Một Huyền Thoại Thi Ca
Thay đổi trang: << < 101112 > >> | Trang 12 của 20 trang, bài viết từ 166 đến 180 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Nhân văn 03.06.2012 02:05:36 (permalink)
 
                THẾ GIỚI THƠ CA PHẠM NGỌC THÁI
                                                                       Nguyễn Ðình Chúc

   Tôi biết Phạm Ngọc Thái (PNT) từ thưở còn chiến tranh, cùng là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú qua ba mặt trận Việt-Miên-Lào. Suốt chặng đường chinh chiến ấy Thái ham viết nhật ký và làm thơ! Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng, Thái vẫn thường hay đọc thơ cho chúng tôi nghe. Ðược biết những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến tranh, tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là một điều đáng tiếc.

Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh rồi kiểm lại cũng chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thưở đó, nay đã trở thành một nhà thơ có tên tuổi trong làng ngoài nước. Thái cũng đã cho xuất bản 3 tập thơ, hay nhất là tập "Rung động trái tim" - Nxb Thanh niên 2009 rất có tầm vóc của anh.
Tôi kể một chút kỷ niệm xưa cũng chỉ là bộc bạch đôi nét trước khi giới thiệu thơ anh! Phần nữa, qua những tập thơ đã xuất bản và nhiều chùm thơ anh cho quảng bá trên mạng - không khỏi ngỡ ngàng: tâm lý, tình cảm của PNT hôm nay đã khác với năm xưa ấy nhiều quá? Nếu đọc ở mảng thơ tình ta nhận thấy một tâm hồn tha thiết yêu nhưng hoang dã, mà phần nhiều đều là những mối tình dang dở hoặc tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm đã xa xưa.
Thí dụ như bài ÐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA anh viết:
Ta lại bước lang thang trên phố vắng
Ðến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi
Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai...
Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến... đã chia tay?
Còn ở bài NGƯỜI ÐÀN BÀ TRẮNG:
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu / Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em / Người đàn bà ngậm cả vầng trăng.
Mảng thơ tình này tôi sẽ nói kỹ hơn ở phần sau. Trong số bài thơ khác ta lại thấy một cái bóng bảng lảng, quanh quất cõi thiền của một con người cập kề tuổi hoa niên. Có lẽ không phải chỉ là vấn đề tuổi tác, còn do khách quan cuộc sống và tâm trạng bởi thời thế đã làm thay đổi những suy nghĩ, tình cảm và tâm hồn tác giả. Như trong tựa đề của tập thơ Người Ðàn Bà Trắng anh viết:
Tiếng chuông chùa bốn phía âm vang / Mình lễ cả ba thiên toà phật
Người có vận! Thôi đừng oán trách / Chuyện thơ văn vừa thực, vừa chơi...
Một quan niệm rất thiền. Còn tựa đề cho tập Rung Ðộng Trái Tim thì tâm tư của nhà thơ lại hoà trộn trong cát bụi cuộc đời:
Con sẻ hót mênh mông đồng nước / Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Ðời Thường thường lẫn vào bụi cát / Anh hát cho đời... / Anh hát em nghe...
Ðể có thể nhận thức được một phần nào đó về thế giới thơ Phạm Ngọc Thái, tôi tạm chia ra làm mấy tiêu đề lớn cho tiện phân tích.

A/- SỰ KHÁI QUÁT HÀM SÚC TRONG THƠ
Tính hàm súc có thể nói bao trùm trong thơ PNT, kể cả những bài thơ viết dưới dạng triết lý đến nhiều bài chảy theo dòng cảm xúc tự nhiên. Xin bắt đầu từ bài CỬA QUÁN:
Bà chủ quán / Bước lên xe mô-đéc / Ðeo kính gọng vàng
Mấy cô gái / Ngồi ở lan can / Mặc toàn váy ngắn
Mùa thu rơi / Sau kính...
Anh thi sĩ/ Hoá thằng gù / Nhà thờ - Ðức Bà - Pa Ri!
( Tập "Người đàn bà trắng" )
Nó khái quát tới mức độ: Bài thơ được tạo thành từ 4 tứ thơ, mỗi tứ chỉ là một bức ảnh.
- Bức ảnh thứ nhất chụp về sự giàu có sang trọng.
- Bức thứ hai chụp về sự trẻ trung hoa mỹ, gợi cảm của các cô gái (mô típ rất thời đại), qua đó để nói lên sự quyến rũ, đam mê trong khát vọng con người.
- Bức thứ ba chụp về thiên nhiên trinh bạch và êm ả: Con người còn hướng đến sự thanh tao, khoáng đạt của đất trời.
- Ðể rồi tác giả rút ra triết lý, kết tất cả vào trong bức ảnh thứ tư: Ðó là tấm chân dung thảm hại của thằng gù Nhà thờ Ðức Bà, Pa Ri... trong tiểu thuyết của văn hào vĩ đại V.Huy Gô. Dựng lên cả tấn bi kịch cuộc đời - Rằng, nếu nghèo khốn quá thì đến chân dung một con người cũng chỉ như một con vật!
Bốn bức ảnh ấy tự biến hoá, tác động lẫn nhau để lột tả chủ đề tư tưởng trong tác phẩm của anh.

Tôi phân tích một bài thơ khác của tập Rung Ðộng Trái Tim là bài NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ÐI TÌM VÀNG - Bài thơ vẽ cho chúng ta một bức tranh về những con người đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài:
Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp / Rời quê qua bên kia biển sóng / Kẻ tìm vàng, người vì cảnh nghèo đi...
Nó cũng giống như một đoàn quân ô hợp tha phương kiếm sống, nhiều mặt bị tha hoá... không khác gì lớp người ở dưới đáy xã hội:
Ðạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ / Ðứa mách qué lại vân vi dễ sống...
Gia đình ở trong nước thường vui mừng khi nhận được tiền của mà người thân của họ từ nước ngoài gửi về, nhưng không thấy được những nỗi đời ê chề, thậm chí tới mức khốn nạn mà những người thân của họ đã gánh chịu. Ta hãy nghe xem tác giả đã nói về cái giá mà những con người tha phương đó phải chịu đựng thế nào?
Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (*)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác (**)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác / Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Câu 1 (*) - Tác giả sử dụng ý câu thơ của Nguyễn Duy: "Còn chút vàng mười mang ra bán nốt" - nghĩa của hai chữ "vàng mười" đó ý nói là thứ "vàng của lương tâm". Trong mâu thuẫn hiện thực cuộc sống, nếu nghèo khổ quá thì có khi đến cả tâm hồn cũng phải mang ra mà bán cho quỉ sứ! Huống chi còn cả gia đình và những người thân trong nước đang chờ họ. Nền tảng xã hội xuống cấp thì cá nhân làm sao có thể giữ trong sạch được?
Câu sau (**) - Tác giả phỏng theo tích truyện "Bông hồng vàng" của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Ðông Dương, viên tướng ấy đã mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông ta về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri! Trên đường về Pháp, cô bé ngây thơ cứ ao ước có một bông hồng bằng vàng ? "Bông hồng vàng" chính là biểu tượng cho hạnh phúc của bé gái!
Những năm sau đó, cuộc sống xô đẩy anh lính lê-dương trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu của ngoại ô Pa Ri. Tuy vậy, trong tâm trí của người lính ấy vẫn mong muốn sẽ thực hiện được ước mơ của cô bé. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt lọc lấy những nắm bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng, đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé một bông hồng vàng nhỏ. Khi đó cô bé ấy đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri!
Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho bé gái thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và khổ cực. Xác anh ta nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng... sau đó đã bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất. Vậy là, loại "vàng mười" (vàng lương tâm) mà nhà thơ Nguyễn Duy đã phải đem ra chợ bán, với "vàng" mà người quét rác kia lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời - nó cũng giống như cái thứ vàng mà những người lao động đi kiếm khi họ ra nước ngoài làm thuê:
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác / Nhưng giá vàng tính cũng như nhau...
Khi mang ra thị trường thì vàng nào cùng loại mà giá chẳng như nhau? Nếu đặt trên bàn giá của lương tâm ta cũng không thể chê trách những con người lao động ấy, bởi những tình cảm đó xuất phát từ lương tri của lương tri, như tác giả thổ lộ:
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? / Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
Ý thơ thật xót xa. Kịch tính bao nhiêu khi chính những con người đó còn phải sống với nhau như giữa chốn chợ giời:
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ
Bài thơ đã được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu, nó hay lên vì "cái tôi" chảy trong máu tim tác giả hoà quyện với hiện thực của cộng đồng. Chỉ hơn 20 câu thơ tác giả đã phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết, một bi kịch xã hội và con người.
Thơ PNT giàu triết lý, đặc điểm của tính triết lý ấy là được vận từ đời sống vào thơ như được chắt từ trong óc, nên cảm xúc vẫn mạnh mà không bị gò ép. Thí dụ:
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu / Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng / Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!
(Người đàn bà trắng)
Bờ bãi đời người "Cuộc sống - Tình yêu" / Trái tim nhỏ em dựng cả Toà sen chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng nơi bể cả / Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu?
(Em về biển)
Cuộc cờ ấy theo thời như hội / Vàng đỏ trắng đen... thay sắc luân hồi
Từ anh nhà thơ tới đứa ăn mày / Mấy ai tránh nổi trò sấp ngửa.
(Viết sau đám xe tang)
Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại / Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió hồ Tây đang thổi / Anh ở đây vẫn bên hồ Tây mây trôi...
(Anh vẫn ở bên hồ Tây)

B/- PHẨM CHẤT VÀ TÍNH CÁCH NHÂN VĂN TÁC PHẨM
     Lưu ý một chút ta sẽ thấy nổi lên một đặc điểm rất rõ: Hầu như bài thơ nào của Thái cũng có thiên nhiên. Khi thì nó được viết dưới các hàng cây, lúc ở bên hồ, trong các quán xá của một chiều hoàng hôn hoặc dưới đêm trăng. Nhờ vào cảnh thiên nhiên bỗng một ký ức xa xăm nào đó vụt tới tạo thành cảm xúc thơ. Thiên nhiên không chỉ là chỗ dựa cho những tình cảm vui, buồn trong đời thường tác giả, nó còn là yếu tố quan trọng nuôi sống thơ anh. Như tác giả đã thổ lộ:
Mai ta chết, các bạn bè thân hữu / Bọc thiên nhiên mà đọc điếu văn
Ðại bàng vỗ cánh rợp trời mưa gió / Trong không gian vào mãi xứ vô biên...
(Viết dưới chân đài hoàn vũ)
Thơ anh đều bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường ấy được khái quát bằng một sự trải nghiệm tương đối sâu sắc: Con người với xã hội, cá nhân và thế giới. Nó mang tính đời sống triết học, tính vũ trụ (tồn tại và cát bụi), đời vừa thực lại vừa hư. Tuỳ theo cảnh tình nhào luyện thành vóc thơ ca, ẩn chứa một thế giới bên trong rất thấm thía.
Tôi xin nói thêm đôi nét về đời tư tác giả để bạn đọc dễ cảm nhận khi đọc thơ anh! PNT sinh ra và lớn lên trong thời chiến. Từ thưở còn trẻ anh đã phải rời bỏ đời sinh viên đại học, từ giã Hà Nội để tiếp nhận cuộc sống người lính ngoài chiến trường. Trong những năm tháng chiến tranh ấy, chúng tôi đã có một số năm sống với nhau trong cùng đơn vị. Sau này mỗi đứa phiêu bạt một nơi, cho tới tận ngày kết thúc chiến tranh trở về Hà Nội mới lại gặp nhau. Có lẽ vì tâm lý cũng đã mệt mỏi đường binh nghiệp nên khi trở lại thành phố quê hương anh đã xin rời khỏi quân ngũ, tiếp tục theo học đại học ngoại thương, để sau này trở thành một cán bộ của ngành ngoại thương quốc tế.
Tâm lý diễn biến của cuộc đời tác giả trong những năm hoà bình trở lại đây cũng khá phức tạp. Khi anh trở về thì nhà tan cửa nát, do bị bom B52 giặc Mỹ đánh vào phố Khâm Thiên Hà Nội năm 1972, khi ấy gia đình anh sống ở đó. Rồi năm tháng lại thêm sự chán nản bởi thời thế, Thái sống chẳng khác gì một người đi ở ẩn, chỉ vui thú với gia đình, bạn bè, sớm hôm bàu bạn văn chương. Tâm lý ấy đã được bộc lộ trong nhiều bài:
Ta đã sống phần đời sau chót / Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng nhân gian
Một cuộc sống bình thường bàu bạn / Nửa trăng hồ nửa gã hiền nhân.
(Trên nấm mồ truyền thuyết)
Có lúc tác giả rơi vào một trạng thái cô đơn đến gai lạnh:
Hãy vứt ta lên chiếc giường phủ những nệm chăn màn... làm từ những tế bào đói khát
Ta không đói khát tình em / Mà đói khát con người!
Hay là:
Một thứ ma người quen hút khí đêm thay cho sữa mẹ
Chơi với hoa, với cá, với chim
(Cô đơn)
Nhiều khi chỉ bàu bạn với trăng sao:
Ta! Anh thi sĩ của nhân gian / Tạc thù với cả khối sao trăng
Hồn hoa nâng cốc xin dốc cạn / Dẫu chỉ mình thôi vẫn mê man...
(Tối quán)
"Cõi thiền" cũng là một trong những phẩm chất nhân văn rất căn bản của thơ PNT. Trong mảng thơ đời của anh, tính hiện thực xã hội, thời đại, có khi lại hàm chứa cả những quan niệm vũ trụ đầy bí ẩn. Tôi xin phân tích cụ thể vào một số bài thơ.

1/. EM BÁN XOÀI - Hình ảnh nhân vật trong thơ đã được tác giả nghén thai từ những ngày sau chiến tranh, khi anh vẫn còn là một sĩ quan trên con đường binh nghiệp. Trong một buổi chiều tối lang thang trên bãi biển của thành phố Nha Trang, tác giả đã gặp một cô gái, nhiều cô gái bán xoài - để rồi mãi sau này khi nỗi lòng có nhiều trắc ẩn, kỷ niệm bao năm tháng qua lại trở về và bài thơ đã ra đời:
Em bán xoài đi đêm trên cát trắng / Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Ðó là những thân phận nổi trôi sau một cuộc chiến tranh, những kiếp đời cát bụi. Nó nhỏ bé, côi cút trong một biển sống đầy sóng dữ chỉ muốn nuốt chửng lấy nó. Những người con gái thân phận lạc loài, linh hồn gần như không có nơi bám víu:
Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm / Linh hồn treo ngoài thế giới em đi / Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
Cái thế giới ấy giống như:...vòng thiên la địa võng /- Mặc dù sự tồn tại của thế giới đó phải nhờ vào vị thơm của trái xoài và hương mát của những người con gái kia! Thế mà:
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
Hay là:
Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi...
Hồn thơ nhập vào những thân phận bọt bèo để rồi cùng vô vi trong cát bụi cuộc đời. Như thế là cái thế giới với những đảo điên trong thế thái giống như cái túi càn khôn bủa vây, vùi lấp đám dân lành tội nghiệp. Bài thơ được kết thúc trong lời ru, sự cảm đồng của lòng tác giả cùng với quê hương quanh những cô gái bán xoài:
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm

2/. CÔ QUÉT LÁ ÐÊM HỒ - Một bài thơ cũng rất giàu tính dân dã:
Một đêm hồ nước đầy sương gió / Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng / Em thầm thì quét lá, bên tôi!
Vào cái đêm trời đất đầy sương gió tác giả đã gặp cô quét lá, chính là người quét rác trong phố khuya. Ðọc đến câu thứ 2 ta thấy hiện thực xã hội đã hiện ra: Không phải chỉ trời sương gió, mà đó là những con người của đời sương gió. Lớp người đông đảo nhất xã hội, nhưng bước đi:...không rõ mặt người/- Những con người lao động nghèo khổ "sống không còn nhân ảnh", chẳng qua cũng chỉ là những lớp đời phù du, thân phận giống như chiếc chổi tre năm tháng quét lê trên đường để... mòn vẹt dần đi:
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp / Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Cảnh đời và tác giả cứ hiu hắt ru quanh cô quét lá đưa ta vào khoảng không gian vừa mơ hồ, êm ả, nửa thực, nửa không, như có những giọt lệ từ trong trái tim nhà thơ rơi ra:
Em hoá thành thơ rơi lặng lẽ / Trong cõi lòng tôi buồn triền miên...
Tôi đi sâu để phân tích hai câu thơ hay nhất bài:
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa...
Tác giả có kể về xuất xứ của 2 câu thơ này: Nhìn lên vòm trời đêm ấy xung quanh là tiếng lá cây reo, anh có cảm giác... không phải cô quét lá cô đơn mà chính là nhà thơ cô đơn! Nó cũng như cái bóng trăng đang lạc lõng, hiu hắt trên trời kia? Thế là bóng trăng đã được nhân cách hoá vào thân phận con người đang bơ vơ không nhà, không cửa. Còn hình ảnh đêm mùa thu cô quạnh, mơ mộng và man mác buồn... gợi lên trong tâm trí tác giả về hình tượng "con nai vàng" trong bài thơ Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư! Một sự liên tưởng nấy sinh trong đầu óc anh: Chỉ có thi nhân "mộng và sầu" mới có thể thấy được bóng:
Con nai vàng ngơ ngác
đạp trên lá vàng khô
Còn những con người lao động nghèo khổ kia đang phải vật vã từng ngày để kiếm miếng cơm manh áo, thì làm gì còn tâm trí mà....mơ đến bóng nai vàng? Thế là nẩy ra cảnh ngược thơ: Con nai vàng phải chết! Nên mới có câu:
Con nai vàng chết bóng thu xưa...
Vậy là hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" của cố thi nhân Lưu Trọng Lư thì bọc chứa cả thế giới trong thơ, còn hình ảnh "con nai vàng chết"...ở bài thơ "Cô quét lá đêm hồ" của PNT lại để phản ảnh ý nghĩa cuộc sống và xã hội nằm bên ngoài câu thơ. Hai câu thơ trên như gói cả thân phận cùng nỗi lòng của nhà thơ và cô quét lá vào trong đó!

3/. ÐÊM KHÔNG NGỦ - Là một bài thơ tác giả trăn trở về nhân tình thế sự! Ðó là vào một đêm mùa đông:
Thành phố của những ổ chim / Âm ỉ hót phù du...
Có một con chim (con chim đó đã phải đeo kính trắng), cứ tối tối ra đường:
Nhặt những hạt sấu, cánh hoa lơ đãng / Bước đi như không có chuyện gì?
Nhưng " không có chuyện gì" ? nghĩa là có chuyện! Vậy tại sao nó lại "lơ đãng"? Nghĩa là chuyện ấy nhàm rồi, chán rồi, không còn đáng lưu tâm hay nó không muốn lưu tâm đến nữa. Hình ảnh những "ổ chim" ở đây, tác giả lấy làm biểu tượng để nói về chốn dân tình. Thông qua tiếng của loài chim ấy để nói lên tâm tư tình cảm nhân gian về xã hội và thế thái này.
Ðêm không ngủ không buồn
Cái điệp khúc tác giả nhắc đi nhắc lại để mở đầu cho mỗi tứ thơ: nó bộc lộ một tâm trạng còn u uẩn, khuất khúc? Vừa như lãnh đạm bàng quan với xung quanh, nhưng lại... không ngủ được! Giai đoạn mà anh viết bài thơ này là... đúng vào cái đêm "bức tường Berlin bị đạp đổ", Ðông Ðức mất vào tay Tây Ðức, kéo theo là sự sụp đổ của nước Nga Xô viết cùng hàng loạt các nước XHCN ở Ðông Âu.
Ðứng trước một sự kiện lớn lao đến như thế, sự sụp đổ của cả một hệ thống CNXH cũng có nghĩa là sự tan vỡ của chủ nghĩa Marx làm chao đảo cả một thời đại - Ấy vậy mà hình ảnh của cả một thành phố (như tác giả tả trong thơ) vẫn chìm trong một không khí lạnh lẽo, như không ai thèm đếm xỉa đến sự tan vỡ ấy:
Thành phố không mưa / Cũng không nghe ai khóc!
Bởi vì cái thế thời ấy đã... thoái hoá, làm cho người ta chán quá rồi! Nó có sụp đổ đi cũng là đúng thôi, chẳng ai hoài công mà thương tiếc nó làm gì nữa. Ðây chính là thái độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ! Nên "con chim đã phải đeo kính trắng" kia mới:
Bước đi như không có chuyện gì...
Cuối cùng tác giả dồn toàn bộ ý tưởng vào trong mấy câu thơ sấm sét để kết bài:
Ðêm không ngủ! Phải, đêm nay mình không ngủ! / Ðúng vào đêm sụp đổ giữa cộng đồng
Chủ nghĩa Marx hết thời. CNXH cũng suy vong...
Tác giả bỏ lửng ở đấy để cho đời tự ngẫm mà phán xét? Thi phẩm đã bộc lộ một tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ.

4/. TRỞ VỀ - Bài thơ đã được viết ở nước ngoài cũng trong giai đoạn phe XHCN bị sụp đổ đó, vào những ngày anh chuẩn bị trở về quê hương:
Ðôi cánh chim trời quạt gió mây / Ta về non nước nước non đây
Hay là:
Ta về bàu bạn cùng mưa nắng / Lưu lạc người ơi gió cuốn thôi...
Trên bàn cân thế giới khi ấy dấu ấn về thành trì CNXH bị nghiêng ngả đã được tác giả ghi nhận trong bài thơ:
Ðông Âu bão giật xiêu thành Marx
Và tình hình rối ren của nhân tình thế thái:
Bốn bể chân trời lạc khói sương...
Thành thử chỉ từ một bài thơ có tính chất ngẫu hứng tự sự bản thân đã mang ý nghĩa về một phạm trù của lịch sử thời đại. Bối cảnh quê nhà khi tác giả ra đi:
Ở chốn quê nhà bụi cát bay / Hoà bình mà tan mộng trăng say
Nhưng vì tình yêu da diết với quê hương anh vẫn kiên quyết trở về, trong khi rất nhiều bạn hữu của anh tìm cách ở lại nước ngoài làm kinh tế. Theo lời tác giả nói: Anh kiên quyết trở về quê hương còn vì sự nghiệp văn chương, đã được anh ghi nhận trong câu kết bài:
Ta về trọn cuộc đất cố hương / Với mộng ngàn thu gửi nhân gian...
Có lẽ vậy cho nên việc PNT có trở thành một thi nhân với bao nhiêu áng thi ca hay để lưu lại cho đời cũng chỉ là tất nhiên thôi!

5/. Nếu kể đến mảng thơ viết về thành phố quê hương thì không thể không nói tới bài TIẾNG HÁT ÐỜI THƯỜNG - Bài thơ viết như một truyền thuyết: về người vợ trẻ với đứa con thơ đang chờ anh ở cố hương. Nơi có ngôi đền, quán báo, gốc đa bên hồ Tây. Nơi bà Thị Lộ năm xưa đi bán chiếu gon đã gặp ông Nguyễn Trãi. Nơi mà vẫn còn in dấu đại bác ở cổng thành phía bắc Thăng Long, khi quân giặc Pháp vào đánh chiếm Thủ đô, thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. Cái thành phố quê nghèo ấy với những hình ảnh bình dị thân thiết:
Ôi quê hương! / Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội / Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm / Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội
Và lòng nhà thơ tha thiết luôn hướng về miền cố hương ấy:
Ai biết chiều nay người vợ trẻ / Ðứng mong chồng bên đứa con thơ / Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!...
Hay là: Tuyết bạc quê người, xứ sở mưa cau / Ði đâu, đến đâu... nhớ về phố ấy! /- Cái tiếng hát đời thường ấy lẫn vào trong cát bụi, nó cũng giống như tiếng của người hát dạo trên sân ga, tiếng của những con chim sẻ nhỏ nhoi trên cánh đồng mênh mông nước - nhưng đó là những tiếng hát tha thiết và thân thương của trái tim ta.
6/. Tôi bình bài ÐÊM TRUNG THU VÀ ÐỨA ĂN MÀY mà tác giả nói về cái nghèo đói:
Trước đứa ăn mày tất cả chúng ta hoá thánh! / Nó đói lòng cúi lậy rất từ bi...
Nghĩa là cái đói khổ đã đẩy con người ta xuống hàng cấp thấp, đê hèn. Ðây lại chỉ là hai đứa trẻ. Ðứa lớn vẫn còn bé, nó đã gầy yếu nhưng còn phải cõng trên lưng một bé em còm cõi:
Ăn mà từ thưở khai sinh!
Hai đứa ăn mày ấy xuất hiện trong một khung cảnh nào? Ðó là vào giữa đêm trung thu đèn hoa, trăng sáng. Một bức tranh tạo nên cảnh tương phản đến khốc liệt, khi cảnh thê lương ấy lại xẩy ra ở trong cái đêm hạnh phúc nhất giành cho con trẻ trên toàn trái đất này. Bố mẹ chúng đâu và là ai? ta không biết! Cái hiện thực thật tội nghiệp, xót xa. Còn với chúng phải sống lang thang xin ăn như thế nó sẽ nghĩ gì?... thậm chí nó còn chưa đủ tuổi để nghĩ đến thân phận của mình nữa:
Hai đứa ăn mày mặt lạnh như trăng / Hoà phối cảnh vào bức tranh xứ sở...
Cái màu trăng rằm tháng tám thì đẹp và rực rỡ, còn màu trăng nhờn nhợt trên mặt những đứa trẻ kia thì lạnh lẽo làm ta rợn gai người - Và, hai cái màu trăng ấy hoà vào nhau làm thành màu...đất nước? Bài thơ đã được kết thúc trong những mâu thuẫn không thể nào tháo gỡ nổi trên cõi thế gian này:
Dưới gầm trời này có phải đã muôn năm như vậy: / - Kẻ cần cơm bên những đứa cần vàng
- Lũ cần tình thương sống lẫn giống bạo tàn / Và gộp lại gọi chung là... nhân thế!
Ta nhìn ra thế giới hôm qua, hôm nay và ngày mai: châu Á, Âu, Phi & Mỹ la tinh - con người đang bị quyền lực, bom đạn chiến tranh đè nén và chết chóc. Những người da đen đói khổ cũng như các lớp người bần cùng sống như con vật. Nhân thế cứ như thế, như thế mãi biết bao giờ cho hết? Thực tế đầy rẫy những bất công dội vào thế giới quan của nhà thơ để anh kết lại bài thơ như trên! Giá trị đích thực của bài thơ là những tiếng nói như máu, tiếng nói nhân đạo từ bên trong.

C/- ÐIỂM QUA MẢNG THƠ THIỀN & THƠ TÌNH
Như đã nói ở trên: cõi thiền là một nhân tố rất căn bản của thế giới thơ PNT, nó chiếm số lượng bài cũng rất đáng kể như: Thu tĩnh, Chiều hoàng hôn, Khoảng buồn vô lý, Một chiều cuộc đời, Với mùa xuân đang tan, Tối quán v.v... Mỗi bài lại có sắc thái, hương vị riêng. Trong mảng thơ thiền này, tôi xin chọn để phân tích một bài thơ khá đặc biệt của anh.

1/. MỘT GÓC HỒ TÂY:
Anh đến mình anh trong chiều muộn / Nhặt thơ tình ở một góc hồ Tây
Ngắm mặt gương hồ vào chập tối / Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.
Thỉnh thoảng ta bất chợt bắt gặp bóng mặt trời khuất muộn trong cảnh chiều chập choạng. Lúc đó nó giống như bóng trăng sáng trắng, vừa hơi viên mãn lại vừa như ảo. Tác giả đến bên hồ một người một cảnh, trăng nước vơi đầy. Tiếp theo không phải cái đọt mây kia lơ đễnh mà chính là lòng tác giả:
Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng / Vừa đơn côi mà không đơn côi!?
Hai chữ "lơ đễnh" ấy bộc lộ một trạng thái tình cảm và tâm hồn, vừa có cái gì thật da diết lại chơi vơi nửa vời. Cảnh với người hơi bảng lảng, buồn buồn mà tình vẫn đầm đìa. Sau đó tác giả có nhắc đến một cô gái nào đó, nhưng hình như không phải là một cô gái hay em nào cụ thể? Ðó chỉ là khát vọng trong nỗi hiu hắt của một con người đang bước tới cái tuổi hoa niên:
Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng / Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi...
Nó không còn chỉ là cảnh hoàng hôn của trời đất nữa mà còn là buổi chiều hoàng của cuộc đời anh! Hình ảnh chiếc lá vàng rơi thay vào chỗ ngồi của người thiếu nữ xưa vừa đằm thắm mà nuối nả, xót xa. Buồn hơn nữa là khi lòng tác giả lại nhập vào trong cảnh chùa chiền:
Mõ chùa buông thay tiếng nói của người yêu! / Trong sân gạch sư già quét lá / Bước người đi thầm lặng cõi hư hao...
Phố xá mà cảnh như chiều thôn quê. Từ tâm trạng của nhà thơ tới hình bóng hư hao, lãng quên trần thế của nhà sư kia cũng chỉ là một. Vào đất phật lại cô đơn vì tình trai gái, vừa phàm trần mà lòng vô vi, thực và không... đều quyện trong một buổi chiều hồ. Ðể rồi cuối bài thì chính tác giả đã ví mình với nhà sư kia:
Người quên hết! Còn ta yêu tất cả / Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo...
Tâm trạng của nhà thơ cũng u hoài như những chiếc lá đang bay đó thôi!... Giờ tôi xin bình sang một số bài thơ tình.

2/. KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ - Tác giả nhớ về kỉ niệm với một thiếu nữ. Trong đời thường khi tình bị tan vỡ có phải chịu dày vò đau khổ hoặc xót xa, nhưng anh hay em thì vẫn cứ phải tồn tại để sống! Tuy vậy, năm tháng qua đi lá rụng hết lớp này đến lớp khác, tình yêu với người thiếu nữ xưa vẫn trở về cồn cào trong trái tim anh:
Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng / Gió vẫn trôi không hữu hạn bến bờ
Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống / Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ...
Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? không ai biết! Chỉ còn lại bóng trăng trên trời cùng những làn mây trắng trong tiếng lá cứ bay đi xa mãi. Tình yêu ấy hát trong hư vô và trăng sao:
Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát / Giờ đây trong lá nẻo trời nào?
Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng / Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu?
"Khoảng trôi trong lá" là một bài thơ tình tha thiết, ngôn ngữ đọng nhưng hình ảnh vẫn sinh sôi, được viết ra từ trong ký ức và trái tim thương nhớ của nhà thơ.

3/. TRĂNG LẶN - Nói là "thơ trăng" mà lại là một đêm không trăng. Trăng không mọc vì trăng chán trời, không biết em có chán anh như vầng trăng kia không? Ðó chính là uẩn khúc của nỗi lòng nhà thơ.
Biển vỗ vào anh - Biển vỗ vào em / Em hoá đá để sóng ghềnh ôm mãi
Năm tháng, nắng mưa... đá vẫn còn nguyên đấy! / Anh phong ba, anh nhẫn nại suốt đời.
Tình yêu hoá thành biển cả: Nàng thì thành đá, chàng hoá sóng. Tình tan vỡ nhưng sóng biển còn vỗ mãi quanh cái hòn đá ấy:
Biển hư vô cả những khi cầm bút / Xé rách lòng cho cánh thơ bay...
Cuối cùng tác giả lại trở về với hình ảnh vầng trăng, nhưng đó không phải là vầng trăng của trời mà chính là... "vầng trăng em"!
Mất một vầng trăng lại mọc một vầng trăng / Sóng khốn khổ hôn mãi hòn đá trắng
Nỗi đau của trái tim thơ tháng năm còn rền xiết mãi. Một tình thơ giàu cảm xúc được tác giả xây dựng quanh hình tượng biển và trăng.

4/. TRONG BÓNG CÂY NGỦ ÐÊM - Trái tim nhà thơ giống như một con tàu chở đầy ắp tình yêu chuyển bánh. Con tàu ấy chạy qua những cái quán cô quạnh trong tiếng gió hú, những vầng trăng chết đuối đang trôi, những làn mây lang thang ở chân trời và những thành phố đang chìm đắm trong đêm:
Trong bóng cây ngủ đêm / Có một loài hoa không ngủ / Loài hoa yêu xếp đầy cánh hoa đau
Hương đã theo anh và con tàu chuyển bánh / Ðến vô cùng mà chẳng biết đi đâu?
Tình yêu người thiếu nữ năm xưa như: Hồi chuông nơi thánh đường trắng trinh/- vuốt ve trái tim đau nhói của nhà thơ. Trái tim ấy như một loài hoa không ngủ, đó là loài hoa yêu! Nó bay theo con tàu chuyển bánh đi mãi, đi mãi tới vô cùng:
Quán cô quạnh suốt đời nghe gió hú / Trăng chết đuối rồi trắng dại đang trôi
Mây lang thang dưới chân trời bão tố / Thành phố chìm trong đêm xa xôi.
Tình yêu ấy vô vi nhưng nó vẫn như cánh chim bay xa... mang đến cho ta cả đau khổ cùng hạnh phúc, khát vọng và tan vỡ! Những hình tượng thi ca đã được chứa đầy ắp hồn của nhà thơ trong đó.

5/. LỜI HÓT CON CHIM KHÁCH -
Tác giả kể: Vào một buổi sáng anh có gặp một thiếu nữ, nói dăm ba câu chuyện xung quanh việc thơ phú văn chương... rồi người thiếu nữ ấy bỏ đi. Trái tim nhà thơ xôn xao, anh đã ra một cái quán trong thành phố gần bên một hồ nước để viết bài thơ này. Chuyện rằng: Có một loài tim vỡ giống như sự tan vỡ của những cánh hoa ti-gôn, những mảnh vỡ ấy tan tác bay đi để rồi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Chỉ có một mảnh duy nhất đã hoá thành "con chim khách":
Con tim buồn không còn thuộc về anh / Những mảnh vụn lẫn vào trong cát bụi
Có một mảnh hoá thành "con chim khách" / Bay đi tìm bóng lạc giữa vu vơ...
Con-chim-khách bay đi trong cõi vô vi đó để tìm lại bóng hình người thiếu nữ kia! Tình thơ đã được kết thúc rất hậu:
Chầm chậm đừng đi người con gái của ban sơ / Anh thả xuống ốc-đảo xanh em một mối tình nguyên thuỷ
Mốt mai lỡ đau nỗi khổ đau của loài tim vỡ / "Con chim khách" vẫn về để hót ru em!
Cách kết thúc này gợi cho ta nhớ tới bốn câu thơ kết đầy nhân hậu trong bài thơ tình nổi tiếng "Một chút tên tôi đối với nàng" của thi hào Puskin:
Nhưng nếu gặp ngày buồn đau đớn / Em thầm thì hãy gọi tên lên!
Và hãy tin còn đây một kỷ niệm / Em vẫn còn trong một trái tim...
Tình cảm chớm nở trong trái tim nhà thơ chân thành và trong mát như con suối ban mai, hoang dã mà thanh khiết.

6/. TIẾNG RÚC CHIM ÐÊM - Vào một đêm mưa gió nằm trong nhà nghe thấy tiếng rúc của một con chim trong bụi cây. Cùng với những tích chuyện cổ ở dân gian, đã giúp cho tác giả liên tưởng tới câu chuyện tình của đôi chim:
Chim gọi đàn - Anh gọi tên em / Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
Có lẽ nào em không về nữa / Ðể hồn anh hoang mạc bơ vơ...
Thế là chuyện "tình chim" trở thành chuyện "tình người"! Lòng tác giả cũng run rẩy như con chim kia và hồi ức về một mối tình cũ lại gợi về? Cái đêm đó không hiểu vì sao con chim mái không về... hay nó đã bỏ đi theo người tình khác? Con chim đực cứ gọi, gọi mãi trong vô vọng. Cùng nỗi lòng đó đứng trên thềm nhớ của không gian mênh mông, nhà thơ đã nhớ về em:
Ðã xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng mơ.../ Ðời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
Ðó là tiếng run rẩy của con chim trống cất lên trong vòm xanh. Tiếng của nó còn vọng mãi vào năm tháng xa xôi, vô cùng vô tận kia:
Con chim đêm run rẩy bóng xanh già / Anh bổi hổi một thời qua vọng lại...
Cũng chính là tiếng lòng của nhà thơ vọng gọi người yêu!... Nỗi thơ như lời thủ thỉ của một đôi "trống mái", mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc trong tình yêu và sự sống con người.

7/. TRÚC HỒ ÐÊM - Cuộc đời: có khi người ta nhận ra sự tồn tại, hạnh phúc của mình... lại chỉ từ tiếng kêu của những con chão chuộc? Bài thơ thi vị & chứa chất tình đời này đã nẩy nở vào một đêm Trúc Hồ động. Từ mở đầu đến kết thúc bài thơ tác giả cũng chỉ lắng trong cái tiếng chão chuộc ở hồ đêm ấy:
Ðêm nghe Trúc Hồ động / Tiếng chão chuộc vọng đưa / Chợt lòng anh thổn thức / Chuyện ngày xưa ngày xưa...
Tác giả hồi tưởng lại những kỷ niệm và lòng anh trào lên tha thiết:
Tình yêu như cơn mưa / Thấm sũng đời bãi cát / Hồn thiếu nữ ngây thơ / Một chân trời tím sắc...
Ý nghĩa của tình thơ nói: niềm vui sướng, lẽ sống thường tình của con người chính là những tình cảm thân thương rất gần gũi với cuộc đời. Một bài thơ 5 chữ, tình thơ bình dị nhưng da diết máu tim và rất đáng yêu!
Thơ tình của Phạm Ngọc Thái nhiều vô kể, sâu sắc và không ít tình thơ đã đạt được tầm vóc là những thi phẩm hay! Thực ra thì còn rất nhiều các bài thơ hay và thích của anh mà tôi lại chưa thể bình được ở đây như: Người đàn bà trắng, Ðêm nay trời lại không mưa, Thời áo trắng, Em về biển, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Trước núi Mỹ Nhân v.v. - Thơ anh chứa đầy ắp nỗi tình ở thế giới bên trong, phần lớn là thơ tự do hiện đại. Tuy vậy tác giả rất coi trọng tính nhạc và giọng điệu nên thơ đọc cuốn hút, truyền cảm và sinh động... cảm hoá được tình người. Có thể nói thế giới thơ ca Phạm Ngọc Thái như một bàu trời mênh mông sâu thẳm... được chảy ra từ trong máu tim và cuộc đời, càng đọc kỹ, đọc sâu càng thấm thía và hay!

       Nguyễn Ðình Chúc
Ðô thành Thăng Long - 2012
NR: Ngõ 44, phố Hào Nam, Hà Nội.

        ĐÃ ĐĂNG TRÊN RẤT NHIỀU CÁC WEBSITE TRONG NƯỚC & THẾ GIỚI
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=84&sub=&id=eFQ4VFFUWjlhOTBhUWFhOTZUVDc=
http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=2521
http://trangvhntnguoncoi.wordpress.com/2012/05/28/the-gioi-tho-ca-pham-ngoc-thai/
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/vn-xuoi/2627-th-gii-th-ca-phm-ngc-thai-nguyn-inh-chuc-
http://vanthoviet.vn/news/n/499/5392/the-gioi-tho-ca-pham-ngoc-thai.html?l=vn
http://danluanvn.blogspot.com/2012/06/nguyen-inh-chuc-gioi-tho-ca-pham-ngoc.html
http://sangtao.org/2012/06/02/the-gioi-tho-ca-pham-ngoc-thai/
http://nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=6594
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/thegioithocaphamngocthai.htm
http://www.vandanviet.net/shop_news.php?l=vn&ac=235&start=0&cn=633&sort=1&item=1&from=&to=&mode=n&cn=633&n=9680
http://trannhuong.com/news_detail/14221/Th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-th%C6%A1-ca-Ph%E1%BA%A1m-Ng%E1%BB%8Dc-Th%C3%A1i
http://vanhac.org/05/the-gioi-tho-ca-pham-ngoc-thai.html
http://hung-viet.org/blog1/2012/05/29/th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-th%C6%A1-ca-ph%E1%BA%A1m-ng%E1%BB%8Dc-thai/
http://www.danchimviet.info/archives/60363
https://sacmauthoigian.wordpress.com/2012/06/12/the-gioi-tho-ca-pham-ngoc-thai/
http://www.namuctuanbao.net/847/truyenNgan/truyenngan_12.php
http://badamxoe.blogspot.com/2012/07/gioi-tho-ca-pham-ngoc-thai.html


<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 11:18:41 bởi Nhân văn >
Nhân văn 01.07.2012 23:19:47 (permalink)
   10 bài thơ của Phạm Ngọc Thái tham dự vào "Bộ sách thơ hay"
- Được tổ chức của nhóm những nhà thơ yêu thơ hay trên thi đàn Việt - Đăng tại vanthoviet.com link:
            http://vanthoviet.com/news/n/493/5114/moi-tham-gia-bo-sach-tho-hay.html?l=vn

          EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA
Nghe không em lại mưa lên phố!
Bao năm rồi chiều ấy cũng mưa rơi...
Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
Say như mơ và mộng như thơ
Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ.

Thành phố lại mưa…
Có nghe không em? Con chim trời, cá nước
Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua.
Tình êm dịu bên em mơ màng quá
Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa.

Tiếng mưa rơi não nề thao thức
Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ
Chân trời vương vấn dải mây lan.

Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch
Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác
Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...
31/7/2005

            ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY
Tình để lại vết thương không lành được
Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan…

Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt
Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
Nông nỗi đời người để đâu cho hết
Tình thơ ngây! Tình sao mãi thơ ngây!

Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm
Đôi mắt từ xa đã nhận ra người...
Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm
Giờ ở đâu, người con gái xa xôi?

Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió hồ Tây đang thổi
Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...
Đêm 2012

        NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
                    Người đàn bà đi trong mưa rơi
                    Chứa một trời thầm như hoa vậy...
 
Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Em đi - về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...


           CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ
Em mang màu phượng đỏ ra đi!
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.

Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây?

Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!

Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy
Thì đâu còn phượng để anh ru.

Em đã mang màu phượng ấy ra đi…
1994

            CÓ MỘT KHOẢNG TRỜI
Có một khoảng trời để thương để nhớ
Là khoảng trời ở đó có em!
Những bóng cây trên đường phố thân quen
Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc...

Có một khoảng trời không ai thấy được
Dẫu đêm nào chớp cũng loè lên
Có ánh chớp không kéo theo tiếng sét
Mà rung ngân, rung ngân… trong tim!

Khoảng trời gió thổi xót đêm
Hoá sắc cầu vồng nối hai miền thương nhớ
Cây tình yêu lớn theo cấp số
Ngược trời về cho ta gần ta.

Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa
(xa thật đấy mà cũng gần thật đấy)
Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy
Hạt vô tư còn lại… những tàn tro!
Nước Đức - 11/10/1988

           DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM & CON PHỐ NHỎ
Phố vẫn phố, hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...

Đêm đã lạnh vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này: nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?

Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa!
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thưở đó đẹp nhiều mộng mơ em nhỉ
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.

Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim!
Mùa đông 2010

           ĐÊM VẮNG
Đêm thanh vắng ngồi bên thềm man mác
Anh một mình nhặt ánh sao rơi!
Lại nhớ đến em bao năm trước
Nỗi buồn vào làm đêm thêm xa xôi.

Phố phường ngủ tiếng chim kêu trong tổ
Vài ba ngọn cỏ khẽ vi vu
Ai gọi anh về con đường dạo đó
Chúng mình thường đi mãi canh khuya.

Hương tóc xưa bay và tiếng cây ru
Má mơn man tư lự nghe gió thoảng
Giờ chỉ thấy mây trôi lãng đãng
Mái đầu anh đêm thoắt bạc thêm ra…
18/1/1996

           MỐI TÌNH KHÔNG BẾN ĐỖ
Mỗi sáng sáng anh ra hồ dạo bước
Thấy bóng hình em hắt xa xa
Anh mới hỏi: phải chăng nàng đã thức?
Đêm mộng mơ còn in trên nét mặt nàng kia!

Cành liễu gió vi vu lời tình tự
Thơ anh ru tiếng khẽ động bên bờ
Tình yêu đến tháng năm không có tuổi
Anh xao lòng thổn thức giữa hư vô.

Tình cũng thể bóng mây qua vô định
Như phù sa bồi đắp cõi hư không
Em bé bỏng., đời người rồi vụt biến
Hạnh phúc sẽ ào đi trong bể sóng mênh mông.

Mùa xuân gọi, em ơi! Tình ta như lá trúc
Bay trên không xáo xác giữa màu xanh
Anh thầm thì vọng gọi tên em
Bên sóng hồ reo bâng khuâng nỗi nhớ.

Chân anh bước dưới vuông trời thành phố
Tán lá bay che rợp bóng cuộc đời
Mối tình nhỏ líu lo đùa một tí
Biết đùa rồi mà vẫn máu tim rơi!

Ôi, mối tình không bến đỗ em ơi!
Mai anh chết? nếu khi đời nhắc đến
Em hãy nói với đời: anh đã từng cảm mến
Mang bóng hình em trong tim để đi xa...
1/2008

           MÁI TÓC CON GÁI
Mái tóc phố màu mây
Xõa ngang đời con gái
Em đi lấy chồng rồi
Lòng anh buồn biết mấy.
 
Hàng phố người có thấy
Những vòm cây đứng thầm
Chiều hoàng hôn cũng vậy
Gió như là để tang.
 
Đây bông hoa yêu thương
Ta ủ vào nỗi nhớ
Em đã không còn nữa
Chỉ có sao trên trời.
 
Vầng trăng khuyết, em ơi!
Giống đời anh cô độc
Sáng ngày treo tưởng chết
Hắt hiu và nhỏ nhoi.
 
Em đi lấy chồng rồi!
Màu hoa xưa trinh trắng
Tháng năm cùng mưa nắng
Tóc hoá thành mây bay…
1981


               CÔ ÁO TRẮNG
Anh lại có một cô áo trắng
Mắt nàng nhìn trong biếc mùa thu
Mái tóc xoã, bàu vú nàng hưng phấn
Ngủ đi em! Nghe bài thơ anh ru…

Đất Sàigòn mùa xuân đến trong mơ
Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố
Em ơi em… những khi trời trở gió
Có thấy bóng anh về thao thức bên em?

Anh nhè nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm
Em khoả thân mình để hoá thành nữ thánh!
Áo em trắng hay là da em trắng
Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên…

Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em!
Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất
Thế giới văn minh ta không cần gì hết
Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ.

Đêm Sàigòn khi ấy sẽ như mơ
Em bọc trong anh không cần quần áo
Ôi! Nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong

Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!

Anh lại có một cô áo trắng
Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi...
2007



+ Theo nguồn phát của BTC "Bộ sách thơ hay" qua link sau:
http://lyphuonglien.blogspot.com/2012/04/tho-huong-ung-bo-sach-tho-hay-40.html

                 Đăng trên rất nhiều các website trong nước & thế giới:
http://vandanviet.net/shop_news.php?l=vn&ac=235&mode=n&cn=631&n=9654
http://www.thuviengiadinh.com/giao-duc/tho-hay/10-bai-tho-cua-pham-ngoc-thai-tham-du-vao-bo-sach-tho-hay
http://4phuong.net/ebook/72720482/10-bai-tho-cua-pham-ngoc-thai-tham-du-vao-bo-sach-tho-hay.html
http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=5835#axzz1wKkHHp00
http://www.vanganhonline.com/2012/05/10-bai-tho-cua-pham-ngoc-thai-tham-du.html
http://thuongyenho.violet.vn/entry/show/entry_id/7625460/cat_id/1603417
http://vanthoviet.com/news/n/494/5164/10-bai-tho-cua-pham-ngoc-thai.html?l=vn
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/10baithocuaphamngocthai.htm
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=84&sub=&id=VDc4MFF4MFRheDdaN2FhOVpRYTA=
http://www.datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=32&id=2102
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 11:28:55 bởi Nhân văn >
Nhân văn 28.07.2012 23:16:27 (permalink)
      Có một bạn đọc tên gọi là Châu Thạch đã bình bài thơ "Hàng cây lá đổ" của nhà thơ Phạm Ngọc Thái
đăng trên vannghequangtri.blogspot.com - Lời bình cũng khá dài & công phu. Xin đăng lại ở đây để bà con trong Việt Nam Thư Quán cùng tham khảo- Nguyên văn bài viết của Châu Thạch như sau:

            Cảm nghĩ của Châu Thạch về "HÀNG CÂY LÁ ĐỔ", thơ Phạm Ngọc Thái

 
                HÀNG CÂY LÁ ĐỔ
Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió...
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây,
Bản tình xưa em hát ở đây
Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết

Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm từng tha thiết
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga

Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
Xin rụng một bông buồn
                                    lắt lay...
                  
Phạm Ngọc Thái

CẢM NGHĨ CỦA CHÂU THẠCH
1) Những nấm mồ
     Có những bài thơ nói về những nấm mồ khiến đọc thấy buồn, Cũng có những bài thơ không nói về những nấm mồ nhưng đọc thấy buồn như đang đi giữa những nấm mồ. Tôi đọc bài thơ “Hàng cây lá đổ” của Phạm Ngọc Thái và liên tưởng như có những nấm mồ trước mắt. Hãy đọc câu vào đề của bài thơ:
Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió…
     Thế là hết, đánh dấu than (!), Mở đầu bài thơ đã là tiếng kêu có thể gọi là tuyệt vọng, thản thốt và nó trở thành thảm thiết ở nửa câu thơ sau: “Em đi, chôn chiều vào gió”.
    Em đã đi, chôn chiều vào gió nghĩa là em đã làm cho cả buổi chiều trở thành ngôi mộ lớn, mà chất liệu vùi lấp ngôi mộ đó không phải là đất mà là gió. Vậy gió chính là ngôi mộ, buổi chỉều là thi thể chôn trong đó, và em chính là người mưu sát. Với câu thơ đầu tiên đó, hồn ta đã bị vùi theo trong một ngôi mộ rất lớn, ngôi mộ trùm lên không gian của buổi chiều và còn có thể trùm lên thời gian của mọi buổi chiều kế tiếp khi mà em chưa quay lại, Khi gió làm ngôi mộ thì ngôi mộ phải vô hình và thi thể chôn trong ngôi mộ đó là buổi chiều hiện ra trước mắt với trời mây, cây cỏ. Vậy gió là cái vô hình chôn được cái hửu hình phải chăng là nghịch lý?. Tất nhiên gió trời không thể nào chôn được buổi chiều, vì gió trời chỉ làm cho buổi chiều đẹp và mát mẻ thêm lên. Vậy chỉ có gió trong nội tâm người thi sĩ đã làm chết buổi chiều trong tâm tưởng và chôn nó trong bóng vô hình của suy tư sầu não.” Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió”. Câu thơ là một nấm mộ quá to, quá rộng, quá lớn và có thể quá lâu đưa người đọc lọt ngay trong vũng u buồn, làm cho nỗi sầu ập đến ngay tức khắc trong tâm hồn, để rồi tiếp tục rung cảm với nhiều hình ảnh trong những câu thơ kế tiếp.
     Và câu thơ thứ hai của bài thơ như sau:
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây
    Buổi chiều đã được chôn trong ngôi mộ của gió, vậy thì hàng cây cũng đang nằm trong ngôi mộ đó. Người thi sĩ lang thang qua lá đổ hàng cây là đang đi trong lòng ngôi mộ lớn, và trong ngôi mộ lớn đó, “ lá đổ hàng cây” cũng là nghĩa địa của những chiếc lá xanh đã chết. Nói một cách khác người thi sĩ đang đi trong lòng ngôi mộ và lang thang qua trăm ngàn ngôi mộ nhỏ của màu xanh bị hủy diệt.
Sự chết kia không những chỉ trùm lên và nằm quanh bước đi của tác giả mà sự chết lại còn tiếp diễn ở hai câu thơ sau:
Bản tình ca xưa em hát ở đây
Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết
    Bản tình xưa kia em đã hát tại nơi đây nay không còn chút âm thanh nào sót lại cũng có nghĩa là nó đã chết, và không gian nơi đây đã trở thành nấm mộ chôn bản tình ca đó. Rồi thì “ Nơi ngày nay xác các con thiên nga đã chết". Xác các con thiên nga có thể là xác bằng xương bằng thịt của bầy thiên nga đã từng sông nơi đây, cũng có thể là những hình ảnh tương trưng cho cuộc tình với biết bao kỷ niệm đẹp diễn ra tại đây. Dầu thiên nga thật hay chỉ là thiên nga trong ý niệm thì câu thơ cũng bày thêm di hài của sự chết, những nấm mộ nơi đây chôn niềm vui như chôn đôi cánh thiên nga của một thời quá khứ.
              2) Những bóng ma
Bốn câu thơ đầu của “ Hàng cây lá đổ” đã vẽ bức tranh đầy mộ chí: Mộ của cả buổi chiều nằm tromg gió, mộ của xác lá cây, mộ của bản tình ca và mộ của những con thiên nga đã chết. Tất cả những ngôi mộ đó đã làm lạnh tâm hồn và đưa bước người đi vào một cõi cô liêu.
Ở bốn câu thơ kế tiếp hình ảnh mộ mờ đi và hình ảnh những bóng ma xuất hiện:
Ôi, hàng cây! Cùng ta bao đêm trường tha thiết
    Ôi, hàng cây! (lại dấu than). Lại một tiếng kêu đau thương thứ hai. Hàng cây bây giờ chắc chắn không còn là hàng cây xanh tươi ngảy trước, khi mà đã “ cùng ta bao đêm từng tha thiết”. Hàng cây bây giờ đã bị chôn vùi trong mộ gió, có lá thành mộ dưới chân và chiếc thân khẳng khiu trơ ra cùng mưa gió. Vậy ở mọi khía cạnh của tâm hồn thì hàng cây “cùng ta bao đêm trường tha thiết” đã chết, còn lại hàng cây ngày nay chỉ là bóng ma của thời quá khứ.
    Bước qua câu thơ kế tiếp:
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em
    Nụ hôn và tấm thân của em cũng nằm trong quá khứ mà bây giờ là bóng ma vất vưởng hiện ra trong trí tưởng của tâm hồn giữa cảnh thiên nhiên ngày trước. Qua câu thứ ba và thứ tư của khổ hai, bóng ma đã hiển hiện rỏ hơn trong cảnh hoang tàn sụp đổ:
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga
     Cho dầu cảnh sụp lở nằm trên hiện trường thực tế hay nằm trong nội tâm của tác giả, cho dầu những chiếc bóng của đàn thiên nga hiện ra giữa cảnh vật hay trong ký ức của tác giả cũng đều là hình bóng ma hiện ra giũâ khung trời đã chết. Những bóng ma của hàng cây, của nụ hôn, của tấm thân bất hủ, của bầy thiên nga đều hiện ra giữa khung cảnh hoang tàn sụp lở trong khổ hai của bài thơ đưa tâm tư người đọc lạc đến một miền đất chết. Miền đất chết đó có thể ở trong thực tế, cũng có thể ở trong tâm hồn tác giả, nhưng đều khơi động một cõi ma nào đá, với những bóng hình đầy đủ vẽ đẹp hòai niệm và vẽ hoang tưởng liêu trai hòa nhập trong nhau.
             3) Và bóng người
     Khổ một của bài thơ là những nấm mồ, khổ hai của bài thơ là những bóng ma và qua khổ ba của bài thơ là bóng người, là chiếc bóng đau thương của người thi sĩ:
Thời gian phôi pha- Tóc ta hóa đá
     “ Thời gian phôi pha” là thời gian làm cho phai nhạt, nhưng trong câu thơ tóc ta lại không phai nhạt, không bạc màu với thời gian mà tóc ta đã trở thành “ hóa đá”. Tóc hóa đá thì không thể ngày một ngày hai mà phải trải qua nhiều niên kỷ. Đây là một câu thơ, nhưng nói về hai thứ thời gian nghịch lý: Thời gian của trái đất và thời gian tâm lý xảy ra trong lòng tác giả. Thời gian của trái đất thì mau và làm cho mọi cái phôi pha, nhưng thời gian tâm lý trong lòng thì quá lâu và làm cho tình yêu lại càng thêm bền bỉ, do đó tóc trên đầu mới hóa ra thành đá. Nói đến tóc là tượng trưng cho sự thề nguyện ( tóc thê, kết tóc xe tơ). Vậy tóc trên đầu hóa đá là thứ tóc của tình yêu bền bỉ chẳng phôi pha. Tóc trên đầu hóa đá là hình bóng của con người phong sương, dày dạn và đau khổ nhiều trong dài năm tháng đợi trông. Và câu kế riếp như sau:
            Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
     Gió đã chôn buổi chiều, là chôn chặc tình ai trong ngôi mộ chí. Gió lại cũng làm lau thức trắng “ngàn năm ru rất khẽ”, là hành hạ cõi lòng người ở lại trong thao thức nhớ thương. Tác giả vô tình kết tội gió, nhưng gió ngòai trời chỉ là cái cớ mà gió trong lòng ai mới là tội đồ, mới là ngôi mộ, mới là hồn ma, mới là chiếc bóng người vật vờ theo năm tháng ở chốn kỷ niệm xưa. Và câu thơ chót như sau:
              Xin rụng một bông buồn
                                              Lắt lay…
    Câu thơ nầy làm ta liên tưởng đến một bông lau buồn nhỏ nhoi, rụng xuống, lắt lay rồi biến mất, Tình yêu trong “Hàng cây lá đổ” là một cảnh hoang tàn sụp lở, và tác giả vẫn yêu bền bỉ lâu dài đến độ “Tóc ta hóa đá” , vậy sao cuối bài thơ tác giả chỉ “Xin rụng một bông buồn, lắt lay…”? Đó chỉ là một hình ảnh phôi pha biểu hiện của sự mong manh, dể dàng tan biến. Bông buồn ở đây phải chăng là hiện thân của tác giả, lắc lay ở đây phải chăng là rung động trong sâu thẳm cõi lòng kia. Phải, trước thời gian dài vô tận, trước không gian cao rộng vô cùng, người thi sĩ bi quan chỉ xin làm một cái bông buồn rụng xuống để lắc lay, vì cái bông buồn kia rụng xuống, lắc lay trong cõi vô biên cũng đủ cho một cuộc tình dài hạnh phúc. Tác giả sợ rằng mình không bao giờ làm được một cái bông buồn, vì vậy phải xin.
     Bài thơ buồn và chưa có câu thơ kết vì lau có rất nhiều mà tác giả chỉ xin cứ rụng lần lược một bông buồn để được như lời tác giả thổ lộ thêm: “ Người con gái đã đi xa, lá vẫn ngày ngày đổ xuống dưới hàng cây ấy, để suốt cuộc đời anh đi trong những chiều gió không em” ./.

         Châu Thạch
truongvantran@hotmail.com



Đăng trên link sau:
http://vannghequangtri.blogspot.com/2012/07/cam-nghi-cua-chau-thach-ve-hang-cay-la.html
Sau đó anh còn đăng rộng ra ở những website khác - nhưng tôi mới chỉ biết ở trên website
datdung.com ở Tây Ninh - link sau đây:

http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=6015#axzz209LNpX7P

.






<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 11:37:30 bởi Nhân văn >
Nhân văn 25.08.2012 23:34:22 (permalink)
.
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã cho công bố trên các mạng trong nước cũng như thế giới một văn bản mới - Nhân Văn xin giới thiệu trước với bà con Việt Nam Thư Quán! Văn bản đó như sau:

           Qua hai tập thơ "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009 &
tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá - Thông tin 2012 vừa xuất bản :


    PHẠM NGỌC THÁI XIN MỞ CUỘC TRAO ĐỔI THƠ TOÀN CẦU
                            VỀ CHÂN DUNG TÁC GIẢ


Trân trọng gửi: * Ông Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện văn học VN
* Ông Hữu Thỉnh - Chủ tịch HNV
đồng Ban chấp hành HNVVN
* Ông Bằng Việt - Chủ tịch Hội đồng thơ
HNVVN


    Mô phép đương đại về sự đường đột này. Các cụ ta thường nói: Đi với bụt thì mặc áo cà sa, đi với ma thì... cũng phải bỗ bã vậy thôi!
1. NHẮC LẠI CHUYỆN VỪA QUA VỀ TẬP THƠ "RUNG ĐỘNG TRÁI
TIM"            VÀ HNVVN:
     Sau tập thơ "Rung động trái tim" (RĐTT), mà như trong hai lá "Đơn phản bác" (năm 2009) tôi đã gửi lên Ban chấp hành HNVVN về việc ông Chủ tịch HNV cùng với Vũ Quần Phương ( Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN khi đó) đã cố tình dìm lấp người xin vào Hội. Sau đó đã được đăng trên mạng internet toàn cầu. Trong văn bản của Đơn Phản Bác, tôi có tuyên bố về tập thơ RĐTT đó như sau:
"... RĐTT là một tập thơ có giá trị đối với thi ca hiện đại nói riêng cũng như của nền văn hiến ngàn năm Thăng Long nói chung. Về độ dầy cũng tương đương với số lượng bài thơ mà bà Hồ Xuân Hương để lại cho đời. Tầm vóc chưa dám nói là đã vượt lên trên chân dung thơ của bà, nhưng HXH cũng chưa dễ gì đã vượt qua nổi tập thơ RĐTT đó của tôi?
... Cơ bản nó thuộc loại thơ trường cửu, thơ tồn tại qua mọi thời đại. Số bài thơ hay hoặc khá hay cũng hơi nhiều. Càng đọc, càng đào xới lên càng sâu sắc, càng hay. Những bài thơ đó sẽ tồn tại mãi với đời, không thể phủ lấp, dập vùi được".
Dĩ nhiên thơ ca chưa dễ gì ngày một, ngày hai đã đánh giá hết ngay được. Tôi nói thí dụ: Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một trong mấy bài thơ hay nhất thế kỉ XX, thế mà phải ba bốn mươi năm sau kể từ khi nó ra đời mới được thi đàn ca ngợi để trở thành bài thơ nổi tiếng. Thậm chí cả trong Thi Nhân Việt Nam của Nhà nghiên cứu lý luận & phê bình thi ca kiệt xuất Hoài Thanh, khi trích đăng một số bài thơ tiêu biểu của HMT, Ông lại chưa phát hiện ra được, nên để sót không đăng bài thơ tình hay nhất (đó là bài Đây Thôn Vỹ Dạ) của thi nhân.
Xin nói đôi nét về thi pháp tạo nên những bài thơ hay của HMT - Đây Thôn Vỹ Dạ là một bài thơ điển hình mà HMT đã sử dụng hài hoà thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, theo thuyết "tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire (1821-1867), là nhà thơ bậc thầy của của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó chủ xướng. Nghĩa là, những hình ảnh, biểu tượng để tượng trưng đều dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng vẫn xen những ngôn ngữ mơ hồ... mà ta gọi là ảo. Như Chế Lan Viên đã viết:
Anh phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia đấy,
Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ.
(trích Di Cảo)
Liên hệ với những bài thơ trong tập RĐTT của tôi, thì rất nhiều những bài thơ hay, nhất là thơ tình, đã được viết hoà quyện theo thi pháp của khuynh hướng tượng trưng "tương ứng cảm quan" này. Tuỳ theo đặc tính và cảm xúc của từng bài, có khi tôi sử dụng cả gam sắc thơ siêu thực, tuy không nhiều để cho thơ đỡ khó hiểu. Cũng trong văn bản của hai lá đơn phản bác đó, tôi đã công khai lời thách đố, nguyên văn như sau:
"Nếu ai đưa ra được một dẫn chứng cụ thể trong hàng nghìn, hàng vạn các tập thơ của các nhà thơ đương đại đã được xuất bản từ 1975 đến nay, kể cả những tập thơ đã được giải nhất cuả HNV, hoặc do có điều kiện may mắn nào đó mà được nhận giải quốc tế (nhưng không được lấy đó làm căn cứ xác định) - Nếu có một tập thơ nào đạt giá trị hay và tầm vóc cao hơn tập RĐTT của tôi, thì Phạm Ngọc Thái xin biếu người đó 5 triệu! Tuy nhiên người ấy phải có bình luận, phân tích trên báo chí rằng: Tập thơ đó bao nhiêu bài thơ hay? là những bài nào? về độ viên mãn và hoàn bích cụ thể của từng bài thơ như thế nào? đó có phải là những bài thơ đạt giá trị bất hủ, thơ của mọi thời đại không?".
Lời thách ấy đến nay vẫn còn giá trị, chứ không phải tôi cố tình khoa trương, nói phồng lên to tát cho vui.
Mấy năm qua mạng internet, tôi đã cho truyền bá thơ ca tràn ngập trên những website - blog trong nước & khắp thế giới. Có biết bao chùm thơ gây được cảm xúc tới lòng bạn đọc như: chùm thơ mưa, chùm thơ trăng, thơ mùa thu, thơ áo trắng, thơ tình viết dưới cây, thơ tình trong mây, thơ tình thời con gái, chùm thơ xa quê, v.v... Nhiều bài thơ hay hoặc khá hay nổi lên như: Người đàn bà trắng, Em ơi! Thành phố lại mưa, Đêm nay trời lại không mưa, Thời áo trắng, Cô áo trắng, Tiếng hát đời thường, Hàng cây lá đổ, Em bán xoài, Biển hát, Mái tóc con gái, Kí ức mùa thu, Anh vẫn ở bên hồ Tây, thiếu nữ đi trong chiều mây... Nhiều, còn nhiều những tình thơ rung động khác, mỗi bài lại có một sự sâu sắc khác nhau, đã và đang được khẳng định những lời tuyên bố của tôi là xác đáng!

2. NÓI VỀ TẬP THƠ "HỒ XUÂN HƯƠNG TÁI LAI" MỚI XUẤT BẢN:

    Tập Hồ Xuân Hương Tái Lai - Nxb Văn hoá Thông tin 2012 dầy 400 trang với 298 bài thơ, là một tập thơ lớn của tôi.
     Về số lượng bài thì nhiều hơn gấp 6 lần tập RĐTT - Còn đánh giá tổng hợp, tôi khẳng định là một tập thơ có tầm vóc. Một thi phẩm về thể loại thơ tự do hiện đại rất phong phú. Ngót 300 bài thơ đó, chủ yếu vẫn là thơ tình. Không ít bài có giá trị bất hủ, thậm chí có bài vừa sâu sắc tính nhân tình thế thái vừa đạt phong dáng của một kỳ thơ. Hoang dã, thậm chí lập dị mà vẫn rất đời. Cái gì của "độc" mà hay, cái đó sẽ tồn tại! Thi phẩm cũng thuộc loại thơ trường cửu và có đầy đủ khả năng đứng lâu dài trong nền văn học nước nhà.
Hôm nay tất cả đã phơi bầy ra trên văn đàn trong nước cũng như thế giới. Năm tháng... tất yếu chân giá trị thi ca đích thực sẽ được xác định!? Không gì còn có thể che lấp được và cũng không gì có thể bóp méo được nó nữa.

3. VỚI CÔNG LUẬN:

      Tôi xin mở một cuộc trao đổi thơ toàn cầu qua mạng internet và báo chí, về chân dung tác giả
Qua hai tập thơ "Rung động trái tim" & "Hồ Xuân Hương tái lai" tổng hợp với số lượng ngót 400 bài thơ, thực sự đã là cả một tuyển thơ dầy dặn, đó chính là Tuyển Thơ Đại Bàng của Phạm Ngọc Thái - Tôi khẳng định chân dung qua hai tập thơ đó là... chân dung của một thi nhân cao trong nền thi ca Việt Nam hiện đại này.
Xin mời những tay bình luận thi ca cự phách trong giới văn học Việt Nam đương đại như:
- Trần đăng Khoa, Nhà viết chân dung & đối thoại.
- Trần Mạnh Hảo, "con dao băm" trong giới báo chí và văn chương đương đại, không còn biết sợ ai là gì? kiêm nhà bình luận "thơ & phản thơ".
(nhân đây xin có lời với anh Trần Mạnh Hảo: đã lâu ngày không gặp, nếu anh sảng khoái xin gửi cho tôi biết địa chỉ - PNT sẽ gửi tặng anh cả hai tập thơ đó, để anh có đủ tư liệu bình luận hoặc phang những đòn búa bổ, PNT sẵn sàng nghênh đón - Mời anh!).
- Xin mời nhà thơ Vũ Quần Phương, cũng là một tay bình thơ có tên tuổi của HNVVN hiện nay.
- Mời anh Đỗ Minh Tuần, một tên tuổi bình luận văn học nói chung và thi ca nói riêng... vào loại sắc sảo của văn đàn đương thời.
Cùng tất cả các Nhà lý luận phê bình của Viện văn học hay HNVVN khác.
Cuộc Hội thảo ấy không hạn định thời gian năm tháng. Mọi người có thể tham gia bình xét trên cơ sở hai tập thơ đó của tôi qua tất cả các phương tiện truyền thông trong nước và thế giới, như báo chí hoặc các website - blog... dù cá nhân hay của một tổ chức đoàn thể, cứ để cho nó trôi nổi, thế nào rồi chân lý cũng sẽ được xác định và sáng tỏ.
KẾT LUẬN: Tại sao tôi lại không sợ? Nhất là thi ca có thể nói ngược và cũng có thể nói xuôi, có người có thiện chí nhưng chắc chắn cũng sẽ không ít vị sẽ tìm cách báng bổ.
    Xin thưa, như em đã nói: Thơ Phạm Ngọc Thái là loại thơ tồn tại, thơ trường cửu... dù nó có bị chôn vùi xuống ba thước đất rồi cũng sẽ vọt bay lên mà toả sáng đến ngàn thu.
4. MỘT NGUYÊN TẮC TRƯỚC HẾT TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ

- Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung của một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ ra rác, trước sau cũng...vứt đi! Nói cho có chút động viên nhau để các nhà thơ đỡ xót xa là, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ chết. Hay như cách nói của Gớt, tầng tầng bụi phủ...
Vậy thì bàn luận hoặc hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị nào đó đối với nền văn học được.
a/. Thí dụ về nhà thơ Hữu Thỉnh:

   Cơ bản đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Có chăng chỉ mấy bài kha khá đứng được, nhưng chưa có thể gọi là vững với thời gian. Xin phân tích ít dòng khái quát về mấy bài thơ đạt giá trị hay nhất của ông.
"Thơ viết ở biển" là bài thơ hay nhất, thuộc đỉnh cao nhất của đời thi ca Hữu Thỉnh. Tuy nhiên bài thơ đó cũng mới chỉ thuộc vào loại khá, chứ chưa được là một bài thơ hay toàn bích như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Bẽn Lẽn hay Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử; Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan; Hai Sắc Hoa Ti Gôn của TTKH; Tiếng Thu Lưu Trọng Lư; Thu Điếu của Nguyễn Khuyến...
     Xin phân tích đôi nét về bài "Thơ viết ở biển"". Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn". Có thể do cảm xúc thơ ở đây nếu dùng hình ảnh "nước", thơ không thuận nên tác giả sử dụng hình ảnh "gió"?... Mặc dù vậy, bởi hình ảnh thơ chưa thật sát nghĩa cho nên phần nào vẫn bị giảm độ hay. Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh, nghe chừng hình tượng ví von này vẫn còn gượng gạo? Tại sao em lại là "chiều" - "chiều" có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ? Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa sâu sắc, cũng chưa ổn! Tuy nhiên, hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu, tạm chấp nhận nhưng chưa thật hay và chưa cao.
Mấy câu thơ đầu thì hay:
Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
Nhưng đến hai câu sau:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này hay! Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt, có thể khen là viết giỏi! Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái - Trong văn học người ta thường ví "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi, v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ HT. Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" - thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em! Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển" còn em..."như cánh buồm". Sự ví von lộn ngược thơ như thế có phần bị gượng ép và khập khiễng, nên hai câu thơ đó tuy chưa hẳn đã hỏng nhưng cũng không thể gọi là hay.
Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh. Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la...
Hay là:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Rồi nhà thơ giải thích:
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?
Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong, nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
Chỉ có thuyền mới hiểu / Biển mênh mông nhường nào / Chỉ có biển mới biết / Thuyền đi đâu, về đâu...
Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, nhưng ngay khi nói về sự xa cách hoặc có thể tan vỡ? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái, hay sự rạn vỡ của con thuyền trong cái biển cả tình yêu... lại chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình - Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học và lịch sử thi ca.
     Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài - Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến / Vì sóng đã làm anh / Nghiêng ngả / Vì em...
Cảm xúc viết thơ đến đây của HT bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển nên tác giả mới lấy hình tượng sóng để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
Như phân tích ở đoạn trên, "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển, tức là "anh" rồi - thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???... HT hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tuỳ tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em": Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên chưa viên mãn, bài thơ kết bị đuối.

Ta hãy xét đến đoạn thơ kết trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng "thuyền", "biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái, nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố...
Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca, có thể nói: "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh kém "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh gần một tầm.
Sở dĩ tôi phân tích hơi kỹ một tý, vì đó là bài thơ hay nhất của đời thơ Hữu Thỉnh.
Nhưng đồng thời cũng là để nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?

* Xin nói đôi nét về "Sang thu" - Tuy chưa bằng "Thơ viết ở biển", song Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Đó là một bài thơ mà tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Nhưng:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng của một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự miêu tả đó là khéo và có hương sắc. Nào là:
Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió se
Rồi:
Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu
Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Tức là tác giả mới cảm xúc về một khung cảnh thiên nhiên cùng với những sự vật xung quanh mà miêu tả nó ra mà thôi. Tuy sự miêu tả có gợi cảm nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời hay một ý tình trắc ẩn nào đó của nhà thơ hoặc của nhân gian, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay! Lại xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng về một bài thơ hay trong thi đàn.
     * Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan: Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau 4 câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi, thưa thớt vài quán chợ bên sông. Nhưng chỉ bằng hai câu ở giữa bài, cũng vẫn là mượn cảnh vật để mô tả, nhưng đã ôm bọc cả nỗi tình về nước, về nhà... của lòng bà gửi trong đó:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Để rồi cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích, cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học của nước nhà.
     Lại quay trở về với "sang thu" của Hữu Thỉnh - Tuy tả cảnh có đẹp nhưng nghĩa thơ thì còn quá ít, nó chỉ như một bóng mây có vân sắc bay ngang qua bầu trời thơ mà thôi.
Tuy vậy thi phẩm vẫn được coi là bài thơ miêu tả khá, đứng được... nhưng chưa đủ sự sâu sắc để tạo thành một đài thơ hay như các bài thơ đã kể trên.

* Tôi xin dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan / Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
Nhưng tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy hết sức đời và sống động:
Bao cô thôn nữ hát trên đồi / Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Hay là khi tả về tiếng hát:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây...
Không phải chỉ là nước mây hổn hển, mà chính là lòng thi nhân hổn hển... vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc / Xem ra ý vị và thơ ngây...
Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân? Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn... một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
"Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột mà trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh nắng chang chang chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh thuần tuý, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình đâu mà viên mãn để được gọi là thơ hay? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... mà có tiếng, trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình...

* Lại ví dụ như "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình thì hiu hắt, với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ... khi ông chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn hương:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...
Nhất là trong hai câu kết:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả cuộc sống bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời... một tâm trạng khắc khoải chênh vênh trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!

* "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu anh hùng ca của một thời, không đủ giá trị để đạt tới là thơ trường cửu đối với nền văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường, Giọng điệu viết từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè... chưa có gì thật đặc sắc. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.

* Ở đây tôi không muốn nhắc đến bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh - Mà một dạo bài thơ đó cũng đã từng được dư luận tán dương?
Bởi, theo bài viết của tác giả Đại Lãng Du Tử đăng trên vietnamnet.vn rằng: Bài Hỏi của nhà thơ Hữu Thỉnh đã đạo từ bài "Thượng đế đã làm ra mặt trời" của nữ thi sĩ người Đức Christa Reining (sinh 1926), qua bản dịch ra tiếng Việt. Sau đó cả Trần Mạnh Hảo cùng Nguyễn Trong Tạo đã viết bài tố giác trên một số trang internet.
Xin trích lời nhà thơ & bình luận Trần Mạnh Hảo đã được đăng tại website vnthuquan.net vào ngày 21/5/2007, như sau:
"... Qua bằng chứng nêu lên thì chính xác đến không thể chối cãi, bài thơ Hỏi không phải của nhà thơ Hữu Thỉnh mà chính của nữ nhà thơ Christa Reining năm nay đã 80 tuổi, đã từng được giới thiệu trên báo Văn học Nước ngoài từ năm 2002. Bài thơ này đã được nữ thi sĩ Đức viết từ trước năm 1963, năm ông Hữu Thỉnh 19 tuổi chưa từng xuất hiện trên thi đàn? Chuyện động trời này chúng tôi không dám tin là sự thật. Một người mũ cao áo dài, thương hiệu không phải chỉ là của nền văn học Việt Nam, mà còn là thương hiệu của chế độ như ông Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh, lẽ nào lại đi ăn cắp thơ của người khác làm thơ mình?...".
Còn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì viết:
" ... Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?...".
Một bài thơ đã đaọ của người khác... thì bàn làm gì cho rợm cả trang viết ?
    Như thế là tôi đã nói hết những bài thơ đứng đầu trong những tác phẩm thơ ngắn của Hữu Thỉnh. Ngoài ra ông có viết đôi trường ca. Trường ca đáng nói hơn là "Trường ca biển" mà cùng với tập "Thương lượng với thời gian", ông đã mang ra để chiếm lấy cái giải quốc gia lớn nhất vừa qua. Tôi cam đoan rằng, tất cả trường ca của Hữu Thỉnh không tồn tại được với thời gian. Ngay cả Trường Ca Biển cũng chỉ là một tác phẩm viết kiểu ngợi ca chủ nghĩa, cấu tứ còn làm nhàm , kiểu viết rất ào... tầm vóc trung bình, lời nhiều nghĩa ít, lan man... Một trường ca có giá trị thường thôi và không có khả năng lưu được trong nền văn học nước nhà. Vì là thơ của ông Chủ tịch HNV nên cố đọc để biết, chứ nếu trường ca đó của một nhà thơ bình thường, chắc chỉ xem nổi một, đôi chương.. rồi cũng sẽ bỏ đi.
Theo nhận biết của tôi: mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng HNV hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ, may ra có vài ba tình thơ gì đó đứng lại được trong những năm tháng gần.
Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào đây?
Tôi vẫn đang nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?

b/. Nói thêm về một nhân vật đang có tên tuổi của HNVVN đương thời, nhà thơ & bình thơ Vũ Quần Phương -

    Cũng như Hữu Thỉnh, cơ bản thơ Vũ Quần Phương không có khả năng tồn tại, tôi vẫn thường gọi: đó là những thứ thơ ra rác, hoặc gần 100% như thế. Một người có khả năng cảm nhận được thơ hay, đi tìm trong hàng trăm các bài thơ của Vũ Quần Phương, cũng khó mà tìm nổi một bài thơ thực sự hay của thi đàn để mà bình. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ một tý... "Đợi"!
    Bài thơ Đợi chính là đỉnh cao độc nhất chênh vênh của đời thi ca của Vũ Quần Phương. Tôi xin viết lại toàn bộ bài thơ đó:
Anh đứng trên cầu đợi em / Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm / Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy / Nước chảy bên lòng, anh đợi em.
Anh đứng trên cầu nắng hạ / Nắng soi bên ấy lại bên này / Đợi em. Em đến? Em không đến? / Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây!
Anh đứng trên cầu đợi em / Đứng một ngày đất lạ thành quen / Đứng một đời em quen thành lạ / Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Cái hay của bài thơ này là những hình ảnh như: nước chảy, trên cầu đứng đợi, nắng hạ soi rồi nắng tắt anh còn đứng... đều trở thành biểu tượng "chờ đợi của tình yêu"! "Cái nước chảy" suốt ngày đêm ấy để nói về thời gian, "nắng" biểu tượng ở không gian, nhất lại là nắng hạ, nó nói về sự chờ đợi tha thiết, mỏi mòn mà em không thấy tới, rồi tác giả đúc vào trong đoạn thơ kết là hình ảnh của những câu hay nhất bài:
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời em quen thành lạ
Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Tuy thế bài thơ mới nêu lên được khái niệm về cái sự chờ đợi, chứ nó chưa có nội tâm đời sống, thậm chí chưa có cả tình cảm, tâm lý của sự chờ đợi. Ngay cả với "nhân vật chờ đợi" là nhà thơ ở đây, cũng mới chỉ là một ý tưởng còn cứng nhắc, chưa phải là người bằng da, bằng thịt của VQP. Hay nói một cách hình ảnh, hình tượng bài thơ như một người hàng mẫu bầy trong tủ kính, chứ chưa có sự rung cảm trái tim của một con người đang sống. Bởi vậy bài thơ chưa đạt độ xung mãn để trở thành một bài thơ hay thực sự của thi đàn, như những bài thơ của các thi nhân mà tôi đã dẫn chứng ở trên.
Tuy nhiên "Đợi" đã có dáng của một đài thơ, nhưng đài chưa cao. Mới lại... Vũ Quần Phương cũng chỉ có một độc chiêu như thế, dăm ba bài khác như: Trước biển, Áo đỏ, Thuyền Trương Chi đang trôi, Nói với em, hay Vầng trăng trong chiếc xe bò... chỉ nhâm nhi được tí này, tí nọ, rồi cũng sẽ vào cát bụi cả thôi! Đúng như lời tự hoạ trong một bài thơ ông đã viết:
Anh còn gì cho em...
Dăm câu thơ nhoà nhạt
Sẽ còn đúng hơn nếu ông viết:
Anh còn gì cho em?
Đời thơ anh cát bụi...
Và cũng như cái tên đề mà ông đã đặt cho một tập thơ của mình: "Giấy mênh mông trắng" - Đúng như vậy, dù VQP có viết nhiều, sáng tác nhiều thơ hơn thế nữa, thì chân dung thơ của ông vẫn chỉ là "giấy mênh mông trắng"...
Bởi thơ ông không có khả năng tồn tại với thời gian, để lưu lại cho nền văn học nước nhà! Như vậy, đời thơ Vũ Quần Phương gần như con số "O" tròn trĩnh rồi!... may ra ông có thể lưu lại chút gì đó trong văn đàn, là mảng bình thơ chăng? Mặc dù những bài bình của Vũ Quần Phương cũng chưa thật sự được thuyết phục lắm. Khả năng thẩm định thơ của ông vẫn còn hạn chế, nhất là đối với thơ hiện đại. Tôi xin lấy thí dụ về một bài thơ mà VQP đã bình - Đó là bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử".
Khi bình đến đoạn thơ thứ hai của bài:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Nhà bình thơ VQP nhận xét:
" Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở "...
Hay là: "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau..." - Rồi nhà bình thơ cho rằng:
" chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm " - Cảm nhận thơ như thế chưa đúng, tức là chưa hiểu hết về thơ HMT?
HMT là một thi nhân viết thơ theo tư duy của nội tâm. Xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy, còn ý tứ thường được diễn tả khá mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng mà diễn đạt nỗi tình thơ...
Đây Thôn Vỹ Dạ là bài thơ mà thi nhân viết về tình yêu đơn phương của ông đối với nàng Hoàng Cúc. Huống chi giờ đây do bị bệnh tật hiểm nghèo, thi nhân phải đi điều trị ở Gành Ráng, một nơi cách biệt với cuộc sống con người. Mối tình ấy càng trở nên xa cách:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Cũng có nghĩa: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi... /- Cái hình ảnh dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay phật phờ bên sông kia, nó cũng để chỉ một tâm trạng buồn tẻ, cô đơn của thi nhân. Còn về hình ảnh con thuyền ở trên bến sông trăng, dù là cảnh mơ, ảo... trong sự hoài tưởng về chốn cũ, người xưa... thì cũng là cảm xúc đã được thăng hoa. Vậy thì toàn bộ bài thơ hoàn toàn từ đoạn một tới đoạn ba, ý tình vẫn được nối với nhau, liên kết rất chặt chẽ - Đoạn thơ hai chính hình ảnh nói về duyên phận của hai người, là sự liên kết ở thế giới bên trong thơ, chứ không phải "đầu Ngô mình Sở" như VQP nhận xét. Hình tượng về gió và mây, đến dòng nước và bông hoa bắp lay...của hai câu thơ này sâu sắc, cũng hay không kém gì những câu thơ kiệt xuất trong bài thơ "Bẽn lẽn" nổi tiếng của Ông:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...
    Tôi lại xin liên hệ với bài "Qua đèo Ngang" của BHTQ - Bốn câu đầu của bài thơ, Bà Huyện chỉ tả về quang cảnh của đèo Ngang như đã nói trên - Nhưng đến hai câu 5-6:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia...
Thì hình ảnh con chim cuốc và cái gia gia... là để nói về cái nỗi nước, tình nhà của bà. Bởi theo truyền kể, Bà Huyện không phải chỉ là người đàn bà đảm đang việc gia đình, chăm lo đến chồng con, mà Bà vẫn thường giúp Ông Huyện xử nhiều vụ kiện chốn công đường, rất quan tâm tới việc nước - Nhưng đến hai câu sau thì tứ thơ lại quay trở về thực tại ngay:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cũng rất giống với trình tự lập tứ như trong bài Đây Thôn Vỹ Dạ - Đoạn thơ cuối HMT trở lại với thực tại... tự thán về mình:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vậy cứ theo như cách biện luận của VQP thì bài thơ Qua Đèo Ngang này cũng đầu Ngô mình Sở à? Mặc dù bài thơ của BHTQ theo dòng thơ cổ phương Đông, còn bài thơ của HMT là thơ hiện đại, ảnh hưởng sâu sắc trường phái thơ tượng trưng của châu Âu.
Tôi đã xem khá nhiều những bài bình thơ hiện đại của Vũ Quần Phương, Ông hay sử dụng các tiểu xảo về ngôn từ, cách cú... có tính chất bày vẽ phô diễn, nhưng lời bình phẩm lại chưa thấu tình, đạt ý, nên những tiểu luận phê bình thi ca của ông tồn tại được với nền văn học mai sau chắc cũng không nhiều.
Tôi vẫn đang nói về ý nghĩa cũng rất quyết định đối với một bài thơ, hay một tác phẩm văn học nói chung là "Tồn tại hay không tồn tại"? và "Tồn tại đến đâu"?

5. VỚI ÔNG VIỆN TRƯỞNG VIỆN VĂN HỌC VIỆT NAM - Thật sự tôi không muốn dùng những lời bỗ bã như nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã phê phán ông cùng với tất cả các người trong cái Viện hiện nay của ông rằng:
" Chưa ở đâu như cơ quan ông (tức là Viện văn học) lại có nhiều người mang học vị tiến sĩ và hàm giáo sư văn học như thế mà lại dốt..."
(Trích thư ngỏ của TMH gửi ông Viện trưởng)
Nhưng Trần Mạnh Hảo thì chê bai vì các ông ông... "dốt tiếng Việt" - Còn tôi, tôi lại cho rằng:
- Chưa đâu có một tổ chức nào nhiều PGS - TS nghiên cứu văn học như ở Viện văn học, mà lại nhận thức về tác phẩm văn học, nhất là khả năng hiểu biết thơ ca hiện đại còn non đến như thế! Ngay với chính ông, tôi cũng thấy trình độ thẩm định tác phẩm thơ hiện nay của ông Viện trưởng vẫn còn mông muội, nặng về tuyên truyền chủ trương chính sách lắm!...
Xin liên hệ với một mẫu mực ở trong văn đàn - Nói theo cách nói của Bằng Việt, tôi ngả mũ chào và kính nể Nhà phê bình, lý luận thơ ca Hoài Thanh, khi Người có nhận xét đánh giá về thi nhân Vũ Hoàng Chương rằng:
" Vũ Hoàng Chương có cái dụng ý muốn say để làm thơ. Cái dụng ý ấy không khỏi có hại. Nhưng một lần kia, bước chân vào tiệm nhảy, người bỏ quên dụng ý làm thơ ở ngoài cửa, và lần ấy người đã làm một bài thơ tuyệt hay ...".
(Trích Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh)
Bài thơ tuyệt hay ấy chính là "Say đi em":
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt,
Rượu, rượu nữa,và quên, quên hết!
...
Lui đôi vai, tiến đôi chân,
Riết đôi tay, ngả đôi thân,
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió,
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ,
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa,
Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng,
Chưa cuối xứ Mê ly, chưa cùng trời Phóng đãng,
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men...
Nhân bảo như thần bảo - Người (tức Hoài Thanh) đã nói đúng! "Say đi em" là một tuyệt tác, đỉnh cao nhất trong thơ của thi nhân Vũ Hoàng Chương. Ý tình đều viên mãn. Nghệ thuật ngôn ngữ, làn điệu thi ca có thể nói trình độ đẳng cấp cao.
Thưa ông Viện trưởng! Chính vì có được tầm hiểu biết thơ ca sâu xa, uyên bác như thế, cùng với đức độ nhân văn đáng ngưỡng vọng... và với tấm lòng thành kính trước ngôi đền kỳ vĩ của thi ca , nên nhà văn Hoài Thanh đã để lại được cho nền văn học một tác phẩm "Thi nhân Việt Nam" bất hủ, còn lưu truyền đến ngàn thu.
Tôi chỉ xin trích một tẹo thôi... may ra đầu óc ông viện trưởng cùng các tiến sĩ văn học ở Viện có hé sáng thêm được tí nào chăng? Các ông không phải chỉ là cần đọc nhiều, mà phải đọc và nhận thức một cách ... có trí tuệ và tính nhân văn cao! Thơ ca chỉ có dân gian, quê hương, chỉ có bầu trời cao đẹp của những hình tượng ngôn ngữ, nghệ thuật, kể cả là nghệ thuật vị nhân sinh hay nghệ thuật vị nghệ thuật...( Đó cũng chỉ là một cách nói, chứ một khi "nghệ thuật vị nghệ thuật" tức là cũng vị nhân sinh rồi)! Thơ cứ thích, hay và sâu sắc là phục vụ cho cuộc sống và linh hồn con người!
Tôi cũng đã từng có những năm tháng đánh giá rất cao Viện văn học. Có giai đoạn, ngay cả khi chép những bài thơ hay trong những tờ rơi để truyền bá thơ ca tôi cũng vào tặng các tiến sĩ cũng như GS hoặc PSG ở viện. Hay khi xuất bản tập thơ Rung Động Trái Tim trang trọng của mình, tôi cũng đem vào biếu đủ mặt, nào viện trưởng, viện phó đến các phòng ban của viện - Bởi dạo đó tôi vẫn cứ ngây thơ ngộ tưởng? Nhưng sự thật mới ngã ngửa người ra vì thất vọng! Chả lẽ các vị chỉ là những kẻ sĩ cạo giấy ăn lương và lấy cái hàm vị cho oai ử? Mà khi trình độ hiểu hay khả năng đánh giá tác phẩm thi ca hạn chế quá, lại có chút hàm vị... thường dẫn đến hay làm sàm? Giả dụ như về các hội thảo thơ vừa qua chẳng hạn...
Nhưng thôi, ở đây tôi không muốn bàn đến các hội thảo thơ đó nữa - dù các cuộc hội thảo do chính ông viện trưởng Nguyễn Đăng Điệp cùng Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh tổ chức hay tham dự, để cho bài viết bớt lan man, đỡ dài. Bây giờ lớp người lãnh đạo làm xằng bậy nhiều quá! Tôi cho rằng, bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo tuy có bỗ bã, nhưng cũng sắc sảo, có độ xác đáng và thuyết phục được. Các ông nên lấy đó làm bài học mà cố gắng thực thi cái chức sắc thủ trưởng của mình được tốt hơn?

6. VỚI ÔNG BẰNG VIỆT CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG THƠ HNVVN - Trước hết tôi cám ơn ông với danh nghĩa nhà thơ Bằng Việt cùng với nhà thơ Phạm Đức, đã hạ bút (năm 2009) viết giới thiệu tôi lên HNVVN. Mặc dù sau đó lá đơn xin vào Hội của tôi đã bị chính Chủ tịch HNV Hữu Thỉnh liên kết với Vũ Quần Phương, là Chủ tịch Hội đồng thơ khoá VII khi đó... chỉ đạo ban bệ dìm lấp nó đi.
Nhưng không sao, như người ta nói: nếu là chim đại bàng thì chim đại bàng sẽ vỗ cánh bay đến thiên thu. Còn chỉ là chim sẻ hay vịt đàn, cuối cùng sẽ vẫn cứ là chim sẻ và vịt đàn mà thôi.
Theo suy nghĩ của tôi, dù sao HNVVN cũng vẫn là một Hội của quốc gia. Hôm nay dẫu nó có bị tha hoá, thậm chí bị lợi dụng để đầu cơ. (Tôi còn nhớ, trước thềm của Đại hội VI của HNVVN - chính cố nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết bài chê trách ông Chủ tịch HNV Hữu Thỉnh thiếu trong sáng trong việc kết nạp người vào Hội, đăng trên báo "Công an nhân dân"). Nhưng đó chỉ là thói đời, đời nào mà chẳng có cả thối lẫn thơm. Dẫu hôm nay thơm ít mà thối nhiều, nhưng ngày mai trời trong sáng lại, thì chắc là sẽ thơm nhiều ít thối. Chê trách là chê trách những người cầm cân nẩy mực, những ông Chủ tịch quá tham lam, chứ trách chi anh em muốn xin vào Hội? Dù rằng tác phẩm của họ chưa cao, có phải chạy chọt để xin vào Hội mà lấy một chút danh tiếng sống trong đời thường -. suy cho cùng, nó cũng xuất phát từ những ý nghĩ lương thiện về cuộc đời.
"Quan nhất thời, dân vạn đại", dẫu các bậc hiền nhân dậy vậy - Nhưng lẽ đời người ta vẫn sống bằng thực tế trước mắt nhiều hơn.
Với nhà thơ Bằng Việt, hiện là Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN (k.VIII), tôi hy vọng: Ông không đến nỗi nhỏ con, sên ốc... như Vũ Quần Phương và Hữu Thỉnh, để góp một phần nho nhỏ nhân cách cùng với đức tính trong sạch của mình cho HNVVN trong tương lai xứng đáng là một Hội văn nhân của quốc gia, khỏi tủi hổ trước cộng đồng quốc tế!

7. TRỞ LẠI VỚI CUỘC TRAO ĐỔI THƠ TOÀN CẦU -
Mặc dù còn đến trăm bài thơ nữa chưa xuất bản - song về căn bản, hai tập thơ "Rung động trái tim" và "Hồ Xuân Hương tái lai" với ngót 400 tình thơ, cũng đã là cả sự nghiệp thơ ca của Phạm Ngọc Thái rồi. Coi như tôi đã hoàn thành mĩ mãn ý nguyện là để lại cho dân gian, cho nền văn học nước nhà một ngôi đền thơ ca có đẳng cấp của đời tôi!
Thưa ông Viện trưởng Viện văn học Nguyễn Đăng Điệp, ông Chủ tịch HNV Hữu Thỉnh, và ông Bằng Việt - Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN...
Một lần nữa tôi đánh cược với mấy ông rằng: Nếu với tầm vóc của hai tập thơ đó, tôi không đạt được chân dung cao của một thi nhân - Thì nhà thơ Phạm Ngọc Thái, người đang bước đến cái tuổi của U70 vẫn tình nguuyện..." làm con" cho các ông? Nhưng ngược lại, nếu chân dung thơ tôi thực sự có giá trị lớn của nền văn học nước nhà - thì khi ấy các ông cũng phải..."làm con" cho tôi!?
Đó chính là qui luật của thơ "tồn tại và không tồn tại"! Một qui luật mà suốt đời tôi đã lấy đó làm kim chỉ nam cho sự nghiệp sáng tác thi ca của mình. Phương ngôn có câu "chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi" - Thơ Phạm Ngọc Thái chỉ có quê hương đất nước với nỗi đời dâu bể dân gian, chỉ có tình yêu và đàn bà, không làm nô bộc cho bất cứ một thể chế chính trị nào.
Các bè bạn gần xa, trong nước hay anh em cộng đồng Việt trên thế giới, những ai có thời gian & hứng thú muốn quan tâm đến thơ Phạm Ngọc Thái - Hiện tập thơ "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009 đã được đăng nguyên bản trên website của vnthuquan.net, hay quí vị có thể đọc qua link sau:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=625782
Còn tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá Thông tin 2012 - Vị nào có nhã ý xin liên hệ bằng Email, tôi sẽ rất lấy làm yêu mến đựơc gửi tới các Quí bạn toàn bộ tập thơđã xuất bản ấy... "Tập thơ điện tử".
Với các Hội Văn học ở trong nước, từ quốc gia đến địa phương hoặc các tổ chức nghiên cứu văn học... nếu muốn nghiên cứu tác phẩm - liên hệ, tác giả sẽ gửi sách biếu.

Hiện nay tác giả đã làm xong bản thảo của một tập thơ mới - với ngót 250 bài thơ và trong vòng khoảng 300 trang sách. Gồm toàn bộ là thơ tình, được chọn lọc ra từ hai tập thơ "Rung động trái tim" và "Hồ Xuân Hương tái lai" đó! Tên đề của bản thảo tập thơ mới là: "Cực kỳ lãng mạn" - Thơ tình PHẠM NGỌC THÁI - Nếu có cá nhân hay tổ chức, hoặc Nhà xuất bản nào muốn com măng xuất bản, xin liên hệ với tác giả. Ở trong nước, tác giả sẽ gửi kèm theo bản thảo được đánh máy bằng giấy - Còn ở Hải ngoại, sẽ gửi đến Quí vị bản thảo tập thơ bằng "Hộp thư điện tử".

Đến đây, lời viết đã nhiều mà ý tình cũng không ít, xin để lại văn bản này cho đương đại và cả lịch sử mai sau cùng phán xét.


Phạm Ngọc Thái
Thăng Long, mùa thu năm Nhâm Thìn, 2012.
NR: 34 ngõ 194, phố Quán Thánh, Hà Nội.
Mobile: 0168 302 4194
Email: ngocthai1948@gmail.com


      Mời Quí vị đọc 49 TÌNH THƠ SÂU SẮC CỦA PHẠM NGỌC THÁI
                          trích từ hai tập thơ đã xuất bản, qua link sau:

                         http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=764723

* Đã đăng trên một số Website trong nước & thế giới:
http://vuontaodan.wordpress.com/2012/09/07/phamngocthaixinmocuoctraodoithotoancauvechandungtacgia/
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/hoithaothotoancauvethihaophamngocthai.htm
http://vannghecuocsong.com/home/vi/news/Gioi-Thieu-Tac-Pham-Moi/Pham-Ngoc-Thai-mo-cuoc-rtrao-doi-voi-cong-luan-527/
http://hientinhvn.wordpress.com/2012/09/06/phamngocthaixinmocuoctraodoithotoancauvechandungtacgia/
http://vietnam.maketvietnam.com/2012/09/bao-trung-quoc-ung-ngoi-khong-yen-vi.html#8
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/vn-hc-cuc-sng/2969-nha-th-phm-ngc-thai-ngh-m-cuc-tranh-lun-v-chinh-minh
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=84&sub=&id=YTg3OTlhWjB4eDY3eDk2NmEwOA==
http://hung-viet.org/blog1/2012/09/07/ph%E1%BA%A1m-ng%E1%BB%8Dc-thai-xin-m%E1%BB%9F-cu%E1%BB%99c-trao-d%E1%BB%95i-th%C6%A1-toan-c%E1%BA%A7u-v%E1%BB%81-chan-dung-tac-gi%E1%BA%A3
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 11:52:06 bởi Nhân văn >
Nhân văn 22.09.2012 23:28:49 (permalink)
.
CHÙM BÀI TƯỞNG NHỚ THI NHÂN HÀN MẶC TỬ CỦA PHẠM NGỌC THÁI
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh thi nhân Hàn Mặc Tử (22.9.1912 - 22.9.2012)

                    KHÓC HÀN MẶC TỬ
Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết
Khóc gió mưa, cây cỏ đến chân trời
Khóc tạo hoá: từ thiên và địa
Rồi khóc người: Đời, con tạo quay chơi...

Hàn Mặc Tử ơi! Ớí , Tử ơi !
Sống chơi vơi cũng giống người
Khác chi là con chim cánh lá
Giọt thơ này hoà lệ máu tôi rơi!

Nơi Tử nằm trong mồ hoa thơm nở
Đầu Tử gối lên sườn sóng gió
Với sao sương vằng vặc trăng ngàn năm
Nỗi đau đè nặng cõi dân gian.

Hỡi biển Đông, núi cao Gành Ráng!
Thơ của Tử mai sau còn sáng láng
Sóng nước non non nước vỗ ngày đêm
Quạnh hiu buồn rờn rợn bóng thi nhân.

Ngồi đọc Tử tim vỡ toang máu đỏ
Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió
Chúa ở đâu? Thượng đế có trên đời?
Người Thơ Xưa hoá chốn nao rồi?

Thì tham vọng vinh quang ai chẳng muốn
Ngu cũng buồn! Tài lại lắm tai ương?
Giữa đời nhiều khi phải cười nhăn răng mà sống
Thương nhau để mặc lệ rơi tuôn...

Tử dù đau nỗi đau ngang bể
Nhưng đã có bao người khóc Tử
Suy cho cùng: tuyệt đến thế thì thôi,
Trên này nhiều chuyện lắm, Tử ơi!

Rót mắt thành thơ khóc Tử lại khóc đời
Chúng tôi đang quần cuộc sống...
Có khi phải tập nén mình như bánh nén
Thỉnh thoảng cũng thương nhau,
phần lớn chỉ đấu tranh.

Niềm sướng đau khôn dại dại khôn
Em gái - Nhà thơ - Nhà chính khách
Tuốt tuồn tuột mấy ai không bất trắc
Buồn làm chi! Đời, sắc sắc không không...

Đời vậy mà - Người thế, chuyện thế gian!
Suy cùng lý chẳng gì phải chán
Lại thương Tử không được dự phần bon chen xô lấn
Giây phút khóc cho nhau hoá hạnh phúc lớn trên đời.

Hàn Mặc Tử ơi! Ới, Tử ơi!
Bao đêm nghiền ngẫm chữ thơ Người
Châu rỏ đầm đìa trang giấy trắng
Bay về Gành Ráng đẫm hồn tôi.

Thắp nén nhang chùa tôi khấn anh
Tài hoa xuất sắc vóc giai nhân
Vung tay búng bút xô báu ngọc
Chữ thơ như tuyết máu lênh đênh.

Qui Nhơn biển sóng vỗ mây lừng
Tài này - phận ấy! Những bi thương,
Nay đã yên mình khe nước ngọc (*)
Hẹn nhau mai mốt bữa tương phùng.

Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết
Khóc gió mưa, hoa cỏ lẫn sao sương...
Tử có nghe! Thơ Người - Tôi viết tiếp
Cúi lậy không gian cả tám phương! (*)
                            Phạm Ngọc Thái
(*) Ý thơ của Hàn Mặc Tử.

           Thơ Hàn Mặc Tử - Lời bình Phạm Ngọc Thái

 
                          ĐÂY THÔN VỸ DẠ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
 

 
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
                   Hàn Mặc Tử
            (Rút trong tập "đau thương" - Thơ điên của HMT)
-------------------------
   Bài thơ được mở đầu với lời trách móc của người con gái. Lời trách ấy có lẽ do một hoàn cảnh gặp gỡ nào trước đó được thi nhân nhớ lại:
             Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
   Câu mở đầu như thế giúp cho ý tưởng kiến thiết bài thơ thôn Vỹ gắn với nỗi nhớ người xưa được gợi lên trong kỷ niệm:
             Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
             Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Nghĩa là từ hàng cau đến cái nắng mới vào buổi sáng ấy, màu xanh của vườn cây đều là cảnh hiện trong hồi tưởng. Thôn Vỹ nói riêng cũng như mỗi làng quê Việt Nam nói chung: hàng cau thường đọng lại những ấn tượng sâu sắc, nhất là với những người khi đã phải xa quê. Ta cũng thấy ở trong thơ Nguyễn Bính từng viết:
                Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
    Hàng cau dưới cái nắng mới buổi sớm thì trong mát, thanh thiên lắm! Cảnh quê cô đọng được hoà quyện vào mối tình đầu trong sáng, mơ mộng của thi nhân, dù mối tình với nàng Hoàng Cúc ấy chỉ đơn phương về phía Hàn Mặc Tử. Nhưng sự sâu lắng đã trở thành hoài niệm mãi trong cõi nhớ của ông, bởi thế màu xanh của lá cây trong vườn cũng lung linh mà "xanh như ngọc"...
     Như vậy "cảnh nhớ" ở ba câu đầu tuy chỉ là hồi tưởng nhưng lại xuất phát từ "cảnh có thực"! Sở dĩ tôi nhấn mạnh về chữ "thực" ở đây? vì chỉ đến câu thứ tư hình ảnh thơ đã có ý nghĩa tượng trưng:
                Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
    "lá trúc" và "chữ điền" thuộc những ngôn từ mỹ học! Hình tượng cây trúc làm tượng trưng trong thơ HMT, ta còn thấy ở trong bài thơ Mùa Xuân Chín:
             Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
     "trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê, còn "mặt chữ điền": theo cách nói cổ nho là ví cho gương mặt nam nhi! Trong bài thơ này gương mặt chữ điền ấy để biểu tượng cho chính bản thân thi nhân. Hai chữ "che ngang" kia, nghĩa là thôn Vỹ với nhà thơ giờ đây chỉ còn ở trong kỷ niệm, nỗi nhớ... mãi mãi phải cách xa nên đã bị... "cắt ngang"!
    Ngay trong bốn câu của khổ thơ đầu ta đã nhận thấy cấu trúc, tư duy thơ HMT theo cảm xúc đã được thiết lập trình tự của sự suy lý về nỗi cảnh mà lập thành tứ, để phát triển sâu hơn ở khổ thơ thứ hai khi nói đến tình duyên dang dở giữa hai người:
            Gió theo lối gió, mây đường mây...
    Ý là:
            Em theo đường em, anh đường anh
            Duyên phận đôi ta có thế thôi!
    Tả cảnh nhưng chính để nói nỗi đời:
           Dòng nước buồn thiu (tĩnh), hoa bắp lay (động)...
    Cái (tĩnh) và (động) ấy chỉ để bộc lộ một cõi lòng, một tâm trạng cô đơn và buồn! Thi nhân ngồi nhớ người xưa, lòng ông lặng lờ buồn bã như dòng nước hắt hiu, nhưng trái tim vẫn bổi hổi, xốn xang như làn "hoa bắp lay"...
             Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
             Có chở trăng về kịp tối nay?
     Đây là hai câu thơ thần cảm - Hình ảnh thuyền và sông trăng theo cảm xúc ùa vào trong thơ mà bật ra... làm cho tình thơ thêm rộng rãi, rung rinh, nỗi thơ càng mênh mang, da diết.
     Xin nói thêm, cảnh thuyền và sông trăng ở đây theo như một số nhà bình luận: Người thì cho đó là cảnh trong một bức ảnh về Huế mà nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân khi đang lâm bệnh phải điều trị ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng cũng có người lại nói rằng nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân tấm ảnh mặc áo dài trắng?... chứ không phải là phiến cảnh "thuyền" và "sông trăng" đó. Nếu vậy thì cảnh trong thơ chỉ là cảnh mà thi nhân nhớ lại nơi thôn Vỹ chăng? - Cũng chưa thật ngã ngũ về hướng nào.
     Nhưng tóm lại cảnh của hai khổ thơ đầu ấy là cảnh thuộc về trí tưởng, dù là vào buổi sớm dưới hàng cau hay trong một đêm trăng trên sông nước. Trong bài bình của nhà bình thơ Vũ Quần Phương, đến đây có nhận xét rằng:
     "Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở...", (hay là) "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau..." và nhà bình thơ cho rằng "chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm"...
     Theo tôi: HMT là một thi nhân viết thơ bằng nội tâm theo tư duy thế giới trong, xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy... còn ý tứ thường được diễn tả rất mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng để diễn đạt nỗi tình thơ - Đoạn thơ thứ hai ấy cần phải hiểu sâu sắc bằng thế giới bên trong như đã bình trên, mới thấy cảm xúc về ý tứ của bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ hoàn toàn liên kết chặt chẽ với nhau, từ đoạn thơ đầu tiên cho đến đoạn cuối cùng. Đấy chính là cốt lõi để tạo ra thi phẩm của ông. Đây thôn Vỹ Dạ là một tuyệt tác thi ca! Nếu cho rằng đoạn thơ thứ hai chỉ là để tả cảnh buồn mênh mang... thì sẽ không thấy hết được cái hay và sâu sắc của bài thơ!
     Tôi xin bình sang khổ thơ thứ ba:
               Mơ khách đường xa, khách đường xa
              Áo em trắng quá nhìn không ra
              Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
              Ai biết tình ai có đậm đà?
    Như đã nói mối tình giữa HMT với nàng Hoàng Cúc chỉ là một mối tình đơn phương về phía thi nhân, có thể nàng không hay biết về tình yêu của chàng? Hơn nữa trong lễ giáo phong kiến thời ấy, giữa gia đình thi nhân với gia đình nàng còn có một khoảng cách về đẳng cấp xã hội. Hoàng Cúc thuộc gia đình một quan lại, còn HMT là gia đình lớp bình dân. Ông vốn tính lại rụt rè, hay bẽn lẽn, yêu tha thiết mà chỉ dám đứng từ xa chiêm ngưỡng người đẹp như trong mộng... rồi thương thầm, nhớ trộm. Thi nhân đã dồn hết tình yêu của mình vào thơ ca... sáng tác cả một tập, gọi là tập "gái quê" để tặng nàng!
      Giờ đây thì cả cái mối tình đơn phương ấy cũng đang trôi vào dĩ vãng. Thi nhân lâm bệnh nặng phải sống cách ly, sự ngăn trở giữa hai người càng xa hơn. Nên trong bài thơ nói về người yêu mà thi nhân lại dùng chữ "khách" là vì thế! Ông mơ về nàng dẫu tình thì sâu nặng... mà vẫn như mơ về một người khách lạ...
     Hình ảnh: Áo em trắng quá.../ - Hẳn là màu áo trắng của nàng Hoàng Cúc thường mặc phải gây ấn tượng trong trí nhớ của HMT hơn các màu áo khác! Nhưng màu áo trắng ở đây còn là ảnh ảo, khi thi nhân mơ tưởng người đẹp ở trong trăng... Màu trăng ấy thường hay thấy trong thơ HMT:
            Người trăng ăn vận toàn trăng cả...
     Còn tại sao "áo em trắng quá" mà lại "nhìn không ra"? Ý là: Mối tình ấy đã cách biệt, giờ đây khoảng cách giữa hai người xa vời như người khách lạ qua đường. Còn cảnh tượng:
             Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
     Đó là cảnh thực của nơi Ông đang sống và chữa bệnh... hiu quạnh, khói sương heo hút ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng đồng thời cũng để nói lên trong cảnh ngộ của Người về thân phận "mịt mờ nhân ảnh". Tâm trạng Ông đang rơi vào trong vực thẳm trước sự quên lãng của người đời. Lòng Ông càng da diết mà hỏi:
             Ai biết tình ai có đậm đà?
     Tiếng "ai" bộc lộ một tâm trạng vẫn rất tha thiết của Ông: Liệu nàng còn nhớ đến ta chăng? Cái tâm trạng xa xót ai oán ấy, Ông cũng đã từng bộc lộ nhiều lần khác:
                Một mai kia ở bên khe nước ngọc
                Với sao sương, anh nằm chết như trăng
                Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
                Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!
     "Đây thôn Vỹ Dạ" là một bài thơ được dệt thành một bức tranh trong mộng, không gian đa sắc đa chiều, đan xen giữa hiện tại và kí ức. Ý, tình khúc triết, sâu xa. Dù rằng tình thơ được rút trong tập "thơ điên", nhưng nó không những không phải là thơ điên mà còn là một tình thơ đằm thắm chứa chan, trái tim của nhà thơ đã thấm đầy huyết lệ!
             Hà Nội
       Phạm Ngọc Thái

       Thi pháp thơ Hàn Mặc Tử qua "Mùa xuân chín"
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
                              Hàn Mặc Tử

 
             Tiểu luận - PHẠM NGỌC THÁI
     “Mùa xuân chín ” được rút ra từ trong thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Trong Thi nhân Việt Nam , Hoài Thanh có nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau: “Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói”. Nhưng đã xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy:
               Trong làn nắng ửng khói mơ tan
                   Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
     Đây hẳn là những mái nhà đã được lợp bằng rạ vẫn còn mới ở thôn quê, bởi những sắc màu của rơm rạ còn ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Toát lên tấm tình của thi nhân với nơi thôn dã rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:
                 Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
                    Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
     “…tà áo biếc” ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lý, khi gió thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu “sột soạt”. Nếu gió thổi ngoài trời: nhẹ thì hiu hiu, vi vút… gió to sẽ rít lên ào… ào…
     Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lý có tiếng kêu “sột soạt” như thế? vì giống lý lá nhỏ, âm điệu chỉ reo… reo… thôi. Hai tiếng “sột soạt” như tiếng của những tấm áo cánh mỏng, mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đã dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)! Các hình tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác tình ái. Nào thì “gió trêu”; âm thanh “sột soạt”; còn giàn thiên lý lại được ví như “tà áo biếc”… Thành thử, thơ tả thực mà rất sống động.
    Tất cả những hình ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lý và gió… hòa hợp, được khoác lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành “bóng xuân sang”. Sang đoạn thơ thứ hai:
              Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
      “cỏ” gặp gió lượn thành sóng, nghĩa là cỏ mọc đã hơi cao. Ở đây ta liên tưởng tới một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- “xanh rợn” là cỏ mới chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. Còn “sóng cỏ xanh tươi” trong câu thơ HMT : thì màu xanh đã lả lướt để “gợn tới trời ” chứ không ” rợn” như trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời… nhưng miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.
             Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
            - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:
            Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
    Một mảng đời sống dân gian đã tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông: rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy… có kẻ lấy chồng, theo chồng – sẽ không còn sự vô tư, nhàn nhã mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ý nói: “bỏ cuộc chơi”/- Nhưng câu thơ chưa hẳn đã phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong lòng thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót. Bệnh tật đã không cho Ông được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời thanh thái của mùa xuân ấy… như thể đã cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho nhỏ: có một tổ ấm gia đình, vợ chồng hạnh phúc… với Ông, cũng không bao giờ có. Tâm khảm thi nhân dồn vào tình thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:
            Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
    Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:
              Hổn hển như lời của nước mây…
              Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
              Nghe ra ý vị và thơ ngây…
    Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, không phải là nước mây “hổn hển” đâu, chính là lòng thi nhân đang hổn hển!…
    Đến đây tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp, mà HMT đã ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ( dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, NXB Văn học 1992 ) là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy -Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng!
    Về thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire ( 1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập “Những bông hoa ác” nổi tiếng. Ông đã được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng! Baudelaire đã từng định nghĩa trong “Tương ứng”, một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
             Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
                                                           những cột sinh linh
              Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
              Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng
             … Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng.
     Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ…
     Thuyết “Tương ứng trí năng” – Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết “Tương ứng trí năng” của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.
     Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng: “Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire…”! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng “Tương ứng cảm quan” của Baudelaire.
     Trở lại với Mùa Xuân Chín – Những câu thơ: “hổn hển như lời của nước mây”, “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, rồi cả đến câu thơ cuối cùng: “sông trắng nắng chang chang”… đều là những hình ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng này. Thí dụ:
                   Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                   Đợi gió đông về để lả lơi…
    Hay là:
                  Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
                     Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
     Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân: Ngôn ngữ chứa đầy hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta còn thấy một cụm hình ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng “trúc” ở đây, với hình ảnh “lá trúc” trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:
                   Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
     Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ cuối:
               Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                  Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
                 - Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
                 Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
    Sắc điệu “…trắng nắng chang chang?” vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đã mô tả những hình ảnh đó bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa tình cảm bài thơ lên tới tột cùng, không chỉ thuần tuý là bức tranh tả cảnh mùa xuân nữa.
     Cũng đã nhiều nhà bình luận đã bàn về hình ảnh “chị ấy” trong bài thơ là ai? Người thì nói: “chị ấy” là người yêu xưa mà thi nhân nhớ lại? Kẻ lại bảo: Đó là chị ruột của thi nhân?…Tôi nghĩ: Xét về đời sống riêng tư của HMT, những người thân thiết nhất của thi nhân không thể không nhắc đến người mẹ, cùng người chị ruột hiền từ vẫn thường chăm bẵm Ông trong cuộc sống. Như ở bài hồi ký “Nhớ Hàn Mặc Tử” của anh Nguyễn Văn Xê, người đã chăm sóc thi nhân trong thời gian bị bệnh, cho đến khi tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, kể rằng:
     Sau khi Trí (tên thường gọi của nhà thơ) chết chôn được ba ngày, qua ngày hôm sau… mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Qui Hòa. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều mùa đông se se lạnh… Tôi đã chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.
     Phải chăng người “chị ấy” trong thơ của thi nhân chính là chị Lễ! Mùa Xuân Chín chẳng những chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, còn trắc ẩn cả tình làng và đây đó quấn quít đôi chút lòng nhi nữ. Một bài thơ chân quê. Từ biểu tượng của ngôn ngữ, nhạc điệu đến cảnh tình qua cảm xúc… đã dan díu quyện lấy nhau mà tạo nên một bản xô-nát về “khối tình đời” độc đáo và hoàn bích.

© Phạm Ngọc Thái
Mobile: 0168 302 4194

———————–
            Rất nhiều các website trong nước & thế giới đã đăng - Một số tiêu biểu như sau:
http://ttx.vanganh.info/2012/09/chum-bai-tuong-nho-thi-nhan-han-mac-tu.html
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/chumbaituong-nhothi-nhanhan-mac-tu.htm
http://vandanvn.net/vi/news/Cam-nhan-tac-pham/Chum-bai-tuong-nho-thi-nhan-Han-Mac-Tu-cua-Pham-Ngoc-Thai-548/
http://binhtrung.org/D_1-2_2-237_4-4010_15-2/chum-bai-tuong-nho-thi-nhan-han-mac-tu-cua-pham-ngoc-thai.html
http://vannghequangtri.blogspot.com/2012/09/chum-bai-tuong-nho-thi-nhan-han-mac-tu.html
http://vannghecuocsong.com/home/vi/news/Gioi-Thieu-Tac-Pham-Moi/Tuong-niem-Han-Mac-Tu-555/
http://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=2698
http://www.danchimviet.info/archives/65462
http://hung-viet.org/blog1/2012/09/14/chum-bai-tuong-nho-thi-nhan-han-mac-t
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 12:09:33 bởi Nhân văn >
Nhân văn 19.10.2012 23:31:51 (permalink)
           Một nhà giáo cảm xúc bài "Con đường phượng đỏ"
                                          - Thơ Phạm Ngọc Thái
Em mang màu phượng đỏ ra đi...
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.

Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây!

Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!

Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy
Thì đâu còn phượng để anh ru?

Em đã mang màu phượng ấy ra đi...
           Phạm Ngọc Thái
(trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai")

-------------------------------------
     Bài thơ rất đáng yêu, nó gợi lại kỷ niệm về mối tình của nhà thơ với một người sinh nữ đã xa xưa. Tôi hình dung thấy bước chân anh đang lang thang trên cái hè phố nhỏ có hàng phượng vĩ, con đường mà anh vẫn cùng người thiếu nữ năm nào dạo bước bên nhau:
              Em mang màu phượng đỏ ra đi...
                Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ

                Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
                Xác ve còn bám ở thân cây
    Hẳn đó là những ngày tháng tươi đẹp và hạnh phúc của đời anh. Cô sinh nữ kia chắc cũng phải xinh xắn lắm? Nghe anh mô tả, những kỷ niệm êm đềm từ thưở còn con gái trong tôi, dù đã xa xôi cứ dồn về làm nghẹn trái tim. Thế mà cái con đường có em yêu đã bao đêm đi bên anh, giờ đây chỉ còn vương lại những xác ve đã chết khô bám trên những cành phượng cũ, nó cũng cô đơn như chính anh.
     Tuổi trẻ đi qua để lại bao nuối nhớ cùng những kỷ niệm tình. Bởi cái màu hoa phượng đỏ cháy rực trời vào những ngày hè thân thương ấy, giờ đây em đã mang đi mất rồi, chỉ để mình anh trơ trọi ở lại với những nhớ thương? Như ngay bắt đầu vào bài nhà thơ đã mô tả:
                   Em mang màu phượng đỏ ra đi...
     Sang đoan hai tác giả vẫn lan man cảm xúc trên con đường của kỷ niệm tình, nhưng giờ đây:
               Mây lãng du bay trời xanh vô định
                 Những cánh hoa rung trong hoài niệm
     Những đám mây phiêu diêu bay qua con đường trong một bàu trời heo hút, vô vi, gắn với khoảng đời tươi đẹp, hạnh phúc nhất của nhà thơ. Hiu hắt quá!... màu hoa phượng đỏ cũng chỉ còn là màu trong tưởng niệm. Câu thơ ảo mà vẫn khoáy vào lòng người, phải chăng như Chế Lan Viên đã viết:
               Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ
    Bởi cái màu ảo ấy là màu của những nhớ thương, hoài vọng, thiết tha. Mặc dù nhà thơ đang đi trên con đường rất thật để làm bài thơ này, như anh đã viết:
              Con đường phượng đỏ đêm nay...
    Chúng đều là thật cả, từ làn mây đến khoảng trời xanh - song, vào trong cảm xúc của nhà thơ Phạm Ngọc Thái nó trở thành màu của trừu tượng mênh mang, day dứt khôn nguôi:
              Nghe lòng thổn thức đâu đây...
    Trái tim của nhà thơ đang rỉ máu trên con đường ấy. Đến đoạn ba thì như người bừng tỉnh trong giấc mộng và thơ được đẩy lên cao hơn của sự nuối cảm, xa xót:
                Phượng đã cháy lên một thời

                   Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
                   Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
                   Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!
    Đành rằng qui luật của thời gian tất sẽ dẫn đến sự già cả, tàn úa, nhưng ta vẫn thấy chua chát quá! Cứ nghĩ về cảnh nhà thơ viết ở đây thì dường như tất cả đang sụp đổ xuống trái tim yêu. Đôi trai gái trẻ trung, say đắm hồi ấy nay đã biến thành ông, thành bà già cả mất rồi. Có lẽ anh đã khóc khi trở về với cái thực tại hôm nay? Đó là sự chia ly vô cùng, vô tận của cả một kiếp người.
     Đời người có mấy ai là không gặp phải cảnh éo le, nuối tiếc, chia phôi của mối tình đầu? Bài thơ không chỉ làm rung động trái tim của các lứa trẻ, ngay cả những người đã bước vào tuổi hoa niên đọc thơ anh chắc cũng không khỏi xao lòng.
    Đoạn thơ kết:
             Con đường tình đẫm giọt sương rơi
                Gió vẫn xạc xào vi vút thổi...
     Để khắc sâu hơn, nhấn mạnh hơn về sự trống vắng và tha thiết. Dù ta chẳng biết vì lý do gì? Tại sao mối tình của nhà thơ với người con gái ấy bị tan vỡ? Lỗi do ai? Chỉ thấy anh biện hộ với lòng mình rằng:
             Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy
               Thì đâu còn phượng để anh ru?
     Khiếp, nhà thơ Phạm Ngọc Thái ơi! Sao anh tham lam thế? Người ta lấy nhau bây giờ chỉ đẻ có hai đứa, nuôi được chúng nên người cũng đã bở hơi tai rồi, đằng này anh lại đòi những "...sinh năm đẻ bảy" cơ đấy? Nói vậy thôi chứ thơ vẫn là thơ mà. Viết thế nên câu thơ lại thêm phần thi vị và hay nữa. Tất cả sự diễn tả ý nghĩ, hình ảnh... cũng chỉ để hoài tưởng về cái màu phượng vĩ của tình yêu năm xưa, cho đến cuối cùng tác giả trở lại với câu thơ đầu tiên và kết ở đó:
                Em đã mang màu phượng ấy ra đi...
     Chính là tư tưởng của toàn bài để bộc lộ sự nuối nả trước một tình yêu trong sáng, thiết tha thời tuổi trẻ. Bài thơ giàu cảm xúc, ý tình thanh nhã, hình ảnh rất mộng mơ. Bút pháp tuy bình dị nhưng ngôn từ vẫn mang vẻ đẹp mỹ học, cùng với ý nghĩa thi phẩm mà tạo thành bài thơ hay, có thể làm rung cảm trái tim người.
    CÔ GIÁO HOÀNG
     ĐH Sư phạm Hà Nội

—————

     Rất nhiều website, blog trong nước & Hải ngoại đăng - Một số tiêu biểu qua các link sau:

http://www.vanganhonline.com/2012/10/con-uong-phuong-o-tho-pham-ngoc-thai.html
http://thuongyenho.violet.vn/entry/showprint/entry_id/8238139
http://www.diendantrunghochnc.com/phpBB2/viewtopic.php?p=36814
http://chinhphu.tuiban.net/2012/10/quan-lam-bao-co-bi-hack-khong-hay-la.html#2
http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=6371#axzz29oX40KyF
http://nghiathuc.wordpress.com/2012/10/11/mot-nha-giao-cam-xuc-bai-con-duong-phuong-do-tho-pham-ngoc-thai/
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/vn-hc-cuc-sng/3091-cm-xuc-v-bai-th-qcon-ng-phng-q-ca-phm-ngc-thai-co-giao-hoang-
http://vandanvn.net/vi/news/Cam-nhan-tac-pham/Cam-nhan-bai-tho-Con-duong-phuong-do-cua-Pham-Ngoc-Thai-Hoang-Thi-Vui-DH-Su-pham-Ha-Noi-662/
http://trannhuong.com/tin-tuc-13930/-mot-nha-giao-cam-xuc-bai-con-duong-phuong-do---tho-pham-ngoc-thai---.vhtm
http://www.tim1s.vn/ptvietyen/index.php?news=87a18c197c0a5d0c0c01aaa289f86881&ncid=4497&nid=11821&13/10/12
http://www.vannghechunhat.net/tin-van-hoc/ly-luan-phe-binh/10966-.html
http://www.ttgdtxlaocai.net/forum/forum_posts.asp?TID=1934&FID=85&PR=3&PN=31
http://vannghequangtri.blogspot.com/2012/10/mot-nha-giao-cam-xuc-bai-con-uong.html
http://www.nguyennguyenbay.blogspot.com/2012/10/con-uong-phuong-o-tho-pham-ngoc-thai_12.html
http://chauanhdieu.blogspot.com/2012/10/mot-nha-giao-cam-xuc-bai-con-uong.html
http://vannghecuocsong.com/home/vi/news/Bon-Phuong/Binh-tho-Pham-Ngoc-Thai-638/
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/conduongphuongdo.htm
http://www.tintuchangngay.org/2012/10/mot-nha-giao-cam-xuc-bai-con-uong.html
http://diendanctm.blogspot.com/2012/10/con-uong-phuong-o.html
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_14.php
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 12:17:55 bởi Nhân văn >
Nhân văn 16.11.2012 22:13:32 (permalink)
Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc
                                                                                       Nguyễn Đình Chúc
     Qua hai tập thơ đã xuất bản: “Rung động trái tim”, Nxb Thanh niên 2009 & “Hồ Xuân Hương tái lai”, Nxb Văn hoá Thông tin 2012, có thể nói đó là cả một tuyển thơ dầy dặn có tầm vóc của anh. Để minh chứng cho luận điểm trên mà tôi đã nêu ra, trước hết mời Quí vị hãy đọc một số bích phẩm của anh trong bản viết “16 bài thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái” đã được đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới. Mở theo link sau -
            Ở trong nước:
http://datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=32&id=2220
             Hải ngoại:

http://hung-viet.org/blog1/2012/10/25/16-bai-tho-tinh-hay/
     Chưa kể nhiều bài thơ tình khác của anh cũng rất hấp dẫn và súc tích, như: Thành phố mưa rơi, Thời áo trắng, Trước núi Mỹ Nhân, Người con gái sông xưa, một góc hồ Tây, Em về biển, Đêm tóc đá, Trăng lặn, Sáng thu vàng, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ… hay những bài thơ đời sâu sắc: Cô quét lá đêm hồ, Làm ma em vợ, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng…
     Chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tình hay đến thế! Để có thể khái quát được vóc thơ tác giả, lại xin mời hãy tham khảo một trang với tiêu đề: “49 tình thơ sâu sắc của Phạm Ngọc Thái”, qua link:

            http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=764723
    Thi ca Phạm Ngoc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn và ngôn ngữ nghệ thuật, mức độ hay của mỗi bài khác nhau nhưng những tình thi có thể cảm hoá được trái tim những người yêu thơ là rất nhiều.
    Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh đã được hoà trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, mà điển hình là thuyết “tương ứng cảm quan” của nhà thơ tượng trưng bậc thầy Charles Baudelaire (1821-1867) lúc đó chủ xướng. Thí dụ trong bài thơ Người đàn Bà Trắng ở tập “Rung động trái tim”, anh viết:
                   Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
                       Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
                      Đôi mắt em đong những áng mây
                      Người đàn bà trắng!
   Hay là:
           Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu / Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
            Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng / Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau! / Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
            Những đêm sao buồn, những đêm gió khát / Khúc thơ tình anh lại viết về em! / Người đàn bà ngậm cả vầng trăng…
     Như trong lời bình của chính tác giả ở tập Rung Động Trái Tim:
- Mối tình của nhà thơ với NĐBT cũng chỉ là một bi kịch tình. Vết thương trái tim đôi trai gái ấy tháng năm vẫn không hàn gắn lại được, nhưng cái “Con Đường Lông Ngỗng Trắng…” mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp… để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá! Cái hay của khúc triết lý trong bài thơ NĐBT là nó đã được viết như đời.
     Trong tấn bi kịch tình yêu ấy: dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm một định mệnh – Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tai, dù là theo chiều gió cuốn của cuộc đời!… Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết “cuốn theo chiều gió” như bao bi kịch Tình – Đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm tình bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu.
    Hoặc như bài Sáng Thu Vàng, có những đoạn thơ tượng trưng tả về người đàn bà đẹp, hay tới mức điển hình:
                Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha / Đôi mắt em bóng trúc bay xoà…
                  Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở… / Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
     Nghĩa là, đôi mắt nàng huyền diệu mơ màng như bóng trúc phủ và nàng phúc hậu dịu dàng tựa vầng trăng, đến cả mùa thu cũng phải đổ vỡ dưới chân nàng. Hay là:
              Môi em cười, hoa lá nát đau thêm…
     Đến hoa lá còn phải nát đau dưới đôi môi của người đàn bà, thì mới biết nàng đẹp và có sức cám dỗ đến thế nào. Khi anh tả về nỗi cô quạnh vì vắng bóng người yêu:
             Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
                Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi…
                                            (Một góc hồ Tây)
     Hình ảnh chiếc lá vàng rơi đúng vào chỗ ngồi của người con gái năm xưa, nó đằm thắm mà xót xa, gợi về một mối tình đã qua. Cảnh rất đời và chứa chất để tạo thành câu thơ hay. Còn trong bài “Em về biển” thì hình tượng về tình yêu đã đạt đến điểm đỉnh của sự thánh thiện và mang tính triết học:
                Bờ bãi đời người – Cuộc sống tình yêu
                   Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật-tổ!
     Nghĩa là tình yêu đã đưa ta đến cõi nát- bàn. Anh đề cao tình yêu trong chốn dân gian, nơi “bờ bãi đời người…” – xét tưởng khó có thể tìm thấy một biểu tượng tình yêu nào cao hơn thế, để rồi thơ được kết thúc trong nỗi khắc khoải của cuộc đời:
               Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay…
                  Tóc nửa bạc rồi tình vẫn đó, em ơi!
     Hình ảnh đầy xúc cảm đó đưa ý nghĩa của bài thơ viên mãn đến tột điểm.
    Trong bài thơ tình “Hàng cây lá đổ” chỉ bằng hai câu mở đầu đã ôm trọn cả một khoảng không gian, thời gian cùng với nỗi niềm ly biệt của tình yêu:
                 Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió
                    Ta lang thang qua lá đổ hàng cây….
     Hình tượng “chôn chiều vào gió…” nó biểu thị một nỗi tình sâu lắng với bước chân lang thang của người thi sĩ dưới một bàu trời hoang vắng, cô đơn. Ngôn ngữ thi ca có thể đặt ngang những câu thơ hay trong thi đàn.
    Còn bài thơ “Thời áo trắng”, tác giả nhớ về mối tình thuở ban mai. Có lẽ đó là tình yêu của anh trong thời còn sinh viên, vào một đêm trăng nào đó cùng ngồi học bên người bạn gái:
    Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách / Mắt em cười mùa thu xanh lên       

     Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học / Tà áo trắng động vào… khe khẽ nát tim anh!
     Đó là những cảm giác yêu đầu tiên trong cuộc đời. Tâm trạng vừa xao xiết, bồi hồi, trái tim lại như muốn… vỡ tan!
    Tà áo trắng động vào… khe khẽ nát tim anh! /- Là hình ảnh của câu thơ hay, gợi cảm… lắng sâu vào âm hưởng trong đó có thể làm tâm hồn ta run rẩy, để rồi với nỗi lòng khắc khoải, quặn xiết của tác giả muốn níu kéo lại cái thời xa vắng ấy:
               Trả lại cho anh một thời áo trắng
                  Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
     Những âm thanh ta không nghe thấy nhưng nó lại rền xiết trong trí não ta, như bão gió tình yêu của buổi đầu đời. Hầu như bài thơ nào của Phạm Ngọc Thái cũng muốn đẩy tình thơ đến tột cùng.
     Ở bài “Thành phố mưa rơi” – Thành phố mưa thì ít nhưng lòng tác giả lại mưa nhiều hơn, thậm chí còn bão nữa… khi trái tim anh nhớ đến người yêu:
           Gió nhè nhẹ! Em ơi, mưa nhè nhẹ! / Chỉ riêng lòng anh bão không thôi
Cứ để hồn anh trong nước lạnh / Với màu mây hoang trôi đến xa vời…
     Trong “chùm thơ tình mưa” anh còn có cả bài sáng tác vào một đêm… không mưa – Nhà thơ nhớ lại một mối tình “gió mây”, xúc cảm trong lần gặp gỡ cuối cùng trước khi người yêu đi… lấy chồng! Anh viết:
      Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng / Buổi cuối cùng em đến để chia tay
      Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn / Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi?
    Đó là bài “Đêm nay trời lại không mưa” - Dẫu là tình gió mây… nhưng thơ rất trong sáng và tha thiết:
Kìa không mưa mà áo anh lại ướt / Mùa thu đi sao nắm mãi bàn tay?
Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát / Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay…
     Nhưng hay nhất là đoạn thơ cuối, chỉ cần đọc những câu thơ này cũng đã làm ta yêu say thơ Phạm Ngọc Thái rồi:
  Ta lại bước lang thang trên phố ấy / Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi / Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai / Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến… đã chia tay?
     “Chùm thơ tình mưa” là một chùm thơ khá nổi tiếng của anh. Xin giới thiệu lại với bạn đọc cùng với hàng loạt các chùm thơ khác như: Chùm thơ áo trắng, chùm thơ tình mùa thu, Thơ tình sông hồ, Thơ tình thời con gái, Thơ tình viết dưới cây, Tình yêu và đàn bà, Thơ tình trong trăng, Chùm thơ tình biển, Tình chiều hoàng hôn... Hầu như chùm nào của anh cũng có bài thơ hay xuất sắc. Bạn đọc có thể thưởng lãm một số chùm thơ đó qua link sau: http://www.haiphong.net.vn/forum.php?mod=viewthread&tid=23247
     Phần lớn thơ tình của Phạm Ngọc Thái là tình chia ly và tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm xưa. Cũng chẳng rõ với hàng trăm bài thơ tình như thế xuất phát từ bao nhiêu mối tình, với bao nhiêu thiếu nữ hoặc những người đàn bà trẻ?… Chỉ biết là bài thơ tình nào, dù là kí ức về thuở ban mai hay tình buổi hoàng hôn khi nhà thơ đã bước vào buổi hoa niên, cũng thật tha thiết và tiếc nuối. Có lẽ có thể nói thế này:
     Nếu thời tiền chiến ta đã có một Xuân Diệu, thì nay lại có một Phạm Ngọc Thái - Anh có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc, một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc.
     Xin trở lại với một số bài thơ tình hay của anh in trong tập “Hồ Xuân Hương tái lai” vừa mới xuất bản – Nếu ở trong bài Con Đường Phượng Đỏ là bài thơ mà tác giả nhớ về mối tình với một người sinh nữ đã xa xưa, dù chỉ là hoài niệm nhưng vẫn chứa chan tình đời:
Con đường tình đẫm giọt sương rơi / Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy / Thì đâu còn phượng để anh ru?
     Một nữ nhà giáo khi bình bài thơ này của anh, đã viết:
     “Bài thơ rất đáng yêu… Tôi hình dung thấy bước chân anh đang lang thang trên cái hè phố nhỏ có hàng phượng vĩ, con đường mà anh vẫn cùng người thiếu nữ năm nào dạo bước bên nhau:
                 Em mang màu phượng đỏ ra đi…
                    Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
                    Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
                   Xác ve còn bám ở thân cây
     Hẳn đó là những ngày tháng tươi đẹp và hạnh phúc của đời anh. Cô sinh nữ kia chắc cũng phải xinh xắn lắm? Nghe anh mô tả, những kỷ niệm êm đềm từ thưở còn con gái, dù đã xa xôi cứ dồn về làm nghẹn trái tim tôi… “
    Và chị kết luận: “ Bài thơ giàu cảm xúc, ý tình thanh nhã, hình ảnh rất mộng mơ. Bút pháp tuy bình dị nhưng ngôn từ vẫn mang vẻ đẹp mỹ học, cùng với ý nghĩa thi phẩm mà tạo thành bài thơ hay, có thể làm rung cảm trái tim người”.
    Bài thơ Cô Áo Trắng – tác giả còn đi sâu vào tả cả thế giới bên trong thân thể người thiếu nữ mà thơ vẫn không kém phần hoa mỹ:
     Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ / Em bọc trong anh không cần quần áo /
Ôi! Nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo / Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!
    Rồi anh dùng cả thiên nhiên làm hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và đầy sức cám dỗ của nàng:
Anh lại có một cô áo trắng / Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm / Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi…
    Đôi mắt thiếu nữ như một trời thu còn bàu vú thì sinh sôi cả một mùa hoa trái – Cảm xúc trong thơ Phạm Ngọc Thái vẫn đời mà sinh động của thứ ngôn ngữ hình tượng mang màu sắc triết học, như có ma lực có thể làm xao động trái tim người.
     Phạm Ngọc Thái có nhiều bài thơ tình đẹp được viết ở hồ Tây. Hầu như bài nào cũng có một hương sắc riêng hoà trộn giữa cảnh sắc thiên nhiên và dấu ấn của tình yêu vào đó. Như ở bài “Một góc hồ Tây” đã nói trên, anh còn viết:
Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố / Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu /
Trong sân gạch sư già quét lá / Bước người đi thầm lặng cõi hư hao…
Chiều hồ Tây – Chiều Tây hồ lộng gió / Ta và Người cõi mộng khác chi nhau
Ngưòi quên hết! Còn ta yêu tất cả / Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo…
     Cái cảnh chiều lễnh loãng cùng với nỗi lòng chơi vơi, hiu hắt của con người đang bước vào tuổi hoa niên quạnh vắng, bên cây đa gù cùng với bóng nhà sư đang quét lá ở sân chùa… làm cho bài thơ tình chiều phố đầy mùi kinh kệ. Đúng như câu thơ anh đã viết: Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu /- Cũng như chính tâm hồn hư hao của tác giả trong những tiếng lá rơi chầm chậm, buồn buồn…
     Bởi vì anh cùng với gia đình sống ở ngay bên hồ Tây đó, cho nên những sớm hồ lung linh ánh nước và những chiều sóng vỗ… đã gắn bó trái tim nhà thơ với những kỷ niệm yêu thương trong cuộc đời. Một bài khác anh viết:
   Anh ở hồ Tây mênh mông sóng vỗ / Vẫn thấy bóng em trong màu hoa thương nhớ
   Ôi, màu hoa son sắt trái tim em / Cái màu tím buồn của những cuộc ly tan!
                                                (Anh vẫn yêu màu hoa tím buồn)
    Nhưng bài mà tôi muốn nói nhiều hơn ở đây là bài Anh Vẫn Ở Bên Hồ Tây, một bài thơ tình hay của tập “Hồ Xuân Hương tái lai”, tuy hình ảnh thơ rất chân thực nhưng vẫn cô đúc, dường như trên mỗi dòng thơ đều có máu tim của nhà thơ đang rỏ xuống:
     Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại / Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
     Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi / Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi…
    Bài thơ chỉ có 16 câu với 4 khổ thơ, được viết vào lúc cuộc đời tác giả đã về chiều. Cũng là mối tình nhớ lại với một người sinh nữ. Có lẽ lúc đó vết thương tình đã làm cho lòng anh đau nhói, anh viết:
Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt / Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
Nông nỗi đời người để đâu cho hết / Tình thơ ngây… tình sao mãi thơ ngây…
     Và anh đứng bên bờ hồ Tây gió thổi, mây bay… bồi hồi nghe tiếng của lòng mình đang trỗi dậy thưở còn tình yêu tuổi trẻ. Hình tượng thơ khắc họa trong câu cuối cùng: Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi…/- Những làn mây trôi kia không chỉ là cảnh vật thiên nhiên mà nó còn biểu thị cho cả khoảng thời gian đang qua và không gian hoang vắng – Đó chính là thứ ngôn ngữ thi ca rất hàm súc và giàu tính biểu tượng của Phạm Ngọc Thái. Hoặc như câu: Hạnh phúc qua như một cánh chim bay / - Nói lên niềm vui ngắn ngủi, thoảng chốc đã không còn. Khi tả về hình bóng người con gái đã xa xưa nay chỉ còn trong ký ức, anh viết:
            Người con gái anh yêu nay hoá khói sương tan
    Để biểu thị cho sự chìm lấp của thời gian đã trôi vào quá khứ.
    Trong những bài thơ tình hay, có một bài viết về người vợ trẻ vào những ngày tháng anh xa quê sống ở nước ngoài làm kinh tế. Đó là bài:Tiếng Hát Đời Thường – Cũng chính là bài thơ về quê hương. Hình tượng mà người ra đi ở phương trời xa lòng thổn thức nhớ chốn quê. Bài thơ được viết như một truyền thuyết: Trong một phố nghèo có người vợ trẻ / Vẫn đón con đi , về …như thường lệ
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân / Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen
     Những hình ảnh được gợi lên thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát mà thơ vẫn nhuần nhụy dễ thương. Thí dụ như khi anh tả về gia đình:
Ngôi nhà nhỏ bên đền / Gốc đa, quán báo/ Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi / Chiều lá me, lá sấu / Cung thành xưa dấu đại bác còn… (*)
(*) Hình ảnh gợi lại câu chuyện của bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây đã gặp ông Nguyễn Trãi… và những vần thơ đối đáp giữa hai người còn truyền tụng đến ngày nay. Hay là hình ảnh cả cung thành Thăng Long Cửa Bắc của cố đô xưa vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào, thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết.
     Một bức tranh quê, tiết tấu thơ đầy chất trữ tình đem theo những hình ảnh cuộc sống thường ngày xúc động trong kí ức nhà thơ :
Ôi quê hương! / Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội / Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm / Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
     Chính ở nơi ấy, có người vợ trẻ và con anh đang chờ anh trở về. Bài thơ được kết thúc với tiếng lòng thao thiết trong chốn dân giã ở cố hương. Cái “tiếng hát đời thường” của nhà thơ được cất lên là hình ảnh cuộc đời, hiện thực và chắt lọc:
    Con sẻ hót mênh mông đồng nước / Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời…
Anh hát em nghe…
     Nó như khúc dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo. Nhà thơ ví như tiếng của con sẻ mênh mông trên đồng nước… để rồi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Bài thơ hay, cảm xúc chân thực. Có thể nói, máu và nước mắt của nhà thơ đã rơi lên trang giấy khi viết bài thơ này. Anh tả về hình ảnh người vợ ở quê:
                   Ai biết chiều nay người vợ trẻ
                       Đứng mong chồng bên đứa con thơ
                       Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu…
    Để rồi tác giả tự nhắn nhủ với lòng mình và nói với đời, thơ như khúc hát đồng dao:
              Tuyết bạc quê người… xứ sở mưa cau…
                 Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy!
    Phạm Ngọc Thái đã để lại cho đời một tình thơ quê hương súc tích.
   Tôi định viết thêm một mảng thơ đời của anh, như thế thì bài viết sẽ dài. Hơn nữa, ở đây tôi tập trung nêu lên vấn đề “Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc”, cho nên chỉ xin bình thêm một bài thơ nữa của anh, đó là bài Em Bán Xoài - Một bài thơ nói là thơ tình cũng được mà thơ đời cũng được, tác giả viết đầy xúc cảm riêng tư song lại rất sâu sắc trong cõi trần ai, trước thân phận nổi trôi của các cô gái bán xoài mà anh đã gặp bên bờ biển Nha Trang. Những cô gái bán xoài ấy, đó là những kiếp đời cát bụi phải bán cả linh hồn lẫn thần xác mình để sống:
Em bán xoài đi đêm trên cát vắng / Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm / Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh…
      Những đoạn thơ diễn tả vừa đan xen thân phận bọt bèo vừa bao quát cả tính nhân tình thế thái. Ta hãy đọc một đoạn anh viết về em bán xoài đó:
Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách / Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm!… Em bán xoài thơm!…/ Biển to lớn – Bóng em nhỏ thẫm
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi / Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
     Cái thế giới đó chính là chốn nhân quần, xã hội mà các cô gái đang đi, đang sống ở đó. Sao nó thật hãi hùng? Linh hồn của các cô thì vất vưởng ở ngoài thế giới con người, có thể nó vương trên những cành dừa quê hương hay vơ vất trong một đám mây nào đó – Những hình tượng thơ khắc hoạ để nói về nỗi kiếp bọt bèo. Đó cũng chính là những hình tượng cho thân phận thấp hèn chốn dân gian. Hoặc một đoạn khác:
Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng” / Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm, hương toả mát thân người / Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
     Có thể nói “Em bán xoài” là một bài thơ tình khá điển hình về kiếp đời lang thang. Nó vừa trộn hoà tình yêu đồng loại của tác giả trong chốn nhân quần, vừa là cảm xúc của nhà thơ trước một cô gái bán xoài nào đó mà anh gặp gỡ. Thơ vừa thân yêu mà xa xót, từ những hình ảnh hiện thực chuyển sang màu sắc tượng trưng và triết lý, thậm chí có chỗ ngả sang cả thơ siêu thực… như ở đoạn kết anh viết về thân phận của những người con gái đó:
                   Các cô gái đi đêm như các cột đèn
                       Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy…
     Nghĩa là sự tồn tại của các cô gái bán xoài ấy cũng chỉ vật vờ như cát bụi. Đó là những thân phận lạc loài, linh hồn gần như là không có nơi bám víu, sống hôm nay không biết đến ngày mai. Sau đó tác giả trở về với lời ru của anh cùng hàng dừa quê hương quanh các cô gái bán xoài:
                        Biển ru ta và ta ru em
                             Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm…
     Cảm xúc thơ được hoà trong mối giao cảm giữa đất trời và cuộc sống con người, khúc triết mà tạo thành bài thơ hay.
     Chỉ với thơ tình, rồi mai sau Phạm Ngọc Thái cũng phải có cả trăm bài đứng trường cửu được với đời, trong đó có tới vài chục tình thi của anh đạt vào những cung bậc của các tầm thơ hay vô giá. Phạm Ngọc Thái thực sự là một hiện tượng thơ ca hiếm có ở đương đại này.
     Tôi xin dừng bài bình luận của mình ở đây. Mong rằng với thời gian, chân dung và tầm vóc thi ca của anh sẽ được đời đánh giá đầy đủ hơn.
      Quí vị có thể thưởng thức 298 tình thơ với thi phẩm dày 400 trang sách của tác giả – Qua tập “Hồ Xuân Hương tái lai”, Nxb Văn hoá Thông tin 2012 – theo link dưới đây:
http://d3.violet.vn/uploads/resources/508/2697259/preview.sw.


Nguyễn Đình Chúc
Thăng Long, mùa đông năm Nhâm Thìn 2012.
ĐC: Ngõ 44 phố Hào Nam, Hà Nội


Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới - Một số link tiêu biểu sau:

http://datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=52&id=2242
http://www.tintuchangngay.org/2012/11/pham-ngoc-thai-mot-nha-tho-tinh-lon-cua.html
http://binhtrung.org/D_1-2_2-237_4-4943_15-2/pham-ngoc-thai-co-chan-dung-mot-nha-tho-tinh-lon-cua-dan-toc.html
https://nghiathuc.wordpress.com/2012/11/06/pham-ngoc-thai-co-chan-dung-mot-nha-tho-tinh-lon-cua-dan-toc/
http://vandanvn.net/vi/news/Cam-nhan-tac-pham/Pham-Ngoc-Thai-co-chan-dung-mot-nha-tho-tinh-lon-cua-dan-toc-Nguyen-Dinh-Chuc-755/
http://hung-viet.org/blog1/2012/11/07/pham-ngoc-thai-co-chan-dung-mot-nha-tho-tinh-lon-cua-dan-toc/
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/vn-xuoi/3179-phm-ngc-thai-chan-dung-mt-nha-th-tinh-nguyn-inh-chuc
http://vanganh.info/nguyen-dinh-chuc-pham-ngoc-thai-co-chan-dung-mot-nha-tho-tinh-cua-dan-toc/
http://www.vanganhonline.com/2012/11/nguyen-inh-chuc-pham-ngoc-thai-co-chan.html
http://tiengchimviet.blogspot.com/2012/11/nguyen-inh-chuc-pham-ngoc-thai-co-chan.html
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/phamngocthai_cochandungnhathotinhcuadantoc.htm
http://www.vannghechunhat.net/tin-van-hoc/ly-luan-phe-binh/11046-ph%E1%BA%A1m-ng%E1%BB%8Dc-th%C3%A1i-c%C3%B3-ch%C3%A2n-dung-m%E1%BB%99t-nh%C3%A0-th%C6%A1-t%C3%ACnh-l%E1%BB%9Bn-c%E1%BB%A7a-d%C3%A2n-t%E1%BB%99c.html
http://vanthientungqtlh.blogspot.com/2012/06/gioi-ca-pham-ngoc-thai.html
http://thuongyenho.violet.vn/entry/show/entry_id/8238139/cat_id/1603417
http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=7971
http://www.namuctuanbao.net/870/truyenNgan/truyenngan_14.php
http://llpb.datdung.com/2012/12/pham-ngoc-thai-co-chan-dung-mot-nha-tho.html
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19619






<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2013 12:36:07 bởi Nhân văn >
Nhân văn 14.12.2012 22:37:32 (permalink)
.

Trong bài viết về "Cuộc trao đổi thi ca..." - Có một mục, nhà thơ Phạm Ngọc Thái có nói rõ về nguyên tắc thẩm định thơ ca.
Tình hình bình luận thơ hiện nay trên văn đàn cung còn rất lung tung nên xác định chân giá trị của tình thơ không được chuẩn xác. Tôi xin trích riêng phần đó ra đây để bạn đọc suy ngẫm thêm trong quá trình bình thơ ca của mình được tốt hơn.



]NGUYÊN TẮC TRƯỚC HẾT TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ
Phạm Ngọc Thái

Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thơ, nhất đó lại là một bài thơ hay của thi đàn, nguyên tắc trước hết phải có nhận định: Bài thơ đó có khả năng tồn tại hay không? Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung của một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có tồn tại hay không?
Nếu thơ mà đã không thể tồn tại lâu dài được, thì dù đó là loại thơ gì, cũng xin miễn bàn - Bởi vì thơ không tồn tại, suy cho cùng nó cũng chỉ là loại thơ ra rác, trước sau cũng...vứt đi! Nói cho có chút động viên nhau để các nhà thơ đỡ xót xa là, những thứ thơ không tồn tại ấy chỉ mục đích cổ động phong trào hoặc làm công tác văn hoá nhất thời, rồi thì nó sẽ chết. Hay như cách nói của Gớt, tầng tầng bụi phủ...
Vậy thì bàn luận hoặc hội thảo làm gì? vừa vô lý mà lại mất công. Một bài thơ hoặc tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm thì cũng đều sổ toẹt. Không thể coi thi phẩm ấy là một giá trị đối với nền văn học được.

a/. Thí dụ về nhà thơ Hữu Thỉnh: Cơ bản đa phần thơ Hữu Thỉnh là loại thơ không tồn tại, kể cả trường ca. Có chăng chỉ mấy bài kha khá đứng được, nhưng chưa có thể gọi là vững với thời gian. Xin phân tích ít dòng khái quát về mấy bài thơ đạt giá trị hay nhất của ông.
"Thơ viết ở biển" là bài thơ hay nhất, thuộc đỉnh cao nhất của đời thi ca Hữu Thỉnh. Tuy nhiên bài thơ đó cũng mới chỉ thuộc vào loại khá, chứ chưa được là một bài thơ hay toàn bích như: Đây Thôn Vỹ Dạ, Bẽn Lẽn hay Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử; Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan; Hai Sắc Hoa Ti Gôn của TTKH; Tiếng Thu Lưu Trọng Lư; Thu Điếu của Nguyễn Khuyến...

Xin phân tích đôi nét về bài "Thơ viết ở biển"". Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn". Có thể do cảm xúc thơ ở đây nếu dùng hình ảnh "nước", thơ không thuận nên tác giả sử dụng hình ảnh "gió"?... Mặc dù vậy, bởi hình ảnh thơ chưa thật sát nghĩa cho nên phần nào vẫn bị giảm độ hay. Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh, nghe chừng hình tượng ví von này vẫn còn gượng gạo? Tại sao em lại là "chiều" - "chiều" có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ? Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa sâu sắc, cũng chưa ổn! Tuy nhiên, hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu, tạm chấp nhận nhưng chưa thật hay và chưa cao.
Mấy câu thơ đầu thì hay:
Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
Nhưng đến hai câu sau:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này hay! Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt, có thể khen là viết giỏi! Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái - Trong văn học người ta thường ví "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi, v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ HT. Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" - thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em! Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví "anh như biển" còn em..."như cánh buồm". Sự ví von lộn ngược thơ như thế có phần bị gượng ép và khập khiễng, nên hai câu thơ đó tuy chưa hẳn đã hỏng nhưng cũng không thể gọi là hay.
Để cho rõ, xin liên hệ với "Thuyền và biển" là một bài thơ tình hay của Xuân Quỳnh. Trong bài thơ của Xuân Quỳnh, "thuyền" là biểu tượng chỉ về người con trai, còn "biển" là người con gái. Nữ thi sĩ đã viết:
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la...
Hay là:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Biển và thuyền nó cứ quấn quít với nhau như đôi trai gái. Để nói về tính cách của tình yêu, khi thì say đắm... lúc lại giận hờn - Xuân Quỳnh đã diễn tả:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Rồi nhà thơ giải thích:
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?
Hình ảnh thơ đã chứa đựng rất sâu sắc nội tâm bên trong, nó khái quát cả tình cảm, tâm hồn, lý trí và khát vọng:
Chỉ có thuyền mới hiểu / Biển mênh mông nhường nào / Chỉ có biển mới biết / Thuyền đi đâu, về đâu...
Nghĩa là, với hình ảnh thuyền và biển trong suốt bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn đạt mọi chiều của tình yêu đôi trai gái một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, nhưng ngay khi nói về sự xa cách hoặc có thể tan vỡ? Hình ảnh thuyền-biển của Xuân Quỳnh cũng được diễn đạt một cách thấm thía:
Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
Hình ảnh "sóng biển bạc đầu" lại trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái, hay sự rạn vỡ của con thuyền trong cái biển cả tình yêu... lại chính là để nói về sự quặn đau của trái tim người con trai khi phải xa cô gái yêu của mình - Đấy, thơ của Xuân Quỳnh viết tuyệt đến thế! Chính vì vậy "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay của thi đàn, để lưu vào nền văn học và lịch sử thi ca.

Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết của cả hai bài - Trong "Thơ viết ở biển" Hữu Thỉnh kết:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến / Vì sóng đã làm anh / Nghiêng ngả / Vì em...
Cảm xúc viết thơ đến đây của HT bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển nên tác giả mới lấy hình tượng sóng để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
Như phân tích ở đoạn trên, "biển" tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển, tức là "anh" rồi - thành ra nghĩa ở câu này sẽ là: Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???... HT hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tuỳ tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em": Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên chưa viên mãn, bài thơ kết bị đuối.

Ta hãy xét đến đoạn thơ kết trong bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Vẫn là hình tượng "thuyền", "biển" để làm biểu tượng về người con trai và cô gái, nhưng ý tình thơ đã được đẩy lên tới tột cùng:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố...
Nghĩa là, nếu phải chia ly thì cả đôi trai gái trái tim đều đau đớn và cuộc đời sẽ tan vỡ!
Đánh giá về độ hay cũng như tầm vóc thi ca, có thể nói: "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh kém "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh gần một tầm.
Sở dĩ tôi phân tích hơi kỹ một tý, vì đó là bài thơ hay nhất của đời thơ Hữu Thỉnh.
Nhưng đồng thời cũng là để nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?

* Xin nói đôi nét về "Sang thu" - Tuy chưa bằng "Thơ viết ở biển", song Sang Thu cũng là một trong đôi ba bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Đó là một bài thơ mà tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Nhưng:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng của một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự miêu tả đó là khéo và có hương sắc. Nào là:
Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió se
Rồi:
Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu
Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Tức là tác giả mới cảm xúc về một khung cảnh thiên nhiên cùng với những sự vật xung quanh mà miêu tả nó ra mà thôi. Tuy sự miêu tả có gợi cảm nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, tư duy trong chưa sâu. Đọc Sang Thu muốn cảm nhận ra một nỗi đời hay một ý tình trắc ẩn nào đó của nhà thơ hoặc của nhân gian, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay! Lại xin đưa ra vài dẫn chứng cụ thể để minh chứng về một bài thơ hay trong thi đàn.

* Thí dụ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan: Một bài thơ thất ngôn bát cú. Sau 4 câu đầu mô tả cảnh vật xung quanh: nào là cỏ cây hoa lá thì mọc chen trong khe đá, mấy chú tiều dưới núi, thưa thớt vài quán chợ bên sông. Nhưng chỉ bằng hai câu ở giữa bài, cũng vẫn là mượn cảnh vật để mô tả, nhưng đã ôm bọc cả nỗi tình về nước, về nhà... của lòng bà gửi trong đó:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Để rồi cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng đang da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích, cho nên nó mới sống mãi với thời gian và nền văn học của nước nhà.

Lại quay trở về với "sang thu" của Hữu Thỉnh - Tuy tả cảnh có đẹp nhưng nghĩa thơ thì còn quá ít, nó chỉ như một bóng mây có vân sắc bay ngang qua bầu trời thơ mà thôi.
Tuy vậy thi phẩm vẫn được coi là bài thơ miêu tả khá, đứng được... nhưng chưa đủ sự sâu sắc để tạo thành một đài thơ hay như các bài thơ đã kể trên.

* Tôi xin dẫn chứng bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử - cũng chỉ là một bài thơ tả cảnh mùa xuân:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan / Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.
Nhưng tình thơ được phát triển đầy ắp nỗi lòng, tình làng xóm quê hương của người thi sĩ. Cái cảnh mà thi nhân vẽ lên trong buổi sáng mùa xuân ấy hết sức đời và sống động:
Bao cô thôn nữ hát trên đồi / Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Hay là khi tả về tiếng hát:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây...
Không phải chỉ là nước mây hổn hển, mà chính là lòng thi nhân hổn hển... vì xúc động đó! Tất cả dội vào sự thiết tha của người thi sĩ:
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc / Xem ra ý vị và thơ ngây...
Để rồi đến khi kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên da diết một nỗi nhớ thương về làng quê và những người thân? Vì lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn... một nơi biệt lập xa cách với sự sống con người. Cảm xúc ấy được thăng hoa và đẩy đến tột cùng:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
"Chị ấy" là hình ảnh người chị ruột mà trong cuộc sống thường ngày vẫn chăm sóc thi nhân hiện lên bên bờ con sông mộng. Hình ảnh nắng chang chang chẳng những chỉ hiện lên khung cảnh của làng quê chói chang trong ý tưởng thi nhân, mà nó còn đẩy tình thơ đi đến sự viên mãn tột cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc một nỗi tình đời sâu sắc như thế mới được gọi là thơ hay!
Chứ như những câu kết trong "Sang thu" của Hữu Thỉnh:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn chỉ là những câu thơ tả cảnh thuần tuý, hơi hơi cảm... chứ đã có nỗi tình đâu mà viên mãn để được gọi là thơ hay? Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... mà có tiếng, trong văn đàn bài thơ này cũng chỉ bình bình...

* Lại ví dụ như "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình thì hiu hắt, với nỗi cô đơn của người ẩn sĩ... khi ông chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn hương:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...
Nhất là trong hai câu kết:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ta thấy chẳng những hình ảnh thơ chứa cả cuộc sống bên trong rất sống động, thơ như có thần và cuộc đời... một tâm trạng khắc khoải chênh vênh trong cái đêm thu ấy. Sâu sắc vậy nên Thu Điếu mới trở thành bài thơ hay!

* "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" của Hữu Thỉnh - Một bài thơ viết theo kiểu anh hùng ca của một thời, không đủ giá trị để đạt tới là thơ trường cửu đối với nền văn học. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường, Giọng điệu viết từa tựa như kiểu đồng ca, hò vè... chưa có gì thật đặc sắc. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.

* Ở đây tôi không muốn nhắc đến bài thơ "Hỏi" của Hữu Thỉnh - Mà một dạo bài thơ đó cũng đã từng được dư luận tán dương?
Bởi, theo bài viết của tác giả Đại Lãng Du Tử đăng trên vietnamnet.vn rằng: Bài Hỏi của nhà thơ Hữu Thỉnh đã đạo từ bài "Thượng đế đã làm ra mặt trời" của nữ thi sĩ người Đức Christa Reining (sinh 1926), qua bản dịch ra tiếng Việt. Sau đó cả Trần Mạnh Hảo cùng Nguyễn Trong Tạo đã viết bài tố giác trên một số trang internet.
Xin trích lời nhà thơ & bình luận Trần Mạnh Hảo đã được đăng tại website vnthuquan.net vào ngày 21/5/2007, như sau:
"... Qua bằng chứng nêu lên thì chính xác đến không thể chối cãi, bài thơ Hỏi không phải của nhà thơ Hữu Thỉnh mà chính của nữ nhà thơ Christa Reining năm nay đã 80 tuổi, đã từng được giới thiệu trên báo Văn học Nước ngoài từ năm 2002. Bài thơ này đã được nữ thi sĩ Đức viết từ trước năm 1963, năm ông Hữu Thỉnh 19 tuổi chưa từng xuất hiện trên thi đàn? Chuyện động trời này chúng tôi không dám tin là sự thật. Một người mũ cao áo dài, thương hiệu không phải chỉ là của nền văn học Việt Nam, mà còn là thương hiệu của chế độ như ông Chủ tịch HNVVN Hữu Thỉnh, lẽ nào lại đi ăn cắp thơ của người khác làm thơ mình?...".
Còn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì viết:
" ... Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ... những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh "trẻ người non dạ" mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biết nó là giải thật hay giải dổm?...".
Một bài thơ đã đaọ của người khác... thì bàn làm gì cho rợm cả trang viết ?

Như thế là tôi đã nói hết những bài thơ đứng đầu trong những tác phẩm thơ ngắn của Hữu Thỉnh. Ngoài ra ông có viết đôi trường ca. Trường ca đáng nói hơn là "Trường ca biển" mà cùng với tập "Thương lượng với thời gian", ông đã mang ra để chiếm lấy cái giải quốc gia lớn nhất vừa qua, hoặc được ban bệ do chính ông nặn ra tâng bốc để đưa đi lấy cái giải quốc tế chăng nữa? Tôi cam đoan rằng, tất cả trường ca của Hữu Thỉnh không tồn tại được với thời gian. Trường Ca Biển là một tác phẩm viết kiểu ngợi ca của "chủ nghĩa anh hùng cách mạng", cấu tứ còn làm nhàm , viết ào... tầm vóc trung bình, lời nhiều nghĩa ít, lan man... không có khả năng lưu được trong nền văn học nước nhà. Vì là thơ của ông Chủ tịch HNV nên cố đọc để biết, chứ nếu trường ca đó của một nhà thơ khác, chắc chỉ xem nổi một, đôi chương.. rồi cũng sẽ bỏ đi. Rồi đây tôi sẽ viết một bài bình cặn kẽ về "Trường ca biển" này của ông, của một tay viết chuyên nghiệp nhưng... trình độ thường - Để thấy rằng: Tại sao rồi nó cũng chỉ là một trường ca... ra rác!
Theo nhận biết của tôi: mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng HNV hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ, may ra có vài ba tình thơ gì đó đứng lại được trong những năm tháng gần.
Nếu đã không có nổi một tập thơ nào tồn tại đối với nền văn học, thì khi đó không biết nên xếp chân dung Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào đây?
Tôi vẫn đang nhấn mạnh về chủ đề thơ "Tồn tại và không tồn tại"? hay là "Tồn tại đến đâu"?

b/. Nói thêm về một nhân vật đang có tên tuổi của HNVVN đương thời, nhà thơ & bình thơ Vũ Quần Phương - Cũng như Hữu Thỉnh, cơ bản thơ Vũ Quần Phương không có khả năng tồn tại, tôi vẫn thường gọi: đó là những thứ thơ ra rác, hoặc gần 100% như thế. Một người có khả năng cảm nhận được thơ hay, đi tìm trong hàng trăm các bài thơ của Vũ Quần Phương, cũng khó mà tìm nổi một bài thơ thực sự hay của thi đàn để mà bình. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ một tý... "Đợi"!
Bài thơ Đợi chính là đỉnh cao độc nhất chênh vênh của đời thi ca của Vũ Quần Phương. Tôi xin viết lại toàn bộ bài thơ đó:
Anh đứng trên cầu đợi em / Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm / Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy / Nước chảy bên lòng, anh đợi em.
Anh đứng trên cầu nắng hạ / Nắng soi bên ấy lại bên này / Đợi em. Em đến? Em không đến? / Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây!
Anh đứng trên cầu đợi em / Đứng một ngày đất lạ thành quen / Đứng một đời em quen thành lạ / Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Cái hay của bài thơ này là những hình ảnh như: nước chảy, trên cầu đứng đợi, nắng hạ soi rồi nắng tắt anh còn đứng... đều trở thành biểu tượng "chờ đợi của tình yêu"! "Cái nước chảy" suốt ngày đêm ấy để nói về thời gian, "nắng" biểu tượng ở không gian, nhất lại là nắng hạ, nó nói về sự chờ đợi tha thiết, mỏi mòn mà em không thấy tới, rồi tác giả đúc vào trong đoạn thơ kết là hình ảnh của những câu hay nhất bài:
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời em quen thành lạ
Nước chảy... Kìa em, anh đợi em!
Tuy thế bài thơ mới nêu lên được khái niệm về cái sự chờ đợi, chứ nó chưa có nội tâm đời sống, thậm chí chưa có cả tình cảm, tâm lý của sự chờ đợi. Ngay cả với "nhân vật chờ đợi" là nhà thơ ở đây, cũng mới chỉ là một ý tưởng còn cứng nhắc, chưa phải là người bằng da, bằng thịt của VQP. Hay nói một cách hình ảnh, hình tượng bài thơ như một người hàng mẫu bầy trong tủ kính, chứ chưa có sự rung cảm trái tim của một con người đang sống. Bởi vậy bài thơ chưa đạt độ xung mãn để trở thành một bài thơ hay thực sự của thi đàn, như những bài thơ của các thi nhân mà tôi đã dẫn chứng ở trên.
Tuy nhiên "Đợi" đã có dáng của một đài thơ, nhưng đài chưa cao. Mới lại... Vũ Quần Phương cũng chỉ có một độc chiêu như thế, dăm ba bài khác như: Trước biển, Áo đỏ, Thuyền Trương Chi đang trôi, Nói với em, hay Vầng trăng trong chiếc xe bò... chỉ nhâm nhi được tí này, tí nọ, rồi cũng sẽ vào cát bụi cả thôi! Đúng như lời tự hoạ trong một bài thơ ông đã viết:
Anh còn gì cho em...
Dăm câu thơ nhoà nhạt
Sẽ còn đúng hơn nếu ông viết:
Anh còn gì cho em?
Đời thơ anh cát bụi...
Và cũng như cái tên đề mà ông đã đặt cho một tập thơ của mình: "Giấy mênh mông trắng" - Đúng như vậy, dù VQP có viết nhiều, sáng tác nhiều thơ hơn thế nữa, thì chân dung thơ của ông vẫn chỉ là "giấy mênh mông trắng"...
Bởi thơ ông không có khả năng tồn tại với thời gian, để lưu lại cho nền văn học nước nhà! Như vậy, đời thơ Vũ Quần Phương gần như con số "O" tròn trĩnh rồi!... may ra ông có thể lưu lại chút gì đó trong văn đàn, là mảng bình thơ chăng? Mặc dù những bài bình của Vũ Quần Phương cũng chưa thật sự được thuyết phục lắm. Khả năng thẩm định thơ của ông vẫn còn hạn chế, nhất là đối với thơ hiện đại. Tôi xin lấy thí dụ về một bài thơ mà VQP đã bình - Đó là bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử".
Khi bình đến đoạn thơ thứ hai của bài:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Nhà bình thơ VQP nhận xét:
" Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở "...
Hay là: "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau..." - Rồi nhà bình thơ cho rằng:
" chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm " - Cảm nhận thơ như thế chưa đúng, tức là chưa hiểu hết về thơ HMT?
HMT là một thi nhân viết thơ theo tư duy của nội tâm. Xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy, còn ý tứ thường được diễn tả khá mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng mà diễn đạt nỗi tình thơ...
Đây Thôn Vỹ Dạ là bài thơ mà thi nhân viết về tình yêu đơn phương của ông đối với nàng Hoàng Cúc. Huống chi giờ đây do bị bệnh tật hiểm nghèo, thi nhân phải đi điều trị ở Gành Ráng, một nơi cách biệt với cuộc sống con người. Mối tình ấy càng trở nên xa cách:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Cũng có nghĩa: Anh theo đường anh, em đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi... /- Cái hình ảnh dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay phật phờ bên sông kia, nó cũng để chỉ một tâm trạng buồn tẻ, cô đơn của thi nhân. Còn về hình ảnh con thuyền ở trên bến sông trăng, dù là cảnh mơ, ảo... trong sự hoài tưởng về chốn cũ, người xưa... thì cũng là cảm xúc đã được thăng hoa. Vậy thì toàn bộ bài thơ hoàn toàn từ đoạn một tới đoạn ba, ý tình vẫn được nối với nhau, liên kết rất chặt chẽ - Đoạn thơ hai chính hình ảnh nói về duyên phận của hai người, là sự liên kết ở thế giới bên trong thơ, chứ không phải "đầu Ngô mình Sở" như VQP nhận xét. Hình tượng về gió và mây, đến dòng nước và bông hoa bắp lay...của hai câu thơ này sâu sắc, cũng hay không kém gì những câu thơ kiệt xuất trong bài thơ "Bẽn lẽn" nổi tiếng của Ông:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...

Tôi lại xin liên hệ với bài "Qua đèo Ngang" của BHTQ - Bốn câu đầu của bài thơ, Bà Huyện chỉ tả về quang cảnh của đèo Ngang như đã nói trên - Nhưng đến hai câu 5-6:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia...
Thì hình ảnh con chim cuốc và cái gia gia... là để nói về cái nỗi nước, tình nhà của bà. Bởi theo truyền kể, Bà Huyện không phải chỉ là người đàn bà đảm đang việc gia đình, chăm lo đến chồng con, mà Bà vẫn thường giúp Ông Huyện xử nhiều vụ kiện chốn công đường, rất quan tâm tới việc nước - Nhưng đến hai câu sau thì tứ thơ lại quay trở về thực tại ngay:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cũng rất giống với trình tự lập tứ như trong bài Đây Thôn Vỹ Dạ - Đoạn thơ cuối HMT trở lại với thực tại... tự thán về mình:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vậy cứ theo như cách biện luận của VQP thì bài thơ Qua Đèo Ngang này cũng đầu Ngô mình Sở à? Mặc dù bài thơ của BHTQ theo dòng thơ cổ phương Đông, còn bài thơ của HMT là thơ hiện đại, ảnh hưởng sâu sắc trường phái thơ tượng trưng của châu Âu.
Tôi đã xem khá nhiều những bài bình thơ hiện đại của Vũ Quần Phương, Ông hay sử dụng các tiểu xảo về ngôn từ, cách cú... có tính chất bày vẽ phô diễn, nhưng lời bình phẩm lại chưa thấu tình, đạt ý, nên những tiểu luận phê bình thi ca của ông tồn tại được với nền văn học mai sau chắc cũng không nhiều.
Tôi vẫn đang nói về ý nghĩa cũng rất quyết định đối với một bài thơ, hay một tác phẩm văn học nói chung là "Tồn tại hay không tồn tại"? và "Tồn tại đến đâu"?




<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2012 22:45:09 bởi Nhân văn >
Nhân văn 12.01.2013 22:27:54 (permalink)
Bài viết đã được tác giả sửa lại đồng thời loan tải trên nhiều website trong nước & thế giới


TẬP THƠ "ĐÔI HỒN" VÀ MỘT THIÊN DIỄM TÌNH
Phạm Ngọc Thái

Tập thơ "Đôi hồn" là sản phẩm thi ca của một mối tình đã được thăng hoa giữa thi nhân Hàn Mặc Tử (HMT) cùng nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình (MĐ), mối tình ấy diễn ra cũng như thơ của cả hai người đều đã được viết từ trước đây hơn nửa thế kỷ.
Bây giờ ở trên đỉnh cao Gành Ráng, Qui Nhơn bên bờ biển Đông, mộ của thi nhân HMT quanh năm sóng phủ. Thơ của Người đang được nhân gian truyền tụng như những vì sao sa sáng láng. Đúng như lúc đương thời Người viết:


Với sao sương, anh nằm chết như trăng


Nhưng khi còn trong cõi sống, Người đã phải chịu bao nhiêu khổ hạnh vì bệnh tật. Tạo hoá đã cướp đi một tài hoa lúc đương độ rực rỡ, khi cuộc đời Ông mới chỉ vừa 28 tuổi. Ngẫm thế: kiếp người có khác gì kiếp nợ! Phải chăng muốn hoá siêu nhân... thì trước hết con người phải chịu đựng những sự đầy đoạ ở phàm trần? Nhưng thế giới sinh linh này cũng thật huyền diệu và bí ẩn, chính thiên diễm tình ấy lại nẩy nở trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cuộc sống. Khi mà thi nhân lâm vào căn bệnh phong ác nghiệt, thì nàng Mộng Cầm (người con gái quê Phan Thiết đã từng một thời yêu thi nhân) lại bỏ đi lấy chồng... đẩy thi nhân thêm vào cảnh đau đớn, cô đơn.

Trời đất đã cho một ái nữ khác đến với Người. Theo như lời kể của Đắc Trung (trên báo Phụ nữ Việt Nam số 28 ra ngày 11-1-1994 ), thì ái nữ ấy:
"Xuất thân trong một gia đình quan lại quê Nông Cống, Thanh Hoá. Thân phụ nhận chức tại Phan Thiết, mười sáu tuổi sống bên cha, sau này vào ở Sàigòn. Cô thiếu nữ ngây thơ xinh đẹp, rất được cưng chiều...)
Chính là nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình. Nàng lại còn thông tuệ về văn thơ cùng với Người để tạo nên một thiên bi tình khả ái, với tập thơ "Đôi hồn" lai láng yêu đương. Tập thơ ấy được thi nhân cùng người nữ sỹ giao lưu trong mối tơ duyên và viết suốt ba năm (1937-1940): gồm 54 bài (kể cả hơn chục bài thơ mà bà Mai Đình viết sau này, khi HMT đã qua đời ngày 11-11-1940).

Đến nay năm tháng trôi qua, cuộc đời riêng chung biết bao biến đổi, nhưng lòng người nữ sỹ vẫn:

Nói sao cho xiết nỗi buồn?
Một trời binh lửa, một hồn cô liêu.
Hồn tôi theo đám mây chiều,
Tìm chàng trong một túp lều tranh con.
( Âm thầm - MĐ )


Đó chính là cái túp lều tranh ở Gò Bồi trên một khu cát rộng phía Tây thành phố Qui Nhơn. Cách đây trên nửa thế kỷ (1939) người nữ sỹ đã đến thăm thi nhân khi ông mắc bệnh hiểm nghèo, phải sống lẩn tránh cả chính quyền địa phương. Vì bệnh lây nên chính quyền buộc gia đình phải đưa HMT vào bệnh viện "cùi" Qui Hoà để chữa bệnh và ẩn náu, cách biệt tất cả mọi người. Đó cũng là lần đầu tiên Nàng mới gặp mặt người yêu, vì trước đó đôi năm tình yêu của hai người chỉ trao đổi qua các áng thơ, như Nàng kể lại:
- Đến trước túp lều tranh xơ xác, xiêu vẹo... vén tấm mành che cửa... một người đàn ông nhỏ bé, gầy yếu, ngồi trên chiếc giường chõng, cạnh bàn viết. Bàn là một tấm gỗ thùng đặt trên khung chân cũ. Người đàn ông ngước đôi mắt đen sáng long lanh nhìn tôi dò hỏi. Tôi đứng lặng đi. Hàn Mặc Tử đấy ư? ...

Nàng tả về đôi mắt trong sáng như hai ngôi sao của thi nhân, tấm thân thì ốm yếu tàn tạ, nhưng thông minh và cám dỗ. Vâng, nàng đã yêu trong hoàn cảnh ấy:


Em theo mây gió anh ơi,
Em đi đi mãi vào nơi vô hình...
Yêu anh trên bước phiêu linh,
Để lòng bớt khổ, để tình bớt đau.
( Biệt ly - MĐ )


Mặc dù chỉ là một nữ nhi khuê các nhưng sức mạnh tình yêu của nàng không gì ngăn cản nổi, hoàn cảnh càng khắc nghiệt thì tình nàng càng đằm thắm, thiết tha:


Yêu anh trong lúc anh lâm chung,
Mới thấy tình em yêu lạ lùng.
( Anh hứa đi anh - MĐ )


Vượt lên trên tất cả sự chỉ trích của người đời:

Kịp nghĩ miệng đời hay mỉa mai,
Tảng lờ ngừng bước và im hơi,
Mộng hồn em gửi theo chiều gió
Để được gần anh ngỏ ít lời.
( Biết anh - MĐ )

Ta cảm thấy rợn tóc gáy, không thể không khâm phục ý chí quyết liệt trước lời tuyên bố của nàng:

Tôi chẳng sợ cảnh nghèo hèn đói khổ,
Tôi không kiêng thứ da thịt khác người
(vì HMT mắc bệnh hủi)
Vì lòng tôi, tôi chỉ biết yêu thôi !...
(Tuyên bố - MĐ)


Hoàn cảnh bi ai, sầu thảm thế nhưng tình nàng không chỉ đằm đìa mà còn trong sáng, mộng mơ một cách lạ kỳ:
Yêu anh chết nửa cõi lòng,
Gửi hồn bay bổng mấy tầng mây xanh.
(Tơ sầu - MĐ)


Còn thi nhân HMT, người yêu của nàng cũng mộng mơ không kém:
Dưới túp lều tranh, trên chõng tre,
Tứ bề cửa khép với phên che,
Kéo mền ủ kín toàn thân lại,
Để thả hồn bay gửi mộng về.
(Hãy đón hồn anh - HMT)


Cảnh ngộ thì khổ sở, nghèo hèn nhưng tâm hồn họ thật thanh tao, hoành tráng biết bao. Đúng là: "Một túp lều tranh, hai trái tim vàng"! Mai Đình đáp lại:
Bây giờ em đã bên anh
Đói nghèo em chịu, rách lành cũng vui.
(Em vẫn bên anh - MĐ)


Tuy vậy, nhưng nào họ có được ở bên nhau! Chỉ thăm người yêu ít ngày rồi nữ sỹ lại phải chia tay về gia đình tận Sàigòn. Hàn Mặc Tử với bệnh tình đành nằm lại trong túp lều tranh ở Qui Nhơn, người phương Bắc kẻ phía Nam. Hoàn cảnh đã khắc nghiệt mà không gian ly biệt thì xa vời, nhớ nhau cũng chỉ biết:
Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười.
(Lưu luyến - HMT)


Nhưng theo dõi hồn thơ ta có cảm nhận như đang gặp một cuộc tình duyên nơi chốn cung động thiên thai nào đó, chứ không phải ở trần tục đời thường. Thi nhân viết:
Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt.
Hay là:
Quí như vàng, trọng như ngọc trên đời
Mai! Mai! Mai! Là Nguyệt Nga tái thế...
(Thắm thiết - HMT)


Nàng thì ví mình như Ngọc Nữ còn chàng là Kim Lang: vì để rơi chén vàng cho nên Ngọc Hoàng đẩy xuống trần thế, mặc dù nay đã hết hạn họ vẫn quyết ở lại bên nhau không về tiên giới:
Ta đã ở bên chàng nơi cõi tục,
Quyết không về điện ngọc sống cô đơn!


Để rồi:
Bốn bàn tay cùng chung xây hạnh phúc,
Túp lều tranh hơn cõi thiên đường.
(Hạnh phúc - MĐ)


Và tình yêu ấy đã đạt đến độ say đắm, giông bão khôn cùng:
Tôi ôm nàng, muốn cắn chết nàng đi!
(Thắm thiết - HMT)

Nữ sỹ Mai Đình kể lại khi họ gặp nhau:
- Vì sợ lây bệnh cho người yêu, nên Hàn Mặc Tử không dám đụng vào người Mai Đình...
Nàng nói:
- Những phút ấy mặt Hàn Mặc Tử đỏ rần lên rồi tím đi, còn Mai Đình cũng chết cả ruột gan không biết phải xử trí làm sao?


Thật là đau khổ và hy vọng:
Anh lành anh sẽ tặng em chi ?
Tặng cả đời anh cả hồn thi,
Với tất những gì anh ước vọng,
Cả hồn, cả xác, cả tình si.
(Anh hứa đi anh - MĐ)


Nhưng cũng như tình thường của bao đôi trai gái khác, tình yêu không chỉ có quấn quít "đôi hồn" mà cũng có lúc ghen tuông:
Em muốn thu anh thành vật nhỏ
Để em nắm kín ở trong tay...
Cho các cô nường hết ngất ngây.
(Ghen - MĐ)


Trong bài "ghen với Mộng Cầm" ta còn nhận thấy mặc dù Mộng Cầm là người con gái đã đến trước, được hưởng đầy đủ khoái lạc của tình yêu lúc thi nhân đang lành lặn, mà lại ruồng bỏ khi Người lâm bệnh. Nhưng với tư cách của Mai Đình vẫn tỏ ra là người tao nhã, trang trọng: ghen đấy mà không phỉ báng còn cảm thông với lẽ đời thường của một tấm lòng nhân hậu, khoan dung độ lượng:
Mộng Cầm hỡi, nàng là tiên rớt xuống,
Hay là vì tinh tú giáng trần gian?
Diễm phúc thay, sung sướng biết bao vàn,
Đầy đủ quá, nàng thương chăng kẻ thiếu?
(Ghen với Mộng Cầm - MĐ)


Đã bộc lộ tình cảm day dứt của một người con gái tha thiết yêu mà tâm sinh lý không được thoả mãn. Hàn Mặc Tử có lúc cũng không ra khỏi sự nghi kỵ, dằn vặt đời thường. Có lúc ông nghi oan người yêu có tình ý với người khác, buông ra những lời thơ hờn giận:
Mai tiên nữ! Đọc hồn ta cho rõ:
Đau không rên, chết cũng mặc mình thôi!
Mối tình si đã lỡ vỡ tan rồi,
Ta chỉ biết lặng nhìn thiên hạ khóc...


Hay là:
Tim hồn ta quằn quại giữa lầm than
Để trở lại những ngày đầy huyết lệ!
(Thầm lặng - HMT)


Sự mặc cảm đó cũng dễ hiểu: bản thân ông bệnh tật, người yêu thì trẻ đẹp lại ở cách xa...
Hôm nay trong lẽ sống thường tình trước mọi sự đổi thay, thăng trầm nhân thế... ta thưởng thức những tri âm, tri kỷ ấy càng thấy thiên tình duyên trác tuyệt này như một sự lạ cõi đời. Trong thời buổi kinh tế thị trường chi phối cả trong tình yêu trai gái và những mối quan hệ xã hội khác, thì cuộc tình xưa hẳn như một đài thơ diễm lệ, cho ta ngưỡng mộ và cảm phục!
Có phải chăng duyên ấy, phận này cũng đã là tiền định như khi nữ sỹ khóc bên mộ Người vào tháng 4-1941 (khoảng nửa năm sau khi thi nhân tạ thế):


Em đã về đây bên mồ cát trắng
Túp lều tranh muôn thưở đã chung đôi
Tự nghìn năm thượng đế định cho rồi...
(Em đã về đây - MĐ)


Hay cảm vì phận mỏng, tình dở dang, nàng than:
Anh ơi, xin hãy chờ em với!
Hết nợ rồi em sẽ trở về.
(Chắp lại đôi hồn - MĐ)


Ta chạnh nhớ tới câu thơ của cụ Nguyễn Du khi nàng Kiều than ở sông Tiền Đường:
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!

Về thơ của thi nhân HMT thì chúng ta đã biết nhiều. Ở đây, qua tập thơ đôi hồn" còn cho chúng ta thưởng thức tài hoa của nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình... như Kiều Văn đã nhận xét trong lời giới thiệu tập thơ:
- Đó là một giọng thơ giản dị, chân thực mà sâu sắc, nồng nàn... Là thứ thơ huyết lệ. Hàm chứa những tình cảm cao quí thiêng liêng, thuỷ chung...Xứng đáng là tiền bối của thơ tình Xuân Quỳnh và các nữ sỹ khác sau này.
Nói thế có lẽ vẫn chưa đủ, bút pháp thơ của nữ sỹ Mai Đình có lúc quặn thắt, đau đớn như Nàng viết:
Nguyện để tang anh suốt một đời!


Nhưng trước tình yêu non sông đất nước, ta lại còn chứng nhận một phong cách cũng thật hào khí:
Chút nợ ân tình trả chưa xong
Đành mang tâm sự mãi bên lòng
Sắt son đã chẳng cùng nhau trọn
Em phải đem mình gửi núi sông.
(Trăng cũ - MĐ)


Gợi ta nhớ tơi âm hưởng những câu thơ đầy hùng khí, trác tuyệt của nữ sỹ Ngân Giang trong bài "Trưng nữ vương":
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi,
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá!
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.



Vào năm 1996 - Báo chí đã đưa tin về nữ sỹ Mai Đình... khi đó Bà bước vào tuổi thọ 80, Bà đã đến Gành Ráng, Qui Nhơn một lần nữa để thăm lại mộ của cố nhân. Một lần nữa, những giòng lệ xót thương lại chảy tràn trên đôi mắt Bà như thưở còn con gái, như câu thơ Bà đã viết:
Tóc trắng, tình xanh mộng chửa tàn.
Khi đó tuy tuổi đã già, cũng theo lời kể của Đắc Trung:
- Nữ sỹ Mai Đình vẫn giữ được những nét đẹp kiêu sa, quí phái. Mái tóc dài bạc trắng chải rất mượt, búi rất gọn. Da hồng, mắt sáng, miệng tươi. Giọng nói nhỏ nhẹ mà đầy âm hưởng. Khăn hoa áo lụa hảo hạng...
Để kết thúc bài viết về thiên tình ca trác tuyệt có một không hai này, tôi xin trích dẫn những lời thơ trăng trối của thi nhân Hàn Mặc Tử viết để lại cho người yêu. Đấy cũng là những bút tích cuối cùng, trong thi phẩm cuối cùng của Ông lưu lại cõi trần gian - Người đã "Trút linh hồn" trước lúc đi xa:

Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây,
- Còn em, sao chẳng hay chi cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày!



Phạm Ngọc Thái
(Đã đăng trên báo Người Hà Nội)

Đăng tải trên nhiêù website như sau:


http://www.banvannghe.com/D_1-2_2-94_4-2871/
http://duongnguyen.vnweblogs.com/post/12642/399415
http://trangvhntnguoncoi.wordpress.com/
http://vandanvn.net/vi/news/Cam-nhan-tac-pham/Tap-tho-Doi-Hon-va-Mot-Thien-Diem-Tinh-Pham-Ngoc-Thai-1022/
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/vn-hc-cuc-sng/3410-tp-th-qoi-hnq-va-mt-thien-dim-tinh-phm-ngc-thai
http://www.vannghechunhat.net/tin-van-hoc/ly-luan-phe-binh/11158-tap-tho-doi-hon-va-mot-thien-diem-tinh.html
http://llpb.datdung.com/2013/01/tap-tho-oi-hon-va-mot-thien-diem-tinh.html
http://vannghequangtri.blogspot.com/2013/01/tap-tho-oi-hon-va-mot-thien-diem-tinh.html
http://binhtrung.org/D_1-2_2-204_4-7085/tap-tho-doi-hon-va-mot-thien-diem-tinh.html
http://vannghecuocsong.com/home/vi/news/Nghien-Cuu-Ly-Luan-Phe-Binh/Tap-tho-Doi-hon-mot-thien-diem-tinh-757/
http://vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19734
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19734
http://www.diendantrunghochnc.com/phpBB2/viewtopic.php?t=737&postdays=0&postorder=asc&start=2480&sid=a8b28a517d01977f4ae22f9b823f8d21
http://vanthoviet.com/news/n/499/692/tap-tho-doi-hon-mot-thien-diem-tinh.html?l=vn
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=84&sub=&id=Wjd4MDcwODY4YWE4eFpaNlQ3WlE=
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/pham-ngoc-thai_doi-hon-va-mot-thien-diem-tinh.htm





<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.01.2013 11:20:30 bởi Nhân văn >
Nhân văn 11.02.2013 10:10:26 (permalink)

Cảm nhân một bài thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái
                                                                Hoàng Thị Thảo



       ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY
 
Tình để lại vết thương không lành được
Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan.

Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt
Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
Nông nỗi đời người để đâu cho hết
Tình thơ ngây... tình sao mãi thơ ngây…

Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm
Đôi mắt từ xa đã nhận ra người
Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm
Giờ ở đâu, người con gái xa xôi?

Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...

                 2012 - trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai"
                         
Phạm Ngọc Thái

 
LỜI BÌNH:   "Anh vẫn ở bên hồ Tây" là bản tình ca viết về mối tình của nhà thơ với một cô nữ sinh sư phạm, dù mối tình đó đã trở thành dĩ vãng:
Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm
Đôi mắt từ xa đã nhận ra người
Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm
Người ta thường nói tình yêu có giác quan thứ sáu, bởi vậy nhìn thấy hình bóng người yêu từ xa đã nhận đã nhận ra ngay cũng là điều dễ hiểu. Thế mà:
Giờ ở đâu, người con gái xa xôi?
Anh thổn thức vọng gọi em xưa trong nỗi vắng, cô đơn! Tôi đã đọc nhiều thơ Phạm Ngọc Thái, không ít bài anh đã nhắc đến hình ảnh người nữ sinh này, bài nào cũng da diết, nhớ thương. Liệu đây có phải cũng chính là cô sinh nữ trường Sư phạm Ngoại ngữ trong bài thơ Em Về Biển của tập "Rung động trái tim"?... mà ở tựa đề
của bài anh có ghi:
- Kỉ niệm K.A. người sinh nữ trường SPNN năm xưa, quê hương thành phố biển.
Em Về Biển cũng là một bài thơ tình sâu sắc và khá hay. Ở bài đó có một đoạn tác giả cũng nhắc đến việc đón người yêu bên cổng trường:
Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây, em hỡi! Anh còn đây
Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...
Nhưng Em Về Biển anh đã viết từ năm 1993, khi mái tóc mới bạc nửa phần (như lời thơ) - Còn bài "Anh vẫn ở bên hồ Tây" này thì tác giả lại vừa sáng tác trong năm 2012, khi đã qua cái tuổi lục tuần. Sau gần 20 năm, chắc nay tóc nhà thơ đã phải bạc gần hết rồi? Thế mới biết tâm hồn thi nhân trẻ mãi không già.
Hồ Tây chẳng phải chỉ là nơi nhà thơ sinh sống, ở đó còn ghi nhận bao nhiêu kỉ niệm tình yêu của đời anh. Mỗi khi qua lại bên hồ, không tránh khỏi những giây phút tác giả chạnh nhớ về tình cũ lòng xa xót. Bởi vậy vừa mới vào thơ anh đã thốt lên:
Tình để lại vết thương không lành được
Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
Và hình ảnh người con gái lại hiện về làm xao động trái tim anh:
Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan
Hình ảnh "hoá khói sương tan" đó chính là một biểu tượng về cát bụi cuộc đời. Tình yêu thiêng liêng vậy, hình ảnh cô sinh nữ cũng hiền dịu và anh tha thiết đến thế, vậy mà giờ đây tất cả chỉ còn là sương khói. Ngôn ngữ thi ca của Phạm Ngọc Thái sử dụng thuộc loại ngôn ngữ hình tượng hội hoạ, tuy bình dị nhưng vẫn thanh thoát và hàm súc.
"Anh vẫn ở bên hồ Tây" là một bài thơ tình cảm động. Vết thương tình dẫu chỉ là vô hình, nhưng nó lại có thể khoét sâu vào trái tim, tâm hồn làm cho nhà thơ đau đớn như không bao giờ lành lại được. Lòng anh lưu luyến cả một thời tuổi trẻ đã qua đi. Sang đoạn thứ hai, tình thơ càng được khắc sâu hơn về tình yêu:
Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt
Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
Nông nỗi đời người để đâu cho hết
Tình thơ ngây... tình sao mãi thơ ngây…
Tôi nghĩ, người con gái kia khi nghe được những lời thơ này của anh chắc phải xúc động lắm! Nhà thơ đã trải nghiệm qua gần trọn một đời mình nên cái "nông nỗi đời người" - ở đây ý muốn nói về những mất mát trong tình yêu cũng như cuộc sống con người, càng thấy quí những hạnh phúc đã trôi đi. Cô gái ấy giờ đây đâu còn trẻ? nhưng trong kí ức nhà thơ, em vẫn trong trắng tươi mát như thuở nữ sinh - Câu thơ "Tình thơ ngây... tình sao mãi thơ ngây" là vậy. Trong tình yêu có biết bao sự ly tan chẳng ra đâu vào đâu, có khi cả hai người cùng yêu tha thiết với nhau suốt đời, ấy vậy mà cũng tan vỡ. Chính thế nên vào đoạn thơ thứ hai này lòng tác giả mới thổn thức: Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt/- Nghĩa là những năm tháng yêu em là thời gian hạnh phúc của đời anh. Đó là sự luyến tiếc cuộc sống và tình yêu tuổi trẻ, ngỡ đã vụt trôi như một cánh chim bay...
Sau đó tác giả có nhắc lại về những buổi đón em bên cổng trường như đã nói ở trên, để cuối cùng anh kết:
Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...
Hình ảnh gió hồ Tây thổi cùng những làn mây trôi... là biểu tượng những tháng năm tiếp nối và cuộc sống heo hút của nhà thơ. Đó là hai câu thơ hay nhất bài, lời thơ sinh động đầy hàm ý. Nhờ hai câu kết này mà bài thơ được viên mãn và tầm vóc hay lên, để nói tình yêu cuộc đời vừa cát bụi vừa mãi mãi...
Như lời Nguyễn Đình Chúc trong một bài bình luận về chân dung thơ Phạm Ngọc Thái, khi nói về tình thơ này đã có nhận xét:
- "Anh vẫn ở bên hồ Tây" là một bài thơ tình hay của tập Hồ Xuân Hương Tái Lai, hình ảnh thơ rất chân thực nhưng vẫn cô đúc, dường như trên mỗi dòng thơ đều có máu tim của nhà thơ đang rỏ xuống...
Rồi nhà bình luận khái quát:
- Bài thơ chỉ có 16 câu với 4 khổ thơ, được viết vào lúc cuộc đời tác giả đã về chiều khi nhớ lại mối tình với một người sinh nữ.
Đứng bên bờ hồ Tây gió thổi, mây bay... tác giả bồi hồi nghe tiếng của lòng mình đang trỗi dậy thưở còn tình yêu tuổi trẻ. Hình tượng thơ khắc họa trong câu cuối cùng: Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi.../- ý nói, những làn mây trôi kia không chỉ là cảnh vật thiên nhiên hoang vu mà nó còn biểu thị cho cả khoảng thời gian trôi. Như câu: Hạnh phúc qua như một cánh chim bay/- Nói lên niềm vui ngắn ngủi, thoảng chốc đã không còn. Hoặc khi tả về hình bóng người con gái xa xưa nay chỉ còn trong ký ức, anh viết:
Người con gái anh yêu nay hoá khói sương tan
Để biểu thị cho sự chìm lấp của thời gian đã trôi vào quá khứ" - Đó chính là thứ ngôn ngữ thi ca rất hàm súc và giàu tính biểu tượng.
Theo cảm nhận của tôi: "Anh vẫn ở bên hồ Tây" là một bài thơ tình vô giá của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Chẳng những bài thơ cảm hoá được sâu xa lòng người, đồng thời còn có khả năng tồn tại với đời. Rất có thể thi phẩm sẽ trở thành một viên ngọc thi ca của văn đàn hôm nay và mai sau!

        Hoàng Thị Thảo
hoangthao059@gmail.com
 
                   Đăng trên nhiều các website & blog khắp toàn cầu:

http://www.bichkhe.org/ho...cat_id=147&id=2938
http://llpb.datdung.com/2...tinh-hay-cua-pham.html
http://vannghesongcuulong...on=detail&id=19891
http://violet.vn/nhocbql/...8922058/cat_id/2479769
http://chauanhdieu.blogsp...tinh-hay-cua-pham.html
http://www.tiengchimviet....tinh-hay-cua-pham.html
http://vanthientungqtlh.b...tho-cua-pham-ngoc.html
http://taolaonews.blogspo...tinh-hay-cua-pham.html
http://thietlasam.blogspo...tinh-hay-cua-pham.html
http://www.diendantrungho...a246fe770b5861652d3bcf
http://www.thuviengiadinh...hay-cua-pham-ngoc-thai
http://www.chinhluanvn.co...-van-o-ben-ho-tay.html
http://4phuong.net/ebook/...ua-pham-ngoc-thai.html
http://www.truclamyentu.i...cua-pham-ngoc-thai.htm
  http://diendanctm.blogspo...-van-o-ben-ho-tay.html
  http://phamdinhtructhu.bl...tinh-hay-cua-pham.html
  http://vannghequangtri.bl...-nhan-mot-bai-tho.html
  https://nghiathuc.wordpre...ai-cua-hoang-thi-thao/
http://www.vannghechunhat...ua-pham-ngoc-thai.html
http://www.namviet.net/fo...&p=51054#post51054
http://vandanvn.net/vi/ne...t-Hoang-Thi-Thao-1243/
http://groups.yahoo.com/n...ersations/topics/53629
http://nguyenduyxuan.net/...h-hay-ca-phm-ngc-thai-
http://binhtrung.org/D_1-...ua-pham-ngoc-thai.html
http://www.nhuygialai.com...tinh-hay-cua-pham.html
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_14.php
http://lalanhdumlarachvn...press.com/tag/binh-tho/
http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=8412
http://phonuivabanbe.blog...tinh-hay-cua-pham.html
http://sacmauthoigian.wor...nh-cua-pham-ngoc-thai/
http://ttxvablog.blogspot...tinh-hay-cua-pham.html
http://violet.vn/nhocbql/...print/entry_id/8922058
http://quangloc.vnweblogs...2&articleId=405849
http://www.vanganh.info/2...-hay-cua-pham.html?m=0
  http://hung-viet.org/blog...ay-cua-pham-ngoc-thai/
  http://tranmygiong.blogti...2/p5528460#more5528460
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.12.2013 18:43:09 bởi Nhân văn >
Nhân văn 09.03.2013 18:02:13 (permalink)



LỜI & THƠ GIỚI THIỆU TẬP "HỒ XUÂN HƯƠNG TÁI LAI" CỦA PHẠM NGỌC THÁI
Nxb Văn hoá Thông tin 2012



ĐÔI LỜI BỘC BẠCH

"Lời đầu sách" của tác giả

Thiết nghĩ: Đời người sinh ra trong cõi trần ai… âu cũng chỉ là bể khổ trầm luân, cái nợ đời mà ta phải trả, trả xong rồi thì chết cuốn theo đi những cát bụi cuộc đời. Nhưng liệu "thơ" có phải cũng ở trong cái nợ đời, nợ kiếp ấy không? Bởi nếu không có thơ cuộc đời tôi sẽ trở thành vô nghĩa! Bươn bả trong đống cát bụi cuộc đời ấy vì miếng cơm manh áo, thơ ca trở thành sứ mạng, là giá trị tồn tại, ý nghĩa về sự sống mà trong những năm tháng tôi đã chứng nhận ở cõi thế gian này.

Như tôi từng viết: Sáng tác thơ là một ham muốn lớn, một niềm vui thú lớn của bản thân tôi sống ở dân gian. Việc bàn cãi về thơ hiện đại ngày nay còn nhiều mâu thuẫn giữa các luồng tư tưởng khác nhau. Song dù thế nào thì thi ca cũng là một thế giới thật kì vĩ, vẻ đẹp của thế giới ấy đầy bí ẩn, giầu sắc thái và huyền diệu.

Những năm tháng sống của đời người đi lướt qua chốn dương gian, dù là để chịu đầy ải hoặc lãng du... thì cũng có chân giá trị của đời người! Gọi là kỉ vật được sinh ra làm người dâng hiến lại cho đời: “Thế giới của thơ tôi”! Đến một ngày nào đó, tôi không còn nhận biết gì nữa về cái thế giới mà mình đang sống, để có thể tiếp tục viết, tiếp tục làm thơ? Thế cũng đã là mãn nguyện lắm rồi! Coi như tôi đã hoàn thành bổn phận làm người và từ giã cuộc sống với một tấm lòng thanh thản:

Nghiệp đã làm xong chẳng còn chi vương vấn
Tình cũng tàn năm tháng kiếp phôi pha
Thì em ơi, ta nằm xuống dưới mồ
Thanh thản chết có gì đâu phải nghĩ.

Như nhà thơ Hoàng Hiền Lành trong lời giới thiệu tập thơ "Có một khoảng trời" của tôi - Nxb Hà Nội 1990, đã viết:

- ... Thái làm thơ lâu rồi. Những bài thơ từ những năm còn là một chiến binh xông pha lửa đạn thời chống Mĩ. Thái làm thơ về chiến tranh, về đời sống thường nhật nỗi đời. Đọc những bài thơ của Thái, tôi đã bắt gặp một tâm hồn đau đáu không yên về nỗi bất công mà anh không chịu được. Ở bài thơ nào tôi cũng thấy Thái hiện lên khá điển hình, những xúc động nhiều suy tưởng. Vấn đề thơ Thái đặt ra mang được cái tầm có ý khái quát cao, và nhiều câu hỏi về mỗi số phận con người? Bằng tinh thần trách nhiệm của người cầm bút...

Hay như lời của nghệ sĩ điện ảnh và sân khấu Hà Nội Trần Việt Thịnh bình luận:

- Thơ anh (tức tác giả) bao trùm nhiều đề tài, thể loại. Thể loại nào cũng đậm đà sâu sắc đến lạ kì!... Anh muốn đi đến tột cùng của thi ca. Đặc biệt mảng thơ tình anh viết khá hay và rất trội. Nó không giống Xuân Diệu hay Thế Lữ; có chăng phảng phất đâu đó của Hàn Mặc Tử; chút cay chua của Hồ Xuân Hương; tính triết lý của Chế Lan Viên hoặc âm hưởng Uýt Man (nhà thơ Mĩ).

Còn nhà phê bình lý luận văn học Bảo Ngọc thì nhận xét:

- Trong “Tuyển thơ đại bàng” của Phạm Ngọc Thái chủ yếu là loại thơ tự do, có rất nhiều bài đã đạt độ khúc triết sâu sắc và là những thi phẩm hay. Thơ hàm chứa đầy ý nghĩa trong hình ảnh câu chữ và trong hình tượng thi ca. Nó gắn liền tính chất sâu xa của thơ cổ phương Đông, kết hợp khá nhuần nhuyễn với thi pháp của các trường phái thơ hiện đại châu Âu: Từ trường phái thơ lãng mạn, tượng trưng đến siêu thực… cô đúc lại trong một thứ thơ, gọi là thơ triết học! Nó được đúc kết ra không chỉ từ lý luận thuần tuý, mà gắn liền với đời sống xã hội cùng nỗi dâu bể trầm luân cõi dân gian. Thơ anh giàu tính nhân văn, càng đọc càng thấm thía hơn nỗi lận đận, long đong nơi bờ bến con người. Nhưng trước hết vẫn phải nói: Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tình yêu!...

Cám ơn tất cả các bạn dù là nhà thơ, nhà lý luận phê bình hay chỉ là người yêu thơ… đã dành cho tôi những lời ưu ái, chân tình.

Hôm nay, tôi xin trích ra ngót ba trăm bài thơ trong “Tuyển thơ đại bàng” của cuộc đời tôi cho xuất bản vào tập “Hồ Xuân Hương tái lai” này, để lại ra mắt bạn đọc…sau tập “Rung động trái tim” đã xuất bản gần đây nhất.

Lời ít tình nhiều. Hi vọng những gì cần nói, thơ sẽ nói giúp tấm lòng và trái tim tôi đến với mọi người.

Rồi một ngày mai ta sẽ chết
Trầm thơm loài hoa thảo lạ
Cỏ lên xanh và gió sẽ reo
Trong nấm mồ hương khói, có gì đâu.

Ta đã sống phần đời sau chót
Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng nhân gian
Một cuộc sống bình thường bầu bạn
Nửa trăng hồ nửa gã hiền nhân.

Rồi một ngày mai ta sẽ chết
Như là chiếc lá vậy thôi
Gió sẽ hót trên nấm mồ truyền thuyết:
Rằng, có một thi nhân phiêu lãng đã đi rồi!...

Đôi lời bộc bạch xin được ra mắt bạn đọc tập thơ tôi!



Hà Nội, năm Nhâm Thìn 2012

Tác giả tri ân





Những bài thơ trong tập sách đã xuất bản do tác giả chọn gửi:



1. ĐÊM THU PHỐ VẮNG

Đêm phố vắng anh đi hay là em không ngủ?
Thu đến rồi lay động trái tim!
Xào xạc lá, anh nghe xào xạc lá
Thăm thẳm bóng hình em trong đêm…

Anh lại dẫn em con đường xưa cũ
Một thời nào từng in dấu chân thon
Trước tình yêu ta hoá thành đứa trẻ
Dẫu mái tóc anh giờ đã hoa sương.

Tôi sẽ viết cho ai bài thơ đêm thu vắng?
Tiếng trong khuya em gọi vọng rất xa!
Trên thảm lá lòng ta say đắm
Tha thiết bên em vì không muốn đêm qua.

Ôi, bài thơ cứ theo anh lang thang trong phố
Kí ức hồi sinh về với tuổi xuân xưa!
Em lại ru êm như thưở trẻ
Tấm thân mềm đưa anh vào bến mộng mơ...





2. ĐÀN BÀ ĐẸP NHẤT
LÀ KHI ĐÈN ĐÃ TẮT


Bi kịch đằng sau hạnh phúc đó, em ơi!
Dầu biết thế nhưng đã chót yêu rồi
Ta gặp nhau chỉ trong chốc lát
Giữa đêm tối anh lần vào em thăm thiên thai...

Khi tắt đèn da em là ánh sáng để anh soi
Mọi khe ngách trên em anh đều tìm đến đó
Mặc cho mưa gió đầy trời
Cũng chẳng bằng tình ta ngất ngây.

Dù mai nỗi nhớ thương dầy vò anh đau khổ
Thì đêm nay, em ạ! Cứ đắm say...
Mọi phiền não trên đời này quên hết
Lòng cứ yêu, hạnh phúc cứ tràn đầy.

Đêm tắt đèn em đẹp nhất trần gian!
Hôn đôi trái em tưởng mình du ngoạn khắp không trung
Chơi dỡn nguyệt một thiên đường tuyệt thế
Mong trời cứ đêm để cùng em vui chút nữa.

Hạnh phúc đời ta, tình qua trong tiếc nuối
Vì em ơi, hết đêm ta đã phải lìa rồi!
Đàn bà đẹp nhất là ở trong đêm tối
Để nhớ nhau suốt đời...

Đêm tắt đèn thành ánh sáng của thơ tôi!




3. ANH VẪN Ở BÊN HỒ TÂY

Tình để lại vết thương không lành được
Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan…

Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt
Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
Nông nỗi đời người để đâu cho hết
Tình thơ ngây! Tình sao mãi thơ ngây!

Nhớ buổi đón em cổng trường sư phạm
Đôi mắt từ xa đã nhận ra người...
Tình yêu có cái nhìn trong linh cảm
Giờ ở đâu, người con gái xa xôi?

Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...

Đêm 2012


4. XEM TRANH BÁN LOÃ THỂ
Tưởng nhớ bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng
của thi nhân Bích Khê

Nàng để hở một vòm trời tuyệt mĩ
Thế giới là đây! Cuộc sống là đây!
Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người
Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình
ra từ trong bụng.

Lui xuống dưới nàng
một rừng sâu um tùm che hang động
Lên trên nàng đôi mỏm núi trắng vô biên
Thân thể nàng tràn đầy hương nhụy phấn
Thiếu nữ mặc hở quần: hơn bao lời hoa mĩ phát ngôn!

Em như gió trăng mà rung động cả vua chúa, thánh thần
Cuộc sống cần em
Đâu có cần chiến tranh và bom nguyên tử?
Khi em cởi ra nhiều
Điểm báo thế giới càng hiện đại văn minh! (*)
Nhưng điều đáng đớn đau: là tính nhân loại
Con người cũng ngày càng nhiều dã tâm gây tội ác?... (**)

2011

(*) Thế giới càng hiện đại văn minh thì khuynh hướng triển lãm thân thể
của các thiếu nữ càng phát triển, tới mức gần như cởi truồng.
(**) Nhà văn Nga Ai-Ma-Tốp đã cảnh báo trong tác phẩm "Đoạn đầu đài" nổi tiếng của ông rằng: Thế giới, cái ác vẫn lấn át cái thiện và con người hiện đại còn ác hơn con sói!



5. DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM
& CON PHỐ NHỎ


Phố vẫn phố, hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...

Đêm đã lạnh vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác!
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?

Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa!
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thưở đó đẹp nhiều mộng mơ em nhỉ
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.

Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy:
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?

Mùa đông 2010





6. VÁY THIẾU NỮ BAY

Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào chỗ ấy của em...

Bờ bãi con người em trổ hoa, trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm…

Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại?
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh.

Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang…


7. CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ

Em mang màu phượng đỏ ra đi!
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.

Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây!

Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!

Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bẩy
Thì đâu còn phượng để anh ru?

Em đã mang màu phượng ấy ra đi!


8. ĐỘNG BƯỚM

Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
Giữa khu rừng rậm rạp nguyên sơ
Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma…

Có ai chưa em đã vào khai phá?
Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao
Và khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
Bờ bãi đời người bướm vẫn lượn như sao.

Thân nhi nữ một thế giới mênh mông hoang dại
Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi.

Tình yêu từ đâu anh không biết?
Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
Nhưng yêu nhất là bướm em
có sức chinh phục diệu huyền
Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ…

Bướm của em trên đời mãi còn quý giá
Đến lúc cần bướm lại sinh con…
Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em
La la la là la lá là... (*)

Phạm Ngọc Thái
(*) Câu thơ cuối cùng này do chính tác giả đã sửa lại để tránh chạm đến phật giáo.


9. ĐÊM HỒ TRÚC

Đêm nghe Trúc Hồ động
Tiếng chão chuộc vọng đưa
Chợt lòng anh thổn thức
Chuyện ngày xưa ngày xưa...

Tình yêu như cơn mưa
Thấm sũng đời bãi cát
Hồn thiếu nữ ngây thơ
Một chân trời tím sắc.

Cuộc sống bờ bến nước
Đầm khoả ánh trăng vàng
Song cuộc sống còn cả
Dông bão và ly tan!

Vòm xanh kia vẫn cũ
Chỉ có hương bay ra
Sóng vỗ không thấy khác
Bóng nước xa mờ xa.

Anh nhìn bao đôi lứa
Đến chỗ ta ngày xưa
Nụ hôn thành dấu hỏi
Cháy lên trời hư vô?

Trúc Hồ đêm hồ đêm
Hương mãi vòng ký ức
Tiếng chão chuộc, em ơi!
Còn vọng bên bờ nước...

Phạm Ngọc Thái


.


được đăng rộng rãi ở nhiều website trên khắp thế giới:

http://tapchitiengquehuong.blogspot.com/2013/03/pham-ngoc-thai-tho-trong-tap-tho-ho.html
http://phudoanlagi.blogspot.com/2012/09/loi-tho-ra-mat-tap-ho-xuan-huong-tai.html
http://datdung.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=6191#axzz25L7ituuO
http://www.datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=49&id=2187
http://www.nhuygialai.com/2012/08/ho-xuan-huong-tai-lai-toan-tap-pham-ngoc-thai.html
http://nguyenduyxuan.net/tac-gi-tac-phm/vn-hc-cuc-sng/2956-li-a-th-ra-mt-tp-qh-xuan-hng-tai-laiq-ca-phm-ngc-thai
http://vuontaodan.wordpress.com/2012/09/07/loivathoramattaphoxuanhuongtailaicuaphamngocthai/
http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_phamngocthai/hoxunhuongtailai.htm
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=16144
http://nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=6873
http://www.vanganhonline.com/2012/09/loi-va-tho-ra-mat-tapho-xuan-huong-tai.html

3 link sau đăng cả tập 298 bài:
http://binhtrung.org/D_1-2_2-202_4-3459/tap-tho-ho-xuan-huong-tai-lai-pham-ngoc-thai.html

http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=60&ved=0CE8QFjAJODI&url=http%3A%2F%2Fdanluan.org%2Ffiles%2Fpham_ngoc_thai_-_tap_ho_xuan_huong_tai_lai_xuat_ban_nam_2012.pdf&ei=kNhZUK3IFY2yiQf6ooHAAg&usg=AFQjCNGh_2ZyKOmvZjyM4LtKPO3lAEm1OA&sig2=1LE1Pg4LBAuXiCs06w6Klw

http://d3.violet.vn/uploads/resources/508/2697259/preview.swf
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.03.2013 10:38:20 bởi Nhân văn >
Nhân văn 07.04.2013 23:52:15 (permalink)

              Lời bàn về một tuyệt phẩm thơ Phạm Ngọc Thái
 



          VÁY THIẾU NỮ BAY
            Váy thiếu nữ bay để ngỏ
            Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
           Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
           Tìm vào chỗ ấy của em...

            Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt
            Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
            Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
            Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm...

            Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
            Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian
            Có phải đó khúc quân hành nhân loại?
            Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh.

            Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
            Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
           Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
            Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...

                           Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" tr.372
                              Phạm Ngọc Thái
 
        Có nhà thơ nào đã ví "cái" của người thiếu nữ như một cổng trời, qua cổng trời đó là vào một động thiên thai. Hay như cách tả của bà Hồ Xuân Hương về của quí của chị em mới thật là trăm hình vạn trạng, nhiều bài làm ta phải sởn gai óc. Thí dụ trong bài "Động Hương Tích":
               Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
               Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
       Khi thì bà mượn cái quạt để tả về "chỗ ấy":
               Chành ra ba góc da còn thiếu
               Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa...
                                 

                          
    Giờ ta đến với thơ của Phạm Ngọc Thái ở bài "váy thiếu nữ bay", anh đã ví cái của em như:
         Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
        Đến thiên nhiên cũng phải ngưỡng mộ mà run rẩy:
        Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
        Tìm vào chỗ ấy của em...
    Cũng đúng thôi, ngay cả trái tim người khi cảm xúc còn rung động huống hồ thiên nhiên? Nhưng điều mà tôi muốn nói ở đây, viết ra câu thơ như thế quả là tác giả đã mạnh bạo. Từ câu trước dùng hình tượng rất gợi cảm "gió réo rắt, nắng bồn chồn", đến câu sau chuyển ngay sang cách nói có hơi hướng trần tục: Tìm vào chỗ ấy của em.../-  đọc lên ta thấy gai gai giật mình, nhưng ngẫm kỹ lại thì sướng thơ. Chính viết thế đã tạo thêm sự hấp dẫn, dần dần thấy hay. Có phải chăng đó cũng là một thi pháp trong thơ hiện đại để sáng tác thơ vào lòng bạn đọc? Riêng tôi cho rằng viết thế là thích.
    Sang đến khổ thứ hai thì thơ bắt đầu mang theo tính triết lý:
                  Bờ bãi con người em trổ hoa, trái ngọt
                 Đên đế vương cũng khum gối cầu mong
      Trong nhân sinh quan ta thấy rõ ràng nhà thơ đứng về phía nhân gian, ca ngợi tình yêu sự sống ở  chốn cộng đồng. Câu thơ: Bờ bãi con người em trổ hoa trái ngọt/-  Nghĩa là vậy. Ta thường nói, sở dĩ tác phẩm của Nguyễn du sâu sắc, bất hủ... bởi Người đã có hàng chục năm phải sống lăn lộn nơi dân dã, thấu hiểu nỗi tình kiếp chúng sinh mà viết nên... Kiều! Tôi nghĩ một quan điểm rất cơ bản trong thi ca chính là thái độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ như thế nào? nó có ý nghĩa rất quyết định tới tấm vóc của một bài thơ hay cũng như các tác phẩm văn học nói chung.
     Xin trở lại bài Váy Thiếu Nữ Bay. Câu thơ vừa nói trên ý rằng, ở nơi "bờ bãi con người..." đó em như hoa trái của sự sống. Sự sống mà không có hoa trái thì chẳng có gì hết, sẽ chỉ như là cái xác chết. Sau đó để làm rõ hơn về giá trị bất hủ, nhà thơ viết: Đến đế vương cũng khum gối cầu mong/-  Vậy là hơn một lần nữa tác giả lại bộc lộ quan điểm: cái ấy của em còn cao hơn, đáng giá hơn hàng bậc đế vương kia!
     Sau đó nhà thơ vẫn tiếp tục miêu tả nhưng ở mức độ rộng cao hơn:
                            Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài. điện ngọc
                            Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm...
    Dùng hình tượng ví như "lâu đài, điện ngọc" ta cũng dễ hiểu. Cụ Nguyễn Du cũng đã chẳng từng ví của Kiều:
                          Dày dày sắn đúc một toà thiên nhiên
     Còn về ý nghĩa tiến hoá vạn vật trong vũ trụ hay của thế giới nhân quần, khởi thuỷ và muôn năm cũng là ở  trong cái ấy mà ra cả. Sự sống của nhân loại cũng như văn minh, tiến bộ thế giới... đều phải bắt đầu từ đấy, về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Còn tác giả muốn mượn cách nói như thế để hàm ý những gì nữa thuộc trong lĩnh vực chính trị xã hội... thì có lẽ rồi đây đời cũng còn cần phải bàn thêm? 
     Nghĩa là câu thơ: Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm/-  đã mang theo cả ý nghĩa xã hội và tính vũ trụ của thi ca. Sang khổ thơ thứ ba:
                             Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
                            Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian
     Cái mà đã dấu trong chiếc váy bay của người thiếu nữ lại bao trùm lên cả hồn thời đại, làm say đắm thế gian... không phải chỉ bây giờ, mà từ xa xưa đến mai sau vẫn thế. Rồi tác giả buông ra một câu hỏi:
                           Có phải đó khúc quân hành nhân loại?
      Để anh chốt lại trong câu thơ kết đoạn:
                           Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
     Thì từ thuở thiên thai khi mà người đàn bà còn chưa biết mặc váy, cái đó đã có rồi. Tất nhiên nó mãi mãi là một bích phẩm bất hủ nhất của cả tạo hoá lẫn xã hội con người. Cho dù tác giả không dụng ý nhưng thơ đã mang màu triết học, nghĩa những câu thơ kết vào nhau rất chặt chẽ.
    Sang khổ thơ cuối cùng của bài tác giả đã tung ra một lời phán quyết, dĩ nhiên bằng ngôn ngữ thi ca:
                           Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
                          Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
                          Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
                          Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...
     Câu thơ cuối đã khoá lại toàn bộ bài thơ. Chính nó mang theo một lời triết lý có ý nghĩa xã hội, hàm ý về một phủ định nào đó? Nhà thơ phản ứng lại những tà đạo hoặc giả tạo về mặt chính trị còn đang ẩn trong thể chế xã hội mà viết như thế chăng? Xin lần lượt phân tích đôi nét. Bước đầu tác giả đưa ra một sự lý giải về sự sống:
                          Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
      Nghĩa là từ cá nhân tới xã hội phải nhờ có "cái ấy" mới có thể tồn tại và phát triển. Tất nhiên cách nói trong thi ca cũng chỉ có ý nghĩa biểu tượng. Như tôi đã nói trên, hàm ý thi ca Phạm Ngọc Thái trong bài thơ này luôn luôn mang theo tính phản biện có ý nghĩa xã hội. Cũng có số người cho rằng: "Phạm Ngọc Thái hơi cực đoan" - Tôi không biết quan niệm về anh như thế đã đúng chưa?... Nhưng có lẽ đó cũng là một điểm xuất phát để tạo nên ý nghĩa tột đỉnh trong tình thơ này của anh! Tác giả đã phát triển sự biện luận ấy thế nào: Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất/- Nói là phàm tục, cũng là phàm tục. Nhưng nếu nói "cái đó" thiêng? thì rõ ràng cũng có ý nghĩa thiêng. Chẳng thế mà nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã viết những câu thơ bất hủ về tình yêu với người đàn bà:
                       Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                       Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.
     Bởi vì với ý tưởng chân chính lòng ham muốn cái đó là đỉnh cao của sự thăng hoa tột cùng trong tình yêu con người. Cái hạnh phúc vô giá, niềm đam mê vô tận, nó vừa tạo nên những sướng vui đồng thời cũng là nguồn gốc của nỗi đau khổ. Nó mang đến ý nghĩa thánh thiện, đức nhân ái và bao dung. Nó chính là hạt nhân của tình lứa đôi. Cho nên Puskin đã nói một câu nổi tiếng, rằng: "Chỉ có tình yêu mới đẩy lùi tội ác"! Ý nghĩa đều nằm trong câu thơ Phạm Ngọc Thái đã viết:
                       Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
      Ở đây tác giả cũng chỉ nhấn mạnh về tình yêu gái trai nơi nhân gian, mà anh gọi là "bờ bãi con người...". Như trên đã nói, câu cuối cùng đã chốt lại cả bài thơ:
                     Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...
      Đó là ngòi bộc phá nổ để bảo vệ cho toàn bộ ý tưởng, sự biện luận đến các hình tượng của bài. Nào là: Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại, Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm, Mênh mông bàu trời say đắm thế gian, Một khoảng trời nghiêng ngửa hoặc Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài điện ngọcChỉ để bảo vệ một chủ thuyết của tác giả là ca ngợi cái kiệt tác mà tạo hoá hay thượng đế đã sinh ra trên người đàn bà!
    Thì từ khi có vũ trụ cùng thế giới con người đến nay, đã có cái gì được coi là cao hơn, vĩ đại hơn cái của đàn bà ấy đâu? Dù nhân loại có tiến triển đến hàng triệu năm nữa, nó vẫn vĩ đại nhất! Cho nên một bài thơ hoàn hảo, đầy đủ phẩm bích để ca ngợi về cái kiệt tác của thượng đế ấy, hẳn đó phải là một tuyệt phẩm hay một tuyệt tác thi ca!
     "Váy thiếu nữ bay" xứng đáng là một đài thơ. Tôi tin nó sẽ trở thành một thi phẩm không kém phần bất hủ trong thế giới thi ca của văn đàn. 
   
Nguyễn Đình Chúc

 
                     Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới:
           http://vandanvn.net/vi/ne...Nguyen-Dinh-Chuc-1350/
            http://llpb.datdung.com/2...-reo-rat-nang-bon.html
            http://nghiathuc.wordpres...-cua-nguyen-dinh-chuc/
           http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_20.php
            http://www.vanchuongviet....on=detail&id=19950
            http://www.truclamyentu.i...tuyet-pham-tho-pnt.htm
           http://www.vannghechunhat...n-phe-binh/11266-.html
           http://vaolblog.blogspot....-ban-ve-mot-tuyet.html
           http://binhtrung.org/D_1-...ho-pham-ngoc-thai.html
           http://vunglep.blogspot.com/2013/03/vay-thieu-nu-bay-tho-va-loi-binh.html#more
           http://datvietjsc.net.vn/...amp;cid=52&id=2347
           http://hung-viet.org/blog...am-tho-pham-ngoc-thai/
           http://vnmilitaryhistory....t_vay-thieu-nu-bay.htm
           http://nguyenduyxuan.net/...yt-phm-th-phm-ngc-thai
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.04.2013 00:02:08 bởi Nhân văn >
Nhân văn 04.05.2013 23:21:02 (permalink)
 
       Nhà thơ Phạm Ngọc Thái vừa gửi lên Ban chấp hành HNVVN một văn thư liên quan tới bản thảo của một tập thơ tình mà anh cần xuất bản. Sau đó bản văn thư đó đã được nhà thơ đăng trên một số website trên thế giới.
                                   - Nội dung cụ thể xin đăng lại nguyên văn như sau:
 
                                
                                   VĂN BẢN VỀ MỘT TÁC PHẨM THI CA TRÁC TUYỆT

                              Tác giả mong muốn thi phẩm quý báu này sớm phát hành rộng rãi trong nước, đồng thời
                          tạo điều kiện xuất bản ở cả Hải ngoại, đến được nhiều bạn đọc trong cộng đồng người Việt


                          tại một số quốc gia trên thế giới.

                                  Tôi cũng kỳ vọng tác phẩm sẽ còn lưu lại mãi cho nền văn học nước nhà.

                                  Dưới đây là nguyên mẫu văn bản đã được gửi lên lãnh đạo của HNVVN:

                         ĐỀ NGHỊ HNVVN ĐẦU TƯ XUẤT BẢN TẬP THƠ TÌNH HAY & TẦM VÓC
                                                                       Ph
ạm Ngọc Thái                                           
                                            
                                                        
                                                                  Trân trọng gửi:  Ông Hữu Thỉnh Chủ tịch
                                                                            Cùng Ban chấp hành HNVVN
                                                                  Đồng k/gửi:  Ông Bằng Việt - Chủ tịch Hội đồng thơ
     
Tác phẩm mà tôi đề nghị HNVVN đầu tư xuất bản – Đó là bản thảo tập thơ có tên đề “Bàu trời thơ tình hay & lạ” của Phạm Ngọc Thái. Thi phẩm được tôi biên soạn gồm 119 bài thơ tình, rút ra từ trong hai tập thơ đã xuất bản rồi. Đó là:
-     Tập Rung Động Trái Tim, Nxb Thanh niên 2009 & Hồ Xuân Hương Tái Lai, Nxb Văn hoá Thông tin 2012.
      Nói về bản thảo tập “Bàu trời thơ tình hay & lạ”này, nó hay đến mức độ có thể gọi là bất hủ! Tôi đảm bảo rằng: Nếu đã là nhà thơ, kể cả những độc giả thực sự yêu thơ, khi đọc nó đều phải thừa nhận là tập thơ hay hoặc tuyệt hay.
     Còn những nhà thơ đã đạt đến tầm chân dung cỡ Chủ tịch HNV Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Nguyễn Quang Thiều – Các nhà thơ kiêm cả phê bình và lý luận thi ca như: Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa hay Trần Mạnh Hảo… khi đọc xong bản thảo tập thơ tình này sẽ nhận thấy ngay, không cần phải đắn đo rằng: Tác phẩm có tầm vóc chân dung của một nhà thơ tình lớn.
     Riêng tôi, với con mắt thơ Phạm Ngọc Thái xin khẳng định: Nói về thơ Việt Nam hiện đại, xưa nay chưa từng có thi nhân nào đạt được tầm… chỉ với một tập thơ của riêng mình, hay & cao như thế! Như tôi vẫn từng nói: Thơ tôi là loại thơ tồn tại, không phải chỉ hay nhất thời hôm nay mà còn trường cửu đến mai sau.
     Nay tôi xin gửi cả tập bản thảo “Bàu trời thơ tinh hay & lạ” đó, kèm theo lá thư này đến tận tay mỗi ông, để các ông tự xác nhận.
     Cũng như tôi đã nói trên, tập “Bàu trời thơ tình hay & lạ” gồm 119 tình thi được trích từ hai tập thơ của tôi đã xuất bản rồi. Nếu chỉ với một tập thơ tình mà đã có tầm vóc như thế, thì dĩ nhiên Tuyển thơ tôi ( với ngót 400 bài của cả hai tập thơ đã xuất bản đó cộng lại), chắc chắn là phải lớn hơn. Có điều, tôi trích ra thu gọn lại để làm một tập thơ tình hay, thì khi đọc thấy lộng lên, rõ hơn và rõ ngay.
     Một bản thảo thi ca chỉ riêng của một cá nhân chọn đến 119 bài thơ tình, lại còn dám đặt cho nó cái tên “Bàu trời thơ tình hay & lạ” mà không phải xấu hổ - Thì thiết nghĩ, trên văn đàn xưa nay hình như là chuyện… chưa từng có.
     Nói về kinh phí mà tôi đề nghị Hội đầu tư xuất bản tập thơ tình đó, thực ra là không lớn. Với trên trăm bài thơ và một lời giới thiệu, tác phẩm chỉ trong vòng 200 trang sách xuất bản. Tôi cũng không dám yêu cầu HNVVN xuất bản nhiều để bán rộng rãi cho bạn đọc cả nước, tôi sẽ tự tìm cách lo liệu để làm việc đó. Chỉ mong muốn Hội xuất bản lấy 500 cuốn đủ tặng cho hội viên HNVVN, mỗi người một tập. Kinh phí (từ A đến Z) khi xuất bản chỉ mất khoảng 10 triệu đồng VN mà thôi.
     Tôi nghĩ rằng số tiền đó với HNVVN là không lớn. Huống chi tập thơ xuất bản ra còn có giá trị lưu lại một tác phẩm thi ca vô giá cho nền văn hiến nước nhà. Thiết tưởng về ý nghĩa quốc gia, đó cũng là việc mà Hội nên làm. Nhất là đối với những người có chức trách lãnh đạo Hội nhà văn như các ông, thì cũng đáng để quan tâm.
     Tôi mong muốn được các ông sớm hồi âm với một nhân cách đúng đắn & trung thực nhất.
 
                                                                                                                                                    Hà Nội, ngày 16-4-2013
                                                                                                                                                               Tác giả
 
 
                                                                                                                                                                 đã ký

 
 
 
                                                                                                                                                        Phạm Ngọc Thái
        




                  -  Vào hồi 10h00 sáng ngày 16/4/2013 tại trụ sở HNVVN:
         Văn bản trên cùng với bản thảo tập "Bàu trời thơ tình hay & lạ" đã được gửi đến

         ông Chủ tịch Hữu Thỉnh & Ban chấp hành HNVVN qua phó Chủ tịch Nguyễn Quang Thiều.

                 -  Đến 9h40 sáng ngày 18/4/2013 cũng hai văn kiện đó đã được trao tiếp cho ông Bằng Việt,

         Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN - Tại trụ sở Hội văn học nghệ thuật Thủ đô, 19 phố Hàng Buồm Hà Nội.
            
                Cá nhân hay tổ chức nào ở trong nước hoặc Hải ngoại có thiện chí com măng

          xuất bản tập "Bàu trời thơ tình hay & lạ" vô giá này để phát hành đi bốn phương...

             Phát hành lần đầu tác giả không lấy tiền nhuận bút. Xin liên hệ theo địa chỉ sau:

         -   Phạm Ngọc Thái          ĐT:        0168 302 4194   

                                               Email:     ngocthai1948@gmail.com

             NR:   Số 34 ngõ 194, phố Quán Thánh, Hà Nội.

                    *   Trong nước tác giả sẽ cung cấp tập bản thảo thơ bằng giấy để quí vị nghiên cứu.

                    *   Nếu xuất bản ở Hải ngoại tác giả sẽ gửi bản thảo tập thơ qua hộp thư điện tử.



           

                               Hữu Thỉnh Chủ tịch HNVVN



              Bằng Việt – Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN
 
                                                 M
ột số link như sau:
                        http://nghiathuc.wordpres...ham-thi-ca-trac-tuyet/

                        http://nguyenduyxuan.net/...c-phm-thi-ca-trac-tuyt
Ở châu Âu:        http://www.truclamyentu.i...-thi-ca-trac-tuyet.htm
Ở Mỹ:              http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-68_4-4529_15-2/

Toà báo Nam Úc:    http://namuctuanbao.net/892/tin_qn/tqn_7.php#9
 
 
 
   

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.05.2013 10:50:23 bởi Nhân văn >
Nhân văn 03.06.2013 23:12:00 (permalink)
 
           
  Liệu "Em ơi! Thành phố lại mưa" đã phải là một tuyệt tác thi ca?
                           Cô giáo Hoàng-ĐH Sư phạm Hà nội-
 


                 EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA
  

Nghe không em lại mưa lên phố
Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi...
Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
Say như mơ và mộng như thơ
Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ.

Thành phố lại mưa…
Có nghe không em? Con chim trời, cá nước
Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua
Tình êm dịu bên em mơ màng quá
Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa.

Tiếng mưa rơi não nề thao thức
Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ
Chân trời vương vấn dải mây lan.

Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch
Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác
Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...


                                                      Phạm Ngọc Thái


 
   Nhà thơ Phạm Ngọc Thái có "chùm thơ tình trong mưa" rất có tiếng. Ở chùm thơ đó, tôi thích nhất bài Em Ơi! Thành Phố Lại Mưa này:      
                        Nghe không em lại mưa lên phố
                       Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi...

   Ta đã nghe thấy tiếng mưa rơi mà là mưa rất mau... với bóng người con gái từ thuở nào đó. Nói về hình ảnh người yêu trong thơ mưa, một bài khác anh cũng viết:
                       Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại
                        Về bên anh mái tóc rối tơi bời
                        Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy
                        Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi...

                                                       (trong mưa)
    Đọc thơ mưa Phạm Ngọc Thái sao mà nhớ da diết về thuở ấy. Thời của tình yêu, mưa rơi lên tóc, ướt vai và ướt cả áo em. Tôi cũng thấy bồi hồi không khỏi chạnh lòng khi nghe giọng thơ anh:
                     Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
                        Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

      Theo ý trong bài thì thiếu nữ đó tác giả đã gặp vào những năm tháng phong trần dâu bể cuộc đời, chứ không phải thuở anh vẫn còn mộng mơ trên giảng đường đại học:
                     Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
                        Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ..
.


 
   Nhưng những thông tin về đời tư tác giả bộc lộ qua các tác phẩm và dư luận, thời trai trẻ nhà thơ từng trải qua cả cuộc chiến tranh ngoài chiến trường. Vậy phải chăng cô thiếu nữ của bài Em Ơi! Thành Phố Lại Mưa này, anh đã gặp và yêu sau cuộc chiến tranh, khi  đã rời bỏ đời lính trở về? Có thể người con gái, mối tình đầu của anh ở quê hương đã đi... lấy chồng. Để lại một nỗi buồn trống vắng, cô đơn trong lòng người lính... như lời thơ đã viết: Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ/-  Một người lính trận lăn lộn qua cả cuộc chiến, tuổi trẻ phải vùi trong bom đạn, lại có tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ, hẳn khi gặp một nàng thiếu nữ duyên dáng, trẻ xinh... trái tim ắt phải rung động mãnh liệt lắm! Tình yêu ấy giúp cho tuổi trẻ nhà thơ tưởng đã cỗi cằn, nay sống lại:
                       Thuở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
                         Say như mơ và mộng như thơ

   Theo năm tháng được biết thì bài thơ tác giả sáng tác đã vào cái tuổi cập kề lục tuần rồi. Nghĩa là đến mấy mươi năm sau, vào một chiều thành phố mưa rơi lại đánh thức trái tim anh trở về với mối tình xa xưa đó:
                     Thành phố lại mưa...
                         Có nghe không em? con chim trời, cá nước
                         Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua

   Hình ảnh "con chim trời, cá nước" ở đây ý muốn nói về sự xa cách, tình yêu đã trôi vào dĩ vãng... như con chim bay trên bàu trời mênh mang vô định, con cá ở ngoài sông xa tít tắp. Dẫu thế, bên tai anh vẫn văng vẳng tiếng yêu thương ngày nào tựa khúc mưa chiều dìu dặt. Em có nghe thấy, hay còn nhớ tới không? Trái tim thi nhân thổn thức hoà lẫn trong tiếng mưa thành phố, để cõi lòng bật lên thảng thốt như thể tình vừa mới mất:
                    Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa... 
   Những dòng thơ trào ra nỉ non, tha thiết:
                       Tiếng mưa rơi não nề thao thức
                        Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
                        Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ
                        Chân trời vương vấn dải mây lan.

    Hàng loạt các hình ảnh được tác giả đưa vào làm biểu tượng: Từ tiếng mưa rơi não nề thương nhớ, đến cái bóng hoàng hôn đỏ trong cảnh chiều tà trời đất hay chiều cuộc đời của nhà thơ cũng đang nhạt nhoà, tan tác... như cánh buồm trên con sông tháng năm trôi dạt lênh đênh, không bờ bến đỗ. Lòng người thì hoang vu với vài đám mây trôi... Tất cả hoà quyện nhau để khắc hoạ tình yêu người ở trong mưa.

     Tôi xin phân tích đoạn cuối cùng:
                     Ôi cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch
                        Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?

  Các văn nghệ sĩ thường hay nói: Cuộc sống như một cái sân khấu lớn, ở trên đó mỗi con người là một nhân vật hay một vai diễn? Có phải vậy nên nhà thơ Phạm Ngọc Thái mới viết: Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch/-  Tôi nghĩ, chẳng qua chỉ vì mối tình đã tan và tiếc nuối nên tác giả mới buông ra lời ca thán như thế? Bởi vì, nếu mối tình xa xưa ấy cũng chỉ như màn kịch thật, nhà thơ và người con gái kia cũng chỉ là vai diễn... thì sự chia tay là tất nhiên khi cái sân khấu đã đóng màn và tình yêu đã hết. Đằng này, mấy chục năm trôi qua mà lòng nhà thơ vẫn còn lưu luyến đến thế? Tưởng như máu tim anh đang rỏ xuống mỗi dòng thơ. Anh đã quá yêu người con gái đó nên mới buông ra lời qui tội cho cuộc sống đó thôi! Với những dòng tri kỷ ở trong thơ thì hẳn cô gái cũng đã rất yêu anh. Vậy vì sao cả hai người cùng yêu nhau mà mối tình lại tan? Ta không biết. Tác giả đã phân bua:
                    Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
     Tôi còn nhớ bài thơ "Hoa huệ" của nhà thơ Bế Kiến Quốc (1949-2002), đã viết:
                 Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                      Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                      Em đừng nhìn đi đâu thế em
                      Anh không biết vì sao, ai có lỗi...

    Ở đây hình ảnh của bông hoa đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Bông hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng kia là thật. Nhưng tất nhiên bóng của nó hắt lên tường sẽ thành... đen. Ý nhà thơ muốn nói: Tình yêu có hai mặt - Nếu mặt trước của nó là hạnh phúc, niềm vui sướng và đam mê say đắm - Thì mặt sau của tình yêu lại là nỗi đau khổ vô hạn khi tan nát. Sẽ trở thành bi kịch, thất vọng của cuộc đời. Nhưng chính nhà thơ Bế Kiến Quốc cũng không lý giải nổi mối tình của mình đẹp thế sao lại vỡ? Ông xa xót mà thốt lên:
                     Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
                      Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                      Sao bóng hoa trên tường lại đen?




  Xin trở về với bài thơ Em ơi! Thành Phố Lại Mưa, khi mối tình không thành mà cũng chẳng lý giải nổi vì sao? nhà thơ cũng chỉ biết than:
                  Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
  Phải chăng bởi duyên trời, hai người không có phúc phận được sống bên nhau? để cho con tim năm tháng phải dày vò mà tiếc nuối? để những chiều mưa rơi thành phố, anh thi sĩ lại thổn thức vì  thương nhớ người yêu mà sáng tác lên những áng tình ca bất hủ để lại cho đời?... và bài thơ đã được kết:
                   Anh đứng giữa trời mưa
                              
                          làm những vần thơ xao xác
                   Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...

   Cũng không phải người con gái kia là cánh chim hoang đâu mà chính là lòng nhà thơ vất vưởng, vô vi như một bóng chim hoang. Tư duy thơ sâu lắng, ngôn ngữ hình ảnh thi ca sinh động, làn điệu nhụy nhàng mà không rơi vào sự bóng mượt nhàm chán.  
  Tôi cảm nhận Em Ơi! Thành Phố Lại Mưa là một bài thơ tình rất hay. Dầu thế vẫn chưa dám buông ra lời khẳng định nó đã trở thành một tuyệt tác thi ca hay chưa? mặc dù trong thâm tâm, ý nghĩ của tôi đã tin như vậy.

  Cô giáo Hàng Đại học Sư phạm Hà Nội
--------------------------
            Đã đăng trên nhiều website trong nước & thế giới:
http://www.nhuygialai.com...ua-Pham-Ngoc-Thai.html
http://ducthelh.violet.vn.../show/entry_id/9279344
http://www.vanchuongviet....on=detail&id=20038
http://www.namuctuanbao.n...Ngan/truyenngan_11.php
http://htruong.violet.vn/..y/show/entry_id/9163738

 http://www.bichkhe.org/ho...cat_id=147&id=3019
http://tapchitiengquehuon...h-pho-lai-mua-cua.html
https://nghiathuc.wordpre...-mot-tuyet-tac-thi-ca/
http://vannghequangtri.bl...lai-mua-tro-thanh.html
http://datdung.com/module...sid=7636#axzz2Qgeiy5UF
http://www.thuviengiadinh...a-mot-tuyet-tac-thi-ca
http://vandanvn.net/vi/ne...et-Co-giao-Hoang-1557/
http://nguyenduyxuan.net/...-la-mt-tuyt-tac-thi-ca
http://www.vanganh.info/2...o-lai-mua-phai-la.html
http://www.tiengchimviet....o-lai-mua-phai-la.html
http://www.truclamyentu.i..._thanh-pho-lai-mua.htm
http://vunglep.blogspot.c...-em-oi-thanh.html#more
http://vnmilitaryhistory....-thanh-pho-lai-mua.htm
http://nguoiviet.eu/thu-v...-tuyet-tac-thi-ca.html
http://hung-viet.org/blog...-mot-tuyet-tac-thi-ca/
 
 
Nhân văn 01.07.2013 23:34:50 (permalink)
 
  Mời đọc bài của nhà thơ Phạm Ngọc Thái viết về Nguyễn Khoa Điềm:
 
                     Sự đổi giọng hay đã thực sự ăn năn hối lỗi qua bài thơ
                       "Sự tầm thường" của Nguyễn Khoa Điềm
                                                                                  Phạm Ngọc Thái
    Tôi có ý định bình tổng hợp một số bài thơ gần đây nhất, Nguyễn Khoa Điềm
đã viết sau thời gian hết đường quan lộ về làm thường dân - trong đó đặc biệt là bài "Đất nước những tháng năm thật buồn". Nhưng khi đọc lại "Sự tầm thường": Muốn bình cho trọn ý thì phải phân tích theo suốt dọc bài thơ, gộp cả các tình thơ khác nữa thì sẽ lan man rất dài. Bởi vậy, mới xin bình luận riêng về bài "Sự tầm thường" ấy trong trang này - Còn "Đất nước những tháng năm thật buồn" gộp với số bài thơ khác, tôi sẽ giành để viết sau.
[

[        Nguyễn Khoa Điềm
     Nói về bài "Sự tầm thường" - Bắt đầu vào thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:
                    Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
                    Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
    Hình ảnh "vợ chồng sớm chiều..." ở đây là sau khi NKĐ đã bị thất sủng buộc phải rời Ban bí thư Trung ương và Bộ Chính trị...  về sống nơi thôn hương với gia đình. Dầu tác giả có"treo mình" lên cái đinh mắc màn, mắc áo hoặc trên trần nhà, gì gì đi nữa... nhưng với người vợ má kề gối ấp của mình, thì đáng lẽ đó vẫn phải là hình ảnh đẹp, thân thương đời thường của nhân dân, năm xưa quen chốn quan trường ông không thể nào cảm thấy sự quý giá đó. Bởi vậy, không nên dùng chữ "sự tầm thường" đánh đổ đồng nháo nhào như ở trong bài thơ này .
     Xin xét vào các đoạn thơ sau rồi ta sẽ trở lại phán xét tiếp về những câu thơ đầu tiên ấy.
                      Bàn chuyện chạy chọt
                      Những đứa trẻ phải vào được lớp một
                      Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
                      Mơ ước nào cũng có giá.
                      Đôi người nhắc nhở rằng
                      Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
                      Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
   Qua hình ảnh về những "sự tầm thường" để NKĐ lên án một hiện thực xã hội - Đó là một xã hội chưa có "độc lập tự do" thực sự:
                      Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
                      Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.
     Phải chăng đó cũng chính là sự phản ứng chế độ trong tư tưởng của ông Uỷ viên Bộ chính trị một thời? Tôi muốn hỏi cả một thời làm quan to, sao ông không có ý nghĩ này nhỉ? Khi chế độ chưa có độc lập tự do thực sự, thì đừng nên "gieo mơ ước vào đầu con trẻ" - vì mơ ước nào cũng sẽ phải trả giá?
      Thí dụ như: Ở xã hội đó nếu đấu tranh cho lẽ công bằng, cho sự tự do hay quyền sống chính đáng của một con người thì sẽ bị đàn áp, sẽ phải vào tù? và... con trẻ lớn lên chỉ nên biết: ...nhẫn nhục để ổn định/-  cuộc đời như con lươn, con trạch thôi? Đấy, ý thơ phản biện lại xã hội đương thời của Nguyễn Khoa Điềm là như vậy.
Thế thì, thực sự bản chất của xã hội ấy là gì? Chẳng lẽ những năm tháng khi NKĐ còn là Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, xã hội vẫn còn rất tốt đẹp sao? Nó chỉ vừa mới xấu xa, tha hoá khi ông trở về làm một thường dân? Hoặc chỉ bởi vì khi đó làm một ông quan cách mạng, ông cần phải sống giả tạo để hưởng cho đủ những bổng lộc, vinh hoa phú quý mà đảng và nhà nước đã ban tặng cho ông?
   Hôm nay đường quan lộ thất thế rồi, Nguyễn Khoa Điềm mới phản thùng? hay... ông đã thực sự ăn năn hối lỗi trước nhân dân về quá khứ của mình? Ta đặt ra câu hỏi:
1.   Có thể khi trở về với cuộc sống thường dân, NKĐ mới nhận ra sự còn phi nhân, phi nghĩa của thể chế, nên Ông tự sám hối về mình?
2.   Hoặc là, trước đây không phải ông không biết sự bất chính của guồng máy chính trị ấy... nhưng ông vẫn giả bộ như bao kẻ cơ hội khác, làm cao đạo, đục nước béo cò, để tận hưởng cho thoả những sự sung sướng phè phỡn của một ông quan lớn?
     Có bao giờ ông cần quan tâm đến chuyện một đứa trẻ mới vào lớp một cũng đã phải chạy chọt... như thơ ông viết:
                      Bàn chuyện chạy chọt
                      Những đứa trẻ phải vào được lớp một
                      Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
   Ông cũng đâu cần quan tâm đến việc nhân dân đã phải chịu đựng bao sự "nhẫn nhục để ổn định", vượt qua cuộc sống... tầm thường?
   TA SANG ĐOẠN THƠ THỨ HAI - NKĐ đưa ra một loạt những "sự tầm thường", nào là:
                   ...Với tờ giấy bạc trên miệng.
                   Sự tầm thường thật kín kẽ
                   Mặc những tấm áo đúng thời tiết
                   Tụ tập trên các diễn đàn
                   Nói lời rỗng...

     Ối, ông Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương? Chắc cái thời mà chính ông vẫn thường liên tục thuyết giáo trên diễn đàn, khi ấy ông toàn nói những lời đẹp đẽ, quí hoá, lại vô cùng quan trọng và có ý nghĩa to lớn với vận mệnh non sông đất nước chăng? chứ không lăng nhăng, xàm tiếu như những phường ông nghị bây giờ? Rồi:
                     Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
                     Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
   Thí dụ như... các cuộc "thảo luận đại sự" trong các Hội nghị Trung ương đảng hay là họp Quốc hội vừa qua chẳng hạn. Nghĩa là, những ông nghị thì chỉ toàn... "nghị gật", còn đại biểu phần lớn "đại biểu bù nhìn" để đẻ ra những nghị quyết tào lao chi khươn, vô bổ. Mặc cho nước mạt, quan thì thi nhau tham nhũng, xã hội xuống cấp, tha hoá... chẳng kẻ nào phải chịu trách nhiệm hết? đấy chính là ý nghĩa của câu thơ:
                    Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
     Rồi ông kết luận:
                    Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
                    Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
                    Tai quái.
      Thế là đã rõ: Nguyễn Khoa Điềm phủ nhận toàn bộ các phong trào, dù đó là phong trào có tính chất quốc dân, cùng tất cả mọi kiểu hội nghị thời nay - Mục đích làm gì?
- Chỉ để nhõn sắm.../-  tức là vơ vét, vơ váo hay là tạo ra... "sự tầm thường tai quái". Nghĩa là các phong trào hay hội nghị đó toàn ba lăng nhăng hoặc mục đích trục lợi... giống như những sự loè bịp quái thai vậy.
     Chẳng phải cũng chính Nguyễn Khoa Điềm đã phủ nhận toàn bộ bộ máy nhà nước - dù thời của ông hay hiện nay cũng chỉ để làm ra "những thứ tầm thường tai quái" ?
     Ta cần phải hiểu nhân cách ông bí thư T.Ư & Uỷ viên Bộ chính trị Nguyễn Khoa điềm thế nào? kẻ trục lợi quốc gia, cơ hội đục nước béo cò trong một tổ chức của guồng máy còn nhiều phi nhân nghĩa chăng? Để bây giờ hết lợi lộc về thường dân rồi, ông mới buông ra những lời nguyền rủa, bài xích? 
   Xin trở lại với những câu thơ đầu tiên, khi ông nói về cuộc sống thường dân bên người vợ:
                       Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
                       Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn...
   Nếu NKĐ coi sự trở về với gia đình, bên người vợ hiền là một hạnh phúc đời thường vô giá, trước đây khi còn làm quan to trong đảng ông không cảm nhận nổi - thì ông đã không đánh đổ đồng tất cả tuốt tuồn tuột với mọi loại "tầm thường"... mà ông đã nêu ra? Dù rằng người vợ cùng những người thân hoặc cả cộng đồng xã hội này đã phải sống chạy chọt đủ điều... chỉ để mưu sinh, phải "nhẫn nhục để ổn định" cuộc sống - Bởi vì, những sự việc dẫu là tầm thường, nhưng những con người ấy họ đâu có xuất phát từ những ý nghĩ đen tối tầm thường? Bản chất việc làm của họ xuất phát từ sự lương thiện, lương tri của con người. Ông đánh lộn tất cả một cách hổ lốn như cám heo trong một bài thơ, thì bài thơ của ông có khác gì chỉ là một mớ chữ... hoà trộn phân tro lẫn với phẩm chất nhân sinh của con người? Bài thơ "sự tầm thường" là một bài thơ sáng tác cũng rất... tầm thường.
  Một bài thơ sáng tác xô bồ như kiểu thông tin, ngôn ngữ lèng xèng nửa văn xuôi, nửa có tí vần, chẳng có một hình tượng thơ nào đáng nói - thì làm gì có nghệ thuật để bàn xét về "nghệ thuật thi ca" cơ chứ?
     Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ dưới:
                         Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
                         Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
                         Cứ bày ra chuyện đâu đâu
                         Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
                         Nói nhiều hơn tất cả!
                         Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
                         - Thay vì bước vào phòng họp -
                        Để xua các cán bộ làm việc.
                        Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
                        Để tham gia nhóm lợi ích.
                        Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
                        Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
    Tôi không rõ: đại từ "chúng ta" ở đây ông định biểu thị cho tầng lớp nào? - Cho tầng lớp nhân dân trí thức, hay chỉ cho một lớp quan lại đương thời mà ông muốn chỉ trích?
    Bởi vì, câu trên thì viết: Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ/-  Rõ ràng đây ý tác giả sử dụng nghĩa "chúng ta" để chỉ vào lớp quan chức hoặc thủ trưởng, có ý mỉa mai chúng là những kẻ bảo thủ dốt nát nhưng hay dìm dập những phát kiến tiến bộ, trù úm các tài năng...
     Nhưng câu dưới:
                       Chúng ta ghét bọn "chơi trội"
                       Cứ bày ra chuyện đâu đâu...
   Thì hai từ "chúng ta" này ngả sang nghĩa biểu thị cho cộng đồng nhân dân. Cái bọn "chơi trội hay bày những chuyện đâu đâu" này không thể biểu thị cho những hình ảnh đẹp đẽ được. Những chuyện đâu đâu ấy, là những sự việc có thể rất hợm hĩnh bày ra để lấy công, tính thành tích dổm... hoặc bày chuyện để ăn tiền, tham nhũng. Rồi để kết luận về những chuyện đâu đâu... tác giả viết:
                       Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
                       Nói nhiều hơn tất cả!
     Vậy tiếng "keng" của sự cụng ly kia... để chỉ về những cuộc nhậu vui thú đời thường nơi dân dã, hay là "tiếng keng" chạm cốc của những đám công thần nghị sự trong các bàn tiệc được bày ra sau những cuộc "thảo luận đại sự" ... rỗng tuếch như đã nói ở trên? Một loạt hình ảnh tác giả vơ váo hết cả vào rồi nói đại, thành ra chẳng hiểu tiếng "keng" cụng ly ấy  thuộc kiểu gì... mà ý nghĩa hơn tất cả? Bài thơ viết còn rất láo nháo.
    Rồi một số hình ảnh khác: Nào là những bí thư thay vì các cuộc họp liên miên, cần phải thúc giục cán bộ tích cực làm việc hơn nữa; nào các cô ca-ve thì tập ăn nói những lời tốt đẹp và làm những việc có ích cho xã hội hơn; đến các bậc lão thành cũng phải nên thé này, thế nọ - Đó cũng chỉ là mấy cái băng rôn khẩu hiệu sáo, nhàm.
     Trước đây còn quyền chức, tiếng nói của ông là tiếng nói của một quan lớn - Ông có thể nói những lời nói giả tạo để tuyên huấn cho lớp này, lớp nọ... rồi ra chỉ thị cho tổ chức các cấp phải răm rắp theo, mặc dù tiếng nói trên diễn đàn của ông khi đó cũng chỉ là những lời... rỗng tuếch. Bây giờ hết thời, thất thế đường quan, nếu nói như trước thì chẳng những không ai nghe mà họ còn chửi ông là "dổm" nữa - Ông mới "đổi giọng"...
     Theo nhà thơ Đỗ Hoàng đã bình luận trong bài "Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm..." đăng trên Bà Đầm Xoè rằng:        
      "Thời còn Ban Tư tưởng Văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay cho lắm. Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng, cấm internet, đốt thành tro bụi những tập sách như Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Chúa trời ngủ gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội Nhà văn Việt Nam... Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đóng để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như: phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho), làng văn hoá Đồng Mô (làng bỏ hoang), Bác Hồ với văn nghệ sĩ...
    Đường hoan lộ của Nguyễn Khoa Điềm khá hanh thông. Nguyễn Khoa Điềm quan quá to. Ông trùm tư tưởng văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam. Rồi đứt gánh giữa chừng. Ông quan to Nguyễn Khoa Điềm phải về vườn... còn một hai nhiệm kỳ trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nữa, nhưng lại bị ông cậu ruột của vợ là Nguyễn Đức Đạo viết đơn tố Nguyễn Khoa Điềm không phải là đảng viên và có thời gian bị tù ở lao Thừa Phủ - Huế khai báo với địch".
    Tôi cũng không rõ độ chính xác về những thông tin của bài viết trên đến mức nào?
   Nhưng có một điều thực tế rằng: Nguyễn Khoa Điềm là một quan lại cấp trung ương đã lên đến cỡ Bộ chính trị của đảng cầm quyền... nhưng bị thất sủng phải về làm thường dân. Đương thời quan lộ, Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là một ông trùm thực thi nhiều vụ đe nẹt sự tự do văn chương của giới văn nghệ sĩ, cũng như sự đấu tranh cho quyền tự do dân chủ xã hội. Nhân cách và đạo nghĩa ông đâu được trong sạch, tâm hồn tư tưởng sống của ông đâu được thanh cao như hàng bậc thi nhân Nguyễn Khuyến: không thèm làm ông quan phi nhân, phi nghĩa. Chán chường cảnh dơ dáy chốn cung đình, phẫn uất với tầng lớp gian thần hại dân, hại nước... từ quan về sống thanh bạch nơi dân dã. Đằng này ông tận hưởng vinh hoa phú quý, đục nước béo cò... đến tận phút chót, nào có cao đạo hay hớm gì?  Nay thành thường dân lại đổi giọng thơ quay ngược "180 độ" để ve vuốt  lòng người - Giả dối thay! E rằng, nếu bây giờ cuộc cờ nơi cung đình ở trung ương, bộ chính trị ấy thay đổi, nhóm người hay tổ chức phe phái của ông lại thắng thế trong cục diện. Họ lại dọn đường cho ông trở lại làm quan? Chắc rằng ông ta sẽ lại đổi giọng ngay, lại như trước đây thời ông vẫn còn làm trong Bộ chính trị, ông sẽ lại tiếp tục lên diễn đàn, lại huênh hoang múa mép, phồng mang, lớn tiếng trong các hội nghị và các cuộc "thảo luận đại sự"... cũng lại để soạn thảo ra một mớ các nghị quyết "tầm thường tai quái".


    Ta hãy xem đoạn thơ cuối, Nguyễn Khoa Điềm đã kết:
                       Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
                       Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
                       Tốt tươi hơn
                       Mãnh liệt hơn
                       Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo
                       Tang chế, nhạt nhoà
                       Cúi đầu
                       Đi sau cái chết.
    Ông nói rằng chúng ta, tức là "nhân dân" thua cỏ, không bằng cỏ: vì cỏ còn biết đấu tranh để vươn lên với sức sống mãnh liệt, cho sự sống tốt đẹp hơn? Đằng này, chúng ta quá tầm thường khoác bộ áo tang chế nhạt nhoà, chấp nhận cúi đầu nhẫn nhục đi sau cái chết? Nghĩa là ông muốn ngầm bảo với mọi người rằng: chúng ta, nhân dân cần phải đứng lên đấu tranh để lột bỏ cái cũ thay bằng cái mới tốt đẹp. Nếu không đấu tranh là chết !  - Kể ra từ sự bức xúc mà ông có được những ý tưởng tiến bộ như thế cũng là tốt: Nếu xuất phát bởi một tâm hồn trong sáng, tư tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp? 
     Vấn đề là ở chỗ: Phải chăng đây lại chỉ là tiếng nói của một kẻ hai mặt, hai giọng? Khi làm quan thì sẵn sàng cùng chính quyền dùng bạo lực trấn áp những tư tưởng đấu tranh vì quyền sống tự do thực sự. Là một ông trùm Tư tưởng Văn hoá Trung ương cưỡng chế, tiêu huỷ những tác phẩm máu xương của các văn sỹ đấu tranh cho quyền sống của con người. Đành rằng như kinh Phật đã truyền: "Quay đầu lại là bờ..." - Được thế thì cũng đáng hoan nghênh. Nhưng liệu ông có thực sự, thực lòng là kẻ ăn năn hối lỗi quay đầu lại phía nhân dân không? Hay lại chỉ là một bộ mặt khác nữa... cũng không khác nào cơ hội?
  Xin hỏi ông nguyên Bí thư của Đảng: Xã hội này đâu phải bây giờ mới sa sút? Đất nước cũng đã mạt lâu rồi, từ cái thuở ông vẫn đang chễm chệ quan trên tác oai, tác quái ở trong Ban chính trị ấy cơ? Tại sao khi còn quyền lực đó ông lại không kêu gọi "chúng ta phải đứng lên thay đổi... để có một xã hội tốt đẹp hơn? mà phải đợi cho tới khi đã về vườn làm một thường dân, ông mới nói ra những lời để lấy lòng mọi người đang phẫn uất trăm bề? Cài lời nói cho có vẻ mang tính nhân sinh ấy của ông nó cũng dẻo quẹo như cái mồm dẻo quẹo của ông ở cái thời làm quan vậy.
  Người ta nói "lưỡi không xương trăm đường lắt léo" - Ông uốn lưỡi giỏi lắm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ạ! Thậm chí còn giỏi hơn, có kinh nghiệm hơn cả cái thời ông làm quan nữa.
   Thể chế này hỏng phải đâu bây giờ mới hỏng? Hiện thực xã hội xuống cấp phải đâu chỉ khi ông thất sủng đường quan lại trở về làm thường dân nó mới xấu?  Từ hàng chục năm nay nó đã nát rồi - Khi ấy sao ông không kêu gọi mọi người: hãy vùng lên như loài cỏ sống mãnh liệt để xã hội lại tốt tươi lên? Chúng ta phải bài bỏ các thứ đang hủ bại này để thiết lập nên một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn?
  Trong một bài thơ mới viết gần đây tên là "Thời sự cuối ngày", có mấy câu ông đã viết rằng:
                      Tôi mừng cho nước tôi
                      Vẫn còn Thạch Sanh
                      Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm...
    Vậy xin đặt ra một câu hỏi:
-   Liệu Nguyễn Khoa Điềm có phải cũng chỉ là một trong những tên Lý Thông đĩ bợm ấy không???

       PNT.
Hà Nội - 6/2013

             SỰ TẦM THƯỜNG
Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn
Bàn chuyện chạy chọt
Những đứa trẻ phải vào được lớp một
Đừng gieo vào đầu con những mơ ước xa xôi
Mơ ước nào cũng có giá.
Đôi người nhắc nhở rằng
Không phải độc lập tự do cao quý hơn tất cả
Mà chính là nhẫn nhục để ổn định.

Đức Phật từ bi
Xin người đừng mắng tôi
Khi tôi nói lắm kẻ muốn ngài ngậm miệng ăn tiền
Với tờ giấy bạc trên miệng.
Sự tầm thường thật kín kẽ
Mặc những tấm áo đúng thời tiết
Tụ tập trên các diễn đàn
Nói lời rỗng
Đồng phục các cuộc thảo luận đại sự
Luôn luôn tìm một mặt bằng để ngả lưng
Chúng ta có đủ mọi phong trào, các cuộc họp liên miên
Để chỉ nhõn sắm ra sự tầm thường
Tai quái.
Chúng ta coi sự sáng tạo là đáng sợ
Chúng ta ghét bọn "chơi trội"

Cứ bày ra chuyện đâu đâu
Họ đâu biết tiếng "keng" của sự cụng ly
Nói nhiều hơn tất cả!
Bây giờ các bí thư sẽ chạy ra đường
- Thay vì bước vào phòng họp -
Để xua các cán bộ làm việc.
Bây giờ các nàng ca-ve học nói lời lịch sự
Để tham gia nhóm lợi ích.
Các bậc lão thành đang ngủ trong phòng máy lạnh,
Nhường chỗ cho sự tầm thường lên ngôi...
Đôi khi tôi tin rằng chúng ta thua cỏ
Vì cỏ có thể lụi đi để sống lại
Tốt tươi hơn
Mãnh liệt hơn
Trong khi sự tầm thường đóng bộ áo

Tang chế, nhạt nhoà
Cúi đầu
Đi sau cái chết.
              Nguyễn Khoa Điềm

                       24.4.2013
 
                 Được đăng trên nhiều trang mạng trong nước & thế giới - các link sau:
      http://vannghecuocsong.co...su-an-nan-hoi-loi-972/
      http://badamxoevietnam2.w...-cua-nguyen-khoa-diem/
      http://www.danchimviet.in...uyen-khoa-diem/2013/06
     http://www.tiengchimviet....u-nan-hoi-loi-qua.html
     http://nghiathuc.wordpres...-cua-nguyen-khoa-diem/
     http://truongchieuchat.bl...uc-su-nan-hoi-loi.html
    http://ngoclinhvugia.word...thuong-pham-ngoc-thai/
    http://rbomtm.blogspot.co...u-nan-hoi-loi-qua.html
    http://binhtrung.org/D_1-...-nguyen-khoa-diem.html
   http://hoangtran204.wordp.ss.com/2013/06/22/14904/
   http://www.haingoaiphiemd...sContent.aspx?Id=10266
   http://mareli13.blogspot....i-nguyen-khoa-iem.html
   http://thaianco.net/xuanl...ntay1/phamngocthai.htm
   http://bon-phuong.blogspo...giong-hay-thuc-su.html
   http://to-quoc01.blogspot...pham-ngoc-thai_21.html
   http://thinhoi001-thinhoi...u-nan-hoi-loi-qua.html
   http://k6bc11r.blogspot.c...-van-tho-chu-nhat.html
   http://dohoang.vnweblogs..m/archives/3360/20130623
   http://www.truclamyentu.i...a-nguyen-khoa-diem.htm
   http://hung-viet.org/blog...-cua-nguyen-khoa-diem/
   http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-100_4-4733_15-2/
   http://tranmygiong.blogti...r_nga_carba_nguya_n_kh
   http://namuctuanbao.net/901/tiengnoi/tntn_28.php

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.07.2013 23:37:06 bởi Nhân văn >
Thay đổi trang: << < 101112 > >> | Trang 12 của 20 trang, bài viết từ 166 đến 180 trên tổng số 293 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 9 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9