NGHIỆM XÉT MỌI SỰ
(1Thes. 5:21)
2024
Không biết nói sao! Nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalonikê, bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn được viết, “
Đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự.” Nơi bản dịch Kinh Thánh Tân Ước xuất bản năm 1994, ngôn từ dùng hơi khác nhưng cũng cùng ý nghĩa, “
Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường các ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự.” Thánh nhân khuyến khích mọi người nhận biết Thần Khí, và sử dụng hồng ân tiên tri nơi mình.
Đức Giê su rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43), và Phúc Âm dạy, “
Tiên vàn hãy tìm kiến Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Vì Thiên Chúa là “Sự sống” nơi mọi người, “
Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gian 14:6), là gốc gác của mọi sự hiện hữu; nên Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Do đó, Tin Mừng đức Giê su rao giảng là, “
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Bởi Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nên Thần Khí của Thiên Chúa cũng ở nơi mọi người. Chúng ta bẩm sinh đã có Thần Khí, nhưng không nhận biết.
Nơi Kinh Thánh, tiên tri có nghĩa người rao giảng, người nói lên ý định, ý muốn của Thiên Chủa cho con dân của Ngài được biết. Ai cũng được ban cho Thần Khí, hay ai cũng có Thần Khí; nên mọi người đều có ơn tiên tri; vì thế, mọi người đều có khả năng suy luận, suy nghĩ, suy tường, suy nghiệm, nghiệm xét, để nhận biết, để tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
“
Đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự,” có nghĩa hãy nhận biết Thần Khí ở nơi mình, hãy sử dụng suy nghĩ, suy tư, suy tường, suy nghiệm, nghiệm xét, để nhận biết Thiên Chúa hiện diện ngay tại chính mình, “
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”
Suy nghĩ, suy tư, suy nghiệm, suy tưởng, nghiệm xét thế nào? Thánh nhân dạy,
“Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô” (Col. 2:8).
Như vậy, khi suy nghĩ, không dựa vào bất cứ học thuyết, lý thuyết, học vấn, bằng cấp, vị thế nào, chỉ tự mình đối diện với sự thể, không tin ai hết, không để ai lừa dụ. Theo đức Kitô có nghĩa suy nghĩ, suy tư, suy nghiệm, nghiệm xét những câu khôn ngoan nơi Phúc Âm, những câu nói nghịch thường thách đố suy tư. Chẳng hạn, “
Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi,” “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta, không đáng là môn đệ ta,” “Kẻ tra tay cầm cày mà quay trở lại thì bất kham với nước Chúa.”
Bên Phật học, Lão học cũng nói điều kiện để suy tư, suy tưởng, nghiệm xét, nghiệm chứng, “
Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp, không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Hoặc, “
Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Hay, “
Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” hoặc, “
Bớt, càng ngày càng bớt.”
Lã Mộng Thường.
CUỘC ĐỜI và XÃ HỘI Chưa ai biết được rõ ràng, xác thực, trái đất chúng ta đang sống xuất hiện thế nào và từ bao giờ cũng như diễn tiến sự sống tiến triển ra sao. Tất cả giả định về sự sống, sự xuất hiện của loài người theo thời gian đều chỉ là những lý thuyết, và những lý thuyết này thường được dựa trên kinh nghiệm hữu vi, vật chất, coi con người như một đối tượng sinh vật như mọi sinh vật trên trái đất. Tự đặt vấn đề về thực thể của mình, ngoài sự thể một người có thân xác, đói thì kiếm ăn, muốn có thực phẩm để ăn, lại phải đổ công sức, dù vào thời đại cổ, vô rừng hái cây trái hoặc dùng cung tên, bẫy rập, săn bắt thú rừng, hay nơi thời hiện đại cần tìm kiếm việc làm để có tiền mua thực phẩm; hơn nữa, cuộc sống một người không phải đơn giản chỉ có thế. Có cuộc đời, cần phải mưu sinh; nơi hành trình sinh sống cần nhiều liên hệ từ tấm bé cho tới lúc tuổi già, lại phải đối diện những biến chuyển, thay đổi bất thường nơi cuộc sống. Chẳng những thế, thực thể cuộc đời một người xét chung, không ai tránh thoát những chuyện được coi là thường tình nhưng lại rất bất thường tùy trường hợp từng cá nhân. Đâu ai thoát khỏi sinh, bệnh, lão, tử. Không được sinh ra sao có cuộc đời, bệnh, lão, và tử thì ai cũng phải đối diện dẫu ai cũng muốn tránh thoát. Thêm vào đó, thực thể hiện hữu của một người minh chứng, cuộc sống xác thân chỉ là thành phần hữu vi; ai không nhận ra mình còn có những tâm tình, suy tư, nhận định. Những sự thể này gắn liền làm một với thân xác; đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời, ai cũng tự nhận biết, nhưng để ý, suy tư tìm hiểu hay không, lại tùy thuộc chính bản thân người đó.
Được sinh ra, điều này có nghĩa có sự sống, được nuôi dưỡng từ ngày còn tấm bé, tới khi có đủ khả năng hay năng lực tự mưu sinh, lao mình vào cuộc đời tất nhiên cần có những liên hệ cuộc sống. Như vậy cuộc đời được tạo dựng, thiết lập từ sự thể con người đối diện với thực tại bao gồm những liên hệ, năng lực bản thân, suy nghĩ, suy tư, và nhiều sự việc cũng như sự thể hữu vi và tâm linh quấn quyện phát sinh, phát triển, có thể nói đến vô cùng. Xét thế, cuộc đời đối với một người ra sao đều tùy thuộc phản ứng của người đó khi đối diện thực tại của cuộc sống đã sẵn có khi người đó được sinh vào đời.
Chẳng những thế, mọi người được sinh ra hầu hết hoàn toàn khác nhau từ thể chất đến khả năng suy tư (tâm linh). Bởi vậy, phản ứng đối với cuộc đời của mỗi người đều khác nhau đồng thời chính những phản ứng cá nhân đối với cuộc đời tiếp tục kiến tạo thêm sắc thái cho thực thể cuộc đời, kiến tạo thêm môi trường thăng tiến hơn cho thế hệ tiếp nối. Có thể nói, cuộc đời càng ngày càng phát triển, thăng tiến; tương tự thế, con người do nhiều yếu tố sinh sống, giáo dục, ngay cả di truyền ảnh hưởng đến thực thể hiện hữu cá nhân, tất cả giao hợp, hòa hợp, nối tiếp kiến tạo cuộc đời tùy nơi, tùy thời, ngoại trừ thể chế sinh sống, chính trị. Có những môi trường sinh sống chính trị nâng cao, phát triển, thúc đầy khả năng sáng tạo của con người nơi xã hội ấy; đồng thời lại cũng có những môi trường chính trị chẳng những ngăn chặn sự phát triển mà còn đẩy con người lùi lại, o ép con người hoặc cấm đoán bằng cách này hay bằng cách khác khả năng sáng tạo biến xã hội càng ngày càng trở nên nghèo đói.
Xét thế, con người đã khó hiểu, cuộc đời lại càng khó hiểu hơn; bởi cuộc đời được kiến tạo do con người trong liên hệ giữa người với người. Dẫu "
Ai nên khôn không khốn một lần," nhưng thực tế minh chứng, "
Chó dại có mùa, người dại quanh năm;" hơn nữa, cái ngu dại của lòng tham vị kỷ thì cả đời, có thể cả dòng họ nơi những chế độ toàn trị, muốn biến những người khác thành nô lệ cho mình nên dùng mưu mô xảo trá, lừa lọc, tuyên truyền, vây bè, kết phái, dùng quyền lực tàn bạo đàn áp kẻ khác thay vì mưu cần lợi ích thăng tiến cho mọi người.
Bởi con người được sinh vào cuộc đời, tất nhiên con người bị cuộc đời, xã hội ảnh hưởng mọi phương diện, tâm sinh lý cho đến cách sống, cách đối xử với những người khác. Nơi thể chế toàn trị, mọi người bị coi như tôi mọi cho lớp cầm quyền; chính những thành quả do công sức mình làm ra bị coi như thuộc về giai cấp cầm quyền, lãnh đạo và giai cấp này tước đoạt hết những gì thuộc về mình. Đại khái, dưới thể chế toàn trị, dân chúng bị coi không khác gì những loại trâu bò đem công sức làm lụng dâng cho đám chủ, để rồi được phân phát phần nào đó rơm rạ may ra có thể cho no chiếc dạ dày. Dưới thể chế này, con người bị coi tệ hơn con vật, tối ngày, và cả cuộc đời chỉ lo sao có tối thiểu miếng cơm manh áo thì còn nói chi đến phát triển, phát minh.
Thực tế minh chứng, những nước dưới thể chế toàn trị dân chúng phải chịu thống khổ chẳng những về thể xác lẫn tâm hồn. Không cần nói nhiều, thử nhìn, đọc, hoặc nghe về dân chúng nước Tàu, Bắc Hàn, Cuba, Vênêzuêla, đặc biệt Việt Nam chúng ta thấy rõ hơn. Nơi những hình ảnh được đăng trên Youtube, cảnh cả đám dân du lịch tranh nhau thực phẩm nơi nhà hàng "All you can eat," tệ hơn đám con vật giành nhau miếng ăn đến nỗi lấy cả chiếc đĩa ăn lớn, vục vô thùng đựng crawfish luộc. Thử hỏi, nơi một chuồng heo, khi "Cám lợn" được đổ vô, hay nơi trại gà, những con vật vô tri có giành nhau miếng ăn như thế chăng. Miệng thì hô lên những lời khó nghe, tay thì giành dựt còn tệ hơn đám chó được nuôi chuẩn bị làm thịt khi đến giờ cho ăn. Họ là những con người? Thưa vâng, họ thực sự là những con người như mọi người, nhưng dưới thể chế toàn trị đã không được coi trọng; họ chỉ là nô lệ cho giới cầm quyền; cơ chế giáo dục không thỏa đáng, dù có tiền cũng không đủ hoặc không thể mua thực phẩm xứng đáng nên luôn đói khát, thèm thuồng, thiếu thốn, do đó khi có dịp chụp giựt thì tranh giành e không có phần của mình. Thật đau lòng khi thấy những hình ảnh như thế. Thiển nghĩ, ít nhất, trước khi tham gia vào những nhóm du lịch, họ cũng đã được giải thích để có thái độ, tư cách nên như thế nào bên ngoài xã hội khép kín của họ. Tuy nhiên, nói ra đáng xấu hổ, họ đã không được dạy dỗ, huấn luyện, và sống trong môi trường nên có của những con người, thành ra thái độ tệ hơn đám thú như thế. Nói rằng tệ hơn đám thú thì quả là quá tệ, nhưng tranh giành, chụp giựt, miệng xả ra những lời thô tục, không tệ hơn đàn heo, đám chó, gà, thì nói sao mới đúng! Họ đáng thương hay đáng trách? Tại sao họ có những thái độ như thế? Xin thưa, thể chế xã hội toàn trị đã coi họ như những con vật nên họ chính là như thế, quả đáng thương! Xã hội thế nào thì ảnh hưởng khiến người dân như vậy.
Nơi những xã hội thuộc đế chế cộng hòa dân chủ, người dân có quyền nói lên nhận định, tiếng nói của mình và những quyền căn bản của con người chẳng hạn tự do tôn giáo, tự do đi lại, quyền tư hữu. Thực ra, mọi người đều khác biệt từ thể chất đến tinh thần nên chín người thì mười ý; thành ra, nơi mặt nổi của xã hội cộng hòa dân chủ bị coi như lắm phiền hà, rắc rối, luôn luôn sôi động; ngay cả chính quyền cũng cần thành phần đối lập hầu ngăn chặn những lạm dụng, lộng quyền, mang hại đến con người, xã hội. Lẽ đương nhiên, cuộc đời được tạo dựng bởi con người với liên hệ xã hội, trong đó nhiều người tốt thì cũng lắm kẻ tham lam, lạm dụng; thế nên, dầu mục đích chính của chính quyền là điều hành sao cho xã hội an bình, tạo cho mọi người có cơ hội phát triển trong cuộc sống an sinh, nhưng cũng bị phiền hà bởi tham vọng quyền hành, danh tiếng, tham vọng kiếm chác lợi lộc riêng tư. Đây có lẽ là lý do hay điều kiện phát sinh bầu cử và quyền đi bầu, ứng cử.
Một sự thể đáng nói chính là sự cách biệt về nhận thức, lối sống, thái độ, tư duy của những người sống trong hai thể chế xã hội, toàn trị và cộng hòa dân chủ. Dưới chế độ toàn trị, con người chẳng khác gì nô lệ cho tổ chức cầm quyền, văn hóa dần dần tàn lụi, đạo đức xuống cấp, có thể nói, tổ chức cầm quyền áp dụng chính sách ngu dân để trị, biến liên hệ xã hội thành tổ chức xin cho, thu tóm thành quả, sản phẩm của dân và hạn hẹp phân phát lại cho dân, biến dân chúng thành giai cấp thấp kém, vô văn hóa chẳng khác gì con thú, tối ngày chỉ lo sao kiếm miếng ăn cho no bụng. Tất nhiên, quan niệm sống của con người nơi xã hội toàn trị chỉ là quyền và tiền, dần dần biến tâm trí con người trở thành vô cảm, chỉ biết đến mình, bất cứ sự việc, sự kiện gì chung quanh nếu không đem lại lợi lộc cho mình đều không thể đánh động chút nào đến tâm tư, tình cảm.
Bạn đã bao giờ nghe thấy lời diễn giải cách dùng người theo tiêu chí năm hệ; thứ nhất hậu duệ, thứ nhì quan hệ, thứ ba đồ đệ, thứ bốn tiền tệ, và thứ năm trí tuệ. Đồng thời, tiêu chí năm hệ này phát sinh năm chạy, chạy chức, chạy quyền, chạy danh, chạy lỗi, và chạy án.
Con người tuyệt đối trở thành ích kỷ, vô lương tâm, tham lam, giành giựt dù với chính những người thân trong gia đình như cha mẹ, vợ con, anh em. Thế nên, không lạ gì thái độ của những người dân sống dưới đế chế toàn trị biểu hiệu một cách vô văn hóa khiến người nhìn thấy cũng ngỡ ngàng tự hỏi sao tư cách, thái độ của đám người này tệ đến như thế, tệ hơn những con thú trong thời hạn hán từ nơi rừng rú nhào xuống thành phố kiếm mồi. Những con thú từ rừng rậm lỡ trông thấy người lo chạy trốn, ngoại trừ trường hợp "
Chó cùng cắn dậu." Đàng này, đám dân du lịch, ăn mặc sang trọng, tranh nhau, chen lấn, miệng la hét lên những lời tục tĩu, sát phạt khó nghe, tay cầm chiếc đĩa ăn to tổ bố vục xuống giỏ crawfish luộc chín lấy phần. Nơi tiệm ăn "All you can eat" đã xảy ra chuyện này, có kẻ trong chen lấn ngã lăn quay, ngược lại người ta, không bao giờ, từ thời cổ đại xa xưa tới nay, có thể thấy bất cứ đám thú nào giành nhau thực phẩm tàn bạo như thế, mà có chăng, may lắm mới chụp hình hoặc quay phim được cảnh đàn chó sói cùng nhau cắn xé, gặm nhấm con vật bị chúng giết chết chứ không chen lấn, giành giựt với nhau như con người.
Xã hội toàn trị biến con người thành tệ hơn con thú. Có lẽ, vì luôn bị sống trong đói khát, thèm thuồng, đồng thời luôn bị chèn ép nên gặp dịp tự do lấy thực phẩm, lại e không kịp lấy phần mình nên, theo thói quen chụp giựt nơi quê nhà; họ đã phô bày thái độ tự nhiên thiếu văn hóa do nền công dân giáo dục đã không bao giờ được đề cập tới chăng. Quả tội cho con người dẫu ngày nay đã là thế kỷ 21. Những ai đã không nghĩ hoạt cảnh này có thể xảy ra, mời dạo trên Youtube cho thấm thía nỗi đau thương của người với người trong lòng.
Xã hội tự do, dân chủ, đào tạo nên tầng lới dân chúng rất lịch thiệp và lễ độ. Nơi những cửa hàng buôn bán, dĩ nhiên, mua phải trả tiền, mà có khi xếp hàng đợi trả tiền đến nửa tiếng đồng hồ, dẫu trường hợp này xảy ra rất ít trong trường hợp đặc biệt nào đó. Sau cơn bão lụt tàn phá nhà cửa, điện, nước, có những người xếp hàng đổ xăng cả hai, ba tiếng, gần tới phiên mình thì tiệm hết xăng đành ra về không hề ca thán phương chi nơi những tiệm ăn. Thử vô Walmart, hay những cửa hàng lớn nào đó, khách mua sắm đông như kiến nhưng chỉ đôi khi gặp một vài người vì quá vội, nên đành lên tiếng xin khách hàng đang đứng chờ đến lượt trả tiền cho phép chen ngang nếu được sự đồng ý, nếu không được chấp thuận và vì thời gian cấp bách, đành bỏ lại hàng ra về. Lễ độ cuộc đời nơi xã hội tự do dân chủ luôn được nâng cao và coi trọng. Tiếng "Xin lỗi" luôn trên đầu môi chót lưỡi mọi người. Bạn đang đi trên phố nơi một con đường rộng thênh thang, vô tình ngược đường đi một ai đó, dẫu lỗi của bạn, và người ấy tránh ngang đồng thời nói lời xin lỗi. Đừng ngạc nhiên, mà hãy học tư thái lễ độ của họ. Trông họ ăn mặc rất thường nhưng coi chừng, họ đáng bậc thầy của mình hoặc mang chức vụ hô mây gọi gió nơi xã hội bạn đang sống trong thế giới tự do. Nói có sách, mách có chứng, mấy đứa con của bạn, bạn nuôi dưỡng chúng từ tấm bé, chúng coi bộ rất thường trong gia đình. Nhưng ra ngoài xã hội, coi chừng bạn không đáng học trò của chúng nơi lãnh vực nào đó. Tất nhiên, tre già măng mọc, và măng nào, bình thường thì cũng lớn hơn tre đã già.
Phản Ứng - Thái Độ Con người kiến tạo xã hội, cuộc đời, và cuộc đời, cuộc sống xã hội ảnh hưởng ngược lại, đào tạo tư cách, thái độ con người. Tuy nhiên dẫu xã hội, cuộc đời ảnh hưởng rất quan trọng nơi phản ứng, thái độ của con người, con người hơn dã thú, con vật, phần tâm linh, nhận thức, tạo nên tư cách, thái độ của một người bởi đó đã có những trường hợp, "
Cha mẹ cú đẻ con tiên; cha mẹ hiền sinh con thảo." Nhận xét kỹ hơn, một người, tâm thức, thái độ phần lớn bị ảnh hưởng, đào luyện bởi cuộc đời, xã hội, nhưng gốc gác tâm thức, đạo đức, lương tâm, tâm tình, lại được tạo căn bản từ gia đình, nơi con người được nuôi dưỡng từ tấm bé. Ai cũng kinh nghiệm, tâm hồn em bé chẳng khác gì một tờ giấy trắng, sẽ nói kiểu nói, ngôn từ hay kiểu cách của người mẹ, vị bảo mẫu, người chăm sóc em từng miếng ăn, chai sữa, hay bú mớm. Thêm vào đó, thái độ, tâm tình đối xử, chăm sóc em từ tấm bé in đậm nơi tâm trí tạo thành thái độ do cảm nhận, và trở nên tâm tình ảnh hưởng cả đời em trong cuộc sống. Chẳng lạ gì tiền nhân dân Việt có câu, "
Con nhà công, không giống lông cũng giống cánh." Như thế, tâm tình, lương tâm, đạo đức của một người phát triển tùy thuộc nặng nề từ gốc gác gia đình.
Đàng khác, giáo dục góp phần quan trọng không kém trong việc gây dựng tâm thái của một người dẫu môi trường sống sau này ảnh hưởng nặng nề tùy thuộc tham vọng, ý chí, và đặc biệt nhận thức cá nhân. Ít nhất, giáo dục trẻ em tuổi học sinh, tâm hồn còn trong trắng, chưa phải đối diện với những mưu ma, chước quỷ, của cuộc đời, nền giáo dục đào nặn, huấn luyện con em trong nền luân lý phù hợp thực tại cuộc sống, gìn giữ văn hóa truyền thống hầu các em có viễn quan rộng rãi hơn trong liên hệ xã hội thay vì phong thái hạn hẹp cá nhân; đồng thời giúp các em phát triển về học vấn và nhờ nhận biết những sự đa dạng của các môn học, các em có được căn bản mở rộng nhận thức sau này.
Dĩ nhiên, cuộc sống nếu không có bão táp phong ba, con người không trưởng thành được; thế nên, nếu không được chuẩn bị, con người khi đối diện cuộc đời muôn mặt, một người sẽ luôn gặp phải những sai lầm ảnh hưởng đến cả cuộc đời sau này. Dẫu biết rằng, không nên quay đầu nhìn lại quá khứ thất bại mà hãy hướng về tương lai, nhưng khi mới chập chững bước chân vào đời, vốn liếng không có, kiến thức cũng không thì bao giờ mới có thể vươn lên; ấy là nơi trường hợp những người với ý chí phấn đấu cao và may mắn có được bộ óc thông minh, lắm sáng kiến. Thực ra, đối với những người bị sinh vào trường hợp kém may mắn nơi xã hội rộng mở, nếu người ấy bền chí, cố gắng kiên nhẫn làm ăn sẽ đạt đến thành công ngoài ước vọng. Nhưng cho dù một người thông minh, linh hoạt đến đâu thì nơi xã hội khép kín, giá trị cuộc đời được đặt trên ham hố quyền lực và tình yêu tiền bạc thì cũng vô phương thăng tiến; ngoại trừ vứt bỏ lương tâm bình thường căn bản con người để cúi đầu làm nô lệ, tay sai cho tổ chức toàn trị, chấp nhận trở nên đốn mạt với chính lương tâm mình hầu có được miếng cơm manh áo tối thiểu.
Lẽ đương nhiên, dẫu sống trong xã hội nào, dẫu đối diện với cuộc đời ra sao, phản ứng hay thái độ của một người đều lệ thuộc tâm thức, nhận thức, cũng như cá tính của người ấy. Đâu thiếu gì những kẻ đốn mạt nơi xã hội cộng hòa dân chủ, giữa biết bao người được ăn học, giáo dục đầy đủ. Cũng không ít người tốt lành nơi những xã hội toàn trị khiến dân chúng khốn khổ. thế nên, cuộc đời một người ra sao đều tùy thuộc lương tâm, nhận thức của người đó. Dĩ nhiên, còn nhiều nguyên nhân, yếu tố, ảnh hưởng tạo nên tâm trí, tính cách của một người và do đó không thể có được bất cứ nhận định tạm gọi là tổng quát về thái độ, phản ứng của một người đối với cuộc đời, xã hội. Đâu phải phi lý để tốn tiền chi dụng kiến tạo nên những phân bộ giáo dục. Sao có thể nói đến văn hóa nơi những xã hội toàn trị. Xã hội được kiến tạo do con người, và con người đối diện với cuộc sống tạo dựng xã hội. Thế nên, chỉ có thể nói, con người chỉ có thể thăng tiến vô giới hạn nơi xã hội cộng hòa dân chủ. Muốn biết con người tiền sử sinh sống thế nào, thì cứ bước vào xã hội toàn trị.
MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI Lên Chat gpt, tôi gõ câu hỏi, “Một cộng một bằng mấy?” Chat gpt trả lời, “1+1=2.” Tôi gõ tiếp, “Hành trình tâm linh là gì?” Chat gpt trả lời, "
Hành trình tâm linh" có thể được hiểu là một cuộc sự tìm kiếm cá nhân của một người để tìm kiếm sự hiểu.” (Tôi copy câu trả lời trên Chat gpt). Đoạn tôi gõ tiếp, “Một cái xác cộng với một linh hồn bằng mấy?” Màn ảnh nơi Chat gpt nổi lên,
“An error occurred. Either the engine you requested does not exist or there was another issue processing your request. If this issue persists please contact us through our help center at help.openai.com.” Tôi định gõ tiếp nhưng màn ảnh Chat gpt đã không thể dùng được nữa.
Dĩ nhiên, nếu được gõ tiếp để hỏi, tôi sẽ gõ thêm, “
Nếu chỉ là linh hồn, không ai biết; nếu chỉ là thân xác, kết quả sẽ được đem ra nghĩa trang chôn. Nhưng khi linh hồn hòa nhập với thân xác, một người sẽ có ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, tham vọng, yêu thương, giận ghét, thù hận; nói chung là tâm trí. Vậy một thân xác cộng với một linh hồn thì là mấy?” Chắc chắn Chat gpt sẽ không trả lời được, nhưng bất cứ ai, ngoại trừ mấy em bé còn quá nhỏ, ai cũng biết một xác cộng một hồn ít nhất bằng ba, thân xác, linh hồn, và tâm trí; ba là một và một là ba. Đó là thực thể một người.
Tự hỏi, vậy tại sao tôi được sinh ra? Có cuộc đời để làm gì? Nói cách khác, mục đích cuộc đời của tôi là gì? Chẳng lẽ được sinh ra, có cuộc đời và chết để rồi như đã chưa bao giờ hiện diện trên mặt đất này? Câu hỏi “Mục đích cuộc đời của một người là gì?” đã khiến tôi thao thức không biết bao nhiêu năm. Đã có lần vì ray rứt với câu hỏi này, tôi thơ thẩn viết vài câu, “
Vào đời đơn độc, ra đi lạnh lùng; Cuộc sống rồi cũng như không; Mắt chẳng nhìn thấy, tai hòng gì nghe; Tạm mượn thân xác làm ghe; Qua bờ bên ấy và quên cõi trần.” Giọng điệu này giống mấy nhà khoa học và những người “Vô thần,” tôi cảm thấy thế. Nhưng tôi lại cảm thấy, không ai có thể là vô thần vì ai cũng có linh hồn. Vấn đề chỉ là họ chưa nhận biết linh hồn nơi họ, hay ít nhất, mục đích mà họ đang theo đuổi, kiếm tìm, đang cố gắng đạt tới.
Thế mục đích cuộc đời của tôi là gì? Chẳng lẽ tôi được sinh ra, có cuộc đời, suốt thời gian hiện hữu nơi trái đất, đối diện muôn phiền hà với nỗi băn khoăn, lo lắng cho cơm, áo, gạo, tiền, rồi qua đi chẳng khác gì những con vật? Nỗi thao thức, khát khao nhận biết mình là ai, linh hồn mình là gì, liên hệ với thân xác, cuộc đời của mình thế nào khiến tôi suy nghĩ, tìm kiếm nơi sách vở, đặc biệt các sách viết về đạo học, tâm linh. Rõ ràng, không sách vở, lý thuyết, triết thuyết, quan niệm, quan điểm nào, có câu trả lời khiến tâm trí tôi an bình chấp nhận; nói cho đúng, không gì có thể giúp tôi nhận ra thực thể chính mình. Chỉ còn một nước, tôi thầm nghĩ, tự suy tư, suy nghĩ, nói theo thánh Phaolô đó là “
Nghiệm xét mọi sự” (1Thes. 5:21).
Kinh Thánh có câu trả lời, “
Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (KN. 1:27). Ai không biết thế vì được dạy, đọc như thế, nhưng nghe, đọc, được dạy như thế cũng vô bổ, chẳng giúp ích gì cho nỗi thao thức kiếm tìm mục đích cuộc đời của tôi. Đến khi đọc nơi phúc âm Matthêu, “
Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33), tôi mới giật mình; Kinh Thánh được viết để khuyến khích, thách đố tôi suy nghĩ hầu tự nhận biết, nhận thức, và nếu không suy nghĩ, suy tư, hay nghiệm xét tất nhiên suốt đời ngu muội, hèn chi được gọi là tội phạm đến Thánh Thần, tội khinh chê hồng ân suy tư, suy nghĩ (Mt. 12:32).
Kinh Thánh, đặc biệt Phúc Âm, từng câu, từng dụ ngôn được viết để thách đố, khuyến khích tôi suy nghĩ, suy tư, hầu nhận ra mục đích cuộc đời của mình, để đạt tới nhận thức thực thể của mình, mong thỏa mãn thao thức, khao khát thực sự nhận biết mình là ai, linh hồn mình là gì, liên hệ với thân xác, cuộc đời, cũng như liên hệ với Thiên Chúa thế nào.
Thế nên, muốn biết Nước Thiên Chúa là gi, cần biết suy nghĩ để nhận ra Thiên Chúa là gì; muốn biết Thiên Chúa là gì lại cần biết linh hồn là gì. Nhắm mắt, bịt tai lặp lại, “
Thưa linh hồn là tính thiêng liêng, chẳng hề chết được” như trong bổn dạy; cái phạm trù này vô bổ, chẳng đem lại ích lợi gì cho sự hiểu biết, nhận thức. Nhưng thử đặt vấn đề, các nhà khoa học cũng như chúng ta đang thực chứng; mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Tuy nhiên, khi linh hồn ra khỏi xác thì ngũ quan thế nào? Sự thể này chứng tỏ ngũ quan, thân xác, và cả cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động; vì khi linh hồn ra khỏi xác, mọi sự, mọi hoạt động đều ngưng đọng.
Nhận thức được thực thể một người như thế, mới thấy ước muốn, ước mơ, tham vọng, yêu thương, giận ghét, nói chung, tâm trí phát xuất từ linh hồn. Bộ óc, ngũ quan, cả thân xác, và cuộc đời chỉ là công cụ cho linh hồn thực hiện ước muốn, tham vọng. Xét thế, mục đích cuộc đời của một người chính là nhận ra, nhận thức được thực thể của mình, linh hồn mình là gì, liên hệ với thân xác và Thiên Chúa thế nào.
Như vậy, câu, “
Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (KN 1:27) cần được hiểu là “Con người là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh.” Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Thiên Chúa là sự sống nơi mỗi người, là sự hiện hữu của con người. Ngoài Thiên Chúa, không gì hiện hữu.
THÂN PHẬN CON NGƯỜI 1/ Thân Phận Quá nhỏ bé nơi giòng sinh hóa vũ trụ, nhưng mỗi người đều nhận ra mình là một cá thể dẫu không thể tách khỏi cuộc đời cũng như những mối dây liên đới nơi kiếp sống với thiên nhiên hay xã hội. Con người là một thực thể bao hàm những hiện trạng tương phản mà lại là chốn hòa hợp một cách toàn hảo tạo thành sự nối kết chặt chẽ của tất cả những chiều hướng đối nghịch về mọi phương diện tâm sinh lý. Ai cũng cảm thấy và được công nhận mình có tự do; tuy nhiên, phỏng khi trái tim ngừng đập, ai có thể nhân danh điều được gọi là tự do khiến nó đập thêm vài nhịp nữa không? Và như vậy, bất cứ ai suy tư về thân phận con người đều mang khuynh hướng vượt khỏi số phận, đồng thời có ước muốn chống đối lại số phận của mình, hoặc tìm cách giải thoát hay chạy trốn bằng quên lãng. Ai đã dành thời giờ suy nghĩ về thân phận làm người đều nghiệm chứng được kiếp sống gắn chặt vào giòng sinh hóa tự nhiên không sao có thể tách rời vì trước khi suy nghĩ đến sự sống, thân phận, hay kiếp sống, thì con người đã và đang sống. Lòng khát khao tìm hiểu phận số dẫn con người đến nẻo đường độc nhất là trực diện giòng đời bằng cách nhận thức chính mình để tìm phương pháp giải quyết. Tất nhiên, nhận thức chính mình là bắt đầu quay về nội tâm để nhận ra thực thể nơi mình. Tôi là ai? Tôi có phải chỉ là xác thân này? Tôi có tự do không? Tại sao con tim có thể đập và trí óc có thể suy nghĩ, suy nghĩ ngay cả đến những điều chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao giờ nghe, hoặc nghiệm chứng về tâm cảm yêu thương, v.v...
Bản chất con người không phải hoàn toàn là một cơ cấu sinh lý đã trở nên biết suy tư bởi được thấm nhập, học hỏi, do sự liên hệ với xã hội, nhưng đồng thời cũng không phải hoàn toàn là một thứ tâm linh siêu việt vượt ra ngoài thể xác, mà là cả hai, đồng thời tuy hai mà một. Bình tâm nhận xét, những ý niệm hướng thượng, thiện, ác, trách nhiệm, chân lý, đạo lý, nơi con người đều tượng trưng cho nguyện vọng muốn vượt ra ngoài vũ trụ cảm quan và thể chất để đạt tới những trạng thái hoặc cảnh giới vĩnh cửu, thường hằng. Những ý niệm này dẫu ảnh hưởng từ cuộc sống, nhưng không phải bởi ngoại cảnh mà bắt nguồn tự chính con người. Nhận biết như thế, nơi con người còn có những sự kiện sinh hoạt nội tâm độc lập với cuộc sống, không từ vũ trụ ngoại giới hoặc lệ thuộc thể xác. Sinh hoạt nội tâm này chính là những suy tư, ý thức muốn chống nghịch lại thân phận kiếp người giới hạn đã tạo nên đau khổ và sợ hãi. Từ sự chối bỏ của con người không muốn chấp nhận hoàn toàn thân phận của mình một cách mù quáng, suy tư đạo học tất nhiên được phát sinh.
Dẫu không được sinh ra để chịu dằn vặt khổ ải thì cũng chẳng mấy ai cảm thấy hài hòa với kiếp sống nhân sinh. Đại đa số nhân loại đã và đang qua đi theo giòng thời gian, dù chấp nhận phận số hay không, đều bị giới hạn trong thực tại "
Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn," nên đành âm thầm dặn lòng với thực tại, "
Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu" (Lão); do đó chẳng lạ gì, đã có những kẻ mường tưởng trong tâm trí hình ảnh một Thượng Đế bất công nếu không muốn nói là độc ác, bắt con người trầm luân nơi những gì chẳng bao giờ mơ ước hầu có chốn đổ lỗi mong tạo nỗi an bình vọng tưởng. Thế là những chủ thuyết Chúa cứu, Phật phù, đấng này, đấng kia hỗ trợ nhan nhản được sinh ra tạo nên lắm luật buộc, lệ giữ, những gông cùm tâm tưởng đè nặng trên đầu trên cổ loài động vật biết suy tư, được sinh ra ngoài ý muốn nhưng phải đối diện bị đày ải. Phỏng tội lỗi lớn lao nhất của con người là đã không dám suy tư hay vì thiếu hiểu biết?
Tuy nhiên, có câu nói, "
Khi những con vật ăn no, chúng ngủ; nhưng khi con người không phải lo lắng về miếng cơm manh áo, họ suy nghĩ." Bởi vậy, trái ngược với cá tính thụ động, cho rằng có một Thượng Đế hoàn toàn định đoạt thân phận đã được sinh ra ngoài ý muốn; tự thâm tâm chúng ta đều có khát vọng vứt bỏ thân phận nô lệ, cảm nghĩ sợ sệt, yếu đuối nơi mình đối với giòng đời, nên đã bao lần muốn vùng lên, tự mình quyết định và nắm giữ lấy vận mệnh đời mình. Bởi chấp nhận ách thống trị của những lý thuyết nô lệ quyền lực vô hình ngự trị một cách tuyệt đối trên ý chí, vận mạng con người là một sự hèn nhát, ỷ lại, và lười biếng, tự làm mất nhân phẩm, chúng ta cần phải vùng dậy để ý thức lấy vị trí và thảm kịch trong thân phận của mình.
Dĩ nhiên, điều ai cũng có thể cảm nhận được đó là ý thức con người là một khuynh hướng thường hằng nhưng cũng là một thất bại miên tục nơi hành trình tiến tới khát vọng giải thoát thân phận kiếp người, một hành trình rõ rệt nơi ý chí mà lại khó tìm phương tiện nắm bắt. Kinh nghiệm sống minh chứng, con người không khác gì một giọt nước trên giòng sông sinh hóa; nó có quyền tự do trôi dọc, trôi ngang nhưng không có tự do từ chối không hiện diện ở trong giòng sinh hóa đó. Tâm thức chẳng khác gì người chèo con đò thân xác; thế nên, muốn ra khỏi giòng sông, người lái đò phải chèo chống chứ không thể bỏ con đò của mình khi chưa tới bờ. Đàng khác, cá tính được tạo thành do sự hỗn hợp những suy tư, tình tự, cảm giác, dục vọng, chính là mối giây kết hợp bất khả phân ly của hai thực thể đối nghịch, một tâm thức cao vời với một thân xác yếu đuối, ô trọc. Lòng khát khao nhận biết chính mình được thúc đẩy, phát triển hay chìm ngập nơi mặc cảm tự ty nô lệ bắt nguồn từ cuộc chiến nội tại quá ư rắc rối và huyền nhiệm này.
Các đạo học đều trình bày hành trình nghiệm chứng nội tại về thực thể con người dẫu những đường hướng phát biểu hay ý niệm được diễn tả mang nhiều tính cách khác biệt; tương tự bao cánh hoa trong khu vườn, phô trương cùng một quyền lực hiện hữu ẩn tàng nơi muôn ngàn màu sắc và hình thái. Nhà Phật cho rằng tâm thức con người là thành phần tâm linh huyền diệu, thường tịch và thuần nhất, bắt nguồn thẳng nơi thực thể tuyệt đối được gọi là Phật Tính. Ấn học lại gọi Tiểu Ngã, thành phần của Đại Thể tối thượng, Đại Ngã. Lão học mệnh danh nguồn lực này là Tào, hiển hiện nơi mọi tạo vật giống như nước, căn bản cho mọi sự sống. Kinh Thánh đưa lên danh hiệu linh hồn, Thiên Chúa nội tại, và tuyên xưng, "
Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt. 1:23). Bởi vậy chẳng lạ gì, muốn biết con người thực sự là gì, chính mình phải là điểm tới, và đồng thời muốn biết vũ trụ lại cũng nơi con người mới thực sự là chốn suy tư, tìm hiểu.
Xét như thế, con người được sinh ra để sống thì cứ sống chứ không cần phải trở nên bất cứ gì. Tuy nhiên, chẳng lẽ mục đích cuộc sống lại chỉ là cái chết đe dọa từng giây từng phút, đang thu ngắn kiếp người kể từ ngày mới sinh? Lồng vào khoảng thời gian hiện hữu, những nỗi kinh sợ bệnh tật, già lão, rủi ro, những nguy cơ, và những đòi hỏi cuộc sống dồn đổ tràn ngập tâm trí khiến con người mang cảm nghĩ luôn luôn bồng bềnh vô định giữa muôn ngàn áp lực ngoài tầm tay với. Đâu là động lực thiết thực thúc đẩy con người phải hành động, hoặc để trở nên thiện toàn, thánh thiện? Không cần thiết phải tìm kiếm động lực ngoại vi, vì con người là sản phẩm của sự thiện toàn và thánh thiện; cội nguồn của y không bất toàn. Con người chỉ cần được giải thoát khỏi sự vô minh đang che lấp tự thể thánh thiện mà thôi.
Đã bao ngàn năm, phương pháp tự nhận biết được đề nghị: "
Không làm gì là làm tất cả" (Lão); do đó chỉ cần "
Bớt, càng ngày càng bớt" cho tới khi không còn gì để bớt. "
Kiến tính thành Phật" (Phật), "
Xả kỷ" (Ấn), "
Tỉnh thức" (Kinh Thánh), mà tâm thức nội tại vẫn cứ như vạn dặm xa vời đối với con người. Có thể vì chưa tới thời điểm thức ngộ hoặc không được sinh ra để thức ngộ, thì con người cũng quật cường không kém, suy luận đủ cách, kiếm tìm nhiều phương pháp hầu thăng tiến mong phần nào thỏa mãn khát vọng bẩm sinh, nỗi thao thức muốn nhận biết mình thực sự là gì. Điều hiển nhiên, con người đã không được sinh ra với những thân phận giống nhau, minh chứng có những nguyên lý ảnh hưởng tạo thành những cuộc đời khác nhau. Nguyên lý tiềm ẩn chi phối từng cá nhân bao gồm những điều kiện hoặc ảnh hưởng nào, cần được giải quyết ra sao, đồng thời bằng cách nào đạt được ước vọng mơ tưởng, điều kiện ắt có và đủ cá nhân phải chấp nhận những gì; các đạo học không thể nói đến, có chăng chỉ cố dẫn dắt con người vượt qua bằng cách tự nghiệm chứng, tất cả những ngăn chặn, phủ lấp, hầu tiến tới mục đích tối hậu nhận biết chính mình. Những người thực hiện các phương tiện huyền môn hay pháp thuật cũng không thể giải thích cho thân chủ mặt trái của ước muốn, nói cách khác, hậu quả phải tới nếu đạt điều ước mơ. Khoa học nào có thể phô bày phần nhỏ nơi địa hạt này.
2/ Phương Pháp Nhận Thức, Suy Tư Cho dù những tông phái đạo học nêu lên, thực hành, những pháp này, phép kia, hoặc thiền, quán tưởng, quán chiếu, Yoga, với muôn ngàn cấp bậc được truy tụng dưới nhiều danh hiệu theo từng mức độ khác nhau, chung quy cũng chỉ là cách thức điều hành diễn trình suy tưởng nơi tâm trí con người. Thế ngồi liên hoa hay Hatha Yoga đều cũng với mục đích giúp định tâm, sao cho con ngựa chứng tâm trí không lang bạt muôn phương theo đuổi mộng tưởng, vọng tưởng mà nhà Phật đề danh chung là dục vọng. Ai không biết định tâm là dồn tâm trí suy tư về một vấn đề, một điểm nào đó, nhưng con ngựa chứng tâm trí luôn luôn động, thành ra các pháp, phép phát sinh. Cho tới thời điểm này, năm 2024, vẫn không có thuốc chữa hối hận, và khoa học cũng vẫn chưa vượt khỏi quan niệm, kinh nghiệm, hoặc chứng nghiệm, sai lầm, giống như mọi người, đã từ ngàn xưa, và vẫn tiếp tục mù mờ, hô lên con mắt nhìn, bộ óc suy nghĩ, suy tư. Thử hỏi, cái tai tự nó có nghe được không, hoặc bộ óc tự nó có suy nghĩ được chăng; khi cái gì đó nơi một người, được gọi là Linh Hồn, Tính, Bản Lai Diện Mục, thoát khỏi xác thân, tạm gọi là chết? Niềm hối hận, sự suy tư, suy tưởng không thể được phát xuất từ bộ óc thuộc vật chất mà chúng, suy tư, suy tưởng, vô hình, thuộc thành phần tâm linh. Có lẽ từ nhận thức sự thể này, lục tổ Huệ Năng của nhà Phật sáng tạo thực nghiệm "
Hành Thiền;" làm gì thì làm nhưng tâm trí luôn luôn để ý, suy tư, suy nghiệm về một vấn đề, một điểm nào đó. Nơi địa hạt này, những ngôn từ nghiệm chứng, nghiệm xét cũng đều thuộc về suy tư, hoạt động của tâm trí.
3/ Cái Gì Suy Tư, Suy Nghiệm? Những danh hiệu "
Linh Hồn, Tính hay Tánh, Bản Lai Diện Mục, Tâm Bất Sinh, Tâm Phật, Atman," cũng chỉ về cái gì đó, nơi một người, dùng tai để nghe, miệng để nói, mắt để nhìn, và óc để suy nghĩ; vì khi nó thoát ra khỏi thân xác, tất nhiên mắt hết nhìn, tai hết nghe, miệng hết nói, và bộ óc ngưng làm việc. Những ai còn cố chấp vớt vát nhân danh khoa học cho rằng bộ óc suy nghĩ, thì cứ đợi đến lúc linh hồn ra khỏi xác xem óc họ còn có thể suy nghĩ hoặc phát minh được điều gì sau khi chết chăng! Có điều, còn mù mờ nhân danh khoa học, còn chấp nhận biến mình thành thùng rác lệ thuộc những lý thuyết, quan điểm ngoại vi thiếu tự nghiệm chứng, như bao thế hệ nhân sinh đã qua, con người vẫn ngụp lặn trong lo âu, sợ hãi và cố tình chạy trốn dẫu vô phương tránh thoát những thực tại chuyển biến phải và nên được xảy đến nơi cuộc đời.
Sao có thể minh chứng "Linh Hồn, Tính, Atman?" Thử nghiệm lại chính nơi bản thân, khi ngủ có những giấc mơ, lúc mà cặp mắt thịt đóng lại, tai không nghe dẫu chính mình ngáy như sấm khiến sập nhà sập cửa; vậy con mắt nào nơi mình có thể nhìn trong giấc mơ? Nơi lãnh vực này khoa học chỉ mới chạm tới hiện trạng ngoại vi, vì con mắt nhìn trong giấc mơ có thể nhìn thấy những chuyện trong quá khứ, đồng thời cũng có thể nhìn thấy chuyện nơi tương lai. Đa số, ít người được gặp hay đối diện với sự vật hay sự việc đã xảy đến trong một giấc mơ nào đó. Những ai may mắn đã có cơ hội gặp lại sự vật hay sự việc đã thấy trong giấc mơ, làm ơn suy nghĩ, đặt vấn đề cái gì nơi mình có con mắt nhìn trong giấc mơ, chắc chắn sẽ nhận ra được thực thể linh hồn, thực thể sự sống nơi mình. Nơi trường hợp này, nên áp dụng hành thiền để tìm hiểu, suy tư hầu có nhận thức chính xác. Dẫu hành thiền, danh hiệu thoạt nghe tưởng cao siêu lắm, nhưng cũng chỉ là suy tư, nhận định nơi tâm trí mà thôi.
4/ Sự Liên Hệ, Hòa Hợp Xác Hồn Khi đã nhận thức được thực thể nào đó nơi mình có con mắt nhìn trong giấc mơ, dùng tai để nghe, mắt để nhìn, miệng để nói, và dùng bộ óc để diễn đạt suy tư, nhận thức, tất nhiên một người cũng sẽ nhận ra những chi thể, toàn thân, và cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho cái gì đó nơi mình, tạm gọi là linh hồn, tính, hay bản lai diện mục, hoặc atman hoạt động, sinh hoạt. Như vậy, thực thể cuộc sống một người bao gồm hai thành phần đối nghịch nhưng hòa hợp bất khả phân ly của hồn và xác. Thân xác chẳng khác gì chiếc xe và hồn tương tự người lái; xe đi tới đâu, dừng lại hoặc diễn tiến thế nào nơi hành trình sinh hoạt biến chuyển của cuộc đời tùy thuộc người lái tạm gọi tâm thức bao gồm ước muốn, nhận thức, suy tư, tham vọng, ước mơ cộng hưởng với những hiện trạng biến chuyển ngoại vi nơi cuộc đời. Khoa học đang dần tiến tới sự minh chứng hiện trạng thực thể hợp nhất của hai thực thể đối nghịch bất khả phân ly này. Nói cách khác, hiện trạng 1+1=1 mà nơi Dịch và Lão học được biểu hiện bằng hiện trạng nhất nguyên của sự hòa hợp âm dương mà đôi khi dịch giả dùng ngôn từ "Sinh" diễn giải, cái một sinh cái hai, cái hai sinh cái ba, và cái ba tạo thành vạn vật. Điều này chứng tỏ ngôn từ "Sinh" đã bị hiểu lầm; thiển nghĩ, qua nhận thức liên hợp, kết hợp của xác và hồn, hiện trạng nhất nguyên nên được giải thích thành, cái một bao gồm cái hai, cái hai đối diện cái ba tạo thành vạn vật. Hồn kết hợp với xác là một thực thể con người, đối diện với cuộc đời đầy biến chuyển kiến tạo cuộc đời. Nếu nhận định sự kết hợp giữa hồn và xác theo hiện trạng thực thể, một người sẽ đạt được hiện trạng 1+1=3, hồn, xác, và tâm thức hay tâm trí. Như vậy, thực thể liên hệ hiện trạng kết hợp hồn và xác bằng hay phát sinh muôn ngàn biến chuyển vô phương san định.
5/ Phận Số Nhân gian có câu, "
Làm giầu có số, ăn cỗ có phần." Ai cũng cần phương tiện để sống; dĩ nhiên, tiện lợi và hữu dụng nhất là tiền bạc vì tiền là phương tiện trao đổi hiện hành. Tất nhiên, muốn có tiền để phụ dưỡng cuộc sống, một người phải làm việc, đổ công sức mình bằng cách này hay cách khác kiếm tiền. Như vậy, cuộc đời một người nơi hiện trạng sống có thể nói là những chuỗi ngày mưu sinh. Điều hiển nhiên, trong cuộc mưu sinh, mỗi người có cuộc sống khác với những người chung quanh và sự khác biệt này thường được gọi là phận số. Có những người được coi là may mắn, có công việc nhàn hạ lại kiếm được nhiều tiền bạc hơn một số người khác phải làm những công việc chân tay vất vả, hoặc dầm sương, dãi nắng. Ai không hiểu, mục đích của sự làm việc là kiếm tiền, nhưng thường thì ước mơ, tham vọng ảnh hưởng nặng nề đến thái độ, tâm tư của người thực hiện công việc. Chân thành nhận định, dẫu được gọi là làm công, làm thuê, nhưng thực chất lại là làm thuê cho chính mình; bởi mình có làm không công cho ai đâu, ngoại trừ trường hợp giúp. Có nhận định nào đó, “
Bất cứ ai nghĩ hay cho rằng họ đang thực hiện những công việc cho và vì người khác đều là kẻ đáng thương hại vì họ đang tự lừa dối.” Cho dù ai đó làm bất cứ điều gì với chủ đích nào đó thì cũng đang thực hiện công việc theo ước muốn của mình dẫu với chủ đích do mình đặt ra.
Thành quả, cơ may hay thời vận hợp cùng diễn biến cuộc đời kiến tạo cuộc sống một người quả thật rắc rối không khoa học nào có thể phân tích để rồi đưa ra bất cứ phương án cho bất cứ ai theo đuổi và thực hiện để có thể đạt được những mộng ước một người cố tâm theo đuổi. Hơn nữa, mộng ước của một người lại luôn thay đổi tùy theo diễn biến cuộc đời. Và bởi vì "
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí," dù muốn hay không, con người, sau những năm tháng trãi nghiệm cuộc sống, cuối cùng cũng đành phải chấp nhận những thăng trầm nơi cuộc đời hữu vi hoặc biến đổi, biến chuyển tâm tư tạm gọi phận số. Tất nhiên, ai cũng muốn biết phận số mình sẽ ra sao nơi tương lai gần hoặc xa; một số người được sinh ra với khả năng đặc biệt để tâm nghiên cứu lâu ngày, chầy tháng qua sách vở, kinh nghiệm của những người đi trước, và ngộ, đã kiến tạo khoa tử vi, lý số.
6/ Vọng Tưởng, Ước Mơ, Chủ Đích Câu hỏi, mục đích cuộc đời một người là gì, sẽ không bao giờ có câu trả lời nếu người đó chưa thực sự giải quyết được câu hỏi "
Tôi là ai." Nhà Phật nêu lên "
Diệt dục," diệt vọng tưởng, thì vẫn còn là vọng tưởng. Nhà Lão trình bày chỉ một chữ "
Bớt," nhưng bớt làm sao khi những nhu cầu thiết yếu biến chuyển của cuộc sống hữu vi, quấn quyện làm một với ước mơ cao vời thánh thiện tâm linh? Cho dù nhận biết, "
Vì mình có thân xác như mọi người nên sống như mọi người nhưng lòng mình khác hẳn" (Trang Tử), thì cái thân cũng không thể nào tách khỏi cái thần. Con người đâu phải chỉ thuộc về địa hạt tâm linh cao vời, thánh thiện, mà hòa hợp nên một, bất khả phân ly với thân xác hữu vi nơi những ngày tháng giới hạn dương thế đầy nhu cầu thiết yếu thế tục tạo nên muôn ngàn đòi hỏi ô trọc hoặc thánh thiện được mệnh danh vọng tưởng, thị dục. Con người là thế và nếu không thế, không phải là con người. Cho dù chí hướng một người có cao vời tới đâu thì chân vẫn từng bước dẵm trên mặt đất, đâu thể bay được như chim. Thế nên, diệt vọng tưởng chỉ là bớt vọng tưởng, đối diện với thực tại để nhận biết vọng tưởng hầu không theo đuổi chứ không chiến đấu. Blair Pascal thâm thúy để lại câu nói, "
Con người không phải là thánh, chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú;" yêu thương giúp đỡ mọi người đến quên cả chính mình, coi chừng lại là tàn độc với chính mình, biến sự thánh thiện ước mơ thành độc hại.
7/ Một Huyền Nhiệm Từ ngàn xưa dân Việt đã nhận ra "
Tâm tư con người trước lẽ sống là một sự mâu thuẫn kéo dài trong bất diệt" (
Thi Ca Bình Dân VN; N. T. Long, P. Canh biên soạn; Xuân Thu; CA; Tr. 481); dẫu, "
Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên," nhưng, "
Số khó làm chẳng nên giầu" (CD). Thế nên, cuộc sống luôn là chiến trường thách đố con người phấn đấu hầu thăng tiến về mọi phương diện chẳng những nơi cuộc sống nhân sinh mà còn về nhận thức. Có thể nói, nếu không có những phiền hà, trắc trở để một người tận dụng năng lực cá nhân vươn lên, vượt qua những khó khăn nơi cuộc đời, thường thì con người sẽ rơi vào trường hợp "
Nhàn cư vi bất thiện" (Ngũ Kinh), sẽ không có gì thăng tiến. Sự thể khó khăn, phiền hà, trắc trở nơi cuộc sống nếu được nhìn qua lăng kính nhận thức lại là cơ hội, hồng ân cho con người phát triển năng lực toàn diện của mình, nhận biết sự thể này hay không tùy thuộc nhận thức và ý chí của mỗi người.
Sự huyền nhiệm nơi cuộc sống bắt nguồn từ thực thể sự sống, sự hiện hữu của con người, của tạo vật nơi hành trình biến chuyển vô cùng của vạn vật. Dầu trãi qua bao bất thường, thiên tai, con người vẫn tiếp tục phát triển về nhân số cũng như khả năng, trí tuệ, và nhận thức; có thể nói, từng thế hệ tiếp nối luôn phát triển. Ngại hoặc lười đi bộ, đã có người phát minh ra chiếc xe có con vật kéo, nuôi con vật phiền hà, tốn kém; người ta nghĩ ra chiếc xe đạp dẫu quá trình kiến tạo xe đạp lệ thuộc sự phát triển của kim loại. Không biết bao lâu, sau khi kiếm ra được "Vàng đen," máy dầu, máy xăng được sử dụng thay thế máy hơi nước v.v... và xe máy mới được tiếp nối để rồi xe ba bánh, bốn bánh, rồi phi cơ, phi thuyền, vệ tinh, không biết chừng nào sẽ đạt tới phương tiện sử dụng năng lượng vũ trụ như UFO. Không có sự tiếp nối phát triển, nơi thế giới loài vật chứng mình rõ ràng sự huyền nhiệm nào đó nơi con người được mệnh danh trí khôn. Chẳng những thế, những bộ môn kỹ thuật, y khoa, triết lý, tâm lý, tôn giáo, đạo học, tất cả được phát xuất từ con người cho đến nay, dù bất cứ ai cũng không thể nào hiểu hết được chỉ một bộ môn đang hiện hành. Cho dù, "
Không gì mới cả ở dưới ánh dương" (Gv. 1:9; NTThuấn), nhưng cuộc sống đối với một người, dẫu họ thế nào, vẫn luôn là một huyền nhiệm.
8/ Thực Thể Con Người Nếu để tâm suy tưởng về thực trạng chính mình, một người sẽ nhận ra mình là một bí ẩn khó dò thấu. Thế nên, công án nhà Phật, "
Tôi là ai" luôn thách đố mọi người dẫu nhận biết hay không. Thử hồi tâm đặt vấn đề đã bao giờ mình nghĩ đến thực sự mình là ai, thế nào, qua mọi phương diện của những trạng thái tâm sinh lý bao giờ chưa, có lẽ câu trả lời là chưa cho đa số mọi người. Có chăng, chỉ nơi một phương diện nào đó rồi mường tưởng mình thế nọ, thế kia hoặc thường thì như con đà điểu chúi đầu vào bụi rậm để có cảm nghĩ chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống; dẫu sống bằng cách nào hay như thế nào dầu trong tâm tưởng không muốn hoặc luôn sợ chết dù biết chắc cuối cùng cũng phải chết như bao người đã qua đi. Có ai thực tâm dám đối diện chính mình hầu nhận biết mình thực sự như thế nào, mình là ai, thì đã trở nên không giống ai, hoặc âm thầm không phương cho bất cứ ai hiểu thấu, hoặc được kính ngưỡng, tôn vinh như được Ling Yu Tang đại khái phát biểu, "
Bên Tây phương không đủ nhà tù để nhốt kẻ điên; ngược lại bên Đông phương, có ai điên thì lại được người người kính trọng, chẳng hạn Thích Ca, Lão Tử, Jesus" (L.N. Đường).
Được người người kính trọng vì lẽ gì trong khi Lâm Ngữ Đường lại gọi là "
Điên"? Nói cho đúng, các đấng lâm phàm, các đại giáo chủ, nói cách khác, những siêu việt danh xưng, được tạm gọi tên như thế, chỉ đại diện cho sự nhận thức, khôn ngoan của con người dàn trãi qua bao thế hệ và được ghi chép lại thành văn bản, nhắc nhở con người nhận thức thực thể của mình, không hơn, không kém, cho dù qua những con mắt các nhà "Học giả" phân tích, phân cốc nhận định theo bất cứ khía cạnh nhân sinh nào, chẳng hạn, y khoa, kỹ thuật, tâm sinh lý. Những văn bản được ghi chép và san định được gọi "Đạo học," cốt yếu nói về hành trình, diễn trình nhận thức một người cần nhận biết và áp dụng để thực sự nhận ra thực thể con người của mình được gọi là ngộ hay thức ngộ. Thực sự nhận thức bản thể này được các vị chân nhân, thánh nhân giãi bày, chỉ có thể "Ngộ" chứ không thể cầu, tùy căn cơ, tùy tính chất một người được sinh ra.
"
Tôi là ai;" ai cũng nghĩ, cũng cho rằng mình biết chính mình hơn ai hết, nhưng nếu để tâm nhận biết mình thực sự là ai, như thế nào, lại là một thách đố, thao thức, một khát khao, thường thì đa số ai ai cũng chạy trốn đối diện! Tôi là ai, thế nào giữa cuộc sống luôn biến chuyển nơi mọi phương diện từ những sự việc nơi diễn tiến nhân sinh như cuộc sống gia đình, xã hội, tới sinh hoạt tâm thức, một sự thể huyền nhiệm nơi cuộc đời vẫn luôn là thách đố cho bất cứ ai dám đối diện chính mình, dám can đảm tìm hiểu nỗi thao thức khát vọng bẩm sinh mờ mờ ảo ảo, đôi khi hiện ra thôi thúc tâm tư, nhưng thường bị phủ lấp bởi ưu tư, phiền hà hữu vi; do đó được nhà Phật khuyến khích diệt dục, nhà Lão khuyên là bớt để rồi lắm chủ thuyết, nhiều nghiên cứu nhân sinh kiến tạo học giả, học thật, tiến sĩ, học sĩ, rối tung lên nơi từng phương diện mổ xẻ con người, trong khi dù cắt nát một thi thể đến độ bấy ra thì cũng chẳng thể nào tìm thấy phần nhỏ nào được gọi người ở đâu! Thế nên, nếu không suy tư nhận thức chính mình, thì một người sẽ ra đi với nỗi lòng tiếc nuối cuộc đời vô ích; vì đã không biết mình được sinh ra để làm gì, và sẽ mang theo mối ân hận bởi đã tiêu phí bao cơ hội thăng tiến. Dĩ nhiên, nỗi lòng tiếc nuối, mối ân hận phát xuất từ linh hồn, mà hậu quả đã được thông báo từ Phúc âm, "
Quả thật Ta bảo các ngươi; mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Tham vọng, ước muốn, phát xuất tự hồn thì khi xác thân qua đi, hồn một người vẫn theo đuổi tham vọng, ước muốn ấy. Cho đến khi nào thoát khỏi ham muốn thế tục để trở về nguyên bản, có lẽ nên hỏi nhà Ấn, nếu cho rằng luân hồi phù hợp với lẽ trời!
THAO THỨC Đã không biết bao lần những câu hỏi về chính mình quấy rộn tâm trí tôi; tôi là ai, thực sự tôi như thế nào, tại sao được sinh ra nơi thực thể con người; tôi được sinh ra để làm gì; mục đích cuộc đời của tôi là chi; con người của tôi bao gồm những gì, chết rồi sẽ đi về đâu; nơi thế giới bên kia, tôi sẽ ra sao; những ước mơ, ước vọng nơi tôi có còn được tiếp tục theo đuổi? Nhiều khi suy nghĩ về chỉ một vấn đề cũng đã khiến tâm trí tôi bế tắc không sao có thể kiếm ra ít nhất lời giải đáp hài hòa và có thể chấp nhận được; phương chi những câu hỏi này cứ liên miên ập đến, chẳng khác chi những đám mây vần vũ, dồn đọng khiến tôi cảm thấy quay cuồng với khát vọng nhận biết mình như thế nào. Để rồi, đã không biết bao lần tôi tự nhủ, được sinh ra, có cuộc đời thì phải sống, ít nhất phải đối diện những nhu cầu căn bản để tiếp tục cuộc sống, chẳng khác chi sự trốn chạy nhận biết chính mình cho tâm trí được thảnh thơi, an vui với ngày tháng nơi thân phận kiếp người.
Phải, tôi đã chạy trốn đối diện với chính mình, tự ngưng không dám suy nghĩ bằng cách chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống, bởi đã không thể trả lời một cách minh bạch hầu thỏa mãn nỗi thao thức, khát vọng nhận biết chính mình, nên thay vì thẳng thắng đối diện với thực thể hiện hữu của mình, đành chuyển sang suy tư đến phương cách giải quyết một vài vấn đề liên quan đến thực tại cuộc sống, và đó là những thực tại hữu vi, cơm áo gạo tiền, danh vọng, tiếng tăm tùy thuộc luân lý, đạo đức nhân sinh thuận chiều theo quan điểm đương thời.
Sống sao để được mọi người chấp nhận, nhưng thực tại cuộc sống đâu đóng khuôn bất biến; đồng thời tâm cảm, tham vọng, ước mơ nơi chính mình khi đối diện với cuộc đời hòa trộn lẫn lộn với thực tại đã kiến tạo nhiều bất thường, hoặc biến chuyển không thể nào vừa đẹp lòng người lại có thể thỏa mãn ước mơ, ý định nơi mình. Nói cho đúng, cuộc đời một người chẳng khác chi chiếc lưỡi giữa hai hàm răng; cho dù để tâm khi ăn uống cách mấy thì ít nhất nơi tiến trình nhai nuốt thực phẩm nơi cuộc sống, một người cũng vài lần răng cắn phải lưỡi dẫu không đến nỗi nào nhưng đau, nó vẫn đau.
Nơi thực tại cuộc sống, cho dù cố trốn chạy, lấp liếm, dùng lý nọ, lẽ kia bào chữa cách nào thì chính mình đã biết; chẳng khác chi khi răng cắn phải lưỡi dẫu không dám kêu ca thì sự kiện vẫn là sự kiện, mặc dầu không ai biết. Cái gì, thực thể nào nơi con người tôi được gọi là biết dưới danh hiệu lương tâm. Lương tâm ở đâu ra, hiện diện chốn nào nơi thân xác. Được gọi là lương tâm nơi tôi, nhưng nó có giống nơi mọi người? Hình như, thường thì nó thiên vị, sử dụng mọi điều kiện, lý lẽ, bênh vực, hầu tạo trạng thái “yên lòng” cho chính nó nơi tôi. Tất nhiên, nếu trung thực một cách khách quan nhận định, tôi không dám quyết đoán lương tâm mình thực sự thuộc trạng thái nào, bất thường, bệnh hoạn, thiên vị, hay bình thường. Dĩ nhiên, muốn nhận định trung thực, lại cần những điều kiện so sánh dưới biết bao điều kiện liên hệ nơi hệ thống luân lý, đạo đức nhân sinh lệ thuộc tùy thời, tùy nơi chốn, dẫu thành văn hay bất thành văn, thói quen, tập tục, nhận thức cá nhân, ước mơ, ý định, tham vọng nơi xã hội loài người.
Có điều, những hệ thống luân lý, đạo đức, pháp lý thành văn hay bất thành văn đều chẳng khác chi những vật phẩm cứng ngắc, đơn thuần, không rắc rối, liên hệ dây mơ rễ má như hiện tượng, trạng thái nơi tâm hồn, lương tâm. Tuy vậy, lương tâm, tâm hồn, thực sự lệ thuộc nhận thức và tâm cảm. Kết quả, nói cách khác, sản phẩm được gọi là sự kiện, sự việc xảy ra, hoặc phản ứng hay thái độ đối với thực tại của một người đều tùy thuộc nhận thức và tâm cảm của người đó khi đối diện sự việc xảy đến. Thế, lương tâm, tâm cảm của tôi phát xuất từ đâu và liên hệ với nhận thức thế nào? Phỏng nhận thức lệ thuộc thói quen, luân lý, văn hóa, điều kiện sống, giao tiếp, hoặc bất cứ gì như khát vọng, ước mơ, tham vọng như thế nào. Đặt vấn đề như vậy, câu hỏi khó lòng giải quyết, và đó là khát vọng, ước mơ, tham vọng xuất phát từ đâu? Từ nhu cầu cuộc sống hay tổng hợp những điều kiện nào đó chẳng hạn thể chất quấn quyện thực trạng cuộc sống kiến tạo nhu cầu tâm sinh lý phát sinh ước muốn, ước mơ tùy thuộc điều kiện vật chất hay lòng khát vọng bẩm sinh.
Nhắc đến lòng khát vọng bẩm sinh hoặc nỗi thao thức nơi một người, phỏng chúng có liên hệ chi tới lương tâm, tâm cảm, ý thích, ý định, ước muốn, ước mơ, tham vọng, hoặc những phương diện nào đó nơi nhận thức? Lẽ đương nhiên, cũng một sự kiện, sự việc xảy đến, chín người mười ý tùy thuộc nhận thức cũng như ham muốn, ý định của mỗi người; điều này chứng tỏ không ai giống ai dẫu thân xác mang nhiều nét tương đồng. Xét như vậy, lấy chi làm mẫu mực như một tiêu chuẩn để so sánh hầu nhận biết thực trạng lương tâm, nhận thức, tâm cảm của một người. Làm sao tôi có thể nhận biết chính tôi; bởi nơi hệ thống luân lý, đạo đức thành văn hay bất thành văn thay đổi tùy thời, tùy nơi chẳng khác gì thời tiết, sáng nắng, chiều mưa, trưa râm mát hoặc gay gắt nóng.
Không nói đến tôi từ đâu tới; tôi là gì; tại sao tôi được sinh ra; mục đích cuộc đời của tôi là chi, v. v…, mà chỉ mới đụng chạm đến nhận thức, tâm cảm, lương tâm, cũng như những điều kiện cuộc sống, thói quen ảnh hường, tôi đã cảm thấy chẳng khác chi rợ vào rừng. Có lẽ tôi hơi đa sự; thiên hạ đầy đầy chan chan, đâu thấy ai nói lên hay bị phiền hà vì nhứng câu hỏi đơn thuần về chính họ như thế này. Đôi khi gặp gỡ những người quen biết, nói chuyện mưa nắng, thăm hỏi, tôi cảm thấy mình thật lạc lõng, hoặc coi tin tức trên truyền thông, tôi lại càng cảm thấy bơ vơ, khó chịu hơn; đúng là tin tức, càng coi chỉ cảng thêm phiền hà tâm tưởng. Những điều không muốn biết thì đầy rẫy chan hòa trước mặt; những sự căn bản nơi chính mình, ngược lại, càng cố nhận biết, chỉ càng cảm thấy mông lung, mù mịt. Hành trình tâm tưởng này sao lắm rắc rối, coi bộ đơn sơ, ngay nơi chính mình mà càng đặt vấn đề tìm hiểu, càng cảm thấy xa diệu vợi.
Có câu nói nào đó, “
Biết người là thông mình, biết mình là thức ngộ;” làm sao tôi có thể biết chính tôi, biết thực sự tôi thế nào, lấy gì làm căn bản, mẫu mực để so sánh, nhận định, đánh giá chính mình hầu biết mình thực sự thế nào. Thực thể tôi là gì, nhận thức, lương tâm của tôi hiện diện nơi đâu trong thân xác này. Chúng ta đang thực nghiệm, sử dụng những sự thể, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Các nhà khoa học cũng cho rằng, sự chuyển vận của máu chuyền lên óc gặp chấn động hay diễn tiến nào đó phát sinh tư tưởng, hoặc được gọi là phát minh mới. Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề mắt có thể tự nó nhìn được không, hay tai có thể nghe tự nó, hoặc miệng có thể tự phát biểu được không; thì câu trả lời lại đối diện với sự bế tắc bởi sự thể được gọi là chết.
Ai cũng nghĩ hay tin rằng mình có lính hồn, và khi linh hồn ra khỏi xác thì được goi là chết. Từ khi một người chết, tất nhiên mắt hết có thể nhìn, tai hết nghe, miệng hết nói, và tất cả mọi hoạt động của thân xác một người đều ngưng đọng. Sự thể này ai cũng đều nhận biết nơi cuộc sống. Sự thể chết này minh chứng, thực chứng thân xác, các thành phần của thân xác như mắt, tai, miệng v.v… chỉ là phương tiện của linh hồn, cho linh hồn hoạt động. Thêm vào đó, điều mọi người thường phát biểu và đó là óc suy nghĩ, phát sinh sáng kiến đã trở nên phi lý; bởi bộ óc thuộc về vật chất và vật chất tất nhiên không thể tự nó phát sinh tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, hoặc tham vọng, được gọi là tâm trí. Bởi giả sử vật chất có thể phát sinh ý nghĩ hay tư tưởng, thì đã có ít nhất vài trường hợp một người đang nằm trên giường ngủ đã bị hất xuồng đất hoặc ra khỏi nhà.
Đồng thời, những hiện tượng tâm linh như lên đồng, nhìn thấy hồn ma bóng quế hiện hình, những sự thể gặp lại hồn người chết dưới dạng thức lúc còn sống trong những giấc mơ, hay thực thể liên lạc, tìm hiểu sự thể diễn tiến về những sự việc đã qua nơi cuộc sống của một người trong hiện tượng thôi miên được ghi lại nơi sách vở đã chứng thực con người có sự sống tiếp nối của linh hồn sau khi thoát ra khỏi thân xác. Sự thể này được gọi là sự sống đời sau. Những sự kiện này được sách vở đạo học nói về hiện trạng luân hồi; linh hồn còn vướng mắc điều gì đó được có thân xác tiếp nối mơi một kiếp sống khác để thăng tiến nhận thức hay hoàn thành sứ mạng hoặc kiện toàn công việc nào đó.
Tất cả những sự kiện, sự thể liên hệ đến sự hiện hữu của một người đều minh chứng con người bao gồm ít nhất hai thành phần, sự sống thân xác và sự sống tâm linh quấn quyện chỉ được tách rời nơi thời điểm được gọi là chết. Tất nhiên, thân xác chết nếu không được ướp, đốt, hoặc đem chôn, thì trước hay sau cũng trở nên tro bụi, nhưng hồn của một người vẫn tiếp tục có cuộc sống sau khi thân xác qua đi.
Xét thế, thực thể cuộc sống của tôi là gì? Linh hồn là chi nơi một người, liên hệ đối với thân xác và cuộc đời một người thế nào. Hy vọng, ước muốn, tham vọng, ý định, yêu thương, giận ghét, thù hận của một người, tạm gọi là tâm trí, phát xuất và liên hệ đến con người thế nào. Phương cách nào để nhận biết, và nếu muốn tìm hiểu về thực thể chính mình, tôi phải làm sao? Tại sao tôi được sinh ra, có cuộc đời, và mục đích cuộc đời của tôi là chi? Nhiệm vụ nào tôi phải hoàn thành nơi cuộc sống nhân sinh cho xứng phận làm người?
Mò Mẫm Dĩ nhiên, dẫu không biết, nhưng trong lòng lại khao khát muốn biết về chính mình nên tôi phải tìm phương cách để biết. Cũng như mọi người, ai không cho rằng mình biết về chính mình hơn ai hết; thế nên, sự việc đầu tiên để biết về chính mình lại là suy nghĩ, đặt vấn đề, phân tích từng trường hợp hầu có thể nhận biết rõ ràng hơn. Tuy nhiên, sống giữa xã hội luôn biến động nơi mọi phương diện, từ tinh thần cho đến vật chất trong liên hệ hoàn cảnh cũng như ước muốn, ý định, tham vọng cá nhân, thường đối nghịch với thực tại thay đổi, thật chẳng dễ dàng chi cho một người có được nhận định trung thực về chính mình tùy thuộc những phản ứng nơi những sự kiện, sự việc nhân sinh trong cuộc sống. Ai cũng đều biết, diễn tiến của sự vật, sự kiện chính là phản ứng của con người nơi thực tế cuộc đời; mà phản ứng lại lệ thuộc tâm tình, ước muốn, tham vọng của người đó tùy thuộc biến chuyển, biến động của thực tại kiến tạo kinh nghiệm. Thử hỏi, có kinh nghiệm sống nào giống kinh nghiệm nào ngoại trừ kinh nghiệm kỹ thuật. Nơi toán học, một cộng một là hai, nhưng nơi thực tại sống, một sự kiện xảy đến nơi một phương diện nào đó chắc chắn không thể là hai mà có thể là bao nhiêu kết quả khó thể đo lường.
Xét thế, sao có thể tự suy nghĩ để định giá hoặc nhận định về thực thể một người dưới nhãn quan hữu vi. Thực ra, những quan điểm, quan niệm, đúng sai, phải trái nhân sinh chỉ có giá trị tương đối tùy thuộc thời điểm và nơi chốn, ẩn tàng dưới nhận định lợi hại trong ý định hoặc tham vọng cá nhân nơi phương diện nào đó. Thêm nữa, điều ước mơ của người này có thể là sự khổ ải đối với người khác; chẳng khác gì nhân gian có câu, “
Cá trong lờ đỏ hoe con mắt; cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.” Thường thì người ta chỉ bị phiền hà vì thực hiện điều tốt lành chứ nào ai chán ngấy tham vọng bao giờ. Hơn nữa, coi chừng những sự thực hiện bên ngoài chưa chắc đã bày tỏ ước vọng nơi tâm tư, mà có thể là sự trốn chạy hay cố khỏa lấp sự thể nào đó nơi tâm hồn.
Nhận rõ như vậy, những hành động hữu vi lệ thuộc nhận thức. Muốn tìm hiểu chính mình tất nhiên cần suy nghĩ hầu có nhận định trung thực về nhận thức thực thể hiện hữu của mình. Thực thể hiện hữu của mình là gì, gốc gác từ đâu. Trước khi được sinh ra mình thế nào. Chưa biết mình là ai, sao có thể nói tới mục đích hoặc nhiệm vụ nơi cuộc đời.
Xem ra, biết mình là ai, thực trạng cũng như ước muốn, tham vọng nơi mình, thân cận với mình nhất, mà thực ra lại khó nhận biết nhất. Có phải tôi không dám đối diện với chính tôi, hoặc dự cảm mình tệ hại hơn những gì mình có thể nghĩ tới nên chạy trốn nhìn lại chính mình? Nhưng dù chốn chạy, không dám đối diện vói chính mình, sự thao thức, khao khát nơi tôi càng bung cháy mạnh mẽ hơn. Tôi phải làm gì để nhận biết thực sự mình thế nào, xấu tốt, tồi tàn, có gì đáng hãnh diện, đáng trách, phải ăn năn, hối lỗi?
Đã nhiều lần tôi kiểm điểm lại các hành vi, thái độ, nhưng sao cứ thấy những lý do, lý trấu bào chữa cho những hành vi, thái độ của mình. Dĩ nhiên, ai không thế, mọi chuyện đều thiên vị về chính mình do nhiều nguyên nhân bởi, tại, vì, với muôn ngài lý lẽ tùy thuộc tâm sinh lý, hoặc ý thích của chính mình.
Cuối cùng, tôi lấy hết can đảm suy nghĩ câu nói, “
Kẻ thù tệ hại nhất của tôi lại là chính tôi.” Tôi không nhớ được câu nói này là của ai, nên quyết định thực nghiệm. Trên giấy trắng, mực đen, tôi viết lên tất cả những gỉ, thái độ, lời nói v.v… được tôi cho là tốt lành, thánh thiện; đồng thời cũng viết xuống tất cả những gì được coi là không nên không phải của mình và không cho ai biết. Tôi không thể tin được mình lại tệ đến thế. Ai đó thực hành sẽ biết, chỉ cần điều kiện trung thực, thành thực với chính mình.
HÔN NHÂN Bản Chất Luyến Ái Nam Nữ Một thực thể xưa như trái đất mà lại tươi mới với bất kỳ ai; đó là tính chất luyến ái nam nữ nơi hầu hết mọi người. Nơi giòng đời biến chuyển từ thời cổ sơ cho đến hiện đại, đàn ông cần và thích đàn bà, và ngược lại. Các học giả hoặc chuyên viên tâm lý thì xướng lên rằng mọi người, như một bản năng tự nhiên, muốn yêu và muốn được yêu. Tuy nhiên, dẫu quan niệm hoặc mệnh danh bản năng tự nhiên này thế nào, là gì, để rồi phân tích, phân cốc nó như thế nào ở thời đại nào và tùy thuộc nơi chốn nào, thì đại khái vấn đề cũng chỉ là sự liên hệ tình cảm và cuộc sống giữa người nam và người nữ. Sở dĩ gọi là bản năng tự nhiên giữa người nam và người nữ do qua mọi thời đại từ ngàn xưa tới nay, chưa ai thấy trong mọi loài sinh vật có bất cứ cặp đôi đồng phái nào đã có thể truyền giống sinh sản ngoại trừ một vài sinh vật lưỡng tính; chẳng hạn họ hàng nhà giun, bất cần cặp đôi hay cặp ba mà chỉ một mình đổi giống sinh trứng nở con.
Đối với con người, bản năng truyền giống sinh tồn tự nhiên bao gồm và bị ảnh hưởng những gì nơi cuộc đời biến chuyển tùy thuộc địa danh hay thời đại để phát sinh quan niệm, ý thích, hoặc chủ đích nơi mỗi người quả thật không đơn giản. Nhất là nơi thời đại hiệp chủng hiện đại, sự giao thoa giữa các nền văn hóa đòi hỏi tâm tư con người cần được rộng mở đón nhận những nhận thức mới, đồng thời hoán chuyển sao cho hòa hợp chẳng những nơi tâm tình cá nhân mà còn phù hợp, hòa hợp với nhận thức, giềng mối liên hệ thân thuộc cũng như xã hội cá nhân sinh tồn. Xét thế, sự thể luyến ái nam nữ không đơn giản gì.
Đối diện thực tại nhân sinh, chính ngay sự luyến ái nam nữ phát sinh từ thời điểm nào nơi một người cũng khó thể phân định vì mỗi người được sinh từ mỗi cung lòng khác nhau bị ảnh hưởng máu huyết, tâm tính, và nếu xét dưới dạng di truyền thì lại càng không thể nói được gì; hơn nữa, trong thời tấm bé được nuôi dưỡng thế nào, được giáo dục ra sao; tất cả cô đọng, hòa hợp, kiến tạo nên một cá thể hoàn toàn độc lập trong muôn ngàn chiều hướng ảnh hưởng tâm sinh lý. Dẫu đã có những quan niệm, nhận định, để rồi phát sinh lề luật, giới hạn mức độ được mệnh danh trưởng thành; chẳng hạn nơi phái nữ, từ tuổi có kinh nguyệt, hoặc trong xã hội dân chủ có việc bầu bán xác định 18 hoặc mua bán bia rượu là 21, thì nơi lãnh vực phát động con tim hay cảm nhận tình cảm, mỗi người tự biết. Không có luật nào hoặc giới hạn chi có thể cấm đoán cảm nhận hay cảm xúc của một người đối với những người khác phái.
Đến một thời điểm nào đó, dù do ý hướng tốt lành hay ý đồ chính trị, xã hội nổi lên khuynh hướng giáo dục sinh lý cho lứa tuổi tiền vị thành niên, tất nhiên, sự việc giống như con dao hai lưỡi; người thích, kẻ không, để rồi cũng sự việc đó phát sinh quan niệm tình cho không biếu không và rồi lại kiến tạo lý thuyết phương tiện cho chính trị, chính em, dùng làm cớ kiếm phiếu sáng tạo quan điểm tự do sử dụng cơ thể phái nữ tự do ngừa thai, phá thai. Suy cho cùng, tất cả những sự được nhân danh chủ đích cao vời để lạm dụng kiếm tiền, kiếm quyền quả hợp với lời tiền nhân, "
Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa," đau lòng người hiểu biết, nhưng vui sướng cho kẻ lạm dụng kiếm thú vui nhất thời. Đồng ý rằng sự việc nào cũng như con dao hai lưỡi, nhưng kết quả lại tùy thuộc nhận thức hoặc vô ý thức.
Nhận Thức Luyến Ái Nói đến nhận thức, tất nhiên nói về những gì vượt lên trên sự việc và sự vật hữu vi của kiếp người. Dùng một món ăn ngon miệng, nhưng có người nhất quyết không ăn bởi họ biết có hại cho cơ thể hoặc sẽ bị dị ứng. Sự thể này do kinh nghiệm sống tạo nên quyết định riêng biệt. Tuy nhiên, cảm xúc, cảm tình, khuynh hướng luyến ái nam nữ phát sinh ngay từ khi con người chưa từng có kinh nghiệm nhưng lại mang tính chất tuyệt vời hấp dẫn, khó bề cưỡng cầu. Tất nhiên, tự cảm xúc, cảm tình, tình yêu, luyến ái đều hoàn toàn tốt đẹp, thánh thiện, chúng ra sao đều tùy thuộc tâm ý con người. Làm sao để giải thích, "
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, đêm quên giấc ngủ, ngày mơ tiếng cười." Thực ra, "nhớ ai" cũng chỉ mới một bên vì còn cần những điều kiện, sự việc nào đó để có ai "nhớ" cho đồng điệu mới ít nhất chạm ngõ luyến ái. Tính chất muốn yêu và muốn được yêu chỉ là một phần nào đó của bản năng tự nhiên nơi một người và từ đó nhận thức nhảy vô dàn trận tùy thuộc ý định, ước muốn biến sự thể nhớ thành hành động liên hệ; cái thân liên hệ tùy thuộc cái thần chủ đích quyết định tạo thành kết quả thực tâm liên kết, mù lòa, hay trăng hoa, ong bướm.
Môi Trường Chiến Đấu Nhìn lại thực tại cuộc sống, người ta tiêu hao bao nhiêu năm tháng để học hỏi chuẩn bị cho cuộc sống trong tương lai dễ thở hơn, nhưng nơi phương diện luyến ái lại không có hay không muốn tìm hiểu, học hỏi để chuẩn bị cho cuộc sống lứa đôi suốt cả đời mình. Hơn nữa, thực tại hôn nhân minh chứng, "
Yêu nhau lắm, cắn nhau đau," hạnh phúc lứa đôi, dù nơi bất cứ lứa tuổi nào, đều là một sự đuổi bắt đòi hỏi kiến tạo, một chiến trường miên tục mà chỉ người trong cuộc mới có thể nghiệm xét, thực chứng chẳng khác gì nơi Lão học phát biểu, "
Người biết không nói, kẻ nói không biết." Có thể nói, hạnh phúc lứa đôi là cõi trường chinh hưởng thú đau thương dịu dàng êm ái pha lẫn gay cấn. Thực ra, hạnh phúc hôn nhân không phải là kết quả của sự đạt tới mà là hành trình chiến đấu toàn vẹn giao hòa đôi lứa từ thể xác tới tâm hồn không giây phút ngưng nghỉ. Bất cứ lúc nào, bất cứ ai mang tâm trạng an hưởng để rồi quên chuẩn bị chiến đấu, người đó đang bắt đầu đánh rơi niềm hạnh phúc hôn nhân. Nơi cuốn
Many Mansions, tác giả
Gina Cerminara, xuất bản 1950; Nguyễn Hữu Kiệt dịch thành
Những Bí Ẩn của Cuộc Đời, Gina cho rằng hôn nhân là môi trường hay cơ hội tuyệt vời nhất để một người thăng tiến, phát triển nhận thức về chính mình nơi hành trình tâm linh.
Thực Tại Hôn Nhân Thực tại hôn nhân, sự kết hợp của hai người khác phái quả là ly kỳ, nghịch thường đến độ có thể nói là huyền nhiệm. Niềm hạnh phúc hôn nhân không khác chi hai đối cực nhất thể của một viên nam châm. Dẫu cơ thể cũng như tâm trí phái nam mang phần nhỏ nào tính chất phái nữ; và phái nữ cũng phần nhỏ nào chất chứa tính chất phái nam, nhưng thực chất phải đối nghịch mới có thể bổ xung và cuốn hút. Kinh nghiệm sống minh chứng, cặp nào, nơi thuở ban đầu quen biết thấy hợp nhau bao nhiêu, không chóng thì chầy, hai đồng cực của hai thỏi nam châm tự động phát sinh đối kháng bấy nhiêu, tạo sự tách rời, càng cố gắng xáp lại, áp lực tạo nên càng tàn bạo, dù cố thay đổi nhận thức hay lối sống vẫn không thể hòa hợp, mà có chăng chỉ tạo thêm tổn thương nơi tâm trí, càng ngày càng hao mòn ước mơ hạnh phúc. Cho dù "
Cau bẩy bổ ra làm mười" thì trầu vẫn một nơi, vôi một nẻo, muôn đời không thể thấm đỏ đôi môi.
Thế nên, thật đáng thương cho những cặp vợ chồng, ít nhất là ngày xưa được bổ xung bởi luân lý xã hội để kiện toàn quan niệm "
Môn đăng hộ đối," hoặc "
Máy đẻ" nơi xã hội nông nghiệp, hay tệ hơn nữa cho rằng hôn nhân chỉ là chiếc giường. Dĩ nhiên, nơi quan niệm cổ đó, nói theo quan niệm Á Đông, thân phận phụ nữ không được coi trọng dẫu mang danh hiệu "
Nội tướng" nơi gia cảnh đề huề kính trên nhường dưới thay vì "
Tốn tiền mua mâm thì đâm cho thủng." Ôi, thân phận nào bị mua! Chẳng lạ gì đã có biết bao nỗi nghịch thường, mẹ chồng tàn bạo hành hạ nàng dâu. Thời gian dần trôi trãi dài từ thế hệ này qua thế hệ khác, có thể nói, những giòng nước mắt nếu được gom lại có lẽ tạo nên con sông lớn hơn dòng Cửu Long cũng chỉ vì "
Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," tạo nên danh hiệu "
Nội tướng," tướng hầu hạ.
Ngày nay thì sao? Nói rằng, "
Không có học trò ngu, chỉ có vị thày dốt," chỉ đúng nơi phương diện kỹ thuật hay học thức thế tục đối với những kẻ hiếu học. Người đã không muốn học thì không có lời khôn ngoan nào có thể áp dụng. Niềm hạnh phúc nơi tâm hồn không thuộc về con dao hay cái búa, ngoại trừ kẻ mang tâm trí bệnh hoạn bạo dâm! Niềm hạnh phúc thuộc về tâm tư, nhận thức; mà nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu, không học được, không ai có thể dạy. Nơi truyện dân gian có câu nói, “
Người ta chỉ có thể dắt con lừa tới dòng nước, nhưng uống nước hay không tùy con lừa.” Không ai có thể mang lại hạnh phúc cho ai; cũng như không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho ai. Đã một thời, cao trào sách "Học làm người" được thổi phồng như diều gặp gió. Thực ra, danh hiệu "Học làm người" xỏ xiên chính tác giả. Thử hỏi, nếu chưa viết, chưa đọc những sách "Học làm người" thì tác giả là thứ chi? Chẳng lẽ không mặc những thứ hở nách, rách đùi, thì không là người? Ngoại trừ chốn hữu vi, thế tục, sự nhận thức về thân phận con người và những gì liên hệ đến tâm tư, vị thày đúng đắn và tuyệt vời nhất nơi cuộc sống hôn nhân phải là chính mình; không ai có thể thay thế. Và như vậy, không chịu suy tư, nghiệm xét mà chỉ sống hùa theo, hạnh phúc hôn nhân theo lý thuyết nào, cũng chỉ là viễn tưởng. Bởi đó, thay vì kiến tạo hạnh phúc, coi chừng đang trầm luân; vì "
Chân thành, năng nổ, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại," phá hoại chính mình.
Có ai ngờ, khi đến độ nồng nàn, tình cảm cũng sẽ trở nên mong manh dễ vỡ; hơn nữa, nữ nhân đa số mưa nắng thất thường, giận lên chẳng còn nhận ai là ai do tính chất lệ thuộc nặng nề tâm tình, tình cảm nhất thời thay vì lý trí. Đàng khác, dẫu là nội tướng nhưng cá tính thiên về lệ thuộc, nữ nhân luôn muốn có một người chồng để dựa dẫm nhưng khinh chê tên nô lệ sánh vai trong cuộc sống. Trong quá khứ đã biết bao nữ nhân cả đời phải chịu đựng tâm trạng ngậm ngùi khốn khổ nơi cuộc sống hôn nhân dưới nền luân lý xã hội "
Trọng nam khinh nữ," nơi cảnh gia trưởng bám gấu quần đàn bà hay nói cách khác, "
Sống trên lưng vợ" dù bất cứ lý do nào. Cho dẫu xã hội ngày nay, đa số người ta đã nhận thức được giá trị độc lập của mỗi cá nhân, nữ nhân dần phát triển cá tính riêng biệt, nhưng tính chất thiên về lệ thuộc vào người phối ngẫu do cảm tính vẫn nặng nề thống trị tính cách nội tướng của nữ giới trong hôn nhân, sự giao cảm trong hôn nhân vẫn là môi trường đầy rắc rối tâm sinh lý quấn quyệt, đan xen như đám mây mù vần vũ không biết đâu là đầu mối, chính người trong cuộc muốn gỡ cũng không biết đường nào giải quyết. Có trả lời được điểm tại sao này, lại bị thắt chặt mối dây giăng giăng kia, nông sâu khó dò.
Ông chồng nào không kinh nghiệm, nữ nhân chỉ nhớ những gì chồng mình chưa hoặc đã không làm và thường quên tuốt luốt tất cả những gì ông đã thực hiện. Bãi chiến trường coi bộ thiên đàng, niết bàn của thú đau thương, nào khác gì thực thể cuộc đời. Có một số người cả đời hướng thiện không dám gây ra một chút sai lầm, vậy mà chỉ cần một bước sa chân lại trở thành tội nhân thập ác không thể tha thứ được, còn một số người khác (chồng người), bình sinh gây nên biết bao tội ác thì lại trong một dịp tình cờ nào đó làm được một điều tốt, thế là mọi người (nội tướng) đều tha thứ hết tất cả tội lỗi trong quá khứ, đôi khi lại còn được tôn vinh như một vị thánh để rồi có kẻ cuốn gói đồng bước theo quên bẵng sự thể hiện tại chỉ là hình của cái bóng xa xưa. Nơi cuộc sống hôn nhân, có những lúc người ta không thể không làm một số việc mà chính ngay cả bản thân mình cũng không muốn; thực tại hôn nhân nào khác chi giòng đời thiên biến vạn hóa, nói ra không được, mà cho dù cố gắng diễn giải bằng cách này hay bằng cách khác coi chừng còn bị gán nhãn với sự thể chẳng thể ngờ; quả hợp với câu Lão học, "Người biết không nói, kẻ nói không biết."
Có những cặp ăn ở với nhau suốt cả đời đến khi đầu bạc, răng long, nhưng vẫn như mới gặp nhau, đôi bên chẳng hiểu nhau nhiều giống như câu nói nào đó, "
Bạch đầu như tân." Cuộc đời nhân sinh như mộng, những ai chỉ chuyên nhất chí thú làm ăn, chấp nhất quan niệm nhiều tiền, lắm của, có thể tạo dựng hạnh phúc gia đình, coi chừng lại vấp phạm lầm lỗi lớn lao, để vuột mất người mình thương yêu nhất trong đời, đến khi nhận ra thì chuyện đã lỡ, khôn bề lấy lại. Ôi, "
Nhất thất thủ thành thiên cổ hận, tái hồi đầu dĩ thị bách niên thân;" một lần lỡ tay thành hận thiên thu, quay đầu lại thì đã trăm tuổi. Quả thực, đứng ngoài nhìn vào tưởng đời như mơ bởi "
Không ở trong chăn, nào biết chăn có rận;" nhìn đôi tình nhân tay trong tay đi dạo trong chiều vắng, có ai không thấy nỗi cô đơn sâu lắng mơ màng trỗi dậy. Thử hỏi đã bao giờ mình nghĩ tới hoặc nhận thức niềm hạnh phúc ước mơ, nặng nề song hành với giá phải trả, hay có chăng những gì mê say ngày nao cố gắng đạt được lại đôi khi trở thành cay đắng hôm nay.
Ai không biết lý lẽ thường tình, một phu quân muốn để cho ái thiếp của mình luôn yêu mình thì người đó cũng phải luôn yêu mến ái thiếp. Dẫu ái thiếp thấy rằng phu quân luôn yêu thương, nhưng cũng phải để cho ái thiếp thấy rằng lúc nào nàng cũng có thể bị phu quân bỏ rơi, như vậy người thiếp đó phải hết lòng yêu thương, bởi đó không có một thế lực chia rẽ họ được, ái tình khi đó mới thực sự bền vững. Dĩ nhiên, "
Giang sơn dễ cải, bản tính khó thay," và một khi tự do được tôn trọng thì không còn áp đặt người khác phải hiểu và nhận định theo hướng của mình; sự thể bất đồng nhưng không bất hòa được đặt trên nền tảng của nhận thức tự do suy tưởng, nhận định. Tuy nhiên, nơi cuộc sống hôn nhân, dẫu lời nói ngay thường trái tai nhưng hữu ích, nếu không phải thân thiết thì ai lại muốn nói thật để cho mích lòng, nhưng "
Trời gấp có mưa, người gấp có họa;" chuyện nhỏ không nhịn được tất sẽ hỏng mưu lớn. Chớ nôn nóng giải quyết vấn đề bởi, "
Thương nhau lắm, cắn nhau đau;" chỉ đôi lời ngay thẳng vội vã có thể làm tổn thương nặng nề tâm tưởng người phối ngẫu. Thực ra, phàm những kẻ bề ngoài tỏ ra hung bạo dã man thì cũng chính là những kẻ không có chí khí, không có gan nhất. Lời nói đối với người thân đôi khi mang ảnh hưởng tàn bạo hơn hành động; vì hành động khắc nghiệt chỉ được thực hiện với đối thủ, nghịch phái; lời nói khêu gợi những liên hệ tâm tư một người dễ dàng tạo cảm xúc hay phản cảm. Tất nhiên, nhân từ với kẻ địch tức là tàn nhẫn với chính mình, nhưng trong diễn trình hạnh phúc không chấp nhận thua thiệt, tàn nhẫn chịu đựng với chính mình sao có thể cảm nhận hạnh phúc. Hạnh phúc và tàn nhẫn mang cường độ ảnh hưởng như nhau nhưng đối nghịch trạng thái mà thôi. Bởi vậy, những kẻ không chấp nhận chính mình, không chấp nhận những gì trái ý, khác với nhận định, quan niệm, cách xử sự của mình, cả đời cũng chỉ khát khao kiếm tìm hạnh phúc mà không thể nhận biết hạnh phúc là gì, có chăng niềm vui thế tục.
Yêu thương, hạnh phúc hôn nhân, nghe thì nôn nao mơ ước, nhưng kiến tạo cuộc sống hạnh phúc trong hôn nhân lại đối diện thú đau thương. Không biết an hưởng thú đau thương mà mơ cuộc đời hạnh phúc thì chỉ là mơ tưởng. Cuộc đời này nào có bất cứ chi không phải trả giá, mà coi chừng nhiều khi đã trả giá lại chẳng được chi, ngược lại đôi khi tậu thêm phiền phức cho hợp với sự thể những gì ngày nao mình mê say giờ trở thành nỗi đắng cay phải chịu. Thực ra, dẫu quen biết khắp thiên hạ, tri kỷ nào có mấy ai. Hôn nhân cũng thế; thuở quen nhau ban đầu, dù thời gian dài lâu, nhưng đối tượng vẫn thường được lòng mơ tưởng thăng hoa, nghĩ rằng mình đã biết hết về người mình thương. Tuy nhiên, chính mình vẫn chưa thực sự biết về mình, thì sao có thể thực sự biết hết về người. Những ai đã thực sự nhận thức thực thể nhận biết này, có lẽ chẳng bao giờ dám mơ hạnh phúc do không muốn chấp nhận hưởng thú đau thương. Đâu lạ gì, càng ngày càng lắm giới độc thân để vui chơi thỏa chí.
Có những đề nghị hữu vi khuyến khích kiến tạo niềm vui giả tạo bằng những lời khen sáo rỗng qua câu truyện Nịnh Vợ trên net, và được ghi chú, "
Bài này độc quyền chỉ gửi cho mấy ông."
Người ta kể rằng, có một gã chiếm được hàng trăm trái tim phụ nữ và sau đó chiếm đoạt luôn cả tài sản của họ nên cuối cùng phải vào tù.
Một nhà tâm lý tò mò đến tận nơi xem hắn có bí quyết gì. Ông ta bất ngờ vì đó là một gã đã luống tuổi, hình thức bình thường, duy chỉ có cái miệng rất duyên.
Ông hỏi: "Làm thế nào anh chinh phục được nhiều phụ nữ như vậy?". Hắn trả lời cụt lủn: "Có gì đâu. Cứ khen nhiều vào".
Nhà tâm lý nổi tiếng người Mỹ, Dale Carnegie thường đi giảng ở các lớp học làm vợ, làm chồng. Một hôm, sau bài giảng về nghệ thuật làm chồng, ông ra bài tập cho học viên về nhà làm.
Ông yêu cầu tất cả đàn ông thực hiện một “Tuần lễ khen vợ,” ngày nào cũng khen từ sáng đến tối.
Ông cam đoan sẽ thấy hiệu quả ngay. Học viên chẳng mấy người tin. Có người còn nghĩ là ông nói đùa, nhưng số đông vẫn thử “làm bài tập” xem sao và kết quả thật bất ngờ.
Một anh vừa ngủ dậy, nhớ đến bài tập, nói luôn: “Nằm cạnh em sướng thật, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát.” Vợ tát yêu một cái. Vợ tập thể dục xong, chồng lại khen: “Hồi này trông thần sắc em rất tốt!” Vợ càng ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy chồng để ý đến mình. Lúc dọn món ăn sáng ra, anh ta lại xoa hai bàn tay: “Chà, em làm món gì trông ngon thế!” Vợ sung sướng nguýt yêu chồng một cái nữa. Ăn xong lại khen: “Anh thấy đi ăn sáng ở đâu cũng chẳng bằng em làm!”.
Trước khi đi làm, ngắm vợ một phút, anh lại thốt lên: “Em mặc bộ này trông quá được!” Không ngờ chỉ trong vòng một tiếng, mới khen có mấy câu mà chưa bao giờ anh ta thấy trên gương mặt vợ lại có những nét hạnh phúc ngời ngời đến thế. Ra đến cửa anh còn quay lại: “Anh đi nhá. Em rất tuyệt.”
Hết tuần, có học viên báo cáo với thầy là chỉ sau một “tuần lễ khen,” anh ta được hưởng hạnh phúc hơn 10 năm chung sống cộng lại.
Nhưng có một thứ, người vợ nào cũng khao khát thì họ lại quên. Đó là lời khen.
Tuy nhiên, nếu vợ đẹp thì khen đẹp, nếu quần áo đẹp thì khen quần áo, nếu ngoại hình không đẹp thì khen công dung ngôn hạnh, miễn sao phải chân thật. Khen bừa lỡ thành mỉa mai thì sẽ tác dụng ngược đấy.
Ai cũng biết “đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai.”
Có anh còn "dẻo mỏ,” "Em hút hồn anh ngay từ lần đầu mới gặp. Đôi mắt em sao mà sâu thăm thẳm."
Đàn ông Việt thường "quên" nịnh vợ...??? Thực tế mà nói, cho rằng "
Đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai" có lẽ không chỉnh; thử nghĩ lại mình, dù đàn ông hay đàn bà, tất cả đều yêu bằng cả hai, vừa bằng mắt, vừa bằng tai. Nhưng hạnh phúc hôn nhân đâu phải chỉ là những hời hợt nơi đầu môi chót lưỡi kiếm tìm niềm vui giả tạo thoáng qua; hạnh phúc hôn nhân sâu đậm biến đổi, thăng tiến con người. Hạnh phúc hôn nhân đòi hỏi điều kiện ắt có và đủ, và đó là cần thực sự nhận biết chính mình; nói cách khác, cần đối diện chính mình để thực sự nhận ra và chấp nhận cách hài hòa và yêu thương chính mình. Chấp nhận tất cả, nơi mọi phương diện tâm sinh lý thực sự nơi mình, trả lời đến tận cùng câu hỏi "Mình, tôi là ai?" hầu thực sự nhận thức thực thể của mình để yêu thương, tôn trọng, nhận ra giá trị làm người của mình. Những ai không biết yêu thương, tôn trọng chính mình, sao có thể thực sự yêu thương người khác, mà có chăng chỉ đang tự lừa dối bằng cách kiếm tìm những niềm vui giả tạo, hữu vi.
Cho rằng bản chất tự nhiên con người là muốn yêu và muốn được yêu, nhưng thực sự nhìn lại lòng mình, ai cũng thế, đều muốn được yêu hơn là muốn yêu nếu không muốn nói ai cũng ích kỷ, chỉ muốn được yêu. Thử tự hỏi, mình muốn người mình yêu nên thế nào, cần ra sao; nói rằng muốn thì đã lọt vào trạng thái ích kỷ, khó hoặc không chấp nhận người phối ngẫu là chính họ. Nói cho đúng, thực sự yêu thương ai, chính là chấp nhận họ là họ và hãy để họ là họ, họ không phải là mình. Xuân Diệu diễn tả, "
Yêu là chết ở trong lòng một ít." Trong hôn nhân, thực sự yêu là chết cả đời để hưởng thú đau thương, để sung sướng chịu khổ ải, cực hình của cuộc sống, vui lòng làm những việc mình không muốn, để chấp nhận điều mình chẳng ưa, và để du vào hành trình muôn đời không thể ngờ. Thế nên, chẳng lạ gì người ta cố tránh nhắc đến, "
Đạo phu phụ tương kính như tân." Khi mới quen biết, "phải lòng nhau," gì cũng được, thế nào cũng xong, đến nỗi đêm nhớ, ngày mong. Thế sao có sự việc, "
Lúc chưa cưới, em nói anh nghe; khi cưới rồi, anh nói em nghe, và sau sáu tháng hay một năm, hai ta cùng nói, hàng xóm nghe?" Đạo phu phụ đâu chỉ là chiếc giường; dẫu chiếc giường là cần thiết chẳng những trong cuộc sống hôn nhân mà còn cần thiết cho tất cả mọi người thay vì ổ rơm nơi thời xa xưa trong cảnh cơ cực nghèo hèn.
Nơi cuốn
Câu Hỏi Lãng Quên, đọc được,
"Sự êm ấm trong gia đình xưa nay vốn là ước mơ của mọi người vào mọi thời, Kính nghĩ. Lẽ tất nhiên, những gì ước mơ đã tự nói lên mình chưa có điều ấy hoặc có chưa đủ vì nếu đã có, đã được thỏa mãn, đâu ai cần gì mong muốn mà có chăng thực hiện cho có thêm. Thế nên, còn ước mơ có gia đình êm ấm tức là đã và đang không êm ấm hoặc thấy sự êm ấm quá mỏng dòn. Nhận định như vậy, vấn đề cần giải quyết phải là sự tìm hiểu lý do tạo nên những rắc rối trong gia đình. Đồng ý rằng, cuộc đời này không ai giống ai từ thể chất đến ý nghĩ, tư cách, hoặc tâm hồn... Ai cũng có thể thấy rõ, mới chỉ thử nói tới nấu nồi cơm, anh thích ăn hơi khô, chị muốn hơi nhão... Thực tế mà nói, đem nhốt hai con người khác biệt từ thể chất tới tâm hồn lại với nhau ngày này qua ngày khác, tháng nọ tới năm kia, những cái nóc nhà còn được đậy hờ trên mấy đầu cột phải là phép lạ cả thể nào mấy ai để ý. Tuy nhiên, đứng ngoài ngó vô, hình như cặp nào lục đục bao nhiêu lại thương nhau bấy nhiêu... thế nên càng lộn xộn ẩu đả bao nhiêu, càng đông con nhiều cháu bấy nhiêu. Có thể họ hao tốn biết bao công sức để thực hiện lời nhận định của tiền nhân: "Thương nhau lắm cắn nhau đau." Vậy những bất đồng, những lục đục trong gia đình tự đâu ra? Ông chồng thích nhậu; bà vợ không muốn hầu hạ đám khách khứa say sưa... Ông chồng thích có chiếc xe mắc tiền chạy cho oai; bà vợ muốn sửa sắc đẹp cho đổ nước nghiêng thùng. Thế rồi không ai chịu ai vì ai cũng cho ý mình là đúng nên muốn người phối ngẫu phải chiều theo. Bà vợ lý luận, xe nào không là xe; mình cần phương tiện di chuyển chứ mua cái xe mắc tiền thì trở thành ông nọ bà kia hay sao! Thử hỏi, ông chồng nào không ngon, không là chủ... mà mua xe mắc tiền thì đâu phải chỉ mình ông ta xài... Hơn nữa, có ông chồng nào ngu dại muốn vợ mình sửa sắc đẹp cho thiên hạ ngó đâu, lỡ bà xã đương có da có thịt một chút bị những cặp mắt sắc như dao cạo chiêm ngưỡng ốm bớt đi thì sao... Và rồi lý ai cũng hay, lẽ ai cũng là khuôn mẫu cho người khác thì phải va chạm kẻo êm ấm quá thiên hạ không biết có hai nhân vật quan trọng hiện diện trên cõi dương gian! Mới đơn giản nhận xét như thế, nguồn gốc mọi sự lộn xộn trong gia đình là ước muốn riêng tư của mình, chỉ ý mình mới quan trọng, còn lẽ thích của người phối ngẫu không đáng được để ý. Chỉ kiểu cách, lối sống của mình là hay, là đúng, mà người phối ngẫu nên hoặc phải theo, không theo thì uốn cho theo; uốn bằng lời nói nhỏ nhẹ, lỡ vợ hay chồng nặng tai không nghe thấy thì hét lên cho rõ. Hơn nữa, đa số những cặp vợ chồng đều bị điếc lắm khi... Cuối cùng, kẻ điếc làm sao nghe nên cái nồi bay, cái chén bể mong gây chú ý... nếu không thèm chú ý thì đục... cho vào khuôn mẫu của mình! Khi mọi sự răm rắp tuân theo một mệnh lệnh thì thuận hòa, êm ấm!... Khổ nỗi, dẫu ai cứng cổ đến mấy, nó vẫn có thể quay bên nọ, quặt bên kia do đó cứ hay bị trật đường rầy... thành ra hay mất êm ấm. Đàng khác, xét theo nhu cầu nhân sinh, mọi cố gắng tạo dựng gia đình êm ấm chỉ là cổ võ sự ích kỷ của mình. Mình nào có được sinh ra chỉ để yêu thương vợ mình đâu vì chẳng có bà này thì mình có bà khác, cũng như chẳng có mình thì bà ấy có người đàn ông khác, đâu phải không có bà ấy thì mình ở vậy hoặc không có mình thì bà ấy không chịu lấy ai. Không có mình, biết bao người trong cuộc đời này nào có ai ở giá đâu! Thử dám nói thật lòng, đã chắc gì mọi người lập gia đình chỉ vì thực lòng yêu thương người phối ngẫu hay còn bị biết bao yếu tố tâm lý, xã hội, ảnh hưởng hoặc vì mục đích nào đó hay bị ép gả cho hợp môn đăng hộ đối... Hơn nữa, trước khi lấy vợ, cưới chồng, một người tự đã cảm thấy thiếu thốn bạn đời nên kiếm cho mình chứ đâu phải vì người ta cô đơn do đó đem lòng thương hại, hy sinh cả cuộc sống làm tôi tớ cho niềm vui của kẻ khác! Như vậy, lấy vợ, cưới chồng là vì mình chứ không phải vì người khác. Ai cũng ích kỷ, nói rằng yêu thương vợ con hay yêu thương chồng con chứ thực sự tất cả chỉ vì mình mà thôi. Thử xét về tính chất yêu thương, chắc chắn mọi người yêu thương tay chân, thân thể của mình hơn bất cứ người nào hay vật nào nhưng đâu ai muốn bàn tay mình sáu hoặc bốn ngón hoặc mập hay ốm hơn... mà chấp nhận, nó thế nào đành chịu vậy, nếu chẳng may có chuyện bịnh hoạn hay bị thương thì chỉ lo lắng chạy chữa mà thôi. Như thế, yêu thương tay chân, thân thể mình là tôn trọng chúng và không bắt chúng phải trở nên bất cứ gì mình muốn" (Lã Mộng Thường; Xuân Thu; San Diego; 1997; Tr. 3-6). Tâm Tình Con Người Dẫu không ai sinh ra đã hoàn toàn hợp với bất cứ ai, lại cũng có câu, "
Hàng triệu hạt mưa rơi, không hạt nào rơi nhầm chỗ;" tâm tình con người từ ngàn xưa cho tới ngày nay nồng độ dạt dào vẫn luôn triển nở. Qua thi ca bình dân, nền thi ca xuất hiện sớm nhất của nền văn học, dẫu được mệnh danh bình dân nhưng lại phát xuất từ tâm hồn thức giả, "
Dùng dữ kiện dơn sơ nói lên qua lời mộc mạc, bình dị để diễn giải nhận thức luân lý, tâm lý... cuộc đời, như thế mới thực sự chứng tỏ tài năng văn chương tuyệt vời của hàng thức giả. Không dễ gì hiểu nổi hai chữ 'Bình dân' hoặc 'Dân gian'" (
Hương Hoa Dân Việt; Lã Mộng Thường; Xuân Thu; CA; USA; Tr. 18); tâm tình đối với đối tượng khó bút mực nào tả xiết, "
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ; đêm quên giấc ngủ, ngày mơ tiếng cười." Mãnh lực luyến ái chi phối tâm hồn một người nơi mọi phương diện. Bất cứ gì gặp thấy nơi ngoại cảnh cũng như phơi bày tâm tư, "
Qua cầu ngả nón trông cầu; cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu." Chẳng những ngoại cảnh gợi nhớ, nỗi luyến ái còn thúc đẩy niềm mơ,
"Ước gì anh hóa ra hoa Để em nâng lấy rồi mà cài khăn Ước gì anh hóa ra chăn Để cho em đắp, em lăn, em nằm Ước gì anh hóa ra gương Để cho em cứ ngày thường em soi Ước gì anh hóa ra cơi Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng" (
Thi Ca Bình Dân Việt Nam; Nguyễn Tấn Long và Phan Canh; Xuân Thu; CA, USA; ?; Tr. 106).
Giữa muôn ngàn người khác phái sao lòng vẫn thanh thản, lạnh lùng, nhưng bản năng luyến ái khi gặp đối tượng rung đúng tần số lại kiến tạo muôn vẻ ray rứt, "
Đêm qua đốt đỉnh hương trầm; khói lên nghi ngút, âm thầm lòng ai," hay, "
Cầm lược lại nhớ đến gương; cầm khăn nhớ túi, đi đường nhớ nhau," hoặc, "
Chẳng chè, chẳng chén sao say; chẳng thương, chẳng nhớ sao hay đi tìm." Hơn nữa, lòng nhung nhớ khiến dạ ngẩn ngơ, đôi khi làm chuyện vẩn vơ, "
Chiều chiều ra bãi mà trông; bãi thì thấy vắng, người không thấy người," hoặc, "
Em thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầu; lược thưa biếng chải, gương Tàu biếng soi." Cũng chỉ vì, "
Gió đâu thổi mát sau lưng; Dạ sao dạ nhớ người dưng vô cùng."
Từ bản năng luyến ái, từ độ rung đúng tần số giữa muôn người hội nhập thành đôi uyên ương cùng xây tổ ấm được gọi hôn nhân. Như vậy, hôn nhân là sự giao hòa giữa một người nam và một người nữ tùy thuộc điều được mệnh danh độ rung con tim. Lý do không ai biết ngoại trừ người đương cuộc mà thường thì chính người đương cuộc cũng bị mù lòa không thể giải thích bởi đó là tiếng nói con tim. Giả sử có ai cố gắng giải thích thì cũng không ai có thể nhận ra được sự hợp lý hợp tình chút nào, quả hợp với câu nói nơi Lão học, "
Người biết không nói, kẻ nói không biết."
Tất nhiên, căn bản của hôn nhân phải là sự luyến ái; nếu không có động lực hay năng lực luyến ái sẽ không bao giờ có kết quả hôn nhân đúng nghĩa. Nói như thế, một người nam và một người nữ sống chung với nhau dù hợp pháp, hợp luân lý xã hội nhưng lòng họ "
Đồng sàng dị mộng," coi chừng chỉ mang lại khổ ải cho nhau. Nếu bàng quang nhận định, hôn nhân là một hành trình không có điểm dừng, trong đó, hai người khác phái không những chia sẻ những gì chưa biết về nhau mà còn khám phá những điều ta chưa hiểu về chính mình; không lạ gì nhà văn Gina Cerminara cho rằng hôn nhân là môi trường hay cơ hội tuyệt vời nhất để một người thăng tiến. Không ai sinh ra đã hoàn toàn hợp nhau, ngay cả đôi song sinh, có chăng, trong hôn nhân, một người chỉ vì lòng yêu thương, luyến ái bạn đời mình mà thay đổi để kiến tạo một gia đình ấm êm.
Nhân một lần nơi quán phở, bác sĩ Gia, vui miệng tự thuật câu truyện.
(Câu chuyện bác sĩ Gia: Bác sĩ Gia là bác sĩ gây mê, làm tại bệnh viện Veteran Hospital, Biloxi, Mississippi, qua đời khoảng năm 1997-1998). Khoảng thời gian 1990 đến 1992, ngài có 7 bác sĩ nam, trẻ, người Mỹ theo học gây mê tại bệnh viện dưới sự hướng dẫn của ngài. Nhân bữa tiệc kỷ niệm 37 năm thành hôn, ngài mời 7 bác sĩ đó tham dự bữa tiệc chung vui. Đang lúc chén tạc chén thù, một vị bác sĩ trẻ lên tiếng hỏi trong tình thân thiện, “Ông thày, hôm nay là ngày kỷ niệm thành hôn của ông thày; nếu tôi không lầm, gia đình ông thày xem ra rất hạnh phúc. Xin ông thày chỉ cho chúng tôi biết bí quyết căn bản để có được gia đình hạnh phúc sau những 37 năm chung sống.” Bác sĩ Gia lấy giọng nghiêm nghị trả lời, “Chúng ta nên nhớ, mình là đàn ông, là chủ gia đình; nên mình có bổn phận lo lắng cho gia đình. Tất cả những chuyện quan trọng nơi gia đình mình phải quyết định. Tuy nhiên, qua 37 năm lập gia đình, tôi chưa thấy chuyện nào đáng được gọi quan trọng để phải quyết định" (
Mây Bay Về Ngàn; Tr. 287).
Thực tại cuộc đời minh chứng, không ai có nghĩa vụ phải tốt với mình; đồng thời nơi cuộc sống, thành công và hạnh phúc không phải là đích đến nhưng là một hành trình. Trong hôn nhân cũng thế, cuộc đời biến chuyển, con người thay đổi, hành trình hôn nhân là cuộc biến động không ngưng nghỉ, chẳng những triền miên theo ngày tháng mà có thể nói từng giờ, từng giây phút. Bất cứ ai đang sống trong hôn nhân đều nhận biết sự thể thực tế này; tuy nhiên, nhận thức để thăng tiến hay không tùy cá nhân. Nói rằng lầm lỗi bởi ngu dốt mà ra có lẽ không chỉnh, nhưng ỷ lại, không dám đối diện với thực tại để suy tư, nhận thức để kiến tạo hạnh phúc hôn nhân chính lại là đầu mối cho sự đổ vỡ gia đình. Ai không hối hận bất cứ lúc nào nghĩ đến sự đổ vỡ niềm hạnh phúc nơi hôn nhân. Đâu phải tự nhiên hay tại người bạn đời mình thay đổi chạy theo đối tượng khác. Thế nên, không dám đối diện chính mình để theo kịp với dòng đời biến chuyển chính là nguồn gốc không trước thời sau phá tan niềm hạnh phúc ước mơ.
Nơi cuộc đời biến chuyển, cũng như hành trình nhận thức, không có một phương pháp hay đường lối nào cho con người rập khuôn nhắm mắt thực hiện để có được niềm hạnh phúc ước mơ nơi hôn nhân. Niềm hạnh phúc đã là hành trình tâm tình nơi cuộc đời biến động của những con người thay đổi thì trong hôn nhân, sự hòa hợp của hai người tùy thuộc nhận thức của người trong cuộc trong khi sự nhận thức không thể học mà chỉ có thể ngộ. Bởi vậy, nếu coi ngày cưới hay quyết định sống chung là chiến thắng thì chẳng nên ngỡ ngàng khi cuộc chia ly chẳng sớm thì chầy cũng sẽ trờ tới.
Đôi dòng nhận định về
LIÊN HỆ THƠ NHẠC Xét nơi phương diện hình thức, thơ mang tính cách của một bài văn ngắn gọn lại có vần và điệu. Lẽ đương nhiên, thơ, văn phát xuất tự tâm tình con người bao gồm khuynh hướng, chủ đích, cảm nghĩ, nỗi ám ảnh, v.v… chất chứa trong lòng tác giả được bày tỏ qua ngôn ngữ phần nào đó thể hiện thực trạng “Đầy trong lòng nên tràn ra bên ngoài.”
Bình tâm nhận định, thuở ban đầu chỉ có luật tự nhiên quá ư phức tạp không tâm trí nào có thể hiểu thấu. Theo diễn trình phát triển tạo vật, suy tư, ngôn ngữ, nghệ thuật
dần thành hình nơi lãnh vực nhân sinh. Một thành phần nhỏ nhoi của văn hóa được gọi là thơ thuộc về giới hạn ngôn ngữ. Tùy theo hoàn cảnh, điều kiện, cũng như những lý do ảnh hưởng, thơ lại được con người phân chia, ấn định những lề luật để phân định cho dễ nhận định hoặc phân định giá trị lệ thuộc tâm trí hoặc điều kiện xã hội người đồng thời.
Thiển nghĩ, danh hiệu “Thơ Tự Do” đã được định nghĩa và công nhận từ lâu, “Thơ Tự Do là thơ có vần và điệu,” đã quá rộng rãi cho những tay mơ nơi giới hạn thơ. Tuy nhiên, có lẽ nơi trường hợp “Trưởng giả học làm sang,” một số kẻ do tự ty mặc cảm, múa gậy vườn hoang, nhắm mắt la lên mặt trời không chiếu sáng, đồng thời lạm dụng phương tiện có sẵn hầu tỏ sự cả sáng viết nhăng viết nhí tự cho mình là “Nhà thơ” cho có vẻ ta đây, cố che giấu thực trạng tự ty nơi mình hầu vênh váo tưởng rằng được sánh vai với những tài năng thực thụ, đã lạm dụng ngôn từ, bất chấp nỗi thất vọng của độc giả cũng như lòng tốt của người tốn công sức, tiền tài cung ứng cơ hội, làm phiền lòng muôn người. Thực tế minh chứng, đã có những kẻ cố tình phạm pháp để được đăng tên nơi báo chí; thì cũng chẳng lạ gì khi thấy có những người viết tào lao thiên tướng để mong được người khác gọi là nhà thơ. Ôi! Nói sao đây khi lỡ rơi vô trường hợp hạt bụi vô tình lọt vào tròng mắt. Ca Dao có câu, “
Nói ra thì bảo rằng ngoa, chẳng nói lại bảo người ta rằng đần.” Hơn nữa nơi cuộc đời này, không có luật đánh thuế kẻ nói phét. Biện luận rằng con gà là con chim bởi nó có hai cánh, hai chân, hai mắt, một mỏ như chim thì cũng chẳng ai thèm chấp. Cứ viết lung tung, xuống hàng từng câu ngắn để rồi gọi là thơ thì thần thánh đành im lặng, và ma quỉ cũng ngậm miệng; bởi thần thánh hoặc ma quỉ không có cái miệng của loài người để nói và cũng chẳng có tay để viết chữ.
Văn, thơ, nhạc, hội họa thuộc về nghệ thuật diễn tả tâm tình, khuynh hướng, ý định, ước muốn, ước mơ, thao thức, khát khao, ẩn chứa nơi nỗi lòng con người. Những mộng mơ vô định hướng không liên hệ thực tại hoặc điều kiện có thể thực hiện tùy theo khả năng cá nhân được gọi là mộng tưởng. Mộng tưởng quá độ được tạm gọi là khùng, là điên bởi người không khùng, chẳng điên, không thể nào có được mộng tưởng như thế; dẫu nơi thực tế đã có những đề án, kiến nghị mới thoạt đầu bị coi là khùng, là điên nhưng một thời gian sau đã trở nên hiện thực. Tuy nhiên, không phải tất cả những mộng tưởng đều là sản phẩm của những bộ óc tuyệt vời vượt trước suy tư người đồng thời. Một điều hiển nhiên, chúng ta không thể bay như loài chim nên dùng những phương tiện di chuyển khác như xe pháo hoặc phi cơ để tới mục tiêu nhanh hơn đi bộ; bởi chúng ta không được sinh ra với đôi cánh như loài chim. Do đó, kẻ nào cho dù cố gắng thực tập bay như loài chim đều được gọi là mộng tưởng, phương chi chỉ dùng đôi ngôn từ nói lên mơ ước chẳng bao giờ có thể trở nên hiện thực. Như vậy, dầu văn, thơ, nhạc, hội họa cũng cần chứa đựng những phương diện bày tỏ tâm tình, ước vọng, hoặc thao thức chất chứa nơi lòng khán thính giả.
Bởi thế, được gọi là thơ, chắc chắn cần phải là một tổ hợp văn từ bao gồm những câu ngắn chứa đựng tâm tình, ý định, có vần và điệu giãi bày sự thể hay mơ ước hiện thực nhân sinh; đã có vần và điệu, tất nhiên mang sẵn cung nhạc. Sự liên hệ giữa thơ và nhạc bắt nguồn tự điểm chung này.
Nói cho đúng, chẳng có luật lệ chung cho tất cả mọi người nơi phương diện định giá nghệ thuật; có chăng, chỉ có những định giá cùng lắm lệ thuộc ý thích đa số nơi phương diện nào đó. Thử nghe Voltaire nhận định, “
Hãy thử hỏi con cóc đực, đẹp là gì, cái đẹp tuyệt mỹ. Nó sẽ trả lời cho bạn biết, đó là con cóc cái của nó, với cặp mắt to và lồi trên cái đầu nhỏ bé, một cái miệng rộng và dẹp, một cái bụng vàng khè, một cái lưng xám sặm. Hỏi các nhà triết học, họ sẽ trả lời, cho bạn toàn những lời lúng túng, hồ đồ.” (
Cái Cười của Thánh Nhân; Nguyễn Duy Cần; Tr. 401; Dainamco; Glandale, CA 91292; USA; ?). Văn, thơ, hội họa cũng thế, tùy thuộc tâm tình, ý thích, mơ ước, hoặc khuynh hướng cá nhân thưởng thức.
Để gợi lên cảm ứng nơi lòng độc giả, một bài văn hay một bài thơ cần những điều kiện nào đó để dẫn dắt tâm tình độc giả đạt được chủ đích tác giả muốn trình bày. Như vậy xét về hình thức, bài thơ cần được bao gồm ít nhất ba phần, mở, thân, kết như một bài văn. Tất nhiên, ngôn từ, nhận thức, tâm tình hoàn toàn lệ thuộc căn cơ của tác giả. Một tác giả có kiến thức sâu rộng chắc chắn dùng ngôn từ diễn đạt khác hẳn người hiểu biết hạn hẹp, ít nhất nơi lối nhìn mở rộng. Một tác giả đã trải qua nhiều thời gian nghiệm chứng rõ ràng trình bày điều mình muốn nói qua lời thơ thanh thoát hơn kẻ chỉ hời hợt hiểu biết cho qua. Nhà Phật có câu, “
Nước nóng lạnh người uống tự biết.” Lời thơ trình bày tâm tình tác giả sẽ gợi niềm cảm ứng đồng điệu nơi giới độc giả.
Dĩ nhiên, làm thơ mà vẫn còn bị lúng túng về niêm, luật thì sao có thể sáng tạo được một bài thơ tự nhiên nói lên điều mình muốn trình bày một cách hấp dẫn. Thêm vào đó, chưa chắc bài thơ đúng niêm luật đã đánh động lòng độc giả hơn bài thơ với ngôn từ thanh thoát, coi niêm luật như trò đùa để rồi vượt hẳn lên tạo nét chuyển hướng ngỡ ngàng đầy thú vị nơi độc giả. Tuy nhiên, với mục đích đưa lên nhận định cơ cấu của một bài thơ sao cho phù hợp với tính chất cân phương nơi một bản nhạc, chúng ta cần biết sơ qua về cơ cấu tối thiểu của một bản nhạc.
Thử nhận xét các bản nhạc do nhạc sĩ sáng tác (
Nhạc sĩ sáng tạo bản nhạc. Nhà hòa âm, phối khí và hòa âm cho ca sĩ hát bản nhạc. Những người dùng nhạc cụ tạo âm thanh theo bản hòa âm được gọi nhạc công. Không hiểu danh hiệu “Nhạc sĩ dương cầm,” “Nhạc sĩ guitar,” phát sinh từ đâu ra), lời ca nơi các bản nhạc này đều là những bài thơ tự do, có vần và điệu; số chữ nhất định nơi mỗi câu tùy thuộc cung nhạc sao cho cân phương. Thí dụ, bản nhạc, “Hoa Trinh Nữ,””Hoài Cảm,” v.v
Đọc lời ca của những bản nhạc này, chúng ta thấy tác giả phân chia rõ ràng mở, thân, kết. Đại khái được chia thành: Tiểu khúc 1; tiểu khúc 2, cung nhạc lặp lại tiểu khúc 1 nhưng khác lời; điệp khúc; và tiểu khúc 3; tiểu khúc 4 (kết), nhạc lặp lại tiểu khúc 1. Đại khái, hình thức lời ca bản nhạc giữ đúng căn bản, mở, thân, và kết được chia ra như sau, phần đầu hai khúc, phần giữa hai khúc, và phần cuối hai khúc, (vị chi 6 khúc). Cung nhạc khúc 2, khúc 5, và khúc 6 lặp lại cung nhạc khúc 1. Nơi phần điệp khúc, cung nhạc khúc 4 lặp lại khúc 3. Cơ câu này được gọi là cân phương nơi một bản nhạc. Như vậy, lời ca phải được soạn thảo sao cho hợp với cung nhạc nhất định đồng thời mang ý nghĩa tác giả muốn trình bày. Xét thế, có được một bản nhạc đúng qui ước (ngày xưa), tác giả phải là người có kiến thức rộng rãi, rành rẽ về luật thơ, và có khả năng sử dụng ngôn từ chính xác, thăng hoa.
Luật cân phương một bản nhạc có thể được cải tiến bao gồm hai khúc đầu, hai khúc giữa, và một khúc cuối (vị chi 5 khúc. Cung nhạc khúc 2 và 5 (cuối) giống nhau. Cung nhạc khúc 4 lặp lại cung nhạc khúc 3. Tương tự, bản nhạc có thể chỉ bao gồm 3 khúc, khúc đầu, khúc giữa, và khúc cuối. Cung nhạc khúc cuối giống như cung nhạc khúc đầu. Khúc giữa cung nhạc được đổi cho thêm phần sống động. Luật cân phương được đặt ra mục đích cho dễ nhớ, dễ hát, ngày nay chúng ta thường gọi là nhạc “Tour.” Ấy, cái được gọi là nhạc vàng chính là nó.
Bản nhạc được phổ từ thơ khó nhớ hơn bởi cung nhạc tùy thuộc lời thơ nên âm thanh bị áp đặt không thể ráp vô khuôn lặp lại như bản nhạc sáng tác. Nơi bản nhạc sáng tác, nhạc được viết trước, lời được chọn lựa, cân nhắc ráp vô. Ngược lại, bản nhạc phổ từ thơ thì thơ đã có sẵn, cung nhạc đành chịu lệ thuộc. Do đó, bản nhạc phổ từ thơ chỉ được áp dụng tối thiểu luật cân phương bao gồm số câu, số chữ nơi mỗi câu và hình thức căn bản lời ca, mở, thân, kết.
Đối với những bài thơ 4 chữ, 5 chữ, nên được viết ít nhất thành 6 khổ, hai khổ đầu, hai khổ giữa, và hai khổ cuối. Thơ 6, 7, 8 chữ cần được viết 4, 5 khổ sao cho rõ ràng mở, thân, kết. Nhịp nhạc được chia nơi phần mở và kết giống nhau dẫu cung nhạc khác biệt. Xét thế, một bản nhạc được phổ từ thơ có cung điệu thay đổi nên luôn luôn mang nét mới lạ, thay đổi tránh nỗi nhàm chán do cung giọng bị lặp đi lặp lại khiến những người khó tính cho là “Sến.”
Theo quy ước nào đó không rõ (ai biết, chỉ dùm), định chế khuôn mẫu (standard) một bản nhạc bao gồm 3 phần, phần đầu 32 khuông (measure), phần giữa 32 khuông, và phần cuối 32 khuông. Tuy nhiên, không có âm nhạc dở, nếu nghe thấy nó hay thì nó hay. Không thích nó thì nó vẫn là nó, là sản phẩm của đầu óc nào đó mà thôi. Không gì mới lạ dưới ánh mặt trời thì cũng chẳng có luật nào giới hạn âm nhạc bởi đó chỉ có một luật độc nhất đó là không có luật nào cả. Tất nhiên, muốn chạy thì phải biết đi; muốn áp dụng phá cách hoặc xử dụng luật trừ lại cần biết luật bởi không biết luật sao có thể phá cách.
Loại thơ nào phổ nhạc khó nhất? Xin thưa, thơ lục bát. Thơ lục bát tự nó đã có cung nhạc nhất định (Nói cho vui, tạm gọi cung mò chén; lục: lục lọi, mò mẫm; bát: chén bát). Ai tự hào giỏi dang, cứ thử phổ 10 bài thơ lục bát cùng nhịp 4/4 hoặc cùng nhịp 3/4 sao cho không bài nào cung điệu trùng hợp với 9 bài kia sẽ biết ngay.
PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG Tôi rất chán ghét, nói đúng hơn, sợ việc phê bình văn chương. Bất cứ cuốn sách, truyện nào, tác giả ít nhất đã có công viết xuống, nếu không muốn nói là vặn óc bóp đầu nặn ra tác phẩm. Dẫu tác phẩm đó như thế nào, phỏng ai có đủ thẩm quyền để phê bình? Hơn nữa, tất cả những sự phê bình trên thế gian này đều được đặt trên căn bản nhận thức cá nhân. Những nhận thức cá nhân này dù hay đến đâu, được nhiều độc giả ngưỡng mộ cách mấy cũng đều bị thiên kiến; tác phẩm đã bị kẻ phê bình nhìn qua lăng kính riêng tư, sai trệch mà nhiều khi đối nghịch với chủ đích của tác giả. Thử nêu lên một thí dụ; ai không có nhận định về câu:”
Được chim quên ná, được cá quên nơm” chỉ về phường vô sỉ nếu xét qua lăng kính luân lý, mang ý nghĩa chẳng khác gì câu “
Qua sông đấm cò vào sóng.” Nếu bạn đồng ý với tôi về đôi giòng chữ vừa đọc, bạn bị tôi lừa một vố to! Nói thì nói vậy, nếu bạn cảm thấy bị lừa, bạn cũng như tôi, chúng ta đã bị lừa bởi nét nhìn thiển cận, thiên kiến của người nào đó vô tình chép câu này nơi Tục Ngữ, Ca Dao.
Từ khi để tâm nhận xét nên nhận thấy lối nói của người Việt thường dùng Tục Ngữ, Ca Dao, tôi nhận ra được lắm điều lạ lùng. Trước hết, Tục Ngữ, Ca Dao, thường được coi là văn chương bình dân nhưng tôi không thấy kho tàng văn chương của dân Việt này bình dân chút nào, mà ngược lại, kho tàng thường được coi là văn chương bình dân chất chứa đậm nét uyên bác, thức giả dẫu người đọc cảm thấy bình dân. Tất nhiên, viết như vậy, bạn đã thừa biết tôi đã hiểu lệch về nghĩa của hai tiếng bình dân. Và khi để ý nhận xét về những câu chứa đựng trong Tục Ngữ, Ca Dao, tôi đã phải ăn năn, tâm phục, khẩu phục, bởi bao tháng ngày đã qua tôi vô tình không nhận biết giá trị của những lời nói đơn thuần phát ra từ đầu môi chót lưỡi nơi con dân Việt. Cũng chính vì nhận biết lỗi lầm này, tôi cảm thấy đáng thương cho những ai vô tình phỏng theo trào lưu hùa theo kiểu ăn nói được dịch từ lối nói “ngoại lai” cho có vẻ văn minh do không nhận biết thực thể kiểu cách thâm trầm nơi lối nói bình thường của người Việt. Thí dụ, lần nào đó vô tình bạn nghe thấy một bà già nhà quê phàn nàn về ai đó, kết luận một câu, “
Đồ ăn cháo đá bát.” Kể cũng lạ, nào ai trong cuộc đời này thừa công đá bát của người; lại càng không bao giờ đá bát của mình; bởi lỡ nó bể sẽ tốn tiền mua cái mới. Thế mà câu nói ám chỉ, “Ăn cháo đá bát” đã bao lần ngự trị trên đầu môi chót lưỡi của bạn của như của tôi. Gọn gàng, văn chương, mang thừa ý nghĩa muốn nói nhưng lại quá ư bình dân;
quả đáng thậm phục quý vị thức giả tiền nhân dân Việt.
Tuy nhiên, câu, “
Được chim quên ná, được cá quên nơm,” dưới lối nhìn luân lý mang ý nghĩa không khác gì câu “
Qua sông phụ sóng,” hoặc, “
Ăn cháo đá bát,” thực ra được phát xuất từ Trang học. Câu này là một phần của câu nói đặt vấn đề về điều kiện tâm trí của người muốn thăng tiến trên hành trình tâm linh, dõi theo sách vở đạo học. “
Đươc chim quên ná; được cá quên nơm; được ý quên lời,” có nghĩa tương tự câu nói nơi Phật học, “
Lời ta nói như chiếc bè”(Thích Ca), hoặc,”
Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.” Nếu bạn nào vô tình đọc Phúc Âm sẽ thấy những câu mang nghĩa tương đồng của lối ám định này, “
Rượu mới không đổ bì cũ,””
Vải mới không vá áo cũ.”
Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa;””
Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai con gái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta,” hoặc, “
Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng.”
Được chim quên ná, được cá quên nơm là câu nói thuộc về đạo học chỉ điều kiện tâm trí hành giả không nên bám víu hay lệ thuộc vào những ý kiến cá nhân hay bất cứ sự hiểu biết, học thức nào khi chiêm nghiệm những lời khôn ngoan nơi hành trình tâm linh hầu thức ngộ. Thực thể cuộc sống chứng minh, nếu mình đã sai lầm một lần, tất nhiên có thể sai lầm lần thứ hai, và cũng có thể sai lầm lần thứ một ngàn. Tương tự như thế nơi sự phê bình văn chương, điều kiện cuộc sống, khả năng giãi bày, điều kiện nhận thức, mục đích của tác giả, kèm thêm thái độ nơi vị thế tác giả; tất cả những sự thể nào xảy đến nơi thời điểm sáng tác, nhà phê bình sao có thể am tường, thì sự phê bình chắc chắn chẳng khác gì người đeo cặp kiếng mát, nhìn mọi sự vật đều bị lệch lạc không ít thì nhiều về màu sắc. Sự sai lầm hiển nhiên không đáng cho tôi chán ghét, nhưng chính sự nhân danh nhận định chung nếu không muốn nói mình là tổng hợp nên đại diện cho tư tưởng quần chúng đưa lên nhận định, phê bình; quả thật đáng chán ghét!
Thế nên, đôi khi hứng bất tử do cảm ứng phần nào từ sự diễn giải hoặc bày tỏ của tác giả nơi tác phẩm nào đó, tôi quen thói ngứa nghề; nói cho đúng, nghề nghiệp của tôi không phải sự viết lách kiếm miếng cơm manh áo, nhưng nói lóng theo Tục Ngữ, Ca Dao, hay tục hơn chút nữa phải gọi là động cỡn vì đồng thanh tương ứng; tôi ngứa tay, viết hay gõ bàn chữ nói lên cảm nhận cá nhân về một tác phẩm nào đó. Viết chỉ để viết hoặc giải tỏa nỗi hứng khởi nơi cảm nhận từ tác phẩm; mục đích tôi viết chỉ có thế. Đúng, sai, phải, trái đối với bất cứ ai đọc những gì tôi viết, tôi không để ý; vì chung quy, đó chỉ là cảm nhận riên tư của tôi. Hy vọng tác giả lượng thứ cho những thiếu sót chỉ vì tôi không phải là tác giả của tác phẩm được cảm ứng.
ĐIỂM CHUNG CỦA ĐẠO HỌC Những sách đạo học thường được gọi là kinh, chẳng hạn Kinh Thánh, kinh Đại Niết Bàn, kinh Hoa Nghiêm, Đạo Đức kinh, Nam Hoa kinh v. v... Những kinh sách này bao gồm những câu khôn ngoan, kết quả hay tóm lược kết quả của những nghiệm chứng, suy tư của các bậc thức ngộ, hay các đấng lâm phàm; chẳng hạn, Lão Tử, Thích Ca, Jesus... được muôn đời kính ngưỡng.
Nơi sách
Giảng Viên có câu, “
Không có gì lạ dưới ánh mặt trời” (1:9) nhưng cải biến, chuyển hóa, kiến tạo, thì mọi sự đều bắt nguồn từ con người. Nếu không có con người, mọi sự, mọi vật đều như thuở ban đầu. Con chim biết công rác xây tổ; con voi ăn cỏ biết đập cho cỏ sạch những con kiến; con khỉ biết nuôi con, biết chọn những trái cây ăn được, nhưng tất cả tự ngàn xưa, nay vẫn thế.
Mọi sáng kiến, thay đổi tùy thuộc nhu cầu của con người và tất cả đều là sản phẩm của con người từ phương tiện di chuyển đến những sự việc cao cà tiến bộ hơn. Chẳng những thế, con người còn có khát vọng tâm linh, muốn nhận biết thân phận mình, được sinh ra, sống, và chết rồi sẽ đi về đâu. Dĩ nhiên, dù quan niệm thế nào chăng nữa, được sinh ra hay bị sinh ra, đã có cuộc sống thì phải sống và muốn sống sao cho có cuộc đời dễ thở hơn nên suy nghĩ, tìm tòi mọi cách, phát huy, phát triển mọi phương diện hầu thăng tiến cuộc sống của mình.
Thế nên, mọi sự biến chuyển phát sinh từ suy nghĩ. Có câu nói, “
Khi con vật ăn no, chúng ngủ; con người, khi có đủ cơm no, áo ấm thì họ suy nghĩ.” Người ta muốn đi nhanh hơn đi bộ nên nghĩ ra xe đạp; đến khi tìm ra xăng dầu, người ta lại chế ra máy móc, xe máy, xe hơi, máy bay.
Nơi phương diện tâm linh, cũng có những người thuộc thành phần muốn biết thân phận mình nên suy tư để tìm hiểu họ từ đâu tới, muốn biết mục đích của con người là gì, và sau khi có quãng thời gian sống họ sẽ ra sao. Cuộc đời con người bao gồm những gì. Tại sao họ được sinh ra? Những tác phẩm họ để lại gọi là sách đạo học (Mysticism).
Muốn hiểu được những câu nói nơi đạo học, thành quả suy tư, con người cần phải tự suy nghĩ, nghiệm chứng, nghiệm xét, suy tư. Nói theo Phao lô như trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, “
Đừng dập tất thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự.” Đồng thời, khi nghiệm chứng, nghiệm xét, nên, “
Ưng vô sở trụ,” “
Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo truyền thống người phàm, theo nhân tố trần gian.”
Tuy nhiên, không phải chỉ những người không bằng lòng với số phận muốn tìm hiểu thân phận mình, mà hầu hết mọi người đều thao thức muốn nhận biết thân phận mình, dẫu niềm thao thức, khát khao này mờ mờ, ảo ảo, bẩm sinh; hơn nữa, cuộc sống nhân sinh quá ư phức tạp khiến con người bận rộn mưu sinh, lại thêm tham vọng đủ chiều hướng nên không để ý tới khát vọng, thao thức mờ ảo bẩm sinh này. Hơn nữa, quá quen với, “Tay làm, hàm nhai,” muốn có gì chúng ta phải thực hiện gì; sự suy tư tâm linh dần đi vào quên lãng cho hợp câu, “
Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ đã không có thì dù có ít cũng bị cất đi.” Rồi vì tham vọng truyền bá đạo học cho mọi người phát sinh sự cố gắng giải thích để mọi tầng lớp người tin theo tạo dựng tôn giáo. Chắng lạ gì, tôn giáo là lớp người có cùng niềm tin. Do đó, chúng ta thấy nơi nào đạo học phát triển, nơi đó phát sinh tôn giáo đó.
Sự quảng bá, triển dương đạo học gặp nhiều khó khăn và tủy thuộc tính chất phát triển của con người. Thoạt đầu, các môn đồ, những người nhận thức đạo học từ các đấng lâm phàm, để rồi những người tin theo dần mất nét tinh túy các đấng lâm phàm để lại, chỉ lo triển dương tổ chức thế tục thay vì, “
Quí hồ tinh bất quí hồ đa,” cho rằng nhiều người tin theo là đúng nên lo phát triển tổ chức tôn giáo, hạ thấp hay dùng lý luận hữu vi, đạo đức thế tục để thu hút tín đồ, nên cho đến nay, nhà Phật gọi là “Mạt pháp,” Công giáo dùng luân lý, đạo đức thế tục để giảng Phúc Âm. Thử hỏi có vị tiến sĩ nào hoặc học giả Kinh Thánh dám lấy câu, “
Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi,” làm đề tài luận án tiến sĩ? Hoặc bất cứ câu nói ngang ngang, ngửa ngửa, “
Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta,” Hay, “
Kẻ trước hết sé trở nên sau hết.”
Nhưng những người nghiệm xét thì im lặng bởi, “
Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi,” nói ra chẳng ai hiểu mà coi chừng lại bị vu vạ cho là rối đạo hoặc tà đạo bởi, “
Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết,” cho hợp với câu, “
Người biết không nói, kẻ nói không biết,” hay, giống như câu trả lời của tổ Huy Sơn với Hương Nham, "
Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!"
Điểm chung của các đạo học là cần suy nghĩ, nghiệm chứng, nghiệm xét đến tận cùng ý nghĩa của câu nói. Suy nghĩ trong bao lâu không ấn định được, có khi một vài ngày, hoặc một đôi tháng, hay cả chục năm, hay không bao giờ. Thí dụ, Bài thơ con cóc, “
Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra; con cóc ngồi đó; con cóc nhảy đi,” cho tới ngày nay, thành ngữ, “Thơ con cóc” ám chỉ làm thơ dở vẫn được dùng theo nghĩa này, Hoặc, “
Ai có tai thì nghe,” “
Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết,” đã hai ngàn nắm vẫn là thách đố cho người suy nghĩ. Câu nói của lục tổ Huệ Năng, nhà Phật, “
Kiến tính thành phật,” hoặc “
Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” được bao nhiêu người ngộ?
Một điểm khác là có một quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật. Quyền lực này được mệnh danh khác nhau tùy theo lối nhìn của những nhà nghiệm chứng. Chẳng hạn, nơi Phật học, quyền lực tối thượng được mệnh danh là Chân Như; Kinh Thánh gọi là Thiên Chúa; Lão học gọi là Tào; nhà Ấn gọi là Brahma. Vì thế, Đông Phương học đưa ra lý thuyết, “
Vạn vật đồng nhất thể,” quyền lực này hiện hữu ngay nơi mọi tạo vật, mọi loài. Nên nơi nhà Ấn khi Ramakrishna nơi một ngôi đền cổ, nghiệm được điều này hô lên, “Cha ta và ta là một.” Nhà nghiệm chứng nơi Phúc Âm Gioan, cũng hô lên điều này.
MỘT LỐI NHÌN VỀ PHÚC ÂM Các học giả Kinh Thánh đều cho rằng Phúc Âm vết về cuộc đời đức Giê su, mầu nhiệm cứu độ. “
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có một cái nhìn độc đáo về mầu nhiệm Đức Giê su và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Theo Gioan, Đức Giê su là Ngôi Lời tiên hữu trong Thiên Chúa trở nên người phàm vì được Chúa Cha sai xuống thế gian để thực hiện một sứ mạng” (
Kinh Thánh Tân Ước; Dẫn nhập Gioan; Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ; 1994; Tr. 388).
Nơi phần “Dẫn nhập Matthêu được viết, ”
Điều mà tác giả nhắm là trình bày con người của Đức Giê su và sự nghiệp của Người” (KTTU; Tr. 51). Tại phần Dẫn nhập Marcô thì lại được viết, “
Tin Mừng của Thiên Chúa chính là Đức Giê su Kitô, Con Thiên Chúa” (KTTU; Tr. 176); và rồi nơi “Dẫn nhập Luca,” được viết, “
Công bố cuộc đời Đức Giê su, coi đó chính là lịch sử cứu độ… Công trình của ngài là của tác giả một sách Tin Mừng” (KTTU; Tr. 242).
Nểu hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương là công bố cuộc đời của đức Giê su, làm sao ai có thể thực hiện hoặc giải thích câu, “
Nếu mắt các ngươi làm cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi; nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi,” “
Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta.” Riêng Phúc Âm Gioan, sao có thể nói là, “
Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời,” nếu không phải là nghiệm xét, nghiệm chứng theo sự tưởng tượng, suy nghĩ, suy tư, của tác giả. Nói cách khác là nghiệm xét cá nhân, sự suy nghiệm về thân phận của đức Giê su.
Ba Phúc Âm Matthêu, Marcô, và Luca dùng đức Giê su như mốc điểm để khuyến khích, thách đố người đọc nghiệm xét. Nguyên tắc nghiệm xét, Phao lô đề nghị,
“Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điểu gì lành hãy giữ lấy, hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-22). với tâm tình,
“Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8).
Nơi thư Giacôbê, thánh nhân khuyên, “
Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe lời Chúa mà không thực hành thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào.” (James,.1:22-24). Phúc Âm Marcô trích lại lời tiên tri Isaia, “
Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc. 7:6-7).
Đồng thời, Phức Âm Matthêu còn nói rõ,
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi,” (Mt. 7:21)
Đã bao năm lời dạy, “Chúng ta phải tin với giáo hội,” trong khi Công Đồng Vatican II định nghĩa “Giáo Hội là dân Chúa,” chúng ta cần phải đặt lại vấn đề thế nào?
Xưa nay, dân Chúa khi đọc hoặc nghe câu,
"Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết, các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản" (Lk. 11:52) thì tưởng tượng rằng đức Giê su lên án Biệt Phái và các luật sĩ thời đó vì cho rằng họ chống đối lời giảng dạy của ngài. Nếu phiếm diện hiểu Phúc Âm theo nghĩa từ chương, đọc sao hiểu vậy, thì sao Phúc Âm lại có câu, “
Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng dày đạp mất và quay lại chúng cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6). Vậy của thánh là gì? Bầy heo hoặc chó ám định gì?
Nơi Phúc Âm có những câu nghe thì rất bình thường nếu không muốn nói quá ư tầm thường nhưng không thể nào áp dụng vào cuộc sống. Muốn am hiểu phải suy nghi, suy nghiệm, nghiệm chứng. Chẳng hạn, thử trích vài câu nơi Phúc Âm Matthêu.
5:29 Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. 5:30 Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục. 5:39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 5:40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 5:41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 5:42 Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi. 6:6 Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. 6:33 Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. 9:16 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. 9:17 Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai. 10:34 "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. 10:35 Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. 10:36 Kẻ thù của mình chính là người nhà. 10:37 "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. 10:38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. 12:31 Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. 12:32 Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau. 12:50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi". 13:9 Ai có tai thì nghe". 13:12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. 13:13 Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Mới chỉ thử xét 12 chương của Phúc Âm, chúng ta nhận thấy không cách nào áp dụng vào thực tế những câu Phúc Âm này; hay như quá thường được thực nghiệm chúng trong cuộc đời. Sự thể này nói lên Phúc Âm không nói về luân lý, đạo đức thế tục, Phúc Âm chỉ nói về tâm linh, những gì xảy đến trong suy nghĩ, nghiệm xét, nghiệm chứng. Phúc Âm dùng sự kiện thế tục, hữu vi để ám chỉ diễn tiến trong suy luận, thường được gọi là cầu nguyện. Nơi các sách vở đạo học gọi là nghiệm chứng, Phao lô gọi là nghiệm xét, thông thường chúng ta gọi là suy nghĩ, suy tư.
Dù những người không tin theo Công giáo, họ cũng là dân của Chúa bởi họ có linh hồn dẫu nhận biết Thiên Chúa hay không. Thử hỏi, ai là người không có linh hồn? Như chúng ta, những người Công giáo, nhưng khi đặt vấn đề linh hồn mình thế nào, hình đáng ra sao, liên hệ đến xác thân, cuộc đời mình thế nào, phỏng ai trả lời được không. Mình có linh hồn mà không biết nó thế nào, liên hệ đến thân xác và cuộc đời mình ra sao thì ai có thể biết. Nói rằng tin mình có linh hồn nhưng không biết nó thế nào thì cũng như không, niềm tin này vô bổ, chỉ là lo sợ hão huyền. Các nhà rao giảng chỉ tuyên dương điều họ không biết vì nểu hỏi họ, họ cũng chẳng biết linh hồn của họ thế nào.
Như thế, chúng ra cần thực hành lời khuyên của Phao lô “
Nghiệm xét mọi sự” và “
Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8).
Nghiệm xét thế nào, xin thưa, bất cứ những gì đến với tâm trí, đến với suy nghĩ, chúng ta cần đặt vấn đề. Chẳng hạn, ý muốn, ý nghĩ từ đâu ra? Bộ óc là vật chất phỏng có phát sinh ý muốn, tư tưởng được không? Cuộc đời chúng ta luôn luôn làm theo ước muốn của mình. Mắt chúng ta nhìn, nhưng khi linh hồn ra khỏi xác, mắt có thể còn nhìn được không? Tai có thể nghe, óc có hoạt động được nữa không khi linh hồn ra khỏi xác. Như vậy, xác là thế nào đối với hồn; không ai có thể chỉ cho chúng ta điều này, cần tự mình suy luận; đó là lý do tại sao Phao lô nói, “
Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8). Chúng ra rất giỏi trong việc tính toán làm ăn nhưng ít khi để ý đến thực thể chính mình. Những gì mình có lại coi thường. Phúc Âm viết về chính mình, nhưng chúng ta cứ cho rằng Phúc Âm viết về chuyện người khác.
Suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ độc lập, không tin ai hết; cái biết của họ đúng cho họ, linh hồn của họ không phải của chúng ta. Cái thích của họ khác với cái thích của chúng ta; nên có câu, “
Đừng làm những gì mình thích cho kẻ khác vì chưa chắc họ thích giống mình.” Đôi khi những gì mình thích lại là khổ ải cho người khác; những gì họ thích lại là điều làm phiền mình. Cái đúng, cái hay của người này, nhiều trường hợp lại là cái sai của kẻ khác vì điều kiện liên hệ khác nhau. Thế nên, Phao lô khuyên, “Đ
ừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em.” Tương tự như thế, Phúc Âm nêu ra những trường hơp “
Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi làm cờ cho ngươi vấp phạm thi chặt mà quăng chúng đi” (Mt. 5:20), “
Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta, không đáng là môn đệ ta,” “
Kẻ tra tay cầm cày mà quay trở lại thì bất kham vời nước Thiên Chúa,” là những câu khôn ngoan từ ngàn xưa để lại để chỉ về nhận thức khi suy nghiệm.
AI CÓ TAI THÌ NGHE Nơi chiếc bàn dài được phủ lịch sự bằng chiếc khăn nhựa màu trắng, trên đó có hai thẩu rùa nấu cà ri, hai đĩa nem lớn, hai đĩa những xâu thịt nướng, và hai đĩa bún … rồi nào rau sống, rượu bia, nước chấm, bát đũa, ly uống rượu… cùng 9 người ngồi chung quanh, sáu nam, ba nữ vui vẻ mang đượm tính chất thân tình nhưng không kém phần trịnh trọng. Để mở đầu bữa tiệc, ông Hoan đứng lên phát biểu,
- Thưa cha cùng quí vị, chẳng giấu gì, chiều nay mượn hoa hiến phật, nhờ ông Thuận gặp thần thánh trời ban, chúng con mời cha đến thông phần chia sẻ sự sống ngàn năm; vì chỉ mấy người chúng con e chịu không nổi… xin cha ban phép của ăn.
- Ông nói tôi ban phép trong khi lại mời thông phần là thế nào? Cha Hải lên tiếng.
- Thưa cha, thì cha cũng biết, con nói cho đúng lễ độ cuộc đời, thuận theo chức phận dân gian, thêm mắm thêm muối cho dư già, thừa thãi văn chương kẻo người ta phê phán không biết kính trọng các đấng làm thày cho thêm phần thân tình, chứ chả lẽ không nói thì lại bị chê là thiếu phép lịch sự; vì con nghí cha đã đến thì con chẳng nên nói gì, và cũng bởi vì con phải nói mà chẳng biết nói gì.
- Đúng là người biết không nói, kẻ nói không biết. ông Thanh đế vô.
- Sao lại người biết không nói?
- Thì các ông giỏi, các ông hay mà ngồi im.
- Thế sao ông nói thông phần, cha Hải chen vô.
- Thưa cha, ông Hoan ra vẻ trịnh trọng, con rùa này có lẽ đã ngàn năm tuổi mà chúng con chỉ có tám người, e rằng thưởng thức vào sống lâu quá chịu đựng không nổi cảnh khó khăn, đày ải của cuộc đời nên cả dám mời cha gánh vác bớt được phần nào hay phần nấy. Còn ban phép thì nói theo thông lệ chứ đồ ăn thức uống đầy đủ cả mà không mời đi, lỡ hư thì phí của Chúa ban cho. Nói qua, nói lại e có người xỉu vì khát nước, mời cha làm dấu…
Xin Thiên Chúa chúc lành cho… nhân danh Cha và Con và Thánh Thần Amen. Đó, làm dấu rồi, ông Hoan giải thích vì sao phải thông phần.
- Mời cha ly rượu này, ông Hoan rót rượu Hennessy ra ly, đặt trước cha Hải, đoạn lên tiếng rồi rót cho mình đoạn chuyền chai rượu nừa gallon cho người kế bên, nói tiếp,
- Chả giấu gì cha và mọi người, hôm nọ ông Thuận đi Atlanta, trên đường 61 tránh bất chợt kẹt cầu, gặp được con rùa khổng, có lẽ hăm mấy pounds. Đem về, ngâm nước hai tuần cho sạch sẽ nên mới có món rùa cà ri. Cha thử tính coi, chúng con người nào người nấy, kẻ sáu mấy, người bẩy chục, trẻ lắm như các bà ấy thì cũng trên sáu chục mà chia phần rùa ngàn năm thì chịu đựng sao nổi nên đành phải mời cha thông phần.
- Vậy là các ông muốn tôi chịu đựng khổ ải vì sống lâu…
- Không có đâu, cha nên sống lâu để cứu giúp dân Chúa.
- Tôi không hiểu rùa sống lâu thế nào, nhưng nó đang nằm trên thẩu thì thử hỏi ăn nó coi chừng theo nó. Thôi để tôi lấy nước thánh rửa lòng ruột trước khi thông phần, cha Hải nói xong uống miếng rượu. Thế sao ông Thuận bắt được con rùa ngàn năm này?
- Thưa cha, ông Thuận lửng thửng trả lời, hôm con đi Atlanta thăm bà chị, vì tránh kẹt cầu nên đi đường 61. Khi đi tới ngang khu đầm lầy của mấy hãng lọc dầu thấy con rùa đang lửng thửng bò ngang đường. Phải vất vả lắm mới bợ cụ lên được phía sau xe pick up truck, mang đi Atlanta, rồi trở về ngâm hai tuần cho sạch, thượng cụ lên thẩu mời cha đến ban phép thông phần. Ấy là bấy nhiêu sự con xin trình bày; xin cha cùng quí vị chiếu cố.
* * *
Cha Hải, cỡ độ sáu mấy, tính tình hòa nhã, dễ mến, nhưng đôi khi có những câu nói bất thường khiến người nghe chưng hửng, khó hiểu, và đôi khi lạc đề. Thái độ của ngài rất tự nhiên nếu quen biết lâu, nhưng có vẻ khác thường với những ai chưa quen biết,
Cũng chẳng lạ gì, được sinh trưởng trong một gia đình dân giả, nghèo nàn, trải qua thời thơ ấu chốn dân quê dưới áp lực cuộc sống nơi đất nước trầm luân trong chiến tranh, mọi nỗ lực được dồn vào khay năng sinh tồn kiếm sống và học hành, ít nhất tránh khỏi thân phận lính tráng thời chiến, qua những thất bại nho nhỏ do thiếu kiến thức, tạo thành phương pháp đã giúp ngài nhận chân được những điều cần thiết nơi mình mà mở rộng lòng học hỏi.
Với hệ thống thi cử ngày xưa, ngài đã không đủ tuổi để thi trung học đệ nhất cấp. Năm sau, học lớp đệ tam ngài trở lại thi bị hỏng. Cú hỏng thi giáng đòn cân não nặng nề thức tỉnh ngài tìm lý do thi trượt. Nhân một hôm đến nhà người quen đang học đệ nhất, thấy trên bàn học của anh ta co mấy cuốn sách giải bài tập toán, lý hóa, ngài chợt hiểu ra nguyên tắc tại sao mình bị rối lung tung nơi những bài tập của các môn toán học, đã thiếu thực hành các phương pháp lý giải.
Âm thầm, lòng dặn lòng quyết định thử, ngài xin mẹ tiền mua một lô sách bài giải các môn toán lý hóa, thêm một tập vở để ghi chép, phân chia các định lý, định luật của mỗi môn học cho dễ nhớ khi cần phải ôn lại. Ngày tháng trôi, lối học cày theo những công thức, phương pháp thực tập giải toán trường lớp dẫu phát huy trăm hay, tay quen, kiến tạo giả tưởng khả năng thiên bẩm khiến ngài tưởng mình giỏi toán. Nhưng quả là lầm lạc, áp lực thi rớt phải đi lính, những khó khăn cuộc sống kiến tạo ý chí, tạo thêm khả năng kiên quyết học hành mong sao mai này có cuộc sống dễ thở hơn hầu thêm năng lực bẩm sinh, dẫu các phương pháp giải toán lý hóa đem lại căn bản lý luận cho suy tư sau này.
Mãi cho tới năm 1980, sau năm năm trần ai kiếm sống, bị hưởng cảnh huy hoàng của thời tứ cố vô thân, ít nhất qua sáu tháng sáng nhịn đói, trưa giả đò tới thăm hỏi người quen vào đúng bữa ăn may kiếm được gì bỏ bụng, và tối uống nước lạnh đi ngủ. Có cơ hội vượt biên dẫu túi trống rỗng, ngài vẫn chưa biết mình có khả năng gì, cứ tưởng học hành, nhồi nhét vào đầu những kiến thức hữu vi như mọi người hy vọng có được cuộc sống vượt lên là đủ.
Dĩ nhiên, trải qua cuộc đời thơ ấu khó khăn, đối diện với cảnh thân tự lập thân kiếm sống dãi dầu qua năm tháng cơ hàn kiến tạo nhận thức tự lập đã giúp ngài mở rộng lòng tìm tòi học hỏi để mong nhận biết mình thực sự thế nào. Tự học, tự tìm hiểu qua cuộc sống, âm thầm để ý đến thực tại tất nhiên có được kinh nghiệm, nhưng nào có kinh nghiệm nào giống kinh nghiện nào. Phương tiện tuyệt vời nhất lại lá sách vở. Khổ nỗi, sách vở thì nhiều, suy tư cũng lắm nhưng trí nhớ có hạn, con người trở thành bối rối trước ngưỡng cửa trăm lối.
Năm 1983, trước vài ngày nhập năm thứ nhất thần học tại CTU (Catholic Theology Union), nhân tiện ghé qua tiệm sách của người Việt tại Chicago, Mỹ quốc, thấy cuốn
Lão Học Tinh Hoa, tác giả Nguyễn Duy Cần, ngài cầm lên coi thử; câu nói, “
Người nói không biết, kẻ biết không nói,” khiến tâm hồn ngài ngẩn ngơ. Chẳng những thế, sau đó, loạt sách đạo học đã có những câu chẳng ngờ vây kín tâm tư, nhưng bốn năm thần học, bài vở gây áp lực ép tâm trí chiều theo suy nghĩ thế tục.
Dĩ nhiên, sách vở thì nhiều và kiến thúc mới lạ cũng không ít, nhưng hình như kiến thức nơi sách vở không thể thỏa mãn lòng khao khát tiềm ẩn nơi tâm trí. Cha Hải đam mê đọc, có khi đọc quên ăn, quên ngủ đủ loại. Nhớ lại, những ngày luyện thi năm I Đai Học Văn Khoa, tiệm sách cho thuê gần nhà trọ đã không còn sách cho ngài đọc. Nay đụng phải cuốn “Lão Học Tinh Hoa,” đã bốn lần đọc lại nhưng ngài vẫn không thể bắt được ý chính tác giả muốn truyền đạt, nhất là câu nói nghịch thường “
Người biết không nói, kẻ nói không biết.”
Thần học tuy bài vở không ít lại bằng Anh ngữ, nhưng những lý luận hữu vi lòng thòng chưa quen cũng không thể làm khó tâm trí; thế sao chỉ một câu nói nghịch thường lại luôn ám ảnh đầu óc khiến không ngưng nghĩ tới. Mà tại sao người biết lại không nói, và người nói lại không biết?
Thế rồi những cuốn sách, được viết hay dịch về đạo học Đông Phương do các tác giả người Việt kích thích tâm trí, khiến cha Hải quay cuồng với làn sóng tư tưởng Đông Phương, cùng những câu nói nghịch thường khó hiểu luôn dồn tâm trí vào đường cùng, không phương suy luận.
Phúc Âm, một phần của Kinh Thánh cũng mang những câu nghịch thường, khó hiểu chẳng khác gì các sách đạo học đôi khi mang những câu nói quá đa quá độ, coi trời bằng vung, coi ngưởi như con vật, khiến cha Hải xất bất xang bang mỗi khi soạn giảng. Đang nói về trường hợp này, câu kết luận trật duộc sang lãnh vực khác hoặc ngờ nghệch chẳng khác chi bên Phật học, Lão học.
Bài Phúc Âm chủ nhật thứ 15 mùa thường niên năm A, nói về phận số của những hạt giống được đem đi gieo. Sau khi gỉải thích kết quả của những hạt giống rơi bên vệ đường, bụi gai, hay được gieo vào môi trường đất đai thuận lợi, bài Phúc Âm kết luận, “
Ai có tai thì nghe.” Đúng, ai có tai thì nghe; vậy ai là người không có tai? Quả chẳng khác gì nhà Phật nói, “
Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.” Điều này ai mà không biết.
Hơn nữa, bài phúc âm còn nêu lên, “
Có hạt rơi xuống đường, chim trời vay đến ăn mất,” kỳ cục; bộ người gieo giống dùng thúng lủng hay bao rách để đựng lúa giống mang ra ruộng? Hoặc, “
Có hạt rơi vào bụi gai,” Phỏng ngày xưa người ta chưa có giày, dép mà lại cứ có thể băng rừng, vượt bụi gai không chịu đi trên đường và để cho hạt giống rơi vào bụi gai?
Tại sao Phúc Âm lại được viết, “
Thày dùng dụ ngôn mà nói với họ; vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai nghe và không hiểu chi hết cho hợp lời tiên tri…,” cuối cùng, sau khi giải thích một hồi, lại nói, “
Hạt gieo trên đất tốt là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả…” Quái, hiểu thì ai không hiểu mà có sinh sản được chi đâu.
Ngày tháng trôi, càng soạn giảng, cha Hải càng phài đối diện với những câu nói phi lý nơi Phúc Âm. Chẳng hạn, “
Nếu mắt cắc ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thi chặt mà quăng chúng đi,” hay,“
Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta,” “
Kẻ cầm cày mà quảy trờ lại thì bất kham với nước Thiên Chúa…”
Cho đến một ngày của năm 1994, mười một năm sau tính từ năm 1983, cha Hải nghiệm được câu nói của Lão học, “
Người biết không nói, kẻ nói không biết,” ngài bàng hoàng, nhưng lại thương tiếc cho 11 năm luẩn quẩn suy nghĩ về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, chỉ sau một tháng, ngài nghận ra chuyện phải như thế và hành trình, phương pháp của nghiệm chứng chính là suy tư cho đến tận cùng, đến khi tâm trí lâm vào cảnh không thể suy nghĩ, chỉ còn biết đối diện với câu nói chẳng khác chi, “
Không làm gì nhưng không việc gì không làm.”
Từ sự nghiệm chứng, đối diện này, ngài nhận ra những câu nói nghịch thường, ngang ngang, ngửa ngửa, vô lý. Chẳng hợp tình với kết luận của luận lý nơi các câu đạo học là những câu nói về trạng thái nào đó nơi chính mình, nơi chính người đọc ở trường hợp nào đó nếu luôn để ý.
Chẳng hạn, “
Nhiều kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết,” hình như được ghe lại từ Lão học, “
Người trước hết sẽ trở nên sau hết.” Thật là phi lý nếu hiểu theo nghĩa hữu vi, nhưng thử xét, nếu thực hiện viêc gì lần đầu trên, kết quả tất nhiên tồi tệ, nhưng sau cả ngàn lần làm cùng việc đó, thành quả sẽ thế nào. Áp dụng vô câu, “
Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật, còn kẻ không có, thì dù có ít cũng bị lấy đi” có phi lý không? Tuy nhiên, suy nghĩ, nghiệm chứng điều gì, lúc đầu rất khó, nhưng cứ ngoan lỳ tiếp tục suy nghĩ, lâu dần thành thói quen, và nếu thấy khó, thấy quá rắc rối, muốn có an bình tâm tưởng, sẽ không tiến bộ trong suy tư, trong nghiệm chứng.
Phân tích Phúc Âm thành từng câu riêng biệt, cha Hải nhận thấy Phúc Âm cũng như kinh sách của các đạo học, chẳng hạn bên Phật học, Lão học, khuyến khích, kích thích, mời gọi, chiêu dụ, đề nghị… người ta suy nghĩ, nghiệm chứng, và những câu nói này trực tiếp nói về trạng thái nào đó nơi độc giả. Chẳng hạn câu truyện 10 trinh nữ. Năm nàng trinh nữ suy nghĩ, đặt vấn đề có thể chàng rể trễ giờ nên mang theo dầu. 5 nàng không suy nghĩ, đã bị từ chối tham dự lễ cưới. Hoặc câu, “
Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng,” nói lên, không suy nghĩ, nghiệm chứng, chỉ giống như xác chết biết thở.
* * *
Rượu được một tuần, ông Hoan lấy chai rượu pha máu rùa trong tủ lạnh, lên tiếng,
- Bây giờ, con mời cha và mọi người đưa cay hết phần rượu còn lại, đoạn chúng ta thông phần tinh túy của vị thánh ngàn năm.
- Sao lại ngược đời thế? Phần tinh túy phải được thưởng thức trước.
- Thường thì như thế, nhưng trường hợp này, vị thánh ngàn năm cần được đưa dẫn qua đường kinh mạch cho suông sẻ, nếu không, lỡ tắc nghẽn, sinh lắm chuyện phiền, mất vui.
- Rót thì rót đi, coi chừng càng nói, kinh mạch càng tắc nghẽn.
- Đó là lý do cần phải dùng nước thánh dẫn thông đường kinh mạch cho suông sẻ; vì vị thánh ngàn năm này khá đậm đặc bởi không dễ dàng chi khi thông huyết…
- Ông nói sao, Thanh hỏi, cắt tiết nào có gì khó khăn mà ông phải đặt vấn đề.
- Nói thì dễ với những con rùa nhỏ, nhưng con này quá lớn thì lại không dễ chi. Nội nguyên việc kéo cái đầu đề cắt tiết đã cực kỳ khó khăn, lại còn phải lấy tiết mới quả thực là một kỳ công, ông Liên lên tiếng.
- Ông nói sao, cắt tiết thì cứ lôi đầu cứa cổ hoặc chặt phăng cái cổ chứ kỳ công thế nào, Sỹ đế vô.
- Ông có biết ông nói gì không? Tùy lên tiếng. Tùy xưa nay là thợ thịt rùa, các loại bốn chân, có mai, bơi lội dưới nước được đặc biệt chiếu cố. Ngoài các loại được tự do thao túng như rùa khô, khủng long (snaper), trạnh, ba ba, Tùy thích nhất lại là rùa biển, mặc dù bị cấm đánh bắt, nhưng hình như những gì càng bị cấm càng có sức hấp dẫn. Cái thích thứ nhì của Tùy là nhệch (lươn biển) phơi hoai hoái, bỏ tủ đông, nướng than nhậu với rượu thuốc. Tùy chỉ nói ngắn gọn, rồi im lặng.
- Bộ tôi nói không đúng sao? Sỹ tiếp lời.
Sỹ xưa nay vẫn thế, mau ăn, mau nói, nhưng rất chân thành, trực tính. Bà vợ thì le te, tốt lành, nên mọi người quý mến. Nhà được năm người con, hai trai, ba gái, đứa con trai lớn nhất đã gần ba mươi lăm vẫn độc thân, chi có đứa con gái thứ nhì lập gia đình ở mãi tiểu bang Texas; còn ba người em, hai gái, một trai vẫn độc thân. Vợ chồng Sỹ đều mong muốn con cái yên bề gia thất nhưng nói chán cả mồm chẳng đứa nào thèm nghe; đứa thì viện muôn lý ‘gio,’ lý ‘trấu,’ mượn cớ sống độc thân, vợ Sỹ nói thế. Con bé út, nay đã 28 thì nói không có đúng người phù hợp. Đến khi, con thứ ba phát biểu, “
Thà suốt đời muốn cái mình không có còn hơn có cái minh không muốn,” Sỹ mới chợt nhận ra chúng nó đã lớn. Vợ Sỹ tuy lách chách nhưng cũng đành chịu thua.
- Những con như khủng long, ba ba, trạnh nhỏ thì lấy tiết dễ dàng, nhưng con rùa này gần ba chục pounds, rụt cổ vào mà muốn kéo đầu nó ra để cắt tiết không phải dễ chi; Liên giải thích. Biết, hiểu, là một chuyện, thực nghiệm lại là chuyện khác. Biết thực phẩm bồi bổ cho cơ thể, nhưng không ăn thì bụng vẫn đói. Ông có biết phải làm sao mới cắt tiết được con rùa này không?
- Thôi, thôi, rót thì rót đi; đợi nghe được ông Liên giải thích thi chúng tôi chết khát sao, ông Khiêm lên tiếng.
Ông Hoan trịnh trọng châm rượu pha huyết rùa vào ly của cha Hải, đoạn rót cho mình và chuyền chai rượu đỏ lòm máu huyết cho người kế. Kể ra mấy ông thợ nhậu này cũng khá giỏi, dân chuyên môn có khác. Nhóm các ông già này bao gồm mấy người đã về hưu nên thường có thời giờ gặp nhau nhàn đàm; kẻ ở Baton Rouge, người La Place, Versaille, thuộc tiểu bang Louisiana. Thỉnh thoảng có trường hợp đặc biệt họ lại mời cha Hải.
Ba gia đình ông Hoan, ông Thuận và ông Liên cư ngụ tại La Place nên thường là trung tâm cho các ông họp mặt. Hôm nay, nhân tiện có món rùa, ông Hoan đề nghị mời cha Hải. Cha Hải đã vài lần được mời tham dự ăn uống với nhóm này, họ đã đứng tuổi, ăn nói chừng mực, nên ngài không gặp điều chi e ngại, và lại, chiều chủ nhật không có lễ lạy gì nên ngài vui vẻ nhận lời.
Khi đợt huyết rùa đã cạn, mọi người có vẻ sừng sừng, bà Hoan bỗng lên tiếng,
- Thưa cha, hôm thứ năm con thấy bài phúc âm có hai câu con chẳng hiểu Chúa muốn gì.
- Có phải, “
Ai có tai thì nghe,” và, “
Vì ai đã có thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” không?
- Sao cha biết?
- Thì chính tôi công bố bài phúc âm mà.
- Lời Chúa thì Chúa hiểu chứ mình sao mà hiểu, Sỹ lên tiếng.
- Quả là kỳ cục và nghịch nhĩ, con không đi lễ mà chợt nghe đã thấy ngược đời.
Số là đang vào mùa chay, tuần thứ ba, bài phúc âm theo thánh Marcô (Mc, 4:21-25),
“Chúa Giê su nói với các ông: ‘Chẳng lẽ mang đèn tới đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là đặt trên đế sao? Vì chẳng có gì bí ẩn mà không phải là để hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà không phải la để đưa ra ánh sáng. Ai có tai thì nghe. Người nói với các ông: ‘Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng đong cho anh em bằng đấu ấy, và còn cho anh em hơn nữa. Vì ai có sẽ được cho thêm, còn ai không có,m thi ngày cái đang có cũng sẽ bị lấy mất.’” Mấy bà là người Công giáo, mộ đạo, lại đang mùa chay, sáng ngủ đủ rồi, nên đi lễ. Cha phải dâng lễ sao cho ngắn, gọn; lễ bắt đầu lúc 7:00 giờ và phải xong trước 7:30 vì một số người tham dự thánh lễ phải đi làm, nên cha cũng không có giờ giải thích. Mà giải thích cái gì, cha Hải thở dài. Chịu chức đã hai mươi mấy năm, ngài đã âm thầm nhận ra một đời linh mục của mình đã thất bại. Nói ra không được vì đã được dạy dỗ như thế. Hơn nữa, dân Chúa đã hơn hai ngàn năm cũng được dạy như thế, nói ra sẽ bị kết án thế nọ, thế kia, lạc đạo, rối đạo và muôn thứ nối tiếp.
Trong thâm tâm, ngài luôn tìm phương cách giải quyết, đã lắm phen thử. và đã nhiều lần chấp nhận buông xuôi, nhưng tâm hồn không thể nào an định. Đôi khi ngài nghĩ, con dân của Chúa thì Chúa muốn họ thế nào, họ sẽ thế ấy. Việc Chúa làm nào ai hiều thấu, mắc mớ gì tới mình. Dẫu sao, mình chỉ là con người. Mình được huấn luyện để làm việc mà công việc lại đối nghịch với Phúc Âm.
Nói gì và nói làm sao, người ta đã quen thói tin theo chứ không chịu suy nghĩ, không dám nhận định. Chúa có thể giúp được chi khi người ta đã quen với lối nhìn thế tục, vật dục trên mọi phương diện. Cả một hế thống giải thích sai với Phúc Âm đào tạo nên câu nói, “
Mỗi cha một lý đoán.” Quan niệm này không có gì là sai nhưng lại sai cả thể vì Phúc Âm không được viết để giải thích mà là để nghiệm, để suy nghĩ. Theo định nghĩa của công đồng Vatican II, giáo hội là dân Chúa. Giáo hội là dân Chúa thì “
Phải tin với Giáo hội” là tin thế nào? Chín người, mười ý, hèn chi… Ah! Cũng phải cảm ơn các học giả Kinh Thánh ghi chú giải thích động từ sám hối,
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp, Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận.” (Kinh Thánh Tân Ước, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ; 1994,Tr. 184). Mình có nên nói thật không. Nói ra coi chừng bị cho là nói ngoa, rối đạo, lạc đạo, “
Nói ra thì bảo là ngoa, chẳng nói lại bảo người ta rằng đần.” Nhưng hai mươi mấy năm làm linh mục của mình đã sai, thay vì rao giảng lại giải thích Phúc Âm. Rao giảng là công bố, tuyên dương, loan truyền chứ không giải thích. Giải thích có nghĩa tuyên truyền, áp đặt, hướng dẫn, khiến hay ép người khác suy nghĩ, quan niệm theo đường hướng, theo ý của mình.
Mình chỉ muốn họ suy nghĩ, còn họ suy nghĩ đến đâu, thế nào thì tùy họ chứ không ép buộc, áp đặt. Nhưng ước muốn cũng là dục, làm sao tránh cái dục? Coi chừng mình tự đưa mình vào bẫy lại tưởng là làm điều tốt lành cho kẻ khác. Điều mình nghĩ là hay, là tốt, chưa chắc tốt đối với họ. Cái mình thích chưa chắc họ đã thích; hợp đối với mình coi chừng là điều khổ ải đối với họ. Chưa chắc có đã hơn không, điều mơ ước năm xưa có thể là án phạt hôm nay. Coi chừng, coi chừng, đôi khi giúp người lại là hại người.
Cha Hải đắn đo, thầm nghĩ, cũng đành liều, thử, nên nhẹ nhàng lên tiếng,
- Có vài điều khó ăn khó nói, mà nói ra lại rất khó nghe, nhưng ở đây, quí ông, quí bà đã biết tôi thế nào. Là linh mục, nhiệm vụ của tôi là rao giảng Tin Mừng đức Giê su công bố, nhưng những điều tôi sắp nói ra đòi hỏi vài điều kiện. Không hiểu quí ông, quí bà có thể chấp nhận được chăng. Nếu chấp nhận được, tôi sẽ nói, nếu không thể chấp nhận thì coi như thà không nói lại tốt hơn.
- Cha nói sao nghe có vẻ quan trọng thế?
- Thực ra, theo nhận định của tôi, là linh mục, thì cũng giống như chiếc lưỡi giữa hai hàm răng. Thà rằng chấp nhận linh mục là một thứ nghề như người Mỹ quan niệm hay đúng nghĩa như người xưa hay nói, “Đỗ cụ” để được người đời trọng vọng thi không có gì đáng nói. Nhưng là linh mục được nhận thức đúng nghĩa theo Phúc Âm vào thời này, nếu nói lên, đòi hỏi người nghe phải tuyệt đối im lặng, không bao giờ và cũng không vì bất cứ lý do gì nhắc đến tên tôi thì tôi mới dám trả lời. Quí ông, quí bà dám hứa như thế không?
- Có điều gì mà cha phải tránh nhắc tới tên cha?
- Lấn đầu tiên tôi mặc áo lễ màu xanh dương trong chủ nhật thứ nhất mùa vọng khi đang làm phó xứ st. Alphongsus, trước lễ, tôi thường ra chào hỏi giáo dân. Hôm ấy, chủ nhật, tôi nổi hứng tự diễu, “Không hiểu mặc chiếc áo này có làm tôi đẹp trai hơn chăng, nhưng tôi biết chắc I am blue.” Có một bà người Mỹ gọi lên giám mục nói rằng tôi nói, “I am bruised.” Ngày trước, tôi thường mời khách dự lễ giơ tay để chào mừng họ sau khi đọc thông báo, và hát “happy birth day” cho những người có ngày sinh nhật trong tuần… thì cũng có người đăng trên báo nói là biến nhà thờ thành chốn đô hội. Hoặc ngồi ăn uống vời vài người, họ nói gì tôi không để ý, nhưng cũng bị lôi tên làm nhân chứng cho điều họ muốn được chú ý. Đó là lý do tôi phải e dè tránh cảnh “Cháy thành vạ lây.” Nhưng nơi trường hợp này lại đụng đến Phúc Âm, giải thích, giải nghĩa một câu nói đồng nghĩa với câu Phúc Âm
, "Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết, các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản" (Lk. 11:52). Tôi chỉ muốn một điểu kiện là đừng bao giờ nhắc đến tên tôi, chỉ vậy thôi.
- Gì chứ, không nhắc đến tên cha thì chúng con giữ được, bà Hoan lên tiếng.
- Vậy các ông, các bà có biết tại sao Phúc Âm lên án các nhà thông luật nặng nề thế không?
- Thì mấy nhà luật sĩ cãi không thành có, nói có thành không, đánh lận con đen nên bị kết án là phải rồi, có gì quan trọng đâu.
- Phúc Âm đâu nói về kiện tụng thế tục mà nói không thành có, nói có thành không. Thử hỏi, kiện tụng nào dính dáng tới câu, “
Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta.” Hoặc câu truyện mười nàng trinh nữ đi đón chàng rể, hay chủ thuê thợ làm vườn lúc 9:00 giờ, 12:00 giò, 3:00 giờ, 5:00 giờ chiều làm việc đến lúc 6:00 giờ và mọi người chỉ được trả một đồng bằng nhau? Các nhà thông luật làm sao giải thích câu, “
Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật, còn kẻ không có, thì dù có ít cũng bị lấy đi.”
- Tại sao đã có lại được cho thêm? Tại sao người làm việc từ 9:00 giờ sáng cũng chỉ được trả lương bằng người làm việc có một giờ, quả là bất công.
- Tôi đang nói về việc kết án các nhà thông luật. Phúc Âm lên án họ vì lý do gì chứ không nói đến chuyện bất công của việc trả lương. Nơi trường hợp nào có thể chấp nhận kẻ có lại được cho thêm. Tại sao 5 nàng trinh nữ bị gọi là khờ dại, 5 nàng được cho là khôn ngoan? Lý do gì Phúc Âm đặt vô miệng đức Giê su câu nói, “
Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta?” Và làm sao có thể yêu Chúa hơn cha mẹ, hay chỉ là nói suông, nói cho vui? Những câu Phúc Âm này được viết với ý định gì nếu không phải khuyến khích, thách đố sự suy nghĩ của mọi người? Rõ ràng, năm nàng trinh nữ bị gọi là khờ dại đã không suy nghĩ, không dám đặt vấn đề. Chúng ta thấy câu, “
Kẻ có lại được cho thêm mà nên dư dật…” là vô lý vì chúng ta đã không suy nghĩ. Bất cứ việc gì cũng có giá phải trả. Trên đời này, không có miếng bánh nào tự trời rơi xuống, thì suy nghĩ cũng như sự làm việc, suy nghĩ, nghiệm xét, làm việc nhiều thành quen, trở nên thành thạo, không có nghĩa đã có thì được cho thêm thì có nghĩa thế nào; chẳng lẽ tự nhiên có thể bay được như chim, không phải đi bộ. Như vậy, chúng ta thấy, Phúc Âm được viết để khuyến khích chúng ta suy nghĩ, còn suy nghĩ thế nào, suy nghĩ đến đâu tùy thuộc mỗi người. Các nhà thông luật bị kết án là, “
Cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết;” bởi họ giải thích lời Kinh Thánh, áp đặt sự hiểu biết của họ lên dân Chúa, không để dân Chúa suy nghĩ, nghiệm chứng. Dĩ nhiên, khi giải thích điều gì, sự gì, chúng ta dùng lý luận hữu vi, thế tục nói lên quan điểm của mình; điều này khiến người nghe tưởng rằng đã biết do đó không suy nghĩ, nhưng đã không biết gì.
- Cha nói sao, tưởng đã biết, nhưng đã không biết gì là thế nào?
- Tôi đang ăn món rùa, uống rượu huyết rùa, quí ông bà biết món rùa, huyết rùa bổ béo, nhưng không ăn, phỏng biết thì được ích gì, có no bụng được không? Các ông các bà có con cái, biết mình yêu thương chúng, tôi cũng biết, cái biết của tôi có giúp ích gì cho chúng không, hay chỉ các ông các bà nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng mới đem lợi ích cho chúng? Tôi có giải thích lòng yêu thương của cha mẹ với con cái cũng vô ích. Tôi tưởng đã biết lòng yêu thương của quí vị nhưng đã không biết gì. Tương tự thế, chúng ta nói là kính mến Chúa thì chỉ nói cho qua, nói theo thói quen, nói cho có vẻ con nhà có đạo vì đã không biết Chúa là gì, như thế nào thì kính mến làm sao!
- Thì theo đạo là kính mến Chúa, chứ cha còn muốn gì hơn, các cha giảng dạy như thế mà.
- Thế cho nên tôi nghĩ cả cuộc đời làm linh mục của tôi đã lầm, không đúng với Phúc Âm.
- Cha nói sai lầm là thế nào? Biết là sai sao cha còn làm linh mục?
- Tôi nói là sai với Phúc Âm chứ không nói là sai với giáo hội Công giáo. Phúc Âm được viết như một phương tiện, một đầu đề, cho người ta suy nghiệm, suy tư, suy nghĩ, nghiệm chứng, mà tôi được dạy dỗ để giải thích, giải nghĩa Phúc Âm, thì đó không là sai lầm, không khóa nước trời lại thì là gì. Đem thực phẩm ra mà giải thích, không để người ta ăn thì người ta có no bụng không? Chúa Giê su đến rao giảng tin mừng nước trời vậy các ông các bà có biết tin mừng đức Giê su rao giảng là gì không. Nếu tôi không sai thi các ông các bà đã biết. Nếu tôi giải thích thì các ông các bà có biết cũng như không biết. Thế nên, nếu giải thích để các ông các bà tưởng là hiểu nhưng thực ra, không biết gì hết.
- Thưa cha, hiểu biết là đủ, cha còn muốn gì hơn? Ông Hoan hỏi.
- Ông hiểu biết món rùa, món nem, món thịt nướng, bún, rau là bổ ích cho sự sống, nhưng không ăn, không nhai chúng nó, không nuốt xuống thì có no bụng không, có bổ béo gì không? Tương tự như thế, đọc hoặc nghe Phúc Âm mà không suy nghĩ, không suy nghiệm, chỉ nghe giải thích thì cũng chẳng ơn ích gì. Cả đời làm linh mục mà không khuyến khích, không giúp cho người ta suy nghĩ, suy nghiệm Phúc Âm, mà chỉ giải thích thì không giống các thày thông luật, không bị kết án mới là lạ. Thế nên, mỗi khi đọc câu,
"Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết, các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản" (Lk. 11:52), tôi cảm thấy xốn xang, không biết làm sao để giải quyết; chỉ cảm thấy mình đã sai cả đời, lời Phúc Âm trói buộc tôi.
- Như thế là cha đã được huấn luyện sai, chứ cha đâu có sai! Các cha, cha nào không thế, giải thích lời Chúa cho con chiên sống đạo tốt lành, mắc mớ gì cha lo sai lầm.
- Dĩ nhiên, lúc được huấn luyện rồi chịu chức tôi đâu nhận ra sai lầm, nhưng giờ đã biết mình được huấn luyện sai lầm, cả đời sai lầm mà không biết cách nào thoát ra được. Nói ra, không giống những người khác, sẽ bị gán cho biệt danh rối đạo, lạc đạo. Quả đúng với câu, “
Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng khốn,” nhưng không kiếm cách làm cho đúng với Phúc Âm, tôi sẽ trả lời sao với Chúa khi đối diện với Ngài!
- Khi nãy cha nói tin mừng Chúa Giê su rao giảng là thế nào. Phúc Âm có nghĩa tin mừng thì sao lại còn phân biệt tin mừng Chúa Giê su rao giảng với tin mừng nước trời. Chẳng lẽ Phúc Âm khác tin mừng, mà chúng con xưa nay chỉ nghe biết Phúc Âm được gọi là lời Chúa, thế nghĩa là sao?
Cha Hải trầm tư. Nói làm sao, giải thích làm sao? Dân Chúa cả đời theo đạo mà không biết tin mừng, hèn chi có câu nói, “
Nghe mõ, xỏ tiền.” Người ta chỉ biết lặp lại tin theo, tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa, tin các điều hội thánh dạy, tin phép lạ này, phép lạ kia, nghe hơi, ngồi chõ tưởng như thế là đủ, là công chính, coi tôn giáo như mớ lề luật bổ túc cho luân lý, coi việc đi lễ, đi nhà thờ là những công việc đạo đức. Nói làm sao đây, giải thích để họ tưởng hiểu biết và cũng chẳng thực sự biết gì, chỉ biết lặp lại rồi lại dính tên mình vào, cha Hải nói thế này, cha Hải nói thế kia, nói trật duột, cho hợp câu, “
Chúng khẩu đồng từ.”
Bữa ăn đã tàn, bà Hoan mang nước trà tới. Cha Hải thầm nghĩ, đành liều vậy… nên lên tiếng,
- Nhà mình có cuốn Kinh Thánh Tân Ước không, cha Hải hỏi ông Hoan.
- Thưa cha, có chứ, con nhà có đạo mà. Con còn có cà cuốn Kinh Thánh nữa.
- Ông làm ơn lấy cả hai cuốn ra đây.
- Các ông có biết lật Kinh Thánh không?
- Biết chứ thưa cha. Con có tham dự khóa học Kinh Thánh mà.
- Vậy thì ông làm ơn mở phúc âm Marcô, đoạn 1, câu 15 và đọc lên coi,
“Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Câu này nói về triều đại Thiên Chúa mà.
- Gọi là triều đại hay nước cũng như nhau mà thôi. Thí dụ, triểu đại nhà Nguyễn, triều đại nhà Trần thì cũng chỉ thuộc về nước Việt Nam. Thế nên, gọi là triều đại Thiên Chúa hay nước Thiên Chúa chỉ khác cách gọi. Ông đọc nơi ghi chú về chữ sám hối coi.
- “
Từ Hy lạp, Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận.” - Nếu dùng nghĩa gốc của chữ Metanoia, câu Phúc Âm sẽ trở thành,
"Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy suy nghĩ khác trước, và tin vào Tin Mừng.” Quí ông bà thử nghĩ coi, Phúc Âm được viết từ năm 70 tới năm 100 hay năm 110 đối với Phúc Âm Gioan sau khi đức Giê su chịu nạn, thì vào thời điểm đó, đâu đã có ngôn từ tin mứng, có lẽ phải nói là tin vào lời ta nói. Như vậy, câu Phúc Âm thuờ ban đầu có lẽ được viết, "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy suy nghĩ khác trước, và tin vào lời ta nói.”
- Vậy thì cũng bù trớt, đồng ý rằng, lời dịch thay đổi cho thuận và gọn với lối nói, lời ta nói hay tin mừng cũng như nhau vì cùng một ý nghĩa, nhưng tin mừng Chúa Giê su rao giảng là gì, khác với Phúc Âm thế nào, và làm sao phân biệt, thì cũng như không, ông Liên lên tiếng.
- Các ông, các bà theo đạo cả đời mà không biết tin mừng đức Giê su rao giảng thì theo đạo, tin đạo là thế nào. Tại sao lại tin mà không biết; các ông các bà có biết mình tin gì không, đó là lý do tôi nói; tôi làm linh mục cả đời mà thất bại, thất bại vì không giúp dân Chúa nhận biết tin mừng đức Giê su rao giảng.
- Con đọc Phúc Âm mà chỉ thấy Phúc Âm nhắc tới tin mừng chứ có thấy Phúc Âm nói tin mừng đức Giê su rao giảng là gì đâu. Liên nói thêm. Tại sao cha biết mà không nói ra cho người ta biết.
- Tôi đã nói mà người ta nghe như không nghe nên vẫn không biết, có lẽ cũng bởi không suy nghĩ, không suy nghiệm.
- Cha nói suy nghĩ thế nào, suy nghiệm ra sao?
- Có phải các ông, các bà chưa nghe giảng đã vội quên không? Đi lễ, tham dự thánh lễ thì chỉ mong sao cho ngắn gọn, cho chóng qua. Các cha thay vỉ rao Phúc Âm thì giảng, giải thích Phúc Âm theo nghĩa từ chương, thế tục, để mọi ngươi dễ hiểu nhưng đã chẳng hiểu gì. Họ được huấn luyện như thế mà
- Vậy theo như cha nghĩ, tin mừng Chúa Giê su rao giảng là gì?
- Không phải là tôi nghĩ, mà là Phúc Âm được viết như thế. Tôi nghĩ, đó là lý do tại sao Phúc Âm có câu,
"Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Lc, 8:11).
- Tại sao nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, thưa cha? Chẳng lẽ Chúa muốn chúng con mù tối.
- Không phải thế đâu, nơi Lão học có câu, “
Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sư cẩu.” Thiên Chúa chẳng thiên vị ai, vì nếu giúp người này thì thiên vị đối với người khác. Lý do, theo tôi nghĩ là tại mình không suy nghĩ, suy nghiệm, không thay đổi chiều hướng suy tư nên không biết, không dám liều nên cứ nhắm mắt tin theo.
- Như vậy, cha muốn nói cả hệ thống tuyên truyền sai lầm?
- Tôi không nói thế, nhưng nó là như thế. Tin mừng nước trời thì không biết, lại rao giảng tin mừng cứu độ là đức Giê su chết vì và chết thay cho tội lỗi con người. Nếu vậy phải nói là tin buồn mới đúng chứ, bởi danh chính thì ngôn mới thuận. Đàng này, Chúa chết mà lại gọi tin mừng cứu độ.
- Thì cứu loài người khỏi án phạt đời đời vì con người lầm lỗi. Chúa chết thay, đến thế gian cứu thoát người ta khỏi ách tội lỗi, tránh cơn giận dữ của Thiên Chúa Cha, chứ con người sao có thể giải thoát mình được.
Cha Hải thở dài nghĩ, đó là đánh tráo khái niệm, đánh lận con đen. Con dân của Chúa nghe thì nghe vậy chứ không dám suy tư, “Giáo hội dạy” thế mà; các cha giảng Chúa chuộc tội cho loài người. Mình cũng được dạy như thế. Nhớ có lần, sau khi cha giáo vừa dạy xong bí tích hôn nhân, thày Hải giơ tay hỏi,
- Thưa cha, như thế, bí tích hôn nhân là do giáo hội lập ra?
- Từ nay không được hỏi như thế nữa, cha giáo nghiêm mặt dằn từng tiếng.
Thày Hải lạnh cả sống lưng, từ đó về sau không dám hó hé. Dĩ nhiên, ngoại trừ sự hiện hữu, mọi sự, mọi lý thuyết, quan niệm, nghi thức đều do con người đặt ra, nhưng lý luận, tìm hiểu nguyên nhân, có lẽ chính cha giáo cũng không để ý. Coi chừng bị đuổi lại bảo Chúa không chọn. Thôi, tạm gọi dĩ hòa vi quí. Chúa đâu có cái mồm, nên cứ bày ra, đổ cho Chúa là êm chuyện, êm bên ngoài nhưng khắc khoải nơi tâm tư.
- Thưa… thưa cha, ông Thanh e dè, chẳng lẽ giáo hội dạy sai?
- Không sai nhưng không đúng với Phúc Âm. Điều này có nghĩa luôn phạm tội khinh chê hồng ân suy tư, suy nghiệm được ban cho bởi Thánh Thần. Để tôi minh chứng, ông Hoan, làm ơn rở Phúc Âm Matthêu đoạn 1 câu 15 đến câu 24, và đọc nó lên.
Ông Hoan mở cuốn Kinh Thánh dày cộm tìm đoạn Phúc Âm và đọc,
“Ðức Yêsu Kitô sinh ra thế này: Maria, mẹ Ngài đã đính hôn với Yuse;trước khi ông bà phối hợp cùng nhau, thì xảy ra là bà đã có thai do tự Thánh Thần. 19 Yuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà, thì định âm thầm ly dị. 20 Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì này: Thiên Thần Chúa hiện ra cho ông trong mộng bảo rằng: "Yuse, con của Ðavít, chớ sợ lấy Maria vợ ông: thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần; 21 bà sẽ sinh con, và ông sẽ đặt tên cho người con là Yêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi". 22 Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng: 23 Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. 24 Tỉnh giấc, Yuse đã làm như Thiên Thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà; 25 và giữa ông và bà không có việc giao tri vợ chồng, cả đến lúc bà sinh con, và ông đã đặt tên cho là Yêsu. Nơi bản dịch Kinh Thánh Tân Ước củng thế, 14 học giả, chuyên viên Kinh Thái cũng dịch là,
“Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Cha Hải đọc, đoạn nói,
- Thử hỏi các chuyên viên Kinh Thánh, ngay cả linh mục Nguyễn Thế Thuấn, họ có ý thức được điều họ dịch không hay là diệt bản văn. Nếu chúng ta gọi vị nào là tổng thống, ông trùm, ông trưởng thì chúng ta nói thế nào. Đàng này, con trẻ đã có tên là Giê su mà lại viết, “Người ta sẽ gọi tên ngài là Emmanuel,” vậy thì Emmanuel là thứ gì? Tổng thống, ông trùm, ông trưởng là danh vị công việc hay thành quả một người thực hiện, hay giữ nhiệm vụ, chức vụ nào đó, chứ không phải là tên. Các ông, các bà thử suy nghĩ coi tôi nói đúng không.
- Thưa cha, con trẻ đã có tên là Giê su thì chẳng lẽ Emmanuel là danh hiệu của Chúa được người ta nhắc tới.
- Vậy Chúa Giê su làm gì trong suốt thời gian tại thế?
- Thưa cha, như các cha thường giảng, Chúa đem tin mừng đến cho nhân loại. Con còn nhớ có lần cha Thông nhắc đến câu Phúc Âm để minh chứng nhiệm vụ của Chúa Giê su. Ông Hoan trả lời.
- Ông rở Phúc Âm Luca, đoạn 4 câu 43 và đọc lên coi.
Ông Hoan lật sách và đọc,
“42 Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. 43 Nhưng Ngài bảo họ: "Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến". 44 Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê.” Đoạn nói,
- Như vậy, nhiệm vụ của Chúa Giê su là đem tin mừng nước Thiên Chúa. Vậy chẩng lẽ Emmanuel là danh hiệu của Ngài?
- Thế Emmanuel được dịch là gì?
- Là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
- Vậy tin mừng nước trời là gì?
- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
- Thế tin mừng triều đại Thiên Chúa là gì?
- Chẳng lẽ cũng là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi?
Xét thế, Phúc Âm được viết khuyến khích người ta suy gẫm, suy nghiệm, nghiệm chứng. Những câu Phúc Âm, nếu tôi không lầm đều là những câu khôn ngoan từ ngàn xưa để lại được ráp nối, thêm thắt cho thành câu chuyện và dùng đức Giê su làm đề mục. Lại có những câu lấy ở đạo học khác, sửa đi đôi chút rồi ráp vô. Chính vì thế, nếu không suy nghĩ, không nghiệm chứng sẽ chẳng hiểu Phúc Âm nói gì. Tuy nhiên, nếu đọc hoặc nghe Phúc Âm để rồi giải thích theo quan điểm nhân sinh, thế tục, sẽ không hợp lý, hợp tình chút nào.
- Cha nói thế nào, Phúc Âm lấy câu khôn ngoan nơi đạo học khác ráp vào là làm sao?
- Các ông các bà có bao giờ nghe biết Lão học, Phật học, Ấn học, hay Điểm Đạo Ai Cập không?
- Có, con có đọc vài cuốn của nhà Phật, nhà Lão nhưng không biết gì vể Điểm Đạo Ai Cập.
- Điểm Đạo Ai Cập còn được gọi là tam điểm ấy.
- Thưa cha, tam điểm thì con nghe nói.
- Lão học, Phật học, Ấn học, cũng như Điểm Đạo v. v… đại khái có trước Phúc Âm, nghĩa là có trước Công nguyên ít nhất là 500 năm. Nơi Láo học có câu, “
Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết.” Ông Hoan, ông thử rở Phúc Âm Matthêu, đoạn 19, đọc từ câu 27, đến câu 30 xem sao.
Ông Hoan lật Kinh Thánh và đọc,
27 Bấy giờ Phêrô đáp lại thưa Ngài: "Này chúng tôi đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, vậy thì phần chúng tôi sẽ ra sao?" 28 Ðức Yêsu nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: các ngươi là những kẻ đã theo Ta, thì đến thời Tái sinh khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển Ngài, cả các ngươi nữa cũng sẽ ngồi trên mười hai ngai, mà xét xử mười hai chi tộc Israel. 29 Và phàm ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương, vì Danh Ta, thì sẽ lĩnh hơn gấp bội và được sự sống đời đời làm cơ nghiệp. 30 "Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết" (Mt. 19:27-30).
- Các ông các bà thấy đó, câu, “
Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết,” không ăn nhập gì với những điều giải thích về vị thế sẽ được ban cho những người đi theo ngài chút nào. Những giải thích vị thế được ráp nối vào quá gượng ép, chỉ làm cớ để chen câu nói khôn ngoan “
Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết,” vào mà thôi. Nói cho đúng, mục đích chính của đoạn Phúc Âm chỉ là thách đố con người nghiệm xét câu này, còn việc ngồi đâu, đứng đâu không cần thiết.
- Thưa cha, sao cha bới ra lắm thứ thế? Ông Thanh lên tiếng hỏi, giọng nửa đùa, nửa thật.
- Bởi suy nghĩ, tìm tòi, nên đừng dại khi nói chuyện mà nhắc đến tên tôi kẻo cháy thành vạ lây. Có phải câu Phúc Âm như kết luận được ráp vào lạc lõng, gượng gạo, phi lý, chẳng ăn nhập gì đến sự giải thích phía trên không. Nếu để ý khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy những câu khôn ngoan, ám định được ráp nối một cách gượng ép thách đố chúng ta suy nghiệm. Chẳng hạn, ông thử lật Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 10, câu 34 đến câu 38 sẽ thấy.
Ông Hoan rở Kinh Thánh và đọc,
34 Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình, mà là gươm giáo. 35 Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; 36 và kẻ thù của người ta là những người nhà mình. 37 Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. 38 Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta. 39 Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại.” - Nếu phân tích Phúc Âm thành những câu riêng biệt, rõ ràng chúng ta thấy Phúc Âm đòi hỏi con người để tâm miệt mài suy nghiệm cà đời. Đàng này, chúng ta chỉ nghe cho qua. Thử hỏi, “
Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình, mà là gươm giáo. 35 Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; 36 và kẻ thù của người ta là những người nhà mình,” nói về trường hợp, trạng thái nào trong cuộc đời một người? Chúng ta thường được nghe nói Chúa mang bình an cho muôn người, nay Phúc Âm được viết, “
Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất;” nghe có chói tai không? Lý giải, biện luận thế nào cho hợp tình, hợp lý?
- Vậy mà học giả Kinh Thánh dám cho rằng Phúc Âm viết về cuộc đời Chúa Giê su, gán ép cho ngài mục đích chứng minh mình là thế nọ, thế kia. Nơi trang 51 của cuốn Kinh Thánh Tân Ước, được viết,
“
Điều mà tác giả nhắm là trình bày con người đức Giê su và sự nghiệp của Ngài… Hơn nữa, Matthêu còn muốn cho thấy qua sự nghiệp đó, đức Giê su đã dần dần chứng minh mình là Con Thiên Chúa như thế nào,” quả là một nhận thức sai lầm. Nếu nói rằng Matthêu trình bày con người và sự nghiệp của đức Giê su, sao Phúc Âm Matthêu lại được viết, “
Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. 35 Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; 36 và kẻ thù của người ta là những người nhà mình?” Mắc mớ gì đức Giê su cần chứng minh mình là con Thiên Chúa trong khi rao giảng tin mừng Thiên Chúa ngự trị nơi mọi người. Có lẽ mấy học giả Kinh Thánh này đã không biết tin mừng đức Giê su rao giảng là gì.
-Thì họ là học giả mà, họ đâu phải là học thiệt, ông Liên đế vô. Nhưng thưa cha, sao Phúc Âm lại nói Chúa Giê su không đem bình an trên mặt đất?
Nghe thấy câu hỏi, cha Hải sửng người, vì không ngờ họ đã không suy nghĩ gì. Điều này càng khiến ngài cảm thấy cuộc đời linh mục của ngài thất bại nặng nề hơn. Phúc Âm được viết để khuyến khích người ta suy nghĩ mà mình đã không giúp người ta suy nghĩ được gì. Làm sao đây, giải thích thế nào để thúc đẩy họ suy nghĩ?
- Phúc Âm không nói về sự bình an nơi cuộc sống, mà nói về nỗi bình an trong tâm hồn mỗi người. Phúc Âm dùng cha mẹ, con cái để ám chỉ những đối nghịch nơi tâm hồn. Chúng ta luôn mang trận chiến nội tâm, những gì thân thiết nhất với chúng ta như ước vọng, tham vọng, ý thích, đam mê, được coi là cha mẹ, anh em, người nhà. Phúc Âm viết, “
Kẻ thù của người ta là những người nhà mình,” nào có khác gì câu nói
, “Kẻ thù độc hại nhất của tôi lại là chính tôi.” Đọc Phúc Âm, chúng ta đang đọc về diễn trình trạng thái nơi chính mình. Phúc Âm không viết về ai khác mà những gì mình đọc được, nếu để tâm nhận định, nó là chính mình. Tôi chỉ có thể nói được như thế, còn nhận biết tâm tình của mình ra sao, thế nào, mỗi người tự biết, ngoài ra, không ai có thể biết.
- Cha nói diễn trình trạng thái là thế nào? Ông Liên hỏi.
- Tôi chỉ có thể đưa thí dụ chứ không có đủ ngôn từ để giải thích. Những diễn biến, bất cứ gì liên hệ đến cuộc đời, cuộc sống của mình và chỉ của mình chứ không của ai khác. Chẳng hạn câu, “
Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết.” Bất cứ chuyện gì các ông các bà thực hiện lần đầu, thí dụ may một chiếc áo, hay đóng một chiếc ghế ngồi, chắc chắn nó sẽ không làm quí vị hài lòng như mình muốn. Nhưng giả sử sau khi may cả ngàn chiếc áo, hoặc đóng cả ngàn chiếc ghế thì kết quả lần cuối cùng ra sao. Có phài lần đầu tiên mình làm dở nhất, và lần cuối, mình làm tuyệt vời nhất không. Thế nên, lần thứ nhất, lần trước hết, phẩm chất công việc sẽ trở nên bết bát, dở nhất, và lần sau hết, phẩm chất của chiếc áo hay cái ghế tuyệt vời hơn hết. Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết là thế.
Đọc nơi một cuốn sách nào đó, tác giả giải thích rằng, ngày xưa, ở miền dân quê, có những con đò đưa khách sang sông. Người xuống đò đầu tiên được xếp vô đàng lái, và người xuống đò sau cùng thì ngồi đàng mũi. Lúc sang đến bên kia bờ, thì người xuống đò sau cùng, ngồi đàng mũi đò lại lên bờ trước. Tôi thấy cũng có lý, nhưng một hôm, chẳng hiểu đi đâu phải qua phà ở Louisiana, chiếc phà có hai cửa, cửa xuống và cửa lên. Xe nào xuống trước thì lên trước, tôi chợt nhận ra dùng con đò lý giải câu, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” là không chấp nhận được. Suy nghĩ, tiếp tục suy nghĩ, cơ hội xảy đến mới có thế lý giải hợp tình hợp lý.
- Nhưng câu Phúc Âm, “
Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất,” thì lý giải thế nào, thưa cha, Phúc Âm viết nghịch lại lời các cha giảng giải. Chúa Giê su chết cho tội lỗi loài người, đem an bình đến cho tâm hồn mọi người mà viết nghịch lại như thế sao lý giải được.
- Ban nãy tôi đã nêu lên câu nói, “
Kẻ thù tệ hại nhất của tôi lại là chính tôi” thì phải suy nghĩ đã chứ. Như tôi đã nói, Phúc Âm là những câu khôn ngoan được ráp nối lại. Những câu khôn ngoan này nói về trạng thái nào đó nơi chính mình. Muốn biết, cần phải suy nghĩ, suy nghiệm.
- Nhưng chúng con ít học, sao có đủ kiến thức mà suy nghĩ, thưa cha. Muốn suy nghĩ, phải có căn cơ, lý luận, lý lẽ, chứ đầu óc trống rỗng thì suy nghĩ cái gì?
- Vậy các ông, các bà có bao giờ được huấn luyện lập gia đình phải thế nào, nuôi dạy con cái ra sao, làm việc gì cho có tiền để nuôi sống bản thân và con cái, đến khi con cái lớn khôn lại muốn nó lấy đứa nọ, không lấy đứa kia, làm việc này, không làm sở nọ, những điều đó kiến thức, lý luận ở đâu ra? Như thế, xét về bản năng, chúng ta có thừa khả năng suy nghĩ để lo cho cuộc sống nếu không muốn nói là chúng ta rất thông minh, lanh lợi trong tính toán làm ăn để cuộc sống mỗi ngày một thăng tiến. Nhưng riêng về tâm linh, vì không gì ảnh hưởng tới miếng cơm, manh áo, lời Phúc Âm đâu đụng đến nhà cao cửa rộng, không mảy may ảnh hưởng tăm tiếng hoặc ý thích nên chẳng thèm để ý, không cần suy nghĩ, suy nghiệm, tưởng rằng cứ đi lễ cho qua theo nghi thức là đủ, là được cứu rỗi, nhưng chẳng cần biết cứu rỗi khỏi điều gì. Ngay như ban nãy, tôi nhắc đến tin mừng đức Giê su rao giảng, nhưng cũng chẳng được để tâm suy nghĩ, sao có thể hợp với câu Phúc Âm, “
Ai đã có thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất.” Sự suy nghĩ đâu cần kiến thức, kiến thức, kinh nghiệm chỉ phụ giúp cho suy nghĩ. Đến ngay như các học giả kinh thánh, những tiến sĩ này, thạc sĩ kia còn cho rằng Phúc Âm viết về cuộc đời Chúa Giê su, mục đích của Phúc Âm là “
Trình bày con người đức Giê su và sự nghiệp của Ngài… đức Giê su đã dần dần chứng minh mình là Con Thiên Chúa,” thì kiến thức đôi khi chỉ làm sai trật suy nghĩ mà thôi. Thử hỏi, đức Giê su có cần phải chứng minh mình là con Thiên Chúa không trong khi Ngài rao giảng tin mừng rằng Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người. Chúng ta không suy nghĩ về những lời Phúc Âm mặc dầu rất giỏi, nếu không muốn nói là thiện nghệ tính toán những công chuyện về miếng cơm manh áo, trong khi bán đứng công việc suy nghĩ cho các linh mục, mà các linh mục lại cũng chỉ lặp lại nhận định sai lầm của các học giả chứ không học thiệt, đem những câu khôn ngoan giải thích theo quan niệm thế tục, nhân sinh.
- Cha nói suy nghĩ không cần kiến thức, nhưng cần phải có phương pháp chứ mông lung, vô phương hướng thì suy nghĩ thế nào? Ông Hoan luận lý, nêu vấn đề.
Cha Hải đâu ngờ vấn đề lại là phương pháp suy nghĩ. Xưa nay, ngài chỉ nhận thấy dân Chúa không dám suy nghĩ hoặc không suy nghĩ về tâm linh, dầu họ rất linh hoạt trong lãnh vực tính toán sinh sống. Thế nên, khi ông Hoan đặt vấn đề phương pháp suy nghĩ, ngài mới chợt nhớ lại đã những bao nhiêu năm trong chức vụ linh mục, đồng thời nỗi thao thức nhận biết về Phúc Âm mới có thể nhận ra mục đích tại sao Phúc Âm được viết như thế. Ngài nhớ lại câu Phúc Âm,
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi,” (Mt. 7:21) đã luẩn quẩn nơi tâm trí ngài không biết bao lâu. Thi hành ý muốn của Chúa Cha là thế nào. Làm sao biết được ý muốn của Chúa?
Đọc nơi các sách đạo học, không thấy bất cứ điều lệ nào nói tới ý muốn của chủ thể dù được gọi với bất cứ danh hiệu nào. Là linh mục Công giáo, luật buộc phải tham dự lễ ngày chủ nhật, vậy gia đình thánh gia một năm được mấy lần lên đền thờ ở Giêrusalem? Các đạo học chỉ đặt vấn đề thức ngộ, nhận biết. Nhìn lại chính bản thân, từ khi tự nghiệm được câu Lão học, “
Người biết không nói, kẻ nói không biết,” những câu nói phi lý, ngang ngược, hay có vẻ ngô nghê nơi các sách đạo học, Kinh Thánh đã được ngài phanh phui, nhưng không thế đem ra giải thích; đồng thời, nếu giải thích lại chỉ làm hại người nghe, bị coi như ăn cướp cơ hội thức ngộ của họ, khiến họ tưởng là đã biết, đã hiểu mà ngưng suy nghĩ.
Nhà Phật chỉ có “
Kiến Tính thành phật,” biết mình, nhận ra thực thể “
Bản lai diện mục” của mình thì là người thức ngộ. Nhà Lão, “
Không làm gì mà không việc gì không làm.” Sự nhận biết chính mình, nhận biết thực thể của mình chính là suy tư, suy tư không lệ thuộc hành động hữu vi, không ai có thể nhìn thấy hoạt động gì. Nhớ lại, những ngày đầu khi chợt đọc được câu, “
Người biết không nói, kẻ nói không biết,” cha Hải thấy ngỡ ngàng, và câu nói cứ luẩn quẩn nơi tâm trí không lúc nào ngơi, nhưng suốt mấy năm dù suy nghĩ cách nào cũng không thể hiểu được.
Cha Hải đặt mình vào những vị thế của câu nói, tại sao lại biết mà không nói, nơi trường hợp nào, trạng thái nào, và điều gì khiến người biết không nói? Tại sao người nói lại không biết? Cuối cùng, không thế suy nghí được nứa, cha Hải chỉ biết để cho câu nói luẩn quẩn làm phiền đầu óc mình. Cho đến một hôm, khi ngài vô uống cà phê, gặp vợ chồng chủ nhân người quen, có chuyện bất hòa nho nhỏ vì đứa con gái lớn 14 tuổi ăn mặc, nhuộm tóc theo bạn bè cùng lứa tuổi. Vợ chồng này cũng xấp xỉ tuổi ngài và vì quen đã lâu nên coi nhau như bạn bè. Dĩ nhiên, như thế, đương nhiên cha Hải trở thành quan tòa hòa giải. Biết nói sao đây vì họ là vợ chồng, vả lại không thế đứng vào phe nào nên cha Hải ngớ ngẩn hỏi khi người chồng đi pha cà phê,
- Vậy chị có thương anh ấy không.
- Không thương mà có ba đứa con với nhau à.
- Chị thương anh ấy thế nào? Cha Hải buột miệng hỏi.
- Thương thì biết thương chứ làm sao mà nói.
Cha Hải giật mình, hiểu được câu nói, “
Người biết không nói,” nói cho đúng, biết nhưng không thể nói. Mà có càng nói, càng giải thích thì cũng không thể nói được gì. Từ đó, qua kinh nghiệm suy luận, cha Hải đặt mình vào mọi trường hợp của những câu nói ngang ngang, ngửa ngửa nơi đạo học để nghiệm chứng ý niệm mà các tác giả muốn thách đố độc giả. Cha Hải nhận ra đặc điểm các câu nói nơi đạo học là nói thẳng với độc giả nơi trạng thái hay tiến trình nào đó khiến độc giả phải dồn hết tâm trí suy nghĩ, suy nghĩ cho tới tận cùng không thể suy nghĩ đươc nữa, chấp nhận đối diện với câu nói và nhân chuyện gì đó, sẽ ngộ.
- Tôi có thể nói phương pháp mà tôi đã trải qua, nhưng có thể giúp ích gì cho các ông các bà thế nào thì tùy thuộc các ông các bà có chấp nhận suy nghĩ hay không. Nói cho đúng, gọi là phương pháp nhưng chẳng có phương pháp nào cả, chỉ là để tâm và đợi thời thức ngộ mà thôi. Tôi đưa ra một thí dụ, “Oánh mày, oánh tao,” các ông các bà thử suy nghĩ xem nó nghĩa là gì và rơi vào trường hợp nào.
- Thưa cha, tại sao lại oánh mày, oánh tao, phải có lý do gì chứ, chỉ nói khơi khơi vậy thì ai hiểu nổi. Ông Thanh nói.
- Câu này có cần kiến thức gì không, có cần học thức, bằng cấp gì không, có suy nghĩ được không, cần phương pháp nào để đạt tới. Nhà Phật có câu, “
Nước nóng lạnh, người uống tự biết,” mà ông đòi phương pháp thì làm sao trả lời. Tại sao Phúc Âm có câu, “
Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng,” hay, “
Kẻ yêu cha mẹ hơn ra không đáng là môn đệ ta,” các ông, các bà không tìm lý do, phương pháp suy luận, suy nghĩ, nghiệm chứng, nghiệm xét mà cứ lờ đi như không biết? Đó, lời Chúa mà các ông các bà còn khinh thường thì hỏi phương pháp làm chi? Tôi không chống đối, nhưng thử hỏi các ông các bà nghĩ gì khi đối diện câu,
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt. 7:21). Đừng nói tôi được học nhiều, kiến thức lắm mà cho rằng tôi biết được ý Chúa. Ý Chúa chỉ Chúa biết chứ tôi không biết. Giáo hội dạy thế nào, các cha giảng ra sao thì các ông các bà biết, tôi không biết...
- Cha cũng là linh mục, sao cha nói không biết ý Chúa?
- Ý Chúa thì làm sao ai mà biết. Lời Phúc Âm rõ ràng, "
Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy.” Muốn biết ý Chúa, cần biết Thiên Chúa là gì, thế nào. Phúc Âm Gioan nói rõ, “
Ðàng và sự thật, sự sống, chính là Ta!” Phúc Âm Gioan là Phúc Âm nghiệm chứng. Thiên Chúa là sự thật, là sự sống nơi mỗi người, muốn biết ý Chúa, mỗi người cần suy nghĩ, nghiệm xét. Thánh Phao lô đề nghị, “
Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-22). Nhưng khi suy nghĩ, phải tự mình ên suy tư, suy nghĩ, không nên bám víu vào bất cứ gì; điều gì, lý lẽ nào hợp với suy tư, lý luận thì giữ và những gì không phù hợp với suy tư cần phải bỏ qua,
“Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô?” (Col. 2:8); bởi vì thánh Phao lô cũng rõ ràng minh định, “
Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-29).
- Thưa cha, chúng con được dạy, phải tin với giáo hội, nay cha lại nói phải tự mình suy nghĩ, suy nghiệm, mà mỗi người suy nghĩ một lối thì là tin lành, tin dữ, tin lung tung sao? Bà Hoan lên tiếng chen vô.
- Tôi không nói theo ý của tôi hay suy luận của tôi mà là theo lời dạy của thánh Phao lô cùng với lời Phúc Âm Matthêu, “
Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa vì theo tin mừng, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa ngự trị nơi mọi người nên muốn tìm ý Chúa cần tìm nơi mình, cần suy nghĩ, cần tự mình nghiệm xét mọi sự, không tin ai hết, không để ai lừa dụ và cũng vì Thần Khí Chúa ngự trị nơi mình. Có phải các ông các bà vì lười suy nghĩ nên sợ sai, đã biết sai thì sửa để suy nghĩ cho đúng. Không suy nghĩ là khinh chê hồng ân của Thánh Thần, được gọi là phạm đến Thánh Thần. Hãy thử đặt vấn đề, câu Phúc Âm, “
Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng,” lãm sao áp dụng nơi cuộc đời một người thì biết. Giáo hội dạy thế nào, các cha giảng ra sao? Tại sao không tự suy nghĩ mà lại chờ giáo hội dạy, chờ các cha giảng. Tôi đã giải thích là Phúc Âm khuyến khích, thách đố con người suy nghĩ, thánh Phao lô khuyên đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em.
Bốp… ông Liên đưa tay tát vào mang tai của mình đánh con muỗi tự nãy giờ cứ vo ve đòi máu. Ông đã biết nó quấn quyện hồi lâu nên ngồi im giả đò không biết chờ nó đậu vào mang tai và ra tay.
- Oánh mày, oánh tao, ông Thanh buột miệng.
Cha Hải mỉm cười hỏi,
- Phương pháp nào giúp ông nhận ra công án oánh mày, oánh tao?
Mọi người ngỡ ngàng, họ hiểu cha Hải muốn nói gì nhưng không trả lời được.
- Có phải các ông các bà biết, “Oánh mày, oánh tao” nói về hành động nào rồi phải không. Có cần phải ai lý giải, giải thích, giải nghía nữa không. Vậy, “
Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng” lý giải thế nào, cần ai giải thích, giải nghĩa. Phúc Âm được viết như thế. Suy nghĩ, hay suy nghiệm, hay nghiệm xét, nói theo thánh Phao lô cũng chỉ mang nghĩa suy luận những diễn trình nhận thức đơn giản thế thôi. Ông Thanh có thể giải thích oánh mày, oánh tao thế nào không. Có phải vì đầu óc của ông cứ thắc mắc câu tôi nói nghe ngớ ngẩn, không đầu không đuôi nên khi sự việc xảy ra khiến ông ngộ được không?
- Như tôi đã nói, suy nghĩ, nghiệm xét không có phương pháp nào hết, không theo một khuôn mẫu nào, đúng như lời thánh Phao lô, “
Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo đức Kitô.” Đồng thời, “
Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào.”
- Đừng sợ sai lầm, bởi trong ý nghĩ, suy nghĩ không có điều gì đúng, sai, phải, trái. Nói về đúng, sai, phải, trái chỉ khi nào chúng ta đem tư tưởng ra thực hiện hoặc nói cho ai biết, người đó mới có thể so sánh với suy nghĩ, suy luận của họ nên mới cho rằng đúng hoặc sai. Mà nếu đã biết mình suy nghĩ sai thì suy nghĩ lại sao cho đúng hơn; nghĩa là hợp với mình hơn. Kinh nghiệm sống cho chúng ta biết, người thì không có ớt ăn mất ngon; kẻ lại không ăn được ớt. Thế nên, không thể dùng ớt làm tiêu chuẩn cho việc ăn uống. Trong suy nghĩ cũng thế, Chúa của mỗi người khác nhau, không thế lấy Chúa theo quan niệm của ông này làm mẫu mực cho ông hay bà kia, không thể đem râu ông mà cắm vào cằm bà được.
- Chỉ có một nguyên tắc chung là suy nghĩ, được gọi dưới bất cứ tên gì, như suy nghiệm, nghiệm xét, suy tư, suy tưởng, nghiệm chứng… Chọn bất cứ câu ngang bướng nào, tự mình ên suy nghĩ xem sự thể được nói tới ở trạng thái nào, hay trường hợp nào trong cuộc đời mình, hoặc chuyện đơn thuần xảy đến nơi sự kiện nào đó. Những câu nói này nơi các sách đạo học Đông Phương được mệnh danh là công án; nhiều khi nó không có lời giải, hay lý giải, mà chủ đích chỉ để cho người đọc hay nghe dồn hết năng lực suy nghĩ, đến khi không suy nghĩ được nữa, đối diện với nó để rồi gặp cơ hội hay sự việc nào đó ngộ ra được.
Tóm lại, gốc của nhận thức hay thức ngộ là suy nghĩ, dồn hết tâm trí vào một câu nói nào đó, luôn để tâm tìm cho ra ý nghĩa của sự thể nào đó hay trạng thái của sự việc trong suy tường. Tôi biết nếu giải thích sẽ cắt đứt suy tư của các ông, các bà, đây là sự việc chống nghịch Phúc Âm, nhưng đành chấp nhận lầm lỗi xưa nay tôi cũng như các linh mục khác vấp phạm, thay vì khuyến khích dân Chúa suy tư lại cứ giải thích theo quan điểm luân lý, đạo đức thế tục. Tôi muốn giải đáp 3 câu Phúc Âm, bất cứ câu nào để làm thí dụ cụ thể hầu khuyến khích các ông các bà suy tưởng.
- Ông Hoan, hãy nói cho tôi biết câu Phúc Âm nào làm phiền ông nhất
- Thưa cha, cái câu phi lý, chẳng ai thưc hiện trong cõi đời, ngay cả các đấng các bậc trong hội thánh, đó là, “
Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi làm cờ cho ngươi vấp phạm thi chặt mà quăng chúng đi.”
- Tại sao câu này làm phiền lòng ông?
- Con thấy phi lý nên cho rằng Phúc Âm viết cho vui vì đâu ai thực hiện, Nó phản lẽ tự nhiên. Thứ nhất, luật đời, không tin, cha thử móc mắt, chặt tay xem có đi tù không vì đụng vào luật bảo vệ cơ thể, đâu phải muốn làm gì thì làm với cơ thể của mình là được. Ngay như vấn đề phá thai, đâu phải muốn phá là phá. Ngay như đến ngừa thai mà giáo hội còn dạy phải đo nhiệt độ hoặc tính toán ngày rụng trứng phương chi móc mắt, chặt tay. Thứ hai, đối với dân chúng thì không nói làm gì vì có nhiều người không tin, không biết về Phúc Âm. Riêng với dân Chúa, giáo hội cũng coi thường Phúc Âm nên bày ra phép giải tội để khỏi phải móc mắt, chặt tay. Cứ phạm tội bừa đi rồi xưng tội là hết. Giáo hội đâu tin vào Phúc Âm, hèn chi phải thiết lập phép giải tội; nếu cứ theo lời Phúc Âm thì nhà thờ biến thành nơi tụ họp những người khuyết tật. Chắng lẽ các cha, các giám mục, hồng y không bao giờ lầm lỗi, nhất là ngày nay, truyền thông đại chúng rẫy đầy, thì nhà thờ hết còn là nhà thánh, mà là nơi hội họp đám tội lỗi, kẻ cụt tay, người mù chột, mới nghĩ đến đã khiến người ta cười đến rụng rốn, phương chi là đối diện với sự thể người rờ rẫm; lần mò từng bước đi, kẻ lặc lè, khệnh khạng kiếm chỗ ngồi. Cha thử nghĩ, chẳng lẽ các đấng không phạm tội bao giờ; mà thấy đấng nào đấng nấy, cha nào cha nấy lành lặn, đẹp đẽ. Thứ ba, nói rằng nếu mắt các ngươi là cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi thì thử hỏi có còn ai không mù lòa; nó cứ phơi ra ngay trước mặt mà không nhìn lại không được; bởi Chúa ban cho đôi mắt thì phải nhìn dẫu không muốn nhìn. Tội này đâu phải lỗi tại người nhìn nên vấp phạm mà là lỗi ở người phơi ra. Nào hở nách, hở ngực, đến ngay những người, vú, vế, đã chẳng có, đàng trước như đàng sau, giống cái phi trường di động, mà mặc cái áo khoét sâu xuống đến bụng trông mà phát tởm, làm hết vẻ thẩm mỹ con người, thế mà cứ phơi ra, chỉ làm cho kẻ hãy còn thanh sạch mất lòng khiết tịnh, dẫu muốn phạm tội cũng không được. Ông Hoan nói một hơi đầy vẻ sinh động.
- Ông nói sao, muốn phạm tội cũng không được, là thế nào?
- Thì có gì đâu thưa cha, thà rằng trông có vẻ hấp dẫn thì không nói làm chi; đàng này người thì như con mắm mà học đòi người ta, thấy người ta thế nào học theo như vậy khiến người nhìn đau cả mắt, đúng là tra tấn cái nhìn. Không hiểu các cha cho rước lễ thấy vậy có chia lòng chia trí không?
- Thì đừng nhìn nữa; đau mắt chứ đâu có móc mắt. Cứ theo những gì ông suy luận vậy thì đâu có trường hợp nào lệ thuộc mục đích của Phúc Âm, đâu có chi khích lệ hay thách đố người ta suy nghĩ. Ông suy diễn cũng có lý nhưng lý một chiều và để bào chữa cho lý do không bị móc mắt, chặt tay mà thôi, chứ không suy nghĩ để giải quyết ý thách đố của Phúc Âm. Khi suy nghĩ câu Phúc Âm hay bất cứ công án đạo học nào, trước hết chúng ta nên đặt mình vào những vị thế của những vai trò nào đó nơi câu nói rồi đặt vấn đề. Nơi trường hợp câu này, có những vai trò cớ vấp phạm, móc bỏ đi. Trường hợp nào thì mắt trở nên cớ vấp phạm, vấp phạm trong trạng thái nào, lĩnh vực nào. Đâu phải không thực hiện theo nghĩa từ chương, nghĩa đen, vì Phúc Âm không nói về hành động xác thân mà nói đến suy tư, suy nghĩ, tư tường.
Điều gì ngăn cản, làm cớ vấp phạm khi suy nghĩ, khi nghiệm xét thì bỏ, thì vất đi, không nên để ý tới. Thí dụ, ai cũng muốn giầu có và nếu người nào thực sự muốn có nhiều tiền, cho dù làm lương ít ỏi, vẫn có thể có nhiều tiền. Làm được đồng nào, chỉ ăn cơm với nước mắm, không se sua ăn mặc, không mua xe đắt tiền, không dám mở máy lạnh, máy nóng, không tiêu xài thì tất nhiên sẽ để dành được rất nhiều tiền. Thế nên, tất cả những gì không tối cần thiết đều là cớ tốn tiền. Tương tự, trong suy nghĩ, nếu đang chú tâm suy nghĩ về câu nói nào đó, bất cứ gì xảy đến nơi ý nghĩ, đều làm sai lệch suy tư, những ý nghĩ, sự việc chen vào này làm lệch suy tư tức là làm cớ vấp phạm. Thí dụ, các ông các bà đang nghe tôi nói nhưng cùng lúc, trong đầu liên tưởng đến sáng mai ăn gì. Ý nghĩ sáng mai ăn gì là cớ vấp phạm làm sai lệch, hay chia trí những gì đang nghe. Nói như vậy quá đủ. Bây giờ đến câu khác. Nên nhớ, tôi chỉ giải thích ba câu làm mẫu mà thôi.
- Thưa cha, bà Hoan lên tiếng. Phúc Âm nói, “
Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6).
Nghe thấy bà Hoan nói trơn tru câu Phúc Âm, cha Hải thầm nghĩ chắc bà này ấm ức đã lâu, lặp đi lặp lại nhiều lần câu Phúc Âm này nên mới hỏi trơn tru như thế. Do đó ngài hỏi lại,
- Có phải bà thấy câu nói phi lý lắm không? Phi lý vì đem của thánh cho chó, châu ngọc quăng cho bầy heo thay vì làm đồ trang sức?
- Thưa cha, con thấy câu Phúc Âm nói điều không thực vì không hợp lý; bởi chẳng ai làm thế.
- Vậy theo bà, của thánh đừng cho chó có nghĩa gì?
- Thưa cha, là những gì quí giá, đáng được tôn kính, trân trọng.
- Có thể là lời nói, sự giãi bày, giải thích, lời khuyên răn không? Còn châu ngọc quăng trước miệng heo có nghĩa người nghe không hấp thụ được, hoặc coi khinh hay coi thường?
- Nhưng sao lại cho chó và quăng trước miệng heo, chẳng lẽ…
- Thoạt đầu, khi suy nghĩ về câu Phúc Âm này, tôi bực điên lên vì nghĩ lời Chúa coi mình như thứ loài vật; bởi vì lúc đó tôi đã nhận ra Phúc Âm nói thẳng với tôi và về chính tôi. Lời Chúa đã khinh tôi thì mắc mớ gì tôi coi trọng. Phải ba tháng sau tôi mới nhận ra lời Chúa cho rằng không suy nghi, suy tư, nghiệm xét thì không khác gì con vật. Nhưng sáu tháng sau tôi mới nhận ra, Phúc Âm khuyên tôi không nên giải thích vì chẳng những giải thích theo nghĩa từ chương, luân lý, đạo đức thế tục sẽ khiến người ta tưởng là hiểu, nhưng thực sự ngăn người ta thức ngô; vì giải thích là ăn cướp cơ hội suy nghĩ của người ta. Cuối cùng, tôi nhận ra, đối với những người không chịu suy nghĩ, Phúc Âm coi họ như những con vật. Và nếu họ đã không muốn suy nghĩ, hoặc không suy nghĩ, thì tốt nhất là im lặng, không nên nói chi hết, không trả lời chi hết. Nếu đã khinh chê hồng ân suy tư của Thánh Thần thì để cho mù tối luôn; Chúa cũng không thể giúp kẻ lười suy tư.
- Câu tiếp theo, ai đề nghị câu thứ ba?
- Lúc trước cha có nhắc đến câu, “
Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng,” Phúc Âm viết sai hay nói lặp thưa cha?
- Các ông các bà đã bao giờ nghe thấy người ta nói “Xác chết biết thở” bao giờ chưa?
- Vậy cùng ngôn từ kẻ chết có hai nghĩa, thưa cha, ông Thuận hỏi.
- Một đàng là chết xác thân, một đàng là coi như đã chết vì không suy nghĩ, kể như đã chết. sống cũng như chết, chết đường tâm linh. Tôi chỉ nên nói như thế vì không muốn rơi vào trường hơp,
"Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết, các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản" (Lk. 11:52). Bây giờ, tôi thử đưa lên những câu Phúc Âm nơi Marcô và mấy công án để mọi người nhận định. Nếu áp dụng lời khuyên của thánh Phao lô để tự mình suy tư được chỉ một câu, quí vị sẽ biết.
1:15 Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." 2:21 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm. 2:22 Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, thì phải bầu mới!" 3:28 "Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 3:29 Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời" 3:35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." 4:9 Rồi Người nói: "Ai có tai nghe thì nghe!" 4:12 để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ." 4:25 Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất." 7:6 Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 7:7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 7:8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." 10:15 Thầy bảo thật anh em:Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." 10:23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" 10:25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". 10:31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
- Nơi các sách đạo học, có rất nhiều công án, Tôi thử nêu lên một vài câu để mọi người suy nghĩ,
“Đi xa tức là về gần.” “Kiến tính thành Phật,” “Gặp Phật giết Phật; gặp pháp bỏ pháp.” “Lửa thì không nóng, nhưng tái mình càm thấy nó nóng.” “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,” “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật" - Cũng đã muộn rồi, nhưng có một câu tôi đề nghị các ông các bà suy nghĩ xem thế nào; đó là câu, “
Ai có tai thì nghe.”
- Cha cho con hỏi, ông Hoan lên tiếng. Tại sao cha chỉ nêu mấy câu nói ở Phúc Âm thánh Marcô mà không nêu lên những câu nơi các Phúc Âm khác?
- Nào có gì đâu, Phúc Âm Marcô ngắn nhất và giờ đã muộn. Hơn nữa, chỉ cần tự mình suy nghĩ được một câu, tôi nói là tự mình đấy nghen, thì kinh nghiệm suy tư sẽ giúp các ông các bà suy nghiệm ra được mọi câu khác. Thí dụ, nơi dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” ở chương 20, ông chủ vườn thuê thợ từ sáng sớm, đến lúc 9:00 giờ và lúc 11:00 giờ cũng thuê thêm một số thợ; để rồi lúc trả công vào buổi chiều, mọi người được ngang nhau, một đồng tiền. Vậy là thế nào, sao áp dụng vào nhận thức suy tư nơi mình? Các ông các bà muốn đọc hết các Phúc Âm để kiếm câu nào thách đố mình thì cữ việc. Điều cần thiết là dồn hết suy tư vào một câu, suy nghĩ đến tận cùng sẽ biết. Thôi, trở lại câu, “
Ai có tai thì nghe.”
- Con đọc Phúc Âm thấy câu này được lập đi lặp lại nhiều lần, nghĩ rằng chuyện hiển nhiên, bình thường; vì ai cũng có tai, vấn đề là có muốn nghe, hoặc nghe mà có để ý hay không. Có điều chi quan trọng mà cha phải đật vấn đề? Ông Hoan nói.
- Có phải ông đang nghe thấy tôi nói hay không? Cha Hải hỏi lại.
- Thưa cha, chắc chắn như một cộng một là hai.
- Ông có chắc một cộng một là hai không?
- Vậy tôi hỏi ông, một cái xác cộng với một cái hồn thì là mấy?
- Sao cha lại nghĩ ra được câu hỏi như thế. Ông nghĩ, nói là một thì không đúng luận lý sự vật thực nghiệm. Nói là hai thì không đúng hiện trạng con người nên hỏi ngược lại.
- Nó ngay chính nơi ông mà, nào có gì mới đâu. Có lẽ. chính những gì gần gũi nhất với mình, mình lại chấp nhận như tự nhiên nên không để ý tới. Thế ông có còn chắc chắn một cộng với một là hai nữa không?
- Chẳng lẽ là một lại cũng không đúng.
- Ông nói đúng, nếu chỉ linh hồn không thôi, nào ai biết đấy là đâu. Nếu chỉ là xác thân, tất nhiên phải đem ra nghĩa địa chôn hoặc thiêu. Nhưng khi linh hồn hòa nhập với thân xác, phát sinh tâm trí. Vậy một cộng với một phải là ba. Ba là một, một là ba; ông có thấy điều gì khác lạ không?
- Vậy thưa cha, đó là mầu nhiệm ba ngôi xưa nay chúng con phải tin?
- Thì đó là đạo theo mà. Đạo tin theo, không suy nghĩ nên phải tin. Tất cả những lý thuyết không phải tự trời rơi xuống mà gốc gác phát sinh tự suy nghĩ của con người. Nếu đã là màu nhiệm, huyền nhiệm thì nào ai có thể biết. Trờ lại câu Phúc Âm, “
Ai có tai thì nghe,” cái tai có thể tự nó nghe được không?
- Cha nói sao, tai không nghe được chẳng lẽ chỉ để làm dáng, đeo khuyên tai.
- Vậy khi người ta chết rồi, tai còn có thể nghe được không?
- Chết rồi thì nói làm gì, thưa cha. Nghe chuyện từ lúc bắt đầu ăn tới giờ ông Thanh rất ít nói, chỉ để ý nghe. Thấy cha Hải chỉ nói đến giữa chừng câu chuyện khiến ông suy nghĩ mông lung. Nghe riết, ông hiểu được cha Hải nói thế có ý thách đố người nghe nghĩ tiếp nên lên tiếng.
- Chết là khi linh hồn lìa khỏi xác, và khi đó tai hết nghe, mắt hết nhìn, miệng hết nói, và bộ óc hết suy nghĩ. Từ sự thể này, chúng ta nhận ra, ngũ quan chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động; thế mà ai ai cũng cho rằng con mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ.
- Sao con thấy mọi người nói tai để nghe, mắt để nhìn, miệng nói và óc suy nghĩ. Các nhà khoa học cũng nói thế. Có lần xem TV, họ giải thích, máu truyền lên óc và các “neron” li ty chuyển vận phát sinh sáng kiến mới, suy nghĩ mới.
- Các nhà khoa học dựa trên dữ kiện mà giải thích, phỏng đoán, nhưng họ quên rằng, bộ óc là vật chất, mà vật chất không thể phát sinh tinh thần, tư tưởng, ý nghĩ. Nếu nói vật chất có thể phát sinh ý nghĩ, giận hờn hay yêu ghét thì đã có những trường hợp bị hất ra khỏi giường khi đang ngủ; chuyện này quả thực chưa bao giờ xảy đến với bất cứ ai.
- Vậy chứ thưa cha, sao người ta về già thường mất trí nhớ, có khi quên cả mình là ai.
- Bộ óc đối với cơ thể một người cũng giống như phần nào đó của chiếc xe, tuy đèn xe bị cháy nhưng xe vẫn chạy được. Vấn đề tôi muốn nêu lên ở đây chính là chúng ta tin mình có linh hồn, vậy linh hồn mình thế nào, liên hệ đến thân xác ra sao, nó có hình dáng, màu sắc chi. Chính mình có linh hồn mà mình không biết về nó thì nói tin mình có linh hồn là thế nào. Chúng ta cũng nói tin vào Thiên Chúa thì Thiên Chúa là gì, chẳng lẽ mình chỉ tin vào danh hiệu, mà tin vào danh hiệu thì chăng khác gì vô thần. Điều tôi muốn nói chỉ có thế, các ông các bà suy nghĩ ra sao thì tùy mỗi người. Thời giờ cũng đã muộn, xin cảm ơn, và hẹn gặp lại khi có dịp.
THỬ SUY NGHIỆM PHÚC ÂM lễ an táng. Quí ông bà, anh chị em trong đức Kitô.
Trước hết, trong tình thân ái con người, tôi có lời chia buồn, cảm thông với gia đình, thân thuộc, và bạn bè của chị … Đồng thời, đối diện với cuộc đời đầy biến động, khó có thể lường trước những biến chuyển, thay đổi, tôi xin chia vui và chúc mừng chị đã hoàn thành cơ hội sống như những bài học phải trải qua trong kiếp người. Cũng xin chị, vì tình nhân loại, cầu bầu cho chúng tôi, có thêm năng lực chấp nhận, và kiên nhẫn vượt qua những thử thách như cơ hội, hầu hoàn thành sứ mạng cá nhân dẫu nhận biết hay không.
Nói tới cuộc đời như cơ hội hoàn thành sứ mạng, tức là chúng ta nói đến mục đích cuộc đời của mỗi người, của bất cứ ai. Phúc Âm khuyến khích, “
Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Vậy Nước Thiên Chúa là gì? Phúc Âm Gioan công bố, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống.” Thiên Chúa là sự sống nơi mỗi người, là sự hiện hữu của mọi tạo vật, Thiên Chúa ngự trị, hiện diện nơi mọi sự hiện hữu, nên Nước Thiên Chúa là chính Ngài. “
Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” có nghĩa hãy nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hiện diện nơi chính mình. Đây là ý nghĩa, lý do tại sao Kinh Thánh viết, “
Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh của Ngài.” Suy như vậy, chúng ta có thể nói, hay có thể nhận biết,
mỗi người là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Đây cũng là Tin Mừng đức Giê su rao giảng, “
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Như vậy, mục đích cuộc đời của mỗi người là nhận biết thực thể của mình, thực thể Thiên Chúa nơi mình; mình là hiện thể của Thiên Chúa.
Nói tới mục đích, chúng ta cần nói tới phương tiện để đạt tới mục đích. Mỗi người chúng ta được sinh ra khác nhau, trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, có cuộc đời khác nhau dưới cùng một dạng thức thân phận nhân sinh, và chúng ta có tâm trí dẫu khác nhau nhưng bẩm sinh chúng ta có khả năng suy nghĩ, suy tư, suy nghiệm, nghiệm xét, nghiệm chứng. Tuy nhiên, chúng ta có khả năng suy nghĩ, tính toán về cuộc sống tuyệt vời, tính toán trong công việc cơm áo gạo tiền rất hay để lo cho cuộc sống, nhưng chúng ta ít để ý đến thực thể của chính mình là gì. Chúng ta kinh nghiệm hay nhân biết, con mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ, nhưng chúng ta không để ý đến sự thể thường xảy ra, khi một người hết sự sống, nghĩa là đã qua đi như chị … giữa chúng ta đây, thì mắt còn nhìn được không, tai nghe được không, miệng còn nói được không, và óc còn suy nghĩ được không? Như thế, chúng ta nhận ra, tai, mắt, miệng, óc, chỉ là phương tiện cho cái gì đó trong một người hoạt động, cái gì đó chúng ta gọi là linh hồn, là sự sống, là Thiên Chúa nội tại.
Chúng ta cũng thường quen với tính toán, 1 + 1 = 2, nhưng thử hỏi, một thân xác cộng một linh hồn thì bằng mấy? Nếu chỉ có thân xác không, có nghĩa linh hồn, sự sống đã rời bỏ thân xác, thì chỉ còn nước đem ra nghĩa trang; nếu chỉ có linh hồn không, nào ai biết đấy là đâu. Nhưng khi linh hồn hòa hợp với thân xác, chúng ta có tâm trí, suy nghĩ, suy tư. Như thế, một cộng với một nơi thực thể con người thì ít nhất là ba, thân xác, linh hồn, và tâm trí; ba là một, và một là ba. Đây là huyền nhiệm, mầu nhiệm mà chúng ta được dạy phải tin, huyền nhiệm, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Hôm nay, chúng ta dâng thánh lễ để tiễn đưa linh hồn, tiễn đưa sự sống của chị … về nơi vĩnh cửu. Chúng ta cảm ơn chị đã ra đi trước, giúp chúng ta nhận biết, giúp chúng ta thực chứng thực thể của chúng ta là gì, giúp chúng ta suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét thâm sâu hơn, về tin mừng đức Giê su rao giảng cho mọi người và đó là, “
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”
Xin Thiên Chúa, sự sống nơi mỗi người, chúc lành nơi quí ông bà, anh chị em. Amen.
TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN Nhìn vào cuộc sống, chưa chắc những gì mình gặp may lại là điều đem lại lợi ích cho mình; vì trong phúc có họa nên người đắc phúc chớ vội mừng. Trong họa có phúc nên người xui xẻo chớ nên buồn. Thực ra, nhũng gì xảy đến với mình đều chuẩn bị cho điều sắp xảy đến. Những ai đã vô tình té ngã, sẽ để ý hơn khi đi đứng. Cổ nhân có câu, “Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời.” Con người nểu không suy nghĩ chỉ là thử lừa, nên nhìn lại, càng những bậc khôn ngan càng có nhiều kinh nghiệm dù chính mình đã trãi qua, hay học từ sách vở, hoặc từ nỗi sai lầm của người khác dù chẳng bao giờ nói ra.
Ai dám nói mình không bao giờ lầm lỗi, nhưng những lầm lỗi lại nâng cao nhận thức. Có những lúc người ta không thể không làm một số việc mà chính ngay cả bản thân mình cũng không muốn. Đời người như nước trôi qua cầu không bao giờ trở lại; nên người khôn ngoan thường hay ngây dại; và siêu nhân thường giống như kẻ điên.
Suy nghĩ về những lầm lỗi đã vấp phạm để tránh những vấp phạm lầm lỗi sau này được gọi là biết mình, thức ngộ bởi điều chờ không đến, và điều xảy đến là điều không hề chờ đợi; thế cho nên, cầu mong không bằng gặp thời; gặp thời không bằng tốt số; tốt số không bằng ý trời. Tuy nhiên, nghịch cảnh là hồng ân chúng ta không muốn chấp nhận; khó khăn, đau khổ, là thành quả ít nhất ta đã mơ ước một lần.
Nếu nhìn lầm lỗi theo khía cạnh này, lầm lỗi lại là hồng ân cho con người thức ngộ. Người không chấp nhận lỗi lầm mà kiếm những lý do, lý trấu, tại thế nọ, thế kia, chẳng bao giờ học khôn được.
Nểu so sánh cuộc sống thế tục ngắn hạn với vĩnh cửu, ai không thấy trăm năm chỉ thoáng qua như chớp mắt. Mới đó mà đã bẩy mươi mấy tuổi rồi; những thăng trầm cuộc sống rồi cũng qua; những ngày tàn tạ của cuộc đời tiếp tục chỉ là những ngày chờ chết. Thế cuộc đời một người có ý nghĩa gì; phải chăng nó là cơ hội chuẩn bị cho cuộc sống mới.
Dù cho rằng con người có cuộc sống đời sau hay có kiếp luân hồi, thì chắc hẳn cuộc đời này của mỗi người đều là cơ hội cho họ học hỏi những gì còn thiếu sót để trở nên hoàn thiện hơn, hoặc cũng là cơ hội để trả nghiệp cho những lỗi lầm đã vô tình hay cố ý vấp phạm từ kiếp trước. Dù không tin vào lý số, nhưng không phải không tin thì không có số. Nếu con người được sinh ra như nhau, bằng nhau, tại sao cuộc đời không ai giống ai; tại sao có người sinh ra chỉ để làm chủ, lại có người không thể đứng đầu một tổ chức, một ngành nghề nào đó? Tại sao người thì đụng đâu cũng làm ra tiền; lại lắm kẻ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà suốt đời nghèo vẫn hoàn nghèo, có dành dụm được chút ít thì lại sạch bách bởi tai bay vạ gió bất chợt trờ tới.
Nơi Lão học có câu, “
Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Trời đất không thiên vị ai, đồng thời nhân gian cũng có câu, “
Đức năng thắng số.” Dẫu không tin con người có số phận thì đã biết bao người cố gắng vùng vẫy, muốn thoát cảnh đời không ưng ý, coi chừng lại chìm sâu trong khổ ải của dục. Thế nên, Paschal để lại câu nói, “
Con người không phải là thánh, chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, những kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú.” Biến thành thú vì chạy theo thú tính của mình, chạy theo cái dục mình mơ tưởng.
Tuy nhiên, bởi không nhận chân được lợi ích của lầm lỗi, chúng ta thường cứ nghĩ rằng mình đang sáng tạo ra vận mệnh; vì họ không hề biết rằng vận mệnh đi về hướng nào. Thực ra, con người thì tâm cao hơn trời, mệnh mỏng hơn giấy; ngày mai khi mặt trời lên, tất cả đều là quá khứ. Nhân sinh như mộng. Nếu coi danh lợi là điều lớn nhất của cuộc đời thì hết sức ngu xuẩn; bởi đất có tuần, dân có vận, mỗi việc đều do thiên định; thế nhân nào biết cuộc đời như một giấc chiêm bao, có giấc mộng đẹp, có ác mộng đen tối, chúng ta phải biết tỉnh giấc để biết mình là ai, sống vì mục đích gì.
Thời gian không chờ đợi mà thanh xuân chỉ có một thời.
Trong núi có cổ thụ ngàn năm, trên thế khó gặp người trăm tuổi. Quan lớn thì sinh nguy hiểm; quyền lớn thì bị dèm xiểm, trèo cao ắt ngã đau; cái lợi hôm nay coi chừng là cái hại mai sau; ở dưới hiên thấp, con người đành phải cúi đầu; sự thật thắng hùng biện. Con người thay đổi và các nhu cầu cũng thay đổi. Do đó, điểu gì trước kia là linh đạo thì nay không còn là linh đạo nữa; chỉ là sao chép những phương pháp đã dùng trong quá khứ mà thôi; đừng cắt may con người cho thích ứng với chiếc áo; bởi kẻ trí không nên tin vào lời đồn.
Nhữn kẻ làm ác khác chi ngửa mặt lên trời mà nhổ; nước miếng lại rớt xuống mặt mình. Ngược gió tung bụi; bụi kia làm bẩn mặt mình. Thú khôn không khi nào đi theo lối cũ. Lời thế gian có thể làm chảy vàng nát đá, miệng người đời có thể thương nhân; biết lòng quân tử, chứ không rõ dạ tiểu nhân Không oán người ta độc ác, mà chỉ oán mình hiểu người không sâu.
Muốn ngộ phải ngậm dần từng câu, còn võ học phải lĩnh ngộ vượt bực. Võ công có thể học người khác mà thành cao thủ, nhưng muốn đạt đến mức tuyệt đỉnh lại chỉ có thể học từ chính mình. Có thể nghiên cứu, tìm hiểu để có bằng cấp cao nhưng muốn tiến đến thức ngộ cần tự nghiệm chứng. Kỳ ngộ sẽ không tìm những ngươi không có chuẩn bị, cơ hội vĩnh viễn chỉ tới với ai có chuẩn bị. Lĩnh ngộ là việc chỉ có thể ngộ mà không thể cầu. Một khi tự do được tôn trọng thì không còn đàn áp đặt người khác phải hiểu và nhận định theo hướng của mình phương chi phép tắc. Phàm người nào quá nặng lòng về chuyện đắc thất thì trí năng phán đoán sự việc không minh mẫn nữa. Vì thế mà có câu, hễ động tham tâm là linh trí tối tăm. Thế nên, coi chừng tham dục, vì hữu chí trồng hoa, hoa không nở, vô tâm cấy liễu, liễu cho bông.
Lã Mộng Thường