III. KAPUGEN - NGƯỜI THỢ SĂN
CHUỖI KÝ ỨC VỤT BIẾN MẤT. Gió rít ù ù. Tay Miyax quờ phải mấy cây địa y mọc trên đỉnh ụ tuyết của cô.
- Amaroq! - Cô lại cất tiếng gọi rồi chạy băng xuống dốc và leo lên khu vực hang sói. Nơi này hoàn toàn im ắng và thật ma quái; khoảng trống bọn sói non vẫn nô đùa giờ vương vãi những khúc xương trắng hếu trông như những tấm bia mộ trong nghĩa địa.
Cô cúi nhặt một khúc và nhận thấy nó chi chít những vết răng sói non. Chỉ cần đẽo gọt thêm chút ít là có thể biến nó thành một cái lược mà cô đang rất cần. Liếc nhìn xung quanh, cô phát hiện một đoạn gạc hươu trông giống chiếc dùi cui.
- A ha, một thứ vũ khí. - Cô nói. - Mình có thể sẽ cần thứ này đây.
Một con cú tuyết bay vụt qua, đầu ngó ngoáy nhìn cô một cách tò mò.
- Tao sẽ gặp lại mày ở San Francisco. - Cô nói với theo nó. Nó ngước mắt nhìn về đích đến xa xăm, lặng lẽ đập cánh lướt về phương nam, hắt bóng in dài trên nền đất.
Gió xoắn lấy một lọn tóc của cô, đứng trên quả đồi có hang sói cô vẫn như cảm thấy sự hiện diện của những con vật đã cùng sống với cô: Amaroq, Móng Vuốt, Ánh Bạc, Kapu. Cô bâng khuâng không biết có còn được gặp lại chúng không. Gió giật từng cơn; cô chậm chạp quay trở lại nhà, ngón tay cô lướt qua những ngọn lách nhưng tâm trí vẫn miên man với việc ra đi của mình. Lên đến đỉnh trảng tuyết của mình, cô đứng sững như hóa đá. Ngôi nhà của cô tan hoang, cái túi ngủ bị xé nát, vương vãi trên cỏ. Số thịt cô để trên cỏ đã biến mất. Cái hầm tuyết cũng mở toang và trống rỗng.
- Ayi! - Cô kêu lên. - Thức ăn của tôi! Cuộc sống của tôi! Tôi chết mất thôi!
Trong khi chạy nháo nhác từ chỗ ngôi nhà tan hoang tới chỗ cái nồi nấu rồi lại ra hầm băng, cô cảm thấy một nỗi ghê rợn ớn lên dọc sống lưng, buốt ra tận hai bàn tay và lan khắp người. Kẻ nào đã gây ra chuyện này? Con thú hoang dại nào đã cướp sạch thức ăn của cô? Cô tuyệt vọng nhìn quanh và phát hiện ra Thạch Đông vẻ hung hăng đang nấp trong một khóm lau ngay sát cô. Đuôi nó ngoe nguẩy chầm chậm, tai chĩa ra phía trước. Cô hiểu ngay tín hiệu nó đưa ra và bước lùi lại. Sau đó cô nhớ ra rằng làm thế là sai lầm, cô không được phép nhượng bộ. Tay nắm chắc đoạn gạc hươu khua lên, miệng gầm gừ, cô nhào thẳng tới nó và quật mạnh vào chóp mũi nó. Nó mở choàng mắt, tai và người nhủn xuống, đuôi cụp giữa hai chân sau. Nó nằm ẹp xuống, cố gắng lấy lòng cô, đầu gục xuống khuất phục.
Tuyệt vọng và giận dữ, cô đâm mạnh vào người nó. Thạch Đông lăn kềnh phơi ra lớp lông trắng xóa của kẻ chiến bại. Cô dừng tay; cô không thể đánh một kẻ hèn nhát.
- Thạch Đông! - Cô hét lên. - Tại sao? Tại sao mày làm vậy?
Vừa dùng đoạn gạc dọa nó, cô vừa quan sát đống đổ nát của ngôi nhà và bới tìm. Tất cả số thức ăn trong hầm và trên mặt đất đều hết sạch, hành lý của cô cũng không thấy đâu. Huơ vũ khí lên, miệng gầm gừ dọa Thạch Đông, cô lùi dần về phía căn nhà cỏ, lấy chân đá hất những thứ đổ nát lên và tìm thấy hành lý ở bên dưới mái nhà sụp. Nó còn nguyên vẹn. Thạch Đông không tìm thấy thịt trong đó. Trí nhớ cô vụt đến. Cô còn rất ít thức ăn nhưng Kapu đã báo cho cô biết mùa lữ thử đang đến. Cô có thể kiếm được thức ăn.
- Guarl… - Cô hét lên giận dữ và quật khúc gạc xuống người Thạch Đông. Nó lăn lông lốc rồi đứng bật dậy, đuôi cụp giữa hai chân sau và cắm đầu chạy biến trong bóng chiều chạng vạng.
Khi nó đã chạy khuất, cô đứng thừ ra một lúc lâu. Cuối cùng, cô nhặt túi ngủ lên và xé lấy một mảnh từ tấm da mới. Cô lấy kim khâu ra rồi ngồi duỗi thẳng hai chân đúng tư thế truyền thống của phụ nữ Eskimo và bắt đầu khâu.
Một con lữ thử chạy vụt qua một khóm địa y. Cô dừng tay ngắm nhìn con vật nhỏ bé ngậm đầy mồm cỏ chạy về chiếc tổ tròn vo của nó. Mắt cô chợt nhận thấy có gì đó động đậy, cô liếc thấy một con chồn bé xíu đang liếm bụng bên sườn một gò đất nhỏ. Lớp lông trắng mới mọc loang lổ trên người nó. Nó đã làm xong công việc vệ sinh cá nhân và vừa ngồi xuống, nó đã biến mất dưới một đám rêu lông tuần lộc.
Mày bé quá - cô nói và mỉm cười. Một chu kỳ mới đang bắt đầu. Những loài thú săn lữ thử cũng đang quay về.
Miyax cất kim khâu, cuộn chặt tấm đệm và buộc chắc xuống dưới hành lý. Sau đó, cô kiểm tra lại cái nồi, túi ngủ, con dao
ulo, con dao của đàn ông, những khúc xương và mấy bông hoa. Cô gói ghém tất cả lại, buộc một sợi dây vào tấm da tuần lộc mới để dễ kéo lê theo sau rồi nhằm theo hướng mũi tên đã xếp, đi tới một trảng tuyết phía xa.
- Đã đến lúc lên đường rồi. - Cô nói và cất bước, không ngoái nhìn lại.
Đi được khá lâu cô mới mở hành lý, trải mấy tấm da xuống và lấy ra một xâu thịt sấy. Bỗng nhiên có tiếng một con thỏ rừng chân trắng kêu ré lên một cách tuyệt vọng, Miyax vội vớ lấy đoạn gạc và phóng tới chỗ con thỏ để cứu nó thoát khỏi nguy hiểm. Chạy vòng qua một bụi cỏ rậm, cô bắt gặp một con chồn
gulo dữ tợn, chúa tể họ nhà chồn Bắc Cực. Nó lừ đừ nghếch đầu lên.
Loài chồn
gulo vóc người thấp, chân trước rất khỏe và to ngang tay người lớn. Nó nhìn thẳng vào mặt cô chẳng có vẻ gì sợ sệt.
- Xùy… - Cô nhảy lại gần nó.
Nó bỏ con thỏ lại và lao thẳng vào cô. Cô nhảy lùi lại và giơ cao đoạn gạc lên. Nó nhanh nhẹn nhảy né sang bên, gầm gừ rồi quay lại và lững thững bỏ đi. Cô cẩn thận ẵm con thỏ lên và quay về chỗ nghỉ chân, vẻ dạn dĩ của con chồn khiến cô không khỏi lo ngại. Đặt vội con thỏ lên tấm da tuần lộc cô kéo theo phòng khi cần dùng đến, cô lập tức lên đường.
Một con nhạn biển bay qua. Cô rút sợi dây gân, đưa tay hướng theo đường chim bay và vừa tiếp tục rảo bước về phía Mũi Hy Vọng vừa hát vang.
Trời về chiều, những đám mây sẫm dần, trông hình thù như những con gấu.
Thế này là lại sắp có một đợt tuyết rơi đây. Cô dùng con dao của đàn ông đào một cái hốc bên sườn một ụ tuyết rồi cuộn tấm đệm thành một cái bao và nhét nó vào trong hốc. Bằng đôi tay khéo léo, cô luồn túi ngủ vào trong bao rồi cởi quần áo ngoài. Lớp lông thú bao bọc lấy cô; khi ngón chân ngón tay đều đã đủ ấm, cô thận trọng nhìn ra ngoài. Bầu trời đen kịt, những đám mây như hạ thấp, gió thổi ù ù như tiếng một con hươu đực đang nổi điên. Chưa đầy một phút sau, cô đã chẳng nhìn thấy gì ngoài lớp lông thú lòa xòa quanh mặt cô. Tuyết bắt đầu rơi.
Cuộn tròn trong mấy tấm da như một con thú nằm trong ổ, Miyax vơ vẩn nghĩ đến Amaroq và Kapu. Liệu lúc này chúng đang cuộn tròn như những quả bóng bông hay đang hào hứng băng mình trong cơn bão đông đầu tiên, lần theo mùi hơi để săn mồi?
Khi cô thức giấc thì mặt trời đã ló rạng, bầu trời quang đãng trên lãnh nguyên phủ một lớp tuyết mỏng đủ để tạo ra quang cảnh mùa đông. Tuy nhiên, cô chưa kịp mặc quần áo thì những tinh thể long lanh đó đã tan ra chỉ trừ sườn phía bắc của các con dốc; điều đó dự báo có chuyện gì đó sắp xảy ra.
Miyax đưa tay gạt một sợi tóc vương rồi nhìn quanh. Có kẻ nào đó đang nhìn cô thì phải, chạy lên đỉnh một quả đồi thấp, cô quét tầm mắt nhìn khắp khoảng trống mênh mông. Có khoảng chục con tuần lộc khỏe mạnh gặm cỏ phía xa, lớp lông cổ trắng phau của chúng bắt nắng ánh lên; ngoài ra chẳng còn gì cả. Cô tự cười giễu mình rồi quay về trại lấy một miếng thịt sấy ăn. Cuộn gọn mấy tấm da lại rồi xốc hành lý lên vai, cô đi tới chỗ tấm da tuần lộc nhặt sợi dây kéo lên. Tấm da trơ trọi. Có kẻ nào đó đã bắt mất con thỏ của cô hồi đêm. Chắc là một con chồn
gulo, cô nghĩ vậy, nhưng không hề có dấu chân để xem tên trộm đã đi về hướng nào.
Cô quay nhìn xung quanh. Cô lại có cảm giác hình như đang bị ai đó theo dõi. Vẫn không thấy gì, chỉ có một đàn nhạn biển khá đông bay trên trời. Dùng sợi dây gân xác định phương hướng và sắp xếp hành lý xong, cô kéo mạnh tấm da rồi lên đường đi tiếp.
Cả ngày, liên tục có chim di cư bay qua. Cô cứ thế nhắm thẳng hướng biển mà đi vì các hố nước đều đã đóng băng và cô có thể theo la bàn riêng của mình mà không chệch đường.
Khi lại có cảm giác đang bị theo dõi một cách dai dẳng, cô bắt đầu thấy hoang mang và lo rằng mình có thể hóa điên trước cái cảnh hoang liêu vô tận này như biết bao người da trắng từng bị vậy. Để trấn an tinh thần, cô cất vang tiếng hát trong khi đi thu gom phân tuần lộc bỏ vào túi:
Amaroq, sói, bạn ta, Hơn thế, một người cha Vì người, chân ta chạy Vì người, tim ta rung Và vì người, ta yêu. Chiều hôm đó, cô dừng chân rất sớm, nhóm một đống lửa lớn và hâm thịt, có cho thêm một chút địa y ngọt hái trên lãnh nguyên. Trong khi nồi thịt sôi lim dim, phì ra những làn hơi trông như bóng ma màu xám thì cô lấy kim khâu ra xâu chỉ và vá lại một lỗ thủng trên chiếc găng cũ.
Mặt đất bỗng rung bần bật. Cô liếc nhìn lên và thấy hai con tuần lộc to nhất mà mắt cô từng thấy. Căn cứ vào những cặp sừng trên đầu chúng, cô có thể khẳng định chúng là tuần lộc đực vì sừng con cái thường ngắn hơn và thanh mảnh hơn. Khi hai con thú chạy sóng đôi, ánh lân tinh lập lòe trên chót sừng chúng báo cho cô biết giờ đã là mùa sinh sản của tuần lộc. Khi lớp lông phủ chóp sừng trong mùa hè bị chọc thủng, những cặp sừng đâm thêm nhánh và phát sáng nhờ nhờ, mùa giao phối bắt đầu - đó cũng là mùa của những tiếng gào rống và những trận chiến ngắn.
Đột nhiên con đực chạy trước đảo vòng tròn và lao thẳng vào con kia. Cả hai cùng ghìm thấp đầu và những cặp sừng va vào nhau phát ra một tiếng kêu chát chúa như tiếng súng nổ. Không con nào bị thương cả. Chúng lúc lắc đầu rồi lùi lại, giật sừng ra và rống lên ồ ồ. Lại một cú va chạm nảy lửa nữa, móng chân cả hai cày sâu xuống đất nhưng sau đó chúng cùng nhau bỏ đi một cách hòa bình. Miyax băn khoăn không hiểu chúng đánh nhau vì cái gì bởi chẳng hề thấy bóng dáng con tuần lộc cái nào. Tất cả vẻ hiên ngang vạm vỡ và sức quyến rũ dường như đều biến mất khỏi bãi cỏ và không trung.
Tuy nhiên, ăn xong, cô lập tức vác hành lý, kéo cuộn da cồng kềnh và tiếp tục đi vì những con thú hung hăng vừa rồi đã báo cho cô biết rằng cô đang ở ngay trên lộ trình di chuyển của đàn tuần lộc và cô cũng không muốn hạ trại ở giữa một khu vực giao phối của chúng.
Khi đã đi khá xa đàn súc vật, cô dừng lại bên một ao nước và dọn chỗ ngủ. Cô chưa buồn ngủ lắm nên lấy khúc xương bọn sói non gặm ra rồi kẹp chặt con dao
ulo bằng đầu gối và hì hục đẽo răng lược.
Đêm đó, khi mặt trời xuống thấp, bóng tối màu lam và tía cam phủ trên mặt đất, Miyax chui vào túi ngủ; cô biết rằng ngày đang ngắn dần. Cô cảm thấy thao thức như những con chim và các loài thú; nửa đêm cô thức giấc, chăm chăm nhìn lên bầu trời. Một ngôi sao lấp lánh trên bầu trời sáng nhờ nhờ - vậy là đã đến ngày đầu năm! Cô mỉm cười, nhỏm dậy ngồi bó gối.
Ngôi sao phương Bắc, dấu hiệu chỉ đường của tổ tiên cô, sắp hiện ra và sẽ dẫn đường cho cô khi các loài chim đã bay hết về phương Nam.
Xa xa, văng vẳng tiếng một con sói sủa rồi lại có tiếng con khác. Tiếng sủa đầu nghe như một câu hỏi: “Cậu ở đâu và đang làm gì đấy?” Câu trả lời “Tôi ở đây” rất trịnh trọng. Tuy nhiên, tiếng gọi kế tiếp có vẻ bồn chồn. Hình như con sói đang báo hiệu rằng có gì đó rất nguy hiểm trong không trung. Miyax nhìn quanh để xem đó là gì. Sau đó con sói thay đổi đề tài và cất lên một tiếng hú vui vẻ. Khi có tiếng những con khác hòa theo thì cô nhận ra đó là bài ca săn mồi của đàn sói thân quen. Giọng khỏe khoắn của Amaroq vút cao rồi lắng dịu như tiếng violon, kế đó là chất giọng như tiếng tiêu của Ánh Bạc. Giọng của Móng Vuốt vút lên, không khỏe bằng giọng Amaroq, đem lại biến tấu của giai điệu chính. Đúng rồi, những con sói con cũng đang hát theo, giọng chúng nghe rất chững chạc. Kapu góp thêm tiếng sủa như cười vui.
Cô cố lắng nghe xem có tiếng Thạch Đông ở phía trước không. Không có tiếng nó. Bản hợp xướng đột ngột kết thúc, trong ánh sáng lờ mờ có thêm những âm thanh khác. Tiếng một con lữ thử kêu thê thảm tuyệt vọng trước khi chết, tiếng một đàn vịt biển di trú báo hiệu vị trí cho nhau.
Đột nhiên, có cái gì đó chuyển động. Cô nhìn ra khỏi chỗ nằm và chộp lấy một đoạn gạc. Cỏ sột soạt phía sau cô, cô nhìn quanh cảnh giác. Những bụi lách nhấp nhô như nói rằng đó chỉ là tiếng gió đùa.
- Ayi! - Cô bực bội vì những nỗi sợ hãi vô lý.
Cô co chân đá một hòn đá như cố thay đổi cái gì đó vì cô vẫn chưa thay đổi được những gì cô đang làm như lời cha Kapugen khuyên. Cảm thấy dễ chịu hơn, cô lầm lũi trở lại chỗ ngủ. Cô tự nhủ:
- Mình đoán ra rồi. Tại mặt trời mọc lâu quá nên mình quên hết những âm thanh của đêm.
Trong khi nằm chờ ngủ lại, cô nghe thấy tiếng gió vùng cực rít lên và tiếng cỏ khô than vãn như giọng bà còng.
- Thạch Đông! - Cô thét lên và ngồi bật dậy.
Nó gần như ở sát cạnh cô, nó nhe răng gầm gừ. Sau đó, nó ngoạm lấy hành lý của cô và chạy biến. Cô nhảy ra khỏi ổ và đuổi riết theo nó vì tất cả cuộc sống của cô đều nằm trong hành lý đó - thức ăn này, kim khâu này, dao này và cả đôi ủng nữa. Thân thể trần như nhộng của cô lạnh run vì gió, cô dừng lại để suy tính. Cô phải hành động sao cho thật thông minh. Cô phải nghĩ kỹ! Quần áo của cô, quần áo của cô ở đâu nhỉ? Chúng cũng biến mất rồi. Không, cô nhớ rõ chúng vẫn còn nguyên trong chiếc túi bong bóng để dưới tấm da tuần lộc.
Cô nhanh chóng lôi cả ra rồi ấp lên ngực nhưng cũng không dễ chịu mấy. Thiếu ủng cô sẽ không thể đi đâu được mà cũng không thể khâu một đôi mới. Kim khâu và dao
ulo của cô, những công cụ để cô tồn tại được, đều ở cả trong hành lý. Rùng mình, cô chui vào ổ và khóc nức nở. Một giọt nước mắt rơi xuống cỏ và đông cứng ngay.
- Đây là ngôi mộ đá của mình mất.
Cô nằm thừ ra suy ngẫm xem bao lâu nữa thì sự sống sẽ rời khỏi cơ thể cô.
Khi cô mở mắt ra thì trời đã sáng và ánh nắng ấm áp trên mặt đất khiến cô vững tin. Nếu cần cô có thể ăn tấm da tuần lộc. Lật sấp người xuống, cô ngửi thấy mùi gì đó ngọt dịu và nhận ra đó là mùi nước tiểu sói. Nó ở ngay bên mép túi của cô và vẫn còn rất mới dù đã bị đông cứng lại. Suốt đêm qua đã có ai đó đến thăm cô. Không thể là Thạch Đông được vì mùi này không có vị đắng của một con sói đang nổi điên và lẻ loi. Hơn nữa, nó rải rác chứ không tụ dồn một nơi như khi bày tỏ thái độ thù địch. Chắc chắn đó là của Amaroq. Cô đánh hơi lần nữa nhưng mũi cô không đủ nhạy cảm để nhận biết thêm những thông điệp khác thông qua chỗ nước tiểu mang ý nghĩ “mọi việc đều ổn cả”. Nhưng màu sắc và mùi dễ chịu của nó tạo cho cô cảm giác an tâm; cô mỉm cười nhìn mặt trời, mặc quần áo và nghĩ đến việc khâu ủng mới.
Quấn tấm da quanh một chân và chiếc túi ngủ quanh chân kia, cô vụng về đi lần quanh các bụi cỏ theo một đường tròn càng ngày càng rộng ra với hy vọng rằng Thạch Đông sẽ bỏ lại hành lý sau khi đã ăn hết chỗ thức ăn. Cô không bận tâm lắm đến số thức ăn. Con dao
ulo, kim khâu và diêm là những thứ quan trọng cần tìm hơn. Có những thứ đó, cô có thể làm được giày, săn được mồi và nấu ăn. Cô lấy làm lạ rằng mấy thứ giản dị đó lại có giá trị, đẹp đẽ và quý giá làm sao. Có những thứ đó, cô có thể dựng được nhà ở, làm chạn đựng đồ ăn, xe trượt và cả quần áo. Không khí lạnh cũng quý giá không kém. Có nó, giống như cha mình, cô có thể làm đông cứng da, những sợi gân để làm thành những chiếc xe trượt, những ngọn giáo và loa. Nếu cô tìm được con dao
ulo và những cái kim khâu thì cô sẽ không bao giờ chết trên mảnh đất này.
Trong khi cẩn thận tìm kiếm, cô bắt đầu nghĩ đến trại hải cẩu. Những người Eskimo cao tuổi cũng là những nhà khoa học. Bằng việc sử dụng các loài thực vật, động vật và nhiệt độ, họ đã biến Bắc Cực khắc nghiệt thành một ngôi nhà, quả là một kỳ tích phi thường như việc phóng tàu vũ trụ lên mặt trăng vậy. Cô mỉm cười. Những người ở trại hải cẩu không hề lỗi thời và lạc hậu như người ta vẫn cố làm cho cô tin vậy. Không, ngược lại, họ rất uyên bác. Họ chế ngự thiên nhiên để thay cho những công cụ nhân tạo.
- Ayi! - Cô kêu thất thanh. Bên cạnh một gò đất nhỏ là Thạch Đông nằm còng queo, người nó bê bết máu vì bị cắn xé, mặt nó biến dạng. Hành lý của cô để ngay cạnh nó.
Cô hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Amaroq đã hạ sát nó. Có lần cha Kapugen đã kể với cô rằng có những con sói tha thứ cho một con sói cô độc cho tới khi con này ăn trộm thịt dành cho sói non. Với tội đó, con đầu đàn sẽ ra hiệu cho cả đàn cùng truy đuổi và xé xác con sói kia. Ông nói rằng: “Trong xã hội sói, không có chỗ dành cho một thành viên không biết đóng góp gì.”
Thạch Đông đã bị đe dọa đến mức nó thành vô dụng. Và giờ đây nó đã chết.
Cô chậm rãi mở hành lý ra. Thức ăn hết sạch nhưng kim khâu, con dao
ulo và đôi ủng thì vẫn nằm nguyên trong những bọc cô đã cất chúng. Đối với Miyax lúc này, chúng còn tuyệt vời hơn cả máy bay, tàu biển và những cây cầu khổng lồ. Đi giày xong, cô kiểm tra lại con dao đàn ông và số diêm, chúng cũng còn nguyên vẹn. Sự sống lại trở lại với cô. Xốc hành lý lên vai, cô bê một tảng đá đè lên đầu Thạch Đông rồi quay đi. Cô nói:
- Mày từng là một con sói tài giỏi. Nhưng Thạch Đông hèn nhát thì không.
Cô bỏ nó lại cho lũ diều hâu và cáo. Cô vừa đi vừa hát:
Amaroq, sói, bạn ta Hơn thế, một người cha. Giờ đây việc đi tới Mũi Hy Vọng dường như không còn quan trọng nữa vì cô đã thực sự hiểu được giá trị của con dao
ulo và những cái kim khâu. Nếu cô có nhỡ chuyến tàu, cô vẫn có thể sống yên ổn cho tới năm sau. Giọng hát của cô vang lên lanh lảnh, tràn trề hạnh phúc trong khi cô nhắm theo những cánh chim và chiếc la bàn của mình.
Một buổi chiều, cô bỗng cảm thấy cô đơn trong khi đi tìm chỗ nghỉ chân. Để cho khuây khỏa, cô cố nghĩ đến quả đồi ở San Fancisco nơi có ngôi nhà quét vôi trắng. Khi hình ảnh đó hiện ra thực đến mức như chạm tay vào được và cực kỳ lộng lẫy thì nó bỗng vụt biến mất; cảnh lãnh nguyên còn lộng lẫy hơn nhiều - một màu vàng lấp lánh với những bóng râm màu tía và lam. Những đám mây màu vàng chanh lướt trên nền trời màu xanh lục; những khóm lách bị gió thổi xào xạc tạo thành một dòng bạc rực rỡ.
Ôi chao! - Cô thốt lên kinh ngạc và đứng sững tại vị trí cô vừa nhìn thấy quả đất với muôn vàn sắc màu. Hành lý của cô tuột xuống, rơi trên nền đất đông cứng phát ra tiếng kêu khô khan gợi cho cô nhớ rằng mùa thu đã tàn. Mùa thu rất ngắn; những cánh chim bay qua chớp nhoáng, những đàn chim thú di cư trong tiếng kêu ồn ào. Tất cả chỉ có vậy. Giờ đã sang đông và đỉnh Trái đất đã cứng đanh lại. Không phải là biển xanh vỗ bờ như ở Barrow, thay vào đó, Bắc Băng Dương biến thành một chảo nước trắng xóa gầm thét đêm ngày, tạo ra những núi băng nối liền đất liền với mũi vùng cực.
Cô không thấy sợ nữa. Vừa hát vang bài hát ca ngợi Amaroq, cô vừa gom cỏ và vấn thành cuộn dài. Cô khéo léo đục thủng một lỗ hổng trên lớp băng phủ kín mặt hồ nước rồi đem nhúng các cuộn cỏ xuống và quăng ra ngoài trời để chúng đông cứng lại. Chỉ mấy giờ sau, đã nghe thấy tiếng lách tách từ những “cọc” băng đá. Cô cắt tấm da kéo theo thành hai mảnh rồi luồn mấy cái cọc xuống dưới một mảnh và dựng thành một chiếc lều.
Ngồi trong lều, cô cắt một sợi dây da dài và buộc thành một cái bẫy thòng lọng. Có một lối đi của loài thỏ chân trắng chạy men theo bờ hồ nên cô nhất định tìm cho ra chỗ trú ẩn của con vật đã tạo ra lối đi đó. Trời lạnh cắt thịt, cô phà hơi vào riềm trang trí làm bằng lông chồn
gulo chiếc áo
parka cô đang mặc. Hơi ấm sẽ đọng lại đó và giữ ấm khuôn mặt cô.
Amaroq cất tiếng hú gọi, cô hú đáp lại nhưng không phải để nói với nó rằng cô cần thức ăn như lần trước mà chỉ báo cho nó biết cô đang ở đâu.
Một con lữ thử lao vụt ra từ một bụi cỏ gần chân cô, cô bèn đi quanh tìm tổ nó và lũ con non. Không thấy gì cả; vừa quay lại cô thấy cáo đang vồ đuổi con lữ thử. Cô bật cười, tự nhủ cần phải nhanh hơn rồi thận trọng lần theo lối đi của con thỏ. Cuối cùng cô tới một chỗ lõm hình lòng chảo trên mặt đất - đúng là một chỗ trú ẩn của động vật. Chắc chắn con thỏ thường trốn kẻ thù hoặc ngủ ở đây khi không phải đi kiếm mồi. Cô căng bẫy, lấy một chiếc cọc băng kênh nó lên rồi rải sợi dây da đủ dài ra khỏi tầm nhìn của con mồi.
Cô nằm ép xuống đất, chăm chú theo dõi chỗ đặt bẫy. Nhiều phút rồi nhiều giờ trôi qua, bóng chiều sắc hồng và lục đã nhuộm kín bình nguyên băng giá. Đột nhiên con thỏ xuất hiện, tai cụp ra sau, bốn chân như lướt trên lối đi quen thuộc. Nó chạy vòng rất nhanh rồi chui tọt xuống một cái hốc trong lòng chảo. Miyax giật mạnh, bẫy thít lấy chân trái sau của con mồi. Cô nhanh chóng giết thịt nó và chạy về trại.
Có tiếng cỏ loạt soạt, cô nhìn quanh: “Kapu!”
Nó chạy lon ton theo lối đi của con thỏ, miệng ngậm một cái đùi tuần lộc. Đầu nó lắc lư vì nó cố gắng chịu đựng sức nặng của súc thịt.
- Kapu! - Cô nhắc lại. Nó ve vẩy đuôi, xốc lại chỗ thịt và lon ton chạy lại chỗ cô. Nó thả súc thịt xuống chân cô. Cô nhảy nhót để nói với nó bằng ngôn ngữ của loài sói rằng cô rất vui được gặp nó. Nó đáp lại bằng cách nhảy quanh cô theo một đường tròn nhỏ, sau đó là ba đường tròn lớn. Cuối cùng nó dừng lại, ve vẩy đuôi.
- Thứ này dành cho chị hả? - Cô hỏi và chỉ vào cái đùi tuần lộc. Nó dùng chân trước cào cào nền đất, lăn kềnh ra rồi lại cào xuống đất. Cô vui vẻ đi lại chỗ để hành lý, lục tìm một đoạn dây da và dứ dứ về phía nó. Kapu chộp ngay lấy, giằng mạnh đến mức cô tuột tay ngã ngửa. Nó vểnh đuôi, phóng chạy vùn vụt qua các khóm địa y rồi vòng trở lại. Nó đung đưa sợi dây da trước mặt cô như thách cô lấy lại được.
- Giờ thì với chị, cưng khỏe quá rồi, - cô nói và chậm rãi đứng lên. - Chị không thể chơi đùa với cưng được nữa rồi.
Nó vung vẩy sợi dây, nhảy quẫng lên, sủa vang rồi chạy vụt ra lãnh nguyên cho tới khi chỉ còn là một chấm nhỏ phía xa.
Miyax cười và kéo cái đùi tuần lộc về lều. Cô cắt thành từng miếng rồi nhóm một đống lửa nhỏ. Cô lột da con thỏ, giữ lấy bộ da để khâu chiếc găng mới.
Trong khi hầm thịt, băng nứt vỡ lách tách khiến cô muốn nhảy nhót. Cô bước ra khoảng trống mênh mông như một sân khấu và cúi chào khán giả vô hình của mình. Uốn cong hai bàn tay, hơi khuỵu gối, cô co chân nhảy lò cò. Sau đó cô nhón chân, kiễng người lên, biểu diễn nhuần nhuyễn, hoàn hảo những động tác kết hợp mà bà còng vẫn nhảy ở trại hải cẩu trước đây. Tuy nhiên, khi nhảy lại cô không thực hiện những vũ điệu của bọn ma quỷ như lệ thường mà tự mình ứng tác bởi người Eskimo rất giỏi chuyện này. Cô thể hiện một câu chuyện nói về con sói mới lớn mang thịt tới nuôi một cô gái bị lạc rồi kết thúc màn trình diễn bằng động tác nhảy bắt chước Kapu. Cô vui vẻ đi tới một chỗ ngồi nghỉ. Cô đã thấy ấm người. Máu trong người cô nóng ran.
- Eelie, - cô thầm nghĩ. - Những phong tục lâu đời của người Eskimo không hề ngớ ngẩn, tất cả đều có ý nghĩa. Mình thấy ấm như nằm giữa tổ lữ thử vậy.
Khi trời sụp tối, Kapu quay trở lại. Nó khe khẽ sủa.
- Chị biết em muốn gì rồi, - cô nói, chìa cho nó một miếng thịt hầm rõ to.
Kapu ngoạm miếng thịt ngay trên tay cô khéo đến mức cô không cảm thấy răng nó chạm vào các ngón tay. Nhìn nó khuất dần trong bóng đêm, cô ngước mắt lên bầu trời. Trên đó, lấp lánh phía xa là Ngôi sao phương Bắc, ngọn đèn vĩnh cửu đã soi đường chỉ lối cho người Eskimo hàng ngàn năm rồi. Cô cất tiếng hát:
Ngôi sao sáng, vẫn ngôi sao kia Sẽ dẫn ta ra tới biển khơi… Cô khẩn trương cắt nửa tấm da tuần lộc còn lại thành bốn dải dài và một miếng tròn. Đập thủng một lỗ trên mặt hồ đóng băng, cô buộc thêm đá vào mấy miếng da cho nặng rồi thả tất cả xuống nước.
Khoảng nửa đêm, cô tỉnh giấc nằm nghe tiếng đàn sói như đang trò chuyện với nhau ở phía xa -
Có lẽ chúng đang bày tỏ lòng kính trọng đối với Amaroq, cô nghĩ vậy. Nhìn ra ngoài lều, cô thấy ngôi sao đã lặn mất. Một bông tuyết lạnh bay vào mũi cô, tan ra, chảy xuống tấm da rồi đông lại ngay. Gió thổi dữ dội, đàn sói hú gọi nhau vẻ thích thú, Miyax rúc sâu vào những tấm da. Trời cứ việc đổ tuyết đi. Kapu biết trước điều đó nên đã mang thức ăn tới cho cô.
Cô ngủ một mạch đến xế chiều; với đôi mắt vẫn còn ngái ngủ, cô nhận thấy ngoài trời vẫn đang có tuyết rơi và giờ đang là thời gian của cuộc sống hoang dã vì trong màn tuyết trắng đã thấy bóng những con chồn, cáo đi săn mồi. Đêm đó trời quang và đến tận sáng cô mới chui ra khỏi ổ. Lãnh nguyên toàn một màu trắng xóa, tuyết sẽ phủ kín Bắc Cực cho tới tận tháng Sáu. Cái lạnh càng thêm cắt da cắt thịt.
Ăn sáng xong, cô lại đập thủng mặt băng, lôi tấm da hình tròn sũng nước lên rồi trải lên nền đất. Cô dùng con dao đàn ông cuốn các mép da lên, giữ cố định cho tới khi nó đông cứng lại. Sau đó cô bước vào lòng nó, dùng chân giậm mạnh để tạo cho nó có hình dáng một cái chậu và khoét thủng hai lỗ ở cùng một phía. Cô luồn mấy sợi dây da qua đó và buộc chặt lại với nhau.
Tiếp đó, cô vớt hai dải da ngâm dưới nước lên và giữ chúng ngay ngắn ở đúng vị trí đáy chậu cho tới khi chúng đông lại tạo thành hình một cái ghế đu bằng phẳng. Cô đứng dậy. Chiếc xe trượt của cô đã hoàn thành.
Để nhanh chóng hoàn tất công việc vì cô chỉ còn vài giờ nữa có ánh sáng ban ngày, cô lấy hai dải da còn lại cuộn thành hai cái đai. Cô cũng để mấy thứ này đông lại. Khi chúng đã đóng băng, cô dùng da sống ướm cho vừa các ngón chân rồi nhét xuống dưới làm đế; vậy là đã có một đôi giày đi trên băng tuyết. Cô đi thử, chúng nứt răng rắc nhưng vẫn giữ cho cô đỡ bị lạnh. Giờ thì cô có thể đi trên mặt băng được rồi.
Cô thái phần đùi tuần lộc còn lại thành những miếng vừa miệng rồi cất cả vào xe trượt. Sau đó, cô đi găng trong bóng tối rồi nhắm theo Ngôi sao phương Bắc lên đường.
Chiếc xe trượt bằng băng của cô kêu lanh canh qua những hồ nước lộng gió hòa với giọng hát của cô. Thời gian càng trôi đi, những ngôi sao càng sáng rõ, lãnh nguyên bắt đầu sáng lên vì băng tuyết phản chiếu ánh sao sáng thêm hàng tỉ lần, làm cho đêm rực một màu bạc. Nhờ ánh sáng này, cô nhìn rõ những dấu chân của đàn sói. Cô bám theo những dấu đó vì đàn sói cũng đi đúng hướng của cô.
Trời gần sáng, những dấu chân sói xích lại gần nhau hơn. Vậy là chúng đi chậm lại để tìm chỗ ngủ. Cô cảm thấy sự hiện diện của chúng ở mọi nơi nhưng không tài nào nhìn thấy chúng. Cô chạy băng lên một hồ nước đóng băng và hú gọi. Có mấy bóng đen thấp thoáng trên đỉnh một trảng tuyết. Chúng kia rồi! Cô sải bước nhanh hơn. Cô sẽ dựng trại cùng chúng và sẽ biểu diễn điệu nhảy về con sói nuôi cô gái bị lạc cho Kapu xem. Bảo đảm nó sẽ nhảy quẫng lên khi xem điệu nhảy đó.
Những bóng đen nhạt dần khi cô bước chậm lại, đến khi cô tới được bờ bên kia thì chúng tan biến hẳn trong không trung. Không hề có dấu chân sói để chứng tỏ bầy đàn của cô vừa ở đây và cô biết rằng bình minh Bắc Cực đã đánh lừa thị giác của cô.
Bọn ma tuyết đây mà - cô nói rồi dựng lều bên bờ hồ và chui vào ổ.
Nhờ ánh sáng vàng chanh của mặt trời chính ngọ mọc thấp, Miyax nhận ra cô đã dựng trại kế bên khu vực trú đông của tuần lộc. Phía đường chân trời hiện rõ cả một rừng vô số những cặp sừng lung linh ánh lân tinh của chúng. Một đàn lớn như vậy chắc chắn sẽ tấn công được bầy đàn của cô. Cô chui ra khỏi ổ và nhìn thấy quanh lều cô là một cánh rừng toàn các loại cây chỉ cao vài phân. Tim cô đập tung lên vì từ khi ở Nunivak cô không hề nhìn thấy một cây liễu lùn như thế này. Cô đang đi đúng đường vì loại cây này tuy không mọc gần Barrow nhưng chắc chắn chỉ có ở những vùng đất ấm áp và ẩm ướt hơn gần bờ biển. Cô hít căng không khí với hy vọng sẽ ngửi thấy hơi mặn của đại dương nhưng chỉ thấy hơi lạnh.
Bình minh như khe khẽ hát, tuyết đẹp đến mức chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua là những bông tuyết lại bay tung lên. Không thấy cánh chim nào bay qua. Những con điểu chúc, chim ruồi và nhạn đều đã rời khỏi đỉnh của Trái đất.
Phía sau cô, một con gà gô trắng, loài gà nhỏ bé của lãnh nguyên, vừa khẽ tục tục vừa cắm cúi mổ nhặt hạt cây. Sự hiện diện của cư dân họ chim, loài gà gô trắng quý hiếm này, cho Miyax biết rằng cô đang ở Chí tuyến Bắc. Hàng triệu âm thanh của mùa hè lắng chìm trong một cung điệu ai oán.
- A ha, a ha ha ha…! Miyax choàng dậy, bàng hoàng không hiểu đó là tiếng gì. Nhoài nửa người ra khỏi túi ngủ, cô ngước nhìn trời và thấy ngay một con chim màu nâu vũ lộng đôi cánh lao vun vút về phía Tây.
- Một con chim cướp biển! - Vậy thì cô đã ở gần biển hơn là cô tưởng vì chim cướp biển chỉ quanh ở các vùng nước duyên hải của Bắc Cực. Mắt cô mải dõi theo bóng con chim rồi bất chợt vấp phải một vỏ thùng dầu rỗng, mốc ranh giới của nền văn minh Mỹ ở phương Bắc. Một tháng trước, cô sẽ vui mừng xiết bao nếu được nhìn thấy thứ này nhưng bây giờ thì cô không dám chắc như vậy. Cô đã có con dao, những chiếc kim khâu, chiếc xe trượt, cái lều và cả thế giới của tổ tiên cô. Và ở đây, cô thấy mình quen thuộc với trăng sao và những thăng trầm liên tục của cuộc sống trên Trái đất này biết bao. Thậm chí tuyết cũng là một phần con người cô, cô làm tan tuyết để lấy nước uống.
Có tiếng Amaroq sủa. Tiếng nó nghe gần như thể nó chỉ cách cô không quá một phần tư dặm đường.
- Ú hú… ú! - Cô hú gọi.
Móng Vuốt đáp lại, sau đó cả đàn cùng hú lên.
- Tớ ở đây này. - Cô hét lên sung sướng và nhảy nhót. - Ở bên cái hồ này này. - Cô ngừng lại. - Các bạn biết điều đó mà. Các bạn biết hết mọi tình hình của tớ trong thời gian qua mà.
Gió bắt đầu mạnh lên khi mặt trời chớm lùi dần xuống đường chân trời. Hồ nước đáp lại với một tiếng ầm ì nghe như tiếng súng nổ. Trời càng lúc càng giá buốt. Miyax nhóm một đống lửa và bắc nồi lên. Một miếng thịt hầm nóng hổi lúc này thật tuyệt, khói và lửa sẽ làm cho lãnh nguyên có dáng vẻ một căn nhà ấm cúng hơn.
Đúng lúc đó, Amaroq cất tiếng sủa nghe rất quyền uy và cả đàn đáp lời nó. Sau đó tiếng vị thủ lĩnh chuyển sang một vị trí khác, tiếng Ánh Bạc đáp lại từ phía bên kia hồ. Móng Vuốt cất tiếng gừ như báo tin. Còn bọn sói non gâu gâu nhặng xị. Miyax đưa tay che mắt, đàn sói của cô đánh tiếng từ nhiều vị trí theo một vòng tròn rộng mà cô là tâm. Điều này thật khác lạ vì chúng luôn ở bên nhau cơ mà. Đột nhiên Amaroq cất tiếng sủa gay gắt, giọng nó nghe rất dữ tợn và đầy uy quyền. Ánh Bạc cũng sủa gắt rồi đến Móng Vuốt và Kapu. Chúng đang gặp chuyện gì rồi.
Cô bước vội lên mặt hồ và nhắm về phía chúng. Đi được nửa chừng, cô nhìn thấy một cái đầu đen thui rướn cao trên đỉnh đồi và một con thú với cái đầu to tướng nặng nề đứng thẳng trên hai chân sau, hai chân trước đầy móng vuốt vung vẩy.
- Gấu xám! - Cô gần như nín thở, đứng sững như hóa đá.
Con thú khổng lồ chồm lên mặt băng. Amaroq và Móng Vuốt xồ tới trước mặt nó rồi lại tản ra trước khi nó kịp vả lại. Chúng đang nhử nó đi, cố gắng ngăn nó lại. Con gấu hộc lên, lao thẳng về phía trước và hùng hục nhằm hướng Miyax.
Cô lao bổ về lều. Gió quất vào mặt cô, cô nhận ra mình đang chạy ngược gió với con gấu, mùi hơi của cô bay thẳng tới chỗ nó. Cô quay ngoắt sang hướng khác, loài gấu vốn nhìn rất kém, nếu không đánh hơi được thì chúng không tài nào lần ra dấu vết con mồi. Vừa chạy vừa ngã dúi dụi, cô tới được bờ nam thì con gấu cũng lặc lè đi lên, sau đó hạ chân trước xuống và ngồi lại. Cô băn khoăn không hiểu tại sao nó lại không ngủ đông. Loài sói vốn ngủ ngày nên không thể làm con gấu tỉnh giấc được. Cô đánh hơi trong không khí cố tìm xem có mùi gì lạ không nhưng chỉ có những tinh thể băng tuyết không mùi vị làm mũi cô nhức nhối.
Đàn sói vẫn quấy rối con gấu ngái ngủ, vừa sủa ầm ĩ vừa gầm gừ nhưng không có ý hạ sát nó. Chúng chỉ muốn xua nó đi, xua nó ra xa cô, cô nhận rõ là như vậy.
Con gấu từ từ nhổm dậy rồi chấp nhận rút lui lên bờ hồ và quay lại hang của nó. Rất miễn cưỡng, nó lặc lè bỏ đi trước đàn sói. Thỉnh thoảng nó lại đứng thẳng lên gầm rống tức tối vì bị phá rối giấc ngủ.
Đàn sói vừa sủa gióng giả vừa tiến dần lên, xua con gấu vào sâu trong lãnh nguyên. Cuối cùng chúng đổi hướng, phóng chạy một cách vui sướng, băng qua tuyết trắng và mất hút. Nhiệm vụ của chúng đã hoàn thành, chúng lại đi, không phải đi săn mồi, cũng không phải đi tàn sát, chỉ đơn giản là đi nô giỡn.
Miyax rùng mình. Cô đã không để ý đến vóc dáng và sự hung tợn của loài gấu miền Bắc vẫn được người trong lục địa gọi là “gấu xám” còn người dân ven biển gọi là “gấu nâu” hay Ursus arctors. Những con gấu khổng lồ như con vừa bị đàn sói đuổi đi cân nặng trên vài tạ và cao đến ba mét khi đứng thẳng lên. Miyax lau mồ hôi vã ra trên trán. Nó mà tới được lều của cô thì chỉ cần một cái tát nó sẽ nghiền nát cô trong khi cô đang say ngủ.
- Amaroq, Móng Vuốt, Kapu ơi! - Cô gọi. - Cảm ơn các bạn. Cảm ơn.
Vừa thu dọn hành lý để lên đường, cô vừa nghĩ về những vệ sĩ của mình. Loài sói không thích thế giới văn minh. Đã có thời kỳ chúng sinh sống ở khắp Bắc Mỹ, giờ đây chúng chỉ còn lại ở những vùng xa xôi của Canada, ở hai trong số 48 bang của Hoa Kỳ và trong khu vực hoang dã ở Alaska. Ngay cả vùng Dốc Bắc không hề có đường xá cũng chỉ còn rất ít sói, ít hơn cả thời kỳ người da trắng chưa lập lên những căn cứ quân sự và mang máy bay, ô tô đi trên tuyết, ánh sáng điện và xe
jeep tới Bắc Cực.
Nghĩ đến những người da trắng, cô chợt hiểu tại sao con gấu nâu thức giấc. Mùa săn của người Mỹ đã bắt đầu! Những con sói của cô đang gặp nguy hiểm! Những người da trắng được trả tiền để bắn hạ chúng. Người nào mang cái tai trái của một con sói tới chỗ người giám sát sẽ được thưởng 50 đô la. Đối với những người ở trại hải cẩu, phần thưởng đó thật ghê tởm vì nó kích thích việc tàn sát để lấy tiền chứ không phải vì nhu cầu.
Cha Kapugen coi phần thưởng đó là phương pháp của những người da trắng khiến cho những loài thú như Amaroq không thể tồn tại được trên Trái đất này nữa. Ông nói: “Không kẻ nào có quyền đó. Nếu loài sói biến mất, tuần lộc sẽ sinh sôi quá nhiều và gặm sạch sẽ, loài lữ thử sẽ chết đói. Không còn lữ thử, các loài cáo, chồn và chim sẽ chết. Sự diệt vong của chúng sẽ kéo theo sự diệt vong của những hình thức sống nhỏ bé hơn mà có khi quyết định cả cuộc sống của con người, dù họ có hiểu điều đó hay không, và rồi đỉnh của thế giới sẽ lụi tàn trong hoang liêu.”
Miyax rất lo. Thùng dầu rỗng cô nhìn thấy lúc con chim cướp biển bay qua là ranh giới đánh dấu sự bắt đầu của nền văn minh và sự chấm dứt của thế giới hoang dã. Cô phải báo cho bầy đàn biết mối nguy hiểm ở phía trước. Cô đã học được cách nói nhiều điều với chúng, nhưng giờ đây, điều quan trọng nhất, một động tác vẫy tai hay một tiếng sủa để buộc chúng quay lại thì cô lại không biết.
Cô thầm nghĩ:
Mình làm thế nào để nói được câu: “Chạy đi! Chạy xa vào!” đây? Cô cất tiếng hát:
Chạy đi nào, Sói ơi! Đừng theo tôi nữa nhé Chỉ qua cái thùng kia Tôi sẽ thành nòng súng Bắn vào bạn, Sói ơi. Mây vần vũ đùn lên từ mặt đất và bay vùn vụt qua lãnh nguyên. Chúng báo hiệu bắt đầu một thời kỳ mù trắng. Miyax thay đổi kế hoạch, không lên đường vào đêm đó mà trở về lều, nhìn không gian chuyển màu trắng xóa do tuyết giăng đầy quanh cô và càng lúc càng dày thêm trên mặt đất. Cô thả rèm lều xuống rồi xách cái nồi ra. Cô lấy một mẩu mỡ cất trong cái túi bóng và một đoạn gân bỏ vào nồi. Cô đốt đoạn gân, ngọn lửa chiếu sáng căn lều nhỏ xíu của cô. Cô lôi chiếc lược ra.
Trong lúc đẽo gọt, cô nhận thấy nó chẳng giống cái lược chút nào mà rất giống dáng Amaroq. Răng lược là chân, cán lược là đầu nó. Nó như đang chờ đợi cô giúp nó thoát hình khỏi khúc xương. Ngạc nhiên khi nhận ra điều này, cô tỉ mẩn đẽo gọt hàng giờ liền và cuối cùng nó đã thành hình. Cổ nó được đẽo cong, đầu và đuôi đều vểnh lên. Đến đôi tai cũng như nói rằng: “Ta yêu con.”
Có tiếng chim kêu thảm thiết trong bóng tối. Miyax tò mò muốn biết đó là con chim gì và nó đang làm gì ở phương Bắc xa xôi trong ngày này. Vì quá buồn ngủ không còn muốn nghĩ thêm, cô bèn tháo ủng, cởi quần áo và gấp gọn lại. Tiếng chim vang lên ngay bên túi ngủ của cô. Giơ cao ngọn nến lên quá đầu, cô bò ra phía cửa và thấy ngay một đôi mắt long lanh của một chú chim choi choi lông vàng. Nó còn non vì bộ lông trên người nó và quanh mỏ nó vẫn còn những vệt màu vàng của chim non. Nó cố rúc sâu vào tấm da của cô.
Cô nhẹ nhàng luồn tay xuống dưới bụng nó, nhấc nó lên và mang nó lại gần. Những chiếc lông vàng và đen của nó ánh lên trong ánh sáng nhập nhoạng. Chưa bao giờ cô được giữ một con choi choi gần đến như vậy nên giờ cô hiểu tại sao cha Kapugen lại gọi loài chim này là “linh hồn của chim muông”. Cặp mắt vàng và đường viền quanh mỏ màu đỏ của con choi choi làm cho nó rất giống một vũ sư trong Đại tiệc Bong bóng.
- Mày bị lạc đây mà. Lẽ ra mày đã phải ở cách xa đây lắm rồi. Có lẽ là ở Labrador. Có khi nơi trú đông của mày là các thảo nguyên Argentina cũng nên. Nếu vậy thì mày chết mất thôi. Mày cần có côn trùng và các loại hạt. Nhưng có mày ở đây tao rất mừng. Tao sẽ gọi mày là Tornait, nghĩa là linh hồn chim muông đấy.
Cô nhẹ đặt con chim vào chiếc túi ngủ ấm áp của mình rồi cắt một miếng thịt tuần lộc chìa ra cho nó. Tornait nuốt ngấu nghiến. Cô cho nó ăn thêm miếng nữa, sau đó nó rúc đầu vào cánh và thiếp đi.
Đêm sau, mù trắng vẫn dày đặc đến mức cô không sao nhìn thấy nền đất khi bò ra ngoài lấy tuyết làm nước uống.
Lúc trở vào, cô nói với Tornait:
- Đêm nay tao chưa lên đường vội. Tao chẳng lo gì. Tao có đủ thức ăn, ánh sáng, đồ ấm, lửa và cả một người bạn đồng hành xinh đẹp nữa.
Đêm đó cô chau chuốt thêm hình đẽo Amaroq và trò chuyện với Tornait. Con choi choi thuần nhanh đến không ngờ, có lẽ vì nó sống ở những vùng cằn cỗi nhất thế giới nơi không hề có bóng con người, cũng có thể vì nó đang cô đơn. Tornait nhảy lách chách quanh những tấm da, bay đậu lên vai cô và hót líu lo khi cô cất tiếng hát.
Chiều hôm sau, mù trắng vẫn đặc quánh như sương mù. Miyax đang nấu ăn thì thấy Tornait xù lông, bật dậy vẻ đề phòng. Cô lắng tai nghe ngóng khá lâu mới phát hiện thấy có tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết. Bò ra cửa, cô nhìn thấy Kapu trong màn sương, ria ướt sũng.
- Xin chào! - Cô lên tiếng.
Nó không lao bổ tới vì đang mải nhìn cái gì đó phía xa. Đúng lúc đó Amaroq xuất hiện và dừng lại bên cạnh Kapu.
- Amaroq! - Cô reo lên. - Amaroq, cậu khỏe chứ?
Lúc lắc đầu để thể hiện niềm vui sướng theo cách của loài sói, cô bò ra khỏi lều và nhẹ nhàng ngoạm lấy hàm nó. Nó vươn cao cổ rất oai vệ. Sau đó, nó nhìn Kapu và chạy vụt lên mặt hồ đóng băng. Con sói non chạy theo; Miyax cười khanh khách bò theo chúng. Cô chưa bò được bao xa thì Amaroq dừng lại và nhìn thẳng vào cô. Cô dừng ngay lại. Cặp sói thủ lĩnh phóng vụt đi, tuyết bay mù lên dưới nước kiệu của chúng.
Cô nhổm người lên tìm kiếm Ánh Bạc, Móng Vuốt và những con sói non khác nhưng chúng không đi theo cặp sói này. Miyax đứng thẳng dậy quay về lều. Chắc vị thủ lĩnh của bầy đàn đang dạy dỗ thủ lĩnh của bọn sói non. Cô khe khẽ lắc đầu vì đã hiểu ra vấn đề. Dĩ nhiên rồi. Cương vị thủ lĩnh không chỉ đòi hỏi sự can trường, trí thông minh mà còn cả kinh nghiệm nữa. Thủ lĩnh của một bầy sói cũng cần được dạy dỗ và còn ai làm việc đó tốt hơn Amaroq chứ?
- Tớ biết cậu sẽ dạy cái gì rồi. - Cô nói to. - Cậu sẽ dạy Kapu nên săn loài thú nào. Cậu sẽ dạy nó cách quyết đoán. Cậu sẽ dạy nó cách tiếp cận một con tuần lộc, chỗ nào thì có thể cho đàn nghỉ lại và cả cách yêu thương nữa.
Mù trắng đã tan, những ngôi sao hiện sáng rõ và San Fransisco lại vẫy gọi Miyax. Đã đến lúc phải lên đường. Giờ Kapu cũng phải học tập rồi.
- Nhưng tao làm thế nào để bảo chúng mày đừng theo tao nữa nhỉ? - Cô hỏi Tornait khi bò vào trong lều.
- Thôi phải rồi! - Cô bật lên. Chính Amaroq vừa dạy cô cách nói “Đứng lại” khi nó chỉ muốn Kapu theo nó. Nó chạy lên trước, quay lại và nhìn thẳng vào mắt cô. Cô đã phải dừng lại và quay về nhà. Cô háo hức làm thử. Cô chạy lên ngoái nhìn lại và trừng mắt.
- Đứng lại, Amaroq. Đứng nguyên tại chỗ!
Cô vừa khe khẽ hát vừa dỡ lều xuống, cuộn gọn lại và chất lên chiếc xe trượt của mình. Sau đó cô thu xếp hành lý và đặt Tornait vào trong mũ trùm áo
parka. Xỏ chân vào đôi giày tuyết, cô nhắm theo hướng ngôi sao chỉ đường. Tuyết lạo xạo dưới chân cô và lần đầu tiên cô cảm thấy cái lạnh tê tái ngấm qua áo
parka và ủng da. Vậy là nhiệt độ đang ở mức 0 độ C vì hằng năm cứ đến thang nhiệt độ này cô lại bắt đầu thấy ớn lạnh. Nhún nhảy và xoa mạnh hai bàn tay cho ấm lên, cô nhặt sợi dây kéo xe rồi đi về phía biển. Chiếc xe trượt băng băng theo sau cô.
Cô không nghe thấy tiếng động cơ máy bay nhưng cô nhìn thấy nó. Ánh nắng của mặt trời chính ngọ chiếu sáng thân máy bay bằng nhôm làm nó sáng lóa lên như một ngôi sao trên bầu trời. Đó là một chiếc máy bay cỡ nhỏ, loại máy bay các phi công vẫn dùng để chở hành khách vượt qua lãnh nguyên không có đường xá hoặc những vùng núi non hiểm trở của bang Alaska mà xe hơi không thể đi qua được. Đúng lúc đó, tiếng máy vọng đến tai cô, nhắc cô nhớ rằng đã bắt đầu đến thời kỳ các tay phi công chở người da trắng đi săn. Chiếc máy bay chao nghiêng và bay vòng vèo trên bầu trời. Nó vừa đổi hướng thì cô nhận ra tay phi công đang cho máy bay bám theo một con sông dài ngoằn ngoèo vốn là khu săn thú mùa đông.
Sông thường phải chạy ra biển, cô vụt nghĩ.
Vậy là mình sắp tới đích; có khi chỉ một đêm nữa là đến Mũi Hy Vọng. Cô rảo bước nhanh hơn.
Máy bay nghiêng cánh, lượn vòng và bay thẳng về phía cô. Khi nó bay là là gần mặt đất, trông nó to như một con đại bàng. Hai bên sườn máy bay liên tiếp nhá lên những tia sáng lóa mắt.
- Họ đang săn thú đấy. - Cô nói với Tornait. - Chúng ta phải chui vào vỏ thùng dầu thôi. Ăn mặc thế này trông tao chẳng khác gì một con gấu.
Gần tới chỗ thùng dầu, cô chợt thấy dấu chân của Amaroq và Kapu. Chắc chúng qua đây chưa lâu vì chỗ tuyết tan ra do hơi ấm ở chân chúng vẫn chưa kịp đông lại. Máy bay vẫn tiến thẳng tới cô. Rõ ràng cô đã bị phát hiện. Cô đá tung tuyết phủ kín xe trượt cùng hành lý rồi bò tới trước cái thùng.
Nó đã được hàn kín. Cô không thể chui vào được. Lật đầu bên kia lên cũng thấy hàn kín. Tuyệt vọng, cô nép người bên dưới bề mặt cong của cái thùng và nằm im. Rất nhiều chỗ trên người vẫn lộ ra. Cô đập mạnh tay chân cho tuyết bay mù lên. Bụi tuyết bay mù mịt rồi rơi xuống trùm kín cô vừa lúc máy bay ầm ầm vọt qua.
Có tiếng súng nổ chát chúa. Chiếc máy bay ào qua. Miyax mở choàng mắt. Cô vẫn còn sống, toán thợ săn trên không đã bay ra sông. Máy bay lại chao nghiêng và bay trở lại, lần này rất thấp, Tornait vùng vẫy.
- Nằm im nào! - Cô nói.
Tiếng súng lại nổ ầm ầm, nhờ mở mắt nên cô thấy rõ nó không nhắm vào cô.
- Amaroq rồi! - Cô lo lắng nhìn nó như nhảy vọt lên không khi một loạn đạn bay sát sạt quanh nó. Sục mạnh chân xuống tuyết, nó chạy vòng vèo qua trái rồi qua phải; Kapu bỗng chạy tới bên nó. Amaroq nhe nanh, gầm gừ dữ tợn xua Kapu đi. Kapu lao vút đi. Chiếc máy bay như do dự rồi đuổi theo Amaroq.
Đạn cắm phầm phập xuống tuyết trước mặt nó. Nó nhảy dựng lên và đổi hướng.
- Amaroq! - Cô hét to. - Lại đây! Lại đây đi!
Chiếc máy bay đột ngột đổi hướng, nhào xuống rồi lại vút lên và bay là là cách mặt đất khoảng chín mét. Những khẩu súng lại gầm lên. Amaroq khựng lại, tai cụp ra sau rồi phóng vun vút vào lãnh nguyên như một ngôi sao băng. Sau đó nó nhảy dựng lên và đổ vật xuống tuyết. Nó đã chết.
- Chỉ vì một món tiền thưởng! - Cô gào lên. - Chỉ vì tiền mà Amaroq oai hùng phải chết.
Cổ họng cô nghẹn lại đau đớn, những tiếng nấc bóp nghẹt cô. Chiếc máy bay chao nghiêng rồi bay vòng lại. Kapu đang chạy tới bên Amaroq. Đôi tai như dán chặt xuống, bốn chân nó như đang bay. Những phát đạn cày tung tuyết chung quanh nó. Nó nhảy quẫng lên tránh đạn và lao thẳng về phía thùng dầu. Cặp mắt mở to và cái mồm há ra của nó như nói với Miyax rằng đây là lần đầu tiên trong đời nó kinh hoàng đến vậy. Nó chạy quáng quàng, khi nó phóng ngang qua, cô nhào ra gạt ngã nó. Nó lăn soài trên tuyết và nằm im thít. Trong lúc chiếc máy bay cua một vòng rộng để đổi hướng thì cô mau chóng lấy tuyết phủ lên người Kapu.
Từ bả vai nó, máu loang ra đỏ lòm mặt tuyết. Miyax lăn trở lại chỗ núp.
Không gian rung ầm ầm, cô nhìn dán vào bụng máy bay. Những con ốc, những cánh cửa, những cái bánh máy bay, màu sơn đỏ, trắng, bạc, đen, cả chiếc máy bay nhấp nhóa trước mắt cô. Trong khoảnh khắc đó cô như thấy những đô thị lớn, những cây cầu, những cái đài, những cuốn sách giáo khoa. Cô nhìn thấy căn phòng quét vôi hồng, những con đường cao tốc dài tít tắp, những chiếc ti vi, những máy điện thoại và những bóng đèn điện. Một màu đen hãi hùng bao trùm lấy cô, xã hội văn minh biến thành con quái vật gầm rú trên bầu trời.
Trước mắt cô, chiếc máy bay co lại, đổi hướng rồi lại lớn dần. Tornait bay vọt lên nóc thùng kêu những tiếng kinh hoàng và đập cánh phành phạch.
Kapu gượng đứng lên.
- Đừng cử động! - Miyax thì thào. - Bọn chúng quay lại tìm xác Amaroq đấy.
Biết Kapu không hiểu nên cô nhoài hẳn ra, nhẹ nhàng vỗ về nó: “Nằm im nào! Nằm im nào!” Cô thấy nó nằm ẹp xuống tuyết không gây ra một tiếng động.
Chiếc máy bay vòng lại thấp đến mức cô thấy rõ những gã đàn ông ngồi trong khoang, cổ áo khoác kéo cao, những chiếc mũ sắt bảo vệ và những cặp kính râm của họ nhấp nhoáng.
Họ đang cười nói và nhìn xuống dưới. Miyax vụt nhớ ra Ánh Bạc, Móng Vuốt và những con sói non khác. Chúng đi đâu nhỉ? Trên nền tuyết trắng, chúng thành những mục tiêu ngon lành quá còn gì. Nhưng cũng có thể không vì lông chúng đều sáng màu chứ không đen.
Máy bay đột ngột tăng tốc, cánh ép xuống, toàn thân ngóc lên chao nghiêng rồi lao vút về phía sông. Nó không vòng lại nữa.
Miyax luồn tay vào lớp lông Kapu. Cô nấc lên:
- Thậm chí chúng cũng không thèm dừng lại nhặt xác nó. Thậm chí chúng giết nó cũng không phải vì tiền. Mình không còn hiểu được tại sao.
Tavunga vunga. Pisuga gasu punga. Cô bật lên những lời đau xót bằng tiếng Eskimo vì cô không còn nhớ nổi một chữ tiếng Anh.
Máu Kapu chảy loang trên tuyết. Cô luồn tay xuống người nó rồi ấn chặt ngón cái vào mạch máu đang phun mạnh. Cô cứ ấn chặt - một phút, rồi một giờ trôi qua - cô không nhớ chính xác là bao lâu. Rồi có tiếng Tornait kêu đòi ăn. Cô thận trọng nhấc tay lên. Máu đã ngừng chảy.
- Tagasu. - Cô nói với Kapu.
Cô bới tuyết ra khỏi xe trượt và lôi mấy cây cọc ra. Cô dựng lều kế bên cái thùng, lấy tuyết đắp kín xung quanh để ngăn gió lùa rồi trải tấm đệm xuống dưới. Cô định đẩy Kapu vào lều nhưng nó quá nặng. Nó ngóc đầu lên rồi lại thả phịch xuống đất một cách yếu ớt. Miyax quyết định dựng lều quanh nó. Cô dỡ mọi thứ xuống và làm lại từ đầu.
Lần này cô luồn tấm da xuống dưới người nó từng tí một cho tới khi nó nằm gọn lên đó. Sau đó cô lôi cái thùng lên khỏi tuyết, lăn nó lại gần Kapu và dựng lều dựa vào đó. Cô lấy tuyết bịt kín mọi chỗ trống.
Cái thùng đã cũ, nó có những ký hiệu khác hẳn loại thùng thường thấy quanh Barrow nhưng đều giống nhau ở chỗ không han gỉ mấy. Mùa đông lạnh giá cùng với điều kiện hanh khô như hoang mạc ở lãnh nguyên đã bảo vệ tốt kim loại, giấy rác thải và ngăn quá trình han gỉ chứ không như các vùng ấm áp hơn. Ở Bắc Cực, tất cả các đồ nhân tạo đều tự bảo tồn trong nhiều năm. Thậm chí, ném xuống biển cũng không thay đổi gì vì nước quanh chúng đều đóng băng và khi thành băng tảng, chúng lại được đưa vào bờ. Mặt trời mùa hè sẽ làm chúng xuất hiện trở lại.
Miyax làm tan tuyết, thái thịt cho Tornait ăn. Nó từ trên nóc thùng sà xuống và chạy vào lều. Nhảy lên chiếc túi ngủ bằng da thú, nó đứng co một chân rỉa lông cánh và thiếp đi.
Ngồi bên nồi thịt đang sôi sùng sục, Kapu nằm dưỡng sức và Tornait đang gà gật, Miyax miên man nghĩ tới Amaroq. Cô phải đi tìm và chào tạm biệt nó. Cô gắng đứng dậy nhưng không sao cử động nổi. Nỗi đau đớn day dứt trong cô như thể cô đang bị kẹp cứng trong một chiếc kẹp.
Khoảng một tiếng sau, Kapu ngóc đầu lên, liếc mắt nhìn khắp căn lều ấm cúng và chịu ăn mấy miếng thịt hầm. Miyax xoa đầu nó và bảo nó nằm im bằng tiếng Eskimo để cô xem xét vết thương. Vết thương rộng và sâu, cô biết cần phải khâu lại.
Rút một sợi gân từ tấm đệm, cô xâu vào cây kim rồi đâm mạnh qua lớp thịt mềm. Kapu gầm gừ. Cô khe khẽ hát:
- Xo lus pajau, sexo. Lupis pajau sesuri vanga pangmane majorivapangmane. Bằng cách lặp đi lặp lại đều đều bài hát chữa bệnh của bà còng, cô đã thôi miên được Kapu để khâu vết thương cho nó. Xong việc thì hai má cô cũng ướt đẫm mồ hôi nhưng cô có thể khẳng định rằng nó sẽ bình phục trở lại để dẫn dắt bầy đàn.
Mặt trời đã khuất trên bầu trời xanh thẳm, những ngôi sao lần lượt hiện ra, nhấp nháy như nói lên khoảng cách xa xăm của chúng đến Trái đất. Khoảng nửa đêm, trong lều bắt đầu xuất hiện ánh sáng màu lục, đôi mắt Kapu cũng lấp lánh như những viên ngọc lục bảo. Miyax chăm chú nhìn ra ngoài. Từ mặt đất, những luồng sáng màu lục hắt lên nền trời đen như nhung. Những luồng sáng lục phát ra những tia sáng đỏ và trắng. Các loại ánh sáng của phương Bắc đang nhảy múa. Những hồ nước rền vang ầm ầm, từ xa nghe vọng lại tiếng tru thê thảm của Móng Vuốt.
Miyax hú đáp lại để báo cho nó biết cô đang ở đâu. Sau đó, có tiếng Ánh Bạc và những con sói non khác. Tiếng từng con nghe càng lúc càng gần; đàn sói đang tiến lại thùng dầu để tìm Amaroq và Kapu.
Miyax bước vào ánh Bắc cực quang. Đã đến lúc phải giã từ Amaroq. Cô gắng gượng bước lên nhưng chân cô như díu lại. Nỗi đau xót đã khiến chúng tê liệt. Dùng cả hai tay xoa mạnh gối trái, cô nhấc chân lên rồi hạ xuống; sau đó lại nhấc chân phải lên, cứ thế cô từ từ băng qua lớp tuyết màu ngọc lam.
Amaroq vẫn nằm nguyên vị trí nó ngã xuống, bộ lông nó ánh lên trong thứ ánh sáng huyền ảo.
- Amaroq… - Cô móc túi lấy cái hình đẽo ra và quỳ xuống. Cô khẽ hát bằng tiếng Eskimo để nói với nó rằng cô không có cái túi bóng để cất giữ linh hồn nó nhưng cô đã có hình
totem của nó. Cô xin nó hãy nhập vào
totem và theo cô mãi mãi.
Cô giữ hình đẽo trên người nó rất lâu. Đột nhiên cô thấy ngực nhói đau, vậy là hồn con sói đã nhập vào cô.
Khi cô đứng lên, vội vã quay lại với Kapu thì những ngôi sao cũng lặn bớt trên bầu trời.
Suốt đêm Miyax ngồi bên Kapu và lắng nghe tiếng hú của Ánh Bạc, Móng Vuốt cùng những con sói non. “
Ú hú ú…” chúng hú lên những tiếng mà trước đây cô chưa hề nghe thấy. Cô biết chúng đang khóc thương Amaroq.
Mùng 10 tháng Mười Một, mặt trời sẽ lặn xuống và vắng bóng liền sáu mươi sáu ngày. Trong bóng tối mịt mùng, Kapu vẫn tập chạy ra lãnh nguyên rồi lại chạy về. Tornait không thích thú gì cái cảnh đêm đen dài dằng dặc thế này. Suốt thời gian đó nó ngủ li bì trong mấy tấm da để đợi lúc mặt trời mọc. Mặt trời vẫn biệt tăm; cơn đói đánh thức nó dậy, nó chạy tới chỗ Miyax ngủ, mổ vào ủng của cô và đập cánh phành phạch đòi ăn. Ăn xong, bóng đêm lại giục nó “đi ngủ”, vậy là nó quay lại ổ, thu gọn chân dưới ngực và nhắm mắt lại.
Về phần mình, Miyax lại thấy hoàn toàn tận dụng được những đêm dài đó. Nhờ ánh sáng trăng sao, cô có thể thu lượn được phân tuần lộc, nấu ăn ở ngoài trời và thậm chí khâu vá. Tuy nhiên, những hôm trời nhiều mây, cô đành ở trong nhà, thắp nến lên và trò chuyện với Kapu, Tornait.
Cũng thời gian này, cô bắt đầu đẽo gọt đoạn sừng tuần lộc thành một sản phẩm tinh xảo hơn. Trong quá trình đẽo gọt cô nhận thấy nó rất giống hình dáng năm con sói non. Cô cẩn thận trau chuốt từ đôi tai đến những cái chân cho đến lúc chúng hiện thành một hàng. Kapu dẫn đầu. Khi thấy mệt, cô lấy
totem của Amaroq ra và nghĩ tới cuộc đời cũng như linh hồn can trường của nó.
- Căn phòng quét vôi hồng chắc nhuộm đỏ bằng máu cậu. Tớ không thể tới đó nữa. Nhưng tớ biết đi đâu đây? Không thể quay lại Barrow với Daniel được. Cũng không thể về Nunivak với bà Martha… Còn cậu cũng không còn để bảo vệ tớ nữa rồi.
Những trận bão tuyết ào đến rồi tan; gió gầm rít ngày đêm. Một đêm trời có sao, Miyax nghe thấy tiếng thút thít, cô mở cửa lều và nhìn thấy Ánh Bạc trước cửa. Miệng nó ngậm một con thỏ to tướng và mặc dù Miyax rất vui khi thấy có thức ăn nhưng cô cũng nhận thấy được đàn sói của cô không đủ sống. Thiếu sự chỉ huy của Amaroq, chúng buộc phải săn tạm thỏ và những con thú nhỏ. Những mồi này không đủ đáp ứng cho chúng. Miyax đi ra, vuốt ve vai Ánh Bạc và cảm thấy những đốt xương lủng củng trên người nó. Thiếu con đầu đàn cả đàn sẽ không sống nổi qua mùa đông.
Ánh Bạc hích nhẹ tay cô, Miyax mở rộng cửa lều và con sói xinh đẹp bước vào. Nó nhả con thỏ xuống và tới bên Kapu. Kapu đứng lên vươn cổ, đầu nhô cao vượt hẳn con kia. Ánh Bạc chào nó, ve vẩy đuôi một cách phấn khích. Sau đó nó định cắn vào chót mũi Kapu để thông báo rằng nó là thủ lĩnh nhưng Kapu đứng cao hơn. Kapu nhẹ nhàng ngoạm lấy mõm Ánh Bạc. Con này cắn nhẹ vào hàm Kapu chúc mừng vị tân thủ lĩnh.
Kapu hích nó ra và chui ra khỏi lều. Ánh Bạc nối gót vị hoàng tử của đàn sói. Kapu hú vang bài ca thủ lĩnh của nó trong bóng tối nhưng vì quá yếu chưa chạy được, nó đành quay lại lều.
Khi nó đi qua cửa, dáng vẻ của nó toát lên một vẻ oai phong mới. Miyax xoa xoa hàm nó. Nó nằm xuống xem cô lột da con thỏ.
Cô cho nó ăn phần thịt tươi rồi ra ngoài tìm bắt lữ thử cho mình. Từ cuối mùa hè, số lượng loài sinh vật gặm nhấm này tăng lên đông gấp đôi, gấp ba, có khi gấp bốn. Lần theo lối mòn chúng đi, cô tìm được bảy tổ và bắt được tám chục con non vừa trổ lông. Cô lột da rồi hầm lên và ăn thấy cũng khá ngon. Đêm sau, Ánh Bạc mang tới cho cô phần sườn của một con nai sừng tấm. Cô không ăn được vì nó dai và đông cứng. Miyax biết cô đã gần ra tới sông. Không bao giờ có nai sừng tấm chạy lang thang trên lãnh nguyên.
Mấy đêm sau, Kapu đã có thể chạy băng trên tuyết mà không hề vấp ngã, Miyax quyết định đã đến lúc đi lần ra sông. Ở những khu vực có liễu lùn và dương mọc ven những mạch nước chảy, các loài thú cư trú đông hơn nhiều. Ở đó, thỏ và gà gô trắng tụ tập từng bầy để ăn các loại cây do gió cuốn tới còn nai sừng tấm trú đông trong những dải rừng liễu lùn. Có lẽ Ánh Bạc và Móng Vuốt sẽ phát hiện được một con già yếu và sẽ hạ được nó với sự hỗ trợ của bọn sói non. Cuộc sống ở đó chắc sẽ dễ dàng hơn.
Cô thu xếp hành lý, đặt Tornait vào mũ trùm áo
parka rồi nhặt sợi dây kéo xe tiếp tục lên đường. Kapu tập tễnh đi bên cô nhưng càng đi cả hai càng dẻo dai. Việc tập luyện dường như đã giúp nó và đến thời kỳ tàn đêm dài, nó đã chạy được một mạch năm chục bước tới chỗ cô. Nó thường ngoạm lấy tay cô nhưng không hề làm cô xây xước.
Con sông chắc không khó tìm lắm vì cô đã định vị nó căn cứ vào Ngôi sao phương Bắc và cứ thế mà đi; vài giờ sau, khi vị trí chòm sao Thợ Săn chuyển sang phía bên kia cô thì cô tới được bờ sông um tùm cây cối. Xa xa hiện ra mờ mờ dãy núi đồ sộ của Vùng các Khe Suối, những dãy núi trơ trụi che kín phần phía Nam thoải xuống Bắc. Cô đã đến đích. Những con sông bắt nguồn từ Vùng các Khe Suối đều rất gần biển.
Sau khi dựng trại, Miyax dắt Kapu ra ngoài bẫy gà gô trắng và thỏ. Ánh Bạc cất tiếng hú gọi cách đó một quãng ngắn và cả hai hú đáp lại nó.
Mấy giờ sau, khi Miyax chui vào túi ngủ thì đàn sói đã đến gần đến mức cô có thể nghe thấy tiếng bọn sói non cào tuyết để dọn chỗ ngủ.
Đúng như cô dự đoán, việc săn bắn rất thuận lợi, ngay hôm sau đi kiểm tra bẫy cô đã bắt được ba con thỏ và hai con gà gô trắng. Mấy hôm liền cô bận rộn với công việc lột da và nấu nướng số thịt thú săn được.
Đến một đêm, trong khi Miyax khâu một chiếc ủng mới, Kapu liếm tai cô và chạy đi. Mặt trăng di chuyển hết một vòng quanh lều cô rồi lại bắt đầu vòng tiếp theo, tức là đã hết một ngày rồi mà nó vẫn không về, cô bèn ra ngoài tìm nó. Tuyết toàn màu xanh lam hoặc lục, những chòm sao sáng lấp lánh trên bầu trời và cả trên những lớp băng đóng trên mặt sông, cây cối. Tuy nhiên, không hề có dấu vết gì của Kapu. Cô định đi ngủ thì thấy phía đường chân trời có gì đó rung động, chính là bầy đàn của cô đang chạy trên bờ sông, Kapu dẫn đầu. Cô bò vào lều đánh thức Tornait dậy.
- Kapu đang dẫn đầu bầy đàn đi săn đấy. Thế là ổn cả rồi. Còn giờ chúng ta phải chia tay với chúng thôi.
Áng chừng đến giờ trời sáng, cô nhanh nhẹn dỡ lều xuống, xốc hành lý lên vai và bước lên mặt sông đóng băng để đi cho dễ hơn. Đi được một chặng khá dài, cô gặp những dấu vết của chồn
gulo và lần theo dấu tới một cái hang. Ở đó, đúng như cô dự đoán, có một vài con thỏ và gà gô. Cô chất tất cả lên xe trượt và quay lại sông, vừa đi vừa nghe Tornait khe khẽ hát những bài ca của loài choi choi trong cái mũ trùm áo
parka ấm áp. Cô khẽ đặt môi hôn lên cái mỏ xinh xinh của nó. Cả hai đang giúp đỡ lẫn nhau. Cô ủ ấm và cho nó ăn, nó tỏa hơi ấm ra cái mũ trùm của cô. Nhưng quan trọng hơn nữa tiếng hát của nó an ủi cô trong tình cảnh đơn độc và tuyệt vọng vì thiếu Kapu cùng đàn sói.
Giờ đây trên những chặng đường cô qua, những thùng dầu rỗng càng lúc càng nhiều còn dấu vết của loài chồn
gulo càng thưa dần. Cũng như loài sói, chồn
gulo là động vật hoang dã và khi Miyax thấy không còn nhiều dấu vết nữa, cô biết mình đang đến gần với con người. Một đêm, đếm thấy có tới năm mươi vỏ thùng trên một dải đất giữa sông, cô bèn dựng trại ngay đó. Cô cần dừng lại để suy tính kỹ càng xem nên làm gì sắp tới.
Nghĩ đến San Francisco, cô lại nhớ tới chiếc máy bay, những tiếng súng, máu đỏ, những mảnh thịt tươi và xác chết. Khi lấy kim ra ngồi khâu vá, cô nghĩ tới sự thanh bình và Amaroq.
Cô biết cô phải làm gì: Sống như một người Eskimo truyền thống săn bắt, đẽo khắc và ở cùng Tornait.
Hôm sau, cô lấy con dao đàn ông đẽo gọt những tảng băng. Cô chồng chúng lên nhau thành hình một căn nhà khá rộng rãi. Nếu cô định sống đúng như lối sống của người Eskimo trước kia, cô cần có một ngôi nhà chứ không phải là một cái lều tạm.
Khi ngôi nhà băng hoàn thiện, cô trải những tấm da xuống nền rồi ngồi xuống và lấy
totem của Amaroq ra. Những ngón tay cô không ngừng vuốt ve nó khi đặt trong túi nên giờ trông nó thật rực rỡ và oai vệ. Đặt ở ngoài cửa, cô cúi xuống hôn nó; khi làm vậy cô cảm thấy một niềm hạnh phúc tràn ngập trong lòng. Cô biết rằng nó đang chăm sóc linh hồn cô.
Thời gian trôi đi, những luồng sáng kỳ ảo của Cực Bắc hiện ra rồi lụi đi, mặt trăng đã bao lần tròn rồi khuyết. Miyax thấy cuộc sống khá thoải mái. Cô đã thành một chuyên gia trong việc đánh bẫy các loài thú nhỏ và cô thấy rất ham thích công việc đẽo khắc. Hoàn thành hình đẽo những con sói non, cô lại tìm được một phiến đá ven sông và bắt tay vào đẽo nó thành hình một con cú. Cô vẫn luôn để tâm tới đàn sói nhưng không thấy chúng hú gọi. Cô vừa vui vừa buồn vì điều đó.
Miyax không lúc nào thiếu việc để làm. Khi không săn thú hay đẽo khắc thì cô nhảy múa, khâu vá, chặt gỗ hoặc chế tạo nến thắp. Thỉnh thoảng cô dùng chữ cái tiếng Anh tập đánh vần các từ Eskimo. Những từ ngữ tuyệt vời như vậy phải được bảo tồn mãi mãi.
Một đêm, cô bắt tay khâu một chiếc áo choàng nhỏ xíu làm bằng lông chim cho Tornait. Dạo này nó thường xuyên rùng mình ngay cả khi nằm gọn trong mũ trùm của cô khiến cô rất chú ý đến nó. Cô đính những chiếc lông chim vào một miếng da thỏ mỏng và cắt thành một chiếc áo khoác mang hình dáng con chim.
Đến lúc trăng lên, cô đã hoàn tất chiếc áo và đang thử ướm lên người Tornait thì cô nghe thấy có tiếng chân bước lạo xạo trên tuyết từ xa vọng lại. Tiếng chân mỗi lúc một to thêm, cô ló đầu ra ngoài và nhìn thấy phía sông có một người đàn ông đang chạy bộ bên cạnh chiếc xe trượt chó kéo. Tim cô đập rộn lên - một thợ săn Eskimo, một người của dân tộc cô. Chạy vội lên mặt băng trên sông, cô đợi chiếc xe trượt đến thật gần:
- Ayi! - Cô gọi.
- Ayi! - Có tiếng đáp lại và chỉ mấy phút sau, người thợ săn đã kéo xe trượt tới bên cô, vồn vã chào cô.
Vợ và con ông ta đang ủ mình trong những tấm da. Nhưng đôi mắt họ sáng long lanh dưới ánh trăng.
Giọng Miyax khàn đặc vì lâu không nói nhưng cô vẫn cố gắng dùng tiếng Eskimo chào hỏi họ rất thân mật và mời họ về nhà cô ngủ. Người phụ nữ rất mừng vì được nghỉ ngơi, bà ấy nói với Miyax bằng thổ ngữ của người Upik khi leo ra khỏi xe trượt. Hóa ra họ chưa hề được nghỉ ngơi kể từ lúc họ rời Kangik, một thị trấn ở Vịnh Kuk cửa sông Avalik, là con sông dưới chân họ lúc này.
Cuối cùng Miyax cũng biết được cô đang ở vị trí nào. Kangik ở sâu trong lục địa so với Wainwright và phải mất nhiều ngày đi từ Mũi Barrow tới. Nhưng cô cũng không bận tâm lắm.
- Tôi tên là Roland. - Người đàn ông nói bằng tiếng Anh trong khi dỡ những tấm đệm quẳng xuống nền ngôi nhà tuyết và trải rộng ra. - Cô sống một mình à?
Miyax mỉm cười nhìn ông ta tỏ vẻ như không hiểu và bỏ thêm một khúc gỗ sam cong queo vào bếp lửa. Khi củi bén lửa, hai vị khách sưởi lưng; Roland hỏi lại cô nhưng lần này bằng tiếng Upik, ngôn ngữ chính của cô. Cô trả lời rằng đúng vậy.
- Tôi tên Alice. - Người mẹ trẻ xinh đẹp nói.
Miyax tỏ vẻ thất vọng.
- Uma - người phụ nữ chỉ vào mình - Atik - bà ấy chỉ người đàn ông rồi nâng đứa nhỏ lên quá đầu và gọi tên nó là Sorqaq.
Miyax thấy những cái tên đó thật hay, cô vừa bắc nồi thịt ra khỏi bếp để thết các vị khách món thịt gà gô hầm nóng sốt vừa khe khẽ hát. Sau đó, cô đi tới chỗ túi ngủ của mình, ẵm Tornait lên và chìa nó ra trước mặt Sorqaq lúc này đang bám trên lưng mẹ trong lần áo
kuspuck. Chú nhóc ló qua vai mẹ, toét miệng cười với con chim, vung vẩy chân và hụp xuống. Mải vui, nó quên mất rằng chân vẫn bị ôm và tụt dần xuống thắt lưng mẹ. Miyax cười khúc khích. Uma cũng phì cười và xốc nó lên, khuôn mặt tròn trặn của nó lại ló ra; nó nhoài người về phía con chim.
Miyax bỗng nhiên thấy cần trò chuyện. Nói rất nhanh bằng tiếng Eskimo, cô kể cho những vị khách nghe về dòng sông, các loài thú, chất đốt, những ngôi sao nhưng không đả động tới đàn sói hay quá khứ của mình. Họ chăm chú nghe và mỉm cười.
Ăn xong, Atik mới nhẹ nhàng, từ tốn kể chuyện, Miyax biết được rằng Kangik là một làng người Eskimo có một sân bay và một trường học cho con em họ. Một trạm điện đã được xây dựng và mùa đông ánh điện đã tỏa sáng các căn nhà. Ở đó có một số người mua được cả ô tô đi trên tuyết. Atik có vẻ rất tự hào về thị trấn của mình.
Trước khi đi ngủ, ông ấy còn ra ngoài cho đàn chó ăn. Sau đó Uma trò chuyện. Bà ấy nói rằng họ đang tiến về vùng núi để săn tuần lộc. Lúc Atik quay lại, Miyax cho ông ta biết rằng không cần tới tận các vùng núi - có một đàn khá lớn đang quần tụ không xa lắm phía thượng nguồn sông. Cô vạch sơ đồ lên nền nhà và chỉ rõ cho ông ta biết khu vực trú đông của tuần lộc nằm ở đâu. Ông ấy rất vui vì biết được điều này bởi vào mùa đông Vùng các Khe Suối rất khó lường, tất cả sườn núi đều có hiện tượng tuyết lở còn bão có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Uma cho con bú rồi ủ ấm nó trong những tấm da và khẽ hát ru nó ngủ khi lửa bắt đầu lụi. Đầu bà ấy cũng gà gật, bà ấy đành chui vào ổ đã được Atik chuẩn bị cho.
Chỉ mình Miyax còn thức, những hình ảnh về Kangik đầy trong tâm trí cô. Cô sẽ đi tới đó và sẽ được khối việc. Có lẽ, cô sẽ dạy trẻ nhỏ cách bẫy thỏ, khâu áo
parka và đẽo khắc; hoặc cô có thể đến sống với những gia đình cần có cô giúp đỡ. Thậm chí cô có thể làm việc ở cửa hàng. Cô sẽ sống ở Kangik như tổ tiên cô từng sống, hòa nhịp với các loài vật và khí hậu. Cô sẽ tránh xa San Fransisco nơi người ta được dạy cách tàn sát mà không cần biết lý do. Cô không thấy buồn ngủ hàng giờ liền.
Tornait thức dậy trước tiên và khẽ kêu. Miyax mặc quần áo, thái một mẩu thịt quăng cho nó. Nó mổ vội miếng thịt và nuốt chửng. Đứa bé choàng tỉnh, đánh thức luôn cả Uma, bà ấy tới bên nó, ẵm nó lên ngực và nựng nịu nó rồi lại nằm vào ổ lông ấm áp của mình. Trong nhà, nhiệt độ gần 0 độ C và bà ấy cũng không vội dậy làm gì.
Atik thức giấc, ngáp dài và nói to: “Đói quá rồi.” Uma bật cười, Miyax bắc nồi lên bếp. Atik mặc quần áo, đi ra xe trượt và đem vào thịt cừu, đậu hạt, bánh mì và bơ. Miyax đã quên không còn nhớ những thứ thức ăn thơm ngon này nên ngửi thấy mùi nấu nướng, cô ứa nước miếng. Ban đầu cô từ chối thức ăn Uma đưa mời nhưng nhìn thấy vẻ thất vọng của bà ấy, cô đành nhận ít thịt cừu và ăn rất nhỏ nhẹ, nhớ lại những cay đắng đã nếm trải ở Barrow.
Ăn sáng xong, Miyax thu dọn, Atik ra ngoài thắng chó vào xe còn Uma chơi với đứa nhỏ. Bà ấy vừa tung nựng nó vừa vui vẻ thủ thỉ kể về tình yêu của mình với Atik và rằng bà ấy đã vui sướng biết bao khi ông ấy quyết định đem bà cùng đi săn. Trong những dịp này, những người vợ Eskimo thường ở lại nhà vì nhờ những đồ ăn đông lạnh của người da trắng, chuyện nấu nướng không còn cần thiết nữa. Và phụ nữ cũng không còn phải thuộc da nữa vì tất cả thú đem bán cho du khách đều phải đưa tới Seattle để thuộc trực tiếp bằng nhiệt độ nóng và gửi đưa đi đóng gói.
Uma kể rời rạc. Atik lớn lên ở Anchorage nên rất ít hiểu biết về chuyện săn bắn vì cha ông là một thợ cơ khí. Sau khi cha chết, Atik được gửi tới sống với ông nội ở làng Kangik. Ông ấy trở nên ham mê săn bắn, câu cá và nhanh chóng thành thạo các việc nên khi ông nội mất, ông ấy được công nhận là người giỏi nhất trong tất cả các thợ săn còn sống người Eskimo.
- Kapugen đã dạy Atik biết nơi nào có hải cẩu sống và cách đánh hơi một con tuần lộc.
Miyax ngừng tay rửa nồi. Máu trong người cô nóng bừng bừng rồi lại lạnh ngắt. Cô từ từ ngoái lại chăm chú nhìn Uma.
- Cái ông Kapugen ấy sinh ra ở đâu? - Cô hỏi bằng tiếng Eskimo.
- Ông ấy chẳng bao giờ nói cả. Chỉ nhớ có một hôm ông ấy chèo chiếc thuyền
kayak ngược sông, cập lại và dựng luôn một nếp nhà tại nơi ông ấy lên bờ. Tất cả những gì tôi biết là ông ấy từ biển Bering đến. Nhưng ông ấy có đủ các đức tính của người Eskimo: thông minh, can đảm, nhân ái - và chẳng bao lâu ông ấy thành linh hồn của làng Kangik.
Miyax không dời mắt khỏi đôi môi Uma đang thốt ra những lời kính phục đối với người đàn ông tên Kapugen.
“U i ya Kangik?” - Cô hỏi.
- Đúng vậy, nhưng không phải ở trung tâm thị trấn là khu của những người giàu. Mặc dù Kapugen cũng rất giàu nhưng ông ấy lại sống trong một ngôi nhà đơn sơ quét vôi xanh ngay bên bờ sông. Nó ở phía thượng lưu, kề với vùng hoang dã nơi chỉ những người yêu cảm giác tự do mới lai vãng tới.
Run bắn lên vì hồi hộp, Miyax đề nghị Uma kể cho cô biết thêm nhiều chuyện nữa về cha Kapugen và Uma đã nhiệt tình kể lại chuyện mấy năm trước thị trấn và cư dân ở đó sống nghèo khổ, đói kém như thế nào. Loài hải mã vốn rất sẵn thì dần dần vắng bóng ở các vùng ven biển, cá voi xám cũng hiếm hẳn; hải cẩu thì rất ít và lại sống ở các khu vực xa. Vụ Quan hệ của người da đỏ đã phải trợ cấp cho mọi người dân còn những người này chỉ suốt ngày nốc rượu và quên hết những điều họ biết. Thế rồi Kapugen đến. Ông ấy tràn đầy kiêu hãnh, luôn ngẩng cao đầu. Ông lặn lội vào vùng hoang dã và bắt đàn ông giúp ông; phụ nữ chế biến lông thú thành sợi rồi dệt thành các loại găng, áo len và nơ tuyệt đẹp. Những thứ này đem bán cho người da trắng rất được giá, và chỉ một vài năm cư dân làng Kangik đã trở nên tự lập và khấm khá.
- Nhưng vẫn cần có lông tuần lộc và chồn
gulo để làm quần áo và các loại trang điểm thêm. - Bà ấy nói. - Vì vậy Kapugen và Atik mùa đông nào cũng phải đi săn để cung cấp cho thị trấn.
- Năm nay Kapugen không đi. - Bà ấy nói tiếp. - Ông ấy để tôi đi thay. - Bà ấy mỉm cười, đặt đứa bé vào trong áo
kuspuck, thắt chặt dây lưng và đứng dậy. - Kapugen rất thông minh và khỏe mạnh.
Miyax quay lưng lại phía Uma. Cô không muốn để bà ấy thấy người cô run lên mỗi khi nghe nhắc đến tên cha mình. Đối với cô ông đã chết, chuyện đó lâu đến mức giờ đây cô thấy hơi sợ khi biết tin ông còn sống. Nhưng cô cũng rất thích cái cảm giác ớn lạnh đã khẳng định với cô rằng điều đó hoàn toàn là sự thực.
Bên ngoài, đàn chó bắt đầu tranh giành phần ăn làm cây roi của Atik phải liên tục nhịp vun vút nghe như tiếng súng nổ. Miyax rùng mình khi nghe âm thanh đó. Cô nghĩ đến Amaroq và những giọt nước mắt ầng ậng dâng lên trong mắt cô nhưng không trào ra vì cô cũng đang nghĩ tới cha Kapugen. Cô phải tìm ông. Ông sẽ cứu được đàn sói cũng như ông đã cứu những người dân làng Kangik.
- Amaroq, Amaroq. - Cô bật hát thành tiếng trong lúc giũ mấy tấm da.
Uma ngạc nhiên quay nhìn cô.
- Cô có vẻ rất vui. - Bà ấy nói bằng tiếng Eskimo. - Tôi nghĩ chắc cô đang chuẩn bị sống tự lập nên gia đình cô cho cô ra ở riêng căn lều này. Cụ tôi, người nuôi tôi, cũng đã làm vậy nhưng tôi thấy rất khổ sở và buồn chán vì làm gì còn ai giữ tập tục này nữa.
Miyax lắc đầu:
- Tôi vẫn chưa phải là một phụ nữ.
Uma không thắc mắc gì thêm mà ôm ghì lấy cô. Sau đó, bà ấy đặt đứa nhỏ vào trong áo
kuspuck rồi bước ra cửa cùng Atik đứng trong bóng tối đen đặc chỉ lờ mờ ánh sao. Giờ này là ban ngày nên trên cao chỉ có những chòm sao của Bán cầu Nam. Đàn chó nhay dây cương và chòng chọe lẫn nhau, Atik đang cố gắng ổn định chúng. Đột nhiên chúng chạy túa ra mọi hướng làm chiếc xe trượt hơi chuyển động. Atik bế xốc Uma và đứa nhỏ đặt vào trong xe và sau khi nói lời cảm ơn Miyax, ông cũng nhảy lên xe.
Cô vẫy tay chào cho tới khi bóng họ chìm hẳn trong đêm đen rồi chui vào lều, cuộn gọn túi ngủ lại và chất lên xe trượt của mình. Cô xốc hành lý lên lưng và ẵm Tornait lên. Cô cẩn thận mặc chiếc áo choàng lông chim cho nó, lồng qua hai cánh rồi buộc chặt lại ở phía sau lưng. Trông nó thật ngộ nghĩnh. Cô phì cười, chạm mũi vào mỏ nó và đặt nó vào mũ trùm áo
parka. - Amna a-ya, a-ya-amna. - Cô vừa hát vừa đi đôi giày tuyết vào rồi nhắm về phía sông, rảo bước trên mặt băng đang vặn mình răng rắc.
Cô đi được khoảng một dặm đường thì nghe thấy tiếng Kapu sủa. Cô biết chắc đó là nó. Giọng nó nghe không thể lẫn được. Cô hốt hoảng nhìn quanh. Cô hét lên:
- Ở lại ngay! Ở lại ngay!
Gió thổi bạt giọng cô đi và cuốn phăng về phía sông. Kapu chạy tới bên cô, theo sau là Móng Vuốt và bọn sói non. Tất cả đều mừng rối rít như rủ cô hãy theo chúng.
- Không được đâu! - Cô kêu lên. - Amaroq của riêng tao vẫn còn sống đây. Tao phải đi cùng Amaroq.
Cô tiến lên vài bước rồi quay lại trừng mắt đúng như con sói đầu đàn đã làm. Cả đàn lưỡng lự một lúc như không tin vào điều cô nói. Sau đó chúng tản đi và chạy về phía sông. Từ phía bờ sông vang lên tiếng chúng và sau đó chúng chạy biến.
Miyax đã nói những lời cuối cùng với đàn sói của mình.
Cô nghĩ đến cha Kapugen và vội vã đi tiếp. Cô sẽ nói gì với ông đây? Họ sẽ chạm mũi khi gặp mặt nhau ư? Chắc chắn ông sẽ ôm ghì lấy đứa con thương yêu của mình và để cô vào nhà, giúp ông thuộc da, khâu vá quần áo, nấu ăn. Giờ đây cô có thể làm được vô khối việc đỡ đần cha mình, một thợ săn lớn; cho tuần lộc ăn, bắt thỏ, vặt lông chim và thậm chí chế tạo được một số dụng cụ bằng nước đóng băng. Cô sẽ rất có ích cho ông và hai cha con sẽ sống như họ vẫn ao ước: sống với thời tiết lạnh lẽo cùng với muông thú.
Cô cố hình dung lại gương mặt cha Kapugen, cặp mắt màu đen và đôi lông mày hay nhíu lại rất thân yêu của ông. Chẳng biết đôi má ông có còn đầy căng và nhăn lại mỗi khi cười không? Chẳng biết ông còn để tóc dài và còn cao lớn lực lưỡng không?
Một luồng sáng xanh lục kỳ ảo phụt lên trời, không gian quanh nó sáng lấp lánh. Không gian như nứt vỡ, con sông như rên rỉ nhưng Miyax vẫn mải miết nhắm về phía có cha Kapugen.
Cô nhìn thấy làng Kangik từ rất xa. Có mấy ngọn đèn sáng rõ trong đêm đông ngay kề chiếc ghế băng đầu tiên kê bên bờ sông gần phía biển. Khi có thể phân biệt được những cánh cửa sổ và bóng tối bao trùm các ngôi nhà, cô kéo xe tới chiếc ghế băng thứ hai và dừng lại. Cô cần suy nghĩ trước lúc gặp cha.
Cô dựng lều và trải đệm, túi ngủ ra. Cô nằm sấp xuống, chăm chú nhìn vào làng. Có khoảng năm chục căn nhà gỗ. Một vài mái nhà khá rộng nhưng tất cả đều có hình dáng chữ nhật với mái nhọn. Kangik đang phủ trắng tuyết nên cô không nhìn được xem trên đường có rác rưởi không nhưng nếu có thì cô cũng chẳng bận tâm lắm. Nhà của cha Kapugen chắc phải rất đẹp.
Làng có một con đường chạy suốt, có nhà thờ và nhà truyền giáo. Kế bên là các cửa hiệu, Miyax nhận thấy ngay nhờ có rất nhiều người đi ra đi vào. Cô lắng tai nghe. Có tiếng chó đàn sủa ở cả hai đầu làng và mặc dù cô biết trong làng có ô tô đi trên tuyết nhưng đây rõ ràng vẫn là làng dùng xe chó kéo - một ngôi làng của người Eskimo truyền thống. Điều đó khiến cô rất hài lòng.
Mắt cô lướt dọc phố. Có mấy đứa nhỏ đang nô giỡn trên tuyết nên cô đoán lúc này khoảng 10 giờ sáng - giờ trẻ em Eskimo được phép ra ngoài chơi. Vào giờ này mẹ chúng phải hoàn tất nốt những công việc quen thuộc buổi sáng của họ và có thời gian mặc ấm cho những đứa nhỏ rồi cho chúng ra ngoài. Thời tiết rất lạnh.
Phía dưới thị trấn, cô có thể nhìn thấy đàn hươu xạ mà Uma đã nói đến. Chúng quần tụ bên nhau gần cổng rào, đầu quay ra ngoài để để phòng sói và gấu. Tim cô đập thình thịch khi nhìn thấy loài “bò sữa” của Bắc Cực. Cô có thể giúp cha Kapugen chăm sóc chúng.
Có hai đứa trẻ từ trong một căn nhà chạy ra, bắc một tấm ván ngang một cái thùng rỗng để làm bập bênh rồi chia nhau đứng trên hai đầu ván. Chúng bắt đầu nhún nhảy, càng lúc càng bật cao nhưng vẫn rơi xuống tấm ván một cách chính xác. Miyax đã thấy trò chơi này ở Barrow và cô thích thú ngắm nhìn hai chú nhóc đang say sưa chơi đùa. Sau đó cô từ từ nhìn lên và chăm chú quan sát những căn nhà.
Có hai ngôi nhà quét vôi xanh gần kề vùng hoang dã. Cô đang cân nhắc xem đâu là nhà cha Kapugen thì cửa ngôi nhà nhỏ hơn bật mở và ba đứa nhỏ ào ra. Cô quả quyết ông sống trong ngôi nhà kia - ngôi nhà có cửa sổ, có phần phụ và hai cái xuống gỗ để trong sân.
Một phụ nữ từ trong nhà cha Kapugen bước ra và rảo bước trên tuyết.
Đương nhiên rồi - Miyax nghĩ -
Bố đã lấy vợ. Bố cũng cần có người khâu vá và nấu nướng. Nhưng mình vẫn có thể giúp bố chăm đàn gia súc. Người phụ nữ đi qua nhà thờ và dừng lại trước cửa nhà truyền giáo. Bóng bà hiện rõ trong ánh điện một lúc rồi cánh cửa khép lại sau lưng bà. Miyax đứng lên. Đã đến lúc tìm cha cô. Ông đang ở nhà một mình.
Chân cô lướt băng trên tuyết khi cô chạy xuống đồi và băng qua đường nơi bọn trẻ đang đánh xe trượt vào một con chó. Chúng cười khanh khách và Tornait đáp lại những tiếng cười trong trẻo như tiếng chim của chúng từ trong mũ trùm.
Khi đến gần ngôi nhà quét vôi xanh, Miyax bắt Tornait trên tay và chạy thẳng tới trước cửa. Cô gõ cửa.
Có tiếng chân bước vang lên từ một góc xa của ngôi nhà. Cánh cửa bật mở và cha Kapugen sừng sững hiện ra. Ông vẫn đúng như cô còn nhớ - rắn rỏi nhưng đôi mắt đen rất dịu dàng. Cô không thốt được một lời nào, thậm chí là gọi tên ông hay một câu chào. Cô quá mừng khi nhìn thấy ông đến nỗi không thốt lên lời. Sau đó Tornait kêu chiếp chiếp. Cô chìa nó ra trước.
- Con có một món quà tặng bác. - Cuối cùng, cô lên tiếng bằng tiếng Eskimo. Chiếc áo choàng lông chim sột soạt và cái đầu màu hổ phách của Tornait thụt vào trong áo hệt một con rùa biển.
- Gì vậy con? - Giọng cha Kapugen vang vang, ấm áp như vọng lại từ bờ biển Nunivak nơi rộn vang tiếng chim và biển được định hình bằng lớp lông trên áo
parka của ông. - Con vào nhà đi. Bác chưa bao giờ thấy một con chim như thế này. - Ông nói bằng tiếng Anh.
Miyax vẫn mỉm cười và lắc đầu. Ông nhắc lại lời mời bằng tiếng Upik. Miyax bước qua ngưỡng cửa vào nhà.
Căn phòng lớn rất ấm áp, sực nức mùi da thú và mỡ. Trên tường treo mấy ngọn lao, dưới cửa sổ là một chiếc trường kỷ dài bọc da. Chiếc thuyền
kayak treo trên trần; chính giữa phòng là một lò lửa xinh xắn. Căn nhà của cha Kapugen ở Kangik này vẫn y như căn nhà ở trại hải cẩu. Vậy là cô đã về đến nhà!
Tornait sà xuống sàn, cái áo choàng lông chim trên người nó rực rỡ như một con gà gô đang khoe mẽ. Nó chui xuống dưới một tấm da.
- Nó mặc áo choàng ư! - Cha Kapugen bật cười và quỳ hẳn xuống nhìn con chim.
- Vâng ạ. - Miyax đáp. - Nó là linh hồn của các loài chim đấy ạ. Nó là một con chim choi choi lông vàng.
- Một con choi choi lông vàng, linh hồn của các loài chim ư? Cháu nghe thấy những chuyện đó ở đâu vậy? - Cha Kapugen đứng bật dậy và đưa tay lật chiếc mũ trùm áo
parka của cô.
- Con là ai?
- Julie Edwards Miyax Kapugen.
Đôi tay to bản dày dạn sương gió nhẹ vuốt khuôn mặt cô.
- Eelie! - Ông thì thầm. - Đúng, đúng là con rồi. Con xinh đẹp hệt như mẹ con vậy. - Ông dang rộng hai tay.
Cô nhảy bổ vào lòng ông và ông ôm ghì lấy cô một lúc rất lâu.
- Khi họ gửi con đi học, - ông thủ thỉ. - Nunivak đúng là không thể chịu được. Bố ra đi và bắt đầu một cuộc sống mới. Năm ngoái bố đã có của ăn của để, bố quay lại đón con. Con đã đi mất rồi. - Những ngón tay của ông lùa vào tóc cô và ông lại ôm ghì lấy cô.
Cửa bật mở và người phụ nữ bước vào. Bà ấy hỏi bằng tiếng Anh:
- Chúng ta đón ai thế này?
Miyax nhận thấy khuôn mặt bà xanh xao và mái tóc hung hung. Một vẻ lạnh lùng toát ra từ người bà. Cha Kapugen đã làm gì thế này? Chuyện gì đã xảy ra đến nỗi ông phải cưới một phụ nữ da trắng? Cuộc sống mới của ông là vậy ư?
Cha Kapugen nói chuyện với người phụ nữ - bà ấy nói rất to còn ông rất nhẹ nhàng. Miyax đưa mắt nhìn khắp phòng một lần nữa. Lần này ngoài những tấm da thú và chiếc thuyền
kayak, cô còn thấy những bóng đèn điện, một cái máy hát, những bức rèm bằng vải bông và qua cánh cửa thông sang gian phụ, cô thấy thấp thoáng mép một cái lò sưởi điện, một phin pha cà phê và những chiếc đĩa sứ. Trên tường có mấy giá sách và một bức tranh lồng khung vẽ cảnh vườn tược thôn quê nước Mỹ. Rồi mắt cô nhìn thấy một chiếc mũ sắt và mấy cặp kính râm để trên một chiếc ghế tựa. Miyax dán mắt vào mấy thứ đó cho tới khi cha Kapugen gọi cô.
- Ồ, thế này, - ông nói. - Giờ bố có hẳn một chiếc máy bay, Miyax ạ. Đó là cách đi săn duy nhất hiện nay đấy. Hải cẩu rất hiếm còn cá voi hầu như không còn nữa; nhưng những người ham mê thì vẫn đi săn bằng máy bay.
Miyax không còn nghe thấy gì nữa. Có lẽ nào như vậy chứ, có lẽ nào như vậy chứ. Cô không thể để như thế này được. Cô lập tức vùi sâu những dự định của mình trong tiềm thức.
- Miyax này, - bà dì nói với thứ tiếng Upik rất tồi, - dì dạy học trong trường học ở đây. Ngày mai bố và dì sẽ ghi tên nhập học cho con. Con có thể học đọc và viết tiếng Anh. Không biết tiếng Anh sẽ rất khó sống, kể cả trong thị trấn toàn người Eskimo này.
Miyax nhìn cha Kapugen. Cô nói khẽ bằng tiếng Upik:
- Con đang trên đường tới San Fransisco. Những người da trắng ở Wainwright đã bố trí phương tiện đi lại cho con. Ngày mai con sẽ đi.
Có tiếng điện thoại reo. Cha Kapugen nhấc máy trả lời và ghi vội cái gì đó. Ông nói với Miyax.
- Bố sẽ quay lại ngay. Bố quay lại ngay đây. Rồi bố con mình sẽ nói chuyện.
Ông ôm lấy cô. Miyax cứng đờ người và nhìn chiếc mũ sắt.
- Ellen, em dọn cho con đồ ăn đi. - Ông gọi và khoác áo choàng, một chiếc áo choàng đồng phục của quân đội ở Bắc Cực do Mỹ sản xuất. Ông kéo khóa một cách phấn chấn và đi nhanh ra cửa. Ellen đi vào bếp và Miyax chỉ còn lại một mình.
Cô chậm rãi ẵm Tornait lên, mặc áo choàng
parka da hải cẩu của mình và đặt con chim vào trong mũ trùm. Sau đó cô bật đài; nó sột soạt rồi bắt được sóng âm nhạc, cô mở cửa và nhẹ khép lại phía sau mình. Thế là cha Kapugen đã chết hẳn trong cô.
Cô tìm thấy lều và hành lý trên chiếc ghế băng thứ hai bên sông phía trên thị trấn và chất tất cả lên xe trượt, khom người kéo đi. Cô đi ngược sông nhắm về phía căn nhà của cô. Cô là một người Eskimo và cô phải sống như một người Eskimo. Mùa lữ thử đã đến, thời kỳ của Miyax cũng đang đến. Cô sẽ xây những ngôi nhà tuyết trong mùa đông, một căn nhà cỏ trong mùa hè. Cô sẽ đẽo khắc, khâu vá và bẫy thú. Và đến một ngày nào đó, sẽ có một chàng trai như cô. Họ sẽ cùng nuôi nấng con cái, những đứa trẻ sẽ sống theo nhịp sống của thiên nhiên và muôn loài.
“Hải cẩu rất hiếm còn cá voi hầu như không còn nữa.” Cô nghe thấy tiếng cha Kapugen văng vẳng. “Khi nào cậu mới đến sống cùng gia đình mình ở San Fransisco?” Tiếng Amy gọi cô.
Miyax bước giật lùi, nhìn về phía thung lũng ven sông. Khi ánh sáng cuối cùng của làng Kangik biến mất, những ngôi sao hiện lấp lánh trên tuyết, cái lạnh càng tụt sâu thêm dưới mức 0 độ C. Tiếng băng thở rền vang, ầm ầm như nhịp trống rung khắp miền Bắc Cực.
Tornait kêu chiếp chiếp. Miyax ngoái đầu lại, cằm cô chạm vào nó và thấy nó mềm nhũn. Cô dừng lại và ẵm nó lên.
- Tornait. Mày có chuyện gì vậy? Mày ốm ư? - Cô nhanh nhẹn mở hành lý, lấy ra một ít thịt, nhai nát và mớm cho nó. Nó không muốn ăn. Cô bỏ nó vào trong áo
parka và dựng lều lên ngay trong gió. Khi đã lấy tuyết bịt kín các chỗ trống, cô nhóm một đống lửa nhỏ. Căn lều sáng lên ấm áp. Tornait nằm im trong tay cô, đầu ghếch lên những ngón tay; nó khẽ kêu và nhắm mắt lại.
Hàng giờ sau cô mới chịu chôn nó xuống tuyết.
Totem của Amaroq nằm trong túi cô. Những ngón tay cô lướt dọc thân nó nhưng cô không lấy nó ra. Cô cất tiếng hát ca ngợi linh hồn của Amaroq bằng thứ tiếng Anh tốt nhất cô có.
Hải cẩu hiếm hoi còn cá voi biến mất. Linh hồn muông thú đang bỏ đi. Amaroq, Amaroq, cha nuôi của ta. Bàn chân ta nhảy vì người. Đôi mắt ta nhìn vì người. Ta suy nghĩ vì người, Và vẫn đang nghĩ trong đêm ầm vang tiếng sấm này Đã qua rồi thời kỳ của sói và người Eskimo. Nhằm theo hướng nhà cha Kapugen, Julie rảo bước.
Chú thích:
[1] Loại áo choàng lông của người Eskimo.
[2] Thuyền độc mộc một người chèo của dân Eskimo.
[3] Loài chim nhỏ, có họ với chim bọ sẻ.
[4] Loại dao hình liềm của phụ nữ Eskimo.
[5] Còn gọi là lemmut, một giống chuột nhỏ vùng địa cực, có đặc điểm đôi khi tự lao xuống biển chết hàng loạt trong khi di trú.
[6] Loại quần liền áo của phụ nữ Eskimo.
[7] Một loài chim thuộc họ sẻ đồng.
[8] Là hiện tượng không nhìn thấy gì (tầm nhìn bằng 0) trong bão tuyết.
[9] Một loại ủng của người Eskimo.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2023 18:41:01 bởi Thanh Vân >