Đời Người Lữ Khách
Viễn Phương 1 ngày và 19 giờ (permalink)
Đời Người Lữ Khách
Truyện ngắn
 
    Ông rời quê trong một đêm không trăng, trên chiếc ghe chật cứng người. Biển tối đen như nuốt trọn mọi tiếng khóc và lấp lánh những ngọn sóng đánh, dập dềnh thân phận nổi trôi. Có lúc tưởng chừng cả chiếc ghe nhỏ sẽ tan xác giữa lòng đại dương. Khi đặt chân được lên bãi cát đảo Pulau Bidong, ông đã kiệt sức, đôi chân run rẩy như không còn thuộc về mình nữa.
    Những tháng ngày trong trại tị nạn trên đảo Pulau Bidong trôi qua chậm chạp như từng giọt nước rơi từ mái tôn rỉ sét của những căn nhà dài (Long House). Xếp hàng lãnh gạo, lãnh mì, đếm từng ca nước. Đêm nằm chen chúc trong các căn nhà dài tạm bợ, nghe gió biển rít qua vách chắn, nghe tiếng thở dài của hàng trăm kiếp người đánh mất quê hương. Cái đói không quá dữ dội, nhưng nỗi tuyệt vọng thì như cơn sốt dài triền miên không dứt.
Trong một góc chợ nhỏ trên đảo do những người tị nạn tụ hợp làm khu chợ nhỏ, ông quen một cô gái tị nạn bán vài gói thuốc lá lẻ và bánh khô. Cô cũng mất quê như ông, ánh mắt hiền nhưng buồn sâu. Hai kẻ cùng đứng giữa ranh giới sống còn, nương tựa nhau bằng những câu chuyện vụn vặt, bằng một chút hơi ấm của kẻ không còn nhà để trở về. Họ từng mơ, rất nhỏ thôi: mai này được cùng nhau rời trại, thuê một căn phòng bé xíu, nấu một bữa cơm ấm áp để được gọi là gia đình.
Nhưng đời người tị nạn không cho phép mơ lâu. Một danh sách phỏng vấn đi định cư được công bố.
Tên cô có.
Tên ông thì không.
Ngày cô rời trại, trời mưa rất lớn. Ông không kịp ra tiễn. Khi tìm đến nơi ở đã trống vắng. Cô đã đi sang một trại một trại chuyển tiếp (transit center) để đi định cư trên đất nước Hoa Kỳ.
Cô chỉ để lại một mảnh giấy ướt mưa:
“Nếu còn duyên, mong gặp lại nơi đất mới.”
Nhưng đất mới thì rộng quá.
Còn duyên người thì mong manh như sương chiều trên đảo Pulau Bidong.
Từ đó, ông ở lại đi một mình và cũng đã mất liên lạc với cô ấy sau thời gian ngắn.
Tên ông có trong danh sách định cư sau gần hai năm chờ đợi,
     Từ đảo Pulau Bidong, ông chuyển qua Sungai Besi Refugee Camp in Kuala Lumpur rồi từ đó dược đưa sang trại Bataan,Philippine. Ở đó, ông học từng mẫu tự tiếng Anh trong những lớp học chật hẹp, ánh đèn tuýp yếu ớt. Ban ngày lao động để đổi lấy phần ăn ít ỏi, ban đêm nằm nhìn trần nhà, nhớ quê hương đến nhói tim. Có những người tuyệt vọng đến mức không còn nghĩ gì đến tương lai ngày mai, cũng có những người gục ngã ngay trong trại vì bệnh tật và suy sụp tinh thần.
      Ngày bước lên phi cơ rời trại, ông ngoái nhìn lại một lần. Dãy nhà tôn cũ, đường đất đỏ gồ ghề cùng nhữing con đường ngoằn ngoèo và những đồi dốc thấp cao, những khuôn mặt quen mà chưa kịp thân, tất cả lùi dần sau lớp sương mây bụi nước. Trại tị nạn – nơi từng là địa ngục – bỗng chốc trở thành kỷ niệm, một nơi quyến luyến tâm hồn và cả đôi chân.
    Hoa Kỳ đón ông bằng cái lạnh cắt da vào những ngày cuối năm và một thứ ngôn ngữ xa lạ không hiểu nổi một lời. Ông được đưa về một thành phố nhỏ. Đi làm sau đó vài tháng đầu tiên: rửa chén trong nhà hàng, quét dọn ca đêm, khuân hàng trong kho lạnh, V..V..
    Ban ngày học tiếng Anh, Ban đêm làm việc đến rã rời. Tiền gửi về cho người quen để chăm sóc cho mẹ già nơi quê cũ, nhưng quê thì đã không còn như xưa nữa.
Có những đêm tuyết rơi trắng ngoài cửa kính, ông nằm co ro trong căn phòng thuê rẻ tiền, nhớ biển đảo Pulau Bidong đen ngòm, nhớ cơn mưa ngày cô gái rời trại. Tất cả hòa lại thành một nỗi buồn không gọi thành tên.
Một buổi chiều tan ca, ông nhận được bức thư từ người bà con xa bên quê nhà.
Chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
“Mẹ anh mất rồi. Mất trong lúc chờ tin anh hồi hương. Trước khi nhắm mắt, bà vẫn nhắc tên anh.”
Ông đứng sững giữa bãi đậu xe đầy tuyết. Tay run đến mức không cầm nổi mảnh giấy. Từ khoảnh khắc đó, quê hương trong ông sụp xuống như một mái nhà mục nát.
Tối hôm ấy, ông mua một nén nhang, đứng giữa xứ người, thắp lên trước cửa sổ. Khói nhang bay loãng vào gió tuyết.
“Mẹ ơi… con không còn đường về nữa…”
    Vài năm sau, trong một buổi sinh hoạt cộng đồng người Việt, ông tình cờ gặp lại cô gái năm xưa. Cô đã có gia đình. Có con. Ánh mắt vẫn hiền, nhưng nụ cười thì đã thuộc về một đời khác.
Họ chỉ nhìn nhau gật đầu.
Không trách.
Không oán.
Chỉ có một khoảng lặng rất dài giữa hai phận người đã lỡ chuyến.
Tối đó, ông về phòng, ngồi rất lâu bên cửa sổ. Lần đầu tiên sau nhiều năm, ông khóc. Khóc cho người đã mất. Khóc cho giấc mơ chưa kịp thành hình đã tan như bọt biển.
Thời gian không vì ai mà chậm lại.
Ông già nhanh trong những mùa đông, dài hơn tuổi thọ của kí ức, lưng còng, khớp gối đau mỗi khi trở gió. Những việc nặng dần rời xa ông. Ông sống nhờ tiền trợ cấp, một căn phòng nhỏ và những buổi chiều tàn giá lạnh.
Mỗi chiều, ông vẫn ra trước hiên, nhìn lặng lẽ về phía hoàng hôn. Trong mắt ông, mặt trời lặn ở đâu cũng giống nhau, nhưng quê nhà thì chỉ có một – và không bao giờ quay lại được nữa.
Ông thường lẩm nhẩm:
“Ngày ấy mình không đi… có lẽ đã khác.”
Nhưng đời người, ai tránh được chữ “giá như”, "phải chi","biết vậy”…
Đêm cuối cùng, ông mơ thấy mình trở lại quê hương con thuyền không còn bị sóng dữ, dao động
. Trên bờ, mẹ đứng đó. Trẻ như ngày ông ra đi.
Mẹ hỏi:
“Sao con đi lâu vậy?”
Ông nghẹn ngào xúc động:
“Con lạc đường…”
Mẹ đưa tay ra. Lần này, ông chạm được.
Nhưng tay mẹ lạnh như sương.
Ông giật mình tỉnh dậy.
Ngoài cửa sổ, tuyết rơi trắng trời.
Và ông biết: mình sẽ không còn chuyến tàu nào về quê hương nữa.

Những mùa đông lạnh, kiếp người cô đơn
Jan 10, 2021
Viễn Phương
 
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2025 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9