Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 36 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 04.08.2023 17:29:45
 
 
                    PHẠM NGỌC THÁI


 
                                                                                         
 
                                                                     
                 CUỘC CHIẾN TRANH
                                   ĐÁNH MỸ
                                   ĐẪM MÁU
                                                                                                                     Tiểu thuyết 
 
 
 
 
                                                              Tiểu thuyết dày khoảng 400 trang sách, hiện vẫn coi là bản thảo chính thức
                                                 - Tác giả đang gửi đi các nơi tìm tổ chức com măng xuất bản, phát hành ra thị trường !...
                                                      sẽ công bố NXB sau
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.08.2023 21:19:55 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 04.08.2023 17:40:22
 
 
                                                     CHIA TAY
 
 
                                                       1-  
 
     Theo chỉ dẫn của Thu trong thư, Hoàng xuống xe ở bến thị xã Tuyên Quang. Anh đi thẳng tới ngã ba, bước vào một cái quán nước hỏi đường. Bà chủ quán lấy tay chỉ lối cho anh.
-  Cậu cứ theo con đường đất này, đi tuốt ra tít xa kia kìa! Đấy, khu rừng xanh trước mặt mà cậu nhìn thấy, chính là khu sơ tán của trường Đại học Sư phạm. 
     Bà ta còn cẩn thận nói thêm: "Ở đây, không phải chỉ có riêng mỗi trường Sư phạm về sơ tán đâu? Có cả khu quân sự nữa đấy!" Bà ghé sát vào tai anh, thì thào một điều bí mật:
-  Khu cấm mà cậu. Hình như họ đang dấu loại vũ khí hiện đại gì đó?  Canh phòng cẩn thận lắm! Khéo... kẻo lạc vào đấy, người ta hỏi giấy tờ là rầy rà.
     Bà chủ quán giục anh đi ngay kẻo trời sắp tối. Một ông khách mới bước vào quán, bà quay ra gọi đứa cháu nhỏ mang phích nước sôi, rót vào ấm trà. Anh chào bà lão rồi đi.
     Hoàng mặc chiếc áo khoác ngoài màu hạt dẻ, để đi đường cho đỡ bẩn. Vóc dáng anh cân đối, toát lên một sự hài hòa bình dị. Đôi mắt sáng, nhìn hơi mơ mộng và thông minh. Trông anh có cái cứng cỏi thật "đàn ông", lại vừa gợi vẻ trữ tình.
     Bóng nắng đã rơi thõng xuống lưng chừng nền trời xanh lam, thấp thoáng vài dải mây trắng nhạt. Hoàng tần ngần dừng lại ở đầu đường, nhấc chiếc túi xách ra khỏi vai rồi rảo bước đi đến một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ ở ngay mé rừng... cách đó vài ba trăm mét.
     Một cô gái có thân hình to béo, khuôn mặt trắng hồng vì mới ở bếp ra. Cô lấy tay phủi phủi những tàn tro bám trên tấm áo cánh màu lá mạ. Tóc để dài nhưng đã được cuộn lên cho gọn ghẽ. Khuôn mặt sởi lởi với nụ cười mời đón. Cô đi lại phía anh chàng thanh niên đang đứng ngơ ngác ở ngoài sân, cất tiếng hỏi:
-  Anh hỏi ai ạ?
-  Hoa!
     Hoàng reo lên. Cô gái đứng sững người, đôi mắt tròn xoe vì ngạc nhiên:
-  Cơn gió nào đưa chàng hoàng tử đến đây?
     Cô gái có tên gọi là Hoa ấy… vẫn chưa hết vẻ sững sờ, bắt tay người con trai. Hoàng nháy mắt, cười mỉm một cách ý tứ.
-  Nhớ Hoa quá, lên thăm!
     Hoa cười rộ lên… láy lại câu nói của Hoàng, rồi lại cười.
-  Không khéo xúc động quá! Hoa đứt mạch máu, chết bây giờ?
     Cô nói tiếp: “Hoa làm gì có được cái vinh hạnh ấy?” – Giọng cô không có gì ác ý. Hoàng cự lại:
-  Chẳng lẽ lên thăm bạn không được hay sao?
-  Sao lại không được?
     Họ vẫn đối đáp với nhau bằng cái giọng vui vẻ: “Nhưng nhà tài tử lừng danh ơi!” – Cô gái gọi lại cái biệt danh mà hồi còn đi học cùng nhau, các bạn lớp thường hay gọi đùa Hoàng.
-  Nhà tài tử thân mến của em, nếu người có nhã ý lên thăm em, thì thật là tốt phúc cho em quá! Nhưng họa khi nào loài người đã giải được thuốc độc cho chàng hoàng tử Hăm Lét sống lại, để chàng lại đến đón nàng Ôphêlia yêu quí của chàng? 
-  Khiếp! Hoa ví von mà nghe "sợ người".
    Hoa nói vậy, chứ... gặp lại người bạn trai, lòng cô vui sướng. Cô mời bạn vào nhà, vừa đi vừa cười nói.
- Hoàng ngạc nhiên đấy! Không ngờ Hoa cũng về học ở trường Đại học Sư phạm này?
     Hoàng bảo vậy.
-  Thì Hoàng cũng biết: Hoa đã có danh sách cùng một số bạn lớp sang học ở Trung Quốc, nhưng vì "cách mạng văn hóa"  nên tất cả bị đình lại. Bộ Giáo dục mới bổ xung Hoa về học ở đây.
-  Ra thế!
     Bước vào nhà, anh thấy một bà lão ngồi trên chiếc giường gỗ. Bàn tay gầy guộc của bà cầm cái chầy giã trầu nhỏ xíu bằng đồng. Đầu chầy được tán dẹt và khía ra như răng khế. Bà lão thục thục cái chầy xuống một cái cối nhỏ cũng bằng đồng. Bà giã trầu để ăn.
     Anh chào bà lão. Hoa nhanh nhảu giới thiệu:
-  Đây là mẹ của Hoa! Hoa đưa mẹ cùng lên đây sơ tán, vừa học và cũng tiện bề chăm sóc mẹ.
     Hoa giải thích vì có mẹ đi cùng, nên cô thuê riêng một gian nhà nhỏ của người dân địa phương. Căn nhà cũng gần với khu lán ở của các sinh viên nữ, gọi là kí túc xá của trường.
     Ngước nhìn anh thanh niên lạ, bà lão vui lây với niềm vui của con gái. Chắc bà nghĩ: Chàng trai này lên đây là để thăm con gái bà? Bà tíu tít hỏi anh đủ mọi chuyện... cứ như là bà đã xa Hà Nội từ lâu lắm.
     Nào là, theo cháu: Hà Nội mình liệu bao giờ được yên? Gớm, ở trên này cứ u u.. minh minh... Sáng ra gặp rừng, tối lại gặp núi, chẳng biết tình hình nó ra sao?
     Nào là, cháu có nghe gì về Hội nghị Pa Ri không? Ông nhà mình giỏi thật, thằng Kít-sinh-giơ tài như thế... mà vẫn bị ông Thọ, bà Bình nhà mình "vặn" cho hết chỗ nói. 
     Hoa phải ngắt lời mẹ:
-  Mẹ để cho anh ấy nghỉ tí đã nào? Mẹ cứ làm như là...  
     Bà lão vẫn còn giải thích với Hoàng:
-  Chẳng là, bác cũng được nghe các anh, các chị nói chuyện như thế. Vui vui là...
     Rồi bà giục con gái dọn cơm cho anh Hoàng cùng ăn. Khi Hoàng nói, anh đã ăn ở ngoài quán rồi, bà chép miệng:
-  Cái người Hà Nội mình, chúa là hay khách khí.
     Hoàng sốt ruột. Anh chỉ muốn hỏi Hoa về tin tức của Thu? Nhưng lại thấy ngài ngại... Hoa thì vui quá, cô cứ tíu tít kể lể với Hoàng đủ thứ chuyện, không thể dứt ra được. Cuối cùng Hoàng cũng lựa cách ướm hỏi...
-  Mình biết ngay mà! Nhà tài tử lên đây là phải có lý do riêng?
     Thoáng chút ghen tuông trong nụ cười cởi mở của Hoa. Cô nhìn như sói vào anh:
-  Khéo chọn thế? Thu nó cũng là hoa khôi của trường sư phạm này đấy! Nghe nói, mới lên đây mà đã có khối chàng muốn ngấp nghé...
-  Chắc Hoa không biết? Thu là... em gái họ xa của mình. 
     Hoàng nói chống chế với bạn.
-  Em gái con ông bác chứ gì?
     Hoa cười toáng lên, chăm chăm nhìn vào Hoàng. Cái nhìn của Hoa như muốn nói: "Đây biết tỏng đi rồi. Bạn dấu ai, chứ đừng dấu gái này?".
    Ở phia kí túc xá của trường, từng tốp sinh viên tay cầm bát đũa, đi từ phía nhà ăn về khu lán ở của nữ sinh. Hoa chỉ tay về phía đó, ghé vào tai Hoàng nói nhỏ:
-  Chắc Thu nó đi ăn cơm cũng sắp về đấy?  
     Rồi Hoa reo lên:
-  Cô nàng về kia kìa!   
     Hoa chạy ra cửa gọi to:
-  Thu! Thu ơi! Có khách... khách...
     Tiếng "khách" cuối cùng vang vào hốc núi, dội lại thành một âm hưởng đanh đanh, như khi ta gõ một thanh sắt lên mảnh vại sành đã vỡ.
     Hoa đưa tay đẩy khẽ vai Hoàng, ra hiệu bảo anh tới đó. Hoàng đứng dậy chào bà cụ và Hoa rồi tiến về phía Thu. Trống ngực anh đập dồn dập. Bước chân đi cũng nhẹ bẫng, chênh vênh, như người bay trên mây
 
 
       Phạm Ngọc Thái thời chiến tranh
 
      Thu đưa bát đũa của mình cho cô bạn đi bên cạnh cầm hộ, vuốt lại mấy sợi tóc xõa trước trán rồi đi về phía anh. Cô còn nghe thấy tiếng người bạn gái hỏi phía sau lưng: "Cái anh chàng sắp đi bộ đội mà cậu kể đấy, hả Thu?". Thu quay lại nhìn bạn, gật đầu.
     Nhìn hai người đang im lặng tiến lại phía nhau, Hoa đã hiểu tất cả: "Thế mà anh chàng dám bảo với mình, là cô em gái họ xa" - Trông kìa, họ có cần biết đến ai nữa đâu? Mà còn thấy gì nữa cơ chứ! Bây giờ thì anh chỉ nhìn thấy chị, chị chỉ nhìn thấy anh thôi.
     Tiếng bà cụ giục Hoa dọn cơm ăn, cô quay vào nhà.
     Khi đến gần, Thu cất tiếng hỏi trước:
-  Anh Hoàng chờ em đã lâu chưa?
-  Cũng được một lúc rồi, Thu ạ!
-  Về qua phòng em để anh biết, rồi chúng mình ra suối ngồi chơi.
     Hoàng gật đầu, theo Thu đi vào khu lán của nữ sinh. Anh chào hỏi, chuyện trò với các bạn gái cùng lán với Thu một lát... rồi rủ nhau ra suối. Trước mắt họ hiện lên một chiếc cầu treo nhỏ, Thu bảo:
-  Bây giờ em sang cầu trước! Thi xem ai sẽ đi cầu giỏi hơn? 
-  Thi thì thi, nhưng đừng bắt anh lội xuống suối vớt lên đấy!
-  Khỏi lo.
     Thu kéo dài giọng: "Em chỉ sợ anh qua cầu không quen, lại ngã?".
     Cầu là thân cây gỗ tròn nhỏ, bắc ngang qua suối. Vòng thân cây chỉ rộng bằng miệng cái rá vẫn dùng vo gạo. Hoàng đưa tay định đỡ Thu lên cầu, nhưng cô hất tay anh ra. Thu nắm lấy sợi dây treo làm chỗ vịn bước lên cầu, cô nói:
-  Cầu nhỏ, chỉ đi một người thôi. Em phải sang tới bên kia, anh mới được bước lên cầu đấy!
     Buông hai tay như người biểu diễn xiếc trên dây thép, hai chân Thu đưa thoăn thoắt trên thân cây gỗ nhỏ. Cứ thế, Thu đánh đà đi trên chiếc cầu độc mộc một cách khá thuần thục. Sang tới bên kia suối, Thu cười khanh khách:
-  Nào, bây giờ thì đến lượt anh!
     Hai tay Hoàng níu chặt lấy sợi dây treo, dò dẫm đi từng bước một trên cây gỗ. Lúc anh chành sang bên trái, lúc lại nghiêng sang phải. Ngoắt một cái... Thu chỉ kịp kêu "ối"! Hoàng đã trượt chân ngồi tệt lên cầu. May mà không ngã. Thu níu vào dây treo, tiến ra giữa suối đỡ Hoàng cùng sang.
-  Thu đi cầu tài quá!
     Hoàng khen. Thu cười nói:
-  Em sắp trở thành người dân tộc rồi đấy! Hôm mới lên đây, cứ mỗi lần qua suối, em lại phải vòng lên tít trên kia, chỗ nước cạn... xắn quần bước sang, thế mà vẫn bị ướt. Dần dần, tập đi ít hôm nó quen.
     Họ rủ nhau đến ngồi trên một phiến đá rộng. Nước suối chảy qua các kẽ đá dưới chân họ, kêu lóc róc. Mấy con chim vẫn còn tận dụng ánh sáng đã nhạt của một buổi chiều, rỡn nhau trên những cành cây. Một con ta tả màu xanh biếc lao như cắm xuống mặt nước, lấy chiếc mỏ nhọn hoắt cắp lên một chú cá con.
      Thu là người bạn gái đã rất thân thiết với anh trong nhiều năm của đời học sinh. Họ học với nhau từ khi còn ở cấp II: Hồi lớp năm, lớp sáu học tại trường Long Biên, gần ngay bờ hồ Ha Le… Sang lớp bẩy, nhập vào trường Quang Trung và tốt nghiệp cấp II – Cả hai người cùng chuyển về học ở trường cấp III trên phố Lý Thường Kiệt… lại cùng theo trường sơ tán lên học tiếp năm cuối cùng ở miền quê Hà Bắc.
    Những ngày tháng ôn luyện để bước vào kỳ thi cuối cấp: Tối tối Hoàng thường mang cặp sách sang nhà mà Thu ở nhờ chỗ sơ tán, cùng ôn thi với người bạn gái. Bao đêm trăng vằng vặc học cùng nhau… Những tình cảm bình dị, dễ thương của Thu đã choán ngợp trong trái tim anh. Tình yêu của hai người cũng đã nẩy nở trong những năm học ấy! Sắp phải chia tay, cả hai mới thấy bịn rịn, quyến luyến bên nhau đến chừng nào?
       Thế là hết quãng đời niên thiếu. Cô thì đi học xa, anh sẽ bước vào cuộc đời người lính chiến. Hoàng đã từ giã trường đại học Bách khoa, nơi anh vừa mới bước vào học đại học năm thứ nhất... để lên đường nhập ngũ. Vui, buồn lẫn lộn ở trong cô.
     Thu khỏa hai chân xuống khe nước, nhặt những hòn sỏi nhỏ ở lòng suối, ném ra chỗ có dòng nước lớn. Hoàng mở túi xách lấy ra chiếc máy ảnh, nói với bạn gái:
-  Anh chụp cho em vài kiểu nhé!
-  Nhưng em không thích đăng báo đâu.
     Thu bảo vậy.
-  Thì anh có nói đăng ảnh của em lên báo đâu? để kỷ niệm thôi! Anh sẽ mang những bức ảnh này của em ra đi.
     Cô nhìn anh tình tứ, xoay người làm dáng để cho anh chụp. Chụp ảnh xong, cô lại ngồi lặng yên… tiếp tục ném những hòn sỏi xuống nước.
-  Giờ phút này em chẳng biết nói gì nữa. Thế là anh sắp đi rồi!
-  Anh chỉ ở đây với Thu được một ngày, rồi phải về để chuẩn bị lên đường.
     Hoàng đặt chiếc máy ảnh xuống mặt phiến đá, kéo Thu lại gần rồi giang tay ôm người yêu vào lòng. Anh nói giọng xúc động:
-  Anh yêu em! Những ngày em lên đây, cứ tối tối anh lại lang thang trên phố, tìm đến ngôi nhà em ở. Anh đứng dưới đường, nhìn lên cửa sổ chỗ phòng em. Anh biết, kề bên cửa sổ là chiếc giường cá nhân em vẫn nằm. Đọc thư em, anh nuốt từng chữ mà em đã viết.
     Thu nằm yên trong lòng Hoàng, để đón nhận những nụ hôn nồng nàn của anh trút lên môi, lên mắt và cả tấm thân của người con gái. Họ biết đây sẽ là những giờ phút ly biệt, chẳng rõ bao giờ mới có thể còn gặp lại nhau? Khi đã yên tĩnh, mắt Thu ngước nhìn lên cả khoảng trời xanh mênh mông. Một lần, một lần nữa… cô muốn nhìn thật sâu vào đôi mắt anh, để giữ mãi hình ảnh người bạn trai trong trái tim mình.
     Hoàng cũng lặng đi. Trên thế gian này, biết bao nhiêu bài ca trữ tình làm say đắm lòng người? Cuộc sống thật sâu sắc và nhiều ý nghĩa kia: với anh, đó chính là Thu! Bàn tay anh xoa lên khắp người con gái. Một sự ham muốn rạo rực dâng lên trong anh. Cô không chống cự. Tâm hồn dường như đang bay tới một chân trời mênh mông, xa xăm. Đã xế chiều mà Thu cảm giác có cả một bầu trời hồng đang che rợp khu rừng, tỏa lên như một ngọn núi lửa khổng lồ, hừng hực cháy trong cô.
     Ôi! Có khi một sự khuất phục trái tim, sẽ đem đến cho ta cả một thiên đường tràn ngập ánh sáng. Thu mặc cho bàn tay man dại của anh xoa lên khắp thân thể cô. Hoàng đặt Thu nằm trên mặt hòn đá lớn. Tiếng nước suối vẫn róc rách chảy xung quanh, cùng hòa tấu trong bản tình tuyệt vời của thiên nhiên và con người.
-  Anh muốn... anh muốn... em thân yêu!
     Tiếng Hoàng bổi hổi đan trong những phút giây điên dại. Đôi bàn tay anh đã cởi bỏ quần áo Thu, ném sang bên cạnh. Cả tầm thân của người con trai choàng lên người con gái mềm mại, mịn màng như tơ lụa.
     Mới đầu Hoàng còn có cảm giác rụt rè, nhưng rồi sự cuốn hút làm cho anh trở nên mạnh bạo. Anh với tay xuống, cầm lấy chân cô kéo lên... Như một con mang hiền lành, Thu mặc cho Hoàng muốn làm gì thì làm. Cô dang hai chân, đón nhận của anh. Đây, tấm thân tuyệt vời của người trinh nữ đang chiều anh tất cả! Anh cúi xuống dán những chiếc hôn nóng bỏng lên ngực, lên bụng nàng. Đôi bàn tay xoa lên cả "tòa thiên thai" lộng lẫy và linh thiêng nhất thế gian. Nàng ôm ghì lấy anh. Hơi thở nàng gấp gáp trong cơn mê đắm đến cuồng nhiệt, của cuộc giao hoan trai gái này.
     Nàng đã tiễn anh lên đường bằng kỉ vật thiêng liêng nhất của người thiếu nữ. "Sẽ không có kỉ vật nào quí giá hơn mà em đã hiến dâng... phải không anh ?" –
-  Sẽ không có gì quí giá hơn tấm chân dung thiên thần của em đâu, Thu ạ!
     Anh vẫn nằm trên thân thể của người yêu, hơi thở còn dồn dập. Tưởng rằng anh có thể cứ nằm như thế mãi để ngủ suốt đêm. Dưới chân họ, tiếng con suối vẫn róc rách chảy. Chỉ có rừng núi là biết được bí mật ấy của họ hôm nay.
     Thu đăm đắm nhìn lên anh, mỉm cười:
-  Thôi, ta dậy đi anh!
-  Anh cứ muốn nằm với em như thế này mãi.
     Hoàng bảo vậy. Cô đưa tay thoa lên mặt anh, đầy cảm mến. Anh lại cúi xuống hôn da diết lên môi, lên mắt và khắp người cô.
-  Anh đã được biết tất cả của em rồi đấy!
     Thu nói: "Anh thân yêu, giây phút này sẽ không bao giờ em quên!".
-  Anh sẽ mang kỉ niệm của chúng mình ra đi, và giữ mãi mãi trong cuộc đời.
     Hoàng lấy hai tay bế xốc người yêu lên, định làm lần nữa. Thu khẽ ngăn anh lại.
-  Thôi anh, để lần sau.
-  Anh chỉ ở với em được một ngày, biết khi nào chúng mình mới lại có lần sau?
     Thu dịu dàng, đưa tay vuốt lại những sợi tóc xòa trên trán anh:
-  Anh làm dữ dội như một con gấu thế, mà chưa thấy thỏa thích à? Anh không thấy chán à?
 -  Với Thu, chẳng bao giờ anh chán cả.
-  Ghét anh.
     Cô mắng yêu: "Muốn nữa thì anh làm. Chỉ sợ rồi anh lại nằm thỉu trên bụng em, không dậy được.".
-  Không đâu, em thân yêu!
     Hoàng ngắm nhìn người yêu. Tấm thân trắng của nàng lồng lộng phơi dưới những ánh sáng nhạt của những đốm sao mới lên.
     Hoàng xoay người yêu ngược lại, nằm phủ kín lên cả khuôn mặt cô. Thu chiều anh. Đôi bàn tay nhỏ nhắn như búp măng người con gái nắm lấy cái của anh. Nó nần nẫn trong tay. Nàng hôn và vuốt ve.    
-  Của em đấy!
    Anh nói. Thu chỉ mỉm cười. Bàn tay cô vẫn nhẹ nhàng mân mê, nơi có hai hòn bi tròn trong đó. Cô bảo:
-  Anh nhớ là không được cho người con gái khác đấy!
-  Anh nhớ!
-  Biết đâu đấy? Các anh bộ đội bây giờ, hành quân qua làng, qua bản, được các cô gái săn đón nhiều lắm! Rồi lại con rơi, con vãi dọc đường.
     Nói rồi, cô kéo anh nằm xuống. Toàn thân anh xúc cảm, rung lên vì sự nghịch ngợm của người yêu. Anh kéo chân cô dang rộng thêm ra, nhìn sâu vào đó… Dưới ánh sáng cuối của một ngày, anh thấy cả một thế giới đo đỏ ẩn sâu trong cái của nàng. Cái thế giới mà bao triết lý loài người vẫn không tả hết.
     Trong cơn hưng phấn tột cùng, Hoàng lại ôm ghì người yêu xuống, với sức trai tráng của chàng thanh niên tuổi đôi mươi. Một lần nữa Thu thấy mình tê dại đi, cảm nhận đã vào tận sâu bên trong. Cô rên khe khẽ:
-  Anh làm em đau quá!
     Nhưng rồi cô vẫn nằm yên, đôi mắt nhắm nghiền để mặc anh. Một lát, Thu thì thào nói nhỏ:
-  Giờ về dược chưa anh?
      Chàng vẫn nằm phủ phục trên tấm thân nàng. Thu nũng nịu:
-  Mặc quần áo vào đền cho em đi!
     Hoàng đỡ Thu dậy, mặc lại quần áo cho cô. Thu quàng tay ôm lấy Hoàng, cả hai bước trở về khu lán của sinh viên. Cô vẫn còn nhìn thấy con chim ta tả màu xanh biếc, tận dụng cái ánh sáng của màn sao… lại lao xuống mặt nước, lấy chiếc mỏ nhọn hoắt cắp lên một chú cá con. Kiếm ăn cả chiều mà có lẽ con chim vẫn chưa thấy đã cơn đói?
     Tối đó, Thu dẫn Hoàng sang khu lán các sinh viên nam để nghỉ đêm. Thu mang tất cả chăn, màn của cô cho anh. Thu sợ anh dùng đồ của người khác, lạ… khó ngủ. “Đắp chiếc chăn có hơi ấm của cô, Hoàng sẽ dễ ngủ hơn!” – Thu nghĩ vậy.
     Mấy bạn sinh viên nam buông lời trêu trọc, Thu chỉ tủm tỉm cười. Trở về khu lán nữ sinh, Thu vẫn chưa hết bàng hoàng. Nghĩ lại những gì đã diễn ra giữa anh và cô hồi chiều tối, lòng cô lại lâng lâng…
     Ôi, cuộc đời mới quí giá biết bao! Cô cảm thấy thỏa mãn với tất cả những gì đã cho anh. Anh chỉ có thể ở với cô ngày mai nữa thôi, rồi anh phải trở lại Hà Nội để lên đường.
     Về tới lán của mình, Thu chui vào trong chiếc màn mà người bạn gái đã buông sẵn, ngủ lúc nào không hay biết.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.08.2023 17:42:37 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 17:49:35
 
 
 
 
                                   CHUẨN BỊ VÀO CUỘC CHIẾN
 
1/. Viết theo phiên hiệu:
       Những đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết bằng các phiên hiệu:
-  Tiểu đội               gọi là           “A”
-  Trung đội             gọi là            B
-  Đại đội                    -                 C
-  Tiểu đoàn                -                 D
-  Trung đoàn              -                 E
-  Sư đoàn                   -                 F
2/.  Một số nhóm chữ dùng nhiều trong tiểu thuyết sẽ được viết tắt:
-  Quân giải phóng                                viết tắt là                 QGP
     ( Không phải chỉ Quân giải phóng địa phương, mà khi bộ đội tiến vào chiến trường miền Nam cũng gọi là QGP, hay có lúc gọi “Quân cộng sản Bắc Việt” – cũng chỉ là một )
-  Chính phủ Việt Nam Cộng hòa         viết tắt là         Chính phủ VNCH  
-  Quân lực Việt Nam Cộng hòa                  -                    QLVNCH 
 
 
                                                                  2-
 
     Đài phương Tây đưa tin: “Con hổ xám đã mất hút trong khu rừng rậm Hòa Bình”.
     “con hổ xám” là biệt danh mà họ gọi Sư đoàn 312 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lúc này, sư đoàn đã nhận được lệnh trực tiếp của Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chuẩn bị sẵn sàng ra chiến trường.
     Vào một đêm mùa đông năm 1967, diễn ra cuộc Tổng diễn tập cuối cùng trên qui mô lớn cả sư đoàn, với phương thức tác chiến hiện đại mà khi ấy có được.  Trên một bình diện rộng, tương đối bằng phẳng chừng vài chục ki lô mét vuông. Nổi lên khoảng năm, sáu quả đồi nhỏ. Chính giữa là một cao điểm lớn, đỉnh nhọn hoắt. Các đống lửa đã được đốt lên trên mỗi quả đồi, vây quanh là những hàng rào dây thép gai, nhiều lớp. Đó chính là cứ điểm địch – Đúng hơn, đó là hệ thống trận địa “quân xanh” phục vụ cho cuộc tổng diễn tập.
     Đứng trên một độ cao, người quan sát sẽ thấy: Năm quả đồi hình thành một thế phòng ngự kiên cố. Những trận địa pháo, những ổ xe tăng, chi chit lô cốt địch… nổi lên như những chiếc nấm lớn. Trực thăng bay vè vè suốt đêm, thả những chùm pháo sáng chói mắt, soi mói từng bụi cây nhỏ. Thủng thẳng tiếng súng cầm canh, rồi im bặt. Đôi lúc rộ lên tiếng súng máy trên các cứ điểm, chúng thi nhau bắn. Xe tăng đồng loạt nổ động cơ… 
     "con hổ xám" mà kẻ địch luôn dò xét từng bước chân ấy, đang tập dượt những nước bước cuối cùng để vọt lên vồ mồi.
     Về phía "quân đỏ" – 1 giờ sáng, lệnh khai trận được ban ra toàn sư đoàn. Ba phát pháo hiệu đuổi nhau bay lên bầu trời. Trên con đường Quốc lộ 12c, xe tăng bất ngờ xuất hiện. Nó gầm lên, mở hết tốc lực lao thẳng đến phòng tuyến "quân xanh". Pháo mặt đất từ các phía dồn dập bắn vào cứ điểm địch. Các trận địa cao xạ 37ly bật tung những lớp ngụy trang, khạc từng chùm đạn lửa lên trời, đuổi tốp máy bay trực thăng của quân xanh ra ngoài. Kèn tiến quân tò te, tí te vang lên!
     Một khu rừng thứ hai, từ trong mé rừng thiên nhiên rùng rùng chuyển động... rồi đứng bật dậy, di chuyển về phía trước - Đó là những tiểu đoàn bộ binh, trên lưng mỗi chiến sĩ đeo một vòng ngụy trang. Nếu khi cả đội hình nằm xuống, tưởng như đấy là một rừng cây lúp xúp.
     Ở Đại đội 5, đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209 thuộc Sư 312 – Hạ sĩ Hoàng, một chiến sĩ súng máy đại liên cũng có mặt trong trận đánh diễn tập này.
     Đây là những trang nhật kí của anh, ghi lại một chặng đường hành quân mới nhất.
 
........              
 
     Mồng 5 tháng 11 năm 1967,
     Đêm trăng. Trời trở gió lạnh mà mồ hôi vẫn vã ra như tắm. Quần áo ướt sũng. Chúng tôi hành quân qua vùng đồi miền trung du. Một đồi sả ngút ngàn của nông trường nào đó.
     Vào quãng nửa đêm, cả đại đội đi theo một lối mòn nhỏ giữa đồi. Trên bầu trời, mây lởn vởn bay. Khi đám mây này vừa bay qua để lộ ra ánh trăng tỏa sáng, đám mây khác liền kéo tiếp đến che lấp bóng trăng đi, làm cho cảnh đồi đã trống trải lại mang màu hư ảo. Sương muối rơi nhiều. Mồ hôi vẫn cứ chảy thành dòng nhòe lên cả mắt, thấm xuống môi mằn mặn. Mấy đầu ngón chân tuy đã được bọc trong đôi giầy vải, vẫn bị tê cóng.
     Tiếng hát theo nhịp hành quân của các chiến sĩ đã yếu dần đi, anh nào cũng mệt rã. Quai ba lô xiết vào vai tê dại. Lưng muốn sụn xuống, phải mắm môi lại mà bước. Cả đoàn quân mờ mờ tiến trong đêm, lưng còng còng cõng những chiếc ba lô con cóc. Anh thì vác chiếc càng hay thân súng máy đại liên, người thì è vai mang khẩu hỏa tiễn DKB hoặc súng cối nặng trĩu. Đại đội 5 chúng tôi vẫn đi bám sát nhau, vượt sang đồi bên kia.
     Đồng chí chính trị viên đại đội và anh thượng sĩ - Quản lý hậu cần, đi cuối cùng đội hình làm nhiệm vụ thu dung. Cũng có vài ba chiến sĩ đã bắt đầu bị tụt lại sau hàng quân.
     Gần tới đỉnh đồi, bất giác tôi nhìn thấy cách con đường mòn khoảng vài ba chục mét, có một cô gái đang tựa người vào chiếc cổng tre đơn sơ. Tóc cô dài chấm ngang lưng. Bên trong cổng là một chiếc lán nhỏ, có hàng rào cũng đan bằng tre vây quanh. Cô gái đứng im lặng nhìn đoàn quân đi qua.
     Cả cô gái và chiếc lán hiện lên như hai cái bóng mờ đơn độc, hiu hắt trong màn sương giá lạnh. Tôi có cảm nhận lòng thiếu nữ đang se lại, vì nhớ tới một người thương nào đó? Có thể là hình ảnh người yêu của cô, một chiến sĩ mà chúng tôi chưa biết mặt. Ở một nơi nào đấy, anh cũng đang hành quân như chúng tôi đêm nay? Nhưng cũng có thể, anh đã ra chiến trường...
     Vẫn là hành quân trên mảnh đất quê hương, mà chúng tôi lại nhớ về quê hương và những người thân! Lòng tôi cồn cào nghĩ về em...
     “Thu thân yêu! Không biết giờ này em có thao thức để nhớ về anh, như người con gái kia không?”.
     Một cái gì thầm kín nhen lên, trong sự cảm đồng giữa cô và những người chiến sĩ. Cô cũng đang đi cùng chúng tôi trên một con đường, hướng về một hướng: khao khát, chờ đợi và hy vọng!
     Tôi nghĩ: Không phải chỉ có tiếng bom, pháo gầm nổ? Không phải chỉ có những lá cờ bay phần phật trên nóc cao điểm? Không phải chỉ có các làng mạc bị bom đạn tàn phá, những người đã ngã xuống và cả đoàn quân vẫn xông lên? – Bức họa về chiến tranh, không thể thiếu bức tranh này!
     Sang ngày mồng 6,
     Khoảng 3 giờ sáng, lệnh từ trên đầu hàng quân truyền xuống: "Đã đến chỗ trú quân"! Không có gì vui bằng tin này. 
     Xương cốt hình như muốn vỡ ra. Những xúc thịt trong cơ thể đang tan rã. Mí mắt kéo sụp xuống, nặng chịch, không thể nào còn mở ra được nữa. Chân muốn khụy. Vừa đi vừa ngủ đã thành thói quen của lính. Chân cứ đi, mắt cứ nhắm nghiền, thỉnh thoảng choàng dậy đã thấy cách xa người đi trước gần chục bước. Vội chạy lạch bạch để bám sát đội hình. Thế lầ cả đoàn quân sau đó phải chạy theo.
     Nhìn ra xa, cách đường quốc lộ hơn trăm mét là một xóm nhỏ. Những chòm tre quây kín xóm như một hòn đảo xanh giữa cánh đồng. Gần chục dân quân, nam nữ thanh niên ra đón chúng tôi. Tiếng líu ríu của các cô nữ dân quân làm cho những tay chiến sĩ tỉnh ngủ. Chẳng liều thuốc nào bằng liều thuốc ấy? Dễ thường nó còn mạnh gấp mấy lần, so với những  liều thuốc tư tưởng của các nhà chính trị. Đã thấy mấy cậu đi đầu đang ba hoa, tán tỉnh các em. Những tay chiến sĩ đi cuối hàng thì lại làu bàu, mắng mỏ... Chắc các anh chàng bực bội vì ở xa mấy em quá, không được xơ múi gì?
     Vào đến xóm. Mỗi "tổ ba ba" được dẫn vào một gia đình để trú quân. Chỉ kịp ra ao khỏa vội cái chân, trèo lên chiếc giường tre của gia đình nhường cho, lăn ra ngủ. Tỉnh dậy đã 11 giờ trưa. Nếu không có cậu trực ban đến thúc giục đi ăn cơm, có lẽ chúng tôi phải ngủ một mạch đến chiều.
     Ăn cơm về. Lúc này, chúng tôi mới để ý quan sát gia đình. Nhà chỉ có hai người, một bà già và cô con gái. Sau được biết, cô gái lại là con dâu của bà. Con trai bà cưới vợ được mươi ngày thì nhập ngũ, để lại người vợ hiền và ngoan ở nhà. Cô chủ thật niềm nở, dễ thương, ra hè ngồi đan nón nói chuyện với chúng tôi.
     Có "hơi nóng" của phụ nữ, nghe chừng cuộc sống thêm vẻ mặn mà. Cảm giác như mỗi tế bào trong thân thể chúng tôi đang teo thắt lại, nay có dịp nở bung ra. Câu chuyện đang sa đà, có phần hơi nhả nhớt… mà cô chủ cũng thấy thích thú. Phụ nữ ai chả thế? Thiếu “trống” thì dẫu đẹp mấy cũng xác xơ. Gặp các anh chiến sĩ mau mồm, mau miệng… lại có duyên tán tỉnh, em nào chẳng sướng. Khác nào đất hạn gặp mưa rào. Nụ hoa đang thì… lại gặp mấy con ong dại, mang đầy bầu phấn.
     Tiểu đội trưởng Tân từ nhà bên sang, bắt bọn tôi đi ngủ. Tuy còn tiếc rẻ cuộc nói chuyện với cô chủ, nhưng chúng tôi vẫn phải chấp hành mệnh lệnh, về giường nằm. Giấc ngủ rồi cũng nhanh chóng kéo những anh lính vào cõi mộng mơ. Không biết khi đó ông tiểu đội trưởng Tân, người thế chỗ chúng tôi… còn ngồi nói chuyện với cô chủ đến lúc nào?
     Xế chiều. Cô con dâu bà chủ nhà cùng rất nhiều anh chị em thanh niên và bà con thôn xóm, đưa chân chúng tôi ra tận sân hợp tác – Nơi toàn đại đội tập trung để chuẩn bị hành quân tiếp.
     Ngày mồng 10,
     Không biết con đèo chúng tôi hành quân qua hồi đêm, có giống Đèo Khế mà ông Tố Hữu đã viết trong thơ không nhỉ? Tôi nhớ mấy câu:
                Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
                Gió qua rừng Đèo Khế gió sang
     Đi qua đèo như đi trong một cái thung lũng, hai bên có hai vỉa núi kẹp lại. Gió theo lũng thổi về quần quật, sương xuống lạnh cóng. Tôi lại nhớ tới hình ảnh người phụ nữ trong thơ ông:
                Nhà em con bế con bồng
                Em cũng theo chồng đi phá đường quan
     Đã bao đời nay, người phụ nữ thủy chung với chồng lại đảm việc nước non.
         Ngày 12,
     Hành quân qua một miền cỏ rộng, bằng phẳng như thảo nguyên. Trên vòm trời xanh, hàng ngàn những vì sao li ti mọc. Nhìn xa trong lưng chừng một dãy núi cao, có những ánh đèn lấp lóe hắt ra. Cách chúng tôi khoảng vài cây số. Nghe nói, đấy là những ngọn đèn của một xí nghiệp, hay công binh xưởng... di tản vào trong núi đá.
     Ồ, đất nước ngẫm bao nhiêu chuyện lạ! Ngay giữa lòng đất, ẩn mình trong trái núi... là những cỗ máy đồ sộ đang ầm ầm chuyển động. Bên trên rừng vẫn tỏ ra êm ái như giấc ngủ say của nàng thiếu nữ. Tôi nhớ tới bài thơ "lửa đèn" của nhà thơ Phạm Tiến Duật:
                 ... Đêm tắt lửa trên đường
                 Nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
                 Là tiếng những đoàn quân xung kích
                 Đi qua
                 Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
                 Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
                 Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la
                 Thành những màn đen che những bào thai
                                                                    chiến dịch
                 Bóng đêm ở Việt Nam
                 Là khoảng tối giữa hai màn kịch
                 Chứa bao điều thay đổi lớn lao
                 Bóng đêm che rồi không thấy gì đâu
                 Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
     Đất nước tôi đã đánh Mỹ như thế!
     Đoàn quân tiến sâu mãi vào trong đồng cỏ vắng. Đến một vùng đất bị cầy lên, cỏ bị xới tung, ngang dọc chi chít hằn những vết bánh xe xích. Trông cảnh tượng, người ta có cảm tưởng như ở đây vừa diễn ra một trận hồng thủy thời trung cổ? Hoặc có bầy mãnh thú náo đó đến đây quần lộn, đã đi xa, để lại những dấu vết quằn quại của những con thú bị thương... xé nát cả mảnh đất.
     Sau được biết, đó là dấu tích của một đoàn xe tăng, đã đến đây tập kết từ vài hôm trước. Chúng tôi hiểu rằng trong cuộc hành quân này, chúng tôi không đơn độc.
     Vẫn đi tiếp trong đêm. Phía xa, lại trông thấy một dãy đèn sáng. Chắc đấy là ánh đèn của một thị xã nào đó? Lòng tôi bồn chồn nhớ tới phố phường, nhớ những người thân.
     Nhìn cảnh hoang vắng tựa một vùng thảo nguyên: Tôi bỗng liên tưởng tới hình ảnh nàng Radđa kiêu kỳ và chàng Lôi-kô Rô-ba kiêu hãnh, trong câu chuyện của nhà văn Gorky: Khi nàng Radđa xinh đẹp nằm xuống thảo nguyên hoang dại, để nhận lấy lưỡi dao găm của chàng Lôi-kô Rô-ba đã cắm ngập trái tim mình – Nàng nói: "Em biết anh sẽ làm như thế!".
     Thảo nguyên mênh mông, mối tình cao thượng! Cái mơ và cái thực, hòa trộn trong tôi một cảm giác mạnh mẽ.
     Thu ơi!  Em có phải là nàng Radđa xinh đẹp đó không? Nhưng không phải là để đón nhận lưỡi dao tình yêu, mà để đón nhận những nụ hôn cháy bỏng của anh, từ vùng đất hoang vắng này... theo gió gửi về cho em.
     Ngày 15,
     Cả trung đội súng máy đại liên nằm nghỉ trên sàn một chiếc nhà rông giữa bản. Cạnh nhà, có dòng suối nước chảy rí rách.
     Trời sập tối. Ở góc nhà, mấy cậu đang nằm chéo khoeo cất cái giọng vịt bầu, khò khè như ông lão mắc bệnh hen phát ra từ trong cổ họng nghe ư... ử...
     Ngồi dựa vào cây cột gỗ phía trái nhà, binh nhất Văn rút chiếc kèn ác-mô-ni-ca trong túi quần ra thổi. Chiếc kèn được bọc cẩn thận bằng một cái khăn tay. Đông nhất là tốp chiến sĩ đang vây quanh cô gái Mường. Cô gái có nước da trắng nõn nà, khuôn mặt tròn xinh xắn. Cảm giác như trong con người cô toát lên sự tươi mát và khêu gợi. Họ ngồi bên cạnh cái bếp lửa nhà rông đang cháy, sưởi ấm cho cả gian nhà. Trên bếp lửa, nồi bánh làm bằng bột mì đang sôi. Tôi nằm cạnh Văn, lắng nghe câu chuyện của tốp chiến sĩ và cô gái Mường.
     Nồi bánh sôi sùng sục, nước trào ra cả bếp. Cậu Thuyết vội vàng cầm chiếc vung vứt ngửa lên mặt sàn, rồi vẩy vẩy bàn tay bị bỏng. Cô gái với lấy đôi đũa, lật úp những chiếc bánh trên cùng sấp lại cho chín đều.  
-  Tay mấy anh chưa quen bằng tay em đâu!
     Cô gái nhìn Thuyết đang ôm bàn tay xuýt xoa vì nóng, cười nói vui vẻ.
-  Anh ấy chỉ chưa quen cầm vung thôi, còn cầm cái khác thì...
     Một anh lính nói trêu cô gái. Một cậu khác mắng:
-  Lại sắp tán nhảm.
-  Ấy lầ mình muốn nói: Thuyết nó chưa quen cầm vung, nhưng bóp cò súng thì không chê vào đâu được.
     Cả bọn cười ồ.
-  Lính xạ thủ loại ưu của bọn anh đấy!
-  Em đùa tí thôi.
     Cô gái Mường lấy chiếc que sắt vẫn để cời than, khêu bếp lửa cho cháy to lên. Giọng của cô nhẹ nhàng rất dễ thương.
-  Mấy anh đi xa như thế này, chắc là nhớ người yêu lắm?
-  Bọn anh toàn lính "phòng không" cả.
     Họ tán.
-  Các anh cũng muốn tìm người để thương, để nhớ! Không biết mấy em gái Mường có ưng không?
-  Gái Mường xấu lắm, đần lắm, các anh chẳng ưng đâu? Mấy anh chỉ ưng gái Kinh thôi!
     Cô gái bản nghe chừng cũng thích những câu tán của lính.
-  Riêng anh, anh vẫn thích gái Mường!
-  Gái Mường xinh này! Trắng này! Gái Mường ngoan này! Ăn nói dễ thương này! Em giới thiệu cho mấy anh vài cô?
     Một anh khác nói chêm vào. Cô gái lắc đầu nguây nguẩy:
-  Em chịu thôi. Các anh bộ đội đòi hỏi cao lắm!
-  Cứ như em là được.
     Cô gái xấu hổ, má đỏ rựng. Tay vẫn cời than trong bếp, cô nói có vẻ hơi hờn dỗi:
-  Mấy anh nói chơi chơi… chứ yêu gì gái Mường chúng em?
     Mình miên man nằm nghĩ về Thu. Tiếng con suối bên cạnh nhà rông vẫn rí rách chảy, lại nhớ lúc đã cùng em trên phiến đá của con suối ven rừng…
     Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy toàn bộ tấm thân em. Tấm thân người con gái, vẻ đẹp của nó không bút nào có thể tả hết được. Ôi! Cái tòa thành kì vĩ và bất tử, mà Đại thi hào Nguyễn Du đã mô tả:
                      Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
     “Tòa thành” của em huyền diệu và lộng lẫy quá! Em có biết lúc đó, anh đã thấy hạnh phúc thế nào không? Đến bây giờ anh còn bàng hoàng, tưởng như mình vẫn đang ôm người yêu ngủ trong mơ…
          Ngày 17,
     Chúng tôi đi sâu vào rừng núi Hòa Bình. Một đêm mưa tầm tã, đơn vị hành quân qua bản khác. Các bà mế một tay cầm cành lá cọ, bản to như một chiếc ô che lên đầu, tay kia bưng những rổ bánh sắn và các dóng mía đã được tiện sẵn, phân phát cho từng chiến sĩ đi qua. Chúng tôi nhận bánh và mía, lặng lẽ cám ơn các mế rồi lại vội đi.
     Những cô gái Mường tuổi xuân mơn mởn, xinh tươi dứng chật bên đường đưa tiễn các anh lính trẻ. Qua miền đất lạ mà cảm thấy như mình đang đi giữa làng quê gần gúi, thân thương. Trong chiến tranh, đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số đã xích lại gần nhau hơn.
     Đấy là quê hương tôi!
     Ngày 25,
     Theo Tết cổ truyền, chỉ còn hơn tháng nữa là bước sang năm mới. Chúng tôi nhận được lệnh tạm dừng cuộc hành quân dưới một chân núi đá. Anh em vào rừng lấy tre nứa, dựng lán trại…chuẩn bị đón cái tết đầu tiên của đời lính.
 
 
 
                                                                           
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 17:51:45
 
 
 
                                                                                   3-
 
      Các đơn vị đều đã dựng lán trại xong. Vào một buổi sáng, các chiến sĩ lũ lượt rủ nhau tới bản xin cành đào về chơi tết. Mặt trời như hòn máu đỏ nhô lên cao, phủ một màu hồng loãng bay mơn trớn, là là từ mái nhà gianh này sang mái nhà gianh khác. Bản Mường nằm trên một thung lũng rộng, bằng phẳng. Những dẫy núi chạy quanh , thành đường viền như yên ngựa. Những vườn cây cọ, lá to vươn dài ra. Những vườn táo trái chín mọng nước, các cành sai quả vít cong xuống ngang mặt người. Những vườn hoa đào màu hồng, thơm ngát.
     Gió sớm thổi cuốn tung những cánh hoa mận trắng rắc lên các mái nhà, trông như những khuông vải hoa. Trong các vườn trái, đã thấy thấp thoáng bóng những chiến sĩ cùng nam nữ thanh niên trong bản. Một thiếu niên bản vận chiếc áo cánh nhuộm chàm, xoa tay lên nước thép của khẩu AK, nói với anh chiến sĩ đang khoác súng trên vai:
-  Đồng chí bộ đội, dậy mình bắn súng đi! 
-  Khi nào em lớn, vào bộ đội, người ta sẽ dậy em bắn súng.
     Anh chiến sĩ nói với cậu bé như vậy. Ở chỗ khác.
-  Anh bộ đội! Em tặng hoa đồng chí, để đồng chí ăn tết cho ngon, đánh giặc cho giỏi.
     Đó là tiếng của cô gái bản trạc tuổi mười tám, đôi mươi, đang tỉa cành đào đưa cho các chiến sĩ.
-  Có đi xa cũng đừng quên thôn bản chúng em đấy!
-  Quên làm sao được mấy em! Mấy em cho tụi anh nhiều hoa, tụi anh nhớ càng nhiều.
-  Bộ đội khôn lắm chớ? Hết đào bản em thôi!
-  Giải phóng miền Nam rồi, bộ đội về miền xuôi sẽ mang nhiều đào lên cho các em.
-  Thật nhiều chứ?
-  Thật nhiều. 
-  Khi nào miền Nam được giải phóng, chúng em sẽ về miền xuôi thăm bộ đội, bộ đội đón chúng em chớ?
-  Có chớ!
     Mùi sắn lùi, mùi thịt nướng, mùi cơm lam... từ trong các bếp lửa nhà sàn, tỏa ra thơm phức.
     Hoàng cùng với Hùng và Dong đi ngang qua một vườn táo chín. Những trái táo nũng nịu trên cành, va cả vào đầu các anh.
-  Chà, trông mới thật ngon!
     Dong xuýt xoa vẻ thèm khát. Anh chỉ những quả táo trên cành, nói với Hoàng:
-  Ta nếm thử chứ?
-  Đừng, của dân không xâm phạm.
     Hoàng nói. Hùng nháy mắt nhìn Dong, trêu:
-  Có thèm cũng chỉ được hít, được nhìn thôi!
-  Thèm đến rỏ nước miếng.
     Dong đến một cây táo, rung thật mạnh. Những cành táo xô vào nhau, chuyển động lan ra cả khu vườn. Những trái táo chín rơi xuống tứ phía. Hùng và Dong lao tới nhặt, phủi qua quả táo rồi cho lên miệng cắn ngon lành. Vừa ăn vừa xuýt xoa:
-  Không ăn cũng hoài của.
     Hoàng cũng thèm lắm, nước bọt kêu ừng ực trong cổ nhưng vẫn làm ra vẻ… Dong nhặt một trái táo to, vo tròn trong bàn tay cho sạch phấn bám ở vỏ, đưa Hoàng:
-  Ta nếm vài ba quả táo rụng thôi, chứ đâu có phải là lấy của dân. Ăn đi, không can gì.
     Hoàng cười, nói:
-  Tí nữa vào nhà, dân bản trẩy cho ăn thoải mái. Trong vườn không có người, sợ mang tiếng. 
     Anh vẫn cầm trái táo Dong đưa, cắn ròn tan. Vị của trái táo hơi giôn giốt chua và ngọt, ăn vào tỉnh táo hẳn. Hùng thì nhấm từng tí như chuột chí. Dong lại nhai ngấu nghiến giống con cáo đói mồi, tấm tắc khen:
-  Người sắp chết mà vớ được trái táo này để ăn, có khi sống lại. 
     Lúc này, họ mới nhìn ra cạnh vườn táo có một trái lều lợp gianh. Trong lều, dân bản đặt một chiếc cần cối giã gạo bằng nước. Dòng nước chảy theo đường máng dẫn từ trên núi cao về. Một cô gái Mường đứng bên cạnh chiếc cần giã gạo. Chắc cô đã trông thấy các anh từ lúc qua vườn?
     Cô gái Mường đang nhìn mấy anh chúm chím cười. Như bị mắc cỡ, cô cúi xuống chiếc cối vục một nắm gạo lên tay, thổi cho bay hết bụi cám. Họ ngẩn người đứng sững ngắm nhìn cô gái: Mái tóc đen mướt của cô búi gọn, trên bím cắm một bông hoa mận trắng, nhỏ xíu. Cô gái Mường mặc chiếc áo trắng ngắn, bằng loại vải mịn và mỏng, bó sát lấy thân hình thon thả. Gấu áo hơi thắt chẽn lại, tựa như liền với cạp của chiếc váy hoa may cầu kỳ.
     Họ tiến về phía người con gái bản. Hoàng lên tiếng trước:
-  Chào em gái bản.
-  Em chào các anh.
     Cô gái tươi cười để dộ hàm trắng đều, giọng vẫn đượm tuổi thơ. Dong nhìn cô gái ướm hỏi:
-  Bọn anh qua đây vào thăm bản, nhân thể xin bà con mấy cành đào cắm tết?
-  Các anh đóng quân ở lại đây có lâu không?
-  Lính các anh ở ngày nào, biết ngày ấy thôi!
     Hoàng đăm đắm nhìn người con gái, làm cho cô hơi ngượng ngùng.
-  Tết này mời mấy anh vào nhà em ăn tết? Các anh lên nhà em đi! Mấy anh đến chơi, chắc mế vui lắm.
     Họ theo cô gái đi qua một vườn đào, đến ngôi nhà sàn nhỏ, bước lên chiếc cầu thang gỗ bắc vào nhà. Một mế già đang ngồi bên cạnh bếp lửa, đặt giữa sàn. Tóc mế búi tó củ hành, đã bạc quá nửa. Bà mế cưới đón các anh, cái đuôi mắt của người già nheo lại.
-  Vào đây mấy con!
     Mế chỉ tay lên sàn chỗ gần bếp lửa, bảo các anh ngồi xuống. Tay mế cầm ống điếu cầy to bằng cổ chân, vê một điếu thuốc cho vào lõ rồi lấy mẩu than hồng trong bếp châm để hút. Ở đây, dân bản không hút thuốc bằng lửa. Họ nói, hút bằng than đượm hơn.
     Cô gái lấy chiếc gùi mây đang làm dở, ra ngồi cạnh khung cửa sổ đan tiếp. Từ chỗ cô ngồi trông thẳng sang vườn đào, qua một cái sân. Hút xong điếu thuốc, bà mế quay lên hỏi:
-  Mấy con quê ở đâu? 
-  Chúng con ở Hà Nội.       
     Hoàng trả lời mế. Anh ngước nhìn đến bên cửa sổ, nơi người con gái Mường xinh đẹp đang ngồi đan gùi. Bà mế kể cho các anh nghe về đứa con đầu của bà: "Nó là anh trai của cái Mỵ!" - Mế bảo vậy. Đến bây giờ các anh mới biết tên cô.
-  Thằng anh trai của nó cũng đi bộ đội như mấy con, tết này vừa tròn một năm. Nó cũng mới viết thư về báo tin cho mế và em gái biết, đơn vị nhận được lệnh lên đường khẩn cấp ra chiến trường.
     Tay vẫn cời bếp lửa cháy hồng lên, bà mế nghẹn ngào:
-  Nhiều lúc nghĩ đến nó, mế thấy thương thương, nhưng lòng mế vui, mế thấy tự hào.               
     Đưa tay chỉ lên chiếc bàn thờ nhỏ, có một bát nhang đặt dưới bức chân dung một ông già đang ngậm tẩu, giọng mế rưng rưng:
-  Cha chúng nó không còn để trông thấy các con khôn lớn. Nếu biết, hẳn ông ấy phải vui sướng lắm!            
     Theo như mế kể - Mỵ vừa mới học xong lớp y tá ngắn hạn ở trên tỉnh. Cô trở về làm việc tại nhà y tế địa phương, phục vụ bà con trong bản.Thỉnh thoảng cô lại tình cờ nhìn về phía Hoàng: cái anh chiến sĩ có mái tóc đen mềm, chải hơi thành sóng, trông dễ có cảm tình ấy! Sáng nay, như có dòng nước mát nào đó đã tưới vào tâm hồn trắng trong của người con gái bản. Bắt gặp Hoàng nhìn lại, Mỵ vội cúi xuống đan tiếp, má chín hồng như người vừa ra từ bếp lửa. Một cái gì rạo rực trong cô...
     Nghe lời mế, Mỵ dẫn các anh ra vườn, cắt cho mỗi anh một cành đào. Không hiểu sao, lần này cầm chiếc liềm để cắt cành, tay Mỵ cứ run run... Hoàng vội chạy đến giúp. Mỵ đưa liềm cho anh, miệng chỉ tủm tỉm cười.
     Khi tiễn chân các anh ra về, cô còn đứng nhìn theo mãi. Tới khi cái anh chiến sĩ trông đẹp trai mà cô vẫn chưa biết tên, quay đầu nhìn lại. Như người ăn vụng bị bắt quả tang, Mỵ e thẹn ù chạy lên nhà. Cô vẫn nhớ,  mấy anh đã hứa sẽ vào thăm bản luôn.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 17:55:53
 
 
 
 
                                                                              4-
 
     Hoàng đã nhận thấy tai hại về sự sa đà tình cảm của anh với cô gái Mường. Tâm hồn trong trắng, thơ ngây của người con gái dân tộc, thanh suốt như chiếc tách pha lê. Sau những lần anh lui tới thăm bản, những lời mời đón, ngọt ngào trai gái – Mỵ đã ái mộ anh! Một tình cảm âm thầm, trinh khiết và tha thiết.
     Phải nói rằng, tuy chưa phải là một lâu đài tráng lệ với những ô cửa tò vò cao chót vót, hay đỉnh tháp hùng vĩ... Nhưng chính sự tươi mát của tâm hồn và tình lưu luyến như hương hoa của em, đã kêu gọi trái tim những người con trai vươn tới. Đã làm cho lòng ta say.
     Ngày ngày cô mong được gặp anh. Thời gian này đơn vị được nghỉ ngơi đón tết, anh em chiến sĩ rỗi rãi, tự do hơn. Họ cũng thường tranh thủ lui tới bản chơi và thăm hỏi bà con.
     Sáng nay anh lại đến. Đang đứng ở cửa ngóng, trông thấy bóng anh từ xa... cô chạy ra đón. Đôi trai gái dắt nhau đi trong vườn đào chi chít hoa, hương đào bay quanh... cảm giác như đến ánh sáng cũng chứa đựng những hương say. Không biết đó chỉ là hương của hoa hay cả hương của người?  Mầu hồng của đào, mầu hồng của nắng... tắm lên làn da trắng mịn mà, trên khuôn mặt xinh xắn của cô gái Mường. Ánh mắt cô nhìn anh lung linh, tựa như đang có bản nhạc "tình yêu và cuộc sống" cất lên trong tâm hồn. 
     Anh đứng ngây ra ngắm nhìn cái vẻ đẹp thơm dại như bông hoa rừng của cô gái bản. Cô nhìn anh hơi e thẹn, cúi xuống:
-  Sao anh cứ nhìn em mãi thế?                         
-  Đào đẹp quá em nhỉ!
     Hoàng nói và mỉm cười.
-  Anh thích cành nào?
-  Cành nào cũng đẹp.
     Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
-  Anh Hoàng, em rất mến anh!
     Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu, đầy sức quyến rũ bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác như toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này, người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
     Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
     Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" – Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
     Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
-  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
     Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp đẽ với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
     Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái, tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.
     Anh bế cô đặt xuống vườn đào.
     Cả anh và cô đều biết rằng: những giây phút ân ái, gần gũi như thế này, chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi anh sẽ tiếp tục ra đi! Nhưng chính ý nghĩ đó... không phải để ngăn giữ, mà lại thôi thúc họ dành cho nhau nhiều hơn.
     Tiếng cô thầm thì: "Em đến với anh nhanh quá, phải không?". Khi đôi bàn tay của người chiến sĩ lần cởi tấm áo chẽn trắng, ra khỏi tấm thân trắng ngần và thơm mát. Cô khẽ giữ tay anh lại, nhưng rồi... lại để mặc anh. Khi anh cởi bỏ cả chiếc váy hoa ra khỏi cô – Trong cô chỉ nghe thấy tiếng nói thầm thì: Em yêu anh... chỉ vì em yêu anh... Dù một ngày nào đó em không còn được gặp anh nữa, thì giây phút này người con gái bản vẫn cho anh, giữ mãi mối tình đẹp đẽ với anh!
     Chiến tranh! Ngươi có ý nghĩa gì, khi đem so sánh với tâm hồn và thể xác trinh trắng của người con gái này? và chính đôi mắt của người con gái, đôi mắt như một bầu trời xanh, trong như dòng suối rừng... đang lên án ngươi!
     Ngươi muốn sự sống trên đời này phải vật vờ như bóng ma ư? Ngươi muốn hủy diệt cả tình yêu và cuộc sống, mà đấng thượng đế tối cao đã ban thưởng cho con người ư? Hãy nhìn đến người con gái xinh xắn, đáng yêu này – Ngươi sẽ thấy sự tồn tại của ngươi đáng nguyền rủa đến vạn lần?
     Anh ngắm nhìn ánh mắt ngây dại như giấc mơ xa của Mỵ. Hai tấm thân đã quyện vào nhau trong vườn đào. Cô run run và khẽ thốt lên: "Anh, em sợ!" – nhưng cả người cô vẫn uốn cong để ghì chặt lấy anh.
     Nhưng một tiếng nói nào đó từ trong trí não đã ngăn anh lại? - Không được! Anh không thể đi đến bước ấy. Bởi vì, anh yêu Thu! Nếu anh đi quá xa với người con gái bản này, anh sẽ có lỗi với Thu.
    Hoàng vội vàng đứng dậy, trước sự ngỡ ngàng của cô gái. Ánh mắt của cô như muốn nói với anh: Em cho anh mà, sao anh không chiếm đoạt em? Nhưng trong anh vẫn vang lên một tiếng nói kiên quyết: Không, anh không thể phản bội lại Thu!
     Hoàng bế Mỵ dậy... khẽ hôn lên tấm thân em lần nữa, rồi mặc áo và váy lại cho em. Mỵ vẫn ngạc nhiên không hiểu: Hay là, anh không thích cô? Người con gái bản lặng lẽ, những giọt nước mắt bỗng trào ra trong khóe mắt. Anh phân trần:
-  Anh không thể, dù anh rất mến em – Mỵ ạ!
     Anh nói như thể xin lỗi vậy. Anh cũng đã phải dùng hết lý trí để cưỡng lại những ham muốn mạnh mẽ của bản thân, nhưng Mỵ vẫn nhìn anh như có chút hờn dỗi và trách móc:
-  Anh không thích em ư?
     Hoàng âu yếm nói:
-  Không phải vậy đâu, em ạ! Anh rất thích em. Anh rất muốn, nhưng...
     Không để cho anh nói hết câu, cô căn vặn:
-  Vậy sao anh dừng lại...
     Anh không biết phải giải thích như thế nào? Anh không thể nói với cô rằng: Anh đã yêu một người con gái khác rồi, dù đó là sự thật. Hoàng đành chống chế:
-  Bọn anh sắp phải đi! Anh không thể ở lại đây với em được.
-  Thì em vẫn biết các anh phải đi...
     Giọng cô nghẹn ngào: "Nhưng em tình nguyện cho anh. Sao anh phải ngần ngại? Người con gái bản đã thuộc về anh rồi mà...". Cô bỗng ôm chầm lấy anh nức nở khóc:
-  Em sẽ đợi anh về! Phải cách xa anh thế nào, em cũng đợi...
     Sự bộc lộ tình yêu, hẹn hò của cô gái dân tộc hiền lành... làm cho Hoàng hoảng hốt. Tiếng khóc của cô thổn thức, nước mắt trào ra đẫm cả ngực anh. Tưởng như cả vườn đào kia cũng phải rung cảm trước tiếng khóc ấy. Nó cất lên từ trong thiên thai, trinh khiết và thơm hương như cánh hoa rừng mùa xuân. Một làn gió đưa về làm cho những cánh hoa bay lả tả...
     Cái dây cót của chiếc đồng hồ thời gian cứ thản nhiên quay. Thoáng chốc trời đã gần đứng bóng, cũng sắp trưa. Mỵ chỉ muốn thời gian thật chậm, để anh ở lại thật lâu với cô.
     Khi Hoàng từ biệt Mỵ ra về, anh vẫn chưa thể nào giải thích được cho cô hiểu? Anh chỉ biết hứa, tết này nhất định sẽ vào bản để thăm mế và cô.
     Họ cùng nhau đi ra khỏi vườn đào. Trên vòm trời, vài đám mây mềm mại đang trôi...
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 17:58:02
 
 
 
 
                                                                                   5-  
 
     Sáng nay được ngày nắng ấm, các chiến sĩ trong đơn vị Hoàng kéo nhau ra suối tắm. Từ trên núi cao đổ xuống một dòng thác lớn, như một con trăn khổng lồ trong cơn quẫy đạp, quăng cả tấm thân đồ sộ của nó xuống núi. Thác nước tràn ra một khu hồ, từ đó trào vào lòng con suối không lớn lắm, nên nước chảy rất xiết. Những chỗ suối nông, nhấp nhô những phiến đá bị nước bào nhẵn, nhớp nháp rêu. Chỗ suối rộng và sâu cũng phải ngập ngang ngực.
     Người ta kháo nhau: Ngày xưa hồ này còn có tên gọi “Hồ tiên nữ”. Họ truyền kể một câu chuyện thần thoại về hồ.
… Cứ chiều chiều có bẩy con chim phượng bay đến hồ để tắm. Khi đó giữa hồ còn có một hòn đảo. Giữa đảo nổi lên một chòm núi nhỏ. Trong núi có một chiếc hang cũng không sâu lắm.
     Một chiều… bẩy con chim phượng hạ cánh đỗ xuống đảo, hiện thành bẩy nàng tiên xinh đẹp. Bẩy nàng tiên vào trong hang để trút bỏ xiêm y, rồi thứ tự từ cô chị cả đến cô em út – gọi là nàng bẩy, bước ra khỏi hang xuống suối tắm. Tắm xong họ lên phơi mình trên đảo. 
     Bẩy nàng tiên như bẩy tòa thiên nhiên, lồ lộ phơi mình trong sắc nắng hoàng hôn. Cái hoàn mỹ của mọi sự hoàn mỹ ngự trị trên da thịt các nàng. Hương thơm tỏa ra từ thân thể các nàng đã gọi những bầy chim khôn nhất, có tiếng hót hay nhất... bay đến đảo.
     Đẹp nhất là nàng Bẩy! Nàng nằm bên mé nước, tóc xõa xuống suối. Bầu ngực nàng hiện lên những nét trạm sinh động, tài hoa của tạo hóa. Nàng Bẩy lim dim mắt… nghĩ đến nơi trần thế? Giấc mơ của nàng mỏng manh như hơi thở. Niềm khao khát tình yêu ứa lên đôi môi nàng như nước mật ngọt của trái vả rừng.
     Nàng là tiên, nhưng vẫn là phụ nữ: Nàng không thần tượng sự trong trắng, tiết trinh - Nàng muốn hiến dâng! Nàng ao ước có một cuộc sống hạnh phúc và trăn trở ở cõi trần gian, hơn cuộc sống yên ả nhưng cô đơn, lạnh lẽo chốn thiên đình. Nàng khao khát được yêu, được biết mình đang tồn tại. Đàn bà: Họ là thực tại còn nàng là chiêm bao...
     Ý nghĩ ấy càng làm cho nàng Bẩy thêm buồn chán. Nhìn lên bóng nắng chiều – Nó cũng giống những năm tháng còn lại của đời nàng, lụi dần xuống núi. Nỗi khao khát về sự "hiến thân" truyền lan trong cơ thể nàng, nàng vùng dậy thét lên:
-  Tồn tại! Tôi muốn tồn tại! Tôi muốn sống. Tôi mu...ốn... số...n...g...
     Tiếng thét của nàng Bẩy làm cho bầy chim sợ hãi bay lên cao. Các nàng tiên chị thì nhìn em lo âu...
     Con suối mà các anh đang tắm, bên cạnh Hồ Tiên Nữ ngày xưa. Hòn đảo ấy qua nhiều năm tháng, đã bị thác nước và sóng hồ đánh tan đi mất. Các chiến sĩ khỏa trần ngâm mình trong dòng suối mát, cười reo như  con trẻ.
     Dong vắt chéo chiếc khăn tắm màu cỏ úa, vừa kỳ cọ tấm lưng to bản vừa nói với Hoàng:
-  Này, cô bé trông cũng xinh tươi không kém gì nàng Bẩy?
     Ý Dong muốn nói đến cô gái Mường mà mấy anh đã gặp đôi lần khi vào bản.
-  Cũng khá.
     Hoàng làm ra vẻ thản nhiên đáp lại lời Dong, rồi nhào ra chỗ nước sâu ngụp lặn, lấy tay xoa vò mái tóc đang gội dở. Đám bọt xà phòng trắng lốp nổi lên mặt nước... bị sóng cuốn đi. Hùng thì đang nằm phơi mình trên một tảng đá ở chỗ suối nông, hai tay vắt qua đầu làm gối, nói lửng lơ:
-  Không khéo có người viết thư đến đơn vị kiện cáo, là lôi thôi đấy!
     Văn đang tắm gần đấy nói gióng lại:
-  Lo gì, lính là phải thế!
     Anh có ý ủng hộ sự thân tình của Hoàng với Mỵ. Thực ra, đồng đội của Hoàng cũng chỉ đoán già, đoán non ... trêu trọc anh cho vui. Họ vừa tắm vừa bàn tán đủ thứ chuyện, sôi nổi khắp mặt suối.
-  Này, tớ nói thật: con gái ở đây là có bùa mê đấy! "ăn" phải bùa mê thì khó mà gỡ?
-  Chậc, lính đất thánh. Cậu quê lắm!
     Dạo đó – lính Hà Nội, anh em đều gọi là "lính đất thánh"! Một chiến sĩ chỉ vào Thuyết, giọng trêu trọc:
-  Cứ nhìn thằng Thuyết đây! Cũng là lính đất thánh: khôi ngô, tráng kiện như thế mà... chiều qua nó leo lên tận lưng chừng núi, giở thư nhà ra đọc rồi khóc thút thít như con nít?
-  Nhớ bu chứ gì?
-  Thế đã phúc. Chắc em yêu ở nhà lại "tút" theo thằng cha nào rồi?
-  Chỉ nói bậy.
     Thuyết lúng búng vặc lại.
-  Bậy à? Cũng may bọn tớ đi tìm mấy bông hoa núi mới gặp, nếu không lại chẳng ngồi đến tối.
-  Hoa khôn trong bản thiếu gì mà đi tìm hoa núi, hả ông bạn?
-  À... bọn tớ thích chơi hoa dại.
-  Nghe đâu ra ngoài tết bọn mình về phép? Mỗi anh được giải quyết bốn ngày.
-  Chắc sắp đi?
-  Ồi, lính biết thế nào mà đoán trước? Đùng một cái, chẳng phép tắc gì... đi thẳng vào trong cũng nên.
-  Mẫn ơi! Cậu còn nợ bọn này một chầu khao đấy nhé!
-  Có tin mừng gì mà khao đấy?
-  Vợ nó viết thư lên đơn vị, báo tin vừa sinh con trai. Thằng cu kháu lắm!
-  Thế có "kháu" như anh dân quân xã không đấy?
-  Cần quái gì. Con người cũng như con ta, con xã hội cả… phải không cậu?
-  Chỉ nói nhảm.
     Tất cả cười ồ. Một anh chiến sĩ trẻ đã tắm xong, vừa đi về vừa ngâm bài thơ "lính mà em" – Cũng không biết tác giả bài thơ đó là ai?
              Em trách anh gửi thư sao chậm trễ?
              Em đợi hoài, sẽ giận cho xem
              Thư anh viết: anh nào đâu muốn thế,
              Hành quân hoài đấy chứ - Lính mà em!
 
              Anh gửi cho em một cành hoa dại
              Để làm quà, không về được em ơi!
              Không đi lễ nửa đêm cùng em nữa
              Thôi đừng buồn em nhé – Lính mà em!
 
              Ngày về phép anh hẹn em dạo phố
              Tay chiến binh đan năm ngón tay mềm
              Em xót xa, đời anh nhiều gian khổ
              Anh mỉm cười rồi nói – Lính mà em!
 
              Qua phố nhỏ anh ghi dòng kỉ niệm
              Trời mưa mưa hai đứa đứng bên thềm
              Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
              Anh quen rồi không lạnh – Lính mà em!
 
              Anh kể chuyện hành quân và gối súng
              Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
              Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
              Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
 
              Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
              Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
              Em xa lánh những ngày vui trên phố
              Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
 
                                                *
 
      Khi Văn rủ Hoàng ra về thì dưới suối cũng vãn người tắm, anh em đã về gần hết. Mấy hôm nay, Văn không khỏi ngạc nhiên vì sự thay đổi của Hoàng? Trong cuộc đời chiến sĩ đã bao kỉ niệm vui buồn có nhau. Nhưng rồi các cuộc hành quân liên tiếp, nhiệm vụ mới lôi cuốn họ vào. Sự thay đổi của Hoàng lần này, có gì đó hơi khác thường? Linh tính trong Văn báo cho anh biết, một cái gì "mới" xẩy ra với bạn mình.
     Hoàng nhớ gia đình chăng? Chắc không phải. Tình cảnh gia đình Hoàng, Văn hiểu lắm! Hoàng từng kể cho Văn nghe. Hay Hoàng nhớ Thu? Đúng thôi! Nhất là xuân đến, nhiều khi Văn cũng thấy lòng mình xốn xang. Hoàng còn có người yêu… chứ Văn, cuộc đời với anh mới mẻ quá! Anh chưa hề ý niệm rõ rệt về tình cảm ấy. Đôi lúc anh cũng vấn vương nghĩ đến một người bạn gái thủa học sinh, những kỉ niệm thời thơ ấu. Nhưng rồi tất cả qua đi. Cuộc sống đời lính sôi động, tất bật, mệt mỏi. Chẳng lẽ vì thế mà bạn anh thay đổi nhiều vậy ư?
-  Hoàng đã nhận được thư của Thu chưa?
     Văn hỏi.
-  Chưa.
     Hoàng trả lời gọn lỏn một tiếng như thế, dường như anh vẫn đang mải mê đuổi theo niềm tâm tư riêng của mình. Anh đã kể cho Văn nghe chuyện tình cảm của anh với Thu, nhưng chuyện mới này... với cô gái bản Mường xinh xắn, thì anh chưa thể kể được? Hay ít nhất là bây giờ anh chưa thể! Nếu biết, Văn sẽ nói gì với anh? Chắc lại chỉ vài câu vấn an bạn: Ồi, nghĩ làm gì nhiều! Lính mà...
    Không! Đây không còn phải là câu chuyện vui vẻ, bông đùa nữa. Nó sẽ trở nên khôi hài, thậm chí là "vô liêm sỉ", nếu anh coi đấy là một trò giải trí? Nhưng anh cần phải làm gì? Cứ mặc thế, ngày tháng sẽ qua đi ư? Thì mấy ngày nay, anh đã chẳng làm thế đấy sao! Anh đã tránh để khỏi gặp Mỵ... rồi anh sẽ đi xa... sẽ vào chiến trường...
     Anh có thể làm như thế, và anh biết rằng: dù không muốn thế thì anh cũng chẳng thể làm gì khác được nữa. Lương tâm anh bị cắn rứt?
     Hay là, nói thật với Mỵ mọi chuyện? Không, không thể được. Không nên làm như thế! Hoàng thấy chính anh chẳng khác gì kẻ phản bội cả hai người con gái?
     Hoàng cất tiếng hỏi bạn:
-  Văn nghĩ như thế nào về một tình yêu đúng đắn? Chẳng hạn, một sự san sẻ ngoài ý thức, có phải là sự phản bội không?
     Trầm ngâm giây lát, Hoàng lại nói như thể tự vấn mình: "Mà cũng không hẳn đã là ngoài ý thức?".
-  Mình chưa có kinh nghiệm trên lĩnh vực ấy!
     Văn nhún vai, ra vẻ muốn nói: "Cậu cũng biết đấy, mình đã có mối tình nào vắt vai đâu cơ chứ?". Nhưng Văn cũng thích tranh luận.
-  Mình nghĩ: Một tình yêu đúng đắn là sự nhất quán trong tư tưởng, lý trí và tình cảm.
-  Nhưng ai dám khẳng định rằng: Khi tôi đã yêu rồi, thì không được phép rung động trước bất cứ một hình ảnh nào? Một tình cảm nào? và chẳng lẽ: ngược nó là phản bội? Là thiếu nhất quán? Con đường của tình yêu còn bão gió hơn cả con đường chúng ta đang đi, Văn nhỉ!
     Hoàng triết lý một hồi.
     "À, thì ra thế! Thì ra sự thay đổi của cậu mấy hôm nay là thế đấy!" – Văn nghĩ vậy, nhưng không nói. Anh vui vẻ như người vừa khám phá ra một bí mật, lại sôi nổi tranh luận:
-  Ờ ờ... thì chuyện tình yêu của người đàn ông với người đàn bà là chuyện của riêng, rối rắm lắm, khó có thể giải thích? Nhưng mình cảm thấy cậu đang tự gây cho mình phiền toái đấy, Hoàng ạ!
     Hoàng lặng lẽ không nói gì. Văn nhìn bạn có vẻ dò xét, buông ra một câu triết lý chẳng ra đâu vào đâu:
-  Tại cậu đa cảm quá, và tính đa cảm có khi trở thành kẻ phản đồ của tình yêu đấy!
     Họ cũng đã về tới chỗ dựng lán trại, nơi đóng quân của đơn vị để đón tết. Một cái tết đầu tiên của đời lính trong khu rừng núi Hòa Bình này.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 18:02:46
 
 
 
 
                                                                                     6-
 
     Mỵ ngồi im lặng hàng giờ bên chiếc cửa sổ bằng trúc, mắt bâng khuâng nhìn ra xa. Bà mế ngồi gần chỗ bếp lửa giữa nhà, bàn tay gầy guộc, run rẩy đẩy những thanh củi vào sâu trong đống than hồng. Ngọn lửa đỏ lưng lức bốc lên, lè lưỡi uốn mình như một chiếc câu liêm. Chốc chốc mế lại quay về phía con gái chép miệng. Nhìn sâu vào ngọn lửa, mế than thở:
-  Anh trai của con đi vào chiến trường không biết tình hình thế nào, vẫn chưa thấy báo tin về?
-  Đơn vị của anh con chắc vẫn còn đang đi trên đường Trường Sơn, nghe nói phải hai, ba tháng mới vào đến miền Nam, mà mế?
     Mỵ trả lời mế nhưng mắt cô vẫn đăm đắm nhìn về phía xa. Bà mế lại chép miệng:
-  Vắng nó, lắm lúc nhà cứ lạnh tanh như âm phủ vậy.
-  Mế! Còn con vẫn đang ở nhà với mế cơ mà.
     Cơn ho của bà mế lại nổi lên cắt ngang câu nói Mỵ. Mế úp bàn tay trái lên ngực mình, bàn tay phải nắm lấy cây cột bằng bương gần bếp, ho rũ rượi. Mỵ vội chạy lại đỡ mế.
-  Con đã bảo mế đừng hút thuốc nữa, mế không nghe!
-  Thiếu cơm cũng không khổ bằng thiếu điếu thuốc.
     Bà mế nói vậy. Mỵ vuốt ngực cho mế. Cái sức người già bị cơn ho giằng xé, lưng mế muốn gẫy gập xuống. Mỵ đỡ mế đứng dậy, đi ra phía ổ ngủ của mẹ con cô. Hồi tối, cô đã trải thêm một chiếc chăn chiên bằng dạ lên trên chiếu, cho mế nằm đỡ đau lưng.
     Mỵ đến bên bếp lửa, ngồi đúng chỗ mế vừa ngồi. Cô tiếp thêm đôi khúc củi vào bếp lửa. Dịu cơn ho, bà mế chắc cũng đã ngủ. Những dòng suy nghĩ lại miên man đến trong đầu Mỵ.
     Mới chỉ ít hôm trước, ý nghĩ về cuộc sống với cô còn thật đơn giản. Nó đơn giản như anh nông dân dắt trâu ra ruộng cầy, hết luống cầy này lại tiếp sang luống khác. Thế mà hôm nay... lòng Mỵ cứ bồn chồn không yên.
     Ở một người con gái như chiếc nụ hoa mới hé nở, khi chưa nếm trải cái ngọt ngào và cả sự đớn đau của tình yêu, tâm hồn còn trong như giọt sương buổi sớm mai. Tuy có lúc do sự nhạy cảm của cuộc sống, họ cũng khao khát một cảm giác mơ hồ, trừu tượng về sự âu yếm, vuốt ve của người con trai. Tình cảm và trái tim còn rất mềm mại, một chiếc gai non lỡ chạm vào cũng làm ứa máu. Nói chung, khi chưa được hít thở niềm sung sướng đến mê dại của yêu đương, thì họ cũng chưa bị co giật bởi một cơn sốt tinh thần nào.
     Chính lúc ấy, bất ngờ Mỵ đã gặp gỡ anh, và cơn sốt tình yêu dồn dập đến trong cô. Có lúc, Mỵ cảm thấy như nghẹt thở vì vui sướng. Tiếng chuông của trái tim người đàn bà đã vang lên trong Mỵ, ngân nga, ngân nga mãi...
     Ôi, buổi sáng với anh ở vườn đào hôm ấy! Mỵ làm sao có thể quên được. Từ thân thể đến tâm hồn người con gái của Mỵ, tựa như một cung đàn bỗng rung lên! Bàn tay anh đã đặt vào cung đàn của em, để hàng ngàn, hàng ngàn những âm thanh trầm bổng bay ra. Nó làm dao động mọi tế bào trong cơ thể, vọng vào rất sâu, rất sâu... len lỏi đến cả nơi thầm kín nhất. Làm cho Mỵ hạnh phúc! Tuy anh chưa chiếm đoạt cái linh thiêng, quí giá nhất của người con gái. Khi ấy Mỵ cũng thấy muốn... nhưng anh đã dừng lại.
     Nghĩ về chuyện đó, bất giác Mỵ thấy thèn thẹn... mặc dù chỉ ngồi một mình, lại tự cười thầm bên bếp lửa.
-  Ghét ghê! Người ta đã cho còn không muốn...
     Cô lẩn thẩn nói với chính mình, tay tiếp tục cời cho bếp lửa đêm đông cháy hồng lên với những dòng tâm tư thao thức.
     Như người ta nói: Người đàn ông nào đã chiếm được trọn vẹn tiếng chuông thứ nhất trong trái tim người đàn bà, có nghĩa là vĩnh cửu! Lần đầu tiên trong đời Mỵ được tận hưởng cái cảm giác khoái lạc, khi cả tấm thân anh trăn trở, dầy vò trên thể xác cô, dù anh chưa đi đến bước tận cùng. Nghĩ lại những giây phút ấy, niềm hoan lạc vẫn còn dấy lên rạo rực khắp người Mỵ.
     Ý nghĩ về thực tại chợt đến làm cho cô hoảng hốt: Chiến tranh! Phải, chiến tranh! Anh sắp ra chiến trường… Liệu cô còn có thể được gặp lại anh nữa không? Mặc dù cô biết mình sẵn sàng chấp nhận, hoàn cảnh nào... Mỵ cũng vui lòng trao tất cả cho anh.
     Một mình ngồi trong đêm vắng bên bếp lửa, cô gái vẫn mơ tưởng đến... cái cảnh trần truồng lăn lộn với người đàn ông ở vườn đào. Nó sẽ trở thành một kỉ niệm theo suốt cuộc đời cô.
     Tiếng con chim nào đó kêu nấc lên ở ngoài bìa rừng. Tự nhiên Mỵ lại thấy hơi run và lạnh... mặc dù ngọn lửa đỏ vẫn cháy bồng lên sưởi nóng cả gian nhà. Mấy hôm nay anh không vào bản, mai đã là 30 tết rồi! Anh đã hứa sẽ vào bản ăn tết với mế và Mỵ, bởi vậy cô nóng ruột chờ? Thời gian như kéo dài lê thê...
     Giọng khàn khàn của bà mế vừa thức giấc, giục con đi ngủ. Mỵ dập củi, chỉ để lại một bếp than hồng, rồi vào chiếc ổ bông nằm xuống bên cạnh mế. Một lúc, tiếng thở của người con gái bản đã đều đều.
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 18:07:37
 
 
 
 
                                                                                                    7-
 
     Đã qua hai ngày tết vẫn không thấy anh đến? Anh đã hứa với cô, thế mà... Mỵ muốn giận dỗi và trách móc, nhưng có gặp anh đâu mầ trách cơ chứ? Bao ý nghĩ suy diễn cứ lẩn quẩn trong đầu óc, rồi cô lại tự thanh minh cho anh: "Chắc là có chuyện gì đột xuất ở đơn vị, nên anh không vào bản được".
     Hôm qua mồng 2 tết, yên trí thế nào anh cũng vào… nên Mỵ đã lùi sẵn mấy ống cơm lam bằng thứ gạo nương thơm nhất bản. Mế lại cho con gà trống béo nhất chuồng, để làm bữa đón anh. Suốt cả ngày chờ? cô đứng... cô ngồi... đến tận chập tối vẫn không thấy bóng dáng anh đâu. Khi đó, mế và cô mới dọn cơm ra ăn. Cô ăn nhả nhớt không thấy ngon miệng, mế thì suốt bữa chẳng nói câu nào.
     Cô cứ tự biện bạch với mình: Chắc hai ngày tết, các anh phải tổ chức vui xuân trong đơn vị, nên không vào bản được. Có lẽ anh cũng sốt ruột lắm? Anh cũng muốn vào với cô đấy, chứ không phải...
     Hôm nay là mồng 3 – Mỵ nghĩ, thế nào anh cũng vào. Cô lại hy vọng và chờ đợi! Thế mà... trưa đã đứng bóng, vẫn không thấy anh đâu? Cô gái bản ra cửa nhìn về phía rừng, ngóng đợi.
     Cô giận dỗi, đi đi... lại lại... dậm chân thình thình lên mặt sàn. Mế mắng:
-  Cha đẻ mày, lớn bằng ấy mà vẫn như con nít.
     Mắng thế, nhưng mế thương cô lắm! Mế còn mong cái anh bộ đội vào đây bữa trước, hơn nó nữa.
     Sự thôi thúc muốn được gặp lại anh, mạnh hơn nỗi e ngại. Cả bữa cơm trưa nay, cô cũng chỉ ăn qua quít. Ăn xong, Mỵ nói với mế: Cô muốn vào dơn vị thăm các anh bộ đội? Mế chỉ chép miệng, rồi bảo:
-  Ừ, con muốn đến chỗ các anh ấy thì cứ đi! Nhưng nhớ cẩn thận. Đừng về muộn quá, mế lo.
     Rửa bát đũa xong và uống vội chén nước. Bà mế chỉ kịp nghe hai tiếng: "Con đi"… bóng con gái mế đã ra đến ngoài đường bản. Nắng ngập trên con đường đất đỏ. Những cánh hoa mận trắng rơi phủ khắp đường, bay lên đuổi theo bước chân của Mỵ. Cô băng qua một nương rẫy lớn, những cánh cò bay nhanh về phía rừng. Núi đã ở trước mặt.
     Từ xa, Mỵ nhìn thấy thấp thoáng những chiếc lán tre mới dựng. Đó chính là nơi các anh bộ đội trú quân để ăn tết. Lúc này Mỵ thấy hồi hộp quá, trống ngực đập thình thình. Dừng lại giây lát để trấn tĩnh, cô mạnh dạn đi về phía dẫy lán đầu tiên, hỏi thăm đường đến chỗ của anh.
 
                                                    *
 
     Vào những ngày đầu xuân Mậu Thân năm 1968 ấy, tin thắng lớn trên chiến trường miền Nam dồn dập bay ra miền Bắc. Nhà quân sự đứng bên tấm bản đồ theo dõi tình hình chiến sự từ các nơi báo về. Vừa nhận được tin giải phóng thành phố này, chưa kịp đánh dấu bằng những đường chỉ đỏ - Thì ở thành phố khác hoặc một đô thị nào đấy tại miền Nam, lại nhận được tin đã giải phóng.
     Trên khắp miền Bắc mọi người dân đều nín thở, đứng bên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, nghe tin chiến thắng.
     Những sư đoàn, trung đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đều báo động, sẵn sàng cấp tốc lên đường vào chiến trường. Các chiến sĩ cũng nôn nóng muốn ra ngay mặt trận.
     Toàn Trung đoàn 209, gọi là "Trung đoàn mũ sắt" thuộc Sư 312, được mệnh danh là "Quả đấm thép của Bộ” đang đóng quân tại rừng núi Hòa Bình – Các đơn vị đều nhận được chỉ thị tổ chức cho anh em đón tết tại chỗ. Bộ đội không được đi đâu xa, đợi lệnh chuẩn bị hành quân tiến vào miền Nam.
     Đơn vị của Hoàng thuộc Đại đội 5 – Một đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209... nằm trong tình huống báo động ấy! Chính đó là lý do: các anh không thể vào bản ăn tết cùng bà con được.
     Khi Mỵ hỏi thăm vào đến đơn vị gặp anh, mới biết sự tình như thế! Mọi ý nghĩ oán thán của cô với anh tiêu tan hết. Cô lại tự giận mình vì đã vội vã trách anh.
     Mấy chiến sĩ cùng trong Tiểu đội súng máy đại liên với Hoàng, đã mang kẹo mứt... cả bánh trưng bộ đội tự gói ra đón mừng cô. Mỵ vui lắm, cười nói với các anh bộ đội không thấy chán. Mãi tới gần chiều, hai người mới tách riêng ra được, dẫn nhau lên núi ngồi nói chuyện. Họ ngồi bên nhau, trên một thân cây gỗ lớn đã bị đổ nằm giữa rừng.
-  Tết này bọn anh có lệnh cấm trại!
     Hoàng nói lại lần nữa.
-  Em biết rồi!
     Cô nhìn anh tủm tỉm cười. Cả hai đều thấy lòng nhẹ nhõm, khi mọi nỗi niềm riêng đều trở nên nhỏ nhoi, trước tình hình chiến sự đang diễn ra nóng bỏng.
     "Dù sao thì cũng không thể khác thế..." – Anh nghĩ vậy, với anh hay với cô... sẽ còn lại một kỉ niệm. Số phận của những riêng tư trong giờ phút này thật mỏng manh. Chiến tranh ào qua nó, không mặc cảm.
     Nghĩ thế, nhưng không biết vì sao sự gặp gỡ với Mỵ, vẫn làm cho Hoàng lúng túng. Anh không ngờ cô lại đến tìm anh?
-  Anh Hoàng đang nghĩ gì thế?
     Mỵ ngả đầu áp sát vào ngực Hoàng, ngước mắt nhìn anh hỏi. Bỗng nhiên Hoàng bật cười.
-  Anh Hoàng cười gì?
-  Đêm qua anh nằm mơ.
-  Anh mơ thấy gì?
-  Anh mơ thấy là... trưa nay anh gặp em!
-  Chỉ bịa, ghét anh ghê!
     Mỵ nũng nịu với người yêu. Cô quên hết sự trách móc, lòng đang trào lên một niềm vui khó tả. Lấy tay nhặt một cộng tre nhỏ, khô rơi trên đất... bẻ tanh tách, ném nó ra xa. Chợt nghĩ tới điều sắp phải xa anh, lòng cô lại bồn chồn.
-  Bao giờ thì anh phải đi?
     Mỵ hỏi.
-  Chắc cũng sắp.
     Hoàng trả lời vậy, nhưng bản thân anh cũng không hề biết rằng: chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, anh đã phải lên đường. Chữ "sắp" của thì tương lai mà anh đã nói, sẽ trở thành thì "hiện tại".
-  Em cũng nghĩ là anh sắp đi.
     Giọng Mỵ trầm hẳn xuống, nghe rất nhỏ, có gì đang ứ nghẹn trong cổ cô. Bỗng tiếng kêu choe chóe của một con sóc màu hạt dẻ, phá tan sự yên lặng. Nó có chiếc đuôi xồm như cái phất trần, đang nhảy trên những cành cây trước mặt. Thoắt một cái, con sóc đã biến mất vào trong núi.
-  Đàn ông các anh thật tệ! Ghét anh ghê?    
     Mỵ ôm ghì lấy anh.
-  Có phải tại anh đâu? Lệnh đấy chứ!
-  Em không biết.
     Khi chưa gặp anh, cô những muốn nói với anh thật nhiều. Thế mà, giờ cô lại chẳng biết nói gì. Bao nhiêu ý nghĩ miên man trong trí não Mỵ? Khi em biết rằng, em đã yêu anh! Thế là, những ngày tháng vô tư của em không còn nữa. Mới có ít ngày thôi anh nhỉ, vậy mà em cứ nghĩ như đã yêu anh từ lâu lắm! Ở bên anh, em thấy mình hạnh phúc. Em sung sướng.
-  Liệu rồi, em có còn được gặp lại anh nữa không?
     Cô cảm thấy hơi hoảng hốt. Hoàng không nói gì, chỉ ôm chặt cô vào lòng. Những giọt nước mắt không ngăn được trào xuống má cô. Nghĩ đến lúc phải xa anh, Mỵ tưởng chừng như không thể nào chịu nổi? Mặc dù cô cũng biết: yếu đuối lúc này, khi đất nước đang cần mình – Là không đúng! Nhưng chắc anh sẽ chẳng giận em đâu, phải không anh? Người con gái nào mà chẳng thế! Những lúc ấy, cô chỉ muốn gục vào anh mà khóc. Khóc được, cô thấy mình nhẹ hơn.
     Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng, tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi! Lúc này, chúng mình không nghĩ về chuyện gì khác nữa. Chỉ nghĩ đến, em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
     Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, sẽ cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
     Còn Hoàng, anh như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam.
     "Anh là của em!..." – Tiếng của cô gái đang yêu, thầm thì ở bên anh.
     Hãy lấy ánh mắt của người con gái đang say đắm, trong biển cả tình yêu, thì mới thấy nó sâu xa, thăm thẳm đến nhường nào.
     Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh đã muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào! Anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ...
     Những tiếng lá khô gặp cơn gió thổi đến, bay xào xạc dưới chân. Nhìn vào rừng cây mà Hoàng thấy mình cứ như đang nhìn đến một khoảng hư không nào đó.
-  Anh Hoàng đang nghĩ gì vậy?
     Mỵ vẫn áp đầu vào ngực anh và hỏi. Đôi mắt cô trìu mến nhìn anh như muốn nói: "Anh đã thấy rồi đấy! Cả tâm hồn, trái tim tình yêu, rồi sẽ cả cuộc đời em nữa... đã chẳng thuộc về anh đó ư?".
     Hoàng ngập ngừng:
-  Mỵ, anh đã yêu...
     Có cái gì đang thôi thúc trong anh phải nói ra, rằng... anh đã yêu một người con gái khác! Nhưng Mỵ lại cắt ngang ý nghĩ đó của anh.
-  Em biết rồi! Thì em cũng rất yêu anh mà...
-  Không phải thế. Ý anh muốn nói: chúng ta không thể kéo dài quan hệ với nhau hơn được nữa. Bởi vì...
     Mỵ lại lấy tay bịt miệng, không để anh nói tiếp.
-  Anh lại muốn nói là: vì đất nước có chiến tranh, anh phải đi ra chiến trường, chứ gì?
     Giọng cô trở nên sôi nổi và kiên quyết:
-  Anh đừng bao giờ có ý nghĩ ấy nữa nhé? Nếu không là em sẽ giận đấy! Em sẽ chờ anh trở về, dù năm – mười năm, hay hai mươi năm, em cũng chờ.
     Bóng nắng của rừng chiều nghiêng ngả. Cánh rừng có vẻ hơi chao đảo, nhưng rồi êm đềm trở lại. Mỵ thấy giờ đây tất cả với cô thật nhẹ nhõm,  không nghĩ gì nữa, chỉ biết là cô đang ở bên anh. Cô kéo vòng tay anh ôm chặt lấy mình.
     Hoàng không còn tỉnh táo nữa. Những cảm xúc mạnh mẽ dâng trào trong anh. Rừng và núi che lấy họ. Cô kéo anh cùng nằm xuống thảm lá. Đôi mắt đáng yêu kia đang nhìn anh tha thiết đến chừng nào!
     Hoàng đã bị khuất phục hoàn toàn.
     Anh hôn lên môi, lên vú... và bàn tay người lính trẻ luồn qua lớp vải mỏng... xoa lên cả cái chỗ thiêng liêng, kín đáo nhất của cô.
     Mỵ bỗng vùng nhỏm dậy, tưởng cô từ chối không đồng ý với anh? Nhưng không phải vậy. Đôi bàn tay xinh xẻo của người con gái Mường tháo cởi dải thắt lưng bằng vải mềm vẫn quấn quanh cạp chiếc váy hoa, trút bỏ hết bộ đồ đang mặc ra khỏi người... để mở ra cả tấm thân trắng nõn nà. Một đấng thiên thai của tạo hóa đang lồ lộ trước mặt anh.
     Hoàng ngập ngừng:
-  Mỵ! Nhưng anh phải đi mà. Anh sợ em có thai?
-  Nếu có thai, em sẽ sinh con cho anh. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về!
-  Nhưng nếu em bụng mang, dạ chửa... bà con dân bản sẽ cười nhạo, chửi mắng em? Phải sống thế thì khốn khổ lắm, em ạ!
    Cô kể: mấy năm trước, bản em có một chị có thai với một anh bộ đội cũng về đây đóng quân, rồi anh ấy ra tiền tuyến. Dân bản không những không mắng mỏ, khi chị ấy sinh con… bà con còn cưu mang để chị nuôi con nữa. Giờ cháu gái, con của chị đã được một tuổi. Cháu rất xinh và đáng yêu lắm!
     Người ta thường bảo: Con gái dân tộc đã yêu thì như giông bão, yêu điên dại, yêu không tiếc mình. Như con hươu, con nai núi băng qua nương, qua rừng tìm đến bạn tình!
     Cô kéo anh ghì sát vào mình… Chẳng thể nào cưỡng lại được nữa. Giây lát, một cảm giác tê dại lan truyền ra cả hai thân thể đang quấn xiết vào nhau. Cô uốn cong thân mình khẽ rên lên vì sung sướng, hạnh phúc dâng lên đến tột đỉnh! Lần đầu tiên cô đã được hưởng mùi vị của cuộc đời, với người con trai mà cô rất mực yêu thương.
     Hoàng cứ nằm phủ phục mãi trên tấm thân truồng của người con gái bản, cũng không biết là bao lâu nữa. Nhúm lông tơ mềm mại của cô vẫn đang cọ xát vào của anh kia -  Ở nơi ấy vừa xẩy ra một vụ "động đất". Người con gái vẫn đang thấy râm ran khắp trong mình...
     Bóng chiều cũng đã tàn. Lúc này, Mỵ mới dịu dàng nói:
-  Đừng bao giờ quên em, nghe anh! Khi vào đến chiến trường, nhớ viết thư về cho em. 
      Hoàng chợt nhớ lại chuyện cũ - Cả hai người con gái, hai miền quê và dân tộc khác nhau, đều đã cho anh cái cảm xúc say mê, ngây ngất của cuộc đời.
     Cái cảm giác khi với Thu thế nào nhỉ? còn đang nằm trên bụng người con gái bản, anh tự hỏi trong mình: Người con gái Hà Nội, nàng cũng đã yêu anh tha thiết. Với nàng - anh thấy rạo rực, đê mê khi lăn lộn trên tấm thân trần, tuyệt bích.
     Còn với người con gái Mường? Ôi, hương vị bông hoa dại núi rừng, em cũng ngọt ngào hương say của một đóa thiên thai. Cả hai lần đều cho anh một cảm giác không thể nào quên được.
     Lúc Mỵ khẽ đẩy Hoàng ra, hai chân anh vẫn còn quặp chặt lấy đùi cô. Như người tỉnh giấc mộng, anh bật dậy và nói:
-  Ta về thôi em! Anh sẽ đưa em ra tới bìa rừng, rồi phải quay lại. Đơn vị không cho phép anh đi xa quá!
    Cô mặc lại áo váy, rồi cùng anh trở về. Nhìn theo bóng Mỵ đã khuất qua nương để vào bản, Hoàng mới quay lại đi về phía lán của đơn vị.
     "Thế là mình vẫn chưa nói được với Mỵ điều đó..." – Anh tự nhủ với mình: Rồi chiến tranh sẽ cuốn đi tất cả…
     Lúc này, bài thơ "Lính mà em" mà người chiến sĩ đã đọc bên bờ suối bữa trước, lại văng vẳng bên tai anh:
               .......
               Anh kể chuyện hành quân và gối súng
               Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
               Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
               Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
 
               Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
               Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
               Em xa lánh những ngày vui trên phố
               Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 05.08.2023 18:11:59
 
 
 
 
                                                      CHƯ TAN KRA
                                                 TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
 
                                                                                      8-
 
     Sau thời gian diễn tập, chiều tối mồng 5 tết Mậu Thân 1968, đúng vào ngày chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua Quang Trung – E209 thuộc Sư 312 gồm các Tiểu đoàn 7-8-9, được lệnh hành quân cấp tốc vào Tây Nguyên.
     Trung sĩ Hoàng, tiểu đội trưởng ở Trung đội súng đại liên thuộc C5 – “xê” hỏa lực trợ chiến của Tiểu đoàn 7. Đại đội 5 gồm ba trung đội: Trung đội đại liên, Trung đội cối 82mm và Trung đội súng B-41. Giờ đây trong đội hình trung đoàn, họ đang tiến vào chiến trường miền Nam nóng bỏng.
     E209 là trung đoàn bộ binh chủ lực đầu tiên chuyển quân bằng xe ô tô Giải Phóng, được cấp toàn mũ sắt, nên còn gọi "Trung đoàn mũ sắt". Họ dã dược huấn luyện kỹ suốt một năm để đánh công kiên, đánh tập kích và chống đổ bộ đường không. Được trang bị súng B-41, súng phun lửa Liên Xô, lựu đạn chống tăng, đại liên K63, trung liên RBD, mặt nạ phòng độc, súng AK báng gấp, giầy bộ binh cao cổ... là những trang bị và vũ khí bộ binh tốt nhất thời đó.
      Tất cả đều nhập ngũ cùng ngày 27.3.1967, tuyển chọn toàn thanh niên sức khỏe loại A1, A2 – riêng Tiểu đoàn 7, phần đông là anh em người Hà Nội. Người chỉ huy nào nhìn thấy một đội quân toàn lính "đẹp" thế, đều phải trầm trồ ước ao…
      Nói về hỏa lực B-41, kẻ địch gọi là rốc két B-41 dùng để bắn tăng, bắn lô cốt… tầm bắn 500 – 600m trên mặt đất, nóng tới 4.000 - 4.500 độ. Mỗi lần bắn chỉ nghe thấy một tiếng "đoành" nổ ở đầu nòng, chưa kịp nhìn... bùng một phát là: trúng rồi! “các con giời”… trong Sư đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ và lính QLVNCH, cứ nghe thấy tiếng B-41 thì biết ngay đã chạm trán với quân chủ lực Bắc Kỳ. Mỗi lần bóp cò xong lại lộ vị trí, pháo Mỹ dập tới như mưa. QGP nhiều khi phải đặt súng lên một cái chạc, buộc dây vào cò giật nổ xong vội chui ngay vào hầm. Vãn tiếng pháo địch bắn tới, mới chui lên làm phát nữa.
     Trung đoàn 209 được thành lập ngày 2.9.1949, trong kháng chiến chống Pháp tại Phú Thọ. Từng tham gia 55 ngày đêm tiến công cứ điểm Điên Biên Phủ. Một trung đoàn chủ lực tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam.
     Tây Nguyên có một vị trí chiến lược quan trọng trên chiến trường miền Nam – Do vậy, Mỹ và Chính phủ VNCH đã thiết lập một bộ máy kìm kẹp hết sức khắc nghiệt ở nơi đây: dồn dân vào các ấp chiến lược, tìm mọi cách chia cắt dân với cách mạng.
     Về phía Chính phủ cộng sản Bắc Việt, để tăng cường hơn nữa cho sức mạnh của QGP trên chiến trường Tây Nguyên – Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 bùng nổ, E209 cùng các đơn vị trực thuộc đã được lệnh cấp tốc lên đường… vào chiến trường Tây Nguyên chiến đấu.
     Trung đoàn xuất quân từ vùng rừng núi Hòa Bình, với quân số trên 2.100 người và được 150 xe Giải Phóng vận chuyển. Chặng đường hành quân kéo dài 25 ngày. Khởi hành mồng 5 tết Mậu Thân, tức 6.2.1968 dương lịch. Khi lên xe tiến vào miền Nam, trung đoàn chia làm ba nhóm:
-  Nhóm thứ nhất là Tiểu đoàn 7.
-  Nhóm thứ hai Tiểu đoàn 8.
-  Nhóm thứ ba gồm Tiểu đoàn 9 và các đại đội trực thuộc trung đoàn.
     Mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, như D7 có C1,2,3,5 – D8 có C6,7,8,10 – D9 có C11,12,13,15. Trong đó các C5,10,15 là những đại đội hỏa lực trợ chiến của tiểu đoàn.
     Những đại đội trực thuộc trung đoàn gồm: C16 DKZ, C17 cối 82mm, C18 thông tin, C19 công binh, C20 quân y, C21 súng máy phòng không 12,7mm, C22 đặc công – súng phun lửa, C23 vận tải, C24 hậu cần, C25 vệ binh.
     Tốc độ di chuyển của xe khoảng 10-20 km/h. Xe chạy ban đêm, xuất phát lúc 16h 3o chiều tối đến 5h sáng thì dừng. Khi bộ đội nghỉ, đưa xe vào cất dấu cách xa tuyến đường chừng 300m, mỗi xe cách nhau khoảng 100-200m.
     Lịch trình của Tiểu đoàn 7:
-  7.2.1968 đến Thanh Hóa
-  8/2 đến Hà Tĩnh, nghỉ 1 ngày và đổi xe.
-  10/2 đến Quảng Bình.
-  11/2 nghỉ 1 ngày và đổi xe để đi sang Lào.
-  12/2 đến Lào.
-  13/2 nghỉ 1 ngày và đổi xe.
-  14/2 đến 28/2 đi trên đất Lào.
     Đến Lào Tiểu đoàn 8 bị địch phát hiện. Máy bay Mỹ đánh, 1 xe bị lật và 10 chiến sĩ bỏ mạng, nhiều xe khác bị hỏng - Từ đây D8 phải hành quân bộ.
     Nói về đoàn xe chở D7 và D9 khi vào đến đất Tây Nguyên thì đường rất xấu. Xe đi qua nhiều đoạn trầy trật, trồi sụt, có những lúc bị nghiêng tưởng như sắp lật. Tuy nhiên, những chiếc xe Giải Phóng này cũng đã bền bỉ đưa cả đoàn quân mũ sắt đi tới tận điểm cùng của con đường mòn, nơi phương tiện cơ giới còn có thể đi được.
     Qua sông Sa Thầy thuộc địa phận Kon Tum rồi, cả hai tiểu đoàn 7 và 9 của E209 cũng đành phải xuống xe để hành quân bộ. Đại đội trinh sát đi đầu, dốc ngược... từng người nối nhau, níu dây song nhích từng mét "thượng sơn". Chân mỏi, miệng khô, phía trước núi cao ngất trời, rừng xanh, dây leo, cây đổ. Có chiến sĩ bảo: đọc truyện "Rừng thẳm tuyết dầy" của Tàu, hình dung rừng ghê gớm lắm! Bây giờ mới thấy, thế nào là núi cao dốc đứng? Người sau đội đít người đi trước, sảy chân là nhào xuống vực. Hiểm trở hơn truyện nhiều. Chốn rừng thiêng nước độc, vẫn như những trang  sách cũ, đầy gai góc và nắng lửa. Muỗi to như con ruồi, chỉ cần đứng yên ít phút là chúng bu tới cùng với kiến rừng. Có cả kiến bọ nhọt, loài mà một phát cắn của nó có thể đứt thịt một con ruồi.
     Sau một đêm mắc võng ngủ rừng Trường Sơn, các chiến sĩ trở dậy đi ăn rồi hành quân tiếp. Chúng tôi đi theo những con đường giao liên đã thành đường mòn nhẵn, leo lên những đỉnh núi, có khi luồn qua cả nương rẫy của dân bản và những vạt rừng già. Gặp không ít điều lạ: Bên các hố bom và những chiếc hầm đã bị sập nắp vì lâu ngày, gặp cả đàn bướm vàng, đỏ… bay đến đẹp hoa cả mắt. Luôn có những tiếng chim kêu lốc cốc bên rừng phía trước như dẫn lối, nhưng đến nơi thì chim lại bay mất.
     Sao mà lắm núi, nhiều rừng thế? nhưng rồi núi cũng thua con người. Cao nguyên Kon Tum cũng chỉ cao đến thế là cùng. Lên cao thoáng gió, nhưng rừng vẫn che tầm mắt. Tiếng máy bay ì ầm... càng đi lại thấy địch càng gần.
     Sau 25 ngày – 14h ngày 1.3.1968, D7 và D9 đã có mặt tại căn cứ của Bộ tư lệnh B3. Trừ Tiểu đoàn 8, lúc này vẫn đang phải hành quân bộ trên đất Lào, bị chậm hơn một số ngày so với kế hoạch. Đấy cũng chính là lý do, trong trận đánh đầu tiên của E209 trên chiến trường Tây Nguyên, nhưng D8 đã không có mặt.
     Vừa đặt chân đến Kon Tum, E209 đã được Bộ tư lệnh B3 giao ngay nhiệm vụ đánh Kleng, hay còn gọi là căn cứ Lệ Khánh - Là một trại huấn luyện biệt kích, thám báo của Mỹ và VNCH, có mật danh M1 thuộc huyện Sa Thầy, ở phía tây – tây bắc Kon Tum.
     Căn cứ và sân bay Kleng ở trên một bình độ khá cao. Trung đội trinh sát trung đoàn cùng trinh sát hai tiểu đoàn D7-D9 được lệnh lập tức lên đường điều nghiên cứ điểm.
     Họ chuẩn bị ba ngày cơm nắm, cá khô, hai ngày gạo rang trộn đường và muối để đi trinh sát. Lại dốc đứng, rừng già, nắng chang chang. May mà gặp cơn mưa bất chợt chạy ngang khe núi, ướt nhưng mát rượi. Nhìn thấy mục tiêu đã hiện ra trong tầm mắt, vậy mà phải đi bốn tiếng sau mới vào được gần. Anh em nghỉ chờ đêm xuống.
     Căn cứ Kleng ba bề dốc đứng, phía sân bay phẳng hơn. Đêm thứ hai vào sát hàng rào, lợi dụng pháo sáng của địch thả suốt đêm, vẽ sơ sài các hỏa điểm, nhà lính… Lại một đêm nữa, mất nhiều thời gian chờ lính thay gác. Chờ mãi không thấy chúng thay? Hóa ra, bọn lính đó là hình nộm. Mỹ cũng “ranh” thế! Trinh sát phát hiện các hỏa điểm, kho tàng, dãy nhà chỉ huy… vẽ chi tiết hơn rồi rút ra an toàn.
     Ít ngày sau, trinh sát lại đưa đoàn cán bộ trở lại Kleng nắm địch. Trung đoàn trưởng E209 Trần Huy Toàn - người cao to như Tây, cùng các cán bộ sư đoàn thuộc Bộ tư lệnh, cán bộ hai Tiểu đoàn 7-9 vào sát căn cứ để nhìn tận mắt.
     Đêm thứ ba… đoàn trinh sát vào thì bị lộ, có lẽ do đêm trước để lại nhiều dấu lạ. Ai đó sơ ý đã làm rơi vật dụng gì chăng? Lính trong trại biệt kích hò hét: “Đ.mả mấy thằng Bắc Kỳ”… rồi bắn cối 81 ra các hướng như mưa, pháo kích, cho B52 ném bom rải thảm vào những chỗ nghi quân chủ lực ém quân,  máy bay chiến thuật Mỹ thay nhau quần lộn, xới tung cả một vùng sơn địa. Tưởng như hỏa lực đó có khả năng làm nát một sư đoàn.
     Sau này trinh sát kể lại, chính đồng chí Toàn đã đánh rơi gần căn cứ một cây bút Trường Sơn và bao thuốc lá Điện Biên. Chắc địch tuần tra phát hiện ra!... Hệ lụy từ bao thuốc lá và cây bút cũng không nhỏ? Nó chứng tỏ cho địch thấy, rằng: Bộ đội chính qui miền Bắc đã có mặt tại đây.
     May mà chuyến đó, anh em trinh sát đưa đoàn cấp trên rút nhanh, nếu không thì sẽ tổn thất nặng. Những ngày sau, chúng bung ra xung quanh Kleng 4 cao điểm mới để ngăn chặn.
     Ngay 10h sáng hôm ấy, chúng thả 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ chuyên đánh rừng và 1 đại đội pháo 105mm xuống lập căn cứ FSB 14 – Chính là cứ điểm Chư Tan Kra hay còn gọi là cao điểm 995.
     Chúng thả chất độc hóa học trên các đỉnh núi xung quanh, còn cứ điểm chính thì ném bom phát quang trước rồi dào công sự, ném bom cháy để không bị rừng cây rậm rịt hạn chế tầm nhìn. Trực thăng bay rè rè suốt ngày. Các máy bay trinh sát OV10, AL19 lấm chấm như ruồi từ đường chân trời lượn tới, nhào lộn tìm Việt Cộng. Trên các cao điểm, có pháo binh chi viện cho nhau, ứng phó khi Kleng bị vây hãm. Đó là các cao điểm Chư Tan Kra, Chư Pen, Chư Đô… QGP gọi là dãy Chư Tan Kra – mật danh M2.
     Dãy cao điểm phòng ngự này án ngữ Đường 14 vào Thị xã Kon Tum, cách đó hơn 30km về phía đông.
     Đêm cao nguyên bí ẩn và hoang dã, càng bí ẩn và hoang dã hơn khi nhìn về phía Kon Tum: ánh đèn vàng vọt chập chờn, cùng hỏa châu chốc chốc lại phọt lên sáng trắng. Những tàn lửa của pháo sáng bay lên như tua rua. Đêm cao nguyên giấu trong im lặng nhiều bí ẩn…
     Quân Mỹ giàu, hậu cần mạnh – Để lập cứ điểm, chúng lập tức cho ném bom đốt cháy “làm sạch” các núi bên cạnh. Tại M2, trực thăng cần cẩu bay CH47 Chi-núc cẩu máy ủi xuống đỉnh cao, công binh Hoa Kỳ san phẳng lấy mặt bằng, sau đó dùng máy cưa gỗ, cẩu pháo đến lập trận địa, cả lô cốt di động đúc sẵn, chở dây kẽm gai, bao cát, nhà bạt và quân cụ tới. Mọi sinh hoạt của chúng đều do trực thăng mang lại: từ đạn dược, đồ ăn, cả tắm giặt và thay đổi quân số… Chỉ trong hai ngày cứ điểm đã xong.
     Hàng trăm lượt trực thăng đổ các đại đội Mỹ xuống đỉnh 995, ngay trên đầu đội hình của Tiểu đoàn 7 – E209. Quân Mỹ nhanh chóng củng cố trận địa, rồi thúc quân sang các đỉnh xung quanh thảm sát. Quân chủ lực Bắc Kỳ phải né xuống các vạt rừng.
     Từ ngày 20 đến 22.3.1968, hai bên đụng nhau vài lần, đã có thương vong nhỏ.
     Từ bên này núi, C5 – Đại đội hỏa lực D7 nhìn sang cao điểm 995 rất rõ. Anh em còn nghe thấy cả tiếng xì xồ của công binh Mỹ. Chót vót trên đỉnh núi lố nhố quân da trắng lẫn da đen, nhà bạt giăng thành dãy bên các ụ súng. Chúng dùng bao cát chồng lên rất dày. Buổi chiều, trực thăng mang nước tới. Cả một tiểu đoàn Mỹ trần như nhộng, tắm dưới nước thả từ trên không xuống rất ngạo mạn - Đó chính là lính Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ.
     Tình hình chiến sự phải thay đổi. E209 buộc phải chuyển từ kế hoạch đánh Kleng sang đánh Chư Tan Kra trước – Vào một ngày trời mưa, Trung đoàn trưởng Trần Huy Toàn giao nhiệm vụ cho đội trinh sát đi điều nghiên Chư Tan Kra. 5 trinh sát, 7 ngày ăn, mũ sắt chỉnh lại quai da... tiếp tục vượt dốc, cắt rừng tới căn cứ. Càng đến gần, mũ sắt chạm cây rừng kêu leng keng dễ lộ, đành bỏ lại.
     M2 ở trên cao, cây chắn tầm nhìn, tìm mãi mới được một khoảng trống hiếm hoi. Anh em trinh sát leo lên cây, bò ra cành bên ngoài, ngửa người bắc ống nhòm quan sát. Chiều, nghỉ lấy sức, đêm bò vào gần. Nhưng ác thay, không bò lên được... vì đất đá xe ủi của Mỹ ủi tràn ra, vướng trên các cành cây rất nhiều. Bám cây leo lên, đất xối xuống ào ào, đá lăn văng cả vào người. Chịu! Tìm cách sang hướng khác để vào dễ hơn. Trinh sát trát đất đỏ lên người, lẫn vào màu đất. Nghe rõ tiếng địch ho, thấy địch ném những lon bơ loảng xoảng. Nhiều giờ công phu quan sát, ước lượng: thấy rõ hai bệ súng đại liên, pháo, kho đạn... tất cả thu vào trong bản vẽ.
     Chư Tan Kra là dãy núi hình vòng cung, có tới 7 đỉnh núi lớn ôm một phần thung lũng Kleng. Cách Kleng khoảng 10km. Nghĩa về chữ Chư Tan Kra? Người dân tộc họ giải thích bằng tiếng Gia Lai, nghĩa là "núi chính nghĩa".
     Trong 7 đỉnh, đỉnh chính giữa cao nhất. Từ trên sườn phía đông Chư Tan Kra có thể quan sát được sân bay và Chi khu quân sự Kleng ở dưới.
     Đồng chí trung đội phó trinh sát E209 nổi tiếng gan dạ, anh bò vào tận nơi địch bỏ túi rác, có cả thịt hộp, sữa, bánh... gùi ra cho anh em. Nhưng các anh không dám ở lại, phải rút thật xa mới "liên hoan". Bữa ăn trong những ngày gian nan sao quên được! Hai người được phân công nán ở lại, tiếp tục nắm qui luật hoạt động của địch, sẽ rút về sau. Nhưng không ngờ sau đó địch tăng cường thêm quân, lại có cả sông sự bê tông đúc sẵn cẩu đến…
     Trung đoàn trưởng E209 phân tích: Hiện Chư Tan Kra công sự còn sơ sài, hàng rào thép gai chưa đủ sâu, địch mới đặt chân tới – nên ta phải tiến công nhanh. Càng đánh sớm càng bớt xương máu.
     Như thế là trên Cao điểm Chư Tan Kra hay còn gọi căn cứ FSB 14, theo trinh sát trung đoàn xác định bằng đếm số lần chuyến trực thăng đổ quân, là: Một tiểu đoàn tăng cường - Gồm 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội pháo 105mm, lực lượng trinh sát, công binh tương đương 1 đại đội nữa và Chỉ huy sở tiểu đoàn.
     Trong thực tế, ta không biết: Mỹ còn hai đại đội đánh bộ thường xuyên tuần tra trong rừng, đêm ngủ quanh căn cứ. Chúng luồn rừng lên từ Kleng. Để trợ chiến cho Chư Tan Kra, luôn luôn có 4 đại đội pháo ở sân bay Kleng và các vùng lân cận, với các cỡ nòng 203, 175, 155, 105mm cùng không quân.
     Phải đánh Chư Tan Kra – M2, còn vì nó chặn đường thông thương từ Kon Tum về vùng ngã ba biên giới. Hơn nữa, địch lại đổ quân vào giữa vùng tập kết của E209 – Căn cứ FSB 14 Mỹ chỉ cách Tiểu đoàn 7 có 900 mét về phía nam.
     Hàng ngày, đứng ở vị trí đóng quân của Đại đội 5, qua kẽ rừng – Hoàng và anh em trong trung đội đại liên vẫn trèo lên cây cao nhìn thấy rõ trực thăng của địch lên xuống, quân Mỹ đào hầm, căng rào thép gai, cưa cây, hò hét...
     Tiểu đoàn trưởng Trương Ân và chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, xung phong để D7 đánh mũi chủ công, từ hướng tây và tây bắc. Cả hai ông đều là người Nam Bộ.
     Trên cho phép ba đại đội của D7 mật tập, đánh công kiên vào Chư Tan Kra. Gọi là ba đại đội, nhưng Đại đội 3 chỉ còn có Trung đội 9 tham gia. Hai trung đội khác đã bị thương vong hết trong những trận đánh nhỏ trước đó.
     Tuy nhiên, còn có sự tham gia của một đại đội Tiểu đoàn 9 đi phối thuộc, đánh từ hướng thứ yếu – Hướng nam, với một trung đội đặc công của trung đoàn, luồn sâu từ hướng bắc đánh vào chỉ huy sở của căn cứ địch.
     Nguyên tắc của đánh công kiên – tức là tấn công một trận địa kiên cố: Lực lượng đánh phải lớn hơn từ ba đến năm lần, thậm chí lấy mười đánh một. Thế mà Tiểu đoàn 7, lính mũ sắt Hà Nội dám xin đi đánh một tiểu đoàn Mỹ trong lô cốt, chiến hào, công sự... Dám chơi như thế! Sau này chính Mỹ cũng không ngờ vừa mới qua đợt Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân, còn bị quân chủ lực đánh một trận vỗ mặt như vậy.
     Tiểu đoàn trưởng Trương Ân nghiên cứu rất kỹ sa bàn do trinh sát đắp, hỏi tỉ mỉ trinh sát từng hướng vào, bệ súng. Lính của ông phần đông là Hà Nội được lựa chọn. Ông tin ở họ từ những ngày huấn luyện mang vác đường dài, anh em giữ kỷ luật nghiêm, hành quân lên xuống xe... và cả những khi phải "thượng sơn" leo ngược dốc đến đây.
     Chư Tan Kra là một căn cứ hình chữ T trên sườn núi dốc, mỗi chiều 500-600m. Quân Mỹ bố trí ba đại đội bộ binh ở ba góc, để có thể dễ dàng chi viện cho nhau. Ở giữa bố trí trận địa pháo 105mm và chỉ huy sở. Được bảo vệ bằng lớp phòng ngự thứ hai là lính trinh sát, công binh, thông tin. Địch mới kịp ba lớp hàng rào, bù lại chúng giăng nhiều lớp mìn định hướng claymo, trang bị kính nhìn đêm và thiết bị thu tiếng động. Ngoài ra, như trên đã nói: Quân Bắc Việt vẫn không hề hay biết, còn hai đại đội Mỹ lưu động... ngày tuần tra, đêm ẩn kín trong rừng.
     So sánh lực lượng Mỹ không chỉ hơn QGP một chút về quân số, mà còn thế lợi hơn hẳn vì căn cứ ở trên cao, lô cốt bê tông, công sự vững chắc. Pháo trong căn cứ, pháo bầy từ Kleng và các cứ điểm khác bắn đến yểm trợ. Đấy là chưa kể đến lực lượng không quân như trực thăng tác chiến, máy bay C130 ném bom và các loại phản lực.
 
                                                   *
 
     Bóng đêm của rừng núi sập xuống. Đi trong đêm giống như đang bơi giữa một biển nước đen lõng bõng, bưng lấy mặt. Đá khấp khểnh, rễ cây nhằng nhịt. Chỉ cần bước quá đà, rễ cây móc vào chân, vấp đá, húc ngay đầu vào thân cây trước mặt.
     Dẫn đầu hàng quân là tổ trinh sát Tiểu đoàn 7. Tiếp theo Đại đội 1,  đại đội chủ công của tiểu đoàn chủ công.
     C5 – "xê" hỏa lực của tiểu đoàn ở giữa. Đi đầu là Tiểu đội trưởng Nguyễn Hoàng trong đội hình của trung đội đại liên, tiếp đến trung đội B-41 và trung đội cối 82mm.
    Sau tới các trung đội thông tin, quân y tiểu đoàn rồi Đại đội 2. Đại đội 3 -  còn lại duy nhất là Trung đội 9 được tiểu đoàn bố trí làm lực lượng dự bị, đi cuối cùng.
     Đêm nay 25.3.1968, Tiểu đoàn 7 được lệnh xuất quân vào đánh căn cứ FSB 14 của Mỹ, trên cao điểm 995 dãy Chư Tan Kra. Đội hình tiểu đoàn phải dài ngót cây số. Viên trung sĩ, tiểu đội trưởng trinh sát sử dụng một chiếc đèn pin đầu đã được bọc kín, chỉ để hở một chấm sáng bằng hạt ngô, chiếu cắm xuống đất dò đường… dẫn cả tiểu đoàn vào tiếp cận trận địa.
      Người thứ hai cho tới người cuối cùng bám nhau mà bước. Cách xa vài mét, anh đi sau không nhìn thấy anh đi trước, sẽ dẫn cả một đoàn quân lạc trong rừng.
     Ở phia sau mũ sắt mỗi chiến sĩ, buộc một miếng lân tinh bằng hai ngón tay. Đêm đêm nó phát ra một vệt sáng trắng, làm tín hiệu cho người đi sau. Có anh vô ý đánh rơi miếng lân tinh, thì nhặt tạm dưới chân mình một mảnh lá mục, chiếc lá khô mốc có xạ quang thay thế. Nhìn vết sáng của những miếng lân tinh, vạch một đường sáng ngoằn ngoèo theo đội hình đoàn quân dài năm, sáu trăm người… như thể cuộc di chuyển hàng một của đàn đom đóm đêm. Đầu mũi sáng cứ từ từ khuất vào lưng chừng núi bên kia thung lũng.
     Những bước đi lặng lẽ, không một ánh lửa. Có chiến sĩ nào bỗng nhiên lên cơn ho, vội vàng lấy chiếc khăn mặt bông ấn vào mồm. Những tiếng khục… khục… rên lên trong cổ họng người chiến sĩ nọ. Cái chết trên sách vở có khi bông lơn như câu chuyện phiếm, còn cái chết ở đây? Rất thực tế, nghiêm trang. Nó gần gũi như tiếng ho, đơn giản như âm thanh của tiếng nói. Cái “ho” để thoát ra khỏi cuống họng, cái “chết” đã chờ sẵn cửa miệng. Tiếng nói lỡ quên đi buột ra hơi to từ trong miệng, cái chết lập tức đến sát ngay bên tai. Không có một hình thức kỉ luật nào được thực hiện triệt để, tự giác như ở đây - Trong khoảnh khắc này, nơi cái chết không biết mặc cảm.
     Căn cứ Chư Tan Kra nằm trên một dẫy núi. Mặt cứ điểm chinh giữa rộng và dốc đứng. Đã bị đốt trụi cháy không còn bóng cây xanh, phơi trần lớp đất đỏ như một thân thể đã bị lột mất da ngoài.
     Một tiểu đoàn tăng cường của Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ Mỹ cố thủ trên cao điểm. Nó thông sang các ngọn núi xung quanh bằng những “yên ngựa”. Những lớp dây thép gai đã gài mìn bọc lấy các lô cốt.
     Trước trận đánh, các khu rừng xung quanh tưởng như đang chìm trong một giấc ngủ thường lệ, tĩnh mịch. Thỉnh thoảng lại có loạt súng trung liên cực nhanh AR15 của Mỹ trong cao điểm bắn xối vào không trung, hoặc vương vãi ra các khu rừng xung quanh. Những con cú đang thu mình trong bóng cây đen kịt, rình bắt chuột rừng đi ăn đêm… giật mình, nhớn nhác. Vài chiếc trực thăng chốc chốc lại rè rè bay đến, thả mấy chùm pháo sáng quắc. Khoảnh khắc, để rồi cái bóng đen rừng lại nuốt không gian vào cái họng tối rợn người của nó.
     Theo linh cảm nhà nghề: Một bầy quạ khoang, cái giống vật rất thích đánh hơi mùi tử thi bay đến từng đàn kêu quàng… quạc… Chúng hạ cánh đỗ xuống những khu rừng rậm vây xung quanh cứ điểm. Mầu tối trên thân thể những con vật nhập vào bóng đen của rừng.
     Khoảng canh hai, các đơn vị của Tiểu đoàn 7 đã vào vị trí tiếp cận trận địa. Họ im lìm nằm phục trên các triền đồi của đỉnh Chư Tan Kra, hướng lên phía cứ điểm trên cao của Mỹ. Trong tay là súng, trước ngực là cơ số đạn cá nhân, thắt lưng đeo lựu đạn, buộc chéo trên vai là chiếc võng bằng vải dù bất ly thân: chiếc áo quan di động sẽ được bọc quấn quanh người - nếu chẳng may chủ nhân của nó phải nằm xuống vì tử trận. Thời gian như kéo dài cả trăm năm. Những đọt cỏ Chư Tan Kra mọc nhú trên đất đỏ thật sắc, nhưng vẫn ngọt và mềm. Chỉ có tiếng súng bắn cầm canh hú họa từ lô cốt. Thỉnh thoảng vài quả đạn pháo ở hướng sân bay Kleng vu vơ bay tới. 
     Hai khẩu đại liên của tiểu đội Hoàng, nằm phục ngay phía sau đội hình Đại đội 1 chủ công. Tất cả im lặng chờ hiệu lệnh nổ súng! Trong những giây phút hồi hộp đó, bỗng nhiên anh lại nhớ đến những kỉ niệm từ đời học trò: Có một nhà văn mà anh được học, đã viết một bài tùy bút về tâm trạng người lính trước trận đánh? Giờ không còn là sách vở nữa, chính anh cùng đồng đội đang sống trong những giây phút thiêng liêng ấy! Đây là trận đánh đầu tiên của đời lính, nếu còn sống trở về… anh sẽ viết thư kể cho Thu nghe!
     Ồ, chưa chi đã nghĩ đến cái chết? Hoàng tự chỉ trích mình. Anh sẽ kể cho người bạn gái thân yêu của anh, tâm trạng cái giờ phút này nó bồn chồn và cả căng thẳng nữa. Anh sẽ tả về những hình ảnh của trận mạc, cả những thằng lính Mỹ mũi lõ…
      Hoàng nhớ lại năm học cuối cùng, khi cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã lan tới thủ đô, trường phải sơ tán về vùng quê Hà Bắc để học. Những tối, hai đứa ngồi ôn thi đại học dưới trăng, cùng nhau dạo bước trên con đường làng. Gió đưa hàng tre xào xạc lá… Anh nhớ cả đến buổi, hai đứa chạy vội ra ga để tiễn các bạn sang châu Âu học - Ừ, đất nước phải có những người được đi học mà trau dồi kiến thức như các bạn, để có trình độ khoa học, kỹ thuật cao. Khi nước nhà hòa bình, thống nhất rồi, còn xây dựng tổ quốc mình thật giàu và đẹp chứ! Nhưng giờ đang có chiến tranh, cũng phải có những người như chúng mình ra chiến trường diệt giặc. Giờ đây, trước trận đánh này - Mình cảm thấy rất tự hào vì đã có mặt trong lúc tổ quốc lâm nguy, các bạn ạ!
     Viết Minh, Thanh Hà, Phi "đen" và cả Trần Tứ Đức nữa… các bạn phải học thật tốt đều trở thành những kỹ sư giỏi, sau này còn xây dựng Tổ quốc Việt Nam của chúng ta giàu mạnh, hùng cường như các nước Âu Châu và Mỹ. Khi nào hết chiến tranh trở về, mình cũng sẽ tiếp tục theo học đại học mầ hôm nay tạm thời bỏ dở, để lên đường cầm súng diệt thù.
     Bao suy cảm cứ dồn dập như thước phim chạy trong óc Hoàng. Anh lại nghĩ đến Thu? Trên chỗ trường đại học sơ tán của em có được yên ổn không nhỉ? Không lẽ, bọn không quân Mỹ mang cả bom lên oanh tạc tận vùng rừng núi Tuyên Quang – Việt Bắc ấy! Mà cũng chẳng biết đâu mà lường? Nghe nói ở trên Tuyên Quang , nhà nước cho xây dựng nhiều cơ sở ở trong núi chứa hồ sơ, kho tàng. Các cơ quan, trường học lớn về đấy cũng nhiều... chắc gì bọn giặc lái Hoa Kỳ đã để cho yên?
     Cả tình hình ở miền Bắc - Nghe đài báo: Hồi này thủ đô rất căng, Mỹ ném bom ngày càng gần vào Hà Nội hơn. Ở trong chiến trường, cả đại đội chỉ có một cái đài national xách tay của đồng chí chính trị viên. Cứ giờ nghỉ giải lao là anh em lính tập trung quanh thủ trưởng để nghe tin tức. Ngoài ra chỉ có tờ báo Tây Nguyên mỗi tháng một kỳ, chủ yếu là những thông tin chiến trường.
    Nhớ Hà Nội thế! Hoàng có cảm giác như đã xa thủ đô từ lâu lắm. Thực ra, kể cả thời gian đi đường vào mới được hơn một tháng. Giò cũng đã nửa đêm, chuẩn bị bước sang ngày 26.3.1968 – Hoàng chợt nhớ ra ngày nhập ngũ của anh là 27.3.1967. Không phải chỉ riêng anh, lính của cả Trung đoàn 209 này toàn nhập ngũ ngày đó. Thì ra, đây còn là trận đánh kỷ niệm tròn một tuổi quân của tất cả các chiến sĩ trong đơn vị. Anh em sẽ phải đánh cho thật ròn rã, thật tốt!
      Cách đây hơn một tháng, bọn anh rời vùng rừng núi Hòa Bình vẫn còn trải đầy hoa đào, hoa mận trắng và những vườn táo tây quả sai trĩu trịt. Bây giờ mới là cuối mùa xuân mà... Anh lại nhớ đến người con gái bản - "Mỵ ơi, em hãy quên anh đi!". Hoàng lẩm bẩm với mình. Anh biết người con gái ấy tha thiết yêu anh. Anh thương cô, nhưng anh không thể? Đối với anh, tình yêu duy nhất chỉ có Thu!
     Đôi lúc, anh cũng tự trách mình quá sa đà, nhưng anh đâu có lừa gạt Mỵ! – Chưa bao giờ nói anh nói là sẽ lấy cô? Ngay cả một tiếng "yêu", anh cũng giữ mình không nói. Thực ra tuổi thanh xuân, nam nữ yêu người này, người nọ... là chuyện bình thường. Anh cầu mong có một người con trai bản nào đó thương yêu, và cô cũng quí mến anh ta. Họ sẽ lấy nhau. Đám cưới của cô nếu được biết tin, anh sẽ tìm một bông hoa rừng đẹp nhất, ướp vào trang thư để gửi về chúc phúc cho hai người. Dẫu anh biết, thư từ chiến trường gửi về rất chậm. Khi nhận được thư và hoa của anh, thì đám cưới của họ đã qua lâu rồi. Nhưng anh vẫn gửi: Đấy là tình cảm, tấm lòng của anh trước hạnh phúc của cô. Chắc họ cũng sẽ đón nhận một cách hoan hỉ và vui lắm! Cứ nghĩ thế, Hoàng thấy lòng mình thanh thản một cách lạ thường. Anh chỉ cầu mong cô hạnh phúc, thế là lòng anh mãn nguyện.
     Từ bên trong căn cứ FSB 14 rộ lên một loạt trung liên AR15, bọn Mỹ bắn hú họa. Những tiếng súng nổ cắt ngang ý nghĩ của Hoàng. Đêm cuối tháng, phía rừng xa cũng đã thấy hắt lên chút ánh sáng mờ ảo của bóng trăng lên muộn. Chắc cũng sắp đến giờ nổ súng?
     Từ phía sau, Văn bò đến bên Hoàng. Văn cũng là khẩu đội trưởng của một tiểu đội đại liên. Tiểu đội Văn tiếp cận trận địa gần ngay đó. Tiếng Văn thì thầm bên tai:
-  Sắp đến giờ nổ súng rồi đấy, đánh cho thật "đẹp" nhé!
     Hoàng chỉ gật đầu đáp lại lời của bạn. Họ nắm thật chặt tay nhau, như để cùng động viên nhau vào trận đánh đầu tiên này. Văn lặng lẽ lui về phía khẩu đội của mình. Cũng như Hoàng, Văn rời bỏ trường đại học để lên đường nhập ngũ. Từ nhà Hoàng theo hướng ngã tư Khâm Thiên, qua bệnh viện Bạch Mai khoảng hơn cây số đường phố là tới nhà Văn. Nhập ngũ hai đứa mới biết nhau, nhưng đồng cảm và nhanh chóng trở nên thân thiết. Văn chưa có vợ và cũng chưa có cả người yêu. Trai tân mà... Lính D7 này, hầu hết đều là trai tân như thế!
     Đúng 2h00 sáng ngày 26.3.1968, các mũi lập tức cho nổ mìn phá rào. Ở hướng tây – tây bắc, mìn định hướng ĐH10 dựng chếch thi nhau nổ, thổi tung hàng rào dây thép gai. Hàng trăm mảnh thép gai bị hất lên cao, rồi hồng hộc rơi sập xuống đất. Nó còn ưỡn lên bần bật mấy lần mới chịu nằm yên – Cửa đã mở! Chư Tan Kra nghiêng ngửa. Không gian đang yên tĩnh bị xé toạc, chẳng khác nào một tên bạo chúa giang đôi cánh tay quyền lực, xé nát xiêm y người cung nữ.
     Trận đánh theo ba hướng - Ở hướng chính, Đại đội 1 chủ công cùng C2; được tăng cường hỏa lực đại liên – B41 – cối 82mm của C5 đồng loạt xông lên; rồi mũi đặc công với súng phun lửa từ yên ngựa đánh sang.
     Những tiếng thét xung phong ầm vang bốn phía. Tiếng cối 60 – cối 82mm thi nhau rót vào cao điểm, hòa trong tiếng súng AK nổ đanh gọn từng loạt ngắn. Những tràng súng đại liên của tiểu đội Hoàng và trung đội bắn ròn rã tới hỏa điểm của địch trên đỉnh Chư Tan Kra. Tiếng lựu đạn, tiếng thủ pháo chuyên dùng để diệt các hầm ngầm thi nhau ném lên phía đỉnh đồi. Tiếng rốc két B-41 của C5 bắn “bùng”… ục ra một tiếng nổ lớn, kèm theo là đám lửa: Một chiếc lô cốt hoặc ổ hỏa lực địch trúng đạn, đã bị phá hủy. Súng phun lửa bắn chạy loằng ngoằng trong công sự lính Mỹ...
     Sau cơn bất ngờ hoảng loạn, địch trong cứ điểm FSB 14 vừa bắn ra chống đỡ, vừa cuống quít kêu cứu viện. Chỉ ít phút sau: trực thăng, máy bay C130, phản lực Mỹ bu kín bầu trời như bầy nhặng. Chúng ném bom, bắn rốc két và tung từng chùm pháo sáng. Cả khu rừng vụt sáng quắc như chiếc lưỡi đỏ lòm liếm lên những xác chết nằm rải rác trên mặt đồi. Tiếng máy bay gào rú ghê rợn. Các đường đạn lửa đan chéo trên cao điểm nhằng nhịt. Những chiến sĩ đang xông lên trúng đạn, đứng chựng lại lảo đảo ngã xuống. Người dưới tiếp tục vượt lên. Máu chảy loang ra thành đám...có chỗ thành vũng... đất đỏ và than đen quyện vào máu, tạo thành một thứ đất nhớt quánh lại.
     Tiếng thét xung phong vẫn ran lên! Tiểu đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ trên Chư Tan Kra hỗn loạn. Chúng la hét, tiếng trung liên cực nhanh AR15 cùng các ụ đại liên Mỹ cũng điên cuồng bắn trả lại. Pháo dù từ trên máy bay trực thăng bắn tứ tung bồn phía, sáng như ban ngày. Mìn định hướng claymo Mỹ từ trên đỉnh thổi ngược xuống dưới chân núi, để chặn quân chủ lực Việt Cộng.
     Chỉ ít phút sau, Pháo bầy từ Kleng và các nơi ập tới cùng với trận địa pháo 105mm Mỹ trên cao điểm hạ nòng bắn thẳng ra phía cửa mở của QGP. Máy bay tiêm kích lao tới cắt bom. Một chiếc máy bay vận tải C130 lắp súng máy có tốc độ bắn 6.000 phát/phút, điên cuồng vãi đạn xuống theo hình xoáy chôn ốc xung quanh đỉnh núi. Trung đội đại liên của C5 đã chĩa thẳng súng lên trời bắn máy bay C130 và trực thăng, cả tiêm kích khi chúng nhào xuống thấp cắt bom.
     Tiểu đội đại liên của Hoàng theo đội hình C1 xông lên đánh thẳng vào trong căn cứ. Ở bên kia, tiểu đội đại liên của Văn cũng cùng C2 tràn lên... rồi trung đội cối 82mm, trung đội B-41 của C5 bắn trợ chiến mãnh liệt cho cả Tiểu đoàn 7 đang thừa thắng xốc tới.
     Ở một mũi, đội hình của C1 bị một ổ súng máy Mỹ bắn rát quá, phải nằm dán xuống mặt đồi, không thể vọt tiến lên được. Tiếng gào lên của những chiến sĩ bộ binh gọi hỏa lực chi viện:
-  Đại liên đâu! Đại liên đâu!
-  B-41 đâu!
     Hai khẩu đại liên của tiểu đội Hoàng bắn nhiều quá, nòng súng đã đỏ lên. Anh em chiến sĩ phải dành những bi đông nước mang theo người dội vào nòng súng. Đạn tiếp tục nổ, những đường lửa vọt lên vạch như đường thia lia của con nít trên mặt hồ. Những đường thia lia cũng tài tình như đường bay của những con dơi có sóng siêu âm, lách qua hàng rào dây thép gai phăm phăm lướt lên phía đỉnh núi. Thỉnh thoảng một viên đạn bật vào sợi dây thép gai, lửa tóe lên, sợi dây thép đứt tung. Họng súng máy của địch câm bặt.
-  Hoan hô đại liên! Các bạn bắn đẹp lắm, tuyệt lắm!
     Tiếng các chiến sĩ bộ binh cổ vũ. Đại đội 1 chủ công của Tiểu đoàn 7 đã tiêu diệt được tuyến phòng ngự của địch, phát triển vào trong trung tâm trận địa pháo. Các chiến sĩ nhét lựu đạn, thủ pháo vào từng nòng pháo. Bọn pháo thủ của quân Anh Cả Đỏ Mỹ chạy tán loạn. Đại đội 2 đánh vượt qua ba tuyến chiến hào và công sự địch, đến tận đỉnh cao điểm 995 mới bị Mỹ chặn lại. Quân chủ lực Bắc Việt gần như đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Mỹ. Căn cứ FSB 14 dài hơn 500m ngổn ngang xác Mỹ và cả xác bộ đội. Cả tiểu đoàn Mỹ bây giờ co cụm lại duy nhất trong chiếc lô cốt mẹ tận trên đỉnh Chư Tan Kra, nơi chúng đặt Ban chỉ huy. C1 và C2 của Tiểu đoàn 7 vẫn như hai mũi khoan lửa, lao lên để tấn công.
     Không giữ được cao điểm, quân Mỹ cho từng tốp máy bay phản lực liên tiếp dội bom gần như san phẳng ngọn đồi, pháo địch từ Kleng bắn dồn dập quanh đỉnh núi. Sau đó chúng thúc quân từ trong boong ke tiến ra, nhưng lại bị bộ đội đánh bật trở lại. Có những chỗ quân chủ lực Bắc Việt đã tiến sát đến boong ke, lô cốt cố thủ của địch. Trận đánh gần như giáp lá cà. Quân Mỹ bắn xối xả. Lựu đạn Mỹ ném ra, bộ đội nhặt ném trả lại. Giao tranh ác liệt, chết như rạ. Trận đánh đẫm máu, thương vong lớn cho cả hai bên.
     Đã hơn 4h sáng, Mỹ cho C130 tiếp tục tới thả pháo sáng và vãi đạn vào đội hình Việt Cộng, đồng thời cho hàng đàn trực thăng ùa đến đổ thêm hai đại đội bộ binh nữa, để tái chiếm lại cao điểm. Chúng cho cả B52 đến trải thảm rung chuyển các hẻm núi xung quanh, pháo bầy ở các nơi vẫn không ngừng bắn tới.
     Chúng tổ chức lại toàn bộ gộp cả lính trinh sát, công binh, thông tin cùng với hai đại đội bộ binh vừa thả xuống giao tranh giành giật quyết liệt quanh từng ụ pháo, chiến hào, công sự.
     Lại nói về hướng phía nam – Theo kế hoạch của Trung đoàn 209: Do Đại đội 13, Tiểu đoàn 9 đánh lên cao điểm để hợp với D7 ở hướng tây – tây bắc. Nhưng cả Đại đội 13 khi tiến vào tiếp cận trận địa bị lạc, không đến được đúng giờ nổ súng. Vì bối rối cả đoàn quân lại vấp phải bãi mìn của Mỹ gài, thương vong rất nặng. Nên mũi hướng nam Chư Tan Kra, quân chủ lực Bắc Việt đã không có lực lượng hỗ trợ, D7 trở thành đơn thương độc mã... mặc dù bộ đội vẫn dũng mãnh tiến công.
     Đại đội trưởng C1 Ngô Xuân Lâm, quê gốc ở Quảng Nam, người anh cả hiền hậu của đại đội, một danh ca hát chòi – Ông có dáng người cao lớn. Chiếc áo ngụy trang bằng mảnh dù hoa Mỹ, khoác trên người ông đang dẫn đầu đại đội xung phong bay phấp phới. Ông hoa hoa khẩu súng ngắn mấy vòng trên không, lệnh cho đại đội xông lên! Ông vượt lên trước nhanh như một con sóc. Một tia chớp lòe lên ở miệng lỗ châu mai địch. Một tia khác tiếp theo... đường đạn nhằm ông lao thẳng tới như một mũi tên đỏ. Ông đứng khựng lại, người chúi về phía trước mấy bước. Tiếng ông nhỏ như đang thầm thì kể chuyện: "Tôi chết rồi..." – Bỗng ông ngẩng phắt đầu lên thét to:
-  Đồng chí đại đội phó thay tôi! Đại đội 1 xông lên!
     Chân ông quì gập xuống đất, tay trái giang ra chống về phía trước. Bàn tay phải của ông vẫn nắm chặt khẩu súng ngắn K54, cắm mũi nòng lên mặt đồi. Ông đã chết! Người chiến sĩ liên lạc theo sau ông, có khuôn mặt nhỏ, dáng ngênh ngênh như một cậu thiếu niên. Cậu đang nắm chặt trong tay khẩu AK, lao tới ôm lấy vai đại trưởng. Cậu ta hét lên:
-  Đại phó ơi, đại trưởng chết rồi!
     Một tiếng nổ gọn trước mặt, vãi ra một đám lửa vàng như hoa cải. Tay còn ghì chặt lấy người đại trưởng của mình, người chiến sĩ liên lạc ngã xuống. Hai cái xác cùng đổ sập lên mặt đồi. Lớp người vẫn ào ạt xông lên! Họ đã đẩy lùi được quân Anh Cả Đỏ của Mỹ trên đỉnh Chư Tan Kra phải chui vào trong lô cốt, tuyến phòng ngự cuối cùng.
     Nhưng điều nguy hiểm nhất đã xẩy ra: Vào lúc đó thì hai đại đội lưu động của Mỹ ở ngoài rừng (mà trinh sát của trung đoàn 209 không phát hiện ra được), đã đến để ứng phó cho địch. Chúng đánh từ ngoài vào sau lưng D7 ở hướng tây bắc, hợp với quân Mỹ bên trong tổ chức đến bốn lượt phản công.
     Bộ đội của C1 – C2 đang thế chủ động, bây giờ bị kẹp ở giữa. Trận đánh giằng co đến gần sáng... Hỏa lực đại liên – B41 và Cối, đạn súng đều cạn kiệt. Quân số lại thương vong quá nhiều.
     Tiểu đoàn trưởng D7 Trương Ân đã phải tung nốt trung đội dự bị của C3 vào trận, nhưng cũng không thể cứu vãn nổi tình hình đảo ngược bất ngờ.
     Địch hợp lực cả quân chi viện và hai đại đội quân lưu động, cùng lính trong boong ke phản kích lại. Trên trời thì máy bay các loại gầm rú, pháo trong – pháo ngoài bắn về yểm trợ. Chúng đã đẩy lùi được các mũi tấn công của quân chủ lực Bắc Kì.
     Chư Tan Kra, cái tên nhẹ như một điệu hát của núi rừng, đã trở thành một trong những chiến trường ác liệt bậc nhất của mùa xuân 1968 này. Nơi chứng kiến sự quả cảm của hàng trăm chiến sĩ, những người con ưu tú của Hà Nội. Các anh đã ngã xuống vì nền tự do, độc lập của nước nhà.
     Chư Tan Kra, một vùng núi hoang sơ... bốn mùa mây mù che phủ - Trở thành đỉnh cao của những người thanh niên anh hùng, vời vợi hiện lên trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam. Những chiến sĩ tham gia trận đánh đều trong độ tuổi thanh xuân mới mười tám, đôi mươi – Họ ra đi với tình thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh"! Đó chính là niềm tự hào sâu sắc, tinh thần chiến đấu anh dũng của các anh sẽ sống mãi trong lòng người dân thủ đô.
     Chư Tan Kra, với hình ảnh ngọn núi cao chót vót – Tuổi trẻ và máu xương của những người con thủ đô đã nằm lại nơi đây! Đó là nhân chứng bất tử về hy sinh vẻ vang vì tổ quốc, nhân chứng cho sức sống mãnh liệt của mảnh đất này!
     Theo một tài liệu Bắc Việt có được từ phía Mỹ đã ghi:
     “ Ngày 26.3.1968, một tiểu đoàn tăng cường hỗn hợp cả bộ binh, pháo binh của Sư 4 Anh Cả Đỏ Mỹ, đã bị tấn công bằng vũ khí hạng nặng của quân chủ lực Bắc Việt, gồm rốc két B-41 và những trái cối 82mm. Cuộc tấn công bằng loại vũ khí này của họ là để mở đầu cho những cuộc tập trung tấn công tiếp theo… Quân chủ lực Bắc Việt dùng cả súng phóng hỏa, tràn vào cả bên trong các ổ súng đại bác. Họ nỗ lực để đánh bật quân Anh Cả Đỏ của Mỹ ra khỏi căn cứ FSB 14 có lô cốt và công sự kiên cố.
     Nếu như chúng ta không kịp thời tăng viện và dùng tối đa các loại hỏa lực pháo từ các nơi với máy bay – kể cả “pháo đài bay” B52… mới đẩy lùi được họ.”.
     Khi tiểu đội đại liên Nguyễn Hoàng yểm trợ cho các chiến sĩ bộ binh C1 chiến đấu quyết liệt trước những đợt phản kích lại dữ dội của quân Mỹ - Pháo thủ số 2 là người trực tiếp bấm cò súng đại liên đã trúng đạn bị thương, phải theo y tá đại đội lùi về tuyến sau. Là khẩu đội trưởng, Hoàng nhảy vào thay thế. Tiểu đội đại liên vẫn bắn xối xả về phía địch. Bỗng anh nghe thấy một tiếng nổ “oàng…”, kéo theo cả đám lửa vàng ngay trước mặt. Một chiếc C130 vừa lao chúi xuống phóng một quả rốc két trúng đội hình tiểu đội của anh. Trời đất mù mịt, tối sầm lại. Lồng ngực Hoàng như bị bửa đôi và ngất đi giây lát. Khi anh tỉnh dậy, mắt cay xè…
     Trời cũng đã bắt đầu hửng sáng. Hoàng sờ lên đầu, lên cổ mình, toàn thân đau ê ẩm. Phú, người xạ thủ số 1 của tiểu đội cũng đã bị thương, lảo đảo bước tới. Tiếng nói của Phú như bị đứt quãng trong tiếng bom đạn vẫn gầm rú khắp bốn bề:
-  Anh em tiểu đội bị chết cả rồi, tiểu đội trưởng ơi! Súng cũng bị nó bắn bay mất rồi...          
     Hoàng nhìn ra… các chiến sĩ quanh anh không còn thấy ai cả. Trời đất trên cao điểm nhuộm một thứ ánh sáng vàng vọt như tà khí trên nghĩa địa. Những tiếng máy bay xé trời, những tiếng pháo nổ và cả tiếng loa oang oang trên chiếc trực thăng của địch bay vè vè kêu gọi bộ đội Bắc Việt đầu hàng…
     Phú nói:
-  Tiểu đoàn đã có lệnh rút lui! Anh bị thương nặng hơn, bám vào Phú để lùi về phía sau, kẻo quân Mỹ nó sắp ập đến đây rồi.  
     Nói rồi, Phú tháo vội cuốn băng cá nhân băng bó vết thương ở đùi để cầm máu cho Hoàng. Hoàng không thể đi được. Anh giục phú cứ đi trước, mình sẽ cố lết đi sau… nếu gặp tải thương thì bảo họ đến cáng. Phú lảo đảo theo một số anh em chiến sĩ đang rút xuống chân dốc.
     Hoàng cũng chẳng hiểu anh còn bị thương ở chỗ nào nữa? Quần áo anh thấm bê bết máu. Anh choáng váng cứ như người đang ngồi trên chiếc võng đu, quay tít… rồi lại có cảm giác như thể mình đang bay tựa một con chim,  lao hun hút… hun hút… xuống một cái khe đen ngòm giống một chiếc huyệt hình phễu.
     Nhìn bốn bên trống hoác như ban ngày. Ý thức về lẽ sống vùng dậy. Hoàng nhìn quanh để tìm lấy một sự che đỡ nào đó? Thấy gần đấy, có một búi cây mây xơ xác còn sót lại trên mặt đồi, anh cố bò nhoai người đến đó.
     Ánh sáng, đôi khi ánh sáng sinh ra chỉ để giúp cho sự tàn phá. Đó chính là cái thứ ánh sáng khốc liệt của cảnh chiến trường này. Nó đang sáng quăng quắc của lửa đạn, của pháo sáng địch thả xuống. Nó đang chiếu soi vào  Hoàng… Bản thân ánh sáng tuy không chứa đựng sự hung dữ, nhưng những sinh linh trong nó thì đang bị ức chế bởi cái đe dọa của sự chết chóc. Chính nhờ có thứ ánh sáng kia, nó mới phát huy được khả năng tàn phá. Đương nhiên, thứ ánh sáng ấy nhuốm đầy vẻ rùng rợn.
     Cái ánh sáng rùng rợn đó đang ập vào mắt Hoàng, vây quanh anh… Giống như một sinh bé nhỏ không còn khả năng tự vệ, đang bị phơi lồ lộ giữa khoảng đất trống trên mặt đồi. Những tên lính Mỹ mũi lõ, khuôn mặt đỏ như máu, những sọc máu quầng lên trong đôi mắt đục ngầu. Chúng từ trên những chiếc trực thăng nhắm thẳng về phía Hoàng mà bắn xối xả. Nã hàng ngàn, hàng ngàn những viên đạn như những mũi dao lạnh toát. Tưởng như chúng đã nhìn rõ anh rồi? Cả những chiếc phản lực Mỹ trút từng loạt bom xuống đất. Hoàng rùng mình...
     Có một chiến sĩ bị thương đang lao người chạy qua Hoàng, nói to lên:
-  Phải cố mà xuống dưới chân núi, sẽ có tải thương. Nằm ở đây thì chết? đã có lệnh rút quân rồi!   
     Hoàng không hiểu những gì đã diễn ra trong anh. Như một bản năng tự vệ, anh đưa hai tay giữ chặt chiếc mũ sắt ở trên đầu rồi theo hướng người chiến sĩ vừa chạy, thả cho thân mình cứ thế lăn tròn xuống chân núi dốc.
     Ở trên đài quan sát thấy Mỹ đánh bom suốt hàng giờ đồng hồ. Chúng thả cả bom xăng, pháo bầy để phá hủy trận địa. Khi đó, Tiểu đoàn trưởng D7 Trương Ân buộc phải báo cáo về Sở chỉ huy trung đoàn cho lệnh rút quân! Chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, hô hào các chiến sĩ thông tin, vận tải cùng quân y… xông vào trận để cứu thương binh ra, đưa về tuyến sau.
     Trong trận chiến ác liệt này, những chiến sĩ dũng cảm của Trung đoàn 209 mũ sắt, những người con yêu dấu của Hà Nội đã tiêu diệt 204 tên giặc Mỹ, đánh tan gần hai đại đội và phá hủy 1 trận địa pháo 105mm thuộc Sư đoàn 4 Anh Cả Đỏ của Hoa Kỳ. Song trong trận đánh này, mấy trăm người chiến sĩ thân yêu của Tiểu đoàn 7 cũng đã vĩnh viễn gửi lại tuổi xuân tươi đẹp trên những ngọn núi, cánh rừng, khe suối của đại ngàn Tây Nguyên.
     Khi những thương binh của D7 hầu hết đã rút được ra ngoài, vẫn còn nghe thấy tiếng súng AK của đồng đội, số ít anh em bị vây trong căn cứ - Họ đã chiến đấu, dù chết đến người cuối cùng. Lúc đó vào khoảng 7 giờ sáng.
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.08.2023 18:14:55 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 06.08.2023 10:50:50
 
 
 
                                                                                9-
 
     Chiến tranh! Chưa khi nào Hoàng lại có thể hiểu về nó rõ nét như lúc này. Anh đang ở trong nghĩa nào: Rủi ro hay là may mắn? Nếu đem phân tích cả hai nghĩa đó, anh thấy nghĩa nào cũng đúng. Anh bị thương, là rủi ro – nhưng chỉ bị thương mà chưa chết, đấy lại là sự may mắn. Số phận chưa cắt anh ra khỏi cuộc sống.
     Những ý nghĩ cứ quẩn lên trong đầu Hoàng, khi vẫn còn đang phải co người, thả mình lăn xuống dưới chân núi. Cảm giác về cái đau bởi đạn rốc két của Mỹ bắn vào, dường như tê dại. Nhưng nhận biết về thực tại, anh thấy mình vẫn còn tỉnh táo. Đang lăn xuống dốc, một gốc cây đã bị bom phạt cụt ngăn anh lại. Lõi than hồng giữa thân cây vẫn đang rừng rực cháy. Tàn than đỏ tả ra, rơi xuống ngực Hoàng, liếm thủng mảng áo, nhoay nhoáy khoét sâu vào da thịt anh. Phải khổ sở lắm, Hoàng mới đưa được cánh tay phải gạt mảng than ra ngoài. Anh lại tiếp tục lăn, cho tới khi xuống tận một con suối cạn dưới chân núi dốc. Toàn thân dính lép nhép bùn nước. Hoàng nằm kẹt vào giữa những tảng đá lởm chởm, rải rác theo lòng suối cạn. Anh đã nghe thấy tiếng nói, có lẽ cũng là những chiến sĩ bị thương như anh. Lúc này vết thương ở đùi đau buốt, gần như không thể đi được nữa. Hoàng nằm lại, hy vọng có đồng đội đến cứu giúp. Trong mơ hồ, tiếng nói chuyện của những chiến sĩ nọ vẫn văng vẳng bên tai anh. Một người nói:
-  Khi nghe tiếng pháo bầy của Mỹ cứ rít lên trong gió, tim tớ như thắt lại. Lúc trận đánh mở màn: chúng để xe tăng đi sau, xe ủi đi trước. Bao nhiêu mìn chống tăng bọn tớ cài đều bị ủi tung lên cả. Loại mìn này phải đủ trọng lượng đè lên thì nó mới nổ, không thì phải dùng kíp. Còn loại mìn định hướng ĐH10, mà tớ mất toi con mắt trái đây này? (anh ta lấy tay chỉ vào con mắt bị thương, đang phải băng bó của mình) – Người chiến sĩ ấy nói tiếp: Bởi vì ông tướng đi cùng đánh mìn với tớ để dây cháy chậm dài quá! Đã thế lại còn chôn cách hầm có 2m. Khi châm ngòi nổ, tớ thụp xuống hầm, theo qui định đếm đúng đến 5 thì chồm dậy quạt AK bắn địch. Ai ngờ hai giây sau nó mới nổ, thổi bay cả một trung đội Mỹ phía trước… nhưng dội mảnh về sau, toi luôn cả con mắt trái của tớ.
     Môt người nữa phụ họa:
-  Khi nghe tiếng nghiến xích sắt của xe tăng, nhìn lính lố nhố đi sau, cảm giác ban đầu cũng thấy hơi sờ sợ. Nhưng khi đạn đã bắt đầu nổ thì bình tĩnh lại. Đầu hoàn toàn trống rỗng… cứ thế mà xả súng. Trực thăng Mỹ ùa tới cũng mặc, chẳng còn kinh hãi là gì nữa.
     Một tiếng nói khác:
-  Thằng C130 thật lợi hại. Nó bay vòng quanh, xác định bán kính sát thương, vãi đạn như vòi rồng, kêu ồ ồ… rồi súng đại liên đạn 20mm từ trên máy bay bắn xuống. Chúng quần nhiều vòng, quyết chặn ta. Pháo địch từ các trận địa ở Kleng bắn tới. Đạn các loại từ ụ súng và lô cốt mẹ trên đỉnh Chư Tan Kra bắn tới tấp vào các hướng tiến công của ta, như dựng lên một hàng rào lửa.
-  Chúng dùng pháo đạn tổ ong mới kinh hoàng. Cứ mỗi chùm 15 quả. Chúng rót hàng trăm chùm vào trận địa.
-  Ừ, trận đánh kể cũng tiếc thật. Tuy ác liệt và đẫm máu như thế, nhưng đáng lẽ ta vẫn thắng và thắng lớn! Tại mũi hiệp đồng đánh hướng nam của Tiểu đoàn 9 bị lạc, lại còn vấp mìn thương vong quá nặng không vào được trận đánh. Sắp tới giờ nổ súng, đội đặc công đã vào trong chờ mãi không thấy D9 tới, còn cử người về Ban chỉ huy tiền phương báo cáo. Trung đoàn quyết dịnh vẫn nổ súng!
 -  Cho dù sức tấn công ban đầu của ta rất mãnh liệt. Nhưng sau, súng phun lửa, hỏa lực B40 –B41… đều hết đạn. Địch bắn khói màu để phân tuyến, rồi cho các loại máy bay bắn phá, dội bom. Anh em bị thương vong nhiều quá, không còn đủ lực để xung phong.
      Sau đó, các chiến sĩ giục nhau đi nhanh để đuổi theo đám người đi trước. Lúc này do vết thương hành hạ, cả thân thể Hoàng hoàn toàn tê dại. Anh chìm vào trong cơn mê sảng… Một đội tải thương của trung đoàn đi qua. Họ bế anh lên đặt vào một chiếc cáng võng, đưa anh về tuyến sau.
     Đoàn tải thương đi trên một con đường xuyên rừng, vượt qua những ngọn núi, các con suối. Đường ngoắt ngoéo, chẳng khác nào lối mòn đã bị dẫm nhẵn lì của một bầy nai hay hoẵng trong rừng. Đó cũng chính là con đường trục dẫn ra mặt trận. Đi xuôi đến hướng đông thì ra phía trước, ngược trở lại là về tuyến sau.
     Nắng hanh cuối mùa khô làm những vết thương của Hoàng căng ra nứt nẻ. Lớp băng quấn quanh đầu anh máu đông lại, nước vàng thấm ra bốc mùi khó chịu. Đầu Hoàng nhức nhối như thể một bầy ong vàng thi nhau sà xuống châm nọc đốt. Đến bây giờ anh mới biết là mình còn bị thương vào đầu, chứ không phải chỉ ở đùi và vài ba chỗ khác trên người. Lúc anh bị bất tỉnh dưới lòng khe suối, anh em trong đội tải thương thấy có máu chảy túa ra đẫm cả mái tóc, đã băng lại cho anh. Hoàng lựa chỗ đau ở chân, trở mình trên chiếc võng để vết thương trên đầu đỡ nhức. Trong cơn mê sảng, những ý nghĩ mông lung lại đến với anh…
     Trong trận đánh ấy, có lúc nào tôi sợ hãi không nhỉ? Không ư! Liệu có phải là ta đã biện hộ cho mình chăng? Sao lúc này khi trận chiến đã qua, dù mới chỉ là lần đầu nghĩ đến điều đó, ta lại thấy lòng mình hơi kinh hãi?
     “Ta cũng chỉ hèn nhát như một tên lính mạt hạng chăng? Mới một lần nếm thử mùi ác liệt của chiến trường thôi đấy! Không thể nói là lòng mình không hoang mang…” – Những trăn trở cứ day dứt ở trong óc, anh không thể dập tắt đi được. Hoàng tự hỏi mình rồi lại tự trả lời. Nghĩ lại những cảnh ghê rợn đã qua, sự khủng khiếp của bom đạn và cả máu đổ, anh cũng thấy mình hơi hoảng hốt.
     Hoàng trằn trọc trên võng chỉ muốn xua đuổi những ám ảnh ấy! với anh, hoảng hốt có nghĩa là hèn nhát, dù đó chỉ là những ý nghĩ thoáng qua trong óc. Hèn nhát? Đó chính là điều khủng khiếp nhất mà anh không thể nào chịu nổi.
     Phải, chính ta đã thấy mình hoảng hốt - Anh tự thú với mình. Như một con thú hiền lành, đang đau đớn vì bị một con sói rừng móc mắt, moi ruột. Con sói cứ túm chặt lấy Hoàng không chịu buông tha. Hoàng vừa là con vật đáng thương đang bị cấu xé, lại vừa là con sói kia cứ nghiến rít mình. Nó làm cho anh đau đớn hơn cả vết thương đang nhức nhối trên đầu và tê buốt ở chân? Anh muốn xua đuổi nó! Anh muốn tống sạch đi những con vật khốn nạn cứ tóm bắt lấy anh. Anh giẫy giụa mà không sao ra nổi. Dường như anh không chịu nổi cái đau mới này, nó vô hình mà lại cào cấu như ma quỉ trong trí não. Anh rên lên… 
     Một bàn tay mát lạnh đặt lên trán Hoàng. Anh nghe thấy tiếng gọi của đồng chí y tá đi kèm bên cạnh:
-  Tỉnh lại? Tỉnh lại đồng chí!...
     Hoàng vẫn đang mê sảng. Anh em tải thương đặt đòn cáng lên hai đầu của cây gậy có chạc, dựa võng vào một thân cây. Họ chạy đến chăm sóc anh. Hoàng mở mắt. Anh nhìn thấy những khuôn mặt vàng võ vì sốt rét và gian khổ của các đồng chí tải thương, đang cáng anh về phẫu. Họ là những người lính của mặt trận vào chiến trường này đã nhiều năm, đang chăm chú nhìn anh ái ngại. Những ánh mắt ấy như muốn nói:
     “Hãy ráng chịu đựng đồng chí ạ! Chúng tôi biết đồng chí đau. Chúng tôi rất thương đồng chí. Nhưng có phải một mình đồng chí bị thương đâu? Đồng chí hãy nhìn xem, có bao nhiêu thương binh khác đang phải chống gậy lê từng bước một. Họ có được cáng như đồng chí đâu? Sao đồng chí lại rên…”.
     Anh y tá nói với Hoàng:
-  Ráng lên chút nữa! Sắp đến phẫu rồi, anh em sẽ thay băng cho đồng chí.
     Hoàng cảm thấy ân hận vì mình đã rên la. Như một chú bé ngoan ngoãn, anh nằm yên trên cáng. Anh em trong đội tải thương tiếp tục đưa anh về tuyến sau.
    Trạm phẫu tiền phương của E209 đi về phía tây dãy Chư Tan Kra, là những căn hầm lớn đào nửa nổi, nửa chìm. Hàng trăm thương binh được đưa về đây, nhiều người đã hy sinh tại phẫu. Lúc này, người ta vẫn còn nghe thấy những tiếng bom, pháo từ phía căn cứ địch vọng về.
 
                                                       *
 
     Trong hầm chỉ huy tác chiến tiền phương của E209, Trung đoàn trưởng Trần Huy Toàn cứ đi đi lại lại quanh một chiếc bàn gỗ đóng mộc mạc. Đó là một căn hầm đã được khoét sâu vào trong lòng trái núi, gần với cao điểm. Thân hình cao lớn lắc lư, bước đi chắc nịch như một con gấu xồm đang muốn lồng lên trong một chiếc cũi sắt. Mái tóc rễ tre đỏ quạch bụi đất, mọc nghiêng ngả tựa một búi gai rậm xõa ra. Gian hầm chỉ huy im phắc, chỉ nghe thấy tiếng gót giầy ống của ông đanh như những nhát búa, nện trên các phiến gỗ lát hầm.
     Tình hình chiến sự bất ngờ làm đảo lộn khả năng chiến thắng của Trung đoàn 209? Theo đúng phương án tác chiến: Khi Tiểu đoàn 7 đảm nhiệm mũi tấn công chính diện lên M2 từ hướng tây – tây bắc, thì một đại đội của Tiểu đoàn 9 cũng nhanh chóng đánh tan tác, hoặc cụp gọn đại đội Mỹ ở hướng nam Chư Tan Kra – Sau đó tiến thẳng lên đỉnh căn cứ, phối hợp với D7 và đại đội đặc công với súng phun lửa, thanh toán nốt tiểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ co cụm trong lô cốt mẹ.
     Ở hướng mũi của D7, diễn biến trận đánh tuy ác liệt song khớp với phương án – nhưng hướng mũi thứ yếu của D9 do sự cố, kế hoạch tác chiến hoàn toàn bị đổ vỡ. Bộ đội chẳng những không vào đánh được mà lại còn bị thương vong gần hết.
     Rổi lại một bất ngờ nữa, quân chủ lực Bắc Việt không hề hay biết: Đó là hai đại đội thám báo Mỹ vẫn hoạt động lưu động ở vòng ngoài – Khi Chư Tan Kra bị Việt Cộng uy hiếp, chúng lập tức tiến về đánh vào sau lưng Tiểu đoàn 7. Do trận đánh không giải quyết chớp nhoáng được theo phương án, nên Mỹ đã kịp cho trực thăng đổ thêm hai đại đội xuống… cùng với pháo bầy, máy bay đánh trả để chiếm lại cao điểm. 
     Từ thế chủ động tiến công bất ngờ, ta rơi vào thế bị động, bộ đội lại bị thương vong quá nhiều – Ban chỉ huy trung đoàn đành phải cho Tiểu đoàn 7 lệnh rút quân, và tìm mọi cách đưa hết số thương binh ra ngoài. Ông không muốn nướng nốt số quân còn lại.
     Viên trung đoàn trưởng nói với người chính ủy trung đoàn, đang ngồi im lặng bên chiếc bàn gỗ trong hầm:
-  Anh ở lại tổ chức cho bộ đội rút quân. Tôi về Bộ tư lệnh mặt trận xin thêm viện binh, mai ta sẽ tổ chức đánh tiếp.
     Nói rồi, cả tấm thân đồ sộ lao ra ngoài. Bàn tay phải của ông nắm chặt lại tựa như một gọng kìm đang muốn bóp nát một thế lực nào đó. Ánh mắt ông quầng lên. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng gót giầy ống từ trên mặt núi vọng xuống.
     Chính ủy Trung đoàn 209 là một bậc trung niên, trạc ngoài năm mươi tuổi. Người có khuôn mặt hiền hậu như một thiếu phụ, đăm chiêu nhìn ra phía cửa hầm, gần con đường trục trở lại tuyến sau. Anh em chiến sĩ bị thương phải về phẫu, vẫn từng đoàn nối nhau đang đi qua đó.
     Trong trận chiến ngày 26.3.1968 ấy, Tiểu đoàn 7 chủ công của Trung đoàn 209 đã bị thương vong 2/3 quân số. Hơn 200 chiến sĩ phải nằm lại trên đỉnh Chư Tan Kra đẫm máu. Không một người lính nào của D7 đầu hàng quân địch, tất cả đều chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
     Bốn người sau trận đánh bị Mỹ bắt, đều là thương binh nặng không bò ra được: như một chiến sĩ, người Gia Lâm - Hà Nội, bị thương nặng gẫy hai chân, một tay. Anh đã cố bò ra khỏi trận địa, nhưng được vài chục mét thì ngất đi. Tỉnh dậy, thấy mình đã bị Mỹ bắt làm tù binh…
     Cũng buổi sáng ngày 26.3.1968 đó, ở hậu cứ tiền phương – những người anh nuôi bầy cơm nắm ra la liệt, mà chẳng thấy mấy chiến sĩ về ăn? Họ hu hu lên khóc:
-  Anh em đồng đội ơi! Đi đâu hết cả rồi…
    70% tiểu đoàn lính mũ sắt Hà Nội, tham gia trận đánh đầu đời đã không trở về nơi đóng quân. Một số người chết trong bệnh xá, còn thì bị thương nhiều. Tuyệt đại đa số họ đã nằm lại trên đỉnh Chư Tan Kra, trước lúc bình minh lên.
     Theo tờ tin “Lập công” của các lực lượng vũ trang giải phóng Tây Nguyên, số ra ngày 28.3.1968 viết:
     “Đêm 25 rạng ngày 26.3.1968 – Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209 đã đánh một trận tập kích tốt. Tiêu diệt gần hết một đại đội bộ binh, một đại đội pháo binh và tiểu đoàn bộ của tiểu đoàn Anh Cả Đỏ Mỹ. Giặc Mỹ đã phải thừa nhận: “Đây là một một đánh rất táo bạo, phía Mỹ đã bị thiệt hại vừa”.
     Thực ra, thiệt hại nặng Mỹ mới chịu thừa nhận như vậy.
     C1 và C2 của D7 ngay từ phút đầu nổ súng, đã đồng loạt xung phong chớp nhoáng, mãnh liệt, vượt qua cửa mở xông thẳng vào đánh chiếm các ụ súng, rồi nhanh chóng phát triển vào trung tâm, đánh phá các trận địa pháo và chỉ huy sở địch. Với lối đánh táo bạo bằng thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên bắn gần. Bất chấp sự chống trả của địch trong cơn tuyệt vọng, đã oanh tạc bừa bãi bằng mọi thứ: bom phá, bom bi, bom lân tinh.
     Đó là sự hiệp đồng rất đẹp của các phân đội trợ chiến, chi viện đắc lực cho bộ binh xông lên diệt địch.
     Đại liên bắn điểm từng tràng ngắn. Xạ thủ đại liên Phạm Ngọc Thái bị thương, tự băng bó vết thương, vẫn băng lên chiến đầu. Còn khẩu đội trưởng Nguyến Hoàng, khi một đồng chí xạ thủ bị thương liền nhảy vào thay thế, tiếp tục dẫn tiểu đội xông lên! B40, B41ần lượt hạ hết các ụ súng này đến các ụ súng khác, và luôn có mặt ở bất kỳ chỗ nào cần có mặt. Xạ thủ Nguyễn Đức Chính luôn động viên các đồng đội bị thương: “Các đồng chí cứ bình tĩnh, chúng tôi sẽ trả thù cho các đồng chí”. Xạ thủ Trực, sau khi đã hạ được ba ụ súng, ngồi hẳn lên xác Mỹ, tiếp tục dùng tiểu liên diệt địch.
     Đó là hành động cụ thể, dũng cảm và tiên phong của những cán bộ, như Tiểu đoàn trưởng Trương Ân, Chính trị viên tiểu đoàn Phan Trung Bắc, như Đại đội trưởng C1 Ngô Xuân Lâm, phân đội phó Nhạc, như Lê Sĩ Nhật trung đội trưởng súng cối, B41 của C5, luôn xông xáo chỉ huy đơn vị xốc tới. Như Nguyễn Văn Kháng một mình đánh địch bảo vệ thương binh, diệt hàng chục Mỹ bằng tiểu liên, lựu đạn. Đó là tình yêu thương đồng đội và quyết tâm tiêu diệt địch của các đồng chí phục vụ như y tá Bắc, văn thư Tứ, đưa hết thương binh ra ngoài an toàn rồi quay lại dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch. Tinh thần dũng cảm của một tập thể dũng cảm, kết hợp với lối đánh gần, đánh nhanh, đánh thọc sâu… đã đem lại cho D7 một trận thắng lớn, mở ra nhiều triển vọng cho đơn vị và cho toàn trung doàn 209.
     Hoan hô D7! Hoan hô các binh chủng phối thuộc! Chắc chắn trong những ngày tới, các đồng chí sẽ lập được nhiều thành tích xuất sắc hơn nữa.”.
     Cuốn “Lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Nxb QĐND năm 1980, trang 135 viết:
     “Nổi bật trong đợt này là trận Chư Tan Kra ngày 26.3.1968, diệt gọn 2 đại đội và 1 trận địa pháo Mỹ.
     Tại đây diễn ra nhiều cuộc giáp chiến giữa ta và địch. Chiến sĩ ta dùng lựu đạn, thủ pháo giành giật với địch từng khẩu pháo, từng mỏm đồi, dưới tầm bom đạn ác liệt để giữ vững các điểm cao.”.
     Cuốn “Lịch sử Trung đoàn 209…”, Nxb QĐND 2004, trang 94 – 95 viết:
     “Trong trận tiến công, tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt, ta bị thương và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Trận đánh đã thể hiện rõ ý chí kiên cường, tinh thần chiến đấu gan dạ, không sợ hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 209. Đó chính là truyền thống của một trung đoàn đã được xây dựng từ những ngày đầu chống Thực dân Pháp xâm lược. Hôm nay truyền thống đó lại tiếp tục phát huy trên chiến trường chống Mỹ. Nhiều gương chiến đấu anh dũng đáng được nêu gương học tập: như đồng chí Nhạc (đại đội phó đại đội 1) bị thương lòi ruột, tự tay mình nhét ruột vào để tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu; như đại đội trưởng Ngô Xuân Lâm, một mình ôm bộc phá xông lên diệt lô cốt địch cho bộ đội xung phong, rồi sau đó chỉ huy bộ đội chiến đấu liên tục cho đến lúc hy sinh.”.
     Cũng trong cuốn sách trên, trang 99 viết:
     “Ngày 28.3.1968, trung đoàn 209 được lệnh cơ động về vị trí tập kết ở dọc sông Sa Thầy, để củng cố bổ xung quân và nhận thêm súng đạn, lương thực, thuốc men… Trên đã thông báo, có điện thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt thường trực quân ủy Trung ương, nhiệt liệt khen ngợi những thành tích vừa qua của trung đoàn và của quân dân Tây Nguyên.
     Đại tướng chỉ thị: “Hãy thừa thắng xông lên đánh mạnh, đánh trúng, đánh giòn giã hơn nữa. “.
………..     
     Sau khi Mỹ đổ thêm quân, phản kích lại đã làm chủ được trận địa Chư Tan Kra rồi, Chúng thu gom xác lính Hà Nội lại một chỗ, dùng xe ủi đẩy anh em tử sĩ xuống hố, lấy xăng đặc đốt rồi lấp đất chôn ngay trên đỉnh cao điểm. Độ sâu anh em nằm khoảng 2m.
     Khi đó những người bị thương đang bí mật đi ở bìa rừng bên này, nhìn lính Mỹ đốt xác đồng đội, không cầm được nước mắt. Lòng căm thù lại uất nghẹn lên trong lòng. Họ chỉ muốn mau lành được vết thương, trở về chiến đấu trả thù cho các anh em đồng đội, đã phải chôn xác bi thảm trên đỉnh Chư Tan Kra máu lửa này.
     Như lời của một thương binh cùng đi trong đám chiến sĩ nói:
- Tớ là người chuyên lấy góc phương vị cho cối 82mm bắn. Cuối trận đánh, tớ còn đi vòng quanh nã mấy chục phát súng cối lên cứ điểm trả thù, rồi mới chịu rút.                  
     Ngọc Văn, tiểu đội trưởng đại liên C5 cũng bị thương trong trận đánh này.
     Vì không có hương và vàng mã để đốt – Những người chiến sĩ ấy, chân tay và cả người họ còn phải cuốn đầy băng, hoen đầy máu đỏ. Họ đã lấy những tờ giấy, những trang sổ viết mang theo người, trải ra trên mấy tàu chuối rừng… đốt thay hương và vàng mã. Họ lặng lẽ khấn cầu cho vong hồn đồng đội mình siêu thoát. Vong hồn hơn 200 người chiến sĩ của trung đoàn 209 mũ sắt Hà Nội, đang quẩn quanh đâu đây. Dưới lớp đất này, hoặc gốc cây kia… Các anh lặng lẽ đi vào lòng đất mẹ như một bí mật, mà anh em đơn vị đã không lấy được xác các anh ra.
     Họ cứ lặng lẽ khấn cầu hàng giờ như thế! Đến khi, anh em đội tải thương phải giục họ đi, sợ lỡ gặp địch…
     Khi đó, trời gió nhẹ. Những tàn giấy uốn cong bay lơ lửng lên trời xanh, như để nói với những người đồng chí của mình rằng: “Hình ảnh các anh sẽ còn sống trong lòng chúng tôi mãi mãi sau này.”.
     Nhật kí chiến trường của trung tá D.M.Malone, chỉ huy căn cứ hỏa lực Mỹ FSB 14 lúc đó, viết trong tất cả các đêm từ 27.3.1968 đến 2.4.1968 đều có câu: “Quân Bắc Việt chuyển quân quanh căn cứ suốt đêm”.
     Thực ra, không phải trung đoàn 209 chuyển quân… mà suốt 7 đêm ấy, đêm nào những người lính còn lại của D7 cũng bất chấp bom đạn, trở lại Chư Tan Kra, đi quanh căn cứ… để tìm cứu thương binh và tìm chôn xác các chiến sĩ của mình.
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 06.08.2023 10:54:32
 
 
                                                            NGƯỜI CON GÁI BẢN
                                                    RA CHIẾN TRƯỜNG
                                                                                                                                                              10-
 
     Một chiều cuối xuân 1971. Cuộc họp dân quân bản cuối cùng mà Mỵ tham dự, lúc trở về đi cùng với A Tòng, lòng Mỵ thấy nhẹ nhõm. Họ đi bên nhau im lặng, mỗi người đuổi theo ý nghĩ của riêng mình. Cũng về gần đến nhà Mỵ, A Tòng mới lên tiếng:                 
-  Thế là ngày mai, Mỵ đi thật rồi!
     Tiếng của A Tòng nửa như hỏi, nửa lại như than thở.
-  Ừ, mai.                                     
     Mỵ khẽ trả lời rồi im lặng. A Tòng rủ Mỵ tạt qua rừng thăm cái bẫy? Mỵ gật đầu. A Tòng xốc lại dây đeo khẩu súng dân quân tự vệ K44 trên vai cho khỏi trễ xuống. Người thanh niên bản cố tạo ra vẻ để làm chủ mình, rồi mở đầu câu chuyện. “Mình phải nói thôi!” – A Tòng thầm nghĩ, những tình cảm  từ bao lâu nay anh ta vẫn cất giữ riêng ở trong mình. Mỵ hơi ngước lên nhìn A Tòng, rồi lại cúi xuống thong thả bước. Môi cô khẽ hé một nụ cười: “Tôi biết tỏng đi rồi, anh bạn ạ!” – Cô gái nghĩ vậy, nhưng không nói.
     Cái nhậy cảm của người con gái, cũng thính như cái tai của con nai rừng. Mỵ biết A Tòng muốn nói điều gì? Đi bên cạnh A Tòng nhưng tâm trí Mỵ lại nghĩ đến Hoàng, người chiến sỹ mà cô đã gặp từ ba mùa xuân trước.
     “Anh biết không? Đã qua ba mùa xuân rồi đấy! Em vẫn chờ anh…” – Em không nhận được lá thư nào của anh gửi về cả. Em biết là chiến tranh,  anh lại ở nơi chiến trường đánh giặc, thư từ khó khăn lắm…  hay bị thất lạc nữa, phải không anh?
     Ở bản, có chị chồng cũng vào chiến trường như anh, đã ngót mười năm nay vẫn không có tin về. Anh biết không? Những người ở quê hương, có người thân đi đánh giặc xa – mong tin cháy lòng, cháy ruột. Đêm nhớ, ngày thương…
     Như con nai trên rừng, cứ đêm đêm hú lên gọi bạn. Như con chim trên cành , sáng sáng lại líu ríu gọi đàn. Khi em khỏa tay xuống con suối, em cũng mong anh về. Chiều đi nương, em cũng ngóng anh. Em biết bước chân của anh cũng đi dài như con hoẵng, nhưng sao không cố để viết thư về cho em? Anh viết mười lá, em cũng có thể nhận được một lá chứ!
     Tiếng gọi của A Tòng kéo Mỵ ra khỏi ý nghĩ.
-  Mỵ đang nghĩ gì thế?
     A Tòng nhìn Mỵ dò hỏi, có vẻ ngạc nhiên.
-  À, Mỵ nghĩ… nếu Mỵ chưa đi…                                                            
-  Thì làm sao cơ?                                                                                  
     A Tòng gặng.
-  Thì chúng mình sẽ vẫn tiếp tục tập dân quân với nhau.                                  
-  Tất nhiên! Thế mà A Tòng cứ tưởng…                                                  
-  A Tòng không thích thế sao?                                                        
-  A Tòng thích lắm chứ! Thì có ai yêu cầu Mỵ đi đâu? Đấy là Mỵ nhất quyết xin đi, nên Ban lãnh đạo quân sự đành phải đồng ý.                     
     Họ đã đến chỗ A Tòng đặt bẫy. Một chú sóc nâu, cổ bị thít chặt vào chiếc thòng lọng làm bằng sợi dây rừng dai như cước. Con sóc vẫn còn thoi thóp cựa quậy. Nó thè lè cái lưỡi nhỏ xíu, đỏ hỏn. Càng cựa thì chiếc thòng lọng càng thít chặt lấy cổ nó. Khi A Tòng gỡ được con sóc ra khỏi nút dây, nó chết hẳn. A Tòng đưa con sóc cho Mỵ, nói:
-  Cho Mỵ đấy! Đây là con thú cuối cùng, A Tòng tặng cho Mỵ.                  
-  Sao lại cuối cùng?                                                       
     Mỵ cự lại.
-  Thì, Mỵ đi rồi… biết  đến bao giờ mới trở về, để A Tòng lại bẫy thú cho Mỵ.                                                                                     
     Mỵ giơ con sóc lên thích thú.
-  Mỵ sẽ nói Sóc của A Tòng bẫy được biếu mế, mế sẽ khen A Tòng giỏi.
     Họ tiếp tục ra về. A Tòng vẻ chán nản, miệng lẩm bẩm:
-  Thế là hết!
      Tiếng cười của cô gái bản ròn tan, hòa trong tiếng reo lóc róc của con suối khi họ bước qua. Cơn mưa bất thình lình ập đến. Gió ào qua khu rừng rít lên từng hồi dài. Trời sầm lại. A Tòng kéo tay Mỵ chạy đến trú dưới một cây cọ lớn. Nước trên núi theo khe trũng đổ dồn xuống xối xả. Mưa mỗi lúc một to, Mỵ nép sát vào người bạn.
     Tiếng sấm nổ đập mạnh vào vách đá. Chớp nhoằng lên, xé tan nền trời theo hình chữ "Z". Tiếng nổ chói tai như búa gõ.
-  A Tòng! Tôi sợ quá?
     Mỵ quay lại ôm chặt lấy bạn. Đáng lẽ nên đưa hai tay kéo người bạn gái vào gần mình, thì anh chàng thanh niên bản lại quặt cả hai tay về phía sau. Hai bàn tay của A Tòng bám chặt vào cây cọ, thân cây xù xì như vẩy cóc. Chàng trai như thể đang run lên trong tiếng mưa gió ầm ầm. Mỵ cứ ôm riết lấy A Tòng. Như thể ở nơi đây, trong tấm thân cao lớn của người con trai bản, cô tìm thấy một sự tin cậy. Tai cô chỉ còn nghe thấy tiếng rú của gió, tiếng đổ ầm ầm của thác nước.
     Những giọt nước mưa qua môi người con gái chảy xuống, thấm lên ngực A Tòng... nóng hổi. Cả mùi hương trên tóc Mỵ nữa? Cái mùi hương, A Tòng chưa từng thấy trong tất cả các loại hoa rừng. Đã mấy lần A Tòng định rời tay ra khỏi thân cây cọ để ôm lấy Mỵ, nhưng rồi anh không dám, vội rụt lại.
     Tiếng mưa đã ngớt dần, lo âu cũng bớt đi. Lúc ấy, cái va chạm vô tư của người con gái, đã nhen lên trong chàng những cảm giác mạnh mẽ hơn. Bàn tay A Tòng run run, mới chỉ dám mon men bên ngoài lần áo mỏng. Cô gái yên lặng. Cũng chỉ cần từng ý thôi, đã đủ thiêu cháy cả trái tim lẫn tâm hồn anh thanh thanh niên bản. Cũng chỉ từng ý thôi, cái cảm giác háo hức đã tác động, truyền nhanh trong cơ thể người con gái như một dòng điện.
     Giây phút ấy, lòng say sưa của người đàn bà chỉ bị thuần hóa trong câm lặng. Nếu coi đó như một tín ngưỡng của họ, thì A Tòng đã xúc phạm phải tín ngưỡng đó. Thực tại đang bị nghiền vụn, như khi ta nghiền vụn một mẩu bánh vứt nó lên không trung – Ai nói, thể rắn luôn luôn là một khối đặc? khi những cảm giác chứa trong thể rắn đó, kích thích giữa cơn say mê, thèm thuồng. Nó đã chẳng biến "chất rắn" kia thành hư không đó sao !? Cũng giống như ở một nhiệt độ cao cần thiết, chất rắn kia biến thành chất lỏng chảy ra thành nước, và hơi nước bay lên tầng không khí.
     Cô gái khẽ gỡ đôi bàn tay có phần hơi mạnh bạo của người con trai bản. Đó chính là sự tỉnh táo duy nhất của cô, trong cái thực tại đã bị xé nhỏ như mẩu bánh nọ. Nhưng cánh tay của người con trai không muốn rời ra, anh xiết mạnh hơn.
     Trong lúc xúc động, A Tòng đã gọi tên cô! Hình như anh đang muốn tìm... để hôn lên đôi môi người con gái? Tiếng gọi của A Tòng cũng nhỏ thôi, nhưng trong khung cảnh ấy, Mỵ lại thấy nó chói tai như tiếng vải xé... quất vào mặt người con gái. Vô tình nó lại trở thành một cái gì tựa sự thô bạo. Giống như một kẻ chơi trống đồng, lại lấy lưỡi dao thay cho dùi trống. Mặt chiếc trống đang căng, toác phựt ra.
     Tiếng gọi của A Tòng làm cho cô gái ghê hãi? Mỵ vùng dậy, gỡ tay A Tòng để vượt ra. A Tòng níu lại... Người con gái giang thẳng tay tát vào mặt A Tòng, bước ra ngoài. Đôi chân cô vẫn còn run. Trống ngực cô đập mạnh, dư âm chưa kịp tan đi.
     Giây lát, Mỵ trấn tĩnh lại. Cô yên lặng đi về phía bản. A Tòng xốc lại khẩu súng trên vai cho khỏi trễ. Anh cúi xuống nhặt con sóc bị vứt dưới gốc cọ, rồi lững thững bước theo Mỵ.
     Gần đến nhà, Mỵ quay lại nhìn A Tòng, môi cô khẽ nở một nụ cười làm lành.
 -  Chào A Tòng nhé! Mai Mỵ đi, A Tòng ở lại lãnh đạo đội dân quân của bản, thật giỏi nghe.
     A Tòng nói như có vẻ muốn xin lỗi:
-  Mai A Tòng sẽ còn tới để tiễn Mỵ lên đường mà.
     Chàng trai bản vẫn nhìn cô bạn gái anh hết lòng thương yêu, với cái nhìn thật trìu mến. Anh giơ cao con sóc lên nói:
-  Của Mỵ này...
     Mỵ chạy lại cầm lấy con sóc trên tay A Tòng, chạy nhanh vào trong sân. Cô trèo lên chiếc thang gỗ, rồi khuất vào trong ngôi nhà sàn của mế con cô.
     A Tòng còn đứng ngẩn theo giấy lát mới quay đầu lại, bước đi lững thững trên con đường bản màu đất đỏ, phủ đầy hoa mận trắng.
 
                                                   *
 
     Bà mế vẫn ngồi bên bếp lửa giữa sàn nhà, chờ con về. Cái rét cuối mùa xuân, gió qua cửa sổ tạt vào làm cho mế khẽ rùng mình. Bóng mế im phắc, tựa như bà đã ngồi thế này hàng thế kỉ, ngồi trọn đời mế, đến cả đời con mế. Sự sống của mế giờ đây, như đốm lửa lay lắt trước cơn gió. Nhưng mế không nghĩ về chuyện đó? cái chết của người già cũng giống như một chuyến đi xa, mế không sợ.
     Thằng con trai của mế, anh trai cái Mỵ cũng đã trở về. Dù nó có bị một chút thương tật, thân thể không còn được lành lặn như trước, nhưng như thế vẫn còn may mắn chán. Khối thanh niên bản đi như nó bị chết, có về được đâu. Một số gia đình còn nhận được giấy báo tử, mấy người khác thì bặt vô tăm tích, chẳng biết sống chết ra sao? Con mế cũng chỉ mới mất một cánh tay trái. Còn mang được tấm thân trở về với mế, với bản đã là tốt phúc! Rồi nó sẽ lấy vợ và sinh con. Như thế gia đình mế cũng đã có phần đóng góp cho vận mệnh của nước non. Mế có quyền kiêu hãnh của một người mẹ, tự hào với dân bản... lắm chứ! Mế chỉ thương cái Mỵ...
     Mế biết con gái mế đã yêu thương anh bộ đội ấy! Nghe đâu, nó với anh ấy cũng đã có hẹn hò với nhau? Thế mà đã hơn ba năm nay, qua ba mùa xuân... Nó chẳng nhận được lá thư nào của anh ấy gửi về. Nghĩ dại, ngộ nhỡ... Mế cố xua tan ý nghĩ khủng khiếp ấy đi.
     Nay con gái mế lại quyết định xin nhập ngũ để vào chiến trường? Giá nó là con trai như anh nó lại khác, đằng này nó là con gái. Mặc dù mế biết: khối cô gái cũng đã tòng quân, ra tiền tuyến hẳn hoi. Thấy ý con đã quyết, mế chẳng muốn can ngăn. Mế biết – ngoài việc tình nguyện ra đi tham gia chiến đấu, nó còn có ý tưởng vào chiến trường... để tìm anh ấy? Nó yêu anh bộ đội lắm! mà người con gái bản đã yêu, thì chẳng có núi non, khó khăn nào ngăn trở được. Thế là, mai con gái mế đã lên đường...
     Cứ thế, bao nhiêu ý nghĩ quay lộn trong đầu bà mế. Mỵ đã đưa con sóc ra con suối cạnh nhà làm lông sạch sẽ, mang về để mế nướng trên bếp than hồng. Cô ngồi xuống bên cạnh, vừa đưa cái xiên có con sóc cho mế, vừa hỏi:
-  Anh trai con lên trại thương binh làm thủ tục, vẫn chưa về hả mế?
-  Phải làm nhiều giấy tờ. Giấy chứng nhận thương tật, lại cả giấy xuất ngũ... chắc phải tối muộn, anh con mới về được.
     Bà mế và cô con gái lại ngồi im lặng. Một lát sau, Mỵ mới khẽ khàng nói:
-  Con đi, chỉ thương mế ở nhà.
-  Ôi dào, có anh con về rồi, lại còn bà con dân bản nữa. Đừng lo cho mế!
      Bà mế gạt đi: "Đi đi con! Mế già rồi, nếu còn trẻ trung như các con thì mế cũng đi mà.".
     Bà mế lại ngồi trầm ngâm, giọng mế nhỏ nhẹ như dỗ dành con gái:
-  Có đi thì may ra gặp được anh ấy, con ạ!
     Mỵ chỉ đáp "dạ" một tiếng, rồi ngồi im. Cô vẫn đăm đăm nhìn mế, mắt rơm rớm lệ. Con sóc đã chín, mùi thịt nướng tỏa ra thơm phức. Mế đưa cho Mỵ treo nó lên chiếc móc ở phía trên đống lửa. Mỵ bảo mế:
-  Con treo ở đây, lúc nào mế muốn ăn thì lấy mà ăn.
-  Ừ, con cứ để đấy! Đợi anh con tý nữa về, cả nhà ăn cơm luôn thể.
     Đôi mắt bà mế lại đăm đăm nhìn sâu vào trong đống lửa. Mỵ tựa người vào cây cột giữa nhà, nhìn ra khu vườn qua những song cửa sổ. Cô lại nghĩ đến Hoàng...
     Thế là ngày mai cô đã đi! Vào trong đó, cô sẽ dò hỏi để tìm anh. Cô nhìn ra phía vườn đào, kỉ niệm của ngày đó tràn về... Lòng Mỵ lại xốn xang. Tấm thân của người con gái là một báu vật, cô đã trao báu vật đó cho anh. Những con gió từ ngoài cửa sổ thổi vào, bếp than hồng đỏ bừng lên.
-  Cứ yên tâm mà đi, nghe con!
     Mế nói giọng điềm tĩnh: "Con gái bây giờ cũng phải giỏi như con trai!" - Nói vậy nhưng trên khóe mắt mế, hai giọt nước mắt từ từ rôi xuống... những cái khe nhăn nheo ở má. Nó cũng lặng lẽ như cái bóng của bà.
    Mỵ nói với mế, đi ra ngoài dạo một lát. Cô bước xuống những bậc thang gỗ rồi ra phía vườn. Gió chiều tối đã se lạnh, cô thấy trong người dễ chịu hơn. Cái tuổi xuân tràn ngập bao nhiêu kỉ niệm. Nó tươi mát như những bông hoa đang mời đón, trong sáng và trinh bạch.
     “Hỡi rừng sâu thăm thẳm! Hỡi tiếng kêu của muôn loài cầm thú! Cả thiên nhiên hùng vĩ, hãy bao dung lấy tôi! Tôi đi trong các người!” – Những tiếng ấy vọng ra từ trong Mỵ. Lòng Mỵ vẫn triền miên nhớ về từ ba năm trước. Ôi, cái tuổi mười tám, đôi mươi của tôi! Những kỉ niệm tha thiết của đời tôi! Tôi sống như thế đã đủ rồi ư? Không, đó mới chỉ là bắt đầu của cái tuổi bước vào đời. Chẳng lẽ những ngày sống sắp tới của tôi, sẽ chỉ giống như ngọn cỏ héo úa? Có thể nào như thế! Em khao khát được sống lại những giây phút bên anh: Một phần trăm thôi, hay một phần nghìn cũng được. Anh sẽ nghĩ, em chỉ lả một con bé ích kỉ phải không? Đúng, em ích kỉ!... và con bé ích kỉ ấy đã trao tất cả trái tim, tâm hồn cùng thân xác nó cho anh. Không mặc cả… Như con sói trên rừng, anh về bản làng bắt em đi! Em đã theo anh, em sẽ theo anh suốt đời.
     Vườn đào ôi! Cây đào yêu quí của tôi ơi! Tôi ao ước cái vô tư của đào… Cứ thế, Mỵ đi sâu vào trong vườn đào lúc nào không biết. Những kỉ niểm bổi hổi của những buổi yêu ban đầu, với anh ở vườn đào này… sống dậy trong lòng cô.
     Ngày ấy, đào còn thấp hơn tôi nữa đấy! Giờ thì đảo đã cao hơn tôi cả cái đầu. Bàn tay người con gái bản cứ mân mê trên thân cây đào. Trời đã tối từ lúc nào. Bóng trăng đầu tháng mọc sớm, đã lên trên đỉnh núi. Có ngôi sao đã tách riêng bạn bè, để đưa bước chân Mỵ đến với gốc đào này. Chính là gốc đào lần đầu tiên, Mỵ đã trao nụ hôn cho anh. Cả tấm thân trinh trắng như sương tuyết của Mỵ, cũng suồng sã với anh ở đây. Giờ như vẫn cháy râm ran trong cơ thể Mỵ… Mỵ áp má vào thân đào, cô nghe thấy cả tiếng của dòng nhựa trong cây đang chảy.
     Bỗng Mỵ nghe thấy như có tiếng ai đang gọi? Đúng rồi, đúng là có tiếng người. Ai nhỉ! Không phải là tiếng của anh? Cái âm thanh trong giọng nói và hơi thở của anh, Mỵ vẫn nhớ. Nhưng ai đi tìm Mỵ vào buổi chiều tối này chứ? Một cảm giác ớn lạnh truyền nhanh trong cô gái. Cô muốn quay lại chạy cho nhanh về nhà, nhưng chân cô như bị mắc cạn. Cô muốn hét lên, nhưng lưỡi cô ríu lại. Cái bóng đen… nó đang tiến lại phía cô. Cánh tay cô gái nắm chặt lấy gốc đào, lùi lại. Khi cái bóng đen cất tiếng gọi, sợ quá cô rú lên!
-  Tôi đây mà! A Tòng đây mà, Mỵ!
-  A Tòng à? Đúng là A Tòng rồi!
     Cơn giận ban chiều đã nguôi đi, giờ lại bùng lên.  Mỵ nói như quát nhẹ:
-  Anh đã về rồi, sao lại còn đến đây?
-  Tôi đã theo Mỵ đến đây từ lúc chiều tối. Tôi đứng ở gần chỗ cầu thang, nhưng không dám vào nhà.                                                                     
     A Tòng phân trần:
-  Tôi đã gọi Mỵ hai lần, nhưng Mỵ vẫn không nghe thấy.                                 
     Mỵ chẳng nói chẳng rằng, quay gót đi nhanh ra khỏi vườn đào để chạy về nhà. A Tòng hớt hải đuổi theo. Anh nói như không ra hơi:
-  Mỵ! Mai Mỵ đã đi rồi mà. A Tòng sẽ không được gặp Mỵ nữa. A Tòng muốn gặp để xin lỗi Mỵ.                                                              
     Mỵ dừng lại. Cô im lặng đứng nhìn tấm thân cao lớn của người con trai bản, vẫn còn đang nài nỉ:
-  Mai Mỵ đi rồi, Mỵ đừng giận A Tòng nữa. Được không?                           
     Cô gái bản lại nhìn chàng trai với đôi mắt thật hiền hòa. Có vẻ cô đã bỏ qua những sự giận dỗi của mình. Cô nói:
-  Ừ, Mỵ không giận A Tòng nữa!                                                                 
     A Tòng thấy sướng rơn:
-  Có thế chứ! Có thế, Mỵ mới là người bạn gái tốt của A Tòng chứ!   
     Anh chàng vẫn phân vân:
-  Mỵ có tha lỗi cho A Tòng thật không?                                                         
-  Có, tha thật.                                                                                   
     Cô gái nhoẻn cười làm lành.
-  Thật chứ! Mỵ không giận A Tòng thật chứ!                                                
-  Thật.                                                                                                
-  Thế thì vui quá. Nếu Mỵ còn giận A Tòng? Mỵ đi rồi, A Tòng ở lại bản sẽ buồn lắm.                                                                                          
-  A Tòng đừng buồn nữa. Mỵ không giận A Tòng nữa đâu!                         
-  Mỵ tốt quá!                                                                       
-  A Tòng về đi, trời khuya đến nơi rồi.                                                                
-  A Tòng muốn…                                                                              
     Cái nhìn của A Tòng như khẩn thiết.
-  Thôi, A Tòng đừng nhắc lại chuyện ấy nữa! Nếu không, Mỵ sẽ lại giận A Tòng cho mà xem?                                                                                   
     Người con trai ngồi thụp xuống, hai tay quàng lấy chân cô gái, giọng nghe rền rã:
-  Mỵ! Tôi… tôi yêu Mỵ!                                                                
     Cánh tay của A Tòng vô tình làm tốc bay cái váy hoa của cô gái Mường. Hoảng hốt, Mỵ giật chân ra khỏi A Tòng, chạy về nhà. Bóng A Tòng chạy theo chới với. Đến chân cầu thang, Mỵ quay đầu nói vọng lại:
-  Mai, Mỵ đi nhé! Mỵ không giận A Tòng nữa đâu.                     
     Nói rồi, cô gái bước nhanh lên sàn. A Tòng nói theo:
-  Mai, tôi sẽ đến sớm để tiễn Mỵ đi cơ mà…                                          
      Anh chàng thẫn thờ, nhìn cô gái đã khuất vào trong nhà bản. Miệng chàng vẫn còn lẩm bẩm: “Thế là hết!”.
     Một lát, chàng trai chậm chạp bước ra khỏi vườn đào đi vào con đường bản. Mùa này, hoa nở nhiều thơm phức.
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.08.2023 10:56:36 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 06.08.2023 10:58:44
 
 
 
                                                                                   11- 
 
     Vào giữa mùa mưa năm 1971. Kể từ sau cuộc Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân ấy, mùa mưa này là mùa thứ tư. Tình hình chiến trường miền Nam nói chung và mặt trận Tây Nguyên nói riêng, vẫn vô cùng khốc liệt.
     Trên tuyến vận tải quân sự chiến lược của QGP là “Con đường mòn Hồ Chí Minh” qua núi rừng Trường Sơn. Trong suốt thời gian chiến tranh - Đoàn 559 (một binh chủng vận tải thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh quân đội Bắc Việt), được giao trọng trách liên kết với hậu phương lớn ở miền Bắc, đảm nhận sự vận chuyển - phục vụ cho toàn chiến trường miền Nam.
     Thí dụ: Chỉ tính riêng trong năm 1967, chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân 1968 – Đoàn 559 đã vận chuyển vào chiến trường miền Nam, theo Con Đường Mòn Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên khoảng 7 vạn tấn lương thực, 14 vạn người bổ xung cho quân chủ lực: gồm 2 sư đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn các binh chủng khác và đặc công.
     Cuộc Tổng công kích tuy đã bị dập tắt như âm hưởng của nó rất lớn. Đến mức, sau đó Tổng thống Mỹ Johnson buộc lòng phải rút lui, không dám ra tranh cử nhiệm kỳ II. Thống tướng William Westmoreland bị cách chức tư lệnh trên chiến trường miền Nam.
     Nói về địa bàn chiến trường Tây Nguyên: núi non trùng điệp – Cách thị xã Kon Tum trên 40km về phía bắc là trung tâm thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh, gần như là một thung lũng lớn, nằm án ngữ ngã ba đường 14 và 18. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xây dựng tại đây một cụm căn cứ tương đối lớn: với 2 sân bay và nhiều kho tàng đạn dược. Đó là một căn cứ xuất phát cho các cuộc hành quân phản kích QGP, ra ba vùng biên giới Việt – Miên – Lào. Phía bắc là vùng căn cứ của quân cách mạng – Tỉnh ủy Kon Tum của QGP cũng nằm ở đây.
     Các cao điểm xung quanh thung lũng Đắc Tô –Tân Cảnh như: Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Dơ Lang, 724, 823, 882, 875, 1030, 1424… đều đã trở thành những chiến trường đẫm đầy máu – cả lính Bắc Việt, Mỹ và QLVNCH.  Đây là một địa hình có các điểm cao trên dưới 1.000m, để khống chế ra bốn hướng – Nếu quân chủ lực Bắc Việt muốn tiến đánh hoặc thọc sâu xuống mạn dưới đồng bằng, đều phải trải qua nhiều trận đánh ác liệt ở đây.
     Để chuẩn bị cho những trận đánh của chiến dịch 1972 sắp tới – Trong vùng căn cứ địa của quân cách mạng tại rừng núi Kon Tum, đang khẩn trương làm công tác vận chuyển lương thực và vũ khí đạn dược về hậu cứ.
     Những chuyện được ghi lại dưới đây, cũng ở trên con đường trục của QGP trong địa phận tỉnh Kon Tum ấy. Ngày đêm không ngớt các đơn vị hành quân và vận tải đi qua.
      Vào một ngày trời nắng đẹp, cũng đã gần trưa. Dọc theo con đường giao liên lên một dốc núi cao, gọi là “Dốc cổng trời”. Một tốp chiến sĩ, anh nào cũng gùi nặng trĩu vai, mồ hôi nhễ nhại. Họ đi gùi gạo tại kho Q7 về đơn vị.
     Đến bên một thân cây to đã bị đổ nằm dọc theo con đường mòn, họ dừng lại ngồi nghỉ giải lao tại đó. Một chiến sĩ vừa đến, đặt “bịch” một cái… cả gùi gạo xuống thân cây, trút hơi thở dài nhẹ nhõm:
-  Chà, quỉ tha ma bắt cái gùi gạo này! Nặng, nặng là…                               
     Anh ta lấy tay mở nắp một chiếc bi-đông đựng nước của Mỹ bằng i-nốc sáng trắng đeo bên hông, ngửa cổ uống ừng ực. Nói với một chiến sĩ khác cùng đến:
-  35 kí đấy! Tớ tê cả hai tay.                                                                                        
     Người đồng đội mới tới thì bảo:
-  Hai cánh tay mình cứ như không thể cử động được nữa.                            
     Đấy là những chiến sĩ đi gùi gạo của trung đoàn pháo 40 trực thuộc mặt trận B3. Họ đang đến từng tốp, từng tốp ùn lên trên đỉnh dốc. Mỗi tốp ngồi chụm lại một chỗ, rải rác khắp bãi nghỉ. Chỗ này, một nhóm đang xúm quanh chiếc điếu cầy của một anh nào đó mang theo bên người, người này chưa hút xong, người khác đã chờ sẵn để đón lấy ống điếu. Lõ điếu không kịp nghỉ, tiếng rít thuốc long lên sòng sọc. Chỗ khác, mấy anh chàng ngả đầu lên gùi gạo, chân duỗi dài ra đất, phì phèo điếu thuốc lá dân tộc. Điếu thuốc được cuốn sâu kèn to như ngón tay cái. Anh ta rít từng hơi, mắt lim dim khoái trá. Mười lăm phút nghỉ sau một tiếng đường gùi, đỗi với họ là một lạc thú êm ái.
     Ở một tốp lính. Cậu Nhượng nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, xoa xoa lên đôi vai hằn đỏ như dấu son, nói:
-  Rát thấy mồ.
     Hoàng Phức có nước da trắng như da con gái, tiến lại gần chỗ Nhượng trêu:
-  Ông giặc lái nhà nòi chỉ quen lái jin-ba-cầu, không quen gùi gạo mà? Này, không có những chuyến đi gùi gạo đột xuất như thế này, mấy tay nhà lái các ông, làm sao thấu được cảnh tình lính pháo thủ của bọn này.
     Nhượng làu bàu chửi:
-  Cũng tại cái thằng Xi-ha-núc! Nó mà không cắt cửa khẩu ở Miên, tớ chỉ ghé đít cái Jin-ba-cầu vào cầu cảng, cả trung đoàn các cậu ăn mệt.
     Hồi đó Xi-ha-núc cắt không cho ngoài Bắc chuyển lương thực và súng đạn qua đường Căm Pu Chia, cho nên các đơn vị ở gần biên giới phải về tận các kho trong hậu cứ Kon Tum để vận chuyển gạo, đạn và các thiết bị quân trang, quân dụng. Mỗi chuyến vừa đi và về phải mất cả tuần.
     Một người lính đã chững tuổi, khuôn mặt võ vàng vì sốt rét, có vẻ là lính binh trạm. Anh ta cởi trần trùng trục, để lộ tấm thân với những bắp cơ nổi lên cuồn cuộn... góp chuyện:
-  Thấm gì. So với hồi năm 1969, thì các cậu còn sướng nhiều. Khi đó mới cắt cửa khẩu Miên, nương rẫy thì chưa phát được như bây giờ, sắn cũng không có mà ăn. Lúc ấy, ở mặt trận Tây Nguyên này: tiêu chuẩn mỗi chiến sĩ một tháng, chỉ được 4kg rưỡi gạo thôi.
     Ngưng giấy lát để rít cho xong điếu thuốc lào, người lính binh trạm nói tiếp:
-  Đồ vật, kỉ niệm có thứ gì... cũng đem vào bản đổi lấy sắn, ngô mà ăn. Một chiếc bật lửa Trung Quốc mới khự, chỉ đổi được một củ sắn to bằng bắp đùi.
     Từ dưới chân dốc đi lên một đoàn cán bộ, có tới hơn chục người. Người nào cũng đeo súng ngắn. Đi đầu là một người đàn ông trạc cỡ năm mươi tuổi, dáng người to lớn. Ông chống một chiếc gậy bằng trúc vàng óng, đầu bịt vỏ đạn đồng. Họ dừng lại trên bãi nghỉ. Ông cán bộ già đó hỏi mấy chiến sĩ trong tốp đi gùi gạo, ngồi ở gần đấy:
-  Mệt không các đồng chí?                                                                    
-  Cũng vừa vừa thôi ạ!  
     Một anh lính nhanh nhẩu mồm miệng trả lời. Người cán bộ già lấy chiếc khăn mặt bông, buộc ở dây đeo ba lô ra lau mặt rồi nói tiếp:
-  Tớ chịu không làm sao theo được đám thanh niên. Hồi tham gia chiến dịch Điện Biên, tớ có thể vác cả cái bàn đế cối 82 chạy hàng tiếng.
     Ông lấy ra một túi giấy bóng đựng đầy thuốc lá sợi vàng ươm, loại thuốc Miên thơm, vê một điếu để hút rồi bảo mấy anh chiến sĩ ngồi gần:
-  Các đồng chí hút thuốc đi!
-  Cám ơn thủ trưởng. Thuốc lá của thủ trưởng thơm quá!
     Anh chiến sĩ nhúm một ít thuốc, tãi mỏng đều vào miếng giấy cuốn thuốc lá, cuộn lại rồi đưa lên mép vê tròn thành một điếu loa kèn, châm lửa hút. Mấy tay khác nháy nhau ngồi xích lại gần người cán bộ già, xin thuốc hút. Ông thủ trưởng phúc hậu chỉ mỉm cười gật đầu. Họ chưa biết tên và cũng chẳng cần biết ông đã làm tới cái cấp lãnh đạo gì? vui vẻ ngồi hút thuốc. Mỗi anh vê một điếu, nhoáng cái gói thuốc đã vơi đi quá nửa. Người cán bộ già vẫn niềm nở mời anh em cứ tự nhiên.
     Có hai cô gái mặc bộ quần áo bà-ba-đen cùng đi với mấy anh chiến sĩ nữa, cũng đang lên đỉnh dốc. Cô gái có khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, tóc cắt ngắn theo kiểu nữ sinh, quay lại nói với cô gái đi sau:
-  Sa thua tôi rồi nhé!
     Một anh chiến sĩ cùng đoàn nói chêm vào:
-  Về tài leo dốc thì cô Sa thua cô Mỵ đứt đuôi rồi.
     Người con gái có tên gọi là "Sa" với khuôn mặt bầu bĩnh, tóc tết đuôi sam, hai tay chống lên đùi vẻ mệt mỏi... vừa thở vừa nói:
-  Tớ chịu thua cậu rồi.
     Mỵ kéo Sa ra tìm một chỗ để nghỉ chân. Mấy anh lính trong tốp đi gùi gạo nhìn về phía hai cô gái, nháy mắt. Họ thì thào bình phẩm với nhau:
-  Hai em giải phóng trông "ngon" ghê!
     Người nói - đó là một anh chàng xương mặt, nổi đầy những mụn trứng cá đỏ hỏn. Một anh khác họa theo:
-  Cô em có khuôn mặt bầu bầu kia, nghe giọng nói có lẽ là gái Huế? Còn em trông xinh xinh, trắng trẻo, có vẻ dáng gái miền Bắc.
-  Ừ, em gái trông xinh thật! Nhưng có vẻ như là một bông hoa dại miền núi?
     Anh chàng vừa nói, tỏ ra mình là một trang nam nhi khá tinh tường trong việc xét đoán. Rồi như một vòng dây cua-roa quay liên tục, những câu chuyện mời chào, hỏi han với hai cô gái chiến sĩ xinh xẻo cứ râm ran khắp bãi nghỉ.
-  Mấy anh gùi gạo về đâu đấy ạ?
     Cô gái có tên là Sa bạo dạn hơn, lên tiếng hỏi mấy anh ngồi gần.
-  Chúng tôi về T3... còn hai cô?
     "T3" là tên gọi một khu hậu cứ của QGP ở mặt trận Kon Tum.
-  Chúng em đến "Điểm 5" để lĩnh thuốc quân y.
     "Điểm 5" là nơi phân phát những trang bị hậu cần thuộc Bộ tư lệnh B3. Một anh ngồi nghỉ ở mãi xa, hỏi với tới chỗ hai cô gái:
-  Hai cô ở đơn vị nào đấy?
-  Chúng em ở đơn vị thuộc Tổng cục hậu cần B3, mấy anh ạ!
-  Chà, lính trực thuộc Bộ tư lệnh hả?
     Mỵ cười. Sa quay sang bắt chuyện:
-  Thế còn mấy anh ở đơn vị nào?
-  Các anh ở trung đoàn 40 – lính pháo đấy, mấy em ạ!
-  Thảm nào... nhìn mấy anh, chúng em biết ngay không phải lính bộ binh.
     Sa nói vậy.
-  Thế, chúng tôi khác với lính bộ binh ở điểm nào?
=  Lính pháo các anh đi một bước là lên xe xuống xe, nên gùi gạo không thạo bằng mấy anh bộ binh.
-  Sao cô biết?
-  Cứ nhìn gùi gạo của mấy anh là bọn em biết! Gùi gạo của các anh lính  bộ binh, thường nặng và to hơn.
-  Pháo với chả mã... Ở cái đất Tây Nguyên này, nghĩ mà ớn đến tận xương sống.
     Anh chàng vừa nói thở dài:
-  Vừa rồi chúng tôi đã phải tháo cả ô tô và pháo ra mà khiêng, mà kéo đấy? Cái giống xe cộ, nó chở mình thì dễ chứ... đến lúc mình phải cõng nó, cực hơn vợ đau đẻ.
      Các chiến sĩ nghe anh chàng tán dóc thế, liền cười ồ. Một anh trêu:
-  Người yêu còn chưa có mảnh tình vắt vai. Vợ ở đâu ra, mà cũng đòi biết đau đẻ là thế nào?
-  Chuyện, cậu này? Đấy là người ta ví thế!
-  Thế hai cô quê ở đâu?
-  Dạ, chúng em ở xa lắm!
     Sa nói bằng cái giọng Huế âm ấm, dễ nghe:
-  Em tên gọi là "Sa", quê tận Huế. Còn cô này là Mỵ, thì quê ở Hòa Bình.
-  Gái Hòa Bình hả? Đồng hương của cậu đấy, Dơng ơi!
     Một anh nói vọng tới chỗ của người chiến sĩ ngồi tận cuối bãi. Anh chiến sĩ có tên gọi là Dơng có vẻ hơi dút dát, lúc này mới đi gần đến đánh bạo hỏi:
-  Trên Hòa Bình, cô Mỵ ở vùng nào vậy?
-  Dạ em ở ngoài Vụ Bản.
-  Hai cô chắc mới từ Bắc vào?
-  Cũng được mấy tháng rồi ạ!
     Mỵ đánh bạo hỏi anh chiến sĩ đồng hương với mình:
-  Anh Dơng có quen ai tên gọi là "Hoàng" không?
     Dơng ngớ người, có vẻ ngẫm nghĩ:
-  Trong các đơn vị ở gần, tôi không thấy có ai tên gọi là "Hoàng".
     Một thoáng buồn trên nét mặt cô gái Mường. Cô nói:
-  Ấy là em cứ hỏi thế, may ra...
-  Thế, anh Hoàng của cô vào đây đã lâu chưa?
-  Cũng được hơn ba năm, gần bốn năm - rồi ạ!
-  Chắc anh Hoàng cũng là người tỉnh Hòa Bình?
-  Không ạ, anh ấy người miền xuôi.
-  Anh Hoàng của cô Mỵ quê ở tỉnh nào?
     Một thoáng ửng hồng trên khuôn mặt Mỵ. Sa trả lời thay cho bạn:
-  Anh ấy là người Hà Nội, mấy anh ạ!
-  Người yêu à...
     Mỵ ấp úng, lắp bắp trong miệng:
-  Dạ, không. Hồi trước, anh ấy có đóng quân ở bản của em.
-  Lính Hà Nội là tán gái giỏi lắm!
     Một anh chàng hạ một câu phán xét, làm cho Mỵ càng thêm đỏ mặt.
-  Vào đây, tìm người như thể tìm chim. Biết đâu mà tìm?
-  Vâng, em cũng nghĩ thế! Nhưng cứ hỏi mấy anh, may ra...
      Bỗng một anh chàng ngồi ở xa, hắng giọng nói dõng tới:
-  Ở đơn vị một người bạn của tôi, cũng có một cậu tên là Hoàng. Anh em vẫn gọi là "Hoàng rỗ". Hồi trước cậu ấy cũng đóng quân ở Hòa Bình.
      Mỵ cuống quít thanh minh:
-  Dạ, không phải đâu ạ. Anh Hoàng của em không "rỗ".
     Một chiến sĩ khác nói gạt đi:
-  Cậu này chỉ nói vớ vẩn. Hoàng nhà mình quê ở tận Bắc Thái, còn "Hoàng" của người ta là người Hà Nội cơ mà.
     Một chiến sĩ ngồi sát mé bên kia, nói với sang:
-  Có phải Hoàng người Hà Nội cao lớn, trông kẻng trai phải không? Nghe đâu, trước đây là lính của trung đoàn 209, vào đây đánh trận Chư Tan Kra rồi bị thương. Lúc ra viện, được chuyển về trung đoàn pháo E40.
     Mỵ cuống quít:
-  Dạ, có lẽ đúng đấy ạ! Trước khi vào Nam, anh ấy cũng ở trung đoàn 209. Thế, anh ấy bị thương có nặng không anh?                             
-  Khỏi rồi. Về chiến đấu rồi.
     Người chiến sĩ vừa thông báo cho Mỵ biết cái "tin quan trọng", nói tiếp:
-  Lần này, anh Hoàng không đi gùi gạo mà ở nhà làm nương. Tôi có một người bạn ở cùng đơn vị pháo với anh Hoàng, nên cũng sang chơi luôn.
     Mỵ ngẫm nghĩ giấy lát, mạnh bạo hỏi:
-  Từ Điểm 5 vào chỗ đơn vị của anh Hoàng có xa không ạ?
     Người chiến sĩ bước tới bên Mỵ, lấy một cây que nhỏ vạch ra đất:
-  Thế này nhé: Đến Điểm 5, cô hỏi đường về Binh Trạm Bắc. Từ Binh Trạm Bắc tới ngã ba đầu tiên rẽ trái rồi hỏi đường vào trung đoàn pháo 40, tiểu đoàn 30, đại đội 6... là tới.
     Anh ta vứt cái que ra xa, ngẩng nhìn Mỵ nói tiếp:
-  Từ Điểm 5 đi vào chỗ anh Hoàng, cũng phải mất 1 tiếng rưỡi đấy!
     Những tốp đi gùi gạo đã giục nhau tiếp tục lên đường. Người chiến sĩ vừa mách đường cho Mỵ cũng đã khoác gùi gạo lên vai, dặn lại:
-  Nếu đến thăm anh Hoàng, có điều kiện mời cô Mỵ, cô Sa vào chỗ chúng tôi chơi. Tôi tên là Hòa, đại đội 11 pháo mặt đất.  
-  Dạ, cám ơn anh ạ!
     Mỵ nhìn theo người chiến sĩ nọ, ánh mắt cô thầm biết ơn anh. Cô nói:
-  Bọn em dừng lại đây một lát, chờ mấy anh tạt vào kho Q7 lấy thêm ít vật dụng. Chúng em sẽ đi sau.
     Sa ghé vào tai bạn tủm tỉm cười:
-  Chuyến này gặp được “người năm ấy”... là phải khao một bánh lương khô đấy nhé!
     Mỵ khẽ ẩy bạn, gật đầu. Lúc này, cô mới cảm thấy hơi mệt. Mỵ ngả đầu vào Sa, nhìn lên những tia nắng mặt trời dọi qua các kẽ lá. Những chùm ánh sáng li ti chiếu xuống đất như một thảm hoa. Cô lim dim mắt, trong lòng dấy lên một niềm vui khôn tả.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 06.08.2023 11:02:19
 
 
 
 
                                               MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN ĐẪM MÁU
 
                                                                                                                                              12-
 
      Tây Nguyên là một vùng cao nguyên thuộc miền Trung Việt Nam, bao gồm năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; phía nam giáp Đồng Nai, Bình Phước; phía tây giáp Lào và Căm Pu Chia.
     Trong khi phía tây của Kon Tum giáp cả Lào và Căm Pu Chia – thì Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông chỉ có chung đường biên giới với Căm Pu Chia – còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế.
      Tây Nguyên do một loạt các cao nguyên liền kề nhau mà tạo thành. Các cao nguyên này đều được bao bọc về phía đông, bởi những dẫy núi và ngọn núi cao: chính là Trường Sơn. Diện tích cả vùng Tây Nguyên với năm tỉnh rộng 54.641 km2. Hai tỉnh Kon Tum, Gia Lai thuộc Bắc Tây Nguyên – Đắc Lắc, Đắc Nông thuộc Trung Tây Nguyên – còn Lâm Dồng thuộc Nam Tây Nguyên.
      Về khí hậu Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng tư – Trong đó tháng ba và tháng tư là hai tháng nóng, khô nhất.
      Trong cuộc kháng chiến đánh Mỹ, chiến trường Tây Nguyên được gọi là chiến trường B3 – trừ tỉnh Lâm Đồng tách riêng ra, do trực tiếp Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo.
      Như đã nói: mùa xuân Mậu Thân 1968, Trung đoàn 209 thuộc Sư 312 được lệnh gấp rút vào chiến trường B3 Tây Nguyên, trận đánh đầu tiên tại cao điểm Chư Tan Kra. Đến nay đã qua bốn mùa khô, lúc này đang ở vào cuối mùa mưa thư tư.
      Hiện Mặt trận B3 Tây Nguyên của QGP do Tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy. Năm 1966, Quân ủy Trung ương của quân đội Bắc Việt cử thiếu tướng Hoàng Minh Thảo vào chiến trường Tây Nguyên. Nghe nói: trước ngày lên đường, ông đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời tới gặp và dặn: “Tây Nguyên là một địa bàn vô cùng quan trọng đối với cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tây Nguyên không chỉ là căn cứ địa, mà sẽ là bàn đạp, là nơi phát động những chiến dịch tiến công lớn của các binh đoàn chủ lực, để tạo ra những đột biến có tính chất bước ngoặt, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược”.
      Tướng Hoàng Minh Thảo sinh năm 1921, tên thật là Tạ Thái An. Quê ở xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Khu trưởng chiến khu 3, Tư lệnh liên khu 4, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông được cử làm giám đốc Học viện quân sự rồi Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.
      Lại nói về Mặt trận Tây Nguyên: có dung lượng chiến trường lớn, vừa có rừng núi vừa có cao nguyên, lại là nơi có con Đường Mòn Hồ Chí Minh đi qua.
      Như mọi năm vào tháng cuối mùa khô sang đầu mùa mưa này, những trận mưa dữ dội có thể ập đến bất cứ lúc nào. Trên bầu trời Tây Nguyên, nhất là vùng biên giới Việt Miên Lào trong địa phận Kon Tum, Gia Lai – Từ trên cao nhìn xuống, những rừng cây của dãy Trường Sơn, đồi núi và các thung lũng bao quanh những cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng…
     Trước kia, khi bom đạn chưa cầy xéo lên những vùng rừng núi – Các ngày nắng đẹp, nơi đây là cả một khung trời xanh êm, thoáng gợn mây hồng. Từng làn gió nhẹ không vẩn một chút bụi nào, vuốt ve bên tai khi ta đi qua. Cho ta một cảm giác dễ chịu và thơ mộng – nhưng bây giờ, đấy là chuyện trong tưởng tượng.
     Lại nói về Hoàng – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết: Sau trận đánh trên cao điểm Chư Tan Kra đó, anh bị thương phải vào viện ở hậu cứ của mặt trận Tây Nguyên điều trị. Khi vết thương lành thì trung đoàn 209 của anh đã được điều động xuống đồng bằng – Do vậy, Hoàng được bổ xung về đơn vị pháo cao xạ phòng không 37ly, trung đoàn pháo 40 trực thuộc Mặt trận B3.
     Thời kỳ này, do yêu cầu chiến đấu – Hoàng lại được thuyên chuyển từ trung đoàn pháo 40 về làm trung đội trưởng một trung đội súng máy cao xạ 12ly7, đại đội 4, tiểu đoàn hỏa lực D16 của mặt trận, hiện đi phối thuộc với Sư 320 từ Bắc mới vào chiến trường Tây Nguyên.
     Nói về sự ác liệt và gian khổ, không đâu bằng chiến trường B3 – như những người lính từng nói; “Máu của đồng đội chảy, cũng chẳng còn nước mắt mà khóc nữa”. Có sống và chiến đấu trên chiến trường B3, mới hiểu hết được sức chịu đựng và sự hy sinh của những người lính trong chiến trận.
     Hoàng vào đây đã qua bốn mùa khô rồi đến bốn mùa mưa. Anh cũng đã tham gia hàng chục trận đánh, nên thấm thía thía lắm! Anh đã từng chứng kiến có những trận đánh, khi người chiến sĩ bị thương phải lên bàn mổ để lấy mảnh đạn ra khỏi người… mà không có thuốc gây mê. Không chỉ ác liệt còn thiếu thốn đủ điều. Tuy nhiên dù đói khát, gian khổ, nhưng những người lính vẫn rất thương yêu nhau; nhường nhịn, san sẻ cho nhau từng viên thuốc; khi đi hành quân núi cao hiểm trở, nhường nhau từng ngụm nước, chia nhau từng hạt gạo, ngọn rau và hút chung từng điếu thuốc lào.
     Đơn vị mà Hoàng mới chuyển đến làm trung đội trưởng, anh em vừa đặt ba lô ở hậu cứ đã nhận được chỉ thị phải vào chiến dịch ngay – Đêm nay họ dừng chân trong một cánh rừng già, dưới chân đỉnh cao 1008. Ở đây nhìn phong cảnh thì thật hữu tình, non xanh, suối chảy róc rách, chim ca vượn hót. Duy chỉ có sinh hoạt thì thật thiếu thốn. Mới vào chiến trường mà ra trận, mỗi người mỗi ngày chỉ được cấp 5 lạng gạo, thức ăn chủ yếu là cá khô và mắm kem. Đấy là với những người đi chiến dịch, chứ còn những ai làm nhiệm vụ ở lại hậu cứ - mỗi tháng chỉ được cấp 4kg rưỡi gạo một người. Nấu nồi cơm lên, phải nhìn kỹ lắm mới phát hiện thấy hạt cơm lẫn trong sắn.
     Hoàng cảm thấy thương thương những người lính trẻ, mới vào chưa quen chịu đựng như anh. Sức trai tráng tuổi mười tám: phải hành quân, vác súng, đào hầm… mà mỗi bữa chỉ được hai lưng bát cơm. Bụng lúc nào cũng đói cồn cào. Mưa thì mưa dầm, nắng thì nắng đổ lửa, lại phải leo dốc ngược. Hòm đạn pháo, súng ống đè trên lưng nghiến xuống vai. Lúc thì rừng sâu núi hiểm, nhìn lên đỉnh núi dựng ngược. Khi thì qua những triền đồi bọn Mỹ rải chất độc vẫn vàng ễnh màu cỏ cháy. Nếu được lệnh hạ trại dưới một rừng cây, mắc võng nằm phải mắc theo kiểu thời chiến: kiểu như thắt nút thòng lọng, càng ngồi càng chắc, có lệnh báo động hoặc di chuyển chỉ cần với tay giật đầu dây, cuốn võng lại là có thể đi ngay.
     Bước vào chiến dịch này, Bộ tư lệnh toàn miền cũng như Quân ủy Trung ương ở ngoài Bắc chỉ thị: Sẽ mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam – Tây Nguyên được xác định là hướng tiến công trọng yếu. Mặt trận B3 chính là bàn đạp cho các cuộc tiến công của các mặt trận B1-B2-B4-B5… và như cách nói của các nhà quân sự về Sư 320, quả đấm thép của quân chủ lực Bộ, rằng: “Khi quả đấm thép đã tung lên, thì chiến trường phải có tin thắng lớn!”.
      Theo dự đoán của nhiều tướng lĩnh Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam lúc đó: Vào năm 1972 tới, các binh đoàn chủ lực của QGP sẽ mở mặt trận đánh lớn trên chiến trường, và tập trung hướng tấn công chính tại chiến trường Tây Nguyên.
     Dựa vào những tin tức tình báo, phía quân đội của Chính phủ VNCH cũng đã biết: Hiện Sư đoàn 320 đã vào vùng ngã ba biên giới ở địa phận Kon Tum. Bởi vậy Tướng Ngô Du - chỉ huy QLVNCH và Mỹ trên lãnh vực Tây Nguyên, một mặt cho máy bay trinh sát do thám bầu trời Tây Nguyên, một mặt thu thập thông tin về đối phương để sẵn sàng ứng chiến. Tướng Ngô Du lệnh cho Sở chỉ huy tiền phương của hai trung đoàn 42-47 QLVNCH, cùng toàn bộ lực lượng pháo binh (khoảng 10 tiểu đoàn) và chiến xa (khoảng 10 chi đoàn) Sư 22 bộ binh, di chuyển lên Tân Cảnh – Đắc Tô, Ngọc Bờ Biêng, Chư Mom Ray thuộc Kon Tum… sẵn sàng giao chiến với Sư 320 của quân chủ lực Bắc Việt mới vào.
      Về phía Bắc Việt đã bắt được nguồn thông tin: Quân của Chính phủ VNCH sẽ thực hiện các động thái nhằm dụ 320 QGP tiến sâu vào vùng Đắc Tô – Tân Cảnh, rồi dùng B52 ném bom hủy diệt sư đoàn này.
     Tại Mặt trận B3: Để phối hợp với toàn miền chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công năm 1972, Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo – Tư lệnh mặt trận, đã điều động Sư 320 gồm ba trung đoàn 52 - 64 và 48, cùng 4 trung đoàn bộ binh độc lập thuộc mặt trận, phối hợp với trung đoàn đặc công và 2 trung đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng, 6 tiểu đoàn phòng không – trong đó có cả trung đội súng máy cao xạ 12ly7 của Hoàng thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn hỏa lực D16. Ngoài ra, còn có sự tham gia của tổng binh lực quân địa phương khoảng 2.000 người.
     Ngày 30.3.1972, hai trung đoàn 52-64 Sư 320 liên minh với quân địa phương, đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía tây sông Pô Kô… do 3 tiểu đoàn biệt động QLVNCH đóng giữ. Tướng Ngô Du vội tức tốc điều 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn dù 2 từ Tân Cảnh về các cứ điểm phía tây sông Pô Kô phòng thủ.
     Tướng Hoàng Minh Thảo điều 2 tiểu đoàn của E48 - F320 đánh Ngọc Bờ Biêng, còn 1 tiểu đoàn E48 phối hợp với lực lượng quân địa phương đánh Ngọc Rinh Rua.
    Tướng Ngô Du vội điều trung đoàn 47 QLVNCH tăng cường cho Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng – Đó là hai căn cứ hỏa lực trên các triền đồi phía nam Tân Cảnh.
     Hoa Kỳ cho cả máy bay cường kích gọi từ Thái Lan về ném bom xung quanh để bảo vệ các cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua này.
     Trong tháng 3 và 4/1972, hai trung đoàn 52-64 F320 liên tục tấn công hai cứ điểm Charlie (1049) và Rocket Ridge (1015) của QLVNCH phía tây sông Pô Kô ấy – Các cuộc tấn công diễn ra nhiều đợt. Pháo binh và không quân Mỹ, đặc biệt là các phi cơ AC130 Spectre có gắn súng máy ngăn chặn QGP chủ lực suốt ngày đêm.
     Do núi non hiểm trở, việc đưa pháo lớn vào rất khó khăn nên các trung đoàn QGP chủ lực chỉ có pháo phòng không tầm thấp là 12ly7 và 14ly5, khả năng đánh máy bay địch dù sao cũng bị hạn chế.
     Vào lúc 22h30 ngay11 tháng 4, trung đoàn 52 F320 đã chiếm được căn cứ Charlie, đánh Tiểu đoàn dù 11 QLVNCH thiệt hại nặng phải rút về Võ Định. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn dù là Nguyễn Đình Bảo bị tử thương.
     Ngày 15 tháng 4, E64-F320 chiếm được Rocket Ridge, đánh tan Lữ dù 3 QLVNCH, diệt 9 máy bay trực thăng.
      Mỹ đã dùng B52 hủy diệt hai cứ điểm này. Một số chiến sĩ E52 trên đồi Charlie chưa kịp rút hết, đã bị thiệt hại.
     Sau khi thất thủ 1049 và 1015, QLVNCH cho tàn quân rút về bổ xung mặt trận Quảng Trị và cho không vận rút về Huế. Chính phủ VNCH điều tiếp Sư 23 và Liên đoàn biệt động 6 đưa vào Kon Tum, để cố giữ vùng Bắc Tây Nguyên.
     Về phía QGP – Hai trung đoàn 52-64 F320 tuy đã thắng nhưng thiệt hại cũng nặng, phải tạm thời chuyển vào củng cố và giữ các cứ điểm đã chiếm đóng được.
     Về Trung đoàn 48 F320 được sự trợ lực của các lực lượng phảo mặt đất và súng máy cao xạ 12ly7 - tiểu cao 14ly5, tiến đánh Ngọc Bờ Biêng.
 
                                                        *
 
     Thực ra giờ vẫn còn là cuối mùa khô, nhưng năm nay có vẻ đã có mưa sớm. Một đoàn trinh sát dưới sự trực tiếp chỉ huy của tham mưu trưởng D16 Hoàng Khấu – Nói về tiểu đoàn hỏa lực D16 trực thuộc mặt trận, đi phối thuộc cho E48 Sư 320 để đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, gồm bốn đại đội hỏa lực: Đại đội cối 82mm – Hỏa tiễn cá nhân DKB – rốc két B41 và Đại đội 4 súng máy cao xạ 12ly – 14ly5 do đại đội trưởng Quảng dẫn đầu.
     Đoàn trinh sát dừng lại nghỉ chân bên một khe suối trên đường tiến sâu vào cứ điểm. Một con hổ già nào đấy, theo thói quen thường vẫn tới ngồi ở bờ suối này. Nơi nó ngồi, đất đã chai cứng lại. Không ai biết con hổ thường quen lệ đến đây lúc nào? Vào những buổi chiều hoàng hôn nhợt nhạt, hay các buổi sáng khi trời đỏ rựng trên đỉnh núi. Chỉ thấy phía trước nơi nó ngồi, một đám rãi rớt đã đóng thành nhiều lớp. Những lớp cũ khô đi và mốc rêu như da con kỳ đà, đám rãi trên cùng thì còn đọng nước. Một thứ nước nhờn như nhớt của loài ễnh ương, thường thấy ở các khe suối cạn. Vết chân con hổ in đầy trên đất. Vết chân mới hằn lên vết chân cũ, thành một đường mòn. Cứ đến bên suối là con vật dừng lại, ngồi đúng vào chỗ nó đã ngồi hôm trước, rãi chảy ra đụn cao thành đống như đống mối.
     Đoàn trinh sát đứng vây quanh chỗ ngồi của con hổ, cảm thấy con thú vẫn còn lảng vảng quanh đây, anh nào cũng rùng mình? Bởi vậy, tuy trời đã chạng vạng tối, tham mưu trưởng Hoàng Khấu quyết định đoàn tiếp tục đi thêm một quãng nữa để tránh xa nơi con hổ thường đến, rồi mới dừng lại nghỉ chân qua đêm ở đó.
     Đêm của rừng già đen trũi. Mưa mỗi lúc một to, nước xối lên mái tăng chảy ròng ròng xuống hai bên võng. Suốt quãng đời chiến sĩ ngoài mặt trận, tăng võng thân thiết với họ như mái nhà quê hương. Hôm nay mắc tăng võng ở khu rừng này, sớm mai khi con nai rừng còn thẩn tha tìm đến bên dòng suối uống nước, lại vội vã tháo tăng võng hành quân tiếp qua những con núi và các khu rừng khác. Những ổ lá để nằm của một đàn lợn rừng nào đó, mùi hăng hăng và hôi còn bốc lên nóng hổi, vết chân vẫn tươi in trên mặt đất xốp… tất cả cũng trở nên thân thuộc với họ như kỉ niệm.
     Nằm trên võng mắc gần chỗ với Hoàng là cậu Sảng: trung đội trưởng B2. Hoàng là trung đội trưởng B1, còn Đễ là trung đội trưởng B3. Trong tiếng mưa rơi, nhưng Hoàng vẫn nghe thấy tiếng cựa mình của Sảng… rồi rên hèm hèm trong cổ, chẳng khác nào tiếng khịt khịt của một con lợn rừng. “anh chàng vẫn chưa ngủ được?” – Hoàng nghĩ thầm trong bụng nhưng vẫn nằm im. Sảng cất tiếng gọi nhỏ:
-  Ngủ chưa Hoàng?
-  Ngủ rồi!
     Hoàng trả lời Sảng rồi bật cười trong đêm tối. “Chắc là lại nhớ mẹ thằng cu, nên mới không ngủ được chứ gì?”.
-  Kể thì cũng nhớ…
     Sảng trả lời, mắt nhìn lên mái tăng. Cơn mưa vẫn còn mạnh. Nước từ thân cây đã bắt đầu ngấm vào đầu dây võng. Sảng thì thầm tâm sự:
-  Nhiều lúc nhớ con đến phát cuồng lên được.
-  Thế, vợ không nhớ à?
      Sảng vội vàng thanh minh:
-  Nhớ! Nhớ lắm chứ, nhưng… à, mà ông chưa có vợ con, chắc không có tâm trạng như tớ?
     Hoàng vặn lại Sảng:
-  Ngoài vợ con ra, không còn ai đáng nhớ chắc?
-  Không, mình không muốn nói như vậy.
     Sảng xuýt xoa xin lỗi và nói tiếp:
-  Nghe nói chiến dịch này còn kéo dài suốt mùa mưa đấy!
-  Có thể còn kéo dài sang cả mùa mưa sang năm.
     Giọng Hoàng bỗng trở nên tư lự:
-  Anh em ở hậu cứ gặt lúa chắc cũng sắp xong.
-  Bây giờ mà được mấy lon gạo nếp nương, làm ống cơm lam thì tuyệt!
     Bỗng Sảng nhảy ra khỏi võng kêu lên: “Lưng tớ ướt sũng hết rồi!”.
-  Ai bảo cậu không làm cọc giả, chống mưa?
     Hoàng cười.
-  Thì từ sáng đến tối không mưa, cứ tưởng ông giời sẽ cho tạnh ráo cả đêm.
     Sảng lấy tấm vải mưa trong ba lô treo ở phía dưới chân, cuốn tròn vào người rồi lại nhảy lên võng nằm. Anh chàng nói có vẻ khoái trá:
-  Bây giờ thì bất chấp mưa. Nước mưa có chảy vào võng tớ như suối, tớ cũng mặc.
     Cách đấy vài bước đã nghe thấy tiếng ngáy của Đễ, phì phò như kéo bễ.
-  Cái tay Đễ này?
     Tiếng nói của quản lý Chu nằm cách đó cũng không xa lắm:
-  Người bằng một mẩu mà ngáy đến to.
     Chu nói tiếp: “Áp sát địch mà đi với tay Đễ này, có bận thiệt mạng”.
     Cậu chiến sĩ trinh sát mắc võng nằm phía ngoài đại đội trưởng Quảng, gọi giật giọng:
-  Anh Chu ơi!
-  Gọi gì thế ông trẻ?
    Chu làu bàu mắng.
-  Mai phát cho hai đứa trinh sát chúng em thêm ít muối để giã vào giềng, làm thức ăn khô ăn cơm nắm buổi trưa nhé?
-  Ông trẻ lấy muối ăn độn hay sao mà dữ thế?
     Nghe anh quản lý mắng vậy, nhưng cậu chiến sĩ vẫn không hề mếch lòng. Ở C4 này, còn ai lạ gì tiếng ông Chu kỹ tính? Nhưng thực ra anh ta lại rất dễ. Cậu trinh sát vẫn nài nỉ:
-  Thôi mà anh Chu! Hai đứa trinh sát chúng em cũng phải được ưu tiên một tý chứ? Thiếu muối, cổ đã lên tràng hạt rồi đây này.
-  Tiêu chuẩn mỗi một tháng chỉ được sáu lạng muối một đầu người. Thế mà mới có hơn mười ngày, các tướng đã xơi hết tiêu chuẩn?
     Quản lý Chu tiếp tục dậy bảo mấy cậu trinh sát:
-  Các cậu không thấy à? Đến bếp ăn của cả đại đội, nấu canh cũng không dám cho muối, chỉ dành muối để xào măng. Đi trinh sát đã được ưu tiên hơn anh em ở hậu cứ rồi, ăn cơm nắm cũng đừng chấm muối bỗ bã quá!? Phải biết tiết kiệm một tí, ăn lẹm vào cả số muối dự phòng rồi đấy!
     Đại trưởng Quảng giục họ đi ngủ, mai còn hành quân sớm.
     Cứ thao thức giữa rừng mưa, Hoàng miên man suy nghĩ. Trong đầu anh, hồi ức về những năm tháng đã qua trên chiến trường Tây Nguyên, hiện về như một cuốn phim. Sau trận đánh Chư Tan Kra hồi mùa xuân Mậu Thân 1968 đó, anh bị thương phải đi viện điều trị mất hơn ba tháng. Khi vết thương ổn định thì trung đoàn 209 của anh đã được lệnh điều động xuống chiến đấu ở chiến trường B2. Anh được bổ xung về trung đoàn pháo 40.
      Mấy năm sau đó, đánh liên miên hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Nào là, đánh chiếm cứ điểm Kleng, diệt Tiểu đoàn 62 QLVNCH, áp sát phía tây Kon Tum; đánh Ngọc Tu Ba; Ngọc Rinh Rua; Chư Nghé; Đức Cơ; Plâyme… Đến tháng 3 năm 1970, đánh tiểu khu Plâycần thì QGP bị thiệt hại nặng phải rút về hậu cứ củng cố.
     Vào mùa xuân 1971, trung đoàn pháo cùng với các sư đoàn bộ binh chủ lực QGP liên tục bắn phá thị xã Kon Tum. Mục tiêu đánh mạnh nhất là công kích sân bay Phượng Hoàng bằng nhiều loại pháo: pháo mặt đất 130mm, 122mm và hỏa tiễn H12, pháo cao xạ phòng không…
     Anh còn nhớ giai đoạn đánh vào thị xã Kon Tum, chiến sự xẩy ra rất ác liệt – Đó là vào tháng 5 năm 1971, có ngày địch thả đến 75 lần B52 rải thảm, hơn 100 lần chiếc loại cường kích A37 và AD6, đến hàng nghìn quả bom vào những khu vực QGP đã làm chủ hoặc đang tranh chấp. Sau chiến dịch 1971, anh lại được điều động về C4 Tiểu đoàn hỏa lực D16 này.
     Chiến trường Tây Nguyên ngay từ mùa khô cuối năm 1968 thật sự đã rất khó khăn rồi: Đường vận tải lương thực, súng đạn từ Bắc vào bị địch bắn chặn. B52 và máy bay cường kích ném bom rất ác liệt. Mặt trận vừa đói vừa thiếu súng đạn, hầu như đến mức kiệt quệ. Bộ đội phải ăn toàn măng và rau rừng. Lính chết vì bệnh tật cũng nhiều, nhất là bệnh sốt rét.
     Theo chỉ thị của Bộ tư lệnh mặt trận, đơn vị phải để hẳn một bộ phận đi hàng tháng ròng sang Căm Pu Chia tải đạn, gạo về. Đường về bị B52 rải thảm khốc liệt. Sau đó mới có chủ trương phát nương trồng lúa, trồng sắn – Chiến trường tự cung cấp lương thực cho mình. Lúc đó quân B2 ở đồng bằng , lính tráng có vẻ ung dung hơn. Họ có gạo, có cả tiền của Chính phủ VNCH để tiêu. Họ gọi các chiến sĩ trên chiến trường B3 Tây Nguyên là “loại lính mọi rợ” cũng vì thế!
     Hoàng nhớ, thời gian khi vừa ăn xong cái tết 1970 – Có một trận đánh, Mặt trận B3 giao cho Tiểu đoàn 30 thuộc Trung đoàn pháo 40 của anh, chi viện cho Trung đoàn 66 bộ binh vây ép 1 tiểu đoàn lính dù Mỹ ở Plâycần. Lúc tiếp cận trận địa vào một đêm trời tối như bưng, đường rừng đi toàn đá lởm chởm. Trận đánh diễn ra nhiều ngày vô cùng cam go. Địch rải nhiều đợt B52, một lần trúng đội hình E66, bộ đội chết la liệt.
     Trời vừa sáng, khi đơn vị đang phải làm công tác thương binh, tử sĩ để chuyển về tuyến sau, thì bất ngờ một đại đội Mỹ da đen từ đâu ập đến. Trung đoàn 66 lại phải dàn quân đánh, rồi ta cũng đánh cho đại đội Mỹ da đen ấy tan tác, tàn quân còn sót lại của chúng phải tháo chạy vào cứ điểm. Trận đó, đồng chí đại đội phó của đơn vị Hoàng bị trúng bom napan, cháy bỏng cả người rất nặng. Anh vẫn rất kiên cường, chỉ huy đại đội cho tới lúc quị hẳn. Tải thương đưa về được đến trạm phẫu của mặt trận, thì anh ấy hy sinh không cứu nổi.
     Những ngày sau lương thực cũng hết – Quân chủ lực Bắc Việt phải đào kiếm củ mài, rau rừng ăn độn thay cơm. Lúc đó, Mỹ lại đổ thêm 1 tiểu đoàn lính dù Hoa Kỳ nữa xuống cứ điểm. Trên đành phải cho lệnh rút lui.
     Trên đường rút về, có đồng chí y tá của trung đoàn đi đào củ mài, lúc cúi lấy củ mài gục xuống chết luôn không dậy được nữa. Ăn măng rừng, mộc nhĩ, rau tàu bay, môn ngứa… tất cả nháo nhào, đều phải nấu lên mà ăn chống đói. Ngứa móc họng cũng phải ăn. Người ta bảo: Bộ đội kiếm lá ăn trụi cả rừng.
     Có lần hành quân, lính đói quá… tối vẫn phải mò vào rừng đào sắn, lấy măng. Trời mưa to bị lạc mất đường, phải đốt cả dép cao su để lần đường bò về chỗ chốt.
     Đêm rừng Tây Nguyên vẫn mưa tầm tã. Hoàng nằm miên man suy nghĩ, như thể nó vừa mới hôm qua. Anh không khỏi rùng mình. Nghĩ đến bao đồng đội đã ngã xuống, lòng anh lại trào lên nỗi xót xa.
     Hoàng lại xốn xang nhớ về quê hương! Bao hình ảnh thương mến với bạn bè cùng những người thân, và với Thu của anh? Lòng anh bồi hồi một cách lạ thường. Thời gian đưa người ta xa dần nơi mình đã sinh ra. Sự xa cách ấy làm sống lại đủ điều: một tiếng rao đêm của người bán bánh bao, bánh khúc trong đêm Hà Nội; những tiếng xe lúc lắc, hay tiếng chổi khua của quét rác đêm; đến một mảng tường chùa đã mốc rêu xanh…Quá khứ như đứng dậy choáng ngợp trong tâm hồn Hoàng.
     Thực tại là ác liệt và khốn khổ? nhưng thiếu những kỉ niệm về quá khứ ấy, tưởng chừng như linh hồn trống trải và nghèo đói – Đó chính là tâm trạng của những người lính ngoài mặt trận.
     Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được hai lá thư của Thu. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
     Anh lại chạnh lòng nghĩ về người con gái Mường ở Hòa Bình? Anh thấy mình vừa có lỗi với Thu, vừa có lỗi với cô gái bản – Người ta không thể lẩn tránh được chính mình. Nhưng giờ có tự trách mình thì mọi chuyện đã rồi! Anh lại tự nhủ: “Thôi! Chiến tranh, tất cả sẽ xóa nhòa… em sẽ quên đi” – vì thế, anh đã không viết thư về cho Mỵ.
     Với người con gái bản, anh từng tự hỏi: Liệu có lúc nào mình đã yêu chưa nhỉ? Anh không thể không thừa nhận: hương vị và tình cảm của người con gái Mường ấy như làn gió thơm xoa mát lên tâm hồn anh. Tình cảm cô như chén nước trong muốt và tinh khiết. Mỗi khi hồi tưởng, Hoàng vẫn còn thấy lòng mình xôn xao – Nhưng rõ ràng, ranh giới giữa tình cảm của anh với cô và với người bạn gái thủa thiếu thời, có những phân cách rất khác nhau. Còn sự phân cách khác nhau thế nào? thì anh cũng chỉ cảm thấy, chứ không thể giải nghĩa được một cách rõ rệt.
     Khi triết lý về tình yêu, mọi sự so sánh đều trở thành khập khiễng và mâu thuẫn? Ta không thể mượn ngôn ngữ để thiết lập ra một công thức hay khuôn mẫu nào đó, mà định cho nó một qui tắc. Nó không giống như nhà toán học khi phát biểu một định lý, được rút ra từ một phép phối hợp tài tình, trong sự phát triển của khoa học tự nhiên.
    Thế là nằm trong đêm mưa giữa chiến trường, tâm trạng Hoàng trở nên bối rối. Tuy vậy, anh vẫn khẳng định trong mình rằng: chỉ có Thu là tình yêu đích thực của trái tim anh! Anh không thể sống thiếu cô.
     Từ xa, một loạt súng trung liên AR15 của Mỹ ở cao điểm Ngọc Bờ Biêng bắn vọng đến, xé toang sự tĩnh mịch của đêm rừng già. Sảng chợt thức giấc, thấy Hoàng vẫn trở mình trên võng, liền hỏi:
-  Hoàng vẫn chưa ngủ à? Khuya rồi đấy! Phải ngủ đi chứ, mai còn xuất phát sớm.
-  Cũng muốn nhắm mắt mà ngủ, nhưng lại thấy tiêng tiếc thế nào ấy!
     Hoàng nằm nghiêng người trên võng quay về phía Sảng, anh nói tiếp:
-  Nhiều đêm tớ thèm mơ một giấc mơ đẹp, sáng mai dậy thấy mình thật tỉnh táo.
-  Ừ, cuộc sống của những người lính chiến đầy những sự khốn khổ và hy sinh, ai cũng thèm những giấc mơ đẹp, những kỉ niệm thân thương ở quê hương… trở thành những liều thuốc bổ dưỡng tinh thần.
     Sảng nói vậy rồi lại giục Hoàng:
-  Nhưng thôi, phải ngủ đi ông bạn! Cuộc chiến nghe chừng còn khốc liệt lắm! Hồi ở Bắc đã cứ tưởng, không vào mau thì giải phóng đến nơi, sẽ chỉ nhặt ống bơ rỉ? vào đến chiến trường, đánh nhau rồi mới biết…
      Sảng khẽ thở dài: “mà thôi, ngủ đi! Phía trước là chiến trận chứ không phải là những giấc mơ…”.  
     Chỉ một loáng, đã nghe thấy tiếng ngáy đều đều của Sảng. “Hắn vô tư thật” – Hoàng nghĩ vậy. Trời đã về khuya, các đồng chí của Hoàng đều đã ngủ say, chỉ còn hai người lính gác trong đêm thì vẫn thức. Qua kẽ lá rừng, Hoàng nhìn lên một khoảng trống, cơn mưa nhạt dần. Những vì sao sáng láng lại hiện lên trên nền trời xanh ngắt.
      Cơn mưa dứt, những con thú đã ra rừng để đi kiếm ăn. Tiếng một con nai đực gọi con nai cái. Giọng của nó mỗi lúc một khàn, như thể nó đã gọi rát cổ mà bạn gái của nó chưa chịu đến? Ở quãng rừng gần đấy, có con nai cái nào đó đang hít… hít… những ngọn lá non còn mát những giọt nước mưa - nghe tiếng con đực gọi, vểnh tai lên nghe ngóng? Dáng chừng còn tiếc rẻ cái vị chát và ngọt của lá, nên lại cúi xuống ăn tiếp. Bỗng nó nhảy té lên, chạy miết lại nơi con nai đực đang gọi.
     Có con chim nhỏ ngủ quên, ngã chúi xuống một cành cây thấp. Nó kêu choe chóe rồi đi lần lần mấy bước, rúc đầu vào một đám lá gần đấy, ngủ tiếp. Đêm đó cũng được coi là một đêm yên bình của đoàn trinh sát. Hoàng chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.08.2023 11:03:35 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:23:36
 
 
 
 
                                                                           13-
 
     Sáng sớm hôm sau, đoàn trinh sát D16 tiếp tục xuất phát tiến gần về phía cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Hành quân đến xế trưa, họ leo lên một ngọn núi có tên là “nghìn không lẻ một” (1001). Đứng trên đỉnh 1001, có thể chiếu ống nhòm quan sát những hoạt động của địch trên cao điểm Ngọc Bờ Biêng, với khoảng cách 1km đường chim bay.
     Tham mưu trưởng Hoàng Khấu trải tấm bản đồ lên mặt đất, nói với các cán bộ và chiến sĩ trong đoàn:
-  Đây là nơi chúng ta đang đứng!
      Ông chỉ tay lên bản đồ: “… và chỗ có đánh dấu chữ thập (+) đỏ này, chính là cao điểm Ngọc Bờ Biêng mà các đồng chí đang nhìn thấy.”.  
     Ông giơ tay chỉ về phía cao điểm, tiếp tục nói:
-  Từ 1001 này, đi theo con đường yên ngựa dài hai cây số đường vòng, các đồng chí sẽ đến một khu đồi thấp, có tên là “mắt ngỗng” – Đấy là hướng chính diện để tiến vào cao điểm. Hướng mà Tiểu đoàn hỏa lực D16 ta trợ lực cho hai tiểu đoàn E48 bộ binh của Sư 320, mũi chủ công đánh lên đồi A – còn Tiểu đoàn 3 E48 cùng với quân địa phương, đánh hướng thứ yếu lên hai đồi B và C.
     Tham mưu trưởng Hoàng Khấu diễn đạt tỉ mỉ:
-  Theo như trinh sát bám địch báo về, con đường “mắt ngỗng” thỉnh thoảng vẫn có những tốp thám báo địch đi tuần tra qua. Bởi vậy, chúng ta phải hết sức đề phòng để không bị lộ.
       Ngọc Bờ Biêng là một cụm cứ điểm kiên cố, án ngữ phía nam vào Thị trấn Tân Cảnh. Theo quyết định của Bộ tư lệnh B3: Trong chiến dịch này, bộ đội chủ lực hợp với quân giải phóng địa phương phải đập nát cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua… chọc thủng phòng tuyến Tân Cảnh – Đắc Tô, tiến đến giải phóng Kon Tum – làm bàn đạp cho toàn mặt trận, để giải phóng Tây Nguyên, Nam Bộ.
     Tham mưu trưởng Hoàng Khấu gập tấm bản đồ lại, căn dặn rất cặn kẽ: Đã hai mươi năm nay, Ngọc Bờ Biêng là một trong những cụm cứ điểm làm tổn hại rất nhiều xương máu QGP, nhưng ta chưa bao giờ chiếm được. Ông nhấn mạnh:
-  Để đảm bảo thắng lợi, chúng ta phải có công tác trinh sát và chuẩn bị thật chu đáo. Như Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh trưởng Mặt trận B3 vẫn nói: “Kế hoạch tác chiến càng công phu kỹ lưỡng bao nhiêu, thắng lợi càng dễ bấy nhiêu. Thế trận càng phức tạp, thì tình huống càng diễn ra giản đơn”.
     Kon Tum chính là cửa ngõ để đi vào Tây Nguyên. Thọc qua Kon Tum và Buôn Ma Thuột là có thể khống chế được hoàn toàn Tây Nguyên – Mà Tây Nguyên là yết hầu của cả chiến trường miền Nam. Một khi đã làm chủ Tây Nguyên, có thể đưa quân chủ lực miền Bắc kết hợp với QGP miền, tràn xuống tiến công đánh vào các vùng đồng bằng và thành phố.
      Hoàng và đoàn trinh sát đứng trên đỉnh 1001 nhìn về phía cứ điểm Ngọc Bờ Biêng – Nơi mà cả Tiểu đoàn hỏa lực D16 của anh cùng với Trung đoàn 48, sắp tới sẽ tắm mình trong máu lửa. Giây phút này nhìn lên, bầu trời Tây Nguyên sáng và cao. Cơn mưa đêm đã dứt từ sáng sớm, mặt trời lại chiếu chứa chan lên các thảm rừng. Đồi núi và thung lũng bao quanh cứ điểm, khung trời xanh êm thoáng gợn một chút mây hồng.
      Mặc dù thỉnh thoảng vẫn có vài chiếc máy bay trinh sát OV10 hay L19 bay vè vè trên đầu, nhưng mặc nó. Trung đội trưởng Hoàng bỗng nhiên lại nhớ đến bài hát “Tây nguyên! Ai một lần đi qua đó”:
                    Tháng 3 mùa con ong đi lấy mật
                    Mùa con voi xuống sông uống nước
                    Mùa em đi phát rẫy làm nương…
      Mặc dù bây giờ đã là tháng tư rồi. Nếu không có chiến tranh thì Tây Nguyên đẹp và mơ mộng biết bao nhiêu. Chỉ có những ai đã từng đi qua cuộc chiến như anh và các đồng đội hôm nay, được thấy cả mùa hoa dã quỳ nở vàng rực ngay trong bom lửa, mới thấm thía câu hát:
                    Tây Nguyên! Ai một lần qua đó
                    Suốt cuộc đời nhớ lại vẫn thương nhau…
      Hoàng đã đi qua bốn mùa hoa dã quỳ nở vàng rực Tây Nguyên, bốn mùa con ông đi lấy mật. Những địa danh ở Kon Tum như Chư Mom Ray, Kleng, Ngọc Tu Ba, Gia Lai… rồi những dòng sông Pô Kô, Sa Thầy… những con đường quốc lộ số 7, 14, 18, 21… từng in dấu chân những người lính mặt trận như anh, với những trận đánh máu lửa. Nhưng cũng chính ở đây – trên mặt trận Tây Nguyên ác liệt và gian khổ này, đã gắn kết những người lính trận lại với nhau, thương nhau như máu thịt. Dù đói khát họ vẫn san sẻ, nhường nhịn nhau từng lưng cơm, củ sắn, nhúm muối. Chia nhau từng viên thuốc sốt rét. Dành nhau từng ngụm nước trong các cuộc hành quân, hút chung cả đồng đội một điếu thuốc lào, một hơi thuốc lá miên – vẫn nghe thấy những tiếng cười ròn tan giữa bom đạn chiến trường.
      Đoàn trinh sát truyền nhau chiếc ống nhòm nhìn về phía Ngọc Bờ Biêng: Một cụm cứ điểm gồm ba khu đồi lớn, đứng thành thế chân kiềng bảo vệ lẫn nhau. Khu đồi A – cứ điểm chính diện gần họ nhất, trung tâm của cụm cứ điểm là một đỉnh núi dốc ngược. Mũi chủ công của Trung đoàn 48 và D16 muốn đánh cứ điểm này, phải vượt qua một cái vực sâu hun hút như địa ngục. Chỉ có một con đường tương đối bằng phẳng nối liền cao điểm với Mắt Ngỗng - Ở tuyến này, địch phòng thủ rất vững chắc. Có những năm, các tiểu đoàn bộ binh của QGP bất ngờ từ dưới vực đánh lên cứ điểm, đã phải trả một giá rất đắt mà vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của địch.
      Bên trong cái vỏ lạnh lùng của cứ điểm kia, những trận chiến nóng bỏng và ác liệt đã từng diễn ra. Những trận chiến mù trời khét lẹt mùi bom đạn, và mùi da thịt của những người lính trận cả hai bên. Chiến tranh là vậy!
      Hoàng lại chạnh nghĩ tới những người đồng đội của anh: bao chiến sĩ gương mặt còn thật trẻ, nhiều anh vừa mới rời ghế nhà trường, dáng như các thư sinh. Giờ đây họ đã thành những người lính trận cảm tử… và chỉ ít ngày nữa thôi, có người sẽ phải nằm xuống vĩnh viễn, không bao giờ trở về nơi mảnh đất mình đã sinh ra được nữa. Hôm nay họ vẫn tươi cười với anh, nhưng ngày mai… chỉ còn lại trong kí ức. Có thể đó là một kí ức ghê người, khủng khiếp? và biết đâu, cả anh nữa liệu có qua được trận chiến tới không? Không ai trả lời được điều đó!
      Tiếng tham mưu trưởng Hoàng Khấu chậm rãi:
-  Cùng phối hợp với Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn 16 của ta để đánh Ngọc Bờ Biêng này – các trung đoàn chủ lực mặt trận sẽ đồng loạt tiến đánh Pleicần, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba…
      Ông dừng lại giây lát:
-  Sau khi ta chiếm được Ngọc Bờ Biêng rồi, Trung đoàn pháo 40 của mặt trận sẽ tiếp quản trận địa pháo trên cao điểm của địch, dùng chính những họng pháo của chúng bắn thẳng vào các căn cứ quân sự của QLVNCH ở Tân Cảnh – Đắc Tô. Nghĩa là, dùng pháo địch để diệt địch!
      Giọng người tham mưu trưởng dằn xuống, chắc nịch như thể chiến thắng đã nằm trong bàn tay của ông:
-  Khi đó các trung đoàn bộ binh khác như E52, 64, 66 cùng phối hợp với các Tiểu đoàn pháo 30, 31… tràn qua Ngọc Bờ Biêng vào đánh Đắc Tô – Tân Cảnh, hợp lực với QGP địa phương ở dưới đấy – Sau đó, tất cả cùng tiến công vào chiếm thị xã Kon Tum.
      Lúc này, họ nhìn thấy mấy chiếc trực thăng Huê Kỳ bay đến, hạ cánh xuống cao điểm A trong Ngọc Bờ Biêng. Chúng tiếp tế lương thực, đồ hộp, nước uống và cả gái điếm cho những tên sĩ quan QLVNCH với mấy tên cố vấn Mỹ.
      Nghỉ ngơi một lúc, đoàn trinh sát D16 lại tiếp tục xuất phát. Họ rời đỉnh 1001, cắt tọa độ xuyên rừng tiến về phía Mắt Ngỗng – Nơi mà họ sẽ cho quân đến chiếm lĩnh trận địa, chuẩn bị đánh Ngọc Bờ Biêng.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:25:48
 
 
 
                                                                              14-
 
      Vượt qua các đỉnh núi cao chót vót và những vực sâu hun hút, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn 48 bộ binh đã đến vị trí tiếp cận trận địa dưới chân cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng – Nhưng C4, đại đội súng cao xạ 12ly7 và tiểu cao 14ly5 của Tiểu đoàn hỏa lực D16 trợ chiến, thì dàn trận trên một ngọn đồi đối diện với cao điểm A, cách nhau là một con vực sâu thẳm. đó là một cánh rừng già, phong cảnh không kém vẻ hữu tình. Họ tiến vào trong đêm một cách lặng lẽ, đào trận địa. Sáng ra, từ đâu chạy đến một đàn vượn bạc má khoang đen trắng. Giá như gặp tại hậu cứ hoặc ở rừng phía tuyến sau, là anh em chiến sĩ sẽ dùng AK bắn hạ vài con để cải thiện. Ở đây thì phải tuyệt đối bí mật, đến ánh lửa cũng không dám bật. Anh nào chót lên cơn ho thì phải ôm lấy ngực, dùng khăn tay ấn vào miệng rồi úp mặt xuống đất. Chỉ nghe thấy tiếng khục khục ục ra từ trong cổ họng. Cơn ho lên, có cậu đỏ mặt, tía tai mà vẫn phải cố nén. Nhìn cảnh tượng mà thương quá! Nhưng nếu để địch phát hiện, trận đánh bại lộ thì hậu quả sẽ không biết đâu mà lường.
      Từ trận địa này, những khẩu súng cao xạ 12ly7 – 14ly5 của họ có thể bắn thẳng sang các ụ pháo, lô cốt và cả máy bay địch đến tiếp viện… yểm trợ cho Trung đoàn 48 tràn lên đánh cứ điểm.
      Sau một đêm tập trung xây dựng trận địa. Mặt trời vừa nhô lên khỏi ngọn cây trên đỉnh núi, đã thấy hai chiếc máy bay trinh sát OV10 từ đâu bay tới. Khoảng 10h sáng, lại thấy một chiếc L19 lượn đi lượn lại hàng chục vòng, khắp mấy khu rừng quanh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Chúng cứ thu vòng bay hẹp dần lại, ngó nghiêng nhòm xuống soi mói. Có lúc, tưởng chúng đã phát hiện ra?
      Họ được biết, đêm nay vào giờ G sẽ phát lệnh nổ súng, nên mọi công tác chuẩn bị phải khẩn trương, chu tất. Khoảng 5h30 phút chiều tối, hai đồng chí trong trung đội của Hoàng xuống dưới bếp anh nuôi ở gần suối, lấy cơm mang lên cho trung đội. Hai chiến sĩ phải cho cơm canh vào hai bên đôi quang bằng chão, với chiếc đòn gánh làm bằng một ống tre nhỏ. Họ đã quẩy cơm lên đến triền núi, cách trận địa chỉ còn hơn 100 mét thì trời tối hẳn. Đây là bữa cơm chuẩn bị  khai hỏa trận đánh, bộ phận anh nuôi được quản lý cho gia thêm thực phẩm, chuẩn bị khá thịnh soạn. Hai chiến sĩ hý hửng, đang tưởng đến niềm vui của anh em pháo thủ được thưởng thức bữa cơm ngon ngay giữa chiến trường? vì có thể sau bữa cơm này, đêm nay khi đã vào trận chiến, có đồng chí sẽ không bao giờ còn được thưởng thức những bữa cơm cùng đồng đội nữa. Ở đây, nghĩ đến cái chết cũng bình thường, đơn giản lắm! Họ không cần biết đến sự kiêng kỵ, hay nói gở mồm.
      Có những lần mấy anh em đang ăn cơm với nhau, một cậu ra ngoài vòi nước ở khe núi rửa tay. Một quả pháo lạc và anh gục ngay xuống chết trước mặt đồng đội, vẫn còn ngồi quanh mâm cơm trò chuyện.
      Lại có đêm dọc đường hành quân vào chiến dịch, ba đứa cùng nằm với nhau trong một cái hầm không có nắp: gọi là hầm mở. Đào sâu khoảng nửa mét, rồi rải lá nằm. Khoảng nửa đêm, cũng một quả pháo lạc vu vơ ở đâu bay đến. Một mảnh pháo nghiến đứt ngay khoanh đầu của anh nằm ở giữa. Mảnh pháo xiên qua trán, tách đôi mảnh đầu ra như khúc giò lụa. Máu tung ra chan chứa, đỏ lòm, thấm hết vào bao gạo mà người chiến sĩ gối đầu để ngủ. Hai đứa nằm bên giật nẩy người choàng dậy, thì người đồng đội của mình đã hy sinh. Thương lắm, xót lắm, nhưng chiến tranh là như thế! Anh em lặng lẽ khiêng đồng chí mình ra, bó vào tăng võng rồi chôn ở bìa rừng,  đánh dấu sau này tìm lại xác cho khỏi mất. Cũng không còn nước mắt để khóc nữa.
      Lại nói về chuyện hai chiến sĩ mang cơm cho trung đội lên trận địa – Bữa cơm thịnh soạn ấy có thịt hộp, măng xào với nộm hoa chuối rừng… và cả món cá kho, mà sáng nay mấy anh nuôi quây được ở dưới suối. Khi hai anh em quẩy cơm đến gần trận địa thì trời đất bỗng nhiên rung chuyển, một loạt pháo từ đâu bắn tới. Tiếng nổ ầm ầm, khói đen mù mịt. Hai người chỉ kịp chúi vào khe của hai cây gỗ đổ bên rừng. Khi loạt pháo dứt, họ lồm cồm bò dậy – thì ôi thôi, hai quẩy cơm cùng thức ăn đã bay đâu mất? còn trơ lại mẩu dây chão và ống tre làm đòn gánh. Nhìn lên cả một mảng rừng, cây cối và đất đá bị cầy xới ngổn ngang. Hai người vội chạy về trận địa, mặt buồn tiu ngỉu… như là người có lỗi. Anh em trong trung đội nhìn thấy họ chạy về, mừng rỡ đến đón và an ủi:
-  May quá, người không chết là tốt rồi! Ta tạm dùng một bữa lương khô dự phòng cũng được. 
     Giây lát, đại đội trưởng Quảng đến động viên:
-  Rất may là các cậu không bị hy sinh! Thôi, để tớ bảo với bộ phận anh nuôi tìm cách giải quyết, trung đội sẽ lại có cơm ăn.
      Nói rồi, ông cử cậu liên lạc xuống bếp bảo anh nuôi tìm cách xử trí. Cả đại đội biết chuyện, anh em lập tức san sẻ phần cơm của các trung đội để đưa cho trung đội của Hoàng.
      Câu hỏi đặt ra: chẳng lẽ địch phát hiện được ta chuẩn bị đánh chăng? Nhưng không thấy động tĩnh gì. Đây chắc chỉ là loạt pháo chúng bắn lung tung, bừa bãi ra bốn phía để đe nẹt, đề phòng. Ta biết tỏng cái thói của địch, nên vẫn giữ bí mật tuyệt đối đến giờ nổ súng.
      4h15 phút sáng, trận đánh mở màn. Các loại pháo đi phối thuộc với Trung đoàn 48, kể cả pháo mặt đất của mặt trận B3 từ xa chi viện, đều đồng loạt đánh vào cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng. Từ hướng đường 14, các cỡ pháo lớn của Trung đoàn 40 như pháo 85 – 105mm căn tọa độ bắn vào các lô cốt địch. Sau đó cối 82mm, DKZ của D16 – Tiểu đoàn hỏa lực tiến theo bộ binh bắn thẳng vào trong trận địa.
      Ban chỉ huy QGP bắt được tín hiệu thông tin của địch báo về trung tâm. Chúng báo: phía trước, phía sau, bốn phía đều bị Việt Cộng pháo kích dữ dội. Chúng xin điều máy bay đến ném bom vào các khu vực của QGP và pháo binh chi viện. Được một lát, các phản lực Mỹ và trực thăng bay đến,  nhưng thời tiết khi đó lại rất bất lợi cho chúng: mây rất thấp, núi cao – Nếu bay cao thì máy bay không thể ném bom, oanh kích chính xác vào các mục tiêu, hỏa điểm của QGP… còn bay thấp thì làm mồi cho súng cao xạ 12ly7 - 14ly5 của C4 Tiểu đoàn 16 – Đấy là do núi cao, quân chủ lực Bắc Việt không thể kéo pháo cao xạ 37ly vào được. Súng máy cao xạ 12ly7 mang vác thuận tiện thì không nói làm gì, nhưng còn loại tiểu cao 14ly5, họ cũng phải tháo rời ra một số bộ phận, rồi dùng đôi vai bộ đội mang vác vào trận địa – khi chiếm lĩnh lại lắp vào mà đánh.
      Nói về trung đoàn bộ binh 48 – Trên báo cho biết: Tại Ngọc Bờ Biêng hiện có 1 tiểu đoàn lính dù Mỹ và 2 tiểu đoàn biệt động QLVNCH đóng giữ. Đêm đó khi cho quân vào ém vây cụm cứ điểm, các tiểu đoàn đã phải cho trinh sát vào trước cắt hàng rào. Ở hai cao điểm phụ B và C thì địch chăng 12 lớp hàng rào, còn cao điểm A là cao điểm chính, anh em trinh sát phải cắt tới 15 lớp hàng rào. Mìn và lựu đạn, chúng gài khắp nơi. Cắt cũng rất cơ cực, trinh sát phải dùng kìm cộng lực mà cắt. Cắt phải nhẹ nhàng, kết hợp tháo gỡ mìn. Nếu cắt mà rung dây thép gai, pháo sáng và mìn, lựu đạn phát nổ là toi. Cắt rồi phải tháo gỡ mìn, lựu đạn, dọn đường cho bộ binh xông lên. Pháo sáng thì phải lấy chốt ra, nếu lỡ để nó bật một cái… bắn vọt lên sáng trưng, là lộ. Địch phản kích ra có thể gây thiệt hại, hy sinh, đồng thời làm hỏng cả chiến dịch.
      Còn bộ phận đặc công của trung đoàn – Từ mấy hôm trước đã phải mò hẳn vào bên trong để xác định cụ thể vị trí: Sở chỉ huy địch, khu điện đài, vị trí lô cốt, bãi pháo ở chỗ nào? Về báo cáo tường tận cho trung đoàn. Tư lệnh trưởng của Sư đoàn 320 còn cho 1 tiểu đoàn của E52 dự phòng ở tuyến sau, sẵn sàng chi viện, cùng Trung đoàn pháo 40 của mặt trận, hợp lực tạo thế phản công cho Trung đoàn 48 tiến đánh, chiếm hoàn toàn cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng.
      Sau trận mưa pháo của quân chủ lực mặt trận giải phóng, những cánh quân của các tiểu đoàn ào ạt nổ súng, xông lên cứ điểm. Các ổ súng máy từ các lô cốt địch cũng chống trả quyết liệt. Lúc này, các máy bay tiêm kích ném bom và trực thăng tới bắn xối xả vào đội hình của QGP. Cuộc tấn công lên cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng diễn ra nhiều đợt. Pháo rồi các phi cơ Mỹ như loại AC130 bắn súng máy xa xả, ngăn chặn không cho QGP tiến lên cao điểm.            
      Súng máy cao xạ 12ly7 và tiểu cao 14ly5 của D16 bắn chi viện rất quyết liệt. Khi bộ binh xung phong lên, đại đội pháo cao xạ C4 chỉ để lại hai trung đội 14ly5 từ trận địa bắn chéo xuống cao điểm A áp đảo địch, còn các tiểu đội súng máy cao xạ 12ly7 của trung đội trưởng Nguyễn Hoàng cùng những đại đội cối 82mm, súng hỏa tiễn cá nhân DKB và rốc két B41 của tiểu đoàn thì tiến theo bộ binh đánh thẳng vào cứ điểm.
     Sau hơn một tiếng, đại đội súng cao xạ phòng không C4 đã bắn rơi 1 trực thăng đuôi nhọn chuyên phóng rốc két, 1 AD6 lao xuống ném bom và 1 AC130 bốc cháy ngay trên bầu trời. Anh em còn nhìn thấy rõ đám lửa lớn ở thân máy bay kéo theo một vệt khói khổng lồ, lao xuống rơi ở một cánh rừng cách xa khoảng vài cây số.
      Các loại phi cơ Mỹ đến tiếp ứng rất nhiều, chúng thả hết đợt bom này đến đợt bom khác xung quanh cứ điểm và những khu vực cao điểm mà QGP đã chiếm được. Trung đoàn 48 bị thương vong, tổn thất khá nhiều. Tiếng bom nổ long trời, khói bụi và đất đá bay mù mịt. Từng đoàn máy bay A37 – AD6 bắn phá dữ dội, cả trực thăng vũ trang Mỹ loại Cobra bắn xối xả vào đội hình của trung đoàn bộ binh, kèm với phản lực F101 ném bom. Một khẩu sáng máy cao xạ 12ly7 của trung đội Hoàng bị súng hỏa tiến địch loại Sagger bắn tung đi, ba chiến sĩ hy sinh ngay tại chỗ.
      Trong trận đánh vào cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng, thì mũi tiến công cao điểm A của tiểu đoàn chủ công E48 là diến ra cam go nhất. Ông tiểu đoàn trưởng D1 của trung đoàn đã tung tất cả lực lượng chủ chốt, đặc biệt tinh nhuệ của tiểu đoàn vào trận đánh. Mũi tiến công đã triệt hạ được một số cụm, chốt cơ bản của địch, mở đường cho cả tiểu đoàn xông lên – Tuy nhiên, Mỹ và các tiểu đoàn biệt động QLVNCH đã xây dựng ở đây một hệ thống cụm kháng cự liên hoàn từ trên các dốc đá rất kiên cố, cùng các chốt cố thủ hai phía bắn chéo sang, nên bộ đội dù được pháo chi viện, đã nhiều đợt xung phong mà vẫn bị đánh bật trở lại. Từ các vị trí cố thủ ấy, tiểu đoàn lính dù Mỹ và quân biệt động VNCH, được yểm trợ cả không quân và pháo binh đánh trả quyết liệt, chặn đứng các cuộc tiến công của QGP.
      Hai tiểu đoàn ở hướng chủ công E48 thương vong khá nặng nề. Tình hình cấp bách, Ban chỉ huy mặt trận điều thêm 2 đại đội dự bị của trung đoàn 52 xông vào tiếp ứng. Thế trận giằng co đã được giải tỏa. Hỏa lực địch ở đỉnh A câm bặt. Tiểu đoàn chủ công E48 mở đợt tấn công cuối cùng vào trung tâm cao điểm A. Các loại hỏa lực chi viện cho trung đoàn như cối 82mm, DKZ, đại liên bắn như mưa.
       Pháo địch bắn trả dữ dội. Không quân Mỹ trên đầu bỏ bom, phóng rốc két vào đội hình QGP đang tấn công lên – Súng máy cao xạ 12ly7 nổ ròn rã, thả sức bắn. Từ trên đỉnh đồi bên kia, tiểu cao 14ly5 vừa đánh máy bay vừa chúc nòng bắn vào các hỏa lực địch. Súng B41 phóng thẳng vào các lô cốt phòng thủ của chúng, cối 82mm dập xuống không ngớt. Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 gia tăng cả pháo kích của mặt trận cho Trung đoàn 48.
      Bị o ép, lính Mỹ trong chốt liên tục gọi không quân và pháo kích ứng cứu. Máy bay ném bom đào, bom napan vào những địa phận QGP đã làm chủ. Sau đó, tiểu đoàn lính dù Mỹ và quân biệt động VNCH tổ chức nhiều đợt phản kích từ trong chốt ra, song đều bị Việt Cộng đánh bật vào. Chúng bị thương vong và chết nhiều, vẫn không ra nổi. Thừa thế, bộ đội xông lên đập nát các cụm, điểm còn lại.
      Máu và bom đạn hòa trộn trong bụi lửa chiến trường. Địch chết, bộ đội chết… phơi đầy xác trên mặt đất. Cứ điểm bị cầy tung, đất đá và dây thép gai chằng chịt.
     Ở cao điểm B: một kho đạn pháo địch bị trúng hỏa tiễn B41 của QGP bốc cháy, nổ ầm ầm như một trận động đất. Khói lửa mịt mù loang ra mấy khu rừng.
      Máy bay địch quần thảo trên bầu trời vây quanh cứ điểm. Chúng cho cả B57 đến đánh tọa độ khu vực mà chúng cho là ban chỉ huy quân chủ lực Bắc Việt ở đó và nơi bộ đội ém quân. Có lần chúng đánh tọa độ đúng Sở chỉ huy Sư đoàn 320, nhưng cũng may địch chỉ thả bom trúng vào mé bên. Cũng có quả rơi gần sát, nhưng hầm của Sở chỉ huy được xây theo kiểu hầm chữ A  Triều Tiên kiên cố, nên không ai việc gì.
      Sau hơn bốn tiếng đồng hồ - vào lúc gần 10h sáng thì toàn bộ cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã bị Trung đoàn 48 tiêu diệt. Số còn lại co cụm, kéo cờ trắng xin hàng. Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 cho một đại đội của Trung đoàn 52 lên giải giáp tù hàng binh về tuyến sau. Lập tức ngọn cờ giải phóng nửa xanh, nửa đỏ được kéo lên trên nóc hầm chỉ huy của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ. Gió đèo thổi mạnh, cờ giải phóng bay phần phật.
      Trong chiến tranh, sau những trận đánh ác liệt như ở Ngọc Bờ Biêng thế này – người ta gọi là “vùng đất chết”! Mồ chôn hàng ngàn lính trận cả hai bên.
      Về trận đánh – Tin tức từ các đài phương Tây đã bình rằng: “Một tiểu đoàn lính dù Mỹ cùng hai tiểu đoàn biệt động quân VNCH, chốt giữ trên cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã bị thất bại thảm hại. Mỹ ném hàng nghìn tấn bom xuống xung quanh cứ điểm với hàng ngàn trái pháo để giành sự sống, vẫn bị Việt Cộng chặn đứng, tiêu diệt.
      8 máy bay gồm cả trực thăng, tiêm kích AD6 – AC130 bị bắn hạ. Không có cách nào để đưa được quân bị thương ra khỏi chiến trường. Lính chết nằm chạt trên đồi. Cách duy nhất để phân biệt được người sống, người chết… là khi Việt Cộng dùng pháo cối, B41 dội vào – người còn sống thì đổ xô chạy, kẻ chui vào những chiếc boong ke ở trên đồi, nhảy vội xuống giao thông hào, lính bị thương thì quằn quại bò tìm nơi ẩn nấp sau những gốc cây đổ ngổn ngang, hay trong những hố pháo lớn.”.
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:28:03
 
 
 
                                                                                                        15-
 
      Sau khi cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng bị tiêu diệt. Lúc này ở đồi A, cùng với đội hình các chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn hỏa lực D16 – Trung đội trưởng Hoàng dẫn đầu trung đội súng máy cao xạ 12ly7, tràn lên cao điểm.
      Tại căn nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ, được xây dựng bằng các bao cát. Một tên sĩ quan Mỹ chết nằm ngã sấp trước cửa, đầu lộn vào phía trong. Có lẽ lúc đó, hắn ra ngoài đang định chạy vào thì trúng đạn của bộ đội. Hai tay tên sĩ quan Mỹ giang về phía trước, nằm dốc theo những bậc lên xuống, giồng như tư thế của vận động viên bơi lội từ trên cầu phao đang nhào xuống. Khẩu súng ngắn của y văng ra rơi xuống sàn nhà hầm. Không thấy xác của tên tiểu đoàn trưởng Mỹ đâu? Có thể nó đã chết ở trên cứ điểm trong đống xác của lính, cũng có thể đã bị bắt ở đám tù binh.
      Các chiến sĩ đẩy xác tên sĩ quan Mỹ sang một bên. Hoàng cùng anh em bước vào trong nhà hầm. Một con chó bẹc-giê màu xám từ trong góc nhà hầm nhảy chồm ra, định lao tới cắn. Khẩu AK của Hoàng lập tức rung lên, con chó ngã vật xuống, mồm còn kêu ăng ẳng. Hai chân con chó cào làm nát cả hai ống quần của tên Mỹ, may bằng loại vải dầy cộp. Bộ đùi lông lá của nó bị móng con chó cào xé còn loang máu. Máu ộc ra từ cổ con chó đỏ lòm, toé lên người tên sĩ quan. Hai giống sinh vật ấy nằm đè lên nhau, lấp cả một khoảng căn nhà hầm.
      Hoàng cầm cây đèn pin soi loằng nhoằng vào bên trong, nói:
-  Hôi như cóc chết!
      Căn nhà hầm chỉ còn trơ lại hai cái xác và một số dụng cụ của bộ phận thông tin, vô tuyến. Họ kéo nhau đi chỗ khác. Đến trước một căn nhà có cửa bằng sắt, đóng kín với một ổ khoá lớn. Mấy anh em chiến sĩ lấy hết sức dẩy rầm rầm vào cánh cửa. Phiến cửa được làm bằng một loại tôn khá dầy, không lay chuyển. Một chiến sĩ bước hẳn ra ngoài, đưa ống tay áo quệt những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán, chửi đổng:
-  Đồ chó má! Kho đạn thì nó để tênh hênh, kho lương thì nó khoá chắc thế?
       Một anh khác phụ hoạ:
-  Bọn chỉ huy nó sợ lính tráng vào lấy bừa bãi, chứ sao!
      Hoàng hỏi anh em:
-  Không thể phá được à?
-  Báo cáo trung đội trưởng, cửa chắc lắm ạ! Trung đội trưởng cho chúng em dùng một liều bộc phá, sẽ tung hết.
      Cả nhóm chiến sĩ đồng tình:
-  Phải đấy! Trung đội trưởng đồng ý đi, chắc kho lương này nhiều thứ ngon lắm, đấy ạ!
      Hoàng cười rồi gật đầu, nhưng vẫn nhắc anh em dùng bộc phá cho cẩn thận.
-  Trung đội trưởng cứ yên trí, chúng em là lính dùng bộc phá đã có tay nghề rồi mà.
      Một cậu quay lại hỏi các đồng ngũ:
-  Bộc phá đâu?
-  Bộc phá đây, có ngay!
      Một anh khác nhanh nhảu đưa đến một thỏi bằng bánh xà phòng thơm, nói:
-  Thỏi này cũng đủ sức công phá cả căn nhà vừa vừa đấy!
-  Đưa cho thằng Lãm nó nổ.
      Nói rồi, anh ta quay sang hỏi một chiến sĩ tên là Lãm:
-  Bằng này đủ chứ?
-  Ừ! Thoải mái rồi, không nên dùng quá lớn.
      Lãm là lính trinh sát của Tiểu đoàn 16, đi cùng dẫn đường cho trung đội súng máy cao xạ 12ly7 của Hoàng vào trận đánh này. Cậu ta có khuôn mặt bé choắt và đen nhẻm. Lãm cầm miếng bộc phá từ tay người chiến sĩ nọ, tiến vào gần cửa sắt căn nhà hầm gài ngòi nổ. Gài xong, cậu ta hét các chiến sĩ đang vây quanh mình:
-  Tất cả tránh ra xa, tìm chỗ nấp đi. Chuẩn bị cho bộc phá nổ!
      Hoàng và các chiến sĩ lùi lại. Người thì nhảy xuống giao thông hào đã đào sẵn của địch, một số khác đến ẩn trong những căn nhà hầm của lính biệt động VNCH trên cao điểm. Lãm châm ngòi bộc phá rồi chạy lại phía sau, nhẩy xuống một chiếc giao thông hào.
      Rầm! Một tiếng nổ long trời. Đất đá và khói đen tóe lên mù mịt. Cánh cửa sắt sập xuống. Khi làn khói đen loãng dần và tan hẳn, mọi người xô đến. Một mảng tường được xếp bằng các bao cát đổ sụp, căn nhà hầm hiện ra. Bên trong nào là những kiện gạo sấy, thịt hộp, các thùng rượu, bia, nước hoa quả, hàng đống thuốc lá Ru bi, Cáp tăng có hình chiến binh ở vỏ bao thuốc.  Loại thuốc này của Mỹ có pha thêm cả chất thuốc phiện, hút say và thơm ngon. Chỉ chuyên cung cấp cho lính.
      Tất cả reo lên:
-  Khuân ra đi, anh em ơi!
       Đấy là một kho hàng nhiều vô kể, chứa đầy cả một căn nhà hầm lớn. Mấy cậu quay ra cửa, gọi những anh em chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 48 quanh đấy đến.
      Đây chỉ là kho dự trữ – Ở các căn nhà hầm khác của lính, những thứ này cũng nhiều. Anh em bộ đội thỏa sức lấy. Các chiến sĩ mở thịt hộp và bóc những bao gạo sấy ra, nói với nhau:
-  Chén đã các cậu.
      Tất cả ăn mừng chiến thắng, vui như ngày hội. Lính là thế đấy! Chỉ ít phút trước bom đạn gầm trời, máu đổ. Còn lúc này, họ đang thưởng thức những chiến lợi phẩm của trận đánh.
-  Đồ Mỹ có khác! Bọn chúng đi đánh nhau mà cũng được cung cấp sướng như thế này? Mà đây là chúng cung cấp cho cả lính của QLVNCH, chứ ở những cứ điểm toàn lính Mỹ và quân đồng minh – Loại lính cậu! Còn được trực thăng thả xuống cả đoàn gái điếm cung cấp cho các sĩ quan. 
     Nói về quang cảnh chung của cụm cứ điểm, sau khi đã toàn thắng – Trên con đường yên ngựa từ Ngọc Bờ Biêng tới Mắt Ngỗng… về đỉnh 1001: Toàn trung đoàn 48 và các đơn vị hỏa lực đi phối thuộc, tiểu đoàn dự phòng của Trung đoàn 52 – Tất cả đều được tung ra để chuyên chở chiến lợi phẩm.
      Họ vận chuyển các kho súng đạn và hàng trăm kiện thực phẩm các loại  về tuyến sau. Người nọ giục người kia nhanh lên! Kẻ ngược, người xuôi như hội ngày mùa.
      Lúc này, trên bầu trời Ngọc Bờ Biêng khá yên tĩnh. Thỉnh thoảng cũng có chiếc máy bay trinh sát OV10 bay vè vè xung quanh. Nó cũng không dám đến gần cao điểm, vì sợ bị bắn. Từ khi chúng kéo cờ trắng đầu hàng, không còn thấy pháo bầy bắn tới. Cũng không thấy có phản lực, máy bay tiêm kích hoặc trực thăng đến oanh tạc nữa – Nhưng Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 báo xuống:                                                                                 
      “Tất cả mọi công tác tù hàng binh, thu chiến lợi phẩm, công tác thương binh tử sĩ… phải làm thật nhanh, gọn trong ngày. Theo trên cho biết: rất nhiều khả năng tối hoặc đêm nay, Mỹ sẽ cho B52 đến rải thảm hủy cao điểm”.
      Tuy vậy, các đơn vị vẫn không được chủ quan, đề phòng có máy bay phản lực đến oanh tạc, ném bom thì phải tản ra và trú ngay. Không để bị thương vong, tổn thất thêm. Cho nên lúc này không khí lại càng khẩn trương, rộn ràng.
      Trên nóc căn nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ, ngọn cờ giải phóng vẫn phần phật tung bay trong gió. Còn trên con đương rừng từ cứ điểm về tuyến sau, những dòng người đi – lại vẫn tấp nập. Đó là những chiến sĩ đầy quả cảm trong trận đánh. Người thì vác những quả đạn pháo vàng chóe, kẻ thì mang kiện thịt hộp, có anh gánh cả hai bao tải gạo sấy, những kiện bia, nước ngọt… Giống như một cuộc hành quân của đoàn kiến: con đi về thì chất trên lưng miếng mồi to hơn cả thể xác của nó, con đến thì đi không. Chúng cộc đầu vào nhau, thúc nhau đi nhanh lên! Con nào, con nấy vội vã rảo bước.
 
                                                          *
 
     Như mọi năm vào tháng tư này thường có những cơn mưa dồn dập và dữ dội, nhưng hôm nay trên đỉnh Ngọc Bờ Biêng, bầu trời cao nguyên rất trong sáng. Nắng vàng rực trên khuôn mặt của những chiến binh trẻ tuổi, rạng rỡ sau cuộc chiến thắng. Các đơn vị bộ binh đang hối hả giải quyết chiến lợi phẩm. Họ còn củng cố lại đội hình, bổ xung quân số và đạn dược, chuẩn bị cho trận chiến mới.
      Vào lúc giữa trưa, hai vị trung đoàn trưởng gặp nhau trên cao điểm vừa được giải phóng. Ông trung đoàn trưởng E48 là một người thấp bé, có giọng nói lơ lớ người miền Trung. Ông là một sĩ quan trưởng thành từ trong chiến tranh. Chiến trường đã rèn đúc cho ông đức tính quả cảm và linh hoạt.
      Bên cạnh ông là một người đàn ông to lớn, trông hơi dữ - Đó chính là viên trung tá, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo E40. Ông có nước da đỏ tía như da gà chọi. Đôi lông mày rậm nhíu lại như một chóp nón, úp lên đôi mắt thành một hình tam giác, hai cạnh kéo dài về hai bên.
      Mắt đăm đăm nhìn về phía Thị trấn Tân Cảnh, trung đoàn trưởng pháo E40 nói với trung đoàn trưởng E48:
-  Chiến sự của toàn mặt trận diễn biến nhanh quá! Khi ta chiếm được Ngọc Bờ Biêng thì ở Đắc Tô – Tân Cảnh, quân chủ lực của ta đã đánh tan tành vành đai ngoài, giờ đang tràn vào trung tâm của Sư đoàn 42 QLVNCH trong thị trấn rồi.
 -  … và anh đã hụt mất một miếng mồi ngon chứ gì?
      Viên trung đoàn trưởng bộ binh nói thế rồi phá lên cười. Trông ông nhỏ thó mà tiếng nói thì sang sảng. Trung đoàn trưởng pháo cười theo.
-  Kể cũng tiếc thật! Cả một kho đạn pháo lớn thế kia…
Ông đưa tay chỉ về phía kho đạn pháo của địch trên cao điểm, giải thích:
-  … với hàng trăm viên đạn pháo ấy mà được nã vào các cứ điểm trong Tân Cảnh, như kế hoạch ban đầu của Bộ tư lệnh Mặt trận B3… mới gọi là sướng tay! Giờ thì quân bộ binh của ta đang tràn vào bên trong thị trấn, không bắn được.
      Viên trung đoàn trưởng pháo khẽ thở dài có vẻ tiếc nuối:
-  Ta mà chiếm được cứ điểm này nhanh thêm chút nữa?
     Với giọng vui vẻ pha chút hài hước, viên trung đoàn trưởng E48 nói:
-  Nhưng báo cáo ngài trung đoàn trưởng pháo: Ngài cũng thấy là, ta đã chiếm được Ngọc Bờ Biêng này, nhanh hơn cả yêu cầu của Bộ tư lệnh B3 rồi?
      Trung đoàn trưởng pháo E40 xác nhận:
-  Đúng thế!... và ở Tân Cảnh, quân chủ lực đánh vào còn nhanh hơn cả ta. Dù sao thì đó cũng là điều đáng mừng.
-  Thế anh định xử dụng những khẩu pháo kia, thế nào?
      Viên trung đoàn trưởng bộ binh hỏi. Cả hai ông trung đoàn trưởng đều quay lại nhìn. Một trận địa có đến sáu khẩu pháo lớn 100ly của Mỹ đặt trên cao điểm A, mà Trung đoàn 48 vừa chiếm được. Những khẩu pháo nước thép trên nòng vẫn còn sáng bóng.
      Lúc này tại trận địa pháo đó, các chiến sĩ pháo thủ E40 đã vào thay thế. Họ đang ở trong vị trí, chờ lệnh của ông trung đoàn trưởng pháo, sẵn sàng nổ súng.
      Viên trung đoàn trưởng pháo E40 nói:
-  Tôi đã báo cáo về Bộ tư lệnh B3: vì bộ đội ta cũng không khuân chúng đi theo được, nên sẽ cho trút tất cả kho đạn pháo 100ly kia vào Thị xã Kon Tum.
      Nói rồi, ông quay người về phía bộ phận thông tin, vô tuyến ra lệnh:
-  Hãy báo cáo Ban chỉ huy mặt trận: 5 phút nữa, Trung đoàn 40 sẽ cho pháo bắn!
      Ông nói tiếp với trung đoàn trưởng E48:
-  Không kịp đánh vào Thị trấn Tân Cảnh thì ta rót vào Thị xã Kon Tum, để uy hiếp chúng. Cũng là bàn đạp dọn đường trước cho bộ đội, sắp tới sẽ tiến công giải phóng thị xã.
      Viên trung đoàn trưởng E48 nhìn đồng hồ, nói với trung đoàn trưởng pháo:
-  Vẫn đúng giờ qui định, chúng ta sẽ cùng hành quân tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh, chứ anh?
-  Không có gì thay đổi.
      Trung đoàn trưởng pháo nói: “Ta so lại đồng hồ cho thống nhất.”. Cả hai ông trung đoàn trưởng đưa cánh tay đeo đồng hồ sát lại gần nhau, lấy lại giờ cho khớp. Viên trung đoàn trưởng pháo nhìn chiếc đồng hồ vỏ mạ crôm đen bóng trên cánh tay hộ pháp của mình lần nữa, rồi nói:
-  Bây giờ chúng ta sẽ chứng kiến, trận đánh thứ hai trong ngày.
      Ông quay hẳn người về phía trận địa pháo 100ly, giơ cánh tay phải lên ngang mặt ra hiệu lệnh:
-  Bắn!
      Cả sáu khẩu pháo đồng loạt nổ chói tai, khói mịt mù trận địa. Các pháo thủ, người thì điều chỉnh nòng pháo cho đúng cự ly, tầm… kẻ lắp đạn, rộn rã như một công binh xưởng vậy.
      Những chiến sĩ ở xung quanh cao điểm ùa đến. Họ vây quanh các khẩu pháo vẫn liên tục nổ ròn rã về phía Thị xã Kon Tum. Các xạ thủ của trung đoàn pháo 40 đang thực hành một chiến trận đầy khí thế hào hùng.
      Người trung đoàn trưởng bộ binh giơ tay bắt thật chặt vị trung đoàn trưởng pháo. Ông nói:
-  Giờ tôi phải về Ban chỉ huy để tổ chức lại đội hình của trung đoàn. Đúng giờ xuất phát, anh cứ cho trung đoàn pháo tiến về Tân Cảnh, chúng tôi lập tức sẽ hành quân tiếp theo.
      Nói rồi, viên trung đoàn trưởng E48 rảo bước đi về phía Mắt Ngỗng.
      Thắng lợi  trận đánh Ngọc Bờ Biêng có ý nghĩa rất to lớn trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972: Đã tạo thế để QGP đồng loạt tấn công các cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Kleng… Bởi vậy, không chỉ Ngọc Bờ Biêng thắng lớn, mà từ phía các cụm cứ điểm khác ở phía Bắc Tây Nguyên, chung quanh Thị xã Kon Tum báo về… chiến thắng đều vang dội.
      Sau đó, QGP sẽ dồn lực tràn về giải phóng Đắc Tô – Tân Cảnh. Tiến tới tập trung lực lượng đánh vào Thị xã Kon Tum cùng với Buôn Ma Thuột, là những căn cứ quan trọng, vững chắc nhất của QLVNCH và Mỹ cố thủ ở Tây Nguyên này.
      Đánh Ngọc Bờ Biêng là QGP đánh ngay vào sào huyệt, cứ điểm kiên cố của địch – làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn lúng túng, đi hết thất bại này đến thất bại khác. Đó chính là sự mở đầu cuộc phản kích của Quân đội nhân dân Việt Nam – Tạo thế tiến công phát triển, bàn đạp cho sự thắng lợi của chiến dịch toàn miền – Buộc Mỹ phải ngồi vào bàn thương lượng, đàm phán ở Hội nghị Pa Ri.
     Ngọc Bờ Biêng là một trong những trận đánh rất ác liệt, nhưng thắng lợi ròn rã - Là những kỉ niệm máu lửa trong đời một chiến binh... sau này Hoàng còn nhớ mãi.
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:30:22
 
 
 
                                                                              16-
 
      Đường lên Đắc Tô – Tân Cảnh nằm ở phía bắc Kon Tum. Bên trái là con sông Pô Kô uốn khúc, dòng nước chảy hiền hòa, trong xanh. Khi chiến tranh chưa vào giai đoạn ác liệt, đây đó những đám hoa dã quỳ nở đong đưa trong gió. Theo con đường Quốc lộ 14 trải dài trên cao nguyên, ta nhìn thấy ở hai bên là những rẫy hoa mầu, rẫy cà phê, những cánh rừng cao su bạt ngàn xanh mát… làm dịu đi cả một mảng đồi núi trong nắng vàng rạng rỡ. Qua những buôn làng của đồng bào các dân tộc thiểu số như người Êđê, Mnông, Giarai… với mảnh khố ngắn cũn, chiếc váy tuềnh toàng. Những rẫy sắn, giàn bí leo, hoặc những cái rẫy bỏ hoang của các căn nhà đã rời đi nơi khác.
      Nay Tân Cảnh – Đắc Tô đã trở thành một chiến địa ác liệt và đẫm máu. Các con đường đi đến nó đã bị pháo binh, máy bay Mỹ ném bom cầy xới tung tóe, nham nhở. Ngay trên Quốc lộ 14, có những đoạn ô tô không thể đi được nữa. Xe tăng thì phải càn qua tất cả các nương rẫy mà tiến…
      Tân Cảnh – Đắc Tô là một mặt trận quan trọng, trong cuộc tiến công chiến lược với qui mô lớn của QGP trên toàn bộ mặt trận Tây Nguyên năm 1972.
      Sau thắng lợi có tính chất quyết định của QGP miền / Quân đội NDVN ở Đường 9 – Nam Lào, chẳng những chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” -   “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trên bờ vực của sự thất bại, mà trên chiến trường miền Nam nói chung… đẩy quân VNCH vào tình thế khốn đốn, suy sụp. Bởi vậy cuối năm 1971 đầu 1972, chúng vội vã tăng cường một lực lượng lớn ở Bắc Tây Nguyên, nhằm bảo vệ cửa ngõ sống còn của Tây Nguyên.
      Đắc Tô – Tân Cảnh là một trung tâm phòng thủ mạnh nhất, có tính chất huyết mạch của QLVNCH ở phía bắc Kon Tum – đồng thời là một trong ba phòng thủ trọng yếu ở Bắc Tây Nguyên (sau thị xã Kon Tum và thị xã Pleiku của tỉnh Gia Lai).
      Một lực lượng lớn QLVNCH bố trí ở Đắc Tô – Tân Cảnh, gồm:
-  13 tiểu đoàn bộ binh
-  1 trung đoàn thiết giáp
-  3 tiểu đoàn pháo
-  2 đại đội bảo an
      Được bố trí ở hai cụm cứ điểm lớn là Đắc Tô II và căn cứ 42 Tân Cảnh,  đấy là chưa kể không quân Mỹ và pháo binh từ các nơi khác bắn đến yểm trợ.
      Về phía Quân giải phóng: Đắc Tô – Tân Cảnh được Bộ tư lệnh Mặt trận B3 chọn làm chiến trường chính, để mở chiến dịch tiêu diệt địch ở Bắc Tây Nguyên.
     Về phương thức đánh: Bộ tư lệnh mặt trận quyết định chọn phương thức “tác chiến bằng hợp đồng binh chủng, kết hợp quân chủ lực và quân địa phương” vây hãm sinh lực địch tiến tới đột phá, tấn công giành thắng lợi.
      Khi hai trung đoàn 48 và 52 Sư 320 từ cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã được giải phóng gấp rút tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh, thì chiến dịch ở đấy đang diễn ra rất dữ dội.
      Về Tiểu đoàn 16 vẫn gồm 4 đại đội hỏa lực trực thuộc Bộ tư lệnh mặt trận B3, đi phối thuộc cho Sư 320 – nhưng riêng C4, đại đội pháo phòng không: trong trận đánh Ngọc Bờ Biêng, núi cao hiểm trở không thể kéo pháo 37ly vào được, đã thay bằng loại tiểu cao 14ly5 và súng máy cao xạ 12ly7 mang vác dễ dàng hơn. Nay vào tham gia chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh, đại đội lại chuyển về thành hai trung đội pháo cao xạ 37 ly và hai trung đội 14ly5. Như vậy, Nguyễn Hoàng giờ là trung đội trưởng pháo cao xạ 37ly của C4 thuộc tiểu đoàn.
      Như đã nói: sau thắng lợi ở Ngọc Bờ Biêng, trung đoàn pháo hỗn hợp E40 trực thuộc mặt trận cũng tức tốc tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh để tham gia trận đánh.
      Cơn mưa tháng tư tầm tã trút nước như xối vào một miền rừng núi. Lúc này, quân tiên phong của Mặt trận B3 đã chọc thủng các boong ke phòng thủ vành đai phía ngoài Đắc Tô – Tân Cảnh. Trung đoàn 64 F320 đã xuống trước từ khi mở màn chiến dịch.
      Ngày 15.4.1972, được sự yểm trợ của của pháo mặt đất 120ly và hỏa tiễn 122ly – E64 đã chọc thủng cao điểm Charlie. Charlie chính là tuyến phòng thủ, một nút chặn rất quan trọng của Đắc Tô – Tân Cảnh do Tiểu đoàn 11 nhảy dù QLVNCH trấn giữ, kiểm soát, khống chế QGP ở ngã ba Đông Dương. Vị trí Charlie: giáp gianh với một nhánh sông Pô Kô và Quốc lộ 14, cũng là cửa ngõ huyết mạch dẫn vào thị trấn, cách Tân Cảnh khoảng 10km. Quốc lộ 14 là độc đạo duy nhất từ Thị xã Kon Tum vào Quận lỵ Đắc Tô.
      Trung đoàn 48 F320 phải xé nhỏ từng bộ phận hành quân vào thị trấn, để tránh địch pháo kích hoặc ném bom rải thảm gây thương vong, tổn thất.
      Khi C4 – Đại đội pháo cao xạ phòng không do đại đội trưởng Quảng dẫn đầu, trong đội hình hành quân cùng trung đoàn 48 tiến gần đến đồi Charlie đã được giải phóng – Tuy cao điểm đã giải phóng, nhưng hành quân qua khu vực này vẫn rất ác liệt. Các ngọn đồi bị bom san phẳng, trống trải. Để ngăn chặn QGP, địch ngày đêm dùng pháo, bom tàn phá. Hiệu lệnh của Mặt trận là: Qua nơi này phải nhanh và hết sức cẩn thận.
      Chiều ấy đã muộn, khi C4 vượt qua Quốc lộ 14, khoảng đồi trống gần Charlie đó. Mặc dù đoàn quân ngụy trang cẩn thận và tìm cách tránh né để địch khỏi phát hiện, nhưng bỗng thấy hai chiếc OV10 cứ bay đi vòng lại trên đầu, rồi nghe có tiếng nổ và một cột pháo vàng bốc lên ở phía trước: biết là khả năng chúng đã phát hiện ra đoàn quân? Đây là tín hiệu chúng báo cho phản lực đến đánh. Đại trưởng Quảng vội cho đại đội tản ra hai bìa rừng xung quanh. Từng trung đội tận dụng địa hình thay chiến hào, triển khai pháo 37ly và 14ly5 sẵn sàng đánh địch. Cả những tay súng AK của các chiến sỹ cũng vừa ẩn nấp vừa chuẩn bị tư thế bắn.
      Tiếng máy bay phản lực rít ngay trên đầu, khói bom đen đặc, mặt đất rung chuyển, đất đá mù mịt. Lập tức pháo cao xạ của Đại đội 4 đồng loạt nổ ròn rã. Cỏ gianh trên đồi cháy rừng rực. Chiếc OV10 trở lại lượn trên đầu. Một tốp phản lực khác bay đến, bom lại nổ tung… Pháo cao xạ 37 và 14ly5 cùng tiếng súng AK tiếp tục nổ long trời, cũng chẳng khác gì chiến địa. Ba chiếc phản lực bay thấp cắt bom, tiếng rít nghe ghê rợn.
      Bỗng một tiếng nổ chói tai trên bầu trời, kéo theo ngọn lửa lớn bốc lên từ một chiếc A37… khói đen mù cả một vùng trời. Chiếc máy bay cháy lao xuống một khu rừng gần đó. Tiếng reo hò trong đoàn quân vang lên:
-  Cháy rồi! Máy bay địch cháy rồi! Hoan hô…
      Hai chiếc khác cố cắt cho hết loạt bom rồi cút thẳng, chỉ còn thấy đám lửa và ngọn khói đen vẫn ngùn ngụt bốc lên trên khu rừng của chiếc máy bay vừa rôi.
      Hai chiếc OV10 cũng không dám bay gần nữa, chúng lượn ở rìa rừng xa… rồi mất hút. Đại đội trưởng Quảng lệnh cho các trung đội thu dọn trang bị và súng pháo, khẩn cấp tiến về phía Đắc Tô – Tân Cảnh để tham gia trận đánh.
                                                                                 
                                                         *
 
      Như đã nói mưu kế của Bộ tư lệnh B3 trong chiến dịch xuân hè 1972 ở mặt trận Bắc Tây Nguyên này, nói chung là lừa địch.
      Vào đầu tháng tư 1972, QGP đồng loạt tấn công các cụm cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng… lừa địch hướng về phía Thị xã Kon Tum: vì cho rằng QGP sẽ đánh vào Thị xã Kon Tum ngay – Nghĩa là, họ thu hút cả quân dự bị của QLVNCH cùng với Mỹ và quân đồng minh hướng về phía thị xã. Những bộ óc chỉ huy của Mỹ và VNCH trên chiến trường Tây Nguyên đã bị mắc lừa.
      Cũng khi đó Trung đoàn 64 F320 với chiến thuật hợp đồng binh chủng, có một tiểu đoàn xe tăng thiết giáp và pháo binh yểm trợ, đánh vào các tuyến phía tây sông Pô Kô, là tuyến phòng thủ của QLVNCH ở phía bắc Kon Tum. Mỹ và VNCH vẫn cho rằng đây là vành đai thép, án ngữ hành lang Trường Sơn.
      Sự xuất hiện những chiếc xe tăng hạng nặng của QGP, từ loại T-54 và PT-76 làm cho quân lính VNCH hoảng hốt, rời rã tinh thần chiến đấu. Đợt phản công ở vành ngoài đó, đã thu được thắng lợi ròn rã. Mỹ và QLVNCH vội vã dồn lực lượng tập trung phòng thủ Thị xã Kon Tum – thì bất ngờ QGP lại phản công Đắc Tô – Tân Cảnh.
      Lúc này Trung đoàn 64 vẫn được Bộ tư lệnh B3 chọn làm mũi nhọn tiến công từ mặt trận phía tây sông Pô Kô sang, cùng hai trung đoàn 48 - 52 F320, Trung đoàn pháo 40, Tiểu đoàn hỏa lực D16 ở Ngọc Bờ Biêng đến, cũng như các trung đoàn khác trên Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba… Trung đoàn 66, Sư đoàn 2 Quân khu 5 miền Nam Việt Nam do Nguyễn Chơn làm sư đoàn trưởng – tất cả đều lần lượt kéo về tăng cường đánh Đắc Tô – Tân Cảnh.
      *  Khi đó lực lượng địch ở Tân Cảnh chủ yếu do Trung đoàn 42 - Sư 22 QLVNCH, gồm 3 tiểu đoàn bộ binh 1,2 và 4.
-  Tiểu đoàn thiết giáp 14 với 20 xe tăng M-41, 21 xe bọc thép M-113
-  Một tiểu đoàn pháo với 4 khẩu 155mm, 6 khẩu 105mm
-  1 đại đội vệ binh, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh
      Bố trí thành 13 khu phòng thủ.
      *  Ở cứ điểm Đắc Tô (Bắc Tân Cảnh) gồm Quận lỵ Đắc Tô và chốt Ngọc Tu, có:
-  Các tiểu đoàn 4 và 8 (Trung đoàn 47, Sư 22); Tiểu đoàn 9 (Lữ đoàn dù 3)
-  1 chi đội xe tăng bảo vệ
      Ngày 23.4.1972, Trung đoàn 64 F320 phối hợp với Sư 2 của Nguyễn Chơn – Hợp lực còn có 1 tiểu đoàn đặc công B3, binh chủng pháo mặt đất từ 80 đến 105mm của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn hỏa lực D16 với các loại súng cối 82mm, hỏa tiễn cá nhân DKB, rốc két B41,  pháo cao xạ 37ly – 14ly5; kể cả pháo cao xạ tự hành cỡ lớn 57mm cùng 1 tiểu đoàn xe tăng T-54 và 1 đại đội hỏa tiễn chống tăng AT-3
      (AT-3 là loại tăng của Mỹ mới bổ xung vào chiến trường)
      Lúc 4h30 phút sáng, Trung đoàn pháo 675 của Mặt trận B3 bằng pháo 122ly và hỏa tiễn H12, được lệnh pháo kích khai hỏa đánh vào các cụm căn cứ vành đai ở Đắc Tô – Tân Cảnh. Sau đó xe tăng thiết giáp và bộ binh của  QGP tràn lên.
      Đại tá Lê Đức Đạt, Sư trưởng Sư 22 QLVNCH điều 10 xe tăng ra phản kích lại. Lập tức bị tên lửa B-72  của QGP bắn cháy 8 chiếc, đứt xích 2 chiếc (B-72 là loại hỏa tiễn mới của QGP, trước địch chỉ biết có B41).
      Đến 11h trưa ngày 23.4.1972, QGP đã chiếm được hoàn toàn phía ngoài Tân Cảnh.
      15h chiều 23/4, pháo binh QGP nã đạn dồn dập vào trung tâm Tân Cảnh và chỉ huy sở tiền phương của Sư 22 QLVNCH.
      Trận chiến giữa Trung đoàn 66 F320 và Trung đoàn 42 Sư 22 QLVNCH diễn ra ác liệt. Cũng thời gian đó thì Trung đoàn 48 F320 đụng độ với Trung đoàn 47 Sư 22 QLVNCH ở Đắc Tô.
      1h sáng ngày 24.4.1972, xe tăng T-54 của QGP xông thẳng qua Thị trấn Tân Cảnh, lao lên mở toang cửa hướng đông cho bộ binh của Sư 320, Sư 2 Quân khu 5 ào ạt tràn vào.
      10h30 phút ngày 24/4, chỉ huy sở tiền phương QLVNCH tại Tân Cảnh bị pháo binh QGP bắn trúng, sau đó xe tăng T-54 tràn lên đè nát. Nhiều sĩ quan chỉ huy của QLVNCH bị tử trận. Các phương tiện thông tin bị phá hủy, không thể liên lạc được với chỉ huy của chúng ở Thị xã Kon Tum.
      Lúc này, Ban chỉ huy Sư 320 lệnh cho Trung đoàn 48 hợp lực với E64, được sự yểm trợ của Đại đội 7 với 9 cỗ xe tăng T-54 dẫn bộ binh ào ạt xông lên, đánh vào trung tâm và Bộ chỉ huy Sư 22 QLVNCH.     
      Sau khi xe tăng diệt những hỏa điểm ở cửa mở, càn qua hàng rào bắn tung các ụ súng lớn, lô cốt địch cho bộ binh xung phong. Tiến vào Đắc Tô, ba cỗ xe tăng đi đầu là 377, 354 và 369 ngay loạt đạn đầu đã đánh sập khu tháp nước và đài quan sát. Dùng đại liên, xích sắt quần nát các công sự phòng ngự của địch. Lúc quân lính hoảng loạn thì 377 như một mũi tên thép xuyên qua các chiến hào, chà xát các ụ đề kháng, đánh thẳng vào Sở chỉ huy Trung đoàn 42 QLVNCH.
      Ở đây đã diễn ra một trận tăng dữ dội, lưu lại cho truyền thống đánh tăng “một chọi mười” – Đó chính là một chiến công hiển hách của người trung đội trưởng anh hùng Nguyễn Xuân Triển.
      Trung đội trưởng xe tăng Nguyễn Xuân Triển nhận được lệnh xuất kích, thừa thắng đánh vào Đắc Tô II – một cụm cứ điểm trọng yếu của địch ở Đắc Tô – Tân Cảnh. Đó chính là mũi để tiến vào đánh sân bay Phượng Hoàng. Xe tăng xung trận trong tầm pháo và máy bay địch chặn phá rất ác liệt.
      Xe  tăng 377 dẫn hai xe tăng 354 và 369 vọt lên, tăng tốc lao vào cứ điểm Đắc Tô. Nhưng khi lao vào trung tâm thì gặp rất nhiều chướng ngại: nào là giao thông hào, hố bom pháo… nên ba chiếc xe tăng phải tách ra vừa đánh và tiến. Xe tăng 377 vọt lên còn hai xe kia phải tản đi, tụt lại khá xa.
      Một mình 377 xông lên giữa trận tiền rất hùng dũng, trong cơn say chiến thắng đang tiến công mạnh mẽ. Địch thấy 377 đơn thương độc mã – Tên chỉ huy trưởng Trung đoàn 42 QLVNCH liền báo cáo Bộ tham mưu Sư 22 của chúng: điều 10 xe tăng M-41, chia làm hai mũi bao vây chiếc T-54 của QGP. Thế là cuộc đấu tăng “một chọi mười” diễn ra quyết liệt. Bình tĩnh, linh hoạt và chính xác đến tuyệt vời, Nguyễn Xuân Triển chỉ huy còn lái xe Cao Trần Vịnh quần thảo. Khi tiến, khi lui… vừa để tránh tầm hỏa lực địch bắn, vừa hoa tiêu cho pháo thủ là Vũ Đức Lương và Nguyễn Đức Toàn điểm hỏa, diệt liên tiếp 7 xe tăng của địch, làm cho đội hình chúng rối loạn.
      Lại nói về hai xe 354 và 369 cũng đang tả xung hữu đột với pháo và các chiến xa địch, tiếp tục mở đường xông lên – Họ biết 377 đang lâm trận… Anh em vừa đánh vừa vượt chướng ngại vật, mở hết tốc lực để đến ứng cứu cho 377. Một số xe tăng địch nấp sau các ụ chiến bắn rất rát.
      Bởi vậy, khi 354 và 369 chưa đến ứng cứu kịp – ba chiếc tăng M-41 còn lại của địch từ phía nam sân bay Phượng Hoàng lao tới. Chúng theo thế cánh sẻ cùng với ba ụ lô cốt phía trong sân bay, tập trung hỏa lực bắn vào 377. Những vết cào phá, đạn pháo địch găm lỗ chỗ quanh xe, những trái pháo địch vọt qua thành xe bay đi… Nhưng rồi, một trái M79 từ một chiếc tăng M-41của chúng đã đã bắn trúng 377. Lửa khói trùm lên chiếc xe quả cảm ấy, cả bốn người dũng sĩ trên chiếc tăng 377 đã hy sinh.
      Cũng lúc đó thì hai chiếc tăng 354 và 369 dẫn trung đoàn bộ binh ào ạt xông đến, đánh tan tác quân địch.
      Trở lại với trận chiến ngày 24.4.1972 – Lúc 11h trưa, QGP đã hoàn toàn làm chủ Tân Cảnh, bắn sập chỉ huy sở của Sư đoàn 22 QLVNCH.
      Ngay khi QGP đang chiếm ưu thế và phản công quyết liệt vào Tân Cảnh, Bộ tư lệnh mặt trận đã cho pháo binh bắn dồn dập vào sân bay Phượng Hoàng – Sân bay Phượng Hoàng dài hai cây số. Đứng ở sân bay ta nhìn thấy một vùng đồi, đó là cứ điểm Charlie hiện ra ngay trước mắt. Mặt tiền của sân bay: tuyến đường đi từ Đắc Tô qua huyện Ngọc Hồi đến Thị trấn Pleicần.
      Lúc 17h chiều thì QGP chiếm hoàn toàn Quận lỵ Đắc Tô, giải phóng sân bay Phượng Hoàng. Một chi đoàn thiết giáp QLVNCH bị QGP phục kích tại cầu Đắc Mốt đánh tan tác: 5 xe tăng M-41 bị bắn hỏng.
      Chập tối 24/4, thêm 12 xe thiết giáp  và xe tăng nữa của địch bị tăng T-54 của QGP tiêu diệt. Sư 22 QLVNCH hoàn toàn mất sức chiến đấu.
      Sư đoàn trưởng Sư 22 QLVNCH Lê Đức Đạt cùng với một cố vấn Mỹ vội nhẩy lên một chiếc xe bọc thép, với một đám tàn quân chạy tìm đường thoát về Thị xã Kon Tum.
      Từ giữa khu chỉ huy sở của Sư 22 QLVNCH, trong làn khói đen đặc với tiếng la hét của bọn lính bị thương, lẫn tiếng đạn pháo nổ mù mịt – Một chiếc xe bọc thép chồm đến, nó nghiến ngấu đè lên cả đám quân đang hoảng hốt. Những tiếng kêu thét ghê rợn vang khắp bầu trời Đắc Tô – Tân Cảnh. Các thi thể do xe nghiến văng ra, đổ sập xuống như những cây chuối bị thối lũn. Chiếc xe vẫn chồm lên, những xác chết bị đè nát bét dính xuống mặt đồi đất đỏ, máu túa ra chảy lênh láng. Như con thú điên dại, chiếc xe lao qua những đồi chè, đồi cà phê, lại vượt lên Quốc lộ 14 chạy thục mạng - con đường độc đạo đi về Thị xã Kon Tum.
      Nhưng đến cầu Đắc Mốt của con sông Pô Kô, chiếc xe bỗng đứng giật lại. Phía trước mặt nó là dòng sông trắng xóa. Mặt nước hắt lên màu vàng lóa của một buổi chiều trước khi tắt hẳn. Cầu đã bị chính bom của máy bay Mỹ phá sập. Chiếc xe vội quay đầu lại, rẽ ngoặt lên một triền đồi… định chạy qua huyện Ngọc Hồi về phía Pleicần, theo hướng bắc chạy về Đà Nẵng – hoặc là từ Pleicần, theo Quốc lộ 18 có thể dẫn về ngã ba biên giới Cam Bốt-Lào-Việt. Nó cố chạy sang Lào hoặc Căm Pu Chia.
      Nhưng đằng sau chiếc xe bọc thép đó có hai chiếc tăng T-54 đang đuổi theo, cách nó chỉ khoảng vài trăm mét đường chim bay. Người ta nhìn thấy những mũi tên lửa vọt ra từ hai chiếc tăng T-54. Mũi tên cứ lớn dần, lớn dần… bám chiếc xe lao tới. Như thể có một bàn tay vô hình nào đó điều khiển đường đi của nó. Rồi một đống lửa vàng bùng lên kèm một tiếng nổ inh trời… chiếc xe bọc thép lật ngửa và bốc cháy, khói đen đặc chùm kín lên mình.
      Khi chiếc xe bọc thép đã bốc cháy, hai chiếc tăng T-54 quay lại phía sân bay Phượng Hoàng. Trận chiến vẫn còn đang diễn ra ở đấy!
      Nghe nói, khi QGP đã hoàn toàn làm chủ chiến địa, người ta tìm thấy trong chiếc xe bọc thép có năm xác chết, giống như những con chó thui bị cạo sạch lông lá, co quắp lấy nhau trong cơn sợ hãi – Đó chính là chiếc xe chở tên Sư đoàn trưởng Sư 22 QLVNCH, cùng với hai tên cố vấn Mỹ và hai sĩ quan trong Ban tham mưu sư đoàn chạy trốn. Cái chết của những bộ óc chiến lược lớn nhất Sư đoàn 22 thiện chiến của QLVNCH, được coi như thắng lợi khởi đầu cho chiến thuật đánh với qui mô lớn, hợp đồng binh chủng của QGP – và là sự phá sản trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ.
      Khi Đắc Tô – Tân Cảnh đã hoàn toàn giải phóng, người ta vẫn thấy ở mé sân bay Phượng Hoàng, hình tượng cỗ xe tăng T-54 mang số hiệu 377 ghếch nòng đại bác 45 độ, trong tư thế chồm về phía trước rất hùng dũng.
      Họ kể: khi hai chiếc tăng 354 và 369 cùng đại đội xe tăng dẫn các binh đoàn bộ binh tiến công và giải phóng sân bay Phượng Hoàng, các chiến sĩ bộ binh mở nắp chiếc xe tăng 377 thì thấy bốn người dũng sĩ xe tăng ở trong đó, nằm ngả đầu ra bốn góc của thành tăng – như thể họ vừa chơi một ván bài, mệt quá ngủ thiếp đi. Toàn thân những người chiến sĩ anh hùng ấy đã bị cháy xém. Anh em khiêng xác bốn người chiến sĩ xe tăng, không khác gì hình tượng trong kịch bản bất hủ của Sếch-xpia: khiêng chàng hoàng tử Hăm Lét bất tử vậy.
      Đó chính là:
-  Thiếu úy Nguyễn Xuân Triển trung đội trưởng xe tăng, quê ở Quế Võ, tỉnh Hà Bắc.
-  Lái xe Cao Trần Vịnh, quê ở Đất Tổ - Phong Châu.
-  Pháo thủ số 2 Nguyễn Đức Toàn, quê Thanh Ba - Phú Thọ.
-  Pháo thủ số 1 Lượng.
      Lúc hy sinh, hai pháo thủ Toàn và Lượng vừa tròn hai mươi tuổi.
      Cũng lúc ấy trong một bìa rừng của địa phận Đắc Tô – Đại đội 4 D16 pháo cao xạ phòng không, các chiến sĩ đang từ từ hạ xuống huyệt năm chiếc quan tài được đóng bằng vỏ hòm đạn pháo. Tất cả lặng lẽ bỏ mũ cúi chào vĩnh biệt những đồng đội của mình, trong đó có người đại đội trưởng Quảng dũng cảm của họ.
      Gió chiều nổi lên, hoàng hôn vàng vọt phả xuống cánh rừng. Cuộc chiến ở Tân Cảnh – Đắc Tô tuy đã kết thúc, nhưng đây đó chốc chốc vẫn còn đì đùng tiếng súng nổ. Có lẽ một bộ phận QGP vẫn dang truy sát đám tàn quân nào đó trốn chạy?
      Sau khi người chính trị viên tiểu đoàn ném xuống mộ một vốc đất, các chiến sĩ bắt đầu lấp huyệt. Mọi người lặng lẽ xúc từng xẻng đất tấp xuống, nhưng bên trong cái sự âm thầm đó… âm hưởng của trận chiến dữ dội, nóng bỏng và dầy hùng khí vừa qua, vẫn như ngọn lửa cháy râm ran trong tâm trí họ.
      Hình ảnh người đại đội trưởng Quảng quả cảm và rất thao lược, cùng những đồng đội trẻ tuổi đã ngã xuống trong trận chiến… sống dậy trong Hoàng. Lòng anh trào lên một nỗi xót xa vô hạn. Dù rằng Hoàng cùng anh em đã từng chứng kiến bao lần, nỗi đau phải chôn các đồng đội của mình. Anh nghĩ về gia đình của những người đồng chí, họ sẽ rất đau khổ khi biết tin người thương yêu không bao giờ còn gặp lại nữa.
      Hoàng lại nghĩ về mình trong một trận chiến nào đó, có thể chỉ là nay mai… anh cũng phải vĩnh biệt tất cả !? Nhưng có lẽ nỗi đau nhiều hơn vẫn là những người thân nơi quê hương.
      Trở lại với những diễn biến của trận đánh – Vào trưa ngày 24.4.1972, tuy chiến sự còn đang giai đoạn quyết liệt, nhưng QGP đã làm chủ phần lớn Tân Cảnh. Đơn vị được thông báo đã phá hủy 9 xe tăng của địch, đánh hỏng và thu 20 pháo 105mm, gần 100 xe quân sự các loại, với hàng vạn quả pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác của QLVNCH. Trong đó riêng đại đội 4 - D16 pháo cao xạ 14ly5 và 37ly đã bắn rơi 8 máy bay. Thừa thắng, Bộ tư lệnh mặt trận lệnh cho pháo binh của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn 675 cùng các hỏa lực khác bắn cấp tập vào các cứ điểm còn lại của Đắc Tô và sân bay Phượng Hoàng. Sau đó 10 chiếc tăng PT-76 và T-54 của tiểu đoàn xe tăng QGP, 12 khẩu pháo cao xạ các loại cùng 2 trung đoàn bộ binh F320 và 2 tiểu đoàn bộ binh của quân khu, tràn qua Đắc Tô đánh thẳng vào sân bay Phượng Hoàng – bằng một trận tấn công và hiệp đồng binh chủng.
      Để cứu trợ - một thiết đoàn xe thiết giáp QLVNCH đã tiến về phía sân bay, các cụm cứ điểm trong sân bay bắn ra, ngoài đánh vào… máy bay trực thăng bu kín bầu trời, các loại phản lực “con ma, thần sấm”, máy bây tiêm kích AD6, A37 ném bom yểm trợ, hòng đè bẹp QGP? Chính chiến công chiếc tăng 377 là ở trong đợt này. Cuộc chiến dữ dội kéo dài sau ba tiếng đồng hồ - Trung đoàn 48, 64 F320 và quân giải phóng địa phương đã giải phóng sân bay Phượng Hoàng và làm chủ hoàn toàn Đắc Tô – Tân Cảnh.
      Tiêu diệt và làm tan rã Trung đoàn 41-42 và 47, xóa sổ Ban tham mưu  Sư 22 QLVNCH cùng với các cố vấn Mỹ; tiêu diệt Lữ đoàn dù; diệt thêm 18 xe tăng địch loại M-41, 25 xe bọc thép; bắt sống 600 tù binh; giải phóng 25.000 dân và một vùng đất đai rộng lớn ở phía bắc Kon Tum. Bắn cháy và thu được tại sân bay Phượng Hoàng tổng cộng 18 máy bay.
      Thiệt hại của QGP cũng mất 4 xe tăng (ba chiếc T-54, một chiếc PT-76). Trận địa pháo cao xạ của Đại đội 4 bị trúng pháo kích địch: hủy mất 1 khẩu 37ly và 5 người bị hy sinh, trong đó có Đại đội trưởng Quảng.
     Tình hình vừa qua mặc dù thắng lớn, nhưng sự tổn thất của QGP cũng nặng nề, nhất là các trung đoàn bộ binh. Họ cần dừng lại một thời gian để củng cố đội hình, mới có thể đánh tiếp vào Thị xã Kon Tum được.
      Chiến công ở sân bay Phượng Hoàng và thắng lợi vang dội trên mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh nói chung, đánh dấu một mốc son trong phương thức hiệp đồng binh chủng sau “chiến dịch Lam Sơn 719”. Nó tiến đến để đánh sập chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ - góp phần buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pa Ri ngừng chiến vào tháng 1 năm 1973.
……..
      Lại nói về năm ngôi mộ của năm chiến binh C4 đã được đắp đầy. Anh em chiến sĩ đi đánh từng vồng cỏ quanh đấy, phủ lên ngôi mộ. Người lính văn thư của đại đội thì vẽ lại tiêu chí, đánh dấu đặc điểm… để mai sau tìm cho khỏi bị thất lạc.
      Lúc này người chính trị viên già của Tiểu đoàn 16, bước lại gần Hoàng và bảo:
-  Hoàng để cho anh em chiến sĩ họ làm nốt, đồng chí về ban chỉ huy tiểu đoàn nhận kế hoạch tác chiến mới.
      Về đến nơi, ông nói với Hoàng: Ban chỉ huy tiểu đoàn đã báo cáo Bộ tư lệnh mặt trận, đề bạt Hoàng lên làm Đại đội trưởng C4 thay cho Đại trưởng Quảng bị hy sinh... và Bộ tư lệnh B3 đã chấp nhận. Ông vỗ vai anh giọng thân mật:
-  Từ giờ đồng chí chính thức với cương vị người đại đội trưởng C4!
     Ông dặn dò anh tỉ mỉ của một bậc chỉ huy lão thành, và mong anh sẽ làm tốt trách nhiệm với cương vị mới của một đại đội pháo cao xạ. Hoàng nắm chặt tay người chính trị viên già để tỏ sự quyết tâm. Đôi mắt của anh như muốn nói rằng: Các vị cứ yên tâm, tôi sẽ làm thật tốt chức trách mới được giao phó này! Rồi anh rảo bước trở về nơi đại đội đang đóng ở Quận lỵ Đắc Tô.
      Bầu trời cũng đã tối hẳn. Qua khu vực sân bay Phượng Hoàng còn ngổn ngang sự đổ nát, đất đá bị cào xới do bom đạn… và cả xác mấy chiếc tăng. Những vì sao sáng li ti hắt lên một vòm trời trong xanh. Trong cơn gió thổi, đây đó vẫn bay đến mùi hôi của những xác chết.
      Mấy con chó chạy rông… đi sục sạo để tìm đồ ăn. Không biết chúng có ăn thịt những cái xác của các người lính chiến thất trận phía bên kia, mà chưa kịp dọn hết không? Hoàng vẩn lên nghĩ như vậy. Anh bước nhanh qua sân bay để về ban chỉ huy đại đội, bao nhiêu công việc mới cồn lên trong đầu anh.
      Vài con bẹc-giê của bọn sĩ quan trở thành không có chủ, đang tranh giành ăn và cắn nhau kêu ăng ẳng. Thấy bóng anh đi qua, chúng chạy khuất vào trong màn đêm vắng, của một chiến địa còn đầy sự hoang tàn và chết chóc.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:32:58
 
 
 
                                                                            17-
 
      Cơn mưa đầu mùa mỗi lúc một to, đêm tấp lên rừng núi. Những bánh lốp xe tải kéo pháo cao xạ 14ly5 và 37ly đã được bọc những vòng mắt xích, để tăng thêm độ ma sát. Ngọn đèn gầm của xe chiếu lên con đường Quốc lộ 14, vệt sáng nhỏ vừa đủ cho người lái xe quan sát. Xe chạy rất xóc vì đường bị bom pháo cầy lên, đất đá lổm chổm.
      Đó chính là đoàn xe kéo pháo cao xạ phòng không của Đại đội 4 D16, do trung úy Nguyễn Hoàng làm đại đội trưởng. Đoàn xe xuất phát từ trong khu Đắc Tô vừa được giải phóng, hướng thẳng về phía Thị xã Kon Tum. Mặc dù hành quân vào ban đêm nhưng dọc đường đi cũng phải dừng tránh nhiều lần, vì gặp máy bay trinh sát OV10 của địch. Chúng như những con cú vọ lượn trên bầu trời, bay rà sát rất thấp soi mói từng hốc cây, quãng đường… Nếu trong trận chiến thi những máy bay bay thấp như thế này, đã là miếng mồi ngon cho các khẩu pháo cao xạ - nhưng đây là hành quân vào trận đánh, phải tuyệt đối giữ bí mật. Khi phát hiện máy bay trinh sát từ xa, tất cả lái xe phải tắt hết đèn.
      Thành xe không có mui, pháo và xe đều được phủ kín bằng những cành lá ngụy trang. Mưa tấp lên người họ, phả vào những chiếc áo mưa tạo nên một thứ âm thanh đều đều, kêu lộp… bộp…
      Khí thế của trận đánh Đắc Tô – Tân Cảnh vừa qua đang lôi cuốn họ. Không khí háo hức lan truyền khắp đoàn quân. Họ muốn băng thật nhanh để tiến vào trận đánh Kon Tum.
      Các trung đoàn bộ binh như Trung đoàn 48 F320 đều phải chia ra từng đại đội, hoặc tiểu đoàn đi cách nhau, để tránh pháo kích và máy bay địch. Tất cả đều đi về phía Thị xã Kon Tum nhưng tránh đường quốc lộ, phải cắt tọa độ mà xuyên rừng, vượt núi. Ngay cả tiểu đoàn chiến xa thiết giáp tăng T-54 hay PT-76, chỗ nào cần phải vượt qua Quốc lộ 14 mới đi, còn đều phải cho công binh dọn đường rừng mà xuyên đến.
      Đại đội pháo cao xạ của Đại trưởng Nguyễn Hoàng, cũng như trung đoàn pháo mặt đất E40 hoặc Tiểu đoàn pháo 675, thường phải tận dụng nhiều đoạn đường quốc lộ, các con đường rừng xe pháo rất khó vượt qua. Chủ yếu hành quân bí mật vào ban đêm và quan sát rất kỹ lưỡng, đề phòng máy bay, thậm chí cả biệt kích của địch phát hiện.
      Đại trưởng Hoàng ngồi với anh em pháo thủ trên thùng xe trong tốp xe pháo đi đầu của đại đội. Những khẩu pháo cao xạ 37ly được kéo bằng rơ-moóc kêu lúc lắc ở phía sau. Người chính trị viên đại đội thì ngồi trên chiếc xe đi cuối cùng.
      Đã vào trung tuần tháng 5, đây cũng là giai đoạn cao điểm của cuộc Tổng công kích xuân hè 1972, trên chiến trường Bắc Tây Nguyên. Đánh vào Thị xã Kon Tum, chính là quyết chiến điểm cuối cùng của chiến dịch.
      Đêm nay trời tối lại không thấy máy bay trinh sát địch rà lượn, Đại trưởng Hoàng lệnh cho đại đội tranh thủ vượt nhanh đến vị trí tập kết của trận đánh. Anh đăm đăm nhìn về phía trước. Mưa táp lên mặt, thành từng dòng chảy xuống cổ áo ướt đẫm. Anh đưa tay lên vuốt những giọt mưa trên mắt mình. Đôi lúc chiếc xe sa xuống một “ổ gà” lớn, nghiêng hẳn về một phía. Nó rú ga chồm lên, các chiến sĩ ngồi trên xe bị giật kéo người về phía sau. Họ vội đưa tay nắm lấy thành xe. Chiếc xe lại tiếp tục đều đều lăn bánh, kéo những khẩu pháo đằng sau nó… nhằm hướng thị xã băng tới.
      Những người lính bước vào trận đánh, tâm trạng của họ đã trở nên thường tình như những công nhân viên chức đi làm nơi công sở. Ở ngoài chiến trường và trong cuộc chiến đẫm máu này, ngay cả cái chết đến với họ cũng thật đơn giản. Thậm chí họ cũng không tin rằng mình sẽ còn sống để trở về - Cái sống chỉ là may rủi, do sự phán quyết của thượng đế? “cái chết” đến đơn giản đến mức, như thể đó là một hình tượng tất yếu trong nhịp điệu ầm… ì… của chiến tranh. Đơn giản như cuộc đời một người lính chiến không lạc thú, không cả tham vọng về cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vẫn đang tồn tại để chiến đấu.
      Bởi thế trong tình cảm những người lính, kỷ niệm xưa là thiêng liêng! Quê hương là thiêng liêng! Họ sống bằng quá khứ - Tình yêu, gia đình luôn trở về với họ, nhất là những giây phút trên đường ra trận.
      Cũng như những người lính khác, hành quân trong đêm vào trận đánh quyết tử này: bao ý nghĩ, kỉ niệm lại dồn dập dâng lên trong đầu óc của người đại trưởng trẻ tuổi – Trung úy Nguyễn Hoàng.
      Trong khoảng xa nào đó ở phía trước, trong khu rừng vắng kia, giữa cơn mưa tầm tã – Hình ảnh người con gái bản Mường lại hiện lên và cắn rứt trái tim anh! Như anh đang nhìn thấy cô trước mặt…
      Cô đang mặc bộ quần áo màu xanh lá cây của một nữ chiến binh, lẫn vào trong rừng lá và màu đen của đêm. Cô gái không mặc áo mưa, không mũ nón, mái tóc rối xõa xuống che lấy khuôn mặt. Cô chạy như lao đi, chới với… Cây rừng móc vào áo cô, gai cào lên da mặt, lấm thấm máu. Nhưng mặc, cô cứ chạy… không một tiếng kêu rên. Chỉ có tiếng gào thét của rừng núi, của mưa gió – Cô gái đó là Mỵ!
      Ít hôm trước, khi Đắc Tô – Tân Cảnh mới được giải phóng đôi ba ngày. Mỵ cùng với cô Sa người Huế, đã tìm đến đơn vị để gặp anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái… nhưng có hơi gầy và cũng chững chạc hơn, so với hồi anh đã gặp em trên bản Mường Hòa Bình.
      Mùa xuân năm ấy – Đúng là “người năm ấy”! Nếu như không có Thu? Một ý nghĩ chợt vụt thoáng trong đầu Hoàng: Người con gái bản đó rất có thể sẽ là người trong mộng của anh? Ôi, nhưng thôi… chiến tranh! Hoàng vội xua đuổi ý nghĩ vụt qua ấy của mình đi.
      Hôm em cùng với Sa đến gặp anh là vào một buổi sáng. Lúc đó, anh sững sờ nhìn người con gái bản, cứ ngỡ mình đang mơ… Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, mà anh đã gieo vào tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim! Cũng không thể phủ nhận rằng: gặp lại em trên chiến trường máu lửa này, trong anh cũng đã dấy lên bao rung cảm? Nhất là cuộc sống của người lính, bao năm tháng chỉ có cay cực và bom đạn. Một cuộc đời không đàn bà – Kể cho nhau nghe về những kỉ niệm của tình yêu gái trai, cứ như là chuyện cổ tích. Nay giữa chiến trường lại có sự xuất hiện của hai người con gái? Không phải chỉ có Hoàng, mà làm cho cả đơn vị xôn xao. May mà những ngày đó, đơn vị trong thời gian nghỉ ngơi, củng cố nên cũng thanh thản.
      Anh và Mỵ vẫn có thể tìm được một nơi yên tĩnh trong rừng để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít, chuyện trò… cứ như người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về.
      Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: nào là chiến trận liên miên, nào là bom đạn nên thư từ hay thất lạc? mà hồi đầu chia tay với cô vào chiến trường Tây Nguyên, anh cũng có viết thật, đôi lần… Mỵ giận thì nói vậy thôi, nay gặp được anh lòng cô vui lắm. Anh thấy cô hạnh phúc thật sự!
      Mỵ nói là rất yêu anh! Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy. Bao lần anh định nói thật cho cô nghe, quan hệ tình yêu của anh đã có với Thu? để cô hiểu anh không muốn lừa dối cô… Nhưng rồi anh lại không thể nói được: Phần vì thấy mình không nỡ nói – Người con gái ấy đã ra tận chiến trường để tìm anh? Phần nữa, vì niềm vui sướng đang đến với cả hai người… Giờ anh đang ôm em trong vòng tay, đang hôn em đây! Những giây phút hạnh phúc quí giá của cả anh và cô – Rất có thể trong cuộc chiến tranh này, anh sẽ không trở về? có thể lắm! Như Đại trưởng Quảng vài bữa trước, nay đã thành người thiên cổ. Trận chiến ở Thị xã Kon Tum, chắc sẽ còn ác liệt hơn mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh. Biết đâu?  chẳng ai có thể quyết định được số mệnh của mình trong chiến tranh. Nghĩ tới lúc có thể anh sẽ phải vĩnh biệt Mỵ, vĩnh biệt Thu và tất cả quê hương… Hoàng nhớ đến bốn câu thơ “trút linh hồn”, những câu thơ trăng trối cuối cùng của thi nhân Hàn Mặc Tử:
                         Ta trút linh hồn giữa lúc đây
                         Gió sầu vô hạn nuối trong cây
                         Còn em sao chẳng hay chi cả
                         Xin để tang anh đến vạn ngày.
      Nghe anh lẩm nhẩm đọc gì đó trong miệng không rõ tiếng, Mỵ quay lên hỏi:
-  Anh lẩm nhẩm gì thế?
      Hoàng vội xoa xít đi. Anh ôm riết Mỵ vào lòng, như thể nếu rời ra… sẽ không bao giờ còn gặp lại cô nữa?
      Mặc dù anh biết mình đã yêu Thu, và sẽ không bao giờ phản bội lại người con gái đầu tiên ấy! Nhưng với một tình yêu trong sáng, mãnh liệt như của Mỵ dành cho anh – Hoàng cũng khó có thể cưỡng được mình. Quả thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng niềm sung sướng của những khoảnh khắc ân ái, đang dào dạt tâm hồn. Những giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà người con gái…
      Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể nào cưỡng nổi. Cô cứ để cả tấm thân trần truồng mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng chỉ có hai người và tiếng chim kêu. Cái khoảnh khắc tưởng như Hoàng không thể kìm lại được nữa. Mỵ có vẻ hơi hoảng hốt, ôm ghì lấy anh khẽ kêu rên:
-  Anh ơi!...
-  Em không muốn ư?
      Hoàng hỏi nhỏ, khi cả thân mình anh đã ghì xiết lên tấm thân nóng bỏng, mềm mại của người con gái. Người con gái đang quằn lên dưới thân thể anh. Cái của anh cứ day mãi lên của cô. Hai chân Mỵ đã giang rộng ra để đón của anh vào… Thân mình cô rạo rực. Giọng Mỵ run run:
-  Em muốn, nhưng em hơi lo? Chiến tranh mà anh…
      Cô vẫn rên khe khẽ:
-  Tùy anh. Em bắt đền anh đấy!
     Ánh mắt cô như muốn nói: “Ôi, anh thân yêu! Ước gì vẫn là những ngày như lần trước ở quê hương, thì em sẽ cho anh thỏa thích. Anh muốn làm gì cũng được…”.
      Hoàng nhìn Mỵ bảo:
-  Nhưng nếu em có thai, người ta sẽ cười em chứ?
-  Ai cười, kệ người ta. Em không sợ!
      Thế là tất cả ý nghĩ cần phải nói với Mỵ về tình cảm của anh đã có với Thu, đều tan biến. Người con gái anh biết từ khi chưa gặp Mỵ và anh đã yêu… một tình yêu đầu đời. “Thôi, chiến tranh…” – Hoàng lại tự biện lý với chính mình.
      Nhưng bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu, anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng dậy: “Tình yêu của em dành cho anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa cô được nữa…” – Một ý nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã tới lúc anh phải nói thật với em tất cả.
      Mỵ hơi bàng hoàng, khi thấy anh có vẻ cương quyết rời khỏi cô? Cô đưa tay níu anh lại. Mỵ tưởng rằng vì cô nói thế nên anh thôi? Cô nhìn anh bằng đôi mắt yêu thương, tha thiết, dịu dàng bảo:
-  Anh! Em đồng ý cho anh mà… em yêu anh mà…
      Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại tình yêu của người bạn gái thủa thiếu thời ấy!
      Hoàng nghĩ rằng, khi anh nói tất cả sự thật như thế thì Mỵ sẽ giận anh? Nhưng anh vẫn cương quyết nói. Nói được lòng anh thanh thản hơn, rồi Mỵ sẽ hiểu cho anh, rằng: anh đối với cô là chân thật. Anh không thể đùa bỡn với tình yêu mà cô đã dành cho anh!
      Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi… và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi:
-  Anh có yêu em không?
-  Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ, nhưng anh không thể…
      Hoàng bảo vậy, rồi ôm chặt lấy cô… tỏ nỗi cảm thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh – Bởi vì, người con gái anh yêu đầu tiên mà anh gọi là “Thu” ấy!... đã đến với anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm hạnh phúc. Nhất là chiến tranh, con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình.
      Mỵ bảo: cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước nên chị ấy sẽ là chị cả,  Mỵ làm vợ hai của anh cũng được, miễn là anh vẫn yêu cô – Cô còn nói, cô tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh…
      Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ… khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế! Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ kéo Hoàng nằm xuống. Anh phủ phục lên cô, mắt Mỵ mơ màng như người trong mộng. Cô đưa tay vuốt tóc anh và nói:
-  Em không giận anh đâu! Em vẫn cho anh đấy… 
   Hoàng như người chợt tỉnh, anh dừng lại nói với Mỵ:
-  Đây không phải như ở quê. Em bây giờ cũng ở trong quân ngũ: nhỡ có thai, đơn vị sẽ kỷ luật em? Hay là, ta để đến khi hết chiến tranh, anh trở về… 
      Mỵ lại lắc đầu.
-  Không, em không sợ…
      Cô nói với anh là... cô cũng muốn có con với anh. Rồi cô kể cho anh nghe: Trong bộ phận quân y của cô, cũng có một chị: Cả đơn vị đều biết chị có tình cảm với một anh, hai người rất thân thiết nhau. Rồi bỗng thời gian sau chị ấy có thai… Dấu mãi, nhưng đến lúc bụng to không thể dấu được nữa? Tổ chức gọi lên, chị ấy khai là… trong một lần đi lĩnh thuốc quân y tận trong kho của binh trạm, phải đi xa mấy ngày đường. Chị gặp một anh chiến sĩ đồng hương ở một bãi chốt nghỉ chân dọc đường giao liên, đó là một người quen cũ cùng quê đang trên đường hành quân vào chiến trường. Đêm đó, chị đã ăn nằm với anh ấy! Măc dù, anh chị em thì đều tin là chị đã có con với anh cùng đơn vị, nhưng chị ấy dấu… để anh khỏi liên lụy.
      Theo Mỵ nói, người nữ chiến sĩ ấy đã chấp nhận bị kỷ luật, khai trừ ra khỏi đoàn thanh niên cộng sản – vì gần đến ngày sinh, tổ chức để chị ấy sinh đẻ xong, con cứng cáp rồi sẽ trả cả hai mẹ con về quê ở miền Bắc. Mỵ bảo:
-  Bị tổ chức kỷ luật mà chị ấy chẳng buồn tý nào cả, anh ạ! Với lại… chị ấy yêu, chứ có phải là phản bội lại tổ quốc đâu – phải không anh?   
      Rồi cô nói:
-  Nếu có thai, em sẽ sinh con cho anh, em sẽ mang giọt máu của anh về quê và nuôi con. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về!
      Không thể cưỡng lại được nữa. Thôi, chỉ có thượng đế cùng anh và cô biết. Âm dương như một dòng điện mạnh, chúng đang truyền đi dữ dội. Hoàng trằn mình trên tấm thân người con gái. Mỵ run lên, thở gấp và rên khẽ:
-  Ôi, sướng quá anh ơi! Ối, anh ơi!
      Khi cường độ lên đến tột điểm, cái núm âm vật nóng hổi của người con gái như thể có thần, run lên bần bật ở dưới của anh. Những giây phút choáng ngợp tột cùng ấy, niềm khoái cảm vẫn còn mê man chạy trên khắp cả hai thân thể anh và cô. Anh ghì lấy Mỵ… đang đờ đẫn như người trong cơn mơ ngủ. Mỵ giang cả hai tay và hai chân rộng ra giữa khu rừng vẫn còn rất nhiều những nhành cây bị gẫy đổ vì bom, pháo… Mặc, lúc này họ chỉ thấy mình hạnh phúc! Rồi hai người mặc quần áo và ngồi ôm nhau, để hưởng những giây phút sung sướng hiếm hoi trong cuộc chiến tranh này. 
      Tiếng gọi giật của người pháo thủ ngồi bên cùng với nhịp xóc của chiếc xe kéo pháo, gặp phải một hố ổ gà ở trên đường, kéo Hoàng ra khỏi ý nghĩ.
-  Đại trưởng ơi! Trông kìa, một vì sao đổi ngôi. 
      Người chiến sĩ chỉ tay về phía trời xa và nói. Hoàng ngước nhìn, ngôi sao nhỏ kéo theo một vệt sáng trắng về tít cuối chân trời.
      Trời đã tạnh từ lúc nào anh cũng không rõ. Đoàn xe đang nhịp tiến đều đều trong đêm, các chiến sĩ vẫn lặng lẽ ngồi trên xe, kéo theo những cỗ pháo cao xạ 37ly lúc lắc ở phía sau. Họ đang hành quân vào trận. Người thì gà gật ngủ để lấy thêm sức cho trận đánh tới, kẻ thì miên man ôn lại những kỷ niệm quê hương…
      Hoàng vẫn ngồi trầm tư. Trong đầu anh cứ hiện về những câu chuyện đã qua: Hôm đó Mỵ và Sa ở lại chơi với đơn vị của anh đến chiều tối mới về. Qua chuyện trò thì anh biết rằng, Mỵ vào chiến trường cũng đã được hơn một năm và vẫn hỏi dò tin tức để tìm anh, mà không gặp. Mỵ thuộc quân số đại đội quân y trên Ban hậu cần của Bộ tư lệnh B3. Đợt này Mỵ và Sa cũng theo Bộ tư lệnh vào mặt trận, tham gia chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh. Ngay từ trước chiến dịch, cô đã biết tin đơn vị anh đi phối thuộc với Trung đoàn 48, Sư 320. Khi Đắc Tô – Tân Cảnh đã giải phóng, có điều kiên được nghỉ ngơi ít ngày, cô cùng với Sa xin phép Bộ tư lệnh tìm đến đơn vị để thăm anh. Anh đã hẹn với Mỵ, khi nào hết chiến dịch về hậu cứ… thế nào cũng tìm để gặp lại nhau.
      “Ôi! Em thân yêu, hãy tha lỗi cho anh. Cuộc tình của anh và em rồi cũng chỉ là trong mơ thôi. Chiến tranh mà em…” – Hoàng trông lên bầu trời đã tạnh ráo, đăm chiêu nhìn ra xa. Anh lại nghĩ đến Thu! Người bạn gái đầu tiên và tình yêu của trái tim anh. Bất giác anh tự hỏi: Ừ, nếu anh còn sống trở về? Cũng có thể lắm chứ! Có phải tất cả đều chết hết đâu – Khi đó thì anh phải giải quyết chuyện giữa Mỵ và Thu thế nào?
      Hoàng nhớ đến một câu chuyện: cũng có người vào trường hợp đã yêu hai người con gái, cảnh ngộ như anh. Và rồi, họ chấp nhận giải quyết với nhau… lấy cả hai người con gái kia làm vợ. Nhưng liệu khi ấy, Thu của anh có chấp nhận như thế không? Cô có đồng ý để anh vừa lấy cô, lại vừa lấy cả Mỵ? Một cô gái Hà Nội khó chấp nhận như thế lắm!
      Nghĩ vậy, Hoàng bật cười thầm một mình trong đêm. “Thôi kệ! Chiến tranh mà…” – Anh lại tự xí xóa với mình. Hoàng cũng mới nhận được một lá thư của Thu trước chiến dịch này. Thu báo với anh, cô đã tốt nghiệp đại học và ra trường. Cô xin về làm phóng viên tòa soạn báo “Hà Nội mới”, công tác ngay ở Hà Nội. Trong thư, Thu nói giai đoạn này cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đã lan vào thủ đô dữ dội hơn trước nhiều. Gia đình Thu: ông bà Giáo đều đi sơ tán cả, chỉ còn Thu trong đội cảm tử của thành phố là ở lại, vừa công tác vừa sẵn sàng trực chiến đánh máy bay Mỹ. Tòa soạn báo cũng được trang bị súng máy cao xạ 12ly7 và đại liên. Họ đặt súng ở ngay trên nóc tầng thượng, thay nhau trực chiến tại đó.
      Ôi mối tình của anh! Thế là anh xa Thu và Hà Nội hơn năm năm rồi, thì trên bốn năm biền biệt trong chiến trường., trên mảnh đất bom đạn và máu lửa ở Tây Nguyên. Nơi rừng thiêng nước độc, kề bên cái chết và muỗi vắt,.. tưởng như đã trải qua đằng đẵng nửa kiếp người.
      Anh thấy mình có lỗi với Thu? khi anh quan hệ với Mỵ cũng bằng một tình cảm chân tình và thân thiết. Hơn thế, cả tấm thân của người con gái Mường cũng trao anh. Nếu Thu biết chuyện đó, thì em sẽ nghĩ sao? Em sẽ oán giận anh hay sẽ đau khổ? Nghĩ vậy, Hoàng trào lên một nỗi day dứt, cắn xé trong lòng.
      Mặc dù, thâm tâm Hoàng đã tự thanh minh với chính mình: Anh đâu có ý nghĩ phản bội Thu? Không, anh vẫn yêu em tha thiết! Anh chỉ còn mỗi một sự lý giải: chiến tranh mà…
      Thực tế, dù có biện luận theo kiểu gì… thì anh cũng đã yêu cả hai người con gái! Anh bào chữa thế nào đây?
      Ý nghĩ chợt vụt đến: Nếu thoát khỏi cuộc chiến tranh này, còn sống trở về. Khi ấy, Mỵ và Thu vẫn còn yêu và chờ đợi anh? Thì anh sẽ lấy cả hai người con gái đó làm vợ.
     “mình tham lam quá chăng?” – Điều này thì trong thâm tâm Hoàng không phủ nhận, cũng không biện hộ với lòng mình: “Đúng, mình là một kẻ tham lam thật!”. Cái ý nghĩ chợt đến… anh sẽ lấy cả Thu và Mỵ làm vợ? Thế là anh không phản bội lại ai! Ý nghĩ ấy như thể giải thoát cho tâm lý của Hoàng, anh thấy lòng mình thanh thoát lại.
      Ý nghĩ sẽ lấy cả hai người con gái làm vợ, làm Hoàng tự bật cười với mình trong đêm. Cậu chiến sĩ ngồi gấn anh, thấy thế liền hỏi:
-  Đại trưởng cười gì thế ạ?
-  À… à… đêm mát trời khoan khoái quá!
      Hoàng lúng túng thanh minh với người chiến sĩ trẻ. Đoàn xe chở những khẩu pháo cao xạ vẫn rầm rì… rầm rì… hướng về phía Thị xã Kon Tum, tiếp tục lăn bánh. Hoàng vẫn miên man nhớ về cuộc gặp gỡ Mỵ mới cách mấy hôm vừa rồi. Mỵ đã nói với anh:
-  Mai về làm vợ anh, em sẽ đẻ cho anh năm đứa liền.
     Nghe cô nói thế, Hoàng thích chí bảo:
-  Em phải đẻ thêm một đứa nữa, là sáu!
-  Sáu thì sáu, nếu anh muốn… em sẽ đẻ cho anh.
      Nói rồi, cô tủm tỉm cười và âu yếm nhìn anh. Mắt mơ màng nhìn lên khoảng trời Đắc Tô - Tân Cảnh. Cuộc chiến trận tàn khốc vừa qua dường như không làm cho cô sợ hãi nữa. Cô chỉ còn biết chan chứa trong tình yêu của cô, chỉ còn biết có anh thôi!
      Trận đánh tới này, khi C4 – đại đội pháo cao xạ của anh sẽ cùng với trung đoàn bộ binh E48, F320 đánh vào Thị xã Kon Tum – thì như Mỵ nói, bộ phận quân y của cô sẽ đi cùng Trung đoàn 52 đánh vào cứ điểm đèo Chư Pao.
      Người pháo thủ ngồi cạnh Hoàng lay mạnh vào vai anh, gọi giật:
-  Đại trưởng ơi, trông kìa… thôn ấp đấy! Xe của mình đang đi vào bản rồi.
       Đoàn xe pháo của họ đã rời con đường Quốc lộ 14, rẽ vào một con đường dân bản đã bỏ hoang. Theo kế hoạch hành quân, để tránh pháo kích và máy bay ném bom – Đoạn đường nào có thể đi xuyên trong rừng hoặc qua bản, thì đoàn xe rời đường quốc lộ.
      Người chiến sĩ lại hỏi:
-  Đây gọi là bản gì, hả đại trưởng?
-  Theo như chỉ dẫn của anh em trinh sát, thì đây là bản Võ Định.
      Hoàng bảo vậy. Sau cơn mưa, bầu trời đêm xanh mát và có vẻ yên tĩnh. Đoàn xe tiến vào con đường đất đỏ. Bên cạnh con đường bản có những khóm chuối, gần đó là các thửa ruộng với những luống khoai lang. Lá khoai xanh non bò kín khắp mặt ruộng. Những lũy tre, vườn cây ăn quả. Nghe tiếng của đoàn xe đi vào, mấy con chó hoang thi nhau sủa.
-  ÔI, làng quê. Làng quê Việt Nam ta đấy!
      Dấu tích một cuộc bắn phá của máy bay Mỹ như vừa mới xẩy ra ở đây. Những ngôi nhà sàn bị đổ sập, đồ đạc vương vãi. Những con chó vô chủ chạy rông, ngấp nghé bên bờ rào. Có cả tiếng gà kêu quang quác, bay tán loạn. Mùi thơm của những trái cây ở trong vườn bay ra…
      Không thấy bóng người dân nào? Chắc là họ đã được du kích lùa hết vào một khu vực nào đó trong rừng, nơi QGP mới chiếm được. Tạm gọi là “vùng tự do”, để đưa dân chúng đến ở. Hoàng lại nhớ tới cảnh sống của dân tình, khi bộ đội di dân vào những khu rừng đã giải phóng…
      Đó là những ngày cuối tháng 4.1972, lúc Tân Cảnh – Đắc Tô vừa mới chiếm được. Thị trấn, quận lỵ thì bị bom đạn, xe tăng quần nát, xác lính và dân thưởng chết la liệt. “bỏ của chạy lấy người” – dân xô đẩy, cuốn gói tìm nơi trú ẩn. Cả người Kinh và người Thượng chạy bộ ra phía đường Quốc lộ 14, bị QGP địa phương chặn lại lùa hết vào rừng.
      Cũng khoảng năm, sáu ngàn người. Họ bị giữ lại trong một vùng mới giải phóng. Không ai được ở lại Thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh. Mấy hôm đầu thì ngày ngày, mỗi người được chia cho một vắt cơm. Sau đó quân du kích địa phương đi tìm các ruộng lúa, hay các bãi khoai sắn bỏ hoang. Đến đêm, họ dắt dân chúng đến mót lúa, nhổ mì, nhặt khoai… gọi là chiến lợi phẩm, mang về mà ăn. Cây mì thì cầm cả gốc kéo lên. Khoai, sắn rửa đi rồi xắt nhỏ ra, phơi khô nấu ăn dần. Nếu gặp ruộng lúa thì cho tuốt lúa. Thực ra, cũng chỉ là lúa đi mót mà thôi. Người nào tuốt được hơn một kí thóc mỗi lần là tốt lắm rồi! Thóc họ rang khô rồi giã bằng cùi, tức là cối giã… để tách vỏ trấu ra làm thành hột gạo. Sau đấy, dùng nắp vung nồi rang gạo cho khô, cất nấu ăn dè.
      Thường thì rẫy khoai, rẫy sắn nhiều hơn ruộng lúa. Ngày nào cũng ăn khoai, mì nên dân chúng chế biến đủ thứ: nào là khoai, mì luộc, canh khoai, khoai nướng v. v.
      Khu rừng mà QGP dồn dân vào, ở gần một buôn của người Thượng. Chính quyền cho họ tới nhặt những đồ dùng, xoong nồi của người Thượng về dùng. Số người thì đông, số nương rẫy hoang gần đó chẳng được là bao. Thiếu lương thực, dân chúng phải hái đủ các thứ rau thập cẩm ở rừng… miễn là ăn được để sống như rau tàu bay, rau sam, nấm rừng, măng tre rừng, rau dớn rừng mọc dọc theo các bờ suối, rồi cây môn thục ngứa móc họng... lấy ngâm vào nước gạo làm dưa chua.
      Gạo và thực phẩm cung cấp cho bộ đội giải phóng còn thiếu, làm gì có phát cho dân. Dân chúng bắt được con gì thì ăn con đó: cả chuột, rắn, ễnh ương… ăn tuốt. Nhất là gia vị muối biển thì thiếu trầm trọng, kể cả QGP. Thỉnh thoảng cũng chuyển được một chuyến muối theo đường Lào về, bớt ra phát cho dân: 1/3 thìa cà phê một người, phải dùng cầm chừng ăn dần.
      Chốn rừng thiêng nước độc, đầy các con muỗi, con mòng và vắt cắn. Sốt rét không đủ thuốc men chữ trị, lại thiếu ăn… gây nên đủ thứ bệnh dịch. Tội nhất là những đứa con nít sơ sinh: mẹ thiếu sữa cho con bú, thiếu dinh dưỡng, ăn ở thiếu vệ sinh, bị sốt rét rừng… chết rất nhiều. Có gia đình 3-4 đứa con nhỏ đều chết ráo. Tình cảnh thật thương tâm.
      Nhưng rồi… ai chết thì ráng mà chịu. Đến những người lính chiến với nhau, chết cũng chẳng còn nước mắt mà khóc. Chiến tranh mà… Tình cảnh dân chúng lại càng tàn khốc, chẳng tìm đâu ra lòng nhân ái để thương hại lẫn nhau.
      Mà dồn dân, đâu có phải họ được ở yên một chỗ? Tránh bom, tránh pháo phải đưa họ vào tít rừng sâu. Nay rừng này, mai rừng kia. Dân cũng màn trời, chiếu đất. Làm gì có lều, chòi hay nhà sàn để ở. Nước uống, nấu nướng hay tắm giặt đều bằng nước suối. Có khi đột ngột phải di chuyển trong một ngày cũng là chuyện thường tình. Thường là phải di chuyển vào ban đêm, để tránh phi pháo, máy bay của không lực Hoa Kỳ hay QLVNCH oanh tạc.
      Khi đưa dân đi, mỗi lần nghe tiếng máy bay là bộ đội địa phương hoặc  du kích la toáng lên: “Máy bay đấy! Chạy lẹ lên… máy bay địch nó đến bỏ bom , bắn phá đấy!”. Tình cảnh ấy, có khi có người dân đang nấu nướng - mấy ông du kích nhà mình liền hắt nước vào đống lửa, bắt bỏ hết để đi.
      Quần áo, có người lúc chạy còn mang được vài bộ đồ để thay, có người cuống quýt chỉ mặc độc một bộ trên người: có khi gai cào, vượt rừng… rách tả tơi, vá chùm mảnh nọ vào mảnh kia mà mặc. May mà xin được ai cho, thì mặc đại để che thân. Đi tắm ở suối, phải vắt quần áo lên bụi cây cho khô, tắm cởi chuồng… xong lấy quần áo mặc lại.
      Nhưng đàn ông hay con trai với nhau đã đành, còn dễ dàng. Tội nhất là số đàn bà, con gái đi tắm suối – Họ phải rủ nhau tìm một chỗ suối khuất, rồi canh chừng cho nhau tắm gội, giặt giũ. Không có xà bông để tắm, giặt… người dân họ kiếm đâu được một ít trái bồ hòn, vò vào nước thay cho xà phòng.
      Đấy! Cuộc sống của những người dân ở vùng Đắc Tô – Tân Cảnh sau khi được giải phóng 1972, là như vậy – Thực tế như những thước phim quay lại trong đầu anh.
      Đoàn xe pháo của Đại đội 4 vẫn lóc xóc rời khỏi khu bản hoang vắng chạy vào một mé rừng, đã được tiểu đoàn công binh phát sẵn làm thành đường dẫn vào chiến dịch. Người chiến sĩ trinh sát báo cáo với Đại trưởng Hoàng, sắp tới vị trí của đại đội tập kết.
      Trời cũng gần sáng. Họ đã nghe thấy tiếng súng lác đác nổ về hướng Thị xã Kon Tum.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:38:37
 
 
 
                                                                                18-
 
      Sau khi QLVNCH bị thất bại thảm hại trên mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh cùng một các cụm cứ điểm khác, như Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng… Chúng biết là QGP sẽ tiếp tục đánh vào Thị xã Kon Tum. Một mặt VNCH tăng cường thăm dò, cho phi pháo liên tục đánh phá Quốc lộ 14 và các trục đường QGP có thể hành binh hoặc vận chuyển về hướng Kon Tum. Cho cả máy bay ném xuống các buôn làng mà chúng cho rằng: Đó là điểm hội tụ của quân mặt trận B3.
      Trên vùng trời phía Bắc Tây Nguyên bao bọc quanh thị xã – cứ sáng ra là những chiếc máy bay trinh sát OV10. L19 vòng đi, vòng lại. Chúng rà dọc theo đường quốc lộ, ngó xuống các cánh rừng, các buôn làng… tìm dấu vết khả nghi của QGP, để gọi phi pháo bắn phá hoặc máy bay phản lực tới ném bom. Có khi cho cả “pháo đài bay” B52 rải thảm. Thấy bóng người, bóng xe cộ là chúng gọi trực thăng dùng đại liên, bắn rốc két xối xả, hoặc chỉ điểm cho phi pháo các nơi bắn đến tới tấp.
      Lược lại đôi nét hoàn cảnh trước khi chiến sự xuân hè 1972 xẩy ra – Lúc đó, theo như kế hoạch phòng thủ tác chiến của cấc tướng lĩnh Hoa Kỳ ở miền Nam cùng Ban tham mưu QLVNCH: Bố trí tại phòng tuyến Đắc Tô – Tân Cảnh gồm 3 trung đoàn của Sư 22: khoảng 10 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh, 10 chi đoàn chiến xa sẵn sàng giao chiến với Sư 320. Ngoài ra QLVNCH còn cho Liên đoàn 22 biệt động quân phòng thủ tuyến ngoài, để đối kháng với Sư 2 (E1 – 141) của QGP. Bộ tham mưu QLVNCH tăng cường thêm 2 lữ đoàn nhảy dù làm trù bị tại Kon Tum, ứng cứu Đắc Tô – Tân Cảnh khi cần thiết.
      Nay toàn bộ Tân Cảnh – Đắc Tô và một số cụm cứ điểm Bắc Kon Tum cùng phía tây sông Pô Kô đã về tay QGP – QLVNCH rút toàn bộ số còn lại về giữ Kon Tum. Kế hoạch phòng thủ Kon Tum bây giờ, chủ yếu giao cho Sư 23 QLVNCH do Đại tá Lý Tòng Bá làm sư trưởng – đảm trách ba mặt chủ yếu là đông, tây và bắc thị xã. Hướng nam Kom Tum có con sông Dakbla là chướng ngại vật, nên họ giao cho lính địa phương đảm nhận.
      Tuyến phòng thủ phía bắc Kon Tum do Sư 23 làm nòng cốt, bố trí thành nhiều trận địa nhỏ. Ngoài ra QLVNCH còn lấy Trung đoàn 53, Tiểu đoàn dù 7 hỗ trợ phòng thủ. Dựa vào công sự vững chắc, liên kết chặt chẽ với nhau bằng cả xung lực và hỏa lực. Có thể cơ động, vừa tránh pháo kích của QGP vừa đột kích phản công dễ dàng. Đồng thời tăng cường các hoạt động pháo binh, không quân, đặc biệt dùng B52 ném bom rải thảm. Khi chúng mất Đắc Tô – Tân Cảnh và một cụm cứ điểm ở Bắc Tây Nguyên, thì coi như tuyến phòng thủ kiên cố nhất vào Thị xã Kon Tum không còn nữa. QLVNCH điều thêm hai trung đoàn bộ binh từ Buôn Ma Thuột lên hỗ trợ phòng thủ Kon Tum.
      Về phía QLVNCH – Đại tá Lý Tòng Bá, Sư trưởng Sư 23 được chỉ định làm Tư lệnh trưởng mặt trận Kon Tum. Đáng lẽ chỉ huy toàn mặt trận Kon Tum do Tướng Ngô Du đảm nhiệm, nhưng bất ngờ Tướng Ngô Du ngã bệnh nặng – Tại Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn thay thế.
      Về phía Hoa Kỳ - Chỉ huy chiến dịch Kon Tum do hai cố vẫn: Paul Vann và Đại tá Rhotenberry (Rhotenberry đã từng làm cố vấn cho Đại tá Lý Tòng Bá trên mặt trận Bình Dương). Paul Vann đã nói với Rhotenberry: “Ông và tôi phải hết sức yểm trợ cho Đại tá Bá, vì tôi đã hứa với Đại tướng Abrams là không để mất Kon Tum. Nếu mất Kon Tum thì Kissinger, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại hòa đàm Paris sẽ gặp nhiều khó khăn”.
      Do Quốc lộ 14 bị QGP khống chế, VNCH phải mở thêm quốc lộ phụ gọi là Quốc lộ 14bis quanh đèo Chư Pao, để điều thêm nhiều chiến xa vào Kon Tum. Mỹ bổ xung thêm cho QLVNCH một loại hỏa tiễn mới, gọi là súng M-72 Law để tiêu diệt xe tăng T-54 của QGP. Tướng Nguyễn Văn Toàn còn tăng cường cho Đại tá Lý Tòng Bá – Tư lệnh Sư đoàn trưởng Sư 23 thêm 1  trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn biệt động quân, trên 20 chiếc chiến xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu và thuốc men từ Sài Gòn đem lên.
      Nói về các cuộc chiến lẻ tẻ mà QGP đánh vào các tuyến phòng thủ ngoài, trước khi chính thức đánh Thị xã Kon Tum:
-  Từ ngày 26/4 đến 10.5.1972, đánh và chiếm căn cứ Võ Định – tiền đồn phía bắc Kon Tum.
-  Ở căn cứ Biển Hồ: Trung đoàn 28 độc lập Mặt trận B3 đánh thiệt hại nặng Liên đoàn biệt động QLVNCH, hình thành thế vây ép Thị xã Kon Tum ở hướng đông bắc.
-  Một trung đoàn 95 độc lập khác chốt chặn Quốc lộ 14 ở Chư Thoi, đánh tan 4 đại đội bộ binh QLVNCH.
-  Trung đoàn 52, F320 đánh chiếm cứ điểm Kleng, diệt Tiểu đoàn 62 QLVNCH.
      Trung đoàn pháo 54 của QGP vẫn liên tục bắn phá thị xã bằng pháo 130ly, 122ly và hỏa tiễn H12 – tuy nhiên QGP không chặn được các trung đoàn 44, 45 và 53 Sư đoàn 23 QLVNCH do Đại tá Lý Tòng Bá làm sư trưởng vẫn hành quân vào Thị Xã Kon Tum, để xây dựng tuyến phòng thủ.
      Trung đoàn 66 của Mặt trận B3 do chủ quan khinh địch, hợp đồng lỏng lẻo, báo cáo sai tình hình, cán bộ không sâu sát… bị thiệt hại nặng phải rút về củng cố.
      Ngày 13.5.1972, mạng lưới điện đài do thám của Mỹ gọi là SIGINT bắt được một bức mật lệnh của Bộ tư lệnh B3, đã ra lệnh như sau:
      “Mũi tấn công hướng Bắc Sư đoàn 2 – stop – Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T-54 – stop – Ngày giờ tấn công 05 giờ ngày 14/5/72 stop”.
      Thực tế là đúng qua đêm ngày 13.5.1972, kém 5 phút đến 05 giờ sáng ngày 14.5.1972 – QGP chính thức mở màn tấn công vào Thị xã Kon Tum.
      Do bắt được mật lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận B3, Tướng Nguyễn Văn Toàn một mặt khẩn cấp bố trí lại lực lượng phòng thủ Kon Tum rất chặt chẽ để đón đánh QGP, đồng thời lệnh cho các đơn vị QLVNCH không được ra khỏi hầm khi đối phương mở màn nổ súng, để B52 Mỹ rải thảm vào đội hình QGP trước.
       Còn các cố vấn Mỹ, sau khi bắt được mật lệnh B3 về kế hoạch trận đánh – Tại hầm Chỉ huy sở Sư 23 của Đại tá Lý Tòng Bá, Paul Vann thảo luận kế hoạch chặn đánh với bộ chỉ huy QLVNCH, đồng thời điện đàm với Đại tướng Abrams khi ấy ở Sài Gòn, rằng: cho ông sử dụng tối đa lực lượng B52? được Tướng Abrams chấp thuận.
      Vào lúc 5 giờ sáng, sau những đợt pháo kích dồn dập dọn đường của QGP xuống Thị Xã Kon Tum, 5 trung đoàn bộ binh ồ ạt tấn công vào thành phố.
      Từ hướng tây bắc, 3 trung đoàn 48,52 và 64 của F320 tấn công Trung đoàn 44, 45 Sư 23 QLVNCH.
      Từ hướng bắc, Trung đoàn 1 của Sư 2 và E28 – trung đoàn độc lập B3 tấn công Trung đoàn 53 Sư 23 QLVNCH.
      Trung đoàn 141 Sư 2 của QGP từ phía nam tiến lên bắc thị xã đánh vào các tuyến địa phương quân và tiểu khu Kon Tum.
      Sau khi QGP mở màn tấn công Thị xã Kon Tum – cũng đúng lúc 5 giờ sáng ngày 14.5.1972, lập tức trực thăng của Tướng John Hill, tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau đó là trực thăng của Tướng Nguyễn Văn Toàn bay vào thị sát Kon Tum trong sương mù.
      Paul Vann lệnh cho phi hành đoàn đến rải thảm B52. Diện tích rải thảm 75km2 thả vào đội hình chủ lực của QGP 25 box B52 (mỗi box là 3 chiếc B52 chứa trên 100 quả bom đủ loại). Tức là Mỹ đã cho 75 lần chiếc B52 với hơn 3.000 quả bom, đồng loạt đánh đòn phủ đầu vào đội hình Sư 320 (gồm 3 E 48-52-64) và Sư 2 (E 1-141) cùng các trung đoàn độc lập khác của Mặt trận B3 trong cuộc chiến.
      Tiếng bom nổ long trời, lở núi. Khói đạn và đất đá bay mù mịt. Tiếp theo là từng đoàn phản lực AD6, A37 ném bom đánh vào xe tăng, những trận địa pháo cao xạ và các mục tiêu. Sau đó còn cho loại trực thăng vũ trang tân tiến nhất, loại Cobra bắn tập hậu, như săn thú… vào trong đội hình các binh đoàn chủ lực QGP.
      Các cuộc tấn công đợt 1 của Mặt trận B3 nhanh chóng bị địch bẻ gẫy. Các chiến xa dẫn đầu nhiều chiếc bị bắn cháy. Xe tăng T-54 và các ổ pháo cao xạ phòng không vì bị áp lực quá lớn của bom, bộ đội phải lui về phía sau… lại bị trực thăng bọc hậu quấy phá.
      Tai tuyến đầu, 9 chiến xa T-54 của QGP nằm ngoài khu vực ném bom B52 tiếp tục tiến công, nhưng bị phản lực và chiến xa địch bắn cháy 6 chiếc, 3 chiếc khác đành lùi lại không thể tiến lên được.
      Sư 320 và Sư 2 cùng các trung đoàn liên minh của QGP phải rút lui, tạm ngừng kế hoạch tiến công. Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh chỉ huy Mặt trận B3 lệnh cho các đơn vị không được dùng điện đài nữa (vì bị lộ địch dò được), chuyển sang dùng điện thoại hữu tuyến và liên lạc viên chạy bộ.
      Một giờ sau Tướng Nguyễn Văn Toàn và Paul Vann lại bay vào vùng B52 vừa ném bom để thị sát. Họ thấy bộ đội chết rất nhiều quanh các hố bom, không thể đếm hết. Một số bị thương đang lảo đảo… Paul Vann cho trực thăng hạ độ cao, dùng M16 bắn giết tiếp. Suốt ngày 14/5 đó, không lực VNCH và không lực Huê Kỳ tiếp tục oanh tạc, thanh toán các đám QGP.
      Đợt tấn công lần 1 không thành – Ban tham mưu Mặt trận B3 phải điều chỉnh lại kế hoạch đánh Kon Tum, và vội lệnh cho các đơn vị chủ lực rút quân… để chuẩn bị tiến đánh đợt 2.
      Theo con số ước tính của Hoa Kỳ - Đợt 1: QGP hy sinh 1.000 người, 20 chiến xa T-54 bị bắn cháy.
      TẤN CÔNG ĐỢT 2:
      Đêm 20 rạng ngày 21.5.1972, QGP mở cuộc tấn công đợt hai vào Thị Xã Kon Tum.
-  Hai Trung đoàn 1-141 của Sư 2 B3 cùng với đại đội đặc công 209 vượt sông Dakbla đánh vào sân bay, khu cơ giới và Dinh tỉnh trưởng Kon Tum. Tỉnh trưởng Kon Tum là Đại tá Nguyễn Bá Long phải chạy sang trú ở Ban chỉ huy Sư 23, chỗ của Đại tá Lý Tòng Bá.
-  Hai Trung đoàn 48-64 của Sư 320, có một đại đội xe tăng T-54 yểm trợ đánh chọc thủng tuyến giữa Trung đoàn 45-53 Sư 23 QLVNCH. Đại tá Lý Tòng Bá điều động chi đoàn thiết giáp M-41 ra chặn đánh quyết liệt, với sự yểm trợ của không lực Hoa Kỳ gồm các loại phản lực F4h, F101 và B52 rải thảm.
      Hai đại đội đặc công B3 đã lợi dụng nhiều sương mù, lội qua sông và chiếm phi trường, kho đạn và tòa giám mục.
      QGP coi như đã chiếm được gần nửa thị xã. Tại khu nghĩa địa thành phố do một đại đội đặc công B3 chiếm giữ và cố thủ, chỉ cách hầm chỉ huy của Lý Tòng Bá khoảng 300 mét. Sư 23 QLVNCH cho 1 đại đội trinh sát tinh nhuệ, có nhiều chiến xa hộ tống ra đánh nhưng không được, 2 chiến xa bị cháy, phải rút chạy.
      Ngày 21.5.1972, Tướng Nguyễn Văn Toàn đi máy bay đến thị sát Kon Tum lệnh cho Đại tá Lý Tòng Bá phải thanh toán các lực lượng đặc công.
      Ngày 23.5.1972, QLVNCH điều 2 liên đoàn biệt động (2 và 6), 1 tiểu đoàn biệt động biên phòng, 1 chi đoàn thiết giáp có pháo binh và không quân yểm trợ… mở cuộc hành binh “Bắc Bình Vương 72” đánh ra phía nam Kon Tum, nhưng bị đánh chặn, không thông ra được Quốc lộ 14. Quân VNCH bị chết và thương vong 1.000 binh sĩ, trong đó có phó tư lệnh Sư 23 Tạ Đình Liên và chi đoàn trưởng chi đoàn thiết giáp Diêm Phú Hưng. QLVNCH bị đánh hỏng 62 xe thiết giáp ( 2 xe M-48, 11 xe M-113 còn lại là M-41), 4 pháo 105mm, rơi 2 máy bay AD6 – 2 A37 – 1 F4h và 3 trực thăng vũ trang.
      Ngày 25/5, QGP mở nỗ lực cuối cùng tấn công để chiếm thị xã - Lúc nửa đêm pháo kích quyết liệt khu phi trường sân bay quân sự; 2 tiểu đoàn đặc công cùng Sư 2 xâm nhập mặt đông nam; Sư 320 phối hợp pháo binh, xe tăng từ phía bắc và đông bắc đánh sâu vào trong. QGP tàn phá Kon Tum, dùng cả pháo 105 - 155mm lấy được từ Tân Cảnh – Đắc Tô với xe tăng yểm trợ tiến đánh dữ dội thành phố: chiếm 1 trường học, 1 viện công giáo và Tòa giám mục Kon Tum. Quân chủ lực Việt Cộng pháo kích mạnh làm pháo địch tê liệt, không bắn trả được.
      Ngày 26/5, E64 F320 QGP tăng lực thêm pháo và xe tăng mở cuộc tấn công Trung đoàn 53 của Sư 23 QLVNCH.
      Ở mũi phía nam – Sư 968 B3 tuy mới tham gia lần đầu chưa bị tổn thất, còn mạnh, nhưng lại gặp ngãng trở là con sông Dakbla, bị quân địa phương của VNCH ngăn chặn không tiến nhanh được.
      Địch hoảng hốt yêu cầu không lực Hoa Kỳ, pháo binh và chiến xa chi viện.
      Trong ngày 25.5.1972, không lực Mỹ đã dùng tối đa 30 box B52 với trên 3.000 quả bom đánh vào đội hình các sư đoàn của B3 – Sư 320 tuy đã vào được trong thị xã nhưng tổn thất nặng, tiếp đến lại bị các máy bay cường kích như F4h, F101 và các loại A37, Dragonfly, VH-1, Ỉrquois ném bom, bắn chặn… thương vong rất nhiều.
      Sư 23 QLVNCH phản kích chiếm lại được sân bay, khu cơ giới. 1 đại đội quân báo của Sư 23 tấn công Đại đội 209 đặc công QGP ở khu nghĩa địa, nhưng thất bại. Thiệt mất 5 xe tăng. Chỉ huy sở của Sư 23 phải rời về nam thị xã.
      Paul Vann sử dụng cả không quân cất cánh từ phía Thái Lan đến trợ chiến, sau đó dùng B52 rải thảm vào các đội hình chiến xa, Sư 2 và Sư 968 QGP ở phía nam. Hai bên quần thảo ác liệt.  Qua một tuần lễ mà bộ đội vẫn không chiếm được thị xã. QGP tuy đã đánh thắng một số khu vực nhưng không phát triển được, vì bị tổn thất quá nhiều. Sư 320 và Sư 2 đã mở tiếp tấn công nhiều đợt, song đều bị đẩy lui.
      Tướng Nguyễn Văn Toàn chỉ huy chiến dịch điều động thêm lực lượng từ Pleiku lên, khai thông Quốc lộ 14 và hỗ trợ Kon Tum. Tinh thần binh sĩ QLVNCH nhờ thế được trấn an, phản công lại QGP quyết liệt. Chúng dùng nhiều máy bay phản lực ném bom oanh tạc, B52 rải thảm, cả những trực thăng khổng lồ như loại Chinook tiếp tế và tải thương tại sân bay thị xã.
      Ngày 30.5.1972, hầu hết những vị trí QGP đã chiếm, địch lấy lại được.
      Trưa 31/5, chủ lực QGP buộc phải rút lui. Xét thấy không còn khả năng đánh chiếm thị xã nữa: do quân số bị thương vong lớn, gạo thiếu, đạn dược không đủ - Bộ tư lệnh B3 tung nốt Trung đoàn 66, là lực lượng dự bị cuối cùng để yểm hộ cho các trung đoàn đã vào trong thị xã rút ra ngoài.
      Sau khi mặt trận Kon Tum kết thúc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay lên thị xã để vinh danh tinh thần chiến đấu của QLVNCH, và thăng cấp Đại tá Lý Tòng Bá lên chuẩn tướng.
      Theo lời của Tướng Lý Tòng Bá nói:
      “Quân giải phóng để lại 3.000 xác chết, mấy chục chiến xa bị bắn hạ và cộng quân đã thất bại thảm hại.”. Cũng theo lời Tướng Bá: “Cộng sản Bắc Việt bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để chiếm Kon Tum, khi họ đã chiếm được Đắc Tô – Tân Cảnh. Họ không đánh Kon Tum ngay mà để hai tuần sau mới tấn công, khi mà Sư đoàn 23 QLVNCH đã bố trí xong phòng thủ trong và ngoài thị xã.”.
      Thực tế thì, tuy QGP đại thắng ở mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh, nhưng bị tổn thất cũng rất nặng nề. Sư 320 và cả Sư 2 phải dừng lại để củng cố và bổ xung quân lực. Các chiến xa T-54 bị tiêu hao không ít tại phi trường Đắc Tô hoặc bị không quân Mỹ bắn hỏng. Vì thế, phải hai mươi ngày sau mới tiến đánh Kon Tum được. Mặc dù dự kiến theo kế hoạch tác chiến, là chỉ 5 ngày sau khi thắng ở Đắc Tô – Tân Cảnh - Bởi vậy, QLVNCH đã có đủ thời gian phòng thủ xong Kon Tum.
      Ngày 9.6.1972, cố vấn Hoa Kỳ John Paul Vann, sau khi đến thị sát và cổ vũ Sư 23 QLVNCH đã giành thắng lợi – Trên đường trở về Pleiku, chiếc máy bay VH-1 của ông trúng đạn phòng không QGP và bị rơi. Cố vấn Paul Vann chết trên trận địa Tỉnh Gia Lai.
      Chiến dịch Bắc Tây Nguyên kết thúc: QGP giữ được cụm cứ điểm Đắc Tô – Tân Cảnh, QLVNCH giữ được Thị Xã Kon Tum.
      Theo ước lượng của tình báo Mỹ: Tại trận chiến Tây Nguyên tính trong cả ba tháng 3-4-5.1972, cộng sản Bắc Việt đã thiệt hại khoảng 1 sư đoàn rưỡi và 30 chiến xa T-54.
 
                                                   *
 
      Ra khỏi Thị xã Kon Tum, đoàn xe pháo cao xạ C4 của Đại trưởng Nguyễn Hoàng chạy trở về Đắc Tô – Tân Cảnh. Trên đường đi qua một con dốc mà người dân đặt cho nó cái tên nghe khá rùng rợn: “dốc Đầu Lâu”. Đường lên Dốc Đầu Lâu cao khoảng trên 600 mét. Bên kia con đường là một ngôi miếu hoang, gọi là “miếu Cô Hồn”. Không biết nó được lập từ thời kỳ nào trong chiến tranh? Miếu thờ vong linh những người lính VNCH và cả lính mặt trận giải phóng đã chết trận. Dốc Đầu Lâu là một con dốc mà hai bên đều cố chiếm được, để kiểm soát Thị xã Kon Tum.
      Ngồi trên xe pháo, Nguyễn Hoàng lòng nặng trĩu. Anh em trong đại đội của anh, họ cũng lặng lẽ trở về sau thất bại trận đánh vào thị xã. Tuy đại đội anh đã góp phần diệt được một số máy bay phản lực và trực thăng không lực Hoa Kỳ, nhưng C4 cũng bị địch đánh hỏng một khẩu 37ly, chiến sĩ bị thương và hy sinh khá nhiều… chủ yếu do B52 rải thảm trúng đội hình. Nói chung về Tiểu đoàn hỏa lực D16 – số bộ đội thương vong, tổn thất so với các trung đoàn bộ binh như Sư 320, Sư 2 và các tiểu đoàn đặc công thì còn ít hơn rất nhiều.
      Khi đoàn xe pháo đi qua đỉnh Dốc Đầu Lâu, trung úy Nguyễn Hoàng thấy rùng mình. Những chiếc xe pháo chạy trên con đường sau cuộc chiến khốc liệt, đầy những hố bom đạn và đất đá lổng chổng, xóc nẩy tung lên. Khác hoàn toàn với tâm trạng của trận đánh Đắc Tô – Tân Cảnh: dù cũng ác liệt và hy sinh, nhưng trận chiến ấy QGP thắng lớn, nên tâm hồn người chiến sĩ náo nức, phấn khởi. Còn trở về đợt này, họ tránh sao được nỗi u uất trong lòng? Ngôi “miếu Cô Hồn” kia sẽ mãi mãi giữ vong linh những binh sĩ cả hai bên, thậm chí cả vong linh lính Mỹ, quân đồng minh… đã bỏ mạng trên trận chiến Kon Tum.
      Hoàng nghĩ về anh em đã cùng anh chiến đấu, giờ không còn nữa. Họ đều là những thanh niên tuổi còn rất trẻ, thậm chí có người mới lớn lên chưa từng biết đến chữ “yêu”! Chưa biết đến hương vị của đàn bà… đã phải vĩnh viễn nằm lại chốn trận tiền. Với bao sự hy sinh như thế, mà cuối cùng cuộc chiến vẫn thất bại? Thật là xót xa. Cũng chẳng phải do ta đánh kém, thực tế là ác liệt quá! Địch tập trung sử dụng binh hỏa lực, nhất là pháo đài bay B52 rải thảm quá nhiều, ta không trụ nổi. Nhìn trên khóe mắt đồng đội đang trở về cùng anh, Hoàng biết anh em cũng rất buồn bực và đau khổ.
      Ôi, những cánh hoa dã quỳ vẫn nở vàng rực trong những cánh rừng đầy bom lửa Tây Nguyên kia, chúng vô tư quá! Hoàng vào chiến đấu trên chiến trường, thế cũng đã qua năm mùa hoa dã quỳ nở rồi. Những địa danh Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum, Tân Cảnh – Đắc Tô, Pleiku, Buôn Ma Thuột… Những cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng, Kleng, Chư Tan Kra… Những dòng sông Pô Kô, Sa Thầy, Sê Sụ hay Xê Rê Pốc… mà anh đã hành quân qua. Những con đường Quốc lộ 14, 18, 19, 21… in đậm dấu chân lính chiến của anh. Mỗi địa danh ấy lại ghi một chiến tích hay sự tàn khốc đẫm máu của những chiến dịch và trận đánh.
      Có những trận thắng ròn rã như Ngọc Bờ Biêng, Đắc Tô – Tân Cảnh – nhưng cũng có những trận ác liệt, cảm tử mà cuối cùng vẫn đành phải rút bỏ vì thất bại như trận Kon Tum… đều hằn sâu trong kí ức những người lính. Đành rằng: “được thua là lẽ thường tình trong chiến trận” – nhưng máu đổ thì vẫn là máu… không ai muốn đổi lấy sự thất bại và đau thương?
      Nói về sự gian khổ và ác liệt thì chẳng đâu bằng chiến trường Tây Nguyên, điều ấy thì Hoàng và đồng đội ai cũng thấm thía. Có những lần, Hoàng đã phải chứng kiến: Hồi đó, anh còn làm trung đội trưởng, đơn vị pháo của anh bị trúng tọa độ B52. Gần 20 chiến sĩ bom đánh tung mất xác, chỉ một người duy nhất chết còn lại thân thể nhưng đã bị hơi bom lột đi tất cả quần áo, trần truồng nằm phơi ở giữa rừng… Anh và những đồng đội sống sót phải chia nhau đi tìm từng dúm tóc sót lại vướng vào một cành gai, từng ngón tay, ngón chân, mẩu xương, nắm thịt vương vãi khắp nơi. Gần 20 con người cũng chỉ chia ra được 5 cái túi nhỏ với 1 người toàn thây, đào chôn làm 6 cái huyệt… rồi đánh dấu để sau này tìm lại.
      Như người ta nói: những ai đã chiến đấu ngoài mặt trận mới hiểu hết được sự can trường, sức chịu đựng cũng như những hy sinh của người lính chiến. Càng gian khổ, ác liệt và mất mát… họ lại càng thương yêu nhau. Nghĩa tình đồng đội những người lính ấy, còn hơn cả anh em ruột thịt.
      Đoàn xe pháo của Đại đội 4 vẫn chạy rầm rì, lóc xóc trên con đường Quốc lộ 14 nham nhở vì cuộc chiến. Hoàng lại nghĩ về Hà Nội, đến những người thân của anh nơi quê hương! Hoàng nhớ tới Thu - Trong lá thư mà anh nhận được hồi đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: không quân Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa – chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội và thanh niên tự vệ là ở lại.
      Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm bên người bạn gái. Cả trong năm học cuối cấp theo trường đi sơ tán, hai đứa cùng về một làng quê. Ôi, người bạn tình của anh! Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya… Cũng có thể, ngày mai thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này, anh không còn có thể trở về gặp lại người con gái thủa ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát từng kỉ niệm nhỏ êm đềm… nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể cả cái chết trên chiến trận đến bất cứ lúc nào - Cuộc chiến tranh đã tôi luyện cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến si trên quê hương, về gia đình họ… chứ không phải bản thân những người lính như các anh.
      Anh còn hơn bao anh em lính trẻ khác, chết đi mà vẫn chưa biết “yêu” là gì? Anh đã từng yêu và yêu say đắm. Cũng đã từng được nếm trải cái hạnh phúc tột cùng của tình yêu, tấm thân của người con gái đã hiến cho anh.
      Anh lại nghĩ đến Mỵ, người con gái đã yêu anh bằng cả trái tim và tấm thân trinh bạch, không hề hối tiếc! Em từng nói với anh như thế. Mới chỉ cách đây ít ngày thôi, ngay trên mảnh đất máu lửa này: cô gái bản hồn nhiên, xinh xắn ấy đã vào tận chiến trường để tìm anh. Nàng đã đến, sau một trận chiến kinh hoàng trên vùng trời Đắc Tô – Tân Cảnh. Cứ như là chuyện cổ tích vậy? Ôi, hạnh phúc mới trớ trêu và kỳ lạ làm sao!
      Giờ này Mỵ ra sao và thế nào nhỉ? Cô đã theo một cánh quân của mặt trận B3 đánh vào Chư Pao, cũng trên con đường 14. Chiến sự ở Chư Pao, có lẽ bây giờ vẫn đang nổ ra. Mỵ và cả Sa, người bạn gái của cô liệu có làm sao không? Anh bỗng thấy xót thương cho những người con gái đó! Những người lính nam nhi như anh và anh em đồng đội, dấn thân vào nơi lửa đạn ác liệt rồi hy sinh, thì đã đành. Đằng này, các em chỉ là phận nữ nhi, yếu đuối…
      Anh lại thấy chính mình có tội? nếu không vì yêu anh, chắc gì em phải dấn thân đến mãi chốn chiến trường đầy bom đạn này. Có ai bắt buộc em phải đi đâu? và thế là Hoàng tự thấy… anh không thể phụ bạc với người con gái ấy! Rồi anh lại thấy, anh mang tội với cả hai người con gái đã yêu anh – Anh không thể phản lại ai !?
      Ôi tình yêu! Trong Hoàng rối tung với bao sự suy diễn... Thế là trên con đường từ cuộc chiến về, cùng với tiếng lọc xọc của những bánh xe pháo, cứ nhảy lên trong đầu anh. “Thôi, chiến tranh mà…” – Hoàng cố xua đuổi những ý nghĩ cứ lẩn quẩn bám theo mình. Chiến tranh! Tất cả sẽ chìm vào trong chiến tranh…
      Hoàng ngả người bên cạnh anh lính trẻ. Cậu ta đang ngủ ngon lành trên ghế xe. Bầu trời đêm Tây Nguyên tạnh ráo, vẫn nghe thấy tiếng pháo và súng nổ từ xa. Có lẽ từ phía cứ điểm Chư Pao vọng đến… Chiến sự đang diễn ra tại đó. Nơi ấy có Mỵ, người con gái bản của anh đang ở trong trận đánh.
      Đoàn xe pháo cao xạ 37ly của Đại đội 4 vẫn đang nhằm hướng Đắc Tô – Tân cảnh chạy về.  Cũng chẳng còn bao xa nữa, mấy đốm lửa cháy ở phía sân bay Phượng Hoàng đã hiện ra trước mắt.  Cùng với tiểu đoàn hỏa lực D16, họ sẽ dừng quân ở đấy để củng cố đơn vị, rồi lại tiếp tục vào những cuộc chiến tới. 
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 07.08.2023 17:42:03
 
 
 
                                        CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI CON GÁI BẢN
                                                                    19-                                      
 
      Tại một trạm phẫu của QGP. Vào lúc mờ sáng, anh em trong đội tải thương của mặt trận B3 đã cáng một nữ chiến sĩ từ cứ điểm Chư Pao về đây. Họ đã phải thay phiên nhau đi liên tục suốt đêm. Cô bị thương nặng và mất rất nhiều máu. Tuy đã được nhân viên y tế tiền phương sơ cứu tại chỗ, nhưng vết thương đòi hỏi phải kịp thời đưa về phẫu tuyến sau, may ra mới cứu nổi. Người nữ chiến sĩ đó là Mỵ!
      Đây là khu khu cấp cứu của Sư đoàn 320, được đặt ngay trong Quận lỵ Đắc Tô mới giải phóng. Họ để cô nằm trên một chiếc giường lò xo, có trải một tấm đệm trắng. Cô vẫn mê man. Những biện pháp cấp cứu đã được thực hiện để lấy ra một mảnh pháo, găm vào trong ngực cô gái. Nhìn gương mặt của ông bác sĩ già, mọi người đều đoán biết, không còn hy vọng gì?
-  Cho tôi uống… nước… 
      Cô gái cựa mình và rên khe khẽ, mắt vẫn nhắm nghiền lại. Mấy người đứng quanh reo lên:
-  Cô ấy tỉnh rồi!
      Chị hộ lý là một người địa phương, thuộc du kích quân. Chị vội lấy chiếc khăn mặt bông dấp nước, thấm lên môi cô gái… quay sang nói với một nữ chiến sĩ trẻ khác, đứng cạnh:
-  Cô ta khát nước đấy! Mất nhiều máu lắm, cho uống nước bây giờ thì không gỡ được.
      Cô gái đưa lưỡi nhấm nhấm chiếc khăn ướt trong tay chị hộ lý một cách ngon lành. Không đã cơn khát, cô vẫn đòi uống. Người nữ chiến sĩ trẻ có khuôn mặt tròn, cúi xuống gần sát người con gái bị thương gọi:
-  Mỵ ơi… tỉnh lại đi Mỵ ơi! Sa đến thăm Mỵ đây. Mỵ có nhận ra Sa không?
      Người con gái có tên là Mỵ hé mở đôi mắt lờ đờ nhìn bạn, khẽ gật đầu rồi lại từ từ khép lại. Sa nhìn Mỵ, lòng trào lên một nỗi cảm thương vô hạn. Cô lấy tay vuốt lại mấy sợi tóc xõa xuống trên má bạn, nói giọng trìu mến:
-  Bác sĩ chưa đồng ý cho Mỵ uống nước đâu! Đỡ vết thương, Mỵ sẽ uống thật nhiều.
      Những tiếng thở khò khè muốn bật ra khỏi cuống họng của Mỵ, nhưng chưa thoát được. Như một sinh linh bất lực trước cơn hấp hối, đang dần dần vít thân thể cô xuống. Sa vẫn thảng thốt gọi:
-  Mỵ ơi!... Mỵ ơi!... hãy mở mắt nhìn Sa đi?
      Đôi mắt quầng xám của người con gái lại từ từ mở ra nhìn bạn, cắn chặt răng để không phát thành tiếng rên. Cái nhìn của Mỵ thì vẫn hiền dịu và thoáng cười với Sa. Cô cố đưa bàn tay yếu ớt nắm lấy tay bạn, giọng nói nhỏ và hơi nặng nhọc:
-  Mình… không… qua… được đâu…
-  Rồi Mỵ sẽ khỏi! Mỵ sẽ trở về đơn vị với sa và anh chị em.
      Sa âu yếm nhìn bạn, nói vậy. Mỵ chỉ hơi lắc đầu, trông vẻ yếu lắm! Bỗng như có một sự sống vùng dậy trong con người cô, như một người tỉnh táo bình tĩnh, cô nói:
-  Mỵ… muốn… gặp… anh ấy…
      Cô nhìn bạn, cái nhìn có vẻ năn nỉ? Người bác sĩ ra ngoài mới bước vào, chứng kiến cuộc đối thoại giữa hai cô gái: Hai người lính nữ! Ông không nói gì, chỉ khẽ gật đầu ra hiệu cho Sa. Sa biết ông muốn nói với mình: “Cô hãy đi đi! Hãy giúp cô ấy được thỏa tâm nguyện một lần cuối.”.
      Sa nhìn bạn giây phút, giọng cô hơi nấc lên như muốn khóc:
-  Sa đi nhé! Sa sẽ đưa anh ấy về cho Mỵ. Đợi một chút, Sa về ngay.
      Nói rồi, cô quay người lao nhanh ra cửa.
 
                                                         *
 
      Chư Pao là một ngọn núi có đỉnh cao 1.059 mét, nằm trên đường Quốc Lộ 14, đoạn Pleiku – Kon Tum. Cách Pleiku về phía bắc khoảng 17km. Chư Pao địa thế hiểm trở rất có lợi cho việc thế thủ. Nó còn là một đài quan sát, để bảo vệ cả Pleiku lẫn Kon Tum. Bởi vậy, nó được mệnh danh là ngọn đèo chiến lược ở cao nguyên. Trong suốt cuộc chiến tranh, cả hai bên: phía QGP cũng như QLVNCH đều muốn chiếm giữ. Do tầm quan trọng về chiến lược của vùng đèo này nên trong cuộc chiến Bắc Tây Nguyên xuân hè 1972, Chư Pao cũng là một trong những trọng điểm, Bộ tư lệnh Mặt trận B3 kiên quyết đánh chiếm.
      Vào cuối tháng 4/1972, sau khi thắng lớn cụm cứ điểm Đắc Tô – Tân Cảnh – Bộ tư lệnh B3 đã tung trung đoàn bộ binh 95 trực thuộc mặt trận, có xe tăng thiết giáp yểm trợ tấn công cường tập vào QLVNCH đang cố thủ Chư Pao.
      Bộ phận quân y của Mỵ và Sa được Bộ tư lệnh cử xuống cùng Trung đoàn 95, tham gia trận đánh. Với đà chiến thắng, Trung đoàn 95 đã đẩy lui lực lượng biệt động quân của VNCH ở Chư Pao phải chạy về Thị xã Kon Tum, và đã chiếm con đèo này.
      Nhưng đến cuối tháng 5/1972, khi QGP thất thủ phải rút ra khỏi Thị xã Kon Tum – thì QLVNCH liền tung Quân đoàn 2 mở những cuộc tấn công quyết liệt, với sự yểm trợ của pháo binh và không lực Hoa Kỳ, nhất là dùng pháo đài bay B52 rải thảm để giành giật lại cứ điểm Chư Pao. Dù khi đó QGP đã củng cố được cả một cụm chốt liên hoàn quanh khu đèo chiến lược khá chắc chắn… đồng thời Bộ tư lệnh B3 còn tung tiếp Trung đoàn 66 – sau khi hộ tống các trung đoàn ra khỏi Thị xã Kon Tum, tới hỗ trợ cho Trung đoàn 95 cố thủ đèo Chư Pao. Vì địch dồn quân đến quá mạnh, trút hàng vạn tấn bom xuống khu đèo. Cuộc chiến nổ ra hết sức quyết liệt…
      Lực lượng QGP thiệt hại rất nặng nề, kể cả các chiến xa phòng thủ đèo… hàng chục chiếc bị đánh hỏng – Cuối cùng Bộ tư lệnh mặt trận buộc phải lệnh cho các đơn vị rút khỏi đèo Chư Pao, cũng về hướng Đắc Tô – Tân Cảnh. Mỵ, người nữ chiến sĩ quân y đã bị thương ở đây!
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.08.2023 17:43:47 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:26:07
 
 
 
                                                                               20-
 
      Thấp thoáng những nóc nhà ven đường của đám dân gan lỳ ở lại sau cuộc chiến, hoặc những người đã chạy tản vào rừng quay trở về căn nhà cũ của mình. Các ngọn đèn hoa kỳ đã được thắp lên… Cả những con chiên chạy náu ra rừng, cũng đang lần lần trở lại ngôi nhà thờ đạo bị bom đánh sạt một góc. Vị cha đạo thì đã tản vào Thị xã Kon Tum, không biết sống chết ra sao? Bức tượng Đức Mẹ trước nhà thờ lỗ chỗ vết đạn. Người gác chuông nhà thờ, theo lệ kéo những hồi chuông xám hối.
      Các con chó chạy rông đang lật lên một cái xác chết. Không biết đấy là xác của người lính VNCH đã chạy trốn lên núi, mò về chết ở đây… hay xác dân lang thang vì tan nát cửa nhà, chết rụi trên đường? Chúng đang tranh nhau ăn ngấu nghiến những phần thịt còn mới, mà bộ phận đi thu gom xác của chính quyền chưa kịp đến dọn đi. Những con chó đen, chó vàng, chó đốm… mõm đỏ ngòm vì máu. Ở gần đấy, cũng có vài con chó khác vừa cắn ngập phải một cái xác đã thối rữa, nhung nhúc giòi bọ… vội vàng rút mõm ra, vẩy vẩy các con bọ còn bám quanh mõm, sủa ăng ẳng. Chúng xô nhau chạy đến, lao vào tranh giành với mấy con chó đang ăn cái xác còn tươi kia.
      Bên một chiếc giếng nhỏ, trong sân căn nhà bỏ hoang đã bị sập – Một tốp chiến sĩ QGP đi lẻ qua đây, lúi húi làm thịt một con lợn choai choai, vô chủ chạy lang thang mà họ vừa bắt được.
      Từ trong số ngôi nhà bị bắn phá đổ nát, các người dân ở ngoài rừng mới trở về im lặng, lấm lét nhìn những kẻ qua lại.
      Đấy là hình ảnh Thị trấn Tân Cảnh – Đắc Tô của những ngày hè 1972. Qua sân bay Phượng Hoàng đã bị cầy xới lên tan nát, còn ngổn ngang xác những chiến xa QLVNCH và cả xác xe tăng T-54 của QGP. Đại trưởng Nguyễn Hoàng đang vội vã đi theo cô Sa, nhìn cảnh tượng trên đường không khỏi gai người.
      Bước vào trạm phẫu Sư 320 đặt trong dẫy nhà tôn của dân bản địa bỏ hoang. Ở đấy, ngọn đèn măng- sông đã được thắp lên sáng trắng. Anh vội đến bên giường Mỵ - Cô vẫn trong cơn mê sảng, miệng nói ú ớ… rồi quẫy đạp, vật mình hết bên này sang bên kia. Người y tá và chị hộ lý vội giữ cô lại. Ông bác sĩ đứng im lặng. Sa len vào, đặt tay lên vai Mỵ… lay gọi:
-  Mỵ ơi! Tỉnh lại đi, Mỵ ơi! Anh Hoàng đến với Mỵ đây này!
      Chị hộ lý vẻ ái ngại, nói:
-  Cô ta yếu lắm!
    Đôi mắt của Mỵ đã hé mở, nhưng như thể nó không còn khả năng thu nhận ánh sáng nữa. Hoàng cúi xuống, vuốt lại mấy sợi tóc vương trên trán cô.
-  Cho… tôi… hớp… nước…
     Giọng Mỵ thều thào. Được người bác sĩ đồng ý, chị hộ lý rót một chén nước lọc nhỏ. Hoàng đỡ chén nước rồi lấy tay nâng đầu Mỵ dậy, cho cô uống. Cô nhấp từng ngụm nước ngon lành. Trong mơ hồ… Mỵ cảm thấy tiếng của người con trai đang nói với cô, nghe quen quen.
      “Ừ, anh ấy đến thật đấy! Anh đang gọi cô…” – Thoáng ý nghĩ ở trong đầu Mỵ. Tiếng cô nói nho nhỏ, như thể đó chỉ là sự lặp lại theo bản năng.
-  Anh… Hoàng… phải không?   
      Bàn tay Mỵ quờ quờ tìm kiếm. Hoàng nắm lấy tay cô, giọng nghẹn ngào:
-  Anh đây Mỵ ơi!
      Sa tiến đến gần hơn, lấy tay đỡ người bạn.
-  Anh Hoàng đến thăm Mỵ đấy, Mỵ à!
      Màn sương trắng bao quanh mắt Mỵ tan dần đi. Cô đã nhìn thấy anh: “Ừ, đúng là anh ấy thật rồi!”.
      Giây phút ấy… giây phút mà ý thức về một đời sống, một niềm khao khát vùng dậy. Hơn lúc nào hết, cô hiểu về thực tại của mình: Cái thực tại sẽ vĩnh viễn mang đi cuộc sống của cô! Mang đi tuổi trẻ và tình yêu của cô! Ôi, niềm hạnh phúc vô giá! Tưởng chừng với tay lên là cô đã có được? cô sẽ nắm được nó? Nhưng rồi tất cả lại buột khỏi tay cô.
      Hơn lúc nào hết, giờ phút này Mỵ hiểu rằng: cuộc sống sắp dứt bỏ cô mà đi. Cô sẽ phải mãi mãi xa anh! Chỉ cần cô với tay lên, một tý nữa thôi… nhưng muộn rồi. Bàn tay cô, nó không phục tùng cô nữa. Phải, muộn rồi… Sao tôi lại không thể sống? năm năm… hay một năm thôi cũng được. Tôi còn trẻ mà! Như thế em cũng không đòi hỏi nhiều lắm, phải không anh?
      “Ừ, chỉ một năm thôi mà…” – cô gái lướt nhìn lên mái nhà tôn, ánh sáng ngọn đén hắt lên mái tôn sáng lóa. Cô thấy như cô đã hoàn toàn khỏe mạnh – và ngay phút này, cô có thể cùng anh bay nhảy như đôi chim non trên cành. Mà phải như đôi chim đã lớn, cô không còn bé bỏng nữa.
-  Hạnh… phúc… cuộc... sống… đẹp quá… anh…
      Tiếng nói ấy muốn buột ra khỏi miệng cô, nhưng cô không nói lên được. Chưa bao giờ cô cảm thấy mình nhiều hạnh phúc như thế! Mỵ định nhỏm dậy, song cơn đau đã quật cô nằm vật xuống. Hoàng vội đỡ Mỵ… Đột nhiên anh nhận thấy trong ánh mắt của người con gái, một cái nhìn nhọn hoắt… từ từ dịu lại.
-  Em… sẽ… chết…
      Mỵ nói yếu ớt: “Em biết… là… em sẽ chết…”.
-  Không! Bác sĩ sẽ chữa khỏi vết thương cho em. Em sẽ không chết đâu, Mỵ à! Em sẽ sống với anh và với anh chị em đồng đội.
      Hoàng nói rồi áp môi hôn lên những vết máu khô trên đôi bàn tay cô. Đôi bàn tay đã lạnh giá. Mỵ khẽ lắc đầu, nhưng ánh mắt cô nhìn anh thì thật âu yếm, chứa chan. Một nụ cười nho nhỏ hé trên môi cô.
-  Ôm… lấy em… đi anh…
      Mỵ khẽ kéo tay anh ôm chặt lấy mình. Cô nhìn anh mơ màng… vừa như đang tràn ngập sự thỏa mãn trong lòng, lại tựa kẻ mộng du. Nó từ từ khép lại và một dòng lệ ứa trào ra trong khóe mắt cô.
      Thân hình người con gái nặng trĩu trên tay anh. Người bác sĩ cầm lấy tay cô, giọng ông nghe đùng đục:
-  Cô ấy chết rồi!
      “cô ấy chết rồi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại được nữa…” – Hoàng bế xốc người con gái, lao ra ngoài. Đây đó những đống lửa đã được đốt lên trên cứ điểm cũ của QLVNCH, cháy rừng rực. Mấy tốp chiến sĩ vây quanh đống lửa giữa trời, hát vang những bài ca sai nhịp điệu. Họ cũng đã quên sự thất bại trong trận chiến ở Thị xã Kon Tum vừa qua. Quên cả cái chết và có khi, quên cả là mình đang sống. Sống và chết với người lính trong chiến tranh, nhất là trên chiến trường Tây Nguyên này tưởng như không còn gianh giới? Có thể một khắc trước họ vẫn sống, một khắc sau… chỉ còn là một nắm thịt vụn, tý mẩu tóc vương lại trên cây, một ngón tay hay cẳng chân rơi đâu đó trong rừng, hoặc chả tìm thấy cái gì nữa? Đồng đội cũng xót thương nhau lắm, nhưng rồi mau chóng phải cho qua thôi – Bởi vì, chính người đang sống càng không biết mình còn sống được đến lúc nào?
      “cô ấy không bao giờ tỉnh lại được nữa…” – Gió vút qua tai anh. Mái tóc cô bay ngược lại phía sau. Hoàng vẫn bế người con gái lao băng băng trên đường Quốc lộ 14, lổng chổng đất đá vì bom pháo đã cầy nát. Anh vượt qua sân bay Phượng Hoàng, chạy về phía đơn vị đang đóng quân.
      Anh không còn nghe thấy cả tiếng của Sa, chạy theo gọi ở phía sau. Anh chạy mãi, tưởng như trước mặt mình vô tận… chỉ có khoảng không trống trải, và thân mình cô gái đang đè trĩu trên tay.
      “cô ấy chết rôi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại được nữa…” – Trong lòng Hoàng tựa có trăm ngàn mũi kim đâm đau nhói: “Phải, chính tôi! Chính tôi đã giết em! Nếu không vì tôi,  em cần gì đến cái vùng đất chiến trường đầy máu này?”. Hoàng tự rủa vậy, nhưng bây giờ dù anh không tha thứ cho mình đi chăng nữa, thì em cũng chết rồi! Tất cả đã muộn rồi. Anh sẽ phải làm sao đây, để có thể đền lại được cho em?
      Như hoa lá, bầu trời - Tâm hồn em thật cao thượng! Ý nghĩ của em cũng thơm mát như những cánh hoa tươi. Tất cả ở trong em, người con gái bình dị mà cao cả biết bao nhiêu. Em là cái đẹp thiên nhiên nhất của thiên nhiên! “con người” nhất của con người! Nơi tập trung sự đẹp đẽ của lòng nhân ái, của khao khát và hy vọng! Vốn bản thân nó đã tụ lại bên trong một cơ thể: Ở đó, sự tồn tại vĩnh cửu là tấm chân dung người con gái như em – Thế mà, em đã phải trả giá bằng cái chết này ư?
      Chẳng lẽ đây là chính kiến vĩ đại nhất về chủ nghĩa nhân đạo của cuộc chiến tranh này? Nước mắt tưởng đã khô kiệt trong mắt Hoàng, nay lại dàn dụa chảy đẫm ướt cả cánh áo của người nữ quân nhân đã thấm đầy máu khô, bết lại. Phút chốc, anh ghê tởm nguyền rủa cả cuộc chiến tranh! Em đã vượt lên điểm đỉnh của phẩm giá, của của nghĩa nhân văn – mà mọi thần tượng lớn lao phải quì dưới chân, mọi vĩ đại nhất của con người phải cảm phục. Một người nữ chiến sĩ bình dị, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Người liệt sĩ vô danh. Em đã bước tới lâu đài tráng lệ nhất, nơi mà nghìn năm thế hệ sau, nơi đại dương ngôn ngữ của loài người… vẫn không đủ những hình tượng đẹp nhất để diễn đạt nó. Em đã bước tới đó thanh thản và bình dị. Nó cũng giản đơn như ngày nào, em hái một bông hoa mận trắng cài lên bím tóc của ngày xuân.
      “em đã chết rồi! Em không bao giờ tỉnh lại được nữa…” - Mưa gió rồi sẽ phủ trên nấm mồ em, và cả cỏ dại sẽ mọc lên. Nhưng em sẽ tồn tại vĩnh viễn trong Tòa thánh của tình yêu!... mà đức vĩ đại của nó sẽ ngự trên mọi chủ nghĩa, trên mọi đẳng cấp. Mọi chủ nghĩa có thể chết đi hoặc đổi lốt thay da, nhưng ánh sáng lương tri tỏa ngời trong tình yêu của em là vĩnh cửu.
      Anh chạy mãi. Không biết là ngày bao nhiêu ta, nhưng mảnh trăng khuyết thì đã chiếu một làn sáng mỏng trên vòm trời, đây đó vẫn còn phủ những đám mây mỏng.   
 
                 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:28:58
 
 
 
                                                HÀ NỘI CUỘC SƠ TÁN
                                                 VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU
 
                                                                                                        21-

 
          Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn.
     Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu.
     Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"!
     Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình?
-  Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! 
     Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng:
-  Muốn ăn bom à, còn đứng lại?
     Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa:
-  Anh đây cơ mà...
-  Chúng anh ở trên này, cô em ơi!
     Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại:
-  Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi?
-  Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón?
-  Nghỉ nhé.
     Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng.
     Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình.
 
                                                      *
 
        Gia đình Thu ở phố Hàng Bông. Ông bà Giáo, ba mẹ của Thu đều làm nghề dạy học, chỉ sinh được hai anh em: Anh trai Thu đã có vợ và một đứa con gái nhỏ. Anh lên đường nhập ngũ và đã ra chiến trường. Người chị dâu của Thu từ khi chồng đi bộ đội, đưa con về bên ngoại cho mẹ đẻ trông nom. Nay Thu đi học xa, lại mang con trở về ở với ông bà Giáo.
     Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo:
-  Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì?
     Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp:
-  Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ!
     Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc:
-  Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại?
-  Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu?
-  Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao?
     Bà tỏ thái độ cương quyết:
-  Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại.
     Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh:
-  Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi.
     Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ:
-  Để con mạng nốt cho ba con!
     Ông Giáo vẫn cảu nhảu:
-  Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo?
-  Lại chờ tới lúc bị làm sao?
     Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói:
-  Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy!
     Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu:
-  Để ba con ở nhà một mình sao được?
     Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói:
-  Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu.
     Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên.
     Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái:
-  Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không?
-  Dạ, có ạ!
-  Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn.
-  Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học.
     Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường.
-  Tuyệt quá!
     Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo:
-  Anh trai con có viết thư về không mẹ?
-  Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy!                    
     Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói.
-  Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ?                      
     Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình.
     Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi:
-  Mẹ làm sao thế?                            
-  Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe.             
     Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ.
...  Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết.
     Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh?
     Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô...
     ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy!
     Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng...
     Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ.
     Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.08.2023 16:30:14 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:32:34
 
 
 
                                                                          22-
 
     Khi đó ở một cửa hiệu cắt tóc phố, người khách đang ngả đầu vào thành ghế cho ông thợ cắt tóc cạo mặt, nói:
-  Ông có nghe tin tức: Tình hình Mỹ sẽ ngừng ném bom ở miền Bắc không?  
     Ông phó cạo lấy tay xoa một thứ bọt xà phòng trắng, nhờn lên cằm khách, thản nhiên hỏi lại:
-  Ai bảo ông thế?
     Lưỡi dao của ông đưa xoèn xoẹt. Một nhoáng, bộ râu cứng như rễ tre của người khách đã được bào nhẵn. Người khách vẫn ngồi lim dim mắt, đáp lại:
-  Đài BBC đưa tin mà lị!
-  Ồi, cái mồm chúng nó thì cứ hoen hoét.
     Cũng chẳng hiểu ý ông chủ hiệu cắt tóc định nói về cái tin đài BBC mà người khách vừa thông báo, hay ông ám chỉ thằng Mỹ? Ông tiếp:
-  Cứ xem ngay như cái Hiệp định Pa Ri ấy? Ngồi bàn vuông, bàn tròn với nhau rồi mà họ còn nhổ toẹt đi, nữa là...
-  Thì cũng tại ông nhà mình làm căng quá!
     Người khách có vẻ muốn phô trương sự hiểu biết của mình.
-  Ông tính xem: Là một tên đế quốc đầu xỏ nhất hạng! Chịu lép quá, nhục, thằng nào nó nghe?
-  Phải nghe tất! Thua thì phải nghe, nhục cũng phải chịu.
     Giọng ông thợ cắt tóc "chắc như cua gạch".
-  Đã đành. Chúa chết thì trạng cũng băng hà, ông ạ!
     Người khách buột mồm buông một câu triết lý, mà cũng chẳng hiểu triết lý cái kiểu gì? Ông phó cạo vặn hỏi:
-  Thế ông không nghe tin chiến thắng đầu xuân Mậu Thân à?
     Người khách vẫn không chịu:
-  Xôn xao cả phố, ai mà chẳng biết! Nhưng tôi thì tôi nghĩ: Cái ông Việt Nam nhà mình cũng hay chơi nước thượng lắm cơ?
     Ông chủ hiệu cắt tóc nói kháy:
-  Giá tiến cử ông vào Bộ chính trị mới phải?
     Người khách cự lại:
-  Chẳng phải thế. Tình hình chính trị của đất nước, mình phải quan tâm chứ ông!
-  Tôi cứ cố "cắt" dăm cái đầu, kiếm cho vợ con thêm lon gạo.                    
     Người khách nọ đã trả tiền xong, chào ông chủ hiệu rồi bước ra ngoài phố. Ông chủ hiệu lấy tay phủi phủi những sợi tóc bám vào áo mình, buông thõng một câu:
-  Năng nhặt, chặt bị... là thượng sách.                     
     Từ nẫy đến giờ một tay thanh niên tóc chờm đến ngang vai, ngồi đợi trên chiếc ghế dài, tranh thủ giở tờ báo Văn Nghệ ra xem "mục nụ cười". Chờ người khách kia đã ra khỏi cửa hiệu, mới bước vào chiếc ghế thay thế chỗ. Hắn tán dương ông chủ hiệu:
-  Bố già nói chí lý lắm! Cứ như con đây này: Sáng ra chợ giời buôn bán đồ cũ làm mấy "sọi". Trưa về nhà, đánh một giấc ngủ khoèo đến bốn giờ chiều. Tối bát phố...                                           
     Một vị khách khác vừa mới bước vào hiệu, thấy tay thanh niên nói vậy... mắng:
-  Cứ như cái ngữ nhà anh á? Có mà mất nước.                        
     Tay thanh niên mặt vẫn bình thản, tỉnh bơ:
-  Bác già nặng lời thế!                                           
     Hắn quay sang bảo với ông phó cạo:
-  Bố xén gáy bằng cho con, bố nhé! Cả Hà Nội này, con chỉ tín nhiệm mỗi cửa hiệu cắt tóc của bố thôi đấy!
     Cái kéo cắt tóc trong bàn tay nhà nghề của ông phó cạo vẫn kêu tanh tách. Từng đám tóc hắt ra, rơi đều đều lên chiếc áo quàng bằng vải dù pháo sáng, đang choàng trên vai khách.
       Xa xa... có tiếng máy bay xoẹt ngang bầu trời, vọng tới. Chắc là phi cơ mig của ta đi tuần tra... chứ,  nếu là "thần sấm" hoặc "con ma" Huê Kỳ - thì còi báo động thành phố đã chẳng réo ầm lên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Tất cả xuống hầm ngay, đề phòng máy bay Mỹ xâm phạm vào vùng trời Hà Nội".
    Đằng này, máy bay đã đi qua… mà thành phố vẫn im phăng phắc.
 
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:35:07
 
 
                                                                  23-                                           
      Ngày 16.4.1972, chính quyền Hà Nội ra lệnh cho nhân dân phải “cấp tán”! Tức là sơ tán thật nhanh ra khỏi thành phố, vì Mỹ sẽ ném bom rải thảm B52.
      Thực ra, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đã bắt đầu liên tục từ năm 1965. Từ thời gian đó những người dân sống ở thành thị, đặc biệt là ở Hà Nội – Hải Phòng đã phải đi sơ tán đến các vùng nông thôn. Những ai sơ tán theo cơ quan: thoạt tiên được cơ quan chở đi bằng ô tô, tiếp đó là hoàn toàn tự túc. Ban đầu mọi người vẫn phải quay lại Hà Nội đong gạo, sau có thể đong ở những kho gạo địa phương. Các địa phương lúc ấy rất nghèo, ngoài gạo ra người ta vẫn phải về thành phố tiếp tế thực phẩm và những đồ trang bị khác.
      Hàng tuần từng đoàn xe đạp tay xách nách mang, kìn kìn hai chiều từ nông thôn về thành phố và ngược lại. Chiều đi về địa phương bao giờ cũng nặng nhọc, xe đạp biến thành xe thồ: bao gạo, chăn màn, quần áo, sách vở, bếp dầu, can dầu, can mỡ, chai nước mắm, bọc bánh kẹo, nồi niêu xoong chảo… đủ mọi thứ lỉnh kỉnh khác.
      Cảnh tượng – có khi là vài ba ông bố vụng về đánh tuột tất cả các thứ ra đường, nom như một mẹt hàng xén bị vương vãi. Phụ nữ cũng phải thồ như vậy, “bon bon xe ta chạy trên mọi nẻo đường”…
      Có câu chuyện kể về một gia đình: bốn thế hệ đi sơ tán khỏi Hà Nội trên một chiếc xe bò kéo. Người ta gọi với cái tên “nhịp võng xe bò ngày sơ tán” – Đó là hình ảnh một người mẹ trẻ đang cho đứa con mới sơ sinh bú. Một ông cụ già, có lẽ là ông nội cháu bé đội chiếc mũ bông đang đánh xe. Trong xe còn lố nhố mấy đứa trẻ con với đủ thứ nào gạo, thực phẩm, xoong nồi, quần áo… Chiếc xe cứ lọc xọc lăn bánh từ hướng Ngã Tư Sở về mạn Hà Đông.
      Rồi chuyện về những người chèo thuyền ở bãi Phúc Tân, dưới chân cầu Long Biên – Hồi ấy Phúc Tân còn là bãi, qui tụ nhiều thuyền ghe của dân làm nghề đánh cá trên Sông Hồng. Trong thời kỳ máy bay Mỹ mở rộng đánh phá dữ dội vào Hà Nội, hầu hết cư dân xóm nghề này phải chèo ghe sơ tán lên mạn ngược của sông – nhưng vẫn còn một đội ghe chừng ba mươi chiếc tình nguyện ở lại, đưa người sơ tán từ trung tâm thủ đô băng qua Sông Hồng ra các vùng ngoại thành Gia Lâm, Đông Anh… rồi lên mạn bắc.
      Họ kể: mỗi chuyến vượt Sông Hồng mất độ 20 phút, thuyền chỉ chứa được 6-7 người, nên phải chở liên tục cả ngày lẫn đêm. Cầu Long Biên thì đã bị máy bay Mỹ ném bom đánh sập. Nhiều lần thuyền ra giữa dòng, nhìn bom rơi đằng xa, bụi đất vãi đầy mặt nước – Họ vẫn mặc kệ cứ chèo, vì thấy còn quá nhiều người đang đợi qua sông. Chậm giờ nào là nguy giờ đó. Đói mệt, thì dùng chân đạp chèo để rảnh tay gặm bánh mỳ. Lúc đó, họ thấy mình rất khỏe và hết sức gan lỳ.
      Trên những con đường quốc lộ từ Hà Nội về các tỉnh, đủ thứ hình ảnh đèo bòng, bồng bế nhau đi sơ tán: Một anh chồng đạp chiếc xe đạp Thống Nhất đặt đứa con trai đầu độ 11 tuổi lên yên phía trước, thằng con kế lên yên sau, rồi tới bà vợ ngồi sau cùng kẹp đứa bé ở giữa. Cứ thế theo con đường Quốc lộ 6, họ mải miết đạp về phía Lương Sơn – Hòa Bình. Dọc đường lúc nào mệt thì dừng lại, trải tấm vải nhựa cho cả nhà nằm nghỉ, lấy cơm nắm ra ăn rồi lại đi tiếp.
      Kia là hình ảnh một cụ già đang bị ốm được con cái đưa đi sơ tán, gặp ở Mỗ Lao về phía Hà Tây. Cụ đang run rẩy trong tấm chăn. Vì Hà Nội đã có lệnh “cấp tán”, nên dân tình không thể ở lại thành phố được. 
      Đây nữa là hình ảnh rất ngộ - Một đứa trẻ mắt tròn xoe, ngồi trên chiếc gióng ngang phía trước xe đạp của bố, tay ôm khư khư con búp bê nhựa đã cũ. Đó là món đồ chơi mà bé rất thích, nó nhất định đòi mang theo bằng được. Bởi vậy, mặc dù lồng cồng đủ thứ trên xe… nhưng bố, mẹ vẫn phải chiều con. 
      Những người đi sơ tán ai cũng ôm đồm như thế cả. Vào mùa đông lạnh  giá, họ không mang theo được gì nhiều ngoài những vật dụng cần thiết như chăn màn, quần áo.
      Phần lớn những người Hà Nội đi sơ tán trước đó, đã yên ổn. Giờ lớp người đi sau do tình hình căng thẳng, ác liệt quá! Không ai dám gan lỳ ở lại nữa, phải vội vã đi. Các trường phổ thông, trường đại học sơ tán sớm nhất -   Sau đến các cơ sở sản xuất như nhà máy, xí nghiệp, rồi cơ quan, công sở…
      Thời kỳ Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, Hà Nội có hai bệnh viện lớn: Bệnh viện Việt Đức chịu trách nhiệm cấp cứu bệnh nhân các tỉnh phía bắc. Bệnh viện Bạch Mai tiếp nhận bệnh nhân các tỉnh phía nam. Từ năm 1965, thực hiện yêu cầu sơ tán – bệnh viện Bạch Mai đã chia đôi các khoa, phòng. Một bộ phận đi, còn một bộ phận phải ở lại để cứu chữa cho những người tại Hà Nội – Nơi đang phải hứng chịu hàng loạt trận mưa bom Mỹ giội xuống.
      Lúc đầu bệnh viện sơ tán đến Phú Thọ, sau chuyển về Ứng Hòa, Chương Mỹ thuộc Hà Tây. Cũng không kịp xây dựng các cơ sở dù chỉ là tạm bợ, phải đặt rải rác ở nhà dân, đình chùa và các công trình công cộng. Để hoàn thành công việc trong thời chiến, toàn bộ nhân lực của bệnh viện như y, bác sĩ, hộ lý, y tá, lao công đều phải làm việc tối đa. Nghĩa là họ phải làm gấp đôi những ngày thường trước kia.
      Từ tháng 6 năm 1966, nhà máy Cơ khí Hà Nội đã di chuyển an toàn gần 1.500 tấn phương tiện, thiết bị đến 16 địa điểm. Cả trại trẻ của nhà máy cũng được sơ tán lên Hà Bắc.
      Nhà máy dệt 8-3 với hơn 7.000 công nhân đã phân tán ra nhiều địa điểm, nhưng vẫn duy trì sản xuất liên tục.
      Các đơn vị sản xuất trọng điểm khác như: Nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy gỗ Cầu Đuống, nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, xí nghiệp Dược phẩm 1, Dược phẩm 2, nhà máy In Tiến Bộ…Hàng chục nghìn công nhân viên chức cùng nhiều gia đình, đều được sơ tán ra khỏi nội thành.
      Để duy trì sản xuất, Hà Nội phải hướng công nghiệp sang thời chiến. 17 xí nghiệp địa phương, gần 200 hợp tác xã thủ công và 128 tổ sản xuất được đưa ra khỏi thành phố. Mạng lưới thương nghiệp cũng mở rộng ra ngoại thành và các tỉnh lân cận, với gần 500 điểm bán hàng mới.
      Đề phòng gián điệp tìm hiểu những mục tiêu để đánh phá, ngay cả những đứa trẻ Hà Nội cũng được gia đình và tổ dân phố trang bị cho kiến thức phòng giặc. “ba không” là một trong những điều mà trẻ em ở Hà Nội hay đi sơ tán phải thuộc lòng: không nói, không chỉ, không trả lời – khi có người lạ tìm đến nhà hoặc hỏi dò đường.
      Nhân dân ở các vùng đến sơ tán là những nông dân nhân hậu, chất phác, giầu tình thương người. Những gia đình Hà Nội về quê sơ tán, được người dân chào đón và dành cho những điều kiện tốt nhất trong sinh hoạt: nào là gian nhà to, “từ đường” cho người sơ tán ở - còn gia đình mình thì ở nhà ngang, nhà bếp. Ngay trong cuộc sống của những người Hà Nội về, bà con cũng tương trợ nhiều: có miếng ăn ngon mang chia phần cho người sơ tán, rau ngoài vườn thì cho ăn chung, đi tát đồng được ít cua cá… cũng đem chia cho gia đình đến sơ tán về nhà mình ở. Có thể nói, bà con đã thương yêu những người sơ tán về quê không khác gì ruột thịt. Tình người khi ấy thật cao cả. Đó là bản sắc của con người Việt Nam: tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách.
       Chiến tranh, mọi thứ đều thiếu thốn và khó khăn – nhất là đối với những cán bộ viên chức làm công ăn lương, hay là những gia đình đông người. Khi đi sơ tán họ phải ăn mì, ăn bo bo là chuyện bình thường. Ở nhà quê tuy làm nông nghiệp vất vả một nắng hai sương, nhưng lại thường xuyên được ăn gạo mới, cơm thơm. Họ thương những người ở Hà Nội quen cuộc sống đầy đủ, nay gặp cảnh loạn lạc – Có nhà, gia chủ nhiều bữa thường nấu dư một chút, xới ra bát cơm thật đầy đưa sang cho người sơ tán ăn thêm.
      Bà con hay nghĩ: người thành phố đang sống sung sướng, đầy đủ, nay phải về nông thôn thì khổ lắm! Mình ở nông thôn thiếu thốn, khổ cực quen rồi… cho nên gia đình thường nhường những gì tốt để dành cho đồng bào sơ tán về ở nhờ nhà mình. Có nơi, để chuẩn bị đón đồng bào từ thành phố về: Họ đã chặt cả tre, luồng, đào thêm những chiếc hầm chữ A ở sau nhà – cho bà con về sơ tán lấy chỗ ẩn nấp khi có tình huống báo động. Họ trồng thêm những luống rau ngoài bãi sông; những dây cà, dây bí được giắt vào hàng rào… để có thêm thức ăn cho người sơ tán ở.
      Các năm tháng đó không phải là không rơi vào cảnh đói khát, khốn khổ… nhưng con người sống thật đẹp!
      Thời sơ tán có tới 4.000 trại trẻ được lập ra ở ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận. Những trại trẻ này đã tiếp nhận, chăm sóc hàng chục ngàn đứa trẻ và nhi đồng là con em cán bộ, nhân viên các cơ quan, đơn vị, cả những cụm dân cư Hà Nội về sơ tán. Các em, các cháu đều được sống trong sự quan tâm, đùm bọc, yêu thương – để lại những dấu ấn tốt đẹp trong tâm hồn trẻ thơ. Bài học về tình thương người, sự sẻ chia và cả tinh thần tự lập là hành trang quí báu nhất cho những con trẻ qua cảnh sống sơ tán trong thời chiến đó!   
      Người đi sơ tán không thể dứt bỏ tất cả mà đi – Họ vẫn về thăm nhà, thăm Hà Nội. Trong tâm hồn người Thủ đô khi đó đã quen với cảnh chiến tranh, không còn sợ hãi nữa. Cuộc sống trong chiến tranh của người Hà Nội gắn liền với chiếc xe đạp: để đi làm, đèo thồ các thứ đến nơi sơ tán. Những căn hầm được đào ngay bên nhà, chúng che chở cho họ trong những trận bom đánh dữ dội. 
      Năm 1964, khi Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc – người lớn thường tụ tập nói chuyện về chiến tranh, về tầu bay Mỹ và cảnh bom rơi… nhưng trẻ con thành phố thì chưa hiểu gì mấy. Ở nơi có các trường đại học về sơ tán – sinh viên nhộn nhịp đào hầm, đào giao thông hào. Lúc đầu, những chiếc hầm và giao thông ấy toàn được bó bằng tre rồi tấp đất lên. Ít lâu thì bị ải, mục hết. Sau, người ta xây những chiếc hầm chữ chi, chạy rích rắc bằng gạch và đậy nắp bê tông hẳn hoi. Trên lại lấp đất, trồng phơ phất ít ngọn khoai lang, nước mưa luôn luôn xăm xắp trong hầm.
      Từ năm 1966, các trường phổ thông ở thành phố bắt đầu đi sơ tán. Đám trẻ con khu tập thể thì theo bố mẹ đến các vùng nông thôn hẻo lánh, tùy theo cơ quan mà bố mẹ mình làm việc. Cuộc sống thiếu thốn nhưng cũng yên ả - bởi bom Mỹ thả tận đâu đâu. Những đêm thấy đạn cao xạ bắn lên chi chit, nền trời đỏ rực, nhưng vì ở tít xa nên chúng cũng chẳng bận tâm lắm. Chúng học tại trường làng, thường là trong những ngôi đình khá rộng, thỉnh thoảng trường lại tổ chức đi lao động một vài buổi ở xã.
      Nhưng chính trong thời kỳ này, trẻ em thành phố mới hiểu về cuộc sống nông thôn là thế nào? Chúng đã biết ra đồng xem hun chuột, mót lúa, tát cá,  tự bện mũ rơm đeo sau lưng để chống bom bi, biết đun bếp bằng củi, bằng rơm rạ, biết gói bánh chưng, nhuộm quần áo bằng nước lá dâm bụt, biết trộn bùn với rơm trát thành vách và làm những bức tường nhà bằng đất…
      Nói chung, nhờ những năm tháng đó mà những đứa trẻ vốn chẳng biết gì ngoài đi học rồi chạy chơi trong khu tập thể, đã trở nên tháo vát, nhanh nhẹn, tự lập và làm được nhiều thứ.
      Cảnh đi sơ tán cũng chẳng khác gì những hình ảnh thường thấy trong phim Liên Xô về chiến tranh: Dân Nga rút khỏi thành phố khi quân phát xít Đức đến, để lại sau lưng những dãy phố vắng lặng, tối đen, lá bay đầy trời. Cảnh vừa bi hùng vừa thê thiết.
      Hà Nội cứ âm ỉ chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu và đẫm máu chắc chắn sẽ đến. Ngay từ giai đoạn đầu cuộc chiến tranh phá hoại: Khi tiếng còi báo động có máy bay Mỹ đến đánh phá được bấm nút từ Bộ tổng tham mưu quân đội – chiếc còi lớn tám loa đặt trên nóc nhà quốc hội rú lên, rồi mười  lăm chiếc còi khác trên toàn thành phố cùng đồng loạt báo động. Lẫn trong tiếng còi báo động là tiếng loa phát thanh khắp nơi: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý!...” – có khi chỉ vài phút sau tiếng còi là tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom rơi, tiếng đạn cao xạ bắn lên những vệt lửa sáng lóe bầu trời. 
      Khi tiếng còi báo yên – những đoàn người lại chui ra từ những chiếc hầm trong lòng đất, lại rộn rã với các công việc đang làm dang dở. Hà Nội đã quen với nhịp sống hối hả của cảnh chiến tranh như thế!
      Giờ đến thời kì cấp báo hơn, người ta lắp vào chao đèn đường những thiết bị hạn chế ánh sáng. Các khối phố đều phải tập những phương án phòng không. Ngoài những hệ thống loa thông báo của thành phố ở ngoài trời, nhiều gia đình còn đặt thêm những chiếc loa nhựa hình vuông màu trắng trong nhà – Nó cũng được gắn liền với hệ thống truyền thanh của thủ đô: người ta vừa nghe đài Hà Nội, vừa là phương tiện báo động máy bay tiện lợi nhất.
      Ở những tỉnh có đường tầu hỏa như lên Thái Nguyên, thì tầu đều phải chạy đêm mà không có ánh đèn, để tránh máy bay Mỹ phát hiện. Tầu đi – về vẫn đông nghịt người, ngồi chật như nêm… đến mức hết chỗ, người đứng có khi phải đứng có một chân suốt mấy tiếng đồng hồ, mỏi thì lại đổi. Tầu thời chiến chạy chậm rề rề, đôi khi được thông báo không an toàn… còn phải dừng lại mãi ở ga xép.
      Vào giai đoạn căng thẳng của cuộc chiến tranh phá hoại, nhất là tình hình được thông báo Mỹ sẽ ném bom rải thảm B52 vào thủ đô – Để cuộc sơ tán dân chúng ra khỏi thành phố nhanh chóng: Hà Nội đã huy động hàng trăm phương tiện từ tầu điện, xe ca, xe tải, cả xe khách của các tỉnh lân cận… về đậu sẵn ở các đầu phố, đón người đi sơ tán không thu cước phí. Khắp nơi vang lên tiếng loa vận động, kêu gọi người dân khẩn thiết, tạm rời Hà Nội để tránh thương vong.
      Lúc ấy ô tô còn ít nhưng được huy động các xe khách từ nhiều tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phú… Từng đoàn xe rầm rập rời thành phố, khẩn trương nhưng vẫn trật tự. Có một điều kì lạ, người Hà Nội ai cũng tin là đi rồi sẽ trở về! Bởi họ đều tin chắc rằng: Nhất định rồi Việt Nam sẽ thắng Mỹ - Khó có lúc nào con người lại tin vào nước non như lúc ấy!
      Hướng đi, địa bàn sơ tán dân cư chung của thành phố đã được chính quyền sắp xếp, liên hệ trước. Mọi người chỉ việc bước lên xe là đi, không cần mang theo nhiều tài sản. Mới lại, chủ yếu là cứu người – cứu được người là tốt rồi! Chẳng làm gì có điều kiện ôm đồm mang theo của. Những cán bộ hướng dẫn bảo là đi tạm thời, sẽ có tiếp tế, tiếp viện, có thương nghiệp đi theo phục vụ… nên mọi người cũng thấy an tâm.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.08.2023 16:36:25 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:38:39
 
 
                                                                   24-
 
      Chiếc xe khách được huy động từ tỉnh Hòa Bình về Hà Nội chở người đi sơ tán, dừng lại gần cửa hiệu bán hàng tạp hóa ở phố Huế. Lúc này, trên xe đã đông người. Họ nán lại chờ vợ chồng con cái anh chủ hiệu hàng tạp hóa lên xe, là chạy thẳng về nơi sơ tán mà thành phố chuẩn bị sẵn.
      Mặc phong phanh chiếc áo dệt kim đông xuân cổ khoét rộng trễ xuống, để lộ ra bộ ngực phốp pháp như ngực phụ nữ, anh chủ hiệu hộc tốc chạy lại phía xe. Một tay cầm va-ly, tay kia lễ mễ cái túi xách lớn – Hắn vứt qua cửa lên xuống của chiếc xe khách, quay lại thúc giục vợ còn đứng tần ngần ở cửa nhà.
      Mụ vợ, người đàn bà gầy đét như con cá mắm đang ẵm đứa con nhỏ chưa đầy tuổi. Đứa con gái lớn cũng lạch bạch chạy theo bố về phía xe. Đứa bé bỗng khóc thét lên, tiếng nói to của mụ vợ với chồng làm cho nó sợ hãi:
-  Đã bảo đi từ mấy hôm trước thì không nghe! Rõ khổ, bao nhiêu đồ đạc của người ta phải vứt cả lại.  
      Tóc mụ xổ tung. Tiếng mụ chu chéo như xé vải:
-  Thật công cốc tích góp bao nhiêu năm trời. Chuyến này thì ra đường mà sống?
      Anh chồng bực bội:
-  Không bế con mau lên xe đi à! Cứ đứng đấy mà gào? còn cả cái thân cô nữa đấy, lắm mồm bỏ mẹ.
      Tiếng còi ô tô giục inh ỏi. Người chồng nói như quát vợ: “Đã bảo bế con mau ra xe đi ?”.
      Mụ vợ vẫn ngẩn ra vì tiếc của.
-  Nhưng mà bao nhiêu thứ còn để lại thế kia?
-  Để lại! Ra xe mau lên, không có xe nó đi mẹ nó bây giờ.
      Anh ta chạy trở lại quàng cái dây xích để khóa cửa, quát vợ: “Có phải xe riêng của mình đâu mà cứ chần chừ mãi…”. Ở ngoài xe, đám người phải chờ lâu la lên:
-  Cái nhà anh chị kia, có đi không thì bảo? Bom nó đánh đến nơi rồi mà cứ đủng đỉnh mãi.
      Họ kháo nhau:
- Này, vợ chồng cái thằng cha ấy mang đến lắm thứ? Xe đã chật, không chừng chúng tháo cả giường mang đi nữa cũng nên.
      Rồi giục người lái xe:
-  Đi đi ông lái! Mặc chúng nó, cho chúng nó biết thân. Đồ tham lam…
      Cũng có người thương hại, bảo:
-  Thôi, đã chờ rồi thì nán thêm một tý nữa, cho người ta lên xe.
-  Nhưng vợ chồng hắn cứ lấn quấn mãi như gà mắc tóc ấy, làm bao nhiêu người phải chờ?
      Người lái xe cũng sốt ruột, thò hẳn đầu ra ngoài cửa xe giục:
-  Này, anh chị kia! Có đi thì phải nhanh chân lên chứ?
      Chị vợ cuống quít:
-  Dạ, chúng em lên xe ngay đây ạ!
      Nói rồi, mụ bế con chạy vội tới chỗ xe đỗ. Mụ bảo với người đàn ông đang ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa lên xuống:
-  Bác làm ơn đỡ hộ em cái bọc.
      Người đàn ông cúi xuống đỡ cái túi vải lớn, loay hoay tìm chỗ để trong xe. Mấy người quanh đấy càu nhàu:
-  Đồ đoàn của nhà anh chị này chiếm gần nửa xe rồi đấy!
      Người vợ thì thọt thưa:
-  Chúng em cũng chỉ vơ vội được ít thứ cần thiết. Khổ, còn bao nhiêu là thứ… các bác ạ! Trông của nả mà xót cả ruột.
-  Ôi dào… thời buổi này, giữ được cái thân đã là phúc.
      Một bà già ngồi ở phía hàng ghế đầu, nói gióng lại:
-  Nhà chị đưa con đây tôi bế cho, vào xe tìm chỗ ngồi đi? Mặt trời sắp đứng bóng rồi đấy! Tầm này, không chừng máy bay Mỹ lại sắp đến đánh.
      Người vợ rối rít cám ơn rồi đưa đứa con nhỏ cho bà già, leo lên xe. Anh chồng khóa cửa xong cũng chạy vội đến. Đứa con gái lớn thì đã nhảy vào trong xe từ trước.
      Lúc ấy, có một thanh thiếu niên từ đường phố Thái Phiên hộc tốc chạy sang. Nó vừa chạy vừa gọi anh chị nó.
      Anh chủ hiệu cửa hàng tạp hóa vội giục em:
-  Nhanh lên ông tướng, lên xe đi!
-  Anh chị định đi đâu?
-  Lên Hòa bình ít bữa, yên rồi về.
      Thằng em lại bảo:
-  Anh không về đón thầy mẹ ở nhà đi cùng à?
      Anh chủ hiệu nói sẵng với em:
-  Đây là xe thành phố đưa người đi sơ tán, chứ có phải xe riêng của tao đâu mà đón? Mà nghe nói, thầy mẹ đi từ hôm qua rồi mà?
-  Ông bà chần chừ mãi, vẫn chưa đi.
      Thằng em nói vậy. Đang ôm con ngồi gọn trong đống đồ đạc, người chị dâu nói với ra:
-  Chỉ có anh chú chần chừ giờ mới chịu đi, chứ cả Hà Nội người ta đi gần
hết rồi! Chú cũng quay về nhà, giục thầy mẹ khẩn trương đi sơ tán? Thời buổi chiến tranh mà cứ lêu lổng mãi.
     Anh chủ hiệu lại giục em lên xe, nhưng thằng em không lên. Nó bảo:
-  Anh chị cứ đi đi! Em phải chạy về nhà xem thế nào?
      Nói rồi, nó chạy vụt đi. Xe nổ máy, bắt đầu chuyển bánh… còn nghe thấy tiếng người vợ nói với chồng:
-  Thầy mẹ đáng lý phải đi từ sớm? Cứ dùng dằng mãi. Giờ nó đánh đến đít, mới vội vội vàng vàng…
      Mụ chép miệng: “Khốn, ông bà già nhà mình còn hám của lắm cơ!”.
-  Thế nhà chị thì không hám của chắc?
      Một bà già ngồi trong xe quặc lại. Chiếc xe chạy bằng dầu ma-dút nhả ra  một vệt khói đen xì… lao vút đi trên đường phố.
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:42:24
 
 
 
                                                                     25- 
 
      Sáng hôm nay Bà Giáo vượt về Hà Nội. Bà bảo, suốt đêm qua vì lo cho Ông Giáo mà bà không sao chợp mắt được. Ở trên chỗ sơ tán, chốc chốc bà ra sân nhìn về phía Hà Nội. Mỗi khi nghe thấy tiếng bom nổ đâu đó, thấy những đám lửa bốc lên sáng láng một góc trời, mặt đất dưới chân lắc mạnh… lòng Bà Giáo bồn chồn. Bà tự trách mình thiếu cương quyết để cho Ông Giáo ở lại Hà Nội. Bà cũng rất lo cho Thu - cô con gái của bà, nhưng bà không thể lôi nó theo lên chỗ sơ tán được? Nó tốt nghiệp đại học ra trường, giờ đã là phóng viên của tòa soạn báo Hà Nội Mới, phải ở lại thủ đô để làm việc. Đành vậy, nhưng đằng này Ông Giáo... Bà nghĩ, giờ nhất định phải thúc ông ấy đi cho bằng được.
      Lúc này, Ông Giáo vẫn đang loay hoay sắp xếp một số giấy tờ, đồ đạc cần thiết cho vào chiếc va-ly, nói với vợ:
-  Người ta mong đi, bà thì đã yên tĩnh ở nơi sơ tán rồi… còn quay trở về?
-  Nhưng tôi sốt ruột lắm! Ông cứ cố ở lại Hà Nội thế này, ai mà yên được?
      Bà Giáo chạy đến thu bộ quần áo treo trên mắc, gập gọn cho chồng. Trưa nay khi cơm nước xong, Ông Giáo cũng đành phải theo vợ tới vùng ngoại ô sơ tán ít bữa. Ông nhìn ra cửa sốt ruột:
-  Đến giờ mà con bé vẫn chưa về?
      Nghĩ ngợi thế nào, ông nói tiếp:
-  Tôi và bà đi cả, để con bé ở Hà Nội một mình à?
      Bà Giáo chặc lưỡi:
-  Vẫn biết, nhưng nó là phóng viên của tòa báo phải bám trụ ở thành phố? Hơn thế, nó còn ở trong cả đội tự vệ thủ đô nữa đấy!
      Nói vậy, song Bà Giáo cũng cảm thấy bối rối. Bà bảo:
-  Hay là, tôi ở lại với con? Ông về quê sơ tán ít bữa. Ông bà chủ nhà nơi mình đến ở, tử tế lắm! Họ nông dân mà… chân chất, thật thà.
      Ông Giáo cự vợ:
-  Bà tính quẩn. Tôi nghĩ thế này? Dứt khoát là không thể để con bé ở lại một mình được. Hay là… bà lên chỗ sơ tán của con dâu và cháu, nó đi theo cơ quan ở trên Vĩnh Phú?
-  Thế còn ông?
-  Tôi ở Hà Nội vừa trông nom con gái, cũng tiện cả việc giúp đỡ anh em trên Bộ giáo dục. Cơ quan còn ít người quá!
      Bà Giáo nguýt chồng:
-  Có con Thu nó phải trông nom ông ấy? Cái thân già như ông mà còn đòi trông nom con gái. Ông thì lúc nào cũng chỉ lo cho “Bộ…”, phải nghĩ đến mình một tý chứ! Bao nhiêu thanh niên… bom đạn thế này… Ông ở lại chỉ tổ làm vướng chân họ.
-  Bà chỉ nói…
-  Mà Bộ giáo dục đã quyết định cho ông đi sơ tán cơ mà?
-  Đã đành thế!
      Vừa lúc, Thu đẩy cửa dắt xe đạp vào nhà. Cô reo lên:
-  May quá! Con cứ sợ về không kịp gặp ba, mẹ.
-  Có đi thì cũng phải chờ con về, ba mẹ mới đi được chứ.
      Ông Giáo âu yếm nhìn con. Thu dựng chiếc xe đạp mác “thống nhất” mới khự vào cạnh tường – Đây là chiếc xe đạp Ông Giáo mua theo tiêu chuẩn phân phối của cơ quan, ông nhường để con đi. Thu ôm lấy vai mẹ thở hổn hển.
-  Con đi đâu mà phải vội vã thế?
      Bà Giáo vuốt cho con mấy sợi tóc xõa xuống trán. Thu rời mẹ ra lấy chai nước lọc rót một cốc lớn, uống ừng ực. Cô nói:
-  Con được cơ quan cho về để đưa ba, mẹ đi sơ tán.
       Bước đến chỗ chiếc va-ly của Ông Giáo đang phồng cộm lên, cô bảo:
-  Để con xếp lại. Căng thế này thì ba khóa làm sao được?
-  Thôi, con để lại các thứ vào chỗ cũ cho ba: quần áo cho vào trong tủ, sổ sách của ba thì đặt lên giá.
      Dừng lại một tý, Ông Giáo tiếp: “Ba không đi nữa!”. Thu ngước nhìn ba ngạc nhiên.
-  Sao thế ba? Sao ba lại không đi sơ tán nữa? Tình hình căng lắm! Trên thông báo, có thể Mỹ sẽ cho cả B52 rải thảm vào Hà Nội đấy!
      Ông Giáo không nhin con, đi mấy bước rồi rút bao thuốc lá Tam Đảo trong túi áo ngực, lấy một điếu, quẹt diêm châm lửa hút. Ông nói:
-  Thế, lớp trẻ các con định dành hết vinh dự cho mình à?
      Ông rít tiếp một hơi thuốc nữa, bảo: “Trong lúc này, ba cũng có nghĩa vụ phải góp sức già của ba chứ!”.
      Bà Giáo nói:
-  Thế thì mẹ cũng ở lại.
      Thu ngạc nhiên, hết nhìn ba đến nhìn mẹ:
-  Lại cả mẹ nữa?
      Cô giảng giải:
-  Chúng nó đánh phá dữ lắm… ba, mẹ ạ! Đợt này thằng Mỹ còn muốn… đánh cho thủ đô ta trở về thời kỳ đồ đồng, đồ đá cơ đấy!
      Bà Giáo phật ý, mắng át:
- Ba con cô tưởng cái thân bà già này ham sống một mình à? Tôi sống cũng còn vì ba cô, vì cô đấy!
-  Thì con có nói gì đâu?
      Thu cãi lại. Ông Giáo dàn hòa:
-  Bà lại nổi nóng rồi.
      Từ ngoài phố, Lan và Thúy – hai người bạn gái của Thu bước vào nhà. Thu chạy đến đón bạn, hoan hỉ:
-  Hôm qua tớ có đến nhà hỏi thăm về tình hình hai cậu? nhưng thấy nhà đều khóa cửa. Tớ đoán chắc gia đình đã đi sơ tán cả.
      Lan và Thúy gật đầu rồi đến chào Ông bà Giáo. Các cô ríu rít hỏi:
-  Tới giờ mà hai bác vẫn chưa đi sơ tán ạ?
      Thu nhanh nhẩu:
-  Ba, mẹ mình còn đang định ở lại bám trụ Hà Nội đấy?
-  Ấy chết, ở lại không được đâu hai bác ạ!
      Lan nói: “Thành phố đã ra thông cáo phải sơ tán ra khỏi thủ đô, càng nhiều càng tốt!”. Thúy chêm vào:
-  Nghe đâu: Hiệp định Pa Ri vừa rồi không đi đến kết quả? Ta không kí được văn bản thỏa hiệp với Mỹ.
      Bà Giáo đon đả:
-  Tình hình Hiệp định Pa Ri cụ thể thế nào, hả cháu?
-  Cháu nghe lãnh đạo cơ quan phổ biến, phiên họp mới nhất vừa đây giữa ông Lê Đức Thọ với cố vấn Hoa Kỳ Kissinger phải giải tán. Cả hai bên không thống nhất được quan điểm đình chiến.
      Ba Giáo thở dài:
-  Nghĩa là vẫn còn đánh nhau to.
      Lan đỡ lời:
-  Hai bác không thể ở lại Hà Nội được đâu? Sắp tới chúng còn ném cả bom B52 đấy ạ! Chẳng phải chỉ có cơ quan thông báo, báo và đài phát thanh cũng nói ra rả.
      Thu nói:
-  Bởi tình hình căng thẳng như thế nên cơ quan mới cho con về, nhất định phải đưa bằng được ba và mẹ đi sơ tán!
      Cô vừa xếp cẩn thận đồ đoàn vào chiếc va-ly cho Ông Giáo, vừa tỏ thái độ cương quyết:
-  Trưa nay , con sẽ cùng ba, mẹ đi tới chỗ sơ tán. Sớm mai con trở lại Hà Nội, đến cơ quan làm việc cũng được.
      Bà Giáo vẫn tỏ ra băn khoăn.
-  Nhưng vì sao Hiệp định Pa Ri đã họp mấy năm nay rồi mà ông Lê Đức Thọ vẫn không kí kết được đình chiến cơ chứ?
      Ông Giáo châm lửa hút tiếp một điếu thuốc nữa, mới thong thả nói:
-  Thực ra văn bản thỏa hiệp giữa Lê Đức Thọ và Kissinger cũng đã được thống nhất: Theo bản thỏa hiệp đó, Mỹ và các nước đồng minh phải rút hết quân ra khỏi miền Nam nước ta – còn quân đội nhân dân Việt Nam sẽ chính thức ở lại miền Nam. Ta cũng đã nhượng bộ để cho chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn được tồn tại song song với ta, trong một giải pháp hòa bình…
      Bà Giáo tiếp lời:
-  Ồi… cứ đình chiến không còn chiến tranh nữa, là tốt rồi! Trước mắt ai tồn tại cũng được, rồi sau sẽ hay. Thế thì, tại sao Hiệp định vẫn chưa được kí? Tình hình còn ngày càng căng thẳng hơn.
      Ông Giáo giải thích cho vợ:
-  Vì thằng Thiệu nó phản đối kịch liệt, bản dự thảo hiệp định đó vẫn mới chỉ là của giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Hoa Kỳ. Nó nói rằng: Kí kết một hiệp định như thế là hi sinh quyền lợi của Chính quyền Việt Nam cộng hòa.
      Bà Giáo lại hỏi:
-  Thế, thằng Tổng thống Thiệu nó muốn gì?
-  Nó yêu cầu các lực lượng quân sự của Việt Nam Dân chủ Công hòa ở miền Bắc – tức là Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng phải rút toàn bộ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nó tuyên bố rằng: Bắc Việt Nam là Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam là Nam Việt Nam! Tồn tại hai nước Việt Nam, không bên nào được xâm lược bên nào.
      Bà Giáo phản đối:
- Như thế … thế nào được? Cả nước Việt Nam người ta chỉ là một.
      Ông Giáo rít tiếp một hơi thuốc lá dài nhả khói lên trời, rồi ra giọng giảng giải:
-  Thế cho nên phiên họp vừa đây ở Hội nghị Pa Ri mới bị vỡ. Tổng thống Nixon cho gọi Kissinger về Washington rồi!
      Lúc này Thu mới cự lại Ông Giáo:
-  Ba nắm tình hình rõ như thế, mà còn định ở lại Hà Nội không chịu đi sơ tán?
      Bà Giáo được dịp nói móc chồng:
-  Ba cô còn phấn đấu để trở thành anh hùng !?
      Rồi bà kiên quyết:
-  Đã như vậy, đợt này ông phải lên chỗ sơ tán của tôi tạm lánh ít ngày, xem tình hình ra sao rồi hãy hay!
      Ông Giáo chưng hửng:
-  Thế, bà quyết định là tôi và bà đến chỗ sơ tán của bà ở Ba La – Bông Đỏ, chứ không lên chỗ sơ tán của con dâu ở Vĩnh Phú à?
-  Con dâu nó đi theo cơ quan. Con nhỏ theo mẹ là chuyện bình thường, chứ tôi với ông cũng đến chỗ đó nữa, không tiện. Mới lại, chỗ tôi đang sơ tán bây giờ… gia đình tốt lắm! Ông lên đấy với tôi, người ta sẽ chào đón. Nhân tiện, hôm nay cái Thu nó cũng lên chơi – Lần nào tôi về, chị chủ nhà cũng tíu tít hỏi thăm ông và cái Thu đấy!
      Nói rồi, Bà Giáo quay về phía Lan và Thúy.
-  Hai cháu ở đây chơi với em, bác vào bếp làm cơm. Hai cháu ăn cơm với gia đình luôn thể.
-  Dạ, cám ơn bác! Bác đừng nấu cơm chúng cháu. Bọn cháu chỉ tạt qua thăm Thu và hai bác, phải về ngay ạ.
      Lan tiếp lời của Thúy:
-  Chúng cháu tranh thủ về Hà Nội lấy ít đồ đạc. Mai phải trở lại cơ quan trên chỗ sơ tán, bác ạ!
      Bà Giáo vội đi vào phía trong nhà bếp, đến cửa còn ngoái đầu nói với chồng:
-  Ông tranh thủ gói ghém đồ đoàn cho cẩn thận. Tôi chỉ vào nấu nướng một loáng. Ăn cơm xong, ta lên đường luôn.
      Bà mẹ đi khuất, Thu nói với ba:
-  Ba xem còn những thứ gì cần mang theo đến nơi sơ tán thì ba chuẩn bị nốt đi. Chúng con lên phòng của con nói chuyện một lát.
      Hai người bạn gái cùng Thu đi lên gác, căn phòng mà cô và mẹ ở đó. Họ ngồi xuống chiếc giường cá nhân của Thu trò chuyện. Thúy kể về tình hình cơ quan nơi sơ tán, rồi tình cảm của bà con địa phương đã đùm bọc anh chị em nhân viên, cán bộ thế nào? Các bạn gái của Thu, ai cũng khen bà con nông dân tính nhân hậu, thật thà.
      Lan, cô bạn xinh xắn vừa tốt nghiệp Đại học dược, được điều về công tác trong một bệnh viện tận Ba Vì. Cô cũng đưa cả bố mẹ già lên đó ở với mình. 
      Thu thì kể cho hai bạn nghe nghề phóng viên, phải thường xuyên đi tới các tỉnh lấy tư liệu viết bài. Cô nói về những buổi đến với anh em bộ đội trong đơn vị tên lửa, pháo cao xạ phòng không… đã ríu rít chuyện trò với các chiến sĩ vui như thế nào? Những buổi cô ra ngoại thành, nơi bom Mỹ mới ném bom, vừa nắm tình hình vừa tham gia cứu người bị nạn. Có bận cứu người bị bom ném sập nhà, đang ở bên trong thì một bức tường đã đổ… may không ai việc gì. Thu nói:
-  Mình cũng hú vía, một tý nữa bị bức tường đổ đè lên người… thì làm sao còn về đây gặp bọn mày được?
      Cô còn dặn hai bạn:
-  Chớ có nói chuyện đó với ba và mẹ tớ, chỉ làm cho các cụ phải lo lắng.
      Ba người bạn gái lâu lâu mới được gặp nhau, chuyện tưởng như không bao giờ dứt.
-  Ấy chết, mải chuyện trò? Tớ đi lấy đường pha cho mỗi cậu một cốc nhé!
      Thu vừa hòa đường pha nước vừa hỏi:
-  Thế, anh kỹ sư bảnh trai của cậu… vẫn còn theo đuổi chứ Lan?
-  Good-bye rồi!
      Lan trả lời: “Thấy tớ được điều về công tác ở tỉnh lẻ, anh ta quay lưng ngay!”.
-  Nhưng mà này…
      Lan nói tiếp: “Chúng tớ muốn biết về tình hình anh Hoàng của cậu cơ? Người chiến binh yêu quí! Cậu có hay nhận được thư của Hoàng không?”.
-  Tớ cũng mới nhận được thư của anh ấy mấy hôm trước.
      Thu bảo vậy. Lúc này, Thúy rời mắt ra khỏi cuốn truyện lấy trên giá sách, vồn vã hỏi:
-  Thế, Hoàng kể chuyện chiến trường miền Nam thế nào? Ác liệt lắm nhỉ!
-  Hoàng nói tình hình căng thẳng lắm!
      Thu bảo. Lan đỡ lời, cứ như cô là người rất thông thạo tình hình chiến cuộc.
-  Tất nhiên, chẳng cần phải kể.
      Thúy thở dài vẻ cảm thông với sự chờ đợi của Thu.
-  Hoàng đi cũng đã năm năm rồi còn gì? Tình hình ngoài chiến trường như thế, khó có điều kiện về phép lắm!
-  Hơn năm năm, già năm năm rưỡi.
      Lan lại chêm vào. Thúy an ủi bạn:
-  Gần sáu năm biền biệt và chờ đợi, phải thế không Thu?
      Thu gật đầu và nói:
-  Mình tính: Hoàng nhập ngũ ngày 27 tháng 3 năm 1967, đến tháng 2 năm Mậu Thân 1968 thì rời miền Bắc vào chiến trường Tây Nguyên – Tới giờ, kém bốn tháng là đầy sáu năm.
      Lan ôm lấy vai bạn.
-  Dù sao thì cậu vẫn còn có người để mà chờ, còn mình thì good-bye…  không biết sẽ chờ đợi ai?
      Thu đưa nước cho các bạn.
-  Kìa, uống nước đi chứ! Đường tan từ lâu rồi.
      Thúy đỡ cốc nước từ tay Thu, thấy Thu cứ tủm tỉm cười mới hỏi:
-  Cậu có gì vui mà tủm tỉm cười suốt thế? Chắc còn dấu bọn mình điều gì phải không?
-  Không phải là tớ dấu, mà là tớ chưa kịp kể.
      Thu nói. Lan đặt cốc nước xuống chiếc bàn gần đấy, nhìn Thu vẻ soi mói:
-  Thế thì kể đi. Chắc mày được đề bạt vượt cấp, lên làm trưởng phòng ở tòa soạn báo chứ gì?
-  Chuyện về anh Hoàng cơ?
      Cả hai người bạn gái của Thu đều ồ lên.
-  Chuyện gì vậy? Chuyện gì của anh Hoàng mà làm cho mày vui thế, kể cho chúng tao nghe đi!
-  Hoàng nói, đầu năm tới anh ấy sẽ được về phép.
-  Thế à?
-  Nếu Hoàng về phép lần này thì cưới thôi, Thu ơi!
     Lan và Thúy ôm chầm lấy bạn, cứ như đó là tin mừng của chính họ. Thu “suỵt” hai bạn:
-  Nói khẽ chứ! Tớ chưa kể cho ba, mẹ tớ biết đâu.
-  Thế thì phải báo ngay tin về ông con rể tương lai, để hai bác mừng.
-  Các cậu này, đã cưới đâu mà dâu với rể?
-  Thì gọi dần đi là vừa. Nói nghe có vẻ xa xôi - sang “đầu năm tới” chỉ còn một – hai tháng nữa, chứ bao nhiêu? Bây giờ đã là tháng 12 rồi.
-  Nhưng chiến tranh, bom đạn thế này? Chuyện cưới xin… có lẽ phải để yên yên một tí đã.
      Thu nói có vẻ ngập ngừng.
-  Biết bao giờ yên?
      Lan lại giục bạn: “Tớ thấy khối đôi: họ báo cho gia đình biết trước để chuẩn bị. Anh xin đơn vị nghỉ phép dăm ba ngày, tạt về là cưới liền.”.
      Thúy họa theo:
-  Có khi cưới xong, anh chị chỉ ở với nhau được một-hai hôm… anh đã phải trở về đơn vị. Thời chiến mà…
-  Nhưng đấy là anh ta có điều kiện đóng quân ở miền Bắc. Đằng này, anh Hoàng ở mãi tận chiến trường miền Nam.
      Thu băn khoăn.
-  Thì lại càng phải tranh thủ cưới ngay chứ sao!
      Lan vẫn giục. Thúy cũng vun vào:
-  Lan nó nói đúng đấy, Thu ạ! Chiến tranh thế này, ở tận mặt trận trong đó mà được đơn vị cho về phép là may mắn lắm! Cậu nên báo cho hai bác biết, để chuẩn bị trước. Hoàng về, bảo anh ta thúc gia đình nhà trai tổ chức cưới.
       Lan kéo dài giọng như răn đe:
-  Không tranh thủ thời cơ mà cưới á? Mình là con gái, có thì… chờ “yên” thì thành mõ già hả chị?
-  Thôi được rồi, thì cưới.
      Thu cười phấn chấn. Cô quay sang Thúy hỏi:
-  Cứ mải chuyện của tớ mà chưa hỏi cậu: Thúy chưa kể cho bọn này nghe về chuyện của đằng ấy đấy!
-  Chuyện tình yêu hay cuộc sống?
      Thúy hỏi lại.
-  Cả hai.
-  Chuyện tình yêu của mình thì dài dòng lắm, khi nào thư thả mình sẽ kể cho các cậu nghe!
-  Thế còn cuộc sống?
      Thu nhìn Thúy dò hỏi: “Tớ hỏi thật nhé, làm công tác ấy cậu có vui không?”.
-  Kể ra, lúc đầu tiên vào học cái ngành kỹ sư nông nghiệp, mình cũng thấy chán nản.
-  Thế bây giờ?
-  Vấn đề là ở chỗ: đi sâu vào nghề nghiệp và tìm thấy cái mới của nó.
-  Thì cậu vẫn có năng khiếu về môn “sinh vật học” mà…
      Cứ thế, ba người bạn gái tào lao bao nhiêu chuyện. Lan ngước nhìn chiếc đồng hồ báo thức Liên Xô của nhà Thu đặt trên bàn, giục Thúy:
-  Đã gần 11 giờ trưa rồi đấy! Mình cũng phải về để cho cái Thu nó cơm nước, còn đưa hai bác đến chỗ sơ tán.  
-  Ừ, thôi về. Đêm nô-en bọn này sẽ về Hà Nội cùng cậu đi chơi suốt đêm.
      Ba người bạn gái ôm hôn nhau thân thiết. Họ xuống dưới nhà chào Ông Giáo rồi chia tay. Khi Thu tiễn các bạn quay vào, vừa lúc Bà Giáo cũng từ nhà trong đi ra. Cô hỏi:
-  Mẹ nấu xong cơm rồi ạ!
-  Ừ, mẹ nấu xong rồi. Hai ba con tranh thủ vào mà ăn.
      Ông Giáo đang ngồi trầm ngâm uống nước, cất tiếng hỏi con:
-  Thằng Hoàng nó có viết thư về không con?
-  Dạ, con cũng mới nhận được thư của anh ấy hôm vừa rồi ạ! Anh ấy gửi lời hỏi thăm ba, mẹ.
      Bà Giáo vồn vã:
-  Thế, nó có khỏe không con? Nghe nói, ở Tây Nguyên đánh nhau ác liệt và phải sống kham khổ lắm!
      Bà Giáo lại thở dài thườn thượt.
-  Nhưng dù sao thì cũng còn nhận được của nó lá thư mà biết tình hình. Đằng này, anh trai con biền biệt mấy năm nay chẳng có tin tức gì. Không biết sống, chết ra sao?
      Thu biết mẹ đang lo lắng cho anh Tâm. Lòng cô cũng xót xa thương nhớ anh, nhưng chẳng biết làm sao? Cô lặng lẽ ngồi xuống ghế. Ông Giáo lại rút một điếu Tam Đảo, châm lửa hút rồi chậm rãi nói:
-  Thằng Hoàng thì đánh nhau tít trên Tây Nguyên, thằng Tâm lại chiến đấu ở mãi dưới đồng bằng. Chiến trường chỗ nào chả ác liệt và gian khổ? 
      Bà Giáo dặn Thu:
-  Mặc dù đã lâu không nhận được thư anh, nhưng con vẫn phải thường xuyên viết thư vào cho anh.
-  Tháng nào con cũng viết cho anh Tâm một, hai lá… chẳng hiểu anh ấy có nhận được không nữa?
      Thu ngẫm nghĩ giây lát rồi mới thưa:
-  Anh Hoàng viết thư cho con nói là, sang xuân anh ấy được đơn vị giải quyết cho về nghỉ phép, ba mẹ ạ!
      Cả Ông bà Giáo đều reo lên:
-  Thế à!
      Bà Giáo hỏi chồng, đầy nhã ý:
-  Nếu Hoàng nó được về phép thì hay quá! Ông thấy thế nào?
-  Ý bà nói thế là thế nào?
      Bà Giáo quay về phía Thu:
-  Thế, anh Hoàng nói với con sẽ được về nghỉ phép bao lâu?
-  Dạ, anh ấy nói ở chiến trường xa nhiều năm… về phép ít nhất cũng phải được một tháng ạ!                                  
      Bà Giáo lại quay về phía Ông Giáo:
-  Ý tôi nói là… thằng Hoàng về phép chuyến này thì cho chúng nó cưới đi, ông ạ!                                                     
-  Nhưng phải xem ý của thằng Hoàng thế nào đã chứ?                                     
      Ông Giáo nhìn con gái hỏi:
-  Mẹ con nói thế thì con thấy thế nào?
      Thu tủm tỉm cười, hết nhìn mẹ rồi nhìn ba:
-  Tùy ba và mẹ. Con nghĩ, chắc anh ấy cũng không có gì khó khăn đâu.
      Thực ra trong thư Hoàng cũng đã nói với cô, đợt này về phép sẽ làm lễ cưới. Nghe con nói vậy, Bà Giáo vui mừng ra mặt. Bà bảo:
-  Trong thời buổi chiến tranh này, các anh bộ đội về phép thường tranh thủ cưới vợ, rồi mới đi.
-  Mẹ làm như là… cứ bộ đội về phép, ai cũng lấy vợ cả ấy?
-  Thì đa số thế! Tốt rồi, vậy là tốt rồi!
-  Mẹ bảo cái gì tốt?
      Thu thừa biết mẹ định nói gì nhưng cô vẫn gặng hỏi. Bà Giáo hoan hỉ:
-  Thì, tổ chức cưới. Anh chị lấy nhau rồi cho ba, mẹ đứa cháu ngoại để bế… vậy chả là tốt à?
-  Nhưng anh Hoàng chỉ đi phép, đã được về hẳn đâu mà mẹ nói đến cháu ngoại?
-  Thì ai nói nó phải về hẳn. Về một tháng phép, chả lẽ anh chị không cho chúng tôi được đứa cháu?
-  Mẹ này! Chiến tranh mà mẹ cứ làm như hòa bình.
      Ông Giáo vẫn ngồi tủm tỉm cười.
-  Thôi, bà xem cơm nước thế nào cho ba con tôi ăn. Sắp 12 giờ trưa rồi đấy!
      Bà Giáo hứng khởi bảo chồng:
-  Mải chuyện trò mãi. Cơm canh tôi đã dọn sẵn ở dưới nhà, ba con ông chỉ việc xuống ăn. Ăn xong, nghỉ ngơi một tý rồi ta đi về quê kẻo muộn.
 
                                                       *
 
      Khi Ông bà Giáo cùng với cô con gái về đến nơi sơ tán, trời đã chiều tối. Đó là một làng quê có tên gọi là “Xốm”, ở phía trong Thị trấn Ba La – Bông Đỏ thuộc Tỉnh Hà Tây.
      Cụ chủ nhà phải đến tám mươi tuổi. Cụ vận một bộ đồ nâu, đang ngồi trên chiếc tràng kỉ kê giữa gian nhà chính. Đó là cụ Lễ, mái tóc đã bạc trắng như cước. Thấy Bà Giáo đi vào, cụ Lễ móm mém cười hỏi:
-  Bà Giáo đã về đấy à, sao lại chỉ có một mình thế?
      Vừa lúc Ông Giáo và Thu bước vào, nét mặt cụ Lễ rạng rỡ hẳn lên.
-  À, đây rồi! Chắc hẳn là Ông Giáo phải không?
      Rồi cụ nhìn Thu một lượt từ chân lên đầu, hơi ngỡ ngàng: “còn đây là…”.
-  Dạ, chào cụ. Cháu là Thu ạ!
      Thu lễ phép đáp lại lời cụ chủ.
-  Nghe mẹ cháu đã kể về cháu, cả ba cháu nữa… mà nay gia đình mới gặp.
       Cụ Lễ bảo thế. Tình cảm ở vùng quê thật dễ thân thiết, cứ như những người ruột thịt đi xa lâu ngày gặp lại nhau. Mọi người chào hỏi thân mật xong, cùng ngồi xuống bộ tràng kỉ. Cụ chủ cầm chiếc ấm pha trà nhỏ, định rót nước vào các chén. Thu vội đón và rót thay cho cụ. Cụ chủ hướng ra cửa gọi:
-  Thắm ơi! Cô Giáo đã về rồi đây này. Cả nhà cùng về, lên đây thầy bảo.
      Nghe tiếng cô gái nói rõ to từ dưới bếp vọng lên:
-  Con đang dở tay tí chút, chờ một téo con lên!
      Thắm là cô con gái út cụ Lễ. Cụ bà sinh được năm người con, bốn gái một trai… thì bị mất, khi Thắm mới lên năm tuổi. Ba cô con gái đầu của cụ đều lấy chồng ngoài tỉnh, thỉnh thoảng cũng tranh thủ tạt về thăm cha già. Người con trai là anh của Thắm đã lấy vợ, hiện giờ đang ở ngoài chiến trường, chỉ có cô con dâu tên là thơm ở với cụ, đi làm đồng chắc cũng sắp về.
      Cụ Lễ ở trong một căn nhà gỗ năm gian chia làm ba phòng, lợp ngói. Tuy không phải là gỗ thật quí, nhưng cột kèo đều được làm bằng loại gỗ tốt.
Do tổ tiên để lại. Gian phòng giữa rộng nhất đặt bộ tràng kỉ tiếp khách, góc phòng kê một chiếc giường gỗ trên có trải chiếu hoa cho cụ Lễ nằm. Phòng bên của cô Thắm nhưng nay nhường cho Ông bà Giáo đến ở. Thắm sang ngủ với chị dâu ở phòng bên nữa.
      Khi Ông bà Giáo và Thu đến, nhất là biết Ông Giáo cũng sẽ ở lại, cụ Lễ vui lắm! Nghe nói, mai Thu phải trở về Hà Nội sớm, cụ chủ tỏ ra ái ngại dặn dò:
-  Cháu phải ở lại thủ đô công tác, thì đã đành. Đó là việc của cơ quan, nhưng phải cẩn thận cháu nhớ! Nghe thấy tiếng báo động có máy bay là phải xuống hầm ngay, chớ có chủ quan.
      Cụ chỉ ra phía trái nhà, nơi có một chiếc hầm với mái che mới được trát vôi vữa, bảo Thu:
-  Đó là căn hầm trú ẩn nhà làm cho mẹ cháu! Khi mẹ cháu về đây, lão phải thúc giục các con đào hầm ngay.
      Cụ quay về phía Ông Giáo nói: “Cái hầm này lão cho đào sẵn, còn để đón cả Ông Giáo về sơ tán đấy!”.
      Ông Giáo tỏ lời cám ơn cụ. Vừa lúc, Thắm từ dưới bếp chạy lên. Đó là một cô gái khá bụ bẫm, trông tươi tắn, hồn hậu, trạc ngoài hai mươi tuổi, chưa lập gia đình. Nghe nói, cô đã có người yêu nhưng anh ấy cũng đã ra chiến trường. Thắm mới tốt nghiệp khoa y tá, được điều về làm ở phòng y tế của xã để dễ bề chăm sóc cha già.
-  Con nấu cơm cả cho cô chú và em nó ăn luôn.
      Cụ Lễ nói với Thắm rồi quay sang phía Ông bà Giáo:
-  Cơm cũng chỉ có canh dưa và mấy con cá tép, cái Thơm nó bắt ở ngoài mương về. Bữa này, Ông bà Giáo và cháu Thu ăn với gia đình cho vui.
      Đã sống với gia đình một thời gian nên Bà Giáo hiểu: Người nhà quê hiền lành, chân thật và quí người – nên bà cám ơn cụ chủ chứ không từ chối. Dọc đường Bà Giáo đã mua một túi hoa quả với ít bánh kẹo để làm quà cho gia đình. Khi Bà Giáo đưa, cụ chủ cứ phàn nàn mãi:
-  Tình hình phải về quê sơ tán thế này là khó khăn lắm rồi, mà Bà Giáo còn hoang phí mua nhiều quà thế?
      Trời tối hẳn thì Thơm, cô con dâu cụ chủ cũng đi làm đồng về. Chị khoảng 24-25 tuổi, như bông hoa mới nở mời đó, đang độ xuân thì mà chồng lại đi xa. Cảnh chiến tranh, trai tráng làng quê phải đầu quân đi hết… chỉ còn toàn đàn bà, con gái ở lại, thật tội.
      Tối đó, Ông bà Giáo và Thu ăn cơm cùng gia đình. Dẫu bữa ăn chỉ có cơm canh với món cá kho đạm bạc, nhưng mọi người đều thấy rất ngon lành. Thu có cảm tưởng không khí ở làng quê thật đầm ấm. Đưa ba mẹ về sơ tán nhìn cảnh sống như thế, lòng cô cũng yên tâm.
      Đêm đó - Ông bà Giáo thì ở ngay gian phòng bên, còn Thu sang ngủ chung với Thắm và người chị dâu. Một loáng họ đã trở nên thân thiết, nhất là Thu và Thắm, cứ như đôi bạn thân lâu ngày gặp lại… rối rít kể cho nhau nghe đủ chuyện. Chị Thơm đi làm đồng về mệt, chuyện trò một tí là lăn ra ngủ liền.
      Nói chuyện một lát, Thắm cũng ngủ thiếp đi. Thu kéo chăn đắp kín cho bạn rồi vén màn rón rén bước ra sân. Lòng cô thao thức không ngủ được. Thu ngắm nhìn cả trời sao, những vì sao đêm mùa đông heo hút. Làn gió lạnh từ ngoài đồng thổi về, Thu khẽ rùng mình. Cô cứ thẩn tha đi từng bước trên sân, lòng lại nghĩ về anh.
      Một tình cảm rạo rực trào lên trong con người Thu. Cô tưởng tượng những ngày tới, khi anh về phép… với niềm vui thật là khó tả. Cả ngày hôm nay, từ những người bạn gái đến ba mẹ Thu – khi được cô báo tin anh sắp về... ai cũng vồn vã giục cô phải cưới. Ôi! Một lễ cưới sẽ được tổ chức – Đó là một ngày trọng đại của người con gái. Người con gái nào vào tuổi xuân thì mà chẳng ước mơ, trong đời có một lần mặc đồ áo cưới !?
      “Anh thân yêu! Ở tận chiến trường xa xôi, có nghe thấy tiếng thầm thì của em không? Đêm nay anh ở đâu, đang hành quân hay trong một trận chiến đấu máu lửa. Ôi, ước gì lúc này anh cũng có những phút yên tĩnh, thao thức trong đêm như em – Thu đang nghĩ đến anh đây, anh có biết không?”.
      Bỗng Thu lại nhớ về tối đó bên con suối rừng, ở nơi cô theo trường sơ tán. Phải, lần ấy cô đã trao cả cái quí nhất của người con gái cho anh. Nhớ đến hình ảnh mình khi trần truồng nằm bên bờ suối, Thu tự mắng mình: Đúng là vô duyên! Nhưng rồi, cô lại cười với mình trong đêm vắng. Mắng mình thế thôi, chứ cô biết… nếu có anh ở đây, thì cô sẽ lại làm cái chuyện vô duyên ấy với anh. Trong lòng cô, cô đã coi anh như chồng của mình rồi.
      Từ cái tối đó đến giờ, thế mà đã gần sáu năm rồi, anh ạ! Nhớ câu ca dao:
                 Dao đâm vào thịt thì đau
                 Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
      Em không bao giờ quên cái lần đầu tiên em dành cho anh đâu! Cô thấy thương anh quá. Ở ngoài chiến trường bom rơi, đạn nổ, cuộc sống khổ cực – Cả tuổi xuân của anh, nào có được hưởng chút vui thú nào đâu? Nghĩ vậy, Thu lại thấy vui vui: Chính cô đã dành cho anh được niềm lạc thú, sung sướng ấy! Nếu khi đó từ chối anh, có lẽ bây giờ cô sẽ phải ân hận lắm? Cô từng nghe kể: nhiều anh chiến sĩ trẻ vào chiến trường cũng chỉ mới tuổi đôi mươi, đã phải hy sinh trên chiến trận. Đến khi chết vẫn chưa được biết hương vị “yêu” là gì? Chưa được biết về đàn bà… thấy các anh ấy tội quá!
      Miên man suy nghĩ, Thu không hay biết mẹ đã ra đứng sau lưng từ lúc nào? Đêm nay, Bà Giáo cũng không ngủ được. Bước nhẹ ra cửa, bà thấy con gái đang đứng trầm ngâm trong đêm. Bà Giáo lặng lẽ nhìn con, nhưng không nói. Như có một linh tính, Thu quay người lại thì trông thấy mẹ. Cô đến gần Bà Giáo, hỏi nhỏ:
-  Mẹ vẫn chưa ngủ à?
      Bà Giáo lắc đầu rồi nhắc con:
-  Con nhớ thỉnh thoảng lên thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh?    
-  Con cũng mới lên đó về, mẹ ạ!
       Cô bảo: “Chỗ chị dâu con và cháu sơ tán, được cơ quan chăm sóc chu đáo lắm, mẹ không phải lo.”.
      Bà Giáo lại thở dài.
-  Anh Tâm con mấy năm nay không có tin tức, thư từ gì? lòng mẹ cứ bồn chồn không yên. Nói dại, ngộ nhỡ…
-  Chắc không có chuyện gì đâu, mẹ ạ! Do tình hình đánh phá ác liệt, thư từ ở chiến trường gửi về hay bị thất lạc thôi.
      Thu an ủi mẹ như thế, chứ thực tình… lòng cô lo cho anh nhiều khi như lửa đốt. Dừng lại ít phút, Bà Giáo nói tiếp:
-  Nghe tin thằng Hoàng sắp được về phép, mẹ mừng quá! Thỉnh thoảng con cũng nên tạt qua nhà Hoàng, thăm hỏi gia đình. Nhất là đối với ông bố già? Dù sao thì con người ta cũng ra chiến trường.
-  Con có tới hỏi, bên ấy cả nhà cũng đi sơ tán rồi ạ!
-  Ừ nhỉ! Mẹ quên khuấy. Với tình hình căng thẳng hiện nay, trẻ con và người già đều phải đi sơ tán hết.
      Bà Giáo lại nói:
-  Thế, còn chuyện của con? Khi anh Hoàng về phép thì sẽ tổ chức đám cưới. Con cũng nên tranh thủ viết thư trao đổi với anh ấy trước.
-  Dạ, vâng ạ!
      Rồi cô giục mẹ:
-  Đêm sương lạnh, mẹ vào nhà ngủ đi kẻo bị cảm.
-  Con cũng phải vào ngủ đi chứ! Mai còn về Hà Nội sớm.
      Tiếng gà trong chuồng đã gáy báo sang canh. Cơn gió mùa đông thổi từ ngoài đồng về ớn lạnh. Bà Giáo vào phòng ngủ của bà, còn Thu bước sang buồng bên rón rén nằm xuống cạnh Thắm. Cảnh đêm làng quê thật là yên tĩnh, như thể ở nơi đây không có chiến tranh vậy. 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 08.08.2023 16:46:02
 
 
 
                                                   HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM
 
 
                                                                         26-             
 
      Sau thất bại của QLVNCH trong chiến dịch “Lam Sơn 719” năm 1971, ở miền Nam QGP liên tục mở các cuộc tấn công trên khắp chiến trường. Qua chiến dịch xuân hè 1972, làm thất bại kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.
      Tại Pa Ri đầu tháng 12.1972, cuộc đàm phán Việt Nam – Hoa Kỳ một lần nữa lâm vào bế tắc. Phía chính quyển VNCH của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản đối kịch liệt bản dự thảo hiệp định, mà giữa Hoa Kỳ và Hà Nội đã thống nhất để chuẩn bị kí. Nội dung cốt lõi của bản dự thảo đó là: Quân Mỹ và đồng minh sẽ rút hết ra khỏi Việt Nam – và ở miền Nam vẫn tạm thời song song tồn tại cả Quân đội nhân dân Việt Nam cùng chính quyền VNCH – để giải quyết nội bộ, bằng một cuộc tổng tuyển cử của nhân dân.
      Nguyễn Văn Thiệu đòi hỏi khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, thì Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Bắc cũng phải rút ra khỏi miền Nam,  trở về Bắc. Phía Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hà Nội không chấp nhận như thế, vì làm vậy là đặt họ ngang hàng với kẻ xâm lược là Hoa Kỳ? tất yếu, khiến QGP sẽ trở thành yếu thế.
      Nixon không muốn mang tiếng là bỏ mặc Chính phủ VNCH, nên phía Hoa Kỳ cũng đòi hỏi phải thay đổi lại dự thảo đó.
      Mỹ lật lọng.
      Ngày 5 tháng 12, Nixon điện cho Kissinger: “Hãy để một chỗ ở cửa cho Tôi có thể sẵn sàng cho phép ném bom ồ ạt miền Bắc Việt Nam trong thời gian nghỉ ngơi đó”.
      “chỗ hở ở cửa cho cuộc họp tiếp…” để làm gì? - Tức là Mỹ sẽ mở chiến dịch ném bom rải thảm vào Hà Nội và các thành phố trọng yếu khác như Hải phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn… đưa miền Bắc về “thời kì đồ đá”. Buộc Hà Nội phải ngồi vào thương thuyết, chấp nhận yêu cầu của Hoa Kỳ và Thiệu - Có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thua.    
      Cụ thể - vào đêm 12.12.1972, Chánh văn phòng Nhà Trắng Heizman được sự ủy quyền của Tổng thống Richard Nixon gửi một bức điện cho Kissinger, có đoạn viết:
      “Chúng ta cần tránh bất cứ điều gì như là chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Nếu xẩy ra tan vỡ, thì phải làm như là do họ chứ không phải do chúng ta. Trong bất cứ trường hợp nào, Hoa kỳ không được chủ động cắt đứt cuộc nói chuyện. Chúng ta cần yêu cầu hoãn cuộc họp để tham khảo thêm.”.
      Ngày 13 tháng 12, Kissinger lật lọng tuyên bố đình chỉ vô thời hạn Hội nghị Paris về Việt Nam - Hoa kỳ cố tình trì hoãn hội nghị nhưng lại đổ lỗi cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chịu đàm phán nghiêm chỉnh? để cho Mỹ chuẩn bị cuộc ném bom rải thảm B52 vào miền Bắc Việt Nam. 
      Hội nghị Pa Ri hoàn toàn bế tắc. Nixon triệu hồi Kissinger về Mỹ và ngừng đàm phán. Mỹ lấy lý do mở Chiến dịch Linebacker II ném bom là để khiến Việt Nam “biết điều” mà chấp nhận họp lại.
      Ngày 14 tháng 12, Tổng thống Nixon họp với cố vấn an ninh Kissinger, Tướng Alexander Haig và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân – Đô đốc Thomas Moorer, thông qua lần cuối cùng kế hoạch Chiến dịch Linerbacker II. Nixon nói với Đô đốc Thomas Moorer: “Điều may mắn của ông là được sử dụng một cách hiệu quả sức mạnh quân sự của chúng ta để thắng cuộc chiến tranh này. Nếu ông không làm được việc đó, tôi sẽ coi ông là người chịu trách nhiệm.”.
      Tức là Nixon giao cho Đô đốc Thomas Moorer toàn quyền thực hiện việc rải thảm B52 vào Bắc Việt Nam, biến Bắc Việt Nam trở thành thời kì đồ đồng, đồ đá.
      Chiến dịch Linebacker II là nối tiếp Linebacker I (diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972), nhưng với cường độ, sức công phá và mật độ lớn đến mức khủng khiếp. Mục tiêu chính là ở Hà Nội - Hải phòng, buộc Chính phủ Bắc Việt Nam phải chấp nhận điều khoản của Mỹ. Đồng thời Hoa Kỳ muốn tỏ rõ cho Nguyễn Văn Thiệu thấy rằng: Mỹ không bỏ rơi chính quyền VNCH… trước khi rút quân đội Mỹ và đồng minh về nước.
      Cũng trong ngày 14 tháng 12 đó, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội: Hẹn trong 72 giờ, Hà Nội (tức là Lê Đức Thọ) phải quay lại chấp nhận kí hiệp định theo phương án của Hoa Kỳ đã đề nghị, nếu không sẽ ném bom lại Bắc Việt Nam.
      Ngày 15 tháng 12, Lê Đức Thọ và Kissinger chia tay nhau tại sân bay Le Bourger – Paris.
      Ngày 16 tháng 12, Kissinger họp báo tại Washington đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo dài đàm phán. 
      Ngày 17 tháng 12, Nixon chính thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải phòng - Chiến dịch Linebacker II bắt đầu.
      Cũng trong ngày 17.12.1972 -  10h30 phút, Bộ tư lệnh phòng không – không quân nhận lệnh từ Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam: chỉ thị trực tiếp cho các đơn vị toàn quân chủng, đặc biệt là hai khu vực Hà Nội – Hải Phòng… chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, quyết đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B52 của Mỹ, khi chúng liều lĩnh leo thang đánh phá.
      Tối 18 tháng 12, Lê Đức Thọ sau khi ghé qua Moskva và Bắc Kinh vừa về đến nhà, thì những trái bom đầu tiên từ B52 đã trút xuống Hà Nội.
 
                                                       *
 
      Vào lúc 10h15 phút ngày 18.12.1972, các đơn vị ra đa phát hiện báo về Tổng trạm và Sở chỉ huy Quân chủng phòng không: có một chiếc máy bay không người lái của Mỹ, từ hướng tây bắc vào trinh sát Hà Nội.
      14 giờ 30 phút, Bộ Tổng tham mưu thông báo cho quân chủng phòng không – không quân và Bộ Tư lệnh thủ đô: sẽ có máy bay chiến lược B52 đánh ra miền Bắc.
      19 giờ 10 phút, biên đội mig-21 của không quân được lệnh cất cánh, đón đánh các máy bay chiến thuật Mỹ F4, F8, F111, A6, A7… Cùng lúc ở Tam Đảo, Việt Trì các đài quan sát dồn dập báo về Sở chỉ huy trung tâm: máy bay F111 ném bom sân bay Kép, Nội Bài.
      Bộ Tư lệnh thủ đô ra lệnh báo động toàn thành phố - Lập tức còi báo động từ Nhà hát lớn, Quảng trường Ba Đình, ga Hàng Cỏ, các nhà máy và nhiều nơi cả nội và ngoại thành vang lên khẩn cấp.
      19 giờ 20 phút, nhiều tốp máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc)  liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. Tiếng nổ long trời, khói lửa mịt mù… báo hiệu cuộc đụng độ lịch sử giữa các lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ thủ đô – Mở đầu chiến dịch 12 ngày đêm “Hà Nội – Điên Biên Phủ trên không” với các siêu “pháo đài bay” B52, những con “ngoáo ộp” Mỹ bắt đầu. 
      20 giờ 16 phút ngày 18.12.1972 ấy – Tiểu đoàn 59 trung đoàn tên lửa phòng không 261 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng chỉ huy, phóng 2 quả đạn hạ ngay 1 máy bay B52, rơi xuống cánh đồng Phủ Lỗ, huyện Đông Anh chỉ cách trận địa gần 10km. Đây là chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội.
      Đêm đó cùng với Hà Nội vào lúc 20 giờ 16 phút, Tiểu đoàn tên lửa 52,  Trung đoàn 267, Sư đoàn phòng không 365 từ một trận địa ở Nghệ An, đã bắn bị thương nặng 1 máy bay B52 nữa… khi chúng vừa gây tội ác ở Hà Nội về, buộc phải hạ cánh ở sân bay Đà Nẵng.
      Trong đêm 18/12, Mỹ đã huy động 90 lần chiếc B52, ném 3 đợt bom xuống thủ đô Hà Nội; đồng thời 8 lần chiếc F111; 127 lần máy bay cường kích các loại.
      Trong đêm đầu tiên, Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc thủ đô, trong đó có 85 khu vực dân cư bị trúng bom, làm chết 300 người.
      Theo hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt nam lúc đó (Nguyễn Sơn sưu tầm), có đoạn viết:
      “Hà Nội, tháng 12 năm 1972
      Nhiệt độ xuỗng thấp hơn mọi năm. Cái rét mùa đông cộng vào cái vắng lặng của ba mươi sáu phố phường vừa được lệnh triệt để sơ tán, càng làm cho thời tiết thêm giá buốt. Cuộc đàm phán của Việt Nam và Hoa Kỳ ở Pa Ri, thủ đô nước Pháp, đang ở bước gay go. Sau những ngày tháng vận động bầu cử với vai trò “ngoại giao con thoi” và lời hứa mang lại hòa bình, Ních Xơn ở lại Nhà Trắng nhiệm kỳ hai. Ở Sài Gòn ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu run sợ trước những điều khoản bất lợi cho chúng trong thỏa thuận giữa ta và Mỹ ngày 18/10/1972, phản ứng quyết liệt với chủ Mỹ. Các cuộc họp giữa các bên cuối tháng 11 và đầu tháng 12 không đạt kết quả nào. Trong thời gian này, Mỹ cấp tốc vận chuyển cho Thiệu một khối lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh bằng cả một năm trước đó. Để xoa dịu Thiệu và mặc cả với ta, Ních Xơn trở mặt ngang ngược đòi sửa đổi nhiều điều khoản trong bản dự thảo hiệp định, lúc này tưởng chừng sắp được kí kết sau hơn ba năm đàm phán tại trung tâm Hội nghị Quốc tế trên Đại lộ Klêbe. Tất nhiên, ta không chấp nhận.
      Tình hình rất khẩn trương. Đã mấy ngày liền, anh Văn Tiến Dũng và tôi thường về nhà muộn, có khi ở lại Tổng hành dinh làm việc tới tận nửa đêm.
……………………………………………………………………………….
      Trong buổi giao ban ngày 18/12/1972, Cục 2 báo cáo: Hồi 5 giờ sáng, ta bắt được tin của địch từ sân bay hỏi: “Trực thăng hôm nay cấp cứu ở đâu?”. Trưa hôm ấy, một máy bay RF4c bay qua Hà Nội báo về căn cứ: “Thời tiết quanh Hà Nội hoạt động được”. Trên bầu trời Khu 4, hoạt động của không quân địch đột ngột giảm xuống, đặc biệt không có tốp B52 nào. Tất cả các đài ra đa của mạng cảnh giới mở máy trực ban đều không có nhiễu tích cực. Đây là những dấu hiệu không bình thường, chỉ một ngày sau khi bộ đội phòng không – không quân được lệnh bước vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Chiều ngày 18/12/1972, chiếc chuyên cơ BH195 đưa anh Lê Đức Thọ về nước đáp xuống sân bay Gia Lâm lúc 16 giờ 45 phút. Cũng khoảng thời gian ấy, Ních Xơn gửi công hàm như một tối hậu thư, hạn trong 72 giờ ta phải trở lại bàn đàm phán theo những điều kiện của Mỹ. 19 giờ 10 phút – Trong phòng làm việc của tôi tại Tổng hành dinh, tiếng chuông điện thoại reo vang từ một trong bốn chiếc máy có chế độ ưu tiên số 1.
      Tiếng nói của đồng chí trực ban tác chiến nghe rất rõ:
-  Báo cáo thủ trưởng, B52 cất cánh từ Guam, Utapao đang tới… nhiều tốp bay dọc sông Mê Kông lên phía Bắc… Các lực lượng phòng không – không quân đã sẵn sàng, vào cấp 1 xong.
      Mấy phút sau, còi báo động rú lên từng hồi. 19 giờ 45 phút: có tiếng bom nổ ở phía xa xa… Bộ tư lệnh phòng không – không quân báo cáo: Máy bay địch đang đánh phá sân bay Hòa Lạc. Tiếp theo đó, nhiều tốp B52 vào đánh các sân bay Nội Bài, Gia Lâm. Tiếng ầm ì khô và nặng của động cơ máy bay B52 mỗi lúc một rõ dần. Những vầng lửa lóe lên, chớp giật liên hồi. Rồng lửa Thăng Long nối nhau bay vút lên không trung, đan những vệt sáng màu da cam giữa màn đêm Hà Nội.
      Cơ quan Tổng hành dinh làm việc hối hả. Tôi yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cứ 5 phút báo cáo một lần. Cục 2 báo cáo: Ních Xơn đã ra lệnh bắt đầu chiến dịch Lai nơ bếch cơ II, dùng máy bay chiến lược B52 từ các căn cứ Mỹ ở Thái Lan, Guam, Philíppin tiến công Hà Nội, trong khi các máy bay cường kích F111 tiến công các sân bay gần đó. Chiến dịch này đã được Ních xơn, Kítxinhgiơ và tướng Hây (Haig) bàn bạc, quyết định tại phòng bầu dục ở Nhà Trắng ngày 14/12/1972. Để thực hiện kế hoạch này, Bộ chỉ huy sư đoàn không quân chiến lược lâm thời số 57 được thành lập. 50 máy bay KC-135 để tiếp dầu cho B52 được điều thêm sang Philíppin. Trên vịnh Bắc Bộ, 5 tàu sân bay đang hoạt động: Cục tác chiến khẩn trương nắm tình hình, liên tiếp chuyển lệnh cho Bộ tư lệnh phòng không – không quân.
      20 giờ 20 phút, chuông điện thoại đổ hồi, ở đường dây bên kia là đồng chí Nguyễn Quang Bích, phó tư lệnh phòng không – không quân:
-  Báo cáo Đại tướng, hồi 20 giờ 16 phút, Tiểu đoàn 59 – Trung đoàn tên lửa 261 bộ đội phòng không Hà Nội bắn rơi tại chỗ một chiếc B52.
      Tôi hỏi:
-  Có đúng B-52 không?
      Một lát sau, đồng chí Nguyễn Quâng Bích báo cáo cụ thể: Đây là chiếc B-52G cất cánh từ Guam. Nó rơi xuống Phù Lỗ, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
      Tin chiến thắng xé toang bầu không khí căng thẳng. Tổng hành dinh náo nức trong niềm vui được thấy “con ngóao ộp” B-52 không còn là “bất khả xâm phạm” trước những con “rồng lửa Thăng Long”.
      Tôi bước ra ngoài sở chỉ huy. Trời rét đậm và mưa bụi, nhưng lòng tôi ấm áp lạ thường…”.
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 09.08.2023 10:37:07
 
 
 
                                                                     27-
 
      Ngay sau đêm 18.12.1972, đêm đầu tiên trong chiến dịch Linebacker II của Hoa Kỳ rải thảm B52 xuống Hà Nội – Toàn thành phố báo lệnh sơ tán triệt để và khẩn cấp.
       Mới sáng ra, mọi ngả đường Hà Nội rùng rùng người di chuyển về các tỉnh. Những trọng điểm ở ngoại thành như Gia Lâm, Châu Quỳ, Yên Viên, Văn Điển, Đông Anh… cũng phải sơ tán đến các tỉnh khác xa hơn. Giữa mùa đông lạnh giá, những người đi sơ tán dường như không mang theo được gì nhiều ngoài những vật dụng cần thiết như chăn màn, quần áo.
      Như ở Uy Nỗ thuộc Đông Anh - Ngay trong đêm 18/12 đó, khi máy bay Mỹ đang oanh tạc Hà Nội, dân đã dồn dập kéo nhau đi sơ tán. Người ta thấy những hình ảnh: Có bà mẹ tay bế con nhỏ trước ngực, đầu cúi gập xuống để che bom đạn cho con , tay còn lại dắt đứa con lớn chạy theo dòng người về hướng Tráng Việt – Mê Linh. Trời rét đậm, nhưng dòng người sơ tán ấy vẫn ướt đẫm mồ hôi. Họ vừa chạy vừa trông lên đầu… bom đạn đan nhau sáng rực một góc trời.
      Đâu chỉ có một lần, cả đêm đó tới ba đợt máy bay ném bom quanh trụ sở ủy ban xã Uy Nỗ. Riêng trong đêm 18 tháng 12 thôi, khoảng 4.000 dân trên địa bàn xã đã ra khỏi nhà đến các tỉnh khác. Cũng có nhiều người dắt được cả trâu, bò, lợn, gà đưa đi. Một số người thì cho thú xuống hầm trú ẩn, còn mình chạy đi lánh tạm trong đêm, rồi trở về đi sau. Uy Nỗ gần như trở thành một xã trắng, chỉ còn lại khoảng 100 người làm nhiệm vụ chiến đấu dưới những căn hầm, giao thông hào.
      Người ta nói rằng: trong suốt gần chục năm Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, người Hà Nội tuy cũng đã quen với bom đạn, nhưng sau cái đêm 18 tháng 12 thì dù có quen tiếng bom nổ đến bao nhiêu, mọi người vẫn cảm thấy bất an - Ai nấy lũ lượt kéo nhau đi, không cần phải vận động như trước nữa.
      Ở Ngã Tư Sở, mới sáng sớm từng đoàn người rời thủ đô, men theo Quốc lộ 6. Hai bên đường chi chit hầm trú bom, nhất là đoạn Cao-Xà-Lá. Chẳng nơi nào đối diện với cuộc chiến và sự sống, cái chết… như Việt Nam: Đó là bà mẹ trẻ ngồi trên chiếc xe ca của thành phố đang vạch áo cho con bú; đó là hình ảnh cụ già đội chiếc mũ lông như một ông già nô-en, đang đánh chiếc xe bò chở con cháu rời thủ đô về các tỉnh xa – Đến đứa trẻ sơ sinh cũng không thể nằm ngoài cuộc chiến.
      Các ngả đường rời thành phố đều rất đông người, nhưng không tắc ở đâu cả. Xe ca, xe khách và cả tàu điện của thành phố… nhưng chủ yếu vẫn chỉ là với những chiếc xe đạp cũ kỹ, những đôi quang gánh truyền thống, xích lô, xe bò. Dẫu đông đúc nhưng đi rất trật tự. Dù bom rơi đạn vãi ở trên đầu mà  không thấy sự quá hoảng loạn của dòng người Hà Nội – Bởi, họ đã được chuẩn bị cho cuộc chiến này và bình tĩnh đón nhận. 
      Theo tài liệu cửa Sở giao thông vận tải thành phố: Để phục vụ nhân dân sơ tán về các tỉnh – Sở giao thông và ngành vận tải Trung ương cùng các đơn vị có phương tiện, đã bố trí 120 xe ca, 54 xe tải liên tục vận chuyển miễn phí, sơ tán nhân dân ra khỏi Hà Nội.
      Trong suốt 12 ngày đêm, lực lượng vận tải Hà Nội có sự hỗ trợ của ngành vận tải Trung ương và các tỉnh bạn: đã vận chuyển 295.885 người - Còn với các phương tiện vận chuyển thô sơ cá nhân khác như xe đạp, xích lô, xe máy… thì có tới 547.890 người (trong tổng số 65 vạn dân nội thành),  đến các nơi sơ tán.
      Đó là cuộc sơ tán “vô tiền khoáng hậu” của Hà Nội, tức là cuộc sơ tán từ trước tới nay chưa có, sau này chắc cũng khó có thể xẩy ra. Chỉ trong một đêm, nửa triệu con người đã rời khỏi thành phố - Một cuộc sơ tán cao điểm bởi sự đánh phá, rải thảm B52 trong những ngày chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của giặc Mỹ, định biến Bắc Việt Nam trở thành thời kỳ đồ đồng, đồ đá. Một cuộc sơ tán khổng lồ, thần tốc với qui mô chưa từng thấy.
 
                                                         *
 
      4 giờ 30 phút rạng sáng ngày 19/12, Pháo đài bay B52 của Mỹ cùng các máy bay phản lực chiến thuật, ném bom đánh phá vào các khu vực Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì, nhà máy Cao su sao vàng, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm, Hòa Mục… Thủ đô chìm trong khói lửa.
      4 giờ 39 phút sáng, Tiểu đoàn 77 – Trung đoàn tên lửa 257 bắn rơi chiếc B52 thứ hai. Máy bay rơi tại chỗ trên cánh đồng xã Tân Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Cùng với những đơn vị tên lửa, các trận địa pháo phòng không cũng tiêu diệt 1 máy bay F4. 
      Một sự trùng hợp lịch sử - Hà Nội lại nổi lửa diệt thù đúng vào ngày thủ đô vùng lên kháng chiến của 26 năm về trước: ngày 19.12.1946.
      Đêm 19 rạng ngày 20/12, pháo đài bay B52 Mỹ tiếp tục ném bom xuống Hà Nội, Hải Phòng. Riêng ở Hà Nội 87 lần chiếc B52 và hơn 200 lần chiếc máy bay cường kích các loại, ném ba đợt bom xuống 68 điểm thuộc nội, ngoại thành.
      Sáng ngày 19 tháng 12 đó, Bộ chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đã họp tại Tổng hành dinh: Nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo về diễn biến trận đánh B52 trong đêm đầu tiên, và khen ngợi chiến công của các lực lượng phòng không – đồng thời ra chỉ thị kiên quyết đập tan hành động điên cuồng, phiêu lưu của đế quốc Mỹ.
      Buổi chiều tại Câu lạc bộ Quốc tế ở Hà Nội, rất đông các phóng viên báo chí trong nước và nước ngoài – Người phát ngôn Bộ quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công bố những hành động tội ác của Mỹ trong đêm 18 và ngày 19/12… với 6 tù binh Mỹ vừa bị bắt. Chúng cúi đầu thú nhận nỗi kinh hoàng trước lưới lửa dầy đặc của các lực lượng phòng không Hà Nội.
      Ngày 20 và 21.12.1972 – cũng theo hồi kí của Tướng Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã trực tiếp gọi điện xuống các sư đoàn phòng không Hà Nội, biểu dương thành tích và khích lệ ý chí của bộ đội. Ông nói: “Cả nước đang hướng về Hà Nội. Toàn thế giới đang hướng về Hà Nội. Từng giờ từng phút… theo dõi cuộc chiến đấu của Hà Nội. Vận mệnh của tổ quốc đang nằm trong tay các chiến sĩ phòng không Hà Nội.”.
      Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố, lên án những hành động chiến tranh điên rồ của Níchxơn. Bản tuyên bố viết: “Nhân dân ta rất thiết tha với hòa bình, nhưng phải là hòa bình trong tự do thực sự. Chúng ta có đầy đủ thiện chí, đồng thời có đầy đủ quyết tâm và lực lượng bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản thiêng liêng của mình.”.
      Ngay sau đó, tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, được phát đi trên Đài phát thanh Giải phóng: “Bọn xâm lược Mỹ đụng đến miền Bắc một, thì quân và dân miền Nam quyết giáng trả chúng gấp năm, gấp mười lần.”. Đài cũng truyền đi thư của Sài Gòn gửi Hà Nội: “Lửa miền Bấc khêu lửa miền Nam, lửa Hà Nội giục lửa Sài Gòn. Từ ngoài vô trong, từ hậu phương lớn đến tiền tuyến lớn anh hùng đang vang lên tiếng trả lời đanh thép: Đánh!”. Một màn hiệp đồng tuyệt đẹp trên các mặt trận quân sự, dư luận và ngoại giao giữa hậu phương lớn và tiền tuyến lớn. Các mũi giáp công nhằm đúng kẻ thù, trong chiến lược tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân Việt nam.
      Những nhà lãnh đạo các nước yêu chuộng hòa bình cũng ra lời tuyên bố kịch liệt lên án hành động xâm lược mới của Mỹ, khẳng định sự ủng hộ với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt nam, kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi hòa bình cho Việt nam. Ở khắp nơi trên thế giới, hàng triệu người xuống đường sôi sục biểu tình, lên án mạnh mẽ hành động tội ác ghê tởm của Nhà Trắng. Các nghệ sĩ Quốc hội Mỹ ở cả hai viện, chỉ trích gay gắt hành động leo thang mới của Níchxơn, đã tiến hành mà không tham khảo ý kiến của quốc hội và nhân dân Mỹ.  Tờ báo Niu Yoóc ngày 20.12.1972, cảnh báo “Mỹ có nguy cơ trở lại một kiểu dã man của thời kỳ đồ đá.”.
       11 giờ 45 phút ngày 20.12.1972, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam điện cho các đơn vị phòng không – không quân: “Chiều và đêm nay địch sẽ đánh lớn bằng B52 và máy bay cường kích vào thủ đô Hà Nội.”.
      Vào lúc chập tối khi máy bay địch còn cách Hà Nội 80km, Trực ban trưởng Sở chỉ huy đóng cầu dao, nổi còi báo động toàn thành phố sẵn sàng chiến đấu. Mặc dù các loại máy bay địch phát nhiễu dầy đặc, bộ đội ra đa vẫn phát hiện rất nhanh, đúng, kịp thời.
      Từ 20 giờ 05 phút đến 20 giờ 07 phút, trận đánh mở màn xuất sắc trong hai phút: từ cự ly 22km với hai quả đạn, Tiểu đoàn 93 – Trung đoàn tên lửa 261 bắn cháy 1 máy bay B52 rơi tại chỗ (khu vực ga Yên Viên), cách Hà Nội hơn 10km.
      20 giờ 34 phút, Tiểu đoàn 77 – Trung đoàn tên lửa 257 bắn rơi tiếp 1 B52 nữa ở ngoại thành.
        Cùng lúc đó từ 20 giờ 29 phút đến 20 giờ 35 phút, ba tiểu đoàn tên lửa 78-79-94 đã tập trung hỏa lực bắn rơi thêm 1 B52 thứ ba.
      Các đại đội pháo và dân quân tự vệ thủ đô, với các loại cao xạ 57ly, 37ly, 14,5ly và cả súng máy cao xạ 12ly7 đã hiệp đồng chặt chẽ, bảo vệ cho các trận địa tên lửa cùng các mục tiêu quan trọng trong khu vực nội, ngoại thành Hà Nội.
      Chỉ tính từ 19 giờ ngày 20 đến rạng sáng ngày 21/12, địch huy động 78 lần chiếc B52 và hơn 100 lần chiếc máy bay cường kích các loại ném bom,  đánh phá. Cũng trong đêm đó, bộ đội tên lửa phòng không Hà Nội đã thực hiện một trận đánh tuyệt vời: chỉ 35 quả đạn bắn cháy 7 chiếc B52, có 5 chiếc rơi tại chỗ. Tiêu biểu là trận đánh của các tiểu đoàn 57-77-79 vào lúc rạng sáng ngày 21/12, chỉ trong 9 phút với 6 quả đạn đã bắn cháy 4 chiếc B52, 3 chiếc rơi tại chỗ.
      Ngày 21.12.1972, ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng chiến sự vẫn diễn ra ác liệt. Trong ngày,  180 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân và hải quân Mỹ đánh phá các mục tiêu trọng yếu. Chúng dùng bom điều khiển bằng laser ném từ ga Hàng Cỏ, Sở công an Hà Nội, Nhà máy điện Yên Phụ, Bộ giao thông đến các phố như Lý Thường Kiệt, Trần Quý Cáp, Nguyễn Khuyến và những khu lao động.
      Ngoài Hà Nội, địch còn trút bom xuống cầu Phủ Lý và sáu đợt đánh vào thị xã Thanh Hóa.
      Lúc 11 giờ 15 phút đến 12 giờ 24 phút, địch cho hai máy bay trinh sát thăm dò các trận địa tên lửa và pháo cao xạ, chuẩn bị cho các trận tập kích tiếp theo.
      21 giờ 37 phút đêm đến rạng sáng 22/12, địch huy động 24 lần chiếc B52 và 36 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh vào sân bay và bệnh viện Bạch Mai, Giáp Bát, Văn Điển. Ngoài ra, 30 lần chiếc F4 – F105 đánh phá các khu vực Bắc Giang, ga Kép, Yên Bái, Cát Bi, An Lão thuộc Kiến An và cảng Hải Phòng.
      Các trận địa pháo cao xạ thủ đô cùng với bộ đội tên lửa tiếp tục bắn rơi tại chỗ 11 máy bay – trong đó có 3 B52, 2 F4, 2 A7, 1 F111, 1 A6, 1 RA50, 1 F105.
      Hải Phòng, Bắc Thái cũng hiệp đồng chặt chẽ, bắn rơi 7 máy bay chiến thuật và 1 máy bay không người lái.
      Chiến dịch Linebacker II của Mỹ bước đầu đã bị thất bại nặng nề. Tinh thần của phi công B52 suy sụp nghiêm trọng. Ngày 21/12, Tướng Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị cho binh chủng phòng không – không quân:
      “Thắng lợi của chúng ta là rất lớn, cần cố gắng phát huy chiến thắng hơn nữa. Địch sẽ tập trung đánh các trận địa tên lửa. Phải tìm mọi cách bảo vệ tên lửa để tiếp tục diệt B52. Chú ý bảo đảm tên lửa để đánh được liên tục. Cố gắng phát huy tác dụng của không quân nhằm B52 mà đánh.”.
 
 
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 09.08.2023 10:39:34
 
 
 
                                                                       28-
 
      Đêm 21 rạng ngày 22.12.1972, một đêm trời rét căm căm. Thu cùng nhóm phóng viên tòa soạn báo “Hà Nội mới” vội vã đạp xe đến bệnh viện Bạch Mai.  Nghe thông báo: vào lúc 4 giờ sáng nay, B52 đã trút xuống bệnh viện hơn 100 quả bom – Bệnh viện gần như bị san phẳng.
      Nhóm của Thu đi đến có ba người, hai nữ và một nam. Từ hôm không quân Mỹ rải thảm B52 đánh vào thủ đô, Thu đã ở lại ngủ luôn trong tòa soạn báo. Cả nhà đều đi sơ tán, nên Thu cũng chẳng cần thiết phải về. Những anh chị em trong tòa soạn ở lại làm việc tại Hà Nội, ngoài bộ phận trực chiến súng máy cao xạ 12ly7 trên tầng thượng của trụ sở để bắn máy bay, các  phóng viên còn lại vừa đi nắm tin tức viết bài cho báo, vừa trong đội tự vệ thành phố đến cứu giúp nhân dân những nơi bị bom địch đánh phá.
      Khoảng nửa đêm về sáng, tiếng còi báo động thành phô rúc lên inh ỏi. Thu cùng mọi người vội vã chạy xuống hầm trú ẩn của tòa soạn. Ít phút sau thì nghe thấy tiếng B52 gầm rú, rồi bom nổ rung chuyển mặt đất. Biết là chỉ ở quanh đây, nhưng không ngờ chúng lại đánh vào bệnh viện.
      Khi nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới đến nơi, trước mắt họ chỉ còn là một cảnh hoang tàn. Cây cối trong khuôn viên bệnh viện đổ rạp bởi sức ép của bom. Có những chỗ không thể chen chân vì gạch đá, cây cối đổ chặn hết lối đi. Tiếng người từ trong những bức tường đổ hoặc từ các căn hầm dưới đất vẳng lên kêu cứu. Họ lách vào đến giữa sân bệnh viện, những hố bom còn nguyên dấu vết.
      Bỗng nghe tiếng kêu rên từ một khu nhà đã bị sập gần đó, tiếng kêu của một phụ nữ nghe rất thương tâm:
-  Anh Kinh, anh Luân ơi, cứu em!    
      Thu với hai đồng nghiệp vội dựng ba chiếc xe đạp vào một chỗ rồi chạy tới nơi đó. Đã có đến bẩy, tám người đang cùng nhau lấy cuốc, xẻng đào bới và dùng tay nhặt từng viên gạch tìm cửa hầm, cứu người bị mắc kẹt ở bên trong. Nhìn cũng đoán biết đều là các y, bác sĩ, nhân viên, hộ lý của bệnh viện. Chưa kịp giới thiệu mình từ tòa soạn báo đến, Thu và hai bạn vội lao vào cùng mọi người tháo gỡ hầm sập, để nhanh chóng cứu nạn nhân.
      Máy móc thiết bị đào bới không có. Khi họ cùng nhau khiêng những mảng gạch lớn vứt sang bên, đã thấy lộ ra các khe nhỏ trên đống đất đá đổ nát. Những tiếng kêu cứu gọi cha, mẹ và đồng đội từ trong đó hắt lên… nghe đau đến xé lòng. Thu chưa bao giờ phải chứng kiến cảnh tượng xót xa như thế? Lòng cô trào lên nỗi thương tâm, muốn khóc. Thu cố kìm lại những dòng nước mắt ấy, ra sức làm với mọi người để cứu họ.
      Cửa hầm đã hé mở nhưng chưa thể đưa được mọi người lên ngay? Bác sĩ Kinh, bác sĩ Luân phải thả xuống hầm các bình khí để nạn nhân đang ở dưới đó thở được. Hai anh luôn động viên họ cố chịu đựng, chờ đợi. Gay go nhất là những chỗ hầm không có khe hở? phải dùng búa, xà beng đục bê tông để có lỗ cho nạn nhân thở. Đục được một lỗ dù rất nhỏ trên tấm bê tông cốt thép, là cả một vấn đề nan giải. Chỉ một lỗ con con, có khi mấy người phải thay nhau đục hàng tiếng đồng hồ mới thông.
      Thu và nhóm phóng viên vẫn cùng với mọi người ra sức đào bới. Cửa hầm lộ ra rõ hơn, đã nhìn thấy lấp ló khuôn mặt của một cô gái với tiếng nói thầm thì, yếu ớt:
-  Các anh, các chị ơi… cứu chúng em với. Bấc sĩ Kế chết rồi. Em mắc kẹt không lên được? Cứu chúng em với… các anh, các chị ơi!
      Y, bác sĩ ở đấy cho biết: đó là tiếng kêu của em Thúy, sinh viên năm thứ ba đại học y Hà Nội đi thực tập tại bệnh viện. Nghe tiếng kêu, không ai cầm được nước mắt, vừa làm vừa khóc. Mọi người dồn tất cả sức lực để cố cứu những ai còn đang ngột ngạt trong đó. Nam thanh niên khỏe thì thay nhau đục, đào, cuốc. Người này mệt quá nghỉ uống nước, người khác liền thay thế. Đói thì ăn tạm mẩu bánh mỳ mà một chị hộ lý của bệnh viện vừa mang tới phục vụ, rồi lại tiếp tục đào bới không ngơi nghỉ.
      Hai bàn tay Thu cũng như những người khác đã phồng lên và rớm máu, song không ai cho phép mình được dừng lại – Như bác sĩ Kinh đã nói: Chỉ cần nghỉ một phút thì khả năng cứu nạn nhân sẽ bị hạn chế, cuộc sống của bao con người sẽ bị cướp đi… mà đáng lẽ họ vẫn có thể được cứu sống, nếu được giải thoát sớm hơn.
      Niềm vui vỡ òa… Ai cũng cảm thấy sung sướng khi cửa hầm đã mở toang, và từng người được đưa lên. Lúc này, nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới lại cùng mọi người chuyển các nạn nhân đi cấp cứu. Nhẹ thì đưa ngay vào khu điều trị của bệnh viện, cũng ở trong một tầng hầm rộng nhưng chưa bị trúng bom. Nặng quá thì theo chỉ dẫn của bác sĩ, đưa thẳng đến bệnh viện Việt Đức và “Y học cổ Truyền” ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm.
      Công việc vận chuyển cũng hoàn toàn do người cõng đi. Nhìn các y, bác sĩ và nhân viên nhiều người nhỏ thó: cân nặng chỉ khoảng trên 40kg, vậy mà lúc họ cõng những nạn nhân nặng 50-60 cân đi cứ phăm phăm – Đúng lầ “cứu người hơn cứu hỏa”!
      Thu cõng một chị y sĩ của bệnh viện bị bom vùi sập vào khu cấp cứu của viện. Cô bước xuống một căn hầm lớn. Ở đó, cô đã gặp bác sĩ Đỗ Doãn Đại, giám đốc của bệnh viện. Ông đang dồn hết tâm sức mình để cứu chữa các nạn nhân. Khi Thu cõng chị y sĩ vào hầm, một hộ lý đang phục vụ ở đấy vội vàng chạy lại cùng Thu đỡ người bị nạn. Họ đặt nạn nhân xuống một chiếc giường lò xo có trải tấm đệm trắng. Bác sĩ Đại ngước nhìn Thu vẻ hơi ngạc nhiên vì thấy lạ. Ông hỏi:
-  Cô ở nơi khác mới đến?
-  Dạ, thưa bác sĩ! Chúng em là nhóm phóng viên ở Tòa báo Hà Nội Mới, sáng nay biết tin bệnh viện bị trúng bom, đến đây để cùng tham gia cứu giúp người bị hầm sập.
      Hỏi vậy, nhưng bác sĩ Đại đã vội cúi xuống khám vết thương cho người mới đưa đến. Ông rút chiếc ống nghe ra khỏi người nạn nhân, rồi nói với Thu:
-  Được anh chị em báo chí đến giúp đỡ thì tốt quá! Nếu cần gì, cô cứ hỏi các y bác sĩ và nhân viên ở viện, họ sẽ giúp.
      Nói rồi, ông lại vội vã lao vào cứu chữa. Thu cũng quay lại chỗ hầm bị sập, tiếp tục giải thoát người ở đó.
      Sau một ngày, trời đã tối và rét buốt. Máy bay địch vẫn ném bom ầm ầm ở vùng lân cận. Thu và hai bạn phóng viên vẫn cùng mọi người lao vào đào bới, tìm kiếm nạn nhân ở các hầm bị sập khác. B52 Mỹ đã đánh sập hai khu hầm lớn, đó là khu hầm của Khoa nội và Khoa da liễu. Bác sĩ, giám đốc Đỗ Doãn Đại trực tiếp chỉ thị cho mọi người chia ra khẩn cấp tìm kiếm. Họ gọi nhau, thôi thúc nhau trong khói lửa hoang tàn rồi lại lao vào đào bới, cho đến khi nghe được câu nói đầu tiên của người bị nạn: “các anh chị ơi, cứu chúng em với!”. Tất cả phải cắn răng để những tiếng nấc và cả dòng nước mắt không bật ra. Thu cũng chỉ muốn òa lên khóc… 
      Cả đội xây dựng của thành phố đã được điều đến giúp đỡ, tháo các tấm bê tông bị sập. Giám đốc Đại chỉ đạo cho nhân viên nhà bếp cấp tốc nấu cháo, chuẩn bị nước đường… vừa để phục vụ cho y bác sĩ và những người cứu chữa, vừa mang xuống hầm cho các nạn nhân. Với nhân viên tổ điện - nước: Ông yêu cầu khẩn trương vận hành máy phát điện, chỉnh sửa lại đường nước.
      Khi kiểm tra thấy các đường nước đều bị phá hủy – Nhân viên đã phải dùng một chiếc máy bơm cũ, bơm nước từ dưới giếng lên. Vì máy bơm quá cũ, bơm nước lên rất chậm. Sau đó, bệnh viện đã được thành phố điều các xe chở nước đến hỗ trợ.
      Khu B của bệnh viện, chính là nơi có Khoa da liễu và cả Khoa tai-mũi-họng bị phá hủy nặng nề nhất. Bom khoan rất sâu, làm đổ sập tường. Mảng bê tông chặn cửa xuống hầm. Các y, bác sĩ của Khoa da liễu bị chẹn ở cả bên trong hầm , chưa biết sống chết ra sao? Khi mở được đường xuống hầm, nhưng lối đi rất nhỏ và tối – Những bác sĩ trong đội cứu hầm sập phải bò vào bên trong, luồn lách để xem xét tình hình.
      Khoa Ngoại gần Khoa da liễu nên các bác sĩ Khoa ngoại được điều động tới phối hợp với công nhân xây dựng, tiến hành tháo dỡ bê tông và cứu nạn nhân. Đoạn đầu ngách hầm, tấm bê tông đè chết một cô hộ lý. Bác sĩ Kinh nói, đó là cô Hoàng Kim Thoa, thi thể nằm chắn ngang lối hầm. Tiếng người bị kẹt bên trong thì đang kêu gào:
-  Các anh, các chị ơi! Cứu chúng em với… cứu chúng em với…
      Không sao lấy được thi thể của cô hộ lý ra, anh em phải gọi bác sĩ Đại đến xin cách giải quyết? cô bị tảng bê tông đè lên người, hai tay giang ra chắn lối đi xuống cửa hầm. Giám đốc Đại đành phải quyết định cắt thi thể của cô hộ lý ra ba khúc: tháo khớp hai tay, tách khỏi phần người - Đó là một quyết định khó khăn nhất đối với ông !? nhưng giây phút sinh tử của bao nhiêu con người còn sống ở bên trong, cần được nhanh chóng cứu. Là người lãnh đạo cao nhất ông phải quyết định.
      Bác sĩ Kinh và bác sĩ Luân được chỉ định làm việc này. Nghĩ mà tội cho hai anh, phải làm việc ấy họ đau lòng lắm nhưng phải gạt nước mắt để thực hiện. Thu biết các anh không thể làm thế nào khác. Nhìn cảnh tượng lòng cô cũng thấy xót xa. Tất cả phải nén đau thương.
      Lúc ấy khoảng 4 giờ chiều, mưa lâm thâm.  Hai bác sĩ ra giữa trời thắp hương, ngửa mặt lên không trung vái lia lịa: xin trời đất phù hộ! Xin người chết tha tội cho các anh làm việc ấy… rồi hai bác sĩ mới bò vào mầy mò trong bóng tối, dùng dao mổ tháo khớp nạn nhân.
      Sau khi đã tiến hành cắt thân thể của cô hộ lý, dùng dây thừng kéo cẩn thận ra từng phần một – để chị Cúc, nhóm trưởng bộ phận cứu hộ của bệnh viện bế Thoa ra ngoài. Bác sĩ Kinh và Luân vội lao vào khâu lại thi thể của cô hộ lý cẩn thận, như vẫn còn nguyên vẹn.
   Những y, bác sĩ khác thì lách vào trong hầm buộc dây từng người đã chết, tiếp tục mười mấy cái xác được đưa ra… để họ cứu người còn sống ở bên trong. Những tiếng kêu khóc của người bị nạn vang lên trong bóng tối. Lần lượt đã được cõng và khênh đi đến nơi cấp cứu. Đau thương và kinh hãi. Mọi người vừa làm vừa lo lắng B52 có thể sẽ quay lại rải bom?
     Các khuôn mặt người chết hầu như đều bị biến dạng vì bom. Trong số nạn nhân bị tử vong, họ nhận ra: hai nữ sinh viên đến bệnh viện thực tập là em Liên, em Thanh mới có người yêu. Bác sĩ Đại nhận ra chị y sĩ Quất nhờ chiếc răng cửa bịt vàng, y sĩ Lan nhờ ngón tay đeo nhẫn cưới – với y sĩ Lan, các bác sĩ phải dùng dao lựa lấy chiếc nhẫn ra, trao lại cho gia đình làm kỉ vật.
      Tất cả òa lên khóc, khi nhìn thấy thân thể chị Nguyễn Thị Diên đang mang thai đứa con ba tháng tuổi. Thế là cả hai mẹ con chị không còn. Đứa bé chưa thành hẳn hình người đã bị bom giết chết! Có lẽ, khó có tội ác nào lớn hơn tội ác này của bọn xâm lược đế quốc Mỹ?
      Người nữ bác sĩ Nguyễn Thị Giỏi mới tổ chức đám cưới được một tuần, thì người chồng phải lên đường vào Nam chiến đấu. Mãi mãi họ sẽ không bao giờ còn được gặp nhau nữa.
      Chị Mai Thị Tuyết thợ điện, chồng đi B… để lại ba đứa con nhỏ cho người mẹ già 90 tuổi – Kể làm sao cho hết những cái chết đầy bi thương, ai oán.
      Tất cả các thi thể nạn nhân tìm thấy được đặt cạnh nhau trên cáng. Nhóm phóng viên của Thu tham gia cùng mọi người, chuyển xuống nhà xác để làm  khâm liệm. Lễ khâm liệm cũng tổ chức đơn giản và nhanh chóng – Phần vì vẫn còn phải tiếp tục đào bới tìm kiếm, phần nữa đề phòng máy bay địch sẽ tới ném bom tiếp. Tất cả lao vào công việc cứu hộ hết mình, với tinh thần: mỗi y, bác sĩ, hộ lý, y tá và nhân viên đều là một chiến sĩ trên chiến trường.
      Sau khi tranh thủ tìm hiểu qua bác sĩ Đại, Thu được biết: Trong khuôn viên bệnh viện Bạch Mai có một hệ thống đường hầm, do người Pháp xây dựng đồng thời với bệnh viện. Đến năm 1972,  đường hầm đã có tuổi thọ gần 100 năm. Trước đây, khi chưa có chiến tranh phá hoại ra miền Bắc: một số đường hầm này được dùng làm đường vận chuyển bệnh nhân chết ở các khoa ra nhà xác, một số khác thì làm đường thoát nước. Đường hầm bằng bê tông cốt thép rất kiên cố, vững chắc… nên khi có chiến tranh đã được sử dụng làm nơi trú ẩn.
      Một số chỗ xây dựng làm các phòng cấp cứu, điều trị bệnh nhân. Các khoa đặt trong hầm rất thoải mái. Bác sĩ có thể tiến hành mổ ngay dưới hầm, đi lại không phải cúi đầu.
      Bê tông rất dầy, bởi thế lúc hầm sập, mang được nạn nhân ra khỏi hầm rất khó khăn. Khi chúng ném hơn 100 quả bom xuống bệnh viện, dưới lòng đất nhiều cửa hầm bị bít kín. Không kể các y, bác sĩ, hộ lý và nhân viên của bệnh viện, thì có khoảng 300 bệnh nhân ở trong đó cần được cứu ra ngoài? Trước tình cảnh ấy, những người cứu hộ phải phá cửa hầm len vào đưa nạn nhân ra. Lúc đầu, đội cứu hộ ngăn không muốn cho các y, bác sĩ vào trong hầm, vì sợ hầm sập? nhưng các y, bác sĩ vẫn quyết định phải vào, vì hàng trăm con người trong đó đang cần họ. Là y, bác sĩ phải đặt nhiệm vụ cứu người lên hàng đầu!
      E rằng, nguy cơ không quân Mỹ vẫn còn có thể tiếp tục ném bom đánh phá bệnh viện? Cấp trên ra lệnh cho giám đốc, bác sĩ Đại chuyển bệnh viện và bệnh nhân đi nơi khác an toàn để chữa trị. Nhưng do số người bệnh và bị trọng thương ở tứ phương dồn đến ngày càng nhiều, nên không di chuyển được. Bác sĩ Đai vẫn quyết định: phải khắc phục khó khăn bằng mọi cách, để bệnh nhân ở lại bệnh viện tiếp tục chữa trị.
      Vào lúc tối muộn hôm 22 tháng 12 đó, sau khi xin phép hai bác sĩ Kinh và Luân – Thu và hai bạn phóng viên tranh thủ tạt về tòa soạn báo để báo cáo tình hình và cũng tranh thủ ngủ vài tiếng. Tới gần sáng, họ lại vội vã vào viện tiếp tục tham gia công việc đào bới, cứu người.
      Khi đi vào khu sân, trước cửa một căn phòng mà nhân viên ở đó nói là phòng hành chính cũng đã bị sập. Bỗng Thu nhìn thấy một bó chiếu cuộn tròn – Cô nghĩ, có lẽ bộ phận y tế bỏ sót một cái xác chưa đem đi? Thu lấy tay khẽ mở manh chiếu, giật bắn mình. Một người từ trong chiếu nhỏm bật dậy. Hóa ra, đó là một chị nhân viên của viện: thấy cảnh hầm sập… nước ngập trong hầm… người chết thảm – chị sợ quá không dám ngủ trong nhà mà ra ngủ ngoài sân. Chị nhân viên bó chiếu quanh người rồi nằm cạnh một chiếc hầm cá nhân, để khi có báo động xuống hầm cho nhanh. Chị ta nhìn Thu nhoẻn cười và nói:
-  Mình tranh thủ chợp mắt một tí. Mệt quá, mắt cứ ríu lại. Các em cũng phải tranh thủ ngủ để lấy sức chứ?
-  Chúng em cũng vừa chợp mắt vài tiếng ở tòa soạn báo, rồi ạ! 
      Thu nhanh nhảu đáp. Nói xong chị nhân viên lại tiếp tục cuộn tròn trong chiếu và ngủ. Nhóm phóng viên vội đi về phía mọi người vẫn đang hối hả tháo dỡ hầm để cứu người.
       Trong trận ném bom tàn khốc đêm 21 rạng ngày 22.12.1972, bệnh viện Bạch Mai có 22 người bị thương và 31 người chết - trong đó chỉ có một bệnh nhân, còn lại toàn là các y, bác sĩ của viện – vì khi bom đánh, các y bác sĩ phần lớn ở phía ngoài bị tường bê tông đổ giết chết, bệnh nhân ở trong sâu nên cửa hầm sập, họ chỉ bị kẹt.
      Bác sĩ Đỗ Doãn Đại kể: khi ông bò vào trong hầm bị sập, người đầu tiên mà ông nắm đúng tay là bác sĩ khoa da liễu Ngô Thị Ninh. Toàn thân chị cứ run lên bần bật. May mắn cuối cùng, ông cũng đã cứu được chị và một số người khác như bác sĩ Nguyễn Thị Hồi, chị Phi Thị Mạch, y tá Nguyễn Thị Hạnh với 3 em nhỏ và toàn bộ 300 bệnh nhân đã được đưa ra ngoài an toàn. 
      Vẫn theo bác sĩ Đỗ Doãn Đại:  có những trường hợp không cứu được, rất đau thương như bác sĩ Nguyễn Thị Giỏi, chị Trần Thị Kim Tuyến (em gái của giáo sư sử học Trần Quốc Vượng) – Đặc biệt có ba thi thể ôm chặt vào nhau: Đó là chị Nguyễn Thị Diên mới làm cô dâu được năm tháng đang có thai, chị Đặng Thị Khuyến và Đỗ Ngọc Thanh – Họ là những người bạn thân thiết, vẫn trong tư thế ôm chặt nhau chết thảm dưới tảng bê tông. Phải dùng dây buộc vào mỗi thi thể, rồi tất cả cùng kéo… mới tách được từng người ra khỏi nhau. Với cô sinh viên trường y Đinh Thị Thúy, khi tiếp cận em vẫn còn mở mắt nhìn bác sĩ và chỉ kêu lên được một tiếng: “Thầy ơi!”… rồi lịm đi trong giấc ngủ ngàn thu.
      Giáo sư Lê Kim Duệ, bác sĩ Trần Duy Kế đang chuẩn bị đi vào chiến trường Vĩnh Linh và một số người khác nữa, cũng ngã xuống trong trận bom này.
      Theo lời bác sĩ Kinh: Đêm đó là ca trực của anh. Anh vừa là bác sĩ khoa ngoại của viện vừa là giảng viên Trường Đại học y, nên đã dọn hết về ở bên bệnh viện. Khoa ngoại, trừ một bộ phận đã sơ tán – còn lại, giám đốc viện yêu cầu trực 24/24 giờ trong ngày. Qui định của trực cấp cứu là người trực phải ở trên, không được xuống hầm trừ lúc đánh bom. Chiến sĩ bị thương nhiều, đồng bào trúng bom cũng đưa vào Bạch Mai rất đông.
      Vào lúc 4 giờ sáng, tiếng gầm B52 rát quá, họ phải xuống hầm. Khoảng 15 phút sau thấy đất đá rung chuyển, nhưng khi báo yên chui lên khỏi hầm thì tất cả đã tan hoang. Khoa ngoại – chỗ họ vừa trực cũng bị trúng bom, chậm một chút nữa thì tất cả tan xác. Sau đó, anh được giám đốc Đại gọi sang bên Khoa da liễu. Bên ấy hầm sập, nhiều bệnh nhân và y, bác sĩ đang bị kẹt ở dưới hầm. Cứ như thế mà phải bốn ngày sau mới đưa được thi thể hai người cuối cùng lên khỏi hầm: Đó chính là em Thúy, sinh viên thực tập và anh Trạch, nhân viên bảo vệ. Lúc ấy thân thể của họ đã biến dạng và bắt đầu  bị phân hủy.
      Nói về bác sĩ Đỗ Doãn Đại – Ông trở thành giám đốc của viện từ năm 1969. Vợ ông là bác sĩ Phạm Thị Hoan đã xung phong vào tuyến lửa Quảng Bình. Các con đều sơ tán theo trường, nên mình ông thường ở lại ngay bệnh viện. Ông được coi là người thuyền trưởng chèo lái con thuyền Bạch Mai vượt qua giai đoạn thảm khốc 1972, nối tiếp cuộc hành trình trong suốt hơn 100 năm cùng đất nước.
      Bệnh viện đã bốn lần bị ném bom.
-  Lần thứ nhất tháng 11 năm 1967: Một bệnh nhân tử vong, ba bác sĩ bị trọng thương.
-  Riêng năm 1972 tới ba lần phải hứng chịu sự cuồng phong của không quân Mỹ.
      *  Trận bom 26 tháng 7 làm nhiều người bị thương.
      *  Trận trưa 19 tháng 12, bốn quả bom nữa rơi xuống Khoa da liễu và Tai-mũi-họng. 
      Khói bụi chưa kịp tan, nỗi hoảng hốt chưa kịp dịu lại trên nét mặt mọi người, thì trận đại tàn khốc lúc 4 giờ sáng ngày 22.12.1972 – Mỹ dồn lực để hủy diệt bệnh viện.
      Năm 1972 - Bạch Mai cùng với bệnh viện Việt Đức, hai cơ sở điều trị ngoại khoa lớn nhất miền Bắc. Mỹ muốn tàn phá Bạch Mai để uy hiếp tinh thần của Hà Nội, làm cho Hà Nội điêu đứng trở về thời kỳ đồ đá. Mất Bạch  Mai là mất nơi khám chữa bệnh, tê liệt một cơ sở cấp cứu hàng đầu – Khi ấy Bạch Mai làm nhiệm vụ chữa trị cho cả vùng phía nam Hà Nội và các tỉnh từ Hà Nam về thủ đô.
      Bác sĩ Đỗ Doãn Đại có một cô em dâu tương lai, cũng là một nữ bác sĩ bệnh viện bị bom chết hôm 19/12. Thiệp mời đám cưới còn chưa kịp chuyển đến tay bạn bè. Hôm 21/12, giám đốc Đại lo đám tang cho cô em dâu – Tối đến mệt mỏi nên về nhà ở khu phố Kim Liên, cách Bạch Mai không xa. Nửa đêm đang chập chờn trong giấc ngủ, thì ông nghe thấy hàng loạt tiếng bom nổ rung chuyển, ầm ầm… rất gần. Đất trời chao đảo. Các quầng đỏ nối nhau của tên lửa bắn lên rực trời. Gió xồng xộc ùa vào cả miệng hầm của khu Kim Liên. Nhìn về phía bệnh viện, ông nóng ruột, lòng dạ bồn chồn. Còi báo yên, ông tức tốc đạp xe đến viện. Sát đến ngày nô-en trời rét căm căm…
      Năm phút sau, ông tới nơi vừa đúng lúc gặp y, bác sĩ khoa ngoại và các khoa khác cũng đã lên mặt đất. Đập vào mắt họ là cảnh điêu tàn, đổ nát. Dưới sức công phá của hơn trăm quả bom, tất cả chìm trong khói bụi. Tiếng khóc, tiếng kêu cứu vang vọng khắp nơi.
      Ông đã len lỏi đi một vòng quanh bệnh viện xem xét tình hình, đồng thời trấn an tinh thần các y, bác sĩ và nhân viên bình tĩnh cứu nạn nhân. Đội xây dựng của thành phố đã kịp thời được điều đến, để giúp tháo gỡ những tấm bê tông bị sập. Ông Đỗ Thọ phụ trách hệ thống điện, dù không phải là ca trực nhưng nghe tin bệnh viện bị ném bom, cũng đã lập tức tới.
      Trong số 31 người chết đêm đó, có một em bé tám tuổi, con một nhân viên bệnh viện theo mẹ đến cơ quan tránh bom – vì Bạch Mai có một hệ thống đường hầm bằng bê tông kiên cố. Thường mỗi khi Hà Nội có báo động, những người dân quanh đấy vẫn tìm đến nương náu nhờ.
      Bác sĩ Đại khi ấy là thần tượng của anh em cán bộ bệnh viện, rất liêm khiết, đứng đắn và tử tế. Ông có tín nhiệm rất cao cả đức độ lẫn tay nghề, không ai không ngưỡng mộ.
      Năm 1967, khi giặc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc – Một nửa bệnh viện đã lên đường sơ tán vào Ứng Hòa, Hà Tây. Một nửa trụ lại. Hà Nội còn đây, bệnh viện không thể đi hết. Thời chiến quen với việc đánh phá, kể cả những giây phút không quân Mỹ điên cuồng quần thảo trên bầu trời, bác sĩ của bệnh viện vẫn bình thản mổ cấp cứu ngay dưới hầm. Thông thường các bệnh nhân được đưa vào sâu trong các đường hầm, phía ngoài là các y, bác sĩ, hộ lý túc trực – nên trận bom oan nghiệt, số người tử thương hầu hết là y, bác sĩ và các nhân viên y tế. Bệnh nhân vẫn được an toàn ở phía trong.
      Do có hệ thống đường hầm kiên cố nên các phòng mổ, phòng đẻ, phòng xét nghiệm… và một số giường của bệnh nhân ở các khoa, đều đưa xuống dưới hầm. Nhiều khi đang còn báo động, nhưng có điện thoại gọi xe cấp cứu đến nơi địch bắn phá, các thầy thuốc lập tức lên đường. Các bác sĩ tiến hành sơ cứu tại chỗ, rồi đưa bệnh nhân về viện cứu chữa.
      Bạch Mai là một bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh đặc biệt đầu tiên ở Việt nam, cũng là cơ sở thực hành chủ yếu của Đại học y Hà Nội.
      Nói về mười sáu chị em làm việc ở bệnh viện Bạch Mai đêm 21 rạng ngày 22.12.1972 ấy: Đó là các chị Nguyễn Thị Cúc, Toán, Sửu, Hân, Nhàn, Xiêm… Họ là các bác sĩ, y tá, đồng thời còn là những chiến sĩ tự vệ của bệnh viện, đều đang tuổi thanh xuân - Lúc 4 giờ sáng hôm đó khi hơn trăm quả bom ném xuống, tất cả đang ngủ ở khu tập thể nhà tròn của bệnh viện. Sau ít phút bàng hoàng, họ gọi nhau chạy đến các khoa-phòng nơi làm việc. Mặc trời tối, rét buốt và máy bay địch vẫn đang ầm ầm ném bom ở những vùng lân cận, lập tức lao vào tìm kiếm nạn nhân.
      Cảnh đau thương, tang tóc và sự dũng cảm của các y, bác sĩ, nhân viên y tế bệnh viện … đã làm lay động nhân loại. Một nhà báo Mỹ đã ghi lại và đưa tin về bệnh viện, khiến toàn thế giới rung động - Họ cảm phục về lòng dũng cảm của những con người Việt Nam, đồng thời lên án sự tàn ác, vô nhân đạo của đế quốc Mỹ.
      Khi tiếng bom dứt, nữ bác sĩ người Pháp Yvonne Cupde Vilie đã có mặt ngay ở hiện trường đổ nát của bệnh viện, để ghi nhận và tố cáo.
      Nữ diễn viên Jane Fondda – “Jane Hà Nội”, cũng tới viện. Đứng trên nền đất đá tan hoang… để chứng nhận sự man rợ của chiến tranh.
      Một số giặc lái Mỹ cũng được đưa tới, để chúng chứng kiến tận mắt tội ác mà chính chúng đã gây ra.
 
                                                        *
 
      Ngày 22.12.1972, Pháo đài bay B52 Mỹ không chỉ ném bom hủy diệt bệnh viện Bạch Mai – vào lúc 2 giờ 38 phút, chúng sử dụng 24 lần chiếc B52 và 36 lần chiếc máy bay chiến thuật, 18 lần chiếc “cánh cụp cánh xòe” F111 đánh phá sân bay Nội Bài, ga Giáp Bát, Gia Lâm, Văn Điển… cùng các trận địa tên lửa.
      3 giờ 42 phút, Tiểu đoàn 57 bộ đội phòng không Hà Nội bắn hạ 1 B52 rơi ở Chợ Bến, Mỹ Đức, Hà Tây. Cùng thời điểm, Tiểu đoàn 71 bắn rơi tại chỗ 1 B52 nữa ở Thanh Miện, Hải Hưng.
      3 giờ 46 phút, Tiểu đoàn tên lửa 93 lại bắn rơi 1 B52 ở khu vực Quỳnh Côi, Thái Bình.
      Ban ngày – 56 lần chiếc máy bay chiến thuật không quân Mỹ đánh phá các mục tiêu: Ga Kép, thị xã Bắc Giang, thành phố Việt Trì, thị trấn Vĩnh Yên.
      Ban đêm – 24 lần chiếc B52 với 30 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống, đánh phá Đông Anh – Hà Nội, Hòa Lạc, Đáp Cầu… Trong đó 9 lần chiếc F111 tập trung đánh khu vực Hải Phòng như Sở Dầu, Nhà máy Xi măng, khu An Dương.
      Lực lượng cao xạ phòng không đã bắn rơi 5 máy bay: với 3 B52 và 2 phản lực. Đặc biệt tại trận địa Vân Đồn – Hà Nội: bằng 19 viên đạn 14ly5, các chiến sĩ tự vệ nhà máy Liên Cơ đã bắn rơi 1 “cánh cụp cánh xòe” F111 của Mỹ.
      Ngày 23.12.1972
      Ban ngày – 57 lần chiếc máy bay chiến thuật Mỹ đánh phá các khu vực ngoại thành Hà Nội như Mai Dịch, Trạm Trôi, Hoài Đức.
      Ban đêm – 33 lần chiếc B52 đánh Đồng Mô - Lạng Sơn và khu vực Bắc Giang. 30 lần chiếc máy bay F4 - F105, 11 lần chiếc F111 đánh vào Yên Viên, Giáp Bát, Đa Phúc và các sân bay Nội Bài, Yên Bái.
      Hướng biển – 7 lần chiếc máy bay chiến thuật của hải quân Mỹ đánh Uông Bí, Phả Rừng, Sở Dầu và sân bay Kiến An (Hải Phòng).
      Cao xạ phòng không Việt Nam bắn rơi 4 máy bay: trong đó có 2 B52, 1 F4 và 1 A7.
      Ngày 24.12.1972
      Ban ngày – 44 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá khu vực Thái Nguyên, Sen Hồ, Việt yên (Hà Bắc).
      Ban đêm – Từ 19 giờ 50 phút với 33 lần chiếc B52 đánh phá ác liệt ga Kép, Bắc Giang. 39 lần chiếc máy bay chiến thuật yểm hộ đánh vào sân bay Yên Bái, ga Kép và khu vực Vĩnh Tuy (Hà Nội).
      Cao xạ phòng không Quân đội nhân dân Việt nam đã bắn rơi 5 máy bay: trong đó có 1 B52, 2 F4, 2 A7 – Lực lượng dân quân tự vệ bắn rơi 2 máy bay bay thấp. Dân quân tỉnh Hòa Bình bắn rơi tại chỗ 1 máy bay lên thẳng HH-53 đến cứu phi công.
       Lúc 24 giờ ngày 24.12.1972, Níchxơn ra lệnh ngừng tập kích B52 trong 36 giờ vào ngày Chúa giáng sinh. Thực chất là để xả hơi và rút kinh nghiệm sau những đòn đau, bị thiệt hại nặng nề qua một tuẩn lễ đầu tiên của chiến dịch Linebacker II.
      Nói về Thu và nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới – Sau ba ngày tham gia cứu hộ người bị sập hầm ở bệnh viện Bạch Mai, công việc đã tạm ổn. Vào ngày Giáng sinh, họ trở lại tòa soạn để tiếp tục công việc báo chí và vui chơi đêm lễ không có tiếng bom, như lời cam kết của Tổng thống Hoa Kỳ.
      Khi Thu cùng hai bạn về đến tòa báo thì đã quá nửa đêm ngày 24/12. Ai cũng thấy mệt mỏi, chỉ kịp rửa ráy qua loa, rồi nhẩy lên các bàn làm việc thay cho giường nằm lăn ra ngủ. Lúc ấy, Hà Nội đã trở lại không khí  yên tĩnh như nhịp sống thường tình của thành phố.
 
 
 
 
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái - 09.08.2023 10:41:56
 
 
 
                                                                           29-
 
      Hà Nội – đêm Giáng sinh 1972, rất đông người dân đi sơ tán trở về tỏa ra từ các phố. Họ tin ngày Chúa giáng sinh, Mỹ sẽ không ném bom. Quả thế thật, sau đợt rải thảm B52 hôm 24/12 – Mỹ đã ngừng ném bom 36 giờ như lời tuyên bố của Tổng thống Níchxơn. Hà Nội vắng tiếng bom sau 7 ngày chiến đấu ác liệt, cuộc sống người dân thủ đô lại trở về với vẻ đẹp thanh bình vốn có.
      Thời tiết mùa đông mà Hà Nội ấm áp lạ thường. Từng tốp thanh niên, học sinh, sinh viên ùa về thủ đô đi chơi Giáng sinh. Phố Khâm Thiên – nơi sinh sống của rất nhiều người công giáo, nhộn nhịp trở lại. Khu phố nằm xa các cơ sở quân sự, nên dân chúng tin rằng ở đây an toàn. Các gia đình công giáo lũ lượt trở về, mong được đón ngày Chúa ra đời.
      Đêm Giáng sinh – phố Nhà Chung bừng sáng. Người người kéo nhau về Nhà Thờ Lớn. Đường phố tấp nập như chiến tranh không hề hiện hữu trên mảnh đất này. Bên trong Nhà Thờ Lớn: đèn, nến lung linh. Tiếng chuông ngân vang. Cha xứ làm lễ mong ước thái bình cho con dân. Mọi người đều hướng đến Chúa cầu nguyện… 
      Thu nghĩ về những năm tháng không xa? Mỗi khi mùa Giáng sinh tới, cứ đi qua phố Nhà Thờ và những con phố nhỏ quanh Bờ Hồ, lòng cô lại nhớ đến nao lòng. Những kỷ niệm đã qua bên các bạn bè thân thiết và Hoàng…
      Khi ấy họ vẫn còn là học sinh cuối cấp, thường có cái thú thích lang thang trong những đêm đông, nhất là đêm Giáng sinh để ngắm nhìn Hà Nội, ngắm nhìn những con phố đẹp nhất thủ đô ven Hồ Gươm.
      Đêm nô-en năm nay – Một đêm nô-en lịch sử, giữa cuộc oanh tạc khốc liệt của không quân Hoa Kỳ vào Hà Nội. Bên cạnh Thu chỉ có Lan, người bạn gái thân thiết từ nơi làm việc tận tỉnh xa về. Họ cùng đi chơi với nhau trong đêm lễ này. Thúy, bạn cả hai cô cũng hứa sẽ về? nhưng vì công việc đột xuất của cơ quan ở nơi sơ tán, lại không về được.
      Thu và Lan hòa nhập vào dòng người dạo chơi đêm Giáng sinh. Gió hun hút thổi từ Hồ Gươm lùa vào các con phố họ qua. Lang thang đêm vô định… với cảnh áo mỏng manh nhưng chẳng ai thấy rét. Hai người bạn gái cứ đi loanh quanh qua những con phố gần nhà thờ, vừa để cảm nhận không khí đêm lễ, vừa rủ rỉ nói chuyện về những kỉ niệm thời xưa.
      Người đến lễ đông nghịt. Vào Nhà Thờ Lớn, ai nấy bước đi nhẹ nhàng, nói khẽ khàng để không làm ảnh hưởng tới cái không khí trang nghiêm, đón chờ giờ khắc điểm: Chúa giáng sinh! 
      Cây thập tự trên nóc tháp nhà thờ đạo chĩa mũi nhọn chọc thẳng lên khoảng không, đổ bóng xuống mặt phố phía cửa trước, nơi có một vườn thánh nhỏ. Bên trong những hàng song sắt bao quanh vườn thánh, Đức mẹ đồng trinh khoác chiếc áo choàng màu đá, đang ẵm Chúa hài nhi. Trên mặt Đức mẹ thoáng gợn vẻ ưu tư, tạc nên hình tượng tình mẫu tử.
      Chuông rền rã… Thu ngắm nhìn ngôi nhà đạo cổ kính, uy nghiêm. Nhà Thờ Lớn Hà Nội được khánh thành đúng vào lễ Giáng sinh năm 1887, là sự tiêu biểu và đặc trưng nhất của nghệ thuật kiến trúc thời trung cổ. Những mái vòm uốn cong, rộng, hướng lên đỉnh trời đón ánh sáng. Bên trong là kiến trúc Gôtic. Lối kiến trúc này, luôn cho người xem ấn tượng về một không gian tôn giáo uy nghiêm.
      Khi nghe ca đoàn hát thánh ca, tiếng ca trầm hùng hòa với tiếng đàn oóc-gan, đàn dương cầm… ta như thấy mình bay theo Chúa vào không gian sâu thẳm, bí ẩn, linh thiêng. Sau những lời thỉnh đạo trầm ấm, âm vang của Đức cha chỉ giáo về ngày Chúa ra đời, mọi người thấy tâm mình sáng lên như được khai minh. Đêm Giáng sinh, đêm Chúa ngự trên trái đất này đã đem lại cho con người một niềm an ủi, mỗi khi gặp những khổ đau, có niềm tin vào những điều tốt đẹp trên đời.
      Kể từ thời phục hưng đến nay, ngày Lễ Giáng sinh không còn chỉ là riêng của những người thiên chúa giáo – Giáng sinh đã trở thành ngày Lễ quốc tế, ngày lễ của gia đình. Mọi người thuộc các thế hệ về tề tựu bên nhau, thể hiện tình yêu thương. Trẻ con sẽ là những thiên thần lên ngôi trong mùa lễ hội. Những thiên thần ấy đi vào giấc ngủ, cùng với hình ảnh “ông già tuyết”  leo vào từ ống khói… mang cho chúng món quà mà chúng mong đợi nhất. Hát vang bài hát Jingle Bells, một thông điệp của mùa Lễ Giáng sinh.
      2013 năm trước đây, Đức Chúa Jesus Christ – Đấng cứu thế đã giáng sinh để cứu chuộc rất nhiều lầm lỗi của loài người: theo giáo lý Thiên chúa. Thời gian trôi qua, bản tính xấu xa của con người không những không mất đi, mà còn hoành hành dữ dội và ngang ngược hơn. Không còn cách nào khác, Đức Chúa Trời đã phải cho con mình đầu thai xuống trần thế, để gánh bớt tội lỗi cho con người. Như vậy, Chúa Jesus đã giáng sinh để gỡ bỏ lỗi lầm, giải bớt những hiềm khích, khuyên răn con người làm điều phước đức mà hưởng ân huệ của Chúa.
      Chúa dậy con người rất nhiều điều: Chúa bảo con người phải biết sống vì người khác, Chúa đem đến cho con người sự lạc quan vui sống, khuyên nhủ con người hãy giữ vững đức tin: “Hãy xin sẽ được - Hãy tìm sẽ gặp -  Hãy gõ cửa, sẽ mở cho”. Chúa còn kêu gọi: “Hỡi dân ngoại, hãy đồng vui cùng dân Chúa” – để người mạnh, kẻ yếu phải hòa hợp nhau. Chúa còn khuyên con người luôn hướng tới sự công bình. Phước cho những kẻ làm cho con người hòa thuận, vì sẽ được gọi là “con Đức Chúa trời”.
      Nếu tìm hiểu thêm ý nghia của Lễ Giáng Sinh, chúng ta sẽ thấy nhiều điều thú vị: truyện về ngày sinh của Chúa Jesus, có tên bằng tiếng Anh là Nativity. Chúa Jesus do Đức Mẹ Đồng Trinh tự nhiên mang thai mà sinh ra. Sự thụ thai này do quyền lực thần diệu của Thượng Đế, tạo ra trong bà Mary còn đồng trinh. Chúa Jesus được sinh ra trong một chuồng ngựa (stable) tại Bethlehem và được đặt trong máng cỏ (manger), vì lúc đó trong nhà trọ không còn phòng trống nào. Sau đó Chúa Jesus được Đức mẹ Mary và chồng của bà là Joseph nuôi nấng tại Nazareth – một thành phố ở phía bắc Israel. Khi được mười hai tuổi, Chúa Jesus đến giáo đường ở Jerusalem, và đã làm kinh ngạc các giáo sư về môn Mosaie Law với sự hiểu biết của ngài.
      Khi lớn lên, Chúa Jesus chọn được mười hai Tông Đồ cùng ngài đi khắp nơi ở Palestine để giảng đạo, chữa bệnh và thực hiện các phép lạ - Đó là phép “Loaves and Fishes” (những ổ bánh mỳ và những con cá).
      Chuyện phép lạ này được người ta truyền lại: Khi Chúa Jesus thuyết giảng ở một đám đông, trong lúc họ rất đói. Người ta chỉ tìm thấy 5 ổ bánh mỳ và 2 con cá –  Chúa Jesus làm phép trên 5 ổ bánh mỳ và 2 con cá này, rồi ra lệnh cho các đệ tử của ngài phân phát đồ ăn cho tất cả mọi người. Sau khi mọi người được phát đầy đủ đồ ăn và ăn đã no nê, người ta thấy 12 chậu đồ ăn vẫn còn đầy.
      Nhờ việc đi rao giảng lời của Thượng Đế mà ngài đã có rất nhiều tín đồ, đồng thời cũng nhiều kẻ thù. Cuối cùng, Chúa Jesus bị tên Judas Iscariat phản bội. Sau đó, bị Potius Pilate – người lãnh đạo dân Do Thái lúc bấy giờ kết án và chính quyền La Mã đóng đinh trên Thập Tự Giá. Những người Thiên chúa giáo tin là ngài đã cải tử hoàn sinh, và sự phục sinh này là để cứu vớt các linh hồn.
      Những tục lệ cổ truyền về Lễ Giáng sinh bắt nguồn từ sự trùng hợp ngày sinh của Chúa, với ngày lễ kỷ niệm về nông trang và mặt trời vào mùa đông (winter Selstice) của những người không theo đạo thiên chúa. Vào dịp này, người ta trang hoàng nhà cửa bằng cây lá xanh tươi và hoa, đèn rực rỡ. Trẻ con và người nghèo được trao quà tặng.
      Lửa, đèn và nến là vật tượng trưng của sự ấm cúng cùng sự sống. Nó luôn liên hệ với các lễ lạc vào mùa đông, của cả những người theo đạo thiên chúa và các đạo khác. Từ thời trung cổ: cây thông – một loại cây vạn liên thanh, là biểu hiện cho sự sống và không thể thiếu trong Lễ Giáng sinh.
      Tính đến năm 1972, ngày Chúa ra đời cách đã 1969 năm. Chúa nhân từ đã cứu rỗi bao chúng sinh lầm đường, lạc lối. Những người có đạo tin Chúa luôn mang lại sự tốt lành, nên họ ít khi làm điều ác.
      Rời Nhà Thờ Lớn, Thu và Lan lặng lẽ đi bên nhau với bao tâm sự. Thu nói với Lan:
-  Phố Nhà Thờ là phố của những người nghiền cà phê đấy! Lan có nhớ, những năm trước đây khi hội của chúng mình đi chơi đêm nô-en, Hoàng vẫn rủ các bạn vào uống cà phê trên hè phố Nhà Thờ?
      Lan phụ họa theo:
-  Ừ, Hoàng thường nói: uống cà phê chỉ ngồi ở hè phố Nhà Thờ mới thú!
       Vui chân đến phố Nhà Thờ, muốn uống cà phê người ta có thể vào trong một cái quán mình thích, hoặc ngồi ngay ở hè phố mà thưởng thức. Con phố ruột của dân nghiền cà phê Hà Nội, rất gần Hồ Gươm. Cà phê phin… từng giọt, từng giọt sóng sánh. Người uống cũng từng ngụm, từng ngụm nhẹ nhàng như trong mơ. Phố ngắn và nhỏ nên cũng thật dễ điểm mặt, nhớ tên những “địa chỉ vàng” của các quán cà phê ngon.
      Hai người bạn gái đi chậm lại. Họ nhìn vào một cái quán nhỏ bên phố, mà trước đây Hoàng hay rủ các bạn vào. Nghe thấy tiếng khẽ thở dài của Thu, Lan hỏi:
-  Thu nhớ Hoàng lắm, phải không?
-  Thế là Hoàng đi cũng đã được hơn năm năm rồi, Lan nhỉ!
      Thu nói: “Chiến tranh và sự xa cách, có bao nhiêu điều đã đổi thay.”.
-  Cả tình yêu và nỗi nhớ nhung nữa chứ!
      Lan nhìn bạn tủm tỉm cười: “Lan thì thấy, chúng mình từ biệt nhau như vừa mới hôm qua thôi.”.
-  Còn Thu lại thấy như mình đã trải qua cả cuộc đời vậy.
-  Chỉ có Thu là thay đổi nhiều quá!
      Lan bảo vậy.
-  Chúng ta đều khác đi cả
      Thu đáp và tiếp lời bạn:
-  Nếu bây giờ còn nói: Mỗi chúng ta đều đã trưởng thành? đã lớn lên? - Lan không thấy: nói vậy có phần hơi trẻ con, mà còn buổn cười nữa! Bởi chúng mình đang trải qua cả một cuộc chiến tranh…
      Thu vẫn say sưa giải thích:
-  Sự biến đổi về cuộc sống, đã cho mỗi chúng ta thêm rất nhiều hiểu biết, cũng như sâu sắc hơn cả về tình yêu.
     Lan có vẻ ngạc nhiên nhìn Thu, rồi bật lên cười khanh khách:
-  Nhưng Lan chẳng có ai để mà yêu sâu sắc… để mà nhớ… mà thay đổi cuộc sống…
      Thu chợt hiểu. Cô nắm chặt tay bạn tỏ sự cảm thông:
-  Tại cậu kén quá đấy!
      Hai người bạn gái vui vẻ bước vào trong quán. Đêm khuya, cơn gió thổi về se lạnh. Họ ngồi bên nhau cầm trong tay tách cà phê nóng, hơi bốc lên nghi ngút. Ngày trước, khi Hà Nội chưa có chiến tranh, vào ngày lễ nô-en này phố rất đông. Các văn nhân, nghệ sĩ thường hay đến đây. Họ ngồi với nhau bên tách cà phê để nghĩ sự đời, ngắm người, ngắm cảnh đêm lung linh trong những ánh đèn. Năm nay, Hà Nội đang có bom nên vắng đi nhiều.
      Tiếng chuông nhà thờ lại âm vang trong khuya, người đi chơi nô-en đã tản về các phố. Thu và Lan cũng rời khỏi quán đi về phía Bờ Hồ. Tòa báo Hà Nội Mới của Thu nằm ở ngay đầu phố, sát với Hồ Hoàn Kiếm. Họ đi qua những chùm bóng điện đủ màu kết thành hoa, theo gió chao đi chao lại. Những ngọn đèn pha từ các trận địa tên lửa và pháo cao xạ phòng không, chiếu những đường sáng trắng, đan nhau chi chit giăng khắp bầu trời.
      Bên bờ Hồ Gươm, những chùm rễ xi treo lơ lửng đang cố đưa những đầu rễ trắng nõn khỏa xuống dòng nước xanh. Sóng xô đến dồn chúng vào sát chân hồ. Thu dừng lại, cúi xuống nhặt mấy hòn đá nhỏ ném thia lia trên mặt nước. Viên đá nhảy lướt lên mặt sóng, vạch thành một đường dài lấp loáng ra tít ngoài xa. Hòn thia lia gợi cho cô nhớ lại kỉ niệm xa xưa, những ngày đã cùng anh đi dạo. Lan thì nhặt mấy chiếc lá to thả xuống hồ. Những cánh lá bập bềnh trôi như những chiếc thuyền câu nhỏ xíu.
      Có những khoảnh khắc, hai người bạn cùng im lặng. Lòng họ đang lắng lại, đuổi theo những tâm trạng riêng của chính mình.
-  Thu có nhớ, đêm nô-en cuối cùng trong đời học sinh của chúng ta không?
       Tiếng nói của Lan kéo Thu ra khỏi sự suy tư.
-  Cũng bờ hồ này, cây cối, đường phố, con người… vẫn quen thuộc như ngày nào, Lan nhỉ?
      Thu trả lời bạn.
-  Nhưng lại thiếu đi nhiều đứa bạn, phải không Thu?
-  Ờ, đúng vậy. Khi ấy, chúng mình đều bước ra đời, mỗi đứa một nơi, lại chiến tranh nữa…
-  Nghĩa là Thu lại đang nghĩ về Hoàng?
      Lan nói vẻ ý nhị, cô khẽ mỉm cười trong đêm. Thu không để ý, vì mải đắm mình vào một thế giới đang bộn xộn trong cô. Giây lát, Thu khẽ bảo:
-  Đêm nô-en năm nay, Thu cảm thấy có một cái gì đó thật mới mẻ. Như trong cái màn đêm yên tĩnh của phố cổ kia, là cả một ngọn núi lửa. Ngọn lửa ấy sẵn sàng phá vỡ cái vỏ bọc yên ả của nó. 
-  Thì chiến tranh mà…
       Lan nói.
-  Cả ở trong trái tim mỗi con người chúng ta nữa, Lan ạ!
-  Bởi vì Thu đang nghĩ tới người yêu! Chứ còn trái tim Lan, chẳng có ngọn núi lửa nào cả? chẳng có gì hết.
-  Không, ý Thu không phải chỉ nói riêng về chuyện tình cảm ấy. Chúng ta đang đứng ở trong cuộc chiến của cả dân tộc, mà Lan?
-  Tất nhiên.
       Lan dừng lại không nói gì nữa. Thu nắm lấy tay Lan, hai người đi tiếp về phía tòa soạn báo. Trong canh khuya, thành phố đã im ắng như thể một bến đò đang đợi khách. Người ta nghe rõ tiếng lăn tăn của con sóng láng lên bờ. Thỉnh thoảng một đợt gió xào qua dẫy me xanh cạnh hồ, làm bay đi mươi cánh lá. Cảnh tượng như ở bến sông quê, chốc chốc người lái đò lại chui đầu ra khỏi mui thuyền, đôi mắt thoáng chút lo âu nhìn lên bờ đợi khách? Rồi lại rụt đầu vào trong khoang. Ở đó, được thắp một ngọn đèn dầu chỉ vừa đủ ánh sáng. Ngọn đèn như một đốm lửa có hai mầu: mầu xanh nhọn ánh lên thành búp ở phía trên, nửa đỏ lại phình ra giống một nậm rượu nhỏ phía dưới. “Đêm Hà Nội trong chiến tranh mà cứ như huyền thoại” – Thu nghĩ vậy.
      Thành phố trong đêm uy nghiêm như một thần tượng, vừa mang vẻ huyền bí thiên nhiên, vừa có cái dấu ấn của sự giáo điều cổ xưa. Thỉnh thoảng vẫn có chuyến xe chở đầy ắp người sơ tán, chạy về phía cửa ô. Tiếng còi tàu ở nhà ga thét lên một hồi dài, báo hiệu nó chuẩn bị rời bánh đi đến các tỉnh xa. Mấy chiếc xe nhà binh kéo theo những khẩu pháo lớn, nước thép còn mới. Trên xe, những chiến sĩ đội mũ sắt ngồi thành hai hàng. Họ giơ bàn tay ngang mặt chào các đồng chí của họ, cũng đang ngồi trên chiếc xe khác nhưng đi ngược chiều. Thỉnh thoảng có chiếc xích lô chở đôi, ba người khách, bác lái phải gò mình lên thành xe đạp hối hả về phía cuối phố. Lẻ tẻ vài người đi xe đạp, vội vã phóng thật nhanh về nhà hay đi đâu đó.
      Trời cũng nửa đêm trở về sáng. Những ngọn đèn trong đêm lễ vẫn lung linh, nhưng nhà hai bên phố thì đóng cửa im ỉm. Đã đi đến cổng của báo Hà Nội Mới, hai người bạn gái chia tay nhau. Lan rẽ xuống phố Bà Triệu, nhà cô ở phía đó. Thu mở cổng tòa soạn, bước vào trong cơ quan.
 
*                        
 
      Vì sao nhỉ? – Vi sao đến lúc này, nhiều nhà khoa học vẫn cứ trằn trọc mãi câu hỏi: “Man, who are  you?” (con người,  anh là ai?), mà sẽ còn bao nhiêu thập kỉ nữa, khi những thành tựu khoa học như những ánh chớp liên tiếp chiếu sâu vào cái màn đen huyền bí của thế giới, thì câu hỏi đó vẫn có thể là một “cơn sốt”. Cơn sốt khoa học sẽ chùm lên từ thế hệ này qua thế thế khác, không dừng lại. Con người chỉ đi tìm cho đúng cái bóng của mình: Man, who are you?
      Còn Thu, đêm nay cô thấy rõ lắm! Anh chị em của cơ quan, giờ này đều đã ngủ say cả. Chia tay với Lan đêm nô-en về nghỉ trong tòa soạn, Thu cứ bồn chồn, miên man bao tâm trạng. Dường như thể những vì sao trong vũ trụ rộng lớn kia, chúng bay lên từ trái tim cô. Chỉ trong một khoảnh khắc thôi, khoảnh khắc của ánh chớp ấy… Thu đã chứng nhận được cả thế giới đó. Cứ như một công trình phát minh, cô nhận thức ra và nó làm cho cô vui sướng.
      Tham gia trong những ngày cứu hộ, đào bới, tháo dỡ hầm sập cứu người ở bệnh viện Bạch Mai, Thu mới cảm thấy ý nghĩa thiêng liêng của giống nòi. Đất nước trở nên cao cả và thân thiết biết bao? Chưa bao giờ Thu thấy yêu thương dân tộc mình đến thế! Có ngồi nghe những nhà đạo đức giảng hàng trăm bài chính trị, cũng chẳng bằng chính bản thân mình khi đã hòa vào để cứu các nạn nhân bị bom vùi. Những lúc nhìn anh chị em phải quằn quại trong đống gạch đá đổ, lấp… Người thì thoi thóp, người không bao giờ còn quay trở về với sự sống được nữa? Thu chỉ chực òa lên khóc. Lòng cô đau như chính người thân ruột rà máu mủ gặp nạn. Có một ý nghĩa về cuộc sống còn lớn hơn cả tiếng khóc ấy, bùng lên trong trái tim cô…
-  Ôi, sự sống! Sự sống mới quí giá làm sao?  
      Phải ở trong hoàn cảnh khốc liệt đó? Phải chính mắt mình chứng nhận sự tàn ác, dã man của kẻ thù? – Mới thấy hết được ý nghĩa thiêng liêng của tổ quốc! Tình yêu quê hương đang chảy trong dòng máu của cô. Phải chăng đấy cũng là một trong những đáp án, mà cần trả lời câu hỏi kia: “Man, who are you?” - Con người, anh là ai? Con người là quê hương, là đồng bào, dân tộc trong dòng máu của ta, của cha mẹ cho ta – Chẳng phải đúng thế sao !?
      Thu cảm thấy hạnh phúc, vì mình đã đóng góp được một chút công sức nhỏ bé cho quê hương, cùng đồng bào của cô khi gặp nạn: và đấy chính là những gì cô thấy mình lớn lên, cảm thấy tự hào. Cô đã cùng với dân tộc, với nhân dân… có mặt trong lúc quê hương đang rơi vào thảm họa đẫm máu nhất – để bảo tồn nòi giống, tổ quốc mình! Đó cũng là trang sử hào hùng, chói lọi của non sông. Lòng cô đầy phấn kích.
      Thu vùng dậy lấy giấy viết thư cho anh. Phải, Thu sẽ chia sẻ với anh những gì mà cô đã trải qua, cả những tâm tư thầm kín nhất trong đêm lễ nô-en này.
      “Hoàng thân yêu,
      Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng là mối tình đầu và cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc khi đã làm với anh điều ấy…”.
      Viết đến đây, Thu dừng lại. Cô mỉm cười thầm với chính mình, vì đã viết những dòng như thế cho anh trên thư. Phải, tới giờ nhớ lại những giây phút đó… lòng cô vẫn còn thấy bồn chồn. Nghĩ tới ngày sẽ được mặc bộ đồ cưới thiêng liêng của người con gái, bao nhiêu cảm xúc lại chảy tràn trong đầu óc Thu? Cô muốn viết tất cả nó ra.
      “ngày cưới…”: cái niềm hạnh phúc chợt đến với Thu như nghẹt thở, chói ngợp trong tâm hồn – Ôi, cuộc sống? Cuộc sống đầy mâu thuẫn nhưng mới kì diệu làm sao! Phải chăng đến đây, ta mới hoàn thiện được câu hỏi: Man, who are you? – Chẳng phải, ta đã tìm được chân lý của cuộc sống đó sao? Không thể có một hình tượng nào, một lí thuyết nào sáng tỏ hơn được chân lí ấy! Cô lại cúi xuống viết tiếp những dòng thư cho anh.
      “… Đấy, nó đấy anh ạ! “ – Thu vẫn miên man… Tuy mới chỉ là những ý nghĩ đến thôi, cô đã thấy hạnh phúc lắm rồi!
      … Khi em mơ một chiếc váy mặc trong ngày lễ cưới, thì thấy cuộc sống đã mở ra trước mắt cả bầu trời. Em cũng ước muốn một gian phòng nhỏ xinh xắn trên phố, trong hạnh phúc của tình yêu! Phải thế không anh?
       Không giống những nhà khảo cổ đã khai quật từ trong các tầng lớp địa chất nằm sâu dưới đất… một cái sọ người nguyên thủy, hay mấy mảnh xương vụn… mà tìm ra nguồn gốc của loài người? cũng chỉ để trả lời cho câu hỏi: Man, who are you? – Con người, anh là ai?
       Nhưng rõ ràng đêm nay, Thu đã nắm được một cái gì đó thật thiêng liêng, kì diệu của cuộc sống! – Cũng như những người phụ nữ khác, Thu sẽ  có con. Khi đất nước đã hết chiến tranh, cô cùng với các con sống một cuộc sống bình thường, yên lành bên anh.
      Đấy, nó đấy! Cô muốn ôm chặt lấy cái hạnh phúc ấy. Như thể đó là một cánh chim, nếu buông tay ra thì cánh chim sẽ mang chân lý của cô bay đi mất.
      Câu hỏi: “Con người, anh là ai”? chẳng phải ta đã trả lời được nó đấy sao! Những gì đang tồn tại, đang phát triển: cả hy vọng và sự hy sinh… suy cho cùng đều nẩy sinh từ trong đó. Cô đã nhận thức được nó từ trái tim cô, trong tâm hồn, trí não của một người phụ nữ giữa đêm lễ Giáng sinh này – Thu muốn viết tất cả những ý nghĩ hỗn độn ấy ra với anh, chẳng cần sắp xếp.
      Thu lại tự vấn mình: khỉ, mình toàn viết linh tinh. Giờ ta sẽ kể về đêm nô-en đi chơi với Lan, cho anh nghe. Cô viết:
       “Em và Lan, chúng em lượn mấy vòng từ phố Nhà Thờ ra Bờ Hồ rồi rẽ vào một cái quán nhỏ. Cái quán mà năm xưa có cả anh, ta hay vào đó uống cà phê trong đêm lễ, anh còn nhớ không? Đúng đến giờ khắc thiêng liêng thì bọn em len vào trong nhà thờ, xem mọi người làm lễ và cầu nguyện cho một Giáng sinh an lành.
      Sau khi dự lễ ở nhà thờ, bọn em còn lang thang thâu đêm… rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho anh đây! Cái Lan nó tạt về nhà, hẹn mai thế nào cũng đến tòa soạn báo ở với em vài ngày. Nó xin nghỉ phép năm, anh ạ! Chỉ tội nghiệp nó, chưa tìm được anh chàng nào thay thế, vẫn một bóng cô đơn! Chúng mình tuy rất xa nhau, nhưng vẫn còn có nhau… phải không anh?”.
      Thu nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng về phía trời xa. Cô lại nghĩ: nếu giờ ta đặt ra câu hỏi với anh: Chiến tranh liệu còn lâu nữa không? – chắc là anh sẽ trả lời: Chẳng còn lâu nữa đâu, em ạ!  Mặc dù anh với em đều hiểu, thực tế còn ở cách xa với ước muốn của mình một khoảng cách, không phải là ngắn. Cô lại viết tiếp:
      “Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! – Thì cô gái nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con… sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh!  
      Cái chân lí về hạnh phúc đơn giản vậy thôi! Nhưng chính chân lí ấy đã giúp cho cô gái nhìn thấy cả thế giới kia, trong trái tim nhỏ bé của mình, trái tim của một người đàn bà…”.
      Lá thư viết cho anh đã dài năm trang giấy pơ luya màu hồng. Ngày mai, chắc là vừa đêm lễ nên Hà Nội vẫn còn yên, Thu sẽ tranh thủ mang ra hòm thư ngoài phố gửi, để anh sớm biết tin. Trời cũng đã gần sáng, cơn buồn ngủ kéo đến trĩu mắt, Thu áp mặt lên lá thư và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.  
 
 
                                                                                    
 
nhanvan

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 36 bài trong đề mục