Truyện ngắn: VINH DANH MẸ
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN CHƯƠNG 12: BÀ GIÁO VỀ Cầm tờ giấy ra trại, bà mừng quýnh. Chào và cảm ơn người cán bộ đưa giấy phóng thích. Về đến tổ tăng gia bà kịp chào hỏi những người thân và thu xếp và gửi đồ đạt cần thiết cho vài người đã từng giúp bà trong thời gian học tập cải tạo, họ cảm ơn và chúc mừng cũng như tạm biệt bà, được về vui vầy với gia đình. Bà lật đật ra về. Bà ra khỏi trại không quên nói lời tạm biệt với những người quen gặp gỡ. Chúc tiến bộ mau về sum họp với gia đình. Vào mùa mưa đường sá lầy lội, trơn trợt do phù sa, bà đi bộ một quãng khá xa trại, thỉnh thoảng ngoái nhìn lại định có ai cùng đường xin quá giang. Một chiếc Honda Dame phía sau giảm tốc độ, dừng ngay trước mặt bà. - Hôm nay cô được về đoàn tụ cùng gia đình, vui quá hả cô. Cô ngồi lên em chở cô về. - May quá, cảm ơn em. Nếu không phải ra tuốt ngoài đường lộ mới có xe thồ. - Sáng nay, trong danh sách những người về đoàn tụ với gia đình có tên cô, nên em tranh thủ ăn trưa sớm để đón cô, em không được phép đón cô trong đó sợ lãnh đạo biết, kiểm điểm. - Em tốt quá, ơn này cô sẽ nhớ. - Ơn nghĩa gì cô, em được thế này cũng bắt đầu từ các thầy cô, chở cô về khúc đường có nghĩa gì, ngày em đi học cô rèn luyện em cùng các bạn buổi đầu đời, công sức ấy mới to tác. Xe chạy chậm vì đường trơn, thỉnh thoảng băng qua vài đoạn đường bùn, vài vũng nước đọng, nước tung tóe anh cố gắng giữ tay lái cẩn thận, sợ rủi té, không hay. Bà Giáo ngồi sau, tay ghì chặt baga. Qua vũng nước lớn, anh bảo: - Cô ôm chặt bụng em đỡ nguy hiểm hơn, đường trơn trợt lắm cô à. Mùa nầy đi lại khó khăn hơn mùa nắng, cẩn thận cô nhé. Sau khi ôm chặt anh, có vẻ chắc chắn, an toàn hơn anh bắt đầu tăng tốc. Bà Giáo tiếp tục cuộc chuyện trò, bà hỏi: - Em quê ở đâu, có học cô à. - Ngày cô mới vào trại, gặp em đã nói với cô rồi, chắc cô quên. Em luôn chú ý đến cô để bảo vệ thầm lặng - Xin lỗi em, ngày mới lên cô sợ quá, cô không nhớ nổi nữa, thỉnh thoảng chỉ gục đầu chào. - Em là Lộc, ở Nghĩa Lộc, khi em học lớp 3 cô dạy em. - Vậy à, hồi ấy lâu quá rồi, làm sao cô nhớ. - Cô không nhớ cũng đúng thôi, ngày tuổi còn thơ chúng em bé tí dưới mắt cô, bây giờ bọn các em đứa nào cũng sức dài vai rộng. Thời gian thoắt qua vèo, bây giờ là cán bộ đàng hoàng. - Cô biết không, trí nhớ của em cũng được cô à. Các thầy cô trường tiểu học em vẫn nhớ. Lộc đọc phanh phách tên các thầy cô dạy từ lớp một đến lớp năm những giáo viên trường bà Giáo dạy, thậm chí có thầy bà quên, nhờ Lộc mà bà gợi nhớ các đồng nghiệp cũ của nhà trường. - Không biết quý thầy ở trường tiểu học Nghĩa Lộc giờ có còn ai ở đó không em? - Dạ, không thấy ai cô à, - Cô dạy 3 năm ở Nghĩa Lộc, rồi thuyên chuyển về quê, nên ít gặp các thầy cô ở đó. Thời trước thỉnh thoảng họp giáo viên toàn quận thì có, sau nầy cô cũng ít họp trên ấy nên cũng không biết, nhất là sau 75 không còn gặp thầy cô nào nữa. - Có lẽ các thầy cô đi làm ăn xa. - Còn em, sau tiểu học, em học ở đâu? - Sau em thi Trung học không đậu em học tư thục, hồi đó đậu được trung học công lập khó quá cô à. Cũng may, mẹ em tần tảo chỉ mong em có chữ nghĩa sau nầy biết sống với đời, vì vậy em cũng cố gắng học tập, đến lớp 10 em hoạt động cách mạng, khi thống nhất, em chuyển qua làm trong đó mãi đến giờ. Em đậu tú tài bổ túc xong, mấy năm sau theo học khóa sĩ quan về công tác tại đây. - Vậy hả, mừng cho em, tuổi trẻ chỉ có học tập mới tiến thân em à. - Dạ Chiếc xe bây giờ bon bon trên đường. Hai cô trò vừa đi vừa nói chuyện, đoạn đường đến nhà dần thu hẹp, đã qua đèo Eo Gió chuẩn bị tới Nghĩa Hành, cảnh vật thay đổi nhiều, mới vài năm mà nhà cửa hai bên đường có vẻ đông đúc hơn, và lòng bà cũng bắt đầu cuộc đổi thay sau những ngày kiềm tỏa trong trại, bà càng hớn hở khi sắp được đặt chân vào ngôi nhà cả đời bà gắn bó, mong mỏi ấy sắp hiển hiện. Sự đổi thay hai bên con đường lùi lại theo chiếc xe lao về phía trước, để lại vệt bụi mù của con đường đất bà đã từng đi lại nhiều lần. Quá trưa, bà Giáo trở về ngôi nhà thân yêu, niềm vui ấy rộn ràng chợt nước mắt sướng vui bỗng lưng tròng khi quay về chốn cũ. - Em đã đến nhà cô, vào nhà uống nước, nhờ thế này em mới biết nhà cô. Nghe tiếng bà, ông Giáo vội vả bước ra. Lộc cúi đầu : - Chào thầy Ông gật đầu, rồi vội vả: - Mời em vào nhà, quý hóa quá, em đã đến nhà vào uống nước. - Dạ, Hình như là thầy giáo cũ, thời trung học thì phải, hay là người giống người? Lộc thoáng suy nghĩ, gạt chân chống dựng xe bước vào nhà. Cửa nhà trên mở toang, ông giáo đã mặc bộ Pyjama, đem theo bình thủy nước lên và mở tủ thờ lấy bình và mấy tách trà, pha trà rót 3 tách nước khói nghi ngút tỏa, ông trân mời ân nhân đã chở bà về : - Em uống nước đi, tôi vừa pha, trời se lạnh, uống cho ấm bụng - Dạ, mời thầy, mời cô. Hai người cùng uống, thường nhật ông chỉ uống trà buổi sáng, hôm nay có khách ông uống thêm buổi trưa, may là ông chợp mắt trước khi bà nhà về, uống nghe ngon. Bà Giáo cũng đã đem nải chuối chát, ngày hôm qua ông đã đốn đem vào nhà. Nải chín lớn nhất được cắt ra, mang lên, bà mời: - Em ăn chuối đi, cũng quá trưa rồi, em ăn trưa sớm, chắc đói bụng rồi, của ít lòng nhiều em à. - Bà đưa Lộc, cùng ông nhà, bà cũng một trái, có lẽ đã đói, từ sáng giờ bà không bỏ bụng thứ gì, khi người ta mừng vui thường ít thấy đói. Cả 3 cùng ăn. Bà giới thiệu với ông : - Mình à, đây là Lộc, học trò cũ tôi thời tôi dạy ở Nghĩa Lộc, bây giờ em là cán bộ trại giam. Em biết tôi hôm nay về nên ra tận đầu đường đón tôi, một nghĩa cử rất đáng trân trọng của học trò cũ. - Cô trò gặp nhau trong hoàn cảnh éo le, may là em biết đạo lý, nên em giữ được chữ nghĩa, chữ tình, quý thay. - Thầy à, với em, việc chính quyền là của chính quyền, cô có vấn đề chính quyền cho học tập, cô học tập tốt được giám định cho về, với em cô là cô giáo cũ - Người bắt bậc thang học tập cho em thuở đầu đời ai cũng từng được đi qua, em quý trọng thầy cô. - Thời nào cũng vậy, đạo nghĩa thầy trò vốn quý cha mẹ cho hình hài, thầy cô bồi đắp kiến thức, ca dao Việt có nhắc nhở học trò ‘trọng thầy mới được làm thầy’ em à. - Hình như thầy cũng dạy học? - Tôi là công chức chánh ngạch, dạy thêm tư thục thôi. - Thầy dạy sử địa phải không? - Đúng rồi. Sao em biết - Em đoán thôi - Hồi em học Quảng ngãi Nghĩa Thục, cũng may thời đó có trường không học phí, nhà nghèo nên khó lắm thầy à, mẹ em cố gắng tảo tần cũng đủ tiền trọ và tiền ăn. Thầy dạy môn sử địa, giáo sư dạy em giống thầy lắm - Tôi có dạy Quảng Ngãi Nghĩa Thục mấy niên khóa, môn sử địa. - Xin lỗi thầy, Có phải thầy C… ? - Phải, em có học tôi à - Hồi ấy, em học Thu Xà, sau ra Nghĩa Thục thầy có dạy, em học được 2 năm lớp 8 và 9, sau chuyển trường vì sợ lộ bí mật - Thì ra vậy, - Thầy chỉ dạy em có một năm, em ngờ ngợ từ khi vào nhà đến giờ. Hồi ấy thầy vẽ bản đồ và chữ viết rất đẹp. Em thích nhất là vẽ đến đâu thầy giảng đến đó. Bây giờ thầy ốm và già đi nhiều, nên em không nhận ra liền, khi em nói chuyện mới thấy giống. Ồ, tình cờ em lại được gặp thầy cũ, biết được thầy cô, quý quá, thầy bây giờ không dạy nữa sao? - Nghỉ rồi em à. Định nói gì thêm, nhưng rồi ông bỏ lững… - Thầy à, cô đã đầy đủ mọi tư cách công dân, có điều còn quản chế, thời gian tới mong cô chấp hành tốt chính sách địa phương, thầy động viên cô, thầy nhé - Vâng, cảm ơn em. Bà Giáo cũng thấy vui vì Lộc cũng là học trò cũ của ông. Thầy cô, thời chiến tranh ở phố, hòa bình mới hồi hương về quê. - Em ăn chuối đi, Chuối chín cây ngon, bà Giáo đưa thêm, nhưng Lộc từ chối. - Dạ, vừa rồi cô, em vừa ăn trưa trước khi ra đi, hơn nữa em còn về quê thăm mẹ, gần cả tháng em chưa về, nơi làm việc không xa nhưng trở ngại đường sá, nên em cũng ít được về thăm mẹ. Khi nào có dịp em ghé thăm thầy cô, thỉnh thoảng em vẫn công tác xuống địa bàn các xã, thuận tiện em ghé thăm. Bây giờ em xin phép về nhà. Bà Giáo nói : - Cô cảm ơn em rất nhiều, đã giúp cô đến tận nhà, chỉ có học trò cũ có tình nghĩa mới như vậy thôi, chúc em làm việc tốt, xứng đáng một cán bộ mẫu mực với cuộc đời này, em nhé. Lộc kính cẩn bắt tay ông giáo và cúi chào bà giáo ra về. Hai ông bà tiễn Lộc tận xe, khi xe khỏi ngõ ông bà mới quay vào. Mình chưa ăn trưa phải không? Cơm còn ít, ghế củ lang, mấy con ở nhà rất tiết kiệm, xuống ăn đỡ, chiều mấy nhỏ về mua thêm thức ăn. Khi mình đi rồi, cũng được là con Thanh tháo vác từ việc Hợp tác xã, công ích, thủy lợi và cả đoàn thanh niên của tụi nó cũng hoàn thành. Bà Giáo mang cơm lên nhà ngang trên chiếc bàn nước cùng chén mắm cái, con mắm còn đỏ hỏn, bà ăn ngon lành, ông có cảm giác như mình ngày trở về khi ra trại được ăn cơm như bà bây giờ. Bà Giáo nói : - Ăn chén cơm với mắm cái ở nhà ngon đáo để, ngon hơn cả những bữa tiệc thịnh soạn khi hội họp tổ chức, tuy trên đó tôi không đói cơm, sát cái bếp ăn, nhưng về nhà không khí hoàn toàn thoải mái, không như trên trại. Khi tôi ở đó tôi thường tưởng tượng về mình, và hiểu thêm chế độ học tập cải tạo mặc dù đây mới chỉ là trại của những người cấp bậc thấp. - Ở đời khi thực nghiệm rồi, có thể không nói cũng hiểu, huống chi tôi đã kể cho mình. Sự cảm nhận có khi còn thú vị hơn lời kể. Nè, mà mình à, mình bị tội gì vậy, họ có cho mình biết không ? - Có chứ ông, ban đầu khi mới lên ngày nào họ cũng bắt tôi cũng khai tường trình về dạy học, có gì khai nấy. Cán bộ quản giáo nói tôi khai không đúng sự thật, họ đã biết hết. - Chiêu thức ấy, hình như có lớp lang cả rồi. - Hôm sau bắt tôi khai lại, đến lần thứ mấy tôi cũng chẳng nhớ - Cuối cùng thì sao ? - Trời ơi, ông nghĩ xem, họ đưa một tờ danh sách cán bộ, viên chức ngành giáo dục cũ các trường trong huyện, trong đó có tên tôi là bí thư đảng Dân Chủ. Tôi giải thích với họ rất nhiều lần, đối với thời Quốc gia, đảng Dân chủ là hợp thức hóa công chức thôi, nghĩa là ai là công chức ăn lương chính phủ thì mặc nhiên là thành viên đảng Dân Chủ. Họ không tin. Nhiều lần như vậy, tạm thời họ để đó sưu tra lại. - Sao hồi đó mình nhận, các thầy Hiệu Trưởng, phó lẽ ra để mấy thầy đảm nhiệm chứ! - Năm 1972, sau vụ mùa hè đỏ lửa, chiến sự bắt đầu ác liệt có mấy thầy lại bị động viên vào lính, ông Hiệu Trưởng nhà dưới phố, nói : ‘Cô Vân làm bí thư nghe, tôi ghi vào danh sách nộp lên’. Tôi chỉ ừ, cứ nghĩ các thầy nhà dưới phố lại đàn ông, khi có việc đến chiều mất an ninh lo về sớm vẫn hơn. Đâu biết bây giờ mấy ổng truy ra. - Đảng Dân Chủ của ông Thiệu ghi tên cho có lệ, chứ chẳng hoạt động gì có lẽ mấy ông bây giờ suy diễn như đảng Cộng Sản tưởng chặt chẽ dữ dội, mật thiết lắm, khi tìm hiểu được sự thật họ cho về. - Tôi nghĩ vậy. Mình biết không, ban đầu họ tưởng tôi cũng như mấy ông huyện ủy thời nay nên hành xác không chịu nổi. Cả đời mình chỉ biết tới bọn trẻ con chăm nom, uốn nắn cho các em mai sau thành người hữu dụng cho xã hội, nghề giáo, nhất là giáo dục tiểu học. Coi như một tai nạn. - May thay, mình cũng được về sớm, nếu không dây dưa cũng mệt, mình cũng chẳng biết đâu mà lần, mình chỉ là nạn nhân thôi. Cảm ơn trời đất, dù gì mình cũng còn diễm phúc. Thôi mình đi nghỉ tí đi, chiều bọn nhỏ về, mừng lắm, trông mẹ về từng ngày. Tiếng í ới của bọn nhỏ trong nhà sau buổi hoàn công trồng lang HTX cho một gia đình trong đội đã hoàn thành, bọn nhỏ còn trò chuyện ngoài ngõ, bà Vân nghe xôn xao tiếng người nói cười ra đứng trước cửa. Thấy bà, tụi nhỏ như ong vỡ tổ: Mẹ đã về, lập tức chạy vù vào quên cả bạn còn ngoài cổng ngõ. Chiều xô dần vào tối, mùa đông ngày ngắn, mặt trời chưa sập sau núi đã nhá nhem tối, lời nỉ non của loài dế bắt bầu khúc giao hưởng tự tình, khúc nhạc muôn thuở của nông thôn nghe có gì da diết nhưng cũng thê thiết lắm. Buổi tối, cơm nước cùng chồng con nhìn đôi mắt đứa nào cũng hân hoan, vui vẻ, không khí nhộn nhịp ngày đoàn viên, bà vui khôn xiết sau gần hai năm học tập cải tạo. Hai năm trong ấy sao dài quá, nhớ gia đình kinh khủng, bà chưa bao giờ xa nó dù thời vàng son nhất trong những ngày dạy học, thậm chí đồng nghiệp bà cứ khuyên bà nên đi chơi xa đâu đó một chuyến như Nha trang, Sài Gòn, Vũng Tàu… cho rộng tầm mắt, chỉ vì yêu gia đình bà lần lửa mãi chẳng đi đâu. Cả đời dạy học, kỳ nghỉ phép nào bà cũng chỉ tranh thủ về Đà Nẵng thăm cha mẹ già, có thể dẫn thêm đứa nhỏ nào về thăm vài ba ngày, rồi lật đật quay về mái ấm gia đình. Phụ nữ thời ấy mãi hoài chăm nom gốc rể cho gia đình. Có lần ông Giáo đi công tác Sài Gòn nhân bà được nghỉ phép năm đó, song vì yêu con, bà cự tuyệt lời đề nghị của ông ‘nên đi một chuyến Sài Gòn để biết thủ đô hoa lệ’, bà dứt khoác không đi. Chị Thanh, sau khi nghe mẹ kể sự gian khổ trong những ngày ấy, chợt chị hỏi: - Mẹ à, họ bắt mẹ học tập vì lý do gì vậy? Bà chỉ trả lời ngắn gọn: - Ừ thì đi dạy cho chế độ cũ cũng đã có tội với chính quyền mới. Không ít thì nhiều. Dũng lại tỏ ra bất bình, chen vào: - Đi dạy cũng có tội à? Mấy ông này kỳ cục hết sức. Đi lính, chỉ huy hay lính trực tiếp chiến đấu thì thôi được đi, đàng nào cũng gián tiếp hoặc trực tiếp bắn giết với nhau, đàng này đào tạo cho con người mai sau thành người cho xã hội cũng có tội, không thể nào chấp nhận, thật là vô lý. - Nghĩa là lúc mẹ là giáo viên có tham gia đảng phái cùa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. - Hồi đó ai công chức cũng vậy mà, sao những người khác lại không ? - Vì mẹ có chức sắc hơn. Nhưng thôi, mai mốt con sẽ hiểu, nổi oan này không phải riêng cha mẹ, mà cả miền Nam con à. Lịch sử vẫn còn đó. Chị Thanh nói vào : Mẹ cũng học tập cải tạo nhưng về thấy đỡ hơn cha nhiều, không bịnh hoạn, sức khỏe cũng ổn, vậy là mừng rồi em à, làm sao mình hiểu được. Có mẹ về mẹ tính chuyện, con cũng đã cố gắng quán xuyến trong thời gian mẹ đi, ít ra con cũng đã hoàn thành sứ mạng. Út giỏi lắm mẹ à, có miếng canh, miếng cá cho cả nhà cũng nhờ Út cả, nếu không có Út chắc cuộc sống tồi tệ hơn. Bà Giáo Vân quay sang nói với Út : - Bây giờ, mẹ về mới thấy hết sự trưởng thành của Út, cha nói đúng. Thời không cho Út may mắn thì đời cho vậy, mẹ cảm ơn con đã phụ giúp gia đình và cả mẹ nữa, những lần chị Thanh thăm mẹ đều nhờ vả tiền con làm ra tuy không nhiều những cũng đủ trang trãi trong những tháng ngày nhà mình lao đao. Nếu không có gánh hàng xén của con có lẽ không được thế này. - Mẹ à, buổi sáng con mua bán ở Hơp tác xã mậu dịch, chiều con về xuống chợ bán, quần áo cả nhà lúc tết toàn là hàng HTX, vì vậy bán buôn cũng tạm được, con làm vài năm, nếu có chút tiền bạc con vào Sài Gòn, nghe các anh chị về nói mà ham. Người ta không câu nệ lý lịch như ngoài mình, ai giỏi kiểm tra sát hạch được là vào làm, có năng lực là tiến thân được. Tất nhiên là con cán bộ còn ưu tiên cất nhắc. Con có thể học lại và thi để cho chính quyền biết, con vẫn đọc sách và xem bài thường xuyên mẹ à. Anh Dũng cũng đã nói là ảnh sẽ vào Nam, ngoài nầy với lý lịch thế nầy thì cả đời ăn tro mò trấu. Con ủng hộ ảnh. - Bây giờ, nhà mình thất thời, thất thế cha mẹ chẳng làm được gì, không thể nhờ vả được ai, ngày trước mẹ cha giúp đỡ biết bao người ở cái xã nầy ra phố học tập, ở trọ phố học tập, nhưng họ chớ hề biết ơn nghĩa, họ dững dưng. Thế đời nó vậy. cha mẹ chẳng biết thế nào chỉ cậy ở các con. Mẹ vẫn tin Hoàng thiên hữu nhãn. Hai mẹ con nhỏ to tâm sự đến khuya mới nghỉ ngủ, ngày mai con còn làm việc và mẹ cũng cả ngày đường chưa thẳng lưng. Ngoài trời gió mạnh thêm, chuyển mưa. Có thể trời mưa lớn, mưa cho trôi tất những muộn phiền về với biển để hóa thân trở thành những thắm tươi cho cuộc đời, mở ra một chương mới cho đất nước đẹp đẽ hơn, có lẽ trong thâm tâm mọi người ai cũng mơ như thế, nhất là bà Giáo Vân. Mọi ngôn ngữ bất lực trong thời đại này, chỉ có bao tử là dữ dội, tất cả tranh đấu cho từng miếng ăn để tự tồn, một khi bao tử lép kẹp, con người chỉ duy nhất nghĩ đến miếng ăn. Bản năng lặng lẽ quay về trên mỗi thể thân. Tất cả ai đã đi qua đoạn đường này mới thấu thị. Phương thức giải quyết thế nào mỗi người tự tìm thấy trong chính mình, bà giáo Vân mãi hoài suy nghĩ, tìm cho mình sự phù hợp nhất chỉ mong sao giải quyết được vấn đề cơm áo, chẳng đơn giản chút nào trong những ngày sắp tới. PND (CÒN NỮA)
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN CHƯƠNG 13 HÀNH TRÌNH Nỗi suy tư dài của Dũng đã tỏ bày cùng gia đình, từng lời khuyên sự dặn dò, bây giờ Dũng không bận rộn lắm với gia đình, gánh hàng xén cả sự buôn bán của Út cũng dần đi vào nhịp nhàng, nếu đầy đủ phương tiện là lên đường. Dù sao Dũng cũng vài lần thăm dò Sài Gòn, nhớ lần thứ nhất ngày vào nhà chú đi mua gạo của thành phố này. Hôm ấy, 4 giờ sáng, gia đình chú đã gọi Dũng và chú em chút xíu đang học lớp năm, tội lắm nó bé tí cùng đi với anh Dũng, nhà đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục nào hộ khẩu, sổ mua gạo... Thằng nhỏ mắt nhắm mắt mở nhưng cũng hiểu phải có gạo mới mong thoát khỏi cảnh ăn mì và bo bo, nó ngán tới đầu, nó nói mà Dũng thương quá chừng. Đã 4 ngày liên tiếp nhà cứ luộc mì, chiên mì hoặc cháo bo bo. Nhà không ai rảnh cả nên Dũng xung phong coi như đi thực địa tìm hiểu và trải nghiệm. Đến cửa hàng lương thực Phụ Nữ, trời còn tối, nhờ ánh điện của các trụ đèn gần đó nên cũng thấy quang cảnh mua lương thực HTX, Dũng và em đến chừng 4 giờ 30, sớm như vậy cũng đã có vài mươi người sớm hơn. Mỗi người tùy theo cách thích của mình mà xí chỗ, người đặt cái ghế xếp, người đặt cục gạch, hòn đá… tựu trung là làm dấu đánh số thứ tự. Xong đến quán cafe cốc gần đó ngồi nhâm nhi cafe đợi sáng chờ… mua gạo. Chỉ vậy thôi, nhưng khi đúng 7 giờ 00, Ba cô mậu dịch viên cùng một chú áo xanh mở cửa hàng, các bạn tưởng tượng những cục gạch, ghế xếp dài ngoằn như con trăn khổng lổ cả trăm mét, có điều ai nấy vào vị trí đã định sẵn, không chen lấn ồn ào, gây gỗ. Bắt đầu lật sổ và lần lượt nghe gọi tên. Đến phiên sổ gạo nhà chú thím cũng gần 10 giờ sáng, hai anh em về nhà với 9kg gạo được mua phân phối mừng ghê gớm, coi như mất 6, 7 tiếng đồng hồ để mua được 9kg gạo. Thằng em có vẻ hả hê lắm: ‘Em chắc là phải mua được mà, anh đi chuyến này hên quá, mấy khi trước cha và em đi mua đâu có được, còn vài người đến phiên mình, cô mậu dịch báo hết hàng đành phải về chờ nhập hàng’ đành quay về. Dễ sợ vậy à. Sài Gòn như thế này làm sao người dân chịu được. Dũng nghĩ kiểu này thì biết bao giờ tiến triển được như xưa. Ngày trước, gạo các đại bài, đại lý, các chợ đầy ắp, chỉ cần 5 phút là gạo tới tay, tất cả nhanh gọn, Vải vóc ư? Đầy đất chật bãi, hàng nội ngoại tha hồ chọn lựa Anh, Mỹ, Pháp, Nhật, Ấn… muốn bao nhiêu mét cũng được, chỉ có tiền hay không. Chợt nhớ lại mấy thằng bạn thân ở quê, với lời hứa hôm trước Dũng đạp xe ra tận thằng Viên chào tạm biệt, nó cũng buồn buồn, rủ vài người nữa ngồi lại với nhau. Lần nầy không rượu chè gì, may là nơi ấy cũng có quán cafe, cả bọn cùng dắt nhau ra cô chủ cũng chút xíu như Út nhà Dũng vậy và cũng trở ngại học tập vì rào cản lý lịch, bèn xin ra góc vườn trên đường lớn mở quán cafe, em ấy cũng biết Dũng, quán nhỏ nhưng cũng có nhạc, nơi bọn nó thường hò hẹn với nhau, kể ra ở quê ngày đó thuộc dạng xịn, mới có casette và đủ các loại nhạc ‘cấm’ thời ấy. Thằng Viên khoái Trịnh Công Sơn và Vũ Thành An nó bảo cô chủ quán: - Cho 3ly cafe và 3ly nhạc. Trước khi pha café cô ấy ấn nút, nhạc trịnh du dương vừa đủ nghe, nếu có cán bộ kiểm tra năn nỉ cũng không sao, nói chung cô chủ quen với cán bộ. Bấy nhiêu đã đủ tiền, từ lâu nếu có mở đài nước ngoài nghe lén cũng rè vì sóng radio lúc được lúc không, đây là âm thanh cassette, thật tuyệt cả ba đắm chìm trong tiếng hát Khánh Ly, café đã bưng lên mùi ngào ngạt, có nước đá trong ly khác ai thích tùy ý, ôi chao, sao giống các quán lớn ngoài phố hoặc tận thị trấn. Không ngờ đến ngày sắp rời quê thằng bạn lại cho mình thưởng thức, mà hình như lâu lắm rồi mới có cảm giác lạ này. Ba thằng đều tích thú, Dũng chợt lên tiếng: - Ôi trời, nơi quê mùa tĩnh mịch vẫn có một chủ quán xinh đẹp lại sành điệu nhạc thế này, bây giờ mới có cảm giác lạ. Cô chủ vui tính: - Lạ hả anh, tự chưa quen thôi. Sành gì anh, đây là máy ông anh mua lại của người bạn ngoài phố, anh ấy vào học ở Bách khoa Sài Gòn, nên các băng từ anh cho luôn, em đâu biết nhưng nghe cũng thấy hay, em biết anh Dũng mà. - Sao em biết, em học với em anh, có vào nhà anh rồi, nhưng anh không để ý, em cũng như Út nhà anh, tai nạn lý lịch nên xin mẹ mở quán kiếm tiền tiêu thôi anh à, chả lẽ cứ xin tiền mua sắm, nhất là con gái. - Anh hiểu, rất tuyệt em à, những người như em rất có trách nhiệm cho chính mình và cả gia đình, anh rất trân trọng. - Anh quá khen, chứ buồn lắm anh à, cứ mỗi sáng, mỗi chiều các bạn em đi học về em tủi thân lắm, cái khổ của em là không được đi học nữa trong lúc tuổi còn cắp sách, muốn tiếp thu kiến thức để mong mai sau vào đời giúp mình, giúp đời. Lúc đó em bi quan ghê lắm anh, tại sao người lớn lại bức tử chúng em trong lúc các em phơi phới muốn học tập? Nỗi buồn lớn nhất của đời em, hơn một năm em ở nhà làm ruộng HTX cảm thấy không chịu nổi. Nếu được tiếp tục năm nay em cũng thi tốt nghiệp, may thay, mẹ em cố gắng chạy vay mượn cho ít vốn em nỗ lực bán rồi hãy hay anh à. Nghe anh sắp vào Sài Gòn em mừng cho anh, vào Sài Gòn may ra mới thoát kiếp, chứ ở quê mình khó bề lắm. Trông anh nghệ sĩ quá, làm sao sống nổi nơi quê này. Thằng Viên tranh thủ chen vào: - Bộ tao không nghệ sĩ hả mày? - Anh Viên là nghệ sĩ, nhưng anh thì lạ gì, anh Dũng bây giờ mới tới quán, em khen tí mai mốt ảnh về còn ghé café chứ? Anh thắc mắc quá à. Cả bọn cười xòa. Có cô chủ quán vui tính dễ bắt chuyện có lẽ trai thanh gái lịch nơi này sẽ đến ủng hộ. Làm ruộng coi vậy chứ nhàn rỗi, bận rộn thời vụ, xong vụ nhàn nhã lắm. Ngồi nghe nhạc nhấm nháp ly café ngon. Cảm giác thú vị, tiết trời se lạnh ngồi trò chuyện với nhau còn gì bằng. Viên nói: - Khi nào cậu đi? Sài Gòn có những điều mà không nơi nào có được, nó là hiệp chủng quốc, dân tứ xứ vào sinh sống chẳng ai để ý ai, ai làm nấy ăn nên thị phi ít, hơn nữa ai siêng năng chăm chỉ là có đời sống, làm gì cũng kiếm tiền được, bất kể ngành nghề nào. Hơn nữa nó là nơi thanh lọc tốt nhất, những con người thực sự làm việc mưu cầu cuộc sống, nó không dung chứa những kẻ lười biếng và ỷ lại. Có những người vào với tài sản rất nhiều nhưng không biết cũng rụng rún chạy về, ngược lại kẻ tay không nhưng chăm chỉ nỗ lực thời gian sau cũng khá. Cuộc sống nơi đó là trường ganh đua khốc liệt nhất, ai không đủ bản lĩnh chịu đựng sẽ quay về. Tao hy vọng với óc tiến thủ, khôn ngoan và khéo léo tao nghĩ mầy có thể trụ được. Gian nan buổi đầu là chắc rồi, nhưng tốt nhất đừng nản chí, bỏ cuộc. Đừng ỷ lại còn đường quay về mà hãy coi như không chỗ quay về mới thành công. - Tao cũng nghĩ như mầy, vấn đề đầu tiên là quên cái ta của mình, cứ lao vào làm, nếu chưa được, kiếm công việc khác phù hợp. - Mầy có phát thảo về vấn đề nơi ấy, những dự định? - Một nơi thênh thang mà mình chưa hiểu làm sao phát thảo nổi. Chỉ khi nào có công việc thật lúc ấy mới tính, ai cũng vậy. Mãn ngồi nghe 2 đứa thân nhau nói chuyện, nhận diện hết vấn đề, nó nói thêm vào: - Ông chú tao khi trước chỉ là thông dịch viên, của đơn vị quân đội ông theo sĩ quan Mỹ thông dịch. Ban đầu nhà nước nghi ngờ CIA bắt đi cải tạo hơn 2 năm, sau khi cải tạo về hết quản chế ổng đi kinh tế mới Long Khánh, nhưng chạy thẳng vào Sài Gòn, buổi đầu thuê xích lô đạp kiếm sống, sau ổng bắt mối dạy đàm thoại, bây giờ ổng ngon lành lắm. Năm ngoái tao vào ông dẫn tao uống café dưới Sài Gòn và dạo phố, thấy ổng tiêu tiền tao hoảng, ổng tâm sự: ‘Sài Gòn là nơi dễ kiếm tiền nhất và tiêu tiền cũng vậy’. Mình nghe sướng lắm, nhưng vào tuần lễ chơi mất mẹ khoảng tiền lớn rồi về. Từ đó mình không có ý vào đó. Nếu Dũng vào mình nghĩ cậu nên học lại Anh ngữ, vì nơi đó là trung tâm giao lưu các nước với nhau, nếu may có thể khá lên. - Ok Mãn, cũng là một ý hay. Tán hưu tán vượn cũng mất cả chiều, các nữ sinh cũng từng đoàn lũ lượt băng ngang qua quán, cô chủ quán ngồi nhìn những bạn trang lứa đi học về, mắt em đẫm buồn thăm thẳm trong lỗ đen phận người không còn hoa mộng như các bạn cùng thời, nuối tiếc một thời học sinh đã qua. Dũng chạnh lòng cùng nỗi niềm cô bé ấy. Dũng đến bên, nói vừa đủ cho cô bé ấy nghe: - Em à, mỗi người có một định mệnh, em cũng thôi buồn đi, biết đâu sau này em cũng khá giả, thậm chí giàu có, ai biết được ngày sau. Buôn bán có niềm vui bán buôn. Việc gì đã qua đừng tiếc chi nghen. Nhìn tích cực vào tương lai. Hy vọng em nhé. - Dạ, cảm ơn anh. Mong anh may mắn trong chuyến vào Nam sắp tới. - Cảm ơn em. Viên, Mãn ơi, cũng chiều rồi. Thôi ta cũng chia tay, cuộc chơi nào rồi cũng qua, chưa biết khi nào tao đi, nhưng nếu không gặp nữa cũng chẳng sao, mình đã chuẩn bị một chuyến hành trình dài hơi cho chính mình. Cả bọn ra về, chúng tôi chia tay nhau. Hoàng hôn đã về trên mảnh đất quê, cánh đồng xuân thì con gái mơn mỡn xanh, ngọn gió lành nhẹ tạo làn sóng lúa tít tắp chạy về chân trời vô tận. Cảm ơn bạn bè, cảm ơn cô bé chủ quán. Dũng đạp xe bình yên quay về. * Buổi chiều hôm ấy, khi về nhà Dũng đã nói chuyện cùng gia đình là vào Nam, chuyến đi này rất quan trọng trong cuộc đời, ai cũng khuyến khích. Cha mẹ còn cẩn thận nói: Nhớ viết thư về để cả nhà an tâm, buồn vui gì cũng viết để ở nhà biết tin. Cố gắng làm việc, vạn sự khởi đầu rất gian nan, đừng nản chí bỏ cuộc. Dũng hứa với cả nhà rằng, dù gì anh cũng phải ở trong ấy cho bằng được, rồi mỗi thời mỗi khác, anh sẽ lập nghiệp trong đó. Trước khi ra đi, cha anh còn dặn dò rất cẩn trọng: - Đừng thấy khó mà mau chân lui, mọi sự không dễ dàng, nhất là đối với người chính trực và thật thà, thiện lương, ai cũng mến, cũng quý, một sự giúp đỡ là một quý hóa, phải biết cảm ơn và nhớ ơn, con nhé. Cha tin ở con. Chia tay cả nhà, anh bịn rịn và lưu luyến, cuối cùng Dũng ra khỏi nhà, anh không dòm lại. Lòng cương quyết mách bảo hãy mạnh dạn bước tới phía trước dù vô vàn khó nhọc. Chuyến tàu hỏa Bắc Nam kéo còi vào ga, người ta tiễn đưa nhau í ới lên xuống tàu, Dũng còn đợi người xuống chưa vội lên, một mình làm cả cuộc phân ly. Anh thấm thía với nỗi niềm Nguyễn Bính, tâm sự sao giống anh quá: “Có lần tôi thấy một người đi Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì Chân bước hững hờ theo bóng lẻ Một mình làm cả cuộc phân ly”. Chuyến tàu kéo hồi còi dài, tạm biệt sân ga, da diết quá, Dũng có chỗ ngồi trên ghế sát cửa sổ phía trái, sau hồi còi của người chef ga, nó bắt đầu xình xịch lăn bánh. Bỏ lại quang cảnh náo nhiệt hỗn độn của sân ga. Những bãi mía tít tắp, những cánh đồng xanh rì bất tận, nối đuôi nhau. Làng quê anh dù thế nào cũng tô một màu xanh muôn thuở đến kỳ cùng. Người nông dân yêu quê chỉ biết chăm bón những mầm xanh hy vọng, họ là những người thầm lặng nhưng bao giờ cũng đem lại bình an và no ấm nhất trên đất nước này, có điều họ chưa bao giờ được chăm sóc chu đáo. Dường như cả đời họ chỉ chăm chỉ với mảnh vườn, miếng ruộng, miếng đất, công lao to tát thế, nhưng mấy ai ngồi lên đỉnh cao nghĩ đến để bênh vực quyền lợi cho lớp người lương thiện, tình nghĩa này, đây là nghịch lý có thật. Bao giờ họ mới thật sự được công bằng trong xã hội? Ngồi cạnh bên Dũng là cô gái có khuôn mặt tròn, mái tóc vừa phủ ngang vai, chiếc băng đô hồng đẩy mái tóc làm lộ vầng trán rộng, đôi mắt tròn như hạt nhãn, lông mày lá liễu mảnh không xén tỉa, tự nhiên, áo sơ mi hồng quần tây khá đơn giản, có vẻ thật thà. Anh làm quen để chuyện trò: - Xin lỗi, em về đến đâu? - Em vào Sài Gòn để học tập. - Vậy à, hay quá, anh cũng vào Sài Gòn. Vậy là có bạn đồng hành để nói chuyện cho vui, chắc em không từ chối. - Quý quá anh à, em chỉ có mỗi mình, lần đi thi vào đại học cha dẫn, lần này em vào trường, nên tự đi. Có anh đồng hành là vui lắm. - Anh vào có chuyện gì hay học tập? Một chút xốn xang với Dũng, tuy nhiên anh vẫn bình thản: - Rất tiếc, anh không bước đến giảng đường như em được, anh vào kiếm việc làm. - Vậy à, - Em vào nhập học, mùa nầy là mùa tựu trường của các tân sinh viên, em học ngành gì? - Em học sư phạm. - Hay quá, cô giáo tương lai. - Ngành này ít chi phí nhất nên em chọn, mẹ cha nghèo mà anh. - Nghề giáo cao quý, cha mẹ và các chị anh cũng nghề giáo thời trước, có điều bây giờ không còn dạy nữa. - Sao vậy anh, chắc lương bỗng không nhiều nên chuyển nghề? - Không, chính quyền mới cho nghỉ. Đoàn tàu vào hầm bỗng dưng cả hai lặng im, khi ánh sáng bị nhận chìm vào bóng tối, ít nhất ai cũng phản ứng tùy theo thái độ nhân sinh quan của mỗi con người. Sau khi qua 9 đường hầm liên tiếp Dũng trầm tư. Đời là một hành trình liên tiếp tối sáng, ai khôn ngoan sẽ giữ được ánh sáng dài lâu hơn. Băng qua đất Bình Định, nhiều tháp cổ của Chiêm Thành còn sót lại, ánh sáng vàng của hoàng hôn nhòa nhạt, hình như tháp cổ Chiêm trầm mặc hơn với thời gian đã phủ dày trên đồi cao, gò thấp. Khúc bi hận của cổ tháp đã một thời oanh liệt, chỉ còn trơ vơ như phế tích buồn vọng về nỗi tiếc thương một thuở. Thời gian sẽ bào mòn từng lớp hưng phế trên cõi đời, có cái gì trường cửu với thời gian. Đến Diêu Trì, một ga lớn trung chuyển, đoàn tàu nghỉ lại lâu hơn để tiếp nước và nhiên liệu. Ánh đèn điện trên các trụ đèn rực sáng, bụng đói Dũng mời cô ăn cơm, cô ta có vẻ ngập ngừng: - Anh mua ăn đi, mẹ đã chuẩn bị cho em cả vài ngày ăn đường, nào cơm và bánh gói, em định mời anh. - Được rồi vậy anh mua cơm gà cùng nhau ăn, ngày mai sẽ tính tiếp. Tôi mua lấy một hộp cơm và 2 đùi gà lên trên toa xe, chia cho cô ấy một. Cô không quên bỏ qua cho tôi một ít thịt heo chà bông. Cả hai cùng ăn. Nhìn lon cơm đầy ắp và những món lương khô tôi lại nhớ hình ảnh mẹ tôi trước khi đi học tập. Cũng như thế, người nhà quê bao giờ cũng chu đáo chuẩn bị cho người đi xa. Chắc là tiết kiệm và vệ sinh hơn. Chúng tôi kể nhau nghe những kỷ niệm thời học trò, những ngày bắt đầu chập chững bước vào đời buổi giao thời, tuy em nhỏ hơn tôi 4, 5 lớp nhưng cũng đủ hiểu những cơ cực mà gia đình cũng như em đã đi qua. Bất chợt cô hỏi: - Sao anh không tiếp tục học? Tiềm thức 4 năm trước chợt sống lại, Dũng muốn chôn quá khứ không may ấy, nổi hoài thai lớn là vào Nam để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn thôi. Tuy vậy, anh cũng giải thích đại khái: - Ngày ấy anh cũng được đậu vào trường đại học, nhưng lúc đó còn khó khăn về rào cản lý lịch nên anh không thể tới được giảng đường, mơ ước không như ý, ngày ấy anh cũng buồn lắm, nhưng làm sao được, hình như là mệnh số. Coi như một tai nạn trong đời cùng chung số phận với các bạn cùng hoàn cảnh như anh. - Em hiểu rồi, quê em cũng có những trường hợp như thế. Em cũng thấy tiếc và thương các anh chị ấy. - Chuyện đã qua, anh chẳng tiếc rẻ nữa, chỉ mong về sau đừng có điều ấy xảy ra ở các thế hệ tương lai. Ai có khả năng học tập hãy cho chúng bước vào ngôi trường lớn để mai này tự tin bước ra giúp đời, chớ nên cắt đứt tức tưởi sự học trong lúc các em muốn học tập. - Dạ, đúng vậy. Anh à, xin lỗi anh, em bắt đầu buồn ngủ, khi hôm nôn nao quá không ngủ được, nhiều suy nghĩ cho chuyến đi hôm nay, chuyến đi quyết định cuộc đời em cho tương lai. Đồng hồ trên tay cũng Dũng cũng đã chỉ 21 giờ. Em ngủ, Dũng một mình nhìn ra cảnh vật hai bên, ánh trăng soi rất thơ mộng, cảnh trí về đêm cũng lung linh lạ thường, ngồi trên tàu nhìn cảnh vật lướt qua thú vị lắm. Thỉnh thoảng tàu qua chiếc cầu đang làm, tàu chạy rất chậm mặt sông lấp loáng ánh trăng sinh động quá, thấy yên bình lạ thường. Dũng gục đầu trên bàn, cũng thiếp đi. Khi tiếng rao hàng í ới của những người bán hàng rong trên tàu anh mới thức dậy. Ga Nha Trang. Ngày trước Dũng có ghé đến đây mấy lần, Thành phố đẹp, dân cư còn thưa thớt, bãi biển dài nước trong xanh, đẹp vô cùng, một thành phố biển đẹp nhất Việt Nam. Dũng cũng đã mơ chọn nơi nầy làm quê hương, nhưng không có ai quen biết nên cuối cùng anh chọn Sài Gòn, Thức giấc Dũng vẫn còn ngái ngủ, anh gọi chị bán café cho 2 ly, một đen và một sữa nóng, Anh hớp ngụm café đen cho tỉnh táo và đốt điếu thuốc thơm, ối chà nó ngon làm sao. Khi cô em giật mình dậy, Dũng mời ly café sữa: - Em uống café đi, anh mới mua còn ấm, uống cho tỉnh táo. - Em không quen uống café - Thì bắt đầu là vừa, vào Sài Gòn học tập em sẽ biết, người Sài Gòn uống café là nét đặc trưng văn hóa, buổi sáng mọi con đường đều có, hình như người sài Gòn già trẻ gì cũng uống café. Anh thấy cũng hay. - Đây là lần đầu em được uống café anh mời. - Đặc biệt café sẽ làm sảng khoái và tỉnh táo. - Em sợ ghiền lắm. - Trời ạ, em uống tí café mà sợ ghiền cái nổi gì. Ghiền café là cả quá trình dài. - Anh à, Sài Gòn dễ sống không? - Anh cũng chưa rõ, các anh chị đi trước anh nói rằng dễ sống lắm, chỉ cần siêng năng và chăm chỉ tìm cái ăn cái mặc không khó. Chính điều nầy thôi thúc nên hôm nay anh mới có chuyến đi này. Ga Bình Triệu là ga cuối cùng của Thành phố nhộn nhịp bậc nhất, anh nấn ná giúp cô em xuống tàu, ra khỏi ga an toàn, gọi xe ôm cho cô bé mới quen, dặn dò người xe ôm nhớ đến đúng địa chỉ. Cô cảm ơn chia tay anh, hẹn gặp lại. Một cảm giác thoải mái, mới 10 giờ sáng, Dũng vội băng qua đường thuận chiều về sài Gòn, ngồi lại uống cafe sát đường. Sài Gòn lúc nào cũng vậy, nhộn nhịp vô cùng, anh xe ôm bên ngoài ga, có lẽ muốn chở tôi về, khi đã hết hành khách của chuyến tàu Bắc Nam, anh ghé bàn tôi, nói vừa đủ nghe. - Em về đâu anh chở về, anh xe ngoài bến đi giá phải chăng, thấy anh có vẻ đàng hoàng, Dũng nói : - Anh chở về Phú Nhuận bao nhiêu? - Đoạn nào em? - Khoảng giữa Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận. - Em cho anh mười đồng. - Ok, anh đợi em hút thuốc xong, tính tiền café rồi đi. Chiếc xe lạng lách qua dòng người đông đang xuôi ngược, Dũng ngồi sau cũng ớn, bấm bụng anh tài xế: - Chậm thôi anh, nguy hiểm quá, dễ gây tai nạn lắm - Không sao đâu em, anh chạy quen rồi. - Cẩn thận vẫn hơn, nhanh tí có khi khổ cả đời. Cuối cùng anh vẫn đến đúng địa chỉ cô em gái, Dũng bước vào nhà, Một chuyến đi không đến nổi cực khổ như chuyến xe đò năm trước ròng rả suốt ba ngày đêm, về tới nơi mặt mày đen như cột nhà cháy, áo trắng bám bụi than thành màu đen, từ đó Dũng thề không đi xe đò chạy than nữa. PND (Còn nữa chuong14)
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN CHƯƠNG 14 BƯƠNG CHẢI XỨ NGƯỜI Huỳnh Kim học trò cũ của bà Giáo Vân, từ Sài Gòn về thăm cha mẹ, nghe cô Vân đi học tập đã về, chị dự định lên nhà thăm hỏi, lần lửa mãi vẫn chưa đến thăm bà, tình cờ gặp bà Giáo đi trình diện quản chế ở xã về, bước ra khỏi cổng UBND, chị chào thật to: - Chào cô, cô đi đâu đây? Bà Giáo Vân chững lại vài phút nhận diện Huỳnh Kim: - À, cô đi trình diện về - Cô làm gì mà trình diện, cả đời đi dạy cũng trình diện ư? - Ừ thì mình làm việc cho chế độ cũ mà em, nghĩa là có tội - Vô lý quá cô, em về có nghe cô bị đi học tập đã ra trại, tính ghé thăm cô và gia đình, nhưng chưa tới được, may quá gặp cô ở đây. Mời cô qua bên kia nói chuyện chút, lâu quá không gặp cô. Hai cô trò bước sang quán bên cách không xa cổng UBND, chị Kim kéo ghế mời cô: - Mời cô ngồi, cô à em mới từ Sài Gòn về thăm cha mẹ, vài hôm nữa em vào - Vậy à, cô trình diện đợt này là đủ thời hạn quản chế, nhà nước cho tự do, khi học tập về, chế độ quản chế cũng nghiêm ngặt lắm, đúng ngày giờ hẹn là phải trình diện, ai vắng là công an xã lên nhắc nhở mời ngay. Họ sợ chuồng đi nơi khác. Cho 2 chai nước ngọt. Chị Kim gọi nước, cô chủ đem ra 2 chai nước và 2 ly nước đá, chị rót vào ly: Mời cô, vừa uống vừa nói chuyện cô nhé. Bà Giáo Vân gật đầu rồi tiếp: - Em về bao lâu rồi, làm ăn trong đó được không em? - Cô à, Trong đó khác lắm không như ngoài mình, em nghe lời chị bạn, xuống Sài Gòn bán đồ cũ, buổi sáng xuống Tân Định vốn liếng chỉ mấy đồng vậy mà em cầm cự mấy năm, vừa đi thăm ông xã, vừa nuôi em ngon lành, - Cô đã hết quản chế, hay là cô làm đơn xin đi làm ăn trong đó, em giúp cô với. - Được thôi cô à, không khó gì cả, chịu cực tí, may mắn cũng đỡ khổ, cô gửi về nuôi thầy và các em cũng đủ, càng sớm càng hay cô à, Sài Gòn bây giờ các gia đình khá giả ngày trước chỉ bán đồ mà ăn cầm cự thôi, có gì cô vào nói với Dũng, em và Dũng cũng thỉnh thoảng gặp nhau. Em thương nó lắm chân ướt chân ráo vào Sài Gòn nên buổi đầu cũng khó xoay xở. - Nó cũng quyết chí vào đó lập nghiệp, có gì em giúp nhé. - Dạ, cô khỏi lo, vài tuần là nó lên, có gì hay là em trao đổi với nó. - Vài hôm nữa cô xin giấy vào Sài Gòn thăm và làm ăn. - Có gì cô bảo nó chở lên em. - Ông xã em về chưa? - Dạ, chưa cô. Trong Nam cũng dễ chịu so với phía Bắc, con bạn em có ông xã học tập ngoài Nghệ An, mỗi lần ra tốn kém, người dân ngoài ấy họ nhìn người Nam chẳng thân thiện, mỗi lần đi về nó kể nghe mà muốn khóc. Khắc nghiệt lắm. Thôi vậy cô nhé, em về nhà đã cũng trưa rồi, ba em bảo đi về sớm còn ăn trưa cùng gia đình. - Ừ, thôi em về, tạm biệt em. Hẹn găp nhau ở Sài Gòn. Ông Giáo ngóng từ sáng đến giờ, không biết sao trình diện lâu đến thế, ông suy nghĩ vẩn vơ… Hay là có chuyện gì nữa đây? Ông hơi sốt ruột đi ra đi vào, ngồi bàn uống nước nhìn thẳng ra ngõ đã trưa lắm rồi. Bà về, ông cười, hỏi thật nhẹ: - Có chuyện gì không, mà lâu vậy, mình? - Hôm nay, anh em tôi trình diện đông lắm mình à, tập trung lại ông cán bộ xã ‘diễn thuyết’ mong các bà con anh em về chăm chỉ làm ăn, chính quyền cách mạng bao giờ cũng mong sự hòa hợp của anh em chế độ cũ, cố gắng làm ăn tái thiết để nước giàu dân mạnh, đừng nghe lời xúi giục của phản động. Khi ra về, gặp cô học trò cũ bày vẻ tôi vào Sài Gòn làm ăn, nghe khá lắm mình à, một mình em làm vậy mà nuôi chồng học tập và 2 đứa con đàng hoàng, hay là tôi xin đi vào Sài Gòn vài ba tháng. Nếu được, xin gia hạn tiếp. Mình thấy sao? Và cô ấy còn gặp thằng Dũng nhà mình hoài, có gì khó nó cũng lên trên ấy nhờ giúp đỡ, chị em nó cũng thân thiện, Dũng nhà mình ngoại giao giỏi ghê, nó đã sắm được xe đạp rồi, ở Sài Gòn không có phương tiện đi lại là thua. - Tùy mình, đi cũng được, biết đâu có cơ hội hơn, hơn nữa xem thằng Dũng nó thế nào? Ở quê sao tôi thấy ảm đạm quá, mịt mờ quá. Tối ấy, bà Giáo Vân không ngủ được, thao thức việc đi Sài Gòn tìm kế sống, thâm tâm bà chưa muốn, nhưng càng ngày kinh tế càng kiệt quệ, nỗi khốn cùng trong nhà là thật nên một liều ba bảy cũng liều. Bà quyết định ngay trong đêm. Buổi sáng quây quần bên nồi khoai lang vừa thu hoạch hôm qua, khói nghi ngút tỏa, cả nhà ăn uống vui vẻ với nhau, bà nói với các con: - Mẹ đã bàn với cha rồi, giờ nói thêm với các con, chắc mẹ vào Sài Gòn có cô học trò cũ giúp mẹ làm ăn, nếu may cũng kiếm được tiền gửi về thêm chi tiêu. Ở nhà càng ngày càng lún sâu vào khốn cùng, cái đói đã lăm le, các con nghĩ sao? Chị Thanh mau miệng : - Mẹ đi cũng hay cha à, biết đâu sẽ cải thiện được, con giờ cũng thay mẹ quán xuyến được gia đình, biết đâu vận may của nhà ta. Út cũng đồng ý như chị Thanh: - Đây là cơ hội cha à, mẹ vào đã có người dẫn dắt, buôn bán đâu khó khăn gì, con tỷ mình con biết, chỉ có bán buôn mới phù hợp với nhà mình trong thời này, ai cũng chân yếu tay mềm, làm sao có thể sống nổi, hơn nữa có anh Dũng trong đó 2 mẹ con đùm bọc, con nghĩ sẽ ổn. Ông Giáo nãy giờ nghe các con sôi nổi bàn tán, rất có lý. Hay là ngày mai Thanh xuống xã gửi đơn xin tạm vắng, độ này Thanh đã quen biết nhiều người trong cái xã này rồi, con có thể giúp mẹ. Cha bây giờ thừa thải, kiến thức không thể đổi gạo, mắm không làm gì được cho nhà mình, cái quan trọng là tồn tại, các con thương cha mẹ như vậy cha cũng vui rồi. Mình viết thư cho Dũng trước khi đi để còn đón bà nữa, thư tín bây giờ cũng chậm trễ, chắc nó vui lắm khi có mẹ vào cùng nhau hiệp sức. Chị Thanh gửi đơn xuống xã, anh phó chủ tịch nhận đơn, bảo: - Cô mới hết quản chế một tuần lại lo vào Nam, có việc gì vậy, em? Chị biết anh thăm dò, nên cũng than thở : - Anh à, gia đình bây giờ anh biết mà, khó khăn lắm, mẹ em vào trước là thăm các con, sau là bương chải xứ người có thể kiếm sống, chứ làm ruộng thì thua trắng. - Mình nổ lực lên chứ làm ruộng đâu như công chức được. Thôi để đơn đó, anh xét cho. Ba hôm nữa xuống lấy nhé. - Cảm ơn anh. * * - Trên vé tàu mấy giờ xuống ga, con? Ông Giáo hỏi chị Thanh - 11 giờ cha à - Vậy ăn cơm sớm, con chở mẹ xuống trước chừng một tiếng cho chắc, thà xuống sớm ngồi chờ còn hơn, rủi trên đường trở ngại, ông giáo lo xa. - Dạ, Sáng nay con và Út đưa mẹ ra ga, cha ở nhà. Bà giáo cẩn trọng đưa ông ít tiền để dành mua trà thuốc phòng các con chưa có kịp, bà biết tính ông cái gì chứ thuốc với trà không có ông ngóng như trẻ ngóng mẹ về chợ, trước khi đi bà dặn dò ông: - Mình à, tôi đi mình cẩn thận ở nhà giúp các con, làm gì trong vườn nhà thôi, đừng đi đâu xa, đi nhứ chim cũng cần có nhiều người nghe mình. Chỉ có bà là hiểu ông nhất, phải thôi, ông bà giáo đã sống chung mấy mươi năm sao không hiểu được. Tính ông mê kiểng và nhứ chim, mỗi lần đi nhứ về ông kể lại cho bà nghe nhiều lần bà hiểu được sự đam mê. Bà Giáo chưa bao giờ cản ngăn thú chơi ấy, thậm chí khuyến khích ông cho khuây khỏa nỗi buồn. Thừa nhận ông giáo làm cái gì cũng đẹp, gene khéo léo được ông nội truyền lại, ông đan đác cái gì cũng tuyệt, từ cái lờ cá, cho đến cái nơm, cái mủng, rổ… Cây kiểng nào ông uốn nắn cũng tuyệt đẹp, nhất là làm lồng chim nhứ, tùy theo loài chim mà mỗi lồng đều khác nhau, từ cái đấu chim ăn đến cầu chim không ai chê vào đâu được. Ai cũng phục tài khéo léo của ông. Chuyện cái cầu chim đã thấy ông công phu thế nào. Khi ông nhìn thấy cây xanh quít có cầu đẹp, ông chặt, uốn bằng lửa rồi tỉ mỉ gọt lại, đâu đó mới bắt vào lồng, Dũng thấy ông làm cầu chim đã phục sát đất. Dũng có một thời theo ông đi nhứ chim cu đất, sau khi chọn thế chim nhảy ông cẩn thận dùng câu lim cắt hết các nhánh chung quanh, chỉ để nhánh đối diện với chim lồng, chim bên ngoài chỉ duy nhất phải đậu nhánh ấy, khi chim lồng gù thúc, con chim ngoài cũng không kém, nghe rất đã tai. Con chim ghét nhau tiếng gáy là vậy. Nó vờn với nhau khá lâu, hình như tiếng gáy đã làm con chim ngoài tức tối, nó nhảy bổ vào để đá con bên trong cho bằng được, hỡi ơi, chiếc bẫy lưới oan nghiệt sập xuống đã tóm gọn chú chim trước vài phút còn hùm hổ ta đây. Nghề chơi cũng lắm công phu. Ông giáo ồn tồn: - Mình khỏi lo tôi biết phải thế nào. Mình an tâm và cẩn thận tiền bạc trên tàu xe. - Tôi chỉ nhắc mình thôi. Thôi tôi đi, mình nhé. Lần này bà giáo đi ông không lo lắng, ông biết chắc vào trong gặp con cháu trong Sài Gòn. Chuyến tàu hỏa Bắc Nam, đến trễ so với giờ của điều độ chạy tàu gần tiếng rưỡi. Cô Út và chị Thanh đưa mẹ lên tàu, bà Giáo còn dặn dò: - Cha các con vô tư lắm, các con thường hỏi han nhé, tính ổng không hỏi là không nói, mẹ biết tính cha, nhớ chăm sóc bửa cơm cho ông. - Mẹ an tâm cứ đi, đừng lo nghĩ các con đứa nào giờ cũng sỏi cả rồi, vào đến nơi nhớ gửi thư về cho biết tin, mẹ nhé. Đoàn tàu kéo hồi còi dài rồi lăn bánh, bà ngoái nhìn các con, những bàn tay vẫy những bàn tay làm bà xúc động rơi nước mắt, lòng người mẹ nào chẳng thế, cực chẳng đành mới xa nhà chứ với từng tuổi nầy, nếu như không túng quẩn dễ gì bà rời quê quán bương chải kiếm ăn nơi quê người xa lắc, xa lơ, không được ở gần ông để chia sớt buồn vui. Thời thế vậy đành phải chấp nhận, cuộc đời có những bước ngoặc tình cờ nhưng phải nương theo cho phù hợp từng hoàn cảnh mình. Một đời bà Giáo phụng sự từ tuổi trẻ đến xế chiều, nếu không thay đổi có lẽ bà cũng được an nhàn trong tuổi già bóng xế, chứ nào phải bôn ba đi cầu thực phương xa, rồi đây sẽ ra sao nữa khi cả một đàn cháu con chưa được bình yên, còn lận đận, thương bà thì ít thương con thì nhiều. Thời gian còn những một ngày một đêm trên tàu, bà lục lạo tiềm thức coi như thước phim đời mình mở lại để nhìn lại quá khứ, để cảm nhận một đời đã qua. Thời bấy giờ, cuối thập niên 49 - 50 của thế kỷ trước bà học Quốc học Huế là vinh hạnh, dễ gì con gái được học Tây học, bà chợt thương ông ngoại - Người rất cầu tiến trong cách dạy dỗ con cái, hoàn toàn không theo khuynh hướng Nho gia, cho con gái đi học, thời bấy giờ nhiều người khá giả, giàu có còn dè biểu ông rằng không thức thời, con gái làm gì cho đi học nhiều, biết viết biết đọc đã hơn khối người ở cái huyện, cái tỉnh này, ông chỉ trả lời qua loa với họ: ‘Kệ anh à, học tập bao giờ cũng tốt hơn’. Ngày bà vào trường Quốc Học, Huế chính ông ngoại dẫn bà đến tận nơi, sau khi tìm chỗ trọ học ổn định, vào trường bắt đầu học tập ông mới về nhà. Từ đây bà đã một mình lo liệu, xong 4 năm trung học bà mới quay về. Ông ngoại nghĩ rằng bấy nhiêu cũng đủ với xã hội thời ấy, hơn nữa tiền bạc cũng vơi đi nhiều. Còn lại cho các cậu em nữa. Ngày ấy, chính ông ngoại cũng ra tận nơi đón bà về sau khi dự lễ bế giảng. Hèn chi bà Giáo yêu kính ông ngoại cũng phải. Rồi lấy chồng, rồi vào sư phạm cấp tốc, rồi dạy học, rồi nuôi chồng đi học, nếu không phải là bà Giáo, ông Giáo không thể đậu tú tài. Công đức ấy thật đáng nể. Ngoài ra bà còn dìu dắt, bổ trợ các em bên chồng học tập, cô chú nào cũng được chính bà khuyến khích. Các chú cô kính trọng bà cũng phải đạo. Rồi thời thế thay đổi, rồi học tập cải tạo, rồi bây giờ tha phương cầu thực. Ôi chao, đời người cũng lắm vui buồn, biến đổi không ngừng. Giá như sau 1975 ông bà nghe lời người nói phải: Đừng về quê, vào thẳng Sài Gòn có lẽ mọi sự đã hoàn toàn khác, cũng vì trách nhiệm dâu trưởng nên nấn ná ở lại quán xuyến mồ mả, ruộng vườn nhà chồng. Đúng là bà sống đúng với chuẩn mực đạo lý. Bởi khi đó tiền bạc hãy còn khấm khá. Một quyết định đúng có thể nhiều thế hệ không đến nổi phải hy sinh tốn sức lực quá nhiều, đó là cái giá lớn phải trả cho sự sai lầm, thiếu quyết đoán. Nhưng mọi sự đã rồi, làm sao. Thực tại là còn phải làm việc để tồn tại. Ôi, cái nợ đời còn dài, không biết khi nào hết lận đận, bôn ba. Đôi lúc bà cũng tự an ủi rằng mọi sự trên đời được sắp đặt bởi ông Trời, vì thế mà bà chẳng oán than gì, bằng lòng với phần số mình. Cũng may là như vậy không bị ức chế bởi tâm lý. Và rồi, đúng trưa hôm sau bà Giáo cũng đã đến Sài Gòn, xuống ga cuối cùng Bình Triệu. Ga Bình Triệu là nơi dân anh chị tứ xứ, cũng như các người thất thế tụ về để kiếm sống bằng đủ các loại nghề từ bốc vác, cò vé, cò xe ôm, cò vận chuyển… Tất cả đều có luật lệ bất thành văn, ai trong cõi ấy mới hiểu một trật tự bài bản, ông ‘trùm’ có đầy đủ quyền lực với những thành viên. Thế giới nào cũng có quy luật riêng chẳng qua không thực chứng nên không thể hiểu được. Dũng và bà Giáo Vân bước ra, các anh xe ôm chèo kéo, mời mọc ghê lắm, Dũng khoác tay tất cả, chỉ trả lời vỏn vẹn: Cảm ơn, có người đón rồi. Tất cả họ không theo nữa. Thấy lạ, khi ra ngoài cổng bà giáo hỏi: - Sao con tỉnh bơ vậy. - Những người chạy xe ở đây họ rất tâm lý, ai ngập ngừng họ sẽ theo đuổi tới cùng, chắc chắn sẽ đi được, có thể ngại giá cả đắc đỏ quá chăng, để đi cho được chuyến xe ấy, còn nếu thấy không phải là họ quay lại để kiếm khách khác. Bao giờ cuốc xe bên trong cũng đắc đỏ hơn xe bên ngoài, bởi họ phải đóng thuế. Đâu phải ai cũng vào được bên trong đâu mẹ. - Vậy à, nơi nào cũng có luật lệ cả, con hả. - Dạ, chẳng qua chưa tiếp xúc nên không hiểu. Con vào Sài Gòn cũng cố gắng đến để hiểu. Cái gì cũng phải học mẹ à. Dũng đón mẹ về khi bà còn lóng ngóng bước ra ga tàu. Lần này là lần đầu tiên bà được đi xe đạp trên thành phố hoa lệ đông đúc này, chính con bà chở về nhà cô Tám vui vầy với vài đứa cháu ngoại, mà bà thường nhắc nhưng mãi, hoài chíp miệng vì xa xôi quá khó có dịp thăm hỏi. Cơ ngơi gia đình nhỏ của cô cũng làm bà vui. Nhà riêng khá dài và rộng nằm trong con hẻm trung tâm của thành phố, có gác suốt từ đầu đến cuối, đủ rộng để bà có thể ngủ nghỉ nơi đây. Hơn nữa không xa so với chỗ của chị Huỳnh Kim là bao nhiêu. Một điều thuận lợi vô cùng. Gia đình cô Tám mừng lắm, chiều hôm ấy nhà cô dượng Tám vui như tết, đầy đủ cả các con ở Sài Gòn quy tụ, gia đình cô dượng Tám nhất là các cháu ngoại quấn quít bà, một điều lạ là cháu nhỏ chưa hề biết mặt bà ngoại, nhưng khi cô dượng giới thiệu đây là bà ngoại từ Quảng Ngãi vào thăm ba mẹ và các con, chúng nó thân thiện như người nhà đã từng. Sợi dây thiêng liêng tuy vô hình nhưng bắt được tầng số máu mủ ngay. Đất trời kỳ diệu là vậy. Bữa tiệc tương đối thịnh soạn, nào vịt quay, gà luộc, bánh mì… Cảm nhận bà rất vui, hạnh phúc, nếu như các con bà ở ngoài ấy làm gì có được trong thời buổi gạo châu củi quế này, tuy cô dượng Tám còn khó khăn nhưng cung cách Sài Gòn là vậy, hình như cũng đã ít nhiều ảnh hưởng. Ngày mai có ngày mai lo, rất thoải mái. GẶP GỠ NGƯỜI NỔI TIẾNG Trời quang mây tạnh, vào đông nhưng nắng ấm, hình như Sài Gòn không có mùa đông thì phải, cơn mưa đã tạnh hẳn. Bà Giáo giục Dũng: - Tạnh mưa, nắng lên rồi con à, đi đến vài chỗ để mẹ thăm, ngày mai mẹ còn đến chỗ chị Huỳnh Kim. - Dạ, con cũng đã xong. Xuống ngay thôi Dũng chở mẹ qua chú Tám, bà không quên đem theo tí quà quê với mạch nha và đường cục – Đường cục được nấu bằng lò mía 4 chảo, khi đường tới người ta đỗ vào muổng, có hình chóp nhọn, phía đáy có lỗ tròn khi đem về phải rút mật, mẹ biết chú thích món quà quê nầy lắm. Trước khi đi mẹ chỉ đem quà 2 món ấy, bà rất rõ cả nhà ai cũng thích. Đến nhà chú Tám khá sớm. Con trai chú reo lên : - Ồ, bác Hai gái và anh Dũng đến cha à. Chú bước vội ra cửa, đón vào, trên chiếc giường thấp tự tay chú đóng một ông khách cùng ngồi với chú, bà giáo và Dũng cúi đầu chào vị khách, xong. Chú giới thiệu ngay: - Đây là nhà thơ Phạm Thiên Thư và đây là bà chị dâu cả tôi, thời trước dạy học, vào thăm, đi với con chị. - Chào thi sĩ, tôi nghe anh qua nhà tôi, nhà tôi mê anh lắm, ông ấy cũng thích văn chương. Tháng lương nào cũng mua 4, 5 đầu sách. Bà Giáo nói - Hồi trước, anh quân đội hay làm việc hành chánh, chị? - Nhà tôi làm công chức, dạy thêm tư thục anh à - Anh có bị gì không? - Dạ, cũng có anh à Chú Tám chen vào cho rõ ràng, tính chú ngang tàng lắm, không úp mở: - Anh chị tôi, ai cũng mới cải tạo về, ảnh sắp chết mới được về, còn chị về năm ngoái, hết quản chế mới được đi xa. Ông Phạm Thiên Thư, có vẻ ngạc nhiên lắm, him hip mắt, tay vẫn còn điếu thuốc Đà lạt đen hút dỡ - Ồ, chị cũng bị chính quyền bắt đi à? - Dạ - Mấy năm chị? - 22 tháng anh à - Trời ơi, chị đi dạy thôi mà. Ở ngoài liên khu 5 tôi nghe nói dữ lắm. Sài Gòn coi vậy cũng đỡ hơn miền trung nhiều họa sĩ hả? - Sài Gòn cái gì cũng sướng anh Thư à, ngoài quê tôi nghe các cháu nói mà thương, có khách đến thăm làm con gà đãi người ta cũng sợ, giống thời Việt Minh quá anh. - Sợ gì họa sĩ? - Sợ mấy anh du kích biết được báo cáo lên trên, nói rằng còn khả năng nên làm khó. Anh về viết đề tài này nhé, chắc đăng báo được. Chú cười sảng khoái lắm. - Ông thi sĩ thun mũi cùng cười, dễ sợ anh hả, chắc mười năm nữa viết được! Quay sang Dũng ông hỏi: - Còn cháu học ở đâu? - Dạ, cháu xếp bút nghiên rồi, nhưng không tòng quân ra trận, đang lang thang Sài Gòn kiếm việc, chưa biết sao đây chú à, chú nhà thơ lớn, quen biết nhiều, giới thiệu việc làm giúp cháu với. - Anh biết viết văn làm thơ không? Có lẽ ông nói vừa đùa, vừa giỡn, nhưng Dũng thì khác: - Dạ, cũng viết lách chập chững, nhưng chi vậy chú? - Có bài thơ nào đọc tôi nghe với, dân miền Trung, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi làm thơ dữ lắm họa sĩ à. Dũng lần đầu biết được nhà thơ lớn, vốn đã mê Động Hoa Vàng, Đoạn trường vô thanh, Ngày xưa Hoàng Thị… của ông thời trung học, hôm nay được kỳ ngộ với ông trong nhà chú, nên cũng bình tĩnh, ngày trước nghe mấy cái tên ấy, Dũng tưởng tượng dữ dội lắm, trông được thấy, được nghe, được hầu chuyện, hạnh phúc lắm. Bây giờ người bằng xương bằng thịt ngồi trước mặt, Dũng sung sướng vô cùng, nên cũng thích đọc cho nhà thơ lớn nghe, bạo dạng nói: - Dạ, có chứ. Chú và chú Tám cho phép thì cháu đọc, có gì nhờ chú giúp cháu để tiến bộ. - Đọc đi mới biết, chú Thư chỉnh lại cho, chú Tám nói: - Cháu đọc nhé, bài thơ cháu viết trước khi vào Sài Gòn, định lập nghiệp luôn ở đây, Dũng hơi run, cố gằn giọng, từ tốn vừa đọc, vừa quan sát chú Thư: ‘Nát gan quyết một lần đi, Mai sau còn được điều gì hương hoa Bóp tim bái biệt sông Trà Lời nguyền xin tạc lời cha nạm vàng Ngữa nghiêng thời cũng bật ngang Ai ngang tôi để cung đàn lạt giây Mùa khô rát nát nắng dân cày Ta còn mải miết so giây tơ lòng’ - Hay, hay quá. Tâm sự quá. Còn trẻ mà làm bài thơ đọc nghe sướng lắm, anh có năng khiếu, hồi ấy chắc học văn chương giỏi? - Dạ không, Cháu học chuyên toán, tú tài ban toán. - Ngộ hả, tôi tưởng anh dân ban văn chương, có thời gian cứ viết để trang trải nỗi lòng mình, biết đâu anh sẽ cũng như tôi, như các người khác, sóng sau cao hơn sóng trước là thường tình. Có điều ai mê văn chương không giàu đâu nhé, nó là nghiệp chứ chẳng phải nghề. Rồi ông cười nhẹ nhàng, hiền lành, đôn hậu. - Dạ, không dám, với chú Phạm Thiên Thư, cháu cho là thiên tài thi ca, nhất là lục bát. Lời trong Động Hoa Vàng cháu đọc nhiều lần, cha cháu ổng cũng giảng giải thêm điều gì ổng cảm nhận, còn cháu chưa hiểu hết hàm súc ý của chú. Nhưng rất mượt mà, ngôn ngữ tuyệt đẹp, chưa thấy ai bằng. - Tôi hồi ấy là tu sĩ, nhiều thời giờ cho kinh sách, nhưng bây giờ chẳng làm gì cả, thỉnh thoảng cũng trang trải nỗi lòng trên giấy. Chú Tám xen vào - Cháu à, chú Thư là nhà thơ tài hoa cả miền Nam ai cũng biết, có điều để nói chuyện hỏi thăm với mẹ cháu tí. - Dạ, Dũng xuống nhà sau nói chuyện với các em, mẹ nói chuyện với chú và chú Thư, tranh thủ còn về nữa mẹ à. Chú Thư có lẽ muốn biết thêm về buổi đầu giao thời của miền trung nên chú hỏi bà Giáo: - Chị à, vậy chị có biết tại sao người ta cho đi cải tạo. - Dạ, cũng có lý do chứ anh, chẳng là lúc lộn xộn thời cuộc, người ta bắt đầu chuẩn bị cuộc di tản lịch sử có lẽ nhà thơ cũng đã biết, các thầy đến trường thưa dần, và những ngày sau không đến trường nữa. Trước mấy tháng, thầy Hiệu trưởng họp hội đồng trường giao tôi quyền Hiệu trưởng, biên bản thiết lập xong là tôi điều hành nhà trường. Hơn nữa, tôi là bí thư Dân chủ ngành giáo dục quận thời ấy. Có lẽ chính quyền nghĩ khác nên mới bị học tập, phụ nữ như tôi sáng từ phố về quê tới lớp dạy, về nhà gần đó, chiều có khi ra văn phòng cùng các giáo viên, rồi chiều xong tôi về phố. Lo gia đình, con cái đông anh à. Cha các cháu làm trên ty, có khi tối mịt mới về. - Thì ra, chắc họ nghi ngờ thôi - Dạ, đúng vậy anh, sau lên trại tôi mới biết chính xác là vậy. Chứ khi triệu tập tôi cũng không biết mình có tội gì. Tôi hoang mang vô cùng. Nội cái chức bí thư ‘hữu danh vô thực’ ấy mà cả năm trời tôi khổ sở biết bao nhiêu. - Miền trung gay go quá họa sĩ hả. Chú Tám nói tiếp: - Nếu như anh chị tôi vào Sài Gòn chắc không đến nổi như ngoài quê đâu, miền Trung nhất là liên khu 5, anh Thư biết chứ: Gay go nhất nước. - Biết, thời Việt Minh đã nổi đình nổi đám rồi, sau 1975 cũng vậy. Đây là lần đầu tiên tôi biết một cô giáo dạy học học tập cải tạo gần 2 năm. Không tưởng tượng ra nổi. Chú Tám tiếp: - Chị vào thăm các cháu rồi về hay có tính gì nữa không chị? - Ngoài đó, từ khi hồi hương về đến giờ chỉ tốn tiền, còn bao nhiêu tôi túc mục thuê mướn cải tạo lại mảnh vườn hoang hóa mấy mươi năm, sau khi vợ chồng tôi cải tạo về nhà không còn gì cả chú à, tôi định theo đứa học trò trong nầy bán quần áo chợ trời, để kiếm sống, bế tắc quá chú. Cả 2 ông ngồi tặc lưỡi, có vẻ cảm thông, chú Tám lên tiếng: - Tất cả những người làm việc cho chế độ cũ tại Sài Gòn nầy bây giờ người nào cũng trở thành bá nghệ, người chợ trời đa số, bán đồ nhà hầu hết, xích lô, xe đạp ôm… Nghe đến đây bà Giáo biết ngồi thêm cũng mất thời giờ, còn phải về, nên đứng dậy: - Chú Tám à, ở đây cũng đã vài tiếng đồng hồ rồi, tôi còn đi qua cô Một thăm tí, xin lỗi chú và nhà thơ tôi phải đi, không có thời gian nhiều, mong thi sĩ và chú thông cảm. Có tí quà quê gửi chú và các cháu cho vui. Tôi đi đây - Dạ, chị có việc, chị đi. Tôi và anh Thư còn ngồi chơi lâu. Bà Giáo cúi chào rồi cùng Dũng ra về. Dũng không quên: - Thưa chú Tám và chú Thư, cháu về. Hôm nào một mình cháu qua nói chuyện một bửa với nhà thơ lớn mà cháu kính phục. Chú Thư cười ung dung : - Được, tôi cũng thích anh. Chị và cháu đi nhé. Dũng chở bà Giáo sang nhà cô Một. Nhà cô kín cổng cao tường, Dũng nhấn chuông. Không có tiếng thưa. Lại nhấn chuông lần hai. Có tiếng thưa bên trong. - Ai đó? Cô mở cửa bước ra: - Ồ, chị Hai, mời chị và cháu vào. Hai chị em đi song song nói với nhau. Dũng đi sau. Cô rót hai cốc nước lọc đặt trên bàn. Cô ngồi sát bà Giáo. Dũng ngồi đối diện. - Mời chị và cháu uống nước. - Cảm ơn cô. Bà giáo nói - Chị vào bao lâu rồi, chị ở đâu? - Tôi mới vào hôm qua, hiện ở bên nhà vợ chồng con Tám Thủy. - Vậy hả? - Nghe nói ở Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận. Em cũng chưa qua. - Ừ, - Chị vào thăm hay tính làm ăn gì trong này - Trước là thăm gia đình cô và các cháu, sau chị tính ở trong này kiếm sống. - Nghe nói ngoài mình cực quá hả chị? - Làm ruộng phải cực thôi cô, mà các con tôi yếu đuối chưa quen, khó sống lắm. - Chị à, bây giờ ai cũng vậy. - Sài Gòn còn dễ chịu chứ ngoài ấy chẳng những cực mà cách sống cũng gay go. Chính quyền coi mình như công dân hạng hai. Từ ngày hồi hương đến giờ người không ra người, ngợm không ra ngợm, lây lất, tội mấy nhỏ nhà tôi lắm cô, chúng nó không được vào cấp III, Tôi sợ thằng Út cũng sẽ không vào được nên gửi đi Đà Nẳng để học và được vào trường cấp III. - Anh Hai ra sao chị, từ ngày anh về đến giờ sức khỏe thế nào? - Tưởng anh chết trong trại chứ! Anh về ốm nhách, mình đầy ghẻ chốc, cô không bao giờ tưởng tượng nổi đâu? Tội lắm cô. Bây giờ thì cũng ở nhà làm lặt vặt. - Hồi trước anh Hai là trưởng đội công tác, mỗi lần anh công tác Sài Gòn về nhà em chơi, Anh hai và ông xã nhà em hợp tính, say sưa nói chuyện em mới biết, mãi sau này, hình như năm 1972 anh mới làm ty phó mà ngoài ấy, họ làm gì đưa anh đi tuốt núi cao. Chắc ảnh thực thà khai báo quá. Có sao khai vậy, họ căn cứ ấy mà phân loại cho đi. - Tôi cũng hổng biết cô à. Ảnh thì thật thà quá đổi. - Anh Bảy, chị Chín, anh Mười nữa ra sao chị? - Chú Mười trụ dưới phố cũng đỡ, còn chú Bảy, chị Chín hồi hương cũng như gia đình tôi thôi, nhưng đỡ hơn vì chính quyền không chiếu tướng. - Sau 75 gia đình mình lao đao quá, phải chi hồi ấy anh chị vào Sài Gòn đâu đến nỗi. - Chuyện đi qua rồi cô à, có nói cũng chẳng được gì nào, bây giờ có giúp được gì không chứ nhắc làm chi, cô. Chẳng qua tai nạn thôi, mình cũng phải chịu. - Chị ở lại ăn trưa, có thể ông xã em về, nói chuyện với chị cho vui. Ảnh hay hỏi thăm anh chị. - Thôi cô à, để tôi và Dũng về chiều nó còn đi kiếm việc. Các cháu chờ cơm, tôi nói trưa về. - Vậy thôi, chị về hôm nào chủ nhật chị ghé có nhà em nói chuyện bữa. Ông xã nhà em chủ nhật mới nghỉ. - Tôi vào thăm có tí quà quê gửi gia đình cô cho có tình. Bà Giáo cùng Dũng ra về, - Dạ, cảm ơn chị. Cô khéo miệng, từ nãy cô say sưa nói chuyện với mẹ, xin lỗi cháu. Dũng nói: - Dạ, không sao cô à, Dũng và mẹ chào cô ra về. Buổi trưa Sài Gòn vẫn nhộn nhịp, hai bên đường hàng me với bóng mát tuyệt vời, đúng như Nguyên Sa viết: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Nhưng không còn em mặc áo lụa Hà Đông thôi. Ngoài đường lũ lượt các học sinh ra về, có điều Sài Gòn cũng chẳng còn chiếc áo dài nữ sinh thướt tha trong nắng như thời Hoàng Kim. Xe đạp trên đường dày cuội, từng tốp hai ba thong thả đùa giỡn trên đường phố. Đúng là: Tuổi học trò hồn nhiên như áo mới/ thuở vô tư trong trắng trước hiên đời (NDT). Có lẽ các em chưa bao giờ nghĩ cuộc sống vào đời gay go thế nào như Dũng bây giờ. Thong thả Dũng đạp xe chở mẹ, đi qua những những con đường nhựa bon bon, những dãy cao ốc tráng lệ, trào dâng cảm xúc: Rồi đây ta cũng đồng hành cùng người Sài Gòn, sẽ tắm gội cùng mọi người. GẶP CHỊ HUỲNH KIM Đạp xe tà tà trên đường Hai Bà Trưng chở mẹ đi trong buổi sáng sau khi café với người bạn, lòng anh sảng khoái. Cầu Kiệu và chợ Tân Định nhiều kỷ niệm với Dũng. Nhớ khi mới vào Sài Gòn chân ướt chân ráo, buổi tối có vài người bạn cùng quê học đại học trong này, tình cờ hôm ấy gặp nhau, ngồi với nhau ở quán cóc Trương Tấn Bửu, làm vài xị rượu với tí khô cá Nam bộ, nói chuyện huyên thuyên thời đi học, ngày trước Dũng cũng đã từng được đặt cho cái tên rất tự hào “Con ngựa chiến của lớp khi anh nhận giải toán concours nhất toàn trường” mà đại tá tỉnh trưởng Ngô Văn Lợi trao tặng. Cha Dũng là thầy dạy ở trường ngồi dự bên dưới dự lễ trao giải, ông rất tự hào về con trai mình. Phần thưởng chở cả chiếc xích lô. Ngồi nhớ lại cũng đủ làm vui trên bước đường tiếp tục hành trình gian nan. Tụi nó còn phải về ký túc xá, cuộc hội ngộ ngắn ngủi sau bao nhiêu năm không gặp. Mỗi đứa có một cuộc đời riêng chẳng ai giống ai, khi rời tổ ấm học đường, đàn chim tung cánh bay đi, mỗi con chim tự tìm cho mình một hướng bay, nhưng tình bạn thời trung học tuyệt làm sao mỗi khi có dịp ngồi lại trò chuyện. Dũng về nhà chú Tám, trò chuyện sôi nổi cùng chú về chuyện nhà, chuyện đời, ôi chao đủ thứ cả, say sưa tranh luận với chú quên cả thời gian. Đến 22 giờ tối. Chợt chú bảo: “Tối nay, công an khu vực xét nhà, cháu chịu khó đi ngủ chỗ khác nếu không, phiền lắm”. Dũng hoảng, còn chỗ nào nữa mà về ngủ, đồng hồ trên tay đã 22 giờ 30. Định thần lấy chút bình yên. Chẳng sao, ghé về chợ Tân Định café, xem quang cảnh chợ đêm, nghĩ vậy nhưng cũng buồn. Giá như sớm hơn đã đạp xe về Quận 8. Cuốc bộ xuống chợ, quán cóc Dì Tư café đêm của chợ Tân Định chưa có ai, Dũng ghé vào kêu ly đen, ngồi suy nghĩ chuyện đời. Nếu mình cũng vào được học như tụi nó giờ này cũng đã cùng bè bạn có lẽ vui lắm. Riêng chuyện đi cắt hộ khẩu nhập vào trường đại học, có thể viết được truyện ngắn hay tiểu thuyết, nhiêu khê vô cùng. Khi họ cố tình không cho đi học hình như có 1001 lý do, tuổi trẻ tức giận và nông nổi cự cải với chủ tịch xã, sém tí nữa bị nhốt. Thời ấy chẳng có luật lệ gì, ông chủ tịch xã là vua một cõi, chớ dại mà làm ông nổi giận. Cũng may là Dũng biết dừng lại. Một bài học chua xót nhớ đời và khi biết chắc cổng đại học đóng sầm và khóa chặt (không phải do nhà trường), từ ấy Dũng mới không bận tâm, không suy nghĩ về nó. Tìm hướng khác, tự an ủi mình: Nhiều con đường đến La Mã chứ đâu chỉ duy nhất một con đường. Mông lung suy nghĩ, dì Tư đem ly café đến làm cắt mạch suy nghĩ. Có thuốc gì không em? - Dạ, dì cho thêm 3 điếu Hoa mai. Dì mang ra tính tiền luôn, ở đây ai cũng vậy, dân chợ mà biết bao nhiêu người đem hàng rau củ quả tới uống rồi đi. Không lấy trước không thể nhớ. Đêm ấy, Dũng ngồi từ 11giờ khuya đến sáng, đúng là chợ đầu mối, sinh hoạt ban ngày lẫn ban đêm, không lúc nào ngủ. Lần đầu trong đời không có chỗ tá túc qua đêm. Quan sát mới thấy thú vị, xe hàng đến, người tài xế ghé quán dì Tư thoải mái café, thuốc lá. Tất cả hàng hóa nhịp nhàng tuần tự đến ai, bao nhiêu chỉ có một người ghi ghi chép chép và phân phối, được kéo đi bằng xe đẩy cùa đội quân cửu vạn chuyên nghiệp. Mọi thứ đâu vào đó. Lần sau mọi người trả tiền đợt trước, lấy hàng đợt sau. Cứ tiếp diễn như thế, nhưng chặt chẽ. Xong xuôi tài xế đánh xe đi, nhường chỗ cho người khác, tuần tự, trật tự từ một người có trách nhiệm ở chợ. Tản sáng, những chiếc xe cá nhân lần lượt tải hàng về các chợ lẽ cũng nhịp nhàng, mỗi người bao nhiêu thanh toán và rời đi. Rác ư? Một đống rác ứ hự công nhân vệ sinh chợ tập trung dọn dẹp. Tất cả rất bài bản, nhịp nhàng. Đúng 6 giờ sáng là trả mặt bằng sạch sẽ cho buổi chợ mới bắt đầu. Những khuân vác, những giao dịch ban đêm rút về, ngủ nghỉ vì cả đêm làm việc cũng đủ thu nhập để sinh hoạt. Dũng chợt nhớ bài học trong English for today III: Living in the big city, khi quan sát anh mới hiểu được văn sĩ ấy có lý. Sống ở thành phố lớn, thành phố không bao giờ ngủ. Văn là lý, thật đúng y như rằng. Một trải nghiệm tuyệt vời nếu như không có buổi tối khó hôm ấy làm gì anh hiểu được sự nhộn nhịp về đêm của một chợ lớn Tân Định, Sài Gòn. Dũng chở mẹ xuống chị Huỳnh Kim, lúc chị đang loay hoay trải miếng ny long sắp xếp, bày biện mấy chiếc áo quần cũ. Dũng đợi cho xong, khi người bán café đem cho chị ly café sữa nóng, Dũng mới lên tiếng: - Chào chị em đây. Chị Huỳnh Kim, nghe gọi chị ngước mắt lên: - Ô, chào cô và chào em. Em đậu xe vào uống café sáng đã rồi hãy đi em à. - Dạ. - Cô uống gì à, hay là bạc xỉu cô nhé, - Đúng rồi chị, mẹ em thiếu sữa mà. Em ghé chị café kho trong hẻm gọi luôn cho chị Kim, nhớ xin 2 cái ghế xếp. Bà Giáo và chị đã an tọa trên chiếc ghế. Trên vỉa hè Hai bà Trưng tiếp tục các phụ nữ bán chợ trời dần dần choáng cả cái vỉa hè. Mỗi diện tích 1.2 X 1.6 met bằng cả thửa ruộng mật, ở miền quê. Những gia đình ở chế độ trước cũng nhờ vậy mà mà nuôi con ăn học, khỏi cảnh “chà đồ nhôm” hằng ngày một đi không trở lại. Có điều cảnh giác đội cờ đỏ Phường đi chiến dịch dọn dẹp trật tự, các bà sợ đội này lắm, mỗi khi có lập tức trong vòng 2 phút mọi người túm lấy 4 chéo ny long vào hẻm, im thin thít. Chiến dịch đi xa còn ngoái đầu nhìn lại, mong anh đừng quay về mà khổ cánh chị em. Đoàn cờ đỏ đi qua, yên ắng, người ta lại dọn ra, các phụ nữ ở đây gọi là “Du kích miếng ăn” vừa bán kiếm sống vừa phải trông chừng, cảnh giác đội cờ đỏ này. Café trò chuyện với chị Kim chừng 30 phút, Dũng nói: - Chị à, cho mẹ em tập sự, giúp mẹ em nghe, ngày trước chị là học trò, bây giờ chị làm “cô giáo” trường đời, bày vẻ mẹ em, ít nhất vài ba ngày cho thông thạo rồi mới ra chiến trường chị nhé. - Ừ, em khỏi lo, để chị lo cho, thằng này lanh bà cố, cô à. Bây giờ để Dũng đi làm, cô ở đây với em, chung quanh ở đây đều là chiến hữu, phía phải em là chị vợ Đại úy Vinh sư đoàn 18 bộ binh, người huấn luyện em, bây giờ anh nằm ‘dưỡng lão’ ở Bố Lá. Nhà chị bên trong hẻm, nếu hữu sự là mấy chị em lủi vào hậu cứ trong đó, nước có sẵn cứ ngồi nhìn ra, chiến trường yên thì trở lại chinh chiến. Phía trái em là bà đầm Trung úy Thành sư đoàn 9 bộ binh, hiện tại ở Cà Tum, Bổ Túc, Tây Ninh không biết chừng nào thoát cổng. Chung quanh đều là đồng nghiệp phe ta hầm bà lần xí cấu. Còn đây là cô giáo cũ tiểu học của Kim, người vừa ra “cổng” hơn một năm ở tận miền trung quê mình. Cả dãy này đều như vậy cả cô à. Tuy không đồng nghề thời trước nhưng đồng nghiệp thời nay. Chị Kim giới thiệu khá hài hướt. - Bà Giáo gục đầu chào các đồng nghiệp tương lai. Cả bốn người cũng nhoẽn miệng cười tươi, nụ cười đầy cảm thông nhau. Dũng chào mẹ, chào các chị và chị Kim: - Mẹ ở đây với chị Kim, chiều con về đón mẹ, rồi Dũng nhổ neo lên đường. Nắng Sài Gòn lại ấm, chợ Tân Định nhộn nhịp hẳn lên, người tấp nập trên đường. Thành phố này là vậy từ hồi nào đến giờ. Lại nói về bà Giáo Vân như đoạn mở đầu, sau khi tập sự ba ngày cùng với các chị ở vỉa hè Tân Định bà đã chứng kiến được sự mua bán, cung cách bán mua, trao đổi hàng hóa, những đợt truy quyét đường phố của công an phường cùng với đội cờ đỏ ít nhiều cũng hiểu qua sự vụ việc. Thật ra cũng không khó như bà tưởng tượng khi ở quê nhà. Ba ngày dãi nắng dầm mưa, thực chứng trên vỉa hè Tân Định, Sài Gòn bà Giáo cũng rút ra kinh nghiệm và cách đối phó cho chính mình. Nhất là lúc có đội cờ đỏ truy quét đi qua. Sau ba ngày tập sự nhờ chị Huỳnh Kim hướng dẫn, bà đã tự kiếm ăn, thỉnh thoảng vẫn dành dụm gửi về nhà phụ nuôi ông Giáo. Thời gian vèo qua, qua tuần thứ ba, bà bị đội cờ đỏ bắt về phường. Kể từ chiếc áo Pylajacket, Bà Giáo gặp lại được người học trò cũ của bà đương là trưởng Công an phường Tân Định mà hôm sau đó bà kể lại cho các chị em bán đồ cũ, từ đó ai bán trên dãy vỉa hè Hai Bà Trưng cũng nể nang bà. Một hôm bà đang lom khom trải tấm ny long bày hàng bán, rồi ngồi đợi khách, một phụ nữ mặc áo dài ngồi trên xích lô, người xích lô chạy rà rà qua hàng bán đồ cũ. Thời bấy giờ áo dài dường như là xa xỉ, không phù hợp với sinh hoạt xã hội mới. Bởi ai cũng mặc đồ bộ. Sau 1975, cán bộ nữ giới phía bắc vào Sài Gòn, cũng như toàn miền Nam công tác hầu như chẳng ai có chiếc áo dài, các công sở chỉ toàn là quần đen áo cụt bà ba, hoặc quần tây kaki màu xám giống kiểu bộ đội, áo sơ - mi, dép nhựa, thậm chí các giáo viên cấp III, giảng viên đại học hay cán bộ thành phố cũng vậy, không thấy bóng dáng chiếc áo dài thanh lịch thướt tha. Chỉ cách ăn mặc của phụ nữ như thế đủ hiểu ngoài ấy thế nào, dù người ta có nói gì đi nữa, cũng không qua mắt được người Nam. Tuyệt nhiên mất tích chiếc áo dài thanh lịch không biết lý do! Tại sao có người mặc áo dài ngồi trên xích lô chễm chệ, một điều rất lạ. Ai cũng dòm ngó vào. Có lẽ chị dân sài Gòn đi dự đại lễ đám cưới của gia đình người miền Nam? Xích lô dừng trước hàng bà Giáo. Người phụ nữ bước xuống hàng bà giáo, gật đầu chào bà, bà Giáo vồn vả bước ra. - Chào chị. Chị bán gì vậy? Người phụ nữ chưa trả lời bước tới trước bà Giáo, thầm thì: - Cô mua chiếc áo dài này không? Vừa nói chị vừa mở ra, hộp đựng áo bằng cạc tông màu trắng rất sang trọng chứng tỏ có giá trị. - Mua chứ cô. - Đây là chiếc áo dài của bà Thiệu, sau 75 người giúp việc của ông bà Tổng thống đã đem đến nhà em nhiều thứ lắm, em mua khá nhiều, nhưng bán lần hồi sắp hết. Áo dài này em rất thích vì bà Thiệu thường mặc khi tiếp xúc các chính khách hay cùng Tổng thống đi dự đại lễ quan trọng. Em tiếc lắm, nhưng kẹt quá, hôm nay đám cưới con đứa em ruột, chẳng lẽ làm chị không có quà cho cháu, nên em quyết định bán. Nếu cô mua em để lại. Có thể mai mốt em có tiền ghé chuộc cũng được, coi như cô giữ tạm thời. Giọng chị có vẻ tha thiết. Bà giáo ngập ngừng, không biết thế nào, thực giả ra sao? Bèn ngoắc chị Huỳnh Kim, chị vợ Đ/úy Vinh và chị vợ Tr/úy Thành. Ba người bàn bạc bạc ngay tại chiến trường, cuối cùng ai cũng xúi bà Giáo lấy. Bà Giáo ủy quyền cho chị Kim giải quyết ngay tại mặt trận. - Khi nãy chị nói với cô 5 phân, (bấy giờ vàng chui với giá 49đ/ chỉ), thời nầy chẳng ai mua áo dài làm gì, hàng nằm lâu lắm may ra mới có người mua chị à. 20đ đi chị, nếu được cô mua cho, giá vậy là cao, chúng tôi cũng là vợ anh em sĩ quan quân đội cũ, biết giá trị nó nên mua liều, chứ chị đi sang hàng khác mấy em không biết giá trị mua chị chừng 5, 7 đồng. Chị ấy có vẻ ngần ngại, phân vân, cò kè với chị Huỳnh Kim: - Hồi ấy em mua cả lượng vàng đó chị à. - Hồi ấy khác, bây giờ khác chị à, chị không tin mang đi nơi khác mà hỏi. Em chắc chắn luôn bán buôn ở đây em hiểu mà. - Chị gửi thêm 2đ trả anh xích lô. Từ sáng anh chở tôi từ Q1 sang Phú Nhuận, được không? - Được không cô? quay sang bà Giáo chị hỏi - Tùy em định liệu. - Thôi được, chị ngày trước làm gì? Chị Huỳnh Kim hỏi - Tôi dạy văn, ở đại học Văn khoa. - Ô, chị giảng sư đại học à? - Vâng Chút ái ngại đồng hoàn cảnh, chị Kim đồng ý. Khi cầm lấy chiếc áo có vỏ ngoài rất sang trọng với dòng chữ: Kính tặng bà Tổng Thống, chị Kim cũng mừng cho cô. Trước khi đi, chị ấy còn nói: - Cảm ơn chị, tôi sẽ gặp lại các chị sau. CÂU CHUYỆN CHIẾC ÁO DÀI Buổi trưa hôm ấy, vào nhà chị vợ Đại úy Vinh cùng ăn trưa, chị trực nhớ lại hình như lúc đặc cách tại mặt trận bà Thiệu mặc chiếc áo này chăng? Chị mở tủ lấy mấy tấm hình màu polaroid của ông xã trong đó có vợ chồng Tổng Thống. Nói với bà Giáo: - Cô à, em thấy áo này hoa văn giống áo bà Thiệu mặc kỳ đặc cách nhà em lên đại úy, cô xem nè, rồi cả ba xúm xít xem kỹ lưỡng tấm hình có chiếc áo. - Có thể lắm cô à. Mấy vệt phía trước ngực áo giống quá, chẳng qua là màu sắc không giống thôi vì nước ảnh xuống màu. Chị Thành cũng xen vào - Có thể đúng lắm cô à, em cũng đồng ý với chị Vinh, chị Thành. Chị Huỳnh Kim có vẻ đắc ý. Đến khi bà Giáo Vân cầm tấm hình, bà săm soi, ông Tổng thống đang gắn cái gì trên ngực, anh Vinh đặt tay lên trán chào, oai vệ quá. Lật phía sau có dòng chữ “Kỷ niệm, Ngày Tổng thống gắn galon Đại úy, 1973”. Bà quay sang chị Vinh: - Anh Vinh xinh trai và oai vệ quá, chắc hồi ấy chị Vinh sung sướng lắm. Nét chữ cũng lã lướt, bay bướm quá. - Dạ, anh ấy hồi trẻ đẹp trai cao lớn, khi đó em đang học trường Luật, mỗi lần về phép anh ghé trường Luật, đón em dạo phố mấy đứa bạn em thấy ảnh phong độ đứa nào cũng nói em có phước có bồ điển trai và biết ga lăng lại hào hoa nữa. Bọn em cưới nhau năm 73. Sau ngày anh thăng chức được nghỉ phép anh về mang theo mấy tấm ảnh đó cô à, Năm 1975 anh rủ em đi, chỉ cần lên sân bay là đi thôi, em thương cha mẹ em nên cản, cuối cùng anh nghe em ở lại, bây giờ cực quá mỗi khi đi thăm anh, về cứ nói với bạn bè ngày trước đứa nào cũng nói tao có phước, bây giờ cực trần thân. Nhiều khi thương anh ghê. Em thường xuyên đi thăm, cứ vài tháng đi một lần. - Ở đây ai cũng vậy mà, sông có khúc người có lúc. Bà Giáo an ủi. Chị Thành chen vào: - Cô à, chị Vinh làm như chị cực lắm, ông xã em tuốt Cà Tum, Bổ Túc, Tây Ninh nhưng tận biên giới Việt Miên mỗi lần đi về vài ngày đường, nhất là lội rừng vào đến chỗ anh thăm thẳm chiều trôi, em còn chưa nói gì. - Em Thành à, cô cũng có đứa con sư đoàn 9, đang ở Cà Tum, Bổ Túc. Khi nó về quê thăm năm 74 nó chỉ thiếu úy thôi, mấy lần Dũng con cô đi thăm, cô ước được đi thăm nó một lần nhưng chưa được, khi nào em đi cho cô đi theo với. Nhớ nhé. Bà Giáo nói - Dạ được cô à. - Hôm ấy, nếu được cô và em Dũng đi cùng. - Em, cứ vài ba tháng là tiếp tế, em mới đi hôm trước, sau lúc cô bị bắt mời về phường vụ chiếc áo Pylajacket. Cũng mới đây thôi mà - Cô nói để cho lần sau, em báo trước cô chuẩn bị. Từ ngày nó đi biền biệt đến giờ chỉ có thằng Dũng xông xáo biết đường thăm nuôi, cô cũng đã nói với nó, nhưng cứ lần lửa hoài, chỉ biết gửi thư tay cho nó đỡ tủi thân. Chị Kim nãy giờ nghe đến Năm cô con cô Vân, chợt nói: - Cô à, em nghe Dũng nói, là có thăm anh Năm em, nhưng bao lâu nay em quên hỏi thăm cô. Năm ở Cà Tum, Bổ Túc cũng gần mà cô, đây lên đó khoảng 150 cây số à. Không khó đi, cô cũng nên đi một chuyến. - Dũng nó biết, cô chưa bao giờ đi cả. Kỳ này có vợ Thành đi tháp tùng một lần thăm con, chắc nó mừng lắm. - Dĩ nhiên rồi cô, ai trong trại cũng vậy thôi. Thân nhân lên mừng lắm. - Khi nào em Thành đi cô sẽ cùng đi cho bằng được. Tóm lại là cô Giáo Vân hôm nay có chiếc áo dài bà Tổng thống là cả bọn vui. Sau này đấu giá chắc nhiều tiền cô à. Biết đâu điều ấy sẽ xảy ra. Làm sao mà biết được. Phải chi cô dư dã, em nào muốn lấy cô nhường lại, biết đâu. Nhiều người nổi tiếng khi mất đi, người đời sau đấu giá, có khi cả gia tài đời người. - Huỳnh Kim, hay là em lấy đi gửi cho cô uống café thôi, ý đó cũng hay, có em mau miệng mới có chiếc áo này, chưa biết đúng sai thế nào nhưng chị thấy gần giống với tấm hình trong bức ảnh của anh Vinh, chị nghĩ xác suất 50 - 60% đúng. Chị Vinh nói với Kim Đến lượt chị Thanh: - Kim không lấy tao lấy đừng ân hận nhé, Kim với Thanh cũng thân nhau, 2 ông xã cùng học một khóa Quang Trung, cả hai đều 2 mai. Thỉnh thoảng cũng đi ăn uống chung nghe nhạc hay xem phim. - Để suy nghĩ nhé, đây là số của cô, nên để cho cô, chứ lấy thì ok có gì đâu. Ý chị Vinh sao? - Cô đã nói rồi, cô còn khó làm sao cô bỏ ra gần 5 phân, chắc gì bán được liền, em lấy đi gửi cô 5 phân coi như kỷ niệm một thời chợ trời với bọn mình lúc thay đổi. Huỳnh Kim nói: - Hay là chị Vinh lấy đi, chị có tấm hình em nghĩ ai thích mua cũng có bằng chứng. Với con mắt tinh của em là đúng áo bà Thiệu mặc lúc trong ngày trao huy chương cho anh, hay đó chị à. Với tụi em bỏ ra 5 phân để đầu tư bây giờ là lớn lắm, nhưng với chị bình yên mà. Mai mốt anh về, chị khoe với anh. Bà Thiệu tặng chị, anh hết hồn cho coi. - Bây giờ chị hỏi thật tình nhé nghĩa là không ai lấy phải không? Thành, ý em thế nào? - Em với Huỳnh Kim nhà cửa đâu có, tha phương chạy cơm gạo. Chị lấy hợp lý nhất. Quay sang bà Giáo, cô à vậy em lấy cô nhé, coi như một kỷ niệm. - Ừ, các em nói phải, dầu gì em cũng khá nhất ở đây, lại có nhà cửa và cả bức hình, mai mốt nếu có người mua lại họ cũng vững tin hơn, bằng chứng rõ ràng, còn không ai mua em nói sau chuyến đi ấy bà Thiệu tặng cho phu nhân đại úy Vinh cũng vinh dự vậy. Hơn nữa, cô giảng sư Văn khoa nói là sẽ một ngày trở lại để chuộc, cô nghĩ cũng có thể xảy ra. Chị Vinh đưa lại 5 phân cộng chút lời cho cô Giáo Vân, hôm ấy coi như lời lãi được khá nhiều. Bà Giáo mừng rơn trong bụng lần đầu được như thế. Cả ba cùng dời đô ra tiếp tục bán mua buổi chợ chiều. Buổi chiều Dũng chở mẹ về, bà Giáo kể lại, Dũng cũng mừng lắm: - Mẹ à, bán chợ trời cũng như đi câu vậy, có khi ngồi cả ngày chẳng có mẻ lưới nào, song được một mối cũng sống được cả tuần, vì vậy người ta mới sống nổi với thời đại này. Con biết mẹ vất vả, nhưng làm sao bằng quê mình, làm trần thân cật lực cả ngày như con có 800 gram lúa, quy ra tiền có bằng ly café trong này. Sài Gòn dù sao cũng sống dễ là vậy. - Con à, ghé chợ Phú Nhuận mẹ mua thứ gì cho các cháu, từ ngày vào đến nay chưa mua gì làm quà cho nhà cô Tám, để các cháu mừng bà ngoại. - Phải đấy mẹ, hôm nay mẹ trúng mánh mà. - Tổ cha mầy. Dũng dừng trước quày trái cây, từ khi nào đến giờ bây giờ bà Giáo mới có dịp vào trong chợ Phú Nhuận, trời ơi mùa đông mà trái cây phong phú quá, đủ cả các loại trái cây, nếu như ngoài quê cùng lắm là chuối và mừng quân. Thì ra miền Nam quá ư sung sướng, chỉ làm ra tiền là khó còn mọi sinh hoạt đời sống quá tuyệt vời. Bà mua 2 kg xoài cát Hòa Lộc, về tráng miệng buổi tối. Hôm ấy, cô dượng Tám cũng vui nghe bà kể lại mua chiếc áo dài “bà Thiệu”, câu chuyện làm rôm rả không khí trong nhà. Khi cả nhà vừa ăn xoài khen đáo để, vừa trở lại đề tài áo dài. - Cũng có thể lắm chứ mẹ, phải chi có tiền cũng nên để lại kỷ niệm mẹ hả. Cô Tám nói - Ừ, mẹ cũng nghĩ vậy, nhưng bây giờ tiền để đối phó với đời sống là quan trong nhất. Khi chị Vinh gửi tiền mẹ mừng nhưng không dám ra mặt, sợ các chị coi thường, nói vậy chứ mình cũng phải giữ kẻ con à, mình nghèo mình biết. May là chị Huỳnh Kim cũng giúp mẹ và các chị cũng yêu thương. Bà Giáo thấy cuộc đời bôn ba bương chải Sài Gòn xứ người cũng có những điều rất thú vị. PND (CÒN NỮA/ CHƯƠNG 15)
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN Chương 15: BỨC THƯ CỦA MẸ Kể từ khi vào Sài Gòn kiếm sống, đành rằng cũng đắp điếm được áo cơm, còn giúp chút ít về nhà, nhưng đã quá nhiều những chua xót, từng tuổi này không gần được với ông. Nhiều lúc cũng muốn quay về, nhưng thực sự tiến thoái lưỡng nan. Buổi chiều bà về sớm hơn mọi hôm, chợt nhớ ông, nhớ nhà. Bà viết thư cho ông: Mình và các con à, Thấm thoát cũng đã mấy năm tôi vào Nam, lăn lóc kiếm sống ở xứ người, cuộc sống cũng dần bớt cơ cực về tiền bạc, đắp đổi được, đôi lúc tôi nghĩ lại cũng thấy nỗi buồn tê tái. Từng tuổi này còn phải bôn ba, bương chải, không cùng ông tâm sự, trong ngôi nhà của chính mình để được đầm ấm cùng nhau. Tôi biết, con cái không thể như tôi và mình mặc dù chúng nó đứa nào cũng yêu thương, giúp đỡ. Người luống tuổi như mình xa nhau lâu sao khó quá. Tôi suy nghĩ hoài nhưng chưa biết khi nào mới hội đủ điều kiện hoặc là vào trong này hoặc về lại quê nhà. Về quê thì sống ra sao khi không có cái gì để thu nhập, ruộng vườn thì cũng phải thuê mướn, tiền đâu, chẳng lẽ mỗi lần khó cứ xin con cái, phải chi các con khá giả, đằng này cũng chạy hụt hơi để có cái ăn cái mặc, còn ở trong này thì cứ canh cánh lo ngoài ấy không biết ông thế nào? Các con có đủ nhẫn nại để chăm sóc ông. Tôi định về thăm khi tết sắp tới. Ngày giáp tết trong này bán mua cũng ít hơn, người ta lo sắm sửa tết. Qua 20/ chạp tôi về với ông trong mấy ngày tết để nhang khói ông bà cùng ông, nếu thong thả qua tết tôi lại vô. Thanh và Út thế nào, có lạc quan sống không, mình cố khuyến khích chúng con nhé. Mình nhắc các con chăm chỉ giữ mảnh ruộng, ruộng nhà mình giai giai ngạn ngạn, bây giờ nhà nước chỉ để cho mỗi miếng ấy, cố gắng, cấy hái thu hoạch để lấy lúa ăn. Có thiếu thốn gì tôi và Dũng cố gắng gửi về trang trải. Nguyện ơn trên phò hộ cho mình và các con mạnh giỏi Yêu thương mình và các con” Thân yêu, Tôi Ra ngoài, đường phố vẫn đông đúc, náo nhiệt. Thành phố năng động bậc nhất này mọi thứ vẫn qua đi từng giờ đến kinh khủng, cơn mưa bất ngờ ồn ào trút nước, cả dòng người áo mưa khoác vội, mười lăm phút rồi qua đi, nắng lại lên. Một bóng mẹ già còm cỏi gánh quang gánh oằn vai ve chai, lầm lũi từng bước chậm chạp, phận người trần gian cứ chập chùng đi qua mắt bà không ngưng nghỉ. Ôi chao, thì ra thành phố đầy đủ cả, thượng vàng hạ cám đều hiện diện với nhiều cung bậc khác nhau. Sang giàu và nghèo khó hai mảng tương phản lúc nào cũng song hành tồn tại. Bức tranh cuộc đời rõ nét nhất ở những thành phố nầy. Năm 1986, cả nước bắt đầu cuộc đổi mới lịch sử, đã 11 năm qua mọi hình thái kinh tế bao cấp HTX hình như nghẹt thở ở nông thôn lẫn thành thị, nổi nhọc nhằn và loay hoay cải thiện kinh tế chẳng thay đổi khá hơn, ngược lại bế tắc. Thành phố này bắt đầu thông đường tiếp vận kinh tế, lương thực nông sản từ miền tây, miền đông được cung cấp trở lại, các chốt kiểm soát dần bãi bỏ, hàng hóa có vẻ đầy lên hơn, các chợ lớn hầu như hàng hóa sầm uất hơn, các hoạt động kinh tế tư nhân bắt đầu départ trở lại, các quày hàng bán hợp tác xã dần dần mất đi rất yên lặng. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cung cách thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Kinh tế nhà nước vẫn chủ đạo, kinh tế tư nhân còn nhỏ lẽ, từ từ thôi chứ biết sao bây giờ, dù vậy vẫn có sự tiến bộ rõ rệt. Người dân bắt đầu vận hành theo ý thức và suy nghĩ mình, chừng một năm sau cải thiện đời sống rất nhiều trên các đô thị miền Nam, cái ăn cái mặc dần được cải thiện. May thay. Một bài học lớn cho miền Nam là chỉ có trở lại với kinh tế thị trường may ra mới cải thiện, kinh tế bao cấp đã làm khổ toàn dân, thậm chí đói khát trầm trọng. Năm đó là năm cuối cùng bà Giáo Vân rời Sài Gòn để về quê để được cùng ông thân mật chuyện trò trong ngôi nhà của chính mình. Không nơi nào trên trần gian yên bình và tự do bằng nhà mình – Đó là chắc chắn dù chật hẹp và nghèo khó đến đâu. Bà quay về chốn cũ trong ý thức về sự bình yên ấy. Chương 16 BỨC THƯ CỦA CHA Năm ấy, vợ chồng Dũng đã mua được căn nhà nhỏ ở Bình Thạnh, sự miệt mài của vợ chồng Dũng cũng được đáp đền, trời đất ban ơn phước, vuông nhà nhỏ ấy là công sức của mồ hôi, nước mắt thậm chí máu xương. Cuộc sống là trường tiếp diễn liên hồi, chẳng thể ngơi nghỉ, đời người cũng vậy, liên tục chinh chiến, cho đến khi không còn trên thế gian mới thôi. Mỗi đời sống nhu cầu của gia đình càng ngày sẽ nhiều hơn, ráng thêm tí nữa em nhé, cái nghèo vẫn đeo đuổi, mọi sự anh biết rất khó, tuy vậy vẫn phải cố gắng không ngừng. Buổi chiều, đi làm về nhận được thư từ quê nhà gửi vào, anh mừng lắm, Bức thư cha viết: “Vợ chồng các con thân mến, Nghe mẹ nói các con đã nổ lực phi thường và giờ này các con ngồi trong ngôi nhà mà chính các con tạo dựng nên, chắc chắn các con rất vui. Cha mừng lắm, các con bắt đầu sự an cư, an cư mới lập nghiệp, cổ nhân quả chẳng sai. Chắc các con vất vả lắm, ấy là đương nhiên bởi các con tự thân lập thân, cật lực không có ai để dựa dẫm, điều ấy cha càng tự hào. Nếu như cha mẹ khá giả cho các con, thì có gì tự hào, chính các con làm được điều không dễ ấy mới tuyệt vời làm sao. Hãy thật sự nỗ lực và siêng năng, siêng nhặt chặt giỏ, dù không giàu có nhưng cũng qua ngày bình an. Có điều, cha mong các con dù thế nào cũng phải lương thiện làm ăn, đừng tham lam của phi nghĩa, nhớ ơn người giúp mình. Với các con sống phải trách nhiệm với bản thân, gia đình, dân tộc và tổ quốc, biết đỡ đần tôn trọng và yêu thương, chỉ có chủng tử yêu thương mới trường tồn, còn những điều khác chỉ là phù phiếm trong cõi nhân gian mịt mùng. Các con hãy biết nhẫn nhịn và tha thứ, trọng danh dự chính mình, chính danh dự làm nên nhân cách tuyệt vời nhất cho đời người. Điều này rất khó nhưng không phải không làm được. Tiền tài và danh lợi đầy rẫy ma lực, lơ đễnh sẽ dễ bị cám dỗ không còn là chính mình, có khi hệ lụy thế hệ sau. Nghèo cho sạch, rách cho thơm, danh dự cao cả nhất của con người có nhân cách trên trần gian. Các con hãy nhớ lấy lời cha. Lời ngắn, tình dài. Mong các con bình an, giữ lấy lề phong gia trong đời sống quá nhiều biến động và cạm bẫy nhất là sống trong đô thị lớn. Cha bịnh quá, có lẽ di chứng của ngày tháng trước với rừng thiêng, nước độc và đời sống kham khổ. Nếu ngoài này gánh gồng được thì thôi, bằng không cha sẽ vào chữa bệnh và nhân tiện thăm các con cháu. Yêu thương các con cháu. Cha Dũng đọc xong bức thư, rồi đọc lại cho vợ nghe, một tình yêu dành cho ông rất lớn trong trái tim vợ chồng Dũng. Chợt vợ anh nói với tấm lòng từ trái tim: - Anh à, có thể các di chứng xưa giờ cơ thể cha suy nhược bùng phát, khi cơ thể yếu mọi bệnh tật có thể hoành hành, em nghĩ: “Hay là chúng ta mang cha vào mà cố gắng chữa cho cha, dù sao ở đây phương tiện cũng tốt hơn ngoài đó biết đâu cha sẽ đỡ ra, sống thêm được năm bảy năm. Cha vốn ít nói, nhưng khi nói ra chắc là cũng đến độ cơ thể chịu không nổi nữa”. - Tuyệt quá em, bây giờ chúng ta còn quá khó khăn, nhưng với tấm lòng mình thì: Khó tính theo khó. Cảm ơn em vì anh mà em đã chẳng quản ngại. Dũng cảm thấy tuyệt vời sự yêu thương của cô dâu hiền lành nhưng thẳng thắn với tâm hồn quảng đại. Thật là hạnh phúc vì vợ anh hiểu và cảm thông. Gia bần tri hiếu tử là vậy, ơn trời còn dung cho cha, cho mình. Thì ra mọi sự trên đời tất cả do duyên mà nên. Niềm vui trổi dậy không thể tưởng được. Dũng hát: Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao... Chỉ có tình yêu thương mới làm đẹp tâm hồn, điều ấy bất biến trong cuộc sống này. - Hay là anh viết thư về mời cha vào thăm luôn, cũng là nguyện vọng của cha, hơn nữa cha chưa biết mặt cháu sau của ông, phải đấy anh. - Vậy nhé. - Em đã nói rồi, anh cứ như thế, như thế. PND (CÒN NỮA/ Chương 17)
TiỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN Chương 17 CHA VÀO NAM Chiếc xe ôm chở cha và mẹ vào tận nhà đúng địa chỉ trên miếng giấy. Cha vẫn vậy, áo sơ mi trắng, quần tây đà bỏ áo trong quần, sandal da từ thời trước còn lại, thói quen ấy từ khi Dũng lớn đã thấy như thế. May quá, bà xã Dũng vừa đi chợ về rất đúng lúc, nếu không có lẽ cũng khó cho ông bà. - Chào cha mẹ, vào nhà đi. Vợ Dũng lên tiếng - Con về đúng lúc quá. Ông bà Giáo bước vào. Đám trẻ nhỏ và một vài người hàng xóm hiếu kỳ đã đến trước sân, vài người võ đoán: - Bác trai giống chị lịch sự quá, chắc trước đây cũng ngon lành đàng hoàng lắm, Sen Vợ Dũng cũng vui lây. Trả lời: - Không phải đâu, cha mẹ anh Dũng. - Dòm kỷ giống chú Dũng nè. Và rồi mọi người hỏi thăm đôi câu xả giao cũng ra về, nhường chỗ lại cho gia đình, cha mẹ ngồi ghế, chị rót 2 ly nước sâm ở nhà nấu mời nước. Cha ôn tồn nói: - Mừng cho các con có chỗ chui vào ra trong thành phố này, dù là căn nhà như thế này. Bây giờ nó tuyềnh toàng vậy, nhưng từ từ nó sẽ đầy ra các thiết bị trong nhà. Cha mẹ nhận thư các con, cảm ơn các con đã yêu thương và nghĩ đến cha, cha mấy lúc nay trong người mệt quá, chẳng biết cơ thể thế nào, mẹ giục cha nên vào sớm trong này, may ra phước chủ may thầy, có đỡ gì không, chứ ngoài ấy vô vàn khó khăn. Sinh tử là mệnh không thể biết trước con à. Dũng đi làm hả con? - Dạ, anh đi làm thường chiều mới về, cha mẹ rửa tay uống nước, nghỉ ngơi chơi với mấy nhỏ con. Vừa nói chị vừa dẫn 2 đứa con, chào ông bà nội đi con: - Con chào ông bà nội. Hai cháu còn lạ lẫm bỡ ngỡ, có vẻ ngần ngại. Buổi cơm trưa rất đầm ấm giữa con cháu, ông bà vui lắm. 2 cháu quấn quít ông bà, sợi dây thiêng liêng dòng máu bao giờ cũng nhanh chóng làm gần gũi nhau. Chiều hôm đó, Dũng đi làm về sớm. Pha bình trà bắc – Anh cũng thường uống, cùng cha mẹ ăn mạch nha với bánh tráng, chút quà quê của ông bà mới đem vào. Vốn cả ông và Dũng hảo ngọt, hơn nữa vừa ăn uống trò chuyện cũng thú vị, nhất là được nói chuyện với cha, rất lâu chưa được ngồi cùng cha. Mẹ cùng ngồi trên với vợ Dũng, cha và Dũng ngồi dưới bàn. - Con đi làm có gần đây, công việc có nhẹ nhàng thoải mái không? - Dạ cũng gần và thoải mái cha à - Các con sống ở đây thấy thế nào so với quê mình? - Người Sài Gòn vốn có truyền thống hào phóng và rộng rãi, ý tưởng phóng khoáng, không để ý đến ai, người nhập cư vào đây, chẳng chóng thì chầy cũng hòa nhập cách sống của họ, con nghĩ ai cũng muốn nhưng vì hoàn cảnh và điều kiện ngoài Trung, Bắc khắc nghiệt quá từ đời nào đến giờ nên dè xẻn tiết kiệm, lần lần thấm ý nghĩ ấy, ăn tận máu nên ky bo, chứ phóng khoáng ai chẳng thích, rất dễ chịu. Việc mình mình lo, không quan tâm người chung quanh lắm, không như ngoài mình để ý quá nhiều đến người khác. Ấy là cái hay. Còn ngoài quê mình người ta để ý mọi thứ, từ bộ độ cho đến chiếc xe, khá hơn thì ghen, nghèo hơn thì khinh, trạng thái tâm lý ấy khó mà quảng đạt, khó mà độ lượng. Từ khi các con về ở đây, ai cũng quý mến, nể nang. - Vậy là tốt rồi, cha nghe mà vui. - Có điều họ chơn chất, mời mọc thì hoan hỉ đến với nhau, đừng câu nệ, chung quanh đây ai cũng vui vẻ với các con cả. Họ thích mời rượu, con cũng cố gắng hết mình với họ. Họ thích nhậu, chiều về rủng rỉnh mấy đồng là xúm xít ngồi lại, có khi vì phải không cũng phải chìu lòng họ cho vui, từ đó mình cũng vui lây. - Xã giao thì được nhưng cũng chừng mực con nhé. Cái gì cũng vậy không nên thái quá, sẽ mất cân bằng, nhất là rượu bia. Cha cả đời không uống rượu bia, cũng có sao đâu, thời trước cha đi làm nhiều cuộc hội họp sum vầy, tiệc tùng vui vẻ lắm, nhưng cha vẫn từ chối hết mực, có ai ép đâu nào. - Thực ra cha không uống từ đầu, con nghĩ cũng cái gì cũng có hay, tuy nhiên phải biết tiết chế, khi nào dừng, đó là vấn đề cha à. Trong quyền lực cũng vậy, nhiều người tham quyền, không lường trước được khả năng mình, sức cùng lực kiệt vẫn cố vị. Lẽ ra họ nên nghỉ, nhường lại cho người khác, vừa được người sau nể trọng, vừa được nghỉ ngơi thanh nhàn, lợi lạc cả hai, khổ thay, không chịu, cái ấy gọi là tham địa vị, địa vị càng cao lòng tham càng lớn. Sai lầm lớn của đời người là vậy. Trong bàn rượu nhiều cái cũng hay lắm, người Nga có ngạn ngữ “Trong rượu có sự thật” khi người say nói mình mới hiểu nỗi niềm của họ, lúc tỉnh không khi nào thổ lộ, theo con là vậy. - Thời trước, Quan là phụ mẫu chi dân, nghĩa là quan như cha mẹ, cha mẹ bao giờ cũng hy sinh cho con cái – Nghĩa là hy sinh cho dân, điều ấy là đúng, chuẩn mực. Các con có con cái, cha ví dụ rất đơn giản để con hiểu, nhà nghèo không đủ cơm, cha mẹ phải nhịn cho con cái dù rát ruột cũng phải chịu, như thế mới xứng đáng. Bây giờ con thấy quan nào hy sinh cho dân, thậm chí còn bắt chẹt khi người dân yếu thế, đây thực là một tệ hại cho xã hội. Dân có no ấm họ mới kính quý quan, bằng không sẽ ngược lại. Một điều đơn giản vậy nhưng họ đâu đoái hoài, vô lý. Sự tồn tại vô lý nhưng là sư thật. - Bây giờ cũng có, nhưng hãn hữu. Chỉ những khẩu hiệu đơn điệu và nhàm chán đến kinh hoàng. Tại sao như thế, cha? - Dễ hiểu thôi con, người ta không có khái niệm dân là trọng tâm của tổng thể xã hội. Một sai lầm lớn của sự kiêu mạn và bạo lực. Chẳng qua là thiếu vắng tình yêu, tình yêu thương là nhân tố tiên quyết, chỉ có tình yêu bao dung và cao cả mới chấn hưng được lòng người. Cho đến bây giờ, cha nghĩ chỉ thống nhất về địa lý chưa thể thống nhất lòng người, đừng nói chi đến lòng dân tộc, tình dân tộc, tự tình dân tộc. Tình dân tộc và nghĩa đồng bào nó như một hệ luận của đất nước dẫn đến sự đoàn kết, sức mạnh và phú cường cho tổ quốc. Đây là một triết luận chuẩn mực mà bất cứ chính khách, người lãnh đạo có tri thức cũng phải học, phải biết và phải hiểu. - Lẽ ra đã hơn mười năm bộ đầu phải đào tạo bài bản lãnh đạo từ phường xã trở lên để thay thế số lãnh đạo một thời vì thiếu nhân sự nên sử dụng tạm thời. - Đúng vậy con à, ngày mới thống nhất, không đủ cán bộ để đảm trách, có thể dùng tạm những người kém hiểu biết bởi phải bảo vệ thành quả cách mạng còn non yếu. Còn bây giờ, tại sao cán bộ thiếu, yếu về sở học, thiếu yếu về kiến văn, đây là vấn đề của xã hội. Thế hệ các con đã xong tú tài, những gia đình đủ sự tin cẩn cho chính thể, tuyển chọn vào các học viện hành chánh, mười năm sau, mười thế hệ ra đời làm sao không đủ quản trị đất nước được. Đó là sự quản trị yếu kém của xã hội và sự đền ơn của những người đóng góp thành quả, nhưng thiếu gì cách đền ơn, không thể để kẻ yếu kém chuyên môn vào bộ máy được, tức khắc sẽ trì trệ. - Cha à, phải chi người ta đừng kiêu mạn, giữ những người tài giỏi về chuyên môn tiếp tục cho làm việc thì hay quá. - Đúng vậy con à, nhiều người miền Nam rất giỏi học hành ở các quốc gia văn minh những đại học lừng danh của Pháp, Anh, Đức, Ý… tuyệt vời lắm, không ưu đãi thậm chí bị ngược đãi, nên lần lượt người tài ra đi hết, thậm chí đánh đổi cả số phận. Tái thiết đất nước rất cần những cái đầu giỏi như thế. Một người tính bằng cả trăm, nghìn người làm. Anh à, để cha tắm rửa còn nghỉ nữa, đi cả vài ngày đường rồi, say sưa quá, dọn dẹp bàn đi. Cha đi tắm rửa còn dùng cơm chiều cha à. Vợ Dũng lên tiếng mới chấm dứt. * * Mẹ Dũng – Bà Giáo Vân muốn về cùng gia đình ngoài quê, bà rất xuýt xoa và phân vân, ở trong này cũng chẳng xong, ra về ở luôn ngoài ấy cũng chưa ổn, chẳng lẽ bà phân thân. Người mẹ nào không yêu thương con, trong khi các con còn nhiều thiếu thốn. Cuối cùng bà mạnh dạn trình bày, sau khi gặp tất cả các con trong thành phố này. Buổi tối, trước khi trở về quê nhà, Bà Giáo nói: - Mẹ phải về thôi các con à, ruộng vườn nhà cửa, cả mồ mả ông bà ai quán xuyến được nếu không phải là mẹ. Bây giờ đứa nào cũng đã có gia đình, như vậy mẹ cũng an lòng. Mẹ đã nói với cha rồi, trong này các con còn phải làm việc và sống, đã một tuần nay mẹ ở cùng các con, mẹ hiểu ý từng đứa. Mỗi đứa có cái khổ riêng, không cần các con phải nói mẹ đã nhìn thấy hết cả hoàn cảnh lẫn điều kiện của các con. Những nhọc nhằn cùng những nỗ lực ấy rất quý, ráng lên các con à, mẹ để lại cha các con cố gắng chăm sóc bữa ăn và thuốc men, như vậy cũng quá sức các con rồi. Lòng tốt và hiếu kính của các con mẹ đã cảm nhận. Lòng tốt bao giờ cũng được đáp đền, mẹ nghĩ vậy. Ông Giáo nói: - Mình à, như vậy đi. Mấy hôm nay tôi vào đây có thuốc men uống nghe đỡ hơn. Bác sĩ nói suy nhược, tổn thương cả lục phủ ngũ tạng, cần bồi bổ sức khỏe, sức khỏe có mạnh khỏe đề kháng cao may ra mới chống bệnh được. Ở đây, tôi giúp các con coi nhà, đọc sách báo cũng nhẹ nhàng thong thả thôi mình, nhiều thời gian nghỉ dưỡng. Bà xã Dũng nói với mẹ cho an lòng: Tuy vợ chồng con bận rộn kiếm sống nhưng cơm nước cũng dễ dàng. Đợi cha bình phục hẳn rồi về cũng được mẹ à, chẳng qua thêm chén đủa thôi, không đến nổi nào, hơn nữa bây giờ cũng ổn định hơn những năm trước nhiều. Đến đâu hay đến đó các con sẽ cố gắng. - Mình à, khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Sen khéo léo và tươm tất, nên mình khỏi lo. Nó ý chỉ, còn Dũng tuy hời hợt nhưng chân thành, biết nghe lời phải, biết nhường nhịn yêu thương. Biết tính ý cũng dễ thôi. Dũng nghe cha nói cũng vui, ưng bụng, ông nhận xét rất đúng không thiên vị ai và nhân cơ hội này anh muốn lắng nghe đôi điều của cha. Và ông nói tiếp: - Ở đây, đất khách quê người, mẹ cha, anh chị em chẳng ai gần gủi, các con cố gắng đỡ đần nhau, chân thành với nhau thì mọi sự sẽ qua đi, sự nóng giận nào cũng chẳng đúng, bởi lẽ khi nóng giận sẽ mất hết bình tĩnh để phán xét. Mọi điều hết sức giữ bình tĩnh, nếu xét thấy thái quá hoặc bỏ đi nơi khác hoặc tìm việc gì làm để khỏi tiếp tục cải nhau. Đã là vợ chồng là phải nhẫn nhịn, đôi nhẫn cưới đã nói lên ý nghĩa ấy, giữ được chữ nhẫn đã có hàm ý của yêu thương. Có đôi lúc sự vu vơ nào đó, nếu cải nhau thiếu sự bình tĩnh phán xét, có thể xảy ra tổn thương không đáng có, nếu biết bình tĩnh và nhẫn nhịn mọi sự an lành. Chữ nhẫn gồm chữ đao ở trên, phía dưới chữ Tâm, con dao đâm vào tim còn phải chịu đựng được nữa là huống chi những điều lặt vặt. Cái sai lớn thường bắt đầu từ sự việc nhỏ. Lỗ nhỏ làm đắm thuyền tục ngữ Việt súc tích lắm các con à. Các con có khi nào thấy cha mẹ cải nhau chưa? Tất nhiên cha mẹ đâu phải thánh, cũng có những xào xáo hay hiểu lầm, nhưng biết nhún nhường, tha thứ mọi sự được bình an. Ai cũng có những sai lầm, nhưng khi hiểu ra nên giải bày, hay xin lỗi, cha nghĩ như vậy sẽ dài lâu, bền vững. - Dạ, con hiểu. Tối ấy, mẹ vẫn trò chuyện với Sen rất khuya, phụ nữ với nhau dễ cảm thông, hình như bà cố dặn dò cô con dâu những tính ý rất riêng để hiểu thêm cha mà bà rất rõ từ cách ăn uống cho đến mọi sinh hoạt của ông. Ngày mai bà sẽ về nhà ngoài ấy, sẽ xa ông chưa biết bao lâu nhưng cũng suy đoán là không hề ngắn. Sợ rằng sẽ phiền muộn bực bội nên bà cố nói những điều cần nói, có khi là điều đã nói rồi. Dù sao bà Giáo vẫn hài lòng với chính bà cùng những trao đổi ngọt ngào và thân tình với cô dâu của bà. CHƯƠNG KẾT: NGÀY TRỞ VỀ CÙA BÀ GIÁO Trên chuyến tàu Nam Bắc về quê, bà cảm thấy lòng mình vui hơn lúc vào Nam bương chải kiếm sống. Mỗi thời một khác tùy theo cảm xúc của mình mà vui buồn khác nhau. Sự dịch biến của càn khôn và xã hội tác động đến mỗi con người. Tất cả sự chi phối ngẫu nhiên ấy liên tục xảy ra, liên tục kết thúc, tiếp diễn mãi mãi trong cõi người, cõi đời. Với cách làm việc và sống của các con, bà hy vọng một sự đổi thay tích cực sắp tới. Cuộc đời các con rồi đây sẽ bình an, những ngày cơ cực đã trôi xa vào quá khứ, nhường chỗ cho bức tranh sáng sủa tương lai mà con cái bà đứa nào cũng nỗ lực và tận tụy. Bà mỉm cười, với nụ đời nhẹ nhàng mà đôn hậu. Tiếng xập xình của đoàn tàu khi băng băng qua mối nối ray đường sắt dường như âm thanh lớn hơn trong đêm tĩnh mịch khi đoàn tàu đi qua những làng mạc. Bà gục đầu trên bàn nhỏ của toa tàu thiếp đi trong giấc mơ thấy đứa con nào cũng có mái nhà khang trang ở đô thị bậc nhất này. Thì ra, đêm qua cơn mưa đã tưới tắm cây cối hai bên như xanh thêm màu hy vọng cho quê hương, mà từ ngày thống nhất đến giờ mãi gieo neo trên mỗi phận người đôn đáo tìm cái ăn, cái mặc trong cơ thể gầy gò, lơ láo đến xác xơ vì thiếu đói. Bà Giáo chợt nhớ lại, chuyến vào thăm các em bán đồ cũ – Những người đã giúp bà những ngày kiếm cơm trên đường Hai Bà trưng - Tân Định, cũng chính Dũng đã chở bà trở lại. Khi đến thăm, các em cũng quây quần tại “tổng hành dinh” của vợ Đ/ úy Vinh, ngôi nhà bên trong hẻm một nơi chở che hiểm nguy một thời cùng khó. Vẫn những giọng nói rôm rã, sôi nổi của chị Huỳnh Kim: - Chào cô mới vào, cô khỏe cả chứ. Về ngoài ấy đời sống có ổn không cô? - Cảm ơn các em. Vẫn tạm ổn, bớt nổi cơ cực nhiều. Và gia đình các em? Chị Huỳnh Kim lúc nào cũng ồn ào thông báo: - Ông xã em và Thành được thoát cổng năm ngoái, hiện tại vẫn thường xuyên làm tài xế cho em và chị Thành, vẫn café sáng quán cốc bên trong hẻm, đến 9 giờ thì quay về làm nội tướng cho gia đình. Đời đổi thay vị trí các ông cũng thay đổi. Ngày trước các ông chỉ huy chiến đấu ngoài mặt trận, bây giờ các ông chỉ huy đàn trẻ, fontion như nhau, ngoài ra còn quán xuyến bếp núc, nhà cửa, đưa đón các con đến trường, đâu đó xong xuôi xuống đây chở bọn em về nhà, tư chức hạng sang cô à, miễn phí café, ăn sáng. Lâu lâu có bè bạn, chiến hữu đến nhà mọi bia bọt giao tế “nữ giám đốc vỉa hè” bao ráo trọi. - Chúc mừng Thành và em, còn Vinh thì sao? Chị Vinh mặt buồn buồn: - Ông xã nhà em chưa nghe động tĩnh gì, trên 10 năm ròng rã, di chuyển qua 3 trại, em cố gắng gánh gồng, trời thương nên cũng nuôi con và thăm nuôi anh được cô à. - Mỗi người tù không án có một số phận, em cũng bình tâm lo hết trách nhiệm của mình. - Dạ, tâm niệm em vậy thôi, cô à. - Cô kể em nghe một chuyện thật khôi hài, nhưng chua xót: Có anh Xây dựng nông thôn ngoài quê, thời chiến tranh trốn lính sơ ra ngoài mặt trận chết không ai lo vợ con hom hem và mẹ già. Ngày giải phóng bị bắt, không hiểu khai báo thế nào, khi cô lên trại đã thấy, bây giờ vẫn còn chưa ra. Ngày mẹ anh ấy mất, gia đình báo tin, anh khóc dữ dội anh kể lễ nổi cơ cực của bà nuôi con, người cán bộ đi qua nghe được có lẽ cũng động lòng hỏi thăm biết cớ sự, về phòng, lên mở sổ “phạm nhân” không có trong danh sách. Không biết quá trình sao lưu thế nào. Báo lên trưởng trại giam, sau đó cho phóng thích. Hy hữu thiệt. Gần 10 năm oan trong trại. Nói vậy để em Vinh thấy rằng mổi số phận hình như được định đoạt bởi mệnh số. - Dạ, em cứ nguyện cầu cho anh được về cùng em để tiếp tục cuộc sống, em cũng quá mệt mỏi, nhiều lúc kiệt sức không có ai bên mình san sẻ. Cũng đã 10 năm rồi còn gì cô! Đợt em đi thăm anh lần ấy nhà đang khó khăn, than thở với 2 cô em thân thiết đây may quá, đang lo lắng thì cô giảng sư Văn Khoa trở lại tìm người bán chiếc áo dài, con nhỏ Huỳnh Kim mau miệng, nên dắt vào nhà em, chị ấy lãnh được thùng thuốc tây từ nước ngoài gửi về bán ra được 6 chỉ, chị năn nỉ chuộc lại giá 2 chỉ. Thật là chiếc áo dài cũng có mệnh số. Tất cả còn nguyên, và từ đó chị thỉnh thoảng cũng ghé thăm, sẻ chia cùng em nổi khổ của em. Thì ra gia thế chị lẫy lừng lắm cô à. Tất cả nhà đi trước lúc mấy ông này vào, định cư khắp châu Âu và Hoa Kỳ. Hiện chị còn một mình bên đây, đơn thân. Chị sống bằng viện trợ. - Vậy cũng mừng, thổ lai hoàn thổ. Chắc là chị có kỷ niệm lớn với kỷ vật này. - Dạ. Chợt có người phụ nữ cạnh bà Giáo mời cô ăn sáng nên trở về thực tại với người hành khách trên tàu: - Cảm ơn em, cô cũng có bà vội mở lon guigoz xôi và ít chà bông Sen làm khi chiều qua lên tàu vội vàng chẳng kịp ăn, giờ cũng đã đói. Cả hai cùng ăn. Ngon vô cùng. Em về đâu, vào Sài Gòn chơi hay có việc? - Em vào thăm con em học trong ấy, cháu đang học trường sư phạm. Còn cô? - Mừng cho cháu, thời này em có cháu học đại học, chắc gia đình mình cũng có công. Cô cũng vào thăm, sẳn tiện đem ông nhà vào thăm chơi với các cháu, cô vội trở ra. Em xuống ga nào? - Dạ, Đà Nẵng, em ở Vĩnh Điện. Công với trạng gì cô. Ông xã em lính ngụy, truyền tin. - Vậy sao cháu được đi học? - Chẳng giấu gì cô, cũng may cô à, ba mấy cháu cũng học tập, nhờ mẹ ruột anh ấy có ông anh lớn đi ra bắc, làm cán bộ. Năm 1976, từ bắc ổng về thăm mẹ, mẹ mừng lắm, có ghé thăm gia đình em, và em nhờ ổng nói giúp. Xin chính quyền cho ông xã em về, ban đầu anh nói: “Nó theo ngụy cho đi học tập để hiểu chính sách cách mạng, học tập tốt thì sẽ về thôi”. Em giận lắm, nhà chỉ có 2 anh em thôi. - Mẹ em có nói gì không? - Dạ có, mẹ chồng em hôm đó làm dữ lắm: “Tụi bay có 2 anh em mà chẳng biết thương nhau chi, hồi nhỏ đi mô cũng có nhau, bi chừ tưởng thống nhất đoàn tụ, mi ra bắc làm cán bộ về bỏ mặc thằng em trong trại tù, nó có làm chi mô, đi lính nhưng không cầm súng bắn giết ai, chỉ mang máy theo người ta, bây giờ cải tạo, máu chảy ruột mềm, đàng này mày dững dưng. Tau với con Ba (là Em) đi thăm thấy mà tội. Con Ba suốt ngày đầu tắt mặt tối làm thuê cấy mướn nuôi 2 đứa con ăn học, đứa mô học cũng giỏi, một năm một lớp. Mi không giúp nó thì ở luôn ngoài Bắc đừng về nhà tau, mười mấy năm không có mi, tau với vợ chồng thằng Ba cũng sống, coi như mi cũng hy sinh như cha mi thôi” - Cha em, hy sinh à? - Dạ, cha chồng em hồi ấy hoạt động trên núi, sau lén về dẫn anh Hai lên núi luôn. Mẹ em thỉnh thoảng tiếp tế trên đó mới biết. Khi cha em về đánh trận Đại Bường chết, mấy ổng đưa anh Hai ra Bắc học, từ đó biền biệt không có tin tức gì, mẹ em buồn quá về Vĩnh Điện, vậy mới gặp em. - Người mẹ nào cũng thương con, thời Quốc gia nhiều trường hợp vậy lắm em à. Có nhiều nhà anh em, cha con còn xung đột giữa người và người nữa là. - Dạ, sau đó anh ấy biết mẹ nói đúng, ảnh liên hệ với xã, xin gặp ông xã em. Ổng có bảo lãnh. Mấy tháng sau ông xã em được về, cũng gần 2 năm ở tù cô à. - Cũng may, mẹ em cứng rắn, và anh ấy nghĩ lại, chứ nếu không cũng gay go. Chẳng biết sao - Dạ, chứ em biết mô cô. - Bây giờ, ông xã em làm gì? Cháu nhỏ học lớp mấy? - Dạ, con gái nhỏ em học 12 rồi, ông xã em vẫn làm cho HTX xe vận tải. Đời sống bây giờ cũng đỡ cơ cực cô à. Nghĩ lại mười mấy năm trước sao mình giỏi quá cô. - Đời sống là vậy, "Có chồng thì nấn ná, không chồng đội đá vá trời" cái gì rồi cũng qua đi, khổ hoài ai chịu nổi. - Cứ nói chuyện hoài, chưa hỏi thăm cô, cô ngày trước chắc có làm việc? - Ừ, cũng có, cô đi dạy, em à… - Hồi đó cô làm cô giáo, chắc giỏi cô hỉ - Cũng bình thường, có gì đâu, học thì làm được thôi. - Cũng phải có chữ nghĩa chứ cô - À, đương nhiên là vậy. - Dạ, nghề giáo quý nhất cô à. - Nghề nào cũng tốt cả, miễn là lương thiện, làm hết chức trách mình em à Đến cầu Sông Vệ, sắp tới ga Quảng Ngãi rồi, cô phải xuống, cám ơn em đồng hành trong suốt đoạn đường gần 800 cây số. Con tàu kéo còi chầm chậm vào ga, rồi rít bánh dừng lại, cảnh ồn ào náo nhiệt và lộn xộn lên xuống, cùng tiếng í ới của kẻ tiễn đưa lúc nào cũng vậy. Ga dọc đường có những điều mà ga đầu hay ga cuối cùng không có được, người bán hàng rong tranh thủ việc bán mua, đặc biệt gà ta ở Quảng Ngãi rất ngon, thịt chắc ngọt người phía bắc rất thích. Ngoài ra, trái Likima, người bắc hay gọi là quả trứng gà, thịt ngọt thơm rất nhiều, những cần xé tấp nập lên toa, để chuyển ra Bắc, bà Giáo lúng túng chẳng thể nào xuống được. Chị đồng hành cùng bà giúp bà xuống, vừa xong. Bà Giáo cảm ơn, chúc bình an. Chị không quên bye bye, chúc cô về nhà vui vầy. Chị Thanh và cô Út đã có mặt trong ga, bà cùng hai con trở về. Chuyến đi này thú vị hơn lần trước, bởi tư cách bà là đi thăm hỏi, dù sao bà cũng an lòng. Thời gian mãi trôi đi, con cái càng ngày có sinh khí hơn trong cuộc sống nhộn nhịp xứ người. Cái mơ ước đơn giản ấy càng ngày càng hiển thị rõ nét hơn trong bức tranh cuộc sống của các con bà. Ơn trời và tiên tổ đã phù hộ cho con cái nói riêng và gia đình bà Giáo nói chung. Ngồi trên xe cùng chị Thanh, rừng mía ngút mắt chạy dài suốt cả đoạn đường xanh mượt, gió nhẹ lao xao, rì rào như vui với lòng bà trong buổi trở về mái nhà xưa. Nơi bình an của đời bà Giáo Chiếc xe gắn máy 2 người dừng lại trước ngõ, người ngồi sau hỏi Út: - Có phải nhà cô giáo Vân, không cháu? - Dạ, có việc gì không, chú? - Có cô giáo Vân ở nhà không, em? Anh ngồi trước hỏi - Dạ có, mẹ em chắc phía sau nhà, mời chú và anh vào nhà. Chú và anh uống nước, Út mới trở ra sau, gọi mẹ: - Mẹ ơi, có khách tới thăm mẹ. - Ới, mẹ vào ngay đây. Bà Giáo vừa đi vừa nghĩ, ai vậy cà? Bà Giáo bước lên nhà trên, rất bất ngờ, bà hơi luống cuống: - Ô, em Sơn và chú Quỳ. Em về khi nào vậy? Chú và em uống nước đi. - Dạ, được cô à. Đây là cha em, khi trước em có viết thư về kể chuyện với cha về sự tình cờ hai cô trò gặp nhau trong phường Tân Định, Quận 1. Ông Quỳ tiếp lời: - Cô à, cháu kể về chuyện cô, tôi muốn khóc, quý quá, nó biết lễ giáo với cô giáo cũ. Tôi mong nó về, khi nào thong thả ra thăm cô. Mấy lần trước Sơn cũng có về, tôi nhắc nhưng nó vội vả quá, lần này nó về phép ở chơi lâu hơn, nên cố gắng ra thăm cô. - Cảm ơn chú và em nhiều. Em vẫn còn công tác ở phường? - Dạ, em chuyển lên Quận rồi. Cũng ngành ấy. - Trước khi về quê, cô muốn ghé lại thăm em, tạm biệt. Nhưng rồi cũng bận rộn, nên về luôn, cô về nhà có kể lại với gia đình và các em – Nhất là Dũng nó đang ở trong đó cứ xuýt xoa hoài, muốn gặp anh Sơn, nhưng chưa có điều kiện, không liên lạc được nên anh em chưa gặp nhau. - Cô có các con ở trong đó hả? - Ừ, chứ ngoài này, em biết rồi, làm sao sống nổi. - Dạ, ngoài mình nếu không thuần nông khó sống lắm. Em về quê thăm mới thương người dân quê mình. Cũng làm nông nhưng trong Đồng Nai, Long Khánh, Tiền Giang hay Cần Thơ người nông dân có thể khá giả, giàu có còn quê mình nông dân gay go có mức sống như trong ấy. Em tính mời cha mẹ em vào Sài Gòn, ông bà chưa định đi cũng quyến luyến quê hương và nhất là mồ mả tiên tổ. Khi nào ông bà thích em sẵn sàng, vợ em cũng vui vẻ. - Thực ra, xét cho cùng thì người luống tuổi chẳng ai muốn rời xa quê quán, nhưng do điều kiện khó quá nên tha phương, thế thôi em à. - Dạ. Tâm lý ấy ăn sâu trong nếp nghĩ của người làng quê. - Mà, cô à, thầy đâu? Em rất xin lỗi vì không biết - Không sao, thầy cũng đã vào thăm, chơi với con cháu trong ấy. - Nghe nói thầy hồi ấy cũng dạy trung học tư thục phải không cô? - Đúng vậy em à, hồi ấy dạy thêm cho vui, cũng như có thời giờ trau giồi kiến thức. - Hay quá, ngày trước bọn em học hành tương đối tốt, chính điếu ấy ra đời khi xử lý công việc tình lý rất chuẩn mực và nghiêm minh. Phải nói thời trước nguyên tắc giáo dục thật tốt, các thầy cô giáo em đã học, ai em cũng thấy mẫu mực họ gìn giữ danh dự và phẩm chất của mình rất ư tuyệt vời, dù thế nào đi nữa cũng không thể phủ nhận triết lý giáo dục thời ấy, cô à. - Cảm ơn em, với kinh nghiệm cô cũng nghĩ như em. - Với em, cái gì đúng, đẹp nên gìn giữ, duy trì, cái gì dỡ, xấu nên bỏ. Không nên hàm hồ. Trân trọng lẽ phải và đạo lý. Chẳng phải ai trong chế độ trước cũng dỡ, cũng xấu. Không thể có điều đó. Cô biết không, trong ngành em cũng có nhiều chuyện không đồng tình em nhẹ nhàng góp ý mạnh với cấp trên, em không ngại điều ấy, vì vậy họ nể nang em. Em báo cô mừng, em không bao giờ làm việc cứng ngắt thiếu suy nghĩ. - Em xứng đáng là một người có tầm nhìn chung trong cách cư xử làm việc, cô hãnh diện vì có người học trò như em. Quay sang chú Quỳ, cha Sơn bà Giáo nói thêm: - Chú à, tôi khi xưa dạy Sơn 2 niên khóa, lớp 2, lớp 3. Ngày đó Sơn là lớp phó học rất chăm chỉ, bài vở rất ngăn nắp, tổ chức lớp khá tươm tất, không phải bây giờ em thành danh, giúp tôi mà khen lấy khen để. Chúc mừng chú có đứa con xứng đáng. Làm người khó lắm, nhất là có chức tước và địa vị. Giữ được nhân cách trong cuộc sống không dễ chút nào. - Từ nảy giờ ngồi nghe 2 cô trò nói chuyện mà tôi vui. Vui vì con cái biết đạo lý, cô biết không, quà nó mang về cho cô không phải mua ở đây, nó đem từ Sài Gòn về. Tôi tự hào vì nó biết nhớ ơn cô giáo cũ và đáp đền. Sơn tiếp lời cha: - Nhân dịp, em về phép thăm gia đình và người thân, ghé thăm cô và có chút quà tri ân cô người dắt em đi đến những bậc thang đầu đời mà hôm nay em có cơm ăn áo mặc, vị trí đàng hoàng trong xã hội, xin cô nhận cho. - Cảm ơn em có tấm lòng với cô. Cô chúc em mọi việc hanh thông, may mắn trên con đường còn rất dài trong cuộc làm người. Và Cảm ơn chú cùng đi với em đến thăm. Ngoài trời nắng trưa đã lên cao, ngọn gió lành thổi vào như tắm mát 3 con người, tiễn chân hai cha con Sơn ra về lòng bà Giáo rất vui khi nhận được tấm lòng của người học trò bé bỏng năm xưa biết trọng nghĩa nhân. Lần đầu tiên bà nhận được phần thưởng lớn nhất trong đời dạy học khi không còn được đứng lớp. Một tâm hồn lớn trong xã hội đương đại, như tấm gương sáng để các con em thế hệ sau biết thu mình vào trong ánh sáng nghĩa nhân soi rọi mà đời người ai cũng phải đi qua. Thì ra, khi trở về làm dân, hóa thân đủ các nhân vật trên cõi đời của một bà Giáo tận tụy cũng được niềm vui cao cả từ cậu học trò măng non thuở xưa có bàn tay và khối óc mình uốn nắn biết nghĩa ân. Bà Giáo Vân mỉm cười. Ngoài trời từng cơn gió thổi nhẹ làm mát lòng người, có vẻ bà Giáo cảm thấy vui vẻ, hưng phấn hơn, bức tranh vân cẩu trên nền trời xanh liên tục thay đổi, muôn hình vạn trạng như chính cõi người đang đổi thay từng ngày, từng giờ. PHẠM NGỌC DŨ (NGÃ DU TỬ/ SG) (2005 đã chỉnh sửa lại)
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ BÀ GIÁO VÂN LỜI BẠT Tiểu thuyết kể lại câu chuyện cảm động về một cô giáo cũ – Bà giáo Vân – Trong hoàn cảnh khó khăn sau ngày thống nhất đất bước, bị bắt vì buôn bán đồ tàng trữ trái phép. Qua đó, câu chuyện khai thác những khía cạnh về ân nghĩa thầy trò, sự thay đổi của thời cuộc và cả những khoảng lặng đầy nhân văn trong một xã hội nhiều biến động. Cuộc gặp gỡ giữa cô giáo và người học trò cũ - Nay là trưởng công an phường Tân Định – Được khắc họa tự nhiên, cảm động, cho thấy sự bền chặt của tình nghĩa xưa và giá trị đạo lý không bị mai một dù hoàn cảnh thay đổi. Gợi nhớ một thời kỳ đầy khó khăn, nhưng đồng thời cũng tôn vinh những con người có lòng biết ơn, có đạo lý, sống tử tế. Hình ảnh bà giáo trao chiếc áo len cho cậu học trò nghèo hay học trò tìm cách giúp cô giáo sau bao năm, đều khiến người đọc xúc động. Lời văn mộc mạc, gần gũi, chân thành thiên về kể chuyện và miêu tả nội tâm. Lối hành văn mang tính kể chuyện và tự sự, giàu cảm xúc, phù hợp với lối viết hồi ký hoặc truyện ký. Tác giả thể hiện sự am hiểu về xã hội, giáo dục và tâm lý nhân vật. Có nhiều đoạn gợi lại một cách chi tiết hình ảnh quê hương, những mùa lụt, những buổi học dưới thời bao cấp khiến câu chuyện mang đậm hơi thở hoài niệm. Mô tả tâm trạng nhân vật rất rõ nét nhất là nội tâm của bà giáo Vân. Từ sợ hãi, lo lắng đến xúc động, rồi bồi hồi trong cuộc hội ngộ, tất cả đều được thể hiện bằng ngôn từ giản dị mà sâu sắc. Tác phẩm có tính giáo dục đạo lý, tôn vinh nghề giáo và tình nghĩa học trò – thầy cô. Đồng thời cũng chạm tới những nỗi đau âm ỉ. Xuyên suốt từ Chương 3 đến Chương 5 mang đậm chất tự truyện – như một bản hồi ký sống động về một giai đoạn đầy biến động và chân thực về cuộc sống của một gia đình trí thức – Gia đình bà giáo Vân – trong những năm tháng đầy biến động của đất nước, từ thời chiến tranh đến sau năm 1975. Câu chuyện không chỉ dừng lại ở ký ức cá nhân mà còn khéo léo lồng ghép vào đó là bối cảnh xã hội, chính trị, tâm lý thời cuộc, từ cuộc di tản, hồi hương, đến sự thay đổi của nền giáo dục và đời sống dân sinh dưới thời bao cấp. Cách tác giả miêu tả đời sống gia đình bà giáo Vân rất tình cảm, gần gũi, có chiều sâu cảm xúc. Gợi lại những lát cắt rất thật về đời sống sau 1975 – Hợp tác xã, cải tạo, lý lịch, kinh tế mới, tem phiếu... Hình ảnh bà giáo Vân cần mẫn đi dạy là hình tượng mẫu mực cho sự tận tụy với nghề. Tác phẩm Bà Giáo Vân là một tư liệu quý giá cho những ai muốn tìm hiểu thêm về cuộc sống của người dân miền Nam giai đoạn từ 1964–1975 và những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất. Những trải nghiệm như "đem chôn sách", bắt cá lia thia, hay mỗi sáng đi dạy bằng xe đạp, xe Lam đều là những chi tiết văn hóa độc đáo, có giá trị lưu giữ. Đến Chương 7 câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh ông giáo trở về nhà, mang trong mình cả tiều tụy, bệnh tật và tâm hồn chất chứa bao nỗi niềm. Cuộc hội ngộ với bà giáo, các con và con chó Vện tuy đơn sơ nhưng đầy xúc động – Nó không phải là một cái ôm ào ạt như trong phim, mà là sự vỡ òa thầm lặng, chân thực và nhiều tầng cảm xúc. Qua đối thoại của các nhân vật, tác giả tái hiện hoàn cảnh éo le của gia đình, sự kiệt quệ về kinh tế, về tinh thần và cả nỗi bất an của người sống dưới chế độ mới. Những suy nghĩ của ông giáo về loài người, về con chó, về nhân tình thế thái được lồng ghép một cách tự nhiên, thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của một người từng trải. Việc trích dẫn đoạn văn của luật sư Georges Graham Vest không chỉ giúp tăng tính quốc tế cho tư tưởng truyện, mà còn làm nổi bật sự tương phản giữa lòng trung thành của loài vật và sự phản trắc của con người. Cảnh ông kể về cuộc sống trong trại cải tạo khiến người đọc không khỏi ám ảnh. Đói đến mức ăn châu chấu, nhai đậu phộng sống, ghẻ lở khắp người… là những chi tiết “đắt giá”, chân thật đến đau lòng. Bà giáo, trong sự tần tảo và khắc khổ, đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong thời hậu chiến: Chịu đựng, lo toan, hy sinh và âm thầm gánh cả gia đình trên đôi vai nhỏ. Tác giả sử dụng lời thoại tự nhiên, phù hợp với tâm thế, tầng lớp và thời đại, giúp tái hiện rõ nét hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Ông giáo hiện lên như một người cha, người trí thức và cũng là người phản tỉnh – Mang trong mình nỗi đau của một thời đại. Bà giáo là biểu tượng của người vợ hiền, của hậu phương đầy chịu đựng và kiên cường. Qua lời ông giáo, người đọc không chỉ thấy một quá khứ tang thương, mà còn nghe được nỗi trăn trở về tương lai đất nước, về cách quản lý, quản trị, cách đối nhân xử thế. Tranh Đông Hồ “Đám cưới chuột” trở thành một hình ảnh biểu tượng rất đặc sắc cho cách hành xử đầy nhân văn mà xã hội cần hướng tới. Trong nghịch cảnh, tình gia đình, tình làng xóm, lòng trung thành (cả của người và vật) trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Ông giáo không oán giận nhưng ông đau đáu với thời cuộc, nhận ra những bất công và lên tiếng một cách sâu lắng. Chương 8 là một chương rất đặc sắc trong mạch truyện, cho thấy bước ngoặt trong đời sống nội tâm nhân vật Dũng, sự thức tỉnh xã hội – Lịch sử của một người trẻ và đặc biệt là nỗi lòng của những người trí thức miền Nam sau 1975. Những thay đổi dữ dội về chính trị – xã hội đặc biệt là số phận của những người từng phục vụ chế độ cũ như ông Giáo là điển hình cho trí thức cũ bị bức tử về vai trò xã hội, phải chịu cải tạo và quay về với tâm thế của người "sống sót". Đoạn đối thoại giữa ông và con trai cũng như với chú Năm Mẫn là cái nhìn tỉnh táo về sự đổi đời – có thương, có phẫn uất nhưng cũng đầy trăn trở triết lý. Những nhận định sâu sắc của ông Giáo về chế độ, về chiến tranh, cải tạo, quản lý và nhân trị thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhân vật và người viết. Ông Giáo không chỉ nói đạo lý mà là chia sẻ trải nghiệm sống, từng câu đều có chiều sâu thời cuộc và con người. Tác giả so sánh xã hội thời hậu chiến như “ly nước đầy cát sạn đang bị khuấy động” là hình ảnh vừa cụ thể vừa tượng trưng, rất thành công. Nội dung chương 8, giàu giá trị lịch sử – nhân văn – nghệ thuật. Nó cho thấy tác giả có vốn sống sâu sắc, hiểu rõ xã hội miền Nam trước và sau 1975, đồng thời biết khai thác chất liệu ấy qua lời văn mộc mạc nhưng tinh tế. Nếu xem tiểu thuyết là một “biên niên ký” cảm xúc về một thời đại, thì chương này là một chương quan trọng – trầm lắng – sâu lắng, mang tính tổng kết và dự báo, đồng thời gợi lên nhiều cảm xúc thấm thía về sự mất mát và phẩm giá con người. Cuối chương dẫn sang cao trào mới bằng tình tiết giấy triệu tập bà giáo, vừa tăng kịch tính vừa khéo léo. Chương 9: "Bà giáo đi học tập" – một chương đặc biệt cảm động và đầy tính hiện thực ghi lại sự kiện đau lòng nhưng phổ biến trong bối cảnh sau 1975 – việc nhiều người từng làm việc trong chính quyền cũ bị gọi đi "học tập cải tạo". Lần này đến lượt bà giáo Vân – một người chỉ thuần túy dạy học, cả đời tận tụy với nghề – Khi nhận giấy triệu tập, đây không chỉ là một “giấy mời” làm việc hành chính mà là khởi đầu cho một biến cố lớn trong gia đình: Chia ly, lo sợ, bất an và cả sự tủi nhục thầm lặng. Hành trình này được miêu tả với tâm trạng nặng trĩu của bà giáo, của ông giáo, của Dũng và các con từ khi nhận giấy đến lúc tiễn biệt. Tác giả dùng ngôn ngữ mộc mạc, gần với lời ăn tiếng nói đời thường: Như “tôi cả đời đi dạy, chỉ biết gõ đầu trẻ”, “có hai mẹ con đan len cũng chằm đắp được” – cho thấy nhân vật thuộc tầng lớp trí thức bình dân, đầy tự trọng và chịu thương chịu khó. Từ sự ngỡ ngàng ban đầu, chuyển dần sang lo lắng rồi tuyệt vọng, tất cả diễn ra một cách tự nhiên, không kịch tính hóa nhưng lại rất ám ảnh. Cảnh chia tay được khắc họa nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: “Cả nhà không khóc nhưng mắt nào cũng đỏ hoe… con Vện đứng buồn thiu…”. Những lời trao đổi giữa cha và con mà còn là nơi tác giả gửi gắm quan điểm nhân văn sâu sắc. Những câu như: “Giải phóng có nghĩa là làm cho tự do hơn… nào phải trả thù giai cấp” hay “Danh dự chính là nhân cách của con người” thể hiện tầm vóc tư tưởng vượt khỏi biên giới cá nhân – mang tính phản tỉnh xã hội rõ nét. Qua hình ảnh bà giáo Vân – Người chỉ biết “gõ đầu trẻ” – tác giả nêu bật nghịch lý: Tri thức, giáo dục – thứ cốt lõi để xây dựng một xã hội tốt đẹp – lại bị nghi ngờ, trừng phạt. Tác giả đã khơi dậy tình cảm gia đình sâu đậm, nghĩa đồng bào và nỗi đau âm thầm của hàng triệu gia đình miền Nam thời hậu chiến. Chuyện bà giáo đi học tập không còn là chuyện cá nhân – Nó đại diện cho cả một lớp người bị đẩy ra bên lề xã hội. Dũng là nhân vật kế tục đầy triển vọng – Biết đặt câu hỏi, biết suy tư, biết chọn giá trị đạo đức và nhân cách làm điểm tựa. Cuộc trò chuyện với cha chính là bài học sống quý giá đầu tiên cho anh trong hành trình làm người. Chương 10 và 11 mang đậm chất tự sự và hiện thực, giàu cảm xúc và chi tiết đời thường, phản ánh sâu sắc bi kịch của một gia đình miền Nam sau 1975. Trong phần này tập trung vào hành trình thăm nuôi bà Giáo Vân ở trại cải tạo. Những mô tả chi tiết về đường đi hiểm trở, cảnh vật hoang sơ, trại giam khắc nghiệt... Không chỉ cho thấy nỗi vất vả thể xác, mà còn làm nổi bật tinh thần kiên cường, lòng hiếu thảo và sự gắn bó ruột thịt của các thành viên trong gia đình. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi 30 phút giữa chị Thanh và mẹ đầy xúc động, ngậm ngùi trong nước mắt, lời thì thầm nhỏ nhẹ để né tránh tai vách mạch rừng. Không khí “đồng cam cộng khổ” thấm đẫm trong từng chi tiết nhỏ, từ chiếc đèn lon tự chế cho đến những vật phẩm thăm nuôi được sắp sẵn cẩn thận. Trong khi đó ông Giáo trầm mặc, sống giản dị, tựa như một “nông dân thuần chất” giữa thời buổi ly tán. Những đứa con chịu thiệt thòi, đặc biệt là nỗi oan khuất của thế hệ trẻ sau 75 – Dù học giỏi vẫn bị tước quyền học tiếp vì lý lịch. Câu chuyện của bé Út là một lát cắt đau xót: Không chỉ mang tính cá nhân mà còn là đại diện cho một thế hệ bị từ chối tương lai. Đọc hai chương này, người đọc khó tránh khỏi xúc động, nghèn nghẹn trong cổ họng – vì những điều tưởng như nhỏ bé, như nước mắt, như cái nhìn theo của người mẹ, lại chất chứa bao uẩn khúc lịch sử. Sự phi lý và bất công của chế độ hiện lên không cần gào thét, chỉ nhẹ nhàng qua sự thất vọng, đau đớn thầm lặng của người dân bị vùi dập bởi lý lịch. Dù vậy, ánh sáng của tình người, của hy vọng vẫn còn đó: Trong tình mẹ con, cha con, trong sự hồi sinh tinh thần của cô bé Út. “Chuyện của Út” là một mảnh ghép đầy nhân văn của đời sống hậu chiến, phản ánh sự chuyển mình của một thế hệ trẻ đang trưởng thành giữa giai đoạn đầy bất ổn. Trọng tâm truyện là hành trình tự lập của Út – một cô gái còn rất trẻ, bị rào cản lý lịch ngăn đường học vấn nhưng không đầu hàng số phận. Gánh hàng bánh Tết trở thành biểu tượng cho tinh thần vươn lên, dũng cảm và hy sinh của giới trẻ miền Nam sau chiến tranh. Song song với câu chuyện Út là những lời tâm tình của ông Giáo và Dũng, gói trọn những nỗi đau, tiếc nuối của cả một thế hệ trí thức, công chức miền Nam từng tin vào sự cống hiến cho xã hội. Họ – dù đã "rớt lại phía sau" – vẫn giữ phẩm giá, vẫn sống tử tế trong danh dự và hy vọng. Út là điểm sáng, đại diện cho tinh thần vượt khó. Em vừa hồn nhiên vừa gan góc, có tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm. Hình ảnh Út làm bánh, bày bán ở chợ Tết, rồi tặng cha bộ pyjama, lì xì anh Dũng – Là những chi tiết đắt giá làm sáng lên vẻ đẹp của một tâm hồn biết yêu thương và tự lập. Dũng là người anh điềm tĩnh, từng trải, luôn âm thầm hỗ trợ em gái, đồng thời là “người chứng kiến” những đổi thay xã hội. Anh không chỉ giúp Út mà còn đại diện cho thế hệ "đứt gãy lý tưởng", từng nếm trải cay đắng của cải tạo và đang tự dò dẫm lại con đường sống trong "xã hội mới". Ông Giáo mang hình ảnh người cha điềm đạm, hiểu biết, mang nhiều trăn trở về thời cuộc. Câu nói của ông: "Trời đất kỳ diệu lắm, khép cổng này ắt sẽ mở cổng kia" là niềm tin lặng lẽ nhưng bền bỉ của thế hệ ông dành cho con cái trong hoàn cảnh trắc trở. Bối cảnh được dựng chân thực và có chiều sâu: Chợ huyện, chợ làng, ngôi nhà đêm làm bánh, buổi sáng tinh mơ, chiều hoàng hôn, đêm trăng sáng… tạo nên không khí Tết quê ấm áp nhưng lắng buồn. Những chi tiết như “mẹt cam đỏ chót”, “thúng gạo nếp như núi tuyết”, “chiếc giỏ nhựa to đùng”… làm bật lên không khí Tết, nhưng cũng chất chứa sự lam lũ, tảo tần. Những đối thoại của ông Giáo với người em phía bên ngoại cuối truyện đưa người đọc trở lại thực tại: Những người tù cải tạo, những người vợ bị gọi đi tập trung không biết ngày về, những câu nói như châm ngòi cho nỗi đau "bị tước quyền làm người". “Chuyện của Út” không chỉ là chuyện một cô gái bán bánh, mà là câu chuyện về bản lĩnh, nghị lực, tình thân, và cả sự trăn trở của những người sống sót sau một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nó nhấn mạnh thông điệp: Dù cổng lớn khép lại, vẫn có những lối nhỏ của yêu thương, cần cù, và hy vọng dẫn lối đến tương lai. "Ngày Gặt" là một đoạn văn rất chi tiết và giàu cảm xúc, phản ánh đời sống nông thôn miền Nam sau năm 1975 qua các tình huống nhỏ nhặt trong ngày làm việc của Dũng và tập thể xung quanh. Những câu chuyện nhỏ như sự tranh cãi giữa Dũng và ông đội trưởng HTX về công điểm hay những khoảnh khắc Dũng nghỉ ngơi hút thuốc hay chơi bóng đá không chỉ khắc họa sự vất vả của công việc đồng áng mà còn làm nổi bật sự khắc nghiệt trong mối quan hệ xã hội sau kết thúc chiến tranh. Dũng là nhân vật có tính cách mạnh mẽ, không ngại thể hiện bản thân, mặc dù còn non kinh nghiệm và chưa quen với công việc đồng áng. Dũng không chỉ chăm chỉ mà còn thể hiện thái độ chống lại sự áp bức vô lý từ ông đội trưởng. Tính cách của Dũng khá dễ mến, anh còn biết hòa đồng với mọi người. Hình ảnh ông đội trưởng là người có quyền lực trong HTX nhưng lại thiếu sự đồng cảm với người khác. Câu chuyện cũng lột tả được hình ảnh của một xã hội hậu chiến, nơi mà mọi người vừa phải vật lộn với công việc vừa phải đối mặt với những thử thách của thời cuộc. Hình ảnh Dũng tranh cãi với ông đội trưởng hay sự đồng cảm của những người xung quanh không chỉ nói lên sự phân hóa trong xã hội mà còn phản ánh những khao khát về sự công bằng và tinh thần đoàn kết. Cuối câu chuyện, Dũng và chú của anh cùng trò chuyện về viễn cảnh tương lai, về nỗi lo lắng trước những sự thay đổi và chiến tranh có thể đến. Câu chuyện kết thúc trong sự lắng đọng với hình ảnh bình minh đang lên, tạo ra một sự hy vọng về tương lai tươi sáng sau những khó khăn, vất vả. Chương 12 của tiểu thuyết Bà Giáo Vân tạo nên một không gian đầy cảm xúc về sự đoàn tụ sau thời gian dài bị chia cắt, hòa quyện giữa những ký ức cũ và sự thay đổi của cuộc sống. Tình huống bà Giáo Vân trở về nhà sau thời gian cải tạo không chỉ là một cảnh trở lại đầy vui sướng mà còn là dịp để tác giả khéo léo khắc họa những thay đổi trong xã hội và gia đình. Cảm xúc của bà Giáo Vân khi trở về ngôi nhà thân yêu được miêu tả rất chân thật. Niềm vui sướng và sự xúc động khi gặp lại những người thân cũng như sự thay đổi của cảnh vật xung quanh tạo nên một bức tranh vừa tươi mới, vừa đầy hoài niệm. Đoạn miêu tả về cảnh bà Giáo nhìn lại những con đường xưa khi chiếc xe chạy vội vã để lại vệt bụi mù, thể hiện sự chuyển mình trong chính cuộc đời bà. Mối quan hệ giữa bà Giáo và Lộc là một điểm nhấn sâu sắc trong chương này. Lộc, một học trò cũ, không chỉ chở bà về mà còn thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn đối với bà. Cảnh hai thầy trò trò chuyện, nhắc lại những kỷ niệm cũ là một khoảnh khắc đặc biệt, phản ánh sự tôn trọng, yêu mến trong mối quan hệ giữa thầy cô và học trò, dù qua bao nhiêu năm tháng. Những đoạn đối thoại giữa bà và Lộc đầy sự chân thành, thể hiện mối liên kết tinh thần bền chặt giữa họ. Trong khi bà Giáo Vân cảm thấy vui mừng vì được trở về với gia đình, cũng có những nỗi lo lắng về sự thay đổi của xã hội và cách mà chính quyền mới nhìn nhận về những người như bà. Tình huống bà bị hiểu lầm là "bí thư đảng Dân Chủ" và sự giải thích không được thấu hiểu càng làm nổi bật sự căng thẳng và bất ổn trong xã hội sau chiến tranh. Những tình huống này cũng phản ánh sự bức bách mà nhiều người phải trải qua trong giai đoạn đó. Những hình ảnh giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Bà Giáo ăn cơm với mắm cái rồi nhìn các con mình vui mừng trở về. Hình ảnh cuộc sống nông thôn với những âm thanh quen thuộc của loài dế, cảnh trời nhá nhem tối và sự ấm áp của gia đình mang lại một không khí yên bình sau những sóng gió cuộc đời. Bà Giáo Vân là một người phụ nữ mạnh mẽ, kiên cường nhưng cũng rất tình cảm và nhân văn. Bà không chỉ là người mẹ, người thầy, mà còn là một người phụ nữ không thể bị khuất phục trước những thử thách. Lộc là học trò cũ đầy tôn trọng và biết ơn, dù giờ đã là cán bộ trong chính quyền mới. Sự ân cần và lòng biết ơn của Lộc đối với bà Giáo thể hiện sự quý trọng sự giáo dục, cũng như nhắc nhở bà về ảnh hưởng sâu rộng của mình. Bà Giáo Vân, mặc dù phải đối mặt với những đau khổ trong cuộc sống, vẫn dành trọn tình yêu thương cho gia đình. Nỗi nhớ gia đình và sự hy sinh suốt một đời chỉ để lo cho tổ ấm thật đáng cảm động. Mối quan hệ gia đình được khắc họa qua sự quan tâm, lời động viên và sự sẻ chia giữa các thành viên, đặc biệt là sự trưởng thành của Út khi đảm nhận trách nhiệm trong lúc mẹ đi học tập cải tạo. Qua lời kể của bà, câu chuyện khắc họa nỗi oan khuất mà bà và những người trong miền Nam phải gánh chịu sau chiến tranh. Việc đi dạy học trước đây lại bị coi là “tội lỗi” vì thuộc chế độ cũ, tạo nên sự phân biệt và phê phán không chỉ về mặt xã hội mà còn về mặt lý lịch. Dũng tỏ thái độ bất bình và phản đối sự bất công này, làm nổi bật sự vô lý của chính sách nhưng đồng thời cũng khơi dậy sự phản kháng trong lòng người dân miền Nam. Dũng và những người bạn của anh dù gặp khó khăn vẫn có khát vọng vươn lên. Câu chuyện của Dũng về việc tìm cách vào Sài Gòn, nơi được cho là có cơ hội phát triển, phản ánh giấc mơ vượt qua sự nghèo đói, khắc phục khó khăn bằng chính nỗ lực cá nhân. Điều này cũng cho thấy sự thay đổi trong xã hội khi người dân mong muốn có được một cơ hội mới trong bối cảnh đầy bất công. Dũng và em đi mua gạo, chờ đợi suốt hàng mấy giờ đồng hồ chỉ để có được 9kg gạo là hình ảnh rất rõ ràng về cuộc sống nghèo khó sau chiến tranh. Cảnh tượng này phản ánh sự khắc nghiệt và bức bối của xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên, qua những câu chuyện trò của các nhân vật, người đọc thấy được hy vọng, dù nhỏ nhoi, về một tương lai tươi sáng hơn, dù là khi Dũng quyết định vào Sài Gòn hay khi những người bạn trẻ muốn thay đổi cuộc sống. Dũng là một nhân vật với tâm trạng phức tạp, luôn bị ám ảnh bởi quá khứ nhưng anh vẫn có sự quyết tâm và hy vọng vào tương lai. Qua các đoạn thoại, người đọc có thể cảm nhận được những cảm xúc lắng đọng của Dũng, nhất là trong những khoảnh khắc chia tay với người bạn đồng hành trên tàu và những lời dặn dò của gia đình. Sự chuyển biến tâm lý này rất hợp lý với bối cảnh xã hội đầy biến động sau 1975. Cuộc gặp gỡ giữa Dũng và cô gái trên tàu, mặc dù ngắn ngủi, nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc. Đoạn đối thoại giữa hai người không chỉ là sự chia sẻ về quá khứ, mà còn là những suy nghĩ về tương lai, về học vấn và những khó khăn trong cuộc sống. Cả hai đều có những nỗi niềm riêng nhưng câu chuyện của họ gắn kết bằng những khát khao vươn lên. Những mô tả về những tháp cổ, cảnh vật làng quê và những người dân nghèo lam lũ làm nổi bật hình ảnh của một xã hội còn nhiều khó khăn, nơi mà những người lao động thầm lặng không được chú ý và đôi khi phải chấp nhận sự thiệt thòi. Bức tranh này làm nổi bật nghịch lý về xã hội thời hậu chiến, nơi mà những người cần được nâng đỡ lại bị bỏ quên. Mối quan hệ giữa Dũng và cô gái trên tàu cũng phản ánh sự tương phản giữa hai thế hệ. Cô gái trẻ, dù có nhiều kỳ vọng và khát vọng cho tương lai nhưng cũng mang trong mình sự tiếc nuối về những điều đã mất. Dũng, trong khi đó, đã trải qua rất nhiều gian khó nhưng lại có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống, với niềm tin vào sự thay đổi và tiến bộ. Câu chuyện cũng phản ánh một khía cạnh của nghề giáo, nơi Dũng chia sẻ với cô gái về những thăng trầm trong sự nghiệp dạy học của gia đình anh. Đây là một sự trân trọng nghề giáo, dù trong bối cảnh xã hội khó khăn, nhưng nghề giáo vẫn luôn được coi trọng. Chương 14 đã tái hiện một phần cuộc đời của Bà Giáo Vân trong những năm tháng khó khăn sau 1975, khi bà phải tha phương cầu thực và tìm kiếm một lối sống mới ở Sài Gòn. Tác phẩm khắc họa những biến chuyển trong tâm lý của bà Giáo Vân, từ những hồi tưởng về quá khứ, những ký ức gắn liền với cha mình, đến sự thích nghi và đối mặt với những thay đổi trong xã hội mới. Đoạn văn thể hiện sự suy tư của bà Giáo Vân về một đời đã qua, về những quyết định không thể thay đổi, những hy sinh trong cuộc sống. Bà tự kiểm lại quá khứ, đánh giá những bước đi của mình nhưng cũng không thiếu nuối tiếc. Những suy nghĩ này cho thấy tính cách sâu sắc và sự trải nghiệm của bà qua những năm tháng đầy thử thách. Một chi tiết thú vị là bà không oán trách ông trời mà chấp nhận số phận của mình, điều này thể hiện một tâm hồn bao dung, không dễ bị ức chế, và có khả năng tự an ủi. Cách bà nhìn nhận mọi thứ "được sắp đặt bởi ông Trời" cho thấy sự chấp nhận thực tại, bất chấp khó khăn. Quan hệ giữa bà Giáo Vân và cha, cũng như giữa bà và các con, được khắc họa rất rõ nét. Sự kính trọng bà dành cho cha mình, người đã tạo điều kiện cho bà học hành, thể hiện một mối quan hệ sâu sắc và tình cảm gia đình gắn bó. Câu chuyện bà được Dũng đón về nhà cô Tám ở Sài Gòn càng làm nổi bật tình yêu thương gia đình. Dù là lần đầu tiên bà đến Sài Gòn nhưng sự ấm áp của gia đình cô Tám khiến bà cảm thấy hạnh phúc và không còn quá xa lạ với thành phố này. Bà dần thích nghi với cuộc sống mới ở Sài Gòn. Những quan sát của Dũng về "luật lệ" trong việc vận chuyển, cách các xe ôm hoạt động, cho thấy sự phức tạp trong đời sống đô thị và những quy tắc xã hội không phải ai cũng hiểu rõ. Cảnh bà Giáo Vân lần đầu tiên được đi xe đạp trong thành phố cùng với việc bà ngỡ ngàng đều phản ánh một sự chuyển mình trong cuộc sống, từ vùng quê lên thành phố. Tác giả cũng khéo léo sử dụng những hình ảnh như "sợi dây thiêng liêng" để chỉ sự gắn kết mạnh mẽ trong gia đình dù không phải lúc nào cũng được thể hiện qua những tiếp xúc trực tiếp. Một điểm nhấn trong đoạn văn là sự quyết định sai lầm của bà Giáo Vân và ông Giáo trước 1975, khi không nghe lời người khác để vào Sài Gòn sớm hơn. Sự tiếc nuối trong lời văn thể hiện sự dằn vặt nhưng cuối cùng bà chấp nhận thực tại. Đoạn này cho thấy sự đấu tranh nội tâm của nhân vật và cách bà sống chung với quyết định đã qua. Hình ảnh Sài Gòn, với ga Bình Triệu nhộn nhịp, đầy những người thất thế nhưng lại có một trật tự riêng cũng là một chi tiết quan trọng trong việc miêu tả không gian sống của nhân vật. Mô tả về sự đông đúc, những người "thất thế" kiếm sống qua các công việc vất vả cũng thể hiện sự đổi thay và khó khăn của xã hội sau chiến tranh. Nhân vật bà Giáo Vân thể hiện sự cẩn trọng và tận tụy, chăm sóc gia đình và thăm hỏi bạn bè, trong khi Dũng là một thanh niên mới lớn đang loay hoay tìm kiếm một hướng đi trong cuộc sống sau chiến tranh. Cuộc gặp gỡ với nhà thơ Phạm Thiên Thư là một khoảnh khắc đáng nhớ đối với Dũng, thể hiện ước mơ và khát khao vượt lên hoàn cảnh. Qua cuộc trò chuyện này, người đọc cũng cảm nhận được sự chia sẻ của Phạm Thiên Thư với những khó khăn và nỗi lòng của Dũng, đồng thời khắc họa hình ảnh của những con người đã qua thời kỳ cải tạo, phải đương đầu với những thay đổi trong xã hội. Tác phẩm cũng mang đậm dấu ấn của những hình ảnh sắc nét của Sài Gòn như bóng mát của những hàng me, những con đường nhựa, những chiếc xe đạp thong thả đi qua. Điều này gợi lên một không khí Sài Gòn những năm sau 1975, nơi những tàn dư của chiến tranh vẫn còn in dấu trong mỗi góc phố nhưng đồng thời cũng tràn đầy hy vọng cho một tương lai mới. Những mô tả về các nhân vật, đặc biệt là bà Giáo Vân, khắc họa rõ nét những khó khăn, vất vả của người dân miền Nam trong thời kỳ sau chiến tranh. Bà phải làm quen với công việc vỉa hè, thể hiện sự thích nghi và học hỏi từ những người đi trước, như chị Huỳnh Kim. Điều này không chỉ là câu chuyện của một cá nhân mà còn là sự phản ánh của một thế hệ người dân miền Nam phải xoay xở để tồn tại trong một xã hội mới. Những quán cóc, những chiếc xe hàng chở đầy rau quả, những cuộc gặp gỡ của các nhân vật và sự sống động của các hoạt động thương mại nhỏ trên vỉa hè khiến người đọc cảm nhận được nhịp sống không ngừng nghỉ của thành phố. Những người phụ nữ bán hàng trên vỉa hè phải luôn cảnh giác với đội cờ đỏ và những đợt kiểm tra của công an, thể hiện sự khó khăn, sự mưu sinh đầy chông gai trong bối cảnh xã hội mới. Dũng xuất hiện như một người con quan tâm, một người bạn hiểu biết, sẵn sàng giúp đỡ và chăm sóc mẹ. Tuy nhiên, hình ảnh của Dũng không chỉ là sự hỗ trợ cho bà Giáo Vân mà còn là cầu nối để bà có thể hòa nhập và học hỏi những điều mới. Những hồi tưởng của Dũng về quá khứ cũng tạo ra chiều sâu cho nhân vật, thể hiện sự hoài niệm về một thời đã qua và những vấp váp trong cuộc đời. Mối quan hệ giữa bà Giáo Vân và các nhân vật khác, đặc biệt là với chị Huỳnh Kim, thể hiện sự giúp đỡ, gắn kết của cộng đồng. Chị Huỳnh Kim không chỉ là người hướng dẫn bà mà còn là người bạn đồng hành giúp bà vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Các chi tiết như việc các bà bán hàng phải nhanh chóng thu dọn khi thấy đội cờ đỏ đến và sự căng thẳng giữa họ với các lực lượng này mang lại cảm giác hồi hộp và khó khăn trong cuộc sống của những người lao động tự do. Chương 17 bắt đầu với niềm vui của vợ chồng Dũng khi mua được căn nhà nhỏ ở Bình Thạnh, minh chứng cho sự nỗ lực bền bỉ của họ. Những lời trong bức thư của cha Dũng như một sự động viên, nhắc nhở về việc giữ gìn phẩm hạnh và đạo đức trong cuộc sống. Bức thư thể hiện sự kỳ vọng của cha đối với các con về việc sống lương thiện, tôn trọng danh dự và trách nhiệm với gia đình, dân tộc. Mặc dù gia đình Dũng vẫn còn khó khăn nhưng tình yêu và sự cảm thông giữa vợ chồng anh thể hiện rất rõ qua quyết định chăm sóc cho cha khi ông gặp phải vấn đề sức khỏe. Cách vợ Dũng nhắc nhở anh về việc đưa cha vào thành phố để chữa bệnh rất thể hiện sự hiếu thảo và lòng thương yêu, đồng thời là một khía cạnh nổi bật trong giá trị gia đình. Chương 18 với sự xuất hiện của cha mẹ Dũng tại thành phố. Cuộc hội ngộ giữa gia đình có thể cảm nhận được sự ấm áp và gần gũi, dù điều kiện sống không giàu có nhưng đầy đủ tình cảm. Qua những câu chuyện giữa cha và Dũng, người đọc cảm nhận được những giá trị của một thời kỳ, nơi mà sự hy sinh cho gia đình, lòng yêu nước và tình yêu thương đối với đồng bào được đề cao. Những suy nghĩ về sự quản lý xã hội và vai trò của người lãnh đạo cũng được cha Dũng chia sẻ, mang đến những bài học sâu sắc về trách nhiệm và tình yêu đối với quê hương. Sự đối chiếu giữa xã hội thành thị và những thói quen truyền thống của quê nhà cũng được phản ánh qua những câu chuyện đơn giản nhưng thấm đẫm giá trị đạo đức. Những lời khuyên của cha Dũng về sự điều độ, về tình yêu thương và sự đoàn kết dân tộc càng làm tăng thêm chiều sâu cho tác phẩm. Đây là một tác phẩm giàu cảm xúc, thấm đẫm tình người, tình quê và tình mẫu tử, đồng thời là một “lăng kính” chân thực nhìn vào xã hội miền Nam trong và sau chiến tranh. Dù còn hạn chế về hình thức và câu cú, nhưng nội dung đầy chân thành và ý nghĩa. Với một chút biên tập lại, tác phẩm hoàn toàn có thể trở thành một truyện dài mang giá trị tự sự - lịch sử - giáo dục rất đáng trân trọng. Nhà Văn Nguyễn Châu
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: