(url) Trần Dần - (1926-1997)

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 32 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
(url) Trần Dần - (1926-1997) - 06.06.2006 05:04:15
.


TRẦN DẦN
(1926 - 1997)
Thủ lãnh
của tinh thần tự do sáng tạo


Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của
một nhà cách tân,
có lẽ là nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất
trong văn học miền Bắc Việt Nam nửa thế kỷ qua.
(Phạm Thị Hoài)



Chỗ nào ông cũng thổi
một sự sống khác thường
vào những con chữ,
chỗ nào cũng dành cho ta một
bất ngờ.
Biết bao giờ số đông
người đọc Việt Nam mới
dọn lòng,
dành cho tài năng ghồ ghề
jờ joạcx này
một chỗ?
(Phạm Thị Hoài)




Trần Dần và vợ -
người bảo bọc, chở che,
giúp đỡ ông suốt cuộc đời.



1926

- Trần Dần sinh ngày 23/8 (tức 16/7 năm Bính Dần) trong một gia đình khá giả tại phố Năng Tĩnh, thành phố Nam Định.

- Học tiểu học, cao đẳng tiểu học và đậu bằng Thành Chung tại Nam Định.

- Học trung học tại Hà Nội, đậu Tú Tài Pháp. Bắt đầu làm thơ. Yêu thích thơ Baudelaire, Verlaine và phái Tượng Trưng.

1939

- Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Tinh huyết của Bích Khê xuất bản. Tản Đà qua đời.

1940

- Thơ say của Vũ Hoàng Chương, Lửa thiêng của Huy Cận. Hàn Mặc Tử qua đời.

1941

- Nhật thực của Arthur Koestler xuất bản.

1942

- Thi nhân Việt Nam 1932-1941 của Hoài Thanh và Hoài Chân xuất bản.

- Mao Trạch Đông nói chuyện tại hội nghị Diên An với các nhà văn Trung Quốc về đường lối văn nghệ phục vụ chính trị. Đinh Linh bị kiểm điểm vì bài viết nhân Ngày Phụ Nữ 8/3/1942.

1943

- Trần Dần bắt đầu quan hệ với nhóm văn nghệ cánh tả xung quanh nhà xuất bản Hàn Thuyên: Trương Tửu (tức Nguyễn Bách Khoa), Lương Đức Thiệp...

- Viết Chiều mưa trước cửa (thơ).

Trường Chinh công bố bản Đề cương văn hoá Việt Nam.

1944

- Tháng 9, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc (Quảng Tây), trở về Việt Nam (Cao Bằng).

- Tô Hoài, Nam Cao vv...gia nhập Hội Văn Hoá Cứu Quốc do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.

- Trần Dần viết Hồn xanh dị kỳ (thơ).

1945

- Chiến tranh thế giới II kết thúc.

- Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội.

- Ngày 2/9, Cách Mạng Tháng Tám thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

1946

- Ngày 18/4, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), bộ trưởng bộ ngoại giao Chính Phủ Liên Hiệp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đến Hội Nghị Đà Lạt. Cùng tham dự có Huy Cận với tư cách «chuyên viên canh nông».

- Tháng 8, BCHTƯĐCS Liên Xô ra nghị quyết phê phán Soshtshenko, Achmatova, Eisenstein, Pudovkin, Shostakovitsh, Prokofiev...

- Trại thú của G. Orwell xuất bản.

- Chùa Đàn của Nguyễn Tuân xuất bản.

- Trần Dần lập nhóm thi sĩ tượng trưng cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương... Viết Về nẻo thanh tuyền (thơ, in lại trong tập Thơ Mới 1932-1945, NXB Hội Nhà Văn, 1999).

- Tạp chí Dạ Đài ra số 1 ngày 16/11/1946, đăng bản tuyên ngôn của phái Tượng Trưng do Trần Dần viết. Số 2 chưa kịp ra mắt thì kháng chiến bùng nổ.

- Ngày 19/12, Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Ngày 20/12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

- 1947 Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan v.v... gia nhập Đảng CSĐD.

- Khái Hưng mất tích. Nguyễn Tường Tam sang Trung Hoa.

- Trần Dần về Nam Định tham gia kháng chiến, đảm nhận công tác tuyên truyền. Nam Định thất thủ.

- John Steinbeck sang thăm Liên Xô.

1948

- Trần Dần gia nhập Vệ Quốc Đoàn, lúc đầu tham gia chiến đấu ở Thượng Lào và biên giới Tây Bắc, sau làm công tác tuyên truyền, địch vận cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch.

- Trường Chinh đọc bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam ở Hội Nghị Văn Hoá toàn quốc lần thứ 2 tại Việt Bắc.

- Đại Hội Văn Nghệ lần thứ nhất tại Việt Bắc.

- Tito ly khai với Stalin.

- Những bàn tay bẩn thỉu của J-P.Sartre xuất bản.

- Đại Hội văn hóa vô sản thế giới tại Breslau với sự tham dự của A. Nexö, I. Ehrenburg, M. Frisch, F. Léger, P. Picasso..., tổng thư ký hội nhà văn Liên Xô A. Fadejev công kích trí thức phương Tây (Sartre).

1949

- Trần Dần được phân công phụ trách văn công ở trung đoàn Sơn La và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (Ngày 3/3/1951 đổi thành Đảng Lao động Việt Nam).

- Vẽ và viết cho các báo Sông Đà, Giải Phóng...

- Tháng 9, Tố Hữu đọc tham luận Xây dựng nền văn nghệ nhân dân, Nguyễn Đình Thi đọc tham luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tại hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc.

- Ngày 1/10, nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa ra đời.

- Trong bức thư nổi tiếng gửi Fadejev, nhà văn Mỹ U. Sinclair viết: „Ở Liên Xô, ai dám phê phán những khuyết điểm của chế độ hiện hành, giống như tôi đã công kích những mặt bất cập tại chính đất nước tôi, là lập tức bị xử bắn như hàng ngàn người khác.“

- 1984 của G. Orwell xuất bản.

1950

- Trần Dần tham gia sáng lập nhóm Văn Nghệ Quân Đội đầu tiên: nhóm Sông Đà, với Trần Thư, Hoài Niệm... Tranh vẽ bộ đội theo lối lập thể và thơ bậc thang của Trần Dần bị chê là khó hiểu. Do bất đồng ngày càng rõ ràng với các cán bộ chính trị ở trung đoàn, ông xin chuyển công tác về Phòng Văn Nghệ Quân Đội thuộc Tổng Cục Chính Trị.

- Thành lập chính phủ Bảo Đại.

- Trung Quốc thôn tính Tây Tạng, tiến hành chỉnh phong và cải cách ruộng đất.

1951-1953

- Trần Dần tham dự các khoá tuyên huấn toàn quân và chỉnh huấn chính trị. Về nhận công tác mới tại cục Quân Huấn và Ủy Ban Trung Ương Hội Văn Nghệ Quân Đội, phụ trách các lớp đào tạo và tập huấn chính trị cho văn công trong quân đội.

1951

- Nam Cao chết trên đường công tác.

1952

- Đinh Linh đoạt giải thưởng Stalin loại nhì với tác phẩm Mặt trời chiếu trên sông Tang Càn.

- Stalin ra lệnh xử bắn 26 văn nghệ sĩ Do Thái.

1953

- Luật cải cách ruộng đất được ban hành.

- Stalin qua đời.

- Ngày 17/6, nổi dậy tại CHDC Đức, B. Brecht và J.R. Becher phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và nhà nước.

- Trần Dần bị phê bình là giảng sai chính sách văn nghệ của Đảng trong các khoá đào tạo cán bộ văn công do ông phụ trách.

1954

- Ngày 13/3, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu.

- Trần Dần tình nguyện tham gia chiến dịch cùng với nhạc sĩ Đỗ Nhuận và hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, thủ trưởng đơn vị là tướng Trần Độ.

- Cái chết của Tô Ngọc Vân trong chiến dịch tác động mạnh mẽ đến Trần Dần. Ông viết một hơi tiểu thuyết Người người lớp lớp, cuốn tiểu thuyết duy nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đó về Điện Biên Phủ (xuất bản cùng năm, NXB Quân Đội Nhân Dân).

- Ngày 7/5, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

- Cải cách ruộng đất đợt I.

- Ngày 20/7, Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết tại hội nghị Genève.

- Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tại Sài Gòn.

- Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bàng Bá Lân,... di cư vào miền Nam. Trong 700000 người miền Bắc di cư có các nhà văn miền Nam sau này: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, ...

- Tháng 7, Hồ Phong công bố bức thư ngỏ gửi BCHTƯĐCS Trung Quốc phê phán "năm lưỡi dao" đâm vào óc các nhà văn cách mạng.

- J-P. Sartre và S. de Beauvoir sang thăm Liên Xô.

- Ngày 10/10, chính phủ kháng chiến tiếp quản Hà Nội.

- Gia đình bà Bùi Thị Ngọc Khuê (vợ Trần Dần) di cư vào miền Nam.

- Trần Dần được cử sang Trung Quốc viết truyện phim Điện Biên Phủ, cùng đi có Đỗ Nhuận. Ngày 10/10 khởi hành. Ngày 14/10 đến Nam Ninh. Sau đó đi Bắc Kinh.

- Viết Anh đã thấy (thơ), Tiếng trống tương lai (thơ, đã trích đăng trong Văn Nghệ Quân Đội số... 1954).

- Ngày 12/12, Trần Dần trở về Hà Nội.

1955

- Tháng 1, Hồ Phong công khai tự phê bình. Tháng 5/1955, Hồ Phong bị bắt và bị kết án lao cải.

- Sartre và Beauvoir sang thăm Trung Quốc.

- 63 nhà văn Hung-ga-ri lên tiếng phản đối chế độ độc quyền.

- Tháng 3, Trần Dần tham gia phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

- Tháng 4, Trần Dần cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội.

- Trần Dần viết đơn giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, đồng thời quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo.

- Từ 13/6 đến 14/9, Trần Dần bị giam theo quân kỷ để kiểm thảo.

- Viết Cách mạng tháng Tám (thơ), Nhất định thắng (thơ).

- Từ 2/11 đến giữa tháng 2/1956, đi tham quan cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh.

1956

- Cuối tháng 1, trong lúc Trần Dần ở Bắc Ninh, Hoàng Cầm cho đăng bài thơ Nhất định thắng trong Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu.

- Giữa tháng 2, Trần Dần trở về Hà Nội. Hội Văn Nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Trần Dần bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp và đi ngược lại đường lối của Đảng và bị giam 3 tháng tại Hoả Lò, Hà Nội.

- Ngày 24/2, Đại Hội 20 ĐCS Liên Xô chống Stalin. Fadejev tự tử. Phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị giết và kết án dưới thời Stalin.

- Ngày 7/3, báo Văn Nghệ số 110 đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ „Nhất định thắng“ của Trần Dần của Hoài Thanh.

- Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ định tự tử trong tù.

- Trần Thị Băng Kha, con gái đầu lòng của Trần Dần ra đời.

- Tháng 4, dư luận Hà Nội bất bình về việc trao giải thưởng văn nghệ 1954-1955. Ngày 26/5, Mao Trạch Đông phát động chiến dịch Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng.

- Ngày 28/6, nổi dậy tại Poznan (Ba Lan).

- Tháng 7, hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc.

- Tháng 8, lớp học 18 ngày của Hội Văn Nghệ Việt Nam về đường lối cải cách chống tệ sùng bái cá nhân Stalin tại Liên Xô.

- Ngày 29/8, Giai Phẩm Mùa Thu tập I xuất bản, có đăng bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi.

- Tháng 9, hội nghị lần thứ 10 BCHTƯĐ về sửa chữa sai lầm trong CCRĐ.

- Ngày 15/9, báo Nhân Văn ra số 1, do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký toà soạn, Minh Đức xuất bản, ban biên tập gồm Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm, có đăng bài Con người Trần Dần - Tiến đến việc xét lại một vụ án văn học: Trần Dần của Hoàng Cầm.

- Ngày 30/9, báo Nhân Văn ra số 2.

- Ngày 2/10, ban thường vụ Hội Văn Nghệ Việt Nam ra thông cáo thừa nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất định thắng.

- Ngày 8/10, tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân với bài thơ Nhất định thắng. Ngày 15/10, báo Nhân Văn ra số 3.

- Giai Phẩm Mùa Thu tập II xuất bản.

- Đất Mới số 1 (số duy nhất) xuất bản.

- Tướng Nguyễn Sơn („ông tướng văn nghệ Khu IV“) qua đời.

- Tháng 10, 11, nổi dậy tại Hung-ga-ri, chính phủ dân chủ Nagy tuyên bố Hung-ga-ri trung lập. Liên Xô can thiệp vũ trang vào Hung-ga-ri. Laxness, Sartre, Beauvoir, Vercors... phản đối.

- Tháng 10, nhóm văn học Sáng Tạo ra đời tại Sài Gòn với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ...

- Ngày 5/11, báo Nhân Văn số 4 xuất bản.

- Ngày 20/11, báo Nhân Văn số 5 xuất bản.

- Tháng 12, Giai Phẩm Mùa Đông xuất bản

- Ngày 9/12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về chế độ báo chí.

- Ngày 15/12, ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 (số cuối cùng) của Nhân Văn không được in.

- Boris Pasternak hoàn thành Bác sĩ Shivago.

1957

- Ngày 20-28/2, Đại Hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Trường Chinh nói chuyện, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn-Giai Phẩm. Thành lập Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.

- Ngày 1-5/4, Hội nghị thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam, Tô Hoài làm tổng thư ký, cơ quan ngôn luận là báo Văn, do Nguyễn Công Hoan làm chủ bút, Nguyễn Tuân phó chủ bút, Nguyên Hồng tổng thư ký toà soạn.

- Ngày 10/5, báo Văn ra số 1.

- Tháng 7/8, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài tranh luận nhân việc báo Học Tập (cơ quan lý luận của BCHTƯĐCSVN) phê phán báo Văn.

- Ngày 27/9, báo Văn số 21 đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán.

- Ngày 15/11, báo Văn số 28 đăng bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần.

- Trần Dần viết Bài thơ Việt Bắc (trường ca, xuất bản năm 1991)

- Đinh Linh bị khai trừ khỏi ĐCS Trung Quốc sau 25 năm là đảng viên. (Bà còn được phép làm lao công một thời gian trong trụ sở Hội Nhà Văn Trung Quốc, trước khi bị đày đi lao cải và ngồi tù cho đến năm 1975.)

- Chỉnh huấn văn nghệ tại Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức.

- Tạp chí Bách Khoa ra đời tại Sài Gòn.

1958

- Ngày 6/1, Bộ Chính Trị BCHTƯĐLĐVN ra nghị quyết số 30 NQ/TU về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.

- Ngày 10/1, báo Văn số 36 (số cuối cùng) đăng truyện ngắn Ông Năm Chuột của Phan Khôi.

- Tháng 2, lớp học „đấu tranh tư tưởng“ với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự.

- Từ 3/3 đến 14/4, Trần Dần tham dự lớp học „đấu tranh tư tưởng“ tại Thái Hà Ấp với 304 cán bộ văn hoá văn nghệ tham dự.

- Ngày 4/6, hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm.

- Ngày 5/6, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm.

- Ngày 30/6, Trần Trọng Văn, con trai Trần Dần ra đời.

- Ngày 2/7, bầu ban chấp hành mới của Hội Nhà Văn, tổng thư ký là Nguyễn Đình Thi.

- Ngày 7/7, thông báo kỷ luật các văn nghệ sĩ đã tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm. Trần Dần bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm.

- Từ 22/8 đến 2/1959, Trần Dần đi lao động cải tạo tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác.

- Nhất Linh ra tờ Văn Hoá Ngày Nay tại Sài Gòn.

- Mao Trạch Đông phát động chiến dịch Đại nhảy vọt.

- Pasternak, nhà văn xô viết đầu tiên được trao giải Nobel, song không được sang Thụy Điển nhận giải thưởng.

1959

- Trần Dần viết Sắc lệnh 59 (thơ), Con tầu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ).

- Bắt đầu viết Cổng tỉnh (thơ-tiểu thuyết).

- Tháng 11, Trần Dần được phân công dịch tại ga-ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực.

- Ngày 10/12, khai mạc phiên toà xử Thụy An và Nguyễn hữu Đang (cả hai bị kết án 15 năm tù).

- Phan Khôi qua đời.

- Cách mạng Cu Ba với Fidel Castro và Ché Guevara thắng lợi. Hemingway, G.García Márquez chào mừng cách mạng Cu Ba.

1960

- Từ 19/3 đến 11/5, Trần Dần đi lao động cải tạo tại khu gang thép Thái Nguyên cùng với Lê Đạt. Sau đó về Hà Nội nghỉ phép.

- Từ 13/6 đến 18/8, Trần Dần lại đi lao động cải tạo tại Thái Nguyên. Sau đó ốm nặng.

- Hoàn thành Cổng tỉnh (xuất bản lần đầu năm 1994).

- Từ đó sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.

- Miền Bắc hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế văn hoá (1958-1960).

- Xung đột Trung-Xô bắt đầu.

1961

- Miền Bắc bắt đầu kế hoạch xây dựng XHCN 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).

- Ngày 13/8, CHDC Đức xây bức tường Berlin.

- Trần Dần viết Đêm núm sen (tiểu thuyết).

1962

- A. Solshenizyn xuất bản Một ngày trong đời Ivan Denissovitch.

1963

- Ngày 7/7, Nhất Linh tự tử tại Sài Gòn.

- Đảo chính tại Sài Gòn. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết.

- Trần Dần viết Jờ Joạcx (thơ).

1964

- Mỹ chính thức tiến hành chiến tranh quân sự tại Việt Nam.

- Mỹ ném bom miền Bắc lần thứ nhất.

- Nhà thơ Josip Brodski bị kết án về tội ăn bám, tức hoạt động văn học ngoài phạm vi của Hội Nhà Văn Liên Xô.

- Trần Trọng Vũ, con trai út của Trần Dần ra đời.

- Trần Dần viết Mùa Sạch (thơ, xuất bản lần đầu năm 1998), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết).

1965

- Sholokhov được trao giải Nobel.

- Trần Dần viết Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết).

1966


- Mao Trạch Đông phát động cuộc Đại Cách Mạng Văn Hoá.

- Ché Guevara ly khai với Fidel Castro.

1967

- Đại Hội các nhà văn Tiệp Khắc công bố thư ngỏ của Solshenizyn gửi Đại Hội các nhà văn xô viết.

- B. Russel, J-P. Sartre, Peter Weiss tham dự Diễn Đàn Việt Nam tại Stockholm.

- Trần Dần viết Con trắng (thơ-hồi ký).

1968

- Mùa xuân Praha. Ngày 21-8, Liên Xô can thiệp quân sự vào Tiệp Khắc. Hàng loạt văn nghệ sĩ Tiệp Khắc rời khỏi đất nước, phần lớn giới trí thức bị treo nghề.

- Phong trào sinh viên và trí thức cánh tả phương Tây phản đối Mỹ và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam.

- Hồi ký Về tiến bộ, chung sống hoà bình và tự do tư tưởng của A. Sacharov xuất bản.

- Tổng tiến công quân sự Tết Mậu Thân tại các thành phố lớn miền Nam.

- Trần Dần viết 177 cảnh (hùng ca lụa).

1970

- A. Solshenizyn được trao giải Nobel.

1973

- Hiệp định Paris về việc chấm dứt can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam.

1974

- A. Solshenizyn bị bắt và trục xuất khỏi Liên Xô.

- Trần Dần viết Động đất tâm thần (nhật ký-thơ).

1975

- A. Sacharov được trao giải Nobel.

- Ngày 30/4, chính phủ Dương văn Minh đầu hàng. Hàng loạt văn nghệ sĩ miền Nam di tản. Văn học Việt Nam hải ngoại ra đời.

1976

- Mao Trạch Đông qua đời.

- Ngày 2/7, nước Việt Nam thống nhất, đổi tên thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

1977

- Đặng Tiểu Bình được phục hồi, phát động chiến dịch Bốn hiện đại hoá tại Trung Quốc.

- Chiến dịch bài trừ người Hoa tại Việt Nam.

1978

- Trần Dần viết Thơ không lời - Mây không lời (thơ-hoạ).

1979

- Trần Dần viết bộ tam Thiên Thanh - 77 - Ngày ngày.

- Chiến tranh biên giới Việt-Trung.

1980

- Nhà văn Tiệp lưu vong C. Milosz được trao giải Nobel.

- Trần Dần viết bộ tam 36 - Thở dài - Tư Mã zâng sao.

1983

- Trần Dần bị xuất huyết não lần thứ nhất.

1985

- Gorbachev được bầu làm tổng bí thư ĐCS Liên Xô.

1986

- Tháng 12, Đại Hội VI ĐCSVN ra nghị quyết về chính sách „Đổi Mới“.

- Dương Thu Hương viết Những thiên đường mù.

1987

- Ngày 6/7/12, tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn văn Linh họp với gần 100 các nhà hoạt động văn hoá Việt Nam tại Hà Nội.

- Nguyễn Tuân qua đời.

- Nguyễn Huy Thiệp viết Tướng về hưu.

- Trần Dần viết Thơ mini.

1988

- Hồ Phong được phục hồi danh dự.

- Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Tháng 5, Trần Dần vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc.

- Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh tử nạn.

1989

- Tháng 6, thảm sát tại quảng trường Thiên An Môn, phong trào dân chủ tại Trung Quốc bị đàn áp đẫm máu.

- Bức tường Berlin sụp đổ.

1990

- Dương Thu Hương bị bắt giam 6 tháng.

- Bảo Ninh viết Nỗi buồn chiến tranh.

1991

- Trường ca Bài thơ Việt Bắc được xuất bản tại Hà Nội, NXB Tác Phẩm Mới.

- Bùi Ngọc Tấn hoàn thành bộ hồi ký Chuyện kể năm 2000.

1994

- Tiểu thuyết-thơ Cổng tỉnh (1960) được xuất bản tại Hà Nội, NXB Hội Nhà Văn.

- Lê Đạt xuất bản Bóng chữ.

1995

- Cổng tỉnh được trao giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam.

1997

- Trần Dần từ trần hồi 10 giờ 30 sáng ngày 17-1 tại Hà Nội.

1998

- Tập thơ Mùa sạch được xuất bản tại Hà Nội, NXB Văn Học.


Nguồn: Tiền Vệ
(Trích từ cuốn Trần Dần – Ghi, 1954-1960, Phạm Thị Hoài biên tập, nxb td memoire, Paris, 2001, với một ít sửa chữa)

Trần Dần trên Tiền Vệ

Một đoạn trích từ Trần Dần -"Ghi" - talawas

Xổ bụi - tạp ghi của Nam Dao

Tư liệu về nhà thơ Trần Dần

Phạm Thị Hoài - Thủ lĩnh trong bóng tối

Chuyện văn nghệ sĩ đi chiến dịch Điện Biên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2006 11:48:52 bởi TTL >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 06.06.2006 05:17:55
.

Phạm Thị Hoài
Thủ lĩnh trong bóng tối


nhân cách của nhà văn
chính là
văn cách của anh ta.
Trần Dần



Ðúng mười năm trước tôi được đưa đến ra mắt Trần Dần, sau khi ông đọc bản thảo một số truyện ngắn đầu tay chưa công bố của tôi. Làng văn Hà Nội khi ấy, trong đêm trước của cuộc cởi trói ngắn ngủi, có một không khí nhộn nhịp nhất định. Dân văn chạy ngược xuôi trong văn, không tất tả việc khác như bây giờ. Cả người viết lẫn người đọc đều chờ một cái gì không rõ, nhưng sẽ đến, và có lẽ vì thế mà háo hức, không lãnh-đạm-biết-rồi như hiện tại. Khi đó chưa nhà nào có điện thoại riêng, muốn trò chuyện phải tìm nhau tận mặt, rượu tây chưa phổ biến, thức nhắm còn nghèo nàn, thuốc lá Liên Xô Ấn Ðộ đã là sang, đi xe máy là ngoại hạng, và mọi người đều viết tay trên giấy xấu... Cảnh hàn vi đó nuôi lớn một thứ chủ nghĩa lãng mạn giản dị, đầy tính lý tưởng và cũng đầy ảo tưởng mà giờ đây đã biến mất. Hà Nội, khi Trần Dần qua đời, khác xa mười năm trước, khi tôi hồi hộp đến gặp ông như gặp một thủ lĩnh văn chương trong bóng tối.

Không người viết nào muốn thuộc về phía tối của đời sống văn học, song khi phía được chiếu sáng quá tầm thường thì được khuất mặt có thể là một hãnh diện chính đáng. Trước khi ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đại náo làng văn thì Nhân Văn Giai Phẩm với mọi huyền thoại của mình đã luôn là một trong những cái chợ đuổi có sức mê hoặc lớn hơn cửa hàng văn học mậu dịch nhiều. Văn học của NVGP tập trung ở những tác giả và tác phẩm cụ thể của nhóm ấy thời ấy, nhưng tôi quan niệm tinh thần NVGP rộng hơn, bao trùm một số quan niệm, phong cách, nguyên tắc, thái độ ứng xử, đề tài... nhất định, có thể tìm thấy ở những chỗ khác thời khác, ở độc giả, ở các nhà phê bình, thậm chí ở những người từng quyết liệt chống NVGP hoặc rất sợ dính vào đó. Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn luôn ký tên hàng đầu trong các bản án chống NVGP, song chính cái tinh thần NVGP trong ông được kết hợp ở thế chân kiềng với tài năng và lòng biết sợ đã tạo cho ông một đặc cách trong văn học chính thống. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng tương tự như vậy. Song sau nhiều chục năm, số tác phẩm ra đời trong những hoàn cảnh như thế không còn đọng lại bao nhiêu. Như thể không ai chết được nhiều lần, mà trong tinh thần NVGP ấy, các chiến sĩ ưu tú nhất đã ngã xuống cho những lý tưởng khác trước khi kịp hi sinh cho nghệ thuật. Khi tiếp xúc với thế giới của họ, tôi đã hy vọng là sẽ trèo qua nhanh cái nấc thang thứ nhất đương nhiên là rất quan trọng, vì nếu không thì chẳng vào với nhau được: đó là bi kịch mà ai cũng biết ít nhiều về NVGP. Trèo qua nhanh, vì đã bận tâm vào đó thì không thể chỉ rỏ nước mắt vào rửa những vết thương bên ngoài. Tôi hình dung rằng những vị tử vì đạo rất ghét kẻ nào chạy lăng xăng quanh nỗi đau của họ, ăn theo những thăng trầm của họ. Mà tôi lại chú tâm vào những bi kịch văn học hơn, cho nên nấc thang sau và sau nữa là cái đích của tôi.

Văn học không chỉ sinh ra từ cuộc đời bên ngoài, mà còn sinh ra từ chính văn học. Khi bước vào nghề văn, tôi muốn biết cái nồi văn mà tôi đang nấu, hoặc định nấu, được kê bằng cái gì, được đun bằng cái gì. Trừ ngoại lệ lớn nhất và bền bỉ nhất là Trần Dần cùng một vài người chịu ảnh hưởng trực tiếp của ông, tôi luôn có cảm giác rằng giữa những người theo tinh thần NVGP và tôi có trò chuyện, nhưng hầu như không có một đối thoại thật sự, và những cuộc trò chuyện giữa đôi bên bao giờ cũng chỉ dừng ở một chiều sâu lịch sự, dễ chịu, không thể đi quá một chút nào, và luôn luôn quanh quẩn ở cái nấc thang thứ nhất kia. Dường như thời gian ở chỗ họ từ lâu lắm rồi đã không nhích thêm gang tấc nào, tôi thì đầy sự nôn nóng của tuổi trẻ, mà lại phải rất cẩn thận để không làm tổn thương ai. Luật của chúng ta dường như là vậy. Ðày đọa, thanh trừng, xoá sổ kẻ khác thì được, nhưng làm mất lòng thì không. Tôi không thể nói thẳng với họ, rằng tôi không nhất thiết phải đọc họ chỉ để biết rằng, nhà văn cần yêu ai cứ nói là yêu, ghét ai cứ nói là ghét, điều đó tôi được học ở nhiều chỗ khác rồi, mà không phải là học qua văn chương. Nói như thế là bạc, là phản bội, là rũ trắng mọi khổ đau đen ngòm của người khác. Nhưng có lẽ tôi đã kỳ vọng ở họ nhiều quá. Khi tuổi trẻ bị bịt đường lên phía trước thì nó ngoảnh lại phía sau mãi như vậy và thành những ông cụ bà cụ non. Tôi đã tìm một lối để thoát khỏi văn học Việt Nam đương đại. Cái văn học đó buồn tẻ, nhưng cuối cùng thì lối thoát của nó không phải là giật lùi về đỉnh cao của những năm 50. Cũng như vậy, văn học đổi mới hiện tại chẳng còn gì đáng nói nhiều nữa, song nó không nên ngoảnh lại tiếc nuối cao trào 1988-1989.

Trong những điểm cốt yếu, văn học của nhóm NVGP cùng một bản chất với văn học chính thống sau này. Có thể coi đó là sơ kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Còn phần lớn các tác phẩm cuối những năm 80 mà trong nước tuy gọi đùa, nhưng có lý của nó, là Nhân Văn 2, ngoài nước gọi là văn học phản kháng, là mạt kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thực ra những người làm nhiệm vụ duy trì và bảo vệ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể yên tâm lâu dài: một mạt kỳ có thể kéo thêm cả thế kỷ, mà theo tôi thì văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hoặc một cái gì na ná như vậy còn có tương lai vô tận ở Việt Nam. 500 hội viên này của Hội nhà văn Việt Nam có thể được thay bằng 500 hội viên khác, song 50 triệu người đọc thì không bãi đi để bầu mới nhanh như vậy được. Nền văn học này cũng đẻ ra một số tài năng và những tác phẩm có thể xúc động lòng người. Nhưng các tác giả và tác phẩm của nó giống nhau, hoàn toàn không có cá tính, đúng như Trần Dần đã nhận xét, năm 1955, về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, rằng thậm chí những câu hay của Tố Hữu cũng không có chữ ký riêng, có thể ký ở dưới là Nguyễn Du, Tản Ðà, hay Ca Dao đều được. Những người có tên tuổi ở thời NVGP cũng không tránh được điều đó. Một số bài thơ của Lê Ðạt và Phùng Quán thuở ấy có thể ký lộn cho nhau, sau này thì Lê Ðạt tách hẳn ra để có một chữ ký độc đáo cho riêng mình, và lịch sử quả thật thích đùa khi ông bị Trần Mạnh Hảo, một nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa mạt kỳ phủ đầu, chính vì đoạn sau này. Bên Kia Sông Ðuống của Hoàng Cầm, hay Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đi vào lòng người vì những lý do khác, chứ không phải vì đạt tới cái mà Trần Dần đòi hỏi, ngay từ thuở ấy, rằng nhà thơ trước hết phải có được cái chữ ký riêng của mình. Ông cũng chua ngay rằng đương nhiên còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là phải đạt được như vậy. Lịch sử văn học Việt Nam nửa thế kỷ qua cho thấy, cái tối thiểu mà Trần Dần yêu cầu ấy đã hầu như không đạt được. Cho nên phần lớn tác phẩm của ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần, không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm. Ở ông là một bi kịch văn học lớn mà cái bi kịch chính trị của NVGP chỉ là một trong những bè đệm, còn ở một số người khác thì NVGP là sân khấu, thậm chí có sự trình diễn của các vai nạn nhân, văn chương chỉ đóng một vai rất phụ. Cho nên, nói về ông bây giờ mà không qua cái nấc thang thứ nhất kia cùng là tí ti minh oan, tí ti phục hồi, tí ti thương cảm, thì khác nào nhổ sơ sơ vài ngọn cỏ cho sạch vài phân vách đá, nhưng đằng sau đó là Ăng-co, để dùng lại một biểu tượng mà ông ưa dùng. Bất hạnh lớn của Trần Dần là NVGP, nhưng bất hạnh còn lớn hơn của ông là ông đã quẳng gánh NVGP từ lâu lại sau lưng, còn người đời thì vẫn è lưng ra gánh mãi. Sự nghiệp của ông không chấm dứt với năm 1958, mà mở đầu từ đó, và đạt tới cao trào trong khoảng 15 năm, từ giữa những năm 70, nghĩa là liên quan không nhỏ tới việc Sài Gòn thất thủ, đến cuối những năm 80, khi ông ngã bệnh.

Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của một nhà cách tân, có lẽ là nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất trong văn học miền Bắc Việt Nam nửa thế kỷ qua. Việc ông đi theo cuộc cách mạng của Ðảng cộng sản cho đến NVGP là việc dễ hiểu, bởi đôi bên khi ấy cùng chung nhau một chữ cách: cách mạng, cách tân, cùng chung nhau một ý tưởng đổi mới. Việc diễn ra sau đó đối với ông, theo tôi, cũng là một tất yếu. Tôi không cho rằng ông bị hiểu nhầm, mà ông bị không hiểu. Không hiểu chứ không phải hiểu nhầm. Hiểu nhầm còn chữa lại được, không hiểu thì khó thay đổi hơn nhiều. Một người như thế sống ở bất kỳ đâu cũng khó. Còn ở một nơi mà tính đại chúng là tiêu chuẩn tối thượng của văn chương nghệ thuật, một nơi mà sự phục tùng tổ chức, quyền uy, thế lực là kim chỉ nam cho mọi hành vi văn chương thì một người như thế phải bị đày đọa, bị tảy chay, hoặc nhẹ nhất là bị bỏ qua. Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Ông có 4 kiểu chữ hoàn toàn khác cách nhau: cho giai đoạn đến NVGP những năm 50 là một, giai đoạn ngắn sau đó, đầu những năm 60 là hai, giai đoạn đến đầu những năm 80 là ba, từ đó đến nay tuy chung một kiểu chữ là bốn, nhưng ngay trong một kiểu này cũng có nhiều phát triển khác nhau, kèm theo một khoa chính tả khác thường và một thư pháp, hay thư họa rất đặc trưng Trần Dần. Chỉ riêng điều có thể coi là nhỏ nhặt trong cái khối khổng lồ là ông- để dùng lại chữ của Dương Tường- đã làm việc đọc ông rất phức tạp, mà lại càng không thể công bố nhiều tác phẩm của ông ở dạng in ấn bằng những con chữ thông thường.

Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng ông nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu.” Khi ông tuyên bố: “Cái đèm đẹp giết chết cái đẹp”, thì một câu sáng rõ như vậy quả là tối tăm mù mờ với những ai chưa bao giờ nghĩ ngợi về cái “đèm đẹp”. Cái xinh xinh không thể đẹp, ý này có thể của ai khác, có thể từ tư duy trong tiếng nuớc ngoài, song vào tay Trần Dần thì thành cách nói đặc biệt Trần Dần, nhanh, mạnh, lột trần, độc đáo, không lặp lại ai và không tự lặp, rất Việt và rất hiện đại. Ðồng nghiệp của ông yêu cách nói này thì ít, mà sợ thì nhiều. Nguyễn Khải đã tả về hai con mắt “hiếp đáp thiên hạ” của Trần Dần. Không ít người suốt đời hậm hực về một lời phê thường cộc lốc nghiệt ngã của ông. Song một nhận định phát ra từ bóng tối và cõi im lặng của Trần Dần có cái uy dũng mà người ta tuy hãi nhưng thèm. Ai chịu trận được thì mang ơn ông mãi. Tôi được ông ưu ái khi vừa mon men vào nghề, phấn khởi lắm, nhưng những lời đe của ông sau này mới thực cho tôi những bài học càng lâu càng ngấm.

Người ta coi Trần Dần là lập dị. Nhưng trong một môi trường mà chỉ riêng chiếc ba toong của cụ Nguyễn chống trên vỉa hè Hà Nội đã được coi là biểu tượng của khác thường, thì sự lập dị của Trần Dần là vượt ra mọi cách. Chúng ta có thể tôn sùng kẻ đứng đầu một cách, nhưng kẻ vượt ra mọi cách thì không có chỗ đứng. Cho nên Trần Dần nằm. Thơ ông là thơ nằm. Mọi bản thảo của ông là bản thảo nằm. Hàng chục sổ thơ của ông là sổ nằm, ông đặt tên là sổ bụi, và khi hết sổ phải dùng đến vở tự khâu, thì đấy là vở bụi. Vả lại, khí chất của Trần Dần là cái khí chất không thuận với mọi cách, may ra ông gần hơn cả, gần chứ không thuận, với cách thi trung hữu qủy, và tự gọi mình là một thi tặc. Tôi chưa thấy ai trong lịch sử thi ca Việt Nam dám như vậy, đường hoàng như vậy: Thi tặc! Thơ ca của chúng ta có hay thì cốt hay-mãi-ngàn-năm theo hướng thánh thi, tiên thi, đạo thi, có đẹp thì đẹp theo cách tròn đầy nhã nhặn mà Trần Dần tuy ghi nhận nhưng không rung động. Nếu ai hoảng sợ trước cái khái niệm thi tặc ấy thì tốt nhất đừng đọc Trần Dần. Còn đã quyết định đến với ông thì xin đừng coi trọng quá những hành trang tinh thần mà mình đương nhiên khuân theo, vì Trần Dần thật lắm bất ngờ. Và nhất là, ông sẽ giới thiệu một thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt, không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa. Từ 1958 đến nay Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại ồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới. Những người xung quanh ông, người nào cũng xin được, có khi trộm được, ít nhất là một vài con chữ từ cái lò luyện chữ của Trần Dần như vậy. Những chữ rất hiện đại và đầy truyền thống. Cách ông đối xử với ca dao chẳng hạn là cách của một người biết yêu sao cho cả phía được yêu lẫn phía mình đều lớn bổng lên, không phải cách “yêu ai thì người đó nhỏ lại” như ông đã từng phê rất đích đáng một nhà thơ nổi tiếng. Là những chữ rất hàn lâm uyên bác mà cực nôm. Cái sướng nôm của ông, nôm hiện đại của “1 bát sẹo 1 lẹo vú 1 bú đít 1 lít nách”, lây mạnh sang những người xung quanh, thành những ca vô cùng đặc sắc, thành một thứ tiếng Việt hiện đại và đầy phiêu lưu kỳ thú. Ông thậm duy mỹ mà sâu xa và có một giác quan không thể đánh lừa cho mọi giá trị thực. Ðiều đó kéo theo sự trân trọng và ngưỡng mộ, rất bất chấp, rất hồn nhiên của ông trước những tài năng và nhân cách thật. Ông đã nâng niu thơ Ðặng Ðình Hưng như thơ ruột, dù quan hệ đôi bên không phải lúc nào cũng êm. Ðồng thời, sự thẳng thắn đến phũ phàng của ông trước những thứ của rởm cũng không chừa bạn bè thân thích. Trước những con chữ, lòng ông khăng khăng trong sạch. Chỉ có điều, tất cả những thứ ấy đóng kín trước một số đông, một số rất đông, không phải của riêng thời NVGP, mà cả bây giờ và sẽ rất lâu sau này vẫn thế. Bây giờ, nếu một phần di cảo của ông có được đưa ra nghiên cứu và sử dụng, cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay số người có thể đọc xuyên qua được những trang bản thảo ấy. Sau ba mươi lăm năm, một trong hơn ba chục tác phẩm của Trần Dần mới ra mắt người đọc, tập thơ-tiểu thuyết Cổng Tỉnh, và được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Sự công nhận muộn mằn này dừng lại ở mức một cử chỉ thiện chí, với một quá khứ oan khiên, với một nhà thơ lớn khi ấy đã gần đất xa trời. Song nó không mang lại cho Trần Dần nhiều người đọc hơn. Khi cái lưỡi của đám đông đã hoàn toàn thoái hoá thì cao lương mỹ vị bày ra cho ai? Một phần ba thế kỷ văn vần quốc doanh, văn xuôi mậu dịch trên môi và trong lòng người đọc Việt Nam đã khiến ít ai vượt qua chỉ cái tựa đề Cổng Tỉnh. Tôi mở trang đầu, đọc những dòng đầu mạnh mẽ mộc mạc:


    Kỷ niệm! Ðưa tôi về chốn cũ!
    Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!
    Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương...

    qua những dòng bồng bột lạ lẫm:
    Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
    Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...

    những dòng ngọt lịm:
    Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
    Có sương sớm đọng trên đèn muộn...

    những dòng Trần Dần huyền thoại:
    Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp
    ò..ò đêm đi như một cỗ quan tài...

    những dòng tha thiết:
    Ở đâu? ở đâu có ngụm đèn xanh
    Rèm che nhoè cửa sổ?...
    Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây
    Ðừng sa sút lá
    Ðể ta còn khuyên gió...gió đừng rung cây...

    những dòng khinh bạc quay quắt:
    Tôi ơi! Tôi ơi!... Tôi vẫn rong chơi bên mấy cột đèn mù...
    Tôi càng đứng bơ vơ đầu cổng tỉnh..
    Tôi không có đủ đau thương cho mãn hạn sống
    Tôi không có đủ tình yêu
    Yêu trái đất lục đục thế này...

    rồi lại ngọt đắng:
    Gió ơi đừng vội tủi
    Khuya rồi! Hãy tới khóc ở hom sông...
    Có lẽ thu rồi em nhỉ
    Em chớ khóc nhiều vàng ố ngã tư xưa...



Chỗ nào ông cũng thổi một sự sống khác thường vào những con chữ, chỗ nào cũng dành cho ta một bất ngờ. Biết bao giờ số đông người đọc Việt Nam mới dọn lòng, dành cho tài năng ghồ ghề jờ joạcx này một chỗ?

Số phận của Trần Dần là số phận hoàn toàn cô đơn và trong bóng tối theo mọi nghĩa của một người dốc hết mình vào thửa ruộng thử nghiệm của văn học, đặc biệt là của thi ca, một người, để dùng lại chữ của NVGP mà chắc sau này ông cho là mauvais gout lắm, moi tim moi óc làm thơ, một Tư Mã-như tên ông đặt cho mình và bạn bè- suốt nửa thế kỷ không chịu lùi một ly chữ, để làm cái việc mà ông gọi là thồ thơ tự xứ này lên. Một người đi suốt ván chiêm bao của những cái bị nợ và tự nợ, đánh suốt một ván đời với cái biết và cái chưa biết. Ông nói rằng, cái biết là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử là chưa phải thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhảy qua bóng mình.Tôi không dám nói ông đã thành công trong bao nhiêu mùa thử nghiệm của mình. Chỉ biết rằng, những ai may mắn đến lấy một hạt giống ở ông, rồi đem về đất của chính mình, đổ sức của chính mình vào đó thì ắt là thành công, trong những trường hợp hiếm hoi như Ðặng Ðình Hưng thì là một thành công lớn. Còn nếu không cũng được một mùa, theo chữ của ông, là mùa sạch.

Trần Dần từng nói, “tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn chúng tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.” Nhưng trong một sổ bụi ông lại tự hỏi: lớp trẻ liệu có còn được một cơ hội mấy chục năm quốc nạn như mình không để làm cái việc ấy? Ông đã ngã bệnh nhiều năm trước khi qua đời, có lẽ cũng linh cảm nhưng không còn đủ thời gian để nhìn thấy những hình dạng mới của quốc nạn. Văn chương bây giờ có vẻ như chưa cần đày đọa đã ngắc ngoải tự hủy, chưa sinh ra đã kề huyệt. Thì chôn ai?

Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểu tôi phải có được một văn cách.




1997
Nguồn: Đăng lần đầu trên tạp chí Văn Học, 1997
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=900&rb=0202

_________

Trần Dần trên Tiền Vệ

Một đoạn trích từ Trần Dần -"Ghi" - talawas

Xổ bụi - tạp ghi của Nam Dao

Tư liệu về nhà thơ Trần Dần

Chuyện văn nghệ sĩ đi chiến dịch Điện Biên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2006 13:35:15 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 09.06.2006 22:04:12
.

Cám ơn Ban Điều Hành Việt Nam Thư Quán,
Quản Trị Viên phần Tác giả - Tác phẩm,
và tất cả các thành viên đã bỏ phiếu cho quyết định đăng lại
Tiểu Sử Trần Dần
vào đây.

Các bạn đã cho tôi thêm tin tưởng,



Ngọc Lý


.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2006 22:30:26 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 09.06.2006 22:18:03
.



Những người bay có chân trời...
16:43' 25/06/2004 (GMT+7)


              Tôi khóc những

              ___________ chân trời

              ______________ không

              __________________

              _____________________người bay



              Lại khóc những người bay

              ________________không có

              ____________________chân trời




Nhà thơ Trần Dần đã về cõi vô cùng. Đi về chân trời nào đó, mà thơ ông dường như đã có lúc chạm tới. Những gì người đời được đọc cũng chỉ là "phần nổi của tảng băng" miệt mài sáng tạo của Trần Dần - Tư Mã chữ - có người gọi thế. Giá trị văn chương ông, người đời sẽ hậu xét. Nhưng không chỉ có thế, Trần Dần còn sinh ra và dạy dỗ những đứa con thành đạt theo đúng nghĩa của từ này và rất mực hiếu thảo. Với họ, trong mọi hoàn cảnh, cha là cả niềm kiêu hãnh. Và họ đã làm tất cả những gì có thể để yêu cha...


"Hai đôi mắt - mỗi người nhìn về
một chân trời đam mê của riêng mình".


Mới tiếp xúc, không ai có thể tưởng tượng rằng chị Băng Kha, con gái đầu lòng của nhà thơ Trần Dần, trước kia là một học sinh giỏi có tiếng. Nghe nói thuở nhỏ, chị học văn rất giỏi, nhưng mẹ chị bảo văn chương là bi kịch nên đã cố hướng cho con theo toán. Cha chị - nhà thơ Trần Dần lại là thầy dạy toán ở nhà cho chị. Và chị đã đỗ vào lớp năng khiếu toán. Suốt mười mấy năm học, chị Kha đều là học sinh A1 và đã được thưởng phiếu mua cung cấp xe đạp mini Liên Xô (hồi đó được phần thưởng này là rất quý). Và bây giờ chị là cô giáo dạy toán cho một trường bổ túc tại Hà Nội. Bề ngoài Kha rất giản dị, nhưng càng trò chuyện càng thấy chị có trí thông minh và sự mẫn cảm đặc biệt. Tôi thích đôi mắt ấm áp, dịu dàng của Kha. Khi kể về cha, Băng Kha như lột xác khỏi con người đời thường. Có một mạch ngầm của ký ức đang trào dậy trong chị. Đau đớn. Kiêu hãnh - trong mất mát và đủ đầy qua bao nhiêu thăng trầm của một gia đình văn nhân... Nhắc đến những ngày cuối cùng bệnh tật của cha mình, chị khóc. Thấy Kha bối rối vì những giọt nước mắt ấy, tôi lẳng lặng bước ra khỏi nhà, để mặc chị một mình với cây bút và trang giấy. Và dưới đây là những dòng viết của cô học trò giỏi văn thuở nào...

"Mỗi lần nhớ và nhắc về cha, trong sâu thẳm tôi là sự đau đớn quá đỗi, sự mất mát quá nhiều và sự ân hận triền miên. Tôi đã không làm gì được và chưa làm được gì cho ông. Người đời đã hiểu gì về ông, trước đây và sau này? Cả cuộc đời "tận tuỵ chữ" đã ai hiểu nổi và chia sẻ nổi cùng ông. Với tôi, ông không chỉ là một người cha bình dị, ông còn là một người cha trí tuệ, sâu sắc và tuyệt vời.

Trong một thời gian dài, mặc cho thầy giáo và bạn bè nghĩ gì, nói gì về ông, tôi vẫn luôn tự hào về ông, một người cha thông minh, tài hoa; ông đọc nhiều và viết nhiều. Học vấn của ông rất cao, sâu và rộng. Tôi có cái may mắn nhất trong ba chị em là được ông dạy toán. Toán học xen lẫn thi ca. Và may mắn hơn cả là tôi được "trộm" đọc những trang thơ ông viết - mỗi chữ một dòng - trình bày như một bức tranh ngay từ khi còn là bản thảo. Tôi không hiểu hết ông, nhưng tôi cảm nhận được rằng trong thăm thẳm, cha tôi có cái đau quằn quại, cô đơn tận cùng pha lẫn một chút bất lực. Chỉ có Biển, Trời, Atula là có thể hiểu và chia sẻ cùng ông. Ông không bao giờ ngâm thơ mà chỉ đọc thơ. Giọng ông sang sảng, đôi mắt đau đáu trong sự trang nghiêm tuyệt đối, đến tận giờ tôi vẫn không thể quên được.



____________________

"Ông có nhân cách độc đáo, mẫu mực:
Sống chân thực và hết mình.
Nghĩ thế nào thì nói thế.
Nói thế nào thì làm thế...
Và chẳng bao giờ hại ai.
Ông khinh miệt những gì luồn lọt gian trá".

Trần Băng Kha


_______________________


Sau này tôi lại càng tự hào về ông - một người cha có nhân cách độc đáo, mẫu mực - Chúng tôi, ba chị em, học được ở ông cách sống chân thực và hết mình: Nghĩ thế nào thì nói thế. Nói thế nào thì làm thế... Có lẽ tính thẳng thắn, chăm chỉ, miệt mài, khinh miệt những gì luồn lọt, gian trá là chúng tôi học được ở ông. Ông chẳng bao giờ hại ai. Niềm tự hào và thành công lớn nhất của cha mẹ tôi là sự thành đạt của cậu con trai út tài năng và hiếu thảo: "Họa sĩ Trần Trọng Vũ".

Chồng chị đang làm luận án tiến sĩ về lịch sử ở Pháp. Một mình ở nhà chăm sóc 2 đứa con nhỏ, nhưng ngày nào chị cũng đi gần chục cây số về thăm mẹ... Để căn nhà của 5 người xưa kia không bị vắng đi, thiếu đi quá nhiều...

* * *

Với gia đình này, tôi tiếp xúc với Văn nhiều hơn cả. Lần đầu tiên biết Văn, tình cờ thôi - trong một chuyến làm phim phóng sự ở một làng quê xa Hà Nội 30km. Một chuyến đi nhọc nhằn, căng thẳng vì công việc. Với nhiệt tình, cần mẫn, và đôi tay cầm máy tài hoa - Văn đã giúp cả đoàn làm phim có được những cảnh quay vượt lên cả ý muốn. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Văn lúc ấy là một con người hết mình vì công việc, nhưng khép mình trong sự khắt khe và kiêu bạc ngấm ngầm. Từ khi nghe anh bạn giới thiệu với tôi: "Văn là con trai của nhà thơ Trần Dần đấy", Văn lại càng im lặng. Về sau này, khi đã quen, Văn giải thích: Những lúc cần phải khéo léo, phải nói lời giao đãi thì Văn thể hiện bằng cách... im lặng". Băng Kha bảo: "Trong nhà, Văn là người giống tính ông cụ nhất. Thẳng tính, nóng tính và làm gì là kiên quyết làm bằng được"...

Trong ba chị em, có lẽ Văn là người ít may mắn nhất vì anh không có điều kiện sống cho riêng mình. Thuở nhỏ, chỗ ở thì chật chội, Vũ còn có chỗ để vẽ và được vẽ nhưng hễ Văn làm gì theo ý mình thì lại bị mẹ mắng.

- Có thể là vì mẹ thấy anh không có dấu hiệu tài hoa như Vũ hoặc giả là anh có dấu hiệu "bất kham"? - Tôi trêu Văn.

- Có thể, và còn hình như mẹ luôn sợ sự đam mê mọi thứ quá thể của tôi. Mà cái số nó thế. Trời nóng, mẹ cầm quạt quạt cho Vũ vẽ. Còn tôi, khi định làm một việc gì mới thì mẹ thường can ngăn. Có thể, mẹ hoàn toàn cảm nhận được gánh nặng của công việc sáng tạo nghệ thuật đã thực sự đè nặng lên đôi vai của người chồng và đứa con trai út của mình. Còn tôi thì không. Hồi nhỏ mẹ thấy tôi thích học văn thì đã khéo léo kéo tôi ra khỏi sự đam mê. Các chị em tôi đều hiểu sâu sắc rằng bi kịch văn chương của cha đã làm cho mẹ luôn sợ hãi, không muốn bất kỳ ai trong các con thêm một lần dấn thân. Tôi đã trốn chạy nghệ thuật trong sự đam mê ám ảnh...



Trần Dần và vợ -
người bảo bọc, chở che,
giúp đỡ ông suốt cuộc đời.



... Rất nhiều buổi chiều, tôi thường đạp xe ra Hồ Tây, nhờ gió làm dịu mát đi nỗi bức bối, có khi ngồi đến rất khuya trên ghế đá để một mình gặm nhấm nỗi cô đơn... Tôi nhớ hồi đó nhà tôi có 2 chiếc giường, mẹ tôi ngủ với chị Kha. Cha, tôi và Vũ ngủ chung theo một trật tự: cha nằm giữa, tôi và Vũ mỗi đứa một bên. Những ngày đó, ban đêm tôi thường khó ngủ. Có một đêm, tôi cứ trằn trọc cho đến gần sáng và chợt sực tỉnh khi cảm nhận bàn tay cha đặt lên tóc mình. Tôi đã đứng dậy được, thoát ra khỏi mình. Ban đầu, tôi chấp nhận làm một công nhân. Rồi cũng hình như cha đã lặng lẽ chỉ cho tôi con đường đi. Tôi thi vào đại học Sân khấu - Điện ảnh và làm truyền hình. Tôi yêu nghề, đam mê như cách cha tôi yêu thơ vậy...

Văn yêu cha theo cách riêng của anh. Gặp người tri âm, anh mới nói về cha. Trong lớp lớp di cảo thơ và văn của thi sĩ Trần Dần, có rất nhiều trang do Văn chép. Khó mà tưởng tượng rằng "một gã" quay phim - suốt ngày "lang thang", chỉ có mặt ở nhà lúc nửa đêm lại có thể nắn nót, kỹ càng đến thế khi chép thơ cho cha. Bản thảo "Cổng tỉnh" trước khi đưa in, đánh máy sai nhiều. Văn đã chép tay từ đầu đến cuối. Anh thuộc nhiều thơ của Trần Dần. Và hiểu được sức trĩu nặng của câu chữ trong thơ. Trần Dần có một tập thơ mang tên "Bao giờ em đi lấy chồng" trong đó có 17 khúc thơ tình viết theo kiểu đồng dao (đã được đăng lẻ một ít khúc trên các báo). Một tập thơ ông đã tự trình bày, minh họa sẵn cách đây 35 năm. Những câu thơ được viết bằng lối riêng, độc đáo, mỗi câu chữ ý nhị, sâu sắc và dí dỏm, thể hiện tình yêu cuộc sống một cách thư thái trong lành. Đọc cho tôi nghe những câu thơ trong tập, nét mặt Văn sáng bừng lên, như có một con người khác trong Văn tôi đã từng biết khi anh cười nói về cha: "Ông cụ nhà Văn là trạng cười đấy. Mỗi lúc ông cười cả phố nghe thấy. Hồi nhỏ ít khi Văn thấy ông buồn - ông hay kể chuyện tiếu lâm lắm...". Chưa được xem Vũ vẽ nhưng được nghe Văn thi thoảng đọc vài câu thơ cha, nói chuyện cha, tôi cảm nhận một cách thấm thía rằng văn cách của Trần Dần đã chinh phục con ông đến mức nào. Văn đã dành nhiều thời gian để cùng với những người thân xếp di cảo của cha theo thư mục như cách người ta làm ở thư viện. Bà Khuê bảo: "Nó sống ào ào, cũng luộm thuộm nhưng động đến sách vở ông nhà tôi là nó cẩn thận lắm"... Và những cuốn băng chuyên dụng Văn tự quay khi Trần Dần còn sống là những tư liệu rất quý. Dường như Văn đã làm tất cả những gì có thể để yêu cha.

* * *

Trước mặt tôi là bức ảnh 2 anh em Văn - Vũ mặc đồ đen (chụp trong ngày tang lễ Trần Dần) ngồi dưới tấm băng đen ghi 2 câu thơ của Trần Dần:

Tôi khóc những

___________ chân trời

______________ không

__________________

_____________________người bay



Lại khóc những người bay

________________không có

____________________chân trời


Hai đôi mắt. Đau đớn. Kiêu hãnh. Mỗi người nhìn về một chân trời đam mê của riêng mình. Nhưng dường như họ đều nghĩ về chân trời bay của cha mình... Trong nhà, ai cũng nói nhiều về Vũ. Cậu con trai út của họ Trần đã trở thành họa sĩ tài danh trên đất Pháp. Người đời nói anh là khúc vĩ thanh của Trần Dần. Một cuộc đời thiệt thòi, đớn đau cả thể xác lẫn tinh thần của Trần Dần đã có một chân trời sáng và đẹp... Khi tôi đến gia đình này thì không có dịp gặp Vũ nhưng biết rằng: Cả gia đình 5 người và đặc biệt là Trần Dần đã làm tất cả, đã kỳ vọng tất cả để có mấy chữ "Họa sĩ Trần Trọng Vũ".

_____________

"Tôi không bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành nhà văn.
Một nhà văn chuyên nghiệp phải làm việc một cách khác,
phải chịu những ám ảnh thường trực,
phải dám đánh đổi cả đời mình cho sự thật".

Trần Trọng Vũ

____________


Qua Văn, tôi nhận được những dòng fax của Vũ từ Paris. Sẽ là thừa nếu nói thêm một điều gì sau trang viết của Vũ:

"Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn không thể chấp nhận được sự vắng mặt của bố tôi. Tôi sẽ không gọi những gì còn lại của ông là kỷ niệm, vì chúng còn nặng nề hơn rất nhiều. Toàn bộ tuổi thơ tôi trôi qua bên cạnh ông, không quá nhiều vui buồn, hai phần ba ở phố Vũ Lợi và một phần ba còn lại ở trường học. Vậy mà phải đợi rất nhiều năm sau này, nhờ vào những đối xử của bên ngoài, chứ không phải do bố mẹ, cũng không phải nhờ vào ghế nhà trường tôi mới hiểu rằng tôi đã được sinh ra trong một gia đình hoàn toàn không bình thường. Chúng tôi năm người trong một diện tích hai mươi tư thước vuông, nền đá hoa sũng nước từ tháng giêng đến tháng tư, còn những bức tường thì đổ mồ hôi kinh niên. Tôi gọi là đảo. Phố là biển. Hàng xóm là biển. Bạn bè thì xa lạ.

Quan hệ của tôi và bố cũng phải đợi rất nhiều năm sau này mới được hình thành, thông qua rất nhiều trung gian, lớn hơn cả, lâu hơn cả là hội họa. Nhưng chuyện trò dưới dạng mệnh lệnh thức. Còn đối thoại thực sự (có tranh luận) chính là câu chuyện về cái mũ hoặc bộ râu hoặc chiếc trán hói của ông. Chúng tôi mỗi người một vỏ cứng bên trong đầy ắp những riêng tư. Thế giới của bố tôi định vị trong một mét vuông bàn làm việc và một mét vuông bàn uống nước. Còn tôi thoạt đầu còn đậu tạm lúc thì vào một vài trang sách dịch, lúc thì vào bàn làm việc của bố, lúc thì trên yên xe đạp ba vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Nhưng thế giới của mỗi người vẫn đóng nguyên vẹn, có thể vì tôn trọng, có thể vì không quan tâm, cũng có thể vì không đủ sức để hiểu. Nói chung không xâm phạm.

Bố tôi cũng vậy, không bao giờ phán xét những thành bại của tôi ngoài xã hội, không bao giờ kể chuyện đời mình, không một phàn nàn, và còn kỳ lạ hơn, không bao giờ hát, dù chỉ hát một mình. Cũng mãi sau này tôi mới nhận thấy rằng bố tôi thường chống gậy đi một mình rất xa trong thành phố. Cũng mãi sau này tôi mới nhớ lại rằng bố tôi thường đến ngồi một mình đầu phố, đường Nam Bộ rẽ phải thì đến nhà ga, rẽ trái thì đi về đường quốc lộ số 1. Cũng mãi sau này, khi ông đã mất, chúng tôi mới tìm thấy một loạt bản thảo của ông ở bên dưới có ghi: "Trần Dần tự xuất bản".

Không có những kỷ niệm sâu sắc. Cũng không có những kỷ niệm kém sâu sắc hơn. Cuộc đời của bố tôi nặng nề để cả năm chúng tôi cùng nhau gánh vác. Nhưng nghiệp văn chương của ông còn nặng gấp bội phần thì ông lại phải chìa lưng ra mà gánh vác một mình, chẳng thể chia sẻ cùng ai.

Tôi đến với văn học sớm hơn là với hội họa. Dù vậy tôi không bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành nhà văn. Một nhà văn chuyên nghiệp phải làm việc một cách khác, phải chịu những ám ảnh thường trực, phải dám đánh đổi cả đời mình cho sự thật. Viết được vài cuốn sách không có nghĩa là trở thành nhà văn. Viết về nhu cầu kể chuyện mình cũng chưa phải nhà văn. Để là một nhà văn nghiệp dư thì đã có quá nhiều.

Văn chương và hội họa là hai lĩnh vực hoàn toàn xa lạ nhau. Không thể đem văn học gán cho hội họa và ngược lại cũng không thể đem tình yêu hội họa cho văn học. Có lẽ chỉ có một điểm có thể gọi giống nhau là ở chỗ đều là hai nghề nghiệp ích kỷ và cô đơn. Người viết cũng như người vẽ đều có thể nhận lấy số phận đau buồn.

Ngày hôm nay tôi tự coi mình là họa sĩ chuyên nghiệp. Còn ngày mai, những gì đến sẽ đến".


* * *

Sau khi gặp bà Khuê - người bạn đời nhà thơ Trần Dần và Băng Kha, Trọng Văn, rồi đọc những dòng Vũ viết - tôi biết rằng ông đã rất hạnh phúc. Một hạnh phúc mà những ai rơi vào hoàn cảnh của ông khó mà có được. Nhân cách và văn cách của ông - người chồng, người cha, thi sĩ đã tạo nên chân trời hạnh phúc ấy. Hạnh phúc đón tuổi thứ 72 của mình ở chân trời cực lạc, thi sĩ nhé...

Thêm một lời chúc tốt lành cho ngôi nhà năm người ngày nào ở phố Vũ Lợi...



Lương Thị Bích Ngọc (ĐĐK)
http://www.vnn.vn/psks/baoban/2004/06/169814/
(mang vào để tặng Thái Nhi - Ngọc Lý)

______

Trần Dần trên Tiền Vệ

Một đoạn trích từ Trần Dần -"Ghi" - talawas

Xổ bụi - tạp ghi của Nam Dao

Tư liệu về nhà thơ Trần Dần

Phạm Thị Hoài - Thủ lĩnh trong bóng tối

Chuyện văn nghệ sĩ đi chiến dịch Điện Biên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2006 13:36:13 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 13.06.2006 01:16:04
.


HỮU MAI
Chuyện văn nghệ sĩ
đi chiến dịch Điện Biên

Chủ Nhật, 07/05/2006, 09:25



TPCN - Cuộc hành quân mùa khô năm 1953-1954 rất khác so với những cuộc hành quân ra trận mà tôi đã biết trong chiến tranh.

Mùa hè năm đó trước khi chúng tôi lên đường đi chiến dịch, bộ đội học về cuộc phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất.

…Những buổi học tập chính trị đều có phần liên hệ với thực tế… Nhà văn Nguyễn Đình Thi mới tòng quân, cũng có mặt trong các buổi học tập. Anh sống ở thành phố, đã tham gia hội Văn hóa cứu quốc, tức là hoạt động cách mạng từ thời kỳ bí mật trước Tổng khởi nghĩa, ngồi nghe cũng xúc động như chúng tôi.

Từ những chuyện bộ đội kể khổ, anh đã viết thành một tập thơ gửi về Hội Văn nghệ. Nhà phê bình Hoài Thanh, khi đó trực tại cơ quan Hội, khen hay và khuyên anh: “Nên thêm cho tập thơ một tên người, một quê hương”.

Sau đó, tập thơ được sửa lại và in ra với tên: “Mẹ con đồng chí Chanh”. Có buổi cùng ngồi liên hệ trong học tập, anh Thi nói: “Mình sinh ra và lớn lên ở thành phố, biết rất ít về đời sống của nông dân, giờ nghĩ lại thấy ân hận, vì gia đình hồi trước có thuê “người ở” đã đối xử với họ không được tử tế, đây chính là những người nông dân bị bóc lột không còn nguồn sống bị đẩy ra thành thị”.

…Tôi đang đi thì có người vỗ vai. Quay lại thấy Trần Dần, vẫn mặc chiếc blouson bằng vải kaki và đeo một chiếc balô khá nhẹ. Dần ở Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, cũng trên đường hành quân ra mặt trận, nhưng thường tách khỏi đoàn xuống với bộ đội tìm tài liệu.

Dần nhận ra 308 đang hành quân và đi tìm tôi.

Trong những tờ báo gửi tới tòa soạn trao đổi, có tờ Văn nghệ Sơn La, cũng in đá, nhưng trình bày rất đẹp. Tôi đọc trong đó bài thơ đầu tiên không vần, viết theo kiểu bậc thang, và chú ý đến cái tên tác giả: Trần Dần.

Trần Dần đã là nhà văn chuyên nghiệp trước chúng tôi. Anh là người trong nhóm thi sĩ tượng trưng Dạ Đài. Trần Dần là một trong ba người thảo bản tuyên ngôn của phái Tượng trưng.

…Bản tuyên ngôn này xuất hiện trên tạp chí Dạ Đài ngày 16 tháng 11 năm 1946, một tháng vài ngày trước khi nổ ra kháng chiến toàn quốc. Tôi không hiểu sao có sự thay đổi kỳ diệu nào đã đưa Trần Dần vào quân đội kháng chiến.

Tôi tò mò chờ đợi những số báo Văn nghệ Sơn La. Rồi nghe nói những người làm tờ báo này đang muốn xây dựng một “nền văn nghệ Sơn La”.

Một số nhà văn chuyên nghiệp đang muốn đoạn tuyệt với những suy nghĩ, tình cảm và cách viết trong quá khứ, để đi vào quần chúng, vào cuộc sống mới, tỏ ra không thích tờ báo này.

Tôi gặp Trần Dần lần đầu trên đường đi chiến dịch Sông Thao ở Liên khu 10, năm 1949. Dần đi tìm chúng tôi, tự giới thiệu được phân công phụ trách tờ báo của Mặt trận, và đề nghị chúng tôi viết bài cho báo.

Anh còn yêu cầu chúng tôi cố gắng ghi lại những con người và quang cảnh trận đánh bằng ký họa, nhìn thấy thế nào vẽ như thế ấy, anh sẽ sửa lại giúp.

Điều làm tôi ngạc nhiên là thái độ của Dần rất khiêm tốn, dễ thương. Dọc đường, Dần nói chuyện rất say sưa. Anh kịch liệt phản đối bài thơ “Mê quần chúng” đăng trên báo Văn nghệ của Hội.

Anh nói: “Quá cũ. Không thể yêu quần chúng theo kiểu yêu “xác thịt”, không phải là kiểu yêu của những người cách mạng”. Dần giải thích về cách làm thơ không vần của mình: “Thơ bao giờ cũng có vần, vần trong những bài thơ của mình là rythme interne (vần bên trong)”.

Dần cho tôi đọc một số bài thơ bằng chữ Pháp của Maiacốpxki chép trong sổ tay. Những bài thơ: “Lênin, Quay trái, Đám mây mặc quần... trong đó đều viết theo kiểu bậc thang và không có vần.

Cùng đi với chúng tôi, có Xuân Huy, một học sinh người Huế, mới về làm việc tại tòa soạn. Huy ra Bắc sau Cách mạng Tháng Tám vì có một thầy dạy học cũ tham gia bộ máy Chính phủ gọi ra, nhưng chỉ một thời gian ở với ông thì anh chán, xin vào bộ đội rồi tìm đến chỗ chúng tôi.

Huy bám chặt lấy Trần Dần. Dần tâm sự với Huy là mỗi người lúc này đều cần tự thay đổi, nếu không cuộc sống sẽ vượt qua. Trong con người có lý trí và tình cảm.

Lý trí phải sáng suốt, tình cảm phải lành mạnh. Lý trí phải chỉ huy tình cảm. Mỗi con người đều có phần “người” và phần “vật”. Con người phải là một “con vật khôn ngoan”.

Chúng tôi biết Dần cũng là đảng viên. Và Dần là một đảng viên rất tích cực nếu so với chúng tôi. Dần biết Huy là một sinh viên, còn là một quần chúng, rất lơ mơ về nhiều vấn đề và muốn giúp đỡ Huy.

Không biết Dần nói với Huy những gì, nhưng sau đó, trong một trận công đồn, Huy đã xin một chiếc mác xung kích và cùng đi với bộ đội khi xung phong. Huy chưa có một ngày tập quân sự.

Cũng may trận đó, Huy chỉ bị thương nhẹ. Sau chiến dịch, Huy được kết nạp Đảng.

Dần đưa tôi xem một bức thư anh định gửi cho Nguyễn Đình Thi. Theo anh nói: “ở Hội Văn nghệ, Thi là chơi được”. Chúng tôi biết hầu hết những nhà văn ở Hội Văn nghệ Việt Nam đều đang trăn trở “nhận đường”. Kể cả những người như Nam Cao cũng thấy rất khó viết.

Đầu năm 1951, Tổng cục Chính trị mở một lớp chính trị ngắn ngày tại Thái Nguyên, do các cố vấn Trung Quốc giảng, gọi là lớp luân huấn. Tôi lại gặp Trần Dần. Tôi thấy mình thu thập được nhiều vấn đề mới.

Nhưng Trần Dần nói là anh thất vọng, vì anh tưởng đây sẽ là một lớp về “phương pháp tư tưởng”, nhưng chỉ là lớp chính trị.

Chiến dịch Hòa Bình, tôi lại gặp Trần Dần. Anh tâm sự với tôi mình đang yêu. Người anh yêu là một cô diễn viên ở đoàn Kịch quân đội. Anh kể không ít người thích cô này.

Có cán bộ đơn vị, nhà báo, nhà văn, họa sĩ. Nhưng anh cho rằng tất cả đều không hợp với cô, “các cậu đó thì được mấy lạng tình yêu!”. Anh tin là mình có một tình yêu thực sự, tình yêu lớn có thể mang lại hạnh phúc cho cô.

Lần gặp này có một chuyện tuy nhỏ, nhưng tôi không quên về Trần Dần. Bữa đó, Chính Yên bỗng tới chỗ chúng tôi. Chính Yên là phóng viên báo Nhân dân.

Thái Duy và Chính Yên là hai phóng viên tôi thường gặp trong các chiến dịch. Chính Yên xuống tòa soạn đúng bữa cơm. Mọi người rủ Chính Yên cùng ăn.

Đang ăn, Chính Yên hồn nhiên nói với Trần Dần: “Hôm nọ mình ở với Ban chỉ huy Trung đoàn, ăn theo chế độ trung táo, ngon lắm!”. Chính Yên bảo Trần Dần: “Lần sau, cậu lên Trung đoàn mà ở!”.

Sau ngày sang Trung Quốc, chế độ cấp dưỡng trong quân đội có sự thay đổi. Cán bộ sơ cấp và bộ đội ăn theo chế độ “đại táo” (bếp lớn). Cán bộ Tiểu đoàn trở lên ăn theo chế độ “trung táo” (bếp vừa). Chế độ “tiểu táo” (bếp nhỏ) là cao nhất.

Tòa soạn chúng tôi ăn theo chế độ “bếp lớn”. Dần nghiêm mặt nói: “Trung táo là một chế độ, không phải là thứ hàng!”. Trần Dần lúc nào cũng suy nghĩ nghiêm chỉnh, và “nguyên tắc” khác với nhiều anh em chúng tôi...

Tôi hỏi Trần Dần, chuyện yêu đương đã đến đâu. Anh lắc đầu, rồi nói: “Mình quên rồi... Bây giờ đang còn nhiều chuyện khác”.

Mỗi chặng dừng chân dọc đường, Dần giở sổ tay và bấm đèn pin, đọc cho tôi nghe những ghi chép. Tôi thấy đây không còn là ghi chép, mà những đoạn văn khắc họa hình ảnh những chiến sĩ nông dân mà anh đã gặp trong học tập chỉnh huấn vừa qua.

Anh viết rất mộc mạc, “hạt lúa củ khoai” không còn đánh đố người đọc như một vài bài thơ trước đây. Dần cũng như anh em chúng tôi thời đó đã bị “quần chúng” chinh phục.

…Tôi nói :

- Chiến dịch này ở tòa soạn chỉ còn mình mình. Hồ Phương xuống Tiểu đoàn Phòng không của đại đoàn từ chiến dịch Thượng Lào. Hoài An, Mai Hanh, Lý Đăng Cao... đi với các đơn vị Cung cấp và dân công.

Dần hỏi :

- Gặp Chính Hữu chưa ?

Chính Hữu vốn là người của đại đoàn, đã chiến đấu ở Liên khu 1 Hà Nội năm 1946, rồi là Trưởng ban Chính trị của Trung đoàn Thủ đô, mấy năm qua được điều lên Ban phụ trách Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, trước chiến dịch đã xin xuống đơn vị chiến đấu…

- Gặp rồi.

- Mình không hiểu tại sao Chính Hữu nhất định đòi xuống đơn vị.

- Chính Hữu nói với mình là muốn làm một số bài thơ trong đó “cái tôi” là một chiến sĩ cầm súng.

- Chính Hữu nghĩ thế vì cậu ấy làm thơ. Viết văn xuôi thì không thể ở một chỗ.

Chúng tôi trao đổi với nhau về một thế hệ mới xuất hiện trong chiến dịch này. Đó là lớp thanh niên vừa rời ghế nhà trường.

…Dần nói:

- Chiến dịch này sẽ có nhiều mẫu người, rất nhiều cái hay... Mình nghỉ làm thơ để chuyển sang văn xuôi như cậu.

Đêm đó vượt đèo Lũng Lô. Lên tới đỉnh đèo như đi trong mây. Bắt đầu thấy không khí chiến tranh. Ban chiều máy bay địch vừa ném bom. Một số đoạn bị sạt lở.

Công binh đang khoét sâu vào thành taluy ở một bên để mở rộng đường. Hành quân bộ vượt qua không khó khăn. Nhưng với xe kéo pháo lại là chuyện khác.

Chúng tôi dừng lại xem một vệt bánh xe kề bên mép đường. Nhìn xuống vực sâu đen ngòm rợn người. Chiếc xe sẽ ra sao nếu người lái chệch tay lái trong tơ tóc, nếu đất sạt lở tiếp...

Bỗng nghe giọng hò trong trẻo:

    Đèo cao thì mặc đèo cao
    Tinh thần khắc phục còn cao hơn đèo...

Những cô gái dân công đã có mặt ở đây trước chúng tôi.

Trần Dần lắng nghe rồi nói:

- Bữa trước mình nghe ở Đèo Thùng, chiến dịch Hoàng Hoa Thám, là “Đèo cao thì mặc đèo cao, Ta leo lên đỉnh ta cao hơn đèo” cơ mà! Chính trị viên nào lại sửa thế này...?

Bộ đội mặc quân trang mới, ba lô, bao gạo, súng đạn đầy trên người, chân bước rầm rập, tiếng lá ngụy trang cọ vào nhau rào rào. Dân công vùng xuôi, vì số đông trai tráng đã vào bộ đội, nên phần lớn là phụ nữ, quang gánh nặng trĩu, đôi chân trần thoăn thoắt, như không ai muốn bị tụt lại sau.

Lên đường vào mùa đông, nhưng rất ít người có được chiếc áo ấm. Và những chiếc xe thồ. Mỗi chiếc xe đã được trang bị thêm một ngọn đèn dầu nhỏ để tránh ổ gà.

Các anh lái xe thồ đang đấu nhau hai người, ba người để đẩy chiếc xe chở nặng căng tròn lên dốc.

Chỉ mới từ chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952, loại hình vận chuyển này mới xuất hiện. Không biết ai là người đầu tiên đã cải tạo chiếc xe đạp nhỏ nhẹ thành một phương tiện vận tải chở được hai, ba tạ gạo len lỏi vượt qua mọi loại đường.

Chủ xe phần lớn sống tại các thị trấn, làm nghề vận chuyển kiếm ăn. Dọc đường công tác, mỗi lần nghe câu “Nhờ tí anh ơi!”, với giọng điệu bao giờ cũng giống nhau, chúng tôi thường vội ghé vào bên đường để tránh chiếc xe đạp bên trên chất nặng ngũ cốc, có khi là cà phê.

Chủ nhân gò lưng đi bên cạnh với đôi tay khuỳnh khuỳnh, một tư thế không bao giờ thay đổi, sử dụng những thanh tre mới được gia cố thêm vào cọc yên và ghi đông vừa giữ thăng bằng cho chiếc xe hai bánh, vừa điều khiển nó tiến về phía trước trên những đoạn đường rất khó đi, như làm xiếc.

Đây là những người làm ăn cá thể không được mấy tôn trọng trong kháng chiến, với cách gọi có phần châm biếm: “tay ngai”. Nhưng từ chiến dịch Tây Bắc tới nay, cách nhìn của mọi người với chủ nhân những chiếc xe thồ đã đổi khác.

Mỗi chiếc xe có sức vận chuyền bằng mười người gánh bộ, nhưng hàng ngày chỉ tiêu thụ một xuất lương thực. Quân đội đi vào đánh tập trung, yêu cầu cung cấp ngày càng lớn, đã không thể thiếu họ.

Trên đường ra trận không còn nghe những tiếng năn nỉ “nhờ tí anh ơi” của các bác xe thồ, bộ đội đã chủ động nhường đường cho họ. Binh chủng xe thồ cần đến sức khỏe và sự dẻo dai rất cao, không bao giờ có phụ nữ.

Người lái xe thồ hầu hết là trung niên. Họ đã đưa chiếc xe, tài sản duy nhất của họ, nguồn sống chủ yếu của cả gia đình, để phục vụ cho việc vận chuyển lương thực tại mặt trận.

Bỗng một giọng hò xứ Nghệ trầm ấm vang lên:
    “Người Khu Bốn, chốn Khu Tư, ra đây tôi hò, giọng hò Khu Bốn...”.

Câu hò vang lên đĩnh đạc như một lời tự giới thiệu đầy tự hào. Những anh bộ đội đang hành quân đều lắng tai nghe, và lập tức phụ họa:
    “A li hò lờ... A li hò lờ...”

Tiếng hò phát ra từ chỗ có một nhóm lái xe thồ sau khi vượt một đoạn dốc đang chụm đầu chia nhau điếu thuốc lào...Ngày hôm sau, lợi dụng dọc đường có nhiều cây cối, bộ đội hành quân khi trời còn sáng. Càng ra gần mặt trận, mọi người càng thấy phấn chấn hơn.

Trời tối một lúc, có tiếng máy bay, vùng trời phía trước xuất hiện một quầng sáng xanh và những loạt bom nổ rền rền. Chúng tôi tiếp tục tiến nhanh. Vùng sáng xanh và tiếng nổ từng lúc biến đi trả lại màu đen và sự yên tĩnh cho trời sao, rồi xuất hiện trở lại mỗi lúc một gần với tiếng nổ dữ dội hơn, có lúc tưởng như chân trời phía đó đang vỡ ra.

Chúng tôi đã qua lại đường này, biết mình đang đi về ngã ba Cò Nòi, một cửa ải trên đường hành quân. Không khí mỗi lúc được hâm nóng lên.

Phía trước không còn là vùng sáng xanh mà đã hiện rõ những chiếc đèn dù. Tiếng bom nổ đanh hơn, tiếng vọng của núi rừng to hơn và lúc này đã vây quanh chúng tôi.

ánh sáng soi rõ đường đi, tốc độ hành quân nhanh hơn. Những ngọn đèn dù xanh lẹt, như những con mắt ma quái đang nhìn chúng tôi. Có lệnh dừng lại chờ máy bay địch bay đi thì giữ vững cự ly gián cách của đội hình, tranh thủ vượt thật nhanh qua ngã ba.

…Núi đồi ở ngã ba Cò Nòi dưới ánh sao đêm không còn một thân cây, ngọn cỏ, chỉ còn là một vùng đất bị cày xới, với rất nhiều hố bom. Trong lúc chúng tôi cố gắng đi gần như chạy trên vũng đất nồng mùi khói bom, bỗng vang lên một giọng hò Bắc cao vút:
    Cả đoàn em chẳng yêu ai
    Yêu anh bộ đội gánh hai
    ---------------------------cái nồi...

Tiếp theo là tiếng cười giòn tan, thì ra trên vùng đất chết này vẫn có người.

Không phải chỉ có cô gái vừa hát mà còn rất nhiều người. Công binh, thanh niên xung phong và dân công, đang ra sức san lấp những hố bom. Trong lúc chúng tôi tìm cách thoát nhanh khỏi vùng đất chết, thì có những người phải bám lấy nó để giữ vững con đường cho những chiếc xe qua.

Tất cả những người có mặt trên đường ra trận đều động viên nhau tiến nhanh về phía trước. Tất cả đều như kết lại thành một trên con đường dài dằng dặc không ngớt tiếng bom đạn, một khối óc, một trái tim.

Tất cả đều lao về phía trước như bị cuốn theo một sức hút vô hình không cách nào cưỡng lại. Với những người lính của hai cuộc kháng chiến, hành quân ra trận bao giờ cũng là những ngày đẹp nhất.

Nhưng sẽ không ai quên những đêm hành quân lên Điện Biên Phủ. Hiếm khi cả nước trên đường ra trận. Một tiếng nói cất lên đều giống như một lời chào, một điều nhắn gửi thầm kín, một nụ hôn...

Chúng tôi đang đi trong một ngày hội lớn của dân tộc, và tiếc cho những người không có may mắn như mình. Nhiều người chúng tôi hôm nay, có thể không trở về, nhưng vẫn cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

Theo yêu cầu của Trần Dần, tôi đưa anh xuống đơn vị Tiểu đoàn 29, đi cùng một đại đội. Dần tranh thủ ghi chép. Từ Thuận Châu, Yên Châu, nhân dân các bản ven đường ùa ra xem bộ đội.

Anh em vừa đi vừa hát bài Qua miền Tây Bắc được sáng tác chiến dịch trước.

Giữa đường, một chiến sĩ văn công từ Tổng cục xuống phổ biến cho đơn vị một bài hát mới, bài “Thời cơ đến” của Đỗ Nhuận.

Dần cho biết nhạc sĩ Đỗ Nhuận đi cùng đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, biết các chiến sĩ đều mong về giải phóng đồng bằng, nhưng bây giờ thấy mình đang đi sâu lên rừng núi, Nhuận làm gấp bài hát này, tập trung văn công đang đi cùng các đơn vị về học hát một buổi, rồi quay lại dạy đơn vị dạy cho bộ đội:

    “... Mắt sáng quắc, trí căm thù, bảo vệ đồng quê ta
    tiến bước,
    Đời chúng ta đâu có giặc
    là ta cứ đi !”.

Chúng tôi thầm ghen với các nhạc sĩ. Những người cầm bút muốn làm gì cho bộ đội trên đường đi chiến dịch rất khó.

Dọc đường, bộ đội có một ngày nghỉ hành quân. Để giải tỏa sự căng thẳng, mệt mỏi sau nhiều ngày đi đường, đại đội tổ chức lửa trại liên hoan. Bộ đội nhất loạt mặc quân phục mới.

Cán bộ đại đội xúng xính trong chiếc áo bông dài tay mới được phát trước ngày đi chiến dịch. Từ trước tới nay, áo mùa đông của bộ đội chỉ là chiếc trấn thủ ngắn tay. Đồng chí đại đội phó thọc tay vào hai túi áo, tự ngắm mình rồi nói:

- Nhờ ơn Đảng năm nay tôi có được chiếc áo đẹp!

Tôi và Dần nhìn nhau. Đối với chúng tôi, chiếc áo này đâu có đẹp. Nhưng chúng tôi đã nhận thấy sự thay đổi sâu sắc của người cán bộ khi biết anh không phải chờ lâu, hạnh phúc nay mai sẽ tới với gia đình ở quê hương, ruộng đất là cái mà người nông dân mong mỏi từ bao đời nay.

Đồng bào địa phương kéo đến xem rất đông. Mọi người ồ lên khi thấy những “cô gái” hóa trang bằng những chiếc chăn hoa xuất hiện.

Tôi nhắc lại mấy câu thơ của Quang Dũng:
    Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
    Ồ em, xiêm áo tự bao giờ...

Nhiều người không biết đây là những anh lính trẻ đóng giả con gái.

Dần ghé tai tôi, nói nho nhỏ :

- Những cậu như thế kia hết chiến dịch này có trở về không...



2006
Nhà văn Hữu Mai
(Trích Tiểu thuyết tư liệu chưa xuất bản, đầu đề do tòa soạn đặt)
http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=46193&ChannelID=7

________

Trần Dần trên Tiền Vệ

Một đoạn trích từ Trần Dần -"Ghi" - talawas

Xổ bụi - tạp ghi của Nam Dao

Tư liệu về nhà thơ Trần Dần

Phạm Thị Hoài - Thủ lĩnh trong bóng tối
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.06.2006 13:37:09 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
Nam Dao - Xổ Bụi - 03.07.2006 08:12:05
.
Nam Dao
Xổ Bụi




Tôi sinh ra dưới một ngôi sao trái nết nên đời có đôi phần vất vả. Nhưng chị Liên, bà chị kết nghĩa của tôi, còn vất vả ít là gấp năm gấp bảy lần. Trái nết nên khó dậy, riết thành trắc nết lêu lổng, mẹ tôi gửi tôi nhà "hai bác" năm tôi mười hai tuổi. Thuở đó, cha tôi đi làm xa, mẹ tôi một mình than khổ ơi là khổ, nhà không có đàn ông! Phần tôi, thật là thú vị. Trên "hai bác" có mấy đứa loai choai cùng tuổi. Rồi mỗi nơi một chốc, mẹ hỏi ở đâu, tôi đáp con ở trên nhà hai bác, bác hỏi đi đâu, tôi thưa con về dưới nhà cha mẹ con. Cứ như thế, cuộc lêu lổng dẫu danh bất chính nhưng ngôn lại thuận.

Hai năm sau ngày tôi làm con nuôi hai bác tôi gặp chị lần đầu. Chị mang đứa con trai bé tí về nhà. Khi ấy tôi mới biết chị cũng là con nuôi và mù mờ nghe chị vào Nam vài ba năm trước cuộc di cư năm 54. Nhà bố mẹ nuôi lúc nào cũng tấp nập khách ra khách vào. Bố nuôi tôi lúc đó là Chủ tịch Hội Đồng Kiểm Duyệt thời Trần Chánh Thành còn làm Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin trong nền đệ nhất Cộng Hòa của miền Nam. Khách có hai loại. Loại nòi tình chữ nghĩa, làm văn làm báo, nhớ không xuể. Có Đái đức Tuấn, Lê văn Trương. Có Nguyễn mạnh Côn, đang hoàn thành Đem tâm tình viết Lịch Sử. Có Vũ hoàng Chương, Đỗ bằng Đoàn, Bùi khánh Đản. Đám trẻ, Thanh Tâm Tuyền, thỉnh thoảng đến thăm bác Kha, cha anh gần như trú ngụ thường xuyên trong nhà. Rồi Dương hùng Cường, Mai Thảo, Doãn quốc Sĩ, Nguyễn sĩ Tế, Trần thanh Hiệp.Nhà báo, có Phạm việt Tuyền, Lý Thắng, Văn Giang. Ký giả, nào Lô Răng, Anh Tám Xạc Ne. Loại chính trị, không ít. Phan huy Quát, "bác"Quỳnh, Vũ quốc Thông, thậm chí Trần kim Tuyến.

Họ đến thế giới "trên gác" nơi bố tôi tiếp khách, xì xào to nhỏ, và thường là im bặt khi bọn trẻ con chúng tôi, thế giới "dưới nhà", bưng nước, rót trà. Họ giả tảng lơ đãng, rít thuốc lào, nhìn như giục như đuổi, và chúng tôi chỉ quay lưng là họ lại tụm đầu vào, lại nghiêm trọng hạ giọng, khi chép miệng, lúc thở dài. Khách về, tôi để ý bố tôi xếp lại giấy tờ hồ sơ vào một cái tủ gỗ, cửa kéo dọc xuống như một bức mành, và khóa lại, tiếng nghe một cái cách, đến là kích thích. Ngày nọ qua ngày kia, sự tò mò khổ còn hơn là cơn ngứa mà không được gãi. Tôi vê kẹo cao-su, nhét vào lỗ khóa, và đi đánh chìa. Đợi cả nhà đi vắng, tôi mở tủ, ôm chồng hồ sơ ngoài có chữ Mật, leo lên trần nhà tìm một nơi có ánh sáng hắt vào. Năm 58, tôi đã đọc trên những tờ pơ-luya mỏng tanh Con ngựa già của chúa Trịnh, vừa uất ức vừa ngậm ngùi. Tôi đã rưng rưng nước mắt lẩm nhẩm Tôi vẫn đi, không thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ. Tôi đã hít cho căng lồng ngực lập đi nhắc lại bút giấy tôi ai cướp giật đi, tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

Vâng, tôi đã tiếp cận Nhân Văn-Giai Phẩm như thế, trên trần nhà tranh tối tranh sáng, trong cái nóng hừng hực của mùa hè Sài Gòn. Vài tháng sau, cụ Hoàng văn Chí đem xuất bản Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc. Lúc ấy, tôi mới biết rằng tôi đã đọc văn Phùng Cung, thơ Trần Dần và Phùng Quán.Chuyện đánh chìa khóa đọc hồ sơ Mật rồi cũng lộ. Bố nuôi tôi không đánh không mắng, chỉ bảo, giọng buồn buồn ".có những cái tao cho là ở tuổi con, con chưa cần biết" rồi dặn, cứ giữ cái chìa, muốn thì đàng hoàng mở tủ, và đừng bao giờ hành xử như quân bất lương trộm cắp.

Trưa hôm ấy, tôi mang cái chìa khóa ra cầu Bông. Nhìn dòng nước lờ lờ triền sông Thị Nghè, tôi lẳng nó xuống, một lần, và mãi mãi.



Chị Liên là một nhân vật tiểu thuyết. Từ Cao Bằng về ở với bố mẹ nuôi tôi lúc đâu cũng mười hai, mười ba tuổi, chị đột nhiên một mình bỏ vào Nam. Vài năm sau, chị lấy anh, giòng dõi đích tôn Phan Thanh Giản, nay là một gia đình đại điền chủ. Thời gặp chị, phải nói, chị là người đàn bà có nhan sắc. Về bản lãnh, vứt ra đường đời từ thơ ấu, chị không cắp sách đến trường, cứ than, chị thất học, cậu ạ! Nhưng những điều chị học, không có trường dạy. Cực kỳ thông mẫn, chị cảm nhận một cách lạ lùng những mảnh đời oan trái. Năm tôi mười lăm, tôi nghe chị hỏi "Tại sao sinh ra? Tại sao rồi chết đi. Phi lý!" Đó là câu hỏi rất "hiện sinh" đầu những năm 60. Rồi chị quậy cuộc hiện sinh không thương tiếc, không giới hạn, ràng buộc. Chữ Tây chỉ bonjour bonsoir giắt bụng, chị leo máy bay đi Thụy Sĩ. Không có Visa, chị vẫn trốn sang Pháp, đến bằng được kinh kỳ nơi có cà phê Les Deux Margot ở St-Germain, xem cái bàn Jean P Sartre vẫn ngồi nó hình dáng ra làm sao? Mà lỡ gặp người ta ở đấy? Có thể lắm chứ! Cuộc hàn huyên của triết gia Tây phương đắt giá với cô công chúa dị thường Giao Chỉ. Không thể phi lý hơn thế được sao?

Dĩ nhiên, chị yêu tiểu thuyết. Chị ái mộ văn nhân. Trên hai mươi năm qua, chị sống ở Cali, nhưng cứ gần đây một hai năm chị lại về Sài Gòn, về Hà Nội. Mỗi lần chị gọi điện thoại, và tôi lại xin chị, chị về đến 47 Lý Quốc sư, thăm anh Hoàng Cầm hộ em. Lần nào chị cũng vui vẻ nhận lời. Mỗi lần chị qua lại Mỹ, chị chịu khó mang theo từng chai rượu làng Vân anh Cầm gửi cho tôi, lắm khi giữ cả năm mới có dịp trao tận tay, tươi cười bảo, quà của ông anh cậu. Cứ mỗi lần như vậy, tôi rưng rưng ngậm ngùi. Một phần là vì anh Cầm, một phần vì tấm lòng chị đã cưu mang thêm một tình bạn giữa hai người đàn ông, một già tuổi đã hôn hoàng, một trẻ thì cũng đang chập choạng lớp xế trưa. Cưu mang, bất cứ cái gì đi thì cũng nặng!

Thế nhưng lần cuối, tôi cũng nhắc lại bằng ấy lời. Chị ngập ngừng, rồi nhỏ nhẹ, lần này chị chẳng chiều cậu được. Tôi ngạc nhiên, gặng hỏi. Chị nói quanh, rồi lát sau, bảo chị gửi cho cậu quyển sách. Đọc rồi cậu sẽ hiểu.

Đó là quyển Ghi 1954 - 1960, của Trần Dần[1].



Tôi gặp Trần Dần khoảng tháng 11 năm 81. Đó là thuở tôi gồng mình chống lại tan vỡ của những huyễn tưởng. Bắt đầu, từ giải phóng đất nước, đến xây dựng một xã hội công bằng. Rồi từng bước một nhích vào thế giới hiện đại, đỡ nghèo, đỡ khổ, và nhất là băng bó cho lành vết thương nội chiến. Nhưng phía dưới những con nắng là bọt xà phòng cả. Bọt xà phòng phản chiếu hình ảnh những trại cải tạo. Học tập một tuần, một rồi ba tháng, và nay đã sáu năm. Những đứa em gái tôi tuổi hai mươi lấm lét uống thuốc ngừa thai sẵn sàng vượt biển. Các em ơi, sao vậy? Bảy phần chết, ba phần sống, không sợ à? Cướp biển hãm hiếp, giết chóc. Trời nổi cơn, sóng cuộn, nước nhận người vào đáy đại dương. Vả lại, cứ như nhà thơ kia hát, "(nếu em?) có vết bẩn trong hồn, vết nhơ trên má. Thì tình yêu Tổ Quốc chữa cho lành" (thơ Chế Lan Viên). Nhưng ai có cái quyền phán xét bảo vết này bẩn, vết kia là nhơ, hả Trời! Tình yêu Tổ Quốc không nhốt ai để chữa cho lành, kẻ đi nhốt nhởn nhơ hô mình nhân đạo chỉ mong cải tạo đám lầm lối lạc đường, người ở tù ấm ức khẩu hiệu hòa hợp hòa giải dân tộc nghe như tiếng gọi hồn oan.

Ghê rợn hơn, chính quyền non trẻ (từ 1945, hay 55, sao cứ vẫn non trẻ?), "vừa học vừa làm, sai thì sửa.", mà có sai thì, chẳng phải "cấp trên"mà do "cấp dưới" không (hoặc chưa) thông nghị quyết (thường rất chung chung). Đảng dẫm lên chân nhà nước, cơ quan nào cũng có một vị đảng ủy, từ cấp Bộ trở xuống. Tôi có "làm việc" với một vị Trưởng ban Ngoại Giao của Đảng, nghĩa là ngang cơ và lắm khi còn quan trọng hơn Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thời bấy giờ. Đó là Đảng, mà Đảng thì phải vận động quần chúng, nhất là quần chúng như tôi, nhân sĩ ngờ nghệch sống xa quê hương. Ôm vai tôi (để gần quần chúng), vị ấy bảo, "Chú là tiến sĩ kinh tế thật đấy, lại chuyên môn về tài nguyên, nhưng chú chưa biết cái này đâu!" Ghé vào tai tôi, ông thì thào "Chú biết không, dầu lửa của ta ở thềm lục địa ấy mà. Này nhé, trữ lượng ở Trung Đông ai cũng bảo là lớn nhất thế giới, phải không?" Tôi gật đầu, ông xiết tay, mắt tóe lửa, say sưa ".thế mà nó chỉ như con tem! So với trữ lượng của ta thì là lấy tem dán lên đít con voi!" Ông phá lên cười, nước bọt bắn vào mặt tôi, răng vàng xịt khói thuốc lào Vĩnh Bảo. Một tay vẫn xiết vai tôi, tay kia ông quơ cái điếu cầy (rất quần chúng), hồn nhiên phán, thế thì còn sợ cái "đếch" gì! Vâng thưa anh, mừng thật. Chúng nó (bọn đế quốc, dĩ nhiên) mù cả, đi sờ voi mà chẳng biết đâu vào đâu. Chỉ có ta mới biết chỗ nào là đít con voi, dán tem lên mông, và đợi voi ỉa ra dầu. Dầu thô, màu đo đỏ, công nông ra phết. Lỡ có mùi, ừ thì "cũng tốt thôi"!

Đít voi trên bong bóng bọt xà phòng cho phép tiến mạnh, tiến nhanh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa mà không qua giai đoạn tư bản, chỉ hai mươi, ba mươi năm ta sẽ kịp, và tất nhiên là vượt bọn Mỹ. Người người hồ hởi, nhắc đi nhắc lại, vẽ vời ra viễn tượng một tương lai rực rỡ. Nhưng tôi không thể nói như thế khi gặp anh Dần. Tôi không nói gì cả. Buổi trưa hôm ấy, nắng hanh và trời lên cao đến không còn đó. Anh dựa lưng vào tường nơi quán nước cửa nhà Dương Tường, nâng chiếc điếu cầy rít sòng sọc, miệng chiêu ngụm nước chè, mắt nhắm, đầu khẽ ngật ra đằng sau. Khò khè ho khan, anh mở mắt ra rồi lại nhắm lại. Tường vỗ vai tôi, nhón nhén bảo, cậu này cũng là bạn của Nguyễn Hữu Hiệu đấy. Lúc ấy anh mới mở mắt nhìn tôi tròng trọc. Cặp mắt anh sáng, sáng lạ lùng. Và long lanh rừng rực đam mê, ánh đỏ lè, như mắt cọp. Từ đấy, nghĩ đến anh, tôi cứ liên tưởng đến một con cọp. Một con cọp ngủ ngày, thình lình thức dậy, quắc mắt. Kỷ niệm leo lên trần nhà trên hai mươi năm về trước bỗng ùa về. "Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc. Đất hôm nay tầm tã mưa phùn. Bỗng nhói ngang lưng máu nhỏ xuống bùn. Lưng tôi có tên nào chém trộm? A, cái lưỡi dao cùn. Không đứt được mà đau!"

Anh lửng lơ, "Có tin gì của Hiệu không?". "Dạ, Hiệu đã đi Mỹ! Nghe đâu gập cả Henry Miller, tác giả sách Hiệu đã dịch.". Anh mỉm cười, cái cười méo mó vui buồn, lại nhắm mắt lại. Con cọp nhắm mắt nhưng không ngủ, chòm râu bạc thỉnh thoảng lại nhếch lên như từ phản xạ. Khuôn mặt anh tạc đá, thứ nham thạch lạnh mặt trên, bốc lửa phía dưới. Gò má u lên nhô thành một khối hoạn nạn, liệu dưới sâu còn một hỏa sơn nào âm ỉ chực phun ra chất bỏng cuộc đời? Anh xua tay, quán nước không phải là chỗ nói. Người ta thuở đó có thói quen thầm thì với nhau, ghé vào tai, và thường là cứ ngoái lại, nhìn ra sau, miệng rì rầm như khấn vái những điều làm như ma quỉ đang rình mò đợi lỡ lời nói to là xẻo lưỡi.

Vào độ cuối đông, Hà Nội thu mình khép gió. Những tàn cây trụi lá co ro trơ xương chống đỡ cơn may hiu hắt lạnh, mênh mang nhớ, rưng rức đau nỗi niềm không tên gọi, có đây rồi lại vụt mất, chập chờn kéo hiện tại nhập vào một tiền kiếp không thể ngày một tiêu ma dấu vết. Trần Dần chống gậy, lao chao bước, vứt lại một "thôi nhé", đi không quay đầu lại. Tấm áo cánh trắng xóa ngõ Phan Huy Chú, chiếc mũ len sùm sụp, anh một mình lê cho về đến phố Vũ Lợi, chẳng gần, cũng chẳng xa, để vào lòng tôi một nỗi man mác.

A, cái lưỡi dao cùn, không đứt được mà đau!

Tôi chạnh nghĩ đến đợt anh bị "quân kỷ". Ba tháng tù. Chị Khuê đang có mang cháu đầu lòng. "Tổ chức" không vun vào việc "xây dựng". Chị công giáo, gia đình lại di cư vào Nam hết. Anh viết đơn xin giải ngũ. Và đơn xin ra khỏi Đảng. Trong lao lung, anh ngẫm, tại sao? Tại sao đám quan lại văn nghệ hò nhau đánh bài "Nhất định thắng". Có phải ta đầu hàng giai cấp? Hay là năm trước, ta đã cùng Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Tử Phác. đệ trình "Đề nghị cho một chính sách văn hoá"? yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về văn nghệ sĩ. Hay là trước đấy, ta quá nặng lời phê bình "Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu". Ta bảo, một, thơ Tố Hữu không có cách nhìn mới nào rõ rệt. Hùa với Lê Đạt, ta cũng nhận xét rằng Tố Hữu nói những chuyện mới mà không hiện tại, lại đẩy lùi vào quá khứ. Hai, là thơ lười biếng, chính trị công thức, kiểu "cụ Hồ sáng soi", hoặc "Chúng bay chỉ một đường ra. Một là tiêu diệt hai là tù binh", chỗ nào có hay thì lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao. Ba, cách nhìn Tố Hữu thật nhỏ bé quá. Nhìn vấn đề gì, vấn đề ấy thu hẹp lại. Yêu ai, người ấy nhỏ đi. Nhìn lãnh tụ, hình thức gượng gạo "Chòm râu mát rượi hòa bình", sau lại biến ra đạo sĩ nhàn tản "ung dung yên ngựa bên đường nói reo". Sau cùng, cách nhìn Tố Hữu bao phủ lên vấn đề một cái buồn yếu đuối, và "chất tiểu tư sản là cái chính của tập thơ Việt Bắc". Trời ơi, Tố Hữu là ủy viên Trung Ương phụ trách Văn Hóa Văn Nghệ! Thế thời.

Thế thời, thế thời phải thế, cái kiếp phải lột quần đánh trên sân Văn Miếu, có khác gì Ngô thời Nhậm xưa. Đêm thăm thẳm. Tôi thui thủi mơ mòng. Ván cờ, tốt chúng qua sông, lơ láo nhập cung, lách ca lách cách những chân lý mới, như tính tổ chức, tính giai cấp, quần chúng. rồi lủng củng nào những chính sách, những quan hệ.tít mù quay như chiếc đèn cù. Tôi, con pháo tịt ngòi, ngửng đầu tìm lửa, sờ soạng một ván chiêm bao, tay lại quơ vào lưỡi dao cạo.

Trần Dần cứa cổ.

Ôi, không đứt được mà đau! A, cái lưỡi dao cùn.



Lưỡi dao cùn để lại một vết sẹo. Vết thương trông tưởng lành, nhưng ba mươi năm máu nhiễu vào trong, giọt rơi tí tách đánh nhịp tháng năm một trái tim bị chấn thương đời. Trần Dần thở phào, "Không có gì chống lại được với cái kim đồng hồ". Tôi nghe, im lặng. Những buổi đến với anh, thật khác khi thăm Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Văn Cao. Có "rượu", anh chỉ nhấp. Không ham vui, ăn ít nói ít, mắt trừng trừng, anh thỉnh thoảng câu đực câu cái, đôi khi đúng một chữ. Thường, tôi dựa xe đạp cạnh cái cửa sổ có chấn song, ngồi đối diện anh, nơi có chút ánh sáng hắt vào, trước cái khay có để ấm chè, cái điếu cày và một ngọn đèn hoa kỳ le lói cháy.

Tôi kể, đêm qua tôi chiêm bao. Nhìn đồng hồ, chiếc kim dạ quang quay ngược chiều đẩy mọi sự về phía đằng sau. Hoảng hốt, tôi chồm dậy, nhìn lên tường. Chiếc đồng hồ treo cũng vậy. Nó câm, không cứ tích ta tích tắc, nhưng kim cũng quay ngược, mỗi lúc mỗi nhanh. Tôi tung cửa lao ra đường. Hà nội giữa trưa không một bóng người. Ven theo hồ, tôi cắm cổ chạy về phía Bưu Điện. Nhìn lên cái đồng hồ lừng lững ngất ngưởng, tôi nhướng mắt, ô hay, hai cái kim đồng hồ quay, cũng ngược, và quay mỗi lúc một nhanh, như chong chóng. Cứ thế này, tôi thầm nhủ, chắc trở lại thời nhà Tiền Lê trong một khắc. Đúng thế thật, mặt đất chao nghiêng, tiếng người ơi ới thứ thổ ngữ tôi không thật hiểu. Thêm dăm phút, tôi chắc mẩm, chắc là đến thời Hồng Bàng mất. Nhưng hai chiếc kim bỗng tuột ra, bay lên, mỗi lúc một cao, tít tắp cuối trời. Mặt đồng hồ trơ ra. Mấy giờ rồi?Tôi nhìn xuống cườm tay. Hai chiếc kim dạ quang trên chiếc đồng hồ tay của tôi cũng biến đâu mất. Ghé nó cạnh tai, tôi lắng nghe. Tích tắc, tích tắc. Nó vẫn sống. Nhưng chiều quay đẩy thời gian về đằng sau hay kéo ta lên phía trước? Tôi réo lên hỏi. Tiếng tôi kêu lạc lõng. Mặt hồ Hoàn Kiếm lăn tăn bọt. Tôi chắc là Rùa thần sắp lên. Tôi đợi. Thình lình một bọn người áo vàng ập đến túm lấy lưng, hò nhau, nó đây, bắt được nó rồi. Tôi vùng vẫy. Tại sao? Tôi làm gì mà bắt. Tôi sợ. Phía dưới cơ thể bỗng nóng lên, rồi uớt nhơm nhớp . Tôi hét cho đến khi tỉnh dậy.

Anh Dần nghe, nhếch mép, được, viết nó ra. Tôi không đáp. Kim quay ngược, lúc này là đến kỷ Hồng Bàng rồi. Anh thì thào, thời "vỡ kỷ", mảnh văng tứ phía. Anh nhắm mắt. Cọp ngủ ngày, chiêm bao cái chiêm bao của cọp. Tôi khẽ khàng đứng lên. Anh mở mắt. Thì ra cọp giả ngủ, đang rình. Rình một tứ thơ chăng? Anh đọc hai câu thơ anh tặng tôi :
    Tôi đã hát những lạc quan không hát
    Bây giờ tôi hát lạc quan đen
    (thơ Trần Dần).




Năm 82, Hoàng Cầm viết trên tập "Về Kinh Bắc" anh tặng tôi ".là một năm đầy hạnh phúc và cũng đầy oan nghiệt".

Hạnh phúc? Tôi muốn hát lạc quan xanh. Nhưng hiện thực màu tro nghiệt ngã. Phản chiến, bị chính quyền Thiệu cấm về miền Nam, rồi Canada trục xuất. nhưng tôi chưa hề bi quan, tôi vẫn giữ trong tôi một ngọn lửa. Phải chấm dứt chiến tranh đã. Rồi về để xây dựng, bắt đầu lại, tất cả. Nghĩa là từ từng người, với từng người . Hàn gắn cho nhau những vết thương chưa đóng miệng, cùng nhau xua những cơn ác mộng vẫn rình đêm về để đánh úp, và chân thành nói với nhau bằng lẽ phải, với con tim. Nhưng về, tôi chỉ thấy sự sợ, sự nghĩ một đằng nói một nẻo, sự có hai ba nhân cách trong một con người. Và con người tư riêng hình như bị cắt khỏi con người xã hội, cái thằng lúc nào cũng phải đối phó, phải tranh thủ, phải ngụy trang bằng nụ cười và ém dao dưới áo đề phòng mọi kẻ khác, già cho đến trẻ, từ hàng xóm đến cán bộ cùng cơ quan. Hồng Đăng, nhạc sĩ nghèo, xoay thế nào mời tôi được bữa cơm có một phần tư con gà luộc. Gọi bọn cháu, con Ly và thằng Phương, chúng đáp ".chúng cháu ăn cả rồi!" Cuối bữa, dọn bát đĩa đi rửa. Tôi thấy Phương lúi húi ra bươi đất gốc cây cuối vườn. Làm gì vậy cháu? Nó lấm lét "...cháu chôn xương gà! Không thì hàng xóm họ biết.".

Hạnh phúc cũng có, nhưng phải may. Tôi gặp và kết bạn được với những người đáng yêu và đáng tin. Đầu tiên là Hồng Đăng, rồi từ Hồng Đăng, tôi gặp các anh Nhân Văn-Giai Phẩm. Thuở ấy, Tạ Trọng Hiệp ở Paris tiễn tôi ra phi trường Charles de Gaule đi chuyến bay Air France về Sài Gòn. Anh dặn dò giao tiếp phải cẩn thận. Anh kể kinh nghiệm của anh. Đinh Trọng Hiếu, cũng đã từng về nước, cười khuyên phải "khép lại mà đi" (marcher les fesses serrées), dạng háng ra là phiền. Thì tôi cũng biết vậy. Nhưng làm sao đây? Nếu không đánh cho tan cái sự sợ, người đâm thành ngợm cả, thì tiền đồ một xã hội đa phần hóa ngợm sẽ ra sao? Mới vừa giao tiếp với Nhân Văn-Giai Phẩm, đã có người đến "nhắn", quan hệ không được tốt. Tôi đáp, dạ, xin cứ cho tôi một danh sách những người không nên quan hệ, tôi sẽ tuân thủ. Thách thức như vậy, quả là tôi là một người không biết điều. Không biết điều, nhưng tôi biết sợ. Như đứa bé sợ ma trong bóng đêm giữa nghĩa địa hoang vu, chống lại cái sự sợ không có cách gì khác là vừa đái, vừa hát, hát càng to càng đỡ sợ. Cứ thế, tôi đã hát những lạc quan không hát.

Tôi đã hát, với Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Văn Cao. Và rồi với các anh. Có "Gấu chợ", giữa bề bộn khăn, màn, giấy vệ sinh, xà phòng. Ở một căn nhà phía dưới là tạp hóa trên phố Hải Thượng Lãn ông, Lê Đạt gấu (với các vị chức trách), nhưng mẫn cảm và trí tuệ. Anh đùa bảo, cậu cứ về chơi, mang cho chúng tớ một ít không khí để thở, thế là "đóng góp" rồi. Tôi đọc những bài thơ gom lại trong Bóng Chữ xưa làm tôi ngỡ ngàng. Có "Phượng bặt hơi", nhà khu Trung Tự, thuở ấy vừa mới có tin con trai "sắp" được giải Chopin. Đặng Đình Hưng dán trên tường một Bến Lạ những thơ. Bến lạ và đẹp, lạ như phong cách hào hoa của anh, và đẹp nghiêng ngả xa vắng những giấc mơ nửa chừng, cũng của anh, mang mang day dứt. Có "Hạc nội", lâng lâng một nỗi mây ngàn, rượu Đình Bảng mang ngâm mơ, ngâm mận. Phần anh, anh cũng ngâm, ngâm thơ. Giọng ngâm của anh nửa như hát cung văn, nửa như than van khóc lóc, tức tửi nghẹn ngào. Còn thơ, là thơ Hoàng Cầm của Về Kinh Bắc, của Men Đá Vàng, với những Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Lá diêu bông. Có "Én trái mùa", mang chút hơi xuân ngơ ngác xót lại buổi đầu đông, se sẽ buồn, se sẽ hát, se sẽ nhớ. Dương Tường dịu dàng, quí bạn, hấp háy nhìn làm vẻ vô tư qua cặp kính cận dầy bằng nửa gang tay. Và các chị, Thúy của Đạt, Khuê của Dần, Yến của Cầm. Lấy nhau, họ đều có vấn đề với tổ chức vì "quan hệ xã hội phức tạp" cả. Trường hợp Trinh và Tường, chắc không. Còn Đặng Đình Hưng, anh ở một mình, chuyện riêng tư với vợ là bà Thái thị Liên, anh không nhắc. Có nhắc, anh nhắc Đặng Thái Sơn, ôm vai tôi, dặn ra ngoài nhớ tìm cháu, chú cháu gặp nhau cho tôi vui.

Thuở ấy, Cọp ngày đang loay hoay với Lễ Zàng Sao, với các Tư mã, Tư mã gãy, Tư mã ổi. và nỗi buồn "vỡ kỷ" cùng những hạt bụi anh xổ vào bao la. Xổ bụi, đó là cách trối trăn với đồng loại. Bóng anh hắt hiu khập khiễng cuối ngõ, khiến gió cũng chẳng nỡ lòng thổi, nắng chẳng nỡ lòng lên. Nỗi ấy, có tên bơ vơ. Tôi đọc Cổng Tỉnh những ngày cuối năm 81 :
    ...Có phố nào xanh
    Hoa lay hàng dậu tím?
    Có phố mờ chờ tha thiết tự ngày xưa
    Để tôi phải bơ vơ
    Bơ vơ?
    Tôi?
    ...Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tím
    Cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô
    ...Cô đơn lòng ngõ rỗng trăng chênh
    Cô đơn sân ga tầu chạy tốc hành
    Không đỗ lại các cuộc đời xé lẻ.
Tôi thấm câu anh hỏi "Tôi có thời cay đắng, nào kịp cay đắng đâu? Sao đã cho tôi những phố xào xạc? Sao đã ghi tôi vào mép sổ buồn rầu?" Anh hỏi, nhưng hỏi ai? Ai đáp? Mà dẫu có đáp, tin được gì
    Khi thế kỷ còn rung chuông lừa bịp
    Những canh gà báo trượt rạng đông
    Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngoé
    Khi xe tăng chửa đi cấy đi cày
    Như một lũ tội nhân cần cải tạo
    Khi con thò lò ngày đêm hai mặt đói meo
    Còn quay tít trên kiếp người hạ giá.
    (Hãy đi mãi, Văn, 1957)
Bài thơ này anh viết, hai mươi bốn năm sau tôi mới được đọc. A, thì ra hai mươi bốn năm chẳng thay đổi được gì à? Phạm thị Hoài ghi đây là chương kết của Trường ca Đi! Đây Việt Bắc. Năm 90, Trường ca được xuất bản ở Hà Nội với tên Bài thơ Việt Bắc, song toàn bộ chương Hãy đi mãi bị cắt bỏ. Trên tập thơ tác giả đem tặng người "biên tập" cho mình, anh Dần viết :
    Gửi Vân Long,
    Người biên tập lại Đi! Đây Việt Bắc!
    Thông minh và công phu!
    Song tôi vẫn phản đối mọi kiểm duyệt.
    (Ghi, trang 451)



Hai tuần sau khi nhận được Ghi chị Liên gửi, tôi đọc kỹ, và rất kỹ những trang, những đoạn chị đánh dấu, khi thì bằng bút bi đỏ, khi thì bút "phớt" vàng. Tôi điện thoại cho chị.
    - A, cậu đấy à (giọng chị làm ra vui).
    - Cám ơn chị, em đã nhận được tập sách chị gửi!.
    - Cậu đọc chơi cho vui thôi.
    - Không em đọc thật, chứ không đọc chơi. Nhất là những chỗ chị có đánh dấu.
    Chị nói quấy quá :
    - Ừ, chị có cái tật gạch xanh, gạch đỏ vào sách. Lẽ ra phải mua gửi cậu quyển sách mới, đằng này.
    Tôi ngắt :
    - Thế mới quí! Em vừa đọc được sách, vừa đọc được cả tâm tình người đã đọc sách trước em, mà lại là chị.
    - Thế cậu thấy thế nào?
    - Buồn.
    - Chị cũng buồn!
    -Nhưng em tin rằng một phần nào, em buồn như chị buồn. Còn một phần em buồn, chắc khác với nỗi buồn của chị.

Chị Liên ngạc nhiên, hỏi giống là giống thế nào, khác thì khác thế nào? Tôi nhẩn nha, gợi cho chị nói. Dĩ nhiên, chị lập lại, bằng lời, những nét gạch đỏ, gạch vàng trên những trang Ghi của Trần Dần. Thì ra, chị ấm ức, những người chị coi là thần tượng, đã "đầu hàng".

Ngày 8 - 01-1958, Trần Dần ghi "Một ngón tay, Nhân Văn cũng không có! Non năm nay, họ đã nằm ẹp cả xuống, vắt tay lên trán, suy nghĩ như các nhà hiền triết cả rồi. Họ đang tranh nhau đi vào con đường cầu an. Tôi biết họ chỉ duy nhất một điều, là mong "Thánh Đế hồi tâm". Nhưng hình như thánh đế bị bọn quan hoạn lừa phỉnh. Bơm to, vu cáo, ton hót lừa trên, dối dưới, các thứ thủ đoạn, tinh vi thì không tinh vi gì đâu. Song không hiểu sao con mắt Đảng, con mắt to thế mà chưa nhìn thấy chuyện?" (Ghi, trang 187 - 88).

Đó là thời Hội Nhà Văn bị đánh. Hội thành lập tháng 4 - 57 sau Đại Hội lần II, trong đó Tổng bí thư Trường Chinh công khai đập Nhân Văn-Giai Phẩm, sau khi Nhân Văn ra được năm số và Giai Phẩm ba số. Tô Hoài làm tổng thư ký Hội, xuất bản báo Văn do Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng phụ trách. Khi đó, guồng máy quyền lực đã thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, chỉ đạo bởi Nguyễn Đình Thi (và đằng sau là Tố Hữu, phụ trách công tác Văn hóa- Văn nghệ của Trung Ương đảng). Bối cảnh chính trị là thời hậu Cải cách ruộng đất. Chân rết "Xứ ủy Bắc bộ", đứng đầu là Trường Chinh, đang từng bước mất chân đứng với Lê Duẩn, "Xứ uỷ Trung bộ" (và ảnh hưởng không ít đến Nam bộ), đang xông vào hất cẳng, lợi dụng những sai lầm "tả khuynh" của Cải cách ruộng đất. Hội Nhà Văn (đàng sau là Xứ ủy Bắc bộ?) bị Hội Liên Hiệp tấn công, gán cho là cánh tay nối dài của Nhân Văn-Giai Phẩm. Văn, có Lời mẹ dặn của Phùng Quán, Hãy đi mãi của Trần Dần, sống được bảy tháng, cho đến đầu năm 1958 khi đăng trong số 36 Ông năm chuội của Phan Khôi thì bị đình bản.

Không khí thời gian đó là không khí khủng bố. Một số nhà văn thấp thỏm sẽ phải ra "biên chế", tham dự những lớp "đấu tranh tư tưởng" và cuối cùng Hội Liên Hiệp tổng kết cuộc đấu tranh thắng lợi với Nhân Văn-Giai Phẩm vào tháng 6 - 58. Tháng 7, Nguyễn Đình Thi thành Tổng thư ký Hội Nhà Văn, thông báo kỷ luật các văn nghệ sĩ đã tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm. Trần Dần bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn, sau phải đi lao động cải tạo tại công trường Chí Linh cùng Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, vv.

Hai tháng trước đó, con người nói chung, và nhà văn "phản cách mạng"nói riêng, hoàn toàn "mất giá" dưới tất cả những thứ áp lực, từ miếng ăn đến tư tưởng. Thậm chí, tội kết có cả tội làm gián điệp, tội âm mưu lật đổ Trung ương bằng phương pháp hòa bình (thì ra diễn biến hòa bình thời nay cũng chỉ là lập lại một "truyền thống"!) Đó là trường hợp của Nguyễn Hữu Đang và Thụy An (Ghi, trang 254). Phùng Cung có những phản ứng không khoan nhượng, khi học tập "hỗn" đến bị đuổi khỏi lớp (Ghi, trang 253), chửi "mẹ nó, nhục lắm. Mình xin về nhà có được không nhỉ?" Trần Dần khuyên, rằng nên "đầu hàng", "họ" là "chân lý", không nên xin ra khỏi biên chế, lúc này việc cũng có thể bị coi là một sự tiến công của "tư tưởng thù địch". Tháng 5 - 58, Hội Nhà Văn "để cho" nhà văn tự kiểm thảo sáng tác. Ai cũng phải tự phê. Về mình, Trần Dần tự kết tội là ".giặc - bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản, v.v." , và rồi anh dí dỏm ".tôi sáng tác thêm vaì chữ để miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể". (Ghi,trang 257).

Trong không khí khủng khoảng tâm thần tập thể, cá nhân thành một con kiến, không có tư thế chống đỡ gì khi bị "đưa" lên mũi nhọn, và đàn áp tinh vi là làm thế nào "chia để trị", tìm ra những mâu thuẫn, buộc nhau vào cái thế anh nọ "đổ vấy", "tố điêu" anh kia. Hoàng Cầm lắm tội, nghiện thuốc phiện, lại bị ra tòa về việc chung sống với chị Yến, thú với Văn Cao "mình dát, bị đánh quá, mụ đi như "con đồng", họ hỏi đâu thì cứ phun ra tuồn tuột, không nghĩ gì cả nữa" (Ghi, trang 265). Văn Cao, chắc có Tiến Quân Ca là cái lá chắn, bảo "Tao chỉ có tội chống Tố Hữu, chứ tao có chống Đảng đâu?". Trần Dần tổng kết ". tình hình nay là một thứ hỗn tạp mới :
    - chủ nghĩa xét lại, khuynh hướng bôi đen đang bị đánh tan tác,
    - bên sự đầu hàng thực sự đó đây có kẻ trá hàng,
    - chủ nghĩa giáo điều, khuynh hướng bôi hồng đang nhăm nhe ngóc dậy. Đó đây có ló mặt chủ nghĩa cơ hội, thính mũi và vô tài.

Văn học đang có cái nguy cơ hạ giá trị, nguy cơ ca ngợi một chiều, chạy theo sự cần thiết trước mắt, nguy cơ bôi bác và nhất là nguy cơ tràn ngập tác phẩm xoàng, phỉnh nịnh đảng. Còn cái nguy cơ xét lại đã bị đẩy lùi tới cái mức không thể nào phản công lại dù dưới hình thức tinh vi nào. Có chăng, chỉ là lẩn lút nổ bằng mồm dăm quả mìn muỗi còn vương sót lại trên chiến trường, không tài nào thu dọn hết! Có vậy thôi!".Vì thế, Trần Dần nghĩ, thì thôi, cải tạo chân thực, nhưng không chủ nghĩa cơ hội, lập công giả dối, hay buông tay thả mặc. Anh vẫn tin "chủ nghĩa nhân đạo không cho phép đè nén, lăng nhục ai, dù người đó có tội nặng. Dùng sự sỉ nhục để cải tạo người ta, không thể là một phương pháp cách mạng : vì nó hết sức phản khoa học, phản trí thức." (Ghi, trang 268-269).

Hai mươi năm sau khi viết những dòng chữ trên, anh đúng một nửa, sai một nửa. Văn học (miền Bắc) hạ giá không phải là nguy cơ mà là một hiện thực, rất não lòng. Còn xã hội. Con người. Điều anh tin là một huyễn hão : chủ nghĩa nhân đạo đẻ thiếu tháng trên những văn kiện và nghị quyết, tã lót máu me, và tiếng khóc đứa bé đẻ non lịm đi chẳng khác gì một tiếng mèo văng vẳng trong đêm vô vọng.



- Chị ạ, quyền lực dọa dẫm bằng cắt cái miếng ăn, cấm không được lấy người mình yêu, bắt phê, tự phê, kiểm thảo tư tưởng, rồi chiêu dụ, lấy người nọ đánh kẻ kia. Hóa ra, ở đằng sau, có thể nào vẫn hai thế lực "đàng trong" và "đàng ngoài" húc nhau, Nhân Văn-Giai Phẩm chỉ là con muỗi tế thần? Thành thử, khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống.

Chị Liên ngắt :

- Sống! Sống thế nào, mới quan trọng!

- Một mặt lý tưởng, mặt khác lại có phần ngây thơ nên khi vạch cái mặt trái của Cải cách ruộng đất, bêu cái tính cơ hội cuả bọn quan lại bàn giấy, phải chăng phe Lê Duẩn "đàng trong" ngầm ủng hộ Nhân Văn-Giai Phẩm để phá phe Trường Chinh "đàng ngoài"? Nhưng đến khi một thế lực đã chiếm được tiên cơ, họ phải giữ quyền lực, và họ co lại hệt như "đàng ngoài", quay đánh vào tính "vô chính phủ" của những kẻ đã phản kháng. Lịch sử lập lại tấn tuồng nhàm chán nhiều lần. Hệt như sau này, Mao dùng Hồng vệ binh nắm được quyền lực, rồi cũng chính Mao ra tay diệt Hồng vệ binh. Dưới lớp son khẩu hiệu, quyền lực thời tàn dư phong kiến chỉ có thể mang thuộc tính của những ông Thành Hoàng giơ roi cầm vọt, và dùng hàng đàn chó, hàng đàn cừu, loại sai đi cắn và loại dễ bảo. Cọp ngày, Gấu chợ, Hạc nội, Phượng bặt hơi là . hàng mỹ thuật xa xỉ trong một xã hội phải "cào bằng", ngôn ngữ quá độ phải đậm đà tính cày sâu cuốc bẫm tiêu biểu nền nông nghiệp mang truyền thống cha ông. Truyền thống, nghĩa là cứ con trâu đi trước cái cày theo sau, trên những thửa ruộng bón bằng phân tự mãn chèn vào là hò hét vinh quang đến độ bệnh hoạn.

Chị Liên xen vào, giọng cao lên :

- Nhưng cậu nói thế nào thì nói. Ai cũng phải biết chết. Chị thì chị chết chứ không chịu nhục!

Tôi khựng lại. Quả bà chị tôi đủ cái gan chết chứ không chịu nhục. Chị bỏ nhà đi giang hồ từ tuổi ấu thơ, lặn lội, đấu tranh và thành người bằng ý chí nghị lực, giữa những lựa chọn trắng - đen, sai - đúng, thật - giả lúc nào cũng rình rập thách đố. Tôi thở dài, tay sờ lên cổ :

- Vâng. anh Dần đã cứa cổ bằng dao cạo một lần, khi chị Khuê có mang cháu đầu lòng. Nếu anh ấy chết được lần ấy, bỏ vợ bỏ con, thế có gọi là "biết" chết không? Chết như vậy, cứu vớt được ai và thay đổi được gì?

Chị Liên im lặng. Ở đầu dây, tựa hồ một tiếng nấc. A, cái lưỡi dao cùn, không đứt được mà đau.

- Cứ giả dụ cái lưỡi dao ấy không cùn. Nó rạch toang cần cổ, máu nhiễu xuống có vòi, anh dẫy lên, hét, kiểu Nguyễn văn Trỗi, chính chúng bay là giặc, chẳng hạn! Miền Nam sẽ tung hô anh, kẻ chết vì tự do và chính nghĩa, đặt anh lên hàng thánh tử vì đạo! Còn Miền Bắc, chắc giới văn nghệ sĩ lặng đi, và sợ, trở nên dễ "cải tạo" đến độ không hô vẫn theo, không dạy vẫn ngoan, đánh đĩ "thoải mái"! Đấy, chết thì như thế! Còn sống thế nào?Trời sinh làm giặc bút, thì viết. Muốn mỗi con chữ là một tiếng gào thất thanh, không thể viết gì ngoài cái thống khổ, sự ruồng bỏ, phản bội. O ép vật chất may còn qua được, nhưng tinh thần thì, ôi thôi! Đầu những năm 60, Hoàng Cầm viết được Về Kinh Bắc. Trần Dần hoàn thành Cổng Tỉnh, rồi Đêm núm sen. Những Bóng Chữ của Lê Đạt và Bến Lạ của Đặng Đình Hưng không biết có phải cũng từ những ngày ấy không?

Chị Liên vẫn im lặng. Tiếng điện thoại viễn liên vo ve như muỗi ngày. Tôi tiếp:

- Vậy giả dụ tất cả những lưỡi dao không cùn, nó cắt, xoẹt một cái, đứt cổ và chúng ta có thêm dăm vị á thánh, anh hùng, chết vì cái nọ cái kia. Nhưng đổi lại chúng ta mất đi những tác phẩm đã cứu vớt phần nào được ba mươi năm văn nghệ bị trói khuỷu, tay ê buốt mãi đâm mang cái hình dạng tê liệt thương tật của cả một tập thể "những nhà văn" chỉ giỏi ê a "chống Mỹ cứu nước", hát bài hát hy sinh, anh dũng. để tiếp tay gây ra một cuộc hủy diệt, số tử vong lên đến số triệu đếm đủ ngón một bàn tay. Không, trăm phần không. Không ai có cái quyền bắt người khác làm anh hùng! Và cái chết, dẫu chết thế nào, vì cái gì cao đẹp đến đâu chăng nữa, cũng không thể đánh đổi lấy sự sống. Nhất lại là sống để tiếp tục nhả tơ nuôi đời.

Như anh Dần, 1961, nhả tiểu thuyết Đêm Núm Sen. Năm 1963, Zờ Zoạc (thơ). Năm 1964, Mùa Sạch (thơ). 1965 là thời gian sung sức, hai tác phẩm Một Ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết) và Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết). Năm 1967, Con Trắng (thơ hồi ký). Năm của Tết Mậu Thân 1968, 177 Cảnh (hùng ca lụa). Không biết sao anh đợi 6 năm sau, đến 1974 mới ra Động đất tâm thần (nhật ký thơ). Rồi 1978, Thơ không lời - Mây không lời (thơ, họa). Liền sau đó là 1979 với Bộ tam Thiên Thanh - 77 - Ngày Ngày, 1980 với Bộ tam 36 - Thở dài - Tư Mã dâng sao. Ba năm sau, anh bệnh. Nhưng đến 1987, anh viết Thơ Mini. Anh viết, cứ viết. Biết bao giờ in? Há chi! Không cần, viết là nghiệp. Cứ thế, anh viết gần ba mươi năm. Một mình. Không độc giả! Rồi năm 88, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm. được phục hồi hội tịch Hội Nhà Văn. Tác Phẩm Mới xuất bản Bài thơ Việt Bắc (bỏ chương Hãy Đi Mãi, đã nói trên). Sau là Cổng Tỉnh năm 94, được trao giải thưởng năm 95. Anh mất năm 97. Đến 98, tập Mùa Sạch được nhà xuất bảnVăn Học cho ra mắt. Trả lời Nguyễn Quang Lập, hỏi qua thời Nhân Văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất? Trần Dần đáp, được cái hoạn nạn. Do được cái hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong ba mươi năm.

Đó là thời anh đi Huế gặp anh em làm báo Sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường hỏi, sau khi anh nhận "hội tịch" :

- Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh, nhân cách nhà văn quan trọng nhất ở chỗ nào?

Trần Dần đáp :

- Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta. (Ghi, trang 439)

Sau đó, Trần Dần vào Sài Gòn. Và đó là dịp tôi gặp anh lần cuối.



Gặp những người tôi gắn bó, lần nào tôi cũng tự nhủ, ai biết đâu những bất trắc và tình cờ, với thời gian thì không chừng lần nào cũng có thể là lần cuối. Đó là cách tôi sửa soạn tâm thế sẵn sàng nhếch mép cười trước mọi được - thua, mất - còn, đời người ai cũng có. Lần gặp các anh sau dịp Tết Dương Lịch năm 82 cũng vậy.

Chúng tôi "hội sao" ở nhà Dương Tường một buổi xế chiều. Gió mùa Đông bắc vi vút qua những cành bàng trơ lá dọc con lộ Lý Thường Kiệt, đẩy cái se se băng giá ngấm qua những chiếc áo len mỏng mảnh chụp xuống con người khiến dáng dấp co ro tội nghiệp đến xót lòng. Các "tư mã" lục tục, người trước, kẻ sau, gặp thì cười, nhưng là cái cười của những cuộc chia tay ai cũng tránh nói thành lời. Quà cho tôi là những bài thơ các anh chép tặng. Thơ Đặng Đình Hưng thơm mùi ổi, bốn câu. Thơ Lê Đạt, dập dờn bóng chữ, bốn câu. Thơ Hoàng Cầm, thê thiết quan họ, bốn câu. Thơ Dương Tường, gập gềnh lyrique, tám câu. Riêng Trần Dần, bốn trang thơ, viết chữ như kiến bò ngang bò dọc, rồi vẽ vẽ, viết viết, đọc trên, mũi tên chỉ xuống, sang trang mũi tên lại bay lộn về. Ghim vào tim với những nỗi đau "vỡ kỷ", những hạt bụi "xổ" vào bao la, với nhân duyên và những sợi tơ hồng đứt đoạn trong niềm đau "mạt kỷ" thuở lễ Zàng sao.

Ôi tài hoa, bao nhiêu đây quanh tôi là tài hoa. Và tài hoa, khốn khổ thay cũng là hoạn nạn, bao nhiêu là hoạn nạn. Tôi thầm hỏi, này sông này núi, ai trấn ai yểm gì mà cái đất nước này cứ phải chôn sâu vùi chặt những đứa con ưu tú nhất? Cớ sao những gì là tinh hoa trí tuệ cứ muôn đời phải chống trả với cái vung tay thô bạo của thứ quyền lực nhất thời?

Năm 82, Hoàng Cầm lại bị bắt. Tội danh là bán rượu chui! Oan nghiệt ló mặt nhìn bằng cặp mắt những con chuột nhắt chui ra lúc đêm đổ xuống thế gian. Bán rượu chui đâu phải chỉ một Hoàng Cầm? Lẽ nào là vì anh giao du với tôi, Việt kiều, tức là người nước ngoài (ngoài nước?). Thời gian đó tôi ở Paris. Tin anh bị bắt tôi đọc trong tờ Le Monde giữa một tiệm ăn Việt Nam khu Quartier Latin. Nước mắt tôi ứa ra, không cầm lại được. Tôi bắt Métro trạm St Michel, nhìn xế qua là bồn nước có những con sư tử há miệng phun có vòi. Có lẽ dáng điệu tôi lúc ấy thảm thương lắm. Đến độ một người da đen nghèo khổ vỗ vai, một kẻ sans abri có lẽ, đưa cho tôi điếu thuốc anh đang hút dở. A, con người với nhau. Thật may, cũng có chút tình! Tôi lẳng lặng rít một hơi, rồi trả lại. Sau Hoàng Cầm, còn ai nữa? Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt. Tôi lại còn giao du cả với Nguyễn Tuân, Văn Cao, Bùi Xuân Phái . toàn thuộc diện Nhân Văn xưa có vấn đề. Tối hôm đó, tôi ghép thơ các Tư Mã tặng, để báo đền chút tình tri ngộ. Tiện đây tôi xin chép lại :
    Một chùm sao nhấp nháy những âu lo
    Về tụ lại lễ Zàng Sao giữa hạ
    Nơi đã đặt tên và chỗ định số dăm chàng Tư mã
    Nhễ nhại trăng khuya nhiễu xuống ngân hà

    Thuở Bích Câu vọng câu tao ngộ
    Chuyển tần số lòng những ánh sao sa
    Chở đá đến một vùng chưa tiếng nói
    Đốt lửa lòng lên đuổi mù sa

    Ai khép gió giữa hai mùa vội vã
    Trời quê hương xao xác một canh gà
    Tiếng chó sủa
    Tiếng huýt sáo một người đi chơi đêm về đánh thức
    Mắt lũ ánh buồn kẻ ở xa

    Bờ ao mẹ nắng trở mình, sáo tắm
    Rỉa cánh gầy xổ bụi giữa bao la
    Xin đợi nhé mùa chim mây vỡ tổ
    Đầu ăng ten sẽ lại tin nhà

Khâu lý lịch chữ, Lễ Zàng Sao, Tư Mã, nhấp nháy âu lo là clignetitude, chữ Trần Dần bịa. Tiếng huýt sáo, mắt lũ ánh buồn là Dương Tường. Mùa vội vã và bờ ao mẹ, Đặng Đình Hưng, từ "bao giờ về trong khoanh một cái ao - ngồi giặt áo cả ngày". Nắng trở mình, khép gió, chữ Hoàng Cầm. Rỉa cánh, xổ bụi, lại Trần Dần. Mùa chim mây vỡ tổ, và ăng ten, là chữ Lê Đạt. Những chữ này lý lịch như thế chẳng hiểu chúng có được ba đời bần cố nông hay không?



Về Hà Nội hè năm 88, tôi sững sờ, không biết là buồn hay vui khi nạn nhân Nhân Văn-Giai Phẩm đều "được", và đều "nhận", phục hồi hộ tịch. Văn Cao trước đấy được Huân chương hạng tư, hân hoan càvát vét-tông đi chụp ảnh, với Hải - Không quân, vì là tác giả của những bài hát biểu trưng những binh chủng này. Đó là cái rớt sau khi Tổng bí thư Nguyễn văn Linh "cởi trói" văn nghệ sĩ năm 87 và Trung Ương thông qua nghị quyết do Trần Độ, Trưởng banVăn hoá Văn Nghệ, soạn thảo. Nhưng chỉ năm sau Đổi Mới đã khựng lại. Trần Độ mất chức. Linh thụt lùi và Đỗ Mười xông lên. Tôi trách Văn Cao. Tôi bảo, tiếng tăm anh chỉ mất đi chứ thêm được gì với cái Huân chương đó. Anh giả say, mắng tôi là quân khiêu khích -agent provocateur - rồi giơ tay dọa đánh. Thái bá Vân, chuyên gia và là nhà phê bình Mỹ Thuật có ở đó, đứng dậy chìa mặt cho Văn Cao, kêu, anh muốn đánh thì cứ đánh tôi. Thao, con trưởng anh, cũng nhổm lên, bảo tôi chú đừng chấp bố cháu. Không đóng được kịch đánh (trước một khán giả có thể là kẻ đi theo "bảo vệ"(!) tôi), anh đành đuổi vậy. Thật ngộ nghĩnh, chị Băng vợ anh can thiệp. Xấu gì ở Văn Cao cũng đổ cho "bà"Băng là sai. Hôm ấy, hành xử rất tư cách, chị quát anh. Phần tôi, tôi xin với bạn bè có mặt là quên đi, để giữ "huyền thoại" Văn Cao. Bởi huyền thoại cũng cần : có tí gì để hãnh diện, để vênh vang, cũng là một cách giữ cho mình tồn tại giữa một cơn hỗn mang đạo lý.

Gặp nạn nhân vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, tôi bớt gay gắt, nhưng cũng chẳng giấu gì cách mình suy nghĩ. Không khác với trường hợp Văn Cao, tôi nghĩ nhận hội tịch là phá đi một cái huyền thoại, không phải về những con người, nhưng là huyền thoại về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, ngọn lửa dẫu ai có giang tay dập sao vẫn cứ âm ỉ ba mươi năm nay trong lòng người. Vâng, tôi nói thế, dẫu các anh có thể không vui. Phần Trần Dần, anh buồn, im lặng. Con cọp ngày khật khừ, nhướng lên, ánh mắt không rừng rực như cọp nhớ rừng. Với thời gian, anh thành cọp nhà, cọp phố Vũ Lợi, cọp chống gậy đi dọc Yết Kiêu, đến Trần Hưng Đạo rẽ trái, và lững thững bước về phía Bờ Hồ. Vài ngày sau anh bay ra Huế.

Chúng tôi gặp lại nhau ở Sài Gòn giữa một buổi trưa nắng gắt. Anh đợi, ngồi rià một cái quán bên đường. Vẫn cái tư thế cọp ngồi chống mắt nhìn đời, chập chùng xe qua xe lại nhả khói khét mùi xăng nhớt. Cọp nheo mắt chóa nắng lừng lững chống gậy đứng lên. Lần ấy là lần đầu anh vào miền Nam. A, cái lưỡi dao cùn. Nó chẳng phải chỉ cứa cổ người . Nó chém ngang lưng Tổ Quốc. Không đứt được thật, miền Nam vẫn đó. Nhưng mà đau, nỗi đau còn đó, lưng rướm máu, nay vết sẹo mới tấy da non, xin chớ ai động mạnh. Chúng tôi lại hẹn hò.

Tối hôm sau, liên hoan trên gác ba nhà Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Duy mới đi Liên Xô và Đông Ấu về, đang đánh tiết canh vịt dưới bếp. Đã hẹn, nhưng sao mãi chưa thấy Trịnh Công Sơn. Khoảng bảy giờ, có tiếng chân, tiếng người. Sơn đi trước, Lữ Quỳnh đang xốc Bùi Giáng theo sau. A, hay thật là hay. Con đười ươi Tề Thiên tối nay gặp cọp ngày. Năm 24 tuổi và đầu một đời thơ, Giáng hạ bút Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt. Ồ thưa em ta thấy mộng không thường. Năm xấp xỉ 20, Dần "chôn tiền chiến", và trong Dạ Đài, bản tuyên ngôn Tượng Trưng, anh gầm :

Không thể rung cảm chúng ta nữa cái văn chương cổ tích chỉ có một chiều chỉ nhắc gợi một cõi đất một tâm tình.Sau cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn nghìn thế giới, cả thế giới đương thành và đương hủy.Bọn lãng mạn, sau khi chùi xong nước mắt lại lảm nhảm nói chuyện những nàng tiên.

...Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đương kể những câu chuyện cổ tích cho người đứng tuổi nghe. Phải gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện thực.Chúng ta cũng không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia đôi địa trấn bằng một bờ sao rõ rệt.Làm sao mà giải quyết được sự mâu thuẫn phi thường đó?

Chúng ta chỉ có một con đường đi để thoát khỏi mê đồ. Chúng ta chỉ có thể dung hợp được thực và hư bằng hình tượng.Thế nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa.

Thế ra anh cũng mộng không thường! Anh bổ những nhát cuốc đào mồ "tiền chiến" : .cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn chẳng làm chúng ta quên, vì chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bềnh của bản thanh âm hoàn vũ. Thế nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động. Và với anh, nghĩa là một bài thơ.không được dùng lý trí, không được dùng cảm tình, nghĩa là không được chỉ dùng có một quan năng tách bạch của chúng ta - dù quan năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy mở tất cả cửa ngách của tâm tư mà lý hội. Trận gió sẽ lên : tức khắc và đột nhiên, vì thơ đã không cần lý luận.

Chẳng biết đười ươi Tề Thiên đã đọc Dạ Đài hay chưa? Chỉ thấy đười ươi huyếch miệng cười khan và sáp lại, mắt hấp háy. Cọp bất động, nhưng nhìn đười ươi chằm chằm. Anh em xếp cho đười ươi ngồi trước mặt cọp. Sơn tươi tỉnh ".anh Giáng, hứa không được phá nghen!" Móm mém, Giáng cười, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Chưa đụng vào đũa, Giáng bi bô chỉ trỏ vào Dần, và nói, tay vung lên, miệng say sưa. Chẳng ai hiểu gì! Vì anh nói một thứ tiếng lai tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp, nghĩa là thứ tiếng riêng của Bùi Giáng, lộn nhộn đủ loại ngữ ngôn. Lạ thật, Dần gật gù. Thình lình, Giáng đứng lên ghế, tiếp tục nói, như diễn thuyết. Sơn ra bên cạnh, kéo Giáng ngồi xuống, nhắc ".phá quá cha nội! Hứa gì quên rồi ư.". Giáng cười khì khì, giả ngồi yên. Sơn vừa về chỗ, Giáng lại đứng dậy. Con đười ươi Tề Thiên nghiêng ngả, kêu chí choét, lại nói. Lúc ấy Dần giơ tay. Giáng ngừng ngay, mắt trố lên nhìn. Con cọp giọng trìu mến thốt ".người ta bảo Bùi Giáng giả điên!" Giáng lại kêu chí choét, như giục, còn gì nữa? Dần im lặng. Giáng vùng đứng lên ghế, rồi giả xiêu giả vẹo. Lữ Quỳnh phải chạy lại đỡ. Con đười ươi Tề Thiên cứ thế, diễn màn độc thoại, nhưng vô ngôn, có lẽ dành riêng cho cọp. Lữ Quỳnh và tôi, mỗi người một bên, dìu Giáng xuống thang, ra đường gọi xe xích lô. Đẩy Giáng lên, chúng tôi trả tiền xe. Vừa quay lại thì Giáng đã nhảy tót xuống xích lô, tay chìa ra, miệng kì kèo "... "tau" không đi xe, mi chia "tau" một nửa tiền xe hỉ!". Rồi Giáng lẩn trong bóng đêm trên đường xưa là Công Lý, nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, vạt áo bà ba trắng vụt biến vụt hiện như một linh hồn lạc lõng. Lữ Quỳnh kể, người nghe lo cho Giáng. Sơn cười ".già ấy tỉnh, khôn thấy mồ tổ, đừng lo!".

Hai bữa sau, tôi lại lên đường. Nhưng sao chưa đi mà đã nhớ! Lại tự nhủ, lần cuối, nhưng miệng cứ hẹn sẽ gặp lại, còn gặp lại, dẫu trời mang mang, đất mang mang, vì đại dương bây giờ, lời Nguyễn Tuân, chỉ còn là cái ao ếch một đêm mưa.

Từ trụ sở báo Văn Nghệ số 43 Đồng Khởi, Nguyễn Duy, Hồng Đăng và tôi ghé lên căn gác nơi Trần Dần nghỉ trưa nhà Hồng Văn, một nhà báo hưu non, đang ở tạm. Trần Dần nằm, mắt nhắm nghiền, tay vẫn nắm chiếc gậy hôm nọ tôi xin anh. Khi đó, anh nói ".Bửu Chỉ mới cho" và tôi đành "thế thì anh giữ làm kỷ niệm!". Nhìn anh, tôi thì thào với Đăng, ".thôi để ông ấy ngủ!", dẫu tôi biết anh chỉ nhắm mắt. Anh thừa biết tôi đến chào anh. Nhưng cả anh lẫn tôi, chúng ta nào có ai biết đấy là lần cuối.

Tám năm sau, tôi ghé Bolsa gặp Trịnh Cung. Câu đầu Cung nói, là "Anh Dần mới mất, mình vừa nhận được tin!" Về nhà Hoàng Khởi Phong, tôi dìm nỗi đau xé lòng trên phiến máy điện toán, viết về con cọp ngày vừa chia tay cả phố thị lẫn rừng xanh. Bản viết đó, rõ ràng tôi gõ "save", nhưng nó lại trôi tuột vào hư không vì máy hỏng. Hoàng Khởi Phong loay hoay chữa nhưng vô phương. Dẫu có "Save", ai làm thế nào cứu vãn được cái mất mát chính, là anh. Vâng, mất mát đó vô cùng lớn cho tất cả những kẻ lòng còn gắn bó với chữ nghĩa và quê hương.



Một chuỗi biến cố kể từ cuộc đàn áp ở Thiên An Môn đến sự sụp đổ bức tường Bá Linh khiến tôi lại chẳng được visa để "qui cố hương" thăm hỏi các anh sau năm 90. Thế là Đặng Đình Hưng đi. Rồi Bùi Xuân Phái, Văn Cao. Và Trần Dần năm 97. Nghe tin Lê Đạt "được" qua Paris, tôi vội bay đến hàn huyên. Chúng tôi có vài ngày với nhau nơi nhà một người bạn nhà văn Đỗ K. đã mượn cho ở. Sáng nào chúng tôi cũng ra uống cà phê trên St-Germain. Nhìn ra phía trước là Métro Odéon, quay về phía sau, sao chúng tôi vẫn lại chỉ thấy Bờ Hồ trong cơn mưa bụi. Lê Đạt bảo ".Dần mất thế là hơn nửa năm rồi! Nhanh thật, cứ như mới hôm qua.". Vâng, mới hôm qua. Những cái mặt đồng hồ trơ trẽn không kim trong giấc mơ ở Hà Nội ngày nào lại hiển hiện trước mắt tôi. Ở Paris, kim đồng hồ là một hiện thực. Vòng quay của kim một chiều, và chiều đó là chiều quay đánh dấu những tiến bộ trong một số địa hạt nhất định. Như khoa học. Kỹ thuật. Như công, thương nghiệp. Dưới một mức, là quyền con người. Nhưng dẫu sao, nó cũng nhích lên, trong một thế giới thông tin mở, không chập chạp, ù lì, chai cứng đến độ mất hết sức sống. Lê Đạt nhắc kỷ niệm xưa, giọng tiếc nuối ".Dần nó có tư cách "chưởng môn"! Còn mình thì không, cứ bông lơn ba lăng nhăng.". Tôi lại hình dung ra con cọp ngày, mắt rừng rực, quyết liệt tuyên ngôn, rằng cái kho chữ là tài sản quí nhất của một dân tộc. Anh nhếch mép, râu rung rinh đùa hỏi tôi, cái môn kinh tế học của cậu nó có dạy thế không? Không hả, anh cười, thế thì "hỏng". Những phút ấy thật hiếm. Đùa xong, anh lại trầm ngâm.

Tôi hỏi Lê Đạt, đã đến lúc anh viết về Nhân Văn-Giai Phẩm như những chứng nhân và nạn nhân chưa? Đạt bảo, Hoàng Cầm nói và thu cát xét, dễ có đến cả chục cuộn băng. Còn mình, anh cười, mình chưa ghi chép gì cả. Tôi bàn, viết về Nhân Văn-Giai Phẩm là viết về một giai đoạn và một tinh thần văn học. Anh gật gù, thế cậu thấy cái gì gọi là tinh thần Nhân Văn? Câu anh hỏi, tôi chưa đáp, khất đến hôm nay. Xin thưa gọn : tính nhân bản cộng với tinh thần sáng tạo. Và như phương tiện vận chuyển xã hội đến lý tưởng mà chung quyết là hạnh phúc con người, văn chương hành động dấn thân, can đảm phê phán hiện thực. Tệ quan liêu, chủ nghĩa tô hồng cơ hội, và bản chất phi nhân giữa thập kỷ 50 là đối tượng. Nghĩ kỹ lại, đến nay là thiên niên kỷ thứ 21, tình hình xã hội cũng chưa khác là bao, thậm chí so với thời đã qua thì nhiều vấn đề cấp bách hơn, trong đó sự mất niềm tin vào tương lai đến độ tuyệt vọng là căn bệnh ung thư bộ não đã vào giai đoạn cuối cùng.

Tương quan giữa quyền lực và văn hóa trong xã hội có một số thuộc tính khó chối cãi được. Năm 87, ông Nguyễn văn Linh "cởi trói" cho văn nghệ sĩ, thừa nhận hiện thực "bị trói", và trói bằng những vòng kim cô xiết lại nới ra tùy theo nhu cầu chính trị. Đùng một cái, từ 87 đến 91, liên tiếp một số tác phẩm sáng giá ra đời. Tướng về hưu, Thiên sứ, Những Thiên Đường mù, Nỗi buồn chiến tranh, Đi về nơi hoang dã, Những mảnh đời đen trắng, Bến không chồng. Và những khuôn mặt mới như Dương thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm thị Hoài, Bảo Ninh, Nhật Tuấn. làm nổi lên một không khí sáng tác, mạnh dạn hơn, chất lượng có, và gầy nên được cái hy vọng lấp dần khoảng trống của thứ văn học khẩu hiệu, xoàng xĩnh, có tính dịch vụ tuyên huấn, uỷ lạo, động viên thi công thúc chiến. Rồi cũng đùng một cái, Linh co lại, Đỗ Mười lên. Đùng một cái, sáng tác lại khuôn phép ngậm miệng. Và ở giai đoạn bỏ bao cấp xã hội chủ nghĩa quá độ tiến lên (tiểu) tư bản thủ công đỏ và đen, văn hóa trong nước tràn lan trăm chuyện xe cắn chó, chưởng rẻ tiền, tình Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan. Đất nước chúng ta có phải chăng đang phá sản ở mọi mặt? Kinh tế tụt hậu, nợ cứ nợ, thế hệ sau (?) trả. Con người hạ giá, xuất khẩu làm tôi mọi khắp nơi, ô-sin vinh quang với nhiệm vụ quốc tế. Còn văn hóa, ta chỉ còn độc cái món thi hoa hậu, hoa hậu từ làng tới huyện, từ huyện tới tỉnh, từ tỉnh tới vùng, từ vùng tới thành phố, rồi từ thành phố đến toàn quốc. Giáo dục, ôi thôi, cả nước "lãng" học nhưng tiến sĩ, phó tiến sĩ nhan nhản đầy đường. Tiếng báo động chục năm vang như tiếng sấm, sấm động nam bang theo cách nói một sứ giả đại quốc đến thăm viếng ta trong huyền thoại Trạng Quỳnh. Nhưng các vị lãnh đạo nay đang hy sinh cho tiền đồ hay hy sinh tiền đồ? Họ kiên quyết ngồi yên, không động đậy, bằng chân như vại, rủng rỉnh ngựa xe. Mặc dầu có 25 triệu (tức là 60% lực lượng lao động) người thất nghiệp, theo thống kê của Ngân Hàng Thế giới năm 2002. Thế thì trăm ngàn ô-sin, triệu gái mãi dâm, là tất yếu, là."qui luật", thứ qui luật mới.

Chưa bao giờ, tinh thần nhân văn cần như lúc này! Gió ơi, đừng nghe lời khuyên chớ đừng rung cây! Gió hãy lên! Cho cây đổi mùa thay lá. Vì sông mấy khúc nhưng rồi nước cũng chảy, mây mấy tầng nhưng rồi chim cũng bay.



Nhà văn Phạm thị Hoài, người biên tập và hiệu đính GHI, nói rõ "Với chúng ta, đó là những văn liệu và tư liệu vô giá về một giai đoạn văn chương và lịch sử cho đến nay vẫn xếp sổ, nếu quả còn có sổ." Ghi trở nên một hình phạt, Trần Dần viết, nhưng "kết quả của hình phạt với một người lại có thể là quà tặng không ngờ tới bao nhiêu người khác". Điều này rất đúng. Nhưng nó đòi hỏi người khác, tức là chúng ta, một cách đọc để hiểu.

Chị tôi, chị Liên, đã đọc. Chị cũng hiểu, là Trần Dần đã từng đầu hàng, Hoàng Cầm thế này, Lê Đạt thế kia. ai cũng có lúc nhụt chí , yếu xìu, hèn đi, qui thuận và thậm chí đôi khi van lơn chạy "tội". Chị buồn vì đèn tắt, nến tàn và dăm cây nhang cháy đến gốc không còn cái mùi ngất ngây gây mê trên bàn thờ nơi thần tượng vừa sụp đổ. Vâng, nếu là thần tượng, thì có thế thật. Nhưng nạn nhân vụ Nhân Văn-Giai Phẩm là những con người. Và nhất là những nhà văn. Họ có thành thần tượng, là do chúng ta nặn lên cho chính chúng ta. Nhu cầu tế lễ không phải là lạ, từ ngày con người tìm ra lửa, biết tầm quan trọng của quá khứ, và đẻ ra huyền thoại như một trong những phương cách nhằm xác định bản thể mình.

Họ là những nhà văn. Lập lại lời Trần Dần, nhân cách của họ là văn cách. Điều sau, đòi hỏi họ có tác phẩm. Chính cái sự rất người là yếu, hèn... đẻ từ hoạn nạn mới cho phép họ viết về cái rất người của những con người. Giả như họ chỉ anh hùng (rơm), kiên cường, móc mắt mình như Thụy An (rồi chết), thì bất quá họ để lại cũng chỉ một hai câu, đại loại kiểu "bay là giặc!", "không thành gì thì thành nhân", hoặc "thà làm quỉ xứ tự do (miền Nam xưa, USA bây giờ?) còn hơn làm vương đất độc tài toàn trị (miền Bắc xưa, Nga mafia bây giờ?)". Trời ơi! Đất nước ta đã có quá nhiều anh hùng. Họ là những kẻ đã nằm xuống rồi, và cho sống dậy chắc gì họ chẳng không hối tiếc?

Cách đây bốn năm, tôi lại về Hà Nội. Tôi đến thắp hương cho Trần Dần, cho Văn Cao. Như những năm xưa, tôi đến thắp hương cho Nguyễn Tuân, cho Bùi Xuân Phái. Tôi có cảm giác họ vẫn đâu đây, như những người muôn năm cũ, lẩn quẩn trong tâm tư những kẻ nòi tình gắn bó vào chữ, vào nghĩa, và vào cả cái định mệnh khốn khổ của những người làm nghệ thuật nhưng không có tự do. Đâu đó, tôi nghe tiếng Nguyễn Tuân rủ rỉ, nước mắt tràn trề trên những sợi râu bạc, kêu khẽ . Sợ! Tôi tồn tại được là vì tôi biết sợ!

Tôi cũng thế, nghĩa là tôi từng sợ, từng hèn, từng yếu,. có lắm lúc buông trôi, nhưng cũng có đôi khi nổi loạn! Và tôi hỏi chị Liên, còn chị? Tôi kể, tôi mơ thấy ông Dần ngồi trên vạch phấn, một bên là thiên đường, một bên là địa ngục. Cạnh ông, một rổ đá, cục nào cục nấy to bằng nắm tay. Ai đi qua, ông cũng chìa cho một cục, miệng bảo "Không từng sợ, không từng hèn. thì cứ ném đá cho tôi chết thêm một lần!"

Làm gì có kẻ chết được hai lần!

Nói đến cái chết. Và chôn. Trong dịp chuyện trò với anh em biên tập Sông Hương, Trần Dần kêu "...Thế hệ trẻ à?Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến."

Những ai đã chôn Trần Dần? Chưa chôn? Vì anh chưa chết, thế hệ trẻ ơi!

Vài tháng sau khi tôi đọc GHI, một hôm tiếng điện thoại viễn liên reng lên. Cầm máy nghe, lại chị Liên. Chắc chị mới từ Hà Nội bay về Cali. Chị kể chuyện, con cà con kê, rồi bảo, có một món quà bất ngờ cho cậu. Tôi hỏi. Giọng dịu dàng, chị nhỏ nhẹ :

- Chị mang quà anh Hoàng Cầm gửi. Vẫn như mọi bận, một lít rượu làng Vân. Để hôm nào chị qua chỗ cậu chị mang sang!

Cám ơn chị, đến thăm anh Cầm là chị đã hiểu. Chị cứ kêu chị thất học, nhưng chỉ học chữ dễ khiến lắm người quên mất nghĩa. Và cái học trường đời, chữ cần một, nghĩa cần đến mười, mới thành người được. Chai làng Vân chị mang qua cho em lần trước vẫn còn một nửa. Tối nay, em sẽ uống, một ly cho chị. Một ly cho những huyền thoại chúng ta cùng nhau gìn giữ, không phải để phong thánh ai rồi nhang đèn điếu đóm, mà là từ đó ta lại khởi đi một cuộc lên đường sáng tạo. Còn lại, em uống để nhớ món quà Nhân Văn trao cho những thế hệ sau.

Rượu làng Vân, rượu tình rượu nghĩa. Cũng những chén rượu đó tôi nhắp môi vào, hai mươi năm trước, nghe anh Cầm nghẹn lời, hạ giọng ".Chỉ mình ta.Ta say ta đạp lùi tinh tú. Ngủ yên rồi đôi cá đòng đong". Trên nền đất nện, một cái bàn mộc, dăm chiếc ghế chân lay, xộc xệch bao nỗi đời nên may mà có rượu chui, thơ chui. Như thơ các anh, những nhà thơ không được có độc giả, sao dám mãi cứ thi gan nhả chữ vào vực thẳm để tiếng vọng xô từ vách đá là tiếng thở dài lẫn trong tiếng nguyền rủa. Thế đấy, nhưng Trần Dần vẫn cười khẩy, thách thức "tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn, trừ tiếng chửi 'sống không sáng tạo'".Như rượu làng Vân, cũng phải chui. Quốc lủi, khác rượu quốc doanh ở chỗ nó thật, không dối trá, không lên gân hô khẩu hiệu. Nó thoang thoảng hương nồng chất nếp than, để lại đầu lưỡi buốt bỏng vị cay của hoạn nạn. Uống vào, bỗng dưng sẽ thấy con chữ ở dạng nào cũng đèo trên mình chữ tâm của người viết, chữ tình trong kiếp nhân sinh. Và nhất là trách nhiệm, với mọi người, kể cả những người muôn năm cũ.

Nam Dao
18 - 11 - 2002



-----------------------------------------------

[1] Trần Dần, Ghi (1954-1960), Biên tập và Hiệu đính : Phạm thị Hoài, Xuất bản : td memoire, Paris, 2001.


http://www.nhanvan.com/doc/2003/April/namdao_xobui.htm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.07.2006 08:25:28 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 17.08.2006 11:02:51
.

Hoàng Cầm
Tiến tới xét lại một vụ án văn học:
Con người Trần Dần



Lời toà soạn báo Nhân văn số 1, ra ngày 20.9.1956

Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.

Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này.



Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.

Tôi biết tiếng anh từ lâu - Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.

Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi (…) [1] Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:

    Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉ
    Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu

Học xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.

Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.

Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng, hoa tàn để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.

Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Mãi về sau hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp [2] .

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sác sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào những trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.
    “Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị- nhưng độc đáo.”

Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: Tiếng trống tương lai [3] .

Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.

Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi - một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.

Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
    "Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.”

Trần Dần nói:

    “Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần trở thành mình.”
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định [4] . Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.

Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.

Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ - lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này:
    “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.


Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.

Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.

Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với mối tình đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đã sấn sổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.

Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra đây?

Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, trình độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.

Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.

Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.

Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.

Trần Dần đã gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho Ủy ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tròn mở to:

    “Thế rồi sống bằng gì hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?”

Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:

    “Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay mình, đủ sống thì thôi.”

Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ “Nhất định thắng” in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.

Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng xì xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:

    Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai

Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:

    “Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…”

Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
    “Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”

Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang.

Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường lòng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.

Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.

Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn Đảo [5] cũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.

Con giun bị xéo mãi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì ngồi một xó, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi thì cao đàm hùng biện, khi thì lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.

Tấn thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:

“Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi ở lại?” Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em [6] , không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi.
    Chị hỏi:

    “Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”

    Tôi giải thích:“Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”

    Chị oà lên khóc: “Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”

    Tôi lại khuyên nhủ: “Có chứ! Ai cấm đâu!”

    Chị bỗng khóc to hơn: “Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”

    Rồi chị gào lên: “Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”
    Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:

    “Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”

    Chị vẫn một mực:

    “Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”

Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.

Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại. [7]

Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ “Nhất định thắng” (vào khoảng tháng Tư 1955).

Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.

Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:

    “Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.”

Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.

Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.

Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:

“Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi.” Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:

    Trời đã thôi mưa… thôi gió
    Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ

Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất [8] . Bài thơ “Nhất định thắng” gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.

Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.

Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ "Nhất định thắng" và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.

Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:

Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam [9] .

Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.

Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.

Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.

Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
    "Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!"


Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:

    "Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.”


Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:

    “Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!”

Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:

    “Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…”


Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.

Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.

Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đã đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhử tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ, thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây gió.

Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý:
“Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?”

Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?

Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?

Tôi cố suy mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đã đóng án tử hình xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.

Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết được lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khó suốt ngày suốt đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.

Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”

Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh còn có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.

Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.

Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.

Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.

Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:
    "Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?"

Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen? [10]

    Hôm nay
    Trời đã thôi mưa thôi gió
    Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
    Đỏ mọi buồng tim lá phổi
    Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…

Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!

Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.

Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.

Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.

Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.

Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.

Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…

Trước mắt tôi là Trần Dần.

Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.

Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.



------------------------------------------------
[1]Thiếu vài chữ, do bản gốc bị thủng không khôi phục được (các chú thích trong bài của Phạm Thị Hoài)
[2]Trần Dần viết xong tiểu thuyết Người người lớp lớp cuối tháng 9.1954, trước khi lên đường đi Trung Quốc.
[3]Bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” hoàn thành tại Bắc Kinh tháng 10.1954
[4]Chuyến đi Trung Quốc kéo dài 2 tháng, từ 10.10 đến khoảng 10.12.1954. Trong đoàn công tác của Trần Dần còn có nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
[5]Tác phẩm của Phùng Quán
[6]Gia đình bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ Trần Dần, đã di cư vào Nam năm 1954.
[7]Trần Dần bị giam kiểm thảo theo kỉ luật quân đội từ 13.6 đến 14.9.1955
[8]Đó là chuyến đi tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, từ 02.11.1955 đến tháng 2.1956.
[9]Trần Dần bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội năm 1956. Trong tù, ông đã dùng dao cứa cổ toan tự tử.
[10]Con gái đầu của Trần Dần là Trần Thị Băng Kha.

Nguồn: Báo Nhân văn số 1, ra ngày 20 tháng Chín 1956, trang 2 và trang 4, kí hoạ chân dung Trần Dần của Nguyễn Sáng. Bản điện tử do talawas thực hiện.

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7812&rb=0102

____________

Trần Dần trên Tiền Vệ

Một đoạn trích từ Trần Dần -"Ghi" - talawas

Xổ bụi - tạp ghi của Nam Dao

Tư liệu về nhà thơ Trần Dần

Phạm Thị Hoài - Thủ lĩnh trong bóng tối

Chuyện văn nghệ sĩ đi chiến dịch Điện Biên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2006 11:29:07 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 18.08.2006 02:43:39
.


Trích đoạn: trungnghia

Mấy ông ở không quá!!! Lôi chuyện hồi nẳm ra nói. Thôi ăn cơm mới nói chuyện mới đi!!!




Nhiều khi chuyện mới lại bị kêu là "nhạy cảm".
Thể theo lời yêu cầu của Trung Nghĩa, đăng lên một chuyện mới nè:
(Tài liệu này tất cả các công an trên mạng, các nhà lãnh đạo của chúng ta đều đã biết từ lâu rồi, chắc không phải tài liệu mật và hy vọng không có gì nhạy cảm. Chỉ là tiếng kêu oan cho chồng của một người đàn bà Việt chân yếu tay mềm, như người Vợ nhà thơ Trần Dần năm nao... )

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ðộc lập - Tự do- Hạnh phúc


Kính gửi :

Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam
Các ban ngành , các cấp có thẩm quyền

Tôi là : Bùi Thị Kim Ngân .
Địa chỉ : số nhà 26 tổ 67 B – phường Vĩnh Tuy – Quận Hai Bà Trưng- Thành phố Hà Nội.
Chồng tôi là : Nguyễn Vũ Bình , bị bắt ngày 25 tháng 09 năm 2002, lý do : Gián điệp.

Trước đây thỉnh thoảng vài ba lần chồng tôi bị cơ quan An Ninh mời lên hàng tuần để chất vấn gì đó. Một số cán bộ An Ninh cũng đến gặp tôi và nói sơ qua với tôi rằng “ Chồng tôi đã viết một số bài viết ảnh hưởng đến chính quyền ”, nội dung cụ thể thì họ không nói cho tôi biết , họ có nói với tôi về khuyên chồng tôi. Tôi lo lắng cho sự an toàn của chồng tôi cũng như của gia đình nên đã hỏi chồng tôi và bảo anh đừng viết lách gì nữa . Chồng tôi trả lời rằng : “ Anh chỉ làm điều tốt cho mọi người . Đây chỉ là góp ý kiến , chứ anh không làm gì sai trái , không chống phá ai , không làm hại gì tới đất nước ”. Chồng tôi là người có nhận thức và suy nghĩ rất chín chắn vì thế tôi cũng yên tâm và tin vào những gì chồng tôi đã làm.

Ngày 19 tháng 07 năm 2002 , nhận được lời mời của một vị dân biểu ở Mỹ. Chồng tôi có viết một bài về “ Bản điều trần về vấn đề nhân quyền ở VN ” và gửi vào lúc 07h sáng ngày 20 tháng 07 năm 2002 , thì đến 8h30’ Công an ập đến nơi chồng tôi đang làm việc, lục soát tài liệu , máy tính và bắt chồng tôi đưa về sở Công an. Chồng tôi đi làm thường về rất đúng giờ vì hai vợ chồng tôi ở xa quê , hai con tôi lại nhỏ ( cháu bé 08 tháng tuổi, cháu lớn mới hơn 3 tuổi ) nên anh rất hiếm khi về muộn vì phải bận trông con , cũng như đỡ đần tôi một số công việc . Tự nhiên hôm đó mãi không thấy chồng tôi về nhà và cũng không thấy gọi điện cho tôi . Tôi bồn chồn ra vào thì 19 h thấy chồng tôi về nhà cùng một số cán bộ An ninh. Họ vào nhà tôi, lục soát , thu giữ một số giấy tờ của chồng tôi .

Trong vòng một tuần sau cứ 7h sáng Công an đến tận nhà áp giải chồng tôi đến Cơ quan An ninh để hỏi cung , tối lại dẫn về tận nhà . Sau đó Cơ quan An ninh đặt một trạm gác ngay ở đầu ngõ cách nhà tôi 5-6m , thay nhau canh giữ 24h/24h trên ngày. Mọi mối quan hệ của gia đình tôi như bạn bè , họ hàng của tôi cũng như của chồng tôi đều bị họ chặn lại hỏi. Nếu là bạn của chồng tôi thì họ yêu cầu ra về . Một số người , nếu không bị hỏi khi đến nhà tôi thì lúc ra về họ theo sát đến tận nơi ở .

Ngoài ra khi hai vợ chồng tôi bước chân ra khỏi cửa là liền có từ 2 đến 4 người đi áp sát ngay đằng sau.

Suốt hai tháng trời như thế , đến ngày 25 tháng 09 năm 2002 vào lúc 18 h khi cả hai vợ chồng tôi cùng hai con nhỏ đang có mặt tại nhà, thì thấy mấy chục ông Công An ập đến nhà đọc lệnh, lục soát đem đi một số giấy tờ và bắt chồng tôi đưa đi trước sự ngơ ngác của 3 mẹ con tôi.

Lúc đầu , tôi cứ tưởng giống như mội lần chồng tôi chỉ bị đưa về Sở Công An để chất vấn , rồi sẽ được trả về, nhưng đợi mãi 4,5 ngày sau vẫn không có tin tức gì về chông tôi. Tôi thật sự hoang mang lo lắng không biết điều gì đã xảy ra với chồng tôi ? Tôi linh cảm thấy điều không lành bèn đi các nơi để hỏi thăm về tin tức của chông tôi nhưng vẫn bặt vô âm tín. Sâu đó tôi có hỏi đ�ược 02 số điện thoại: 7161193 và 06942431 của Bộ công an nhưng họ trả lời không biết gì về vụ của chồng tôi.

Mãi đến tối ngày 5 tháng 10 năm 2002 , cảnh sát khu vực đến nhà đưa cho tôi 01 bản pho to “ Biên bản bắt khám xét ” và hỏi đã có tin gì về chồng chưa ? Tôi bảo chưa và có nhờ ông ấy hỏi giúp .

Vài ngày sau đó , có 02 cán bộ của Cơ quan an ninh đến gặp tôi gần nơi tôi làm việc để thông báo cho tôi biết chồng tôi đang bị tạm giam tại trại tạm giam thành phố Hà nội vì tội làm gián điệp - tội đã cung cấp tin tức khác không thuộc bí mật cho nước ngoài chống phá chính quyền.

Tôi thật sự bàng hoàng không thể tin nổi điều đó . Tôi nói với họ : “ Chồng tôi không thể là gián điệp ”. Họ nói điều đó đã có luật pháp.

Chồng tôi xuất thân từ gia đình nông dân , gia đình liệt sĩ. Bản thân chồng tôi là người mẫu mực , không rượu chè , cờ bạc, đạo đức, hiền lành, được học hành tử tế. Chồng tôi đã tốt nghiệp trường Đại học Quốc Gia- khoa Kinh tế Chính trị học, lại được đào tạo trong môi trường tốt , đã có thời gian dài 9 năm làm biên tập viên cho Báo Tạp chí Cộng Sản – là một tờ báo có uy tín lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Các cộng tác viên, bạn bè tôi cũng như bạn bè của chồng tôi đều quý mến anh.

Với bản chất như chồng tôi thì anh không thể là người đã làm những điều hại dân , hại nước càng không thể là Gián điệp.

Từ khi chồng tôi bị bắt đến nay, cuộc sống gia đình tôi bị đảo lộn, lao đao, đời sống kinh tế khó khăn. Một mình tôi phải vật lộn lo kinh tế để nuôi hai con nhỏ , một mẹ già ( bà ngoại lên trông cháu bé ) vừa phải hàng tuần đi gửi đồ thăm nuôi cho chồng , mong sức khoẻ của chồng được đảm bảo. Mặt khác lại suy nghĩ lo lắng về vấn đề tư tưởng của các cháu . khi chồng tôi bị bắt cháu lớn cứ tưởng là bố đi công tác, vì lúc đó chồng tôi và một số ông Công an nói với cháu như thế , đợi mãi mấy ngày không thấy bố về , cháu cứ khóc đòi bố , 2 bố con rất yêu quý nhau , từ khi tôi sinh cháu thứ hai , do nhà chật chội nên hai bố con phải sang ngủ nhờ nhà chị gái chồng tôi . khi chồng tôi bị bắt mấy đêm liền cháu không ngủ được. Không những thế mỗi lần tôi cho cháu về quê thăm ông nội thì làng xóm lại chỉ trỏ xì xào nói con bé là con nhà gián điệp. Hai mẹ con tôi chỉ biết ôm nhau khóc thầm. Bố chồng tôi thì khóc lóc vì không biết đến bao giờ mới gặp lại con, vì hiện nay bố chồng tôi đã 75 tuổi . Mẹ đẻ tôi cũng vậy cụ suốt ngày khóc lóc , cầu trời khấn phật cho chồng tôi tai qua nạn khỏi sớm trở về cùng gia đình. Mẹ đẻ tôi bảo chồng tôi là người hiền lành , đạo đức tại sao lại ra nông nỗi này ? Thỉnh thoảng các ông bên cơ quan An ninh gặp tôi và cũng động viên tôi phải hết sức bình tĩnh , tôi làm sao bình tĩnh được khi chồng tôi chưa được trả tự do. Lúc nào tôi cũng thấp thỏm lo âu về công việc cũng như sức khoẻ của bản thân , ttrước kia có hai vợ chồng nương tựa vào nhau thì không sao , bây giờ chỉ có một mình nếu có xảy ra với tôi thì ai sẽ nuôi 2 con tôi ? Các con tôi thì thiếu đi bàn tay chăm sóc của bố và luôn mồm đòi bố. Đến bây giờ tôi vẫn phải nói dối con tôi là bố đi công tác. Tôi không thể nói dối cháu mãi được , tôi sợ cả trẻ con hàng xóm đùa trêu chọc cháu , nói về bố cháu.

Sau này tôi có tìm hiều và biết chồng tôi đã viết một số bài như :

Đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ.

Việt Nam và con đường phục hưng đất nước.

Bản điều trần về vấn đề nhân quyền ở VN.

Ngoài ra còn ký tên vào một số đơn xin thành lập hội nhân dân chống tham nhũng gì đó, đòi xoá bỏ nghị quyết 36 CP, …

Đó chỉ ý kiến , quan điểm chồng tôi không thể là gián điệp

Thời gian chồng tôi bị bắt đến nay đã gần 08 tháng , tôi chỉ mới biết sơ qua về tình hình sức khoẻ của chồng tôi từ tháng 12 năm 2002, do tôi đã làm đơn xin được gửi và nhận thư của chồng tôi , cũng chính các ông cho phép .

Theo như luật pháp , thì chồng tôi đã sắp hết 02 lệnh tạm giam, thời gian đó đối với gia đình tôi quá lâu. Tôi không biết chồng tôi còn bị tạm giam bao nhiêu lâu ? Tôi thật sự lo lắng cho tình hình sức khoẻ của chồng tôi, nhất là về mùa hè vì chồng tôi mắc bênh viêm đại tràng mãn tính. Tôi rất mong các ông có những phán quyết đúng đắn để chồng tôi sớm được trở về đoàn tụ cùng với gia đình , để gia đình tôi bớt cảnh lao đao.

Nếu chồng tôi bị đưa ra xét xử thì tôi đề nghị các ông cho chồng tôi được đưa ra xử công khai , cho phép toàn bộ gia đình và bạn bè của chồng tôi cũng như của tôi đều được tham dự phiên toà đó. Để đảm bảo quyền lợi của chồng tôi cũng như nguyện vọng của tôi và gia đình . Tôi xin phép các ông cho gia đình tôi được mời luật sư cho chồng tôi .

Dù sao trong thời gian chờ đợi sự phán xét của các ông , tôi cũng xin phép các ông cho tôi được gặp chồng tôi , được gửi thư cho chồng tôi để tôi cũng như chồng tôi biết về tình hình sức khoẻ của chồng tôi, của tôi, của các con tôi. Tôi rất mong các ông cho phép.

Tôi cũng xin mạn phép được hỏi các ông một điều làm tôi băn khoăn.

Luật pháp của Việt nam đã ban hành thì toàn bộ lãnh thổ Việt Nam đều thực hiện như nhau . Tại sao chồng tôi và một số người khác đều vi phạm điều 80, mà chồng tôi lại bị đối xử khác biệt ? Mọi người vẫn được nhận sách, báo, thư từ …, của gia đình . Trong khi đó chồng tôi bị cấm không được nhận những thứ trên ? Mặc dù đã mấy lần tôi làm đơn xin phép được gửi sách , báo , tạp chí của Việt Nam xuất bản, nhưng các ông đều trả lời hiện tại thì không được gửi . không biết đến bao giờ tôi mới được các ông cho phép gửi những thứ đó cho chồng tôi ?

Chồng tôi đã 9 năm làm biên tập viên vì thế , đọc sách , báo, tạp chí , ... đối với chồng tôi như thể bữa ăn chính không thể thay thế được. Nếu chồng tôi không được các ông cho phép nhận sách báo , tạp chí , thì đó chính là nỗi đau lớn nhất mà chồng tôi phải gánh chịu. Nếu các ông sợ trong đó có những ký hiệu , thông tin gì , theo tôi nghĩ các ông có đầy đủ các biện pháp để kiểm tra những trang sách , báo , tạp chí đó . Chỉ phiền các ông bớt chút thời gian .

Một lần nữa tôi cầu xin các ông cho phép tôi được gặp , gửi thư , sách báo, tạp chí cho chồng tôi.

Tôi rất mong sớm nhận được thư hồi âm của các cấp có thẩm quyền.

Xin trân trọng cám ơn các ông.

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2003.

Người làm đơn
Bùi Thị Kim Ngân

Nơi gửi :

Tổng Bí Thư .
Chủ Tịch Quốc Hội.
Thủ Tướng Chính phủ.
Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật .
Đoàn đại biểu Quốc Hội – Hà Nội.
Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tối cao.
Ban thanh tra Bộ công an.
Ban lãnh đạo Bộ công an.
Ban lãnh đạo cơ quan Anh ninh thành phố Hà Nội ...


Trích: Tiếng Dân Oan
http://www.ptdcvn.org/TiengDanOan.htm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2006 02:44:59 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 18.08.2006 10:00:51
.

Trích đoạn: lonely_wolf

Đang từ Trần Dần mà, sao lại cho cái đơn này vào đây vậy? Đây ko phải là mục Tác giả - Tác phẩm nữa a?



Chào lonely_wolf,

Đây là thể theo yêu cầu của Trung Nghĩa mà thôi, chúng ta nói chuyện "Trần Dần mới"...

Thôi, theo yêu cầu của Lonely_wolf, lại chép một đoạn văn của Hoàng Cầm viết năm 1956 nhé:

"Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.

Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.

Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.

Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:

"Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?"

Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen? [10]

Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…


Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!

Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.

Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.

Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.

Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.

Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.

Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…

Trước mắt tôi là Trần Dần.

Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.

Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người. " [1956]

Và một đoạn của chị Kim Ngân viết năm 2003:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ðộc lập - Tự do- Hạnh phúc


...

Chồng tôi xuất thân từ gia đình nông dân , gia đình liệt sĩ. Bản thân chồng tôi là người mẫu mực , không rượu chè , cờ bạc, đạo đức, hiền lành, được học hành tử tế. Chồng tôi đã tốt nghiệp trường Đại học Quốc Gia- khoa Kinh tế Chính trị học, lại được đào tạo trong môi trường tốt , đã có thời gian dài 9 năm làm biên tập viên cho Báo Tạp chí Cộng Sản – là một tờ báo có uy tín lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Các cộng tác viên, bạn bè tôi cũng như bạn bè của chồng tôi đều quý mến anh.

Với bản chất như chồng tôi thì anh không thể là người đã làm những điều hại dân, hại nước càng không thể là Gián điệp.


Từ khi chồng tôi bị bắt đến nay, cuộc sống gia đình tôi bị đảo lộn, lao đao, đời sống kinh tế khó khăn. Một mình tôi phải vật lộn lo kinh tế để nuôi hai con nhỏ , một mẹ già ( bà ngoại lên trông cháu bé ) vừa phải hàng tuần đi gửi đồ thăm nuôi cho chồng , mong sức khoẻ của chồng được đảm bảo. Mặt khác lại suy nghĩ lo lắng về vấn đề tư tưởng của các cháu . khi chồng tôi bị bắt cháu lớn cứ tưởng là bố đi công tác, vì lúc đó chồng tôi và một số ông Công an nói với cháu như thế , đợi mãi mấy ngày không thấy bố về , cháu cứ khóc đòi bố , 2 bố con rất yêu quý nhau , từ khi tôi sinh cháu thứ hai , do nhà chật chội nên hai bố con phải sang ngủ nhờ nhà chị gái chồng tôi . khi chồng tôi bị bắt mấy đêm liền cháu không ngủ được. Không những thế mỗi lần tôi cho cháu về quê thăm ông nội thì làng xóm lại chỉ trỏ xì xào nói con bé là con nhà gián điệp. Hai mẹ con tôi chỉ biết ôm nhau khóc thầm. Bố chồng tôi thì khóc lóc vì không biết đến bao giờ mới gặp lại con, vì hiện nay bố chồng tôi đã 75 tuổi . Mẹ đẻ tôi cũng vậy cụ suốt ngày khóc lóc , cầu trời khấn phật cho chồng tôi tai qua nạn khỏi sớm trở về cùng gia đình. Mẹ đẻ tôi bảo chồng tôi là người hiền lành , đạo đức tại sao lại ra nông nỗi này ? Thỉnh thoảng các ông bên cơ quan An ninh gặp tôi và cũng động viên tôi phải hết sức bình tĩnh , tôi làm sao bình tĩnh được khi chồng tôi chưa được trả tự do. Lúc nào tôi cũng thấp thỏm lo âu về công việc cũng như sức khoẻ của bản thân , ttrước kia có hai vợ chồng nương tựa vào nhau thì không sao , bây giờ chỉ có một mình nếu có xảy ra với tôi thì ai sẽ nuôi 2 con tôi ? Các con tôi thì thiếu đi bàn tay chăm sóc của bố và luôn mồm đòi bố. Đến bây giờ tôi vẫn phải nói dối con tôi là bố đi công tác. Tôi không thể nói dối cháu mãi được , tôi sợ cả trẻ con hàng xóm đùa trêu chọc cháu , nói về bố cháu.

...

Chồng tôi đã 9 năm làm biên tập viên vì thế, đọc sách , báo, tạp chí , ... đối với chồng tôi như thể bữa ăn chính không thể thay thế được. Nếu chồng tôi không được các ông cho phép nhận sách báo , tạp chí , thì đó chính là nỗi đau lớn nhất mà chồng tôi phải gánh chịu. Nếu các ông sợ trong đó có những ký hiệu , thông tin gì , theo tôi nghĩ các ông có đầy đủ các biện pháp để kiểm tra những trang sách, báo, tạp chí đó. Chỉ phiền các ông bớt chút thời gian.

Một lần nữa tôi cầu xin các ông cho phép tôi được gặp , gửi thư , sách báo, tạp chí cho chồng tôi.

Tôi rất mong sớm nhận được thư hồi âm của các cấp có thẩm quyền.

Xin trân trọng cám ơn các ông.

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2003.

Người làm đơn
Bùi Thị Kim Ngân



50 năm

Nửa thế kỷ

Hai cuộc đời, một tâm tình, một hoàn cảnh,

Ah

Bài học

Cái lưỡi dao cùn

Cứa mãi mà không đứt


Lonely_wolf thấy sự trùng hợp này không đáng để vào phần Tiểu sử Trần Dần sao?

Riêng Ngọc Lý, thấy đây là điểm đặc biệt nhất của cuộc đời và tiểu sử Trần Dần.

Bài viết của Hoàng Cầm đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân 1956. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt và bị trù dập cả.

Ngày hôm nay, Lonely_wolf nghĩ là trong sự sửa sai và đổi mới, chúng ta có hy vọng gì câu chuyện Trần Dần do Hoàng Cầm viết có câu cuối như Hoàng Cầm đã cố tình viết thêm vào chăng:

Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người. " [1956]

Và trên đầu lá thư kêu oan của chị Ngân, có hàng chữ này:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ðộc lập - Tự do- Hạnh phúc

[2003]


Trong thế giới tiến bộ, mỗi vụ án sau khi đưa ra xét, sẽ trở thành một tiền lệ soi sáng cho các trường hợp tương tự xảy ra sau đó.

Chúng ta có quyền hy vọng Vụ Án Văn Học Trần Dần sẽ thành một ánh sáng cho các trường hợp sau này như của chồng chị Ngân chăng?

Hay bài này sẽ bị xóa đi?

Và lá thư của chị Ngân sẽ không được xem là đáng để chung vào thành một câu chuyện trong Tiểu Sử Trần Dần - Vụ Án Văn Học?

Ai sẽ là người quyết định điều này?

Ngọc Lý

.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2006 10:15:00 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 24.08.2006 21:57:20
.



Trích đoạn: Sở Khanh

Hãy để box văn học, tác giả tác phẩm là nơi mạn đàm văn học như nguyên giá trị của nó.



Hình như Sở Khanh nói ngược.

Hoặc bạn đã lầm hoặc bạn đã bị nhập nhằng giữa Văn Học và Chính Trị.

Khi Trần Dần bị bắt và bị vu cáo đến phải cứa cổ tự tử, đó là lúc Chính Trị đàn áp văn học.

Khi Hữu Loan bị lên án, bị trù dập, vì làm bài thơ tình "Màu Tím Hoa Sim" cho người vợ bé bỏng của ông, với đầy tình người, đó là lúc Chính Trị đàn áp văn học.

Khi Phùng Quán bị lên án vì yêu người con gái có gia đình là "địa chủ", và bị lên án vì "Tôi sẽ là một nhà thơ chân thật, chân thật trọn đời", đó là lúc Chính Trị đàn áp Văn Học.

Khi cả nước mà Văn Học tụt hậu, bài luận điểm 10 của kỳ thi vào Đại Học là một bài sao chép, văn sĩ chân thật bị cầm tù, tác phẩm bị tịch thu, còn nhan nhãn trên chợ văn chương là những thứ khiêu dâm, khích dục, tán tụng xác chết, đó là lúc Chính Trị đàn áp Văn Học.

Nếu bạn đọc lại Lịch Sử Văn Học từ 1945 đến nay, bạn sẽ thấy Văn Học Việt Nam bị chính trị bóp chết, cầm tù, ám hại, mạ lỵ, chụp mũ, phỉ báng... đến độ thảm thương.

Tôi nghĩ khi chúng ta can đảm nhìn ra điều này, là lúc chúng ta đang cố vực dậy một Nền Văn Học Tự Do, Độc Lập, và trả lại quyền sáng tác cho các ngòi bút chân chính.

Bạn hãy đọc Vương Trí Nhàn, tại đây: http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=161292

Bạn hãy đọc Phạm Khải, trong văn nghệ công an, tại đây:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=186957

Bạn hãy đọc Phùng Quán, tại đây:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=185598

và hãy lắng nghe tiếng kêu của nền Văn Học Việt.

Đã đến lúc chúng ta trả lại sự tự do tư tưởng cho mỗi người Việt, và trả lại sự suy tư độc lập cho mỗi ngòi bút Việt. Đây là một quyền căn bản của mỗi con người, được quy định trong Quốc Tế Nhân Quyền.

Đây là điều Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1946 đã lớn tiếng hứa hẹn với toàn dân Việt Nam, từ 50 năm trước.

Đã đến lúc chúng ta khẳng định là Chính Trị không được quyền can thiệp, chụp mũ, cầm tù, vu khống, giết chết VĂN HỌC VIỆT nữa.


Ngọc Lý

.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.08.2006 04:54:47 bởi Ngọc Lý >

Tử Đinh Hương
  • Số bài : 68
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 09:56:54


Trích đoạn: Ngọc Lý

Đã đến lúc chúng ta trả lại sự tự do tư tưởng cho mỗi người Việt, và trả lại sự suy tư độc lập cho mỗi ngòi bút Việt. Đây là một quyền căn bản của mỗi con người, được quy định trong Quốc Tế Nhân Quyền.

Đây là điều Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1946 đã lớn tiếng hứa hẹn với toàn dân Việt Nam, từ 50 năm trước.

Đã đến lúc chúng ta khẳng định là Chính Trị không được quyền can thiệp, chụp mũ, cầm tù, vu khống, giết chết VĂN HỌC VIỆT nữa.


Ngọc Lý

.


Nước Việt Nam ko có Tuyên Ngôn Độc Lập nào viết năm 1946 cả.

Than ôi! Giống như những đứa con quên cả năm sinh của cha mẹ những cứ ra rả khắp làng trên xóm dưới, hang cùng ngõ hẻm rằng ta là kẻ có hiếu. Thế mới biết cái đạo đời nay nó giả dối làm sao.

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 10:27:43
.

Chào Tử Đinh Hương,

Nghe quen như tiếng Mộc Hoa Lê hay Hồng Tuyên Kiều, thật mừng ghê!
Cảm ơn Tử Đinh Hương nhé.

Như vậy Bản Tuyên Ngôn Độc Lập không phải làm năm 1946, Ngọc Lý lẫn với Bản Hiến Pháp 1946 rồi, thật là hay lẫn lộn ghê.

Thực ra thì Bản Tuyên Ngôn này được đọc ngày 2 tháng 9, năm 1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim, lúc ấy đã đại diện toàn dân Việt nhận lại quyền Độc Lập từ tay Nhật.

Vậy thì các lời hứa

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy,
có quyền được sống,
quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc.


thực ra đã trên 50 năm, quá nửa thế kỷ cơ đấy. 51 năm, nói cho đúng.

Còn các điều này nữa nè:

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.


...


Đúng tháng đúng ngày thì phải là 2 tháng 9 năm 1945 phải không bạn Tử Đinh Hương. Sắp đến ngày kỷ niệm rồi đấy, 2 tháng 9 chẳng còn bao xa.

50 năm linh một.

Một năm hơn nửa thế kỷ.

Hoàn cảnh vẫn không thay đổi, nhỉ.



Tôi thích nhất đoạn này:

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


thật thích hợp với tinh thần này của John Locke

"The ruler's powers are given to him as a trust
for the good of the citizens,
and if the trust is broken
his powers should be taken away".


Dịch:

Quyền hành của vị lãnh đạo được ban cho như là một sự tin tưởng vì phúc lợi của người dân, và nếu sự tin tưởng ấy đổ vỡ, quyền hành ấy sẽ bị tước bỏ.

Theo đúng tinh thần dân chủ và nếu Hiến Pháp được tôn trọng, thì điều này phải là một điều đương nhiên trọng một xã hội tiến bộ, độc lập, tự do, dân chủ.

Từ đó, nhà văn chân chính mới có thể đóng đúng vai trò thiên phú của mình: gióng lên tiếng kêu thay người dân, giúp xóa điêu xấu, thực hiện điều đẹp trong xã hội bằng cách nói lên sự thật trong tinh thân Nhân Văn, mà không bị bắt bớ, cầm tù vô lối.

Có như thế, mới tránh được nạn tham nhũng, lạm quyền, thối nát, hủ hóa,
an sinh của người dân mới được bảo đảm và đất nước mới tiến bộ.

Mong chúng ta giữ vững tinh thần Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.


Ngọc Lý
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.08.2006 10:48:00 bởi Ngọc Lý >

Tử Đinh Hương
  • Số bài : 68
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 10:43:49
Hihi... Tử Đinh Hương là Tử Đinh Hương trong 4 câu thơ ca ngợi Điêu Thuyền chứ ko phải là MHL hay HTK gì hết

Môi son hé nở cánh đào tân
Ngọc Trắng hai hàng nhả ánh Xuân
Đầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc
Rắp toan chém cổ kẻ gian thần


Chị thì nhầm nhiều rồi nhưng vì cái nhầm này là cơ bản, nó rũ sạch chút tin cậy của những người từng đọc chị nên em mới góp ý. Góp ý là tốt phải ko, chứ ko cứ để mọi người đọc rồi thì "người cười nụ, kẻ khóc thầm"...



Trích đoạn: Ngọc Lý

Tôi thích nhất đoạn này:

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


thật thích hợp với tinh thần này của John Locke

"The ruler's powers are given to him as a trust
for the good of the citizens,
and if the trust is broken
his powers should be taken away".


Dịch:

Quyền hành của vị lãnh đạo được ban cho như là một sự tin tưởng vì phúc lợi của người dân, và nếu sự tin tưởng ấy đổ vỡ, quyền hành ấy sẽ bị tước bỏ.

.


Rất tâm đắc câu cuối. Suy ngược. Thế nên khi quyền hành của lãnh đạo chưa bị tước bỏ nghĩa là họ vẫn trong sự tin tưởng của người dân, chưa có điều gì quá lớn để niềm tin ấy đổ vỡ.

Hihi... Có gì viết về trong nước mà chị hiểu mập mờ, chưa rõ ràng do hạn chế địa lý thì nếu có thể, chị gửi trước cho em biên tập giúp, em sẵn lòng canh 2 thức dậy để làm điều đó. Chúc thành công và dành được nhiều sự tin tưởng nha.

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 11:04:57
.

Chép lại bài trả lời nhé, xin Tử Đinh Hương đọc cho kỹ.

Tôi không hề nói bạn là Hồng Tuyên Kiều hay Mộc Hoa Lê.

Mà bạn có là Điêu Thuyền đem má đào lừa cả hai bố con Đổng Trác và Lữ Bố thì cũng là cái thứ loạn luân bất nghĩa bên Tầu, không ăn thua gì đến nước Việt. Tử Đinh Hương xem lại biên giới Hoa Việt cho kỹ nhé, nếu muốn làm Điêu Thuyền thì xin đi lên phía Bắc Ải Nam Quan. Từ phía Nam Ải Nam Quan, là nước Việt.

Theo cái thói của Tầu, Tần Thuỷ Hoàng chôn sống bao Nho sĩ, đốt bao nhiêu sách, làm cả nền văn hóa nông nghiệp phía Nam sông Dương Tử tan thành tro bụi.

Mao Trạch Đông không khác gì, giết trên dưới 80 triệu dân, thẳng tay tiêu diệt nền trí thức qua Cách Mạng Văn Hóa, coi trí thức Tầu thua "cục phân", thế thì văn hóa Tầu ngày hôm nay còn lại chỉ là thứ cặn bã, tôi chắc Điêu Thuyền có sống lại thì cũng không sánh nổi với Giang Thanh đâu, cũng đưa nước Tầu vào vực thẳm đen tối mà thôi.

Với bạo lực độc quyền toàn trị như vậy, thảo nào đến nay Trung Cộng vẫn còn trong ách cai trị của độc đảng toàn quyền, tiếng dân kêu than qua tập Cửu Bình oán lên thấu trời xanh.

Bạo lực có thể giúp bọn cầm quyền độc tài tại ngôi, đó không phải ý dân, đó không phải ý trời, đó lại càng không phải Hiến Pháp của nước Dân Chủ.

Khi nào còn độc đảng, thì Hiến Pháp chỉ là thứ bung xung.

Mời Tử Đinh Hương đọc lại bài viết của tôi lần nữa, đọc cho kỹ nhé, hiểu cho đúng nhé.


Trích đoạn: Ngọc Lý

.


Chào Tử Đinh Hương,

Nghe quen như tiếng Mộc Hoa Lê hay Hồng Tuyên Kiều, thật mừng ghê!
Cảm ơn Tử Đinh Hương nhé.

Như vậy Bản Tuyên Ngôn Độc Lập không phải làm năm 1946, Ngọc Lý lẫn với Bản Hiến Pháp 1946 rồi, thật là hay lẫn lộn ghê.

Thực ra thì Bản Tuyên Ngôn này được đọc ngày 2 tháng 9, năm 1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim, lúc ấy đã đại diện toàn dân Việt nhận lại quyền Độc Lập từ tay Nhật.

Vậy thì các lời hứa

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy,
có quyền được sống,
quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc.


thực ra đã trên 50 năm, quá nửa thế kỷ cơ đấy. 51 năm, nói cho đúng.

Còn các điều này nữa nè:

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.


...


Đúng tháng đúng ngày thì phải là 2 tháng 9 năm 1945 phải không bạn Tử Đinh Hương. Sắp đến ngày kỷ niệm rồi đấy, 2 tháng 9 chẳng còn bao xa.

50 năm linh một.

Một năm hơn nửa thế kỷ.

Hoàn cảnh vẫn không thay đổi, nhỉ.



Tôi thích nhất đoạn này:

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


thật thích hợp với tinh thần này của John Locke

"The ruler's powers are given to him as a trust
for the good of the citizens,
and if the trust is broken
his powers should be taken away".


Dịch:

Quyền hành của vị lãnh đạo được ban cho như là một sự tin tưởng vì phúc lợi của người dân, và nếu sự tin tưởng ấy đổ vỡ, quyền hành ấy sẽ bị tước bỏ.

Theo đúng tinh thần dân chủ và nếu Hiến Pháp được tôn trọng, thì điều này phải là một điều đương nhiên trọng một xã hội tiến bộ, độc lập, tự do, dân chủ.

Từ đó, nhà văn chân chính mới có thể đóng đúng vai trò thiên phú của mình: gióng lên tiếng kêu thay người dân, giúp xóa điêu xấu, thực hiện điều đẹp trong xã hội bằng cách nói lên sự thật trong tinh thân Nhân Văn, mà không bị bắt bớ, cầm tù vô lối.

Có như thế, mới tránh được nạn tham nhũng, lạm quyền, thối nát, hủ hóa,
an sinh của người dân mới được bảo đảm và đất nước mới tiến bộ.

Mong chúng ta giữ vững tinh thần Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.


Ngọc Lý

.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.08.2006 11:09:55 bởi Ngọc Lý >

Tử Đinh Hương
  • Số bài : 68
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 11:23:31
Oh... Chị đừng nổi nóng thế chứ. Nào... ta lại vui vẻ nào... Vậy chị lôi MHL và HTK vào đây làm gì, giọng giống hay ko giống thì quan trọng gì?

Hihi... Điêu Thuyền làm theo ý cha mình (chúng ta vừa có bài gì gì đó ko nhớ lắm về người cha trong văn học VN nhỉ) giết 2 chứ giết sạch cái lũ bất nhân, bất nghĩa như Đổng Trác, Lã Bố cũng chẳng tiếc làm gì. Tiếc chi thêm vài xẻng đất.

Mà sao lại lôi kéo cả mấy người kia vào đây làm gì cho chật chỗ nhỉ?

Hihi... Vậy là ta lại bác lại lời ta... Thành đồng Tổ quốc vẫn vững vàng lắm vì vẫn còn lòng dân. Nếu ai đó có ý định húc đầu vào thì vừa làm đau lòng dân mà thành đồng Tổ quốc chẳng hề suy chuyển.

Vui vẻ nha chị, mình là bạn mà. Em - với tính cách đặc trưng của người Việt, khoan hoà và dung thứ lắm... Nào... cười lên nào chị... Chúc chị vui vẻ... Sắp 2-9 rồi đó, cảm ơn chị đá nhớ đến Bản Tuyên ngôn lập quyốc.

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 11:38:57




Vui vẻ nha chị, mình là bạn mà.

Sắp 2-9 rồi đó, cảm ơn chị đá nhớ đến Bản Tuyên ngôn lập quyốc.





Vâng,

"hữu tình ta lại gặp ta
chớ nề u hiển mới là chị em..."


thế thì chúng mình cùng đồng lòng nhé,

Tôi thích nhất đoạn này:

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


thật thích hợp với tinh thần này của John Locke

"The ruler's powers are given to him as a trust
for the good of the citizens,
and if the trust is broken
his powers should be taken away".


Dịch:

Quyền hành của vị lãnh đạo được ban cho như là một sự tin tưởng vì phúc lợi của người dân, và nếu sự tin tưởng ấy đổ vỡ, quyền hành ấy sẽ bị tước bỏ.

Trở lại Trần Dần và Nguyễn Vũ Bình, cho đúng đề mục.

Mong tinh thần nhà văn Việt luôn ngời sáng theo gót Trần Dần và Nguyễn Vũ Bình. Và xin trân trọng đức hy sinh của Bà Khuê, vợ Trần Dần, và chị Kim Ngân, vợ Nguyễn Vũ Bình.

Xin được trân trọng ngòi bút của Trần Dần, Nguyễn Vũ Bình, cùng bao nhiêu nhà văn Việt Nam đã sống và viết đúng lương tâm, không ngừng tranh đấu cho sự thật và nền nhân văn Việt.


Ngọc Lý.


Tử Đinh Hương
  • Số bài : 68
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 11:48:04


Trích đoạn: Ngọc Lý




Vui vẻ nha chị, mình là bạn mà.

Sắp 2-9 rồi đó, cảm ơn chị đá nhớ đến Bản Tuyên ngôn lập quyốc.





Vâng,

"hữu tình ta lại gặp ta
chớ nề u hiển mới là chị em..."


thế thì chúng mình cùng đồng lòng nhé,

Tôi thích nhất đoạn này:

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


Ngọc Lý.


Vâng... Chúng ta cùng trở lại với Tuyên Ngôn Độc Lập nhé:

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP




Hồ Chí Minh



Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi ".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây dựng nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp. Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nộ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

HCM

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 12:15:25
.

Trong các loài chim, có chim Họa Mi là đặc biệt nhất.
Chỉ hót khi nghe tiếng đồng loại cùng hót.

"Đồng thanh tương ứng"

Con chim Họa Mi ôm bao khúc nhạc tự do thanh bình trong lồng ngực, khát khao.

Tìm đâu một tri âm?

Cho đến khi, lảnh lót giữa đen tối đau thương, rộn ràng một tấu khúc.

Nốt nhạc đầu tiên

Độc Lập

Nốt nhạc thứ hai

Tự Do

Nốt nhạc thứ ba

Hạnh Phúc

Giao hưởng trong âm giai Dân Chủ...

Réo rắt bổng trầm cơn mơ dài tô bởi bao xương máu trầm kha đớn đau tức tối tủi nhục u hờn... ác mộng từ đêm tối bỗng biến thành mơ hoa một sáng bình minh...

Triệu con chim Việt cùng ngứa cổ hót vang

Đàn chim kêu thiết tha qua núi cao rừng xa....

Độc Lập

Tự Do

Hạnh Phúc

Dân Chủ

....

Khi khám phả ra tiếng hót lảnh lót kia
chỉ thực ở một nốt đầu
chuỗi nhạc còn lại
phát ra từ một con chim máy được lên giây thiều
bởi một bàn tay đỏ bọc nhung

...

thì những con họa mi đã bị lùa vào lồng
mất tự do
không hạnh phúc
và tấu khúc

dở

dang


....

năm triệu con họa mi đã chết vì đồng thanh tương ứng tiếng chim máy gài vào họng súng...

....

triệu triệu lũ chim non đang tập hót
cùng một bài bản

khi được lên giây thiều

trong đêm


ác mộng
lảnh lót tiếng nhạc

bầy chim hót
trong lồng
đẫm máu




.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.08.2006 09:30:55 bởi Ngọc Lý >

Tử Đinh Hương
  • Số bài : 68
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 12:30:26
Xin góp vui với chị Ngọ Lý những suy nghĩ về chim cuốc:

Có con chim cuốc
Nó kêu
Quốc...
Quốc...

Suốt ngày
Đôi khi là cả suốt đêm
Cổ tích các cụ bảo nó là loài mất nước
Quốc...
Quốc...

Sao mà thê lương
Mà thảm thiết quá
Vang vọng khắp nơi ngòi rãnh
Đầu bờ cuối bãi
Góc ao

Đôi khi mất cả giấc ngủ trưa
Quốc...
Quốc...

Chị à... Em cũng có 1 bài hay lắm về Hoạ mi, lúc nào rảnh post chị coi.. Nhưng cũng hơi ngại mọi người trách lấy cái đẹp để phụ vụ ý đồ này nọ. Chúc chị vui...

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 25.08.2006 22:48:45


Trích đoạn: Trở lại bến xưa

Ủa! Vậy ra Ngọc Lý là phái hồng nhan ư? Bất ngờ, bất ngờ.





mấy ai học được chữ ngờ




Sở Khanh
  • Số bài : 50
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.05.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 26.08.2006 17:42:31
Xin lỗi vì mấy hôm nay chưa có thời gian để vào hầu bạn NL. Không phải Sở khanh tôi nói ngược mà NL bạn cố tình hiểu ngược. Và tôi vẫn giữ nguyên ý kiến, cá nhân bạn NL cố lạm dụng văn học để phục vụ cho mục đích của mình - chứ không phải là nói đến cái vĩ mô VĂN HỌC và CHÍNH TRỊ.

Tuy nhiên, SK tôi cũng hiểu lí do tại sao 1 số cây bút viết chưa thật sắc cứ phải đi tìm cái lí do nào đó để biện minh cho cái sự bút không sắc của mình. Và cái lí do dễ nghe nhất đó là "ngòi bút của tôi bị cầm tù" -
Và bút bây giờ có 1 chủ đề để viết: kêu gào về cái sự cầm tù, đòi hỏi phải đấu tranh giải phóng...
Tiếc thay lúc này văn đã thành vật mất rồi, dù có biện minh đến đâu thì vẫn thế.


Trích đoạn: Ngọc Lý

Hình như Sở Khanh nói ngược.

Hoặc bạn đã lầm hoặc bạn đã bị nhập nhằng giữa Văn Học và Chính Trị.

Khi Trần Dần bị bắt và bị vu cáo đến phải cứa cổ tự tử, đó là lúc Chính Trị đàn áp văn học.

Khi Hữu Loan bị lên án, bị trù dập, vì làm bài thơ tình "Màu Tím Hoa Sim" cho người vợ bé bỏng của ông, với đầy tình người, đó là lúc Chính Trị đàn áp văn học.

Khi Phùng Quán bị lên án vì yêu người con gái có gia đình là "địa chủ", và bị lên án vì "Tôi sẽ là một nhà thơ chân thật, chân thật trọn đời", đó là lúc Chính Trị đàn áp Văn Học.

Khi cả nước mà Văn Học tụt hậu, bài luận điểm 10 của kỳ thi vào Đại Học là một bài sao chép, văn sĩ chân thật bị cầm tù, tác phẩm bị tịch thu, còn nhan nhãn trên chợ văn chương là những thứ khiêu dâm, khích dục, tán tụng xác chết, đó là lúc Chính Trị đàn áp Văn Học.

Nếu bạn đọc lại Lịch Sử Văn Học từ 1945 đến nay, bạn sẽ thấy Văn Học Việt Nam bị chính trị bóp chết, cầm tù, ám hại, mạ lỵ, chụp mũ, phỉ báng... đến độ thảm thương.

Tôi nghĩ khi chúng ta can đảm nhìn ra điều này, là lúc chúng ta đang cố vực dậy một Nền Văn Học Tự Do, Độc Lập, và trả lại quyền sáng tác cho các ngòi bút chân chính.

Bạn hãy đọc Vương Trí Nhàn, tại đây: http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=161292

Bạn hãy đọc Phạm Khải, trong văn nghệ công an, tại đây:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=186957

Bạn hãy đọc Phùng Quán, tại đây:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=185598

và hãy lắng nghe tiếng kêu của nền Văn Học Việt.

Đã đến lúc chúng ta trả lại sự tự do tư tưởng cho mỗi người Việt, và trả lại sự suy tư độc lập cho mỗi ngòi bút Việt. Đây là một quyền căn bản của mỗi con người, được quy định trong Quốc Tế Nhân Quyền.

Đây là điều Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1946 đã lớn tiếng hứa hẹn với toàn dân Việt Nam, từ 50 năm trước.

Đã đến lúc chúng ta khẳng định là Chính Trị không được quyền can thiệp, chụp mũ, cầm tù, vu khống, giết chết VĂN HỌC VIỆT nữa.


Ngọc Lý

.

No one knows what its like
To be the bad man,
To be the sad man
Behind blue eyes.

Tử Đinh Hương
  • Số bài : 68
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2006
RE: Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ - 26.08.2006 18:36:30
Hôm qua biết bạn đi vắng mình đã vào... hầu Ngọ Lý giúp bạn rồi. Ngòi bút vốn đã ko sắc lại rỉ sét vì đã quá cổ xưa. Thật bất bình khi người ta dùng chim hoạ mi - 1 con vật hồn nhiên với những khúc ca tươi sáng tặng đời - làm công cụ phục vụ mục đích xấu xa. Đáng tiếc... Đáng tiếc...

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
Trần Dần - (1926-1997) - 16.08.2007 14:13:14
 

Trần Dần - nhà cách tân thơ Việt
Nguyễn Trọng Tạo - www.nld.com.vn
23-02-2007 22:22:33 GMT +7.



LTS: Nhân sự kiện các nhà văn, nhà thơ: Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, kể từ số báo hôm nay, trên trang Tác giả- tác phẩm số báo thứ bảy hằng tuần, chúng tôi giới thiệu những bài viết về con người và tác phẩm của các nhân vật nổi tiếng này.

Không phải đến hôm nay người ta mới gọi Trần Dần là “nhà cách tân”. Từ năm 1946 khi tham gia nhóm Dạ Đài, Trần Dần đã cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Địch… soạn ra bản “tuyên ngôn tượng trưng” nhằm cách tân thơ Việt sau rất nhiều thành công của Thơ Mới (trước năm 1945). Ông cũng là nhà tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến dịch Điện Biên Phủ với nhan đề Người người lớp lớp được phổ biến rộng rãi sau năm 1954. Dù được khen ngợi nhiều, nhưng Trần Dần vẫn chưa ưng ý. Ông thú nhận trong nhật ký rằng: “Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: Anh đã thấy (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang Người người lớp lớp”. Nghĩa là ông luôn trăn trở cho thơ văn phải hướng về phía trước, phía cách tân. Sau này, suy nghĩ về thơ, ông tuyên bố “phải chôn Thơ Mới”, tức là phải sáng tạo ra một thứ thơ khác, thời đại hơn, mới mẻ hơn những thành tựu đã có, dù Thơ Mới đã làm xong cuộc cách mạng thơ đặc sắc.

Cuộc cách tân thơ của Trần Dần sau hòa bình năm 1954 vừa mới khởi ra chưa được bao lâu thì đã bị tai nạn “Nhân văn – Giai phẩm”. Ông bị kỷ luật và bị “treo bút” 3 năm, nhưng thực ra thì mãi 30 năm sau mới xuất hiện trở lại văn đàn. Thuở ấy ông làm một cuộc du ngoạn vào Huế chơi với anh em văn nghệ chúng tôi. Những bài thơ dài của ông thời “Nhân văn – Giai phẩm” như Nhất định thắng, Hãy đi mãi… được nhiều người đọc lại. Còn ông thì khoe với tôi (ông ở nhà tôi mấy ngày) những tập bản thảo mà ông đã viết trong 30 năm im lặng ấy, gần 30 tác phẩm, đó là thơ-tiểu-thuyết Cổng tỉnh, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, Đêm núm sen… các tập thơ Mùa sạch, Thơ mini, Việt Bắc, v.v… Còn thơ trong các cuốn “sổ bụi” của ông thì nhiều vô kể. Đọc một số bản thảo của ông, tôi không ngờ rằng, một người nhỏ thó, gầy đét như ông lại có cả một trái tim lớn lao như vậy. Đấy là trái tim khát vọng “làm quốc ngữ”, làm “người nhân loại”. Có thể nói rằng bi kịch và cô đơn hoàn toàn đã buộc ông phải chiến thắng bằng vũ khí ngôn ngữ. “Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa” – ông quan niệm. Chính vì làm thơ kiên trì với quan niệm đó mà thơ ông đã mang đến cho nền thơ chung một lối thơ độc sáng. Có nhiều người ảnh hưởng lối thơ Trần Dần, nhưng không ai có thể vượt qua ông về lối thơ đó, vì đấy là thơ tự thân, đó là máu, mồ hôi và óc não của ông đọng thành những con chữ.

Thuở đầu, Trần Dần thích thơ Maiacovski. Những bài thơ bậc thang của ông đã tạo nên những nhịp điệu quyết liệt mạnh mẽ khi diễn tả những rung cảm đa chiều của ông về cuộc sống, về dân tộc:

“Biển súng rừng lê bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…


Nhưng về sau thơ ông đã đổi khác. Ông tạo ra những con chữ độc đáo, sinh động và đa nghĩa:

“Đừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!
Đừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ…
Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè…”.


Người ta nói rằng Trần Dần đã thổi hồn vào từng sự vật, thổi sự sống vào từng con chữ. Nhưng cái làm cho người đọc luôn bất ngờ là cái cách tư duy ngôn ngữ táo bạo, độc đáo và mới lạ của ông đã tạo nên những ấn tượng mạnh, thậm chí thoạt đầu gây sốc. Gây sốc bởi vì nó mới quá, nó lạ quá, nó không giống “thơ cũ”. Gây sốc bởi ông chủ trương “làm chữ”, làm những chữ mới và làm mới những chữ cũ. Đấy chính là Trần Dần một cá thể thơ.

Ngôn ngữ của Trần Dần luôn biến động và ta thấy cả sự lao tâm của ông cho từng con chữ. Lê Đạt nói “nhà thơ là phu chữ”, tôi nghĩ cụm từ này dùng để gọi Trần Dần thì vô cùng đắc địa. Ngay trong cả loại thơ kiểu văn xuôi của ông vẫn ngồn ngộn hình ảnh và cảm xúc thiên hà. Thơ trẻ hiện nay cố gắng nhiều trong thơ không vần hay thơ văn xuôi, nhưng đọc lại Trần Dần 30 năm trước, vẫn thấy ông còn mới mẻ đến bất ngờ:

“Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hỏa của tôi, kho nào chứa xuể? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di lại cho ai giờ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải”. (Sổ bụi 1979)


Thơ Trần Dần (cũng như tiểu thuyết sau “Nhân văn – Giai phẩm” của ông) ngồn ngộn chữ, ngồn ngộn da thịt, sự sống. Ông không phải một nhà thơ dễ đọc. Ông cũng không phải nhà thơ quần chúng hóa, mặc dù ông thơ hóa nhiều ngôn ngữ quần chúng. Những vấn đề cuộc sống và nghệ thuật luôn được ông soi rọi, chăm chút, xuất thần theo kiểu riêng của mình. Chính vì thế mà ông là người mở đường, người đi trước suốt nửa thế kỷ qua. Tôi khâm phục sự học của ông. Ông học bằng cách đọc thế giới (sách), đọc và quan sát suộc sống, học làm người nghĩa là làm một nhân cách cá biệt, đôi khi như kẻ lập dị giữa đời, giữa đám đông. Học bằng cách làm việc cật lực cho văn thơ. Học bằng cách ngồi dịch sách, dich tài liệu để kiếm sống. Năm 1983, nhạc sĩ Văn Cao nhờ tôi sang nhà Trần Dần mời ông đến nhà uống rượu nhân 60 tuổi, tôi chú ý vết đen trên tường sau chiếc ghế ông ngồi. Cái vết đen như một hình nhân, như cái bóng của ông. Ông đã ngồi dựa tường như vậy suốt mấy chục năm, để đau khổ, để cô đơn toàn phần, để suy nghĩ, để đọc và để viết. Ông viết rất chậm. Có lần Phùng Quán bảo anh Dần viết chậm thế thì bao giờ mới xong tiểu thuyết. Ông thủng thẳng trả lời: “Viết văn chứ có phải đi ăn cướp đâu mà cần nhanh”. Vâng, ông cứ đĩnh đạc như thế, cứ nặng chùy như thế. Và thế mới là Trần Dần.

Bây giờ ông đã xa cõi trần hơn 10 năm, đã được in tuyển thơ dày dặn và những tập sách khác, đã được giải thưởng Hội Nhà văn, Giải thưởng Nhà nước… Tôi nghĩ không có phần thưởng nào lớn hơn khát vọng của ông về chân trời và đường bay của nhân dân, của dân tộc. Hai câu thơ ông khóc hay là ông mơ ước:

“Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời”.



Hy vọng

Dù bị vứt bên lề đường
Dù bị tàn tật
Ta vẫn khăng khăng yêu Tổ quốc thật lòng
Dù manh tải đùm thân
Bị gậy bơ vơ trời không che đất không chở
Dù đêm nghe gió quét gậm cầu
Chỉ vài ánh sao lu làm củi lửa
Ta vẫn khăng khăng yêu Tổ quốc thật lòng
Dù chỉ còn một bên tai
Tai sẽ đón tiếng chim ru
Còn một bên tay - tay sẽ quờ quào
Vục một chút màu xanh quê cũ
Cho đôi môi khô uống một hụm trời

Dù xa lắc biển gầm Côn Đảo
Dù nơi đây sóng mặn chát lòng tằm
Ta vẫn sững mái đầu xờm con mắt xếch
Ngùn ngụt bể Đông xa
Tia mống cụt đâm trời
Dù ném thây ta cho cá rỉa
Ta sẽ cựa luân hồi đạp cửa thác sinh
Ta sẽ đầu thai làm gió lốc
Cùng các đám đông đi phố đỏ rừng cờ
Hãy đợi ở cầu Xanh hãy chờ nơi phố Hẹn
Vạt áo tứ thân con mắt ố đừng chùi
Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây
Đừng sa sút lá.
Để ta còn khuyên gió… gió đừng rung cây.



NGUYỄN TRỌNG TẠO


Đọc tiếp theo cùng đề mục:
« Bên Nhà: Nhân Văn-Giai Phẩm được tặng giải
« Văn Nghệ: Có phải người Việt thường không triệt để ?
» Bên Nhà: Hà Nội xin lỗi không chính thức phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ?
» Văn Nghệ: Thượng đế sẽ mỉm cười


 


http://ykien.net/blog/?p=586

<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.08.2007 14:19:25 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 27.02.2008 12:25:37
Phạm Xuân Nguyên

Trần Dần - Thơ ở đâu?
 


Hà Nội, sau hơn một tháng chịu đựng cái rét lạnh lùng đến mức kỷ lục, ngày Rằm tháng Giêng (21/2/2008) bỗng bừng nắng ấm. Ngày thơ Việt Nam lần thứ VI ở Hà Nội tổ chức tại Văn Miếu như thường niên vì vậy được hưởng lộc đất trời, thu hút rất đông người đến xem, đến nghe, đến gặp gỡ, giao lưu. Nhưng trong khá nhiều người đến Văn Miếu rằm này, vì xuân, vì thơ, riêng còn một lý do cũng rất thơ rất xuân: đón nhận tập thơ mới của Trần Dần. Vâng, sau những Bài thơ Việt Bắc, Cổng tỉnh, Mùa sạch từ thời đổi mới, sau Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật mới được trao vài năm trước, bây giờ Trần Dần lại xuất hiện. Trần Dần – Thơ. Một tập sách dày gần năm trăm trang in lại và in mới (chủ yếu) những sáng tác của Trần Dần trong mấy chục năm im lặng khuất mình trong bóng tối hiến mình cho con chữ. Bìa gấp ngoài tập thơ in một bức vẽ của chính Trần Dần minh họa cho một bài thơ ông viết thời 1960 – 1964:


Bài hát người lớn

Đi chởi! Đi chơi!
Đầu trọc bình vôi
Hai tay hai hòn sỏi
Đi chơi! Đi chởi!
Hai tay hai hòn sỏi
Đầu trọc bình vôi...

Đi chởi! Đi chơi!





 
Trần Dần - Thơ là một ấn phẩm thơ sang trọng, bề thế, xứng đáng với người thơ ấy và thơ này, xứng đáng sự háo hức chờ đợi của người yêu thơ. Việc ra được tập thơ là một công gian khó của Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam phối hợp cùng Nhà xuất bản Đà Nẵng. Tập thơ in ra là một sự kiện của văn học và văn hóa. Và mọi người yêu thơ, yêu Trần Dần, háo hức trông chờ ngày Thơ năm nay tại Văn Miếu được cầm trên tay Trần Dần - Thơ với tâm trạng đón chờ một sự kiện đẹp của Thơ, của Người.

Nhưng cái sự kiện ấy đã trở thành phản sự kiện.

Trong dòng người chen vai thích cánh vào Văn Miếu (một dấu hiệu đẹp cho Thơ), nhiều người đã được biết Trần Dần - Thơ ra đời, đã hay tin hôm nay tập thơ được bày bán tại quầy của Nhã Nam ở cả sân Thái Miếu và sân Thái Học. Họ đến quầy sách, họ nhìn vào các tập sách bày ra: Trần Dần - Thơ không thấy có. Họ hỏi các nhân viên bán hàng, đáp lại là sự im lặng rụt rè, và một câu trả lời nhỏ và ngắn: không được bày bán. Các nhà thơ hỏi nhau: vì sao? Các nhà báo hỏi nhau: vì sao? Chuông điện thoại réo rắt và thông tin được cập nhật truyền miệng: trước hôm rằm, Cục Xuất bản đã có cú điện thoại cho Nhã Nam bảo không được đưa Trần Dần - Thơ vào bán trong Văn Miếu ngày thơ. Nhưng... Nhưng... ai muốn mua, ai muốn có tập thơ ngay, hãy ra nhanh phố sách Đinh Lễ là có. Và từ Văn Miếu đã có những người ra vội Đinh Lễ.

Một số phóng viên túm lấy tôi phỏng vấn nhanh. Câu hỏi: Việc này thế nào và tại sao lại thế. Việc thế nào thì tôi cũng chỉ cập nhật tức thì những thông tin như đã nêu trên và nói lại với các phóng viên. Còn tại sao ư? Tại vì nỗi sợ của ai đó. Sợ Trần Dần - Thơ xuất hiện trong ngày thơ sẽ hút sự chú ý, đặc biệt chú ý, của mọi người vào ông và thơ ông. Sợ những con chữ Trần Dần sẽ khuấy động, khuấy đảo tâm cảm mỗi người đọc và gây ra những phản ứng thơ mạnh mẽ có thể khiến bàng hoàng trước một khối năng lượng sáng tạo cực mạnh, cực lớn từ gần nửa thế kỷ trước soi chiếu và phóng nổ vào hôm nay. Nói chung lại là sợ Chữ, sợ Thơ của một Nhà Thơ. Lẽ ra những điều này phải là mừng, là vui, và thế thì Trần Dần - Thơ là điểm nhấn đẹp cho ngày thơ năm nay, là niềm vinh quang cho những người làm thơ Việt. Nhưng đã không có sự lẽ ra đó.

Các nhà thơ ở Văn Miếu cũng đành hèn yếu và im lặng trước việc Thơ bị chặn cửa như vậy. Họ xì xào, họ xôn xao khi không thấy có Trần Dần - Thơ. Nhưng họ không dám trực tiếp lên tiếng hỏi thẳng ban tổ chức, hỏi nhà chức quyền, vì cớ gì một tập thơ đã được cấp giấy phép xuất bản, một tập thơ đã được in ra sau khi bị loại bỏ khoảng bốn chục trang, bỏ đi một số bài viết và bài thơ theo yêu cầu biên tập, tập thơ đó lại không được xuất hiện đàng hoàng, công khai tại một nơi không thể đẹp hơn cho thơ là văn Miếu và vào một ngày không thể hay hơn cho thơ là ngày thơ Việt Nam.

Một nhà báo nữ đã làm luận văn thạc sĩ về những bài viết về Trần Dần đến Văn Miếu mang theo cả toàn bộ bản thảo tập thơ với háo hức mua Trần Dần - Thơ để đối chiếu xem những chỗ nào bị cắt bỏ. Trước việc xảy ra, chị phẫn nộ và bảo tối qua tình cờ đọc đúng cái câu Trần Dần như đã tiên liệu số phận của mình và thơ mình:


Tất cả đến với tôi - phải đến tự đàng trước.
Đàng sau có gì? toàn LÁ-CHẾT những ngày qua.

Đến với Trần Dần và thơ ông là phải đến từ tương lai, chứ không phải đến từ quá khứ. Cái sự hành xử đối với Trần Dần - Thơ tại Văn Miếu trong Ngày thơ Việt Nam lần VI đúng là “LÁ-CHẾT những ngày qua”.







Ba tấm poster cho tác phẩm Trần Dần – Thơ do Công ty Nhã Nam chuẩn bị không được trưng bày
Từ Văn Miếu tôi và họa sĩ, nhà thơ Như Huy (người có bài viết “Tác phẩm Mùa sạch của Trần Dần qua góc nhìn của Nghệ thuật Ý niệm” in trong tập) đến trụ sở Công ty Nhã Nam. Ông giám đốc dẫn chúng tôi lên tầng ba. Ba poster dành cho Trần Dần - Thơ được chuẩn bị công phu đã không ra được Văn Miếu nên đành đứng đó. Ôi, Trần Dần!

Tôi có vệ tinh
rồi có nhà ga xanh
nhà ga tim
trong một vũ trụ
chẳng hiền lành.

Cái lồng chim quá chật
tôi bay đâu
cũng đụng đầu.

Giám đốc Nhã Nam cho biết một thông tin từ Đinh Lễ báo về là đã có người lấy sách thật Trần Dần - Thơ mang đi. Thế nghĩa là gì anh biết không? Nghĩa là chỉ ít hôm nữa Trần Dần - Thơ sách lậu sẽ tràn lan. Mà những kẻ làm lậu cuốn này chắc phải dùng scanner thôi, chứ không thể kỳ khu làm đúng như Nhã Nam đã làm được. Bởi vì Trần Dần - Thơ thật ngoài những bản thơ in đúng kiểu viết, kiểu chữ, kiểu trình bày của Trần Dần, còn có những bản in màu như tranh các trang thơ thị giác ông làm ra.

Trần Dần - Thơ ở đâu?

Thưa: ở thơ ông, ở người đọc thơ là bạn, là tôi. Ông không hiện diện ở Văn Miếu không phải do ông, không phải do Văn Miếu. Nhưng bạn sẽ gặp được ông, đọc được ông ở nơi bạn đến. Và khi đọc thơ Trần Dần, bạn hãy cùng ông thanh thản trong một tình yêu thương lớn và một niềm tin lớn.

Hãy ôm thế giới này, tha thứ cho nó.
Hãy thắp sáng mọi chòm sao cũ!
Cả những vì sao đã tắt lụi từ lâu.

Tôi chẳng muốn mang sang gì cả.
Nỗi buồn ga cuối còn nguyên.

Bạn hãy nhận lấy Trần Dần - Thơ như vậy!

Hà Nội – Sài Gòn
Rằm tháng Giêng Mậu Tý 2008

© 2008 talawas

 

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12371&rb=0101

<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2008 12:28:23 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 01.03.2008 14:49:35
Cha tôi - Nhà thơ Trần Dần
Trần Trọng Vũ
 

TP - Cuốn “Thơ” của Trần Dần mới xuất bản đã gây sự chú ý của dư luận. Chúng tôi xin trích giới thiệu bài viết của họa sĩ Trần Trọng Vũ, con trai của nhà thơ, để góp phần cùng bạn đọc giải mã một giai đoạn sáng tác của ông.




Năm 1993 tôi được đọc lần đầu Paul Auster qua bản dịch tiếng Pháp L’invention de la solitude. Cuốn tiểu thuyết mang nhiều tự sự, nhật ký và hồi ký.

Sau khi cha ông mất, nhà văn trở lại căn hộ nơi gia đình ông đã sống nhiều năm trước, để ngồi lại trong phòng riêng của cha, để nhận ra rằng ông đã không biết gì nhiều về cha ông, để lục tìm những đồ vật cũ, gạn hỏi quá khứ, để hiểu hơn về con người này.

Thời ấy, họ sống ngay cạnh nhau, trong cùng một căn hộ, nhưng mỗi người trong phòng của mình, nhưng không có những chia sẻ thân thiết. Vì nỗi cô đơn của mỗi người quá lớn.

Cuộc tìm kiếm quá khứ của nhà văn lại kéo dài khoảng cách của họ. Những sự kiện đến từ quá khứ mỗi lúc một thêm cụ thể thì hình ảnh cha ông ngày càng mờ nhạt, đến lúc dường như cha ông chưa bao giờ tồn tại trong cuộc đời của ông.

* * *

Năm 1997, bố tôi, nhà thơ Trần Dần mất tại Hà Nội. Phải đợi nhiều thời gian sau tôi mới cảm thấy sẵn sàng mở lại di cảo của ông. Nhưng không phải với hy vọng được xích lại gần với ông hơn, không phải để hiểu ông hơn. Cũng không phải vì sợ mất ông. Tôi đã không thể xử sự được như trong văn học.

Quan hệ chật hẹp của chúng tôi chưa bao giờ sóng gió đã cho phép tôi lựa chọn phần riêng tư nhất trong hàng trăm bản thảo và tình phụ tử nhiều ích kỷ dĩ nhiên đã khiến tôi, một cách tầm thường nhất, chỉ giữ lại những gì liên quan đến con người Trần Dần và nhà thơ Trần Dần.

Tất cả những sổ nhật ký của ông đều còn nguyên vẹn, nối liền những năm những tháng, ròng rã từ năm 1954 tới 1989. Nếu như những sổ tay đầu mang đề tựa Ghi vặt, có thể giúp tôi đọc lại được nhật ký của một người bố, một người chồng, một người yêu, thông qua những sự kiện thường nhật thì từ năm 1973 những sổ nhật ký đã trở thành những sổ thơ và từ năm 1979 là những sổ bụi hoặc vở bụi.

Không còn những chuyện đời thường, để có thể đem kể lại cho một ai đó để cung cấp bí mật về các nhân vật có thật hoặc để làm tổn thương danh dự của một vài người. Không còn cách nào khác là phải đọc cuộc đời của ông bằng văn học.

Nhưng một lần nữa tính ích kỷ của lòng hiếu lại cho phép tôi được xếp trả vào di cảo một phần rất lớn của những sổ thơ và sổ bụi này. Đó là khi nhà thơ viết lại những suy nghĩ chồng chéo của ông về một cuốn sách, một đoạn trích, một tác giả, một buổi nói chuyện văn học, một ý kiến Triết học hoặc Phật học, hoặc Kinh dịch, trong những phép chính tả của riêng ông, đôi khi trong những ký hiệu thị giác chưa ai có thể giải mã được.

Tôi chỉ có thể lấy ra những câu thơ hoặc bài thơ nằm rải rác khắp nơi trong ba mươi tư sổ tay- nhật ký văn học của ông, như những hạt bụi trong muôn vàn cơn mưa bụi.

TÔI và CHO TÔI

Nếu như các nhân vật xưng TÔI của Nhất định thắng, Cổng tỉnh, Bài thơ Việt Bắc , Jờ joạcx, Mùa sạch…có thể gợi ý người đọc liên tưởng tới Trần Dần thì chữ TÔI của các sổ bụi được khẳng định là tác giả khi ông gọi chúng là journal sauvage, là nhật ký anti - tự sự.

Phản tự sự không có nghĩa không có tự sự, mà trái lại tự sự là một trong những vị trí trung tâm của nhật ký. Không có tự sự thì làm sao phản được tự sự?

Nhưng nhật ký theo kiểu Trần Dần lại vượt khỏi mọi giới hạn của tự sự, để trở thành VĂN HỌC. Tự sự bị phản bội bởi chính nhà thơ vì văn học không bao giờ thuộc sở hữu của một người.

Chữ TÔI của ông, từ sổ thơ đến sổ bụi, không dùng để làm đối thoại. Những hội thoại văn học được bình lại trong nhật ký thường không có chữ TÔI.

Rất khó tìm thấy ở đây những đại từ nhân xưng mà người Việt ưa dùng để định vị trí, đẳng cấp của nhau, và để tỏ thái độ với nhau. Khi thuật lại một cuộc nói chuyện ba người dài suốt cả một cuốn sổ thơ (1976) ông bắt đầu thế này:

«Một hôm, vô hại, vô thưởng vô phạt, như mọi hôm vô vị vô mùi:

BÀNG: Có khi cần một travail symbolique?

ỔI: Không, không, mọi thiết định! Không?

CÁT: Làm quái gì, travail théorique?

BÀNG: Ừ, làm quái gì? …»

(Bàng = Trần Dần. Ổi = Đặng Đình Hưng. Cát = Đoàn Chúc [chú thích của ttv]).

Không thấy ai xưng danh cả. Và những trang thoại dài như thế đòi được giải mã, chỉ ngay từ những cái tên người. Nhưng tôi không nghĩ tất cả những độc thoại này đều chỉ đơn thuần là những ghi chép? Mà là một hình thức của văn luận?

Nếu có chữ TÔI trong những tranh luận này thì đó là những câu trích thơ của ông, lấy lại từ chính những trang khác của nhật ký. TÔI của sổ thơ của sổ bụi là chữ dành riêng cho tự sự, và cho thơ. TÔI không thể đứng chung với một người nào khác. TÔI để báo trước một cá thể cô độc. Có thể dựng lại chân dung và cuộc đời của người xưng TÔI, một cách hoàn chỉnh, từ lúc sinh tới khi chết, thông qua rất nhiều chữ TÔI như thế này:

Tôi chôn rau ở tận trời sao. (Sổ thơ 1973)

Tôi chẳng phải tù binh quả đất. (Sổ bụi 1979)

Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển. (Sổ bụi 1979)

Tôi không bao giờ hú với chó sói, chỉ một tội này họ chẳng thể tha tôi. (Sổ bụi 1982)

Chết đi, tôi vẫn mất ngủ. (Sổ bụi 1988)

TÔI bao giờ cũng ngạo nghễ, đầy khí phách, nhưng cũng không ít mâu thuẫn, không ít dằn vặt, không kém phức tạp. Những cuộc gặp gỡ trong văn chương Việt Nam thường xuyên chỉ cho tôi làm quen với những cái tôi đạo đức như ngọn cỏ, hoặc dễ chịu như một vị anh hùng không có thật.

Ít thấy ở đâu có ai dám đặt mình bên cạnh quả đất, vũ trụ, nhân loại, chân trời, cõi chết, vì sao bay, hoặc tồi nhất thì cũng dám đứng gần chó sói, sâu bọ, nhà tù… TÔI của sổ bụi không bao giờ còn đi cùng một cái tên cụ thể, dù chỉ là một địa chỉ như Tôi ở phố Sinh Từ của năm 1955.

Cùng với thời gian phố Sinh Từ đã bước ra khỏi cuộc đời nhà thơ, ra khỏi bản đồ hành chính thành phố Hà Nội, để ba mươi hai năm sau ông viết: Tôi sống ở hai chân trời… một trời hoành đạt, một trời sao bay?

Chữ TÔI của sổ bụi thường xuyên được đặt cùng với những yếu tố tích cực, luôn thay đổi, luôn chuyển động, không kích thước: chân trời, chân mây, gió, mưa, các vì sao.

Ông đã đến rất nhiều chân trời để biết rằng mỗi thay đổi chân trời / một thay đổi nhân sinh, để báo trước «đám ma tôi» : hôm ấy - lã chã sáu chân trời, lã chã sáu chân mây.

Và cũng để thú nhận rằng ông mỗi ngày thay áo mấy chân mây. Và các chân trời cũng đối ngược nhau làm sao. Nếu có một lúc nào đó ông nói: ở một chân trời tôi mở những chân mây, nếu có một lúc nào đó ông phàn nàn:
 
những giờ phút vắng chân mây? bao nhiêu lấp hổng không vừa, thì cũng nhiều khi chân trời lại làm ông thất vọng: bốn cẳng chạy tới chân trời? không bõ? không bõ? vớt về một canh cánh chiêm bao.

…Rồi có một lần, ông nói về hạnh phúc, nhưng không có chữ TÔI, và bản thân hạnh phúc cũng khó khăn thế nào : Thôi đi những hạnh phúc - quần đùi may sẵn! giầy dép - đóng sẵn! Số? Cỡ? Hạnh phúc chẳng mua ở công ti-may mặc-sẵn? những si lip sách chẳng vừa…cóoc sê jáo khoa ca mà thịt hở… (Sổ thơ kể kệ 1976) Hoặc những phút hiếm hoi như thế này cũng được kể lại theo cách viết rất riêng của ông:

«Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hỏa của tôi, kho nào chứa xuể? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di lại cho ai giờ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải» (Sổ bụi 1979)


Nhưng có khi TÔI trở thành CHO TÔI. Cặp quan hệ «tôi cho ai» và «ai cho tôi» có mặt trong thơ ông từ thời Cổng tỉnh, chẳng bao giờ được trả lời. CHO TÔI thực ra là cái vô lý mà trong đó TÔI không thể hiểu được, là cái không thể mà TÔI khao khát, là những tình thế mà TÔI không thấy lối ra. Nếu như TÔI có mặt thường trực suốt cuộc đời thơ của ông, thì CHO TÔI lại chỉ tập trung ở những thời gian nhất định, có vắng bóng, có hội ngộ:

sao lại cho tôi quê cháo lú. quên cha quên mẹ. quên ngày hội. quên chạm ngõ. cưới xin. chôn cất. tang chồng không để. để tang xô.

cho tôi về dưới Tía. cả ngày chong bóng xế. cho tôi về quá Mễ. tào lao giấc trắng phèo phèo.

sao lại cho tôi nhiều xương sống thế? trước quyền không biết lom khom? (Sổ bụi 1979)

Ai xuất tiền mặt cho tôi? (Sổ bụi 1982)


cho tôi ngồi fố khói? ga khói của lòng? bướm khói liệng sân ga? (Sổ bụi 1989)


Chữ TÔI kiểm điểm bản thân cùng một thời đại buồn rầu của Cổng tỉnh năm 1960 đến những sổ bụi không còn xếp cùng với thời đại của ông nữa. TÔI những năm tám mươi từ chối bên ngoài:

Nhân loại - tôi không chơi với các anh nữa

Ván nào anh cũng ăn jan… (Sổ bụi 1982)




Người đọc cũng có thể hiểu được rằng con đường từ TÔI đến TÔI đâu phải chỉ khép lại trong cô đơn, mà là kết quả của rất nhiều năm lao động: Từ tôi tới mình? vạn lí trường chinh..? mấy ai đi hết lữ trình? nửa đường rơi rụng sinh linh? (Sổ bụi 1987). Người đọc cũng có thể được lý giải vì sao chữ TÔI của thơ mini 1988 vừa khỏe mạnh, vừa đau đớn, lại vừa kiêu hãnh, đến ấm lòng:

Tôi khóc những chân trời không có người bay

Lại khóc những người bay không có chân trời

Có thể đây là một trong những lý do vì sao những bài thơ ngắn và cực ngắn, bắt đầu từ các sổ thơ 1973 đôi khi chỉ được đánh số thứ tự, phần nhiều chỉ được gọi là những bài «thơ lẻ», phải đợi đến năm 1988 những bài thơ ngắn mới được gọi là «thơ mini».



Thơ và họa của Trần Dần


THƠ và KHÁCH THƠ


Khi đọc bố tôi viết tác phẩm là bản gốc, đời là bản sao (Sổ bụi 1988) tôi đã cho rằng hai mươi ba năm sống cạnh ông tôi mới chỉ học thuộc bản sao của ông. Bản sao này cũng không trọn vẹn.

Tôi không được ở cùng bố tôi tám năm cuối của ông. Sau khi ông mất, bản sao này dần dần được thay thế bằng một cái gì khác, một cái gì mà cho đến tận bây giờ tôi vẫn không dám khẳng định có phải là THƠ của ông, là di cảo của ông. Tôi vẫn muốn làm sao giữ lại được bản sao ấy, dù chỉ là bản sao, dù nó không hoàn thiện.

Nhưng nếu cuộc đời ông đã được ông đem tặng cho THƠ? Nhưng nếu cuộc đời ông chính là một tác phẩm không được viết?

Tuy nhiên tôi không muốn băn khoăn tìm hiểu vì lý do gì cuộc sống gia đình và những thăng trầm của xã hội không được tham gia trực tiếp vào nhật ký của ông từ 1973. Ông còn có một mối nợ khác vô cùng riêng tư, mối nợ vẫn đi theo ông từ Bài thơ Việt Bắc, từ Nhất định thắng, từ Cổng tỉnh:

Tôi như có lời hứa chưa xong. Có lời nguyền chưa trọn. Có câu thề còn trăn trở nơi tim - thơ là trò rồ của những kẻ như tôi.  (Sổ thơ 1976)


Thơ là thuốc chữa cho ta, bệnh sống.

Chẳng bệnh gì đâu, chỉ mỗi bệnh sống. Không thơ, lấy jì chữa chạy júp dùm ta? (Sổ thơ 1975)


Thơ với tôi như tôn giáo không nhà thờ - không giáo chủ. Chẳng tăng sư? tôi vẫn chốt ở đền Bay-on chữ. Thơ là mạng sống, là lý lịch thật đời tôi. (Sổ bụi 1988)


Mối nợ của ông là THƠ. Mặc dù TÔI của sổ thơ sổ bụi đã được ông đem tặng hết cho THƠ vẫn có những lúc ngắn ngủi THƠ tách ra khỏi TÔI cũng giống như tạm xếp lại những tình bạn tuy thắm thiết nhưng lại ít dễ chịu của họ.
 
Những lúc ấy ông hiểu rằng: Thơ vì thơ, tuyệt đối. Hễ vì bất cứ gì khác, dù cao quý mấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ. Vì vậy, thơ khôn thể vì chim gái chẳng hạn. Những thơ tình, thơ chính trị, bất kì tính từ nào, đều vô nghĩa, với tôi. (Sổ bụi 1988). Và THƠ không có TÔI lập tức vứt bỏ mọi ràng buộc và giới hạn, của ngôn từ và kích cỡ, được nhà thơ chiêm ngưỡng từ xa, vô cùng say sưa:

Thơ là cái thăm thẳm. (Sổ bụi 1988)


Có một vùng thơ tên gọi không lời. (Sổ bụi 1988)


Vùng mù…vùng tổ của vùng thơ. (Sổ bụi 1984)


Tuy nhiên, việc phi thường chờ người phi thường, có nhà thơ mới có thơ (Sổ bụi 1984), nhà thơ được ông gọi là người thơ, thi sĩ… và khách thơ. KHÁCH THƠ mang nhiều trùng lập với con người Trần Dần, cả hai cùng bị lạc tới quả đất, và ông quan sát KHÁCH THƠ với nhiều thương xót.

Bản thân ông là người chôn rau ở tận trời sao, bản thân ông còn xa lạ quá quả đất, để có thể cảm thông với vị khách lạc, để nói nhưng không rõ với ai:

Khách thơ chẳng thích gì quả đất. Anh lạc hành tinh rồi! Tội nghiệp! (Sổ thơ 1975)


Trong cùng một sổ thơ, ông gặp những con đường cũng biết ước mơ, gặp một sân ga im lặng trắng, gặp những vì sao biết là áy náy hộ vì ai, gặp khách thơ nhưng không bao giờ, và bao giờ, khách thơ có chỗ, ở trong huyên náo địa dư-người.

Ông trách: Trăng Á mặt trời Âu đều chẳng chiếu. Vào chỗ nào là chỗ khách thơ đau. Trong những sổ thơ và sổ bụi sau này không thấy KHÁCH THƠ quay trở lại quả đất nữa. KHÁCH THƠ giống như một cuộc viếng thăm không lời, đến từ một vùng thơ không lời, và vội vàng khép lại…

Đến thời gian làm thơ mini 1988 nhà thơ của ông có lúc không còn mang bóng dáng của người khách thơ im lặng và thi sĩ đầy khát vọng, mà gai góc khó chịu: Mỗi nhà thơ mang một địa ngục. không ai người chung sống nổi với nhà thơ. Nhưng nhiều khi nhà thơ ấy lại đời thường biết bao, và ngay cái đời thường lại nghịch lý đến tầm thường. Tôi không thể mỉm cười được trước những bông hoa không được rắc nước hoa, bởi bài thơ chính là quan niệm của ông về THƠ và NHÀ THƠ:

người thơ
không rắc nước hoa
lên những bông hoa mình trồng.


 

Sổ bụi CUỐI

Tôi đã không tự hỏi, khi lục tìm di cảo, đâu là những dòng viết cuối của bố tôi? Tôi đã bắt đầu bằng những tác phẩm nằm, là những trường ca, những tập thơ đã hoàn chỉnh, những tiểu thuyết, tranh vẽ và thơ vẽ không có lời mà ông gọi là Thơ cơ bản, rồi những tập thơ có lời mà ông lại gọi là Thơ không lời.

Bốn năm sau khi ông mất, tôi mới đọc những sổ thơ và sổ bụi. Tôi nghĩ đã thu xếp cho mình đủ bình tĩnh để đọc nhật ký của người khác. Tôi đã đọc ba mươi tư sổ tay, không theo trình tự, không hiểu hết, không nhớ hết, và không biết tôi đã đọc những dòng viết cuối của ông từ lúc nào.



Năm 1989 bắt đầu, và thật kỳ lạ, đây là trang sổ bụi duy nhất có ghi ngày tháng, nằm lẫn vào trong những trang cuối của sổ bụi 1988:

“Ngày 23 tháng 1 năm 89, tức ngày mùng 10 Chạp Thìn.

Dương đã 89. Âm vẫn chửa sang trang Kỷ Tị. Thời gian châu Á vẫn tiêu sâm…

Tôi chẳng muốn mang sang gì cả. Nỗi buồn ga cuối còn nguyên”.

Sổ 1988 hết trang, ông sang sổ mới. Đây mới là cuốn nhật ký cuối cùng của ông, sổ bụi 1989. Ông bắt đầu như thế này:
 

Canh bạc giao thừa - thua cũng được?

đời

   đau - thi

          cách rõ ràng…
 

Rồi có những bài thơ mini:
 

Tia mắt chiêm bao ngạt ngào quanh thế. Người về bang cũ có buồn không?

Cố nhân bang mới buồn như khói? Tấm lòng ga cuối lặng như đêm.

ngã ba đen? ngã ba đen?

sự vật không đèn?

ai khóc?

ngã ba tim?
 

Và rất nhiều chữ CUỐI, chưa bao giờ cùng tụ tập lại như thế này:
 

- hoa soi? hoa sói. hoa sòi. hoa khói? ga cuối của lòng.

tim cuối? hai bàn chân cuối?

  “Đây rồi phố cuối – khóc đi thôi”

- tuổi cuối?

hai bàn chân cuối vẫn ra đi

- xá gì khi khói - cuối đã bay đi?

mây cuối của lòng?

con mắt cuối vẫn chong chong?

- tuổi cuối?

ga cuối của lòng

nghe hát thương hoa…


 

Ở một trang khác, là chính ông đứng chống gậy ngoài phố. Ngoài ngã ba phố hay ngã ba tim? Đây chính là hình ảnh ông mà ai đã biết ông đều nhận ra. Đây cũng chính là một ông già tập tễnh trong mắt người đời, trong con mắt trẻ con, bị trẻ con trêu. Không thể đọc một cách bình thản được:

“ngã ba tim. từ ngã ba tuổi. từ đèn ngã ba? - ông già hoè? ông koè? tôi iêu ông già hoè?

không iêu ông già koè? - tôi iêu ông jà koè! tôi iêu ông jà hoè!”

Nhưng rồi những day dứt của ông lại nhanh chóng nhường chỗ cho một mùa thu rất xanh và một cơn mưa mà ông đã gặp từ hồi Nhất định thắng, từ hồi Cổng tỉnh:

“cho tôi ngồi fố khói? ga khói của lòng? bướm khói liệng sân ga? tầu khói. chung nhau màu tuổi khói? đâu dè mắt khói chiêm bao. mây bay? chung đôi ngồi kể khói? mưa rất xưa mà thu rất xanh. mắt khói thế này. mắt khói để cho ai?”

Tôi không cho rằng một mùa thu rất xanh có thể đóng lại toàn bộ những sáng tác của ông. Tôi vẫn biết không bao giờ ông bằng lòng với những gì ông đã làm.

Không hiếm khi ông đã tự trách mình: tuổi 60 rồi? không viết nổi một câu thơ? Anh 60 rồi chẳng có quê? Cho dù đối với ông ghi trở nên một hình phạt (1958) ông vẫn tiếp tục viết những bức thư không gửi cho những sổ tay, những đau lòng sổ bụi. Phải lâu lắm tôi mới tìm lại được trong sổ bụi 1988, khi ông nói về thơ mini, những dòng chữ sau: tôi thích viết cái chưa biết, mặc các ông viết cái đã biết. 90 có hoàn thành không? có thành công không để mà đốt đi? Tôi đã đốt tôi đi không phải chỉ đôi lần…cái chưa biết- cái khó - thậm chí cái bất khả thu hút và đắm đuối tôi.

Dấu vết nhỏ bé này đã cho phép tôi đặt câu hỏi có phải ông đã tự chuẩn bị cho mình ngày đóng cửa bốn mươi sáu năm ghi nhật ký từ một năm trước?

Có phải những năm sau 89, ông đã không còn muốn nhẩy qua bóng của mình? Có phải ông đã có linh cảm không lành về cái mới, về bệnh tật sẽ cướp đi trí nhớ và sự minh mẫn của ông năm năm cuối đời?

Có phải ông đã huỷ toàn bộ phần sau của sổ bụi để tay không mà đi sang BÊN KIA. Như ông vẫn nói: Tôi chẳng muốn mang sang gì cả. Nỗi buồn ga cuối còn nguyên.
 

Paris, tháng 4 năm 2003
Trần Trọng Vũ
 
 
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=112924&ChannelID=7
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.03.2008 15:00:11 bởi Ngọc Lý >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 05.03.2008 01:46:51
Bùi Minh Quốc
Thư ngỏ về việc tập sách Trần Dần–Thơ bị đình chỉ phát hành

Hà Nội, ngày 2 tháng 3 năm 2008


Kính gửi:
  • Ông Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, Quốc hội CHXHCN Việt Nam
  • Ông Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông CHXHCN Việt Nam
  • Ông Tổng Thanh tra Chính phủ CHXHCN Việt Nam
  • Đồng kính gửi Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam cùng toàn thể các đồng nghiệp trong Hội
Tôi là Bùi Minh Quốc, một người làm thơ, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ký tên dưới đây, xin trân trọng gửi các vị thư ngỏ này nhân vụ việc liên quan đến tập sách Trần Dần–Thơ (Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản, 2008) vừa bị ngừng phát hành.

Thưa các vị,

Toàn bộ thông tin về vụ tập sách Trần Dần-Thơ tôi nhận được là từ lời Tổng biên tập Nhà xuất bản Đà Nẵng trả lời phỏng vấn của đài BBC và từ bức Thư ngỏ viết ngày 01.03.2008 của các đồng nghiệp

Nguyễn Huệ Chi
Giáo sư, nguyên Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Văn học Việt Nam

Dương Tường
Nhà thơ, dịch giả

Phạm Xuân Nguyên
Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội

Hoàng Hưng
Nhà thơ, dịch giả

Giáng Vân
Nhà thơ, nhà báo

Phạm Toàn (Châu Diên)
Nhà văn, dịch giả

Tôi tin rằng những thông tin ấy là chính xác.

Tôi đề nghị các đồng nghiệp tác giả bức thư ngỏ nói trên cho tôi được cùng ký tên vào đó.

Ngoài ra, xin được phát biểu thêm (và nhắc lại) một số ý kiến như sau:
  1. Việc bắt phải ngừng phát hành tập sách Trần Dần–Thơ với lý do “vi phạm hành chính về xuất bản” cần phải được công bố công khai trên các báo đài trong nước để “dân biết, dân bàn”.
  2. Theo nhận xét của riêng tôi, việc bắt phải ngừng phát hành tập sách Trần Dần–Thơ với lý do “vi phạm hành chính về xuất bản” thực chất chỉ là hành vi tiếp tục vùi dập một công trình văn hóa bị buộc phải cất kỹ trong ngăn kéo đằng đẵng bao năm qua, trong khi đáng ra công trình ấy cần được đưa tới bạn đọc càng sớm càng tốt.
  3. Nhà thơ Trần Dần đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (cùng với các bạn ông trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm là Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt), đấy là biểu hiện một bước nhích tới rất đáng khích lệ của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới. Hành vi của một số người chủ chốt trong đoàn thanh tra liên ngành do Bộ Thông tin–Truyền thông cầm đầu thực chất là hành vi chống đổi mới, làm tổn thương danh dự của Đảng và Nhà nước ta trước giới trí thức văn nghệ sĩ cả nước và toàn thế giới.
  4. Hành vi nêu trên thực chất là nối tiếp một cách khác nhiều hành vi tương tự trước đây, mà điển hình là vụ đưa vào máy nghiền một tác phẩm rất giá trị và không hề vi phạm pháp luật là cuốn tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Điều đó chứng tỏ có một thế lực chống đối mới trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ đang lộng hành hoạt động phá hoại dai dẳng và có hệ thống; thế lực này tiếp tục vùi dập các tác phẩm giá trị và các tác giả tài năng đồng thời mở lối rất dễ dãi cho xuất hiện tràn lan những sản phẩm tầm thường. Tôi xin nhắc lại, tai họa lớn, bao trùm, (và dai dẳng) đối với nền văn hóa Việt Nam hiện nay chính là sự lấn át tràn lan của cái tầm thường.


  5. Vì vậy, tôi khẩn thiết yêu cầu Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt nam cần có thái độ về vụ việc này đồng thời tổ chức ngay một hội thảo chuyên đề về hai tác phẩm bị cấm, bị nghiền là Trần Dần–Thơ và tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000.
  6. Tôi hy vọng tất cả các đồng nghiệp trong và ngoài Hội Nhà văn Việt Nam có tiếng nói kịp thời của mình. Tôi đặc biệt chờ đợi ý kiến của các nhà văn Vũ Tú Nam, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên tổng thư ký, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng, nguyên phó tổng thư ký, Xuân Cang, nguyên trưởng ban kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam.
  7. Quyền tự do sáng tác phải gắn liền với quyền tự do báo chí và tự do xuất bản chứ không thể là tự do sáng tác để cất vào ngăn kéo. Luật báo chí và luật xuất bản hiện hành là vi phạm hiến pháp vì không đảm bảo quyền tự do báo chí và tự do xuất bản của công dân. Đây là trở lực lớn nhất cần phải sớm tháo gỡ để mở đường cho sự nghiệp phát triển văn hóa Việt nói riêng và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước Việt Nam nói chung. Vụ việc đối với tập sách Trần Dần–Thơ càng thôi thúc các nhà văn Việt Nam phải kiên quyết hơn nữa trong cuộc chiến đấu (ôn hòa và hợp pháp) để giành lại quyền tự do cơ bản ấy mà chúng ta đã từng có (một thời gian ngắn) sau Cách mạng tháng Tám 1945 và sau tháng 10 năm 1954 (trên miền Bắc).
Bùi Minh Quốc
03 Nguyễn Thượng Hiền-Đà Lạt
ĐT: 063-815459 * 0918007842



Phụ lục
Thư ngỏ


Hà Nội, ngày 1 tháng 3 năm 2008


Kính gửi:
  • Ông Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóaKhoa họcGiáo dục, Quốc hội CHXHCN Việt Nam
  • Ông Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, Quốc hội CHXHCN Việt Nam
  • Ông Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông CHXHCN Việt Nam
  • Ông Tổng Thanh tra Chính phủ CHXHCN Việt Nam
  • Ông Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam
Chúng tôi, những nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ, khoa học, và những người yêu quý văn học nghệ thuật, ký tên dưới đây, xin trân trọng gửi các vị thư ngỏ này nhân vụ việc liên quan đến tập sách Trần Dần – Thơ (Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản, 2008) vừa bị ngưng phát hành.

Thưa các vị,

Trần Dần (1926–1997) là một nhà thơ nổi tiếng và quan trọng của Việt Nam. Ông là một chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, là một nhà văn nhà thơ đã có nhiều tác phẩm đóng góp cho sự nghiệp văn học nghệ thuật của đất nước. Mặc dù bị oan khiên hoạn nạn trong vụ Nhân văn–Giai phẩm, nhiều chục năm phải sống trong im lặng và bóng tối, Trần Dần với bản lĩnh của một nghệ sĩ chân chính vẫn không ngừng sáng tạo và đã để lại một di cảo đồ sộ có giá trị cách tân to lớn đối với văn học Việt Nam. Mười năm sau khi ông qua đời, mới chỉ có một phần nhỏ của di cảo đó được xuất bản: Bài thơ Việt Bắc, Cổng tỉnh, Mùa sạch, và tập Cổng tỉnh đã được nhận Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994. Năm 2006, Trần Dần đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng với các bạn ông trong nhóm Nhân văn–Giai phẩm là Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán.

Nhưng trong khối di cảo đồ sộ của Trần Dần vẫn còn nhiều sáng tạo giá trị. Độc giả, đặc biệt là những người yêu thơ, vẫn khao khát chờ đợi được biết thêm, khám phá thêm những thể nghiệm thơ phong phú, đa dạng của ông suốt trong ba mươi năm lầm lũi làm việc trong bóng tối theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tập Trần Dần–Thơ, được chắt lọc từ di cảo với nhiều tâm huyết và công sức, là một cố gắng của gia đình nhà thơ, của những người biên soạn và của nhà xuất bản nhằm đưa ra ánh sáng những sáng tác của một nhà thơ lớn, đáp ứng yêu cầu thưởng thức của công chúng độc giả. Đây có thể coi là một tuyển tập thơ Trần Dần tương đối đầy đủ và toàn diện, khả dĩ có thể làm vinh dự cho nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Cuốn sách đã in xong, đã được phép phát hành, và đã được đưa ra thị trường. Giới văn học cả nước và đông đảo công chúng yêu thơ đang háo hức tìm mua, tìm đọc. Nhưng trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ VI (21/2/2008) tổ chức tại Văn Miếu, Hà Nội, tập Trần Dần–Thơ đã không được phép đưa vào bán bình thường như các cuốn sách khác, theo một lệnh miệng từ Cục Xuất bản. Tiếp đó, ngày 26/2/2008, sau cuộc làm việc của đoàn thanh tra liên ngành do Bộ Thông tin-Truyền thông cầm đầu với Công ty Nhã Nam, tập Trần Dần–Thơ đã bị ngưng phát hành vì lý do “vi phạm hành chính về xuất bản”.

Thưa các vị,

Những động thái nói trên đối với tập sách Trần Dần-Thơ từ phía cơ quan quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông đã thực sự gây băn khoăn và lo ngại cho giới văn học và công chúng. Một tập thơ đã được chuẩn bị và biên soạn kỹ lưỡng, công phu trong suốt hai năm trời, tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình xuất bản, vừa được ra đời và phát hành thì đột nhiên bị ngưng với một lý do hoàn toàn không phải về tư tưởng, nội dung. Chúng tôi lấy làm khó hiểu về điều này. Và từ thực tế hành xử của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các tác phẩm sáng tạo trong đời sống văn học nghệ thuật nước nhà lâu nay, chúng tôi lấy làm lo ngại cho số phận của tập sách Trần Dần–Thơ. Xin phép được nhắc lại với các vị hai việc gần đây là việc thu hồi và thủ tiêu tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (2000) và việc gỡ tác phẩm đang triển lãm của hai họa sĩ Trương Tân và Nguyễn Quang Huy (2007).

Ở nước ta lâu nay việc cấm đoán tương tự đối với tác phẩm văn hóa nghệ thuật thường xảy ra. Ai cũng biết hành động này không những thiếu văn minh và không mang tính pháp lý, mà còn bóp nghẹt tự do sáng tạo, kìm hãm sự phát triển văn hóa, biểu hiện sự thô bạo và ấu trĩ của một cung cách quản lý xã hội bất chấp pháp luật và đứng trên những quan hệ dân sự tối thiểu của một quốc gia thực tâm định hiện đại hóa. Tuy nhiên nó cứ tiếp tục diễn ra chỉ vì lâu nay không mấy ai lên tiếng phản đối, và có phản đối thì cũng bị vùi lấp trong sự im lặng đáng sợ.

Thưa các vị,

Nhân danh những người Việt Nam yêu nước,

Nhân danh những người Việt Nam có tri thức và có văn hóa,

Nhân danh những người Việt Nam có tinh thần và năng lực công dân,

Vì sự tồn vong và phát triển của đất nước,

Chúng tôi, ký tên dưới đây, yêu cầu các vị:

Trước mắt, hãy xem xét và đình chỉ ngay mọi hành xử nhằm ngăn chặn việc phát hành sách Trần Dần–Thơ của một nhà thơ quá cố mà nội dung chỉ đem lại vinh dự cho dân tộc Việt Nam văn hiến này.

Tiếp đó, hãy xem xét lại cung cách ứng xử của những cơ quan nhà nước về mặt pháp lý và về quan hệ dân sự đối với những trường hợp tương tự trường hợp của nhà thơ Trần Dần, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, các họa sĩ Nguyễn Quang Huy và Trương Tân.

Sau nữa, trên tinh thần tôn trọng pháp luật và tôn trọng các giá trị nhân quyền và văn hóa, từ nay cần chấm dứt cách thức hành xử thiếu văn minh và thiếu cơ sở pháp lý đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật nói riêng, các sáng tạo tinh thần nói chung.

Xin kính gửi các vị lời chào trân trọng và xin cám ơn trước về những biểu hiện văn minh dân sự mà chúng tôi chắc chắn sẽ nhận được từ các vị.

Nguyễn Huệ Chi
Giáo sư, nguyên Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Văn học Việt Nam
Dương Tường
Nhà thơ, dịch giả
Phạm Xuân Nguyên
Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội
Hoàng Hưng
Nhà thơ, dịch giả
Giáng Vân
Nhà thơ, nhà báo
Phạm Toàn (Châu Diên)
Nhà văn, dịch giả

© 2008 talawas
 
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12446&rb=0102

HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 06.03.2008 11:23:56




26 Tháng 2 2008 - Cập nhật 13h50 GMT
 
 Rắc rối cho thơ Trần Dần  









Thơ Trần Dần được ấn hành sau nỗ lực của nhiều người
Chỉ vài ngày sau khi tập thơ Trần Dần được phát hành ở Việt Nam, đã lan đi tin đồn rằng cuốn sách có thể bị thu hồi. Nửa thế kỷ từ sau biến cố Nhân văn - Giai phẩm, cuốn Thơ Trần Dần dày gần 500 trang, do NXB Đà Nẵng và Công ty Nhã Nam ấn hành, được xem là tác phẩm bề thế nhất từ trước tới nay của nhà thơ được in chính thức ở Việt Nam.
 
Tuy nhiên, trong ngày thứ Ba 26-2, tin đồn về chuyện tập thơ vừa mới xuất bản của Trần Dần có thể bị thu hồi trở thành đề tài liên tục được các blogger trên mạng bàn tán.
Gây chú ý
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói với BBC rằng ông nghe tin trong chiều nay đã có buổi làm việc giữa đoàn liên ngành của Bộ Văn hóa với công ty Nhã Nam.
"Tôi nghe nói cuốn sách bị tạm thời chưa cho phát hành, áp dụng cho số sách còn nằm trong kho của Nhã Nam. Lý do vì sao, tôi chưa rõ. Có nguồn tin nói lý do liên quan quy trình sản xuất cuốn sách, chứ không phải vì nội dung."







 Tôi nghe nói cuốn sách bị tạm thời chưa cho phát hành, áp dụng cho số sách còn nằm trong kho của Nhã Nam Phạm Xuân Nguyên
Nhà sách Nhã Nam đã dành khá nhiều công sức cho việc giới thiệu quyển thơ của Trần Dần, nhân vật được coi là đi đầu trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, một thời gian dài bị lên án, bị cấm tại Việt Nam, nhưng gần đây được công nhận trở lại, được đánh giá công trạng.
Tuy vậy, thái độ của giới lãnh đạo văn nghệ tại Việt Nam có vẻ vẫn còn ít nhiều e dè với cả lý lịch lẫn tư tưởng cách tân của nhà thơ Trần Dần.
Ông Phạm Xuân Nguyên cho biết trong Ngày Thơ Việt Nam ở Văn Miếu hôm 21-2, tập Thơ Trần Dần đã không được phép bày bán tại đây.
Trước mắt, tin đồn trên mạng khiến một số người yêu thơ chạy đi mua những quyển thơ đang còn nằm trong hiệu sách.
Từ Hà Nội, những người có trách nhiệm ở nhà sách Nhã Nam từ chối trả lời chính thức bất cứ câu hỏi nào của BBC.
Đây là sản phẩm do Nhã Nam cộng tác với NXB Đà Nẵng. Ông Nguyễn Đức Hùng, phó giám đốc NXB Đà Nẵng và cũng là người chịu trách nhiệm biên tập di cảo thơ của Trần Dần, không khẳng định với BBC là tập thơ có bị thu hồi hay không.







 Nếu có động tác thu hồi, đó là quyết định cực kỳ sai lầm  Nguyễn Đức Hùng
Nhưng ông nhấn mạnh nếu có quyết định thu hồi, thì đó là quyết định sai lầm.
"Tất cả quy trình chuẩn bị cho việc xuất bản tập thơ được làm rất kỹ và đúng luật. Bản thảo giao cho chúng tôi là 2006, nay mới xuất hiện. Không có lý do gì mà thu hồi cuốn sách. Trần Dần là nhà cách tân lớn của văn học Việt Nam. Cho nên nếu có động tác thu hồi, theo tôi, đó là quyết định cực kỳ sai lầm và sẽ gặp sự phản đối rất mạnh mẽ."
Truân chuyên
Trong phong trào Nhân văn - Giai phẩm đòi tự do ngôn luận trong thập niên 1950 ở miền Bắc, Trần Dần là một trong những gương mặt quan trọng nhất.
Bài thơ 'Nhất định thắng' của ông, in ở Giai phẩm mùa xuân tháng Hai 1956, bị phê phán nặng nề.
Trong thời gian bị bắt giam ba tháng, Trần Dần từng dùng dao lam cứa cổ trong một khoảnh khắc muốn tự sát.
Tháng Bảy 1958, Trần Dần, cùng một số người khác, bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, mở đầu giai đoạn suốt 30 năm bị gạt ra khỏi sinh hoạt chính thống.
Năm ngoái, 10 năm sau khi Trần Dần qua đời, Giải thưởng Nhà nước trao cho bốn người - Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán (mất năm 1995) và Trần Dần - được xem là sự tôn vinh chính thức của chính quyền đối với những người từng liên lụy vì Nhân văn - Giai phẩm.
Việc xuất bản di cảo của Trần Dần không hẳn đã suôn sẻ.
Tác phẩm Thơ Trần Dần từng được gửi cho NXB Hội Nhà Văn năm 2006, nhưng bị trả lại.
Để được ra mắt đầu năm 2008, cuốn sách đã phải bỏ bớt một vài bài thơ của tác giả.
Tuy vậy, không phải tất cả những người quan tâm ở Việt Nam đều cho rằng tin về việc thu hồi tập thơ là vì những lý do liên quan nhà thơ hay nội dung sách.
Theo một người quen thuộc với vụ việc, thì cũng có tin nói rằng rắc rối cho tập thơ lại xuất phát từ mâu thuẫn nội bộ trong NXB Đà Nẵng.
Nguồn tin này nhận xét "ở Việt Nam, người ta cứ hay quy kết mọi chuyện theo góc độ chính trị, nhưng đôi khi lý do nằm ở những chỗ khác."
Những ý kiến trong giới văn học nói với BBC bộc lộ hai luồng khác nhau.
Một phía lo ngại cho số phận cuốn di cảo của một nhà cách tân mà cho đến hôm nay vẫn chưa được đánh giá đầy đủ.
Phía khác lại cho rằng sau những ồn ào, cuốn sách rồi vẫn sẽ tiếp tục có mặt ở những tiệm sách tại Sài Gòn, Hà Nội.
Điều có thể thấy được là trong những ngày qua, Thơ Trần Dần đã được nhiều người đọc tìm mua ráo riết.





Đà Giang
Từ nhỏ tôi đã nghe xì xèo đến tên Trần Dần, và một số nhà thơ, nhà văn, nhà báo mà gọi chung là nhóm Phan Khôi, họ bị đảng thanh trừng. Nhưng thơ văn, khẩu khí của họ thì tôi chỉ nghe loáng thoáng,cứ lẫn lộn tác giả này với tác giả khác trong nhóm. Có sống, có từng trải như tuổi tôi bây giờ mới thấy những nhà thơ như Trần Dần quả là những nhà văn hóa cang trực,tôn trọng văn hóa, dám bộc lộ cảm nghĩ, dám tiên phong tư tưởng. Cho nên bây giờ có ngăn cấm thơ văn của Trần Dần, cũng không thể xóa được tên ông, mà cái tên của ông cũng đủ gợi cho người ta một tinh thần bất khuất,yêu dân tộc. Lạ lùng thay phần đông ngưỡng mộ tên các nhà thơ, nhà văn bị "còng tay, bẻ bút", mà không thuộc một bài nào của họ.
 
 
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/02/080226_tran_dan_book.shtml

HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 06.03.2008 11:28:16
04 Tháng 3 2008 - Cập nhật 16h26 GMT
 
Thư ngỏ phản đối vụ thơ Trần Dần
 
 
Cuốn Trần Dần - Thơ do công ty Nhã Nam và NXB Đà Nẵng phát hành
 
Những ngày gần đây, trong giới văn chương Việt Nam rộ lên tin nói rằng tập thơ vừa phát hành của cố thi sĩ Trần Dần đã bị tạm ngưng phát hành.
 
Trong nước đã xuất hiện môt bức thư ngỏ kiến nghị nhà nước bỏ đi quyết định này. Bức thư do một số nhà hoạt động văn hóa văn nghệ soạn thảo, được tin đã gửi đi các cơ quan chính phủ vào thứ Hai 3/3.
 
Bản thảo bức thư nhắm gửi tới nhiều cơ quan ban ngành khác nhau trong nước như Quốc hội, Bộ Thông tin - Truyền thông, Thanh tra Chính phủ và Hội Nhà văn Việt Nam và được lan truyền rộng rãi trên mạng internet cũng như các phương tiện thông tin cá nhân khác.
 
Thư ngỏ này viết: "Trần Dần (1926 – 1997) là một nhà thơ nổi tiếng và quan trọng của Việt Nam".

Nghe phỏng vấn nhà thơ Hoàng Hưng 
Theo các tác giả thư ngỏ, bao gồm giáo sư Nguyễn Huệ Chi, các nhà thơ Dương Tường, Giáng Vân, Hoàng Hưng, nhà bình luận Phạm Xuân Nguyên và nhà văn Phạm Toàn (Châu Diên), cuốn "Trần Dần - Thơ" có thể được coi như tổng hợp tương đối đầy đủ và toàn diện về các tác phẩm của ông.
Cuốn này, dù đã được chuẩn bị biên soạn trong hai năm, đã bị ngưng phát hành vì lý do “vi phạm hành chính về xuất bản”.
 
Do vậy, các tác giả thư ngỏ yêu cầu các cơ quan chức năng 'xem xét và đình chỉ ngay mọi hành xử nhằm ngăn chặn việc phát hành sách Trần Dần – Thơ'.
 
Cấm đoán nghệ thuật







 Trần Dần là một nhà thơ nổi tiếng và quan trọng của Việt Nam. 
Bản thảo thư ngỏ đề ngày 1/3 cũng nhận xét: "Ở nước ta lâu nay việc cấm đoán tương tự đối với tác phẩm văn hóa nghệ thuật thường xảy ra".
 
Thư này nhắc tới các trường hợp các nhà thơ, họa sỹ khác cũng bị đối xử tương tự và kêu gọi:
 
"Hãy xem xét lại cung cách ứng xử của những cơ quan nhà nước về mặt pháp lý và về quan hệ dân sự đối với những trường hợp tương tự trường hợp của nhà thơ Trần Dần, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, các họa sĩ Nguyễn Quang Huy và Trương Tân".
 
Những người viết thư cũng kêu gọi mọi người ký tên ủng hộ. Nhà thơ Trần Dần là một tác giả trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm.
 

Nghe ý kiến nhà thơ Ngô Văn Phú
Ông được coi là một nhà thơ tiêu biểu cho xu hướng cách tân. Tuy nhiên chỉ tới mười năm sau khi ông qua đời, năm 1994, tác phẩm của ông mới bắt đầu được cho in. Năm 1995, tác phẩm Cổng Tỉnh của ông đã được giải thưởng tặng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam.
 







 Thơ của Trần Dần rất hùng tráng, có những nhận xét, triết lý có tính trí tuệ nhiều hơn. Đó là nhà thơ có phong cách riêng, có ý thức đổi mới, tìm tòi ở trong ngôn từ, trong nhịp điệu, trong cách viết Nhà thơ Ngô Văn Phú, nguyên Giám đốc NXB Hội Nhà văn
Một trong những người tham gia xuất bản các tác phẩm của nhà thơ Trần Dần khi đó là nhà thơ Ngô Văn Phú, nguyên Giám đốc, Tổng biên tập Nhà Xuất bản Hội Nhà văn.
Ông cho BBC Việt ngữ biết các tác phẩm như Bài thơ Việt Bắc, Cổng Tỉnh, Mùa Sạch xuất bản giai đoạn đó là những tác phẩm mang tính trí tuệ, có nghệ thuật cao, đổi mới của nhà thơ Trần Dần.
Ông nói: "Thơ của Trần Dần rất hùng tráng, có những nhận xét, triết lý có tính trí tuệ nhiều hơn. Đó là nhà thơ có phong cách riêng, có ý thức đổi mới, tìm tòi ở trong ngôn từ, trong nhịp điệu, trong cách viết".
Năm 2006, Trần Dần đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng với ba tác giả khác trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm là Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán.
 
Hy vọng ứng xử đẹp
Trao đổi với BBC Việt ngữ, nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng, một trong các đồng tác giả của bản thảo bức thư ngỏ cho hay mặc dù bức thư mới được soạn thảo ở dạng bản thảo và được lưu hành không chính thức trên mạng, ngay trong 3 ngày đầu đã thu thập được hơn 100 chữ ký ủng hộ.
 







 Các cơ quan hữu trách nên sớm xoá bỏ lệnh ngưng phát hành để cho tập thơ của Trần Dần, vốn đã được xuất bản theo rất đúng mọi quy trình thủ tục, kể cả việc nộp lưu chiểu, phát hành, được phát hành một cách đàng hoàng, đúng theo luật, không bị tình trạng ngưng Nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng
Nhưng ông nhấn mạnh là cho tới ngày 4 tháng 3, bức thư ngỏ mới ở dạng bản thảo và sẽ được gửi đi sau đó qua con đường chính thức. Ông hy vọng, khi đó, con số chữ ký thu thập được sẽ còn tăng cao hơn rất nhiều.
 
Nhà thơ Hoàng Hưng cũng tin rằng đây là lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện một bức thư ngỏ theo dạng này. Trước đây, theo ông, chỉ có một số các ý kiến theo dạng đóng góp tiếng nói, ý kiến, kiến nghị lẻ tẻ của một số người nào đó về các công tác văn hoá văn nghệ mà thôi.
 
Ông hy vọng các cơ quan bộ, ngành hữu trách ở Việt Nam sẽ nghiên cứu kiến nghị trên tinh thần tiếp thu, cởi mở với một ứng xử đẹp, văn minh, đúng với pháp luật. Ông nói:
 
"Tôi tin rằng với xu thế ngày càng cởi mở, ngày càng mở rộng, ngày càng dân chủ hoá đời sống văn hoá và xã hội, sau khi chúng ta đã cởi mở và dân chủ hoá rất mạnh đời sống kinh tế, lời kêu gọi, tiếng nói của chúng tôi sẽ được lắng nghe".
 
Ông hy vọng và kiến nghị sẽ có các điều chỉnh quyết định hợp lý để mau chóng đưa tập thơ của nhà thơ Trần Dần sớm đến tay bạn đọc:
 
"Các cơ quan hữu trách nên sớm xoá bỏ lệnh ngưng phát hành để cho tập thơ của Trần Dần, vốn đã được xuất bản theo rất đúng mọi quy trình thủ tục, kể cả việc nộp lưu chiểu, phát hành, được phát hành một cách đàng hoàng, đúng theo luật, không bị tình trạng ngưng."
 
Ông cho rằng việc ngưng đó vừa không tốt đẹp cho nền văn hoá Việt Nam cũng như không tốt đẹp cho chính sách mở cửa, đổi mới toàn diện của Nhà nước Việt Nam. Và còn có thể dẫn đến nguy cơ ngưng hẳn phát hành cuốn sách.
 
Điều mà ông cho sẽ có thể là một bất lợi cho bản thân Nhà nước Việt Nam và nền văn học Việt Nam.
 
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/03/080304_trandan_letter.shtml
 

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Trần Dần - (1926-1997) - 08.03.2008 00:13:40
.
Nam Dao
Bây giờ tôi hát lạc quan đen?
05.03.2008
http://hoiluan.vanhocvietnam.org/?p=127
 


Bây giờ tôi hát lạc quan đen là thơ Trần Dần. Dấu hỏi là của tôi, nhân sự cố “ông Nhà Nước” (chữ trong tham luận của Tô Nhuận Vỹ) vừa không cho phát hành tập Trần Dần-Thơ trong ngày thơ Việt Nam lần thứ 6 ở Văn Miếu 21-02 mới đây. Phạm Xuân Nguyên lưu ý có hai nỗi sợ. Xin trích:
 
“Tại vì nỗi sợ của ai đó. Sợ Trần Dần - Thơ xuất hiện trong ngày thơ sẽ hút sự chú ý, đặc biệt chú ý, của mọi người vào ông và thơ ông. Sợ những con chữ Trần Dần sẽ khuấy động, khuấy đảo tâm cảm mỗi người đọc và gây ra những phản ứng thơ mạnh mẽ có thể khiến bàng hoàng trước một khối năng lượng sáng tạo cực mạnh, cực lớn từ gần nửa thế kỷ trước soi chiếu và phóng nổ vào hôm nay. Nói chung lại là sợ Chữ, sợ Thơ của một Nhà Thơ.’’
 
Ai Sợ Chữ? “Ông Nhà Nước” chứ còn ai! Tại sao? Có phải vì thơ Trần Dần đi ngược lại với tiêu chí Dân giầu Nước mạnh Xã hội Văn minh và Công bình… và vân vân? Ai tin như vậy xin chứng minh cho tôi. Ấy là, xin nhắc “ông Nhà Nước” đã kiểm duyệt, cho phép xuất bản sau khi “cắt” khoảng 40 trang. Nhưng đùng một cái Cục Xuất Bản không cho phát hành. Xin miễn hỏi ai trong cái Cục đó, vấn đề nội chính của “ông Nhà Nước”. Xin không nói là “ông Nhà Nước” đang quẩn: lẽ ra phải đi đối phó với quốc nạn tham nhũng, với chuyện cướp đất của nông dân, với sự xuống cấp trầm trọng của nền giáo dục và y tế, với nạn đô thị hóa lung tung tùy tiện, với vay vốn ngoại quốc bừa bãi mà làm ăn không hiệu quả của các tập đoàn công ty nhà nước để mặc cho ‘’thế hệ sau” phải thanh khoản, với gần đây nhất là tệ lạm phát tái xuất giang hồ khiến dân nghèo không có miếng mà ăn… thì “ông Nhà Nước” ra uy với tập Trần Dần-Thơ, dọa để gây nỗi sợ thứ hai:
 
‘’ … Các nhà thơ ở Văn Miếu cũng đành hèn yếu và im lặng trước việc Thơ bị chặn cửa như vậy. Họ xì xào, họ xôn xao khi không thấy có Trần Dần - Thơ. Nhưng họ không dám trực tiếp lên tiếng hỏi thẳng ban tổ chức, hỏi nhà chức quyền, vì cớ gì một tập thơ đã được cấp giấy phép xuất bản, một tập thơ đã được in ra sau khi bị loại bỏ khoảng bốn chục trang, bỏ đi một số bài viết và bài thơ theo yêu cầu biên tập, tập thơ đó lại không được xuất hiện đàng hoàng, công khai tại một nơi không thể đẹp hơn cho thơ là văn Miếu và vào một ngày không thể hay hơn cho thơ là ngày thơ Việt Nam.’’
 
Nhắc để biết, ông Dần đã ‘’được phục hồi hội tịch” (Hội Nhà Văn), được trao giải thưởng Thơ với tập Cổng Tỉnh, rồi năm ngoái, ông được Giải Thưởng Nhà Nước, vinh quang chỉ thua có Giải Thưởng Hồ Chí Minh đấy! Bị bóp cổ gần 40 năm, nay Trần Dần đã thành người thiên cổ mà “ông Nhà Nước” vẫn còn tìm cách khoá miệng. Ghê nhỉ!
 
SỰ CỐ KHÓA MIỆNG TẬP TRẦN DẦN –THƠ VÀ CHỦ ĐỀ HỘI NHẬP CỦA HỘI LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM
 
Nhận xét tức thì từ sự cố nói trên là “ông Nhà Nước” có thể khóa miệng bất cứ ai. Hệ luận: nhà văn/nhà thơ hải ngoại là cái ‘’thá’’ gì đây mà viển vông chuyện in ấn và có tiếng nói của mình trong nước? Ban Chủ Trương đề xuất:
 
“Đề tài đầu tiên chúng tôi đề nghị trên diễn đàn Hội Luận Văn Học Việt Nam là vấn đề Hội Nhập giữa những người cầm bút trong nước và ở hải ngoại trong xu hướng tạo ra một lực liên vận.”
 
Tổng hợp những đóng góp chúng ta có thể đọc được trên diễn đàn trong 1 tháng qua, những điểm sau là nổi bật:
 
a- Hội nhập chỉ có nghĩa là giao lưu, là mở rộng giao lưu với những nhà văn/nhà thơ trong nước, và là chuyện tư riêng cá nhân của mỗi người. Viết là sáng tạo, và sáng tạo từ mỗi cá nhân tự do, không cần đến bất cứ phong trào nào. Vậy, hội nhập rất tự nhiên với những nhà văn/nhà thơ tự do cùng tần số, hợp nhau thì chơi, không thì thôi, giản dị có vậy.
b- Còn một hệ thống chính trị như hiện nay ở Việt Nam thì… vô phương (thậm chí, có bạn lưu ý cảnh báo, kêu gọi hội nhập có thể là hình thức toa rập với nghị quyết 36 đang ‘’dụ” Việt Kiều).
c- Không thể tách văn chương–văn hóa khỏi chính trị, vì thế lời dẫn của Ban chủ trương Hội Luận “Về căn bản, xin nhấn mạnh, đây là một diễn đàn đóng khung trong những thảo luận trên các vấn đề văn học nghệ thuật ’’ là không khả thi, thậm chí huyễn hão. Và thôi, hỡi những nhà văn/nhà thơ hải ngoại, đừng ý kiến gì nữa, hãy viết cho hay, cho chất lượng. Với Internet, blogs… ta có thể phổ biến tác phẩm đến mọi người, ở mọi nơi, không cần in ấn phép tắc phiền phức gì nữa.
d- Nhà văn/nhà thơ hải ngoại có chấp nhận được ‘’kiểm duyệt’’ của “ông Nhà Nước” hay không? Nếu chấp nhận, thì ở mức độ nào? Câu hỏi này chỉ được trả lời ở mức chưa thể kết luận gì.
 
Với tư cách cá nhân một người tham gia HộI Luận, tôi xin phép được phản hồi quan điểm của riêng tôi, góp một tiếng nói vào cuộc HộI Luận của chúng ta:
 
Về điểm a: Đối với tôi, giao lưu giữa những cá nhân người viết ở trong nước và hải ngoại rất quan trọng, và là điều kiện cần để tạo ra một lực liên vận (synergy) văn hóa. Đây là một quan hệ hàng ngang, trong thuật ngữ của Hannah Arendt (The Origin of Totalitarism, 1951), để phân biệt với những quan hệ hàng dọc trong những chế độ toàn trị. Chế độ này thiết lập những hội đoàn và tạo ra quan hệ hàng dọc (chẳng hạn Hội Nhà Văn ở cấp trung ương, cấp địa phương; tất cả được điều hành bởi Tuyên Huấn-Tuyên Giáo, và cao nhất là Bộ Chính Trị ĐCS), vô hiệu hóa mọi quan hệ hàng ngang khiến cá nhân đơn lẻ không có tác động gì (ngoài sự thù tạc) trên phương diện xã hội. Nếu đặt vấn đề tạo ra sức liên vận, tức nhằm thiết lập một lực xã hội có vận hành và tác động lên văn hóa, chúng ta không thể đặt cơ sở chỉ trên cơ sở những giao lưu cá nhân riêng lẻ.
 
Về điểm b- Xin cùng nhận định, rõ là khó mà làm bất cứ gì vơí “ông Nhà Nước”. Vì vậy, những nhà văn/nhà thơ trong nước và hải ngoại chỉ có thể tập hợp thành một tổ chức dân sự không để bị khống chế bởi những thế lực chính trị nhất thời. Khác biệt cơ bản giữa những nhà chính trị và những nhà văn hoá là tầm nhìn và trọng tâm. Nhà chính trị nhìn ngắn hạn, trọng tâm là chiếm, giữ, và ổn định quyền lực trong điều kiện cụ thể của xã hội và lịch sử. Nhà văn hóa có tầm nhìn dài hạn hơn, trọng tâm là con người, và lực tiến hóa xã hội trong một viễn tưởng có thể tốt đẹp hơn. Chính sự khác biệt cơ bản này khiến những nhà văn hóa chỉ có thể, giỏi lắm, là liên minh nhất thời với những nhà chính trị. Ở thời điểm hiện nay, bạo hành chỗm trệ ngồi lên mặt đạo lý, đất nước tụt hậu mọi bề và không có triển vọng thay đổi được gì trong thể chế hiện hành, tôi thật không thấy được sự liên minh nào, dù nhất thời, như vừa nói, giữa văn hóa và ‘’chính trị”.
Tôi chưa bao giờ hình dung đặt vấn đề hội nhập là dẫn đến sự thủ tiêu quyền sáng tác tự do của bản thân mỗi người viết. Thành thật, tôi nghĩ rằng nhân tố của sự hội nhập là những cộng đồng văn chương, với nhiều lý do, bị phân hoá phân liệt. Tôi thiết tưởng những lý do đó nay phải được soi rọi, và gạt bỏ, để tất cả chúng ta thiết lập một nền Cộng Hòa Văn Chương, cách gọi rất ý nghĩa, mà hai anh Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc Tuấn đã định danh từ nhiều năm trước
 
Về điểm c- Có một (hay nhiều) tổ chức dân sự thao tác trong địa hạt văn hóa như vừa trình bày góp phần trả lời phản biện. Không, hay khó, có thể tách văn chương-văn hóa khỏi chính trị. Nhưng chuyện tách khỏi mọi cơ quan chính quyền, đưa hoạt động văn hóa vào những tổ chức dân sự là khả thi. Dĩ nhiên, hiện thực hóa những tổ chức này không dễ, nhưng, như trong tham luận của nhà thơ Hoàng Hưng trong ngày khai mạc Hội Luận, những nhà văn/nhà thơ Trung Quốc đã làm thế được!
Còn như tin rằng Internet, blog là thay thế được tất cả thì tôi rất nghi ngờ. Sự bùng nổ thông tin đang là một cái nạn trên thế giới: làm sao phân biệt được thông tin thật/giả, có giá trị/không giá trị… Có quá nhiều thông tin mà người tiêu dùng không định phẩm được chỉ dẫn đến rối loạn, và lừa lọc. Hiện nay, có những cơ quan chuyên thẩm tra giá trị thông tin, chẳng hạn trong khâu khuyến mại và trong khoa học. Có thông tin, đã đành. Nhưng cần là có người cho ta biết sự tồn tại, và giá trị, của những nguồn thông tin đó.
 
Cuối cùng, lời khuyên hãy viết, và viết cho hay, thực chí lý. Nhưng viết mà không có người đọc, mấy ai viết được (trừ một số rất ít người như Trần Dần). Hiện nay, ở hải ngoại, trên mặt cầu, số người đọc giảm dần với tuổi tác. Mặt khác cũng có thể vì, trên mặt cung, không còn người sáng tác (trong điện đàm với Nguyễn Mộng Giác mới đây, anh bảo bây giờ bắt làm lại tờ Văn Học thì anh không dám, có ai viết lách gì nữa đâu). Làm sao khuyến khích được những nhà văn/nhà thơ trẻ nếu họ không thấy có bạn đọc. Một việc thực tế là hội nhập đồng nghĩa với mở ra cho người viết ở hải ngoại một ‘’thị trường tiêu thụ” văn chương mà trong nước là một thị trường rất tự nhiên. Với tình trạng hiện tại, chỉ dăm năm nữa sẽ chỉ còn báo chợ: nền văn chương hải ngoại coi như cáo chung, không kèn, không trống, thậm chí chẳng có đến mảnh cáo phó trên báo phát không ở Little SaiGon!
 
Còn đối với những nhà văn/nhà thơ trong nước, phổ biến tác phẩm ra hải ngoại cũng là một nhu cầu. Trong điều kiện sinh hoạt trong nước hiện nay, những sản phẩm văn chương không được chấp nhận ngay có thể in ấn ở hải ngoại (đã có rất nhiều thí dụ, như văn chương của những cây viết trẻ trên Tiền Vệ, Da Màu, Talawas; những tác phẩm của Trần Vàng Sao, Tiêu Dao Bảo Cự… in thành sách; v.v…) Tóm lại, lượng người đọc lớn lên sẽ là một nhân tố để các nhà văn/nhà thơ trong nước cũng như hải ngoại viết nhiều hơn, hay hơn. Đó là một trong những lý do cần hội nhập.
Về điểm d- Tôi xin phép được bàn ở phần sau…
 
NHÀ VĂN/ NHÀ THƠ, HỌ LÀ AI ĐÂY?
 
Trong bức thư trao đổi với một thành viên của Hội Luận, một nhà văn trẻ mới ra sống ở hải ngoại 7 tháng, hỏi thế nào là nhà văn/nhà thơ trong nước? Và thế nào là nhà văn/nhà thơ hải ngoại? Câu hỏi mới nghe qua tưởng là ‘’hồn nhiên‘’, có thể dễ dàng đáp ‘’tất nhiên”, viết lách sinh sống trong nước (hải ngoại) thì là nhà văn/nhà thơ trong nước (hải ngoại). Nhưng nghĩ kỹ, chẳng đơn giản vậy. Và trả lời câu hỏi trên là một cuộc mạo hiểm, ở đầu câu cuối chữ, chỗ nào cũng cạm bẫy, và chắc chắn sẽ không khỏi gây tranh cãi. Nhưng cuộc hội nhập chúng ta đang thảo luận nhằm các vấn đề:
 
“… phải chăng đã đến lúc những người viết ở trong nước và ở hải ngoại đặt câu hỏi phải làm thế nào để thúc đẩy tương quan giao lưu giữa họ với nhau nhằm tạo ra một thứ synergy, lực liên kết và đồng vận, trong công cuộc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam, điều kiện quan yếu hòng giữ bản sắc với bối cảnh trên? Đâu là những vấn đề nổi cộm trong tương quan này? Synergy, gọi gọn là lực liên vận, nói trên là gì? Nếu thể hiện được, nó sẽ đóng góp ra sao? ” (Trích Thư Ngỏ của Ban chủ trương)
 
Cho phép tôi dùng con số để biểu trưng (một cách thô thiển nhưng dễ hiểu) lực liên vận nói trên. Lấy 1+1, với lực liên vận, ta sẽ có 3. Lấy 1×1, sẽ có 2. Lấy 2×2, là 6… Nói gọn, với lực liên vận, một tập hợp tạo ra được thành quả chung lớn hơn là tổng số thành tựu của những yếu tố đơn lẻ rời rạc. Nhưng muốn hiểu và xác lập lực liên vận đó, dĩ nhiên một mặt phải tìm biết 1 = nhà văn/nhà thơ trong nước, và mặt kia 1 = nhà văn/nhà thơ hải ngoại là gì. Rất khó: họ không phải là những con số 1,2… Họ là những con người truân chuyên trải nghiệm những hoàn cảnh dị biệt, với những di căn văn hóa, tác động chính trị và tâm lý phức tạp.
 
Trước tiên, thế nào là nhà văn/nhà thơ? 
 
Câu tôi buột miệng là lời Hàn Dũ: ‘’Bất bình tắc minh’’, xin dịch thô: ‘’Không nhịn được, nên phải nói thành lờI”. Lời đó là từ tâm can, chắc hẳn khác xa với trường hợp ông Đinh Bá Anh đề cập đến: những vị doanh nhân Việt Kiều về nước in 1 tập thơ mang tặng như một thứ danh thiếp cho giao dịch… lên cấp ‘’văn hóa’’. Với tập thơ (giá khá rẻ khi in trong nước), vị doanh nhân vừa là ‘’sĩ’’ lại vừa là ‘’thương’’, hoán vị chiếm đến 2 trong cái bảng xếp sĩ-nông-công-thương hình như còn ám ảnh, và hiển nhiên chuyện này không ăn nhậu gì với câu chuyện hội nhập của chúng ta.
Nhà văn/nhà thơ ‘’không nhịn được nên nói thành lời‘’ khác vị doanh nhân. Không nhịn được gì, và vì sao? Mỗi người viết có những niềm riêng. Vì cái nghiệt ngã vây quanh. Vì oan trái khổ ải đắng ngắt của cuộc sống. Vì cái đẹp thăng hoa bị kéo chúi xuống đất đen để miếng ăn bổng lộc quyền lực xéo lên… Và không nhịn được là chuyện đến từ lòng. Chưa kể tài vội, chữ tâm kia mới là điều đáng bàn, nó bằng ba chữ tài kia mà. Vâng, nhưng còn nỗi sợ. Không dũng thì nhân, trí chỉ có thể đóng thành u trong tâm, thường là u ác (ung thư), nếu cái tâm kia bị những nỗi sợ đẩy cho oằn lưng, khiến thở còn chẳng nổi nói chi đến mở miệng thành lời chân thật.
 
Nhà văn/nhà thơ hải ngoại: Những nỗi sợ giắt tay hai chữ ngọt ngào
 
Ngọt ngào thay, hai chữ Tự Do. Nhưng để có nó, không thể van xin cầu cạnh ai. Giá phải trả, đôi khi rất cay đắng. Ở hải ngoại, văn chương những năm ngay sau 1975, là thể loại của đắng cay, mất mát, lưu vong. Đó là những sự kiện và tình cảm được phần đông người Việt di tản, rồi vượt biển, và sau là HO1, HO2… chia xẻ. Người đọc ở hải ngoại xoi mói quan điểm người viết, hoài vọng một quá khứ còn gậm nhấm căm hận nỗi nước mất nhà tan, đong đo tính chống Cộng, lòng hận thù… Trong khi đó thì, dẫu có đôi khi nói miệng với những tuyên ngôn ‘’lưỡi gỗ’’ kiểu người Việt Nam hải ngoại là một bộ phận khắng khít của dân tộc, thế quyền chễm trệ trên chiến thắng gọi những kẻ phải ra đi là ‘’phản quốc’’. Nhà văn Nhật Tiến, vượt trên nỗi kinh hoàng và những thảm kịch cá nhân, cho ra đời tập “Mồ hôi của đá”, nói những tiếng nói đầu của lòng độ lượng, và như thế, ông “thân Cộng”. Trong một phỏng vấn mới đây (Hợp Lưu, Xuân Mậu Tý, tháng 1&2, 2008, tr. 112), nhà văn sáng giá và tài năng Trần Vũ viết: 
 
‘’ Khi nhà văn Nhật Tiến tuyên bố ông thiếu tự do của ngòi bút vì sinh sống ở quận Cam, nơi đông đảo các hội đoàn Việt Nam, nhà văn Hoàng Khởi Phong đã trả lời: Tự do của nhà văn nằm trong chính thái độ sống của nhà văn, anh có muốn cho mình tự do không mới là điều quan trọng …Tuy vậy, hôm nay đang xẩy ra hiện tượng: Khối đông nhà văn di dân, sau khi vượt biển đánh đổi cái chết để tìm tự do, đã không muốn hành xử quyền tự do của chính mình, ngay trên vùng đất mà quyền tự do ngôn luận được hiến pháp bảo vệ. Nhà văn Việt chấp nhận chịu cai quản bằng visa. Tôi cũng ở trong số đông những người viết này, bắt đầu phải suy nghĩ viết gì, và viết như thế nào, để sống an toàn, để có thể trở về và chết chôn trên đất nước mình 1. Tôi không còn cảm thấy tự do nữa.’’
 
Nay, căm thù Cộng Sản (CS) còn, nhưng giảm cường độ2, và ngay cả những phong trào chính trị ở hải ngoại hô hào dân chủ cũng sẵn sàng ‘’đối thoại’’ cơ mà! Cái mũ VC đã hết thời, chụp lên không còn tạo ra những cơn sóng phỉ báng như thời nhà văn Nhật Tiến thở than. Nhà văn/nhà thơ hải ngoại nay qui cố hương không phải ít. Họ có ‘’giao lưu’’ với những nhà văn/nhà thơ trong nước không? Chắc có đấy. Nhưng từ những ‘’giao lưu’’, họ viết được gì sau những chuyến tham quan. Có lẽ ít 3. Và có viết, cũng chẳng nhà văn/nhà thơ trong nước nào biết đến vì làm sao mà quảng bá được 4!
Tóm lại, nếu xưa nhà văn/nhà thơ hải ngoại sợ chuyên chính Phúc-Lộc-Thọ ở chợ Bolsa thì nay, có khác, họ chỉ sợ không có visa về để ‘’tỏ tình yêu đất nước’’ và ‘’chết chôn trên đất nước mình’’. Mới đây, chỉ cần thị thực mình là người Việt Nam chính hiệu con nai vàng, sẽ không cần visa nhập cảnh, nhưng visa xuất cảnh thì sao? Một mối lo mới, và lo thế, hai chữ Tự Do bọc đường rất ngọt ngào, nhưng bị nỗi sợ còng tay, có giơ lên vẫy cũng không thể là cái chào đoàn viên với cội nguồn dân tộc và sử dụng cái chức năng nhà văn/nhà thơ của mình.
 
Bây giờ quay lại trả lời chuyện kiểm duyệt trong điểm-d tôi đã xin khất nợ.
 
Đầu tiên, là tự kiểm duyệt. Điều này khiến tôi liên tưởng đến một bức thư của các nhà văn/nhà thơ công bố thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa sau đảo chính Diệm-Nhu. Trí nhớ tôi không đủ để trích lại nguyên văn, nhưng có câu tự trách gồm những đoạn rất kêu như: ‘’chúng ta (tức là họ, hơn 50 năm trước) đã bôi đen lương tri, đánh đĩ tâm hồn…’’ và vân vân. Nào có ai bắt bạn viết đâu. Nếu viết, thì chức năng một nhà văn đích thực không cho phép bạn ruồng rẫy chính mình. Ngứa tay, bạn có thể viết những chuyện sex, án mạng, tình ái trên bến xe, trong quán nước… để mua vui cho người, mua danh cho bạn, mua chút ái tình đầu hè của người đẹp dễ tính… Những câu tôi luận bàn chắc chắn không liên quan gì đến bạn.
 
Bây giờ, đến mục kiểm duyệt của chính quyền. Tôi nhớ có thấy ai đó nói kiểm duyệt thì đâu cũng có, cũng thế: cứ thử ca tụng Bin Laden thì sẽ ‘’chết ngay‘’. Chết thế nào, tôi không biết. Nhưng nếu bạn chống chiến tranh của tập đoàn Bush ở Afghanistan hay Irak thì, như đạo diễn Michael Moore, vẫn sống nhăn, với bộ phim chiếu trên toàn thế giới (phim Farenheit 9/11) cáo buộc chính sách ‘’chống khủng bố’’ với những mặt sau của nó. Tôi không bài, cũng không a dua theo, và ngây thơ ca ngợi Mỹ là đất nước của dân chủ với tự do. Chuyện này tương đối, bắt ta dùng phương pháp so sánh: Mỹ tự do hơn và dân chủ hơn Bắc Hàn, Trung Quốc, và Miến Điện (tôi tránh không nói Việt Nam vì nể nang đấy!). Mời bạn phản biện!
 
Với kiểm duyệt trong nước, tôi xin nói ngay, và rất cụ thể, rất chủ quan: nhà văn/nhà thơ hải ngoại không chỉ vì in ấn phổ biến mà đánh mất tự do - và thế là đánh mất mình – hạ mình chấp nhận những thao tác kiểm duyệt khiến nội dung mình muốn chuyển tải mất đi, hoặc giảm thiểu, hoặc biến dạng thành thứ sản phẩm muốn hiểu thế nào thì hiểu với cái danh xưng mỹ miều trá hình mang tên ‘’ẩn dụ’’ mà thực ra chỉ là loại hình xìu xìu ển ển của những nhà ảo thuật. Nếu kiểm duyệt câu chữ (cho rành mạch, sát gu độc giả với những từ ngữ mới thời thượng), thông báo và chỉ in ấn khi có sự đồng tình của tác giả thì ta chấp nhận thì được: đây là trách vụ biên tập - ‘’editing’’- một sự cố bình thường ở mọi địa bàn văn chương, nhất là ở Mỹ và ở nhiều nước Âu châu. Chúng ta không thể dễ dãi nhân nhượng gì với kiểu kiểm duyệt va chạm đến quyền tự do tư tưởng và ngôn luận. Làm thế, ta phủ định chức năng nhà văn/nhà thơ. Ngược lại ta được gì? Huyễn tưởng có tác phẩm đến với công chúng? Công chúng nào cho những tác phẩm mà nhà văn vong thân đánh mất mình? Còn như nếu bạn cho rằng phải thế mới đến được độc giả thì…. xin thưa ngay, trí nhớ của độc giả ngắn còn hơn một câu văn không thật, tức là zỏm, như bản thân người viết đánh mất mình. Thế thì in để làm gì nhỉ?
 
Nhà văn/nhà thơ trong nước: Những nỗi sợ đến liệt tuyến thần kinh
 
Sợ, sợ vô cùng. Đời một nhà văn trải qua Kháng Chiến chống Pháp, Cải Cách Ruộng Đất, Chỉnh Đốn Tổ Chức, rồi Nhân Văn Giai Phẩm, chống Xét Lại… thì sợ là điều kiện sống còn. Câu chuyện Nguyễn Tuân khóc rưng rức bảo với Nguyễn Minh Châu rằng ‘’… tôi tồn tại được là vì tôi biết sợ!’’ nay ai cũng biết, xin thôi nhắc. Thời đó, thế quyền hơi một tí là dùng chiêu bài giải phóng dân tộc lồng vào cái khung cách mạng và khẩu hiệu chuyên chính vô sản cả vú áp vào lấp khiến nhà văn/nhà thơ như Trần Dần nghẹt thở, nói lúng búng, chỉ ít lâu là đi lao động cải tạo cho thuần. Cứng cổ thì mời ông đứng sang bên lề ròng rã hơn 30 năm, không có quyền in ấn, sinh hoạt gì. Nhiều nạn nhân buông bút. Một số rất ít, âm thầm viết trong cô đơn, nuôi lửa văn chương bằng cách nhắm mình với rượu quốc lủi. Trần Dần, ‘’thủ lĩnh trong bóng tối‘’ theo cách gọi của nhà văn Phạm Thị Hoài, là một người như thế. Ông tiếp tục sáng tạo, chỉ những con chữ nuôi ông sống, mắt rừng rực lửa thiêu cháy những thứ văn chương ù lì rỗng tuếch tung hô này nọ. Một hôm, năm 1989, tôi hỏi ông, anh có bao giờ sợ không? Đúng lệ, ông im lặng, nhìn chòng chọc thật lâu, rồi gọn lỏn: sợ chứ! Nhưng ông vẫn tiếp tục làm thơ. Những bài thơ mini, âm tiết còn gọn hơn 17 âm tiết Haiku của Nhật. Tôi hiểu lúc nào ông cũng vươn lên khỏi nỗi sợ đời thường.
 
Đến Trần Dần mà sợ, lẽ gì không thông cảm được những nỗi sợ đã làm liệt tuyến thần kinh của rất đông những nhà văn/nhà thơ trong nước? Chẳng những thông cảm, tôi cho rằng họ còn tồn tại cũng đã là một phép lạ! Và thế thì đừng trách họ bẻ cong ngòi bút, oằn lưng viết loại văn phò chính thống. Nếu tư cách hơn, họ viết kiểu vô thưởng vô phạt, và dũng cảm một chút thì đèo vào những sáng tạo hình thức, tí ti sex, tí ti nổi loạn ở cấp dưới thắt lưng quần. Và cũng đừng ngạc nhiên khi đa số hô hào tiến bộ với những tên tuổi ông Tây bà Đầm nhưng chỉ đọc văn chương ‘’nội địa’’ vì không có vốn ngoại ngữ (xem bài phỏng vấn Nguyên Ngọc trên HộI Luận), lại xốn xang khi nhà văn gốc Tàu Cao Hành Kiện đoạt giải Nobel, và hồn nhiên hỏi nhau ầm ĩ , tại sao người Việt Nam chúng ta không có giải này, bao giờ ta đoạt giải, và thế giới không biết đến chất lượng văn học ta chẳng qua là vì thiếu thông tin, thiếu người dịch nên…. và… vân vân. Trong khi đó, xã hội thực bên ngoài đầy ‘’chất’’ để viết: sống lại, ông Vũ Trọng Phụng chắc đẻ ra con cháu đầy đàn cho Xuân tóc đỏ, ông Nam Cao hẳn cũng có dịp đưa rất nhiều Thị Nở vào nhà hộ sinh, và Chí Phèo có thể lái Xì-ke mà tiến thân lên làm đến Bộ trưởng Bộ Ngoại Thương kiêm Tư lệnh Bộ Đội Biên Phòng… Nhưng không, văn học mười năm trở lại đây không ‘’dính dáng’’ đến xã hội đời thường, chẳng đụng chạm đến hàng trăm dân oan đi khiếu kiện nhà đất, đến hàng chục ngàn công nhân đình công… Không, văn chương của chúng ta trong nước ‘’sạch‘’, không ô nhiễm chất xã hội (trừ những phóng sự của Trang Hạ), không vạch lưng cho người xem, tức là ngoan, hiền, chẳng để các anh trong Ban Văn hóa-Tư tưởng phiền lòng.
Nhà văn Nguyên Ngọc trong phỏng vấn đã kể trên, một khuôn mặt đàn anh quan trọng trong việc cởi trói văn chương thời Đổi Mới, nhận định rằng lâu nay trong nước không sản xuất được những tác phẩm tầm cỡ. Ông bàn về vấn đề nội lực một nền văn học, qui trách nhiệm phần nào vào sự việc không có tự do sáng tác. Theo thiển ý, không tự do tư duy, rồi tư duy bị chẹn họng không được thành ngôn luận, người viết đành bẻ bút vặn vẹo khôn ngoan né tránh thứ quyền lực lăm le lưỡi dao Damocles thì… chỉ còn than, cái nước ta nó thế đấy! Sản phẩm từ hoàn cảnh ức ép đó, giỏi thì cũng chỉ phản ánh được sự thật tô son, tức là một mẩu sự thật. Một mẩu bánh, vẫn là bánh, ăn được. Một mẩu sự thật là dối trá, và viết ra để người ta tin vào là nâng dối trá lên cấp lũy thừa cho toàn xã hội! Trong số trên tám trăm Hội viên Hội Nhà Văn, có người không viết gì từ nhiều năm. Ngày trước, tôi lắc đầu không hiểu. Nay, tôi chỉ chặc lưỡi.
 
HỘI NHẬP LÀ LÀM SAO?
 
Nỗi sợ của những nhà văn/nhà thơ trong nước cũng như ở hải ngoại là một thực tế tâm lý không thể chối cãi. Nói chung, chẳng phải chỉ có nhà văn/nhà thơ mà ai cũng sợ. Sự sợ đó phát xuất từ một bối cảnh chính trị-xã hội toàn trị mà nếu không thay đổi được thì tương lai sẽ là những bước gập gềnh chông chênh bên vực thẳm. Nhưng ngoài sự sợ, bối cảnh toàn trị nói trên còn tạo ra một thuộc tính nguy hiểm khác. Trong một xã hội tổ chức hàng dọc, phần hàng ngang, là những cá nhân, không những chỉ rời rạc mà còn ứng xử với nhau một cách khá đăc biệt: tiến thân là leo ‘’lên’’ theo hàng dọc, nên tị hiềm với nhau, nhất là khi không còn chia chung một số phận (như những người lính bắt buộc phải dựa vào nhau để tồn tại). Từ đó, chia rẽ, nghi kị, và đội trên đạp dưới, và thao tác tranh công… là những ứng xử ‘’bình thường’’ nhằm thăng tiến cá nhân. Một số giá trị bị đảo lộn. Dối trá, ngậm miệng ăn tiền, thành khôn ngoan. Chân thật, há mồm nói thẳng, hóa ra ‘’hâm’’, thậm chí dại, hão… Từ đó ‘’con người-xã hội’’, nghĩa là những con người cùng lý tưởng, ước vọng, liên kết đồng thuận với tình cảm gắn bó và lòng xót thương lẫn nhau, bị giới hạn, thậm chí bị thủ tiêu. Chỉ còn con người cô đơn, con người xác định bằng những quyền lợi cá lẻ, chi phối bởi phần ‘’vật chất’’ ban phát từ một quyền lực nhân danh chính mình. Tính liên đới căn bản gầy nên keo sơn gắn bó thực sự tạo ra xã hội, được hiểu như một mạng lưới liên kết toàn diện chứ chẳng phải là tập hợp rời những cá nhân đơn lẻ ‘’duy vật’’ rời rạc, bị xói mòn, tiêu hủy. Và, nói với một chút cường điệu, đó chính là nguy cơ phá sản văn hóa, nguy cơ xã hội tiêu vong 5 .
 
Tôi nghĩ nỗi sợ và lòng nghi kị chia rẽ là hai khó khăn tâm lý phải vượt nếu chúng ta mong mỏi có được một cuộc hôi nhập giữa những nhà văn/nhà thơ trong nước và ở hải ngoại. Hai khó khăn đó, với di căn của một lịch sử đầy chia cắt, hận thù, chỉ có hy vọng cùng nhau vượt qua bằng trí tuệ và nhất là lòng độ lượng trong tiến trình hòa giải thực sự. Là lớp đặc tuyển trong mọi xã hội, tôi đặt niềm tin vào khả năng ấy của tất cả nhà văn/nhà thơ Việt Nam, không phân biệt trong-ngoài.
 
Bạn sẽ hỏi ngay, hội nhập là làm sao?
 
Tránh nói suông, tôi xin cụ thể, dẫu biết rằng một số ý 6 cần bổ xung trên nhiều mặt:
 
      1- Cùng nhau, chúng ta lập ra một tập hợp thân hữu những người chia xẻ tâm huyết với tương lai của văn chương tiếng Việt. Tập hợp này, trọng tâm là văn hóa, sẽ độc lập với mọi chính quyền và mọi tổ chức chính trị.
      2- Sử dụng diễn đàn Hội Luận như nhịp cầu đầu tiên thúc đẩy quan hệ giữa những nhà văn/nhà thơ bất kể trong nước hay hải ngoại.
      3- Mở rộng chủ đề của Hội Luận, tìm cách hiển thị những sáng tác chất lượng nhưng có khó khăn trong việc phổ biến đến bạn đọc.
      4- Tìm phương tiện phát hành định kỳ Tuyển Tập những sáng tác đã hiển thị trên diễn đàn này.
      5- Tìm phương tiện tổ chức những cuộc giao lưu thân hữu, ban đầu với qui mô nhỏ, ở trong cũng như ở ngoài nước.
 
Cho phép tôi tóm lược rằng quá trình hội nhập không phải nay mới có. Trước tiên là công khai phá của Hợp Lưu, với sự năng nổ của nhà văn-hoạ sĩ Khánh Trường đầu thập niên 1990. Ở thời điểm ban đầu, khó cả với cộng đồng người Việt ở hải ngoại lẫn với những nhà kiểm soát văn hóa tư tưởng trong nước. Mặc dầu rất khoan nhượng, lắm lúc nhũn ra, thậm chí tự kiểm duyệt khá nhiều, nhưng Hợp Lưu vẫn bị cấm cản, không visa nhập cảnh, phải đi chui. Tình trạng tác phẩm trong nước được phổ biến ra ngoài thì nhiều, nhưng tác phẩm hải ngoại ‘’qui cố hương‘’ hầu như không có. Năm, sáu năm trở lại đây, với kỹ thuật điện toán, Talawas, rồi Tiền Vệ, Da Màu đã là những webb site có tiếng, phổ biến những tác phẩm đến từ mọi nơi. Sự kiện này khiến chúng ta có cơ hội được đọc những tác phẩm của những nhà văn/nhà thơ trong nước, phần lớn là lớp trẻ tìm môi trường để ‘’quậy’’, nhưng ngược lại, văn chương hải ngoại nhập cảnh thì vẫn chẳng có bao nhiêu. Tuy nhiên, như Hoàng Hưng thông báo, đã có những biểu hiện bớt nghiệt ngã khắt khe của những cơ quan có chức năng kiểm soát tư tưởng-văn hóa như việc trao giải thưởng cho nhà văn Thuận cư trú ở Pháp năm ngoái, và nhà văn Đoàn Minh Phượng cư trú ở Đức năm nay. Kể ra những tổ chức trên, tôi xin lưu ý một vấn đề: diễn đàn Hội Luận trong chiều hướng đề nghị phải cố gắng tránh dẵm chân lên những diển đàn bạn, đừng sút bóng vào gôn nhà, và đừng ngáng chân anh em. Tất cả chúng ta đều cùng mục đích, nên triệt đề cảnh giác truyền thống xã trưởng, gây tranh đoạt, chia rẽ, thị phi (cứ nhìn hàng vài chục hội đoàn người Việt ở quận Cam chẳng hạn để nhủ mình). Vì thế, diễn đàn Hội Luận phải động não tìm ra một cái niche (đặc thể) để tiến hành sinh hoạt như đề ra ở trên.
 
Bạn lại hỏi, tại sao hội nhập bây giờ?
 
Xin thưa, đã chậm, đã quá chậm. Nhưng muộn còn hơn không! Vả lại, Việt Nam đang hội nhập với cả thế giới, cớ gì những nhà văn/nhà thơ cùng viết tiếng Việt lại không có quyền tự do hội nhập với nhau, trong chiều hướng cùng nhau đóng góp mong văn chương đừng tụt hậu? Ngoài ra, cái xã hội phân-quản-xin-cho đang từ từ biến vào quá vãng. ‘’Gì cũng phân - gì cũng quản’’, và như dân kêu, ‘’đến c… cũng phân cũng quản‘’ không còn tồn tại. Chuyện trò với Dương Nghiễm Mậu, tôi hỏi theo anh biến cố lịch sử nào là trọng đại sau 1975. Anh đáp ngắn gọn: ngày không còn sổ gạo! Vậy, bỏ đói không còn có thể dùng làm phương tiện ‘’trị dân‘’. Và vì bức bách của thực tiễn, chính sách lý lịch cũng phải lơ dần. Nay không có một cuộc giải phóng dân tộc - cuộc giải phóng đã hằn sâu trong tiềm thức của dân tộc đã hàng nghìn năm phải chiến đấu để xác quyết quyền tự chủ - chỉ còn cái chiêu bài ổn định nhằm thực hiện những chữ Dân giầu Nước mạnh Xã hội công bằng văn minh. Chữ là chữ thôi, thực tế thì dân Việt Nam đi làm công cho nước ngoài, phụ nữ ‘’được’’ xuất khẩu hàng loạt, nợ ngoại quốc chồng chất, làm ăn thất thoát vì tham nhũng… Và tuổi trẻ thì cứ thế, nạn nhân của một chính sách văn hóa giáo dục ‘’ngu dân’’, ngày càng tuột dốc, về tri thức, văn hóa cũng như đạo lý. Hội nhập ở góc độ văn hóa văn chương là một bước. Rộng hơn, và cũng bức bách không kém, là một cuộc hòa hợp hoà giải thực sự. Đó là qui luật. Đi ngược lại, là tự sát bằng một lưỡi dao cùn, không chết ngay được, mà đau, dài dài.
 
Hôm qua, tôi nhận được tin sau:
 
TRẦN DẦN – THƠ” đã bị niêm phong và thu hồi ngày hôm nay 26 tháng 2 năm 2008, tại Công ty Truyền thông & Văn hóa Nhã nam, Hà Nội. Một đoàn thanh tra liên ngành gồm Cục xuất bản, Thanh tra văn hóa, nhân viên nội vụ A25 đã có mặt tại hiện trường để thi hành quyết định.”
Cái tin không vui làm tôi nhớ Trần Dần, nhớ lần cuối cùng tôi gặp ông, người không hiểu sao tôi gọi là ông ‘’cọp ngày’’. Đó là năm 1989. Chúng tôi rủ nhau vào Sài Gòn, đi xe lửa liên Việt, ghé mỗi nơi một tí. Ông rất vui, gật gù. Vài ngày sau thì có tin báo ‘’trục trặc’’. Thế là tôi đành đi trước, hụt chuyến vào Huế thăm anh em Sông Hương, và chỉ gặp lại ông trong miền Nam, rủ rê ông gặp Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn… Vui với nhau được ít buổi. Rồi tôi phải đi, và đến chia tay một buổi trưa nắng rát mặt. Thấy cây gậy trúc ông cầm, tôi linh tính một cái gì đó mong manh, xin cây gậy giữ làm kỷ niệm. Ông ngần ngừ, rồi thốt: Bửu Chỉ cho mình. Rồi ông loay hoay, chữ như kiến bò, viết trên một cái vỏ bao thuốc lá: tôi đã hát những lạc quan không hát / bây giờ tôi hát lạc quan đen, miệng vẫn kiệm lời: giữ cái này vậy… Từ ngày ấy, tôi không còn được gặp ông vì bị cấm cửa từ năm 1990 đến 1997 mới lại được ‘’cho về’’.
 
Vô phép, tôi kèm một dấu hỏi vào câu thứ nhì của hai câu mini. Nếu ông giận, thì tôi sẽ nhắc, anh Dần ạ, ấy là bởi em còn hai câu khác của anh nó ám ảnh. Đó là:
 
Tất cả đến với tôi - phải đến tự đàng trước.  
Đàng sau có gì? toàn LÁ-CHẾT những ngày qua.

 
Rồi ai cũng chết, nhưng từ đằng truớc, xá gì đám lá mục đằng sau.
 
28/2/2008
Nam Dao
 
 







1 Mở ngoặc báo một thông tin. Sống mà trở về, tôi không biết nhưng chết thì dễ hơn. Tôi có một người bạn lìa cõi này cách đây hai năm, trong di chúc dặn vợ con đốt nhục thể thành tro rồi mang về Nha Trang để trong một cái chùa. Chi phí dịch vụ cho Đại Sứ Quán chỉ 100 đô cho phép chuyển tro bụi về với tro bụi, nhấp nhỉnh phí xin visa, nhưng giải quyết rất nhanh và gọn, không cần kiểm tra lý lịch như với người sống. Chết chôn trên đất nước mình không mắc mỏ như vật giá đâu! Sống mới thiên nan vạn nan.
 
2 Cứ gọi CS vì quen miệng thôi, làm gì còn, chỉ còn Cảnh Sát là chính thôi. CS gì mà ở trong nước, cả giáo dục, y tế… đã ‘’xã hội hóa’’ (tức đùn cho nhân dân lao động). Và tài sản như đất đai, công ty nhà nước thì ‘’cổ phiếu hoá’’ (tức rơi vào tay tư nhân quyền thế). Sự giảm cường độ căm thù là có vì những chuyến về thăm quê của những ‘’khúc ruột ngàn dậm‘’ nay lên mức gần nửa triệu mỗi năm, xênh xang áo gấm về làng, một số ít ‘’hồ hởi’’ khi nghe bà con kể cũng đỡ rồi chứ không như xưa, rồi uống bia, ăn phở và đi mua dâm, giá thật rẻ so với giá ‘’quốc tế’’. 
 
3 Có những ngoại lệ. Tôi mạn phép xin kể ra hai là những tác phẩm đầy tình nhân ái với những con người nạn nhân. Một của Trần Mộng Tú, tựa Những Người Lính Cũ, Hợp Lưu, Xuân Mậu Tý, nói về những người lính VNCH xưa chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị. Và hai, của Mai Ninh, tựa Con Đường Đồi Cát, nói về những phụ nữ xưa là Thanh Niên Xung Phong, tham gia chiến trường miền Trung (cả hai văn bản có thể truy cập trên http://amvc.free.fr). Ngoài ra, chắc chắn cũng có, nhưng không phải nhiều, những tác phẩm của nhà văn/nhà thơ hải ngoại đề cập đến con người Việt Nam sau dâu biển.
 
4 Tôi liên tưởng đến tiểu thuyết Cá Voi Trầm Sát của tác giả Mai Ninh. Đi hỏi những cửa hàng sách ở Hà Nội, nói rõ nhà xuất bản Trẻ, năm… nhưng cô bán hàng bảo không, tra cứu cômpiutơ, hô, không thấy. Vào Sài Gòn, cũng vậy. Tò mò hỏi. Cô tiếp thị trong cửa hàng sách trên đường Nguyễn Huệ nhỏ nhẹ: ‘’Anh à, cuốn đó có được quảng cáo khuyếch mại không? Không thì… in ít, phát hành mỏng lắm!‘‘. Vào tham khảo Thư Ấn Quán, webb gom góp những tác phẩm văn học bất cứ nguồn gốc nào. Cũng tìm ‘’em’’ như thể tìm chim, mặc dầu Cá Voi Trầm Sát là một tiểu thuyết xuất sắc, in trong nước thì có Nguyên Ngọc giới thiệu rất trang trọng!
 
5 Xin tham khảo Nam Dao, ‘’Vốn xã hội, nguy cơ phá sản?’’, Talawas, 11-12-2007; và những bài cùng chủ đề của Thái Kim Lan, Nguyễn Huệ Chi và Nguyễn Xuân Lộc.
 
6 Trích tham luận của nhà thơ Hoàng Hưng:
‘’… Đầu năm 2007, khi đi dự Hội nghị Văn bút Quốc tế Khu vực Châu Á Thái Bình Dương (với tư cách một nhà văn độc lập trong nước Việt Nam), tôi mới biết rằng đã có một tổ chức quy tụ các cây bút Trung Hoa trong và ngoài nước: Independent Chinese Pen Center (Trung tâm Văn bút Trung văn Độc lập), thành lập từ 2001, với nhiều trung tâm địa phương ở hải ngoại và hai trung tâm địa phương trong nước (chắc là hoạt động không chính thức). Hàng năm Trung tâm này đều tổ chức các hội thảo về văn chương tiếng Trung có cả nhà văn trong lẫn ngoài nước tham dự, và trao giải thưởng chung cho văn phẩm không kể trong hay ngoài nước. Khó tin là các nhà văn Việt Nam làm nổi một chuyện tương tự. Do nhiều khó khăn riêng của hoàn cảnh Việt Nam mà ai cũng biết, trong đó là gánh nặng tâm lý của cuộc phân cách kéo dài quá lâu và điều kiện kinh tế. Tôi hy vọng và chúc cuộc Hội Luận này sẽ mở ra một bước ngoặt cho việc quy tụ - ít nhất về mặt tinh thần, và sau đó là những sáng kiến thực hành – các cây bút tâm huyết với tương lai của văn chương tiếng Việt.’’
 
 
http://hoiluan.vanhocvietnam.org/?p=127
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.03.2008 00:15:25 bởi Ngọc Lý >

HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
Trần Dần - (1926-1997) - 10.03.2008 14:03:23
Trần Dần - Thơ” ở đâu?
2008.03.09
Minh Thùy, thông tín viên đài RFA
 
Trong Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 6 tổ chức tại Văn miếu, Hànội ngày 21.2.2008 vừa qua, một sự kiện mới xảy ra gây ngạc nhiên và bức xúc với nhiều bạn đọc yêu thơ, đó là lệnh ngưng phát hành thi tập Trần Dần-Thơ, gồm những sáng tác của Trần Dần trong hơn 30 năm qua, và những bài viết về con người, thơ văn của ông.
 
Tiếp theo ngày 26/2/2008, sau cuộc làm việc của đoàn thanh tra liên ngành do Bộ Thông tin - Truyền thông cầm đầu với Công ty Nhã Nam, tập Trần Dần - Thơ đã bị ngưng phát hành vì lý do “vi phạm qui trình xuất bản”. Gần 200 nhà báo, nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước cùng ký tên trên một thư ngõ gửi đến các cơ quan văn hoá và quốc hội Việt Nam, yêu cầu nhà nước: “Hãy xem xét lại cung cách ứng xử và chấm dứt cách thức hành xử thiếu văn minh, vô pháp luật đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật nói riêng, các sáng tạo tinh thần nói chung”.
 
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, dịch giả Dương Tường, nhà thơ Hoàng Hưng, dịch giả Phạm Toàn, Cao Việt Dũng, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên... cùng chấp bút cho bức thư ngõ phản đối việc cấm phổ biến tập Trần Dần-Thơ. Sau đây là phần phỏng vấn của Minh Thùy với ông Phạm Xuân Nguyên.
 
 
“Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ.”
 
 
Hai câu thơ gắn liền với tên tuổi của nhà thơ Trần Dần, một gương mặt của nhóm Nhân Văn giai phẩm. Ông mất năm 1997, sau hơn 30 năm chịu đựng nhiều nỗi oan khuất và đau khổ. Phải đợi đến thời đổi mới, những sáng tác của ông như Bài thơ Việt Bắc, Cổng Tỉnh và Mùa Sạch mới được ra mắt bạn đọc. Riêng tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh từng được nhận Tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1994.
 
Đầu năm 2007, nhà thơ Trần Dần lại được vinh danh với Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật, nhưng số phận những sáng tác thơ văn của ông có lẽ cũng lao đao như cuộc đời ông. Thi tập TRẦN DẦN-THƠ, dày hơn 500 trang, được đánh giá như một di cảo lớn của Trần Dần vừa mới ra mắt bạn đọc thì bị lệnh ngưng phát hành ngay trong Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 6.
 
Ngay sau khi sự việc xảy ra, nhà phê bình văn học Phạm xuân Nguyên đã có bài viết Trần Dần-Thơ ở đâu? Minh Thùy đã nói chuyện cùng ông Phạm xuân Nguyên.


Lẽ ra trong ngày thơ Việt Nam, với tập Trần Dần-Thơ dày dặn, cho thấy những sáng tạo, cách tân của một nhà thơ lớn thì là một sự kiện lớn, sự kiện đáng vui mừng thì nó gây ra thất vọng. Thật ra thì nó nằm trong cái chuỗi của các tác phẩm gần đây khi có vấn đề gì mà bị cấm, hoặc bị đình chỉ phát hành, bị thu hồi thì thường người ta chỉ nêu ra lý do hành chính như là lý do thông dụng nhất, dễ nói nhất, chứ không bao giờ nói thẳng là tác phẩm ấy thực ra bị như thế là vì vấn đề nội dung, tư tưởng của nó.
Phạm xuân Nguyên

Kính chào anh Phạm xuân Nguyên. Mới đầu năm ngoái, trong số các nhà thơ được vinh danh với Giải thưởng nhà nước, có 4 gương mặt của các nhà thơ trong nhóm Nhân Văn giai phẩm trước kia là Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán và Trần Dần. Nhiều bạn đọc yêu thơ trong nước và nước ngoài cũng hân hoan với tin này. Thế mà đầu năm nay thi tập TRẦN DẦN-THƠ lại bị ngưng phát hành với một lý do tôi thấy không chính đáng lắm. Anh nghĩ sao về tình trạng bất cập này?
 
Phạm xuân Nguyên: Không chỉ riêng gì chị mà cả tôi, cũng như với tất cả những ai yêu thơ Trần Dần nói riêng và yêu thơ Việt nói chung, nhất là trước động thái năm 2007 Trần Dần cùng với Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, có thể nói là 4 gương mặt tiêu biểu của vụ án Nhân Văn giai phẩm trước đây đã được truy tặng và trao tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật, đây là tín hiệu rất đáng mừng.
 
Với tất cả diễn biến như vậy thì người ta trông chờ một việc là những sáng tác của các nhà thơ này trong thời kỳ hoạn nạn, trong thời kỳ im lặng và bóng tối của họ sẽ dần dần được xuất hiện, trả lại cho thời gian, trả lại cho nhà thơ và công chúng. Tập Trần Dần-Thơ này mọi người cũng nghĩ là phải được chào đón, thế nhưng cái động thái như không được bày bán trong Văn Miếu tại ngày Thơ Việt Nam, bị ngưng phát hành, thì là rất gây bất ngờ, gây ngạc nhiên và phải nói là gây thất vọng.
Lẽ ra trong ngày thơ Việt Nam, với tập Trần Dần-Thơ dày dặn, cho thấy những sáng tạo, cách tân của một nhà thơ lớn thì là một sự kiện lớn, sự kiện đáng vui mừng thì nó gây ra thất vọng. Thật ra thì nó nằm trong cái chuỗi của các tác phẩm gần đây khi có vấn đề gì mà bị cấm, hoặc bị đình chỉ phát hành, bị thu hồi thì thường người ta chỉ nêu ra lý do hành chính như là lý do thông dụng nhất, dễ nói nhất, chứ không bao giờ nói thẳng là tác phẩm ấy thực ra bị như thế là vì vấn đề nội dung, tư tưởng của nó.
Minh Thùy: Được biết tuy được ra mắt, nhưng trong tập thơ có một số bài thơ đã bị cắt bỏ, những bài thơ đó là gì, vì sao lại bị bỏ bớt đi? Có vi phạm luật lệ hay “phạm húy” gì không?
 
Phạm xuân Nguyên: Trần Dần, như người ta được biết, trong hơn 30 năm bóng tối của ông thì ông vẫn lao động một cách âm thầm miệt mài. Ông là ngưòi sống với chữ, sống với thơ, sống với sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Cho nên các hoàn cảnh thì càng mài sắc thêm cái ý chí, khát vọng đó của ông.
 

Nhà phê bình Phạm xuân Nguyên (ảnh PXN, đầu năm 2005 tại Frankfurt-Germany)
 
 
Có thể nói Trần Dần là một nhà thơ đúng nghĩa của 2 chữ Nhà Thơ, do đó di cảo của ông để lại là khá lớn, chúng tôi có dùng chữ là di cảo đồ sộ. Khi làm tuyển tập này gia đình nhà thơ cũng như công ty văn hoá truyền thông Nhã Nam, nhà xuất bản Đà nẵng, mong muốn nhân kỷ niệm 10 năm mất của Trần Dần, ông mất năm 1997, thì lẽ ra tập thơ này đã ra vào 2007 là 10 năm mất của nhà thơ.
 
Gia đình và Nhã Nam muốn giới thiệu 1 cách có hệ thống những sáng tạo, cách tân của Trần Dần về thơ, kết hợp với một số bài viết tiêu biểu về thơ Trần Dần, khi ông được xuất hiện lại trên thi đàn. Nhưng trong quá trình biên tập có thể do yêu cầu của nhà xuất bản, do hoàn cảnh chính trị văn hoá xã hội cũng đã bỏ bớt một số bài.
 
Theo tôi biết ví dụ như về sáng tác của Trần Dần, 36 bài Thở dài đã có trong bản thảo nhưng bị đưa ra, và trong số những bài viết về Trần Dần bị bỏ ra khá nhiều như Hồi ký của Hoàng Cầm về Trần Dần, bài viết của nhà văn Phạm thị Hoài, một bài viết rất sâu sắc dựng lên được chính xác chân dung của Trần Dần, bài viết: Thủ lĩnh trong bóng tối, bức thư của nhà văn Nguyễn đình Thi với tư cách đồng nghiệp và là chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam gửi cho Trần Dần cũng bị bỏ ra.
 
Đấy là những phần tiêu biểu của Trần Dần, kể cả những sáng tác đã công bố trước đây cũng như những phần còn nằm trong di cảo và những bài viết của các văn hữu, của các nhà phê bình, để dựng lên một hành trình thơ, một con đường đi của Trần Dần, thì do những lý do này khác phải bỏ ra.
 
Tất nhiên khi bị bỏ ra như vậy thì cấu trúc quyển sách có thay đổi nhưng trong hoàn cảnh xuất bản này thì các bên đều nhân nhượng nhau, tuy vậy cuốn sách khi ra đời vẫn dày dặn. Nếu như nó được phát hành bình thường đến tay bạn đọc thì cũng là 1 tác phẩm hay đứng về mặt thơ và là cuốn tài liệu quí cho những ai muốn tìm hiểu Trần Dần nói riêng và tìm hiểu thơ Việt nói chung.
 
Minh Thùy: Bản thân tôi khi đọc những câu thơ của Trần Dần như :
 

Bía cuốn Thơ Trần Dần do Nhã Nam & NXB Đà Nẵng ấn hành. Bìa sách là hình minh họa của chính tác giả cho bài thơ "Bài hát cho người lớn".
 
 
Thơ là mạng sống, là lý lịch thật đời tôi
Thơ tôi có 30 năm đóng chai. Nó có thể...chờ

Và những câu khác:
Càng chết tôi càng bất tử
Eo ôi
chết vẫn không yên....

 
tôi cảm thấy ngậm ngùi và băn khoăn, không biết có phải ông đã tiên liệu được số phận gian truân của mình và văn thơ mình ngay cả sau cái chết ? Với tư cách nhà phê bình văn học anh có nhận định gì về thi tập này, về những bài thơ có tính cách tân, rất mới lạ của ông, dù ông sinh ra từ thế kỷ trước?


Cho đến khi đọc cuốn Trần Dần-Thơ này, thì cái cảm giác đó trong tôi càng đầy lên. Và đúng như chị nói, và đúng như những ai đọc Trần Dần biết, hình như ông là người tiên cảm được số phận của mình, như ông nói xây một tập thơ là xóa một nhà tù và ông nói, như trong bài tôi đã viết sau sự kiện ở Văn Miếu trong bài Trần Dần-Thơ ở đâu,là đến với tôi phải đến bằng cửa trước.
Phạm xuân Nguyên

Phạm xuân Nguyên: Có lẽ nhiều người nếu đã tiếp xúc với thơ Trần Dần thì đều có cảm xúc và suy nghĩ như chị. Cũng như tôi, cách đây 10 năm khi Trần Dần vừa nằm xuống, khi tôi viết bài để hình dung Trần Dần, khi được tiếp xúc với một số ít bản thảo của những người con Trần Dần đưa tôi, thì phải nói cảm giác của tôi hết sức bàng hoàng và kinh ngạc, vì cái cách tân, sự mới mẻ của ông.
 
Vì lâu nay tôi đọc thơ theo điệu khác, theo thói quen thuộc, nhưng cũng với những con chữ ấy trong tiếng Việt, vẫn những thanh âm ấy trong tiếng Việt, dưới bàn tay người thợ luyện chữ, người cách tân như Trần Dần thì nó đưa đến những cảm nhận hết sức bất ngờ, hết sức mới mẻ và sảng khoái. Bản thảo mà tôi được tiếp xúc 10 năm trước đó là tập ông viết đề là 1963-1964 Học theo ca dao, tức là ông luyện chữ bắt đầu đi từ ca dao, bắt đầu viết cho đúng nghĩa của chữ trưóc khi biến tấu âm, biến tấu chữ để bật ra những nghĩa mới.
 
Cho đến khi đọc cuốn Trần Dần-Thơ này, thì cái cảm giác đó trong tôi càng đầy lên. Và đúng như chị nói, và đúng như những ai đọc Trần Dần biết, hình như ông là người tiên cảm được số phận của mình, như ông nói xây một tập thơ là xóa một nhà tù và ông nói, như trong bài tôi đã viết sau sự kiện ở Văn Miếu trong bài Trần Dần-Thơ ở đâu,là đến với tôi phải đến bằng cửa trước.
 
Như vậy là một người sáng tạo, một người cách tân có ý thức, có chủ ý, biết rất rõ con đường mình đi thì những câu thơ ông để lại rõ ràng đã tiên liệu số phận ông. Và hơn thế nó thách thức sự tiếp nhận ông, như vậy chúng ta càng cảm phục ông, càng tin rằng những câu chữ ông để lại, thơ ông để lại, những hành trình sáng tạo cách tân của ông đã đi qua và để lại rồi cuối cùng nó cũng sẽ tìm đường đến được với công chúng, với độc giả. Cũng như đến lúc nào đó toàn tập Trần Dần ra sẽ cho chúng ta hình dung đầy đủ về con người Trần Dần và về vai trò, ý nghĩa của ông đối với nền thơ ca Việt đương đại.
 
Minh Thùy: Xin cám ơn nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đã trả lời phỏng vấn.
 
Minh Thùy thực hiện
Mời các bạn đọc Thư ngõ phản đối việc cấm phổ biến thi tập TRẦN DẦN-THƠ và cùng tham gia ký tên vào Thư ngõ theo đường link sau:
 
http://gopetition.com/online/17462.html
 
 
 
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/03/09/VietnameseProminentPoetSince1950sTranDan_MThuy/
 

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 32 bài trong đề mục