Nhân Chứng Ẩn Mình - Nora Roberts

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 31 trên tổng số 31 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Thanh Vân
  • Số bài : 3870
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.05.2007
Re:Nhân Chứng Ẩn Mình - Nora Roberts - 29.11.2023 19:33:28

Hồi Kết


Anh muốn mang rượu champagne tới chỗ cô thích ngắm cảnh núi đồi.
“Như đi dã ngoại nhỉ? Em có cần mang theo ít đồ ăn không?”
“Champagne là đủ rồi. Đi nào, Bert.”
“Nó nghe lời anh, theo anh. Em nghĩ nó thích vậy bởi vì anh tuồn đồ ăn từ trên bàn cho nó lúc anh nghĩ em không nhìn thấy.”
“Thôi chết.”
Cô bật cười và cầm lấy tay anh. “Em thích cầm tay anh khi chúng ta đi. Em thích rất nhiều thứ. Em thích được tự do. Em tự do nhờ có anh.”
“Không, không phải nhờ có anh.”
“Anh nói đúng, như thế không chính xác. Em tự do nhờ chúng ta. Như thế hay hơn.”
“Em vẫn mang theo súng?”
“Có thể phải mất thêm chút thời gian.”
“Có thể anh phải mất một lúc để ngắm bắn lần nữa.”
“Brooks.”
“Xong rồi. Được rồi, cho nên anh có thể nói với em, đưa em vào kính ngắm là việc khó khăn nhất anh từng làm. Cho dù biết rõ lý do, cách làm, nhưng vẫn cứ như sắp đi vào chỗ chết.”
“Anh làm việc khó khăn nhất bởi vì anh yêu em.”
“Đúng vậy.” Anh đặt tay cô lên môi mình lần nữa. “Em cần biết rằng anh sẽ yêu thương Elizabeth hay Liz hay bất kỳ danh tính nào của em.”
“Em biết mà. Đó là điều tuyệt nhất em biết, và em biết rất nhiều.”
“Khôn có sỏi.”
Cô bật cười, nhận ra mình có thể cười hàng giờ liền. “Em đang nghĩ...”
“Những người đầu có sỏi đều vậy.”
“Global Network sắp đóng cửa - người đứng đầu công ty sẽ ẩn dật. Em muốn bắt đầu lại.”
“Làm việc?”
“Em muốn quay lại phát triển phần mềm. Và trò chơi. Em thực sự thích việc đó. Em không muốn toàn bộ thế giới của em chỉ xoay quanh an ninh và an toàn hệ thống.” Cô cười rạng rỡ, và lần này đặt tay anh lên môi cô. “Em có anh làm việc đó rồi.”
“Đương nhiên rồi. Anh là cảnh sát trưởng cơ mà.”
“Và có lẽ, một ngày nào đó, sở cảnh sát Bickford sẽ cần hay muốn một đơn vị chuyên về tội phạm mạng. Em thừa năng lực, và em có thể làm giả tất cả những giấy tờ và bằng cấp cần thiết. Em nói đùa về phần sau thôi,” cô nói, khi anh nhìn cô thật lâu.
“Không giả mạo nữa đâu nhé.”
“Không đâu.”
“Không thâm nhập hệ thống.”
Mắt cô mở to. “Hoàn toàn hả? Tuyệt đối hả? Em nói rõ được không? Em muốn biết virus hoạt động như thế nào trong vài ngày tới, và sau đó... không đột nhập hệ thống nữa trừ phi chúng ta thảo luận và nhất trí.”
“Chúng ta có thể nói về việc đó.”
“Thế là thỏa hiệp. Các đôi đều thảo luận và thỏa hiệp. Em muốn thảo luận việc mời bạn bè và gia đình anh tới ăn tối, và kế hoạch cưới xin, rồi học cách...”
Cô ngừng lại. “Có cái ghế,” cô lẩm bẩm. “Có một cái ghế rất đẹp đúng chỗ em muốn có.”
“Ngạc nhiên cho em đấy. Chào mừng em về nhà, Abigail.”
Mắt cô nhòa đi khi cô bước tới để đưa hai bàn tay lướt trên đường cong mịn màng của lưng ghế, tay vịn. Trông nó như một khúc gỗ, được khoét ra, đánh bóng sáng lên, và ở giữa lưng ghế là một trái tim khắc với những chữ cái viết tắt A.L và B.G ở trung tâm.
“Ôi, Brooks.”
“Hơi ủy mị, anh biết, nhưng...”
“Không, không hề! Ai lại nói thế. Em vốn thích lãng mạn.”
“Anh cũng vậy.”
“Một sự ngạc nhiên tuyệt vời. Cảm ơn anh. Cảm ơn anh.” Cô choàng tay quanh anh.
“Cho em mà, nhưng anh cũng muốn ngồi lên đó.”
Cô ngồi xuống, kéo anh ngồi theo. “Nhìn khu đồi kìa, xanh mướt lúc mặt trời xuống thấp, còn bầu trời bắt đầu có sắc đỏ và vàng. Ôi, em thích nơi này. Mình cưới ở đây được không? Ngay đây?”
“Anh chẳng nghĩ được nơi nào tốt hơn. Vì anh không thể,” anh móc một chiếc hộp đựng nhẫn từ trong túi, “xin được chính thức cầu hôn em.”
“Anh mua nhẫn cho em!”
“Dĩ nhiên anh mua nhẫn cho em rồi.” Anh bật cho nắp mở ra. “Em thích không?”
Nó lóng lánh trong ánh sáng dìu dịu, như sự sống, cô nghĩ thầm, như lời ca tụng tất cả những gì thực tế và đúng đắn. “Em rất thích.” Cô ngước đôi mắt, giờ đã ướt đẫm, nhìn anh. “Anh đợi cho đến tận lúc này để đưa nhẫn cho em bởi vì anh biết sẽ có ý nghĩa hơn. Chẳng ai từng hiểu em như anh. Em không tin vào số phận, hay vào những điều kiểu đó. Nhưng em tin anh.”
“Anh tin vào số phận, và những điều như thế. Và anh tin em.” Anh lồng nhẫn vào ngón tay cô.
Anh hôn cô, rồi mở chai champagne với một tiếng nổ nhanh, hân hoan.
Cô cầm lấy cốc anh rót cho cô, đợi trong lúc anh rót chiếc cốc nhựa thứ hai. Rồi cau mày khi anh thêm một chút vào chiếc thứ ba, và đặt nó xuống đất cho Bert.
“Nó không uống được đâu. Anh đừng cho chó uống champagne.”
“Sao lại không nào?”
“Bởi vì...” Cô sững nhìn Bert khi nó nghếch đầu, nhìn cô với đôi mắt màu nâu đỏ. “Được rồi, nhưng chỉ lần này thôi đấy.”
Cô chạm cốc với Brooks.
“Chẳng mấy nữa, và cho quãng đời còn lại của em, em sẽ là Abigail Gleason.”
Và trong lúc chú chó vui vẻ liếm hết phần rượu champagne của mình, cô ngả đầu vào vai Brooks và ngắm mặt trời xuống dần phía trên những ngọn đồi. Ngôi nhà thân thương.

HẾT

 
*
 
Chú thích •
[1] Nguyên văn: frat party. Tại Mỹ, hầu hết các trường đại học có các hội nam sinh (fraternity hoặc frat) trong đó sinh viên có thể lựa chọn sống chung nhà cùng những sinh viên khác trong hội. Tiệc frat party được tổ chức tại nhà của hội viên và chỉ hội viên hoặc khách mời mới được tham gia.
[2] Nguyên văn: kegger - Một hình thức tiệc tùng có sử dụng bia đựng trong thùng nguyên, thường do sinh viên đại học hoặc trung học tổ chức.
[3] Một nam diễn viên Mỹ nổi tiếng.
[4] Tiếng Nga: Rất vui được gặp anh.
[5] Pheromone là những chất được sử dụng như những tín hiệu hóa học giữa các cá thể cùng loài, nhất là côn trùng. Chất này còn được gọi là hormone xã hội (social hormone), giữ vai trò trong nhiều hoạt động của đời sống côn trùng: báo động, giúp nhận ra nhau, hấp dẫn sinh dục...
[6] Chyort vozmi: Ôi, cái ****!
[7] Nguyên văn condo hoặc condominium, là một hình thức sở hữu nhà và bất động sản trong đó một phần nhà đất (thường là căn hộ) thuộc sở hữu cá nhân. Còn việc sử dụng đất những hạng mục chung trong khuôn viên như hành lang, hệ thống sưởi, thang máy, không gian ngoài trời tuân theo các quyền hợp pháp gần với quyền sở hữu cá nhân. Các quyền này do nhóm các chủ sở hữu cùng đại diện cho quyền sở hữu của cả mảnh đất nắm giữ.
[8] Tiếng Tây Ban Nha: Cô cứ tự nhiên như ở nhà!
[9] Tiếng Nga: Thằng khốn.
[10] Cục Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ (U.S. Marshals Service) là một cơ quan thực thi pháp luật trực thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Đây là một bộ phận của ngành hành pháp chính phủ Hoa Kỳ và cũng là bộ phận thực thi pháp luật của hệ thống Toàn Liên bang Hoa Kỳ, đảm bảo hiệu quả điều hành của bộ máy tư pháp. Cục đảm nhận nhiệm vụ hỗ trợ an ninh tòa án, chịu trách nhiệm chính trong việc truy nã các đối tượng đang chạy trốn, cung cấp các chương trình bảo vệ cho tòa án liên bang, vận chuyển tù nhân, bảo vệ nhân chứng quan trọng của liên bang và quản lý tài sản bị niêm phong.
[11] Thuật ngữ chỉ tập hợp các thành phần tội phạm có tổ chức ở Nga.
[12] Một nam diễn viên Mỹ nổi tiếng.
[13] Tác giả chơi chữ. Trong tiến Anh, từ “mouse” vừa có nghĩa là “con chuột” vừa có nghĩa “vết bầm tím trên mắt.”
[14] Phong trào Tân Kỷ nguyên (New Age movement) là một trào lưu tinh thần và tôn giáo phát triển ở Phương Tây những năm 1970. Trào lưu này có đặc trưng là vũ trụ quan chính thể luận, niềm tin vào Kỷ nguyên Bảo Bình đang xuất hiện, sự nhấn mạnh đến bản ngã duy linh và sức mạnh của cái tôi, chú trọng đến chữa bệnh (đặc biệt với các liệu pháp thay thế), niềm tin vào lên đồng, và chấp nhận “nền khoa học tân Kỷ nguyên khai thác mọi yếu tố của ngành vật lý mới.
[15] Fergie Duhamel (sinh năm 1975) là ca sĩ, nhạc sĩ, nhà thiết kế thời trang, người dẫn chương trình truyền hình và nữ diễn viên người Mỹ.
[16] Quyền sở hữu súng.
[17] Ami: Bạn.
[18] Wicca là một tôn giáo phù thủy hiện đại, phát triển ở xứ Anh vào nửa đầu thế kỷ 20 và được quảng bá vào năm 1954 bởi Gerald Gardner, một công chức về hưu. Wicca thờ một nam thần đầu có sừng và một nữ thần mẹ. Hai vị thần này có khi được xem như các bộ mặt của một chủ thần. Tuy nhiên, tín điều của đạo lại vừa đa thần vừa đơn thần.
[19] Thẩm phán trị an (justice of the peace - JP) là một viên chức Tư pháp thuộc tòa án cấp thấp, do một hội đồng bầu hoặc bổ nhiệm để duy trì hòa bình. Tùy thuộc vào thẩm quyền pháp lý, các viên chức này xử lý các giấy tờ hành chính địa phương trong phạm vi thẩm quyền Tư pháp theo thông luật.
[20] Nguyên văn: Three bagger. Trường hợp ghi điểm rất hiếm trong môn bóng chày trong đó côn thủ (batter) đánh bóng thật mạnh vào khoảng không có thủ quân chặn bóng (fielder) và chạy tới chạm đủ cả ba gôn (base) trước khi bóng được ném về.
[21] Được.
[22] Nguyên văn: “Nigerian scam”, còn có tên “419 scam” liên quan đến Điều 419 trong Luật Hình sự Nigeria xét xử tội danh này. Đây là một trong những hình thức lừa đảo phổ biến nhất qua fax, thư bưu điện và nay là qua Internet. Cách lừa đảo này chủ yếu là hứa hẹn với nạn nhân về một khoản tiền lớn nhưng phải thanh toán trước một khoản nhỏ mới nhận được. Nếu nạn nhân thanh toán, đối tượng lừa đảo sẽ nghĩ ra một loạt khoản phí khác hoặc là biến mất luôn. Lừa đảo qua mạng chủ yếu xuất phát từ Mỹ, Anh và Nigeria.
[23] Nguyên văn “boscht”, món xúp có nguồn gốc ở Ukraina, phổ biến ở nhiều quốc gia Đông và Trung Âu. Xúp chủ yếu làm bằng củ cải đường và cà chua nên có màu đỏ tía.
[24] Bạn. Chơi.
[25] Ở đây nguyên tác có nhiều từ chơi chữ, đồng âm nhưng khác nghĩa. Nhân vật sử dụng nhiều từ để diễn đạt mối quan hệ nam nữ nhưng cũng là thuật ngữ trong ngành máy tính.
[26] Loại thẻ trông giống đồng xu trong trò chơi poker, cấp cho các hội viên Hội Cai nghiện xác nhận lượng thời gian mà hội viên giữ được tỉnh táo, mục đích nhằm khuyến khích họ cai nghiện.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2023 19:34:35 bởi Thanh Vân >
Cuộc đời một giấc mộng
Thời gian thoáng mây bay
Nguồn tâm không xao động
Khoan thai

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 31 trên tổng số 31 bài trong đề mục