Ngọc Lý
-
Số bài
:
3255
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 27.08.2005
|
Hiện tình giáo dục phổ thông Việt Nam
-
27.03.2008 23:21:45
Sinh viên học sinh tìm hiểu thông tin tại ngày Hội GiáoDục Đại học ở Hà Nội. AFP PHOTO Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ sơ lược điểm qua sự cần thiết của các chuyên viên tâm lý giáo dục tại các trường học, nhất là trong bối cảnh học sinh Việt Nam tự rời ghế nhà trường một phần vì chán nản, mặc cảm hoặc tự ti. Dạy Thêm – Học Thêm - “Thay vì hiện nay đồng lương chỉ cho người ta 1/4 nhu cầu, còn 3/4 nhu cầu còn lại thì họ phải bương chải để kiếm sống thì làm sao người ta có thể giảng dạy tốt được?” - “Giáo viên không sống bằng lương, đó là thực tế. Hiện nay, một người bạn tôi dạy ở Hóc Môn, lương chỉ khoảng 1 triệu mấy một tháng, lương đó không sống được.” Trên đây là những nhận định của giáo sư Hoàng Tuỵ và cô giáo dạy Văn, Nguyễn Thị Ngọc Lan, về vấn đề lương bổng của giáo viên trung học tại Việt Nam. Họ, những giáo viên trung học, là ai, và có vai trò như thế nào trong thực trạng mà báo chí gọi là “sự lan tràn của tình trạng dạy thêm và học thêm.” Một điều chắc chắn, là giáo viên tại Việt Nam không thể sống với đồng lương chính thức; và một hiện tượng không thể chối cãi, đó là nhiều giáo viên tại Việt Nam đã đi quá xa trong khái niệm dạy thêm. Nếu nói một số giáo viên đẩy chuyện học thêm quá xa, cũng đúng. Nhưng cũng phải nhìn nhận rõ ràng, nếu giáo viên không dạy thêm, liệu những người có trách nhiệm làm cách nào cho giáo viên đủ sống không? Cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Lan, Sài Gòn Đâu là giới hạn, và đâu là nguyên nhân của thực trạng này. “Rốt cục lại tiền mà người dân đóng góp và tiền mà ngân sách chi ra cho các thầy cô giáo và những người làm khoa học nếu mà nói hiện nay thì cũng đủ để cho họ sống, đối với mức sống ngoài xã hội thì cũng không phải là quá tệ. Nhưng mà chỉ có điều để đảm bảo mức sống ấy họ phải làm rất nhiều việc sử dụng rất ít năng lực thực tế của họ. Nếu chỉ trông vào lương cơ bản thì chỉ đáp ứng được một phần tư của cái nhu cầu. Còn ba phần tư còn lại thì phải dạy thêm, phải làm việc này, việc kia, phải làm những việc không phải là việc chính của mình.” Đó là lời nhận định của giáo sư Hoàng Tuỵ với đài Á Châu Tự Do hồi tháng Giêng năm 2007. Trong một nhận định tương tự, cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Lan, đã từng đứng trên bục giảng trường trung học Mạc Đỉnh Chi, Sài Gòn, cho biết, vấn đề dạy thêm xuất phát từ nhiều nguyên nhân; một phần là lý do kinh tế, một phần là nhu cầu có thực của học sinh, và một phần không nhỏ đến từ chương trình học quá nặng cùng những nhu cầu thành tích mà giáo viên và nhà trường phải đáp ứng: “Giáo viên, nhất là các môn tự nhiên, như toán, lý, hoá, ngoại ngữ, sinh vật, cả một số giáo viên sử, địa, quen với các trung tâm, cũng đi dạy thêm. Một phần, đây cũng là nhu cầu có thực của học sinh, cũng là một điều gì rất khó cho giáo viên. Có những giáo viên đẩy việc học thêm đi xa, không chỉ trung học, mà cả tiểu học. Tôi đã từng chứng kiến, có chuyện, một bài tập làm trong lớp, có 10 vấn đề, giáo viên giảng phân nửa thôi, nửa còn lại giải quyết ở lớp học thêm. Vậy, nếu nói một số giáo viên đẩy chuyện học thêm quá xa, cũng đúng. Nhưng cũng phải nhìn nhận rõ ràng, nếu giáo viên không dạy thêm, liệu những người có trách nhiệm làm cách nào cho giáo viên đủ sống không? Trước đây, trường tôi làm thế này, cho giáo viên dạy thêm, nhưng phải dạy ở trường, chứ không dạy ở nhà, và giáo viên không dạy học sinh mình dạy trên lớp. Các giáo viên phải đổi học sinh, để tránh tình trạng trù dập. Nhưng rồi chuyện cũng không đi đến đâu, nghĩa là, một thời gian sau, hầu như là học sinh giáo viên nào cũng đăng ký vào lớp của giáo viên đó để học.” Thực trạng dạy thêm khiến giáo viên không còn thời gian tập trung cho việc giảng dạy tại trường. Thực trạng dạy thêm đưa đến việc giáo viên và học sinh phải hoàn tất một phần chương trình học ở ngoài giảng đường nhà trường. Tiến sĩ Nguyễn Lâm Kim Oanh, Giám Đốc Ban Chính Sách Ngôn Ngữ Hệ Thống Đại Học California State University, tin rằng giáo viên tại Việt Nam không thể áp dụng các phương pháp giảng dạy mới vì họ không có thời gian: Chính sách giáo dục đồng bộ thể hiện qua chương trình học xa lìa thực tế , sách giáo khoa mang nặng tính hàn lâm. AFP PHOTO “Tôi thấy giáo viên khó có thể áp dụng phương pháp giảng dạy mới vì họ không có thời giờ, không có thời giờ soạn bài, làm tài liệu dạy đúng tiêu chuẩn. Giáo viên phải làm thêm một nghề gì hoặc dạy thêm, thời giờ trên lớp thì quá ít.” Nói về trách nhiệm và kinh nghiệm giảng dạy của mình, cô giáo Phạm Thái Huyên, giảng dạy môn Toán tại một trường trung học ở California, cho biết cô dành toàn bộ thời gian dạy học cho các công việc liên quan đến giáo dục. Bên cạnh công việc giảng dạy, cô Phạm Thái Huyên chia sẻ rằng, việc theo dõi tình hình học lực của học sinh để có những khuyến khích kịp thời cũng là yếu tố quan trọng để duy trì chất lượng và điều chỉnh chương trình, nếu cần: Tâm lý giáo dục đóng vai trò rất quan trọng. Khi đi học, thích hợp mới có hứng đi học. Học giỏi thì hứng hơn. Nếu các em không đi học đều, hoặc cảm thấy mình thua kém, thì đây là vấn đề lớn với học sinh, gia đình và học đường. Nếu các em không thích đi học, chúng ta phải hỏi tại sao các em không thích đi. Vấn đề tâm lý đóng vai trò rất quan trọng trong việc các em đi hay không đi học. Tiến sĩ Phạm Thị Huê, đại học OCC “Đầu năm, danh sách học sinh với điểm những năm trước. Vậy, biết được học lực của học sinh mình. Mình cũng làm những bài kiểm tra đầu năm để biết khả năng học sinh. Mình sẽ phải để ý các học sinh kém. Phải thường xuyên theo dõi các em có tiến bộ không? Phải xem điểm trung bình cả lớp để biết mình có nên điều chỉnh chương trình dạy cho phù hợp.” Vai trò của chuyên viên Tâm lý Học đường Trước hàng loạt hiện tượng học sinh bỏ học gần đây, một trong các lý do được Bộ Giáo Dục Việt Nam đưa ra là, học sinh học kém, không theo kịp chương trình, nên chán nản tự bỏ học. Điều này, theo một số chuyên viên giáo dục, liên quan đến yếu tố tâm lý. Trong khi đó, học đường tại Việt Nam lại hoàn toàn chưa có khái niệm tâm lý giáo dục. Tiến sĩ Phạm Thị Huê, Dean of Counseling thuộc đại học OCC, Hoa Kỳ, nói rằng, tâm lý giáo dục đóng vai trò rất quan trọng cho học sinh. Tại Mỹ, mỗi trường trung học đều có các chuyên viên tâm lý. Hoặc vài trường thì có một chuyên viên. Nếu không có thì khi gặp những trường hợp đặc biệt, nhà trường sẽ gởi những chuyên viên do nhà trường tài trợ hoặc do học khu tài trợ: “Tâm lý giáo dục đóng vai trò rất quan trọng. Khi đi học, thích hợp mới có hứng đi học. Học giỏi thì hứng hơn. Nếu các em không đi học đều, hoặc cảm thấy mình thua kém, thì đây là vấn đề lớn với học sinh, gia đình và học đường. Nếu các em không thích đi học, chúng ta phải hỏi tại sao các em không thích đi. Vấn đề tâm lý đóng vai trò rất quan trọng trong việc các em đi hay không đi học.” Một số phụ huynh tại Việt Nam nói rằng, sự phân hoá giàu nghèo cũng khiến giáo dục phổ thông rơi vào tình trạng phân chia giai cấp. Học sinh gia đình khá giả, theo học các trường tốt, có điều kiện học thêm, trong khi học sinh gia đình khó khăn thì không thể kham nổi. Do một phần chương trình dạy được hoàn tất ở các lớp học thêm, học sinh gia đình nghèo, không đi học thêm, sẽ dần dần mất căn bản. Cứ như thế, hai nhóm học sinh cứ ngày càng cách xa nhau về kiến thức. Đây chỉ là một trong rất nhiều những tình huống khó xử liên quan đến gia cảnh, đưa đến mặc cảm, tự ti nơi học sinh. Về vấn đề này, luật sư Nguyễn Quốc Lân, Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Dục Học Khu Garden Grove, California, chia sẻ những kinh nghiệm của mô hình “Học Khu Giáo Dục” tại Hoa Kỳ. “Chính sách cho gia đình nghèo, như khu vực chúng tôi có nhiều gia đình Việt Nam nghèo. Chẳng hạn, khi nói chuyện mua thêm sách, tiền thì không có, phụ huynh phải đóng thêm, chúng tôi sẽ không cho. Vì có người vì sợ con mặc cảm, phải cố gắng mua, chúng tôi cấm chuyện này. Nếu hiệu trưởng nói, ai mua thì mua, ai không mua thì chúng tôi cho không, chúng tôi chấp nhận chuyện này. Hay chuyện đi dã ngoại chẳng hạn. Đi dã ngoại thì tốt. Nếu cha mẹ bỏ tiền ra mua vé thì tốt, nhưng không đóng thì cũng phải cho các em đi. Không thể nói là có tiền thì đi, không có tiền không đi thì không được. Làm như vậy tạo ra mặc cảm. Nếu gia đình cố gắng nhịn ăn cho con em đi thì đó là gánh nặng. Do đó, nếu ai đóng thì đóng, ai không thể đóng cũng đi. Điều này là để tạo sự công bằng cho tất cả mọi người được hưởng giáo dục. Chuyện giàu hay nghèo không thể nào là yếu tố khiến các em không được công bằng trong giáo dục.” Giáo dục, có lẽ là môi trường quan trọng nhất đòi hỏi sự công bằng. Một nền giáo dục tiên tiến không cho phép yếu tố giàu nghèo chi phối cơ hội học tập và thăng tiến. Thực trạng Việt Nam cho thấy tiêu chí này không được bảo đảm, và sự chênh lệch trong gia cảnh học sinh đưa đến hệ quả tất yếu là sự chênh lệch trong kiến thức cũng như cơ hội đi xa hơn trong cuộc sống. Bên cạnh đó, những yếu tố tâm lý, như mặc cảm, tự ti góp phần không nhỏ trong vấn nạn học sinh bỏ trường, như Bộ Giáo Dục Việt Nam thừa nhận cách đây ít lâu. Một chuyên viên giáo dục tại Hoa Kỳ nói rằng, trong khi khái niệm tư vấn giáo dục, cố vấn tâm lý học đường đã trở thành phổ biến tại các nền giáo dục tiên tiến, Việt Nam vẫn còn xa lạ với nhu cầu này. Đối phó với tình trạng giáo dục xuống cấp tại Việt Nam không chỉ là những giải pháp cấp bách có tính nhất thời. Có lẽ, như nhận định của giới chuyên môn, những giải pháp ấy đòi hỏi một cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện bắt đầu từ quan niệm hoàn toàn mới về giáo dục, trong đó, yếu tố công bằng phải được đặt lên hàng đầu. Vừa rồi là những ý kiến và gợi ý liên quan đến hệ thống giáo dục phổ thông hiện nay. Vấn nạn dạy thêm và học thêm có thể đã ít nhiều làm dị dạng tinh thần giáo dục phổ cập, nhưng nguyên nhân đưa đến hiện tượng này xem chừng phức tạp và đòi hỏi những đáp ứng mạnh mẽ, thật tâm từ phía chính quyền, nơi hoạch định chính sách giáo dục. Trong bài thứ tư của loạt bài này, biên tập viên Thiện Giao sẽ tiếp tục trình bày một khía cạnh liên quan đến tầm quan trọng của mối quan hệ học đường và gia đình. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu khái niệm của mô hình “học khu giáo dục” tại Hoa Kỳ, một mô hình có thể giúp các yếu tố cộng đồng, địa phương được quan tâm nhiều hơn nhưng vẫn tồn tại nhuần nhuyễn trong toàn cảnh giáo dục của Liên Bang và Tiểu Bang. © 2008 Radio Free Asia http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/03/25/Vietnam_public_education_part3_TGiao/ Đọc thêm: Đau xót khi nhiều học sinh bỏ học Khủng hoảng giáo dục tại Việt Nam: Hệ quả của độc đảng, giáo điều và t
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2008 23:26:54 bởi Ngọc Lý >
|