Re:Tiểu thuyết ký sự: BÀ GIÁO VÂN của Phạm Ngọc Dũ
-
11.10.2025 20:50:07
TIỂU THUYẾT KÝ SỰ: BÀ GIÁO VÂN (TIẾP THEO)
CHƯƠNG 12:
BÀ GIÁO VỀ
Cầm tờ giấy ra trại, bà mừng quýnh. Chào và cảm ơn người cán bộ đưa giấy phóng thích.
Về đến tổ tăng gia bà kịp chào hỏi những người thân và thu xếp và gửi đồ đạt cần thiết cho vài người đã từng giúp bà trong thời gian học tập cải tạo, họ cảm ơn và chúc mừng cũng như tạm biệt bà, được về vui vầy với gia đình. Bà lật đật ra về.
Bà ra khỏi trại không quên nói lời tạm biệt với những người quen gặp gỡ. Chúc tiến bộ mau về sum họp với gia đình.
Vào mùa mưa đường sá lầy lội, trơn trợt do phù sa, bà đi bộ một quãng khá xa trại, thỉnh thoảng ngoái nhìn lại định có ai cùng đường xin quá giang. Một chiếc Honda Dame phía sau giảm tốc độ, dừng ngay trước mặt bà.
- Hôm nay cô được về đoàn tụ cùng gia đình, vui quá hả cô. Cô ngồi lên em chở cô về.
- May quá, cảm ơn em. Nếu không phải ra tuốt ngoài đường lộ mới có xe thồ.
- Sáng nay, trong danh sách những người về đoàn tụ với gia đình có tên cô, nên em tranh thủ ăn trưa sớm để đón cô, em không được phép đón cô trong đó sợ lãnh đạo biết, kiểm điểm.
- Em tốt quá, ơn này cô sẽ nhớ.
- Ơn nghĩa gì cô, em được thế này cũng bắt đầu từ các thầy cô, chở cô về khúc đường có nghĩa gì, ngày em đi học cô rèn luyện em cùng các bạn buổi đầu đời, công sức ấy mới to tác.
Xe chạy chậm vì đường trơn, thỉnh thoảng băng qua vài đoạn đường bùn, vài vũng nước đọng, nước tung tóe anh cố gắng giữ tay lái cẩn thận, sợ rủi té, không hay. Bà Giáo ngồi sau, tay ghì chặt baga. Qua vũng nước lớn, anh bảo:
- Cô ôm chặt bụng em đỡ nguy hiểm hơn, đường trơn trợt lắm cô à. Mùa nầy đi lại khó khăn hơn mùa nắng, cẩn thận cô nhé. Sau khi ôm chặt anh, có vẻ chắc chắn, an toàn hơn anh bắt đầu tăng tốc. Bà Giáo tiếp tục cuộc chuyện trò, bà hỏi:
- Em quê ở đâu, có học cô à.
- Ngày cô mới vào trại, gặp em đã nói với cô rồi, chắc cô quên. Em luôn chú ý đến cô để bảo vệ thầm lặng
- Xin lỗi em, ngày mới lên cô sợ quá, cô không nhớ nổi nữa, thỉnh thoảng chỉ gục đầu chào.
- Em là Lộc, ở Nghĩa Lộc, khi em học lớp 3 cô dạy em.
- Vậy à, hồi ấy lâu quá rồi, làm sao cô nhớ.
- Cô không nhớ cũng đúng thôi, ngày tuổi còn thơ chúng em bé tí dưới mắt cô, bây giờ bọn các em đứa nào cũng sức dài vai rộng.
Thời gian thoắt qua vèo, bây giờ là cán bộ đàng hoàng.
- Cô biết không, trí nhớ của em cũng được cô à. Các thầy cô trường tiểu học em vẫn nhớ. Lộc đọc phanh phách tên các thầy cô dạy từ lớp một đến lớp năm những giáo viên trường bà Giáo dạy, thậm chí có thầy bà quên, nhờ Lộc mà bà gợi nhớ các đồng nghiệp cũ của nhà trường.
- Không biết quý thầy ở trường tiểu học Nghĩa Lộc giờ có còn ai ở đó không em?
- Dạ, không thấy ai cô à,
- Cô dạy 3 năm ở Nghĩa Lộc, rồi thuyên chuyển về quê, nên ít gặp các thầy cô ở đó. Thời trước thỉnh thoảng họp giáo viên toàn quận thì có, sau nầy cô cũng ít họp trên ấy nên cũng không biết, nhất là sau 75 không còn gặp thầy cô nào nữa.
- Có lẽ các thầy cô đi làm ăn xa.
- Còn em, sau tiểu học, em học ở đâu?
- Sau em thi Trung học không đậu em học tư thục, hồi đó đậu được trung học công lập khó quá cô à. Cũng may, mẹ em tần tảo chỉ mong em có chữ nghĩa sau nầy biết sống với đời, vì vậy em cũng cố gắng học tập, đến lớp 10 em hoạt động cách mạng, khi thống nhất, em chuyển qua làm trong đó mãi đến giờ. Em đậu tú tài bổ túc xong, mấy năm sau theo học khóa sĩ quan về công tác tại đây.
- Vậy hả, mừng cho em, tuổi trẻ chỉ có học tập mới tiến thân em à.
- Dạ
Chiếc xe bây giờ bon bon trên đường. Hai cô trò vừa đi vừa nói chuyện, đoạn đường đến nhà dần thu hẹp, đã qua đèo Eo Gió chuẩn bị tới Nghĩa Hành, cảnh vật thay đổi nhiều, mới vài năm mà nhà cửa hai bên đường có vẻ đông đúc hơn, và lòng bà cũng bắt đầu cuộc đổi thay sau những ngày kiềm tỏa trong trại, bà càng hớn hở khi sắp được đặt chân vào ngôi nhà cả đời bà gắn bó, mong mỏi ấy sắp hiển hiện. Sự đổi thay hai bên con đường lùi lại theo chiếc xe lao về phía trước, để lại vệt bụi mù của con đường đất bà đã từng đi lại nhiều lần.
Quá trưa, bà Giáo trở về ngôi nhà thân yêu, niềm vui ấy rộn ràng chợt nước mắt sướng vui bỗng lưng tròng khi quay về chốn cũ.
- Em đã đến nhà cô, vào nhà uống nước, nhờ thế này em mới biết nhà cô.
Nghe tiếng bà, ông Giáo vội vả bước ra.
Lộc cúi đầu :
- Chào thầy
Ông gật đầu, rồi vội vả:
- Mời em vào nhà, quý hóa quá, em đã đến nhà vào uống nước.
- Dạ,
Hình như là thầy giáo cũ, thời trung học thì phải, hay là người giống người? Lộc thoáng suy nghĩ, gạt chân chống dựng xe bước vào nhà.
Cửa nhà trên mở toang, ông giáo đã mặc bộ Pyjama, đem theo bình thủy nước lên và mở tủ thờ lấy bình và mấy tách trà, pha trà rót 3 tách nước khói nghi ngút tỏa, ông trân mời ân nhân đã chở bà về :
- Em uống nước đi, tôi vừa pha, trời se lạnh, uống cho ấm bụng
- Dạ, mời thầy, mời cô.
Hai người cùng uống, thường nhật ông chỉ uống trà buổi sáng, hôm nay có khách ông uống thêm buổi trưa, may là ông chợp mắt trước khi bà nhà về, uống nghe ngon.
Bà Giáo cũng đã đem nải chuối chát, ngày hôm qua ông đã đốn đem vào nhà. Nải chín lớn nhất được cắt ra, mang lên, bà mời:
- Em ăn chuối đi, cũng quá trưa rồi, em ăn trưa sớm, chắc đói bụng rồi, của ít lòng nhiều em à.
- Bà đưa Lộc, cùng ông nhà, bà cũng một trái, có lẽ đã đói, từ sáng giờ bà không bỏ bụng thứ gì, khi người ta mừng vui thường ít thấy đói. Cả 3 cùng ăn. Bà giới thiệu với ông :
- Mình à, đây là Lộc, học trò cũ tôi thời tôi dạy ở Nghĩa Lộc, bây giờ em là cán bộ trại giam. Em biết tôi hôm nay về nên ra tận đầu đường đón tôi, một nghĩa cử rất đáng trân trọng của học trò cũ.
- Cô trò gặp nhau trong hoàn cảnh éo le, may là em biết đạo lý, nên em giữ được chữ nghĩa, chữ tình, quý thay.
- Thầy à, với em, việc chính quyền là của chính quyền, cô có vấn đề chính quyền cho học tập, cô học tập tốt được giám định cho về, với em cô là cô giáo cũ - Người bắt bậc thang học tập cho em thuở đầu đời ai cũng từng được đi qua, em quý trọng thầy cô.
- Thời nào cũng vậy, đạo nghĩa thầy trò vốn quý cha mẹ cho hình hài, thầy cô bồi đắp kiến thức, ca dao Việt có nhắc nhở học trò ‘trọng thầy mới được làm thầy’ em à.
- Hình như thầy cũng dạy học?
- Tôi là công chức chánh ngạch, dạy thêm tư thục thôi.
- Thầy dạy sử địa phải không?
- Đúng rồi. Sao em biết
- Em đoán thôi
- Hồi em học Quảng ngãi Nghĩa Thục, cũng may thời đó có trường không học phí, nhà nghèo nên khó lắm thầy à, mẹ em cố gắng tảo tần cũng đủ tiền trọ và tiền ăn. Thầy dạy môn sử địa, giáo sư dạy em giống thầy lắm
- Tôi có dạy Quảng Ngãi Nghĩa Thục mấy niên khóa, môn sử địa.
- Xin lỗi thầy, Có phải thầy C… ?
- Phải, em có học tôi à
- Hồi ấy, em học Thu Xà, sau ra Nghĩa Thục thầy có dạy, em học được 2 năm lớp 8 và 9, sau chuyển trường vì sợ lộ bí mật
- Thì ra vậy,
- Thầy chỉ dạy em có một năm, em ngờ ngợ từ khi vào nhà đến giờ. Hồi ấy thầy vẽ bản đồ và chữ viết rất đẹp. Em thích nhất là vẽ đến đâu thầy giảng đến đó. Bây giờ thầy ốm và già đi nhiều, nên em không nhận ra liền, khi em nói chuyện mới thấy giống. Ồ, tình cờ em lại được gặp thầy cũ, biết được thầy cô, quý quá, thầy bây giờ không dạy nữa sao?
- Nghỉ rồi em à. Định nói gì thêm, nhưng rồi ông bỏ lững…
- Thầy à, cô đã đầy đủ mọi tư cách công dân, có điều còn quản chế, thời gian tới mong cô chấp hành tốt chính sách địa phương, thầy động viên cô, thầy nhé
- Vâng, cảm ơn em.
Bà Giáo cũng thấy vui vì Lộc cũng là học trò cũ của ông. Thầy cô, thời chiến tranh ở phố, hòa bình mới hồi hương về quê.
- Em ăn chuối đi, Chuối chín cây ngon, bà Giáo đưa thêm, nhưng Lộc từ chối.
- Dạ, vừa rồi cô, em vừa ăn trưa trước khi ra đi, hơn nữa em còn về quê thăm mẹ, gần cả tháng em chưa về, nơi làm việc không xa nhưng trở ngại đường sá, nên em cũng ít được về thăm mẹ. Khi nào có dịp em ghé thăm thầy cô, thỉnh thoảng em vẫn công tác xuống địa bàn các xã, thuận tiện em ghé thăm. Bây giờ em xin phép về nhà.
Bà Giáo nói :
- Cô cảm ơn em rất nhiều, đã giúp cô đến tận nhà, chỉ có học trò cũ có tình nghĩa mới như vậy thôi, chúc em làm việc tốt, xứng đáng một cán bộ mẫu mực với cuộc đời này, em nhé.
Lộc kính cẩn bắt tay ông giáo và cúi chào bà giáo ra về. Hai ông bà tiễn Lộc tận xe, khi xe khỏi ngõ ông bà mới quay vào.
Mình chưa ăn trưa phải không? Cơm còn ít, ghế củ lang, mấy con ở nhà rất tiết kiệm, xuống ăn đỡ, chiều mấy nhỏ về mua thêm thức ăn. Khi mình đi rồi, cũng được là con Thanh tháo vác từ việc Hợp tác xã, công ích, thủy lợi và cả đoàn thanh niên của tụi nó cũng hoàn thành.
Bà Giáo mang cơm lên nhà ngang trên chiếc bàn nước cùng chén mắm cái, con mắm còn đỏ hỏn, bà ăn ngon lành, ông có cảm giác như mình ngày trở về khi ra trại được ăn cơm như bà bây giờ.
Bà Giáo nói :
- Ăn chén cơm với mắm cái ở nhà ngon đáo để, ngon hơn cả những bữa tiệc thịnh soạn khi hội họp tổ chức, tuy trên đó tôi không đói cơm, sát cái bếp ăn, nhưng về nhà không khí hoàn toàn thoải mái, không như trên trại. Khi tôi ở đó tôi thường tưởng tượng về mình, và hiểu thêm chế độ học tập cải tạo mặc dù đây mới chỉ là trại của những người cấp bậc thấp.
- Ở đời khi thực nghiệm rồi, có thể không nói cũng hiểu, huống chi tôi đã kể cho mình. Sự cảm nhận có khi còn thú vị hơn lời kể. Nè, mà mình à, mình bị tội gì vậy, họ có cho mình biết không ?
- Có chứ ông, ban đầu khi mới lên ngày nào họ cũng bắt tôi cũng khai tường trình về dạy học, có gì khai nấy. Cán bộ quản giáo nói tôi khai không đúng sự thật, họ đã biết hết.
- Chiêu thức ấy, hình như có lớp lang cả rồi.
- Hôm sau bắt tôi khai lại, đến lần thứ mấy tôi cũng chẳng nhớ
- Cuối cùng thì sao ?
- Trời ơi, ông nghĩ xem, họ đưa một tờ danh sách cán bộ, viên chức ngành giáo dục cũ các trường trong huyện, trong đó có tên tôi là bí thư đảng Dân Chủ.
Tôi giải thích với họ rất nhiều lần, đối với thời Quốc gia, đảng Dân chủ là hợp thức hóa công chức thôi, nghĩa là ai là công chức ăn lương chính phủ thì mặc nhiên là thành viên đảng Dân Chủ. Họ không tin.
Nhiều lần như vậy, tạm thời họ để đó sưu tra lại.
- Sao hồi đó mình nhận, các thầy Hiệu Trưởng, phó lẽ ra để mấy thầy đảm nhiệm chứ!
- Năm 1972, sau vụ mùa hè đỏ lửa, chiến sự bắt đầu ác liệt có mấy thầy lại bị động viên vào lính, ông Hiệu Trưởng nhà dưới phố, nói : ‘Cô Vân làm bí thư nghe, tôi ghi vào danh sách nộp lên’. Tôi chỉ ừ, cứ nghĩ các thầy nhà dưới phố lại đàn ông, khi có việc đến chiều mất an ninh lo về sớm vẫn hơn. Đâu biết bây giờ mấy ổng truy ra.
- Đảng Dân Chủ của ông Thiệu ghi tên cho có lệ, chứ chẳng hoạt động gì có lẽ mấy ông bây giờ suy diễn như đảng Cộng Sản tưởng chặt chẽ dữ dội, mật thiết lắm, khi tìm hiểu được sự thật họ cho về.
- Tôi nghĩ vậy. Mình biết không, ban đầu họ tưởng tôi cũng như mấy ông huyện ủy thời nay nên hành xác không chịu nổi. Cả đời mình chỉ biết tới bọn trẻ con chăm nom, uốn nắn cho các em mai sau thành người hữu dụng cho xã hội, nghề giáo, nhất là giáo dục tiểu học. Coi như một tai nạn.
- May thay, mình cũng được về sớm, nếu không dây dưa cũng mệt, mình cũng chẳng biết đâu mà lần, mình chỉ là nạn nhân thôi. Cảm ơn trời đất, dù gì mình cũng còn diễm phúc. Thôi mình đi nghỉ tí đi, chiều bọn nhỏ về, mừng lắm, trông mẹ về từng ngày.
Tiếng í ới của bọn nhỏ trong nhà sau buổi hoàn công trồng lang HTX cho một gia đình trong đội đã hoàn thành, bọn nhỏ còn trò chuyện ngoài ngõ, bà Vân nghe xôn xao tiếng người nói cười ra đứng trước cửa. Thấy bà, tụi nhỏ như ong vỡ tổ: Mẹ đã về, lập tức chạy vù vào quên cả bạn còn ngoài cổng ngõ.
Chiều xô dần vào tối, mùa đông ngày ngắn, mặt trời chưa sập sau núi đã nhá nhem tối, lời nỉ non của loài dế bắt bầu khúc giao hưởng tự tình, khúc nhạc muôn thuở của nông thôn nghe có gì da diết nhưng cũng thê thiết lắm.
Buổi tối, cơm nước cùng chồng con nhìn đôi mắt đứa nào cũng hân hoan, vui vẻ, không khí nhộn nhịp ngày đoàn viên, bà vui khôn xiết sau gần hai năm học tập cải tạo. Hai năm trong ấy sao dài quá, nhớ gia đình kinh khủng, bà chưa bao giờ xa nó dù thời vàng son nhất trong những ngày dạy học, thậm chí đồng nghiệp bà cứ khuyên bà nên đi chơi xa đâu đó một chuyến như Nha trang, Sài Gòn, Vũng Tàu… cho rộng tầm mắt, chỉ vì yêu gia đình bà lần lửa mãi chẳng đi đâu.
Cả đời dạy học, kỳ nghỉ phép nào bà cũng chỉ tranh thủ về Đà Nẵng thăm cha mẹ già, có thể dẫn thêm đứa nhỏ nào về thăm vài ba ngày, rồi lật đật quay về mái ấm gia đình. Phụ nữ thời ấy mãi hoài chăm nom gốc rể cho gia đình.
Có lần ông Giáo đi công tác Sài Gòn nhân bà được nghỉ phép năm đó, song vì yêu con, bà cự tuyệt lời đề nghị của ông ‘nên đi một chuyến Sài Gòn để biết thủ đô hoa lệ’, bà dứt khoác không đi.
Chị Thanh, sau khi nghe mẹ kể sự gian khổ trong những ngày ấy, chợt chị hỏi:
- Mẹ à, họ bắt mẹ học tập vì lý do gì vậy? Bà chỉ trả lời ngắn gọn:
- Ừ thì đi dạy cho chế độ cũ cũng đã có tội với chính quyền mới. Không ít thì nhiều.
Dũng lại tỏ ra bất bình, chen vào:
- Đi dạy cũng có tội à? Mấy ông này kỳ cục hết sức. Đi lính, chỉ huy hay lính trực tiếp chiến đấu thì thôi được đi, đàng nào cũng gián tiếp hoặc trực tiếp bắn giết với nhau, đàng này đào tạo cho con người mai sau thành người cho xã hội cũng có tội, không thể nào chấp nhận, thật là vô lý.
- Nghĩa là lúc mẹ là giáo viên có tham gia đảng phái cùa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
- Hồi đó ai công chức cũng vậy mà, sao những người khác lại không ?
- Vì mẹ có chức sắc hơn. Nhưng thôi, mai mốt con sẽ hiểu, nổi oan này không phải riêng cha mẹ, mà cả miền Nam con à. Lịch sử vẫn còn đó.
Chị Thanh nói vào :
Mẹ cũng học tập cải tạo nhưng về thấy đỡ hơn cha nhiều, không bịnh hoạn, sức khỏe cũng ổn, vậy là mừng rồi em à, làm sao mình hiểu được. Có mẹ về mẹ tính chuyện, con cũng đã cố gắng quán xuyến trong thời gian mẹ đi, ít ra con cũng đã hoàn thành sứ mạng. Út giỏi lắm mẹ à, có miếng canh, miếng cá cho cả nhà cũng nhờ Út cả, nếu không có Út chắc cuộc sống tồi tệ hơn.
Bà Giáo Vân quay sang nói với Út :
- Bây giờ, mẹ về mới thấy hết sự trưởng thành của Út, cha nói đúng. Thời không cho Út may mắn thì đời cho vậy, mẹ cảm ơn con đã phụ giúp gia đình và cả mẹ nữa, những lần chị Thanh thăm mẹ đều nhờ vả tiền con làm ra tuy không nhiều những cũng đủ trang trãi trong những tháng ngày nhà mình lao đao. Nếu không có gánh hàng xén của con có lẽ không được thế này.
- Mẹ à, buổi sáng con mua bán ở Hơp tác xã mậu dịch, chiều con về xuống chợ bán, quần áo cả nhà lúc tết toàn là hàng HTX, vì vậy bán buôn cũng tạm được, con làm vài năm, nếu có chút tiền bạc con vào Sài Gòn, nghe các anh chị về nói mà ham.
Người ta không câu nệ lý lịch như ngoài mình, ai giỏi kiểm tra sát hạch được là vào làm, có năng lực là tiến thân được. Tất nhiên là con cán bộ còn ưu tiên cất nhắc.
Con có thể học lại và thi để cho chính quyền biết, con vẫn đọc sách và xem bài thường xuyên mẹ à. Anh Dũng cũng đã nói là ảnh sẽ vào Nam, ngoài nầy với lý lịch thế nầy thì cả đời ăn tro mò trấu. Con ủng hộ ảnh.
- Bây giờ, nhà mình thất thời, thất thế cha mẹ chẳng làm được gì, không thể nhờ vả được ai, ngày trước mẹ cha giúp đỡ biết bao người ở cái xã nầy ra phố học tập, ở trọ phố học tập, nhưng họ chớ hề biết ơn nghĩa, họ dững dưng. Thế đời nó vậy. cha mẹ chẳng biết thế nào chỉ cậy ở các con. Mẹ vẫn tin Hoàng thiên hữu nhãn.
Hai mẹ con nhỏ to tâm sự đến khuya mới nghỉ ngủ, ngày mai con còn làm việc và mẹ cũng cả ngày đường chưa thẳng lưng.
Ngoài trời gió mạnh thêm, chuyển mưa. Có thể trời mưa lớn, mưa cho trôi tất những muộn phiền về với biển để hóa thân trở thành những thắm tươi cho cuộc đời,
mở ra một chương mới cho đất nước đẹp đẽ hơn, có lẽ trong thâm tâm mọi người ai cũng mơ như thế, nhất là bà Giáo Vân.
Mọi ngôn ngữ bất lực trong thời đại này, chỉ có bao tử là dữ dội, tất cả tranh đấu cho từng miếng ăn để tự tồn, một khi bao tử lép kẹp, con người chỉ duy nhất nghĩ đến miếng ăn. Bản năng lặng lẽ quay về trên mỗi thể thân. Tất cả ai đã đi qua đoạn đường này mới thấu thị.
Phương thức giải quyết thế nào mỗi người tự tìm thấy trong chính mình, bà giáo Vân mãi hoài suy nghĩ, tìm cho mình sự phù hợp nhất chỉ mong sao giải quyết được vấn đề cơm áo, chẳng đơn giản chút nào trong những ngày sắp tới.
CHƯƠNG 13
HÀNH TRÌNH
Nỗi suy tư dài của Dũng đã tỏ bày cùng gia đình, từng lời khuyên sự dặn dò, bây giờ Dũng không bận rộn lắm với gia đình, gánh hàng xén cả sự buôn bán của Út cũng dần đi vào nhịp nhàng, nếu đầy đủ phương tiện là lên đường.
Dù sao Dũng cũng vài lần thăm dò Sài Gòn, nhớ lần thứ nhất ngày vào nhà chú đi mua gạo của thành phố này.
Hôm ấy, 4 giờ sáng, gia đình chú đã gọi Dũng và chú em chút xíu đang học lớp năm, tội lắm nó bé tí cùng đi với anh Dũng, nhà đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục nào hộ khẩu, sổ mua gạo... Thằng nhỏ mắt nhắm mắt mở nhưng cũng hiểu phải có gạo mới mong thoát khỏi cảnh ăn mì và bo bo, nó ngán tới đầu, nó nói mà Dũng thương quá chừng. Đã 4 ngày liên tiếp nhà cứ luộc mì, chiên mì hoặc cháo bo bo. Nhà không ai rảnh cả nên Dũng xung phong coi như đi thực địa tìm hiểu và trải nghiệm.
Đến cửa hàng lương thực Phụ Nữ, trời còn tối, nhờ ánh điện của các trụ đèn gần đó nên cũng thấy quang cảnh mua lương thực HTX, Dũng và em đến chừng 4 giờ 30, sớm như vậy cũng đã có vài mươi người sớm hơn. Mỗi người tùy theo cách thích của mình mà xí chỗ, người đặt cái ghế xếp, người đặt cục gạch, hòn đá… tựu trung là làm dấu đánh số thứ tự. Xong đến quán cafe cốc gần đó ngồi nhâm nhi cafe đợi sáng chờ… mua gạo.
Chỉ vậy thôi, nhưng khi đúng 7 giờ 00, Ba cô mậu dịch viên cùng một chú áo xanh mở cửa hàng, các bạn tưởng tượng những cục gạch, ghế xếp dài ngoằn như con trăn khổng lổ cả trăm mét, có điều ai nấy vào vị trí đã định sẵn, không chen lấn ồn ào, gây gỗ. Bắt đầu lật sổ và lần lượt nghe gọi tên.
Đến phiên sổ gạo nhà chú thím cũng gần 10 giờ sáng, hai anh em về nhà với 9kg gạo được mua phân phối mừng ghê gớm, coi như mất 6, 7 tiếng đồng hồ để mua được 9kg gạo.
Thằng em có vẻ hả hê lắm: ‘Em chắc là phải mua được mà, anh đi chuyến này hên quá, mấy khi trước cha và em đi mua đâu có được, còn vài người đến phiên mình, cô mậu dịch báo hết hàng đành phải về chờ nhập hàng’ đành quay về.
Dễ sợ vậy à. Sài Gòn như thế này làm sao người dân chịu được.
Dũng nghĩ kiểu này thì biết bao giờ tiến triển được như xưa. Ngày trước, gạo các đại bài, đại lý, các chợ đầy ắp, chỉ cần 5 phút là gạo tới tay, tất cả nhanh gọn, Vải vóc ư? Đầy đất chật bãi, hàng nội ngoại tha hồ chọn lựa Anh, Mỹ, Pháp, Nhật, Ấn… muốn bao nhiêu mét cũng được, chỉ có tiền hay không.
Chợt nhớ lại mấy thằng bạn thân ở quê, với lời hứa hôm trước Dũng đạp xe ra tận thằng Viên chào tạm biệt, nó cũng buồn buồn, rủ vài người nữa ngồi lại với nhau. Lần nầy không rượu chè gì, may là nơi ấy cũng có quán cafe, cả bọn cùng dắt nhau ra cô chủ cũng chút xíu như Út nhà Dũng vậy và cũng trở ngại học tập vì rào cản lý lịch, bèn xin ra góc vườn trên đường lớn mở quán cafe, em ấy cũng biết Dũng, quán nhỏ nhưng cũng có nhạc, nơi bọn nó thường hò hẹn với nhau, kể ra ở quê ngày đó thuộc dạng xịn, mới có casette và đủ các loại nhạc ‘cấm’ thời ấy.
Thằng Viên khoái Trịnh Công Sơn và Vũ Thành An nó bảo cô chủ quán:
- Cho 3ly cafe và 3ly nhạc.
Trước khi pha café cô ấy ấn nút, nhạc trịnh du dương vừa đủ nghe, nếu có cán bộ kiểm tra năn nỉ cũng không sao, nói chung cô chủ quen với cán bộ. Bấy nhiêu đã đủ tiền, từ lâu nếu có mở đài nước ngoài nghe lén cũng rè vì sóng radio lúc được lúc không, đây là âm thanh cassette, thật tuyệt cả ba đắm chìm trong tiếng hát Khánh Ly, café đã bưng lên mùi ngào ngạt, có nước đá trong ly khác ai thích tùy ý, ôi chao, sao giống các quán lớn ngoài phố hoặc tận thị trấn. Không ngờ đến ngày sắp rời quê thằng bạn lại cho mình thưởng thức, mà hình như lâu lắm rồi mới có cảm giác lạ này.
Ba thằng đều tích thú, Dũng chợt lên tiếng:
- Ôi trời, nơi quê mùa tĩnh mịch vẫn có một chủ quán xinh đẹp lại sành điệu nhạc thế này, bây giờ mới có cảm giác lạ.
Cô chủ vui tính:
- Lạ hả anh, tự chưa quen thôi. Sành gì anh, đây là máy ông anh mua lại của người bạn ngoài phố, anh ấy vào học ở Bách khoa Sài Gòn, nên các băng từ anh cho luôn, em đâu biết nhưng nghe cũng thấy hay, em biết anh Dũng mà.
- Sao em biết, em học với em anh, có vào nhà anh rồi, nhưng anh không để ý, em cũng như Út nhà anh, tai nạn lý lịch nên xin mẹ mở quán kiếm tiền tiêu thôi anh à, chả lẽ cứ xin tiền mua sắm, nhất là con gái.
- Anh hiểu, rất tuyệt em à, những người như em rất có trách nhiệm cho chính mình và cả gia đình, anh rất trân trọng.
- Anh quá khen, chứ buồn lắm anh à, cứ mỗi sáng, mỗi chiều các bạn em đi học về em tủi thân lắm, cái khổ của em là không được đi học nữa trong lúc tuổi còn cắp sách, muốn tiếp thu kiến thức để mong mai sau vào đời giúp mình, giúp đời. Lúc đó em bi quan ghê lắm anh, tại sao người lớn lại bức tử chúng em trong lúc các em phơi phới muốn học tập? Nỗi buồn lớn nhất của đời em, hơn một năm em ở nhà làm ruộng HTX cảm thấy không chịu nổi. Nếu được tiếp tục năm nay em cũng thi tốt nghiệp, may thay, mẹ em cố gắng chạy vay mượn cho ít vốn em nỗ lực bán rồi hãy hay anh à. Nghe anh sắp vào Sài Gòn em mừng cho anh, vào Sài Gòn may ra mới thoát kiếp, chứ ở quê mình khó bề lắm. Trông anh nghệ sĩ quá, làm sao sống nổi nơi quê này.
Thằng Viên tranh thủ chen vào:
- Bộ tao không nghệ sĩ hả mày?
- Anh Viên là nghệ sĩ, nhưng anh thì lạ gì, anh Dũng bây giờ mới tới quán, em khen tí mai mốt ảnh về còn ghé café chứ? Anh thắc mắc quá à.
Cả bọn cười xòa. Có cô chủ quán vui tính dễ bắt chuyện có lẽ trai thanh gái lịch nơi này sẽ đến ủng hộ. Làm ruộng coi vậy chứ nhàn rỗi, bận rộn thời vụ, xong vụ nhàn nhã lắm.
Ngồi nghe nhạc nhấm nháp ly café ngon. Cảm giác thú vị, tiết trời se lạnh ngồi trò chuyện với nhau còn gì bằng.
Viên nói:
- Khi nào cậu đi? Sài Gòn có những điều mà không nơi nào có được, nó là hiệp chủng quốc, dân tứ xứ vào sinh sống chẳng ai để ý ai, ai làm nấy ăn nên thị phi ít, hơn nữa ai siêng năng chăm chỉ là có đời sống, làm gì cũng kiếm tiền được, bất kể ngành nghề nào. Hơn nữa nó là nơi thanh lọc tốt nhất, những con người thực sự làm việc mưu cầu cuộc sống, nó không dung chứa những kẻ lười biếng và ỷ lại. Có những người vào với tài sản rất nhiều nhưng không biết cũng rụng rún chạy về, ngược lại kẻ tay không nhưng chăm chỉ nỗ lực thời gian sau cũng khá. Cuộc sống nơi đó là trường ganh đua khốc liệt nhất, ai không đủ bản lĩnh chịu đựng sẽ quay về.
Tao hy vọng với óc tiến thủ, khôn ngoan và khéo léo tao nghĩ mầy có thể trụ được. Gian nan buổi đầu là chắc rồi, nhưng tốt nhất đừng nản chí, bỏ cuộc. Đừng ỷ lại còn đường quay về mà hãy coi như không chỗ quay về mới thành công.
- Tao cũng nghĩ như mầy, vấn đề đầu tiên là quên cái ta của mình, cứ lao vào làm, nếu chưa được, kiếm công việc khác phù hợp.
- Mầy có phát thảo về vấn đề nơi ấy, những dự định?
- Một nơi thênh thang mà mình chưa hiểu làm sao phát thảo nổi. Chỉ khi nào có công việc thật lúc ấy mới tính, ai cũng vậy.
Mãn ngồi nghe 2 đứa thân nhau nói chuyện, nhận diện hết vấn đề, nó nói thêm vào:
- Ông chú tao khi trước chỉ là thông dịch viên, của đơn vị quân đội ông theo sĩ quan Mỹ thông dịch. Ban đầu nhà nước nghi ngờ CIA bắt đi cải tạo hơn 2 năm, sau khi cải tạo về hết quản chế ổng đi kinh tế mới Long Khánh, nhưng chạy thẳng vào Sài Gòn, buổi đầu thuê xích lô đạp kiếm sống, sau ổng bắt mối dạy đàm thoại, bây giờ ổng ngon lành lắm. Năm ngoái tao vào ông dẫn tao uống café dưới Sài Gòn và dạo phố, thấy ổng tiêu tiền tao hoảng, ổng tâm sự: ‘Sài Gòn là nơi dễ kiếm tiền nhất và tiêu tiền cũng vậy’. Mình nghe sướng lắm, nhưng vào tuần lễ chơi mất mẹ khoảng tiền lớn rồi về. Từ đó mình không có ý vào đó. Nếu Dũng vào mình nghĩ cậu nên học lại Anh ngữ, vì nơi đó là trung tâm giao lưu các nước với nhau, nếu may có thể khá lên.
- Ok Mãn, cũng là một ý hay.
Tán hưu tán vượn cũng mất cả chiều, các nữ sinh cũng từng đoàn lũ lượt băng ngang qua quán, cô chủ quán ngồi nhìn những bạn trang lứa đi học về, mắt em đẫm buồn thăm thẳm trong lỗ đen phận người không còn hoa mộng như các bạn cùng thời, nuối tiếc một thời học sinh đã qua. Dũng chạnh lòng cùng nỗi niềm cô bé ấy.
Dũng đến bên, nói vừa đủ cho cô bé ấy nghe:
- Em à, mỗi người có một định mệnh, em cũng thôi buồn đi, biết đâu sau này em cũng khá giả, thậm chí giàu có, ai biết được ngày sau. Buôn bán có niềm vui bán buôn. Việc gì đã qua đừng tiếc chi nghen. Nhìn tích cực vào tương lai. Hy vọng em nhé.
- Dạ, cảm ơn anh. Mong anh may mắn trong chuyến vào Nam sắp tới.
- Cảm ơn em.
Viên, Mãn ơi, cũng chiều rồi. Thôi ta cũng chia tay, cuộc chơi nào rồi cũng qua, chưa biết khi nào tao đi, nhưng nếu không gặp nữa cũng chẳng sao, mình đã chuẩn bị một chuyến hành trình dài hơi cho chính mình.
Cả bọn ra về, chúng tôi chia tay nhau. Hoàng hôn đã về trên mảnh đất quê, cánh đồng xuân thì con gái mơn mỡn xanh, ngọn gió lành nhẹ tạo làn sóng lúa tít tắp chạy về chân trời vô tận.
Cảm ơn bạn bè, cảm ơn cô bé chủ quán. Dũng đạp xe bình yên quay về.
*
Buổi chiều hôm ấy, khi về nhà Dũng đã nói chuyện cùng gia đình là vào Nam, chuyến đi này rất quan trọng trong cuộc đời, ai cũng khuyến khích.
Cha mẹ còn cẩn thận nói: Nhớ viết thư về để cả nhà an tâm, buồn vui gì cũng viết để ở nhà biết tin. Cố gắng làm việc, vạn sự khởi đầu rất gian nan, đừng nản chí bỏ cuộc.
Dũng hứa với cả nhà rằng, dù gì anh cũng phải ở trong ấy cho bằng được, rồi mỗi thời mỗi khác, anh sẽ lập nghiệp trong đó.
Trước khi ra đi, cha anh còn dặn dò rất cẩn trọng:
- Đừng thấy khó mà mau chân lui, mọi sự không dễ dàng, nhất là đối với người chính trực và thật thà, thiện lương, ai cũng mến, cũng quý, một sự giúp đỡ là một quý hóa, phải biết cảm ơn và nhớ ơn, con nhé. Cha tin ở con.
Chia tay cả nhà, anh bịn rịn và lưu luyến, cuối cùng Dũng ra khỏi nhà, anh không dòm lại. Lòng cương quyết mách bảo hãy mạnh dạn bước tới phía trước dù vô vàn khó nhọc.
Chuyến tàu hỏa Bắc Nam kéo còi vào ga, người ta tiễn đưa nhau í ới lên xuống tàu, Dũng còn đợi người xuống chưa vội lên, một mình làm cả cuộc phân ly. Anh thấm thía với nỗi niềm Nguyễn Bính, tâm sự sao giống anh quá:
“Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly”.
Chuyến tàu kéo hồi còi dài, tạm biệt sân ga, da diết quá, Dũng có chỗ ngồi trên ghế sát cửa sổ phía trái, sau hồi còi của người chef ga, nó bắt đầu xình xịch lăn bánh. Bỏ lại quang cảnh náo nhiệt hỗn độn của sân ga.
Những bãi mía tít tắp, những cánh đồng xanh rì bất tận, nối đuôi nhau. Làng quê anh dù thế nào cũng tô một màu xanh muôn thuở đến kỳ cùng. Người nông dân yêu quê chỉ biết chăm bón những mầm xanh hy vọng, họ là những người thầm lặng nhưng bao giờ cũng đem lại bình an và no ấm nhất trên đất nước này, có điều họ chưa bao giờ được chăm sóc chu đáo. Dường như cả đời họ chỉ chăm chỉ với mảnh vườn, miếng ruộng, miếng đất, công lao to tát thế, nhưng mấy ai ngồi lên đỉnh cao nghĩ đến để bênh vực quyền lợi cho lớp người lương thiện, tình nghĩa này, đây là nghịch lý có thật. Bao giờ họ mới thật sự được công bằng trong xã hội?
Ngồi cạnh bên Dũng là cô gái có khuôn mặt tròn, mái tóc vừa phủ ngang vai, chiếc băng đô hồng đẩy mái tóc làm lộ vầng trán rộng, đôi mắt tròn như hạt nhãn, lông mày lá liễu mảnh không xén tỉa, tự nhiên, áo sơ mi hồng quần tây khá đơn giản, có vẻ thật thà. Anh làm quen để chuyện trò:
- Xin lỗi, em về đến đâu?
- Em vào Sài Gòn để học tập.
- Vậy à, hay quá, anh cũng vào Sài Gòn. Vậy là có bạn đồng hành để nói chuyện cho vui, chắc em không từ chối.
- Quý quá anh à, em chỉ có mỗi mình, lần đi thi vào đại học cha dẫn, lần này em vào trường, nên tự đi. Có anh đồng hành là vui lắm.
- Anh vào có chuyện gì hay học tập?
Một chút xốn xang với Dũng, tuy nhiên anh vẫn bình thản:
- Rất tiếc, anh không bước đến giảng đường như em được, anh vào kiếm việc làm.
- Vậy à,
- Em vào nhập học, mùa nầy là mùa tựu trường của các tân sinh viên, em học ngành gì?
- Em học sư phạm.
- Hay quá, cô giáo tương lai.
- Ngành này ít chi phí nhất nên em chọn, mẹ cha nghèo mà anh.
- Nghề giáo cao quý, cha mẹ và các chị anh cũng nghề giáo thời trước, có điều bây giờ không còn dạy nữa.
- Sao vậy anh, chắc lương bỗng không nhiều nên chuyển nghề?
- Không, chính quyền mới cho nghỉ.
Đoàn tàu vào hầm bỗng dưng cả hai lặng im, khi ánh sáng bị nhận chìm vào bóng tối, ít nhất ai cũng phản ứng tùy theo thái độ nhân sinh quan của mỗi con người. Sau khi qua 9 đường hầm liên tiếp Dũng trầm tư.
Đời là một hành trình liên tiếp tối sáng, ai khôn ngoan sẽ giữ được ánh sáng dài lâu hơn.
Băng qua đất Bình Định, nhiều tháp cổ của Chiêm Thành còn sót lại, ánh sáng vàng của hoàng hôn nhòa nhạt, hình như tháp cổ Chiêm trầm mặc hơn với thời gian đã phủ dày trên đồi cao, gò thấp. Khúc bi hận của cổ tháp đã một thời oanh liệt, chỉ còn trơ vơ như phế tích buồn vọng về nỗi tiếc thương một thuở. Thời gian sẽ bào mòn từng lớp hưng phế trên cõi đời, có cái gì trường cửu với thời gian.
Đến Diêu Trì, một ga lớn trung chuyển, đoàn tàu nghỉ lại lâu hơn để tiếp nước và nhiên liệu. Ánh đèn điện trên các trụ đèn rực sáng, bụng đói Dũng mời cô ăn cơm, cô ta có vẻ ngập ngừng:
- Anh mua ăn đi, mẹ đã chuẩn bị cho em cả vài ngày ăn đường, nào cơm và bánh gói, em định mời anh.
- Được rồi vậy anh mua cơm gà cùng nhau ăn, ngày mai sẽ tính tiếp. Tôi mua lấy một hộp cơm và 2 đùi gà lên trên toa xe, chia cho cô ấy một. Cô không quên bỏ qua cho tôi một ít thịt heo chà bông.
Cả hai cùng ăn. Nhìn lon cơm đầy ắp và những món lương khô tôi lại nhớ hình ảnh mẹ tôi trước khi đi học tập. Cũng như thế, người nhà quê bao giờ cũng chu đáo chuẩn bị cho người đi xa. Chắc là tiết kiệm và vệ sinh hơn.
Chúng tôi kể nhau nghe những kỷ niệm thời học trò, những ngày bắt đầu chập chững bước vào đời buổi giao thời, tuy em nhỏ hơn tôi 4, 5 lớp nhưng cũng đủ hiểu những cơ cực mà gia đình cũng như em đã đi qua. Bất chợt cô hỏi:
- Sao anh không tiếp tục học?
Tiềm thức 4 năm trước chợt sống lại, Dũng muốn chôn quá khứ không may ấy, nổi hoài thai lớn là vào Nam để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn thôi. Tuy vậy, anh cũng giải thích đại khái:
- Ngày ấy anh cũng được đậu vào trường đại học, nhưng lúc đó còn khó khăn về rào cản lý lịch nên anh không thể tới được giảng đường, mơ ước không như ý, ngày ấy anh cũng buồn lắm, nhưng làm sao được, hình như là mệnh số. Coi như một tai nạn trong đời cùng chung số phận với các bạn cùng hoàn cảnh như anh.
- Em hiểu rồi, quê em cũng có những trường hợp như thế. Em cũng thấy tiếc và thương các anh chị ấy.
- Chuyện đã qua, anh chẳng tiếc rẻ nữa, chỉ mong về sau đừng có điều ấy xảy ra ở các thế hệ tương lai. Ai có khả năng học tập hãy cho chúng bước vào ngôi trường lớn để mai này tự tin bước ra giúp đời, chớ nên cắt đứt tức tưởi sự học trong lúc các em muốn học tập.
- Dạ, đúng vậy. Anh à, xin lỗi anh, em bắt đầu buồn ngủ, khi hôm nôn nao quá không ngủ được, nhiều suy nghĩ cho chuyến đi hôm nay, chuyến đi quyết định cuộc đời em cho tương lai.
Đồng hồ trên tay cũng Dũng cũng đã chỉ 21 giờ. Em ngủ, Dũng một mình nhìn ra cảnh vật hai bên, ánh trăng soi rất thơ mộng, cảnh trí về đêm cũng lung linh lạ thường, ngồi trên tàu nhìn cảnh vật lướt qua thú vị lắm. Thỉnh thoảng tàu qua chiếc cầu đang làm, tàu chạy rất chậm mặt sông lấp loáng ánh trăng sinh động quá, thấy yên bình lạ thường.
Dũng gục đầu trên bàn, cũng thiếp đi. Khi tiếng rao hàng í ới của những người bán hàng rong trên tàu anh mới thức dậy. Ga Nha Trang.
Ngày trước Dũng có ghé đến đây mấy lần, Thành phố đẹp, dân cư còn thưa thớt, bãi biển dài nước trong xanh, đẹp vô cùng, một thành phố biển đẹp nhất Việt Nam. Dũng cũng đã mơ chọn nơi nầy làm quê hương, nhưng không có ai quen biết nên cuối cùng anh chọn Sài Gòn, Thức giấc Dũng vẫn còn ngái ngủ, anh gọi chị bán café cho 2 ly, một đen và một sữa nóng, Anh hớp ngụm café đen cho tỉnh táo và đốt điếu thuốc thơm, ối chà nó ngon làm sao. Khi cô em giật mình dậy, Dũng mời ly café sữa:
- Em uống café đi, anh mới mua còn ấm, uống cho tỉnh táo.
- Em không quen uống café
- Thì bắt đầu là vừa, vào Sài Gòn học tập em sẽ biết, người Sài Gòn uống café là nét đặc trưng văn hóa, buổi sáng mọi con đường đều có, hình như người sài Gòn già trẻ gì cũng uống café. Anh thấy cũng hay.
- Đây là lần đầu em được uống café anh mời.
- Đặc biệt café sẽ làm sảng khoái và tỉnh táo.
- Em sợ ghiền lắm.
- Trời ạ, em uống tí café mà sợ ghiền cái nổi gì. Ghiền café là cả quá trình dài.
- Anh à, Sài Gòn dễ sống không?
- Anh cũng chưa rõ, các anh chị đi trước anh nói rằng dễ sống lắm, chỉ cần siêng năng và chăm chỉ tìm cái ăn cái mặc không khó. Chính điều nầy thôi thúc nên hôm nay anh mới có chuyến đi này.
Ga Bình Triệu là ga cuối cùng của Thành phố nhộn nhịp bậc nhất, anh nấn ná giúp cô em xuống tàu, ra khỏi ga an toàn, gọi xe ôm cho cô bé mới quen, dặn dò người xe ôm nhớ đến đúng địa chỉ. Cô cảm ơn chia tay anh, hẹn gặp lại.
Một cảm giác thoải mái, mới 10 giờ sáng, Dũng vội băng qua đường thuận chiều về sài Gòn, ngồi lại uống cafe sát đường.
Sài Gòn lúc nào cũng vậy, nhộn nhịp vô cùng, anh xe ôm bên ngoài ga, có lẽ muốn chở tôi về, khi đã hết hành khách của chuyến tàu Bắc Nam, anh ghé bàn tôi, nói vừa đủ nghe.
- Em về đâu anh chở về, anh xe ngoài bến đi giá phải chăng, thấy anh có vẻ đàng hoàng, Dũng nói :
- Anh chở về Phú Nhuận bao nhiêu?
- Đoạn nào em?
- Khoảng giữa Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận.
- Em cho anh mười đồng.
- Ok, anh đợi em hút thuốc xong, tính tiền café rồi đi.
Chiếc xe lạng lách qua dòng người đông đang xuôi ngược, Dũng ngồi sau cũng ớn, bấm bụng anh tài xế:
- Chậm thôi anh, nguy hiểm quá, dễ gây tai nạn lắm
- Không sao đâu em, anh chạy quen rồi.
- Cẩn thận vẫn hơn, nhanh tí có khi khổ cả đời.
Cuối cùng anh vẫn đến đúng địa chỉ cô em gái, Dũng bước vào nhà, Một chuyến đi không đến nổi cực khổ như chuyến xe đò năm trước ròng rả suốt ba ngày đêm, về tới nơi mặt mày đen như cột nhà cháy, áo trắng bám bụi than thành màu đen, từ đó Dũng thề không đi xe đò chạy than nữa.
CHƯƠNG 14:
BƯƠNG CHẢI XỨ NGƯỜI
Huỳnh Kim học trò cũ của bà Giáo Vân, từ Sài Gòn về thăm cha mẹ, nghe cô Vân đi học tập đã về, chị dự định lên nhà thăm hỏi, lần lửa mãi vẫn chưa đến thăm bà, tình cờ gặp bà Giáo đi trình diện quản chế ở xã về, bước ra khỏi cổng UBND, chị chào thật to:
- Chào cô, cô đi đâu đây?
Bà Giáo Vân chững lại vài phút nhận diện Huỳnh Kim:
- À, cô đi trình diện về
- Cô làm gì mà trình diện, cả đời đi dạy cũng trình diện ư?
- Ừ thì mình làm việc cho chế độ cũ mà em, nghĩa là có tội
- Vô lý quá cô, em về có nghe cô bị đi học tập đã ra trại, tính ghé thăm cô và gia đình, nhưng chưa tới được, may quá gặp cô ở đây. Mời cô qua bên kia nói chuyện chút, lâu quá không gặp cô.
Hai cô trò bước sang quán bên cách không xa cổng UBND, chị Kim kéo ghế mời cô:
- Mời cô ngồi, cô à em mới từ Sài Gòn về thăm cha mẹ, vài hôm nữa em vào
- Vậy à, cô trình diện đợt này là đủ thời hạn quản chế, nhà nước cho tự do, khi học tập về, chế độ quản chế cũng nghiêm ngặt lắm, đúng ngày giờ hẹn là phải trình diện, ai vắng là công an xã lên nhắc nhở mời ngay. Họ sợ chuồng đi nơi khác.
Cho 2 chai nước ngọt. Chị Kim gọi nước, cô chủ đem ra 2 chai nước và 2 ly nước đá, chị rót vào ly: Mời cô, vừa uống vừa nói chuyện cô nhé. Bà Giáo Vân gật đầu rồi tiếp:
- Em về bao lâu rồi, làm ăn trong đó được không em?
- Cô à, Trong đó khác lắm không như ngoài mình, em nghe lời chị bạn, xuống Sài Gòn bán đồ cũ, buổi sáng xuống Tân Định vốn liếng chỉ mấy đồng vậy mà em cầm cự mấy năm, vừa đi thăm ông xã, vừa nuôi em ngon lành,
- Cô đã hết quản chế, hay là cô làm đơn xin đi làm ăn trong đó, em giúp cô với.
- Được thôi cô à, không khó gì cả, chịu cực tí, may mắn cũng đỡ khổ, cô gửi về nuôi thầy và các em cũng đủ, càng sớm càng hay cô à, Sài Gòn bây giờ các gia đình khá giả ngày trước chỉ bán đồ mà ăn cầm cự thôi, có gì cô vào nói với Dũng, em và Dũng cũng thỉnh thoảng gặp nhau. Em thương nó lắm chân ướt chân ráo vào Sài Gòn nên buổi đầu cũng khó xoay xở.
- Nó cũng quyết chí vào đó lập nghiệp, có gì em giúp nhé.
- Dạ, cô khỏi lo, vài tuần là nó lên, có gì hay là em trao đổi với nó.
- Vài hôm nữa cô xin giấy vào Sài Gòn thăm và làm ăn.
- Có gì cô bảo nó chở lên em.
- Ông xã em về chưa?
- Dạ, chưa cô. Trong Nam cũng dễ chịu so với phía Bắc, con bạn em có ông xã học tập ngoài Nghệ An, mỗi lần ra tốn kém, người dân ngoài ấy họ nhìn người Nam chẳng thân thiện, mỗi lần đi về nó kể nghe mà muốn khóc. Khắc nghiệt lắm.
Thôi vậy cô nhé, em về nhà đã cũng trưa rồi, ba em bảo đi về sớm còn ăn trưa cùng gia đình.
- Ừ, thôi em về, tạm biệt em. Hẹn găp nhau ở Sài Gòn.
Ông Giáo ngóng từ sáng đến giờ, không biết sao trình diện lâu đến thế, ông suy nghĩ vẩn vơ… Hay là có chuyện gì nữa đây? Ông hơi sốt ruột đi ra đi vào, ngồi bàn uống nước nhìn thẳng ra ngõ đã trưa lắm rồi.
Bà về, ông cười, hỏi thật nhẹ:
- Có chuyện gì không, mà lâu vậy, mình?
- Hôm nay, anh em tôi trình diện đông lắm mình à, tập trung lại ông cán bộ xã ‘diễn thuyết’ mong các bà con anh em về chăm chỉ làm ăn, chính quyền cách mạng bao giờ cũng mong sự hòa hợp của anh em chế độ cũ, cố gắng làm ăn tái thiết để nước giàu dân mạnh, đừng nghe lời xúi giục của phản động.
Khi ra về, gặp cô học trò cũ bày vẻ tôi vào Sài Gòn làm ăn, nghe khá lắm mình à, một mình em làm vậy mà nuôi chồng học tập và 2 đứa con đàng hoàng, hay là tôi xin đi vào Sài Gòn vài ba tháng. Nếu được, xin gia hạn tiếp. Mình thấy sao?
Và cô ấy còn gặp thằng Dũng nhà mình hoài, có gì khó nó cũng lên trên ấy nhờ giúp đỡ, chị em nó cũng thân thiện, Dũng nhà mình ngoại giao giỏi ghê, nó đã sắm được xe đạp rồi, ở Sài Gòn không có phương tiện đi lại là thua.
- Tùy mình, đi cũng được, biết đâu có cơ hội hơn, hơn nữa xem thằng Dũng nó thế nào? Ở quê sao tôi thấy ảm đạm quá, mịt mờ quá.
Tối ấy, bà Giáo Vân không ngủ được, thao thức việc đi Sài Gòn tìm kế sống, thâm tâm bà chưa muốn, nhưng càng ngày kinh tế càng kiệt quệ, nỗi khốn cùng trong nhà là thật nên một liều ba bảy cũng liều. Bà quyết định ngay trong đêm.
Buổi sáng quây quần bên nồi khoai lang vừa thu hoạch hôm qua, khói nghi ngút tỏa, cả nhà ăn uống vui vẻ với nhau, bà nói với các con:
- Mẹ đã bàn với cha rồi, giờ nói thêm với các con, chắc mẹ vào Sài Gòn có cô học trò cũ giúp mẹ làm ăn, nếu may cũng kiếm được tiền gửi về thêm chi tiêu. Ở nhà càng ngày càng lún sâu vào khốn cùng, cái đói đã lăm le, các con nghĩ sao?
Chị Thanh mau miệng :
- Mẹ đi cũng hay cha à, biết đâu sẽ cải thiện được, con giờ cũng thay mẹ quán xuyến được gia đình, biết đâu vận may của nhà ta.
Út cũng đồng ý như chị Thanh:
- Đây là cơ hội cha à, mẹ vào đã có người dẫn dắt, buôn bán đâu khó khăn gì, con tỷ mình con biết, chỉ có bán buôn mới phù hợp với nhà mình trong thời này, ai cũng chân yếu tay mềm, làm sao có thể sống nổi, hơn nữa có anh Dũng trong đó 2 mẹ con đùm bọc, con nghĩ sẽ ổn.
Ông Giáo nãy giờ nghe các con sôi nổi bàn tán, rất có lý. Hay là ngày mai Thanh xuống xã gửi đơn xin tạm vắng, độ này Thanh đã quen biết nhiều người trong cái xã này rồi, con có thể giúp mẹ.
Cha bây giờ thừa thải, kiến thức không thể đổi gạo, mắm không làm gì được cho nhà mình, cái quan trọng là tồn tại, các con thương cha mẹ như vậy cha cũng vui rồi.
Mình viết thư cho Dũng trước khi đi để còn đón bà nữa, thư tín bây giờ cũng chậm trễ, chắc nó vui lắm khi có mẹ vào cùng nhau hiệp sức.
Chị Thanh gửi đơn xuống xã, anh phó chủ tịch nhận đơn, bảo:
- Cô mới hết quản chế một tuần lại lo vào Nam, có việc gì vậy, em?
Chị biết anh thăm dò, nên cũng than thở :
- Anh à, gia đình bây giờ anh biết mà, khó khăn lắm, mẹ em vào trước là thăm các con, sau là bương chải xứ người có thể kiếm sống, chứ làm ruộng thì thua trắng.
- Mình nổ lực lên chứ làm ruộng đâu như công chức được. Thôi để đơn đó, anh xét cho. Ba hôm nữa xuống lấy nhé.
- Cảm ơn anh.
* *
- Trên vé tàu mấy giờ xuống ga, con? Ông Giáo hỏi chị Thanh
- 11 giờ cha à
- Vậy ăn cơm sớm, con chở mẹ xuống trước chừng một tiếng cho chắc, thà xuống sớm ngồi chờ còn hơn, rủi trên đường trở ngại, ông giáo lo xa.
- Dạ, Sáng nay con và Út đưa mẹ ra ga, cha ở nhà.
Bà giáo cẩn trọng đưa ông ít tiền để dành mua trà thuốc phòng các con chưa có kịp, bà biết tính ông cái gì chứ thuốc với trà không có ông ngóng như trẻ ngóng mẹ về chợ, trước khi đi bà dặn dò ông:
- Mình à, tôi đi mình cẩn thận ở nhà giúp các con, làm gì trong vườn nhà thôi, đừng đi đâu xa, đi nhứ chim cũng cần có nhiều người nghe mình.
Chỉ có bà là hiểu ông nhất, phải thôi, ông bà giáo đã sống chung mấy mươi năm sao không hiểu được. Tính ông mê kiểng và nhứ chim, mỗi lần đi nhứ về ông kể lại cho bà nghe nhiều lần bà hiểu được sự đam mê. Bà Giáo chưa bao giờ cản ngăn thú chơi ấy, thậm chí khuyến khích ông cho khuây khỏa nỗi buồn.
Thừa nhận ông giáo làm cái gì cũng đẹp, gene khéo léo được ông nội truyền lại, ông đan đác cái gì cũng tuyệt, từ cái lờ cá, cho đến cái nơm, cái mủng, rổ… Cây kiểng nào ông uốn nắn cũng tuyệt đẹp, nhất là làm lồng chim nhứ, tùy theo loài chim mà mỗi lồng đều khác nhau, từ cái đấu chim ăn đến cầu chim không ai chê vào đâu được. Ai cũng phục tài khéo léo của ông.
Chuyện cái cầu chim đã thấy ông công phu thế nào. Khi ông nhìn thấy cây xanh quít có cầu đẹp, ông chặt, uốn bằng lửa rồi tỉ mỉ gọt lại, đâu đó mới bắt vào lồng, Dũng thấy ông làm cầu chim đã phục sát đất.
Dũng có một thời theo ông đi nhứ chim cu đất, sau khi chọn thế chim nhảy ông cẩn thận dùng câu lim cắt hết các nhánh chung quanh, chỉ để nhánh đối diện với chim lồng, chim bên ngoài chỉ duy nhất phải đậu nhánh ấy, khi chim lồng gù thúc, con chim ngoài cũng không kém, nghe rất đã tai. Con chim ghét nhau tiếng gáy là vậy. Nó vờn với nhau khá lâu, hình như tiếng gáy đã làm con chim ngoài tức tối, nó nhảy bổ vào để đá con bên trong cho bằng được, hỡi ơi, chiếc bẫy lưới oan nghiệt sập xuống đã tóm gọn chú chim trước vài phút còn hùm hổ ta đây.
Nghề chơi cũng lắm công phu.
Ông giáo ồn tồn:
- Mình khỏi lo tôi biết phải thế nào. Mình an tâm và cẩn thận tiền bạc trên tàu xe.
- Tôi chỉ nhắc mình thôi. Thôi tôi đi, mình nhé.
Lần này bà giáo đi ông không lo lắng, ông biết chắc vào trong gặp con cháu trong Sài Gòn.
Chuyến tàu hỏa Bắc Nam, đến trễ so với giờ của điều độ chạy tàu gần tiếng rưỡi. Cô Út và chị Thanh đưa mẹ lên tàu, bà Giáo còn dặn dò:
- Cha các con vô tư lắm, các con thường hỏi han nhé, tính ổng không hỏi là không nói, mẹ biết tính cha, nhớ chăm sóc bửa cơm cho ông.
- Mẹ an tâm cứ đi, đừng lo nghĩ các con đứa nào giờ cũng sỏi cả rồi, vào đến nơi nhớ gửi thư về cho biết tin, mẹ nhé.
Đoàn tàu kéo hồi còi dài rồi lăn bánh, bà ngoái nhìn các con, những bàn tay vẫy những bàn tay làm bà xúc động rơi nước mắt, lòng người mẹ nào chẳng thế, cực chẳng đành mới xa nhà chứ với từng tuổi nầy, nếu như không túng quẩn dễ gì bà rời quê quán bương chải kiếm ăn nơi quê người xa lắc, xa lơ, không được ở gần ông để chia sớt buồn vui.
Thời thế vậy đành phải chấp nhận, cuộc đời có những bước ngoặc tình cờ nhưng phải nương theo cho phù hợp từng hoàn cảnh mình.
Một đời bà Giáo phụng sự từ tuổi trẻ đến xế chiều, nếu không thay đổi có lẽ bà cũng được an nhàn trong tuổi già bóng xế, chứ nào phải bôn ba đi cầu thực phương xa, rồi đây sẽ ra sao nữa khi cả một đàn cháu con chưa được bình yên, còn lận đận, thương bà thì ít thương con thì nhiều.
Thời gian còn những một ngày một đêm trên tàu, bà lục lạo tiềm thức coi như thước phim đời mình mở lại để nhìn lại quá khứ, để cảm nhận một đời đã qua.
Thời bấy giờ, cuối thập niên 49 - 50 của thế kỷ trước bà học Quốc học Huế là vinh hạnh, dễ gì con gái được học Tây học, bà chợt thương ông ngoại - Người rất cầu tiến trong cách dạy dỗ con cái, hoàn toàn không theo khuynh hướng Nho gia, cho con gái đi học, thời bấy giờ nhiều người khá giả, giàu có còn dè biểu ông rằng không thức thời, con gái làm gì cho đi học nhiều, biết viết biết đọc đã hơn khối người ở cái huyện, cái tỉnh này, ông chỉ trả lời qua loa với họ: ‘Kệ anh à, học tập bao giờ cũng tốt hơn’. Ngày bà vào trường Quốc Học, Huế chính ông ngoại dẫn bà đến tận nơi, sau khi tìm chỗ trọ học ổn định, vào trường bắt đầu học tập ông mới về nhà. Từ đây bà đã một mình lo liệu, xong 4 năm trung học bà mới quay về. Ông ngoại nghĩ rằng bấy nhiêu cũng đủ với xã hội thời ấy, hơn nữa tiền bạc cũng vơi đi nhiều. Còn lại cho các cậu em nữa.
Ngày ấy, chính ông ngoại cũng ra tận nơi đón bà về sau khi dự lễ bế giảng. Hèn chi bà Giáo yêu kính ông ngoại cũng phải. Rồi lấy chồng, rồi vào sư phạm cấp tốc, rồi dạy học, rồi nuôi chồng đi học, nếu không phải là bà Giáo, ông Giáo không thể đậu tú tài. Công đức ấy thật đáng nể. Ngoài ra bà còn dìu dắt, bổ trợ các em bên chồng học tập, cô chú nào cũng được chính bà khuyến khích. Các chú cô kính trọng bà cũng phải đạo.
Rồi thời thế thay đổi, rồi học tập cải tạo, rồi bây giờ tha phương cầu thực. Ôi chao, đời người cũng lắm vui buồn, biến đổi không ngừng.
Giá như sau 1975 ông bà nghe lời người nói phải: Đừng về quê, vào thẳng Sài Gòn có lẽ mọi sự đã hoàn toàn khác, cũng vì trách nhiệm dâu trưởng nên nấn ná ở lại quán xuyến mồ mả, ruộng vườn nhà chồng. Đúng là bà sống đúng với chuẩn mực đạo lý. Bởi khi đó tiền bạc hãy còn khấm khá. Một quyết định đúng có thể nhiều thế hệ không đến nổi phải hy sinh tốn sức lực quá nhiều, đó là cái giá lớn phải trả cho sự sai lầm, thiếu quyết đoán. Nhưng mọi sự đã rồi, làm sao. Thực tại là còn phải làm việc để tồn tại. Ôi, cái nợ đời còn dài, không biết khi nào hết lận đận, bôn ba.
Đôi lúc bà cũng tự an ủi rằng mọi sự trên đời được sắp đặt bởi ông Trời, vì thế mà bà chẳng oán than gì, bằng lòng với phần số mình. Cũng may là như vậy không bị ức chế bởi tâm lý.
Và rồi, đúng trưa hôm sau bà Giáo cũng đã đến Sài Gòn, xuống ga cuối cùng Bình Triệu. Ga Bình Triệu là nơi dân anh chị tứ xứ, cũng như các người thất thế tụ về để kiếm sống bằng đủ các loại nghề từ bốc vác, cò vé, cò xe ôm, cò vận chuyển… Tất cả đều có luật lệ bất thành văn, ai trong cõi ấy mới hiểu một trật tự bài bản, ông ‘trùm’ có đầy đủ quyền lực với những thành viên. Thế giới nào cũng có quy luật riêng chẳng qua không thực chứng nên không thể hiểu được.
Dũng và bà Giáo Vân bước ra, các anh xe ôm chèo kéo, mời mọc ghê lắm, Dũng khoác tay tất cả, chỉ trả lời vỏn vẹn: Cảm ơn, có người đón rồi. Tất cả họ không theo nữa. Thấy lạ, khi ra ngoài cổng bà giáo hỏi:
- Sao con tỉnh bơ vậy.
- Những người chạy xe ở đây họ rất tâm lý, ai ngập ngừng họ sẽ theo đuổi tới cùng, chắc chắn sẽ đi được, có thể ngại giá cả đắc đỏ quá chăng, để đi cho được chuyến xe ấy, còn nếu thấy không phải là họ quay lại để kiếm khách khác.
Bao giờ cuốc xe bên trong cũng đắc đỏ hơn xe bên ngoài, bởi họ phải đóng thuế. Đâu phải ai cũng vào được bên trong đâu mẹ.
- Vậy à, nơi nào cũng có luật lệ cả, con hả.
- Dạ, chẳng qua chưa tiếp xúc nên không hiểu. Con vào Sài Gòn cũng cố gắng đến để hiểu. Cái gì cũng phải học mẹ à.
Dũng đón mẹ về khi bà còn lóng ngóng bước ra ga tàu. Lần này là lần đầu tiên bà được đi xe đạp trên thành phố hoa lệ đông đúc này, chính con bà chở về nhà cô Tám vui vầy với vài đứa cháu ngoại, mà bà thường nhắc nhưng mãi, hoài chíp miệng vì xa xôi quá khó có dịp thăm hỏi. Cơ ngơi gia đình nhỏ của cô cũng làm bà vui.
Nhà riêng khá dài và rộng nằm trong con hẻm trung tâm của thành phố, có gác suốt từ đầu đến cuối, đủ rộng để bà có thể ngủ nghỉ nơi đây. Hơn nữa không xa so với chỗ của chị Huỳnh Kim là bao nhiêu. Một điều thuận lợi vô cùng.
Gia đình cô Tám mừng lắm, chiều hôm ấy nhà cô dượng Tám vui như tết, đầy đủ cả các con ở Sài Gòn quy tụ, gia đình cô dượng Tám nhất là các cháu ngoại quấn quít bà, một điều lạ là cháu nhỏ chưa hề biết mặt bà ngoại, nhưng khi cô dượng giới thiệu đây là bà ngoại từ Quảng Ngãi vào thăm ba mẹ và các con, chúng nó thân thiện như người nhà đã từng. Sợi dây thiêng liêng tuy vô hình nhưng bắt được tầng số máu mủ ngay. Đất trời kỳ diệu là vậy.
Bữa tiệc tương đối thịnh soạn, nào vịt quay, gà luộc, bánh mì… Cảm nhận bà rất vui, hạnh phúc, nếu như các con bà ở ngoài ấy làm gì có được trong thời buổi gạo châu củi quế này, tuy cô dượng Tám còn khó khăn nhưng cung cách Sài Gòn là vậy, hình như cũng đã ít nhiều ảnh hưởng. Ngày mai có ngày mai lo, rất thoải mái.
GẶP GỠ NGƯỜI NỔI TIẾNG
Trời quang mây tạnh, vào đông nhưng nắng ấm, hình như Sài Gòn không có mùa đông thì phải, cơn mưa đã tạnh hẳn. Bà Giáo giục Dũng:
- Tạnh mưa, nắng lên rồi con à, đi đến vài chỗ để mẹ thăm, ngày mai mẹ còn đến chỗ chị Huỳnh Kim.
- Dạ, con cũng đã xong. Xuống ngay thôi
Dũng chở mẹ qua chú Tám, bà không quên đem theo tí quà quê với mạch nha và đường cục – Đường cục được nấu bằng lò mía 4 chảo, khi đường tới người ta đỗ vào muổng, có hình chóp nhọn, phía đáy có lỗ tròn khi đem về phải rút mật, mẹ biết chú thích món quà quê nầy lắm. Trước khi đi mẹ chỉ đem quà 2 món ấy, bà rất rõ cả nhà ai cũng thích.
Đến nhà chú Tám khá sớm. Con trai chú reo lên :
- Ồ, bác Hai gái và anh Dũng đến cha à.
Chú bước vội ra cửa, đón vào, trên chiếc giường thấp tự tay chú đóng một ông khách cùng ngồi với chú, bà giáo và Dũng cúi đầu chào vị khách, xong. Chú giới thiệu ngay:
- Đây là nhà thơ Phạm Thiên Thư và đây là bà chị dâu cả tôi, thời trước dạy học, vào thăm, đi với con chị.
- Chào thi sĩ, tôi nghe anh qua nhà tôi, nhà tôi mê anh lắm, ông ấy cũng thích văn chương. Tháng lương nào cũng mua 4, 5 đầu sách. Bà Giáo nói
- Hồi trước, anh quân đội hay làm việc hành chánh, chị?
- Nhà tôi làm công chức, dạy thêm tư thục anh à
- Anh có bị gì không?
- Dạ, cũng có anh à
Chú Tám chen vào cho rõ ràng, tính chú ngang tàng lắm, không úp mở:
- Anh chị tôi, ai cũng mới cải tạo về, ảnh sắp chết mới được về, còn chị về năm ngoái, hết quản chế mới được đi xa.
Ông Phạm Thiên Thư, có vẻ ngạc nhiên lắm, him hip mắt, tay vẫn còn điếu thuốc Đà lạt đen hút dỡ
- Ồ, chị cũng bị chính quyền bắt đi à?
- Dạ
- Mấy năm chị?
- 22 tháng anh à
- Trời ơi, chị đi dạy thôi mà. Ở ngoài liên khu 5 tôi nghe nói dữ lắm. Sài Gòn coi vậy cũng đỡ hơn miền trung nhiều họa sĩ hả?
- Sài Gòn cái gì cũng sướng anh Thư à, ngoài quê tôi nghe các cháu nói mà thương, có khách đến thăm làm con gà đãi người ta cũng sợ, giống thời Việt Minh quá anh.
- Sợ gì họa sĩ?
- Sợ mấy anh du kích biết được báo cáo lên trên, nói rằng còn khả năng nên làm khó. Anh về viết đề tài này nhé, chắc đăng báo được. Chú cười sảng khoái lắm.
- Ông thi sĩ thun mũi cùng cười, dễ sợ anh hả, chắc mười năm nữa viết được! Quay sang Dũng ông hỏi: - Còn cháu học ở đâu?
- Dạ, cháu xếp bút nghiên rồi, nhưng không tòng quân ra trận, đang lang thang Sài Gòn kiếm việc, chưa biết sao đây chú à, chú nhà thơ lớn, quen biết nhiều, giới thiệu việc làm giúp cháu với.
- Anh biết viết văn làm thơ không?
Có lẽ ông nói vừa đùa, vừa giỡn, nhưng Dũng thì khác:
- Dạ, cũng viết lách chập chững, nhưng chi vậy chú?
- Có bài thơ nào đọc tôi nghe với, dân miền Trung, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi làm thơ dữ lắm họa sĩ à.
Dũng lần đầu biết được nhà thơ lớn, vốn đã mê Động Hoa Vàng, Đoạn trường vô thanh, Ngày xưa Hoàng Thị… của ông thời trung học, hôm nay được kỳ ngộ với ông trong nhà chú, nên cũng bình tĩnh, ngày trước nghe mấy cái tên ấy, Dũng tưởng tượng dữ dội lắm, trông được thấy, được nghe, được hầu chuyện, hạnh phúc lắm. Bây giờ người bằng xương bằng thịt ngồi trước mặt, Dũng sung sướng vô cùng, nên cũng thích đọc cho nhà thơ lớn nghe, bạo dạn nói:
- Dạ, có chứ. Chú và chú Tám cho phép thì cháu đọc, có gì nhờ chú giúp cháu để tiến bộ.
- Đọc đi mới biết, chú Thư chỉnh lại cho, chú Tám nói:
- Cháu đọc nhé, bài thơ cháu viết trước khi vào Sài Gòn, định lập nghiệp luôn ở đây, Dũng hơi run, cố gằn giọng, từ tốn vừa đọc, vừa quan sát chú Thư:
‘Nát gan quyết một lần đi,
Mai sau còn được điều gì hương hoa
Bóp tim bái biệt sông Trà
Lời nguyền xin tạc lời cha nạm vàng
Ngữa nghiêng thời cũng bật ngang
Ai ngang tôi để cung đàn lạt giây
Mùa khô rát nát nắng dân cày
Ta còn mải miết so giây tơ lòng’
- Hay, hay quá. Tâm sự quá. Còn trẻ mà làm bài thơ đọc nghe sướng lắm, anh có năng khiếu, hồi ấy chắc học văn chương giỏi?
- Dạ không, Cháu học chuyên toán, tú tài ban toán.
- Ngộ hả, tôi tưởng anh dân ban văn chương, có thời gian cứ viết để trang trải nỗi lòng mình, biết đâu anh sẽ cũng như tôi, như các người khác, sóng sau cao hơn sóng trước là thường tình. Có điều ai mê văn chương không giàu đâu nhé, nó là nghiệp chứ chẳng phải nghề. Rồi ông cười nhẹ nhàng, hiền lành, đôn hậu.
- Dạ, không dám, với chú Phạm Thiên Thư, cháu cho là thiên tài thi ca, nhất là lục bát. Lời trong Động Hoa Vàng cháu đọc nhiều lần, cha cháu ổng cũng giảng giải thêm điều gì ổng cảm nhận, còn cháu chưa hiểu hết hàm súc ý của chú. Nhưng rất mượt mà, ngôn ngữ tuyệt đẹp, chưa thấy ai bằng.
- Tôi hồi ấy là tu sĩ, nhiều thời giờ cho kinh sách, nhưng bây giờ chẳng làm gì cả, thỉnh thoảng cũng trang trải nỗi lòng trên giấy.
Chú Tám xen vào
- Cháu à, chú Thư là nhà thơ tài hoa cả miền Nam ai cũng biết, có điều để nói chuyện hỏi thăm với mẹ cháu tí.
- Dạ, Dũng xuống nhà sau nói chuyện với các em, mẹ nói chuyện với chú và chú Thư, tranh thủ còn về nữa mẹ à.
Chú Thư có lẽ muốn biết thêm về buổi đầu giao thời của miền trung nên chú hỏi bà Giáo:
- Chị à, vậy chị có biết tại sao người ta cho đi cải tạo.
- Dạ, cũng có lý do chứ anh, chẳng là lúc lộn xộn thời cuộc, người ta bắt đầu chuẩn bị cuộc di tản lịch sử có lẽ nhà thơ cũng đã biết, các thầy đến trường thưa dần, và những ngày sau không đến trường nữa. Trước mấy tháng, thầy Hiệu trưởng họp hội đồng trường giao tôi quyền Hiệu trưởng, biên bản thiết lập xong là tôi điều hành nhà trường. Hơn nữa, tôi là bí thư Dân chủ ngành giáo dục quận thời ấy. Có lẽ chính quyền nghĩ khác nên mới bị học tập, phụ nữ như tôi sáng từ phố về quê tới lớp dạy, về nhà gần đó, chiều có khi ra văn phòng cùng các giáo viên, rồi chiều xong tôi về phố. Lo gia đình, con cái đông anh à. Cha các cháu làm trên ty, có khi tối mịt mới về.
- Thì ra, chắc họ nghi ngờ thôi
- Dạ, đúng vậy anh, sau lên trại tôi mới biết chính xác là vậy. Chứ khi triệu tập tôi cũng không biết mình có tội gì. Tôi hoang mang vô cùng. Nội cái chức bí thư ‘hữu danh vô thực’ ấy mà cả năm trời tôi khổ sở biết bao nhiêu.
- Miền trung gay go quá họa sĩ hả. Chú Tám nói tiếp:
- Nếu như anh chị tôi vào Sài Gòn chắc không đến nổi như ngoài quê đâu, miền Trung nhất là liên khu 5, anh Thư biết chứ: Gay go nhất nước.
- Biết, thời Việt Minh đã nổi đình nổi đám rồi, sau 1975 cũng vậy. Đây là lần đầu tiên tôi biết một cô giáo dạy học học tập cải tạo gần 2 năm. Không tưởng tượng ra nổi.
Chú Tám tiếp:
- Chị vào thăm các cháu rồi về hay có tính gì nữa không chị?
- Ngoài đó, từ khi hồi hương về đến giờ chỉ tốn tiền, còn bao nhiêu tôi túc mục thuê mướn cải tạo lại mảnh vườn hoang hóa mấy mươi năm, sau khi vợ chồng tôi cải tạo về nhà không còn gì cả chú à, tôi định theo đứa học trò trong nầy bán quần áo chợ trời, để kiếm sống, bế tắc quá chú.
Cả 2 ông ngồi tặc lưỡi, có vẻ cảm thông, chú Tám lên tiếng:
- Tất cả những người làm việc cho chế độ cũ tại Sài Gòn nầy bây giờ người nào cũng trở thành bá nghệ, người chợ trời đa số, bán đồ nhà hầu hết, xích lô, xe đạp ôm…
Nghe đến đây bà Giáo biết ngồi thêm cũng mất thời giờ, còn phải về, nên đứng dậy:
- Chú Tám à, ở đây cũng đã vài tiếng đồng hồ rồi, tôi còn đi qua cô Một thăm tí, xin lỗi chú và nhà thơ tôi phải đi, không có thời gian nhiều, mong thi sĩ và chú thông cảm. Có tí quà quê gửi chú và các cháu cho vui. Tôi đi đây
- Dạ, chị có việc, chị đi. Tôi và anh Thư còn ngồi chơi lâu.
Bà Giáo cúi chào rồi cùng Dũng ra về. Dũng không quên:
- Thưa chú Tám và chú Thư, cháu về. Hôm nào một mình cháu qua nói chuyện một bửa với nhà thơ lớn mà cháu kính phục.
Chú Thư cười ung dung :
- Được, tôi cũng thích anh. Chị và cháu đi nhé.
Dũng chở bà Giáo sang nhà cô Một. Nhà cô kín cổng cao tường, Dũng nhấn chuông. Không có tiếng thưa. Lại nhấn chuông lần hai. Có tiếng thưa bên trong. - Ai đó? Cô mở cửa bước ra:
- Ồ, chị Hai, mời chị và cháu vào. Hai chị em đi song song nói với nhau. Dũng đi sau.
Cô rót hai cốc nước lọc đặt trên bàn. Cô ngồi sát bà Giáo. Dũng ngồi đối diện.
- Mời chị và cháu uống nước.
- Cảm ơn cô. Bà giáo nói
- Chị vào bao lâu rồi, chị ở đâu?
- Tôi mới vào hôm qua, hiện ở bên nhà vợ chồng con Tám Thủy.
- Vậy hả?
- Nghe nói ở Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận. Em cũng chưa qua.
- Ừ,
- Chị vào thăm hay tính làm ăn gì trong này
- Trước là thăm gia đình cô và các cháu, sau chị tính ở trong này kiếm sống.
- Nghe nói ngoài mình cực quá hả chị?
- Làm ruộng phải cực thôi cô, mà các con tôi yếu đuối chưa quen, khó sống lắm.
- Chị à, bây giờ ai cũng vậy.
- Sài Gòn còn dễ chịu chứ ngoài ấy chẳng những cực mà cách sống cũng gay go. Chính quyền coi mình như công dân hạng hai. Từ ngày hồi hương đến giờ người không ra người, ngợm không ra ngợm, lây lất, tội mấy nhỏ nhà tôi lắm cô, chúng nó không được vào cấp III, Tôi sợ thằng Út cũng sẽ không vào được nên gửi đi Đà Nẳng để học và được vào trường cấp III.
- Anh Hai ra sao chị, từ ngày anh về đến giờ sức khỏe thế nào?
- Tưởng anh chết trong trại chứ! Anh về ốm nhách, mình đầy ghẻ chốc, cô không bao giờ tưởng tượng nổi đâu? Tội lắm cô. Bây giờ thì cũng ở nhà làm lặt vặt.
- Hồi trước anh Hai là trưởng đội công tác, mỗi lần anh công tác Sài Gòn về nhà em chơi, Anh hai và ông xã nhà em hợp tính, say sưa nói chuyện em mới biết, mãi sau này, hình như năm 1972 anh mới làm ty phó mà ngoài ấy, họ làm gì đưa anh đi tuốt núi cao. Chắc ảnh thực thà khai báo quá. Có sao khai vậy, họ căn cứ ấy mà phân loại cho đi.
- Tôi cũng hổng biết cô à. Ảnh thì thật thà quá đổi.
- Anh Bảy, chị Chín, anh Mười nữa ra sao chị?
- Chú Mười trụ dưới phố cũng đỡ, còn chú Bảy, chị Chín hồi hương cũng như gia đình tôi thôi, nhưng đỡ hơn vì chính quyền không chiếu tướng.
- Sau 75 gia đình mình lao đao quá, phải chi hồi ấy anh chị vào Sài Gòn đâu đến nỗi.
- Chuyện đi qua rồi cô à, có nói cũng chẳng được gì nào, bây giờ có giúp được gì không chứ nhắc làm chi, cô. Chẳng qua tai nạn thôi, mình cũng phải chịu.
- Chị ở lại ăn trưa, có thể ông xã em về, nói chuyện với chị cho vui. Ảnh hay hỏi thăm anh chị.
- Thôi cô à, để tôi và Dũng về chiều nó còn đi kiếm việc. Các cháu chờ cơm, tôi nói trưa về.
- Vậy thôi, chị về hôm nào chủ nhật chị ghé có nhà em nói chuyện bữa. Ông xã nhà em chủ nhật mới nghỉ.
- Tôi vào thăm có tí quà quê gửi gia đình cô cho có tình. Bà Giáo cùng Dũng ra về,
- Dạ, cảm ơn chị. Cô khéo miệng, từ nãy cô say sưa nói chuyện với mẹ, xin lỗi cháu.
Dũng nói:
- Dạ, không sao cô à, Dũng và mẹ chào cô ra về.
Buổi trưa Sài Gòn vẫn nhộn nhịp, hai bên đường hàng me với bóng mát tuyệt vời, đúng như Nguyên Sa viết: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Nhưng không còn em mặc áo lụa Hà Đông thôi. Ngoài đường lũ lượt các học sinh ra về, có điều Sài Gòn cũng chẳng còn chiếc áo dài nữ sinh thướt tha trong nắng như thời Hoàng Kim.
Xe đạp trên đường dày cuội, từng tốp hai ba thong thả đùa giỡn trên đường phố. Đúng là: Tuổi học trò hồn nhiên như áo mới/ thuở vô tư trong trắng trước hiên đời (NDT). Có lẽ các em chưa bao giờ nghĩ cuộc sống vào đời gay go thế nào như Dũng bây giờ.
Thong thả Dũng đạp xe chở mẹ, đi qua những những con đường nhựa bon bon, những dãy cao ốc tráng lệ, trào dâng cảm xúc: Rồi đây ta cũng đồng hành cùng người Sài Gòn, sẽ tắm gội cùng mọi người.
GẶP CHỊ HUỲNH KIM
Đạp xe tà tà trên đường Hai Bà Trưng chở mẹ đi trong buổi sáng sau khi café với người bạn, lòng anh sảng khoái. Cầu Kiệu và chợ Tân Định nhiều kỷ niệm với Dũng.
Nhớ khi mới vào Sài Gòn chân ướt chân ráo, buổi tối có vài người bạn cùng quê học đại học trong này, tình cờ hôm ấy gặp nhau, ngồi với nhau ở quán cóc Trương Tấn Bửu, làm vài xị rượu với tí khô cá Nam bộ, nói chuyện huyên thuyên thời đi học, ngày trước Dũng cũng đã từng được đặt cho cái tên rất tự hào “Con ngựa chiến của lớp khi anh nhận giải toán concours nhất toàn trường” mà đại tá tỉnh trưởng Ngô Văn Lợi trao tặng. Cha Dũng là thầy dạy ở trường ngồi dự bên dưới dự lễ trao giải, ông rất tự hào về con trai mình. Phần thưởng chở cả chiếc xích lô. Ngồi nhớ lại cũng đủ làm vui trên bước đường tiếp tục hành trình gian nan. Tụi nó còn phải về ký túc xá, cuộc hội ngộ ngắn ngủi sau bao nhiêu năm không gặp. Mỗi đứa có một cuộc đời riêng chẳng ai giống ai, khi rời tổ ấm học đường, đàn chim tung cánh bay đi, mỗi con chim tự tìm cho mình một hướng bay, nhưng tình bạn thời trung học tuyệt làm sao mỗi khi có dịp ngồi lại trò chuyện.
Dũng về nhà chú Tám, trò chuyện sôi nổi cùng chú về chuyện nhà, chuyện đời, ôi chao đủ thứ cả, say sưa tranh luận với chú quên cả thời gian. Đến 22 giờ tối. Chợt chú bảo: “Tối nay, công an khu vực xét nhà, cháu chịu khó đi ngủ chỗ khác nếu không, phiền lắm”. Dũng hoảng, còn chỗ nào nữa mà về ngủ, đồng hồ trên tay đã 22 giờ 30. Định thần lấy chút bình yên. Chẳng sao, ghé về chợ Tân Định café, xem quang cảnh chợ đêm, nghĩ vậy nhưng cũng buồn. Giá như sớm hơn đã đạp xe về Quận 8.
Cuốc bộ xuống chợ, quán cóc Dì Tư café đêm của chợ Tân Định chưa có ai, Dũng ghé vào kêu ly đen, ngồi suy nghĩ chuyện đời. Nếu mình cũng vào được học như tụi nó giờ này cũng đã cùng bè bạn có lẽ vui lắm.
Riêng chuyện đi cắt hộ khẩu nhập vào trường đại học, có thể viết được truyện ngắn hay tiểu thuyết, nhiêu khê vô cùng. Khi họ cố tình không cho đi học hình như có 1001 lý do, tuổi trẻ tức giận và nông nổi cự cải với chủ tịch xã, sém tí nữa bị nhốt. Thời ấy chẳng có luật lệ gì, ông chủ tịch xã là vua một cõi, chớ dại mà làm ông nổi giận. Cũng may là Dũng biết dừng lại. Một bài học chua xót nhớ đời và khi biết chắc cổng đại học đóng sầm và khóa chặt (không phải do nhà trường), từ ấy Dũng mới không bận tâm, không suy nghĩ về nó. Tìm hướng khác, tự an ủi mình: Nhiều con đường đến La Mã chứ đâu chỉ duy nhất một con đường. Mông lung suy nghĩ, dì Tư đem ly café đến làm cắt mạch suy nghĩ. Có thuốc gì không em?
- Dạ, dì cho thêm 3 điếu Hoa mai.
Dì mang ra tính tiền luôn, ở đây ai cũng vậy, dân chợ mà biết bao nhiêu người đem hàng rau củ quả tới uống rồi đi. Không lấy trước không thể nhớ.
Đêm ấy, Dũng ngồi từ 11giờ khuya đến sáng, đúng là chợ đầu mối, sinh hoạt ban ngày lẫn ban đêm, không lúc nào ngủ. Lần đầu trong đời không có chỗ tá túc qua đêm.
Quan sát mới thấy thú vị, xe hàng đến, người tài xế ghé quán dì Tư thoải mái café, thuốc lá. Tất cả hàng hóa nhịp nhàng tuần tự đến ai, bao nhiêu chỉ có một người ghi ghi chép chép và phân phối, được kéo đi bằng xe đẩy cùa đội quân cửu vạn chuyên nghiệp. Mọi thứ đâu vào đó. Lần sau mọi người trả tiền đợt trước, lấy hàng đợt sau. Cứ tiếp diễn như thế, nhưng chặt chẽ. Xong xuôi tài xế đánh xe đi, nhường chỗ cho người khác, tuần tự, trật tự từ một người có trách nhiệm ở chợ.
Tản sáng, những chiếc xe cá nhân lần lượt tải hàng về các chợ lẽ cũng nhịp nhàng, mỗi người bao nhiêu thanh toán và rời đi. Rác ư? Một đống rác ứ hự công nhân vệ sinh chợ tập trung dọn dẹp. Tất cả rất bài bản, nhịp nhàng.
Đúng 6 giờ sáng là trả mặt bằng sạch sẽ cho buổi chợ mới bắt đầu.
Những khuân vác, những giao dịch ban đêm rút về, ngủ nghỉ vì cả đêm làm việc cũng đủ thu nhập để sinh hoạt.
Dũng chợt nhớ bài học trong English for today III: Living in the big city, khi quan sát anh mới hiểu được văn sĩ ấy có lý. Sống ở thành phố lớn, thành phố không bao giờ ngủ. Văn là lý, thật đúng y như rằng.
Một trải nghiệm tuyệt vời nếu như không có buổi tối khó hôm ấy làm gì anh hiểu được sự nhộn nhịp về đêm của một chợ lớn Tân Định, Sài Gòn.
Dũng chở mẹ xuống chị Huỳnh Kim, lúc chị đang loay hoay trải miếng ny long sắp xếp, bày biện mấy chiếc áo quần cũ.
Dũng đợi cho xong, khi người bán café đem cho chị ly café sữa nóng, Dũng mới lên tiếng:
- Chào chị em đây. Chị Huỳnh Kim, nghe gọi chị ngước mắt lên:
- Ô, chào cô và chào em. Em đậu xe vào uống café sáng đã rồi hãy đi em à.
- Dạ.
- Cô uống gì à, hay là bạc xỉu cô nhé,
- Đúng rồi chị, mẹ em thiếu sữa mà. Em ghé chị café kho trong hẻm gọi luôn cho chị Kim, nhớ xin 2 cái ghế xếp.
Bà Giáo và chị đã an tọa trên chiếc ghế.
Trên vỉa hè Hai bà Trưng tiếp tục các phụ nữ bán chợ trời dần dần choáng cả cái vỉa hè. Mỗi diện tích 1.2 X 1.6 met bằng cả thửa ruộng mật, ở miền quê. Những gia đình ở chế độ trước cũng nhờ vậy mà mà nuôi con ăn học, khỏi cảnh “chà đồ nhôm” hằng ngày một đi không trở lại. Có điều cảnh giác đội cờ đỏ Phường đi chiến dịch dọn dẹp trật tự, các bà sợ đội này lắm, mỗi khi có lập tức trong vòng 2 phút mọi người túm lấy 4 chéo ny long vào hẻm, im thin thít. Chiến dịch đi xa còn ngoái đầu nhìn lại, mong anh đừng quay về mà khổ cánh chị em. Đoàn cờ đỏ đi qua, yên ắng, người ta lại dọn ra, các phụ nữ ở đây gọi là “Du kích miếng ăn” vừa bán kiếm sống vừa phải trông chừng, cảnh giác đội cờ đỏ này.
Café trò chuyện với chị Kim chừng 30 phút, Dũng nói:
- Chị à, cho mẹ em tập sự, giúp mẹ em nghe, ngày trước chị là học trò, bây giờ chị làm “cô giáo” trường đời, bày vẻ mẹ em, ít nhất vài ba ngày cho thông thạo rồi mới ra chiến trường chị nhé.
- Ừ, em khỏi lo, để chị lo cho, thằng này lanh bà cố, cô à. Bây giờ để Dũng đi làm, cô ở đây với em, chung quanh ở đây đều là chiến hữu, phía phải em là chị vợ Đại úy Vinh sư đoàn 18 bộ binh, người huấn luyện em, bây giờ anh nằm ‘dưỡng lão’ ở Bố Lá. Nhà chị bên trong hẻm, nếu hữu sự là mấy chị em lủi vào hậu cứ trong đó, nước có sẵn cứ ngồi nhìn ra, chiến trường yên thì trở lại chinh chiến. Phía trái em là bà đầm Trung úy Thành sư đoàn 9 bộ binh, hiện tại ở Cà Tum, Bổ Túc, Tây Ninh không biết chừng nào thoát cổng. Chung quanh đều là đồng nghiệp phe ta hầm bà lần xí cấu. Còn đây là cô giáo cũ tiểu học của Kim, người vừa ra “cổng” hơn một năm ở tận miền trung quê mình. Cả dãy này đều như vậy cả cô à. Tuy không đồng nghề thời trước nhưng đồng nghiệp thời nay. Chị Kim giới thiệu khá hài hướt.
- Bà Giáo gục đầu chào các đồng nghiệp tương lai. Cả bốn người cũng nhoẽn miệng cười tươi, nụ cười đầy cảm thông nhau.
Dũng chào mẹ, chào các chị và chị Kim:
- Mẹ ở đây với chị Kim, chiều con về đón mẹ, rồi Dũng nhổ neo lên đường.
Nắng Sài Gòn lại ấm, chợ Tân Định nhộn nhịp hẳn lên, người tấp nập trên đường. Thành phố này là vậy từ hồi nào đến giờ.
Lại nói về bà Giáo Vân như đoạn mở đầu, sau khi tập sự ba ngày cùng với các chị ở vỉa hè Tân Định bà đã chứng kiến được sự mua bán, cung cách bán mua, trao đổi hàng hóa, những đợt truy quyét đường phố của công an phường cùng với đội cờ đỏ ít nhiều cũng hiểu qua sự vụ việc. Thật ra cũng không khó như bà tưởng tượng khi ở quê nhà.
Ba ngày dãi nắng dầm mưa, thực chứng trên vỉa hè Tân Định, Sài Gòn bà Giáo cũng rút ra kinh nghiệm và cách đối phó cho chính mình. Nhất là lúc có đội cờ đỏ truy quét đi qua.
Sau ba ngày tập sự nhờ chị Huỳnh Kim hướng dẫn, bà đã tự kiếm ăn, thỉnh thoảng vẫn dành dụm gửi về nhà phụ nuôi ông Giáo. Thời gian vèo qua, qua tuần thứ ba, bà bị đội cờ đỏ bắt về phường.
Kể từ chiếc áo Pylajacket, Bà Giáo gặp lại được người học trò cũ của bà đương là trưởng Công an phường Tân Định mà hôm sau đó bà kể lại cho các chị em bán đồ cũ, từ đó ai bán trên dãy vỉa hè Hai Bà Trưng cũng nể nang bà.
Một hôm bà đang lom khom trải tấm ny long bày hàng bán, rồi ngồi đợi khách, một phụ nữ mặc áo dài ngồi trên xích lô, người xích lô chạy rà rà qua hàng bán đồ cũ. Thời bấy giờ áo dài dường như là xa xỉ, không phù hợp với sinh hoạt xã hội mới. Bởi ai cũng mặc đồ bộ.
Sau 1975, cán bộ nữ giới phía bắc vào Sài Gòn, cũng như toàn miền Nam công tác hầu như chẳng ai có chiếc áo dài, các công sở chỉ toàn là quần đen áo cụt bà ba, hoặc quần tây kaki màu xám giống kiểu bộ đội, áo sơ - mi, dép nhựa, thậm chí các giáo viên cấp III, giảng viên đại học hay cán bộ thành phố cũng vậy, không thấy bóng dáng chiếc áo dài thanh lịch thướt tha. Chỉ cách ăn mặc của phụ nữ như thế đủ hiểu ngoài ấy thế nào, dù người ta có nói gì đi nữa, cũng không qua mắt được người Nam. Tuyệt nhiên mất tích chiếc áo dài thanh lịch không biết lý do! Tại sao có người mặc áo dài ngồi trên xích lô chễm chệ, một điều rất lạ. Ai cũng dòm ngó vào. Có lẽ chị dân sài Gòn đi dự đại lễ đám cưới của gia đình người miền Nam?
Xích lô dừng trước hàng bà Giáo. Người phụ nữ bước xuống hàng bà giáo, gật đầu chào bà, bà Giáo vồn vả bước ra.
- Chào chị. Chị bán gì vậy? Người phụ nữ chưa trả lời bước tới trước bà Giáo, thầm thì:
- Cô mua chiếc áo dài này không? Vừa nói chị vừa mở ra, hộp đựng áo bằng cạc tông màu trắng rất sang trọng chứng tỏ có giá trị.
- Mua chứ cô.
- Đây là chiếc áo dài của bà Thiệu, sau 75 người giúp việc của ông bà Tổng thống đã đem đến nhà em nhiều thứ lắm, em mua khá nhiều, nhưng bán lần hồi sắp hết. Áo dài này em rất thích vì bà Thiệu thường mặc khi tiếp xúc các chính khách hay cùng Tổng thống đi dự đại lễ quan trọng. Em tiếc lắm, nhưng kẹt quá, hôm nay đám cưới con đứa em ruột, chẳng lẽ làm chị không có quà cho cháu, nên em quyết định bán. Nếu cô mua em để lại. Có thể mai mốt em có tiền ghé chuộc cũng được, coi như cô giữ tạm thời. Giọng chị có vẻ tha thiết.
Bà giáo ngập ngừng, không biết thế nào, thực giả ra sao? Bèn ngoắc chị Huỳnh Kim, chị vợ Đ/úy Vinh và chị vợ Tr/úy Thành. Ba người bàn bạc bạc ngay tại chiến trường, cuối cùng ai cũng xúi bà Giáo lấy. Bà Giáo ủy quyền cho chị Kim giải quyết ngay tại mặt trận.
- Khi nãy chị nói với cô 5 phân, (bấy giờ vàng chui với giá 49đ/ chỉ), thời nầy chẳng ai mua áo dài làm gì, hàng nằm lâu lắm may ra mới có người mua chị à. 20đ đi chị, nếu được cô mua cho, giá vậy là cao, chúng tôi cũng là vợ anh em sĩ quan quân đội cũ, biết giá trị nó nên mua liều, chứ chị đi sang hàng khác mấy em không biết giá trị mua chị chừng 5, 7 đồng.
Chị ấy có vẻ ngần ngại, phân vân, cò kè với chị Huỳnh Kim:
- Hồi ấy em mua cả lượng vàng đó chị à.
- Hồi ấy khác, bây giờ khác chị à, chị không tin mang đi nơi khác mà hỏi. Em chắc chắn luôn bán buôn ở đây em hiểu mà.
- Chị gửi thêm 2đ trả anh xích lô. Từ sáng anh chở tôi từ Q1 sang Phú Nhuận, được không?
- Được không cô? quay sang bà Giáo chị hỏi
- Tùy em định liệu.
- Thôi được, chị ngày trước làm gì? Chị Huỳnh Kim hỏi
- Tôi dạy văn, ở đại học Văn khoa.
- Ô, chị giảng sư đại học à?
- Vâng
Chút ái ngại đồng hoàn cảnh, chị Kim đồng ý.
Khi cầm lấy chiếc áo có vỏ ngoài rất sang trọng với dòng chữ: Kính tặng bà Tổng Thống, chị Kim cũng mừng cho cô.
Trước khi đi, chị ấy còn nói:
- Cảm ơn chị, tôi sẽ gặp lại các chị sau.
(Còn tiếp)
CÂU CHUYỆN CHIẾC ÁO DÀI