Post #: 8
Nguyên âm kép cuả tiếng Việt Trước nay các sách mô tả ngữ âm tiếng Việt đều chấp nhận giải thuyết cho rằng nguyên âm kép cuả tiếng Việt gồm có ba đơn vị như sau: iê (ia), ươ (ưa), uô. Các nhà ngữ âm đã biện luận rất nhiều về khả năng kết hợp cuả các nguyên âm kép / iê /, / ươ /, / uô / để thưà nhận chúng là những nguyên âm kép một âm vị (Lê 1948, Nguyễn 1949, Thompson 1965, Ðoàn 1977). Tuy nhiên các tác giả trước đây không thống nhất ý kiến nhau về tính cách cuả các nguyên âm kép tiếng Việt, do vậy mà ý kiến cuả các vị cũng rất phân tán.
Ðể biện giải rằng ba nguyên âm kép nói trên là ba nguyên âm kép, các tác giả đều đưa ra mấy lẽ như sau:
- (a) về mặt ngữ âm, cả ba đơn vị nguyên âm vưà kể đều là một âm vị;
- (b) cả ba nguyên âm này đều có yếu tố nguyên âm đầu mạnh hơn yếu tố sau;
- (c) ba tổ hợp này đều có thể kết hợp với phụ âm môi, trong khi các tổ hợp khác không thể.
Chúng tôi đã chứng minh là hai tính cách đầu có thể tìm thấy ở cả chín tổ hợp nguyên âm kép trượt tăng dần . Chỉ có điểm thứ ba thì cần bàn thêm cho rõ: về mặt ngữ âm thuần tuý thì những phụ âm đầu có thể kết hợp được với ba tổ hợp iê (ia), ươ (ưa), uô (ua) cũng có thể kết hợp được cả với các tổ hợp khác. Tiếng Việt không có * boàng, *phuế, *voe, & chỉ là vì chúng ta muốn áp dụng luật tiết kiệm ngữ âm mà thôi: phụ âm môi mở đầu trượt tiếp sang âm chính ở vị trí hẹp, cao như i, ư, u để dừng lại ở một bậc dưới chúng (ê, ơ, ô) thì không phải gắng sức nhiều bằng khi phát âm các tổ hợp khác có khoảng cách biệt rộng hơn.
Cho nên luận điểm (c) nói ở trên không phải là tính cách quyết định. Tính cách âm vị học nổi bật nhất của nguyên âm kép tiếng Việt là: dù phát âm từ những vị trí khác nhau, tất cả đều là những tổ hợp nguyên âm trượt tăng dần. Những tính cách âm vị học cuả ba nguyên âm kép trên cũng tìm thấy ở sáu nguyên âm kép-trượt-tròn môi khác để làm thành một tập hợp chín nguyên âm kép thường viết ra dưới dạng như sau: iê (ia), ươ (ưa), uô (ua), uơ, uê, oe, oa (ua), uy, uyê (uya).
Khi loại bỏ sáu nguyên âm kép khác trượt từ âm tròn môi / u / , / ô/ và / o / ra khỏi hệ thống nguyên âm tiếng Việt, các tác giả đi trước phải dùng đến khái niệm âm đệm và bán âm / u-/ và / i- / để giải thích kết hợp này. Ảnh hưởng cuả cách nhìn nhận hiện tượng tròn môi như trong ngữ âm các tiếng Ấn Âu đã khiến việc mô tả nguyên âm kép tiếng Việt trở thành phức tạp, khi các tác giả đem khái niệm bán âm và âm đệm vào cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Vả lại, thưà nhận là có hai bán âm /-i-/ và /-u-/, cách giải thích này cũng không cắt nghiã được hiện tượng không cân đối giưã các nguyên âm trượt từ bán âm / -i-/ và bán âm / -u-/.
Thật ra, những phân tích trên đây cho thấy nguyên âm kép tiếng Việt chỉ là những nguyên âm trượt với nhau: ba nguyên âm ở bậc cao nhất là / i/ - /ư/ - /u / đều có khuynh hướng trượt sang các nguyên âm khác mà làm thành nguyên âm kép. Hiện nay, tất cả các tác giả ngữ âm tiếng Việt đều công nhận là ba tổ hợp /iê/ - /ươ/ - /uô/ là ba nguyên âm kép, và các yếu tố đầu là những nguyên âm thực thụ chứ không phải là bán âm. Yếu tố / i / và / u / trong / ie / và / uô / không phải là một bán âm thì không có lí do gì để bảo các yếu tố đó trong những tổ hợp nguyên âm kép trượt tăng dần khác là sự trượt từ một bán âm sang một nguyên âm. Do vậy mà điều hợp lí hơn cả là thưà nhận rằng hai nguyên âm tiếng Việt trượt sang nhau.
Trong hệ thống nguyên âm kép tiếng Việt, có một nguyên âm trượt qua ba vị trí cấu âm: / uiê/. Mặc dù vậy, ba nguyên âm này trượt với nhau vẫn chỉ tạo thành một đỉnh âm tiết là nguyên âm / ê /, do vậy nguyên âm ba này vẫn chỉ có giá trị là một âm vị trong thành phần âm chính cuả âm tiết.
Những kiểm nghiệm qua cứ liệu thực nghiệm âm học gần đây nhất đã xác nhận hiện tượng trượt tăng dần cuả các tổ hợp nguyên âm tiếng Việt. Tìm hiểu hiện tượng trượt cuả các tổ hợp này sẽ thấy rằng chúng đều là những "nguyên âm kép trượt tăng dần" từ nguyên âm thứ nhất (I, U, Ư) sang nguyên âm thứ nhì.
Các nguyên âm tiếng Việt có thể kết hợp với nhau để cho những nguyên âm kép trượt tăng dần. Dạng trượt tăng dần là nét đặc trưng cuả lối kết hợp nguyên âm kép tiếng Việt. Nguyên âm trượt tăng dần là các nguyên âm kép lập thành từ một trong hai trường hợp như sau:
- (a) hoặc là một nguyên âm cùng bậc (hẹp, trung bình, rộng) nhưng đối lập nhau ở điểm phát âm (trước, giưã, sau) trượt về với nhau theo chiều: sau ---> giữa, sau ---> trước;
- (b) hoặc là hai nguyên âm khác bậc và điểm phát âm cùng trượt về với nhau theo chiều cao ---> thấp, nghiã là trượt từ vị trí mở hẹp sang rộng hơn.
Các nguyên âm kép trượt tăng dần cuả tiếng Việt đều có tính cách chung là âm tiết mang chúng có hai đỉnh cao, trong đó đỉnh thứ nhì [ ở chỗ nguyên âm thứ nhì ] cao hơn và là đỉnh cao cuả âm tiết (Hình 3). Nguyên âm thứ nhì này sẽ là yếu tố cảm nhiễm thanh mạnh hơn trong bộ phận âm chính cuả âm tiết. Vì thế, đồ vị thanh được ghi trên các đồ vị ghi âm vị mạnh cuả âm tiết: tuý luý, kià, huề, quế, hoè, quẽ, khoẻ, ngoẻo, quở, muá, quấn, khoá, thưả...
Ðường biểu diễn về âm lượng cuả âm tiết / mười / có thể hình dung như sau:
Hình 3: âm tiết có hai đỉnh tạo nên do nguyên âm kép trượt qua nhau Tóm lại, nguyên âm trượt tăng dần là một đặc trưng âm vị học cuả nguyên âm kép tiếng Việt. Ðó là hai nguyên âm trượt sang bên nhau từ một trong hai vị trí khác nhau:
- hoặc là từ vị trí hẹp trượt sang vị trí rộng hơn ở bậc thấp hơn,
- hoặc là trượt từ vị trí hàng sau về hàng trước hoặc giưã.
Nhận ra tính cách âm vị học cuả 9 tổ hơp nguyên âm kép tiếng Việt thì vấn đề thành phần âm chính cuả âm tiết tiếng Việt được giải quyết thoả đáng, và cấu trúc âm tiết tiếng Việt do vậy mà trở nên ổn định, với bốn thành phần. Không có thành phần gọi là âm đệm.
Trên đây là tính cách âm vị học nổi bật cuả các nguyên âm kép trượt tăng dần cuả tiếng Việt. Tất cả những nguyên âm kép tiếng Việt nói trên đều có những tính cách chung sau đây:
- đó là những âm vị làm hạt nhân cuả âm tiết như các nguyên âm đơn;
- có độ dài ngang với một nguyên âm đơn ở thể bình thường;
- yếu tố thứ nhì luôn luôn mạnh hơn yếu tố thứ nhất;
- kết hợp được với các loại âm tiết mở (khi không có âm cuối), và âm tiết khép (nghiã là khi có âm cuối để khép âm tiết).
Nguyên tắc viết dấu thanh tiếng Việt Trong các tính cách trên đây cuả nguyên âm kép tiếng Việt có một tính cách liên quan trực tiếp đến cách viết dấu thanh: ta biết rằng trong nguyên âm kép tiếng Việt, yếu tố nguyên âm thứ nhì luôn luôn mạnh hơn, làm thành đỉnh cao cuả âm tiết. Ðiều này dẫn đến quy tắc viết dấu thanh tiếng Việt, trong các tiếng có nguyên âm kép, như sau: dấu thanh luôn luôn đặt trên các nguyên âm đứng sau. Không có ngoại lệ.
Ứng dụng cụ thể quy tắc trên thì có những trường hợp nguyên âm kép như sau:
- Nguyên âm trượt từ I có iê, ia. Thí dụ: kiến, miễn, tiền, kià, miá, viá &
- Nguyên âm trượt từ Ư có ươ, ưa. Thí dụ: dưới, mười, mưả, vưà &
- Nguyên âm trượt từ U có uy, uyê/uya, uê, oe, ua/oa, uô, uơ.
- Thí dụ: khuỵu, quỳ, quýt, khuyến, nguyệt, khuya, huế, hoè, quả, hoạ, cuốc, chuộc, quở, thuở &
- Những nguyên âm kép kết hợp ở thể ngắn có một số dạng như sau: uâ, oă/ua.
- Thí dụ: quất, choắt, quắt.
Một trường hợp có thể gây nhầm lẫn Chính tả tiếng Việt có một số trường hợp cũng viết với hai đồ vị nguyên âm, nhưng thật ra bản chất cuả chúng khác hẳn những trường hợp nguyên âm kép-trượt-tăng-dần bàn đến ở phần trên. Ðó là trường hợp các nguyên âm kết hợp với U, O, I, Y phiá sau chúng. Thí dụ: sáu, đảo, nhái, thấy.
Những trường hợp này đều có một kết cấu giống nhau: âm chính + âm cuối. Trong kết cấu âm tiết cuả bốn từ sáu, đảo, nhái, thấy trên đây thì au, ao, ai, ây không phải là những nguyên âm kép, vì lẽ một nguyên âm kép luôn luôn chỉ là một đơn vị âm chính cuả âm tiết, do vậy nó còn có thể kết hợp thêm với một âm cuối.
Ta biết rằng tiếng Việt có 8 âm vị sau đây đảm nhận thành phần âm cuối trong âm tiết: m, p, n, t, ng (nh), c (ch), o (u), i (y). Bốn tổ hợp au, ao, ai, ây không thể kết hợp thêm với một âm cuối nào trong số 8 âm cuối kể trên, vì lẽ chúng đã có âm cuối rồi. Chẳng hạn, không thể có kết hợp *au+n, *ao+n, *ai+n, *ay+n trong tiếng Việt.
Khi phát âm thì kết cấu này không trượt tăng dần như các nguyên âm kép. Ngược lại, chúng "trượt" giảm dần theo đúng quy cách khép âm tiết khi có thành phầm âm cuối. Những âm U, O, I, Y trong trường hợp này chính là những âm cuối để khép âm tiết lại. So sánh hai từ sau đây: thuỷ và thủi. Từ trên có âm chính là nguyên âm kép /uy/ trượt tăng dần từ /u/ sang /i/; từ thứ hai có nguyên âm đơn /u/ là âm chính và âm cuối /i/ khép âm tiết lại.
Trong kết cấu âm tiết kiểu âm chính + âm cuối /u/, /o/, /i/, /y/ này, thành phần âm chính có thể gồm một nguyên âm đơn hay một nguyên âm kép. Kết hợp sẽ như sau:
- một nguyên âm + /u/, /o/, /i/, /y/: màu, sáo, nhài, lủi, vẩy &
- một nguyên âm kép + /u/, /o/, /i/, /y/: khuỷu, ngoéo, muối, nguẩy
Dù trong trường hợp nào thì dấu thanh cũng không đặt trên bốn âm cuối /u/, /o/, /i/, /y/, mà chỉ đặt trên nguyên âm đơn hay trên nguyên âm thứ nhì cuả tổ hợp nguyên âm kép đứng trước các âm cuối đó.
Tóm lại, dấu thanh tiếng Việt có nguyên tắc viết rất nhất quán, và có thể tóm tắt như sau:
- Dấu thanh đặt trên thành phần âm chính cuả âm tiết khi viết;
- Thành phần âm chính cuả âm tiết có thể là:
- một nguyên âm đơn: dấu thanh đặt trên nguyên âm;
- một nguyên âm kép: dấu thanh đặt trên nguyên âm thứ nhì.
Ðoàn Xuân Kiên * Bài đăng trong tập san Ðịnh Hương 17 (1998)
Tài liệu:
-
Tập san Diễn Ðàn (Paris): số 55 (1.9.1996).
-
Ðoàn Thiện Thuật (1977): Ngữ âm Tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. ÐH & THCN.
-
Ðoàn Xuân Kiên (1999): "Xem lại một vấn đề ngữ âm tiếng Việt: Nguyên âm". Hợp Lưu số 45 (th. 2&3.1999), tr. 5-31.
-
Gimson, A.C. (1980): An Introduction to pronunciation of English. (3e ed.) London: Edward Arnold.
-
Lê Văn Lý (1948): Le Parler Vietnamien. Paris: Hương Anh.
-
Nguyễn Bạt Tuỵ (1949): Chữ Và Vần Việt Khoa Học. Sài Gòn: Ngôn Ngữ
-
Phạm Thị Tú Minh, Nguyễn Văn Thế & Ðoàn Xuân Kiên (1998): Học Kĩ Ðọc Ðúng - Sách Hướng Dẫn I. Tilburg:Zwijsen.
-
Thompson. L. (1965): A Vietnamese Grammar. Seattle: Uni.of Washington Press.