Truyện ngắn: VINH DANH MẸ
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 21 bài trong đề mục
THƠ NGÃ DU TỬ 02.03.2025 15:30:08 (permalink)
Truyện ngắn:
VINH DANH MẸ
 
Thằng Tý từ lúc sinh ra, mặt mũi mắt sáng láng, ai cũng bảo thông minh. Sau này sẽ học giỏi, có thể thành đạt, nhưng khốn mỗi cái tội nhà mẹ nghèo, lại đơn thân. Có cha cũng nghư không. Cha nó, không hiểu lý do gì khi thôi nôi xong, nói đi làm ăn xa, rồi ngày tháng trôi đi, chẳng thấy về, thậm chí không viết thư, biệt âm vô tín.
Khi vào lớp 1, mẹ Tý thường nhắc đi nhắc lại mỗi lần đưa đón con. Me Tý bảo cháu:
- Nhà mình nghèo, con lại thiếu cha, cố gắng học chăm, mai mốt thành người còn giúp mẹ, mẹ chỉ có mỗi mình con, chị quả quyết vây.
 - Dạ, con sẽ cố gắng để không phụ lòng mẹ.
Sáng chợ sớm, chiều chợ trưa bất kể mưa nắng thế nào, chị cũng dãi dầu, xông xáo. Trời thương, nên chẳng bệnh hoạn gì nhưng chị vui và tự hào vì Tý ham học, lại học giỏi. Tháng nào cũng được giấy khen. Cuối năm có phần thưởng mang về tặng mẹ, mẹ Tý vui lắm, chị thường về ngoại tâm sự với bà ngoại Tý. Bà ngoại lúc nào cũng xuýt xoa, thương cảm.
Các bạn học cùng lớp ráng ganh đua nhưng không thể bằng. Trong xóm có thằng Lựu cùng học chung, tính xấu bụng thường dè biểu, bảo rằng: "Con không cha như nhà không nóc".
Tý chẳng để ý, chỉ biết chăm chỉ học hành. Năm nào cũng xuất sắc, cuối cấp bậc tiểu học, Tý hiểu ra được ý nghĩa câu này. Tý giận thằng Lựu lắm. Gần mùa bế giảng cuối cấp 1, sau khi ra khỏi trường. Tý chận đường Lựu lúc ra về:
-  Suốt cả năm nay, tôi có gì không phải với bạn? Sao bạn tụ năm tụ ba nói với các bạn: "Con không cha như nhà không nóc" là sao? Nếu bạn còn nói như thế, tôi sẽ đánh bạn, đừng trách tôi. Tý giận nhưng vẫn bình tĩnh, rắn rỏi. Từ đó, Lựu có vẻ ngán Tý không dám nói nữa.
Sau ngày ấy, không còn nghe Lựu & Tý nhắc gì về điều này.
Năm lớp 6, không còn học chung nhau nên 2 bạn chắng gặp.
Thời gian cứ êm ả trôi, mẹ Tý mãi hoài lo cơm áo cho con, tuổi xuân cũng theo thời gian nhạt nhòa và càng rắn rỏi hơn cùng sự bào mòn của năm tháng sớm trưa, mưa nắng dãi dầu, tóc đã nhiều sợi bạc, chị hằng ngày chỉ biết con đường lấy hàng và đến chợ xã, chợ huyện bán mua.
                                                         ***
Thấm thoát gần hai mươi năm trôi qua. Hôm ấy, nhà trường làm lễ bế giảng trường cấp ba và  tuyên dương  các học sinh xuất sắc, em Tý cũng hân hạnh có trong top 10 của các lớp 12 –  Những em có thành tích tốt nhất của nhà trường.
Tý về nhà thỏ thẻ cùng mẹ:
-          Mẹ à, ngày mai là lễ bế giảng của trường, cô giáo chủ nhiệm có giấy mời mẹ đến dự lễ bế giảng. Thư mời đây mẹ à.
Từ ngày cha Tý đi biền biệt, chưa một lần trở lại thăm con. Hôm nay, chị cầm trên tay thư mời, chị tưởng như điều gì rất to lớn, niềm vui có con được tuyên dương trước trường và nỗi buồn đơn thân chỉ biết một lòng hy sinh cho con, chị quên cả chính mình, trong lúc bè bạn vẫn ăn diện, có khi rũ rê chị café, nhưng chị khéo léo từ chối. Riết rồi bạn bè không gọi chị nữa, chị lầm lũi tảo tần trên con đường độc hành. Chị vừa tự hào vừa tủi thân, chị khóc.
-          Sao mẹ khóc, con chăm chỉ học hành suốt 12 năm học, ngoài giờ học, con phụ mẹ đủ việc, con chưa bao giờ con lêu lỗng, hay bỏ bê công việc nhà, sao vậy mẹ hay là mẹ giận con điều gì? Nếu con có điều gì trái ý mẹ và bà ngoại con xin lỗi mẹ.
-          Con không có lỗi gì cả, con là đứa con ngoan, chăm chỉ học giỏi được nhà trường khen tặng tuyên dương, mẹ vui lắm, tự hào lắm, còn phía sau những nỗi niềm của mẹ, con không hiểu được đâu - Chưa bao giờ mẹ nói cùng con, mẹ chỉ tủi thân, từ ngày con còn nhỏ đến nay gần đôi mươi, chưa bao giờ cha con trở về để thăm con côi cút, sống chết thế nào? Người chồng, người cha sao bất nghĩa và tàn tệ… Rồi chị hồn nhiên khóc và kể lễ với con, nỗi buồn có lẽ cũng trôi theo giọt nước mắt và tan theo dòng lệ nhỏ xuống nền đất làm khô đi muộn phiền chất chứa suốt gần hai mươi năm.
-          Mẹ đừng khóc và nói nữa về người đàn ông là cha của con. Xem như cha đã chết, mẹ sẽ an lòng hơn. Con tin sau cái khóc này, mẹ sẽ chẳng còn có gì để khóc, chỉ có niềm vui và nụ cười. Ngày mai, mẹ nghỉ bán lên dự lễ nghe mẹ, cô giáo chủ nhiệm con mong gặp mẹ.
 
Suốt chiều hôm ấy,  chị về ngoại sớm hơn báo với ngoại Tý, ngoại vui mừng lắm, bà lục lại túi dựng quần áo, có vài chiếc áo dài, chị ướm thử chiếc áo có hoa cúc vàng phía trước vạt còn tương đối mới, sao vừa vẹn quá mẹ. Ngoại móm mém nói yêu với con gái:
-          Tội nghiệp con tôi, từ thanh xuân yêu cậu Sơn, có gì chưa được với con mắt tinh đời, mẹ đã can ngăn nhưng rồi định mệnh khắc nghiệt, thằng Tý mới thôi nôi, nó bỏ đi chẳng nói nửa câu. Từ đó chi hậu nó biệt vô âm tín, con một mình hy sinh hết để nuôi con ăn học. Bây giờ Tý được nhà trường tuyên dương không có nổi bộ đồ đẹp để mặc mừng ngày đại lễ của con. 
-          Chiếc áo vừa vẹn quá mẹ. Bà trông Tuyền - Con gái mình giống mình thời trung niên, bà vui đến nổi nghẹn lời. Chị gói cẩn thận như kỷ vật quý. Ngày mai mình sẽ mặc chiếc áo dài này dự lễ cùng con, chắc cũng đẹp lắm đây.
Buổi tối ấy chị thao thức trông cho đến sáng để cùng con nhận lãnh vinh quang mà suốt bao nhiêu năm chị nỗ lực, chưa biết mệt mỏi là gì.
 
Buổi sáng ấy, mẹ Tuyền bước vào sân trường, một sân khấu trước trường cao, trang hoàng khá đẹp mắt. Trên nền vải xanh đính mấy chữ rất đẹp: Lễ Bế giảng & Tuyên dương các học sinh khối 12.
Tý cùng mẹ đi vào, tận tay dắt mẹ đến gặp cô giáo chủ nhiệm:
-          Thưa cô, Đây là mẹ em, tên là Thanh Tuyền. Chị cúi đầu chào cô giáo.
Mẹ à, đây là cô Dung chủ nhiệm lớp của con, cô yêu thương con lắm.
Cô Dung mau mắn:
-          Cô à, em Tý học giỏi, rất ngoan, có tinh thần giúp bạn và nỗ lực phát biểu. Suốt 3 năm liền em là học sinh xuất sắc. Chúc mừng cô và em Tý. Lát nữa nhà trường tri ân những phụ huynh có con em xuất sắc, cô lên bục để nhà trường tặng hoa.
-          Dạ, cảm ơn cô cùng nhà trường.
-          Thôi, em dẫn mẹ đến hàng ghế phụ huynh, chuẩn bị làm lễ bế giảng.
Sau lễ chào cờ, lời giới thiệu của cô giáo MC, thầy Hiệu trưởng nhà trường bước lên sân khấu dõng dạc:
Kính thưa quý thầy cô, tất cả phụ huynh có mặt, cùng các học sinh thân mến của trường…
…Trường chúng ta năm nay, khối lớp 12 có 10 em trong tốp giỏi nhất, trong đó có em: Nguyễn văn Tý với số điểm tuyệt đối: 4 môn gồm Toán, Lý, Hóa, Lịch sử. Văn 9 điểm và cùng 9 em có thành tích xuất sắc khác, tôi nhiệt liệt chúc mùng các em và biểu dương trước học sinh toàn trường, thầy cô cùng tất cả phụ huynh hiện diện.
Tiếng vỗ tay rào rào làm mẹ Tuyền của Tý như người hạnh phúc nhất trong sân trường, ông Hiệu trưởng không quên chúc mừng phụ huynh Thanh Tuyền đã nỗ lực dạy dỗ, khuyên răn em Tý học tập tốt mà em còn là người biết giúp đỡ bạn bè cùng cả lớp tiến bộ.
Sau cùng, Tý là người đại diện khối 12 phát biểu trước trường, em phát biểu từ tốn, giọng vang đều đều ai cũng lắng nghe, nhóm bạn cùng lớp khoái chí lắm.
Sau lời phát biểu của Tý, khối 12 tung nón mũ lên chúc mừng cũng làm vui một góc sân trường.
Cuối cùng là bế mạc, giọng cô giáo hướng dẫn còn vang vang: Các em lưu lại khoảnh khắc đẹp của trường cấp THPT mình, để mai sau còn nhìn lại. Chúc các em khối 12 đạt thành tích tốt trong kỳ thi cao đẳng và đại học sắp tới để xứng đáng là cựu học sinh ngôi trường thân yêu này.

Các học sinh thi nhau chụp ảnh lưu niệm và vui vẻ với nhau từng tốp một, làm tưng bừng, xôn xao góc sân trường, có bạn còn đưa lưng xin chữ ký của các bạn cùng lớp, chiếc áo như bức tranh nhiều nét chữ ký chồng lên thật ngộ nghĩnh.
Buổi lễ bế giảng trong 3 tiếng đồng hồ cũng qua đi, nhường chỗ cho sự lặng yên của sân trường khi cánh cồng chính ra vào khép lại.
***
Thời gian cứ lầm lì trôi qua, mẹ Thanh Tuyền tiếp tục cuộc hành trình cùng mưa nắng để cố gắng dành dụm gửi vào cho Tý chi phí ăn, ở, học đại học rất cao. Còn Tý biết phận mình nên dè xẽn tất cả có thể, trừ phương tiện học tập. Hơn ai hết Tý biết mẹ mình kiếm đồng tiền rất vất vả, chua cay thậm chí có cả máu xương của mẹ.
Rất may, anh thật thà chơn chất lại học giỏi nên các bạn cùng ký túc xá nói riêng, cùng cả khoa nói chung biết hoàn cảnh anh nên cũng đỡ đần anh phần nào. Ai cũng quý mến.
 
Mới đó, mùa xuân lại đến, những bạn có tiền đã đặt xe về quê nhà đoàn viên cùng gia đình trong 3 ngày tết. Tý buồn vì không có tiền về thăm mẹ. Đang nằm đọc quyển sách cho nhẹ nỗi buồn, thằng bạn ở Thành phố này gọi:
-Alo, mầy có trong ký túc xá không Tý?
-Tao đang nằm lỳ trong phòng đây, có gì không, Hùng?
-Ra ngoài cà phê Sinh Viên, tao ghé thăm mày chút đây.

-Ok, tao ra ngay.
Hùng kéo ghế mời Tý:
-          Nè, café nhé. Tý, mi không có tiền mua vé về thăm mẹ à?
-          Mẹ tao, có mỗi một mình, từ ngày vào học Đại học trong này, bà phải “tăng công suất” nhưng bán mua ở chợ xã, chợ huyện làm chi có nhiều tiền, nếu bà gửi vào thì tao về, bằng không tao ăn tết cùng những bạn đồng cảnh ngộ.
-          Thôi được, chị tao mới cho vài triệu, tao giúp mày vé xe về thăm mẹ, ngày Tết thiêng liêng lắm, bà trông con mòn con mắt về phương Nam mong mày về. Mày cứ tự nhiên coi như tao cho mày mượn, thế thôi.
-          Tý cảm động lắm, lòng muốn về với mẹ thăm và sẽ có nhiều điều nói trong năm mới, nhưng tiền bạc không cho phép – Đồng tiền là phương tiện dữ dội nhất trên thế gian này, cũng đành thôi. May quá, còn có mày. Cảm ơn Hùng nhiều, ơn nghĩa này làm sao trả nỗi bắng tiền, phải không Hùng?
-          Uống café nói chuyện cuối năm và cậu còn liên lạc nhà xe để quay về với mẹ trong mùa xuân này. Chúc buổi quay về gặp nhiều gương mặt cựu học sinh một thời, nhất là cô nàng nào cậu để ý. Giờ ta là sinh viên của đại học danh giá chứ bộ.
Nắng tháng chạp rực vàng và ấm áp, xuyên qua cành lá của hàng cây cổ thụ làm mát con đường tình sinh viên trước Ký túc xá, người ta đi rộn ràng và xôn xao trên phố, thỉnh thoảng có vài chiếc xe chở cây kiểng, chậu mai vàng chuẩn bị đón tết trông vui mắt lạ thường.  
 
Sau ngày ấy, cặp đôi bạn Tý Hùng gắn bó hơn trong cuộc chơi bóng tròn, hay các kỳ thi Robot tại Thành phố này “2 nhà khoa học” này chăm chỉ miệt mài nhiều ngày đêm đầu tư tài chính và công sức, trí tuệ và một kỷ niệm khó quên là cặp đôi bạn này lên bục cao nhận giải Robot toàn thành về ý tưởng sản xuất Robot.
Ngày về trường, 2 chàng như vị anh hùng được tuyên dương dưới trường Đại học. Sự vinh quang nào cũng phải có giá của nó, Các bạn sinh viên nhìn cặp đôi này với ánh mắt đầy nễ nang.
 
Thấm thoát, ngày tốt nghiệp Tân cử nhân cũng đã đến sau 4 năm chăm chỉ và miệt mài dưới khung trời đại học.
Lần nữa, anh mời mẹ vào thành phố để bà vui, mở rộng tầm mắt cho mẹ, anh vội gọi điện thông báo cho mẹ, khi có giấy mời của trường:
-          Mẹ à, lần thứ hai trong đời, con được Trường mời, lại là trường Đại học danh giá phụ huynh của sinh viên xuất sắc sắp ra trướng.
Bên kia, đầu dây bà mẹ có vẻ ngập ngừng:
-          Con à, mẹ vui đến rơi nước mắt vì sự chăm chỉ của mẹ và con được ông trời đền bù xứng đáng, nhưng con à, xa xôi quá mẹ lạ nước lạ cái, hay là mẹ không vào cũng được, mặc dù rất tiếc, con nhớ chụp cho mẹ vài tấm ảnh ngày con ra trường để mẹ khoe với ngoại và bà con.
-          Không được mẹ ơi, trường sẽ tài trợ vé xe đi và về, mẹ an tâm, bây giờ con đã là tân kỹ sư, mẹ cứ vào, đón xe vào Thành phố, gọi con ra đón, nhớ đừng trễ, bỏ lỡ một cơ hội rất đáng tiếc, mẹ nhé. Mẹ có thể mượn tiền ai đó thân thiết, ngày về con sẽ gửi để trả họ. Con mong mẹ. Vậy mẹ nhé, con thương mẹ nhất.
Chiều hôm ấy, mẹ Thanh Tuyền lại vui buồn lẫn lộn, bà không thân thiết ai ngoài bà ngoại và dì cậu, làm sao mượn được vài ba triệu! Bà vội về ngoại.
-          Chào mẹ, con báo mẹ tin rất vui, thằng Tý được ra trường rồi, là tân kỹ sư
được trường mời con vào dự lễ tốt nghiệp tân kỹ sư, nhưng xa xôi quá, lại không có tiền vào, nhưng nó gọi điện tự tin lắm: “Mẹ cứ vào, nhà trường tài trợ vé xe”, nhưng con không có tiền mặt, hôm qua con túc mục dốc hầu bao lấy hàng, còn quá ít.
-          Con dự tính chuyến đi này bao nhiêu?
-          Chắc hơn 2 triệu, nghe nói vé xe khứ hồi cả triệu rổi mẹ à
-          Vậy, để mẹ gọi cho vợ chồng con Tư, chắc được. Vừa nói mẹ của Tuyền mở máy gọi:
-          Alo mẹ, có việc gì không mẹ gọi con?
-          Chẳng giấu chi con, chị Tuyền con được trường Đại học trong thành phố mời vào dự lễ ra trường của thằng Tý, chị Tuyền mày hôm qua lấy hàng hết tiền rồi, vài bữa nữa sẽ vào thành phố, con cho chị Tuyền mượn đỡ vài triệu, nó về sẽ trả lại cho vì nhà trường tài trợ vé xe, chưa kịp gửi ra.
-          Dạ, có chị Tuyền đó hả mẹ?
-          Ừ, nó về hỏi tao nhưng tao không có.
-          Mẹ, cho con gặp chị Tuyền nhé.
-          À, chị đây em, như mẹ nói đó, em giúp chị mượn đỡ nhé. Chị về sẽ trả ngay.
-          Ok chị, để em về gửi chị mượn 2 triệu nhé, chị chờ em, em trên đường về chuẩn bị thăm mẹ. Lâu quá chị em không gặp. Đợi em nghen.
-          Ok em. Cảm ơn em. Có chi chị, em về nói chuyện nhiều nhé.
Hai chị em lâu ngày không gặp, cùng mẹ nói đủ chuyện trước sau của cả nhà, vui có, buồn có, vui nhất là đề tài Tý, ai cũng mừng và hãnh diện có Tý học giỏi.
Ngày ra trường cũng đã đến, chị vào thành phố trước một ngày, chị nghỉ cùng ký túc xá với Tý, nó vui mừng lắm. Phòng của Tý hôm ấy rất nhiều bạn cùng khóa vào thăm và trò chuyện với chị cả đêm, 4 chục bánh thuẩn mẹ Tuyền mang vào cũng sạch sẽ, các bạn sinh viên nhiệt tình đáo để, chẳng khách sáo, mẹ Tuyền vui như từng chưa được vui, lần đầu trong đời chị bước vào ký túc xá, có lẽ sẽ là lần duy nhất. Tối ấy, chị thao thức chờ mai sẽ được cùng ngồi với các vị phụ huynh giàu có và sang trọng, cùng những trí thức mà ai cũng kính nễ, chị suy nghĩ vẫn vơ.
Khuôn viên trường quá rộng, chị mãi trằm trồ: “Hèn chi là trường đại học vậy mới đủ để chứa tất cả học sinh nhiều vùng vào đây”. Chị được mời vào ngồi trong khán phòng sang trọng, máy phóng thanh xướng tên từng em tân kỹ sư, ông giáo sư mặc áo thụng màu đỏ tặng bằng tốt nghiệp cho các tân khoa áo thụng màu xanh, buổi lễ diễn ra trang nghiêm cũng gần vài tiếng đồng hồ. Sau đó tất cả ra ngoài chụp hình lưu niệm, chị thấy Tý cùng các bạn Tý rộn ràng với nhau hết người này đến người khác, hết tốp này đến tốp khác, chị mỉm cười hạnh phúc suốt buổi.
Các bạn cùng khóa chụp ảnh lưu niêm, sau đó đứng chung quanh Tý reo hò và tung hứng Tý như các cầu thủ bóng đá vừa được lãnh Cup vô địch tung hứng Huấn luyện trưởng của mình ca tụng sự tài giỏi của ông, một kiểu chúc mừng Tý rất lý thú. Thời sinh viên nhiều kỷ niệm, nhưng có lẽ kỷ niệm này ấn tượng với Tý, khó quên.
Không quên chụp với mẹ Tý nhiều tấm hình kỷ niệm cùng với Tý và anh em cả khoa, một dấu ấn vinh quang của con chị, chị sung sướng như bắt được niềm vui lớn nhất trong đời. Khi các bạn ra về, Tý lặng lẽ dắt mẹ ra nơi góc trường đại học mà anh đã xứng đáng nhận lãnh những vinh quang.
-Mẹ à, mẹ mặc chiếc áo tân khoa này, con chụp cho mẹ tấm hình độc nhất vô nhị trong đời mẹ.
Sau đó, anh để mẹ đứng trang nghiêm, anh đứng đồi diện, dõng dạt nói với mẹ:
-Mẹ à, mẹ là người xứng đáng vinh danh để mặc chiếc áo tân khoa này, cả cuộc đời con có được tấm bằng này đều do công sức và hy sinh vô bờ của mẹ, từ lúc con có mặt trên thế gian này. Cho con lạy mẹ như sự biết ơn công đức to tát ấy. Chị đứng như trời trồng, không chút phản ứng nào.
Nước mắt của niềm vui chạy dài xuống đôi gò má gầy guộc và sạm nắng rồi rơi xuống đất hòa cùng màu xanh của cỏ trong  khuôn viên nhà trường như thể màu xanh hy vọng còn trải dài cho tương lai con của chị & Thằng Tý.
Nắng sân trường như rực rỡ hơn trong không gian cao và rộng của trường đại học, bầu trời xanh trong và mây trắng từng cụm ụn trên nền trời xanh trong thật đẹp như tương lai của Tý và mẹ Tuyền.
Hai mẹ con cùng về ký túc xá, tiếng reo vui trong lòng hai mẹ con sẽ không có văn sĩ tài hoa nào tả nỗi niềm vui đang reo ca trong trái tim người mẹ suốt đời tảo tần vì con.  
 
Phạm Ngọc Dũ/ SG

 
#1
    Thanh Vân 02.04.2025 23:33:09 (permalink)
    Vinh Danh Mẹ
    Thấy sis Ct.Ly đã mang vào thư viện rồi
    Chắc sis Ct.Ly quên ghi vào đây
     
    http://vietnamthuquan.eu/...31n343tq83a3q3m3237nvn
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.04.2025 23:37:01 bởi Thanh Vân >
    #2
      THƠ NGÃ DU TỬ 11.04.2025 19:58:40 (permalink)
      KÝ SỰ MIỀN TRUNG
      (Tháng 5/ 2016)
       
      1. Ngày mùng 8 tháng tư/ Bính Thân (14/5/2016) Đoàn chúng tôi đi Bình Định gồm TT Thích Như Tại, trụ trì chùa Liên Ứng, quận Bình Thạnh, TPHCM cùng Phật tử của chùa về Bình Định phát quà từ thiện cho người nghèo. 14 giờ chiều hôm ấy, sau khi xếp tất cả
      quà lên trên xe là khởi hành ngay, bởi sắp đến ngày Phật Đản công việc của nhà chùa rất bận rộn. Sáng sớm hôm sau, trời còn chưa kịp sáng chúng tôi đã có mặt tại Thị trấn Diêu Trì, Bình Định.
      Sau ăn sáng, uống café là chúng tôi trực chỉ về chùa Mai Lộc ở Diêu Trì, thuộc Phường Trần Quang Diệu để phát 150 phần quà từ thiện cho người nghèo. Thầy trụ trì chùa Mai Lộc đón TT Như Tại và Phật tử cùng đi hết sức thâm tình, Thầy đôn hậu lắm coi như con cháu, ai cũng niềm nở với vị sư già ở bổn tự Mai Lộc. Bổn tự còn dọn thức ăn sáng chay khá chu đáo, ai ăn chay thì mời vào, nào bánh hỏi, cháo – Món cháo rất đặc biệt ăn là nhớ đời, rất ngon. Có lẽ ai cũng phải khen nếu được thưởng thức và bánh tráng cuốn với rau sống ở nhà chùa trồng khỏi nói, nó roi rói tươi ngon và rất sạch.
      Điểm tâm xong là thầy T.T Thích Như Tại và vị trụ trì bổn tự sở tại cho phép phát quà.
      Người nghèo ở đây đã có mặt rất sớm vì chùa có thông báo trước, vậy nên anh em Phật tử cũng tranh thủ phát quà cho bà con về sớm. Anh Dũng là người thường đi với thầy Như Tại trong các chuyến từ thiện nên rất có kinh nghiệm trong tổ chức sắp xếp. Chừng một tiếng rưỡi đồng hồ là đã gần như hoàn tất 150 phần quà, còn ít phần chưa có người nhận để tại chùa, nếu ai đến trể thầy trụ trì sở tại tiếp tục giải quyết.
      Thầy Như Tại còn khá nhiều công việc Phật sự nên thầy vội vàng quay về Sài Gòn trong sáng ngày 15/5
      Một chuyến đi dù mệt nhọc nhưng cũng khá hoan hỉ, vui vẻ được nhìn thấy niềm rạng rỡ trong ánh mắt của người thật nghèo nhận quà của các Phật tử những vật dụng sẻ chia tuy món quà không lớn nhưng ấy là tấm lòng giữa người và người mà thầy Như Tại cũng như Phật tử chùa Liên Ứng, số 482/ 76 Lê Quang Định, quận Bình Thạnh TP HCM cố gắng vận động mới có được.
      Trong đoàn hình như ai cũng hoan hỉ vì đã làm được việc phước báu: - Sẻ chia cho người thiếu thốn hơn có niềm vui trong đời sống. Nắng mới tràn khắp trên đường như soi rọi nổi hân hoan trên từng khuôn mặt mỗi người. Có lẽ một ngày thật ý nghĩa với các anh chị em trong đoàn Phật tử chùa Liên Ứng, Quận Bình Thạnh, TPHCM.
      Cầu chúc thầy Như Tại dồi dào sức khỏe, chân cứng đá mềm để tiếp tục hoằng hóa chúng sinh, giúp đỡ cho người nghèo như hạnh nguyện của thầy thường tâm tình với chúng tôi: “Cả đời tu học của tôi chỉ mong mọi người trên đất nước chúng ta không còn cảnh thiếu đói, ai cũng được no cơm, ấm áo để được vào trường tím kiếm chữ nghĩa, kiến thức lớn lên giúp mình, giúp đời và biết chia sẻ cùng người nghèo kẻ khó”.
       
      2. Phát quà xong cho những người nghèo có mặt tại chùa Minh Lộc, Quy Nhơn tôi cũng tranh thủ tạm biệt thầy Thích Như Tại cùng đoàn Phật tử chùa Liên Ứng quận Bình Thạnh TPHCM đoàn cũng vội vàng vào Sài Gòn, ngược lại tôi cũng vội ra quốc lộ 1 để đón xe đò về Quảng Ngãi. Bởi lẽ, hôm nay là ngày húy nhật của ông nhạc tôi tại Chợ Chùa, TT Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Từ ngày ông nhạc tôi mất đến nay tôi chưa bao giờ được về để
      dự đám giỗ ông, phải nói rằng ông là người cha đầy trách nhiệm với các con và rất tình cảm với vợ chồng và con cái chúng tôi.
      Ngày ông mất tôi cũng làm bài thơ vĩnh biệt nhạc phụ, nhưng từ ấy đến giờ lòng tôi cũng ngậm ngùi lắm, lần lửa hoài bây giờ đã đến Bình Định không lý do gì không về dự, trước là cho mẹ vợ tôi vui sau là thăm luôn các anh chị em nhà bên vợ, tuy rằng thỉnh thoảng tôi vẫn về Quảng Ngãi nhưng không thể nào gặp đủ mặt các anh chị em cùng con cháu phía nhà ngoại Kim Ngân (1), Tôi hy vọng lần nầy sẽ gặp tất cả. Lúc ấy đồng hồ trên tay tôi chỉ đúng 8h 30.
      Tôi lên chuyến xe 16 chỗ sau 5 phút gọi điện cho nhà xe Quy Nhơn, ngồi ở café dọc đường, Ồ, thật may, nhanh quá, đến nổi tôi không kịp uống hết ly café sáng để lấy lại tỉnh táo sau chuyến đi dài liên tục từ Sài Gòn về Quy Nhơn, người chủ quán bèn bỏ café
      vào ly nhựa chuyển cho tôi khi tôi bước lên xe.
      Hỏi người phụ xe về đến TP Quảng Ngãi chừng mấy giờ, người phụ xế nói ngay: Chừng 11h15 chú sẽ đến Quảng Ngãi. Tôi nghĩ sẽ kịp giờ húy nhật của ông nhạc. Bất ngờ, chắc sẽ vui lắm đây.
      Xe chạy khá nhanh dù có dừng lại bắt khách dọc đường nhưng đúng như dự liệu của phụ xe,
      Tôi xuống Quảng Ngãi chậm hơn 5 phút như lời người phụ xế. Nắng thật gắt, nóng cũng dữ dội, hơn nữa từ trong xe có máy điều hòa vừa xuống với thời tiết tự nhiên, nên cảm giác là vậy. Một người chạy xe ôm đến gục đầu chào tôi có vẻ niềm nở. Người xe ôm với cái cười duyên dáng từ đằng xa chạy vội đến nói với tôi: 
      - Anh về đâu tôi chở anh về, giờ đã đứng trưa rồi, nắng nóng gắt quá.
      - Anh cho tôi về nhà khách Phú Quí, ngay ngã 5 đường về Nghĩa Hành (Một địa chỉ bạn bè thâm tình của tôi – vợ chồng anh Phan Hùng - Lê thị Ấn) anh biết chứ?
      - Dạ biết
      - Thưa anh, bao nhiêu tiền?
      - Dạ bốn chục
      Tôi lên xe anh ấy đi cũng khá mau, khoãng 7 phút là tôi có mặt tại nhà Hùng Ấn. Dùng trà với vợ chồng anh chị Hùng, Ấn bởi tôi có gọi điện trước nên anh chị rất chu đáo. Sau những câu chào hỏi thường tình, Lê Thị Ấn mau mắn nói:
      - Về có việc gì không hay là thăm chơi? Tôi nói ngay bởi quá thân nhau:
      - Tôi về để kịp ăn đám giỗ ông nhạc. Đi Quy Nhơn công việc, tiện thể, tranh thủ về thăm gia đình luôn.
      - Vậy à, Cậu lấy xe về ngay để còn kịp, chắc người nhà đang đợi. Anh Hùng đã chuẩn bị xe từ khi tôi gọi. Thân tình lắm mới như thế.
      - Đưa chìa khóa xe cho Dũ, Chị Ấn nói.
      Anh Hùng đưa chìa khóa xe cho tôi, Tôi chỉ kịp nói:
      - Rất cảm ơn ông bà đã khá chu đáo cho tôi, hẹn sáng mai khoảng 9h café cùng bạn bè nghe.
      Tôi lên xe và nổ máy, con đường thu hẹp dần khoảng cách, lòng tôi cũng nôn nao khó tả. Tôi tăng tốc chiếc xe Dream 2 cứ băng băng trên lộ, có lẽ tôi như một tay đua cừ khôi vậy, 15 phút là tôi có mặt ở nhà ngoại mấy cháu.
      Tôi bước vào nhà ai cũng mừng rỡ, nhất là mẹ vợ tôi. Có lẽ đây là niềm mong của bà cứ mỗi lần gọi vào Sài Gòn thăm gia đình tôi bà thường nói : “Con cố gắng về ăn giỗ ba con một lần cho biết”, tôi cứ dạ, nhưng rồi thời gian lần lửa cứ trôi qua, đã mười mấy năm rồi còn gì!
      Tôi chỉ bắt tay chào hỏi mọi người và lên gác trên đặt phẩm vật đứng trước bàn thờ cha dâng hương khấn vái, lòng tôi thấy vui, trên bàn thờ còn rất nhiều thứ trên ấy. Tôi còn nhìn kỹ
      thì ra mẹ vợ tôi vẫn trang trọng đặt bài thơ của cậu Bốn và tôi viết cho ông nhạc khi giã biệt trần gian quay về với vĩnh hằng:
      BIỆT CHA
      (Vô cùng thương tiếc nhạc phụ)
       
      Trầm hương vĩnh biệt cha già
      Trên cao còn sáng ánh tà nguyệt cao
      Quê hương cứ mãi xanh màu
      Mười phương vẫy gọi cha vừa thong dong
       
      Mẹ ơi, đời vốn vô thường
      Thân là cát bụi náu nương linh hồn
      Cha, giờ giủ sạch nguồn cơn
      Người vừa cỡi Hạc về chơn vĩnh hằng
       
      Trung tuần rạng một vầng trăng
      Màu từ bi gội nhuộm vàng cỏ hoa
      Trên cao hình ảnh cha già
      Mỉm cười xanh nụ niêm hoa… thuở nào
       
      Trăm năm trở giấc chiêm bao
      Chợt bừng thức giữa trăng sao thường hằng
      Người về, gửi lại vầng trăng
      Soi cùng nhân thế yêu thương mặn nồng
      NDT
      (Trăng 12/ 4/ Quý Mùi)
       
      Khách mời đã về gần hết cả, chỉ còn ít người thân cùng con cháu của gia đình, tôi bắt tay và chào tất cả.
      Tôi xuống nhà hỏi thăm, các em, các cháu ai cũng giục tôi lên vào ngồi bàn. Quây quần với nhau chừng vài ba mươi phút là xong. Thì ra năm nào cũng vậy từ ngày ông mất đến giờ mẹ và các anh chị em đều giỗ như vậy cứ mời người ta nấu nướng, che rạp đàng hoàng lắm, năm nay được 7 bàn, cũng khá nhiều khách đấy chứ, vậy là vui rồi, có lẽ phước báu của ông nhạc tôi nên mới duy trì được như thế.
      Lâu lắm rồi tôi mới có dịp ăn giỗ ở quê nhà, nghe nói, người Nghĩa Hành đi đúng giờ giấc lắm chứ không phải như trong Sài Gòn ngay cả tiệc cưới thời gian cũng kéo dây thun .
      Buổi chiều hôm ấy tôi gọi những người bạn thân tình đến chơi, nghe tôi về anh em cũng cố gắng đến dưới phố chỉ có Trần văn Tân và Trần văn Lâm, Nghĩa Hành thì anh Hoàng Tú, Nguyễn Thượng Hoàng, Nguyễn Quý, Trần văn Tô... Rất tiếc lần nầy Duy Khanh bận quá nên không có mặt. Đột ngột gọi được bạn bè như vậy cũng là vui. Hôm ấy tôi uống với anh em cũng khá nhiều mặc dù đêm trước tôi chẳng ngủ nghê gì, lại quay phim suốt từ 6
      đến 8 h 30 và dọt xe đò về quê hầu kỵ ông nhạc.
      Tối ấy vợ tôi - Bích Liên cũng từ Sài Gòn về không khí gia đình trông vui hẳn lên.
      Sáng hôm sau 16/ 5 Lương Thanh gọi tôi rất sớm Café Thiên Phúc, rồi Nguyễn Quý, Hồ Duy Khanh, Tấn Tô Sau đó thì có Phan Thanh Sơn, Nguyễn Văn Trung và Chế Thanh Vũ cùng tôi quây quần bên tách café sáng. Ồ sao mà về quê chuyến nầy vui thế hầu như gặp khá nhiều bạn bè khối lớp 12 C và 12 A, vui lắm, chuyện trước, chuyện sau, chuyện bây giờ mọi chuyện trên đời cứ tràn lên mặt bàn, tụ lại như cơn gió bay ngang qua ký ức thời
      học trò sau thống nhất 1975, bạn bè như vậy là quá quý, có người hơn 40 năm mới gặp, thời gian qua nhanh, nhìn lại thằng nào tóc cũng trắng cả, tròn một vòng hoa giáp rồi còn gì, gần trưa chia tay nhau, hẹn chiều lại ghé Hồ Sen quán tại thị trấn Nghĩa Hành.
      Dàn hợp xướng ve sầu nơi ấy hát đồng dao với công suất lớn thì ra về quê mới thấy mùa hè thú vị.
      Cây phượng ven đường đỏ rực những hoa phượng như nhuộm hồng một quãng dường như hồng lên từ phía quê hương Nghĩa Hành.
      Tôi tranh thủ về với vợ chồng cô em ruột Dần Đạm còn tại quê nhà lấy chìa khóa vào nhà cha mẹ tôi ở Hành Đức để thăm nhà và dâng cúng lễ vật, thường mỗi lần về quê đều như vậy, cứ mỗi lần đứng trước nhà tôi có cảm giác là lạ, thì ra nhà cha mẹ vẫn còn đó chỉ có điều không ai ở thiếu hơi ấm con người nên thiếu sinh khí, có chút buồn len vào hồn tôi.
      Ngày rằm và mùng một các em gái tôi về mở cửa nhang khói, mỗi năm 5 cái giỗ chạp mới có người, vì vậy sao mau xuống cấp quá. Tôi hơi bùi ngùi, ai cũng thích về quê vì tố chất yêu quê hương của mỗi người luôn hiển hiện trong hồn, nhưng bảo nếu về sống nơi đây chắc là khó lắm. Gần 40 năm ly quê còn gì.
      Tôi tranh thủ thăm nhà Du người đối diện nhà cha mẹ tôi và vội vã thăm bà Truyền, bà Lập người tôi mến vì tính chân thành, lòng trung thực và sự thủy chung vì chữ nghĩa, chữ tình. Các bà già quá. Tội nghiệp các bà lắm, tôi chuyện trò mỗi người 15 phút rồi lì xì và tạm biệt họ. Chẳng biết các bà còn sống bao lăm nữa, sợ khi các bà đi xa tôi không thể có mặt…
       
      Tôi về nhà đi một vòng thăm vườn xưa, nhang cũng đã tàn, tôi hạ đèn và khóa cửa, lòng có chút bùi ngùi. Trích bài thơ hoài niệm:
       
      Ta kiêu hãnh trước muôn trùng sóng gió
      Áo chàm phai chân bước lắm gian nan
      Triền dốc dựng phải chăng người gục ngã?
      Không, yêu em. Ngày tiếp tục lên đàng


      Có lẽ nào mãi quẩn quanh góc phố
      Áo nam nhi khoác vội trước nỗi đời
      Chẳng thể có con đường nào mạt lộ
      Lối đi nào cũng có cách riêng: - Chơi


      Trăng với gió tha hồ cùng Sông núi
      Chí làm trai, không thể yếu với hèn
      Xin làm khách trên trần gian yêu mến
      Dẫu vô cùng khó nhọc trước gian nan 

      (Con đường trước mặt)
      Ngẩn ngơ, tôi khóa cửa chạy lẹ xuống Sông Vệ thăm vợ chồng cô em thứ Mười, café tại nhà trò chuyện với cô em, Thúy dọn nải chuối cau, chuối cau ngoài quê giờ to quá, có lẽ đất tốt chăng nhưng ăn rất thơm và ngon. Thịnh, em rể tôi coi thi tại trường trung học gần nhà cũng vừa về, nói chuyện chừng hơn tiếng đồng hồ là tôi phải trở lại Chợ Chùa vì có hẹn với anh em. Hẹn lúc khác Thịnh Thúy nghe.
      Đúng 5 giờ chiều chiều, Lương Thanh gọi tôi về Quán Đầm Sen khi tôi đến nơi hắn đã có mặt nơi đây với dĩa đậu phộng rang và mấy lon Ken. Rõ ràng Thanh rất đúng hẹn, lát sau Phan Thanh Sơn, Nguyễn văn Trung đến Nguyễn Thượng Hoàng, Nguyễn Tám, Lương Hữu Tư rồi Tấn Tô và cuối cùng có Lê văn Tài. Thế là lại quây quần bên bàn nhậu. Phải nói Lương Thanh gọi dĩa tép đồng hấp không chê vào đâu được ăn là nhớ đời (Riêng tôi mấy chục năm mới thưởng thức lại món ăn quê nhà nầy nên nhớ đời là phải đạo), sau đó Phan Thanh Sơn gọi cá lóc đồng nấu măng tre gai, rau sưng, trời ơi sao 2 thằng bạn biết ý thế không thể không nhớ đời được, hương vị đồng quê rau sưng nầy chắc ít nơi nào có
      được, chỉ có quê tôi người ta thích, tôi mang theo mấy mươi năm bây giờ mới hâm lại, quý hóa quá. Cảm ơn các bạn rất nhiều…
      Sáng hôm sau, café với ông anh cả nhà vợ Phan Gia Hòa (Cũng là bạn của nhóm bè bạn chúng tôi) Phan Gia Khải, Trang Hoàng Tân cùng Tạ Ngọc Hải, sau đó Nguyễn Văn Trung cũng đến bằng xe đạp “đua” tới tranh thủ café với tôi mới ghê chứ bởi Trung còn bận phải chấm thi.
      Tạm biệt anh em thân hữu Nghĩa Hành và rồi cũng tạm biệt cả nhà, tôi xuống phố uống café với bạn bè dưới ấy, Lê thị Ấn và bè bạn chờ tôi dưới café Thủy Vương đường Phan Bội Châu, Tạ văn Thành cũng đến, lại gặp nhau chuyện trò hàn huyên.
      Chia tay nhau các bạn hỏi tôi:
      - Khi nào Ngọc Dũ vô lại Sài Gòn?
      - Ngày mai, tôi phải ra Đà Nẳng thăm cậu ruột, phía ngoại chỉ có cậu cũng đã 87 tuổi rồi còn gì, nhận tiện đã về đến đây sẵn ra thăm cậu luôn, một lần đi một lần khó, cuộc đời vốn vô thường làm sao ai biết trước chuyện gì, vì vậy có điều kiện là đến và hôm sau nữa sẽ vào Sài Gòn luôn.
      - Nếu có gì alo nghe
      - Ừ, vậy thôi còn được ngày nào vui cứ vui.
      Tôi gọi anh Hồ Nghĩa Phương dự định ăn trưa cùng nhau để nói chuyện với anh, nhưng anh Phương mau mắn hơn:
      - Bạn ở đâu?
      - Tôi ở phố đây mà tính gọi anh ăn trưa
      - Thôi, ghé luôn xuống nhà hàng Phạm Anh mình cùng nhau lai rai ở đây mọi người đã ngồi cả rồi.
      Tôi xuống đúng địa chỉ, thừa nhận TP Quảng Ngãi mở rộng khá nhiều con đường nhưng thành phố cũng nhỏ đi dăm bảy phút là đến nơi, anh Hồ Nghĩa Phương đón tôi vào tất cả an vị trong căn phòng ấm áp, tôi thấy anh Duy Thanh ngày trước hát cho đài phát thanh Quảng Ngãi sau nghe anh có sáng tác, nhạc sĩ Nhất Phương hiện dạy nhạc ở Sông Vệ, giảng viên Hạnh Nhi trường Đại học Phạm Văn Đồng, nhà thơ nữ Thu Ba ở Sài Gòn về cùng đi với cô em, Phan Bá Trình, cô giáo Thu Thanh cũng đến sau, cuối cùng thì cô Nguyễn Thị Nghị cũng tới, ngồi quây quần với nhau, Anh Duy Thanh hát mấy sáng tác mới của mình cho tôi và các bạn nghe, rồi cứ thế ns Nhất Phương, Hạnh Nhi hát, ngâm thơ, Hồ Nghĩa Phương quay film một đoạn sau đó có up lên trang fb của mình, Thu Thanh phải sớm về vì chiều phải coi thi có gửi tặng tôi tập thơ : “Chuyện mình với ta” cô ấy mới xuất bản đây là lần đầu tôi gặp một người thơ Quảng Ngãi, tôi sẽ đọc sau khi về Sài Gòn.
      Xong lại ra một quán café khá xinh đẹp ở gần đó. Nắng Quảng Ngãi khá gay gắt vào quán café thơ mộng khung cảnh lịch thiệp khá thú vị, chúng tôi uống café tại đây chất men cũng được giải, Hồ Nghĩa Phương tranh thủ cùng tôi và ns Nhất Phương ghé về hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Quảng Ngãi tặng tôi tập văn và thơ Quảng Ngãi 4o năm cùng số tạp chí Sông Trà và tiện thể gửi luôn cho anh Bùi Đức Ánh và Trần Hoài Anh. Sau đó tôi cùng ns Nhất Phương cùng vào nhà Phan Bá Trình.
      (Về Sài Gòn đọc: tập Thơ 40 năm Quảng Ngãi tôi hơi buồn chẳng lẽ thơ Quảng Ngãi chỉ lèo tèo bấy nhiêu thôi sao, tự dưng tôi thương các thi sĩ Quảng Ngãi cả đời nặng nợ với văn chương (chưa đọc văn) vì có những thi sĩ trước bạ, đăng đàn trước và sau 1975 như nhà thơ Nguyễn Khắc Minh, Vũ Hồ, Lê Vinh Thiều, Lê Vinh Ninh v.v…
      Tôi không hiểu cả hội văn học Quảng Ngãi ta tại sao lại làm như thế? Có thể các bạn sẽ không thích tôi viết thật thà như thế này nhưng đây là sự thật, nếu như lần sau nên chăng thêm các tiền bối đã có thành quả ở quê mình.
      Vào nhà Phan Bá Trình, tôi, ns Duy Thanh, và ns Nhất Phương uống rượu chuyện trò rồi tham quan ngôi nhà khá đẹp của Trình mới xây ở TP Quảng Ngãi, không ngờ Trình – Thầy dạy toán, chủ nhiệm CLB Thi ca Trà Giang lại là người chơi đồ cỗ dữ vậy nghen. Tôi phục Phan Bá Trình quá, đặc biệt Trình còn nuôi và nhân giống gà rừng tôi thích quá chụp mấy tấm ảnh tại đây, Trình tặng tôi tập thơ MẮT QUÊ vừa xuất bản. Về nhà đọc thấy nhiều ý thơ, thi ảnh đẹp. Chúc mừng nhà thơ, nhà giáo Phan Bá Trình.
      Thời gian qua mau, tôi và nhạc sĩ Nhất Phương chia tay với Trình và anh Duy Thanh để về Sông Vệ bởi Ns. Nhất Phương còn lớp nhạc chiều. Tôi cùng anh Nhất Phương ghé ăn tô mì Quảng chính hiệu ở Sông Vệ.
      Thời còn đi học trước 1975 bọn chúng tôi ở phố Quảng Ngãi thỉnh thoảng đạp xe vào trong ấy để ăn mì Quảng ở quán ông Ba Guốc, bây giờ về quê ăn lại vẫn cung cách ấy, có điều tô mì nhỏ hơn nhưng hương vị vẫn vậy, ngon và có cảm giác lạ. Chia tay anh Nhất Phương tôi về nhà vợ chồng cô em gái Võ Hữu Thịnh, Thanh Thúy trò chuyện đến tối, tôi mới trở về Nghĩa Hành.
      Ngày mai tôi phải rời quê nhà ra Đà Nẵng thăm cậu Hồ Sĩ Bảng và trở về Sài Gòn tiếp tục vòng quay áo cơm trần gian, Cơm áo không đùa với khách thơ.
      Ôi chao, thời gian 4 ngày sao mà chóng qua thế, mới đó cũng đã trôi nhanh.
      Sáng nay, tôi gọi điện cho Thầy Lê Tấn Dụng, thầy Khắc Minh và thầy Hùynh Châu cùng café với cựu các học trò, tôi xuống café Vườn Hồng và cùng nhà thơ Kiều Việt Linh (Bạn thơ thầy
      Khắc Minh) và thi sĩ Khắc Minh đến café khá đẹp trên đường Chu Văn An, sau đó Lê thị Ấn cùng cô em, Trần Văn Tân, thầy Dụng và thầy Huỳnh Châu cùng đến, quây quần trò chuyện cũng đến 11h trưa mới chia tay, tôi tạm biệt rồi về nhà anh Hùng Ấn, Anh Hùng chở tôi ra đường đón xe đi Đà Nẳng, tiếp tục chuyến hành trình về thăm cậu và các bạn văn Đà Nẵng.
      Cảm ơn anh Hùng Ấn đã cho tôi mượn chiếc “Giấc mơ 2” làm phương tiện di chuyển trong những ngày ở Quảng Ngãi và cảm ơn các bạn tôi cũng như các thầy đã cùng gặp nhau thăm hỏi và chuyện trò. Về quê lần này như vậy là quá vui và thú vị.
      Chúc tất cả dồi dào sức khỏe để còn có dịp hội ngộ lần sau.
       
      Phần 3: RA ĐÀ NẲNG THĂM CẬU
      Chuyến xe Quảng Ngãi - Đà nẵng khởi hành lúc 12 giờ nhưng đến 16 giờ tôi mới đến bến xe mới Đà Nẵng, nơi đây gần anh bạn Trần Sâm, một người làm thơ rất hay. Thời trước vào Sài Gòn dạy văn, chúng tôi quen nhau thân thiết từ thập niên 90 của thế kỷ trước, thân tình đến tận bây giờ.
      Bến xe mới Đà Nẵng khá khang trang, tôi xuống xe mang balo ra ngoài qua bên kia đường ngồi uống cafe, phong thái ung dung, gọi điện cho anh Trần Sâm. Tôi đã gọi điện trước nên chẳng mấy chốc là anh ra đón tôi.
      Làm thơ, viết văn có cái vui là nhiều bạn văn nghệ rất nhiệt tình, thân mến, tôi mời anh cafe, nhưng anh dứt khoát không uống còn hối tôi về nhà nhanh vì có các bạn anh đang chờ Ngọc Dũ, còn sướng nào hơn, còn vui nào bằng. Tôi phóc lên xe theo anh về nhà, chỉ kịp chào chị vợ anh – chị Xuân qua loa, rửa mặt là nhập cuộc. Đúng như lời anh, nào anh Dũng Hợp Phố (Anh là chủ nhân phòng trà Hợp Phố), Mai Hữu Phước, anh Chinh...
      Những món ngon Đà Nẵng bày biện rất đàng hoàng, Đà Nẵng cũng giống Quảng Ngãi có vài cái bánh tráng bẻ giòn tan làm vui tai gây thêm cảm giác thú vị nên người quê tôi có
      câu thơ về cái bánh tráng thú vị lắm:
      ‘Thân em mỏng mảnh mặt em tròn/ Có tiệc nhờ em: Tiệc mới ngon/ Vắng mặt đôi khi người đã gọi/ Vì chưn hội ngộ tiếng em giòn’.
      Qua vài lon anh Trần Sâm chủ nhà cầm đàn guitar bắt đầu cuộc chơi. Anh nói: Các anh à, tôi với Ngọc Dũ thân thiết lắm, những năm tháng ở Sài Gòn thường chơi chung, thậm chí
      làm chung rồi anh ngẫu hứng đọc: “Ngó nhau râu tóc bờm xờm/ Tiền lương tiền thưởng nguồn cơn bây giờ”, rồi cười nhẹ nhàng, những bài thơ của tôi làm ngày ấy Ngọc Dũ cũng còn nhớ và những bài của Ngọc Dũ tôi cũng nhớ. Lâu lắm, nhân Ngọc Dũ về quê ngoại thăm ông Cậu cũng đã già lắm, tiện ghé tôi chơi nên có cuộc hội ngộ này, Cảm ơn Ngọc Dũ – nhà thơ Ngã Du Tử. Cảm ơn các anh, các bạn, nhất là gia chủ Trần Sâm và chị Xuân.
      Giọng anh Sâm đều đều với mấy khúc nhạc tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn Từ Linh, anh thích chơi nhạc xưa và các bản nhạc tình trước 1975, Thật thú vị phải không các bạn, tình văn nghệ đầy như bát nước trong. Sau đó tôi đáp lễ và các anh em đàm đạo với nhau về văn chương, về thế sự. Đến gần 7 giờ tối anh Dũng xin lỗi phải về lo tổ chức đón khách của phòng trà anh, Anh mời các bạn 8h ghé phòng trà nghe ca nhạc.
      Chúng tôi tiếp tục chơi đến đến 8 giờ tối là ‘thuyền viễn xứ nhổ neo lên phòng trà Hợp Phố’- Phòng trà Hợp Phố quá đổi tuyệt vời, tọa lạc trên mặt tiền đường phố chính, cảnh quang từ trong sân đến phòng trà khá đẹp và sang trọng, nào đàn dương cầm, nào violon, kèn saxophone...
      Ở Sài Gòn thỉnh thoảng tôi cũng đến phòng trà nghe nhạc, nhưng khách nghe nhạc phòng trà Sài Gòn không lịch sự bằng Đà Nẵng, ai vào nghe nhạc cũng lịch lãm. May ra chỉ có phòng Ánh Tuyết ở Sài Gòn 1. Âm thanh nghe rất trọn vẹn, nếu người nghe yêu
      cầu bản nhạc mình thích vào gặp MC và hầu như ai cũng phải biết “điều” với ca sĩ yêu cầu.
      Một bữa đại tiệc âm nhạc rất thịnh soạn, sảng khoái. Hầu như toàn những bản nhạc tôi thích, các ca sĩ đều trình diễn không chê vào đâu được. Cảm ơn anh Trần Sâm và anh Dũng Hợp Phố cho tôi thưởng thức một đêm nhạc ngoài sự mong đợi của tôi.
      Hơn 11 giờ khuya tất cả ra về, tôi và anh Sâm về nhà anh, tôi nghỉ lại nhà anh đêm đó cùng trò chuyện. Sáng hôm sau, tôi và anh Trần Sâm xuống Hải Châu ăn sáng mai, sau đó ghé nhà một anh bạn họa sĩ cafe, chuyện trò cũng đến 9 giờ. Anh chở tôi về nhà cậu Năm ở Nguyễn Chí Thanh. Anh vào chơi nhà cậu rồi tôi tạm biệt anh, có thể tôi sẽ đi tàu hỏa vào Sài Gòn luôn, không có thời gian ghé anh nữa. Tuy vậy anh vẫn nói với tôi:
      - Trước khi vào alo tôi nhé. Cảm ơn anh nhiều.
      - Ok anh.
      Về quê ngoại ghé thăm cậu, sau khi chào hỏi tôi xin phép cậu đặt lễ vật dâng hương tiên tổ, ông bà bên ngoại. Xong mới xuống trò chuyện với cậu. Cậu vẫn còn làm việc là dịch vài trang tài liệu nào đó từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, hay từ Anh sang tiếng Pháp cho Ngân Điệp con gái cậu dạy tiếng Pháp của các trường Đại
      học Đà Nẵng.
      Hồ Sĩ Thắng Kiệt cũng đang dạy tiếng Anh tại các trường Đại học ngoại ngữ ở Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cậu cũng dịch cho Kiệt. Cậu lấy đó làm vui tuổi già.
      Chiều ấy, tôi cùng Thầy Lực - Ông xã Ngân Điệp và thầy Quy - Ông xã Phương Điệp (cũng dạy đại học Đà Nẵng) ghé quán làm lai rai vài ve và chuyện trò rất thú vị. Lực và Quy là con rễ cậu nhưng thân với tôi, đã về tới Đà Nẵng là ngồi với nhau.
      Tôi có gọi anh Ngang vợ chị Hạnh con ông cậu thúc bá bên ngoại và Cương ông xã của Hoàng Điệp nhưng cả hai không đi được, không có duyên với tôi rồi.
      Hôm sau cafe ăn sáng với các em con cậu rồi chia tay. Tôi alo anh Trần sâm anh chạy xuống ga tiễn tôi vào Sài Gòn, thật cảm động. Anh chân thành nói với tôi:
      - Ngọc Dũ à. Lần sau ra chơi lâu vài ba bữa thăm thắng cảnh Đà Nẵng, bây giờ Đà Nẵng đẹp lắm, hơn ngày trước nhiều, nhất là phía biển về Sơn Trà và đường về Hội An quê mình tuyệt lắm.
      - Hẹn lần sau anh nhé, cái bắt tay chuyện trò nơi sân ga thật lâu, thật cảm động sự chân thành của anh. Chơi với anh khoảng vài mươi phút, khi tiếng phát thanh viên gọi vào ga tôi mới quay đi. Tình bạn cao khiết quá, chia tay anh. Tôi bước qua cổng soát vé, bàn tay anh vẫy sao nghe nặng hồn mình. Tình bạn cao thượng và vĩ đại là rứa. Hẹn lần sau anh nhé.
      Tôi vào Sài Gòn lại tiếp tục cuộc hành trình với cơm áo trần gian.
      Một cuộc trở về thăm quê rất thú vị. Cầu cho có công việc và thời gian cứ vài ba năm lại có cơ hội về thăm một lần chứ ai cũng càng ngày càng già. Làm sao biết trước điều gì, vốn đời sống vô thường. 


      Ngã Du Tử/ SG
      Mùa Phật đản 2016 (PL2560)
       
      #3
        THƠ NGÃ DU TỬ 21.05.2025 22:13:14 (permalink)

        NHẠC SĨ SÔNG TRÀ
        NGƯỜI ĐẦU TIÊN THÀNH LẬP CLB VĂN NGHỆ SĨ SÀI GÒN GIA ĐỊNH


        Sau năm 1975 Sài Gòn cũng như cả nước - Tất cả anh em văn nghệ Miền Nam đang lơ ngơ chưa tỉnh giấc vì khẩu hiệu thời ấy là “Tất cả cho lao động sản xuất, để tái thiết đất nước” sau 21 năm bị chiến tranh tàn phá tan hoang.
        Một số anh em văn nghệ Miền Nam có ảnh hưởng khá rộng trong chính quyền Sài Gòn cũ đã được các cán bộ “chăm sóc kỹ lưỡng” nên đã vào các trại học tập cải tạo vì có quá trình phục vụ cho chế độ Sài Gòn, số ít ảnh hưởng hơn thì dáo dát, lo âu không biết khi nào tới phiên mình lên đường. Ai có ở Sài Gòn thời ấy mới hiểu hoang mang trong từng mỗi con người làm văn nghệ là đương nhiên
        Sau vụ án Hồ con rùa thì thực sự âu lo, có người vội vàng đi Kinh tế mới mặc dù mấy mươi năm làm công việc cọ giấy hoặc ngồi bàn làm việc vì có lẽ nơi ấy an toàn hơn coi như mình được đánh đồng với nông dân hay giới bình dân miễn sao mình thoát hiểm là chính, bởi dù muốn hay không thì coi như đã ít nhiều có tội vì phụng sự cho chế độ Miền Nam Việt Nam mà phục vụ cho MNVN là có tội với chính quyền cách mạng thế thôi.
        Mấy năm sau kể ra cũng hơi yên ắng khoảng nửa cuối thập niên 70 đầu thập niên 80, nhạc sĩ Sông Trà cũng hiểu nổi lo âu của những anh em văn nghệ miền Nam thời bấy giờ vì cũng đã từng chơi với nhau nên anh biết những anh em cần gì, Lúc bây giờ anh là cán bộ chức danh chủ nhiệm Nhà văn hóa Gia Đinh, anh thăm dò thành phần cốt cán của cấp ủy Gia Định, ban đầu còn nhiều nghi ngại, nhưng sau thấy cũng cần lực lượng văn nghệ để tuyên truyền thế là cấp ủy Gia Định chấp nhận nhưng với điều kiện là phải có công an làm cán bộ khung kiểm soát cho tập thể văn nghệ sĩ ấy, miễn sao có chỗ để anh em tạm an trú ngày mai ra sao rồi hãy hay. Xét cho cùng thì những anh em văn nghệ sĩ ấy chẳng ai thích làm chính trị cả thế mà chế độ Cách Mạng một mực suy diễn như chính quyền Miền Bắc một thời mấy ông ấy đi làm văn nghệ là tuyên truyền nên thà bắt lầm còn hơn bỏ sót, cho nên có số đã trở thành phu xích lô, thành người bán chợ trời, thành thợ đụng vẫn nem nép lo sợ đủ điều.
        Đúng thời điểm ấy anh thuyết phục được cấp ủy Gia Định và quyết định thành lập CLB Văn nghệ sĩ Sài Gòn Gia Định (CLBVNS SGGĐ), anh Ba Sơn lúc bấy giờ là trưởng công an Gia Định đỡ đầu, hồi ấy CLB Văn Nghệ Sĩ SGGĐ đủ các thể loại Thơ, văn, nhạc, kịch, họa, một mặt anh mời các anh em đã quen biết trước, một mặt hỏi thăm các thân hữu còn trong địa bàn, cuối cùng cũng có bộ khung ngon lành tiền thân cho mấy ngàn CLB sau nầy.
        Ngày thành lập cũng bề thế có chính quyền cấp ủy quận đến tham dự, thành phần Ban Chủ nhiệm gồm:
        - Nhạc sĩ Sông Trà chủ nhiệm
        - Nhà thơ Tường Linh phó chủ nhiệm
        - Nhà thơ, họa sĩ Hoàng Hương Trang phó chủ nhiệm
        - Nhạc sĩ Thanh Sơn thư ký
        Hội viên đủ các ngành thơ, văn, nhạc, kịch, họa.
        Về phía ca sĩ gồm có Túy Phượng, Thùy Hương, Mai Khanh, Mai Trâm (2 chị em ruột), Kim Chung, Kim Chi…
        Kịch sĩ gồm Túy Hoa, Ngọc Huệ, Phương Hồng Yến…
        Nhạc sĩ là lực lương khá đông đảo những tác giả nổi danh của thời ấy hầu như có mặt từ nhạc sĩ Châu Kỳ, Trầm Tử Thiêng , Thanh Sơn, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Mặc Thế Nhân, Hàn Châu…
        Thơ ca gồm những nhà thơ cũng đã trước bạ tên tuổi mình một thời như; Hoàng Hương Trang, Tường Linh, Hoàng Anh Đỗ, Tô Kiều Ngân, Song Nguyên, Hoàng Duyên…
        Ngoài ra còn có các giọng ngâm khá quen thuộc của thính giả Sài Gòn như Hoàng Hương Trang, Mai Hiên, Huyền Trân, Hồ Bảo Thanh, Đoàn Yên Linh…Cánh nghệ sĩ sử dụng nhạc cụ gồm Tô Kiều Ngân, Thạch Cầm, Song Nguyên, Mỹ Dung, đặc biệt tay trống cừ khôi Trọng Thành sau nầy không gặp anh chẳng biết anh đi về đâu…
        Họa sĩ gồm các anh: Phương Linh, Hoàng Hương Trang, Vũ Hối...
        Tuy còn nhiều vất vả khó khăn về đời sống vì cùng cả nước phải chịu chung cảnh đói gạo, thiếu thốn trăm bề như các vùng lân cận Tiền Giang, Tây Ninh.., Sau đó có xuất bản tập Tiếng Hát Vươn Cao I, và lập đoàn đi lưu diễn nhiều nơi nhất là tây Nam bộ, Đông Nam bộ cũng có nhưng ít hơn, vì vậy cũng gây tiếng vang khá đáng kể. Tiếng lành đồn xa càng ngày anh em càng đông cùng nhau quây quần dưới mái nhà CLB Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn Gia Định (CLBVNS SGGĐ) tuy còn nhiều vất vả khó khăn về đời sống vì cũng cùng cả nước phải chịu cảnh đói gạo, thiếu áo song tiếng cười bắt đầu khơi mở và không khí bắt đầu vui tươi hơn đầy đặn chữ tình hơn . Ôi chao, tiếng cười ngập tràn sau những lần hội họp những tâng 2, 3 bắt đầu từ ấy.
        Sau đó ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng hơn, mạnh dạn sáng tác phải thừa nhận rằng sau nầy các anh chị thời ấy ai cũng thành danh cả.
        Mãi lâu sau ở thập niên 90 khi có các chương trình HO, Đoàn tụ, Con lai… lần lần các anh có điều kiện ra nước ngoài để định cư thỉnh thoảng vẫn thư từ về thăm hỏi, có người còn duy trì mối quan hệ văn nghệ đến tận bây giờ (2012)
        Thỉnh thoảng các anh chị từ phương xa trở về có dịp quây quần bên tách café hay bửa tiệc thân mật vẫn nhắc lại cái thời văn nghệ phôi thai của chế độ sau 75 ai cũng có chút xuýt xoa,
        bùi ngùi... Dù sao cái thuở ban đầu lưu luyến ấy cũng gắn bó như một phần máu thịt của định mệnh đời sống ở trần gian vui buồn lẫn lộn.
        Tôi cũng bắt đầu nhập cuộc văn chương cũng từ nơi nầy CLB tiếng thơ Gia Định ở thời điểm sau nầy, hơn nửa thập niên 80 nghe nhiều anh em nói lại cái ngày đầu “vạn sự khởi đầu nan” ấy khi mà cái thú chơi văn chương tao nhã được cho là phù phím nên rất khó nhọc, gian nan và tôi cũng hân hạnh được giới thiệu đêm thơ NGỌC DŨ với chủ đề MẸ VÀ QUÊ HƯƠNG tại Trung tâm văn hóa Bình Thạnh của CLB thơ ca Gia Định ngày 20/7/ 1993.
        Tôi viết những dòng nầy như một sự trân trọng của bậc văn nghệ đàn anh ở Sài Gòn nói riêng vì cái chung cho văn học nước nhà tại miền Nam coi như lớp tiên phong của văn học kể từ sau biến cố lịch sử 1975.
        Với nổ lực của toàn thể Ban chủ nhiệm cùng tất cả các anh em hội viên thời kỳ ấy cho nên cũng đóng góp được 2 tác phẩm có giá trị đó là: TIẾNG HÁT VƯƠN CAO tập 1 và 2 xuất bản hẳn hoi.
        Bây giờ các anh chị thời ấy đã già yếu, có người đã ra đi vĩnh viễn, nhạc sĩ Sông Trà, thi sĩ Tường Linh, nữ sĩ Hoàng Hương Trang, Nhà thơ, nhà thư pháp Song Nguyên… vẫn còn ở Sài Gòn thỉnh thoảng tôi vẫn gặp ôn lại thời kỳ ấy hình như ai cũng cảm thấy bằng lòng vì nói gì thì nói họ là lớp văn nghệ tiền phong của một thời khó nhất miền Nam sau năm 1975 của đất nước. Rõ ràng trong số họ, ai cũng có một chỗ đứng vững vàng trong chiếu văn của dân tộc Việt
        Đời sống văn nghệ cũng như đời sống xã hội đều phải tuân thủ sự tuần hoàn dịch biến của đất trời và xã hội nên hết lớp sóng nầy là tới lớp sóng khác, hết trào lưu nầy đến trào lưu khác và danh xưng cũng dần dần đổi thay, sau nầy mỗi thể loại như nhạc có CLB sáng tác âm nhạc, thơ ca có CLB thơ..v.v….và mỗi quân huyện đều có từng CLB riêng cho từng thể loại nên CLB Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn Gia Định cũng chuyển đổi là chuyện thường tình.
        Hiện tại chưa có con số thống kê chính xác nhưng trên cả nước hiện có hàng ngàn CLB văn nghệ từ phường ấp đến các đô thị lớn, có khi tìm xuất xứ không biết bắt đầu từ khi nào, ở đâu.
        Tôi viết về anh như nhớ kỷ niệm một thời mà lịch sử đã đi ngang từ mỗi tâm hồn văn thơ trong các anh em.



        Sài Gòn, mùa hạ 2014
        NGÃ DU TỬ/ SG

        SÀI GÒN, VIỆT NAM
        H1. Tôi và NS Sông Trà
        H2. Tôi và nữ sĩ Hoàng Hương Trang

        R
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2025 23:04:15 bởi Ct.Ly >
        #4
          THƠ NGÃ DU TỬ 26.05.2025 22:25:01 (permalink)


          Truyện ngắn: 
          BẤT NGỜ CUỘC SỐNG ĐẸP HƠN.


          - Trời đất, anh lên bất ngờ vậy. Sao không gọi em trước!
          - Anh muốn tạo bất ngờ để nhìn thấy sự bối rối đáng yêu.
          - Phụ nữ thích gặp ai, đi khi trang điểm xong. Bao giờ trang điểm cũng bẩy sắc đẹp lên.
          - OK, với em mộc vẫn xinh như thường. Thêm chút nữa không thể làm khác con người em.
          Em mỉm cười ý nhị có lẽ em cũng vui. Quốc biết tính Hồng. Ngoài trời nắng vẫn rực nóng, cơn gió nhẹ vô tình lạc vào con hẻm làm thêm vẻ sảng khoái, mái tóc dài của Quốc bềnh bồng trong ánh mắt sáng của Hồng như gợi nhớ một ngày xuân. Khi ngoài kia muôn hoa khoe sắc lòng người vui tươi, mọi vật như đẹp thêm, cảnh trí như lãng mạn thêm, điểm tô cho khung trời xuân rạng rỡ. Em nhìn Quốc với ánh mắt triều mến, thiết tha của trái tim đang hồn nhiên nhìn đời bằng nụ cười an tịnh
          - Anh vào nhà đi. Tìm nhà có khó không? Nàng mở cửa cổng.
          Quốc theo chân vào nhà, căn phòng khách không lớn, nhưng trên bàn chùm sen hồng khéo léo cắm vào bình pha lê trắng kiểu Châu Âu trông lịch lãm và thanh khiết.Trong nhà bày biện ngăn nắp, điều ấy chứng tỏ chủ gia có đầu óc thẩm mỹ và gọn gàng. Đơn sơ, giản dị nhưng toát lên sự sang trọng trong bày biện.
          - Anh uống nước đi, chắc đi xa trong nắng nóng với cái nắng Sài Gòn bên ngoài nhiệt độ chừng 39 độ C.
          - Cảm ơn em, nước mát làm thỏa cơn khát của Quốc, anh mỉm cười nói vu vơ:
          "Người chi lịch sự trăm bề/ Bởi yêu em nên dãi dề nắng chang"
          - Thật vậy không anh? Nếu vậy quả là hạnh phúc cho em quá.
          - Thiệt mà, nếu không lúc khác cũng chẳng sao, phải không?
          Giấu cái cười ý nhị, có lẽ Hồng cũng đang nở nụ cười khi quay lại phía sau.
          Màu áo đỏ rực rỡ trong thân hình don dã như tô điểm thêm vẻ đẹp tự nhiên không son phấn nhưng thơ mộng lạ thường.
          - Em thăm chơi Sài Gòn khi nào về?.
          - Chưa biết anh à, nhưng có lẽ dài ngày, dự định cả 2 tuần. Nếu vui sẽ lưu lại lâu, buồn sẽ về sớm. Đi chơi để vui mà, thời này người ta thích đi chơi và du lịch hơn, tính em thích chụp hình để úp lên Facebook.
          Hình như hầu hết các phụ nữ thời nay đều vậy, niềm vui của các cô là thế. Không sao, thú vui cũng tạo nhã, Facebook là phương tiện để mọi người xích lại gần nhau hơn những tâm hồn đồng điệu.
          - Ra ngoài uống cafe đi anh, trong nhà không thoải mái bằng quán xá.
          - Chỗ nào cũng thoải mái nếu tâm mình thoải mái. Em thích vậy, ra ngoài thôi.
          ...

          Em lên xe đi, hình như Hồng ngại chăng?
          Ra ngoài một đoạn, vào đường lộ lớn hơn Hồng lên xe.
          Đường Sài Gòn lúc nào cũng đông, ngày cũng như đêm "ngựa xe như nước, áo quần như nêm".
          - Đường đông người quá anh, cẩn thận nhé.
          - Em ôm chặt anh, kẻo thắng gấp dễ té. Có lẽ do ngồi một bên bởi Hồng mặc váy. Chiếc váy xanh thẳm màu nước biển làm tăng vẻ đẹp thanh tao vì ngồi không thoải mái nên Hồng ôm chặt Quốc tự nhiên, an toàn.
          Xe đi ngang qua nhiều con phố, hình như nói chuyện là phương cách tốt nhất để thấy đoạn đường không dài và không sợ sệt bởi đường đông người, nguy hiểm.
          - Anh à, mới ngang qua quán cafe sang trọng sao không ghé vào!
          - Chút xíu nữa sẽ có quán đẹp hơn, thơ mộng hơn.
          - Anh cũng biết ở vùng này à?
          - Biết chứ, anh ở SG cả 40 năm ngóc ngách nào hổng biết, đến rồi nè. Từ từ xuống xe nhé.
          ...

          Bên trong quán có hòn giả sơn ngọn thác cao đang ôn tồn xả nước xuống rì rào, tiếng nhạc nhẹ của Trịnh du dương của ca sĩ nổi tiếng một thời "Nắng có hồng bằng đôi môi em..." Hai người sánh vai vào trong
          - Quán đẹp, không gian dễ thương, lãng mạn quá anh.
          - Đãi khách quý phải vậy mới đúng cách với người lịch lãm.
          - Anh đáng yêu quá
          - Thật vậy ư?
          - Thiệt mà.
          Chỗ ngồi trong góc có nhánh phong lan đẹp màu sắc rực rỡ như chính Hồng trong chiếc váy xanh lộng lẫy và rực rỡ vậy.
          An toạ, Hồng nói ngay:
          - Anh làm thơ hay quá, người đâu mà chữ nghĩa nhiều vậy?
          - Khi có cảm xúc một cuộc điện thoại em cũng nảy ra bài thơ hay. Thi sĩ là vậy, viết khi thăng hoa cảm xúc, không ràng buộc, đơn giản vậy.
          - Anh đáng yêu quá,
          - Nhưng yêu anh có đáng không?
          - Hồng hồn nhiên trong nụ cười an vui, Hồng không nói thêm gì. Trầm ngâm trước câu nói của Quốc.
          - Anh à, làm thơ khó quá, sao anh làm thơ nhanh mà hay vậy?
          - Trời đất phú cho anh, vậy thôi. Có điều cả đời làm thơ, viết văn nghèo lắm. Em không nghe Nguyễn Bính nói à "Con ơi, chớ lấy chồng thi sĩ/ nghèo lắm nghe con, khổ lắm con".
          - Em thích người có chữ nghĩa. Họ không giàu bạc tiền nhưng tâm hồn rộng mở, độ lượng hợp với đạo lý làm người. Giờ này, em nghĩ biết đủ là đủ, đời người rốt cuộc chỉ còn lại: Danh dự, trách nhiệm và làm việc cho gia đình và phụng sự tha nhân.
          - Cả đời anh chỉ mong được vậy. Cảm ơn em.
          Quốc bắt tay Hồng giữ thật lâu, lòng xao xuyến mỗi người hình như bắt được tần số của trái tim đang mách bảo: Hãy yêu thương nhau, sống thật đẹp khi con tim tràn đầy niềm vui và cảm xúc.
          Hình như trong quán đã gây cảm hứng cho Quốc và Hồng mỗi người đều hoan hỉ, vui vẻ.
          Cô phục vụ mang 2 lý cafe sữa đá pha máy, mùi thơm tỏa ngào ngạt tăng thêm cảm xúc của buổi sáng đầy lãng mạn và hưng phấn.
          Người Sài Gòn lúc nào cũng lịch lãm, phóng khoáng và niềm nở chân thành thành.
          Sài Gòn có nét rất riêng ai cũng thích tính cách ấy dù chỉ một lần ghé thăm.

          Phạm Ngọc Dũ
          Trích: GIÓ BÊN TIỀN SÔNG VẪN THỔI (Tập truyện ngắn & ký)

          R
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2025 02:53:45 bởi Ct.Ly >
          #5
            THƠ NGÃ DU TỬ 15.07.2025 22:14:35 (permalink)
            Các bạn thân mến, tôi sẽ up lại lại đầy đủ khi đã sửa chữa các lỗi. Mời các bạn đọc nhé. PND
             
            TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VĂN CỦA PHẠM NGỌC DŨ
             
            LỜI THƯA
             
            "Lòng trung thực là trang đầu tiên của quyển sách trí tuệ"
             
            Thưa tất cả cá bạn văn và độc giả,
            Lịch sử thống nhất của đất nước đã đi qua gần 50 năm, nhiều sai lầm của thời buổi ban đầu đã làm nhức nhối của rất nhiều thức giả, nhất là thức giả của miền Nam Việt Nam nói riêng, với chuyên môn quá bài bản được du học từ các quốc gia văn minh tiên tiến từ châu Âu, châu Úc và châu Mỹ trở về phụng sự.
            Năm 1975 khi non sông liền một dải, chính quyền lúc ấy còn hạn chế sự hiểu biết trong quản lý hậu chiến nên rất đáng tiếc một số người tài được cải tạo, rồi trở về trở thành ‘vô dụng’, thành gánh nặng gia đình. Họ sống bên lề xã hội với nỗi mặc cảm của người thua cuộc. Đây là điều rất thực, ai cũng nhìn nhận ra được. May thay, nhiều thế hệ phía sau đã thấy và biết sửa chữa.
            Tôi viết tiểu thuyết này khá lâu, năm 2005. Thao thức hoài không thể không xuất bản, tôi đã chỉnh trang lại cho thật phù hợp với thời đại hôm nay, tất nhiên một phần nhỏ lịch sử đã được khai thông tôi vẫn giữ lại, quyết định xuất bản. Nghiệp của nhà văn có viết tác phẩm không được xuất bản là nỗi bức xúc rất lớn.
            Tôi nỗ lực trong điều kiện của chính mình hầu mong đứa con với cả tâm tình, nỗi niềm của Tiểu thuyết ký sự: Bà Giáo Vân của tôi được khai sinh trên chính quê hương này, mặc dù thời nay rất dễ dàng gửi đi ra bên ngoài. Tôi ý thức rằng xuất bản trong nước là điều hợp lý và chính danh, nên kỳ này mạnh dạn gửi Nhà xuất bản cấp phép.
            Nhà văn chịu trách nhiệm trước lịch sử, còn Nhà Xuất Bản chỉ chịu trách nhiêm trước một thời đại. Một quyển sách hay là quyển sách có giá trị nghệ thuật, luôn hướng tới cái đẹp, tính nhân văn của con người trong xã hội mình đang sống. Văn học là nhân học.
            Rất mong sách sẽ được khai sinh, trước bạ với nhân gian trong một đất nước mình hân hạnh được dự phần cống hiến cùng với cộng đồng tha nhân trong xã hội đương đại, nhằm hướng tới toàn cầu hóa tinh thần văn minh cùng nhân loại trên cả hành tinh này. 
            Kính mong sự hoan hỉ, đồng cảm của các bạn văn và mọi đối tượng độc giả.
             
            Phạm Ngọc Dũ
             
             
             Chương 1: RỦI MAY THẾ THỜI
             
            Bà giáo Vân ngồi viết kiểm điểm trong phòng Công an P. Tân Định, Quận 1, mắt kính tỏ trễ xuống cánh mủi làm toát lên vẻ mặt phúc hậu và hiền lành, Người Trưởng phường đi ngang qua cửa, chợt khựng lại quan sát, rồi anh quay về phòng có chiều suy nghĩ: Có phải là cô giáo cũ của mình? Không thể, cô từ Quảng Ngãi làm sao vào bán chợ trời được, cả đời cô dạy học, đã mấy mươi năm từ tấm bé đến trung học mình biết rõ, dấu hỏi lớn được gợi lên trí chàng, có lẽ nào?
            -        Này, Đ/c xuống phòng tiếp dân xem thử người phụ nữ mang kính viết kiểm điểm xong chưa? Nhớ rót nước mời bà đàng hoàng nhé.
            -        Dạ, Báo cáo: Rõ, Cậu Công an viên nhanh chân ra khỏi phòng
            Bà giáo Vân và chiến sĩ công an vào phòng Trưởng công an.
            -        Báo cáo, bà đã viết xong, em gửi đ/c xem.
            Sơn – Trưởng công an Phường xem tường trình, anh ta khựng lại chừng vài phút.
            -        Đ/c ra ngoài, tôi làm việc với bà.
            -        Rõ, anh công an viên vội vàng ra ngoài.
            Bà Vân sợ hãi như kẻ tội đồ lớ ngớ chưa biết xử sự sao, tay chân luống cuống như thừa thải ra, thời gian yên lặng lạ thường…
            -        Thưa bà, bà ở Quảng Ngãi à, bà có biết mua bán đồ tàng dư Mỹ Ngụy là phạm tội?
            -        Thưa ông, dạ, tôi biết nhưng không còn cách nào khác. Ông thông cảm cho!
            -        Bà bán được bao lâu, trên vỉa hè rồi?
            -        Tôi bán mới gần ba tuần,
            -        Trước đây bà làm nghề gì?
            -        Dạ, dạy học
            -        Sao lại bán đồ tàng trử nhất là áo của lính Mỹ?
            -        Rất tiếc, tôi không có ý định ấy, là áo quần thôi chứ nào phải đồ quốc cấm.
            -        Có thông báo trên dán các nẻo đường cả rồi. Phường đã thông báo tất cả các con đường lớn trong địa bàn, xe lưu động vẫn sáng chiều loa phóng thanh thường kêu gọi.
            -        Tôi tưởng là vũ khí mới như vậy, lần đầu mong ông tha tội, tôi đã hứa trong bản tường trình. Ông đọc hết sẽ rõ.
            -        Tôi đã đọc rồi, trước bà dạy ở đâu, sao lại một giáo viên bán chợ trời, chắc có lý do gì, bà cứ nói, chúng tôi xem xét, báo cáo.
            Nỗi sợ hãi đã đi qua, sau khi đối thoại với người trưởng phường, tuy vậy bà đang chuẩn bị cho mình câu trả lời an bình nhất, kẻo không bị giam giữ tại phường như cô Huỳnh Kim người bày vẻ bà bán mua.
            -        Thưa ông, thú thật cả đời tôi từ ngày ra trường đến nay chỉ dạy học, tôi dạy từ năm 1957 đến 1975, sau đó thì gia đình khó quá, nên nghe lời các bạn vào trong này kiếm tiền phụ giúp cho con cái, nghe nói là nếu nỗ lực cũng đỡ hơn quê nhà, các cháu còn đi học, ba mấy nhỏ bệnh chẳng làm gì kiếm ra tiền.
            -        Thôi được, bà cứ nghỉ ở đây, chiếc áo Pylajacket, các em đã lập biên bản rồi, chúng tôi phải giữ làm chứng từ để báo cáo lên trên.
            Sơn bước đến kéo hộc tủ, bỏ vào, bà giáo Vân nước mắt lưng tròng.
            -        Thưa ông, gia sản bây giờ chỉ còn cái áo đó, tôi mua hết cả túi tiền tôi có được, nếu không thông cảm cho, làm sao tôi có vốn bán mua để sống nơi này, đừng nói chi gửi về cho con! Các con rất cần tôi.
            -        Lệnh trên đã vậy, không thể trả lại được cô à, Cô cũng thông cảm cho.
            Tiếng kẻng hết giờ làm việc để chuẩn bị cho bửa cơm chiều vang lên. Rất xin lỗi cô. Cô đợi ở đây.
                                                                            *   
            Buổi chiều Thành phố Sài Gòn vẫn còn náo nhiệt, quán xá vẫn thường lệ, hàng quán vẫn mở, những người bán buôn trên phố vẫn bình yên, chỉ có bà là lo lắng, ngày mai tiền vốn đâu để tiếp tục với tháng ngày ở Sài Gòn quá xa lạ này, nhà chú em tạm tá túc cũng lần lửa chạy ăn, chứ đâu khá giả gì, Mọi suy nghĩ của bà gói gọn trong mấy chữ: “làm sao và tiền đâu”.
            Chiếc xe SS 50 xoáy nòng bỗng nhẹ ga, ghé vào quán chè trên đường Hai Bà Trưng (Trước đây là Võ Di Nguy), Sơn lên lề và dừng hẳn, bà giáo Vân lại hoang mang, không hiểu tại sao?
            -        Mời cô vào uống nước hay ăn chè.
            -        Thôi, cảm ơn, tôi không quen ngồi quán xá.
            -        Cô cứ bình tĩnh, em là Sơn đây, cô vào đây em nói chuyện.
            -        Bà giáo Vân trong bụng mừng thầm
            Bà chủ quán vồn vả:
            -        Chào ông Sơn trưởng phường, mẹ ông vào thăm con hả?
            -        Không chị à, đây là cô giáo cũ vào thăm. Chị cho tôi hai ly chè đậu đen nhé.
            Bây giờ trạng thái lo âu không còn nữa, rủi may có thể đổi chiều trong tích tắc, bà mạnh dạn như sắp được may mắn, bà thầm cảm ơn trời đất còn dung ruổi, biết đâu học trò xưa của mình? Ông bà ta quả không sai: Biết đâu trong rủi có cái may, biết đâu.
            Quả như dự đoán, Sơn kéo ghế mời cô ngồi,
            -        Thưa cô, Khi nãy trong cơ quan em đã ngờ ngợ là cô, nhưng em hơi lạnh lùng vì ở nơi đó dẫu thân sơ đều như vậy, cô phạm tội anh em đã lập biên bản, em trưởng đơn vị đã biết, nếu em tha cho thì không thể, xin lỗi cô lần nữa, làm việc phải như vậy. Bây giờ, ở nơi này em vẫn là đứa học trò ngoan của cô như ngày nào. Cộ đừng ngại, thời gian quá xa rồi. Khi ra phố em trọ học trung học, em vẫn nhớ hình ảnh của cô, mỗi lần chủ nhật đạp xe về thăm nhà, em vẫn bắt gặp. Từ khi vào Sài Gòn vừa đi học vừa làm đủ thứ việc để kiếm sống và học tập, nên ít có dịp về quê.
            Chữ ký của cô em vẫn nhớ đừng nói chi tên họ, Sơn nói tiếp.
            -        Cô uống nước đi, em biết là cô có thể trách em, nhưng lòng em chân thật vậy.
            Như người thầy gặp lại trò xưa, bà Giáo quên luôn là người mới vừa ra từ phường công an, bà ôn tồn như người mẹ:
            -        Cô cảm ơn em, đã còn nhìn cô là người dạy em thuở ấu thơ, bây giờ ở quê hình như đã không được như vậy, em à. Các em đôi lúc có suy nghĩ khác.
             
            -        Em nghĩ mỗi người một khác cô à, có thể cô quên, nhưng em thì nhớ, không nhớ ơn cô sao được, ngày cô đi dạy lúc nào cô cũng đem theo cặp cây đan len và mấy búp len trong giỏ, lúc rảnh cô đang thoăn thoắc mà không cần nhìn, vẫn quan sát chúng em làm bài, các em thành người đàng hoàng cũng từ các thầy cô chỉ dạy khi tấm bé. Em nhắc lại kỷ niệm tuyệt vời với em cho cô nhớ.
             
            Bà giáo hân hoan và nói, với cô hơn 17 năm cô đứng lớp, làm sao cô nhớ các em được, lúc các em còn bé tí, bây giờ hình dáng thay đổi, các em là ông nọ bà kia, chỉ có học trò nhớ thầy cô.
            -        Dạ, ngày mùa đông, em mặc chiếc áo cụt tay phong phanh, năm ấy lạnh quá, cô tặng em chiếc áo len, cổ trái tim màu xám chính tay cô đan cho em khi cô kết áo xong tại lớp, em cảm động vô cùng, từ đó, cha mẹ em bao giờ cũng xem cô như người ân nhân. Khi em học trong Sài Gòn em còn kể với các bạn, và em tự hào về cô giáo cũ dạy lớp hai, ba. Không ngờ cô và em được gặp nhau tại xứ người trong hoàn cảnh này. Mọi chuyện xin cô bỏ qua, em sẽ viết thư về cho cha mẹ em, kể lại chuyện này.
            -        Cảm ơn em, hóa ra em là con chú Quỳ, ở xóm trong. Cô nhớ rồi, bà Vân rất xúc động, chút nghẹn ngào trong huyết quản bởi lòng chân thành của cậu học trò cách đây đã bao nhiêu năm cô cũng chẳng rõ, em rất chăm chỉ và có trách nhiệm với lớp, với bạn, thời ấy đã là lớp phó.
            Đã gần vài tiếng đồng hồ trôi qua, cuộc trò chuyện chừng như còn dài, nhưng Sơn gọi tính tiền và xin cô, gửi lại tiền cô đã mua chiếc áo, Bà giáo Vân nghẹn lời chưa biết nói sao, Sơn đã lên tiếng:
            -        Bây giờ em làm ra tiền, còn cô và gia đình hoàn cảnh hơi khó, em xin cô đừng ngại, đây là tấm lòng của học trò cũ, chỉ vậy thôi cô à, có dịp em sẽ còn gặp cô, mời cô. Bây giờ em phải về cơ quan.
            Chiếc xe Honda 67 bon bon chạy trên đường về nhà trọ của bà giáo, ánh đèn điện rực sáng, người mưu sinh buổi tối vẫn bình yên lầm lũi công việc áo cơm của mình, Thành phố này luôn náo nhiệt vậy. Từ sau ngày thống nhất đây là lần đầu bà ngồi lại trên chiếc gắn máy chạy trên đất Sài Gòn.
            Cả đêm hôm ấy bà không ngủ được, thao thức và trằn trọc, cuộc gặp gỡ lạ thường, khi tiếng rao của cháu bán bánh mì sớm “Bánh mì nóng giòn” làm bà thức dậy chuẩn bị cho ngày mới.
             
            PND
            (Còn tiếp/ Chương 2)
             
            Attached Image(s)
            #6
              THƠ NGÃ DU TỬ 15.07.2025 22:26:09 (permalink)
              CHƯƠNG 2: VUI BUỒN
               
              Sau khóa sư phạm cấp tốc của chính phủ mới, chính phủ Ngô Đình Diệm bà được bổ nhiệm về quê hương, một huyện nhà Quảng Ngãi, nhiệm sở đầu tiên bà dạy ở đó ba niên khóa thì chuyển về quê quán sau khi phục vụ theo yêu cầu công tác xa ba năm của chính quyền. Từ đây bà dạy mãi cho đến khi nước nhà thống nhất 1975.
              Sau năm 75 bà vẫn dạy tiếp với tư cách giáo viên lưu dung của chính quyền mới Cộng hòa miền Nam Việt Nam cho đến khi nghỉ hè niên khóa 1974 -1975, bà mới có giấy báo nghỉ việc.
              Gần 20 năm trên bục giảng với chừng ấy thế hệ chim non tung cánh ra trường tung bay trên khắp bầu trời quê hương, có em may mắn đỗ đạt thành danh, làm quan, có em kém may làm lính, làm nông, làm thợ, thời chiến tranh rất vất vả, cuộc chiến tương tàn kéo dài quá, tuy vậy bà vẫn ngày ngày với chiếc xe đạp sườn đầm con bướm dong ruổi trên khắp đường làng quê, lúc nào cũng chiếc áo dài thướt tha đi về, ở một làng xa của thành phố nhỏ hầu như ai cũng biết và yêu mến. Vì vậy, cả địa phương ấy đã gọi:  Bà giáo Vân, cái ưu điểm của bà giáo dạy ở bậc tiểu học nên hầu như tất cả học trò xã nhà đều biết, dù có thành danh hay không.
              Buổi gặp Sơn, tối về thao thức không ngủ được, hình ảnh biết bao nhiêu học trò bà giáo nhớ cứ lảng vảng trong đầu như thước phim chiếu chậm, Sơn là người bà lục lạo nhiều nhất trong tiềm thức đã ngủ yên trong chừng ấy năm với cơm áo lận đận sau bao mùa dời đổi, có lẽ vài mươi năm rồi còn gì.
              Đâu chỉ là Sơn, cậu học trò bà dạy 2 năm liền lớp 2 và 3, còn cả em nó nữa Phong, Vũ con chú Quỳ, gia đình tuy nghèo nhưng từ tâm, sau khi Sơn nhận chiếc áo len bà giáo đan tự nguyện tặng cậu học trò nhỏ nhắn nhưng chăm chỉ và siêng năng, lúc nào sách vở cũng sạch sẽ, trong lúc các em cùng lớp sách vở xốc xếch, bìa vở cuốn trông thảm hại, bài vở rất chu đáo, nhất là bài tập ở nhà, em làm lớp phó 2 năm liền lớp hai và ba.
              Năm ấy, sau vụ lụt Nhâm Thìn, nhà cửa trong xóm cù lao ấy hầu như ai cũng bị dòng nước cuốn trôi về biển, nhờ chú Quỳ biết dùng chiếc ghe chút xíu – Một phương tiện làm cá của riêng chú vào mùa lụt nên chú đã cứu vớt nhiều đồ đạt cho anh em và bà con lân cận, tuy vậy, gia đình ông không có được duyên may, từ ấy ai cũng mến. Các gia đình di tản ra đồi ông Trợ tránh lụt, nơi cao ráo không ngập, có hiên nhà rộng của ông nấu cơm nước đàng hoàng, thỉnh thoảng bà giáo đem gạo, mắm cứu khổ nên cả xóm cù lao ai cũng biết bà Giáo Vân.
              Đến mùa đông, lạnh giá hơn mọi năm trước, Sơn đi học trong bộ áo quần đồng phục phong phanh, đến trường Sơn co ro trong lớp, bà đan chiếc áo len xám ngắn tay dự tính cho con mình, chỉ còn kết hai mảnh áo lại là thành chiếc áo pullover ngắn tay, cổ trái tim, bà vui sướng vì thành quả của mình, sắp có quà cho đứa con trai yêu mến với chiếc áo lạnh đã cũ từ anh nó truyền lại, bà khấp khởi trong lòng, có lẽ niềm hạnh phúc trổ hoa kỳ diệu khi thấy đứa con yêu cười sung sướng vui có chiếc áo mới.
              Nhưng bỗng trong chốc lát, lòng thương trổi dậy tức thì cô giáo Vân gọi Sơn lên hỏi tại sao, Sơn lễ phép trả lời: “Nhà em bị lụt cuốn trôi hết, không ai còn áo ấm, nên em đành phải chịu lạnh đi học”, thế là bà đã mặc chiếc áo mới tinh ấy cho Sơn không chút phân vân, Sơn cảm động đến chảy nước mắt, nói cảm ơn cô giáo không nên lời.
              Hôm sau, bà lại đan chiếc áo khác cho con trai, với bà chỉ trong vài ngày là có chiếc áo mới màu cánh dán sẫm cho con bà, nó vui sướng khi có chiếc áo mới như bà suy nghĩ. Nó hớn hở khoe với các chị anh nó và chúng bạn cùng lớp. Lời hẹn cho con áo mới coi như đã xong và bà cũng chẳng còn nhớ chiếc áo len năm nào tặng cho em Sơn, thời gian miệt mài đi qua như con nước sông cứ lặng lờ chảy xuôi về biển cả.  
              Mãi sau nầy bà giáo mới hay em Sơn đã vào Sài Gòn học trong đó, thường những đứa trẻ học chăm ngoan, sau nầy hiếu để và có danh phận hơn những đứa lười biếng và thích quậy phá trong nhà trường, đó là nhận định của bà đến khi bà không còn đứng trên bục phấn trắng bảng đen. Kinh nghiệm bao giờ cũng tương đối đúng nhiều hơn.
              Bà thường dạy các con bà về đạo đức, bằng cách kể những câu chuyện về đạo lý trong các kỳ nghỉ hè, khi chúng mãi đùa vui trong không gian của làng quê trước mỗi kỳ tựu trường trở lại niên khóa mới, chính vậy nên nhà bà giáo con cái ai cũng đứng trên bục giảng, làm kỹ sư tâm hồn. Các con bà sau này cũng là người đồng nghiệp với bà.
              Chẳng những em Sơn biết ân nghĩa, cái lớn hơn là em vẫn yêu mến cô giáo cũ – Người đã đặt nền móng tri thức cho em từ sơ khai, thuở còn thơ, dù bây giờ biết cô rất khó. Biết đạo lý, em xứng đáng làm quan trong xã hội còn đang hỗn độn về mọi mặt, sau cuộc khủng hoảng đói kém một thời của sung túc bị đỗ nát tan tành, chưa biết ngày nào thoát khỏi đói nghèo áo cơm, đừng nói chi đến ấm no, hạnh phúc trong mỗi gia đình có người làm cho chính quyền cũ.
               
              PND
              (Còn tiếp/ Chương 3)
               
              #7
                THƠ NGÃ DU TỬ 16.07.2025 17:52:54 (permalink)
                CHƯƠNG 3: MỘT CẢNH HAI QUÊ DẠY HỌC


                Sau năm 1964, vùng chiến sự càng ngày càng đến gần nhà bà giáo, khi trận Gò Vừng nổ ra ở Nghĩa Hành, ông giáo - Chồng bà bắt đầu nghĩ đến chuyện ra phố, để tránh sự nguy hiểm của súng đạn lẫn những cán binh của Mặt trân Giải phóng Miền Nam buổi tối thường lẽn về các vùng lân cận bắt bớ.
                Đầu năm 1965 bà nhờ một phụ huynh tín cẩn tản cư trông nhà giúp, gia đình ấy chấp nhận. Chiến tranh bao giờ cũng khổ đau, hầu như gia đình nào cũng một cảnh hai quê, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn và mọi sinh hoạt của mỗi người, mỗi gia đình nhanh chóng thích nghi, sinh hoạt nhà bà giáo cũng vậy. Nhà bà giáo có 3 gian, nhà trên thờ phụng bà đã chất các đồ đạt còn lại và khóa kỹ, gia đình người ấy chỉ ở 2 gian: nhà ngang và nhà bếp, vẫn rộng thênh.
                Ông bà giáo về phố ở căn nhà nằm trên mặt phố chính đường Quang Trung, đối diện trường Nam tiểu học. Quảng Ngãi thời trước 1975 có hai trường đặc biệt, một trường tiểu học dành riêng cho nam, một trường tiểu học cho nữ. Cứ mỗi mỗi sáng, lúc 6 giờ bà giáo vẫn đều đặn đến bến xe Lam bằng chiếc xe đạp đầm của bà, di chuyển từ phố về Nghĩa Hành bằng xe Lam, xuống bến xe bà lập tức đạp xe về trường bà dạy cách bến xe chừng 3 km trước giờ trống trường báo hiệu vào lớp 15 phút, bà đã có mặt tại văn phòng, thời biểu đều đặn dù mưa hay nắng, đông hay hè, đến nổi các tài xế bến Quảng Ngãi phải kính phục trong suốt thời gian dài đi dạy, hầu như bà chưa bao giờ trễ chuyến 6 giờ.   
                Sau giờ dạy bà về nhà ở quê và làm việc, hay nhắc nhở cũng như thăm đồng lúa, đặc biệt vào mùa gặt bà phân công đi coi đập lúa để chia phần những đám ruộng bà cho người người làm rẽ ruộng, có những năm nhiều thửa gặt cùng lúc, bà nhờ các con bà đã lớn về trông coi, sau năm giờ chiều là trở lại phố Quảng Ngãi, bởi sau nầy buổi tối ở quê bà Giáo mất an ninh sợ nguy hiểm cho các con.
                Cậu Dũng, con bà cũng thỉnh thoảng được bà “lệnh” về quê coi đập lúa, dự buổi chia phần những lần như thế cậu khấp khởi trong lòng vì sẽ được tha hồ tự do tung tăng trên cánh đồng tít tắp, lúa chín vàng trĩu nặng, mùi rạ mới của các thửa ruộng vừa gặt như quyến rũ chàng, những tổ chim Manh manh – chim manh manh thường làm tổ trên ngọn lúa, đàn con sẽ nở trước khi lúa gặt, nhưng lâu lâu vẫn còn lại sót trên ngọn lúa vài tổ chim, có khi còn cả trứng hay chim non đem về nuôi, bao giờ người gặt cũng cho Dũng, mỗi lần như thế Dũng lại lân la trò chuyện với các người gặt lúa, người gặt ở quê bao giờ cũng nể nang những người ở phố, họ hỏi đủ chuyện về sinh hoạt và học tập của gia đình Dũng, những trận cười giòn tan khi có niềm vui vang vang trong nắng gió bay theo cánh đồng như giục giả tính hồn nhiên đôn hậu  của Dũng, vì những lẽ đó Dũng rất thích về làng mỗi dịp có kỳ nghỉ.
                Buổi trưa, khi gánh cơm đã ra đến hiện trường, mọi người nghỉ tay, rửa vội mặt mày tay chân rồi quây quần trên miếng ny lon trải dài đã bày biện, sắp sẳn “bửa cơm đồng”, ôi chao, Dũng cũng được cùng ngồi chung mâm như khách danh dự, những món “rất nhà quê ấy” như các tràu, cá rô nướng dầm nước mắm, canh khoai, canh mướp hương, cá diếc nấu lá gừng… còn vương vấn mãi trong tâm trí Dũng cho đến sau này.
                Quê Nghĩa Hành có tập tục khá lạ là ăn nửa buổi, hay ăn xế - Hai bửa ăn phụ ấy vào nửa buổi sáng và chiều, lúc thì nồi khoai mì, khoai lang, lúc thì chè hay bánh tráng nướng cuốn với rau muống, chấm mắm hoặc đặt vài cộng rau muống và cả con mắm cái ở giữa rồi ăn, khá lạ, ngon, vì vậy nếu ai là dân xứ Nghĩa Hành đi xa cũng nhớ hương vị bình dân mộc mạc của người nông dân quê nhà.
                Những người nông dân chơn chất ấy họ rất tình cảm, trọng nhân nghĩa và tốt bụng, bao giờ khi chia phần và trả công cuối ngày cho họ bằng những ang lúa Dũng cũng rộng tay cho người. Vì vậy, những chủ làm rẻ ruộng thích được bà giáo phân công Dũng về coi đập lúa.
                Mùa cá lia thia, Dũng thường cùng bạn trang lứa đi bắt đem về phố nuôi và chơi đá cá lia thia, bắt cá cũng phải hiểu về nó, thường mùa lia thia sinh sản làm tổ, tổ là bọt của chính đôi vợ chồng cá làm nên để trú ẩn trong mùa sinh sản, hình như có tiết ra dịch vị gắn kết nên tổ rất bền, lỡ có cơn mưa rào cũng không thể tan được, với kinh nghiệm của bậc đàn anh, thường bọt lớn có cá to, khi thấy bọt nhẹ nhàng nghiêng dòm, nếu thấy có cá là be bờ đắp và tát nước ra từ từ, chú cá sẽ không thoát đâu được, cá lia thia sọc ngang trên mình càng to, thắm, miệng lớn, đuôi càng dài là khỏe lắm, lì đòn chính vì vậy khi bắt được cá lớn là các bạn nhỏ rất khoái chí. Tuổi thơ con trai ai đã từng sống nơi thôn dã sẽ cảm nhận được điều nầy.
                Trong đời người ai đã từng xem đá cá lia thia mới thấy thú vị làm sao, loài cá rất dũng mãnh, thường trước khi thả chung một bình để cá đá, chúng được đặt kề nhau để vè, khi vè nhau, đuôi được bung thật lớn, hai miệng áp sát nhau như muốn cắn đối thủ, nếu như đá gà người chơi úp sát lồng để vè, và người chơi kinh nghiệm sẽ đoán biết mà bắt độ với nhau, thì đá cá cũng vậy.
                Trái bóng nuôi cá cũng đẹp, hồi ấy các nhà khá giả đều mua nó, nghe nói rằng trên các tàu thủy có nhiều. Ông giáo vì yêu mến Dũng và cuối năm lớp năm Dũng có phần thưởng, để khuyến khích học tập ông mua tặng cho Dũng trái bóng thủy tinh màu xanh ấy, nó được đặt trên giá gỗ khá đẹp, đế được khoét tròn phía trên nhằm cho an toàn bởi quả bóng thủy tinh hình khối tròn, con cá nhất của Dũng bao giờ cũng được ở trong đó trên bàn học, Dũng thường bắt muỗi, ruồi cho nó ăn, quan sát cá ăn cũng thú vị lắm, khi bỏ con mồi vào trên mặt nước, lập tức nghe dao động, cá từ dưới ngắm thẳng và đớp con mồi rất chính xác.
                Mỗi chiều bà giáo về gia đình sinh hoạt bao giờ cũng trước tối, lúc thì trái mít, lúc buồng chuối, trái thơm… lúc nào trên baga xe cũng có
                Vì vậy con bà thường ngồi trước nhà đón mẹ về, bà đến nhà các con rộn rã, reo vui: “Mẹ đi dạy về”. Đời của bà giáo lặp đi lặp lại như thế, con của bà mỗi ngày một lớn trong niềm yêu thương, trìu mến của gia đình.
                 
                PND
                (Còn tiếp)
                 
                #8
                  THƠ NGÃ DU TỬ 16.07.2025 17:56:17 (permalink)
                  CHƯƠNG 4: MÙA TỰU TRƯỜNG XƯA


                  Dũng còn nhớ kỹ, năm học ấy cậu được mẹ gọi dậy sớm hơn mọi hôm, Dũng trong bộ đồng phục quần sọt xanh dây treo, áo chơ-mi trắng cụt tay vai mang cặp nhựa vàng, chân đi sandal trắng được ông giáo mua tận phố, bảnh bao lắm, có lẽ cậu hân hoan như tác giả Thanh Tịnh viết trong Tác phẩm Quê Mẹ.
                  “… Con đường nầy tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này bỗng nhiên, tôi thấy lạ: Hôm nay tôi tôi đi học…”. Bà giáo áo dài màu vàng nhạt, vạt trước có thêu đôi chim đang bay khá đẹp, dắt tay Dũng. Hôm trước, bà đã căn dặn với Dũng thật rõ ràng: “Kể từ ngày mai con sẽ bắt đầu vào trường tiểu học như các anh chị học trò của mẹ, con sẽ thấy môi trường học đường rất tuyệt vời, ai cũng bắt đầu từ môi trường học đường ấy, con cố gắng học tập tốt, đừng để các bạn buồn lòng vì mẹ cũng là cô giáo của nhà trường, con hiểu chứ, Cậu chỉ dạ thật to”.
                  Trên con đường làng ấy em cũng đi lại lắm lần, thật sự em cảm thấy lâng lâng nỗi sung sướng của một cậu học sinh sắp chính thức bước vào lớp một ngưỡng của trường tiểu học Nghĩa Hưng.
                  Quang cảnh rất náo nhiệt của trường sau ba tháng hè của các em được gặp lại thầy cô bè bạn làm rộn rã lòng cậu học sinh lớp một, có lẽ đây đây là sự thiêng liêng nhất của các em mới vào học năm đầu tiên. Nhóm phụ huynh sau khi dắt con vào trường tận tay giao con mình cho thầy cô giáo còn lãng vãng ngoài cổng thường chuyện trò xì xào, bỗng ba tiếng trống thùng, thùng, thùng báo hiệu mùa khai giảng cho năm học mới bắt đầu.
                  Không gian nhà trường như yên lặng hẳn lại, quang cảnh như trang nghiêm hẳn lên, lá quốc kỳ được cột sẳn dưới cờ, hai anh học sinh lớp năm - lớp lớn nhất trường với tư thế sẵn sàng khi được hiệu lệnh.
                  Các thầy cô được ngồi hàng ghế bày trước các hàng học sinh thẳng tắp, lớp trưởng đứng phía tay phải của mỗi lớp. Thầy hiệu phó với áo sơ mi dài tay, có nút kiểu trên cổ tay áo, cà vạt màu đà đỏ rất oai vệ điều khiển chương trình.
                  Thầy ra hiệu lệnh, Tất cả chú ý: - Nghiêm, Chào cờ…Chào, không gian yên lặng đến tĩnh mịch lạ thường, thầy tiếp “Quốc ca”, từ máy được phát ra vang vang cộng hưởng cùng lời hát của các anh chị lớp lớn “ Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng, cùng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên”… lòng yêu nước trỗi dậy từ mỗi người hiện diện trong không gian nhà trường, lá quốc kỳ được từ từ kéo lên, khi đến đỉnh cột, hai anh chị học sinh cột dây vào trụ cờ, là tiếng thầy hiệu trưởng vang vang trong gió.
                  “Kính thưa quý thầy cô cùng các em học sinh của nhà trường thân mến…” tiếng thầy sao đầm ấm, hiền lành như lan tỏa niềm giáo huấn cao cả cho mỗi học sinh, cho đến khi lời nói kết thúc. Dũng với cảm giác khó tả lần đầu được dự phần, kỷ niệm đầu đời đến với học đường chẳng thể xoá nhòa trong tâm trí Dũng. Sau đó các học trò được lớp trưởng hướng dẫn vào phòng, thầy cô giáo đã đứng sẵn trước lớp than thiện chào các bạn nhỏ.
                  Sân trường trở lại yên lặng đến lạ thường, các thầy cô bắt đầu một năm học mới với trách nhiệm cao cả kỹ sư tâm hồn của giáo dục học đường.
                   
                  Hồi trống bải trường vang lên, cô giáo Vân sau khi cho học sinh mình ra về, ghé phòng đón Dũng, hai mẹ con trở về nhà, vừa đi vừa trò chuyện:
                  -        Mẹ ơi, con rất vui hôm nay có thêm mấy người bạn và biết cả mẹ nữa.
                  -        Hôm nay, cô giáo con dạy cái gì? Cô giới thiệu tên cô cho các con biết chưa?
                  Cô có giới thiệu, nhưng con quên rồi, ngày mai con sẽ hỏi lại, cô chỉ cho chép thời khóa biểu và viết 24 chữ cái cho cả lớp chép.
                  -        Con thấy vào trường có vui ko?
                  -        Dạ, vui
                  -        Con cố chăm ngoan để mẹ còn hãnh diện với nhà trường nhé
                  -        Dạ
                  CHƯƠNG 5: HỒI HƯƠNG
                  Ngày Quảng Ngãi giải phóng 24/3/1975, chính quyền Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam kiểm soát rất kỹ lưỡng những quân cán chính cùng những người làm việc cho chế độ cũ. Mọi người làm việc cho chính quyền ngày trước hoang mang lo sợ khi có người lạ đến nhà hỏi thăm, tâm lý sợ hãi bao trùm trong các con phố, trước đây, mọi người vui vẻ đối đãi với nhau, nhưng từ ngày giải phóng mọi việc hình như thay đổi, chẳng ai trò chuyện cùng nhau chỉ lầm lì xem xét. 
                  Những người sĩ quan quân đội từ cấp úy trở lên, cán bộ từ cấp trưởng phó phòng lớn nhỏ thời trước có máu mặt đều trình diện và bắt tập trung quản thúc rất chặt chẽ, những người dính dáng đến chế độ “ngụy” bị tập trung học tập cải tạo tư tưởng trong phường, xã ít ngày rồi mới trở về sinh hoạt.
                  Sài Gòn lúc bấy giờ chưa được giải phóng, lệnh của Ủy ban Quân Quản (UBQQ) tỉnh: Tập trung tất cả học sinh trung học phổ thông để động viên các bạn dọn dẹp những bề bộn của đường sá, khi thông thoáng xong, nhà trường mới có lệnh động viên nhập ngũ vào quân đội nhằm tiếp viện quân cho cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn để giải phóng thành đô. Ai xung phong, đăng ký là trở thành người lính rất nhanh chóng, hôm qua còn mặc áo học sinh, vài hôm sau lên đường đổi bộ đồ bộ đội là chiến sĩ.
                   Nếu sau giải phóng thành đô ai muốn học tập quay trở lại trường, ai muốn cống hiến cho Cách mạng sẽ được cho tiếp tục vừa học, vừa công tác. Những thanh niên học sinh hăng hái tòng quân đi vào Nam rất nhiều,
                  Ngày các bạn lên đường băng rôn, biểu ngữ rợp trời có các nữ sinh tiễn các anh lên đường giải phóng Sài Gòn. Những bản nhạc như Giải phóng miền Nam, Bác cùng chúng cháu hành quân… rầm rập như nhịp đi của các bạn học sinh sôi nổi. Tuổi trẻ là như thế.
                  Cuộc chia tay nào cũng đầy những giọt nước mắt, nhất là các bạn có người yêu…
                  Bên cạnh đó, các nhà phố bỏ trống được UBQQ tiếp quản và được phân phối cho cán bộ cách mạng tiếp nhận, tất cả gia đình ngụy quân, ngụy quyền được lệnh hồi hương tái thiết quê hương, cuộc đổi thay từ đó bắt đầu.
                  Nhà ông bà giáo Vân cũng không ngoại lệ ấy, phải trở về quê quán, phương tiện di chuyển chủ yếu là xe đạp hoặc “xe cộ”. Xe cộ là loại xe có 2 bánh xe hơi, kết nối với cặp cần lái rất dài, có thanh ngang chắc chắn, người cầm lái là người khỏe mạnh, để ghìm được vận tốc xe khi lên hoặc xuống dốc, bởi nó không có bộ phận thắng, phía sau vài ba người đẩy, lúc lên dốc đẩy ứ hơi, lúc xuống dốc trì kéo lại, nếu không dễ nguy hiềm, diện tích mặt sàn ván chừng 1m2 x1m8, vì vậy đồ đạt chất rất nhiều.
                  Trên các đường giao thông bấy giờ đâu đâu cũng có những chuyến xe cộ* dọc đường trở về quê quán, hầu như xe gắn máy không còn của cá nhân nào lưu hành, (nếu có giấu diếm chưa phát hiện thôi) tất cả bị tịch thu cho nhà nước, hoặc nhà nước mượn để phục vụ. Xe gắn máy lưu hành trên đường, thỉnh thoảng có vài chiếc do công tác của chính quyền quân quản ngược xuôi quan sát, hay kiểm tra trên đường khi nghi ngờ.
                  Trên đường từ phố về đến quê quán mỗi đoạn đường một địa phận xã đều có du kích đội nón tai bèo tuần tra trên đường, súng AK có dây mang trên vai, tay đặt vào cò súng với tư thế sẵn sàng, mỗi lần “cộ” gặp các anh chị ấy đi ngược chiều là xanh mặt, sợ lắm. Đang chuyện trò bỗng dưng không ai bảo ai im lặng, lầm lũi đẩy cộ. Mỗi lần chuyến cộ đi qua là thở phào nhẹ nhõm.
                  Trên đoạn đường 12km, qua 4 xã với nhiều người du kích như thế, các bạn cứ tưởng tượng, cũng chỉ là con người sao lại sợ đến vậy?
                  Trong 4 ngày gia đình bà Giáo đi bộ cả trăm cây số về ra, mệt đừ đẩn nhưng chẳng ai dám thuê mướn dù có tiền. Một điều khá lạ lùng trong công cuộc giải phóng, ai thời ấy có hồi hương cũng cảm nhận được điều khác lạ so với trước đây.
                  Sau 4 ngày hồi hương, hầu như ai trong nhà bà giáo cũng bị bệnh, thuốc men thì trời ơi, các nhà thuốc tây, thuốc gác đều im ỉm đóng cửa, chỉ còn nhờ đến ông y tá cũ trong xóm, một thời gian ngắn là quay về với thuốc xông, cảm mạo, thương hàn, thổ tả, trầy sướt… gì cũng kiếm thuốc nam, thuốc bắc uống, ôi chao, sự cơ cực manh nha.  
                  Ông giáo, ngày ấy chưa đi học tập, ông là công chức quốc gia, dạy thêm trung học tư thục nữa, loại quý sách, ông chở mấy thùng sách từ phố về làng cả gia đình mệt nhoài vì nhiều thùng sách của ông (một số đã bỏ lại ngoài phố) đến khi chính quyền xã thông báo kiểm tra và đi tịch thu sách vỡ đồi trụy tàn dư của Mỹ ngụy để lại, ông sợ hãi quá, lật đật “chụm sách” để nấu nướng thay chụm củi, trong ánh lửa bập bùng ấy, ông cau mặt với tang thương thở dài, lẫm bẫm “Không biết mai này, sách vỡ sẽ ích gì cho cháu con và ông trầm tư thở dài, đọc câu thơ của cụ Tam Nguyên “sách vỡ ích gì cho buổi ấy/ Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”, đợi tối xuống, ông cùng các con “đem chôn sách” – Ông chọn loại sách thuần văn học thôi, bỏ vào các bao phân hóa học bằng ny lon trong và dày, may kín đầu, cẩn thận sợ mối mọt ông còn rắc vôi chống mối mọt.
                  Lại chuyện hy hữu nữa trong công cuộc giải phóng miền Nam.
                   *      *
                       *
                  Hòa bình, sự ao ước của mỗi người, nhất là những người tham gia quân đội bởi lẽ những người lính ra chiến trường họ luôn đối diện với cái chết trong tích tắc vì thế ước mơ lớn nhất của họ là hòa bình, nhiều, nhiều lắm những thi sĩ, nhạc sĩ miền nam đã viết trong nỗi niềm khát khao ước mơ của những người lính trực tiếp tham chiến: “Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn anh trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao, vui cùng ruộng nương… hay: rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa, rồi anh sẽ đón cha mẹ về, rồi anh sẽ sang thăm nhà em với miếng cau, với miếng trầu ta làm lại từ đầu…” thậm chí tuổi thanh xuân của đời người cũng mất đi chỉ đối diện với chiến tranh tàn khốc, khổ đau, sinh tử chia lìa, mỗi ngày đi qua biết bao nhiêu sinh mạng hừng hực tuổi trẻ đã gục ngã vì súng đạn vô tình, bởi chiến tranh gây ra, đại đa số là người lính bước ra từ đồng quê, ai không yêu mến quê hương mình nhất là từ thơ bé đến thành niên đã lớn lên từ quê nhà có quá nhiều kỷ niệm với mảnh đất chôn nhau cắt rún, ước mơ trở về với làng mạc để xây dựng kiến thiết là điều rất thật của họ lúc quê hương gánh quá nhiều đau thương, đỗ nát chỉ vì chiến tranh.
                  Sau đó không bao lâu, ngày 30/4/1975 Tổng thống Dương Văn Minh, người mới nhận chức vụ chẳng bao lâu ra lệnh đầu hàng, từ đó đất nước thống nhất về địa lý, như vậy non sông liền một dải.
                  Quảng Ngãi cũng như toàn miền Nam tất cả đều tổ chức khai giảng năm học mới, may thay, ở Nghĩa Hành cơ sở vật chất các trường thời VNCH cũng đủ dung chứa cho số học sinh từ phố trở về “mái nhà xưa” nông thôn, tất cả các học sinh rút hồ sơ trường cũ về quê quán nếu muốn tiếp tục sự học thì nộp cho trường mới, bèn không coi như bỏ cuộc, biết bao nhiêu học sinh vì thống nhất ấy đã bỏ học, với nhiếu lý do và hoàn cảnh khác nhau của mỗi gia đình.
                  Con bà giáo Vân tiếp tục sự học sau khi trở về bản quán, Dũng trở về “đăng ký” trường huyện quê nhà sau bao năm học tập ở phố, ngày lên đăng ký khai báo rất kỹ lưỡng, nhất là lý lịch cá nhân có chính quyền thị thực hẳn hoi, chữ của người cán bộ xem xét, chứng thực ngoằn ngoèo như trang sử Việt hết trang lý lịch cá nhân và những người thân thiết trong gia đình được Ban giám hiệu nhà trường chăm sóc rất cẩn thận. Nếu ai cảm thấy rắc rối, thì bỏ học, biết bao các bạn cùng lứa rơi vào hoàn cảnh “giả từ bảng đen và chữ nghĩa cùng bạn bè” một cách oan uổng, chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp phổ thông. Ban đầu, Dũng cũng bị Ban giám hiệu lâm thời không cho phép học tập, có lẽ cũng tại cái lý lịch ngoằn ngoèo. Dũng thất vọng và buồn lắm, về nhà tâm sự với bà giáo, bà Giáo có lên trường gặp ban giám hiệu, thì ra ông Hiệu trưởng nhà trường là bạn bà lúc nhỏ cùng học với nhau trước khi ông tập kết ra bắc tiếp tục giảng dạy.  Sau đó, rất may Dũng được tiếp tục học và tốt nghiệp phổ thông năm đầu tiên của thời thống nhất bắc nam.
                  LÀM RUỘNG ĂN CƠM NẰM
                  Gia đình Bà Giáo Vân cùng con cái trở về với nguyên thủy nhà nông, cấy lúa và làm vườn, thu nhập chính để sinh hoạt cuộc sống từ hoa lợi ruộng vườn. Hợp tác xã nông nghiệp ra đời và tất cả ai cũng ký vào sổ tự nguyện hiến ruộng đất cho hợp tác xã để cùng chung tay kiến thiết đất nước sau vài mươi năm chiến tranh tan hoang, ai không ký sẽ mời về xã học tập để “quán triệt đường lối cách mạng, không còn người bóc lột người”, nghĩa là bình đẳng trong lao động chia điểm, ai làm công điểm cao được chia lúa nhiều và ngược lại.
                  Kết quả là cả vụ hè thu cả gia đình bà giáo Vân được chia 2 bao lúa 100 kg cho 8 nhân khẩu đã đăng ký hộ tịch, hộ khẩu. Nghĩa là trong nửa năm chi tiêu tất cả cho cuộc sống chỉ có 100 ký lúa, cuộc sống trở nên khó khăn đến độ khủng hoảng đói nghèo.
                  Thỉnh thoảng trong dân gian lại xì xầm vài câu đồng dao nghe đến thê lương về chuyện hợp tác xã và phân phối nhu yếu phẩm: “Đầu cha con se sẻ, Đ.m con sâu sâu/ Ngày thường chẳng thấy mày đâu, đến khi gặt thóc châu đầu lại ăn hoặc các phụ nữ bạo liệt hơn: Hợp tác hợp te, có 2 mét vải (cả năm) không che được cái l…”
                  Buổi tối hôm ấy, sau khi lãnh lúa về nhà, các con bà tỏ ra phật ý, thậm chí giận dữ, trong bữa cơm chiều “làm cả mấy tháng trời lãnh bấy nhiêu ký lúa làm sao sống được, cách mạng kiểu gì mà càng ngày càng đói kém, rách nát”, bà giáo Vân biết và rất chua xót nhưng nói như điều đình với các con:
                  -        Lúc trước kia, gia đình chúng ta ai cũng có lương hướng, đời sống khá giả, bây giờ thời thế thay đổi về làm nông, nhà mình ai cũng yếu, các con không quen làm ruộng vườn, không được như các gia đình nông dân thuần chất, phải chịu vậy thôi các con, mẹ đâu muốn thế, để xem sao rồi sẽ tính.
                  -        Cả mấy nhỏ trong nhà đều thương mẹ nên thôi, không nói nữa.
                  Bà giáo Vân tiếp:
                  -        Có lẽ phải tìm phương hướng khác kiếm sống, chứ thế này mãi làm sao sống nổi được các con.
                  Mẹ và chị Thanh – Người chị lớn nhất còn lại trong gia đình bà biết đan áo len: “Hay là con ra phố xem thử có bạn bè hay ai có thể giúp chúng ta đan len bỏ mối ở phố Quảng Ngãi, nghe đâu mấy ông cán bộ miền Bắc vào giải phóng miền nam mỗi dịp tết nhứt, lễ lộc hay về thăm nhà mua làm quà cho gia đình ngoài ấy, mùa đông ngoài bắc lạnh dữ lắm”. Rét tháng ba, bà già chết cóng.
                  -        Để ngày mai con ra phố hỏi thăm, có thể vậy, chứ làm ruộng cả ngày 4 điểm cả nhà mình chắc chết. Chị Thanh đề nghị.
                  -        Phải đấy con à, con sắp xếp đi nhanh, biết đâu còn có cửa sống.
                  Chưa hết, nếu như các đô thị và thành phố miền Nam cải cách công thương nghiệp nhằm đánh vào giới giàu có tư sản thì nông thôn toàn miền Nam có loại thuế nông nghiệp, nhắm vào những nhà giàu có, khá giả đa phần làm cho chính quyền cũ nhằm cào bằng đời sống với nhau, từ đó, tiếng ta thán bắt đầu trong xã hội miền nam mới vừa được giải phóng càng lúc càng lan xa, tiếng oán than càng ngày càng mạnh hơn.
                  Người dân nơm nớp lo sợ, lo sợ nghèo đói và bệnh tật vì đói ăn, thiếu dinh dưỡng, chiến tranh đi qua, không còn đạn bom, chết chóc, nỗi mừng vui ấy chưa được tày gang thì dân tình đang gánh chịu đói nghèo, cùng cực. Một dấu hỏi lớn toàn miền Nam về việc giải phóng. Giải phóng là thế này ư? Từ cuộc sống bị kèm kẹp với Mỹ Ngụy mà áo cơm no đủ, phương tiện đủ đầy, trong nhà phố ai cũng có quạt điện, bàn ủi điện, rề-sô nấu bằng dầu lửa rất tiện dụng, tủ lạnh để lưu trữ đồ ăn, thức uống, phương tiện xe gắn máy đi lại đầy đường, thậm chí người giàu còn có xe hơi, hồi hương về cơm không có ăn, một bửa ăn cho bảy tám người chỉ có lon gạo và cả ang củ lang hoặc củ mì. Nhà nghèo khó bắt đầu ăn củ chuối.
                  Người dân nghèo bấy giờ ai cũng hiểu, tuyệt nhiên chắng ai dám hé môi đề nghị với chính quyền mỗi lần họp dân vào buổi tối mà chính quyền thường gọi “Mít-ting”   
                  Chế độ tem phiếu như phía bắc bắt đầu thực hiện cho dân miền Nam chưa quen với nổi gian truân ấy làm tăng thêm sự đói nghèo cùng cực, hình như chính quyền cũng thấy được điếu ấy. Sau đó có chiến dịch động viên khuyến khích các gia đình đi kinh tế mới, chính quyền có hổ trợ 3 tháng gạo cho những gia đình tự nguyện rời quê quán vào nơi xa xứ lạ, gọi là: Đi kinh tế mới mục đích cho dân đến nhiều vùng nông thôn đất rộng người thưa để khai hoang vỡ hóa phục hồi kinh tế tái thiết đất nước, người dân Nghĩa Hành nói chung cũng rầm rập lên đường.
                  Buổi tiển đưa có cờ xí, cán bộ xã tập họp nói lời chia tay, chúc các hộ dân vào nơi xa làm ăn sung túc. Có nhiều người khóc như mưa, tưởng chừng chẳng biết bao giờ được trở về cố quận, bởi từ nhỏ tới lớn họ chưa biết đến thị xã Quảng Ngãi, đừng nói chi đến Tây Nguyên hay Nam bộ. Có lẽ họ nghĩ đến giải phóng cái bao tử đói đến rát ruột cho chính gia đình họ hơn là những gian nguy khác, nhất là các anh ngày trước đi lính hoặc các công chức nhỏ.
                  Cặp tình nhân có lẽ mặn nồng yêu thương, cầm tay nhau rất chặt lúc đoàn xe chuẩn bị khới hành, chàng thẹn thùng, nhưng chẳng biết có gặp được nhau nữa không, nên vội vả hôn cô ấy thật dài, ngày ấy hôn nhau như thế người ta thấy chắc xấu hổ lắm? Đôi bàn tay còn giữ chặt, trong lúc người cán bộ địa phương hối hả thổi còi cho đoàn xe từ từ lăn bánh. Lúc ấy, anh vội vàng vừa chạy vừa vẫy tay chào người yêu, lật đật nhảy tót lên xe. Nỗi chia ly lặng lẽ của hai người, bàn tay vẫy của cô ấy nhạt nhòa dần khuất khi xe chạy qua khúc quanh.
                  Có lẽ tâm trạng hai người như hình ảnh của Nguyễn Bính trong Bóng người trên sân ga: “Có lần tôi thấy một người yêu/ tiễn một người yêu một buổi chiều/ ở một ga nào xa vắng lắm/ họ cầm tay họ bóng liêu xiêu”
                  Nhờ vậy mà mấy năm sau nhiều gia đình vào Tây nguyên và Nam bộ ngày một no đủ hơn, khá giả hẳn lên, thỉnh thoảng vẫn có người về báo lại sinh hoạt và đời sống trong đó, và rồi mỗi lúc một nhiều gia đình người nghèo khó cả đời chưa rời mảnh vườn theo chân người đi trước, tiếp tục cuộc di cư về kinh tế giải phóng cái đói.
                                  *  *
                  Bà giáo Vân dậy sớm hơn mọi ngày, nấu nồi cháo heo cho vài chú heo lứa trong chuồng đã xong, coi như của để dành của gia đình bà phòng lúc hoạn nạn, chị Thanh đã cùng bà đi mua tận thôn dưới hai chú heo khá xinh đẹp màu đen đốm trắng, giống lai Thái Lan.
                  Trời vừa sáng rõ, mùa hạ tiết trời nóng bức, ánh nắng sớm đùa giỡn trên cành cây kẻ lá làm háo hức chị Thanh bởi chị sẽ được ra phố gặp bè bạn cùng lớp, cùng trường. Chị ăn vội miếng cơm nguội chiều tối còn để dành, lót lòng để kịp lên đường gặp bạn bè cũ một thời học sinh áo dài trắng muốt sân trường, thỉnh thoảng chuyện trò chị vẫn tự hào là nữ sinh Nữ Trung Học. Kể từ trở lại quê nhà, chị chưa bao giờ được mặc lại áo dài nào, mặc dù trong tủ chị còn những ba bốn bộ, có chuyện gì mới mặc áo dài, vô lẽ chị lại làm người mẫu tới lui trong nhà rồi mất công giặt cất lại để kỷ niệm thuở học trò thơ mộng của mình.
                  Trên chiếc xe đầm của bà Giáo Vân ngày nào ngược xuôi trên đường vẫn còn tốt, chị hý hững chào cả nhà rời thật nhanh ra ngõ, lên đường làm “sứ giả ngoại giao”.    
                  Cành cây trong sân nhà lung linh trước gió đầu ngày như giục chị bước mau, thôi thúc nhất là sẽ có thêm tiền để sinh hoạt cho đỡ khổ đau những bao tử lép kẹp của các em thời thiếu đói.
                   
                  PND
                  (Còn tiếp)
                   
                  #9
                    THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2025 18:11:00 (permalink)
                     
                    Tiểu thuyết ký sự: BÀ GÁO VÂN
                    CHƯƠNG 6: CÂU CHUYỆN ÁO LEN


                    Bà giáo Vân giục Dũng mau đi nhanh kẻo trễ, sau bửa ăn vội mấy củ khoai mì còn bốc khói. Dũng và bà giáo đi sớm, chiếc xe đạp Dũng chở bà giáo gò lưng với vận tốc khá nhanh, sợ trạm thuế vụ trên huyện dòm ngó, chăm sóc sẽ khổ.
                    Con đường độc đạo từ Nghĩa Hành xuống phố giờ đó đã có cả đoàn người thồ củi xuống phố để bán, đôi chân thoăn thoắt nhịp nhàng hàng một xuyên qua ánh nắng sớm bình minh rất đẹp như bức ảnh đoàn duyệt binh ngày trước, chỉ khác là ảnh đoàn duyệt binh oai vệ, còn đoàn người đẩy củi trông thảm hại, những bước chân vội vả chạy theo ánh dương cho kịp buổi chợ mai ngoài tỉnh. Một thời củi đắc như tôm, củi không cung cấp đủ nhu cầu cho dân thành thị, từ ngày giải phóng đến giờ cây xăng không còn bán như trước, dầu lửa được bán trong cửa hàng chất đốt qua gián tiếp, có tiền cũng không mua được phải có tem phiếu hoặc giấy giới thiệu của nhà nước vì vậy củi là chất đốt chủ lưc.
                    6.30 giờ Dũng và bà giáo Vân đã đến chợ huyện, Dũng tăng tốc để vượt qua trạm thuế may ra các anh thuế vụ chưa có mặt để làm khó. Chạy trời không khỏi nắng mưa, chú thuế vụ trông trẻ con lắm thổi còi, chỉ vào trạm. Dũng phải tấp vội sát trạm:
                          -     Bà và anh chở gì vậy? Người nhân viên hỏi.
                          -     Cháu à, cô đan ít áo len ra phố cho người thân. Bà giáo trả lời
                    -        Mở ra xem, hàng lậu phải không? Hắn lạnh lùng phán
                    -        Chỉ là áo len đan thôi à, cháu thông cảm cho cô đi, người ngoài ấy đang đợi, sợ trể hẹn họ không nhận là toi công hai mẹ con đan đác hơn cả tuần lễ.
                    -        Không được đâu, bà đợi chờ trưởng trạm đến giải quyết. Cháu chỉ biết giữ lại, cho hay không là của trưởng trạm. Tiếng cậu ấy lạnh tanh, khô khan, hình như cậu oắc con ấy tỏ ra quuyền uy với người dân trăm nổi sợ sệt, đến nổi bà giáo như người thất thần, rồi nghẹn ngào:
                    -        Cháu cho cô và em đi đi, đây là công đan đác kiếm ít để đổi gạo, không phải buôn bán gì, cả nhà đang trông vào mấy cái áo nầy.
                    -        Không được đâu cô đến hai chục cái, chỉ có đi buôn chứ làm gì nhiều dữ vậy? Bà chờ trạm trưởng đến giải quyết nhé. Cậu xốc tận đáy giỏ cùng với Dũng đếm từng cái một.
                    Dũng tỏ ra bực tức lắm nhưng cũng đành lòng nghe lời bà giáo xếp lại từng cái một bỏ vào ngay ngắn trong giỏ, thận trọng đặt lại tấm giấy chắn bụi lên trên, và quay mặt thì thầm nỗi tức giận. Biết rằng không còn cách nào khác là đợi chờ người có trách nhiệm cao hơn.
                    Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua Dũng những tưởng như cả ngày, mặt trời càng lên cao, nắng gắt dần, thỉnh thoảng ngọn gió sớm làm mát cũng hạ nhiệt, hy vọng cũng bớt dần trong lời năn nỉ sau cùng. Đành lòng đứng đợi cùng mẹ.   
                    *   *
                    Người trưởng trạm cũng đã đến, anh ta dựng chiếc xe đạp vào hông sau trạm vội vả bước vào, người nhân viên báo cáo thành tích ngay:
                    Báo cáo đ/c, sáng nay em bắt 2 người có nghi ngờ buôn lậu?
                    Không ngó ngàng đến nhân viên, cậu trưởng trạm hỏi nhanh:
                    -        Buôn lậu gì vậy?
                    -        Áo len
                    -        Áo len à, Mặt hàng này không thấy trong danh sách quy định, nhưng để tôi xem.
                    -        Dạ,
                    Bà giáo Vân nghe vậy mừng thầm, nhưng mấy ông thuế vụ là “cha mẹ” bắt là bắt, chỉ lập biên bản và tịch thu, còn hàng hóa đi đâu về đâu thì chả biết? Nước mắt người dân ở nơi nầy đọng thành vũng lớn nhận chìm những mảnh đời cơ cực, nghèo khó.
                    -        Chào cán bộ, bà giáo Vân nhẹ nhàng
                    -        Dạ, chào cô, cô buôn bán gì vậy? Người cán bộ mau mắn
                    Hoàn cảnh éo le này có người lễ phép chào cô, lòng bà khấp khởi mừng như bắt được may mắn. Bà nghĩ thầm ít nhất cũng biết lễ, chắc có học hành. Anh tiếp:
                    -        Chắc cô quên, em là học trò của cô khi học tiểu học
                    -        Vậy à, cô quên, lâu quá cô không nhớ
                    -        Em là Huế, học lớp hai, lúc thầy Hồng làm hiệu trưởng, khi cô dạy ở Nghĩa Lộc.
                    -        Vậy à, hơn vài mươi năm bây giờ cô không nhớ nỗi, lòng bà chợt dâng lên niềm vui khó tả.
                    -        Nhưng cô buôn bán thứ gì vậy?
                    -        Em à, bây giờ nhà nước không cho cô dạy nữa, cô đan ít áo len bỏ dưới phố cho người ta bán, kiếm ít tiền cho các em ăn học, khó khăn lắm em, em thông cảm cho cô nhé.
                    -        Dạ, em biết, sao cô ra nông nổi này?
                    -        Chuyện đời dài lắm em à, cô xin em cho cô đi kẻo trễ người ta không lấy là toi cả, cơm áo cho cả nhà bây giờ trong cái giỏ này, cô trông chờ vào em.
                    Huế có chút ngậm ngùi, ngó vào trong gọi người nhân viên ra, và bảo:
                    -        Đây là cô giáo cũ của anh, hơn nữa áo len người ta đan đác gia công không phải mặt hàng cấm lưu thông, nhà em cần mua chiếc áo ấm lúc cần thiết đã có những người như cô, lần sau loại hàng này không phải hàng cấm em nhé.
                    -        Dạ, rồi em lặng lẽ đi ra ngoài.
                    Cảm ơn em, khi khác cô trò gặp nhau cô sẽ nói chuyện với em, em là chef ở đây?
                    -        Dạ, chính quyền phân công em làm việc ở đây. Em chào cô
                    Chia tay Huế, hai mẹ con lại tiếp tục lên đường.
                    Dũng hớn hở hẳn ra, giả sử nếu không phải anh Huế, chắc là xong giỏ len, thời này chẳng luật lệ gì, ông chef có quyền lắm, cũng may nhà bà giáo còn có phước. Hai mẹ con trên chiếc xe bon trên đường hình như nhanh hơn. Nắng gay gắt hơn, gió nhẹ trên con đường mùa hạ không làm phật lòng Dũng, ve sầu bắt đầu khúc nhạc hạ làm hân hoan lòng Dũng dù ngược gió, bà giáo Vân ngồi sau xe bắt đầu suy nghĩ về người học trò cũ mà bà không nhớ nỗi mảy may.
                    Tất cả phần còn lại của 20 chiếc áo ấm đều thuận buồm, mát mái, người thanh nữ - Thủy, học trò cũ của bà giáo Vân bây giờ là người chủ của cửa hàng - Thực ra đây là nơi đan áo len có bày mấy chiếc áo len ngắn, hay dài tay để người đặt mua chọn lựa, nhưng thật thân tín, thời bây giờ không cho phép ai mở bán, chỉ có nhà nước.  Sau khi kiểm hàng, Thủy vui vẻ đưa tiền cho bà, còn căn dặn:
                    -        Cô à, tuần sau cô ráng cho 30 chiếc nhé, mấy ông cán bộ phía bắc độ này mua nhiều hơn trước, em đã “thêm tiền len trong đó” coi như tạm ứng trước cho cô khỏi phải “chạy vạy”, em hiểu ở nhà quê khó khăn về tiền bạc, vay mượn đâu ra.
                    -        Cảm ơn em, cô và em đi mua ít len đây.
                    -        Dạ, gặp lại sau cô nhé, gửi lời thăm Thanh, Thủy căn dặn nhỏ mấy điều về mua len, bà giáo gật đầu rồi lên xe Dũng, cô còn nói vọng theo nhớ điều em dặn nhé, kính chúc cô bình an và may mắn.
                     
                     *         *
                     Bà giáo chào người phụ nữ đứng trước đúng số nhà nhà mặt tiền đường Ngô Quyền, người chủ nhà có vẻ nghi ngờ hỏi:
                    -        Cô tìm ai?
                    -        Cô có phải là Thu không? Bà giáo hỏi nhỏ
                    -        Dạ, Đúng rồi, có việc gì không?
                    -        Thủy là học trò cũ của tôi có nói cô để lại ít búp len về đan áo cho em Thủy.
                    Như có điều gì sắp xảy ra, Thu dắt bà, hai người vào trong nhà khá lâu nhỏ to trao đổi, bán mua len cũng sợ quản lý thị trường nên ra vẻ cẩn thận lắm. Sau ngày thống nhất mua bán cái gì hình như người ta cũng sợ bị bắt, Dũng chẳng hiểu nổi mua và bán rất lương thiện và giản đơn vậy nhưng nếu gặp người có quyền mọi việc dễ bị rắc rối, hoặc bị tịch thu, cẩn thận vẫn hơn, lại điều nữa Dũng thấy lạ lùng.
                    Buổi chiều về, với giỏ len đầy. Dũng dựng chiếc xe đạp, lên phản nằm suy nghĩ điều xảy ra trong ngày, thỉnh thoảng anh cười nói với chính mình thời cách mạng mọi chuyện dổi thay mau chóng thật, người ta giải phóng kiểu gì mà mua và bán lương thiện thôi cũng phải bí mật, điều ấy dễ trở thành tệ hại sau nầy. Từ đó, Dũng thường quan sát và suy nghĩ những điều mắt thấy tai nghe để rút cho mình những điều có thể tốt nhất. Mãi đến khi tiếng bịch bịch của sân bóng trong làng làm anh chợt tĩnh và nhanh chóng đạp xe lên sân banh.
                    Chị Thanh là người vui nhất, bởi chị nghĩ như thế là cơm áo trong nhà sẽ được cải thiện, các em cùng cả nhà sẽ bớt đói khổ, tưởng tượng đang vây quanh trí chị như san sẻ niềm vui cùng chị và bà giáo Vân. Chuyện trò đến khi Dũng chào mẹ và chị đá banh về, chị mới rời khỏi phòng chuẩn bị bữa cơm chiều cho cả nhà quây quần.
                    CHƯƠNG 7: ÔNG GIÁO VỀ NHÀ
                    Chiếc xe đạp thồ chở ông giáo về đến nhà, lòng ông khấp khởi mừng không tả nỗi. Con Vện ngún nguẫy đuôi mừng quan sát ông, tuyệt nhiên không sủa một tiếng, có lẽ nó biết chủ của nó dù đã vài năm xa cách. Đứng trước hè nhà ông gọi: Mình ơi, mình ơi... Không có tiếng trả lời, nhà vắng vẻ, ông đi thẳng vào nhà, trên bàn chiếc bình tích để trong ủ dừa còn ấm, ông ngồi xuống mở nắp rót ly nước cho người chở thuê:
                    -  Mời anh uống nước và trả tiền xe. Người chạy xe uống ừng ực, có lẽ rất khát nước bởi hành trình cũng khá dài và quá xế, nắng còn gay gắt, anh ta cảm ơn ra về, ông giáo không quên tặng thêm ít tiền gọi là uống nước dọc đường. 
                    Trong căn nhà rộng, trống, ông ngồi suy nghĩ vẩn vơ. Quái lạ này, vợ con sao không có trong nhà, các cửa mở toang, ông hết lên nhà trên lại sang nhà ngang và rồi xuống bếp, bước ra sau nhà, căn nhà có vẻ trống vắng và vườn tược um tùm hơn, có lẽ ít được chăm bón, chỉ có con Vện đi sát với ông, ngồi xuống vuốt ve và vỗ về, nó ngoan ngoãn nằm, đuôi vẫn ve vẫy nhìn thẳng vào mắt ông như lắng nghe:
                    “Này vện, con người khôn ngoan nhưng ác độc nhất hành tinh này, họ làm đủ mọi thứ dù tàn nhẫn nhất cùng với đồng loại để bảo về cho quyền lực, thế nhưng loài chó thì khác hẳn, nó yêu mến chân thành, dù chủ nó thế nào. Trầm ngâm một lúc. Ông đọc một đoạn văn của luật sư Georges Graham Vest (1830-1904) mà ông thích và thuộc lòng như bày tỏ lòng cảm ơn với Vện, chính ông bắt nó từ nhà người bạn khi trở về quê quán không lâu trước lúc ông đi học tập: “Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn.
                    Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động, một giờ.
                    Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta” (1).
                    Bà giáo Vân về, trông thấy ông ngồi trên bàn độc trước mặt có ly nước ngồi đăm chiêu, với thân hình tiều tụy và đầy ghẻ chốc, mủ bắt đầu bung vỡ ra trên áo, bà quá xúc động:
                    -        Mình…, Mình…
                    -        Mình à, tôi mới được về
                    Và bà khóc rất tự nhiên tiếng khóc vừa vui mừng của đoàn viên xen lẫn với nổi buồn sau chiến tranh mà chỉ có bà (có thể ông nữa) mới hiểu, nó như trận lũ tâm hồn bị nén lại bởi thời gian giờ mới có cơ hội làm trôi đi, trôi đi tảng đá muộn phiền đã ầm ỉ, tích tụ trong lòng bà từ ngày thay đổi.
                    Đợi bà khóc xong, lần đầu tiên trong đời ông chứng kiến bà khóc để nỗi niềm trôi đi như một gánh nặng – ‘Lần đầu tiên người vợ hiền bật khóc/ như tưới trôi nỗi căm giận trong hồn/ Ta cúi mặt che nỗi buồn trước mặt/ hơn vạn lần tiếng dậy của môi hôn’ ông ôn tồn:
                    -        Mình à, tôi bệnh quá, người ta cho về, cùng với tôi trong chuyến này có một người nữa, đồ đạt tôi gửi lại cho các anh em còn ở lại, tôi chỉ đem về tấm thân và giao nộp lại cho mình.
                    -        Sao ghẻ lỡ đầy mình vậy, ông?
                    -        Nhờ ghẻ lỡ mới được về, họ sợ tôi chết trong trại, mới vậy!
                    -        … Thôi, mình ngồi ở nhà, tôi ra báo với mấy con, tụi nó đang trồng lang dưới đám đất gieo mạ ngày trước.
                    -        Chiều rồi, để các con làm cho xong đi, chắc tụi nhỏ cũng sắp về.
                    -        Chẳng lẽ trên ấy thiếu ăn lắm à?
                    -        Mình còn phải hỏi, thèm thịt, thèm mắm như trẻ nhỏ thèm mẹ đi chợ về, các anh em đi lao động đốn vác cây, hoặc ra sản xuất tăng gia gặp con châu chấu bắt ngay, ngắt đầu rút ruột là bỏ vào miệng nhai, nhiều anh em mùa đậu phộng thu hoạch gánh về, lúc nghỉ mệt lắc vài trái nhai cho đỡ đói, tối về cán bộ kiểm điểm thật xấu hổ ‘đói ra quỷ ra ma’…
                    -        Trời đất, sao tàn tệ dữ vậy?
                    -        Còn hơn thế nữa, tàn nhẫn.
                    Ánh nắng chiều vàng rực của ngày hạ, xuyên qua cành phượng ta đỏ, vàng phía tây nhà làm rực rỡ thêm cảnh sắc của vườn nhà, cơn gió chiều nhẹ nhàng như thổi vào luồn sinh khí mới, trong nhà. Ông Bà Giáo đang ngồi đối diện nhau cùng gặm nhấm cái hạnh phúc đơn giản trùng phùng sau bao ngày xa cách, mà bà chưa được một lần thăm bởi cách trở quan san.
                    Chợt ngoài ngõ tiếng con cái lao xao về sau buổi làm trở về, bà định ra báo, nhưng bà giáo nói thêm:
                    -        Trước mắt phải chữa bệnh cho ông, bây giờ nhà thiếu thốn đủ thứ, tôi và các con sẽ cố gắng, bên cạnh bồi bổ để ông lại sức, ông làm gì cứ việc tự do, ông về là tụi nhỏ mừng lắm, chỉ có Dũng là tương đối khỏe nhất nó đại diện sức mạnh nhà mình, nhưng cũng thư sinh bạch diện, trói gà không chặt mọi cái đều thuê mướn hết, hơn nữa vụ đánh thuế nông nghiệp đến 500 gánh lúa phải dùng tiền mua lúa giao nộp cho nhà nước nên chẳng còn gì trong nhà. Vừa rồi bán bộ bình tách Nhật bổn, ngày xưa ông mua ở Sài Gòn lúc đi công tác để có tiền xoay xở cho cả nhà. Bà giáo ngưng hẳn vì xúc động như có lỗi với ông.
                    -        Không sao, còn về được nhà là may, người còn của còn mình à, tôi tưởng đã bỏ mạng nơi ấy, không thấy được mặt mình và các con, nhưng may là được về cùng ngồi với mình. Lát nữa sẽ gặp các con. Trước mắt bà nấu giùm tôi nồi nước tắm đi cả ngày đường giờ bắt đầu thằng ghẻ nó hành hạ. Ông nhỏ nhẹ
                    -        Trời đất, khắp mình mẫy ông chỗ nào cũng vậy, mẹ cha ơi, lần đầu tiên trong đời bây giờ tôi mới thấy hình hài ông, sao đến nông nổi nầy, làm sao chịu nỗi. Bà nói vừa đủ nghe, và chíp miệng thở than
                                                                                         *   *
                    Sau buổi cơm chiều đoàn viên rất xôn xao nỗi mừng vui lẫn muộn phiền cùng nhiều câu chuyện kể của ông giáo và gia đình, ông đi nghỉ.                                                                   
                    Dũng đã quét dọn lại, lau chùi sạch sẽ để cha nằm, chiếc chiếu từ ngày ông đi đã được cuốn lại, cất cẩn thận trên đầu tủ trên chái Tây, đâu đó xong nói vọng xuống nhà ngang, ‘cha ơi, lên nhà trên ngủ nghỉ đi, cả ngày chắc cha mệt lắm rồi, lại bệnh hoạn’
                    Tuy rất mệt nhưng khi tắm xong ông cảm thấy nhẹ và khỏe, ông như còn muốn trò chuyện cùng gia đình nhưng tuổi tác và sức khỏe không cho phép, cũng đã hơn 21g ở nhà quê vắng vẻ nên nằm xuống là ngủ ngay, mặc dù bên dưới nhà còn xôn xao tiếng cười vui vì cha mới được về từ trại cải tạo như thể từ cõi chết trở về.
                    Bà giáo nói nhỏ với các con, sợ ông còn tỉnh giấc: “Tối nay các con bắt con gà trống choai để mai nấu với đậu đen cho cha mày tẩm bổ nghe, bắt làm sao cho nó không kêu lớn, sợ làng xóm biết… phiền phức lắm”.
                    Chị Thanh hiểu ý, mỗi tối người ta thường rình nhà, bởi buổi sáng nào cũng còn dấu dép cao su dưới gốc nhãn trước nhà và cây sa-bô-chê trước nhà. Chị bắt con gà hay quá, nó kêu oát rồi im bặt, có lẽ nó cũng hiểu tâm sự chị: ‘Vật dưỡng nhân’ trong thâm tâm chị chẳng phải vậy, các em đã sẳn sàng nên chừng ba mươi phút là con gà được nằm gọn trong nồi cháo, Dũng đã cùng em đào lỗ chôn ruột và lông, nghĩ đời mà ngán cho đời, làm con gà tẩm bổ cho cha cũng sợ. Sau 75 hình như ai cũng hoài nghi, tại sao? Nhân tâm ly tán, tình dân tộc chia lìa, ấy là chắc chắn. Không hiểu nỗi nhưng đó là sự thật.
                    Từ ngày ông giáo về chi phí trong nhà bà giáo tăng đáng kể về tiền thuốc men, bà giáo và chị Thanh đan đác nhiều hơn, cũng may, Thủy dưới phố có gian bán nên áo len có bao nhiêu cũng tiêu thụ được, nhờ vậy nhà bà giáo đỡ hơn, cật lực hơn, chạy đua với thời gian, đôi tay bà không ngưng nghỉ, thoăn thoắt cặp cây đan đến độ bà chẳng cần dòm, cũng chẳng có lỗi nào, đúng là trăm hay không bằng tay quen.
                    Khi ông giáo về người ta đến thăm và trò chuyện nhiều hơn, trà và thuốc lá lúc nào cũng phải có trong nhà, để ông tiếp chuyện, hơn nữa ông đã nghiện từ thời ông còn làm việc, tính ông giáo từ xưa vậy. Nghe ông kể từ khi vào trại thèm thuốc anh em chia nhau từng hơi thuốc mà thương, có lúc một điếu thuốc đến những năm người hút, có nhúm trà ngồi quây quần uống cho đến nước trong veo, cũng may những người gần gũi có điều kiện và khá giả gửi vào rồi chia nhau nên bây giờ ông vẫn còn thói quen ấy.  
                     
                    PND 
                    (Còn nữa)
                     
                    #10
                      THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2025 18:17:00 (permalink)
                      TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN 
                      CHƯƠNG 7 : CUỘC TRÒ CHUYỆN THÚ VỊ


                      Sau bữa cơm trưa, Dũng không làm gì, nằm nhà đọc sách, nó thích đọc sách khi rảnh rỗi đang đọc Tự do đầu tiên và cuối cùng của Krishnamuti đến chương Tín ngưỡng, đoạn mở đầu : ‘Tín ngưỡng là kiến thức có mối quan hệ rất thân thiết, nếu ta có khả năng thông hiểu hai vấn đề này thì chúng ta có thể thấy dục vọng hoạt động như thế nào và hiểu được những khía cạnh phức tạp của nó’.
                      Ông Giáo thấy cần trao đổi vài ý với con, sau khi nghe bà Giáo nói về Dũng rất nhiều, ông bèn gọi Dũng:
                      -        Dũng à, xuống đây cha nói chuyện với con tí.
                      -        Dạ, anh cẩn thận xếp miếng giấy nhét vào trang sách làm dấu trang đã đọc và xuống nhà ngang ngồi cùng ông. Ông rất điềm đạm:
                      -        Con à, chuyện không được bước tới giảng đường đại học cũng không là chuyện ghê gớm, bình thường thôi, đừng buồn phiền lắm. Biết bao nhiêu người sau cuộc đổi thay lịch sử họ còn rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã dữ dội hơn, con không thể tưởng tượng nỗi, thế nhưng ấy chỉ là hoàn cảnh tạm thời, tất nhiên sẽ thay đổi, nhưng đòi hỏi phải có thời gian, có khi phí cả đời người, đành phải chập nhận. Thời bây giờ ví như trong một ly nước với đủ các loại đất, đá, cát, sạn… đang được khuấy động với cường độ cao, đến lúc nào đó sẽ ngưng hẳn, nước trong sẽ ở trên cùng, thứ nặng nhất sẽ nằm dưới đáy đó là quy luật tự nhiên, nhưng thời gian sẽ làm ổn thỏa mọi chuyện, con còn trẻ đời các con còn dài, tương lai còn phía trước đây chỉ là một thử thách của con, đừng chán nản hãy nỗ lực cho ngày mai, đời người ai cũng có những trở lực nhất định. Cha biết con buồn vì không được vào giảng đường như chúng bạn, mỗi đời người có mệnh số của nó, nhưng đây chỉ là bước đầu con hãy cố gắng đừng chùng bước trước nghịch cảnh. Các em con nữa chưa chắc như con…
                      Cha biết con sẽ làm được, không phải cứ ở trường đại học bước ra mới thành công. Nhân loại rất nhiều người như vậy con à, con đọc nhiều cũng hiểu điều này phải không? Con đã học hết chương trình phổ thông ấy là may mắn, con hãy bình yên ý thức suy nghĩ để đi tiếp chặng đường còn lại, cha biết chắc rất khó khăn, trở lực là thước đo nghị lực và ý chí của mỗi người, hãy dũng cảm con nhé.  
                      -        Dạ, con sẽ suy nghĩ và cố gắng trong điều kiện có thể.
                      Ông trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:
                      -        Cha mẹ nào trên thế gian này cũng mong con mình sẽ là nhân tố tốt để phụng sự cho bản thân, gia đình, nhân quần và xã hội, vấn đề là mỗi cá nhân phải giữ được nhân cách, danh dự của mình, điều này khó lắm con à, sau này con sẽ hiểu hãy cẩn thận trong ý thức và sự làm việc mai này. Bây giờ cả miền Nam chứ chẳng phải mỗi gia đình ta hay cá nhân con. Sự tồn tại và phát triển là cả hành trình đời người. Cõi đời này ai không bước qua gian nan thử thách mà thành công, phải không? Con suy nghĩ tìm một phương hướng con nghĩ là đúng và con cứ mạnh dạn bước đi trong ý thức của con, có thể đúng, có thể sai, sau đó chính con điều chỉnh, như vậy mới tiến bộ và phát triển tốt. Thời trước, quốc gia không bao giờ cho phép một ông trưởng ty bổ nhiệm con cháu mình vào cơ quan đó.
                      Chiến tranh kết thúc là chuyện mừng rồi, con đã chứng kiến chiến tranh, nó hủy diết tất cả, chỉ cần tích tắc đã thay đổi, một trái pháo nổ xuống sống và chết như chơi, ai cũng mong hòa bình, nhất là những người lính trực tiếp tham gia chiến tranh, họ khao khát cháy bỏng mong yên bình trở về với đời sống an lành không có tiếng súng, nhằm xây lại quê hương, chiến tranh đã làm tan hoang, chỉ vậy thôi. Thế nhưng sau khi kết thúc chiến tranh lẽ ra họ phải được hưởng sự bình yên, hòa bình nhưng tất cả ngược lại, chẳng những không bình yên lại rơi vào hệ lụy thảm thương đến nỗi cả gia đình và dòng tộc họ gánh chịu khổ đau, ly tán. Tại sao? Có thể chế độ sai lầm rất nhiều điều cũng bởi họ vì bảo vệ cái chính quyền mới lấy được của miền Nam nên họ còn lúng túng chưa hiểu nguyên tắc quản trị nên đẩy những người tài ba của đất nước rơi vào hoàn cảnh dỡ chết dỡ sống, làm tang thương cả nửa nước, nếu như họ tĩnh ngộ biết trọng người tài, nghe lời phải, lấy nhân trị cha nghĩ sẽ khác, nhưng thôi, chuyện đã qua rồi, như cha đây, là một công chức hạng trung, dạy tư thục thêm một đời tận tụy phụng vụ cho người, cho đời, để sống đàng hoàng trước xã hội, chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày tàn tệ như bây giờ, thế mà cũng phải học tập cải tạo, mà sự thật có cái gì để học tập, chỉ lao động chân tay, tuy chưa phải khổ sai thôi chứ ngày đến tối rừng với núi đốn củi, trồng rau, nuôi heo bò, sống không ra sống trong trại cải tạo, thèm thịt đến nổi bắt châu chấu ăn, trông như dã thú, mà con biết không, toàn những người quan quyền, cán bộ cũ trí thức ngày trước đời sống rất vương giả, giá như nếu những người chiến thắng cứ cho họ làm việc theo chuyên môn trở lại với sự quản lý nhân văn, có tình thương đồng bào thôi, có lẽ quê hương, đất nước sẽ khác hơn rất nhiều. Cho nên có một nhà thơ viết ‘Mỗi đời sống phải trả bằng nước mắt/ mỗi mặt trời trả giá một hoàng hôn’ câu thơ nầy rất hàm súc.
                      -        Dạ, với đầu óc non nớt chưa hiểu, chưa có nhận định như ba, nhưng con cũng biết những vấn nạn cha trình bày. Nhưng cha ơi, tại sao chế độ ngày trước người cha làm ty trưởng chính phủ không cho bổ nhiệm con hay người thân vào làm cùng nhiệm sở? 
                      -        Con đặt vấn đề tại sao như vậy là cha vui, người ta đã nghiên cứu thấu đáo về nguyên tắc quản trị ấy, quan hệ tình cảm khắn khít giữa cha con, vợ chồng và anh em và cả dòng tộc nữa bao giờ cũng có tình cảm, trên thế gian này ai không có tình cảm, vì vậy khi bổ nhiệm một người thân dưới quyền chắc chắn sẽ có thiên vị, cất nhắc dù cho người ấy bất tài hơn, để tránh những sai lầm ấy, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không cho phép, vậy thôi.
                      Bản chất của con người là tham lam và ích kỷ, luôn tạo phe cánh thân hữu, nếu không ngăn chặn điều ấy sẽ tạo nên khủng hoảng tâm lý cho những người tài ba, có trách nhiệm biết phụng sự cho xã hội, cho đời, dễ đi đến thao túng tham nhũng. Rất nguy hiểm.
                      Dũng lặng yên nghe những lời tâm sự của người cha, người thầy, như lời vàng.
                      Bất chợt có tiếng chó sủa ngoài nhà, thì ra người cùng làng đến thăm, Dũng vội đi nhường chỗ cho ông giáo và người láng giềng.
                      -        Chào anh, nghe anh mới về em ghé thăm. Chú Năm Mẫn nói:
                      -        Chào chú Năm, tôi mới về mấy tuần rồi, cả nhà khỏe cả hả chú? Ông giáo nói
                      -        Thấy anh về nhà là vui rồi, tuy sức khỏe không được như trước.
                      -        Về tới nhà là phước chú à, tôi tưởng bỏ xác ở rừng rồi không về được tới quê nhà.
                      -        Có gì dữ vậy, anh?
                      -        Mấy tuần trước khi về tôi sốt cao, nằm li bì, ăn uống không được, đi không nổi luôn, tôi tưởng mình không qua, tôi có nói với các anh em trong trại, nếu có mệnh hệ gì báo cho người nhà tôi, rồi bỗng có ông y sĩ trong trại xuống khám và cho ít thuốc cầm cự, cả tuần, sau đó tôi có lệnh được phóng thích, có lẽ họ sợ tôi chết trong trại thì nguy to,  cầm giấy ra trại mừng hết lớn, anh em trong trại cầu mong tôi sẽ kịp về được gặp vợ con cũng an lòng. Khi tiễn tôi về ai cũng bùi ngùi, xúc động đặc biệt. Tình yêu anh em trong trại lớn lắm, lúc hoạn nạn mới thấy hết cái tình của những người đồng cảnh ngộ. Ai có hoàn cảnh ấy mới thấu hiểu.
                      Hôm nay thế này là đỡ lắm, nhờ có thuốc trụ sinh của chú y tá quân đội cũ còn lại ở xóm trên, sự bồi bổ của gia đình, ơn trời và phước đức ông bà chú à.
                      -        Thì ra vậy, Giờ anh tính sao?
                      -        Tính với toán gì chú, bây giờ vợ con tôi thêm gánh nặng nữa, ở trại có gánh nặng của trại, về nhà có gánh nặng của nhà, vừa thêm nhân khẩu, vừa thuốc men, trăm sự nhờ nhà tôi và các con. Chú uống nước đi.
                      -        Dạ, sau khi hòa bình lặp lại tưởng đoàn tụ, ai ngờ ly tán, mạnh ai nấy lo cho mình, kẻ đi Nam, người vào trại, kẻ vượt biển tìm tự do…biết bao tang thương anh hả? Theo suy nghĩ anh đất nước rồi sẽ ra sao?
                      Trầm ngâm một chút, ông giáo nói:
                      -        Nếu không kịp thời thay đổi cách trị nước rất khó bình yên, cổ kim đến giờ muốn muốn bình phải an dân, người miền Nam vốn họ có sẳn tự do, dân chủ và khai phóng, đột ngột bị nhốt vào rọ họ cảm thấy ngột ngạt khó thở, như vậy sẽ cựa quậy, có khi phản kháng nếu những người lãnh đạo có trí tuệ và khôn ngoan tìm ra phương kế tốt sẽ an được, còn ngược lại thì khó với cách nầy, thời gian rất lâu. Có thể vài ba mươi năm.
                      Chiến tranh kết thúc là niềm vui lớn cho dân tộc, thế nhưng chính sách mãi kìm hãm và cho cán bộ quân cán chính chế độ cũ, người ta cho là ngụy rồi bắt phải học tập cải tạo, chẳng biết khi nào về. Họ đâu phải người có án, nếu có án thì án gì? Phục vụ cho tổ quốc, dân tộc là điều đương nhiên của một công dân ái quốc, không phụng sự trốn tránh mới là người có tội. Bất cứ người công dân tốt nào trên hành tinh có tổ quốc đều như thế cả, thế nhưng khi chính quyền mới chiến thắng lại áp đặt những người phụng sự cho chế độ miền Nam là có tội, ấy là sai lầm lớn, lý của kẻ mạnh, lý của người chiến thắng, cái sai lớn đó sẽ có nhiều vấn nạn về sau, nên ‘tiến bộ’ mới cho về, bằng không thì ở trại mãi không biết kêu đâu. Thế nào là tiến bộ cũng thật mơ hồ, nghĩa là nói sao hay vậy gọi là tiến bộ, chó nói mèo cũng ừ, là tiến bộ sao? Chú thấy rồi, ấy là sự thật làm sao có giải pháp hợp lý được, phải không?
                      Chú 5 gật, gật đầu có vẻ đồng ý nhận định ông giáo vừa nêu, và tiếp:
                      -        Anh nghĩ thế nào về mai sau?
                      -        Chú nhớ bức tranh dân gian Đông Hồ: Đám cưới chuột chứ?
                      -        Dạ thấy, nhưng sao anh lại nói đến đám cưới chuột?
                      -        Về tự nhiên, mèo là bắt chuột, ăn thịt chuột. Thế nhưng ở đây, dụ ngôn dân Việt ta đứng trên xa quan điểm Khổng giáo, ngang tầm với Thích Ca, Giesu đừng nói chi chủ nghĩa Mác- Lê trả thù giai cấp. Nó hàm súc và nhân văn, một triết lý tuyệt vời của Việt tính.
                      Mèo như bậc quyền năng sinh sát vẫn hạ mình xuống làm chủ lễ cho vợ chồng nhà chuột khi chuột thật sự có nhu cầu để được hạnh phúc, đến nộp mạng và xin ngài Mèo, làm chủ lễ đám cưới, suy nghĩ và quyết định làm chủ lễ để cho đại gia đình nhà chuột thỏa mãn khát khao được hạnh phúc, duy trì nòi giống, rất nhân văn, đó không phải là bài học cho người Việt sao? Tôi nghĩ một câu chuyện của người Việt xưa đâu thua kém, thậm chí còn hơn cả La Fontaine – Ông vua của ngụ ngôn nữa.
                      -        Cha mẹ ơi, anh nói em mới biết từ hồi nào đến giờ cứ xem tranh Đông hồ thấy vui mắt thôi chứ nào tìm hiểu chi căn nguyên đâu, người xưa tuyệt quá anh hả, cảm ơn anh mở thêm kiến thức cho em, trong cả buổi chiều.
                      Chiều đã xuống tự khi nào, đàn trâu bò đi ngang trước nhà kêu lên vài tiếng ụm bò, các anh chị thợ cày, thợ cấy dắt nhau hàng đoàn lũ lượt trở về sau một ngày vất vả ngoài đồng áng. Buổi chiều nơi thôn dã bình yên lạ thường, thỉnh thoảng cơn gió chiều đem lại sản khoái cho sự oi bức mùa hạ, chú Năm Mẫn mới chịu chào ra về.
                      Tiễn chân chú, ông giáo đưa ra tận sân nhà.
                      Cả chiều ấy, bà giáo đã lặng yên, chăm chỉ ở phòng bên hoàn thành vạt áo len, bà nhoẽn miệng cười thật tươi khi sản phẩm đã xong, chờ các con ngoài ruộng trở về quây quần bên nhau trong bữa cơm ấm áp sau ngày làm đồng. Nói với ông giáo:
                      -        Ông à, bây giờ lòng người đổi thay nhanh chóng lắm, ông cẩn thận mới về chưa hiểu đâu, ông nói chuyện trong cách sống, đừng nói quan điểm, chuyện tai vách mạch rừng làm sao hiểu được lòng thiên hạ, lỡ rắc rối thì khổ.
                      Như hiểu và cảm thông, ông vẫn ôn tồn:
                      -        Bà à, chú Năm trước là nhân viên của tôi, lòng chú chân thành, từ tâm tôi nghĩ chú không đến nỗi nói bậy, làm bậy, nghi ngại là đúng nhưng với người nào, chứ ai cũng nghi làm sao có người để chuyện trò, thời nào cũng còn có người tốt, kẻ xấu, cần nhất là biết và hiểu.
                      -        Tôi chỉ nhắc chừng ông để ông nhớ thôi. Thời này nhiều kẻ táng tận lương tâm lắm, không như trước đây, đạo đức và luân lý như giềng mối kết thật bền chắc cho gia đình và xã hội. Làng dưới, chú Tư cảnh sát cũ mới về có 3 tháng bị chính quyền bắt lại, không biết lý do gì, cả huyện ai cũng biết. nghe đâu chú Tư bị người ta phỉnh phờ lừa vào tổ chức gì đó.
                      -        Vậy à. Ông giáo phân vân…
                      Bọn nhỏ í ới về đến ngõ, ông bà giáo không nói nữa, vội quay về chuẩn bị cho thành viên nhà bữa cơm chiều, nhà quê chỉ sinh hoạt buổi chiều, đến tối có khi đi họp thanh niên, họp nông dân, họp phụ nữ đủ việc, có thể đến cả nửa đêm mới về đến nhà, không đi họp phải có lý do chính đáng, hội đoàn người ta quản lý rất chặt chẽ, nhất là gia đình mình.  
                      (…)
                       
                      PND
                      (Còn nữa)
                       
                      #11
                        THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2025 18:23:34 (permalink)
                        TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GÁO VÂN
                         
                        CHƯƠNG 8 : BÀ GIÁO ĐI HỌC TẬP
                         
                        Sáng hôm ấy rất đặc biệt, đặc biệt hơn mọi ngày hai anh xã đội địa phương cầm giấy mời đến nhà ông bà Giáo Vân, một người mang súng AK còn người kia đội nón cối loại nón của bộ đội, nhưng ở Xã hình như cán bộ mới được đội loại nón ấy, trên vai có mang xà – cọt màu đà, có bút sắt đóng mở như cặp tắp vào nhà bà giáo:
                        -        Trong nhà có ai không? Một người hỏi lớn.
                        -        Ai vậy? Có. Bà giáo Vân vừa nói, vừa bước ra.
                        -        Có phải là cô giáo Vân? Người mang xà - cọt hỏi
                        -        Dạ, đúng rồi, Tôi là Giáo Vân.
                        -        Chào bà, UBND xã có giấy triệu tập mời bà xuống xã làm việc vào 8 giờ sáng mai.
                        -        Dạ thưa, có vấn đề gì không cán bộ?
                        -        Không biết cô à, tôi được lệnh đem giấy triệu tập mời bà, còn việc khác sẽ có chính quyền, mong bà đi đúng giờ.
                        -        Vào nhà uống nước đã các ông, nhà có sẵn trà thơm.
                        Miễn cưỡng các ông cán bộ vào nhà, sau khi ngồi vào bàn, bà Vân rót 2 tách nước nước:
                        -        Mời 2 ông dùng nước, có chuyện gì mà triệu tập, tôi không biết xin hỏi các ông, các ông biết, nói giúp để chúng tôi còn chuẩn bị cho chu đáo.
                        -        Dạ, không rõ, tôi chỉ biết đi mời đúng người thôi.
                        -        Vậy à, tôi cả đời đi dạy, chỉ biết gõ đầu trẻ chính hiệu, ăn lương có làm gì khác đâu.
                        -        Chúng tôi không biết, bà đọc giấy mời sẽ rõ. Cảm ơn bà đã mời nước, tôi còn vài công việc giải quyết trong sáng nay, xin phép bà giáo, chúng tôi cần phải khẩn trương.

                        Tiễn 2 ông cán bộ ra khỏi cổng nhà, bà linh cảm chuyện không hay, dù muốn hay không cũng phải xuống xã ngày mai. Bà ra phía sau, ông giáo đang chuẩn bị chẻ lạt để bó mạ cho ngày mai cấy hái vụ hè thu, từ khi về ông làm những việc lặt vặt thế này cho vui, gặp ông giáo bà nói:
                        -        Ông à, xã mời tôi, triệu tập ngày mai, không biết chuyện gì? Người đi mời có mang theo súng trường.
                        Ông bà vội vàng cùng vào nhà như có điều hệ trọng lắm. Ngồi trên bàn nước, bà mở giấy ra, đây ông à, nội dung thế này… Hổng biết có chuyện gì không ông?
                        -        Chắc là có vấn đề rồi, đem theo 3 ngày ăn, bà nhớ tôi hồi ấy không, cũng như vậy, chỉ 7 ngày ăn nhưng gần 2 năm mới về, may là tôi sắp chết, chứ không biết đến bao giờ.
                        -        Tôi, cũng chẳng hiểu nổi lý do gì nữa, ông à. Sợ các con lo không nổi cuộc sống khổ cực, có hai mẹ con đan len cũng chằm đắp được, tôi đi rồi không biết các con ra sao?
                        Ông thì từ hồi nào đến giờ có biết làm gì đâu, mọi chuyện áo cơm tôi quán xuyến hết. Làm sao đây ông? Ông nói với con Thanh nó quán xuyến nghe.
                        -        Ừ, ừ… Nguy rồi đây, tôi mới về chưa kịp hoàn hồn đến phiên bà, không biết thế nào nữa, lấy phước Trời mà đong thôi, mà thật lạ cả đời bà dạy học cả huyện này ai cũng biết, cũng hiểu như vậy, nhưng tại sao? Ông giáo miên man khá lâu nói.
                        Buổi tối cả nhà ngồi lại, chung quanh là con cái, tuy chẳng hiểu điều gì thực sự sẽ xảy ra nhưng chắc chắn là tin chẳng lành. Ai cũng buồn thiu. Con bé út khóc òa sợ mẹ đi lâu không về, hoặc về rất lâu như cha, ai cũng vỗ về nó.
                        Cả đời bà giáo Vân làm người dạy học, dẫn dắt các em đến các bậc tri thức đầu đời, nhất là trong chiến tranh biết bao hiểm nguy nào pháo kích, nào chiến trận… Không bao giờ từ nan, chăm chỉ như ong cứ đều đặn đến lớp từ phố về quê cho các em nền móng kiến thức ban đầu của cuộc làm người mong mai sau phục vụ cho gia đình, xã hội như câu châm ngôn trên vách các trường chưa xóa nhòa trong ý thức của các em học sinh thời ấy: Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời.
                         *    *
                        Buổi sáng hôm ấy, Dũng chở bà xuống UBND xã, một túi xách vải Jean đựng 5 lon gạo, ít lương khô cho 3 ngày ăn và túi lớn Air VN đựng đồ đạt cá nhân, nhất là cái mền len và mùng tuyn. Cả nhà chẳng ai thiết đi làm gì, đưa mẹ đi tập trung về xã, con Vện đứng buồn thiu, nó cũng có nổi buồn, đừng tưởng loài chó không biết buồn, nó lặng lẽ quanh chân bà giáo Vân, không rời nửa bước, bà buồn lắm, cúi mặt quyệt dòng nước mắt chảy dài xuống má.
                        -        Sao gia đình mình khổ thế này, Tôi đi nghe mình.
                        -        Mẹ mầy ráng cẩn thận, bảo trọng. Lành dữ khó lường!
                        Cả nhà không khóc thành tiếng nhưng mắt nào cũng đỏ hoe.
                        -        Mẹ ráng cố gắng nghe mẹ, các con chờ mẹ.
                        Có lẽ, trong đời các con chưa có cuộc cuộc tiễn đưa nào buồn hơn, bởi có đi đâu về đâu cũng biết được thời gian và nơi chốn, còn cuộc tiễn đưa nầy không biết bà giáo sẽ đến đâu? Dũng chở mẹ qua khúc quanh, bà giáo Vân còn nhìn lại hình dáng cha con không chớp mắt, đến khi ngôi nhà mờ đục trong nước mắt lưng tròng trên người bà. Bà nói với Dũng:
                        -        Con à, con là lớn trong nhà, ba con đã lành ghẻ và sức khỏe có vẻ đỡ hơn trước nhiều, nhưng còn yếu lắm sẽ còn những di chứng, chị Thanh mẹ đã dặn dò cả rồi, nổ lực cùng chị nhắc nhở các em, cố gắng đến trường kiếm chữ nghĩa, cả đời cha mẹ mong các con có chữ nghĩa thôi, mẹ biết bây giờ gia đình chúng ta khổ sở lắm, nhưng rồi cũng sẽ qua, mẹ đi chưa biết khi nào về, phải cần kiệm tối đa chờ mẹ về.
                        -        Dạ, con biết phải làm gì.
                        Dũng ở lại cùng những người có thân nhân đi tập trung trong chuyến này trong sân UBND xã, phụ nữ duy nhất chỉ có bà Giáo Vân, đến khi mọi người vào tập trung vào phòng bên trong, các ông du kích yêu cầu tất cả ra về. Dũng còn nấn ná bên ngoài cuộn dây thép gai tròn rào chắn, đến khi vắng ngắt mới nặng nề đạp xe về nhà.
                        Trưa hôm ấy, ông Giáo buồn nằm một mình, chưa biết san sẻ nỗi niềm cùng ai, bà Giáo đi rồi hình như ông trống vắng chưa có chỗ dựa tinh thần, chỉ có Dũng có thể chuyện trò, nhưng nó còn có việc, còn suy tư cho tương lai, ông cũng ngại.
                        Dũng thao thức, Tại sao mẹ lại tập trung để học tập, chắc phải có lý do? Nhưng đầu óc anh suy luận cũng chẳng thể hiểu. Suốt cả đời bà chỉ dạy tiểu học, cho đến khi chế độ Cộng Hòa kết thúc, bà mới thôi dạy, chẳng lẽ dạy học, đầu tư kiến thức cho thế hệ kế tục cũng có tội sao? Mở trang sách nhưng tất cả quay cuồng, mịt mờ, khi suy nghĩ vấn đề gì tất cả bị phân tâm, không thể tập trung dù một trang giấy. Dũng bèn xuống cùng cha, chỉ cha mới có thể hiểu và cho mình biết.
                        Cha ơi, nghe tiếng Dũng, ông lên tiếng:
                        -        Có gì không, con?
                        -        Con phải hỏi cha cho bằng được, tại sao mẹ cũng tập trung đi học tập, sáng nay con nghe ngóng ở xã, hiểu rằng mẹ có thể đi cải tạo xa, tại sao đi dạy học cũng có tội, chế độ cách mạng kiểu gì, ai làm việc cho chính quyền cũ cũng có tội, họ không hiểu rằng: “Mọi công dân đều phải được học hành mới thành người tốt cho xã hội, đó là giềng mối cơ bản về đạo đức, tri thức để xã hội ổn định và phát triển muôn thuở, là cội nguồn của dân tộc Việt Nam, không biết họ là dân tộc gì? “Mọi sự tốt hay xấu trong xã hội đều do giáo dục mà ra cả” như Johnlock từ thế kỷ 15 đã nói.
                        -        Ngoài Bắc cũng được học tập, nghĩa là trên hành tinh nầy quốc gia nào cũng thế, có thể ngoài ấy học theo chính sách Trung Cộng hay Nga Sô nên có lẽ họ chỉ dạy cho con người tính chiến đấu, tình yêu chủ nghĩa cách mạng cộng sản, lòng hận thù về giai cấp. Lòng thù hận chính là tinh xà, là ác quỷ nó mất đi tính người. Con người cốt lõi là tình thương yêu, là nhân văn, tình dân tộc, nghĩa đồng bào.
                        Cái cao quý nhất của đời người là tình yêu thương chân thành và danh dự trách nhiệm của một người trước gia đình, xã hội, dân tộc và tổ quốc, như con học thời ấy.
                        Nếu mãi suy nghĩ theo số ít nhóm cai trị thì đào sâu tình dân tộc, nghĩa đồng bào.
                        Giải phóng có nghĩa là làm cho tự do hơn, thoát khỏi sự gò bó chật hẹp, tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, chứ nào phải trả thù giai cấp. Một sai lầm không thể hiểu nổi của giới cầm quyền phía Bắc. Lịch sử sẽ không tha thứ vấn đề này.
                        Mẹ con là một nhà giáo có uy tín của huyện này, có thể là đảng Dân Chủ của ông Tổng thống Thiệu, ai làm cho chính phủ cũ cũng là đảng viên Dân Chủ, nhưng đó chỉ là hình thức thôi. Cha cũng vậy, nghĩa là công chức chính phủ đều là đảng Dân Chủ cả, chỉ là hợp thức hóa công chức, không biết mấy ông này suy diễn thế nào?
                        -        À, có thể vậy, con hiểu rồi. Như vậy cả người miền Nam Việt Nam phải vào tù.
                        Vô lý thật.
                        -        Lý của kẻ chiến thắng có súng, thế thôi, con đừng nhọc tâm chuyện này nữa, chẳng lợi lộc gì, thậm chí phiền muộn. Con đã lớn rồi, như chim đủ lông đủ cánh bay thẳng vào cuộc đời. Cuộc đời rất công bằng ai thật thà, nổ lực, chăm chỉ sẽ có đời sống tốt, còn những giả dối, lọc lừa có thể trước mắt họ có tiền bạc và danh vọng nhưng chắc chắn sẽ hệ lụy và khổ đau về sau, cổ nhân có câu ‘Lưới trời lồng lộng’ là vậy. Bây giờ, chưa phải là thời vì quá nhiều nghịch cảnh, không sao, khi còn khó nhọc, chưa có thời lập thân, đồng thời lập chí, nhất là danh dự, phải gìn giữ và chăm bón bởi danh dự chính là nhân cách của con người, điều này khó nhất trong cuộc làm người trần gian con à.  
                        Như vỡ lẽ, Dũng nắm bắt được một số ý niệm, để vào đời với ý thức sống tốt đẹp và làm người xứng đáng. Dũng tính hỏi đôi điều nữa, nhưng thôi.
                          *   *
                        Đã 2 tuần trôi qua không biết bà Giáo Vân đến phương trời nào, dấu hỏi trong đầu của cậu thanh niên là tại sao? Dũng bức bối lắm, bèn muốn nói cùng cha, nhưng có lẽ thấy ông buồn rười rượi chẳng tha thiết gì cũng thương, nên nấn ná chưa đặt vấn đề. Buổi cơm chiều đông đủ, Dũng bèn mạnh dạn nêu lên:
                        -        Cha à, lý do gì mà người ta bảo đem theo 3 ngày cơm mà bây giờ mẹ biền biệt không biết đến nơi đâu, hay là cha xuống xã hỏi thử.
                        Trầm ngâm một lúc lâu, ông nói :
                        -        Cha còn bị quản chế, khó nói lắm, các con xuống xã hỏi thử mẹ bây giờ ở đâu, còn biết mà liệu tính.
                        -        Thôi được, ngày mai con sẽ xuống xã hỏi mấy ông cán bộ thử thế nào? Dũng nói.
                        -        Đúng vậy, em là thanh niên hỏi để cả nhà biết, các chị em không ai bằng em, cố gắng nhé, nhưng tránh tranh cải với cán bộ xã, nguy hiểm em nhé. Chị Thanh nói
                        -        Em hiểu mà…
                        Sáng ấy, Dũng xuống xã áo quần chỉnh tề, mang dép cao su (Thường chẳng bao giờ mang) vào tận bàn của vị cán bộ xã.
                        -        Anh đi đâu, có việc gì ? Một cán bộ hỏi
                        -        Thưa anh, tôi xuống hỏi mẹ tôi - Bà Giáo Vân, vài tuần trước được UBND xã có giấy triệu tập mang theo 3 ngày ăn, đến hôm nay, nửa tháng rối, gia đình không biết đi đâu, mong anh trả lời giúp
                        -        Không rõ anh à, xã chúng tôi đã chuyển bà lên huyện, như thế không còn trách nhiệm, anh chịu khó lên huyện hỏi.
                        -        Thưa anh, khi xã triệu tập, mẹ tôi chấp hành, lẽ ra phải thông báo cho gia đình.
                        -        Chuyện ấy xã không rõ, tôi bảo anh lên huyện mà hỏi nhé.
                        -         ???
                        Quá bực tức, UBND xã triệu tập, nhưng khi hỏi họ không có trách nhiệm với dân, trả lời qua loa đã chuyển lên huyện, hình như họ coi chuyện ấy bình thường, hồi ấy vấn đề hành chánh không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là quản lý người, tất cả hệ thống quản lý rất chặt chẽ, từ tổ, ấp hội đoàn rất chặt chẽ một ai tới lui địa phương người ta đều biết, có lẽ chính quyền mới chưa biết quản trị, nhưng công việc quản lý nhân khẩu phải nói rất tuyệt, những năm tháng mới giải phóng hầu như vậy, người dân cố dò dẫm tìm ra để giúp đỡ cho thân nhân mình ‘máu chảy ruột mềm’ mà, có khi mấy tháng sau mới biết chính xác, bởi người thân nhắn nhủ cho gia đình để thăm là chính. Cuối cùng Dũng phải ra về, cả buổi sáng coi như công toi.
                         
                        PND
                        (Còn nữa)
                         
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2025 16:52:16 bởi THƠ NGÃ DU TỬ >
                        #12
                          THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2025 18:26:36 (permalink)
                           
                          TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN
                           
                          CHƯƠNG 9 : ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ


                          Chờ đợi tin mẹ vả hỏi thăm, lần hồi cũng biết mẹ đã ở trại tập trung cải tạo.
                          Lũ con bà thắc mắc hoài, cả cuộc đời mẹ – Bà Giáo Vân mãi chăm chỉ và dành trọn thời thanh xuân và trung niên chăm sóc dạy dỗ cho các học trò bé con, người uốn măng non cho có nề nếp để mai sau thành tre cứng cáp về đạo đức làm người, người bắt những bậc thang đầu đời cho các thế hệ bé con đi đến khung trời kiến thức và đạo đức mai sau, ngoài ra quán xuyến, chăm sóc cho gia đình với bổn phận và trách nhiệm, bà đâu có làm gì nên tội tình mà học tập, vô lý hết sức. Trong nhà không thể tìm ra câu trả lời hợp lý. Nhưng đó là sự thật.
                          Biết nói sao bây giờ, cứ phải tìm cách giải quyết trước mắt.
                          Suối Bùn, thuộc xã Hành Tín. Xưa kia, cây cối còn um tùm hoang sơ, đường sá hiểm trở không người qua lại muỗi mòng, rắn rết, vắt, ngay cả thú dữ ... đã làm cho địa điểm vùng này hoang vắng lắm và hai bên cư dân bị ốm đau, đến nỗi, dân gian có câu : “Bất ẩm Thiên Xuân khê”, nghĩa là không uống nước khe Thiên Xuân rất độc, nhất là thuốc khai quang vẫn còn trong những năm sau chiến tranh. Câu nói ấy vẫn còn lưu ở vùng phía bên tây dãy núi.         
                          Trước năm 1975 dường như là vùng của quân đội cách mạng hoạt động và kiểm soát 100% . Quân đội VNCH không bén mảng đến bao giờ. Sau năm 75 có trại cải tạo cho quân cán chính của chính quyền cũ có chức sắc nhỏ, bà Giáo Vân bị đưa lên ấy, không biết vì phạm tội gì.
                           Chị Thanh cùng với những người nhà bị triệu tập hôm ấy hò hẹn để đi thăm mẹ.
                          4 giờ sáng chị đã chuẩn bị chu đáo những vật dụng cần thiết để hành trình chuyến vượt núi trèo đèo thăm mẹ. Dũng cũng chuẩn bị cho chị loại đèn lon, đèn làm bằng lon sơn Bạch Tuyết có vòi xe đạp để luồn tim và liên kết với lon sữa bò, bên trên ngay vòi có đục lỗ để thoát khí  bằng vòi xe đạp có ốc siết chặt để thắp đi đường khi trời tối, ánh sáng yếu ớt và soi sáng rất ngắn đủ để đi, bớt nguy hiểm, dẫu sao cũng đỡ hơn không đèn. 
                          Sau chiến tranh kết thúc, mọi thứ còn lại quá ngỗn ngang, người ta bắt đầu khai khẩn làm ruộng rẫy, thỉnh thoảng vẫn còn tiếng nổ ì đùng của đạn bom còn sót lại người chết và bị thương do khai khẩn, đó là nổi đau lớn di chứng còn lại của chiến tranh, chẳng ai muốn nhưng hoàn cảnh xảy ra phải chịu.
                          Các bãi mìn lớn chung quanh đồn bót đã có lực lượng công binh quân đội rà soát đào lấy, mục đích hạn chế tối đa có thể, nhưng làm sao hết hẳn được, các trái đạn mồ côi còn rơi vải trên khắp đất nước. thỉnh thoảng vẫn có tiếng ì đùng nổ làm chấn động không gian, một tai nạn thương tâm xảy ra ít nhất một mạng người bị thương hay thương vong..
                          Qua cầu Cộng Hòa đi chừng 5, 7 cây số nữa đến trại cải tạo Suối Bùn.
                          4 bạn bè tập trung lại gửi xe đạp ở quán che tạm bên ngoài, rồi đùm túm gánh gồng vào trại. người quản lý nhận các giấy tờ thăm nuôi thân nhân, ngồi chờ đợi gặp.
                          Qua khoảng trống chị thấy trong đoàn người ra gặp người nhà ai cũng cầm theo một cái bao nhựa, tất cả là đàn ông, chỉ có mẹ là đàn bà, dáng ai cũng gầy còm, chị nhận ra mẹ ngay,
                          10 h 00 mẹ ra, người cán bộ gọi chị vào gặp, thấy mẹ chị khóc òa, nói không ra lời, chị vốn đa cảm từ nhỏ, tiếng khóc mất toi gần năm phút, người cán bộ tới bên chị, nhắc nhở “chị có 30 phút để thăm hỏi” thôi nhé, chị như tỉnh ra, xin lỗi và rồi mẹ con chuyện trò:
                          -        Cha con và các em ở nhà có sống nổi, nhà mình còn đan áo để kiếm thêm, cha con đỡ hơn không? Một loạt nhiều câu hỏi chung quanh gia đình...
                          -        Tất cả bình thường mẹ ơi. Mẹ trong này có đói không? Bà đưa ngón tay lên trước miệng làm dấu, nghĩa là đừng hỏi vậy, sợ cán bộ nghe, bà nói nhỏ:
                          -        Mẹ ở dưới bếp trong tổ nấu ăn và tăng gia, nên có cơm không đến nổi đói.
                          Câu chuyện linh tinh xoay quanh gia đình, chủ lực là lo lắng cái ăn cho nhà và sức khỏe công việc của gia đình, loay hoay cũng hết giờ.
                          Cán bộ cai quản nhắc nhở: “chị và cô còn năm phút, chị lật đặt lon lương khô, bịch thuốc tây, thuốc chống nước, kem, bàn chải đánh răng và nói “Con ghi sẳn trong từng loại thuốc tây, cách dùng, liều lượng, mẹ cẩn thận ở lại học tập, đừng lo lắng gì cho nhà, từ ngày mẹ đi hình như các em đứa nào cũng siêng hơn, làm việc và hội họp chăm chỉ hơn”.
                          Bà Giáo bỏ gọn tất cả đồ vào bao, chị Thanh chào bà rồi ra về, mắt bà rưng rưng nhìn theo.
                          Chị Thanh rất xúc động lúc chia tay bà, chị quay lại nhìn mẹ khi bà trở lại trại, chị quệt nước mắt trước khi bước ra khỏi nơi ấy, dù vậy mắt vẫn đỏ hoe.
                          Cả 4 người trở về nhà, trên đường về tuy nắng gắt, nhờ có gió nên chẳng ai cảm thấy mỏi mệt, hàng đôi sánh nhau chuyện trò trên con đường dài và hẹp còn khá hoang vắng.
                           
                          Chập choạng tối chị Thanh về tới nhà, con Vện chạy tận ngõ đón chị vào nhà, nó hớn hở vẫy đuôi, ve vản cùng chị vào nhà, mắt ngóng như trông chờ một tin lành truyền đi từ chị, ai bảo loài chó không thông minh, nó hiểu cảm xúc buồn vui của con người, trời đất đã ban tặng cho loài người một con vật sát cánh biết đồng cam cộng khổ với chủ. Tuyệt vời vậy nên cả nhà ai cũng cưng quý nó.
                          Cả nhà xúm xít hỏi thăm mẹ, đứa nào cũng mừng vì mẹ bình an và khỏe mạnh, nhất là cha, ông hỏi chị Thanh:
                          -        Mẹ con thế nào, có khỏe không?
                          -        Con nói chuyện với mẹ gần 30 phút, nơi ấy chỉ cho thời gian nhất định 30 phút thôi, mẹ ổn, được cái mẹ ở dưới bếp, mỗi sáng trưa có nhiệm vụ cắt rau lang xắt để nấu cháo heo chăm đàn heo, công việc không khổ sở và nhất là gần bếp ăn nên không đói.
                          -        Vậy là được rồi, cha chỉ sợ lao động nặng, mẹ sức yếu đói ăn có thể bệnh tật, chướng khí dễ mất mạng.
                          -        Mẹ hỏi sức khỏe cha nhiều nhất. Cha giữ gìn sức khỏe lỡ bệnh không có mẹ nhà, mệt lắm và thăm các em, chăm ngoan làm việc chờ mẹ về.
                          -        Con có hỏi lý do gì mẹ bị cải tạo không?
                          -        Dạ không, thôi cha. Mẹ bình an là được rồi mai mốt cũng biết thôi.
                          -        Ừ, số trời, họa vô đơn chí, rồi ông trầm ngâm, nhìn xa xăm như có điều gì suy nghĩ.
                          Cuộc thay đổi quá lớn, đang bình yên bỗng chốc xáo trộn, không ai có thể lường được số mệnh là vậy. Ai cũng lo lắng nhưng rồi cũng chẳng giải quyết được gì.
                           
                          PND
                          (Còn nữa)
                          #13
                            THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2025 18:30:23 (permalink)
                             
                            TIỂU THUYẾT KÝ SỰ; BÀ GIÁO VÂN
                            CHƯƠNG 10:
                             
                            Từ ngày bà Giáo đi, ông Giáo có vẻ buồn hơn, tuy vậy ông vẫn cứ chăm chỉ làm lặt vặt trong vườn.
                            Ông Giáo gần như một nông dân thuần chất, buổi sáng chỉ uống chè lá xanh, thỉnh thoảng có khách ông mới chế bình trà Tàu, thuốc lá vấn rồi ngồi trước nhà đan đác, hoặc cuốc đất trồng tỉa cho vui, chỉ áo may–dô, quần đùi gần trưa mới vào nhà. Sách vỡ không còn để đọc, bao tử đấu tranh liên tục nên ý thức bây giờ là cơm củ ‘khi cái củ mì to hơn thần thánh/ đừng nói chi đạo lý và lương tâm’, ông dè xẻn lời nói với mọi người lạ, chỉ trò chuyện với con cái, thỉnh thoảng có người bạn thân từ ngày trước ghé thăm mới trò chuyện cởi mở.
                            Gia bần trí đoản quả chẳng sai tí nào.
                            Còn mỗi chị Thanh đan áo, cứ mươi ngày xuống tỉnh một lần đem áo len xuống, kiếm ít tiền, mua len về đan, đắp đổi qua ngày, chờ mẹ về. Đời sống chật hẹp ở làng quê, nơi cắt rún chôn nhau sao nghẹt thở ê chề, ngao ngán nhất là không có tiền chi tiêu, vài đứa em nhỏ học đến lớp chín, cũng không được đậu vào lớp 10 trường phổ thông, không thể đi học tiếp được. Sự tàn nhẫn của chế độ đối với gia đình có người đi học tập cải tạo lúc bấy giờ là vậy, khi còn tuổi được học không cho học chỉ vì cha mẹ các em làm việc cho chính phủ trước, mặc dù khẩu hiệu “Với chế độ ta, cha làm cha chịu” không dính dự gì con cái. Còn mấy ông cán bộ già thì học bổ túc, chữ viết chưa ngay, ngược ngạo thế nhưng kiểm tra cứ lên lớp như thường. Một năm ba bốn lớp, họ học được cái gì?
                            Biết bao sự oan uổng cho các em học giỏi và chăm ngoan là nạn nhân của chế độ sau 1975.
                            Út nhỏ thi vào mười khi xem danh sách không có tên, nó về khóc tức tưởi, em không thể không đậu, em đã trao đổi với thầy toán, giá như nhà trường cứ không cho em thi từ đầu, đàng này ‘cũng lều cũng chõng cũng đi thi’. Đại vô lý nhưng làm gì được khi người ta cố tình không cho đi học, nó chỉ biết khóc tức tưởi cho nhẹ nỗi oán giận. Rồi đây, lịch sử sẽ nhắc lại, phê phán điều tồi tệ nầy, lẽ ra không thể xảy ra, nếu người cầm đầu chính phủ có trí óc hiểu biết và trái tim độ lượng hơn.
                            Ông giáo phải nói chuyện với nó mấy ngày, mới nguôi giận và trở về với ruộng đồng, vườn tược.
                            May thay, tiếng khóc đã trôi đi những muộn phiền và rồi cũng đứng dậy nổi để sống với tuổi thanh xuân. Tuổi trẻ xốc nổi nhưng nỗi buồn cũng qua nhanh và bắt đầu với con đường mới. Con đường gian nan, đầy bất trắc nhưng thế gian đâu có con đường nào trải đầy hoa hồng. Út đã bắt đầu như thế .
                             
                            CHUYỆN CỦA ÚT
                             
                            Mùa xuân năm ấy, cái tết cận kề còn vài ba mươi ngày nữa là đến tết. Út nãy ra ý nghĩ:
                            Chị à, hay là chị mượn cho em ít tiền, em sẽ làm gánh hàng bánh bán ở 2 chợ, chợ huyện và chợ chiều. Khởi đầu cho một cô bé dễ thương vừa bước vào cổng phổ thông trung học bị chế độ chắn ngang bởi cổng rào lý lịch, cả nhà ai cũng mủi lòng. Ngắn cổ kêu chẳng thấu trời.
                            Thương em, chị Thanh cũng chìu lòng dù biết rằng khung trời ấy lắm nhọc nhằn gian nan.
                            -        Em thích bán buôn à? Chị Thanh nói
                            -        Chị à, chẳng lẽ nằm nhà, làm nông thì phụ thôi chứ em yếu đuối, học hành chẳng được, các anh chị còn quá vất vả, không như nhà người ta, gia đình mình không ai được vào làm cho nhà nước, em làm để phụ giúp thêm cùng các anh chị nên em nghĩ vậy. Tính trách nhiệm của Út có thừa, trả lời chắc nịch.
                            Tối ấy, ông Giáo và cả nhà ngồi lại, ông nói với các con :
                            -        Các con rất có trách nhiệm với bản thân và gia đình, đó là niềm vui lớn của cả nhà, cha đã nói với Dũng khi mới về, có thể rồi đây gia đình sẽ khó hơn, các em con chưa chắc như con, cả đời cha mẹ chỉ làm công chức, cứ nghĩ rằng các con sau nầy đứa nào cũng có chỗ đứng trong xã hội để phụng sự với năm tháng miệt mài chăm chỉ ở ghế nhà trường, bao giờ cha mẹ cũng tin như thế. Nhưng dòng đời không được toại nguyện, các con đều bị tai nạn của chế độ, chỉ vì cha mẹ làm việc cho chính quyền trước, cha không biết làm gì đành bất lực, nhìn các con mà xót cả lòng.
                            Ý thức tự lập, tự chủ, tự cường, là ý thức đẹp, song con Út còn nhỏ quá, cha nghĩ Út nên suy nghĩ chín chắn.
                            -        Con vẫn biết còn nhỏ so với tuổi ra đời, nhưng ở nhà làm bánh, rồi chở xuống chợ bán không đến nổi không làm được, cha tin đi. Trường đời sẽ dạy con sống tốt hơn, công việc sẽ có thu nhập. Con sẽ làm được.
                            Dũng ngồi lắng nghe, bây giờ mới tiếp lời:
                            -        Con sẽ phụ với em chạy vòng ngoài, cố gắng hết sức mình để Út có điều kiện viết nên câu chuyện gánh hàng bánh, biết đâu sẽ được cha à. Chị Thanh thấy sao, công việc chị đan áo, em phụ chị đi lấy len và đem áo xuống phố cho chị Thủy, mươi ngày mới một lần, thời gian trống rất nhiều.
                            -        Ừ, vậy cũng được cha à, biết đâu thời không cho Út, trời đất sẽ cho Út.
                            -        Trời đất kỳ diệu lắm, khép cổng này ắt sẽ cổng kia.
                            Từ hôm ấy, Út bắt tay vào công việc mới, nó thận trọng ghi vào sổ những thứ cần mua, về nhà chăm chỉ với công việc, quần quật cả ngày nào đỗ bánh thuẩn, làm bánh nỗ, bánh bó, bánh phục linh, bánh in, mứt gừng, mứt bí… tất thảy khá đẹp. Vốn nhà có truyền thống làm bánh đẹp, ngon nên tất cả bánh mứt, nhìn cũng thấy bắt mắt.
                            Ngày 14 tháng chạp năm ấy, nó khai trương, ngày hôm đó nó đã đặt ba dĩa bánh trên bàn thờ để cha cúng rằm, nhờ cha vái luôn cho nó khai trương thuận buồm xuôi gió, hàng bán nhanh,  mua mau bán đắc gánh hàng bánh, nó tin một cách kính cẩn.
                            Hai nừng bánh với chiếc giỏ nhựa to đùng đan bằng dây nhựa mua tận phố rất chắc chắn, Dũng phụ chở cái bàn, ghế ngồi, và những dụng cụ phụ liệu. Hai anh em lên chợ huyện rất sớm, làm thủ tục đăng ký chỗ ngồi đã sẵn từ vài hôm trước, nên nhanh chóng có quày bán, Dũng và Út bài trí khá gọn gàng, xinh xắn trong vài mươi phút là xong.
                            Dũng ra xa quan sát hồi lâu thấy có vài người mua, lòng cũng hân hoan rộn rã cùng cô em Út, dù sao thành quả ban đầu cũng có tay mình chăm bón. Thỉnh thoảng trông thấy cô em nhoẽn miệng cười nói với khách hàng, có lẽ nó mời mọc, rồi chợt nghĩ : ‘Nó sẽ quên đi nỗi buồn không được đến trường cùng chúng bạn, mà một thời Dũng đã cay đắng trải qua’.
                            Bất chợt nó lại nhẫm đọc bài Chợ Tết của Đoàn văn Cừ, người họa sĩ vẽ bằng ngôn ngữ bức tranh chợ tết đẹp của làng quê Việt:
                            “Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
                            Tia nắng tía nháy hoài trên ruộng lúa,
                            Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
                            Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
                            Người mua bán ra vào đầy cổng chợ”
                            Chợ Huyện là nơi nhộn nhịp bậc nhất của vùng quê trung du Nghĩa Hành, ngày thường đã náo nhiệt huống chi chợ Tết, tinh sương đã rộn rã, nào gà vịt, trái cây, rau quả đã bày biện trước chợ, tiếng ồn ào của người mua kẻ bán, làm tưng bừng một góc huyện, bên trong cổng chợ hàng bánh nhiều thêm, trong đó có hàng bánh của cô Út, có lẽ người chủ hàng nhỏ nhất chợ.
                            Hôm đó, nó mặc bộ đồ mới chị Thanh vừa mua dưới chợ tỉnh về trông càng rạng rỡ, người xinh xắn được điểm tô thêm bộ áo quần bông mới trông có vẻ đài các hơn, rất tiếc người đi chợ chẳng có anh thanh niên nào, nếu có chắc hẳn phải chú ý.
                            Dũng không về nhà, ghé ra quán cafe ngồi chờ từ sáng đến trưa, lần đầu tiên trong đời uống cafe cả buổi chờ đợi hết buổi chợ, trời ơi, nó dài như cả năm. Người chủ quán cafe cũng vui vẻ không muộn phiền gì, hết khách còn ra bắt chuyện với Dũng, nhờ vậy cũng thấy vui. Tan buổi chợ mới vào dọn về.
                            Buổi trưa, mùa xuân năm nay về sớm không khí mát dịu hơn mặc dù mặt trời đứng trưa, hai anh em đi song song, con đường vắng người, chuyện trò về buổi chợ, nó hưng phấn kể chuyện, không ngờ buổi chợ đầu tiên nhưng đắc hàng. Nó vui lắm. Mẻ lưới đầu tiên trong nghề bán bánh khá đầy đặn nó huyên thuyên với Dũng trên con đường gần 3 cây số, đến ngõ quanh vào nhà lúc nào cũng không hay.
                            Tranh thủ về nhà ăn cơm trưa, rồi còn phải chạy vội xuống chợ chiều cho kịp khai trương buổi chợ làng.
                            So với chợ Huyện, chợ Làng ít người hơn, tuy vậy vẫn đông đúc hơn ngày thường, hơn nữa hàng bánh tết ít hơn so với chợ Huyện, đây là lợi thế. Sau khi bày biện xong, Út thuê tấm du du che nắng - Du du như một cái dù người ta dùng ống tre liên kết với tre đan, bên trên lợp các bao nhựa, hay bao gai, hoặc tấm vải thường người ta dùng để che nắng, sau người ta phủ bên trên tấm ni - long để che mưa bất ngờ, mỗi khi có chỗ ngồi cố định.
                            Dũng cố gắng quan sát và so sánh, cũng nhờ vậy Dũng biết được cảnh náo nhiệt của chợ làng quê mình.
                            Chiều xuống hẳn, mặt trời đã khuất phía sau rặng cây, tia nắng yếu ớt hình như còn luyến tiếc nhân gian cũng nhạt dần, nhạt dần, rồi yếu ớt xuyên qua tàn cây kẻ lá. Hoàng hôn bén lên cơn gió chiều thổi nhẹ làm mát tâm hồn Dũng mới xuống phụ dọn cùng cô em Út.
                            “Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
                            Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
                            Con gà trống mào thâm như cục tiết,
                            Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
                            Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
                            Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh” (ĐVC)
                            Rồi anh em thong thả ra về, chiều đã sụp vào tối, làng quê lại tĩnh mịch, cảnh vật êm đềm và vắng vẻ. Ánh trăng vàng to như cái đĩa đã lên như chứng kiến niềm vui mới của hai anh em nhà nó trò chuyện trong buổi đầu vật lộn với cuộc đời.
                            Buổi tối, cả nhà huyên thuyên rôm rả câu chuyện của Út, nó hồn nhiên kể lại bán mua, rồi bung vỡ giòn tan tiếng cười, từ lâu lắm, cả nhà ông giáo mới có niềm vui chung từ chuyện gánh bánh tết của cô Út, đến đêm cả nhà phụ vào làm bánh, bổ sung thêm hàng đã bán được đến quá nửa đêm mới xong.
                            Mùa Tết nguyên đán năm ấy gia cảnh nhà ông Giáo bớt ảm đạm, hơn nữa có ông về trồng hoa như thú tiêu khiển để quên những muộn phiền, trồng hoa giúp người mỗi ngày chăm hoa tính kiên trì, nhẫn nại và tâm hồn vui hơn. Giáp tết, nào thược dược, vạn thọ, cúc, hường từ trong sân vườn nhà ra tận ngõ rực rỡ sắc màu vàng, hồng của hoa, cổ đồng của thược dược, cánh sen bông lớn ông vui lắm, cả nhà cùng vui lây.
                             
                            Tết năm đó Út mua cho cha bộ Pyjama để ông mặc trong nhà cho lịch sự khi có khách đến thăm nhà, ông vui lắm. Tuy bộ đồ chẳng bao nhiêu tiền nhưng nó là cả tấm lòng của con cái thời khó khăn nhất của lịch sử đời ông. Ông mừng rỡ với nụ cười dung hậu.
                            Và nó cũng lì xì cho anh Dũng xấp vải quần ximili màu xám tro mua lại từ hợp tác xã phân phối, quần màu đầu tiên từ khi giải phóng đến giờ, năm ấy Dũng mặc quần ấy đi chơi cùng bè bạn suốt mấy ngày tết, có lẽ Dũng tự hào với đứa em bằng mồ hôi tạo nên món quà này.
                            Út cũng không quên gửi lên cho mẹ bộ đồ mới để mẹ có thay đổi đón xuân trong dịp thăm cận Tết.
                            Nó xầm xì bàn bạc trao đổi với chị Thanh làm sao mua chỉ vàng để hộ thân.
                            Sau 1975 tất cả hàng vàng đều không được hoạt động, cả tỉnh chỉ có duy nhất hàng vàng quốc doanh, các thị trấn chỉ có trao đổi chui, mua bán vàng là cả vấn đề, nếu thuế vụ thấy, có thể lập biên bản tịch thu. Chỉ là mua bán thôi nhưng thế đó.
                            Cuối cùng, Út cũng làm được 2 chiếc nhẫn mỗi chiếc 5 phân, ai cũng công nhận nó lanh lợi biết đổi tiền thành vàng để dành phòng thân khi bất trắc. Cả nhà ai cũng khâm phục.
                             
                            Truyền thống nhà ông bà Giáo Vân năm nào cũng cúng từ giao thừa cho đến mùng bốn Tết, mới tiễn đưa ông bà, con cháu, bà con tề tựu về nhiều, ông Giáo mới về người đến chúc tết thăm hỏi đông hơn.
                            Anh Hai con cậu phía ngoại là sĩ quan cũ khi học tập xong năm nay cũng về dâng hương, mừng tuổi ông bà, xong ông Giáo và anh Hai trò chuyện.
                            Nghe anh mới về, dù em cũng còn quản chế - Tết chính quyền cho phép thăm hỏi nhưng không được đi khỏi huyện, vì vậy em về mừng tuổi ông bà và tiện thể thăm anh.
                            -        Cảm ơn em, anh cũng vậy nhưng anh chẳng muốn đi đâu, chị mầy mới vừa gọi đi, em biết rồi chứ?
                            -        Em có nghe, anh thì đi mới về, đến phiên chị nhưng chị sao vậy, anh có biết lý đo gì không?
                            -        Không nghe họ nói lý do, ngày xuống xã chỉ nói đem theo 3 ngày ăn, rồi từ đó đến nay
                            -        Như kiểu bọn mình đem theo 7 ngày ăn, đi học tập vậy, rồi vài ba năm mới về.
                            -        Ừ, một chính sách mà em.
                            -        Bên hành chánh của anh thì sao chứ bên quân đội em căng lắm anh,
                            -        Bên nào cũng vậy thôi, một chính sách mà ra có khác chi, bên anh nhờ các ông quận phó cũng như các viên chức dũng cảm cải lý với ông cán bộ trông coi, ông nào trình độ cũng lèm nhèm nên đuối lý.
                            Khi đuối lý có một câu duy nhất “Lệnh cấp trên vậy, chúng tôi thi hành” là xong việc.
                            Một hôm, ông giáo sư dạy Pháp văn bệnh, ông ấy bệnh sốt rét như anh, khi cán bộ tập trung bắt di chuyển đốn cây, ông ấy báo cáo xin nghỉ vì sốt rét, cán bộ không cho, bắt phải đi, đi một đoạn ông ấy gục ngã, người run cầm cập, mặt xanh như nhái cán bộ hoảng hốt, có bác sĩ Quý trước đây làm bệnh viện Quảng Ngãi trong đội lên xem xét nói là ông ấy sốt rét cấp tính, rất nguy hiểm có thể chết vì kiệt lực nếu tiếp tục, cán bộ không thể cho đi được đề nghị cán bộ cho cán về nghỉ ngơi, cả đoàn phản ứng dữ dội, cuối cùng phân công 2 người cán về, từ đó ai báo bệnh cũng được nghỉ.  
                            Người Bắc có câu “mềm nắn rắn buông” quả không sai.
                            -        Trong quân đội em còn dữ dội hơn, bởi bọn em dân bộ binh lâm trận sinh tử dài dài, đâu có ngán anh, ép quá là bọn em phản ứng ngay, không như công chức các anh cả đời cọ giấy, nhát như thỏ, tụi nó biết nhược điểm đó nên công chức và dân sự nghe anh em nói lại bị ép hơn.
                            -        Mà thôi, chuyện cũng đã qua rồi, anh em mình đã về, đến hôm nay còn hàn huyên là phước rồi, em biết không, tưởng anh bỏ mạng nơi rừng thiêng rồi chứ, ai ngờ nhờ sắp chết mới được về, ghẻ từ nách đến chân, chỗ nào cũng có, cộng với sốt rét rừng, kiệt sức mê man bất tỉnh, một tuần sau đột ngột có giấy ra trại. Mừng như ngày trước đậu vào đệ thất trường công lập, anh nhớ em Quân ở trong xã này, ngày ra coi bảng ở trường Trần Quốc Tuấn có tên trong danh sách trúng tuyển vào trường trung học đệ nhất cấp công lập, em chạy bộ thẳng từ trường về nhà hơn 15 cây số báo tin: “con đậu rồi” 
                            -        Dễ sợ vậy anh, ngày ấy đậu được vào trường công lập tự hào lắm. Anh tính sao bây giờ?
                            -        Tính với toán gì em, về báo hại may mà có chị chưa đi nên bồi bổ và chăm sóc mới ổn được. Bây giờ bả đi không biết khi nào về, Tết buồn hiu, hết buồn nỗi mình đến buồn nỗi vợ. Còn em tính sao?
                            -        Cũng bế tắc như anh thôi, các con em còn nhỏ, có mấy sào vườn và mấy sào ruộng chăm chỉ lật đất ăn rồi hãy hay.
                            -        Vậy thôi, lấy phước trời mà đong. Thời cuộc luôn đổi thay, thích nghi là chuyện không dễ tuy vậy trời đất hay lắm, rồi cũng từ tốn đi qua như hết đông ảm đạm là xuân khoe sắc hương hoa phơi phới tâm hồn nhân gian.
                            Chúng ta là những công dân lạc loài, không có quyền làm người, của một giai đoạn lịch sử, chưa biết rồi đây tất cả những con người phục vụ cho chế độ VNCH sẽ về đâu, nguồn nhân trí lớn sẽ mai một, sẽ trở thành những nông phu hay có thể là một loại phu khác, anh cảm thấy thật tiếc quá cho lực lượng ấy, giá như chất xám đó được tôn trọng thì việc cống hiến để tái thiết nước nhà có lẽ sẽ nhanh hơn, buồn cho sự thanh cao trở thành trần trụi và dung tục, không biết các người cầm quyền có nhận ra, hiểu ra.
                            -        Em tin mọi sự rồi sẽ qua đi trong giai đoạn mông muội.
                            -        Đúng vậy, lịch sử đã đi qua, nào các triều đại bên Tàu từ Tam hoàng sang Ngũ đế rồi Đường, Tống, Nguyên, Minh đến Thanh và Mao chúng ta thấy quá rõ, có điều chính thể bây giờ Việt Nam ta lại bám chặt vào đó, nên khó lòng thoát khỏi vòng kim cô quấn chặt trên bộ đầu các ông lớn chính quyền Việt. Đây là bài toán khó giải quyết, phải có một minh quân hiển hiện may ra mới trục căn, căn số bí hiểm này.
                            Trong kinh Dịch có câu rất hay “Cùng tất biến, biến tất thông” không thế hệ này thì thế hệ khác cũng tìm ra đáp số thôi, tuy nhiên rất phụ thuộc vào thời gian và dũng khí của người cầm quyền. Mau hay chậm là vấn đề nhận diện lại lịch sử và có phương hướng đúng, nếu phúc đức của non nước nhà chắc không xa và ngược lại.
                            Anh Hai gật gù, trầm ngâm và có vẻ bi quan:
                            -        Đa số những cán bộ phường xã loàng xoàng quá, chỉ chạy núi về học vỏ vẻ lớp ba, lớp năm, có hiểu biết gì về hành chánh, quản trị cũng làm chủ tịch, bí thư.
                            Mới chiếm được miền Nam nên nhân sự rất thiếu thốn, nhất thời phải vậy thôi, nhưng sau khi ổn định sẽ thay thế người có kiến thức chuyên môn hơn, sở dĩ họ hống hách làm ra vẻ ta đây bởi từ trên núi về lại không hiểu biết nên ra oai, kệch cỡm là thường tình của những kẻ cỏn con ấy, em đừng quan tâm chuyện đó, một vài năm sẽ loại ra thôi, đó là tất nhiên khách quan, vấn đề cần quan tâm là chính sách hậu chiến thế nào, ra sao, quyết sách nào phù hợp nhất cho miền Nam, liệu họ có bao dung và nghĩ suy đúng đắn hay hằn học.
                            -        Hình như họ trả thù dân Nam phải không anh, chứ cả dân Nam mình hiền lành, nhân văn từ người lính tham chiến như bọn em sống nay, chết mai ai cũng muốn hòa bình để có cuộc sống bình yên.
                            -        Có thể như vậy, vì sao? Nếu như có hiệp thương hòa bình tình hình sẽ khác đi rất nhiều, đàng này là sự chiến thắng của chính quyền Hà Nội, trong công cuộc chiến thắng miền Nam sự phản ứng quá dũng cảm của quân đội miền Nam khiến cho binh sĩ và chính quyền Bắc Việt tức mình, đó là mẫu số chung. Nếu nhà cầm quyền hiểu được sự duy lý ấy, có chính sách độ lượng và bao dung hơn thì xương máu và mạng người hai bên sẽ không đỗ ra sau khi kết thúc cuộc chiến.
                            Anh nghĩ ấy là sai lầm rất lớn của cả bộ đầu chính quyền phía Bắc. Lịch sử từ cổ chí kim sẽ thanh lọc để đi đến sự thật khi có những luận chứng biện minh.
                            -        Anh nói hay quá, có thể lắm, vậy họ sẽ xét lại.
                            -        Đúng thế, Mấy mươi năm nay, đầu óc họ toàn là duy lý và tệ hại nhất là chủ thuyết vô thần, khi không có thần thánh ngự trị và họ có thể làm bất cứ điều gì, thậm chí điều ác độc, dã man bởi thiếu triết lý nhân quả và siêu nhiên, nghĩa là thiếu niềm tin Trời đất, ấy là hiển nhiên. Triết học đã minh chứng hùng hồn rồi, con người rất nhỏ bé trong mênh mông vũ trụ, tự nhiên có quy luật của nó, cân bằng trong nhân thế là quy luật của tự nhiên.
                                        Sự trả thù không thể hóa giải được thù hận. Chỉ có tâm từ bi, tính khoan dung, lòng
                            độ lượng mới giải quyết vấn nạn này, đó là mấu chốt. Hiểu ra nguyên lý ấy thì nhanh,  còn cứ mãi khư khư ôm lấy sự hống hách, tự mãn, kiêu mạng thì càng lâu. Nếu như nhà cầm quyền biết nghĩ lại và có giải pháp phù hợp chắc sẽ được.
                            Không ngẫu nhiên mà người ta đặt bệ thờ Thích Ca Mâu Ni, Giesu…đã từ hàng ngàn năm nay, cho đến mai sau nếu như các đạo giáo ấy không lợi lạc gì cho loài người, phải không nào?
                            Chính vì vậy họ phải xét lại thôi không chóng thì chầy.
                            -        Cảm ơn anh, đã cho em hiểu thêm thế sự. Giờ em ra ngoài để xem mấy cây hồng và thược dược, lúc vào em thấy trước nhà thích lắm. Sang năm có trồng nhờ anh chỉ giáo.
                            Hai anh em cùng dạo ra khu vườn rộng, còn rất um tùm hoang dại, phía phải là vườn mì ta xanh um đầy sức sống, rồi quay vào trong sân, nắng xuân không gay gắt, cơn gió nhẹ mơn man trên tóc cảm nhận tự do là thật sau bao ngày nghẹt thở trong trại, mới đó cũng cả năm trôi qua, anh em vừa lững thững vừa nói chuyện, cặp phượng ta rực rỡ một vàng, một đỏ, bên cạnh là cây mai tứ quý thân hình cao ỏng ẹo, chỉ lác đác những hoa cánh lớn, nó cũng vừa đi qua cơn bệnh sâu rầy thân, ông Giáo nhờ người ta phun thuốc đã vài tháng, nó như thân ông và có ít hoa cũng vui trước sự hồi sinh của chính nó. Trước lan can là mấy cây cúc, hồng, vạn thọ và thược dược bông khá nhiều, như điểm tô căn nhà ngói mái đã lên rêu với dâu bể thời gian, lòng hai người vui trong mùa xuân đầu tiên được tự do trên bản quán.
                             
                            PND
                            (CÒN NỮA)
                             
                             
                            #14
                              THƠ NGÃ DU TỬ 18.07.2025 18:34:20 (permalink)
                              TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN
                               
                              Chương 11:
                              SUY NGHĨ VÀO NAM
                               
                              Mơ ước ngày về vinh quang nên phải ra đi, đó là ý thức của bất cứ người nào trong điều kiện và hoàn cảnh khó khăn và bất an.
                              Dũng đã 3 đêm trằn trọc, nếu thế này thì mãi mãi không làm được điều gì. Mình không thể làm nông được, có thể làm một nghề để sống, nhất nghệ tinh nhất thân vinh, thà như thế còn hơn. Làm nghề cần nơi nhiều người, hoặc thị xã hay thành phố. 
                              Đâu phải cứ ở quê nhà khốn khổ thiếu điều kiện sống, không phát huy chính mình là yêu quê.
                              Từ việc ra đi hay ở quê nhà, suy nghĩ ấy cứ thao thức, rồi thao thức ấy lại đánh thức ý thức. Tuy vậy nó cũng chưa vội, hỏi lại vài người có ủng hộ nó không.
                              Chiều đã xuống, sau buổi làm ruộng trở về, ra nhà thằng bạn thân, quây quần với nhau bằng con gà giò và 3 xị rượu thuốc, tứ trụ bằng hữu ngồi quây quần cũng rộn ràng ra phết.
                              Chủ nhà Viên cả chiều làm con gà với nồi cháo nghe thơm phức, nó tuyên bố khá trịnh trọng:
                              -        Các bạn của chúng ta, hôm nay Dũng hẹn với tao, gọi mấy anh em thân tín để Dũng gặp mặt và có lẽ không lâu Dũng vào Nam, chuyến đi lập nghiệp phương xa, tao và nó cũng đã nói chuyện nhiều lần, lòng nó thì chí quyết rồi, xét cho cùng thằng nầy trói gà không chặt làm sao ở nhà làm nông kiếm điểm mà sống được, cả ngày đi đập lúa Hợp tác xã có 4 điểm tương đương gần 1kg lúa. Với tao thì nó nên đi Sài Gòn. Đó là lý do để ngồi lại. Vậy thôi dô đi. 4 đứa cụng ly vào, đồng thanh hô: Chúc thành công, mong may mắn, và nốc hết nghen.
                              Thằng Tư hay triết lý nó lên tiếng:
                              -        Dũng à, mày suy nghĩ kỹ chưa? Chứ tao nghĩ mày nên thi lại, mầy học tốt mà, lúc đó căng lý lịch quá, bây giờ cũng đỡ hơn hồi mới giải phóng, thằng Văn mới vào cao đẳng, cha nó cũng cải tạo, mầy biết chứ? Nếu đậu, tao giúp mày gặp anh X lo cắt khẩu cho. Tướng mầy chỉ làm công chức nhà nước thôi, tao chân thành với mày, thế thôi.
                              Dũng ngồi suy nghĩ, mời anh em một ly, rồi nói:
                              -        Đã 4 năm rồi còn gì? Sách vở và chữ nghĩa bị gặm nhấm hết rồi còn gì mà thi thố.  Cảm ơn mầy, không làm công chức cũng sống nổi, tao nghĩ vậy, hổng có gì quan ngại.
                              Thằng Thiệt tính ít nói, cũng chen vào:
                              -        Tao thì nghĩ như thằng Dũng, chả lý không làm công chức, chết ư? Đâu thể như vậy. Cuộc đời dài, đời là cả chuyến hành trình, cứ đi mọi sự ra sao rồi hãy hay. Thôi uống rượu đi, gặp nhau thời gạo châu củi quế như thế nầy là sướng rồi, nào dô đi, uống cho đời bớt khổ. Cả bọn cùng nâng ly.
                              Ở nhà quê cũng thú vị lắm, 3 xị rượu thuốc của ông già thằng Viên để dành lúc ăn cơm uống kích thích tiêu hóa cũng đi sạch, nhưng mấy đứa còn hưng phấn lắm, Thằng Tư xung phong “Tao đi lấy tiếp về chơi cho đã bữa này” nhất là hôm nay có Dũng, coi như phụ thêm tiễn bạn lên đường, cả bọn ồn ào “Mời bạn nhổ neo lên đường”.
                              Ôi chao, nó vét sạch mấy đồng trong túi làm tiếp 2 xị nữa, thanh niên chúng tôi mới tập tành uống rượu nhưng khoái chí chẳng mấy chốc đứa nào cũng là ngà đa đã, hát hò, ngâm thơ, đọc thơ, rồi bàn thơ không khí càng vui khi tiệc sắp tàn, đứa này quan điểm này, đứa kia quan điểm nọ, nói chung quá vui. Đến khi chiếc đồng hồ treo tường Rado gõ 9 tiếng, ngoài kia trăng thượng tuần chếch về tây, có lẽ tới đây cũng được rồi. Cả bọn chia tay.
                              Dũng và Thiệt song hành cùng nhau về nhà. Trên đường, ánh trăng lờ mờ thượng tuần còn sót, đủ soi đường cho hai người bạn cộc cạch “con ngựa sắt già nua nhưng còn hăng say” trên đường về nhà.
                               
                              TRÒ CHUYỆN VỚI ÚT
                               
                              Đang ngồi trước lan can nhà đọc sách, đến hồi hấp dẫn Mã Siêu đang ví Tào Tháo, Tào chạy thục mạng, nhân vật thừa tướng ấy sao Dũng ghét đến vậy, đoạn này làm Dũng tức cười:
                              “Cắt râu, vứt áo nực cười sao/ Một trận Đồng Quan bạt vía Tào”.
                              Thấy Út trong nhà ra, Dũng bèn gọi:
                              -        Út ơi, tới anh nói cái này tí.
                              -        Dạ, nó ngoan ngoãn đến ngồi bên cạnh, có chuyện gì vậy ông anh?
                              -        Nè, anh nói với em vấn đề quan trọng.
                              -        Anh nói đi. Có lọt mắt xanh cô nào à?
                              -        Không, việc ấy anh đâu cần nói với em, lộ mục tiêu còn gì
                              -        Vậy chuyện gì? Anh
                              -        Có thể anh vào Sài Gòn, em nghĩ sao?
                              -        Anh đi là tốt hơn, nhưng vào ở đâu, làm gì? Chứ vào lông bông cũng chẳng được chi, mình nghèo chứ đâu như người ta, hơn nữa nhà chẳng có ai, mẹ thì đi chưa về, có anh là trụ cột, có anh nhà vẫn đỡ hơn.
                              -        Tất nhiên rồi, nhưng anh xấu hổ quá, thanh niên lực lưỡng chẳng làm được gì, cứ mãi cuốc đất lật cỏ ở đây làm sao phát triển được, anh không thể trở thành một nông dân được em à, hơn nữa bạn bè anh đứa nào cũng có danh phận cả.
                              -        Trước mắt là vậy, nhưng cha nói trước sau gì cũng thay đổi.
                              -        Cha nói chung thôi, chứ biết đến bao giờ.
                              -        Em nói vậy thôi chứ cái đó tùy anh, cũng như em thích tự lập mở hàng bán bánh, ban đầu cơ cực thiệt nhưng bây giờ cũng thoải mái hơn, ít nhất có tiền tiêu xài, hết mùa bánh lại bán buôn thứ khác rồi cũng sống được, dù sao cũng không phải làm nông.
                              -        Chính vậy, anh ra đi mới biết được, rủi quê nhà, may đất khách, biết đâu vậy, phải không em?
                              -        Ừ, thì anh cứ thử vận đi, anh nên nói với cha và cả chị em nữa.
                              -        Dĩ nhiên là vậy rồi, đây là việc hệ trọng chứ nào phải chuyện chơi. Thôi, anh thăm dò em có đồng ý không trước, vậy là anh có thể, hôm trước anh gặp mấy đứa bạn thân anh, tụi nó cũng ủng hộ.
                               
                              CÙNG CHỊ THANH
                               
                              Chị vui vẻ khi anh bạn dưới phố lên thăm, nhà có sẳn miếng mít mật ráo đãi bạn, anh chị trò chuyện ở nhà trên, khi tiễn anh ấy về, chị lại với Dũng:
                              -        Anh ấy trước đây quen với chị, từ ngày giải phóng hỏi thăm bạn chị mãi hôm nay mới tìm được nhà, tội nghiệp ảnh ghê, đi lạc gần xế mới ghé đến nhà mình được, ăn miếng mít chắc nhớ đời, có lẽ một là ngon, hai là đói nữa.
                              -        Ba là được gặp chị phải không? Dũng ghẹo chị, chị cười cơ hồ niềm hạnh phúc trong mắt chị như nói lên điều ấy.
                              -        Hồi ấy anh là cái đuôi sau chị, nhưng chị vô tình lại cũng không thích, hôm nay anh tìm đến tận nhà nên cảm động, nhân kỳ nghĩ hè của khóa Đại học sư phạm toán, ít hôm vào trường, năm nay là ra trường. Em thấy anh ấy sao?
                              -        Anh lịch sự, ông giáo tương lai mà. Anh thật thà, hơi nhà quê, nhưng không sao, miễn là có tình yêu. Chị à, em có vấn đề nầy cần trao đổi với chị.
                              Em nói đi:
                              -        Chị à, chắc em vào Sài Gòn chị ơi, ở ngoài nầy em không thể làm gì được, “Chả lẽ ta đâu mãi thế này” em không thể trở thành một nông dân được, chị nghĩ sao?
                              -        Chị chưa nghĩ gì cả, trước mắt mẹ còn trong trại, chị, em và Út xoay xở để sống và đi thăm mẹ, mỗi tháng một lần và cả cha cũng phải lo, nhà mình bây giờ đâu phải như trước, có em phụ, sau mẹ về hãy tính cũng được.
                              Trầm ngâm, nhìn xa xăm trên nền trời xanh biếc, mây tan biến vạn phù vân như mỗi cuộc sống biến hóa, Dũng nói:
                              -        Em trước mắt làm vớ vẫn gì đó, nhưng không thể làm có tiền bạc giúp gì cho cha và mẹ, ngược lại còn báo nữa, nếu vào trong ấy may ra làm được tiền cần kiệm gửi về còn hơn. Không có tiền chẳng giúp gì được, vô tích sự quá chị à. Chính những bức bối này em mới nghĩ đến đi xa làm việc, có thể lập nghiệp trong đó.
                              -        Em ráng đi, đợi mẹ về hãy hay, nhà có em là sức mạnh, người ta ăn hiếp cũng không dám, chắc mẹ cũng về chứ phụ nữ mà, cả đời là nhà giáo cả xã, cả huyện nầy ai không biết bà Giáo Vân, chắc mấy ông nhà nước nầy bắt lầm hơn bỏ sót.
                              -        Em chỉ nói với chị chứ đi cũng phải có đủ điều kiện tối thiểu. Phải đắn đo, nào phải giải trí.
                              -        Chị cũng thấy ngột ngạt, nhưng chị là phận đàn bà con gái khi nào đối đế không chịu nổi, dẫu sao cũng cơm củ qua ngày, chưa có ý gì. Tuy nhiên nơi nào thong thả bình yên ấy cũng là nơi cần trú ngụ. Đời sống con người xét cho cùng là an, làm việc đủ tiền bạc để sống, không nhất thiết phải giàu có.
                              -        Nghèo thường đi đôi với hèn, cũng may nhà mình cũng thừa hưởng được ơn phước tiên tổ nên ai cũng coi trọng danh dự, tư cách trước cuộc sống.
                              -        Chính lẽ đó em mới thao thức, cố gắng tìm hướng đi hợp lý cho hoàn cảnh mình. Mọi khởi đầu đều gian nan, tuy nhiên ở quê thì quá khó, họ không cho mình bất cứ vị trí nào làm sao biết được khả năng bởi chế độ lý lịch quá khắc nghiệt. Em nghe nói Sài Gòn không như thế, cởi mở và thoải mái hơn, chính vậy nên em hy vọng vào nơi ấy có điều kiện để thi thố với người.
                              -        Chị cũng hiểu vậy. Thôi chiều quá rồi, chị còn lo nhiều việc, em suy nghĩ thận trọng rồi bàn bạc với cha, cha mình thấu đáo lẽ đời, trải nghiệm có thừa, nhưng mọi việc nên sau khi mẹ về là tốt nhất.
                              Chị đi rồi, Dũng trở lại với căn phòng nhà trên đặt mình xuống tấm phản, gác tay lên trán suy nghĩ chuyện cuộc đời, tưởng tượng viễn cảnh trong suy nghĩ non nớt của mình. Ôi chao cả trời ước mơ thực hiện của nó lung linh nhảy múa, ước mơ nào cũng đẹp tội lệ gì không ước mơ. 
                              Giá như mọi cái cứ bình thường trôi đi như những người khác ắt sẽ không có những thao thức, đàng này càng ngày càng bế tắc, sự đơn điệu đến nổi nhàm chán, không biết rồi mình sẽ đi đến đâu?
                              Chị Thanh nói cũng có lý, chậm tí cũng không sao, ở nhà còn giúp gì với gia đình, mẹ cha nuôi mình thân dài vai rộng, cho mình kiến thức, lúc này đang cần mình, tại sao lại ra đi?  Chi bằng chờ khi mẹ thật sự bình yên trở về. Chắc mẹ về sớm thôi, nào mẹ có tội tình gì mà về lâu.
                              Quyết định vậy thuận cả đôi đàng.
                               
                              VỚI CHA
                               
                              Đối với Dũng đây là sự việc hệ trọng trong đời mình, người anh tin tưởng nhất là cha.
                              Cha với đời sống đạo hạnh, gương mẫu, nhiều trải nghiệm về cuộc đời nhất là kiến thức từ sách vở, ông rất am tường về địa lý và sử ký, bởi ông là giáo viên cấp 2 văn, sử địa, khi phân tích một vấn đề khá chặt chẽ, hợp lý nên Dũng rất kính phục. Có điều ông rất từ tốn và ít nói. Trong cuộc chuyện trò ông hay lắng nghe, khi ai cần hỏi điều gì ông chân thành, hiểu đến đâu nói đến đó, không bao giờ võ đoán. Ông thường nói với Dũng “Biển học mênh mông không ai đủ kiến thức để nói hết những vấn đề, người chân thành biết đến đâu nói đến đó, nhất là không được võ đoán, sự võ đoán nào cũng dẫn đến hàm hồ”, Dũng là con trai nhưng nhìn ông như một thần tượng, điều gì không thông Dũng hỏi, ông cũng phân tích mạch lạc, sau này chỉ mong cầu một nửa như ông cũng đủ sống với đời.
                              Dũng ngần ngại, mấy ngày nay muốn trao đổi với cha nhưng chưa thuận tiện, chiều nay, “vầng trăng mở hội” cho Dũng, ông đang bắt mấy con sâu, khi đêm về một vài chú sâu từ đâu bỗng nhiên xuất hiện, ông gọi Dũng ra:
                              -        Con thấy gì trong mấy nhánh cây này không?
                              -        Cha nói giỡn với con, thì phải?
                              -        Thật chứ.
                              -        Con đâu thấy gì, ngoài mấy bông, ý ba là hoa đẹp chứ gì? Con tính hời hợt, không để ý lắm.
                              -        Đó là vấn đề, đây là bài học mà ít ai để ý, quan tâm, chỉ có người trồng hoa mới biết, mới hiểu, loài sâu ban ngày khi ánh dương lên nó trốn biệt, đợi đến đêm mới bắt đầu tung hoành, sáng ra lá đã bị ăn sạch, trời đất sinh vậy, tuy nhiên khi quan sát tường tận người ta hiểu rằng vì tự tồn nó phải hành động về đêm, bóng tối, nên người đời ví những kẻ thiếu nhân cách, ăn trong bóng đêm, bóng tối không đàng hoàng là sâu bọ. Nếu quan sát kỹ sẽ bị lộ diện, đây nè, con có thấy chú sâu đang chăm chỉ ăn, ông rọi ánh đèn pin, lập tức mọi hành động dừng lại, nó nằm yên con thấy không.
                              Quá trình trồng hoa người nông dân tìm được lý lẽ ấy, mọi sự nếu chú tâm quan sát cũng thú vị lắm.
                              Con người cũng vậy, bóng đêm sẽ đồng lõa với kẻ vô lương, kẻ vô lương ấy tưởng rằng không ai biết sự mờ ám trong bóng đêm đó, tưởng ai cũng dại dột, nhưng không, ấy chỉ là sự nông cạn của chính kẻ vô lương mà thôi. Mọi hành vi sai trái, gian dối ấy sẽ có ngày phơi bày. Không mau thì chậm tùy kế sách của người quản lý. Phải không con?
                              -        Dạ, cha hay quá, mới trồng hoa mà cũng hiểu để bắt sâu.
                              -        Người trước đã chỉ dạy hết rồi, có điều chịu học và thực nghiệm hay không mà thôi. Cha cũng chẳng tài giỏi gì, chính sự siêng năng chăm sóc cây hoa từ lúc ươm hạt cho đến khi ra hoa rực rỡ là một quá trình công phu tu dưỡng, cần mẫn của người trồng hoa, nếu con liên tưởng cũng như nuôi dạy con cái, phải biết để ý, nâng niu, chăm sóc, mạnh tay cây sẽ gãy hoặc tổn thương, khó trở lại bình thường. Con cái sau nầy sẽ là hoa thơm trái ngọt cho đời cần lắm bàn tay che chở, chăm bón và nâng niu. Cha mẹ nào ý thức được như vậy thì kết quả tốt là đương nhiên và ngược lại. 
                              Dũng thấy vui vì bài học trồng cây, bắt sâu. Anh bắt chuyện:
                              -        Cha à, nếu ta sống trong môi trường mà mọi nẻo đi chính quyền đong đưa bít lối, nhưng không dám nói rạch ròi, vẻ ra đủ thứ nào trọng dụng nhân tài, ưu tiên người hiền, cha nghĩ thế nào?
                              -        Một chính phủ tốt là phụng sự cho dân, cho nước mục đích chính quyền là làm cho nhân dân giàu có sung túc, dân giàu nước mới mạnh, không thể có chiều ngược lại, mọi lý thuyết là màu xám, cây đời mãi mãi xanh tươi đó là nguyên lý ngàn đời. Ông nào lên làm lãnh đạo cũng nói liêm chính, cần kiệm, chí công, vô tư nhưng nhìn tổ chức một sự việc, xa hơn là một nhiệm kỳ người tinh tế, dân chúng sẽ thấy ngay. Nói rất dễ, làm thật khó, không có gì qua mặt được nhân dân, nhân dân là tổng hợp trí tuệ của nhiều tầng lớp người, người dân họ không nói thôi, chính phủ giỏi luôn lắng nghe lời phải. Con đã đọc cả kim cổ chắc con cũng hiểu những triều đại lừng lẫy của nhân loại dù ở thể chế nào cũng lo cho dân, yêu thương dân. Vua quan như cha mẹ là vậy. Đó là cốt lõi của vấn đề trị nước, khuyến khích học tập, căn cốt là đạo đức, người đạo đức tiết chế được lòng tham, không tham của phi nghĩa, phi nhân.  
                              -        Thưa cha, con có suy nghĩ này, con muốn tỏ bày cùng cha, nếu có gì bổ trợ cha giúp con
                              -        Con cứ nói, cha sẽ hết lòng với tàn lực của cha
                              -        Con nghĩ bây giờ con khó tiến thân, bởi khắc nghiệt về chủ nghĩa lý lịch, con muốn vào Nam, theo con được biết người trong Nam còn phóng khoáng và rộng mở hơn, xin việc làm không đến nổi khó khăn như quê mình, cha nghĩ sao về vấn đề này. Với con không chấp nhận làm ruộng Hợp tác xã kiểu này. Không thể một mùa lúa lương chỉ 100kg lúa. Chẳng lẽ cả đời gắn bó với đường cày, lưỡi cuốc.
                              Ông thở dài, suy tư rồi tiếp:
                              -        Con định chừng nào có thể
                              -        Con nghĩ chắc mẹ cũng sớm về thôi, sau khi mẹ về thì con nhổ neo lên đường.
                              -        À được, vậy là tốt, con hãy chuẩn bị từ bây giờ, mọi sự chuẩn bị đều chu đáo hơn.
                              -        Dạ, ý cha thì sao?
                              -        Cha chưa biết tính sao, đợi mẹ con về. Đi chuyến đi này có thể như ở ngã 3 đường, con chọn hướng ấy. Hệ trọng lắm con à, bẻ lái của con thuyền có thể tốt hoăc không, chính vì vậy phải tìm hiểu, ít nhất con thấy đúng, khi thấy đúng là quyết tâm. Sự đam mê và lòng quyết tâm đã là một nửa của thành công.
                              Ánh trăng trải dài trong vườn nhà bỗng rực rỡ lạ thường. Tiếng con Vện sủa người ngoài ngõ làm tan biến sự tĩnh mịch trong không gian yên bình của hai cha con, ông giục “Thôi vào nhà nghỉ đi con, ngày mai còn những việc cho ngày mai”
                              Dũng nằm suy nghĩ lời cha dạy, bất chợt niềm vui còn đọng lại trong lòng anh: Cha thật tuyệt vời, cần mẫn và ý chỉ trong công việc của chính ông, dù ấy chỉ là thú vui.
                               
                              NGÀY GẶT
                               
                              Ông đội trưởng HTX chiều ấy xuống nhà bà Giáo, gặp Dũng báo: - Ngày mai nhà cháu 2 công gặt, tập trung sớm tại miếng ruộng rộc của ông bà Giáo Vân, mà cháu cuốc ải kỳ rồi, nhớ chưa?
                              -        Dạ nhớ rồi, 6 giờ có mặt cùng thợ gặt.
                              Tối ấy ngủ sớm, Dũng sợ đến muộn sẽ trừ điểm công.
                              Sáng, ông đội trưởng điểm danh, thợ gặt cùng ông xuống đám ruộng rộc bà giáo Vân, lúa chín nhưng nước còn rất nhiều, đến nổi thợ cắt phải đặt lúa gặt được trên chân ngựa, người ôm lúa chỉ việc tới ôm lên bờ. Dũng được phân công ôm lúa, suốt lúa trên đám ruộng cao phía trên. Ban đầu lúa gần bờ còn thong thả, hơn nửa buổi mặt trời lên cao gió thu nhè nhẹ, do bị liên tục ướt áo nên hơi lành lạnh, bắt đầu xa bờ lại bì bõm lội nước, rủ cả giò. Khi đuối sức, dù ngán thuốc lá nhưng Dũng cũng lấy bịch thuốc rê thủ sẵn mở ra vấn, còn mời mọc các anh nữa, nòi hút thuốc cũng ăn lang, có lúc 4 người ôm lúa ngồi vấn thuốc phì phèo, ông đội trưởng nhắc nhở, còn bảo Dũng, không mời thuốc nữa. Mệt và đói, nỗi cáu, Dũng cự:
                              -        Mời thuốc mà chú cũng không cho, thể hiện tình đoàn kết cùng anh em bà con thôi mà.
                              -        Làm mà hút thuốc hoài, hao công
                              -        Ôm lúa ướt lạnh nên thèm thuốc chú à.
                              -        Chú để ý cháu, mỗi lần đến bờ là mở thuốc hút, còn mời mọc nữa.
                              -        Anh em thích thì hút, cháu có ép ai đâu, chú nhiều chuyện quá.
                              Hơi bực, chú ấy đòi cho Dũng nghỉ, anh em can:
                              -        Thôi chú à, hút thuốc chút mà có ảnh hưởng gì , Dũng nó yếu, anh em đi làm đi,
                              Dũng cũng không vừa, phản kháng:
                              -        Chú cho tôi nghĩ chỉ vì ôm lúa vào bờ hút thuốc à, có ảnh hưởng gì vụ gặt? Tôi vẫn làm việc bình thường, xin lỗi chú nghe, chỉ là ông đội, chú đã như vậy, mai mốt thành ông nào nữa chắc là cháu chạy trốn thôi.  
                              Có nhiều người đồng tình với Dũng, cuối cùng ông đội cũng im, không nói nữa, ông đi tới nhóm thợ gặt của các cô. Có người yêu mến Dũng nói:
                              -        Thằng Dũng chưa quen công việc này lắm, chú phải hiểu vậy, nó vui vẻ và hoạt bát, có Dũng cả bọn tôi vui, tuy năng suất làm chưa bằng các anh nông dân khác.
                              Xả lả, ông đội rời đi nơi khác đứng quan sát, công việc vẫn tiếp diễn. Có lẽ ông tưởng oai lắm ra vẻ ta đây, nhưng thấy chẳng ai đồng tình với ông, sau đó không nói gì thêm.
                              Buổi chiều hôm ấy, thửa ruộng cũng gặt xong, ông đội tập trung thợ gặt và chấm công, người nào cũng 8, 9, 10 điểm, duy nhất chỉ có Dũng 5 điểm.
                              Tỏ vẻ bất bình, Dũng ý kiến:
                              -        Các anh chị trong buổi gặt nghĩ sao khi ông đội cho tôi 5 điểm.
                              Một đồng minh của Dũng bày tỏ:
                              -        Dũng cũng làm hết trách nhiệm của buổi gặt, thậm chí cũng xong sớm, anh cho điểm như vậy là không công bình.
                              Ông hơi mất bình tĩnh, nói:
                              -        Tôi đã quan sát thực tế buổi gặt, cho điểm như vậy là khách quan, không thiên vị, cũng không ép ai.
                              Dũng từ tốn, nói rất mạch lạc:
                              -        Thưa ông đội, chú phải biết năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nương nhau, con béo kéo con gầy, chú làm vậy là không công tâm, đành rằng tôi không bằng tất cả các anh, các chị ở đây, tôi là người chưa quen công việc, tôi đã cố gắng hết mình trong sức lực của tôi, ít nhất chú phải thấy được điều đó, chú trả thù tôi ư. Tất cả ở đây ai có ý kiến gì, tôi sẽ ghi nhận.
                              Anh Dung, người trực tính nói thẳng thắn:
                              -        Tôi đồng ý với Dũng vừa nói, phải chi gặt về muộn, sáng chú đã nói, nếu gặt sớm sẽ thưởng điểm, đàng này chú lại cho điểm Dũng như vậy, tôi thấy chú ép thằng nhỏ vừa rời ghế nhà trường, tập tành làm nông. Không nên vậy, theo tôi nó phải được 7 điểm.
                              Cả bọn hoan hô vỗ tay: Đồng ý
                              Ông đội còn ý gì nữa không, cả tập thể đang lắng nghe.
                              Ông có vẻ bất bình, nhưng tôn trọng tập thể, ông nói:
                              -        Thôi được, tôi tôn trọng tập thể, cho em 7 điểm, lần sau cố gắng lên cho bằng mọi người. Giải tán.
                               
                              Trước khi về nhà, Dũng mở bịch thuốc còn lại mời các anh hút thuốc, từ từ đã đàng nào cũng lên đường về nhà tắm rửa, hút cho đời bớt khổ, chứ bổ béo chi. Ngồi xuống quây quần nói chuyện trong tự do không ai kiểm soát. Anh Dung nói:
                              -        Không có anh nói vô em không thêm được 2 điểm đâu, ông đội mình mới được bầu làm đội trưởng, ông ấy hăng hái lắm, muốn lấy lòng bề trên, làm như vậy mất hết tình cảm láng giếng, mà toàn là bà con anh em hết, anh không muốn thế.  
                              -        Cảm ơn anh đã ủng hộ em, tuy em chưa quen với việc nhưng anh thấy đó, em rủ cả giò, lội bì bõm suốt ngày, đây là lần đầu tiên trong đời em ráng hết sức, sự nỗ lực mới đáng trân trọng, ông đội mình không thấy điều ấy, muốn ép em vì tự ái vặt.
                              Thôi Dũng ơi, ai cũng hiểu việc này, em không cần nói. Cả bà con nhóm thợ gặt từ các bà cho đến cánh đàn ông đều thấy và hiểu, ai nhỏ nhen cũng biết rồi.
                              Trên sân bóng của làng đã có tiếng lịch bịch, bất chợt Dũng nói lớn:
                              -        Ai về cứ về, ai thích bóng đá lên sân bóng thôi đã bắt đầu rồi, xong công việc có quyền giải trí, ai thích cùng tôi, aller thôi. Cả bọn đứng dậy, Dũng và vài người thanh niên di chuyển về hướng sân bóng.
                               
                              Sân banh đã thành 2 phe, có thêm vài người vào nữa chia đều hai bên, cuộc tranh tài lại tiếp tục. Sân bóng làng là thửa đất cao, người ta trồng hoa màu, xong thu hoạch nhóm thanh niên ở làng chôn khung thành 2 bên, thường mỗi chiều, xong công việc thường nhật dân trai tráng trong làng tụ hội về để chơi bóng.
                              Buổi sang bằng có nhiều anh em cùng nhau làm cho có sân bóng luyện tập, môn thể thao này thanh niên trong làng ai cũng thích, cùng nhau hùn tiền mua bóng và vòi bơm, ai thích cứ vào sân, ngoài ra trên sân của HTX nông nghiệp còn có một sân bóng chuyền nữa, cũng gần nhau.
                              Nếu bóng đá đủ số lượng trên sân, người đến sau ghé về sân bóng chuyền, nếu hôm nào đủ cả số lượng, người đến sau phải chờ đợi điền khuyết khi có người nghỉ chơi, khá lịch sự không giành giựt nhau. Đây là điểm nổi bật của thanh niên ở làng này.
                              Có khi còn mời mọc các đội bạn ở thôn cận kề so tài với nhau, bên thua chung nước mía, kể ra đó là phần thưởng cho sự ganh đua, bên thua thắng đều vui cả, nhờ vậy mà phong trào thể dục thể thao của làng cũng rôm rả lắm. Khi xã nhà có hội thi đua, làng ta cũng đạt giải hoặc quán quân hay á quân, vì vậy quỷ bảo trợ bóng đá bao giờ cũng có sẵn 100kg lúa, có việc là xuất lúa ủng hộ, thanh niên rất hài lòng về tinh thần này, nhờ vậy phong trào bóng đá nơi đây khá mạnh so với các làng khác.
                              Dũng còn nhớ trong ngày hội thao của xã, nhân mừng ngày Quốc khánh 2/9 anh cũng là một cầu thủ trong đội bóng thôn, ngày đó ban tổ chức thôn bắt buộc mỗi cầu thủ phài có quần đùi trắng, áo may-dô xanh, giày ba ta trắng, tất trắng đồng phục để thi đấu, Dũng năn nỉ cô Út mua cho, Út rất hào hứng chi tiền vì anh mình cũng có tên trong đội bóng làng, Thậm chí Út còn ra xem trận bóng đá ấy và cổ vũ nhiệt thành khi có đội nhà thi đấu, May quá, kỳ hội thao trong xã, làng ta á quân, được trao cờ kỷ niệm, được thưởng 30 kg lúa.   
                              Về thôn ăn mừng chiến thắng có cả trưởng thôn và phân hội trưởng thanh niên lên chúc mừng, oai lắm. Cờ kỷ niệm ấy còn lưu giữ trên văn phòng thôn, được treo trên tường khá trân trọng.
                               
                              Xong buổi đá bóng chiều ấy, Dũng và người chú họ kề tuổi nhau đi về chung đường tâm sự. Chú cũng thương mến Dũng, mỗi lần đi làm thủy lợi hay làm công ích chú thường cùng Dũng chung tổ, chú hay giúp Dũng gánh vác công việc nặng, có gì vui buồn cũng tâm tình, trao đổi. Từ ngày hồi hương đến giờ Dũng và chú chơi thân với nhau.
                              Nghe nói cháu định đi vào Nam hả? Chú hỏi
                              -        Cháu cũng định vậy chú à.
                              -        Mẹ cháu còn ở trại đi sao được, đến tháng ai đi thăm?
                              -        Chị Thanh có thể quán xuyến, nếu có việc, bằng không đợi mẹ cháu về.
                              -        Ở quê mình, chú thấy viễn cảnh chẳng sáng sủa gì, làm ruộng thì không thể nổi rồi, tạm thời thôi, đi là thượng sách.
                              -        Cháu cũng nghĩ vậy
                              -        Nhà chú chỉ có ông đi học tập cải tạo mà còn vậy, nhọc nhằn quá nhiều lúc điên đầu huống chi nhà cháu. Có thể chú sẽ đi bộ đội, sau nầy may ra còn có cơ hội. Chứ dỡ dỡ ương ương kiểu này cũng ngán ngẫm, không biết ngày mai sẽ ra sao.
                              Một xanh cỏ hai đỏ ngực, đời lính sa trường chỉ vậy thôi.
                              -        Cháu cứ nghĩ chẳng lẽ mình cả đời trở thành nông dân, thanh niên thế này mà mọi con đường đi tới hình như bế tắc, khai thông chưa được. 3 năm quân sự ở chiến trường nếu bình an cũng qua vèo, sau đó trở về còn cơ hội, phải không?
                              -        Ok chú, sống chết mỗi con người có một hạn kỳ, nghe nói mặt trận Tây Nam cũng dữ dội lắm, đâu thua gì mặt trận phía Bắc với Trung Quốc.
                              -        Nghe đài, đọc báo thì lờ mờ vậy, chỗ nào cũng chiến trường, cũng súng nổ. Xông ra mới hiểu được, nghe ngóng chẳng thể nào định hình được. Với chú không ngại.
                              -        Vậy là chú ngon lành, bản lĩnh chú có dư, mấy bạn họp thanh niên niên tuần rồi nghe phong phanh chuẩn bị đầu quân vào lính ra chiến trường là ngán ngẫm.
                              -        Có lẽ chúng ta chứng kiến chiến tranh từ nhỏ đến lớn, mới ngưng tiếng súng, yên ả chưa bao lâu lại tòng chinh, nên sợ. Chú chả sợ gì, bất quá làm liệt sĩ, thậm chí chiến sĩ vô danh ai cũng một lần chết, ít ra cũng vinh quang là con dân Việt bảo vệ tổ quốc. Thời Việt Nam Cộng Hòa cũng vậy, nếu thi rớt tú tài chú đi ngay không ngại ngần, dứt khoác không trốn tránh trách nhiệm với tổ quốc. Nhưng may, thời trước chưa mặc áo lính.
                              -        Chiến tranh kinh khủng quá chú hả, đang vui vầy bàn bạc, một trái pháo, tất cả đều im bặt, xác người ngỗn ngang, rờn rợn cho người sống sót, có đôi lúc cháu nghĩ, tại sao người ta gây ra chiến tranh, phải chăng vì lòng tham lam chiếm hữu? và như thế những cổ máy sản sản xuất vũ khí giết người kinh hoàng, người ta tự hào với văn minh cơ khí, sự văn minh nào cũng dẫn đến sự phục vụ nhân loại, đàng này hủy diệt sao gọi là văn minh? Ai là người trả lời câu hỏi đúng cho nhân loại khi các cổ máy giết người nhân loại mãi phát triển không ngừng, nào vũ khí hạch tâm, nào vũ khí hóa học. Một Hiroshima, Nagasaki nước Nhật của thế chiến II đã tan hoang, mấy mươi năm sau chưa kịp hồi sinh, những di chứng hãy còn đó, các nhà khoa học cũng thấy được cơ mà? Có lẽ nào trò chơi này không ngưng nghỉ.
                              -        Đó là những toan tính của các ông lớn, không hàng hóa nào lãi nhuận cao bằng vũ khí chiến tranh. Thời nào trong nước buôn vua cũng lãi cao chất ngất, Lã bát Vi đã hiểu điều ấy tự nghìn xưa. Chiến tranh càng nhiều vũ khí sát thương mạnh càng đắc giá, có lãi nhuận nào cao bằng.
                              Hôm nào cháu qua nhà chơi, từ ngày cha chú học tập về ông ấy cũng thích trò chuyện, nhưng bây giờ chẳng có ai, đôi lúc ổng buồn quá, ngồi ngó ra, vốn thể chất không khỏe lại mới về từ chốn rừng thiêng nước độc nên có vẻ mệt mỏi u hoài. Sắp đến nhà rồi, chú cháu chia tay, chú đi tắt ngõ này cho gần, còn ngủ nghỉ, mai có công việc, dù gì chúng ta cũng phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình, đó là cứu cánh duy nhất bây giờ.
                              -        Vậy chú nghe, thú vị quá, hôm nay chú cháu mình sau một ngày làm, cháu lội ruộng ôm lúa, còn chạy mấy mươi phút trên sân bóng lẽ ra mỏi mệt lắm nhưng ngược lại, tinh thần hưng chấn nghe khỏe hẳn ra. Tạm biệt chú
                              Đàn trâu bò của các gia đình có lẽ cuối cùng trong ngày cũng đã từng đàn lũ lượt về, để lại đám bụi mờ đang đưa chiều vào tối, cảnh quê yên ắng, vài nóc nhà tranh chòng chành những ụm khói như luyến tiếc một ngày đã qua, cố gắng vấn vương ôm ấp nóc nhà tranh, sao thơ mộng quá. Đàn chim trên trời cao có lẽ bay về tổ vẽ nên bức tranh chấm phá của tầng cao mây trắng yên bình đến lạ thường.
                              Dũng lững thững về nhà.  
                               *     *
                               
                              Chị Thanh đi thăm bà Giá Vân vừa về đến đầu ngõ, con Vện chạy u ra mừng đuôi chạy theo xe, có lẽ nó cũng hiểu được hành vi của của chị Thanh, thong thả vào nhà chị không quên vuốt đầu nó như cảm ơn, nó ngoan ngoãn nằm xuống nghe ngóng sự trao đổi của chị với ông Giáo.
                              -        Sao con, mẹ có khỏe không? Sắc diện con thấy thế nào?
                              -        Dạ, mẹ khỏe, sắc thái cũng như lần trước, mẹ có vẻ ốm hơn, da sạm nắng. Có tin mừng là mẹ nói, “hình như sắp được về”
                              -        Cũng đã gần vài năm rồi còn gì!
                              Ông dùng tay bấm đốt, thì ra ông tính từng ngày khi bà Giáo rời nhà, từ khi bà Giáo Vân rời nhà, ông ít nói, trầm mặc hơn, u hoài hơn. Gần 40 năm ông cùng bà giáo chung sống với nhau, biết bao nhiêu kỷ niệm trong đời với bà giáo.
                              Thời Việt Minh, ông bà nội đem trầu cau và sính lễ cưới bà giáo về, từ đó bà làm dâu trưởng trong nhà, quán xuyến mọi việc trong gia đình nhà chồng, lúc ấy ông giáo vẫn còn tiếp tục đi học, ngày ông ra Huế đi thi trung học, bà tiễn chân ông đi những 3 cây số, đến chợ huyện mới quay về, lúc ấy ông bà đã có vài người con. Bà luôn khuyến khích ông học tập, thành quả ông có được, công của bà giáo không nhỏ, ngày ông đậu trung học, cả nhà làm heo cúng mừng, ông nội hãnh diện với bè bạn ông lắm, và vui nhất là bà Giáo bởi trong cái huyện này có vài người đỗ đạt, bà tự hào cũng phải thôi, ngày ấy “mỗi con chữ là một đồng vàng” đâu phải ai cũng có điều kiện học tập như bây giờ. Gia đình nào khá giả, giàu có mới cho con đi học, nếu muốn học nữa sẽ phải ra tận Huế hoặc vào Sài Gòn. Như ông giáo đã có gia đình nên không thể đi, ông chỉ có thể chọn một, sau đó ở lại.
                              Và ông nói tiếp:
                              -        Phụ nữ đi cải tạo học tập rất khó khăn, cho đến bây giờ cha cố tình suy nghĩ tại sao, lý do gì mẹ con đi, nhưng tuyệt nhiên cha không biết vì sao?
                              -        Thôi cha, suy nghĩ chi, đàng nào mẹ cũng đi rồi, chờ ngày mẹ về sẽ rõ thôi, chắc cũng có lý do, có lẽ mẹ cũng sắp về.
                              -        Cha chỉ mong như thế, thời gian cứ mài miệt đi qua, không chờ đợi ai, có thể nào cứ mãi vậy, mỗi thời đi qua là một đổi thay. Con vào nghỉ đi, cả ngày từ 4 giờ sáng đến giờ chắc mệt rồi, tất cả chúng ta đều ráng thêm một chút. Sự khuỳnh trương của thể chất cũng như trí tuệ kỳ diệu lắm. Cha tin mọi sự cũng qua đi, bão tố rồi cũng bình lặng, gió nổi cũng qua nhanh, cơn mưa nào rồi cũng tạnh nhường chỗ cho mặt trời quang đãng, có đi qua ngày gió mưa thời cuộc mới quý và trân trọng phút bình yên đời mình con à.
                              -        Dạ, con nghỉ tí và tắm rửa. Trên đường về mắc mưa, cha à.
                              Trời vẫn còn u ám, cơn mưa ngày đã tạnh, phía đông lộ đường chân trời trong sáng báo trước ngày tới sẽ nắng ấm áp, rồi mai tất mầm mới lên xanh, đời lại trở về với sự bình yên cùng trời đất trời bao dung trước cuộc đời còn lam lũ, khó khăn.
                               
                              PND
                              (CÒN NỮA)
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 21 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9