị lòng trí đón nhận Tin Mừng cứu rỗi?
 
Theo Phúc Âm thánh Marcô, Sau khi Gioan đã bị bắt, thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng Nước Trời mà r?ng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.'" (1:15) Đức Giêsu nói hãy hối cải có nghĩa như thế nào?
 
Đọc trong các Phúc Âm, chúng ta thấy có những câu,Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!" (Lc. 9:62).Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại" (Mt. 10:37...) Không ai lấy mụn vải sống mà điền vào áo cũ; vì mảnh điền thêm sẽ co áo lại và vết rách càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bì cũ; chẳng vậy, bì toạc ra, rượu thì đổ mà bì cũng hư. Nhưng rượu mới, người ta đổ vào bì mới, thế mới giữ được cả hai" (Mt. 9:16-17).
 
Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta mở rộng lòng trí để đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Đối với Phúc Âm, công việc quan trọng nhất và cùng đích của cuộc sống con người đó làTiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài" (Mt. 6:33). Sự hiểu biết vượt khỏi lối nhìn hơn thua, đúng sai, phải trái theo con mắt thế tục, xóa bỏ tất cả quan niệm cũ đã được học hỏi, những lối suy nghĩ mình đã quen thói để có một tâm hồn hoàn toàn mới, như chưa biết gì, nghe gì, hiểu gì về những chuyện thế gian để nhận thực, hòa nhập với Tin Mừng: Thiên Chúa ở nơi mọi người, đây là lời mời gọi cải thiện của Đức Giêsu.
 
Muốn am hiểu Phúc Âm, muốn nhận lãnh Tin Mừng, chúng ta cần bỏ hết những sự hiểu biết đã bị nhồi sọ hay đã học được trong quá khứ. Nói cách khác, thực sự chuẩn bị cho Tin Mừng Nước Trời là thực hiện điều thánh Phaolô nói trong thư gửi giáo đoàn Thessalônikê,Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng nghiệm xét mọi sự" (5:19-21), và Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bổng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô" (Col. 2:8).
 
Hôm nay chúng ta cũng kính nhớ đặc biệt thánh Phanxicô Xavier, linh mục dòng Tên, quan thày của cộng đồng chúng ta. Ngài sinh năm 1506 tại Tây Ban Nha. Thời còn trẻ trong khi học về nghệ thuật tự do, ngài gia nhập Dòng Tên và được truyền chức năm 1537 tại Rôma. Ngài đi truyền giáo ở vùng Á Châu từ năm 1541 và qua đời năm 1552 tại hòn đảo Sancian gần Trung Hoa. Ngài đam mê truyền giáo nên trong một lá thư còn được lưu lại, ngài tỏ bày muốn đi một vòng các đại học chủng viện bên Âu Châu nhất là tại Ba Lê để nói cho mọi người biết rổng tại vùng Á Châu biết bao linh hồn không biết Chúa đang chờ được nghe Tin Mừng. Ngài viết:Thật đau lòng, những linh hồn khát khao tại đây không kể xiết vì Nước Trời đã bị đóng kín và chỉ còn một con đường xuống hỏa ngục."
 
Đọc về Ngài, tôi chợt có ý nghĩ ước gì chúng ta thành lập được hội truyền giáo nho nhỏ, may ra giúp gì được cho công việc truyền giáo tại đất nước Việt Nam chúng ta chăng. Xin Đức Giêsu sai Thần Khí của Ngài soi sáng mọi người chúng ta trong sự tìm hiểu Phúc Âm vì vinh danh Thiên Chúa và vì lợi ích lòng tin nơi mỗi người.
 
 
CHỦ NHẬT 2C MÙA VỌNG 2000 (Lc. 3:1-6)
 
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe ghi lại thời điểm thánh Gioan Tiền Hô rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Đồng thời bài Phúc Âm được chọn này cũng dùng lời tiên tri Isaia để minh chứng thánh Gioan Tiền Hô là người được sai đi trước để loan báo và khuyến khích con người chuẩn bị tâm hồn đón nhận Tin Mừng Nước Trời do Đức Giêsu rao giảng.
 
Đọc nơi Kinh Thánh chúng ta thấy, tự thuở xa xưa, người Do Thái hoặc những dân tộc vùng Trung Đông đã có những tập tục thanh tẩy bằng nhiều nghi thức khác nhau. Luật buộc khắt khe nhất đó là sự tuân giữ phương thức thanh tẩy nơi trường hợp những người vô tình hay lỡ phạm đến điều luật nhơ uế. Chúng ta cũng đọc được nơi Phúc Âm về những nghi thức rảy nước trên những thực phẩm hay rau cỏ mua từ chợ hoặc rửa tay trước khi ăn hay tráng ấm và chén, tách trước khi dùng. Thánh Gioan Tiền Hô cũng còn được gọi là Gioan Tẩy Giả vì ngài thiết lập nghi thức được gọi là phép rửa sám hối.
 
Dĩ nhiên, phép rửa sám hối chỉ là nghi thức bên ngoài để minh chứng lòng chân thành nhận thức về sự yếu hèn của con người. Thế nên, những biến chuyển hoặc lợi ích tâm linh đều tùy thuộc tâm hồn của người tham dự và chấp nhận nghi thức vì nghi thức tự nó chỉ là những tác động ám định lệ thuộc ý định con người. Sự thực hiện nghi thức cũng không khác gì hành động chúng ta tham dự thánh lễ. Ơn ích của sự tham dự thánh lễ đối với từng người tùy thuộc tấm lòng của họ thế nào.
 
Khi đọc hoặc nghe công bố Lời Chúa, chúng ta thường hiểu theo sự diễn dịch nơi tâm trí do sự mường tưởng về những hình ảnh đã có sẵn nơi kinh nghiệm sống được nhắc đến qua ngôn từ hay chữ viết nơi Kinh Thánh. Bởi thế với lòng nhiệt thành, ngay chính, chúng ta cũng thường cố gắng áp dụng Lời Chúa nơi cuộc đời mình theo nghĩa từ chương. Tuy nhiên, như chúng ta thấy nơi bài Phúc Âm nhắc lại lời khuyên nhủ đã được viết nơi sách tiên tri Isaia, Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng, và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa."
 
Thực ra, nếu ra sức cố gắng thực hiện theo lời Kinh Thánh nơi cuộc sống hiện tại của chúng ta thì dù muốn sửa đường cong queo cũng không có đường mà sửa, và nếu thấy đường cong queo nơi nào đó gần nhà, vội lo vác cuốc vác xẻng đào đất, chặt cây sửa cho ngay chắc chắn được cảnh sát mời ra tòa để rồi bị phạt tiền hay ngồi khám bóc lịch đếm từng ngày. Lời Chúa dùng núi, đồi, đường, hố, để chỉ tâm hồn của mỗi người chúng ta.
 
Lời Chúa khuyến khích chúng ta chuẩn bị và thực hiện sao cho có được tâm hồn thanh tĩnh, ngay thẳng, công chính. Dọn đường đón ơn cứu độ tức là chọn cách sống, nhận thức về thực thể con người của mình, để ý xem mình đang thực sự mong muốn, mơ ước điều gì, cuộc đời mình vào lúc này đang cố gắng thực hiện những công việc chi hầu đạt tới kết quả nào. Ngày xưa khi còn ở nhà trường có giờ đọc hạnh các thánh, tôi cảm thấy quá sợ hãi, nhất là những cảnh thắt nút dây để đánh tội hoặc bỏ sỏi vào bên trong giầy và không mang vớ để chân luôn luôn đạp lên cho đau nhức vì lòng kính mến Chúa. Tôi nghĩ, thà đi chân không đỡ hao tổn giầy mà lại được nhiều ơn ích hơn vì gai góc, mảnh sành hoặc những cạnh sắc của những miểng đá luôn luôn đợi chờ cơ hội giúp lập công mến Chúa.
 
Nhưng nghĩ lại tôi phải tự hỏi, vậy những người dân quê, cả đời tay lấm chân bùn, lam lũ, cực khổ vất vả chẳng bao giờ biết đôi giầy hình dáng thế nào tại sao bị coi thường, nói cách khác không được ai chỉ dẫn cho biết cuộc đời khổ ải của họ đáng giá gấp ngàn vạn lần những người phải bỏ đá vô giầy hoặc đánh tội để tỏ lòng kính mến Chúa? Mãi về sau, tôi phải liều mạng mới dám nhận chân được một sự thể khá lạ lùng.…Đó là người ta cố gắng hành hạ chính họ với hy vọng tạo ơn cứu độ, tưởng rằng cứ hành hạ thân xác mình thì sẽ được cứu rỗi,…nên bày ra câu nói đánh tội. Nào có gì đâu mà phải đánh! Đừng phạm tội nữa thì lấy tội đâu mà đánh. Xét như thế, càng cố gắng đánh tội thì lại càng chứng tỏ không cần ơn cứu độ của Chúa mà thôi, và những sự làm khổ ải chính mình lại trở nên thói quen sung sướng khó chừa. Đúng là kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú.
 
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta để ý tìm hiểu, nhận thực về tâm hồn của chính mình và quyết tâm không thực hiện những gì mình cho là không nên. Cũng nhưtrong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần suy nghĩ và sắp xếp công việc sao cho hợp lý hợp tình để có được một tâm hồn thanh tĩnh hầu nhận ra ơn cứu độ là chính quyền lực đức tin nơi mình, chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình. Amen.
 
 
CHỦ NHẬT 3C MÙA VỌNG 2000
 
Một điều chúng ta nên để ý, câu cuối của bài Phúc Âm được viết chỉ về Gioan, “Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng." Trước hết, câu này được viết không để ý đến đoạn Phúc Âm phía trên mà tuần trước chúng ta đã suy nghiệm. Nơi đoạn Phúc Âm đó nói về mục đích công việc của thánh Gioan Tiền Hô, “Có Lời Chúa kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa. Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội" (Lc. 3:3). Thứ đến, nếu chấp nhận những điều Gioan rao giảng được gọi là tin mừng thì tin mừng này chắc chắn hoàn toàn không giống Tin Mừng Nước Trời mà Đức Giêsu rao giảng.
 
Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, những điều Gioan trả lời dân chúng chỉ là những lời dạy luân lý nơi cuộc sống thường ngày mà người khác có thể nhận biết sao cho được gọi là công chính. Chẳng hạn, “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn cũng hãy làm như vậy." Hoặc đối với những người thu thuế, “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi." Hay đối với những quân nhân, “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình."
 
Bởi thế, Phúc Âm đặt nơi miệng Gioan câu so sánh vì thế của ông đối với Đức Giêsu, “Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người." Gioan rao giảng, kêu gọi con người chuẩn bị tâm hồn công chính hầu đón nhận những lời dạy dỗ của Đức Giêsu. Xét như vậy, muốn bước vào hành trình đức tin, hành trình tâm linh, một người ít nhất cần có cuộc sống hài hòa về phương diện luân lý. Kinh nghiệm sống minh chứng rõ ràng đã có luật tất nhiên sẽ có kẽ hở và bất cứ sự thể nào cũng đều có ít nhất là hai phương diện đối nghịch nhưng không thể tách biệt.
 
Ai trong chúng ta cũng đều nhận biết, một sự việc được cho là đúng, sai, phải, trái đều tùy thuộc môi trường, thời điểm, điều kiện, và quan niệm của con người khi sự việc đó xảy ra. Tuy nhiên, phản ứng và thái độ của một người trước một dữ kiện hoàn toàn lệ thuộc tâm hồn và sự nhận thức của người đó. Chẳng hạn nơi thời Gioan rao giảng, những người thu thuế được coi như tay sai cho ngoại bang tức là người Rôma đang đô hộ người Do Thái. Thế nên, cho dù thu thuế đúng mức ấn định hay không đều bị người Do Thái khinh bỉ. Điều tâm lý này minh chứng lý do tại sao những người thu thuế bị coi là kẻ tội lỗi nơi Phúc Âm. Suy như thế, câu hỏi được nêu lên, Đức Giêsu rao giảng về phương diện gì mà chỉ những con người đã có cuộc sống công chính về phương diện luân lý mới có thể đón nhận?
 
Chúng ta đã được dạy dỗ kỹ lưỡng đến độ nhập tâm nên không cần phải ai nhắc nhở cũng đều trả lời trơn tru, thuộc lòng rằng Đức Giêsu xuống thế chuộc tội cho thiên hạ; rằng Đức Giêsu chết vì tội lỗi loài người; rằng vì Thiên Chúa yêu thương con người quá độ nên sai Con Một của Ngài làm lễ tế hy sinh, hiến mình chịu nạn chịu chết trên cây thánh giá để cứu chuộc lầm lỗi của con người; rằng vì tội phạm đến Chúa là Đấng cực thánh nên phải chính Con Một của Ngài đổ máu mình ra mới cân xứng tẩy rửa được sự phạm thánh.
 
Những ngày còn nhỏ, tôi hơi lười nên chỉ nhớ mang máng đôi lý do giải thích ơn cứu độ... Tôi nghĩ, quý vị có thể kể ra được nhiều hơn tôi nơi phạm vi này. Tuy nhiên, lật Phúc Âm chúng ta sẽ thấy; câu công bố đầu tiên của Đức Giêsu khi Ngài xuất hiện trước công chúng rao giảng nơi Marcô,Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc. 1:15).
 
Đã có lần tôi trình bày về ý nghĩa động từ hối cải" được dùng nơi Phúc Âm Marcô. Hối cải được dịch từ ngôn ngữ Hy Lạp Metanoia, có nghĩa hãy suy nghĩ vượt khỏi lối suy tư thế tục, hãy thay đổi quan niệm, thay đổi chiều hướng tư duy, bỏ quên quá khứ, cải tạo não trạng, suy nghĩ khác thường, hãy nghiệm chứng, suy nghiệm, lo buồn ăn năn, ưu tư hối hận.
 
Nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng và nhận xét theo chiều hướng tổng hợp đoạn phân tích thành những giai đoạn nơi hành trình tìm kiếm, nhận thức Tin Mừng Nước Trời, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu nhiều câu giảng dạy về điều kiện tâm trí của một người để có thể suy nghiệm những điều Ngài công bố. - Vải mới không vá áo cũ; rượu mới không đổ bì cũ... (Mt. 9:16-17). Tâm trí, lối suy tư bình thường thế tục của chúng ta giống như chiếc bì cũ không thể nào được dùng để chứa rượu mới là Phúc Âm. Chúng ta cần được đổi mới lối nhận định. Chúng ta cần suy nghĩ về lời Phúc Âm dưới nhiều khía cạnh. –“Kẻ nào vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62).
 
Những ai vẫn lệ thuộc kinh nghiệm, quan niệm nhân sinh thì không thể nào nghiệm chứng được những lời Phúc Âm. -Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng làm môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta không đáng làm môn đệ Ta" (Mt. 10:37). Những ai không dứt bỏ được những kinh nghiệm hiểu biết thông thường hoặc những sự thông thái thế tục, không thể nào suy nghiệm được lời Phúc Âm, sẽ không thể hiểu được Phúc Âm nói gì. –“Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại" (Mt. 10:39). Những ai chỉ cho rằng ý nghĩ, suy tư của mình là đúng, không dứt bỏ được tất nhiên không thể nào nghiệm chứng được Tin Mừng Nước Trời, không biết được mình sẽ đi về đâu. –“Nếu tay hay chân ngươi làm ngươi vấp phạm, hãy chặt mà quăng nó đi... Và nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc mà quăng nó đi" (Mt. 18:8-9). Bất cứ những gì ngăn cản nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh, hành trình nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời cần được dẹp bỏ.
 
Tóm lại, muốn tìm kiếm Nước Trời, muốn nghiệm chứng Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng, chúng ta cần biết mở rộng lòng nhận biết chính mình thế nào đồng thời suy nghĩ những lời Phúc Âm qua mọi khía cạnh. Như vậy, những ngày tháng của mùa vọng là cơ hội nhắc nhở chúng ta để ý nhận thức những điều kiện tâm trí hầu thăng tiến nơi hành trình đức tin.
 
 
CHỦ NHẬT 4C MÙA VỌNG 2000
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố kể về câu chuyện gặp gỡ giữa hai người đàn bà, Đức Maria và người trong hàng thân thích của ngài là bà Isave vợ của ông Giacaria. Ông Giacaria cũng chỉ vì lý luận theo nhận thức bình thường nên đã bị câm cho tới khi đặt tên cho con mình là thánh Gioan Tẩy Giả. Chúng ta hãy tưởng tượng theo sự thể được viết nơi Phúc Âm Luca. Ông Giacaria là vị tư tế, có vợ là Isave, cả hai ông bà là người công chính đến nỗi sách Phúc Âm viết, “Đi đứng rập theo mọi điều răn giới luật của Chúa, vô phương trách cứ” (Lc. 1:6). Khi thiên thần hiện ra báo cho ông biết lời khẩn nguyện xin cho có con cái đã được nhận lời, và cũng vì công chính ngay thẳng theo ý nghĩ loài người nên ông đã bị câm một thời gian.
 
Xét theo lối nhìn bình thường ai cũng có thể nhận thấy nếu không muốn nói hầu hết đều nghiệm chứng, hai ông bà đã vào tuổi lão thành làm sao có thể có con. Mà ông Giacaria nào có nói gì sai trái hoặc ngỗ nghịch, thực ra, chỉ đơn giản, chân thành, “Sự ấy làm sao tôi biết được vì tôi đã già rồi và vợ tôi cũng đã cao niên” (Lc. 1:18). Nơi trường hợp Đức Maria, câu trả lời của ngài với thiên thần rõ ràng, mạnh dạn, và xác quyết hơn, “Điều ấy sẽ xảy ra làm sao được vì việc phu thê tôi không nghĩ đến” (Lc. 1:34). Thế nhưng mọi người đều ca tụng Đức Maria, ngay cả bà Isave vào thời buổi ông Giacaria, chồng của bà đang bị câm. Lý do gì, một người công chính, ăn nói nhã nhặn, hiền lành, trả lời một cách chân thành thì bị lãnh điều mà mọi người không ai muốn trong khi Đức Maria thẳng thắn đến độ chống đối lại được thậm phục.
 
Nếu để ý khi đọc hai mẫu đối thoại của thiên thần với Giacaria và với Đức Maria, chúng ta sẽ nhận thấy sự nhã nhặn, hiền lành, và chân thành của ông Giacaria mang tính cách cố chấp vì ông trả lời sau khi thiên thần đã giải thích những đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Ngược lại, sau khi được giải thích, Đức Maria không ngần ngại thay đổi quan niệm, “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!” (Lc. 1:38).
 
Suy gẫm câu cuối cùng của bài Phúc Âm, “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện” để tìm chiều hướng áp dụng nơi cuộc sống, câu hỏi quá bình thường, chúng ta đã nghe đến độ nhàm tai, đã tự đặt vấn đề bao ngày nhưng vẫn chưa có được giải đáp nào rõ ràng lại trở về khuấy động tâm tư mỗi người. Câu hỏi đó đại khái ý nói, đâu là Lời Chúa để cho chúng ta tin và làm thế nào để lời của Ngài được thực hiện nơi mình?
 
Nếu cho rằng, hay nhận thực Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì lẽ đương nhiên Lời Chúa đến với chúng ta ở bất cứ phương diện nào trong cuộc sống. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có để tâm nghiệm chứng hay không. Nếu cho rằng Thiên Chúa chỉ ở trên trời, chắc chắn chúng ta phải bày ra lý thuyết linh ứng hay linh hứng để biện luận minh chứng chỉ một số người nào đó được Chúa dùng cách đặc biệt mà công bố ý Chúa, và để bắt chúng ta trở nên ngu muội chấp nhận sự thể có con rắn ăn đất hoặc mặt trời quay quanh trái đất.
 
Tuy nhiên, dầu mặt trời quay quanh trái đất hay trái đất quay quanh mặt trời, dầu con rắn ăn đất hoặc đất ăn rắn, và cho dẫu muôn ngàn lý thuyết, chủ thuyết, luật nọ, luật kia, đã bao ngày qua, vẫn chưa ai có thể giúp chúng ta động được đến chéo áo của Chúa để biết nó mỏng manh hay thô ráp thế nào, cũng không ai chỉ cho chúng ta biết nó màu sắc ra sao. Chúng ta cần tự mình nghiệm chứng, tự mình suy tư để nhận ra Lời Chúa đang nói với chúng ta những gì. Đâu phải tự nhiên mà người ta rơi vào vòng nghiện ngập, xì ke, ma túy hoặc những thứ chẳng nên. Tôi nghĩ, đã đến lúc đầu óc con người bị chất chứa quá nhiều những lý thuyết, chủ thuyết vô bổ nếu không muốn nói là độc hại nên họ cần phải tìm đủ mọi phương cách giải độc dẫu phải dùng độc dược để tàn phá phần nào thân xác họ hầu có lối cho những chủ thuyết độc hại hơn thoát đi.
 
Những sự hiểu biết thiếu nghiệm chứng chẳng khác gì người bội thực, dạ dày chất chứa đầy thực phẩm nhưng không thể tiêu hóa. Kho tàng Lời Chúa chính nơi cuộc sống thường ngày chúng ta đang đối diện. Chúng ta trực diện với hiện thể của Chúa nơi mọi tạo vật, và sự khôn ngoan của Chúa được ghi lại như kết quả nghiệm chứng của dân Ngài gom góp thành cuốn Kinh Thánh, đặc biệt bốn cuốn Phúc Âm. Đức Giêsu được gọi là Ngôi Lời vì Ngài công bố sự khôn ngoan của Chúa. Kinh nghiệm của những người được công nhận giác ngộ để lại đó là chúng ta không cần phải ôm đồm, xao xuyến, ưu tư, lo lắng vì ước muốn biết hết mọi sự bởi những sự hiểu biết thế tục không đem lại an bình tâm hồn.
 
Chỉ cần dồn hết tâm trí suy nghĩ một câu nào đó cho đến tận cùng, tới khi có thể áp dụng nơi mọi trường hợp, và tất cả những sự cần biết cho mình đều được sáng tỏ. Tôi đề nghị quý ông bà anh chị em để tâm suy nghĩ câu Phúc Âm Gioan, “Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (6:45).
 
 
 LỄ GIÁNG SINH 2000 (Tổng quát về Đức Giêsu).
 
1- Nói đến Giáng sinh, chúng ta mừng sinh nhật của Đức Giêsu.
2- Nhắc tới một người, chúng ta nói về mục đích và thành quả những công việc người đó đã thực hiện nơi cuộc đời.
3- Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu: rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43).
4- Ngài cũng sai các môn đồ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Mt. 10:7; Lc. 9:2)
5- Ngài dạy chúng ta điều quan trọng nhất trong cuộc đời chỉ là tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt. 6:63).
6- Thêm vào đó, Ngài đã rõ ràng công bố Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta (Lc. 17:21), ở trên chúng ta (Mt. 12:28), và đã đến (Mt. 3:2; Mc. 1:15; Lc. 10:9).
7- Bởi đó Ngài đã có danh hiệu Emmanuel (Mt. 1:23; Is. 7:14; 8:8). Danh hiệu này có nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa đang hiện diện, ngự trị, và hoạt động nơi mỗi người chúng ta.
8- Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha và Ngài cho biết chính Thần Khí hay Thánh Thần Thiên Chúa lên tiếng nói nơi mỗi người (Mt. 10:20). Điều này chứng tỏ Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người.
9- Vì Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi con người do đó đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Đây là lý do tại sao Đức Giêsu công bố đức tin con chữa con (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48), cứu con (Mc. 10:54; Lc. 7:50; 17:19; 18:42). Hơn thế nữa, Ngài còn tuyên bố nơi Phúc Âm Gioan, “Kẻ nào tin vào Ta thì làm được những việc Ta đã làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn” (Gioan. 14:12).
 
ĐIỀU KIỆN TÂM TRÍ ĐỂ NGHIỆM CHỨNG NHỮNG LỜI GIẢNG DẠY CỦA ĐỨC GIÊSU
1-       Ai có tai thì nghe
2-       Vải mới không vá áo cũ, rượu mới không đổ bì cũ
3-       Cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa
4-       Chạy theo ước muốn thế tục thì không thể nhận thực được Nước Thiên Chúa vì ước muốn con người ở đâu thì lòng dạ ở đó (kẻ giầu có khó vào nước thiên đàng)
5-       Kẻ yêu cha mẹ, con cái hơn ta không đáng làm môn đệ ta
6-       Cần dứt bỏ những gì ngăn cản hành trình nhận thức: chặt tay, chân, móc mắt
7-       Không ai có thể làm tôi hai chủ, hoặc ước muốn thế tục hoặc nhận thức Nước Trời
 
NHỮNG LỜI KHUYÊN NHỦ NHỮNG AI NHẬN THỨC ĐƯỢC TIN MỪNG
 
1- Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu
2- Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi
3- Những ai dám theo chân Đức Giêsu để công bố Tin Mừng, đều bị phản đối. Chẳng những thế, họ sẽ trở thành mục tiêu cho những kẻ đam mê danh vọng thế tục làm phiền. Họ sẽ bị đưa ra tòa cũng chỉ vì dám nghiệm chứng những lời Đức Giêsu rao giảng. Và các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta; nhưng ai bền vững đến cùng sẽ được cứu” (Mt. 10:22; 24:9; Mc. 13:13; Lc. 21:17))
 
NHỮNG LỜI CẢNH CÁO CỦA ĐỨC GIÊSU
 
1-             Bất cứ ai đã không thực hiện những gì giúp người khác nhận thức Nước Trời mà còn vì thiếu hiểu biết ngăn cản sự nhận biết Nước Trời của người khác đều bị lên án. “
2-             Khốn cho các ngươi ký lục và biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại. Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào (Mt. 23:13; Lc. 11:52).
3-             Tuy nhiên, cuối cùng người ta đã nhân danh Thiên Chúa để giết Đức Giêsu (thật là đáng thương cho con người, cũng chỉ vì không chịu suy nghiệm nên không thể nhận thức được lời Ngài dạy)
4-             Mừng lễ giáng sinh chúng ta tuyên dương Tin Mừng Đức Giêsu đã rao giảng, đã công bố; đó là Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật. Mừng kính ngày sinh nhật của đức Giêsu, chúng ta tuyên dương sự cao trọng của con người trước mặt Thiên Chúa.
 
 
CHỦ NHẬT THÁNH GIA C 2000 (Lc. 2:41-52)
 
Thoạt nghe lời Phúc Âm ghi lại câu Đức Giêsu trả lời về việc Ngài ở lại đền thờ khiến Đức Mẹ và thánh Giuse lo lắng tìm kiếm, có lẽ không ai trong chúng ta không ngạc nhiên chẳng kém gì Đức Mẹ. Bởi vậy, Phúc Âm đã viết, "Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng." Tôi nghĩ, nếu con cháu quý ông quý bà rơi vào trường hợp như vậy đồng thời trả lời theo kiểu của Đức Giêsu, chắc chắn sẽ được tặng bạt tai. Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Mẹ câu nói nhẹ nhàng, tha thiết, “Con ơi, sao con làm cho chúng ta như thế? Kìa, cha con và mẹ đây đã đau khổ tìm con."
 
Dẫu Phúc Âm Luca và những dịch giả đã cố dùng những ngôn từ sao cho gọn gàng, thanh lịch nhưng câu trả lời vẫn mang đầy tính chất hạch sách, bất cần, khiến người mới nghe hay đọc đã cảm thấy chói tai, “Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Tuy nhiên nếu để tâm suy gẫm, câu trả lời đặt nơi miệng Đức Giêsu minh chứng công việc Ngài thực hiện quan trọng hơn bất cứ những sự việc gì xảy đến nơi cuộc đời dẫu gây nên phiền hà cho Ngài. Điều này giải thích rõ ràng hơn về ý nghĩa của những câu Phúc Âm nói về việc Đức Giêsu được sai đến thế gian để thi hành nhiệm vụ Thiên Chúa đã trao cho Ngài, và Đức Giêsu thường gọi Thiên Chúa là Cha; chẳng hạn, “Ai mến Ta thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó! Ai không mến Ta thì không giữ các lời Ta. Mà lời các ngươi nghe đây không phải là của Ta, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Ta" (Gn. 14:24). Hoặc "Ai ghét Ta thì cũng ghét Cha Ta" (Gn. 15:23).
 
Chẳng những Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha mà Ngài còn dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha. Nơi kinh Lạy Cha, chúng ta đọc, "Lạy Cha chúng con ở trên trời." Đã có một thời kỳ một số nhà chuyên môn về phụng vụ người Việt đặt vấn đề chúng ta nên xưng với Chúa là con hay là tôi! để rồi cũng đã có một thời chúng ta đọc. “Lạy Cha chúng tôi ở trên trời." Theo ngôn từ tiếng Việt, chúng ta có thể cảm nghiệm ngay tâm tình xa cách hay hời hợt khi con cái quý vị xưng tôi với bố mẹ hay với ông bà. Điều này chứng tỏ ngay cả những vị được học hành chuyên môn về phụng vụ cũng không để ý suy nghiệm Phúc Âm.
 
Ai cũng đều nhận biết Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng nếu tôi không lầm thì chúng ta đã được dạy dỗ theo quan điểm thế tục; do đó khi đọc kinh Lạy Cha, có lẽ tâm tình của chúng ta đối với Chúa cũng chỉ như một người con xưng tôi với bố mẹ hay một đứa cháu đối với ông bà. Nơi Phúc Âm Gioan Đức Giêsu tuyên bố rõ ràng, “Trong các tiên tri đã có viết: hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gn. 6:45). Câu này mang nghĩa, chính Thiên Chúa dạy dỗ và dẫn dắt chúng ta am hiểu những lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Đồng thời, khi loan báo sự phiền hà sẽ đến với những ai suy nghiệm và rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã nói chính Thần Khí của Thiên Chúa hoạt động nơi người đó, “Khi người ta nộp các ngươi thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao hay nói gì, vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" (Mt. 10:20).
 
Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha và cũng cho chúng ta biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi chính chúng ta. Đây là lý do tại sao Ngài khuyên dạy, “Hãy trở nên trọn lành như Cha các ngươi là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48). “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:36). Vì Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người thế nên chúng ta mới có thể trở nên thiện toàn hoặc thương xót như Ngài. Như vậy, Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha của chúng ta. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có suy nghiệm Phúc Âm để cảm nghiệm được Thiên Chúa nơi mình hay không! Thiên Chúa hoạt động nơi Đức Giêsu cũng chính là Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người. Qua những chứng từ Phúc Âm, chúng ta có thể nhận biết câu trả lời đầy vẻ nghịch thường của Đức Giêsu chính là điều Ngài muốn cho Đức Mẹ và thánh Giuse nhận thức.
 
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia, chúng ta mừng kính gia đình của Đức Giêsu, Đức Mẹ, và thánh Giuse, một gia đình đã nhận thức, cảm nghiệm được thực thể Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi loài mọi vật. Chúng ta chỉ có thể noi gương gia đình Thánh Gia về điểm này. Ngoài ra, bất cứ cách nào bắt chước theo gương gia đình Thánh Gia đều không thể thực hiện được, có chăng chỉ là mơ tưởng. Bởi thế, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em, chúng ta hãy hợp nhất tâm trí dâng thánh lễ lên Thiên Chúa, và cầu cùng ba Đấng giúp chúng ta nơi hành trình suy nghiệm những lời Phúc Âm Đức Giêsu đã rao giảng. Amen.
 
 
 MẸ THIÊN CHÚA
 
Bài trích Phúc Âm theo thánh Luca (Lc. 2:16-21)
 
Các mục đồng hối hả ra đi tới Bethlehem và đã gặp Maria và Giuse cùng Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy rồi, họ nói ra cho biết điều họ đã được phán dạy về hài nhi. Và mọi người nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng đã thuật lại cho mình. Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các kẻ mục đồng lui về tôn vinh và ca ngợi Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được nghe và được thấy chiếu theo lời đã phán dạy họ. Mãn tám ngày, đến lúc phải làm phép cắt bì cho hài nhi, thì hài nhi đã được đặt ten là Giêsu, chính tên thiên thần đã gọi Ngài trước khi đầu thai lòng mẹ. Phúc Âm của Chúa  Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Mỹ nhận Đức Maria với danh hiệu này làm quan thày và tôn kính vào ngày đầu năm. Ngôn xưng Mẹ Thiên Chúa là danh hiệu Giáo Hội tôn vinh Đức Maria vì ngài đã cưu mang và sinh ra Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập thể làm người.
 
Bốn Phúc Âm viết về Đức Maria rất ít. Nơi bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy chỉ có một câu “Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng." Tuy nhiên, nếu chúng ta suy gẫm, nghiệm chứng Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận được đây là phương pháp thực tiễn cho mọi người nơi hành trình đức tin để đạt tới sự nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Bất cứ sự việc hay sự kiện nào đều thuộc về hành trình biến chuyển của Thiên Chúa thế nên nhận định và suy nghiệm về tất cả những biến cố xảy đến trong cuộc đời dưới sự hướng dẫn của Phúc Âm, chúng ta sẽ được thăng tiến về đức tin.
 
Áp dụng sự suy nghiệm Phúc Âm nơi cuộc đời, chúng ta thực hiện điều Đức Giêsu đã tuyên dương,Này là mẹ Ta và anh em Ta, phàm ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, thì kẻ ấy là anh em và là Mẹ Ta" (Mt. 12:49).
 
Nơi ngưỡng cửa của năm mới, cũng là những ngày đầu của thế kỷ 21 và nhất là nơi bậc thềm của thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Đức Mẹ, người đã cưu mang Đức Giêsu. Chúng ta cảm tạ Chúa cho một năm qua an bình. Chúng ta cảm tạ Chúa vì năm mới bắt đầu. Chúng ta cảm tạ Chúa vì muôn hồng ân trong cuộc đời, những nỗi khó khăn như những cơ hội thăng tiến tâm linh. Đặc biệt, chúng ta cảm tạ Chúa vì chúng ta được ban cho cơ hội làm người.
 
Nhân ngày kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, mượn lời Phúc Âm, tôi mời gọi mọi người cùng tôi dâng lên ngài lời chào mừng qua kinh Kính Mừng.
 
Kính mừng Maria....
 
 
 LỄ HIỂN LINH 2001
 
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh. Theo truyền thống Giáo Hội, lễ Hiển Linh mang ý nghĩa Thiên Chúa bày tỏ sự hiện thể của Ngài cho dân ngoại. Những người dân ngoại này được nhắc đến và đại diện bởi ba vua hay ba nhà thông thái Phương Đông. Phúc Âm nhắc đến ba nhà đạo sĩ đã nhận ra và theo dõi ngôi sao để tìm đến dâng của lễ triều bái Chúa Giêsu. Đọc các truyện Tầu về những mưu lược chính trị hoặc thân thế của các nhà quân sư hay tướng quốc hoặc thừa tướng nơi các thời đại quân chủ ngày xưa ở đất Trung Hoa, điển hình thường được nhắc tới như Phạm Tăng, Trương Lương, Hàn Tín, Bành Việt, Điền Tử Xuân, Khổng Minh Gia Cát Lượng, Chu Du, Bàng Thống, Án Anh,…v.v… chúng ta thấy họ thường được diễn tả như những người trên thông thiên văn dưới quán triệt địa lý.
 
Đối với những giới bình dân đọc truyện để tiêu khiển thay vì nhận thức những ẩn ý nhận thức tác giả muốn khơi dậy nơi lòng độc giả, người ta thường cho rằng Gia Cát Khổng Minh chẳng những đa mưu túc trí lại thêm quyền năng hô phong hoán vũ, chỉ nhận định sao trên trời mà tiên đoán được những sự kiện sắp xảy đến để chuẩn bị đối phó, dẫu thành quả không thể nào so sánh với chỉ một chiếc miệng của Tô Tần đã đem lại thế quân bình tránh nạn binh đao cho dân chúng với chủ trương hợp tung lục quốc. Những nhà thừa tướng cổ nhân nói đến đã biết nhận định những dấu hiệu hay điềm báo nơi thiên nhiên để bày mưu, dụng kế đạt tới mục đích họ muốn thực hiện.
 
Xét như thế, ba nhà đạo sĩ đã nhận ra được điềm báo chỉ về Đức Giêsu dưới hình thức ngôi sao dẫn đường. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều nhận định được một số sự thể hiển nhiên nơi con người và sự việc nhưng vấn đề được đặt ra đó là chúng ta có để ý suy nghiệm hầu nhận biết vai trò hoặc vị thế hay phản ứng mình phải thế nào đối với những sự kiện đang xảy đến hay không. Chẳng hạn, trước khi phát biểu ý kiến hoặc thực hiện một công việc nào, chúng ta đều suy nghĩ, đắn đo tìm hiểu và dùng khả năng nhận thức hầu phân tích hành trình thực hiện cũng như phỏng định thành quả sẽ đạt được sau này. Tùy thuộc phương diện tính toán, thực tại và môi trường nơi cuộc sống đều là những dấu chỉ thành quả của công việc nếu được thực hiện.
 
Nơi những phương diện rộng lớn hơn về nhân sinh, chúng ta có những dấu chỉ thời đại mà những người gánh chịu trách nhiệm trước nhân quần xã hội cần phải am hiểu để chuẩn bị cho thế hệ sắp tới. Nếu bình tâm đặt vấn đề về vị thế Kitô hữu, là những người tin tưởng và được hướng dẫn bởi Thần Khí của Đức Giêsu, đâu là dấu chỉ cho chúng ta? Đâu là hành trình chúng ta cần để tâm suy nghiệm? Và đâu là mục đích chúng ta sẽ đạt tới nếu theo đuổi dấu chỉ đã được vạch sẵn? Tin theo Đức Giêsu có nghĩa Đức Giêsu chính là dấu chỉ của chúng ta. Tin theo Đức Giêsu tức là suy nghiệm và áp dụng, thực hiện ý nghĩa những lời Ngài giảng dạy nơi cuộc đời. Phúc Âm Marcô viết về lời công bố đầu tiên của Đức Giêsu, “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15).
 
Chúng ta thừa hiểu, Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Tin Mừng Nước Trời có nghĩa Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nếu ai thực tâm cảm nghiệm lời tuyên bố của Đức Giêsu sẽ nhận thức rõ ràng một điều đó là sự hiểu ý nghĩa Tin Mừng, nhận định về Nước Thiên Chúa, mọi sự giải thích, minh chứng bằng lý luận chỉ giống như giải thích về lợi ích của thực phẩm. Hiểu biết về giá trị thực phẩm, ca tụng lợi ích cũng như kết quả thực phẩm mang lại cho cuộc sống con người mà không nếm, không ăn,…chắc chắn sẽ chết đói chứ không được ơn ích gì.
 
Lời của Chúa, lời Phúc Âm cần được suy nghiệm để áp dụng nơi cuộc đời Kitô hữu. Dĩ nhiên, người nào bàn đến đạo đức cao siêu thì không hợp với thế tục. Người nào muốn lập công lớn thì không mưu tính với thường nhân bởi kẻ ngu, việc thành rồi mà vẫn còn tối tăm chưa thấy; người khôn thấy trước khi việc chưa manh nha. Những mơ ước suông, những lời xin xỏ cầu may chỉ khiến con người trở nên bệnh hoạn tâm não nhiều khi biến thành mộng tưởng. Thực hiện những công việc mà không biết mình đang làm với mục đích gì bởi thấy người ta làm sao, mình làm vậy cộng thêm tâm tưởng nghe sao biết vậy thì cho đến muôn đời chúng ta cũng chỉ giống như kiến bò quanh miệng ly chẳng đi đến đâu, chẳng thăng tiến được chút gì.
 
Dẫu thực tại cuộc đời chứng minh, ngay thẳng sẽ luôn luôn bị chống đối; tôn quí không thể nào tránh khỏi những điều tiếng chê bai; đã làm bất cứ chuyện gì thì tất nhiên phải có thiếu sót, giỏi sẽ bị mưu lật bởi cản trở sự phát triển cái hèn của kẻ khác; dở lẽ thường sẽ bị khinh khi, và có danh không thoát khỏi bị lạm dụng. Tuy nhiên, thử hỏi những ai e sợ điều nọ tiếng kia để suốt đời không dám nhúng tay thực hiện dù việc công ích nhỏ nhoi ngược lại đua đòi bới móc để chứng tỏ mình thế này thế nọ thì sẽ đạt đến kết quả nào?
 
Không suy tư Phúc Âm, không đặt vấn đề để nghiệm chứng, làm sao chúng ta có thể nhận thức sự khôn ngoan và áp dụng trong cuộc đời? Bất cứ những ai không suy nghiệm Phúc Âm chắc chắn sẽ thấy Phúc Âm không có gì mới lạ ngoài những bài học luân lý lỗi thời, cổ hủ không thể áp dụng được bất cứ trường hợp nào nơi thực tế quá ư phức tạp. Ngược lại, những ai càng suy nghiệm Phúc Âm sẽ càng thấy Phúc Âm sống động, thì lại càng gặp nhiều phiền hà với những kẻ bo bo giữ lấy quan điểm luân lý thế tục một chiều đã quá lỗi thời chẳng khác gì nước vôi hào nhoáng tô điểm bề ngoài mộ bia che đậy nắm xương khô mục nát. “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến!” Hãy suy nghiệm Phúc Âm. Amen.
 
 
 CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA C (Lc. 3:15-16, 21-22)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Luca.
 
Khi ấy, trong lúc dân chúng đang mong đợi, và mọi người đều hỏi trong lòng rằng, "Gioan có phải là Đấng Kitô không?" Gioan lên tiếng bảo mọi người rằng: "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!
Vậy khi tất cả dân chúng đã chịu phép rửa, và chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha."
 
Quí ông bà, anh chị em trong đức Kitô,
 
Hôm nay, chúng ta hiệp dâng thánh lễ theo truyền thống giáo hội kính ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa. Một điều cần được nhắc lại đó là phép rửa thánh Gioan tiền hô thực hiện không phải là bí tích Rửa Tội Công giáo. Phép rửa do thánh Gioan thi hành chỉ là phương tiện minh chứng lòng thống hối ăn năn, minh chứng tâm hồn một người sẵn lòng từ bỏ, xin tha thứ những điều lầm lỗi chẳng nên mình đã vấp phạm đồng thời tuyên xưng, đoan chắc sẽ sống công chính, hòa thuận với mọi người. Đàng khác, vào thời điểm đó, chưa có bất cứ tổ chức nhân sinh nào được gọi hay lấy danh hiệu là Công giáo. Từ thời đức Giêsu trở về trước, không ai thuộc về giáo hội Công giáo. Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thánh Giuse, thánh Gioan, bố mẹ thánh Gioan là ông Giacaria và bà Elizabeth, tất cả các tiên tri, các vua trong Cựu Ước. không có bất cứ ai là người hay thuộc về tổ chức của giáo hội Công giáo. Thế nên để giãi bày thân phận thực sự của mình, thánh Gioan đã lên tiếng giải thích, "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!"
 
Chúa Giêsu có chịu phép rửa của thánh Gioan không? Thưa có. Vậy điều gì hay lý‎ do gì đức Giêsu cần phải ăn năn, phải thống hối để phải chịu phép rửa của thánh Gioan? Mục đích của đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan là gì?
 
Xét theo quan điểm thế tục, hay nói theo lối nhìn hữu vi, chữ viết được ghi thế nào thì hiểu như vậy, Chúa Giêsu chưa có gì phải ăn năn, phải thống hối mà phải bày tỏ cho mọi người biết qua nghi thức rửa bằng nước của thánh Gioan. Nếu nhìn sự việc đã xảy ra theo khía cạnh này, hành động chịu được rửa của Chúa Giêsu có thể nói chỉ là chấp nhận nghi thức để gia nhập, để hòa mình với mọi người hầu có cơ hội rao giảng, hầu mong thực hiện mục đích của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho họ. Như thế, đức Giêsu chấp nhận được rửa bằng nước chỉ là một mưu đồ chính trị với chủ đích hoàn thành nhiệm vụ của Ngài là rao giảng Tin Mừng. Thêm vào đó, qua Phúc Âm, cả một cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài đã đương đường công bố mục đích được sai đến của Ngài chính là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời như được viết nơi Luca, đoạn 4 câu 43, "Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa; chính vì thế mà Ta đã được sai đến." Cũng đọc nơi Phúc Âm, đức Giêsu đã không rửa tội cho bất cứ ai.
 
Xét theo lối nhìn tâm linh, phúc âm Luca được viết, "Vậy khi tất cả dân chúng đã chịu phép rửa, và chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha."  Nói cho đúng, tôi không biết dân chúng đang hiện diện ở đó cảm thấy thế nào và có nghe hay nhìn thấy hình chim bồ câu hay không, nhưng cứ theo những gì được diễn tả nơi phúc âm Luca, chúng ta có thể suy luận rằng phép rửa do thánh Gioan thực hiện chỉ với mục đích giới thiệu đức Giêsu với mọi người chẳng những thời bấy giờ mà còn sau này đối với những ai đọc và suy nghiệm phúc âm.
 
Riêng đối với chúng ta, nghi thức Chúa Giêsu chịu phép rửa đem lại hay dạy chúng ta điều gì, và chúng học được gì nơi phúc âm? Chúng ta thường được nghe nói về ăn năn hối cải, ăn năn thống hối. Ăn năn hối cải, thống hối là gì, là thế nào đối với mỗi người? Theo nghĩa từ chương, ăn năn hối cải hay thống hối là cảm nhận đau buồn, hối lỗi vì những điều không nên không phải mình đã cố ý vấp phạm trong sự thiếu suy xét, trong nỗi thiếu nhận định kết quả của sự việc vấp phạm. Ai đã vì không để ý thay vì đóng đinh mà dùng búa đập vào tay mình đến độ tét cả ngón tay ra sẽ cảm nhận được tâm hồn mình có quyết định thế nào cho những lần đóng đinh tiếp theo.
 
Theo nghĩa nơi Kinh Thánh, từ ăn năn hối cải được dịch từ ngôn từ Metanoia nơi tiếng Hy Lạp. Metanoia  có nhiều nghĩa. Trước hết, metanoia có nghĩa thay đổi hướng đi, thay đổi chiều hướng suy tư, đổi ngược lại (Kinh Thánh Tân Ước; 1994; Tr.) Khi đối diện với bất cứ sự việc gì, hay vừa được nghe về một sự kiện nào hoặc câu nói nào, chúng ta thường sớm nghĩ đến một kết quả nào đó. Kết quả này được hình thành hay phát sinh từ chính những kinh nghiệm hay hiểu biết nơi mình, không phải từ sự việc hay sự kiện được nghe đến. Chẳng hạn, khi chúng ta vừa nghe đến ai đó "Đi khám bác sĩ," chúng ta đều biết đã có chuyện gì hay bệnh hoạn gì xảy đến với người nào đó. Tuy nhiên, vì chúng ta đã quá quen với thành ngữ "Đi khám bác sĩ" và hiểu đúng nghĩa sự việc được nó diễn tả nhưng lại không để ý đến thực trạng ngôn ngữ của thành ngữ này. Thử hỏi, bác sĩ nào để cho mình khám mà nói "Đi khám bác sĩ" thay vì "Đi bác sĩ khám?"
 
Thứ đến, đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha trong khi phúc âm Luca kể lại rằng có tiếng từ trời, "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha." Đẹp lòng Chúa là thế nào? Tâm tư, tâm tình sống đẹp lòng Chúa thì phải thế nào? Khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta đọc "Lạy Cha chúng con ở trên trời," tâm hồn chúng ta cảm thấy gì hay chỉ đọc như con vẹt, đọc nhiều để chứng tỏ mình là con nhà có đạo. Thiên Chúa là gì, liên hệ với mình ra sao, chứng minh được không? Ở trên trời là ở đâu, nơi chốn nào? Tại sao nơi phúc âm được viết "Nước Thiên Chúa ở trong các ông, ở giữa các ông, và gần đến?"
 
Thiển nghĩ, đức Giêsu phải chịu phép rửa để ăn năn thống hối vì Ngài đã tiêu phí cả một đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời; bởi cho đến nay, đã hơn kém hai ngàn năm qua, dân Chúa vẫn chưa nhận ra Tin Mừng Nước Trời mà Ngài rao giảng là gì!
 
 
 CHỦ NHẬT 2C THƯỜNG NIÊN (Gioan 2:1-12)
 
Thoạt mới nghe hay đọc đoạn Phúc Âm vừa được công bố, mọi người đều có thói quen cho rằng Đức Giêsu làm phép lạ để chứng tỏ vinh quang của Ngài và minh chứng Ngài có quyền năng để các môn đệ tin theo như được chép, “Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên nầy tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.” Tuy nhiên nếu để ý đọc và nhận định lối diễn tả nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận thấy nhiều điều khác lạ chẳng ngờ.
 
Giả sử hỏi mấy người thích nhậu về lý do tại sao Đức Giêsu biến nước thành rượu tất nhiên họ sẽ trả lời bởi vì rượu có mùi vị ngon hơn nước, nhưng đối với những người không thích rượu hoặc bị phiền hà vì kẻ uống rượu có lẽ họ sẽ cho rằng Phúc Âm viết sai vì Đức Giêsu tốt lành, thánh thiện, răn dạy người ta không nên rượu chè cờ bạc nên biến rượu thành nước mới đúng.
 
Nếu áp dụng nơi trường hợp cuộc sống thường nhật, phần đông chúng ta cho rằng bài Phúc Âm khuyến khích con người cầu nguyện, đặc biệt nơi trường hợp khó khăn, nên khẩn cầu cùng Đức Mẹ chuyển lời. Dĩ nhiên, nơi cuộc sống phức tạp, mọi người đều cảm thấy nhiều nỗi khó khăn lắm lúc dồn mình vào ngõ bí vô phương trốn thoát. Chính bởi không còn cách nào trốn chạy nên có bệnh đành vái tứ phương, chấp nhận nghe đâu chầu đấy, vì dù cầu cạnh bất cứ ai cũng không được do đó đành cầu khẩn cùng đấng linh thiêng mình có thể nghĩ tới.
 
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi nào không thể tìm được lối thoát chúng ta đành chấp nhận phó mặc cho cuộc đời đưa đẩy, trao tất cả những nỗi khốn cùng nơi quyền lực Thiên Chúa giải quyết;…sự lạ tất nhiên xảy đến một cách chẳng ngờ. Tiền nhân chúng ta có câu, “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” mang ý nghĩa tín thác thân phận con người nơi quyền lực thiêng liêng giải quyết. Như vậy, sự cầu nguyện đúng đắn nhất lại chính là phó thác, phó mặc, chấp nhận để những gì quá tầm tay với nơi bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu nhận định theo văn từ, bài Phúc Âm vô tình để lộ điều nghịch thường nơi câu nói của người quản tiệc với tân lang.
 
Ai cũng đều biết, quản tiệc chính là người sắp xếp hành trình tiệc cưới vì tân lang vào thời điểm này sao có thể điều hành được chi. Nếu Phúc Âm đặt vào miệng tân lang lời trách cứ quản tiệc thì mới hợp tình hợp lý. Đứng về phương diện luân lý, chúng ta đều chấp nhận con người mang đầy thiếu sót chẳng khác gì tiệc cưới đang vui, nửa chừng thiếu rượu do đó cần được tự xét, tự nghiệm để tránh những thiếu sót sao cho trở nên công chính. Tuy nhiên, người công chính nơi xã hội này, được mọi người kính phục, thực hiện những điều nên và đáng làm theo truyền thống cũng như bảo vệ danh dự, coi chừng lại bị kết án nơi một xã hội khác. Chẳng hạn nơi một nước nhỏ nào đó vùng Trung Đông; chính bố mẹ đã sai người ở giết đứa con gái của mình cũng chỉ vì chị ta cầm giấy đến tòa án xin ly dị theo luật pháp vì người chồng lạm dụng và có cuộc sống quá bết bát.
 
Xét như vậy, chúng ta lại cần mở rộng nhãn quan luân lý bởi coi chừng chính những gì tốt lành thánh thiện đối với mình có thể là mối nguy hại lớn lao đối với những người chung quanh. Điều này đòi hỏi suy tư và nhận thức chân thành, nhiều khi chúng ta đành phải chấp nhận những gì nghịch với thói quen hay quan niệm đã bao năm theo đuổi và trở thành cố tật. Dưới nhãn quan tâm linh, đọc Phúc Âm chúng ta thấy rõ, Đức Giêsu không bao giờ tỏ vẻ uy quyền hay minh chứng vinh quang của Ngài vì Ngài chỉ thực hiện theo thánh ý Thiên Chúa. Ngay khi cầu nguyện trước cuộc tử nạn, Đức Giêsu cũng đã thốt lên, “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén này khỏi con; song không phải theo ý con, mà là như ý Cha” (Mt. 26:39; Mc. 14:36; Lc. 22:42). Thêm vào đó, ngay cả những sự chữa lành chúng ta thường gọi phép lạ được ghi chép nơi Phúc Âm, Đức Giêsu đều tuyên bố đức tin chữa, đức tin cứu mà thôi.
 
Qua Phúc Âm, suốt cả cuộc đời, thái độ của Đức Mẹ rất âm thầm. Chỉ 2 lần ghi lại ngài lên tiếng nói với Đức Giêsu nhưng lần nào cũng bị trả lời nghịch hẳn sự thường tình. Nhận định như vậy, câu hỏi được đặt ra đó là mục đích của đoạn Phúc Âm viết về việc Đức Giêsu biến nước thành rượu mang ý nghĩa gì có thể giúp chúng ta thăng tiến nơi hành trình đức tin. Đã có người đơn sơ trả lời bởi thiếu rượu do các môn đồ của Đức Giêsu uống quá thành ra Ngài phải đỡ đòn. Điều này phi lý bởi dẫu thế nào và nơi bất cứ phong tục nào, thiếu rượu nơi tiệc cưới là điều tối kỵ bởi quan niệm thiếu rượu chính là dấu hiệu xui xẻo cho cuộc sống hôn nhân đôi lứa. Suy cho kỹ, câu trả lời chính là điều phát biểu nghịch thường đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Giờ tôi chưa tới.”
 
Thử suy nghiệm nơi cuộc đời mỗi người, chính những lúc khốn cùng nhất, khi mà mọi khả năng, mưu mô, sức lực của chúng ta đã trở nên bất lực trước một hoàn cảnh nào đó, lời cầu nguyện, tâm nguyện của chúng ta mới thực sự hiệu nghiệm vì chính thời điểm đó chúng ta chấp nhận buông xuôi phó mặc vận mệnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa; chúng ta không sử dụng sự khôn ngoan thế tục; chúng ta hết đường tính toán. Thiên Chúa chỉ đến với chúng ta nơi lòng chân thành, thực tâm. Giờ của Chúa là thời điểm chúng ta dồn mọi năng lực, định tâm hướng về Ngài. Giờ của Chúa là khi chúng ta buông xuôi tất cả dành quyền cho Ngài chủ động. Đây chính là ý nghĩa của câu Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức” (Mt. 11:28). Amen.
 
 
 CHỦ NHẬT 3C 98
 
Quí ông bà, anh chị em trong Đức Kitô, Thường khi đọc Phúc Âm, chúng ta quen nghĩ những câu truyện chữa lành, được gọi là phép lạ, là những việc Đức Giêsu thực hiện để tỏ sự cả sáng của Ngài, hoặc minh chứng Ngài là Thiên Chúa. Những câu truyện dụ ngôn cũng đã bị hiểu là những bài học luân lý. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh có đoạn, “Trong những ngày sau hết, Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên mọi con cái xác phàm, các trẻ sẽ nói tiên tri, người già nằm chiêm điềm mộng và thanh thiếu niên sẽ thấy thị kiến." Như vậy, Lời Chúa nói về những sự kiện, sự việc xảy đến nơi mọi người. Nơi câu cuối bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Lời Chúa đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe." Câu này, tôi nghĩ, được áp dụng cho mọi người chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ, và đồng thời cũng được áp dụng cho bất cứ ai trong cuộc đời.
 
Thử xét mấy câu Kinh Thánh vừa được nhắc tới qua bài Phúc Âm trích từ sách tiên tri Isaiah, “Sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức..." Người nghèo khó cần vật chất, thực phẩm, quần áo, chỗ ở, mà Kinh Thánh lại nói rao giảng Tin Mừng cho họ. Vậy chữ nghèo khó nơi Kinh Thánh có nghĩa những người khát khao Tin Mừng, khát khao tâm linh nên Đức Giêsu đến đem Tin Mừng cho họ.
 
Tương tự như thế, Đức Giêsu đến đem Tin Mừng chữa lành những tâm hồn sám hối. Tin Mừng giải thoát những người bị lề luật luân lý thế tục áp đặt quá nặng nề trong cuộc đời không sao tránh khỏi hệ thống kết án của thế tục. Tin Mừng soi sáng, mở lối cho những người đang bị cầm tù nơi sự trói buộc trong vòng hiểu biết thế tục, giúp cho những người bị mù lòa bởi sự hiểu biết thế gian, hoặc được coi là dốt nát trước mặt người đời nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Đồng thời Tin Mừng cũng giải thoát cho những người đang bị đè nặng dưới gông ách của những tổ chức thế tục nhận ra quyền tự do tâm linh đặt trên nền tảng Tin Mừng cứu rỗi. Phúc Âm viết rõ ràng, mục đích của Đức Giêsu đến trần gian là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như thánh Mathêu ghi lại, “Ta còn phải sang các làng phụ cận rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì đây là mục đích mà ta được sai đến."
 
Vậy Tin Mừng là gì? Xin thưa, đó là chính ý nghĩa danh hiệu Emmanuel của Đức Giêsu. Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng đó là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người qua từng nhịp đập của con tim, từng hơi thở của buồng phổi, từng giây phút hiện hữu, hữu hình hay vô hình của mỗi người. Xét như vậy, Đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đang mang sẵn quyền lực của Thiên Chúa nơi mình nhưng không biết cách nào để sử dụng.
 
Đây là lý do đã nhiều lần Đức Giêsu nói đến mà chúng ta không để ý. Chẳng hạn nơi câu truyện người mù được nhìn thấy, Đức Giêsu nói, “Đức tin con đã cứu con," hoặc nơi câu truyện người đàn bà loạn huyết, Ngài trả lời, “Hãy vững tâm, lòng tin con đã cứu chữa con." Nơi Phúc Âm thánh Gioan, Đức Giêsu còn nói rõ hơn, “Kẻ nào tin vào ta thì làm được mọi việc ta đã làm và còn có thể làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12).
 
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về một thực thể đó là Thiên Chúa đang hiện diện nơi mỗi người. Quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người. Đây chính là Tin Mừng Đức Giêsu đến rao giảng cho mọi tạo vật. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em. Mở rộng tâm hồn - xin Thánh Thần soi sáng - Nhận ra Chúa đang hoạt động nơi mỗi người.
 
 
 CHỦ NHẬT 3C 2001 (Lc. 1:1-4; 4:14-21)
 
Bài Phúc Âm gồm hai phần. Phần thứ nhất là bốn câu đầu Phúc Âm thánh Luca đại ý nói về mục đích viết lại những dữ kiện theo lời truyền khẩu về cuộc đời, những công việc Đức Giêsu đã thực hiện, và những lời dạy của Ngài. Tác giả văn kiện này lấy tên là Luca. Những gì ông viết có ý minh chứng cho Thêôphilê, một người có thế giá, đang giữ nhiệm vụ đại diện cho một nhóm mới gia nhập Thiên Chúa Giáo để giúp ông ta và những người trong nhóm am tường đích xác về đạo Chúa.
 
Phần thứ hai của đoạn Phúc Âm nêu lên câu nói về thực thể con người nhưng mới thoạt nghe hay đọc đều bị hiểu lầm là câu nói nghịch thường, “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.” Dân Do Thái ngày xưa đối với Kinh Thánh chỉ nghe sao biết vậy chẳng khác gì chúng ta hôm nay. Lời Chúa công bố, “Thánh Thần Thiên Chúa ngự trên tôi vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
 
Tôi thực tâm nghĩ rằng bất cứ ai trong chúng ta đều hiểu rành mạch lời Phúc Âm được trích từ sách tiên tri Isaiah. Tuy nhiên, chúng ta thường không để ý tìm hiểu Lời Chúa muốn chỉ về điều gì nơi thực thể con người của mình. Cách nào và thế nào Lời Chúa được gọi là ứng nghiệm nơi cuộc đời chúng ta? Để tâm suy nghiệm từng câu chúng ta sẽ thấy Lời Chúa mang tính chất thâm trầm; thoạt mới nghe hay đọc, ai cũng tưởng câu nói đơn sơ, dễ hiểu, lại mang nghĩa luân lý hữu vi. Tuy nhiên, dẫu chúng ta tưởng vậy nhưng không phải vậy; chẳng hạn câu nói, “Thánh Thần Thiên Chúa ngự trên tôi vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.”Thử hỏi người nghèo khó cần những gì nơi cuộc sống? Câu trả lời đầu tiên ai cũng có thể nghĩ tới là tiền vì nếu có tiền, mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống đều được giải quyết. Người nghèo khó nơi cuộc sống cần thực phẩm để ăn, quần áo để mặc, nơi ở để dung thân; trong khi Lời Chúa nói đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Nếu xét sự nghèo khó về phương diện vật chất, Lời Chúa cho chúng ta biết Tin Mừng phải là điều cần thiết hơn cả những nhu yếu căn bản cho đời sống một người. Nếu hiểu sự nghèo khó theo nghĩa tinh thần mà chúng ta thường quen nhắc tới tinh thần nghèo khó mang ý tứ giả hình, tỏ ra mình hèn mọn hoặc muốn trở nên khó nghèo lại càng chỉ biến Lời Chúa trở thành không tưởng.
 
Trước hết, chỉ người giầu mới muốn trở nên nghèo. Thứ đến, nếu không thực tâm có tinh thần nghèo khó mà cố gắng trở nên như thế cũng chẳng được ơn ích gì, trái lại chỉ làm khổ mình mà thôi. Điều này chẳng khác chi trưởng giả học làm sang;…người dốt hay nói chữ. Một người dẫu giầu có, dù cố gắng bắt chước để tỏ ra mình sang trọng, sắm đồ mắc tiền, nhà lớn, xe đẹp, kiểu cách đến mấy thì cũng không thể nào che dấu được gốc gác chân quê của mình. Sự giả hình này cũng giống như con quạ muốn trở nên con còng cọc; màu đen lông cánh tuy giống nhưng khi xuống nước thì con quạ không thể bơi được như con còng cọc.
 
Người nghèo khó được nói đến nơi Kinh Thánh có nghĩa những ai khát khao nhận biết Thiên Chúa, người luôn để tâm tìm hiểu ý nghĩa tâm linh về các sự vật và sự việc xảy đến nơi cuộc đời. Đối với họ, những tiếng tăm, danh vọng, hay ước muốn thế tục không phải là chủ đích của cuộc sống. Họ là những người thực thi lời dạy nơi Phúc Âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” (Mt. 6:33). Như vậy, chỉ những người này mới có thể nhận biết Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng.
 
Bài Phúc Âm cũng nhắc tới việc, ”loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm,” trong khi không có phần nào nơi Phúc Âm nói đến Đức Giêsu mở cửa nhà tù giải phóng những kẻ tù tội, dẫu đối với ngay cả Gioan Tiền Hô. Bao nhiêu năm qua nếu không muốn nói cả đời theo đạo, chúng ta thực sự quá đói khát Tin Mừng mà không nhận biết. Chúng ta đã bị nhồi nhét đầy lòng trí những sự giải thích Phúc Âm theo ý nghĩa luân lý, biến Phúc Âm thành những điều không tưởng, câu nọ chống nghịch câu kia, không thể nào áp dụng nơi cuộc đời. Chúng ta cần nhận thực, cần đối diện với chính lòng mình để sám hối vì đã quá coi thường Lời Chúa, vì đã chấp nhận bị ru ngủ bằng những sự giải thích Lời Chúa một cách lừa đảo thế tục. Tâm trí chúng ta bị giam cầm nơi sự sợ hãi vì đã tưởng tượng về Chúa một cách quá khắc nghiệt trong khi miệng hô hào lòng Chúa yêu thương vô bờ bến. Chúng ta đã bị biến thành chiếc máy biết nói mà không hiểu mình nói gì. Chúng ta là những người mù tối nên mang thái độ thờ ơ, không suy tưởng về Lời Chúa. Chúng ta đã bị áp bức bởi luật này, luật kia mà không hiểu tại sao phải theo luật. Chúng ta đang chết dần mòn nơi ngục tù thiếu hiểu biết trong khi nắm trong tay chìa khóa Tin Mừng giải thoát. Chúng ta cố giương mắt kiếm tìm ơn cứu độ nơi những lý thuyết thế tục mà không để ý đến Tin Mừng Nước Trời. Lời Đức Giêsu công bố rõ ràng cho chúng ta, “Trong các tiên tri đã có viết: hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Gn. 6:45).
 
Chính Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta. Nơi Phúc Âm Mátthêu Ngài mời gọi, “Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức” (Mt. 11:28). Lật Kinh Thánh chúng ta đọc nơi tiên tri Jêrêmiah, “Sấm của Yavê, Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng, chúng sẽ là dân của Ta” (Jr. 31:33). Rõ ràng hơn, nơi tiên tri Joel, Lời Chúa công bố, “Trong những ngày sau hết, Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên mọi con cái xác phàm. Các trẻ sẽ nói tiên tri; người già nằm chiêm điềm mộng, và trai tráng các ngươi sẽ thấy thị kiến. Và cả trên các tôi trai, tớ gái, trong những ngày ấy, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí của Ta” (Jl. 3:1-2). Đặc biệt nơi Phúc Âm Gioan có câu, “Bao nhiêu kẻ đến trước Ta, hết thảy đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng” (Gn. 10:8). Chúng ta nên để tâm nghiệm chứng câu này. Những gì Phúc Âm không nói, chúng ta nên đặt lại vấn đề.
 
Chính Thiên Chúa dẫn dắt từng người chúng ta và Ngài đã đổ Thần Khí của Ngài nơi mỗi người. Vấn đề còn lại phỏng chúng ta có để tâm tìm kiếm Nước Trời hay không; chúng ta có suy nghiệm Lời Chúa hay không!
 
 
 CHỦ NHẬT 4C THƯỜNG NIÊN (Lc. 4:21-30)
 
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe chứa đựng nhiều vấn đề cần được suy nghiệm hầu đem lại lợi ích cho hành trình đức tin nơi mỗi người. Điểm đầu tiên, bài Phúc Âm được viết, “Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: 'Người nầy không phải là con ông Giuse sao?' Và Người nói với họ, 'Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta câu ngạn ngữ nầy: Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình; điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông.”
 
Có thể rằng sự dịch thuật từ văn bản Phúc Âm phần nào đó đã không diễn giải được ý nghĩa minh xác của câu nói thế nên đã khiến chúng ta phải ngỡ ngàng khi câu nhận định của Đức Giêsu về tâm ý của những người nơi hội đường không những đầy vẻ quá quắt mà còn chất chứa sự minh chứng thâm trầm bao hàm ý nghĩa cho rằng họ là những người không đáng được hưởng hồng ân của Thiên Chúa. Lời Phúc Âm vừa nêu lên, “Mọi người đều làm chứng và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: 'Người nầy không phải là con ông Giuse sao'” và thế là Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu cả loạt những lời trách móc đồng thời dùng điển chứng Kinh Thánh ngụ ý chứng tỏ họ không đáng được Ngài dạy dỗ hoặc không đáng được hưởng những sự lạ Ngài đã thực hiện ở những nơi khác. Thêm vào sự kiện này, điều khiến chúng ta ngạc nhiên đó là câu, “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình.” Không hiểu câu ngạn ngữ được xếp đặt nơi trường hợp này mang ý nghĩa gì? Hoặc Phúc Âm muốn ám chỉ về dân chúng nơi sinh quán của Đức Giêsu, bởi họ đã cố chấp không biết mở rộng lòng đón nhận những lời Ngài giảng dạy nên Ngài đã không thực hiện được những điều mong ước cho họ, hoặc vì thái độ dân chúng chỉ đua đòi cổ võ, ồn ào bàn tán về những sự lạ đây đó một cách thiếu suy nghĩ, nhận định nên khi đối diện với những lời giảng dạy của Đức Giêsu họ đã không để tâm nhận thức?
 
Điểm thứ hai đó là câu, “Người nói tiếp: Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.” Câu nói này cũng đồng một nghĩa với câu ngạn ngữ, “Bụt nhà không thiêng” chỉ về tâm trạng của những con người không chịu tìm hiểu, nhận biết về chính mình để thăng tiến mà chỉ hướng lòng mơ tưởng về những viễn ảnh mông lung hầu có được nỗi an bình giả tạo ru ngủ cho qua kiếp người. Những người như thế sẽ không thể nào lãnh hội được Tin Mừng Nước Trời bởi họ còn mơ ước những phép lạ không tốn công sức nên tâm hồn chất chứa nặng nề tâm tình “chờ sung rụng,”””đợi Chúa cứu” do đó không để ý đến những lời Phúc Âm đã hai ngàn năm nhắc nhở, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con.” Hai điển chứng Thánh Kinh, Elia được sai đến giúp bà góa tại Sarepta thuộc xứ Siđon và tiên tri Elisêô với người cùi Naaman thuộc xứ Syria phần nào ám định lý lẽ huyền nhiệm nào đó mà ít khi hoặc không bao giờ chúng ta dám nghĩ tới.
 
Lời Phúc Âm minh định rõ ràng, “Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà góa trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà góa tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria.”
 
Đọc nơi Kinh Thánh chúng ta biết, người Do Thái thời Chúa Giêsu coi dân thuộc xứ Siđon và người Syria là dân ngoại vì họ không biết, cũng như không tuân theo luật Môisen. Người Do Thái tuyên dương và hãnh diện vì cho rằng Thiên Chúa của họ là Thiên Chúa độc nhất, bảo vệ và đứng về phe họ. Bất cứ dân tộc nào khác không tuyên dương hoặc phụng thờ Thiên Chúa theo lề thói, nghi thức giống họ hoặc gọi tên chỉ về Thiên Chúa theo ngôn từ khác đều bị người Do Thái cho là dân ngoại và đều bị họ kết án là không được cứu rỗi chẳng khác gìchúng ta đã bao lâu nay. Đức Giêsu dùng lời Kinh Thánh dẫn chứng sự thể đối nghịch với niềm tin của họ nên họ căm phẫn, cả hội đường hùa nhau trục xuất và muốn giết Ngài bằng cách xô xuống vực thẳm. Phỏng có ai trong chúng ta dám tưởng tượng, giả sử Đức Giêsu hiện thân đứng trước mặt chúng ta ngay giờ lúc này; Ngài sẽ có những lời nói như thế nào về mỗi người chúng ta? Và chúng ta sẽ có thái độ nào đối với Ngài?

CHỦ NHẬT 5C THƯỜNG NIÊN 2001 (Lc. 5:1-11)
 
Điểm hơi lạ nơi bài Phúc Âm vừa được công bố đó là Đức Giêsu phải xuống thuyền để giảng dạy dân chúng vì họ chen lấn đến gần Ngài. Cứ mỗi lần đọc về sự thể này cũng như nơi Phúc Âm Mátthêu và Marcô khi Ngài dạy về dụ ngôn Người Gieo Giống, tôi lại cảm thấy ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì nơi nhà thờ nhỏ bé như thế này mà chúng ta phải dùng hệ thống âm thanh trong khi nhà thờ chỉ có thể chứa đựng được tối đa cỡ 500 người. Ở những nơi khác, Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu giảng dạy cho 5000 người…ấy là chỉ kể đàn ông.
 
Như vậy, nếu tính cả đàn bà và trẻ con phỏng con số phải lên tới hơn chục ngàn bởi đàn bà mang nhiều tính chất tò mò nên sĩ số tham dự về bất cứ việc gì thường nhiều hơn đàn ông. Tôi không hiểu Đức Giêsu nói cách nào ở ngoài trời mà số đông dân chúng như thế có thể nghe được. Nơi trường hợp ngồi trên thuyền cách bờ hồ để giảng dạy, chẳng những tôi, mà ngay cả quí ông bà anh chị em có lẽ cũng chưa bao giờ được chứng kiến.
 
Bài Phúc Âm hôm nay được ghi nơi Kinh Thánh với tựa đề: “Kêu Gọi Môn Đồ Đầu Tiên,” nhưng chúng ta thường gọi là “Phép lạ bắt được nhiều cá.” Đây là bài Phúc Âm được con cháu thánh Phêrô”ưa thích và đã in đậm nơi tâm hồn họ câu ngạn ngữ “Vâng lời thầy, con thả lưới.” Nói về phép lạ, chúng ta thường nghĩ tới những sự lạ lùng khác thường hoặc chưa bao giờ xảy đến trong cuộc đời của mình mà chỉ nghe đồn thổi đây đó. Khi nghĩ về vệ tinh nhân tạo, phi cơ phản lực, máy điện toán, hay những chiếc xe được sử dụng để di chuyển, chúng ta cảm kích những người đã sáng chế các vật dụng đó. Chúng ta thường mang tâm tình hướng ngoại và ca tụng những sự lớn lao xảy ra đây đó nhưng lại coi thường những sự lạ cả thể từng giây phút xảy đến nơi cuộc đời của mình.
 
Thử hỏi trên thế gian này người ta đã có thể chế ra những bộ máy nào hoạt động liên tục 30, 40, 50, hay 100 năm không hề ngưng nghỉ. Tuy nhiên, con tim chúng ta đập, lá phổi thở từ ngày lọt lòng mẹ đến giờ mà chưa bao giờ ngưng dù chỉ một phút. Phỏng chiếc máy điện toán có thể cảm thấy sảng khoái khi thâu nhận được những hình ảnh đẹp đẽ hoặc hùng vĩ nhờ những phương tiện nào đó? Chúng ta biết và cảm nhận được những tâm tình khác lạ, niềm vui lớn hoặc nhỏ, ngay cả những điều không hài lòng mà thường thì ít ai để ý đến lý do tại sao chúng ta có thể cảm nhận được như vậy. Hơn nữa, nơi mỗi người còn sẵn có thêm khả năng thực hiện những ý nghĩ, ý định của mình thành những sự kiện hữu hình hay những chuyện chẳng ngờ…
 
Bài Phúc Âm hôm nay nêu lên điểm chẳng ngờ đã xảy đến với thánh Phêrô đó là sự việc bắt được quá nhiều cá. Chính điều lạ lùng này đã khiến thánh Phêrô nhận ra sự hèn mọn của ngài để rồi năn nỉ cùng Đức Giêsu,Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa tôi, vì tôi là người tội lỗi." Tôi trộm nghĩ, biết bao con cháu thánh Phêrô nhưng hình như chưa bao giờ có ai học được gương quan thày của mình,…mà có chăng ngược lại,…do thói quen ăn đầu sóng nói cuối gió. Bởi đối diện với sự việc không bao giờ có thể tưởng tượng được, thánh Phêrô thực sự cảm thấy mình không là gì.
 
Đây là những thời điểm thức ngộ mà chúng ta thường gặp nhưng đã không để ý. Thời điểm chúng ta thực sự cảm nhận được có quyền lực lớn lao cả thể nào đó bao trùm nơi mình, nơi vạn vật mà không thể nào diễn tả và dù cố gắng diễn tả cũng không ai tin, không ai cho là đúng bởi chúng ta đã không nói được gì để người khác có thể cảm thông. Cũng chính thời điểm này mang lại tâm tình cảm nhận sự mỏng dòn của kiếp người nên phát sinh lòng thống hối vì đã bao lâu nay không để ý nhận biết do đó chúng ta đã chỉ sống theo thói quen hoặc mang nặng cung cách chấp nhận đã bị sinh ra thì phải sống.
 
Điểm chúng ta nên để ý đó là ngay khi thánh Phêrô nhận thực được sự yếu hèn của thân phận mình thì được Đức Giêsu kêu gọi làm môn đồ rao giảng Tin Mừng Nước Trời; Phúc Âm gọi là “kẻ chinh phục người ta.” Dĩ nhiên, khi chúng ta nhận chân được mình thực sự như thế nào, có những điểm chi không nên không phải, cá tính mình có điều gì hay hoặc mang đặc tính dở nào; con người mình mang giá trị ra sao và sự liên hệ của mình đối với Thiên Chúa ở trạng thái nào, chúng ta sẽ tự nhận ra ơn gọi mình cần phải làm gì.
 
Thế nên, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em từ nay hãy để ý đến những tâm tình về sự liên hệ của mình đối với Chúa. Tự nhận định về cuộc sống thường ngày của mỗi người, chúng ta sẽ biết được con người của mình thế nào. Đây chính là những chứng cớ rõ ràng cho chúng ta biết được mức độ tâm linh hay mức độ tu đức của mình. Nếu ai cố gắng để ý về sự liên hệ của mình với Chúa mà vẫn chưa nhận biết, thử đặt mình nơi trường hợp giả sử con tim của mình ngưng đập hay giả sử mình không có con tim hoặc cố gắng giải thích tại sao mình có thể suy nghĩ.
 
Để tâm nhận xét cuộc sống thường ngày của mình, chúng ta sẽ nhận ra mình thế nào và đồng thời sẽ nhận ra mình cần sống ra sao để thăng tiến sự liên hệ với Thiên Chúa và với những người chung quanh. Tuy nhiên, những ai đang sống nhưng không cần biết mình sống để làm gì, có lẽ hợp với lời Phúc âmthà đừng được sinh ra thì hơn." Amen.
 
 
 CHỦ NHẬT 6C 2001 (Lc. 6:17, 20-26)
 
Thoạt nghe công bố Lời Chúa, chúng ta thường hiểu bài Phúc Âm theo thói quen, nhận biết những sự vật và sự việc hữu hình nơi cuộc sống; do đó ai cũng đều mang cảm nghĩ Lời Chúa nói lên những điều nghịch thường. “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó.” Trãi qua bao ngày tháng nơi cuộc đời, ai không thực sự cảm nhận được nghèo là một cái tội. Chẳng những sự nghèo nàn ngăn chận, bó chân, buộc tay con người khiến không thể thực hiện những ước mơ, chẳng những cũng vì nghèo nên không thể giúp đỡ những kẻ khốn cùng chung quanh, không thể có được ít nhất cuộc đời sao cho bằng mày bằng mặt với mọi người, mà cũng vì nghèo nên nhiều khi bị những người khác khinh thường.
 
Thế mà Phúc Âm lại đương đường đặt nơi miệng Đức Giêsu cả loạt những điều trái ngược với thực tế. “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Những ai đã chẳng may rơi vào hoàn cảnh Nguyễn Công Trứ đã bày tỏ nơi thời kỳ khốn khổ của ông, “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch” có lẽ sẽ cảm thấy nỗi thấm thía đến độ chán chường khi đọc lời Phúc Âm, “Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát.” Và nếu hiểu Phúc Âm theo nghĩa đen, chúng ta thực sự đã được dạy dỗ hoàn toàn sai lầm về việc giúp đỡ cho những người nghèo hoặc kẻ khốn cùng bởi đã cướp mất niềm hạnh phúc của họ.
 
Hơn nữa, theo thiển ý, không ai trong chúng ta muốn trở nên nghèo khó. Thêm vào đó, giả sử nếu ai muốn trở nên nghèo khó thì đã không phải là kẻ nghèo khó mà có chăng lại khó mà nghèo. Đàng khác, cũng chỉ vì hiểu Phúc Âm theo nghĩa đen, người ta đã bày ra nhiều thứ lạ đời. Chẳng hạn những vị thuộc các dòng tu có lời khấn khó nghèo. Khó nghèo đối với họ chỉ là không giữ tiền riêng nhưng được cung cấp đầy đủ. Sự khó nghèo này nói cho đúng, chỉ khó mà nghèo vì đâu ai phải lo bill bọng; đâu ai phải đi chiếc xe được chế tạo trước ngày mình được sinh ra như chúng ta thường thấy nhan nhản trước mắt; đâu ai phải cuống lên khi vợ ốm, con đau trong lúc gia đình hết gạo, không tiền, nay người này đòi nợ, mai kẻ khác nói móc, nói xéo e rằng mình ôm tiền của họ xuống tuyền đài không còn cơ hội trả.
 
Nói chung, không ai trong chúng ta thực hiện Lời Chúa theo nghĩa từ chương nhưng vì không chịu đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa lời Phúc Âm muốn nói gì nên chấp nhận những lời giảng giải đầy mâu thuẫn thế tục cho qua, để khỏi mang mặc cảm tội lỗi vì đã sống nghịch lại Lời Chúa, đã cố gắng dùng mọi mánh khóe, công sức để có được nhiều tiền như một phương tiện đảm bảo cho cuộc đời. Có cuộc sống ngay lành, chăm chỉ, cần mẫn làm lụng để có của ăn, của để xây dựng gia đình nào có chi sai trái, ngược lại, đó là điều tốt lành, thánh thiện vì đã không biến mình thành gánh nặng cho xã hội hoặc những người chung quanh.
 
Thế sao Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát.” Thử hỏi, không đầy đủ sao có tiền cho nhà thờ? Tại sao có câu nói, ”Có thực mới vực được đạo?” Nếu một người bụng đói, không tiền mua thực phẩm sống cho qua ngày thì chắc chắn cũng chẳng có thể bước tới nhà thờ phương chi nói tới giúp kẻ nghèo, hoặc nay tiền quyên góp, mai tiền bảo trợ. Nhận xét thực trạng cuộc đời như thế, chúng ta cần mở rộng tâm hồn suy gẫm Lời Chúa một cách thâm trầm hơn, chẳng nên học thói ỷ lại của những cô phù dâu khờ dại, bảo sao nghe vậy.
 
Theo Phúc Âm, người nghèo khó có nghĩa những ai để tâm trí tìm kiếm Nước Trời, những ai suy nghiệm lời Phúc Âm, những ai không đua đòi, chạy theo vẻ hào nhoáng thế tục. Thử hỏi các cô, dẫu thuộc nằm lòng “Cái nết đánh chết cái đẹp” nhưng các cô đã tiêu phí những bao nhiêu cho những bộ quần áo thời trang, rồi bút này, phấn kia, kem nọ, nước bông, nước hoa khiến người đứng gần cảm thấy khó thở. Các bà đều biết rõ câu châm ngôn, “Kẻ đã già mà còn làm dáng thì chẳng khác gì chiến nhẫn đồng mạ vàng,” thế sao những hãng may, những tiệm bán nhung lụa vẫn nhan nhản, dẫu biết rằng cho dù thế nào chăng nữa cũng chỉ là “Hơn nhau tấm áo manh quần.” Dĩ nhiên, nơi cuộc sống, những điều cần có, nên có, và phải có, thì dẫu không muốn cũng không được nên đành phải có.
 
Phúc Âm không lên án những người giầu hoặc có hình hài vóc dáng xinh tươi và ăn bận đẹp đẽ, nhưng Phúc Âm lên án tất cả những ai dùng cuộc đời mình đã được ban cho để chạy theo những nét phù du mà không cần biết đến giá trị tâm linh, không để ý thăng tiến nơi hành trình đức tin, trái lại sống hùa theo người khác hầu có được nỗi an tâm giả tạo, được tiếng tăm bằng vẻ hào nhoáng, hình thức, đánh lừa những ai ngây thơ, thiếu hiểu biết. Những người được gọi là giầu có và bị kết án nơi Phúc Âm có nghĩa bất cứ ai không nhận biết giá trị, mục đích cuộc đời của mình.
 
Đây là những người không dám tự xét mình được sinh ra để làm gì, không nhận biết chết rồi mình sẽ thế nào mà chỉ mơ tưởng điều mình chưa bao giờ tự suy nghiệm, nhận biết. Những kẻ giầu có theo Phúc Âm là những ai đã để người khác lừa dụ dù bằng bất cứ lý thuyết, chủ thuyết, hay sự giải thích hay ho, cao vời nào mà không bao giờ dám đặt vấn đề tự hỏi mình thực sự như thế nào.
 
Nói tóm lại, người nghèo khó nơi Phúc Âm là những ai để ý tìm kiếm Nước Thiên Chúa, những ai cảm thấy khát khao nhận biết về Chúa nơi cuộc đời mình. Những kẻ giầu có là người chấp nhận nghe sao biết vậy và lợi dụng những lời giảng dạy của người khác với những ý đồ bất chính; những kẻ không suy gẫm Lời Chúa; dù họ ở bất cứ đấng bậc nào. Những người giầu có là những kẻ chạy theo thế tục hầu có nỗi an tâm giả tạo. Phúc cho các ngươi những ai tìm kiếm Nước Thiên Chúa, những người thực sự khát khao nhận biết Thiên Chúa nơi mình. Amen.
 
 
 CN 7C 95
 
Quí ông bà, anh chị em trong Đức Kitô,
 
Nhiều lần đọc đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, tôi tự đặt vấn đề. Thử hỏi, ai trong chúng ta có thể yêu được kẻ thù của mình? Ai đã làm ơn cho kẻ ghét mình? Ai bị vả má bên này mà có thể đưa thêm má bên kia cho người khác đánh? Ai cho vay mượn mà không muốn đòi trả lại? Có thể rằng một vài người nơi quí ông bà anh chị em đang hiện diện nơi nhà thờ nghĩ là có thể thực hiện được những lời Phúc Âm này trong cuộc sống, nhưng chắc chắn hành trình tôi phải trải qua để đạt thành lời dạy nơi đoạn Phúc Âm hãy còn quá mịt mùng. Chính vì đặt vấn đề như thế, tôi đọc cho qua và nghĩ, chỉ Chúa mới có thể làm được như vậy vì có ai vay mượn hoặc có thể đụng đến Chúa được đâu.
 
Dĩ nhiên, chúng ta nói rằng tin Chúa, tin vào Phúc Âm. Nhưng thử nhìn vào thực tại cuộc sống nơi mỗi người và chân thành đặt vấn đề với lòng mình, ai trong chúng ta cũng đều nhận rõ, Lời Chúa qua Phúc Âm đòi hỏi con người sống vượt hẳn khỏi lối sống thế tục đầy tham sân si và vị kỷ này. Tôi tự hỏi, lý do và điều kiện nào Phúc Âm đưa ra câu nói:Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ?" Phỏng Chúa muốn chúng ta có cái nhìn giống Chúa vì muốn nhân từ như Chúa thì phải mang tính chất, điều kiện nào đó của Chúa mới có thể thực hiện được sự nhân từ như Chúa.
 
Đặt vấn đề như thế tôi chợt nhận ra chúng ta mang một giá trị tuyệt vời dưới con mắt Chúa mà chính chúng ta cũng không nhận ra. Thật ra, khi nghe ai nói đến trở nên giống Chúa thì chúng ta cũng chỉ nghe cho qua và nếu vô tình để ý đến câu nói, có lẽ chúng ta sẽ cho là phạm thượng, là kiêu ngạo. Chúng ta đã được dạy qua câu truyện tạo dựng nơi sách Sáng Thế Ký rằng ông Adong và bà Evà ăn trái cấm vì muốn nên bằng Thiên Chúa nên đã bị lên án phạt, để lại tội tổ tông cho con cháu, thế nên, các bà, các chị phải mang nặng đẻ đau; các cụ, các ông phải bới đất lặt cỏ mới có miếng ăn sinh sống qua ngày; bây giờ chúng ta muốn trở nên giống Chúa, không phạm thượng, không kiêu ngạo thì cũng e sợ không dám đặt vấn đề.
 
Tuy nhiên, chính Chúa Giêsu đã nói qua Phúc Âm rằng chúng ta là ngai tòa của Thiên Chúa; Thánh Phao lô cũng nhắc nhở thân xác chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. Ngay trong cuộc sống thường ngày, quí ông bà anh chị em đang gặp phải nhiều trường hợp cam go tưởng như không bao giờ có thể xảy tới, hợp với lời Phúc Âm, nhưng ít được chúng ta để ý tới nên không nhận ra. Chẳng hạn, lòng yêu thương con cái nhiều khi dồn đấng bậc cha mẹ vào trường hợp không tưởng. Thương con, lo lắng khuyên răn, dạy bảo hầu ngăn ngừa những mối nguy hại có thể xảy đến thì bị con cái cho là khó khăn, cổ hủ, là quá nghiêm khắc, nhiều khi đến độ ăn nói hoặc có những thái độ hỗn hào làm đau lòng bậc sinh thành. Dẫu thế, thời gian nuôi nấng con cái nào đâu phải chỉ một hai năm hoặc đôi ba tháng. Hơn nữa, vì lòng thương, biết con không hài lòng nhưng bởi trách nhiệm và bổn phận làm cha, làm mẹ bắt buộc mình phải dạy dỗ... do đó đã nhiều lần rơi vào trường hợp của câu Phúc Âm: Ai vả má con bên nầy thì đưa cả má bên kia... Khi chúng ta thực sự thương yêu ai, dù thiệt thòi và tai hại cách mấy, chúng ta cũng chấp nhận họ như Chúa đã chấp nhận chúng ta.
 
Thật ra, sống theo Phúc Âm là trở nên giống Chúa; sống theo Phúc Âm là trở nên nhân từ như Chúa. Thử hỏi, Chúa Giêsu đã nhân từ ra sao? Đọc Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy, Chúa Giêsu không lên án bất cứ ai, dẫu người đó thế nào ngoại trừ những kẻ nghe lời Ngài rao giảng mà không chấp nhận. Đối với Chúa Giêsu, kẻ khác luôn trỗi vượt và cao quí hơn những gì mà người đương thời gán cho họ. Ngài không nói người phụ nữ Samaritan bên giếng Giacóp là người nhẹ dạ, ngu ngốc mà đến xin một bát nước và nói chuyện với bà ta. Chúa không nói Mađalêna là một loại gái hư đốn mất nết mà nói bà có nhiều may mắn để vào Nước Trời hơn những kẻ huênh hoang về nhân đức và hiểu biết của mình. Chúa không lên án người phụ nữ ngoại tình mà chỉ nói: Ta không lên án con, hãy đi về và đừng phạm tội nữa. Chúa không coi khinh các con trẻ ít hiểu biết mà yêu cầu để trẻ đến gần Ngài đồng thời khuyên mọi người nên bắt chước trẻ nhỏ... Chúa không xét đoán con người theo luân lý thế gian nhưng Chúa dạy đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Phúc Âm nói rõ,Các con đong đấu nào thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy." Xét theo tâm lý, lòng chúng ta thế nào, chúng ta sẽ xét đoán người khác như vậy. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.
 
 
 CHỦ NHẬT 7C 2001 (Lc. 6:27-38)
 
Nơi cuốn Kinh Thánh, bài Phúc Âm vừa được công bố được mệnh danh là “Thương kẻ nghịch””hoặc “Yêu thương kẻ thù.” Cũng như nhiều đoạn Phúc Âm khác, Lời Chúa nêu lên những điểm không thể thực hiện đối với bất cứ ai nếu hiểu theo nghĩa từ chương; chẳng hạn, “Hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho những người oán ghét các con. Ai vả má con bên nầy thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai lấy gì của con thì đừng đòi lại. Hãy làm ơn và cho may mượn mà không trông báo đền.”
 
Chúng ta thường có thói quen khi nghe hoặc đọc Kinh Thánh, nếu những câu nói nào coi bộ không hợp với quan niệm hay ý nghĩ của mình, chúng ta tảng lờ như không đọc hoặc không nghe. Đã bao ngày tháng trong quá khứ, dân Chúa đã bị cấm không được đọc Thánh Kinh cũng chỉ vì e ngại họ hiểu hoặc giải thích không theo ý của những đấng bản quyền. Lâu dần thành thói quen thấm nhập tâm não và truyền từ đời nọ sang đời kia, sự e ngại chẳng nên đã biến dân Chúa trở thành mù tối, tệ hơn nữa, đã có những người cho rằng kẻ nào dám suy nghĩ về những câu nói nơi Kinh Thánh sẽ trở thành rối đạo. Tôi trộm nghĩ, chỉ những người không dám tìm hiểu, suy tư, hoặc nghiệm chứng về những câu nói nơi Kinh Thánh chính là những người rối đạo vì không biết mình tin gì.
 
Kinh nghiệm cuộc sống minh chứng, bất cứ sự gì chúng ta khao khát tìm hiểu, tất nhiên chúng ta sẽ đạt tới kết quả không sớm thì chầy. Lời Chúa rõ ràng khuyến khích điểm này nơi Phúc Âm: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt. 7:7; Lc. 11:9). Hơn thế nữa, Phúc Âm đoan chắc đối với những ai thành tâm suy nghiệm Lời Chúa, “Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm mà nên dư dật, còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” (Mt. 13:12; Mc. 4:25; Lc. 8:18; 19:26). Bất cứ ai để tâm suy nghiệm lời Phúc Âm thì càng ngày càng am hiểu thâm sâu về Tin Mừng Nước Trời. Những ai không cần biết Lời Chúa nói gì thì càng ngày càng trở nên mù tối. Vì thế, chẳng lạ gì G. C. Lichtenberg nêu lên câu nói, “Quyển sách là một cái gương soi. Nếu một con khỉ mà nhìn vào, dĩ nhiên không thể có cái ảnh của một vị thánh hiện lên.” Câu nói này phần nào giải thích kết quả lời kết án nơi Phúc Âm, “Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng chẳng để cho vào””(Mt. 23:13).
 
Lời Chúa lên án nặng nề những ai đã không suy nghiệm Phúc Âm mà lại còn lạm dụng lòng chân thành của người khác để thực hiện mưu đồ riêng tư, “Khốn cho các ngươi giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, mã ngoài hình như đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt thây ma và mọi thứ xú uế” (Mt. 23:27). Phương cách chi và nơi phương diện nào chúng ta có thể thực hiện lời Phúc Âm hôm nay nơi cuộc sống? Sao chúng ta có được tấm lòng thực sự yêu mến kẻ thù? Trường hợp nào chúng ta bị lột áo ngoài mà có thể sẵn lòng cho lấy luôn cả áo trong, hoặc bị tát má này lại còn chìa má bên kia? Và ai có thể cho vay mà không bao giờ đòi nợ?
 
Trước hết, nói đến kẻ thù theo quan niệm Công Giáo cũng như ý niệm con người thường an định, chính Chúa cũng không thể yêu mến kẻ thù của Ngài. Tuy nhiên, ai tự suy gẫm về chính mình sẽ nhận thực được điều lạ lùng đó là kẻ thù độc hại, đáng ghét, nhưng cũng dễ thương nhất của mình lại là chính mình. Chúng ta thường nghe những lời bào chữa khi một người đã thực hiện chuyện không nên rằng tại người này hay người kia xúi giục hoặc bảo phải làm thế nọ thế kia. Điều rõ ràng đó là người đó đã không dám hoặc không nhận biết về chính họ mà chấp nhận trở thành công cụ cho kẻ khác lạm dụng. Dĩ nhiên, đầy trong lòng mới có thể tràn ra bên ngoài. Nếu một người đã không muốn điều gì thì Chúa cũng không thể ép buộc họ thực hiện điều đó được.
 
Lại có người đổ lỗi cho quỉ hay Satan. Xin thưa, quỉ hay Satan chính là lòng ham muốn nơi mình, ý nghĩ, ý định thế tục của mình mà thôi. Kẻ thù khốn nạn nhất của mình lại là tham vọng, ham muốn của mình. Quí ông bà anh chị em thử để tâm nhận định, đã bao lâu rồi mình cố chừa sửa một đôi điều không nên nào đó và chúng ta đã cảm thấy thế nào. Như vậy, yêu mến kẻ thù nghịch có nghĩa nhận biết thực sự mình thế nào. Do đó, những ai còn muốn trở nên bất cứ gì tất nhiên vẫn còn đang chạy trốn đối diện với con người thực của mình, vẫn còn không dám nhận diện bản mặt thật của mình, vẫn còn cố đeo mặt nạ hòng che dấu một tâm hồn bất trắc, đáng khinh bỉ nơi mình.
 
Thực tâm nhận định, dẫu ai khinh thường hoặc nói chẳng ra gì về mình cũng không sao nhưng nếu đã tự khinh thì không còn hỏa ngục nào khốn nạn hơn thế nữa. Suy nghiệm từ nhận định này, nếu ai đã dám tự đối diện để chấp nhận chính mình mới có thể chấp nhận những người khác. Những ai đã tự khinh bỉ đều nhận thấy mọi người chung quanh coi rẻ mình mà thôi. Và như vậy, con người của mình thế nào thì mình sẽ nghĩ cho người khác cũng như thế. Bất cứ những gì mình nghĩ về người khác đều biểu hiệu thực trạng tâm hồn của mình.
 
Đây là phần nào ý nghĩa của câu Phúc Âm, “Đừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán.” Nhìn thấy sự tốt lành thánh thiện nơi người khác tất nhiên mình đã thánh thiện. Nhìn thấy những sự sai lầm nơi người khác, nếu mình không lầm lỗi sao có thể biết đó là điều lỗi lầm. Tóm lại, yêu mến kẻ thù nghịch có nghĩa hãy tự nhận biết chính mình. Amen.
 
 
 CHỦ NHẬT 8C 2001 (Lc. 6: 39-45)
 
Bài Phúc Âm hôm nay bao gồm khá nhiều vấn đề cần được để ý. Điểm thứ nhất đó là môn đệ và thầy dạy. Dĩ nhiên trong khi đang còn học hỏi, nếu môn đệ bằng thầy dạy hoặc hơn thì đã không cần thầy. Thêm vào đó, nếu vị thầy dạy đã mù tối thì cả thầy lẫn trò được Phúc Âm gọi là “Cả hai sẽ sa xuống hố” nơi lãnh vực nhận thức, chẳng khác gì hai người mù không thể dẫn dắt nhau vì đã không thể định hướng và cũng không biết đâu là đường lối di chuyển.
 
Xét theo khía cạnh tâm linh, mù tối có nghĩa thiếu nghiệm chứng, không để tâm nhận thức về Tin Mừng Nước Trời. Tất cả những gì chúng ta học theo và lặp lại những ý niệm về Thiên Chúa, Nước Trời, v.v… chỉ là lý thuyết, hoặc kiến thức, được tạm gọi là biết mà thôi. Những sự hiểu biết này không đem lại lợi ích gì cho phần rỗi hoặc hành trình đức tin hay hành trình nhận thức Tin Mừng. Những kiến thức, những sự giải thích về Chúa, về phép bí tích v.v… chẳng khác gì sự giải thích về nước uống, không thể giúp ích được bất cứ ai.
 
Bởi vậy, là người Công Giáo, sự nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời, sự suy tư những lời nghịch thường nơi Phúc Âm, sự để tâm nhận thức về những câu nói nơi Kinh Thánh chẳng khác gì hành động uống nước. Lẽ tất nhiên, nước nóng lạnh, ngon ngọt ra sao người uống tự biết, không thể giải thích cho bất cứ ai. Như vậy, bất cứ ai không nghiệm chứng Kinh Thánh, không để tâm nhận thức Tin Mừng Nước Trời đều được gọi là những người mù tối về phương diện tâm linh. Do đó, nếu đã không suy nghiệm Kinh Thánh, đã mù tối, thì có dẫn dắt ai cũng chỉ có thể giúp họ sa xuống hố mà thôi.
 
Xét thế, học trò của những kẻ mù tối dẫu hơn thầy, bằng thầy, hay kém thầy thì cũng chỉ cùng thầy cứ hố mà sa. Tuy nhiên, đọc nơi Kinh Thánh và nhất là bốn Phúc Âm, chúng ta sẽ gặp phải những câu nói hoặc câu truyện được gọi là dụ ngôn mang đầy tính chất nghịch thường nếu xét theo ý nghĩa từ chương hoặc luân lý và kiến thức thế tục. Những câu nói, câu truyện này đòi hỏi sự để tâm nghiệm chứng mới có thể nhận thức được ý nghĩa thâm trầm soi sáng và dẫn dắt tới sự nhận thức Tin Mừng Nước Trời. Ai đã để ý suy tư về Kinh Thánh sẽ nhận thực được ý nghĩa tại sao Phúc Âm Gioan đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa ra đui mù” (Gn. 9:39).
 
Vấn đề thứ hai đó là cái đà nơi mắt mình và cái rác nơi mắt kẻ khác. Phúc Âm khuyên nhủ, “Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.” Tự nghiệm chứng về bản thân, bất cứ ai trong chúng ta cũng không khác gì những phe cánh hoặc những vị được chọn để ứng cử tổng thống; vì chúng ta thừa khả năng cho rằng mình nhìn rõ ràng và thích bới móc chiếc rơm hay cọng rác nơi mắt mọi người chung quanh. Các ứng viên tổng thống chỉ bới móc phe đối nghịch trong khi chúng ta thích thú, thêm phần hãnh diện bới móc mọi người và biến họ thành những phe đối nghịch. Và giả sử ai đó bị chúng ta xía tới đã âm thầm nín nhịn hoặc coi chúng ta như những tên cùi hủi không nên đếm xỉa tới thì chúng ta lồng lộn, tức tối cho rằng mình đã bị coi thường, và thế rồi càng ngày càng trở nên cay cú đối với người đó.
 
Chúng ta đã không dám nhìn nhận chiếc đà nơi con mắt mình, sự thể được Phúc Âm gọi là giả hình. Dẫu lời Phúc Âm có phần nào không hợp với thực tế khi cho rằng, “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu,” tuy nhiên, đây chỉ là sự ám định gợi ý để nhấn mạnh điểm then chốt về thực thể tâm ý liên hệ tới cung cách cũng như thái độ của một người vì đầy trong lòng mới tràn ra bên ngoài. Lời Phúc Âm giải thích rõ ràng, “Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành nên phát xuất sự thiện, và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác.” Suy như vậy, sự xét đoán của mình về người khác thế nào thì chính mình như thế ấy. Những người chê bai, moi móc kẻ khác là những người đang chứng minh chính họ như vậy.
 
Khổ nỗi, xưa nay chúng ta đã được dạy dỗ về quá nhiều điều tốt lành cao vời đến độ không ai thực hiện nổi do đó phát sinh mặc cảm tự ty, tội lỗi, không nhận ra sự thánh thiện nơi mình. Bởi đó, chỉ còn cách kiếm đủ mọi lý lẽ, nhận định để chứng minh người khác không ra gì hầu có cảm tưởng mình tốt lành. Phỏng cái đà trong con mắt chúng ta lại chính là kết quả học hỏi với những vị thầy mù tối hay chăng? Vẫn biết rằng, nếu đã ở tận đáy vực thẳm thì chẳng có gì phải sợ hãi lo lắng sẽ rơi xuống hố.
 
Từ lý luận này, quý ông bà anh chị em nên để ý, bởi không còn nơi nào, lối nào đi xuống, chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất là đi lên ngoại trừ những ai e sợ trèo cao té đau. Tuy nhiên, trong hành trình tâm linh, không có nơi nào cao hơn vực thẳm nơi chính mình. Chúng ta cần đào bới tận đáy tâm hồn để kiếm căn nguyên đã tạo nên cái đà nơi con mắt. Kinh nghiệm thực tế cũng như tâm linh cho chúng ta biết, càng đào sâu thì càng không sợ té vì chẳng lẽ có ai đó té ngược lên trời? Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự thánh thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa chính là sự thánh thiện. Thiên Chúa chia sẻ sự thánh thiện của Ngài nơi tạo vật. Căn nguyên sự hiện hữu của chúng ta phát xuất từ sự thánh thiện này. Chúng ta được sinh ra từ cội nguồn thánh thiện là chính Thiên Chúa. Đào bới nơi nội tâm, càng sâu bao nhiêu, Thiên Chúa càng hiển hiện rõ cho chúng ta nhận biết bấy nhiêu.
 
Bởi vậy, những kẻ mù tối là những ai không biết mình thế nào, không dám đào bới nơi tâm hồn mình mà chỉ lo xóc mách người khác để che đậy, để nhận chìm chính mình. Thế nên, bất cứ ai đào bới, nghiệm chứng nơi tâm hồn mình thì sự thánh thiện của Chúa sẽ phát ra ngoài miệng. Những ai che đậy, miệng họ sẽ phát xuất điều ác. Amen.
 
 
 CHỦ NHẬT 8C 2021 (Lc. 6:39-45)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Luca.
 
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đồ không trọng hơn thầy; nếu môn đệ được giống như thầy thì kể là hoàn hảo rồi. Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em, này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi
Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây; người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện, vì kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác nên phát xuất điều ác; và lòng đầy, thì miệng mới nói ra."
 
 
Thoạt vừa mới nghe hoặc đọc bài phúc âm vừa được công bố, ai cũng đều cảm thấy bài phúc âm nói lên thực trạng con người nơi những trường hợp nào đó chẳng khác gì những câu tục ngữ ca dao nơi kho tàng văn hóa thi ca bình dân của tiền nhân người Việt. Nếu để ‎ý, chúng ta sẽ thấy những gì được phúc âm nhắc đến đều thuộc về thành phần tâm ý, tâm tư, tính chất, thực trạng con người trong khi thi ca bình dân người Việt chỉ nói lên tính chất khách quan của sự thể hữu vi nơi cuộc sống; chẳng hạn, "Cha nào con nấy, đời cha ăn mặn, đời con khát nước, hay làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng," hoặc, "Cây khô tưới nước cũng khô, vận nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo," hay tệ hơn nữa, "Gánh cực mà đổ lên non, còng lưng mà chạy cực còn theo sau."
 
Đọc nơi Kinh Thánh, chúng ta thấy khá nhiều điều khôn ngoan được ghi chép lại nhưng nếu để ý so sánh, lời phúc âm thâm trầm và sâu sắc nếu không trầm tư suy nghĩ, nghiệm xét, quả rất khó cho một người nhận thức được sự khôn ngoan của Lời Chúa muốn nhắn nhủ đến bất cứ ai. Thử nêu lên trường hợp nơi câu, "Ai có tai thì nghe,” hoặc “Ai có tai để nghe thì nghe." Lời phúc âm chẳng những nói một lần nhưng những tám lần nơi ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca, ba phúc âm này thường được gọi là phúc âm nhất lãm vì có nội dung tương tự giống nhau. Bình thường, mới thoạt đọc hoặc nghe câu, "Ai có tai thì nghe," ai cũng thế, cho dù mấy nhà biên khảo hoặc chuyên viên Kinh Thánh cũng đều ngớ người và cho rằng phúc âm nói chơi chơi, diễu cợt, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn đối với những người tin theo.
 
Thử hỏi, ai là người không có tai và tai thì dùng để nghe chứ chẳng lẽ được dùng để trang trí cho có vẻ giống người. Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề, cái tai có thể tự nó nghe được không thì sự việc hoạt động của cái tai trở nên vấn nạn thách đố bất cứ ai cần phải chìm sâu tâm tưởng để suy tư hầu giải quyết thách đố nơi câu nói tầm thường đơn giản đó. Có điều lạ, chúng ta không thể thấy bất cứ sách vở của bất cứ nhà khôn ngoan, hiền triết nào chứa đựng câu nói ngớ ngẩn như thế nơi cõi loài người.
 
Đa số, ai trong chúng ta cũng một đôi lần tham dự hoặc nghe thấy hay đối diện sự thể người chết mà chúng ta thường gọi là đám ma. Ai cũng đều nhận biết, khi linh hồn ra khỏi xác thì được gọi là xác chết và tất cả ngũ quan, tri giác của người chết đều đóng lại; mắt không thể nhìn, miệng không thể nói, tai không thể nghe, và bộ óc hết hoạt động. Ai cũng kinh nghiệm và thực chứng nơi đời mình, nơi thân xác mình và đó là mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Thế nhưng khi hồn thoát ra khỏi xác, óc không còn suy nghĩ được bất cứ gì, tai hết nghe, miệng hết nói. Sự thể này chứng tó thân xác, ngũ quan, tri giác một người, ngay cả cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho linh hồn của người đó hoạt động.
 
Bởi vậy, câu nói đơn sơ, nghịch thường nơi phúc âm, "Ai có tai thì nghe" thách đố bất cứ ai đặt vấn đề để nhận thức cái gì dùng tai của mình để nghe, dùng mắt của mình để nhìn, dùng miệng của mình để nói, và dùng óc của mình để suy nghĩ. Câu nói ngờ nghệch khiến chúng ta coi thường còn khơi động sự thách đố mỗi người đặt vấn đề về sự hiện hữu của mình, sự liên hệ giữa hồn và xác, sự nhận biết linh hồn của mình thế nào, làm sao hay cách nào chứng minh hay nhận biết linh hồn đồng thời dẫn đến suy tư, tìm hiểu sự liên hệ của Thiên Chúa đối với linh hồn của mình, với cuộc sống nơi dương thế của mọi người.
 
Thiển nghĩ, mới thử nêu lên một đôi nhận xét câu nói đơn giản thường bị coi ngờ nghệch, chúng ta đã thấy Lời Chúa khuyến khích chúng ta đặt lại mọi vấn đề về thực thể nhân sinh của mình. Sự thể của việc tìm hiểu để nhận thức về chính mình, chúng ta sẽ nhận ra, tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, tham vọng, quan điểm của một người đều phát xuất tự linh hồn và thân xác hay tất cả những gì thuộc về thân xác chỉ là phương tiện cho hồn của mình hoạt động. Bởi đó, lời phúc âm nói lên thực trạng tâm hồn, thực trạng của linh hồn một người đồng thời nhắc nhở chúng ta, muốn nhận biết, nhận thức phúc âm, phải đi con đường hẹp, con đường nhận biết chính mình. Sự khôn ngoan nơi thi ca bình dân chỉ nói lên được, "Cha nào con nấy" hoặc "Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng;" những sự thể ngoại lai ảnh hưởng con người của chúng ta. Phúc âm nói thẳng tâm hồn chúng ta, "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây."
 
Thử xét thêm trường hợp khác. Ai cũng nhận thấy, nơi Cựu Ước, nơi cuốn Cách Ngôn thường được coi là những lời khôn ngoan do vua Salomon để lại và ngay nơi Kinh Thánh cũng minh định vì Salomon không xin tiền tài, danh vọng, và quyền năng thế tục nên Chúa ban cho ông sự khôn ngoan mà dẫu người của những thế hệ trước ông hoặc sau ông không ai sánh bằng. Đọc nơi Cách Ngôn, chúng ta thấy có ba câu, "Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói." Câu thứ hai, "Đừng đàm luận với kẻ ngu xuẩn, kẻo cả con nữa, con cũng sẽ trở nên giống nó." Và câu thứ ba, "Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, kẻ ngu xuẩn sẽ trở về với sự điên rồ của nó." Ba câu này thật là tuyệt vời, khuyên con người đừng dây dưa, liên hệ với những ai không chịu suy tư để thực sự nhận biết chính mình thế nào, thực sự ra sao. Tuy nhiên, đừng vội nhận định, thử nghe một câu nơi phúc âm, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi." Nếu đem ráp cả ba câu khôn ngoan nơi Cách Ngôn làm một cũng không thể nào so sánh với câu phúc âm.
 
Lời Chúa qua bài phúc âm vừa được công bố nói với chúng ta,  "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Nếu tâm hồn mình ngu muội do không chịu suy tư, nghiệm xét lời phúc âm thì con người của mình, cả linh hồn và xác không phương nhận biết ơn cứu độ, không phương nhận biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng. "Môn đồ không trọng hơn thầy; nếu môn đệ được giống như thầy thì kể là hoàn hảo rồi." Lời Chúa, lời phúc âm dẫn đường chỉ lối cho con người nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết thực thể hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Một sự thể tối cao, tối quan trọng chính là hiện thể của Chúa nơi mình mà chúng ta chưa để tâm suy nghiệm để nhận thức. Đâu phải phi lý mà phúc âm khuyến khích, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và các sự khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33).
 
Nước Thiên Chúa là chính Ngài vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Nước Thiên Chúa hay Nước Trời không đến một cách nhãn tiền và người ta không thể nói này ở đây hay ở đó vì Nước Trời ở giữa các ông, ở trên các ông và ở trong các ông. Nước Thiên Chúa hay chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người dù người đó nhận biết hay không. Thiên Chúa là sự sống nơi mình, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mình.
 
Bởi vậy, phúc âm nói, "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây; người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện, vì kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác nên phát xuất điều ác; và lòng đầy, thì miệng mới nói ra." Linh hồn mình ngay thẳng, công chính, luôn suy tư nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi mình thì tất cả sẽ trở nên công chính từ lời ăn tiếng nói, suy tư, đến hành động. Mình nhận thực ra không có gì mà mình làm cả mà chính Chúa đang thực hiện công việc của Ngài, mình chỉ là phương tiện. Bởi vậy, dẫu muốn phạm tội cũng không thể vì có mình đâu mà phạm.
 
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta để tâm suy tư, suy nghiệm, suy nghĩ về thực thể con người của chính mình, linh hồn mình thế nào, ra sao, liên hệ với Thiên Chúa như thế nào. Chính sự nhận biết, nhận thức này sẽ hướng dẫn cuộc đời mình trên hành trình đức tin, hành trình nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Amen. 
 
 
 Thứ Tư Lễ Tro C (Mt. 6:1-6, 16-18)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Matthêô
 
Khi ấy, Chúa Giê su phán với các môn đệ rằng"
1 Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các người mất công nơi Cha các ngươi, Ðấng ngự trên trời. 2 Vậy khi ngươi bố thí, thì chớ thổi loa trước mặt, như bọn giả hình làm nơi hội đường và phố xá, hầu được vinh nơi người đời. Quả thật, Ta bảo các ngươi: họ đã lĩnh đứt công lênh họ rồi. 3 Còn ngươi bố thí, thì tay trái đừng biết điều tay phải làm, 4 hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Ðấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi.
5 Và khi các ngươi cầu nguyện thì chớ làm như bọn giả hình; chúng ưa đứng cầu nguyện trong hội đường và các ngả đàng, hầu được bày ra cho người ta thấy. Quả thật, Ta bảo các ngươi, chúng đã lĩnh đứt công rồi. 6 Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Ðấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi.
16 Khi các người ăn chay thì chớ sầm mặt lại như bọn giả hình: chúng làm mặt mày mất dạng, để ra dáng ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các ngươi, chúng đã lĩnh đứt công chúng rồi. 17 Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa, 18 hầu đừng lộ ra là ăn chay trước mặt người ta, nhưng trước mặt Cha ngươi, có mặt cả nơi kính ẩn, và Cha ngươi, Ðấng thấu suốt cả nơi kín ẩn, sẽ hoàn trảlại cho ngươi.
 
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay, lễ tro, thời điểm bắt đầu vào mùa chay, mùa chuẩn bị tâm hồn cùng với Chúa Giêsu nơi đoạn đường khổ nạn của Ngài. Lời Chúa đặc biệt khuyến khích chúng ta để tâm, chú ý về thực trạng tâm hồn của mình vì có đầy trong lòng mới tràn ra bên ngoài chứ không phải giả hình hoặc chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài.
 
Chúng ta nghe lại lời phúc âm, "Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các người mất công nơi Cha các ngươi, Ðấng ngự trên trời."  "Còn ngươi bố thí, thì tay trái đừng biết điều tay phải làm,  hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Ðấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươ." " Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Ðấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi."  "Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa, 18 hầu đừng lộ ra là ăn chay trước mặt người ta, nhưng trước mặt Cha ngươi, có mặt cả nơi kính ẩn, và Cha ngươi, Ðấng thấu suốt cả nơi kín ẩn, sẽ hoàn trảlại cho ngươi."  
 
Qua những lời khuyên của phúc âm, chúng ta nhận biết, những hoạt động phát xuất từ tâm ‎ý mới tạo nên giá trị đích thực của hành đoọng; đồng thời lời Chúa cũng nói lên vị thế ắt có của tâm hồn một người đối với sinh hoạt nhân sinh. Điều quan trọng nhất được phúc âm nhắc nhở, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và các sự khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33). Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, và người ta không thể nói được này ở đây hay ở đó; vì này Nước Thiên Chúa ở giữa các ông, ở trong các ông, và ở trên các ông." Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mọi người chính là Tin Mừng đức Giêsu rao giảng, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel."
 
Thế nên, tất cả mọi hành vi, ý định, ‎ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, tham vọng đều phát xuất từ tâm hồn một người và chính tâm hồn một người cũng là thước đo giá trị công nghiệp mà người ấy tạo thành. Chạy theo ước muốn thế tục hữu vi của đời này, rồi cuộc đời cũng sẽ qua đi, vinh quang, tăm tiếng, quyền thế rồi cũng trôi theo như bao người đã ra đi trước chúng ta. Tất nhiên, như lời phúc âm dạy, "Những gì các ngươi cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc; những gì các ngươi tháo cởi dưới đất thì trên trời cũng tháo cởi." Những ước mơ, tham vọng phát xuất tự linh hồn nên khi xác thân qua đi, linh hồn một người tiếp tục theo đuổi ước muốn, ước mơ, tham vọng này. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta nên để tâm nhận định về tâm tư, ước muốn, ý định của mình trong mùa chay để chuẩn bị tâm hồn cùng đồng hành với Chúa Giêsu nơi hành trình khổ nạn của Ngài.
 
Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà anh chị em.
 
 
 CHỦ NHẬT IC MÙA CHAY 2001 (Lc. 4:1-13)
 
Bài Phúc Âm nói rõ cho chúng ta biết Đức Giêsu được đầy Thánh Thần và được đưa vào hoang địa chay tịnh để rồi chịu ma quỷ cám dỗ. Sự cám dỗ gồm có ba phần rõ rệt, nhu cầu thiết yếu cho sự sống phần xác đó là thực phẩm, tiếp theo đó, quyền hành, vinh quang thế tục, và niềm tin vào Thiên Chúa. Tôi trộm nghĩ, ai trong chúng ta cũng thế, khi cơn đói đã đến độ cực điểm, mọi người đều thực hiện bất cứ gì để dằn bụng cấp thời. Quyền hành, giàu có là điều không ai trong chúng ta không mong ước dầu chỉ một trong hai bởi có quyền hành tất nhiên không thiếu cách làm tiền, hoặc có tiền, chúng ta sẽ có thể thỏa mãn khá nhiều những ước mơ. Thế nên nào lạ gì dân gian có câu, “Có tiền mua tiên cũng được” phương chi cuộc sống thoải mái tốt lành.
 
Kinh nghiệm sống minh chứng, nghèo là một cái tội; chẳng những thế, sự nghèo khổ sinh ra lắm thứ tội lỗi; không thế mà dân gian có câu, “Bần cùng sinh đạo tặc” mà chúng ta đôi khi được nghe ai đó nhắc nhở. Điều ít ai để ý đó là những thử thách về niềm tin. Có bệnh phải vái tứ phương, thế nên, vì lòng khao khát nhận biết điểm đích cuối cùng của con người đã bị những nhu cầu cuộc sống che lấp cộng thêm tính chất ngại ngùng vượt thắng những khó khăn để tìm hiểu đã tạo nên nơi lòng trí mỗi người nỗi lo âu bất tận. Hơn nữa, kinh nghiệm sống minh chứng, con người luôn luôn lầm lẫn do đó có thể nói hầu hết lòng tin hay đức tin theo nhận thức bình thường của mỗi người chỉ là tổng số những nghi ngờ vô hạn định. Chẳng thế mà chúng ta đã quá quen với cảm nghĩ, cầu nguyện với Chúa thì cứ cầu nhưng Chúa ban cho hay không thì nào ai mà biết.
 
Tự kiểm điểm nơi lòng mình, có thể nói, giá trị đức tin của chúng ta mang đầy tính chất hy vọng đến độ mơ hồ. Đây là lý do tại sao cứ mỗi lần đọc Kinh Thánh tới câu, “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt. 7:7) chúng ta đều cảm thấy ngại ngùng không dám dù chỉ bỏ ra đôi phút suy nghiệm. Tự xét nơi thực tại lòng mình, tất cả mọi cơn thử thách đều là ước muốn, ước mơ của con người mà thôi.
 
Chúng ta tin chắc rằng Đức Giêsu là chính Thiên Chúa nhập thể làm người thì ma quỷ nào có khả năng để thử thách Ngài. Đặt vấn đề như vậy, những sự thử thách thế tục đến với Đức Giêsu nếu có lại chính là ước muốn thế tục nơi thân phận kiếp người ở Ngài như nơi mọi người chúng ta. Kinh nghiệm nhận thức cũng cho chúng ta biết, ma quỷ hay kẻ thù kinh khủng nhất của mỗi người chúng ta lại là chính mình, là những mơ ước, khát vọng nơi mình.
 
Như vậy, bài Phúc Âm viết về sự cám dỗ, thử thách nơi cuộc đời Đức Giêsu chính là những sự thử thách, cám dỗ ngay nơi ước muốn, ước mơ, tham vọng của mỗi người chúng ta. Những ước muốn, ước mơ, tham vọng này bắt nguồn từ những nhu cầu thiết yếu nơi cuộc đời. Lẽ tất nhiên, chúng ta được sinh ra với những bộ phận lòng ruột, chúng ta phải ăn, phải uống, và vì chúng ta có khứu giác, vị giác, muốn được ăn ngon, uống thứ mình thích chẳng những là lẽ thường mà lại nên có và cần có.
 
Từ những kinh nghiệm khốn khó không biết xoay xở, nhờ cậy nơi đâu, chúng ta cần biết ăn chắt để dành. Tuy nhiên, nếu đã không thể kiếm được những nhu cầu cho cuộc sống, dù cố gắng ăn chắt để dành thì cũng không có gì mà để dành. Bởi vậy, đã có người suy luận và đề nghị cầu xin cùng Chúa, “Xin cho chúng con kiếm được nhiều hơn dùng đủ” bởi nếu chỉ dùng đủ thì khi khốn cùng biết chạy nơi nao! Và thế là quyền hành cũng như của cải trở thành mục đích hiện thực không lớn thì nhỏ trong tầm tay ai cũng có mơ ước đạt tới.
 
Bất cứ ai để tâm nhận định sẽ nhận thấy những mơ ước mang quyền năng và áp lực tuyệt đối nơi con người. Mơ ước tự nó đã mang quyền lực hiện hữu lại được kinh nghiệm cuộc sống phù trợ, dù tốt lành hay chẳng nên, mơ ước đã biến con người thành nô lệ cho chính mơ ước của mình. Những ước mơ, ham muốn, tham vọng dù tốt lành hay xấu xa cũng đều mang năng lực ảnh hưởng mạnh mẽ nơi con người mà chúng ta thường gọi là những sự cám dỗ.
 
Thử hỏi chúng ta đã cảm thấy thế nào qua bao lần đọc hoặc nghe câu Phúc Âm, “Vì thế Ta bảo các ngươi: chớ lo cho mạng sống mình, các ngươi ăn gì, hay về thân xác, các ngươi mặc gì. Há mạng sông không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy coi chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho lẫm, và Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nắng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao!” (Mt. 6:25-26).
 
Tuy nhiên đối với cuộc sống, mỗi người chúng ta thực sự cảm nghiệm thế nào? “Không làm thì đói, mà làm thì ói xương hom.” Đàng khác nếu có ai dám cả gan sống theo lời Phúc Âm, chúng ta lại cho rằng lười biếng hoặc dùng ngôn từ “oại du thủ du thực” không thanh nhã gì để chỉ về những người ấy. Dĩ nhiên nơi thân phận con người chúng ta bị điều kiện vật chất của cuộc sống ảnh hưởng mạnh mẽ đến độ khá nhiều triết gia, thần học gia, và những nhà tư tưởng đã chỉ luẩn quẩn nơi giới hạn nhân sinh để kiếm tìm câu giải đáp cho mục đích của cuộc sống và đã chẳng bao giờ vượt thoát khỏi nhận thức hữu vi thế tục vây bọc.
 
Cũng chỉ vì không bao giờ để ý đặt vấn đề nhận thức về thực tại hiện hữu nơi chính mình, cũng chỉ vì cho rằng những gì khoa học không chứng minh được là không phải sự thực, họ đã tự khuôn mẫu hóa giới hạn suy tư. Cũng chỉ vì nghĩ rằng tâm tư một người bắt nguồn từ thực thể vật chất cấu tạo nên con người nên họ đã không nhận ra được con người còn có thực thể siêu việt đang ngự trị. Thực thể siêu việt này hiện thân qua và quấn quyện với ý nghĩ, ước muốn, ý định, tham vọng, niềm mơ nơi mỗi cá nhân mọi thời. Đây chính là điểm căn bản cho mọi thành quả con người có thể đạt tới.
 
Nói cách khác, ước muốn, ý định của một người mang quyền lực lớn lao chi phối mọi sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của họ. Tóm lại, bài Phúc Âm khuyến khích chúng ta để tâm nhận định về tâm hồn của mình, nhận thực con người mình thế nào, mình có những ước mơ gì nơi cuộc đời, mục đích cuộc đời của mình là gì, và mình nên sống thế nào. Nếu chúng ta thực sự muốn biết mình ra sao, hãy tự nhận biết mình đang thực sự muốn gì. Quý ông bà anh chị em làm ơn để ý lời khuyên nơi Phúc Âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và những sự khác sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:33). Lời Phúc Âm đã hai ngàn năm nhắc nhở, nhưng cho tới thời đại này, Nước Thiên Chúa vẫn còn như mơ hồ thì sao con người dám đặt vấn đề tìm kiếm. Amen
 
 
 CHỦ NHẬT 2C MÙA CHAY (Lc. 9:28b-36)
 
Bài Phúc Âm hôm nay thường được mệnh danh là Chúa Giêsu biến hình, nhưng câu quan trọng nhất như Phúc Âm được chép lại là câu phán bảo từ trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Dĩ nhiên, mọi người đều hiểu rõ ràng câu này muốn nhắc nhở chúng ta vâng phục và thực hành những lời dạy dỗ của Đức Giêsu. Tuy nhiên, vấn nạn được nêu lên, Đức Giêsu đã dạy những gì và chúng ta kiếm lời dạy dỗ của Ngài ở đâu?
 
Xin thưa, chúng ta chỉ có thể tìm thấy lời dạy dỗ của Đức Giêsu nơi bốn Phúc Âm mà thôi, không còn nơi nào khác. Bất cứ ai để tâm đọc Kinh Thánh cũng đều biết mục đích cuộc đời và những công việc Đức Giêsu thực hiện chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đã được chép nơi Phúc Âm Luca khi một số dân chúng muốn Ngài ở lại với họ và Ngài đã trả lời, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43).
 
Vậy Tin Mừng Nước Thiên Chúa là gì? Làm sao có thể nhận biết và phương pháp nào để thực hiện trong cuộc đời mỗi người? Muốn biết Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chúng ta cần biết Nước Thiên Chúa là gì. Muốn biết Nước Thiên Chúa, chúng ta cần biết Thiên Chúa thế nào. Muốn biết Thiên Chúa, Đấng vô hình không ai có thể dò thấu, chúng ta cần nhận biết tạo vật, vũ trụ, và những công việc Ngài đã thực hiện. Muốn biết vũ trụ là những gì bên ngoài con người, chúng ta cần nhận biết chính mình.
 
Bởi vậy điểm bước đầu tiên phải là sự suy gẫm về chính con người của mình, cần biết mình mơ ước gì, mình thế nào, và thực thể hiện hữu của mình ra sao. Phúc Âm ghi lại những lời dạy dỗ của Đức Giêsu; vậy Phúc Âm viết về những điều gì? Nếu ai để ý nhận định, Phúc Âm nêu lên điều kiện cần thiết nơi tâm trí của một người hầu có thể suy nghiệm về Lời Chúa. Ai muốn suy nghiệm Phúc Âm, cần phải vứt bỏ quá khứ, vứt bỏ tất cả những gì được gọi là kiến thức, những gì mình đã học hỏi nơi bất cứ ai và mở rộng tâm trí để nghiệm chứng. Phúc Âm nói về điểm này qua những câu, “Người ta không lấy vải mới vá áo cũ, không lấy rượu mới đổ bì cũ. Kẻ nào tra tay cầm cày mà ngó lui sau thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa. Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ” (Mt. 6:24; Lc. 16:13).”Những sự hiểu biết hoặc kiến thức chúng ta nghe từ người khác cũng giống như bì cũ, áo cũ, những gì đã chết theo quá khứ không thể áp dụng để am hiểu Phúc Âm.
 
Bất cứ ai còn bám víu nơi mớ kiến thức thế tục sẽ không cách nào nghiệm chứng Phúc Âm. Như vậy, những ai còn lệ thuộc nơi mớ kiến thức thế tục thì cũng chẳng khác gì năm cô phù dâu khờ dại, chỉ nghe sao biết vậy hoặc cũng chỉ như người tôi tớ được trao cho một nén bạc và đem chôn vùi, tất cả đều bị kết án là sẽ chẳng thể nào vào được Nước Thiên Chúa. Phúc Âm còn nêu rõ, nếu tay, chân, hoặc mắt làm cớ vấp phạm, hãy cắt bỏ hoặc móc mắt vất đi. Điều này có nghĩa, bất cứ gì ngăn cản hành trình đức tin, hành trình nhận biết Tin Mừng Nước Trời, chúng ta cần phải dứt khoát.
 
Chúng ta được sinh ra tự mang nỗi khát khao nhận biết Thiên Chúa. Lẽ đương nhiên, do sự khát khao này, chúng ta thường tự mường tưởng về một Thiên Chúa theo quan niệm thế tục của con người. Thế rồi chúng ta đem Đức Giêsu gán ép vào Thiên Chúa của chúng ta mà không cần biết Đức Giêsu đã nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa ra sao. Đức Giêsu trình bày một Thiên Chúa không thiên vị, mà đối xử đồng đều với mọi người, “Hãy trở nên thiện toàn như Cha các ngươi trên trời là Đấng thiện toàn; vì Ngài cho mặt trời soi sáng trên kẻ dữ cũng như người lành và làm mưa trên kẻ ngay cũng như người ác.” Phúc Âm dạy chúng ta Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người, “Vậy khi cầu nguyện, các ngươi hãy trở về nội tâm mà cầu cùng Cha ngươi Đấng thấu suốt lòng ruột mà ban cho những gì ngươi khẩn nguyện.” Phúc Âm còn nói rõ hơn nơi Mátthêu đoạn 10, câu 19, “Khi người ta nộp các ngươi thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao hay nói gì, vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi.” Thần Khí của Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Thần Khí nói trong chúng ta, Thiên Chúa ngự trị nơi chúng ta.
 
Qua Phúc Âm Đức Giêsu công bố rõ ràng, Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, không ai nói được này ở đây hay ở đó vì Nước Thiên Chúa ở giữa và ở trong chúng ta. Và Ngài cũng nhắn nhủ chúng ta công việc quan yếu nhất của đời người đó là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời và mọi sự khác sẽ được ban cho” (Mt. 6:33). Vì Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài mọi vật, Thiên Chúa hiện diện nơi mọi người, mọi sự. Thế nên, Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Và bởi đó, Tin Mừng Nước Trời chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt. 1:23). Đức Giêsu cũng căn dặn chúng ta, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Bất cứ ai đã nghiệm chứng được Tin Mừng Nước Trời, hãy biết khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim câu, chẳng may lỡ miệng nói cho người khác hiểu nhưng họ không muốn hiểu thì cũng đừng nói thêm kẻo bị họ lên án, chụp mũ là rối đạo hoặc sẽ cho rằng mình chẳng ra gì.
 
Đàng khác, Đức Giêsu lên án nặng nề những kẻ rao giảng Phúc Âm theo quan niệm thế tục vì đã vô tình bịt tâm trí người khác, không để họ nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời, “Khốn cho các ngươi, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13). Một điều chúng ta nên để tâm suy nghiệm. Nơi Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu nói, “Khi Ta còn ở thế gian, ta là sự sáng thế gian” (Gn. 8:12; 9:5). Nơi Phúc Âm Mátthêu, Ngài minh định, “Các ngươi là ánh sáng cho thế gian” (Mt. 5:14). Mỗi người chúng ta mang sứ mệnh như Đức Giêsu và đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Khổ nỗi, từ ngày Đức Giêsu rao giảng, đã hai ngàn năm chìm vào quá khứ, Tin Mừng Nước Trời vẫn còn mù mờ đối với dân Chúa thì sao có thể là ánh sáng cho thế gian! Amen.
 
 
CHỦ NHẬT 3C MÙA CHAY 2001 (Lc. 13:1-9)
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố bao gồm hai phần, mới thoạt nghe hay đọc tưởng chừng như chủ đích nói về sự ăn năn hối cải. Tuy nhiên, nếu để tâm nhận định, những sự thể được nhắc đến khuyến khích mọi người chúng ta nên đặt lại vấn đề nhận thức hầu giúp khả năng suy tư của chúng ta nơi hành trình đức tin nhận biết Tin Mừng Nước Trời.
 
Phần thứ nhất của bài Phúc Âm nêu lên nhận định về những cái chết bất thường của một số người dân xứ Galilê bị ngược đãi, bị giết, và bị lấy máu hòa lẫn với máu thú vật để cúng tế, cũng như 18 người bị tháp Si-lô-ê sập đổ và đè chết. Tuy Phúc Âm nhắc đến những sự thể này nhưng Kinh Thánh không có nơi nào nhắc đến chuyện Philatô đã làm như vậy và đồng thời cũng không có tháp nào được gọi là tháp Si-lô-ê ở Jerusalem.
 
Thử bình tâm đôi phút nhớ lại về nhận định thường tình của mỗi người nói riêng và của đa số quần chúng nói chung, chúng ta đã quá quen thuộc với những suy tư nhân quả. Chẳng hạn, “Ở hiền gặp lành, “Gieo gió gặt bão,”“Trồng cây dâu ăn trái dâu” để khuyến khích con người sống hiền lành ngay thẳng. Qua Ca Dao, người xưa cho rằng cuộc sống của một người còn ảnh hưởng đến con cháu sau này vì “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước,” hoặc, “Ông cha kiếp trước khéo tu, nên sanh con cháu võng dù nghênh ngang.”
 
Có người suy gẫm về những diễn biến cuộc đời cho rằng có sự quả báo nhãn tiền để giải thích sự thể xảy đến cho ai đó nơi vài trường hợp. Đọc nơi Cựu Ước, chúng ta thường gặp quan niệm về một Thiên Chúa phù trợ kẻ có lòng ngay và tiêu diệt hay trừng phạt những ai chống lại Ngài hoặc đàn áp con dân của Ngài. Thế nên, bất cứ những sự gì có vẻ bất tường, nhất là những sự kiện e sợ xảy đến cho mình, chúng ta tự động gán ép hay mường tưởng về một nguyên nhân tương xứng đi kèm. Nơi hai trường hợp được nêu lên mà bình thường mọi người đều có ý nghĩ không hay về nguyên nhân luân lý hay đạo đức đã kiến tạo nên sự thể đáng ngại, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu giải thích, “Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi sẽ bị hủy diệt như vậy.”
 
Thực ra xét theo phương diện vật chất, bất cứ ai cho dù chết cách nào, thân xác chúng ta sau một thời gian sẽ trở thành bụi đất. Thế nên, thân xác ai rồi cuối cùng cũng bị hủy diệt như nhau. Bởi vậy, sự ăn năn hối cải được Phúc Âm nhắc tới tất nhiên chỉ về trạng thái tâm hồn con người. Mọi người chúng ta đều hiểu, ngôn từ “Ăn năn hối cải” được phiên dịch do động từ Hy Lạp “Metanoia” có nghĩa thay đổi chiều hướng suy tư, suy nghĩ khác thường. Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu trả lời khác thường đối với quan niệm nhận thức nhân sinh. Phúc Âm nhắc nhở chúng ta không nên nông nổi nhận định sự thể cuộc đời theo quan niệm hạn hẹp nhân sinh.
 
Trường hợp cây vả trồng nơi vườn nho cũng thế, mới thoạt nghe, quả là quá dễ hiểu, và ai cũng đều nghĩ rằng cây vả không sinh trái thì đáng bị chặt bỏ. Cây vả tiếng Mỹ gọi là “Fig tree” có trái như trái sung, khi chín ăn ngọt và thơm, đôi khi chúng ta thấy mọc bên đường. Tuy nhiên, quý ông bà anh chị em đã quá quen với kinh nghiệm trồng cây, cấy rau, đều hiểu và thuộc nằm lòng câu ngạn ngữ, “Cây chạm lá, cá chạm vi.” Cây vả bị trồng nơi vườn nho, bị bóng rợp của giàn nho che khuất ánh nắng thì sao có thể lớn và sinh trái. Xét như vậy, ông chủ đất ra lệnh chặt cây vả nhưng thực ra lên án người làm vườn vì đã không chịu suy nghĩ, nhận định nên trồng cây vả dưới bóng rợp của giàn nho.
 
Nếu nhận định thâm trầm hơn theo lối viết ám định nơi Thánh Kinh thường gọi dân Chúa là vườn nho và chính Ngài là chủ vườn, bài Phúc Âm lên tiếng răn đe những vị lãnh nhận trách nhiệm rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Dân Chúa nơi bài Phúc Âm được ví như cây vả và người làm vườn là bất cứ ai khoác lên mình sứ vụ tông đồ truyền giáo, rao giảng ơn cứu độ, rao giảng Nước Chúa, hy sinh cho Chúa, hy sinh cứu các linh hồn, linh mục, tu sĩ, bề trên, bề dưới, và cả bề ngang v.v… đủ mọi thứ bề, đủ mọi chức tước. Bất cứ ai được trao trách nhiệm hoặc tự nhận trách nhiệm trước dân Chúa mà không suy nghiệm Phúc Âm để học theo Đức Giêsu để công bố, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nhưng cổ võ cho những công chuyện nào đó, hoặc luân lý, hoặc phương diện thế tục khiến dân Chúa trở nên mù tối, không phát sinh hoa trái là sự thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình nghiệm chứng Nước Thiên Chúa, đều là những tên làm vườn đáng bị lên án.
 
Lời Chúa là Thần Khí, là chính quyền lực của Ngài. Đây là lý do tại sao gọi Đức Giêsu là Ngôi Lời. Thần Khí, Lời Chúa, Ngôi Lời, Tin Mừng không được tuyên xưng, tuyên dương mà cổ võ cho luân lý thế tục, cho quyền hành, danh vọng, chức nọ, tước kia, thì những người làm vườn đã lạm dụng dân Chúa như thế phỏng đáng bị kết án như thế nào. Suy như thế, bất cứ ai trong sứ vụ rao giảng Phúc Âm mà dùng bất cứ quyền lực hay phương tiện nào để tuyên truyền, cổ võ cho bất cứ gì không thuộc về Tin Mừng Nước Trời, hoặc rao giảng Phúc Âm theo nhận định thế tục chắc chắn đều bị lên án vì đã không giúp dân Chúa nhận biết và tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
 
Phúc Âm viết ông chủ vườn nho ra lệnh cho người làm vườn chặt cây vả không sinh hoa trái quả là thâm trầm, khôn ngoan, và quá tuyệt vời nơi lối văn chương diễn xuất. Chẳng lạ gì Phúc Âm đã cho rằng Đức Giêsu đến để khiến kẻ mù được sáng và người sáng suốt trở nên tối tăm (Gn. 9:39), đồng thời lên án, khốn cho những kẻ cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết (Lc. 11:52). Amen.
 
 
 CHỦ NHẬT 4C MÙA CHAY 2001 (Lc. 15:1-3; 11-32)
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố thường được chúng ta gọi là câu chuyện người con hoang đàng. Tuy nhiên, Phúc Âm gọi là dụ ngôn. Dụ ngôn là một câu chuyện đưa lên sự việc nào đó dùng để ám định về điều mình muốn nói. Chúng ta thường có thói quen nhận định sự việc hay sự kiện qua nhãn quan xác quyết, hạn hẹp.
 
Nếu ai để ý sẽ nhận ra, bất cứ sự việc, sự thể nào cũng tự nó chất chứa ít nhất hai bộ mặt đối nghịch tùy phương diện sử dụng. Thí dụ, cùng một ngọn lửa, nếu chúng ta dùng để đốt sáng, nấu nướng thì tốt lành và cần thiết, nhưng nếu chúng ta cho tay vào lửa thì lại là điều không nên. Bởi vậy, nhiều khi có những sự việc không thể giải thích cho những người cố chấp, một chiều, cho nên sự giải thích hay nhất là dùng dụ ngôn. Ngày xưa quý cụ hay dùng điển tích để trả lời ai đó xin ý kiến về việc gì thay vì nói nên thế nọ, thế kia bởi nếu nói rõ ý mình, nhiều khi mang tai họa. Dụ ngôn cũng còn được gọi là ngụ ngôn mang nghĩa câu chuyện ngắn răn đời hay châm biếm, chẳng hạn ngụ ngôn của La Fontain.
 
Xét thế, dụ ngôn nơi Phúc Âm không phải là một câu truyện có thật nhưng được kiến tạo để dùng với mục đích tỉnh thức người đọc nơi hành trình tâm linh, hành trình tìm kiếm Nước Trời. Chúng ta vì vô tình không để ý về cơ cấu được xếp đặt nơi bài Phúc Âm hôm nay mà thường tự đặt trọng tâm câu chuyện về sự lỗi lầm của người con hoang đàng, và lòng tha thứ của người cha, cùng lắm nếu ai đó cố ý đặt vấn đề thì cũng chỉ dám vạch thêm điểm bực tức của người con lớn tốt lành. Tựu chung, chúng ta quen thói chấp nhận mình tội lỗi nhiều khi cũng không biết mình có những tội gì.
 
Chúng ta đã được dạy dỗ quá cặn kẽ rằng mình được sinh ra trong tội, mẹ mình đã thụ thai mình trong tội lỗi như lời thánh vịnh 51, “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai trong bụng mẹ,” mà Công Giáo chúng ta gọi là tội tổ tông. Thế là chúng ta bỏ quên ngay lời giáo đầu của bài Phúc Âm, “Những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng.”
 
Soạn bài giảng đến đây tôi hiểu thêm được phần nào câu nói, chúng ta chỉ bị phiền hà vì những điều tốt lành mình đã thực hiện. Nhận được như vậy, tôi có cảm nghĩ kể cũng đáng tội cho Đức Giêsu. Suốt thời gian rao giảng đã cố nín nhịn và chấp nhận dân Chúa mà cuối cùng vẫn còn phải van xin, “Lạy Cha xin tha cho chúng vì lầm chẳng biết.” Chúng ta thường được nghe giảng dạy chúng ta là những người con hoang đàng nên phải ăn năn hối cải, phải làm điều lành này, điều phúc đức kia, phải muôn thứ mà thực ra dù cố gắng ép mình ép xác thực hiện, chúng ta cũng không thể nào hoàn thành được những lời khuyên tốt lành vô bổ ấy. Gia tài đâu cho chúng ta chia? Cơ hội nào để chúng ta hoang đàng?
 
Vậy thì lấy gì để hối cải, để xám hối, để ăn năn đánh tội. Chẳng lạ gì đã nhiều người thích xưng tội của kẻ khác để bào chữa cho mình. Thí dụ, thưa cha, con có la mắng cháu con vì chúng ăn nói hỗn láo. Cũng may cho các linh mục vì luật Giáo Hội cấm xưng tội người khác; nếu không, có lẽ các ngài không còn giờ mà thở. Người con hoang đàng nơi Phúc Âm đã không nhận biết niềm hạnh phúc của mình nhưng đứng núi nọ trông núi kia cao. Tuy nhiên, khi đối diện với cuộc đời trong lúc khốn cùng, anh ta biết tự đặt lại vấn đề; không đổ lỗi cho ai mà nhận định kiếm tìm phương cách giải quyết vấn đề.
 
Chúng ta thì khác, khi chuyện không hay xảy đến do chính mình tạo nên, chúng ta đổ tại Chúa phạt. Chúng ta cả gan dám gán ép cho Chúa đặc tính ác độc như thế. Cũng như chúng ta, người con hoang đàng muốn được làm nhân công, nhưng người cha đã không đếm xỉa gì về những lỗi lầm của anh ta mà chấp nhận không điều kiện. Phúc Âm dùng người cha để chỉ về Thiên Chúa rộng lượng và khoan dung dường ấy trong khi chúng ta quen thói quan niệm phải làm thế này, thế kia mới đẹp lòng Chúa, mới được ân nghĩa cùng Ngài, mới được Ngài ban cho ơn bình an, ơn giầu có, quả là lạ lùng!
 
Một người tội lỗi muốn trở thành tốt lành chỉ đừng thực hiện những điều chẳng nên mà thôi, không cần phải làm gì thêm. Tôi không hiểu Đức Giêsu nghĩ gì, nhưng quả thật, chúng ta quá phạm thượng vì đã đổ cho Chúa đầy dẫy những tính chất tham sân si thế tục! Chẳng những thế, chúng ta mang đầy thái độ giống người con lớn mà Phúc Âm ám chỉ về những người biệt phái. Người con lớn gây sự với người cha vì đã không trừng phạt, ngược lại đón nhận em mình trong khi chúng ta tìm đủ mọi cơ hội, dùng đủ mưu đồ nếu có thể để hãm hại những người không đồng quan điểm với mình. Không muốn tốn tiền để thuê người làm phiền kẻ khác, chúng ta dùng miệng lưỡi phát ngôn những chuyện bịa đặt với chủ đích xúi mọi người khinh bỉ kẻ mình không ưa vì đã không dám đối diện với lòng mình, không dám sống điều mình cho là đúng nhưng muốn được người khác nghĩ mình cũng là một thứ gì trong khi không biết điều mình nói sẽ mang lại những hậu quả nào.
 
Người con lớn gây sự với người cha vì không chấp nhận em mình thì đã tự lên án bởi sự thiếu nhận thức. Người cha nơi Phúc Âm trả lời, “Mọi sự của cha đều là của con,” thế mà anh ta đã không nhận biết. Cũng nơi Phúc Âm, Đức Giêsu dạy, đức tin con chữa con, đức tin con cứu con, đức tin con là ơn cứu độ của con, thế mà đã ai trong chúng ta dám thử cho là thật để rồi nếu cầu nguyện thì lại quen thói xin ơn này, xin ơn kia, phải thế này, phải thế kia, bắt Chúa phải theo ý mình.
 
Chuyện không xảy ra theo ý riêng thì dám cả gan phạm thượng cho rằng Chúa phạt. Giả sử nếu Chúa giống như những gì chúng ta nghĩ về Ngài, phỏng còn ai có thể ngồi ở nhà thờ lúc này được nữa. Đức Giêsu cũng đoan chắc nơi Phúc Âm, “Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt. 18:18). Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người chúng ta; xin quý ông bà anh chị em để ý đừng vì vô minh mà biến quyền lực của Ngài nơi mình thành án phạt chính bản thân. Khi còn sống, ý định, ước muốn của chúng ta thế nào thì sau khi chết, linh hồn chúng ta sẽ bị lệ thuộc vào những điều ấy. Amen.
 
 
 CHỦ NHẬT 5C MÙA CHAY 2001 (Gn. 8:1-11)
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố đại ý nói về sự thể một người đàn bà bị bắt quả tang về tội ngoại tình. Những vị luật sĩ và biệt phái dẫn người đàn bà đến nơi Đức Giêsu đang giảng dạy thử xem Ngài giải quyết cách nào với mục đích kiếm cớ buộc tội Ngài. Đọc Phúc Âm chúng ta biết rõ, những điều Đức Giêsu giảng dạy không những chống nghịch lại quan niệm của những người đồng thời bấy giờ mà còn lên án những lề luật của người Do Thái. Chẳng hạn câu chuyện người Samaritanô tốt lành ngụ ý cho rằng luật nhơ uế đã ngăn cản con người thực hiện những chuyện tốt lành nên và cần được thực hiện mà cũng chỉ vì đó là luật lại trở thành nguyên nhân làm hại con người. Nơi trường hợp tục lệ rửa tay trước khi ăn cũng như nghi thức rảy nước thanh tẩy thực phẩm khi đã mua đem về nhà. Đức Giêsu nêu lên chính những suy tưởng và ý định làm con người nhơ uế khiến những người tuân giữ và bảo vệ những lề luật này bối rối. Tất nhiên, bất cứ sự kiện nào hay là lời nói dẫu tốt lành đến đâu nếu không thuận chiều hoặc chống nghịch lại đường hướng của một tổ chức thì cũng chỉ làm cho những người thuộc về tổ chức đó tức giận.
 
Đàng khác, kinh nghiệm sống chứng minh, niềm vui của người thức ngộ là cớ cho người ngu bực mình thì sự thể vui thú của kẻ ngu khiến những bậc thức giả xót thương. Phúc Âm đặt Đức Giêsu vào vị thế tiến thoái lưỡng nan. Nói rằng họ đã có luật thì cứ theo luật mà giải quyết, Đức Giêsu tất nhiên rơi vào bẫy kết án con người theo quan niệm thế tục. Nói rằng không biết cách nào giải quyết hoặc đó là trường hợp cá nhân thì Ngài rơi vào trường hợp trên đe, dưới búa; răng cắn phải lưỡi như khá nhiều bậc ông bà, cha mẹ nơi xã hội này.
 
Suy gẫm sự thể cuộc đời liên hệ đến trường hợp Phúc Âm nêu lên, tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống. Dân Chúa xưa nay không khác gì bị rơi vào cảnh “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Nào luật đời, luật đạo, luân lý xã hội, danh dự, tiếng tăm, những cảnh bất thường nơi cuộc sống liên tục dồn ép, đẩy đưa con người rơi vào những ngõ hẹp cuộc đời không phương xoay xở. Khổ một điều, chúng ta đã không để ý đến sự nhận thức mà luôn sẵn lòng làm tôi mọi cho ý thích, muốn sự việc xảy đến theo lề lối suy luận hay danh vọng tùy thuộc quan niệm cá nhân nên càng gặp nhiều giai đoạn trớ trêu. Những vị nào có con có cháu lỡ vội đắm mình chiều theo tiếng gọi bồng bột nơi bể yêu đương bất chấp danh dự gia đình, luân lý xã hội, hoặc tiếng đời, hay luật đạo, chắc chắn không ít thời nhiều đều mang nỗi tổn thương tâm tưởng. Đôi khi có nhiều trường hợp thấy cần phải lên tiếng vì lợi ích cho cộng đồng hoặc đỡ được phần nào phiền hà cho người đồng thời chung quanh mình, chúng ta đành nén lòng im lặng bởi há miệng mắc quai. Lắm lúc vì lòng chân thành nêu lên đôi ý kiến thì lại bị người ta không những đàm tiếu mà đôi khi bị nhiếc móc…nhất là thời đại bây giờ, nào phôn nhà, phôn tay, xi bi, VSF, email e nấm, ra rả đồn thổi…cho hợp với câu, “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa.” Chẳng những thế, người biết chuyện thì ít, kẻ đồn thổi thêm mắm thêm muối lại nhiều, quả thật, không cực hình nào có thể gớm ghê hơn! Chúng ta đang sống nơi hỏa ngục được kiến tạo bởi muôn ngàn thứ lề luật trói buộc nên dù muốn tránh trời cũng không khỏi bị nắng.
 
Nhận được thực tại khốn khổ nơi cuộc đời như thế, chúng ta thấy Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu trả lời quả là khôn ngoan, “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Và Phúc Âm viết tiếp, “Nghe nói thế họ rút lui từng người một, chỉ còn lại mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ đứng đó.” Nơi văn chương bình dân của chúng ta có câu, “Chân mình thì lấm bết bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” rất đúng nơi trường hợp này. Càng những người ưa bới móc, xoi mói những chuyện không ra gì của người khác lại càng chất chứa nhiều sự thể chẳng nên. Suy nghĩ ngược lại, thái độ ”Vạch lá tìm sâu” là phương tiện công bố rõ ràng và hùng hồn nhất rằng mình là người chẳng ra gì. Để ý suy nghiệm, chúng ta sẽ nhận thấy câu trả lời quá ư thâm trầm, khôn ngoan và thánh thiện của Đức Giêsu đối với người thiếu phụ, “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa.”
 
Dĩ nhiên, người nào dẫu lỗi lầm đến mấy, ngưng không thực hiện những điều chẳng nên nữa thì đã bắt đầu bước vào con đường tốt lành, thánh thiện. Chúng ta đang sống trong trạng thái đó mà ít người dám để tâm nhận biết. Chỉ có một nguyên tắc căn bản để nhận ra lỗi lầm của mình đó là khi nào mình cho rằng người khác không ra gì;…chắc chắn mình đã chẳng tốt lành chi. Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa chia sẻ sự hiện hữu của Ngài và Chúa là cội nguồn, là căn bản, là trung tâm phát xuất mọi sự hiện hữu. Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện thế nên sự hiện hữu của từng người chúng ta là chính sự thánh thiện phát xuất từ Chúa mà ra. Chúng ta cần nhận thức rõ thực thể thánh thiện này nơi mỗi người.
 
Tôi muốn nhắc lại, mỗi người chúng ta đều là sự hiện thể của sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình. Chúng ta chất chứa sự thánh thiện của Chúa, và sự thánh thiện của Ngài tràn ngập nơi mỗi người từng giây từng phút mà chúng ta không để tâm nhận biết. Như vậy, tội lỗi chính là những gì làm nhơ bẩn sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi mỗi người. Tội lỗi ngăn cản con người nhận ra sự thánh thiện của Chúa nơi mình. Thế nên, xin quý ông bà, anh chị em từ nay để tâm nhận biết sự thánh thiện nơi mình. Nhận biết sự thánh thiện nơi mình tất nhiên chúng ta sẽ nhận biết sự thánh thiện nơi những người khác. Amen.
 
 
LỄ LÁ C 2001 (Lc. 22:14-23,56)
 
Hôm nay chúng ta cử hành nghi thức làm phép lá, kỷ niệm dữ kiện được ghi lại nơi Phúc Âm về việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem một cách đương đường và được người dân Do Thái đón tiếp, trải áo choàng và những cành lá trên đường để cho con lừa Ngài cưỡi đi lên trên. Đây là những hành vi chứng tỏ sự tôn vinh của người dân đơn sơ mộc mạc ngày xưa. Ngày nay chúng ta thấy nơi những cuộc đón tiếp các bậc vị vọng, quyền quý và đáng kính, người ta trải một đoạn thảm cho vị ấy bước lên trước khi được người đại diện cao cấp đón tiếp. Nghi thức này thường được dùng nơi triều đình các vua chúa ngày xưa. Chúng ta cũng thấy người ta dùng vải hoặc rẻ tiền hơn, dùng cuộn nilông mỏng trải lối cho đôi tân hôn tiến tới bàn thờ nơi hôn lễ. Sở dĩ dùng nilông mỏng có thể cho đỡ tốn phí, nhưng thay vì người khác soạn chương trình đón tiếp mình thì ngày nay đôi tân hôn tự làm lấy mà thường thì không hiểu lý do, chỉ thấy kẻ khác làm sao mình bắt chước theo như vậy.
 
Cũng cùng một kiểu quen thói như thế, chúng ta mừng Lễ Lá đại khái kỷ niệm Đức Giêsu vinh quang vào thành Giêrusalem khởi đầu cho tuần thánh, tuần lễ tưởng niệm sự khổ nạn của Đức Giêsu. Tôi không thể hiểu được cũng như không tưởng tượng được quý ông bà anh chị em nghĩ gì khi tham dự Lễ Lá hoặc tuần thánh. Kiểm nhớ lại những cuộc tham dự tuần thánh ngày xưa khi còn ở Việt Nam hoặc nơi những cộng đồng Công Giáo người Việt có nhà thờ riêng, chúng ta thấy những sinh hoạt đạo đức ngắm nguyện, đi đàng Thánh Giá, nghi thức rửa chân, chầu lượt, tôn kính Thánh Giá. Nơi cộng đồng nhỏ bé lệ thuộc nhà thờ xứ người, phần nào chúng ta cảm thấy thiếu thốn và tiếc nuối những buổi lễ trọng đại, xôm tụ bày tỏ đầy lòng mộ mến Đức Giêsu. Tâm tình này chẳng khác gì sự lạc lõng nơi cuộc đời vất vưởng nơi xứ người. Chúng ta tiếc nuối thói quen, tập quán đạo đức của mình.
 
Tuy nhiên nếu để tâm nhận định về tâm tư đạo đức cá nhân, những gì được tuyên truyền, rao giảng xưa nay về sự khổ nạn và chết trên thập giá của Đức Giêsu, chúng ta được in đậm nơi tâm hồn lòng tri ân và mộ mến vì Ngài đã tự nguyện hy sinh mạng sống để chuộc những lỗi lầm của chúng ta. Lòng tri ân và mộ mến này phát sinh ước muốn để noi gương Đức Giêsu chịu sự khó trong cuộc đời. Khổ nỗi, dẫu muốn và cố gắng cách mấy, chúng ta vẫn cảm thấy hình như không học theo được Ngài bất cứ sự khổ nạn nào qua mọi hình thái nơi cuộc sống. Nếu ai để tâm trí suy nghiệm về tính cách nơi những sự việc chúng ta cố học theo gương Đức Giêsu, tất nhiên họ nhận thực được một điều đó là chúng ta chỉ có mơ ước hoặc bày tỏ mơ ước để được an tâm do đó lòng khát khao theo chân Ngài càng ngày càng trở nên khoảng trống vô hạn định và cuối cùng sự khát khao này bị chìm vào lãng quên, và có chăng chỉ còn lại sự nhắc nhở những ngôn từ.
 
Tại sao sự thể này phát sinh nơi tâm hồn mỗi người? Xin thưa, vì chúng ta đã chỉ cố gắng tập tành bắt chước trở nên như Đức Giêsu theo hình thức có thể nhận thấy bên ngoài theo nghĩa từ chương được ghi lại nơi Phúc Âm. Chúng ta triền miên thất bại bởi đã không để ý suy nghiệm những lời giảng dạy của Đức Giêsu nên chúng ta đã không nói được giống Ngài, đã không thể nào áp dụng được những lời Ngài giảng dạy trong cuộc đời. Thế nên, nhân ngày chủ nhật bước vào tuần thánh, tôi muốn trình bày cùng quý ông bà anh chị em nguyên tắc căn bản để noi gương và bước theo Đức Giêsu nơi hành trình đức tin.
 
Đặc tính then chốt chúng ta cần học theo Đức Giêsu đó là sự mở rộng tâm hồn để chấp nhận cuộc đời hầu nhận ra thánh ý Thiên Chúa nơi cuộc đời mình từng ngày, từng giờ, từng giây phút. Mọi sự, mọi việc trong cuộc đời, Đức Giêsu đều chấp nhận theo ý Đức Chúa Cha. Chúng ta nói Đức Giêsu xuống thế chết vì chúng ta. Chúng ta đã nói nghịch lại với Phúc Âm. Qua bài thương khó vừa được công bố, Phúc Âm ghi lại rõ ràng lời cầu nguyện của Đức Giêsu, “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha.” Đức Giêsu xin Thiên Chúa cất chén đắng Ngài sắp phải chịu, và như vậy, Đức Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên thánh giá theo thánh ý Thiên Chúa Cha. Vì thánh ý Thiên Chúa muốn như thế, Đức Giêsu phải chấp nhận.
 
Đã biết bao lần nơi cuộc đời chúng ta rơi vào cảnh, “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn,” nhưng những người khác không biết đấy là đâu, gán cho chúng ta những danh hiệu đao to búa lớn, nào hy sinh, nào hiếu đễ, nào gan dạ, nào tốt lành, thánh thiện, nào nhu mì, nào đức hạnh. Để tâm nghiệm chứng Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận rõ được một điều; đó là chính Thiên Chúa đang dùng cuộc đời bắt chúng ta phải trải qua muôn cảnh khổ ải để giúp chúng ta thăng tiến nơi hành trình đức tin mà đã bao lâu nay không để ý suy nghiệm. Phúc Âm ghi lại mục đích cũng là nhiệm vụ chính yếu nơi cuộc đời Đức Giêsu đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Ngài cũng dạy chúng ta, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33).
 
Chúng ta không cần biết, không cần suy nghiệm để nhận định Tin Mừng là gì. Chúng ta không cần biết Nước Thiên Chúa là gì, thì sao có thể học theo Đức Giêsu? Chúng ta chỉ quen thói nghe sao biết vậy và cùng lắm thì cố gắng lặp lại câu nói gán ép cho Đức Giêsu điều Ngài không muốn. Chúng ta gán ép cho Đức Giêsu tội kiêu ngạo mà đã không bao giờ để ý mình đã nói gì. Sống như Đức Giêsu, học theo Ngài có nghĩa suy nghĩ và áp dụng những lời dạy dỗ của Ngài nơi cuộc đời chứ không phải chỉ lặp lại những lời Ngài dạy cho qua hầu được hưởng nước thiên đàng.
 
Tôi thử đưa ra một thí dụ cụ thể, các bà mẹ đang hiện diện nơi nhà thờ. Các bà nuôi nấng con cái nhiều cách khác nhau. Dù một người mẹ có 5 hoặc 7 đứa con thì mỗi đứa con người mẹ nuôi mỗi kiểu cách tùy thời và tùy nơi nhưng tựu trung các bà đều là những người mẹ. Chúng ta muốn trở nên giống Đức Giêsu, những lời dạy của Ngài, những lời Phúc Âm phải trở nên tính chất của mỗi người chúng ta, và tính chất căn bản là suy nghiệm để nhận thực và vâng theo thánh ý Thiên Chúa từng giây phút nơi cuộc đời của mình. Lẽ đương nhiên, dẫu chống trời, dẫu không chấp nhận, và càng trốn chạy càng cảm thấy khổ ải. Suy nghiệm Lời Chúa để phát triển năng lực chấp nhận cuộc đời đã được ban cho…chúng ta đang thể hiện đặc tính của Đức Giêsu nơi trần thế. Amen.
 
 
THỨ NĂM TUẦN THÁNH C (Gioan 13:1-15)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Gioan.
 
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-mon Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi Áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho cÁc môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy, Người đến chỗ ông Si-mon Phê-rô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" Đức Giê-su trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu." Ông Phê-rô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Đức Giê-su đÁp: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." Ông Si-mon Phê-rô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." Đức Giê-su bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch."
Khi rửa chân cho cÁc môn đệ xong, Đức Giê-su mặc Áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?Anh em gọi Thầy là `Thầy', là `Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

 
Hôm nay, trong nghi lễ phụng vụ, chúng ta có nghi thức rửa chân. Đọc phúc âm, chúng ta thấy chỉ có phúc âm Gioan nói đến sự việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đồ. Ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca không nói chi đến sự việc rửa chân. Nếu để ý về ngôn từ trình bày, phúc âm Gioan diễn giải tâm tình chiêm nghiệm về cuộc đời và thân phận cũng như tâm tình của đức Giêsu. Nếu đem so sánh nhận thức về tâm tình được diễn giải lồng trong hoạt cảnh được tác giả của phúc âm Gioan ghi lại với tâm tình của bất cứ ai khi chiêm nghiệm về cuộc đời và sự giảng dạy của đức Giêsu, khi nâng tâm hồn hòa nhập vào diễn trình suy nghiệm hay chiêm nghiệm, đồng thời để ý nhận xét tâm tình của mình đang biến chuyển ra sao, chúng ta sẽ nhận thấy đôi lúc tâm tình của mình hòa nhập hay đóng vai đức Giêsu hầu bày tỏ một phần nào cảm nhận cá nhân nơi diễn trình suy nghiệm. Để ý một chút, chúng ta cũng nhận ra, nơi những phần trình bày diễn tiến sự việc, ngôn từ được dùng biến chuyển từ sự việc hữu vi đổi sang liên hệ tâm linh, tâm tình; điều này chứng tỏ cơ cấu phúc âm được tổng hợp của nhiều tác giả trong khi danh hiệu tác giả được dùng chỉ có một. Các chuyên viên hoặc học giả Kinh Thánh cũng nói lên sự thể này. Như vậy, phúc âm được viết bởi một cộng đồng dân Chúa chứ không phải là sản phẩm của một cá nhân.
 
Các học giả Kinh Thánh đều cho rằng phúc âm viết về cuộc đời, sự giảng dạy, và sự khổ nạn cũng như sự sống lại của Chúa Giêsu. Ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca đều có cơ cấu và diễn trình tương tự nên được gọi là phúc âm nhất lãm. Nhưng bất cứ ai để ‎ý về diễn tiến cũng như biến chuyển của ngôn từ được trình bày nơi phúc âm, đểu nhận thấy thường thì phúc âm đang nói đến sự việc nhân sinh, câu trả lời hay lời dạy của Chúa Giêsu lại nói về sự việc tâm linh, tâm tình. Chẳng hạn, nơi phúc âm Matthêu, hai sự việc được nhắc đến, câu kết luận khiến người đọc chưng hửng. Trước hết, nơi đoạn 19, câu 27, thánh Phêrô hỏi, "Như vậy, chúng tôi đã bỏ mọi sự mà đi theo thầy, vậy thì chúng tôi sẽ ra sao? Thì câu 30 được thêm vào khiến tâm tư người đọc ngỡ ngàng, "Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết." Thánh Phêrô hỏi sẽ được gì chứ có hỏi về thứ hạng đâu. Tiếp theo đó nơi dụ ngôn chủ vườn mấy lần nơi những thời điểm khác nhau thuê thợ làm công ngay từ buổi sáng và cuối cùng các người làm vườn đều được trả công đồng đều như nhau khiến những lời càm ràm nói lên sự bất công đối với công việc. Và rồi cũng được kết luận với câu, "Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết." Thử nghiệm xét hay suy nghiệm về ngôn từ "Đầu hết" và "Cuối hết" nơi hai dụ ngôn nói về được hưởng hay lãnh gì của thánh Phêrô và lãnh nhận tiền công làm việc của những người làm thuê, "Đầu hết" và "Cuối hết" mang máng nói về thứ bậc, vị thế, cũng như thời điểm nhưng không ám định mảy may nào về vị thế hay thời điểm. Vị thế nào hay thời điểm nào khi đến thời tái sinh trong khi Phêrô muốn biết được hưởng lợi lộc gì lúc này? Vị thế và thời điểm nào nói lên kẻ làm việc suốt ngày từ sáng tới chiều giữa trời nắng chang chang và người khác chỉ làm việc khoảng một tiếng đồng hồ đều lãnh tiền công bằng nhau? Nhưng nếu bình tâm suy nghiệm, những người cả ngàn năm trước hoặc nơi thời điểm lúc này hay những thế hệ sau thực hành nghiệm xét câu, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài," Những ai nghiệm xét, suy nghiệm đều nhận thực được thực thể hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình thì dù trước sau, cách nhau bao nhiêu thế kỷ, hay sau này, sự thức ngộ, nhận thức thực thể hiện hữu của Thiên Chúa nơi một người đều như nhau. Sự thức ngộ này thuộc về tâm linh, tâm trí, tâm tư chứ không lệ thuộc thời gian, vị thế nhân sinh của người nhận thức.
 
Giải thích lòng vòng như vậy, chúng ta có thể hiểu được tại sao phúc âm được viết, "Và giang tay chỉ các môn đồ của Ngài, Ngài nói, này là mẹ Ta và anh em Ta; phàm ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, thì kẻ ấy là anh em và là mẹ Ta" (Mt. 12:50).
 
Nghi thức rửa chân bắt nguồn từ tập tục Do Thái, nói lên sự tôn trọng của chủ nhà đối với khách khứa đế dự tiệc hay trước khi họ bước vào nhà mình. Nơi xã hội Do Thái cũng như xã hội Đông Phương, thời xưa người ta đi chân đất hay đi dép chứ chưa có giầy, họ thường có tục lệ hay thói quen rửa chân trước khi bữa ăn hay trước khi đi ngủ. Nơi trường hợp khách khứa không được chủ nhà rửa chân trước khi bước vào nhà đều bị mang nghĩa không được nghênh đón, coi thường. Nơi xã hội Do Thái cũng có tục lệ vợ rửa chân cho chồng nói lên tâm tình người vợ hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng. Hoặc một người trước khi diện kiến nhà vua họ phải được rửa chân tay.
 
Nơi những nghi thức thờ phượng, tập tục rửa tay và chân trước khi tế lễ cũng như bước vào khu nhà tạm. Các nhà học giả Kinh Thánh cho rằng nghi thức đức Giêsu rửa chân cho các môn đồ nói lên tâm tình phục vụ nơi xã hội tôn giáo. Chúa Giêsu được sai đến để phục vụ dân chúng chứ không phải để được tôn vinh, các môn đồ và tín hữu nên học theo. Phục vụ dân Chúa chính là phụng sự Thiên Chúa, Đấng hiện diện và hoạt động nơi mọi người. Chúng ta cử hành nghi thức rửa chân với tâm tình sẵn lòng phục vụ Chúa nơi mọi người.
 
Xin Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện và hoạt động nơi mỗi người thêm sức và dẫn dắt chúng ta sống xứng đáng làm con cái Ngài. Amen.
 
 
 PHỤC SINH 2001 (Gioan 20: 1-9)
 
Lại một lần nữa chúng ta mừng lễ Phục Sinh của Đức Giêsu, tuy nhiên qua suốt mấy tuần mùa chay tôi phải chiến đấu với nhiều câu hỏi được nêu lên ngay nơi tự tâm hồn của mình. Sau nhiều ngày suy nghĩ, tôi nhận ra những câu hỏi này bắt nguồn từ những gì tôi được học hỏi và những lời Phúc Âm, đặc biệt nơi những bài thương khó của Đức Giêsu trong tuần thánh. Không những thế, những nghi thức tế lễ và thờ phượng trong ba ngày thứ năm, thứ sáu, và thứ bẩy càng khiến cho tôi cảm thấy mình đã bao lâu nay không để ý đến tâm tình của mình khi tham dự hoặc thực hiện những nghi thức này.
 
Dĩ nhiên, sự cảm nhận của mỗi người đều khác nhau tùy tâm tình và nhận thức của mình. Tuy nhiên, nguyên nhân căn bản lại mang mẫu số chung đó là chúng ta có để ý tìm hiểu về tâm tình của mình hay không, cũng như đặt vấn đề để nhận ra nguyên nhân tại sao mình mang tâm tình như thế hay không. Câu hỏi cuối cùng đến với tôi trong mấy tuần này quả là quái ác.
 
Tin Mừng phục sinh là gì? Phúc Âm cũng như những nghi thức phục sinh nhắc nhở chúng ta điều gì và chúng ta có thể áp dụng nơi cuộc sống mình ra sao? Trung thực với lòng mình, sự việc Đức Giêsu sống lại hay không nào có gì ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta đâu! Dầu buôn bán, hay làm việc tại các hãng, xưởng, hoặc lênh đênh trên những con tàu đánh bắt tôm cá thì suốt đời ngày nào cũng như ngày nấy, ai cũng phải đối diện với những thăng trầm nơi các công việc cần thiết phải làm để mưu sinh. Cho rằng hay tin tưởng rằng Chúa sống lại hay không nào cuộc đời mình có hơn kém chi đâu. Có chăng, mấy ngày nghỉ coi chừng mệt hơn đi làm thuê vì công việc thu xếp nhà cửa và lo lắng cho gia đình còn nặng nề gấp mấy những công việc đi làm thuê. Tựu chung, mừng Chúa sống lại coi chừng mệt hơn không mừng.
 
Riêng tôi, chẳng những mệt hơn mà còn phiền hơn. Tối hôm qua lễ xong vừa đúng 10 giờ đêm, tôi vội vã lái xe đến 2 tiệm bán thực phẩm gần đó cỡ 5 phút lái xe định mua mấy miếng gà chiên thì cả hai đều đóng cửa. Khi trở về nhà, dẫu biết rõ tủ lạnh trống trơn nhưng tôi vẫn thuận tay mở cửa mà lòng ngao ngán. Thực thể cuộc đời quả là trớ trêu, chúng ta chưa kịp nhận ra niềm vui kỷ niệm mừng Chúa sống lại thì đã phải đối diện với những nhu cầu thiết yếu của thân phận làm người. Dĩ nhiên, cuộc sống biến chuyển tiếp nối không ngừng; không ai chỉ ăn một lần mà có thể sống được một đời, hôm nay ăn, ngày mai lại đói. Bởi vậy, những lo âu, tính toán về nhu cầu cuộc sống hữu hình đã hầu như che lấp tâm trí không còn kẽ hở suy tưởng về thực thể con người của mình. Hơn nữa, chính vì phải luôn luôn suy tính thực nghiệm hầu bảo tồn sự sống, tâm trí chúng ta tạo thành thói quen nhận định mọi sự qua nhãn quan thực nghiệm thế tục. Chẳng hạn, bất cứ ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng ba nhân đức đó là đức tin, đức cậy, và đức mến.
 
Tuy nhiên, nếu để tâm nhận định, những gì chúng ta đang ấp ủ về ba nhân đức này rất đối nghịch với những lời dạy nơi Phúc Âm. Tôi nêu thử một vài điểm. Phúc Âm trình bày về đức tin như một quyền năng nội tại nơi mỗi người; chúng ta đều nghĩ và cho rằng đức tin chỉ là vấn đề chấp nhận có một Thiên Chúa toàn năng kèm thêm vào đó là sự thi hành những bổn phận người khác đặt ra cho mình theo vì e sợ không theo sẽ bị phạt sau này.
 
Đối với đức cậy, ai không nghĩ đó là sự phó thác hoàn toàn nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta thường đồng hóa đức cậy với lòng cậy trông hoặc là niềm hy vọng được cứu rỗi. Bình tâm nhận định, bất cứ những gì chúng ta hy vọng tất nhiên chúng ta chưa thực sự có, và không ít thì nhiều, những điều chúng ta hy vọng lại chẳng khác gì lòng cầu may, được cũng nên, quên cũng chẳng ảnh hưởng gì. Như vậy, đặc tính của niềm hy vọng chỉ phần nào giúp con người an tâm nếu không muốn nói đó là mặt trái của sự thất vọng đang âm thầm hiển hiện.
 
Đức mến thường được áp dụng thành đức bác ái đối với tha nhân. Và chúng ta có thể kiểm chứng rõ ràng một điều đó là rất ít khi hoặc chẳng bao giờ chúng ta thực hiện đức bác ái. Chúng ta chỉ thực hiện những gì có thể đem lại mối lợi hoặc ngầm chất chứa những ý đồ nào đó. Bình thường chúng ta chỉ nói đến hoặc hiểu bác ái theo quan điểm nhận định hình thức bên ngoài. Điều chẳng ngờ đó là những ai dù bằng cách nào, lời nói hay thái độ không nên, làm tổn thương đến người khác, họ đã vô tình phạm lỗi về đức bác ái một cách nặng nề mà ít khi để ý. Cũng chính vì không để tâm nhận định về chính mình, chúng ta mơ ước và dễ chấp nhận những gì được đồn thổi là phép lạ bởi vì mình không phải làm gì, không thể nghĩ gì. Chúng ta tưởng tượng và mơ ước có được thứ bảo hiểm không phải trả giá đó là nước thiên đàng. Chúng ta tin phép lạ hoặc nếu có thể du lịch tới những phần đất linh thiêng nơi trái địa cầu này hy vọng có được mối an tâm che lấp nỗi lo âu vì không nắm chắc được kết quả rồi cuộc đời mình sẽ đi về đâu.
 
Nói vòng vo tam quốc như vậy, tôi chỉ muốn minh chứng một điểm đó là chúng ta đã không để tâm tìm hiểu tâm tình nơi chính mình và như vậy đã không nhận biết lòng khát vọng tâm linh đang tiềm ẩn nơi mỗi người. Đức Giêsu được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chúng ta hô hào, tuyên xưng Ngài đến để chuộc tội, chết vì tội của chúng ta. Và như vậy, âm thầm nghĩ rằng đã có Ngài chết vì tội của mình, đã có sẵn bảo hiểm là cái chết của Ngài, chúng ta đâu phải lo lắng đặt vấn đề cứu rỗi hay không, đâu cần phải làm gì. Nhưng, nói sao thì nói, cố gắng tuyên truyền để che lấp thế nào chăng nữa thì nỗi lo âu thầm kín, sự thất vọng bị khuất lấp bởi hy vọng vẫn âm thầm gặm nhấm lòng ruột chúng ta.
 
Hai ngàn năm trước, các môn đồ, người đồng thời sống gần gũi Đức Giêsu, được nghe trực tiếp những lời Ngài giảng dạy nhưng hầu hết cũng không hoàn toàn hiểu được Ngài đã nói về điều gì. Tôi thực tâm nghĩ, họ được nghe Ngài giảng dạy nhưng không suy nghiệm, không đặt vấn đề tại sao Ngài nói như thế bởi bị quan niệm thực nghiệm thế tục khuất lấp. Đức Giêsu đến công bố về thực thể tâm linh nơi mỗi người chúng ta. Ngài đã minh chứng bằng những công việc Ngài thực hiện và rõ ràng công bố, ”Kẻ nào tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” Gioan 14:12). Khi nào chúng ta vẫn còn chưa nhận ra sự hiện diện của chúng ta nơi nhà thờ lúc này là phép lạ; tai chúng ta có thể nghe là phép lạ; mắt chúng ta có thể nhìn được sự vật chung quanh là phép lạ; tâm trí chúng ta có thể suy nghĩ được là phép lạ thì chúng ta vẫn chưa thể hiểu được những lời Đức Giêsu rao giảng nơi Phúc Âm.
 
Tóm lại, Phục Sinh lần nữa lại đến để đánh động tâm hồn chúng ta, thách đố tâm trí chúng ta nghiệm chứng để đối diện với thực thể nội tại nơi mỗi người. Thực thể này chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người. Xin Thần Linh đã cho Đức Giêsu sống lại dẫn dắt và soi sáng lòng trí mỗi người hầu nhận ra thực thể tin mừng nước trời nơi chính mình. Amen.
 
  
CHỦ NHẬT 2C PHỤC SINH 2001 (Gioan 20: 19-31)
 
Qua bài Phúc Âm vừa được công bố, chúng ta thấy có những điểm nên để ý. Trước hết, các môn đệ của Đức Giêsu họp nhau nơi nhà mà các cửa nẻo phải đóng kín vì sợ người Do Thái. Đức Giêsu hiện đến cho các môn đệ coi dấu đanh và cạnh sườn của Ngài. Thứ đến, Đức Giêsu thổi hơi và nói các môn đệ hãy nhận lấy Thánh Thần đồng thời nói với các ông, “Các con tha tội ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Riêng đối với thánh Tôma thì chưa kịp xỏ ngón tay vào lỗ đinh đã vội vàng kêu lên “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.” Và cuối cùng, Đức Giêsu đưa lên câu nói nửa nhận định, nửa chúc lành cho những người không thấy mà tin thực thể Đức Giêsu đã sống lại.
 
Nếu đem so sánh tâm tình của chúng ta, những kẻ tuyên xưng rằng tin vào Thiên Chúa và tin nơi Đức Giêsu, với các môn đồ của Ngài ngày xưa, một điều chắc chắn chúng ta không thể nào hiểu rõ Đức Giêsu bằng họ. Như thế, lẽ tất nhiên chúng ta cũng không thể nào tin vào Đức Giêsu hơn chính những người đã sống kề cận với Ngài và được Ngài trực tiếp dạy dỗ. Như vậy hai sự thể được ghi chép nơi Phúc Âm đó là các môn đồ sợ người Do Thái, và thánh Tôma thách đố với các môn đồ khác về sự nghiệm chứng bằng cách mắt thấy tai nghe khuyến khích chúng ta nên đặt lại vấn đề về đức tin nơi mỗi người.
 
Vấn đề được đặt ra chính là đức tin, tin nơi Đức Giêsu và tin vào Thiên Chúa mang ý nghĩa thực sự như thế nào? Ngay các môn đồ của Đức Giêsu biết Ngài một cách rõ ràng vẫn bị Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói khá thâm trầm, chua cay, “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Nếu tin chỉ mang nghĩa cho rằng điều gì là đúng sự thực hoặc là có thực thì quả là vô nghĩa bởi cho dầu bất cứ ai trong chúng ta nghĩ hoặc tuyên truyền, tuyên xưng chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này và ở đây hay không thì cũng chẳng có gì khác lạ, không gì thay đổi hoặc giúp ích hay có thể làm phiền đến sự hiện diện của chúng ta lúc này.
 
Thực thể được Phúc Âm gọi là tin rất khác biệt với quan niệm cũng như thói quen chúng ta thường nói đến. Phúc Âm chứng tỏ các môn đồ của Đức Giêsu đã không hiểu Đức Giêsu nói gì. Như vậy, những lời giảng dạy của Ngài đối với các ông chẳng khác gì nước đổ đầu vịt; đồng thời dẫu đã nhận biết Ngài sống lại nhưng các ông vẫn sợ người Do Thái. Do đó, có thể nói, dù các ông nhận biết, có cơ hội thực chứng bằng cách được trực tiếp đối diện Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại hoặc tin nơi Ngài thì chứng nào vẫn tật nấy, các ông vẫn e sợ người Do Thái. Sau này, các môn đồ xả thân truyền bá và tuyên xưng về Đức Giêsu vì Thánh Thần thực hiện những việc lạ lùng chứ không phải tự các ông tin vào Đức Giêsu mà có thể làm được những sự khác lạ như thế.
 
Bởi vậy, tin vào Đức Giêsu, tin nơi Thiên Chúa tức là đạt tới trạng thái, đạt tới trình độ tâm linh mà Phúc Âm công bố và phải là việc của Thánh Thần chứ không phải cứ hô hào, tuyên bố rằng tin hay chỉ quan niệm hoặc cho rằng thực sự có một Thiên Chúa và Đức Giêsu đã chết và đã sống lại là đủ. Đây chính là lý do tại sao Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Kẻ nào tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lơn lao hơn thế nữa” (Gn. 14:12).
 
Đọc nơi Phúc Âm chúng ta thấy, không một tông đồ nào dám vỗ ngực tuyên dương có quyền năng hoặc chính họ làm được những sự lạ cả thể. Một thánh Phêrô, mới buổi tối dám cả gan tuyên bố theo thầy, chết với thầy thế mà mấy mụ mất nết mới ho lên một tiếng đã vội chối dài. Thánh Phêrô ăn nói liều mạng như thế nhưng không bao giờ dám vỗ ngực xưng tên; mà tất cả những điều ngài công bố sau này đều quy về sự việc của Thánh Thần của Đức Giêsu. Một thánh Phaolô cũng vậy, tất cả đều quy về Phúc Âm, những lời dạy dỗ của Đức Giêsu. Nhận định như thế, câu hỏi tất nhiên phải đến đó là chúng ta tuyên xưng tin vào Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa có nghĩa như thế nào? Đức tin mà chúng ta đã được dạy dỗ và đang ấp ủ có hợp với lời Phúc Âm hay không hay là chúng ta chỉ tưởng tượng rằng mình có đức tin để tự ru ngủ.
 
Tại sao Phúc Âm có câu, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24). Thánh Thần đang hoạt động nơi mỗi người mà chúng ta đã không để ý. Tương tự như thế, sự cầm buộc nơi mình cũng đều do chính mình. Nếu ai đã để tâm nhận định sẽ nhận ra sự cầm buộc điều gì nơi mình đều do quyền lực nơi chính mình. Vì nếu ai đó có muốn cầm buộc chúng ta điều gì cũng không ảnh hưởng chi. Chính những ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, tham vọng, ẩn nấp dưới nhiều hình thức đang trói buộc mỗi người chúng ta.
 
Suy như vậy, Phúc Âm diễn giải thực thể nội tâm nơi mỗi người. Ai để tâm suy nghiệm sẽ được gọi là kẻ tin vào Đức Giêsu, và chỉ những ai suy nghiệm những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm mới có thể cảm nghiệm được thực thể Tin Mừng mà Đức Giêsu rao giảng. Tất nhiên chúng ta không trực tiếp nhận biết Đức Giêsu như các môn đồ của Ngài, thế mà họ vẫn không thâu nhận được những điều Ngài giảng dạy. Bởi vậy, muốn tin vào Đức Giêsu chỉ có một con đường duy nhất đó là suy nghiệm Phúc Âm. Những ai không suy nghiệm Phúc Âm, cho dù là đấng bậc nào chăng nữa cũng chỉ được gọi là tôn thờ ngẫu tượng bởi, “Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Gioan. 4:24). Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 3C MÙA PHỤC SINH (Gn. 21: 1-14)
 
Câu cuối của bài Phúc Âm nói rõ ràng mục đích của đoạn Phúc Âm được viết, “Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.” Khi một chuyện gì hiển nhiên và mọi người đều biết, tất nhiên không ai cần phải nhắc tới. Như vậy, sở dĩ Phúc Âm phải nhắc đến sự hiện ra của Đức Giêsu với các môn đồ có lẽ vì vào thời đó dân chúng miền Trung Đông không tin có sự sống lại.
 
Thử để ý suy nghiệm nơi tâm hồn mỗi người, chúng ta chỉ có thể chấp nhận lời Phúc Âm nói về sự sống lại của Đức Giêsu cũng như các môn đồ của Ngài rao giảng về sự sống lại. Đặc biệt nơi câu chuyện ngã ngựa của thánh Phao Lô nơi sách Tông Đồ Công Vụ; chính thánh nhân trải qua kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu nhưng không được đối diện với Ngài như các tông đồ khác. Kinh nghiệm nơi cuộc sống minh chứng; chúng ta chưa bao giờ gặp bất cứ ai đã chết một số ngày mà có thể sống lại ngoại trừ trường hợp chỉ một khoảng thời gian ngắn, và họ kể lại đã gặp được nguồn sáng kỳ diệu có sức cuốn hút linh hồn họ đến nỗi khi tỉnh lại họ không còn tha thiết gì với đời sống thế tục cũng như không sợ hãi sự chết; ngược lại họ luôn luôn chờ thời điểm chết để được trở về với nguồn sáng được họ mệnh danh là chính Thiên Chúa.
 
Cũng có những vị bác sĩ để tâm nghiên cứu về hiện tượng những người gặp gỡ được nguồn sáng xảy đến đối với những người chết hụt, đặc biệt bác sĩ giải phẫu người Mỹ có tên là Melvin Morse. Ông đã viết hai cuốn sách, một cuốn có tên là Near Death Experience, và cuốn khác, Transformed by the Light. Ông phỏng vấn 400 người nơi trường hợp kích ngất họ đã gặp được nguồn sáng và được họ chứng minh cho biết một số trong họ sau lần kích ngất và gặp gỡ nguồn sáng họ đã tự nhiên có được những khả năng lạ kỳ chẳng hạn nhìn thấy trước chuyện gì đó sẽ xảy ra. Có những người đã cảm thấy phiền hà vì khả năng này bởi chính khả năng biết trước sự việc sẽ xảy đến mà không thể thực hiện bất cứ chuyện gì để giúp đương sự tránh thoát được điều nguy hại đang trờ tới, hoặc là họ không tin, hoặc là vì thời điểm quá kề cận không cách nào thông báo kịp trong khi họ cứ phải nhìn thấy những điều đáng sợ ấy thường xuyên.
 
Điều đáng để ý đó là câu Phúc Âm, “Chúa Giêsu bảo rằng: 'Các con hãy lại ăn.' Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi, 'Ông là ai?' vì mọi người đã biết là Chúa.” Câu này chứng tỏ hình dạng của Đức Giêsu sau khi sống lại khác với Ngài trước khi tử nạn. Từ đó, câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại nơi vấn nạn về bẩy người anh em trai lần lượt thành hôn với một người đàn bà làm sáng tỏ thêm sự kiện các môn đồ không dám hỏi Đức Giêsu. Khi người thuộc bè Sađóc hỏi về sự kiện này, Đức Giêsu trả lời, “Còn những ai đã được xét là đáng hưởng đời sau, cùng sự sống lại từ cõi chết thì sẽ không cưới vợ lấy chồng! Vì chưng họ không thể chết nữa, bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa, một khi đã là con cái của sự sống lại” (Lc. 20:36).
 
Thêm một lần nữa chúng ta lại thấy Phúc Âm minh chứng các Tông Đồ đã không nhận ra hình dáng Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại. Và nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, khi các tông đồ còn đang nghi vấn thì Phúc Âm ghi, “Người môn đệ Chúa yêu nói với Phêrô: Chính Chúa đó.””Theo như truyền thống Giáo Hội thì Gioan, môn đệ Chúa yêu chính là người viết cuốn Phúc Âm thứ 4. Nếu ai đọc và để ý suy nghiệm, Phúc Âm Gioan được viết từ cảm nghiệm tâm linh chẳng những về thực thể Ngôi Lời của Đức Giêsu mà còn về thực thể tâm linh của mỗi người chúng ta. Thế nên, lý do Phúc Âm viết Gioan nhận ra Đức Giêsu và nhắc nhở Phêrô có thể với chủ đích khuyến khích chúng ta để tâm suy nghiệm Phúc Âm. Gioan đã để tâm nhận định những diễn biến và suy nghiệm nên nhận ra Chúa Giêsu trước các môn đồ khác. Tương tự nơi trường hợp thánh Phêrô và Gioan, hai người cùng chạy tới mồ khi nghe tin Chúa đã sống lại, Phúc Âm viết, Gioan trông thấy và đã tin.
 
Tóm lại, bài Phúc Âm khuyến khích chúng ta để tâm suy nghiệm những diễn biến nơi cuộc đời để nhận ra công việc huyền nhiệm Chúa đang thực hiện không những nơi chính mình mà còn nơi tạo vật. Sự sống lại của Đức Giêsu minh chứng cho mọi người nhận biết cuộc đời con người không phải chết là hết mà còn sự sống sau khi xác thân chúng ta chết và qua đi và linh hồn của chúng ta bước vào cõi sống vô hình một khi lìa thân xác.
 
 
 
CHỦ NHẬT 4C PHỤC SINH 2001
 
Trong tất cả các bài Phúc Âm được trích dành cho ngày chủ nhật, không có bài Phúc Âm nào ngắn gọn mà mang nhiều chủ đề tâm linh như bài Phúc Âm vừa được công bố. Dẫu bài Phúc Âm được phân định không đúng văn cách nhưng vẫn rõ ràng bao gồm 7 chủ đề. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Chúng sẽ không bao giờ hư mất. Không ai có thể cướp chúng khỏi tay Ta. Câu “Điều mà Cha Ta ban cho Ta thì cao trọng hơn tất cả,” nơi bài Phúc Âm hình như bị dịch sai bởi nơi hai cuốn Phúc Âm của Nguyễn Thế Thuấn và bản dịch từ TPHCM cũng như 6 bộ Kinh Thánh và sách bài đọc tiếng Mỹ đều dịch thành “Cha, Đấng đã ban chúng cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả.”
 
Theo bản dịch chúng ta vừa nghe có lẽ không hợp lý vì sự việc, sự kiện không thể nào cao trọng hơn chính chủ thể sự kiện hay sự việc. Hai chủ đề còn lại của bài Phúc Âm đó là: Không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Cha Ta và Ta là một. Chúng ta ai cũng biết, Kinh Thánh dùng hình ảnh cũng như ngôn từ “Chiên” để chỉ con người và Thiên Chúa là chủ chăn. Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta.” Câu này có nghĩa những ai thực sự muốn thăng tiến nơi hành trình đức tin một cách mau chóng thì nên suy nghiệm những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
 
Những lời giảng dạy này ở đâu? Xin thưa đó là bốn cuốn Phúc Âm. Ai muốn nhận biết Tin Mừng Nước Trời; ai muốn nghiệm chứng về Thiên Chúa, muốn nhận ra thực thể con người của mình, muốn khỏi bị sai đường lạc lối nơi hành trình đức tin, muốn khỏi bị lừa đảo, hoặc muốn kiếm tìm căn bản phát triển tâm linh, bốn cuốn Phúc Âm Matthêu, Marcô, Luca, và Gioan chính là kho tàng thu gọn những sự khôn ngoan để cho họ học hỏi và chiêm nghiệm. Chúng ta thường cho rằng chỉ cần hiểu về vấn đề nào đó thì đã được coi là biết và thế rồi tưởng rằng mình đã biết, không cần gì phải tìm hiểu thêm. Chẳng hạn, chúng ta hay dùng câu nói “Các cha giảng dạy.” Riêng về sự dạy chính tôi chưa bao giờ dám có ý nghĩ dạy ai mà chỉ lo học hỏi khờ người cũng vẫn cảm thấy còn nhiều vấn đề cần được dạy. Không nói đâu xa, bất cứ ai đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này cũng có nhiều điều mà tôi chẳng những đã không hiểu mà còn không biết thế nên tôi cần phải học.
 
Nói đến vấn đề giảng giải, giải thích, hay giải nghĩa thì lại quả là một sự nghịch thường. Thay vì đưa ly nước cho người đang khát uống mà cứ nhì nhằng giảng nghĩa nước thế này, thế nọ và còn tệ hơn nữa dạy cách đào giếng lấy nước thì người nghe chưa kịp đào giếng có lẽ đã chết vì khát. Giải thích hay giảng nghĩa cần điều kiện nhận thức tương đương và ngôn từ hán học được gọi là ấn hay chứng. Người nghe nghiệm xem những lời chia sẻ, phân trần có đúng hoặc tương đồng với kinh nghiệm nơi bản thân mình không. Lẽ tất nhiên, người nào chưa bao giờ ăn hoặc được ngửi mùi trái sầu riêng thì có giải thích đến mấy cũng vô ích.
 
Thêm vào đó, sự giải thích lại lệ thuộc chính người giải thích. Kinh nghiệm minh chứng, giải sử có một trăm người giải thích về cũng chỉ một trái sầu riêng hoặc trái ớt tất nhiên sẽ có ít nhất hai phe không đồng quan điểm. Hơn nữa tôi e rằng còn rơi vào tình trạng câu nói, “Nếu có hai người bàn luận về Thiên Chúa thì sẽ có ít nhất ba Thiên Chúa.” Nghe giảng nghĩa hoặc giải thích Phúc Âm mà không tự nghiệm nơi chính mình thì quả là vô ích, chỉ biến sự thể thánh thiện tham dự thánh lễ trở thành nỗi khổ trói buộc phải thực hiện do sự e sợ một cách thiếu hiểu biết. Thế nên, sự giảng giải chỉ là phương tiện cho người khác chứng nghiệm. Lẽ đương nhiên, sự giải thích về Chúa chắc chắn không phải là Chúa. Bởi vậy, những ai nghe tiếng Đức Giêsu hoặc nói rằng theo Ngài hay tin nơi Ngài, tin vào Thiên Chúa mà không suy nghiệm Phúc Âm, chỉ là kẻ nói láo, chẳng những tự lừa đảo, lừa cả Chúa, mà còn muốn đánh lừa những người khác. Không nghiệm chứng Phúc Âm chắc chắn sẽ không biết đức tin là gì, Thiên Chúa thế nào, Nước Trời là gì. Và hơn nữa lại càng u tối về Tin Mừng Nước Trời.
 
Tất cả những sự giải thích, tất cả mọi sách vở đều chỉ là phương tiện giúp con người nghiệm chứng, thăng tiến nơi hành trình đức tin chứ không phải là đức tin cũng như không giúp ích gì cho đức tin của bất cứ ai; bởi sự giải thích không thể nào nói lên được cảm nghiệm thực sự nơi tâm hồn con người. Tôi đưa lên một thí dụ điển hình để quý ông bà anh chị em cảm nhận. Chẳng hạn sự giải thích về trái chanh, có chăng chỉ làm người nghe rệu nước miếng chứ không ai có thể cảm thấy chua như chúng ta đã có lần nhai một múi chanh. Như vậy, chúng ta cần đọc Phúc Âm và để ý suy tư để nghiệm ra Lời Chúa được áp dụng nơi tâm hồn mình, nơi cuộc đời mình như thế nào.
 
Lời Chúa, lời Phúc Âm nói lên sự thể, thực thể tâm linh nơi chính mình. Chẳng hạn để tâm suy tư câu, “Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn Ta không đáng làm môn đệ Ta” có nghĩa gì. Phỏng chúng ta có thể yêu Chúa hơn vợ chồng, con cái, hoặc cha mẹ không? Vậy cha mẹ, con cái có ý nghĩa gì mà Phúc Âm muốn đề cập tới. Chúa có cần chúng ta yêu không? Yêu Chúa là gì? Yêu như thế nào? Mình đã thực hiện trong cuộc đời ra sao? Tại sao lời Chúa lại nhắc đến sự so sánh giữa hai phương diện thế tục và tâm linh như vậy? Tóm lại, chủ đề đầu tiên của bài Phúc Âm nhắc nhở và khuyến khích chúng ta nên để tâm đọc và suy gẫm Lời Chúa, biến Lời Chúa trở thành sống động nơi cuộc đời mình. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 5 C PHỤC SINH (Gioan 13:31-33a, 34-35)   
 
Bài trích phúc âm theo thánh Gioan.
 
Khi Giu-ña ñi roài, Ñöùc Gieâ-su noùi: "Giôø ñaây, Con Ngöôøi ñöôïc toân vinh, vaø Thieân Chuùa cuõng ñöôïc toân vinh nôi Ngöôøi. Neáu Thieân Chuùa ñöôïc toân vinh nôi Ngöôøi, thì Thieân Chuùa cuõng seõ toân vinh Ngöôøi nôi chính mình, vaø Thieân Chuùa saép toân vinh Ngöôøi."
"Hôõi anh em laø nhöõng ngöôøi con beù nhoû cuûa Thaày, Thaày coøn ôû vôùi anh em moät ít laâu nöõa thoâi. Thaày ban cho anh em moät ñieàu raên môùi laø anh em haõy yeâu thöông nhau; anh em haõy yeâu thöông nhau nhö Thaày ñaõ yeâu thöông anh em. ÔÛ ñieåm naøy, moïi ngöôøi seõ nhaän bieát anh em laø moân ñeä cuûa Thaày: laø anh em coù loøng yeâu thöông nhau."
 
Chúng ta đều biết, phúc âm Gioan là thành quả của sự chiêm nghiệm, sản phẩm của tâm hồn ngất trí suy nghiệm về cuộc đời và những sự dạy dỗ của Chúa Giêsu. Phúc âm Gioan được viết vào khoảng từ năm 90 đến năm 110 sau Công Nguyên, nghĩa là sau khi đức Giêsu lên trời, đồng thời cũng sau ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca; ba phúc âm này thường được gọi chung là phúc âm nhất lãm bởi nội dung và diễn trình quảng diễn tương tự nhau.
 
Có điều đặc biệt là chỉ phúc âm Gioan nói về các môn đệ phải biết yêu thương nhau; điều này khêu gợi nơi tâm tưởng người đọc liên tưởng đến khúc mắc có lẽ có điều gì phiền hà đã đang hiện hành, gây chia rẽ, bất mãn nên phải nói đến yêu thương nhau mới xứng đáng là môn đệ của Chúa; trong khi nơi phúc âm nhất lãm, có nhắc tới lại nói về sự yêu thương kẻ thù nghịch; chẳng những cầu nguyện cho họ mà dẫu bị tát má bên này lại còn nên chìa má bên kia cho họ tát.
 
Bình tâm nhận định về tâm tính con người hiện thực, những ưu ái đối với mình của những người sống quanh ta thường ít được nhắc tới và thường được chấp nhận như lẽ đương nhiên. Nhưng bất cứ sự gì không vừa lòng mình, nó dằng dai dằn vặt tâm trí, tâm tình chúng ta. Cũng thế, những gì hợp với mình như thái độ, lối sống, nhưng không hợp với hàng xóm, láng giềng cũng khiến thái độ, tâm tình của họ phần nào bị phiền hà; ấy là chưa nói tới hành vi, cử chỉ khi giao tiếp, liên hệ. Điều thường tình, không ai giống ai và cũng không ai hoàn toàn hòa hợp với bất cứ ai. Chúng ta thử nhìn thẳng vào cuộc sống hôn nhân của mọi gia đình sẽ chứng thực được thực thể bình thường nhưng thật đối nghịch này. Không cặp đôi vợ chồng nào sinh ra đã hoàn tòan hợp nhau, mà thực ra, chỉ vì nhau mà thay đổi, vì nhau mà cải thiện, cải cách.
 
Có lẽ điều hiển nhiên khác thường này đã khiến tác giả phúc âm Gioan chú trọng đến vấn đề yêu thương, Thiên Chúa Cha yêu thương Con một của Ngài; rồi vì yêu thương nhân thế nên sai Con một của Ngài xuống cứu vớt nhân loại, quả hơi nghịch với Thánh Kinh. Một bà Evà lỗi lầm vì lỡ không biết ngừa thai, có bầu, thích ăn rở, thèm của chua nên bị cái bầu kích thích ăn trái táo xanh, chưa chín, bởi chín thì nó đã thối rụng, sao có thể ăn, thế mà bị phạt dây dưa đến cả ông tổ loài người và con cháu sau này. Thế nhưng, một Thiên Chúa công bằng, ngay thẳng lại vui lòng thí Con một mình cho con cháu Evà giết hại lại hớn hở mà tha hết tội cho chúng dù chúng phạm thượng đến đâu miễn là không phạm đến Thánh Thần. Cái chủ thuyết yêu thương nơi phúc âm Gioan quả là nghịch thường và thế tục, hữu vi, chưa thoát khỏi giới hạn nhân sinh.
 
Nơi phúc âm nhất lãm, mệnh lệnh yêu thương kẻ thù mới thực sự làm cho con người quay quắt, không biết lối nào mà mò. "Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt. 5:44-48).
 
Đọc phúc âm, nếu cứ đọc được sao, hiểu vậy theo nghĩa từ chương, chắc chắn người đọc sẽ cho rằng phúc âm viết những gì không tưởng. Tuy nhiên, hãy nhảy vào câu chuyện dụ ngôn, đóng thử một đôi vai trò trong dụ ngôn đó mới thấy phúc âm thật lạ lùng. Thí dụ nơi mệnh lệnh dụ ngôn yêu mến kẻ thù địch rồi nghiệm lại bản thân. Phỏng có kẻ địch nào nguy hại và đốn mạt hơn chính mình đối với mình. Có câu nói, "Kẻ thù nguy hại nhất đối với tôi là chính tôi." Nghiệm được như thế mới thấy sự hoàn thiện của Thiên Chúa nơi phúc âm không đơn giản như đầu óc thế tục có thể nghĩ tới.
 
Tóm lại, Lời Chúa qua bài phúc âm theo thánh Gioan khuyến khích chúng ta bình tâm suy nghiệm về thực thể hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người. Bình tâm hồi ức lại con người của mình ra sao, lối sống của mình có thể hiện được, minh xác được thực tại tối thượng nơi mình hay không. Cố gắng tỏ ra, hay thực hiện bất cứ gì hầu bày tỏ lòng yêu thương đến người khác mà không biết mình thế nào, không biết yêu thương chính mình thì mình đã chẳng yêu thương ai.
 
CHỦ NHẬT 6 C PHỤC SINH 2001 (Gn. 14:23-29)
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố trình bày khá nhiều vấn đề tu đức. Thứ nhất,  “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy.” Vấn đề thứ hai đối nghịch với vấn đề thứ nhất, “Kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy.” Kèm theo hai vấn đề này đó là Thiên Chúa ngự trị nơi những người tuân giữ lời dạy của Đức Giêsu, và những lời dạy của Đức Giêsu chính là thánh ý của Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đi rao giảng. Vấn đề thứ năm đó là Thánh Thần Thiên Chúa sẽ dạy cho con người mọi điều cần biết và sẽ nhắc nhở, soi sáng cho con người thấu hiểu những lời giảng dạy của Đức Giêsu. Vấn đề thứ sáu, Sự bình an Phúc Âm nhắc nhở đến không giống sự bình an chúng ta thường quan niệm hay mơ ước. Vấn đề cuối cùng, thêm một lần nữa Đức Giêsu nói rõ Thiên Chúa Cha cao trọng hơn Ngài.
 
Chúng ta đều biết, những lời giảng dạy của Đức Giêsu được ghi lại nơi Phúc Âm dưới nhiều hình thức chẳng hạn những câu nói khôn ngoan, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu,” hoặc dụ ngôn, câu truyện ba người đầy tớ, truyện cây vả, truyện đứa con hoang đàng, hay lối nói ám định, vải mới không vá áo cũ, người ta không đổ rượu mới vào bì cũ, v.v… Muốn tuân giữ những lời dạy của Đức Giêsu, trước hết cần đọc Phúc Âm. Bởi vì chỉ đọc suông không mang lại ích lợi gì nên lại cần suy nghiệm những lời dạy, những ngụ ngôn, hay câu nói ám định, sao cho ý nghĩa có thể áp dụng nơi cuộc đời mỗi người một cách hợp lý hợp tình, biến những lời dạy nơi Phúc Âm thành sự khôn ngoan mình nên theo.
 
Mời quý ông bà anh chị em thử thực tập suy nghiệm câu, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu.” Nếu chỉ đặt vấn đề con rắn khôn ngoan thế nào và con chim câu chân thực ra sao, chúng ta không cách nào áp dụng câu nói này nơi cuộc đời. Cho rằng “Rắn khôn dấu đầu” để rồi áp dụng nơi việc đời theo sự khôn ngoan thế tục, “Xít cho bụi rậm,” câu nói này không thể nào áp dụng nơi mọi trường hợp. Tuy nhiên, nếu ai đọc bộ Chu Dịch do cụ Phan Bội Châu soạn, chúng ta sẽ thấy nơi quẻ Khảm có lời chú giải, “Đương lúc lòng người còn bế tắc nếu mình cứ giữ một cách đường ngay mực thẳng tất nhiên lời nói của mình khó lọt tai mà công việc cũng hỏng.” Đồng thời nơi sách Trang Tử có câu nói, “Vì có thân xác như mọi người nên lối sống như mọi người nhưng lòng chúng ta khác hẳn.”
 
Đem tổng hợp hai nhận định khôn ngoan này và so sánh với câu Phúc Âm chúng ta sẽ nhận ra được ý nghĩa thâm trầm, “Ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu.” Đại khái câu này có nghĩa, thái độ, cách cư xử của chúng ta nên hiền hòa, nhã nhặn nhưng trong lòng cần phải cân nhắc lợi hại, thiệt hơn, giữ sao cho tâm hồn mình công chính, thanh thản. Tuy nhiên, nếu đem áp dụng câu này nơi trường hợp phải đối diện với những kẻ bất trắc và để ý nghiệm xét, chúng ta mới nhận biết lời Chúa dạy quá thâm trầm và vô cùng khôn ngoan. Có lần nói chuyện với một cụ già khi đề cập đến câu nói này, cụ lên tiếng, “Lời Phúc Âm nên đổi ngược lại mới đúng. Hãy khôn ngoan như con chim bồ câu và chân thực như con rắn.” Chúng ta thường ít khi bị đụng chạm với những người ăn nói bộc tệch, văng mạng vì đã biết họ như thế và lẽ đương nhiên, chấp với người điên thì điên hơn kẻ điên và chỉ có người dại mới chấp với kẻ say. Ngược lại, những kẻ bất trắc mưu đồ ẩn giấu dưới thái độ mềm mỏng dễ thương, “Khẩu phật tâm xà,” chắc chắn chúng ta vì không để ý nên thường bị lạm dụng, tới khi chuyện xảy đến, có ăn năn thì đã muộn, mang tiếng hoặc mối hại lớn vì đã trở thành công cụ cho ý đồ bất chính của người khác bởi đã không chín chắn suy nghiệm, cân nhắc.
 
Qua sự thử nghiệm đơn sơ như thế, chúng ta thấy được lời Phúc Âm trình bày những sự khôn ngoan một cách ám định và ngắn gọn đòi hỏi chúng ta suy nghiệm chín chắn và thâm trầm để áp dụng chẳng những nơi hành trình tâm linh, hành trình nhận biết thực thể con người và sự hiện diện cũng như hoạt động của Thiên Chúa nơi mình, mà còn giúp chúng ta áp dụng sự khôn ngoan này nơi cuộc sống thường ngày vì chúng ta luôn luôn phải đối diện với muôn chiều hướng thế tục vây bọc. Nếu ai để tâm suy nghiệm Phúc Âm sẽ nhận rõ được một điều, đó là càng suy nghiệm về Phúc Âm bao nhiêu, chúng ta càng cảm nhận được sự không ngoan vô cùng của Lời Chúa bấy nhiêu. Tuy nhiên, nếu đã không để tâm suy nghiệm Phúc Âm, càng ngày chúng ta càng thấy Lời Chúa trình bày một cách quá tối tăm khiến lòng chán nản buông lơi.
 
Qua nhận định này, chúng ta hiểu được câu nói khác nơi Phúc Âm, “Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm cho mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” (Mt. 13:12). Thử tự hỏi chúng ta có thường đọc và suy nghiệm về những câu nói hay câu truyện nơi Phúc Âm hay không chúng ta sẽ có câu trả lời rõ ràng mình có yêu mến Chúa hay không. Tuyên xưng hoặc cho rằng hay nghĩ rằng mình yêu mến Chúa mà không đọc Phúc Âm, không suy nghiệm Lời Chúa tất nhiên chỉ là tự lừa dối. Phúc Âm rõ ràng công bố thực trạng nghiệm chứng của chúng ta bằng cách đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy,”…”Kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy.” Câu này có nghĩa, ai tôn kính Thiên Chúa, tôn kính Đức Giêsu thì nghiệm chứng những câu nói khôn ngoan nơi Phúc Âm. Ai không nghiệm chứng Phúc Âm tất nhiên không thể tôn kính Thiên Chúa bởi muốn tôn kính thì cũng không biết Chúa là gì, Chúa như thế nào sao có thể tôn kính.
 
Tóm lại, bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích và thách đố chúng ta tự hỏi nơi lòng mình về sự thực hành lòng yêu mến Chúa nơi phương diện nhận biết về những lời dạy của Đức Giêsu qua Phúc Âm. Muốn tuân giữ những lời dạy của Đức Giêsu, chúng ta cần đọc Phúc Âm và để tâm nghiệm chứng trong cuộc đời. Ai không đọc, không suy nghiệm Phúc Âm được gọi là kẻ không yêu mến Thiên Chúa, không yêu mến Đức Giêsu. Nói theo bài Phúc Âm vừa được công bố, bất cứ ai không đọc, không suy nghiệm Lời Chúa sẽ không được Thánh Thần soi sáng vì điều có cũng bị giựt mất và được gọi là không giữ lời dạy của Đức Giêsu. Nếu đem áp dụng nơi việc sống đạo, tham dự thánh lễ, đọc kinh, rước sách… đều là những sinh hoạt thờ phượng, sinh hoạt tôn giáo chứ không phải sự tuân giữ lời dạy của Đức Giêsu, cũng không phải lòng mến tin Thiên Chúa mà chỉ là phương diện bày tỏ lòng mến. Lòng yêu mến Thiên Chúa, lòng yêu mến Đức Giêsu chính là sự suy nghiệm những lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc âm. Amen.
 
 
CHỦ NHẬT 7C PHỤC SINH (Gioan 17:20-26)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Gioan.
 
Ngước mắt lên trời, Chúa Giêsu lên tiếng, “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con. Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa."
 
Một câu hỏi đơn giản ai cũng biết và ai cũng có thể trả lời; đó là một cộng với một bằng mấy? Tôi nghĩ mấy em bé học lớp một và ngay cả một số em chưa đi học lớp mẫu giáo cũng biết. Ai cũng biết thế; các nhà khoa học lại càng biết hơn, và nếu chúng ta có hỏi bất cứ ai, một cộng với một bằng mấy, coi chừng họ ngớ ra và cho rằng chúng ta bị nóng đầu do hỏi một cách ngớ ngẩn câu hỏi mà trên mật đất này ai cũng biết.
 
Nhưng thử đặt vấn đề, một cái hồn cộng với một cái xác thì bằng mấy; chắc không ai trả lời bằng hai; mà nếu đứa bé mới gia nhập lớp mẫu giáo lỡ nói bằng hai thì cũng không ai thèm chấp.
 
Chúng ta tin rằng mình có linh hồn bởi được nghe nói thế, bởi được dạy dỗ như vậy, nhưng thử hỏi linh hồn chúng ta thế nào, nó màu gì, hình dạng ra sao, và làm sao có thể minh chứng mình có linh hồn thì coi chừng đó lại là chuyện kinh thiên động địa ít ai dám đặt vấn đề và thường không dám nghĩ đến, hoặc đôi lần chợt nghĩ đến thì đã vội tránh suy nghĩ bởi cho rằng sự hiểu biết của mình quá giới hạn nên lờ đi cho nhẹ đầu óc, mặc dầu luôn luôn tin chắc mình có linh hồn.
 
Bài phúc âm vừa được công bố nói về sự việc Chúa Giêsu cầu nguyện. Ai đọc mà không biết thế. Có điều, bài phúc âm chẳng những khuyến khích mà còn thách đố chúng ta sử dụng hồng ân suy nghĩ, suy tư để tránh tội phạm đến Thánh Thần, tội mà xưa nay, nay xưa chúng ta đã vô tình vấp phạm do không nhận biết.
 
Xin đừng vội bào chữa rằng mình không có cơ hội đến trường lớp nên dốt nát, không biết suy nghĩ, suy tư, suy nghiệm là gì. Quí ông bà anh chị em có được cuộc sống hài hòa, ăn nên, làm ra, giải quyết được những khó khăn bất thường nơi cuộc sống, tất nhiên khả năng suy nghĩ, suy tư để giải quyết vấn đề tuyệt vời; sao dám nói rằng không có khả năng suy nghĩ, suy tư. Đồng ý rằng, những chuyện làm ăn, tính toán, cách sống, lối đối xử trong liên hệ xã hội là những chuyện thế tục trong cõi nhân sinh, nhưng gốc gác của những phản ứng có suy nghĩ, gốc gác của những tính toán sống sao cho đối với gia tộc, cho liên hệ họ hàng trên thuận dưới hòa, hoặc làm lụng hay buôn bán phải chi tiêu hoặc dành dụm ra sao; tất cả đều bắt nguồn từ sự suy tư, suy nghĩ.
 
Ai cũng có suy tư, suy nghĩ; nói cách khác, ai cũng có hồng ân suy nghĩ nhưng thường quen dùng nơi phương diện sinh sống nhân sinh, thế tục, và không được hay chưa được nhắc nhở dùng suy tư, suy nghĩ nơi phương diện tâm linh.
 
Phương diện tâm linh là gì; xin thưa đó chỉ là suy nghĩ để trả lời những câu hỏi đơn sơ nhất về chính cuộc đời mình. Tôi là ai, xấu tốt như thế nào; tại sao tôi được sinh ra; mục đích cuộc đời của tôi là gì; chết rồi tôi sẽ đi về đâu; v.v...
 
Vì chưa để ‎ý đặt vấn đề nên mới thoạt nghe, hoặc mới suy tư về những vấn đề này ai cũng thấy tối tăm mắt mũi không biết nghĩ sao. Nhưng đừng vội nản, phúc âm đã dạy rõ ràng, "Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ đã không có thì dù có ít cũng bị cất đi." Kinh nghiệm sống ai cũng biết, càng suy tư, suy nghĩ thì càng ngày càng thấy dễ dàng nhưng không để ý thực dụng thì khi bắt đầu sẽ như rợ vào rừng.
 
Suy nghĩ, suy tư là một hồng ân nếu không suy nghĩ là khinh chê hồng ân làm người. Tất nhiên, không suy nghĩ, suy tư, chắc chắn sẽ được gọi là ngu muội. Không ai chấp nhận bị gọi là ngu muội nơi thế giới nhân sinh.
 
Nơi diễn trình tâm linh, nói theo ngôn từ tôn giáo, đó là hành trình đức tin. Chúng ta cần đặt vấn đề bằng nhiều cách hầu nhận biết, nhận thức đức tin là gì. Và muốn biết đức tin là gì lại cần biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì, như thế nào. Không sử dụng suy tư, suy nghĩ để nhận biết chính mình thế nào, ra sao, Tin Mừng, đức tin là gì được phúc âm gọi là tội phạm đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha.
 
Khinh chê hồng ân suy tư, suy nghĩ thì suốt đời ngu muội, sẽ không biết mục đích cuộc đời của mình là gì, không biết đức tin là chi. Chúa cũng không thể giúp kẻ không suy nghĩ, suy tư. Chúa cũng không bổ đầu kẻ ngu muội để nhét sự khôn ngoan vô được.
 
Bài phúc âm hôm nay nói về lời cầu của đức Giêsu cho mọi người nhận biết Thiên Chúa và mình là một. Đây chỉ là lối giải thích cách khác về Tin Mừng Nước Trời. Tin Mừng Nước Trời chính là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Ngay đầu thánh lễ, linh mục thông báo, "Chúa ở cùng anh chị em" và chúng ta thưa, "Và ở cùng cha." Linh mục cùng với chúng ta tuyên xưng, tuyên dương Thiên Chúa đang ở cùng mọi người; chúng ta tuyên xưng thực thể Nước Trời; chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mọi người, giữa mọi người.
 
Đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Thực lòng suy tư, suy nghĩ để nhận biết quyền lực của Thiên Chúa nơi mình được gọi là có đức tin. Không suy tư, suy nghĩ để nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình mà chỉ nói theo, dẫu có đức tin cũng kể như không.
 
Xin Chúa chúc lành nơi anh chị em.
 

THĂNG THIÊN 2001 (Lc. 24:46-53)
 
Đọc Phúc Âm nếu để ý, chúng ta thấy bốn Phúc Âm được kết thúc khác nhau. Phúc Âm Matthêu đặt nơi miệng Đức Giêsu lời dạy, “Vậy các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi. Và này Ta sẽ ở với các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28: 19-20). Phúc Âm Marcô nhấn mạnh sự luận phạt với lời dặn, “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu còn ai không tin thì sẽ bị luận tội” (Mc. 16:15-15). Đồng thời, Phúc Âm Marcô kèm thêm một vài dấu chỉ minh chứng những ai được gọi là tin nơi Đức Giêsu. Phúc Âm Gioan được kết thúc với lời dặn dò thánh Phêrô chăm sóc cho dân Chúa kèm theo sự tiên đoán những việc sẽ xảy đến cho ông vào cuối đời, “Quả thật Ta bảo ngươi: khi ngươi còn trẻ ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tùy ý; nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giăng tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Gn. 21:18).
 
Riêng Phúc Âm Luca nhấn mạnh về vai trò của Đức Giêsu và đặt nơi miệng Ngài lời loan báo sẽ sai Thánh Thần đến cũng như khuyên các môn đồ nên chờ đợi. Nơi cuộc sống nhân gian, nhiều khi chúng ta phải đối diện với những trường hợp khá nghịch thường đó là càng những người thiếu hiểu biết hoặc không có quyền, không có khả năng giải quyết vấn đề lại càng bới bèo ra bọ, gây thêm sự khó dễ. Những ai đã rơi vào trường hợp phải gặp những bậc vị vọng, quyền thế mới có thể cảm thấy sự khó khăn phải đương đầu với người gác cửa hay những nhân viên chuẩn bị hồ sơ trình báo. Cũng có thể những bậc vị vọng có chủ đích để người khác gặp khó khăn hy vọng vai trò của mình tăng thêm phần quan trọng chăng.
 
Tuy nhiên theo kinh nghiệm sống, những người có khả năng và quyền hành giải quyết vấn đề, thái độ và phương cách đối xử của họ lại không có vẻ gì rườm rà, phách lối, hoặc làm khó dễ người khác, mà có chăng họ hành xử như không theo lề luật nào nếu không muốn nói bất chấp luật lệ. Điều này cũng dễ hiểu vì chính họ là người nắm giữ lề luật nên không bị lệ thuộc lề luật. Qua bài Phúc Âm vừa được công bố, Đức Giêsu căn dặn các môn đồ của Ngài chờ đợi Thánh Thần do chính Thiên Chúa Cha sẽ sai đến.
 
Đức Giêsu không bắt các môn đồ của Ngài phải lệ thuộc bất cứ sự trung gian nào; cũng như Thiên Chúa Cha không đòi hỏi điều kiện gì nơi con người mà sai Thánh Thần trực tiếp hoạt động nơi mọi người. Đức Giêsu đến gian trần rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Ngài công bố cho chúng ta biết chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nơi tạo vật và như vậy, Thánh Thần không phải chỉ đến sau khi Đức Giêsu lên trời mà tự thuở đời đời đã hoạt động nơi tạo vật. Đây là ý nghĩa của lời kết thúc nơi Phúc Âm Marcô, “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.””Xét thế, Đức Giêsu đến để nói lên thực thể sự hoạt động của Thiên Chúa nơi mọi loài thụ tạo tự thuở tạo thiên lập địa mà chúng ta đã không nhận biết chứ không đem cho chúng ta bất cứ những sự gì mới.
 
Tin Mừng Đức Giêsu công bố luôn luôn hiện diện nơi mọi loài, mọi vật bất cứ thời điểm hoặc nơi chốn nào. Do đó, những sự hiểu biết nào không đặt căn bản nơi Tin Mừng, nơi sự hiện hữu tối thượng là chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi tạo vật, đều thuộc về quan niệm thế tục. Nói cách khác, nếu mục đích của bất cứ sự hiểu biết, suy tư, và thành quả nào không đem lại sự nhận biết Tin Mừng, sự nhận chân thực thể Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nơi mọi tạo vật, những hiểu biết, suy tư, và thành quả đó đều chỉ là tham vọng thế tục của con người mà thôi.
 
Suy như vậy, bất cứ công việc gì dù thuộc về những hành vi đạo đức, tôn sùng, hoặc tôn giáo hay kiếm kế sinh nhai, hoặc hy vọng có đôi chút tâm tình thoải mái mà giúp chúng ta nhận thực được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời đều là những sự thánh thiện. Nói cho đúng, tất cả những hoạt động này đều do chính Thiên Chúa đang ngự trị nơi chúng ta thực hiện… và chúng ta chỉ là công cụ cho những sự việc phải đến xảy ra. Bởi vậy, bất cứ sự việc, hoạt động nào nơi cuộc sống thường ngày theo ý nghĩ hay tùy thuộc chủ đích riêng tư đều được gọi là thế tục vì đã không giúp chúng ta nhận ra Tin Mừng, đã không giúp chúng ta nhận được sự hoạt động của Thiên Chúa nơi cuộc đời.
 
Hôm nay chúng ta mừng lễ thăng thiên của Đức Giêsu; chúng ta chung lòng kỷ niệm thời điểm Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ đã được Thiên Chúa Cha trao phó. Tương tự như thế, mỗi người chúng ta được sinh ra có cùng một mục đích đó là tìm kiếm hay nhận biết Nước Thiên Chúa, nhận biết Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng. Chẳng những thế, chúng ta còn có bổn phận tiếp tục công bố Tin Mừng Nước Trời. Tuy nhiên, nếu đã không để tâm suy nghiệm Tin Mừng Đức Giêsu đã công bố sao chúng ta có thể chu toàn bổn phận làm con dân Nước Trời.
 
Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng đều chấp nhận, có công thì được thưởng và có tội sẽ bị trừng trị như một lẽ đương nhiên. Có được cuộc sống như khoảng thời gian làm phương tiện công bố Tin Mừng mà không biết Tin Mừng là gì phỏng công lao có thể tính thế nào đối với cuộc đời đã được ban cho. Phỏng cuộc đời của mỗi người tự nó đã là hồng ân hay án phạt đối với chúng ta? Mục đích của cả cuộc đời Đức Giêsu cũng chỉ là rao giảng Tin Mừng. Chúng ta, những người nối gót theo Ngài cần phải ra sao để hoàn thành trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo? Amen.
 
 
HIỆN XUỐNG C 2001 (Gn. 20:19-23)
 
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Theo sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Thần hiện xuống nơi các tông đồ sau khi Đức Giêsu thăng thiên 10 ngày như đã được ghi lại, “Khi thời gian đã mãn, đến lễ Năm Mươi, mọi người cùng nhau đang tề tựu một nơi, thì bỗng xảy đến tự trời một tiếng rào rào như thể do cuồng phong thổi đến vang dậy cả nhà nơi họ đang ngồi. Và họ thấy những lưỡi như thể là lửa, phân tán dần mà đậu trên mỗi người trong họ. Và hết thảy họ được đầy Thánh Thần và bắt đầu nói những tiếng lạ tùy theo Thần khí ban cho họ phát ngôn” (TDCV. 2:1-4).
 
Tuy nhiên nơi bài Phúc Âm vừa được công bố chỉ viết Đức Giêsu thổi hơi và bảo các tông đồ, “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại” (Gn. 20:23). Xét về ngôn từ chúng ta thường dùng, thần có nghĩa linh thiêng, không thể nhìn thấy bằng mắt, mang quyền lực nào đó, được gọi là thần linh và chia thành hai giới đối nghịch, thần linh và tà thần. Nơi Kinh Thánh, chúng ta có thể đếm được hơn kém 553 lần nhắc đến những quyền lực vô hình có những liên hệ với con người được gọi là thần. Riêng danh hiệu Thánh Thần, Kinh Thánh nhắc tới 92 lần nhưng chỉ 3 lần nơi tiên tri Isaiah. Bốn Phúc Âm nhắc tới 25 lần, và đặc biệt Tông Đồ Công Vụ 23 lần.
 
Xét về danh hiệu Thánh Thần, Cựu Ước dùng danh hiệu Thần Linh hay Thần Khí của Thiên Chúa. Như vậy, nơi Cựu Ước, Thần Linh của Thiên Chúa đã ngự trị, tạo dựng và hoạt động tự thuở tạo thiên lập địa. Qua Phúc Âm, ba ngôi Thiên Chúa cũng chỉ là một và là cội nguồn cũng như quyền lực hiện hữu nơi mọi vật, mọi loài. Như thế, Thánh Thần đã hiện diện hoạt động từ khởi thủy. Bởi đó, mừng kính Thánh Thần hiện xuống, chúng ta tuyên xưng sự hiện hữu và hoạt động của chính Thiên Chúa nơi chúng ta, nơi tạo vật. Chúng ta tuyên dương sự tràn đổ hồng ân Thánh Thần vào thời buổi sơ khai của Giáo Hội chẳng những nơi các tông đồ mà đến cả những dân ngoại thời đó mới được nghe rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
 
Xét về sự hiện hữu và cuộc đời mỗi người, trước khi được sinh ra làm người, chắc chắn chúng ta đã có sự hiện hữu vô hình như căn bản tạo nên sự khác biệt giữa mỗi người chúng ta đối với mọi người chung quanh mà có lẽ ít ai để ý đặt vấn đề tìm hiểu. Do đó có thể nói, gốc gác của mỗi người đều được phát xuất từ chính Thiên Chúa nơi thế giới vô hình.
 
Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu của mọi loài, mọi vật. Nói cách khác, Thiên Chúa là quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu nơi mỗi người, Thiên Chúa đang hoạt động và ngự trị nơi mỗi người, hay Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây chính là Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng. Suy như vậy, tất cả những lễ nghi, những phương cách phụng thờ, các phép bí tích chính là sự tuyên dương hay tuyên xưng sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa giữa loài người, nơi tạo vật.
 
Xét nơi cuộc đời một người Công Giáo, khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã cùng với toàn thể Giáo Hội tuyên nhận thực thể sự hiện diện của Chúa để gia nhập Giáo Hội. Khi đến tuổi khôn, chúng ta học hỏi và nhận thức về con người của mình trước mặt Chúa nơi phép giải tội và sự hiện diện của Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể. Qua bí tích Thêm Sức, chúng ta một lần nữa công bố sự hiện hữu và hoạt động của Thánh Thần nơi tâm trí…dưới mọi hình thức khác nhau và được tóm gọn bằng bẩy hồng ân của Thánh Thần.
 
Như vậy, Thánh Thần đang hoạt động qua tâm trí mỗi người nhưng chúng ta thường không để tâm nghiệm xét do đó đã tưởng rằng bộ óc chúng ta suy nghĩ. Qua những nghiệm chứng về thực thể con người, qua các chứng từ do những người đã trải qua nơi trường hợp kích ngất và được gặp nguồn sáng, qua các công cuộc nghiên cứu của các bác sĩ về sự liên hệ của bộ óc con người với trí nhớ hoặc những hiện tượng khác thường liên hệ với thế giới siêu linh, chúng ta nhận biết rõ ràng chính tâm trí, chính linh hồn của chúng ta suy nghĩ chứ không phải bộ óc. Bộ óc và thân xác chỉ là phương tiện cho hồn hoạt động mà thôi.
 
Tóm lại, con người, tạo vật là sự hiện thể và hoạt động của Thiên Chúa nơi phương diện hữu hình. Tâm trí, linh hồn của chúng ta cũng là sự hiện hữu và hoạt động của Chúa một cách vô hình để điều hành và phát triển đồng thời biến chuyển thế giới hữu hình. Thiên Chúa chính là quyền lực hoạt động toàn bộ nơi mỗi người, bao gồm từ tâm trí hay linh hồn thuộc thành phần vô hình và thân xác hữu hình.
 
Mừng kính Thánh Thần hiện xuống, chúng ta tuyên dương, tuyên xưng sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi chính mình, nơi mọi sự. Nói cách khác, chúng ta đang tuyên xưng Tin Mừng Nước Trời; chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Amen.
 
 
LỄ CHÚA BA NGÔI 2001 (Gioan 16:12-15)
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố bao gồm một vài điểm ít khi chúng ta được nghe nhắc tới hoặc để ý. Điểm thứ nhất đó là còn nhiều vấn đề Đức Giêsu đã không nói vì các môn đồ, nói chung, con người thời đó chưa đủ khả năng nhận thức được. Điểm thứ nhì đó là khi Thánh Thần đến, Ngài sẽ dạy cho con người biết những sự thật. Điểm tiếp theo, Thánh Thần lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha những điều Ngài sẽ dạy cho con người.
 
Thánh ý Thiên Chúa Cha cũng chính là những điều giảng dạy của Đức Giêsu. Và như vậy, Thánh Thần đến để làm sáng tỏ những lời dạy của Đức Giêsu. Bởi Thánh Thần giúp con người am hiểu lời giảng dạy của Đức Giêsu, do đó Thánh Thần làm vinh danh Đức Giêsu. Nói tóm gọn hơn, Thánh Thần đến làm vinh danh Đức Giêsu bằng cách giúp con người am tường những lời dạy của Đức Giêsu cũng như chỉ bảo thêm nhiều điều Đức Giêsu đã không giảng dạy vì con người chưa đủ khả năng để hiểu.
 
Những lời dạy dỗ của Đức Giêsu chính là thánh ý của Thiên Chúa Cha. Phúc Âm thánh Gioan đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Trong các tiên tri đã có viết, 'Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa.' Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Gn. 6:45). Điều này có nghĩa mọi người đều được Thiên Chúa dẫn dắt và được chỉ bảo bởi chính Thiên Chúa chứ không phải chỉ một số người đặc biệt nào đó. Thế nên, bất cứ ai cũng đều có khả năng suy tư nhận biết những sự khôn ngoan tự Thiên Chúa ban cho.
 
Bởi vậy, chỉ những ai để tâm suy nghiệm những sự khôn ngoan và tìm hiểu về Thiên Chúa mới có thể nhận biết được những lời Đức Giêsu giảng dạy nơi Phúc Âm. Qua bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Thánh Thần đến để làm sáng tỏ những lời dạy của Đức Giêsu và chỉ bảo thêm cho chúng ta những điều Đức Giêsu chưa nói tới. Thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô của thánh PhaoLô cho chúng ta biết bẩy ơn của Chúa Thánh Thần (1Cor. 12:8-11). Những ơn này đều thuộc về tâm trí. Bởi thế có thể nói Thánh Thần Thiên Chúa làm việc nơi tâm trí của chúng ta. Như vậy, đạt được ơn Thánh Thần hay không tùy thuộc sự sử dụng tâm trí để tìm hiểu và suy nghiệm về Chúa hay không.
 
Xét như thế, sự tìm hiểu và suy nghiệm được Phúc Âm gọi là nghe và học từ nơi Thiên Chúa. Câu Phúc Âm, “Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật,” có nghĩa bất cứ những ai suy tư, nghiệm chứng về Thiên Chúa đều chấp nhận để Thánh Thần đến thực hiện công việc của Ngài. Những ai không sử dụng khả năng suy tư để nhận biết Thiên Chúa nơi mình đã tự động đóng cửa lòng không cho phép Thánh Thần làm việc. Suy luận đến đây, câu hỏi thường được nêu lên một cách e sợ: vậy nếu suy tư sai lầm hoặc không giống với người khác thì sao? Xin thưa, có câu nói, “Nếu đóng kín cửa ngăn ngừa phải đối diện với sai lầm thì chân lý cũng đành bó tay đứng ngoài.” Xét về thực chất con người, nào chúng ta có ai giống ai đâu! Và nếu giống về phương diện này thì khác về phương diện nào đó. Một khi chúng ta đã không giống nhau thì tất nhiên suy nghĩ khác nhau đâu có chi lạ lùng và trái nghịch.
 
Hơn nữa, mục đích tiên vàn cũng như tối hậu của con người chỉ là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài (Mt. 6:33), tức là nhận biết và nghiệm chứng thực thể Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi chính mình. Mọi người đều có cùng một điểm tới nhưng bằng nhiều phương tiện cũng như hành trình khác nhau. Có thể nói mỗi người có phương cách cũng như điều kiện và thời điểm khác nhau để đạt tới điểm chung đó là nhận biết Thiên Chúa nơi mình. Và như vậy, không hành trình nào, không con đường nào có thể là khuôn mẫu cho tất cả mọi người hay một số người.
 
Suy rộng hơn, tôn giáo cũng chỉ là phương tiện phần nào giúp con người nơi hành trình tâm linh. Tôn giáo không phải là mục đích của con người và tôn giáo cũng không phải là khuôn mẫu chung cho một số người đạt tới mục tiêu tâm linh tối hậu. Tôn giáo chỉ có thể giúp cho những người sơ cơ hoặc căn cơ thô thiển chẳng khác gì người mẹ giúp con mình tập đi nơi thời điểm chập chững. Khi đứa bé đã biết đi vững vàng, nó không cần người mẹ dìu nữa mà muốn đi tới đâu phải tự nó bước từng bước. Dù đường xa, dù hành trình vạn dặm thì cũng cần phải được khởi hành bằng một bước chân. Kinh nghiệm thực tế minh chứng, sau khi con mình đã biết đi, biết chạy vững vàng thì người mẹ không cần phải lo lắng cũng như không thể nào cấm đoán hoặc ngăn giữ con mình nên đi tới đâu hoặc về hướng nào bởi tất cả những sự cấm đoán hoặc khuôn mẫu chỉ là phương tiện giúp những người thiếu căn cơ hoặc chưa trưởng thành tránh các phiền hà hay thiệt hại cho họ mà thôi.
 
Nơi Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu rõ ràng tuyên bố Ngài là ánh sáng cho thế gian (8:12; 9:5); đồng thời nơi Phúc Âm Matthêu, ngài cũng nói, “Các con là muối cho đời,” “Các con là ánh sáng cho thế gian” (Mt. 5:13,14). Ngài không nói chúng ta là hũ đựng muối mà là muối ướp mặn đời. Ngài không bảo chúng ta là bóng đèn hay bó đuốc mà là ánh sáng cho thế gian. Chiếc hũ đựng muối không thể ướp mặn đời. Bóng đèn hay bó đuốc không soi sáng được chi. Mỗi người trong chúng ta là muối ướp mặn đời. Mỗi người chúng ta là ánh sáng cho đời. Sự thể chúng ta là muối, là ánh sáng cho đời vì Thánh Thần, vì Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người.
 
Tôi cảm thấy, nếu suy nghiệm theo câu Phúc Âm này mọi người chúng ta đều gặp phải tình trạng lặng tâm kinh sợ. Kinh sợ vì vị thế của chúng ta quá cao trọng mà đã bao lâu nay chưa hề nghĩ tới… Chúng ta đã vô tình tự khinh khi chính mình bởi đã không suy nghiệm lời Phúc Âm. Tóm lại, bài Phúc Âm nhắc nhở cho chúng ta biết chính Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi tâm trí, nơi linh hồn của mỗi người. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có mở rộng lòng để tâm suy tư, nghiệm chứng Phúc Âm và để Thánh Thần có cơ hội dẫn dắt, chỉ đường cho chúng ta nơi hành trình nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời hay không. Hôm nay chúng ta mừng kính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Xin ba Ngôi thúc đẩy và bằng mọi cách giúp chúng ta biết mở rộng lòng nhận thức Tin Mừng. Amen.
 
 
  
CHỦ NHẬT 13C (Lk. 9:51-62)
 
Bất cứ ai nếu để ý khi đọc hoặc nghe Phúc Âm, họ sẽ nhận ra cơ cấu của Phúc Âm chính là sự sắp xếp và nối kết những câu nói khôn ngoan dưới hình thức câu truyện kể về cuộc đời và sự giảng dạy của Đức Giêsu. Đồng thời nơi những câu khôn ngoan này, văn từ dùng những sự vật và sự việc bình thường để ám định sự thể thuộc về hành trình tâm linh, hành trình đức tin. Chúng ta thường thấy kiểu viết khôn ngoan này khi đọc nơi các sách đạo học Đông Phương và thường được mệnh danh là những công án.
 
Chẳng hạn, nơi Lão học, hai câu nổi tiếng nhất đó là, “Người biết không nói, kẻ nói không biết,””và, “Không làm gì nhưng không việc gì không làm.” Trang học có câu chúng ta đã quá quen thuộc, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời,” nhưng thường bị hiểu lầm dùng ám chỉ tính cách vô ơn theo ý nghĩa luân lý. Nơi Phật học có hơn 1700 công án thường được gọi công án nhà Phật. Câu nổi tiếng nhất mà cũng nghịch thường nhất nơi Lâm Tế Lục khiến ngay cả những người nghiệm chứng Phật học mới thoạt nghe cũng phải bàng hoàng đó là, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, không theo phương pháp nào, không để ai lừa dụ.”
 
Xét về tính chất của những câu nói được gọi là công án hay khôn ngoan, chúng ta nhận thấy rõ ràng điều đặc biệt đó là câu nói khiến người nghe phải ngỡ ngàng và làm đảo lộn sự suy nghĩ bình thường theo thói quen nhận thức nhân sinh. Nhờ đặc tính nghịch thường của những câu nói, các vị tổ thiền hoặc chân nhân hay thày dạy dùng chúng bắt môn sinh suy nghiệm. Theo các sách kể về cuộc đời của những vị đắc đạo để lại, có những vị suy nghiệm một câu cả một đời người; trái lại, có những người thoạt mới nghe đến câu nói đã giác ngộ chẳng hạn lục tổ Huệ năng của Nam Tông nhà Phật bên Trung Hoa.
 
Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, chúng ta thấy có ba câu khôn ngoan viết theo kiểu công án và dùng ngôn từ ám định. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu,” “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa,” và, “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.” Câu,“”Con Người không có nơi gối đầu” được Phúc Âm dùng để trả lời cho người tuyên bố đi theo Đức Giêsu tới bất cứ nơi nào. Chúng ta cũng thế, chúng ta tuyên xưng tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, noi gương Đức Giêsu, và nơi những kinh nguyện, chúng ta lặp lại những lời tuyên hứa theo chân Chúa. Thế nhưng, câu trả lời nơi Phúc Âm quả là ngược lại những gì chúng ta tuyên xưng.
 
Mọi sự, mọi loài, từ tư tưởng, ước muốn vô hình đến con người, cầm thú, cây cỏ, các vật vô tri vô giác đều mang sự hiện hữu. Nói cách khác, mọi sự đều do quyền lực hiện hữu tối thượng hiện thể dưới nhiều hình thức khác nhau. Quyền lực hiện hữu tối thượng chính là Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa câu nói “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.” Như vậy, mọi sự, mọi vật là một trong Thiên Chúa. Nơi đạo học Đông Phương mệnh danh sự thể này bằng câu nói, “Vạn vật đồng nhất thể.” Câu này có nghĩa, bất cứ sự việc, sự thể nào đều là hiện thể của quyền lực tối thượng mà thôi.
 
Nhận thức như vậy, nếu đã là một với Thiên Chúa thì không còn nơi nào ngoài Thiên Chúa để tiến tới, để nương tựa vì không có gì, không có nơi nào ngoài Thiên Chúa. Nơi câu “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết,” cùng một văn từ hay ngôn từ “kẻ chết” nhưng mang hai nghĩa khác nhau, kẻ chết phần tâm linh và kẻ chết xác thân. Như vậy, Phúc Âm cho rằng bất cứ những ai không suy nghiệm Lời Chúa, lời khôn ngoan nơi Phúc Âm đều thuộc thành phần chết về đường tâm linh, vì đã không suy nghiệm, không nhận biết, không phát triển nơi nhận thức về thực thể sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Nói cách khác, những ai không suy nghiệm Phúc Âm chẳng khác gì những thân xác biết thở, biết hoạt động, dù có sống đến bao lâu thì cũng không thể nào nhận biết hoặc thức ngộ về Tin Mừng Nước Trời, và cũng không thể nào biết được đức tin là gì.
 
Thêm vào đó, nếu hiểu theo thực thể nhận thức, bất cứ những gì đã đi vào quá khứ thì không còn gì thay đổi hay phát triển. Những kiến thức của chúng ta, những kiến thức nơi sách vở, những quan niệm sẵn có đều được coi như đã chết, thì câu nói để kẻ chết chôn kẻ chết mang ý nói về điều kiện tâm trí để nhận biết, để suy nghiệm những lời khôn ngoan. Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời thúc giục, “Phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” chứng tỏ sự rao giảng Nước Thiên Chúa quan trọng hơn bất cứ sự việc nào nơi cuộc đời con người. Tuy nhiên, nếu đã không suy nghiệm Phúc Âm, không nhận biết Nước Thiên Chúa là gì sao có thể rao giảng!
 
Nơi câu, “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa:” chúng ta đều hiểu rõ ràng Phúc Âm chỉ dùng hình ảnh người đi cày để chỉ về trạng thái tâm tư một người cần phải đạt tới mới có thể suy nghiệm Phúc Âm. Bình thường nơi tính chất con người, chúng ta nhận thức sự vật và sự việc dưới nhãn quan nhận thức có sẵn và những nhận thức này điều khiển tâm não cũng như che khuất hoặc trói buộc tâm não lệ thuộc kinh nghiệm và nhận thức nơi quá khứ. Dĩ nhiên, nhận thức và kinh nghiệm thuộc về quá khứ được coi như đã chết vì không có gì thay đổi được.
 
Bởi vậy, những ai đọc hoặc nghe Phúc Âm dưới nhãn quan thế tục nơi bất cứ phương diện nào, hoặc hiểu theo nghĩa đen tất nhiên không thể nhận thức được Nước Thiên Chúa, không xứng đáng nhận biết Nước Thiên Chúa. Tóm lại, bài Phúc Âm nói về điều kiện tâm trí một người cần có để nhận thức thực thể Nước Thiên Chúa. Muốn nhận biết Nước Thiên Chúa, chúng ta cần suy nghiệm về Thiên Chúa, sự liên hệ giữa Thiên Chúa và con người. Sau khi nhận thức được Thiên Chúa với chúng ta là một, chúng ta thuộc về Thiên Chúa, mọi sự mọi loài chính là sự hiện thể của Thiên Chúa nơi những phương diện và hình thái khác nhau, chúng ta cần vất bỏ mọi quan niệm, kiến thức thế tục, không lệ thuộc bất cứ chiều hướng nào mà hoàn toàn mở rộng tâm hồn thì mới có thể đón nhận những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm.
 
Đây cũng chính là ý nghĩa câu nói Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Ai có tai thì nghe.” Bởi vậy, nếu kẻ chết đã có thể chôn kẻ chết thì người có tai với người không có tai cũng chỉ là một mà thôi. Điều đáng tội là chính chúng ta; cho rằng mình có tai nhưng nghe cũng như không! Có lẽ thà rằng đừng được nghe lại nhẹ gánh án phạt. Amen.
 
 
CHỦ NHẬT 14C 2001 (Lc. 10:1-12; 17-20)
 
Hai lần nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, Đức Giêsu nhấn mạnh mục đích Ngài sai bẩy mươi hai môn đồ đi đến các thành Ngài có ý định sẽ tới. Ngài căn dặn họ, dù được đón tiếp hay không họ đều phải nói cho dân chúng biết “Nước Thiên Chúa đã gần đến.” Nếu đem so sánh với những câu Phúc Âm khác, lời tuyên bố,“”Nước Thiên Chúa đã gần đến,” hình như đã bị dịch không được sát nghĩa vì khi được hỏi chừng nào Nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu đã rõ ràng trả lời, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, và người ta sẽ không nói được này nước trời ở đây hay nước trời ở kia; vì này, Nước Thiên Chúa ở giữa các ông.”
 
Tuy nhiên, ngay nơi đầu bài Phúc Âm, Đức Giêsu giải thích thân phận những người được sai đi rao giảng Tin Mừng, “Này Ta sai các con như chiên ở giữa sói rừng.” Phúc Âm Matthêu thêm lời căn dặn, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16). Lý do gì đã khiến các môn đồ ra đi rao giảng Tin Mừng lại mang thân phận như chiên ở giữa đàn sói? Và đồng thời tại sao khi các môn đồ trở về trình bày những sự việc cả thể họ đã thực hiện, Đức Giêsu phải giải thích, “Các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời?” Đọc Phúc Âm chúng ta biết mục đích mà Đức Giêsu được sai đến chỉ là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43).
 
Lời công bố đầu tiên nơi cuộc đời rao giảng của Ngài chỉ là, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Nơi Phúc Âm Matthêu Ngài căn dặn, “Khi người ta nộp các ngươi thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao hay nói gì vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phảinói gì, vì không phải các ngươi nói mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi” (Mt. 10:19). Thần Khí của Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Thần Khí Thiên Chúa nói trong chúng ta có nghĩa chính Thiên Chúa nói trong chúng ta. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa là quyền lực sự sống nơi chúng ta, quyền lực hiện hữu nơi mọi loài mọi vật.
 
 Như thế, Nước Thiên Chúa là chính Ngài vì không có nơi nào mà Ngài không hiện hữu. Do đó, Tin Mừng Nước Trời, Nước Trời đã gần bên có nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Chẳng những con người của hai ngàn năm trước khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng nơi đất Do Thái mà ngay cả ngày nay, chúng ta vẫn không dám chấp nhận những lời rao giảng của Ngài. Ngày xưa, người ta đã kết án Ngài là phạm thượng cũng chỉ vì Ngài nói cho họ biết Ngài hay mọi người là con Thiên Chúa. Ngày nay chúng ta tuyên xưng mình là con Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa dám chấp nhận thực thể Tin Mừng do Ngài rao giảng. Ngày xưa chính những bà con thân thuộc của Ngài cũng đã cho rằng Ngài bị mất trí, và người thời đó đã nhân danh Thiên Chúa để giết Ngài; ngày nay chúng ta dẫu tuyên xưng tin nơi Ngài, tin nơi Thiên Chúa nhưng coi thường những lời Ngài rao giảng được ghi lại nơi Phúc Âm.
 
Tệ hơn nữa, nếu có ai dám tìm tòi, suy luận về Phúc Âm và nói lên những lời không thuận với quan niệm tưởng tượng của chúng ta về Thiên Chúa, chúng ta đã vội lên án dầu chưa kịp suy nghĩ xem lời của họ nói có lý, có hợp Phúc Âm hay không. Chúng ta khinh thường Lời Chúa; cho dù mua Kinh Thánh để ở nhà nhưng không đọc, mà có chăng chỉ dùng Kinh Thánh để trang sức cho có vẻ con nhà có đạo. Tự suy nghĩ chúng ta thừa hiểu lý do tại sao Đức Giêsu đã căn dặn các môn đồ rằng họ được sai đi như chiên giữa đàn sói. Bất cứ ai dám suy nghiệm những lời giảng dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm, đều bị người khác kết án, bởi những lời dạy này đã thức tỉnh họ nhận được bộ mặt thật mà họ muốn che dấu.
 
Chúng ta nôn nao, háo hức, chiêm ngưỡng những sự lạ được coi là cả thể đây đó nhưng không để ý sự lạ cả thể Đức Giêsu đã nói đang xảy ra nơi chính mình. Lật Phúc Âm, chúng ta sẽ đọc được câu, “Quả thật Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này, xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23). Quyền lực của Thiên Chúa ở ngay nơi mỗi người nhưng chúng ta đã không suy gẫm Phúc Âm nên không nhận biết do đó đã không thể nào sử dụng được. Ai cũng mang sự hiện hữu; ai cũng có sự sống. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mỗi người, mọi sự, mọi loài; Thiên Chúa cũng là quyền lực sự sống nơi mỗi người. Như vậy, đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Nếu ai suy nghiệm Phúc Âm sẽ nhận thực được quyền lực này nơi mình. Tuy nhiên, nếu không suy nghiệm Phúc Âm chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ có thể nghiệm chứng được Tin Mừng Nước Trời, và tất nhiên cũng không thể biết được đức tin là gì. Amen.
 
 
15C 89
 
Quý ông bà, anh chị em trong đức Kitô.
 
Trên đường lái xe đi những thành phố xa, thỉnh thoảng tôi có rước một vài người đón xe dọc đường. Tôi có kể lại chuyện này cho những bạn bè Mỹ hoặc Việt Nam nghe. Ai cũng khuyên tôi không nên đón những người bắt xe dọc đường vì chuyện này rất là nguy hiểm. Họ nói với tôi, đã rất nhiều người bị cướp xe, bị đánh thừa sống thiếu chết, và tai hoạ không thể lường được.
 
Xã hội chúng ta đang sống dạy chúng ta như thế. Chúng ta muốn giúp người nhưng chúng ta không dám vì có thể rằng giúp người mang họa vào thân. Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay nêu lên vấn đề giúp đỡ những người khốn khó và dạy chúng ta hãy làm như thế.
 
Mới đọc hoặc nghe bài Phúc Âm hôm nay, thường chúng ta cảm thấy bài Phúc Âm nói lên sự ích kỷ của một thày tế lễ và một luật sĩ, không biết thương xót người bị đánh gần chết. Bài Phúc Âm ca tụng lòng thương người của người Samaritanô. Nhưng nếu đặt lại vấn đề tại sao có bài Phúc Âm hôm nay, câu trả lời sẽ là: bài Phúc Âm chỉ trích những lề luật cấm người ta giúp đỗ lẫn nhau.
 
Theo luật Mai Sen thời Chúa Giêsu có luật gọi là luật ô uế. Luật này minh định rằng người nào bị cùi, ghẻ lở, hoặc những người nào phạm tội đương đường trước công chúng đều bị gọi là ô uế. Ai ăn thịt heo hay đụng chạm vào con heo cũng bị ô uế vì con heo được coi như con vật ô uế. Luật ô uế này còn bao gồm rất nhiều trường hợp. Chẳng hạn ai đụng vào xác chết của người hay những con vật ở ngoài đường, ngoài ruộng cũng bị ô uế. Những người bị ô uế này không được tế lễ, không được bước vào đền thánh, và bị mọi người khinh khi.
 
Người nào đã bị ô uế, phải giữ một số luật khắt khe trong thời hạn ngắn nhất là bảy ngày, phải ăn chay, đoạn tắm rửa sạch sẽ đúng theo luật định kiêng cữ cho khỏi bị ô uế, lại phải đến gặp thày chánh tế trong thời gian thi hành nhiệm vụ để được chứng thực và được tuyên bố là đã sạch sẽ thì mới được coi là bình thường. Nếu thày tế lễ chưa tuyên bố, người đó vẫn còn bị ô uế.
 
Chiếu theo luật này, thì những người theo luật Mai Sen không dám đụng người bị cướp đánh gần chết nhất là thày tế lễ và luật sĩ đang trên đường lên đền thờ tế lễ. Đụng vào xác chết là phạm luật Mai Sen, sẽ không những không được tế lễ mà lại còn không được vào đền thờ. Điều này chẳng khác gì chúng ta không dám rước người đón xe dọc đường vì sợ bị mất cả xe, què cả người.
 
Tóm lại, hiểu tập tục của người Do Thái trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, bài Phúc Âm hôm nay nói cho chúng ta biết rằng bất cứ những gì không có hại đến chúng ta mà ngăn cản chúng ta làm việc bác ái đều ngược lại với ý muốn của Chúa. Chúa muốn chúng ta ăn ở độ lượng, giúp đỡ những kẻ kém may mắn hơn chúng ta. Chúa muốn chúng ta thương và giúp kẻ khác như thương và giúp chính chúng ta.
 
Chúng ta dành đôi phút để cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta cuộc sống an bình. Hứa với Chúa là chúng ta sẽ cố gắng giúp những người cần đến chúng ta. Dâng lời hứa này hợp với thánh lễ để tôn vinh Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.
 
 
 
CHỦ NHẬT 15C (Lc. 10:25-37)
 
Chúng ta đã quá nhiều lần nghe hoặc đọc bài Phúc Âm vừa được công bố, và ai cũng đều cảm thấy quá dễ hiểu vì rõ ràng bài Phúc Âm dùng câu truyện của một nhà thông luật lệ để hỏi về điều kiện và phương thức để có sự sống đời đời. Bài Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu hỏi ngược lại về luật yêu thương và dùng dụ ngôn người Samaritanô tốt lành để giải thích về điều mà chúng ta rất ít khi hoặc không bao giờ dám để ý.
 
Dụ ngôn người Samaritanô tốt lành được tóm gọn nói lên sự làm ngơ mà bình thường chúng ta nói là không có lòng bác ái của một vị tư tế và vị trợ tế trong khi người Samaritanô bị người Do Thái coi là dân ngoại lại giúp đỡ kẻ khốn cùng. Điều mà ít ai để ý đó là Phúc Âm dùng nhà thông luật để đặt câu hỏi, lại dùng hai vị tư tế và trợ tế là những người biết rành lề luật của đạo Do Thái, đồng thời lại nêu lên người Samaritanô bị người Do Thái coi như quân vô đạo thực hiện công việc tốt lành đối nghịch với những bậc vị vọng của người Do Thái. Thử hỏi trên đường từ Jerusalem xuống Jericho đâu thiếu gì người qua lại, chứng kiến cảnh người bị cướp giựt gần chết nằm bên đường và tại sao Phúc Âm không nhắc đến những người khác đã làm ngơ đi qua mà lại dùng vị tư tế và trợ tế? Hơn nữa, nhà thông luật là người có địa vị nơi xã hội và chắc chắn ông ta phải làm việc liên quan đến luật lệ đâu cần phải hỏi ai về lề luật phương chi nói tới vấn đề phải thế nào để được sống đời đời.
 
Nếu chỉ phiếm diện hiểu bài Phúc Âm theo nghĩa đen, bất cứ ai cũng có thể nói được Lời Chúa lên án vị tư tế và trợ tế, những người mang trách nhiệm dẫn dắt dân Chúa nơi đạo Do Thái là không có đức bác ái, không thương người, không giữ luật yêu thương trong khi ca tụng dân ngoại có lòng công chính và tốt lành hơn cả những đấng làm thày giữ trọng trách tế lễ. Và như vậy, dân được Chúa chọn riêng không công chính bằng dân ngoại! Nhìn lại cuộc đời ngày nay, những ai biết lái xe không dám đón khách lỡ đường vì đã quá nhiều trường hợp chỉ vì lòng tốt lành muốn giúp người mà mang họa vào thân.
 
Cuộc đời là thế, có những việc tốt lành chúng ta muốn thực hiện nhưng không thể được bởi chưa chắc việc tốt đối với mình đã được người khác cho là tốt mà nhiều khi còn bị những điều ong tiếng ve làm nhụt lòng thành. Hơn nữa, kinh nghiệm chứng minh, càng những kẻ không ra gì lại càng hay bới móc, phê bình người khác mà quên rằng chính những điều mình nói ra chứng minh lòng dạ của mình như thế. Hai vị tư tế và trợ tế rất thông hiểu lề luật Do Thái đã được ghi chép nơi kinh Torah, đặc biệt là hai cuốn Lêvi và Dân Số. Luật nhơ uế và luật thanh tẩy của người Do Thái nơi Kinh Thánh được ghi lại rất rõ ràng nơi sách Lêvi . Chẳng hạn, sách chép, “Thỏ vì tuy thuộc loại nhai lại, nhưng không có móng xẻ hai, nó sẽ là nhơ đối với các ngươi. Lợn, tuy chân nó có móng và móng xẻ hai nhưng không nhai lại, nó sẽ là nhơ đối với các ngươi. Thịt chúng, các ngươi sẽ không ăn, thây chúng các ngươi sẽ không đụng đến; chúng sẽ là nhơ đối với các ngươi””(Lv. 11:6-8). Về đàn bà, sách chép, “Nếu sinh con gái, nó sẽ mắc uế hai tuần, như thời kinh uế, và sẽ ở cữ sáu mươi sáu ngày để tẩy uế máu. Khi đã mãn những ngày tẩy uế của nó, dù là con trai hay con gái, nó sẽ đem đến nơi cửa Trưởng Tao Phùng cho tư tế, một con chiên sinh trong năm ấy, làm lễ thượng hiến và một bồ câu non hay chim cu làm lễ vật tạ tội. Và ngươi sẽ tiến dâng trước nhan Yavê mà làm phép xá tội trên nó, và nó sẽ được tẩy uế về việc xuất huyết. Đó là luật cho phụ nữ sinh trai hay gái. Nhược bằng nó không thể sắm được một con chiên thì nó sẽ lấy hai chim cu hay hai bồ câu non, một con làm thượng hiến, và một làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ làm phép xá tội trên nó và nó sẽ được tẩy uế” (Lv. 12:5-8).
 
Hiểu luật nhơ uế như thế, chúng ta biết lý do tại sao có lễ Đức Mẹ dâng con vào đền thờ. Luật nhơ uế chẳng những ngăn cấm và bắt người Do Thái tuân giữ nhiều nghi thức mà còn lên án những người chẳng may bị tật nguyền hay mắc một số bệnh nào đó. Nơi sách dân số có ghi, “Yavê phán cùng Maisen rằng: Hãy truyền cho con cái Israel đưa ra khỏi trại mọi kẻ phong hủi, mọi kẻ mắc lậu, và mọi kẻ mắc uế vì vong linh. Dù là đàn ông hay đàn bà, các ngươi sẽ đưa chúng ra tận bên ngoài trại để chúng đừng làm nhơ uế trại là nơi Ta ngự trị” (Ds. 5:1-2). Đối với người chết, sách Dân Số chép, “Ai rờ đến người chết, đụng phải tử thi người ta sẽ mắc uế bảy ngày. Kẻ ấy sẽ rửa tội mình bằng nước thải (than đốt bò bằng gỗ bá hương) ngày thứ ba và ngày thứ bảy rồi sẽ được sạch, nhưng nếu nó không rửa tội mình ngày thứ ba và thứ bảy, nó sẽ không được sạch. Phàm ai rờ đến người chết, tử thi người ta đã chết mà không rửa tội mình thì sẽ làm nhơ uế nhà tạm của Yavê. Sinh linh sẽ bị diệt khỏi Israel! Vì nước thải đã không đổ xuống trên nó, nó sẽ mắc uế, sự nhơ uế cứ còn lại trong nó. Đây là luật: khi có người chết trong lều, thì phàm ai vào lều và mọi sự trong lều đều sẽ mắc uế bảy ngày. Phàm đồ vật nào bỏ ngỏ, trên không có nắp dây cột đều mắc uế. Phàm ai trên cánh đồng đụng đến nạn nhân gươm đâm, hay thây chết, hay xương người hay mồ mả đều sẽ mắc uế bẩy ngày.” (Ds. 19:11-16).
 
Thử hỏi, lề luật Do Thái như thế, sao vị tư tế và trợ tế dám đụng đến người bị cướp gần chết dọc đường. Sở dĩ Phúc Âm dùng người Samaritanô giúp kẻ bị nạn vì người Samaritanô không theo lề luật Do Thái nên không bị lề luật buộc. Xét như thế, bài Phúc Âm đưa lên dụ ngôn người Samaritanô tốt lành với ý minh chứng một điều, đó là bất cứ sự gì, quan niệm hay lề luật nào ngăn cản con người nhận thức và thực hiện những việc đáng làm và nên làm đều cần được đặt lại vấn đề. Nơi thư thứ nhất gửi tín hữu Thesalonikê, thánh PhaoLô khuyên chúng ta, hãy tránh điều dữ dưới bất cứ hình thức nào. Lời Chúa được trình bày như thế, đọc và suy nghiệm để thấu đáo hay không tùy thuộc mỗi người chúng ta. Amen.
 
 
CHỦ NHẬT 16C 2001 (Lc. 10:38-42)
 
Bài Phúc Âm hôm nay dùng hoạt cảnh Đức Giêsu được đón tiếp nơi nhà bà Martha. Bà bận rộn lo nấu nướng tiếp đãi Ngài trong khi người em là Maria ngồi hầu chuyện, nghe lời Ngài dạy dỗ. Công việc bếp núc trong khoảng thời gian ngắn để có được bữa ăn thịnh soạn tất nhiên bận rộn vì nhiều việc phải làm trong cùng một lúc do đó Martha cần người phụ tay; điều này các bà có lẽ kinh nghiệm hơn các ông.
 
Lẽ thường, khách đến nhà cần phải có người tiếp khách… nhưng Phúc Âm hình như được viết không để ý đến điểm này do đó nêu lên lời than của Martha, “Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với.” Xét như vậy, Phúc Âm được viết sắp xếp câu truyện để nêu lên điểm chính yếu đặt nơi miệng Đức Giêsu câu trả lời, “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.” Điều ai cũng hiểu về “Phần tốt nhất” được Phúc Âm nhấn mạnh đó là lắng nghe những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
 
Nếu ai để ý đặt câu hỏi, giả sử cả hai chị em đều chọn phần tốt nhất đó là chăm chú lắng nghe những lời dạy dỗ của Ngài thì ai sẽ hầu hạ và sao có bữa ăn cho Ngài dùng? Ngược lại, khi đặt câu hỏi như thế và nhận ra sự đối nghịch nơi câu trả lời, một đàng cho rằng công việc cần thiết hầu hạ, bếp núc chỉ là lo lắng bối rối về nhiều chuyện và lắng nghe những lời dạy dỗ của Ngài là phần tốt nhất, chúng ta mới nhận thấy bài Phúc Âm mang mục đích nhắc nhở chúng ta để ý suy nghiệm những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
 
Vậy những lời giảng dạy của Ngài ở đâu cho chúng ta tìm hiểu? Xin thưa đó là bốn cuốn Phúc Âm. Phúc Âm dùng những lời nói khôn ngoan, những câu truyện dưới hình thức dụ ngôn để giải thích về Tin Mừng Nước Trời. Nơi Phúc Âm Matthêu chúng ta đọc được, “Vậy các ngươi chớ lo mà rằng: Ta sẽ ăn gì; ta sẽ uống gì; ta sẽ lấy gì mà mặc? Các điều đó dân ngoại kiếm tìm, nhưng Cha các ngươi Đấng ở trên trời biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã và sự công chính của Ngài và những điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:31-33). Qua lời Phúc Âm chúng ta thấy, điều quan trọng tiên quyết cho đời người đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Vậy Nước Thiên Chúa là gì? Tin Mừng Nước Trời là gì, quan trọng ra sao mà Đức Giêsu đã phải dùng cả cuộc đời để rao giảng? Phương cách nào và điều kiện nào chúng ta cần phải có để nhận biết Nước Thiên Chúa qua Phúc Âm.
 
Nơi thư thứ nhất gửi tín hữu Thesalonikê, thánh PhaoLô khuyên chúng ta, “Đừng dập tắt thần khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy; hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-21). Thần Khí tức là hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa nơi tâm trí mỗi người chúng ta. Như vậy chúng ta cần mở rộng tâm hồn để ý suy nghiệm về những lời Phúc Âm vì sự suy tư, suy nghiệm thuộc về hoạt động của tâm hồn, tâm trí, linh hồn, của Thiên Chúa nội tại, của Thánh Thần, hay Thần Khí.
 
Thêm vào đó, khi nghiệm xét điều gì, chúng ta dùng hết tâm trí suy tư, đặt vấn đề và nghiệm chứng điều đó nơi cuộc đời. Hơn nữa, sự nghiệm xét mang đặc tính không lệ thuộc bất cứ chiều hướng suy tư hay kiến thức ngoại tại mà chỉ tùy thuộc tâm tư của mình. Thánh nhân rõ ràng khuyên chúng ta nghiệm xét mọi sự. Bất cứ điều gì cũng cần được đặt lại vấn đề để am hiểu tùy theo tâm trí của mỗi người. Lời khuyên của thánh nhân, “Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” mới thoạt nghe hay đọc thường bị hiểu một cách đơn giản, nhưng thực ra không đơn giản chút nào vì bất cứ gì chiều theo tham vọng, ước muốn thế tục đều là điều dữ bởi chúng ngăn cản sự thăng tiến của con người nơi hành trình đức tin, hành trình thăng tiến tâm linh. Chẳng hạn khi lên tiếng nói điều gì, người nói chịu trách nhiệm và lãnh hậu quả về chủ đích hay ý định đã phát ngôn câu nói đó. Tất nhiên, “Người công chính nói lời khôn ngoan,” trong khi kẻ ngu xuẩn sẽ trở về với sự điên rồ của nó. Đây là lý do tại sao sách Cách Ngôn có câu, “Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng trở nên giống nó” (CN. 26:4).
 
Phúc Âm cũng đưa lên những điều kiện thuộc về tâm trí để một người có thể suy nghiệm nhận biết Tin Mừng đó là không nên để những kinh nghiệm, quan niệm bình thường thế tục ảnh hưởng hay ám ảnh khi nghiệm xét những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm. Những kinh nghiệm, quan niệm thế tục chẳng khác gì bì da cũ, áo cũ, những cớ cho con người vấp phạm như mắt, tay, chân, cha mẹ, hay con cái được dùng cách ám định nơi Phúc Âm.
 
Như vậy, muốn nghiệm xét những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm, tâm trí con người cần được hoàn toàn tự do, không lệ thuộc bất cứ điều gì hay quan niệm nào. Khi còn bị lệ thuộc bởi bất cứ điều gì, có thể nói đó là lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chúng ta ai cũng đều biết Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu tối thượng ngự trị và hoạt động nơi mọi vật mọi loài. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thế nên, Nước Thiên Chúa, Nước Trời là chính Ngài. Do đó, Tin Mừng Nước Trời chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23); Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở nơi mọi người nên đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người.
 
Nhận biết Thiên Chúa nơi mình hay không, nhận biết đức tin là gì, hoặc sao có thể sử dụng đức tin để áp dụng nơi câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này xê đi, nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự,” tất cả đều tùy thuộc sự thực hành suy nghiệm những lời giảng dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 17C (Lc. 11:1-13)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Luca
 
Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông". Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ".
Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả"; mà người kia từ trong nhà lại đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được".
Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện. Cứ xin thì sẽ được "Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.
Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần u cho những kẻ xin Người?"
 
Bài phúc âm nói về việc đức Giêsu dạy các môn đồ và cả chúng ta, những kẻ tin theo Ngài cầu nguyện. Ngài dạy hãy cầu nguyện theo kinh Lạy Cha mà chúng ta đọc thường ngày. Và Ngài đoan chắc, "Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho."
 
Tuy nhiên, nơi đoạn khác, phúc âm cũng được ghi, "Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin" (Mt. 6:7-8).
 
Thử hỏi, vậy cầu nguyện là gì, nên thực hành như thế nào, và kinh Lạy Cha mang ý nghĩa ra sao? Một đàng, phúc âm Luca khuyến khích cứ xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ cửa thì sẽ được mở cho; dù Chúa có mệt mỏi muốn nghỉ ngơi, quên hết mọi sự nhưng vì sự nhì nhằng giống người bạn gặp chuyện cần kíp, rồi Chúa cũng sẽ cho. Ngược lại, Phúc âm Matthêu lại bảo đừng lải nhải như dân ngoại vì Chúa đã biết rõ điều gì mình cần ngay cả trước khi mình cầu xin.
 
Trước hết, chúng ta thử xét xem thế nào là cầu nguyện, cầu xin. Nhìn vào hiện thực cuộc sống, nơi gia đình hay bất cứ nơi đâu. Khi chúng ta đói hay khát, tất nhiên chúng ta kiếm gì để ăn. Ăn cơm, cháo, hay khoai luộc, ngô bung, thì tùy điều kiện có thể, miễn sao cho qua cơn đói; và nước uống cũng thế, tùy điều kiện chúng ta có được nước loại gì. Như vậy, để giải quyết một vấn đề, cần sự thực hiện của chúng ta. Không có người hầu cơm bưng, nước rót, chúng ta cần thực sự hoạt động. Giả sử có người mang cơm nước đến sẵn, chúng ta vẫn phải ăn trong khi đói; vì không ai có thể ăm dùm cũng như uống thế cho bất cứ ai. Ai ăn người ấy no; nhìn người khác ăn, bụng mình không thể no; cũng như nhìn người khác uống hay nghe họ giải thích lợi ích của nước hay đồ uống, chúng ta không thể hết khát. Sự thể này có thể tóm lại một câu nói lên thực trạng hiện hữu của một người, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho bất cứ ai thì cũng không ai có thể suy nghĩ dùm cho bất cứ ai.
 
Thú đến, trước khi ăn hay uống, chúng ta lại có ước muốn ăn hay uống. Ước muốn này chính là ý định, ý nghĩ, ước ao. Khi ai đó đã no bụng không muốn ăn, tất nhiên họ không cần tìm kiếm đồ ăn, hoặc không khát, họ không có ước muốn kiếm nước để uống.
 
Cũng vậy, trước khi cầu nguyện, chúng ta cần biết mình đang ước muốn điều gì. Dân gian có câu, "Con có khóc thì mẹ mới cho bú." Con không khóc đòi bú thì ép nó bú chỉ làm nó khóc thêm. Xét như thế, cầu nguyện là bày tỏ ước muốn của mình. Như vậy, gốc gác của sự cầu nguyện chính là ước muốn, ý định. Có thể nói, cầu nguyện là trình bày ý định, ước muốn của mình.
 
Trình bày ước muốn của mình với ai? Chúng ta thường vội trả lời, trình bày với Chúa. Vậy Chúa là ai, là gì, liên hệ với mình, với con người ra sao? Cầu nguyện ngày đêm mà không biết mình cầu gì, không biết mình cầu với ai thì được phúc âm lên tiếng, "Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin" (Mt. 6:7-8).
 
Muốn biết Thiên Chúa là gì, chúng ta cần biết thế nào là Nước Thiên Chúa; ngôn ngữ mới nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước gọi là triều đại Thiên Chúa. Rở Kinh Thánh, chúng ta thấy phúc âm được viết, "Sau khi Gioan bị nộp, đức Giêsu đến xứ Galilê, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa mà rằng, 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng."
 
Một điều chúng ta nên để ý đó là vào thời điểm đức Giêsu rao giảng chưa có ngôn từ "Tin mừng". Đàng khác, theo 14 nhà học giả soạn cuốn Kinh Thánh Tân Ước được in năm 1994 thì động từ ăn năn hối cải được dịch từ tiếng Hy Lạp "Metanoia." Metanoia có hơn mười nghĩa và nghĩa chính của nó là "Thay đổi hướng đi, thay đổi chiều hướng." Hơn nữa, lật nơi các bản Kinh Thánh tiếng Mỹ, ngôn từ "Gần bên" được dịch là "At hand." "At hand" có nghĩa tại đây, bây giờ và lúc này.
 
Thế nên câu phúc âm Marcô có nghĩa, "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đang hiện diện bây giờ và lúc này! Hãy thay đổi chiều hướng suy tư, nhận định và tin vào lời Ta nói."
 
Vậy phúc âm nói về Nước Thiên Chúa, Nước Trời thế nào? Phúc âm thánh Luca được viết, "Về Nước Trời thì cũng giống như hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Nó nhỏ tí thua mọi thứ hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên, thì to lớn hơn rau cỏ mà thành một cây, đến nỗi chim trời đến nương náu ở cành nó" (Mt. 13:31; Mc. 4:30-32; Lc. 13:18). Hoặc Nước Trời giống như men bột, "Về Nước Trời cũng in như men, bà nọ lấy vùi vào ba tá bột cho đến khi tất cả dậy men" (Lc. 13:33). Như vậy, theo phúc âm Nước Trời tự phát triển không cần đến ai chăm sóc, tốn công sức.
 
Phúc âm còn định vị rõ ràng về Nước Trời, Nước Thiên Chúa, "Biệt phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Ngài đáp lời và nói: 'Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền; người ta sẽ không nơi được, 'Này ở đây, hay ở đó' vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17=20-21). Chẳng những thế, khi đức Giêsu trừ quỷ, có người cho rằng Ngài nhờ chúa quỷ Bêelzêbul để đuổi quỷ thì Ngài trả lời họ, "Nếu ta nhờ Bêelzêbul thì bè phái các ngươi nhờ ai mà trừ quỷ... Ví bằng Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi" (Lc. 11:20). Điều này nói lên Nước Thiên Chúa ngay ở nơi mọi người.
 
Nước Trời gần bên, ngay tại đây, tự phát triển như hạt cải, men bột, ở trong và ở trên mọi người. Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Nước Trời ở đâu thì Thiên Chúa ở đó. Như vậy, Thiên Chúa đang ở chính nơi chúng ta, trong chúng ta. Đây là Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây cũng là lời tuyên xưng, tuyên dương của mọi người khi linh mục bắt đầu những nghi lễ thờ phượng, "Chúa ở cùng anh chị em" "Và ở cùng cha."
 
Thiên Chúa ngự trị và đang hoạt động nơi mình thì khi mình thực sự ước muốn, ước mơ, mình đang sử dụng quyền lực của Chúa nơi mình, mình dùng đức tin, quyền lực của Thiên Chúa. Như vậy, cầu nguyện là bày tỏ ước muốn với Thiên Chúa đang ngự trị nơi mình, dùng đức tin thực hiện điều mình thực sự ước muốn.
 
Chúng ta đọc kinh Lạy Cha hằng ngày, sáng, trưa, chiều, tối mà hình như không để ý suy nghĩ kinh Lạy Cha có nghĩa gì. Trước hết, "Lạy Cha chúng con ở trên trời," Thực thể hiện hữu bao gồm hữu hình và vô hình. Thiên Chúa là Đấng vô hình. "Chúng con nguyện danh cha cả sáng" có nghĩa chúng con ước muốn mọi người nhận biết Cha. "Nước Cha trị đến" cũng có nghĩa ước mong mọi người nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình.
 
"Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời." Chúa Giêsu được sai đến để thực hiện thánh ý của Thiên Chúa và công việc Ngài thực hiện chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, "Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (Lc. 4:43).
 
Thánh ý của Thiên Chúa là mọi người nhận biết Tin Mừng, nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Thế nên, ước mong, "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" cũng chính là ước mong mọi người nhận biết Tin Mừng, nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động ngay nơi chính mình.
 
Chúng ta đọc lời cầu như thế nhưng chúng ta đã biết, đã nhận thực được như thế chưa?
 
 
 
CHỦ NHẬT 18C (Lc. 12:13-21)
 
Khi đọc hoặc nghe bài Phúc Âm vừa được công bố, nhận thức kinh nghiệm sống hiện về rõ ràng nơi tâm trí mỗi người. Ai cũng thế, vào đời đơn độc và ra đi lạnh lùng. Cuộc đời này không ai dọn sẵn cỗ cho ai và cũng không ai đợi chờ cơ hội sẵn cỗ ngồi vào. Nơi cuộc sống, tay làm hàm nhai, tay quai tất nhiên miệng trễ. Nếu ai để ý xem xét sẽ nhận được điều khá lạ lùng đó là có những người chịu khó làm lụng cực khổ, ăn tiêu chừng mực thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo trong khi lại cũng có những người chúng ta thường gọi là được sinh ra trong bọc điều, làm chơi ăn thật, giầu có, cuộc sống thảnh thơi. Tuy nhiên, cho dù có cuộc đời thế nào chăng nữa, khi xuôi tay nhắm mắt, người giầu có, quyền hành cũng như nghèo hèn, khốn khổ, đều bị chôn vùi nơi lòng đất và xác thân trở thành tro bụi như nhau. Nếu có những trường hợp đặc biệt lại tùy thuộc cuộc sống tâm linh của người đó thế nào.
 
Qua nhận xét tổng quát như thế, chúng ta có thể nêu lên nhận định: cuộc đời là phương tiện cũng như cơ hội cho con người trong giai đoạn có sự hiện hữu hữu hình. Và vì có xác thân nên của cải vật chất là phương tiện giúp con người tiếp tục sống để hoàn thành sứ mạng được trao phó… cũng như công việc làm là phương tiện cung cấp nhu yếu, là kế sinh nhai để con người tiếp tục sống. Nếu nhận xét về sự sống của một con người, chúng ta được sinh ra với đầy đủ những điều kiện thiết yếu như nhau, dẫu có những trường hợp đặc biệt mà bình thường, chúng ta chưa có đủ khả năng để nhận biết nguyên nhân tại sao.
 
Ai cũng có con tim liên tục đập, lá phổi thở, mắt mũi, tay chân v.v… nhưng vì đã không để ý tìm hiểu chính mình, chúng ta cho thân xác của mình là sự thường bởi đó đã đặt nặng giá trị của một người dựa trên giá trị tiền bạc, tài sản, của cải mình có được. Khi đặt giá trị con người nơi tiếng tăm gặt hái được qua công việc hay lối sống, chúng ta có câu, “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.” Tiếng ở đây là tiếng tốt chứ không phải tiếng xấu. Hay như quan niệm của Nguyễn Công Trứ qua lời thơ, “Đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.” Hoặc đôi khi chúng ta thấy nơi những chương trình truyền hình, người ta định giá con người bằng giá trị Mỹ kim. Ông nghệ sĩ này trị giá vài triệu Mỹ kim, nữ tài tử kia vài chục triệu hoặc hơn hay kém. Thử đặt lại vấn đề, giả sử con tim của chúng ta không đập mới đáng ngại, không nhà lớn, không xe đẹp, chúng ta vẫn sống. Dù được định giá bao nhiêu hay không bao giờ được ai để ý, cuộc đời hoặc giá trị của con người chúng ta cũng thế mà thôi. Khi xuôi tay nhắm mắt, thân xác của ai rồi cũng như ai, trở về lòng đất.
 
Như vậy, giá trị của một người không tùy thuộc bất cứ gì mà tự có giá trị bởi có được sự hiện hữu, có cuộc đời nơi dương thế. Tự xét, chúng ta không ai biết lý do tại sao mình được sinh ra trong cuộc đời và vì lý do gì mình có cuộc đời như mình đang có. Thêm vào đó, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, bất cứ ai trong chúng ta cũng cảm thấy tha thiết với cuộc sống đồng thời sợ chết và chúng ta cho rằng cuộc đời là một hồng ân vì mình đã được sinh vào thế giới hữu hình như nơi kinh Cám Ơn chúng ta thường đọc và có lẽ ít khi để ý,“”Con cám ơn Đức Chúa Trời là Đấng hằng có, lòng lành vô cùng, chẳng để con không đời đời mà đã sinh ra con, cho con được làm người.””Đọc nơi Phúc Âm chúng ta biết mục đích chính yếu của cuộc đời mỗi người đó là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và các sự khác sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:33). Như vậy, đối với những ai đặt niềm tin nơi Đức Giêsu và những lời giảng dạy của Ngài, cuộc đời được ban cho chính là cơ hội để thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
 
Và như vậy, cuộc đời là phương tiện để nhận ra thực thể Tin Mừng Nước Trời Ngài đã rao giảng. Cuộc đời một người chính là hành trình để tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, mục đích tối hậu của những ai tin nơi Phúc Âm đó là cuộc sống đạt tới thực thể Tin Mừng Nước Trời, nhận thực ra Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động từng giây từng phút nơi mình;có cuộc sống minh chứng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Phúc Âm Mátthêu nói thêm, “Vì thế Ta bảo các ngươi: Chớ lo cho mạng sống mình, các ngươi ăn gì, hay về thân xác, các ngươi mặc gì. Há mạng sống không hơn của ăn và thân xác không hơn áo mặc sao? Hãy coi chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao? Ai trong các ngươi chỉ lo mà có thể thêm cho đời mình một gang nữa? Còn về áo mặc, các ngươi lo làm gì? Hãy ngắm hoa huệ ngoài đồng xem chúng lớn lên thế nào? Không nhọc nhằn, cũng chẳng canh cửi! Nhưng Ta bảo các ngươi: Salômôn trong tất cả vinh hoa đời ông cũng không ăn vận sánh tày một đóa hoa đó. Nếu cỏ đồng nội, nay còn, mai sẽ quăng lò mà Thiên Chúa còn mặc cho như thế thì huống chi là các ngươi, hỡi quân yếu tin!” (Mt. 6:25-30).
 
Tóm lại, mỗi người được sinh ra với cuộc đời được kiến tạo qua những môi trường khác nhau vì được gọi theo những hành trình khác nhau nhưng tựu trung mục đích tối hậu của mỗi người vẫn chỉ là đạt tới thực thể Tin Mừng Nước Trời, nhận biết thâm sâu chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình. Bởi Thiên Chúa ngự trị nơi chúng ta nên đức tin chính là quyền lực của Ngài nơi mỗi người mà chúng ta vẫn chưa nhận biết. Phúc Âm cũng khuyên chúng ta, những gì chúng ta cầm buộc lòng dạ mình, những gì chúng ta theo đuổi nơi cuộc sống này, linh hồn chúng ta sau khi chết sẽ lệ thuộc những ước mơ ấy. Cuộc đời được ban cho trở thành cơ hội thăng tiến đức tin hay án buộc linh hồn sau này tùy thuộc mục đích, ước muốn của mỗi người ngay bây giờ và những ngày còn sót lại trước khi từ giã cõi trần. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 19C 2001 (Lc. 12:32-48)
 
Khi suy gẫm bài Phúc Âm vừa được công bố để soạn giảng, tôi có cảm nghĩ chúng ta không ai dám để ý hoặc cố tình không muốn hiểu lời dạy, “Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát.” Ai cũng có thể nhận thấy không nên thực hiện theo nghĩa đen lời khuyên này bởi nếu bán hết những gì mình có để bố thí thì người đầu tiên đáng được bố thí lại là chính mình. Thêm vào đó, giả sử bán hết, cho hết thì cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao? Nhà cửa đâu cho chúng ta trú ngụ? Và sao chúng ta có thể sống bên vệ đường nơi mảnh đất mùa hè thì nóng như đổ lửa, mùa đông lạnh cóng cho dù áo trong, áo ngoài mà vẫn còn rét run… Hơn nữa, nếu chẳng may rơi vào hoàn cảnh vô gia cư, cảnh sát cũng không để yên vì sống bờ sống bụi cũng là một cái tội nơi đất nước này. Thế rồi tương lai con cháu của chúng ta sẽ ra sao khi không có tiền đóng học phí cho nhà trường.
 
Nhận định như vậy, nếu cứ theo gương năm cô trinh nữ khờ dại, bảo sao nghe vậy do không chịu suy nghĩ để áp dụng Lời Chúa theo nghĩa đen, chúng ta đã vô tình vì quá chân thành đến độ khờ dại tự biến mình thành kẻ vô gia cư và làm hại đến tương lai con cháu sau này. Tuy nhiên, tôi không nghĩ Lời Chúa đề nghị những điều phi lý. Điều chắc chắn chúng ta có thể đoan quyết đó là Lời Chúa chỉ dạy và dẫn dắt chúng ta thăng tiến trên hành trình đức tin, hành trình tâm linh, nhận biết về thực thể của chính mình. Vấn đề quan trọng, ắt có và đủ để có thể am tường, thấm nhập, và thực hiện Lời Chúa trong cuộc đời lại là một tâm hồn mở rộng, thực tâm suy nghiệm về những lời nói khôn ngoan nơi Phúc Âm. Tôi mời gọi quý ông bà anh chị em cùng tôi suy nghiệm câu Phúc Âm kế tiếp, “Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng dạ các con cũng ở đó.”
 
Chúng ta thường hiểu hai tiếng “Kho tang” mang nghĩa của cải vật chất, tiền bạc, những sự giầu có nơi trần gian này. Thử xét, chúng ta có nhà, có xe, có tiền, không nhiều thì ít, nhưng thực sự lòng dạ của chúng ta hiện giờ đang ở nơi đâu? Tôi nghĩ, ai cũng biết rõ một điều đó là hoặc chúng ta đang để ý nghiệm xem những gì tôi phân tích có hợp lý hợp tình hay không hoặc chúng ta đang để tâm nơi chuyện toan tính nào đó chứ chưa chắc lòng dạ chúng ta ở nhà hoặc ở xe hay nhà băng. Lòng dạ chúng ta thay đổi điểm đích tùy thuộc ý định, ước muốn về những điều gì theo từng giai đoạn thời gian.
 
Hơn nữa, lật nơi những bản dịch Kinh Thánh khác nhau, hai tiếng kho tàng được dịch thành “tài sản,” hoặc “tiền bạc,” hoặc “tham vọng,” hay “ước muốn.” Kinh nghiệm sống minh chứng, có những người đàn ông bỏ nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn để xây tổ ấm với người đàn bà khác; hoặc cũng có những người đàn bà bỏ tất cả ra đi quên tình, bỏ nghĩa theo tiếng gọi mới của con tim. Lại cũng có những người vì tham vọng chính trị chính em hay quyền cao chức trọng, đôi khi chỉ là chút danh hão huyền mà đã làm cho gia đình tan nát. Đồng thời cũng có những người đã có quyền cao, chức trọng nhưng lòng dạ còn muốn thêm chút tình lẻ làm nguy hại gia đình người khác. Những thực trạng xã hội này minh chứng sự thật rõ ràng đó là khi ước muốn của con người ở đâu thì lòng dạ của họ cũng ở đó.
 
Qua nhận định như thế, câu Phúc Âm, “Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng dạ các con cũng ở đó,””phải được hiểu: vì ước muốn các con ở đâu thì lòng dạ các con ở đó. Khi tôi đang thực tập chương trình thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện “Southern Baptist Hospital” ở New Orleans, tôi phải ghé thăm một bà già người Mỹ mà y tá nói rằng bà ta buồn sầu không ai có thể khuyên giải rất có hại cho việc chữa trị. Nói qua nói lại về chuyện trời mưa trời nắng để tìm hiểu nguyên nhân, tôi không thể nào hiểu được bà cụ bị phiền hà vì chuyện gì. Tôi định bụng ghé thăm hôm sau may ra có giúp chi được bà cụ chăng nên trước khi cầu nguyện cho bà, tôi hỏi bà muốn tôi cầu nguyện cho bà điều chi đặc biệt. Thế là mắt bà dường như chợt sáng lên mang đầy nét hy vọng và nói, “Xin cầu nguyện cho con chó của tôi ở nhà vì từ hôm tôi vào bệnh viện không có ai nói chuyện với nó.”
 
Xét như vậy, Lời Chúa dạy qua Phúc Âm, “Hỡi các con bé nhỏ, các con đừng sợ vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí,” mang nghĩa chúng ta hãy quăng những gánh lo âu đi mà vui sống vì Thiên Chúa đã ban nước trời cho chúng ta, vì nước trời ở giữa chúng ta, vì Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người; chúng ta chỉ cần định tâm, dồn hết tâm trí suy tư về thực thể linh thiêng, huyền nhiệm là chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vị thế của chúng ta trước nhan Chúa quá ư cao trọng nhưng đã không được nhận biết.
 
Nói tóm gọn, nếu để tâm nhìn lại cuộc đời mình, nhận thực con người mình thế nào để nhận ra mình đang thực sự ước muốn gì, chúng ta sẽ biết rõ ràng lòng dạ chúng ta đang được định hướng nơi nao. Là Kytô hữu, chúng ta tuyên xưng, chúng ta cho rằng mình tin nơi Đức Giêsu, mình tin tưởng nơi Thiên Chúa. Nếu thực sự chúng ta tin Đức Giêsu, những lời giảng dạy của Ngài, những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm tất phải mang ước muốn tìm hiểu của chúng ta. Lời Chúa, lời Phúc Âm phải là những đề tài cho tâm trí chúng ta luôn luôn nghiệm xét. Và như vậy, bài Phúc Âm tuần này khuyến khích, thách đố mỗi người chúng ta tự nhận biết lòng dạ của mình đang được định hướng ra sao. Chúng ta chứng tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa bằng cách nghiệm xét Phúc Âm hay cũng chỉ theo đạo tơ lơ mơ như những người khác đã bị chúng ta gọi là vô thần hay tôn thờ ngẫu tượng đều tùy thuộc lòng dạ chúng ta có để ý suy nghiệm Phúc Âm hay không.
 
 
 
CHỦ NHẬT 20C 2001 (Lc. 12:49-53)
 
Lời Phúc Âm vừa được công bố đã khiến chúng ta ai nấy đều cảm thấy ngỡ ngàng bởi xưa nay chúng ta thường được nghe giảng dạy rằng Đức Giêsu đến đem bình an cho mọi người. Ngài là Thiên Chúa của sự an bình. Dĩ nhiên, nơi cuộc đời trần ai vất vả, lắm nỗi nguy nan khốn khó, chúng ta vẫn thường cầu xin Chúa ban cho sự an bình chẳng những nơi tâm hồn mà cả cuộc đời. Phúc Âm Luca cũng ghi lại khi Đức Giêsu được sinh ra, “Các thiên thần cùng đoàn lũ cơ binh trên trời ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh quang Thiên Chúa trên trời và dưới đất bình an cho kẻ người thương” (Lc. 2:14). Tuy nhiên, qua Phúc Âm Luca, Đức Giêsu rõ ràng tuyên bố chẳng những với các môn đồ mà còn cả với chúng ta, “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ.”
 
Thực ra, nơi cuộc sống thế trần, Đức Giêsu không đem đến sự chia rẽ thì cũng đã chia rẽ từ muôn thuở bởi không những thân xác, hình thức bên ngoài mà ngay cả tâm tính không ai giống ai; đâu có người nào chịu chấp nhận xuôi theo lề lối hoặc ý nghĩ của người khác. Tự xét nơi cõi lòng, mỗi người chúng ta đều là một quan tòa theo ý riêng, xét xử luyên thuyên và phê bình tất cả mọi người chung quanh bởi họ đã vô tình hay hữu ý có thái độ hoặc thực hiện những công việc không hợp hoặc không theo khuôn mẫu hạn hẹp riêng của mình. Cũng có thể bởi nếu không lên tiếng nói nọ kia thì không ai biết mình quan trọng nên chúng ta cần họ để ý đến mình chăng; thế nên chúng ta cần tỏ cho họ biết ít nhất mình đang hiện diện nơi cõi trần gian này.
 
Cổ nhân chúng ta để lại câu ngạn ngữ, “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn.” Bể Đông tức là biển Thái Bình, ôm dọc theo bờ biển Việt Nam. Từ ngàn xưa tới nay, bể Đông vẫn đầy nước; tất nhiên chưa ai có thể tát cạn. Như vậy, vẫn chưa có cặp vợ chồng nào thuận nhau. Gia đình vẫn lâm vào cảnh Phúc Âm đề cập tới, cha mẹ, con cái chống nhau, nhất là nàng dâu và mẹ chồng thì ai cũng rõ. Sự thể chống đối hiển nhiên đã như thế tại sao Đức Giêsu lại đề cập đến nơi Phúc Âm. Sự chia rẽ, chống đối theo phương diện nào đối với những kẻ tin theo Ngài. Chúng ta đã nhiều lần nghe hay đọc những câu Phúc Âm, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta,” hoặc, “Nếu mắt các con nên cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc mà quăng nó đi;” “Nếu tay các con nên cớ vấp phạm cho các con thì hãy chặt mà quăng nó đi,””nhưng đâu có ai thực hiện theo nghĩa đen.
 
Đại ý những câu Phúc Âm này dùng cha mẹ, con cái, mắt, tay để ám chỉ về quan niệm, chiều hướng suy tư bình thường thế tục không thể dùng để am hiểu Phúc Âm. Chúng ta cần dứt bỏ mọi quan niệm quen dùng để nhận định về sự việc cuộc đời hầu có một tâm hồn mở rộng, không bị lệ thuộc hay ràng buộc hoặc ám ảnh bởi lối suy tư thường tình thì mới có thể nghiệm chứng Lời Chúa nơi Phúc Âm. Bởi vậy, sự đối nghịch, chia rẽ mà Phúc Âm nói tới ở ngay nơi tâm tư mỗi người khi đem so sánh với những sự khôn ngoan của Lời Chúa được giãi bày qua những lời dạy dỗ của Đức Giêsu. Chẳng hạn xưa nay chúng ta đã được dạy theo lối ám định qua câu nói, “Thiên Chúa ngự trị trên chín tầng trời, vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời,” nhưng chúng ta đã vô tình hiểu theo sự tưởng tượng về một nơi chốn nào đó cao vời, xa xôi không ai biết được, trong khi Phúc Âm thánh Gioan được viết, “Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Gn. 4:23).
 
Như vậy, sự thể đã rõ ràng, bất cứ ai tin nơi Đức Giêsu đều cần và phải để ý suy nghiệm những lời giảng dạy của Ngài được ghi lại nơi Phúc Âm. Kẻ nào nói hay nghĩ rằng mình tin vào Đức Giêsu mà không suy nghiệm Phúc Âm đều là những người hoặc là không tin gì hết hoặc là tôn thờ ngẫu tượng bởi họ không cần biết họ tin gì. Sự chia rẽ, đối nghịch phát sinh từ sự khác biệt giữa lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm và quan niệm thế tục, hữu vi thường tình chúng ta đã quá quen thuộc nơi cuộc sống.
 
Nhận định như thế, bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích và thách đố mỗi người chúng ta tự đặt lại vấn đề về đức tin, niềm tin, cũng như thái độ, sự thực hiện đức tin của chúng ta đối với những lời giảng dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Chúng ta tuyên xưng, chấp nhận, và nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như những lời giảng dạy của Ngài là đường, là sự thật, và là sự sống. Vậy thái độ của chúng ta thế nào đối với những lời dạy của Ngài? Chúng ta có bao giờ tự hỏi Đức Giêsu dạy chúng ta những gì không? Chúng ta có bao giờ lật Phúc Âm để nhận ra sự thật Ngài dạy không? Lời dạy của Ngài là đường vậy con đường này dẫn chúng ta tới đâu? Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa như thế nào? Ngài mang đến Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Cứu Độ, vậy Tin Mừng Nước Trời là gì? Ngài nói thế nào về Tin Mừng nơi Phúc Âm? Đức Giêsu dạy chúng ta về đức tin hay lòng tin như thế nào? Tại sao hoặc ý nghĩa thế nào khi Phúc Âm ghi lại câu nói của Đức Giêsu, “Những ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta?” Phỏng nghe và học nơi Thiên Chúa có nghĩa mở rộng lòng suy nghiệm những lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm?
 
Hôm nay chúng ta cùng với ca đoàn Sao Mai mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Chúng ta cùng hiệp lòng dâng lên những lời cảm tạ vì Chúa đã ban cho chúng ta một hồng ân đặc biệt đó là các công sức và những cố gắng mà các thành viên của ca đoàn đã đóng góp cho cộng đồng để có lời ca, tiếng nhạc giúp chúng ta ca tụng Thiên Chúa và Đức Mẹ. Ai cũng nhận biết rõ một điều đó là chúng ta chỉ bị phiền hà vì những điều tốt lành chúng ta thực hiện với lòng chân thành.
 
Lẽ tất nhiên, sự việc nào cũng tự hàm chứa ít nhất hai phương diện hay động lực đối nghịch, thuận lòng người này thì lại phiền tâm trí người khác. Dẫu chúng ta đã quá quen thuộc với câu ca dao, “Ở sao cho vừa lòng người,” nhưng chúng ta thường có những ước mơ muốn người khác hoàn thành những gì chính mình thiếu sót, thế nên hát nhiều khi phát sinh hỏng để thuận câu nói hát hỏng. Bởi đó, nhân ngày ca đoàn mừng lễ quan thày, chúng ta thành tâm khẩn cầu cùng Chúa trả công bội hậu cho quý anh chị em thành viên của ca đoàn đồng thời chúng ta cũng cầu xin Chúa và Đức Mẹ soi sáng, tăng thêm năng lực cho quý anh chị em trong công việc giúp cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa. Amen.
 
 
 
ĐỨC MẸ LÊN TRỜI C (Lc. 1:39-56)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Luca
 
Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em".
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời". Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
 
Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Mẹ lên trời nhưng bài phúc âm lại nói về việc đức Mẹ đến thăm bà Elizabeth vợ của ông Giacaria, bố mẹ của thánh Gioan Tiền Hô. Theo phúc âm thì lúc đức mẹ đến thăm, ông Giacaria vẫn chưa thể nói được gì mãi cho tới khi thánh Gioan Tiền Hô được đặt tên. Đồng thời, sau lời chào hỏi của bà Elizabeth, Đức Mẹ nói lên lời ngợi ca và chúc tụng Thiên Chúa.
 
Chúng ta không thể nói được gì về sự thể Đức Mẹ hồn xác lên trời vì phúc âm cũng không nhắc đến sự kiện này. Đây là giáo điều giáo hội dạy phải tin. Bình tâm nhận định, nếu cho rằng phúc âm là lời giảng dạy của đức Giêsu thì sao đức Giêsu có thể dạy về sự việc đức mẹ đi thăm bà Elizabeth. Sự kiện này nêu lên hiện trạng cần thiết của tâm trí khi chúng ta suy nghiệm phúc âm, và đó là cần áp dụng nguyên tắc "Ăn năn hối cải" (Mc. 1:15) theo đúng nghĩa gốc nơi ngôn ngữ Hy Lạp "Metanoia," hãy suy nghĩ khác thường, hãy đặt lại vấn đề nhận định để đạt tới nhận thức tâm linh nơi hành trình đức tin.
 
Mục đích chính của cuộc đời Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Lc. 4:43) nên trọng tâm của những ai tin theo Ngài tất nhiên phải là suy tư, suy nghiệm để có được nhận thức đúng đắn, rõ ràng về Tin Mừng Ngài rao giảng.
 
Làm sao để áp dụng nguyên tắc căn bản "Metanoia" nơi tâm trí để nhận thức phúc âm, chúng ta nên áp dụng theo lời dạy của thánh Phaolô, "Hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1 Thes. 5:21-22); với điều kiện, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).
 
Có lẽ, chính vì sử dụng nguyên tắc suy tư, suy nghiệm với những điều kiện tâm trí này mà thánh Phaolô nhận thức được, "Anh em không biết sao: anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em" (1Cor. 3:16), Nói cách khác, thánh Phaolô nhấn mạnh hơn, "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa và anh em không còn thuộc về mình nữa" (1 Cor. 6:19).
 
Thực thể nhận thức này đâu khác gì lời đức Mẹ ca tụng Thiên Chúa nơi phúc âm, "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi."
 
Chúng ta dùng đôi giây phút nâng tâm hồn lên cảm tạ Thiên Chúa đã dùng đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu và cũng thực hiện những việc lạ lùng nơi cuộc đời mỗi người chúng ta. Xin Ngài sai Thần Khí của Ngài soi sáng và thúc đầy tâm trí mỗi người suy tư, nghiệm xét hầu nhận thức rõ ràng sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi cuộc đời mỗi người. Amen.
 
 
CN21C (Lc. 13:22-30)
 
Suy niệm về bài Phúc Âm vừa được công bố, tôi thực sự nghĩ rằng tất cả chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ sẽ đặt vấn đề về câu hỏi được nêu lên, Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Mọi người đều là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta đồng thời quan niệm rằng Thiên Chúa là Cha nhân từ và xót thương; Ngài là Đấng thánh thiện và là sự thánh; Ngài không từ chối một ai và muốn cho mọi người được cứu rỗi cho dù người đó thế nào.
 
Điều này được minh chứng nơi câu truyện Phúc Âm nói về chủ chăn nhân từ và con chiên lạc. Đặt vấn đề như vậy, câu hỏi được nêu lên và đó là cứu độ có nghĩa là gì và cứu độ khỏi sự gì? Phúc Âm nói rõ ràng về mục đích sự rao giảng của Chúa Giêsu và đó là công bố tin mừng nước trời, Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (Lc. 4:43; 8:1; 20:1; Mt. 4:23; 9:35; Mc. 1:14). Tôi muốn nhắc lại, Phúc Âm thánh Luca đoạn 4, câu 43, nói rằng mục đích mà Đức Giêsu được sai đến là để rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa. Theo Phúc Âm, Đức Giêsu cũng chỉ sai các môn đồ đi rao giảng về tin mừng nước trời mà thôi.
 
Chúng ta có thể đọc được điều này nơi Phúc Âm thánh Mathêu, đoạn 10, câu 7,Hãy đi và loan báo rằng: 'Nước trời đã gần bên,'" hoặc Và Ngài nói với họ: 'Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo'" (Mc. 16:15; 13:10). Phúc Âm thánh Mathêu đoạn 6, câu 33, nói rõ cho chúng ta biết về điều quan trọng nhất của cuộc sống con người và đó là “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người rồi mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các ngươi." Xét suy như vậy, chúng ta cần được cứu thoát khỏi sự mù tối bởi không chịu tìm hiểu hay suy nghĩ về Phúc Âm để nhận biết Nước Thiên Chúa.
 
Chúng ta cảm nghiệm được rõ ràng Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mỗi người. Cảm nghiệm này minh chứng Thiên Chúa đang làm việc nơi chính thân xác chúng ta. Suy nghĩ kỹ hơn, Thiên Chúa chính là quyền lực của mọi sự hiện hữu, hữu hình cũng như vô hình. Chúng ta nói rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, và như thế, nước Thiên Chúa là chính Ngài. Do đó, tin mừng nước Thiên Chúa, tin mừng nước trời có nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa đang hiện diện, đang làm việc nơi mỗi người chúng ta từng giây từng phút. Thiên Chúa chính là quyền lực khiến con tim đập, khiến lá phổi thở; nói cách khác, Ngài là quyền lực sự sống nơi mọi người, mọi loài; Ngài là quyền lực hiện hữu của tạo vật.
 
Không nhận biết Thiên Chúa, không nhận biết thực thể quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi chính mình, nơi mọi tạo vật, con người dễ dàng hướng chiều theo khát vọng thế tục; điều mà Phúc Âm thánh Mathêu gọi là ý tưởng của loài người nơi đoạn 16, câu 23, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Lc. 8:33). Bởi đó, sự u tối do bởi không suy tư, không chịu học hỏi Phúc Âm để nhận biết tin mừng nước trời là cội nguồn của mọi sự tội lỗi nơi cuộc đời con người. Nhận định như thế, chúng ta có thể hiểu được tại sao Phúc Âm được viết những người tuyên xưng ăn uống đồng bàn và được nghe những lời giảng dạy nhưng đã bị từ chối, “Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta.”
 
Nếu tự đặt mình vào vị thế những người gõ cửa, khá nhiều vấn đề chúng ta cần để tâm suy xét. Trước hết là Kytô hữu, chúng ta tuyên xưng tin nơi Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa. Nói rằng tin nơi Đức Giêsu vậy những lời giảng dạy của Ngài có vị thế nào nơi cuộc đời mỗi người chúng ta? Phỏng chúng ta có biết Ngài đã giảng dạy những gì để theo hay không? Phỏng chúng ta có dành thời giờ đọc Phúc Âm và để tâm suy nghiệm những điều Ngài đã rao giảng hay không? Vì lý do gì những người đã được nghe những lời giảng dạy bị Phúc Âm gọi là những kẻ làm điều gian ác? Tại sao Lời Chúa khuyến khích chúng ta cố gắng vào qua cửa hẹp? Bởi đâu Phúc Âm được viết, “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” trong khi những người được nghe giảng dạy lại bị từ chối? Lý lẽ nào minh chứng có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ trở nên sau hết? Nếu lấy sự việc lên đò và xuống đò qua sông theo cách thức ngày xưa để giải thích người xuống đò sau hết sẽ lên bờ trước hết như đã có sách viết thì ngày nay không hợp nữa bởi chiếc phà đưa người và xe qua sông thời nay có hai cửa, xe nào xuống trước sẽ lên trước.
 
Xét theo sự thực lòng ăn năn hối cải vào phút cuối cuộc đời thì chưa chắc kẻ đợi phút cuối đã có cơ hội. Thế nên, câu Phúc Âm ám định về sự để tâm nghiệm chứng nơi hành trình đức tin. Thuở ban đầu, bất cứ ai cũng đều gặp những khó khăn suy nghiệm cũng như định tâm suy tư bởi đã quá quen lề lối suy nghĩ thế tục. Tuy nhiên, nếu ai thực tâm và cố gắng suy nghiệm, lâu dần thành quen thì sự suy nghiệm về Lời Chúa càng ngày càng phát triển và dễ dàng hơn. Sự để tâm bền chí suy nghiệm này được Phúc Âm giải thích bằng câu, “Kẻ đã có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ đã không có thì dù có ít cũng sẽ bị lấy mất.” Mục đích tối hậu của con người đó là tìm kiếm Nước Trời, nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị nơi mình. Thế nên, bất cứ sự việc hay tính toán hoặc âu lo nào làm cản trở hành trình đức tin, làm phiền hà sự nhận biết tin mừng Nước Trời đều thuộc về thế tục.
 
Bởi vậy, những ai không để tâm suy nghiệm Lời Chúa hầu nhận biết Tin Mừng đều được gọi là những kẻ làm điều gian ác. Họ làm điều ác cho chính họ do tự ngăn cản hoặc đã không cần biết gì về Tin Mừng Đức Giêsu công bố cho họ biết. Hơn nữa, là con người, chúng ta phải lo suy xét và tính toán mưu sinh do đó chúng ta bị những lề lối hay thói quen suy nghĩ thế tục ám ảnh. Những lối suy nghĩ thế tục này ngăn cản hoặc che mờ tâm trí rất khó cho chúng ta suy nghiệm Phúc Âm. Như vậy, con đường hẹp mà Phúc Âm nói tới chính là sự suy nghiệm những lời giảng dạy của Đức Giêsu được ghi chép nơi Phúc Âm. Đây có thể là lý do tại sao Phúc Âm ghi lại câu nói, “Ta bảo các ngươi biết: Nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được.”
 
Kinh nghiệm thực tiễn nơi mỗi người minh chứng, đã có nhiều lần chúng ta cảm thấy nản lòng vì nghe hoặc đọc Phúc Âm nhưng không thể nào hiểu được Lời Chúa muốn nói gì. Cố gắng suy luận, dùng những sự kiện nơi cuộc sống làm căn bản nghiệm chứng thì Lời Chúa thuận hoặc phù hợp nơi trường hợp này lại không thể nào chấp nhận được nơi trường hợp khác. Quá nhiều lần gặp phải sự khó khăn như thế sinh lòng chán nản nên chúng ta thường nghe giảng giải cho qua, và như vậy, vô tình càng ngày chúng ta càng để tâm trí lánh xa Lời Chúa để rồi cho rằng chỉ đi lễ, đi nhà thờ và tuân theo lề luật Công Giáo là đủ để được cứu rỗi. Đức Giêsu đến công bố Tin Mừng, giải thoát chúng khỏi vòng nô lệ thế tục hầu nhận ra vị thế cao trọng của mình nơi Thiên Chúa. Muốn nhận biết Tin Mừng, muốn được cứu thoát khỏi vòng nô lệ thế tục hay không đều tùy thuộc sự nghiệm chứng Phúc âm mà thôi. Amen.

 
CHỦ NHẬT 22C 2001 (Lc. 14:7-14)
 
Bài Phúc Âm nêu lên những điểm đối nghịch với lòng ham muốn của mọi người chúng ta. Điểm thứ nhất, thường thìai trong chúng ta cũng cảm thấy mình là người quan trọng và muốn được mọi người để ý. Thế nên, giả sử tham dự những buổi tiệc tùng hoặc đám xá nào, chúng ta, bằng cách này hay cách khác, qua lời ăn tiếng nói hoặc thái độ, cử chỉ, đều tỏ ra mình thuộc giới không phải thứ thường. Hoặc nơi những trường hợp giao tế hay truyện vãn thường ngày, chúng ta bày đặt hay kiếm đủ mọi cơ hội tạo nhận định khinh chê về bất cứ ai hay sự việc nào với hy vọng được những người khác cho rằng mình cũng thuộc loại hiểu biết.
 
Tuy nhiên, nếu để ý suy nghĩ về thái độ này, chúng ta đều nhận ra mình đang vô tình quảng cáo không công cho người khác và những người nghe tất nhiên cũng nhận ra mình đang cố gắng đánh lừa họ. Như vậy, sự ham muốn được người khác coi mình là một thứ gì chỉ đem lại hậu quả tai hại đó là mình đã tự minh chứng mình là người không ra gì. Thực ra, đâu ai trong chúng ta chê người cùi là thứ hủi và cũng đâu ai trong chúng ta cần phải nói lên những lời khinh chê kẻ không ra gì.
 
Suy như thế, khi nói lên những điều không nên không phải về bất cứ ai, chúng ta đã vô tình minh chứng người đó có cuộc sống hoặc thực hiện những công việc xứng đáng hơn mình. Lời Chúa khuyên chúng ta, “Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên.” Tôi trộm nghĩ, có thể Lời Chúa đã bị dịch không đúng nghĩa vì có ai hạ mình đâu mà là chính mình tự hạ. Bởi thế, câu Phúc Âm có nghĩa, vì hễ ai nhắc mình lên tức là đang tự chà đạp chính mình. Những ai huênh hoang lên giọng thày đời đều là người dại vì chỉ người dại mới thích tỏ ra mình khôn ngoan. Người dại mới muốn chứng tỏ mình không dại do đó cố gắng kiếm tìm mọi phương diện và cơ hội để tỏ ra mình cũng là một thứ gì nơi cuộc đời.
 
Riêng câu nói “Ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên,” chỉ có thể đúng nơi trường hợp tự nhận thức mà thôi. Khi tự xét lương tâm với nhãn quan trung thực về chính mình, chúng ta đều nhận thấy đã bao lâu nay mình quá dại dột, vụng về. Biết bao công sức đã tan thành mây khói cũng chỉ vì những ý thích hoặc hy vọng mơ hồ, viễn vông; chẳng những thế, mình đang phải cay đắng trả giá cho những mơ ước ngày xưa.
 
Nhận chân thực thể nội tâm như thế, chẳng cần phải hạ mình thì chúng ta cũng không bao giờ có can đảm khoe khoang những sự thất bại, lầm lỗi của mình, ngoại trừ người nào đã thông đạt và muốn giúp người khác tránh khỏi vết xe đổ mình vô tình đã dại dột vấp phạm. Ngược lại với tâm tình nhận thức này, bất cứ ai cố ý hạ mình để được nhắc lên tất nhiên đã giả dối. Và như vậy, sự cố ý hạ mình chỉ là mưu toan hầu đạt được ý đồ thầm kín nào đó. Chúng ta thường được nhắc nhở qua lời Kinh Thánh, “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài.” Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chẳng những thế Ngài còn nói cho chúng ta biết những ai tin vào Ngài sẽ làm được những công việc Ngài đã thực hiện.
 
Hơn thế nữa, vì Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi mỗi người, thế nên vị thế của mỗi người nơi tạo vật quả là quá ư cao trọng mà chúng ta đã không nhận biết. Bởi vậy, khiêm nhu hay khiêm nhường đều có nghĩa hãy là chính mình. Không có tạo vật nào trước nhan Chúa cao trọng hơn con người. Từ nhận thức này, chúng ta có thể suy luận, bất cứ thái độ nào hoặc tỏ ra thế nọ thế kia hoặc hạ mình xuống hay cất nhắc mình lên đều là giả dối, đều làm phương hại đến sự cao trọng nơi vị thế làm người của mình.
 
Sự so sánh hơn kém về những vị thế nơi phương diện thế tục, quyền này chức kia, hoặc kẻ sang người hèn, kẻ giầu người nghèo, đều trở thành vô nghĩa khi chúng ta xuôi tay nhắm mắt. Cho dù chức tước cao vời đến đâu hoặc quyền hành hay tiền của tới mức độ nào thì đã vào đời với đôi bàn tay trắng, lúc ra đi ai cũng trở thành trắng tay để bị chôn vùi dưới vài lớp đất. Chắc chắn rằng không ai trong chúng ta thực hiện theo nghĩa đen của lời khuyên, “Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, và đui mù bởi họ không có gì trả lễ.” Thử hỏi, giả sử có ai cố ý làm như thế thì sao những người tàn tật, què quặt và đui mù có thể tới mà tham dự tiệc được. Hơn nữa, dẫu họ tới được thì cũng không thể nào tham dự bàn tiệc nơi những bàn ghế kiểu cách được dành cho người bình thường. Và cho dẫu cố gắng biến bữa tiệc thành buổi phát chẩn thì cũng không ai có đủ tay chân để phục dịch các quan khách cần được chăm sóc một cách đặc biệt như thế.
 
Suy luận như vậy, những người được gọi là nghèo khó, tàn tật, què quặt, và đui mù nơi Phúc Âm chính là những ai có lòng khát khao tìm hiểu Tin Mừng Nước Trời mà chưa nhận biết. Được gọi là nghèo khó vì tâm trí của họ dồn hết nơi lòng khát vọng muốn biết Tin Mừng thay vì những hình thức cao trọng thế tục. Họ được gọi tàn tật, què quặt, và đui mù vì đã bị những lý thuyết, những kiến thức thế tục chất chứa dày đặc bịt kín cửa ngõ tâm linh, che mờ hành trình đức tin, hành trình nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Suy như thế, chúng ta hiểu được tại sao Phúc Âm viết, “Khốn cho các ngươi biệt phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi không vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản.”
 
Dụ ngôn về thái độ những người tham dự tiệc cưới thích chọn những vị thế cao trọng ám chỉ về ước muốn thế tục nơi mỗi người chúng ta. Lẽ thường, là con người, ai cũng muốn chẳng những có cuộc sống vươn lên mà còn muốn trở thành cao trọng. Ngược lại, chúng ta đã không nhận ra vị thế cao trọng của mình trước mặt Chúa. Bài Phúc Âm khuyên chúng ta nên để tâm suy nghiệm về sự cao trọng nơi mình. Chúng ta không cần phải trở nên gì vì không có gì nơi thế trần này cao trọng hơn chúng ta. Chúng ta mang hình ảnh của Chúa; chúng ta là đền thờ của Thánh Thần; chúng ta là thân thể của Chúa Kitô; chúng ta chính là sự biểu hiện của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người.
 
Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mỗi người. Chúng ta không nên tự chà đạp thân phận mình bằng cách theo đuổi ham muốn cao vọng thế tục. Chính thái độ, ước muốn theo đuổi tham vọng thế tục đã biến chúng ta thành những người tàn tật, què quặt, và đui mù và chúng ta đã không nhận biết. Xin quý ông bà, anh chị em để tâm suy nghiệm Tin Mừng Nước Trời, và đó là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 23C (Lc. 14:25-33)
 
Thêm một lần nữa Lời Chúa qua Phúc Âm nêu lên những điều nghịch thường nếu được hiểu theo nghĩa đen hoặc chiều hướng luân lý hiện đại, “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta.” Dĩ nhiên, Đức Giêsu không đến để tàn phá luân lý con người và như vậy dẫu dùng những sự kiện nhân sinh để ám định về điều kiện cũng như trạng thái tâm thức một người cần phải có hầu kiện toàn hành trình tâm linh, những lời giảng dạy của Ngài nơi Phúc Âm không lệ thuộc luân lý nhân sinh biến chuyển tùy thuộc thời đại và nơi chốn cũng như phong tục tập quán của các dân tộc khác nhau.
 
Đức Giêsu được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Như vậy, xét theo nghĩa đen hoặc luân lý, không ai trong chúng ta thực hiện trung thực lời Phúc Âm nơi cuộc đời; nhất là câu nói nơi phần cuối của bài Phúc Âm vừa được công bố, “Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có thì không thể làm môn đệ Ta.” Tất nhiên chúng ta không ai chấp nhận trở thành kẻ vô gia cư, đứng đường đứng chợ hoặc gánh nặng cho những người đồng thời.
 
Hơn nữa, nếu chúng ta không thể tự lo lắng cho chính mình mà ngược lại trở thành kẻ ăn bám xã hội thì sao có thể giúp người khác, sao có thể thực hiện lòng bác ái cũng như đóng góp, phụ giúp cho những sinh hoạt xã hội, và sao nhà thờ có thể đứng vững để làm nơi cho chúng ta thờ phượng! Thêm vào đó, kinh nghiệm sống minh chứng “Bần cùng sinh đạo tặc.” Khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn kiếm sống và vì nghèo túng, con người dễ sa ngã nơi những trường hợp bất lương. Ngược lại, ở những môi trường khá giả dễ kiếm kế sinh nhai, con người dễ trở nên tốt lành, thánh thiện vì “Phú quý sinh lễ nghĩa.”
 
Bởi đó, nếu chúng ta không để tâm suy nghiệm về những lời dạy nơi Phúc Âm để áp dụng nơi cuộc đời, lý do gì chúng ta dám cả gan tuyên xưng hoặc hãnh diện mình là người Công Giáo? Và phương cách nào hoặc lấy chi minh chứng để chúng ta có thể cho rằng mình tin theo Đức Giêsu? Dĩ nhiên, nếu chúng ta đã cố gắng hết sức nhưng không thể cải thiện hoặc cải tiến con người và sự việc để rồi thất bại, chúng ta không phải mang trách nhiệm hoặc không bị lương tâm cắn rứt về những trường hợp “Vô tri bất mộ.” Ngược lại, nếu chúng ta đã không bao giờ đặt vấn đề nghiệm xét, hoặc vì ỷ lại, hay coi thường, khinh khi sự nhận biết thâm sâu về Lời Chúa, tất nhiên sẽ không bao giờ có thể nhận thức về Tin Mừng Nước Trời, sẽ không bao giờ được cứu độ, hay giải thoát, mà suốt đời trầm luân nơi vô minh, u tối, chẳng có hy vọng gì đặt chân vào ngưỡng cửa Nước Thiên Chúa.
 
Những sự dạy dỗ, giải thích của bất cứ ai không thể làm cho chúng ta trở nên thánh thiện hơn, không thể giúp chúng ta có cuộc sống tốt lành, thoải mái hơn. Sự hiểu biết không thể biến chúng ta biến chuyển, thay đổi, hoặc thăng tiến. Sự thăng tiến, thánh thiện, hay nhận thức chính là kết quả của nghiệm chứng, thực nghiệm, hay thực hành. Thánh PhaoLô dạy chúng ta, “Hãy nghiệm xét mọi sự; sự gì lành hãy giữ lấy, và hãy kỵ điều dữ dưới bất cứ hình thức nào.” Kinh nghiệm tâm linh giúp chúng ta nhận thức rõ ràng đó là không ai có thể thỏa mãn lòng khát khao nhận biết Thiên Chúa nơi mình; chỉ chính mình mới có thể nghiệm chứng sự hiện diện của Thiên Chúa nơi cuộc đời. Sự nhận thức Lời Chúa, sự nghiệm chứng Nước Trời chẳng khác gì sự thể uống nước. Ai uống người đó tự biết nước ngon ngọt hoặc nóng lạnh thế nào. Đây chính là ý nghĩa của hai dụ ngôn về người dự định xây tháp và suy tính của vị vua trước khi quyết định ra quân đương đầu đối phương. Họ phải dự tính, suy nghĩ, cân nhắc lợi hại và đắn đo xem sự thể có áp dụng được hay không.
 
Chúng ta cũng cần thực hiện suy tính như thế khi nghe hoặc đọc Lời Chúa. Đọc hoặc nghe Phúc Âm hay những lời giảng giải mà không để tâm nghiệm chứng, suy nghiệm thì chẳng khác gì năm cô phù dâu khờ dại, bảo sao nghe vậy và sẽ bị từ chối tham dự tiệc cưới, hoặc người đầy tớ được ban cho một nén bạc mà vì quá sợ hãi sai lầm nên đem chôn do đó đã bị trừng phạt. Như vậy, bài Phúc Âm khuyến khích và nhắc nhở chúng ta suy nghiệm Lời Chúa để nhận thức thực trạng tâm hồn của mình. Phỏng chúng ta có thực tâm nghiệm chứng Lời Chúa hay không, và phỏng chúng ta có tin theo Đức Giêsu hay không, hoặc chỉ cho rằng, nghĩ rằng mình theo Chúa, mình tin Chúa mà không biết mình tin thế nào, cũng như không biết mình tin về sự gì.
 
Không ai có thể suy nghiệm và nhận thức dùm chúng ta. Chính Chúa cũng không thể nghiệm chứng dùm cho bất cứ ai. Nếu ai đã để tâm suy nghiệm Lời Chúa sẽ nhận biết rõ ràng một điều và đó là sự suy nghiệm Phúc Âm, sự nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời giải thoát tâm hồn khỏi muôn vàn trắc trở con đẻ của tham vọng thế tục, đồng thời nhận thực được vị thế cũng như giá trị thân phận làm người quả là quá ư cao trọng. Thêm vào đó niềm an bình tâm tưởng cũng như sự thánh thiện phát sinh từ chính sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình chứ không thể đắp vá hoặc hội nhập từ bất cứ nơi nào bên ngoài. Bỏ cha mẹ, anh em, bỏ ngay cả chính mạng sống của mình có nghĩa suy nghiệm vượt khỏi quan niệm, kiến thức bình thường thế tục.
 
Chúng ta cần mở rộng lòng để Thánh Thần thực hiện công việc suy nghiệm nơi tâm trí. Chúng ta cần suy nghĩ khác thường, không lệ thuộc kiến thức hay quan niệm sẵn có. Cha mẹ, anh em, mạng sống chính là những gì thân thiết nhất đối với mình. Tôi muốn nêu lên một thí dụ, nơi gia đình, vợ chồng thường bị xung khắc chỉ vì quan niệm khác nhau và nhiều khi xảy ra sự thể “Ông nói gà, bà nói thóc.” Thêm vào đó, ai cũng cho mình là đúng, chỉ nhận xét của mình mới là mẫu mực chung. Dẫu tình nghĩa vợ chồng thâm trọng như thế nhưng người phối ngẫu vẫn chưa thân thiết với bản thân bằng quan niệm, ý định hay ước muốn riêng tư.
 
Nhận định như thế, Lời Chúa trình bày cho chúng ta điều kiện tâm thức để nghiệm chứng những lời giảng dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Nếu muốn áp dụng Phúc Âm nơi cuộc sống, nếu thực tâm suy nghiệm Phúc Âm, chúng ta cần bỏ ngỏ lòng mình, vứt bỏ tất cả những hiểu biết thế tục để đặt vấn đề về ý nghĩa thực nghiệm của những lời Phúc Âm áp dụng nơi cuộc đời mỗi người. Hãy suy nghiệm Lời Chúa qua nhiều chiều hướng và không chấp nhận bị lệ thuộc bởi bất cứ quan niệm nào. Suy nghĩ cho đến tận cùng sao cho hợp tình hợp lý. Đây chính là sự thực nghiệm khả năng sáng tạo. Người xưa có câu nói, “Suy nghĩ là sáng tạo. Người suy nghĩ là người sáng tạo.”” Amen.
 
 
 
 
CHỦ NHẬT 24C 2001 (Lc. 15:1-32)
 
Bài Phúc Âm nêu lên những dụ ngôn “Con chiên lạc,” “Đồng bạc đánh mất,” ”Người con hoang đàng,” với mục đích giải thích hoặc biện minh cho thái độ chấp nhận những người bị coi là phường tội lỗi theo quan điểm của người thời bấy giờ như đã được ghi lại qua sự nhận xét của những người Biệt phái và Luật sĩ, “Ông nầy đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng.” Những câu truyện được ghi lại chỉ là dụ ngôn do đó chúng ta không thể áp dụng theo nghĩa đen như đã được trình bày trong cuộc sống thường ngày nhưng cần phân tích và tìm hiểu Lời Chúa sao cho có thể áp dụng một cách hài hòa nơi hành trình đức tin của mỗi người.
 
Chẳng hạn nơi dụ ngôn con chiên lạc, trong thực tế, không ai bỏ đàn chiên bơ vơ nơi hoang dã đầy thú dữ rình bắt để tìm kiếm một con chiên bỏ bầy đi hoang. Và giả sử có ai ngốc nghếch thực hiện như thế thì có thể khi kiếm được con chiên lạc trở về, sói rừng, hổ báo đã nuốt trọn cả bầy chiên bổ béo. Đồng thời chủ chăn lại mời khách khứa tới chung vui thì chỉ còn cách làm thịt con chiên mới tìm được để thết đãi và thế là mất cả chỉ lẫn chài; tìm được một con chiên lại mất cả đàn chiên. Nơi câu kết luận của dụ ngôn chiên lạc, Phúc Âm ghi, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.”
 
Điểm chính yếu của dụ ngôn chiên lạc được đặt nơi mấy chữ, ”Không cần hối cải” khi đem liên kết với giới biệt phái và luật sĩ đã nêu lên lời phê bình thái độ của Đức Giêsu đối với những người được coi là tội lỗi theo quan niệm của họ. Qua những dụ ngôn “Năm cô phù dâu khờ dại,”“”Người Pharisiêu và người thu thuế vào đền thờ cầu nguyện,” chúng ta đều hiểu được Phúc Âm lên án những ai không chịu để tâm suy nghiệm Lời Chúa và đồng thời lên án những ai tự cho mình là công chính, chỉ nhìn thấy cọng rác nơi mắt người khác mà không nhận biết chiếc xà nơi chính con mắt của mình.
 
Thử hỏi, những ai trong cuộc đời này không cần hối cải? Và những người xoi mói, vạch lá tìm sâu kẻ khác đã có cuộc sống như thế nào? Những người không cần hối cải là bất cứ ai không những tự cho mình công chính mà còn có thái độ của những người biệt phái và ký lục, tưởng rằng cứ tuân theo hình thức của một số lề luật thì sẽ được cứu độ. Đây chính là thái độ của những người nhắm mắt cho rằng mặt trời không soi sáng. Đức Giêsu không đặt ra bất cứ lề luật nào. Tất cả lề luật chỉ là sản phẩm của con người và vì lợi ích cũng như đem lại trật tự cho con người nơi cuộc sống trần thế này. Và như vậy, lề luật không đem lại ơn cứu độ cho bất cứ ai.
 
Sự hối cải là kết quả của sự tự nhận thức về thực thể con người khi đem so sánh với lối sống, ham muốn thế tục nơi một người. Bất cứ ai cảm thấy không cần hối cải đều là kẻ tự lừa dối bởi đã không nhận biết chính mình. Nhận thức như thế, chúng ta hiểu được tại sao dụ ngôn người con hoang đàng được viết về sự hồi tâm của kẻ đem tiền của phung phá, và tại sao những hành động phung phá được gọi là lỗi phạm đến trời. Theo quan niệm nhân sinh, thế tục, gia tài, tiền bạc thuộc về ai thì người đó có quyền tự do sử dụng. Phúc Âm dùng ngôn từ ”Gia tài” để ám định về cuộc đời của một người. Con người được ban cho cuộc đời như cơ hội và phương tiện để hoàn thành hành trình đức tin, nghiệm chứng hầu đạt tới nhận thức thực thể chính mình, nhận ra mình là sự hiện thể của Chúa nơi thế giới hữu hình. Không dùng cuộc đời để kiếm tìm Nước Trời, để nhận biết Tin Mừng mà chỉ chuyên chăm theo đuổi ước mơ thế tục, không cần hối cải nhưng xoi bói, bới móc, vạch lá tìm sâu, hoặc bày chuyện làm thương tổn danh dự kẻ khác để chứng tỏ mình công chính, quả thực không gì hoang đàng và tội lỗi hơn vì đã phung phá cả cuộc đời của mình mà không biết.
 
Xét như vậy, nêu lên thái độ của người con trưởng, Phúc Âm chỉ về sự ngu muội do thiếu nhận thức, không hồi tâm nơi mỗi người chúng ta. Người con trưởng chăm chỉ gầy dựng gia tài, không hoang đàng, không lỗi luật nhưng không nhận biết chính mình. Anh ta vẫn không nhận thức được thực thể câu trả lời của người cha, “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con.” Sự bất mãn của người con trưởng ám chỉ quan niệm hạn hẹp, sự thiếu nhận thức về vai trò cũng như vị thế thực thể chính mìnhnơimỗi người chúng ta. Lời Đức Giêsu được để lại nơi Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này xê đi, nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự.” Phỏng đã ai trong chúng ta dám cho Lời Chúa là sự thật? Phỏng ai dám nói rằng tin? Và nếu nói rằng tin sao vẫn mơ ước viễn vông? Nơi Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu đoan quyết, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ tin vào Ta thì các việc Ta đã làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn. 14:12).
 
Tuân giữ lề luật theo hình thức để chứng tỏ mình công chính hoặc khoe khoang thế nọ thế kia, hay bới móc nói không ra gì về ai đó hầu người ta cho mình là tốt lành đều vô ích, đều chưa nhận biết chính mình. Lời Chúa vẫn còn xa vời với những ai tự cho mình công chính, không cần hối cải.
 
Tóm lại, bài Phúc Âm khuyến khích và thách đố mỗi người chúng ta tự nhận biết chính mình. Tất nhiên, con chiên lạc không thể biết nó lạc nếu không hồi tâm nhận định. Chúng ta cần đặt lại vấn đề con người của mình trước nhan Chúa và sự liên hệ của mình đối với Chúa. Thái độ và tâm trạng của người con cả chính là quan niệm thế tục nơi mỗi người chúng ta. Nhận biết chính mình hay không, nhận biết Tin Mừng Nước Trời hay không đều tùy thuộc tâm hồn mở rộng của mỗi người vì không ai có thể nghiệm chứng dùm cho bất cứ ai. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 25C 2001 (Lc. 16: 1-13)
 
Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố có dụ ngôn người quản lý phung phí tiền bạc của chủ đã dùng mánh khóe hầu được người khác tiếp đãi khi mất việc. Bài Phúc Âm đưa lên nhận định, “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng.” Vì đây chỉ là dụ ngôn nên người quản lý được cho cơ hội giải quyết vấn đề có lợi cho mình. Trên thực tế, không vị chủ nào lại dại khờ mà để cho người quản lý có được cơ hội như thế.
 
Áp dụng nơi cuộc đời mỗi người, chúng ta đang làm quản lý của chính cuộc đời đã được ban cho với những cơ hội, những hồng ân nơi cuộc sống; phỏng ai đã sẵn sàng tính toán chuẩn bị cho thời điểm tính sổ cuộc đời một cách bất ngờ như đã bao nhiêu người đã ra đi trước chúng ta? Nhận định nơi bài Phúc Âm về sự tính toán, mưu lược khôn khéo kiếm kế sinh nhai nơi cuộc đời mỗi người quả là xác thực. Dẫu có những trường hợp “Cái khó bó cái khôn,” nhưng nhìn vào thực tế, ai trong chúng ta cũng có sự khôn ngoan và năng lực mưu sinh khá cao, vì nếu không thế sao chúng ta có thể được như ngày nay. Lời khuyên răn, “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời,” nơi bản dịch tiếng Việt hình như được dịch theo tứ chứ không theo ý của nguyên bản Phúc Âm.
 
Suy nghiệm về thực thể sự việc chúng ta nhận thấy rõ ràng, chỉ có con người gian dối chứ sự vật không thể được gọi gian dối. Lối nói “Tiền của gian dối” được dùng để chỉ thành quả của sự gian dối. Tất nhiên Phúc Âm không khuyên chúng ta bày mưu chước gian dối để kiếm tiền bạc. Bởi thế, văn từ nơi Phúc Âm được viết ám định trong khi sự dịch thuật lại quá chú trọng về nghĩa đen và đồng thời bị giới hạn nơi quan điểm thế tục, luân lý, biến Lời Chúa trở nên bất tường.
 
Khi so sánh các lời chú giải, đại khái câu này có nghĩa, hãy dùng tất cả những năng lực thế trần mà chuẩn bị cho hành trình vĩnh cửu sau khi chết. Hiểu như thế mới làm sáng tỏ được câu nói, “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn. Ai gian dối trong việc nhỏ thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con.”
 
Con người bao gồm thân xác và linh hồn. Khi thân xác qua đi, linh hồn bước vào cõi vô hình. Thân xác nơi cuộc đời hữu hình chính là phương tiện và cơ hội cho linh hồn chuẩn bị cho hành trình sắp tới. Bởi vậy, những toan tính, ước mơ, ý định, ý nghĩ chính là hoạt động của linh hồn phần nào được bày tỏ qua trung gian xác thân. Thế nên, nơi cơ hội cuộc đời, nếu một người không để ý suy nghiệm về thực thể của chính mình nhưng chỉ lo sống cho qua và theo đuổi những ước vọng thế tục, đến lúc linh hồn lìa khỏi xác, mọi sự vinh quang trần thế qua đi, linh hồn sẽ bị bơ vơ không định hướng; của chân thật không có, của cải, danh vọng, ước mơ chóng qua để lại gian trần.
 
Lời Chúa khuyên chúng ta nên chăm chuyên để tâm suy nghiệm về sự hiện hữu của chính mình được ám định bằng cụm từ, “Của chân thật.” Để ý nhận xét nơi tâm khảm mỗi người, chúng ta đều nhận thấy, khi ước mơ của chúng ta đặt hay định nơi sự việc gì tâm trí luôn hướng chiều về sự việc đó để tìm tòi, suy tính phương cách thực hiện sao cho đạt được thành quả tốt đẹp nhất. Đồng thời qua kinh nghiệm sống, khi đã quyết chí thực hiện công việc gì chúng ta dồn hết tâm trí để hoàn thành thì mới có thể gặt hái được phần nào dự đoán ước mơ.
 
Ngược lại, khi tâm trí phân tán do ảnh hưởng nhiều chiều hướng cũng như ước mơ, chúng ta rơi vào tình trạng “Bắt cá hai tay” và kết quả chỉ là những sự thiệt hại hao phí. Nơi hành trình tâm tưởng cũng thế, chúng ta không thể vừa theo đuổi hành trình đức tin vừa tìm kiếm vinh quang thế tục. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta, “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc nó ghét chủ nầy và mến chủ kia hoặc phục chủ nầy và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được.”Văn từ“”Tiền của” ở đây nơi các bộ Kinh Thánh tiếng Mỹ dịch là “Mammon,” mang nghĩa những ước muốn, tham vọng trần gian hoặc bất cứ gì chóng qua nơi cõi thế mà con người theo đuổi. Chúng ta đều biết, những ước vọng, ý nghĩ, ý định, ham muốn phát xuất từ tâm trí, linh hồn. Những ước vọng, ham muốn mang quyền lực ám ảnh cũng như lôi cuốn tâm trí một người mạnh mẽ hơn bất cứ mãnh lực nào trong cuộc sống ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng.
 
Phúc Âm cũng nói cho chúng ta biết ảnh hưởng của ước muốn qua câu, “Điều gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc.” Câu này có nghĩa, bất cứ điều gì, sự gì chúng ta theo đuổi nơi cuộc sống này, sau khi chết, linh hồn của chúng ta cũng bị lệ thuộc và theo đuổi những ước muốn đó. Cũng là điều may đối với những ai được ban cho có cuộc sống thọ. Vì đã phải trải qua những thăng trầm nơi cuộc đời và năng lực lúc tuổi già tiêu tán đồng thời nhận ra giá trị cuộc sống không phải là danh vọng, quyền lực, và tiền của thế tục nên chán ngán, không bị ràng buộc bởi bất cứ tham vọng nào trước khi về cõi vô hình, linh hồn, tâm trí họ ngay khi còn sống đã được thảnh thơi.
 
Tuy nhiên, đa số chúng ta thường rơi vào những trường hợp tiếc nuối thời vàng son đã qua như sản phẩm của lòng tham sân si hoặc vì đã tiêu pha ngày tháng một cách vô tích sự nên vẫn luôn ham muốn chứng tỏ mình cũng là một thứ gì. Quả thật đáng tội cho kiếp nhân sinh bởi đã không để tâm suy nghiệm Tin Mừng Nước Trời. Cũng có thể vì đã không được nghe nói về Tin Mừng Nước Trời do Đức Giêsu rao giảng nên tâm trí chúng ta trở thành nô lệ cho những giáo điều luân lý thay đổi vô thường tùy thuộc hoàn cảnh, không gian và thời gian kiến tạo lòng ngờ vực những giá trị siêu linh, thế nên hành trình đức tin, hành trình tâm linh của chúng ta chẳng khác gì con thuyền không bến, không biết nơi đâu nương tựa do đó đành bám víu vào những giá trị suy tưởng đem lại mối hy vọng hầu tâm tưởng có niềm an định giả tạo. Nơi trường hợp này, Phúc Âm ghi lại lời Đức Giêsu quở trách Phêrô và cả chúng ta, “Xéo đi sau Ta Satan.” Ngươi là cớ cho Ta vấp phạm. Ý tưởng của ngươi không phải là thánh ý Thiên Chúa mà là ý tưởng của loài người.”
 
Tóm lại, Lời Chúa đặt vấn đề chọn lựa nơi tâm trí mỗi người chúng ta. Hoặc là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, suy nghiệm về Tin Mừng Nước Trời qua Phúc Âm, hoặc là theo đuổi mơ ước, suy tính, tham vọng thế tục. Chúng ta chỉ có thể thuộc về một trong hai vì nơi lãnh vực này không có trạng thái trung lập. Hoặc là nóng thì nóng hẳn, hoặc là lạnh thì lạnh hẳn. Dở dở ương ương, lời thư thánh Gioan tuyên bố rõ ràng, Ta mửa ra khỏi miệng. Amen.
 
 
 
CN 26C (Lc. 16:19-31) 98
 
Vào năm 1987, khi còn đang trong chương trình giúp xứ tại nhà thờ St. Michael, tôi ghé vô nhà ông bà cụ già ăn trưa. Bà cụ nói rằng tôi giảng khá hay trong thánh lễ sáng hôm đó. Thế rồi tôi tinh nghịch hỏi lại, "Bà bảo hay như thế nào?" Bà trả lời, Con chỉ biết nó hay nhưng không còn nhớ thày nói gì?" Kinh nghiệm sống chứng minh, chúng ta thích nhiều thứ nhưng chúng ta không cảm thấy cần thiết những điều ấy, vật ấy. Chúng ta biết nhiều tư tưởng vĩ đại, hoặc có thể nghĩ tới lắm chuyện tốt lành, hay được nghe và ca tụng những lời dạy khôn ngoan nhưng chúng ta không cảm thấy đó là những điều cần thiết trong cuộc đời.
 
Thử dùng đôi phút nhớ lại, đã bao nhiêu lần chúng ta cố tâm quyết định thực hiện những chuyện này, đức tính kia và đã không bao giờ hoàn thành vì kết quả của những điều dốc lòng ấy không xảy ra ngay tức khắc. Lý do tạo nên những thái độ này trong cuộc đời một người đó là chúng ta có quá nhiều sự cần thiết hơn phải giải quyết cho xong. Và như vậy, cuộc đời con người hình như bị chìm đắm nơi những thói quen sống, truyền thống để toa rập theo, hoặc những đòi hỏi nơi cuộc đời khiến chúng ta cảm thấy quá mệt mỏi vì phải đối diện với muôn thứ cần thiết hay bất trắc xảy đến nên bắt con người toa rập theo không còn giờ suy nghĩ nhiều khi đến nỗi không biết mình sống để làm gì.
 
Chúng ta cũng không biết ngay cả mình thực sự như thế nào, là ai và chết rồi sẽ đi về đâu để rồi nếu có ai hỏi đến thì theo thói quen đã được học nơi giáo lý trả lời rằng kẻ lành lên thiên đàng và kẻ dữ sa hỏa ngục. Câu chuyện Phúc Âm hôm nay nói lên thực trạng nơi mỗi người và đó là,Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu." Tôi không nghĩ rằng người phú hộ bị khốn khổ nơi hỏa ngục vì ông ta có cuộc sống giàu có. Phúc Âm không nói thế. Và tôi cũng không nghĩ rằng Lazarô được thưởng bởi đã lỡ được sinh ra nơi số kiếp chẳng may.
 
Kinh nghiệm sống chứng minh, chỉ những người được sinh ra để giầu có mới có thể giầu có. Do đó, đã biết bao người tần tiện, ăn chắt để dành nhưng số khó làm chẳng nên giầu, bởi vậy dù cố gắng làm lụng vất vả mà cuộc đời khốn khó vẫn hằng giờ đeo đuổi. Nếu để tâm suy nghiệm về đời sống chúng ta sẽ nhận thấy bất cứ chuyện gì, điều kiện nào, may mắn hay rủi ro, sung sướng hoặc thất bại, mọi sự đều là cơ hội cho chúng ta thăng tiến tâm linh dẫu chúng ta nhận biết hay không. Tuy nhiên, nếu tâm tư chúng ta đã tràn đầy những sự cả sáng hay lo âu thế tục như chiếc ly chứa quá đầy nước, chúng ta tất nhiên sẽ không muốn suy nghĩ về giá trị cuộc sống cũng như ý nghĩa cuộc đời chúng ta được sinh ra để làm gì.
 
Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta hãy nhìn lại chính mình. Phỏng chúng ta đã bao giờ tự suy tư về Phúc Âm để tìm ra ý hướng nên theo, những điều cần thiết, những khát vọng tâm linh ẩn tàng tận đáy cõi lòng chúng ta, hay chúng ta chỉ lấy lời dạy này, nhắc lại những điểm cao vời kia của người khác và cho rằng thế là đã quá đủ vì tưởng mình biết hoặc nhắc lại được như vậy thì không còn gì phải bận lòng suy tư. Một tổ thiền nhắc lại một công án cho người tu tập suy nghĩ,Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng." Người tập tu suy mãi không ra nên đã nhiều lần xin thày giảng giải. Cuối cùng tổ thiền nói, Nếu tôi giải thích cho anh bây giờ, sau này anh sẽ mắng tôi mà thôi vì sự hiểu biết của tôi không phải là của anh nên nó sẽ không đem lại ích lợi gì nhưng thực ra có thể chỉ làm hại anh mà chớ.”
 
Đã có nhiều người vì ngại ngùng hoặc bởi đã bị tiêm nhiễm thói quen thu thập những kiến thức để lấp đầy khoảng trống khát vọng tìm biết Chúa nơi mình, hoặc quá e sợ sai lầm hay không dám đối diện với con đường hẹp suy tư nên đã ỷ lại chờ người khác dẫn dắt hầu đạt tới Tin Mừng Nước Trời. Họ quên nghiệm chứng chính cuộc đời họ. Kinh nghiệm sống minh chứng, sự hiểu biết kiến thức và sự thực hành thăng tiến tâm linh là hai trạng thái hoàn toàn khác biệt dẫu kiến thức phần nào đóng góp nơi sự suy tưởng, nghiệm chứng. Trước hết, sợ sai lầm chính là tội lỗi lớn lao hơn tất cả mọi thứ tội lỗi vì đã cầm buộc tâm trí con người nơi trạng thái tối tăm, ngăn cản thăng tiến, phát triển. Có câu nói, người nào không bao giờ vấp phạm nơi những lời nói, không bao giờ làm điều gì sai lầm, chính là người ngu nhất. Người mà không biết gì để nói nên không nói thì sao vấp phạm; không làm gì hoặc không biết gì có thể làm để mưu sinh sao bị sai lầm. Họ là thứ ăn bám, lạm dụng để sống dựa trên những sai lầm của người khác.
 
Thứ đến, kiến thức thế tục, bằng nọ, cấp kia chỉ là lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài giúp con người có cuộc sống dễ thở hơn. Có kiến thức nhưng không biết sử dụng để áp dụng nơi cuộc sống thì cũng chỉ như kẻ ôm túi vàng trên biển khi vượt biên, chịu cảnh đói khát dù được gọi là giàu có. Tôi muốn nêu lên một thí dụ điển hình, đó là nếu nói về lý thuyết đánh tôm bắt cá thì ai cũng có thể nói được nhưng lái con tàu sao cho bắt được nhiều tôm cá thì những lý thuyết có thể chỉ làm chìm ghe, hoặc nhà băng kéo tàu.
 
Nơi hành trình suy nghiệm Lời Chúa cũng thế. Chúng ta cần tự suy tư, không nên dựa nơi những lý thuyết hoặc kiến thức của bất cứ ai vì đó là kết quả sự suy tư của họ, không đem lại lợi ích gì cho mình. Chúng ta tin rằng thân xác, cuộc đời mỗi người là đền thờ của Thánh Thần Thiên Chúa. Thánh Thần làm việc qua tâm trí mỗi người. Chúng ta cần sử dụng khả năng suy tư, hồng ân đã được ban cho và cũng là phương tiện để Thánh Thần làm việc hầu hướng dẫn mỗi người nơi hành trình đức tin. Tóm lại, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta nên để tâm suy nghiệm những lời dạy dỗ khôn ngoan của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Và phương pháp hữu hiệu nhất để tránh sai lầm khi đối diện với những chủ thuyết hoặc những lời giải thích của các tiên tri giả chính là sự suy tư, nghiệm chứng và mở rộng lòng để Thánh Thần dẫn dắt nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Amen.
 
 
CHỦ NHẬT  27 C ĐỨC TIN (Lc. 17:5-10)
 
Câu trả lời được Luca ghi lại nơi Phúc Âm khi các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm nhân đức tin chẳng những khiến các tông đồ ngỡ ngàng mà cỏn lật tẩy lòng ruột của mỗi người chúng ta, “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: “Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển; nó liền vâng lời các con.” Ai cũng biết, hạt cải nơi đất Do Thái rất nhỏ, chỉ lớn hơn bột miền tinh (giong ta). Với phân lượng đức tin nhỏ như thế mà đã có thể khiến cây dâu di chuyển nên nếu không thể khiến được cây dâu di chuyển tất nhiên đã chẳng có đức tin chút nào.
 
Hơn kém hai ngàn năm trước, dẫu các tông đồ theo chân Chúa Giêsu rày đây, mai đó rao giảng Tin Mừng Nước Trời, được Ngài trực tiếp dạy dỗ, chứng kiến những gì được gọi là phép lạ và cũng được Chúa giải thích khi trả lời cho những người lãnh nhận hồng ân rằng đó là kết quả của lòng tin, đức tin, mà các tông đồ vẫn bị phân định, “Nếu có đức tin bằng hạt cải…;” điều này có nghĩa các ông không có đức tin hoặc không biết đức tin là gì; phương chi chúng ta, hai ngàn năm trôi qua dẫu tự yên ủi, “Phúc cho ai không thấy mà tin” thì cũng chẳng hơn gì được các tông đồ, thấy mà cũng đã chẳng biết đức tin là gì. “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải…”
 
Thiển nghĩ, ngày xưa cũng như ngày nay, đức tin thường bị đồng hóa hoặc cố ý hiểu lầm thành niềm tin hoặc sự tin tưởng hay cho rằng, nghĩ rằng. Xin thưa, lật nơi Phúc Âm, bất cứ khi nào đức tin, lòng tin được nhắc tới đều nói lên một sự thể, thực thể ẩn chứa, mang một quyền lực đang hoạt động, không bất lực đối với bất cứ sự gì, và chỉ Phúc Âm mới nói đến sự thể này khi đặt nơi miệng Chúa Giêsu những minh xác, “Đức tin con chữa con; đức tin con cứu con.” Ai trong chúng ta không tin rằng hay cho rằng Chúa chữa, Chúa cứu! Vậy sao Phúc Âm ghi lại lời Chúa Giêsu một mực đoan chắc, đức tin con chữa con, đức tin con cứu con.
 
Đức tin nơi Phúc Âm là gì mà mang quyền lực ngang ngửa với Thiên Chúa như chúng ta thường quan niệm, Chúa chữa, Chúa cứu? Tôi muốn xác định rõ ràng và đó là đức tin được ghi lại nơi Phúc Âm vì ngày nay chúng ta thấy có nhiều danh hiệu được gán ép với ngôn từ đức tin chẳng hạn, dức tin Tin Lành, đức tin Phật giáo, đức tin Anh giáo, đức tin Thệ Phản, đức tin Công giáo, đức tin Ấn giáo. Phỏng đức tin được nhắc đến nơi Phúc Âm là đức tin Do Thái giáo vì Chúa Giêsu theo Do Thái giáo? Tuy nhiên, trong toàn bộ Cựu Ước, gốc gác của Do Thái giáo không có câu nào nhắc đến “Đức tin chữa, đức tin cứu,” mà chỉ  có nơi Phúc Âm.
 
Ai cũng tin tưởng, cho rằng hay nghĩ rằng mình có đức tin. Nhưng thử hỏi, đức tin của họ  là gì? Đức tin thế nào? Sử dụng làm sao, mang lợi ích gì cho con ngưòi, và có thể chứng minh hoặc rờ thấy được chăng? Chắc chắn ai cũng trả lời khác hẳn như nơi Phúc Âm nhắc đến. Đức tin nơi Phúc Âm chỉ có một và được Chúa Giêsu đoan chắc, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con.” Thế mà sau hai ngàn năm lại phát sinh ra lắm thứ đức tin mà không thứ nào chữa, chẳng thứ nào cứu. Chẳng lẽ ngày nay con người văn minh, lắm bác sĩ giỏi giang nên đức tin mất chức năng như được nhắc đến nơi Phúc Âm? Hoặc vì các bè phái đã lạm dụng danh hiệu nên đức tin mất phẩm chất chữa lành hoặc cứu chữa.
 
Cao điểm nơi Phúc Âm là đức tin, nhưng mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như được ghi lại nơi Luca 4:43, “Nhưng Ngài bảo họ: ‘Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.” Như thế, đức tin chính là thành quả của Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để tâm suy nghiệm và nhận định, Phúc Âm Matthêu được viết, “Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (1:23). Danh hiệu của Chúa Giêsu là Emmanuel. Danh hiệu minh định công việc, nhiệm vụ. Emmanuel có nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi;” như thế công việc, nhiệm vụ của Chúa Giêsu là rao giảng, “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi, chúng ta." Và như vậy, Tin Mừng Nước Trời là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người, nơi quí ông bà, nơi anh chị em, cũng như nơi tôi.
 
Xét như thế, vì Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người nên đức tin là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Nói cách khác, Thiên Chúa là quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu nơi mọi người. Nhận định như vậy, chúng ta đành cúi đầu chấp nhận mình chẳng khác gì em bé một hoặc hai tuổi, tay cầm chiếc “credit card” nhưng không biết cách nào sử dụng để rồi chết khát vì thiếu sữa.
 
Nói rằng đức tin là quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực sự sống, sự hiện hữu nơi mỗi người thì có đức tin hay không trở thành sự chân thành nhận biết, nhận thức, thức ngộ  được sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình hay không. Và như vậy, nói rằng đức tin cứu, đức tin chữa cũng đồng nghĩa với Chúa chữa, Chúa cứu.
 
Hiểu được như thế, chúng ta không ngạc nhiên với câu khuyên nhủ nơi Phúc Âm, “Khi các con làm xong mọi  điều đã truyền dạy các con thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.’” Vấn đề chỉ là chúng ta có để tâm nghiệm chứng sự hiện diện của Chúa nơi mình hay không!
 
 
 
CN 28C (Lc. 17:11-19)
 
Thoạt mới đọc hoặc nghe bài Phúc Âm vừa được công bố, ai trong chúng ta cũng dễ dàng có nhận định Lời Chúa dạy mọi người nên biết sống trong tinh thần cảm tạ hồng ân của Chúa đã ban cho chúng ta trong cuộc đời như đã được ghi chép lời Đức Giêsu nói với người Samaritanô bị bệnh phong hủi vừa được chữa lành trên đường cùng đi với 9 người Do Thái khác, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người này.”
 
Nếu chỉ xét riêng về ngôn từ được dùng nơi câu hỏi, chính câu nói minh chứng Đức Giêsu không nói với người Samaritanô mà nói với những người hiện diện nơi bối cảnh đang xảy ra sự việc người Samaritanô trở lại cảm ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Xét thế, Đức Giêsu có ý nhấn mạnh về sự nhận biết thực thể được chữa lành đồng thời đặt vấn đề về thái độ của con người nhận lãnh sự thể đã xảy đến. Theo sự nhận xét này, chúng ta phần nào cảm thấy coi thường hoặc khinh khi hay lên án 9 người Do Thái bị bệnh phong hủi đã được chữa lành bởi họ đã không có lòng biết ơn hoặc không nhận biết hay coi thường sự chữa lành đã được lãnh nhận.
 
Tuy nhiên, nếu để ý một chút về lối diễn tả, bài Phúc Âm cũng nêu lên chính Đức Giêsu bảo mười người bị phong hủi hãy đi trình diện với các tư tế và trong lúc họ đang trên đường đi trình diện với các vị tư tế, họ được chữa lành do đó sao họ có thể trở lại. Dĩ nhiên, người Samaritanô trở lại cấp thời cảm ơn Đức Giêsu và tôn vinh Thiên Chúa vì anh ta không biết phải trình diện các vị tư tế để làm gì. Đây là điểm khúc mắc Lời Chúa muốn chúng ta để ý hầu áp dụng nơi cuộc sống tâm linh.
 
Chúng ta đã được biết theo luật lệ Do Thái, những người mắc bệnh cùi hay phong hủi bị liệt vào hàng nhơ uế. Họ không được phép ở chung với những người khác. Họ phải sống tách biệt với dân Chúa bởi sách luật đã được ghi chép rõ ràng, nếu họ ở trong trại, sẽ làm nhơ uế nơi Thiên Chúa ngự trị. Họ cũng không được phép bén mảng tới khu vực đền thánh Jerusalem; đi tới đâu nếu gặp người khác, họ phải hô to lên ”Nhơ uế” hầu người khác tránh đụng nhằm họ mà trở nên nhơ uế. Nơi những trường hợp kẻ nào đụng chạm vào xác chết hoặc những con vật chết ngoài trời hoặc mồ mả, bia mộ, hay những con vật bị coi là nhơ uế, sau khi thực hiện các nghi thức thanh tẩy theo luật định, họ phải trình diện vị tư tế đang trong thời kỳ hành nhiệm để được công bố lành sạch. Dân Do Thái thành tín tuân theo những lề luật và nghi thức này trong khi các dân ngoại không có bất cứ lề luật nào như vậy.
 
Qua sự nhận biết như thế, chúng ta hiểu được tại sao Phúc Âm viết Đức Giêsu bảo mười người phong hủi ra đi trình diện các vị tư tế. Chúng ta cũng hiểu tại sao người Samaritanô trở lại cảm ơn trong khi 9 người Do Thái đã được lành sạch không trở lại ngay lập tức. Có thể họ sẽ gặp Đức Giêsu sau đó và nói lời cảm tạ nhưng nào ai biết và cũng vì Phúc Âm không viết chi về họ sau này.
 
Qua những nhận định vừa được nêu lên, bài Phúc Âm minh chứng sự chữa lành không phải là kết quả của sự tuân giữ lề luật mà do nơi Thiên Chúa. Một điều chúng ta ít khi để ý hoặc thường thì không dám suy tư đó là lời Đức Giêsu công bố nhiều lần chẳng hạn nơi bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe,“”Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.” Xưa nay chúng ta hằng tin tưởng, hằng nói, và đã được giảng dạy rằng Chúa chữa, Chúa cứu, Chúa ban cho ơn nọ, ơn kia, Chúa làm phép lạ. Chúng ta cũng đã thường được nghe những lời giải thích đức tin là hồng ân của Thiên Chúa.
 
Tuy nhiên, không ít thì nhiều nơi lòng mỗi người đã có lần chúng ta cảm thấy hơi bị thiệt thòi vì chỉ thấy ơn nọ ơn kia, phép lạ này, phép lạ khác xảy đến với ai đó và đã không bao giờ xảy đến nơi mình. Nếu thực tâm nhận định, chúng ta thấy những lời công bố của Đức Giêsu nơi Phúc Âm hoàn toàn trái nghịch với những điều chúng ta tin tưởng. Chúng ta tin Chúa chữa lành, Phúc Âm viết Đức Giêsu phán lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Những ai đã để ý đọc Phúc Âm sẽ nhận thấy không bao giờ Đức Giêsu nói Thiên Chúa chữa hay Thiên Chúa cứu hoặc Ngài chữa hay Ngài cứu mà tất cả đều là lòng tin đã cứu hay lòng tin đã chữa. Lật Phúc Âm thánh Mátthêu, chúng ta đọc được Đức Giêsu đã trả lời viên bách quản, “Ông đã tin sao, thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13). Ngài nói với người phụ nữ bị băng huyết, Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22). Đối với hai người mù, Ngài quả quyết,Các ngươi đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 9:29). Với người phụ nữ xứ Canaan, Đức Giêsu ca tụng lòng tin của bà ta đồng thời công bốNày bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28).
 
Nếu đem so sánh những lời công bố của Đức Giêsu về quyền lực của lòng tin, đức tin nơi Phúc Âm với Tin Mừng Nước Trời và đó là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23) thì đức tin hay lòng tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Suy nghiệm như thế, bất cứ ai cũng có lòng tin hay đức tin nhưng đã không nhận biết và dẫu có những người đã nhận biết nhưng vẫn không biết cách nào sử dụng cho phù hợp với những lời giảng dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Đức tin hay lòng tin là quyền lực của Thiên Chúa hiện hữu nơi ý định, ước muốn, ý nghĩ nơi mỗi người.
 
Đây chính là lý do tại sao Đức Giêsu đã rõ ràng công bố cho chúng ta biết, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển, nó liền vâng lời các con” (Lc. 17:6), hoặc nơi Phúc Âm Luca Ngài xác quyết, “Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này hãy xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24).
 
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay một lần nữa nhắc nhở mọi người về sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Đức tin hay lòng tin chính là quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi bất cứ ai mà chúng ta chưa nhận biết. Quyền lực này mang năng lực thực hiện tất cả những gì chúng ta thực sự ước mơ. Sử dụng được quyền lực này hay không tùy thuộc nơi sự nghiệm xét thực thể hiện hữu của Thiên Chúa nơi mình hay không. Vấn đề còn lại chỉ là phỏng chúng ta có thực sự để ý và chấp nhận cũng như suy nghiệm lời Đức Giêsu giảng dạy đã được ghi lại nơi Phúc Âm hay không. Thực ra, nói rằng có đức tin nhưng không nhận biết đức tin là gì và liên hệ tới mình ra sao thì cũng chỉ là tự phỉnh phờ chính mình mà thôi. Kẻ nào tuyên xưng có đức tin mà không áp dụng được theo những gì Phúc Âm đã ghi chép đều thuộc loại tự kỷ ám thị để trấn an cõi lòng e sợ vì đã nghi ngại. Amen.
 
 
 
CN 29C (Lc. 18:1-8)
 
Theo dõi sự sắp xếp bài đọc Phúc Âm từ chủ nhật 25 đến nay, chúng ta thấy qua dụ ngôn người quản lý bất lương, Lời Chúa khuyến khích con người nên biết dùng khả năng tính toán sẵn có để nhận định những sự hơn thiệt về giá trị tâm linh hầu định hướng tâm hồn nơi hành trình đức tin. Kế đến câu chuyện Lazarô và người phú hộ nhắc nhở chúng ta nên dùng thời gian nơi thế trần để học hỏi và nhận biết về thực thể con người để chuẩn bị cho cuộc đời vĩnh cửu. Qua lời minh xác, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dẫu các con khiến cây dâu này hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển, nó liền vâng lời các con,”
 
Đức Giêsu nói lên quyền lực của lòng tin nơi mỗi người mà chúng ta đã không nhận biết. Tuần trước, nơi câu truyện 10 người phong hủi được chữa lành Đức Giêsu công bố đức tin nơi họ chữa họ khi bảo người Samaritanô, “Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.” Tuy nhiên nơi bài Phúc Âm hôm nay, câu hỏi Ngài đã nêu lên 2000 năm qua khiến những ai để ý khi đọc Lời Chúa đều cảm thấy rúng động, “Nhưng khi Con Người đến liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Thực ra, nếu nhận xét về lý do tại sao hoặc kết quả nào sẽ xảy đến với con người để có sự suy luận cho hợp tình hợp lý theo ba phương diện niềm tin tưởng như chúng ta đã thường được giảng dạy, hoặc sự kiện sinh tồn của con người nơi mặt đất, hay nhận thức tâm linh, chúng ta đều không thể nào chấp nhận được những sự thể có thể xảy đến nơi lý luận qua dự đoán.
 
Trước hết, nếu nói rằng lòng tin hay đức tin là hồng ân Chúa ban cho mỗi người thì sự mất hay còn, nhiều hoặc ít, to bằng trái núi hay bé bằng hạt cải, tất nhiên lòng tin nơi mình không tùy thuộc ý muốn hoặc ý định hay ước mơ của bất cứ ai. Đồng thời nếu nói rằng lòng tin là hồng ân Chúa ban cho không thể nào thuận với lời của Đức Giêsu nơi Phúc Âm, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải.””Khi nói rằng có sự gì, điều gì, sự đó tùy thuộc về người có. Thế nên khi Đức Giêsu trở lại có thấy lòng tin hay không chắc chắn không tùy thuộc chúng ta nếu lòng tin là hồng ân Chúa ban. Bởi vậy, nếu cho rằng lòng tin là hồng ân của Chúa ban cho mỗi người thì nơi mặt đất này còn hay mất lòng tin chỉ Chúa biết, chúng ta không thể biết. Mặt khác, nếu hiểu lòng tin theo nghĩa thông thường quen dùng, chúng ta không thể nào áp dụng lời dạy của Đức Giêsu được ghi chép nơi Phúc Âm.
 
Lẽ thường, khi nói tin tưởng nơi ai về một vấn đề nào, chúng ta biết chắc chắn kết quả đã được dự đoán trước. Bởi thế khi nói đến lòng tin hay đức tin, hoặc tin nơi Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, chúng ta thường chỉ đơn sơ nghĩ rằng có một Thiên Chúa tạo dựng và điều khiển vũ trụ và những tạo vật nơi vũ trụ vô tận này. Nói về dùng đức tin để cầu nguyện, chúng ta đặt niềm tin tưởng những lời cầu khẩn của mình được Chúa nghe nhưng thường thì không dám xác quyết điều mình khẩn nguyện sẽ được nhận lời. Và chúng ta đành chấp nhận Chúa ban cho hay không tùy Ngài.
 
Thái độ này tự chất chứa nỗi nghi ngờ mà vì vô tình không để ý tâm trạng của mình lúc khẩn nguyện nên chúng ta không nhận ra hoặc nếu nhận biết thực trạng tâm hồn mình như thế, chúng ta đành cố tảng lờ, cam tâm chấp nhận cho có vẻ con nhà có đạo, có đức tin, không hơn không kém. Tuy nhiên, dù nhận biết thực trạng nghi ngờ nơi nội tâm như thế vẫn không thể nào có được câu trả lời hợp tình hợp lý về sự thể không có lòng tin nơi mặt đất bởi ít nhất chúng ta đã có niềm tin tưởng dù rằng tin tưởng sai lầm. Tất nhiên tin tưởng sai lầm vẫn là sự tin tưởng. Chẳng lẽ ngày Đức Giêsu trở lại thế gian nhân loại không còn sống sót bất cứ người Công Giáo nào. Hơn nữa, đâu phải chỉ người Công Giáo mới tuyên xưng đức tin mà còn nhiều giáo phái khác cũng tuyên xưng tin vào Thiên Chúa, tin nơi Đức Giêsu.
 
Thêm vào đó, biết bao nhiêu người tin nơi Thiên Chúa dẫu họ không tuyên xưng giống chúng ta và danh hiệu xưng tụng về Thiên Chúa của họ khác với ngôn từ của chúng ta, chẳng lẽ họ cũng không còn ai trên mặt đất này? Và nếu như vậy thì phỏng có một tận thế trước khi Đức Giêsu trở lại? Xét về phương diện tâm linh theo nhãn quan Phúc Âm thì lòng tin hay đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người.
 
Đọc Phúc Âm chúng ta thấy nhiều lần Đức Giêsu đương đường công bố đức tin con chữa con, đức tin con cứu con, đức tin con là ơn cứu độ của con. Và thế rồi dụ ngôn chiên và dê nói về ngày Ngài ngự đến phân chia nhân loại thành hai thành phần tốt lành đáng được thưởng và bất trắc đáng phải phạt… minh chứng chúng ta phải trả lời về cuộc sống của mình trước mặt Chúa. Vậy tại sao đã hai ngàn năm qua câu hỏi,“”Nhưng khi Con Người đến liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” vẫn lạnh lùng, im hơi lặng tiếng ẩn mình nơi Phúc Âm thánh Luca?
 
Tôi muốn nói, chúng ta không dám đối diện với câu hỏi này. Chúng ta e sợ sự trả lời vì đã không nhận biết lòng tin, đức tin là gì. Chúng ta cố ý tảng lờ câu hỏi này hầu có được nỗi an tâm giả tạo chẳng khác gì con đà điểu chúi đầu vào bụi rậm mỗi khi sợ hãi quá độ. tưởng rằng không nhìn thấy tai họa thì tai họa không xảy đến. Hoặc may ra có ai đó để ý đến Lời Chúa thách đố thì cũng đành tự lừa dối mình bằng cách trả lời cho qua để được an tâm. Nói cách khác, chúng ta đã không cần biết đức tin, lòng tin là gì. và đồng thời chúng ta cũng không dám đối diện với tâm hồn của mình. Chúng ta tự dối lòng. Chúng ta tự lừa đảo chính mình bằng cách chờ người khác giải thích, giảng giải. Và bất cứ ai nói không thuận với mơ ước thế tục của mình, chúng ta tìm cách phê bình để hy vọng có được nỗi an tâm giả tạo. Đức Giêsu không cần phải trở lại vì Ngài hằng hiện hữu giữa chúng ta và Ngài không thấy lòng tin của chúng ta.
 
Tôi dám thách đố mọi người trên thế gian này minh chứng cho tôi lòng tin của họ bằng cách thực hiện lời công bố của Đức Giêsu, “Lòng tin của con cứu con” nơi chính cuộc đời của họ. Chúng ta tuyên xưng có đức tin, có lòng tin, nhưng mỗi khi bệnh hoạn chúng ta không dùng đức tin để chữa, chúng ta đi cho bác sĩ khám và nói là khám bác sĩ. Phỏng bác sĩ là lòng tin của chúng ta? Vậy lòng tin, đức tin của mỗi người chúng ta là gì? Nói theo Phúc Âm, lòng tin hay đức tin chính là quyền lực hiện hữu tối thượng, quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người mà chúng ta đã không nhận biết nên không thể sử dụng được. Như vậy, sự thách đố của lời Chúa có nghĩa, phỏng chúng ta có thực sự nhận biết đức tin là gì hay không.
 
Một lần nữa, tôi mời gọi mọi người nên nghiệm chứng câu Phúc Âm thánh Marcô, “Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này hãy xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24). Amen.
 
 
 
CN 30C 2001 (Lc. 18:9-14)
 
Lời Chúa hôm nay dùng dụ ngôn về tâm tình người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Trước hết, chúng ta nên để ý, dụ ngôn là câu truyện được dùng để trình bày ý nghĩa về điều muốn được nói đến bởi không thể nói trực tiếp do sự thể tùy thuộc tâm tình và thái độ theo mỗi trường hợp của con người. Dĩ nhiên qua kinh nghiệm cuộc sống chúng ta cảm nhận được có nhiều vấn đề, nhiều sự thể du con người vào vị thế lưỡng nan, không hành động cũng phiền mà hành động, giải quyết vấn đề lại càng phiền hơn. Chẳng hạn cha mẹ có bổn phận nuôi dưỡng và giáo dục con cái.
 
Tuy nhiên, do bởi sinh sống nơi xã hội khác biệt văn hóa, ngôn ngữ, luân lý, những truyền thống tốt lành mình đã được an hưởng giờ đây do “vô minh bất mộ,” con cái chúng ta coi thường bởi được hấp thụ lối sống dân bản xứ, quả là điều đau lòng cho các bậc cha mẹ. Những trường hợp điển hình chúng ta có thể thấy ngay trước mắt đó là trai gái sống chung với nhau không cần cưới hỏi theo luân lý cuộc đời, chẳng cần biết gì về ý thức đạo nghĩa, và có những trường hợp đương nhiên dẫn nhau về ở chung ngay tại nhà nhưng do quá thương hoặc dốt nát không biết phải giải quyết thế nào, cha mẹ đành chấp nhận muối mặt ngậm bồ hòn làm ngọt.
 
Dẫu ai cũng biết ngạn ngữ, “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ,” nhưng có lẽ biết để mà biết và cũng bởi vì quen thói lặp lại những câu châm ngôn, ngạn ngữ hầu chứng tỏ mình hiểu biết thay vì suy gẫm hầu áp dụng nơi cuộc sống, nên đã có những thái độ đối nghịch với tâm tình chất chứa đầy mặc cảm. Bên ngoài, muốn chứng tỏ mình cũng là ông nọ bà kia nhưng tự đáy tâm hồn đã tự khinh, bởi thế nhiều khi do muốn người khác biết mình cũng là một thứ gì do đó tạo nên những thái độ kệch cỡm mà không để ý.
 
Thực ra ai cũng nhận biết sự thể, “Thùng rỗng kêu to.” Càng những kẻ không ra gì lại càng muốn chứng tỏ mình là một cái gì. Thực tế chứng minh, còn muốn trở nên là gì thì đã chẳng nhận ra mình là một thứ gì, thái độ của một người thường thì đối nghịch với tâm tình ẩn dấu nơi tâm tư. Bài Phúc Âm nêu lên dụ ngôn nghịch thường. Trước hết, ai là người biết tâm tình của người thu thuế và người biệt phái khi họ cầu nguyện. Thứ đến, những người thu thuế trong thời kỳ dân Do Thái bị đô hộ được coi là kẻ đương đường tội lỗi do làm việc cho đế quốc chống lại dân tộc sao được phép vào đền thờ cầu nguyện; thêm vào đó, những người làm việc cho đế quốc La Mã chắc chắn không theo phong tục, tập quán cũng như tôn giáo của người Do Thái.
 
Bởi đó, lời Chúa muốn dùng dụ ngôn để nói lên tâm tình nơi mỗi người. Người biệt phái có cuộc sống bề ngoài công chính, tuân giữ lề luật, không tham lam, bất công, ngoại tình, lại ăn chay một tuần hai lần, đóng góp cho đền thờ đúng luật định, nhưng đã bị Phúc Âm cho là nâng mình lên chỉ vì tự cho rằng cứ tuân theo lề luật là đủ, hoặc chỉ theo đuổi những hình thức bên ngoài để được coi là công chính thì sẽ được cứu độ. Sự thể này không khác gì quan niệm hành hạ thân xác mình được gọi là đánh tội của các nhà dòng khổ tu ngày xưa; họ tự kiếm ơn cứu độ thay vì chấp nhận sự cứu độ đã được dành sẵn.
 
Nói cách khác, chính những cố gắng thiếu suy nghiệm đã tạo nên những tâm tình và thái độ nghịch lại với những lời giảng dạy khôn ngoan nơi Phúc Âm. Nếu đem so sánh cuộc sống của người biệt phái mà Phúc Âm đã diễn tả với cuộc sống của mỗi người chúng ta, chắc chắn không ai có thể có tâm tình nhận thức về lối sống tôn giáo của mình được gọi là thánh thiện hơn. Thử hỏi chúng ta chủ ý thực hành ăn chay, hãm mình một năm được mấy lần ngoại trừ bị rơi vào trường hợp trói lại mà đánh khen hay chịu đòn? Phỏng rằng sự đóng góp của chúng ta đối với những chi phí và bảo trì nhà thờ như thế nào, có hơn được người biệt phái không? Ít nhất, người biệt phái đã để tâm nhận thức về lối sống và sự tuân theo lề luật dẫu bị lệ thuộc quan niệm về hình thức thời đó mạnh mẽ ảnh hưởng tâm trí con người.
 
Xét như vậy lỗi lầm không phải tự người biệt phái có tâm tình kiêu ngạo về hành vi và lối sống nhưng chính là kết quả do ảnh hưởng sự nhận thức và quan niệm thực hành tôn giáo tùy thuộc mỗi thời đại. Từ những nhận định này chúng ta có thể hiểu được lời Chúa muốn chúng ta nên có nhận định về tâm tình và thái độ bên ngoài của chính mình nơi lối sống tâm linh, những cung cách giữ đạo đồng thời mở rộng tâm hồn để thăng tiến nơi hành trình đức tin. Lẽ đương nhiên, những hình thức hoặc phương pháp thăng tiến tâm linh, thăng tiến đức tin tùy thuộc căn cơ người thực hiện.
 
Không có một phương pháp nhất định nào có thể làm tiêu chuẩn chung cho mọi người. Mỗi người chúng ta được sinh ra hoàn toàn khác biệt đối với những người chung quanh từ thể chất tới tâm hồn thế nên những điều được coi là tốt lành đối với mình hoặc đem lại lợi ích cho mình chưa chắc đã đem lại lợi ích cho người khác. Thêm vào đó, những phương pháp hay lối sống tâm linh không phải là những công thức hóa học hay công thức toán một cộng với một là hai có thể áp dụng cho mọi người mọi nơi và mọi thời. Những phương pháp, lối sống chẳng khác gì chiếc áo mặc, không thể đem chiếc áo đẹp đẽ của người mập mạp khoác vào người gầy ốm hoặc chiếc áo tuyệt vời của người có thân hình thanh bai lại càng không giúp ích gì cho sự ăn mặc đối với người tương đối tròn trĩnh có bề ngang phát triển gần bằng chiều cao.
 
Kinh nghiệm nhận thức minh chứng, nhân đức khiêm nhường hay được gọi là hạ mình chính là sự nhận thức và sống chân thực với chính mình. Những ai cố ý chứng tỏ mình là một thứ gì đều có đặc tính kiêu ngạo theo lối trưởng giả học làm sang, chẳng những lừa dối mọi người mà còn lừa dối chính mình. Sự kiêu ngạo cũng bao gồm thái độ cố hạ mình để được tâng bốc hay ngưỡng mộ. Thực ra, con lừa, con ngựa dù có giả dạng cách mấy cũng không thể nào có cái oai đáng sợ của loài hổ báo. Cũng thế, con lừa, con ngựa cho dù tập tành đến mấy cũng không thể nào biến thành sư tử. Chúng ta không cần phải là gì cũng không thể nào trở nên bất cứ gì mà chỉ có thể phát triển sự thánh thiện đã tự ẩn tàng nơi chính mình. Sự thánh thiện nơi con người chính là sự thánh thiện của Thiên Chúa vì mỗi người là hiện thể của Chúa nơi cuộc sống hữu hình này. Và như vậy tội lỗi hay những điều Phúc Âm lên án chính là bất cứ thái độ, tâm tình, cách sống nào làm hại đến thực thể chân thực, sự thánh thiện đã được ẩn chứa nơi mỗi người ngay từ khi có sự hiện hữu nơi thế giới hữu hình. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 31C 2001 (Lc. 19:1-10)
 
Bài Phúc Âm dùng câu truyện ông Giakêô trèo lên cây sung để nhìn xem hình dáng Đức Giêsu như thế nào được sắp xếp theo diễn tiến chúng ta nên để ý. Nơi thành phố Đức Giêsu đi ngang qua để tới Giêricô có vị thủ lãnh những người thu thuế tên là Giakêu. Ông muốn nhìn thấy Đức Giêsu nhưng vì thân xác thấp bé nên phải trèo lên cây sung, và Đức Giêsu ghé qua nghỉ tại nhà ông. Trước hết, chính ý định, ước muốn biết về Đức Giêsu thế nào đã thúc đẩy ông leo lên cây sung mọc bên đường. Và khi gặp gỡ Đức Giêsu ông đã có quyết định thực hiện điều không thể ngờ đó là bố thí nửa phần của cải cho người nghèo và đồng thời nếu làm thiệt hại cho ai bất cứ điều gì ông sẽ đền bù gấp bốn lần.
 
Tự nghiệm chứng nơi cuộc đời mỗi người, ai cũng nhận ra chúng ta được sinh ra với lòng khát vọng muốn nhận biết Thiên Chúa. Sự thể này được minh chứng bằng ước muốn hiểu biết chính mình, muốn biết về thân phận làm người của mình, mình như thế nào trước khi được sinh ra, phỏng mình có sự hiện hữu linh thiêng nào đó trước khi nhập thể nơi thân xác không, cuộc đời của mình có ý nghĩa gì, tại sao mình được sinh ra, mục đích cuộc đời của mình là gì, và sau khi chết mình sẽ ra sao.
 
Những vấn nạn tương tự và liên quan đến cuộc sống tâm linh được gom tóm lại bằng một câu hỏi, mình là ai? Qua những kinh nghiệm nghiệm chứng của những bậc hiền triết, chân nhân được ghi lại nơi sách vở, điều không ngờ đó là bất cứ ai đã nhận biết mình thực sự như thế nào, mình là ai thì đồng thời cũng nhận ra Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu tối thượng đang hoạt động và ngự trị nơi mình. Điều đáng buồn lại là chúng ta không thích đọc sách; chúng ta không cần biết mình là ai mà chỉ tưởng rằng mình thế nọ thế kia.
 
Khi còn ở nhà trường trong mấy phút nghỉ sau lớp Kitô học, tôi đặt vấn đề với linh mục giáo sư rằng chúng ta cố gắng vật lộn với những suy tư của mình nên phải đối diện với những phiền hà. Sau khi đắn đo, ngài trả lời, có câu nói, khi con vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ suy nghĩ. Nhìn lại chính mình, chúng ta có nỗi khát vọng nhận biết về chính mình, về những thực thể linh thiêng liên hệ với mình nhưng đã ít ai để tâm tìm hiểu mà ngược lại chỉ thích ghi nhớ những kiến thức và tưởng rằng như thế đã quá đủ cho phần rỗi. Sự ghi nhớ những kiến thức, quan niệm chỉ biến chúng ta thành cuốn sách vô tri vô giác không hơn không kém.
 
Nơi cuốn sách Cái Cười của Thánh Nhân, cụ Nguyễn Duy Cần có ghi lại câu nói của Lichtenberg, “Quyển sách là một cái gương soi, nếu một con khỉ mà nhìn vào, dĩ nhiên không thể có cái ảnh của một bậc thánh hiện lên” (tr. 303). Những ai đã không để tâm nhận thức và giải đáp cho những khát vọng tâm linh thầm kín nơi họ tất nhiên họ không tự phát thực hiện bất cứ điều gì ngoại trừ vì nỗi e sợ nào đó nên có thái độ giống như năm nàng phù dâu khờ dại, nghe sao biết vậy. Bài Phúc Âm dùng nhân vật được đặt tên Giakêu để khuyến khích chúng ta nên có hành động tích cực tìm hiểu về hành trình đức tin, hành trình tâm linh của mình.
 
Thêm vào đó, ngay khi Đức Giêsu nói sẽ nghỉ lại nơi nhà ông, Giakêu đã phát khởi sự tự nguyện chẳng ngờ. Chúng ta đón nhận Đức Giêsu nơi bí tích thánh thể mà hình như chẳng có gì hơn kém. Có lẽ lòng chúng ta đã ra chai đá sâu đậm đến nỗi chính Đức Giêsu ngự đến cũng không thể nào chuyển đổi được. Tôi muốn nêu lên một thí dụ điển hình. Bất cứ ai đều nhận thấy ít nhất mỗi năm chúng ta một khác. Chẳng hạn so sánh thân xác của mỗi người bây giờ với 10 năm, 20, hoặc 30, 40, 50 năm về trước, chúng ta nhận thấy sự khác biệt rất rõ ràng. Tuy nhiên, tâm thức và những nhận thức cũng như sự hiểu biết về Thiên Chúa của chúng ta không biến chuyển chút nào. Những gì chúng ta được dạy dỗ nơi phần bổn đồng ấu đã bao nhiêu năm qua nay vẫn như thế. Dẫu thân xác của chúng ta tăng trưởng và một ngày một già nua, sự khôn ngoan thế tục càng ngày càng già dặn nhưng đức tin chẳng thấy gì được gọi là trưởng thành. Tâm thức của chúng ta, sự nhận thức của chúng ta về Thiên Chúa vẫn chẳng khác gì ngày chúng ta còn măng sữa.
 
Chúng ta đã không biết cách nào phát triển nhận thức; chúng ta đã không và đang không cần biết gì về những lời dạy của Đức Giêsu; chúng ta không cần suy nghĩ gì về tin mừng nước trời; chúng ta cũng không cần biết gì về đức tin mà chỉ tưởng rằng mình có đức tin mà thôi. Quả là đau lòng! Chúng ta biết đủ mọi sự khôn ngoan trên thế gian, biết cách ăn diện sao cho hợp thời, hợp cảnh, biết thực hiện bất cứ gì theo ước muốn nhưng không biết nơi nào bán cuốn Phúc Âm. Và nếu đã sẵn có cuốn Kinh Thánh tại nhà, chúng ta không đọc; chúng ta không có giờ đọc Phúc Âm, và nếu đọc không hiểu chúng ta không cần suy nghĩ tại sao Phúc Âm được viết như thế. Chúng ta không cần sự khôn ngoan của Chúa vì đã có sẵn những sự khôn ngoan thế tục và cho rằng chỉ cần cầu xin sơ sơ được lên nước thiên đàng hầu có nỗi an tâm là được cứu rỗi.
 
Xin thưa, Đức Giêsu dạy các môn đồ và cả chúng ta nguyện xin cho danh Cha cả sáng chứ không dạy chúng ta cầu xin cho được lên thiên đàng. Đức Giêsu đến để tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất mà chúng ta chưa nhận ra mình hư mất sao Ngài có thể tìm kiếm và sao có thể cứu chữa. Ngài muốn cứu chữa cũng không thể được vì lòng dạ chúng ta không còn khoảng trống chứa đựng lời giảng dạy của Ngài. Tâm trí chúng ta quá bận rộn với những suy tư thế tục, không có giờ để nghiệm chứng Phúc Âm.
 
Bài đọc trích từ sách khôn ngoan mà chúng ta vừa nghe đã bị in thiếu một câu. Nơi cuốn Kinh Thánh do Lm. Nguyễn thế Thuấn dịch và nơi mấy cuốn New American Bible, Holy Bible, Jerusalem Bible, cũng như nơi sách bài đọc tiếng Mỹ được viết, “Vì có Thần Khí bất hoại của Người trong mọi sự,” trong khi nơi sách bài đọc tiếng Việt đã bỏ sót. Thần Khí của Chúa chính là Chúa. Thần Khí bất hoại của Chúa trong mọi sự có nghĩa Thiên Chúa ngự trị nơi mọi loài mọi vật. Đây cũng chính là Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tóm lại, Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta nên có hành động thực tiễn về sự nhận biết Tin Mừng Nước Trời Đức Giêsu đã rao giảng. Amen.
 
LỄ KÍNH CÁC THÁNH C 2021 (Mt. 5:1-12a)
 
Bài trích phúc âm theo thánh Matthêu
 
Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi.Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc thay.ai có tâm hồn nghèo khó,vì Nước Trời là của họ
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao."
 
Bài phúc âm nói về tâm tình, đức hạnh của các thánh trước mặt Thiên Chúa nơi cuộc sống nhân sinh đối với đồng loại. Qua phúc âm, chúng ta thử tìm hiểu hầu nhận biết tính chất hay gốc gác của con người trước mặt Thiên Chúa.
 
Kính các thánh nói lên chúng ta chiêm ngưỡng những sự tốt lành, thánh thiên nơi cuộc sống của các ngài như cơ hội nhắc nhở chúng ta mỗi năm một lần nên noi gương và sống theo sao cho xứng đáng làm con cái Chúa, mang lại lợi ích cho phần rỗi chẳng những của mình mà còn của những người khác.
 
Phúc âm khuyên dạy chúng ta, điều cần thiết nhất đối với cuộc đời một người chính là, "Tiên vãn, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33). Lẽ đương nhiên, trước khi đặt vấn đề tìm kiếm Nước Thiên Chúa thì mọi người đã và đang sống. Điều này có nghĩa phải có sự sống, phải hiện hữu nơi cõi nhân sinh mới có thể tìm kiếm Nước Thiên Chúa, tìm kiếm bất cứ gì.
 
Thế nên câu hỏi đầu tiên phải là, mình từ đâu tới, tại sao mình được sinh ra, và sinh ra để làm gì, mục đích cuộc đời của mình là chi, và khi đã hết cuộc sống nhân sinh nơi dương thế, rồi mình sẽ đi về đâu.
 
Đọc nơi Kinh Thánh, chúng ta được nghe đến độ nhàm tai nên thường không để ‎ý suy tư, suy nghiệm mà thường chỉ lặp lại như con vẹt cho có vẻ con nhà có đạo, "Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài" (Kn. 1:27). Lặp lại để có câu trả lời cho yên lòng hầu dẹp bớt nỗi băn khoăn, thao thức nhận biết mình từ đâu tới, tránh suy tư; vì suy tư, suy nghĩ rất khó nếu không quen sử dụng tâm trí tìm hiểu và nhận thức về thực thể chính mình.
 
Chúng ta lặp lại câu Kinh Thánh mà có nghĩ gì, suy tư hay suy tưởng, suy nghiệm, hoặc nghiệm xét ý nghĩa của câu đó áp dụng một cách thực dụng nơi chính cuộc đời của mình không? Mình có thực sự nhận ra hay nghĩ rằng mình là hình ảnh của Thiên Chúa không, hay chỉ mới chợt nghe thấy hay đọc câu nói đó đã e sợ phạm thượng để rồi cứ đè nén tâm tư, tâm tưởng, mình là con người tội lỗi cho có vẻ khiêm nhường; trong khi muốn đi xưng tội theo luật buộc hằng năm ít là một lần thì lại bới mãi chẳng thấy tội đâu, nên chẳng biết xưng gì.
 
Để tôi bày cho cách bới tội. Trong phúc âm có nói tội phạm đến Thánh Thần. "Bởi đó, Ta bảo các ngươi: mọi tội lỗi và lông ngôn sẽ tha được cho người ta, còn lộng ngôn đến Thần Khí sẽ không tha được. Và ai nói lời nghịch đến Con Người; điều đó sẽ tha được cho người ấy; còn ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ không tha được cho người ấy, thời này cũng như thời sẽ đến" (Mt. 12:31-32).
 
Phạm đến Thánh Thần là gì? Ai cũng được sinh ra với trí khôn để suy xét, suy tư về bất cứ chuyện gì trong cuộc sống. Nhưng chính vì thái độ sống chỉ biết lo lắng về phương diện nhân sinh, thế tục; theo đạo thì với thái độ, tâm tình đạo theo. Đọc kinh, đi nhà thờ cho giống người khác lỡ không đi thì phạm luật buộc mắc tội hoặc anh em họ hàng hay hàng xóm láng giềng gán mình thành quân vô đạo.
 
Tới nhà thờ thì chỉ mong sao chóng về. Cha lỡ có lần giảng mà Thánh Thần xuống lộn bãi đáp thì càm ràm cha giảng dài, giảng dại, giảng dở, mà có thèm để ý nhớ cho đâu; chưa ra khỏi cửa nhà thờ thì đã vội quên. Cuộc sống thì quan niệm vô tư, thoải mái, miễn sao cho khỏi bị dồn bước đường cùng. Như thế, tất nhiên đã chẳng bao giờ để tâm tìm hiểu cho biết thực sự mình là thế nào, xấu xa, tốt lành ra sao; tại sao mình có cuộc đời, và mục đích cuộc đời của mình là gì. Sự thể này có nghĩa mình đã không sử dụng hồng ân suy tư về tâm linh trong khi suy nghĩ, tính toán, lo toan về cuộc sống thế tục, nhân sinh, chẳng những khá mà còn rất giỏi dang, minh mẫn.
 
Thử hỏi, không sử dụng khả năng suy tư, tính toán, lo toan sao quý vị có được nhà cao cửa rộng, con cái đề huề, gia đình nề nếp, trên thuận dưới hòa và sống hòa hợp với hàng xóm, láng giềng cũng như anh em họ hàng. Thế nên, cái tội không suy tư về tâm linh, không suy nghiệm những câu nói trong phúc âm, những lời khôn ngoan nơi cuộc sống tức là khinh chê hồng ân tâm trí. Đâu phải chỉ dùng lời nói mới là lộng ngôn; không sử dụng hồng ân chính là khinh dể, coi thường. Không sử dụng suy tư, suy nghiệm lời Chúa thì suốt đời ngu muội nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin. Sự ngu muội, không dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa thì có muốn tha cũng không được tha.
 
Chúa muốn tha nên đã phải sai đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng, rao giảng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở nơi mọi người mà không dám chấp nhận, không dám sống như là hiện thể của Thiên Chúa nơi thế giới nhân sinh thì tha làm sao, cách nào. Có câu nói, "Không thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vô được; và dẫu cố nhét óc chó vào đầu bò thì con bò cũng không thể sủa gâu gâu." Không suy tư, suy nghiệm thì không thể nào nhận thức, nhận biết vị thế của mình trước mặt Thiên Chúa và cũng sẽ không nhận biết sự liên hệ của Chúa thế nào nơi mình, nơi cuộc đời mình.
 
Thánh Phao lô nơi thư gửi giáo đoàn Côlôsê minh xác với chúng ta, "Anh em không biết sao: anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em" (1Cor. 3:16); thêm vào đó, thánh nhân nhấn mạnh hơn, "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa và anh em không còn thuộc về mình nữa" (1 Cor. 6:19).
 
Làm sao để nhận thực được thực thể này nơi mình nếu không suy tư, suy nghiệm về lời Chúa, về phúc âm. Nơi phương diện suy tư, suy nghĩ, suy nghiệm, thánh nhân đưa ra phương pháp, "Hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1 Thes. 5:21-22); với điều kiện, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).
 
Mỗi người trong chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa; nói cách khác, mỗi người là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Nói theo thánh Phao lô, mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần ngự trị ngay nơi mình. Chúng ta thuộc về hội thánh nhưng vì đã không chịu nhận biết nên cứ vui vẻ biến hội thánh thành hội tội. Cả sáng của Thiên Chúa ra sao và làm vinh danh Chúa thế nào nếu mình không nhận thực được thân phận mình trước mặt Chúa.
 
Hôm nay chúng ta mừng lễ các thánh, chúng ta tuyên dương các ngài đã ít nhất phần nào nhắc nhở chúng ta nhìn lại bản thân, suy nghĩ, suy tư, suy nghiệm để nhận chân vị thế, gốc gác, của mình trước mặt Thiên Chúa và cho xứng với thành viên của hội thánh. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 32C (Lc. 20:27-38)
 
Bài Phúc Âm vừa được công bố giải đáp một trong những câu vấn nạn mà bất cứ ai khi đặt vấn đề về thân phận làm người đều phải đối diện đó là sau khi xác thân chết, linh hồn sẽ đi về đâu và sự liên hệ, ràng buộc của con người nơi thế trần này ảnh hưởng thế nào đến linh hồn con người nơi cõi vô hình. Phúc Âm rõ ràng công bố qua lời dạy của Đức Giêsu, “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau sẽ được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa vì họ giống như thiên thần.”
 
Điểm chúng ta nên để ý chính là lời giải thích: vì họ giống như thiên thần. Dĩ nhiên, được gọi là thiên thần vì là thực thể linh thiêng không có thân xác. Phúc Âm rõ ràng, đơn giản, và gọn gàng chỉ nói thế về thực thể của sự sống lại. Tất cả những sự liên hệ theo quan niệm và lề luật nhân sinh đều được chấm dứt khi một người đã chết chẳng hạn sự liên hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái. Tuy nhiên, nơi ba bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt, bản thuộc sách bài đọc chúng ta vừa nghe về thực thể linh hồn nơi sự sống lại được viết, “Họ giống như thiên thần.” Nơi bản in của 14 vị dịch giả năm 1994 thì cho rằng, “Vì được ngang hàng với các thiên thần.” Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn ghi, “Bởi họ được như thiên thần.” Chỉ nơi sách bài đọc tiếng Mỹ chép, “Bởi họ trở nên như thiên thần.” Sáu cuốn Kinh Thánh khác, Oxford, New American Bible, Jerusalem Bible, New Jerusalem Bible, Holy Bible và The Anchor Bible về điểm này đều mang nghĩa giống như bài đọc tiếng Việt: họ giống như thiên thần. Tất cả những bản dịch về thực thể con người sau khi sống lại nơi Phúc Âm Marcô đều được ghi giống nhau đó là, “Người ta giống như thiên thần trên trời.” (12:25). Đặc biệt cuốn The Anchor Bible là bản dịch không lệ thuộc vào bất cứ giáo phái hay tôn giáo nào mà được dịch tùy thuộc quan điểm dựa trên nhận thức của con người thời bấy giờ cũng viết, “Người ta giống như thiên thần.” Nơi Phúc Âm Mátthêu, đơn giản và gọn gàng hơn chỉ ghi lại "Nhưng người ta sẽ như thiên thần ở trên trời."
 
Nếu ai để ý và chịu khó tìm hiểu về lịch trình bốn cuốn Phúc Âm sẽ biết được Phúc Âm Marcô được viết sau hai cuốn phúc âm Matth êu và Luca. Nơi Phúc Âm Marcô chỉ nói tới khi sống lại chứ không đặt vấn đề thành phần nào được xét đáng được sống lại hay không. Phúc Âm Mátthêu dùng nhóm từ, “Thời phục sinh.” Điểm khác chúng ta nên biết, danh hiệu Sađđucêu mà Phúc Âm nhắc tới đó là nhóm người không công nhận có sự hiện hữu của thiên thần, nói chung, họ không cho rằng có một thế giới linh thiêng ở giữa con người và Thiên Chúa. Họ thiên về chính trị do đó không có lối sống tách biệt với đế quốc La Mã như những người thuộc bè phái Pharisiêu. Họ thuộc hàng tư tế của giáo phái riêng chỉ chấp nhận kinh sách được gọi là của Maisen bao gồm 5 cuốn: Khởi Nguyên, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, và Thứ Luật.
 
Dĩ nhiên, khi đã không cho rằng có một thế giới linh thiêng ở giữa con người và Thiên Chúa thì sẽ không chấp nhận có cuộc sống sau khi chết chẳng khác gì nhiều người ngày nay cho rằng chết là hết. Rảo qua những nhận định được ghi lại nơi Phúc Âm và quan niệm của bè phái Sađđucêu, chúng ta thấy rõ, bài Phúc Âm được viết cho con người thời nay, cho tất cả những ai chưa để tâm suy tưởng tận tường về thực thể con người của mình.
 
Nói chung, bài Phúc Âm được viết với mục đích nhắc nhở con người để ý nhận biết Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật qua nhiều hình thức khác nhau mà chúng ta có thể nhận biết. Trước hết, mỗi con người bao gồm hai thành phần hoàn toàn khác biệt đó là linh hồn và thân xác. Xác thân là phương tiện cho sự thăng tiến về tâm linh của linh hồn. Sự thăng tiến này được gọi là hành trình đức tin hay hành trình tâm linh. Hoạt động của linh hồn bao gồm tất cả ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, ký ức, v.v… những vấn đề chỉ chủ thể nhận biết chưa được diễn đạt qua bất cứ phương tiện nào như ngôn ngữ, nghệ thuật v.v…
 
Những sự khác biệt về cá tính, tư cách, thái độ, tài năng nơi những con người đó chính là sự khác biệt nơi trình độ thăng tiến của linh hồn mỗi người vì tư cách hay cá tính con người chính là sự biểu hiện hoạt động của linh hồn nơi cơ hội có được phương tiện học hỏi nơi thế giới hữu hình. Linh hồn cũng còn được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau tùy quan niệm và nhận thức theo mức độ tâm linh khác nhau. Nơi trình độ thấp kém, đơn giản, linh hồn được gọi là trí khôn. Ở bậc suy nghiệm cao, linh hồn được gọi là Thiên Chúa nội tại. Các danh hiệu tâm trí, thần khí, thực thể linh thiêng, v.v… đều chỉ về linh hồn.
 
Nhận định như thế, xác thân là phương tiện và cuộc đời với những liên hệ là cơ hội cho linh hồn một người thăng tiến nơi hành trình nhận biết chính mình, nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Khi thời giờ đã mãn, tức là khi linh hồn đã hết giai đoạn được sử dụng thân xác hoặc thân xác không còn giúp ích gì nên linh hồn lìa khỏi xác, chúng ta gọi là sự chết.
 
Qua nhận thức tâm linh, kết quả của dầy công suy nghiệm, linh hồn chính là quyền lực sự hiện hữu, quyền lực sự sống, quyền lực đức tin, quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi con người. Chúng ta chỉ có thể nhận biết được thực thể linh hồn khi tự đặt vấn đề về chính mình để suy nghiệm. Chẳng hạn, tại sao hay quyền lực nào đã sắp xếp để cặp mắt một người cũng như nơi mọi người chỉ ở trước mặt mà không thấy ai có cặp mắt nơi sau lưng. Tại sao hay quyền lực nào sắp xếp để con mắt có cơ cấu hoàn toàn khác biệt với các bộ phận khác nơi cơ thể con người. Tại sao hay quyền lực nào sắp xếp để hàm răng không mọc ở chiếc lưỡi mà bao quanh nơi hàm, v.v…
 
Càng suy nghiệm về chính bản thân, chúng ta càng phải đối diện với một thực thể quyền lực tối ư cao vời đang hiện diện và hoạt động ngay nơi thân xác mình mà xưa nay chúng ta đã không bao giờ để ý nhưng lại cho là sự thường. Đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Ngài nói cho chúng ta biết, Thiên Chúa, quyền lực tối thượng của sự hiện hữu đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nơi tạo vật. Sự hiện hữu của chúng ta chính là sự hiện thể của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình nơi hành trình biến chuyển vô cùng. Đây là ý nghĩa câu nói nơi bài Phúc Âm, “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của kẻ sống vì mọi người đều sống cho Chúa. Tóm lại, chẳng có gì được gọi là chúng ta mà tất cả đều là sự hiện thể của Thiên Chúa. Amen.
 
 
 
CHỦ NHẬT 33C (Lc. 21:5-19)
 
Nếu để tâm tìm hiểu ý định được Phúc Âm dùng ngôn từ qua lối diễn tả sự việc, chúng ta nhận thấy bài Phúc Âm dùng lời tiên đoán về sự tàn phá của đền thờ Giêrusalem để dẫn đến ẩn ý nói về sự kiện tâm hồn một người sẽ phải đối diện nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh, nếu ai đó thực sự khao khát và thực hành để đạt tới thực thể Tin Mừng Nước Trời. Phúc Âm đưa lên câu hỏi về ngày giờ, câu trả lời chỉ về những sự kiện chưa bao giờ xảy đến, đồng thời nêu lên lời căn dặn, “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối, vì chưng sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: Chính ta dây và thời giờ đã gần đến. Các con chớ đi theo chúng.” Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe người này, người kia nói Chúa hiện ra bảo thế này, Đức Mẹ hiện ra nói thế kia. Và cũng một kiểu cách ấy, bao nhiêu đấng bậc vị vọng đã hô hào Chúa muốn họ làm điều này, thực hiện điều kia, rồi nào nhân danh bề trên, bề dưới để phán bảo về ý Chúa, đại diện cho Chúa; lại có những kẻ viết lên những lời thư đe dọa không làm thế này thì sẽ bị phạt hoặc không làm thế kia sẽ bị tai họa.
 
Qua những sự kiện đã xảy ra mắt thấy tai nghe nơi cuộc đời và không ít thì nhiều chúng ta đã chứng kiến, điều rõ ràng đó là chẳng những chúng ta không để ý lời Phúc Âm đã hai ngàn năm căn dặn mà ngay cả những người nhân danh Chúa, nhân danh Mẹ để mưu đồ, họ cũng đã không để ý xem Phúc Âm nói những gì. Và như vậy, chính họ cũng không biết họ nói gì trong khi chúng ta lại thích mở rộng lòng nghe hơi ngồi chõ để rồi lăng xăng, ồn ào, giao động vì những mưu toan lường gạt của quân bất lương, lạm dụng thần thánh, lạm dụng Chúa, lạm dụng Đức Giêsu, lạm dụng lòng khát khao nhận biết Thiên Chúa của con người.
 
Nói cho đúng, chúng ta đã không hiểu, không chịu tìm hiểu để nhận thực đức tin là gì và cũng không cần biết Đức Giêsu dạy chúng ta những gì nơi Phúc Âm. Chúng ta mở rộng lòng để tự biến mình thành những con múa rối theo lời lường gạt của người khác trong khi không cần biết mình tin gì. Có thể lời than Đức Giêsu đã bày tỏ nỗi thất vọng với các môn đồ cũng chính là nỗi thất vọng của Ngài đối với chúng ta, “Ôi thế hệ cứng tin và tà vạy, cho đến bao giờ nữa Ta sẽ ở với các ngươi? Cho đến bao giờ nữa Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi” (Mc. 9:19).
 
Nơi Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu đương đường công bố, “Kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (14:12). Nơi Phúc Âm Marcô, Ngài rõ ràng nói cho chúng ta biết, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì nó sẽ thấy thành sự” (11:23). Ngược lại, chúng ta tuyên dương tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu nhưng cho rằng Chúa làm phép lạ! Chúng ta đã không tin lời dạy của Đức Giêsu, “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối,” và chúng ta đã tự lừa dối chính mình bằng cách nói rằng tin nhưng thực tâm không cần biết Đức Giêsu dạy gì nên không biết mình tin gì.
 
Qua những kinh nghiệm suy tư để viết lách nơi hành trình nhận thức về Thiên Chúa, thánh Tôma Aquinas đã có câu nói mang lại lợi ích thiết thực cho bất cứ ai để tâm suy nghiệm về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh nhân viết, “Thiên Chúa là Đấng trí khôn không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói gì về Ngài, và tất cả những gì chúng ta cố gắng nói về Ngài chỉ là sự tưởng tượng.””Câu nói này chỉ những ai để tâm nghiệm chứng mới có thể cảm nhận được. Và nơi tuổi bóng xế, thánh nhân đã ngưng viết lách để dành thời giờ trầm tư suy nghiệm.
 
Nếu ai đã thực hành suy nghiệm và đọc những sách vở ghi lại thực thể nghiệm chứng của các bậc thức ngộ sẽ nhận chân được ý nghĩa lời khuyên của Đức Giêsu nơi Phúc Âm, “Vậy các con hãy ghi nhớ điều nầy trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.” Những ai đã để tâm nghiệm chứng thực thể hiện hữu của Thiên Chúa sẽ phải đối diện với muôn ngàn lý luận nơi tâm tưởng lệ thuộc muôn chiều hướng, chẳng những đe dọa mà còn mang năng lực ép buộc, không cho phép hành giả suy tưởng và có thái độ hay lối sống theo ham muốn thường tình thế tục.
 
Dĩ nhiên, hành giả sẽ phải chịu đựng nhiều loại cám dỗ, ham muốn nơi tâm tưởng, hoặc những hình ảnh, viễn tượng xảy đến nơi tâm trí. Nhưng tất cả những gì người suy nghiệm có thể tưởng tượng hoặc đối diện nơi hành trình nghiệm chứng cho dù mang vẻ cao sang thánh thiện, tốt lành đến đâu cũng không phải là Thiên Chúa hay ý định của Ngài. Vì Thiên Chúa là đấng không thể dò thấu nên bất cứ gì xảy đến nơi tâm trí đều chỉ là con đẻ của sự tưởng tượng của con người. Chúng ta chỉ cần nhận biết một điều, những sự kiện tâm linh không phải là Thiên Chúa. Đây chính là ý nghĩa lời khuyên, “Chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào.” Đã biết bao người nói về dữ kiện họ nhìn thấy linh ảnh này, linh ảnh kia. Khá nhiều tác giả cũng viết về những linh ảnh họ nhận thấy khi chiêm nghiệm được ghi lại nơi sách vở.
 
Nếu thực hành nghiệm chứng, chúng ta không nên để ý về chúng. Chỉ cần biết có những sự đó phải xảy đến nhưng để tâm theo đuổi những dữ kiện tâm linh tất nhiên đã đi trật đường. Đây cũng là nguyên nhân đã có câu nói,“”Chứng cái không” mà nếu ai chưa thực hành nghiệm chứng vô tình nghe được đều cho là phi lý hay nói dại.
 
Tóm lại, bài Phúc Âm được viết ám định về thái độ cũng như tâm tình của con người nơi hành trình nghiệm chứng khi phải đối diện với những dữ kiện tâm linh sẽ xảy đến. Những ngôn từ linh hồn, tâm trí con người, thành phần tâm linh, hay thần khí đều chỉ về sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi mình. Hành trình đức tin hay hành trình tâm linh là sự nghiệm chứng về thực thể hiện hữu tối thượng là chính Thiên Chúa ngự trị nơi mình. Hành trình này được Phúc Âm gọi là ngõ hẹp đối với mọi người cũng chỉ vì chúng ta đã quá quen với những suy tư thế tục lại không để ý suy nghiệm về chính mình. Bởi thế, những đền thờ khôn ngoan, cao sang thế tục cần phải được phá bỏ nếu chúng ta muốn nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời. Chúng ta chỉ có thể biết mình là ai khi dám đối diện với lòng để nhận ra con người thực của mình thế nào. Amen.
 
 
KITÔ VUA C (Lc. 23:35-43)
 
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Kitô vua nhưng bài Phúc Âm nói về sự thể xảy đến nơi cuộc tử nạn của Ngài. Mọi người chúng ta đều nhận biết Đức Giêsu được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho nhân loại. Cũng vì nhiệm vụ này, cũng vì thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng mà người ta đã nhân danh Thiên Chúa để giết chết Ngài. Qua Phúc Âm chúng ta đọc được những đoạn nói về việc người ta muốn ném đá Ngài hoặc muốn giết Ngài bằng cách xô Ngài xuống triền đồi. Điều này minh chứng, trước đó người ta đã có những lời ong tiếng ve khinh chê hoặc mạt sát Ngài mà Phúc Âm đã không nhắc tới. Kinh nghiệm sống minh chứng, nếu ai đề xướng bất cứ điều gì khác với quan niệm hoặc không thuận với thói quen hay tập tục của một tổ chức nào đều khiến những người thuộc tổ chức đó khó chịu hay tức giận.
 
Chúng ta có thể kiểm chứng lời minh xác này nơi tâm tình mỗi người. Chẳng hạn người nào đó nói lên những điều gì hay ý kiến nên xét lại vấn đề tập quán giữ đạo của người Công Giáo, tất nhiên chúng ta dù không nói ra nhưng vẫn cảm thấy khó chịu. Hoặc rõ ràng hơn, những ý kiến hoặc nhận định không giống với những gì chúng ta đã được dạy dỗ 30, 40, hoặc 50 năm về trước thường bị chúng ta cho rằng rối đạo hoặc sai lầm. Sở dĩ sự kiện này xảy đến nơi tâm tưởng cũng chỉ vì cuộc sống thay đổi, não trạng và nhận định của con người thay đổi nhưng chúng ta không muốn thay đổi; có thể bởi chúng ta ỷ lại, không dám suy tư vì nếu suy tư chúng ta phải đối diện với muôn ngàn cố gắng hầu thỏa mãn khát vọng nhận biết Chúa nơi tâm tư mình; và cũng có thể chúng ta e sợ sự nhận biết thực thể nội tâm đó là sự nhận biết còn nhiều điều mình đã không biết.
 
Phúc Âm minh chứng chính Đức Giêsu đã phải đối diện với sự thể này khi ghi lại, “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (Mc. 3:20-22). Nhận định như thế, chúng ta phải đối diện với thực thể nội tâm nơi mỗi người đó là chúng ta tuyên dương, tuyên xưng Đức Giêsu là vua trong khi rất ngại ngùng hoặc cố tránh né tìm hiểu những điều Ngài giảng dạy nơi Phúc Âm.
 
Lý do thật đơn giản và quá rõ rang, chính vì Phúc Âm đã không được viết giống như những gì xưa nay chúng ta hằng tin tưởng. Hơn thế nữa, nếu ai đó cố gắng suy luận về ý nghĩa câu Phúc Âm nào đó để có thể áp dụng một cách hài hòa nơi cuộc đời thì đồng thời lại phải đối diện với những câu Phúc Âm khác mang ý nghĩa chống nghịch phá tan tành công trình suy tư để dồn mình vào ngõ bí không biết cách nào suy luận. Tâm trạng này có thể là nguyên nhân khiến chúng ta nhụt nhuệ khí, nhụt lòng hăng say hoặc cảm thấy chán nản khi suy tưởng Lời Chúa nơi Phúc Âm.
 
 Giả sử nếu ai trong chúng ta đã để ý suy nghiệm Phúc Âm và đã phải mang tâm trạng này, tôi đề nghị không nên nản lòng mà hãy để tâm trí luẩn quẩn với câu Phúc Âm nào đó đã mang nghĩa khó cho mình có thể chấp nhận. Hãy mở rộng lòng và không giới hạn suy tư để cố tìm hiểu Lời Chúa theo mọi chiều hướng có thể xảy đến nơi tâm trí. Một ngày vẫn chưa có giải đáp, hãy suy nghĩ một tuần. Một tháng vẫn mông lung, hãy để tâm đến câu Phúc Âm một năm và hơn thế nữa, hoặc hai, hoặc ba, và có thể mười năm, hai mươi năm hay hơn.
 
Thực ra, mười năm, năm mươi năm hoặc cả cuộc đời đem so với hành trình vĩnh cửu của linh hồn nào thấm thía chi. Cũng chỉ vì công bố Tin Mừng bằng cách rao giảng những lời nói khôn ngoan, Đức Giêsu đã bị anh em họ hàng cho là mất trí, bị người đời kết án, rình mò tìm cơ hội giết bằng nhiều cách và cuối cùng đã bị người ta nhân danh Thiên Chúa mà đóng đinh trên cây thập tự thì chúng ta không hiểu nổi lời Ngài tất nhiên là chuyện thường tình. Đức Giêsu không rao giảng cho những người thiếu khả năng nhận biết nhưng người ta đã không muốn nhận biết. Phúc Âm không dạy cho người ta lối sống đam mê thế tục nhưng chúng ta đã dùng sự hiểu biết thế tục để giải nghĩa Phúc Âm. Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân loại nhưng con người đã dùng Ngài để quảng bá tin buồn, rao truyền tội lỗi cho những người đơn sơ chất phác, và dẫu không từ hỏa ngục hiện về, người ta đã cố dẫn đường để người khác nhận biết về một cái hỏa ngục đáng ghê sợ theo tưởng tượng suy luận thế tục.
 
Ngày xưa, người ta đã không suy nghiệm về những lời giảng dạy của Đức Giêsu, ngược lại chê cười Ngài. Ngày nay, chúng ta tôn kính Ngài nhưng chúng ta cũng đã không suy nghiệm những lời dạy của Ngài chẳng khác gì họ ngày xưa. Ai trong chúng ta không vương vấn đôi tâm tình khinh chê những người biệt phái và luật sĩ đã bị Đức Giêsu lên án, “Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình vì các ngươi khóa nước trời, chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi chẳng để cho vào” (Mt. 23:13); ngược lại, bất cứ những gì nghe không thuận với sự hiểu biết giáo điều hạn hẹp nơi bổn đồng ấu chúng ta cho là rối đạo. Ăn ở không thuận phép đời, phép đạo thì chúng ta nhắm mắt cúi đầu ôm ấp nhiều khi còn cảm thấy hãnh diện, nghênh ngang, nhưng Lời khôn ngoan của Chúa dẫn dắt con đường cứu rỗi, chúng ta coi thường không cần để ý.
 
Chúng ta chỉ tưởng tượng được Chúa cứu chuộc nhưng đã không cho Ngài cơ hội để cứu chúng ta thoát khỏi ngay cả lòng ham muốn của chính mình. Thế nên, nhân ngày tôn kính Đức Giêsu Kitô vua, chúng ta nên lòng tự hỏi lòng và đặt lại vấn đề. Chúng ta tuyên dương Đức Giêsu là vua mang ý nghĩa gì và liên hệ đến cuộc đời cũng như hành trình đức tin của chúng ta thế nào. Chúng ta gọi Ngài là vua để sống theo những lời giảng dạy của Ngài nơi Phúc Âm hay chỉ thấy người ta nói sao mình lập lại như vậy cho có vẻ con nhà có đạo? Đức Giêsu dạy chúng ta những gì và chúng ta đã sống và theo Ngài ra sao? Những ai tuyên xưng Đức Giêsu là vua nhưng không cần biết Ngài lời Ngài dạy dỗ, phỏng họ thuộc thành phần như thế nào? Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng phỏng cuộc đời của chúng ta có đang minh chứng tin mừng Ngài đem đến hay đã biến tin mừng của Ngài thành tin buồn chẳng những cho chính mình mà còn cho những người sống chung quanh. Amen.

 

 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2023 03:27:39 bởi lamongthuong >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9