KÝ ỨC TUỔI THƠ Truyện vừa Phần I TUỔI THƠ Tôi sinh ra ở một vùng quê Phú Yên. Làng Phú Thứ nằm dọc theo Con mương dẫn thủy của đập Đồng Cam, tưới khắp cánh đồng Tuy Hoà trù phú. Làng quê yên ả, hiền hoà ấy bị cày xới, sôi sục trong chiến tranh. Chẳng một mảnh vườn, một tấc đất nào không khét mùi thuốc súng. Tuổi thơ tôi được trộn chung với đạn bom và xác người. 1. MỘT VIỆC LÀM TÁO BẠO Tôi là con út trong nhà gồm bốn anh chị em. Chị Hai năm đó mười bảy tuổi, cha cho học nghề may nhưng chẳng mấy khi có khách đến nhà may vá. Bàn máy được đẩy vào góc nhà, chị sắm đôi quang gánh cùng nhập bọn với mấy chị hàng xóm đi bán nước mắm. Anh ba Sơn có một tiệm sửa xe đạp. Gọi là tiệm cho oai chứ thực ra chỉ dăm cái săm lớp, vài cái vành đã cũ mèm, một khung xe sơn màu xám xịt và thùng đồ nghề lỉnh kỉnh những cờ-lê, mỏ-lếch. Tiệm của anh nằm ngay chợ Phú Thứ. Má kể mấy năm trước tiệm buôn bán cũng đỡ lắm, nhưng từ khi chiến tranh về làm ăn trở nên khó khăn. Vả lại anh Sơn năm ấy đã mười lăm tuổi, thích ngồi nghe những chú bộ đội kể chuyện hơn là sửa xe. Có lúc anh ngồi nhìn bộ đội đi ngang qua nhà, nhìn say sưa chẳng biết anh nghĩ gì. Nhưng chắc cũng giống như tôi nhìn mê mẩn chiếc xe đạp anh dựng ngoài hiên. Chiến tranh bắt đầu ác liệt anh vắng mặt ở tiệm nhiều hơn, có khi vài giờ, một buổi hoặc đôi khi cả ngày. Anh Hà trở thành cậu chủ nhỏ, tiệm của anh trở thành thế giới của tôi. Anh Hà là anh thứ tư, trong nhà anh Hà là người giống tính cha, trầm tỉnh ít nói. Anh hơn tôi bốn tuổi, dáng người thấp nên chỉ nhỉnh hơn tôi chút xíu, ấy thế mà tôi lại sợ anh nhất nhà. Anh cũng chưa bao giờ đánh tôi, cứ thấy miệng anh mím lại không hiểu sao tôi lại chẳng dám ho he. Có một điều lạ, là anh luôn biết tôi thích gì và, với tôi anh là người tôi vừa thích vừa sợ. Môt buổi tối, đúng hơn là vừa chạng vạng chưa kịp đỏ đèn, chị Hai đi bán muối trở về tóc tai rối bời, dép đằng dép chân đằng chân, tất ta tất tưởi, kéo theo sau chừng năm người có cả trẻ con: - Má ơi! Thằng Sơn bị bọn lính bắn chết rồi...! Mẹ tôi đang cho heo ăn hốt hoảng chạy lên: - Con nói cái gì? Sao lại bắn chết nó hả trời, nó sửa xe đạp mà! Mẹ tôi khóc bù lu bù loa. Tôi không khóc như mẹ nhưng nước mắt của tôi chảy dài nóng ran cả đôi má, tôi thương anh vô chừng, anh Sơn ơi! - Con làm sao mà biết được, hồi xế thấy bọn lính trói dẫn đi, gặp con, nó ra hiệu con đừng có lại, nó bị trói vầy nè, con đi một đoạn tự nhiên nghe hai phát súng , sảng quá chạy lại thì đúng là nó bị bắn quăng xuống mương dẫn thủy mất xác rồi! Vừa nói chị Hai vừa đưa hai tay bắt chéo trước bụng. Tôi chân tay bủn rủn, đứng thẩn thờ nhìn bộ đồ anh mắc trên vách, nhìn chiếc giường kê gần cửa ra vào mà hằng đêm tôi với anh ôm nhau ngủ. Giờ anh nằm đoạn mương nào hay còn đang trôi theo con nước… Suy nghĩ miên man, mẹ sai anh Hà chạy tìm ba về. Ba chưa kịp về đã thấy anh Sơn quần áo dính bùn đất, đầu tóc rối bời, ướt mem lao vô nhà. Chưa nói gì anh đã cười toe toe: - Làm gì tụi nó bắn con được! Chị Hai tìm áo quần đưa anh Sơn, mẹ lấy khăn vo khô đầu và anh kể lại chuyện xãy ra trưa nay. Tôi, anh Hà ngồi há hốc mồm, đôi khi cười ré lên sung sướng, thích thú. Mẹ, chị Hai thì xít xoa, cứ lạy trời, lạy phật còn cha tôi trầm ngâm không nói gì. Tôi biết cha rất hài lòng vì ánh mắt ông nhìn anh kể, nhìn một cách triều mến. Quả thật anh Sơn của tôi rất cừ, trong mắt tôi anh là một anh hùng. Tôi ngưỡng mộ anh quá sức. Như tôi đã kể ở trên, thời gian sau này anh Sơn hay vắng mặt ở tiệm. Anh lân la theo các chú bộ đội (anh nghĩ phải làm được một việc gì đó để chứng tỏ mình là người đã lớn, can đảm) thế là hôm đó anh xuống Phú Lâm mua phụ tùng xe đạp. Trên đường về tới ga Gò Mầm, thấy lính Cọng hoà đi càn về đang ngồi nghỉ, đánh bài. Có tốp nằm ngủ dưới gốc cây. Anh men lại làm quen, tên lính ngồi gần gốc cây đang thiu thiu ngủ, anh lén lấy khẩu “cạc bin” nhét vô cái hầm ếch bé tẹo được moi sâu dưới gốc cây mà bọn trẻ con chúng tôi hay đào chơi trò đánh giặc giả và cũng để làm hầm tránh đạn, tránh máy bay. Bé bằng cái lỗ mũi, muốn vào phải nằm trường như con rắn mối, nhét khẩu súng vô hầm xong anh giả bộ uể oải đứng dậy về, không tên lính nào nghi ngờ. Đi được một đoạn bọn chúng phát hiện mất súng nên rượt theo anh. Lẽ ra, rời khỏi chỗ bọn lính anh phải chạy nhanh hoặc trốn đâu đó (mà nếu làm điều này thì chắc khi bắt bọn chúng sẽ bắn anh ngay). Anh cứ đi lơn tơn, vừa đi vừa xiết mía nên khi bọn chúng rượt tới cũng không thể nói anh lấy súng được. Bọn chúng bợp anh mấy bạt tai, đạp ngã nhào xuống vũng nước gần đó và trói lại. Chúng dẫn anh về quận. Năm đó anh mười lăm tuổi, ốm nhom và đen nhẻm. Cao lêu đêu như một cây củi khô, giống như đứa giữ bò hơn là cậu chủ tiệm xe đạp. Tóc anh loăng quăn cháy vàng. Màu tóc của tuổi thơ bom đạn, của chiến tranh và cơ cực. Tôi thích nhất ở anh không phải mái tóc, tôi cũng có mái tóc như vậy. Bởi vì mỗi lần mẹ hôn lên đầu tôi người luôn bảo “tóc của thằng Hà em hôi giống mùi chó con của mẹ quá”. Khi đó tôi không thích thế. Tôi rất thích đôi mắt và cái miệng của anh, cái miệng khi nào như cũng muốn cười, kể cả những lần bị cha cho ăn roi mây!. Nếu không có những giọt nước mắt lăn trên má lúc khóc thì tôi cứ tưởng là... anh cười. Có một bận tôi lén lấy chiếc xe đạp của anh tập đi, tôi chỉ đi được một kiểu là để chân lên bàn đạp rồi lấy chân kia đẩy cho xe chạy và tôi đã cho xe chạy luôn xuống mương dẫn thủy! Bị anh la một trận tơi bời, nhưng lúc đó tôi vẫn thấy… miệng anh như cười. Tôi không sợ nhưng thương anh lắm. Và cũng nhờ chuyện anh lặn xuống mương (gọi là mương nhưng thật ra rất rộng. Ngày ấy tôi đã phải dùng hết sức mới bơi qua được bờ bên kia. Phải rộng hơn một thân tre và sâu thì bằng cả hai thằng tôi chắp lại). Lặn từ chỗ tôi quăng xe, đoạn cầu Phú Thứ đến ga Gò Mầm mất một buổi trời. Chiếc xe bị miếng chắn của ga cản lại và chính cái thùng thiếc rỗng cột sau “ba ga” đã lôi chiếc xe đi xa như vậy. Tại đây anh đã phát hiện ra một hầm bí mật bỏ hoang, sạc lở, hư hỏng khá nhiều, ăn thông qua đường cái dẫn đến một cửa nữa nằm phía dưới bụi tre, lề trên. Khoảng hai giờ chiều hoặc hơn, bóng ngã đã hai sải chân, trời còn đang nắng chang chang, bọn lính đứa xô, đứa đạp lên người, thúc anh đi nhanh (có lẽ không tìm được súng và cũng không có cơ sở bảo rằng anh lấy nên bọn chúng trút bực bội lên anh) thỉnh thoảng anh lại bị đạp ngã nhào. Lề đường phía trên có nhiều bóng cây, phía dưới là con mương dẫn thuỷ. Gần đến ga Gò Mầm mùi hôi xông lên nồng nặc. Rác, xác súc vật chết, đủ thứ trên đời bị ga cản nên kết lại một mảng lớn. Còn hơn hai trăm mét chợt nhiên anh nhớ đến cái hầm bí mật! Anh mừng không tả nỗi, anh mừng phát run lên, và cũng lúc này anh gặp chị Hai, sợ rầy rà cho chị và nhất là sợ qua khỏi ga làm trở ngại ý đồ của anh, may mà chị đi luôn, anh cố đi chậm để chị đi thật xa. Thấy anh đi chậm quá một tên lính xô mạnh vào lưng, anh chỉ đợi có giây này. Thực ra anh có thể nhảy ùm xuống mương, nhưng nếu vậy bọn lính sẽ bắn theo ngay và có thể sẽ bị trúng đạn. Anh chờ một cú đạp, cú đẩy vào người, anh sẽ ngã, cố ngã làm sao thật tự nhiên. Và rồi anh ngã thật, ngã thật đẹp rơi “tòm” xuống mương. Phía trên mặt nước là một dề rác rưởi dày cả tấc, anh chìm nghỉm không thấy tăm hơi. Tên lính xô anh rơi xuống nước hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì mấy tên gần đó: - Đ.m. cho nó chết luôn, vớt làm gì! Lúc đó trên bờ không có người dân nào, chứ nếu có ai nhảy xuống cứu thì phiền to. Một tên có vẻ là chỉ huy, chỉa súng xuống nước định bắn, ai đó nói: - Không cần bắn nó cũng chết, ga nước chảy thế này mà bị trói cả hai tay nữa. Chắc chắn nó bị hút kẹt dính vô mấy lỗ của tấm thép chắn ga, chầu Hà Bá rồi. Tên chỉ huy ngứa tay ấn vào cò súng “đoàng, đoàng”. Hai phát súng khô khốc chìm trong mênh mông biển lúa đang thì con gái. Bọn chúng lại tiếp tục lên đường, dững dưng như chưa hề có chuyện gì xãy ra. Còn về phần anh Sơn khi ngã “ùm” xuống mương, anh lặn một mạch đến hầm bí mật, chui ra khỏi bụi tre nương theo bờ ruộng, những đám lúa sắp làm đòng che chở , bảo vệ anh thoát ra khỏi vùng nguy hiểm. Từ đó, trong mắt bọn trẻ chúng tôi và cả người lớn nữa anh không còn là thằng Sơn ốm nhom như que củi, đi đứng ra vẻ người lớn lắm. Cây súng lấy được anh đem nộp cho mấy anh xã đội. Với công trạng này, anh bị mấy chú trên huyện phê bình cho một trận vì tội liều lĩnh, nguy hiểm nhưng sau đó về được tuyên dương trước toàn đội thiếu niên xã. Tôi sung sướng và tự hào cứ như công trạng đó là của tôi vậy. Anh Sơn được mấy bác ở trên huyện giao công tác liên lạc, oai không chê vào đâu được. Anh nói khi nào đủ mười bảy tuổi, các bác sẽ giao súng và anh dặn cả nhà nếu ai hỏi thì bảo là anh đã mười sáu! Tiệm sửa xe được giao lại cho cha. Vậy là ông kiêm luôn thợ sửa xe, anh Hà giúp việc, còn tôi vẫn chạy long nhong. 2 CHIẾN TRANH
Trường lớp đã bắt đầu thưa thớt học sinh. Những gia đình khá giả, buôn bán hoặc ít ruộng vườn, đóng cửa nhà, dắc díu nhau ra ngoài soi Mỹ Lệ, hoặc lên quãng trên tránh bom rơi đạn lạc. Vài gia đình có bà con ở Thị xã thì thuê xe lam chuyển đồ về dưới đó. Chiến tranh đã mom mem tới gần. Lính đi “càn” dày hơn, ruộng đồng bị xe tăng xéo nát chưa kịp trở mình lại bị bom đạn cày xới. Nhóm bạn chúng tôi gia đình đứa nào cũng nghèo, cũng bám víu vào mảnh ruộng nên chưa dám đi đâu. Nhà thằng Phú là dễ đi xuống Thị xã nhất nhưng cha nó… lại không chịu đi. Cha nó nói: - “Càng chiến tranh càng dễ buôn bán!” Thế là nhà nó chuyển lên Thạch Thành. Ở đó tương đối yên tĩnh. Phú Thứ là vùng giáp ranh. Đôi khi năm ngày nữa tháng, lính Cộng Hòa “càn” lên đóng quân vài ngày, Cách mạng rút lui vào bí mật. Khi lính rút thì đâu lại vào đấy. Cuộc sống của người dân cũng thế mà thích nghi. Bọn trẻ con chúng tôi là thuận lợi nhất. Ngày nào cũng đến lớp, học thì ít mà đi lang thang tắm mương, đánh giặc giả, hái trộm ổi thì nhiều. Chơi riết trò chơi trẻ con cũng chán. Tôi muốn mình lớn nhanh để đi uýnh giặc như các chú bộ đội, như anh Sơn của tôi. Đánh nhau bằng súng thật thì thích hơn nhiều, “đùng” một cú là ngã quay lơ, chẳng bù với giàn ná thun: “bịch” một phát, “bọn địch” phủi đít nhe răng cười hì hì! Phú “thầy Tàu” mấy hôm nay không đi học,Thằng Phú học lớp ba cùng tôi, nhưng nó trắng trẻo phốp pháp, lại cao nên nổi bật lên trong nhóm bạn đen cháy và còm nhom. Nhà nó giàu nhất làng. Cha nó là “Thầy Tàu” chính gốc. Anh Hà bảo “ ông Thầy Tàu giống y chang Tôn Sĩ Nghị”. Anh đưa cả hình Tôn Sĩ Nghị ở trong sách truyện tranh lịch sử cho tôi xem nữa, giống thật! - Tôn Sĩ Nghị là giặc Tàu, còn cha thằng Phú là ông Thầy Tàu bán muối với lại nước mắm mà sao hai người giống nhau ghê anh hén, trong làng này đâu ai giống thế! Anh Hà giảng giải một hồi nhưng tôi chả hiểu gì, chỉ láng máng biết rằng ông ta ở xa tít tắp tận đẩu tận đâu. Trước đây trong nhóm bạn không có Phú, mà bọn tôi cũng chẳng thích chơi với nó, con trai gì mà y cục bột. Quần áo tươm tất, đi đứng như con gái nhưng đổi lại, tính Phú hiền lành, nhút nhác và, đặc biệt vườn nhà Phú rất rộng, trồng nhiều cây ăn trái. Cứ mổi tháng đôi lần, cha Phú xuống thị xã Tuy Hoà chở hàng, nguyên hai xe lam đầy ắp muối và nước mắm. Cứ mỗi lần thế là bọn trẻ chúng tôi lại kéo đủ bộ đến nhà Phú, trèo tót lên cây. Nào xoài, ổi, mận, đứa nào đứa nấy ăn cành hông, tuơ cả miệng, ních thêm mỗi đứa gáo nước trong ảng, bụng phành lặc lè, kéo cả lũ ra đường cái quan, đu xe ngựa xuống ga Gò Mầm chơi trò đánh giặc giả với bọn xóm dưới. Bọn chúng tôi dân xóm trên nên tụi Gò Mầm gọi là “Việt Cộng” còn chúng xưng là “Quốc Gia”, nhưng chúng đích thị là bọn “Nguỵ”. Các chú ở xã thường bảo thế, chắc ba nó sắp đưa cả nhà lên Thạch Thành. Nhóm thiếu một đứa tự nhiên buồn ghê. Cha tôi cho người chở cát, sạn, sắt, xi măng về chất đống trước sân. Không phải cha xây nhà đâu, làm hầm tránh đạn, tránh “canh nông”. Hầm được đúc bê tông cốt thép chìm dưới mặt đất. Cả Phú Thứ, hầm tránh đạn của nhà tôi là kiên cố nhất. Tôi hỏi cha: - Thế làm hầm là nhà mình không đi đâu nữa hả ba? Lỡ lính Cộng hòa lên ở luôn đây thì sao! Cha ngồi xuống ôm tôi vào lòng: - Ba làm hầm cho nhà ta tránh đạn, hầm cũ không an toàn con ạ. Khi cần, ba sẽ chuyển cả nhà đi. Căn hầm vừa xong, cha cùng anh Sơn vội từ biệt gia đình để lên núi. Ngày ấy tôi còn bé quá, nào biết được gì đâu, cứ ngỡ đi đâu đó rồi lại trở về. Căn hầm cha làm mà chưa một lần chui vào tránh đạn. Chị Hai, anh Hà và tôi cũng buồn, nhưng buồn trong sự chia ly, buồn trong nỗi thiếu vắng. Mẹ như linh cảm điều gì, xin cha với anh Sơn chậm lại dẫu chỉ một ngày: - “Một ngày thì có mấy tí hở mẹ?” - Tôi nói. Mẹ không nói gì, thẩn thờ hết lấy đồ cha đơm lại cúc áo, vá chỗ sờn trên vai anh Sơn, mẹ không khóc nhưng nước mắt cứ lăn dài trên má. Cha cũng buồn vì phải xa vợ và các con. Suốt buổi chiều hôm ấy, tôi cùng anh Hà đều ở nhà, chị Hai nghỉ một ngày đi bán. Chẳng ai thấy anh Sơn buồn cả, vì lâu nay anh rất ít khi ở nhà, đi liên miên có khi năm ngày, nữa tháng mới ở nhà một đôi ngày nên có thể anh quen. Nhưng không phải thế, tôi biết anh rất buồn, anh dặn tôi đủ điều, dặn cả anh Hà, chị Hai, cả mẹ nữa. Từ đó, nhà tôi không còn những bữa cơm đầy đủ người. Tôi đã bắt đầu thấy nhớ cha, nhớ anh. Đã bắt đầu biết nếu không có cha sẽ như thế nào – mọi chuyện trong nhà đều một tay mẹ, từ việc đồng áng đến heo gà bếp núc. Anh Hà chính thức làm “chủ” tiệm sửa xe. Công việc thấy tưởng như vẫn thế, tưởng như thiếu cha, thiếu anh mỗi người chỉ làm thêm tí chút là xong, nhưng tôi thấy chẳng xong chút nào. Mẹ làm mà hồn vía cứ để đâu đâu, cứ giật thót mình khi nghe tiếng bom ì ầm phía núi. Riêng tôi sẽ không còn bị cha rầy, anh mắng, được “tự do” hơn, nhưng sao khi thiếu vắng tôi lại thấy thèm mỗi lần chạy chơi về được nhìn cha, được thấy anh dựng xe ngoài ngõ, chạy vào nhà uống vội gáo nước rồi đi ngay, nhưng vẫn yên lòng vì có anh. Giờ thì có vẻ như trầm trọng hơn, xa hơn và… tôi không biết nữa! Nhưng thấy mẹ hay lo lắng, u buồn, chị Hai thỉnh thoảng đi bán về ngồi kể chuyện chiến sự ở đâu đó mà chị nghe được làm cho mẹ càng thêm hoang mang. Tôi thương mẹ, thương anh, nhớ cha đâm ra ghét đánh nhau. Tôi thề là sẽ không thèm đánh giặc giả nữa! Chiến tranh, súng đạn đã thật sự đến với làng quê. Xe bọc thép cày nát ruộng đồng, lính Đại Hàn, linh Cộng Hòa mặt mày sát khí, lăm lăm súng trong tay, lùng sục từng ngóc ngách, xới tung, đốt sạch những đống rơm, ủi bật từng bụi tre. Con mương dẫn thủy hiền hòa, tắm mát bọn chúng tôi trong những trưa hè, nuôi sống cả cánh đồng phì nhiêu Tuy Hòa bỗng chốc trở thành người chuyên chở những xác chết. Ban đầu thì đôi ba ngày, từ đâu trôi ngang Phú Thứ một vài thây người trương phình, căng cứng. Bọn trẻ con chúng tôi chẳng bao giờ dám nhìn. Bất kể vào lúc nào, cứ mỗi lần có xác người trôi về mẹ đều tất tã chạy đến xem và người im lặng gạt nước mắt quay đi. Những người nhà ở gần đó chung tiền hoặc công sức, kéo người chết lên, khâm liệm tử tế và chôn bên vệ đường. Sau, người chết trôi về thường xuyên và nhiều nên dân làng không làm xuể. Hơn nữa, trong làng bây giờ hầu như không còn đàn ông, trai tráng. Thanh niên số thì đi lính Cộng Hòa, số thì như anh Sơn tôi, lên núi theo Cách mạng, phần còn lại là những người bệnh tật, ốm yếu, phụ nữ và trẻ con. Lúc ấy quả thật tôi không hiểu tại sao người lớn lại “chia phe” đánh giết nhau, thả trôi sông, trôi mương như vậy, lại có cả những người lính tận đẩu tận đâu cũng đến đây bắn giết. Đúng là thời kỳ khủng khiếp, xác chết không người chôn trôi xuống ga Gò Mầm bị ga cản lại nên lớp cũ lớp mới lèn chặt, ngày nối ngày xếp kín cả đoạn mương. Súng cứ nổ, bom cứ thả người chết ngày cứ nhiều thêm. Những con chó chạy qua chạy lại hai bên bờ, chúng rượt đuổi nhau trên những xác người. Đến lúc chúng cũng không còn sức để chạy nữa, chúng no lặc lè, căng phành bụng. Có lẽ từ dạo ấy, chiến tranh đã dạy chúng tôi không biết sợ, quên đến chai lỳ của sự chết chóc. Bọn tôi không dám lên đường cái quan, chẳng phải vì sợ những thây người rệu rã thịt xương, cũng không phải sợ gặp ma – chuyện nhỏ! Chúng tôi sợ mùi xác người! Con người không thể hít thở liên tục cái mùi xú uế đặc quánh của xác người chết ngày này qua tháng nọ, và thế là xóm làng hè nhau gỡ những tấm chắn của ga. Dẫu ai gan dạ cỡ nào khi nhìn tấm chắn được gỡ cũng đều nhắm mắt. Một cảnh tượng hãi hùng, xác người nằm đã lâu ngày, được ép chặt như nêm cối giờ được dịp di chuyển, lại xô đẩy nhau lao xuống ga, nước đổ như thác, chẳng còn gì nguyên vẹn. Không hình hài, một mớ hổn độn, nhầy nhụa. Những thân thể ấy sẽ đi về đâu? Những hình hài ấy rồi được ráp nối ra sao trong thế giới bên kia? Có lẽ lúc ấy chẳng ai đủ tâm trí mà nghĩ ngợi. Dòng mương lại trở về với dáng vẻ tươi mát, hiền hòa như nó vốn có. Nhưng có ai biết rằng chính con mương thân yêu ấy đã ôm trong lòng biết bao thân xác con người, đã hòa tan ngàn vạn thịt xương của bao linh hồn, ngày ngày tưới xanh ruộng đồng. Lính Cộng hòa, Đại Hàn cùng xe tăng, súng ống lần lượt kéo xuống hướng Phú Lâm. Làng quê cũng dần im tiếng súng, trả lại sự bình yên cho thôn xóm. Sự yên bình trong hiu hắt. Nhà cửa toang hoác những dấu vết đạn bom, ruộng vườn xe tăng bánh xích vằm nát, cây cối bật gốc, trụi ngọn đứng chơ vơ. Nhà tôi bị sạc một góc phía bếp do quả “đại bác” cắt đứt cây keo đập xuống. Căn hầm cha tôi làm là nơi trú ẩn gần năm gia đình, “kiên cố không chê vào đâu được” – ai cũng bảo vậy. Con tự hào về cha lắm, cha ạ! Quãng trên cầu Phú Thứ dưới - một đoạn, gần nhà tôi có lùm keo chừng ba mươi cây. mọc bao quanh khu đất trống, nơi bọn tôi thường tập trung chơi chẳng cây nào còn nguyên vẹn. Duy có một điều kỳ lạ là: Cây Da to lớn, gốc bằng mười đứa tôi ôm vòng không xuể thế mà chẳng hề hấn gì, không một nhánh gãy, không một dấu vết đạn bom. Đức lì lên tiếng: - Đích thị là cây Da thiêng rồi. Đức "lì" hồi đầu năm nó chỉ là Đức không thôi, chỉ tội ít nói, còn tính nó hiền như củ khoai. Dạo đầu năm nó đi học,cha mẹ đi làm đồng bồng theo đứa em kề nó, lên ba tuổi vì để ở nhà không ai trông. Gặp buổi lính đi càn, cha mẹ nó sợ quá bồng luôn đứa em chui vô hầm "ếch" đào để tránh máy bay núp. Xe tăng giặc chạy băng qua ruộng, chạy băng qua chỗ hầm cha mẹ và đứa em đang núp. Thế là chẳng người nào còn sống, và cũng không ai biết cả. Chỉ thấy tối không về. Tưởng là bị giặc bắt đem xuống quận. Mọi người xuống quận dò hỏi khắp nơi nhưng không ai biết. Năm ngày sau, những người làm đồng gần ruộng của nó nghe mùi xú uế gần bụi tre, tìm và phát hiện ba, mẹ và em nó trương phình nằm lẫn trong đất. Thế đấy! Từ đó, nó đã ít nói càng ít nói hơn. Nó không còn ai người thân. Trước kia nhà nó ở trong Phú Nhiêu, chuyển ra Phú Thứ chừng hai năm nay. Giờ thì trơ trọi chỉ mình nó trên đời, ba mẹ tôi thương hoàn cảnh nên đem Đức về nuôi.
- Ma ở đây là rất lớn, thiêng lắm!
- Chẳng phải ma, ma không giỏi vậy! Nó chỉ chuyên môn nhác người.
Thằng Ngọng đứng cà cả buổi được mỗi một câu:
- Nó… nó… nó tu lu… luyện… lâu… lâu năm…
Nhỏ Vân góp thêm:
- Không phải ma, là cây Da thần!
Từ dạo bọn tôi đến bên gốc Da núp máy bay, cây Da ít nhiều không còn bí hiểm nữa. Tất nhiên ai chẳng sợ ma! Cây giờ đã được bọn tôi phong thành thần. Thần khác ma nhiều lắm. Luôn cứu giúp con người và nơi nào có thần thì ở đó chẳng bao giờ có ma quỉ! Với suy nghĩ ấy, cây Da trở thành điểm hẹn của chúng tôi.
Anh Hà nghỉ ở tiệm sửa xe mấy ngày, rủ tôi ra ngoài đường cái, cách nhà không xa đào hầm bí mật! Mẹ cũng đồng ý. Từ dạo lính rút, máy bay “bà già” hay lượn lờ trên trời lắm. Thỉnh thoảng phát hiện được điều gì, chúng gọi “canh nông” từ Hòa Phong “câu” tới hoặc kêu máy bay chuồn chuồn bắn “rốc ket” xèo xèo. Mẹ nói: “Đào hầm ngoài đường để các con có cái mà núp nếu lỡ chạy về nhà không kịp”. Gọi là hầm bí mật cho oai chứ thật ra chỉ là cái hàm ếch nhưng với óc “sáng tạo”, anh Hà chọn một lùm cây dại mọc ven triền đường, đào cái lổ như miệng cống xiên xiên. Anh dùng cái cuốc bé tí lượm được của lính Cộng Hòa, cởi trần ngồi cuốc từng lát mỏng, tôi phụ trách việc cào đất bưng đổ xuống hố bom gần đó. Trông anh ngồi làm giống y con chuột chũi đào hang. Đường hầm dài chừng hơn hai sải tay, vừa đủ một người bò lom khom. Áng chừng hang đã ăn sâu trong đường cái quan, anh bắt đầu moi hầm rộng ra chừng bằng chiếc chiếu, đủ cho hai anh em chúng tôi và còn có thể thêm được độ ba người nữa, anh động viên:
- Ráng chút xíu em, chừng đến trưa là xong. Mình có chỗ núp lỡ còn người đi trên đường…Tội họ! Với lại rộng rãi thế này ngồi thích hơn.
Đến trưa trật mới xong. Quả là một công trình “vĩ đại” mà lần đầu tiên tôi được tham gia, khác xa căn hầm bé tẹo mà bọn tôi hay đào đánh giặc giả. Hai anh em đang định dọn cuốc, mủng ra về chợt nghe tiếng gì đục đục, rền rền làm những cục đất trên vách hầm rơi xuống, anh Hà bò ra chưa tới cửa đã vội thụt vào, thở hổn hển:
- “Canh nông” bắn dữ lắm!
- Dễ chừng chúng lại đi càn…
- Ừ!
Tôi định bò ra coi, anh Hà kéo chân lại:
- Mầy đừng, để anh ra cho.
Nói xong anh trườn ra cửa hầm, cửa quá bé, tôi nom mãi mà chẳng nhìn được gì. Anh nói vọng vào:
- Xóm sau có nhà đang cháy. Hình như gần ao rau muống chỗ bụi tre bật gốc nhà mình bị một quả, đất tươi roi rói…
Ngồi tận trong hầm, nghe anh Hà nói lao thao không chịu được, tôi cố ép người sát đất trườn dưới bụng anh, nhoi đầu nhìn ra ngoài trời. Tôi cố rướn mạnh nhìn ra lổ ánh sáng ít ỏi ngoài miệng hầm, nhìn về hướng nhà mình. Như chú nhái bén mang trên lưng con ếch, hai anh em lấp ló ở miệng hang. Xóm làng vắng ngắt, không một tiếng chó sủa, đây đó vài cột khói đang bốc cao. Bỗng như có ai kéo những tấm tôn chạy trên đường cái “sàn sạt” tiếng rít rợn người. Anh Hà chỉ kịp hét: “canh nông!” Cả người anh trùm kín lấy tôi, miệng hầm sụt một mảng lớn, đất cát rơi tứ tung, những tiếng nổ nối tiếp nhau “ùng ùng” căn hầm như rung lên. Qua cơn khiếp đảm chúng tôi thụt vô lại trong hầm, nhìn anh đầu tóc, mặt mũi, áo quần dính đầy đất. Tôi vẫn còn run:
- Anh có bị gì không? Khiếp thật!
- May mà không có quả nào rớt trúng hầm!
- Khi nãy anh sụm xuống tui cứ tưởng…
- Tại mầy chen phía dưới chứ không anh đã “phóc”vô hầm rồi.
Chợt nhiên anh im lặng, vểnh tai ra ngoài nghe ngóng. Như có tiếng “phạch phạch” giống ai đó đang giặt chiếu ngoài mương. Tiếng “phạch phạch” nhiều lắm, to dần. Tôi cũng căng tai lên nghe nhưng chẳng đoán được gì:
- Thôi về anh! Đạn hết nổ rồi, về nằm hầm nhà sướng hơn.
Tôi lui cui xách cái mủng chui ra cửa, anh Hà ngăn lại:
- Khoan, để anh xem đã.
Anh bò từ từ ra cửa, núp bên bụi cây dại nhìn dáo dác, bỗng anh tụt nhanh vô hầm, thở như bị ai rượt. Tôi tò mò, sè sẹ ra xem, anh chụp chân kéo lại, tôi quẫy mạnh bò nhanh. Núp bên bụi cây nhìn quanh, chẳng thấy gì. Chợt từ đâu đó có ai đang nói chuyện, hình như mọi người đã đi ra đường, đông và nhộn nhịp. Tôi đứng thẳng người lên cho dễ chịu:
- Về thôi anh ơi…!
Chưa nói hết câu, nhìn sang bên kia mương, cơ man nào là lính Cộng Hòa đứng từng dãy dài. Tiếng thét của anh Hà chìm trong tiếng hô đứng lại, tiếng súng nổ. Không phân biệt được gì, như bản năng, tôi chỉ nghĩ đến mẹ, đến ngôi nhà cần phải về, và sau lưng sự nguy hiểm phải tráng xa. Thế là tôi chạy, chạy bất kể đất trời. Súng nổ như rang bắp, đạn cày “chíu chíu” trên đường. Tôi chạy như bay nhưng sao đoạn đường dường như cứ xa thêm. Ở trong nhà, mẹ cùng rất đông người hàng xóm cũng chạy ra, vừa chạy vừa khóc, toàn phụ nữ và trẻ con. Tôi đang chạy tự nhiên cảm thấy như nhẹ tênh, như bay bổng. Chơi vơi chân không chạm tới đất, sau lưng, anh Hà đã ra khỏi hầm, đứng giữa đường cái quan hai tay đưa lên trời, khóc như mưa: “Em của con… Đừng bắn em con…!”
Sau đợt chết hụt (mọi người đều gọi như vậy) chứ thật ra tôi vấp phải hòn đá toét ngón chân. Nếu lính Cộng hòa bắn vào tôi thì đã tan xác pháo rồi. Mà “Việt Cộng” gì bé tí tẹo, chạy tụt cả quần!
Cái xóm đông vui ngày nào giờ còn lại ba gia đình. Nhà bác Hai Trong, nhà nhỏ Vân và nhà tôi. Bác Hai Trong còn một mẹ già gần chín mươi tuổi, lụm cụm, mù lòa. Vợ bác với hai anh con trai bị một quả canh nông rơi lạc trong vườn làm cả ba chết không toàn vẹn. Giờ bác chẳng muốn đi đâu nữa.Cũng như nhà tôi, dì Liên đợi tin chú Dũng (ba Vân). Tình hình này dì dễ đem nhỏ Vân về ngoại trên mạn sông Đồng Bò.
Sáng nay mẹ lên Thạch Thành thật sớm, dường như là có tin tức gì đó trên chỗ ba, còn anh Hà xuống Phú Lâm mua thêm phụ tùng xe đạp, chị Hai gánh hàng đi từ hồi gà gáy. Nhà vắng hoe, tôi rủ nhỏ Vân lấy cù quéo ra mé đường hái keo:
- Không biết tụi thằng Ngọng, thằng Khôi ở đâu Vân nhỉ?
Vân im lặng, vê vê ngọn lá trong tay nhìn tôi:
- Vân nhớ ba quá Hà em ơi!
- Mình cũng nhớ ba, nhớ anh Sơn nữa.
Vân rơm rớm nước mắt:
- Đêm nào nằm mơ cũng thấy ba về…
- Vân thấy được ba là thích rồi!
- Nhưng khắp người ba đầy máu…
Tôi đến bên cầm tay Vân nói như để an ủi chính mình:
- Đừng nghĩ bậy Vân nhá. Mẹ bảo chiêm bao là không thật đâu.
Hai đứa đi lững thững ra đường cái quan. Tôi chỉ tay về hướng ngọn núi xa mờ trong sớm mai:
- Những người làm cách mạng đều ở trên đó cả, an toàn lắm, chú Ngọc chủ tịch vẫn nói thế mà!
Vân kéo tay tôi nép vào thân keo:
- Máy bay “bà già”kìa!
Tôi lắng tai, mắt nhìn qua kẽ lá. Tiếng u u lớn dần. Chiếc “bà già” ánh bạc lấp lánh, đủng đỉnh như một kẻ rảnh rang đi dạo. Mà không phải đi dạo, nó như kẻ cắp gian manh, rình rập. Đang bay, nó như muốn dừng lại, liếc xéo, nhìn ngang, vòng lui, hạ thấp. Mấy chú du kích mỗi lần nhìn thấy nó tức muốn lộn ruột. Cỡ nó “cắc bùm” là tiêu tùng liền. Tôi quay sang Vân:
- À! Trưa nay nếu mẹ chưa về, Vân qua nhà ăn cơm nghe.
- Mẹ nấu cơm sáng để phần trưa rồi.
- Chị Hai nói dạo này mắm, muối bán được lắm!
- Mẹ Vân bảo ráng đi vài chuyến nữa rồi dọn nhà về ngoại.
Tôi đá mạnh cục đất nằm bên vệ đường:
- Chán quá!
Vân tròn mắt nhìn tôi:
- Chán gì cơ?
- Không biết!
- … ?
- Mình ghét đánh nhau. Chiến tranh là cái gì mình không biết, nhưng mình ghét nó, mình căm thù nó. Mình thề sẽ…
- Sao Hà em… hôm nay hung thế?
Một tốp máy bay ném bom giàn hàng ngang từ hướng Phú Lâm bay lên cắt đứt câu chuyện bọn tôi. Tôi cầm tay Vân chạy men theo hàng keo về nhà. Chiếc “Bà già” bay dọc theo đường cái quan, thấp lắm, tưởng chừng như cầm cù quéo đập cũng trúng. Bay lên đâu quãng Thạch Thành rồi quẹo lại, vòng vài lần biến mất. Hai đứa ngồi trước miệng hầm:
- Sao kỳ thế Vân nhỉ? Hình như nó đang tìm cái gì đó…
- Ừ! Chưa bao giờ mình thấy nó bay thấp như thế.
“Ùng! Ùng! Ùng!” Những tiếng nổ liên tiếp hất bọn tôi ngã nhào. Hai đứa hốt hoảng chui vô hầm, khiếp đảm nép thật sâu bên trong góc. “Ùng! Ùng…!” Căn hầm đặc quánh mùi bụi đất, tranh rơi. Bỗng cửa hầm tối sầm lại. Tôi kinh hoàng:
- Nhà sập rồi!
Chưa nói hết câu, một ngọn lửa đỏ ối phủ kín miệng hầm. Khó thở quá tôi há miệng thật to vẫn thấy ngạt thở, quần áo như đang bốc cháy. Thèm thở quá! Muốn hít thật mạnh nhưng không được nữa rồi ngực tôi căng cứng. Lửa lại tràn vào, căn hầm rực sáng, Vân nằm mềm nhũn bên cạnh và rồi tôi ngất đi.
Khi tỉnh lại, căn hầm ướt sũng nước. Không biết bọn tôi ngất bao lâu và chẳng nhớ được chuyện gì vừa xảy ra. Ngồi trong bóng tối lòa nhòa, mùi tro than ngai ngái, nồng nồng phả vào mặt, nước lạnh thấm vào người khiến tôi tỉnh hẳn. tôi hốt hoảng quay sang bên cạnh, Vân nằm lấp sấp trong nước cũng đang lồm cồm ngồi dậy. Chúng tôi bò ra miệng hầm, một cảnh tượng tan hoang đang hiện ra trước mặt. Ngôi nhà thân yêu giờ còn lại đống tro than. Những thân gỗ cháy đen được nước mưa dập tắt nằm chỏng chơ, đồ đạc ngổn ngang, vụn nát. Mưa vẫn đang to, tôi đưa mắt nhìn sang nhà bác Trong, thảng thốt: - Cháy rồi! Cả nhà Vân… trời ơi! Cả xóm cháy trụi trơn… Tôi dẫm bừa lên than gỗ, mảnh sành chum vại. Tôi chạy bất kể trong màn mưa trắng đục, Vân liu xiu, ngã nghiêng theo sau. Tôi lao qua vườn nhà bác Trong: - Bà ơi! Bác ơi…! Tôi bỗng khựng lại, ngôi nhà đã ba lần cháy sập vì bom đạn, cứ mỗi lần làm lại ngôi nhà nhỏ đi một ít, đến lần thứ ba nó như một cái chòi giữ vịt. Trên thềm nhà trống hươ trống hoát được nước mưa giội sạch, lổm nhổm giữa đồ đạc vỡ vụn là hai xác người cháy đen, co quắp trong tư thế cõng nhau. Tôi như chết điếng, đứng sững. Bỗng như có ai đó xô vào người, tôi thẩn thờ quay lại, Vân tái méc, ướt sủng nước ngả oằn vào tôi. Thời chiến tranh, xác người chết là không hiếm, tôi đã gặp đã thấy nhiều vô kể những thây người chết, kinh khủng có, bình thường có nhưng cảnh bác Trong cõng mẹ già không kịp chạy thoát, chết ngay trên hiên nhà. Tay bà vẫn còn đang ôm chặt cổ bác. những người đã gắn liền với tôi thời thơ ấu, đã bồng bế, yêu thương tôi giờ không còn nữa. Trời đang mưa, người tôi ướt sũng nước, có vị gì đó mặn mặn trên môi, tôi dụi dụi mắt. Súng nổ đì đùng khắp nơi, tôi nhìn Vân: - Chẳng biết mẹ với chị Hai có gì không? - Hà em ơi!… Vân sợ lắm, mẹ ơi! PHẦN II LƯU LẠC Hướng nào cũng có đánh nhau, Anh Hà đang ở Phú Lâm chắc không sao. Nghĩ thế, tôi nói với Vân: - Mình lên phía trên tìm mẹ với chị. Vân im lặng theo lời tôi, hai đứa chạy lúp xúp lên hướng Thạch Thành. Mưa ngớt hạt nhưng bầu trời còn một màu xám xịt. Đất bị cày xới nhảo nhẹt dưới chân, thỉnh thoảng một tràng súng liên thanh nổ dòn phía sau, bọn tôi lại ngồi thụp xuống một thân cây bật gốc hay một ụ đất nào đó tránh đạn. Làng xóm hoang tàn đổ nát bên những hố bom toan hoác đất tươi và, trên cánh đồng lúa mênh mông xanh rì, hai đứa trẻ chạy xiêu vẹo trong màn mưa trắng đục. Bọn tôi đến gần cây Da “thần” hồi nào không hay. Đạn bom chẳng chừa một ai, cây Da to là thế mà giờ chỉ còn trơ lại trụ gốc. Một tán lá sum suê biến đâu mất, những thân rễ khổng lồ lòng thòng bao quanh cũng được cắt gọn. Cây Da “thần” huyền bí của tuổi ấu thơ giờ gần như không còn nữa. Dưới gốc ngay mặt đất có một cái lổ đen ngòm trơ ra, miệng to áng chừng bằng cái nia. Một giọng nói phát ra từ trong hốc cây: - Trời đất! Bom đạn thế mà bọn bây đi ngơ ngơ ngoài đó vậy hở? Vô đây nhanh lên tụi con! Bác Ký nhà ở sau chợ lồm cồm chui ra kéo hai đứa ngồi xuống gần hốc cây. Tôi kể giọng lào khào, tiếng được tiếng mất. Càng kể càng tủi thân hai đứa khóc òa: - Con Hai với con mẹ Dũng hồi tờ mờ sáng bác gặp ở ngoài soi, nghe đâu tụi nó lên bán ở quãng Đồng Bò, mà tụi bây… Vân nức nở: - Con đi tìm mẹ, con sợ lắm…! Bác Ký xoa đầu Vân, định kéo hai đứa vô hốc cây thì từ phía hướng ga Gò Mầm tiếng gì “ì ì” như sấm rền, trên nền trời nhiều chấm đen xuất hiện. Tiếng ai đó hốt hoảng: - Xe tăng! Máy bay Chuồn Chuồn bà con ơi! Không ai bảo ai, trong hốc cây chừng sáu người vội vã bò ra chạy tán loạn lên hướng Cầu trên, tôi kéo Vân chạy theo. Những đợt “càn” trước ít sợ, về sau càng ác liệt hơn, xóm thôn tiêu điều hơn, nhà cháy, người chết nhiều hơn! Bọn chúng tôi không biết mình phải dừng lại ở nơi nào? Phía sau là máy bay, xe tăng và súng nổ, phía trước kẻ gồng người gánh, trâu bò heo qué cứ thế mà chạy. Đến tối xẩm, hai đứa đói lả không đi nổi, ngồi bệt bên rìa đường. Vân thều thào: - Hà em ơi! Đi không nổi nữa, Vân đói, mệt quá! Tôi không nói gì, thất thểu bước qua đường đẩy cửa một ngôi nhà gần đó, cửa mở toan, vắng tanh không một bóng người. “Con không đủ sức đi nữa rồi má ơi!” Tôi ngã phịch xuống nền đất lạnh ngắt, tai nghe “ung ung” như có con gì chui vào. “Không thể nằm ở đây được nghe Hà em, phải đi tìm mẹ tìm chị Hai, ngoài kia còn có Vân nữa!” Tôi tự nhủ vậy và cố lê người vào sâu trong nhà tìm một cái gì đó – khát quá! Nhìn trên trang thờ giữa nhà có một nải chuối đã ngã sang đen. Không đủ sức bắt ghế với tới được, tôi cố tựa mạnh người vào phên vách, dùng cả sức lực còn lại lay mạnh, nải chuối rơi xuống. Có được cái để ăn người bỗng nhiên khỏe ra, tôi lần mò xuống bếp, ảng nước khô rang đành phải cầm nải chuối đen thui đem ra hai đứa cùng ăn! Ai đi qua thấy hoàn cảnh của bọn tôi đều thương và động viên: - Mẹ không sao đâu, ở trên này bình yên hơn dưới kia! Tụi con rồi sẽ gặp mẹ với chị thôi. Nghe họ nói thế chúng tôi bớt sợ, lủi thủi đi theo. Dường như trận này đánh lớn hay sao mà thấy thỉnh thoảng có những chú bộ đội đi ngược chiều. Tôi mong sao được gặp anh Sơn của tôi. Trên này làng xóm ít bị tàn phá hơn dưới kia, nhưng nhà cửa, vườn tượt cũng tiêu điều, vắng lặng. Vân quay sang người đàn bà gánh hai đứa nhỏ trong thúng: - Dì ơi! Sông Đồng Bò còn xa không hả dì? - Xa cháu ạ! Bà chỉ tay về phía trước: - Mấy người kia lên Đồng Bò đấy, nhà tui lên mé trên lánh nạn vài hôm rồi về. Sao mấy cháu đi một mình, ba mẹ đâu? Lạc à! Vân nhớ mẹ tủi thân khóc rấm rức. Thế là chúng tôi quyết định - “Trên đường lên nhà ngoại Vân sẽ hỏi thăm tin tức mẹ và chị Hai”. Hai đứa lại nhập bọn với nhóm người đi trước. Quả thật, nếu đừng lo chuyện đạn bom, đừng buồn vì lạc mẹ, đừng nghĩ đến nhà cửa cháy rụi thì đi như thế này cũng thích. Từ bé đến giờ bọn tôi chỉ biết loanh quanh Phú Thứ, mở mắt đã thấy cánh đồng, mương dẫn thủy, những chiếc xe ngựa lại qua trên đường cái quan mỗi ngày. Còn người quen đến độ nghe tiếng đã biết mặt. Giờ cái gì cũng lạ, cũng mới. Bụng đói? Gặp gì ăn nấy. Đôi khi một vắt cơm với dúm muối é hai đứa cùng chia nhau ăn, một cục thịt mặn chát nhưng sao ngon lạ lùng! Cũng có lúc dăm trái ổi xanh, chùm mận non sương của vườn nhà ai bỏ trống. Miệng khát? Lu nước bên chái nhà hoang, con suối róc rách uống căng bụng lại lên đường. Chân Vân sưng đỏ tấy vì dẫm phải mảnh bom đã có vẻ trầm trọng. Hôm qua Vân sốt, mê ú ớ suốt đêm, tôi đành xé cái túi áo ở ngực thấm nước đắp lên đầu Vân (ngày xưa tôi sốt ba vẫn làm thế). Sáng nay mọi người lên đường rất sớm, hai đứa tôi thức dậy đã không còn thấy ai. Do Vân bị sốt nên tôi dìu vào lùm cây ngủ cho đỡ gió, giờ trơ trọi hai đứa chẳng còn biết hướng nào mà đi. Tôi đỡ Vân đứng lên, người nóng hầm hập như cục than, chân đau lê không nổi tôi dìu được một đoạn hai đứa ngã lăn quay. Cứ thế, cả hai không biết theo lối nào cứ nhắm hướng những ngọn núi mờ xa mà đi. đến trưa mới thấy một nhóm tản cư tới gần, thấy tôi cõng Vân xiêu vẹo, nhìn bàn chân của nó sưng húp, những người đi trên đường đưa một vốc muối bảo hòa nước rửa vết thương và ái ngại nhìn bọn tôi: - Cháu ơi! Ở đây không có làng xóm gì, cháu cố đưa em đi đi. Tôi lại gắng đỡ Vân đứng lên. Hai đứa sức vóc sàn sàn nhau, bình thường Vân nhẹ hều, đừng nói là đỡ đứng lên, vác trên vai có khi còn được nữa là. Nhưng nay quả thật tôi không làm nổi. Tôi đã cố hết sức kéo Vân đứng dậy tựa vào người tôi, cả hai đã muốn té nhào, tay chân như không nghe lời, cứ run run như sắp khụy xuống: - Cố lên! Tôi nói trong hơi thở, kéo tay Vân vắt ngang cổ, hai đứa tha nhau đi liu xiu. Đồng bằng lùi dần phía sau, những trảng rừng thưa cây cối lúp xúp khô màu bạc phếch. Đoàn người tản cư bơ phờ, mệt mỏi dù có muốn cũng chẳng ai giúp được gì chúng tôi. Sự đói khát, buồn vì nhớ nhà nhớ cha mẹ, anh chị đã làm hai đứa kiệt sức. Hơn nữa, Vân lại đau, chân sưng tấy đỏ ửng, lê từng bước nên nhóm người đi trước cứ mỗi lúc một xa dần. Chừng xế trưa, bóng nắng đã ngã ra sau lưng, bụng đói cồn cào miệng khô đắng dẻo queo, tôi dìu Vân lê đến một bụi cây ngồi nghỉ. Móc trong cạp quần vắt cơm với dúm muối é đưa sang Vân: - Vân ăn đi, ráng ăn cho hết để có sức khỏe nghe! Vân thều thào, mặt mày tái xanh như không còn tí máu: - Hà em ăn đi Vân chưa thấy đói…Vân mệt quá! Cầm vắt cơm khô khốc trong tay, bụng tôi bỗng cồn cào tợn. Vắt cơm khi đêm của những người tản cư tốt bụng đã lọt thỏm trong cái dạ dày háu đói, tiêu tan nhanh trong từng bước đi. Không phải là cục cơm bé tẹo để dành lại này mà đến mười cục có lẽ tôi cũng ăn cái vèo! Quả là cái đói khi tưởng tượng nó không thể khủng khiếp, nó không làm cho người ta thấy quay quắc, tức ngực thắt lòng, hoa mắt ù tai như thế này. Tôi đói đến xây xẩm mặt mày: - Vân cố mà ăn đi, Hà em đói sơ sơ mà, chỉ có khát nước thôi. Mà phải ăn để còn có sức đi tìm mẹ chứ! Vân gượng ngồi dậy, cười méo xệch: - Thôi, Vân một nửa Hà em một nửa nghe! Tôi nài thêm rồi hai đứa cùng bẻ vắt cơm chấm với muối é ăn ngon lành. Vắt cơm bé quá nên đến miếng cắn thứ ba chỉ còn một mẩu không lớn hơn ngón tay, tôi đâm hối tiếc: “Giá ăn từ từ nhai thật kỹ thì có phải thích hơn không!” Mẩu cơm cuối cùng tôi bỏ từng hột vào miệng nhai nhóp nhép. Chưa thấm tháp gì so với bao tử trống rỗng nhưng cũng êm êm được cái ruột. Vân vẫn còn đang cầm nắm cơm trong tay miệng nhai trệu trạo. Tôi động viên: - Ráng ăn đi Vân, vừa đi mình vừa tìm nước uống, với lại phải đi cho qua đoạn này chớ lỡ ban đêm mà vắng teo thế này thì eo ơi! Ăn xong và được nghỉ ngơi nên tôi cũng thấy khỏe ra phần nào. Tôi đỡ Vân đứng dậy, hai đứa lại khập khiễng lên đường. Qua hết trảng rừng thưa bọn tôi gặp một con sông đang mùa cạn. Suốt từ sáng đến giờ không một giọt nước, cổ họng đắng nghét, khô queo nên cả hai men theo lối bò đi lần xuống bến nước. Lũy tre trên bờ bạc phết bị nước bào mòn trơ gốc như những ông già tụm nhau ngồi chuyện gẫu. Tàn tre xác xơ ngã nghiêng xuống dòng sông còn đôi chỗ trong xanh nước. Lá tre nổi lều bều, tôi dò chân xuống lấy tay khua khua nước vục uống vài ngụm đỡ khát, rồi lấy thế thật vững để Vân vịn vào người cúi xuống uống. Làn nước mát như chạy khắp người làm chúng tôi tỉnh hẳn ra, hơn nữa gió mát từ dưới sông phả lên, bóng tre che rợp một khoảng sông. Tôi đỡ Vân ngồi xuống vồng cát trên mép nước: - Giá mà được ngủ một giấc Vân nhỉ! Nói đến ngủ hai mắt tôi như muốn ríu lại, lơ mơ. Tôi ngáp dài, Vân nói như reo: - Hình như đây là sông Đồng Bò hay sao ấy! Tôi cố nhướng đôi mắt nặng trĩu nhìn sang bên kia bờ như để đoán nó là sông gì. Bờ bên xa tít tắp, tôi nhổm dậy: - Dám sông Đồng Bò lắm! Từ hồi đi đến giờ có gặp sông nào to như vậy đâu! Điểm đến đã gần kề nên hai đứa vui hẳn. Tôi vọt lên bờ nói vọng lại: - Vân cứ ngồi đó nghỉ để mình coi thử có ai ở quanh đây không! Mặt trời đã thấp dần về phía những ngọn núi. Cảnh vật đìu hiu, vắng lặng không một bóng người, đâu đó tiếng chim “bắt cô trói cột” cứ chập chờn khi gần khi xa. Tôi chẳng biết đi hướng nào – rẽ trái men theo bờ sông hay ngược sang phải, băng qua sông cũng chẳng được. Mà đây có phải sông Đồng Bò không? Nếu sông Đồng Bò thì nhà ngoại Vân ở đâu? Những câu hỏi cứ ẩn hiện trong đầu khiến tôi mệt lữ. Tôi vịn nhành cây nhoài người xuống sông: - Nhà ngoại ở đâu Vân biết không? - Về ngoại với mẹ đi đường cái quan, giờ đi thế này Vân đâu có biết! Tôi nghĩ, nếu gặp nhà nào đó quanh đây hỏi thăm thì hay biết mấy, nhưng chẳng thấy bóng dáng một ai, không làng xóm nhà cửa. Mặt trời cứ thấp dần xuống dãy núi xa xa, bầu trời ửng đỏ ráng chiều. Chẳng biết giờ này mẹ tôi đang ở đâu? Chị Hai, anh Hà ở đâu? Mẹ Vân đang ở đâu? Mọi người có bị làm sao không? Nghĩ đến cảnh nhà cửa tan hoang, cháy rụi, gia đình tứ tán đôi mắt bỗng đỏ kè. Tôi lầm lũi men theo cành cây trườn xuống sông. Nhìn Vân ngồi khóc tỉ tê, cổ họng tôi nấc nấc mấy tiếng. Có lẽ nếu không nén lại tôi cũng đã khóc theo Vân. Mà hai đứa ngồi khóc ở đây lại chẳng được việc gì. Tôi nói giọng khàn đặc: - Rửa mặt cho khỏe rồi đi! Vân uể oải đứng lên. Cái chân sưng húp hôm qua không còn căng tròn nữa, có vẻ như đã bớt, tôi đỡ Vân leo lên bờ dốc. Nắng của ngày đã dịu lại, gió trên sông thổi lồng lộng, trời se se. Vân nhìn tôi: - Nếu trời tối mà không tìm được nhà dân thì làm sao hở Hà em? Tôi rùng mình nổi gai ốc nhưng cố trấn tỉnh: - Không sao đâu, sẽ gặp mà! - Ước gì bi giờ được ăn cơm Hà em nhỉ! Nhắc đến ăn bụng tôi bỗng cồn cào. Từ sáng đến giờ vắt cơm lọt thỏm trong bụng, giờ nó chỉ chứa nước và nước, đi cứ óc a óc ách. Hai đứa đi về mé phải. Mé phải đường mòn lớn hơn chắc có nhiều người đi, hai đứa nghĩ thế nên ra sức đi nhanh. Vừa đi tôi vừa căng mắt nhìn chung quanh xem có thứ gì có thể ăn được không. Cây cối xác xơ, đất bạc màu trắng phết. Đây đó những cụm sim tím sẫm trong rừng chiều. Mệt quá! Nhưng cả hai đều chẳng dám dừng lại nghỉ. Chợt phía trước có một vật làm tôi chú ý, tôi đi nhanh: - Vân ơi, cứt bò! Vân tròn mắt. Vật đen đen mằm cạnh bụi sim. Mùi nồng nồng, hăng hăng của phân bò phả vào mặt, tôi đưa ngón tay sờ lên ấn nhẹ xuống, bề mặt phân se se, ngón tay chìm trong cục phân to bằng cái bát. Tôi mừng rỡ reo lên: - Mới ỉa chừng trưa nay! Nó hốt hoảng đâm ngơ ngác: - Hà em định… làm gì với nó? - Làm gì là làm gì? Cứt bò có nghĩa là gần đây có nhà! Bọn tôi như được tiếp thêm sức, đi nhanh hơn về phía trước. Trên trời, chim từng đàn bay về tổ. Ánh nắng nhợt nhạt dần, màn tối cứ lan nhanh. Bắt đầu từ những triền sâu, bóng nắng bò lên cao, con đường mòn cũng từng mảng, từng mảng nắng chờn vờn, lung lay rồi biến mất theo bước đi xiêu vẹo, khập khiễng của bọn tôi. Trời tối! Vạt nắng cuối cùng rồi cũng yếu ớt tan biến. Đường mòn nhập nhòa, hai đứa không dám quay nhìn lui. Dường như có bước chân nào đó đi sau lưng, cứ dậm thình thịch, thình thịch! Một tiếng “rẹt” trong lùm cây, một tiếng “huýt” từ đâu đó làm cả hai giật thót người. Chưa bao giờ nỗi sợ hãi lại đến với chúng tôi khủng khiếp như thế! Chẳng biết từ lúc nào bàn tay nhỏ nhắn của Vân nằm gọn trong tay tôi như một sự chở che. Mà che chở cái nỗi gì khi một tiếng vỗ cánh của con chim nào đó “phạch phạch” là tôi lại run bắn lên, tim như muốn nhảy tót ra khỏi lồng ngực! Vừa đói vừa khát, cộng với sợ hãi làm bọn tôi hoàn toàn suy sụp. Thật sự lúc này tôi và cả Vân đều không thể lê được bước chân, nhưng ngồi lại? có nghĩa là chấp nhận cùng thế giới đầy ma quái bao quanh. Những hình người kỳ dị lắc lư, vẫy tay cười “khặc khặc”. Bóng trăng non như lưỡi liềm trôi lơ lững trên cao, tỏa ánh sáng lờ mờ đủ để thấy con đường mòn và những bóng đen quái gỡ. Tôi mở căng mắt nhưng lại không dám nhìn vào bất cứ một vật nào. Cả hai đứa mệt phờ nhưng có lẽ chẳng ai dám thở. Thèm ngồi xuống quá! Đôi chân như không còn là của tôi, nó đi theo quán tính, có cho vàng bọn tôi cũng chẳng dám nhìn lui chứ đừng nói là ngồi lại. Một tiếng động nhẹ từ trong bụi cây ven đường hay một con vật đi ăn đêm dẫm lên lá rụng cũng đã làm tôi và Vân giật thót người, run bần bật, tôi lại bóp chặt tay Vân như để trấn an. Hai đứa, cứ thế truyền cho nhau thêm vững dạ. Đang đi Vân khựng lại, tôi thều thào: - Gì thế Vân? Vân im lặng vễnh tai về phía trước. Trong không gian tỉnh mịch, lòa nhòa của bóng đêm có tiếng gì “phò phò” như ai đó đang thổi lò rèn. Tôi muốn biết tiếng gì lắm và nó ở đâu? Nhưng lại không dám nhìn. Tôi đoán: - Giống như… tiếng… người thở! Chưa nói dứt câu, Vân ôm chầm lấy tôi run như cầy sấy: - Trời ơi, ma! Tôi nổi da gà lạnh toát cả sống lưng, hai đứa ôm cứng lấy nhau khụy xuống. Không đường thoát rồi, trước sau, phải trái đầy những bóng tối ma quái: - “Chạy đằng nào?” Hai đứa ôm lấy nhau khóc thét lên: - “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Vang toáng rừng đồi. Tiếng “phò phò” lúc thưa lúc nhặt, có lúc thật khẻ như tiếng thở dài, chú ý lắm mới nghe được. Sau trận khóc khàn cả cổ và rồi bọn tôi vẫn y nguyên, tôi bắt đầu bình tỉnh trở lại, Vân lạnh ngắt tay chân, người còn đang run. Tôi nói: - Hình như… nó rên! Vân úp mặt vô lưng tôi van xin: - Lạy Hà em… Đừng có nói! Tôi nghĩ: - “Nếu ma sao nó không bay lại chỗ bọn tôi, nếu ma sao nó không “hớp hồn”, “rút ruột” hai đứa. Tuy rất sợ nhưng tôi cũng tò mò, đưa tay quờ quạng trên lối mòn tìm hòn đá, cầm cục đá trên tay tôi bậm miệng ném vào nơi phát ra tiếng “phò phò”. Hòn đá vụt khỏi tay: - “Bịch” nơi đó vọng lại: - “Ụm… bò!” Tôi lay lay Vân: - Nghe gì không? Hình như… con bò! - Ma… bò! - Ma người le lưỡi mới sợ, chứ ma bò… Buột miệng nói vậy cho nhỏ Vân yên tâm nhưng tôi cũng sợ. Dù ma gì cũng là ma! “Ụm… bo… o… bò!” Tiếng kêu “ụm bò” đứt quãng, như linh cảm điều gì tôi đứng lên: - Tiếng kêu đó… không phải nhát mình đâu! Giống như tiếng kêu cứu ấy. Vân níu áo tôi, van lơn: - Sợ lắm Hà em ơi! Đừng tới đó mà! - Mình không tới đó, nhưng để xem thử… Vân nắm vạt áo phía sau của tôi gì lại, tôi cố đi tới. Đương nhiên Vân không thể đứng đó một mình. Thế là cả hai dùng dằn từng bước một nhích về đằng trước. Tiếng “phò phò” rõ dần, được phát ra từ một đống đen thui. Tôi cầm thật chặt tay Vân vừa để Vân bớt sợ và cũng để cho tôi thêm can đảm. Khi thấy một đống đen thui nó run bắn lên ngã nhào vào người tôi. Tôi đẩy nhẹ Vân sang một bên, đưa tay mò tìm hòn đá, ném vào cái đống đen thui, to lù lù phía trước: - “Bịch!” Trong bóng tối dường như nó “nhúc nhích”. Sự sợ hãi của Vân đến cực độ, nó hét lên một tiếng, buông vạt áo của tôi chạy thục mạng về phía sau, tôi vụt theo chụp lại. Nỗi hoảng sợ đã khiến Vân chẳng còn nghĩ được gì. Trong hoàn cảnh này cả hai sẽ chết mất nếu mỗi đứa riêng lẻ một mình trơ trọi trong bóng đêm “hai đứa cần có nhau”! Tôi nghĩ thế nên cố rượt theo. Chạy được vài bước Vân ngã sóng soài trên đường. Tôi vừa dỗ dành vừa ra vẻ trách móc: - Lần sau đừng có bỏ chạy nữa nghe. Vân mặt mày dáo dác, lồm cồm ngồi dậy khóc thút thít: - Mình sợ quá! Tôi đưa tay về cái đống đen ngòm: - Chắc … nó là con bò, Con bò sắp chết! Để đáp lại lời nói của tôi, từ phía bóng đen ấy vang lại tiếng”bò” rõ to, đùng đục như thể đã cố hết sức tàn, như thể cầu xin được giúp đỡ. Thanh âm phát ra sao tha thiết! Không còn nghi ngờ gì, tôi cầm tay Vân: - Đúng là con bò bị gì rồi! Hai đứa dò từng bước đầy cảnh giác, mom mem đến gần bóng đen. Dường như biết có người sắp đến “bóng đen” cựa quậy đứng lên: - “Bò... ò… ò!” tôi buột miệng: - Bò thiệt rồi! Con bò cố đứng lên bỗng khụy xuống. Bọn tôi tiến đến, nó mừng rỡ rên “phò phò”, tôi đưa tay sờ nhẹ, nó rung rung làn da, quay đầu về phía tôi. Nó gượng cố đứng lên, lại ngã Tôi cúi xuống đưa tay mò mò trong bóng đêm, bàn tay chạm vào vật gì lạnh ngắt đầy những răng sắt, tôi la lớn: - Con bò bị dính bẫy! Vân dè dặt nép sau lưng tôi, đưa bàn tay về phía trước sờ vào cái bẫy. Bỗng nó hoạt bát hẳn lên: - Nhà ngoại cũng có cái này, cậu mình hay dùng nó để bẫy chồn với lại heo rừng. Tôi vuốt vuốt cái chân bị kẹp của nó, con bò rên khe khẽ đưa cái mũi ươn ướt, êm êm cọ vào tay. Tôi loay hoay mở vòng kẹp của chiếc bẫy, không biết đường nào mà lần. Vòng sắt đầy răng nhọn ôm cứng chân trước con bò. Tôi quay sang Vân: - Vân có biết cách mở không? - Kéo mạnh hai bên bánh răng ra, mình thấy cậu vẫn làm thế! Tôi một bên, Vân một bên hai đứa cố sức lôi thật mạnh, chẳng ăn thua gì. Con bò có vẻ rất đau, chân của nó giật giật như bị kinh phong. Vân nói: - Hay Hà em mở sợi dây cũng được, tụi mình không kéo nổi cái bẫy đâu! Sợi dây được mở ra, chiếc bẫy vẫn còn kẹp phần dưới chân bò. Nó gượng đứng lên như người đau mới khỏe, đi xiêu vẹo quanh bọn tôi. Có lẽ trời cũng đã khuya lắm! Sương đêm ướt đẩm lưng hai đứa. Và cũng thật lạ, từ khi có con bò bọn tôi trở nên vững tâm hơn trong bóng đêm. Con bò được giải thoát, dẫu rằng ngàm sắt của chiếc bẫy vẫn ôm chặt ống chân, nhưng nó đi được, đi khập khiễng theo lối mòn, bọn tôi cũng líu quíu theo bên nó, bóng đêm bớt dần vẻ rùng rợn. (Còn tiếp) Phạm Tú Uyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.04.2023 09:45:08 bởi Phạm Tú Uyên >