Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều nhờ em đáp tình Kim Trọng
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
695./ Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
700./ Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705./ Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
710./ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715./ "Cơ trời dâu bể đa đoan,
"Một nhà để chị riêng oan một mình,
"Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?
"Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?"
Rằng: "Lòng đương thổn thức đầy,
720./ "Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
"Hở môi ra cũng thẹn thùng,
"Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
"Cậy em, em có chịu lời,
"Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725./ "Giữa đường đứt gánh tương tư,
"Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
"Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
"Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730./ "Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!
"Ngày xuân em hãy còn dài,
"Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
"Chị dù thịt nát xương mòn,
"Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
735./ "Chiếc thoa với bức tờ mây,
"Duyên này thì giữ vật này của chung.
"Dù em nên vợ nên chồng,
"Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
"Mất người còn chút của tin,
740./ "Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
"Mai sao dù có bao giờ.
"Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
"Trông ra ngọn cỏ lá cây,
"Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745./ "Hồn còn mang nặng lời thề,
"Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai;
"Dạ đài cách mặt khuất lời,
"Rảy xin chén nước cho người thác oan.
"Bây giờ trâm gẫy gương tan,
750./ "Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
"Trăm nghìn gửi lại tình quân,
"Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
"Phận sao phận bạc như vôi,
"Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
755./ "Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
"Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt đôi tay lạnh đồng.
Xuân Huyên chợt tỉnh giất nồng,
760./ Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới dàu cơn vựng, chưa phai giọt hồng.
Hỏi: "Sao ra sự lạ lùng?"
Kiều càng nức nở nói không ra lời.
765./ Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:
"Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây…"
"Này cha làm lỗi duyên mày,
"Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
"Vì ai rụng cải rơi kim,
770./ "Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
"Lời con dặn lại một hai,
"Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng."
Lạy thôi, nàng mới rén chiềng:
"Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775./ "Sá chi thân phận tôi đòi,
"Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu."
Chú giải:
694. Tinh kỳ: Người ta thường dùng chữ tinh kỳ để chỉ cái ngày thành hôn, vì theo hôn lễ xưa, người ta đón dâu vào buổi tối.
697. Dầu: Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành lòng).
698. Một lời: Một lời thề nguyền. ý Kiều nói: Số phận ra sao cũng đành, nhưng chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời thề với Kim Trọng.
703. Trời Liêu: Liêu Dương.
707. Tái sinh: Một kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói lai sinh
Hương thề: Mảnh hương thề nguyền. Xem chú thích 517.
708. Trâu ngựa: Theo thuyết luân hồi nhà Phật: Người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá làm thân trâu ngựa nhà người ta để đền trả cho xong.
Nghì: Tức là chữ "nghĩa" được đọc chệch ra.
Trúc mai: Tình nghĩa bền chặt thân thiết như cây trúc, cây mai thường được trồng gần nhau.
710. Khối tình: Tình sử: Xưa có một cô gái yêu một người lái buôn. Người lái buôn đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư mà chết. Khi hỏa táng, quả tim kết thành một khối rắn, đốt không cháy, đập không vỡ. Sau người lái buôn trở về, thương khóc, nước mắt nhỏ vào khối ấy liền tan ra thành huyết.
Tuyền đài: Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi ở của người chết.
711. Bàn hoàn: ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ quẩn mãi không dứt.
713. Giấc xuân: Giấc ngủ ngon lành.
715. Cơ trời: Tức thiên cơ, máy trời.
Dâu bể: Cũng như "bể dâu".
Đa đoan: Nhiều mối nhiều việc.
717. Nhẫn: Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi suốt đêm.
726. Keo loan: do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung.
Mối tơ thừa: Ví dây tơ tình với dây đàn, dây tơ tình bị đứt.
732. Lời nước non: Lời thề nguyền chỉ non thề bể.
734. Chín suối: Do chữ cửu tuyền, chỉ nơi suối vàng.
735. Tờ mây: Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Kim, Kiều.
740. Mảnh hương nguyền: Những mảnh gỗ thơm đã đốt dở trong cuộc thề nguyền của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề nguyền với nhau, người ta thường đốt hương.
746. Bồ liễu: Một loại cây ưa mọc gần nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn hết các loài cây, vì cái thể chất yếu đuối đó nên trong văn cổ thường dùng để ví với người phụ nữ.
747. Dạ đài: Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.
749. Trâm gẫy gương tan: Thơ Bạch Cư Dị, đời Đường: Bình trụy trâm chiết thị hà như, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt. (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là thế nào? Nó giống như cảnh biệt ly của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.
751. Tình quân: Người tình, cũng như tình lang.
753. Phận bạc: Chính nghĩa là phận mỏng, tức bạc mệnh.
754. Nước chảy hoa trôi: Hoa rụng xuống, nước trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường mượn để nói sự tàn tạ của đời người.
759. Xuân huyên: Xuân đường, huyên đường, tức cha mẹ.
762. Vựng: Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự.
Giọt hồng: Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.
769. Ý nói tình duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.
772. Mòn bia đá: Chỉ một khoảng thời gian rất lâu.
Tấc vàng: Tấc lòng bền vững như vàng.
773. Chiềng: Trình, tiếng cổ.
775. Tôi đòi: Kiều bán mình làm vợ lẽ, nàng tự xem như kẻ ăn người ở.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2007 16:07:38 bởi Thu Hien >