Tiểu thuyết - CUỘC CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ ĐẪM MÁU - Phạm Ngọc Thái
15- Sau khi cụm cứ điểm Ngọc Bờ Biêng bị tiêu diệt. Lúc này ở đồi A, cùng với đội hình các chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 48 và Tiểu đoàn hỏa lực D16 – Trung đội trưởng Hoàng dẫn đầu trung đội súng máy cao xạ 12ly7, tràn lên cao điểm. Tại căn nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ, được xây dựng bằng các bao cát. Một tên sĩ quan Mỹ chết nằm ngã sấp trước cửa, đầu lộn vào phía trong. Có lẽ lúc đó, hắn ra ngoài đang định chạy vào thì trúng đạn của bộ đội. Hai tay tên sĩ quan Mỹ giang về phía trước, nằm dốc theo những bậc lên xuống, giồng như tư thế của vận động viên bơi lội từ trên cầu phao đang nhào xuống. Khẩu súng ngắn của y văng ra rơi xuống sàn nhà hầm. Không thấy xác của tên tiểu đoàn trưởng Mỹ đâu? Có thể nó đã chết ở trên cứ điểm trong đống xác của lính, cũng có thể đã bị bắt ở đám tù binh. Các chiến sĩ đẩy xác tên sĩ quan Mỹ sang một bên. Hoàng cùng anh em bước vào trong nhà hầm. Một con chó bẹc-giê màu xám từ trong góc nhà hầm nhảy chồm ra, định lao tới cắn. Khẩu AK của Hoàng lập tức rung lên, con chó ngã vật xuống, mồm còn kêu ăng ẳng. Hai chân con chó cào làm nát cả hai ống quần của tên Mỹ, may bằng loại vải dầy cộp. Bộ đùi lông lá của nó bị móng con chó cào xé còn loang máu. Máu ộc ra từ cổ con chó đỏ lòm, toé lên người tên sĩ quan. Hai giống sinh vật ấy nằm đè lên nhau, lấp cả một khoảng căn nhà hầm. Hoàng cầm cây đèn pin soi loằng nhoằng vào bên trong, nói: - Hôi như cóc chết! Căn nhà hầm chỉ còn trơ lại hai cái xác và một số dụng cụ của bộ phận thông tin, vô tuyến. Họ kéo nhau đi chỗ khác. Đến trước một căn nhà có cửa bằng sắt, đóng kín với một ổ khoá lớn. Mấy anh em chiến sĩ lấy hết sức dẩy rầm rầm vào cánh cửa. Phiến cửa được làm bằng một loại tôn khá dầy, không lay chuyển. Một chiến sĩ bước hẳn ra ngoài, đưa ống tay áo quệt những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán, chửi đổng: - Đồ chó má! Kho đạn thì nó để tênh hênh, kho lương thì nó khoá chắc thế? Một anh khác phụ hoạ: - Bọn chỉ huy nó sợ lính tráng vào lấy bừa bãi, chứ sao! Hoàng hỏi anh em: - Không thể phá được à? - Báo cáo trung đội trưởng, cửa chắc lắm ạ! Trung đội trưởng cho chúng em dùng một liều bộc phá, sẽ tung hết. Cả nhóm chiến sĩ đồng tình: - Phải đấy! Trung đội trưởng đồng ý đi, chắc kho lương này nhiều thứ ngon lắm, đấy ạ! Hoàng cười rồi gật đầu, nhưng vẫn nhắc anh em dùng bộc phá cho cẩn thận. - Trung đội trưởng cứ yên trí, chúng em là lính dùng bộc phá đã có tay nghề rồi mà. Một cậu quay lại hỏi các đồng ngũ: - Bộc phá đâu? - Bộc phá đây, có ngay! Một anh khác nhanh nhảu đưa đến một thỏi bằng bánh xà phòng thơm, nói: - Thỏi này cũng đủ sức công phá cả căn nhà vừa vừa đấy! - Đưa cho thằng Lãm nó nổ. Nói rồi, anh ta quay sang hỏi một chiến sĩ tên là Lãm: - Bằng này đủ chứ? - Ừ! Thoải mái rồi, không nên dùng quá lớn. Lãm là lính trinh sát của Tiểu đoàn 16, đi cùng dẫn đường cho trung đội súng máy cao xạ 12ly7 của Hoàng vào trận đánh này. Cậu ta có khuôn mặt bé choắt và đen nhẻm. Lãm cầm miếng bộc phá từ tay người chiến sĩ nọ, tiến vào gần cửa sắt căn nhà hầm gài ngòi nổ. Gài xong, cậu ta hét các chiến sĩ đang vây quanh mình: - Tất cả tránh ra xa, tìm chỗ nấp đi. Chuẩn bị cho bộc phá nổ! Hoàng và các chiến sĩ lùi lại. Người thì nhảy xuống giao thông hào đã đào sẵn của địch, một số khác đến ẩn trong những căn nhà hầm của lính biệt động VNCH trên cao điểm. Lãm châm ngòi bộc phá rồi chạy lại phía sau, nhẩy xuống một chiếc giao thông hào. Rầm! Một tiếng nổ long trời. Đất đá và khói đen tóe lên mù mịt. Cánh cửa sắt sập xuống. Khi làn khói đen loãng dần và tan hẳn, mọi người xô đến. Một mảng tường được xếp bằng các bao cát đổ sụp, căn nhà hầm hiện ra. Bên trong nào là những kiện gạo sấy, thịt hộp, các thùng rượu, bia, nước hoa quả, hàng đống thuốc lá Ru bi, Cáp tăng có hình chiến binh ở vỏ bao thuốc. Loại thuốc này của Mỹ có pha thêm cả chất thuốc phiện, hút say và thơm ngon. Chỉ chuyên cung cấp cho lính. Tất cả reo lên: - Khuân ra đi, anh em ơi! Đấy là một kho hàng nhiều vô kể, chứa đầy cả một căn nhà hầm lớn. Mấy cậu quay ra cửa, gọi những anh em chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 48 quanh đấy đến. Đây chỉ là kho dự trữ – Ở các căn nhà hầm khác của lính, những thứ này cũng nhiều. Anh em bộ đội thỏa sức lấy. Các chiến sĩ mở thịt hộp và bóc những bao gạo sấy ra, nói với nhau: - Chén đã các cậu. Tất cả ăn mừng chiến thắng, vui như ngày hội. Lính là thế đấy! Chỉ ít phút trước bom đạn gầm trời, máu đổ. Còn lúc này, họ đang thưởng thức những chiến lợi phẩm của trận đánh. - Đồ Mỹ có khác! Bọn chúng đi đánh nhau mà cũng được cung cấp sướng như thế này? Mà đây là chúng cung cấp cho cả lính của QLVNCH, chứ ở những cứ điểm toàn lính Mỹ và quân đồng minh – Loại lính cậu! Còn được trực thăng thả xuống cả đoàn gái điếm cung cấp cho các sĩ quan. Nói về quang cảnh chung của cụm cứ điểm, sau khi đã toàn thắng – Trên con đường yên ngựa từ Ngọc Bờ Biêng tới Mắt Ngỗng… về đỉnh 1001: Toàn trung đoàn 48 và các đơn vị hỏa lực đi phối thuộc, tiểu đoàn dự phòng của Trung đoàn 52 – Tất cả đều được tung ra để chuyên chở chiến lợi phẩm. Họ vận chuyển các kho súng đạn và hàng trăm kiện thực phẩm các loại về tuyến sau. Người nọ giục người kia nhanh lên! Kẻ ngược, người xuôi như hội ngày mùa. Lúc này, trên bầu trời Ngọc Bờ Biêng khá yên tĩnh. Thỉnh thoảng cũng có chiếc máy bay trinh sát OV10 bay vè vè xung quanh. Nó cũng không dám đến gần cao điểm, vì sợ bị bắn. Từ khi chúng kéo cờ trắng đầu hàng, không còn thấy pháo bầy bắn tới. Cũng không thấy có phản lực, máy bay tiêm kích hoặc trực thăng đến oanh tạc nữa – Nhưng Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 báo xuống: “Tất cả mọi công tác tù hàng binh, thu chiến lợi phẩm, công tác thương binh tử sĩ… phải làm thật nhanh, gọn trong ngày. Theo trên cho biết: rất nhiều khả năng tối hoặc đêm nay, Mỹ sẽ cho B52 đến rải thảm hủy cao điểm”. Tuy vậy, các đơn vị vẫn không được chủ quan, đề phòng có máy bay phản lực đến oanh tạc, ném bom thì phải tản ra và trú ngay. Không để bị thương vong, tổn thất thêm. Cho nên lúc này không khí lại càng khẩn trương, rộn ràng. Trên nóc căn nhà hầm của tên tiểu đoàn trưởng lính dù Mỹ, ngọn cờ giải phóng vẫn phần phật tung bay trong gió. Còn trên con đương rừng từ cứ điểm về tuyến sau, những dòng người đi – lại vẫn tấp nập. Đó là những chiến sĩ đầy quả cảm trong trận đánh. Người thì vác những quả đạn pháo vàng chóe, kẻ thì mang kiện thịt hộp, có anh gánh cả hai bao tải gạo sấy, những kiện bia, nước ngọt… Giống như một cuộc hành quân của đoàn kiến: con đi về thì chất trên lưng miếng mồi to hơn cả thể xác của nó, con đến thì đi không. Chúng cộc đầu vào nhau, thúc nhau đi nhanh lên! Con nào, con nấy vội vã rảo bước. * Như mọi năm vào tháng tư này thường có những cơn mưa dồn dập và dữ dội, nhưng hôm nay trên đỉnh Ngọc Bờ Biêng, bầu trời cao nguyên rất trong sáng. Nắng vàng rực trên khuôn mặt của những chiến binh trẻ tuổi, rạng rỡ sau cuộc chiến thắng. Các đơn vị bộ binh đang hối hả giải quyết chiến lợi phẩm. Họ còn củng cố lại đội hình, bổ xung quân số và đạn dược, chuẩn bị cho trận chiến mới. Vào lúc giữa trưa, hai vị trung đoàn trưởng gặp nhau trên cao điểm vừa được giải phóng. Ông trung đoàn trưởng E48 là một người thấp bé, có giọng nói lơ lớ người miền Trung. Ông là một sĩ quan trưởng thành từ trong chiến tranh. Chiến trường đã rèn đúc cho ông đức tính quả cảm và linh hoạt. Bên cạnh ông là một người đàn ông to lớn, trông hơi dữ - Đó chính là viên trung tá, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo E40. Ông có nước da đỏ tía như da gà chọi. Đôi lông mày rậm nhíu lại như một chóp nón, úp lên đôi mắt thành một hình tam giác, hai cạnh kéo dài về hai bên. Mắt đăm đăm nhìn về phía Thị trấn Tân Cảnh, trung đoàn trưởng pháo E40 nói với trung đoàn trưởng E48: - Chiến sự của toàn mặt trận diễn biến nhanh quá! Khi ta chiếm được Ngọc Bờ Biêng thì ở Đắc Tô – Tân Cảnh, quân chủ lực của ta đã đánh tan tành vành đai ngoài, giờ đang tràn vào trung tâm của Sư đoàn 42 QLVNCH trong thị trấn rồi. - … và anh đã hụt mất một miếng mồi ngon chứ gì? Viên trung đoàn trưởng bộ binh nói thế rồi phá lên cười. Trông ông nhỏ thó mà tiếng nói thì sang sảng. Trung đoàn trưởng pháo cười theo. - Kể cũng tiếc thật! Cả một kho đạn pháo lớn thế kia… Ông đưa tay chỉ về phía kho đạn pháo của địch trên cao điểm, giải thích: - … với hàng trăm viên đạn pháo ấy mà được nã vào các cứ điểm trong Tân Cảnh, như kế hoạch ban đầu của Bộ tư lệnh Mặt trận B3… mới gọi là sướng tay! Giờ thì quân bộ binh của ta đang tràn vào bên trong thị trấn, không bắn được. Viên trung đoàn trưởng pháo khẽ thở dài có vẻ tiếc nuối: - Ta mà chiếm được cứ điểm này nhanh thêm chút nữa? Với giọng vui vẻ pha chút hài hước, viên trung đoàn trưởng E48 nói: - Nhưng báo cáo ngài trung đoàn trưởng pháo: Ngài cũng thấy là, ta đã chiếm được Ngọc Bờ Biêng này, nhanh hơn cả yêu cầu của Bộ tư lệnh B3 rồi? Trung đoàn trưởng pháo E40 xác nhận: - Đúng thế!... và ở Tân Cảnh, quân chủ lực đánh vào còn nhanh hơn cả ta. Dù sao thì đó cũng là điều đáng mừng. - Thế anh định xử dụng những khẩu pháo kia, thế nào? Viên trung đoàn trưởng bộ binh hỏi. Cả hai ông trung đoàn trưởng đều quay lại nhìn. Một trận địa có đến sáu khẩu pháo lớn 100ly của Mỹ đặt trên cao điểm A, mà Trung đoàn 48 vừa chiếm được. Những khẩu pháo nước thép trên nòng vẫn còn sáng bóng. Lúc này tại trận địa pháo đó, các chiến sĩ pháo thủ E40 đã vào thay thế. Họ đang ở trong vị trí, chờ lệnh của ông trung đoàn trưởng pháo, sẵn sàng nổ súng. Viên trung đoàn trưởng pháo E40 nói: - Tôi đã báo cáo về Bộ tư lệnh B3: vì bộ đội ta cũng không khuân chúng đi theo được, nên sẽ cho trút tất cả kho đạn pháo 100ly kia vào Thị xã Kon Tum. Nói rồi, ông quay người về phía bộ phận thông tin, vô tuyến ra lệnh: - Hãy báo cáo Ban chỉ huy mặt trận: 5 phút nữa, Trung đoàn 40 sẽ cho pháo bắn! Ông nói tiếp với trung đoàn trưởng E48: - Không kịp đánh vào Thị trấn Tân Cảnh thì ta rót vào Thị xã Kon Tum, để uy hiếp chúng. Cũng là bàn đạp dọn đường trước cho bộ đội, sắp tới sẽ tiến công giải phóng thị xã. Viên trung đoàn trưởng E48 nhìn đồng hồ, nói với trung đoàn trưởng pháo: - Vẫn đúng giờ qui định, chúng ta sẽ cùng hành quân tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh, chứ anh? - Không có gì thay đổi. Trung đoàn trưởng pháo nói: “Ta so lại đồng hồ cho thống nhất.”. Cả hai ông trung đoàn trưởng đưa cánh tay đeo đồng hồ sát lại gần nhau, lấy lại giờ cho khớp. Viên trung đoàn trưởng pháo nhìn chiếc đồng hồ vỏ mạ crôm đen bóng trên cánh tay hộ pháp của mình lần nữa, rồi nói: - Bây giờ chúng ta sẽ chứng kiến, trận đánh thứ hai trong ngày. Ông quay hẳn người về phía trận địa pháo 100ly, giơ cánh tay phải lên ngang mặt ra hiệu lệnh: - Bắn! Cả sáu khẩu pháo đồng loạt nổ chói tai, khói mịt mù trận địa. Các pháo thủ, người thì điều chỉnh nòng pháo cho đúng cự ly, tầm… kẻ lắp đạn, rộn rã như một công binh xưởng vậy. Những chiến sĩ ở xung quanh cao điểm ùa đến. Họ vây quanh các khẩu pháo vẫn liên tục nổ ròn rã về phía Thị xã Kon Tum. Các xạ thủ của trung đoàn pháo 40 đang thực hành một chiến trận đầy khí thế hào hùng. Người trung đoàn trưởng bộ binh giơ tay bắt thật chặt vị trung đoàn trưởng pháo. Ông nói: - Giờ tôi phải về Ban chỉ huy để tổ chức lại đội hình của trung đoàn. Đúng giờ xuất phát, anh cứ cho trung đoàn pháo tiến về Tân Cảnh, chúng tôi lập tức sẽ hành quân tiếp theo. Nói rồi, viên trung đoàn trưởng E48 rảo bước đi về phía Mắt Ngỗng. Thắng lợi trận đánh Ngọc Bờ Biêng có ý nghĩa rất to lớn trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972: Đã tạo thế để QGP đồng loạt tấn công các cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Kleng… Bởi vậy, không chỉ Ngọc Bờ Biêng thắng lớn, mà từ phía các cụm cứ điểm khác ở phía Bắc Tây Nguyên, chung quanh Thị xã Kon Tum báo về… chiến thắng đều vang dội. Sau đó, QGP sẽ dồn lực tràn về giải phóng Đắc Tô – Tân Cảnh. Tiến tới tập trung lực lượng đánh vào Thị xã Kon Tum cùng với Buôn Ma Thuột, là những căn cứ quan trọng, vững chắc nhất của QLVNCH và Mỹ cố thủ ở Tây Nguyên này. Đánh Ngọc Bờ Biêng là QGP đánh ngay vào sào huyệt, cứ điểm kiên cố của địch – làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn lúng túng, đi hết thất bại này đến thất bại khác. Đó chính là sự mở đầu cuộc phản kích của Quân đội nhân dân Việt Nam – Tạo thế tiến công phát triển, bàn đạp cho sự thắng lợi của chiến dịch toàn miền – Buộc Mỹ phải ngồi vào bàn thương lượng, đàm phán ở Hội nghị Pa Ri. Ngọc Bờ Biêng là một trong những trận đánh rất ác liệt, nhưng thắng lợi ròn rã - Là những kỉ niệm máu lửa trong đời một chiến binh... sau này Hoàng còn nhớ mãi.
16- Đường lên Đắc Tô – Tân Cảnh nằm ở phía bắc Kon Tum. Bên trái là con sông Pô Kô uốn khúc, dòng nước chảy hiền hòa, trong xanh. Khi chiến tranh chưa vào giai đoạn ác liệt, đây đó những đám hoa dã quỳ nở đong đưa trong gió. Theo con đường Quốc lộ 14 trải dài trên cao nguyên, ta nhìn thấy ở hai bên là những rẫy hoa mầu, rẫy cà phê, những cánh rừng cao su bạt ngàn xanh mát… làm dịu đi cả một mảng đồi núi trong nắng vàng rạng rỡ. Qua những buôn làng của đồng bào các dân tộc thiểu số như người Êđê, Mnông, Giarai… với mảnh khố ngắn cũn, chiếc váy tuềnh toàng. Những rẫy sắn, giàn bí leo, hoặc những cái rẫy bỏ hoang của các căn nhà đã rời đi nơi khác. Nay Tân Cảnh – Đắc Tô đã trở thành một chiến địa ác liệt và đẫm máu. Các con đường đi đến nó đã bị pháo binh, máy bay Mỹ ném bom cầy xới tung tóe, nham nhở. Ngay trên Quốc lộ 14, có những đoạn ô tô không thể đi được nữa. Xe tăng thì phải càn qua tất cả các nương rẫy mà tiến… Tân Cảnh – Đắc Tô là một mặt trận quan trọng, trong cuộc tiến công chiến lược với qui mô lớn của QGP trên toàn bộ mặt trận Tây Nguyên năm 1972. Sau thắng lợi có tính chất quyết định của QGP miền / Quân đội NDVN ở Đường 9 – Nam Lào, chẳng những chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” - “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trên bờ vực của sự thất bại, mà trên chiến trường miền Nam nói chung… đẩy quân VNCH vào tình thế khốn đốn, suy sụp. Bởi vậy cuối năm 1971 đầu 1972, chúng vội vã tăng cường một lực lượng lớn ở Bắc Tây Nguyên, nhằm bảo vệ cửa ngõ sống còn của Tây Nguyên. Đắc Tô – Tân Cảnh là một trung tâm phòng thủ mạnh nhất, có tính chất huyết mạch của QLVNCH ở phía bắc Kon Tum – đồng thời là một trong ba phòng thủ trọng yếu ở Bắc Tây Nguyên (sau thị xã Kon Tum và thị xã Pleiku của tỉnh Gia Lai). Một lực lượng lớn QLVNCH bố trí ở Đắc Tô – Tân Cảnh, gồm: - 13 tiểu đoàn bộ binh - 1 trung đoàn thiết giáp - 3 tiểu đoàn pháo - 2 đại đội bảo an Được bố trí ở hai cụm cứ điểm lớn là Đắc Tô II và căn cứ 42 Tân Cảnh, đấy là chưa kể không quân Mỹ và pháo binh từ các nơi khác bắn đến yểm trợ. Về phía Quân giải phóng: Đắc Tô – Tân Cảnh được Bộ tư lệnh Mặt trận B3 chọn làm chiến trường chính, để mở chiến dịch tiêu diệt địch ở Bắc Tây Nguyên. Về phương thức đánh: Bộ tư lệnh mặt trận quyết định chọn phương thức “tác chiến bằng hợp đồng binh chủng, kết hợp quân chủ lực và quân địa phương” vây hãm sinh lực địch tiến tới đột phá, tấn công giành thắng lợi. Khi hai trung đoàn 48 và 52 Sư 320 từ cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đã được giải phóng gấp rút tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh, thì chiến dịch ở đấy đang diễn ra rất dữ dội. Về Tiểu đoàn 16 vẫn gồm 4 đại đội hỏa lực trực thuộc Bộ tư lệnh mặt trận B3, đi phối thuộc cho Sư 320 – nhưng riêng C4, đại đội pháo phòng không: trong trận đánh Ngọc Bờ Biêng, núi cao hiểm trở không thể kéo pháo 37ly vào được, đã thay bằng loại tiểu cao 14ly5 và súng máy cao xạ 12ly7 mang vác dễ dàng hơn. Nay vào tham gia chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh, đại đội lại chuyển về thành hai trung đội pháo cao xạ 37 ly và hai trung đội 14ly5. Như vậy, Nguyễn Hoàng giờ là trung đội trưởng pháo cao xạ 37ly của C4 thuộc tiểu đoàn. Như đã nói: sau thắng lợi ở Ngọc Bờ Biêng, trung đoàn pháo hỗn hợp E40 trực thuộc mặt trận cũng tức tốc tiến về Đắc Tô – Tân Cảnh để tham gia trận đánh. Cơn mưa tháng tư tầm tã trút nước như xối vào một miền rừng núi. Lúc này, quân tiên phong của Mặt trận B3 đã chọc thủng các boong ke phòng thủ vành đai phía ngoài Đắc Tô – Tân Cảnh. Trung đoàn 64 F320 đã xuống trước từ khi mở màn chiến dịch. Ngày 15.4.1972, được sự yểm trợ của của pháo mặt đất 120ly và hỏa tiễn 122ly – E64 đã chọc thủng cao điểm Charlie. Charlie chính là tuyến phòng thủ, một nút chặn rất quan trọng của Đắc Tô – Tân Cảnh do Tiểu đoàn 11 nhảy dù QLVNCH trấn giữ, kiểm soát, khống chế QGP ở ngã ba Đông Dương. Vị trí Charlie: giáp gianh với một nhánh sông Pô Kô và Quốc lộ 14, cũng là cửa ngõ huyết mạch dẫn vào thị trấn, cách Tân Cảnh khoảng 10km. Quốc lộ 14 là độc đạo duy nhất từ Thị xã Kon Tum vào Quận lỵ Đắc Tô. Trung đoàn 48 F320 phải xé nhỏ từng bộ phận hành quân vào thị trấn, để tránh địch pháo kích hoặc ném bom rải thảm gây thương vong, tổn thất. Khi C4 – Đại đội pháo cao xạ phòng không do đại đội trưởng Quảng dẫn đầu, trong đội hình hành quân cùng trung đoàn 48 tiến gần đến đồi Charlie đã được giải phóng – Tuy cao điểm đã giải phóng, nhưng hành quân qua khu vực này vẫn rất ác liệt. Các ngọn đồi bị bom san phẳng, trống trải. Để ngăn chặn QGP, địch ngày đêm dùng pháo, bom tàn phá. Hiệu lệnh của Mặt trận là: Qua nơi này phải nhanh và hết sức cẩn thận. Chiều ấy đã muộn, khi C4 vượt qua Quốc lộ 14, khoảng đồi trống gần Charlie đó. Mặc dù đoàn quân ngụy trang cẩn thận và tìm cách tránh né để địch khỏi phát hiện, nhưng bỗng thấy hai chiếc OV10 cứ bay đi vòng lại trên đầu, rồi nghe có tiếng nổ và một cột pháo vàng bốc lên ở phía trước: biết là khả năng chúng đã phát hiện ra đoàn quân? Đây là tín hiệu chúng báo cho phản lực đến đánh. Đại trưởng Quảng vội cho đại đội tản ra hai bìa rừng xung quanh. Từng trung đội tận dụng địa hình thay chiến hào, triển khai pháo 37ly và 14ly5 sẵn sàng đánh địch. Cả những tay súng AK của các chiến sỹ cũng vừa ẩn nấp vừa chuẩn bị tư thế bắn. Tiếng máy bay phản lực rít ngay trên đầu, khói bom đen đặc, mặt đất rung chuyển, đất đá mù mịt. Lập tức pháo cao xạ của Đại đội 4 đồng loạt nổ ròn rã. Cỏ gianh trên đồi cháy rừng rực. Chiếc OV10 trở lại lượn trên đầu. Một tốp phản lực khác bay đến, bom lại nổ tung… Pháo cao xạ 37 và 14ly5 cùng tiếng súng AK tiếp tục nổ long trời, cũng chẳng khác gì chiến địa. Ba chiếc phản lực bay thấp cắt bom, tiếng rít nghe ghê rợn. Bỗng một tiếng nổ chói tai trên bầu trời, kéo theo ngọn lửa lớn bốc lên từ một chiếc A37… khói đen mù cả một vùng trời. Chiếc máy bay cháy lao xuống một khu rừng gần đó. Tiếng reo hò trong đoàn quân vang lên: - Cháy rồi! Máy bay địch cháy rồi! Hoan hô… Hai chiếc khác cố cắt cho hết loạt bom rồi cút thẳng, chỉ còn thấy đám lửa và ngọn khói đen vẫn ngùn ngụt bốc lên trên khu rừng của chiếc máy bay vừa rôi. Hai chiếc OV10 cũng không dám bay gần nữa, chúng lượn ở rìa rừng xa… rồi mất hút. Đại đội trưởng Quảng lệnh cho các trung đội thu dọn trang bị và súng pháo, khẩn cấp tiến về phía Đắc Tô – Tân Cảnh để tham gia trận đánh. * Như đã nói mưu kế của Bộ tư lệnh B3 trong chiến dịch xuân hè 1972 ở mặt trận Bắc Tây Nguyên này, nói chung là lừa địch. Vào đầu tháng tư 1972, QGP đồng loạt tấn công các cụm cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng… lừa địch hướng về phía Thị xã Kon Tum: vì cho rằng QGP sẽ đánh vào Thị xã Kon Tum ngay – Nghĩa là, họ thu hút cả quân dự bị của QLVNCH cùng với Mỹ và quân đồng minh hướng về phía thị xã. Những bộ óc chỉ huy của Mỹ và VNCH trên chiến trường Tây Nguyên đã bị mắc lừa. Cũng khi đó Trung đoàn 64 F320 với chiến thuật hợp đồng binh chủng, có một tiểu đoàn xe tăng thiết giáp và pháo binh yểm trợ, đánh vào các tuyến phía tây sông Pô Kô, là tuyến phòng thủ của QLVNCH ở phía bắc Kon Tum. Mỹ và VNCH vẫn cho rằng đây là vành đai thép, án ngữ hành lang Trường Sơn. Sự xuất hiện những chiếc xe tăng hạng nặng của QGP, từ loại T-54 và PT-76 làm cho quân lính VNCH hoảng hốt, rời rã tinh thần chiến đấu. Đợt phản công ở vành ngoài đó, đã thu được thắng lợi ròn rã. Mỹ và QLVNCH vội vã dồn lực lượng tập trung phòng thủ Thị xã Kon Tum – thì bất ngờ QGP lại phản công Đắc Tô – Tân Cảnh. Lúc này Trung đoàn 64 vẫn được Bộ tư lệnh B3 chọn làm mũi nhọn tiến công từ mặt trận phía tây sông Pô Kô sang, cùng hai trung đoàn 48 - 52 F320, Trung đoàn pháo 40, Tiểu đoàn hỏa lực D16 ở Ngọc Bờ Biêng đến, cũng như các trung đoàn khác trên Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba… Trung đoàn 66, Sư đoàn 2 Quân khu 5 miền Nam Việt Nam do Nguyễn Chơn làm sư đoàn trưởng – tất cả đều lần lượt kéo về tăng cường đánh Đắc Tô – Tân Cảnh. * Khi đó lực lượng địch ở Tân Cảnh chủ yếu do Trung đoàn 42 - Sư 22 QLVNCH, gồm 3 tiểu đoàn bộ binh 1,2 và 4. - Tiểu đoàn thiết giáp 14 với 20 xe tăng M-41, 21 xe bọc thép M-113 - Một tiểu đoàn pháo với 4 khẩu 155mm, 6 khẩu 105mm - 1 đại đội vệ binh, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh Bố trí thành 13 khu phòng thủ. * Ở cứ điểm Đắc Tô (Bắc Tân Cảnh) gồm Quận lỵ Đắc Tô và chốt Ngọc Tu, có: - Các tiểu đoàn 4 và 8 (Trung đoàn 47, Sư 22); Tiểu đoàn 9 (Lữ đoàn dù 3) - 1 chi đội xe tăng bảo vệ Ngày 23.4.1972, Trung đoàn 64 F320 phối hợp với Sư 2 của Nguyễn Chơn – Hợp lực còn có 1 tiểu đoàn đặc công B3, binh chủng pháo mặt đất từ 80 đến 105mm của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn hỏa lực D16 với các loại súng cối 82mm, hỏa tiễn cá nhân DKB, rốc két B41, pháo cao xạ 37ly – 14ly5; kể cả pháo cao xạ tự hành cỡ lớn 57mm cùng 1 tiểu đoàn xe tăng T-54 và 1 đại đội hỏa tiễn chống tăng AT-3 (AT-3 là loại tăng của Mỹ mới bổ xung vào chiến trường) Lúc 4h30 phút sáng, Trung đoàn pháo 675 của Mặt trận B3 bằng pháo 122ly và hỏa tiễn H12, được lệnh pháo kích khai hỏa đánh vào các cụm căn cứ vành đai ở Đắc Tô – Tân Cảnh. Sau đó xe tăng thiết giáp và bộ binh của QGP tràn lên. Đại tá Lê Đức Đạt, Sư trưởng Sư 22 QLVNCH điều 10 xe tăng ra phản kích lại. Lập tức bị tên lửa B-72 của QGP bắn cháy 8 chiếc, đứt xích 2 chiếc (B-72 là loại hỏa tiễn mới của QGP, trước địch chỉ biết có B41). Đến 11h trưa ngày 23.4.1972, QGP đã chiếm được hoàn toàn phía ngoài Tân Cảnh. 15h chiều 23/4, pháo binh QGP nã đạn dồn dập vào trung tâm Tân Cảnh và chỉ huy sở tiền phương của Sư 22 QLVNCH. Trận chiến giữa Trung đoàn 66 F320 và Trung đoàn 42 Sư 22 QLVNCH diễn ra ác liệt. Cũng thời gian đó thì Trung đoàn 48 F320 đụng độ với Trung đoàn 47 Sư 22 QLVNCH ở Đắc Tô. 1h sáng ngày 24.4.1972, xe tăng T-54 của QGP xông thẳng qua Thị trấn Tân Cảnh, lao lên mở toang cửa hướng đông cho bộ binh của Sư 320, Sư 2 Quân khu 5 ào ạt tràn vào. 10h30 phút ngày 24/4, chỉ huy sở tiền phương QLVNCH tại Tân Cảnh bị pháo binh QGP bắn trúng, sau đó xe tăng T-54 tràn lên đè nát. Nhiều sĩ quan chỉ huy của QLVNCH bị tử trận. Các phương tiện thông tin bị phá hủy, không thể liên lạc được với chỉ huy của chúng ở Thị xã Kon Tum. Lúc này, Ban chỉ huy Sư 320 lệnh cho Trung đoàn 48 hợp lực với E64, được sự yểm trợ của Đại đội 7 với 9 cỗ xe tăng T-54 dẫn bộ binh ào ạt xông lên, đánh vào trung tâm và Bộ chỉ huy Sư 22 QLVNCH. Sau khi xe tăng diệt những hỏa điểm ở cửa mở, càn qua hàng rào bắn tung các ụ súng lớn, lô cốt địch cho bộ binh xung phong. Tiến vào Đắc Tô, ba cỗ xe tăng đi đầu là 377, 354 và 369 ngay loạt đạn đầu đã đánh sập khu tháp nước và đài quan sát. Dùng đại liên, xích sắt quần nát các công sự phòng ngự của địch. Lúc quân lính hoảng loạn thì 377 như một mũi tên thép xuyên qua các chiến hào, chà xát các ụ đề kháng, đánh thẳng vào Sở chỉ huy Trung đoàn 42 QLVNCH. Ở đây đã diễn ra một trận tăng dữ dội, lưu lại cho truyền thống đánh tăng “một chọi mười” – Đó chính là một chiến công hiển hách của người trung đội trưởng anh hùng Nguyễn Xuân Triển. Trung đội trưởng xe tăng Nguyễn Xuân Triển nhận được lệnh xuất kích, thừa thắng đánh vào Đắc Tô II – một cụm cứ điểm trọng yếu của địch ở Đắc Tô – Tân Cảnh. Đó chính là mũi để tiến vào đánh sân bay Phượng Hoàng. Xe tăng xung trận trong tầm pháo và máy bay địch chặn phá rất ác liệt. Xe tăng 377 dẫn hai xe tăng 354 và 369 vọt lên, tăng tốc lao vào cứ điểm Đắc Tô. Nhưng khi lao vào trung tâm thì gặp rất nhiều chướng ngại: nào là giao thông hào, hố bom pháo… nên ba chiếc xe tăng phải tách ra vừa đánh và tiến. Xe tăng 377 vọt lên còn hai xe kia phải tản đi, tụt lại khá xa. Một mình 377 xông lên giữa trận tiền rất hùng dũng, trong cơn say chiến thắng đang tiến công mạnh mẽ. Địch thấy 377 đơn thương độc mã – Tên chỉ huy trưởng Trung đoàn 42 QLVNCH liền báo cáo Bộ tham mưu Sư 22 của chúng: điều 10 xe tăng M-41, chia làm hai mũi bao vây chiếc T-54 của QGP. Thế là cuộc đấu tăng “một chọi mười” diễn ra quyết liệt. Bình tĩnh, linh hoạt và chính xác đến tuyệt vời, Nguyễn Xuân Triển chỉ huy còn lái xe Cao Trần Vịnh quần thảo. Khi tiến, khi lui… vừa để tránh tầm hỏa lực địch bắn, vừa hoa tiêu cho pháo thủ là Vũ Đức Lương và Nguyễn Đức Toàn điểm hỏa, diệt liên tiếp 7 xe tăng của địch, làm cho đội hình chúng rối loạn. Lại nói về hai xe 354 và 369 cũng đang tả xung hữu đột với pháo và các chiến xa địch, tiếp tục mở đường xông lên – Họ biết 377 đang lâm trận… Anh em vừa đánh vừa vượt chướng ngại vật, mở hết tốc lực để đến ứng cứu cho 377. Một số xe tăng địch nấp sau các ụ chiến bắn rất rát. Bởi vậy, khi 354 và 369 chưa đến ứng cứu kịp – ba chiếc tăng M-41 còn lại của địch từ phía nam sân bay Phượng Hoàng lao tới. Chúng theo thế cánh sẻ cùng với ba ụ lô cốt phía trong sân bay, tập trung hỏa lực bắn vào 377. Những vết cào phá, đạn pháo địch găm lỗ chỗ quanh xe, những trái pháo địch vọt qua thành xe bay đi… Nhưng rồi, một trái M79 từ một chiếc tăng M-41của chúng đã đã bắn trúng 377. Lửa khói trùm lên chiếc xe quả cảm ấy, cả bốn người dũng sĩ trên chiếc tăng 377 đã hy sinh. Cũng lúc đó thì hai chiếc tăng 354 và 369 dẫn trung đoàn bộ binh ào ạt xông đến, đánh tan tác quân địch. Trở lại với trận chiến ngày 24.4.1972 – Lúc 11h trưa, QGP đã hoàn toàn làm chủ Tân Cảnh, bắn sập chỉ huy sở của Sư đoàn 22 QLVNCH. Ngay khi QGP đang chiếm ưu thế và phản công quyết liệt vào Tân Cảnh, Bộ tư lệnh mặt trận đã cho pháo binh bắn dồn dập vào sân bay Phượng Hoàng – Sân bay Phượng Hoàng dài hai cây số. Đứng ở sân bay ta nhìn thấy một vùng đồi, đó là cứ điểm Charlie hiện ra ngay trước mắt. Mặt tiền của sân bay: tuyến đường đi từ Đắc Tô qua huyện Ngọc Hồi đến Thị trấn Pleicần. Lúc 17h chiều thì QGP chiếm hoàn toàn Quận lỵ Đắc Tô, giải phóng sân bay Phượng Hoàng. Một chi đoàn thiết giáp QLVNCH bị QGP phục kích tại cầu Đắc Mốt đánh tan tác: 5 xe tăng M-41 bị bắn hỏng. Chập tối 24/4, thêm 12 xe thiết giáp và xe tăng nữa của địch bị tăng T-54 của QGP tiêu diệt. Sư 22 QLVNCH hoàn toàn mất sức chiến đấu. Sư đoàn trưởng Sư 22 QLVNCH Lê Đức Đạt cùng với một cố vấn Mỹ vội nhẩy lên một chiếc xe bọc thép, với một đám tàn quân chạy tìm đường thoát về Thị xã Kon Tum. Từ giữa khu chỉ huy sở của Sư 22 QLVNCH, trong làn khói đen đặc với tiếng la hét của bọn lính bị thương, lẫn tiếng đạn pháo nổ mù mịt – Một chiếc xe bọc thép chồm đến, nó nghiến ngấu đè lên cả đám quân đang hoảng hốt. Những tiếng kêu thét ghê rợn vang khắp bầu trời Đắc Tô – Tân Cảnh. Các thi thể do xe nghiến văng ra, đổ sập xuống như những cây chuối bị thối lũn. Chiếc xe vẫn chồm lên, những xác chết bị đè nát bét dính xuống mặt đồi đất đỏ, máu túa ra chảy lênh láng. Như con thú điên dại, chiếc xe lao qua những đồi chè, đồi cà phê, lại vượt lên Quốc lộ 14 chạy thục mạng - con đường độc đạo đi về Thị xã Kon Tum. Nhưng đến cầu Đắc Mốt của con sông Pô Kô, chiếc xe bỗng đứng giật lại. Phía trước mặt nó là dòng sông trắng xóa. Mặt nước hắt lên màu vàng lóa của một buổi chiều trước khi tắt hẳn. Cầu đã bị chính bom của máy bay Mỹ phá sập. Chiếc xe vội quay đầu lại, rẽ ngoặt lên một triền đồi… định chạy qua huyện Ngọc Hồi về phía Pleicần, theo hướng bắc chạy về Đà Nẵng – hoặc là từ Pleicần, theo Quốc lộ 18 có thể dẫn về ngã ba biên giới Cam Bốt-Lào-Việt. Nó cố chạy sang Lào hoặc Căm Pu Chia. Nhưng đằng sau chiếc xe bọc thép đó có hai chiếc tăng T-54 đang đuổi theo, cách nó chỉ khoảng vài trăm mét đường chim bay. Người ta nhìn thấy những mũi tên lửa vọt ra từ hai chiếc tăng T-54. Mũi tên cứ lớn dần, lớn dần… bám chiếc xe lao tới. Như thể có một bàn tay vô hình nào đó điều khiển đường đi của nó. Rồi một đống lửa vàng bùng lên kèm một tiếng nổ inh trời… chiếc xe bọc thép lật ngửa và bốc cháy, khói đen đặc chùm kín lên mình. Khi chiếc xe bọc thép đã bốc cháy, hai chiếc tăng T-54 quay lại phía sân bay Phượng Hoàng. Trận chiến vẫn còn đang diễn ra ở đấy! Nghe nói, khi QGP đã hoàn toàn làm chủ chiến địa, người ta tìm thấy trong chiếc xe bọc thép có năm xác chết, giống như những con chó thui bị cạo sạch lông lá, co quắp lấy nhau trong cơn sợ hãi – Đó chính là chiếc xe chở tên Sư đoàn trưởng Sư 22 QLVNCH, cùng với hai tên cố vấn Mỹ và hai sĩ quan trong Ban tham mưu sư đoàn chạy trốn. Cái chết của những bộ óc chiến lược lớn nhất Sư đoàn 22 thiện chiến của QLVNCH, được coi như thắng lợi khởi đầu cho chiến thuật đánh với qui mô lớn, hợp đồng binh chủng của QGP – và là sự phá sản trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ. Khi Đắc Tô – Tân Cảnh đã hoàn toàn giải phóng, người ta vẫn thấy ở mé sân bay Phượng Hoàng, hình tượng cỗ xe tăng T-54 mang số hiệu 377 ghếch nòng đại bác 45 độ, trong tư thế chồm về phía trước rất hùng dũng. Họ kể: khi hai chiếc tăng 354 và 369 cùng đại đội xe tăng dẫn các binh đoàn bộ binh tiến công và giải phóng sân bay Phượng Hoàng, các chiến sĩ bộ binh mở nắp chiếc xe tăng 377 thì thấy bốn người dũng sĩ xe tăng ở trong đó, nằm ngả đầu ra bốn góc của thành tăng – như thể họ vừa chơi một ván bài, mệt quá ngủ thiếp đi. Toàn thân những người chiến sĩ anh hùng ấy đã bị cháy xém. Anh em khiêng xác bốn người chiến sĩ xe tăng, không khác gì hình tượng trong kịch bản bất hủ của Sếch-xpia: khiêng chàng hoàng tử Hăm Lét bất tử vậy. Đó chính là: - Thiếu úy Nguyễn Xuân Triển trung đội trưởng xe tăng, quê ở Quế Võ, tỉnh Hà Bắc. - Lái xe Cao Trần Vịnh, quê ở Đất Tổ - Phong Châu. - Pháo thủ số 2 Nguyễn Đức Toàn, quê Thanh Ba - Phú Thọ. - Pháo thủ số 1 Lượng. Lúc hy sinh, hai pháo thủ Toàn và Lượng vừa tròn hai mươi tuổi. Cũng lúc ấy trong một bìa rừng của địa phận Đắc Tô – Đại đội 4 D16 pháo cao xạ phòng không, các chiến sĩ đang từ từ hạ xuống huyệt năm chiếc quan tài được đóng bằng vỏ hòm đạn pháo. Tất cả lặng lẽ bỏ mũ cúi chào vĩnh biệt những đồng đội của mình, trong đó có người đại đội trưởng Quảng dũng cảm của họ. Gió chiều nổi lên, hoàng hôn vàng vọt phả xuống cánh rừng. Cuộc chiến ở Tân Cảnh – Đắc Tô tuy đã kết thúc, nhưng đây đó chốc chốc vẫn còn đì đùng tiếng súng nổ. Có lẽ một bộ phận QGP vẫn dang truy sát đám tàn quân nào đó trốn chạy? Sau khi người chính trị viên tiểu đoàn ném xuống mộ một vốc đất, các chiến sĩ bắt đầu lấp huyệt. Mọi người lặng lẽ xúc từng xẻng đất tấp xuống, nhưng bên trong cái sự âm thầm đó… âm hưởng của trận chiến dữ dội, nóng bỏng và dầy hùng khí vừa qua, vẫn như ngọn lửa cháy râm ran trong tâm trí họ. Hình ảnh người đại đội trưởng Quảng quả cảm và rất thao lược, cùng những đồng đội trẻ tuổi đã ngã xuống trong trận chiến… sống dậy trong Hoàng. Lòng anh trào lên một nỗi xót xa vô hạn. Dù rằng Hoàng cùng anh em đã từng chứng kiến bao lần, nỗi đau phải chôn các đồng đội của mình. Anh nghĩ về gia đình của những người đồng chí, họ sẽ rất đau khổ khi biết tin người thương yêu không bao giờ còn gặp lại nữa. Hoàng lại nghĩ về mình trong một trận chiến nào đó, có thể chỉ là nay mai… anh cũng phải vĩnh biệt tất cả !? Nhưng có lẽ nỗi đau nhiều hơn vẫn là những người thân nơi quê hương. Trở lại với những diễn biến của trận đánh – Vào trưa ngày 24.4.1972, tuy chiến sự còn đang giai đoạn quyết liệt, nhưng QGP đã làm chủ phần lớn Tân Cảnh. Đơn vị được thông báo đã phá hủy 9 xe tăng của địch, đánh hỏng và thu 20 pháo 105mm, gần 100 xe quân sự các loại, với hàng vạn quả pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác của QLVNCH. Trong đó riêng đại đội 4 - D16 pháo cao xạ 14ly5 và 37ly đã bắn rơi 8 máy bay. Thừa thắng, Bộ tư lệnh mặt trận lệnh cho pháo binh của Trung đoàn 40, Tiểu đoàn 675 cùng các hỏa lực khác bắn cấp tập vào các cứ điểm còn lại của Đắc Tô và sân bay Phượng Hoàng. Sau đó 10 chiếc tăng PT-76 và T-54 của tiểu đoàn xe tăng QGP, 12 khẩu pháo cao xạ các loại cùng 2 trung đoàn bộ binh F320 và 2 tiểu đoàn bộ binh của quân khu, tràn qua Đắc Tô đánh thẳng vào sân bay Phượng Hoàng – bằng một trận tấn công và hiệp đồng binh chủng. Để cứu trợ - một thiết đoàn xe thiết giáp QLVNCH đã tiến về phía sân bay, các cụm cứ điểm trong sân bay bắn ra, ngoài đánh vào… máy bay trực thăng bu kín bầu trời, các loại phản lực “con ma, thần sấm”, máy bây tiêm kích AD6, A37 ném bom yểm trợ, hòng đè bẹp QGP? Chính chiến công chiếc tăng 377 là ở trong đợt này. Cuộc chiến dữ dội kéo dài sau ba tiếng đồng hồ - Trung đoàn 48, 64 F320 và quân giải phóng địa phương đã giải phóng sân bay Phượng Hoàng và làm chủ hoàn toàn Đắc Tô – Tân Cảnh. Tiêu diệt và làm tan rã Trung đoàn 41-42 và 47, xóa sổ Ban tham mưu Sư 22 QLVNCH cùng với các cố vấn Mỹ; tiêu diệt Lữ đoàn dù; diệt thêm 18 xe tăng địch loại M-41, 25 xe bọc thép; bắt sống 600 tù binh; giải phóng 25.000 dân và một vùng đất đai rộng lớn ở phía bắc Kon Tum. Bắn cháy và thu được tại sân bay Phượng Hoàng tổng cộng 18 máy bay. Thiệt hại của QGP cũng mất 4 xe tăng (ba chiếc T-54, một chiếc PT-76). Trận địa pháo cao xạ của Đại đội 4 bị trúng pháo kích địch: hủy mất 1 khẩu 37ly và 5 người bị hy sinh, trong đó có Đại đội trưởng Quảng. Tình hình vừa qua mặc dù thắng lớn, nhưng sự tổn thất của QGP cũng nặng nề, nhất là các trung đoàn bộ binh. Họ cần dừng lại một thời gian để củng cố đội hình, mới có thể đánh tiếp vào Thị xã Kon Tum được. Chiến công ở sân bay Phượng Hoàng và thắng lợi vang dội trên mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh nói chung, đánh dấu một mốc son trong phương thức hiệp đồng binh chủng sau “chiến dịch Lam Sơn 719”. Nó tiến đến để đánh sập chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Hoa Kỳ - góp phần buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pa Ri ngừng chiến vào tháng 1 năm 1973. …….. Lại nói về năm ngôi mộ của năm chiến binh C4 đã được đắp đầy. Anh em chiến sĩ đi đánh từng vồng cỏ quanh đấy, phủ lên ngôi mộ. Người lính văn thư của đại đội thì vẽ lại tiêu chí, đánh dấu đặc điểm… để mai sau tìm cho khỏi bị thất lạc. Lúc này người chính trị viên già của Tiểu đoàn 16, bước lại gần Hoàng và bảo: - Hoàng để cho anh em chiến sĩ họ làm nốt, đồng chí về ban chỉ huy tiểu đoàn nhận kế hoạch tác chiến mới. Về đến nơi, ông nói với Hoàng: Ban chỉ huy tiểu đoàn đã báo cáo Bộ tư lệnh mặt trận, đề bạt Hoàng lên làm Đại đội trưởng C4 thay cho Đại trưởng Quảng bị hy sinh... và Bộ tư lệnh B3 đã chấp nhận. Ông vỗ vai anh giọng thân mật: - Từ giờ đồng chí chính thức với cương vị người đại đội trưởng C4! Ông dặn dò anh tỉ mỉ của một bậc chỉ huy lão thành, và mong anh sẽ làm tốt trách nhiệm với cương vị mới của một đại đội pháo cao xạ. Hoàng nắm chặt tay người chính trị viên già để tỏ sự quyết tâm. Đôi mắt của anh như muốn nói rằng: Các vị cứ yên tâm, tôi sẽ làm thật tốt chức trách mới được giao phó này! Rồi anh rảo bước trở về nơi đại đội đang đóng ở Quận lỵ Đắc Tô. Bầu trời cũng đã tối hẳn. Qua khu vực sân bay Phượng Hoàng còn ngổn ngang sự đổ nát, đất đá bị cào xới do bom đạn… và cả xác mấy chiếc tăng. Những vì sao sáng li ti hắt lên một vòm trời trong xanh. Trong cơn gió thổi, đây đó vẫn bay đến mùi hôi của những xác chết. Mấy con chó chạy rông… đi sục sạo để tìm đồ ăn. Không biết chúng có ăn thịt những cái xác của các người lính chiến thất trận phía bên kia, mà chưa kịp dọn hết không? Hoàng vẩn lên nghĩ như vậy. Anh bước nhanh qua sân bay để về ban chỉ huy đại đội, bao nhiêu công việc mới cồn lên trong đầu anh. Vài con bẹc-giê của bọn sĩ quan trở thành không có chủ, đang tranh giành ăn và cắn nhau kêu ăng ẳng. Thấy bóng anh đi qua, chúng chạy khuất vào trong màn đêm vắng, của một chiến địa còn đầy sự hoang tàn và chết chóc.
17- Cơn mưa đầu mùa mỗi lúc một to, đêm tấp lên rừng núi. Những bánh lốp xe tải kéo pháo cao xạ 14ly5 và 37ly đã được bọc những vòng mắt xích, để tăng thêm độ ma sát. Ngọn đèn gầm của xe chiếu lên con đường Quốc lộ 14, vệt sáng nhỏ vừa đủ cho người lái xe quan sát. Xe chạy rất xóc vì đường bị bom pháo cầy lên, đất đá lổm chổm. Đó chính là đoàn xe kéo pháo cao xạ phòng không của Đại đội 4 D16, do trung úy Nguyễn Hoàng làm đại đội trưởng. Đoàn xe xuất phát từ trong khu Đắc Tô vừa được giải phóng, hướng thẳng về phía Thị xã Kon Tum. Mặc dù hành quân vào ban đêm nhưng dọc đường đi cũng phải dừng tránh nhiều lần, vì gặp máy bay trinh sát OV10 của địch. Chúng như những con cú vọ lượn trên bầu trời, bay rà sát rất thấp soi mói từng hốc cây, quãng đường… Nếu trong trận chiến thi những máy bay bay thấp như thế này, đã là miếng mồi ngon cho các khẩu pháo cao xạ - nhưng đây là hành quân vào trận đánh, phải tuyệt đối giữ bí mật. Khi phát hiện máy bay trinh sát từ xa, tất cả lái xe phải tắt hết đèn. Thành xe không có mui, pháo và xe đều được phủ kín bằng những cành lá ngụy trang. Mưa tấp lên người họ, phả vào những chiếc áo mưa tạo nên một thứ âm thanh đều đều, kêu lộp… bộp… Khí thế của trận đánh Đắc Tô – Tân Cảnh vừa qua đang lôi cuốn họ. Không khí háo hức lan truyền khắp đoàn quân. Họ muốn băng thật nhanh để tiến vào trận đánh Kon Tum. Các trung đoàn bộ binh như Trung đoàn 48 F320 đều phải chia ra từng đại đội, hoặc tiểu đoàn đi cách nhau, để tránh pháo kích và máy bay địch. Tất cả đều đi về phía Thị xã Kon Tum nhưng tránh đường quốc lộ, phải cắt tọa độ mà xuyên rừng, vượt núi. Ngay cả tiểu đoàn chiến xa thiết giáp tăng T-54 hay PT-76, chỗ nào cần phải vượt qua Quốc lộ 14 mới đi, còn đều phải cho công binh dọn đường rừng mà xuyên đến. Đại đội pháo cao xạ của Đại trưởng Nguyễn Hoàng, cũng như trung đoàn pháo mặt đất E40 hoặc Tiểu đoàn pháo 675, thường phải tận dụng nhiều đoạn đường quốc lộ, các con đường rừng xe pháo rất khó vượt qua. Chủ yếu hành quân bí mật vào ban đêm và quan sát rất kỹ lưỡng, đề phòng máy bay, thậm chí cả biệt kích của địch phát hiện. Đại trưởng Hoàng ngồi với anh em pháo thủ trên thùng xe trong tốp xe pháo đi đầu của đại đội. Những khẩu pháo cao xạ 37ly được kéo bằng rơ-moóc kêu lúc lắc ở phía sau. Người chính trị viên đại đội thì ngồi trên chiếc xe đi cuối cùng. Đã vào trung tuần tháng 5, đây cũng là giai đoạn cao điểm của cuộc Tổng công kích xuân hè 1972, trên chiến trường Bắc Tây Nguyên. Đánh vào Thị xã Kon Tum, chính là quyết chiến điểm cuối cùng của chiến dịch. Đêm nay trời tối lại không thấy máy bay trinh sát địch rà lượn, Đại trưởng Hoàng lệnh cho đại đội tranh thủ vượt nhanh đến vị trí tập kết của trận đánh. Anh đăm đăm nhìn về phía trước. Mưa táp lên mặt, thành từng dòng chảy xuống cổ áo ướt đẫm. Anh đưa tay lên vuốt những giọt mưa trên mắt mình. Đôi lúc chiếc xe sa xuống một “ổ gà” lớn, nghiêng hẳn về một phía. Nó rú ga chồm lên, các chiến sĩ ngồi trên xe bị giật kéo người về phía sau. Họ vội đưa tay nắm lấy thành xe. Chiếc xe lại tiếp tục đều đều lăn bánh, kéo những khẩu pháo đằng sau nó… nhằm hướng thị xã băng tới. Những người lính bước vào trận đánh, tâm trạng của họ đã trở nên thường tình như những công nhân viên chức đi làm nơi công sở. Ở ngoài chiến trường và trong cuộc chiến đẫm máu này, ngay cả cái chết đến với họ cũng thật đơn giản. Thậm chí họ cũng không tin rằng mình sẽ còn sống để trở về - Cái sống chỉ là may rủi, do sự phán quyết của thượng đế? “cái chết” đến đơn giản đến mức, như thể đó là một hình tượng tất yếu trong nhịp điệu ầm… ì… của chiến tranh. Đơn giản như cuộc đời một người lính chiến không lạc thú, không cả tham vọng về cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vẫn đang tồn tại để chiến đấu. Bởi thế trong tình cảm những người lính, kỷ niệm xưa là thiêng liêng! Quê hương là thiêng liêng! Họ sống bằng quá khứ - Tình yêu, gia đình luôn trở về với họ, nhất là những giây phút trên đường ra trận. Cũng như những người lính khác, hành quân trong đêm vào trận đánh quyết tử này: bao ý nghĩ, kỉ niệm lại dồn dập dâng lên trong đầu óc của người đại trưởng trẻ tuổi – Trung úy Nguyễn Hoàng. Trong khoảng xa nào đó ở phía trước, trong khu rừng vắng kia, giữa cơn mưa tầm tã – Hình ảnh người con gái bản Mường lại hiện lên và cắn rứt trái tim anh! Như anh đang nhìn thấy cô trước mặt… Cô đang mặc bộ quần áo màu xanh lá cây của một nữ chiến binh, lẫn vào trong rừng lá và màu đen của đêm. Cô gái không mặc áo mưa, không mũ nón, mái tóc rối xõa xuống che lấy khuôn mặt. Cô chạy như lao đi, chới với… Cây rừng móc vào áo cô, gai cào lên da mặt, lấm thấm máu. Nhưng mặc, cô cứ chạy… không một tiếng kêu rên. Chỉ có tiếng gào thét của rừng núi, của mưa gió – Cô gái đó là Mỵ! Ít hôm trước, khi Đắc Tô – Tân Cảnh mới được giải phóng đôi ba ngày. Mỵ cùng với cô Sa người Huế, đã tìm đến đơn vị để gặp anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái… nhưng có hơi gầy và cũng chững chạc hơn, so với hồi anh đã gặp em trên bản Mường Hòa Bình. Mùa xuân năm ấy – Đúng là “người năm ấy”! Nếu như không có Thu? Một ý nghĩ chợt vụt thoáng trong đầu Hoàng: Người con gái bản đó rất có thể sẽ là người trong mộng của anh? Ôi, nhưng thôi… chiến tranh! Hoàng vội xua đuổi ý nghĩ vụt qua ấy của mình đi. Hôm em cùng với Sa đến gặp anh là vào một buổi sáng. Lúc đó, anh sững sờ nhìn người con gái bản, cứ ngỡ mình đang mơ… Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, mà anh đã gieo vào tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim! Cũng không thể phủ nhận rằng: gặp lại em trên chiến trường máu lửa này, trong anh cũng đã dấy lên bao rung cảm? Nhất là cuộc sống của người lính, bao năm tháng chỉ có cay cực và bom đạn. Một cuộc đời không đàn bà – Kể cho nhau nghe về những kỉ niệm của tình yêu gái trai, cứ như là chuyện cổ tích. Nay giữa chiến trường lại có sự xuất hiện của hai người con gái? Không phải chỉ có Hoàng, mà làm cho cả đơn vị xôn xao. May mà những ngày đó, đơn vị trong thời gian nghỉ ngơi, củng cố nên cũng thanh thản. Anh và Mỵ vẫn có thể tìm được một nơi yên tĩnh trong rừng để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít, chuyện trò… cứ như người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về. Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: nào là chiến trận liên miên, nào là bom đạn nên thư từ hay thất lạc? mà hồi đầu chia tay với cô vào chiến trường Tây Nguyên, anh cũng có viết thật, đôi lần… Mỵ giận thì nói vậy thôi, nay gặp được anh lòng cô vui lắm. Anh thấy cô hạnh phúc thật sự! Mỵ nói là rất yêu anh! Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy. Bao lần anh định nói thật cho cô nghe, quan hệ tình yêu của anh đã có với Thu? để cô hiểu anh không muốn lừa dối cô… Nhưng rồi anh lại không thể nói được: Phần vì thấy mình không nỡ nói – Người con gái ấy đã ra tận chiến trường để tìm anh? Phần nữa, vì niềm vui sướng đang đến với cả hai người… Giờ anh đang ôm em trong vòng tay, đang hôn em đây! Những giây phút hạnh phúc quí giá của cả anh và cô – Rất có thể trong cuộc chiến tranh này, anh sẽ không trở về? có thể lắm! Như Đại trưởng Quảng vài bữa trước, nay đã thành người thiên cổ. Trận chiến ở Thị xã Kon Tum, chắc sẽ còn ác liệt hơn mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh. Biết đâu? chẳng ai có thể quyết định được số mệnh của mình trong chiến tranh. Nghĩ tới lúc có thể anh sẽ phải vĩnh biệt Mỵ, vĩnh biệt Thu và tất cả quê hương… Hoàng nhớ đến bốn câu thơ “trút linh hồn”, những câu thơ trăng trối cuối cùng của thi nhân Hàn Mặc Tử: Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây Còn em sao chẳng hay chi cả Xin để tang anh đến vạn ngày. Nghe anh lẩm nhẩm đọc gì đó trong miệng không rõ tiếng, Mỵ quay lên hỏi: - Anh lẩm nhẩm gì thế? Hoàng vội xoa xít đi. Anh ôm riết Mỵ vào lòng, như thể nếu rời ra… sẽ không bao giờ còn gặp lại cô nữa? Mặc dù anh biết mình đã yêu Thu, và sẽ không bao giờ phản bội lại người con gái đầu tiên ấy! Nhưng với một tình yêu trong sáng, mãnh liệt như của Mỵ dành cho anh – Hoàng cũng khó có thể cưỡng được mình. Quả thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng niềm sung sướng của những khoảnh khắc ân ái, đang dào dạt tâm hồn. Những giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà người con gái… Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể nào cưỡng nổi. Cô cứ để cả tấm thân trần truồng mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng chỉ có hai người và tiếng chim kêu. Cái khoảnh khắc tưởng như Hoàng không thể kìm lại được nữa. Mỵ có vẻ hơi hoảng hốt, ôm ghì lấy anh khẽ kêu rên: - Anh ơi!... - Em không muốn ư? Hoàng hỏi nhỏ, khi cả thân mình anh đã ghì xiết lên tấm thân nóng bỏng, mềm mại của người con gái. Người con gái đang quằn lên dưới thân thể anh. Cái của anh cứ day mãi lên của cô. Hai chân Mỵ đã giang rộng ra để đón của anh vào… Thân mình cô rạo rực. Giọng Mỵ run run: - Em muốn, nhưng em hơi lo? Chiến tranh mà anh… Cô vẫn rên khe khẽ: - Tùy anh. Em bắt đền anh đấy! Ánh mắt cô như muốn nói: “Ôi, anh thân yêu! Ước gì vẫn là những ngày như lần trước ở quê hương, thì em sẽ cho anh thỏa thích. Anh muốn làm gì cũng được…”. Hoàng nhìn Mỵ bảo: - Nhưng nếu em có thai, người ta sẽ cười em chứ? - Ai cười, kệ người ta. Em không sợ! Thế là tất cả ý nghĩ cần phải nói với Mỵ về tình cảm của anh đã có với Thu, đều tan biến. Người con gái anh biết từ khi chưa gặp Mỵ và anh đã yêu… một tình yêu đầu đời. “Thôi, chiến tranh…” – Hoàng lại tự biện lý với chính mình. Nhưng bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu, anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng dậy: “Tình yêu của em dành cho anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa cô được nữa…” – Một ý nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã tới lúc anh phải nói thật với em tất cả. Mỵ hơi bàng hoàng, khi thấy anh có vẻ cương quyết rời khỏi cô? Cô đưa tay níu anh lại. Mỵ tưởng rằng vì cô nói thế nên anh thôi? Cô nhìn anh bằng đôi mắt yêu thương, tha thiết, dịu dàng bảo: - Anh! Em đồng ý cho anh mà… em yêu anh mà… Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại tình yêu của người bạn gái thủa thiếu thời ấy! Hoàng nghĩ rằng, khi anh nói tất cả sự thật như thế thì Mỵ sẽ giận anh? Nhưng anh vẫn cương quyết nói. Nói được lòng anh thanh thản hơn, rồi Mỵ sẽ hiểu cho anh, rằng: anh đối với cô là chân thật. Anh không thể đùa bỡn với tình yêu mà cô đã dành cho anh! Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi… và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi: - Anh có yêu em không? - Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ, nhưng anh không thể… Hoàng bảo vậy, rồi ôm chặt lấy cô… tỏ nỗi cảm thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh – Bởi vì, người con gái anh yêu đầu tiên mà anh gọi là “Thu” ấy!... đã đến với anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm hạnh phúc. Nhất là chiến tranh, con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình. Mỵ bảo: cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước nên chị ấy sẽ là chị cả, Mỵ làm vợ hai của anh cũng được, miễn là anh vẫn yêu cô – Cô còn nói, cô tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh… Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ… khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế! Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ kéo Hoàng nằm xuống. Anh phủ phục lên cô, mắt Mỵ mơ màng như người trong mộng. Cô đưa tay vuốt tóc anh và nói: - Em không giận anh đâu! Em vẫn cho anh đấy… Hoàng như người chợt tỉnh, anh dừng lại nói với Mỵ: - Đây không phải như ở quê. Em bây giờ cũng ở trong quân ngũ: nhỡ có thai, đơn vị sẽ kỷ luật em? Hay là, ta để đến khi hết chiến tranh, anh trở về… Mỵ lại lắc đầu. - Không, em không sợ… Cô nói với anh là... cô cũng muốn có con với anh. Rồi cô kể cho anh nghe: Trong bộ phận quân y của cô, cũng có một chị: Cả đơn vị đều biết chị có tình cảm với một anh, hai người rất thân thiết nhau. Rồi bỗng thời gian sau chị ấy có thai… Dấu mãi, nhưng đến lúc bụng to không thể dấu được nữa? Tổ chức gọi lên, chị ấy khai là… trong một lần đi lĩnh thuốc quân y tận trong kho của binh trạm, phải đi xa mấy ngày đường. Chị gặp một anh chiến sĩ đồng hương ở một bãi chốt nghỉ chân dọc đường giao liên, đó là một người quen cũ cùng quê đang trên đường hành quân vào chiến trường. Đêm đó, chị đã ăn nằm với anh ấy! Măc dù, anh chị em thì đều tin là chị đã có con với anh cùng đơn vị, nhưng chị ấy dấu… để anh khỏi liên lụy. Theo Mỵ nói, người nữ chiến sĩ ấy đã chấp nhận bị kỷ luật, khai trừ ra khỏi đoàn thanh niên cộng sản – vì gần đến ngày sinh, tổ chức để chị ấy sinh đẻ xong, con cứng cáp rồi sẽ trả cả hai mẹ con về quê ở miền Bắc. Mỵ bảo: - Bị tổ chức kỷ luật mà chị ấy chẳng buồn tý nào cả, anh ạ! Với lại… chị ấy yêu, chứ có phải là phản bội lại tổ quốc đâu – phải không anh? Rồi cô nói: - Nếu có thai, em sẽ sinh con cho anh, em sẽ mang giọt máu của anh về quê và nuôi con. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về! Không thể cưỡng lại được nữa. Thôi, chỉ có thượng đế cùng anh và cô biết. Âm dương như một dòng điện mạnh, chúng đang truyền đi dữ dội. Hoàng trằn mình trên tấm thân người con gái. Mỵ run lên, thở gấp và rên khẽ: - Ôi, sướng quá anh ơi! Ối, anh ơi! Khi cường độ lên đến tột điểm, cái núm âm vật nóng hổi của người con gái như thể có thần, run lên bần bật ở dưới của anh. Những giây phút choáng ngợp tột cùng ấy, niềm khoái cảm vẫn còn mê man chạy trên khắp cả hai thân thể anh và cô. Anh ghì lấy Mỵ… đang đờ đẫn như người trong cơn mơ ngủ. Mỵ giang cả hai tay và hai chân rộng ra giữa khu rừng vẫn còn rất nhiều những nhành cây bị gẫy đổ vì bom, pháo… Mặc, lúc này họ chỉ thấy mình hạnh phúc! Rồi hai người mặc quần áo và ngồi ôm nhau, để hưởng những giây phút sung sướng hiếm hoi trong cuộc chiến tranh này. Tiếng gọi giật của người pháo thủ ngồi bên cùng với nhịp xóc của chiếc xe kéo pháo, gặp phải một hố ổ gà ở trên đường, kéo Hoàng ra khỏi ý nghĩ. - Đại trưởng ơi! Trông kìa, một vì sao đổi ngôi. Người chiến sĩ chỉ tay về phía trời xa và nói. Hoàng ngước nhìn, ngôi sao nhỏ kéo theo một vệt sáng trắng về tít cuối chân trời. Trời đã tạnh từ lúc nào anh cũng không rõ. Đoàn xe đang nhịp tiến đều đều trong đêm, các chiến sĩ vẫn lặng lẽ ngồi trên xe, kéo theo những cỗ pháo cao xạ 37ly lúc lắc ở phía sau. Họ đang hành quân vào trận. Người thì gà gật ngủ để lấy thêm sức cho trận đánh tới, kẻ thì miên man ôn lại những kỷ niệm quê hương… Hoàng vẫn ngồi trầm tư. Trong đầu anh cứ hiện về những câu chuyện đã qua: Hôm đó Mỵ và Sa ở lại chơi với đơn vị của anh đến chiều tối mới về. Qua chuyện trò thì anh biết rằng, Mỵ vào chiến trường cũng đã được hơn một năm và vẫn hỏi dò tin tức để tìm anh, mà không gặp. Mỵ thuộc quân số đại đội quân y trên Ban hậu cần của Bộ tư lệnh B3. Đợt này Mỵ và Sa cũng theo Bộ tư lệnh vào mặt trận, tham gia chiến dịch Đắc Tô – Tân Cảnh. Ngay từ trước chiến dịch, cô đã biết tin đơn vị anh đi phối thuộc với Trung đoàn 48, Sư 320. Khi Đắc Tô – Tân Cảnh đã giải phóng, có điều kiên được nghỉ ngơi ít ngày, cô cùng với Sa xin phép Bộ tư lệnh tìm đến đơn vị để thăm anh. Anh đã hẹn với Mỵ, khi nào hết chiến dịch về hậu cứ… thế nào cũng tìm để gặp lại nhau. “Ôi! Em thân yêu, hãy tha lỗi cho anh. Cuộc tình của anh và em rồi cũng chỉ là trong mơ thôi. Chiến tranh mà em…” – Hoàng trông lên bầu trời đã tạnh ráo, đăm chiêu nhìn ra xa. Anh lại nghĩ đến Thu! Người bạn gái đầu tiên và tình yêu của trái tim anh. Bất giác anh tự hỏi: Ừ, nếu anh còn sống trở về? Cũng có thể lắm chứ! Có phải tất cả đều chết hết đâu – Khi đó thì anh phải giải quyết chuyện giữa Mỵ và Thu thế nào? Hoàng nhớ đến một câu chuyện: cũng có người vào trường hợp đã yêu hai người con gái, cảnh ngộ như anh. Và rồi, họ chấp nhận giải quyết với nhau… lấy cả hai người con gái kia làm vợ. Nhưng liệu khi ấy, Thu của anh có chấp nhận như thế không? Cô có đồng ý để anh vừa lấy cô, lại vừa lấy cả Mỵ? Một cô gái Hà Nội khó chấp nhận như thế lắm! Nghĩ vậy, Hoàng bật cười thầm một mình trong đêm. “Thôi kệ! Chiến tranh mà…” – Anh lại tự xí xóa với mình. Hoàng cũng mới nhận được một lá thư của Thu trước chiến dịch này. Thu báo với anh, cô đã tốt nghiệp đại học và ra trường. Cô xin về làm phóng viên tòa soạn báo “Hà Nội mới”, công tác ngay ở Hà Nội. Trong thư, Thu nói giai đoạn này cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đã lan vào thủ đô dữ dội hơn trước nhiều. Gia đình Thu: ông bà Giáo đều đi sơ tán cả, chỉ còn Thu trong đội cảm tử của thành phố là ở lại, vừa công tác vừa sẵn sàng trực chiến đánh máy bay Mỹ. Tòa soạn báo cũng được trang bị súng máy cao xạ 12ly7 và đại liên. Họ đặt súng ở ngay trên nóc tầng thượng, thay nhau trực chiến tại đó. Ôi mối tình của anh! Thế là anh xa Thu và Hà Nội hơn năm năm rồi, thì trên bốn năm biền biệt trong chiến trường., trên mảnh đất bom đạn và máu lửa ở Tây Nguyên. Nơi rừng thiêng nước độc, kề bên cái chết và muỗi vắt,.. tưởng như đã trải qua đằng đẵng nửa kiếp người. Anh thấy mình có lỗi với Thu? khi anh quan hệ với Mỵ cũng bằng một tình cảm chân tình và thân thiết. Hơn thế, cả tấm thân của người con gái Mường cũng trao anh. Nếu Thu biết chuyện đó, thì em sẽ nghĩ sao? Em sẽ oán giận anh hay sẽ đau khổ? Nghĩ vậy, Hoàng trào lên một nỗi day dứt, cắn xé trong lòng. Mặc dù, thâm tâm Hoàng đã tự thanh minh với chính mình: Anh đâu có ý nghĩ phản bội Thu? Không, anh vẫn yêu em tha thiết! Anh chỉ còn mỗi một sự lý giải: chiến tranh mà… Thực tế, dù có biện luận theo kiểu gì… thì anh cũng đã yêu cả hai người con gái! Anh bào chữa thế nào đây? Ý nghĩ chợt vụt đến: Nếu thoát khỏi cuộc chiến tranh này, còn sống trở về. Khi ấy, Mỵ và Thu vẫn còn yêu và chờ đợi anh? Thì anh sẽ lấy cả hai người con gái đó làm vợ. “mình tham lam quá chăng?” – Điều này thì trong thâm tâm Hoàng không phủ nhận, cũng không biện hộ với lòng mình: “Đúng, mình là một kẻ tham lam thật!”. Cái ý nghĩ chợt đến… anh sẽ lấy cả Thu và Mỵ làm vợ? Thế là anh không phản bội lại ai! Ý nghĩ ấy như thể giải thoát cho tâm lý của Hoàng, anh thấy lòng mình thanh thoát lại. Ý nghĩ sẽ lấy cả hai người con gái làm vợ, làm Hoàng tự bật cười với mình trong đêm. Cậu chiến sĩ ngồi gấn anh, thấy thế liền hỏi: - Đại trưởng cười gì thế ạ? - À… à… đêm mát trời khoan khoái quá! Hoàng lúng túng thanh minh với người chiến sĩ trẻ. Đoàn xe chở những khẩu pháo cao xạ vẫn rầm rì… rầm rì… hướng về phía Thị xã Kon Tum, tiếp tục lăn bánh. Hoàng vẫn miên man nhớ về cuộc gặp gỡ Mỵ mới cách mấy hôm vừa rồi. Mỵ đã nói với anh: - Mai về làm vợ anh, em sẽ đẻ cho anh năm đứa liền. Nghe cô nói thế, Hoàng thích chí bảo: - Em phải đẻ thêm một đứa nữa, là sáu! - Sáu thì sáu, nếu anh muốn… em sẽ đẻ cho anh. Nói rồi, cô tủm tỉm cười và âu yếm nhìn anh. Mắt mơ màng nhìn lên khoảng trời Đắc Tô - Tân Cảnh. Cuộc chiến trận tàn khốc vừa qua dường như không làm cho cô sợ hãi nữa. Cô chỉ còn biết chan chứa trong tình yêu của cô, chỉ còn biết có anh thôi! Trận đánh tới này, khi C4 – đại đội pháo cao xạ của anh sẽ cùng với trung đoàn bộ binh E48, F320 đánh vào Thị xã Kon Tum – thì như Mỵ nói, bộ phận quân y của cô sẽ đi cùng Trung đoàn 52 đánh vào cứ điểm đèo Chư Pao. Người pháo thủ ngồi cạnh Hoàng lay mạnh vào vai anh, gọi giật: - Đại trưởng ơi, trông kìa… thôn ấp đấy! Xe của mình đang đi vào bản rồi. Đoàn xe pháo của họ đã rời con đường Quốc lộ 14, rẽ vào một con đường dân bản đã bỏ hoang. Theo kế hoạch hành quân, để tránh pháo kích và máy bay ném bom – Đoạn đường nào có thể đi xuyên trong rừng hoặc qua bản, thì đoàn xe rời đường quốc lộ. Người chiến sĩ lại hỏi: - Đây gọi là bản gì, hả đại trưởng? - Theo như chỉ dẫn của anh em trinh sát, thì đây là bản Võ Định. Hoàng bảo vậy. Sau cơn mưa, bầu trời đêm xanh mát và có vẻ yên tĩnh. Đoàn xe tiến vào con đường đất đỏ. Bên cạnh con đường bản có những khóm chuối, gần đó là các thửa ruộng với những luống khoai lang. Lá khoai xanh non bò kín khắp mặt ruộng. Những lũy tre, vườn cây ăn quả. Nghe tiếng của đoàn xe đi vào, mấy con chó hoang thi nhau sủa. - ÔI, làng quê. Làng quê Việt Nam ta đấy! Dấu tích một cuộc bắn phá của máy bay Mỹ như vừa mới xẩy ra ở đây. Những ngôi nhà sàn bị đổ sập, đồ đạc vương vãi. Những con chó vô chủ chạy rông, ngấp nghé bên bờ rào. Có cả tiếng gà kêu quang quác, bay tán loạn. Mùi thơm của những trái cây ở trong vườn bay ra… Không thấy bóng người dân nào? Chắc là họ đã được du kích lùa hết vào một khu vực nào đó trong rừng, nơi QGP mới chiếm được. Tạm gọi là “vùng tự do”, để đưa dân chúng đến ở. Hoàng lại nhớ tới cảnh sống của dân tình, khi bộ đội di dân vào những khu rừng đã giải phóng… Đó là những ngày cuối tháng 4.1972, lúc Tân Cảnh – Đắc Tô vừa mới chiếm được. Thị trấn, quận lỵ thì bị bom đạn, xe tăng quần nát, xác lính và dân thưởng chết la liệt. “bỏ của chạy lấy người” – dân xô đẩy, cuốn gói tìm nơi trú ẩn. Cả người Kinh và người Thượng chạy bộ ra phía đường Quốc lộ 14, bị QGP địa phương chặn lại lùa hết vào rừng. Cũng khoảng năm, sáu ngàn người. Họ bị giữ lại trong một vùng mới giải phóng. Không ai được ở lại Thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh. Mấy hôm đầu thì ngày ngày, mỗi người được chia cho một vắt cơm. Sau đó quân du kích địa phương đi tìm các ruộng lúa, hay các bãi khoai sắn bỏ hoang. Đến đêm, họ dắt dân chúng đến mót lúa, nhổ mì, nhặt khoai… gọi là chiến lợi phẩm, mang về mà ăn. Cây mì thì cầm cả gốc kéo lên. Khoai, sắn rửa đi rồi xắt nhỏ ra, phơi khô nấu ăn dần. Nếu gặp ruộng lúa thì cho tuốt lúa. Thực ra, cũng chỉ là lúa đi mót mà thôi. Người nào tuốt được hơn một kí thóc mỗi lần là tốt lắm rồi! Thóc họ rang khô rồi giã bằng cùi, tức là cối giã… để tách vỏ trấu ra làm thành hột gạo. Sau đấy, dùng nắp vung nồi rang gạo cho khô, cất nấu ăn dè. Thường thì rẫy khoai, rẫy sắn nhiều hơn ruộng lúa. Ngày nào cũng ăn khoai, mì nên dân chúng chế biến đủ thứ: nào là khoai, mì luộc, canh khoai, khoai nướng v. v. Khu rừng mà QGP dồn dân vào, ở gần một buôn của người Thượng. Chính quyền cho họ tới nhặt những đồ dùng, xoong nồi của người Thượng về dùng. Số người thì đông, số nương rẫy hoang gần đó chẳng được là bao. Thiếu lương thực, dân chúng phải hái đủ các thứ rau thập cẩm ở rừng… miễn là ăn được để sống như rau tàu bay, rau sam, nấm rừng, măng tre rừng, rau dớn rừng mọc dọc theo các bờ suối, rồi cây môn thục ngứa móc họng... lấy ngâm vào nước gạo làm dưa chua. Gạo và thực phẩm cung cấp cho bộ đội giải phóng còn thiếu, làm gì có phát cho dân. Dân chúng bắt được con gì thì ăn con đó: cả chuột, rắn, ễnh ương… ăn tuốt. Nhất là gia vị muối biển thì thiếu trầm trọng, kể cả QGP. Thỉnh thoảng cũng chuyển được một chuyến muối theo đường Lào về, bớt ra phát cho dân: 1/3 thìa cà phê một người, phải dùng cầm chừng ăn dần. Chốn rừng thiêng nước độc, đầy các con muỗi, con mòng và vắt cắn. Sốt rét không đủ thuốc men chữ trị, lại thiếu ăn… gây nên đủ thứ bệnh dịch. Tội nhất là những đứa con nít sơ sinh: mẹ thiếu sữa cho con bú, thiếu dinh dưỡng, ăn ở thiếu vệ sinh, bị sốt rét rừng… chết rất nhiều. Có gia đình 3-4 đứa con nhỏ đều chết ráo. Tình cảnh thật thương tâm. Nhưng rồi… ai chết thì ráng mà chịu. Đến những người lính chiến với nhau, chết cũng chẳng còn nước mắt mà khóc. Chiến tranh mà… Tình cảnh dân chúng lại càng tàn khốc, chẳng tìm đâu ra lòng nhân ái để thương hại lẫn nhau. Mà dồn dân, đâu có phải họ được ở yên một chỗ? Tránh bom, tránh pháo phải đưa họ vào tít rừng sâu. Nay rừng này, mai rừng kia. Dân cũng màn trời, chiếu đất. Làm gì có lều, chòi hay nhà sàn để ở. Nước uống, nấu nướng hay tắm giặt đều bằng nước suối. Có khi đột ngột phải di chuyển trong một ngày cũng là chuyện thường tình. Thường là phải di chuyển vào ban đêm, để tránh phi pháo, máy bay của không lực Hoa Kỳ hay QLVNCH oanh tạc. Khi đưa dân đi, mỗi lần nghe tiếng máy bay là bộ đội địa phương hoặc du kích la toáng lên: “Máy bay đấy! Chạy lẹ lên… máy bay địch nó đến bỏ bom , bắn phá đấy!”. Tình cảnh ấy, có khi có người dân đang nấu nướng - mấy ông du kích nhà mình liền hắt nước vào đống lửa, bắt bỏ hết để đi. Quần áo, có người lúc chạy còn mang được vài bộ đồ để thay, có người cuống quýt chỉ mặc độc một bộ trên người: có khi gai cào, vượt rừng… rách tả tơi, vá chùm mảnh nọ vào mảnh kia mà mặc. May mà xin được ai cho, thì mặc đại để che thân. Đi tắm ở suối, phải vắt quần áo lên bụi cây cho khô, tắm cởi chuồng… xong lấy quần áo mặc lại. Nhưng đàn ông hay con trai với nhau đã đành, còn dễ dàng. Tội nhất là số đàn bà, con gái đi tắm suối – Họ phải rủ nhau tìm một chỗ suối khuất, rồi canh chừng cho nhau tắm gội, giặt giũ. Không có xà bông để tắm, giặt… người dân họ kiếm đâu được một ít trái bồ hòn, vò vào nước thay cho xà phòng. Đấy! Cuộc sống của những người dân ở vùng Đắc Tô – Tân Cảnh sau khi được giải phóng 1972, là như vậy – Thực tế như những thước phim quay lại trong đầu anh. Đoàn xe pháo của Đại đội 4 vẫn lóc xóc rời khỏi khu bản hoang vắng chạy vào một mé rừng, đã được tiểu đoàn công binh phát sẵn làm thành đường dẫn vào chiến dịch. Người chiến sĩ trinh sát báo cáo với Đại trưởng Hoàng, sắp tới vị trí của đại đội tập kết. Trời cũng gần sáng. Họ đã nghe thấy tiếng súng lác đác nổ về hướng Thị xã Kon Tum.
18- Sau khi QLVNCH bị thất bại thảm hại trên mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh cùng một các cụm cứ điểm khác, như Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng… Chúng biết là QGP sẽ tiếp tục đánh vào Thị xã Kon Tum. Một mặt VNCH tăng cường thăm dò, cho phi pháo liên tục đánh phá Quốc lộ 14 và các trục đường QGP có thể hành binh hoặc vận chuyển về hướng Kon Tum. Cho cả máy bay ném xuống các buôn làng mà chúng cho rằng: Đó là điểm hội tụ của quân mặt trận B3. Trên vùng trời phía Bắc Tây Nguyên bao bọc quanh thị xã – cứ sáng ra là những chiếc máy bay trinh sát OV10. L19 vòng đi, vòng lại. Chúng rà dọc theo đường quốc lộ, ngó xuống các cánh rừng, các buôn làng… tìm dấu vết khả nghi của QGP, để gọi phi pháo bắn phá hoặc máy bay phản lực tới ném bom. Có khi cho cả “pháo đài bay” B52 rải thảm. Thấy bóng người, bóng xe cộ là chúng gọi trực thăng dùng đại liên, bắn rốc két xối xả, hoặc chỉ điểm cho phi pháo các nơi bắn đến tới tấp. Lược lại đôi nét hoàn cảnh trước khi chiến sự xuân hè 1972 xẩy ra – Lúc đó, theo như kế hoạch phòng thủ tác chiến của cấc tướng lĩnh Hoa Kỳ ở miền Nam cùng Ban tham mưu QLVNCH: Bố trí tại phòng tuyến Đắc Tô – Tân Cảnh gồm 3 trung đoàn của Sư 22: khoảng 10 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh, 10 chi đoàn chiến xa sẵn sàng giao chiến với Sư 320. Ngoài ra QLVNCH còn cho Liên đoàn 22 biệt động quân phòng thủ tuyến ngoài, để đối kháng với Sư 2 (E1 – 141) của QGP. Bộ tham mưu QLVNCH tăng cường thêm 2 lữ đoàn nhảy dù làm trù bị tại Kon Tum, ứng cứu Đắc Tô – Tân Cảnh khi cần thiết. Nay toàn bộ Tân Cảnh – Đắc Tô và một số cụm cứ điểm Bắc Kon Tum cùng phía tây sông Pô Kô đã về tay QGP – QLVNCH rút toàn bộ số còn lại về giữ Kon Tum. Kế hoạch phòng thủ Kon Tum bây giờ, chủ yếu giao cho Sư 23 QLVNCH do Đại tá Lý Tòng Bá làm sư trưởng – đảm trách ba mặt chủ yếu là đông, tây và bắc thị xã. Hướng nam Kom Tum có con sông Dakbla là chướng ngại vật, nên họ giao cho lính địa phương đảm nhận. Tuyến phòng thủ phía bắc Kon Tum do Sư 23 làm nòng cốt, bố trí thành nhiều trận địa nhỏ. Ngoài ra QLVNCH còn lấy Trung đoàn 53, Tiểu đoàn dù 7 hỗ trợ phòng thủ. Dựa vào công sự vững chắc, liên kết chặt chẽ với nhau bằng cả xung lực và hỏa lực. Có thể cơ động, vừa tránh pháo kích của QGP vừa đột kích phản công dễ dàng. Đồng thời tăng cường các hoạt động pháo binh, không quân, đặc biệt dùng B52 ném bom rải thảm. Khi chúng mất Đắc Tô – Tân Cảnh và một cụm cứ điểm ở Bắc Tây Nguyên, thì coi như tuyến phòng thủ kiên cố nhất vào Thị xã Kon Tum không còn nữa. QLVNCH điều thêm hai trung đoàn bộ binh từ Buôn Ma Thuột lên hỗ trợ phòng thủ Kon Tum. Về phía QLVNCH – Đại tá Lý Tòng Bá, Sư trưởng Sư 23 được chỉ định làm Tư lệnh trưởng mặt trận Kon Tum. Đáng lẽ chỉ huy toàn mặt trận Kon Tum do Tướng Ngô Du đảm nhiệm, nhưng bất ngờ Tướng Ngô Du ngã bệnh nặng – Tại Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn thay thế. Về phía Hoa Kỳ - Chỉ huy chiến dịch Kon Tum do hai cố vẫn: Paul Vann và Đại tá Rhotenberry (Rhotenberry đã từng làm cố vấn cho Đại tá Lý Tòng Bá trên mặt trận Bình Dương). Paul Vann đã nói với Rhotenberry: “Ông và tôi phải hết sức yểm trợ cho Đại tá Bá, vì tôi đã hứa với Đại tướng Abrams là không để mất Kon Tum. Nếu mất Kon Tum thì Kissinger, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại hòa đàm Paris sẽ gặp nhiều khó khăn”. Do Quốc lộ 14 bị QGP khống chế, VNCH phải mở thêm quốc lộ phụ gọi là Quốc lộ 14bis quanh đèo Chư Pao, để điều thêm nhiều chiến xa vào Kon Tum. Mỹ bổ xung thêm cho QLVNCH một loại hỏa tiễn mới, gọi là súng M-72 Law để tiêu diệt xe tăng T-54 của QGP. Tướng Nguyễn Văn Toàn còn tăng cường cho Đại tá Lý Tòng Bá – Tư lệnh Sư đoàn trưởng Sư 23 thêm 1 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn biệt động quân, trên 20 chiếc chiến xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu và thuốc men từ Sài Gòn đem lên. Nói về các cuộc chiến lẻ tẻ mà QGP đánh vào các tuyến phòng thủ ngoài, trước khi chính thức đánh Thị xã Kon Tum: - Từ ngày 26/4 đến 10.5.1972, đánh và chiếm căn cứ Võ Định – tiền đồn phía bắc Kon Tum. - Ở căn cứ Biển Hồ: Trung đoàn 28 độc lập Mặt trận B3 đánh thiệt hại nặng Liên đoàn biệt động QLVNCH, hình thành thế vây ép Thị xã Kon Tum ở hướng đông bắc. - Một trung đoàn 95 độc lập khác chốt chặn Quốc lộ 14 ở Chư Thoi, đánh tan 4 đại đội bộ binh QLVNCH. - Trung đoàn 52, F320 đánh chiếm cứ điểm Kleng, diệt Tiểu đoàn 62 QLVNCH. Trung đoàn pháo 54 của QGP vẫn liên tục bắn phá thị xã bằng pháo 130ly, 122ly và hỏa tiễn H12 – tuy nhiên QGP không chặn được các trung đoàn 44, 45 và 53 Sư đoàn 23 QLVNCH do Đại tá Lý Tòng Bá làm sư trưởng vẫn hành quân vào Thị Xã Kon Tum, để xây dựng tuyến phòng thủ. Trung đoàn 66 của Mặt trận B3 do chủ quan khinh địch, hợp đồng lỏng lẻo, báo cáo sai tình hình, cán bộ không sâu sát… bị thiệt hại nặng phải rút về củng cố. Ngày 13.5.1972, mạng lưới điện đài do thám của Mỹ gọi là SIGINT bắt được một bức mật lệnh của Bộ tư lệnh B3, đã ra lệnh như sau: “Mũi tấn công hướng Bắc Sư đoàn 2 – stop – Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T-54 – stop – Ngày giờ tấn công 05 giờ ngày 14/5/72 stop”. Thực tế là đúng qua đêm ngày 13.5.1972, kém 5 phút đến 05 giờ sáng ngày 14.5.1972 – QGP chính thức mở màn tấn công vào Thị xã Kon Tum. Do bắt được mật lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận B3, Tướng Nguyễn Văn Toàn một mặt khẩn cấp bố trí lại lực lượng phòng thủ Kon Tum rất chặt chẽ để đón đánh QGP, đồng thời lệnh cho các đơn vị QLVNCH không được ra khỏi hầm khi đối phương mở màn nổ súng, để B52 Mỹ rải thảm vào đội hình QGP trước. Còn các cố vấn Mỹ, sau khi bắt được mật lệnh B3 về kế hoạch trận đánh – Tại hầm Chỉ huy sở Sư 23 của Đại tá Lý Tòng Bá, Paul Vann thảo luận kế hoạch chặn đánh với bộ chỉ huy QLVNCH, đồng thời điện đàm với Đại tướng Abrams khi ấy ở Sài Gòn, rằng: cho ông sử dụng tối đa lực lượng B52? được Tướng Abrams chấp thuận. Vào lúc 5 giờ sáng, sau những đợt pháo kích dồn dập dọn đường của QGP xuống Thị Xã Kon Tum, 5 trung đoàn bộ binh ồ ạt tấn công vào thành phố. Từ hướng tây bắc, 3 trung đoàn 48,52 và 64 của F320 tấn công Trung đoàn 44, 45 Sư 23 QLVNCH. Từ hướng bắc, Trung đoàn 1 của Sư 2 và E28 – trung đoàn độc lập B3 tấn công Trung đoàn 53 Sư 23 QLVNCH. Trung đoàn 141 Sư 2 của QGP từ phía nam tiến lên bắc thị xã đánh vào các tuyến địa phương quân và tiểu khu Kon Tum. Sau khi QGP mở màn tấn công Thị xã Kon Tum – cũng đúng lúc 5 giờ sáng ngày 14.5.1972, lập tức trực thăng của Tướng John Hill, tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau đó là trực thăng của Tướng Nguyễn Văn Toàn bay vào thị sát Kon Tum trong sương mù. Paul Vann lệnh cho phi hành đoàn đến rải thảm B52. Diện tích rải thảm 75km2 thả vào đội hình chủ lực của QGP 25 box B52 (mỗi box là 3 chiếc B52 chứa trên 100 quả bom đủ loại). Tức là Mỹ đã cho 75 lần chiếc B52 với hơn 3.000 quả bom, đồng loạt đánh đòn phủ đầu vào đội hình Sư 320 (gồm 3 E 48-52-64) và Sư 2 (E 1-141) cùng các trung đoàn độc lập khác của Mặt trận B3 trong cuộc chiến. Tiếng bom nổ long trời, lở núi. Khói đạn và đất đá bay mù mịt. Tiếp theo là từng đoàn phản lực AD6, A37 ném bom đánh vào xe tăng, những trận địa pháo cao xạ và các mục tiêu. Sau đó còn cho loại trực thăng vũ trang tân tiến nhất, loại Cobra bắn tập hậu, như săn thú… vào trong đội hình các binh đoàn chủ lực QGP. Các cuộc tấn công đợt 1 của Mặt trận B3 nhanh chóng bị địch bẻ gẫy. Các chiến xa dẫn đầu nhiều chiếc bị bắn cháy. Xe tăng T-54 và các ổ pháo cao xạ phòng không vì bị áp lực quá lớn của bom, bộ đội phải lui về phía sau… lại bị trực thăng bọc hậu quấy phá. Tai tuyến đầu, 9 chiến xa T-54 của QGP nằm ngoài khu vực ném bom B52 tiếp tục tiến công, nhưng bị phản lực và chiến xa địch bắn cháy 6 chiếc, 3 chiếc khác đành lùi lại không thể tiến lên được. Sư 320 và Sư 2 cùng các trung đoàn liên minh của QGP phải rút lui, tạm ngừng kế hoạch tiến công. Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh chỉ huy Mặt trận B3 lệnh cho các đơn vị không được dùng điện đài nữa (vì bị lộ địch dò được), chuyển sang dùng điện thoại hữu tuyến và liên lạc viên chạy bộ. Một giờ sau Tướng Nguyễn Văn Toàn và Paul Vann lại bay vào vùng B52 vừa ném bom để thị sát. Họ thấy bộ đội chết rất nhiều quanh các hố bom, không thể đếm hết. Một số bị thương đang lảo đảo… Paul Vann cho trực thăng hạ độ cao, dùng M16 bắn giết tiếp. Suốt ngày 14/5 đó, không lực VNCH và không lực Huê Kỳ tiếp tục oanh tạc, thanh toán các đám QGP. Đợt tấn công lần 1 không thành – Ban tham mưu Mặt trận B3 phải điều chỉnh lại kế hoạch đánh Kon Tum, và vội lệnh cho các đơn vị chủ lực rút quân… để chuẩn bị tiến đánh đợt 2. Theo con số ước tính của Hoa Kỳ - Đợt 1: QGP hy sinh 1.000 người, 20 chiến xa T-54 bị bắn cháy. TẤN CÔNG ĐỢT 2: Đêm 20 rạng ngày 21.5.1972, QGP mở cuộc tấn công đợt hai vào Thị Xã Kon Tum. - Hai Trung đoàn 1-141 của Sư 2 B3 cùng với đại đội đặc công 209 vượt sông Dakbla đánh vào sân bay, khu cơ giới và Dinh tỉnh trưởng Kon Tum. Tỉnh trưởng Kon Tum là Đại tá Nguyễn Bá Long phải chạy sang trú ở Ban chỉ huy Sư 23, chỗ của Đại tá Lý Tòng Bá. - Hai Trung đoàn 48-64 của Sư 320, có một đại đội xe tăng T-54 yểm trợ đánh chọc thủng tuyến giữa Trung đoàn 45-53 Sư 23 QLVNCH. Đại tá Lý Tòng Bá điều động chi đoàn thiết giáp M-41 ra chặn đánh quyết liệt, với sự yểm trợ của không lực Hoa Kỳ gồm các loại phản lực F4h, F101 và B52 rải thảm. Hai đại đội đặc công B3 đã lợi dụng nhiều sương mù, lội qua sông và chiếm phi trường, kho đạn và tòa giám mục. QGP coi như đã chiếm được gần nửa thị xã. Tại khu nghĩa địa thành phố do một đại đội đặc công B3 chiếm giữ và cố thủ, chỉ cách hầm chỉ huy của Lý Tòng Bá khoảng 300 mét. Sư 23 QLVNCH cho 1 đại đội trinh sát tinh nhuệ, có nhiều chiến xa hộ tống ra đánh nhưng không được, 2 chiến xa bị cháy, phải rút chạy. Ngày 21.5.1972, Tướng Nguyễn Văn Toàn đi máy bay đến thị sát Kon Tum lệnh cho Đại tá Lý Tòng Bá phải thanh toán các lực lượng đặc công. Ngày 23.5.1972, QLVNCH điều 2 liên đoàn biệt động (2 và 6), 1 tiểu đoàn biệt động biên phòng, 1 chi đoàn thiết giáp có pháo binh và không quân yểm trợ… mở cuộc hành binh “Bắc Bình Vương 72” đánh ra phía nam Kon Tum, nhưng bị đánh chặn, không thông ra được Quốc lộ 14. Quân VNCH bị chết và thương vong 1.000 binh sĩ, trong đó có phó tư lệnh Sư 23 Tạ Đình Liên và chi đoàn trưởng chi đoàn thiết giáp Diêm Phú Hưng. QLVNCH bị đánh hỏng 62 xe thiết giáp ( 2 xe M-48, 11 xe M-113 còn lại là M-41), 4 pháo 105mm, rơi 2 máy bay AD6 – 2 A37 – 1 F4h và 3 trực thăng vũ trang. Ngày 25/5, QGP mở nỗ lực cuối cùng tấn công để chiếm thị xã - Lúc nửa đêm pháo kích quyết liệt khu phi trường sân bay quân sự; 2 tiểu đoàn đặc công cùng Sư 2 xâm nhập mặt đông nam; Sư 320 phối hợp pháo binh, xe tăng từ phía bắc và đông bắc đánh sâu vào trong. QGP tàn phá Kon Tum, dùng cả pháo 105 - 155mm lấy được từ Tân Cảnh – Đắc Tô với xe tăng yểm trợ tiến đánh dữ dội thành phố: chiếm 1 trường học, 1 viện công giáo và Tòa giám mục Kon Tum. Quân chủ lực Việt Cộng pháo kích mạnh làm pháo địch tê liệt, không bắn trả được. Ngày 26/5, E64 F320 QGP tăng lực thêm pháo và xe tăng mở cuộc tấn công Trung đoàn 53 của Sư 23 QLVNCH. Ở mũi phía nam – Sư 968 B3 tuy mới tham gia lần đầu chưa bị tổn thất, còn mạnh, nhưng lại gặp ngãng trở là con sông Dakbla, bị quân địa phương của VNCH ngăn chặn không tiến nhanh được. Địch hoảng hốt yêu cầu không lực Hoa Kỳ, pháo binh và chiến xa chi viện. Trong ngày 25.5.1972, không lực Mỹ đã dùng tối đa 30 box B52 với trên 3.000 quả bom đánh vào đội hình các sư đoàn của B3 – Sư 320 tuy đã vào được trong thị xã nhưng tổn thất nặng, tiếp đến lại bị các máy bay cường kích như F4h, F101 và các loại A37, Dragonfly, VH-1, Ỉrquois ném bom, bắn chặn… thương vong rất nhiều. Sư 23 QLVNCH phản kích chiếm lại được sân bay, khu cơ giới. 1 đại đội quân báo của Sư 23 tấn công Đại đội 209 đặc công QGP ở khu nghĩa địa, nhưng thất bại. Thiệt mất 5 xe tăng. Chỉ huy sở của Sư 23 phải rời về nam thị xã. Paul Vann sử dụng cả không quân cất cánh từ phía Thái Lan đến trợ chiến, sau đó dùng B52 rải thảm vào các đội hình chiến xa, Sư 2 và Sư 968 QGP ở phía nam. Hai bên quần thảo ác liệt. Qua một tuần lễ mà bộ đội vẫn không chiếm được thị xã. QGP tuy đã đánh thắng một số khu vực nhưng không phát triển được, vì bị tổn thất quá nhiều. Sư 320 và Sư 2 đã mở tiếp tấn công nhiều đợt, song đều bị đẩy lui. Tướng Nguyễn Văn Toàn chỉ huy chiến dịch điều động thêm lực lượng từ Pleiku lên, khai thông Quốc lộ 14 và hỗ trợ Kon Tum. Tinh thần binh sĩ QLVNCH nhờ thế được trấn an, phản công lại QGP quyết liệt. Chúng dùng nhiều máy bay phản lực ném bom oanh tạc, B52 rải thảm, cả những trực thăng khổng lồ như loại Chinook tiếp tế và tải thương tại sân bay thị xã. Ngày 30.5.1972, hầu hết những vị trí QGP đã chiếm, địch lấy lại được. Trưa 31/5, chủ lực QGP buộc phải rút lui. Xét thấy không còn khả năng đánh chiếm thị xã nữa: do quân số bị thương vong lớn, gạo thiếu, đạn dược không đủ - Bộ tư lệnh B3 tung nốt Trung đoàn 66, là lực lượng dự bị cuối cùng để yểm hộ cho các trung đoàn đã vào trong thị xã rút ra ngoài. Sau khi mặt trận Kon Tum kết thúc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay lên thị xã để vinh danh tinh thần chiến đấu của QLVNCH, và thăng cấp Đại tá Lý Tòng Bá lên chuẩn tướng. Theo lời của Tướng Lý Tòng Bá nói: “Quân giải phóng để lại 3.000 xác chết, mấy chục chiến xa bị bắn hạ và cộng quân đã thất bại thảm hại.”. Cũng theo lời Tướng Bá: “Cộng sản Bắc Việt bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để chiếm Kon Tum, khi họ đã chiếm được Đắc Tô – Tân Cảnh. Họ không đánh Kon Tum ngay mà để hai tuần sau mới tấn công, khi mà Sư đoàn 23 QLVNCH đã bố trí xong phòng thủ trong và ngoài thị xã.”. Thực tế thì, tuy QGP đại thắng ở mặt trận Đắc Tô – Tân Cảnh, nhưng bị tổn thất cũng rất nặng nề. Sư 320 và cả Sư 2 phải dừng lại để củng cố và bổ xung quân lực. Các chiến xa T-54 bị tiêu hao không ít tại phi trường Đắc Tô hoặc bị không quân Mỹ bắn hỏng. Vì thế, phải hai mươi ngày sau mới tiến đánh Kon Tum được. Mặc dù dự kiến theo kế hoạch tác chiến, là chỉ 5 ngày sau khi thắng ở Đắc Tô – Tân Cảnh - Bởi vậy, QLVNCH đã có đủ thời gian phòng thủ xong Kon Tum. Ngày 9.6.1972, cố vấn Hoa Kỳ John Paul Vann, sau khi đến thị sát và cổ vũ Sư 23 QLVNCH đã giành thắng lợi – Trên đường trở về Pleiku, chiếc máy bay VH-1 của ông trúng đạn phòng không QGP và bị rơi. Cố vấn Paul Vann chết trên trận địa Tỉnh Gia Lai. Chiến dịch Bắc Tây Nguyên kết thúc: QGP giữ được cụm cứ điểm Đắc Tô – Tân Cảnh, QLVNCH giữ được Thị Xã Kon Tum. Theo ước lượng của tình báo Mỹ: Tại trận chiến Tây Nguyên tính trong cả ba tháng 3-4-5.1972, cộng sản Bắc Việt đã thiệt hại khoảng 1 sư đoàn rưỡi và 30 chiến xa T-54. * Ra khỏi Thị xã Kon Tum, đoàn xe pháo cao xạ C4 của Đại trưởng Nguyễn Hoàng chạy trở về Đắc Tô – Tân Cảnh. Trên đường đi qua một con dốc mà người dân đặt cho nó cái tên nghe khá rùng rợn: “dốc Đầu Lâu”. Đường lên Dốc Đầu Lâu cao khoảng trên 600 mét. Bên kia con đường là một ngôi miếu hoang, gọi là “miếu Cô Hồn”. Không biết nó được lập từ thời kỳ nào trong chiến tranh? Miếu thờ vong linh những người lính VNCH và cả lính mặt trận giải phóng đã chết trận. Dốc Đầu Lâu là một con dốc mà hai bên đều cố chiếm được, để kiểm soát Thị xã Kon Tum. Ngồi trên xe pháo, Nguyễn Hoàng lòng nặng trĩu. Anh em trong đại đội của anh, họ cũng lặng lẽ trở về sau thất bại trận đánh vào thị xã. Tuy đại đội anh đã góp phần diệt được một số máy bay phản lực và trực thăng không lực Hoa Kỳ, nhưng C4 cũng bị địch đánh hỏng một khẩu 37ly, chiến sĩ bị thương và hy sinh khá nhiều… chủ yếu do B52 rải thảm trúng đội hình. Nói chung về Tiểu đoàn hỏa lực D16 – số bộ đội thương vong, tổn thất so với các trung đoàn bộ binh như Sư 320, Sư 2 và các tiểu đoàn đặc công thì còn ít hơn rất nhiều. Khi đoàn xe pháo đi qua đỉnh Dốc Đầu Lâu, trung úy Nguyễn Hoàng thấy rùng mình. Những chiếc xe pháo chạy trên con đường sau cuộc chiến khốc liệt, đầy những hố bom đạn và đất đá lổng chổng, xóc nẩy tung lên. Khác hoàn toàn với tâm trạng của trận đánh Đắc Tô – Tân Cảnh: dù cũng ác liệt và hy sinh, nhưng trận chiến ấy QGP thắng lớn, nên tâm hồn người chiến sĩ náo nức, phấn khởi. Còn trở về đợt này, họ tránh sao được nỗi u uất trong lòng? Ngôi “miếu Cô Hồn” kia sẽ mãi mãi giữ vong linh những binh sĩ cả hai bên, thậm chí cả vong linh lính Mỹ, quân đồng minh… đã bỏ mạng trên trận chiến Kon Tum. Hoàng nghĩ về anh em đã cùng anh chiến đấu, giờ không còn nữa. Họ đều là những thanh niên tuổi còn rất trẻ, thậm chí có người mới lớn lên chưa từng biết đến chữ “yêu”! Chưa biết đến hương vị của đàn bà… đã phải vĩnh viễn nằm lại chốn trận tiền. Với bao sự hy sinh như thế, mà cuối cùng cuộc chiến vẫn thất bại? Thật là xót xa. Cũng chẳng phải do ta đánh kém, thực tế là ác liệt quá! Địch tập trung sử dụng binh hỏa lực, nhất là pháo đài bay B52 rải thảm quá nhiều, ta không trụ nổi. Nhìn trên khóe mắt đồng đội đang trở về cùng anh, Hoàng biết anh em cũng rất buồn bực và đau khổ. Ôi, những cánh hoa dã quỳ vẫn nở vàng rực trong những cánh rừng đầy bom lửa Tây Nguyên kia, chúng vô tư quá! Hoàng vào chiến đấu trên chiến trường, thế cũng đã qua năm mùa hoa dã quỳ nở rồi. Những địa danh Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum, Tân Cảnh – Đắc Tô, Pleiku, Buôn Ma Thuột… Những cứ điểm Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tu Ba, Ngọc Bờ Biêng, Kleng, Chư Tan Kra… Những dòng sông Pô Kô, Sa Thầy, Sê Sụ hay Xê Rê Pốc… mà anh đã hành quân qua. Những con đường Quốc lộ 14, 18, 19, 21… in đậm dấu chân lính chiến của anh. Mỗi địa danh ấy lại ghi một chiến tích hay sự tàn khốc đẫm máu của những chiến dịch và trận đánh. Có những trận thắng ròn rã như Ngọc Bờ Biêng, Đắc Tô – Tân Cảnh – nhưng cũng có những trận ác liệt, cảm tử mà cuối cùng vẫn đành phải rút bỏ vì thất bại như trận Kon Tum… đều hằn sâu trong kí ức những người lính. Đành rằng: “được thua là lẽ thường tình trong chiến trận” – nhưng máu đổ thì vẫn là máu… không ai muốn đổi lấy sự thất bại và đau thương? Nói về sự gian khổ và ác liệt thì chẳng đâu bằng chiến trường Tây Nguyên, điều ấy thì Hoàng và đồng đội ai cũng thấm thía. Có những lần, Hoàng đã phải chứng kiến: Hồi đó, anh còn làm trung đội trưởng, đơn vị pháo của anh bị trúng tọa độ B52. Gần 20 chiến sĩ bom đánh tung mất xác, chỉ một người duy nhất chết còn lại thân thể nhưng đã bị hơi bom lột đi tất cả quần áo, trần truồng nằm phơi ở giữa rừng… Anh và những đồng đội sống sót phải chia nhau đi tìm từng dúm tóc sót lại vướng vào một cành gai, từng ngón tay, ngón chân, mẩu xương, nắm thịt vương vãi khắp nơi. Gần 20 con người cũng chỉ chia ra được 5 cái túi nhỏ với 1 người toàn thây, đào chôn làm 6 cái huyệt… rồi đánh dấu để sau này tìm lại. Như người ta nói: những ai đã chiến đấu ngoài mặt trận mới hiểu hết được sự can trường, sức chịu đựng cũng như những hy sinh của người lính chiến. Càng gian khổ, ác liệt và mất mát… họ lại càng thương yêu nhau. Nghĩa tình đồng đội những người lính ấy, còn hơn cả anh em ruột thịt. Đoàn xe pháo của Đại đội 4 vẫn chạy rầm rì, lóc xóc trên con đường Quốc lộ 14 nham nhở vì cuộc chiến. Hoàng lại nghĩ về Hà Nội, đến những người thân của anh nơi quê hương! Hoàng nhớ tới Thu - Trong lá thư mà anh nhận được hồi đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: không quân Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa – chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội và thanh niên tự vệ là ở lại. Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm bên người bạn gái. Cả trong năm học cuối cấp theo trường đi sơ tán, hai đứa cùng về một làng quê. Ôi, người bạn tình của anh! Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya… Cũng có thể, ngày mai thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này, anh không còn có thể trở về gặp lại người con gái thủa ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát từng kỉ niệm nhỏ êm đềm… nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể cả cái chết trên chiến trận đến bất cứ lúc nào - Cuộc chiến tranh đã tôi luyện cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến si trên quê hương, về gia đình họ… chứ không phải bản thân những người lính như các anh. Anh còn hơn bao anh em lính trẻ khác, chết đi mà vẫn chưa biết “yêu” là gì? Anh đã từng yêu và yêu say đắm. Cũng đã từng được nếm trải cái hạnh phúc tột cùng của tình yêu, tấm thân của người con gái đã hiến cho anh. Anh lại nghĩ đến Mỵ, người con gái đã yêu anh bằng cả trái tim và tấm thân trinh bạch, không hề hối tiếc! Em từng nói với anh như thế. Mới chỉ cách đây ít ngày thôi, ngay trên mảnh đất máu lửa này: cô gái bản hồn nhiên, xinh xắn ấy đã vào tận chiến trường để tìm anh. Nàng đã đến, sau một trận chiến kinh hoàng trên vùng trời Đắc Tô – Tân Cảnh. Cứ như là chuyện cổ tích vậy? Ôi, hạnh phúc mới trớ trêu và kỳ lạ làm sao! Giờ này Mỵ ra sao và thế nào nhỉ? Cô đã theo một cánh quân của mặt trận B3 đánh vào Chư Pao, cũng trên con đường 14. Chiến sự ở Chư Pao, có lẽ bây giờ vẫn đang nổ ra. Mỵ và cả Sa, người bạn gái của cô liệu có làm sao không? Anh bỗng thấy xót thương cho những người con gái đó! Những người lính nam nhi như anh và anh em đồng đội, dấn thân vào nơi lửa đạn ác liệt rồi hy sinh, thì đã đành. Đằng này, các em chỉ là phận nữ nhi, yếu đuối… Anh lại thấy chính mình có tội? nếu không vì yêu anh, chắc gì em phải dấn thân đến mãi chốn chiến trường đầy bom đạn này. Có ai bắt buộc em phải đi đâu? và thế là Hoàng tự thấy… anh không thể phụ bạc với người con gái ấy! Rồi anh lại thấy, anh mang tội với cả hai người con gái đã yêu anh – Anh không thể phản lại ai !? Ôi tình yêu! Trong Hoàng rối tung với bao sự suy diễn... Thế là trên con đường từ cuộc chiến về, cùng với tiếng lọc xọc của những bánh xe pháo, cứ nhảy lên trong đầu anh. “Thôi, chiến tranh mà…” – Hoàng cố xua đuổi những ý nghĩ cứ lẩn quẩn bám theo mình. Chiến tranh! Tất cả sẽ chìm vào trong chiến tranh… Hoàng ngả người bên cạnh anh lính trẻ. Cậu ta đang ngủ ngon lành trên ghế xe. Bầu trời đêm Tây Nguyên tạnh ráo, vẫn nghe thấy tiếng pháo và súng nổ từ xa. Có lẽ từ phía cứ điểm Chư Pao vọng đến… Chiến sự đang diễn ra tại đó. Nơi ấy có Mỵ, người con gái bản của anh đang ở trong trận đánh. Đoàn xe pháo cao xạ 37ly của Đại đội 4 vẫn đang nhằm hướng Đắc Tô – Tân cảnh chạy về. Cũng chẳng còn bao xa nữa, mấy đốm lửa cháy ở phía sân bay Phượng Hoàng đã hiện ra trước mắt. Cùng với tiểu đoàn hỏa lực D16, họ sẽ dừng quân ở đấy để củng cố đơn vị, rồi lại tiếp tục vào những cuộc chiến tới.
CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI CON GÁI BẢN 19- Tại một trạm phẫu của QGP. Vào lúc mờ sáng, anh em trong đội tải thương của mặt trận B3 đã cáng một nữ chiến sĩ từ cứ điểm Chư Pao về đây. Họ đã phải thay phiên nhau đi liên tục suốt đêm. Cô bị thương nặng và mất rất nhiều máu. Tuy đã được nhân viên y tế tiền phương sơ cứu tại chỗ, nhưng vết thương đòi hỏi phải kịp thời đưa về phẫu tuyến sau, may ra mới cứu nổi. Người nữ chiến sĩ đó là Mỵ! Đây là khu khu cấp cứu của Sư đoàn 320, được đặt ngay trong Quận lỵ Đắc Tô mới giải phóng. Họ để cô nằm trên một chiếc giường lò xo, có trải một tấm đệm trắng. Cô vẫn mê man. Những biện pháp cấp cứu đã được thực hiện để lấy ra một mảnh pháo, găm vào trong ngực cô gái. Nhìn gương mặt của ông bác sĩ già, mọi người đều đoán biết, không còn hy vọng gì? - Cho tôi uống… nước… Cô gái cựa mình và rên khe khẽ, mắt vẫn nhắm nghiền lại. Mấy người đứng quanh reo lên: - Cô ấy tỉnh rồi! Chị hộ lý là một người địa phương, thuộc du kích quân. Chị vội lấy chiếc khăn mặt bông dấp nước, thấm lên môi cô gái… quay sang nói với một nữ chiến sĩ trẻ khác, đứng cạnh: - Cô ta khát nước đấy! Mất nhiều máu lắm, cho uống nước bây giờ thì không gỡ được. Cô gái đưa lưỡi nhấm nhấm chiếc khăn ướt trong tay chị hộ lý một cách ngon lành. Không đã cơn khát, cô vẫn đòi uống. Người nữ chiến sĩ trẻ có khuôn mặt tròn, cúi xuống gần sát người con gái bị thương gọi: - Mỵ ơi… tỉnh lại đi Mỵ ơi! Sa đến thăm Mỵ đây. Mỵ có nhận ra Sa không? Người con gái có tên là Mỵ hé mở đôi mắt lờ đờ nhìn bạn, khẽ gật đầu rồi lại từ từ khép lại. Sa nhìn Mỵ, lòng trào lên một nỗi cảm thương vô hạn. Cô lấy tay vuốt lại mấy sợi tóc xõa xuống trên má bạn, nói giọng trìu mến: - Bác sĩ chưa đồng ý cho Mỵ uống nước đâu! Đỡ vết thương, Mỵ sẽ uống thật nhiều. Những tiếng thở khò khè muốn bật ra khỏi cuống họng của Mỵ, nhưng chưa thoát được. Như một sinh linh bất lực trước cơn hấp hối, đang dần dần vít thân thể cô xuống. Sa vẫn thảng thốt gọi: - Mỵ ơi!... Mỵ ơi!... hãy mở mắt nhìn Sa đi? Đôi mắt quầng xám của người con gái lại từ từ mở ra nhìn bạn, cắn chặt răng để không phát thành tiếng rên. Cái nhìn của Mỵ thì vẫn hiền dịu và thoáng cười với Sa. Cô cố đưa bàn tay yếu ớt nắm lấy tay bạn, giọng nói nhỏ và hơi nặng nhọc: - Mình… không… qua… được đâu… - Rồi Mỵ sẽ khỏi! Mỵ sẽ trở về đơn vị với sa và anh chị em. Sa âu yếm nhìn bạn, nói vậy. Mỵ chỉ hơi lắc đầu, trông vẻ yếu lắm! Bỗng như có một sự sống vùng dậy trong con người cô, như một người tỉnh táo bình tĩnh, cô nói: - Mỵ… muốn… gặp… anh ấy… Cô nhìn bạn, cái nhìn có vẻ năn nỉ? Người bác sĩ ra ngoài mới bước vào, chứng kiến cuộc đối thoại giữa hai cô gái: Hai người lính nữ! Ông không nói gì, chỉ khẽ gật đầu ra hiệu cho Sa. Sa biết ông muốn nói với mình: “Cô hãy đi đi! Hãy giúp cô ấy được thỏa tâm nguyện một lần cuối.”. Sa nhìn bạn giây phút, giọng cô hơi nấc lên như muốn khóc: - Sa đi nhé! Sa sẽ đưa anh ấy về cho Mỵ. Đợi một chút, Sa về ngay. Nói rồi, cô quay người lao nhanh ra cửa. * Chư Pao là một ngọn núi có đỉnh cao 1.059 mét, nằm trên đường Quốc Lộ 14, đoạn Pleiku – Kon Tum. Cách Pleiku về phía bắc khoảng 17km. Chư Pao địa thế hiểm trở rất có lợi cho việc thế thủ. Nó còn là một đài quan sát, để bảo vệ cả Pleiku lẫn Kon Tum. Bởi vậy, nó được mệnh danh là ngọn đèo chiến lược ở cao nguyên. Trong suốt cuộc chiến tranh, cả hai bên: phía QGP cũng như QLVNCH đều muốn chiếm giữ. Do tầm quan trọng về chiến lược của vùng đèo này nên trong cuộc chiến Bắc Tây Nguyên xuân hè 1972, Chư Pao cũng là một trong những trọng điểm, Bộ tư lệnh Mặt trận B3 kiên quyết đánh chiếm. Vào cuối tháng 4/1972, sau khi thắng lớn cụm cứ điểm Đắc Tô – Tân Cảnh – Bộ tư lệnh B3 đã tung trung đoàn bộ binh 95 trực thuộc mặt trận, có xe tăng thiết giáp yểm trợ tấn công cường tập vào QLVNCH đang cố thủ Chư Pao. Bộ phận quân y của Mỵ và Sa được Bộ tư lệnh cử xuống cùng Trung đoàn 95, tham gia trận đánh. Với đà chiến thắng, Trung đoàn 95 đã đẩy lui lực lượng biệt động quân của VNCH ở Chư Pao phải chạy về Thị xã Kon Tum, và đã chiếm con đèo này. Nhưng đến cuối tháng 5/1972, khi QGP thất thủ phải rút ra khỏi Thị xã Kon Tum – thì QLVNCH liền tung Quân đoàn 2 mở những cuộc tấn công quyết liệt, với sự yểm trợ của pháo binh và không lực Hoa Kỳ, nhất là dùng pháo đài bay B52 rải thảm để giành giật lại cứ điểm Chư Pao. Dù khi đó QGP đã củng cố được cả một cụm chốt liên hoàn quanh khu đèo chiến lược khá chắc chắn… đồng thời Bộ tư lệnh B3 còn tung tiếp Trung đoàn 66 – sau khi hộ tống các trung đoàn ra khỏi Thị xã Kon Tum, tới hỗ trợ cho Trung đoàn 95 cố thủ đèo Chư Pao. Vì địch dồn quân đến quá mạnh, trút hàng vạn tấn bom xuống khu đèo. Cuộc chiến nổ ra hết sức quyết liệt… Lực lượng QGP thiệt hại rất nặng nề, kể cả các chiến xa phòng thủ đèo… hàng chục chiếc bị đánh hỏng – Cuối cùng Bộ tư lệnh mặt trận buộc phải lệnh cho các đơn vị rút khỏi đèo Chư Pao, cũng về hướng Đắc Tô – Tân Cảnh. Mỵ, người nữ chiến sĩ quân y đã bị thương ở đây!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.08.2023 17:43:47 bởi Nhân văn >
20- Thấp thoáng những nóc nhà ven đường của đám dân gan lỳ ở lại sau cuộc chiến, hoặc những người đã chạy tản vào rừng quay trở về căn nhà cũ của mình. Các ngọn đèn hoa kỳ đã được thắp lên… Cả những con chiên chạy náu ra rừng, cũng đang lần lần trở lại ngôi nhà thờ đạo bị bom đánh sạt một góc. Vị cha đạo thì đã tản vào Thị xã Kon Tum, không biết sống chết ra sao? Bức tượng Đức Mẹ trước nhà thờ lỗ chỗ vết đạn. Người gác chuông nhà thờ, theo lệ kéo những hồi chuông xám hối. Các con chó chạy rông đang lật lên một cái xác chết. Không biết đấy là xác của người lính VNCH đã chạy trốn lên núi, mò về chết ở đây… hay xác dân lang thang vì tan nát cửa nhà, chết rụi trên đường? Chúng đang tranh nhau ăn ngấu nghiến những phần thịt còn mới, mà bộ phận đi thu gom xác của chính quyền chưa kịp đến dọn đi. Những con chó đen, chó vàng, chó đốm… mõm đỏ ngòm vì máu. Ở gần đấy, cũng có vài con chó khác vừa cắn ngập phải một cái xác đã thối rữa, nhung nhúc giòi bọ… vội vàng rút mõm ra, vẩy vẩy các con bọ còn bám quanh mõm, sủa ăng ẳng. Chúng xô nhau chạy đến, lao vào tranh giành với mấy con chó đang ăn cái xác còn tươi kia. Bên một chiếc giếng nhỏ, trong sân căn nhà bỏ hoang đã bị sập – Một tốp chiến sĩ QGP đi lẻ qua đây, lúi húi làm thịt một con lợn choai choai, vô chủ chạy lang thang mà họ vừa bắt được. Từ trong số ngôi nhà bị bắn phá đổ nát, các người dân ở ngoài rừng mới trở về im lặng, lấm lét nhìn những kẻ qua lại. Đấy là hình ảnh Thị trấn Tân Cảnh – Đắc Tô của những ngày hè 1972. Qua sân bay Phượng Hoàng đã bị cầy xới lên tan nát, còn ngổn ngang xác những chiến xa QLVNCH và cả xác xe tăng T-54 của QGP. Đại trưởng Nguyễn Hoàng đang vội vã đi theo cô Sa, nhìn cảnh tượng trên đường không khỏi gai người. Bước vào trạm phẫu Sư 320 đặt trong dẫy nhà tôn của dân bản địa bỏ hoang. Ở đấy, ngọn đèn măng- sông đã được thắp lên sáng trắng. Anh vội đến bên giường Mỵ - Cô vẫn trong cơn mê sảng, miệng nói ú ớ… rồi quẫy đạp, vật mình hết bên này sang bên kia. Người y tá và chị hộ lý vội giữ cô lại. Ông bác sĩ đứng im lặng. Sa len vào, đặt tay lên vai Mỵ… lay gọi: - Mỵ ơi! Tỉnh lại đi, Mỵ ơi! Anh Hoàng đến với Mỵ đây này! Chị hộ lý vẻ ái ngại, nói: - Cô ta yếu lắm! Đôi mắt của Mỵ đã hé mở, nhưng như thể nó không còn khả năng thu nhận ánh sáng nữa. Hoàng cúi xuống, vuốt lại mấy sợi tóc vương trên trán cô. - Cho… tôi… hớp… nước… Giọng Mỵ thều thào. Được người bác sĩ đồng ý, chị hộ lý rót một chén nước lọc nhỏ. Hoàng đỡ chén nước rồi lấy tay nâng đầu Mỵ dậy, cho cô uống. Cô nhấp từng ngụm nước ngon lành. Trong mơ hồ… Mỵ cảm thấy tiếng của người con trai đang nói với cô, nghe quen quen. “Ừ, anh ấy đến thật đấy! Anh đang gọi cô…” – Thoáng ý nghĩ ở trong đầu Mỵ. Tiếng cô nói nho nhỏ, như thể đó chỉ là sự lặp lại theo bản năng. - Anh… Hoàng… phải không? Bàn tay Mỵ quờ quờ tìm kiếm. Hoàng nắm lấy tay cô, giọng nghẹn ngào: - Anh đây Mỵ ơi! Sa tiến đến gần hơn, lấy tay đỡ người bạn. - Anh Hoàng đến thăm Mỵ đấy, Mỵ à! Màn sương trắng bao quanh mắt Mỵ tan dần đi. Cô đã nhìn thấy anh: “Ừ, đúng là anh ấy thật rồi!”. Giây phút ấy… giây phút mà ý thức về một đời sống, một niềm khao khát vùng dậy. Hơn lúc nào hết, cô hiểu về thực tại của mình: Cái thực tại sẽ vĩnh viễn mang đi cuộc sống của cô! Mang đi tuổi trẻ và tình yêu của cô! Ôi, niềm hạnh phúc vô giá! Tưởng chừng với tay lên là cô đã có được? cô sẽ nắm được nó? Nhưng rồi tất cả lại buột khỏi tay cô. Hơn lúc nào hết, giờ phút này Mỵ hiểu rằng: cuộc sống sắp dứt bỏ cô mà đi. Cô sẽ phải mãi mãi xa anh! Chỉ cần cô với tay lên, một tý nữa thôi… nhưng muộn rồi. Bàn tay cô, nó không phục tùng cô nữa. Phải, muộn rồi… Sao tôi lại không thể sống? năm năm… hay một năm thôi cũng được. Tôi còn trẻ mà! Như thế em cũng không đòi hỏi nhiều lắm, phải không anh? “Ừ, chỉ một năm thôi mà…” – cô gái lướt nhìn lên mái nhà tôn, ánh sáng ngọn đén hắt lên mái tôn sáng lóa. Cô thấy như cô đã hoàn toàn khỏe mạnh – và ngay phút này, cô có thể cùng anh bay nhảy như đôi chim non trên cành. Mà phải như đôi chim đã lớn, cô không còn bé bỏng nữa. - Hạnh… phúc… cuộc... sống… đẹp quá… anh… Tiếng nói ấy muốn buột ra khỏi miệng cô, nhưng cô không nói lên được. Chưa bao giờ cô cảm thấy mình nhiều hạnh phúc như thế! Mỵ định nhỏm dậy, song cơn đau đã quật cô nằm vật xuống. Hoàng vội đỡ Mỵ… Đột nhiên anh nhận thấy trong ánh mắt của người con gái, một cái nhìn nhọn hoắt… từ từ dịu lại. - Em… sẽ… chết… Mỵ nói yếu ớt: “Em biết… là… em sẽ chết…”. - Không! Bác sĩ sẽ chữa khỏi vết thương cho em. Em sẽ không chết đâu, Mỵ à! Em sẽ sống với anh và với anh chị em đồng đội. Hoàng nói rồi áp môi hôn lên những vết máu khô trên đôi bàn tay cô. Đôi bàn tay đã lạnh giá. Mỵ khẽ lắc đầu, nhưng ánh mắt cô nhìn anh thì thật âu yếm, chứa chan. Một nụ cười nho nhỏ hé trên môi cô. - Ôm… lấy em… đi anh… Mỵ khẽ kéo tay anh ôm chặt lấy mình. Cô nhìn anh mơ màng… vừa như đang tràn ngập sự thỏa mãn trong lòng, lại tựa kẻ mộng du. Nó từ từ khép lại và một dòng lệ ứa trào ra trong khóe mắt cô. Thân hình người con gái nặng trĩu trên tay anh. Người bác sĩ cầm lấy tay cô, giọng ông nghe đùng đục: - Cô ấy chết rồi! “cô ấy chết rồi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại được nữa…” – Hoàng bế xốc người con gái, lao ra ngoài. Đây đó những đống lửa đã được đốt lên trên cứ điểm cũ của QLVNCH, cháy rừng rực. Mấy tốp chiến sĩ vây quanh đống lửa giữa trời, hát vang những bài ca sai nhịp điệu. Họ cũng đã quên sự thất bại trong trận chiến ở Thị xã Kon Tum vừa qua. Quên cả cái chết và có khi, quên cả là mình đang sống. Sống và chết với người lính trong chiến tranh, nhất là trên chiến trường Tây Nguyên này tưởng như không còn gianh giới? Có thể một khắc trước họ vẫn sống, một khắc sau… chỉ còn là một nắm thịt vụn, tý mẩu tóc vương lại trên cây, một ngón tay hay cẳng chân rơi đâu đó trong rừng, hoặc chả tìm thấy cái gì nữa? Đồng đội cũng xót thương nhau lắm, nhưng rồi mau chóng phải cho qua thôi – Bởi vì, chính người đang sống càng không biết mình còn sống được đến lúc nào? “cô ấy không bao giờ tỉnh lại được nữa…” – Gió vút qua tai anh. Mái tóc cô bay ngược lại phía sau. Hoàng vẫn bế người con gái lao băng băng trên đường Quốc lộ 14, lổng chổng đất đá vì bom pháo đã cầy nát. Anh vượt qua sân bay Phượng Hoàng, chạy về phía đơn vị đang đóng quân. Anh không còn nghe thấy cả tiếng của Sa, chạy theo gọi ở phía sau. Anh chạy mãi, tưởng như trước mặt mình vô tận… chỉ có khoảng không trống trải, và thân mình cô gái đang đè trĩu trên tay. “cô ấy chết rôi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại được nữa…” – Trong lòng Hoàng tựa có trăm ngàn mũi kim đâm đau nhói: “Phải, chính tôi! Chính tôi đã giết em! Nếu không vì tôi, em cần gì đến cái vùng đất chiến trường đầy máu này?”. Hoàng tự rủa vậy, nhưng bây giờ dù anh không tha thứ cho mình đi chăng nữa, thì em cũng chết rồi! Tất cả đã muộn rồi. Anh sẽ phải làm sao đây, để có thể đền lại được cho em? Như hoa lá, bầu trời - Tâm hồn em thật cao thượng! Ý nghĩ của em cũng thơm mát như những cánh hoa tươi. Tất cả ở trong em, người con gái bình dị mà cao cả biết bao nhiêu. Em là cái đẹp thiên nhiên nhất của thiên nhiên! “con người” nhất của con người! Nơi tập trung sự đẹp đẽ của lòng nhân ái, của khao khát và hy vọng! Vốn bản thân nó đã tụ lại bên trong một cơ thể: Ở đó, sự tồn tại vĩnh cửu là tấm chân dung người con gái như em – Thế mà, em đã phải trả giá bằng cái chết này ư? Chẳng lẽ đây là chính kiến vĩ đại nhất về chủ nghĩa nhân đạo của cuộc chiến tranh này? Nước mắt tưởng đã khô kiệt trong mắt Hoàng, nay lại dàn dụa chảy đẫm ướt cả cánh áo của người nữ quân nhân đã thấm đầy máu khô, bết lại. Phút chốc, anh ghê tởm nguyền rủa cả cuộc chiến tranh! Em đã vượt lên điểm đỉnh của phẩm giá, của của nghĩa nhân văn – mà mọi thần tượng lớn lao phải quì dưới chân, mọi vĩ đại nhất của con người phải cảm phục. Một người nữ chiến sĩ bình dị, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Người liệt sĩ vô danh. Em đã bước tới lâu đài tráng lệ nhất, nơi mà nghìn năm thế hệ sau, nơi đại dương ngôn ngữ của loài người… vẫn không đủ những hình tượng đẹp nhất để diễn đạt nó. Em đã bước tới đó thanh thản và bình dị. Nó cũng giản đơn như ngày nào, em hái một bông hoa mận trắng cài lên bím tóc của ngày xuân. “em đã chết rồi! Em không bao giờ tỉnh lại được nữa…” - Mưa gió rồi sẽ phủ trên nấm mồ em, và cả cỏ dại sẽ mọc lên. Nhưng em sẽ tồn tại vĩnh viễn trong Tòa thánh của tình yêu!... mà đức vĩ đại của nó sẽ ngự trên mọi chủ nghĩa, trên mọi đẳng cấp. Mọi chủ nghĩa có thể chết đi hoặc đổi lốt thay da, nhưng ánh sáng lương tri tỏa ngời trong tình yêu của em là vĩnh cửu. Anh chạy mãi. Không biết là ngày bao nhiêu ta, nhưng mảnh trăng khuyết thì đã chiếu một làn sáng mỏng trên vòm trời, đây đó vẫn còn phủ những đám mây mỏng.
HÀ NỘI CUỘC SƠ TÁN VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU 21- Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn. Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu. Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"! Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình? - Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng: - Muốn ăn bom à, còn đứng lại? Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa: - Anh đây cơ mà... - Chúng anh ở trên này, cô em ơi! Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại: - Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi? - Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón? - Nghỉ nhé. Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng. Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình. * Gia đình Thu ở phố Hàng Bông. Ông bà Giáo, ba mẹ của Thu đều làm nghề dạy học, chỉ sinh được hai anh em: Anh trai Thu đã có vợ và một đứa con gái nhỏ. Anh lên đường nhập ngũ và đã ra chiến trường. Người chị dâu của Thu từ khi chồng đi bộ đội, đưa con về bên ngoại cho mẹ đẻ trông nom. Nay Thu đi học xa, lại mang con trở về ở với ông bà Giáo. Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo: - Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì? Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp: - Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ! Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc: - Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại? - Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu? - Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao? Bà tỏ thái độ cương quyết: - Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại. Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh: - Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi. Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ: - Để con mạng nốt cho ba con! Ông Giáo vẫn cảu nhảu: - Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo? - Lại chờ tới lúc bị làm sao? Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói: - Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy! Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu: - Để ba con ở nhà một mình sao được? Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói: - Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu. Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên. Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái: - Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không? - Dạ, có ạ! - Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn. - Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học. Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường. - Tuyệt quá! Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo: - Anh trai con có viết thư về không mẹ? - Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy! Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói. - Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ? Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình. Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi: - Mẹ làm sao thế? - Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe. Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ. ... Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết. Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh? Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô... ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy! Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng... Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ. Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.08.2023 16:30:14 bởi Nhân văn >
22- Khi đó ở một cửa hiệu cắt tóc phố, người khách đang ngả đầu vào thành ghế cho ông thợ cắt tóc cạo mặt, nói: - Ông có nghe tin tức: Tình hình Mỹ sẽ ngừng ném bom ở miền Bắc không? Ông phó cạo lấy tay xoa một thứ bọt xà phòng trắng, nhờn lên cằm khách, thản nhiên hỏi lại: - Ai bảo ông thế? Lưỡi dao của ông đưa xoèn xoẹt. Một nhoáng, bộ râu cứng như rễ tre của người khách đã được bào nhẵn. Người khách vẫn ngồi lim dim mắt, đáp lại: - Đài BBC đưa tin mà lị! - Ồi, cái mồm chúng nó thì cứ hoen hoét. Cũng chẳng hiểu ý ông chủ hiệu cắt tóc định nói về cái tin đài BBC mà người khách vừa thông báo, hay ông ám chỉ thằng Mỹ? Ông tiếp: - Cứ xem ngay như cái Hiệp định Pa Ri ấy? Ngồi bàn vuông, bàn tròn với nhau rồi mà họ còn nhổ toẹt đi, nữa là... - Thì cũng tại ông nhà mình làm căng quá! Người khách có vẻ muốn phô trương sự hiểu biết của mình. - Ông tính xem: Là một tên đế quốc đầu xỏ nhất hạng! Chịu lép quá, nhục, thằng nào nó nghe? - Phải nghe tất! Thua thì phải nghe, nhục cũng phải chịu. Giọng ông thợ cắt tóc "chắc như cua gạch". - Đã đành. Chúa chết thì trạng cũng băng hà, ông ạ! Người khách buột mồm buông một câu triết lý, mà cũng chẳng hiểu triết lý cái kiểu gì? Ông phó cạo vặn hỏi: - Thế ông không nghe tin chiến thắng đầu xuân Mậu Thân à? Người khách vẫn không chịu: - Xôn xao cả phố, ai mà chẳng biết! Nhưng tôi thì tôi nghĩ: Cái ông Việt Nam nhà mình cũng hay chơi nước thượng lắm cơ? Ông chủ hiệu cắt tóc nói kháy: - Giá tiến cử ông vào Bộ chính trị mới phải? Người khách cự lại: - Chẳng phải thế. Tình hình chính trị của đất nước, mình phải quan tâm chứ ông! - Tôi cứ cố "cắt" dăm cái đầu, kiếm cho vợ con thêm lon gạo. Người khách nọ đã trả tiền xong, chào ông chủ hiệu rồi bước ra ngoài phố. Ông chủ hiệu lấy tay phủi phủi những sợi tóc bám vào áo mình, buông thõng một câu: - Năng nhặt, chặt bị... là thượng sách. Từ nẫy đến giờ một tay thanh niên tóc chờm đến ngang vai, ngồi đợi trên chiếc ghế dài, tranh thủ giở tờ báo Văn Nghệ ra xem "mục nụ cười". Chờ người khách kia đã ra khỏi cửa hiệu, mới bước vào chiếc ghế thay thế chỗ. Hắn tán dương ông chủ hiệu: - Bố già nói chí lý lắm! Cứ như con đây này: Sáng ra chợ giời buôn bán đồ cũ làm mấy "sọi". Trưa về nhà, đánh một giấc ngủ khoèo đến bốn giờ chiều. Tối bát phố... Một vị khách khác vừa mới bước vào hiệu, thấy tay thanh niên nói vậy... mắng: - Cứ như cái ngữ nhà anh á? Có mà mất nước. Tay thanh niên mặt vẫn bình thản, tỉnh bơ: - Bác già nặng lời thế! Hắn quay sang bảo với ông phó cạo: - Bố xén gáy bằng cho con, bố nhé! Cả Hà Nội này, con chỉ tín nhiệm mỗi cửa hiệu cắt tóc của bố thôi đấy! Cái kéo cắt tóc trong bàn tay nhà nghề của ông phó cạo vẫn kêu tanh tách. Từng đám tóc hắt ra, rơi đều đều lên chiếc áo quàng bằng vải dù pháo sáng, đang choàng trên vai khách. Xa xa... có tiếng máy bay xoẹt ngang bầu trời, vọng tới. Chắc là phi cơ mig của ta đi tuần tra... chứ, nếu là "thần sấm" hoặc "con ma" Huê Kỳ - thì còi báo động thành phố đã chẳng réo ầm lên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Tất cả xuống hầm ngay, đề phòng máy bay Mỹ xâm phạm vào vùng trời Hà Nội". Đằng này, máy bay đã đi qua… mà thành phố vẫn im phăng phắc.
23- Ngày 16.4.1972, chính quyền Hà Nội ra lệnh cho nhân dân phải “cấp tán”! Tức là sơ tán thật nhanh ra khỏi thành phố, vì Mỹ sẽ ném bom rải thảm B52. Thực ra, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đã bắt đầu liên tục từ năm 1965. Từ thời gian đó những người dân sống ở thành thị, đặc biệt là ở Hà Nội – Hải Phòng đã phải đi sơ tán đến các vùng nông thôn. Những ai sơ tán theo cơ quan: thoạt tiên được cơ quan chở đi bằng ô tô, tiếp đó là hoàn toàn tự túc. Ban đầu mọi người vẫn phải quay lại Hà Nội đong gạo, sau có thể đong ở những kho gạo địa phương. Các địa phương lúc ấy rất nghèo, ngoài gạo ra người ta vẫn phải về thành phố tiếp tế thực phẩm và những đồ trang bị khác. Hàng tuần từng đoàn xe đạp tay xách nách mang, kìn kìn hai chiều từ nông thôn về thành phố và ngược lại. Chiều đi về địa phương bao giờ cũng nặng nhọc, xe đạp biến thành xe thồ: bao gạo, chăn màn, quần áo, sách vở, bếp dầu, can dầu, can mỡ, chai nước mắm, bọc bánh kẹo, nồi niêu xoong chảo… đủ mọi thứ lỉnh kỉnh khác. Cảnh tượng – có khi là vài ba ông bố vụng về đánh tuột tất cả các thứ ra đường, nom như một mẹt hàng xén bị vương vãi. Phụ nữ cũng phải thồ như vậy, “bon bon xe ta chạy trên mọi nẻo đường”… Có câu chuyện kể về một gia đình: bốn thế hệ đi sơ tán khỏi Hà Nội trên một chiếc xe bò kéo. Người ta gọi với cái tên “nhịp võng xe bò ngày sơ tán” – Đó là hình ảnh một người mẹ trẻ đang cho đứa con mới sơ sinh bú. Một ông cụ già, có lẽ là ông nội cháu bé đội chiếc mũ bông đang đánh xe. Trong xe còn lố nhố mấy đứa trẻ con với đủ thứ nào gạo, thực phẩm, xoong nồi, quần áo… Chiếc xe cứ lọc xọc lăn bánh từ hướng Ngã Tư Sở về mạn Hà Đông. Rồi chuyện về những người chèo thuyền ở bãi Phúc Tân, dưới chân cầu Long Biên – Hồi ấy Phúc Tân còn là bãi, qui tụ nhiều thuyền ghe của dân làm nghề đánh cá trên Sông Hồng. Trong thời kỳ máy bay Mỹ mở rộng đánh phá dữ dội vào Hà Nội, hầu hết cư dân xóm nghề này phải chèo ghe sơ tán lên mạn ngược của sông – nhưng vẫn còn một đội ghe chừng ba mươi chiếc tình nguyện ở lại, đưa người sơ tán từ trung tâm thủ đô băng qua Sông Hồng ra các vùng ngoại thành Gia Lâm, Đông Anh… rồi lên mạn bắc. Họ kể: mỗi chuyến vượt Sông Hồng mất độ 20 phút, thuyền chỉ chứa được 6-7 người, nên phải chở liên tục cả ngày lẫn đêm. Cầu Long Biên thì đã bị máy bay Mỹ ném bom đánh sập. Nhiều lần thuyền ra giữa dòng, nhìn bom rơi đằng xa, bụi đất vãi đầy mặt nước – Họ vẫn mặc kệ cứ chèo, vì thấy còn quá nhiều người đang đợi qua sông. Chậm giờ nào là nguy giờ đó. Đói mệt, thì dùng chân đạp chèo để rảnh tay gặm bánh mỳ. Lúc đó, họ thấy mình rất khỏe và hết sức gan lỳ. Trên những con đường quốc lộ từ Hà Nội về các tỉnh, đủ thứ hình ảnh đèo bòng, bồng bế nhau đi sơ tán: Một anh chồng đạp chiếc xe đạp Thống Nhất đặt đứa con trai đầu độ 11 tuổi lên yên phía trước, thằng con kế lên yên sau, rồi tới bà vợ ngồi sau cùng kẹp đứa bé ở giữa. Cứ thế theo con đường Quốc lộ 6, họ mải miết đạp về phía Lương Sơn – Hòa Bình. Dọc đường lúc nào mệt thì dừng lại, trải tấm vải nhựa cho cả nhà nằm nghỉ, lấy cơm nắm ra ăn rồi lại đi tiếp. Kia là hình ảnh một cụ già đang bị ốm được con cái đưa đi sơ tán, gặp ở Mỗ Lao về phía Hà Tây. Cụ đang run rẩy trong tấm chăn. Vì Hà Nội đã có lệnh “cấp tán”, nên dân tình không thể ở lại thành phố được. Đây nữa là hình ảnh rất ngộ - Một đứa trẻ mắt tròn xoe, ngồi trên chiếc gióng ngang phía trước xe đạp của bố, tay ôm khư khư con búp bê nhựa đã cũ. Đó là món đồ chơi mà bé rất thích, nó nhất định đòi mang theo bằng được. Bởi vậy, mặc dù lồng cồng đủ thứ trên xe… nhưng bố, mẹ vẫn phải chiều con. Những người đi sơ tán ai cũng ôm đồm như thế cả. Vào mùa đông lạnh giá, họ không mang theo được gì nhiều ngoài những vật dụng cần thiết như chăn màn, quần áo. Phần lớn những người Hà Nội đi sơ tán trước đó, đã yên ổn. Giờ lớp người đi sau do tình hình căng thẳng, ác liệt quá! Không ai dám gan lỳ ở lại nữa, phải vội vã đi. Các trường phổ thông, trường đại học sơ tán sớm nhất - Sau đến các cơ sở sản xuất như nhà máy, xí nghiệp, rồi cơ quan, công sở… Thời kỳ Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, Hà Nội có hai bệnh viện lớn: Bệnh viện Việt Đức chịu trách nhiệm cấp cứu bệnh nhân các tỉnh phía bắc. Bệnh viện Bạch Mai tiếp nhận bệnh nhân các tỉnh phía nam. Từ năm 1965, thực hiện yêu cầu sơ tán – bệnh viện Bạch Mai đã chia đôi các khoa, phòng. Một bộ phận đi, còn một bộ phận phải ở lại để cứu chữa cho những người tại Hà Nội – Nơi đang phải hứng chịu hàng loạt trận mưa bom Mỹ giội xuống. Lúc đầu bệnh viện sơ tán đến Phú Thọ, sau chuyển về Ứng Hòa, Chương Mỹ thuộc Hà Tây. Cũng không kịp xây dựng các cơ sở dù chỉ là tạm bợ, phải đặt rải rác ở nhà dân, đình chùa và các công trình công cộng. Để hoàn thành công việc trong thời chiến, toàn bộ nhân lực của bệnh viện như y, bác sĩ, hộ lý, y tá, lao công đều phải làm việc tối đa. Nghĩa là họ phải làm gấp đôi những ngày thường trước kia. Từ tháng 6 năm 1966, nhà máy Cơ khí Hà Nội đã di chuyển an toàn gần 1.500 tấn phương tiện, thiết bị đến 16 địa điểm. Cả trại trẻ của nhà máy cũng được sơ tán lên Hà Bắc. Nhà máy dệt 8-3 với hơn 7.000 công nhân đã phân tán ra nhiều địa điểm, nhưng vẫn duy trì sản xuất liên tục. Các đơn vị sản xuất trọng điểm khác như: Nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy gỗ Cầu Đuống, nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, xí nghiệp Dược phẩm 1, Dược phẩm 2, nhà máy In Tiến Bộ…Hàng chục nghìn công nhân viên chức cùng nhiều gia đình, đều được sơ tán ra khỏi nội thành. Để duy trì sản xuất, Hà Nội phải hướng công nghiệp sang thời chiến. 17 xí nghiệp địa phương, gần 200 hợp tác xã thủ công và 128 tổ sản xuất được đưa ra khỏi thành phố. Mạng lưới thương nghiệp cũng mở rộng ra ngoại thành và các tỉnh lân cận, với gần 500 điểm bán hàng mới. Đề phòng gián điệp tìm hiểu những mục tiêu để đánh phá, ngay cả những đứa trẻ Hà Nội cũng được gia đình và tổ dân phố trang bị cho kiến thức phòng giặc. “ba không” là một trong những điều mà trẻ em ở Hà Nội hay đi sơ tán phải thuộc lòng: không nói, không chỉ, không trả lời – khi có người lạ tìm đến nhà hoặc hỏi dò đường. Nhân dân ở các vùng đến sơ tán là những nông dân nhân hậu, chất phác, giầu tình thương người. Những gia đình Hà Nội về quê sơ tán, được người dân chào đón và dành cho những điều kiện tốt nhất trong sinh hoạt: nào là gian nhà to, “từ đường” cho người sơ tán ở - còn gia đình mình thì ở nhà ngang, nhà bếp. Ngay trong cuộc sống của những người Hà Nội về, bà con cũng tương trợ nhiều: có miếng ăn ngon mang chia phần cho người sơ tán, rau ngoài vườn thì cho ăn chung, đi tát đồng được ít cua cá… cũng đem chia cho gia đình đến sơ tán về nhà mình ở. Có thể nói, bà con đã thương yêu những người sơ tán về quê không khác gì ruột thịt. Tình người khi ấy thật cao cả. Đó là bản sắc của con người Việt Nam: tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách. Chiến tranh, mọi thứ đều thiếu thốn và khó khăn – nhất là đối với những cán bộ viên chức làm công ăn lương, hay là những gia đình đông người. Khi đi sơ tán họ phải ăn mì, ăn bo bo là chuyện bình thường. Ở nhà quê tuy làm nông nghiệp vất vả một nắng hai sương, nhưng lại thường xuyên được ăn gạo mới, cơm thơm. Họ thương những người ở Hà Nội quen cuộc sống đầy đủ, nay gặp cảnh loạn lạc – Có nhà, gia chủ nhiều bữa thường nấu dư một chút, xới ra bát cơm thật đầy đưa sang cho người sơ tán ăn thêm. Bà con hay nghĩ: người thành phố đang sống sung sướng, đầy đủ, nay phải về nông thôn thì khổ lắm! Mình ở nông thôn thiếu thốn, khổ cực quen rồi… cho nên gia đình thường nhường những gì tốt để dành cho đồng bào sơ tán về ở nhờ nhà mình. Có nơi, để chuẩn bị đón đồng bào từ thành phố về: Họ đã chặt cả tre, luồng, đào thêm những chiếc hầm chữ A ở sau nhà – cho bà con về sơ tán lấy chỗ ẩn nấp khi có tình huống báo động. Họ trồng thêm những luống rau ngoài bãi sông; những dây cà, dây bí được giắt vào hàng rào… để có thêm thức ăn cho người sơ tán ở. Các năm tháng đó không phải là không rơi vào cảnh đói khát, khốn khổ… nhưng con người sống thật đẹp! Thời sơ tán có tới 4.000 trại trẻ được lập ra ở ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận. Những trại trẻ này đã tiếp nhận, chăm sóc hàng chục ngàn đứa trẻ và nhi đồng là con em cán bộ, nhân viên các cơ quan, đơn vị, cả những cụm dân cư Hà Nội về sơ tán. Các em, các cháu đều được sống trong sự quan tâm, đùm bọc, yêu thương – để lại những dấu ấn tốt đẹp trong tâm hồn trẻ thơ. Bài học về tình thương người, sự sẻ chia và cả tinh thần tự lập là hành trang quí báu nhất cho những con trẻ qua cảnh sống sơ tán trong thời chiến đó! Người đi sơ tán không thể dứt bỏ tất cả mà đi – Họ vẫn về thăm nhà, thăm Hà Nội. Trong tâm hồn người Thủ đô khi đó đã quen với cảnh chiến tranh, không còn sợ hãi nữa. Cuộc sống trong chiến tranh của người Hà Nội gắn liền với chiếc xe đạp: để đi làm, đèo thồ các thứ đến nơi sơ tán. Những căn hầm được đào ngay bên nhà, chúng che chở cho họ trong những trận bom đánh dữ dội. Năm 1964, khi Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc – người lớn thường tụ tập nói chuyện về chiến tranh, về tầu bay Mỹ và cảnh bom rơi… nhưng trẻ con thành phố thì chưa hiểu gì mấy. Ở nơi có các trường đại học về sơ tán – sinh viên nhộn nhịp đào hầm, đào giao thông hào. Lúc đầu, những chiếc hầm và giao thông ấy toàn được bó bằng tre rồi tấp đất lên. Ít lâu thì bị ải, mục hết. Sau, người ta xây những chiếc hầm chữ chi, chạy rích rắc bằng gạch và đậy nắp bê tông hẳn hoi. Trên lại lấp đất, trồng phơ phất ít ngọn khoai lang, nước mưa luôn luôn xăm xắp trong hầm. Từ năm 1966, các trường phổ thông ở thành phố bắt đầu đi sơ tán. Đám trẻ con khu tập thể thì theo bố mẹ đến các vùng nông thôn hẻo lánh, tùy theo cơ quan mà bố mẹ mình làm việc. Cuộc sống thiếu thốn nhưng cũng yên ả - bởi bom Mỹ thả tận đâu đâu. Những đêm thấy đạn cao xạ bắn lên chi chit, nền trời đỏ rực, nhưng vì ở tít xa nên chúng cũng chẳng bận tâm lắm. Chúng học tại trường làng, thường là trong những ngôi đình khá rộng, thỉnh thoảng trường lại tổ chức đi lao động một vài buổi ở xã. Nhưng chính trong thời kỳ này, trẻ em thành phố mới hiểu về cuộc sống nông thôn là thế nào? Chúng đã biết ra đồng xem hun chuột, mót lúa, tát cá, tự bện mũ rơm đeo sau lưng để chống bom bi, biết đun bếp bằng củi, bằng rơm rạ, biết gói bánh chưng, nhuộm quần áo bằng nước lá dâm bụt, biết trộn bùn với rơm trát thành vách và làm những bức tường nhà bằng đất… Nói chung, nhờ những năm tháng đó mà những đứa trẻ vốn chẳng biết gì ngoài đi học rồi chạy chơi trong khu tập thể, đã trở nên tháo vát, nhanh nhẹn, tự lập và làm được nhiều thứ. Cảnh đi sơ tán cũng chẳng khác gì những hình ảnh thường thấy trong phim Liên Xô về chiến tranh: Dân Nga rút khỏi thành phố khi quân phát xít Đức đến, để lại sau lưng những dãy phố vắng lặng, tối đen, lá bay đầy trời. Cảnh vừa bi hùng vừa thê thiết. Hà Nội cứ âm ỉ chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu và đẫm máu chắc chắn sẽ đến. Ngay từ giai đoạn đầu cuộc chiến tranh phá hoại: Khi tiếng còi báo động có máy bay Mỹ đến đánh phá được bấm nút từ Bộ tổng tham mưu quân đội – chiếc còi lớn tám loa đặt trên nóc nhà quốc hội rú lên, rồi mười lăm chiếc còi khác trên toàn thành phố cùng đồng loạt báo động. Lẫn trong tiếng còi báo động là tiếng loa phát thanh khắp nơi: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý!...” – có khi chỉ vài phút sau tiếng còi là tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom rơi, tiếng đạn cao xạ bắn lên những vệt lửa sáng lóe bầu trời. Khi tiếng còi báo yên – những đoàn người lại chui ra từ những chiếc hầm trong lòng đất, lại rộn rã với các công việc đang làm dang dở. Hà Nội đã quen với nhịp sống hối hả của cảnh chiến tranh như thế! Giờ đến thời kì cấp báo hơn, người ta lắp vào chao đèn đường những thiết bị hạn chế ánh sáng. Các khối phố đều phải tập những phương án phòng không. Ngoài những hệ thống loa thông báo của thành phố ở ngoài trời, nhiều gia đình còn đặt thêm những chiếc loa nhựa hình vuông màu trắng trong nhà – Nó cũng được gắn liền với hệ thống truyền thanh của thủ đô: người ta vừa nghe đài Hà Nội, vừa là phương tiện báo động máy bay tiện lợi nhất. Ở những tỉnh có đường tầu hỏa như lên Thái Nguyên, thì tầu đều phải chạy đêm mà không có ánh đèn, để tránh máy bay Mỹ phát hiện. Tầu đi – về vẫn đông nghịt người, ngồi chật như nêm… đến mức hết chỗ, người đứng có khi phải đứng có một chân suốt mấy tiếng đồng hồ, mỏi thì lại đổi. Tầu thời chiến chạy chậm rề rề, đôi khi được thông báo không an toàn… còn phải dừng lại mãi ở ga xép. Vào giai đoạn căng thẳng của cuộc chiến tranh phá hoại, nhất là tình hình được thông báo Mỹ sẽ ném bom rải thảm B52 vào thủ đô – Để cuộc sơ tán dân chúng ra khỏi thành phố nhanh chóng: Hà Nội đã huy động hàng trăm phương tiện từ tầu điện, xe ca, xe tải, cả xe khách của các tỉnh lân cận… về đậu sẵn ở các đầu phố, đón người đi sơ tán không thu cước phí. Khắp nơi vang lên tiếng loa vận động, kêu gọi người dân khẩn thiết, tạm rời Hà Nội để tránh thương vong. Lúc ấy ô tô còn ít nhưng được huy động các xe khách từ nhiều tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phú… Từng đoàn xe rầm rập rời thành phố, khẩn trương nhưng vẫn trật tự. Có một điều kì lạ, người Hà Nội ai cũng tin là đi rồi sẽ trở về! Bởi họ đều tin chắc rằng: Nhất định rồi Việt Nam sẽ thắng Mỹ - Khó có lúc nào con người lại tin vào nước non như lúc ấy! Hướng đi, địa bàn sơ tán dân cư chung của thành phố đã được chính quyền sắp xếp, liên hệ trước. Mọi người chỉ việc bước lên xe là đi, không cần mang theo nhiều tài sản. Mới lại, chủ yếu là cứu người – cứu được người là tốt rồi! Chẳng làm gì có điều kiện ôm đồm mang theo của. Những cán bộ hướng dẫn bảo là đi tạm thời, sẽ có tiếp tế, tiếp viện, có thương nghiệp đi theo phục vụ… nên mọi người cũng thấy an tâm.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.08.2023 16:36:25 bởi Nhân văn >
24- Chiếc xe khách được huy động từ tỉnh Hòa Bình về Hà Nội chở người đi sơ tán, dừng lại gần cửa hiệu bán hàng tạp hóa ở phố Huế. Lúc này, trên xe đã đông người. Họ nán lại chờ vợ chồng con cái anh chủ hiệu hàng tạp hóa lên xe, là chạy thẳng về nơi sơ tán mà thành phố chuẩn bị sẵn. Mặc phong phanh chiếc áo dệt kim đông xuân cổ khoét rộng trễ xuống, để lộ ra bộ ngực phốp pháp như ngực phụ nữ, anh chủ hiệu hộc tốc chạy lại phía xe. Một tay cầm va-ly, tay kia lễ mễ cái túi xách lớn – Hắn vứt qua cửa lên xuống của chiếc xe khách, quay lại thúc giục vợ còn đứng tần ngần ở cửa nhà. Mụ vợ, người đàn bà gầy đét như con cá mắm đang ẵm đứa con nhỏ chưa đầy tuổi. Đứa con gái lớn cũng lạch bạch chạy theo bố về phía xe. Đứa bé bỗng khóc thét lên, tiếng nói to của mụ vợ với chồng làm cho nó sợ hãi: - Đã bảo đi từ mấy hôm trước thì không nghe! Rõ khổ, bao nhiêu đồ đạc của người ta phải vứt cả lại. Tóc mụ xổ tung. Tiếng mụ chu chéo như xé vải: - Thật công cốc tích góp bao nhiêu năm trời. Chuyến này thì ra đường mà sống? Anh chồng bực bội: - Không bế con mau lên xe đi à! Cứ đứng đấy mà gào? còn cả cái thân cô nữa đấy, lắm mồm bỏ mẹ. Tiếng còi ô tô giục inh ỏi. Người chồng nói như quát vợ: “Đã bảo bế con mau ra xe đi ?”. Mụ vợ vẫn ngẩn ra vì tiếc của. - Nhưng mà bao nhiêu thứ còn để lại thế kia? - Để lại! Ra xe mau lên, không có xe nó đi mẹ nó bây giờ. Anh ta chạy trở lại quàng cái dây xích để khóa cửa, quát vợ: “Có phải xe riêng của mình đâu mà cứ chần chừ mãi…”. Ở ngoài xe, đám người phải chờ lâu la lên: - Cái nhà anh chị kia, có đi không thì bảo? Bom nó đánh đến nơi rồi mà cứ đủng đỉnh mãi. Họ kháo nhau: - Này, vợ chồng cái thằng cha ấy mang đến lắm thứ? Xe đã chật, không chừng chúng tháo cả giường mang đi nữa cũng nên. Rồi giục người lái xe: - Đi đi ông lái! Mặc chúng nó, cho chúng nó biết thân. Đồ tham lam… Cũng có người thương hại, bảo: - Thôi, đã chờ rồi thì nán thêm một tý nữa, cho người ta lên xe. - Nhưng vợ chồng hắn cứ lấn quấn mãi như gà mắc tóc ấy, làm bao nhiêu người phải chờ? Người lái xe cũng sốt ruột, thò hẳn đầu ra ngoài cửa xe giục: - Này, anh chị kia! Có đi thì phải nhanh chân lên chứ? Chị vợ cuống quít: - Dạ, chúng em lên xe ngay đây ạ! Nói rồi, mụ bế con chạy vội tới chỗ xe đỗ. Mụ bảo với người đàn ông đang ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa lên xuống: - Bác làm ơn đỡ hộ em cái bọc. Người đàn ông cúi xuống đỡ cái túi vải lớn, loay hoay tìm chỗ để trong xe. Mấy người quanh đấy càu nhàu: - Đồ đoàn của nhà anh chị này chiếm gần nửa xe rồi đấy! Người vợ thì thọt thưa: - Chúng em cũng chỉ vơ vội được ít thứ cần thiết. Khổ, còn bao nhiêu là thứ… các bác ạ! Trông của nả mà xót cả ruột. - Ôi dào… thời buổi này, giữ được cái thân đã là phúc. Một bà già ngồi ở phía hàng ghế đầu, nói gióng lại: - Nhà chị đưa con đây tôi bế cho, vào xe tìm chỗ ngồi đi? Mặt trời sắp đứng bóng rồi đấy! Tầm này, không chừng máy bay Mỹ lại sắp đến đánh. Người vợ rối rít cám ơn rồi đưa đứa con nhỏ cho bà già, leo lên xe. Anh chồng khóa cửa xong cũng chạy vội đến. Đứa con gái lớn thì đã nhảy vào trong xe từ trước. Lúc ấy, có một thanh thiếu niên từ đường phố Thái Phiên hộc tốc chạy sang. Nó vừa chạy vừa gọi anh chị nó. Anh chủ hiệu cửa hàng tạp hóa vội giục em: - Nhanh lên ông tướng, lên xe đi! - Anh chị định đi đâu? - Lên Hòa bình ít bữa, yên rồi về. Thằng em lại bảo: - Anh không về đón thầy mẹ ở nhà đi cùng à? Anh chủ hiệu nói sẵng với em: - Đây là xe thành phố đưa người đi sơ tán, chứ có phải xe riêng của tao đâu mà đón? Mà nghe nói, thầy mẹ đi từ hôm qua rồi mà? - Ông bà chần chừ mãi, vẫn chưa đi. Thằng em nói vậy. Đang ôm con ngồi gọn trong đống đồ đạc, người chị dâu nói với ra: - Chỉ có anh chú chần chừ giờ mới chịu đi, chứ cả Hà Nội người ta đi gần hết rồi! Chú cũng quay về nhà, giục thầy mẹ khẩn trương đi sơ tán? Thời buổi chiến tranh mà cứ lêu lổng mãi. Anh chủ hiệu lại giục em lên xe, nhưng thằng em không lên. Nó bảo: - Anh chị cứ đi đi! Em phải chạy về nhà xem thế nào? Nói rồi, nó chạy vụt đi. Xe nổ máy, bắt đầu chuyển bánh… còn nghe thấy tiếng người vợ nói với chồng: - Thầy mẹ đáng lý phải đi từ sớm? Cứ dùng dằng mãi. Giờ nó đánh đến đít, mới vội vội vàng vàng… Mụ chép miệng: “Khốn, ông bà già nhà mình còn hám của lắm cơ!”. - Thế nhà chị thì không hám của chắc? Một bà già ngồi trong xe quặc lại. Chiếc xe chạy bằng dầu ma-dút nhả ra một vệt khói đen xì… lao vút đi trên đường phố.
25- Sáng hôm nay Bà Giáo vượt về Hà Nội. Bà bảo, suốt đêm qua vì lo cho Ông Giáo mà bà không sao chợp mắt được. Ở trên chỗ sơ tán, chốc chốc bà ra sân nhìn về phía Hà Nội. Mỗi khi nghe thấy tiếng bom nổ đâu đó, thấy những đám lửa bốc lên sáng láng một góc trời, mặt đất dưới chân lắc mạnh… lòng Bà Giáo bồn chồn. Bà tự trách mình thiếu cương quyết để cho Ông Giáo ở lại Hà Nội. Bà cũng rất lo cho Thu - cô con gái của bà, nhưng bà không thể lôi nó theo lên chỗ sơ tán được? Nó tốt nghiệp đại học ra trường, giờ đã là phóng viên của tòa soạn báo Hà Nội Mới, phải ở lại thủ đô để làm việc. Đành vậy, nhưng đằng này Ông Giáo... Bà nghĩ, giờ nhất định phải thúc ông ấy đi cho bằng được. Lúc này, Ông Giáo vẫn đang loay hoay sắp xếp một số giấy tờ, đồ đạc cần thiết cho vào chiếc va-ly, nói với vợ: - Người ta mong đi, bà thì đã yên tĩnh ở nơi sơ tán rồi… còn quay trở về? - Nhưng tôi sốt ruột lắm! Ông cứ cố ở lại Hà Nội thế này, ai mà yên được? Bà Giáo chạy đến thu bộ quần áo treo trên mắc, gập gọn cho chồng. Trưa nay khi cơm nước xong, Ông Giáo cũng đành phải theo vợ tới vùng ngoại ô sơ tán ít bữa. Ông nhìn ra cửa sốt ruột: - Đến giờ mà con bé vẫn chưa về? Nghĩ ngợi thế nào, ông nói tiếp: - Tôi và bà đi cả, để con bé ở Hà Nội một mình à? Bà Giáo chặc lưỡi: - Vẫn biết, nhưng nó là phóng viên của tòa báo phải bám trụ ở thành phố? Hơn thế, nó còn ở trong cả đội tự vệ thủ đô nữa đấy! Nói vậy, song Bà Giáo cũng cảm thấy bối rối. Bà bảo: - Hay là, tôi ở lại với con? Ông về quê sơ tán ít bữa. Ông bà chủ nhà nơi mình đến ở, tử tế lắm! Họ nông dân mà… chân chất, thật thà. Ông Giáo cự vợ: - Bà tính quẩn. Tôi nghĩ thế này? Dứt khoát là không thể để con bé ở lại một mình được. Hay là… bà lên chỗ sơ tán của con dâu và cháu, nó đi theo cơ quan ở trên Vĩnh Phú? - Thế còn ông? - Tôi ở Hà Nội vừa trông nom con gái, cũng tiện cả việc giúp đỡ anh em trên Bộ giáo dục. Cơ quan còn ít người quá! Bà Giáo nguýt chồng: - Có con Thu nó phải trông nom ông ấy? Cái thân già như ông mà còn đòi trông nom con gái. Ông thì lúc nào cũng chỉ lo cho “Bộ…”, phải nghĩ đến mình một tý chứ! Bao nhiêu thanh niên… bom đạn thế này… Ông ở lại chỉ tổ làm vướng chân họ. - Bà chỉ nói… - Mà Bộ giáo dục đã quyết định cho ông đi sơ tán cơ mà? - Đã đành thế! Vừa lúc, Thu đẩy cửa dắt xe đạp vào nhà. Cô reo lên: - May quá! Con cứ sợ về không kịp gặp ba, mẹ. - Có đi thì cũng phải chờ con về, ba mẹ mới đi được chứ. Ông Giáo âu yếm nhìn con. Thu dựng chiếc xe đạp mác “thống nhất” mới khự vào cạnh tường – Đây là chiếc xe đạp Ông Giáo mua theo tiêu chuẩn phân phối của cơ quan, ông nhường để con đi. Thu ôm lấy vai mẹ thở hổn hển. - Con đi đâu mà phải vội vã thế? Bà Giáo vuốt cho con mấy sợi tóc xõa xuống trán. Thu rời mẹ ra lấy chai nước lọc rót một cốc lớn, uống ừng ực. Cô nói: - Con được cơ quan cho về để đưa ba, mẹ đi sơ tán. Bước đến chỗ chiếc va-ly của Ông Giáo đang phồng cộm lên, cô bảo: - Để con xếp lại. Căng thế này thì ba khóa làm sao được? - Thôi, con để lại các thứ vào chỗ cũ cho ba: quần áo cho vào trong tủ, sổ sách của ba thì đặt lên giá. Dừng lại một tý, Ông Giáo tiếp: “Ba không đi nữa!”. Thu ngước nhìn ba ngạc nhiên. - Sao thế ba? Sao ba lại không đi sơ tán nữa? Tình hình căng lắm! Trên thông báo, có thể Mỹ sẽ cho cả B52 rải thảm vào Hà Nội đấy! Ông Giáo không nhin con, đi mấy bước rồi rút bao thuốc lá Tam Đảo trong túi áo ngực, lấy một điếu, quẹt diêm châm lửa hút. Ông nói: - Thế, lớp trẻ các con định dành hết vinh dự cho mình à? Ông rít tiếp một hơi thuốc nữa, bảo: “Trong lúc này, ba cũng có nghĩa vụ phải góp sức già của ba chứ!”. Bà Giáo nói: - Thế thì mẹ cũng ở lại. Thu ngạc nhiên, hết nhìn ba đến nhìn mẹ: - Lại cả mẹ nữa? Cô giảng giải: - Chúng nó đánh phá dữ lắm… ba, mẹ ạ! Đợt này thằng Mỹ còn muốn… đánh cho thủ đô ta trở về thời kỳ đồ đồng, đồ đá cơ đấy! Bà Giáo phật ý, mắng át: - Ba con cô tưởng cái thân bà già này ham sống một mình à? Tôi sống cũng còn vì ba cô, vì cô đấy! - Thì con có nói gì đâu? Thu cãi lại. Ông Giáo dàn hòa: - Bà lại nổi nóng rồi. Từ ngoài phố, Lan và Thúy – hai người bạn gái của Thu bước vào nhà. Thu chạy đến đón bạn, hoan hỉ: - Hôm qua tớ có đến nhà hỏi thăm về tình hình hai cậu? nhưng thấy nhà đều khóa cửa. Tớ đoán chắc gia đình đã đi sơ tán cả. Lan và Thúy gật đầu rồi đến chào Ông bà Giáo. Các cô ríu rít hỏi: - Tới giờ mà hai bác vẫn chưa đi sơ tán ạ? Thu nhanh nhẩu: - Ba, mẹ mình còn đang định ở lại bám trụ Hà Nội đấy? - Ấy chết, ở lại không được đâu hai bác ạ! Lan nói: “Thành phố đã ra thông cáo phải sơ tán ra khỏi thủ đô, càng nhiều càng tốt!”. Thúy chêm vào: - Nghe đâu: Hiệp định Pa Ri vừa rồi không đi đến kết quả? Ta không kí được văn bản thỏa hiệp với Mỹ. Bà Giáo đon đả: - Tình hình Hiệp định Pa Ri cụ thể thế nào, hả cháu? - Cháu nghe lãnh đạo cơ quan phổ biến, phiên họp mới nhất vừa đây giữa ông Lê Đức Thọ với cố vấn Hoa Kỳ Kissinger phải giải tán. Cả hai bên không thống nhất được quan điểm đình chiến. Ba Giáo thở dài: - Nghĩa là vẫn còn đánh nhau to. Lan đỡ lời: - Hai bác không thể ở lại Hà Nội được đâu? Sắp tới chúng còn ném cả bom B52 đấy ạ! Chẳng phải chỉ có cơ quan thông báo, báo và đài phát thanh cũng nói ra rả. Thu nói: - Bởi tình hình căng thẳng như thế nên cơ quan mới cho con về, nhất định phải đưa bằng được ba và mẹ đi sơ tán! Cô vừa xếp cẩn thận đồ đoàn vào chiếc va-ly cho Ông Giáo, vừa tỏ thái độ cương quyết: - Trưa nay , con sẽ cùng ba, mẹ đi tới chỗ sơ tán. Sớm mai con trở lại Hà Nội, đến cơ quan làm việc cũng được. Bà Giáo vẫn tỏ ra băn khoăn. - Nhưng vì sao Hiệp định Pa Ri đã họp mấy năm nay rồi mà ông Lê Đức Thọ vẫn không kí kết được đình chiến cơ chứ? Ông Giáo châm lửa hút tiếp một điếu thuốc nữa, mới thong thả nói: - Thực ra văn bản thỏa hiệp giữa Lê Đức Thọ và Kissinger cũng đã được thống nhất: Theo bản thỏa hiệp đó, Mỹ và các nước đồng minh phải rút hết quân ra khỏi miền Nam nước ta – còn quân đội nhân dân Việt Nam sẽ chính thức ở lại miền Nam. Ta cũng đã nhượng bộ để cho chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn được tồn tại song song với ta, trong một giải pháp hòa bình… Bà Giáo tiếp lời: - Ồi… cứ đình chiến không còn chiến tranh nữa, là tốt rồi! Trước mắt ai tồn tại cũng được, rồi sau sẽ hay. Thế thì, tại sao Hiệp định vẫn chưa được kí? Tình hình còn ngày càng căng thẳng hơn. Ông Giáo giải thích cho vợ: - Vì thằng Thiệu nó phản đối kịch liệt, bản dự thảo hiệp định đó vẫn mới chỉ là của giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Hoa Kỳ. Nó nói rằng: Kí kết một hiệp định như thế là hi sinh quyền lợi của Chính quyền Việt Nam cộng hòa. Bà Giáo lại hỏi: - Thế, thằng Tổng thống Thiệu nó muốn gì? - Nó yêu cầu các lực lượng quân sự của Việt Nam Dân chủ Công hòa ở miền Bắc – tức là Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng phải rút toàn bộ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nó tuyên bố rằng: Bắc Việt Nam là Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam là Nam Việt Nam! Tồn tại hai nước Việt Nam, không bên nào được xâm lược bên nào. Bà Giáo phản đối: - Như thế … thế nào được? Cả nước Việt Nam người ta chỉ là một. Ông Giáo rít tiếp một hơi thuốc lá dài nhả khói lên trời, rồi ra giọng giảng giải: - Thế cho nên phiên họp vừa đây ở Hội nghị Pa Ri mới bị vỡ. Tổng thống Nixon cho gọi Kissinger về Washington rồi! Lúc này Thu mới cự lại Ông Giáo: - Ba nắm tình hình rõ như thế, mà còn định ở lại Hà Nội không chịu đi sơ tán? Bà Giáo được dịp nói móc chồng: - Ba cô còn phấn đấu để trở thành anh hùng !? Rồi bà kiên quyết: - Đã như vậy, đợt này ông phải lên chỗ sơ tán của tôi tạm lánh ít ngày, xem tình hình ra sao rồi hãy hay! Ông Giáo chưng hửng: - Thế, bà quyết định là tôi và bà đến chỗ sơ tán của bà ở Ba La – Bông Đỏ, chứ không lên chỗ sơ tán của con dâu ở Vĩnh Phú à? - Con dâu nó đi theo cơ quan. Con nhỏ theo mẹ là chuyện bình thường, chứ tôi với ông cũng đến chỗ đó nữa, không tiện. Mới lại, chỗ tôi đang sơ tán bây giờ… gia đình tốt lắm! Ông lên đấy với tôi, người ta sẽ chào đón. Nhân tiện, hôm nay cái Thu nó cũng lên chơi – Lần nào tôi về, chị chủ nhà cũng tíu tít hỏi thăm ông và cái Thu đấy! Nói rồi, Bà Giáo quay về phía Lan và Thúy. - Hai cháu ở đây chơi với em, bác vào bếp làm cơm. Hai cháu ăn cơm với gia đình luôn thể. - Dạ, cám ơn bác! Bác đừng nấu cơm chúng cháu. Bọn cháu chỉ tạt qua thăm Thu và hai bác, phải về ngay ạ. Lan tiếp lời của Thúy: - Chúng cháu tranh thủ về Hà Nội lấy ít đồ đạc. Mai phải trở lại cơ quan trên chỗ sơ tán, bác ạ! Bà Giáo vội đi vào phía trong nhà bếp, đến cửa còn ngoái đầu nói với chồng: - Ông tranh thủ gói ghém đồ đoàn cho cẩn thận. Tôi chỉ vào nấu nướng một loáng. Ăn cơm xong, ta lên đường luôn. Bà mẹ đi khuất, Thu nói với ba: - Ba xem còn những thứ gì cần mang theo đến nơi sơ tán thì ba chuẩn bị nốt đi. Chúng con lên phòng của con nói chuyện một lát. Hai người bạn gái cùng Thu đi lên gác, căn phòng mà cô và mẹ ở đó. Họ ngồi xuống chiếc giường cá nhân của Thu trò chuyện. Thúy kể về tình hình cơ quan nơi sơ tán, rồi tình cảm của bà con địa phương đã đùm bọc anh chị em nhân viên, cán bộ thế nào? Các bạn gái của Thu, ai cũng khen bà con nông dân tính nhân hậu, thật thà. Lan, cô bạn xinh xắn vừa tốt nghiệp Đại học dược, được điều về công tác trong một bệnh viện tận Ba Vì. Cô cũng đưa cả bố mẹ già lên đó ở với mình. Thu thì kể cho hai bạn nghe nghề phóng viên, phải thường xuyên đi tới các tỉnh lấy tư liệu viết bài. Cô nói về những buổi đến với anh em bộ đội trong đơn vị tên lửa, pháo cao xạ phòng không… đã ríu rít chuyện trò với các chiến sĩ vui như thế nào? Những buổi cô ra ngoại thành, nơi bom Mỹ mới ném bom, vừa nắm tình hình vừa tham gia cứu người bị nạn. Có bận cứu người bị bom ném sập nhà, đang ở bên trong thì một bức tường đã đổ… may không ai việc gì. Thu nói: - Mình cũng hú vía, một tý nữa bị bức tường đổ đè lên người… thì làm sao còn về đây gặp bọn mày được? Cô còn dặn hai bạn: - Chớ có nói chuyện đó với ba và mẹ tớ, chỉ làm cho các cụ phải lo lắng. Ba người bạn gái lâu lâu mới được gặp nhau, chuyện tưởng như không bao giờ dứt. - Ấy chết, mải chuyện trò? Tớ đi lấy đường pha cho mỗi cậu một cốc nhé! Thu vừa hòa đường pha nước vừa hỏi: - Thế, anh kỹ sư bảnh trai của cậu… vẫn còn theo đuổi chứ Lan? - Good-bye rồi! Lan trả lời: “Thấy tớ được điều về công tác ở tỉnh lẻ, anh ta quay lưng ngay!”. - Nhưng mà này… Lan nói tiếp: “Chúng tớ muốn biết về tình hình anh Hoàng của cậu cơ? Người chiến binh yêu quí! Cậu có hay nhận được thư của Hoàng không?”. - Tớ cũng mới nhận được thư của anh ấy mấy hôm trước. Thu bảo vậy. Lúc này, Thúy rời mắt ra khỏi cuốn truyện lấy trên giá sách, vồn vã hỏi: - Thế, Hoàng kể chuyện chiến trường miền Nam thế nào? Ác liệt lắm nhỉ! - Hoàng nói tình hình căng thẳng lắm! Thu bảo. Lan đỡ lời, cứ như cô là người rất thông thạo tình hình chiến cuộc. - Tất nhiên, chẳng cần phải kể. Thúy thở dài vẻ cảm thông với sự chờ đợi của Thu. - Hoàng đi cũng đã năm năm rồi còn gì? Tình hình ngoài chiến trường như thế, khó có điều kiện về phép lắm! - Hơn năm năm, già năm năm rưỡi. Lan lại chêm vào. Thúy an ủi bạn: - Gần sáu năm biền biệt và chờ đợi, phải thế không Thu? Thu gật đầu và nói: - Mình tính: Hoàng nhập ngũ ngày 27 tháng 3 năm 1967, đến tháng 2 năm Mậu Thân 1968 thì rời miền Bắc vào chiến trường Tây Nguyên – Tới giờ, kém bốn tháng là đầy sáu năm. Lan ôm lấy vai bạn. - Dù sao thì cậu vẫn còn có người để mà chờ, còn mình thì good-bye… không biết sẽ chờ đợi ai? Thu đưa nước cho các bạn. - Kìa, uống nước đi chứ! Đường tan từ lâu rồi. Thúy đỡ cốc nước từ tay Thu, thấy Thu cứ tủm tỉm cười mới hỏi: - Cậu có gì vui mà tủm tỉm cười suốt thế? Chắc còn dấu bọn mình điều gì phải không? - Không phải là tớ dấu, mà là tớ chưa kịp kể. Thu nói. Lan đặt cốc nước xuống chiếc bàn gần đấy, nhìn Thu vẻ soi mói: - Thế thì kể đi. Chắc mày được đề bạt vượt cấp, lên làm trưởng phòng ở tòa soạn báo chứ gì? - Chuyện về anh Hoàng cơ? Cả hai người bạn gái của Thu đều ồ lên. - Chuyện gì vậy? Chuyện gì của anh Hoàng mà làm cho mày vui thế, kể cho chúng tao nghe đi! - Hoàng nói, đầu năm tới anh ấy sẽ được về phép. - Thế à? - Nếu Hoàng về phép lần này thì cưới thôi, Thu ơi! Lan và Thúy ôm chầm lấy bạn, cứ như đó là tin mừng của chính họ. Thu “suỵt” hai bạn: - Nói khẽ chứ! Tớ chưa kể cho ba, mẹ tớ biết đâu. - Thế thì phải báo ngay tin về ông con rể tương lai, để hai bác mừng. - Các cậu này, đã cưới đâu mà dâu với rể? - Thì gọi dần đi là vừa. Nói nghe có vẻ xa xôi - sang “đầu năm tới” chỉ còn một – hai tháng nữa, chứ bao nhiêu? Bây giờ đã là tháng 12 rồi. - Nhưng chiến tranh, bom đạn thế này? Chuyện cưới xin… có lẽ phải để yên yên một tí đã. Thu nói có vẻ ngập ngừng. - Biết bao giờ yên? Lan lại giục bạn: “Tớ thấy khối đôi: họ báo cho gia đình biết trước để chuẩn bị. Anh xin đơn vị nghỉ phép dăm ba ngày, tạt về là cưới liền.”. Thúy họa theo: - Có khi cưới xong, anh chị chỉ ở với nhau được một-hai hôm… anh đã phải trở về đơn vị. Thời chiến mà… - Nhưng đấy là anh ta có điều kiện đóng quân ở miền Bắc. Đằng này, anh Hoàng ở mãi tận chiến trường miền Nam. Thu băn khoăn. - Thì lại càng phải tranh thủ cưới ngay chứ sao! Lan vẫn giục. Thúy cũng vun vào: - Lan nó nói đúng đấy, Thu ạ! Chiến tranh thế này, ở tận mặt trận trong đó mà được đơn vị cho về phép là may mắn lắm! Cậu nên báo cho hai bác biết, để chuẩn bị trước. Hoàng về, bảo anh ta thúc gia đình nhà trai tổ chức cưới. Lan kéo dài giọng như răn đe: - Không tranh thủ thời cơ mà cưới á? Mình là con gái, có thì… chờ “yên” thì thành mõ già hả chị? - Thôi được rồi, thì cưới. Thu cười phấn chấn. Cô quay sang Thúy hỏi: - Cứ mải chuyện của tớ mà chưa hỏi cậu: Thúy chưa kể cho bọn này nghe về chuyện của đằng ấy đấy! - Chuyện tình yêu hay cuộc sống? Thúy hỏi lại. - Cả hai. - Chuyện tình yêu của mình thì dài dòng lắm, khi nào thư thả mình sẽ kể cho các cậu nghe! - Thế còn cuộc sống? Thu nhìn Thúy dò hỏi: “Tớ hỏi thật nhé, làm công tác ấy cậu có vui không?”. - Kể ra, lúc đầu tiên vào học cái ngành kỹ sư nông nghiệp, mình cũng thấy chán nản. - Thế bây giờ? - Vấn đề là ở chỗ: đi sâu vào nghề nghiệp và tìm thấy cái mới của nó. - Thì cậu vẫn có năng khiếu về môn “sinh vật học” mà… Cứ thế, ba người bạn gái tào lao bao nhiêu chuyện. Lan ngước nhìn chiếc đồng hồ báo thức Liên Xô của nhà Thu đặt trên bàn, giục Thúy: - Đã gần 11 giờ trưa rồi đấy! Mình cũng phải về để cho cái Thu nó cơm nước, còn đưa hai bác đến chỗ sơ tán. - Ừ, thôi về. Đêm nô-en bọn này sẽ về Hà Nội cùng cậu đi chơi suốt đêm. Ba người bạn gái ôm hôn nhau thân thiết. Họ xuống dưới nhà chào Ông Giáo rồi chia tay. Khi Thu tiễn các bạn quay vào, vừa lúc Bà Giáo cũng từ nhà trong đi ra. Cô hỏi: - Mẹ nấu xong cơm rồi ạ! - Ừ, mẹ nấu xong rồi. Hai ba con tranh thủ vào mà ăn. Ông Giáo đang ngồi trầm ngâm uống nước, cất tiếng hỏi con: - Thằng Hoàng nó có viết thư về không con? - Dạ, con cũng mới nhận được thư của anh ấy hôm vừa rồi ạ! Anh ấy gửi lời hỏi thăm ba, mẹ. Bà Giáo vồn vã: - Thế, nó có khỏe không con? Nghe nói, ở Tây Nguyên đánh nhau ác liệt và phải sống kham khổ lắm! Bà Giáo lại thở dài thườn thượt. - Nhưng dù sao thì cũng còn nhận được của nó lá thư mà biết tình hình. Đằng này, anh trai con biền biệt mấy năm nay chẳng có tin tức gì. Không biết sống, chết ra sao? Thu biết mẹ đang lo lắng cho anh Tâm. Lòng cô cũng xót xa thương nhớ anh, nhưng chẳng biết làm sao? Cô lặng lẽ ngồi xuống ghế. Ông Giáo lại rút một điếu Tam Đảo, châm lửa hút rồi chậm rãi nói: - Thằng Hoàng thì đánh nhau tít trên Tây Nguyên, thằng Tâm lại chiến đấu ở mãi dưới đồng bằng. Chiến trường chỗ nào chả ác liệt và gian khổ? Bà Giáo dặn Thu: - Mặc dù đã lâu không nhận được thư anh, nhưng con vẫn phải thường xuyên viết thư vào cho anh. - Tháng nào con cũng viết cho anh Tâm một, hai lá… chẳng hiểu anh ấy có nhận được không nữa? Thu ngẫm nghĩ giây lát rồi mới thưa: - Anh Hoàng viết thư cho con nói là, sang xuân anh ấy được đơn vị giải quyết cho về nghỉ phép, ba mẹ ạ! Cả Ông bà Giáo đều reo lên: - Thế à! Bà Giáo hỏi chồng, đầy nhã ý: - Nếu Hoàng nó được về phép thì hay quá! Ông thấy thế nào? - Ý bà nói thế là thế nào? Bà Giáo quay về phía Thu: - Thế, anh Hoàng nói với con sẽ được về nghỉ phép bao lâu? - Dạ, anh ấy nói ở chiến trường xa nhiều năm… về phép ít nhất cũng phải được một tháng ạ! Bà Giáo lại quay về phía Ông Giáo: - Ý tôi nói là… thằng Hoàng về phép chuyến này thì cho chúng nó cưới đi, ông ạ! - Nhưng phải xem ý của thằng Hoàng thế nào đã chứ? Ông Giáo nhìn con gái hỏi: - Mẹ con nói thế thì con thấy thế nào? Thu tủm tỉm cười, hết nhìn mẹ rồi nhìn ba: - Tùy ba và mẹ. Con nghĩ, chắc anh ấy cũng không có gì khó khăn đâu. Thực ra trong thư Hoàng cũng đã nói với cô, đợt này về phép sẽ làm lễ cưới. Nghe con nói vậy, Bà Giáo vui mừng ra mặt. Bà bảo: - Trong thời buổi chiến tranh này, các anh bộ đội về phép thường tranh thủ cưới vợ, rồi mới đi. - Mẹ làm như là… cứ bộ đội về phép, ai cũng lấy vợ cả ấy? - Thì đa số thế! Tốt rồi, vậy là tốt rồi! - Mẹ bảo cái gì tốt? Thu thừa biết mẹ định nói gì nhưng cô vẫn gặng hỏi. Bà Giáo hoan hỉ: - Thì, tổ chức cưới. Anh chị lấy nhau rồi cho ba, mẹ đứa cháu ngoại để bế… vậy chả là tốt à? - Nhưng anh Hoàng chỉ đi phép, đã được về hẳn đâu mà mẹ nói đến cháu ngoại? - Thì ai nói nó phải về hẳn. Về một tháng phép, chả lẽ anh chị không cho chúng tôi được đứa cháu? - Mẹ này! Chiến tranh mà mẹ cứ làm như hòa bình. Ông Giáo vẫn ngồi tủm tỉm cười. - Thôi, bà xem cơm nước thế nào cho ba con tôi ăn. Sắp 12 giờ trưa rồi đấy! Bà Giáo hứng khởi bảo chồng: - Mải chuyện trò mãi. Cơm canh tôi đã dọn sẵn ở dưới nhà, ba con ông chỉ việc xuống ăn. Ăn xong, nghỉ ngơi một tý rồi ta đi về quê kẻo muộn. * Khi Ông bà Giáo cùng với cô con gái về đến nơi sơ tán, trời đã chiều tối. Đó là một làng quê có tên gọi là “Xốm”, ở phía trong Thị trấn Ba La – Bông Đỏ thuộc Tỉnh Hà Tây. Cụ chủ nhà phải đến tám mươi tuổi. Cụ vận một bộ đồ nâu, đang ngồi trên chiếc tràng kỉ kê giữa gian nhà chính. Đó là cụ Lễ, mái tóc đã bạc trắng như cước. Thấy Bà Giáo đi vào, cụ Lễ móm mém cười hỏi: - Bà Giáo đã về đấy à, sao lại chỉ có một mình thế? Vừa lúc Ông Giáo và Thu bước vào, nét mặt cụ Lễ rạng rỡ hẳn lên. - À, đây rồi! Chắc hẳn là Ông Giáo phải không? Rồi cụ nhìn Thu một lượt từ chân lên đầu, hơi ngỡ ngàng: “còn đây là…”. - Dạ, chào cụ. Cháu là Thu ạ! Thu lễ phép đáp lại lời cụ chủ. - Nghe mẹ cháu đã kể về cháu, cả ba cháu nữa… mà nay gia đình mới gặp. Cụ Lễ bảo thế. Tình cảm ở vùng quê thật dễ thân thiết, cứ như những người ruột thịt đi xa lâu ngày gặp lại nhau. Mọi người chào hỏi thân mật xong, cùng ngồi xuống bộ tràng kỉ. Cụ chủ cầm chiếc ấm pha trà nhỏ, định rót nước vào các chén. Thu vội đón và rót thay cho cụ. Cụ chủ hướng ra cửa gọi: - Thắm ơi! Cô Giáo đã về rồi đây này. Cả nhà cùng về, lên đây thầy bảo. Nghe tiếng cô gái nói rõ to từ dưới bếp vọng lên: - Con đang dở tay tí chút, chờ một téo con lên! Thắm là cô con gái út cụ Lễ. Cụ bà sinh được năm người con, bốn gái một trai… thì bị mất, khi Thắm mới lên năm tuổi. Ba cô con gái đầu của cụ đều lấy chồng ngoài tỉnh, thỉnh thoảng cũng tranh thủ tạt về thăm cha già. Người con trai là anh của Thắm đã lấy vợ, hiện giờ đang ở ngoài chiến trường, chỉ có cô con dâu tên là thơm ở với cụ, đi làm đồng chắc cũng sắp về. Cụ Lễ ở trong một căn nhà gỗ năm gian chia làm ba phòng, lợp ngói. Tuy không phải là gỗ thật quí, nhưng cột kèo đều được làm bằng loại gỗ tốt. Do tổ tiên để lại. Gian phòng giữa rộng nhất đặt bộ tràng kỉ tiếp khách, góc phòng kê một chiếc giường gỗ trên có trải chiếu hoa cho cụ Lễ nằm. Phòng bên của cô Thắm nhưng nay nhường cho Ông bà Giáo đến ở. Thắm sang ngủ với chị dâu ở phòng bên nữa. Khi Ông bà Giáo và Thu đến, nhất là biết Ông Giáo cũng sẽ ở lại, cụ Lễ vui lắm! Nghe nói, mai Thu phải trở về Hà Nội sớm, cụ chủ tỏ ra ái ngại dặn dò: - Cháu phải ở lại thủ đô công tác, thì đã đành. Đó là việc của cơ quan, nhưng phải cẩn thận cháu nhớ! Nghe thấy tiếng báo động có máy bay là phải xuống hầm ngay, chớ có chủ quan. Cụ chỉ ra phía trái nhà, nơi có một chiếc hầm với mái che mới được trát vôi vữa, bảo Thu: - Đó là căn hầm trú ẩn nhà làm cho mẹ cháu! Khi mẹ cháu về đây, lão phải thúc giục các con đào hầm ngay. Cụ quay về phía Ông Giáo nói: “Cái hầm này lão cho đào sẵn, còn để đón cả Ông Giáo về sơ tán đấy!”. Ông Giáo tỏ lời cám ơn cụ. Vừa lúc, Thắm từ dưới bếp chạy lên. Đó là một cô gái khá bụ bẫm, trông tươi tắn, hồn hậu, trạc ngoài hai mươi tuổi, chưa lập gia đình. Nghe nói, cô đã có người yêu nhưng anh ấy cũng đã ra chiến trường. Thắm mới tốt nghiệp khoa y tá, được điều về làm ở phòng y tế của xã để dễ bề chăm sóc cha già. - Con nấu cơm cả cho cô chú và em nó ăn luôn. Cụ Lễ nói với Thắm rồi quay sang phía Ông bà Giáo: - Cơm cũng chỉ có canh dưa và mấy con cá tép, cái Thơm nó bắt ở ngoài mương về. Bữa này, Ông bà Giáo và cháu Thu ăn với gia đình cho vui. Đã sống với gia đình một thời gian nên Bà Giáo hiểu: Người nhà quê hiền lành, chân thật và quí người – nên bà cám ơn cụ chủ chứ không từ chối. Dọc đường Bà Giáo đã mua một túi hoa quả với ít bánh kẹo để làm quà cho gia đình. Khi Bà Giáo đưa, cụ chủ cứ phàn nàn mãi: - Tình hình phải về quê sơ tán thế này là khó khăn lắm rồi, mà Bà Giáo còn hoang phí mua nhiều quà thế? Trời tối hẳn thì Thơm, cô con dâu cụ chủ cũng đi làm đồng về. Chị khoảng 24-25 tuổi, như bông hoa mới nở mời đó, đang độ xuân thì mà chồng lại đi xa. Cảnh chiến tranh, trai tráng làng quê phải đầu quân đi hết… chỉ còn toàn đàn bà, con gái ở lại, thật tội. Tối đó, Ông bà Giáo và Thu ăn cơm cùng gia đình. Dẫu bữa ăn chỉ có cơm canh với món cá kho đạm bạc, nhưng mọi người đều thấy rất ngon lành. Thu có cảm tưởng không khí ở làng quê thật đầm ấm. Đưa ba mẹ về sơ tán nhìn cảnh sống như thế, lòng cô cũng yên tâm. Đêm đó - Ông bà Giáo thì ở ngay gian phòng bên, còn Thu sang ngủ chung với Thắm và người chị dâu. Một loáng họ đã trở nên thân thiết, nhất là Thu và Thắm, cứ như đôi bạn thân lâu ngày gặp lại… rối rít kể cho nhau nghe đủ chuyện. Chị Thơm đi làm đồng về mệt, chuyện trò một tí là lăn ra ngủ liền. Nói chuyện một lát, Thắm cũng ngủ thiếp đi. Thu kéo chăn đắp kín cho bạn rồi vén màn rón rén bước ra sân. Lòng cô thao thức không ngủ được. Thu ngắm nhìn cả trời sao, những vì sao đêm mùa đông heo hút. Làn gió lạnh từ ngoài đồng thổi về, Thu khẽ rùng mình. Cô cứ thẩn tha đi từng bước trên sân, lòng lại nghĩ về anh. Một tình cảm rạo rực trào lên trong con người Thu. Cô tưởng tượng những ngày tới, khi anh về phép… với niềm vui thật là khó tả. Cả ngày hôm nay, từ những người bạn gái đến ba mẹ Thu – khi được cô báo tin anh sắp về... ai cũng vồn vã giục cô phải cưới. Ôi! Một lễ cưới sẽ được tổ chức – Đó là một ngày trọng đại của người con gái. Người con gái nào vào tuổi xuân thì mà chẳng ước mơ, trong đời có một lần mặc đồ áo cưới !? “Anh thân yêu! Ở tận chiến trường xa xôi, có nghe thấy tiếng thầm thì của em không? Đêm nay anh ở đâu, đang hành quân hay trong một trận chiến đấu máu lửa. Ôi, ước gì lúc này anh cũng có những phút yên tĩnh, thao thức trong đêm như em – Thu đang nghĩ đến anh đây, anh có biết không?”. Bỗng Thu lại nhớ về tối đó bên con suối rừng, ở nơi cô theo trường sơ tán. Phải, lần ấy cô đã trao cả cái quí nhất của người con gái cho anh. Nhớ đến hình ảnh mình khi trần truồng nằm bên bờ suối, Thu tự mắng mình: Đúng là vô duyên! Nhưng rồi, cô lại cười với mình trong đêm vắng. Mắng mình thế thôi, chứ cô biết… nếu có anh ở đây, thì cô sẽ lại làm cái chuyện vô duyên ấy với anh. Trong lòng cô, cô đã coi anh như chồng của mình rồi. Từ cái tối đó đến giờ, thế mà đã gần sáu năm rồi, anh ạ! Nhớ câu ca dao: Dao đâm vào thịt thì đau Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời Em không bao giờ quên cái lần đầu tiên em dành cho anh đâu! Cô thấy thương anh quá. Ở ngoài chiến trường bom rơi, đạn nổ, cuộc sống khổ cực – Cả tuổi xuân của anh, nào có được hưởng chút vui thú nào đâu? Nghĩ vậy, Thu lại thấy vui vui: Chính cô đã dành cho anh được niềm lạc thú, sung sướng ấy! Nếu khi đó từ chối anh, có lẽ bây giờ cô sẽ phải ân hận lắm? Cô từng nghe kể: nhiều anh chiến sĩ trẻ vào chiến trường cũng chỉ mới tuổi đôi mươi, đã phải hy sinh trên chiến trận. Đến khi chết vẫn chưa được biết hương vị “yêu” là gì? Chưa được biết về đàn bà… thấy các anh ấy tội quá! Miên man suy nghĩ, Thu không hay biết mẹ đã ra đứng sau lưng từ lúc nào? Đêm nay, Bà Giáo cũng không ngủ được. Bước nhẹ ra cửa, bà thấy con gái đang đứng trầm ngâm trong đêm. Bà Giáo lặng lẽ nhìn con, nhưng không nói. Như có một linh tính, Thu quay người lại thì trông thấy mẹ. Cô đến gần Bà Giáo, hỏi nhỏ: - Mẹ vẫn chưa ngủ à? Bà Giáo lắc đầu rồi nhắc con: - Con nhớ thỉnh thoảng lên thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh? - Con cũng mới lên đó về, mẹ ạ! Cô bảo: “Chỗ chị dâu con và cháu sơ tán, được cơ quan chăm sóc chu đáo lắm, mẹ không phải lo.”. Bà Giáo lại thở dài. - Anh Tâm con mấy năm nay không có tin tức, thư từ gì? lòng mẹ cứ bồn chồn không yên. Nói dại, ngộ nhỡ… - Chắc không có chuyện gì đâu, mẹ ạ! Do tình hình đánh phá ác liệt, thư từ ở chiến trường gửi về hay bị thất lạc thôi. Thu an ủi mẹ như thế, chứ thực tình… lòng cô lo cho anh nhiều khi như lửa đốt. Dừng lại ít phút, Bà Giáo nói tiếp: - Nghe tin thằng Hoàng sắp được về phép, mẹ mừng quá! Thỉnh thoảng con cũng nên tạt qua nhà Hoàng, thăm hỏi gia đình. Nhất là đối với ông bố già? Dù sao thì con người ta cũng ra chiến trường. - Con có tới hỏi, bên ấy cả nhà cũng đi sơ tán rồi ạ! - Ừ nhỉ! Mẹ quên khuấy. Với tình hình căng thẳng hiện nay, trẻ con và người già đều phải đi sơ tán hết. Bà Giáo lại nói: - Thế, còn chuyện của con? Khi anh Hoàng về phép thì sẽ tổ chức đám cưới. Con cũng nên tranh thủ viết thư trao đổi với anh ấy trước. - Dạ, vâng ạ! Rồi cô giục mẹ: - Đêm sương lạnh, mẹ vào nhà ngủ đi kẻo bị cảm. - Con cũng phải vào ngủ đi chứ! Mai còn về Hà Nội sớm. Tiếng gà trong chuồng đã gáy báo sang canh. Cơn gió mùa đông thổi từ ngoài đồng về ớn lạnh. Bà Giáo vào phòng ngủ của bà, còn Thu bước sang buồng bên rón rén nằm xuống cạnh Thắm. Cảnh đêm làng quê thật là yên tĩnh, như thể ở nơi đây không có chiến tranh vậy.
HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM 26- Sau thất bại của QLVNCH trong chiến dịch “Lam Sơn 719” năm 1971, ở miền Nam QGP liên tục mở các cuộc tấn công trên khắp chiến trường. Qua chiến dịch xuân hè 1972, làm thất bại kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Tại Pa Ri đầu tháng 12.1972, cuộc đàm phán Việt Nam – Hoa Kỳ một lần nữa lâm vào bế tắc. Phía chính quyển VNCH của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản đối kịch liệt bản dự thảo hiệp định, mà giữa Hoa Kỳ và Hà Nội đã thống nhất để chuẩn bị kí. Nội dung cốt lõi của bản dự thảo đó là: Quân Mỹ và đồng minh sẽ rút hết ra khỏi Việt Nam – và ở miền Nam vẫn tạm thời song song tồn tại cả Quân đội nhân dân Việt Nam cùng chính quyền VNCH – để giải quyết nội bộ, bằng một cuộc tổng tuyển cử của nhân dân. Nguyễn Văn Thiệu đòi hỏi khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, thì Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Bắc cũng phải rút ra khỏi miền Nam, trở về Bắc. Phía Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hà Nội không chấp nhận như thế, vì làm vậy là đặt họ ngang hàng với kẻ xâm lược là Hoa Kỳ? tất yếu, khiến QGP sẽ trở thành yếu thế. Nixon không muốn mang tiếng là bỏ mặc Chính phủ VNCH, nên phía Hoa Kỳ cũng đòi hỏi phải thay đổi lại dự thảo đó. Mỹ lật lọng. Ngày 5 tháng 12, Nixon điện cho Kissinger: “Hãy để một chỗ ở cửa cho Tôi có thể sẵn sàng cho phép ném bom ồ ạt miền Bắc Việt Nam trong thời gian nghỉ ngơi đó”. “chỗ hở ở cửa cho cuộc họp tiếp…” để làm gì? - Tức là Mỹ sẽ mở chiến dịch ném bom rải thảm vào Hà Nội và các thành phố trọng yếu khác như Hải phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn… đưa miền Bắc về “thời kì đồ đá”. Buộc Hà Nội phải ngồi vào thương thuyết, chấp nhận yêu cầu của Hoa Kỳ và Thiệu - Có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thua. Cụ thể - vào đêm 12.12.1972, Chánh văn phòng Nhà Trắng Heizman được sự ủy quyền của Tổng thống Richard Nixon gửi một bức điện cho Kissinger, có đoạn viết: “Chúng ta cần tránh bất cứ điều gì như là chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Nếu xẩy ra tan vỡ, thì phải làm như là do họ chứ không phải do chúng ta. Trong bất cứ trường hợp nào, Hoa kỳ không được chủ động cắt đứt cuộc nói chuyện. Chúng ta cần yêu cầu hoãn cuộc họp để tham khảo thêm.”. Ngày 13 tháng 12, Kissinger lật lọng tuyên bố đình chỉ vô thời hạn Hội nghị Paris về Việt Nam - Hoa kỳ cố tình trì hoãn hội nghị nhưng lại đổ lỗi cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chịu đàm phán nghiêm chỉnh? để cho Mỹ chuẩn bị cuộc ném bom rải thảm B52 vào miền Bắc Việt Nam. Hội nghị Pa Ri hoàn toàn bế tắc. Nixon triệu hồi Kissinger về Mỹ và ngừng đàm phán. Mỹ lấy lý do mở Chiến dịch Linebacker II ném bom là để khiến Việt Nam “biết điều” mà chấp nhận họp lại. Ngày 14 tháng 12, Tổng thống Nixon họp với cố vấn an ninh Kissinger, Tướng Alexander Haig và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân – Đô đốc Thomas Moorer, thông qua lần cuối cùng kế hoạch Chiến dịch Linerbacker II. Nixon nói với Đô đốc Thomas Moorer: “Điều may mắn của ông là được sử dụng một cách hiệu quả sức mạnh quân sự của chúng ta để thắng cuộc chiến tranh này. Nếu ông không làm được việc đó, tôi sẽ coi ông là người chịu trách nhiệm.”. Tức là Nixon giao cho Đô đốc Thomas Moorer toàn quyền thực hiện việc rải thảm B52 vào Bắc Việt Nam, biến Bắc Việt Nam trở thành thời kì đồ đồng, đồ đá. Chiến dịch Linebacker II là nối tiếp Linebacker I (diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972), nhưng với cường độ, sức công phá và mật độ lớn đến mức khủng khiếp. Mục tiêu chính là ở Hà Nội - Hải phòng, buộc Chính phủ Bắc Việt Nam phải chấp nhận điều khoản của Mỹ. Đồng thời Hoa Kỳ muốn tỏ rõ cho Nguyễn Văn Thiệu thấy rằng: Mỹ không bỏ rơi chính quyền VNCH… trước khi rút quân đội Mỹ và đồng minh về nước. Cũng trong ngày 14 tháng 12 đó, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội: Hẹn trong 72 giờ, Hà Nội (tức là Lê Đức Thọ) phải quay lại chấp nhận kí hiệp định theo phương án của Hoa Kỳ đã đề nghị, nếu không sẽ ném bom lại Bắc Việt Nam. Ngày 15 tháng 12, Lê Đức Thọ và Kissinger chia tay nhau tại sân bay Le Bourger – Paris. Ngày 16 tháng 12, Kissinger họp báo tại Washington đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo dài đàm phán. Ngày 17 tháng 12, Nixon chính thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải phòng - Chiến dịch Linebacker II bắt đầu. Cũng trong ngày 17.12.1972 - 10h30 phút, Bộ tư lệnh phòng không – không quân nhận lệnh từ Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam: chỉ thị trực tiếp cho các đơn vị toàn quân chủng, đặc biệt là hai khu vực Hà Nội – Hải Phòng… chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, quyết đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B52 của Mỹ, khi chúng liều lĩnh leo thang đánh phá. Tối 18 tháng 12, Lê Đức Thọ sau khi ghé qua Moskva và Bắc Kinh vừa về đến nhà, thì những trái bom đầu tiên từ B52 đã trút xuống Hà Nội. * Vào lúc 10h15 phút ngày 18.12.1972, các đơn vị ra đa phát hiện báo về Tổng trạm và Sở chỉ huy Quân chủng phòng không: có một chiếc máy bay không người lái của Mỹ, từ hướng tây bắc vào trinh sát Hà Nội. 14 giờ 30 phút, Bộ Tổng tham mưu thông báo cho quân chủng phòng không – không quân và Bộ Tư lệnh thủ đô: sẽ có máy bay chiến lược B52 đánh ra miền Bắc. 19 giờ 10 phút, biên đội mig-21 của không quân được lệnh cất cánh, đón đánh các máy bay chiến thuật Mỹ F4, F8, F111, A6, A7… Cùng lúc ở Tam Đảo, Việt Trì các đài quan sát dồn dập báo về Sở chỉ huy trung tâm: máy bay F111 ném bom sân bay Kép, Nội Bài. Bộ Tư lệnh thủ đô ra lệnh báo động toàn thành phố - Lập tức còi báo động từ Nhà hát lớn, Quảng trường Ba Đình, ga Hàng Cỏ, các nhà máy và nhiều nơi cả nội và ngoại thành vang lên khẩn cấp. 19 giờ 20 phút, nhiều tốp máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. Tiếng nổ long trời, khói lửa mịt mù… báo hiệu cuộc đụng độ lịch sử giữa các lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ thủ đô – Mở đầu chiến dịch 12 ngày đêm “Hà Nội – Điên Biên Phủ trên không” với các siêu “pháo đài bay” B52, những con “ngoáo ộp” Mỹ bắt đầu. 20 giờ 16 phút ngày 18.12.1972 ấy – Tiểu đoàn 59 trung đoàn tên lửa phòng không 261 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng chỉ huy, phóng 2 quả đạn hạ ngay 1 máy bay B52, rơi xuống cánh đồng Phủ Lỗ, huyện Đông Anh chỉ cách trận địa gần 10km. Đây là chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội. Đêm đó cùng với Hà Nội vào lúc 20 giờ 16 phút, Tiểu đoàn tên lửa 52, Trung đoàn 267, Sư đoàn phòng không 365 từ một trận địa ở Nghệ An, đã bắn bị thương nặng 1 máy bay B52 nữa… khi chúng vừa gây tội ác ở Hà Nội về, buộc phải hạ cánh ở sân bay Đà Nẵng. Trong đêm 18/12, Mỹ đã huy động 90 lần chiếc B52, ném 3 đợt bom xuống thủ đô Hà Nội; đồng thời 8 lần chiếc F111; 127 lần máy bay cường kích các loại. Trong đêm đầu tiên, Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc thủ đô, trong đó có 85 khu vực dân cư bị trúng bom, làm chết 300 người. Theo hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt nam lúc đó (Nguyễn Sơn sưu tầm), có đoạn viết: “Hà Nội, tháng 12 năm 1972 Nhiệt độ xuỗng thấp hơn mọi năm. Cái rét mùa đông cộng vào cái vắng lặng của ba mươi sáu phố phường vừa được lệnh triệt để sơ tán, càng làm cho thời tiết thêm giá buốt. Cuộc đàm phán của Việt Nam và Hoa Kỳ ở Pa Ri, thủ đô nước Pháp, đang ở bước gay go. Sau những ngày tháng vận động bầu cử với vai trò “ngoại giao con thoi” và lời hứa mang lại hòa bình, Ních Xơn ở lại Nhà Trắng nhiệm kỳ hai. Ở Sài Gòn ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu run sợ trước những điều khoản bất lợi cho chúng trong thỏa thuận giữa ta và Mỹ ngày 18/10/1972, phản ứng quyết liệt với chủ Mỹ. Các cuộc họp giữa các bên cuối tháng 11 và đầu tháng 12 không đạt kết quả nào. Trong thời gian này, Mỹ cấp tốc vận chuyển cho Thiệu một khối lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh bằng cả một năm trước đó. Để xoa dịu Thiệu và mặc cả với ta, Ních Xơn trở mặt ngang ngược đòi sửa đổi nhiều điều khoản trong bản dự thảo hiệp định, lúc này tưởng chừng sắp được kí kết sau hơn ba năm đàm phán tại trung tâm Hội nghị Quốc tế trên Đại lộ Klêbe. Tất nhiên, ta không chấp nhận. Tình hình rất khẩn trương. Đã mấy ngày liền, anh Văn Tiến Dũng và tôi thường về nhà muộn, có khi ở lại Tổng hành dinh làm việc tới tận nửa đêm. ………………………………………………………………………………. Trong buổi giao ban ngày 18/12/1972, Cục 2 báo cáo: Hồi 5 giờ sáng, ta bắt được tin của địch từ sân bay hỏi: “Trực thăng hôm nay cấp cứu ở đâu?”. Trưa hôm ấy, một máy bay RF4c bay qua Hà Nội báo về căn cứ: “Thời tiết quanh Hà Nội hoạt động được”. Trên bầu trời Khu 4, hoạt động của không quân địch đột ngột giảm xuống, đặc biệt không có tốp B52 nào. Tất cả các đài ra đa của mạng cảnh giới mở máy trực ban đều không có nhiễu tích cực. Đây là những dấu hiệu không bình thường, chỉ một ngày sau khi bộ đội phòng không – không quân được lệnh bước vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Chiều ngày 18/12/1972, chiếc chuyên cơ BH195 đưa anh Lê Đức Thọ về nước đáp xuống sân bay Gia Lâm lúc 16 giờ 45 phút. Cũng khoảng thời gian ấy, Ních Xơn gửi công hàm như một tối hậu thư, hạn trong 72 giờ ta phải trở lại bàn đàm phán theo những điều kiện của Mỹ. 19 giờ 10 phút – Trong phòng làm việc của tôi tại Tổng hành dinh, tiếng chuông điện thoại reo vang từ một trong bốn chiếc máy có chế độ ưu tiên số 1. Tiếng nói của đồng chí trực ban tác chiến nghe rất rõ: - Báo cáo thủ trưởng, B52 cất cánh từ Guam, Utapao đang tới… nhiều tốp bay dọc sông Mê Kông lên phía Bắc… Các lực lượng phòng không – không quân đã sẵn sàng, vào cấp 1 xong. Mấy phút sau, còi báo động rú lên từng hồi. 19 giờ 45 phút: có tiếng bom nổ ở phía xa xa… Bộ tư lệnh phòng không – không quân báo cáo: Máy bay địch đang đánh phá sân bay Hòa Lạc. Tiếp theo đó, nhiều tốp B52 vào đánh các sân bay Nội Bài, Gia Lâm. Tiếng ầm ì khô và nặng của động cơ máy bay B52 mỗi lúc một rõ dần. Những vầng lửa lóe lên, chớp giật liên hồi. Rồng lửa Thăng Long nối nhau bay vút lên không trung, đan những vệt sáng màu da cam giữa màn đêm Hà Nội. Cơ quan Tổng hành dinh làm việc hối hả. Tôi yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cứ 5 phút báo cáo một lần. Cục 2 báo cáo: Ních Xơn đã ra lệnh bắt đầu chiến dịch Lai nơ bếch cơ II, dùng máy bay chiến lược B52 từ các căn cứ Mỹ ở Thái Lan, Guam, Philíppin tiến công Hà Nội, trong khi các máy bay cường kích F111 tiến công các sân bay gần đó. Chiến dịch này đã được Ních xơn, Kítxinhgiơ và tướng Hây (Haig) bàn bạc, quyết định tại phòng bầu dục ở Nhà Trắng ngày 14/12/1972. Để thực hiện kế hoạch này, Bộ chỉ huy sư đoàn không quân chiến lược lâm thời số 57 được thành lập. 50 máy bay KC-135 để tiếp dầu cho B52 được điều thêm sang Philíppin. Trên vịnh Bắc Bộ, 5 tàu sân bay đang hoạt động: Cục tác chiến khẩn trương nắm tình hình, liên tiếp chuyển lệnh cho Bộ tư lệnh phòng không – không quân. 20 giờ 20 phút, chuông điện thoại đổ hồi, ở đường dây bên kia là đồng chí Nguyễn Quang Bích, phó tư lệnh phòng không – không quân: - Báo cáo Đại tướng, hồi 20 giờ 16 phút, Tiểu đoàn 59 – Trung đoàn tên lửa 261 bộ đội phòng không Hà Nội bắn rơi tại chỗ một chiếc B52. Tôi hỏi: - Có đúng B-52 không? Một lát sau, đồng chí Nguyễn Quâng Bích báo cáo cụ thể: Đây là chiếc B-52G cất cánh từ Guam. Nó rơi xuống Phù Lỗ, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Tin chiến thắng xé toang bầu không khí căng thẳng. Tổng hành dinh náo nức trong niềm vui được thấy “con ngóao ộp” B-52 không còn là “bất khả xâm phạm” trước những con “rồng lửa Thăng Long”. Tôi bước ra ngoài sở chỉ huy. Trời rét đậm và mưa bụi, nhưng lòng tôi ấm áp lạ thường…”.
27- Ngay sau đêm 18.12.1972, đêm đầu tiên trong chiến dịch Linebacker II của Hoa Kỳ rải thảm B52 xuống Hà Nội – Toàn thành phố báo lệnh sơ tán triệt để và khẩn cấp. Mới sáng ra, mọi ngả đường Hà Nội rùng rùng người di chuyển về các tỉnh. Những trọng điểm ở ngoại thành như Gia Lâm, Châu Quỳ, Yên Viên, Văn Điển, Đông Anh… cũng phải sơ tán đến các tỉnh khác xa hơn. Giữa mùa đông lạnh giá, những người đi sơ tán dường như không mang theo được gì nhiều ngoài những vật dụng cần thiết như chăn màn, quần áo. Như ở Uy Nỗ thuộc Đông Anh - Ngay trong đêm 18/12 đó, khi máy bay Mỹ đang oanh tạc Hà Nội, dân đã dồn dập kéo nhau đi sơ tán. Người ta thấy những hình ảnh: Có bà mẹ tay bế con nhỏ trước ngực, đầu cúi gập xuống để che bom đạn cho con , tay còn lại dắt đứa con lớn chạy theo dòng người về hướng Tráng Việt – Mê Linh. Trời rét đậm, nhưng dòng người sơ tán ấy vẫn ướt đẫm mồ hôi. Họ vừa chạy vừa trông lên đầu… bom đạn đan nhau sáng rực một góc trời. Đâu chỉ có một lần, cả đêm đó tới ba đợt máy bay ném bom quanh trụ sở ủy ban xã Uy Nỗ. Riêng trong đêm 18 tháng 12 thôi, khoảng 4.000 dân trên địa bàn xã đã ra khỏi nhà đến các tỉnh khác. Cũng có nhiều người dắt được cả trâu, bò, lợn, gà đưa đi. Một số người thì cho thú xuống hầm trú ẩn, còn mình chạy đi lánh tạm trong đêm, rồi trở về đi sau. Uy Nỗ gần như trở thành một xã trắng, chỉ còn lại khoảng 100 người làm nhiệm vụ chiến đấu dưới những căn hầm, giao thông hào. Người ta nói rằng: trong suốt gần chục năm Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, người Hà Nội tuy cũng đã quen với bom đạn, nhưng sau cái đêm 18 tháng 12 thì dù có quen tiếng bom nổ đến bao nhiêu, mọi người vẫn cảm thấy bất an - Ai nấy lũ lượt kéo nhau đi, không cần phải vận động như trước nữa. Ở Ngã Tư Sở, mới sáng sớm từng đoàn người rời thủ đô, men theo Quốc lộ 6. Hai bên đường chi chit hầm trú bom, nhất là đoạn Cao-Xà-Lá. Chẳng nơi nào đối diện với cuộc chiến và sự sống, cái chết… như Việt Nam: Đó là bà mẹ trẻ ngồi trên chiếc xe ca của thành phố đang vạch áo cho con bú; đó là hình ảnh cụ già đội chiếc mũ lông như một ông già nô-en, đang đánh chiếc xe bò chở con cháu rời thủ đô về các tỉnh xa – Đến đứa trẻ sơ sinh cũng không thể nằm ngoài cuộc chiến. Các ngả đường rời thành phố đều rất đông người, nhưng không tắc ở đâu cả. Xe ca, xe khách và cả tàu điện của thành phố… nhưng chủ yếu vẫn chỉ là với những chiếc xe đạp cũ kỹ, những đôi quang gánh truyền thống, xích lô, xe bò. Dẫu đông đúc nhưng đi rất trật tự. Dù bom rơi đạn vãi ở trên đầu mà không thấy sự quá hoảng loạn của dòng người Hà Nội – Bởi, họ đã được chuẩn bị cho cuộc chiến này và bình tĩnh đón nhận. Theo tài liệu cửa Sở giao thông vận tải thành phố: Để phục vụ nhân dân sơ tán về các tỉnh – Sở giao thông và ngành vận tải Trung ương cùng các đơn vị có phương tiện, đã bố trí 120 xe ca, 54 xe tải liên tục vận chuyển miễn phí, sơ tán nhân dân ra khỏi Hà Nội. Trong suốt 12 ngày đêm, lực lượng vận tải Hà Nội có sự hỗ trợ của ngành vận tải Trung ương và các tỉnh bạn: đã vận chuyển 295.885 người - Còn với các phương tiện vận chuyển thô sơ cá nhân khác như xe đạp, xích lô, xe máy… thì có tới 547.890 người (trong tổng số 65 vạn dân nội thành), đến các nơi sơ tán. Đó là cuộc sơ tán “vô tiền khoáng hậu” của Hà Nội, tức là cuộc sơ tán từ trước tới nay chưa có, sau này chắc cũng khó có thể xẩy ra. Chỉ trong một đêm, nửa triệu con người đã rời khỏi thành phố - Một cuộc sơ tán cao điểm bởi sự đánh phá, rải thảm B52 trong những ngày chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của giặc Mỹ, định biến Bắc Việt Nam trở thành thời kỳ đồ đồng, đồ đá. Một cuộc sơ tán khổng lồ, thần tốc với qui mô chưa từng thấy. * 4 giờ 30 phút rạng sáng ngày 19/12, Pháo đài bay B52 của Mỹ cùng các máy bay phản lực chiến thuật, ném bom đánh phá vào các khu vực Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì, nhà máy Cao su sao vàng, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm, Hòa Mục… Thủ đô chìm trong khói lửa. 4 giờ 39 phút sáng, Tiểu đoàn 77 – Trung đoàn tên lửa 257 bắn rơi chiếc B52 thứ hai. Máy bay rơi tại chỗ trên cánh đồng xã Tân Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Cùng với những đơn vị tên lửa, các trận địa pháo phòng không cũng tiêu diệt 1 máy bay F4. Một sự trùng hợp lịch sử - Hà Nội lại nổi lửa diệt thù đúng vào ngày thủ đô vùng lên kháng chiến của 26 năm về trước: ngày 19.12.1946. Đêm 19 rạng ngày 20/12, pháo đài bay B52 Mỹ tiếp tục ném bom xuống Hà Nội, Hải Phòng. Riêng ở Hà Nội 87 lần chiếc B52 và hơn 200 lần chiếc máy bay cường kích các loại, ném ba đợt bom xuống 68 điểm thuộc nội, ngoại thành. Sáng ngày 19 tháng 12 đó, Bộ chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đã họp tại Tổng hành dinh: Nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo về diễn biến trận đánh B52 trong đêm đầu tiên, và khen ngợi chiến công của các lực lượng phòng không – đồng thời ra chỉ thị kiên quyết đập tan hành động điên cuồng, phiêu lưu của đế quốc Mỹ. Buổi chiều tại Câu lạc bộ Quốc tế ở Hà Nội, rất đông các phóng viên báo chí trong nước và nước ngoài – Người phát ngôn Bộ quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công bố những hành động tội ác của Mỹ trong đêm 18 và ngày 19/12… với 6 tù binh Mỹ vừa bị bắt. Chúng cúi đầu thú nhận nỗi kinh hoàng trước lưới lửa dầy đặc của các lực lượng phòng không Hà Nội. Ngày 20 và 21.12.1972 – cũng theo hồi kí của Tướng Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã trực tiếp gọi điện xuống các sư đoàn phòng không Hà Nội, biểu dương thành tích và khích lệ ý chí của bộ đội. Ông nói: “Cả nước đang hướng về Hà Nội. Toàn thế giới đang hướng về Hà Nội. Từng giờ từng phút… theo dõi cuộc chiến đấu của Hà Nội. Vận mệnh của tổ quốc đang nằm trong tay các chiến sĩ phòng không Hà Nội.”. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố, lên án những hành động chiến tranh điên rồ của Níchxơn. Bản tuyên bố viết: “Nhân dân ta rất thiết tha với hòa bình, nhưng phải là hòa bình trong tự do thực sự. Chúng ta có đầy đủ thiện chí, đồng thời có đầy đủ quyết tâm và lực lượng bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản thiêng liêng của mình.”. Ngay sau đó, tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, được phát đi trên Đài phát thanh Giải phóng: “Bọn xâm lược Mỹ đụng đến miền Bắc một, thì quân và dân miền Nam quyết giáng trả chúng gấp năm, gấp mười lần.”. Đài cũng truyền đi thư của Sài Gòn gửi Hà Nội: “Lửa miền Bấc khêu lửa miền Nam, lửa Hà Nội giục lửa Sài Gòn. Từ ngoài vô trong, từ hậu phương lớn đến tiền tuyến lớn anh hùng đang vang lên tiếng trả lời đanh thép: Đánh!”. Một màn hiệp đồng tuyệt đẹp trên các mặt trận quân sự, dư luận và ngoại giao giữa hậu phương lớn và tiền tuyến lớn. Các mũi giáp công nhằm đúng kẻ thù, trong chiến lược tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân Việt nam. Những nhà lãnh đạo các nước yêu chuộng hòa bình cũng ra lời tuyên bố kịch liệt lên án hành động xâm lược mới của Mỹ, khẳng định sự ủng hộ với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt nam, kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi hòa bình cho Việt nam. Ở khắp nơi trên thế giới, hàng triệu người xuống đường sôi sục biểu tình, lên án mạnh mẽ hành động tội ác ghê tởm của Nhà Trắng. Các nghệ sĩ Quốc hội Mỹ ở cả hai viện, chỉ trích gay gắt hành động leo thang mới của Níchxơn, đã tiến hành mà không tham khảo ý kiến của quốc hội và nhân dân Mỹ. Tờ báo Niu Yoóc ngày 20.12.1972, cảnh báo “Mỹ có nguy cơ trở lại một kiểu dã man của thời kỳ đồ đá.”. 11 giờ 45 phút ngày 20.12.1972, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam điện cho các đơn vị phòng không – không quân: “Chiều và đêm nay địch sẽ đánh lớn bằng B52 và máy bay cường kích vào thủ đô Hà Nội.”. Vào lúc chập tối khi máy bay địch còn cách Hà Nội 80km, Trực ban trưởng Sở chỉ huy đóng cầu dao, nổi còi báo động toàn thành phố sẵn sàng chiến đấu. Mặc dù các loại máy bay địch phát nhiễu dầy đặc, bộ đội ra đa vẫn phát hiện rất nhanh, đúng, kịp thời. Từ 20 giờ 05 phút đến 20 giờ 07 phút, trận đánh mở màn xuất sắc trong hai phút: từ cự ly 22km với hai quả đạn, Tiểu đoàn 93 – Trung đoàn tên lửa 261 bắn cháy 1 máy bay B52 rơi tại chỗ (khu vực ga Yên Viên), cách Hà Nội hơn 10km. 20 giờ 34 phút, Tiểu đoàn 77 – Trung đoàn tên lửa 257 bắn rơi tiếp 1 B52 nữa ở ngoại thành. Cùng lúc đó từ 20 giờ 29 phút đến 20 giờ 35 phút, ba tiểu đoàn tên lửa 78-79-94 đã tập trung hỏa lực bắn rơi thêm 1 B52 thứ ba. Các đại đội pháo và dân quân tự vệ thủ đô, với các loại cao xạ 57ly, 37ly, 14,5ly và cả súng máy cao xạ 12ly7 đã hiệp đồng chặt chẽ, bảo vệ cho các trận địa tên lửa cùng các mục tiêu quan trọng trong khu vực nội, ngoại thành Hà Nội. Chỉ tính từ 19 giờ ngày 20 đến rạng sáng ngày 21/12, địch huy động 78 lần chiếc B52 và hơn 100 lần chiếc máy bay cường kích các loại ném bom, đánh phá. Cũng trong đêm đó, bộ đội tên lửa phòng không Hà Nội đã thực hiện một trận đánh tuyệt vời: chỉ 35 quả đạn bắn cháy 7 chiếc B52, có 5 chiếc rơi tại chỗ. Tiêu biểu là trận đánh của các tiểu đoàn 57-77-79 vào lúc rạng sáng ngày 21/12, chỉ trong 9 phút với 6 quả đạn đã bắn cháy 4 chiếc B52, 3 chiếc rơi tại chỗ. Ngày 21.12.1972, ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng chiến sự vẫn diễn ra ác liệt. Trong ngày, 180 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân và hải quân Mỹ đánh phá các mục tiêu trọng yếu. Chúng dùng bom điều khiển bằng laser ném từ ga Hàng Cỏ, Sở công an Hà Nội, Nhà máy điện Yên Phụ, Bộ giao thông đến các phố như Lý Thường Kiệt, Trần Quý Cáp, Nguyễn Khuyến và những khu lao động. Ngoài Hà Nội, địch còn trút bom xuống cầu Phủ Lý và sáu đợt đánh vào thị xã Thanh Hóa. Lúc 11 giờ 15 phút đến 12 giờ 24 phút, địch cho hai máy bay trinh sát thăm dò các trận địa tên lửa và pháo cao xạ, chuẩn bị cho các trận tập kích tiếp theo. 21 giờ 37 phút đêm đến rạng sáng 22/12, địch huy động 24 lần chiếc B52 và 36 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh vào sân bay và bệnh viện Bạch Mai, Giáp Bát, Văn Điển. Ngoài ra, 30 lần chiếc F4 – F105 đánh phá các khu vực Bắc Giang, ga Kép, Yên Bái, Cát Bi, An Lão thuộc Kiến An và cảng Hải Phòng. Các trận địa pháo cao xạ thủ đô cùng với bộ đội tên lửa tiếp tục bắn rơi tại chỗ 11 máy bay – trong đó có 3 B52, 2 F4, 2 A7, 1 F111, 1 A6, 1 RA50, 1 F105. Hải Phòng, Bắc Thái cũng hiệp đồng chặt chẽ, bắn rơi 7 máy bay chiến thuật và 1 máy bay không người lái. Chiến dịch Linebacker II của Mỹ bước đầu đã bị thất bại nặng nề. Tinh thần của phi công B52 suy sụp nghiêm trọng. Ngày 21/12, Tướng Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị cho binh chủng phòng không – không quân: “Thắng lợi của chúng ta là rất lớn, cần cố gắng phát huy chiến thắng hơn nữa. Địch sẽ tập trung đánh các trận địa tên lửa. Phải tìm mọi cách bảo vệ tên lửa để tiếp tục diệt B52. Chú ý bảo đảm tên lửa để đánh được liên tục. Cố gắng phát huy tác dụng của không quân nhằm B52 mà đánh.”.
28- Đêm 21 rạng ngày 22.12.1972, một đêm trời rét căm căm. Thu cùng nhóm phóng viên tòa soạn báo “Hà Nội mới” vội vã đạp xe đến bệnh viện Bạch Mai. Nghe thông báo: vào lúc 4 giờ sáng nay, B52 đã trút xuống bệnh viện hơn 100 quả bom – Bệnh viện gần như bị san phẳng. Nhóm của Thu đi đến có ba người, hai nữ và một nam. Từ hôm không quân Mỹ rải thảm B52 đánh vào thủ đô, Thu đã ở lại ngủ luôn trong tòa soạn báo. Cả nhà đều đi sơ tán, nên Thu cũng chẳng cần thiết phải về. Những anh chị em trong tòa soạn ở lại làm việc tại Hà Nội, ngoài bộ phận trực chiến súng máy cao xạ 12ly7 trên tầng thượng của trụ sở để bắn máy bay, các phóng viên còn lại vừa đi nắm tin tức viết bài cho báo, vừa trong đội tự vệ thành phố đến cứu giúp nhân dân những nơi bị bom địch đánh phá. Khoảng nửa đêm về sáng, tiếng còi báo động thành phô rúc lên inh ỏi. Thu cùng mọi người vội vã chạy xuống hầm trú ẩn của tòa soạn. Ít phút sau thì nghe thấy tiếng B52 gầm rú, rồi bom nổ rung chuyển mặt đất. Biết là chỉ ở quanh đây, nhưng không ngờ chúng lại đánh vào bệnh viện. Khi nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới đến nơi, trước mắt họ chỉ còn là một cảnh hoang tàn. Cây cối trong khuôn viên bệnh viện đổ rạp bởi sức ép của bom. Có những chỗ không thể chen chân vì gạch đá, cây cối đổ chặn hết lối đi. Tiếng người từ trong những bức tường đổ hoặc từ các căn hầm dưới đất vẳng lên kêu cứu. Họ lách vào đến giữa sân bệnh viện, những hố bom còn nguyên dấu vết. Bỗng nghe tiếng kêu rên từ một khu nhà đã bị sập gần đó, tiếng kêu của một phụ nữ nghe rất thương tâm: - Anh Kinh, anh Luân ơi, cứu em! Thu với hai đồng nghiệp vội dựng ba chiếc xe đạp vào một chỗ rồi chạy tới nơi đó. Đã có đến bẩy, tám người đang cùng nhau lấy cuốc, xẻng đào bới và dùng tay nhặt từng viên gạch tìm cửa hầm, cứu người bị mắc kẹt ở bên trong. Nhìn cũng đoán biết đều là các y, bác sĩ, nhân viên, hộ lý của bệnh viện. Chưa kịp giới thiệu mình từ tòa soạn báo đến, Thu và hai bạn vội lao vào cùng mọi người tháo gỡ hầm sập, để nhanh chóng cứu nạn nhân. Máy móc thiết bị đào bới không có. Khi họ cùng nhau khiêng những mảng gạch lớn vứt sang bên, đã thấy lộ ra các khe nhỏ trên đống đất đá đổ nát. Những tiếng kêu cứu gọi cha, mẹ và đồng đội từ trong đó hắt lên… nghe đau đến xé lòng. Thu chưa bao giờ phải chứng kiến cảnh tượng xót xa như thế? Lòng cô trào lên nỗi thương tâm, muốn khóc. Thu cố kìm lại những dòng nước mắt ấy, ra sức làm với mọi người để cứu họ. Cửa hầm đã hé mở nhưng chưa thể đưa được mọi người lên ngay? Bác sĩ Kinh, bác sĩ Luân phải thả xuống hầm các bình khí để nạn nhân đang ở dưới đó thở được. Hai anh luôn động viên họ cố chịu đựng, chờ đợi. Gay go nhất là những chỗ hầm không có khe hở? phải dùng búa, xà beng đục bê tông để có lỗ cho nạn nhân thở. Đục được một lỗ dù rất nhỏ trên tấm bê tông cốt thép, là cả một vấn đề nan giải. Chỉ một lỗ con con, có khi mấy người phải thay nhau đục hàng tiếng đồng hồ mới thông. Thu và nhóm phóng viên vẫn cùng với mọi người ra sức đào bới. Cửa hầm lộ ra rõ hơn, đã nhìn thấy lấp ló khuôn mặt của một cô gái với tiếng nói thầm thì, yếu ớt: - Các anh, các chị ơi… cứu chúng em với. Bấc sĩ Kế chết rồi. Em mắc kẹt không lên được? Cứu chúng em với… các anh, các chị ơi! Y, bác sĩ ở đấy cho biết: đó là tiếng kêu của em Thúy, sinh viên năm thứ ba đại học y Hà Nội đi thực tập tại bệnh viện. Nghe tiếng kêu, không ai cầm được nước mắt, vừa làm vừa khóc. Mọi người dồn tất cả sức lực để cố cứu những ai còn đang ngột ngạt trong đó. Nam thanh niên khỏe thì thay nhau đục, đào, cuốc. Người này mệt quá nghỉ uống nước, người khác liền thay thế. Đói thì ăn tạm mẩu bánh mỳ mà một chị hộ lý của bệnh viện vừa mang tới phục vụ, rồi lại tiếp tục đào bới không ngơi nghỉ. Hai bàn tay Thu cũng như những người khác đã phồng lên và rớm máu, song không ai cho phép mình được dừng lại – Như bác sĩ Kinh đã nói: Chỉ cần nghỉ một phút thì khả năng cứu nạn nhân sẽ bị hạn chế, cuộc sống của bao con người sẽ bị cướp đi… mà đáng lẽ họ vẫn có thể được cứu sống, nếu được giải thoát sớm hơn. Niềm vui vỡ òa… Ai cũng cảm thấy sung sướng khi cửa hầm đã mở toang, và từng người được đưa lên. Lúc này, nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới lại cùng mọi người chuyển các nạn nhân đi cấp cứu. Nhẹ thì đưa ngay vào khu điều trị của bệnh viện, cũng ở trong một tầng hầm rộng nhưng chưa bị trúng bom. Nặng quá thì theo chỉ dẫn của bác sĩ, đưa thẳng đến bệnh viện Việt Đức và “Y học cổ Truyền” ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm. Công việc vận chuyển cũng hoàn toàn do người cõng đi. Nhìn các y, bác sĩ và nhân viên nhiều người nhỏ thó: cân nặng chỉ khoảng trên 40kg, vậy mà lúc họ cõng những nạn nhân nặng 50-60 cân đi cứ phăm phăm – Đúng lầ “cứu người hơn cứu hỏa”! Thu cõng một chị y sĩ của bệnh viện bị bom vùi sập vào khu cấp cứu của viện. Cô bước xuống một căn hầm lớn. Ở đó, cô đã gặp bác sĩ Đỗ Doãn Đại, giám đốc của bệnh viện. Ông đang dồn hết tâm sức mình để cứu chữa các nạn nhân. Khi Thu cõng chị y sĩ vào hầm, một hộ lý đang phục vụ ở đấy vội vàng chạy lại cùng Thu đỡ người bị nạn. Họ đặt nạn nhân xuống một chiếc giường lò xo có trải tấm đệm trắng. Bác sĩ Đại ngước nhìn Thu vẻ hơi ngạc nhiên vì thấy lạ. Ông hỏi: - Cô ở nơi khác mới đến? - Dạ, thưa bác sĩ! Chúng em là nhóm phóng viên ở Tòa báo Hà Nội Mới, sáng nay biết tin bệnh viện bị trúng bom, đến đây để cùng tham gia cứu giúp người bị hầm sập. Hỏi vậy, nhưng bác sĩ Đại đã vội cúi xuống khám vết thương cho người mới đưa đến. Ông rút chiếc ống nghe ra khỏi người nạn nhân, rồi nói với Thu: - Được anh chị em báo chí đến giúp đỡ thì tốt quá! Nếu cần gì, cô cứ hỏi các y bác sĩ và nhân viên ở viện, họ sẽ giúp. Nói rồi, ông lại vội vã lao vào cứu chữa. Thu cũng quay lại chỗ hầm bị sập, tiếp tục giải thoát người ở đó. Sau một ngày, trời đã tối và rét buốt. Máy bay địch vẫn ném bom ầm ầm ở vùng lân cận. Thu và hai bạn phóng viên vẫn cùng mọi người lao vào đào bới, tìm kiếm nạn nhân ở các hầm bị sập khác. B52 Mỹ đã đánh sập hai khu hầm lớn, đó là khu hầm của Khoa nội và Khoa da liễu. Bác sĩ, giám đốc Đỗ Doãn Đại trực tiếp chỉ thị cho mọi người chia ra khẩn cấp tìm kiếm. Họ gọi nhau, thôi thúc nhau trong khói lửa hoang tàn rồi lại lao vào đào bới, cho đến khi nghe được câu nói đầu tiên của người bị nạn: “các anh chị ơi, cứu chúng em với!”. Tất cả phải cắn răng để những tiếng nấc và cả dòng nước mắt không bật ra. Thu cũng chỉ muốn òa lên khóc… Cả đội xây dựng của thành phố đã được điều đến giúp đỡ, tháo các tấm bê tông bị sập. Giám đốc Đại chỉ đạo cho nhân viên nhà bếp cấp tốc nấu cháo, chuẩn bị nước đường… vừa để phục vụ cho y bác sĩ và những người cứu chữa, vừa mang xuống hầm cho các nạn nhân. Với nhân viên tổ điện - nước: Ông yêu cầu khẩn trương vận hành máy phát điện, chỉnh sửa lại đường nước. Khi kiểm tra thấy các đường nước đều bị phá hủy – Nhân viên đã phải dùng một chiếc máy bơm cũ, bơm nước từ dưới giếng lên. Vì máy bơm quá cũ, bơm nước lên rất chậm. Sau đó, bệnh viện đã được thành phố điều các xe chở nước đến hỗ trợ. Khu B của bệnh viện, chính là nơi có Khoa da liễu và cả Khoa tai-mũi-họng bị phá hủy nặng nề nhất. Bom khoan rất sâu, làm đổ sập tường. Mảng bê tông chặn cửa xuống hầm. Các y, bác sĩ của Khoa da liễu bị chẹn ở cả bên trong hầm , chưa biết sống chết ra sao? Khi mở được đường xuống hầm, nhưng lối đi rất nhỏ và tối – Những bác sĩ trong đội cứu hầm sập phải bò vào bên trong, luồn lách để xem xét tình hình. Khoa Ngoại gần Khoa da liễu nên các bác sĩ Khoa ngoại được điều động tới phối hợp với công nhân xây dựng, tiến hành tháo dỡ bê tông và cứu nạn nhân. Đoạn đầu ngách hầm, tấm bê tông đè chết một cô hộ lý. Bác sĩ Kinh nói, đó là cô Hoàng Kim Thoa, thi thể nằm chắn ngang lối hầm. Tiếng người bị kẹt bên trong thì đang kêu gào: - Các anh, các chị ơi! Cứu chúng em với… cứu chúng em với… Không sao lấy được thi thể của cô hộ lý ra, anh em phải gọi bác sĩ Đại đến xin cách giải quyết? cô bị tảng bê tông đè lên người, hai tay giang ra chắn lối đi xuống cửa hầm. Giám đốc Đại đành phải quyết định cắt thi thể của cô hộ lý ra ba khúc: tháo khớp hai tay, tách khỏi phần người - Đó là một quyết định khó khăn nhất đối với ông !? nhưng giây phút sinh tử của bao nhiêu con người còn sống ở bên trong, cần được nhanh chóng cứu. Là người lãnh đạo cao nhất ông phải quyết định. Bác sĩ Kinh và bác sĩ Luân được chỉ định làm việc này. Nghĩ mà tội cho hai anh, phải làm việc ấy họ đau lòng lắm nhưng phải gạt nước mắt để thực hiện. Thu biết các anh không thể làm thế nào khác. Nhìn cảnh tượng lòng cô cũng thấy xót xa. Tất cả phải nén đau thương. Lúc ấy khoảng 4 giờ chiều, mưa lâm thâm. Hai bác sĩ ra giữa trời thắp hương, ngửa mặt lên không trung vái lia lịa: xin trời đất phù hộ! Xin người chết tha tội cho các anh làm việc ấy… rồi hai bác sĩ mới bò vào mầy mò trong bóng tối, dùng dao mổ tháo khớp nạn nhân. Sau khi đã tiến hành cắt thân thể của cô hộ lý, dùng dây thừng kéo cẩn thận ra từng phần một – để chị Cúc, nhóm trưởng bộ phận cứu hộ của bệnh viện bế Thoa ra ngoài. Bác sĩ Kinh và Luân vội lao vào khâu lại thi thể của cô hộ lý cẩn thận, như vẫn còn nguyên vẹn. Những y, bác sĩ khác thì lách vào trong hầm buộc dây từng người đã chết, tiếp tục mười mấy cái xác được đưa ra… để họ cứu người còn sống ở bên trong. Những tiếng kêu khóc của người bị nạn vang lên trong bóng tối. Lần lượt đã được cõng và khênh đi đến nơi cấp cứu. Đau thương và kinh hãi. Mọi người vừa làm vừa lo lắng B52 có thể sẽ quay lại rải bom? Các khuôn mặt người chết hầu như đều bị biến dạng vì bom. Trong số nạn nhân bị tử vong, họ nhận ra: hai nữ sinh viên đến bệnh viện thực tập là em Liên, em Thanh mới có người yêu. Bác sĩ Đại nhận ra chị y sĩ Quất nhờ chiếc răng cửa bịt vàng, y sĩ Lan nhờ ngón tay đeo nhẫn cưới – với y sĩ Lan, các bác sĩ phải dùng dao lựa lấy chiếc nhẫn ra, trao lại cho gia đình làm kỉ vật. Tất cả òa lên khóc, khi nhìn thấy thân thể chị Nguyễn Thị Diên đang mang thai đứa con ba tháng tuổi. Thế là cả hai mẹ con chị không còn. Đứa bé chưa thành hẳn hình người đã bị bom giết chết! Có lẽ, khó có tội ác nào lớn hơn tội ác này của bọn xâm lược đế quốc Mỹ? Người nữ bác sĩ Nguyễn Thị Giỏi mới tổ chức đám cưới được một tuần, thì người chồng phải lên đường vào Nam chiến đấu. Mãi mãi họ sẽ không bao giờ còn được gặp nhau nữa. Chị Mai Thị Tuyết thợ điện, chồng đi B… để lại ba đứa con nhỏ cho người mẹ già 90 tuổi – Kể làm sao cho hết những cái chết đầy bi thương, ai oán. Tất cả các thi thể nạn nhân tìm thấy được đặt cạnh nhau trên cáng. Nhóm phóng viên của Thu tham gia cùng mọi người, chuyển xuống nhà xác để làm khâm liệm. Lễ khâm liệm cũng tổ chức đơn giản và nhanh chóng – Phần vì vẫn còn phải tiếp tục đào bới tìm kiếm, phần nữa đề phòng máy bay địch sẽ tới ném bom tiếp. Tất cả lao vào công việc cứu hộ hết mình, với tinh thần: mỗi y, bác sĩ, hộ lý, y tá và nhân viên đều là một chiến sĩ trên chiến trường. Sau khi tranh thủ tìm hiểu qua bác sĩ Đại, Thu được biết: Trong khuôn viên bệnh viện Bạch Mai có một hệ thống đường hầm, do người Pháp xây dựng đồng thời với bệnh viện. Đến năm 1972, đường hầm đã có tuổi thọ gần 100 năm. Trước đây, khi chưa có chiến tranh phá hoại ra miền Bắc: một số đường hầm này được dùng làm đường vận chuyển bệnh nhân chết ở các khoa ra nhà xác, một số khác thì làm đường thoát nước. Đường hầm bằng bê tông cốt thép rất kiên cố, vững chắc… nên khi có chiến tranh đã được sử dụng làm nơi trú ẩn. Một số chỗ xây dựng làm các phòng cấp cứu, điều trị bệnh nhân. Các khoa đặt trong hầm rất thoải mái. Bác sĩ có thể tiến hành mổ ngay dưới hầm, đi lại không phải cúi đầu. Bê tông rất dầy, bởi thế lúc hầm sập, mang được nạn nhân ra khỏi hầm rất khó khăn. Khi chúng ném hơn 100 quả bom xuống bệnh viện, dưới lòng đất nhiều cửa hầm bị bít kín. Không kể các y, bác sĩ, hộ lý và nhân viên của bệnh viện, thì có khoảng 300 bệnh nhân ở trong đó cần được cứu ra ngoài? Trước tình cảnh ấy, những người cứu hộ phải phá cửa hầm len vào đưa nạn nhân ra. Lúc đầu, đội cứu hộ ngăn không muốn cho các y, bác sĩ vào trong hầm, vì sợ hầm sập? nhưng các y, bác sĩ vẫn quyết định phải vào, vì hàng trăm con người trong đó đang cần họ. Là y, bác sĩ phải đặt nhiệm vụ cứu người lên hàng đầu! E rằng, nguy cơ không quân Mỹ vẫn còn có thể tiếp tục ném bom đánh phá bệnh viện? Cấp trên ra lệnh cho giám đốc, bác sĩ Đại chuyển bệnh viện và bệnh nhân đi nơi khác an toàn để chữa trị. Nhưng do số người bệnh và bị trọng thương ở tứ phương dồn đến ngày càng nhiều, nên không di chuyển được. Bác sĩ Đai vẫn quyết định: phải khắc phục khó khăn bằng mọi cách, để bệnh nhân ở lại bệnh viện tiếp tục chữa trị. Vào lúc tối muộn hôm 22 tháng 12 đó, sau khi xin phép hai bác sĩ Kinh và Luân – Thu và hai bạn phóng viên tranh thủ tạt về tòa soạn báo để báo cáo tình hình và cũng tranh thủ ngủ vài tiếng. Tới gần sáng, họ lại vội vã vào viện tiếp tục tham gia công việc đào bới, cứu người. Khi đi vào khu sân, trước cửa một căn phòng mà nhân viên ở đó nói là phòng hành chính cũng đã bị sập. Bỗng Thu nhìn thấy một bó chiếu cuộn tròn – Cô nghĩ, có lẽ bộ phận y tế bỏ sót một cái xác chưa đem đi? Thu lấy tay khẽ mở manh chiếu, giật bắn mình. Một người từ trong chiếu nhỏm bật dậy. Hóa ra, đó là một chị nhân viên của viện: thấy cảnh hầm sập… nước ngập trong hầm… người chết thảm – chị sợ quá không dám ngủ trong nhà mà ra ngủ ngoài sân. Chị nhân viên bó chiếu quanh người rồi nằm cạnh một chiếc hầm cá nhân, để khi có báo động xuống hầm cho nhanh. Chị ta nhìn Thu nhoẻn cười và nói: - Mình tranh thủ chợp mắt một tí. Mệt quá, mắt cứ ríu lại. Các em cũng phải tranh thủ ngủ để lấy sức chứ? - Chúng em cũng vừa chợp mắt vài tiếng ở tòa soạn báo, rồi ạ! Thu nhanh nhảu đáp. Nói xong chị nhân viên lại tiếp tục cuộn tròn trong chiếu và ngủ. Nhóm phóng viên vội đi về phía mọi người vẫn đang hối hả tháo dỡ hầm để cứu người. Trong trận ném bom tàn khốc đêm 21 rạng ngày 22.12.1972, bệnh viện Bạch Mai có 22 người bị thương và 31 người chết - trong đó chỉ có một bệnh nhân, còn lại toàn là các y, bác sĩ của viện – vì khi bom đánh, các y bác sĩ phần lớn ở phía ngoài bị tường bê tông đổ giết chết, bệnh nhân ở trong sâu nên cửa hầm sập, họ chỉ bị kẹt. Bác sĩ Đỗ Doãn Đại kể: khi ông bò vào trong hầm bị sập, người đầu tiên mà ông nắm đúng tay là bác sĩ khoa da liễu Ngô Thị Ninh. Toàn thân chị cứ run lên bần bật. May mắn cuối cùng, ông cũng đã cứu được chị và một số người khác như bác sĩ Nguyễn Thị Hồi, chị Phi Thị Mạch, y tá Nguyễn Thị Hạnh với 3 em nhỏ và toàn bộ 300 bệnh nhân đã được đưa ra ngoài an toàn. Vẫn theo bác sĩ Đỗ Doãn Đại: có những trường hợp không cứu được, rất đau thương như bác sĩ Nguyễn Thị Giỏi, chị Trần Thị Kim Tuyến (em gái của giáo sư sử học Trần Quốc Vượng) – Đặc biệt có ba thi thể ôm chặt vào nhau: Đó là chị Nguyễn Thị Diên mới làm cô dâu được năm tháng đang có thai, chị Đặng Thị Khuyến và Đỗ Ngọc Thanh – Họ là những người bạn thân thiết, vẫn trong tư thế ôm chặt nhau chết thảm dưới tảng bê tông. Phải dùng dây buộc vào mỗi thi thể, rồi tất cả cùng kéo… mới tách được từng người ra khỏi nhau. Với cô sinh viên trường y Đinh Thị Thúy, khi tiếp cận em vẫn còn mở mắt nhìn bác sĩ và chỉ kêu lên được một tiếng: “Thầy ơi!”… rồi lịm đi trong giấc ngủ ngàn thu. Giáo sư Lê Kim Duệ, bác sĩ Trần Duy Kế đang chuẩn bị đi vào chiến trường Vĩnh Linh và một số người khác nữa, cũng ngã xuống trong trận bom này. Theo lời bác sĩ Kinh: Đêm đó là ca trực của anh. Anh vừa là bác sĩ khoa ngoại của viện vừa là giảng viên Trường Đại học y, nên đã dọn hết về ở bên bệnh viện. Khoa ngoại, trừ một bộ phận đã sơ tán – còn lại, giám đốc viện yêu cầu trực 24/24 giờ trong ngày. Qui định của trực cấp cứu là người trực phải ở trên, không được xuống hầm trừ lúc đánh bom. Chiến sĩ bị thương nhiều, đồng bào trúng bom cũng đưa vào Bạch Mai rất đông. Vào lúc 4 giờ sáng, tiếng gầm B52 rát quá, họ phải xuống hầm. Khoảng 15 phút sau thấy đất đá rung chuyển, nhưng khi báo yên chui lên khỏi hầm thì tất cả đã tan hoang. Khoa ngoại – chỗ họ vừa trực cũng bị trúng bom, chậm một chút nữa thì tất cả tan xác. Sau đó, anh được giám đốc Đại gọi sang bên Khoa da liễu. Bên ấy hầm sập, nhiều bệnh nhân và y, bác sĩ đang bị kẹt ở dưới hầm. Cứ như thế mà phải bốn ngày sau mới đưa được thi thể hai người cuối cùng lên khỏi hầm: Đó chính là em Thúy, sinh viên thực tập và anh Trạch, nhân viên bảo vệ. Lúc ấy thân thể của họ đã biến dạng và bắt đầu bị phân hủy. Nói về bác sĩ Đỗ Doãn Đại – Ông trở thành giám đốc của viện từ năm 1969. Vợ ông là bác sĩ Phạm Thị Hoan đã xung phong vào tuyến lửa Quảng Bình. Các con đều sơ tán theo trường, nên mình ông thường ở lại ngay bệnh viện. Ông được coi là người thuyền trưởng chèo lái con thuyền Bạch Mai vượt qua giai đoạn thảm khốc 1972, nối tiếp cuộc hành trình trong suốt hơn 100 năm cùng đất nước. Bệnh viện đã bốn lần bị ném bom. - Lần thứ nhất tháng 11 năm 1967: Một bệnh nhân tử vong, ba bác sĩ bị trọng thương. - Riêng năm 1972 tới ba lần phải hứng chịu sự cuồng phong của không quân Mỹ. * Trận bom 26 tháng 7 làm nhiều người bị thương. * Trận trưa 19 tháng 12, bốn quả bom nữa rơi xuống Khoa da liễu và Tai-mũi-họng. Khói bụi chưa kịp tan, nỗi hoảng hốt chưa kịp dịu lại trên nét mặt mọi người, thì trận đại tàn khốc lúc 4 giờ sáng ngày 22.12.1972 – Mỹ dồn lực để hủy diệt bệnh viện. Năm 1972 - Bạch Mai cùng với bệnh viện Việt Đức, hai cơ sở điều trị ngoại khoa lớn nhất miền Bắc. Mỹ muốn tàn phá Bạch Mai để uy hiếp tinh thần của Hà Nội, làm cho Hà Nội điêu đứng trở về thời kỳ đồ đá. Mất Bạch Mai là mất nơi khám chữa bệnh, tê liệt một cơ sở cấp cứu hàng đầu – Khi ấy Bạch Mai làm nhiệm vụ chữa trị cho cả vùng phía nam Hà Nội và các tỉnh từ Hà Nam về thủ đô. Bác sĩ Đỗ Doãn Đại có một cô em dâu tương lai, cũng là một nữ bác sĩ bệnh viện bị bom chết hôm 19/12. Thiệp mời đám cưới còn chưa kịp chuyển đến tay bạn bè. Hôm 21/12, giám đốc Đại lo đám tang cho cô em dâu – Tối đến mệt mỏi nên về nhà ở khu phố Kim Liên, cách Bạch Mai không xa. Nửa đêm đang chập chờn trong giấc ngủ, thì ông nghe thấy hàng loạt tiếng bom nổ rung chuyển, ầm ầm… rất gần. Đất trời chao đảo. Các quầng đỏ nối nhau của tên lửa bắn lên rực trời. Gió xồng xộc ùa vào cả miệng hầm của khu Kim Liên. Nhìn về phía bệnh viện, ông nóng ruột, lòng dạ bồn chồn. Còi báo yên, ông tức tốc đạp xe đến viện. Sát đến ngày nô-en trời rét căm căm… Năm phút sau, ông tới nơi vừa đúng lúc gặp y, bác sĩ khoa ngoại và các khoa khác cũng đã lên mặt đất. Đập vào mắt họ là cảnh điêu tàn, đổ nát. Dưới sức công phá của hơn trăm quả bom, tất cả chìm trong khói bụi. Tiếng khóc, tiếng kêu cứu vang vọng khắp nơi. Ông đã len lỏi đi một vòng quanh bệnh viện xem xét tình hình, đồng thời trấn an tinh thần các y, bác sĩ và nhân viên bình tĩnh cứu nạn nhân. Đội xây dựng của thành phố đã kịp thời được điều đến, để giúp tháo gỡ những tấm bê tông bị sập. Ông Đỗ Thọ phụ trách hệ thống điện, dù không phải là ca trực nhưng nghe tin bệnh viện bị ném bom, cũng đã lập tức tới. Trong số 31 người chết đêm đó, có một em bé tám tuổi, con một nhân viên bệnh viện theo mẹ đến cơ quan tránh bom – vì Bạch Mai có một hệ thống đường hầm bằng bê tông kiên cố. Thường mỗi khi Hà Nội có báo động, những người dân quanh đấy vẫn tìm đến nương náu nhờ. Bác sĩ Đại khi ấy là thần tượng của anh em cán bộ bệnh viện, rất liêm khiết, đứng đắn và tử tế. Ông có tín nhiệm rất cao cả đức độ lẫn tay nghề, không ai không ngưỡng mộ. Năm 1967, khi giặc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc – Một nửa bệnh viện đã lên đường sơ tán vào Ứng Hòa, Hà Tây. Một nửa trụ lại. Hà Nội còn đây, bệnh viện không thể đi hết. Thời chiến quen với việc đánh phá, kể cả những giây phút không quân Mỹ điên cuồng quần thảo trên bầu trời, bác sĩ của bệnh viện vẫn bình thản mổ cấp cứu ngay dưới hầm. Thông thường các bệnh nhân được đưa vào sâu trong các đường hầm, phía ngoài là các y, bác sĩ, hộ lý túc trực – nên trận bom oan nghiệt, số người tử thương hầu hết là y, bác sĩ và các nhân viên y tế. Bệnh nhân vẫn được an toàn ở phía trong. Do có hệ thống đường hầm kiên cố nên các phòng mổ, phòng đẻ, phòng xét nghiệm… và một số giường của bệnh nhân ở các khoa, đều đưa xuống dưới hầm. Nhiều khi đang còn báo động, nhưng có điện thoại gọi xe cấp cứu đến nơi địch bắn phá, các thầy thuốc lập tức lên đường. Các bác sĩ tiến hành sơ cứu tại chỗ, rồi đưa bệnh nhân về viện cứu chữa. Bạch Mai là một bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh đặc biệt đầu tiên ở Việt nam, cũng là cơ sở thực hành chủ yếu của Đại học y Hà Nội. Nói về mười sáu chị em làm việc ở bệnh viện Bạch Mai đêm 21 rạng ngày 22.12.1972 ấy: Đó là các chị Nguyễn Thị Cúc, Toán, Sửu, Hân, Nhàn, Xiêm… Họ là các bác sĩ, y tá, đồng thời còn là những chiến sĩ tự vệ của bệnh viện, đều đang tuổi thanh xuân - Lúc 4 giờ sáng hôm đó khi hơn trăm quả bom ném xuống, tất cả đang ngủ ở khu tập thể nhà tròn của bệnh viện. Sau ít phút bàng hoàng, họ gọi nhau chạy đến các khoa-phòng nơi làm việc. Mặc trời tối, rét buốt và máy bay địch vẫn đang ầm ầm ném bom ở những vùng lân cận, lập tức lao vào tìm kiếm nạn nhân. Cảnh đau thương, tang tóc và sự dũng cảm của các y, bác sĩ, nhân viên y tế bệnh viện … đã làm lay động nhân loại. Một nhà báo Mỹ đã ghi lại và đưa tin về bệnh viện, khiến toàn thế giới rung động - Họ cảm phục về lòng dũng cảm của những con người Việt Nam, đồng thời lên án sự tàn ác, vô nhân đạo của đế quốc Mỹ. Khi tiếng bom dứt, nữ bác sĩ người Pháp Yvonne Cupde Vilie đã có mặt ngay ở hiện trường đổ nát của bệnh viện, để ghi nhận và tố cáo. Nữ diễn viên Jane Fondda – “Jane Hà Nội”, cũng tới viện. Đứng trên nền đất đá tan hoang… để chứng nhận sự man rợ của chiến tranh. Một số giặc lái Mỹ cũng được đưa tới, để chúng chứng kiến tận mắt tội ác mà chính chúng đã gây ra. * Ngày 22.12.1972, Pháo đài bay B52 Mỹ không chỉ ném bom hủy diệt bệnh viện Bạch Mai – vào lúc 2 giờ 38 phút, chúng sử dụng 24 lần chiếc B52 và 36 lần chiếc máy bay chiến thuật, 18 lần chiếc “cánh cụp cánh xòe” F111 đánh phá sân bay Nội Bài, ga Giáp Bát, Gia Lâm, Văn Điển… cùng các trận địa tên lửa. 3 giờ 42 phút, Tiểu đoàn 57 bộ đội phòng không Hà Nội bắn hạ 1 B52 rơi ở Chợ Bến, Mỹ Đức, Hà Tây. Cùng thời điểm, Tiểu đoàn 71 bắn rơi tại chỗ 1 B52 nữa ở Thanh Miện, Hải Hưng. 3 giờ 46 phút, Tiểu đoàn tên lửa 93 lại bắn rơi 1 B52 ở khu vực Quỳnh Côi, Thái Bình. Ban ngày – 56 lần chiếc máy bay chiến thuật không quân Mỹ đánh phá các mục tiêu: Ga Kép, thị xã Bắc Giang, thành phố Việt Trì, thị trấn Vĩnh Yên. Ban đêm – 24 lần chiếc B52 với 30 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống, đánh phá Đông Anh – Hà Nội, Hòa Lạc, Đáp Cầu… Trong đó 9 lần chiếc F111 tập trung đánh khu vực Hải Phòng như Sở Dầu, Nhà máy Xi măng, khu An Dương. Lực lượng cao xạ phòng không đã bắn rơi 5 máy bay: với 3 B52 và 2 phản lực. Đặc biệt tại trận địa Vân Đồn – Hà Nội: bằng 19 viên đạn 14ly5, các chiến sĩ tự vệ nhà máy Liên Cơ đã bắn rơi 1 “cánh cụp cánh xòe” F111 của Mỹ. Ngày 23.12.1972 Ban ngày – 57 lần chiếc máy bay chiến thuật Mỹ đánh phá các khu vực ngoại thành Hà Nội như Mai Dịch, Trạm Trôi, Hoài Đức. Ban đêm – 33 lần chiếc B52 đánh Đồng Mô - Lạng Sơn và khu vực Bắc Giang. 30 lần chiếc máy bay F4 - F105, 11 lần chiếc F111 đánh vào Yên Viên, Giáp Bát, Đa Phúc và các sân bay Nội Bài, Yên Bái. Hướng biển – 7 lần chiếc máy bay chiến thuật của hải quân Mỹ đánh Uông Bí, Phả Rừng, Sở Dầu và sân bay Kiến An (Hải Phòng). Cao xạ phòng không Việt Nam bắn rơi 4 máy bay: trong đó có 2 B52, 1 F4 và 1 A7. Ngày 24.12.1972 Ban ngày – 44 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá khu vực Thái Nguyên, Sen Hồ, Việt yên (Hà Bắc). Ban đêm – Từ 19 giờ 50 phút với 33 lần chiếc B52 đánh phá ác liệt ga Kép, Bắc Giang. 39 lần chiếc máy bay chiến thuật yểm hộ đánh vào sân bay Yên Bái, ga Kép và khu vực Vĩnh Tuy (Hà Nội). Cao xạ phòng không Quân đội nhân dân Việt nam đã bắn rơi 5 máy bay: trong đó có 1 B52, 2 F4, 2 A7 – Lực lượng dân quân tự vệ bắn rơi 2 máy bay bay thấp. Dân quân tỉnh Hòa Bình bắn rơi tại chỗ 1 máy bay lên thẳng HH-53 đến cứu phi công. Lúc 24 giờ ngày 24.12.1972, Níchxơn ra lệnh ngừng tập kích B52 trong 36 giờ vào ngày Chúa giáng sinh. Thực chất là để xả hơi và rút kinh nghiệm sau những đòn đau, bị thiệt hại nặng nề qua một tuẩn lễ đầu tiên của chiến dịch Linebacker II. Nói về Thu và nhóm phóng viên báo Hà Nội Mới – Sau ba ngày tham gia cứu hộ người bị sập hầm ở bệnh viện Bạch Mai, công việc đã tạm ổn. Vào ngày Giáng sinh, họ trở lại tòa soạn để tiếp tục công việc báo chí và vui chơi đêm lễ không có tiếng bom, như lời cam kết của Tổng thống Hoa Kỳ. Khi Thu cùng hai bạn về đến tòa báo thì đã quá nửa đêm ngày 24/12. Ai cũng thấy mệt mỏi, chỉ kịp rửa ráy qua loa, rồi nhẩy lên các bàn làm việc thay cho giường nằm lăn ra ngủ. Lúc ấy, Hà Nội đã trở lại không khí yên tĩnh như nhịp sống thường tình của thành phố.
29- Hà Nội – đêm Giáng sinh 1972, rất đông người dân đi sơ tán trở về tỏa ra từ các phố. Họ tin ngày Chúa giáng sinh, Mỹ sẽ không ném bom. Quả thế thật, sau đợt rải thảm B52 hôm 24/12 – Mỹ đã ngừng ném bom 36 giờ như lời tuyên bố của Tổng thống Níchxơn. Hà Nội vắng tiếng bom sau 7 ngày chiến đấu ác liệt, cuộc sống người dân thủ đô lại trở về với vẻ đẹp thanh bình vốn có. Thời tiết mùa đông mà Hà Nội ấm áp lạ thường. Từng tốp thanh niên, học sinh, sinh viên ùa về thủ đô đi chơi Giáng sinh. Phố Khâm Thiên – nơi sinh sống của rất nhiều người công giáo, nhộn nhịp trở lại. Khu phố nằm xa các cơ sở quân sự, nên dân chúng tin rằng ở đây an toàn. Các gia đình công giáo lũ lượt trở về, mong được đón ngày Chúa ra đời. Đêm Giáng sinh – phố Nhà Chung bừng sáng. Người người kéo nhau về Nhà Thờ Lớn. Đường phố tấp nập như chiến tranh không hề hiện hữu trên mảnh đất này. Bên trong Nhà Thờ Lớn: đèn, nến lung linh. Tiếng chuông ngân vang. Cha xứ làm lễ mong ước thái bình cho con dân. Mọi người đều hướng đến Chúa cầu nguyện… Thu nghĩ về những năm tháng không xa? Mỗi khi mùa Giáng sinh tới, cứ đi qua phố Nhà Thờ và những con phố nhỏ quanh Bờ Hồ, lòng cô lại nhớ đến nao lòng. Những kỷ niệm đã qua bên các bạn bè thân thiết và Hoàng… Khi ấy họ vẫn còn là học sinh cuối cấp, thường có cái thú thích lang thang trong những đêm đông, nhất là đêm Giáng sinh để ngắm nhìn Hà Nội, ngắm nhìn những con phố đẹp nhất thủ đô ven Hồ Gươm. Đêm nô-en năm nay – Một đêm nô-en lịch sử, giữa cuộc oanh tạc khốc liệt của không quân Hoa Kỳ vào Hà Nội. Bên cạnh Thu chỉ có Lan, người bạn gái thân thiết từ nơi làm việc tận tỉnh xa về. Họ cùng đi chơi với nhau trong đêm lễ này. Thúy, bạn cả hai cô cũng hứa sẽ về? nhưng vì công việc đột xuất của cơ quan ở nơi sơ tán, lại không về được. Thu và Lan hòa nhập vào dòng người dạo chơi đêm Giáng sinh. Gió hun hút thổi từ Hồ Gươm lùa vào các con phố họ qua. Lang thang đêm vô định… với cảnh áo mỏng manh nhưng chẳng ai thấy rét. Hai người bạn gái cứ đi loanh quanh qua những con phố gần nhà thờ, vừa để cảm nhận không khí đêm lễ, vừa rủ rỉ nói chuyện về những kỉ niệm thời xưa. Người đến lễ đông nghịt. Vào Nhà Thờ Lớn, ai nấy bước đi nhẹ nhàng, nói khẽ khàng để không làm ảnh hưởng tới cái không khí trang nghiêm, đón chờ giờ khắc điểm: Chúa giáng sinh! Cây thập tự trên nóc tháp nhà thờ đạo chĩa mũi nhọn chọc thẳng lên khoảng không, đổ bóng xuống mặt phố phía cửa trước, nơi có một vườn thánh nhỏ. Bên trong những hàng song sắt bao quanh vườn thánh, Đức mẹ đồng trinh khoác chiếc áo choàng màu đá, đang ẵm Chúa hài nhi. Trên mặt Đức mẹ thoáng gợn vẻ ưu tư, tạc nên hình tượng tình mẫu tử. Chuông rền rã… Thu ngắm nhìn ngôi nhà đạo cổ kính, uy nghiêm. Nhà Thờ Lớn Hà Nội được khánh thành đúng vào lễ Giáng sinh năm 1887, là sự tiêu biểu và đặc trưng nhất của nghệ thuật kiến trúc thời trung cổ. Những mái vòm uốn cong, rộng, hướng lên đỉnh trời đón ánh sáng. Bên trong là kiến trúc Gôtic. Lối kiến trúc này, luôn cho người xem ấn tượng về một không gian tôn giáo uy nghiêm. Khi nghe ca đoàn hát thánh ca, tiếng ca trầm hùng hòa với tiếng đàn oóc-gan, đàn dương cầm… ta như thấy mình bay theo Chúa vào không gian sâu thẳm, bí ẩn, linh thiêng. Sau những lời thỉnh đạo trầm ấm, âm vang của Đức cha chỉ giáo về ngày Chúa ra đời, mọi người thấy tâm mình sáng lên như được khai minh. Đêm Giáng sinh, đêm Chúa ngự trên trái đất này đã đem lại cho con người một niềm an ủi, mỗi khi gặp những khổ đau, có niềm tin vào những điều tốt đẹp trên đời. Kể từ thời phục hưng đến nay, ngày Lễ Giáng sinh không còn chỉ là riêng của những người thiên chúa giáo – Giáng sinh đã trở thành ngày Lễ quốc tế, ngày lễ của gia đình. Mọi người thuộc các thế hệ về tề tựu bên nhau, thể hiện tình yêu thương. Trẻ con sẽ là những thiên thần lên ngôi trong mùa lễ hội. Những thiên thần ấy đi vào giấc ngủ, cùng với hình ảnh “ông già tuyết” leo vào từ ống khói… mang cho chúng món quà mà chúng mong đợi nhất. Hát vang bài hát Jingle Bells, một thông điệp của mùa Lễ Giáng sinh. 2013 năm trước đây, Đức Chúa Jesus Christ – Đấng cứu thế đã giáng sinh để cứu chuộc rất nhiều lầm lỗi của loài người: theo giáo lý Thiên chúa. Thời gian trôi qua, bản tính xấu xa của con người không những không mất đi, mà còn hoành hành dữ dội và ngang ngược hơn. Không còn cách nào khác, Đức Chúa Trời đã phải cho con mình đầu thai xuống trần thế, để gánh bớt tội lỗi cho con người. Như vậy, Chúa Jesus đã giáng sinh để gỡ bỏ lỗi lầm, giải bớt những hiềm khích, khuyên răn con người làm điều phước đức mà hưởng ân huệ của Chúa. Chúa dậy con người rất nhiều điều: Chúa bảo con người phải biết sống vì người khác, Chúa đem đến cho con người sự lạc quan vui sống, khuyên nhủ con người hãy giữ vững đức tin: “Hãy xin sẽ được - Hãy tìm sẽ gặp - Hãy gõ cửa, sẽ mở cho”. Chúa còn kêu gọi: “Hỡi dân ngoại, hãy đồng vui cùng dân Chúa” – để người mạnh, kẻ yếu phải hòa hợp nhau. Chúa còn khuyên con người luôn hướng tới sự công bình. Phước cho những kẻ làm cho con người hòa thuận, vì sẽ được gọi là “con Đức Chúa trời”. Nếu tìm hiểu thêm ý nghia của Lễ Giáng Sinh, chúng ta sẽ thấy nhiều điều thú vị: truyện về ngày sinh của Chúa Jesus, có tên bằng tiếng Anh là Nativity. Chúa Jesus do Đức Mẹ Đồng Trinh tự nhiên mang thai mà sinh ra. Sự thụ thai này do quyền lực thần diệu của Thượng Đế, tạo ra trong bà Mary còn đồng trinh. Chúa Jesus được sinh ra trong một chuồng ngựa (stable) tại Bethlehem và được đặt trong máng cỏ (manger), vì lúc đó trong nhà trọ không còn phòng trống nào. Sau đó Chúa Jesus được Đức mẹ Mary và chồng của bà là Joseph nuôi nấng tại Nazareth – một thành phố ở phía bắc Israel. Khi được mười hai tuổi, Chúa Jesus đến giáo đường ở Jerusalem, và đã làm kinh ngạc các giáo sư về môn Mosaie Law với sự hiểu biết của ngài. Khi lớn lên, Chúa Jesus chọn được mười hai Tông Đồ cùng ngài đi khắp nơi ở Palestine để giảng đạo, chữa bệnh và thực hiện các phép lạ - Đó là phép “Loaves and Fishes” (những ổ bánh mỳ và những con cá). Chuyện phép lạ này được người ta truyền lại: Khi Chúa Jesus thuyết giảng ở một đám đông, trong lúc họ rất đói. Người ta chỉ tìm thấy 5 ổ bánh mỳ và 2 con cá – Chúa Jesus làm phép trên 5 ổ bánh mỳ và 2 con cá này, rồi ra lệnh cho các đệ tử của ngài phân phát đồ ăn cho tất cả mọi người. Sau khi mọi người được phát đầy đủ đồ ăn và ăn đã no nê, người ta thấy 12 chậu đồ ăn vẫn còn đầy. Nhờ việc đi rao giảng lời của Thượng Đế mà ngài đã có rất nhiều tín đồ, đồng thời cũng nhiều kẻ thù. Cuối cùng, Chúa Jesus bị tên Judas Iscariat phản bội. Sau đó, bị Potius Pilate – người lãnh đạo dân Do Thái lúc bấy giờ kết án và chính quyền La Mã đóng đinh trên Thập Tự Giá. Những người Thiên chúa giáo tin là ngài đã cải tử hoàn sinh, và sự phục sinh này là để cứu vớt các linh hồn. Những tục lệ cổ truyền về Lễ Giáng sinh bắt nguồn từ sự trùng hợp ngày sinh của Chúa, với ngày lễ kỷ niệm về nông trang và mặt trời vào mùa đông (winter Selstice) của những người không theo đạo thiên chúa. Vào dịp này, người ta trang hoàng nhà cửa bằng cây lá xanh tươi và hoa, đèn rực rỡ. Trẻ con và người nghèo được trao quà tặng. Lửa, đèn và nến là vật tượng trưng của sự ấm cúng cùng sự sống. Nó luôn liên hệ với các lễ lạc vào mùa đông, của cả những người theo đạo thiên chúa và các đạo khác. Từ thời trung cổ: cây thông – một loại cây vạn liên thanh, là biểu hiện cho sự sống và không thể thiếu trong Lễ Giáng sinh. Tính đến năm 1972, ngày Chúa ra đời cách đã 1969 năm. Chúa nhân từ đã cứu rỗi bao chúng sinh lầm đường, lạc lối. Những người có đạo tin Chúa luôn mang lại sự tốt lành, nên họ ít khi làm điều ác. Rời Nhà Thờ Lớn, Thu và Lan lặng lẽ đi bên nhau với bao tâm sự. Thu nói với Lan: - Phố Nhà Thờ là phố của những người nghiền cà phê đấy! Lan có nhớ, những năm trước đây khi hội của chúng mình đi chơi đêm nô-en, Hoàng vẫn rủ các bạn vào uống cà phê trên hè phố Nhà Thờ? Lan phụ họa theo: - Ừ, Hoàng thường nói: uống cà phê chỉ ngồi ở hè phố Nhà Thờ mới thú! Vui chân đến phố Nhà Thờ, muốn uống cà phê người ta có thể vào trong một cái quán mình thích, hoặc ngồi ngay ở hè phố mà thưởng thức. Con phố ruột của dân nghiền cà phê Hà Nội, rất gần Hồ Gươm. Cà phê phin… từng giọt, từng giọt sóng sánh. Người uống cũng từng ngụm, từng ngụm nhẹ nhàng như trong mơ. Phố ngắn và nhỏ nên cũng thật dễ điểm mặt, nhớ tên những “địa chỉ vàng” của các quán cà phê ngon. Hai người bạn gái đi chậm lại. Họ nhìn vào một cái quán nhỏ bên phố, mà trước đây Hoàng hay rủ các bạn vào. Nghe thấy tiếng khẽ thở dài của Thu, Lan hỏi: - Thu nhớ Hoàng lắm, phải không? - Thế là Hoàng đi cũng đã được hơn năm năm rồi, Lan nhỉ! Thu nói: “Chiến tranh và sự xa cách, có bao nhiêu điều đã đổi thay.”. - Cả tình yêu và nỗi nhớ nhung nữa chứ! Lan nhìn bạn tủm tỉm cười: “Lan thì thấy, chúng mình từ biệt nhau như vừa mới hôm qua thôi.”. - Còn Thu lại thấy như mình đã trải qua cả cuộc đời vậy. - Chỉ có Thu là thay đổi nhiều quá! Lan bảo vậy. - Chúng ta đều khác đi cả Thu đáp và tiếp lời bạn: - Nếu bây giờ còn nói: Mỗi chúng ta đều đã trưởng thành? đã lớn lên? - Lan không thấy: nói vậy có phần hơi trẻ con, mà còn buổn cười nữa! Bởi chúng mình đang trải qua cả một cuộc chiến tranh… Thu vẫn say sưa giải thích: - Sự biến đổi về cuộc sống, đã cho mỗi chúng ta thêm rất nhiều hiểu biết, cũng như sâu sắc hơn cả về tình yêu. Lan có vẻ ngạc nhiên nhìn Thu, rồi bật lên cười khanh khách: - Nhưng Lan chẳng có ai để mà yêu sâu sắc… để mà nhớ… mà thay đổi cuộc sống… Thu chợt hiểu. Cô nắm chặt tay bạn tỏ sự cảm thông: - Tại cậu kén quá đấy! Hai người bạn gái vui vẻ bước vào trong quán. Đêm khuya, cơn gió thổi về se lạnh. Họ ngồi bên nhau cầm trong tay tách cà phê nóng, hơi bốc lên nghi ngút. Ngày trước, khi Hà Nội chưa có chiến tranh, vào ngày lễ nô-en này phố rất đông. Các văn nhân, nghệ sĩ thường hay đến đây. Họ ngồi với nhau bên tách cà phê để nghĩ sự đời, ngắm người, ngắm cảnh đêm lung linh trong những ánh đèn. Năm nay, Hà Nội đang có bom nên vắng đi nhiều. Tiếng chuông nhà thờ lại âm vang trong khuya, người đi chơi nô-en đã tản về các phố. Thu và Lan cũng rời khỏi quán đi về phía Bờ Hồ. Tòa báo Hà Nội Mới của Thu nằm ở ngay đầu phố, sát với Hồ Hoàn Kiếm. Họ đi qua những chùm bóng điện đủ màu kết thành hoa, theo gió chao đi chao lại. Những ngọn đèn pha từ các trận địa tên lửa và pháo cao xạ phòng không, chiếu những đường sáng trắng, đan nhau chi chit giăng khắp bầu trời. Bên bờ Hồ Gươm, những chùm rễ xi treo lơ lửng đang cố đưa những đầu rễ trắng nõn khỏa xuống dòng nước xanh. Sóng xô đến dồn chúng vào sát chân hồ. Thu dừng lại, cúi xuống nhặt mấy hòn đá nhỏ ném thia lia trên mặt nước. Viên đá nhảy lướt lên mặt sóng, vạch thành một đường dài lấp loáng ra tít ngoài xa. Hòn thia lia gợi cho cô nhớ lại kỉ niệm xa xưa, những ngày đã cùng anh đi dạo. Lan thì nhặt mấy chiếc lá to thả xuống hồ. Những cánh lá bập bềnh trôi như những chiếc thuyền câu nhỏ xíu. Có những khoảnh khắc, hai người bạn cùng im lặng. Lòng họ đang lắng lại, đuổi theo những tâm trạng riêng của chính mình. - Thu có nhớ, đêm nô-en cuối cùng trong đời học sinh của chúng ta không? Tiếng nói của Lan kéo Thu ra khỏi sự suy tư. - Cũng bờ hồ này, cây cối, đường phố, con người… vẫn quen thuộc như ngày nào, Lan nhỉ? Thu trả lời bạn. - Nhưng lại thiếu đi nhiều đứa bạn, phải không Thu? - Ờ, đúng vậy. Khi ấy, chúng mình đều bước ra đời, mỗi đứa một nơi, lại chiến tranh nữa… - Nghĩa là Thu lại đang nghĩ về Hoàng? Lan nói vẻ ý nhị, cô khẽ mỉm cười trong đêm. Thu không để ý, vì mải đắm mình vào một thế giới đang bộn xộn trong cô. Giây lát, Thu khẽ bảo: - Đêm nô-en năm nay, Thu cảm thấy có một cái gì đó thật mới mẻ. Như trong cái màn đêm yên tĩnh của phố cổ kia, là cả một ngọn núi lửa. Ngọn lửa ấy sẵn sàng phá vỡ cái vỏ bọc yên ả của nó. - Thì chiến tranh mà… Lan nói. - Cả ở trong trái tim mỗi con người chúng ta nữa, Lan ạ! - Bởi vì Thu đang nghĩ tới người yêu! Chứ còn trái tim Lan, chẳng có ngọn núi lửa nào cả? chẳng có gì hết. - Không, ý Thu không phải chỉ nói riêng về chuyện tình cảm ấy. Chúng ta đang đứng ở trong cuộc chiến của cả dân tộc, mà Lan? - Tất nhiên. Lan dừng lại không nói gì nữa. Thu nắm lấy tay Lan, hai người đi tiếp về phía tòa soạn báo. Trong canh khuya, thành phố đã im ắng như thể một bến đò đang đợi khách. Người ta nghe rõ tiếng lăn tăn của con sóng láng lên bờ. Thỉnh thoảng một đợt gió xào qua dẫy me xanh cạnh hồ, làm bay đi mươi cánh lá. Cảnh tượng như ở bến sông quê, chốc chốc người lái đò lại chui đầu ra khỏi mui thuyền, đôi mắt thoáng chút lo âu nhìn lên bờ đợi khách? Rồi lại rụt đầu vào trong khoang. Ở đó, được thắp một ngọn đèn dầu chỉ vừa đủ ánh sáng. Ngọn đèn như một đốm lửa có hai mầu: mầu xanh nhọn ánh lên thành búp ở phía trên, nửa đỏ lại phình ra giống một nậm rượu nhỏ phía dưới. “Đêm Hà Nội trong chiến tranh mà cứ như huyền thoại” – Thu nghĩ vậy. Thành phố trong đêm uy nghiêm như một thần tượng, vừa mang vẻ huyền bí thiên nhiên, vừa có cái dấu ấn của sự giáo điều cổ xưa. Thỉnh thoảng vẫn có chuyến xe chở đầy ắp người sơ tán, chạy về phía cửa ô. Tiếng còi tàu ở nhà ga thét lên một hồi dài, báo hiệu nó chuẩn bị rời bánh đi đến các tỉnh xa. Mấy chiếc xe nhà binh kéo theo những khẩu pháo lớn, nước thép còn mới. Trên xe, những chiến sĩ đội mũ sắt ngồi thành hai hàng. Họ giơ bàn tay ngang mặt chào các đồng chí của họ, cũng đang ngồi trên chiếc xe khác nhưng đi ngược chiều. Thỉnh thoảng có chiếc xích lô chở đôi, ba người khách, bác lái phải gò mình lên thành xe đạp hối hả về phía cuối phố. Lẻ tẻ vài người đi xe đạp, vội vã phóng thật nhanh về nhà hay đi đâu đó. Trời cũng nửa đêm trở về sáng. Những ngọn đèn trong đêm lễ vẫn lung linh, nhưng nhà hai bên phố thì đóng cửa im ỉm. Đã đi đến cổng của báo Hà Nội Mới, hai người bạn gái chia tay nhau. Lan rẽ xuống phố Bà Triệu, nhà cô ở phía đó. Thu mở cổng tòa soạn, bước vào trong cơ quan. * Vì sao nhỉ? – Vi sao đến lúc này, nhiều nhà khoa học vẫn cứ trằn trọc mãi câu hỏi: “Man, who are you?” (con người, anh là ai?), mà sẽ còn bao nhiêu thập kỉ nữa, khi những thành tựu khoa học như những ánh chớp liên tiếp chiếu sâu vào cái màn đen huyền bí của thế giới, thì câu hỏi đó vẫn có thể là một “cơn sốt”. Cơn sốt khoa học sẽ chùm lên từ thế hệ này qua thế thế khác, không dừng lại. Con người chỉ đi tìm cho đúng cái bóng của mình: Man, who are you? Còn Thu, đêm nay cô thấy rõ lắm! Anh chị em của cơ quan, giờ này đều đã ngủ say cả. Chia tay với Lan đêm nô-en về nghỉ trong tòa soạn, Thu cứ bồn chồn, miên man bao tâm trạng. Dường như thể những vì sao trong vũ trụ rộng lớn kia, chúng bay lên từ trái tim cô. Chỉ trong một khoảnh khắc thôi, khoảnh khắc của ánh chớp ấy… Thu đã chứng nhận được cả thế giới đó. Cứ như một công trình phát minh, cô nhận thức ra và nó làm cho cô vui sướng. Tham gia trong những ngày cứu hộ, đào bới, tháo dỡ hầm sập cứu người ở bệnh viện Bạch Mai, Thu mới cảm thấy ý nghĩa thiêng liêng của giống nòi. Đất nước trở nên cao cả và thân thiết biết bao? Chưa bao giờ Thu thấy yêu thương dân tộc mình đến thế! Có ngồi nghe những nhà đạo đức giảng hàng trăm bài chính trị, cũng chẳng bằng chính bản thân mình khi đã hòa vào để cứu các nạn nhân bị bom vùi. Những lúc nhìn anh chị em phải quằn quại trong đống gạch đá đổ, lấp… Người thì thoi thóp, người không bao giờ còn quay trở về với sự sống được nữa? Thu chỉ chực òa lên khóc. Lòng cô đau như chính người thân ruột rà máu mủ gặp nạn. Có một ý nghĩa về cuộc sống còn lớn hơn cả tiếng khóc ấy, bùng lên trong trái tim cô… - Ôi, sự sống! Sự sống mới quí giá làm sao? Phải ở trong hoàn cảnh khốc liệt đó? Phải chính mắt mình chứng nhận sự tàn ác, dã man của kẻ thù? – Mới thấy hết được ý nghĩa thiêng liêng của tổ quốc! Tình yêu quê hương đang chảy trong dòng máu của cô. Phải chăng đấy cũng là một trong những đáp án, mà cần trả lời câu hỏi kia: “Man, who are you?” - Con người, anh là ai? Con người là quê hương, là đồng bào, dân tộc trong dòng máu của ta, của cha mẹ cho ta – Chẳng phải đúng thế sao !? Thu cảm thấy hạnh phúc, vì mình đã đóng góp được một chút công sức nhỏ bé cho quê hương, cùng đồng bào của cô khi gặp nạn: và đấy chính là những gì cô thấy mình lớn lên, cảm thấy tự hào. Cô đã cùng với dân tộc, với nhân dân… có mặt trong lúc quê hương đang rơi vào thảm họa đẫm máu nhất – để bảo tồn nòi giống, tổ quốc mình! Đó cũng là trang sử hào hùng, chói lọi của non sông. Lòng cô đầy phấn kích. Thu vùng dậy lấy giấy viết thư cho anh. Phải, Thu sẽ chia sẻ với anh những gì mà cô đã trải qua, cả những tâm tư thầm kín nhất trong đêm lễ nô-en này. “Hoàng thân yêu, Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng là mối tình đầu và cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc khi đã làm với anh điều ấy…”. Viết đến đây, Thu dừng lại. Cô mỉm cười thầm với chính mình, vì đã viết những dòng như thế cho anh trên thư. Phải, tới giờ nhớ lại những giây phút đó… lòng cô vẫn còn thấy bồn chồn. Nghĩ tới ngày sẽ được mặc bộ đồ cưới thiêng liêng của người con gái, bao nhiêu cảm xúc lại chảy tràn trong đầu óc Thu? Cô muốn viết tất cả nó ra. “ngày cưới…”: cái niềm hạnh phúc chợt đến với Thu như nghẹt thở, chói ngợp trong tâm hồn – Ôi, cuộc sống? Cuộc sống đầy mâu thuẫn nhưng mới kì diệu làm sao! Phải chăng đến đây, ta mới hoàn thiện được câu hỏi: Man, who are you? – Chẳng phải, ta đã tìm được chân lý của cuộc sống đó sao? Không thể có một hình tượng nào, một lí thuyết nào sáng tỏ hơn được chân lí ấy! Cô lại cúi xuống viết tiếp những dòng thư cho anh. “… Đấy, nó đấy anh ạ! “ – Thu vẫn miên man… Tuy mới chỉ là những ý nghĩ đến thôi, cô đã thấy hạnh phúc lắm rồi! … Khi em mơ một chiếc váy mặc trong ngày lễ cưới, thì thấy cuộc sống đã mở ra trước mắt cả bầu trời. Em cũng ước muốn một gian phòng nhỏ xinh xắn trên phố, trong hạnh phúc của tình yêu! Phải thế không anh? Không giống những nhà khảo cổ đã khai quật từ trong các tầng lớp địa chất nằm sâu dưới đất… một cái sọ người nguyên thủy, hay mấy mảnh xương vụn… mà tìm ra nguồn gốc của loài người? cũng chỉ để trả lời cho câu hỏi: Man, who are you? – Con người, anh là ai? Nhưng rõ ràng đêm nay, Thu đã nắm được một cái gì đó thật thiêng liêng, kì diệu của cuộc sống! – Cũng như những người phụ nữ khác, Thu sẽ có con. Khi đất nước đã hết chiến tranh, cô cùng với các con sống một cuộc sống bình thường, yên lành bên anh. Đấy, nó đấy! Cô muốn ôm chặt lấy cái hạnh phúc ấy. Như thể đó là một cánh chim, nếu buông tay ra thì cánh chim sẽ mang chân lý của cô bay đi mất. Câu hỏi: “Con người, anh là ai”? chẳng phải ta đã trả lời được nó đấy sao! Những gì đang tồn tại, đang phát triển: cả hy vọng và sự hy sinh… suy cho cùng đều nẩy sinh từ trong đó. Cô đã nhận thức được nó từ trái tim cô, trong tâm hồn, trí não của một người phụ nữ giữa đêm lễ Giáng sinh này – Thu muốn viết tất cả những ý nghĩ hỗn độn ấy ra với anh, chẳng cần sắp xếp. Thu lại tự vấn mình: khỉ, mình toàn viết linh tinh. Giờ ta sẽ kể về đêm nô-en đi chơi với Lan, cho anh nghe. Cô viết: “Em và Lan, chúng em lượn mấy vòng từ phố Nhà Thờ ra Bờ Hồ rồi rẽ vào một cái quán nhỏ. Cái quán mà năm xưa có cả anh, ta hay vào đó uống cà phê trong đêm lễ, anh còn nhớ không? Đúng đến giờ khắc thiêng liêng thì bọn em len vào trong nhà thờ, xem mọi người làm lễ và cầu nguyện cho một Giáng sinh an lành. Sau khi dự lễ ở nhà thờ, bọn em còn lang thang thâu đêm… rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho anh đây! Cái Lan nó tạt về nhà, hẹn mai thế nào cũng đến tòa soạn báo ở với em vài ngày. Nó xin nghỉ phép năm, anh ạ! Chỉ tội nghiệp nó, chưa tìm được anh chàng nào thay thế, vẫn một bóng cô đơn! Chúng mình tuy rất xa nhau, nhưng vẫn còn có nhau… phải không anh?”. Thu nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng về phía trời xa. Cô lại nghĩ: nếu giờ ta đặt ra câu hỏi với anh: Chiến tranh liệu còn lâu nữa không? – chắc là anh sẽ trả lời: Chẳng còn lâu nữa đâu, em ạ! Mặc dù anh với em đều hiểu, thực tế còn ở cách xa với ước muốn của mình một khoảng cách, không phải là ngắn. Cô lại viết tiếp: “Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! – Thì cô gái nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con… sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh! Cái chân lí về hạnh phúc đơn giản vậy thôi! Nhưng chính chân lí ấy đã giúp cho cô gái nhìn thấy cả thế giới kia, trong trái tim nhỏ bé của mình, trái tim của một người đàn bà…”. Lá thư viết cho anh đã dài năm trang giấy pơ luya màu hồng. Ngày mai, chắc là vừa đêm lễ nên Hà Nội vẫn còn yên, Thu sẽ tranh thủ mang ra hòm thư ngoài phố gửi, để anh sớm biết tin. Trời cũng đã gần sáng, cơn buồn ngủ kéo đến trĩu mắt, Thu áp mặt lên lá thư và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: