Thu Hiền
-
Số bài
:
531
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 06.01.2007
|
Kiều xuất giá-Thu Hiền diễn đọc
-
28.12.2007 12:02:26
Truyện Kiều Tác giả: Nguyễn Du Diễn đọc: Thu Hiền Đoạn Kiều xuất giá Xiết bao kể nỗi thảm sầu! Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, 780./ Quản huyền đâu đã giục người sinh ly. Đau lòng kẻ ở người đi, Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm. Trời hôm mây kéo tối rầm, Dàu dàu ngọn cỏ đầm đầm cành sương. 785./ Rước nàng về đến trú phường, Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong. Ngập ngừng thẹn lục e hồng, Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen: "Phẩm tiên rơi đến tay hèn, 790./ "Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai "Biết thân đến bước lạc loài, "Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. "Vì ai ngăn đón gió đông, "Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi. 795./ "Trùng phùng dù họa có khi, "Thân này thôi có ra gì mà mong. "Đã sinh ra số long đong, "Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?" Trên yên sẵn có con dao, 800./ Dấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn Phòng khi nước đã đến chân, Dao này thì liệu với thân sau này. Đêm thu một khắc một chầy, Bâng khuâng như tỉnh như say một mình. 805./ Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh, Vẫn là một đứa phong tình đã quen. Quá chơi lại gặp hồi đen, Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. Lầu xanh có mụ Tú Bà, 810./ Làng chơi đã trở về già hết duyên. Tình cờ chẳng hẹn mà nên, Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. Chung lưng mở một ngôi hàng, Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. 815./ Dạo tìm khắp chợ thì quê, Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi. Rủi may âu cũng sự trời, Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên. Xót nàng chút phận thuyền quyên, 820./ Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn. Mẹo lừa đã mắc vào khuôn, Sính nghi rẻ giá nghinh hôn sẵn ngày. Mừng thầm: "Cờ đã đến tay! "Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng. 825./ "Đã nên quốc sắc thiên hương, "Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. "Về đây nước trước bẻ hoa, "Vương tôn quý khách ắt là đua nhau. "Hẳn ba trăm lạng kém đâu, 830./ "Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời, "Miếng ngon kề đến tận nơi, "Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham. "Đào tiên đã bén tay phàm, "Thì vin cành quít cho cam sự đời! 835./ "Dưới trần mấy mặt làng chơi, "Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. "Nước vỏ lựu máu mào gà, "Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. "Mập mờ đánh lận con đen, 840./ "Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? "Mụ già hoặc có điều gì, "Liều công mất một buổi quỳ mà thôi. "Vả đây đường xá xa xôi, "Mà ta bất động nữa người sinh nghi." 845./ Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về. Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng, 850./ Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Giọt riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình: "Tuồng chi là giống hôi tanh, "Thân nghìn vàng để ô danh má hồng. 855./ "Thôi còn chi nữa mà mong? "Đời người thôi thế là xong một đời." Giận duyên tủi phận bời bời, Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Nghĩ đi nghĩ lại một mình: 860./ "Một mình thì chớ hai tình thì sao? "Sau dầu sinh sự thế nào, "Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân. "Nỗi mình âu cũng giãn dần, "Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi." 865./ Những là đo đắn ngược xuôi, Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường. Chú giải: 778. Mấy hồi: Mấy hồi trống tan canh. 780. Quản huyền: Chính nghĩa là ống trúc và dây đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến đón Kiều. 782. Đại ý cả câu: Giọt lệ rơi xuống, có thể thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có thể làm chết rũ cả con tằm. 785. Trú phường: Chỗ phố trọ, nhà trọ. 786. Xuân khóa: Chữ xuân ở đây không phải là mùa xuân. Chú ý: lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu: Đêm thu một khắc một chầy. 787. Lục, hồng: Màu lá xanh, màu hoa đỏ thường dùng để chỉ sắc đẹp của phụ nữ. 788. Nghĩ lòng: Nghĩ riêng trong lòng. Đòi phen: Nhiều phen, nhiều lúc. 789. Phẩm tiên: Của trên cõi tiên. Tay hèn: Hèn hạ, tục tằn. 790. Nắng giữ mưa gìn: ý nói giữ gìn trinh tiết một cách thận trọng. 792. Nhị đào: Hoa đào còn phong nhị ví với người con gái còn trinh. 793. Gió đông: Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý nói: Không để cho người tình chung bẻ nhị đào, giống như ngăn đón gió đông không cho đến với nhị đào vậy. 795. Trùng phùng: Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau này lại gặp Kim Trọng. 799. Yên: Cái án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt hẹp và dài. 806. Phong tình: ăn chơi phóng đãng bất chính. 809. Lầu xanh: Do chữ thanh lâu: Cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quí hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm. 810. Làng chơi: thuộc loại gái điếm gái làng chơi. 812. Mạt cưa mướp đắng: Chuyện cổ tích: "Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm". Đây nói Mã Giám sinh và Tú bà cùng là phường bịp. 814. Buôn phấn bán hương: Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới. Đã lề: ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề. 815. Chợ: Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: Lối nói cổ, có nghĩa là: khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê. 816. Giả danh hầu hạ: Mượn tiếng là tìm nàng hầu, vợ lẽ để về hầu hạ. Dạy nghề ăn chơi: Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền. 819. Thuyền quyên: Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp. 821. Mẹo lừa: mưu mẹo lừa dối. Khuôn: Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa. 822. Nghinh hôn: Đón dâu. 823. Cờ đến tay: Đây mượn câu tục ngữ: Cờ đến tay ai, người nấy phất, để nói ý nghĩ của gã họ Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm. 824. Vẻ ngọc: Vẻ mặt đẹp như ngọc. Khúc vàng: Khúc lòng. 826. Câu này do chữ nhất tiểu thiên kim: Một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng. 827. Bẻ hoa: Tức phá trinh tiết của Kiều. 828. Vương tôn: Chỉ con gái các nhà quí phái. 834. Câu này ý nói: Đào tiên đã tới tay, thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc "nước trước bẻ hoa" ở trên). 835. Dưới trần: Như nói trong cõi đời, ở đời. Mấy mặt: Mấy người. 836. Biết hoa: Biết giá trị của hoa. Ý nói: Bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân. 837. Nước vỏ lựu, máu mào gà: Theo sách Bắc lý chi: Gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vỏ lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi. 838. Chiêu tập: Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn. 839. Con đen: Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi. 845. Trà mi: Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp. 848. Ngọc, hương: Ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp. 850. Đuốc hoa: Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa. 858. Quyên sinh: Bỏ đời sống, tức tự tử. 860. Hai tình: Chỉ cha mẹ. Ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào? 862. Truy nguyên: Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc. 863. Giãn: Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra. 864. Một lần: Một lần chết. Kiều nghĩ: chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên lụy đến cha mẹ. 866. Gáy sôi: Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ "sôi" có hàm ý giục giã.
|