Bình luận văn học: ĐỌC: DẠ CA, THƠ NGÃ DU TỬ
THƠ NGÃ DU TỬ 12.05.2024 07:47:23 (permalink)
BÌNH LUẬN VĂN HỌC
 

Xin trân trọng giới thiệu với các bạn văn bài của anh Châu Thạch (Đà Nẵng) vừa bình văn bài Dạ Ca của NDT.
Chân thành cảm ơn anh đã bỏ công sức, trí tuệ để viết điều anh thích.
Kính, em NDT


ĐỌC: DẠ CA, THƠ NGÃ DU TỬ

DẠ CA
Ngựa mỏi vó nằm bên chuồng gợi nhớ
chốn bụi hồng hun hút tận non xa
và tráng sĩ còn mài gươm đêm lạnh
lời nguyền xưa về thức suốt canh tà
Ngã Du Tử


Đọc bài thơ “Dạ Ca”của Ngã Du Tử, nếu ai còn nhớ bài thơ “Thuật Hoài” của Đặng Dung thì sẽ có một sự liên tưởng thú vị.

“Thuật Hoài” là bài thơ tự sự của Đặng Dung khi ông đem quân giúp vua Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần, nhưng do lòng người ly tán, quân binh ít ỏi, lương thực thiếu thốn nên cuối cùng đã thất bại. Bài thơ thể hiện ý chí sắt đá của một người anh hùng nhưng không may là không gặp thời thế, công việc chưa xong thì tuổi đã già.

Thuật hoài

“Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma”

Bản dịch của Phan Kế Bính

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Từ xa xưa có những tráng sĩ, những danh tướng chỉ để lại cho đời một vài bài thơ mà được người đời sau ca tụng. Những bài thơ của Lý Thường Kiệt, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư nằm trong trường hợp này. Lý Thường Kiệt với bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” có câu “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, Trần Quang Khải có “Đoạt sáo Chương Dương độ”, Trần Khánh Dư có bài Bán Than. Đó là những danh tướng lẩy lừng có hùng thi để lại cho đời.

Đặng Dung ngược lại, không phải là một danh tướng có chiến công lẩy lừng. Đặng Dung chỉ là một bại tướng, ông để lại cho đời chỉ có một bài thơ duy nhất, đó là bài Thuật Hoài (hay Cảm Hoài). Với “Thuật Hoài” tên Đặng Dung đã vào văn học sử, và người đời sau khi đọc bài thơ, không ai không thấy cảm hoài..

Đọc “Thuật Hoài” lòng ta sẽ cảm động thấy tác giả là một nhà ái quốc, một dũng tướng, một tráng sĩ, mang nỗi sầu triền miên bất đắc chí. Hai câu thơ cuối đem đến cho ta nỗi xót xa, gợi cho ta thấy hình ảnh đẹp tuyệt vời của người tráng sĩ mài gươm dưới nguyệt.

Sở dĩ người viết bài nầy nhắc nhiều đến ‘Thuật Hoài” của Đặng Dung vì “Dạ Ca” của Ngã Du Tử mang đầy đủ hình ảnh của một tráng sĩ mài gươm dưới nguyệt như Thuật Hoài của Đặng Dung mà còn hơn thế nữa, Ngã Du Tử phát họa vào bức tranh “Dạ Ca” toàn cảnh quê hương híu hắt, đến cả nỗi sầu cũng thể hiện trong dáng nằm của con tuấn mã.

Hãy đọc câu thơ đầu tiên để nhìn con tuấn mã của Dạ Ca: “Ngựa mỏi vó nằm bên chuồng gợi nhớ”.

Bây giờ hãy mời nghe ca từ trong bài hát “Dấu Chân Địa Đàng” của Trịnh Công Sơn để ta đồng cảm với nhà thơ Ngã Du Tử khi nhìn hình ảnh con ngựa “buông vó chùng chân” “nằm bên chuồng gợi nhớ”:

“Ngựa buông vó người đi chùng chân đã bao lần
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng
Vùng u tồi loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng
Một đời bỏ ngõ đêm hồng
Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em
...
Ngàn mây xám chiều nay về đây treo lững lờ
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vùi
Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền
để người về hát đêm hồng
địa đàng còn in dấu chân bước quên.”

Con ngựa của Ngã Du Tử mỏi vó nằm bên chuồng để nghe tiếng dạ ca là tiếng ca của đêm. Con ngựa của Trịnh Công Sơn buông vó nằm nghe “lời ca dạ lan” và nghe cả lời “loài sâu hát lên” lúc nửa đêm. Con ngựa của Ngã Du Tử nằm bên chuồng “gợi nhớ”. Con ngựa của Trinh Công Sơn nằm nghe hát để “ru mình trong giấc ngủ vùi”, để quên bước chân mình còn in dấu trên địa đàng. Cả hai con ngựa đều có linh hồn, đều biết thương nhớ và đều mang tâm sự của chủ nó. Khác chăng là con ngựa của Ngã Du Tử không nhớ những điều viễn vông, chỉ nhớ “Chốn bụi hồng hun hút tận non xa” là nhớ những tháng ngày oanh liệt theo chủ mình, một kỵ sĩ đi làm việc lớn chăng?

Với câu thơ thữ hai “chốn bụi hồng hun hút tận non xa” Ngã Du Tử dời hình ảnh con ngựa đang yếm thế, đang mỏi vó về một qúa khứ hào hùng, lồng bức tranh bụi hồng, non xa trong bức tranh yên nghĩ, đã nâng giá trị con ngựa, đã làm sống động hình ảnh, tạo thêm ý nghĩa cho thơ, và đưa thơ vào một hình ảnh khác mạnh hơn, đẹp hơn, ý nghĩa cao vời hơn nữa. Đó là hình ảnh của “Cảm Hoài”, hình ảnh người tráng sĩ mài gươm dưới nguyệt:

và tráng sĩ còn mài gươm đêm lạnh
lời nguyền xưa về thức suốt canh tà

Dạ Ca của Ngã Du Tử khác với “Thuật Hoài”của Đặng Dung. Đặng Dung luận về chuyện đời ở những câu thơ trên, rồi hai câu thơ cuối đột nhiên đưa hình ảnh nổi bậc, thấm dậm nỗi đau nhức nhối của người anh hùng thất thế. Ngã Dũ Tử trong Dạ Ca không thổ lộ tâm tư, không bình luận việc phải trái của đời, nhà thơ chỉ vẽ một bức tranh “Ngựa Và Người” trong bốn câu thơ đủ nói lên tất cả.

Ngã Du Tử dùng hai câu thơ đầu, nói về ngựa để bộc lộ những hoài niệm, những nhớ thương chất chứa trong lòng tráng sĩ. Ngã Du Tử dùng hai câu thơ sau, nói về người để bộc lộ tư thế hiên ngang, bộc lộ chí khí của người tráng sĩ cùng vận mạng non nước mà người chí sĩ canh cánh bên lòng. Dạ Ca của Ngã Du Tử là một bài thơ Thuật Hoài kiểu mới, đưa tâm sự vào tranh, đưa nỗi lòng vào trong ẩn dụ của thơ, không than van không kể lể dông dài.

Ngã Du Tử đặt tựa đề bài thơ là “Dạ Ca” rất hay. Dạ ca là tiếng ca của đêm, đêm ở đây không phải chỉ là đêm để con ngựa “nằm bên chuồng gợi nhớ”, không chỉ là đêm “tráng sĩ mài gươm”, mà còn là đêm rất dài của thời cuộc, của bóng tối trùm lên non nước. Đêm ở đây có thể là “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/Một trăm năm đô hộ giặc Tây/Hai mươi năm nội chiến từng ngày/Gia tài của mẹ, một rừng xương khô/Gia tài của mẹ, một núi đầy mồ”. Nghĩa là đêm của Dạ Ca không chỉ là đêm vật lý mà còn là đêm tâm lý của mỗi con người có tấm lòng khi đất nước chìm trong nghịch cảnh.

Đọc Dạ Ca của Ngã Du Tử, ta nghe tiếng ca đó vọng từ ngàn năm, qua bao thế hệ. Khi tổ quốc bình an, đất nước yên vui, không có ai phải mài gươm dưới nguyệt thì tiếng ca đó vẫn tiềm ẩn trong đêm, bởi vì “Lời nguyện xưa”của cha ông chúng ta, của tổ tiên chúng ta vẫn còn “về thức suốt canh tà” để nhắc nhở mỗi chúng ta không bao giờ quên giữ nước.

Châu Thạch


#1
    THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2024 17:47:30 (permalink)

    NHẤT NGÔN KÝ XUẤT TỨ MÃ NAN TRUY 
             (一 言 既 出,駟 馬 難 追)


    Ngày xưa, các bậc Thánh hiền, các cụ dạy chúng ta rằng: "Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói" , tưởng đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc, bởi lẽ dễ hiểu là nói một câu hàm hồ, hồ đồ làm tổn thương một hay nhiều người sẽ mang lại khẩu nghiệp dữ lắm. Xiển dương, ca ngợi một người quá với kiến thức và nhân cách sống của họ sẽ lố bịch và làm tổn thương danh dự chính người phát biểu, khi ngôn ngữ bay xa hối không kịp nữa, vì thế hãy cẩn trọng trong lời nói, nhất là thời đại hôm nay văn minh đến độ ai cũng có thể ghi âm lại bất cứ một câu nói nào của các chính khách, thức giả vì phương tiện chiếc điện thoại thông minh rẻ tiền cũng đủ sức làm việc ấy.
    Rất tiếc, cuộc sống hôm nay người ta so sánh bằng vật chất và địa vị mà bỏ quên đạo lý, danh dự và nhân cách của một con người - Cái cao cả nhất, khó nhất trong cuộc làm người trần gian. Người xưa rất hệ trọng về chuyện này, nên dạy rằng: Nhất ngôn ký xuất Tứ mã mã nan truy (Một lời nói ra ngựa Tứ, loài ngựa chạy hay nhất cũng khó theo kịp)
    Ngày nay hình như điều này rất dễ dàng cho những kẻ lắm tiền nhiều bạc, chỉ cần đưa cho ai đó có địa vị, danh phận trong xã hội tí tiền bạc là lời có cánh tưởng chừng bay lên tận từng không cao vút chạm đến trời xanh mây trắng.
    Những vị có chức sắc, học hàm, học vị rất cao như Giáo sư, Tiến sĩ... phát biểu chẳng mang lại lợi lạc cho cộng đồng xã hội, thậm chí đem lại trò cười cho thiên hạ, có khi phá hoại đạo đức xã hội, đây là sự thật trên các trang xã hội rất nhiều. Không thể nào hiểu nổi. Tại sao?
    Khi đạo đức suy vi, luân lý xem nhẹ, đạo đức coi thường thì hiện tượng này xảy ra nhan nhãn trong thời đại.
    Trong bài Đừng tưởng của một tác giả nào đó nhưng bây giờ ở đâu cũng ghi là Bùi Giáng, tôi nghĩ có lẽ chưa đúng tác giả!:
    "Đừng tưởng cứ núi là cao
    Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
    Đừng tưởng cứ dưới là ngu
    Cứ trên là sáng cứ tu là hiền".
    Hòn giả sơn cũng là núi, nhưng núi giả, hình thái như núi thật chẳng qua rốt ráo là giả.
    Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ viết bài Ông Tiến sĩ giấy cách mấy trăm năm trước đến hôm nay vẫn còn tính thời sự nóng hổi:
    "Mảnh giấy làm nên khoa giáp bảng
    Nét son điểm rõ mặt văn khôi
    Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
    Cái giá khoa danh ấy mới hời"
    Thời ấy mà các cụ đã biết chơi chữ "cái giá khoa danh ấy mới hời" (rẻ rúng quá).
    Học hành thật sự đến Tú tài, Cử nhân sôi nước mắt đừng nói chi đến thạc sĩ, tiến sĩ, mà tiến sĩ, giáo sư coi tiền hơn danh dự mình thì đúng là rẻ rúng quá phải ko các bạn?
    Danh dự và trách nhiệm trong cõi đời, cõi người coi vậy mà gian nan, khó lắm thay.
    Ô hay:
    "Tình đời tợ chỉ trương trương bạc
    Thế sự như kỳ cuộc cuộc tân"
    Viết tản văn như xả tress khi xem vài phát biểu của các vị chức cao, danh trọng vậy.


    Ngã Du Tử/ SG


    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9